CNXHKH: Đội ngũ trí thức

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Trí thức là những người lao động trí óc phức tạp và sáng tạo, có trình độ học vấn đủ để am hiểu và hoạt động chuyên sâu trong lĩnh vực lao động của mình.

Với phương thức lao động đặc thù là lao động trí tuệ cá nhân, chủ yếu trong các lĩnh vực nghiên cứu, giảng dạy, ứng dụng khoa học. Sản phẩm lao động của họ là những tri thức khoa học sáng tạo, những giá trị về tinh thần, tuy không quyết định nhất đối với tồn tại xã hội nhưng có tác dụng đặt cơ sở lý luận, định hướng cho nhận thức và hoạt động thực tiễn nhiều lĩnh vực của sự phát triển XH, tác động quyết định đến năng xuất lao động, chất lượng sản xuất, tốc độ tăng trưởng và phát triển của XH trên cả đời sống vật chất lẫn tinh thần. Trí thức là llượng XH có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp CM của GCCN. XH ngày càng ptriển thì đội ngũ trí thức càng có vai trò to lớn, nhất là trong lvực KHKT và văn hóa tư tưởng. Tầng lớp trí thức được hình thành cùng với quá trình ptriển của llsx, của phân công lđộng xh; thành phần xuất thân của họ từ nhiều giai tầng khác nhau trong xh. Do thiếu sự thuần nhất nên họ khó thống nhất và ko có hệ tư tưởng độc lập; họ lại ko có quan hệ trực tiếp đối với TLSX ... cho nên trí thức không bao giờ tồn tại với tư cách là một giai cấp, vì vậy ko thể lđạo CM với tư cách là một gcấp xh. Mặc dù trí thức ko phải là một gcấp nhưng trí thức có quan điểm gcấp, thể hiện ở chỗ  họ phục vụ cho gcấp nào thì họ sẽ phản ánh, bảo vệ lợi ích của gcấp đó một cách trung thành và chính xác. Bên cạnh những thuộc tính chung đó, trí thức xh chủ nghĩa là những người đào tạo dưới CNXH và những xh khác nhưng tòan tâm phục vụ XHCN.

Là những người có hiểu biết và trình độ văn hóa cao hơn các tầng lớp xh khác, trí thức rất nhạy bén trong việc tiếp nhận các trào lưu tư tưởng và các quan điểm chính trị mới. Do ưu thế về nhận thức và hiểu biết, ý thức dân tộc, có tinh thần yêu nước, trí thức là lớp người đầu tiên tiếp thu và truyền bá các tư tưởng của CN MLN vào trong nước ta, trực tiếp hình thành các tổ chức cộng sản.

Đội ngũ trí thức đều có điểm chung là đại diện cho trí tuệ đương thời, cho trình độ lao động trí óc và là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ xh, họ là những người tìm tòi, khám phá, sáng tạo, hướng tới chân, thiện, mỹ đồng thời cũng vận dụng những kết quả ấy để phục vụ cho con người và xh cũng theo hướng chân, thiện, mỹ. Họ có vai trò rất to lớn trong việc ncứu phát hiện, khám phá và sáng tạo ra cái mới để thúc đẩy xh ptriển tiến bộ. Bất cứ thời đại nào hay chế độ chính trị nào đi nữa thì trí thức cũng là trụ cột chính của nền văn minh. Vì vậy, CNXH cần đội ngũ trí thức nhiều hơn, ko có họ thì CNXH cũng khó thành công. Trong công cuộc xd CNXH, trí thức có vai trò đặc biệt quan trọng, sự gắn bó giữa trí thức và CNXH là một yêu cầu khách quan, bời vì, CNXH mang lại cho trí thức chân trời sáng tạo vô tận, CNXH coi trọng trí thức vì họ là những ng lính xung kích trong việc tạo ra năng suất lao động xh cao hơn CNTB trên cơ sở một nền KH hiện đại và công nghệ tiên tiến.

Thực trạng

Cùng với sự phát triển của đất nước, đội ngũ trí thức đã tăng nhanh về số lượng, nâng lên về chất lượng; góp phần trực tiếp cùng toàn dân đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, từng bước xóa đói, giảm nghèo, phát triển đất nước, nâng cao chất lượng cuộc sống.

Trong những năm qua, đội ngũ trí thức nước ta đã tạo ra những giá trị tinh thần và vật chất có hàm lượng trí tuệ cao, truyền bá những trí thức khoa học, tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa của dân tộc, góp phần quan trọng vào việc bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu  sự nghiệp CNH- HĐH đất nước. Từ chỗ 95% dân số VN mù chữ năm 1945, đến nay, ở VN có khoảng 2,6 triệu người có trình độ ĐH và trên ĐH, đưa nước ta trở thành nước có nguồn nhân lực trí thức chiếm tỷ lệ khá cao so với các nước đang phát triển; Kỳ thi nho học đầu tiên từ năm 1075 đến năm 1919 chế độ phong kiến đào tạo được 2.896 nhà khoa bảng, năm học 1943-1944 toàn cõi Đông Dương có 7 trường ĐH với 1.259 sinh viên, cho đến nay nước ta có 312 trường ĐH và CĐ. Cùng với sự tăng nhanh về số lượng, chất lượng đội ngũ trí thức cũng được nâng cao. Nhiều đề tài công trình khoa học của trí thức VN được các hội đồng thế giới đánh giá cao, một số trí thứcVN được các Viện hàn lâm khoa học nước ngoài phong tặng Viện sỹ hàn lâm và mới hợp tác. Trong các kỳ thi quốc tế về trí tuệ, học sinh VN cũng giành được các thành tích lớn. Đại bộ phận đội ngũ trí thức trưởng thành có hoài bão, tâm huyết, say sưa với sự nghiệp nghiên cứu khoa học đã phát huy được vai trò quan trọng trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, xã hội…đáp ứng được yêu cầu CNH – HDH đất nước.

Bộ phận trí thức tham gia công tác lãnh đạo, quản lý đã phát huy tốt vai trò và khả năng, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo của Ðảng, trình độ quản lý của Nhà nước. Ðội ngũ trí thức trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh là lực lượng nòng cốt xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

Nhiều trí thức trẻ thể hiện tính năng động, sáng tạo, thích ứng nhanh với kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Ða số trí thức Việt Nam ở nước ngoài luôn hướng về Tổ quốc; nhiều người đã về nước làm việc, hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau, có những đóng góp thiết thực vào sự nghiệp phát triển đất nước.  

 Hạn chế:  Chúng ta có thể tự hào về những đóng góp của đội ngũ trí thức thời gian qua và tiềm năng của họ trong tương lai. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, đội ngũ trí thức VN còn một số tồn tại, hạn chế, đó là: số lượng ít, đào tạo không đồng bộ giữa các ngành nghề; phân bố không hợp lý; sử dụng không đúng với ngành nghề đào tạo. Hiệu quả sử dụng lao động trí óc còn thấp, cơ cấu trí thức thiếu đồng bộ và mất cân đối giữa các ngành, các vùng lãnh thổ, tình trạng lãng phí chất xám và chảy máu chất xám đang diễn ra. Nhiều SV tốt nghiệp ĐH ra trường không có việc làm hoặc làm những việc không đúng chuyên môn đào tạo, trong khi đó ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa lại rất thiếu trí thức. chất lượng đội ngũ trí thức còn nhiều bất cập, nhất là năng lực tư duy khoa học, năng lực nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng, bằng cấp thì nhiều nhưng hiệu quả thì thấp; trình độ chuyên môn, sử dụng công nghệ thông tin, ngoại ngữ không đáp ứng yêu cầu mở rộng và hợp tác quốc tế. Một bộ phận trí thức thiếu năng lực trong việc giải quyết những nhiệm vụ do thực tế sản xuất, đời sống đặt ra. Một số đề tài, công trình nghiên cứu, những luận án thiên về lý thuyết, ít kết hợp với thực tiễn dẫn đến việc hạn chế tác dụng phục vụ thực tiễn của công trình, đề tài khoa học, đồng thời cũng hạn chế sự phát triển năng lực hoạt động thực tiễn của một số cán bộ khoa học.

Trong khoa học tự nhiên và công nghệ, số công trình được công bố ở các tạp chí có uy tín trên thế giới, số sáng chế được đăng ký quốc tế còn quá ít.

Trong khoa học xã hội và nhân văn, nghiên cứu lý luận còn thiếu khả năng dự báo và định hướng, chưa giải đáp được nhiều vấn đề do thực tiễn đổi mới đặt ra, chưa có những công trình sáng tạo lớn, nhiều công trình còn sơ lược, sao chép.

Trong văn hóa, văn nghệ còn ít tác phẩm có giá trị xứng tầm với những thành tựu vẻ vang của đất nước, sự sáng tạo và hy sinh lớn lao của nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật còn nhiều hạn chế.

Một bộ phận trí thức, kể cả người có trình độ học vấn cao, còn thiếu tự tin, e ngại, sợ bị quy kết về quan điểm, né tránh những vấn đề có liên quan đến chính trị. Một số giảm sút đạo đức nghề nghiệp, mờ nhạt về lý tưởng và hoài bão, thiếu ý thức trách nhiệm và lòng tự trọng, có biểu hiện chạy theo bằng cấp, thiếu trung thực và tinh thần hợp tác. Một số trí thức không thường xuyên học hỏi, tìm tòi, trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, Nhiều trí thức trẻ có tâm trạng thiếu phấn khởi, chạy theo lợi ích trước mắt mà không chú ý đến nhu cầu, lợi ích của đất nước

- Nguyên nhân: Những hạn chế, yếu kém của đội ngũ trí thức  do nhiều nguyên nhân. Nền kinh tế nước ta vẫn trong tình trạng lạc hậu, trình độ KH và CN còn thấp; việc áp dụng KH- CN vào sản xuất và đời sống chưa cao; thị trường KH và CN, văn hoá và nghệ thuật đang trong quá trình hình thành…Về khách quan, chưa có đầu đủ điều kiện để phát huy hết năng lực sáng tạo của trí thức. Một bộ phận trí thức ở mức độ khác nhau còn chịu ảnh hưởng các mặt hạn chế của tư tưởng phong kiến của nền kinh tế tiểu nông và cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp kéo dài, của mặt trái cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn kinh tế đang chuyển đổi.

Công tác trí thức của Đảng và NN vẫn còn nhiều hạn chế, khuyết điểm. Chưa có chiến lược tổng thể về đội ngũ trí thức. Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội chưa thể hiện quan điểm lấy KH và CN, giáo dục và đào tạo làm “quốc sách hàng đầu” chưa gắn với các giải pháp phát huy vai trò đội ngũ trí thức trên nhiều lĩnh vực. Nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và NN về công tác trí thức chậm đi vào cuộc sống; có nơi, có lúc thực hiện thiếu nghiêm túc. Một số chủ trương, chính sách không sát với thực tế.

Một số cán bộ đảng và chính quyền chưa nhận thức đúng về vai trò, vị trí của trí thức; đánh giá sử dụng trí thức không đúng năng lực và trình độ, ngay cả với những trí thức đầu ngành dẫn đến tâm tư nặng nề trong đội ngũ trí thức. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý chỉ chú trọng đến vốn tiền, vật chất mà chưa coi trọng nguồn nhân lực có trình độ cao.

 Hệ thống các chính sách về tri thức còn thiếu và chưa phù hợp; thiếu những cơ chế thích hợp để phát hiện, tuyển chọn, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài.

Các chủ trương, chính sách đào tạo đội ngũ trí thức chưa đồng bộ. Hệ thống giáo dục còn lạc hậu, chưa đủ sức đáp ứng nhu cầu về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực trình độ cao.

Cơ chế và chính sách tài chính  hiện hành trong các hoạt động KH và CN, văn hoá và văn nghệ còn nhiều bất cập, gây khó khăn.

 Những hạn chế và khuyết điểm trên là do sự yếu kém của một số cấp uỷ đảng, chính quyền trong lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện công tác trí thức; sự thiếu đồng bộ của hành lang pháp lý bảo đảm môi trường dân chủ cho các hoạt động sáng tạo; những định kiến và chủ nghĩa kinh nghiệm trong một bộ phận cán bộ đã dẫn đến thái độ thiếu tin tưởng, thiếu dân chủ trong quan hệ với trí thức, thậm chí xem thường trí thức.

 Những tồn tại và yếu kém trên sẽ làm ảnh hưởng đến sự phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Do vậy, để xây dựng và phát huy hơn nữa vai trò của đội ngũ trí thức Đảng và Nhà nước  ta cần có những biện pháp thích hợp để trí thức có thể phát huy hết khả năng sáng tạo của mình góp phần đưa nước ta tiến nhanh, tiến vững chắc trong thế kỷ XXI. Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 6 tháng 8 năm 2008 Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã chỉ rõ:

 Mục tiêu đến năm 2020, xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, đạt chất lượng cao, số lượng và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, từng bước tiến lên ngang tầm với trình độ của trí thức các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới. Gắn bó vững chắc giữa Ðảng và Nhà nước với trí thức, giữa trí thức với Ðảng và Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công - nông - trí.

Trong những năm trước mắt, hoàn thiện các cơ chế, chính sách đã ban hành, xây dựng cơ chế, chính sách mới nhằm phát huy có hiệu quả tiềm năng của đội ngũ trí thức; xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ trí thức đến năm 2020.

Quan điểm chỉ đạo:

1- Trí thức Việt Nam là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng kinh tế tri thức, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

2- Xây dựng đội ngũ trí thức là trách nhiệm chung của toàn xã hội, của cả hệ thống chính trị, trong đó trách nhiệm của Ðảng và Nhà nước giữ vai trò quyết định.

3- Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của trí thức vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp của trí thức. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến; có chính sách đặc biệt đối với nhân tài của đất nước.

Giải pháp

1- Hoàn thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trí thức

- Ban hành các quy chế trong hoạt động khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa và văn nghệ; bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để trí thức tự khẳng định, phát triển, cống hiến và được xã hội tôn vinh;  Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và tăng cường thực thi việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả nhằm bảo đảm lợi ích của trí thức; Ban hành quy định về quyền hạn, điều kiện làm việc để phát huy năng lực và trách nhiệm họ; đầu tư xây dựng một số khu đô thị khoa học, khu công nghệ cao, tổ hợp khoa học - sản xuất, trường đại học trọng điểm, các trung tâm văn hóa hiện đại, mở rộng hợp tác và giao lưu quốc tế về khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa và văn nghệ.

Thực hiện chính sách trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức

Đó là rà soat các chính sách thu hút, đãi ngộ ưu đãi về vật chất và tinh thần cho đội ngũ trí thức tương xứng với giá trị từ kết quả lao động sáng tạo của họ. Ðổi mới công tác cán bộ của Ðảng và Nhà nước, nhất là khâu tuyển dụng, bố trí, đánh giá và bổ nhiệm cán bộ quản lý; Thực hiện đúng và đầy đủ chủ trương phân cấp và quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học và công nghệ, các trường đại học trong việc bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo và các chức danh khoa học trên cơ sở các tiêu chuẩn của Nhà nước; trong việc sử dụng kinh phí, sử dụng trí thức đầu ngành theo nhu cầu của đơn vị, nghiên cứu ban hành quy định tuổi lao động cho phù hợp; Trọng dụng, tôn vinh những trí thức có đóng góp thiết thực, hiệu quả vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

Tạo chuyển biến căn bản trong đào tạo, bồi dưỡng trí thức

Tiến hành cải cách giáo dục từ cơ cấu hệ thống đến chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo đại học; thực hiện các biện pháp gắn đào tạo với nhu cầu của người học và nhu cầu của xã hội. Thực hiện tốt kiểm định chất lượng đào tạo, tăng cường vai trò của các tổ chức kiểm định độc lập.

- Huy động mọi nguồn đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo. Thực hiện đa dạng hóa các loại hình đào tạo, bồi dưỡng ở trong và ngoài nước.

- Tăng cường hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ. Gắn đào tạo đại học và sau đại học với nghiên cứu khoa học, với sản xuất kinh doanh. Xây dựng một số trường đại học ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới. Tạo điều kiện để các trường đại học, viện nghiên cứu hàng đầu của các nước phát triển đầu tư mở cơ sở đào tạo, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ tại Việt Nam.

- Thực hiện tốt việc đưa cán bộ, học sinh, sinh viên có đạo đức và triển vọng đi đào tạo ở nước ngoài, chú trọng các chuyên ngành mà đất nước có nhu cầu bức thiết.

- Trên cơ sở bảo đảm chất lượng đào tạo đại trà, xây dựng cơ chế, chính sách thực hiện có hiệu quả đào tạo tài năng nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ trí thức và phát triển nhân tài cho đất nước.

- Có chính sách và kế hoạch cụ thể để phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng trí thức trẻ, trí thức là những người đã có cống hiến trong hoạt động thực tiễn, trí thức người dân tộc thiểu số và trí thức nữ.

- Áp dụng chính sách định kỳ và cơ chế bảo đảm chất lượng bồi dưỡng, đào tạo lại chuyên môn cho đội ngũ trí thức; khuyến khích trí thức thường xuyên nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng kịp thời đòi hỏi của thực tiễn.

4- Ðề cao trách nhiệm của trí thức, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động các hội của trí thức

- Xây dựng quy chế, cơ chế thông tin giúp trí thức kịp thời nắm vững các chủ trương, chính sách của Ðảng, Nhà nước và tình hình thực tiễn của đất nước và địa phương.

- Tăng cường sinh hoạt tư tưởng, phát huy trách nhiệm đội ngũ trí thức trong rèn luyện, phấn đấu, bồi đắp, phát huy những phẩm chất tốt đẹp, như lòng yêu nước, tính tích cực xã hội, tính nhân văn, đạo đức, lối sống...

- Tạo cơ hội để trí thức tự nguyện đi đầu trong việc truyền bá những tri thức tiến bộ trong cộng đồng, áp dụng có hiệu quả những tiến bộ đó vào sản xuất và đời sống, góp phần thiết thực nâng cao dân trí.

- Có cơ chế, chính sách huy động trí thức, đặc biệt là trí thức đầu ngành, trực tiếp chăm lo và thực hiện việc đào tạo đội ngũ kế cận.

- Nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền và Mặt trận Tổ quốc về vị trí, vai trò của các hội trí thức, đặc biệt là Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật, Liên hiệp các Hội Văn học và nghệ thuật, trong việc vận động, tập hợp, đoàn kết trí thức ở trong nước và trí thức người Việt Nam ở nước ngoài.

- Củng cố, phát triển, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các tổ chức thành viên Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam, Liên hiệp các Hội Văn học, nghệ thuật Việt Nam từ Trung ương đến địa phương, tạo môi trường lành mạnh để phát huy năng lực sáng tạo và nâng cao phẩm chất đạo đức của đội ngũ trí thức.

- Tạo điều kiện để các hội trí thức thực hiện các dịch vụ công, tham gia cấp chứng chỉ hành nghề, giám sát hoạt động nghề nghiệp, thực hiện tự chủ về tài chính.

5- Nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo của Ðảng đối với đội ngũ trí thức

- Nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng và chính quyền về vai trò, vị trí quan trọng của trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; xác định công tác trí thức là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp.

- Làm tốt công tác tư tưởng để toàn xã hội hiểu đúng và đề cao vai trò của trí thức cũng như để đội ngũ trí thức nhận thức sâu sắc trách nhiệm của mình đối với đất nước, dân tộc. Hình thành ý thức và tâm lý xã hội tôn trọng, tôn vinh trí thức, coi "hiền tài là nguyên khí của quốc gia", phát huy truyền thống "tôn sư trọng đạo".

- Phát huy tài năng và trọng dụng những trí thức có phẩm chất tốt, có năng lực quản lý, không phân biệt là đảng viên hay không phải là đảng viên trong các cơ quan nhà nước và tổ chức sự nghiệp.

- Trong quản lý và sử dụng trí thức, các cấp ủy đảng và chính quyền nghiên cứu, thực hiện các phương thức phù hợp, không áp dụng máy móc cách quản lý hành chính để phát huy cao nhất năng lực cống hiến của trí thức.

- Những người đứng đầu cấp ủy đảng và chính quyền các cấp có trách nhiệm định kỳ tiếp xúc, lắng nghe ý kiến, đối thoại với trí thức về những vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng.

- Các cấp ủy đảng từ Trung ương đến cơ sở có trách nhiệm trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm tra việc thể chế hóa các nhiệm vụ và giải pháp trong Nghị quyết thành các chính sách, chế độ, chế tài, quy chế cụ thể để thực hiện thắng lợi Nghị quyết. 

Tóm lại, đội ngũ trí thức là một lực lư­ợng có vị trí, vai trò rất quan trọng trong sự phát triển xã hội như­ lời của Bác: trí thức là tài sản, vốn liếng quý báu của dân tộc và chỉ có cách mạng mới trọng và sử dụng đúng trí thức. Vì vậy, cần phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp để tạo điều kiện cho đội ngũ trí thức làm việc có hiệu quả ngày càng cao, đóng góp ngày càng lớn cho sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới Đồng thời mỗi cán bộ, đảng viên phải ra sức phấn đấu trong học tập nâng cao trình độ và năng lực công tác cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh cần quán triệt và thực hiện đầy đủ các chủ trương, đường lối của Đảng, góp phần nhỏ bé của mình vào sự nghiệp Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam và sự quản lý điều hành của Nhà nước, quyết tâm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ đã đề ra, tất cả vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh./.

Liên hệ Quảng Trị:Trong giai đoạn hiện nay, xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh và đề cao vai trò của trí thức trong sự nghiệp cách mạng chính là nhằm tăng cường khối liên minh công - nông - trí thức. Thông qua sự liên minh chặt chẽ với giai cấp công nhân và nông dân mà vai trò của trí thức càng được nhân lên gấp bội, tập hợp mọi lực lượng vào khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo động lực cho cách mạng trong thời kỳ mới.

- Phát huy tài năng và trọng dụng những trí thức có phẩm chất tốt, có năng lực quản lý trong các cơ quan nhà nước và tổ chức sự nghiệp. Quảng Trị là một tỉnh nghèo của miền trung càng cần phải có chiến lược phát triển đội ngũ trí thức nhằm thực hiện công cuộc công nghiệp hoá hiên đại hoá , vươn kịp các tỉnh trong cả nước.

Tuy nhiên, trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá và hội nhập kinh tế, trí thức nước ta nói chung và Quảng Trị nói riêng còn nhiều bất cập về số lượng, về cơ cấu độ tuổi, giới tính, vùng miền, chất lượng còn nhiều hạn chế. Cụ thể, trình độ học vấn, chuyên môn của tỉnh còn thấp: trình độ phổ thông chiếm 84,4%, cao đẳng 0,55%, đại học 1,2%, trên đại học 0,16%; công nhân kỹ thuật 9.067 người, trung học chuyên nghiệp 1.308 người, số người được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ mới chiếm 12% tổng số lao động. Thêm vào đó việc sử dụng, đãi ngộ trí thức chưa thoả đáng gây ra tình trạng lãng phí chất xám, “chảy máu” chất xám.  Hiện nay mới có trên 300 thạc sĩ, chủ yếu là quản lý giáo dục, y tế. các ngành khoa học kỹ thuật chưa phát triển triển nhiều.

nguyên nhân của hạn chế trên là do chưa coi trọng tập hợp, thu hút đội ngũ trí thức trẻ có năng lực, được đào tạo cơ bản. Hàng năm vẫn còn một số lượng không nhỏ sinh viên tốt nghiệp khá, giỏi nhưng không được nhận vào làm việc trong các cơ quan Đảng và Nhà nước. Việc để họ phải chuyển sang làm việc cho khu vực tư nhân hoặc làm trái ngành nghề để kiếm sống chính là một dạng chảy máu chất xám và cũng là sự lãng phí chất xám, lãng phí tiền của rất lớn của Nhà nước và nhân dân. 

Việc triển khai thực hiện chính sách đãi ngộ, tôn vinh đối với trí thức, khai thác trí thức Việt kiều chưa được thực hiện một cách thực sự hiệu quả. Việc huy động chất xám của trí thức Việt kiều còn tự phát và manh mún, mới dừng ở việc mời các nhà khoa học về nước làm công tác tư vấn cho một số dự án, tham gia giảng dạy tại các cơ sở giáo dục. Việc động viên khuyến khích các nhà khoa học kiều bào tầm cỡ tham gia vào các lĩnh vực ưu tiên của đất nước vẫn chưa làm được nhiều.

Vì vậy để phát huy có hiệu quả nguồn lực trí tuệ đặc biệt của dân tộc trong bối cảnh hiện nay, kế sách hiền tài của Đảng đang hướng tới mục tiêu: Tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để sử dụng và phát huy cao nhất năng lực của đội ngũ trí thức hiện có; mở rộng đào tạo, bồi dưỡng các thế hệ trí thức, nhất là trí thức trẻ, đặc biệt coi trọng đào tạo và bồi dưỡng nhân tài; nhanh chóng hình thành một đội ngũ trí thức đông về số lượng, mạnh về trình độ chuyên môn, đa dạng về ngành nghề, kiên định về bản lĩnh chính trị, thực sự trở thành lực lượng nòng cốt và động lực mạnh mẽ của quá trình công nghiệp hoá.

Để đạt tới mục tiêu trên đây, cần có một số giải pháp, trước hết, trả thù lao xứng đáng đối với lao động trí thức thông qua chính sách tiền lương và các khoản phụ cấp ưu đãi của Nhà nước. Coi đây là một chính sách đầu tư đặc biệt. Người trí thức chỉ có thể toàn tâm, toàn ý lao động sáng tạo khi họ không phải lo mưu sinh bằng những công việc giản đơn khác.

Xây dựng mối quan hệ gắn bó, cởi mở giữa đội ngũ cán bộ quản lý, lãnh đạo với trí thức ngay trong từng cấp, ngành, địa phương, thể hiện đúng tinh thần “trọng dụng nhân tài” của Đảng.

Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp phải là những người có trí tuệ, có tư cách đạo đức tốt để quy tụ đội ngũ trí thức, thực sự là người thay mặt cho Đảng, Nhà nước sử dụng, trọng dụng nhân tài. Phải hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn chức danh để lựa chọn người tài, đức vào cấp lãnh đạo, thường xuyên có cơ chế sàng lọc để loại bỏ kịp thời những người không có năng lực, những trí thức có tài nhưng thoái hoá, biến chất...Bổn phận người trí thức là trung thực với lương tâm mình, kiên trì lý tưởng được cống hiến cho xã hội, phục vụ cho Tổ quốc, cho nhân loại.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro