Cô Gái Có Hình Xăm Rồng chương 21-25

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 21

Thứ Năm, 3 tháng Bảy

Thứ Năm, 10 tháng Bảy

Salander dậy trước Blomkvist, quãng 6 giờ. Cô đặt ít nước pha cà phê rồi đi tắm. 7 rưỡi, khi Blomkvist dậy, cô đang ngồi đọc tóm tắt vụ Harriet ở trên iBook của anh. Anh vào bếp, khăn tắm quấn quanh mình, day day mắt cho hết vẻ ngái ngủ.

- Có cà phê trên bếp lò đấy. – Cô nói.

Anh nhìn qua vai cô.

- Này, tư liệu này là mật mã được bảo vệ đấy. – Anh nói.

Cô quay lại nhìn anh.

- Chỉ mất có nửa phút tải từ Net xuống một chương trình là phá được bảo vệ mã khóa của Word thôi.

- Chúng ta cần nói chuyện về vấn đề cái gì là của cô, cái gì là của tôi. – Anh nói và đi tắm.

Khi anh trở lại, Salander đã tắt máy tính của anh và đặt nó về chỗ của nó ở trong phòng làm việc. Cô đã cho chạy chiếc PowerBook của cô. Blomkvist cầm chắc nội dung trong máy tính của anh đã bị chuyển sang máy tính của cô.

Salander là một kẻ nghiền thông tin với một cái vốn về luân lý và đạo đức của một đứa trẻ hư.

Anh vừa ngồi xuống ăn sáng thì có tiếng gõ ở cửa chính. Martin Vanger nom quá trịnh trọng khiến trong một thoáng Blomkvist đã ngỡ anh ta đến báo tin chú anh ta đã chết.

- Không, sức khỏe của Henrik vẫn như hôm qua. Tôi đến vì một lý do khác hẳn. Tôi có thể vào một lúc không?

Blomkvist để anh ta vào, giới thiệu với “người trợ lý nghiên cứu của tôi”. Cô chỉ liếc một cái vào ông trùm công nghiệp và khẽ gật đầu rồi lại quay về chiếc máy tính. Martin theo thói quen chào mừng cô nhưng nom anh ta quá thoải mái đến nỗi có vẻ như anh ta không mấy để ý đến cô. Blomkvist rót cho Martin một tách cà phê và mời ngồi.

- Chuyện gì thế ạ?

- Anh không đặt mua Hedestad Courier ư?

- Không. Nhưng đôi khi tôi đọc nó ở quán Cà phê & bánh đầu cầu Sussane.

- Vậy anh không đọc báo sáng nay.

- Anh nói nghe như tôi cần phải đọc vậy.

Martin Vanger để tờ báo hôm nay xuống bàn trước mặt anh. Anh được dành cho hai cột báo ở trang nhất, tiếp theo ở trang tư. “Nhà báo vu khống bị tù nấp ở đây”. Một bức ảnh chụp từ đồi nhà thờ bên kia cầu bằng ống kính télé cho thấy anh đi ở trong căn nhà gỗ ra.

Phóng viên, Torsson đã ghép các mẩu lại thành một ảnh thô bỉ. Anh ta nhắc lại vụ Wennerstrom và giải thích rằng Blomkvist đã bị mất uy tín mà phải rời khỏi Millennimum và vừa mới thụ án xong. Bài báo kết thúc với một dòng quen thuộc mà Blomkvist từ chối bình luận với Hedestad Courier. Tất cả cư dân tự trọng ở Hedestad đều được nhắc nhở rằng đồ rác rưởi từ Stockholm đang lẩn tránh ở khu vực này. Không tuyên bố nào ở trong bài báo có tính vu cáo nhưng được trình bày vẹo vọ để cho thấy Blomkvist không hay ho gì; cách trình bày và kiểu in là loại các tờ báo như thế này thường dùng khi nói về các phần tử khủng bố chính trị. Millennium được miêu tả là một tạp chí kém được tin cậy “thiên về khuấy đảo” và quyển sách của Blomkvist về báo chí tài chính thì được trình bày như là một tập hợp các “phát ngôn gây tranh cãi” về các nhà báo khác vốn được kính trọng.

- Mikael…, tôi không biết nói thế nào để bày tỏ cảm tưởng của tôi khi đọc bài báo này. Thật là bỉ ổi.

- Đây là một việc đã được bố trí. – Blomkvist nói với vẻ bình tĩnh.

- Tôi hy vọng anh hiểu là tôi không có dính dáng một chút nào đến trò này. Khi uống cà phê sáng nay, đọc nó tôi đã bị choáng.

- Vậy ai làm?

- Tôi có gọi vài nơi. Tay Torsson này đến học việc vào dịp hè. Cậu ta viết theo lệnh của Birger.

- Tôi nghĩ Birger không nói ở các tòa báo. Dẫu sao, ông ta cũng là một ủy viên hội đồng và một bộ mặt chính trị.

- Ông ta không có ảnh hưởng về mặt kỹ thuật. Nhưng Tổng biên tập của Courier là Gunnar Karlman, con trai của Ingrid, người thuộc về chi Johan Vanger. Birger và Gunnar trong nhiều năm đã thân với nhau.

- Tôi biết.

- Torsson sẽ bị sa thải tắp lự.

- Cậu ta bao nhiêu tuổi?

- Nói thật là tôi không biết. Khi cậu ta gọi, tôi nghe cậu ấy có vẻ là một phóng viên rất trẻ và  không có kinh nghiệm.

- Chuyện này không thể để cho qua mà vô sự được.

- Nếu anh cần ý kiến của tôi thì tình hình xem ra có chút nào đó phi lý. Chả lẽ Tổng biên tập của một tờ báo do gia đình Vanger sở hữu lại đi công kích một tờ báo khác có Henrik Vanger là chủ đồng sở hữu ở đó và cả anh nữa cũng có ghế trong ban lãnh đạo của nó. Karlman, biên tập viên của anh đang công kích anh và Henrik.

- Tôi hiểu ý anh và tôi phải khiển trách ai chịu trách nhiệm chuyện này… Karlman là một chủ đồng sở hữu trong tập đoàn và ông ấy hay gây sự nhăng nhít với tôi. Nhưng chuyện này xem vẻ là Birger muốn trả thù việc anh cãi nhau với ông ta ở bệnh viện hôm nào. Anh là cái gai ở bên sườn ông ấy.

- Tôi tin như vậy. Vì thế mà tôi nói không nên khiển trách Torsson. Một anh thực tập thì sao dám nói không khi ông chủ chỉ thị anh ta viết một cái gì theo một kiểu nào đó.

- Tôi có thể yêu cầu ngày mai họ xin lỗi anh.

- Tốt hơn là không. Nó sẽ có thể quay ra thành một trận cãi vã dẳng dai làm cho tình hình càng xấu thêm.

- Vậy anh nghĩ là tôi nên im.

- Không được tích sự gì đâu mà. Karlman sẽ khuấy cho rối lên và xấu nhất là có khả năng anh sẽ bị vẽ ra thành một kẻ độc địa đang cố giẫm đạp lên tự do ngôn luận, vì ông ta vẫn có quyền là chủ sở hữu cơ mà.

- Xin lỗi, Mikael, nhưng tôi không đồng ý với anh. Sự thật là tôi cũng có quyền trình bày ý kiến của tôi chứ. Theo tôi thì bài bào này thối um – và tôi có ý định nói rõ quan điểm của tôi. Tuy miễn cưỡng thay Henrik ở ban lãnh đạo Millennium, nhưng tôi sẽ không để cho một bài báo công kích như thế này ra đòn mà không nếm đòn trả lại.

- Cũng đủ công bằng rồi.

- Vậy nên tôi sẽ yêu cầu quyền đáp lại. Và nếu tôi làm cho Karlman nom ra một đứa ngố thì ông ta chỉ có thể tự trách ông ta mà thôi.

- Anh cần làm cái mà anh tin là đúng.

- Với tôi thì việc quan trọng là anh tuyệt đối hiểu cho rằng tôi không có mảy may dính vào chuyện đả kích độc ác này.

- Tôi tin anh. – Blomkvist nói.

- Ngoài ra tôi, - Martin nói, - tôi thật lòng không muốn nêu chuyện này ra vào lúc này nhưng chính nó lại làm rõ ra được việc chúng ta đã bàn. Để anh trở lại vào ban biên tập của Millennium là quan trọng, làm như thế chúng ta có thể cho thế giới thấy một mặt trận thống nhất. Chừng nào anh còn đi xa, chừng ấy đồn bậy còn tiếp tục. Tôi tin ở Millennium và tôi chắc chắn chúng ta sẽ cùng nhau thắng trận đánh này.

- Tôi hiểu ý anh nhưng bây giờ đến lượt tôi không đồng ý với anh. Tôi không thể phá bản hợp đồng của tôi với Henrik và tôi cũng thật tình không muốn phá. Anh xem đấy, tôi thật lòng mến ông ấy. Rồi cái việc với Harriet kia…

- Vâng, thế thì sao?

- Tôi biết nó là nỗi đau buồn âm ỉ với anh nhưng tôi nhận thấy là Henrik đã bị ám ảnh với nó trong nhiều năm.

- Chỉ là giữa hai chúng ta thôi – tôi rất yêu Henrik và chú là người chỉ bảo tôi – nhưng khi đến chuyện Harriet thì đầu óc ông cụ gần như mất tỉnh táo.

- Khi bắt đầu việc này, tôi không thể không nghĩ rằng đây là chuyện phí thì giờ nhưng nay tôi lại thấy chúng ta sắp đến một đột phá, có thể là chúng ta có cơ biết được chuyện gì đã thật sự xảy ra.

Blomkvist đọc thấy hồ nghi trong mắt Martin. Cuối cùng anh quyết định.

- OK, trong trường hợp này điều tốt nhất chúng ta có thể làm là giải càng sớm càng tốt cái bí mật về Harriet. Tôi sẽ hết sức ủng hộ anh để anh hài lòng mà hoàn thành công việc của anh – và dĩ nhiên của cả Henrik – rồi tôi sẽ về Millennium.

- Tốt. Vậy tôi cũng sẽ không phải đấu với anh.

- Đúng. Anh có thể yêu cầu tôi giúp bất cứ lúc nào anh gặp phải vấn đề gì. Tôi dám đảm bảo là Birger sẽ không ngáng cản gì trên con đường của anh đâu. Và tôi sẽ cố nói chuyện với Cecilia để chị ấy bình tĩnh lại.

- Cảm ơn anh. Tôi cần hỏi chị ấy vài điều; tôi muốn nói chuyện với chị ấy nhưng cả tháng nay chị ấy cứ cưỡng lại.

Martin Vanger cười ầm.

- Có lẽ còn có những vấn đề khác mà anh cần san cho phẳng. Nhưng tôi sẽ không dính vào chuyện đó đâu.

Họ bắt tay nhau.

Salander đã nghe câu chuyện. khi Martin đi rồi, cô cầm lấy tờ Hedestad Courier rà bài báo. Cô đặt tờ báo xuống không bình luận.

Blomkvist ngồi im lặng nghĩ. Gunnar Karlman sinh năm 1948, năm 1966 thì mười tám tuổi. Anh ta là một trong những người ở trên đảo khi Harriet mất tích.

Sau bữa trưa lót dạ, anh bảo cô trợ lý điều tra đọc các báo cáo của cảnh sát. Anh đưa cho cô tất cả các ảnh về vụ tai nạn cũng như bản tóm tắt dài về cuộc điều tra của bản thân Henrik Vanger.

Rồi anh lái xe đến nhà Frode, nhã nhặn đề nghị ông thảo cho một bản thỏa thuận cho Salander làm trợ lý điều tra trong một tháng. Lúc anh về căn nhà gỗ, Salander đã chuồn ra vườn và ngập lút vào trong báo cáo của cảnh sát. Blomkvist đi vào pha cà phê. Anh quan sát cô qua cửa sổ bếp. Cô hình như đang đọc lướt, mỗi trang bỏ ra không quá mươi mười lăm giây. Cô lật các trang như máy và anh ngạc nhiên thấy cô thiếu tập trung; cái đó không sao, bởi báo cáo của cô lại quá ư là chi li tỉ mỉ. Anh lấy hai tách cà phê mang ra bàn ngoài vườn.

- Các nhận xét của anh là đã có trước khi anh biết chúng ta đang tìm một kẻ giết người hàng loạt.

- Đúng. Tôi chỉ viết ra các vấn đề mà tôi muốn hỏi Henrik và một vài điều khác nữa. Nó chả ra hình thù mạch lạc gì. Cho đến nay, tôi đang thật sự là vật nhau trong bóng tối, đang cố viết một chuyện – một chương trong tiểu sử của Henrik Vanger.

- Còn bây giờ?

- Trước kia mọi điều tra đều tập trung vào đảo Hedeby. Nay tôi chắc chắn rằng rằng câu chuyện, chuỗi các sự kiện dẫn đến vụ mất tích là bắt đầu ở Hedestad. Cái đó làm thay đổi hướng nhìn.

- Những cái anh phát hiện ra trong các bức ảnh là lý thú đấy.

Blomkvist ngạc nhiên. Salander không có vẻ là kiểu nguời quăng đi tơi tới những lời khen và anh thấy khoái. Mặt khác – xét từ một quan điểm thuần túy báo chí – thì đây cũng gần như đã là một thành thích.

- Đến lượt anh điền các chi tiết vào. Chuyện ra sao rồi với bức ảnh anh đang lùng tìm ở Nosjo?

- Cô muốn nói là cô không kiểm tra các ảnh trong máy tính của tôi?

- Không có thì giờ. Tôi cần đọc các tóm tắt, việc của anh chỉ liên quan với anh thôi.

Blomkvist mở iBook, vào hồ sơ ảnh.

- Thật hấp dẫn. Chuyến đi lên Nosjo là một tiến bộ nhưng cũng là một thất vọng. Tôi tìm ra bức ảnh nhưng nó chẳng nói được gì nhiều.

- Người phụ nữ này, Mildred Berggren đã lưu giữ tất cả ảnh vào trong album. Bức ảnh tôi tìm là ở trong đó. Nó được chụp bằng loại phim màu rẻ tiền, sau ba mươi bảy năm nước ảnh đã mờ đi đến mức không thể ngờ - thành ra một màu vàng nhạt. Nhưng, cô có tin được không, bà ấy vẫn còn âm bản để trong một cái hộp đựng giầy. Bà ấy cho tôi mượn tất cả các âm bản chụp ở Hedestad và tôi đã quét hình chúng. Đây là cái điều mà Harriet đã nhìn thấy.

Anh bấm vào một hình ảnh mà bây giờ có tên hồ sơ là HARRIET/bd-19.eps. Salander lập tức hiểu nỗi thất vọng của anh. Cô thấy một bức ảnh chụp toàn cảnh cho thấy các anh hề ở hàng đầu của cuộc diễu hành Ngày Trẻ con. Ở đằng sau có thể thấy góc nhà cửa hàng đồ mộc Sundstrom. Khoảng mười người đứng trên con đường lát đá trước nhà Sundstrom.

- Tôi nghĩ cô ta nhìn người này đây. Một phần vì tôi tạo lấy đường tam giác cho cái điểm mà cô ấy đang nhìn, xét theo cái góc mà mặt cô ấy quay vào – tôi vẽ ra một ngã tư ở đây – và một phần vì đây là người duy nhất hình như đang nhìn thẳng vào máy ảnh. Có nghĩa là đang nhìn Harriet.

Salander nhìn thấy một bộ mặt nhòa nhạt đứng lui lại sau các khán giả một ít, gần như ở phố bên cạnh. Anh ta mặc jacket độn vai, thẫm màu có một vạch đỏ trên vai và quần có thể là jean thẫm màu. Blomkvist đã phóng to nên hình người từ eo trở lên choán mất hết màn hình. Lập tức bức ảnh hóa ra nhòa hơn.

- Đó là một người đàn ông. Khoảng trên mét bảy, tầm thước. Tóc vàng thẫm, tóc dài vừa phải và râu cạo nhẵn nhụi. Nhưng không thể làm rõ được nét mặt hay thậm chí ước lượng được tuổi. Quãng giữa tuổi mười mấy và trung niên.

- Anh có thể chỉnh bức ảnh…

- Tôi đã chỉnh, mẹ kiếp. Tôi còn gửi bức ảnh sao đến bộ phận chỉnh ảnh bằng máy tính ở Millennium nữa. – Blomkvist bấm vào một bức ảnh mới chụp. - Ảnh này là bức tốt nhất mà tôi lấy ra từ bức ảnh kia. Chỉ là vì máy ảnh kia quá xoàng và cự ly thì quá xa.

- Anh đã đưa cho ai xem chưa? Một ai đó có thể nhận ra dáng vẻ của người đàn ông hay là…

- Tôi đưa nó cho Frode. Ông ta không biết người đàn ông này là ai.

- Ông Frode chắc không phải là người có óc quan sát nhất ở Hedestad.

- Đúng, nhưng tôi đang làm việc với ông ta và Henrik Vanger. Tôi muốn đưa bức ảnh cho Henrik xem trước khi tôi cho nó lên mạng rộng hơn.

- Có thể người này chỉ là một người đứng xem.

- Có thể. Thế nhưng hắn đã làm bật ra được ở Harriet một phản ứng lạ lùng như vậy đấy.

Trong mấy ngày sau đó, Blomkvist và Salander gần như làm không nghỉ lúc nào về vụ Harriet. Salander đọc tiếp báo cáo của cảnh sát, lia hết câu hỏi này sang câu hỏi khác. Chỉ có thể có một sự thật là mỗi câu trả lời mơ hồ hay lưỡng lự đều lại dẫn đến một câu hỏi khác lớn hơn.

Hai người bỏ cả một ngày xem xét thời gian biểu xuất hiện các nhân vật tại hiện trường của vụ tai nạn xe trên cầu. Sanlander ngày càng thành một bí ẩn với anh. Mặc dù cô chỉ đọc lướt nhanh các tài liệu trong báo cáo, cô hình như vẫn luôn luôn đậu được vào các chi tiết tối tăm nhất, mâu thuẫn nhất.

Buổi chiều họ nghỉ, khi không thể nào chịu nổi được cái nóng ở trong vườn. Họ sẽ bơi ở eo biển hay đi bộ lên sân trời của quán Cà phê & bánh đầu cầu Sussane. Nay Sussane đối xử lạnh ra mặt với Blomkvist. Anh nhận thấy Salander coi bộ ít hợp pháp và cô rõ là đang sống trong căn nhà gỗ cùng anh vậy thì điều đó – trong mắt Sussane – đã khiến cho anh trở thành một gã trung niên nhơ bẩn. Không hay.

Tối nào Blomkvist cũng ra ngoài chạy. Khi anh trở về căn nhà gỗ thở hồng hộc, Salander không bình luận. Rõ ràng chạy không phải là món của cô.

- Tôi hơn bốn chục rồi, - anh nói. – Tôi phải tập để giữ cho khúc giữa không quá béo.

- Tôi thấy rồi.

- Cô không tập tành gì à?

- Tôi có đánh bốc một dạo.

- Đánh bốc?

- À, anh biết đấy, với găng đấm.

- Cô bốc ở hạng cân nào? – Anh hỏi khi ở vòi tắm sen ra.

- Chả hạng nào. Thỉnh thoảng tôi chọi chút ít lại đám con trai trong câu lạc bộ ở Soder.

Sao mà không ngạc nhiên được chứ? Nhưng ít nhất cô đã nói với anh một cái gì đó về cô. Sao cô lại đến làm việc với Armansky? Cô đã được giáo dục học hành như thế nào? Bố mẹ cô làm gì? Hễ Blomkvist vừa thử hỏi về đời sống của cô, cô liền im như hến, chỉ trả lời nhát gừng hay lờ anh đi.

Một chiều, Salander thình lình đặt một cặp hồ sơ xuống, nhăn mặt.

- Anh biết gì về Otto Falk không? Ông mục sư ấy.

- Không nhiều. Tôi gặp vị mục sư đương nhiệm một ít lần trong năm và được nghe nói là Falk sống trong một nhà dưỡng lão ở Hedestad. Bệnh Alzheimer, già lú.

- Ông ta người đâu?

- Ở Hedestad. Đã học ở Uppsala.

- Ông ta không có vợ. Và Harriet lẵng nhẵng bên ông ta.

- Tại sao cô hỏi?

- Tôi chỉ nói là Morell đã khá là dễ dãi với ông ta khi phỏng vấn.

- Trong những năm 60 các mục sư được hưởng một quy chế trong xã hội khác xa bây giờ. Với ông ta thì sống ở đây trên đảo, gần với những manh mối quyền lực là điều tự nhiên thôi, tạm nói như vậy.

- Tôi nghĩ liệu cảnh sát đã có kiểm tra kỹ lưỡng nhà mục sư hay không. Trong các bức ảnh thì xem vẻ đó là một tòa nhà gỗ to, có nhiều chỗ giấu được một cái xác trong một thời gian.

- Đúng thế, nhưng trong tài liệu không có gì chỉ ra rằng ông ta đã có quan hệ gì đó với những tên sát nhân hàng loạt hay với việc Harriet mất tích.

- Thật vậy, có thể, - Salander nói và cười châm biếm. – Trước hết, ông ta là một mục sư, và hơn ai hết các mục sư là có quan hệ đặc biệt đến Kinh thánh. Thứ hai, người ta biết ông ta là người cuối cùng trông thấy và nói chuyện với Harriet.

- Nhưng ông ta xuống chỗ xảy ra tai nạn và ở lại đó hàng giờ. Ông ta có ở trong nhiều bức ảnh, đặc biệt vào lúc Harriet chắc là đã biến mất.

- Được, tôi không bẻ được bằng chứng ngoại phạm của ông ta. Nhưng tôi quả là có nghĩ đến một cái gì đó khác đấy. Câu chuyện này là về một tên bạo dâm giết phụ nữ hàng loạt.

- Vậy thì?

- Tôi là… Mùa xuân này tôi có ít thì giờ cho bản thân, tôi đã đọc một ít về những kẻ bạo dâm ở trong các bối cảnh khác thể. Một trong những cái tôi đã đọc là sách huấn luyện của FBI. Có kết luận rằng một số lượng đáng ngạc nhiên từ những tên sát nhân hàng loạt bị tù là xuất thân từ các gia đình xộc xệch chức năng và lúc còn bé thì từng hành hạ giống vật. Một số những tên sát nhân hàng loạt, người Mỹ, cũng đã bị bắt vì có ý định phóng hỏa thiêu cháy nhà cửa. Giống vật bị hành hạ và bị phóng hỏa đã xuất hiện ở trong vài vụ án mà Harriet đã viết lại, nhưng điều mà tôi thật sự nghĩ đến là việc nhà mục sư bị phóng hỏa cháy hồi cuối những năm 70.

- Đó là một cú làm thử mà không chắc ăn.

Lisbeth gật đầu.

- Đồng ý. Nhưng ở trong báo cáo của cảnh sát tôi không tìm thấy nguyên nhân của vụ cháy này và sẽ rất thú vị nếu biết trong những năm 60 đã có những vụ cháy khác không giải thích được lý do. Cũng đáng kiểm tra xem dạo ấy, trong vùng này liệu đã có những vụ giống vật bị lạm dụng hay bị làm cho què quặt hay không.

Đêm thứ bảy ở Hedeby, khi Salander lên giường, cô hơi cáu Blomkvist. Trong gần một tuần cô thực tế đã bỏ tất cả những lúc không ngủ ra cho anh. Thường thì cứ bảy phút chung đụng với một người khác cô đã nhức đầu, cho nên cô bố trí công việc để sống như một ẩn tu. Thiên hạ để cho cô yên chừng nào là cô khoái vô cùng chừng nấy. Không may là xã hội lại không thông minh hay không thông cảm; cô đã phải tự vệ chống lại các quyền uy xã hội, các quyền uy phúc lợi trẻ con, cả quyền uy của chế độ giám hộ, quyền uy thuế má, cảnh sát, các nhà quản lý, các nhà tâm lý học, các nhà phân tâm học, các thầy cô giáo và các đầu gấu giữ trật tự, những kẻ (không phải những tay trông coi cửa ở Kvarnen lúc ấy đã biết cô là ai) không bao giờ để cô vào quán bar cho dù cô đã hai mươi lăm tuổi. Có cả một đạo quân những dân hình như không còn việc gì làm hay hơn là chọc phá vào cuộc đời cô, và nếu như có được cơ hội thì chúng liền uốn nắn luôn cái cách sống mà cô đã chọn.

Khóc chả có hay ho gì, điều này cô học được từ sớm. Cô cũng học biết được là mỗi lúc cô cố để cho ai đó hiểu được một điều gì về cô thì tình hình lại tồi tệ hơn. Kết quả là chính cô phải tự giải quyết lấy các chuyện cho cô, dùng bất cứ biện pháp nào mà cô thấy là cần thiết. Một cái gì thuộc kiểu chơi rắn mà Luật sư Bjurman đã nếm. Blomkvist cũng có cái thói quen chán phè như mọi ai khác, tọc mạch dò la vào đời cô rồi đặt câu hỏi. Nhưng mặt khác anh không phản ứng giống như phần lớn những người đàn ông khác mà cô đã gặp.

Khi cô lờ các câu anh hỏi thì anh chỉ đơn giản nhún vai rồi để cô yên. Đáng ngạc nhiên.

Cái sáng đầu tiên khi cô vớ được iBook của anh, chiêu tiếp theo tức thì của cô lúc ấy là chuyển hết thông tin sang ngay máy tính của cô. Nếu anh rũ cô ra khỏi vụ này thì cứ việc; cô vẫn sẽ vào được tài liệu.

Khi anh ra ăn sáng, cô đã nghĩ anh sẽ phát điên lên. Nhưng nom anh lại gần như là nhẫn chịu, lầm bầm câu gì đó châm biếm rồi bỏ đi tắm. Rồi anh bắt đầu thảo luận lại cái mà cô đã đọc. Một gã lạ đây. Thậm chí cô còn có thể nghĩ lầm ra là anh đã tin cô.

Blomkvist đã biết Salander là hacker, đây không phải chuyện đùa đối với cô, Salander hiểu rằng là một hacker, cả chuyên nghiệp lẫn vì thú vui riêng, đã được pháp luật miêu tả là “xâm phạm dữ liệu một cách bất hợp pháp”, và cô có thể phải chịu hai năm tù ngồi. Cô không muốn bị nhốt. Trong trường hợp của cô, một án tù có nghĩa là cô sẽ bị tách ra khỏi máy tính và cùng với nó là cái nghề ngỗng duy nhất mà cô thật sự giỏi giang. Cô chưa bao giờ bảo Armansky cách cô thu thập những thông tin mà ông trả công cho cô để tìm. Trừ ngoại lệ Dịch Bệnh và một ít dân trên Net, những người giống như cô dâng hiến mình cho việc đột nhập máy tính ở trình độ chuyên nghiệp – phần lớn họ chỉ biết cô là “Ong Vò Vẽ” chứ không biết cô là ai và sống ở đâu – Kalle Blomkvist là người duy nhất đã loạng quạng vào bí mật của cô. Anh đến với cô vì cô đã phạm một sai lầm mà một đứa mười hai tuổi cũng không mắc phải, sai lầm ấm ớ ấy chỉ chứng tỏ rằng đầu óc cô đã bị sâu bọ ăn mất tiêu và cô thì chỉ có đáng là bị quất cho một trận đòn. Nhưng thay vì điên tiết lên, anh lại mướn cô. Kết quả là cô chỉ cáu anh vừa vừa thôi.

Khi họ ăn qua loa trước khi cô đi ngủ, anh thình lình hỏi cô có phải là một tay hacker giỏi không. Cô ngạc nhiên thấy mình đáp:

- Chắc tôi là tay giỏi nhất ở Thụy Điển. Có thể có độ hai hay ba người nữa ở trình độ tôi.

Trả lời thế là chính xác, cô không nghi ngờ. Có thời Dịch Bệnh giỏi hơn cô nhưng cô đã vượt anh ta từ lâu rồi.

Mặt khác, nói ra như thế cũng thấy hay hay. Trước kia cô chưa từng có kiểu trò chuyện này với người ngoài cuộc bao giờ và cô thấy thích là hình như tài năng của cô đã làm cho anh choáng. Rồi anh phá mất cảm giác ấy khi hỏi câu nữa: cô tự học lấy đột nhập máy tính như thế nào.

Cô có thể nói như thế nào đây? Tôi luôn có khả năng làm được trò đó. Nhưng thay vì nói vậy, cô lẳng lặng đi ngủ, chả chúc cả ngủ ngon.

Khi cô quá đột ngột bỏ đi, anh không cáu, việc này lại làm cho cô cáu hơn. Cô nằm nghe anh đi đi lại lại trong bếp, dọn dẹp bàn và rửa đĩa tách. Anh luôn thức khuya hơn cô nhưng nay rõ ràng là anh cũng sắp lên giường nốt. Cô nghe thấy anh ở trong buồng tắm rồi đi vào phòng ngủ của anh, đóng cửa lại. Một lúc sau cô nghe thấy tiếng giường kêu khi anh leo lên nó, cách cô không tới một mét nhưng ở bên kia bức tường. Cô đã ở chung nhà với anh một tuần và anh chưa hề tán tỉnh cô. Anh đã làm việc với cô, hỏi ý kiến cô, đập khẽ vào các đốt ngón tay cô, ấy là nói cho có hình tượng, khi cô dò lầm đường rồi lại nhận là cô đúng sau khi cô uốn nắn anh. Mẹ kiếp, anh đối xử với cô như với một con người.

Cô ra khỏi giường đến đứng bên cửa sổ, bồn chồn nhìn vào bóng đêm. Điều gay go nhất với cô là để cho một người khác lần đầu tiên trông thấy cô trần truồng. Cô đinh ninh mình mẩy xương xẩu của cô nom ghê. Ngực cô không ra sao. Cô chả có cả mông để mà nói nữa. Chả có gì nhiều để hiến cho. Ngoài việc cô là một phụ nữ hoàn toàn bình thường với cũng các thèm muốn tương tự, cũng với các cơn giục giã của tính dục như mọi phụ nữ khác. Cô đứng ở đấy thêm hai chục phút nữa rồi quyết định.

Blomkvist đang đọc một cuốn tiểu thuyết của Sara Paretsky thì nghe thấy tay nắm cửa quay, anh nhìn lên và thấy Salander. Quấn một mảnh khăn trải giường quanh người, cô đứng ở cửa một lúc.

- Cô ổn chứ?

Cô lắc đầu.

- Sao vậy?

Cô đi đến bên giường anh, cầm quyển sách đặt nó lên bàn đầu giường. Rồi cô cúi xuống hôn vào miệng anh. Cô leo tót lên giường rồi ngồi nhìn anh, tìm anh. Cô để bàn tay lên mảnh chăn ở trên bụng anh. Khi anh không phản đối, cô cúi xuống cắn đầu vú anh.

Blomkvist bàng hoàng. Anh cầm hai vai cô đẩy cô ra xa một ít để có thể nhìn được mặt cô.

- Lisbeth… tôi không biết thế này có phải là một ý hay không đây. Chúng ta phải làm việc với nhau.

- Em muốn làm tình với anh. Và em sẽ chẳng có chuyện gì để làm việc với anh hết nhưng nếu anh đá em đi thì em sẽ có một chuyện khốn kiếp với anh.

- Nhưng chúng ta mới biết nhau.

Cô cười to, một tiếng cười bất chợt nghe như một tiếng ho.

- Trước kia bất kỳ thứ gì giống như thế này là anh không để cho yên được ở trên giường của anh đâu. Thật ra trong báo cáo về lai lịch của anh, em đã không nói anh là một trong những dân không thể nào buông được tay ra khỏi phụ nữ. Vậy thì sai chỗ nào? Với anh, em không đủ kích dâm sao?

Blomkvist lắc đầu và cố tìm ra cái gì thông minh một tí để nói. Khi anh nghĩ không ra; cô bèn kéo tuột chăn ở trên người anh ra rồi leo lên anh.

- Anh không có bao cao su đâu. – Anh nói.

- Hê xừ nó đi.

Anh tỉnh dậy thấy tiếng cô ở trong bếp. Chưa đến 7 giờ. Anh có lẽ chỉ ngủ được hai giờ đồng hồ còn thì lơ ma lơ mơ trên giường.

Người phụ nữ này đã đánh bại anh. Tuyệt đối cô không có một điểm nào, thậm chí một cái liếc mắt cho thấy cô ít nhất cũng có chút nào thích thú anh.

- Chào. – Cô nói ở lối ra vào cửa. Cô thậm chí còn có thoáng một nụ cười.

- Chào.

- Chúng ta hết sữa rồi. Em sẽ ra trạm xăng dầu. Bảy giờ họ mở cửa. – Và cô đi.

Anh nghe thấy cô đi ra cổng chính. Anh nhắm lại. Rồi anh nghe thấy cửa chính lại mở chỉ vài giây sau, cô đã trở lại ở lối vào. Lần này cô không mỉm cười.

- Anh ra xem cái này thì hay hơn đấy. – Giọng cô nói nghe là lạ.

Lập tức Blomkvist đứng lên, lùa chân vào quần jean.

Trong đêm ai đó đã đến căn nhà gỗ với một món quà không mong đợi. Ở cổng có mái, xác một con mèo cháy đã gần thành than nằm đó. Chân và đầu con mèo đã bị cắt rời, mình con mèo bị mổ phanh và ruột gan nó đã bị moi ra lắt lẻo ở bên xác nó, cái xác như đã bị quay nướng trên lửa. Ở trên yên xe máy của Salander, đầu con mèo còn nguyên vẹn. Anh nhận ra bộ lông màu nâu đỏ.

Chương 22

Thứ Năm, 10 tháng Bảy

Họ im lặng ăn lót dạ ở ngoài vườn và cà phê không có sữa. Salander đã lấy máy ảnh số Cannon chụp cái cảnh ma quái trước khi Blomkvist lấy túi rác dọn sạch đi. Anh để con mèo vào cốp xe Volvo. Anh phải làm một cái đơn gửi cảnh sát về sự đối xử độc ác với loài vật, có thể là nhằm đe dọa nhưng anh nghĩ không muốn sẽ lại phải giải thích tại sao có chuyện đe dọa.

8 rưỡi, Isabella Vanger đi qua để tới cầu. Bà không trông thấy hai người, hay ít nhất vờ ra thế.

- Em thế nào? – Blomkvist hỏi.

- Ồ, em được, - Salander nhìn anh băn khoăn. Ok, được rồi. Anh ta nghĩ mình rụng rời. – Khi nào em tìm ra được cái thằng bỏ mẹ nào hành hạ đến chết một con mèo vô tội chỉ để cảnh cáo chúng ta thì em sẽ quật cho nó bằng cái gậy đánh bóng chày.

- Em nghĩ đó là một cảnh cáo à?

- Anh tìm ra được giải thích nào hay hơn không? Dứt khoát là nó muốn nói một cái gì.

- Trong chuyện này, dù sự thật là gì đi nữa thì chúng ta cũng đã làm phiền một ai đó đủ để cho hắn làm một việc đáng nôn ọe. Nhưng cũng có một vấn đề khác nữa.

- Em biết. Đây là một con vật hiến tế theo kiểu năm 1954 và 1960, nhưng xem ra thì khó có thể tin nổi rằng một ai đó hoạt động từ những năm 50 mà bây giờ lại vẫn đem xác một con vật bị hành hạ đến đặt ở lối vào cửa nhà anh.

Blomkvist đồng ý.

- Trong vụ này những người duy nhất có thể nghĩ được là Harald Vanger và Isabella Vanger. Ở phía Johan Vanger có một số họ hàng nhiều tuổi hơn nhưng không ai sống ở khu vực này.

Blomkvist thở dài.

- Isabella là một con chó cái thô bỉ chắc chắn là có thể giết con mèo nhưng anh không tin bà ta trong những năm 50 đã chạy quanh khắp nơi để giết phụ nữ. Harald Vanger… anh không biết, ông ta nom kiệt sức lắm khó mà đi bộ được, anh không thể hình dung nổi đêm hôm qua ông ta lại lén đến tận nhà anh bắt con mèo rồi làm tất cả các chuyện kia.

- Trừ phi hai người, một già, một trẻ hơn.

Nghe tiếng xe hơi đi qua gần, Blomkvist ngước lên nhìn thấy Cecilia lái xe qua cầu. Harald  và Cecilia, anh ta nghĩ nhưng hai người này hiếm nói với nhau. Mặc dù Martin Vanger hứa nói chuyện với chị ta nhưng Cecilia vẫn không trả lời bất cứ tin nhắn nào trên điện thoại của anh.

- Phải là người biết chúng ta đang làm công việc này và đang có tiến triển, - Salander nói, đứng lên để đi vào trong nhà. Khi quay lại, cô đã mặc bộ quần áo da vào người.

- Em đi Stockholm. Đêm về.

- Em đi làm gì?

- Kiếm một ít máy móc hiện đại. Nếu ai đó đủ rồ dại để giết mọt con mèo ghê tởm đến thế thì lần sau có thể hắn hay ả ta sẽ tấn công đến chúng ta. Hay phóng hỏa đốt căn nhà gỗ khi chúng ta đang ngủ. Em muốn hôm nay anh vào Hedestad để mua hai bình cứu hỏa và hai máy báo động khói. Một bình cứu hỏa phải có chất halon.

Không nói thêm nửa lời, cô đội mũ bảo hiểm, đạp nổ chiếc xe máy rồi rú qua cầu.

Blomkvist giấu xác con mèo cùng cái đầu và ruột gan mèo vào một thùng rác ở bên trạm xăng dầu trước khi lái xe vào Hedestad la cà tìm kiếm. Anh đến bệnh viện. Anh đã hẹn gặp Frode ở trong một quán cà phê, kể với ông chuyện xảy ra hồi sáng ngay lập tức. Mặt Frode trở nên trắng nhợt.

- Mikael, tôi không bao giờ ngờ chuyện lại có thể quay ra thành thế này.

- Sao lại không? Muốn gì thì chúng ta cũng đang tìm một tên giết người cơ mà.

- Nhưng thế này thì kinh tởm, vô nhân đạo. Nếu có nguy hiểm gì đến tính mạng anh hay cô Salander thì chúng ta phải bảo thôi đi. Để tôi nói chuyện với Henrik.

- Không, tuyệt đối không. Tôi không muốn ông ấy lại có thể lên một cơn nữa.

- Ông ấy hỏi mãi tôi về công việc của anh ra sao rồi.

- Nói giúp tôi lời chào ông ấy, làm ơn và bảo là tôi đang tiến lên.

- Rồi sau đây thì thế nào?

- Tôi có một ít câu hỏi. Việc đầu tiên xảy ra ngay khi Henrik lên cơn đau tim và tôi thì hôm ấy đang xuống Stockholm, một ai đó đã vào lục buồng làm việc của tôi. Tôi đã in ra các câu thơ trong Kinh thánh và các ảnh chụp ở Jarnvagsgatan ở trên bàn làm việc của tôi. Ông biết và Henrik biết, Martin có biết một phần vì anh ấy tổ chức cho tôi đến tòa soạn báo Courier. Còn bao nhiêu người khác nữa biết đây?

- Được, tôi không biết Martin đã nói với ai. Nhưng cả Birger lẫn Cecilia cũng biết hết. Họ bàn chuyện anh lùng sục hồ sơ ảnh. Alexander cũng biết. Và nhân thể cả Gunnar và Helena Nilsson cũng biết. Họ đến chào Henrik và bị kéo vào câu chuyện. Rồi Anita Vanger nữa.

- Anita? Người ở London ấy ư?

- Em của Cecilia. Khi Henrik lên cơn đau tim, cô ấy quay về đây với Cecilia nhưng trọ ở khách sạn, và không ra đảo như tôi biết. Giống Cecilia, cô ấy không thích gặp ông bố. Nhưng khi Henrik thôi nằm chế độ hồi sức cấp cứu thì cô ấy liền bay đi.

- Hiện giờ, Cecilia đang ở đâu? Sáng nay tôi thấy chị ấy đi xe qua cầu nhưng nhà lúc nào cũng tối om.

- Cô ấy không có gan làm cái trò ấy đâu, đúng không?

- Đúng, tôi chỉ là nghĩ chị ấy đang ở đâu.

- Cô ấy đang ở chỗ ông anh, Birger. Ở đấy đi bộ là đến thăm được Henrik.

- Ông có biết ngay hiện nay chị ấy đang ở đâu không?

- Không. Dầu gì thì cũng không thấy cô ấy đến thăm Henrik.

- Cảm ơn. – Blomkvist nói rồi đứng lên.

Nhà Vanger xúm lại quanh bệnh viện Hedestad. Trong sảnh, Birger đang đi đến thang máy. Chờ ông ta đi khuất rồi Blomkvist mới vào phòng tiếp tân. Thay vì lại đâm phải Martin Vanger ở cửa, đúng vào cái chỗ anh đã đâm phải Cecilia lần thăm trước. Họ chào rồi bắt tay nhau.

- Anh đã lên gặp Henrik chưa?

- Không, tôi chỉ gặp có Derich Frode.

Martin nom mệt, hai mắt hõm xuống. Mikael nghĩ trong sáu tháng nay anh ta già rõ đi từ khi anh gặp anh ta.

- Với anh thì tình hình ra sao, Mikael? – Martin hỏi.

- Mỗi ngày qua là một ngày lý thú hơn. Khi Henrik khỏi, tôi hy vọng có thể thỏa mãn được sự tò mò của ông ấy.

Nhà của Birger Vanger là một nhà mái bằng cách bệnh viện chừng năm phút đi bộ nhìn ra biển và ra vùng đậu tàu thuyền của Hedestad. Không ai trả lời khi Blomkvist bấm chuông. Anh gọi di động của Cecilia nhưng cũng không có trả lời.

Anh ngồi trong xe một lúc, gõ ngón tay lên vô lăng. Birger là cha hung hăng trong câu chuyện này: sinh năm 1939, vậy là lên mười khi Rebecka Jacobsson bị giết; hai mươi bảy tuổi khi Harriet mất tích. Theo Henrik, Birger và Harriet hiếm khi gặp nhau. Ông ta lớn lên với gia đình ở Uppsala và chỉ chuyển đến Hedestad để làm việc cho công ty. Sau hai ba năm, ông ta đổi tàu và dành hết cho chính trị. Nhưng ông ta ở Uppsala khi Lena Andersson bị giết.

Vụ con mèo làm cho anh cảm thấy như có điềm báo gở, tựa như anh đang hóa ra thành bất lực.

Otta Falk ba mươi sáu khi Harriet mất tích. Ông nay bảy mươi hai, trẻ hơn Henrik Vanger nhưng tình trạng trí não thì tồi tệ hơn nhiều. Blomkvist tìm thấy ông ở nhà điều dưỡng Svalan, một tòa nhà gạch màu vàng gần sông Hede ở cuối thị trấn. Blomkvist tự giới thiệu với người tiếp tân rồi đề nghị cho được nói chuyện với mục sư Falk. Anh giải thích là anh biết mục sư bị bệnh già lú rồi hỏi thăm mục sư nay sáng suốt thế nào. Một nữ y tá trả lời là ba năm trước lần đầu tiên mục sư Falk được chuẩn đoán nhưng thương thay bệnh tình cứ nặng ra. Mục sư có thể nói chuyện nhưng trí nhớ rất kém, chỉ nhớ những cái mới đây và không nhận ra được hết họ hàng thân thuộc. Ông ta cũng sẵn sàng lên những cơn sợ nếu như nghe phải những câu hỏi ông không thể trả lời.

Falk đang ngồi trên một cái ghế dài ở trong vườn với ba người bệnh khác và một y tá nam. Blomkvist bỏ ra một giờ đồng hồ để cố làm cho ông ta bập được vào chuyện.

Ông nhớ Harriet Vanger hoàn toàn tốt. Mặt ông sáng lên và ông tả cô là một cô gái hấp dẫn. Nhưng Blomkvist sớm nhận ra ông mục sư đã quên việc Harriet mất tích ba mươi bảy năm trước đây. Ông nói về cô ta như vừa mới gặp, còn nhờ Blomkvist chuyển lời chào cũng như giục cô đến thăm ông. Blomkvist hứa làm việc này.

Rõ ràng ông không nhớ vụ tai nạn trên cầu. Mãi đến cuối buổi nói chuyện ông mới nói một câu gì đó khiến Blomkvist dỏng tai lên.

Đó là lúc Blomkvist lái câu chuyện sang việc Harriet quan tâm đến tôn giáo và Falk chợt có vẻ ngập ngừng. Tựa như có một bóng mây lướt qua mặt ông. Falk ngồi đu đưa trước sau một lúc rồi ngước nhìn Blomkvist hỏi anh là ai. Blomkvist lại tự giới thiệu mình lần nữa.

Mãi rồi ông nói:

- Cô ấy còn là một người tìm tòi. Cô ấy cẩn thận cho bản thân và anh phải cảnh báo cho cô ấy như thế.

- Tôi nên cảnh báo về cái gì?

Falk thình lình nhớn nhác. Ông nhăn mặt lại và lắc đầu.

- Cô ấy cần đọc sola scriptura để hiểu sufficientia scripturae. Có như thế cô ấy mới duy trì được sola fide. Josef chắc chắn sẽ trục đuổi chúng. Chúng không bao giờ được chấp nhận vào kinh bổn.

Blomkvist không hiểu một tí gì về chuyện này nhưng vẫn ghi chép đủ hết vào giấy. Rồi mục sư Falk ngả người về phía anh thở dài:

- Tôi nghĩ cô ấy là một tín đồ Thiên chúa giáo. Cô ấy yêu phù phép và chưa tìm ra được Chúa của mình. Cô ấy cần có người hướng dẫn.

Chữ thiên chúa giáo rõ ràng mang một ngụ ý tiêu cực với mục sư Falk.

- Con nghĩ cô ấy quan tâm đến phong trào Pentecost. Cô ấy đi tìm chân lý bị cấm đoán. Cô ấy không phải là một tín đồ cơ đốc.

- Không, không, không, không phải đám Pentecost. Cô ấy đi tìm chân lý bị cấm đoán. Cô ấy không phải là một tín đồ Cơ đốc.

Rồi mục sư Falk hình như quên mất mọi sự về Blomkvist, bắt đầu quay sang chuyện với ba người bệnh khác.

Đúng sau 2 giờ chiều anh lại về tới đảo Hedeby. Anh đi thẳng đến nhà Cecilia và gõ cửa nhưng không kết quả. Anh lại thử di động của chị nhưng không trả lời.

Anh gắn một báo động khói lên tường ở trong bếp và một cái ở gần cửa chính. Anh đặt một bình cứu hỏa ở gần bếp lò bên cạnh cửa buồng ngủ và một cái nữa ở cạnh cửa buồng tắm. Rồi anh làm bữa trưa, cà phê với sandwich rồi ngồi ở vườn đánh máy lại những điều trong cuộc chuyện trò với mục sư Falk. Làm xong, anh ngước nhìn nhà thờ. Tòa nhà mục sư mới của Hedeby là một tòa nhà ở hiện đại bình thường cách nhà thờ một quãng đi bộ. 4 giờ chiều Blomkvist gõ cửa và giải thích với sơ Margareta Strandh rằng anh đến xin lời khuyên về một vấn đề thần học. Xơ là một phụ nữ có mái tóc sẫm màu trạc tuổi anh, mặc quần jean và áo sơmi flanen. Bà đi chân trần, móng chân sơn. Anh đã vài lần tình cờ gặp bà trước đây ở quán Cà phê và bánh đầu cầu Susanne và nói chuyện với bà về mục sư Falk. Bà tiếp anh thân mật, mời vào ngồi ở trong sân nhà bà.

Blomkvist bảo bà là anh đã phỏng vấn mục sư Otto Falk và kể lại những điều mục sư đã nói. Xơ Strandh nghe rồi yêu cầu anh nhắc lại từng lời.

- Tôi được phái đến đây phục vụ mới ba năm và chưa thực sự gặp mục sư Falk. Ông đã về hưu trước đó vài năm nhưng tôi tin rằng ông khá là coi trọng giáo lễ cùng uy quyền giám mục. Điều mục sư nói với anh có nghĩa một điều gì đó đi theo đường lối “chỉ có giữ Thánh thư không thôi” - sola scriptura – và đó là sufficientia scripturae. Câu sau là nói xây dựng cho các tín đồ phàm tục nắm đầy đủ thánh thư. Sola fide có nghĩa là chỉ lòng tin không thôi hay là lòng tin chân thực.

- Con hiểu.

- Các điều này là những giáo điều cơ bản, tạm nói như vậy. Nói chung đó là nền móng của nhà thờ và không hề lạ lẫm chút nào. Ông ấy chỉ đơn giản nói: Hãy đọc Kinh thánh – nó sẽ cho kiến thức đầy đủ và bảo đảm cho có lòng tin chân thực.

Blomkvist cảm thấy hơi lúng túng một chút.

- Nay ta phải hỏi anh là câu chuyện này xảy ra trong quan hệ như thế nào?

- Con đang hỏi xơ về một người mà xơ đã gặp nhiều năm trước, một người mà con đang viết đến.

- Một người đang tìm hiểu đạo?

- Đại khái như vậy.

- Được. Ta nghĩ ta đã hiểu được bối cảnh. Anh bảo ta là mục sư Falk còn nói hai điều nữa – rằng “Josef sẽ trục đuổi chúng đi” “chúng sẽ không bao giờ được chấp nhận vào kinh bổn”. Có lẽ anh đã hiểu lầm Josefus mà ông ấy nói ra thành Josef? Thật ra cũng cùng là một tên thôi.

- Có thể là thế. – Blomkvist nói. – Con ghi âm câu chuyện lại nếu xơ muốn nghe nó.

- Không, ta thấy không cần thiết. Hai câu này nêu khá là thẳng băng ra cái điều mà ông ấy ám chỉ tới. Josefus là một sử gia người Do thái và câu “chúng sẽ không bao giờ được chấp nhận vào kinh bổn” có thể có nghĩa là chúng không bao giờ được vào trong kinh bổn Do thái.

- Và có nghĩa?

Bà cười to lên.

- Mục sư Falk nói rằng con người này đang bị mắc phải các nguồn bí truyền, đặc biệt là kinh tà Apocrypha. Chữ Hy lạp Apokryphos có nghĩa là “che dấu” do đó chữ Apocrypha là những sách phải che giấu mà một số người coi là rất trái nghịch nhưng một số khác lại cho là nên nạp vào Kinh cựu ước. Các sách này là Tobias, Judidth, Esther, Baruch, Sirach, các sách về Maccabees và một vài cuốn khác nữa.

- Xin tha cho tội ngu dốt của con. Con đã nghe nói đến các sách bí truyền nhưng chưa được đọc chúng bao giờ. Chúng có gì đặc biệt ạ?

- Thật ra chẳng có chút nào là đặc biệt ở các sách này trừ cái điều là chúng ra mắt từ một cái gì đó muộn hơn phần còn lại của Kinh Cựu ước. Apocrypha đã bị loại khỏi Kinh thánh Do thái – không phải vì các học giả Do thái không tin nội dung của chúng mà đơn giản chỉ là vì chúng được viết ra sau khi Chúa đã kết thúc công trình vạch lộ của Chúa. Mặt khác, trong bản dịch cũ của Hy Lạp về Kinh thánh có dung nạp cả Apocrypha. Chúng không bị coi, thí dụ trong nhà thờ Cơ đốc Roma, là trái nghịch.

- Con hiểu.

- Nhưng ở trong nhà thờ Tin lành thì chúng là trái nghịch. Trong cuộc Đổi mới đạo, các nhà thần học hướng vào Kinh thánh cổ Do thái. Martin Luther loại Apocrypha ra khỏi Kinh thánh của Đổi mới rồi sau đó Calvin tuyên bố rằng tuyệt đối không được dùng Apocrypha làm cơ sở xây dựng xác tín trong các vấn đề của đức tin. Vậy là nội dung của chúng trái nghịch lại hay ở một mặt nào đó xung đột với claritas scripturae – sự trong sáng của Thánh thư.

- Nói cách khác là những sách bị kiểm duyệt.

- Hoàn toàn đúng. Thí dụ, Apocrypha tuyên bố có thể dùng ma thuật và ở trong một số trường hợp có thể được phép làm điều này; dĩ nhiên thì các lời nói này đã làm choáng váng các nhà diễn giải Thánh thư theo kiểu giáo điều chủ nghĩa.

- Vậy nên, với một ai đó ham mê tôn giáo thì không thể nào nghĩ được trong danh sách đọc sách của họ lại có nổi lên Apocrypha, một người như mục sư Falk sẽ bị choáng váng lên vì chuyện này.

- Nếu đang nghiên cứu Kinh thánh của đức tin Cơ đốc mà gặp phải Apocrypha thì chuyện đó cũng gần như là khó tránh; cũng có thể là những ai bận tâm đến sách bí truyền thì nói chung đều có thể đọc chúng.

- Xơ tình cờ có một bản Apocrypha đấy không ạ?

Bà lại cười to lên lần nữa. Một tiếng cười sáng sủa, thân mật.

- Dĩ nhiên có chứ. Trong những năm 80, Ủy ban Kinh thánh đã phát hành Apocrypha thật sự như là báo cáo của nhà nước.

Armansky nghĩ chắc lại sắp có chuyện gì đây khi Salander đề nghị gặp riêng ông. Ông đóng cửa lại ở đằng sau cô và chỉ cho cô chiếc ghế dành cho khách. Cô bảo ông rằng việc cô làm với Mikael đã xong – luật sư nên trả công cho cô trước cuối tháng – nhưng cô đã quyết định làm tiếp với cuộc điều tra đặc biệt này. Blomkvist đã cho cô một khoản lương cao hơn đáng kể trong một tháng.

- Tôi đã tự mướn tôi. – Salander nói. – Cho tới nay, theo đúng thỏa thuận của ông và tôi, tôi chỉ làm công việc gì mà ông giao, nay tôi muốn hỏi là nếu tôi một mình tự ý làm việc cho tôi thì quan hệ giữa chúng ta có bị làm sao không?

Armansky nhún vai.

- Cô là một người làm tự do, cô có thể nhận bất cứ việc gì mà cô muốn và nó đáng bao nhiêu thì cô đòi công bấy nhiêu. Tôi chỉ vui thấy cô tự kiếm ra được tiền. Nhưng nếu cô bắt khách qua công việc của chúng ta thì có thể sẽ là không trung thực.

- Tôi không định làm chuyện đó. Tôi đã theo đúng hợp đồng làm xong cái việc với Blomkvist. Có điều là tôi muốn ở lại trong vụ này. Thậm chí tôi làm không vì gì cả.

- Chớ có làm một cái gì mà không vì gì sất.

- Ông hiểu ý tôi đấy. Tôi muốn biết câu chuyện này sẽ đi đến đâu. Tôi đã thuyết phục Blomkvist đề nghị ông luật sư giữ tôi lại làm trợ lý điều tra.

Cô đưa bản thỏa thuận cho Armansky, ông đọc nhanh nó:

- Với lương thế này thì cũng như là cô làm không lương. Lisbeth, cô có tài. Cô không phải làm việc lấy đồng tiền còm nữa. Cô biết cô sẽ còn làm nhiều ghê gớm hơn nữa nếu cô đến đây làm chính thức với tôi.

- Tôi không muốn làm chính thức toàn bộ thời gian. Nhưng Dragan, lòng trung thành của tôi là dành cho ông. Ông là nhất với tôi từ ngày tôi bắt đầu làm việc ở đây. Tôi muốn biết một bản hợp đồng giống như thế này thì liệu có OK với ông không, rằng sẽ không có bất cứ va chạm gì giữa chúng ta hết chứ.

- Tôi biết. – Ông nghĩ một lúc. – Được, trăm phần trăm. Cám ơn cô đã hỏi. Trong tương lai lại có thêm tình hình như thế này mà cô hỏi tôi để cho không xảy ra hiểu lầm thì tôi sẽ tán thành chứ.

Salander nghĩ xem có còn gì cần nói thêm không. Cô đăm đăm nhìn Armansky, im lặng. Thay vì cô chỉ gật đầu rồi đứng lên đi, không chào tạm biệt như thường lệ. Cô đã có được câu trả lời mà cô mong muốn và lập tức không bận tâm đến Armansky. Ông mỉm cười với chính mình. Rằng cô đã không xin ông lời khuyên và điều này đánh dấu một thành tích cao trong quá trình xã hội hóa của cô.

Ông mở một hồ sơ với một báo cáo về an ninh ở một nhà bảo tàng, nơi sắp sửa một cuộc triển lãm lớn các danh họa trường phái Ấn tượng Pháp. Rồi ông đặt hồ sơ xuống và nhìn ra cửa mà Salander vừa mới bước qua. Ông nghĩ đến việc cô đã cười to như thế nào với Blomkvist ở trong văn phòng làm việc của cô, thầm hỏi đó là rút cục cô đã trưởng thành hay Blomkvist có sức hấp dẫn. Ông cũng cảm thấy một cảm đôi chút không dễ chịu là lạ. Ông không bao giờ có thể rũ bỏ được cái cảm giác rằng Lisbeth Salander là một nạn nhân hoàn hảo. Thì bây giờ kia, cô đang săn lùng cho kỳ được một thằng điên ở tại một nơi đèo heo hút gió.

Trên đường lại ngược lên bắc, Salander bốc đồng vòng đến nhà dưỡng lão Appelviken để thăm mẹ. Từ Noel, trừ lần thăm dịp tết. Giữa hè, cô chưa gặp mẹ và cô cảm thấy mình thật tệ vì đã ít tranh thủ thời gian. Trong vòng một ít tuần thăm hai lần là việc hoàn toàn không bình thường.

Mẹ cô đang ở trong phòng sinh hoạt chung, Salander ở một giờ đẫy với mẹ và đưa mẹ đi dạo xuống phía ao thả vịt thuộc vùng đất của bệnh viện. Mẹ vẫn lẫn cô với chị cô. Như mọi lần, mẹ vẫn xa vắng nhưng đã có vẻ xúc động vì con đến thăm.

Khi Salander chào tạm biệt, mẹ không muốn buông tay cô. Salander hứa sẽ lại đến thăm mẹ nhưng mẹ buồn và lo lắng nhìn cô đăm đăm. Tựa như bà cảm thấy điềm báo về một thảm họa đang đến gần.

Blomkvist bỏ hai giờ ra ở trong vườn đằng sau căn nhà gỗ đọc Apocrypha mà chẳng hiểu tí nào những cái nói ở trong đó. Nhưng một ý nghĩ đã đến với anh, Harriet Vanger đã thực sự mộ đạo đến mức nào? Cô quan tâm đến các nghiên cứu Kinh thánh bắt đầu vào cái năm trước năm cô mất tích. Cô đã gắn một số khổ thơ với một xê ri các vụ án mạng và rồi không chỉ đọc kỹ càng Kinh thánh mà còn đọc cả Apocrypha và một mối bận tâm đến đạo Cơ đốc đã phát triển ở trong cô. Cô đã thật sự làm một cuộc điều tra cũng giống như cuộc điều tra mà Blomkvist và Salander đang làm ba mươi bảy năm sau không đây? Cô quan tâm đến các thứ này có phải chủ yếu để săn lùng một hung thủ chứ không phải vì tinh thần tôn giáo? Mục sư Falk đã nói là ở trong mắt cô người ta thấy một kẻ kiếm tìm hơn là một tín đồ Cơ đốc ngoại đạo.

Anh đã phải ngừng lại vì Erika gọi di động cho anh.

- Em chỉ muốn báo anh là em và Greger đi nghỉ phép tuần sau. Em sẽ đi bốn tuần.

- Hai người đi đâu?

- New York. Greger triển lãm tranh rồi bọn này nghỉ đi Caribbean. Bọn này may là mượn được của một người bạn của Greger một căn nhà ở Antigua và sẽ ở đấy hai tuần.

- Nghe tuyệt đấy. Chúc vui vẻ nhé. Và chào Greger.

- Số mới đã xong và bọn này gần như đã đóng gói cả số tiếp nữa rồi. Em hy vọng anh sẽ tiếp quản cái chức chủ bút nhưng Christer nói anh ấy sẽ làm.

- Anh ấy có thể gọi anh nếu cần giúp đỡ. Janne Dahlman thì thế nào rồi?

Cô có vẻ ngập ngừng.

- Anh ấy cũng nghỉ phép. Em đã đùn Henry vào làm quyền Trưởng ban biên tập. Anh ấy và Christer lo lắng cho việc phát hành.

- OK.

- Mồng bảy tháng Tám em về.

Xẩm tối, Blomkvist cố gọi điện thoại cho Cecilia Vanger năm lần. Anh gửi  lời nhắn cô gọi lại cho anh. Nhưng anh không nhận được trả lời.

Anh buông quyển Apocrypha, mặc bộ đồ chạy vào, khóa cửa lại rồi đi ra. Anh đi theo con đường mòn hẹp dọc bờ biển rồi quay vào rừng. Anh cố hết sức đi nhanh qua các bụi cây và quanh các gốc cây trốc rễ, nhoi ra Pháo đài thì thở như đứt hơi và nhịp tim đập gấp. Anh đứng lại ở bên một trong những cỗ pháo cổ và nằm thẳng cẳng ra một lúc.

Thình lình anh nghe thấy một tiếng “crắc” gọn đanh và bức tường xi măng xám gần đầu anh vỡ. Rồi anh cảm thấy đau khi mảnh xi măng và đạn ghém xé một miếng rách sâu ở da đầu anh.

Blomkvist đứng ngay đơ ra ngỡ như cả thế kỷ. Anh đang ở giữa pháo đài. Rồi anh nhào vào đường hào pháo binh, lấy vai đỡ người khi rơi mạnh xuống, thở như cháy cả phổi. Loạt bắn thứ hai đến cùng với lúc anh bổ nhào xuống. Đạn găm vào móng xi măng bức tường.

Anh đứng lên nhìn quanh. Anh đang ở giữa pháo đài. Ở bên trái và bên phải, những đoạn đi hẹp, sâu một mét cây cỏ um tùm đưa tới các cỗ pháo bày dàn ra dọc theo một tuyến gần 250 mét. Co gập người lại anh chạy vội trong đám mê cung xuống phía nam.

Anh thình lình nhớ lại tiếng vọng của cái giọng không thể bắt chước nổi của đại úy Adolfsson trong các buổi tập trận mùa động tại trường bộ binh ở Kiruna. Blomkvist, cúi cái đầu chết rấp của cậu thấp xuống nếu cậu không muốn cái mông khốn kiếp của cậu bị bắn văng đi. Hàng năm sau anh vẫn nhớ các bài huấn luyện thực hành ngoại khóa của đại úy Adolfsson.

Anh dừng lại để thở, tim đập thình thịch. Anh không nghe thấy gì khác ngoài tiếng thở của mình. Mắt người bắt lấy vận động nhanh hơn hình thú và mặt mũi nhiều. Khi đi trinh sát hãy chậm hơn nữa. Blomkvist thong thả nhô lên khỏi đầu một cỗ pháo chừng một đốt ngón tay. Mặt trời ngay ở giữa đỉnh đầu nên không nhận ra được chi tiết nhưng anh không nhìn thấy cử động nào.

Anh thụt đầu xuống rồi chạy tới cỗ pháo sau. Vũ khí của kẻ thù tốt đến đâu cũng không quan trọng. Nếu nó không nhìn thấy cậu thì nó không thể bắn trúng cậu. Che kín, che kín, che kín. Cầm chắc là cậu không bao giờ đem bày cậu ra. Anh còn cách khu trại Ostergarden chừng 250 mét. Cách chỗ anh đang quỳ khoảng 35 mét có một bụi cây thấp, rậm gần như khó mà chui vào lọt. Nhưng để tới được bụi rậm đó anh phải từ cỗ pháo chạy nhanh xuống một sườn dốc đầy cỏ và thế là người anh sẽ lộ hết cả ra. Chỉ còn có lối ấy. Sau lưng anh là biển.

Anh thình lình nhận ra đau ở thái dương, rồi phát hiện mình đang chảy máu, chiếc áo phông của anh đẫm máu. Vết thương trên đầu không bao giờ ngừng chảy máu, anh nghĩ trong khi vẫn tập trung chú ý ở tại chỗ của mình. Một phát bắn có thể chỉ là một sự cố, hai phát bắn thì tức là có người nào đó đang định giết anh. Anh không sao mà biết được cái người bắn lén đó có còn đang chờ anh lại hiện ra nữa không.

Anh cố bình tĩnh, suy nghĩ tỉnh táo. Chỉ còn hai ngả chọn là hoặc chờ hoặc ra khỏi cái chỗ khốn nạn này. Nếu người bắn lén còn rình đó thì ngả chọn thứ hai chắc chắn không phải là một ý hay. Nếu anh cứ chờ ở đây, người bắn lén có thể bình tĩnh đi lên Pháo đài tìm anh và bắn anh sát sạt.

Hắn (hay ả) không thể biết ta đi sang trái hay phải. Khẩu súng có thể là súng bắn nai sừng tấm. Chắc nó có kính ngắm xa. Nghĩa là tầm nhìn của người bắn lén sẽ bị hạn chế nếu hắn tìm Blomkvist qua kính ngắm.

Nếu anh ở một chỗ kín – hãy chủ động. Tốt nhất là chờ. Anh quan sát và nghe các tiếng động trong vòng hai ba phút rồi vọt lao ra khỏi cỗ pháo, cố gắng hết sức chạy thật nhanh xuống dốc.

Khi anh đến lưng chừng dốc thì phát đạn thứ ba nổ nhưng anh chỉ nghe thấy một tiếng va đập mơ hồ ở sau anh. Anh quăng mình bẹp dí qua các bụi cây rồi lăn mình qua một biển những cây tầm ma. Rồi anh lại đứng lên đi xa khỏi hướng súng bắn, cúi rạp xuống, chạy, mấy chục mét lại ngừng để nghe ngóng. Anh nghe thấy một cành cây gẫy ở đâu đó giữa Pháo đài và anh. Anh nằm bẹp dí xuống.

Bò trườn bằng khủyu tay là một câu ưa thích khác nữa của đại úy Adolfsson. Blomkvist đi hết quãng 100 mét sau bằng đầu gối và ngón chân qua các cây cối rậm rịt. Anh gạt sang bên các cành cây to nhỏ. Hai lần anh nghe thấy tiếng cành cây gẫy thình lình ở trong bụi cây đằng sau anh. Tiếng “rắc” đầu tiên nghe như rất gần, cỡ chừng hai chục bước ở bên phải. Anh lạnh toát người, nằm im hoàn toàn. Một lúc sau anh thận trọng ngẩng đầu lên nhìn quanh nhưng không thấy một ai. Anh nằm im một lúc, đầu óc hết sức cảnh giác, sẵn sàng chuồn hay có thể phải làm một trận đánh trả tuyệt vọng nếu như kẻ thù hiện ra. Tiếng “rắc” thứ hai ở xa hơn. Rồi im lặng.

Hắn biết mình đang ở đây. Hắn đến một chỗ nào đó chờ mình hay hắn đã rút đi?

Blomkvist cố bò qua các chỗ cây cỏ thưa cho đến khi đến hàng rào ở Ostergarden.

Bây giờ là lúc  gay go tiếp theo. Một đường mòn chui qua hàng rào. Anh nằm thẳng trên mặt đất quan sát. Khu trại ở xa gần 400 mét bên dưới một con dốc thoai thoải. Anh trông thấy mấy con bò gặm cỏ ở bên ngoài ngôi nhà. Tại sao không có ai nghe thấy tiếng súng mà ra xem chứ nhỉ? Mùa hè. Có thể không có ai ở nhà lúc này.

Không có chuyện đi qua bãi cỏ rồi, anh không có gì che chắn ở đó. Đường mòn thẳng bên dưới hàng rào là chỗ sẽ khiến anh trở thành điểm ngắm bắn dễ dàng. Anh lùi lại vào trong bụi cây cho đến khi anh ra tới đầu đằng kia gần một khu rừng thông thưa thớt.

Anh làm một đường vòng dài quanh các cánh đồng ở Ostergarden và Soderberget để về nhà. Khi đi qua Ostergarden anh có thể nhìn thấy các xe của họ đã đi. Đến đỉnh Ostergarden anh dừng lại, nhìn xuống Hedeby. Trong những căn nhà đánh cá gần vùng đậu tàu thuyền có các vị khách: phụ nữ mặc quần áo ắm ngồi trò chuyện trên cầu tàu. Anh ngửi thấy mùi nướng rán gì đó trên một cái lò ở ngoài nhà. Trẻ con nhảy thi thòm xuống nước gần các cầu tàu của bến tàu thuyền.

Vừa mới sau 8 giờ. Từ những phát súng bắn đến nay đã năm chục phút. Nilsson mặc quần soóc và không sơmi đang tưới các thảm cỏ. Anh ở đây bao lâu rồi? Nhà Vanger trống không trừ Anna. Nhà Harald vắng lặng như mọi khi. Rồi anh trông thấy Isabella Vanger ở trong vườn đằng sau nhà bà ta. Bà ta ngồi đó, rõ là đang nói chuyện với một ai. Mất một thoáng Blomkvist mới nhận ra người ấy là Gerda Vanger ốm đau, sinh năm 1922 và sống với con trai Alexander trong một ngôi nhà ở bên kia ngôi nhà của Henrik. Anh chưa bao giờ gặp bà ta nhưng đã nom thấy bà ta dăm ba lần. Nhà của Cecilia Vanger nom trống không nhưng rồi Mikael trông thấy một cử động ở trong bếp. Chị ấy ở nhà. Người bắn lén có là một phụ nữ không đây? Anh biết Cecilia biết sử dụng súng. Anh có thể trông thấy xe của Martin Vanger ở khúc đường cho xe ra vào ở trước mặt nhà anh ấy. Anh ấy đã ở nhà được bao lâu rồi?

Hay đấy là một ai khác mà anh chưa nghĩ tới? Frode? Alexander? Quá nhiều khả năng.

Anh tụt từ trên Ostergarden xuống rồi theo đường vào làng về nhà anh không gặp ai. Điều đầu tiên anh nhìn thấy là cánh cửa nhà gỗ hé mở. Gần như bản năng anh cúi rạp người xuống đi vào. Rồi anh ngửi thấy mùi cà phê và qua cửa sổ nhà bếp anh thấy Salander.

Nghe thấy anh vào lối cửa chính, cô quay lại. Cô cứng sững người lên. Mặt anh nom đang sợ, nhem nhuốc máu đã bắt đầu khô. Bên trái chiếc áo phông của anh đỏ lòm. Anh đang dịt một chiếc khăn tay đẫm máu ở trên đầu.

- Chảy máu cứ như bị chọc tiết nhưng không nguy hiểm. – Blomkvist nói trước khi cô kịp hỏi.

Cô quay đi lấy đồ cứu thương sơ bộ ở trong tủ; có hai gói băng chun, một que hương chống muỗi và một cuộn băng phẫu thuật nhỏ. Anh cởi quần áo ra, ném chúng xuống sàn rồi vào buồng tắm.

Vết thương ở thái dương là một vết rách khá sâu. Nó vẫn chảy máu và cần phải khâu nhưng anh nghĩ nó chắc chắn sẽ lành nếu anh băng chặt lại. Anh dấp khăn tay dưới vòi nước lạnh rồi lau mặt. Rồi anh ấn chặt chiếc khăn tay vào thái dương trong khi đứng dưới vòi hoa sen, nhắm mắt lại. Anh đấm mạnh vào gạch men đến nỗi mu bàn tay trầy ra. Mẹ mày, muốn cho mày là ai đi, tao sắp tìm ra mày đây, tao sẽ chộp được mày. Khi Salander sờ vào anh, anh giật nảy lên tựa như bị điện giật, mặt anh tức giận khiến cho Salander phải lùi lại. Cô đưa xà phòng cho anh rồi lẳng lặng ra bếp.

Anh băng chỗ đau bằng ba lớp băng phẫu thuật. Anh vào buồng ngủ, lấy quần jean sạch và áo phông mới, đem hồ sơ anh đã in thêm rồi đi. Anh cáu quá đến nỗi người như vẫn run lên

- Ở nguyên đấy, Lisbeth. – Anh quát.

Anh đi bộ đến nhà Cecilia Vanger và bấm chuông. Nửa phút sau chị mới ra mở cửa.

- Tôi không muốn gặp anh. – Chị nói. Rồi chị nhìn thấy máu vẫn rỉ ra từ lớp băng.

- Hãy để tôi vào. Chúng ta cần nói chuyện.

Chị do dự.

- Chúng ta chẳng có gì để nói sất cả.

- Bây giờ thì có và chị có thể cãi ở trên bậc tam cấp đây hay ở trong nhà bếp.

Giọng Blomkvist quá cương quyết khiến Cecilia lùi lại để anh vào. Anh ngồi bên bàn bếp nhà chị.

- Anh đã làm gì? – Chị hỏi.

- Chị nói tôi đào bới sự thật về vụ Harriet mất tích là một kiểu điều trị vô tích sự cho Henrik Vanger. Có thể là thế đi, nhưng trước đây một giờ một ai đó khát máu đã suýt nữa bắn bay mất đầu tôi và đêm nọ thì một ai đó – có thể vẫn là anh chàng khôi hài nọ - đã để xác một con mèo kinh khủng ngay ở cổng nhà tôi.

Cecilia mở miệng nhưng Blomkvist cắt nghiến luôn.

- Cecilia, tôi không bận tâm đến các day dứt của chị hay cái sự nó đang làm chị lo phiền hay việc chị thình lình trông thấy tôi là ghét. Tôi sẽ không bao giờ đến gần chị nữa và chị không phải lo tôi sẽ lại quấy chị hay đeo đuổi chị. Ngay từ phút này, tôi mong không bao giờ phải nghe thấy chị hay một cái gì ác của gia đình Vanger. Nhưng tôi yêu cầu phải trả lời những điều tôi hỏi. Càng trả lời sớm chị càng chóng hết nợ với tôi.

- Anh muốn biết cái gì?

- Thứ nhất: một giờ trước đây chị ở đâu?

Mặt Cecilia tối lại.

- Một giờ trước đây tôi ở Hedestad.

- Có ai xác nhận được chỗ chị ở lúc đó không?

- Không phải vì tôi không nghĩ được ra mà là vì tôi không có việc gì lại phải đi kể với anh sất.

- Câu hỏi hai: hôm Harriet mất tích tại sao chị lại mở cửa sổ phòng ngủ chị ấy ra?

- Cái gì?

- Chị đã nghe rõ rồi. Suốt những năm qua Henrik đã cố tìm ra trong những giờ phút gay cấn nhất, ai đã mở cửa sổ buồng Harriet ra. Ai cũng chối. Có một người đang nói dối.

- Thế cái quỉ gì nó khiến anh nghĩ là tôi?

- Bức ảnh này. – Blomkvist nói, liệng tấm ảnh lòa nhòa lên bàn bếp.

Cecilia đi đến bên bàn xem kỹ bức ảnh. Blomkvist nghĩ sẽ thấy chị choáng ra mặt. Chị ngước lên nhìn anh. Anh cảm thấy một dòng máu lăn và rơi xuống áo sơmi.

- Hôm ấy có sáu chục người ở trên đảo. – Anh nói. – Trong đó có hai mươi tám người là phụ nữ. Năm hay sáu người trong đó để tóc dài ngang vai. Chỉ có một người mặc váy sáng màu.

Chị chăm chú nhìn vào bức ảnh,

- Và anh cho đây là tôi.

- Nếu không phải chị thì tôi muốn là chị bảo tôi theo chị người đó là ai. Chưa ai trước đây biết về bức ảnh này. Tôi có nó đã nhiều tuần nay và đã cố nói chuyện với chị về nó. Có thể tôi là một thằng ngu nhưng tôi không đưa nó cho Henrik hay ai đó khác vì tôi sợ ghê gớm rằng nó sẽ làm cho chị bị nghi ngờ hay để cho người ta làm điều gì đó không phải với chị. Nhưng tôi cần có một câu trả lời.

- Anh sẽ có câu trả lời. – Chị đưa lại bức ảnh cho anh. – Tôi không vào buồng Harriet hôm ấy. Trong ảnh không phải là tôi. Tôi không có mảy may liên quan gì đến việc cô ấy mất tích.

Chị đi ra cửa chính.

- Anh đã được trả lời. Bây giờ xin đi cho. Nhưng tôi nghĩ anh nên có bác sĩ chăm sóc cho vết thương này.

Salander lái xe đưa anh đi bệnh viện Hedestad. Chỉ mất một hai mũi khâu và băng bó tử tế để khép kín vết thương lại. Anh được cho thuốc mỡ cortisone để bôi các chỗ ở cổ và tay bị gai tầm ma cào cứa.

Sau khi họ rời bệnh viện, Blomkvist ngồi nghĩ một lúc lâu xem anh có nên đi báo cảnh sát hay không. Anh đã có thể đọc thấy các đầu đề “Nhà báo vu cáo trong tấn bi kịch bị bắn lén”. Anh lắc đầu.

- Về nhà thôi. – Anh nói.

Trời đã tối khi họ trở về đảo Hedeby, việc này rất hợp ý Salander. Cô nhấc một cái túi thể thao đặt lên bàn.

- Em mượn các trò này của An ninh Milton, đã đến lúc chúng ta cần dùng chúng rồi đấy.

Cô cắm ở quanh nhà bốn máy chạy pin phát hiện cử động, giải thích nếu có ai đến gần hơn sáu mét thì một tín hiệu vô tuyến sẽ làm cho chuông báo động réo lên vui như có hội có hè, chuông này cô để ở buồng ngủ của Blomkvist. Đồng thời các cây tại trước và sau căn nhà gỗ cô để hai camera chụp hình loại nhỏ cực nhạy, chúng sẽ gửi tín hiệu đến màn hình một máy tính xách tay cô để ở trên tủ li gần cửa chính. Cô giấu camera bằng những miếng vải tối màu.

Cô để một camera thứ ba ở gần chuồng chim trên cửa ra vào. Cô khoan một lỗ qua tường để luồn dây cáp. Ống kính được chĩa ra đường và ra con đường nhỏ đi vào cửa chính. Mỗi giây nó lại chụp một hình ảnh độ nét thấp và lưu lại trong đĩa cứng của một máy xách tay khác để ở trong tủ quần áo.

Rồi cô để ở trước lối vào nhà một tấm thảm bắt được mọi lực giẫm lên nó, nếu ai đó muốn tránh các máy phát hiện bằng tia hồng ngoại để vào nhà thì một còi báo động 115 đêxiben sẽ rú lên. Salander bảo anh cách tắt các máy phát hiện bằng một chìa khóa gắn vào một cái hộp để ở trong tủ quần áo. Cô cũng mượn một kính nhìn đêm.

- Em chả để cho cơ may có được nhiều cơ hội gì cả. – Blomkvist nói và rót cà phê cho cô.

- Một việc nữa. Không đi rảo bước để tập nữa cho tới khi chúng ta phá được chuyện này,

- Hãy tin anh, anh đã mất hết hứng thú với chuyện tập tành.

- Em không đùa. Chuyện này có thể bắt đầu như một bí mật lịch sử, nhưng qua việc con mèo chết và người ta định bắn tung đầu anh đi thì chúng ta có thể khẳng định rằng chúng ta đang ở đúng phải lõng của một ai đó rồi.

Họ ăn tối muộn. Blomkvist thình lình mệt phờ và đầu đau như muốn nứt ra. Anh khó nói chuyện thêm nên đi nằm.

Salander thức đọc báo cáo cho đến 2 giờ sáng.

Chương 23

Thứ sáu, 11 tháng Bảy

Anh thức dậy lúc 6 giờ với ánh nắng rọi vào ngay mặt qua một khe trên rèm cửa. Anh còn thoáng đau đầu và đau hơn khi anh sờ vào chỗ quấn băng. Sanlander nằm sấp ngủ, một cánh tay vắt qua người anh. Anh nhìn xuống con rồng xăm trên bả vai cô. Anh đếm các hình xăm của cô. Cũng như một con vò vẽ ở cổ, cô có một sợi dây thòng lọng khác ở bắp tay bên trái, một biểu tượng Tàu ở hông và một bông hồng ở bắp chân.

Anh bước xuống giường kéo kín rèm lại. Anh vào buồng tắm rồi bước nhẹ trở lại giường, cố đi vào mà không làm cô tỉnh giấc.

Hai giờ sau, đang ăn điểm tâm, Blomkvist nói:

- Chúng ta sẽ giải bài đố này như thế nào?

- Chúng ta gom các sự việc chúng ta đã có lại. Chúng ta cố tìm ra nhiều nữa.

- Với anh, câu hỏi duy nhất là: tại sao? Vì chúng ta cố giải cái bí mật về Harriet hay là vì chúng ta đã phát hiện ra một sát thủ hàng loạt cho đến nay vẫn chưa lộ ra?

- Chắc có liên quan. – Salander nói. – Nếu Harriet nhận ra có một tên giết người hàng loạt thì đó chỉ có thể là một người nào đó mà chị ấy biết. Nếu ta nhìn vào bảng phân vai các nhân vật trong những năm 60 thì sẽ có ít nhất hai tá ứng cử viên khả dĩ. Ngày nay khó còn một ai sót lại, trừ Harald Vanger nhưng ông ta gần chín mươi ba tuổi không thể vác súng chạy quanh các khu rừng ở Froskhônggen được. Ai cũng hoặc đã quá già để thành ra một mối nguy hiểm nào đó hiện nay hoặc là quá trẻ để từng đã sống từ những năm 50. Vậy chúng ta hãy quay về với một người phù hợp.

- Hay chúng là hai đứa cộng tác với nhau. Một già hơn, một trẻ hơn.

- Harald và Cecilia ư ? Em không nghĩ thế. Em nghĩ chị ấy nói thật khi bảo rằng chị ấy không phải là người đứng ở cửa sổ.

- Vậy thì người ấy là ai?

Họ quay lại với máy tính iBook của Blomkvist, bỏ cả một tiếng nghiên cứu lại một lần nữa tất cả những ai hiện ra rõ ở trong các bức ảnh về vụ tai nạn trên cầu.

- Anh chỉ có thể cho là ai ở trong làng cũng đều đến đó xem cảnh náo động. Đang là tháng Chín. Phần lớn đều mặc áo jacket hay áo len. Chỉ có một người có tóc vàng và váy sáng màu.

- Cecilia có mặt ở trong nhiều ảnh. Hình như ở đâu cũng thấy chị ấy. Ở giữa các tòa nhà và những người đang nhìn vào hai cái xe đâm nhau. Đây là chị ấy đang nói với Isabella. Đây thì đứng gần bên mục sư Falk. Đây thì với Greger Vanger, ông anh ở giữa.

- Khoan khoan, - Blomkvist nói. – Greger cầm cái gì ở trong tay thế kia?

- Một cái gì hình vuông. Trông như một cái hộp gì đó.

- Một chiếc Hasselblad. Vậy là ông ta cũng có máy ảnh.

Họ cho diễu lại một lần nữa các bức ảnh. Greger có ở trong phần lớn ảnh, tuy thường là bị mờ nhòa. Trong một bức, có thể nhìn rõ thấy ông ta cầm một cái hộp hình vuông.

- Em nghĩ anh nói đúng đấy. Dứt khoát là một máy ảnh.

- Có nghĩa là chúng ta lại phải đi săn một lần nữa.

- OK. Nhưng bây giờ ta hãy lờ chuyện ấy đi một lúc – Salander nói. – Để em đề nghị một lập luận.

- Cứ nói đi.

- Nếu một ai đó trong thế hệ trẻ biết một ai đó trong thế hệ già là một tên giết người hàng loạt nhưng họ không muốn lộ chuyện đó ra thì sao đây? Danh dự gia đình và các thứ ba lấp kia. Như thế có nghĩa là có hai người dính líu đến nhưng không phải là cùng dính líu chung với nhau. Tên giết người có thể đã chết cách đây vài năm rồi trong khi nữ thần báo oán của chúng ta thì lại cứ muốn chúng ta quăng hết cả đi mới phải.

- Nhưng nếu thế thì tại sao lại đem đặt con mèo bị chặt đầu moi ruột vào cổng nhà chúng ta?

- Thế là rõ ràng cố ý gợi đến các vụ án mạng – Blomkvist đập đập tay vào cuốn Kinh thánh của Harriet, - Lại một lần nữa đem nhái các luật liên quan đến dâng cúng vật bị thiêu cháy.

Salander ngả người ra sau, nhìn lên nhà thờ trong khi trích dẫn Kinh thánh. Tựa hồ cô đang nói với cô.

“Rồi hắn sẽ giết con bò đực ở trước Chúa và các con trai của Aaron, các thày tế sẽ dâng máu và chúng sẽ vẩy máu khắp xung quanh về phía ban thờ vốn là cửa lều trại của cuộc hội họp. Rồi chúng sẽ lột da vật dâng cúng đã bị thiêu cháy rồi cắt nó ra thàng từng miếng”.

Cô cảm thấy im ắng, biết Blomkvist đang nhìn cô với vẻ mặt căng thẳng. Anh mở Kinh thánh đến chương đầu của Leviticus.

- Em biết cả khổ thơ thứ mười hai chứ?

Salander không đáp.

- Và hắn sẽ … - anh gật đầu với cô và bắt đầu.

- “Và nó sẽ bị tùng xẻo cùng với đầu và mỡ của chính nó rồi thầy tế sẽ đặt chúng lên trên củi của ngọn lửa trên ban thờ”. – Giọng cô lạnh băng- Còn khổ sau?

Cô thình lình đứng phắt dậy

- Lisbeth, em có trí nhớ của máy ảnh. – Blomkvist ngạc nhiên kêu lên. – Thảo nào em có thể đọc được một trang điều tra chỉ trong vòng mười giây.

Phản ứng của cô gần như bùng nổ. Đôi mắt giận dữ của cô nhìn trừng trừng vào anh khiến anh sửng sốt rồi mặt cô đổi sang chán ngán và cô quay gót chạy ra ngoài cổng.

- Lisbeth, - Anh gọi to theo.

Cô biến mất ở trên đường.

Mikael mang máy tính vào trong nhà, đặt máy báo động rồi khóa cửa chính lại để đi ra ngoài tìm cô. Hai mươi phút sau anh tìm thấy cô ở trên một con đê chắn sóng và anh thấy vai cô cứng lại. Anh đứng lại ở cách cô hai ba bước.

- Anh không biết đã nói gì nhưng anh không có ý làm phật lòng em.

Anh ngồi xuống cạnh cô, dụng ý đặt một tay lên vai cô.

- Xin nào, Lisbeth. Nói với anh đi.

Cô quay lại nhìn anh.

- Chả có gì để nói cả. – Cô nói. – Em chỉ là cơn cớ lên thế thôi.

- Anh sẽ vui vô cùng nếu như trí nhớ của anh cũng bằng được trí nhớ của em.

Cô vất đầu mẩu thuốc lá xuống nước.

Blomkvist ngồi im một lúc lâu. Mình nên nói gì nhỉ? Em là một cô gái hoàn toàn bình thường. Nếu em có khác đi chút ít thì quan trọng gì cái đó chứ? Hình ảnh tự thân mà em có về em là gì đây?

- Anh nghĩ có một cái gì khác ở em cái bữa đầu anh thấy em. – Anh nói – Em biết là gì không? Thật sự là lâu lắm anh mới có ấn tượng tốt đẹp với một người ngay từ lúc vừa mới thấy người ấy.

Vài đứa trẻ ở trong các căn nhà nhỏ bên kia cảng tàu đi ra nhảy xuống nước. Họa sỹ Eugen Norman, người mà Blomkvist chưa trao đổi qua một lời, đang ngồi trong một cái ghế ở bên ngoài nhà ông, ngậm một cái tẩu trong khi nhìn Blomkvist và Slander.

-  Anh thật tình muốn là bạn của em, nếu em cho anh được như thế. – Anh nói. – Nhưng đó là tùy em. Anh về lại nhà làm ít cà phê. Em hãy về khi nào em thích.

Anh đứng lên để cô được yên tĩnh một mình. Anh lên được lưng quả đồi thì nghe thấy tiếng chân cô ở đằng sau. Hai người cùng về nhà không nói một lời.

Vừa tới nhà thì cô giữ lại.

- Em đang trong quá trình hình thành một lý lẽ .. Chúng ta đã nói đến việc các khổ thơ kia là nhái lại Kinh thánh. Đúng là hắn tóm giữ một con mèo thì dễ, nhưng tóm giữ được một con bò thì mới khó. Nhưng hắn vẫn làm theo câu chuyện gốc. Em nghĩ … - Cô lại nhìn lên nhà thờ. Và chúng sẽ vấy máu khắp xung quanh về phía ban thờ vốn là cửa lều trại của cuộc hội họp...

Họ đi qua cầu lên nhà thờ. Blomkvist lay lay cửa nhưng nó bị khóa. Họ loăng quăng quãng một lúc, nhìn các bia mộ cho tới khi đến nhà nguyện xây ở dưới nước, gần đó một chút. Thình lình Blomkvist mở to mắt. Không phải là nhà nguyện mà là một hầm mộ. Bên trên cửa anh có thể đọc được tên Vanger chạm khắc vào trong đá cùng một khổ thơ bằng chữ Latinh nhưng anh không thể dò ra được.

- Yên nghỉ cho đến tận cùng của thời gian, - Salander nói sau lưng anh.

Blomkvist quay lại nhìn cô. Cô nhún vai.

- Em tình cờ đọc thấy câu thơ này ở đâu đó.

Blomkvist cười phá lên. Cô cứng người lại và nom cô thoạt đầu giận dữ nhưng rồi cô thư thái lại khi hiểu ra là anh cười về sự khôi hài của tình huống.

Blomkvist thử mở cửa. Cửa khóa. Anh nghĩ một lúc và bảo Salander ngồi xuống chờ anh. Anh đi đến gặp Anna Nygren  và gõ cửa.

Anh giải thích anh muốn xem gần hơn hầm mộ của gia đình, và không hiểu Henrik để chìa khóa ở đâu. Anna nom có vẻ nghi ngại nhưng cũng lấy chìa khóa ở bàn làm việc của Henrik ra.

Vừa mở được cửa hầm mộ ra họ biết ngay là họ đã đúng. Không khí nồng nặc mùi xác cháy và các lục phủ ngũ tạng đã thành than. Nhưng người hành hạ con mèo không phải nổi lửa. Ở một góc hầm là một cây đuốc, loại người trượt tuyết vẫn dùng để hơ chảy xi ở các ván trượt tuyết. Salander lấy máy ảnh ở trong túi váy jean ra chụp vài pô. Rồi cô rón rén nhấc cây đuốc lên.

- Cái này có thể làm bằng chứng. Hắn có thể để lại vân tay. – Cô nói.

- Ô chắc hẳn chúng ta có thể yêu cầu nhà Vanger xếp hàng ra cho chúng ta xem vân tay họ - Blomkvist cười. – Anh muốn xem em lấy vân tay của Isabella.

- Có cách đấy. – Salander nói.

Có nhiều máu ở trên sàn, không phải đều đã khô hết, cũng như một con dao mà họ cho là đã dùng để cắt đứt đầu con mèo.

Blomkvist nhìn quanh. Một quan tài bằng đá nổi lên thuộc về Alexander Vangersad và bốn nấm mồ để hài cốt của các thành viên gia đình chết sớm nhất. Gần đây hơn xem vẻ nhà Vanger giải quyết bằng hỏa táng. Khoảng ba chục khoang trên tường đề tên tổ tiên gia tộc. Blomkvist lần theo thời gian của gia đình, nghĩ không biết họ chôn ở đâu những thành viên gia đình không được dành chỗ cho ở trong hầm mộ - những người không được đánh giá là đủ quan trọng.

- Bây giờ thì chúng ta biết rồi, - Blomkvist nói khi họ qua lại cầu trở về. – Chúng ta đang săn lùng một gã điên đặc.

- Ý anh là sao?

Blomkvist dừng lại ở giữa cầu tì vào thành cầu.

- Nếu đây là một cha lập dị ú ớ đang thử dọa chúng ta hắn sẽ đem con mèo xuống dưới gara hay thậm chí mang ra rừng. Nhưng hắn lại đưa đến hầm mộ. Có một điều gì đó bắt buộc ở chỗ này. Cứ nghĩ đó là một sự rủi ro đi. Đang là mùa hè người ta ra ngoài nhà, đi dạo loanh quanh. Con đường qua nghĩa trang là một con đường chính bắc nam của đảo Hedeby. Cho dù hắn có đóng cửa lại ở đằng sau thì con mèo chắc cũng đã làm ầm ĩ cả lên và chắc phải có mùi cháy.

- Hắn?

- Anh nghĩ Cecilia không bò đến đây ban đêm với một cây đuốc trên tay được.

Salander nhún vai.

- Em không tin bất cứ một ai trong đám họ, kể cả Frode hay ông bạn Henrik của anh, Họ đều là một bộ phận của cái gia đình sẵn sàng lừa đảo anh nếu như có cơ hội. Vậy bây giờ thì chúng ta làm gì đây?

Blomkvist nói:

- Anh phát hiện ra một lô lốc về em. Thí dụ bao nhiêu người biết em là hacker?

- Không ai.

- Không ai, trừ anh, em nói thế chứ gì.

- Anh nói thế để đi đến đâu đây?

= Anh muốn biết em có đồng ý với anh không. Em có tin anh không.

Cô nhìn anh một lúc lâu. Cuối cùng chỉ nhún vai, thay cho trả lời.

- Chuyện đó thì em chịu, không làm được gì cả.

- Em có tin anh không? – Blomkvist nài hỏi.

- Tốt. Nào, chúng ta đi gặp Frode.

Đây là lần đầu tiên bà vợ luật sư Dirch Frode gặp Salander. Vừa cười lịch sự bà vừa mở to mắt nhìn cô. Mặt Frode sáng lên khi thấy Salander. Ông đứng lên đón tiếp họ.

- Gặp các vị hay quá. – Ông nói. – Tôi vẫn cảm thấy có lỗi là chưa bày tỏ đúng đắn lòng biết ơn với cái công việc khác thường mà cô đã làm cho chúng tôi. Cả mùa đông vừa rồi lẫn mùa hè hiện nay.

Salander nghi ngờ liếc ông.

- Tôi được trả công. – Cô nói.

- Không phải chuyện ấy. Tôi đã cói vài sự đánh giá khi vừa nhìn thấy cô. Cô hãy tốt bụng mà tha lỗi cho tôi.

Blomkvist ngạc nhiên. Frode lại có thể đề nghị một cô gái hai mươi lăm tuổi xăm khắp mình và đeo khoen đầy người thứ lỗi vì một cái gì đó mà ông chả cần phải xin lỗi. Ông luật sư đã leo lên được vài nấc nữa trong mắt Blomkvist, Salander nhìn chằm chằm ra đằng trước không buồn để ý đến ông.

Frode nhìn Blomkvist.

- Anh đã làm gì cái đầu của anh thế?

Họ ngồi xuống. Blomkvist tóm tắt sự diễn biến trong hai mươi tư giờ qua. Khi anh tả chuyện có người bắn anh ở gần Pháo đài, Frode nhảy dựng lên.

- Thế này thì điên thật rồi! – Ông ngừng lại nhìn đăm đăm Blomkvist. – Tôi xin lỗi nhưng chuyện đến thế này thì phải ngừng lại thôi. Tôi không thể đừng được. Tôi sẽ nói với Henrick và huỷ hợp đồng.

- Ngồi xuống đi, - Blomkvist nói.

- Anh không hiểu...

- Điều tôi không hiểu là Lisbeth và tôi đã đến quá gần khiến một ai đó ở đằng sau tất cả chuyện này bị rối trí mà phản ứng hoảng loạn như thế. Chúng tôi có một vài câu hỏi. Trước hết : có bao nhiêu chìa khoá của hầm mộ nhà Vanger và ai được có một chiếc?

- Không phải việc của tôi, tôi không biết. – Frode nói. – tôi cho là nhiều người trong gia đình có thể ra vào hầm mộ. Tôi biết Henrick có một chìa và Isabella đôi khi cũng đến đó, nhưng tôi không thể bảo với anh là bà ấy có chìa khoá hay bà ấy mượn của Henrik.

- OK, ông vẫn ở bên chính phái. Có hồ sơ nào về tập đoàn không? Một thư viện hay cái gì đó đại loại thế. Chỗ mà họ lưu các cắt dán báo chí và thông tin về hãng xưa nay.

- Vâng, có. Ở văn phòng chính tại Hedestad.

- Chúng tôi cần vào đó. Có nhà báo nào lâu năm của ban lãnh đạo hay một cái gì na ná thế không?

- Tôi lại phải nói rằng tôi không biết. Ba chục năm nay tôi không làm việc với hồ sơ rồi. Anh phải nói với một người phụ nữ tên là Bodil Lindgren.

- Ông có thể gọi bà ta và thu xếp sao cho Salander đọc được hồ sơ chiều nay không? Cô ấy cần tất cả các cắt dán báo chí cũ về Tập đoàn Vanger.

- Không thành vấn đề. Còn gì nữa không?

- Còn. Greger cầm một chiếc máy ảnh Hasselblad hôm xảy ra tai nạn xe ở trên cầu. Có nghĩa là ông ta cũng đã có chụp một số ảnh.

- Theo lôgích thì bà vợ goá và con trai ông ấy giữ. Để tôi gọi Alexander và hỏi anh ta.

- Em tìm cái gì nào? – Salander nói khi hai người đang trên đường về đảo.

- Cắt dán báo chí và ý kiến bạn đọc. Anh muốn em đọc kỹ mọi cái về ngày tháng của các vụ án mạng gây ra trong năm 50 và 60. Bất cứ cái gì làm em ngạc nhiên thì em cứ giữ lại. Hình như trí nhớ của em...

Cô thụi một cái vào sườn anh.

Năm phút sau chiếc Kawasaki của cô đã phành phạch qua cầu.

Blomkvist bắt tay Alexander Vanger. Trong phần lớn thời gian Blomkvist ở Hedeby, ông đã ở đâu đó. Ông hai mươi tuổi khi Harriet mất tích.

- Dirch nói ông muốn xem các bức ảnh cũ.

- Bố ông có một chiếc Hasselblad, tôi tin như vậy.

- Đúng. Nó vẫn còn đây nhưng không ai dùng cả.

- Tôi mong ông biết rằng Henrik đã nhờ tôi nghiên cứu xem chuyện gì đã xảy ra với Harriet.

- Tôi hiểu. Và có nhiều người không thích chuyện ấy.

- Có vẻ là thế và dĩ nhiên ông không phải đưa tôi xem cái gì cả.

- Xin ... ông thích xem cái gì?

- Nếu bố ông chụp đựoc ảnh nào vào hôm xảy ra tại nạn xe, hôm mà Hariet mất tích thì xin ông cho xem.

Họ đi lên gác xép. Phải mất mấy phút Alexander Vanger mới có thể nhận ra được cái hộp đựng những hình ảnh chưa xếp loại.

- Mang cả hộp về nhà. – ông nói. – Nếu như còn thì chúng ở cả trong này đây.

Như những minh hoạ cho biên niên gia đình Vanger, cái hộp của Greger Vanger đã chứa đựng những viên đá quý đích thực, bao gồm cả một số hình ảnh của Greger chụp với Olof Lindholm, thủ lĩnh chóp bu của Quốc xã Thụy Điển trong những năm bốn mươi. Những bức ảnh anh đã để ra bên. Anh tìm thấy những phong bì đựng những ảnh mà Greger đã chụp các cuộc tụ họp gia đình cũng như nhiều bức ảnh về các ngày nghỉ lễ điển hình – câu cá trên núi và một chuyến du lịch sang Ý.

Anh tìm thấy bốn bức về tai nạn trên cầu. Tuy máy của ông tốt, Greger vẫn là một tay chụp tồi. Hai bức cận cảnh chiếc xe téc, hai bức về những người đứng xem, chụp từ đằng sau. Anh chỉ tìm thấy một bức trong đó Cecilia hiện ra rõ trong tư thế quay nửa chiều nghiêng mặt.

Anh quét hình các bức ảnh này vào máy tính tuy anh biết chúng chả nói được điều gì mới với anh. Anh để các thứ trở lại và cái hộp và nghĩ thế là xong việc, rồi ăn trưa với một cái sandwich. Sau đó anh đi gặp Anna.

- Bà có nghĩ Henrik còn có album nào ngoài những bức ảnh ông đã tập hợp lại cho cuộc điều tra về Hariet không?

- Có. Henrik luôn thích ảnh – ngay từ khi còn trẻ, tôi được nghe nói thế. Ông ấy có nhiều ảnh ở trong phòng làm việc của ông ấy.

- Bà có thể cho tôi xem được không?

Trông thấy rõ ngay là bà ngập ngừng. Cho Blomkvist mượn chìa khoá hầm mộ gia đình đã là một chuyện – dầu gì thì đã có Chúa gánh trách nhiệm ở đấy – nhưg để cho vào phòng của Henrik lại là một chuyện khác. Lệnh của Chúa không mở rộng ra đến đó. Blomkvist gợi ý là bà nên gọi Frode. Cuối cùng bà cho anh vào. Gần như các Album choán mất hết cả một mét dưới cùng của giá sách. Anh ngồi vào bàn làm việc và mở quyển Album đầu tiên.

Vanger đã lưu hết các bức ảnh gia đình còn lại. Những bức rõ ràng là có từ lâu trước thời ông. Các bức lâu nhất có từ năm 1870, cho thấy những người đàn ông cục cằn và những người phụ nữ nghiêm nghị. Có ảnh bố mẹ của Vanger. Một bức cho thấy bố ông nghỉ lễ giữa mùa hè với một đám đông nồng nhiệt ở Sandhamn năm 1906. Một bức nữa ở Sandhamn cho thấy các công nhân trên sàn một nhà máy và trong các văn phòng. Anh tìm thấy đại uý Oskar Granath, người đã đưa Vanger và cô Edith Lobach yêu dấu của anh đến Kariskrona an toàn.

Anna lên gác với một tách cà phê. Anh cảm ơn bà. Lúc ấy anh đã đi đến thời hiện đại và đang giở các trang ảnh của Vanger thời trẻ, mở nhà máy, bắt tay với Tage Erlander, một ảnh của Vanger với Marcus Wallenberg – hai nhà tư bản gườm gườm nhìn nhau.

Trong album này anh cũng tìm thấy hai trang ảnh liền trên đó Vanger viết bằng bút chì "Hội đồng gia đình 1966". Hai bức ảnh màu cho thấy những người đàn ông trò chuyện và hút xì gà. Anh nhận ra Henrik, Harald, Greger và một số con rể trong chi Johan Vanger của gia đình. Hai bức cho thấy bữa ăn tối chính thức, bốn chục đàn ông và phụ nữ ngồi ở bàn, tất cả đều nhìn chằm chằm vào máy ảnh. Các bức ảnh được chụp sau khi tấm bi kịch trên cầu kết thúc nhưng trước khi mọi người nhận ra Harriet đã mất tích. Anh xem kỹ mặt họ. Bữa tiệc lẽ ra cô gái đã dự. Có ai trong đám đàn ông ở đây biết là cô gái đã đi biệt? Các bức ảnh không cho ra câu trả lời.

Rồi thình lình anh sặc cà phê. Anh ho và ngồi thẳng người lên ghế.

Ở đầu bàn góc xa, Cecilia Vanger trong bộ váy sáng màu cười với máy ảnh. Ngồi cạnh chị là một phụ nữ tóc vàng khác cũng với món tóc dài và chiếc váy sáng màu tương tự. Hai người giống nhau đến mức ngỡ là chị em sinh đôi. Thế là thình lình mảnh ghép của bài đồ ghép hình đã rơi vào chỗ của nó, Cecilia không phải là người ở cửa buồng Harriet – đó là Anita, em của chị, kém chị hai tuổi và hiện đang sống ở London. Salander đã nói thế  nào? Có Cecilia ở trong nhiều ảnh lắm. Không phải. Có hai cô gái và như cơ may muốn thế - cho đến nay – họ chưa từng được nhìn thấy ở chung trong một ảnh bao giờ. Ở một khoảng cách, hai cô nom giống nhau trong các ảnh trắng đen. Henrik Vanger được cho là có thể nhận ra riêng biệt từng người nhưng với Blomkvist và Salander thì các cô gái nom giống nhau ngỡ như là một. Không ai chỉ cho họ thấy sai vì họ chưa bao giờ có ý hỏi chuyện này.

Blomkvist lật bức ảnh lại tóc gáy anh liền dựng đứng. Ngỡ đâu có một luồng gió lạnh thổi vào gian phòng. Có những bức ảnh chụp hôm sau, khi cuộc tìm kiếm Harriet bắt đầu. Sĩ quan cảnh sát trẻ Morell đang chỉ thị cho toán người đi tìm gồm hai sỹ quan cảnh sát mặc đồng phục và mươi người đi bốt đang sắp sửa lên đường. Vanger mặc áo mưa dài đến đầu gối và đội mũ Anh hẹp vành.

Ở bên trái bức ảnh có một thanh niên hơi vạm vỡ với mái tóc dài sáng màu. Anh ta mặc chiếc Jacket độn vai màu thẫm với một dải vải đỏ ở vai. Bức ảnh rất rõ. Blomkvist lập tức nhận ra anh ta – và chiếc Jacket – nhưng để cho chắc chắn, anh lấy bức ảnh đi xuống hỏi bà Anna xem bà có biết người đó không.

- Ô thì, Martin Vanger chứ còn ai.

 

Salander lục kỹ hết năm này sang năm khác các cắt dán báo chí, lần lên theo trật tự thời gian. Cô bắt đầu từ năm 1949 và cứ thế đi miết. Đống hồ sơ đồ sộ. Công ty được thông tin đại chúng nhắc đến gần như hàng ngày trong một thời kỳ tương ứng – không chỉ ở báo địa phương mà ở cả thông tin đại chúng toàn quốc. Có những phân tích tài chính, nhưng thương lượng công đoàn, đe doạ bãi công, nhà máy khai trương và nhà máy đóng cửa, những thay đổi trong các giám đốc điều hành, các sản phẩm mới tung ra. Tin tức lũ lượt. Click, click, click, đầu óc cô hoạt động với tốc độ cao trong khi cô tập trung vào thông tin và hấp thụ nó từ những trang giấy ố vàng.

Sau vài tiếng đồng hồ cô nảy ra một ý. Cô hỏi người quản lý hồ sơ liệu có các biểu đồ cho thấy tập đoàn Vanger đã có những nhà máy hay công ty ở đâu trong những năm 50 và 60.

Boldy Lindgern chả giấu vẻ lạnh nhạt khi nhìn Salander. Bà không vui chút nào cái việc cho phép người là hoắc thâm nhập nội bộ thánh cung hồ sơ của công ty, buộc phải cho cô ta được xem kỹ hết tất cả những gì cô ta muốn. Ngoài ra cô ả này nom lại y như một phần tử vô chính phủ ẩm ương mười lăm tuổi. Nhưng ông  Frode đã cho những chỉ thị mà bà không được hiểu sai. Cái đồ con gái kiểu này lại được tự do xem bất cứ thứ gì ả thích. Và lại là khẩn nữa chứ. Bà mang ta các báo cáo thường niên có in ấn trong những năm mà Salander muốn xem; mỗi báo cáo lại có một biểu đồ về các phân nhánh của công ty ở khắp Thuỵ Điển.

Salander xem các biểu đồ và thấy công ty có rất nhiều nhà máy, văn phòng và mạng lưới bán hàng. Ở mỗi chỗ từng xảy ra án mạng lại có một chấm dỏ, đôi khi vài ba chấm, chỉ ra Tập đoàn Vanger.

Cô tìm ra tương quan đầu tiên vào năm 1957. Rakel Lunde, Lanskrona, bị phát hiện chết hôm trước ngày Công ty Xây dựng V&C thanh toán một lệnh đáng giá vài triệu để xây dựng một gallery ở thị trấn. V&C là chữ tắt của Công ty Vanger và Carlen. Báo sở tại đã phỏng vấn Gottfried Varger, ông vừa đến thị trấn để ký vào hợp đồng.

Salander nhớ lại một cái gì đó cô đã đọc ở trong báo cáo của cảnh sát ở sở lưu trữ tỉnh tại Landskrona. Rakel Lunde, người xem bói lúc rỗi rãi là một nhân viên quét dọn văn phòng. Bà đã làm việc cho Công ty Xây dựng V&C.

7 giờ tối, Blomkvist gọi Salander có đến chục lần nhưng di động của cô đều tắt. Cô không muốn bị quấy rầy.

Anh bồn chồn đi đi lại lại trong nhà. Anh đã lấy ra các ghi nhận của Vanger về các hoạt động của Martin vào thời gian Harriet mất tích.

Năm 1966, Martin đang học lớp cuối cùng ở trường dự bị tại Uppsala. Uppsala, Lena Andersson, học sinh trường dự bị mười bảy tuổi. Đầu bị cắt rời khỏi thân.

Henrik Vanger đã ghi nhận điều này ở một chỗ nhưng Blomkvist cần phải xem các ghi chép của ông để tìm ra đoạn nào. Martin là một cậu con trai hướng nội. Cả nhà đã lo lắng cho anh. Sau khi bố anh bị chết đuối, Isabella đã quyết định đưa anh đi Uppsala – thay đổi quang cảnh, nơi anh đã có buồng và ở chung với Harald Vanger. Harald và Martin? Khó mà thấy là đúng được.

Martin không đi xe cùng xe với Harald đến cuộc họp gia đình ở Hedestad rồi lại lỡ một chuyến tàu. Anh đến muộn vào buổi chiều cho nên đã ở trong số những người bị kẹt lại ở bên kia cầu. Anh chỉ đến được đảo sau 6 giờ, một lúc bằng tàu. Anh đã được chính Vanger đón, cùng với những người khác. Vanger đã đặt Martin xuống tận dưới cùng danh sách những người có thể có liên quan tới việc Harriet mất tích. Martin nói hôm ấy anh ta không gặp Harriet. Anh ta nói dối. Ngày hôm đó, anh ta đến Hedestad sớm hơn và anh ta đã ở Jarnvagsgatan đối mặt với em gái anh ta. Blomkvist có thể chứng minh sự dối trá bằng những bức ảnh từng bị chôn vùi trong gần bốn chục năm trời.

Gặp anh cô, Harriet đã choáng váng phản ứng. Cô đi khỏi đảo Hedeby cố nói chuyện với Henrik nhưng chưa gặp được Henrik thì cô đã biến mất. Cô tính nói ông chú chuyện gì? Uppsala? Nhưng Lena, Andersson, Uppsala, không có trong danh sách? Cô có thể chưa biết.

Câu chuyện vẫn chưa cho Blomkvist rõ được điều gì. Harriet biến mất vào quãng 3 giờ chiều. Không nghi ngờ gì nữa. lúc ấy Martin ở bên kia cầu. Có thể nhìn thấy anh ta ở trong bức ảnh chụp từ trên đồi nhà thờ. Anh ta không thể có khả năng đã làm hại Harriet ở trên đảo. Vẫn thiếu một miếng ở trong bài đố ghép hình. Một tòng phạm? Anita Vanger ư?

Qua hồ sơ Salander có thể thấy vị trí của Gottfried ở công ty bị thay đổi dần hàng năm. Ở tuổi hai chục vào những năm 1947, ông gặp Isabella và lập tức làm bà có thai; Martin Vanger sinh năm 1948 và không có vấn đề gì với chuyện này nhưng những người trẻ tuổi sẽ lấy vợ lấy chồng.

Khi Gottfried hai mươi hai tuổi, Henrik Vanger đã đưa ông ta vào sở chính của Tập đoàn Vanger. Ông rõ ràng là có tài và họ đã nhắm để cho ông tiếp quản. Năm hai mươi lăm tuổi, ông được đề bạt vào ban lãnh đạo, làm phó giám đốc của vụ phát triển của công ty. Một ngôi sao đang lên.

Vào giữa những năm 50, ngôi sao của ông bắt đầu chìm. Ông ta uống rượu. Hôn nhân của ông với Isabella va vào đá ngầm, các con, Harriet và Martin không được tốt, Henrik đình lại.

Sự nghiệp của Gottfried đã lên đến đỉnh cao. Năm 1956, lại một đề bạt mới, một phó giám đốc phát triển khác nữa. Hai phó giám đốc : một làm công việc trong khi Gottfried tuý luý và vắng mặt trong nhiều thời gian dài. Nhưng Gottfried vẫn là một Vanger, cũng như vẫn hấp dẫn và hùng biện. Từ 1957 trở đi, công việc của ông hình như là đi khắp đất nước để mở các nhà máy, giải quyết các mắc mớ ở địa phương, để phổ biến một hình ảnh mà lãnh đạo công ty thật sự quan tâm. Chúng tôi đang cử một đứa con của chúng tôi đến đây nghe các vấn đề của các ông, Chúng tôi nghiêm túc với các ông.

Đúng mười lăm phút sau, Salander phát hiện ra tương quan thứ ba. Uddevalla, 1962. Cùng ngày mà Lea Persson mất tích, tờ báo địa phương đã phỏng vấn Gottfried về một khả năng mở rộng bến cảng.

Khi bà Lindgren muốn đóng cửa hàng về nhà vào lúc 5 giờ rưỡi thì Salander đã cảu nhảu bảo với bà rằng cô còn lâu mới xong việc được. Bà cứ việc về và để chìa khoá lại. Salander sẽ quản cho. Lúc này, bà quản lý hồ sơ đã cáu điên lên vì một đứa con gái như thế này mà dám sai phái bà này nọ nên bà đã gọi ông Frode. Frode bảo bà nếu cô ấy có muốn ở cả đêm tại đấy cũng được. Xin bà Lindgren có thể báo an ninh ở sở để họ cho Salander đi khi nào cô ấy muốn được không?

Ba giờ sau, quãng 8 giờ rưỡi, Salander kết luận rằng Gottfried đã ở gần cái địa điểm mà ít nhất năm trong tám vụ án mạng đã được gây ra, trong những ngày hoặc trước hoặc sau các vụ này. Cô vẫn thiếu thông tin về các vụ án mạng năm 1949 và 1954. Cô xem kỹ một bức ảnh của ông đăng lên báo. Một người đàn ông thanh mảnh, đẹp trai, tóc vàng sẫm, hơi giống Clack Gable trong Cuốn theo chiều gió.

Năm 1949, Gottfried hai mươi hai tuổi. Vụ án mạng đầu tiên xảy ra trên đất đai của nhà ông, Hedestad, Rebecka Jacobson, người làm việc ở Tập đoàn Vanger. Hai người gặp nhau ở đâu đây? Ông ta đã hứa với cô ấy những gì? Salander cắn môi. Vấn đề là năm 1965 Gottfried đã chết đuối khi ông ta bị say trong khi vụ án mạng cuối cùng lại xảy ra ở Uppsala, tháng Hai năm 1966. Cô nghĩ hay là cô đã lầm khi cho tên Lena Andersson, cô nữ sinh mười bảy tuổi vào trong danh sách. Không, có thể không cùng là một chữ ký nhưng vẫn là cùng kiểu nhái thơ Kinh thánh. Chúng chắc là có liên quan đến nhau.

9 giờ trời đã tối. Khí trờ lạnh và mưa phùn. Mikael ngồi trong bếp, gõ tay xuống bàn thì chiếc Volvo của Martin Vanger qua cầu và rẽ ra ngoài đi tới mũi đất. Không hiểu sao cái điều này lại làm cho đầu anh sinh chuyện.

Anh không biết mình nên làm gì. Toàn thân anh nóng ran lên vì thèm muốn được đặt câu hỏi – để khêu ra một cuộc đương đầu đối chọi. Chắc chắn đây không phải là một thái độ biết điều cần phải có nếu anh nghĩ Martin Vanger làm một tên sát nhân điên loạn từng giết em gái và cũng từng đã suýt thành công trong việc cho toi cái mạng anh đi. Nhưng MartinVanger cũng là một cục nam châm. Và anh ta không biết rằng Blomkvist biết, anh co thể đến gặp anh ta với lý do rằng….. ừ được thôi, anh trả lại chiếc chìa của căn nhà nhỏ của Gottfried. Blomkvist khoá cửa nhà lại và đi ra mũi đất.

Nhà của Harald Vanger giống thường lệ tối như mực. Trong nhà Henrik, đèn đã tắt, trừ trong một gian buồng đối diện với sân. Nhà Isabella cũng tối. Cecilia không có nhà. Đèn sáng ở trên gác nhà Alexander nhưng tắt ở trong hai ngôi nhà mà chủ là những người không thuộc về gia tộc Vanger. Anh chẳng thấy một bóng ma nào. Anh lưỡng lự dừng lại ở bên nhà Martin Vanger, lấy di động ra bấm số Salander. Vẫn không trả lời. Anh tắt di động để cho nó sẽ không kêu nữa.

Có ánh đèn ở dưới nhà. Blomkvist đi qua thảm cỏ và dừng lại ở cánh cửa sổ bếp vài mét nhưng anh không trông thấy một ai. Anh tiếp tục đi quanh ngôi nhà, ngừng lại ở từng cửa sổ, nhưng không thấy dấu hiệu gì của Martin. Nhưng anh lại phát hiện thấy cánh cửa bên vào nhà xe hơi hé mở. Đừng có mà làm thằng ngốc. Nhưng anh không kìm được ý muốn nhòm xem một cái.

Vật đầu tiên anh trông thấy ở trên chiếc ghế dài của thợ mộc là một hộp đạn bắn nai sừng tấm mở nắp. Rồi anh thấy hai can xăng ở trên sàn, dưới ghế dài. Martin chuẩn bị cho một cuộc đi thăm ban đêm nữa ư?

- Vào đi, Mikael. Tôi thấy anh ở trên đường.

Tim Blomkvist bỏ hụt một nhịp. Anh từ từ quay đầu lại, thấy Martin đứng trong bóng tối ở gần cửa ra vào nhà.

- Đơn giản là anh không thể ở ngoài được, đúng không? – Tiếng của anh ta bình tĩnh, gần như thân mật.

- Chào anh Martin – Blomkvist nói.

- Vào đi. – Martin nhắc lại – Lối này.

Anh ta đi một bước lên trước và dẹp sang bên, tay trái đưa ra mời. Anh ta giơ tay phải lên và Blomkvist trông thấy một ánh kim loại xỉn đục.

- Tôi đang cầm một khẩu Glock. Đừng làm cái gì ngu xuẩn. Gần thế này tôi không bắn trượt đâu.

Blomkvist  từ từ đi đến gần, Khi tới bên Martin, anh dừng lại nhìn vào mắt anh ta.

- Tôi cần đến đây. Có quá nhiều vấn đề.

- Tôi hiểu. Đi qua cửa.

Blomkvist vào nhà. Con đường dẫn tới gian sảnh ở gần bếp nhưng anh chưa kịp đi xa đến đó, Martin đã giữ anh lại, đặt nhẹ tay lên vai anh.

- Không, không lối ấy. Sang phải. Mở cửa ra.

Tầng hầm. Khi Blomkvist bước xuống được lưng chừng cầu thang, Martin tắt đèn và tất cả tối om. Ở bên phải anh là phòng đun nước nóng. Anh có thể ngửi thấy mùi xà phòng và nước nôi giặt giũ. Martin lái anh sang trái, vào gian nhà kho với các đồ nội thất cũ cùng các thùng với hộp, ở cuối gian nhà kho là một cánh cửa bảo hiểm bằng thép có một chiếc khoá chết.

- Đây, - Martin nói, ném chùm chìa khoá cho Blomkvist. – Mở nó ra.

Anh mở cái cửa.

- Tắt bật điện ở bên trái ấy.

Blomkvist mở cánh cửa tới địa ngục.

Khoảng 9 giờ, Salander đi kiếm chút cà phê và một miếng sandwich mua của người bán hàng ở hành lang bên ngoài kho hồ sơ. Cô tiếp tục lật giở các trang tài liệu cũ, tìm bất cứ một dấu vết nào của Gotfried ở Kalmar năm 1954. Cô không tìm thấy gì cả.

Cô nghĩ gọi Blomkvist nhưng nghĩ hãy đọc kỹ hết phần thư bạn đọc để có thể trọn vẹn là một ngày làm việc.

Không gian khoảng ba mét trên ba mét sáu. Blomkvist cho là nó nằm ở dọc mạn bắc của ngôi nhà. Martin Vanger đã thiết kế rất chu đáo gian phòng tra tấn riêng của anh ta. Bên trái là những dây xích, những móc sắt ở trên trần và dưới sàn, một cái bàn với những dải đai da để trói giữ nạn nhân. Rồi thiết bị video. Một phòng quay băng ghi hình. Đằng cuối gian phòng là một cũi thép cho các vị khách. Bên phải cửa là một cái ghế dài, một giường, và một cái tivi với các đĩa video ở trên một cái giá.

Vừa vào phòng, Martin đã chĩa súng vào ngực Blomkvist bảo anh nằm xuống sàn. Blomkvist từ chối.

- Tốt lắm. – Martin nói. – Thế thì tao sẽ bắn vỡ đầu gối mày.

Hắn nhắm. Blomkvist đầu hàng. Không có cách nào. Anh hy vọng Martin chỉ xểnh cảnh giác đúng một phần mười giây- anh biết anh sẽ thắng trong bất cứ kiểu đánh nhau nào với Martin. Anh đã có một nửa cơ hội khi xuống được lưng chừng cầu thang gian hầm lúc Martin khẽ đặt tay lên bả vai anh nhưng anh lưỡng lự. Sau đó Martin không đến gần. Với một viên đạn ở đầu gối anh sẽ mất cơ hội. Anh nằm xuống sàn, Martin đến từ phía sau và bảo anh quặt tay lại sau lưng. Hắng còng tay anh, rồi hắn đá vào bụng dưới của anh và đấm anh ác liệt liên hồi.

Những gì diễn ra sau đó giống như một cơn ác mộng. Martin chờn vờn giữa sự sáng suốt và điên thuần tuý. Có thể khá yên ổn một lúc nhưng rồi hắn lại sẽ xông ngay lên như một con thú trong chuồng. Hắn đá Blomkvist nhiều lần. Blomkvist chỉ còn có cách che đầu và giơ những phần mềm của cơ thể ra để hứng đòn.

Trong nửa giờ đầu tiên Martin không nói một lời và xem vẻ hắn cũng đã mất khả năng giao tiếp. Sau đó hắn hình như đã tự kiềm chế. Hắn quấn một sợi dây xích vào quanh cổ Blomkvist, buộc chặt dây xích vào một cái mỏ sắt ở trên sàn bằng một cái khóa móc. Hắn để Blomkvist một mình trong chừng mười lăm phút. Khi quay lại hắn mang một chai nước. Hắng ngồi lên một cái ghế vừa uống vừa nhìn Blomkvist.

- Cho một ít nước được không ? – Blomkvist.

Martin cúi xuống để cho anh uống một ngụm dài ở cái chai. Blomkvist nuốt thèm thuồng.

- Cảm ơn.

- Vẫn xã giao thế, Kalle Blomkvist.

- Tại sao lại đấm đá như vậy? – Blomkvist

- Vì mày quả thật đã làm cho tao rất giận. Mày đáng bị trừng trị. Tại sao mày không về nhà mày đi? Mày được Millennium cần đến, tao nói nghiêm chỉnh đấy – ta có thể làm cho nó thành một tờ tạp chí lớn. Ta có thể làm cùng với nhau trong nhiều năm.

Blomkvist nhăn mặt và cố xoay người cho nó có được tư thế dễ chịu hơn, anh hết phương tự vệ. Anh chỉ còn lại có tiếng nói.

- Tôi cho là anh muốn nói thời cơ đã hết – Blomkvist nói.

Martin cười to.

- Tao xin lỗi, Mikael. Nhưng dĩ nhiên tao biết là mày sẽ chết thẳng cẳng ở ngay tại chỗ này.

Blomkvist gật.

- Cái quỷ gì mà mày lại tìm ra tao, mày với cái con khỉ chê cơm mà mày tha đến đây?

- Anh đã nói dối về cái việc anh làm hôm mà Harriet mất tích. Anh đã ở Hedestad, tại cuộc diễu hành Ngày trẻ con. Anh chụp ảnh ở đó, nhìn Harriet.

- Vì thế mà mày đã đi Norsjo phải không?

- Để có bức ảnh, đúng. Nó đã được một cặp tình cờ đi trăng mật ở Hedestad chụp.

Hắn lắc đầu.

- Mày nói dối bẩn thỉu. – Martin nói.

Blomkvist nghĩ lung tung: làm sao mà tránh hay hoãn được việc hành quyết anh.

- Bức ảnh đâu rồi?

- Âm bản đấy ư? Nó đang được để ở trong một két an toàn tại Handelsbanken ở ngay Hedestad đây... Anh không biết là tôi có một két gửi đồ an toàn ở đó ư? – Blomkvist nói dối trơn tru. – Có các bản sao ở khắp nơi, Trong máy tính của tôi và của cô gái, trong máy chủ của Millennium và trong máy chủ của An ninh Milton, nơi cô gái làm việc.

Martin chờ, cố tìm xem Blomkvist nói thật hay bịp.

 - Đứa con gái biết đến đâu?

Blomkvist ngập ngừng. Hiện Salander là hy vọng cứu sống duy nhất của anh. Cô sẽ nghĩ thế nào khi về nhà mà không thấy anh. Anh đã để bức ảnh Martin Vanger mặc áo jacket độn ở trên bàn bếp. Liệu cô có làm một liên hệ không? Liệu cô có báo động không? Cô sẽ không báo cho cảnh sát. Ác mộng là cô có thể đến nhà Martin Vanger bấm chuông hỏi để biết Blomkvist ở đâu.

- Trả lời tao. – Martin Vanger nói, giọng lạnh băng.

- Tôi đang nghĩ. Cô ấy gần như biết ngang tôi, có thể còn hơn một chút cũng nên. Cô ấy giỏi lắm, Cô ấy là người duy nhất tìm được ra mối liên hệ tới Lena Andersson.

- Lena Andersson ? – Martin Vanger nói nghe có vẻ thấp thỏm.

- Cô gái anh tra tấn rồi giết ở Uppsala năm 1966 . chớ bảo tôi là anh quên.

- Tao không biết mày đang nói cái gì cả. – Nhưng lần đầu tiên giọng hắn nghe run run. Đây là lần đầu tiên có người lần ra mối liên quan giữa vụ án này với hắn. – Lena Andersson không có tên ở trong quyển sổ đề ngày tháng của Harriet.

- Martin, - Blomkvist nói, cố hết sức làm cho giọng của mình rắn rỏi. – Hết rồi. Mày có thể giết tao nhưng thế là kết thúc. Quá nhiều người biết rồi.

Martin Vanger lại đi đi lại lại.

Mình phải nhớ là hắn không có lý tính. Con mèo. Hắn có thể mang con mèo xuống giết ở đây nhưng hắn lại mang đến hầm mộ gia đình. Martin dừng lại.

- Tao nghĩ là mày đang nói dối. Mày và Salander là những đứa có thể biết được một cái gì ư. Rõ ràng là mày chưa nói với ai chứ không thì cảnh sát đã ở đây rồi. Một ngọn lửa tươi đẹp nho nhỏ ở căn nhà khách bằng gỗ thế là bằng chứng đi đời nhà ma.

- Thế nhưng nếu mày sai?

- Nếu tao sai thì đúng là kết thúc thật. Nhưng tao nghĩ không phải như thế. Tao đánh cá rằng mày bịp. Với lại tao còn có lựa chọn gì khác nữa đây? Tao sẽ nghĩ một ít về chuyện này. Con rồ chê cơm ấy là cái khâu yếu phải không?

- Cô ấy đi Stockholm  từ giờ ăn trưa rồi.

Martin Vanger cười phá.

- Cứ bịp tới nữa đi, Mikael. Suốt tối nó ngồi ở giữa đống hồ sơn tại văn phòng của Tập đoàn Vanger.

Tim Blomkvist bỏ mất một nhịp đập. Hắn biết. Hắn đã biết hết.

- Đúng thế. Kế hoạch là xem hồ sơ rồi đi Stockholm, - Blomkvist nói – Tao không biết cô ấy lại ngồi ở đó lâu thế.

- Dẹp ngay các trò ba láp ấy đi, Mikael. Bà coi hồ sơ gọi bảo tao là Dirch đã cho con bé ở lại đấy muộn tuỳ theo ý nó. Có nghĩa là nó chắc chắn sẽ có ở nhà. Người gác đêm sẽ gọi cho tao khi nào nó về.

PHẦN 4

GIÁP LA CÀ

11 THÁNG BẢY - 30 THÁNG MƯỜI HAI

Chín mươi hai phần trăm phụ nữ ở Thụy Điển bị xâm hại tình dục đã không trình báo vụ việc bạo hành mới nhất cho cảnh sát.

Chương 24

Thứ Sáu, 11 tháng Bảy

Thứ Bảy, 12 tháng Bảy

Martin Vanger cúi xuống lục túi Blomkvist. Hắn lấy chiếc chìa khóa.

- Biết đem đổi khóa, láu cá nhỉ.- Hắn nói – Tao sẽ săn sóc con bạn gái của mày khi nó về.

Blomkvist nhớ ra Martin là một tay thương lượng có kinh nghiệm sau nhiều vụ thương lượng về công nghiệp. Hắn đã nhìn thông một lần anh bịp.

- Tại sao ?

- Tại sao cái gì ?

- Tại sao lại có tất cả các trò này ? – Blomkvist quay đầu chỉ lơ vơ vào cái phòng giam của mình.

    Martin cúi xuống để một tay vào dưới cằm Blomkvist, nhấc đầu anh lên cho mắt hai bên nhìn vào nhau.

- Vì làm các trò ấy dễ quá mà. – Hắn nói – Phụ nữ luôn biến mất tăm. Chả ai nhớ bọn họ cả. Đám di dân này, bọn điếm Nga này. Mỗi năm hàng nghìn người đi qua Thụy Điển cơ mà.

Hắn buông đầu anh xuống rồi đứng lên.

Lời Martin nói như một quả đấm thoi vào mặt anh.

Lạy Chúa. Đây không là bí mật lịch sử. Martin Vanger đúng là kẻ giết hại phụ nữ hiện thời. Và mình loáng quáng đâm vào.

- Tình cờ bây giờ ta lại chả có khách khứa nào. Nhưng mày có thể sẽ thấy ngồ ngộ nếu biết rằng trong khi mày với Henrik ngồi ba hoa chích chòe về những đông với xuân thì ở dưới này có một đứa con gái, Irina, người Belarus. Khi mày ngồi ăn tối với tao thì nó bị nhốt trong cái cũi đằng kia kìa, tao nhớ là cái tối ấy vui, đúng không?

Martin ngồi vắt vẻo trên bàn, đung đưa chân. Blomkist nhắm mắt lại. Bỗng cảm thấy vị chua chua xộc lên ở cổ họng, anh cố nuốt xuống. Chỗ đau ở sườn và bụng anh hình như đang sưng to lên.

- Những cái xác thì mày làm thế nào?

- Ngay bên dưới cầu tàu kia tao có một con tàu. Tao cho nó ra khơi xa. Không giống bố tao, tao không để lại dấu vết. Nhưng ông ấy cũng thông minh. Ông ấy rải các nạn nhân của ông ấy lên khắp Thụy Điển.

Các miếng ghép của bài đố ghép hình đã đâu vào đấy hết.

Gottfried Vanger. Từ 1949 đến 1965. Rồi Martin Vanger, bắt đầu năm 1966 ở Uppsala.

- Mày phục bố mày.

- Ông ấy là người dạy dỗ tao. Khi tao 14 tuổi, ông ấy đã vỡ lòng cho.

- Uddevalla, Lea Persson.

- Mày không thông minh hả? Đúng, tao ở đó. Tao chỉ xem nhưng tao ở đó.

- 1964, Sara Witt ở Ronneby.

- Tao 16. Lần đầu tiên tao có một con đàn bà. Bố tao dạy  tao. Tao là người bóp cổ nó chết.

Hắn nói phét. Lạy Chúa. Một gia đình bệnh hoạn đáng phải trời tru đất diệt.

- Mày không hiểu được điên là thế nào.

- Mày là một kẻ nhỏ nhoi tầm thường Mikael. Mày không thể hiểu được cái cảm giác giống với Chúa là được kiểm soát cái sống cái chết của bất kỳ một đứa nào.

- Martin, mày sướng vì được tra tấn và giết hại phụ nữ.

- Tao nghĩ đúng ra không phải là thế. Nếu phân tích khoa học hoàn cảnh tao thì tao là một tên hiếp dâm hàng loạt đúng hơn là một kẻ giết người hàng loạt. Thật ra, tao là một đứa bắt cóc hàng loạt. Giết là hậu quả tự nhiên thôi, hãy nói như vậy, vì tao phải giấu tội đi chứ. Dĩ nhiên xã hội không chấp nhận các hành động của tao nhưng trước hết và trên hết các tội ác của tao là một tội ác chống lại các công ước của xã hội. Cái chết chỉ diễn ra khi các khách của tao kết thúc việc thăm viếng ở đây, sau khi tao đã phát ớn, phát ngấy với họ. Nhìn vẻ tuyệt vọng của họ mới mê làm sao chứ.

- Tuyệt vọng?

- Chính nó. Tuyệt vọng. Chúng tưởng làm cho tao hài lòng thì chúng sẽ sống, chúng chịu theo các luật lệ của tao. Chúng bắt đầu tin tao, có một ít tình bạn bè nào đó với tao, cho đến cuối cùng chúng vẫn hy vọng chút tình bạn bè ấy. Tuyệt vọng cho đến khi bắt đầu hửng sáng cũng chính là lúc thật sự toi đời.

Martin đi quanh bàn rồi tựa vào cái cũi sắt.

- Mày và các công ước tư sản của chúng mày sẽ không bao giờ nắm hiểu được cái chuyện tao vừa nói nhưng từ khi lên kế hoạch bắt cóc phấn khích đã có ngay rồi. Việc này không được làm tùy hứng - các trò bắt cóc luôn bị tóm không thoát được. Đây là một khoa học có hàng nghìn chi tiết tao phải cân nhắc. Tao phải nhận diện con mồi, ả là ai, ả người đâu, tao làm sao tiếp xúc được với ả, tao phải làm gì để có thể ở một mình với ả mà không để lộ tên tuổi hay là nay mai lại dính đến chuyện cảnh sát điều tra.

Câm đi. Nhân danh Chúa…

- Mày thật sự bận tâm đến những chuyện này hả, Mikael?

Hắn cúi xuống thụi vào má Blomkvist. Cái đánh gần như là một đụng chạm âu yếm.

- Chuyện này chỉ được kết thúc một chiều đơn phương, mày thấy thế chứ? Tao hút thuốc thì có phiền mày không?

- Cho tao một điếu được không? – anh nói

Martin châm 2 điếu thuốc, đặt cẩn thận một điếu vào giữa hai môi Blomkvist, để cho anh rít một hơi dài.

- Cảm ơn – Blomkvist bất giác nói.

Martin lại bật cười to.

- Mày xem đây. Mày đã sắp chấp nhận nguyên tắc hàng phục của tao rồi. Mikael, tao nắm cái mạng mày ở trong tay. Mày biết tao có thể cho mày tiêu bất cứ lúc nào. Mày quỵ lụy tao để cải thiện tình trạng của mày, mày sử dụng lý trí và một ít cử chỉ lịch thiệp để làm cái trò ấy. Thì mày được thưởng liền ngay đó.

Blomkvist gật. Tim anh đập dữ tới mức gần như không thể chịu nổi.

Lúc 11 giờ 15, Lisbeth Salander uống hết nước trong cái chai PET của cô trong khi lật trang hồ sơ. Không giống Blomkvist bị sặc cà phê sớm nay, cô không để cho nước đi lầm đường. Hơn nữa, cô mở mắt to ra khi cô tìm được mối tương quan.

Click!

Trong hai giờ cô ngụp lội trong đống thư bạn đọc về mọi thứ bà dằn trên đời. Thư bạn đọc chủ yếu là từ Thông tin công ty. Nó mang logo Vanger - một cờ đuôi nheo Thụy Điển lật phật trong gió, với đầu cờ là một mũi tên nhọn. Các thứ này được cho là để chung với bộ phận quảng cáo của hãng, nó chứa đầy các thứ tuyên truyền vốn được giả định sẽ làm cho các công nhân viên cảm thấy mình là thành viên của một gia đình lớn.

Cùng với ngày lễ thể thao mùa đông vào tháng 2, 1969 Henrik Vanger tỏ ra hào hiệp đã mời 50 công nhân viên ở văn phòng chính cùng với gia đình họ đến tuần lễ trượt tuyết ở Harjedalen. Công ty đã có lợi nhuận kỷ lục trong năm ngoái. Vụ quan hệ công chúng cũng đến và làm một bản cáo bằng ảnh.

Nhiều ảnh với nội dung lý thú được chụp lúc đổ dốc. Một vài bức cho thấy những nhóm người ở quán bar, các công nhân viên đang cười và nâng bia lên chúc nhau. Hai bức chụp một việc làm nho nhỏ buổi sáng khi Henrik Vanger tuyên bố Ulta-Britt Mogren là Nhân viên Văn phòng Tốt nhất của Năm. Cô được tặng một món tiền thưởng 500 curon và một chiếc bát pha lê.

Lễ tặng này diễn ra ở sân thượng khách sạn, trước khi mọi người rõ ràng là đang nghĩ quay về lại với các sườn dốc. Khoảng 20 người ở trên bức ảnh.

Ở xa bên phải, ngay sau Henrik Vanger là một người đàn ông tóc dài. Anh ta mặc Jacket độn thẫm màu với một dải vải nhìn thấy rõ ở trên vai. Do là ảnh trắng đen nên không thể nhìn ra được màu nhưng Salander dám đánh cược đời mình rằng cái dải đó là màu đỏ.

Ghi chú giải thích mối tương quan….xa bên phải Martin Vanger (19) đang học ở Uppsala. Anh đang được bàn tán đến như một người có tương lai hứa hẹn trong công việc quản lý công ty

- Cha cha – Salander trầm trầm nói.

Cô tắt bàn đèn làm việc, để thư bạn đọc cả đống ở trên khắp mặt bàn làm việc- thôi để cho sáng mai mụ Lindgren nhếch nhác có việc bận đến.

Cô đi cửa ngách ra bãi đậu xe. Khi cửa đóng lại cô nhớ đã hứa khi nào về sẽ báo với ông gác đêm. Cô dưng lại đưa mắt nhìn khắp bãi xe. Chỗ người gác đêm ở phía bên kia toà nhà. Nghĩa là cô phải đi bộ một vòng quanh hết sang phía bên kia. Hãy để cho chó đang ngủ được yên, cô quyết định.

Trước khi đội mũ bảo hiểm, cô gọi số di động của Blomkvist. Cô được nhắn là có thể không gọi được chủ số thuê bao. Nhưng cô cũng thấy anh gọi cô ít nhất không dưới ba chục lần vào quãng giữa 3 giờ rưỡi đến 9 giờ. Cô thử máy của căn nhà gỗ nhỏ nhưng không có trả lời. Cô nhăn mặt, đóng di động lại, đội mũ bảo hiểm rồi đạp cần kích cho xe nổ máy. Cuốc đi từ văn phòng chính ở lối vào khu công nghiẹp Hedestad đến đảo Hedeby mất mười phút. Một ngọn đèn sáng ở trong bếp.

Salander nhìn quanh. Thoạt đầu cô nghĩ Blomkvist đi gặp Frode nhưng trên cầu cô đã để ý thấy đèn nhà Frode tắt ở bên phía bờ nước. Cô nhìn đồng hồ đeo tay: 11 giờ 40.

Cô đi vào căn nhà gỗ nhỏ, mở tủ quần áo, lấy ra hai cái máy tính xách tay cô đang dùng để lưu những hình ảnh kiểm soát bằng hai camera cô đã đặt. Cô để một lúc cho diễn lại các sự việc.

15giờ 32 Blomkvist vào nhà.

16giờ 03 anh mang tách cà phê ra vườn. Anh mang theo cặp hồ sơ và nghiên cứu nó. Anh gọi ba lần điện thoại ngắn lúc đang ở trong vườn. Ba cuộc ứng đúng vào ba cuộc cô không trả lời.

17 giờ 21 Blomkvist dời căn nhà gỗ. Quay trở lại không đến 15 phút sau.

18 giờ 20 anh ra cổng nhìn về phía cầu.

21 giờ 03 anh đi ra. Anh không trở lại.

Salender quay nhanh các hình ảnh ở chiếc máy tính thứ 2 lên. Nó chụp cổng nhà và con đường ở bên ngoài cửa ra vào chính. Cô có thể thấy ai đã qua đây trong ngày.

19giờ 12 Nilsson đến nhà.

19giờ 42 chiếc Saab thuộc Ostergarden đi đến Hedestad.

20 giờ 02 chiếc Saab trên đường quay về.

21 giờ xe của Martin đi qua. Ba phút sau Blomkvist rời nhà. 21 giờ 50 Martin Vanger hiện ra ở kính ngắm của camera. Anh ta đứng ở cổng hơn một phút  nhìn căn nhà, rồi nhòm qua cửa sổ bếp. Anh ta đến cổng có mái và cố mở, lấy ra một chiếc chìa khóa. Chắc anh ta phát hiện ra Blomkvist đã thay khóa. Anh ta đứng im một lúc rồi quay đi rời căn nhà.

Salander cảm thấy sợ lạnh toát cả gan ruột.

Martin một lần nữa để Blomkvist một mình. Anh vẫn cứ ở trong cái tư thế khó chịu bị còng 2 tay ở sau lưng còn cổ thì bị một dây xích mỏng buộc chặt vào một khuy sắt trên sàn. Anh cựa giằng cái còng nhưng biết là không thể nào gỡ nó ra. Cái còng quá chặt, tay anh tê bì.

Anh hết đường thoát. Anh nhắm mắt lại.

Anh không biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua thì lại nghe thấy tiếng chân Martin. Hắn hiện ra trong tầm mắt Blomkvist. Xem vẻ bực bội.

- Khó chịu hử? – hắn nói.

- Rất. – Blomkvist nói.

- Mày hãy tự trách mày. Lẽ ra mày về Stockholm rồi.

- Tại sao mày giết người, Martin?

- Tao chọn như thế. Tao có thể tranh luận các mặt luân lý, trí tuệ của việc tao giết; tao với mày có thể nói chuyện hết đêm nhưng cái đó cũng chả thay đổi được gì. Mày thử nhìn theo cách này xem: một mạng người là một con sò làm bằng da giữ cho các tế bào, máu cùng các thành phần hóa chất được đâu ở nguyên vẹn đấy. Rất ít kẻ kết thúc trong các sách sử. Phần lớn là quỵ gối và biến đi không để lại dấu vết.

- Mày giết cả phụ nữ.

- Trong chúng ta có những người giết cho vui - tao không phải là đứa duy nhất có cái thú chơi riêng này - chúng tao sống một cuộc đời trọn vẹn.

- Nhưng sao cả Harriet? Chính em gái mày?

Rất nhanh Martin túm lấy tóc anh.

- Thằng đốn mặt ranh con, xảy ra chuyện gì với em tao rồi, bảo tao ngay.

- Mày nói sao? - Blomkvist thở ngắc. Anh cố quay đầu để cho tóc bị túm giật lỏng ra. Dây xích thít lại ở quanh cổ anh.

- Mày với Salander. Mày đã làm gì với em tao?

- Bỏ ra, nhân danh Chúa. Chúng ta đang nói chuyện mà.

Martin buông tóc anh ra, ngồi vắt chéo chân trước Blomkvist. Hắn lấy một con dao ở trong túi jacket ra, mở lưỡi. Hắn gí mũi dao vào da ở ngay bên dưới mắt Blomkvist. Blomkvist buộc phải nhìn mắt hắn

- Em tao bị làm sao rồi, thằng đốn mạt?

- Tao không biết. Tao nghĩ là mày giết.

Martin nhìn trừng trừng Blomkvist một lúc lâu. Rồi hắn chùng người lại. Hắn đứng lên đi loanh quanh trong buồng, suy nghĩ. Hắn ném con dao xuống sàn rồi cười phá trước khi đi đến nhìn vào Blomkvist

- Harriet, Harriet, cứ là Harriet. Chúng tao đã cố… nói chuyện với nó. Gottfried cố dạy nó. Chúng tao đã nghĩ nó là một người cùng bọn với chúng tao và như thế thì nó phải nhận lấy nghĩa vụ của nó nhưng nó lại chỉ là một cái…l. tầm thường. Tao đã kiểm soát được nó, hay là tao tưởng ra như thế nhưng nó cứ luôn cố mà nói với Henrik và rồi tao hiểu ra là không thể tin nó được. Sớm muộn nó sẽ đi nói với một ai đó về tao.

- Mày đã giết cô ấy?

- Tao đã muốn giết nó. Tao đã nghĩ đến chuyện đó nhưng tao đến muộn quá. Tao đã không sang được đảo.- Đầu óc Blomkvist đã phải chật vật để cố thu nhận thông tin nhưng anh cảm thấy như có một lời nhắn mang dòng chữ THÔNG TIN QUÁ TẢI vừa bật ra. Martin Vanger không biết chuyện gì đã xảy ra với em gái hắn.

Thình lình Martin rút di động ra khỏi túi liếc vào màn hình rồi đặt nó lên ghế cạnh khẩu súng ngắn.

- Đến lúc ngừng tất cả các thứ lại đã. Tao phải xử lý con đĩ chê cơm của mày đêm nay.

Hắn lấy một cái dây da hẹp ở trong tủ ly ra, lùa nó vào quanh cổ Blomkvist, như một thòng lọng. Hắn nới lỏng dây xích ghìm anh gí sát xuống sàn, xốc anh đứng lên rồi ném anh về phía tường. Hắn lùa cái dây da qua một cái mắt ở trên đầu Blomkvist rồi buộc chặt nó vào dây khiến anh cứ phải đứng kiễng trên các đầu ngón chân.

- Có chặt quá không? Mày thở được chứ?- hắn nới một nấc và khóa đầu kia của dải dây da vào dưới chân tường- Tao không muốn mày bị chết ngạt ngay.

Cái thòng lọng cứa quá mạnh vào cổ họng Blomkvist, anh không thốt ra được một tiếng nào. Martin chăm chú nhìn anh.

Đột ngột hắn cởi khóa quần Blomkvist, tụt nó hẳn ra cùng chiếc quần đùi đấm bốc. Trong khi hắn kéo quần anh ra, Blomkvist bị hẫng chân, lủng lẳng trên dây thòng lọng mất một lúc rồi ngón chân anh mới bám được lại sàn. Martin đi đến tủ li lấy một chiếc kéo. Hắn cắt tung áo phông của anh ra, ném các mảnh áo xuống sàn. Rồi hắn đứng vào một chỗ ở cách Blomkvist một ít ngắm nhìn nạn nhân của hắn.

- Tao chưa có một thằng con trai nào ở đây.- Martin nói, giọng nghiêm chỉnh.- Tao chưa mó vào một thằng đàn ông nào, sự thật là vậy…trừ bố tao. Đó là nghĩa vụ của tao.

Thái dương Blomkvist đập bình bịch. Anh muốn đỡ nhẹ đi trọng lượng của anh thì lại bị thít chặt lấy cổ. Anh cố đưa tay bấu vào bức tường xi măng ở sau lưng để có điểm tựa nhưng không có gì anh có thể níu lấy.

- Đến lúc rồi nào.-Martin nói.

Hắn đưa tay lên dải dây da kéo xuống, Blomkvist lập tức cảm thấy nút thòng lọng nghiến chặt lấy cổ anh.

- Từ lâu ta đã muốn xem đàn ông nếm trò này ra sao.

Hắn siết thòng lọng rồi cúi xuống hôn lên môi Blomkvist. Thì đồng thời một cái giọng lạnh ngắt xuyên suốt hết gian phòng.

- Đồ bò rạp chết rấp kia, ở cái hố cứt này, tao hưởng độc quyền thằng kia rồi đấy nha.

Blomkvist nghe thấy tiếng Salander ở trong một màn sương mù đỏ lừ. Anh đã quay được mắt để đủ tập trung nhìn thấy Sanlander đứng ở lối vào cửa. Mặt như hề không có chuyện gì, cô đang nhìn Mawrrtin.

- Không…chạy đi.- Blomkvist nói, khàn đặc.

Anh không thể nhìn thấy vẻ mặt Martin nhưng anh gần như cảm thấy được bằng da thịt cái cơn chấn động khi hắn quay lại. Chững lại một thoáng, thời gian ngừng sững. Rồi Martin với lấy khẩu súng ngắn hắn để ở trên ghế.

Salander vọt ba bước rất nhanh đến, tay vung lên một chiếc gậy đánh golf mà cô giấu ở bên sườn. Cây gậy sắt bay lên thành một đường vòng cung rộng rồi nện trúng vào xương đòn gánh gần bả vai hắn. Cú đánh mạnh khủng khiếp, Blomkvist nghe như có một cái gì nứt rạn. Martin rú hộc lên.

- Đồ bò sát, mày có thích bị đau không?-Salander nói.

Giọng cô vừa sắt, vừa sạn như giấy ráp. Chừng nào Blomkvist còn sống thì chừng ấy anh không quên nét mặt cô lúc cô tiến đánh. Răng cô nhe ra như ác thú vồ mồi, mắt cô lấp lánh, đen như than đá. Cô di chuyển nhanh với tốc độ tia chớp của giống nhện ăn thịt, rồi cô lại hoàn toàn tập trung vào con mồi khi cô vung chiếc gậy sắt lên lần nữa, phang vào đúng sườn Martin.

Hắn loạng choạng trên ghế rồi ngã. Khẩu súng rơi thịch xuống sàn dưới chân Salander, cô đá nó ra xa.

Rồi cô đánh cú thứ 3, đúng lúc Martin đang cố đứng lên. Cô phang đánh hự một cái nặng vào hông hắn. Cổ họng Martin buột ra một tiếng kêu kinh hoàng. Cú đánh thứ 4 trúng đằng sau hắn, giữa hai bả vai.

- Lis..ú ú us…- Blomkvist thở ngắt.

Anh gần như sắp rồi đời, hai thái dương đau buốt tưởng như không chịu nổi. Cô quay lại và thấy anh mặt đỏ màu cà chua chín, mắt anh mở ra trắng dã, lưỡi thè lè khỏi miệng. Cô nhìn quanh thấy con dao trên sàn. Rồi cô liếc nhanh một cái đến Martin lúc này đang cố trườn ra xa cô, một tay thõng thẹo. Trong giây phút này, hắn không thể làm được gì rắc rối. Cô buông cây gậy, nhặt con dao lên. Mũi nó nhọn nhưng lưỡi nó cùn. Cô kiễng chân lên cứa mạnh vào dải dây da để cho nó đứt ra. Như thế phải mất vài giây nhưng Blomkvist đã đổ kềnh ra sàn. Cái thòng lọng lại thít chặt hơn vào cổ anh.

Salander lại nhìn sang Martin Vanger. Hắn đã đứng lên nhưng người co gập lại. Cô cố móc ngón tay vào dưới cái nút. Mới đầu cô không dám cắt nó nhưng cuối cùng cô lùa mũi dao xuống dưới, làm cho da cổ Blomkvist xước ra khi cô cố mở rộng cái nút thòng lọng. Cuối cùng nó lỏng ra và Blolmkvist thở mấy cái khò khè, run rẩy.

Trong một lúc Blomkvist thấy cơ thể và linh hồn anh nhập vào nhau làm một. Anh đã nhìn tinh tường lại, có thể nhìn ra từng hạt bụi ở trong gian buồng. Tai anh đã thính hẳn, có thể ghi nhận được từng hơi thở, từng tiếng áo quần cọ nhau, anh nhận ra mùi mồ hôi của Salander cùng mùi da áo jacket cô. Rồi ảo giác tan biến khi máu bắt đầu chảy trong đầu anh.

Salander quay đầu lại đúng lúc Martin Vanger biến đi ở ngoài cửa. Cô đứng lên, nắm lấy khẩu súng, xem lại ổ đạn và mở chốt an toàn. Cô nhìn lên và tập trung vào các ổ khóa còng tay, chúng nằm thù lù ở trên mặt bàn.

- Em đi bắt hắn.-Cô chạy ra cửa nói. Cô chộp lấy chùm chìa khóa rồi ngoái tay lại ném xuống sàn, gần Blomkvist.

Anh cố hét to bảo cô chờ nhưng chỉ buột ra được có một tiếng khàn khàn còn cô thì đã biến mất.

Salander không quên rằng Martin có một khẩu súng dài ở đâu đó nên cô dừng lại, khẩu súng lăm lăm ở đằng trước sẵn sàng bắn trong khi leo các bậc thang lên hành lang ở giữa nhà xe và nhà bếp. Cô nghe ngóng nhưng không thấy có một tiếng nói nào mách cô con mồi đang ở đâu. Cô lén đi tới nhà bếp, và sắp tới đó thì nghe tiếng xe hơi khởi động ở ngoài sân.

Ở đường cho xe ra vào nhà, cô nhìn thấy một đôi đèn hậu đi ngang qua nhà Henrik Vanger rồi quay xuống phía cầu. Cô bèn ra sức chạy. Cô nhét khẩu súng vào túi jacket và chẳng màng gì đến chuyện mũ bảo hiểm và cứ cho xe nổ máy. Vài giây sau cô đã qua cầu.

Cỗ xe có lẽ đã làm một khởi động với tốc độ 100 mét trong 90 giây khi đến khúc quẹo ra quốc lộ E4. Có thể cô không trông thấy được xe hắn. Cô phanh xe, tắt máy để nghe.

Trời đầy mây đen ngòm. Ở chân trời cô thấy hửng rạng đông. Rồi cô nghe thấy tiếng máy và bắt được ánh đèn hậu lên trên đường E4 đi xuống phía nam. Salander đạp cần kích nổ máy, cài số và phóng qua dưới cầu vượt. Cô đang đi 40 dặm một giờ thì rẽ quanh vào lối lên đường bên dẫn tới xa lộ. Không thấy xe qua lại, cô tăng hết tốc độ, bay vút lên phía trước. Khi đường bắt đầu lượn dọc một dòng nước, cô đang đi 90 dặm một giờ, ở cái tốc độ nhanh nhất của chiếc xe máy của cô đạt được khi nó đổ dốc. Hai phút sau, cô trông thấy ánh đèn ở đằng trước cách chừng năm sáu trăm mét.

Phân tích hậu quả đi. Nào ta làm gì bây giờ đây?

Cô giảm xuống một tốc độ phải chăng hơn là 75 dặm và bám lấy chiếc xe hơi. Cô đã mất tăm nó khoảng vài giây sau mấy lần vào cua. Rồi cả hai cùng ra đường thẳng dài. Cô chỉ còn cách nó chừng trăm rưỡi mét.

Hắn chắc đã trông thấy đèn của xe máy cô nên phóng nhanh lên khi họ vào cung đường vòng. Cô lại tăng tốc nhưng lại để mất dấu sau mấy khúc lượn.

Cô nhìn thấy đèn một chiếc xe tải lại gần. Martin cũng thấy. Hắn tăng tốc độ lên nữa và lái thẳng vào làn đường trước mặt. Salander thấy chiếc xe tải trành nghiêng ra và lóe đèn xi nhan nhưng đâm vào nhau là điều không tránh khỏi. Martin Vanger húc thẳng vào chiếc xe tải, tiếng xe đâm vào nhau nghe ghê rợn.

Salander hãm xe lại. Cô trông thấy chiếc moóc bắt đầu gẫy gập lại chắn ngang đường của cô. Với tốc độ đang đi thì chỉ mất hai giây là cô lao đến chỗ xảy ra tai nạn. Cô tăng tốc và quặt mạnh tay lái sang hẳn một bên, xe cô bay vọt qua cách cái đuôi xe tải đang rít lên ầm ầm chừng gần 2m, tránh gọn. Liếc về phía đuôi mắt, cô trông thấy lửa bừng lên ở đầu chiếc xe tải.

Cô đi tiếp hơn một trăm mét nữa thì phanh lại và nghĩ, rồi cho xe quay đầu. Cô trông thấy người lái xe tải đang từ trong cabin bò ra ở bên phía hành khách. Rồi cô lại phóng nhanh lên. Ở Akerby, khoảng 1 dặm về phía nam, cô rẽ sang trái, tấp vào một con đường nhỏ cũ lui ngược về phía bắc, song song với quốc lộ E4. Cô leo lên một quả đồi đi qua hiện trường đâm xe. Hai chiếc xe hơi đã đỗ lại. Những ngọn lửa to tướng đang sôi lên cuồn cuộn ra ngoài khung chiếc xe của Martin đã bị chiếc xe tải đè bẹp xuống. Một người đàn ông đang dùng một máy cứu hỏa nhỏ phun vào đám cháy.

Cô đã mau chóng lăn bánh thong thả qua cầu. Cô đỗ chiếc xe ở bên ngoài căn nhà gỗ nhỏ, đi bộ trở về nhà của Martin Vanger.

Mikael vẫn đang vật lộn với cái còng tay. Tay anh tê bại không thể nắm lấy được chiếc chìa khóa còng. Salader mở còng cho anh và ôm chặt lấy anh trong khi máu bắt đầu chảy trở lại hai bàn tay anh.

- Martin?- Anh hỏi, giọng khàn khàn.

- Chết rồi, hắn lái xe tông thẳng vào đầu một chiếc xe tải ở 2 dặm về phía nam đường E4.

Blomkvist trừng trừng nhìn cô. Cô mới chỉ đi có khoảng một ít phút.

- Chúng ta phải…gọi cảnh sát. – Anh nói lào phào, anh bắt đầu ho dữ.

- Tại sao? – Salander nói.

Đến mười phút Blomkvist vẫn không thể đứng được. Anh vẫn nằm trên sàn, trần truồng, tựa vào tường. Anh xoa xoa cổ và lóng ngóng nhấc chai nước lên, Salader nóng ruột chờ đến khi anh lấy được xúc giác. Cô để thì giờ này suy nghĩ.

- Anh mặc quần vào.

Cô lấy chiếc áo phông bị cắt nát của anh ra lau sạch các vân tay ở còng tay, dao, cây gậy đánh golf. Cô nhặt chai nước PET của cô lên.

- Em làm gì thế?

- Mặc quần áo vào nhanh lên. Trời đang sáng lên rồi. – Blomkvist đứng trên 2 chân run rẩy. Cố xỏ quần đùi và chiếc quần jean vào. Anh trượt chân ở trên đôi giầy tập thể thao. Salander nhét bít tất của anh vào túi jacket của cô rồi ngăn anh lại. – Anh đã sờ mó chính xác vào những cái gì dưới này?

Blomkvist nhìn quanh. Anh cố nhớ. Cuối cùng anh nói anh không sờ vào cái gì trừ cửa buồng và mấy chiếc chìa khóa. Salander tìm ở trong jacket của Martin những chìa khóa mà hắn treo trên ghế. Cô lau sạch tay nắm cửa và nút bấm đèn. Cô đỡ Blomkvist lên cầu thang của gian hầm và bảo anh chờ ở cầu thang trong khi cô cất cây đánh golf vào nguyên chỗ của nó. Khi quay lại, cô cầm một áo phông thẫm màu của Martin.

- Mặc vào. Em không muốn ai thấy anh đêm đi là cà mà lại phanh trần cả ra thế này.

Blomkvist nhận thấy mình đang ở một trạng thái sốc hoàn toàn. Salader đang chịu trách nhiệm mọi cái và anh bị động tuân theo các chỉ dẫn của cô. Cô đỡ anh đưa ra khỏi nhà Martin. Hai người vừa vào trong căn nhà gỗ nhỏ, cô liền giữ anh lại.

- Nếu ai nhìn thấy chúng ta mà ai hỏi ban đêm đi làm gì ở ngoài như thế thì nói chúng ta đi mũi đất chơi đêm và rồi tình tang ở ngoài ấy.

- Lisbeth, anh không thể…

- Đi tắm. Ngay.

Cô giúp anh cởi quần áo và đẩy anh vào buồng tắm. Rồi cô đặt nước pha cà phê và làm một nửa tá bánh sandwich bằng lúa mạch đen với phó mát, xúc xích gan, thìa là dầm dầu dấm. Cô ngồi nghĩ lung ở bàn bếp khi anh tập tễnh đi vào buồng. Cô xem các vết bầm tím, đứt rách trên người anh. Nút thòng lọng quá chặt, cổ anh vẫn còn một vòng tròng đỏ sẫm, con dao thì làm cho da anh bị rớm máu ở bên trái cổ.

- Lên giường đi ngủ, - Cô nói.

Cô ứng biến ra các vải băng bó và đắp các vết thương bằng một miếng gạc tạm thời. Rồi cô rót cà phê và đưa một chiếc bánh sandwich cho anh.

- Anh thật sự không đói. – Anh nói

- Anh đói hay không em bất cần cần, cứ biết là ăn đi thôi.

Blomkvist nhắm mắt lại một lúc rồi ngồi dậy cắn một miếng. Cổ họng anh đau đến nỗi không nuốt được xuống.

Salader cởi jacket da ra và mang ở trong buồng tắm ra một lọ cao Con hổ cô vẫn để ở trong túi bọt biển của cô.

- Để cho cà phê nguội bớt. Nằm úp mặt xuống.

Cô bỏ 5 phút ra xoa bóp lưng cho anh bằng cao. Rồi cô lật anh lên và cũng xoa bóp như thế ở đằng trước.

- Anh sẽ bị bầm tím nặng như thế một thời gian.

- Lisbeth, chúng ta phải gọi cảnh sát.

- Không. – Cô nhanh nhảu đáp khiến anh trợn mắt lên ngạc nhiên.-Nếu anh gọi cảnh sát thì em bỏ đi. Em không thích dính dáng gì đến họ cả, Martin đã chết. Chết trong một tai nạn xe hơi. Hắn chỉ có một mình trong xe. Không có nhân chứng. Để cho cảnh sát hay một ai đó phát hiện ra cái phòng tra tấn chết rấp kia. Anh và em đều không hay biết gì hết đến cái hầm đó, y như mọi người khác ở cái làng này thôi.

- Tại sao chứ?

Cô lờ anh đi, bắt đầu xoa đùi cho anh

- Lisbeth, chúng ta không thể cứ…

- Anh mà còn lải nhải là em lôi anh về cái hang của Martin rồi xích anh lại ở đó đấy.

Khi cô nói như vậy thì anh ngủ thiếp, thình lình y như bị ngất xỉu vậy.

Chương 25

Thứ 7, ngày 12, tháng Bảy

Thứ 2, ngày 14 tháng Bảy

5 giờ sáng, Blomkvist giật mình tỉnh dậy, quờ quờ lên cổ để dứt cái thong lọng đi. Salander nắm lấy tay anh rồi giữ cho yên. Anh mở mắt ra lờ đờ nhìn cô.

Anh không biết là em chơi golf.– Anh nói, lại nhắm mắt lại. Cô ngồi với anh cho đến hai ba phút cho đến khi chắc chắn là anh đã ngủ. Trong khi anh ngủ, Salander đã quay về tầng hầm của nhà Martin Vanger, chụp ảnh hiện trường tội ác. Cộng vào với các dụng cụ tra tấn, cô đã tìm thấy một sưu tập tạp chí khiêu dâm hung bạo và một số lớn các ảnh Polaroid chụp lấy liền dán vào các album.

Không có nhật ký. Ngoài ra cô còn tìm thấy hai cặp bìa cứng khổ A4 đựng các ảnh hộ chiếu và các ghi chép tay về phụ nữ. Cô để cái cặp này vào các túi nilong cùng với chiếc máy tính xách tay Dell của Martin mà cô tìm thấy trên cái bàn tại gian sảnh trên gác. Khi Blomkvist ngủ, cô xem xét tiếp máy tính và các cặp bìa cứng của Martin. Sau 6 giờ cô tắt máy tính. Cô châm một điếu thuốc lá.

Cùng với Mikael Blomkvist cô đã bắt tay vào cuộc săn lùng cái điều mà họ ngỡ là một tên sát nhân hang loạt ở thời kỳ trước. Họ đã tìm ra một chuyện khác hẳn đến lạ lùng. Cô khó mà hình dung ra nổi những chuyện kinh hoàng chắc đã phải cho được diễn ra ở bên dưới tầng hầm nhà Martin, tại chính giữa cái chốn thần tiên, tổ chức ngăn nắp này.

Cô cố hiểu.

Martin Vanger đã bắt đầu giết phụ nữ từ những năm 60, mỗi năm một hai người trong suốt mười lăm năm qua. Việc giết người đã được làm bí mật và có kế hoạch chu đáo khiến cho không ai ngờ nổi rằng hiện thời một tên sát nhân hàng loạt đang hành động. Làm sao lại có thể như thế được?

Mấy cái cặp bìa cứng trả lời được một phần.

Các cô gái của hắn thường là người mới đến, các cô gái di cư không bè bạn hay quan hệ xã hội ở Thuỵ Điển. Cũng có cả gái điếm và những cô thất cơ lỡ vận, nghiện ngập ma túy hay vướng các vấn đề khác trong quá khứ của họ.

Nghiên cứu tâm lý học về bạo dâm tính dục, Salander biết rằng kiểu những tên giết người này thường sưu tập những kỷ vật lấy từ nạn nhân. Những kỷ vật này có tác dụng làm thứ gợi nhớ cho tên giết người có thể sử dụng để tái tạo lại cái khoái lạc hắn đã hưởng thụ. Martin Vanger đã phát triển cái nét quái gở này đến nước hắn giữ hẳn một “quyển sách về cái chết”. Hắn đã vào sổ và xếp hạng các nạn nhân. Hắn đã tả lại những nỗi đau đớn của họ. hắn đã quay phim và chụp ảnh việc giết người của hắn để làm tài liệu.

Bạo lực và giết là mục tiêu nhưng Salader kết luận việc săn lùng mới là thích thú đầu sổ của Martin Vanger. Hắn đã tạo ở trong máy tính xách tay một cơ sở dữ liệu với một danh sách của hơn một trăm phụ nữ. Có những nhân viên làm thuê ở tập đoàn Vanger, các nữ phục vụ viên ở các nhà hàng hắn quen đến ăn đều đặn, các nhân viên tiếp tân ở các khách sạn, các thư ký ở các cơ sở bảo hiểm xã hội cũng như các nơi hợp tác kinh doanh và nhiều phụ nữ khác. Tực hồ mọi phụ nữ mà Martin có dịp tiếp xúc đều được hắn đem phân loại xếp hạng và cất giữ trong ngay trongđầu.

Hắn chỉ giết một vài người trong đám phụ nữ này, nhưng bất cứ một phụ nữ nào ở đâu đó ở gần hắn thì đều là nạn nhân tiềm năng của hắn. Việc vào sổ các nạn nhân là một thú vui riêng và thời gian mà hắn dành cho nó chắc phải là không thể đếm xuể.

Ả có chồng hay độc thân? Ả có gia đình hay con cái không? Ả làm ở đâu? Ả sống ở đâu? Ả lái loại xe gì? Học vấn của ả ra sao? Màu tóc? Màu da? Mặt mũi?

Việc thu thập thông tin về cá nhân các nạn nhân tiềm năng hẳn phải là một bộ phận quan trọng ở trong các cuồng ảo tính dục của Martin Vanger. Hắn trước hết là một tên lén lút dõi theo, thứ đến mới là một tên giết người.

Khi đọc xong, cô đã phát hiện ra một chiếc phong bì nhỏ ở một trong hai cái cặp bìa cứng. Cô rút ra hai tấm ảnh Polaroid đã bị cầm lên nhiều lần và phai màu. Trong bức thứ nhất, một cô gái tóc đen đang ngồi ở một chiếc bàn. Cô gái mặc jean nhưng mình trần với hai cái vú nhỏ nhu nhú. Cô quay mặt khỏi máy ảnh, một tay giơ lên như đang trong tư thế tự vệ, tựa như bị chụp bất ngờ. Trong ảnh thứ hai cô hoàn toàn trần truồng. Cô nằm xấp trên một mảnh khăn trải giường màu xanh lơ. Mặt vẫn quay đi khỏi máy ảnh.

Salander nhét chiếc phong bì với hai tấm ảnh vào túi jacket. Sau đó cô mang các cặp bìa cứng ra bếp lò, đánh một que diêm. Khi lửa đã cháy lụi, cô gạt tàn than. Trời trút mưa xuống khi cô ra ngoài đi bộ gần nhà và quỳ xuống như thể buộc lại dây giầy, cô đã kín đáo thả chiếc máy tính xách tay của Martin xuống nước ở dưới cầu.

7 giờ rưỡi sáng hôm ấy khi Frode bước qua cửa để ngỏ đi vào, Salander đang ngồi uống cà phê và hút thuốc lá ở bàn bếp. Mặt Frode xám ngoét, nom vẻ như ông đã qua một đêm hãi hùng.

- Mikael đâu? – ông nói

- Anh ấy còn ngủ.

Frode quăng phịch người xuống chiếc ghế dựa. Salander rót cà phê và đẩy cái tách lại đằng ông.

- Martin… tôi vừa được tin là Martin bị tai nạn xe chết đêm hôm qua.

- Thế thì buồn. – Salander nói, làm một ngụm cà phê.

Frode ngước lên. Thoạt đầu ông đăm đăm nhìn cô, không hiểu. Rồi mắt ông mở to ra.

- Cái gì chứ?

- Ông ấy bị đâm xe. Đáng rầu.

- Cô biết gì về chuyện này?

- Ông ấy cho xe tông thẳng vào mũi một chiếc xe tải. Ông ấy tự sát. Báo chí này, căng thẳng stress này, một đế chế tài chính nghiêng ngả này, chấm, chấm, chấm, quá nhiều thứ cho ông ta. Tôi cho rằng những cái ấy ít nhất cũng sẽ lên các bảng tin.

Frode nom như vừa bị một cơn xuất huyết não. Ông đứng vội lên và đi lảo đảo vào phòng ngủ.

- Để anh ấy ngủ. – Salander quạc.

Frode nhìn vào khuôn mặt đang ngủ. Ông thấy các quầng đen và xanh ở trên mặt Blomkvist và những chỗ bầm sưng ở trên ngực anh. Rồi ông trông thấy một đường đỏ như lửa, nơi thòng lọng đã thắt ở đó. Salander đụng vào tay ông rồi đóng cửa lại. Frode trở ra, sụp xuống chiếc ghế dài trong bếp.

Salander kể vắn tắt lại những chuyện xảy ra đêm qua. Cô tả cho ông gian phòng kinh hoàng của Martin Vanger nom ra sao, cô đã tìm thấy Mikael nằm ở đó, thòng lọng siết ở cổ còn ông cầm đầu tập đoàn Vanger thì đứng ở trước cái thân hình trần truồng như thế nào. Cô bảo ông hôm trước đó cô đã tìm được những gì ở trong tài liệu của công ty và cô đã dựng ra được như thế nào một mối liên hệ có thể có giữa bố Martin với các tên sát nhân của ít nhất bảy phụ nữ.

Frode chỉ cắt ngang có một lần bài đọc thuộc lòng của cô. Khi cô ngừng kể, ông ngồi lặng một lúc rồi mới hít một hơi thở dài và nói:

- Chúng ta sẽ làm gì bây giờ?

- Không phải chuyện tôi phải lên tiếng. – Salander nói.

- Nhưng…

- Như tôi biết thì tôi chưa có đặt chân lên Hedestad bao giờ.

- Tôi không hiểu.

- Muốn thế nào tôi cũng không thích có tên tôi ở trong báo cáo của cảnh sát. Tôi sống là không có dính líu vào bất kỳ một báo cáo nào loại này. Nếu nhắc đến tên tôi vì nó có liên qaun với câu chuyện này thì tôi sẽ chối phăng là tôi không hề ở đấy và tôi sẽ không trả lời bất cứ câu hỏi nào.

Frode thắc mắc nhìn cô.

- Tôi không hiểu.

- Ông không cần hiểu.

- Vậy tôi nên làm gì?

- Ông sẽ tự giải quyết lấy. Miễn là để cho tôi và Blomkvist ở ngoài.

Frode mặt nhợt nhạt như đã chết.

-Ông hãy nhìn chuyện này theo kiểu: ông chỉ biết một điều là Martin Vanger chết vì tai nạn xe cộ. Ông không biết anh ta cũng là một kẻ sát nhân hàng loạt điên loạn, và ông cũng chưa hề nghe nói đến gian hầm tra tấn của anh ta.

Cô để chiếc chìa khóa ở giữa hai người.

- Ông có thì giờ đấy – lúc chưa có ai đến dọn dẹp nhà Martin rồi phát hiện ra cái tầng hầm.

- Chúng ta phải đi báo cảnh sát về chuyện này.

- Không phải chúng ta. Ông thích thì có thể đến cảnh sát.

- Không thể cho chuyện này xuống dưới tấm thảm mà xóa nó đi được.

- Tôi không mách ông nên xóa nó ở đâu, tôi chỉ bảo ông để tôi và Blomkvist ở ngoài câu chuệyn này. Khi tìm ra cái buồng, ông sẽ rút lấy kết luận và tự quyết định nên nói chuyện cái hầm ấy với ai.

- Nếu cô nói đúng sự thật thì có nghĩa Martin đã bắt cóc và giết phụ nữ… chắc có những gia đình thất vọng vì họ không biết là con cái họ ở đâu. Chúng ta không thể…

- Đúng thế. Nhưng khổ là những cái xác đều không còn. Ông có thể tìm các hộ chiếu hay thẻ căn cước ở trong mấy cái ngăn kéo, có thể nhận diện ra vài nạn nhân qua video. Nhưng ông không cần quyết định hôm nay đâu. Hãy nghĩ đến nó đã.

Frode nom hoảng loạn.

- Ôi lạy Chúa. Thế này họa là bằng công ty sập tiệm mất. Hãy nghĩ đến bao nhiêu gia đình sẽ mất kế sinh sống nếu chuyện Martin lộ ra…

Frode đung đưa người, cân nhắc ở trong cái thế lưỡng nan về luân lý.

- Có một vấn đề này. Ông có thấy là sẽ không thích hợp nếu Isabella kế thừa mà lại là người đầu tiên rọi ánh sáng vào trò vui thú riêng của con trai bà không.

- Tôi phải đi xem…

- Tôi nghĩ hôm nay ông nên xa cái gian phòng ấy. – Salander nói như dao chém đá. – Ông có nhiều điều phải chăm lo đến. Ông cần phải đi nói với Henrik và ông cần phải triệu tập một cuộc họp ban giám đốc công ty rồi làm mọi thứ việc mà các cộng sự của ông vẫn làm khi các CEO của họ chết.

Frode nghĩ về điều cô gái nói. Tim ông đập thình thịch. Ông là một luật sư gạo cội của công ty và là người giải quyết vấn đề vốn được chờ đợi và luôn có sẵn một kế hoạch đối phó với mọi tình huống bất trắc nhưng ông lại cảm thấy mình bất lực không thể hành động. Ông đang ở đây nhận lệnh của một đứa trẻ ranh. Như thế nào đó cô gái lại đang kiểm soát tình hình và cho ông những hướng dẫn mà bản thân ông không thể diễn đạt.

- Còn Harriet…?

- Mikael và tôi còn chưa kết thúc. Nhưng ông có thể bảo với Henrik rằng chúng tôi đang sắp giải quyết được chuyện đó.

Việc Martin Vanger bất ngờ chết là tin hàng đầu bảng của buổi tin 9 giờ trên đài phát thanh khi Blomkvist thức dậy. Về các sự kiện hồi đêm, không có thông báo nào khác ngoài việc nói rằng vì lý do gì không rõ nhà công nghiệp lái xe xuống phía nam đã phóng nhanh sang phần đi ngược chiều của quốc lộ E4. Ông chỉ có một mình trong xe hơi.

Đài phát thanh địa phương chạy một tin nói đến nỗi lo âu về tương lai của Tập đoàn Vanger. Và những hậu quả mà cái chết này chắc chắn sẽ đem lại cho công ty.

Hãng tin TT đưa tin về một bữa ăn trưa bố trí vội vã với đầu đề MỘT THỊ TRẤN CHẤN ĐỘNG cũng đã tóm tắt các vấn đề của Tập đoàn Vanger. Nó tránh nêu ra rằng chỉ riêng ở Hedestad thôi, hơn 3.000 người trong số 21.000 cư dân của thị trấn đã là nhân viên của Tập đoàn Vanger, hay nói cách khác, lệ thuộc vào sự thịnh vượng của công ty. CEO của công ty đã chết, vị nguyên CEO thì ốm nặng vì đột quỵ. Không có người thừa kế tự nhiên. Tất cả những điều này xảy ra vào một lúc được coi là gay gắt nhất trong lịch sử công ty.

Blomkvist vẫn có ý định đi đến cảnh sát Hedestad để báo họ những chuyện xảy ra đêm qua nhưng Salander đã làm theo một quá trình của cô. Do anh không lập tức gọi cảnh sát nên nay mỗi giờ qua đi lại càng khó báo với họ hơn. Anh ủ rũ ngồi trên ghế dài trong bếp suốt sáng, im lặng nhìn mưa bên ngoài. Khoảng 10 giờ, mây lại kéo đến nhưng lúc ăn trưa mưa tạnh và gió lặng. Anh đi ra, lau các đồ đạc trong vườn rồi ngồi xuống với một cốc cà phê.

Martin chết, việc ấy cố nhiên phủ bóng lên cuộc sống thường ngày ở Hedeby. Các xe hơi bắt đầu đỗ ở bên ngoài nhà Isabella Vanger khi gia tộc tụ tập lại để chia buồn. Salander dửng dưng quan sát cuộc lễ.

- Anh thấy sao? - cuối cùng cô hỏi.

- Anh vẫn còn bị sốc, - anh nói. – Anh bất lực. Mấy giờ qua anh cầm chắc anh chết. Anh thấy sợ chết và anh thì chả làm được việc gì.

Anh đặt tay lên đầu gối cô.

- Cảm ơn em, - anh nói. - nhưng anh lẽ ra là chết vì em chứ nhỉ.

Salander mỉm cười lấy lệ.

- Dẫu sao… Anh không hiểu sao em lại ngu đến nước tự em một mình đối phó với hắn. anh bị xích bẹp dí xuống sàn, cứ cầu sao em trông thấy cái cảnh này để mà vắt chân lên cổ chạy đi gọi cảnh sát.

- Nếu em đi gọi cảnh sát thì anh chả còn sống đến bây giờ. Em không để cho thằng cha ấy nó giết anh được.

- Tại sao em không muốn nói chuyện với cảnh sát?

- Em không nói chuyện với các nhà chức trách bao giờ.

- Sao lại không?

- Đó là việc của em. Nhưng trong trường hợp anh, em nghĩ để cho rùm beng lên chuyện nhà báo bị Martin Vanger, tên giết người hàng loạt nổi tiếng lột trần lột truồng ra thì cũng sẽ chả nổi đình đám gì được cho sự nghiệp. Nếu anh không thích cái tên “Kalle Blomkvist” thì anh nên phòng hờ đến một biệt hiệu hoàn toàn mới khác. Chỉ là chớ có mà nhận lấy nó để bù vào cho chương này ở trong cái đời anh dũng của anh thôi.

Con mắt anh dò hỏi nhìn cô rồi anh buông vấn đề.

- Chúng ta vẫn còn một chuyện. – Cô nói.

Blomkvist gật:

- Chuyện Harriet.

Salander để hai tấm ảnh Polaroid lên bàn ở trước mặt anh. Cô nói rõ đã tìm thấy chúng ở đâu. Anh xem kỹ chúng một lúc rồi ngửng lên.

- Có thể là chị ấy. - Cuối cùng anh nói. – Anh không dám cam đoan nhưng hình dáng và màu tóc này làm anh nhớ đến một bức ảnh anh đã xem.

Họ ngồi trong vườn khoảng một giờ, ghép các chi tiết lại. Họ phát hiện thấy mỗi chi tiết, đứng riêng rẽ và xem từ ở nhiều phía, đều đã chỉ ra Martin Vanger là cái mắt xích bị mất.

Salander không tìm bức ảnh mà Blomkvist để ở trên bàn bếp. Cô đã đi tới kết luận rằng Blomkvist đã làm một việc thật ngu ngốc sau khi nghiên cứu các bức ảnh của các camera kiểm soát. Cô đã đến nhà Martin Vanger bằng lối bờ biển, đã nhìn vào tất cả các cửa sổ và không thấy một ai. Cô đã thử mở các cửa và cửa sổ ở tầng trệt. Cuối cùng cô leo qua một cửa ban công để ngỏ ở trên gác. Cô đã phải mất một lúc lâu đi lại hết sức thận trọng để tìm kiếm ngôi nhà, từng phòng một. Cuối cùng cô tìm thấy cầu thang xuống tầng hầm. Martin đã cẩu thả. Hắn khép hờ cửa vào gian buồng kinh hoàng của hắn nên cô đã có thể dựng lên được một ấn tượng rõ ràng về tình hình.

Blomkvist hỏi cô có nghe được nhiều những điều Martin nói không.

- Không nhiều. Em vào đó khi hắn đang hỏi anh về chuyện gì đã xảy ra với Harriet, ngay trước lúc hắn treo anh lên bằng cái thòng lọng. Em bỏ đi vài phút rồi quay lại kiếm một vũ khí.

- Martin không biết Harriet đã bị làm sao. – Blomkvist nói.

- Anh có tin không?

- Có. – Blomkvist nói ngay không chút ngập ngừng. – Martin còn nhẹ dạ hơn một thằng bị kim la xắng téng hôi thối – anh lấy được cái ví von này ở đâu đây? – nhưng hắn đã thú thật hết những tội ác của hắn. Anh nghĩ hắn muốn làm cho anh nể phục. Nhưng khi đến Harriet thì như Henrik Vanger, hắn cũng nóng lòng muốn tìm ra chuyện.

- Vậy… cái này đưa chúng ta đến đâu?

- Chúng ta biết Gottgried chịu trách nhiệm về loạt án mạng đầu tiên giữa năm 1949 và 1965.

- OK. Và hắn truyền cho Martin nhỏ.

- Một gia đình bát nháo về chức năng là như thế đấy. – Blomkvist nói. - Thật tình Martin chả có cơ may nào tránh thoát.

Vẻ lạ lẫm, Salander nhìn anh.

- Martin bảo anh là - mặc dù hắn nói lang ba lang bang - bố hắn đã cho hắn học nghề ngay từ khi hắn dậy thì. Hắn có mặt ở đấy, tại vụ giết Lea ở Uddevalla năm 1962. Hắn mười bốn, lạy Chúa. Hắn có mặt ở đấy, tại vụ giết Sara năm 1964 và lần này thì hắn có tích cực góp phần. Khi ấy hắn mười sáu.

- Rồi?

- Hắn nói hắn chưa có đụng vào một người đàn ông nào - trừ bố hắn. Làm cho anh nghĩ rằng… đúng, duy nhất kết luận được là bố hắn đã hiếp hắn. Martin gọi đó là “nghĩa vụ” của hắn. Các xâm hại tính dục chắc đã tiếp diễn một thời gian dài. Hắn được bố hắn giáo dưỡng, có thể nói như thế.

- Cục cứt. – Salander nói, giọng sắc như một lưỡi dao.

Blomkvist ngạc nhiên nhìn cô. Một ánh ương bướng trong mắt cô. Không một chút thiện cảm ở đó.

- Cũng giống như tất cả ai khác, Martin có cơ hội đánh trả lại mà. Hắn giết và hiếp là vì hắn thích thế.

- Anh cũng đâu có nói khác. Nhưng Martin là một thằng con trai bị đàn áp và chịu ảnh hưởng của bố, y như Gottfried cú bố lão ta, một tên Quốc xã vậy.

- Vậy anh cho là Martin không có ý chí của riêng hắn và con người ta được dạy dỗ thế nào thì sẽ thành ra y như vậy à?

Blomkvist cười thận trọng.

- Vấn đề này nhạy cảm ư?

Mắt Salander giận dữ lóe rực lên. Blomkvist vội nói tiếp.

- Anh chỉ nói là anh nghĩ việc giáo dục của một người là có vai trò của nó. Bố của Gottfried đã đánh ông ta hằng năm ròng không thương xót. Cái đó để lại dấu vết.

- Cục cứt. – Salander lại nói. – Gottfried không phải là đứa bé duy nhất bị ngược đãi. Việc đó không cho lão ta cái quyền được giết phụ nữ. Lão ta chọn cho lão cái đó. Với Martin thì cũng như vậy.

Blomkvist giơ tay lên.

- Chúng ta không cãi nhau được không nhỉ?

- Em không cãi. Em chỉ nghĩ lâm li thay là cái bọn sâu bọ này luôn phải có một ai đó khác để mà trách móc.

- Chúng chịu trách nhiệm về cá nhân chúng chứ. Sau này chúng ta sẽ làm rõ ra chuyện này. Điều đáng nói là khi Gottfried chết, Martin mới mười bảy tuổi, hắn chẳng có ai hướng dẫn. Hắn cố đi theo bước chân của bố. Tháng Hai, 1966 ở Uppsala.

Blomkvist với lấy một điếu thuốc của Salander.

- Anh không suy luận về việc Gottfried đã cố thỏa mãn dục lực nào trong lão hay lão đã diễn giải như thế nào những cái lão đang làm. Một nhà phân tâm học có thể hình dung ra đây là một kiểu tập tọng giải nghĩa Kinh thánh nào đó, một cái gì đó liên quan đến trừng phạt và thanh lọc hiểu theo nghĩa bóng. Nó là cái gì thì không quan trọng. Chỉ biết lão là một tên giết người hàng loạt không có gì độc đáo.

- Gottfried muốn giết phụ nữ nhưng bọc hành động của lão vào một trò ba láp giả mạo tôn giáo. Martin lại không thèm có một lý do nào nữa kia. Hắn đã tổ chức và thực hiện có hệ thống việc giết chóc. Hắn cũng lại có tiền để ném vào thú vui riêng này. Và hắn nhát gan hơn bố hắn, Gottfried mỗi phen để lại một cái xác ở đằng sau và đều dẫn đến một cuộc điều tra của cảnh sát cùng với nguy cơ có người mò ra được chính lão, hay ít nhất liên hệ tới những tên giết người khác.

- Martin xây nhà của hắn hồi những năm 70. – Salander nói tư lự.

- Henrik nói là vào năm 1978. Nghe nói hắn sai xây một phòng an toàn để cất các hồ sơ quan trọng hay một vài mục đích gì đó. Hắn đã có một buồng với thiết bị cách âm, không cửa sổ và một cửa ra vào bằng thép.

- Hắn đã có cái buồng này trong hai mươi lăm năm.

Hai người im lặng một lúc trong khi Blomkvist nghĩ biết bao nhiêu điều tàn khốc đã xảy ra ở đây trong một phần tư thế kỷ. Salander chả cần bận tâm đến cái chuyện này; cô đã xem các video. Cô để ý thấy Blomkvist hay bất giác sờ sờ lên cổ.

- Gottfried ghét phụ nữ và cùng với lúc đang dạy con trai ghét phụ nữ thì lão hiếp con trai lão. Nhưng cũng có một thứ ẩn ý nào đó ở đây… Anh nghĩ Gottfried hoang đường mơ tưởng rằng các con lão sẽ chia sẻ với lão cái thế giới quan sa đọa của lão, hãy tạm nói là thế. Khi anh hỏi Martin về Harriet, cô em gái duy nhất của hắn thì hắn nói: Chúng tôi đã cố nói chuyện với nó. Nhưng nó chỉ là một đứa tầm thường. Nó định hót với Henrik.

- Em đã nghe hắn nói. Lúc em sắp xuống dưới tầng hầm. Và như thế có nghĩa là chúng ta biết được cái điều mà trong câu chuyện mà Harriet muốn nói với Henrik nhưng không thành.

Blomkvist nhăn mặt.

- Không đúng. Em hãy nghĩ đến thứ tự thời gian. Ta không biết Gottfried hiếp con trai lần đầu tiên vào lúc nào nhưng lão đưa Martin đi khi lão giết Lea Persson ở Uddevalla năm 1962. Lão chết đuối năm 1965. Trước đó lão và Martin đã định nói với Harriet. Cái đó dẫn chúng ta tới đâu đây?

- Martin không phải là người duy nhất mà lão xâm hại. Lão cũng đã xâm hại cả Harriet.

- Gottfried là ông thầy, Martin là học trò. Vậy Harriet là cái gì? Đồ chơi của hai tay kia à?

- Gottfried dạy Martin làm bậy em gái. – Salander chỉ ngón tay vào tấm ảnh Polaroid.

- Khó mà xác định được thái độ chị ấy từ hai bức ảnh này vì chúng ta không nhìn thấy mặt chị ấy, nhưng chị ấy cố giấu mặt đi khỏi máy ảnh.

- Hãy cứ cho là chuyện này bắt đầu khi chị ấy mười bốn, năm 1964. Chị tự chống đỡ - không thể chấp nhận chuyện ấy, như Martin nói. Chị ấy doạ nói với Henrik chuyện ấy. Trong tương quan này rõ rệt là Martin chả có cái gì để mà nói sất; hắn chỉ làm cái mà bố hắn bảo làm. Nhưng hắn và Gottfried đã hình thành nên một kiểu…hiệp ước nào đó và chúng cố làm Harriet nhập môn luôn.

Salander nói:

-Trong các ghi chép của anh, anh viết rằng Henrik để cho Harriet dọn đến ở nhà của ông vào mùa đông năm 1964.

-Có thể Henrik đã thấy có một chuyện gì không phải ở trong gia đình ông, Ông nghĩ là chuyện cãi vã và xích mích giữa Gottfried với Isabella là nguyên nhân, ông đưa Harriet đến nhà để cho chị ấy được phần nào yên ổn và tĩnh lặng cũng như tập trung học hành.

Một vật cản không ngờ tới trước cho Gottfried và Martin. Chúng không thể dễ dàng đặt tay lên chị ấy hay kiểm soát cuộc đời của chị ấy nữa. Nhưng cuối cùng… các lần xâm hại diễn ra ở đâu nhỉ?

-Chắc là ở căn nhà nhỏ của Gottfried. Em gần như khẳng định rằng hai bức ảnh này là chụp ở đấy - cũng có thể kiểm tra ra thôi. Căn nhà này ở một vị trí hoàn hảo, cách biệt và xa làng. Rồi Gottfried bị say một lần cuối cùng và chết bằng một các vô duyên nhất.

- Vậy là bố Herriet đã toan làm tình với chị ấy nhưng em đoán là lão ấy không vỡ lòng cho chị ấy chuyện giết người.

Blomkvist nhận thấy đây là một điểm yếu. Harriet đã ghi lại tên các nạn nhân của Gottfried, cho chúng đi kèm các câu  thơ dẫn của Kinh thánh, nhưng đến những năm cuối cùng chị ấy mới bắt đầu quan tâm đến kinh thánh và lúc ấy thì Gottfried đã chết. Anh ngừng lại, cố đi đến một kết luận lô gích.

-Dần dần Harriet cũng phát hiện ra Gottfried không chỉ là một tên loạn luân mà còn là một kẻ giết người hàng loạt.

-Chúng ta không biết khi nào thì chị ấy phát hiện ra các vụ giết người. Có thể là ngay trước khi Gottfried chết đuối. Cũng có thể là sau nếu như lão ấy có nhật ký hay lưu cắt dán báo về các vụ đó. Một cái gì đó đưa chị ấy vào được lõng của lão ấy.

- Nhưng đó không phải là điều chị ấy doạ nói với Henrik - Blomvist nói.

- Là Martin - Salander nói - bố chị ấy đã chết nhưng Martin vẫn tiếp tục lạm dụng chị ấy.

- Đúng thế.

- Nhưng đó là năm trước khi chị ấy quyết định hành động.

- Em sẽ làm gì nếu em phát hiện bố em là tên giết người và hiếp anh trai em?

- Em giết luôn thằng khốn nạn - Salander nói, cái giọng lạnh lùng khiến cho anh tin.

Anh nhớ lại mặt cô khi đánh Martin Vanger.Anh cười chả vui chút nào.

- OK, nhưng Harriet không giống em.Gottfried chết nhưng chị ấy làm được một cái gì. Như thế cũng có ý nghĩa đấy. Khi Gottfried chết, Isabella cử Martin đi Uppsala. Hắn có thể về nhà dự lễ Noel hay một nghi lễ nào đó nhưng cả một năm sau đó hắn rất ít hay gặp Harriet, chị ấy cũng có thể ở xa hắn phần nào.

- Và bắt đầu nghiên cứu Kinh thánh.

- Và nay trong ánh sáng đó chúng ta biết chị ấy làm việc đó không hề vì một lý do tôn giáo nào cả. Có thể chị ấy chỉ muốn biết bố chị ấy đã đi đến thành ra cái thứ gì. Chị ấy nghiền ngẫm chuyện này cho đến lễ Ngày Trẻ con năm 1966. Rồi thình lình chị ấy thấy anh trai ở Jarnvagsgatan và hiểu ra là hắn đã trở lại.Chúng ta không biết hai anh em có nói chuyện với nhau không hay anh ta đã nói cái gì. Nhưng bất kể xảy ra chuyện gì thì Harriet cũng cảm thấy cần khẩn cấp về nhà nói với Henrik.

- Và rồi chị ấy mất tích.

Sau khi hai người rà lại chuỗi sự kiện thì hiểu ra phần còn lại của bài đố ghép hình chắc phải là như thế nào sẽ không còn khó nữa. Blomkvist và Salander đóng gói vali, ba lô lại trước khi rời đó, Blomkvist  gọi Frode bảo ông rằng anh và Salander có việc phải đi một thời gian nhưng anh cần phải gặp Henrik trước khi đi.

Blomvist cần biết Frode đã nói những gì với Henrik. Ông ta có vẻ căng thẳng trong điện thoại quá đến nỗi Blomkvist thấy lo ngại cho ông ta. Frode nói ông mới chỉ báo Henrik là Martin chết vì tai nạn xe hơi.

Sấm lại dậy khi Blomkvist đỗ xe ở bên ngoài bệnh viện Hedestad, và mây đen báo mưa lại một lần nữa đùn đến đầy trời. Anh vội rảo bước qua sân thì trời bắt đầu mưa xuống.

Henrik Vanger khoác một cái áo tắm, ngồi ở một cái bàn bên cửa sổ phòng ông. Bệnh hoạn đã để lại dấu vết nhưng mặt Henrik đã lấy lại đôi chút màu sắc, ông nom như đang ở trên đường hồi phục. Họ bắt tay nhau, Blomkvist đề nghị cô y tá để cho hai người nói chuyện riêng ít phút.

- Anh tránh tôi đấy nha. – Henrik nói.

Mikael gật đầu.

- Theo yêu cầu. Gia đình ông không muốn tôi đến, nhưng hôm nay ai cũng ở nhà Isabella.

- Tội nghiệp Martin.- Henrik nói.

- Henrik, ông trao cho tôi nhiệm vụ đào bới sự thật về chuyện gì đã xảy đến với Harriet. Ông có mong đợi sự thật không đau đớn không?

Ông già nhìn anh.Rồi mắt ông mở to ra.

- Martin?

- Anh ấy là một phần của câu chuyện.

Henrik nhắm mắt lại.

- Nay tôi có một câu muốn hỏi ông. - Blomkvist nói.

- Nói đi.

- Ông vẫn muốn biết điều gì đã xảy ra chứ? Cho dù chuyện đó quay ra lại là đau đớn, thậm chí sự thật lại còn  tệ hại hơn cả ông tưởng tượng nữa chứ?

Henrik nhìn Blomkvist hồi lâu, rồi ông nói:

- Tôi muốn biết. Đây là ý của tôi khi trao việc này cho anh.

- OK, tôi nghĩ tôi biết chuyện gì đã xảy ra với Harriet. Nhưng vẫn còn thiếu một miếng cuối cùng của bài đố ghép hình cho nên tôi chưa dám chắc.

- Anh nói tôi xem.

- Không, hôm nay thì chưa được.Cái điều ngay bây giờ tôi muốn ông làm là nghỉ ngơi. Các bác sĩ nói cơn nguy kịch đã qua rồi và tình hình của ông đang khá lên.

- Anh bạn trẻ, chớ cư xử với tôi như một đứa trẻ nha.

- Tôi chưa tìm xong được tất cả câu chuyện. Tôi mới có về lý lẽ thôi. Tôi đang đi tìm miếng hình cuối cùng để ghép vào. Lần sau ông gặp tôi, tôi sẽ bảo ông toàn bộ câu chuyện. Có thể mất một thời gian nhưng xin ông biết cho là tôi sẽ quay lại và ông sẽ biết sự thật.

Salander kéo tấm vải cao su lên che cái xe máy để ở bên phía râm của căn nhà gỗ nhỏ. Rồi cô lên chiếc xe hơi Blomkvist mượn. Cơn dông đã lại bắt đầu dữ dội thêm và ngay ở phía nam của Gavle đã có một trận mưa lớn khiến Blomkvist không nhận được ra đường. Để an toàn, anh cho xe vào một trạm xăng. Chờ mưa tạnh cho nên mãi 7 giờ tối hôm ấy họ mới đến được Stockhom. Blomkvist cho Salander mã khóa bảo hiểm của tòa nhà của anh rồi thả cô xuống giữa đường xe điện ngầm trung tâm. Căn nhà của anh trông không ra chốn quen thuộc.

Anh chạy máy hút bụi rồi lau chùi bàn ghế trong khi Salander đi gặp Dịch bệnh. Cô đến nhà Blomkvist vào quãng nửa đêm và bỏ mười phút ra xem xét các xó xỉnh, khe nứt, vết rạn của căn nhà. Rồi cô đứng một lúc lâu ở cửa sổ, nhìn khung cảnh đối diện với các cửa cổng ở Slussen.

Họ cởi quần rồi đi ngủ.

Trưa hôm sau, họ đổ bộ xuống sân bay Gatwick London. Họ lại gặp mưa. Blomkvist thuê một phòng ở khách sạn James gần quảng trường Hyde Park, một khách sạn khá so với tất cả các chỗ một sao ở Bayswater, nơi trong các chuyến đến London trước đây anh thường đến trọ.

5 giờ chiều họ đứng ở quầy bar thì có một anh chàng đi đến. Gần như hói, bộ râu cằm màu vàng, anh ta mặc quần jean và chiếc jacket to quá cỡ.

- Vò vẽ?

- Chúa Ba Ngôi?- cô nói. Hai người gật đầu với nhau. Anh ta không hỏi tên Blomkvist.

Người đối tác của Chúa Ba Ngôi được giới thiệu là Bob Chó. Anh ta ngồi trong một chiếc xe tải VW đỗ ở gần góc đường. Họ lên xe qua cửa lùa rồi ngồi xuống những chiếc ghế gập chốt chặt vào sườn xe. Trong khi Bob lái thì Vò Vẽ và Chúa Ba Ngôi nói chuyện.

- Dịch bệnh nói cái này là dính đến trò dỏng tai liếc mắt nào đó.

- Nghe lỏm điện thoại và kiểm tra thư điện tử của một máy tính. Có thể làm nhanh hay là mất một hai ngày, tùy theo sức anh ta ép đến đâu.- Lisbeth chỉ trỏ ngón tay cái về Blomkvist- Cậu có làm được không?

- Chó có rận có bọ không?- Chúa Ba Ngôi nói.

Anita Vanger sống trong một ngôi nhà mái bằng ở ngoại ô hấp dẫn của khu Thánh Albans, mạn bắc cách một giờ xe. Trong xe tải, họ thấy chị đi đến nhà mở khóa cửa, quãng sau 7 giờ rưỡi tối hôm ấy. Họ chờ cho chị yên vị, ăn bữa tối nhẹ xong ngồi vào trước tivi rồi Blomkvist mới bấm chuông.

Một bản sao giống gần như đúc với Cecilia Vanger mở cửa, vẻ mặt lịch sự dò hỏi.

- Chào Anita, tôi là Mikael Blomkvist. Henrik Vanger bảo tôi đến gặp chị. Tôi cho là chị đã biết tin về Martin.

Từ ngạc nhiên mặt chị chuyển sang thành cảnh giác. Chị biết đích xác Blomkvist là ai nhưng cái tên Henrik có nghĩa là chị buộc phải mở cửa. Chị đưa anh vào phòng khách. Anh để ý thấy một bức tranh in đá của Anders Zorn ở trên lò sưởi. Gian phòng này có thể nói là đáng yêu.

- Xin lỗi là tôi đã đường đột quấy rầy chị nhưng tôi tình cờ qua khu Thánh Albans và tôi đã cố gọi chị trong ngày.

- Tôi hiểu. Xin cho biết là chuyện gì ạ.

- Chị có định đến dự tang lễ không?

- Không , quả thật là không. Tôi và Martin không thân nhau và muốn sao tôi cũng không thể đi xa vào lúc này được.

Anita Vanger đã ở xa Hedestad ba chục năm. Sau khi bố chị quay về đảo Hedeby, chị hiếm khi đặt chân lên đó.

- Tôi muốn biết chuyện gì đã xảy ra với Harriet Vanger, Anita. Đến lúc nói sự thật rồi.

- Harriet? Tôi không hiểu anh định nói gì.

Blomkvist mỉm cười với vẻ ngạc nhiên giả bộ của chị.

- Chị là người bạn thân nhất của Harriet ở trong gia đình. Chị là người duy nhất chị ấy kể cho nghe câu chuyện hãi hùng của chị ấy.

- Cái điều anh vừa nói ấy, tôi không nghĩ ra nổi đâu. - Anita nói.

- Anita, chị ở trong buồng của Harriet hôm ấy. Tôi có bằng chứng về việc này ở trong ảnh, dù chị đã nói với cảnh sát điều tra Morell như thế nào đi nữa. Ít ngày nữa, tôi sẽ báo cáo với Henrik và ông ấy sẽ nghe ở đây. Tốt hơn là chị bảo tôi chuyện gì đã xảy ra.

Anita Vanger đứng lên.

- Ra ngay khỏi nhà tôi từ phút này.

Blomkvist đứng lên.

- Sớm muộn rồi chị cũng phải nói với tôi thôi mà.

- Bây giờ hay cả sau này nữa, tôi không có gì, không có cái gì hết để nói với anh cả.

- Martin chết rồi. - Blomkvist nói. - Chị không ưa Martin bao giờ. Tôi nghĩ chị chuyển đến London sống không phải chỉ để tránh gặp bố mà còn cả là để cho chị không phải gặp Martin. Như thế có nghĩa là chị cũng biết về Martin và người duy nhất có thể kể với chị là Harriet. Vấn đề là: chị làm gì với cái điều mà chị biết này cơ chứ?

Anita Vanger đóng sầm cửa vào mặt anh.

Salander thỏa mãn mỉm cười bỏ chiếc micro cài ở bên dưới sơ mi của cô ra.

- Cánh cửa vừa duỗi thẳng bản lề ra được mới hai chục giây là chị ta cầm ngay điện thoại lên. - Cô nói.

- Mã Australia, - Chúa Ba Ngôi nói, gỡ chiếc mũ nghe để xuống cái bàn nho nhỏ ở trong xe tải. - Tôi phải dò mã khu vực. - Anh mở máy tính xách tay. - OK. Chị ta gọi con số sau, nó là một điện thoại ở một thị trấn tên là Vũng Tennant, bắc suối Alice ở Lãnh thổ Bắc. Các cậu có muốn nghe câu chuyện không?

Blomkvist gật.

- Bây giờ ở Australia là mấy giờ?

- Khoảng 3 giờ sáng. - Chúa Ba Ngôi cho máy quay đĩa chạy và gắn loa vào đó. Mikael nghe chuông réo tám lần rồi một người cầm máy lên. Câu chuyện nói bằng tiếng Anh.

- Chào, tớ đây.

- Hem, tớ biết tớ là người dậy sớm thế nhưng…

- Tớ đã định gọi từ hôm qua cơ…Martin chết rồi. Hình như anh ta lái xe đâm vào một xe tải ngày hôm kia.

Im lặng. Rồi nghe như có ai dặng hắng nhưng cũng có thể là “Tốt”

- Nhưng chúng ta có một vấn đề. Một tay nhà báo kinh tởm mà Henrik móc được ở cái lỗ nào ra đã gõ vào cửa nhà tớ, ở tại Thánh Albans đây này. Hắn hỏi về những chuyện xảy ra từ 1966. Hắn biết một số.

Lại im lặng.Rồi một cái giọng chỉ huy.

- Anita. Bỏ ngay điện thoại xuống. Chúng mình không liên hệ với nhau một thời gian.

- Nhưng…

- Viết thư.Bảo tớ chuyện gì.

Và câu chuyện hết.

- Con mẹ này ghê gớm phết.- Salander nói.

Họ quay về khách sạn đúng trước 11 giờ. Nhân viên lễ tân giúp họ đặt vé máy bay cho chuyến bay đi Australia sắp tới. Rồi họ mua được vé trên một máy bay rời đây tối mai, hồi 7 giờ 05 đi Melbourne, nghỉ giữa chừng ở Singapore.

Đây là lần đầu tiên Salander thăm London. Buổi sáng họ đi dạo từ Vonvent Garden đến Soho. Họ dừng lại uống café ở phố cổ Compton. Quãng 3 giờ họ về khách sạn để thu dọn hành lý. Trong khi Blomkvist thanh toán tiền khách sạn, Salander mở di động. Cô có một tin nhắn.

- Armansky bảo gọi ngay.

Cô dùng điện thoại ở gian sảnh. Đứng xa cô một chút, Blomkvist để ý thấy cô quay lại phía anh với một bộ mặt lạnh băng. Anh lập tức đến cạnh cô.

- Gì thế?

- Mẹ em chết. Em phải về nhà.

Salander nom đau khổ khiến anh quàng tay ôm quanh người cô. Cô đẩy anh ra.

Họ ngồi ở quầy bar khách sạn. Khi Blomkvist nói có thể hủy vé đi Australia và trở về Stockhom với cô thì cô lắc đầu.

- Không. - Cô nói - Chúng ta không thể bỏ dở công việc bây giờ. Anh cần phải tự đi riêng một mình.

Họ chia tay ở trước khách sạn, người nào đi đến sây bay của người nấy.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro