CNH - HĐH Nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

KTCT:CNH-HĐH,  nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ:

a. K/n: Từ cuối thế kỷ thứ XVIII đến nay, trong lịch sử đã diễn ra các loại công nghiệp hoá khác nhau: Công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa và công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Các loại công nghiệp hoá này, xét về mặt lực lượng sản xuất, khoa học và công nghệ là giống nhau. Song chúng có sự khác nhau về mục đích, về phương thức tiến hành, về sự chi phối của quan hệ sản xuất thống trị. Công nghiệp hoá diễn ra ở các nước khác nhau, vào những thời điểm lịch sử khác nhau, trong những điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, do vậy nội dung khái niệm có sự khác nhau. Tuy nhiên, theo nghĩa chung, khái quát nhất, công nghiệp hoá là quá trình biến một nước có nền kinh tế lạc hậu thành một nước công nghiệp.

Kế thừa có chọn lọc và phát triển những tri thức của văn minh nhân loại về công nghiệp hoá vào điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta hiện nay, Đảng ta nêu ra quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa như sau:“CNH-HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao” (HNTW 7 khóa VII). Quan niệm nêu trên cho thấy, quá trình CNH-HĐH ở nước ta phải kết hợp chặt chẽ hai nội dung công nghiệp hoá và hiện đại hoá trong quá trình phát triển. Quá trình ấy, không chỉ đơn thuần phát triển công nghiệp mà còn phải thực hiện chuyển dịch cơ cấu trong từng ngành, từng lĩnh vực và toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo hướng kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Quá trình ấy không chỉ tuần tự trải qua các bước cơ giới hoá, tự động hoá, tin học hoá, mà còn sử dụng kết hợp kỹ thuật thủ công truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu có thể và mang tính quyết định.

b) Tính tất yếu của CNH-HĐH: Mỗi PTSX XH nhất định có một cơ sở vật chất - kỹ thuật tương ứng. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của một xã hội là toàn bộ hệ thống các yếu tố vật chất của LLSX XH, phù hợp với trình độ kỹ thuật (công nghệ) tương ứng mà lực lượng lao động XH sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu xã hội. Chỗ dựa để xem xét sự biến đổi của cơ sở vật chất - kỹ thuật của một XH là sự biến đổi và phát triển của LLSX; sự phát triển khoa học - kỹ thuật; tính chất và trình độ của các QHXH; đặc biệt là QHSX thống trị. Nói cơ sở vật chất - kỹ thuật của một PTSX nào đó là nói cơ sở vật chất - kỹ thuật đó đã đạt đến một trình độ nhất định làm đặc trưng cho PTSX đó. Đặc trưng của cơ sở vật chất - kỹ thuật của các PTSX trước CNTB là dựa vào công cụ thủ công, nhỏ bé, lạc hậu. Đặc trưng của cơ sở vật chất - kỹ thuật CNTB là nền đại công nghiệp cơ khí hoá. CNXH - giai đoạn thấp của PTSX mới cao hơn CNTB - đòi hỏi một cơ sở vật chất - kỹ thuật cao hơn trên cả hai mặt: trình độ kỹ thuật và cơ cấu sản xuất, gắn với thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Do vậy, có thể hiểu, cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH là nền công nghiệp lớn hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hóa cao dựa trên trình độ khoa học và công nghệ hiện đại được hình thành một cách có kế hoạch và thống trị trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Từ CNTB hay từ trước CNTB quá độ lên CNXH, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH là một tất yếu khách quan, một quy luật kinh tế mang tính phổ biến và được thực hiện thông qua CNH-HĐH. Đối với các nước quá độ từ CNTB lên CNXH, dù đã có công nghiệp, có cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản tiến bộ đến đâu cũng chỉ là những tiền đề vật chất chứ chưa phải là cơ sở vật chất - kỹ thuật của CHXH. Muốn có cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, các nước này phải thực hiện quy luật nói trên bằng cách tiến hành CM XHCN về QHXS; tiếp thu vận dụng và phát triển cao hơn những thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất; hình thành cơ cấu kinh tế mới XHCN có trình độ cao và tổ chức, sắp xếp lại nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa một cách hợp lý, hiệu quả hơn. Đối với các nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên CNXH như nước ta, không qua gđ phát triển chế độ TBCN từ một nề kt nông nghiệp lạc hậu LLSX kém phát triển. Vì vậy, phải tiến hành CNH-HĐH nền kt quốc dân là một tất yếu khách quan. Bởi vì:

Thứ nhất, muốn xd cơ sở  vật chất kỹ thuật cho CNXH, nâng cao ns lao động, tạo ra nhiều của cải vật chất nhằm không ngừng nâng cao, cải thiện đời sống vật chất tinh thần của nhân dân đòi hỏi phải tiến hành CNH-HĐH.

Thứ hai, muốn đưa đất nước thoát khỏi nguy cơ lạc hậu và tụt hậu ngày càng xa về mặt k tế, tham gia vào sự hiệp tác phân công lao động q tế và khu vực, nâng cao năng lực cạnh tranh trong qt hội nhập k tế q tế, đòi hỏi phải tiến hành CNH-HĐH nền k tế.

Thứ ba, muốn xd một nền k tế độc lập tự chủ, xd một nền QPAN vững mạnh, kết hợp đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược xd và bảo vệ TQ đòi hỏi phải đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.

c. Tác dụng (vai trò) của công nghiệp hóa, hiện đại hóa: Thực hiện đúng đắn quá trình CNH-HĐH sẽ có những tác dụng to lớn về nhiều mặt trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước:

- Tạo điều kiện thay đổi về chất nền sản xuất xã hội, tăng năng suất lao động, tăng sức chế ngự của con người đối với thiên nhiên, tăng trưởng và phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, góp phần quyết định sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.

- Tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố, tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước, nâng cao năng lực quản lý, khả năng tích luỹ và phát triển sản xuất, tạo ra nhiều việc làm, nâng cao thu nhập, giúp cho sự phát triển tự do toàn diện của con người trong mọi hoạt động kinh tế - xã hội.

- Tạo điều kiện thuận lợi cho khoa học và công nghệ phát triển nhanh đạt trình độ tiên tiến hiện đại. Tăng cường lực lượng vật chất - kỹ thuật cho quốc phòng, an ninh; bảo đảm đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước ngày càng được cải thiện. Tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đủ sức thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế. Sự phân tích trên cho thấy mối quan hệ gắn bó trực tiếp giữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa với lực lượng sản xuất. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là để thực hiện xã hội hóa sản xuất về mặt kinh tế - kỹ thuật theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nó có tác dụng, ý nghĩa quan trọng và toàn diện. Vì vậy, Đảng ta xác định: "Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại ... là nhiệm vụ trung tâm"1 trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở VN.

2. Một số nội dung chủ yếu của CNH-HĐH gắn với kinh tế tri thức: a. Sự hình thành và những đặc điểm chủ yếu của nền kinh tế tri thức. Từ thập niên 80 thế kỷ XX đến nay, do tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu... nền kinh tế thế giới đang biến đổi sâu sắc, nhanh chóng về cơ cấu, chức năng và phương thức hoạt động. Đây là một bước ngoặt lịch sử có ý nghĩa đặc biệt: lực lượng sản xuất xã hội đang chuyển từ kinh tế tài nguyên sang kinh tế tri thức, nền văn minh loài người chuyển từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ. Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. Kinh tế tri thức là trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất xã hội, theo đó trong quá trình lao động của từng người lao động và toàn bộ lao động xã hội, trong từng sản phẩm và trong tổng sản phẩm quốc dân thì hàm lượng lao động cơ bắp, hao phí lao động cơ bắp giảm đi vô cùng nhiều trong khi hàm lượng tri thức, hao phí lao động trí óc tăng lên vô cùng lớn.

Trong quá trình CNH-HĐH ở nước ta, nhất thiết phải tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu công nghệ hiện đại và tri thức mới; công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải gắn với kinh tế tri thức, phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức, kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại; kết hợp quá trình phát triển tuần tự với đi tắt đón đầu; từng bước phát triển kinh tế tri thức, để vừa phát triển kinh tế- xã hội nhanh, bền vững vừa rút ngắn được khoảng cách với các nước trong khu vực và trên thế giới.

b. CNH-HĐH gắn với kinh tế tri thức: Đại hội X khẳng định: “Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình CNH-HĐH đất nước theo định hướng XHCN gắn với phát triển k tế tri thức, coi k tế tri thức là  y tố q trọng của nền k tế và CNH-HĐH”.

Như vậy, CNH-HĐH gắn với kinh tế tri thức là một phương thức công nghiệp hóa mới trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, của xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế đang gia tăng mạnh mẽ. Chỉ đẩy mạnh CNH-HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức mới có thể sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

e. Những nội dung cụ thể của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta trong những năm trước mắt

1.  Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững

Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, đưa nhanh tiến bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất; nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh phù hợp với từng vùng, từng địa phương; phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao, vùng trồng trọt và chăn nuôi tập trung, doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ gắn với hình thành các ngành nghề, làng nghề, hợp tác xã, trang trại, tạo ra những sản phẩm có thị trường và hiệu quả kinh tế cao. Thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới.

Nhiệm vụ theo VKHNTW7 Khóa X: + Xây dựng nền NN toàn diện theo hướng hiện đại, đồng thời phát triển mạnh CN và DV ở nông thôn.. + Xây dựng kết cấu hạ tầng KT-XH nông thôn gắn với phát triển các đô thị. + Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, nhất là vùng khó khăn. + Đổi mới và xd các hình thức tổ chức sx, dịch vụ có hiệu quả ở nông thôn. + Phát triển nhanh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học, công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, tạo đột phá để hiện đại hóa nông nghiệp, công nghiệp hóa nông thôn. + Đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách để huy động cao các nguồn nhân lực, phát triển nhanh kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của NN, phát huy sức mạnh của các đoàn thể CT-XH ở nông thôn, nhất là hội nông dân. Định hướng của ĐH XI: hai thác lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới để phát triển sản xuất hàng hóa lớn với năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao. Phát triển lâm nghiệp bền vững. Khai thác bền vững, có hiệu quả nguồn lợi thủy sản, phát triển đánh bắt xa bờ, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường biển. Quy hoạch và phát triển có hiệu quả nghề muối, bảo đảm nhu cầu của đất nước và đời sống nhân dân.

2.  Phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ: Khuyến khích phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế tác, công nghiệp phần mềm và công nghiệp hỗ trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động; phát triển một số khu kinh tế mở và đặc khu kinh tế. Phát triển mạnh mẽ các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng theo hướng hiện đại. Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Tạo bước phát triển vượt bậc của các ngành dịch vụ, nhất là những ngành có chất lượng cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh, đưa tốc độ tăng trưởng của ngành dịch vụ cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP.

+ ĐH XI: Phát triển mạnh công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh:

Cơ cấu lại sản xuất công nghiệp cả về ngành kinh tế - kỹ thuật, vùng và giá trị mới. Phát huy hiệu quả các khu, cụm công nghiệp và đẩy mạnh phát triển công nghiệp theo hình thức cụm, nhóm sản phẩm tạo thành các tổ hợp công nghiệp quy mô lớn và hiệu quả cao; hoàn thành việc xây dựng các khu công nghệ cao và triển khai xây dựng một số khu nghiên cứu cải tiến kỹ thuật và đổi mới công nghệ. Phát triển ngành xây dựng đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.

+ Phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là các dịch vụ có giá trị cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh:

Phát triển khu vực dịch vụ đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn các khu vực sản xuất và cao hơn tốc độ tăng GDP là một hướng quan trọng chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao như du lịch, hàng hải, hàng không, viễn thông, công nghệ thông tin, y tế.

+ Phát triển vượt bậc các ngành dịch vụ

Phát triển nhanh khu vực dịch vụ đáp ứng được y/c và phù hợp với tiềm năng còn rất lớn của nước ta va xu hướng phát triển k tế thế giới; tận dụng tốt thời cơ hội nhập k tế để tạo bước phát triển vượt bậc khu vực dịch vụ, đưa tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ cao hơn tốc độ tăng GDP.

Ưu tiên phát triển các ngành dịch vụ có tiềm năng lớn và sức cạnh tranh cao. Tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ cao cấp, dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao, các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. Hiện đại hóa và mở rộng dịch vụ ngân hàng theo kịp y/c phát triển của thị trường tài chính, tiền tệ và hội nhập kinh tế quốc tế.

Nhà nước kiểm soát chặt chẽ độc quyền và tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia cạnh tranh bình đẳng trên thị trường dịch vụ.

3.  Phát triển kinh tế vùng: Phát triển các vùng trong cả nước và tạo sự liên kết giữa các vùng và nội vùng; thúc đẩy phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, tạo động lực, tác động lan toả đến các vùng khác; đồng thời tạo điều kiện phát triển nhanh hơn cho các vùng kinh tế đang còn nhiều khó khăn.

ĐH XI :+ Phát triển hài hoà, bền vững các vùng, xây dựng đô thị và nông thôn mới

Rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch và có cơ chế, chính sách phù hợp để các vùng trong cả nước cùng phát triển, phát huy lợi thế của từng vùng, tạo sự liên kết giữa các vùng. Thúc đẩy phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, tạo động lực và tác động lan toả đến các vùng khác; đồng thời, tạo điều kiện phát triển nhanh hơn các khu vực còn nhiều khó khăn, đặc biệt là các vùng biên giới, hải đảo, Tây Nam, Tây Nguyên, Tây Bắc và phía Tây các tỉnh miền Trung. Lựa chọn một số địa bàn có lợi thế vượt trội, nhất là ở ven biển để xây dựng một số khu kinh tế làm đầu tàu phát triển.

Vùng đồng bằng: Phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung trên cơ sở tổ chức lại sản xuất nông nghiệp và áp dụng các tiến bộ kỹ thuật. Quy hoạch các vùng chuyên canh sản xuất lúa hàng hoá lớn, đẩy mạnh thâm canh sản xuất lúa. Hiện đại hoá công nghiệp bảo quản, chế biến. Phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp. Phát triển các khu công nghiệp, các cụm, nhóm sản phẩm công nghiệp và dịch vụ công nghệ cao gắn với các đô thị lớn để hình thành các trung tâm kinh tế lớn của cả nước, có tầm cỡ khu vực, có vai trò dẫn dắt và tác động lan toả đến sự phát triển các vùng khác.

+ Vùng trung du, miền núi: Phát triển mạnh sản xuất lâm nghiệp, cây công nghiệp, cây ăn quả và chăn nuôi đại gia súc tạo thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung, trước hết là nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu. Bảo vệ và phát triển rừng. Khai thác hiệu quả tiềm năng đất đai, thủy điện và khoáng sản; xây dựng hồ chứa nước, phát triển thủy lợi nhỏ kết hợp thủy điện và ngăn lũ. Khuyến khích phát triển công nghiệp và dịch vụ có nhu cầu diện tích đất lớn. Phát triển giao thông nông thôn, bảo đảm đường ô tô tới các xã thông suốt bốn mùa và từng bước có đường ô tô đến thôn, bản. Đẩy mạnh giảm nghèo bền vững, nâng cao thu nhập, không ngừng cải thiện đời sống và chất lượng dân số của đồng bào các dân tộc thiểu số. Đổi mới căn bản tổ chức quản lý nông, lâm trường quốc doanh. Chú trọng phát triển hạ tầng kinh tế, xã hội tại các khu vực biên giới, nhất là tại các cửa khẩu.

4. Phát triển kinh tế biển: Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm; sớm đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu vực, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế. ĐH XI: Phát triển mạnh kinh tế biển tương xứng với vị thế và tiềm năng biển của nước ta, gắn phát triển kinh tế biển với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền vùng biển. Phát triển nhanh một số khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển, ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp năng lượng, đóng tàu, xi măng, chế biến thủy sản chất lượng cao... Đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, tạo thành các trung tâm kinh tế biển mạnh, tạo thế tiến ra biển, gắn với phát triển đa dạng các ngành dịch vụ, nhất là các ngành có giá trị gia tăng cao như dịch vụ xuất, nhập khẩu, du lịch, dịch vụ nghề cá, dịch vụ dầu khí, vận tải... Phát triển cảng biển, dịch vụ cảng và vận tải biển, sông - biển; phát triển các đội tàu, công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu biển... Phát triển kinh tế đảo phù hợp với vị trí, tiềm năng và lợi thế của từng đảo.

5. Chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ đáp ứng yêu cầu phát triển: + Phát triển nguồn nhân lực là khâu quyết định triển vọng của quá trình CNH, HĐH rút ngắn. Điều này thể hiện như sau:

Khắc phục những yếu kém về chất lượng nguồn nhân lực nước ta để đạt mục tiêu nâng cao sức cạnh tranh, hội nhập kinh tế quốc tế thành công và củng cố các cơ sở tăng trưởng bền vững.

Phát triển nguồn nhân lực cần được thực hiện theo hai hướng: Phát triển con người và hiện đại hóa khâu giáo dục, đào tạo. Ở đây, phát triển con người là nền tảng, hiện đại hóa giáo dục, đào tạo là trung tâm. Ở nước ta hiện nay, giáo dục, đào tạo còn lạc hậu và chưa thích ứng với việc hình thành nguồn nhân lực của quá trình hiện đại hóa. Do đó, hiện đại hóa giáo dục, đào tạo chứ không chỉ dừng ở cải cách là một vấn đề trọng tâm, mang tính tiên quyết của quá trình hiện đại hóa. Gắn với quá trình hiện đại hóa giáo dục, đào tạo, việc đầu tư cho giáo dục đào tạo trong mối quan hệ với hiện đại hóa nguồn nhân lực, được xem là đầu tư cho sản xuất, thuộc “ngành công nghiệp nặng” và là đầu tư mang tính hiệu quả nhất.

+ Phát triển khoa học và công nghệ phù hợp xu thế phát triển nhảy vọt của cách mạng khoa học và công nghệ. Chú ý đi ngay từ đầu vào công nghệ hiện đại đối với các lĩnh vực then chốt và từng bước mở rộng ra toàn bộ nền kinh tế. Đồng thời, chú trọng đúng mức việc phát triển công nghệ sử dụng nhiều lao động để giải quyết việc làm.

Kết luận: Công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta nên nó là một cuộc đấu tranh gian khổ, phức tạp. Dĩ nhiên, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân. Thế nhưng sự nghiệp đó phải do một Đảng Cộng sản tiên phong, dày dạn kinh nghiệm, tự đổi mới không ngừng lãnh đạo và một Nhà nước của dân, do dân và vì dân, trong sạch, vững mạnh có hiệu lực quản lý và trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương thì mới hoàn thành tốt mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp “dân giàu, nước mạnh, XHCBDCVM”.

Môn KTCT: CNH-HĐH, nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ:

QT có diện tích tự nhiên là 4.745km2, trong đó đất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản chiếm 15%, đất lâm nghiệp có rừng che phủ 34%, đất  chuyên dùng 0,36%, đất ở, 0,08%, đất chưa sử dụng 49,5%. Toàn tỉnh  hiện có 102 ngàn ha rừng tự nhiên. Ngư trường rộng trên 8.400km2, có tiềm năng để phát triển kinh tế thủy sản. Tài nguyên khoáng sản tương đối đa dạng, trữ lượng tương đối lớn đáp ứng được nguyên liệu cho công nghiệp chế biến như đá vôi, đá xd, cát, ti tan.... Các loại cây CN như cao su, hồ tiêu, cà phê tiếp tục tăng về quy mô, diện tích và sản lượng. Đàn gia súc, gia cầm phát triển khá.

Thực hiện NQ của Đảng về đẩy mạnh CNH-HĐH, những năm qua khắc phục những khó khăn thách thức về cơ sở vật chất – kỹ thuật, đã tạo được những cơ sở sx ban đầu, hình thành các khu, cụm công nghiệp. Nhiều cơ sở công nghiệp đã được xây dựng và đi vào hoạt động, tạo ra các sp có giá trị phục vụ sx và đời sống. Sự phát triển và tăng trưởng của sx công nghiệp cùng với sự tham gia của các thành phần kinh tế  có tác động tích cực đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương.

Tuy nhiên, bên cạnh kq, tiến bộ của sx công nghiệp còn nhiều hạn chế, yếu kém. Giá trị tăng trưởng ngành CN cao nhưng giá trị tuyệt đối và tỷ trọng trong cơ cấu kinh tế còn thấp. Nền CN còn nhỏ bé về quy mô và số lượng, công nghệ và thiết bị lạc hậu. Các DN hầu hết có quy mô sx nhở; vốn đầu tư cho phát triển CN trên địa bàn ít. Chưa hình thành được các cơ sở công nghiệp hiện đại và sp có sức cạnh tranh trên thị trường. QLNN về ngành CN còn nhiều hạn chế. Đội ngũ cán bộ quản lý và công nhân lành nghề vừa thiếu, vừa yếu. Công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành chưa được quan tâm đúng mức, còn hạn chế về chất lượng và chưa được điều chỉnh, bổ sung kịp thời.

Với vị trí đầu cầu đường xuyên á, ở trung độ giao thông cả nước, với những tiềm năng và lợi thế nhất định, thực hiện NQ của Đảng về đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước trong lĩnh vực công công nghiệp, toàn tỉnh đã chú trọng, tập trung: - Phát triển các ngành CN có lợi thế cạnh tranh, có nguồn nguyên liệu tại chỗ, có lợi thế so sánh. - Ưu tiên phát triển các DA có công nghệ hiện đại, chế biến sâu để nâng cao gt của sp, tạo ra những sp mới. - Mở rộng thị trường tiêu thụ sp công nghiệp trong nước và xuất khẩu, nhất là thị trường Lào, Thái Lan, TQ và EU. - Sắp xếp DN nàh nước theo hướng cổ phần hóa. - Phát triển CN-Tiểu thủ CN phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn.

Trên cơ sở phương hướng đó, tỉnh đã thực hiện một số giải pháp chính phát triển CN như sau: 1. Thực hiện tốt công tác quy hoạch phát triển ngành và lĩnh vực: Hoàn thành sớm quy hoạch phát triển công nghiệp, quy hoạch khai thác khoáng sản trên tinh thần hạn chế tới mức thấp nhất tình trạng “quy hoạch treo”. 2. Huy động vốn đầu tư để phát triển: Mở rộng nhiều hình thức huy động vốn bao gồm bán cổ phần, vốn tín dụng, các quỹ hỗ trợ từ nhiều nguồng trong và ngoài nước, vốn ngân sách nhà nước, tư nhân để phát triển công nghiệp. 3. Ứng dụng mạnh mẽ các tiến bộ KHCN vào sx: Tập trung đổi mới CN và thiết bị cho các ngành CN mũi nhọn của tỉnh như chế biến thủy sản, chế biến cà phê, cao su, sx vật liệu xd, khai thác khoáng sản. Thông qua đầu tư chiều sâu để chuyển đầu tư sx và xk sp thô sang sx và xh sp tinh, sp có hàm lượng CN cao.  4. Xúc tiến đầu tư: Khuyến khích, kêu gọi các thành phần k tế ngoài quốc doanh, trong và ngoaiftinhr, các nhà đầu tư ở nước ngoài đầu tư dưới các hình thức liên doanh liên kết, đóng góp cổ phần hoặc đầu tư trực tiếp. Tạo môi trường thông thoáng, có chính sách, cơ chế để thu hút vốn đầu tư. Có chính sách cụ thể hỗ trợ các DN đang đầu tư trên địa bàn như cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, cung cấp thông tin ... Đơn giản hóa các thủ tục hành chính trong việc đăng ký sx kinh doanh.              5. Mở rộng thị trường: Đẩy mạnh khai thác thị trường trong tỉnh, trong nước, hướng mạnh về xk. Tạo đk cho các cơ sở xs CN tiếp cận với thị trường như tham quan, học tập, hội chợ, triển lãm, giới thiệu sp... Cơ quan NN cung cấp thông tin, hoàn thành mạng lưới cung ứng nguyên vật liêu cho sx và tiêu thụ sp. 6. Đầu tư phát triển vùng nguyên liệu: Triển khai thực hiện quy hoạch chi tiết các vùng nguyên liệu để có cơ sở phát triển các ngành khai thác và chế biến một cách bền vững, có hiệu quả. 7. Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực: Trong đó tập trung đào tạo bồi dưỡng cán bộ kỹ thuật – công nghệ, quản lý kinh tế, kinh doanh, công nhân kỹ thuật đáp ứng y/c phát triển CN và chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động. Kết hợp nhiều hình thức đào tạo. Có chính sách thu hút cán bộ có trình độ cao, công nhân kỹ thuật lành nghề về công tác trong ngành CN của tỉnh. 8. Tăng cường công tác QLNN về công nghiệp: Tăng cường và nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức ngành công nghiệp đủ sức tham mưu cho TU, UBND tỉnh về chiến lược và giải phát cụ thể phát triển công nghiệp.

Triết học: Mối quan hệ giữa VC và YT. Ý nghĩa trong nhận thức và hoạt động thực tiễn

CN Mác – Lê nin ra đời từ giữa thế kỷ XIX, tiếp thu những thành tựu vĩ đại của KHTN và những tư tưởng tiến bộ của lịch sử loài người từ thời cổ đại đến triết học cổ điển Đức, đã thống nhất CNDV và phép biện chứng tạo thành CNDVBC làm cho triết học thực sự trở thành một khoa học. Vì vậy, CNDV mác xít là cơ sở lý luận của thế giới quan khoa học. Tính khoa học của CN Mác – Lê nin biểu hiện trước hết ở quan điểm về vật chất và ý thức. Đây là những phạm trù cơ bản của triết học; là nền tảng của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ lẫn nhau; làm rõ nội dung vật chất và ý thức cũng như mối quan hệ của nó có ý nghĩa lớn lao về mặt lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn.

1. Về vật chất: Mác, Anghen và Lê nin là của những người sáng lập ra Chủ nghĩa duy vật biện chứng. Mác và Anghen đã kế thừa những gía trị tích cực của những người đi trước, đồng thời vạch ra những hạn chế trong quan niệm về vật chất của các nhà duy vật trước đó, đã tổng kết những thành tựu của khoa học hiện đại, khái quát và hình thành một quan niệm khoa học về vật chất. Trên cơ sở kế thừa những tư tưởng của Mác và Ăng ghen, phân tích và khái quát một cách sâu sắc những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên, năm 1908, trong tác phẩm CN duy vật và CN kinh nghiệm phê phán, Lê nin đã nêu ra đ/n kinh điển về vật  chất: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem đến cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.

- Trước hết, Lê nin tiếp cận vật chất với tính cách là một phạm trù triết học, để phân biệt với k/n vật chất của các khoa học cụ thể và do đó nó có ý nghĩa thế giới quan, phương pháp luận chung nhất. Vì vật chất là phạm trù khái quát nhất, rộng đến cùng cực, ko có một phạm trù nào rộng hơn nó, nên chỉ có một phương pháp đ/n duy nhất đúng là đặt nó trong mqh và phải thông qua phạm trù đối lập với nó là ý thức, mà ko thể đ/n = p2 thông thường. Còn ngược lại thì đều thuộc về tinh thần, ý thức. Nên tư tưởng này Lênin đã khắc phục được sự chật hẹp, siêu hình trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật trước Mác khi họ cho rằng vật chất là nước, lửa, nguyên tử..hay mộc, thuỷ, hoả, thổ...

- Thuộc tính cơ bản nhất của vật chất là thực tại khách quan và tồn tại ko lệ thuộc vào cảm giác. Đây chính là điều kiện cần và đủ để phân biệt những gì là vật chất và những gì ko thuộc vật chất. Cho nên, nói đến vật chất là nói đến tất cả những gì đã, đang và sẽ tồn tại thực, bên ngoài ý thức con người. Vật chất là hiện thực chứ ko phải hư vô và hiện thực này là khách quan chứ ko phải là hiện thực chủ quan.

Trong sự tác động qua lại với chủ thể, thực tại khách quan là cái "được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh". Theo Lênin đây là đặc trưng tất nhiên của hiện thực khách quan. Tất cả những khách thể nào có đặc trưng như vậy đều có thuộc tính thực tại khách quan; ngược lại những hiện tượng nào không có đặc trưng đó thì thuộc tính tinh thần. Với đặc trưng này, Lênin đã giải quyết mặt thứ hai trong vấn đề cơ bản của triết học, đồng thời khẳng định con người có khả năng nhận thức thế giới, từ đó bác bỏ "thuyết không thể biết" cho rằng con người không thể nhận thức được "vật tự nó". Vật chất luôn biểu hiện đặc tính thực tại khách quan của mình thông qua sự tồn tại phong phú sinh động của các sự vật, hiện tượng, quá trình cụ thể. Tất cả các sự vật hiện tượng, quá trình đó khi tác động vào các giác quan thì cho ta cảm giác. Cho nên, vật chất là cái có trước, cảm giác, ý thức con người là cái có sau.

- Qua định nghĩa của Lê nin cho thấy các sự vật, hiện tượng trong thế giới rất phong phú và khác nhau, song chúng đều có thuộc tính chung đó là thuộc tính tồn tại khách quan ở ngoài và độc lập với ý thức của con người. Lên nin gọi đây là “ thuộc tính duy nhất” của vật chất mà chủ nghĩa duy vật gắn liền với sự thừa nhận thuộc tính đó. Phạm trù triết học về vật chất được khái quát từ thuộc tính chung đó, chỉ cái chung về mặt tồn tại của mọi cái riêng, cụ thể. Mọi đối tượng vật chất dù là vi mô hay vĩ mô, dù dưới dạng hạt hay dạng trường, dù tồn tại trong tự nhiên hay trong xã hội cũng đều là những đối tượng tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người, có nghĩa chúng đều là các dạng cụ thể của vật chất mà thôi.

Đ/n: VC của Lê nin đã góp phần đưa CNDV lên một tầm cao mới, làm cơ sở khoa học xd quan niệm DVBC trong lĩnh vực XH, đồng thời góp phần khắc phục sự khủng hoảng về mặt thế giới quan trong đội ngũ các nhà triết học và khoa học tự nhiên lúc bấy giờ, qua đó thúc đẩy họ tiếp tục đi sâu tìm hiểu thế giới vật chất, củng cố thêm mối liên minh chặt chẽ giữa KHTN và CNDV triết học.

2. Về ý thức : Ý thức là phạm trù triết chỉ những hoạt động tinh thần phản ánh thế giới vật chất, diễn ra trong bộ óc người, được hình thành trong qt lao động và được diễn đạt nhờ ngôn ngữ. Bản chất của ý thức thể hiện:

- “Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan” (Lê nin). Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ não người trên cơ sở hoạt động thực tiễn. Ý thức có nguồn gốc tự nhiên và xã hội. Bản chất của ý thức chính là sự phản ánh các sự vật hiện tượng vào óc người một cách tích cực, năng động và sáng tạo.Ý thức là cái phản ảnh thế giới khách quan, nhưng nó là cái thuộc phạm vi chủ quan, là thực tại chủ quan, không có tính vật chất. Ý thức là hình ảnh phi cảm tính của các đối tượng vật chất có tồn tại cảm tính. Tuy nhiên, ý thức không phải là bản sao giản đơn, thụ động máy móc của sự vật. Ý thức phản ảnh thế giới khách quan trong quá trình con người tác động cải tạo thế giới

+ Thế giới khách quan là nguồn gốc của ý thức. Nội dung của ý thức do thế giới khách quan quy định, thế giới khách quan giống như “bản chính”, còn ý thức giống như “bản sao”. Ý thức không phải là thế giới khách quan, mà chỉ là hình ảnh của thế giới khách quan được thể hiện trong bộ não con người.

+ Phản ánh của ý thức là tích cực, chủ động. Nghĩa là con người dựa trên cơ sở hoạt động thực tiễn, chủ động tác động vào sự vật, hiện tượng làm cho chúng bộc lộ thuộc tính, tính chất của mình, qua đó con người có hiểu biết về sự vật hiện tượng.

+ Ý thức là quá trình “cái vật chất” được chuyển vào bộ óc người và được cải biến trong đó, cho nên sự phản ánh của ý thức mang dấu ấn sâu sắc của chủ thể phản ánh.

Thứ 1, sự phản ánh của ý thức phụ thuộc vào trình độ, năng lực của chủ thể. Đó là tri thức, sự hiểu biết của chủ thể về tự nhiên và XH. Trình độ của chủ thể càng cao thì khả năng xác định mục đích, phương tiện, phương pháp phản ánh càng chính xác và ngược lại.

Thứ 2, sự phản ánh của ý thức phụ thuộc vào kinh nghiệm của chủ thể.

Thứ 3, sự phản ánh của ý thức phụ thuộc vào lợi ích của chủ thể. Lợi ích nhất là lợi ích giai cấp và lợi ích cá nhân chi phối trực tiếp tình cảm, ý chí, bản lĩnh của chủ thể phản ánh. Lợi ích có thể xuyên tạc, bóp méo nội dung phản ánh.

Thứ 4, ý thức tư tưởng có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển xã hội.

- Xem xét, đánh giá nội dung của ý thức cần đặt trong mối quan hệ với tình cảm, ý chí, năng lực, lợi ích của chủ thể. Để ý thức ngày càng phản ánh chính xác hơn hiện thực khách quan cần ko ngừng nâng cao trình độ, năng lực, kinh no, bản lĩnh của chủ thể. Tránh tách rời nội dung của ý thức với chủ thể phản ánh.

3. Mối quan hệ biện chứng giữa VC và YT

- VC và YT luôn có mqh bc với nhau, trong đó, VC qđ YT, còn YT có tác động trở lại đối với VC. Vai trò qđ của VC đối với YT:

+ VC qđ YT về nguồn gốc, nội dung, bản chất và sự vận động, phát triển. VC tồn tại khách quan, độc lập với ý thức, có trước ý thức, là nguồn gốc sinh ra YT. Những mục đích, chủ trương, nhiệm vụ mà chúng ta đặt ra cho hoạt động thực tiễn là đúng đắn, là hiện thực phải xuất phát từ điều kiện vật chất, thực tế khách quan và các quy luật khách quan.

Vật chất (xét đến cùng) là cái có trước, nó sinh ra và quyết định đối với ý thức. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức (não người là dạng vật chất có tổ chức cao, là cơ quan phản ánh hình thành ý thức, ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não). Trong quá trình phản ánh thế giới khách quan, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất đó vào con người. Thế giới vật chất tồn tại như thế nào thì ý thức của con người phản ánh như thế đó; thế giới vật chất luôn vận động biến đổi không ngừng dẫn đến ý thức con người cũng vận động phát triển theo. Chính vì vậy trong quá trình xây dựng chủ trương, đường lối nhiệm vụ chúng ta phải đặt trong điều kiện hoàn cảnh hoạt động thực tiễn đúng đắn phù hợp với sự vận động của thế giới vật chất. Ý thức, tư tưởng chỉ có thể tồn tại và phát triển được trên cơ sở sự vận động biến đổi không ngừng của vật chất và trong những quan hệ vật chất nhất định.

+ Ý thức, tư tưởng chỉ có thể tồn tại và phát triển đc trên cơ sở những quan hệ nhất định, do đó tự nó không trực tiếp làm thay đổi hiện thực. Thế giới khách quan là nguồn gốc của YT, quyết định nội dung, sự vận động phát triển của YT. T/c năng động, sáng tạo có mục đích của YT bắt nguồn trực tiếp từ hoạt động vật chất – hoạt động thực tiễn của con người, nhưng suy đến cùng cũng do thế giới khách quan quy định.

- Khi YT ra đời có tính độc lập tương đối tác tác động trở lại thế giới vật chất:

+ Ý thức phản ánh vật chất có chọn lọc, tích cực, chủ động và do có tính năng động, sáng tạo và độc lập tương đối so với VC nên YT có vai trò, định hướng, chỉ đạo sự vận động và phát triển của nhân tố vật chất hay là mọi hoạt động thực tiễn của con người. Thông qua hoạt động thực tiễn, YT có thể tác động thúc đẩy hoặt kìm hãm sự vận động, biến đổi, phát triển các điều kiện VC, góp phần cải biến thế giới khách quan.

+ Muốn đề ra mục đích, chủ trương và bp hành động thực tiễn đúng, phải nhận thức đúng được điều kiện vật chất khách quan. YT phản ánh đúng giúp sẽ giúp con người cải tạo có hiệu quả, thúc đẩy sự phát triển của hiện thực khách quan.

Ngược lại, YT phản ánh ko đúng sẽ làm cho hoạt động của con người kém hiệu quả thậm chí phản tác dụng, kìm hãm, gây nguy hại cho chính bản thân con người và hiện thực khách quan.

+ Khả năng của YT tác động trở lại VC ko chỉ phụ thuộc vào năng lực phản ánh của ý thức, tình cảm, ý chí, bản lĩnh, kinh no ... của chủ thể mà còn phụ thuộc rất lớn vào điều kiện khách quan.

+ Khi đã có mục đích, chủ trương và bp đúng, muốn cho những khả năng khách quan thành hiện thực, con người cần có ý chí, nghị lực quyết tâm thực hiện nó.

- Khi khẳng định vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức, chủ nghĩa duy vật biện chứng đồng thời cũng vạch rõ sự tác động trở lại vô cùng quan trọng của ý thức đối với vật chất. Ý thức do vật chất sinh ra và quyết định, song ý thức có sự tác động trở lại vô cùng to lớn đối với vật chất. Trong quá trình hoạt động cụ thể của con người, chính trị, tư tưởng được hình thành từ những điều kiện vật chất, điều kiện kinh tế, song chính trị, tư tưởng cũng có tác dụng và và ảnh hưởng trở lại đối với sự phát triển của bản thân những điều kiện vật chất, điều kiện kinh tế ấy. Ý thức, tư tưởng có thể thúc đẩy từ việc phản ánh vật chất có chọn lọc theo hướng tích cực hoặc kìm hãm trên một mức độ nhất định sự biến đổi của những điều kiện vật chất. Điều đó được thể hiện ở chỗ: Để những khả năng khách quan, quy luật khách quan được thực hiện và tác động phù hợp với lợi ích của xã hội, con người phải nhận thức, vận dụng đúng đắn những quy luật đó và phải có ý chí đầy đủ để tổ chức hành động. Cho nên, ý thức, tư tưởng trở thành nhân tố quan trọng, có tác dụng quyết định làm cho con người hành động đúng hay sai, thành công hay thất bại khi thực hiện những khả năng khách quan nào đó. Nếu chúng ta cường điệu tính sáng tạo của ý thức sẽ rơi vào bệnh chủ quan, duy ý chí. Bệnh chủ quan duy ý chí là khuynh hướng tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan, của ý chí xa thời hiện thực khách quan, bất chấp quy luật khách quan, lấy nhiệt tình Cách mạng thay cho sự yếu kém về tri thức khoa học.

4. Ý nghĩa phương pháp luận của mqh bc giữa VC và YT trong hoạt động thực tiễn. Với nội dung về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức giúp chúng ta rút ra được ý nghĩa về phương pháp luận trong nhận thức cũng như trong chỉ đạo hoạt động thực tiễn.

Thứ nhất, phải nắm vững nguyên tắc khách quan. Vật chất quyết định, do đó chúng ta phải xây dựng nguyên tắc khách quan trong sự xem xét; đòi hỏi tư duy của chúng ta phải nhận thức sự vật với tư cách là cái khách quan, tồn tại và phát triển ngoài ý thức của con người, nó đòi hỏi khi xem xét sự vật, hiện tượng phải xuất phát từ bản thân sự vật, hiện tượng đó, đồng thời phải tôn trọng quy luật trong sự phản ánh, ko được lấy ý muốn chủ quan của ta làm điểm xuất phát. 

Thứ hai, phải nhận thức được và vận dụng quy luật khách quan một cách chủ động, sáng tạo với ý chí kiên định theo nhu cầu tiến bộ của xã hội; chống thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ lại ko dám hành động.

Ba là, để thực hiện nguyên tắc khách quan và phát huy tính năng động chủ quan của con người, phải nhận thức và vận dụng đúng đắn quan hệ lợi ích.

Tóm lại, Tóm lại, Trong nhận thức và hành động con người phải dựa vào điều kiện khách quan, lấy khách quan làm cơ sở, làm phương tiện cho hành động có mục đích của mình nhưng phải biết nhận thức và vận dụng quy luật khách quan một cách chủ động sáng tạo với ý chí không ngừng cải tạo hiện thực theo nhu cầu tiến bộ xã hội.

Xuất phát từ ý nghĩa đó, Đảng ta luôn xác định: Một trong những điều kiện cơ bản để đảm bảo sự lãnh đạo của đúng đắn của mình là phải luôn luôn đề ra các chủ trương chính sách xuất phát từ các yêu cầu bức xúc cần giải quyết của thực tiễn, đồng thời trong quá trình thực hiện phải tôn trọng và thực hiện theo đúng quy luật khách quan.

Thực tiễn cho thấy ở đâu và khi nào, con người rơi vào chủ quan duy ý chí, coi thường thực tiễn khách quan thì ở đó việc xây dựng Chủ nghĩa xã hội sẽ gặp khó khăn, thậm chí thất bại. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu là minh chứng cho việc không đánh giá đúng thực tiễn. Thực tiễn quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã có lúc trước đây, trong một thời gian dài đã mắc phải sai lầm của bệnh chủ quan duy ý chí đã làm ảnh hưởng không nhỏ đế sự phát triển kinh tế -xã hội của đất nước. Những sai lầm này thể hiện cụ thể ở việc xác định mục tiêu và bước đi trong quá trình xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế. Với suy nghĩ và hành động giản đơn, lại nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan”, nhiều mục tiêu, chỉ tiêu kinh tế- xã hội xa rời với thực tế khách quan, trong khi trình độ quản lý kinh tế xã hội còn hạn chế, bị các thế lực đế quốc và phản động bao vây, cô lập. Hậu quả làm nền kinh tế- xã hội bị khủng hoảng,  trì trệ, và ảnh hưởng đến các lĩnh vực khác, uy tín nước ta trên trường quốc tế  bị giảm sút... Với quan điểm nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đại hội VI của Đảng đã thẳng thắn vạch rõ những nguyên nhân và bài học kinh nghiệm rút ra từ tực trạng trên, trong đó đặc biệt nhấn mạnh: “Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm ấy, đặc biệt là những sai lầm về chính sách kinh tế, là bệnh chủ quan, duy ý, lối suy nghĩ giản đơn, nóng vội chạy theo hành động chủ quan” ( Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI,), đồng thời chủ trương đổi mới, trước mắt là đổi mới tư duy trên cơ sở kiên định và lấy nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho hành động cách mạng. ĐCSVN khẳng định "luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự dẫn đầu đúng đắn của Đảng"  là một bài học kinh nghiệm lớn rút ra từ thực tiễn Cách mạng nước ta. Đó chính là biểu hiện coi quan điểm vật chất, các quy luật khách quan có vai trò quyết định được ý thức đối với nhận thức. Tiếp theo, Đảng đã có nhiều chủ trương đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, chủ động hội nhập với thế giới... Tất cả những chủ trương đổi mới này qua những thành tựu đạt được trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội đã khẳng định Đảng ta đã có bước đi thích hợp và chọn điểm xuất phát đúng đắn, phù hợp quy luật khách quan, hoàn cảnh điều kiện thực tế của đất nước, vừa nắm vững và không chệch hướng với quan điểm nền tảng của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa đáp ứng được lòng mong muốn của nhân dân ta. Điều đó đã là một minh chứng cho việc kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn của mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin.

Kết luận: Do nhận thức rõ mqh giữa VC và YT nên ĐCSVN bao giờ cũng coi trọng cả yếu tố vật chất và tinh thần. Cùng với việc khai thác những sức mạnh vật chất tiềm tàng của đất nước, của dân tộc, Đảng luôn chú trọng bồi dưỡng tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc, giáo dục tinh thần cách mạng cho mọi tầng lớp nhân dân. Cùng với việc chăm lo phát triển kinh tế, bao giờ đảng cũng chú trọng đến việc xây dựng đời sống văn hóa tinh thần. Với tinh thần đó VKĐH X đã khẳng định “Trong sự nghiệp xd đất nước, Đảng và NN ta luôn coi phát triển kt là nhiệm vụ trung tâm”, “giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu là nền tảng và động lực thúc đẩy CNH-HĐH đất nước”. Những quan điểm đó là sự vận dụng mqh VC và YT vào điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay.

 

Phần Liên hệ:

Triết học: Mối quan hệ giữa VC và YT. Ý nghĩa trong nhận thức và hoạt động thực tiễn Liên hệ thực tiễn: Quảng Trị là tỉnh nằm ở khu vực Bắc Trung Bộ, là dải đất hẹp ở miền Trung, được ví như là đòn gánh trĩu nặng hai đầu đất nước. Sau hơn 20 năm đổi mới và 19 năm tái thành lập tỉnh, bộ mặt KT-XH của tỉnh đã có nhiều khởi sắc, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân trong những năm gần đây là 11-12% năm và tăng cao hơn mức bình quân chung của cả nước, tổng thu ngân sách trung bình 600-700 tỷ đồng, đời sống của nhân dân dần được cải thiện và có bước khởi sắc.

Trong những năm qua, QT đã tập trung đầu tư xd cơ sở hạ tầng cho khu .... Để khu ... hoạt động có hiệu quả, Thủ tướng Cp đã có QĐ 08/2002/QĐ-TTg (sửa đổi, bổ sung  thay thế một số điều trong QĐ 219/1998) về quy chế hoạt động của khu thương mại LB, đã thực sự  làm cho hoạt động xuất nhập khẩu, xúc tiến đầu tư và hợp tác khá sôi động. Nhiều doanh nghiệp đánh giá cao QĐ 08 về nhũng ưu đãi đầu tư vào khu TM. UBND tỉnh QT xác định LB sẽ trở thành vùng  kt động lực cho sự phát triển kt của tỉnh nhà trong những năm tới. Trong nhiều năm qua UBND tỉnh đã tổ chức gặp gỡ các nhà DN đầu tư trong và ngoài tỉnh như Hà Nội, HCM, ĐN, DN Thái Lan, Lao .. đến tìm kiếm cơ hội đầu tư trên vùng đất mới này. Đến nay đã tập trung được nhiều vốn kinh doanh và dự án đăng ký tại khu KT, trong đó có 4 dự án đầu tư 100% vốn nước ngoài, mức vốn trên 9 triệu USD, thời gian hoạt động trên 30 năm. Tuy dự án mới đi vào hoạt động nhưng nơi này đa hình thành nên một khu thương mại thực sự thu hút được đầu tư đi vào hoạt động bước đầu có hiệu quả. Điển hình như nhà máy sx nước uống tăng lực SP của công ty Chaicharcon Việt – Thái, nhà máy gạch, XN May xuất khẩu, xd khách sạn 4 sao, nhà máy théo của TCT xd Miền Trung ...  Chính những DN này đã tạo được niềm tin cho giới đầu tư bỏ vốn kinh doanh, góp phần tăng khả năng tiêu thụ hàng hóa nông lâm sản của bà con làm ra trên địa bàn và mở rộng sx, hình thành vùng nguyên liệu, tạo động lực cho sự phát triển ktxh của vùng.

Có được những thành công như vậy chính là bắt nguồn từ sự tháo gỡ những cơ chế vướng mắc trong đầu tư, có chính sách ưu đãi đặc biệt phù hợp. Nếu trước đây theo QĐ 219 thì các DN trong khu ... được miễn thuế thu nhập DN trong 4 năm và được giảm 50% trong 4 năm tiếp theo thì nay các dự án có vốn đầu tư nước ngoài được miễn 8 năm TTNDN kể từ khi có thu nhập chịu thuế và áp dụng TTNDN 10% cho những năm tiếp theo. Các DA đầu tư của các tổ chức, cá nhân trong nước được miễn TTNDN trong 4 năm đầu hoạt động, giảm 50% trong 9 năm tiếp theo và được áp dụng thuế xuất TTNDN 15% cho các năm sau đó. Tương tự, các tổ chức, cá nhân có DA đầu tư vào khu ... được miễn tiền thuê đấy trong 11 năm đầu và từ năm thứ 12 trở đi mới chịu mức thuế bằng 30% giá áp dụng cho các huyện miền núi của tỉnh QT. Một ưu đãi mà các khu TM khác trong nước ko có được là “quan hệ hàng hóa dịch vụ giữa khu TM LB và trong nước là quan hệ xuất khẩu và nhập khẩu”. Như vậy, theo đó hàng hóa dịch vụ xs và tiêu thụ tỏng khu TM ko phải chịu thuế GTGT... ngoài những ưu đãi của CP theo quy chế, khu TMLB còn được UBND tỉnh tạo các đk thuận lợi cho các nhà đầu tư với cơ chế thông thoáng, chính sách hỗ trợ, thưởng cho các cá nhân, tổ chức gọi được vốn đầu tư.

Có thể nói rằng đây là kết quả của sự kết hợp nhuần nhuyễn mqh bc thống nhất giữa 2 vấn đề cơ bản của triết học là VC-YT.

 

TƯ TƯỎNG HCM: Tư tưởng HCM về ĐCSVN và xây dựng Đảng cầm quyền.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng giữ một vị trí đặc biệt quan trọng. Là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh không ngừng chăm lo xây dựng, rèn luyện Đảng ta thành một đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, tiêu biểu cho trí tuệ, đạo đức, lương tâm và danh dự của dân tộc. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là từ khi giành được chính quyền, Hồ Chí Minh đã nêu và yêu cầu các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên thực hành những quan điểm hết sức sâu sắc, có tác dụng soi sáng lâu dài trong việc chăm lo xây dựng Đảng ta, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Những quan điểm cốt lõi của Hồ Chí Minh về Đảng CS Việt Nam tập trung ở 7 vấn đề lớn sau:

1. Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu để đưa CMVN đến thắng lợi; Xuất phát từ quan điểm của CN M-L cũng như truyền thống dân tộc, HCM đã khẳng định CM là sự nghiệp của qcnd. Nhưng q/c nd phải được giác ngộ, được tổ chức, lãnh đạo theo một đường lối đúng đắn thì mới trở thành lực lượng to lớn. “Trước hết phải có đảng CM, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với d tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”

Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, là đội tiên phong của gccn, có khả năng đoàn kết, tập hợp, lôi kéo các tầng lớp nhân dân khác đứng lên làm cách mạng. Đây là bộ tham mưu của gcvs, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Hơn nữa, nó còn phải là đội tiên phong dũng cảm và đội tham mưu sáng suốt để xứng đáng với vai trò lãnh đạo sự nghiệp CM trong thời kỳ lịch sử mới. Bao giờ Đảng cũng “tận tâm tận lực phụng sự tổ quốc và nhân dân”, “trung thành tuyệt đối với lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc”. Đó là độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, ấm no hạnh phúc cho mỗi con người, xây dựng đất nước giàu mạnh đi lên CNXH, sống hòa bình hữu nghị với tất cả các dân tộc khác. Và bởi vậy từ khi thành lập ngày 3/2 đến nay, ĐCSVN đã đưa dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

2. Đảng Cộng sản là sp của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. - Phát triển quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học: Đảng Cộng sản ra đời là sản phẩm sự kết hợp hai yếu tố: chủ nghĩa Mác-Lênin và phong trào công nhân. Vận dụng vào đk thực tế ở VN, HCM chỉ rõ Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm sự kết hợp ba yếu tố: chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam

Đây cũng chính là con đường mà HCM đã trải qua từ chủ nghĩa yêu nước, trải qua vô sản hóa, đến gặp và lựa chọn chủ nghĩa Mác - Lênin. Sự phù hợp, đúng đắn của quan điểm này đối với cách mạng Việt Nam: chủ nghĩa yêu nước là dòng chủ đạo trong truyền thống văn hóa dân tộc; là nguồn sức mạnh tinh thần to lớn, đồng thời sẽ biến thành sức mạnh vật chất to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng. Yêu nước là điểm tương đồng của đông đảo quần chúng, là cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Phong trào yêu nước và quần chúng yêu nước luôn là sự lãnh đạo của Đảng đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng một xã hội mới, tốt đẹp.

3. ĐCSVN – Đảng của giai cấp công nhân đồng thời là đảng của dân tộc VN. Trong BC chính trị tại ĐH II (2/1951), khi đất nước đang tiến hành CM d tộc DCND người đã khẳng định: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của gccn và nhân dân lao động và của d tộc là một. Chính vì ĐLĐVN là đảng của gccn và ndlđ, cho nên nó phải là Đảng của d tộc VN” Luận điểm đó đã định hướng cho việc xd Đảng thành một đảng có sự gắn bó máu thịt với gccn, ndlđ và toàn thể dân tộc trong mọi giai đoạn. Tuyệt đại đa số những người dân VN, dù là đảng viên hay ko, dù thuộc giai tầng nào đều cảm thấy ĐCSVN là Đảng của Bác Hồ, là Đảng của mình mà dân tộc ta thường gọi là Đảng ta, đó là niềm tự hào và mỗi người đều thấy có trách nhiệm trong xd đảng.

Khi nói Đảng ta là đảng của giai cấp, đồng thời là đảng của d tộc ko có nghĩa là ko thấy rõ bản chất gc của Đảng. Cái quyết định bản chất giai cấp CN của Đảng ko phải ở số lượng đảng viên xuất thân từ công nhân mà cơ bản là ở nền tảng tư tưởng của Đảng là CN M-L; ở mục tiêu, đường lối của Đảng thực sự là vì ĐL DT và CNXH, vì sự nghiệp gp dt, giải phóng XH và giải phóng con người; ở vấn đề Đảng nghiêm túc tuân thủ những nguyên tắc của Đảng kiểu mới của gccn.

4. ĐCS VN phải lấy CN M – L “làm cốt”. Đảng lấy chủ nghĩa M-LN làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động.Đảng Cộng sản Việt Nam phải lấy Chủ nghĩa Mác Lênin “làm cốt”, Theo Bác thì Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy, “bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin”... Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm cốt có nghĩa là Đảng ta nắm vững tinh thần của chủ nghĩa Mác-Lênin, lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng thời nắm vững tinh hoa văn hoá dân tộc và trí tuệ thời đại vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta.

5. ĐCS VN phải được xd theo những nguyên tắc của Đảng kiểu mới của gcvs: Đây là những ng tắc mà Lê nin đã đề ra, để phân biệt với những Đảng cơ hội của quốc tế II. Phát triển nguyên tắc đó, HCM đã đề ra các nguyên tắc sau: Một là, tập trung dân chủ; Hai là, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; Ba là, tự phê bình và phê bình; Bốn là kỷ luật nghiêm minh và tự giác; Năm là, đoàn kết thống nhất trong đảng.

6. Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ thật trung thành của nhân dân, Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ. Phải thường xuyên chăm lo củng cố mqh máu thịt giữa đảng với dân. Từ khi Đảng ra đời, do có đường lối đúng đắn và có sự gắn bó máu thịt với nhân dân, Đảng đã được nhân dân thừa nhận là Đảng duy nhất có vai trò lđ CM VN. Trong suốt tiến trình đi lên của CMVN, Đảng ta hoàn toàn xứng đáng với sự tin cậy ấy.

Là đầy tớ trung thành của nhân dân, Đảng ko có quyền lợi gì của riêng mình, ngoài quyền lợi của gc, của dt. Vì vậy Đảng phải thường xuyên chăm lo củng cố mqh máu thịt giữa Đảng với dân. Đảng ko ở trên dân, ngoài dân mà ở trong dân, trong lòng dân, phải lấy dân làm gốc.

7. Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới. Để xứng đáng là một đảng CM chân chính lãnh đạo sự nghiệp CM to lớn của gc và dt, một đảng “vừa là đạo đức, vừa là văn minh”, đảng phải thường xuyên chăm lo đến việc chỉnh đốn và đổi mới bản thân mình. Chỉnh đốn và đổi mới là nhằm làm cho Đảng thực sự TSVM cả về ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm cho đội ngũ cbđv ko ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực trước những y/c của nhiệm vụ cm.

II. Tư tưởng HCM về xây dựng Đảng cầm quyền

Khi đảng lãnh đạo nhân dân giành được chính quyền, xd chính quyền CM, thì từ đó Đảng trở thành Đảng cầm quyền. Đảng cầm quyền là Đảng trực tiếp lđ chính quyền, lđ NN để tiếp tục hoàn thành sự nghiệp đl dt và CNXH; đảng lãnh đạo NN là nhằm xd một nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân.

a. Đảng lấy CN M-L làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động: Hồ Chí Minh cho rằng chủ nghĩa chân chính nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác -lênin. Khẳng định nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng là chủ nghĩa Mác -lênin, Hồ Chí Minh cũng đồng thời yêu cầu “phải học tập tinh thần chủ nghĩa Mác -lênin; học lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác -lênin...” chứ không phải dập khuôn, giáo điều theo từng câu chữ. Bởi chỉ có lý luận đúng đắn Đảng mới có cơ sở để đề ra đường lối đúng đắn; thông qua lý luận mới nâng cao đạo đức, trí tuệ của Đảng; và thống qua lý luận mới tăng cường sự đoàn thống thống nhất trong Đảng. Việc tăng cường và nắm vững lý luận trong Đảng còn nhắm tránh các căn bệnh. Kém lý luận, khinh lý luận và lý luận suông. Muốn đẩy mạnh và tăng cường công tác giáo dục lý luận trong Đảng cấn chú ý: Nhận thức sâu sắc bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mạc Lê Nin; nghiên cứu và vận dụng sáng tạo vào điều kiện thực tiễn của Việt Nam; Thường xuyên sơ kết, tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận cho phù hợp với điều kiện và tình hình mới; tránh bệnh dập khuônm giáo điều, xã rời chủ nghĩa Mác -Lê Nin; kiên quyết đấu tranh chống lại những quan điểm, luận điệu chống phá chủ nghĩa Mác -lênin.

b. XD Đảng là phải thực hiện tốt các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng: Một là, Phải nhận thức rõ đây là ng tắc cơ bản, q trọng nhất trong tổ chức và SHĐ để xây dựng ĐCS thành một tổ chức chiến đấu chặt chẽ, vừa phát huy sức mạnh của mỗi người, vừa phát huy sức mạnh của tất cả những ai đã tự nguyện gắn bó với nhau trong 1 tổ chức. Nó ko biến đảng thành một câu lạc bộ để mọi người có thể vào ra tùy tiện, hoặc vào đảng nhưng chỉ nói mà ko làm, hoặc mỗi người làm 1 phách, rốt cuộc triệt tiêu sức mạnh của cả tổ chức và của mỗi người. Thực hiện tốt nguyên tắc này có quan hệ đến sự tồn tại, phát triển hay ko tồn tại, phát triển của bất cứ tổ chức đảng nào từ TW đến chi bộ. Vì vậy, HCM gọi TTDC là ng tắc tổ chức của đảng.

- Hai là, Tập trung và dân chủ luôn đi đôi với nhau. Tập trung trên nền tảng phát huy dân chủ thật sự trong Đảng. Dân chủ là cơ sở của TT, dân chủ dưới sự chỉ đạo của TT, chứ ko phải là dân chủ theo kiểu phân tán tùy tiện, vô tổ chức. TT là TT trên cơ sở DC chứ ko phải tập trung quan liêu theo kiểu độc đoán chuyên quyền. TTDC Đó là hai vế thống nhất chặt chẽ làm thành một nguyên tắc, chúng ko đối lập nhau.

- Ba là, Nội dung cơ bản của tập trung là: Thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, toàn Đảng phục tùng TW, tất cả mọi đảng viên phải chấp hành nghiêm chỉnh NQ của tổ chức Đảng. Đảng viên có quyền bảo lưu ý kiến của mình khác với ý kiến của đa số đã quyết nghị, nhưng phải có trách nhiệm thực hiện NQ, ko vì thế mà tuyên truyền ý kiến riêng và ko phục tùng NQ. Tổ chức đảng phải nghiên cứu, xem xét lại ý kiến bảo lưu của cá nhân đảng viên, ko định kiến.

Về tập trung CT HCM cho rằng, phải thống nhất về tư tưởng, tổ chức, hành động; thực hiện tốt ng tắc này sẽ tạo thành sức mạnh đoàn kết, thống nhất của đảng từ đó làm cho “Đảng tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì như chỉ 1 người”.

- Bốn là, Nội dung cơ bản của dân chủ là: Phải mở rộng và thực hành dân chủ trong Đảng; làm cơ sở mở rộng, phát huy dân chủ ngoài XH. Phải thật sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình. CT HCM giải thích về tự do dân chủ: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải đc tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi v đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là 1 nghĩa vụ của mọi người. Kho mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý. Chân lý là cái j có lợi cho TQ, cho nhân dân ... Ra sức phụng sự TQ, phục vụ nhân dân – tức là phục tùng chân lý”.

Người đặc biệt nhấn mạnh đến vc thực hiện và phát huy dân chủ nội bộ, vì nếu ko có dân chủ nội bộ thì sẽ làm cho “nội bộ của đảng âm u”. Trong tình hình ấy, tập trung ko tạo nên sức mạnh của đảng, bởi lẽ đảng đã bị suy yếu từ bên trong, như vậy sớm muộn cũng ko còn là ĐCS. Hơn nữa, còn phải thấy rằng có dân chủ trong đảng, nới có thể nói đến dân chủ trong XH, mới định hướng cho vc xd 1 chế độ DC triệu lần DC hơn chế độ TBCN.

- Năm là, trong khi thực hiện ng tắc này phải đề phòng và chống các biểu hiện lệc lạc. Đề phòng và chống các biểu hiện độc đoán, chuyên quyền, hách dịch, chụp mũ, trù dập ý kiến của người #; đồng thời cũng cần đề phòng và chống những biểu hiện dân chủ “quá trớn”. Muốn phòng và chống những biểu hiện lệch lạc trên đây khi thực hiện ng tắc TTDC, cần bảo đảm cho tổ chức đảng thật sự TSVM và chính đây là điều kiện tiên quyết bảo đảm thắng lợi cho vc thực thi ng tắc đó.

2-Tự phê bình và phê bình. Hồ Chí Minh coi đây là nguyên tắc sinh hoạt đảng, đồng thời là quy luật phát triển của Đảng. Người chỉ rõ: “một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”(22).

- Về Mục đích: Người nhấn mạnh mục đích của tự phê bình và phê bình là: Làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi; làm cho các tổ chức đảng luôn TSVM; để tăng cường đoàn kết, thống nhất trong nội bộ đảng; để các tổ chức Đảng và đảng viên luôn luôn hoàn thiện mình, phấn đấu và hoàn thành nhiệm vụ TQ và nhân dân giao phó.

CT HCM cho rằng: bất cứ ai cũng đều có khuyết điểm, chỉ # nhau ở

- Về phương pháp tự phê bình và phê bình. CT HCM lưu ý những nội dung sau đây:

+ Tự phê bình và phê bình phải đc tiến hành thường xuyên, như người ta rửa mặt hàng ngày “đc như thế thì trong đảng sẽ ko có bệnh tật mà đảng sẽ mạnh khỏe vô cùng”.

+ Tự phê bình phải thành khẩn. Thường là vc nhận ra khuyết điểm của bản thân mình, của tổ chức mình ko dễ dàng, do đó tự phê bình thường khó hơn vc phê bình. Thành khẩn, thành tâm, không “giấu bệnh sợ thuốc” sẽ giúp cho việc tự phê bình có kq tốt. Ở đây đòi hỏi tinh thần tự giác của mỗi đảng viên.

+ Phê bình phải trung thực, “ko đặt điều”, “ko thêm bớt”.

+ Tự phê bình và phê bình phải kiên quyết, “ráo riết”, ko nể nang. Theo người, nếu ko kiên quyết thực hiện tự phê bình thì cũng giống như giấu diếm bệnh tật trong người, ko dám uống thuốc để bệnh ngày càng nặng thêm, nguy đến tính mạng.

- Tự phê bình và phê bình “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau” như ý bổ sung trong Di chúc. Tự phê bình và phê bình phải trên văn hóa ứng xử giữa con người với con người, hơn nữa đây là giữa những đảng viên với nhau – những người đ/c, cùng nhau phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng.

+ Tự phê bình và phê bình phải có tính chất xây dựng, “ko phải để công kích, để nói xấu, để chửi rủa”, “chớ phê bình lung tung ko chịu trách nhiệm”.

CT HCM còn nêu lên 3 thái độ cần chú ý xử lý trong tự phê bình và phê bình ở trong đảng:

Một là, đối với đ/c giác ngộ chính trị cao thì tự phê bình rất thật thà và kiên quyết sửa chữa khuyết điểm. Khi phê bình người #,  các đ/c ấy thành khẩn. Đối với những người có khuyết điểm nặng mà ko chịu sửa thì các đ/c ấy đấu tranh ko nể nang. CT HCM chỉ rõ: “Chúng ta phải học tập tinh thần và tác phong của các đ/c ấy”

Hai là, có một số người thì phê bình, giáo dục mấy cũng ko chịu sửa chữa khuyết điểm “cứ ỳ ra”. CT HCM cho rằng: đối với các đồng chí này tổ chức đảng cần nghiêm khắc mời ra khỏi đảng để tránh “con sâu làm rầu nồi canh”.

Ba là, một số đ/c khá đông có thái độ là: đối với người # thì phê bình rất mạnh, nhưng tự phê bình thì quá yếu; các đ/c ấy ko mạnh dạn công khai tự phê bình, ko vui lòng tiếp thu phê bình, ko kiên quyết sửa chữa khuyết điểm của mình. Đối với những đ/c này phải giáo dục, phải phê bình nghiêm khắc để giúp sửa chữa khuyết điểm.

3- Kỷ luật nghiêm minh và tự giác. Hồ Chí Minh cho rằng, “Sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm chỉnh của cán bộ và đảng viên”(25). Người khẳng định, nhờ có kỷ luật mà Đảng ta đoàn kết, nhất trí, mạnh mẽ, lãnh đạo cách mạng thắng lợi. Kỷ luật trong Đảng là kỷ luật sắt, đồng thời là kỷ luật tự giác.

Đảng ta gồm những người ưu tú, tiên tiến, tự nguyện, có cùng mục đích. Nhưng Đảng cũng ở trong xã hội mà ra, vì vậy khó tránh khỏi những tập tục, những thói hư, tật xấu của xã hội bên ngoài có nguy cơ lây lan vào trong Đảng. Do vậy, trong quá trình giáo dục, rèn luyện Đảng ta, Người luôn đòi hỏi mọi cán bộ, đảng viên phải luôn “giữ vững kỷ luật của Đảng, phải phục tùng sự lãnh đạo và chấp hành những nghị quyết của Đảng”. Mỗi đảng viên dù ở cương vị nào, mỗi chi bộ, mỗi cấp ủy dù ở cấp nào, cũng đều phải nghiêm túc chấp hành kỷ luật của Đảng, biến kỷ luật thành ý thức và hành động tự giác. Có kỷ luật thống nhất mới có sự thống nhất ý chí, thống nhất hành động và Đảng ta mới có sức mạnh.

4- Giữ gìn và củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Theo Hồ Chí Minh, đây là một nguyên tắc đặc biệt quan trọng trong hoạt động lãnh đạo và hoạt động xây dựng nội bộ của Đảng. Người khẳng định: “Với sự đoàn kết nhất trí và lòng cương quyết quật cường của Đảng, của Chính phủ và của toàn dân, chúng ta nhất định khắc phục được mọi khó khăn để đi đến hoàn toàn thắng lợi”(26). Trong bài nói tại lớp chỉnh huấn đầu tiên của Trung ương (11-5-1952), Người chỉ rõ “Là một Đảng lãnh đạo, Đảng ta cần phải mạnh mẽ, trong sạch, kiểu mẫu. Toàn Đảng phải tư tưởng nhất trí, hành động nhất trí, đoàn kết nhất trí mới làm trọn nhiệm vụ của Đảng”(27).

Hồ Chí Minh thấm nhuần nguyên lý đoàn kết thống nhất của Đảng cộng sản bằng cả lý trí và tình cảm. Người đã vận dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo và làm phong phú thêm nội dung của nguyên lý đoàn kết thống nhất trong Đảng trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta. Trong Di chúc thiêng liêng để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta, Người còn căn dặn: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”(28).

5. Thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện tư cách cán bộ đảng viên. Đây là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng mà Hồ Chí Minh dành nhiều thời gian và tâm huyết nhất. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, ở đâu và lúc nào, Hồ Chí Minh cũng luôn quan tâm đến vấn đề cán bộ và công tác cán bộ. Theo Hồ Chí Minh, cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng. “Vì vậy, cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”(36). Để xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, trình độ và năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, Hồ Chí Minh đã nêu ra nhiều biện pháp cụ thể, thiết thực:

6. Tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa đảng với dân: Với Hồ Chí Minh, đây là một nguyên tắc lớn, gắn liền với bản chất của Đảng ta. Nguyên tắc này được đặt ra với toàn Đảng cũng như đối với từng cán bộ, đảng viên, từ những đảng viên ở cương vị lãnh đạo cao nhất đến những đảng viên bình thường. Trong Di chúc, Người viết: “Đảng ta là một đảng cầm quyền... Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(40).

Theo cách nói của Hồ Chí Minh, sự lãnh đạo của Đảng đối với quần chúng nhân dân là nhằm thực hiện những công việc của chính bản thân quần chúng nhân dân, là “lấy tài dân, sức dân để làm những công việc có lợi cho dân”, chứ không phải vì lợi ích của người lãnh đạo, Đảng không có mục đích tự thân. Mục tiêu lãnh đạo của Đảng chính là vì độc lập và tự do của dân tộc, hạnh phúc và dân chủ của nhân dân. Với ý nghĩa đó, sự lãnh đạo của Đảng đồng nghĩa là “đày tớ” của nhân dân.

Do đó, Đảng phải xây dựng mình thành một tổ chức chính trị gắn bó máu thịt với nhân dân. “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân ,ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”(41). Đảng ta vĩ đại vì Đảng bao trùm cả nước, đồng thời Đảng cũng gần gụi trong lòng của mỗi đồng bào ta.

7. Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn: Hồ Chí Minh cho rằng, khi có chính quyền, vấn đề quan trọng nhất đặt ra trong công tác xây dựng đảng là phải tránh nguy cơ tha hoá, biến chất trong Đảng, trong đó Người đặc biệt nhấn mạnh phải chống sự hủ hoá, kiêu ngạo, cửa quyền của cán bộ, đảng viên. Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, trong “Thư gửi các đồng chí tỉnh nhà” (17-9-1945), Người đã nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải “đề phòng hủ hoá”, “lên mặt làm quan cách mạng, hoặc là độc hành, độc đoán, hoặc là dĩ công dinh tư”(1).

Theo Hồ Chí Minh, tư cách một đảng cách mạng chân chính là “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm trọn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”(4). Để Đảng trong sạch, vững mạnh, “Đảng phải luôn luôn tẩy bỏ những phần tử hủ hoá ra ngoài”(5).

Kết luận: Có thể nói, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền có nội dung hết sức phong phú, sâu sắc và toàn diện. Những quan điểm, tư tưởng của Người về xây dựng, chỉnh đốn Đảng đến nay vẫn còn nguyên giá trị và có tính thời sự cấp bách.

Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nhận định: “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp... làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước.

Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” chưa thực sự đi vào chiều sâu, ở một số nơi còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao, làm theo chưa đạt yêu cầu”, “Việc đổi mới công tác cán bộ còn chậm; thiếu cơ chế, chính sách cụ thể để thực sự phát huy dân chủ trong công tác cán bộ, phát hiện và sử dụng người tài; chậm đổi mới cơ chế, phương pháp và quy trình đánh giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ; đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tội, chạy bằng cấp, huân chương chưa được khắc phục”, “Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng chưa làm tốt công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng, chất lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao; chưa coi trọng việc kiểm tra, giám sát thực hiện đường lối, chủ trương, chỉ thị, nghị quyết, thi hành Điều lệ Đảng... Tình trạng thiếu trách nhiệm, cơ hội, suy thoái đạo đức, lối sống vẫn diễn ra khá phổ biến trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Kỷ luật, kỷ cương ở nhiều tổ chức đảng không nghiêm. Sự đoàn kết, nhất trí ở không ít cấp uỷ chưa tốt. Một số tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận và đoàn thể nhân dân chưa quan tâm đúng mức công tác dân vận. Nội dung, phương thức vận động, tập hợp quần chúng vẫn nặng tính hành chính”(42).

Để xây dựng Đảng ta thành một Đảng cầm quyền thật sự trong sạch, vững mạnh, tiêu biểu cho trí tuệ, đạo đức, lương tâm và danh dự của dân tộc, xứng đáng là người lãnh đạo, người đày tớ trung thành của nhân dân như lời dạy của Hồ Chí Minh, đòi hỏi toàn Đảng phải thực hiện triệt để, đồng bộ các giải pháp, trong đó có những giải pháp cơ bản mà Hồ Chí Minh đã chỉ rõ./.

Liên hệ  TTHCM thực tiễn ở địa phương;

Những năm qua công tác XD đảng ở QT được tiến hành tích cực; hệ thống chính trị từ tỉnh đển cơ sỏ không ngừng được củng cố. Các cấp ủy đảng đã đề ra nhiều chủ trương, giải pháp để tập trung củng cố đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, cán bộ. Tuy nhiên trong công tác xd đảng đang nổi lên một số yếu kém, khuyết điểm: Công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ cán bộ đảng viên còn nhiều mặt hạn chế, chưa ngăn chặn và đẩy lùi được tình trạng giảm sút về nhận thức tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ đảng viên. Vẫn còn nhiều tổ chức đảng yếu kém, tác dụng lãnh đạo thấp. Công tác kiểm tra đảng viên và tổ chức đảng chấp hành NQ, điều lệ, chấp hành nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng còn nhiều hạn chế, thiếu sót. Dân chủ trong đảng còn bị vi phạm, kỷ cương, kỷ luật chưa nghiêm; nội bộ đảng ở một số nơi thiếu đoàn kết thống nhất. Công tác cán bộ còn nhiều yếu kém, bất cập. Phong cách lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng chậm đổi mới.

Để tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng đáp ứng y/c nhiệm vụ thời kỳ mới, mục tiêu công tác xây dựng đảng trong thời gian tới là tạo chuyển biến tích cực đồng bộ trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và cán bộ nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu nhiệm vụ mà đại hội kh 2010-2015 đã đề ra.

Nhiệm vụ và giải pháp chủ chủ yếu trên từ mặt được xác định như sau:

1. Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện đạo đức CM cho đội ngũ cán bộ đảng viên

- Đẩy mạnh công tác giáo dục CN ML, tt HCM, quan điểm, chính sách của Đảng, NN cho cán bộ đv trên cơ sở hướng dẫn của cấp ủy cấp trên về quy định chế độ học tập; mỗi cấp ủy chi bộ đảng phải xd kế hoạch hàng năm để tổ chức cho cbđv tham gia học tập LLCT.

Củng cố kiện toàn các trường chính trị tỉnh, huyện đủ sức đảm đương nhiệm vụ đào tạo bồi dưỡng. Tăng cường quản lý và nâng cao chất lượng chính trị, văn hóa, khoa học của hệ thống giáo dục, các cq thông tin đại chúng.

Song song với công tác giáo dục chính trị tt, các cấp ủy phải có kế hoạch kiểm tra việc học tập, rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng.

Kiện toàn có chất lượng bộ máy, cán bộ làm công tác tư tưởng.

2. Kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu quả công tác cán bộ.

a. Về tổ chức: Mỗi tổ chức đảng phải tuân thủ và thực hiện nghiêm túc quy định, quy chế về thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, nhất là ng tắc TTDC. Phải thường xuyên giữ vững sinh hoạt định kỳ, đổi mới nội dung và nâng cao chất lượng sinh hoạt; mở rộng dân chủ, công khai trong nội bộ đảng.

b. Về công tác cán bộ: Thực hiện tốt NQTW 3k8 về xd đội ngũ cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH. Thực hiện đúng nguyên tắc đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ, quản lý đội ngũ cán bộ. Tập trung xd đội ngũ cb các cấp, ngành, địa phương, trước hết là cb lđql thật sự vững vàng và kiên định về chính trị; gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống; có trí tuệ, năng lực hoạt động thực hiện; sáng tạo, gắn bó với nhân dân.

3. Đẩy mạnh việc xây dựng, nâng cao nllđ scđ của TCCS Đảng: Khảo sát, điều chỉnh, sắp xếp tổ chức đảng ở địa bàn, cụm dân cư phù hợp với đặc điểm tình hình và y/c nhiệm vụ mới. Làm tốt công tác phân công và kiểm tra đảng viên. Tăng cường chỉ đạo của cấp ủy cấp trên đối với TCCS Đảng, tích cực củng cố TCCS Đ yếu kém.

4. Công tác đảng viên: Tăng cường hơn nữa công tác giao dục, rèn luyện đảng viên. Động viên cbđv phát huy tinh thần tự học. Chú trọng phát triển đảng viên có chất lượng ...

5. Tăng cường công tác kiểm tra của cấp ủy và UBKT các cấp: Kiểm tra việc chấp hành và tổ chức thực hiện các NQ của đảng. Thực hiện nhiệm vụ kiểm tra theo ĐLĐ quy định

6. Đổi mới phương thức lãnh đạo, lề lối làm việc của các cấp ủy đảng; Tăng cường vai trò lãnh đạo và tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng đối với các cq trong HTCT; chú trọng cải tiến việc ra NQ, CT ngắn gọn, rõ ràng.

7. Tăng cường công tác vận động quần chúng thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng.

CNXH: CƠ CẤU XÃ HỘI - GIAI CẤP:

1. Quan niệm về cơ cấu xã hội - giai cấp : Quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa là quá trình từng bước xoá bỏ cơ bản các quan hệ đối kháng giai cấp, hình thành một cơ cấu xã hội - giai cấp mới, trong đó liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và trí thức là nền tảng của xã hội mới, chế độ mới. Trong xã hội có giai cấp, thì cơ cấu xã hội - giai cấp là loại hình cơ bản và có vị trí quyết định nhất, chi phối các loại hình cơ cấu xã hội khác, vì trong quan hệ về mặt giai cấp của một xã hội quy định sự khác nhau về địa vị kinh tế, về quyền sở hữu tư liệu sản xuất, mối quan hệ xã hội giữa người với người trong hệ thống sản xuất, tổ chức lao động và phân phối thu nhập.

Cơ cấu xã hội – giai cấp là tổng thể các cộng đồng tương đối ổn định, bền vững và có những mối quan hệ nhất định giữa các công đồng đó. Trong đó, cơ cấu XH- giai cấp là hệ thống các giai cấp và các tầng lớp XH có mối quan hệ trực tiếp với các giai cấp được gắn kết vừa hợp tác vừa đấu tranh với nhau bởi những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội. Đó là các mối quan hệ về sở hữu, quản lý, địa vị chính trị - xã hội,... Cơ cấu xã hội - giai cấp vừa phản ánh sự tồn tại xã hội và vừa tác động lại sự phát triển của xã hội. C. Mác đã từng nói rằng: "lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước tới nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp" và V.I. Lênin cũng nói: kết cấu xã hội và chính quyền có nhiều biến đổi, nếu không tìm hiểu những biến đổi này thì không thể tiến được một bước trong bất kỳ lĩnh vực hoạt động nào".

- Xuất phát từ cơ cấu xã hội - giai cấp mà người ta xây dựng các chính sách phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá của mỗi xã hội trong từng giai đoạn cụ thể. Vị trí của cơ cấu xã hội - giai cấp là có ý nghĩa quan trọng, song không được tuyệt đối hoá, tức là chỉ thấy và dựa vào cơ cấu xã hội - giai cấp, coi nhẹ các loại cơ cấu xã hội khác; cũng không thể tuỳ tiện xoá bỏ nhanh chóng các giai cấp, tầng lớp xã hội bằng biện pháp giản đơn theo ý muốn chủ quan.

2. Địa vị, thực trạng,  quan điểm, chính sách  a.  Giai cấp công nhân : GCCN vừa là chủ thể trực tiếp nhất, vừa là sp của nền sx hiện đại. Khi sx càng hiện đại thì vai trò cải biến toàn diện các mặt đời sống xh thể hiện càng rõ hơn, nhất là cải tạo kt-kĩ thuật đặc biệt đối với các gc và tầng lớp XH khác. Cùng với sự phát triển của KHCN, xu hướng đội ngũ công nhân kỹ thuật cao, CN trí tuệ ngàng càng tăng lên. GCCN là gc có bản chất quốc tế và bản sắc dân tộc.  GCCN là gc gắn với LLSX tiên tiến nhất dưới CNTB, là lực lượng quyết định phá vỡ QHSX TBCN. Với tư cách là gc tự giác, gccn có hệ tư tưởng riêng của mình, đó là CN M-L,  tổ chức riêng là ĐCS và có sứ mệnh lịch sử là giải phóng xh, xóa bỏ áp bức, bóc lột.

GCCN Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh dơanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp.

Giai cấp công nhân Việt Nam có đầy đủ những yếu tố của giai cấp công nhân hiện đại và còn có những đặc điểm riêng của mình. Đó là do ra đời trước giai cấp tư sản Việt Nam nên giai cấp công nhân Việt Nam có điều kiện sớm giữ vai trò lãnh đạo và giành ưu thế ngay từ khi có Đảng của mình. Hơn nữa, sự gắn bó giữa công nhân và nông dân đã hình thành một cách tự nhiên, phần lớn xuất thân từ nông dân nên giai cấp công nhân Việt Nam đã mang sẵn trong mình mối liên minh với nông dân và luôn giữ được vai trò lãnh đạo trong quá trình cách mạng Việt Nam.

Giai cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn: Là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.

- Thực trạng: Ñaùnh giaù veà giai caáp coâng nhaân vieät nam Baùc Hoà ñaõ noùi: “chæ coù giai caáp coâng nhaân laø duõng caûm nhaát, CM nhaát, luoân luoân gan goùc, ñöông ñaàu vôùi boïn ñeá quoác thöïc daân”.

NQ TW 6 KX chỉ rõ: Qua hơn 20 năm đổi mới, cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giai cấp công nhân nước ta đã có những chuyển biến quan trọng, tăng nhanh về số lượng, đa đạng về cơ cấu, chất lượng được nâng lên, đã hình thành ngày càng đông đảo bộ phận công nhân trí thức; đang tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là ĐCSVN, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng CNXH, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế; có nhiều cố gắng để phát huy vai trò là lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giai cấp công nhân đã đóng góp trực tiếp to lớn vào quá trình phát triển của đất nước, cùng với các giai cấp, tầng lớp và thành phần xã hội khác, giai cấp công nhân nước ta là cơ sở chính trị - xã hội vững chắc của Đảng và Nhà nước. Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, việc làm và đời sống của giai cấp công nhân ngày càng được cải thiện.

Tuy nhiên, sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế; thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế; đa phần công nhân từ nông dân, chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống. Một bộ phận công nhân chậm thích nghi với cơ chế thị trường. Địa vị chính trị của giai cấp công nhân chưa thể hiện đầy đủ. Giai cấp công nhân còn hạn chế về phát huy vai trò nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị của công nhân không đồng đều; sự hiểu biết về chính sách, pháp luật còn nhiều hạn chế. Tỉ lệ đảng viên và cán bộ lãnh đạo xuất thân từ công nhân còn thấp. Một bộ phận công nhân chưa thiết tha phấn đấu vào Đảng và tham gia hoạt động trong các tổ chức chính trị - xã hội. Nhìn tổng quát, lợi ích một bộ phận công nhân được hưởng chưa tương xứng với những thành tựu của công cuộc đổi mới và nhưng đóng góp của chính mình; việc làm, đời sống vật chất và tinh thần của công nhân đang có nhiều khó khăn, bức xúc, đặc biệt là ở bộ phận công nhân lao động giản đơn tại các doanh nghiệp của tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Quan điểm, chính sách của Đảng đối với GCCN: Để thực hiện thắng lợi mục tiêu “đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”, mục tiêu xây dựng giai cấp công nhân đến năm 2020 là: 1- Kiên định quan điểm giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là một điều kiện tiên quyết bảo đảm thành công của công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

2- Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn kết hữu cơ với xây dựng, phát huy sức mạnh của liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng, của tất cả các giai cấp, các tầng lớp xã hội trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc - động lực chủ yếu của sự phát triển đất nước, đồng thời tăng cường quan hệ đoàn kết, hợp tác quốc tế với giai cấp công nhân trên toàn thế giới.

3- Chiến lược xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế. Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội và chăm lo xây dựng giai cấp công nhân; đảm bảo hài hoà lợi ích giữa công nhân, người sử dụng lao động, Nhà nước và toàn xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của công nhân, quan tâm giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc, cấp bách của giai cấp công nhân.

4- Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân, không ngừng trí thức hoá giai cấp công nhân là một nhiệm vụ chiến lược. Đặc biệt quan tâm xây dựng thế hệ công nhân trẻ có học vấn, chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cao, ngang tầm khu vực và quốc tế, có lập trường giai cấp và bản lĩnh chính trị vững vàng, trở thành bộ phận nòng cốt của giai cấp công nhân.

5- Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và sự nỗ lực vuơn lên của bản thân mỗi người công nhân, sự tham gia đóng góp tích cực của người sử dụng lao động; trong đó, sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước có vai trò quyết định, công đoàn có vai trò quan trọng trực tiếp trong chăm lo xây dựng giai cấp công nhân. Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn liền với xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, xây dựng tổ chức công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và các tổ chức chính trị - xã hội khác trong giai cấp công nhân vững mạnh.

+ Giải pháp:

1- Tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về giai cấp công nhân trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. 2- Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, từng bước trí thức hoá giai cấp công nhân. 3- Quan tâm bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp, tinh thần dân tộc cho giai cấp công nhân. 4- Bổ sung, sửa đổi, xây dựng và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân. 5. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của tổ chức công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác trong xây dựng giai cấp công nhân

b. Giai cấp nông dân: GC nông dân là gc của những người lđ sxvc trong lĩnh vực nông nghiệp. Giai cấp nông dân không có hệ tư tưởng riêng mà tư tưởng của họ phụ thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội. Họ vốn có cơ cấu không thuần nhất, không có sự liên kết chặt chẽ cả về kinh tế và cả về tư tưởng, tổ chức. Trong một nước nông nghiệp thì họ là lực lượng chính trị - xã hội đông đảo nhất và khi được giác ngộ họ trở thành lực lượng CM to lớn nhất trong CM XHCN.

Giai cấp nông dân VN là giai cấp của những người lao động sản xuất vật chất trong nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp... trực tiếp sử dụng một tư liệu sản xuất cơ bản và đặc thù, gắn với thiên nhiên là đất, rừng, biển để sản xuất ra nông sản.

Nông dân nước ta là một lực lượng CM to lớn, chiếm hơn 85% dân số, sớm có ý thức dân tộc và dân chủ. Nông dân việt nam chưa từng đi theo giai cấp tư sản việt nam vì giai cấp tư sản không thể đáp ứng được yêu cầu độc lập dân tộc và ruộng đất của nông dân. Nông dân việt nam có tinh thần CM nhưng không thể lãnh đạo CM dân tộc dân chủ vì họ không gắn liền với một phương thức SX mới và không có hệ tư tưởng độc lập, họ cũng không có khả năng xây dựng một XH mới. Giai cấp nông dân việt nam chỉ có thể đi với giai cấp công nhân, chịu sự lãnh đạo của giai cấp công nhân mới phát huy được khả năng CM của mình..

Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của đảng, nông nghiệp tiếp tục phát triển với tốc độ khá cao theo hướng sx hàng hóa, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả; đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia; một số mặt hàng xuất khẩu chiếm vị thế cao trên thị trường thế giới. Kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề; các hình thức tổ chức sx tiếp tục đổi mới. Kết cấu hạ tầng kt xh được tăng cường; bộ mặt nhiều vùng nông thôn thay đổi. Đời sống vật chất tinh thần của dân cư ở hầu hết các vùng nông thôn ngày càng được cải thiện. Xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả to lớn. HTCT ở nông thôn được củng cố và tăng cường. Dân chủ cơ sở được phát huy. An ninh chính trị, TTATXH được giữ vững. Vị thế chính trị của giai cấp nông dân ngày càng được nâng cao.

Tuy nhiên, thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và chưa đồng điều giữa các vùng. Nông nghiệp phát triển còn kém bền vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt nguồn lực cho phát triển sx; nghiên cứu, chuyển giao KHCN và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cách thức sx trong nông nghiệp còn chậm, phổ biến vẫn là sx nhỏ, phân tán; n/s, chất lượng, giá trị gia tăng nhiều mặt hàng thấp. CN, D vụ và ngành nghề phát triển chậm, chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu k tế và lao động ở nông thôn. Các hình thức tổ chức sx chậm đổi mới, chưa đáp ứng  y/c phát triển mạnh sx hàng hóa. Nông nghiệp và nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu ktxh còn yếu kém, môi trường ngày càng ô nhiễm; năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai còn nhiều hạn chế. Đời sống vc và tinh thần của người nông dân nông thôn còn thấp, tỉ lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu vùng xa; chênh lệch giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng còn lớn, phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc.

- Quan điểm, giải pháp: Một là, Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước

Hai là, các vấn đề NNNDNT phải được giải quyết đồng bộ, gắn với qt đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước. CNH-HĐH NNNT là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của qt CNH-HĐH đất nước. Trong mqh mật thiết giữa NNNDNT, ND là chủ thể của qt phát triển với xd cơ sở CN, D vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản; phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt.

Ba là, phát triển NN NT và nâng cao đời sống vc và tinh thần của nông dân phải dựa trên cơ chế k tế thị trường định hướng XHCN, phù hợp với đk của từng vùng, từng lĩnh vực, để giải phóng và sd có hiệu quả các nguồn lực XH, trước hết là lao động, đất đai, rừng và biển; khai thác tốt các đk thuận lợi trong hội nhập kt quốc tế cho phát triển LLSX trong nông nghiệp, nông thôn; phát huy cao nội lực; đồng thời tăng mạnh đầu tư của NN và XH, ứng dụng nhanh các thành tựu KHCN tiên tiến cho NN NT, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí cho nông dân.

Bốn là, giải quyết vấn đề NN ND NT là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn XH; trước hết phải khơi dậy tinh thần yêu nước, tự chủ, tự lực tự cường vươn lên của nông dân. Xd XH nông thôn ổn định, hòa thuận, dân chủ, có đời sống văn hóa phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo động lực cho phát triển nông nghiệp và xd nông thôn mới, nâng cao đời sống nông dân.

+ Giải pháp:  1/ Xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, đồng thời phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn.  2/ Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn gắn với phát triển các đô thị. 3/ Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, nhất là vùng khó khăn. 4/ Đổi mới và xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ có hiệu quả ở nông thôn. 5/ Phát triển nhanh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học, công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, tạo đột phá để hiện đại hoá nông nghiệp, công nghiệp hoá nông thôn. 6/ Đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách để huy động cao các nguồn lực, phát triển nhanh kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân. 7/ Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của các đoàn thể chính trị - xã hội ở nông thôn, nhất là hội nông dân

c. Đội ngũ Trí thức: - Vị trí: - Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sp tinh thần và vật chất có giá trị đối với XH.

Trí thức không có hệ tư tưởng riêng vì không có phương thức sản xuất riêng và địa vị kinh tế - xã hội độc lập. Vai trò và tư tưởng của họ phụ thuộc vào giai cấp thống trị xã hội. Mặc dù vậy, trí thức luôn giúp giai cấp thống trị khái quát về lý luận để hình thành hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội.

Trong các chế độ tư hữu đa số trí thức là những người lao động bị áp bức, bóc lột. Khi được sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, trí thức trở thành người làm chủ xã hội và đóng góp to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. ở Việt Nam, trí thức đã có nhiều đóng góp trong quá trình đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đại bộ phận được đào tạo trong chế độ mới. Họ xuất thân chủ yếu từ nông dân, công nhân và các tầng lớp lao động khác. Do vậy họ có mối liên hệ gần gũi với công nhân, nông dân và luôn là lực lượng cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, cách mạng khoa học và công nghệ ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và trí thức ngày càng có vai trò, vị trí quan trọng, nhất là trong quá trình xây dựng kinh tế tri thức và quá trình hội nhập khu vực và quốc tế.

Trí thức VN xuất thân từ nhiều gc, tầng lớp XH, nhất là từ công nhân và nông dân; phần lớn trưởng thành từ trong XH mói, đc hình thành từ nhiều nguồn đào tạo ở trong và ngoài nước, với nhiều thế hệ nối tiếp nhau, trong đó có bộ phận trí thức người VN ở nước ngoài. Đội ngũ trí thức nước ta có tinh thần yêu nước, có lòng tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc, luôn gắn bó với sự nghiệp CM do Đảng lãnh đạo vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh XHCB, DC, VM. Bằng hoạt động sáng tạo, trí thức nước ta đã có đóng góp to lớn trên tất cả các lĩnh vực xd, bảo vệ TQ.

Đội ngũ trí thức đều có điểm chung là đại diện cho trí tuệ đương thời, cho trình độ lao động trí óc và là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ xh, họ là những người tìm tòi, khám phá, sáng tạo, hướng tới chân, thiện, mỹ đồng thời cũng vận dụng những kết quả ấy để phục vụ cho con người và xh cũng theo hướng chân, thiện, mỹ. Họ có vai trò rất to lớn trong việc ncứu phát hiện, khám phá và sáng tạo ra cái mới để thúc đẩy xh ptriển tiến bộ. Bất cứ thời đại nào hay chế độ chính trị nào đi nữa thì trí thức cũng là trụ cột chính của nền văn minh. Vì vậy, CNXH cần đội ngũ trí thức nhiều hơn, ko có họ thì CNXH cũng khó thành công. Trong công cuộc xd CNXH, trí thức có vai trò đặc biệt quan trọng, sự gắn bó giữa trí thức và CNXH là một yêu cầu khách quan, bời vì, CNXH mang lại cho trí thức chân trời sáng tạo vô tận, CNXH coi trọng trí thức vì họ là những ng lính xung kích trong việc tạo ra năng suất lao động xh cao hơn CNTB trên cơ sở một nền KH hiện đại và công nghệ tiên tiến.

- Thực trạng đội ngũ trí thức (NQTW7) Cùng với sự phát triển của đất nước, đội ngũ trí thức đã tăng nhanh về số lượng, nâng lên về chất lượng; góp phần trực tiếp cùng toàn dân đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng KT-XH, XĐGN, nâng cao chất lượng cuộc sống; đóng góp tích cực vào xd luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, NN; trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao dân trí và bồi dưỡng nhân tài; sáng tạo những công trình có giá trị; bộ phận trí thức tham gia công tác LĐQL, QPAN, trí thức trẻ, VN ở nước ngoài đã phát huy tốt vai trò và khả năng, có những đóng góp thiết thực vào sự phát triển đất nước.

Đội ngũ trí thức nước ta hiện nay đang chứa đựng một tiềm năng to lớn về văn hóa-khoa học, về kỹ thuật-công nghệ; sự kết hợp trí tuệ dân tộc với trí tuệ thời đại đã giúp họ nhạy bén với cái mới, tiếp cận nhanh với xu thế thời đại, có khả năng tiếp cận với nhiều lĩnh vực khoa học, kỹ thuật của thế giới hiện đại, đủ sức thực hiện những công trình nghiên cứu lớn ko chỉ về ứng dụng hay triển khai mà còn cả về phương diện sáng tạo, phát minh nới cũng như về dự báo khoa học...

Trong những năm qua, đội ngũ trí thức nước ta đã tạo ra những giá trị tinh thần và vật chất có hàm lượng trí tuệ cao, truyền bá những trí thức khoa học, tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa của dân tộc, góp phần quan trọng vào việc bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu  sự nghiệp CNH- HĐH đất nước. Từ chỗ 95% dân số VN mù chữ năm 1945, đến nay, ở VN có khoảng 2,6 triệu người có trình độ ĐH và trên ĐH, đưa nước ta trở thành nước có nguồn nhân lực trí thức chiếm tỷ lệ khá cao so với các nước đang phát triển; Kỳ thi nho học đầu tiên từ năm 1075 đến năm 1919 chế độ phong kiến đào tạo được 2.896 nhà khoa bảng, năm học 1943-1944 toàn cõi Đông Dương có 7 trường ĐH với 1.259 sinh viên, cho đến nay nước ta có 312 trường ĐH và CĐ. Cùng với sự tăng nhanh về số lượng, chất lượng đội ngũ trí thức cũng được nâng cao. Nhiều đề tài công trình khoa học của trí thức VN được các hội đồng thế giới đánh giá cao, một số trí thứcVN được các Viện hàn lâm khoa học nước ngoài phong tặng Viện sỹ hàn lâm và mới hợp tác. Trong các kỳ thi quốc tế về trí tuệ, học sinh VN cũng giành được các thành tích lớn. Đại bộ phận đội ngũ trí thức trưởng thành có hoài bão, tâm huyết, say sưa với sự nghiệp nghiên cứu khoa học đã phát huy được vai trò quan trọng trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, xã hội…đáp ứng được yêu cầu CNH – HDH đất nước.

+ Những hạn chế yếu kém: Số lượng và chất lượng chưa đáp ứng đc y/c của sự phát triển đất nước. Cơ cấu đội ngũ trí thức có những bất hợp lý về ngành nghề, độ tuổi, giới tính ... Trí thức tinh hoa và hiền tài còn ít, chuyên gia đầu ngành thiếu nghiêm trọng, đội ngũ kế cận hẫng hụt; chưa có nhiều tập thể khoa học mạnh, có uy tín ở khu vực và quốc tế. Nhìn chung, hoạt động n/c khoa học chưa xuất phát và gắn bó mật thiết với thực tiễn sx, kinh doanh và đời sống.

Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, đội ngũ trí thức nước ta cũng đã bộc lộ một số hạn chế cần khắc phục, đó là: Trong đk CMKHCN phát triển nhanh, tri thức loài người đã được nâng lên trình độ cao tạo nên sự hoàn thiện năng lực tư duy và năng lực hoạt động thực tiễn, KH-CN đã trở thành LLSX trực tiếp ... thì một bộ phận trí thức thiếu năng lực trong việc giải quyết những nhiệm vụ do thực tế sx, đời sống đặt ra. Một số đề tài, công trình n/c, những luận án thiên về hướng lý thuyết, ít kết hợp với thực tiễn dẫn đến việc hạn chế tác dụng phục vụ thực tiễn của công trình, đề tài khoa học, đồng thời cũng hạn chế sự phát triển năng lực hoạt động thực tiễn của một số cán bộ khoa học...

Trình độ của trí thức ở nhiều cơ quan n/c, trường đại học tụt hậu so với y/c phát triển đất nước. Một bộ phận trí thức còn thiếu tự tin, e ngại, sợ bị quy kết về quan điểm, né tránh những vấn đề có liên quan đến chính trị. Một số giảm sút đạo đức nghề nghiệp, thiếu ý thức trách nhiệm. Một số trí thức không thường xuyên học hỏi, thiếu ý chí, hoài bão. Nhiều trí thức trẻ có tâm trạng thiếu phấn khởi, chạy theo lợi ích trước mắt, thiếu ý chí phấn đấu vươn lên.

- Quan điểm, giải pháp: + Quan điểm: Một là, Trí thức Việt Nam là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng kinh tế tri thức, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.  Xd đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất lượng hoạt động của HTCT. Đầu tư xd đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững.

Hai là, Xd đội ngũ trí thức là trách nhiệm chung của toàn xh, của cả HTCT, trong đó trách nhiệm của Đảng và NN giữ vai trò quyết định. Trí thức có vinh dự và bổn phận trước TQ và d tộc. không ngừng phấn đấu nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực chuyên môn, đóng góp nhiều nhất cho sự phát triển đất nước và bảo vệ tổ quốc.

Ba là, thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động n/c, sáng tạo của trí thức vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh XHCBDCVM. Tạo môi tường và đk thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp của trí thức. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến; có chính sách đặc biệt đối với nhân tài của đất nước.

+ Nhiệm vụ, giải pháp: 1/ Hoàn thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trí thức. 2./ Thực hiện chính sách trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức. 3/ Tạo chuyển biến căn bản trong đào tạo, bồi dưỡng trí thức. 4/ Đề cao trách nhiệm của trí thức, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động các hội của trí thức. 5/ Nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ trí thức.

Phần Liên hệ:

Môn CNXH  a. GCCN: Ngành CN chiếm tỷ trọng thấp trong cơ cấu k tế địa phương, đội ngũ công nhân chiếm 3,8% dân số toàn tỉnh và đang đứng trước khó khăn thách thức về đời sống và việc làm. Một số DNNN sx kinh doanh kém hiệu quả. DN ngoài quốc doanh đang tăng nhanh, thu hút thêm lao động. nhưng lợi ích của công nhân và người lao động chưa đảm bảo. Từ tình hình trên đòi hỏi cần đẩy mạnh đổi mới và sắp xếp lại các DN, ưu tiên giải quyết việc làm, thực hiện chế độ BHXH, y tế cho công nhân lao động. Từng bước mở rộng các hình thức đào tạo nghề, bồi dưỡng tác phong công nghiệp cho công nhân.

Nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức công đoàn trong các cq va DNNN; có kế hoạch mở rộng việc thành lập tổ chức công đoàn thích hợp với các loại hình DN ngoài quốc doanh. Phối hợp với chính quyền và chủ doanh nghiệp thực hiện tốt Luật Công đoàn, Luật LĐ nhằm bảo vệ quyền lợi của người lao động. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao giác ngộ cách mạng và bản chất gccn cho gccn và lao động. Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên trong LL công nhân làm nòng cốt trong liên minh giữa gccn, nd và đội ngũ trí thức.

b. GCND: LL nông dân trong tỉnh chiếm 78% dân số, với 70% LL lao động xh, có vai trò quan trọng trong sự nghiệp xd nông thôn mới, thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, phát triển sản xuất hàng hóa, Mặt khác, nông dân đang đứng trước những khó khăn thách thức, hộ đói nghèo còn cao, thời gian lao động nhàn rỗi còn nhiều, mức hưởng thụ các dịch vụ và phúc lợi xh thấp.

Để phát huy tốt vai trò nông dân trong sự nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn cần vận dụng cơ chế khuyến khích tiêu thụ sp cho nông dân, xd các cơ sở chế biến hàng tiêu dùng và xk; đưa công nghệ sx tiên tiến vào NN, nông thôn. Tiếp tục mở rộng dự án đă máy nông nghiệp vào cho nông dân; thực hiện tốt chủ trương “đồn điền đổi thửa” đẩy nhanh tiến độ cấp GCN QSD đất để tạo đk cho nông dân trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, sd đất có hiệu quả.

Mở rộng các loại hình đ tạo nghề, chuyển giao KHKT và CN thông qua hoạt động khuyến nông, khuyến lâm ngư, các trung tâm học tập và sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Hỗ trợ và khuyến khích nông dân phát triển các ngành nghề dịch vụ thu hút lao động, tăng thu nhập. Quan tâm đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng cho phát triển k tế và VHXH, tạo các đk để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nông dân.

Phát huy vai trò của Hội ND làm trung tâm và nòng cốt cho phong trào nông dân và công cuộc xd nông thôn mới. Thường xuyên đi sâu củng cố nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức hội cơ sở, thu hút đông đảo nông dân vào tổ chức hội. Tuyên truyền vận động phong trào thi đua phát triển k tế, xd đời sống văn hóa. Phát huy tinh thần tương thân tương ái giúp nhau trong sx, XĐGN.

c. Đội ngũ trí thức: Trí thức trong tỉnh chiếm 2,9% lđ xh, nhưng là lực lượng đóng vai trò nòng cốt trong sự nghiệp CNH-HĐH của địa phương. Cần quan tâm phát triển nhanh lực lượng trí thức thông qua việc phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sd và đãi ngộ xứng đáng để khuyến khích tài năng. Phát huy vai trò đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật của tỉnh và thu hút các nhà khoa học, những chuyên gia giỏi, các sinh viên tốt nghiệp loại khá giỏi về công tác ở địa phương. Tăng cường đầu tư các cơ sở vật chất và phương tiện cho việc nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ tiên tiến. Mở rộng dân chủ, tạo cơ chế để đội ngũ trí thức tham gia tích cực vào việc hoạt định các chính sách, xd các đề án về ktxh của tỉnh. Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, quan tâm phát triển đoàn viện, đảng viên trong đội ngũ trí thức. Xác định rõ trách nhiệm để đội ngũ trí thức tích cực lao động sáng tạo đóng góp xd quê hương.

Cơ cấu xã hội – giai cấp nước ta biến đổi theo xu hướng tiến bộ, được phản ánh ở sự thay đổi tích cực của các giai cấp tầng lớp xã hội (công nhân, nông dân, trí thức...). Do tính chất chưa ổn định về mặt xã hội, mới chỉ là định hướng xã hội chủ nghĩa nên trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ, các giai cấp, tầng lớp phát triển đa dạng. Sự ổn định dần của kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa sẽ tạo điều kiện hình thành từng bước một cơ cấu xã hội – giai cấp định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến giai đoạn cuối của thời kỳ quá độ, các giai cấp, tầng lớp xích lại gần nhau hơn, liên minh, hợp tác chặt chẽ, ổn định hơn. Trong suốt thời kỳ quá độ, liên minh công – nông – trí thức là lực lượng chính trị – xã hội cơ bản, là nền tảng của nhà nước pháp quyền XHCN mà tinh thần Đại hội X của Đảng đã khẳng định “Đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam”./.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro