CNXHKH 11-15

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Câu 11:làm rõ nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

Nói một cách khái quát, nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.

Ph. Ăngghen viết: "Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy, - đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại"1. V.I. Lênin cũng chỉ rõ: "Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng rõ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa"2.

ở nước ta, giai cấp công nhân trước hết phải làm cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phải lãnh đạo cuộc cách mạng đó thông qua đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam, đấu tranh giành chính quyền, thiết lập nền chuyên chính dân chủ nhân dân. Trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân từng bước lãnh đạo nhân dân lao động xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, không có người bóc lột người, giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, bất công.

Sứ mệnh lịch sử thế giới của GCCN là một tất yếu khách quan bắt nguồn từ chính thực tiễn sản xuất hiện đại, từ nhu cầu phát triển theo xu hướng xã hội hóa của lực lượng sản xuất (LLSX) mà sự phát triển của nền sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại là biểu hiện tập trung nhất. Sứ mệnh đó còn bắt nguồn từ địa vị kinh tế - xã hội của GCCN, một giai cấp "là sản phẩm của đại công nghiệp", trực tiếp sản xuất của cải vật chất cho xã hội, người đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, cho xu thế xã hội hóa sản xuất. Chính sự phát triển của CNTB, đến một ngưỡng nhất định, làm rõ mâu thuẫn cơ bản giữa LLSX xã hội cao với QHSX tư nhân TBCN. Sở hữu tư nhân TBCN ngày đối lập với xu hướng xã hội hóa. Nó kìm hãm tiến bộ xã hội thông qua việc duy trì chế độ bóc lột giá trị thặng dư và áp bức, bất công xã hội. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại bằng cách xóa bỏ QHSX tư nhân TBCN, tạo ra một QHSX mới mang tính xã hội hóa và giải phóng GCCN - "LLSX hàng đầu của toàn thể nhân loại" là quy luật của lịch sử và cũng là nội dung cơ bản nhất của sứ mệnh này.

Trong tư tưởng của Mác, tất yếu khách quan ấy được thể hiện và thực hiện thông qua quá trình phát triển về chính trị, tư tưởng và tổ chức của GCCN để trở thành một giai cấp tự giác. Sự thâm nhập của chủ nghĩa Mác vào phong trào công nhân, sự trưởng thành của đảng Cộng sản và sự xác lập nhà nước của GCCN chính là những biểu hiện tập trung của tính tự giác ấy. Từ đó, quá trình thực hiện sứ mệnh là quá trình cách mạng XHCN. Nội dung của nó bao gồm: cách mạng trên lĩnh vực chính trị để phá hủy nhà nước của GCTS, thiết lập nhà nước của GCCN, nền dân chủ XHCN từ đó tiến hành cách mạng trên lĩnh vực kinh tế, thông qua việc cải tạo QHSX cũ, xác lập QHSX công hữu để đáp ứng nhu cầu phát triển của LLSX và xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH; cùng với đó là cuộc cách mạng văn hóa tư tưởng để xác lập vị trí chủ đạo của hệ tư tưởng GCCN, tiếp thu những giá trị của truyền thống, văn minh nhân loại và dần khắc phục những tàn dư tư tưởng của xã hội cũ...Đó là quá trình cách mạng toàn diện, triệt để, khó khăn, phức tạp và lâu dài.

Ngày nay, do tính quy định của sản xuất hiện đại, GCCN có một số biểu hiện mới: trình độ văn hóa - tay nghề cao hơn; một số công nhân đã có cả tư liệu sản xuất, cổ phiếu, đời sống một bộ phận được cải thiện v.v... Song, những biểu hiện đó không làm thay đổi địa vị cơ bản của công nhân trong CNTB. Họ vẫn đang là lực lượng chủ yếu làm ra của cải cho xã hội và lợi nhuận cho các nhà tư bản; là lực lượng đối lập trực tiếp với GCTS, bị bóc lột nhiều nhất và khoảng cách về mức thu nhập giữa họ với giới chủ ngày càng lớn. Công nhân trong các nước tư bản phát triển được trí tuệ hóa, lao động bớt nặng nhọc hơn, có chút ít cổ phần trong doanh nghiệp... thì họ càng bị ràng buộc chặt chẽ hơn vào guồng máy sản xuất của tư bản, càng bị bóc lột nặng nề và tinh vi hơn. Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO) tỷ suất bóc lột giá trị thặng dư trung bình ở thế kỷ XIX là 20, thì hiện nay là 300, cá biệt có nơi, như tập đoàn Microsoft tỷ suất này lên tới 5000. Từ một chiều cạnh khác, hiện nay sự tăng lên lượng tri thức khoa học và văn hóa của công nhân lại cũng là một tiền đề quan trọng để giúp họ nhận thức và cải tạo xã hội. Họ đang phê phán CNTB và đến với CNXH như đến với cái đúng và do sự thôi thúc của lý trí chứ không chỉ do nghèo đói. Với tri thức và khả năng làm chủ công nghệ cao, với năng lực sáng tạo và ý thức về sứ mệnh, GCCN hiện đại đang có thêm điều kiện để tự giải phóng.

Nhờ có những điều chỉnh lớn và tận dụng được thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là qua toàn cầu hóa kinh tế, CNTB đang còn khả năng tiếp tục kéo dài sự tồn tại nhưng không thể tránh được "định mệnh" mà Mác đã vạch ra từ sứ mệnh lịch sử thế giới của GCCN. Quá trình toàn cầu hoá kinh tế hiện nay là biểu hiện tập trung của xu thế xã hội hóa LLSX và cũng làm sâu sắc thêm mâu thuẫn cơ bản trong lòng CNTB. Nó khai triển mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất TBCN đến mọi ngõ ngách của thế giới qua những biểu hiện xã hội đa dạng. Đó là mâu thuẫn giữa GCCN hiện đại đang bị CNTB toàn cầu bóc lột giá trị thặng dư với một GCTS "ngày càng trở nên là giai cấp thừa" trong sản xuất và phản động về chính trị; Đó là mâu thuẫn giữa các nước phát triển với các nước đang phát triển, hay "phương Bắc và phương Nam", giữa "trung tâm và ngoại vi"...; là mâu thuẫn của lợi ích từng quốc gia - dân tộc với lợi ích của các tập đoàn tư bản; giữa những nước phát triển và đang phát triển; giữa chủ quyền quốc gia - dân tộc với xu thế đồng hóa cưỡng bức; giữa văn hoá dân tộc với cuộc xâm lăng bằng tư tưởng, lối sống của những nước đế quốc trong môi trường toàn cầu đang vận hành theo những cơ chế bất bình đẳng; Đó còn là mâu thuẫn giữa các nước tư bản xung quanh việc tranh giành vị trí, thế lực và ảnh hưởng thông qua việc chiếm lĩnh ưu thế về KH&CN, những nguồn tài nguyên...

Nhìn chung từ thực tiễn hiện đại, nhu cầu có một toàn cầu hóa với chất lượng mới đang hiện rõ. Và, mầm mống của một phương thức sản xuất mới cũng đang lớn dần, chủ yếu là theo cách này. Sứ mệnh lịch sử thế giới của GCCN mang bản chất quốc tế và không hề xa lạ với những hiện tượng quốc tế phản ánh tiến bộ xã hội. Chủ động, tích cực hội nhập quá trình toàn cầu hóa kinh tế; tận dụng những thời cơ, tranh thủ ngoại lực từ quá trình toàn cầu hoá hiện nay và làm biến đổi nó theo hướng tích cực là một tiến trình hợp quy luật và là con đường để thực hiện sứ mệnh lịch sử thế giới của GCCN.

Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức và giữ vững định hướng XHCN là nội dung cơ bản của sứ mệnh lịch sử của GCCN Việt Nam hiện nay. Sứ mệnh của GCCN Việt Nam là giải phóng dân tộc và phát triển đất nước theo định hướng XHCN; qua đó giải phóng giai cấp, giải phóng người lao động, xây dựng một "xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh"...Hiện nay, để sớm đưa đất nước khỏi tình kém phát triển, nội dung trọng tâm là đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức và giữ vững định hướng XHCN.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định đẩy mạnh CNH, HĐH hiện nay là "Rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá". Theo đó phát triển GCCN nước ta cả về số lượng và chất lượng, và tổ chức; nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp đổi mới. Phát triển GCCN cũng chính là phát triển, hoàn thiện chủ thể của sứ mệnh lịch sử hiện đại - cơ sở xã hội quan trọng nhất bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng, khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.

Sứ mệnh lịch sử của GCCN Việt Nam cũng chỉ có thể thực hiện thắng lợi khi quyền lãnh đạo cách mạng của GCCN, thông qua vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, được giữ vững và không ngừng tăng cường; Nhà nước XHCN và chế độ dân chủ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân lao động nước ta không ngừng được hoàn thiện và phát triển.

Câu 12:Đặc điểm của sứ mệnh lịch sử của GCCN

Câu 13: Chứng minh ĐCSVN ra đời lá sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mac-L với phong trào cn, phong trào yêu nc chân chính

Chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá vào Việt Nam, trở thành nhân tố quan trọng dẫn tới sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Chủ nghĩa Mác - Lênin truyền bá vào Việt Nam bằng nhiều con đường khác nhau, trong đó con đường hoạt động của Nguyễn Ái Quốc giữ vai trò quyết định nhất.

+ Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Từ năm 1921 đến năm 1930, Người đã tích cực hoạt động truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam. Nhờ những đóng góp thiết thực của Người: xuất bản báo chí, viết bài, báo cáo tham luận, đặc biệt là hai tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp" và "Đường kách mệnh" những tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin đã ngày càng được thâm nhập rộng rãi vào Việt Nam.

Thông qua việc sáng lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và các hoạt động của Hội, Nguyễn Ái Quốc đã thực hiện việc truyền bá và giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin cho quần chúng lao động và giai cấp công nhân Việt Nam.

+ Qua đó vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin đã được thể hiện: những tư tưởng về cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa đã thức tỉnh những người Việt Nam hướng theo con đường cách mạng đúng đắn, đó là con đường cách mạng vô sản; Đảng Cộng sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa; xác định đúng vấn đề động lực cách mạng, liên minh giai cấp; vị trí cách mạng thuộc địa, phương pháp cách mạng bạo lực...đó là cơ sở lí luận cho Cương lĩnh cách mạng của Đảng sau này. Nhờ chủ nghĩa Mác - Lênin làm cho phong trào công nhân có những bước phát triển mới: chuyển từ đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác.

- Phong trào công nhân là điều kiện cơ bản, quyết định dẫn tới sự ra đời của Đảng.

+ Từ đầu thế kỷ XX, giai cấp công nhân Việt Nam đã được hình thành và bước vào trận tuyến đấu tranh chống áp bức, bóc lột. Trước chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào công nhân chưa trở thành lực lượng riêng biệt, còn hòa lẫn vào phong trào dân tộc.

+ Từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất đến năm 1925, giai cấp công nhân tăng lên về số lượng và chất lượng, phong trào công nhân đã trưởng thành, xuất hiện những cuộc bãi công lớn đòi các quyền lợi kinh tế, chính trị, trở thành lực lượng riêng biệt và bước đầu xuất hiện những tổ chức sơ khai.

+ Từ năm 1926-1930, do tiếp thu được chủ nghĩa Mác- Lênin, phong trào công nhân đã phát triển dần lên trình độ tự giác với sự xuất hiện của ba tổ chức cộng sản trong năm 1929. Sự thống nhất ba tổ chức cộng sản được đặt ra thành một yêu cầu cấp bách của cách mạng nước ta, đồng thời đánh dấu bước trưởng thành và chín muồi của phong trào công nhân, làm cơ sở cho sự ra đời của một chính đảng vô sản ,duy nhất.

Như vậy, phong trào công nhân ngày một trưởng thành, đi từ tự phát đến tự giác là một trong những điều kiện tất yếu dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.

- Phong trào yêu nước là cơ sở xã hội, là yêu cầu cho sự ra đời của Đảng.

+ Quá trình xâm lược của thực dân Pháp ở Việt Nam chúng đã gặp phải tinh thần đấu tranh quyết liệt của nhân dân ta. Từ thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, các phong trào yêu nước đã xuất hiện, tiêu biểu nhất là phong trào Cần Vương.

+ Từ năm 1919 đến 1930, phong trào yêu nước Việt Nam phát triển theo hai khuynh hướng: khuynh hướng tư sản và vô sản.

Khuynh hướng tư sản: Bao gồm các phong trào của giai cấp tư sản và tiểu tư sản như: phong trào Chấn hưng nội hóa, Bài trừ ngoại hóa, chống độc quyền cảng Sài Gòn, độc quyền xuất khẩu lúa gạo ở Nam Kỳ...những cuộc mít tinh, biểu tình của tầng lớp tư sản. Tiêu biểu là tiếng bom của Phạm Hồng Thái thả xuống Sa Diệm - Quảng Châu (Trung Quốc); phong trào đòi thả Phan Bội Châu; phong trào đòi để tang Phan Châu Trinh...và đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam quốc đan đảng. Các phong trào theo khuynh hướng dân chủ tư sản diễn ra sôi nổi, anh dũng nhưng cuối cùng cũng bị thất bại.

Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản bị thất bại chứng tỏ rằng con đường cứu nước theo khuynh hướng này không còn phù hợp nữa. Những người Việt Nam yêu nước đang đứng trước sự khủng hoảng về đường lối cách mạng, nhất là tầng lớp tiểu tư sản. Vì vậy, khi chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá vào Việt Nam, làm cho tầng lớp tiểu tư sản phân hóa sâu sắc và họ lần lượt chuyển sang hoạt động trong phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản.

Khuynh hướng vô sản:Do ảnh hưởng của cách mạng tháng Mười Nga và những hoạt động truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin của Nguyễn Ái Quốc trong những năm 1920-1930, phong trào theo khuynh hướng vô sản ngày càng phát triển mạnh mẽ, điển hình là các hoạt động của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên; chủ nghĩa Mác- Lênin thông qua hoạt động của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên được truyền bá vào Việt Nam làm cho khuynh hướng yêu nước vô sản ngày càng có tác dụng mạnh mẽ ở Việt Nam.

Như vậy, đến cuối năm 1929 đến 1930, cả ba yếu tố: chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào công nhân, phong trào yêu nước đã được kết hợp chặt chẽ với nhau.Sự kết hợp đố đặt ra yêu cầu và tạo điều kiện thuận lợi để Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Tất cả các yếu tố đó đều xoay quanh một con người, đó là hoạt động của Nguyễn Ái Quốc. Chính vì Người xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước ra đi tìm đường cứu nước, rồi truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam làm cho phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ đòi hỏi phải có đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo.

Ý 2:

Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước

- Trên cơ sở nắm vững quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nhận thấy việc ra đời của Đảng Cộng sản, nếu chỉ kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân thì chưa đủ, vì giai cấp công nhân Việt Nam mới ra đời, còn nhỏ bé, phong trào công nhân còn non yếụ Do đó, phải kết hợp cả với phong trào yêu nước rộng lớn của các tầng lớp nhân dân đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân.. Điều này có thể được giải thích bằng những lý do sau:

+ Phong trào yêu nước Việt Nam đã có từ lâu đời, đã trở thành truyền thống quý báu, tốt đẹp và cũng là một giá trị văn hoá của dân tộc Việt Nam.

+ Phong trào công nhân kết hợp được với phong trào yêu nước bởi vì hai phong trào này đều có mục tiêu chung là giải phóng dân tộc, xây dựng một nước Việt Nam độc lập, giàu mạnh.

+ Trong phong trào yêu nước Việt Nam thì chủ yếu là phong trào của nông dân (Nông dân chiếm hơn 90% dân số) mà giữa giai cấp nông dân và giai cấp công nhân Việt Nam lại có mối quan hệ vô cùng chặt chẽ.

Câu 14:trình bày tính tất yếu và đặc điểm của CM XHCN

1. Quan niệm về cách mạng xã hội chủ nghĩa

Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng nhằm thay thế chế độ cũ, nhất là chế độ tư bản chủ nghĩa, bằng chế độ xã hội chủ nghĩa, trong cuộc cách mạng đó, giai cấp công nhân là người lãnh đạo và cùng với quần chúng nhân dân lao động khác xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Theo nghĩa hẹp: cách mạng xã hội chủ nghĩa được hiểu là một cuộc cách mạng chính trị được kết thúc bằng việc giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động giành được chính quyền, thiết lập nên nhà nước chuyên chính vô sản- nhà nước của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động.

Theo nghĩa rộng: cách mạng xã hội chủ nghĩa là quá trình cải biến một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng, v.v. để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Như vậy, theo nghĩa rộng, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa bao gồm cả việc giành chính quyền về tay giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả quá trình giai cấp công nhân cùng với quần chúng nhân dân lao động tiến hành cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, tới khi xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì cuộc cách mạng này mới kết thúc.

2. Nguyên nhân của cách mạng xã hội chủ nghĩa

Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, nguyên nhân sâu xa của những cuộc cách mạng xã hội là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Theo quy luật chung của sự phát triển xã hội, khi lực lượng sản xuất không ngừng phát triển mâu thuẫn với quan hệ sản xuất đã lỗi thời, kìm hãm nó, tất yếu phải thay thế quan hệ sản xuất lỗi thời bằng một quan hệ sản xuất mới tiên tiến hơn. C. Mác và Ph. ăngghen đã chỉ rõ: "Từ chỗ là những hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách 43

mạng xã hội "1.

Dưới chủ nghĩa tư bản, nhất là từ khi máy hơi nước ra đời, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, ngày càng mang tính chất xã hội hoá cao, mâu thuẫn với quan hệ sản xuất mang tính chất tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. C. Mác đã viết: "Sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hoá lao động đạt đến cái điểm mà chúng không còn thích hợp với cái vỏ tư bản chủ nghĩa của chúng nữa... nền sản xuất tư bản chủ nghĩa lại đẻ ra sự phủ định bản thân nó, với tính tất yếu của một quá trình tự nhiên"1.

Biểu hiện mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế là tính tổ chức, tính kế hoạch trong từng doanh nghiệp ngày càng tăng với tính vô tổ chức của sản xuất toàn xã hội do tính cạnh tranh của nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa gây ra.

Quy luật cạnh tranh, tính chất vô chính phủ trong sản xuất dẫn tới khủng hoảng thừa, buộc một số doanh nghiệp phải ngừng sản xuất. Dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân sống bằng việc bán sức lao động, do vậy, một khi sản xuất đình trệ làm cho công nhân không có việc làm, họ đã đứng lên đấu tranh chống lại các nhà tư sản và giai cấp tư sản.

Để khắc phục tình trạng trên, giai cấp tư sản đã tổ chức ra các xanhđica, tờrớt, côngxôxiom và nhà nước tư bản ngày càng can thiệp sâu vào kinh tế, bằng việc quốc hữu hoá một số ngành khi khó khăn, tư hữu hoá khi thuận lợi.

Tuy rằng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong chế độ tư bản ngày càng gay gắt, nhưng quy luật xã hội không tự nó xảy ra mà phải thông qua hoạt động của con người. Cách mạng xã hội chủ nghĩa muốn nổ ra, giai cấp công nhân phải nhận thức được sứ mệnh lịch sử của mình, thực hiện việc tuyên truyền vận động nhân dân lật đổ chính quyền nhà nước của giai cấp tư sản để giành lấy chính quyền, giành lấy dân chủ.

3. Những điều kiện của cách mạng xã hội chủ nghĩa

Cách mạng xã hội chủ nghĩa muốn nổ ra phải có điều kiện khách quan và điều kiện chủ quan.

a) Điều kiện khách quan của cách mạng xã hội chủ nghĩa

Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, nền sản xuất ngày càng phát triển, những thành phố lớn, những khu công nghiệp tập trung hình thành ngày

càng nhiều. Cùng với nó, quy luật cạnh tranh theo kiểu "cá lớn nuốt cá bé", càng đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế, hình thành những khu công nghiệp, những tập đoàn tư bản ngày càng lớn. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đã tạo ra một đội ngũ công nhân ngày càng đông về số lượng, ngày càng nâng cao về chất lượng.

Để thắng trong cạnh tranh, giai cấp tư sản phải ra sức tìm ra những biện pháp hữu hiệu để bóc lột công nhân. Trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản phương Tây đang phát triển trung bình, một ngày công nhân phải làm 12 tiếng. Điều đó giúp cho công nhân dễ dàng nhận thấy rằng, họ là đồ vật, là tài sản của giai cấp tư sản và công nhân trở thành kẻ thù của giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản.

Giai cấp tư sản với lòng tham vô đáy, với khát vọng giàu có và quyền lực, đã tiến hành những cuộc chiến tranh xâm lược các nước khác, biến những nước này thành thuộc địa của chúng, chủ nghĩa tư bản trở thành chủ nghĩa đế quốc. Điều đó làm cho mâu thuẫn giữa các nước tư bản, đế quốc với các nước thuộc địa ngày càng trở nên gay gắt.

Để có lợi nhuận cao, giai cấp tư sản, một mặt tiến hành khai thác cạn kiệt tài nguyên của các nước, mặt khác tìm cách cải tiến máy móc, đầu tư trang thiết bị ngày càng hiện đại, dẫn tới tình trạng thất nghiệp của công nhân ngày càng gia tăng. Điều đó càng làm cho mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản ngày càng gay gắt, đòi hỏi phải giải quyết mâu thuẫn trên bằng một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm xoá bỏ ách áp bức của giai cấp tư sản, xoá bỏ quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, thiết lập quan hệ sản xuất mới và chế độ mới xã hội chủ nghĩa.

Hiện nay, sự phát triển như vũ bão của lực lượng sản xuất, những thành tựu ngày càng to lớn của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, càng tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất để nâng cao mức sống nhân dân, mở rộng tình đoàn kết giữa các dân tộc.

Song, do tính chất tư bản chủ nghĩa, vì lợi nhuận siêu ngạch, các tập đoàn tư bản lớn trên thế giới đang ỷ lại vào tiềm năng kinh tế, sức mạnh quân sự gây ra những cuộc chiến tranh, xung đột trên thế giới. Những cuộc chiến tranh này đã để lại những hậu quả nặng nề cho quần chúng nhân dân lao động. Tình trạng nghèo đói trong các nước nghèo ngày càng gia tăng, khoảng cách chênh lệch giữa nước giàu và nước nghèo ngày càng lớn.

b) Điều kiện chủ quan của cách mạng xã hội chủ nghĩa

Có điều kiện khách quan mà thiếu điều kiện chủ quan thì cách mạng xã hội chủ nghĩa cũng không thể nổ ra, nếu nó nổ ra thì cũng không thể 45

thắng lợi.

Điều kiện chủ quan có ý nghĩa quyết định nhất là sự trưởng thành của giai cấp công nhân, đặc biệt là khi nó đã có đảng tiên phong của mình.

Giai cấp công nhân là lực lượng sản xuất quan trọng nhất, dưới chủ nghĩa tư bản, nhưng lại không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động để kiếm sống.

Những cuộc đấu tranh của công nhân chống lại giai cấp tư sản đã nổ ra ngay từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời, theo quy luật có áp bức có đấu tranh. Quy mô những cuộc đấu tranh của công nhân chống lại giai cấp tư sản ngày càng mở rộng. Nhưng chỉ khi nào giai cấp công nhân nhận thức được rằng, chỉ có xoá bỏ chế độ nô lệ làm thuê, giải phóng giai cấp mình và giải phóng toàn xã hội bằng một cuộc cách mạng thắng lợi triệt để họ mới được giải phóng thật sự. Giai cấp công nhân phải nhận thức được sứ mệnh lịch sử của mình, của việc thực hiện việc xoá bỏ trật tự của chế độ tư bản chủ nghĩa, thiết lập nên chế độ xã hội chủ nghĩa; tức là phải nhận thức được "việc giải phóng giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân"1.

Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, không chỉ có giai cấp công nhân bị áp bức bóc lột mà cả những giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động khác như: thợ thủ công, nông dân, những người buôn bán nhỏ và kể cả đa số trí thức... cũng bị bóc lột. Dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân có những lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức, những người thợ thủ công, v.v.. Điều đó đã tạo ra những điều kiện cho giai cấp này có khả năng tập hợp các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động khác vào cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản. C. Mác và Ph. Ăngghen viết: "Lịch sử của cuộc đấu tranh giai cấp đó hiện nay đã phát triển tới giai đoạn trong đó giai cấp bị bóc lột và bị áp bức, tức là giai cấp vô sản, không còn có thể tự giải phóng khỏi ách của giai cấp bóc lột và áp bức mình, tức là giai cấp tư sản, nếu không đồng thời và vĩnh viễn giải phóng toàn xã hội khỏi ách bóc lột, áp bức, khỏi tình trạng phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp"2.

Thực tế cuộc đấu tranh thử thách giai cấp công nhân, với sự soi sáng lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, giúp giai cấp này nhận thức được sự cần thiết phải xây dựng cho mình một chính đảng thực sự cách mạng, có khả năng tập hợp quần chúng nhân dân lao động, thực hiện việc giác ngộ quần chúng nhân dân, huy động họ đi vào cuộc đấu tranh, tổ chức cuộc đấu tranh, thì giai cấp công nhân mới thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình là xoá bỏchủ nghĩa tư bản, xây dựng được một chế độ xã hội mới. V.I. Lênin đã chỉ rõ: "Khi những đại biểu tiên tiến của giai cấp đó (giai cấp công nhân - TG.) đã thấm nhuần được những tư tưởng của chủ nghĩa xã hội khoa học, tư tưởng về vai trò lịch sử của công nhân Nga, khi các tư tưởng đó đã được phổ biến rộng rãi và khi mà trong hàng ngũ công nhân đã lập ra được các tổ chức vững chắc có thể biến cuộc chiến tranh kinh tế phân tán hiện nay của công nhân thành một cuộc đấu tranh giai cấp tự giác, thì lúc đó NGƯờI CÔNG NHÂN Nga, đứng đầu tất cả các phần tử dân chủ, sẽ đạp đổ được chế độ chuyên chế và đưa giai cấp vô sản Nga (sát cánh với giai cấp vô sản trong tất cả các nước), thông qua con đường trực tiếp đấu tranh chính trị công khai, tiến tới cách mạng cộng sản chủ nghĩa thắng lợi"1.

Đảng cách mạng của giai cấp công nhân phải rèn luyện giai cấp công nhân có bản lĩnh chính trị, phải tự gột rửa những ảnh hưởng tư tưởng tư sản, phong kiến, khắc phục tính vị kỷ cá nhân, tư tưởng cục bộ, địa phương, bản vị mới có khả năng tập hợp quần chúng nhân dân, có khả năng đập tan những âm mưu thâm độc và sự chống phá quyết liệt của kẻ thù.

4. Tiến trình của cách mạng xã hội chủ nghĩa

Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một tiến trình liên tục gồm hai giai đoạn:

- Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn giai cấp vô sản tự xây dựng thành giai cấp thống trị, là giai đoạn giành lấy dân chủ. V.I. Lênin đã chỉ rõ: giành chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng.

Đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp tư sản, thiết lập chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trở thành mục tiêu trực tiếp của lực lượng cách mạng, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Muốn thực hiện điều đó cần phải có tình thế cách mạng.

Tình thế cách mạng xuất hiện khi mà giai cấp thống trị không thể thống trị như trước được nữa, những người bị áp bức không thể tiếp tục cuộc sống như trước, giai cấp lãnh đạo cách mạng đã đủ năng lực lãnh đạo, phát động được cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp những người lao động chống lại giai cấp tư sản.

Để cách mạng nổ ra và giành thắng lợi phải có thời cơ cách mạng. ở bên trong mỗi nước, thời cơ cách mạng là lúc giai cấp thống trị tỏ ra hoang mang cực độ, xâu xé lẫn nhau do sự lớn mạnh của phong trào cách mạng, phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân lao động. Lực lượng lãnh đạo cách mạng đã sẵn sàng hành động cho cuộc quyết chiến để giành chính

quyền. ở bên ngoài, là phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân quốc tế ủng hộ cách mạng, kiên quyết đứng lên đấu tranh chống lại những âm mưu xâm lược, can thiệp của những lực lượng tư bản, lực lượng đế quốc hiếu chiến, tạo điều kiện cho cách mạng bùng nổ và giành thắng lợi.

Với bản chất hiếu chiến, những thế lực tư bản đế quốc chủ nghĩa sẵn sàng sử dụng bạo lực phản cách mạng để đàn áp phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân lao động, do vậy, trong hoàn cảnh đó, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa chỉ có thể giành được thắng lợi, giành được chính quyền "bằng cách dùng bạo lực lật đổ giai cấp tư sản"1.

Bạo lực cách mạng được hiểu dưới hình thức khởi nghĩa vũ trang kết hợp với bãi công chính trị của quần chúng. Bạo lực cách mạng cũng có thể được tiến hành bằng cuộc đấu tranh chính trị một cách hoà bình của quần chúng nhân dân lao động, những lực lượng cách mạng, đi đầu là giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Con đường đấu tranh hoà bình đó phát triển đến mức đủ áp lực buộc giai cấp tư sản phải giao chính quyền nhà nước cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Phương pháp đấu tranh này đỡ đổ xương máu, đỡ gây tổn thất cho quần chúng nhân dân lao động, rất quí và hiếm. Thực tế, cho tới nay, chưa có nước xã hội chủ nghĩa nào giành được chính quyền bằng con đường trên. Tuy nhiên, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn dự báo khả năng trên và cho rằng, chỉ khi tương quan so sánh lực lượng hoàn toàn có lợi cho phía cách mạng, thì khả năng trên mới có thể xảy ra.

- Giai đoạn thứ hai: là giai đoạn giai cấp công nhân đã nắm chính quyền, sử dụng chính quyền đó, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, tập hợp các tầng lớp nhân dân lao động, thực hiện cải tạo xã hội cũ, tổ chức xây dựng xã hội mới về mọi mặt như: kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá, xã hội, v.v.. Quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới trên các lĩnh vực của đời sống xã hội đòi hỏi giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động phải biết xoá bỏ những cái gì là bảo thủ lạc hậu, là phản nhân văn, đồng thời phải biết tiếp thu những cái gì là tiến bộ, là nhân văn mà nhân loại đã tạo ra và phải biết quí trọng, kế thừa những giá trị truyền thống của dân tộc mình.

Quá trình tổ chức xây dựng xã hội mới là một nhiệm vụ rất mới mẻ, do đó rất phức tạp, lâu dài và gian khổ. Một mặt, cần phải khắc phục những tàn dư, những thói quen, tập tục lạc hậu đã ăn sâu vào trong hàng triệu quần chúng nhân dân lao động, mặt khác, phải tiến hành cuộc đấu tranh chống lại những âm mưu phá hoại vừa thâm độc, vừa nham hiểm của những thế lực phản động, hiếu chiến

Câu 15:Làm rõ khái niệm thời đại. Phân tích nội dung cơ bản của thời đại.

Thời đại ngày nay

I. Khái niệm về thời đại và thời đại ngày nay

1. Quan niệm về thời đại và cơ sở phân chia thời đại lịch sử

a) Quan niệm về thời đại

Thời đại là một khái niệm khoa học dùng để phân kỳ lịch sử xã hội, phân biệt những nấc thang phát triển xã hội loài người

Các ngành khoa học khác nhau có cách phân chia thời đại lịch sử khác nhau, ví dụ như:

- Nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng Pháp là Phuriê (1772 - 1837) chia lịch sử phát triển xã hội loài người thành bốn giai đoạn: mông muội, dã man, gia trưởng, văn minh.

- Nhà nhân chủng học Mỹ là Moócgan (1818 - 1881) lại phân chia thành ba giai đoạn: mông muội, dã man và văn minh.

- Nhà tương lai học người Mỹ, Anvin Tôpphlơ lại dựa vào trình độ phát triển công cụ sản xuất, chia lịch sử phát triển nhân loại thành ba nền văn minh: văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp và văn minh hậu công nghiệp.

Như vậy, dựa trên những cơ sở khác nhau, có thể có sự phân chia thời đại khác nhau. Đối với chủ nghĩa tư bản, V.I. Lênin cũng chia thành thời đại thứ nhất, từ cuộc Đại cách mạng Pháp đến cuộc Chiến tranh Pháp - Phổ là thời đại giai cấp tư sản đang phát triển mạnh. Thời đại thứ hai là thời đại giai cấp tư sản giành được quyền thống trị hoàn toàn và đang bắt đầu đi xuống. Thời đại thứ ba giai cấp tư sản đã trở thành như lãnh chúa, thời đại đế quốc chủ nghĩa1.

Việc nghiên cứu thời đại lịch sử có một ý nghĩa to lớn. Có hiểu được thời đại chúng ta đang sống là thời đại nào "thì chúng ta mới có thể định ra đúng đắn sách lược của chúng ta; và chỉ trên cơ sở hiểu biết những đặc điểm cơ bản của thời đại, chúng ta mới có thể tính đến những đặc điểm chi tiết của nước này hay nước nọ"2.

b) Cơ sở phân chia thời đại lịch sử

- Theo quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, cơ sở thứ nhất để phân chia thời đại lịch sử là các hình thái kinh tế - xã hội.

Theo Ph. Ăngghen, mọi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra, - cả hai cái đó tạo thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của mỗi thời đại1.

Lý luận hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin cho chúng ta cơ sở khoa học để phân chia thời đại lịch sử, nó nói tới sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng (bao gồm: các yếu tố chính trị, tư tưởng, văn hoá, khoa học, v.v.). Nó nêu lên lịch sử phát triển nhân loại trong mỗi thời kỳ lịch sử một cách toàn diện.

- Dựa vào sự thay đổi vị trí trung tâm của các giai cấp trong xã hội.

Sự chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế- xã hội khác cao hơn, tiến bộ hơn, không diễn ra một cách tự phát mà phải thông qua hoạt động của con người, hoạt động của giai cấp tiên tiến và những lực lượng cách mạng.

Trong xã hội có giai cấp và đối kháng giai cấp, mỗi một hình thái kinh tế - xã hội có một giai cấp giữ vai trò thống trị, đứng ở vị trí trung tâm của thời đại đó. Giai cấp đứng ở vị trí trung tâm của thời đại phải là giai cấp tiên tiến, giai cấp đại diện cho xu hướng vận động của lịch sử, có khả năng tập hợp các tầng lớp nhân dân lao động khác vào cuộc đấu tranh xoá bỏ chế độ cũ, thiết lập chế độ xã hội mới. Giai cấp tiên tiến đứng ở vị trí trung tâm của thời đại có vai trò quyết định xu hướng vận động của lịch sử trong thời đại đó.

Trong chế độ phong kiến, giai cấp quý tộc phong kiến là người đại diện. Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản là người đại diện.

Khi chủ nghĩa tư bản chuyển thành chủ nghĩa đế quốc, V.I. Lênin cho rằng đã xuất hiện những điều kiện khách quan cho việc xoá bỏ hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, thiết lập hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Giai cấp công nhân Nga, dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvích đã lãnh đạo quần chúng nhân dân lật đổ chế độ chuyên chế Nga hoàng, xoá bỏ thiết chế tư bản chủ nghĩa, mở ra một thời đại lịch sử mới là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế

Như vậy, từ sau Cách mạng Tháng Mười, nội dung cơ bản của thời đại là quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới. Nhưng để thực hiện được điều đó, giai cấp công nhân ở mỗi nước phải nhận thức được sứ mệnh lịch sử của mình, tập hợp các tầng lớp nhân dân lao động tiến hành cuộc đấu tranh kiên quyết lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, xoá bỏ hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa thiết lập hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.

Tóm lại: Cơ sở khoa học để xác định thời đại lịch sử là những điều kiện vật chất khách quan, hình thái kinh tế - xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội chỉ xã hội ở một giai đoạn nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng về chính trị, đạo đức, pháp luật, được xây dựng trên quan hệ sản xuất đó. Trong mỗi thời đại lịch sử lại có một giai cấp đại diện đứng ở vị trí trung tâm, quyết định xu hướng vận động của lịch sử trong giai đoạn đó.

Hình thái kinh tế - xã hội tiên tiến mở đầu một thời đại, tạo nên nội dung của thời đại. Nhưng khái niệm hình thái kinh tế - xã hội và thời đại lịch sử là không đồng nhất. Trong một thời đại lịch sử đồng thời tồn tại nhiều hình thái kinh tế - xã hội, cả hình thái kinh tế - xã hội tiên tiến và cả lạc hậu. Chúng đấu tranh với nhau một cách quyết liệt, lâu dài. Thời đại là một thời kỳ lịch sử lâu dài có sự chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội thấp lên hình thái kinh tế - xã hội cao. Đặc trưng cho tính chất và xu hướng vận động của thời đại là hình thái kinh tế - xã hội tiến bộ nhất.

2. Thời đại ngày nay và các giai đoạn chính của nó

a) Quan niệm về thời đại ngày nay

Cách mạng Tháng Mười đã mở đầu một thời đại mới trong lịch sử thế giới. "Một kỷ nguyên mới đã mở ra trong lịch sử thế giới.

Nhân loại đang vứt bỏ hình thức cuối cùng của chế độ nô lệ: chế độ nô lệ tư bản hay chế độ nô lệ làm thuê.

Thoát khỏi được chế độ nô lệ đó, lần đầu tiên nhân loại sẽ bước vào chế độ tự do chân chính".

Sự thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười là cột mốc đánh dấu sự mở đầu một thời đại lịch sử mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản vì cuộc cách mạng này đã làm sụp đổ trật tự xã hội cũ - xã hội tư bản chủ nghĩa, tổ chức xây dựng một xã hội mới do nhân dân lao động làm chủ. Sau Cách mạng Tháng Mười, nhân dân Nga (sau này là Liên Xô) đã là những người làm chủ bộ máy nhà nước, làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Nhân dân Liên Xô dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô, đã lao động quên mình, nhanh chóng biến nước Nga lạc hậu thành một nước xã hội chủ nghĩa có nền kinh tế phát triển, nhiều ngành khoa học tiên tiến, có một xã hội luôn luôn quan tâm tới đời sống của quần chúng nhân dân lao động.

Với thành quả của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, với niềm tin vào lý tưởng cộng sản đã giúp cho nhân dân Liên Xô cùng với những lực lượng dân chủ tiến bộ trên thế giới đập tan chủ nghĩa phátxít, cứu nhân loại khỏi họa diệt chủng, giải phóng hàng loạt nước Đông Âu, tạo điều kiện cho các nước này đi lên chủ nghĩa xã hội.

Chủ nghĩa xã hội với tính ưu việt của nó đã cổ vũ hàng loạt các nước đứng lên đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, dân chủ cho nhân dân, xoá bỏ tàn tích của chế độ thực dân phong kiến. Nhiều nước trong số đó đã lựa chọn con đường lên chủ nghĩa xã hội hoặc định hướng lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội đã vượt khỏi phạm vi một nước trở thành hệ thống trên thế giới đối lập với thế giới tư bản chủ nghĩa.

Sau Cách mạng Tháng Mười, nhất là từ khi nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời, sự vận động của tình hình thế giới có lợi cho lực lượng hoà bình, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.

Tóm lại, Cách mạng Tháng Mười Nga đã mở đầu thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới vì:

Thứ nhất, sau Cách mạng Tháng Mười Nga chủ nghĩa xã hội đã từ lý luận trở thành thực tiễn, đã xuất hiện hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, là cái đối lập, phủ định hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa.

Thứ hai, chiều hướng phát triển chủ yếu, trục xuyên suốt của sự vận động lịch sử từ sau Cách mạng Tháng Mười là đấu tranh xoá bỏ trật tự tư bản chủ nghĩa, thiết lập và từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới.

Thứ ba, từ sau Cách mạng Tháng Mười, các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trở thành lực lượng nòng cốt, đi đầu trong cuộc đấu tranh vì hoà bình, dân chủ và tiến bộ trên phạm vi toàn thế giới.

Thứ tư, sau Cách mạng Tháng Mười, cách mạng giải phóng dân tộc nằm trong phạm trù cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhiều nước sau khi giành được độc lập dân tộc đã đi lên con đường chủ nghĩa xã hội.

Sự vận động của lịch sử là quanh co và phức tạp khi tiến, khi lùi. Do vậy, hiện nay mặc dù tình hình quốc tế đang còn diễn ra vô cùng phức tạp, nhưng Đảng ta vẫn khẳng định: "Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới hiện trải qua những bước quanh co; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hoá của lịch sử".

b) Những giai đoạn chính của thời đại ngày nay

Thời đại ngày nay được mở đầu bằng cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, là thời đại đấu tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, là thời đại đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học và công nghệ nhằm chuẩn bị những tiền đề vật chất chín muồi cho sự xuất hiện chủ nghĩa xã hội.

Như V.I. Lênin khẳng định, tính phức tạp trong sự vận động của lịch sử nhân loại, song có thể chia thời đại của chúng ta từ Cách mạng Tháng Mười tới nay thành bốn giai đoạn:

Giai đoạn thứ nhất: Từ sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917 tới kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ hai năm 1945.

Giai đoạn này là giai đoạn chủ nghĩa xã hội mới hình thành trên phạm vi một số nước như Liên Xô, Mông Cổ. Cuộc Cách mạng Tháng Mười là cuộc cách mạng đầu tiên trong lịch sử đưa nhân dân lao động từ những người nô lệ, làm thuê trở thành những người làm chủ đất nước. Sức mạnh của chế độ mới đã giúp nhân dân lao động Nga đứng vững trong cuộc nội chiến, đập tan âm mưu can thiệp của chủ nghĩa đế quốc. Với khí thế lao động của những con người được giải phóng, thông qua chính sách kinh tế mới, thông qua con đường hợp tác hoá trong nông nghiệp, công nghiệp hoá đất nước, sau 20 năm Liên Xô đã tạo ra sự phát triển mạnh mẽ trong nền kinh tế. Đó là những nguyên nhân giúp cho nhân dân Liên Xô đánh bại chủ nghĩa phátxít trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai, cứu nhân loại khỏi thảm họa của chủ nghĩa phát xít.

Giai đoạn thứ hai: Từ sau năm 1945 tới đầu những năm 1970.

Đây là giai đoạn chủ nghĩa xã hội phát triển thành hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới.

Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa ra đời, nhất là từ sau khi nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa xuất hiện, cùng với những thành tựu to lớn của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa về kinh tế, xã hội, văn hoá, khoa học kỹ thuật, v.v., hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho phong trào đấu tranh vì hoà bình, tiến bộ trên thế giới, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh của những thế lực phản động quốc tế.

Những thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội của các nước xã hội chủ nghĩa đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh vì dân sinh, dân chủ, tiến bộ xã hội trong các nước tư bản chủ nghĩa, đã động viên nhân dân các nước thuộc địa đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc. Trong những năm 60 thế kỷ XX, khoảng 100 quốc gia giành được độc lập dân tộc với những mức độ khác nhau.

Bên cạnh những kết quả đó, trong giai đoạn này, trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã có những bất hoà. Trong Di chúc của Hồ Chí Minh, phần về phong trào cộng sản thế giới, Người viết: "... tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hoà hiện nay giữa các đảng anh em!".

Giai đoạn thứ ba: Từ cuối những năm 1970 đến cuối những năm 1980.

Trong giai đoạn này ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa không chú ý tới công tác xây dựng đảng, nhiều kẻ cơ hội chui vào hàng ngũ đảng cộng sản. Một số người mắc vào tệ sùng bái cá nhân, không ít người mắc bệnh kiêu ngạo cộng sản, không nhìn thấy và không đánh giá đúng những thay đổi trong chính sách của chủ nghĩa tư bản. ở không ít nước xã hội chủ nghĩa, bộ máy nhà nước trở nên quan liêu, vi phạm những quyền dân chủ của nhân dân. Trong xây dựng kinh tế chủ quan nóng vội, không tuân thủ những quy luật kinh tế khách quan, chậm đưa tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất. Trong lĩnh vực xã hội thực hiện bao cấp tràn lan, không kích thích được tính tích cực cá nhân, do vậy không tạo ra được động lực thúc đẩy xã hội phát triển.

Những sai lầm trên kéo dài, chậm được phát hiện và khắc phục triệt để đã hạn chế tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của các nước, dẫn tới tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội ở nhiều nước, buộc các nước phải cải cách đổi mới Trong quá trình cải cách đổi mới, nhiều đảng cộng sản mắc những sai lầm mang tính chất nguyên tắc. Lợi dụng tình hình đó, những thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội ở bên ngoài, kết hợp với những kẻ phản bội ở bên trong, thậm chí cả những người đứng đầu cơ quan đảng và nhà nước đã tấn công làm sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô.

Như vậy sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô có nguyên nhân sâu xa là những sai lầm của các đảng cộng sản, các nhà nước xã hội chủ nghĩa, sự chống phá quyết liệt của kẻ thù và sự phản bội của một số người cộng sản, chứ hoàn toàn không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội và lý luận khoa học về chủ nghĩa xã hội như một số người vẫn đang rêu rao.

Đây cũng là bài học kinh nghiệm trong quá trình đổi mới của các nước xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.

Giai đoạn thứ tư: Giai đoạn từ đầu những năm 1990 tới nay.

Giai đoạn hiện nay, chủ nghĩa xã hội thế giới tạm thời lâm vào thoái trào. Cùng với sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô, nhiều đảng cộng sản và công nhân bị tan rã, nhiều đảng viên xin ra khỏi đảng. Nhiều nước dân tộc chủ nghĩa đã định hướng lên chủ nghĩa xã hội, nhưng giờ đây mất chỗ dựa về vật chất và tinh thần, các lực lượng phản động giành lại chính quyền đưa đất nước theo con đường khác. ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới giảm đi nghiêm trọng.

Những thế lực phản động quốc tế đang dùng trăm phương, nghìn kế bằng nhiều luận điệu khác nhau để xoá bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin và phá hoại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, nhằm xác lập sự thống trị tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản trên thế giới.

Lịch sử đang đặt ra những thử thách to lớn cho chủ nghĩa xã hội, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

Để vượt qua những thử thách đó, các nước xã hội chủ nghĩa phải tự đổi mới, phải khắc phục những yếu kém, nhược điểm hạn chế trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, tranh thủ những điều kiện thuận lợi do cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tạo ra, không ngừng nâng cao năng suất lao động, cải thiện đời sống nhân dân, để nâng cao sức mạnh mọi mặt của đất nước.

Trải qua những thăng trầm của lịch sử, những người cộng sản ở các nước thuộc Liên Xô trước đây và các nước Đông Âu hiện nay đã nhận rõ bộ mặt kẻ thù, đang ra sức tập hợp lực lượng, tiến hành cuộc đấu tranh bền bỉ nhằm khôi phục những giá trị của chủ nghĩa xã hội để đưa đất nước trở lại con đường xã hội chủ nghĩa.

Từ thực tế những năm vừa qua giúp cho giai cấp công nhân, nhân dân tiến bộ trên thế giới thấy được bộ mặt thật và tính chất nguy hiểm của chủ nghĩa tư bản hiện đại, từ đó mà đoàn kết nhau lại để đấu tranh xoá bỏ chủ nghĩa tư bản, đưa đất nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Trong thời đại ngày nay: "Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học thành công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội".

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro