Cô Gái Ao Xanh

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chàng họ Vu tên Cảnh, tự là Tiểu Tống, người Ích Ðô, ở nhờ chùa Lễ Tuyển để học. Ban đêm Cảnh đang giở sách ra đọc, bỗng một cô gái đứng ngoài song cửa khen:

- Vu tướng công chăm học làm sao!

Vu tự nghĩ ở chốn núi sâu làm gì có con gái. Còn đang nghi ngại, cô gái kia đã đẩy cửa bước vào cười bảo:

- Chăm học làm sao!

Vu sửng sốt đứng dậy, nhìn xem thì thấy một nàng áo xanh, váy dài, mềm mại xinh xắn không ai sánh được. Vu biết không phải là người, cố vặn hỏi quê quán, nàng đáp:

- Chàng nhìn thiếp chẳng phải là kẻ cắn nuốt người, việc gì phải hỏi đến cùng cho mệt!

Vu lòng thấy mến, bèn ngủ chung. Cởi đến chiếc áo lót bằng lụa thì eo lưng nàng nhỏ chưa đầy hai chủt tay. Ðêm gần tàn, nàng đã nhẹ nhàng ra đi. Từ đó không đêm nào không tới. Một đêm cùng uống rượu, trong lúc chuyện trò cô gái tỏ ra rất sành âm luật. Vu nói:

- Giọng nàng nhỏ mượt, nếu ca một khúc ắt khiến người nghe tiêu hồn!

Cô gái cười:

- Chẳng dám ca, sợ tiêu mất hồn chàng mà thôi!

Vu cố nài, nàng nói:

- Thiắp chẳng tiếc sén gì đâu, chỉ sợ người khác nghe được. Nếu chàng đã thích thì xin dâng chút tài mọn, nhưng chỉ hát nhỏ để tỏ thôạ nhé!

Nói rồi gót sen nhà nhẹ gõ nhịp vào chân giường mà hát rằng:

Cành cữu tiếng chim kêu,

Giữa đêm em chạy tản,

Chẳng hờn ướt giày thêu,

Chỉ sợ chàng không bạn.

Tiếng hát khẽ như tiếng nhặng, nghe kỹ mới nhận biết được. Nhưng lắng nghe thì giọng hát uyển chuyển trơn ấm, tai nghe mà lòng rung động. Cô gái hát xong, mở cửa nhòm ra, bảo:

- Ðề phòng ngoài song có người.

Lại đi vòng quanh nhà xem xét rồi mới trở vào. Chàng hỏi:

- Sao nàng lại lo ngờ quá thế ?

Cười đáp:

- Ngạn ngữ có câu: Ma sống trộm thường sợ người , thân phận thiếp là thế đấy!

Lát sau đi ngủ, buồn bã không vui, nói:

- Chút phận bình sinh có lẽ chấm dứt ở đây chăng?

Vu vội hỏi han, cô gái nói:

- Thiếp thấy lòng hồi hộp quá, lộc của thiếp e hết rồi.

Vu an ủi:

- Hồi hộp trong lòng hay máy mắt là chuyện bình thường, sao vội nói thế ?

Cô gái hơi yên lòng bèn cùng nhau ân ái. Ðêm tàn, nàng khoác áo bước xuống giường. Ðang định mở cửa thì cứ bồn chồn vào ra, nói:

- Không hiểu sao lòng thiếp tự nhiên thảng thốt khiếp sợ, xin tiễn thiếp ra khỏi cửa.

Vu trở dậy, đưa nàng ra tận ngoài cửa. Nàng dặn:

- Chàng đứng đây trông cho thiếp. Thiếp vượt khỏi tường này rồi hẵng vào.

Vu đáp:

- Ðược rồi.

Trông thấy nàng vừa ngoặt khỏi hành lang đã bặt tăm, không thấy đâu nữa. Vu đang định quay vào ngủ thì nghe nàng kêu cứu rất gấp. Vu vội chạy đắn nhìn quanh, không thấy đâu, nhưng tiếng kêu vọng ra từ mái hiên. Ngẩng đầu nhìn kỹ thì một con nhện to bằng viên đạn đang chộp bắt một sinh vật nhỏ; tiếng kêu vo ve đau đớn. Vu phá mạng nhện, khều xuống, gỡ bỏ những sợi tơ nhện chằng trói, thì ra là một con ong xanh thoi thóp sắp chết. Mang về phòng, đặt ở đầu bàn. Con ong hồi tỉnh, một lúc mới bò được; nó thong thả leo lên nghiên, nhúng chân vào mực rồi leo ra đậu trên tràng kỷ, bò thành chữ "tạ" rồi chớp cánh mấy lần mới xuyên qua cửa sổ mà bay đi, từ đó không trở lại nữa

Thanh Mai

Thư sinh họ Trình ở Bạch Hạ là người lỗi lạc, không câu thúc. Một hôm, ở ngoài về, cởi thắt lưng, thấy đầu dây nằng nặng như có vật gì bám vào. Nhìn xuống không thấy gì. Ngoảnh đi ngoảnh lại có người con gái từ sau áo hiện ra, vén tóc mỉm cười, xinh đẹp tuyệt trần. Trình ngờ là ma. Cô gái nói:

- Thiếp không phải là ma, mà là hồ đây.

Trình nói:

- Ðã là giai nhân thì ma cũng không sợ, huống chi là hồ.

Bèn cùng nhau giao hoan. Hai năm sau, nàng sinh được đứa con gái, đặt tên là Thanh Mai.

Nàng thường khuyên Trình:

- Ðừng lấy vợ, tôi sẽ sinh con trai cho anh.

Trình tin lời bèn không lấy ai nữa.

Họ hàng bạn hữu đều chê cười, Trình xiêu lòng, lại lấy người con gái họ Vương ở Hồ Ðông.

Hồ nghe tin, tức giận, đến cho con gái bú rồi giao cho Trình nói:

- Ðây là món hàng phải bù tiền của anh, để nó sống hay giết nó đi đều tuỳ anh, tôi việc gì đi làm vú nuôi cho người?

Ðoạn ra cửa đi thẳng.

Khi Thanh Mai lớn lên thông minh, linh lợi, mà vẻ người thanh tú y hệt như mẹ. Ðược ít lâu, Trình bị bệnh chết, Vương thị cũng tái giá, gửi nuôi Thanh Mai ở người chú họ. Chú phóng đãng vô hạnh, định đem bán để kiếm lợi. Gặp có ông tiến sĩ họ Vương, còn ở nhà chờ bổ, nghe tiếng nàng thông minh, liền bỏ ra một món tiền lớn mua về để hầu hạ con gái là A Hỷ.

Hỷ vừa mười bốn, dung nhan tuyệt thế, thấy Thanh Mai vừa lòng lắm, cho ngủ chung một giường.

Thanh Mai cũng khéo léo hầu hạ, thường đón biết chủ, nên cả nhà đều yêu thương.

Trong vùng có chàng thư sinh họ Trương, tên là Giới Thụ, nhà nghèo xác, không có chút sản nghiệp, phải ở thuê căn nhà của ông Vương. Nhưng chàng nết na, hiếu thuận, không cẩu thả, lại chăm học.

Một hôm, Thanh Mai tình cờ sang nhà, thấy chàng ngồi trên một hòn đá ăn cháo tấm, vào nhà trong nói chuyện với mẹ chàng thì thấy trên bàn có cái dò lợn. Lúc ấy người cha đang ốm, chàng vào nâng cha dậy đi tiểu, nước tiểu dây bẩn ra áo chàng. Sợ ông cụ thấy sẽ ân hận, chàng vội giấu vết bẩn, tự ra ngoài giặt giũ.

Mai thấy thế lạ lắm, về kể chuyện đó rồi nói với cô chủ:

- Người khách thuê nhà của nhà ta không phải là người tầm thường, nương tử không muốn lấy người chồng xứng đáng thì thôi, còn muốn lấy được người xứng đáng thì chàng Trương chính là người ấy.

Cô gái sợ cha mẹ chê chàng nghèo, Mai nói:

- Không phải, việc này là do ở nương tử, nếu thấy được, em sẽ bảo riêng với cậu ấy để nhờ người làm mối. Phu nhân tất gọi nương tử đến bàn, bấy giờ nương tử chỉ vâng một tiếng là tốt đẹp thôi.

Cô gái lại sợ sau này nghào mãi, sẽ bị người ta chê cười. Mai nói:

- Em cam đoan là biết xem tướng kẻ sĩ trong thiên hạ, nhất định không nhầm.

Hôm sau, sang nhà nói chuyện với mẹ Trương.

Bà cụ hoảng hốt, cho lời cô gái là triệu chẳng lành. Mai bảo:

- Tiểu thư nghe nói đến công tử nhà, khen công tử là người có đức, cháu đã nhòm biết tứ như vậy, nên mới nói. Người mối đến, hai chúng tôi sẽ giúp thêm thì việc có thể xong. Bằng không được thì đối với công tử cũng có gì là nhục đâu?

Bà cụ nói : Ðược.

Bèn nhờ bà bán hoa, họ Hầu đến hỏi. Phu nhân nghe xong, buồn cười, nói lại với Vương. Vương cũng cười to. Gọi con gái đến, kể lại Hầu nhị. Cô gái chưa kịp trả lời, Thanh Mai đã hết sức tán tụng chàng là người hiền đức, quyết phải quý hiển. Vương phu nhân lại hỏi rằng:

- Ðây là việc trăm năm của mày, nếu có thể ăn cơm hẩm gạo lức được thì ta cũng bằng lòng cho.

Cô gái cúi đầu một lúc lâu, ngoảnh mặt vào vách nói:

- Giàu nghèo là số, nếu số tốt thì có nghèo cũng chẳng lâu, mà lâu dài sẽ không còn nghèo. Còn như số đã xấu thì tuy gấm vóc vương tôn mà có phải ít người không thước đất cắm dùi đâu? Việc này xin tuỳ thầy mẹ.

Lúc đầu Vương bàn với con gái cũng chỉ là muốn mua một trận cười, đến khi nghe thấy con nói vậy thì bụng không vui, nói:

- Mày muốn lấy gã họ Trương ư?

Cô gái không đáp. Lại hỏi, vẫn không đáp. Giận nói:

- Con này cốt cách bần tiện, chẳng muốn khá, định xách bị làm vợ thằng ăn mày, không biết xấu chết quách đi!

Cô gái đỏ mặt, uất giận, cố cầm nước mắt bước ra, bà mối cũng trốn mất.

Thanh Mai thấy việc không xong, muốn tự làm mối cho mình. Mấy hôm sau đang đêm đến nhà Trương. Chàng đang đọc sách, giật mình hỏi đến làm gì thì lời lẽ thổ lộ có phần úp mở. Chàng liền nghiêm nét mặt mà từ khước.

Mai khóc nói:

- Thiếp là con nhà tử tế, không phải là gái dâm bôn, chỉ vì thấy chàng là người hiền đức nên muốn đem thân để nương tựa.

Chàng nói:

- Nàng yêu tôi, bảo tôi là người hiền đức, mà việc đêm hôm ám muội, kẻ tự trọng cũng không làm nữa là người hiền đức ư. Trước lăng nhăng mà sau thành vợ chồng, người quân tử cũng cho là không nên, nữa là việc không thể thành được thì sau này hai bên đối xử với nhau thế nào?

Mai nói:

- Nếu vạn nhất mà thành được, thì có ra ơn cưu mang được không?

Chàng nói:

- Ðược người như nàng, lại còn mong gì hơn nữa. Nhưng có ba điều không thể, và không biết làm thế nào, nên không dám khinh dị mà nhận lời.

Mai hỏi:

- Là những gì?

Ðáp:

- Nàng không có khả năng tự chủ, nên không thể, thì biết làm thế nào? Dù có tự chủ mà thầy mẹ tôi không bằng lòng thì cũng không thể, vậy biết làm thế nào? Dù thầy mẹ tôi bằng lòng mà thân nàng cao giá, tôi nghèo không sao chuộc được, thì lại càng không thể, và biết làm thế nào? Thôi nàng về ngay cho, cái hiềm gốc mận ruộng dưa thật đáng sợ.

Mai sắp đi, lại dặn rằng:

- Nếu chàng có lòng thì xin cùng nhau lo toan.

Chàng nhận lời. Mai về, cô chủ hỏi đi đâu, bàn quỳ mà tự thú. Cô gái giận là dâm bôn, toan đánh. Mai khóc, biện bạch rằng không có điều gì khác, nhân mới kể thực tình. Cô gái thở dài nói:

- Không đi lại cẩu thả, thế là người có lễ; hỏi cha mẹ, thế là người có hiếu; không khinh dị mà nhận lời, thế là người có tín. Có ba đức tốt ấy, trời tất sẽ giúp. Người đó không lo nghèo đâu.

Ðoạn lại nói:

- Mày định thế nào?

Thanh Mai đáp:

- Làm vợ anh ấy.

Cô gái cười nói:

- Con ngây, mày tự chủ được ư?

Mai nói:

- Không được thì chỉ còn chết thôi.

Cô gái nói:

- Ta sẽ làm cho mày được như nguyện.

Mai cúi đầu mà vái. Lại vài hôm sau, nói với cô gái rằng:

- Hôm nọ cô nói là đùa chăng? Hay quả có lòng thương em thực? Nếu quả là thương thì còn việc nhỏ này nữa, xin rủ lòng thương cho trọn.

Cô gái hỏi việc gì. Ðáp:

- Chàng Trương không có tiền cưới mà tì này cũng không lấy gì để tự chuộc mình ra được. Nếu ông bà đòi nhiều tiền thì có gả em cũng như không gả thôi.

Cô gái trầm ngâm rồi nói:

- Việc này thì sức ta không làm nổi. Ta cho mày đi lấy chồng sợ còn chưa được, huống chi là bảo không đòi tiền chuộc, thì tất ông bà không nghe, mà ta cũng không dám nói đâu.

Thanh Mai nghe nói thế, nước mắt ròng ròng, chỉ xin nàng thương mà cứu vớt. Cô gái nghĩ lúc lâu, nói:

- Thôi thì ta còn để dành được một ít vàng, sẽ dốc túi ra giúp mày vậy.

Mai vái tạ, nhân lẻn sang bảo với Trương. Mẹ Trương mừng lắm, cố vay mượn khắp nơi, cộng được số tiền kha khá, cất đi đợi tin mừng.

Vừa gặp lúc Vương được bổ làm quan tạ ở Khúc ốc, Hỷ thừa dịp nói với mẹ:

- Thanh Mai tuổi đã lớn, nay nhà ta sắp chuyện đến nơi thầy trị nhậm, chi bằng cho nó ra.

Phu nhân vốn thấy Thanh Mai khôn ngoan quá, sợ lại dẫn con gái vào đường bất nghĩa, cũng định đem gả đi mà sợ con gái không vui. Nay nghe con nói, mừng quá. Hai hôm sau, có bà mối đến tỏ bày định của Trương Thị. Vương cười nói:

- Nhà đó thì xứng đôi với thị tỳ nhà ta rồi; trước kia sao lại càn rỡ thế. Nhưng nếu bán nó làm tỳ thiếp ở cửa nhà quan thì được giá gấp đôi hồi mua đấy.

Cô gái vội bước lên nói:

- Thanh Mai hầu hạ con đã lâu, nếu đem bán nó làm hầu thiếp, thì thật không nỡ.

Vương bàn truyền cho nhà họ Trương mang tiền trả nguyên số sẽ gả Thanh Mai cho chàng.

Khi đã về nhà chồng, nàng hầu hạ cha mẹ chồng rất hiếu, chiều chuộng còn hơn cả con trai chiều bố mẹ, làm lụng rất siêng năng, ăn rau cám không lấy làm khổ. Vì thế cả nhà ai cũng yêu kính Thanh Mai. Mai lại làm thêm nghề thêu thùa, bán chạy lắm người mua đợi ở cửa chỉ sợ không mua được. Ðược thêm món tiền, nhà cũng đỡ túng. Nàng lại thường khuyên chàng chớ lo việc nhà mà lỡ việc học, nhà cửa cứ phó mặc cho nàng. Nhân ông chủ đi nhậm chức, nàng sang tiễn A Hỷ, Hỷ trông thấy khóc mà nói:

- Em được toại nguyện rồi, ta cũng không bằng.

Mai đáp:

- Ðược thế này là ai cho em mà dám quên, nhưng cô đừng bảo là không bằng con hầu, e lại giảm tuổi thọ của con hầu đi đấy.

Bèn khóc mà biệt nhau.

Vương đến đất Tấn được nửa năm thì phu nhân chết, quan tài quàn ở trong chùa. Lại hai năm sau, Vương vì tham tang bị cách chức, phải bồi thường hàng vạn, dần dần nghèo túng, không đủ ăn, đầy tớ cũng bỏ đi. Bấy giờ bệnh đậu lan rộng, Vương mắc bệnh rồi chết, chỉ còn một vú già ở với cô con gái; chẳng bao lâu vú già cũng chết nốt. Nàng càng lênh đênh cơ khổ. Có bà cụ hàng xóm khuyên đi lấy chồng, nàng nói:

- Ai chôn cất được cha mẹ tôi, tôi sẽ xin theo.

Bà cụ thương tình tặng cho mấy đấu gạo rồi đi. Nửa tháng sau lại đến nói:

- Tôi đã hết sức giúp nương tử, nhưng việc này khó quá! Người nghèo thì không sao chôn cất được, mà kẻ giàu thì chê cô là con gái của một gia đình sa sút, biết làm thế nào. Có một cách này, chỉ sợ nương tử không theo được thôi.

Nàng hỏi:

- Cách gì?

Nói rằng:

- Ở gần đây có một chàng họ Lý, muốn lấy vợ lẽ; nếu được trông thấy dung nhan thì dầu có bảo tống táng thật linh đình, hền cũng chịu cáng đáng mà không tiếc.

Nàng khóc oà lên, nói:

- Thiếp là con nhà quan, mà phải đi làm lẽ người ta ư?

Bà cụ không nói gì, bỏ đi. Sau đấy, mỗi ngày chỉ được một bữa, gắng sống để chờ xem có ai hỏi không, nhưng ở được nửa năm thì không chịu được nữa. Một hôm bà cụ đến, nàng khóc lóc nói:

- Khốn đốn thế này, vẫn chỉ muốn chết, còn dùng dắng sống tạm bợ đây là vì hai cỗ quan tài còn đó. Nếu đã đâm đầu xuống ngòi xuống rãnh rồi thì ai thu nhặt nắm xương cho cha mẹ? Cho nên nghĩ lại chẳng bằng nghe lời bà vậy.

Bà cụ dẫn Lý đến. Thoáng trông thấy nàng, anh ta thích lắm, tức thì bỏ tiền ra lo việc tống táng, cả hai cỗ quan tài cũng đưa đi, xong rồi mới đón nàng về. Vào nhà chào vợ cả, vợ cả vốn hung hãn, lại cả ghen, lúc đầu Lý cũng chưa dám nói là thiếp, chỉ nói thác là mua tỳ. Ðến khi thấy nàng thì nổi giận đùng đùng, liền vác gậy đuổi thẳng không cho vào nhà. Nàng rũ tóc, nước mắt giàn giụa, không biết tiến thoái đằng nào. Có một ni sư già đi qua, rủ về cùng ở.

Nàng mừng bèn theo về.

Ðến am, nàng vái xin làm lễ cắt tóc, bà sư không cho nói:

- Tôi trông nương tử không phải chịu đày đoạ lâu trong cảnh phong trần. Am đây dưa muối gạo lức, kham khổ cũng đủ no, hẵng cứ tạm ở để đợi thời, thời đến nương tử khắc sẽ đi!

Ở được ít lâu, bọn vô lại trong chợ dòm thấy nàng đẹp, cứ đến đập cửa, buông lời trêu ghẹo làm vui. Bà sư không ngăn được. Nàng kêu khóc toan tự tử. Bà sư đến cầu xin ông nọ ở bộ Lại yết thị nghiêm cấm, lũ thiếu niên ác nghịch kia mới hơi né tránh. Sau đang đêm có kẻ đào tường vào nhà chùa, bà sư kêu lên bộ, bắt được đứa cầm đầu, đưa về quận phạt đòn, mới dần dần được yên.

Lại được hơn một năm, có một công tử thế gia đi qua am thấy nàng, kinh ngạc lắm, ép bà sư dỗ dành nàng, lại đem nhiều tiền đến đút lót cho bà sư. Bà sư mềm mỏng nói rằng:

- Người ấy con nhà trâm anh, không chịu làm lẽ, công tử cứ về đi, rồi thong thả xin bẩm lại.

Lúc y đi rồi, nàng toan uống thuốc độc tự tử, bỗng đêm nằm mộng thấy cha đến, mặt mày đau khổ, nói rằng: Ta không theo con, để con đến nỗi này, ăn năn thì đã muộn rồi, nhưng con hãy khoan, đừng chết vội, ước nguyện của con còn có thể đạt được. Nàng lấy làm lạ. Trời sáng, rửa mặt xong, bà sư trông thấy giật mình nói:

- Trông sắc mặt nương tử, trọc khí đã tiêu hết, tai ương không đáng lo nữa. Phúc sẽ lại đến, đừng quên thân già này nhé.

Nói chưa dứt lời, nghe có tiếng gõ cửa, nàng sợ thất sắc, nghĩ bụng tất là đầy tớ nhà công tử nọ. Bà sư mở cửa, quả thế thực. Bọn đầy tớ xúm lại hỏi việc mưu tính thế nào. Bà sư ngọt ngào đon đả, xin hoãn ba ngày nữa. Chúng thuật lại lời chủ:

- Nếu việc không xong, bắt bà nói thế vào.

Bà sư vâng dạ chúng mới đi. Cô gái đau đớn lắm, lại muốn tự tử, bà sư ngăn lại. Nàng lo rằng ba ngày nữa chúng trở lại sẽ không biết nói thế nào. Bà sư nói:

- Còn thân già này đây, chém giết tôi xin chịu.

Hôm sau, trời vừa trưa thì mưa như trút nước. Bỗng nghe có mấy người đập cổng, réo gọi ồn ào; nàng tưởng lại có biến, khiếp sợ không biết làm thế nào. Bà sư đội mưa ra mở cổng, thấy chiếc kiệu đỗ lại, một đám thị tỳ đỡ một người đẹp bước ra, kẻ hầu người hạ thầy tớ oai vệ, mũ lọng rất lộng lẫy. Kinh ngạc hỏi thăm; đáp rằng:

- Ðây là bà nội tướng quan tư lý tạm vào tránh mưa.

Bà dẫn vào trong điện, chuyển sập mời ngồi; bọn người nhà thị tỳ chạy vào các phòng trai tìm chỗ nghỉ. Vào trong buồng thấy nàng, cho là đẹp, liền chạy ra bẩm với phu nhân.

Một lúc mưa tạnh phu nhân đứng lên xin đi thăm thiền xá trong am. Bà sư bèn đưa vào. Trông thấy cô gái kinh ngạc quá, cứ nhìn chằm chằm, không chớp mắt, nàng cũng nhìn lại rất lâu. Thì ra phu nhân không phải là ai khác, chính là Thanh Mai. Hai người đều khóc nức nở, nhân mới cùng kể lại sau xưa. Mới biết Trương ông đã ốm mà mất. Chàng Trương sau khi hết tang, đỗ liền thi hương, thi hội, được bổ làm quan tư lý. Chàng rước mẹ cùng đi, sau lại dời cả gia quyến đến.

Cô gái than thở nói:

- Hôm nay trông nhau mà sao như một trời một vực!

Mai cười, đáp:

- Cũng may nương tử gặp bước gian truân, chưa lấy ai, chính là trời muốn cho chúng ta sum họp đấy thôi. Nếu không bị mưa cản thì làm gì có cuộc gặp gỡ bất ngờ này? Trong việc này có quỷ thần chứ không phải sức người làm được.

Liền lấy mũ ngọc, áo gấm, giục cô gái thay. Nàng cúi đầu bỡ ngỡ. Bà sư cũng khuyên thêm. Nàng sợ cùng ở chung thì danh không được thuận. Mai nói:

- Danh phận đã có từ trước, thiếp đâu dám quên đức lớn, vả nghĩ chàng Trương đâu phải là người phụ nghĩa? ép thay quần áo rồi từ biệt sư bà mà đi.

Về đến nơi, mẹ con đều mừng. Nàng sụp xuống lạy nói:

- Ngày nay không còn mặt nào dám trông thấy mẹ!

Mẹ cười khuyên giải; nhân mới bàn chọn ngày làm lễ hợp cẩn. Cô gái nói:

- Nếu trong am mà còn đường sống, dù chỉ bằng sợi tơ, thì cũng không theo phu nhân đến đây; ví như còn nghĩ đến tình cũ, thì xin cất cho một túp lều để đặt tấm bồ đoàn niệm Phật, thế là đủ rồi.

Mai cười mà không nói gì. Ðến ngày, ôm các thứ trang sức lộng lẫy, nàng loay hoay không biết là thế nào. Giây lát bỗng nghe tiếng nhạc nổi lên, nàng càng không tự chủ được. Mai sai thị tỳ, u già ép nàng mặc áo rồi xốc tay đỡ đưa ra. Thấy chàng mũ áo đứng vái, nàng bất giác cũng ngơ ngẩn vái theo. Lễ xong, Mai kéo nàng vào động phòng, bảo rằng:

- Ngôi vị này bỏ trống, đợi chị đã lâu rồi.

Rồi lại ngoảnh vào chàng nói đùa:

- Ðêm nay được dịp đền ơn, phải làm cho tròn nhé.

Quay ra toan đi. Cô gái nắm lấy quần. Mai cười nói:

- Ðừng giữ em lại, việc này không thể làm thay nhau được.

Rồi gỡ tay thoát ra.

Thanh Mai đối xử với cô gái rất kính cẩn, không dám giành riêng phần ân ái. Mà cô gái vẫn thẹn thùng không yên tâm. Vì vậy, bà mẹ bắt gọi cùng nhau là phu nhân, nhưng Thanh Mai rốt cục vẫn giữ lễ tỳ thiếp, không dám lơ là.

Ba năm sau, Trương được triệu vào kinh đô, đi qua am cũ của bà sư, đem năm trăm lạng vàng để tạ ơn sư bà; bà sư không nhận, cố ép mới nhận hai trăm lạng để dựng đền đại sĩ và lập bia cho Vương phu nhân. Sau Trương đến làm thị lang. Trình phu nhân sinh được hai trai, một gái. Vương phu nhân sinh được bốn trai, một gái. Trương dâng thư trần tình, hai người đều được phong làm phu nhân

Thạch Thanh Hư

Hinh Vân Phi, người Thuận Thiên, thích đá, thấy đá đẹp, không tiếc tiền mua giá cao. Tinh cờ đánh cá ở sông, có vật vướng vào lưới, lặn xuống lấy thì được một tảng đá bề ngang bảy thước, bốn mặt long lanh, núi non trùng điệp kỳ tú. Hinh mừng lắm, như bắt được của báu. Trở về lấy gỗ đàn hương tía chạm thành cái đế bày ở đầu bàn. Mỗi khi trời sắp mưa thì các lỗ đá đùn mây, nhìn xa như bông đùn kín lỗ hổng.

Có nhà thế hào nọ, đến cửa xin cho xem, đoạn trao ngay cho một đứa đầy tớ khoẻ mạnh vác lấy, quất ngựa đi mất, Hinh không làm thế nào được, chỉ dậm chân uất ức mà thôi. Ðứa đầy tớ vác đá đến bờ sông nghỉ vai ở trên cầu, chợt tuột tay, đá rơi xuống sông. Nhà hào phú giận, lấy roi đánh đầy tớ, rồi bỏ ngay tiền ra, thuê người lặn giỏi, tìm đủ cách mò lên được, rút cuộc không thấy đâu cả. Từ đó,người mò đá ngày ngày kéo đến đầy sông, mà chẳng ai thấy được.

Sau đó, Hinh đến chỗ đá rơi, nhìn dòng sông mà than thở thì thấy nước trong suốt đáy, tảng đá vẫn ở dưới đó. Hinh mừng quá, cởi áo lặn xuống, ôm đá lên. Về nhà rồi không bày ở nhà sảnh nữa, dọn sạch phòng trong, đặt ở đó.

Một hôm, có một ông cụ gõ cửa xin xem đá. Hinh nói thác rằng đã mất đã lâu. Cụ cười mà rằng:

- Ở phòng khách không có sao?

Hinh bèn mời vào phòng khách, để chứng tỏ là không có thực. Vào đến nơi thì rõ ràng tảng đá này ở trên kỳ, ngạc nhiên không biết nói sao.

Ông cụ vỗ vào tảng đá nói rằng:

- Ðây là vật cũ của nhà tôi, mất đã lâu, vẫn còn ở đây à? Nay đã thấy xin cho lại.

Hinh quẫn quá, bèn tranh với ông cụ làm chủ tảng đá.

Ông cụ cười mà hỏi:

- Ðá là của nhà ông, lấy gì làm bằng?

Hinh không trả lời ra sao được. Ông cụ nói:

- Tôi thì biết rõ, trước và sau tảng đá có chín mươi hai lỗ, trong lỗ lớn có năm chữ: Thanh Hư Thiên Thạch Cung .

Hinh xem kỹ, trong lỗ ấy quả có hàng chữ nhỏ như hạt gạo, rán hắt sức nhin mới có thể thấy được; lại đếm lỗ, đúng như số ông cụ nói; Hinh không trả lời được, nhưng cũng cố chấp không chịu đưa. Ông cụ cười mà nói rằng:

- Của nhà ai mà ông đòi làm chủ ư?

Chắp tay vái chào đi ra. Hinh tiễn ra đến ngoài cửa, quay vào thì đá đã biến đâu mất. Hinh vội đuổi theo, thấy ông cụ thủng thỉnh bước đi cũng chưa xa, chạy tới kéo vạt áo mà van xin. Ông cụ nói:

- Lạ chưa, tảng đá bảy thước, há có thể cầm lấy giấu trong tay áo hay sao?

Hinh biết là thần, cố kéo về nhà, quì xuống van xin. Ông cụ bèn hỏi:

- Ðá đó thực là của nhà ông hay là của nhà tôi?

Hinh đáp:

- Quả là của nhà cụ, chỉ xin cụ dứt tình mà cho tôi.

Ông cụ nói:

- Ðã vậy thì đá vẫn ở đó.

Vào đến phòng trong thì đá vẫn nguyên chỗ cũ. Ông cụ nói:

- Của báu trong thiên hạ nên để cho người biết quý . Ðá này có thể tự chọn lấy chủ, tôi cũng mừng. Nhưng nó vội xuất hiện, ra mắt hơi sớm, ma kiếp chưa trừ, tôi thực muốn mang nó đi, đợi ba năm nữa mới đem tặng ông. Nếu muốn giữ nó ngay thì phải giảm tuổi thọ ba năm, nó mới có thể ở mãi với ông được. Ông có bằng lòng không?

Hinh đáp:

- Bằng lòng.

Ông cụ bèn lấy hai ngón tay đặt vào một lỗ đá, thấy đá mềm như bùn, theo ngón tay mà vít kín lại. Lần lượt vít ba lỗ. Ông cụ nói:

- Số lỗ trên đá là tuổi thọ của ông.

Xong rồi từ biệt mà đi. Hinh hết sức giữ lại, ông cụ nhất định từ chối; hỏi họ tên, cũng không nói, rồi đi ngay.

Ðược hơn một năm, Hinh có việc đi vắng, đêm có kẻ trộm vào buồng, chẳng lấy cái gì, chỉ lấy tảng đá mà mang đi. Hinh về tiếc tưởng chết, dò hỏi thuê tìm, tuyệt không ra vết tích. Ðược vài năm, tinh cờ vào chùa Báo Quốc, thấy có người bán đá, thì ra là vật cũ của minh, bèn nhận lấy. Người bán đá không chịu, nhân đó vác đá đến cửa quan.

Quan hỏi:

- Lấy gì làm bằng?

Người bán đá nói đúng số lỗ. Hinh hỏi còn gì khác nữa, người bán đá không nói được. Hinh bèn nói năm chữ trong lỗ, với ba vết ngón tay, lý ngay được tỏ.

Quan toan phạt đánh người bán đá, người ấy khai là mua ở chợ mất hai mươi đồng vàng, bèn tha.

Hinh lấy được đá về, lấy gấm bọc lại, cất vào trong rương, thỉnh thoảng mới lấy ra ngắm nghía một lần, đốt trầm trước rồi mới lấy đá ra.

Có ông thượng thư nọ đem một trăm đồng vàng đến mua. Hinh bảo:

- Dẫu là vạn lạng, cũng không đổi .

Thượng thư nổi giận ngầm lấy việc khác mà hãm hại. Hinh bị bắt, lo cầm bán hết điền sản chạy vạy. Thượng Thư nhờ người bắn tin cho con Hinh là muốn lấy đá. Con thưa với Hinh.

Hinh bằng lòng chết theo đá, không chịu bỏ. Vợ bàn riêng với con, dâng đá cho Thượng Thư. Hinh ra khỏi ngục mới biết, chửi vợ đánh con, nhiều lần toan thắt cổ chết, người nhà đã biết mà cứu thoát. Một đêm nằm mơ thấy một người đàn ông đến, tự xưng là Thạch Thanh Hư, bảo Hinh chớ buồn:

- Chỉ tạm biệt nhau hơn một năm thôi, ngày hai mươi tháng tám sang năm, lúc tờ mờ sáng, có thể đem hai quan tiền đến cửa Hải Ðại chuộc về.

Hinh được mộng, mừng rỡ, ghi cẩn thận ngày tháng. Còn tảng đá ở nhà thượng thư cũng mất vẻ kỳ lạ, không còn đùn mây nữa, lâu dần cũng coi thường. Năm sau thượng thư có tội, bị cách chức rồi chết.

Ðúng ngày hẹn, Hinh đi đến cửa Hải Ðại thì gia nhân quan thượng thư ăn cắp tảng đá đem ra đó, tìm người để bán, nhân đó Hinh bỏ hai quan tiền mua được về.

Về sau, Hinh sống đến tám mươi chín tuổi, tự sắm sửa quan quách, lại dặn con, hễ minh chết thì lấy đá chôn theo. Ðến khi mất, con vâng lời trối, chôn đá vào trong mộ. Ðược độ nửa năm, kẻ trộm đào mộ lấy đá đi. Người con biết nhưng không tìm hỏi ở đâu được. Qua hai năm, cùng đầy tớ đi trên đường, chợt thấy hai người mồ hôi nhễ nhại, chạy theo, ngửa mặt lên không đưa tay vái và nói:

- Hinh tiên sinh, tha cho chúng tôi, hai đứa lấy đá đi chẳng qua bán được bốn lạng bạc mà thôi.

Bèn bắt trói lại, đưa đến quan, quan hỏi tên liền phục tội ngay. Hỏi đến đá, thì nói là bán cho người họ Cung. Lấy đá đến, quan cầm xem rất thích, muốn chiếm, bèn sai cất vào kho. Viên lại vừa nâng tảng đá lên thì bỗng rơi xuống đất, vỡ làm mười mấy mảnh, ai nấy đều thất sắc. Quan cho cùm hai tên trộm, ghép vào tội chết.

Con Hinh nhặt các mảnh đá rồi lại đem chôn vào mộ như cũ.

Công Tôn Hạ

Vùng Bảo Ðịnh có chàng Mỗ, học sinh rường Quốc Học, sắp vào kinh đi lo lót tiền để kiếm chức Huyện Doãn.

Ðang sửa soạn hành trang thì bị ốm, hơn một tháng không dậy được.

Bỗng đứa tiểu đồng vào thưa: Có khách đến.

Mỗ cũng quên cả bệnh, chạy ra đón khách.

Khách ăn mặc sang trọng, thuộc loại người quyền quí.

Mỗ vái chào mấy lượt rồi mời vào nhà, hỏi khách từ đâu tới.

Khách đáp:

- Tôi tên Tôn Công Hạ, môn khách của hoàng tử thứ mười một. Nghe tin ngài chuẩn bị hành trang vào kinh lo chức Huyện Doãn, ngài đã có chí ấy sao không lo ngay chức Thái Thú có hơn không?

Mỗ khiêm tốn từ chối, chỉ nói:

- Tôi tài lực mỏng không dám có ước vọng quá cao.

Khách tình nguyện cố gắng hết sức mình giúp Mỗ, bảo Mỗ hãy chỉ bỏ trước ra nửa số tiền thôi, nếu xong việc, sẽ đến nhậm sở lấy nốt.

Mỗ rất mừng, hỏi kế sách thế nào. Khách trả lời:

Tổng Ðốc, Tuần Phủ đều là bạn rất thân của tôi. Chỉ cần đưa tạm năm nghìn quan là mọi việc xong tất. Trước mắt, ở đất Chân Ðịnh chức Thái Thú đang khuyết, cần phải lo tính ngay.

Mỗ ngại là vị ở ngay tỉnh nhà. Khách cười bảo:

- Ngài khéo lo nghĩ vẩn vơ. Cứ chỉ có tiền là được rồi. Còn ai hỏi đến gỗ tang gỗ tử ấy ở đất Ngô hay đất Việt làm gì.

Mỗ rốt cuộc vẫn trù trừ, ngại rằng việc này hơi trái lẽ thường. Khách bảo:

- Không phải nghi ngờ gì nữa. Tôi xin nói thực với ngài: đây là chức Thành Hoàng ở dưới âm ty bị khuyết. Tuổi thọ của ngài đã hết. Sổ ma đã chấm rồi. Phải thừa dịp này mà xoay xở mới có thể trở thành người quý hiện ở âm phủ được.

Nói rồi lập tức đứng dậy từ biệt. Lại dặn:

- Ngài hãy tự suy tính đi, ba ngày nữa sẽ gặp lại.

Sau đó khách ra cổng, lên ngựa mà đi.

Mỗ bỗng mở mắt ra, vĩnh biệt vợ con, bảo mang tiền để dành của nhà đi mua một lạng thoi vàng giấy, đến nỗi vét hết mặt hàng đó trong quận, rồi đem chất đống giữa sân lẫn với trâu ngựa giấy, cùng các con nộm bằng rơm, đốt suốt đêm ngày, tro cao như núi.

Ba ngày sau khách đến thật. Mỗ đem tiền ra trao. Khách dẫn Mỗ đến ngay công thự. Thấy một vị quan ngồi ở trên điện, bàn sụp lạy.

Quỉ quan hỏi qua tên họ, đoạn khuyên Mỗ những câu như Thanh liêm, cẩn thận...ý rồi lấy văn bằng ra, gọi chàng tới trước án mà trao.

Mỗ rập đầu, ra khỏi cổng thự. Tự nghĩ: giám sinh vốn là chân thấp hèn, nếu không có xe cộ, quần áo rực rỡ thì không đủ để ra oai với bọn lại thuộc. Do đó, chàng sắm thêm xe, ngựa. Lại sai bọn lính ma đem chiếc xe kết hoa về đón người thiếp yêu của mình.

Cắt đặt vừa xong, thì đoàn nghi trượng từ Chân Ðịnh đã tới. Suốt đoạn đường hơn một dặm, kẻ đón người đưa, ồn ào tấp nập. Chàng thấy đắc ý lắm.

Bỗng toán đi trước ngừng chiêng trống, dẹp cờ quạt. Ðang khi ngơ ngác sợ hãi, thấy những người cưỡi ngựa đều nhảy cả xuống, phủ phục ở bên đường. Người chỉ thấp độ một thước, ngựa nhỏ bằng con hồ ly.

Người đi trước xe sợ hãi nói:

- Quan Ðế đến rồi.

Mỗ sợ quá, xuống xe phủ phục dưới đất. Từ xa trông thấy vị Ðế quân cùng bốn năm kỵ sĩ, lỏng cương từ từ đi tới. Bộ râu ngài tốt trùm cả má, không giống hẳn với hình dáng trong tranh ngưòi ta thường vẽ, nhưng thần thái thì uy nghi dũng mãnh. Mắt dài gần tới mang tai.

Quan Ðế ngồi trên ngựa hỏi:

- Quan nào đây?

Người đi theo đáp:

- Viên Thái Thú Chân Ðịnh.

Ðế quân nói:

- Ru rú một quận con con sao dám phô trương bề thế như vậy?

Mỗ nghe thấy, giật mình, sợ rợn gai ốc, co rúm người lại, tự thấy mình chỉ còn như đứa trẻ lên sáu bảy tuổi.

Ðế quân bảo dậy, đi bộ theo sau chân ngựa. Bên cạnh đường có toà cung điện, đế quân vào đó, ngồi ngoảnh mặt về hướng Nam, sai lấy bút giấy, đưa cho bảo tự ghi họ tên, quê quán vào đó.

Mỗ viết rồi trình lên. Ðế quân xem xong nổi giận nói:

Ðây là đứa bán hàng ở kẻ chợ, sao có thể giao cho trị dân được.

Lại sai xét trong sổ chép công tội. Bên cạnh đó là một người quì tâu, không rõ nói câu gì. Ðế quân lớn tiếng bảo:

- Cầu cạnh tiến thân là tội nhỏ, bán chác quan tước mới là tội nặng.

Bỗng thấy vị thần Kim Giáp cầm lấy dây xích ra đi ngay. Về phần Mỗ, có hai người bắt ra, lột hết mũ áo đánh cho năm chục roi, cặp mông hầu như rụng hết thịt, đoạn tống ra khỏi cổng.

Nhìn khắp bốn phía, xe ngựa đã sạch không. Mỗ đau đớn không thể bước đi được, đành nằm thở trên vạt cỏ. Nhận kỹ chỗ mình nằm thì thấy cách nhà không xa lắm. May sao thân nhẹ bỗng như tàu lá, nên mất một ngày một đêm mới bò về được đến nhà.

Thốt nhiên, chàng bừng dậy như đang mơ chợt tỉnh, rên rỉ trên giường. Người nhà xúm lại hỏi han. Mỗ chỉ kêu rằng bắp đùi đau lắm. Thì ra chàng bị mê man như chết đã bảy ngày rồi, đến lúc này mới tỉnh lại. Chàng nói:

- Cô Lân đâu, sao không tới?

Ðó là tên tự người vợ bé của Mỗ. Trước đây, cô Lân đang ngồi trò chuyện, bỗng nhiên nói:

- Ông ấy đã làm quan Thái thú quận Chân Ðịnh, sai lính về đây đón ta đấy.

Nói rồi trở vào buồng trang điểm thật đẹp, trang điểm xong thì chết, cũng mới qua một đêm thôi.

Nghe người nhà kể lại sự lạ đó, Mỗ hối hận đấm ngực, bảo để thi hài lại đó, không được chôn, hy vọng cô ta sẽ tỉnh lại. Nhưng qua mấy ngày vẫn không thấy tăm hơi gì, đành phải mai táng.

Bệnh của Mỗ đỡ dần, nhưng vết thương ở đùi lại rất nguy kịch, nửa năm mới dậy được. Chàng thường tự bảo:

- Tiền của để lo chức quan đã hao phí hết, lại chịu hình phạt tai ác dưới âm ty. Những thiệt thòi đó còn có thể chịu được, duy người thiếp yêu không biết đem đi đâu mất, thì những lúc canh khuya, chịu sao cho nổi

Phòng Văn Thục

Ðặng Thành Ðức người phủ Khai Phong du học đến đất Duyện trọ trong một ngôi chùa hư nát, chép thuê cho người làm sổ đinh trong vùng.

Cuối năm, đám nha dịch ai về nhà nấy, riêng Ðặng ở lại, thổi cơm ăn trong chùa.

Tờ mờ sáng, một thiếu phụ nhan sắc tuyệt đẹp gõ cửa đi vào, đến trước bàn thờ Phật đốt hương, lễ bái rồi ra.

Hôm sau, lại cũng làm như vậy.

Ðang giữa đêm, Ðặng dậy khêu đèn, vì có việc cần làm, thì nàng đã đến từ sớm. Ðặng hỏi:

- Sao đến sớm thế?

Nàng đáp:

- Chờ sáng tỏ thì người tới lộn xộn, không bằng lúc đêm hôm. Ðến sớm quá, lại sợ quấy rầy giấc ngủ ngon lành của anh. Vừa trông thấy đèn sáng, biết anh đã dậy, nên tôi đến thôi.

Chàng nói đùa:

- Chùa không có người, ở lại mà nghỉ cho đỡ đi lại vất vả.

Thiếu phụ cười, bảo:

- Chùa không có người, thì dễ anh là ma chăng?

Ðặng xem chừng có thể sàm sỡ được, đợi lễ bái xong, kéo nàng ngồi lại, đòi giao hoan. Nàng nói:

- Trước bàn thờ Phật, làm thế sao được? Tấm thân đã chẳng có chốn nương náu lại còn mơ tưởng vẩn vơ.

Ðặng cứ nài nỉ mãi không thôi. Nàng nói:

- Tại một làng kia, cách đây ba mươi dặm, có sáu bảy trẻ em, mời thầy dạy học mãi chưa được. Chàng hãy tới đó, hỏi thăm nhà ông Lý Tiền Xuyên, có thể được đấy. Hãy nói dối là có mang vợ đi theo, nhờ họ thu xếp cho một gian nhà. Thiếp sẽ thổi cơm nấu nước cho chàng. Ấy mới là kế lâu dài.

Ðặng sợ việc bại lộ sẽ mang tội. Nàng bảo:

- Không ngại, thiếp họ Phòng, tên là Văn Thục, tịnh không có ai thân thuộc, quanh năm ở nhờ nhà ông cậu, có ai biết đâu.

Ðặng sau khi từ giã nàng, liền tới ngay làng nọ, yết kiến Lý Tiền Xuyên, quả nhiên bàn tính xong xuôi, hẹn sẽ mang gia quyến đến ngay sau Tết.

Chàng quay về chùa báo tin cho thiếu phụ biết. Nàng hẹn sẽ đứng chờ ở giữa đường. Ðặng bèn từ biệt bạn bè, thuê ngựa mà đi. Quả nhiên đến nửa đường thì gặp nàng, bèn xuống ngựa, trao dây cương cho nàng cầm, dắt ngựa cùng đi. Tới phòng học, cùng sống chung rất vui vẻ, tương đắc.

Ở với nhau sáu bảy năm, rõ ràng cầm sắc hoà hợp, cũng không có ai theo dõi bắt bớ gì.

Nàng bỗng sinh được một đứa con trai.

Ðặng vì vợ ở nhà không sinh để, nay có con thì mừng quá, đặt tên là Duyên Sinh. Thiếu phụ bảo:

- Tự kết đôi, chung quy cũng khó thành chuyện thật. Thiếp sắp từ giã chàng ra đi, lại sinh ra cái của nợ này, chẳng biết tính sao đây!

Ðặng bảo:

- Ðang tính nếu số mình khấm khá, giành dụm được ít tiền sẽ cùng nàng trốn về quê. Sao lại thốt ra như vậy?

Nàng đáp:

- Cảm ơn! Cảm ơn! Tôi không thể so vai rụt cổ cười lấy lòng để mong chị cả bao dung được. Làm vú em cho người, trẻ nó khóc oe oe khó mà chịu nổi.

Ðặng thanh minh rằng vợ mình không ghen. Thiếu phụ cũng chả nói gì.

Hơn một tháng sau, Ðặng giải tán lớp học, bàn với con trai Lý Tiền Xuyên cùng xuất lực đi buôn. Chàng nói với nàng:

- Tôi nghĩ làm thầy giáo mở lớp dạy học chắc không bao giờ giàu có được. Nay tập đi buôn còn mong sẽ có ngày khá giả về quê.

Nàng cũng không trả lời.

Ðến tối, bỗng thiếu phụ bế con dậy. Ðặng hỏi:

- Làm gì thế?

- Thiếp muốn đi.

Ðặng vội trở dậy, chạy theo để hỏi. Nhưng cửa vẫn chưa mở, mà thiếu phụ đã biến mất. Ðặng sợ hãi hết sức, mới biết rằng cô ta không phải là người. Vì hình tích của nàng cũng đáng nghi nên Ðặng không dám nói với ai, chỉ thác cớ là vợ mình về thăm bố mẹ.

Trước đây, lúc Ðặng rời nhà ra đi, có hẹn với người vợ họ Lâu rằng cuối năm sẽ về. Thế rồi mấy năm không có tin tức gì, lại nghe đồn chàng đã chết. Người anh vợ nghĩ rằng em mình không có con, muốn cho em gái tái giá. Lâu thị hẹn đợi ba năm nữa. Hàng ngày nàng chỉ vò võ phòng không, làm nghề kéo sợi để sinh nhai. Một hôm, trời đã nhá nhem, nàng ra đóng cổng ngoài, thì gặp một thiếu phụ xộc vào, trong lòng ẵm một đứa bé đang nằm trong tã, nói rằng:

- Tôi từ nhà mẹ đẻ trở về, đến đây vừa tối. Ðược biết chị ở một mình, nên xin nghỉ nhờ một đêm.

Lâu Thị mời vào. Ðến nhà trong, nhìn kỹ mới biết là một người đẹp, tuổi trạc ngoài hai mươi làm mừng, để nằm chung giường và đùa với em bé. Thấy đứa bé trắng như hòn bột, bèn than rằng:

- Mụ goá này lại không có được một mụn con như vậy.

Cô gái bảo:

- Tôi đang hiềm vì nỗi nuôi nó phiền hà quá. Muốn cho quách chị làm con nuôi để nối dõi về sau, chị thấy thế nào?

Lâu Thị đáp:

- Chẳng nói gì đến chuyện cô không nỡ lòng dứt tình máu mủ với cháu, dù có thế thật, tôi cũng không có sữa đâu mà nuôi cháu.

Cô gái nói:

- Có khó gì đâu. Ngày sinh cháu, tôi cũng lo mất sữa, chỉ uống nửa liều thuốc là công hiệu ngay. Nay vẫn còn một nửa liều ở đây, xin để biếu chị.

Bèn lấy ra một gói đặt trước cửa sổ.

Lâu thị cũng ừ ào cho qua, chưa nghĩ ngay được có điều gì khác lạ đã ngủ mất. Khi tỉnh giấc, gọi lên, thì đứa trẻ vẫn còn đó, mà cô gái đã bỏ đi rồi. Nàng sợ quá. Ðến nửa buổi, đứa bé đói kêu khóc. Lâu thị bất đắc dĩ phải uống thử tễ thuốc kia. Chốc lát, có sữa xuống cho đứa bé bú.

Hơn một năm sau, đứa bé dần dần bụ bẫm, học nói bi bô. Nàng yêu mến chẳng khác gì con mình đẻ ra. Do đó, định cải giá mới thôi hẳn. Chỉ khốn nỗi từ sáng sớm đã trở dậy bế con, không làm ăn được gì, nên ngày càng túng quẫn.

Một hôm, cô gái bỗng lại tìm đến. Sợ cô ta đòi lại con. Lâu thị trước hết trách ngay cái tội ra đi không nói với mình, rồi mới kể đến nỗi khó nhọc nuôi nấng đứa bé. Cô gái cười:

- Chị kêu ca khó nhọc để tôi không đòi con nữa chứ gì?

Bàn vẫy gọi đứa bé. Nó khóc, sà vào lòng Lâu thị.

Cô gái nói:

- Con nghé con không chịu nhận mẹ nó nữa rồi! Của này dẫu có trăm lạng vàng cũng không thể đổi được. Hãy đem tiền ra đây ta sẽ làm khoán ước hẳn hoi.

Lâu thị tưởng nói thật mặt đỏ bừng. Cô gái cười:

- Chị chớ lo. Em lại đây chính vì cháu đấy! Sau khi ra đi, lo chị không có gì nuôi cháu, nên tìm đủ mọi cách dành dụm được hơn mười đồng vàng đem tới đây.

Bèn trao vàng cho Lâu. Lâu thị sợ rằng nàng giao tiền xong thì sẽ có cớ để bắt con lại, nên nhất quyết từ chối. Cô gái đặt số vàng giữa giường, ra cửa đi thẳng.

Nàng bế con theo ra, thì đi đã xa, gọi cũng không ngoái lại. Ngờ rằng có ác , nhưng được số vàng đem buôn bán kiếm lời, cả nhà cũng no đủ.

Ba năm sau, Ðặng buôn bán dư dật, sắm sửa hành trang trở về nhà. Ðang truyện trò an ủi vợ, Ðặng thấy có đứa bé, hỏi con ai, vợ kể lại duyên do. Hỏi:

- Tên là gì?

- Mẹ nó gọi là Duyên Sinh, thiếp vẫn giữ y tên như thế.

Chàng sửng sốt bảo:

- Thế thì chính nó là con ta đấy.

Lâu hỏi ngày giờ nàng ra đi thì đúng vào đêm thiếu phụ bế con đến nhà. Ðặng bà lần lượt kể lại những chuyện giữa mình với Phòng Văn Thục. Vợ chồng càng thêm khuây khoả, vui mừng. Còn mong cô gái có dịp trở lại nhưng rốt cuộc vẫn biệt tăm.

Tiểu Thu

Quan Thái Thường họ Vương, người đất Việt, lúc còn trái đào, ban ngày nằm ngủ trên sập. Bỗng trời tối sầm, sấm sét nổi lên ầm ầm, một vật gì to hơn con mèo đến nằm phục bên cạnh mình, quanh quẩn mãi không rời. Một lúc trời quang tạnh, con vật liền bỏ đi. Nhìn xem, không phải là mèo, mới sợ, gọi anh ở buồng bên, anh nghe thấy, mừng nói:

- Em tất sẽ hiển quý to. Ðấy là giống hồ đến tránh sấm sét đó.

Sau quả nhiên tuổi trẻ đỗ tiến sĩ, rồi từ huyện lệnh vào kinh là thị ngự. Sinh được một trai là Nguyên Phong, rất mực ngây ngô, mười sáu tuổi vẫn chưa biết thế nào là đực cái, vì thế mà người quanh vùng không ai gả con cho. Vương lo lắm.

Chợt có người đàn bà đưa một cô gái đến nhà, tự xin gả cho Nguyên Phong. Trông người con gái, thấy nhoẻn cười tươi xinh thật là phẩm tiên. Vương mừng, hỏi họ tên. Tự nói là họ Ngu, con gái tên Tiểu Thu, tuổi vừa đôi tám. Bèn đến tiền sính lễ, nói:

- Trước đây, nó ở với tôi, rau cháo không đủ no, nay một sớm được gởi thân chốn nhà cao cửa rộng có kẻ hầu người hạ, thừa miếng ngon của lạ, nó được vừa mà tôi cũng thỏa nguyện, có phải bán rau đâu mà nói giá!

Phu nhân mừng lắm, tiếp đãi rất hậu. Người đàn bà liền bảo cô gái lạy Vương và phu nhân, dặn rằng:

- Ðây là bố chồng, mẹ chồng của mày, phải hầu hạ cẩn thận. Ta vội lắm, phải đi, vài ba hôm nữa sẽ trở lại.

Vương sai đầy tớ thắng ngựa đưa về. Người đàn bà nói:

- Làng tôi không xa, không dám phiền bày vẽ.

Bèn ra cửa đi.

Tiểu Thu cũng không có vẻ buồn bã quyến luyến, liền mở hòm lấy đồ trang sức ra.

Phu nhân cũng yêu thích cô gái lắm.

Mấy hôm sau, người đàn bà không đến. Hỏi quê quán, cô gái cũng ngớ ngẩn, không nói rõ được đường sá thế nào. Bèn sắp đặt cho một căn nhà riêng, cho vợ chồng làm lễ thành hôn. Họ hàng nghe thấy Vương vơ quàng con nhà bần tiện làm dâu ai cũng chê cười. Khi trông thấy cô gái thì đều kinh ngạc, những lời bàn tán từ đó mới thôi.

Cô gái lại rất thông minh, biết dò đón ý tứ mừng giận của bố mẹ chồng. Vợ chồng Vương yêu quý con dâu quá thói thường, lại lo ngay ngáy chỉ sợ vợ nó chê con trai mình ngây; thế mà cô gái vẫn một mực vui cười, không lấy thế làm điều. Chỉ có cái hay đùa; lấy vải khâu làm quả cầu, đá chơi; đi đôi hài da nhỏ, đá quả cầu xa đến vài chục bước rồi đánh lừa công tử chạy ra nhặt; công tử và thị tỳ thường toát mồ hôi chạy theo.

Một hôm, Vương tình cờ đi qua, quả cầu bỗng bay vụt đến, trúng ngay vào mặt. Cô gái và thị tỳ chạy mất, còn công tử vẫn nhảy nhót đuổi theo. Vương nổi giận, lấy đá ném, chàng mới lăn ra mà khóc.

Vương đem chuyện về kể với phu nhân, phu nhân sang mắng cô gái, cô gái cúi mặt cười tủm, lấy tay xoa mép giường. Phu nhân về rồi, lại đùa nghịch như trước, lấy phấn trát vào mặt công tử loang lổ như quỷ.

Phu nhân trông thấy, giận lắm, gọi đến mắng thậm tệ.

Cô gái dựa vào ghế, mâm mê giải lưng, không sợ, cũng không nói năng gì.

Phu nhân không làm thế nào được, nhân lấy roi đánh cậu con.

Nguyên Phong kêu ầm lên, cô gái mới biến sắc, quỳ xuống xin tha.

Phu nhân nguôi ngay cơn giận, vứt roi trở về.

Cô gái vừa cười, vừa lôi công tử vào nhà, rũ bụi ở quần áo, lau nước mắt, xoa những vết roi đòn, lấy quả táo và hạt dẻ cho ăn. Công tử bèn thôi khóc, lại vui ngay. Cô gái đóng cánh cửa thông ra sân, lấy mũ áo thắng bộ cho công tử đóng vai Bá Vương, làm người sa mạc, còn mình thì trang điểm, bó lưng lại, rồi súng sính múa điệu 'Dưới Trướng' . Hoặc có khi lấy lông đuôi chim trĩ, cài vào mái tóc, gẩy đàn tỳ bà, tiếng tình tang réo rắt mãi; cười vang cả nhà; lâu ngày coi là thường.

Vương thấy con mình ngây, không nỡ trách dâu, dù thoảng nghe thấy cũng bỏ qua.

Cùng ngõ, có một viên quan cấp gián họ Vương, ở cách nhau hơn mười nhà, nhưng vốn không ưa nhau. Bấy giờ, gặp lúc triều đình ba năm xét công các quan lại. Cấp gián ghen Vương được giữ ấn đạo Hà Nam, định bụng làm hại. Vương biết mưu hắn, lo nghĩ mà không có kế gì. Một tối đi nằm sớm. Cô gái đội mũ đeo đai đóng giả làm Tể Tướng, cắt tơ trắng làm râu rậm, lại cho hai người thị tỳ ăn mặc giả làm quan hầu, rồi ngầm lấy ngựa mà cưỡi, nói đùa rằng đến thăm Vương tiên sinh.

Ruổi ngựa đến cổng nhà Cấp gián tức thì lại lấy roi đánh người theo hầu, nói rằng:

- Ta đến thăm Thị ngự họ Vương chớ đâu có đến thăm Cấp gián họ Vương!

Quay ngựa mà về. Ðến cổng nhà, người canh cổng ngỡ là thật, chạy vào báo Vương.

Vương vội dậy ra nghênh tiếp, mới biết là con dâu đùa. Giận lắm, bảo với phu nhân:

- Người ta đương rình từng kẽ hở của mình, mà mình lại đem cái xấu xa trong phòng khuê đến tận cổng nhà người ta mà tâu thì tai họa đến nơi rồi!

Phu nhân giận, chạy sang nhà cô gái mắng thậm tệ, cô gái chỉ ngớ ngẩn cười, chẳng cãi lại câu nào. Ðánh không nỡ mà đuổi thì không cửa không nhà, hai vợ chồng buồn bực suốt đêm không ngủ.

Thời bấy giờ, quan Tể Tướng đương triều rất hách, nghi vệ, phong thái, xiêm áo, quan hầu so với những kẻ giả trang của cô gái thì không khác chút gì.

Vương cấp gián cũng nhầm, tưởng là thật; Mấy lần sai người đến tận cửa nhà Vương dò, mãi đến nửa đêm mà chưa thấy khách ra, ngờ rằng Tể Tướng với Vương mưu tính chuyện cơ mật.

Hôm sau vào chầu sớm, gặp mặt hỏi rằng:

- Ðêm qua Tướng công đến nhà ngài đấy ư?

Vương ngỡ là hắn diễu mình, chỉ đỏ mặt dạ, không nói thêm nữa. Cấp gián càng nghi, không dám mưu hại nữa, mà từ đó càng cố kết giao lấy lòng với Vương, Vương dò biết sự tình, mừng thầm, nhưng vẫn dặn ngầm phu nhân khuyên cô gái sửa đổi những việc làm trước. Cô gái cười xin vâng.

Hơn một năm sau, Tể Tướng bị bãi. Nhân có người viết thư riêng cho Vương, lại gửi nhầm vào nhà Cấp gián. Cấp gián mừng lắm. Trước hãy nhờ người quen biết Vương đến hỏi mượn một vạn lạng vàng. Vương từ chối. Cấp gián thân hành đến nhà, Vương tìm khăn áo, mãi cũng không thấy. Cấp gián đợi lâu, giận Vương xược với mình, bực tức định quay ra. Bỗng thấy công tử, áo cổn mũ miện, có người con gái từ trong cửa đẩy ra. Cấp gián hãi quá, đoạn rồi lại cười và vỗ về công tử, lột lấy áo mão của chàng cuốn laị mang đi.

Vương vội ra, thì khách đã đi xa; nghe kể duyên do, sợ mặt nhợt như đất thó, khóc oà lên mà rằng:

- Ðây là họa nàng dâu đây. Bất nhật sẽ giết cả họ nhà ta thôi!

Liền cùng phu nhân vác gậy chạy sang. Cô gái đã biết trước, đóng chặt cửa, tha hồ cho chửi mắng.

Vương giận, lấy búa phá cửa. Cô gái ở trong nhà mỉm cười nói:

- Thầy chớ giận. Có con dâu ở đây, đao kiếm búa rìu con dâu cũng xin chịu, quyết không để phiền luỵ đến thầy mẹ. Thầy làm thế là muốn giết dâu để bịt miệng nhân chứng ư?

Vương bàn thôi.

Cấp gián về, quả dâng sớ tâu Vương mưu phản, đem mũ miện áo cổn ra làm bằng. Chúa thượng giật mình, xét nghiệm ra thì tua mũ miện làm bằng lõi cây cao lương, cây bố, áo bào khâu bằng vải nát lấy ở khăn bao vàng.

Vua giận Cấp gián vu cáo, lại cho triệu Nguyên Phong đến, thì thấy dáng điệu ngây ngô lộ rõ, mới phì cười nói:

- Thế này mà cũng làm vua được ư?

Bàn giao việc cho Pháp tì xét. Cấp gián lại kiện nhà Vương có yêu quái. Pháp tì tra hỏi nô bộc trong nhà, đều nói không có ai, chỉ có nàng dâu điên và anh con trai ngây, suốt ngày cười đùa. Hàng xóm láng giềng cũng không khai gì khác. Bấy giờ án mới định; cấp gián bị xung làm lính ở Vân Nam.

Vương từ đấy mới biết cô gái là kỳ dị, lại thấy mẹ nàng lâu không đến, ngờ không phải là người trần. Bảo phu nhân dò, nàng chỉ cười không nói. Hỏi gạn mãi thì bưng miệng đáp:

- Con là con gái Ngọc Hoàng, mẹ không biết ư?

Không bao lâu, Vương được thăng chức Kinh Khanh. Ngoài năm mươi tuổi vẫn lo không có cháu. Cô gái ăn ở đã ba năm mà đêm đêm vẫn nằm riêng, hình như chưa có sự chung chạ gì. Phu nhân sai khiêng sập đi, dặn công tử nằm chung với vợ. Ðược vài hôm, công tử nói với mẹ:

- Mượn sập của con mang đi, sao ngang bướng không mang trả? Tiểu Thu cứ đêm đêm gác chân lên bụng, thở chả được, lại quen tay, cứ cấu vào đùi người ta nữa!

Con hầu, vú ở , không ai nhịn được cười; phu nhân nạt, phát cho mấy cái, bảo đi.

Một hôm cô gái tắm ở trong buồng, công tử trông thấy đòi tắm chung, cô gái bật cười ngăn lại, dỗ bảo đợi một lúc. Ra rồi nàng mới thay nước nóng đổ vào vại, cởi quần áo của chàng ra, cùng thị tỳ đỡ vào. Công tử cảm thấy hơi nóng ngột ngạt hét to lên đòi ra; cô gái không nghe, lấy chăn chùm lên. Một lát, không thấy kêu nữa, mở ra xem thì đã tắt thở. Nàng vẫn cười nói thản nhiên, không sợ, kéo ra đặt lên giường, lau khô mình mẩy, đắp thêm chăn cho.

Phu nhân nghe thấy, vừa khóc vừa chạy vào mắng:

- Con điên kia, sao giết con tao?

Cô gái nhoẻn cười đáp:

- Con ngây như thế chẳng thà không có.

Phu nhân càng giận, lấy đầu húc cô gái, bọn thị tỳ xô vào kéo ra khuyên can. Ðương lúc ồn ào, một con thị tỳ chạy đến bảo:

- Công tử rên được rồi!

Phu nhân thôi khóc, sờ vào mình con thì thấy hơi thở nhỏ nhẹ mà mồ hôi ra như tắm, ướt cả chăn chiếu. Một lát, mồ hôi không chảy nữa, bỗng mở mắt trông bốn bên, nhìn khắp gia nhân như không quen ai cả, nói:

- Bây giờ nhớ lại những việc trước, cứ như nằm mộng! Sao vậy nhỉ?

Phu nhân nghe câu nói không có vẻ ngây, lấy làm lạ lắm, dắt về thăm bố. Hỏi thử mấy lần, quả không ngây. Mừng rỡ như bắt được của báu. Ðến tối sai khiêng trả sập về chỗ cũ, sắp sửa chăn gối để xem sao.

Công tử vào buồng, đuổi hắt thị tỳ đi. Sáng ra, ngó xem thì sập vẫn bỏ không. Từ đấy, không thấy ngây và điên nữa, mà sắc cầm hoà hợp quấn quít như hình với bóng.

Hơn một năm. Vương lại bị bè đảng của Cấp gián đàn hặc, đòi bãi chức, nên quan trên cũng khiển trách. Trước kia quan Trung Thừa Quảng Tây có tặng Vương một bình ngọc, giá đáng nghìn vàng, bấy giờ định đem ra đút lót để gỡ tội. Cô gái cũng thích, cầm xem chơi, bỗng tuột tay rơi vỡ, xấu hổ, chạy đến tự thú. Vợ chồng Vương đang buồn nghe về nỗi bị người dèm báng đòi cách quan, nghe thế giận lắm, cùng nhiếc mắng thậm tệ.

Nàng trỗi dậy đi ra, nói với công tử:

- Tôi ở nhà anh, những cái bảo toàn được không phải chỉ một cái bình, sao không nể mặt nhau một chút? Nói thực với anh: tôi không phải là người. Vì mẹ tôi gặp nạn sấm sét, ơn sâu được thầy che chở, lại vì đôi ta có duyên phận năm năm với nhau, cho nên tôi đến đây để đền ơn, và cũng để cùng anh trọn nguyền đấy thôi. Thân tôi bị nhiếc mắng đã nhiều, nhổ tóc mà đếm cũng không xuể, sỡ dĩ không đi ngay là vì cái duyên năm năm chưa trọn. Bây giờ thì làm sao còn nán lại được nữa.

Ðọan hầm hầm bước ra. Ðuổi theo thì đã biến mất. Vương ngẩn người ra, hối hận đã không kịp nữa. Công tử vào trong nhà, nhìn phấn thừa, thoa cũ, khóc lóc muốn chết, ăn ngủ không ngon, ngày càng gầy mòn héo hắt. Vương lo lắm, vội toan cưới vợ khác cho con để giải phiền, mà công tử thì không vui, chỉ tìm thợ vẽ giỏi họa tranh Tiểu Thu, ngày đêm thếp hương khấn vái.

Gần hai năm sau, tình cờ có việc từ làng khác về. Trăng sáng vằng vặc. Ngoài thôn vốn có một khu vườn cảnh của nhà Vương; công tử vừa cưỡi ngựa đi qua bên ngoài tường, bỗng nghe có tiếng cười, liền dừng cương, sai đầy tớ nắm hàm thiếc rồi đứng lên trên yên trông vào, thì thấy hai người con gái đang chơi đùa trong đó. Vì bóng trăng bị mây phủ mờ mờ, không trông rõ lắm. Chỉ nghe một cô áo xanh nói:

- Con ranh này, phải đuổi ra ngoài cổng mới được!

Một cô áo đỏ nói:

- Mày đang ở ngay trong sân viện nhà tao, lại còn định đuổi ai?

Cô áo xanh nói:

- Con ranh, không biết thẹn. Làm vợ không đắt, bị người ta tống về, lại còn nhận vơ sản nghiệp của người ư?

Cô áo đỏ nói:

- Chẳng hơn cái đứa đến già vẫn không ai thèm ngó đến!

Nghe giọng nói giống hệt Tiểu Thu, công tử vội cất tiếng gọi to. Cô áo xanh bước đi, nói:

- Tao không cãi vã với mày nữa, đức ông chồng nhà mày đã đến kia kìa.

Ðọan rồi cô áo đỏ đi tới, quả là Tiểu Thu. Công tử mừng lắm. Cô gái bảo trèo lên tường để mình đỡ xuống, nói:

- Hai năm không thấy mặt mà xương gầy còn một nắm rồi!

Công tử cầm tay khóc, kể nỗi nhớ nhung. Cô gái nói:

- Thiếp cũng biết thế, nhưng không còn mặt nào trông thấy người nhà được nữa. Hôm nay cùng chị cả chơi đùa, nào ngờ lại gặp nhau ở đây, mới biết duyên lứa trước không thể tránh được.

Mời cùng về, nàng không nghe; xin nàng ở lại trong vườn thì bằng lòng. Công tử bèn sai đầy tớ chạy về thưa với phu nhân. Phu nhân giật mình ngồi kiệu đến, mở khóa vào. Cô gái chạy đến, sụp xuống lạy. Phu nhân nắm lấy cánh tay nâng dậy, chảy nước mắt nhận hết lỗi xưa, hồ như không thể dung thứ cho mình nói:

- Nếu con không chấp nhận chuyện cũ thì xin hãy cùng về cho mẹ vui tuổi già.

Nàng đáp rằng không được, lời lẽ quả quyết. Phu nhân lo ngôi đình Tể hoang vắng, định cho nhìêu người đến hầu hạ. Cô gái cười nói:

- Con không muốn gặp ai cả, duy chỉ có hai đứa thị tỳ ngày trước, sớm tối theo con, không thể không quyến luyến chúng. Ngoài ra chỉ xin một người lão bộc trông coi cổng, còn thì không cần gì nữa.

Phu nhân thảy theo như lời nàng; lại nói thác đi rằng công tử dưỡng bệnh trong vườn, rồi hàng ngày mang thức ăn vật dụng ra mà thôi.

Cô gái thường khuyên công tử lấy vợ khác, công tử không nghe; hơn một năm sau, sắc mặt, tiếng nói của nàng dần dần đổi khác, lấy bức vẽ ra, rõ ràng là hai người. Lấy làm lạ. Cô gái nói:

- Trông thiếp bây giờ có đẹp như ngày xưa nữa không?

Công tử đáp:

- Bây giờ thì vẫn đẹp, nhưng so với trước thì hình như không bằng!

Cô gái nói:

- Nghĩa là thiếp đã già rồi!

Công tử nói:

- Người ngoài hai mươi, làm gì lại già ngay được!

Cô gái cười, đốt bức vẽ đi, giật lại thì đã cháy thành tro. Một hôm nàng nói với công tử:

- Ngày trước khi còn ở nhà, mẹ chàng thường bảo thiếp đến chết cũng không làm kén được. Bây giờ thì thầy mẹ đã già, chàng lại là con một, thiếp thực không sinh nở được, sợ nhỡ việc nối dõi của chàng! Xin lấy vợ về nhà, sớm tối hầu hạ thầy mẹ, chàng đi lại cả hai nơi, cũng không có gì là không tiện.

Công tử bằng lòng, nạp sính lễ ở nhà quan Thái sử họ Chung. Gần đến ngày cưới, nàng tự khâu áo giày cho cô dâu, rồi đưa về chỗ phu nhân.

Ðến khi cô dâu vào cổng thì tiếng nói, nét mặt, cử chỉ không khác gì Tiểu Thu chút nào. Chàng lấy làm lạ lắm. Trở lại khu vườn cảnh thì cô gái đã đi đâu không biết. Hỏi thị tỳ, thị tỳ đưa ra một chiếc khăn hồng, nói:

- Nương tử tạm về thăm bên ngọai, để lại vật này cho công tử.

Mở khăn, thấy có buộc cái quyết bằng ngọc , bụng đã biết nàng không trở lại nữa, bàn đem cả thị tỳ cùng về. Tuy giây lát không quên được Tiểu Thu nhưng may mà đối diện với vợ mới cũng như trông thấy người xưa. Mới chợt hiểu rằng cái duyên với cô gái họ Chung, Tiểu Thu đã dự biết, nên thay đổi dáng mặt của nàng trước, để khuây khoả nỗi nhớ của chàng ngày sau.

Ðảo Tiên

Vương Miễn tên chữ là Mẫn Trai, người Linh Sơn có văn tài, nhiều lần đứng đầu trường văn, tâm khá kiêu, hay trách mắng, nhiều người bị nhục. Một hôm tình cờ gặp một đạo sĩ, nhìn Vươm

Tướng ông cực quý nhưng bị nghiệp khinh bạc chiết trừ gần hết rồi. Trí tuệ như ông, nếu biết sửa mình mà tu đạo thì còn có thể được vào sổ tiêng

Vương cười nhạt:

- Chuyện phúc trạch thực tình còn chưa biết, trên đời này há lại có tiên sao?

Ðạo sĩ nói:

- Sao ông nhìn thấp thế? Chẳng cần tìm đâu xa, tôi chính là tiên đây!

Vương càng cười nhạo lời khoác lác ấy. Ðạo sĩ liền bảo:

- Tôi chẳng đáng nói gì. Nếu đi theo tôi thì vài mươi vị chân tiên, thấy ngay tức khắc.

Vương nói:

- Ở đâu?

Ðạo sĩ nói:

- Chỉ gang tấc!

Nói rồi kẹp gậy vào khoảng giữa hai đùi, đưa một đầu cho Vương bảo cưỡi như mình, dặn Vương nhắm mắt, xong quát lên một tiếng:

- Bay!

Vương cảm thấy gậy to ra như chiếc túi đựng năm đấu gạo, bay vụt lên không. Ngầm sờ vào gậy xem thì thấy vẩy cứng, xắp từng lớp, sợ quá không dám cựa quậy. Lát sau lại nghe quát:

- Ðỗ lại!

Tức thì rút gậy ra, hạ xuống một khu nhà lớn, lầu gác trùng điệp tiếp nối, như cung điện bậc đế vương. Có một đài cao hơn một trượng, trên đài có mười toà điện rộng rãi, đẹp đẽ không gì bằng.

Ðạo sĩ kéo khách lên, sai tiểu đồng bày tiệc mời khách . Trên điện đặt mấy chục bàn tiệc, bầy biện hoa mắt. Ðạo sĩ thay quần áo tề chỉnh đứng chờ.

Không bao lâu, khách từ không trung tới. Vật cưỡi hoặc là rồng, hoặc là hổ, hay chim loan, chim phượng, không một loại nào nhất định. Mỗi người đều có mang theo nhạc cụ.

Khách có con gái, có đàn ông, có người đi chân đất. Trong số đó chỉ có một cô gái đẹp cưỡi chim phượng sặc sỡ, ăn mặc kiểu cung cầm, có đứa hầu nhỏ ôm theo nhạc cụ, dài năm thước trở lại, không ra đàn cầm, cũng không ra đàn sắt, chẳng biết tên gọi là gì. Tiệc rượu bắt đầu, thức ăn quý bày xen nhau, bỏ vào miệng thơm ngon, toàn là những món khác thường.

Vương lặng lẽ ngồi im, duy chỉ chăm chăm nhìn người đẹp; đã yêu người lại muốn nghe nhạc, chỉ sợ nàng không đàn lần nào. Rượu tàn, một ông già khởi xướng :

- Ðược Thôi chân nhân nhã gọi tới, hôm nay có thể nói là ngày hội lớn, mọi người nên hết lòng vui. Xin mời những ai mang nhạc cụ giống nhau vào cùng một đội để hoà .

Thế là ai vào đội nấy, tiếng đàn tiếng sáo vọng tận sông Ngân. Riêng cô gái cưỡi phượng, tài đàn không có ai cùng sánh. Khi mọi âm thanh trên điện đã dứt, đứa hầu nhỏ mới mở túi gấm đặt ngang cây đàn trên kỷ, cô gái duỗi tay ngọc như chơi đàn tranh, âm lượng của nó vang gấp mấy lần đàn cầm; khi mãnh liệt khiến người nghe mở lòng mở dạ, khi êm đềm khiến hồn phách phiêu diêu. Ðàn khoảng chừng nấu chưa chín nồi cơm, cả điện lặng phắc, không một tiếng ho. Hết khúc, một tiếng trong vắt vang lên như gõ vào khánh đá. Cử toạ đều trầm trồ.

- Tài đàn của Vân Hoà phu nhân tuyệt diệu thay!

Mọi người đều đứng dậy cáo biệt; hạc kêu, rồng gầm, chỉ một lát đã tản đi hết. Ðạo sĩ đặt giường ngà chăn gấm chuẩn bị chỗ cho Vương ngủ. Còn Vương vừa thấy người đẹp lòng đã xao xuyến, sau lúc nghe đàn, càng mệt vấn vương. Vốn nghĩ tài mình, áo tía, đai xanh dễ như lượm cỏ; khi phú quý rồi muốn gì chẳng được. Chốc lát, trăm mối nghĩ suy rối như cỏ bồng. Ðạo sĩ dường như đoán biết, bảo Vương :

- Ông kiếp trước là bạn học với tôi, sau nhân vì chí không bền nên sa lưới tục. Tôi vốn không coi ông là người ngoài, thực lòng muốn đưa ông ra khỏi chốn vẩn đục. Không ngờ mê muội đã sâu, mơ màng không thể giác ngộ được. Nay sẽ đưa ông về, chưa hẳn không có ngày gặp lại; song muốn làm tiên trên trời thì phải đến kiếp sau .

Ðạo sĩ bàn chỉ phiến đá dài dưới chân bảo Vương nhắm mắt ngồi lên, lại dặn kỹ không được nhìn, sau đó lấy roi quất vào hòn đá. Ðá bay lên, tiếng gió rót ào ào bên tai, chẳng biết đã đi được bao nhiêu dặm.

Chợt nghĩ cảnh vật bên dưới chưa biết thế nào, Vương bèn trộm hé hai mí nhỏ như kẻ chỉ, thấy biển lớn bao la mênh mông tuyệt không bờ bến. Sợ quá nhắm mắt lại nhưng cả người đã theo đá rơi tõm xuống nước, chìm nghỉm như chim âu lặn. May trước kia Vương ở gần biển nên biết bơi bì bõm chút ít.

Chợt nghe tiếng người vỗ tay reo:

- Ngã nhào đẹp quá!

Ðang lúc nguy cấp, một cô gái cứu Vương lên thuyền, và nói:

- May thật, may thật! Tú tài 'trúng cấp' rồi!

Vương nhìn, cô gái khoảng mười sáu, mười bảy, nhan sắc xinh đẹp. Vương lên đến thuyền, rét run, xin đốt lửa sưởi. Cô gái nói:

- Theo tôi về nhà sẽ thu xếp ổn thoả. Nếu vừa , chớ quên sẽ thu nhé!

Vương đáp:

- Sao cô lại nói thế! Tôi là bậc tài tử ở Trung Nguyên, chợt gặp chuyện quẫn bách. Qua được đận này, xin lấy thân đền đáp, chứ đâu có không quên mà thôi!

Cô gái cầm sào đẩy thuyền đi nhanh như mưa bay gió cuốn, chỉ một loáng đã đến bờ. Cô gái mang từ trong khoang ra một bó sen mới hái, dẫn Vương đi cùng.

Chừng nửa dặm, vào thôn, thấy ngôi nhà cửa son mở về hướng Nam. Qua mấy lần cổng cô gái đi nhanh vào trước. Lát sau, một người đàn ông khoảng ngoài bốn mươi tuổi bước ra vái chào, mời Vương lên thềm, sai người hầu lấy mũ áo giầy tất cho Vương thay, sau đó hỏi đến nhà cửa quê quán. Vương đáp:

- Chẳng dám nói khoe, tài danh của tôi, chắc ông có nghe qua. Tôi từng được Thôi chân nhân quyến luyến rất mực, đã vời lên cõi trời. Song tự nghĩ công danh dễ như trở bàn tay, vì thế không muốn ẩn dật.

Người đàn ông kính cẩn nói:

- Nơi đây gọi là Ðảo tiên, cách xa hẳn cõi người. Tôi tên Văn Nhược, họ Hoàn, trải mấy đời sống nơi hẻo lánh, may mắn làm sao lại được gặp bậc danh tài.

Thế rồi ân cần mời rượu, lại thung dung nói:

- Tôi có hai đứa con gái. Ðứa lớn tên là Phương Vân, mười sáu tuổi, đến nay chưa gặp người xứng đôi, muốn cho cháu hầu hạ bậc cao nhân, được chăng?

Vương đoán hẳn là cô gái hái sen nên đứng dậy rời khỏi bàn tiệc cảm tạ. Ông Hoàn cho mời vài ba vị tuổi cao đức cả trong làng đến, nhìn quanh một lượt rồi sai gọi con gái.

Chốc lát, hương lạ nức thơm, hơn mười cô gái đẹp đỡ Phương Vân ra, rực rỡ dễ thương như bông sen tắm trong nắng sớm. Nàng vái chào rồi ngồi xuống, các cô gái xếp hàng đứng hầu, cô gái hái sen cũng trong số đó. Rượu vài tuần, một cô bé bỏ tóc xoã từ trong buồng chạy ra, mới chừng hơn mười tuổi mà dáng vẻ đã xinh đẹp, tươi cười dựa vào khuỷu tay chị, sóng mắt long lanh. Hoàn nói:

- Con gái không ở trong phòng, ra đây làm gì?

Rồi ngoảnh sang khách nói:

- Ðây là Lục Vân, con gái nhỏ của tôi. Cháu khá thông mình, nhớ được sách vở điển phần.

Nhân đó bảo ngâm thơ cho khách nghe. Cô bé bèn đọc ba chương Trúc Chi từ, giọng đọc êm ái dễ nghe.

Ông Hoàn cho phép Lục Vân ngồi cạnh chị, rồi nói:

- Anh Vương là bậc thiên tài, thơ làm trước đây hẳn rất nhiều, có thể cho kẻ hèn này nghe mà học hỏi chăng?

Vương hăng hái đọc một bài cận thể rồi kiêu hãnh nhìn mọi người. Trong bài thơ ấy có hai câu:

Một thân còn chút mày râu đó,

Cạn chén cho tan khối bất bình.

Ông già ngồi cạnh đọc đi đọc lại hai ba lần. Phương Vân bèn mách khẽ:

- Câu trên là Tôn Hành Giả rời động Hoả Vân, câu dưới là Trư Bát Giới qua sông Tử Mẫu.

Cử toạ đều vỗ tay. Ông Hoàn mời Vương đọc thêm bài khác, chàng bèn đọc bài thơ Chim Nước:

Ðầu dầm kêu kíu kít

Bỗng nhiên quên mất câu tiếp theo. Còn đang trầm ngâm thì Phương Vân ghé tai em thầm thì rồi che miệng cười.

Lục Vân thưa với cha:

- Chị ấy làm hộ anh rẽ câu tiếp theo đấy ạ. Câu thế này:

Mông chó vãi bùm bùm

Mọi người trong tiệc lại cười ồ. Vương cả thẹn, ông Hoàn lừ mắt nhìn Phương Vân.

Khi sắc mặt Vương đã bình tĩnh lại, ông mời Vương nói tài nghệ văn chương của mình.

Vương cho rằng người ngoài cõi trần hẳn không biết nghề văn 'bát cổ' bèn khoe tài văn chàng đã chiếm giải quán quân; đầu đề là hai câu 'Hiếu thay Mẫn Tử Khiên'; phá đề là 'Thánh nhân khen lòng hiếu đức của bậc đại

Lục Vân quay sang nhìn cha nói:

- Thánh nhân không gọi học trò mình bằng tên tự. Câu 'Hiếu thay...' ắt là lời của nhân gian.

Vương nghe được mất cả hứng. Ông Hoàn cười:

- Trẻ con biết gì! Không nói về điều ấy, chỉ bàn văn thôi.

Vương lại đọc tiếp. Cứ được vài câu hai chị em lại thì thầm với nhau, dường như bình phẩm về người, nhưng các cô nói lúng búng không nghe rõ.

Vương đọc đến đoạn hay, thuật lại cả lời bình, có nói rằng: 'Từng chữ, từng chữ đều thống thiết'.

Lục Vân thưa với cha:

- Chị con bảo nên bỏ chữ 'Thiết' đi.

Cử toạ đều không hiểu. Ông Hoàn sợ con nói năng khinh mạn không dám gạn hỏi.

Vương đọc xong, lại thuật lời tổng bình, trong có câu: 'Trống yết đánh một tiếng, muôn hoa đều nở'.

Phương Vân lại che miệng nói vào tai em, hai chị em cười đến nỗi không ngẩng lên được.

Lục Vân lại nói với cha:

- Chị bảo trống yết phải đánh bốn tiếng.

Mọi người vẫn không hiểu. Lục Vân mở miệng định nói tiếp, Phương Vân nín cười quát:

- Con ranh mà nói, tao đánh chết!

Cử toạ càng nghi ngờ, bàn đoán riêng với nhau. Lục Vân không nhịn được lại nói:

- Bỏ chữ 'thiết' đi, nói 'thống' tức là 'bất thông'. Ðánh bốn tiếng trống thì tiếng vang là 'Bất thông lại bất thông' vậy.

Mọi người cười phá lên, ông Hoàn nổi giận quát con, nhân đó đứng dậy rót rượu, tạ lỗi mãi.

Vương ban đầu tự khoe là bậc tài danh, dưới mắt mình thực chẳng coi ai ra gì; đến lúc này thần khí tiêu tan sạch, mồ hôi đầm đìa.

Ông Hoàn bàn an ủi lấy lòng:

- Vừa nghĩ được một câu xin các vị trong tiệc cùng đối: 'Vương tử thân biên vô hữu nhất điểm bất tự ngọc'.

Chưa ai kịp nghĩ thì Lục Vân đã đọc ngay. 'Mẫn ông đầu thượng tái trước bán tịch tức thành quy' .

Phương Vân cười sặc lên véo vào sườn em ba bốn cái, Lục Vân giẫy ra bỏ chạy, quay lại bảo:

- Việc gì đến chị? Chị mắng anh ấy bao nhiêu thì không cho là trái; người ta nói hộ một câu không được phép à?

Ông Hoàn quát lên, cô bé mới cười rồi đi.

Các ông già láng giềng cũng cáo từ.

Ðám thị nữ dẫn đôi vợ chồng vào phòng ngủ, trong đó đèn nến giường màn đã sắp đặt tinh khôi, đầy đủ.

Vương nhìn phòng tân hôn, thấy sách đầy giá, không thiếu một loại nào, hỏi qua những chỗ khó, Phương Vân đều trả lời được trôi chảy, tường tận. Bấy giờ Vương mới thấy hết nỗi xấu hổ của kẻ đứng trước biển khơi.

Vợ chàng gọi 'Minh Ðang!' thì cô gái hái sen ban chiều chạy đến, nhờ vậy Vương mới biết tên nàng.

Sau nhiều lần bị chế giễu nhục nhã, Vương sợ chốn khuê phòng cũng không được coi trọng. May sao Phương Vân tuy nói năng xấc xược nhưng trong chốn phòng the, tình vợ chồng rất đằm thắm.

Vương ở yên vô sự, bàn ngâm nga.

Vợ bảo:

- Thiếp có lời hay muốn nói, chẳng biết chàng có chịu lắng tai không?

Hỏi điều gì, thì bảo:

- Từ nay chàng đừng làm thơ nữa! Ðó cũng là một cách để che giấu cái vụng của mình vậy.

Vương lấy làm thẹn, bỏ hẳn chuyện bút mực. Lâu dần càng quấn quít với Minh Ðang, bèn nói với Phương Vân.

- Minh Ðang đối với tiểu sinh, có cái ơn cứu mạng, mong ít khi phải cau mặt, nặng lời với nàng.

Phương Vân bằng lòng. Thường mỗi khi vợ chồng vui chơi trong phòng, cũng cho nàng cùng dự.

Hai bên vì thế càng say nhau, thường liếc mắt, đưa tay thay lời.

Phương Vân thoáng biết, trách móc nhiều lần, Vương chỉ liến láu cãi ngượng cho qua chuyện.

Một đêm hai vợ chồng đối ẩm, Vương kêu vắng vẻ, khuyên vợ gọi Minh Ðang.

Phương Vân không nghe, Vương bảo vợ:

- Sách gì nàng cũng đọc, sao chẳng nhớ mấy chữ 'độc lạc nhạc' nhỉ?

Phương Vân nói:

- Thiếp nói chàng bất thông, nay càng nghiệm. Cách chấm câu còn chưa biết hay sao? 'Riêng mình thì lấy người làm lạc thú, nhưng nói đến lạc thú, hỏi có ai không, lại đáp rằng không'.

Chàng bật cười đành bỏ ý đšịnh .

Gặp buổi hai chị em Phương Vân y hẹn sang chơi nhà cô bạn hàng xóm. Vương được dịp liền dẫn ngay Minh Ðang vào, ái ân hết mực.

Ðến tối chàng thấy đau ở bụng dưới, hết đau thì dương vật sưng lên. Vương sợ quá nói với vợ.

Vân cười đáp:

- Chắc hẳn đã báo cái ơn của Minh Ðang rồi?

Vương không dám dấu, cung khai hết. Phương Vân bảo:

- Tự gây ra hoạ, thực không còn cách nào. Nếu không đau đớn, ngứa ngáy thì kệ thế cũng được.

Mấy ngày sau không khỏi, Vương lo lắng kém vui. Phương Vân biết nhưng không hỏi han gì, chỉ đăm đăm nhìn chồng, đôi mắt như hồ thu đầy đặn, sáng tựa sao mai. Vương nói :

- Nàng có thể gọi là người 'trong lòng ngay thẳng nên tròng mắt sáng'.

Phương Vân cười:

- Còn chàng, có thể gọi là người 'trong lòng không ngay thẳng nên tròng mất sáng'.

Bởi hai chữ 'mất', dân gian cũng đọc gần như chữ 'Mắt' nên nàng đem chữ đó ra để đùa chồng.

Vương bật cười, van nài xin chữa cho. Nàng nói:

- Chàng không nghe lời nói phải, trước đây vị tất không nghĩ là em ghen, đâu biết rằng con hầu đó vốn không thể gần gũi được. Lúc trước thực rất yêu chàng, nhưng chàng chỉ như gió xuân thổi qua tai ngựa nên em ghét mà bỏ mặc. Nếu không đã chữa cho rồi. Nhưng thầy lang phải xem kỹ chỗ đau đã!

Bàn sờ tay vào trong áo rồi đọc chú rằng:

- Chim vàng, chim vàng, chớ đậu cành gai.

Vương bất giác cười rộ, cười xong thì bệnh khỏi.

Mấy tháng sau Vương vì cớ cha già con dại thường nhớ nhà không nguôi. Chàng đem tâm sự nói với vợ. Nàng nói:

- Về nhà thì không khó, chỉ không có ngày sum họp nữa thôi.

Vương nước mắt lã chã, xin nàng về cùng. Phương Vân nghĩ ngợi hồi lâu mới bằng lòng.

Ông Hoàn bày tiệc tiễn đưa, Lục Vân xách làn vào nói:

- Chị sắp ra đi, chẳng có gì tặng chị. Chỉ sợ khi đến Hải Nam không có nhà mà ở nên đêm qua đã làm hộ chị lầu gác, xin đừng chê bai là sơ sài.

Phương Vân cảm ơn em rồi nhận lấy. Ðến gần xem thì thấy dùng loại cỏ nhỏ kết thành lầu gác, toà lớn thì như quả thanh yên, toà nhỏ thì như quả quất, tất cả chừng hơn hai chục toà. Trong mỗi toà kèo cột rui mà đều phân minh đầy đủ; lại có giường phản ràm tường, mỗi thứ chỉ to bằng hạt vừng.

Vương xem như đồ chơi con trẻ, lòng thầm khen cô em vợ khéo tay.

Phương Vân nói:

- Nói thật với chàng, bọn em là tiên dưới đất, vì có túc duyên nên được theo bên chàng. Em vốn không muốn đặt chân tới cõi trần, nhưng chỉ vì chàng còn cha già, không nỡ trái lời. Ðợi khi cha đủ tuổi trời, chúng ta nên trở lại đây.

Phương xin vâng, ông Hoàn hỏi:

- Muốn đi thuyền hay đi xe?

Phương sợ sóng gió nguy hiểm xin đi đường bộ. Ra đến cửa thì ngựa xe đã chờ sẵn, vợ chồng từ biệt lên đường. Ngựa phi nhanh vun vút, chỉ thoáng chốc đã đến bờ biển, Vương trong lòng lo không có đường đi.

Phương Vân đem ra một tấm lụa trắng ném về phương Nam, lập tức hoá thành con đê dài, mặt đê rộng vừa một trượng, trong nháy mắt xe ruổi qua, đê cũng thu lại dần. Ðến một nơi, nước triều tràn qua, bốn phía mênh mông, Phương Vân bảo dừng lại. Nàng xuống xe lấy những đồ bằng cỏ ra, rồi cùng với bọn Minh Ðang mấy người sắp xắp bày đặt đúng theo phép tắc, chỉ trong nháy mắt đã hoá thành ngôi nhà lớn.

Vợ chồng cùng vào, cởi bỏ hành lý, thì toà nhà không khác chút nào với nơi đã sống trên đảo, giường ghế đều y nguyên như phòng tân hôn lúc trước.

Trời đã xẩm tối, nhân nghỉ lại qua đêm. Sáng hôm sau, Phương Vân bảo Vương còn về đón cha mẹ. Vương sai đóng ngựa ruổi về làng cũ.

Ðến nơi thì nhà cửa đã thuộc về nhà họ khác. Hỏi người làng mới biết mẹ và vợ đã chết, chỉ còn cha già. Con trai đam mê cờ bạc, ruộng vườn gia sản hết sạch, ông cháu không thể có chỗ trú chân, hiện nay tạm ở căn nhà thuê bên thôn Ðoài .

Vương lúc mới trở về, nghĩ về công danh vẫn còn vương vấn, kịp khi nghe tin nhà như vậy, âu sầu buồn bã, tự nghĩ giàu sang nếu có được thì so với những ảo ảnh trong khi hoa mắt nào có khác gì.

Chàng quất ngựa sang thôn Ðoài, thấy cha quần áo rách rưới, già sọm, thật đáng thương. Cha con gặp nhau khóc lạc cả tiếng; hỏi đến đứa con bất hiếu, còn đi đánh bạc chưa về.

Vương bèn chở cha quay về. Phương Vân lạy chào xong, nấu nước mời bố chồng tắm, đưa quần áo gấm cho ông thay, để ông nghỉ ngơi trong ngôi nhà thơm ngát. Sau đó nàng sai mời các ông bạn già cũ tới cùng cha trò chuyện, phụng dưỡng hơn cả các nhà thế tộc.

Một hôm con trai Vương tìm đến, chàng dứt tình không cho gặp, chỉ cho hai chục đồng vàng và sai người dặn: 'cầm lấy mà mua vợ, rồi lo làm ăn. Nếu còn đến nữa sẽ đánh chết tươi'. Con trai khóc mà đi .

Vương từ khi trở về không hay tiếp khách, nhưng nếu bạn bà cũ tình cờ đến thăm thì đón tiếp lưu luyến, khiêm nhường, khác hẳn thuở trước. Riêng có Hoàng Tử Giới bạn đồng môn thuở trước cũng là một bậc anh tài lận đận, được Vương lưu lại rất lâu, thường kể cho nghe nhiều chuyện kín và biếu tặng rất hậu.

Ðược ba bốn năm Vương ông mất, Vương bỏ vạn bạc chọn đất chôn, làm ma theo đúng lễ.

Bấy giờ con trai Vương đã lấy vợ; con dâu quản chồng rất nghiêm, nhờ thế con cũng đỡ cờ bạc.

Ngày vào đám, nàng dâu mới đến chào bố mẹ chồng.

Phương Vân thoạt gặp con dâu đã thấy người giỏi việc nhà, bèn cho vợ chồng ba trăm đồng vàng để mua sắm điền sản.

Hôm sau chàng Hoàng cùng con Vương đến thăm thì lâu đài nhà cửa đã không thấy nữa, chẳng biết ở đâu

Gái Thần

Thư sinh họ Mễ, người đất Mân, người kể chuyện này quên mất cả tên tuổi, quận ấp. Tình cờ lên quận, uống rượu say, đi giữ phố xá, nghe bên trong một toà nhà lớn có tiếng sáo, tiếng trống như sấm. Hỏi những người ở gần đấy thì nói là nhà ấy mở tiệc khao thọ. Thế mà ngoài cửa trong sân vẫn vắng vẻ lắm. Lắng nghe thì thấy tiếng sênh, tiếng hát vang lừng.

Ðang say, chàng rất lấy làm thích, cũng không hỏi là nhà ai, liền ra ngay đầu phố mua đồ mừng rồi đưa thiếp ý vãn sinh vào.

Có người thấy chàng mũ áo quê kệch, liền hỏi:

- Anh với ông cụ nhà này họ hàng thế nào?

Ðáp:

- Không đâu!

Người ấy nói:

- Nhà này từ nơi khác đến kiều cư ở đây, không rõ quan tước gì, nhưng rất sang trọng kiêu kỳ. Ðã không thân thuộc thì vào làm gì?

Chàng nghe mà hối hận, nhưng thiếp đã đưa vào rồi.

Chẳng mấy chốc, hai chàng trẻ tuổi ra đón khách, áo quần choáng mắt, dáng điệu phong nhã, vái chàng mời vào.

Thấy một ông già ngồi ngoảnh mặt về hướng Nam; phía Ðông, phía Tây bầy mấy trăm mâm cỗ;

Thấy chàng đến, đứng cả lên, làm lễ, ông già cũng chống gậy đứng dậy.

Chàng đứng lâu, đợi ông cụ rước mời, mà cụ vẫn không rời khỏi chiếu.

Hai chàng trẻ tuổi đỡ lời, nói:

- Phụ thân chúng tôi già yếu, đứng dậy vái rất khó, anh em tôi xin thay mặt tể ơn bậc cao hiền hể cố đến chơi.

Chàng khiêm tốn đáp tạ lại. Liền sai đặt thêm một cỗ ở phía trên, liền chỗ ông cụ. Một lát, nữ nhạc dạo ở dưới. Ðằng sau phòng tiệc, có bày chiếc bình phong bằng lưu ly, để che cho người trong nhà.

Trống sáo nổi lên rầm rĩ, khách trong tiệc không thể trò chuyện nữa.

Tiệc sắp tàn, hai chàng trẻ tuổi đứng dậy, mỗi người một cốc to mời khách, cốc đựng chừng ba đấu. Chàng có ý ngại nhưng thấy khách nhận nên cũng nhận. Chốc lát, trông bốn bên, chủ khách đều uống cạn cả. Chàng bất đắc dĩ phải cố uống hết. Chàng trẻ tuổi rót nữa, chàng thấy mệt quá, đứng lên mà cáo lui. Chàng trẻ tuổi cố nắm vạt áo giữ lại. Chàng say quá, ngã xuống đất, chỉ biết có người lấy nước lạnh rưới vào mặt; bàng hoàng tỉnh lại, dậy nhìn thì khách khứa đã đi hết, duy chỉ có một chàng trẻ tuổi xốc cánh tay đưa ra. Liền chào mà về. Sau đó chàng lại qua cổng, thấy đã dời đi chỗ khác.

Ở quận về, tình cờ đi qua chợ, một người từ trong quán bước ra, mời chàng vào uống rượu. Nhìn thì không quen, nhưng cũng cứ theo mà vào. Thấy trên tiệc đã có người làng là Bão Trang ngồi trước. Hỏi người đó thì ra họ Chư, làm nghề mài gương trong chợ. Hỏi:

- Sao biết đến nhau?

Ðáp:

- Người khao thọ hôm trước, ông có biết là ai không?

Chàng đáp:

- Không biết.

Chư nói:

- Tôi ra vào nhà ấy nhiều lần, ông cụ họ Phó, nhưng không rõ quê quán và quan tước ra sao. Lúc tiên sinh vào mừng thọ, tôi đang ở dưới thềm, cho nên nhớ được.

Chiều tối, bữa rượu tan. Bão Trang về đêm, bị chết ở dọc đường. Người bố của Trang không biết họ Chư, cứ kêu tên chàng mà kiện. Khám thấy xác Bão Trang có vết thương nặng, cho rằng chàng mưu sát, khép vào tội chết, chàng bị cùm xích đủ mọi đường. Vì chưa bắt được Chư, chưa có đủ chứng cứ nên việc kiện còn treo đấy.

Hơn một năm sau, quan trực chỉ đi tuần tra các nơi, xét biết chàng bị oan, mới tha cho ra.

Trong nhà, ruộng nương, của cải đã mất hết, mà mũ áo sinh viên đã bị lột, nhưng cũng mong có thể lấy lại được, nên lại xách khăn gói lên quận.

Trời đã về chiều, chân đi đã mỏi, liền ngồi nghỉ ở ven đường. Từ xa thấy một chiếc xe nhỏ đi lại, hai cô gái áo xanh đi kèm hai bên.

Ðã qua chỗ chàng rồi, bỗng bảo dừng xe lại. Không biết trong xe nói gì. Một lát thấy một nàng áo xanh đến hỏi chàng:

- Có phải chàng họ Mễ không?

Chàng giật mình đứng dậy nói phải.

Hỏi:

- Sao nghèo túng đến thế?

Chàng kể nguyên do. Lại hỏi:

- Ðịnh đi đâu bây giờ?

Chàng lại nói cho biết. Nàng áo xanh bỏ đi, ghé vào trong xe nói chuyện; một lát lại trở lại, mời chàng đến trước xe. Trong xe có một bàn tay thon thon thò ra vén màn, liếc trông thì ra một giai nhân đẹp tuyệt trần. Nói với chàng rằng:

- Chàng không may mắc phải cái vạ gió, nghe thấy mà buồn quá. Ngày mai, dinh quan Đốc Học chẳng phải là nơi kẻ hai bàn tay trắng có thể ra vào được. Giữa đường không biết lấy gì tặng...

Bèn rút ra một đoá hoa ngọc trai trên mái tóc đưa cho chàng, nói:

- Vật này có thể bán được một trăm đồng vàng, xin cầm lấy mà dùng.

Chàng chắp tay vái tạ. Ðịnh hỏi cửa nhà gia thế thì xe đi rất nhanh, đã cách xa rồi, không biết là ai nữa. Cầm hoa nghĩ ngợi, thấy trên có nạm ngọc trai, biết không phải vật thường, liền trân trọng cất giấu mà đi.

Ðến quận, đưa đơn vào, bị trên dưới vòi vĩnh hạch sách rất khó. Giở hoa ra ngắm, không nỡ bán đi, đành quay về. Về rồi mà không có nhà ở, phải dựa vào anh chị. May được anh là người hiền, trông nom lo liệu cho, nên nghèo mà vẫn không phải bỏ học.

Năm sau, chàng lên quận thi khoa đồng tử, nhầm đường lạc vào trong núi sâu. Gặp tiết thanh minh, người đi chơi rất đông. Mấy người con gái cưỡi ngựa đi tới, trong đó có một cô, chính là người ngồi trong xe năm ngoái. Thấy chàng thì dừng cương lại, hỏi đi đâu? Chàng cứ thực nói. Cô gái kinh ngạc hỏi:

- Khăn áo sinh viên chàng còn chưa lấy lại được ư?

Chàng thẹn, rút ở dưới áo đoá hoa ngọc trai ra, nói:

- Không nỡ bỏ vật này nên vẫn còn là đồng tử vậy.

Cô gái đỏ bừng mặt. Ðoạn bảo ngồi đợi ở góc đường, dong ngựa ung dung mà đi. Giây lâu, một con hầu ruổi ngựa tới, trao cho chàng một cái gói, nói:

- Nương tử bảo, ngày nay cửa quan Đốc Học chỉ là cái chợ, xin tặng hai trăm đồng bạch kim để làm vốn tiến thủ. Chàng từ chối, nói:

- Nương tử làm ơn cho tôi đã nhiều! Tự nghĩ thi đỗ khoa đồng tử cũng không khó, nên món tiền to này không dám nhận. Chỉ xin được nương tử cho biết họ tên, để vẽ một bức hình, đốt hương tưởng bái, thế là đủ rồi.

Con hầu không nghe cứ đặt tiền xuống đất mà đi. Từ đấy chàng chi dùng đầy đủ, nhưng chung quy vẫn không thèm lân la cầu cạnh ai. Sau đó được đỗ đầu vào trường học của huyện.

Liền đưa tiền cho anh trai. Anh khéo kinh doanh, trong ba năm, cơ nghiệp cũ lấy lại được hết.

Gặp lúc quan Tuần Vũ tỉnh Mân là học trò của ông nội chàng, thường giúp đỡ cho rất nhiều, hai anh em trở nên giàu to.

Nhưng chàng vốn là người thanh cao, cứng cỏi.

Tuy quen thuộc lâu đời với vị quan lớn, mà vẫn chưa từng đến yết kiến cầu xin gì.

Một hôm có một người khách mặc áo cừu, cưỡi ngựa đến cổng, cả nhà đều không ai quen. Ra xem thì ra công tử họ Phó. Chàng chắp tay mời vào, cùng nhau hàn huyên. Chàng sai bày rượu thết đãi. Khách lấy cớ bận từ chối, nhưng cũng không nói đến chuyện đi.

Rồi khi cơm rượu đã bày, công tử bèn đứng dậy xin nói chuyện riêng. Hai người cùng vào nhà trong, công tử liền lạy rạp xuống đất.

Chàng kinh ngạc hỏi chuyện gì, công tử ủ dột nói:

- Phụ thân mắc vạ lớn, muốn nhờ quan Tuần một chút, ngoài anh ra, không ai giúp được.

Chàng từ chối nói:

- Ông ta tuy là chỗ quen biết lâu đời, nhưng lấy việc riêng ra cầu cạnh với người, thực từ thuở sinh bình đến nay, tôi chưa hề làm bao giờ.

Công tử nằm phục xuống đất kêu khóc thảm thiết. Chàng nghiêm sắc mặt nói:

- Tiểu sinh với công tử chẳng qua chỉ một bữa tiệc mà quen biết nhau, sao lại cố ép người ta làm việc mất danh tiết như vậy?

Công tử hổ thẹn quá, đứng dậy từ biệt rồi đi.

Hôm sau nữa, đương ngồi một mình, có một nàng áo xanh đi vào. Chàng nhìn thì ra chính là người đưa tiền tặng mình ở trong núi ngày trước.

Chàng giật mình đứng dậy. Người áo xanh nói:

- Chàng quên đoá hoa ngọc trai rồi chăng?

Chàng nói:

- Dạ dạ, không dám quên.

Lại nói:

- Công tử đến đây hôm qua, tức là anh ruột nương tử tôi đấy.

Chàng nghe thấy, mừng thầm, giả cách nói:

- Ðiều đó khó tin lắm. Nếu được nương tử thân đến đây bảo với một lời, thì dẫu vạc dầu cũng xin nhảy vào; nếu không, không dám vâng lời.

Người áo xanh bước ra, nhảy lên ngựa mà đi. Canh khuya, lại trở lại, gõ cửa bước vào nói:

- Nương tử đã đến.

Nói chưa dứt lời thì cô gái rầu rĩ bước vào, ngoảnh mặt vào vách mà khóc, không nói một câu. Chàng vái chào, nói:

- Tiểu sinh không có nương tử, không lấy đâu ra có ngày nay. Có điều gì sai bảo, dám đâu không vâng lời?

Cô gái nói:

- Kẻ được người ta cầu cạnh thường hay khinh người, kẻ đi cầu cạnh người thường phải sợ người. Nửa đêm bôn ba, sinh bình nào đã biết cái khổ này, chỉ vì sợ người đấy thôi, còn biết nói gì?

Chàng an ủi nói:

- Sở dĩ tiểu sinh không nhận lời ngay là vì sợ xong việc này, được gặp nhau một lần nữa là khó. Làm cho nương tử đêm hôm phải xông pha sương tuyết, thực đã biết tội.

Liền cầm ống tay áo cô gái len lén xoa. Cô gái giận nói:

- Anh thực là người tệ, không nghĩ đến cái nghĩa ngày trước, lại còn muốn định thừa cơ người ta nguy ngập nữa. Tôi nhầm rồi! Tôi nhầm rồi!

Nói xong vùng vằng mà ra, lên xe toan đi. Chàng đuổi theo ra, tạ lỗi, quỳ xuống chắn đường. Người áo xanh cũng khuyên giải thêm. Cô gái ý đã nguôi nguôi, liền ngồi trong xe nói với chàng:

- Nói thực với chàng, thiếp không phải là người mà là thần nữ. Phụ thân làm quan Đô Lỳ Ty ở Nam Nhạc, ngẫu nhiên thất lễ với địa quan, sẽ đến tai Thượng đế; không có ấn tín của quan đầu hạt đây thì không thể gỡ được. Nếu chàng không quên nghĩa cũ, thì kiếm một tờ giấy vàng, vì thiếp mà xin cho một cái dấu.

Nói đoạn xe chuyển bánh đi.

Chàng trở về, lo nghĩ mà không thôi. Bèn mượn cớ điều trừ ma, nói với quan Tuần Vũ.

Tuần Vũ bảo làm việc đó giống như việc đồng cốt, bùa ngải, không chịu.

Chàng đem nhiều tiền đút cho những người tâm phúc của ông ta, chúng nhận lời nhưng chưa kịp có dịp nào tiện. Về đến nhà thì người áo xanh ngồi đợi ở cửa, chàng nói thực cho biết, bèn im lặng đi ra, hình như có ý oán chàng không hết lòng.

Chàng chạy theo tiễn nói:

- Về nói với nương tử, nếu việc không xong, tôi xin liều mạng chết theo.

Quay vào, suốt đêm trằn trọc, không tìm ra được kế gì. May gặp lúc trong dinh có người vợ lẽ yêu của quan muốn mua ngọc trai, chàng liền lấy đoá hoa ngọc trai đem cho.

Người vợ lẽ thích lắm, liền ăn cắp dấu đóng vào giấy cho chàng.

Mang về đến nhà, người áo xanh cũng vừa tới. Chàng cười, nói rằng:

- May không đến nỗi lỗi mệnh. Nhưng cái vật mà mấy năm nay, dù nghèo khó phải đi ăn xin cũng không nỡ bán, thì ngày nay lại vì chủ nó mà phải bỏ nó rồi!

Liền kể tình đầu, lại nói:

- Vàng vứt đi tôi cũng không tiếc, nhưng nhờ nói với nương tử, đoá hoa ngọc trai thì phải đền mới được.

Qua mấy hôm, Phó công tử đến nhà tạ ơn, biếu một trăm lạng vàng. Chàng sầm nét mặt nói:

- Sở dĩ làm như vậy là vì lệnh muội đã giúp đỡ tôi một cách vô tư mà thôi. Nếu không thì dù vạn lạng vàng cũng không dễ gì đổi danh tiết tôi được.

Cố ép, thì lời nói, nét mặt chàng càng gay gắt. Công tử thẹn mà đi, nói:

- Việc này chưa xong được.

Ngày hôm sau nữa, người áo xanh vâng mệnh cô gái, đem biếu chàng một trăm hạt ngọc trai, nói rằng:

- Thế này đã đủ đền đoá hoa ngọc trai chưa?

Chàng nói:

- Tôi trọng đoá hoa ấy không phải vì tham quý ngọc trai. Nếu không thì vật báu vạn dật tặng tôi ngày trước, tôi đã đem bán đi làm một anh nhà giàu rồi, còn cất giấu nâng niu, cam chịu nghèo khó làm gì nữa? Nương tử người thần, tiểu sinh nào dám mong gì khác kia. Nay may đã đền ơn sâu được trong muôn một, chết cũng không ân hận.

Người áo xanh để ngọc trai lên án, chàng liền vái rồi trả lại.

Qua mấy hôm nữa, công tử lại đến, chàng sai bày tiệc rượu. Công tử cũng bảo kẻ theo hầu xuống bếp nấu nướng. Hai người đối nhau uống rượu thỏa sức, vui như một nhà. Gặp khi có người khách biếu rượu nếp đắng, công tử khen ngon, uống luôn trăm chén, mặt đã hơi đỏ, bèn nói với chàng:

- Anh là người chính trực thanh cao, tôi và em trai tôi đều mê muội không biết sớm, thực đáng xấu hổ với kẻ quần thoa nhiều lắm. Phụ thân tôi cảm đức lớn, không thấy gì báo đền được, muốn cho em gái tôi kết duyên với anh, chỉ sợ anh hiềm nỗi u minh khác nẻo vậy.

Chàng mừng mừng sợ sợ, không biết trả lời thế nào. Công tử từ biệt mà về, nói rằng:

- Ðêm mai, mồng 9 tháng Bảy, lúc trăng lưỡi liềm vừa lên, Thiên Tôn có con gái gả xuống trần, đáy là giờ tốt, nên sửa soạn phòng hoa.

Ðêm sau, quả đưa cô gái đến, mọi cái không khác gì người thường. Sau ba ngày, cô gái đối với anh chị dâu, cho đến kẻ hầu người hạ, đều có quà tặng. Lại rất nết na, thờ chị dâu như mẹ chồng.

Mấy năm sau không đẻ, khuyên chàng lấy vợ lẽ, chàng không nghe. Vừa khi người anh đi buôn ở Giang Hoài về, mua cho chàng một người thiếp trẻ tuổi.

Thiếp họ Cố, tên là Bác Sĩ, dáng người cũng thanh nhã. Vợ chồng đều mừng. Chợt thấy trên mái tóc có cài đoá hoa ngọc trai giống hệt như vật cũ năm trước, rút xuống xem, quả đúng. Thấy lạ liền hỏi.

Ðáp rằng:

- Trước đây người thiếp yêu của quan Tuần Vũ chết, thị tỳ của bà ta ăn trộm bán ở chợ. Cha thiếp thấy rẻ mua về, thiếp rất thích. Cha thiếp không có con trai, chỉ có một mình thiếp, nên xin gì cũng được. Sau, cha thiếp mất, nhà cửa sa sút, thiếp phải sống gửi ở nhà bà họ Cố. Bà Cố là vai dì của thiếp, thấy ngọc trai, nhiều lần muốn đem bán. Thiếp nhảy xuống giếng toan tự tử, vì thế đến nay vẫn còn.

Vợ chồng cùng nói:

- Vật mười năm, lại về chủ cũ, chẳng phải là số ư?

Cô gái bàn rút ra một đoá hoa ngọc trai khác nói:

- Vật này đã lâu không có đôi rồi!

Nhân tặng cả cho người thiếp và tự tay cài lên mái tóc cho. Người thiếp lui xuống, hỏi gia thế cô gái rất kỹ, người nhà đều không dám nói. Nàng nói vụng với chàng rằng:

- Thiếp trông nương tử không phải là người trần. Ở khoảng mắt và lông mày có thần khí. Hôm qua, lúc cài hoa, thiếp được nhìn gần, thấy vẻ đẹp từ bên trong da thịt toát ra, không phải như người thường, chỉ hơn nhau ở chỗ trắng đen bên ngoài mà thôi!

Chàng cười. Nàng lại nói:

- Xin chàng đừng nói gì, để thiếp thử xem. Nếu là thần thì mình muốn gì, cứ ở chỗ vắng người, đốt hương cầu khắn là nương tử khắc biết.

Cô gái vốn có đôi tất thêu rất đẹp, Bác Sĩ vẫn thích mà chưa dám nói, ngay lúc ấy bèn vào buồng đốt hương cầu khấn. Cô gái bèn dậy sớm, bỗng mở hòm lấy đôi tất, sai con hầu đem cho Bác Sĩ.

Chàng thấy thế bật cười. Cô gái hỏi cớ sao, mới nói thật. Cô gái nói:

- Con bé ấy linh mẫn thật!

Nhân thấy Bác Sĩ thông minh, càng yêu thương. Mà Bác Sĩ càng cung kính, cứ tờ mờ sáng tất tắm gội để lên hầu.

Về sau, Bác Sĩ đẻ một lần hai con trai, hai người chia nhau nuôi.

Chàng đã tám mươi tuổi, mà diện mạo cô gái vẫn như người chưa lấy chồng. Chàng mắc bệnh, cô gái thuê thợ đóng cỗ quan tài rộng, to gấp đôi cỗ thường. Chàng mất, cô không khóc.

Các con vừa đi ra chỗ khác, thì cô đã tự chui vào áo quan mà chết rồi. Vì vậy cùng chôn chung. Ðến nay vẫn truyền tụng là 'ngôi mộ quan tài to'.

Thôi Mãnh

Thôi Mãnh, tên tự là Vật Mãnh, con nhà thế gia ở Kiến Xương. Tính cương nghị. Thuở nhỏ đi học, bọn trẻ hơi có gì xúc phạm đến thì lập tức vung tay đánh liền.

Thầy học nhiều lần răn đe nhưng vẫn không chừa. Tên và tự đều do thầy đặt cho. Ðến mười sáu mười bảy tuổi thì võ nghệ cao cường tuyệt luân. Lại có thể chống sào dài nhảy lên nóc nhà. Rất thích giúp người khác và rửa sạch bất bình. Vì vậy, người làng đều cảm phục. Trong nhà ngoài cửa thường đứng đầy những người đến bẩm bạch, tố cáo.

Thôi ưa chế ngự kẻ mạnh, nâng đỡ người yếu, không sợ oán thù. Ai ho he dám chống lại thì gạch, đá, gậy gộc choảng luôn, kỳ cho đến tay chân thân thể phải tàn tật. Mỗi lần thịnh nộ bốc lên, không ai còn dám khuyên can.

Duy chàng thờ mẹ rất có hiếu, hễ mẹ đến là nguôi giận ngay. Mẹ trách quở đũ điều, Thôi dạ dạ vâng lời, nhưng ra khỏi cửa lại quên mất.

Liền bên nhà, có một người đàn bà rất hung hãn, ngày ngày ngược đãi mẹ chồng. Mẹ chồng đói lả gần chết, con trai lén cho ăn, chị ta biết được, thét mắng trăm điều, vang động khắp bốn bên hàng xóm.

Thôi giận lắm, vượt tường sang xẻo luôn tai, mắt, mũi, môi, lưỡi. Mụ chết ngay. Mẹ hay tin kinh hoàng, gọi anh hàng xóm qua, hết lòng xót thương an ủi, gả cho anh ta một con hầu trẻ, việc mới yên.

Mẹ phẫn chí khóc lóc không chịu ăn. Thôi sợ, quỳ xuống xin chịu đòn, lại thưa rằng đã biết hối. Mẹ cứ khóc, không thèm nhìn. Vợ Thôi họ Chu, cùng quỳ xuống với chồng; mẹ bèn cầm gậy đánh con, rồi lại lấy kim thích vào cánh tay, thành hình chữ thập, dùng sơn bôi vào cho khỏi mất dấu. Thôi đều xin chịu hết, mẹ mới ăn trở lại.

Bà mẹ thích đãi cơm các nhà sư và đạo sĩ, thường mời họ dùng bữa no nê. Xảy có một đạo sĩ ở trước cửa thì Thôi đi qua. Ðạo sĩ nhìn Thôi mà nói:

- Tôi xem lang quân có nhiều khí hung hoạnh, sợ khó giữ được cho tròn tuổi thọ. Nhà tích thiện đáng ra không có người như vậy.

Thôi vừa mới nhận lời răn của mẹ, nay nghe được điều đó thì tỏ cung kính mà nói:

- Chính tôi cũng tự biết thế, nhưng hễ thấy bất bình, thì khó mà kìm được. Gắng hết sức sửa đổi, hoặc giả có tránh được không?

Ðạo sĩ cười nói:

- Hẵng đừng hỏi tránh được hay không tránh được, mà trước xin tự hỏi có thể sửa đổi hay không sửa đổi thôi. Chỉ nên tự mình ức chế thật riết; nếu muôn phần được một thì tôi sẽ mách anh một phép giả tử.

Bình sinh Thôi không tin bùa phép, nên chỉ cười mà không nói gì. Ðạo sĩ nói tiếp:

- Tôi biết lang quân không tin, nhưng lời tôi nói chả phải như lời bọn đồng cốt. Cứ làm được cũng đã là thịnh đức, dẫu không công hiệu cũng chẳng hại gì.

Thôi xin được nghe lời dạy bảo. Ðạo sĩ bèn nói:

- Vừa có một kẻ hậu sinh đi qua trước cửa kia, anh nên kết giao thật hậu tình với hắn; sau này có phạm tội chết, thì người ấy có thể cứu sống anh được.

Nói rồi gọi Thôi ra chỉ cho biết người đó. Thì ra đó là thằng bé con nhà họ Triệu, tên là Tăng Kha.

Triệu là người đất Nam Xương, gặp năm đói kém phải đến ngụ cư ở Kiến Xương. Từ đấy Thôi bèn cùng Triệu giao kết thân tình, mời dọn sang ở nhà mình, cung cấp cho rất hậu. Tăng Kha tuổi mới mười hai, lên nhà lạy mẹ, nhận nhau làm anh em.

Năm sau, đến vụ canh tác mùa xuân. Triệu đem gia quyến đi, từ đó không có tin tức gì.

Bà cụ họ Thôi, từ khi người đàn bà hàng xóm chết, răn con càng cẩn mật; có người nào đến kêu nài, cầu cứu gì, bà đều xua gạt đi. Một hôm, cậu ruột Thôi mất, chàng theo mẹ sang viếng, giữa đường gặp mấy người đang trói giải một người đàn ông, vừa mắng chửi vừa thúc đi cho nhanh, lại còn đánh đập. Người xem nghẽn cả đường, xe không tiến lên được. Thôi hỏi duyên do, thì những người biết Thôi đều xúm đến mách bảo.

Nguyên trước đây cậu con trai một vị chức sắc lớn, là tên Giáp nọ, ngang ngược nhất làng, dòm thấy vợ chàng Lý Thân có nhan sắc, muốn chiếm đoạt, nhưng không có cớ gì, bèn bảo người nhà dụ anh ta đánh bạc, đưa tiền cho vay, lấy lãi rất nặng, bắt đem cả người vợ ghi vào khế văn, thua hết lại cho vay, một đêm nợ đến vài nghìn. Ðược nửa năm thì nợ mẹ đạ nợ con đã hơn ba mươi nghìn. Thân không sao trả được, cậy thế đông người chúng đến cướp lấy người vợ. Thân đến cửa mà khóc lóc, Giáp giận, bắt trói, treo lên cây, đánh bằng roi, cứa bằng dao, và bức phải làm tờ 'giấy không kêu nài'.

Thôi nghe nói, nộ khí bốc lên ngùn ngụt, gia roi cho ngựa tiến lên, ý muốn dụng võ.

Mẹ Thôi vén rèm xe, gọi lại bảo:

- Chà, lại thế đấy hả?

Thôi đành phải làm nhịn.

Viếng tang xong trở về, không nói cũng không ăn, chỉ ngồi sững, mắt nhìn thẳng, như đang giận dữ người nào. Vợ căn vặn cũng không buồn đáp. Ðến đêm, mặc cả áo ngoài, nằm trên giường, trằn trọc mãi đến sáng. Ðêm sau cũng vậy, chợt mở cửa đi ra rồi lại trở vào nằm, cứ như thế đến ba bốn lần. Vợ không dám hỏi, chỉ lo lắng nín im để xem sao. Thế rồi lại ra đi, rất lâu mới về, khép cửa lên giường ngủ say. Cùng đêm ấy, có người đã giết tên Giáp trên giường nằm, phanh bụng rút ruột ra ngoài; thây của vợ Thân cũng loã lồ nằm ở dưới giường.

Quan nghi cho Thân, bắt về tra xét, cùm kẹp tàn khốc, lòi cả xương mắt cá chân nhưng vẫn không cung xưng; hơn một năm không chịu nổi cực hình, phải nhận liều, bị ghép vào tội tử hình.

Vừa gặp lúc mẹ Thôi mất. Chôn cất xong, chàng bảo vợ rằng:

- Kẻ giết tên Giáp, chính là ta. Chỉ vì còn mẹ già, không dám tiết lộ. Nay việc lớn đã xong, cớ sao một người làm lại để kẻ khác vạ lây? Ta sắp ra nhận tội chết trước nhà chức trách.

Vợ kinh hãi, túm áo kéo lại, chàng dứt chéo mà đi, tự ra thú nhận ở pháp đình.

Quan ngạc nhiên, cùm lại, tống vào ngục, mà tha cho Thân.

Thân không chịu, chứ một mực nhận tội. Quan không thể quyết, giam cả hai. Họ hàng thân thuộc chê trách Thân.

Thân nói:

- Cái việc mà công tử làm, là việc ta muốn làm mà không làm được. Công tử đã làm thay cho ta, mà ta lại nở lòng ngồi nhìn công tử chết hay sao? Nay ta cứ coi như công tử chưa ra đầu thú là được rồi.

Rồi cứ giữ nguyên, không đổi lời khai, lại cố tranh tội với Thôi. Lâu về sau nha môn cũng biết duyên cớ, bắt Thân phải ra khỏi ngục, để Thôi chịu tội.

Ngày xử quyết đã gần đến, xảy có quan Tuất Hình Triệu Bộ Lang tới duyệt các án tù. Ðọc đến tên Thôi Mãnh, ông gạt hết mọi người ra rồi cho gọi vào.

Thôi vào, ngẩng nhìn lên công đường, thì là Tăng Kha. Vừa buồn vừa mừng, nói hết tình thực.

Triệu bồi hồi một lúc lâu, rồi vẫn truyền tống giam, dặn lính ngục phải đối đãi tử tế. Dần dần lấy cớ là đã biết tự thú được giảm đẳng, sung làm lính thú Vân Nam.

Thân cũng được đi theo để phục dịch. Chưa đầy một năm, được viện lệ ân xá mà về, đều là nhờ sức của Triệu cả.

Sau khi đã về, Thân vẫn theo không rời, nhận làm quản gia cho chàng, nhưng trả tiền không lấy, chỉ những thuật leo trèo đánh đá là chú tâm tập luyện.

Thôi đãi ngộ rất hậu, cưới vợ cho và cấp cho ruộng đất. Riêng Thôi, từ đó cố gắng sửa đổi tính nết cũ, mỗi khi sờ đến vết kim châm trên cánh tay, thì ràn rụa nước mắt.

Trong làng xóm có xảy ra việc gì, thì Thân tự thác mệnh Thôi lo liệu dàn xếp mà không bẩm cho Thôi hay.

Có viên giám sinh họ Vương, là nhà hào phú, bọn vô lại bất nhân bốn phương thường hay thậm thụt ra vào cửa hắn. Những nhà khá giả trong ấp phần lớn đều bị chúng cướp bóc, nếu có ai dám trái ý, hắn sai bọn cướp giết ngay ngoài đường. Con hắn cũng dâm bạo. Vương có một bà thím goá chồng. Cả hai cha con cùng gian dâm với bà. Vợ là Cừu thị mấy lần can ngăn Vương, Vương liền thắt cổ nàng cho chết.

Anh em họ Cừu kiện lên quan thì Vương đút lót để người cáo giác mình phải mang tội vu khống. Hai anh em chịu oan uất không có cách gì phân giải được, bèn tìm đến Thôi để kêu cầu, tố cáo.

Song bị Thân cự tuyệt đuổi đi. Vài ngày sau có khách đến, gặp lúc không có người hầu ở nhà. Thôi bảo Thân pha trà, Thân làm thinh đi ra nói với người khách rằng:

- Tôi với Thôi Mãnh chẳng qua cũng là bạn bè thôi. Theo nhau đi đày ở ngoài muôn dặm, không thể nói là không tận tình. Thế mà đã không trả công cho đồng nào lại sai khiến như đầy tớ, thì chịu sao cho nổi.

Nói xong, hằm hằm sắc mặt bỏ đi. Có người nói lại với Thôi. Thôi lấy làm lạ sao Thân đổi tính thay nết như vậy, nhưng cũng chưa coi là kỳ cho lắm. Bỗng Thân lên quan kiện Thôi ba năm không trả tiền công cho mình.

Thôi kinh dị quá, phải thân đứng ra đối chất . Thân phẫn uất tranh cãi.

Quan cho là lý không ngay thẳng, trách mắng, đuổi đi.

Lại mấy ngày sau, bỗng đang đêm Thân vào nhà họ Vương bắt cả hai cha con, người thím, người dâu giết tất rồi dán giấy vào vách, tự viết tên họ mình. Khi cho truy bắt thì đã đào vong mất tích.

Nhà họ Vương nghi cho Thôi Mãnh là chủ mưu. Quan không tin.

Thôi mới hiểu, câu chuyện kiện tụng Thân bày ra trước đây là vì sợ giết người sẽ liên luỵ đến mình. Các địa đầu châu ấp phụ cận truy nã rất gắt. Vừa lúc giặc Sấm nổi loạn, việc ấy mới xếp lại.

Chẳng bao lâu nhà Minh mất ngôi. Thân đem gia quyến về, lại nối tình thân với Thôi như xưa. Lúc bấy giờ, giặc cỏ tụ tập như ong. Vương có đứa cháu họ tên là Ðắc Nhân, tập họp bọn vô lại do chú chiêu mộ ngày trước, chiếm cứ núi non làm giặc kéo đi đốt cướp xóm làng.

Một đêm, chúng dốc hết cả sào huyệt kéo đến, rêu rao là để phục thù. Lúc đó Thôi không có nhà. Khi giặc phá cửa, Thân mới tỉnh dậy vượt qua tường nấp trong bóng tối.

Giặc sục sạo tìm Thôi, không thấy, bắt vợ Thôi, vơ vét của cải rồi đi.

Thân trở vào, chỉ có một người đầy tớ, phẫn chí đến cực điểm, bèn cắt một sợi dây thừng thành mấy chục khúc, đem những khúc ngắn trao cho người đầy tớ, còn mình giữ lấy những khúc dài. Dặn người đầy tớ phải vượt qua sào huyệt giặc, trèo lên lưng chừng núi, châm lửa vào dây thừng rồi treo lên các bụi gai, xong thì cứ bỏ đấy về ngay, đừng ngoái lại.

Người đầy tớ vâng lời ra đi.

Thân nhìn thấy bọn giặc đứa nào cũng thắt dây lưng đỏ, và buộc miếng the đỏ trên mũ, bèn cũng bắt chước nguỵ trang như vậy. Có một con ngựa cái đã già, mới đẻ con, giặc bỏ lại ngoài cửa. Thân buộc con ngựa con lại, cưỡi ngựa mẹ, ngậm tăm ra đi, thẳng đến ổ giặc.

Giặc đóng ở một thôn lớn.

Thân buộc ngựa ngoài thôn, trèo tường vào, thấy bọn giặc còn lăng xăng, rối rít, giáo mác cầm trên tay chưa kịp buông. Thân vồ hỏi mấy đứa, biết vợ Thôi còn ở chỗ tên Vương.

Một lát, nghe truyền lệnh cho quân nghỉ, tiếng dạ như sấm ran. Bỗng có người báo núi phía Ðông có lửa. Bọn giặc cùng nhau đứng trông. Lúc đầu mới chỉ có một hai chấm, rồi thì nhiều như sao sa.

Thân dồn hơi kêu lên rất gấp rằng mé núi phía Ðông có động! Tên Vương cả kinh, nai nịt lại, dẫn quân ra.

Thân thừa dịp tụt lại phía sau bọn chúng rồi quay mình đi luôn vào trong trại. Thấy hai tên giặc đứng canh ở dưới trướng. Chàng phỉnh chúng, nói:

- Vương tướng quân bỏ quên thanh bội đao ở đây!

Hai tên thay nhau tìm kiếm. Thân đứng đằng sau chém tới, một tên ngã nhào, đứa kia ngoảnh lại nhìn, Thân liền chém nốt. Rồi cõng vợ Thôi vượt tường mà ra, mở ngựa trao dây cương dặn:

- Nương tử không biết đường, cứ để mặc cho ngựa đi.

Ngựa nhớ con bon bon chạy. Thân theo sau, đến một hẻm núi, chàng châm lửa vào sợi dây thừng, treo khắp nơi rồi mới chạy về.

Ngày hôm sau Thôi trở về nhà, cho là điều đại sỉ nhục, bồn chồn, tức tối ra mặt, muốn đơn phương độc mã đi dẹp giặc. Thân phải can ngăn mới thôi. Bèn triệu tập người làng cùng bàn tính mưu kế.

Chúng đều khiếp sợ, không ai dám hưởng ứng. Giảng giải khuyên dụ đến vài bốn lần mới được hơn hai mươi người dám đi. Nhưng khổ nỗi lại không có khí giới. Vừa khi ấy lại trói hai tên gian tế trong một nhà bà con của Ðắc Nhân. Thôi muốn giết ngay, Thân không cho, hạ lệnh cho hai mươi người cầm gậy, dàn ra trước mặt, rồi cắt tai cả hai đứa mà thả cho về. Mọi người đều oán, nói rằng:

- Một đám quân gia thế này, đang sợ giặc nó biết được, thế mà lại cho hai thằng kia nhìn thấy hết. Nếu bất chợt chúng dốc toàn đội kéo xuống đây thì đóng cổng làng, cũng không sao giữ được!

Thân đáp:

- Chính tôi muốn cho chúng nó xuống!

Bèn cho bắt kẻ giấu giặc trong nhà đem giết đi. Rồi sai người đi mọi nơi mượn cung nỏ, súng kíp, lại lên ấp mượn hai cỗ pháo lớn.

Trời vừa tối, chàng dẫn tráng sĩ đến chỗ hẻm núi, đặt pháo vào nơi xung yếu, cho hai người cầm lửa nấp ở đấy, dặn hễ thấy giặc mới phát hoả.

Lại đi đến phía Ðông cửa hang, chặt cây đặt lên dốc núi.

Thế rồi Thân và Thôi mỗi người lĩnh một suất hơn mười người chia ra mai phục hai bên bờ. Gần hết canh một, xa xa nghe tiếng ngựa hí, ngầm xem xét, giặc quả ồ ạt kéo đến từng xâu dài, liên miên không dứt.

Chờ chúng đã đi vào cả trong lũng rồi, bèn đẩy cây lăn xuống để chặn đường về.

Một lát, tiếng pháo nổ ran, tiếng hò reo chuyển động cả khe núi. Giặc rút mau, dẫm đạp lên nhau, đến chỗ hẻm phía Ðông, không thoát ra được, dồn cục một đống. Hai bên bờ, tên đạn giáp công, khí thế như mưa bay gió cuốn. Quân giặc, đứa đứt đầu, đứa gãy chân, nằm gối lên nhau, ngổn ngang trong rãnh, chỉ sót lại hai mười đứa, quỳ gối xin chuộc mệnh; bèn sai người trói cả lại giải đi. Thừa thắng tiến thẳng lên sào huyệt giặc. Bọn giặc giữ trại nghe hơi chạy trốn sạch; bao nhiêu đồ đạc đều lục tìm kỳ hết đem về.

Thôi cả mừng, hỏi Thân về mưu kế đốt lửa. Thân nói:

- Ðốt lửa ở phía Ðông, vì sợ chúng đuổi ở bên Tây; dùng thừng ngắn là để cho mau cháy hết, vì sợ chúng dò biết là không có người; lại đốt ở cửa hang, vì sợ cửa hang rất hẹp, một người cũng đủ chặn giữ. Bọn chúng đuổi tới, thấy lửa, tất phải sợ. Ðó đều là hạ sách, mạo hiểm mà dùng trong lúc nhất thời thôi.

Bắt mấy tên giặc lên hỏi thì quả nhiên khi đuổi đến cửa hang thấy lửa, chúng đều hoảng sợ mà lui bước.

Hơn hai mươi tên cướp bắt được đều bị xẻo tai cắt mũi rồi thả cho về. Từ đó, họ Thôi và họ Thân uy danh lừng lẫy. Những người tị nạn xa gần theo về như chợ, vì vậy mà tổ chức được một đoàn dân binh hơn ba trăm người.

Bọn cường hào ở các nơi không dám phạm đến nữa; cả một vùng nhờ đó mà được yên.

Liên Hương

Thư sinh họ Tang tên là Hiểu, tự là Tử Minh, người Nghi Châu. Mồ côi từ nhỏ, thuê nhà ở tại bến nước Hoa Hồng. Tang là người tính ưa trầm tĩnh, một mình cũng đủ vui, ngày hai bận ra ngoài, đến nhà hàng xóm phía Ðông ăn cơm, kỳ dư ngồi lỳ trong nhà mà thôi.

Có anh học trò ở láng giềng phía Ðông tình cờ đến chơi, nói đùa rằng:

- Anh sống một mình mà không sợ ma hồ ư?

Chàng cười đáp:

- Là trượng phu thì sợ gì ma với hồ. Con trống đến ta có kiếm sắc, con mái đến thì còn phải mở cửa, rước vào ấy chứ!

Anh học trò láng giềng trở về, bày kế với bạn hữu, đêm bắc thang cho gái điếm trào tường vào, rón tay gõ cửa.

Chàng nhìn ra, hỏi là ai, cô kỹ nữ tự xưng là ma. Chàng khiếp đảm, răng va vào nhau lập cập.

Cô gái quay gót trở ra. Hôm sau, anh học trò láng giềng đến phòng học của chàng từ sớm. Chàng kể lại điều mình đã gặp, lại ngỏ sắp bỏ đây mà về.

Anh học trò lá gặp, giềng ngỏ

- Thế sao không mở cửa rước người ta?

Chàng bỗng hiểu ra mình bị lỡm, bèn cứ ở yên như trước.

Ðược chừng nửa năm, đang đêm một cô gái đến gõ cửa thư phòng. Chàng nghĩ đây chắc là trò đùa của bạn, bèn mở cửa mời vào, thì hoá ra một mỹ nữ đẹp nghiêng thành. Ngạc nhiên, Chàng hỏi từ đâu đến, nàng đáp rằng:

- Thiếp là Liên Hương, kỹ nữ ở khu nhà phía Tây.

Trên bến sông vốn có nhiều thanh lâu nên chàng tin ngay. Bèn tắt đàn lên giường, quấn quít bằng thích.

Từ đó cứ cách dăm ba ngày lại một lần nàng đến.

Một đêm, đang ngồi một mình trầm tư mặc tưởng thì một cô gái thướt tha bước vào. Chàng cứ nghĩ là Liên Hương, đón đợi để cùng trò chuyện, nhìn mặt hoá ra không phải. Tuổi chỉ mười lăm, mười sáu, tay áo buông chùng, tóc thề bỏ xoã, phong vân thanh tú, bước đi uyển chuyển như chao qua lượn lại. Thất kinh, ngờ là hồ. Cô gái bảo:

- Thiếp là con gái nhà lương thiện. Họ Lý , mến chàng cao nhã, mong được mắt xanh rủ lòng đoái đến.

Chàng mừng rỡ, cầm tay, thấy lạnh như băng, hỏi:

- Sao mà lạnh thế?

Ðáp:

- Tạng người mảnh dẻ, đêm nay lai phải dầm sương móc, không lạnh sao được!

Thế rồi giải quần là trút bỏ, lồ lộ là gái trinh. Nàng nói:

- Thiếp vì tình duyên xui khiến mà chỉ một sớm đánh mất tấm thân son trẻ; nếu không rẻ rúng là quê mùa, thì ngày ngày xin được hầu gối chăn. Không biết chốn khuê phòng còn có người nào nữa không?

Chàng đáp:

- Không có ai, chỉ có một nàng ca kỹ láng giềng, nhưng thỉnh thoảng mới đến.

Nàng bảo:

- Nếu thế thì phải cẩn thận đề phòng mới được. Thiếp không thể sánh vai với đám người trong kỹ viện, chàng hãy giữ kín chớ tiết lộ. Cứ bên kia đến thì bên này đi, bên kia đi thì bên này đến là được.

Gà vừa gáy, sắp từ biệt, nàng tặng lại một chiếc giày thêu, nói rằng:

- Ðây là vật thiếp mang dưới chân, cầm mà chơi cũng gửi vào đây chút thương nhớ, nhưng lúc có người thì cẩn thận, đừng có đem nghịch.

Chàng nhận lấy, ngắm nghía, thấy mũi cong cong như chiếc dùi cởi nút, trong lòng rất thích thú. Ðêm hôm sau nhân vắng người, lại mang ra sờ ngắm, bỗng cô gái từ đâu phơi phới đi đến, bèn lại quấn quít yêu đương. Từ đó mỗi lần mang giày ra, thế nào nàng cũng đến đúng như mình mong. Lấy lấy làm lạ, bàn gạn hỏi. Nàng cười nói:

- Tình cờ mà phù hợp đấy thôi.

Một hôm, Liên Hương đến, kinh ngạc hỏi:

- Chàng sao thần sắc tiều tuỵ thế?

Chàng nói chính mình cũng không rõ vì sao. Liên Hương bèn từ biệt mà đi, hẹn mười này sau sẽ trở lai. Sau khi nàng đi, Lý đến thường xuyên, không đêm nào vắng. Hỏi chài,

- Người tình của chàng sao đã lâu lắm không thấy tới?

Nhân kể lại lời hẹn của Liên, Lý cưn, Lš

- Chàng xem nhan sắc của thiếp so với Liên Hương thế nào?

Ðáp:

- Khá khen cả hai đều tuyệt sắc. Nhưng Liên Hương da dẻ có phần ấm áp hơn.

Mặt Lý ý ý šý biến

- Chàng nói đẹp cả đôi là nói trước mặt thiếp thế thôi! ả ấy chắc phải là người tiên trong nguyệt điện, thiếp hẳn không bằng rồi.

Nhân thế rầu rĩ không vui. Rồi bấm đốt ngón tay, thì kỳ hẹn mười ngày đã đến, bèn dặn chớ có tiết lộ, để mình nhìn trộm cô nàng xem sao.

Ðêm hôm sau, Liên Hương quả đến, cười nói rất đằm thắm. Kịp đến khi đi nằm, bỗng hốt hoảng kêu lên:

- Nguy rồi! Mười ngày không thấy mặt, mà sao đã suy nhược nhanh thế? Có đảm bảo là không gặp gỡ ai khác nữa đấy chứ?

Chàng hỏi duyên có vì sao. Nàng đáp:

- Thiếp cứ xét thần sắc thì biết. Mạch đập tán loạn, như tơ rối, chứng này là ma ám rồi.

Ðêm sau nữa. Lý trở lại. Chàm sau

- Ngắm Liên Hương thấy thế nào?

- Ðẹp thật! Thiếp vẫn cho rằng trên đời không có người đẹp như vậy được, đích thị là hồ. Lúc đi rồi, mình bám theo đằng sau, thì ra ở núi Nam Ly, mà lại sống trong hang.

Chàng nghĩ cô ta ghen, nên cũng gật đầu cho qua. Sau đấy một đêm, lại đùa bỡn Liên Hương rằng:

- Tôi chẳng tin đâu, nhưng có người nói nàng là hồ đấy.

Liên vội hỏi ngay người ấy là ai. Cười đáp:

- Tôi nói đùa nàng đấy thôi!

Liên hỏi lại:

- Hồ thì khác gì người?

Ðáp:

- Kẻ nào bị nó mê hoặc thì bị ốm, nặng quá là chết, vì thế mới đáng sợ.

Liên đáp:

- Không đúng đâu, như cỡ tuổi chàng, ba ngày sau khi chung chạ, tinh khí có thể phục hồi, dù là hồ đi nữa cũng có hại gì! Còn như đêm đêm đánh riết thì dẫu là người còn tệ hơn hồ nữa kia! Trong thiên hạ, những xác bệnh lao, nhưng ma sài mòn, dễ thường đều là do hồ ám chết cả đấy! Tuy nhiên, hẳn là có kẻ nào thì thầm gì về tôi đây.

Chàng cố biện bạch là không có ai. Liên càng ra sức căn vặn. Núng thế chàng đành phải nói lộ ra. Liên bảo:

- Tôi vẫn thấy làm lạ sao chàng suy kiệt, nhưng có ngờ đâu lại chóng đến như vậy. Có lẽ đây không phải là người chăng? Chàng đừng nói gì, đêm mai sẽ làm đúng như cách hắn ta đã nhòm thiếp.

Ðêm sau, Lý đến, vừa mới nói dăm ba cây lại nghe ngoài song có tiếng đằng hắng, lật đật bỏ đi, Liên bước vào nóm sau,

- Chàng nguy thật rồi! Ðấy đúng là ma. Mê sắc đẹp của nó mà không dứt sớm đi, đường về âm phủ xem chừng gần đấy!

Chàng bụng vẫn cho là nàng ghen, trầm ngâm không nói. Liên bảo tiếp:

- Vẫn biết chàng không phải là kẻ vong tình. Nhưng thiếp không nỡ ngồi nhìn chàng chết. Ngày mai sẽ xin đem thuốc tễ đến để trừ âm độc cho chàng. Cũng may cuốn bệnh còn nông, chỉ mươi ngày thì các chứng sẽ dứt. Xin nằm cùng giường để chăm nom cho đến lúc thuyên giảm.

Ðêm hôm sau, nàng quả đến đem theo ít thuốc tán bón cho chàng. Chỉ một lúc, nuốt được hai ba lượt cảm thấy tạng phủ thư thái, tinh thần nhẹ nhõm hẳn. Bụng rất biết ơn, nhưng trước sau vãn không tin là bệnh do ma làm. Liên đêm đêm nằm chung chăn, ôm lấy chàng. Chàng muốn cùng nàng giao hợp, song nàng ngăn lại. Sau mấy ngày, da dẻ đã đầy đặn. Toan từ giả, khẩn khoản dặn phải dứt hẳn Lý. Chàng làm bộ nhận lời. Nhưng vừa đóng cửa, khêu đàn, đã cầm lấy chiếc giày mà tơ tưởng. Lý chợt đến ngay. Mới cách biệt mấy hôm, đã hơi có vẻ hờn dỗi. Chàng nón

- Luôn mấy đêm cô ta phải lo thuốc thang giúp tôi, xin đừng vì thế mà đem lòng oán trách. Tình nồng mặn cốt ở nơi tôi.

Lý đã hơi nguôi nguôi. Trong khi đầu gối tay ấp, chàL đã hơi nguôLš

- Tôi yêu nàng lắm cơ, vậy mà có kẻ bảo nàng là ma đấy!

Lý cứng lưỡi hồi lâL cứng lưLš cứng

- Hẳn là con chồn dâm đãng đã ton hót với chàng rồi. Nếu không dứt nó đi, thiếp không đến nữa đâu!

Ðoạn nghẹn ngào nuốt nước mắt. Chàng phải hết lời khuyên giải mới nín.

Cách một đêm, Liên Hương đến, biết Lý lại trở lại, giận giữ nóắn,

- Chàng hẳn muốn chết chăng?

Chàng cười đáp:

- Nàng ghen gì mà khiếp thế?

Liên càng giận nói:

- Chàng trồng cái mầm chết, thiếp đã vì chàng nhổ nó đi, không ghen thì biết làm thế nào được!

Chàng bày lời đùa cợt nói:

- Thế mà cô ta nói bệnh trước là do hồ ám đấy.

Liên than rằng:

- Nếu quả như lời chàng nói thì chàng đã lú lẫn, không còn tỉnh nữa. Vạn nhất có bề nào, thiếp dù trăm miệng cũng làm sao tự mình có thể phân tỏ được? Từ hôm nay xin giã biệt. Sau trăm ngày nữa sẽ đến thăm chàng ở tận đầu giường.

Giữ mấy cũng không được, cứ hậm hực đi thẳng.

Từ đấy Lý sớm tối cập kề bên cạnh chàng. Ðược hai tháng, cảm thấy người mệt rũ. Mới đầu còn tự trấn an mình, nhưng rồi ngày càng gầy rộc đi, chỉ húp được một tô cháo loãng. Muốn về nhà để được chăm sóc, mà cứ quyến luyến không nỡ rứt đi ngay. Lần lữa đến mấy ngày, trở bệnh mê mệt, không dậy được nữa. Anh học trò láng giềng thấy chàng ốm nặng, ngày ngày sai thằng nhỏ trong quán ăn mang cơm cháo đến nhà. Chàng bấy giờ mới đâm ngờ Lý, nhâấy L sớmý ấy

- Ta hối hận đã không nghe lời Liên Hương nên mới ra nông nỗi này.

Nói xong, mắt tối sầm. Lúc sau tỉnh lại, mở to mắt nhìn quanh thì Lý đã đi mất; Từ đó hai bên mới đoạn tuyệt. Chàng nằm còm cõi giữa thư phòng trống vắng, nghĩ đến Liên Hương như người ta mong đến ngày mù Lš

Một hôm, đang giữa lúc mơ mơ màng màng, bỗng một người cuốn rèm bước vào, thì đúng là Liên Hương. Ðến sát bên giường, cất giọng mát mẻ:

- Anh chàng nhà quê! Nào tôi có nói điêu đâu!

Chàng nghẹn ngào hồi lâu, nói rằng mình đã biết tội, chỉ mong được cứu vớt. Liên bảo:

- Bệnh đã vào đến cao hoang, thật hết phương cứu chữa, tôi chỉ đến đây cốt để nói với nhau một lời vĩnh biệt, để tỏ rõ không có gì ghen tuông.

Chàng buồn thảm quá, nói rằng:

- Một vật dưới gối, phiền nàng đập nát dùm tôi.

Liên tìm được chiếc giày, đưa cầm ra trước đèn xoay trở ngắm nhìn. Cô gái họ Lý ở đâu vụt bước vào, thoạt trông thấy Liên Hương, quay ngoắt lại định chạy. Liên vội lấy thân chắn ngang cửa. Lý quẫn bách không còn biết chạy đi đâu. Chàng trách móc đay nghiến. Lý không sao đáp lại được. Liên cư họ Lš

- Hôm nay tôi mới được cùng dì dàn mặt để hỏi nhau đôi câu. Hồi trước bảo rằng bệnh cũ của lang quân vị tất đã không phải do tôi gây ra, nay rốt cuộc thế nào?

Lý cúi đầu tạ lỗi. LiêL cúLš

- Mỹ miều như thế mà nỡ đem tình yêu để kết oán thù ư?

Lý vật mình xuống đất khóc ròng, xin rủ lòng thương xót mà cứu giúp. Liên đỡ dậy, hỏi kỹ về thuở sinh thời. ÐáLš vật

_ Thiếp là con gái ông Thông phán họ Lý, chết non, chôn ở phía ngoài bức tường này. Như con tằm xuân, chết rồi mà mối tơ thừa vẫn còn vấn vương chưa dứt. Cùng chàng gắn bó là nguyện của thiếp, đẩy chàng đến chỗ chết thật không phải bản tân

Liên hỏi:

- Nghe nói loài ma, hễ người khác chết thì lợi cho mình, vì chết rồi sẽ đoàn tụ mãi bên nhau, có thực thế không?

Ðáp:

- Không đúng đâu, hai con ma gần gũi nhau, tịnh không có chút lạc thú. Như quả thích thú thì những chàng trai trẻ dưới suối vàng có thiếu đâu!

Liên bảo:

- Thực đến là ngốc! Ðêm nào đêm ấy làm miết, đến người cũng không kham nổi, huống hồ là ma!

Lý šý

- Hồ cũng có thể làm chết được người, chị có pháp gì riêng mình lại không?

Liên đáp:

- Ðó là hạng chuyên rút tinh bổ khí. Tôi không phải là hạng ấy. Mới hay, trên đời vẫn có giống hồ không hại người, chứ quyết không có giống ma nào không hại người cả, là vì âm khí thịnh quá.

Chàng nghe hai bên trao đổi, mới biết hồ và ma đều là chuyện thực. Cũng may tiếp xúc lâu ngày đã quen, nên không còn thấy rợn mấy nữa. Song nghĩ mình chỉ còn chút hơi tàn như sợi tơ, bất giác rống lên khóc thất thanh. Liên quay lại hỏi Lý:

- Giờ xử trí thế nào cho chàng đây?

Lý đỏ mặt, nhún nhường từ tạ, Liên cưL đLš

- Chỉ sợ chàng khoẻ mạnh rồi, nương tử lại thói chanh chua vẫn đâu vào đấy.

Lý khép vạt áo vái mà nóLš

- Nếu gặp được tay đại danh y để thiếp khỏi phải phụ lòng chàng, thì cũng đáng vùi đầu mãi dưới đất đen, còn dám đâu ngẩng mặt lên với đời nữa.

Liên bèn cởi đẫy, lấy thuốc ra, nói:

- Tôi sớm biết có ngày hôm nay nên sau khi cùng chàng bái biệt đã trèo lên ba ngọn núi hái thuốc; trải ba tháng trời, mới đủ mọi vị. Dẫu bệnh đến sài mòn lịm chết, cho uống vào cũng ít ai không tỉnh lại. Chỉ có điều, chứng bệnh do đâu thì phải lấy đấy làm vị dẫn thuốc. Cho nên không thể không cậy mình giúp sức.

Hỏi cần gì, đáp:

- Một chút nước dãi thơm trong khoé miệng anh đào đấy thôi. Tôi đặt viên thuốc vào, nhờ mình áp miệng vào nhổ cho trôi xuống.

Lý đỏ bừng cả mặt, cúi gầm đầu xuống đưa mắt ngó chiếc giày. Liên đùa nóLš tiếp:

- Sở thích của em chỉ là chiếc giày đó thôi à?

Lý càng hổ thẹn, cúi hay ngửa, không còn biết giấu mặt đi đâLš

Liên nói:

- Ngón ngạo lúc bình thường, nay còn tiếc gì nữa chứ?

Rồi lấy một viên thuốc để vào môi chàng, quay sang thúc ép Lý.

Lý không đừng được, phải áp vào miệng mà mớm. Liêc ủp

- Nữa đi.

Lại mớm nữa.

Mớm đến ba bốn lần, thuốc mới trôi xuống họng. Chỉ một lát, bụng nghe ùng ục như tiếng sấm. Liên lại đặt một viên thuốc khác, rồi tự mình áp môi hà hơi vào. Chàng cảm thấy vùng rốn như có lửa đốt, tinh thần sảng khoái bừng dậy.

Liên bảo:

- Khỏi rồi.

Lý nghe gà đã gáy, bàng hoàng giã biệt ra đi. Liên nghĩ chàng mới khỏi, cần phải điều dưỡng, ra quán cơm ăn cơm cũng chưa nên, bèn khoá trái cửa ở bên ngoài, vờ làm như chàng đã về quê, để dứt hẳn bạn bè lai vãng, ngày đêm giữ gìn, săn sóc chàng. Lý tối nào cũng đến, hầu hạ rất ân cần, coi Liên như chị, Liên cũng thương yêu hết lòLš

Ở được ba tháng, chàng mạnh khoẻ như xưa. Lý bèn bẵng đi dần, cách hai ngày đêm mới một lần trở lại. Tình cờ có tới cũng ngó qua một chút rồi đi ngay. Lúc gặp mặt nhau chỉ rầu rầu không vui. Liên thường giữ nàng ở lại ngủ chung, cũng không nghe. Chàng phải chạy theo ra, kéo lại, bế thóc về, người cứ nhẹ như hình nhân bằng cỏ. Nàng không còn trốn vào được, bàn để nguyên áo xống mà nằm, cuộn tròn mình lại, không đầy hai thước. Liên càng thương, ngầm bảo chàng ôm ấp, như lay mấy cũng không tỉnh. Chàng ngủ thiếp đi, lúc tỉnh dậy tìm, thì đã biến mất. Luôn mười ngày sau cũng không thấy trở lại. Chàng tưởng nhớ da diết, thường mang chiếc giày ra cùng đùa nghịch. Liêa. L bàa.

- Yểu điệu như thế, thiếp thấy cũng còn thương, huống gì là nam giới.

Chàng nói:

- Ngày trước cứ mỗi lần nghịch đến giầy thì lại xuất hiện, trong lòng đã lấy làm ngờ, nhưng chung quy vẫn chẳng nghĩ được là ma. Nay nhìn giầy lại tưởng đến dung nhan, thật đáng mủi lòng.

Nói rồi chảy nước mắt.

Nguyên trước đấy có nhà phú ông họ Trương, có người con gái tiểu tự là Yến Nhi, tuổi vừa mười lăm, bị bệnh không thoát được mồ hôi mà chết. Qua một đêm bổng tỉnh lại, ngồi dậy ngó quanh rồi định chạy. Trương khoá cửa lại, không ra được, cô gái bèn tự nói rằng:

- Tôi là hồn cô gái ông Thông phán, cảm mối tình quyến luyến của chàng Tang, có chiếc giày còn để lại ở nhà chàng. Tôi thực là ma, giữ lại có ích gì?

Nghe lời nói có vẻ ngọn ngành, bèn hỏi duyên cớ vì sao lại đến đây. Cô gái bồi hồi nhìn lui nhìn tới, mơ màng không hiểu ra sao cả. Có người nói thư sinh họ Tang vì ốm đau đã về quê rồi thì cô một hai bảo là nói dối.

Người nhà đâm hoang mang. Anh học trò phía Ðông nghe chuyện, trèo tường vào nhòm thử xem, thấy chàng cùng một người đẹp đang đối mặt chuyện trò. Bất ngờ chạy sấn vào tận nơi; nhưng giữa lúc đang nhớn nhác, người đẹp đã biến mất. Anh học trò láng giềng thất kinh, gặng hỏi. Chàng cười đáp:

- Ðộ trước chẳng đã nói với bác 'con mái thì rước vào' đấy thôi.

Anh học trò láng giềng thuật lại lời Yến Nhi. Chàng liền mở cổng, định đi sang để dò xét thực hư, khổ nỗi không tìm ra cớ gì để đến nhà họ cả.

Bà Trương nghe chàng quả chưa về quê, lại càng lấy lạ, bàn sai một mụ ở tới hỏi chiếc giày. Chàng lấy trao ngay. Yến Nhi nhận được, mừng rỡ, thử xỏ chân vào thử thì giày nhỏ hơn chân đến một tấc. Sợ quá, cầm gương tự soi, bất chợt hiểu ra mình đã mượn thây người khác để sống lại. Bàn thuật lại đầu đuôi, mẹ mới tin là thực.

Cô gái soi mặt vào gương, khóc oà lên rằng:

- Mặt mũi hồi trước còn hơi tự tin một chút, thế mà mỗi lần gặp chị Liên vẫn xấu hổ vì thua kém, nay lại như thế này, thì làm người chẳng bằng làm ma cho xong.

Bèn cầm chiếc giày gào khóc, khuyên mấy cũng không được. Rồi trùm chăn nằm không nhúc nhích, bảo ăn cũng chẳng ăn, mình mẩy sưng phù lên. Suốt bảy ngày không ăn, rốt cuộc vẫn không chết, mà bệnh phù rạp xuống dần. Cảm thấy đói không nhịn được nữa, bèn ăn trở lại. Vài ngày sau, khắp mình ngứa ngáy, da giẻ bong ra hết. Một buổi sáng ngủ dậy, đôi giày ngủ tuột ra từ lúc nào, vội nhặt lấy mang vào thì rộng tuênh, không vừa chân nữa. Nhân đấy bèn thử lại chiếc giày cũ, thì cỡ chân gầy béo nay thật vừa vặn. Ðã thấy mừng, lại lấy gương soi lại, thì lông my, con mắt, gò má, khoé miệng, giống hệt như thuở bình sinh. Càng bội phần mừng rỡ. Rửa mặt chải đầu rồi lên thăm mẹ. Ai nấy cũng nhìn chăm chăm.

Liên Hương nghe câu chuyện lạ, khuyên chàng nên nhờ người mối đánh tiếng, nhưng chàng nghĩ giàu nghèo cách trở, không dám đường đột đến ngay. Gặp ngày sinh nhật bà Trương, bèn theo đám con rể nhà ấy đến mừng thọ. Bà Trương nhìn thấy tên chàng, bèn bảo Yến Nhi đứng trong ràm nhòm ra để nhận mặt khách. Chàng đến sau cùng. Cô gái chạy thốc ra, túm lấy vạt áo, định theo chàng cùng về. Mẹ phải nạt cho, mới xấu hổ quay lại. Chàng nhìn kỹ, rõ ràng là đúng, bất giác trào nước mắt, bèn phục xuống lại không chịu đứng dậy nữa. Bà mẹ đến đỡ, cũng không cho là sàm sỡ.

Chàng trở về, cậy ông cậu của cô gái đến làm mối. Bà mẹ định chọn ngày lành cho chàng đến ở gửi rể. Chàng trở về nói với Liên Hương và đem chuyện đi hay ở ra bàn. Liên buồn bã hồi lâu, rồi toan từ biệt mà đi. Chàng cả kinh, bật khóc lên. Liên nói:

- Chàng làm lễ động phòng hoa chúc ở nhà người ta, thiếp theo chàng đến đấy, thì còn gì là mặt mũi nữa?

Chàng tính kế trước hãy cùng nàng trở về làng cũ, rồi sau sẽ đón Yến Nhi. Liên mới chịu theo lời. Chàng đem tình thực thưa lại với họ Trương. Trương nghe chàng đã có vợ rồi, nổi giận buông lời trách móc. Yến Nhi phải hết sức phân trần, mới cho được như lời xin.

Ðếắn ngày cứơi, chàng đi đón dâu, nhà cửa bài trí có phần qua quít; đến lúc về thì từ ngoài cổng vào đến nhà lớn, thảm lông chim trải kín mặt đất, trăm nghìn đèn lồng, rực rỡ như gấm. Liên Hương đỡ cô dâu vào phòng cưới, làm lễ giao bái xong, lại cùng nhau hoan hỉ như ngày nào. Liên ngồi bên hai người tiếp chén rượu hợp cẩn, nhân hỏi cặn kẽ câu chuyên lạ hoàn hồn. Yến nói:

- Hôm ấy, em cứ ưu uất không nguôi, chỉ vì nỗi mình với người lại là dị loài. Tự thấy hình hìa của mình thật là nhơ bẩn. Sau khi chia tay, phẫn chí không trở vẳ mộ, đành theo gió trôi dạt khắp nơi. Hễ thấy người sống thì lại thèm. Ban ngày nương vào cây cỏ, đêm thì nổi chìm phó mặc bước chân. Tình cờ đến nhà họ Trương, thấy một cô thiếu nữ nằm trên giường, bèn lại gần nhập vào, có hay đâu lại được sống lại.

Liên nghe chuyện, trầm ngâm, có dáng nghĩ ngợi.

Qua hai tháng. Liên sinh một con trai. Sinh xong, bị bạo bệnh, suốt ngày nằm ly bì. Bèn cầm tay Yến dặn dò:

- Phiền em vất vả nuôi dùm cái giống oan nghiệt này. Con ta cũng là con mình.

Yến chảy nước mắt, lựa lời khuyên giải. Muốn mời thầy lang, nhưng nàng khước từ. Bệnh ngày thêm nguy kịch, hơi thở mỏng manh như sợi tơ. Chàng và Yến Nhi đẳu khóc. Bỗng nàng mở bừng mắt ra nói:

- Ðừng thế! Các người lấy sống làm vui, riêng ta lấy chết làm thích. Nếu quả có duyên, sau mười năm nữa lại được họp mặt.

Nói xong thì chết. Mở chăn ra định liệm, thấy đã hoá thành con hổ. Chàng không nỡ coi là khác loài, lo tang gia hậu hỹ.

Con trai tên là Hồ Nhi, Yến nuôi nấng như con đẻ. Mỗi lần gặp tiết thanh minh, thế nào cũng bế con đến khóc trước mộ mẹ.

Về sau, chàng đậu kỳ thi Hương, nhà dần dần sung túc, mà Yến vẫn khổ sở vì không sinh đẻ. Hồ Nhi cũng khá thông tuệ, nhưng tạng người yếu đuối, lại lắm bệnh. Yến vẫn muốn tìm người vợ lẽ cho chồng. Một hôm, con hầu bỗng vào thưa:

- Ngoài cửa có một bà cụ, dắt theo người con gái muốn tìm chỗ bán.

Yến cho gọi vào. Thoạt nhìn thấy giật nẩy mình nói:

- Chị Liên lại ra đời đấy chăng?

Chàng nhìn cô ta thì giống hệt, nên cũng hoảng. Hỏi:

- Bao nhiêu tuổi rồi?

Ðáp rằng:

- Mười bốn.

- Tiền cưới định lấy bao nhiêu.

Ðáp:

- Thân già chỉ được có mụn con này, chỉ cốt nó được chốn yên thân, mà tôi cũng có nơi để kiếm miếng cơm, ngày sau nắm xương tàn không đến nỗi bỏ nơi ngòi rãnh, thế là đủ.

Chàng bàn trả giá cao, rồi giữ luôn bà cụ lại. Yến cầm tay cô gái, dắt vào buồng kín, nâng cằm, cười mà bảo:

- Mày có biết tao không?

Thưa rằng:

- Không biết.

Hỏi họ là gì, đáp:

- Thiếp họ Vi. Bố làm nghề bán nước ở trong thành Từ Châu, chết đã ba năm rồi.

Yến bấm ngón tay tính lại thì Liên vừa chết đúng mười bốn năm. Lại ngắm nhìn cô gái, dung nhan, cử chỉ, chỗ nào cũng giống Liên Hương đến thần tình. Bèn vỗ vỗ vào trán mà gọi to lên rằng:

- Chị Liên, chị Liên! Cái hạn 'mười năm lại gặp' đúng là không lừa tôi.

Cô gái bỗng như trong mộng bừng tỉnh, thình lình mắt sáng lên, nói:

- A!

Rồi nhìn kỹ Yến Nhi. Chàng cười bảo:

- Ðó là 'Dường như quen nhau én lại về' đấy.

Cô gái ràn rụa nước mắt, nói:

- Phải rồi. Nghe mẹ bảo, lúc thiếp mới sinh ra đã biết nói, nghĩ là điềm không lành, lấy máu chố cho uống,nên mới lú ấp cả nhân duyên kiếp trước. Hôm nay thực như trong mơ chợt tỉnh. Nương tử đây có phải là em Lý vẫn hổ thẹn vì phải làm ma khôem

Bèn cùng nhau trò chuyện về quãng đời thuở trước, buồn vui xen lẫn tuôn trào.

Một hôm, gặp tiết hàn thực, Yến bảo:

- Ðây là ngày hàng năm em và chàng vẫn khóc chị đấy.

Nói đoạn cùng nhau thân hành đi thăm mộ. Cỏ hoang đã xanh rờn, cây đã vừa ôm, nàng cũng động lòng than thở.

Yến bảo chàng rằng:

- Thiếp và chị Liên đã hai đời tình nghĩa, không nỡ lìa nhau, nên cho nắm xương trắng được cùng huyệt.

Chàng làm theo lời, đào mộ Lý, lấy xương mang về hợp tán ở mộ Liên. Họ hàng, bè bạn nghe câu chuyện lạ, mặc lễ phục kéo đến tận huyệt, không hẹn mà tụ họp đến vài trăm ngưo

Năm Canh tuất, ta đi chơi miền Nam đến đất Nghi, vì mưa ngăn trở, phải nghỉ lại ở quán trọ. Có thư sinh Lưu Tử Kính là thân thích bên ngoại của chàng Tang, đưa cho xem chuyện chàng Tang do người trong cùng văn xã là Vương Tử Chương soạn, khoảng hơn một vạn chữ, được đọc hết. Trên đây chỉ là tóm lược mà thôi

Trương Hồng Tiệm

Trương Hồng Tiệm người phủ Vĩnh Bình, mười tám tuổi đã là danh sư trong quận. Bấy giờ quan lệnh hạt Lư Long là ông Triệu nọ tham tàn bạo ngược, nhân dân đều khổ vì ông. Có chàng họ Phạm bị đánh chết, các bạn học phẫn nộ trước nỗi oan của bạn, định kêu lên quan Bộ viện, nhờ Trương viết lá đơn, hẹn chàng cùng tham dự. Trương bằng lòng. Vợ chàng là Phương thị đẹp mà giỏi, nghe được mưu ấy, can rằng:

- Ðại phàm Tú tài hành sự, có thể cùng chung thắng lợi mà không thể cùng chung thất baị. Thắng thì ai nấy tham công của trời, một khi thất bại thì tan tác như ngói vỡ không sao họp lại được. Nay thế giới này là thế giới của thế lực, ngay hay queo khó xác định được bằng lý. Chàng lại đơn độc, hoặc giả công việc xấu đi, thì ai là ngược bằng l. Chàng lại đơợc

Trương phục lời vợ, có ý hối, bèn lựa lời từ tạ các thư sinh, chỉ viết lá đơn rồi ra về. Qua thẩm vấn lần đầu, chưa biết là được hay không. Triệu đem số vàng lớn nộp cho các quan to, đám học trò bị bắt hết vì tội kết bè đảng. Lại truy bắt người viết đơn kiện, Trươ hối, bà š

Ðến địa giới phủ Phượng Tường, tiền đi đường cạn hết. Trời xẩm tối còn trù trừ giữa chốn đồng không, chẳng biết ngủ đổ nơi nào. Bỗng thấy một xóm nhỏ bèn rảo bước đi tới. Một bà già đang đi ra đóng cổng, thấy Trương, hỏi chàng cần gì. Trương kể tình thực. Bà già bảo:

- Ăn uống ngủ nghê đều là việc vặt cả. Có điều là không có đàn ông, không tiện giữ khách lại.

Trương hỏi:

- Tôi cũng không dám mong gì nhiều, chỉ xin ngủ nhờ trong cổng để tránh hùm sói là đủ.

Bà già bèn cho vào, đóng cổng lại, trao cho lá chiếu cói rồi dặn:

- Tôi thương khách không có chốn về, trộm cho ở lại qua đêm, tờ mờ sáng mai nên đi cho sớm, kẻo nương tử nhà chúng tôi hay biết ắt sẽ quở mắng.

Bà già đi khỏi, Trương tựa vào tường nhắm mắt nghỉ. Bỗng có ánh đèn lồng lấp loáng, Trương thấy bà già dẫn đường cho một nữ lang đi ra, vội vàng lánh vào chỗ tối, ghé mắt nhòm trộm, thì ra một cô gái đẹp chừng đôi mươi. Ra đến cổng, thấy cái chiếu cói, cô hỏi vặn bà già, bà già phải nói thực. Cô gái giận dữ mắng:

- Cả nhà toàn đàn bà con gái, sao dám chứa chấp trộm cướp?

Lập tức gọi:

- Người kia đi đâu rồi?

Trương sợ hãi, bước ra phục dưới thềm. Cô gái xét hỏi họ hàng xong, sắc mặt dịu lại bảo:

- May là kẻ sĩ phong, lưu lại không đáng ngại. Nhưng u già không biết trình lên, sơ sài qua quít như thế này, há phải cách tiếp đãi người quân tử?

Liền sai bà già dẫn khách vào nhà. Lát sau bày rượu ra, phẩm vật tinh khiết, rồi lại sai trải đệm gấm trên giường. Trương rất lấy làm cảm ơn, nhân đó hỏi riêng bà già họ tên gia chủ. Bà già đáp:

- Nhà chúng tôi họ Thi, ông bà đều tạ thế, chỉ còn ba con gái. Người cậu gặp mới rồi là cô cả, tên là Thuấn Hoa đó.

Bà già đi ra, Trương thấy trên ghế có tập Nam Hoa kinh chú, bèn lấy để trên gối rồi phủ phục trên giường mở ra xem. Bỗng Thuấn Hoa đẩy cửa vào, Trương buông sách, tìm giày mũ. Cô gái đến bên giường ấn chàng ngồi xuống, bảo:

- Khỏi cần, khỏi cần!

Nhân đó nàng ngồi cạnh giường, thẹn thò bảo:

- Thiếp thấy chàng là bậc tài sĩ phong lưu, toan đem nhà cửa gởi gắm, lại e phạm phải mối ngờ dưa mận, chẳng hay có tránh khỏi bị vất bỏ không?

Trương hoảng sợ không biết trả lời ra sao, chỉ nói:

- Không dám giấu, tiểu sinh ở nhà đã có vợ rồi.

Cô gái cười:

- Ðiều đó tỏ rằng chàng rất thành thực, nhưng không ngại gì cả. Chàng đã không ghét bỏ thì đến mai xin phiền mai mối.

Nói xong toan đi ra. Trương nhổm người kéo lại, cô gái cũng ở lại. Trời chưa sáng đã trở dậy, tặng vàng cho Trương, bảo:

- Chàng giữ lấy dùng để đến thăm em. Về chiều, muồn muộn chàng hãy đến, kẻo người khác trông thấy.

Trương theo lời, sớm đi tối đến, nữa năm thành lệ thường. Một hôm, Trương đến khá sớm, tới chỗ ấy chẳng thấy thôn xóm nào, vô cùng kinh ngạc. Ðang loanh quanh thì nghe bà già lên tiếng:

- Sao cậu đến sớm thắ?

Trong nháy mắt, nhà cửa y như cũ, còn mình đã ở trong phòng. Trương càng lấy làm lạ. Thuấn Hoa từ nhà trong đi ra, cười bảo:

- Chàng ngờ là thiếp chăng? Nói thực với chàng, thiếp là hồ tiên, cùng chàng vốn có mối duyên xưa. Nếu chàng lấy làm quái dị, xin từ biệt ngay lập tức.

Trương quyến luyến sắc đẹp của nàng nên cũng yên tâm trở lại. Ðến đêm bảo với nàng:

- Nàng đã là tiên, hẳn ngàn dặm chỉ bằng một hơi thở. Tiểu sinh xa nhà đã ba năm, nỗi nhớ vợ canh cánh bên lòng, vậy nàng có thể dắt tôi về thăm một lần được chăng?

Nàng có vẻ không bằng lòng đáp:

- Thiếp tự thấy tình cầm sắc sâu nặng hơn chàng. Chàng ở với người này lại nhờ người kia, đem cách ấy mà đối xử với người nhân ái với mình là sai lầm đấy.

Trương tạ lỗi nói:

- Sao nàng lại nói ra những lời như thế? Ngạn ngữ có câu: 'Một ngày vợ chồng, trăm năm ơn nghĩa'. Sau này tôi trở về, khi nhớ đến nàng cũng như hôm nay tôi nhớ vợ vậy. Thiết nghĩ có mới quên cũ, nàng cho thế là phải được sao?

Nàng bèn cười:

- Lòng dạ thiếp hẹp hòi, đối với thiếp, chỉ muốn chàng không quên; đối với người, chỉ mong chàng không nhớ. Nhưng nếu chàng muốn về thăm, việc ấy nào có khó gì? Nhà chàng chỉ cách gang tấc mà thôi.

Rồi cầm tay nhau ra khỏi nhà. Thấy đường sá tối tăm. Trương ngại ngần không dấn bước, nàng phải kéo đi. Chẳng bao lâu, nàng bảo:

- Ðến nơi rồi! Chàng về, thiếp hẵng đi đây!

Trương dừng chân nhận kỹ, quả thấy cổng nhà mình. Trèo tường vào thấy trong nhà đèn còn sáng. Ðến gần lấy hai ngón tay gõ cửa, bên trong hỏi là ai. Trương nói rõ vì sao về. Người bên trong cầm đèn, mở then, đúng là Phương thị. Ðôi bên mừng rỡ, dắt tay vào màn. Trương thấy con trai nằm trên giường, cảm khái nói:

- Hồi tôi đi, con mới đứng đến đầu gối, nay người đã dài bằng chừng này rồi!

Vợ chồng dựa kề, ngỡ còn trong mộng. Trương bắt kể hết những gì đã trải. Hỏi đến việc kiện tụng, bấy giờ mới biết đám thư sinh kẻ chết vì đói rét trong ngục, kẻ bị đưa đi xa, Trương càng phục tầm nhìn của vợ. Phương thị buông mình ngả vào lòng chồng nói:

- Chàng có thêm vợ đẹp, hẳn không còn nhớ đến người rơi lệ trong chăn đơn gối chiếc nữa nhỉ!

Trương đáp:

- Không nhớ, sao còn về đây? Với cô ấy, tuy gọi là gắn bó nhưng rút cục không phải người đồng loại, chỉ riêng ân nghĩa của cô ấy là khó quên mà thôi!

Phương thị đáp:

- Chàng tưởng thiếp là ai vậy?

Trương nhìn kỹ, thì đâu phải là Phương thị mà là Thuấn Hoa! Ðưa tay sờ con thì chỉ là một cái gối tre. Trương ngượng quá, không nói sao được. Thuấn Hoa bảo:

- Lòng chàng thế nào đủ biết rồi! Lẽ ra dứt tình từ đây, còn may chàng chưa quên ơn nghĩa, sẩy chân tự chuộc vậy!

Vài ba ngày sau, nàng chợt nói:

- Thiếp nghĩ si tình quyến luyến chẳng có vị gì. Chàng hàng ngày oán thiếp không đưa đi, nay vừa hay thiếp định đến đô thành, tiện đường có thể cùng đêêêšên

Bèn ngoảnh phía đầu giường lấy cái tối tre rồi cùng cưỡi lên. Thuấn Hoa dặn Trương nhắm mắt lại, chàng cảm thấy cách đất không xa, gió ù ù thổi. Lát sau đổ xuống. Nàng nói:

- Giã biệt chàng từ đây!

Trương đang định dặn dò, nàng đã đi mất hút, Trương đứng sững giây lát, nghe chó sủa trong thôn; giữa khoảng mênh mang thấy cây cối nhà cửa đều là cảnh vật làng cũ, bàn theo đường mà về. Vượt tường gõ cửa, hệt như hôm trước. Phương thị giật mình trở dậy, không tin là chồng về, gạn hỏi chứng cớ xác thực, mới khêu đèn nghẹn ngào bước ra. Lúc thấy nhau, Phương thị không sao ngăn được nước mắt. Trương vẫn nghi Thuấn Hoa biến hoá nên, lại thấy đầu giường có đứa trẻ nằm như đêm trước, bèn cười:

- Lại đưa cái gối tre về đây à?

Phương thị không hiểu, mặt biến sắc nói:

- Thiếp mong chàng ngày dài bằng năm, ngấn nước mắt trên gối vẫn còn đó. Vừa gặp được nhau tuyệt không có luyến thương gì cả, không hiểu lòng dạ chàng ra sao?

Trương quan sát thấy đúng, bấy giờ mới nắm cánh tay vợ sụt sùi, kể lại tường tận. Hỏi đến kết cục của vụ kiện, quả như lời Thuấn Hoa nói. Vừa mới cùng nhau cảm khái, đã nghe ngoài cửa có tiắng giày, hỏi không thấy thưa. Thì ra trong làng có tên Giáp là kẻ vô lại, trộm thấy nhan sắc Phương thị từ lâu. Ðêm ấy từ thôn khác về, xa xa thấy người trèo tường, hắn chắc mẩm là kẻ hẹn hò gian dâm, bèn bám theo vào. Giáp vốn không quen biết Trương mấy, chỉ núp mà nghe. Ðến khi Phương thị hỏi mấy lần, Giáp mới hỏi lại:

- Ai ở trong nhà thế?

Phương thị nói lảng:

- Có ai đâu!

Giáp nói:

- Tôi đứng nghe đã lâu, xin trộm phép bắt kẻ gian vậy.

Phương thị bất đắc dĩ phải nói thực. Giáp bảo:

- Cái án lớn của Trương Hồng Tiệm chưa xoá, hắn về nhà cũng phải trói nộp cho phủ quan.

Phương thị van nài mãi, Giáp càng nói sấn sổi. Lửa giận bốc lên, Trương vớ dao xông vào, chém vào đầu Giáp. Giáp ngã xuống vẫn kêu được. Trương đâm liền mấy nhát nữa hắn mới chết. Phương thị nói:

- Việc đã đến thế này, tội càng thêm nặng. Chàng trốn ngay đi, thiếp xin chịu tội.

Trương nói:

- Kẻ trượng phu chết thì chết, há chịu để nỗi nhục liên luỵ vợ con mà cầu sống hay sao? Nàng không phải lo nghĩ gì, chỉ cốt giữ sao cho thằng con này khỏi đứt mạch thư hương thì dù chết nhắm mắt được rồi.

Sáng ra, Trương lên huyện thú tội. Triệu vì là người trong vụ án nên tạm trừng trị sơ sơ. ít lâu sau từ quân giải lên đô thành, cùm kẹp cấm đoán rất khổ. Trên đường đi, gặp một cô gái cưỡi ngựa có bà già dắt đi qua, chính là Thuấn Hoa. Trương gọi bà già lại để nói chuyện, nước mắt theo lời gọi tuôn trào. Cô gái quay ngựa lại, vén tấm sa che mặt, kinh ngạc hỏi:

- Anh họ tôi đây, sao lại đến nông nỗi này?

Trương kể vắn tắt, Thuấn Hoa bảo:

- Cứ như anh trước đây thì quay đầu không ngó ngàng tới mới phải, nhưng tôi không nỡ. Tệ xá không xa, xin mời các vị chức dịch cùng hạ cố, lại xin đỡ ít tiền đi đường.

Cả bọn đi theo vài ba dặm, thấy một xóm núi, lầu gác hẳn hoi. Thuấn Hoa xuống ngựa đi vào, sai bà già mở cửa mời khách. Rồi đó rượu, chả đầy đặn ngon lành dường như có chuẩn bị trước. Lại sai bà già ra nói:

- Trong nhà vừa hay không có đàn ông, xin Trương quan nhân mời thêm hai vị công sai mấy chén, rồi đây trên đường còn nhờ cậy các vị nhiều. Có điều đã sai người sửa soạn mấy chục lạng vàng để quan nhân làm lộ phí và thù tiếp hai vị, nhưng nay chưa tới kịp.

Hai viên chức dịch mừng lắm, thả sức uống, không nói đến chuyện lên đường nữa. Trời gần tối, hai tên nọ say mèm. Thuấn Hoa bước ra, chỉ tay vào gông, lập tức gông tuột ra. Nàng kéo Trương cưỡi chung một ngựa, ruỗi nhanh như rồng bay. Lát sau, giục chàng xuống ngựa bảo:

- Chàng xuống đây thôi. Thiếp có hẹn với em gái ở hồ Thanh Hải, lại vì việc chàng nấn ná mất một buổi, phiền cô ấy trông đợi lâu rồi.

Trương hỏi:

- Khi nào gặp lại nhau được?

Thuấn Hoa không đáp, hỏi lần nữa, nàng đẩy Trương xuống ngựa mà đi. Ðến sáng, hỏi mới biết nơi ấy là Thái Nguyên. Trương bàn đếắn quận, thuê nhà dạy học trò, lấy tên khác là Cung Tử Thiên. Ở đấy mười năm, hỏi thăm biết việc truy lùng kẻ trốn đã lơi lỏng, lại loanh quanh trở về miền Ðông. Gần đến cổng làng, không dám vào ngay, đợi đến đêm khuya mới vào. Tới cổng nhà, thấy tường cao kiên cố, không trèo qua được đành lấy roi ngựa đập cổng. Một lúc lâu, vợ mới ra hỏi. Trương thì thầm cho biết, vợ mừng quá, mở cho vào, rồi giả vờ lớn tiếng mắng:

- Ở đô thành có túng thiếu thì nên quay về cho sớm, ai khiến ngươi nửa đêm đến đây?

Vào đến nhà, kể cho nhau mọi chuyện, bấy giờ Trương mới biết hai tên công sai bỏ trốn chưa về. Ðang trò chuyện, ngoài rèm có một thiếu phụ đi qua đi lại, Trương hỏi là ai, vợ đáp:

- Con dâu mình đấy!

Trương lại hỏi:

- Con bây giờ ở đâu?

Phương thị đáp:

- Con lên quận thi Hương chưa về.

Trương sa nước mắt:

- Lưu lạc chừng ấy năm, con nay đã khôn lớn nên người. Chưa kể việc con nối được mạch thư hương, chỉ riêng chờ mong, nàng cũng sắp cạn cả tâm huyết rồi.

Trò chuyện chưa dứt, con dâu đã hâm rượu nấu cơm, bày la liệt khắp bàn. Trương vui mừng quá sức mong đợi. Mấy ngày liền đều náu trong buồng, chỉ sợ người hay biết.

Một hôm, vừa mới đi nằm, bỗng nghe tiếng người huyên náo, đập cửa rất gấp. Hai vợ chồng sợ quá, trở dậy. Nghe người nói:

- Có cổng sau không nhỉ?

Lại càng sợ, vơ vội lấy tấm cánh cửa thay thang đưa Trương trèo tường ra ngoài giữa đêm rồi mới ra cổng hỏi xem, thì ra người đến báo tin con thi đỗ. Phương thị mừng rỡ, hối hận để chồng bỏ trốn, không thể kéo lại được nữa.

Ðêm ấy Trương vượt bờ chui bụi, vội chẳng kịp chọn đường, đến sáng vô cùng mệt mỏi. Lúc đầu vốn định đi về hướng Tây, bèn hỏi người qua lại, thì ra cách con đường lớn lên kinh đô không bao xa nữa. Trương bèn vào trong làng, toan gán áo để ăn. Thấy một cái cổng cao, có dán tờ báo tin đỗ trên tường, Trương tới gần xem, biết là nhà họ Hứa, mới đỗ Hiếu Liêm. lát sau, một cụ già từ trong đi ra, Trương đón chào và kể tình thực. Ông già thấy dung mạo thanh nhã, biết không phải người kiếm miếng ăn bàn mời vào khoản đãi, nhân đó hỏi đi đâu. Trương nói thác:

- Vãn sinh mở trường dạy học ở đô thành, trên đường về gặp cướp.

Ông già giữ lại để dạy cậu út. Trương hỏi sơ chức tước thì ra là quan Kinh Ðường đã nghỉ hưu; người đỗ Hiếu Liêm là cháu cụ. Hơn tháng sau, Hiếu Liêm dẫn một người đỗ cùng bảng đến chơi, nói là họ Trương quê Vĩnh Bình, trẻ tuổi, chừng mười tám mười chín. Trương thấy họ, quê đều đúng, bụng ngờ là con mình, nhưng trong ấp có khá nhiều nhà họ Trương nên hẵng im lặng. Ðến tối, khi cởi bỏ tang phục, Hiếu Liêm họ Trương đưa tờ giấy 'bổ dụng' ra, Trương vội mượn coi, thì đúng là con trai mình, bất giác sa lệ. Mọi người kinh ngạc hỏi han, Trương chỉ vào tên mình nói:

- Trương Hồng Tiệm chính là tôi đây.

Rồi kể hết nguyên do. Hiếu Liêm họ Trương ôm lấy cha khóc ầm lên. Hai chú cháu ông cụ Hứa khuyên giải, an ủi, mới đổi buồn thành vui. Hiếu Liêm cùng họ Hứa lập tức gửi thư cùng tiền bạc thưa lên quan Ngự sử, rồi cha con họ Trương đưa nhau về.

Phương thị từ lúc được báo tin con đỗ, hàng ngày buồn vì nỗi chồng bỏ trốn, bỗng nghe tin Hiếu Liêm đã về, thì càng đau buồn thương cảm hơn. Lát sau, cha con cùng vào, Phương thị kinh hãi như thấy từ trên trời rơi xuống. Hỏi duyên cớ, mới cùng nhau mừng mừng tủi tủi.

Cha con của Giáp thấy con trai Trương vinh hiển, không dám manh tâm gieo hoạ nữa. Trương đãi ngộ rất hậu, lại kể rõ tình trạng đêm hôm ấy, cha Giáp cảm động thêm cả phần xấu hổ; từ đấy giao hảo với nhau.

Cô Gái Nghĩa Hiệp

Thư sinh họ Cố người Kim Lăng, học rộng tài hoa, nhưng nhà rất nghèo, lại vì có mẹ già không nỡ rời dưới gối, nên hàng ngày chỉ vẽ thuê viết mướn kiếm ăn.

Ðã hai mươi lăm tuổi mà vẫn phòng không lạnh lẽo.

Trước cửa nhà chàng là một ngôi nhà bỏ hoang từ lâu, một hôm có một bà già cùng một cô gái đến thuê để ở.

Vì thấy không có đàn ông, nên chàng cũng chưa tiện thăm hỏi gốc tích của họ.

Một hôm tình cờ từ ngoài về, chàng gặp cô gái trong phòng mẹ đi ra, tuổi chừng mười tám mười chín, xinh đẹp, thanh tú, trên đời ít có người sánh kịp.

Gặp chàng, cô không tránh mặt nhưng có vẻ nghiêm lạnh.

Chàng vào nhà hỏi mẹ, bà bảo:

- Ðó là cô gái ở nhà trước cửa, sang mượn thước và kéo may.

Cô vừa cho biết nhà cũng chỉ có một con một mẹ.

Trông cô có vẻ không phải con nhà nghèo.

Hỏi sao không lấy chồng, đáp vì còn mẹ già.

Ðể mai mẹ sang chào bà cụ, nhân tiện dò xem sao.

Nếu ước vọng của họ không cao xa quá thì con có thể phụng dưỡng mẹ già thay nàng .

Hôm sau bà qua nhà cô gái, thấy mẹ nàng là một bà lão điếc.

Nhìn trong nhà, tịnh không còn một bữa gạo cho ngày mai; hỏi cách sinh sống thì chỉ trông nhờ vào hai bàn tay cô gái. Dần dà mẹ chàng đem chuyện kết thân giữa hai nhà ra ướm hỏi; bà cụ như ý cũng bằng lòng, nhưng còn quay sang bàn bạc với cô gái; nàng nín lặng, xem chừng không được .

Mẹ về, kể lại cho con nghe và tỏ ý ngờ vực nói :

- Hay là cô ấy ngại nhà mình nghèo chăng? Tính tình nghiêm nghị không nói không cười, xinh như đào mận mà lại lạnh lùng như sương tuyết, thật là người kỳ lạ!

Mẹ con than tiếc một lúc rồi cũng bỏ qua.

Một hôm chàng ngồi ở phòng, bỗng có một thiếu niên đến nhờ vẽ tranh.

Chàng ta dung nhan đẹp đẽ nhưng ý tứ thì khá buông tuồng.

Hỏi ở đâu đến, đáp là ở thôn quê.

Sau đó vài ba ngày lại đến một lần.

Lâu dần thành quen, cười đùa cợt nhã.

Chàng suồng sã ôm choàng lấy, cũng không chống cự gì lắm, liền tư thông với nhau.

Từ đấy đi lại rất thâng

Gặp khi cô gái đi ngang, thiếu niên đưa mắt nhìn, hỏi là ai, chàng đáp:

- Cô hàng xóm.

Thiếu niên nói:

- Ðẹp thì đẹp thật, mà sao thần sắc đáng sợ thế!

Lát sau chàng vào nhà trong, mẹ bảo:

- Vừa rồi cô gái sang xin gạo, nói đã hai ngày bếp không đỏ lửa.

Cô gái thật có hiếu nhưng nhà nghèo quá, kể cũng đáng thương, ta cũng nên chu cấp ít nhiều.

Chàng nghe lời, mang đấu gạo sang, gõ cửa nói lại ý mẹ.

Cô gái nhận gạo cũng không cảm tạ .

Hàng ngày nàng sang nhà, thấy mẹ chàng may vá, cũng vá áo xâu kim giúp mẹ.

Ra vào trong nhà, làm lụng mọi việc như con dâu.

Chàng càng thêm biết ơn nàng, mỗi khi có ai biếu xén thức gì đều chia ra biếu lại mẹ nàng.

Cô gái vẫn không hé răng nói một lời cảm tạ.

Bỗng nhiên mẹ chàng mọc cái nhọt ở chỗ kín, đêm ngày kêu khóc.

Cô gái thường xuyên đến tận giường chăm sóc, rửa mụn bôi thuốc cho bà, ngày ba bốn bận.

Mẹ rất áy náy nhưng cô không nề hà chuyện bẩn thỉu.

Mẹ nói:

- Ôi, làm sao có một nàng dâu như con trông nom mẹ lúc tuổi già, để chết cho mát mẻ đây!

Nói xong, buồn bã nghẹn ngào.

Cô gái an ủi bà rằng:

- Anh nhà là người con chí hiếu, còn hơn cảnh nhà cháu mẹ goá con côi gấp trăm lần.

Mẹ nói:

- Tới lui hầu hạ bên giường, nào phải là việc người con trai hiếu làm nổi đâu. Vả lại, thân này cũng đã xế chiều, hôm trái nắng trở trời chẳng biết thế nào nên rất khắc khoải về một người nối dõi.

Ðang nói thì chàng vào, mẹ khóc bảo:

- Mẹ mang ơn nương tử nhiều lắm, con chớ quên báo đáp.

Chàng cúi đầu vái tạ.

Cô gái nói:

- Chàng kính trọng mẹ tôi, tôi không vái tạ, chàng vái tạ làm gì?

Do đấy chàng càng thêm kính yêu, nhưng cử chỉ nàng rắn rỏi, không đằm thắm, nên mảy may chẳng sàm sỡ được.

Một hôm cô gái ra khỏi cửa, chàng đăm đăm nhìn theo.

Nàng bỗng quay đầu lại cười tươi tắn.

Chàng mừng rỡ vì việc xảy ra đến ngoài muốn, bèn chạy theo sang nhà; chọc ghẹo cũng không kháng cự, vui sướng cùng giao hoan.

Xong xuôi, nài

- Việc này chỉ một lần, không có lần thứ hai đâu nhé!

Chàng không đáp, ra về.

Hôm sau, lại hẹn, thì nàng nghiêm nét mặt, không ngoái nhìn, đi thẳng.

Ngày ngày nhiều lần qua lại, thường gặp nhau luôn, nhưng nàng không hề làm bộ tươi cười hay dùng lời đưa đẳy; hơi đùa cợt một chút đã nghe những câu lạnh người.

Một hôm, nhân chỗ vắng người, nàng chợt hỏi:

- Chàng thiếu niên hàng ngày vẫn đến là ai thế?

Chàng kể tình đầu; nàng bảo:

- Ðã nhiều lần y có những cử chỉ, thái độ vô lễ với thiếp rồi.

Vì là chỗ thân quen với chàng nên thiếp đành bỏ qua.

Nhờ chàng chuyển lời; nếu còn tái phạm tức là không muốn sống nữa đấy!

Ðến tối, thiếu niên tới, chàng nói lại, rồi dặn thêm:

- Anh phải cẩn thận, người ấy không đụng đến được đâu!

Thiếu niên nói:

- Không đụng đến được, sao anh lại đụng được?

Chàng chối là không có chuyện ấy, thiếu niên nói:

- Nếu không có gì sao những lời thô lỗ cợt nhả kia lọt vào tai anh được?

Chàng không còn biết nói thế nào.

Thiếu niên nói:

- Cũng phiền anh chuyển lời hộ: Cô nàng đừng giả vờ nghiêm nghị nữa. Nếu không tôi nói toạc ra cho mọi người cùng biết.

Chàng rất giận, đỏ mặt tía tai; Thiếu niên bèn bỏ đi.

Một đêm, chàng đang ngồi một mình, bỗng nhiên cô gái tìm đến, cười bảo:

- Em với chàng tình duyên chưa dứt, lẽ nào không phải là số trời?

Chàng mừng cuống lên, ôm nàng vào lòng.

Ðột nhiên, nghe tiếng giày lộp cộp, hai người giật mình nhổm dậy, thì thiếu niên đã xô cửa bước vào.

Chàng kinh hải hỏi:

- Cậu làm gì vậy?

Anh ta cười đáp:

- Tôi đến để xem con người trinh trắng đấy thôi.

Rồi ngoái nhìn nàng nói:

- Hôm nay không chê trách người khác nữa ư?

Cô gái đỏ lừng gò má, lông mày dựng đứng lên, không nói một lời.

Nàng hất mạnh vạt áo, để lộ một chiếc bao da, thuận tay rút phắt ra một con dao găm sáng loáng, dài chừng một thước.

Thiếu niên trông thấy, sợ hãi bỏ chạy.

Ðuổi theo ra đến cửa, nhìn quanh, thì đã mất hút.

Nàng cầm dao găm ném vào khoảng không, chỉ nghe một tiếng 'rạt' đã thấy hiện ra một luồng sáng rực rỡ như cầu vồng.

Lát sau nghe tiếng một con hồ trắng, đầu và mình mỗi thứ văng một nơi, nhìn mà thất kinh.

Cô gái nói:

- Anh bạn đẹp trai của chàng đó.

Tôi đã dằn lòng tha thứ, nhưng hắn nhất định không muốn sống thì biết làm thế nào?

Rồi nàng cất dao vào bao.

Chàng cố kéo trở vào phòng, nàng bảo:

- Vừa rồi yêu quái làm mất cả hứng, xin để đêm mai.

Nói đoạn ra cửa đi thẳng.

Ðêm sau, quả nhiên cô gái lại đến, bèn cùng nhau ân ái.

Hỏi về kiếm thuật, nàng đáp:

- Ðó không phải là điều chàng nên biết. Hãy giữ kín, nếu lộ ra, e tai vạ đến chàng.

Lại bàn chuyện hôn nhân, cô gái nói:

- Ðã chung chăn gối, lại lo liệu việc nhà, không phải vợ thì còn là gì? Ðã là vợ chồng hà tất phải nói đến cưới hỏi.

Chàng hỏi:

- Hay là chê tôi nghèo?

Nàng đáp:

- Chàng đã đành là nghèo, nhưng thiếp giàu sao? Sum vầy đêm nay, chính là thương chàng nghèo đấy thôi.

Khi chia tay lại dặn:

- Việc làm cẩu thả này không thể thường luôn được.

Lúc nên đến, thiếp sẽ tự đến, không nên đến thì ép buộc nhau có ích gì!

Về sau mỗi lần gặp gỡ, hễ chàng nói chuyện riêng tư là cô gái lại tránh đi.

Tuy nhiên, việc vá may nấu nướng vẫn một tay nàng quán xuyến, không khác gì người vợ chính thức.

Ðược mấy tháng, mẹ nàng chết, chàng dốc sức lo việc ma chay.

Từ đó, nàng ở nhà một mình.

Chàng nghĩ phòng không bóng chiếc có thể tính chuyện chung chạ được, bèn nhảy qua tường mà vào, đến bên cửa sổ gọi mãi, nhưng rốt cuộc chẳng một ai thưa.

Bèn lại cửa chính nhòm vào thì nhà trống không mà cửa vẫn cài.

Trộm ngờ cô gái có nơi hò hẹn nào khác.

Ðến đêm, lại tới, vẫn y như vậy, bèn tháo viên ngọc vẫn đeo bên mình để lại trên cửa sổ rồi đi.

Hôm sau gặp nhau ở buồng mẹ.

Khi chàng đi ra, cô gái theo sau,nói:

- Chàng ngờ thiếp ư? Mỗi người đều có tâm sự riêng, không thể nói hết với người khác.

Nay dẫu muốn chàng hết ngờ cũng đâu có được. Nhưng có một việc phiền chàng lo liệu gấp.

Hỏi việc gì, đáp:

- Thiếp có mang đã tám tháng rồi, e sinh nở nay mai.

Nhưng danh phận của thiếp chưa rõ ràng, chỉ có thể sinh con cho chàng chứ không thể nuôi con cho chàng được. Chàng hãy thưa riêng với mẹ lo tìm một người vú nuôi, nói dối là con xin được chứ đừng nói là con do thiếp sinh ra.

Chàng nhận lời, về kể lại với mẹ, bà cười bảo:

- Con bé này kỳ thật! Hỏi cưới thì không chịu, mà lại ăn vụng với con mình.

Bà vui mừng làm theo nàng và chờ đm

Lại cách hơn một tháng, có đến mấy ngày cô gái không sang.

Mẹ lấy làm ngờ, đến cửa nhòm xem thì cửa đóng mà nhà vắng lặng.

Gõ cửa hồi lâu mới thấy cô gái đầu bù tóc rối, mặt mũi không rửa, từ trong buồng bước ra, mở cửa cho bà vào xong, đóng lại ngay.

Vừa vào trong nhà đã nghe tiếng trẻ khóc oe oe trên giường.

Bà kinh ngạc hỏi:

- Con sinh từ bao giờ vậy?

Nàng thưa:

- Ðã ba ngày.

Giở tã lót ra xem thì là đứa bé trai, má bụ bẫm trán rộng, bà vui mừng nói:

- Con đã vì già mà nuôi cháu; một mình lênh đênh, rồi sẽ nương tựa vào ai?

Cô gái nói:

- Ðiều con canh cánh trong lòng, chẳng dám phơi bày cùng mẹ.

Ðợi lúc đêm hôm vắng vẻ sẽ cho cháu về với bà.

Mẹ về nói chuyện với con trai, cũng thầm cho là lạ.

Ðến đêm, bế đứa trẻ về.

Lại mấy đêm sau, vào khoảng nửa đêm, cô gái bỗng gõ cửa, bước vào, tay xách chiếc túi da cười nói:

- Việc lớn của thiếp đã xong rồi. Từ nay xin vĩnh biệt!

Chàng vội hỏi duyên cớ, nàng nói:

- Công ơn nuôi mẹ thiếp vẫn khắc sâu trong dạ.

Trước đây từng nói 'Chỉ một lần thôi, không có lần thứ hai' không phải có đem việc chung đụng gối chăn ra để báo đáp.

Chỉ vì chàng nghèo không thể lấy được vợ nên gắng sinh cho chàng một đứa con để nối dõi.

Những mong chỉ một lần là thành, chẳng ngờ lại thấy có kinh nên phải 'phá giới' lần thứ hai.

Nay ơn chàng đã đền, chí thiếp đã toại, chẳng còn gì ân hận nữa .

Hỏi:

- Trong túi có vật gì đấy?

Ðáp:

- Ðầu kẻ thù!

Hé ra cho nhòm, thì râu tóc bắt vào nhau mà máu loang nhoà nhoẹt.

Chàng sợ muốn đứt hơi, lại hỏi kỹ thêm.

Nàng nói:

- Trước đây không dám nói với chàng, vì sợ nếu chuyện không giữ kín được sẽ lộ ra.

Nay việc đẫ xong, kể chàng nghe cũng chẳng hại gì.

Thiếp vốn người Chiết Giang, cha làm quan Tư Mã bị kẻ thù hãm hại, nhà cửa bị tịch biên.

Thiếp phải cõng mẹ già đi trốn, ấn giấu họ tên, chôn vùi tung tích đã ba năm rồi.

Sở dĩ không báo thù ngay chỉ vì mẹ đang còn sống .

Ðến khi mẹ mất, lại vướng 'khối thịt' đang mang trong bụng. Vì thế cứ nấn ná mà thành lâu.

Ðêm hôm nọ đi vắng, chẳng có duyên có gì khác, chỉ vì đường sá cổng ngõ chưa thông thuộc, sợ có sự nhầm lẫn mà thôi.

Nói xong, ra cửa, lại dặn rằng:

- Ðứa con thiếp sinh ra, hãy chăm sóc cẩn thận! Chàng phúc mỏng, chẳng sống lâu được, con rồi sẽ làm rạng rỡ cửa nhà.

Ðêm khuya đừng làm kinh động đến mẹ, thiếp đi đây!

Chàng đang rầu rĩ, toan hỏi đi đâu thì nàng đã vụt đi nhanh như chớp, chỉ nháy mắt đã không thấy đâu nữa.

Chàng than tiếc, đứng sững như kẻ mất hồn.

Sáng hôm sau kạ lại với mẹ, hai mẹ con cứ tấm tắc là chuyện lạ lùng.

Ba năm sau quả nhiên chàng mất.

Ðứa con mười tám tuổi đỗ Tiến sĩ, phụng dưỡng bà nôi cho đến hết tuổi già

Thư Sinh Họ Ðổng

Thư sinh họ Ðổng, tên tự là Hà Tư, người ở ấp Tây đất Thanh Châu.

Vào tháng đông, trời gần tối, trải chăn ra giường và đốt mẻ than dưới gầm.

Ðang định thắp đèn lồng thì vừa có người bạn mời đi uống rượu, bèn đóng cửa mà đi.

Ðến chỗ bạn, thấy trong bàn tiệc có một thầy lang sành xem mạch thái tố, chẩn mạch cho khắp mọi người.

Sau cùng, nhìn đến thư sinh Vương Cửu Tư và chàng Ðổng, ông thầy nói:

- Tôi xem cho người đã nhiều, chưa thấy ai có mạch lạ như hai ông; mạch thì sang mà có điểm hàn, mạch thọ mà có điểm yếu. Thật bỉ nhân chẳng dám hiểu ra sao nữa.

Mà riêng ông Ðổng lại càng lạ lắm.

Mọi người cùng kinh ngạc nhao lên hỏi.

Ông lang đáp:

- Thuật của tôi chỉ biết đến đấy là cùng rồi, không dám đoán liều nữa. Chỉ xin hai ông tự mình cẩn trọng mà thôi.

Hai người mới nghe sợ lắm, sau rồi cùng nghĩ là câu nói nước đôi mơ hồ, nên bỏ qua chẳng để tâm nữa.

Nửa đêm, Ðổng ra về, thấy cửa nhà học khép hờ, ngờ quá.

Trong cơn say, cố nhớ lại, tất là khi đi vội vã, quên khoá cửa.

Vào phòng, chưa kịp đốt đàn lên, hãy đưa tay sờ vào trong chăn trước xem có ấm hay không.

Vừa mới thọc tay vào, đụng ngay da thịt mịn màng của ai đang nằm sẵn, kinh ngạc hết sức, vội rụt tay lại.

Ðốt gấp đèn lên, thì ra một cô em tuyệt mỹ, mặt sáng sủa, tuổi còn non, không khác gì thần tiên.

Mừng cuống cuồng, đùa bỡn, đưa tay xuống phần dưới cơ thể, thì xù xì một nắm lông đuôi.

Hốt hoảng quá định chạy, thì cô gái đã tỉnh dậy, đưa tay ra nắm lấy cánh tay hỏi:

- Chàng định đi đâu?

Ðổng càng sợ, người run lên, năn nỉ xin người tiên tha cho.

Cô gái cười, nói:

- Thấy cái gì mà cho người ta là tiên?

Ðổng đáp:

- Tôi chẳng sợ phần đầu mà sợ phần đuôi.

Cô gái lại cười bảo:

- Ðuôi đâu mà đuôi? Anh lầm rồi.

Ðoạn cầm tay Ðổng kéo vào cho sờ lại, thì thịt ở đùi mềm mại như mỡ, chỗ xương cụt nhẵn thín.

Cô gái cười nói:

- Thế nào? Rượu say mê mẩn, chẳng biết thấy gì đâu đâu mà lại vu cho người ta như vậy?

Ðổng vốn thấy người đẹp đã thích rồi, nay hết sợ lại càng mê mẩn, nghĩ lại tự trách mình là lầm.

Nhưng vẫn còn điều nghi ngờ, không hiểu nàng vì sao mà đến.

Nàng đáp:

- Anh không nhớ cô bé tóc vàng nhà hàng xóm phía Ðông sao?

Bấm đốt ngón tay, từ lúc dời đi nơi khác, đến nay đã được mười năm rồi.

Lúc ấy tôi chưa cài trâm, mà anh cũng còn để tóc trái đào cơ đấy.

Ðổng chợt nhớ ra, hỏi:

- Thế em là cô Toả nhà họ Chu đấy ư?

Nàng đáp:

- Phải đấy.

Ðổng nói:

- Bây giờ em nói, anh mới mang máng nhớ lại. Mười năm không gặp, thế mà đã thành người yểu điệu thế này rồi đấy! Nhưng sao mà lại đến được đây?

Cô gái nói:

- Thiếp lấy phải thằng chồng đần, được đâu bốn, năm năm, cha mẹ chồng theo nhau qua đời, lại chẳng may chồng cũng vừa mới mất, còn lại một mình thiếp, bơ vơ không nơi nương tựa. Nhớ lại người quen biết thuở nhỏ chỉ còn có mình chàng, nên cố gượng tìm đến gặp. Vừa tới cổng thì trời tối, xảy lại có người đến mời chàng đi uống rượu, bèn lén nấp để đợi chàng về.

Ðợi đã lâu, chân lạnh cóng, nổi cả da gà lên, nên phải nhờ cái chăn cho ấm người lên một chút, xin chớ ngờ nhau.

Ðổng mừng, cởi áo cùng ngủ, lấy làm đắc ý

Ðược hơn một tháng, người gầy rộc hẳn đi.

Người nhà lấy làm lạ, thì nói là cũng không biết tại sao.

Càng lâu mặt mũi càng gầy võ.

Mới đâm hoảng, vội đi tìm ông thầy chẩn mạch giỏi hồi trước, nhờ chẩn cho.

Thầy lang đáp:

- Ðây là mạch bị yêu quái ám rồi. Cái điềm chết ngày trước, nay quả đã nghiệm. Bệnh không thể làm gì được nữa.

Ðổng khóc hu hu không chịu đi.

Thầy lang bất đắc dĩ phải châm cho ở tay, đốt ngải cứu cho ở rốn, rồi đem thuốc tặng cho, dặn rằng:

- Nếu có gặp ai đấy thì phải gắng mà dứt đi.

Ðổng cũng tự biết nguy hiểm. Về đến thư trai, cô gái cười cợt đứng đón.

Chàng tức mình nói:

- Ðừng dan díu với nhau nữa.

Tôi sắp chết rồi đây.

Nói rồi bước đi không ngoái lại.

Cô gái xấu hổ quá, cũng tức lên mà nói:

- Mày còn muốn sống nữa ư?

Ðến đêm, Ðổng uống thuốc rồi ngủ một mình.

Vừa mới chợp mắt, đã thấy giao hợp cùng cô gái, tỉnh dậy thì tinh đã xuất ra rồi.

Càng sợ, bèn dời giường vào nhà trong, vợ con đốt đèn canh giữ.

Nhưng vẫn mơ thấy như cũ.

Lén nhòm cô gái thì không thấy đâu nữa.

Ðược mấy hôm, Ðổng thổ ra hơn một đấu huyết mà chết.

Vương Cửu Tư đang ở trong phòng học, thấy một cô gái tìm đến, mê thích vì sắc đẹp nên ăn nằm cùng nàng.

Hỏi ở đâu đến thì đáp:

- Thiếp là láng giềng nhà Hà Tư.

Anh ấy trước thân thiắt với thiếp lắm, không ngờ bị hồ mê hoặc mà chết.

Cái giống yêu quái ấy thật đáng sợ. Phàm người đã đọc đến sách vở, phải nên cẩn thận đề phòng.

Vương càng phục, bèn ân ái vui vầy với nhau.

Ðược vài hôm, đâm mê hoảng, gầy ốm.

Chợt mộng thấy Ðổng về bảo:

- Kẻ đang cùng anh mặn nồng là hồ đấy. Giết hại tôi rồi, nó lại còn muốn giết hại cả bạn tôi nữa. Tôi đã kiện nó ở dưới Âm ty, để rửa mối hờn. Trong vòng bảy hôm, cứ đêm đêm anh nên thắp hương ở bên ngoài phòng ngủ nhà mình đừng có quên.

Tỉnh dậy, lấy làm lạ, nói với cô gái:

- Tôi ốm lắm, e sắp bỏ thân nơi ngòi rãnh đến nơi, có người khuyên nên kiêng chuyện chung chạ.

Cô gái đáp:

- Mệnh đáng thọ, dẫu gần đàn bà vẫn sống, mệnh không thọ thì không gần đàn bà vẫn chết.

Lại ngồi kề bên mà cười đùa.

Vương kìm lòng không đậu lại cùng nàng mây mưa.

Xong rồi thì hối, nhưng vẫn không sao dứt hẳn được.

Ðến tối, cắm hương ở trên cửa.

Cô gái đến, nhổ vứt đi.

Ðêm lại mộng thấy Ðổng về, trách sao làm trái lời dặn.

Ðêm hôm sau, ngầm dặn người nhà chờ lúc mình với ả ngủ rồi hãy lén đốt hương lên.

Cô gái đang ở trên giường bỗng hoảng hốt nói:

- Lại đốt hương nữa đấy à?

Vương đáp:

- Không biết.

Nàng vội trở dậy tìm thấy hương bẻ dụi tắt đi, rồi trở vào nói:

- Ai xúi anh làm như vậy?

Vương đáp:

- Có thể là đàn bà con gái trong nhà lo tôi đau ốm, tin lời thầy bói, thắp hương để trừ tà đấy thôi.

Cô gái bối rối không vui. Người nhà lén dòm thấy hương tắt, lại đốt nén khác.

Cô gái chợt thở dài, bảo:

- Phúc trạch nhà anh còn dầy thật. Tôi đã lầm lỡ giết Hà Tư rồi lại chạy đến với anh, thật đúng là lỗi của tôi.

Tôi sắp phải cùng anh ta đến đối chất trước toà án Âm ty.

Nếu anh không quên chút tình cũ, xin chớ làm hỏng mất cái túi da của tôi.

Nói xong, rụt rè bước xuống giường, ngã lăn ra đất mà chết.

Ðốt lửa soi, đã thành một con chồn.

Còn sợ nó sống lại, vội gọi người nhà lột da, treo lên.

Bệnh Vương rất nặng, thấy hồ hiện về nói:

- Tôi đã kêu oan ở pháp toà. Pháp toà bảo chàng Ðổng thấy gái mà mê, chết là đáng tội.

Nhưng cũng buộc tội tôi mê hoặc người không đúng, thu mất viên kim đan, rồi lại cho sống lại.

Vậy bộ da của tôi ở đâu ?

Ðáp:

- Người nhà không biết đã đem lột mất rồi.

Hồ thảm đạm nói rằng:

- Ta giết người đã nhiều, nay chết kể cũng đã muộn. Nhưng anh thật nhẫn tâm thay!

Hờn giận mà bỏ đi

Vương ốm tưởng nguy, nửa năm mới khỏi

Vợ thi hộ chồng

(Truyện Nhan thị , quyển 10)

Thuận Thiên Mỗ Sinh , nhà nghèo , gặp phải năm đói kém theo cha đi đất Lạc kiếm ăn . Tánh chàng rất độn , mãi 17 tuổi mới viết chữ thành hàng lối , nhhưng được bộ mặt lịch sự trai , khéo pha trò , tài nghề viết thư từ , cho nên ai cũng tưởng là chàng học giỏi lắm , nhhưng không dè bên trong rỗng tuếch .

Không bao lâu , cha mẹ kế tiếp qua đời , chàng trơ trọi một mình , phải làm nghề gõ đầu trẻ ỡ Lạc , để kiếm ăn độ nhựt .

Lúc đó trong xóm có người con gái mồ côi , họ Nhan , dòng dõi một nhà học giỏi . Khi người cha còn , thường dạy nàng học , chỉ đọc qua một lượt là nhớ nằm lòng . Ngoài mười tuổi , học làm thơ , người cha nói :

- Nhà ta có nữ học sĩ , tiếc không được đội mũ thôi .

Vì thế ông rất mực yêu quí , chỉ mong kén được một người chồng quý hiển cho con . Sau lúc ông qua đời , bà mẹ nàng vẫn ôm cái chí lớn đó . Nhưng đeo đuổi ba năm cũng chẳng toại nguyện , kế bà ấy cũng mất . Có người khuyên nàng lấy chồng học trò , nàng cũng đồng ý , nhưng cũng chưa kén được ai .

Vừa lúc mụ hàng xóm leo tường qua , nói chuyện với nàng , trong tay cầm một giấy viết chữ gói chỉ thêu , nàng mỡ ra xem , thì là chữ của Mỗ Sinh viết gởi bạn ở lối xóm . Nàng xem đi xem lại , khen ngợi chữ tốt . Mụ nọ dòm biết ý tứ , nói nhỏ :

- Ấy là một chàng đẹp trai , cũng mồ côi như cô , tuổi ngang như cô, nếu cô bằng lòng thì tôi mách chàng cậy mối đến là xong .

Nàng lẳng lặng không nói chi .

Mụ nọ về ngỏ ý với chồng . Người bạn lối xóm vốn chơi thân với chàng , đem chuyện ấy nói , chàng bằng lòng lắm , nhân có chiếc vòng vàng của mẹ để lại , bèn cậy người đem đến làm lễ vấn danh và xin cưới liền .

Vợ chồng như cá nước duyên ưa , hết sức vui vẽ . Ðến bửa được thấy văn bài chồng làm , nàng phì cười và nói :

- Văn với minh dường như hai người , thế này biết đời kiếp nào thi đổ ?

Từ đó sớm hôm khuyên đốc chàng học , nghiêm khắc như thầy đối với học trò . Tối đến , nàng chăm đèn ngồi , tự cất tiếng học ê a , học trước để làm gương cho chồng ; học mãi đến canh ba mới nghĩ .

Như vậy được hơn một năm , văn chương thi cử của chàng đã hơi thông , nhưng đi thi khoa nào cũng rớt . Thân danh lận đận , sinh sống lại nghèo , tự nghĩ tình cảnh buồn tênh , bất giác hu hu khóc lóc .

Nàng phát cáu , mắng nhiếc to tiếng :

- Trời để cho mình làm đàn ông thật uổng . Nếu để cho tôi bỏ khăn yếm , thay đổi làm con trai , thì tôi coi sự thi đổ dễ như trò chơi vậy .

Chàng đang buồn rầu héo gan héo ruột , nghe vợ nói khoác như vậy , quắc mắt giận nói :

- Mình là đàn bà , chưa được bước chân đến chổ thi cử bao giờ , mới tưởng công danh phú quí như chuyện xuống bếp múc nước hay nấu cháo vậy . Nếu cho mình được làm đàn ông thì rồi cũng lận đận rớt lên rớt xuống như ai , chứ tài giỏi gì ?

Nàng cười :

- Mình đừng nên giận , tôi nói thiệt đó . Ðến khoa thi này , tôi sẽ cải trang mà đội tên mình vô trường thi , nếu quả thật tôi cũng lận đận rớt lên rớt xuống như mình thì xin khoét mắt không dám coi rẻ thiên hạ nữa .

Chàng cũng cười và nói :

- Khanh chưa biết nổi cay đắng bên trong ra sao , nên muốn nếm thử . Ðã muốn vậy thì cứ làm , nhưng tôi chỉ sợ chân tướng lộ ra bị làng xóm cười chê mà thôi .

Nàng trả lời :

- Tôi nhất định làm thiệt không phải giả bộ đâu . Còn nhớ thường ngày mình nói tổ tiên có nếp nhà cũ ở đất Yên , vậy tôi xin cải trang làm con trai đi theo mình về ở đó , giả làm em mình , làng xóm biết đấy là đâu .

Chàng nghe theo . Nàng liền vô buồng bịt khăn mặc áo nam tử đi ra hỏi chồng :

- Mình xem tôi có làm con trai được không nào ?

Chàng nhìn vợ quả thật là một thiếu niên đẹp trai , trong lòng mừng rỡ , lập tức đi chào lới xóm để về cố hương . Những người chơi thân đều có quà tặng , mua một con ngựa đở chân , cùng vợ lên đường .

Người anh con nhà bác của chàng còn sống thấy hai em về , cùng trẻ đẹp , hết sức vui mừng sớm hôm chăm nom giúp đở . Lại thấy hai em thức khuya dậy sớm chăm chỉ học hành , lòng thêm yêu quí , thuê một thằng bé để hầu hạ riêng . Nhưng buổi tối , chàng đuổi thằng bé về .

Mỗi khi trong làng có đám cưới đám giổ gì mời thĩnh , duy có anh (anh đây tức là chàng) ra mặt , còn em chỉ ngồi học trong buồng , đến nổi về làng đã nữa năm mà ít người được trông thấy mặt .

Có người nào ân cần xin cho giáp mặt thì anh từ chối hộ . Người ta xem văn bài của em hay quá , lấy làm kinh hải . Có kẻ xông vào tận nơi thì em chỉ cái chào qua loa , rồi ẩn mặt ngay .

Những người được thấy dung nhan , đều hâm mộ tán dương , vì thế tiếng tăm vang dậy , mấy nhà quyền quí tranh nhau , muốn gã con gái cho . Người anh con bác đem chuyện ấy bàn tính , em chỉ nhoẻn cười , cố nài ép thì nói :

- Thề lập chí trèo lên mây xanh , không thi đậu thì không lấy vợ .

Gặp kỳ thi hạch tại tĩnh , anh em cùng đi thi . Anh lại rớt . Em đậu số một , rồi thi Hương đậu Cử nhơn thứ tư , qua năm sau đậu luôn tấn sĩ .

Trào đình bổ đi tri huyện Ðồng thành , việc cai trị giỏi dang , lần lần thăng Chưởng Ấn Ngự Sữ ở Hà Nam , giàu có ngang bậc vương hầu . Rồi viện cớ bệnh tật xin về quê quán hưu dưỡng . Quan khách đến thăm đầy ngỏ , đều từ tạ không tiếp .

Từ lúc học trò cho tới khi quý hiển , không hề nói tới sự cưới vợ , khiến ai cũng lấy làm lạ . Sau khi về hưu , dần dà có nuôi thị nữ hầu hạ . Người ta nghi chắc có sự tòn ten với mấy ả này , nhưng người chị dâu để ý dò xét , tuyệt nhiên không có sự gì ám muội .

Minh trào mất ngôi , trong nước đại loạn ,bấy giờ mới tự thú với chị dâu :

- Thú thiệt với chị , em không phải là đàn ông , mà chính là vợ của Tiểu lang đó . Vì thấy chồng học lôi thôi thi mãi chẳng đậu , em phát cáu tự làm cho biết tay . Bấy lâu giấu diếm hồi hộp , chỉ lo đở bể ra , bị nhà vua triệu vô tra hỏi thì thiên hạ cười chết .

Chị dâu không tin . Bèn tháo giày vớ đưa bàn cẳng cho xem , bấy giờ chị mới chưng hửng , nhìn trong giày thấy lót đầy bông gòn và vải . Từ đó , nàng trở lại làm đàn bà , còn chức hàm của vợ thì chàng lãnh lấy .

Hồi nào tới giờ , nàng không hề chửa đẻ , bèn ra tiền mua hầu cưới thiếp cho chồng , và nói :

- Phàm ai làm nên giàu sang cũng mua hầu có thiếp để tư phụng cho sướng thân . Riêng tôi làm quan trải mười năm , chỉ vò vỏ một mình , thế thôi . Mình phước gì mà được hưỡng hầu non gái đẹp như vầy chớ ?

Chàng cười và nói bỡn :

- Thì mình lựa chọn lấy ít cậu đẹp trai để chúng hầu hạ , như kiễu Sơn Âm công chúa , em Tống phế đế ngày xưa vậy , có sao ? Xin mình cứ việc .

Người đồn nhau câu chuyện ấy làm một trò cười .

Lúc ấy , cha mẹ chàng được ơn vua truy tặng mấy lần . Các hàng văn thân đến mừng , đều tôn chàng là quan Thị ngự , nhưng chàng hổ thẹn về sự nhận chức hàm do vợ làm nên , cho nên suốt đời cam làm anh học trò tầm thường , đi ra chưa từng dùng võng lọng bao giờ .

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#fantasy