Co Gai Do Long 62 - 77

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Vô Kỵ liền gọi với:

- Hãy khoan đã! Nếu không để thuốc cao Hắc Ngọc Ðoạn Tục lại thì các người đừng mong rời khỏi núi Võ Ðang này!

Nói xong, chàng tung người đuổi theo, giơ tay ra định chộp lấy đầu vai của Triệu Minh. Tay của chàng còn cách hơn thước đã chộp tới đầu vai của Triệu Minh, chàng bỗng cảm thấy có hai luồng quyền phong ở tả hữu lẳng lặng tấn công tới.

Chàng kinh hãi vô cùng, vội thu chưởng lại để chống đỡ hai luồng quyền phong kia...

Vô Kỵ thu tay lại, đưa song chưởng ra, chưởng bên phải của chàng chống đỡ quyền phong ở bên phải đánh tới, chưởng trái của chàng đỡ thế công của địch ở bên trái, thế là bốn chưởng va chạm nhau. Chàng liền cảm thấy sức lực của đối phương rất mạnh và chưởng lực của hai kẻ địch đó lại còn xen lẫn một hơi lạnh giá buốt vô cùng!

Chàng nhận ra ngay đó là Huyền Minh Thần Chưởng, vì hơi lạnh này đã làm nguy chàng khá lâu năm rồi!

Chàng kinh hãi vô cùng, liền vận Cửu Dương Thần Công ra chống đỡ.

Chàng đột nhiên thấy hai bên hông bị kẻ địch đánh mỗi một bên chưởng.

Chàng kêu "hự" một tiếng, người bắn lui về phía sau.

Chàng đã nhìn thấy rõ hai kẻ địch đánh lén mình là hai ông già vừa gầy vừa cao.

Dương Tiêu, Nhất Tiếu thấy hai ông già nọ đánh lén Vô Kỵ như vậy liền cả giận xông lại.

Hai ông già nọ lại múa chưởng ra chống đỡ luôn chưởng của Dương Tiêu và Nhất Tiếu, chỉ nghe thấy kêu "bùng! bùng!" hai tiếng, Nhất Tiếu và Dương Tiêu cùng bị bắn lùi về phía sau mấy bước và cảm thấy máu trong người đảo ngược, hơi lạnh buốt xương nữa! Hai ông già kia cũng loạng choạng mấy bước mới đứng yên được!

Ông già bên phải liền cười nhạt nói:

- Tưởng Minh Giáo lợi hại như thế nào, không ngờ lại chỉ có thế thôi!

Nói xong y quay người trở lại bảo vệ Triệu Minh đi luôn.

Mọi người sợ Vô Kỵ bị thương, vội quây quần bên chàng xem sao nên không ai đuổi theo kẻ địch nữa.

Thiên Chính vội ẳm chàng lên, vẻ mặt lo âu nhưng chàng đã xua tay tỏ vẻ không việc gì, vì chàng đã phát động Cửu Dương Thần Công đầy hơi lạnh của Huyền Minh chưởng ra khỏi thân người rồi!

Vô Kỵ thấy mọi người vẫn tỏ vẻ lo âu liền lên tiếng nói:

- Ông ngoại với các vị tiên sanh khỏi lo âu, tôi không việc gì cả. Các vị hãy đứng lui ra, bằng không chịu không nổi những hơi lạnh mà tôi đang dồn ở trong người ra.

Mấy người đứng cạnh công lực hơi kém đang run lẩy bẩy.

Mọi người thấy chàng đã lên tiếng nói được mới yên chí và tuân lời đứng lùi ra phía xa. Giây phút sau mọi người thấy trên đỉnh đầu của chàng có hơi khói trắng bốc lên và thấy chàng cởi áo ngoài ra mới hay hai bên hông của chàng có hai dấu vết bàn tay đen sì, nhưng chỉ trong thoáng cái, hai dấu vết đó đã biến thành màu tía rồi màu tía biến thành màu xám và lu mờ dần cho chí hết.

Trước sau không đầy nửa tiếng đồng hồ mà chàng đã dồn được hết những hơi hàn độc đó ra mà trước kia chàng cũng bị hơi hàn độc này phải chịu khổ mấy năm mà trải qua rất nhiều danh sư, kể cả Trương Tam Phong cũng không sao chữa khỏi cho chàng được!

Vô Kỵ đứng dậy vừa cười vừa nói:

- Tuy phen này trải qua một cuộc rất nguy hiểm, nhưng chúng ta đã nhận ra được mặt mũi của đối thủ.

Lúc Dương Tiêu, Nhất Tiếu đối chưởng với hai ông già kia đã giở hết toàn lực ra đối địch, vì thế âm độc Huyền Minh chỉ xâm nhập đến cổ tay thôi chứ không thể xâm nhập vào thân thể của hai người được, nhưhg hai người vẫn phải ngồi xếp bằng tròn vận khí để dồn hơi độc đó ra. Hai người phải mất hêt hơn hai tiếng đồng hồ mới dồn hết hơi độc đó ra.

Lúc ấy Ngô Kình Thảo, Chưởng Kỳ sứ của Nhuệ Kim Kỳ bước vào bẩm kẻ địch đã rút khỏi núi Võ Ðang rồi!

Ðại Nham liền bảo đạo sĩ tri khách sửa soạn cơm chay để khoản đãi các người của Minh Giáo.

Trong bữa tiệc, Vô Kỵ liền nói rõ hết nguyên nhân cho Ðại Nham nghe.

Tam Phong liền hỏi:

- Năm nọ cũng trên điện Tam Thanh này, ta đã đối một chưởng với một trong hai ông già đó, nói ra thật xấu hổ. Cho tới ngày hôm nay chúng ta vẫn chưa biết rõ lai lịch của kẻ địch ra sao.

Dương Tiêu vội đỡ lời:

- Chúng tôi không hiểu lai lịch của thiếu nữ họ Triệu! Huyền Minh nhị lão có võ nghệ cao siêu như thế mà chịu để nàng sai bảo thật là lạ.

Vô Kỵ xen lời nói:

- Bây giờ có hai việc lớn cần phải làm ngay. Việc thứ nhất là chúng ta phải đi cướp cho được thuốc cao Hắc Ngọc Ðoạn Tục để chữa cho Dư Tam Sư bá và Hân Lục thúc. Việc thứ hai là phải dò xét xem là hiện giờ Tống Ðại Sư bá ở đâu? Cả hai việc đó chỉ bắt được cô bé họ Triệu là xong hết!

Ðại Nham gượng cười lên tiếng:

- Ta tàn phế hai mươi năm rồi, bây giờ dù có thuốc tiên cũng không thể nào chữa khỏi được, chỉ có việc cứu Tống Ðại Ca với chữa cho Lục Sư đệ là cần hơn hết!

Vô Kỵ đáp:

- Vâng! Việc này không nên trì hoãn, mời Dương Tả sứ, Vi Bức Vương, Nói Không Ðược Ðại sư ba người cùng tôi xuống núi đuổi theo kẻ địch! Ngũ Hành Kỳ, mỗi kỳ phái một vị Chưởng kỳ phó sứ đi Nga Mi, Hoa Sơn, Côn Luân, Không Ðộng và Nam Thiếu Lâm ở Phúc Kiến năm nơi, liên lạc với các môn phái đó để dò thăm tin tức. Xin mời ông ngoại với cậu đi Giang Nam chỉnh đốn lại giáo chúng của Bạch Mi Kỳ. Còn Thiết Quan Ðạo Chưởng, Chu tiên sinh, Bành Ðại Sư và Chưởng Kỳ sứ của Ngũ Hành Kỳ hãy tạm đồn trú ở trên Võ Ðang này. Nhưng việc gì cũng phải nghe Thái sư phụ của tôi là Trương Chân Nhân chỉ bảo.

Chàng dặn bảo xong, Thiên Chính, Dương Tiêu, Nhất Tiếu đứng dậy nhận lệnh.

Ban đầu Tam Phong còn hoài nghi chàng còn ít tuổi như vậy thì làm sao mà thống trị nổi quần hào.

Lúc này Chân Nhân thấy chàng đặt kế hoạch ra lệnh rất oai nghi, đồng thời lại thấy các đại hào kiệt trong võ lâm như Thiên Chính... đều nghe lệnh chàng răm rắp nên Chân Nhân mừng thầm và nghĩ:

- Lúc nãy ta thấy nó học được Thái Cực Quyền và kiếm của ta,ta chỉ cho nó nội công cao thâm và có bộ óc thông minh thôi, tuy học được nhanh chóng như nó cũng đã khá lắm rồi. Nhưng như vậy vẫn chưa phải là đáng quý. Bây giờ ta thấy nó có tài cai quản được Minh Giáo khiến các Ðại Ma đầu như cha con Thiên Chính mà cũng phải nghe theo lời y đi theo con đường chính đạo. Việc như vậy mới là đại sự mà ít người có thể làm nổi. Hi... Hi... Thúy Sơn đã có người kế hậu!... Thúy Sơn đã có người kế hậu!...

Nghĩ tới đó Chân Nhân vuốt râu mỉm cười.

- Vô Kỵ cùng Dương Tiêu, Nhất Tiếu và Nói Không Ðược ăn qua loa cho đỡ đói rồi từ biệt Trương Tam Phong xuống núi tìm tung tích của Triệu Minh. Bọn Thiên Chính tiễn chàng với ba người kia xuống tận chân núi rồi mới từ biệt.

Bất Hối vẫn quyến luyến theo cha.

Nàng tiễn chân hơn dặm đường nữa, Dương Tiêu liền nói:

- Thôi con hãy trở về trông nom Hân Lục thúc!

Bất Hối vâng lời đưa mắt nhìn Vô Kỵ rồi đột nhiên mắc cỡ mặt đỏ bừng khẽ nói:

- Vô Kỵ đại ca! Em có mấy lời muốn thưa cùng anh!

Dương Tiêu và Nói Không Ðược ba người thấy vừa cười thầm và nghĩ:

- Hai người chơi với nhau từ hồi còn nhỏ, nay phải chia tay với nhau thế nào lại không có chuyện tư riêng nói với nhau!

Nghĩ vậy ba người rảo bước đi trước để cho Vô Kỵ và Bất Hối hai người nói chuyện riêng với nhau.

Bất Hối thấy mọi người đi khỏi liền lên tiếng nói tiếp:

- Vô Kỵ đại ca lại đằng này để em thưa chuyện!

Nói xong nàng dắt tay chàng đi tới tảng đá ở dưới chân núi, ngồi xuống.

Vô Kỵ hoài nghi vô chuyện và nghĩ:

- Ta quen biết nàng từ hồi còn nhỏ, tình giao hảo giữa đôi ta rất mật thiết. Nhưng lần này, không hiểu tại sao nàng lại có vẻ lạnh lùng không thèm nói chuyện với ta như vậy? Vì lẽ gì nàng lại gọi ta ra ngoài này nói chuyện?

Bất Hối mặt đã đỏ hơn trước cúi đầu giây lát rồi mới nói được:

- Vô Kỵ đại ca! Lúc má em tạ thế có nhờ đại ca trông nom em phải không?

- Phải!

- Ðại ca không quản ngại xa xôi lên tận Tây Vực giao em cho cha em. Trong khi đi đườngphải vào sinh ra tử, trải qua không biết bao nhiêu gian truân khổ sở, ơn đức ấy em không biết lấy gì báo đền cho đặng. Em chỉ in sâu trong đáy lòng chứ không dám thưa cùng đại ca lời nào cả!

- Tưởng cô nương nói gì chứ việc đó hà tất cô phải nói đến. Nếu tôi không đưa cô lên Tây Vực thì tôi gì có những sự gặp gỡ may mắn này? Và có lẽ lúc này hơi hàn độc ở trong người tôi làm nguy, tôi đã chết từ lâu rồi!...

- Không! Không! Ðại ca là người hiệp nghĩa như thế nên dù gặp nguy hiểm đến đâu, cũng thoát nạn! Ðại ca mồ côi cha mẹ từ hồi nhỏ, vì thế em có nhiều chuyện không dám thưa với đại ca. Ðại ca là giáo chủ của tất cả mọi người nhưng trong thâm tâm em thì em vẫn coi đại ca như một người anh ruột vậy. Ngày nọ trên Quang Minh Ðỉnh, em thấy đại ca bình yên vô sự trở về, lòng em mừng khôn tả! Nhưng em không tiện nói chuyện thẳng với đại ca chẳng hay đại ca có trách em không?

- Không trách! Tất nhiên tôi không trách!

- Em đối đãi với Tiểu Siêu rất hung ác và rất tàn nhẫn, chắc đại ca thế nào cũng phật lòng? Nhưng đại ca nên hiểu cho, mẹ em chết thảm thương như vậy, nên đối với kẻ ác nào em cũng oán hận. Nhưng từ khi em thấy Tiểu Siêu hầu hạ đại ca chu đáo như vậy, em không còn oán Tiểu Siêu nữa!

- Con nhãi... con Tiểu Siêu lạ lùng lắm! Nhưng tôi thấy nàng không phải là một người xấu!

- Vô Kỵ đại ca! Có phải cha mẹ em đã không tốt với Hân... Lục thúc không?

- Chuyện quá khứ cô còn nhắc đến nữa mà làm chi?

- Không! Người khác cho câu chuyện trải qua đã lâu thật. Nhưng với Hân Lục thúc, em thấy Lục thúc vẫn còn nhớ má em. Lần này Lục thúc bị thương nặng, ngày đêm mê man bất tỉnh, và cứ luôn luôn nắm chặt lấy tay em kêu gọi: Hiểu Phù! Hiểu Phù...

Lục thúc lại còn nói: Hiểu Phù! Em đừng rời bỏ anh nữa! Chân tay anh đã què hết. Anh đã là một con người tàn phế, em đừng bỏ anh nữa...

Bất Hối nói đến đây nước mắt ràn rụa.

Vô Kỵ an ủi:

- Ðó là lời nói trong lúc mê sảng của Lục thúc, hà tất cô phải để ý làm gì?

- Không phải! Ðại ca không biết đâu! Em biết rõ lắm, khi Lục thúc tỉnh táo mở to mắt nhìn em cũng nói như vậy, đủ thấy lời nói của Lục thúc không giả dối chút nào!

Vô Kỵ thở dài một tiếng, chàng biết vị sư thúc đó võ công tuy rất cao cường nhưng người lại rất nặng tình. Hồi chàng còn nhỏ vẫn thường thấy Lợ Hanh chỉ vì một hai chuyện nhỏ mọn nào đó cũng có thể khóc dễ dàng. Chàng biết cái chết của Hiểu Phù đã kích thích Lợi Hanh rất nhiều, nhất là lúc này vị sư thúc đó lại đang bị tàn phế, nên trong lòng mới hoang mang.

Nghĩ vậy Vô Kỵ liền nói tiếp:

- Tôi sẽ cố gắng cướp được Hắc Ngọc Ðoan Tục Cao để chữa cho Tam Sư Bá và Lục sư thúc được lành mạnh!

Hân Lục thúc đối đãi với em như vậy, em càng nghĩ tới lỗi lớn của cha mẹ em đối với Lục thúc và em càng thương hại ông ta...Vô Kỵ đại ca! Em đã nhận lời Hân... Hân Lục thúc rồi!... Dù tay chân của Lục Thúc có khỏi hay không em cũng hầu hạ Lục thúc suốt đời, không bao giờ chịu rời khỏi Lục thúc nữa!...

Nói đến đây, nàng khóc rưng rức, mặt nàng có vẻ xấu hổ nhưng cũng ẩn sự mừng thầm.

Vô Kỵ thấy Bất Hối nói như vậy, giật mình kinh hãi, không ngờ nàng thương hại Lợi Hanh đến mức đó!

Vô Kỵ kinh ngạc đến nỗi chỉ gọi:

- Cô... cô...

- Em đã nói trắng ra với Lục sư thúc rồi! Em vui lòng theo ông ấy suốt đời, dù suốt đời ông ta vẫn tàn tật như thế này.

- Nhưng cô...

- Không phải nhất thời xúc động mà em nhận lời ông ta đâu, em đã nghĩ kỹ lắm rồi! Không những ông ta không thể xa được em mà em cũng không thể nào xa được ông ta! Nếu vết thương của ông ta chữa không khỏi và nếu vì thế mà ông ta có mệnh hệ nào thì em chả muốn sống nữa.

Bỗng Bất Hối nắm tay Vô Kỵ và nhìn thẳng vào mặt chàng. Nhưng rồi nàng bỗng xấu hổ, mặt đỏ bừng, quay đầu ù té chạy luôn...

Vô Kỵ chờ khuất bóng Bất Hối mới đuổi theo Nhất Tiếu các người.

Nói Không Ðược và Nhất Tiếu thấy nơi khoé mắt của chàng hơi ướt, liền đưa mắt nhìn Dương Tiêu tủm tỉm cười.

Hai người tưởng lầm là Vô Kỵ đã yêu Bất Hối và hai người sắp lấy nhau.

Bốn người ra khỏi dãy núi Võ Ðang, Dương Tiêu liền lên tiếng hỏi:

- Triệu cô nương đi đến đâu cũng tiền hô hậu ủng. Như vậy, việc kiếm tìm nàng không khó chút nào. Bây giờ chúng ta hãy chia làm bốn ngả mà tìm kiếm. Trưa mai chúng ta sẽ gặp nhau ở Cốc Thành. Chẳng hay Giáo chủ nghĩ sao?

Vô Kỵ đáp:

- Hay lắm! Như vậy tôi đi về phía Tây!

Cốc thành ở về phía Ðông của dãy núi Võ Ðang.

Vô Kỵ đi về phía Tây sẽ phải mất nhiều đường hơn mọi người.

Trước khi đi chàng còn dặn bảo ba người kia rằng:

- Huyền Minh nhị lão võ công rất lợ hại, nếu ba vị gặp nọ có thể tránh được thì tránh, không nên mạo hiểm ra tay đấu với họ làm chi?

Ba người đều nhận lời, liền vái chào chàng đi mỗi người một phương.

Vô Kỵ đi về phía Tây, đường núi rất khó đi nên chàng phải giở khinh công ra đi.

Ði được hơn tiếng đồng hồ chàng đã tới thị trấn Thập Yết, chàng vào trong tiệm ăn gọi tô mì.

Trong khi ăn, chàng hỏi người phổ ky có thấy cái kiệu phủ đoạn vàng nào đi qua đây không?

Người phổ ky đáp:

- Thưa có! Còn có ba người bị bệnh nặng nằm trên ba cái cáng nữa. Họ đã đi cả về phía Tây, có lẽ đi về thị trấn Hoàng Long cũng nên? họ mới đi chừng một tiếng đồng hồ thôi!

Vô Kỵ thấy người phổ ky ấy nói như vậy, mừng rỡ vô cùng bèn nghĩ thầm:

- Bọn người này đi không nhanh đâu! Chi bằng ta chờ tới lúc trời tối hẳn rồi hảy đuổi theo cũng không muộn và khỏi lộ hành tung!

Nghĩ đoạn chàng đi tới một chỗ vắng vẻ, kiếm một tảng đá lớn ngủ tạm chờ đến canh một mới tiến thẳng tới Hoàng Long trấn.

Khi đi tới thị trấn đó, trời mới canh hai, Vô Kỵ núp sau góc tường, thấy trên đường phố vắng, không có một bóng người nào lại cả, chỉ có một khách điếm ở gần đó vẫn còn mở cửa, bên trong đèn đuốc sáng choang.

Chàng muốn điều tra rõ lai lịch của Triệu Minh nên đành phải liều lĩnh giở khinh công tuyệt kỹ ra, tung mình nhảy lên trên nóc nhà, chàng nhảy qua mấy nóc nhà đã tới nóc khách điếm.

Trong bóng tối, chàng đưa mắt nhìn về phía xa, thấy trên bờ sông ngoài thị trấn có dựng một lều vải.

Trước sau lều đều có thấp thoáng bóng người.

Chàng biết những người đó là những ke canh gác mới nghĩ thầm:

- Chẳng lẽ Triệu cô nương lại trong cái lều vải kia? Diện mạo ngôn ngữ của nàng như người hán, nhưng việc ăn ở lại giống người Mông Cổ .

Chàng đang nghĩ ngợi bỗng nghe có tiếng người rên từ cửa sổ khách điếm vọng ra. Chàng bèn nghĩ ra một kế, rón rén lại gần cửa sổ, vén màn nhìn vào trong, thấy có ba người nằm trên ba cái giường.

Chàng trông thấy mặt người nằm gần bên cửa sổ chính là Vũ Văn Sách.

Y đang rên rỉ. Chắc vết thương đau đớn lắm! Hai cánh tay và hai đùi của y đều băng bó vải trắng, chàng sực nghĩ:

- Chân tay của y bị ta đánh gãy, chắc thế nào y cũng dùng thứ thuốc cao đó băng bó, lúc này mà ta không vào cướp m1on thuốc đó đi thì còn đợi chừng nào nữa?

Nghĩ đoạn, chàng đẩy cửa sổ rồi nhảy luôn vào phòng.

Người đứng ở trong phòng thốt nhiên giật mình kinh hãi, thất thanh kêu là một tiến rồi múa quyền nhằm chàng tấn công luôn.

Vô Kỵ chộp luôn quyền của đối thủ và điểm luôn yếu huyệt cho kẻ địch bị tê liệt ngay.

Lúc này chàng đã thấy rõ hai người nằm ở hai giường kia là thằng Hai với Ðông Phương Bạch, còn người vừa bị chàng điểm huyệt cho tê liệt, mình mặc áo vải xanh, tay cầm hai mũi kim vàng, chàng đoán chắc người này đang châm cứu cho ba người kia khỏi đau nhức.

Trên bàn chàng thấy có để một cái bình màu đen, cạnh bình mấy miếng vải nhung.

Chàng vội cướp luôn cái bình đen đó mở nút ra ngửi liền thấy có một mùi vừa cay vừa hăng xông lên mũi.

Văn Sách liền la lớn:

- Có người đến cướp thuốc...

Vô Kỵ vội ra tay điểm luôn cho ba người nằm ở trên giường câm khẩu hết. Ðồng thời chàng xé miếng vải băng bó trên cánh tay Văn Sách ra xem.

Quả nhiên chàng thấy miếng vải đó có bôi thuốc cao đen nhánh.

Chàng biết Triệu Minh đa mưu lắm kế cố ý để bình thuốc giả lại để cho mình bị mắc hởm, nên chàng lại bóc thuốc cao dán ở những vết thương của thằng Hai và Văn Sách, bọc vào trong miếng vải và nghĩ thầm:

- Dù trong bình này là giả đi chăng nữa, nhưng những thuốc trên vết thương của chúng tất nhiên không phải là thuốc giả rồi...

Lúc này người canh gác bên ngoài đó tung cửa phòng bước vào.

Vô Kỵ không thèm nhìn người đó, chỉ giở chân lên đá luôn.

Trong khách sạn có tiếng ồn ào và liên tiếp có rất nhiều người xông vào phòng.

Chàng liên tiếp đá luôn sáu người té ngã và tay chàng đã bóc hết thuốc cao ở các vết thương của thằng Hai và Văn Sách rồi.

Chàng nghĩ thầm:

- Nếu lúc này ta không đào tẩu ngay nhở Huyền Minh nhị lão tới nơi thì phiền phức lắm!

Nghĩ đoạn, chàng bèn bỏ bình thuốc và những thuốc cao bóc được vào trong túi rồi cắp luôn người y sĩ nằm dưới đất nhảy ra cửa sổ, đi liền!...

Chàng vừa ra khỏi cửa sổ thì y sĩ bị chàng cắp dưới nách đã bị đánh một chưởng rớt xuống đất.

Không ngờ, ngoài cửa sổ lại có cao thủ mai phục và đánh lén như vậy, chàng vừa nhảy ra cửa sổ đó đã có hai người cầm đao nhảy ra múa đánh.

Chàng vội giở Càn Khôn Ðại Nã Di Tâm Pháp ra lôi khí giới của hai tên đó để chúng nó tự đâm chém lẫn nhau.

Trong lúc hỗn loạn, chàng nhanh chân đào tẩu luôn.

Lúc này chàng không kịp đi tới Cốc Thành đợi chờ Dương Tiêu các người, mà phải trở ngay về núi Võ Ðang.

Chàng sai người của Hồng Thủy Kỳ đi Cốc Thành gọi bọn Dương Tiêu về ngay núi Võ Ðang.

Trương Tam Phong thấy Vô kỵ đã cướp được Hắc Ngọc Ðoạn Tục Cao, mừng rỡ vô cùng.

Vô Kỵ lấy thuốc cao bóc ở vết thương của Văn Sách ra so sánh với thuốc cao trong lọ. Quả thật là một thứ bình đựng thuốc cao đó chế bằng một viên ngọc lớn đen nhánh sờ tay vào thấy ấm ấm. Thật là thứ bình quý hiếm có.

Vô Kỵ không hoài nghi gì nữa, sai người khiêng Lợi Hanh vào trong phòng Ðại Nham để sát hai giường gần nhau.

Bất Hối theo vào, nhưng nàng không dám nhìn mặt Vô Kỵ.

Tuy mặt nàng vẫn tỏ vẻ cám ơn Vô Kỵ vô cùng.

Vô Kỵ nói với Ðại Nham:

- Tam sư bá, những vết thương cũ của sư bá đã liền da, bây giờ chữa lại, cháu phải đánh gãy những khớp xương đã nối liền, rồi nối lại. Như vậy thế nào cũng đau đớn lắm, mong sư bá chịu đựng đôi chút.

Ðại Nham không tin mình tàn tật đã hai mươi năm mà lúc này còn có thể chữa khỏi được, nhưng Tam Hiệp không dám nói ra, chỉ nghĩ thầm:

- Vô Kỵ muốn gỡ tội cho cha mẹ, y đã tận tâm đi lấy thuốc cao, nếu không để cho y chữa khỏi suốt đời y sẽ không yên. Ta chịu đau chốc lát đã sao đâu?

Nghĩ đoạn, Tam hiệp mỉm cười đáp:

- Cháu cứ yên trí chữa. Dù có đau đến đâu, ta cũng chịu được.

Vô Kỵ bảo Bất Hối đi ra ngoài, rồi đóng cửa lại, cởi hết quần áo Ðại Nham ra.

Chàng sờ mó, nhưng chỗ xương bị gãy đã liền lặn, nhiên hậu điểm huyệt cho Ðại Nham ngủ say, chàng mới vận sức vào đôi ngón tay, khẽ gõ vào những khớp xương đã gãy trên người đại Nham.

Tuy bị điểm huyệt ngủ, Ðại Nham vẫn thấy đau và tỉnh lại.

Vô Kỵ vội vàng lấy thuôc cao Hắc Ngọc Ðoạn Tục dán vào những chỗ xương của Ðại Nham mà chàng vừa đánh gãy, và băng bó lại, rồi chàng chữa cho Lợi Hanh.

Khi băng bó cho người Lục sư thúc đã xong, Vô Kỵ thấy mồ hôi đã ướt đẫm.

Chàng liền phái chính phó chưởng kỳ sứ của Ngũ hành kỳ lần lượt canh gác cho hai người ngủ, đề phòng kẻ địch khỏi tới quấy nhiễu.

Chiều hôm đó, vì quá mỏi mệt, chàng vào trong phòng nghỉ ngơi.

Trong lúc mơ màng bỗng nghe tiếng chân người đi rất khẽ và có người đứng ở trước cửa phòng ngó vào nhưng chàng đã nghe thấy Tiểu Siêu hỏi:

- Có việc gì thế? Giáo Chủ đang ngủ.

Chưởng kỳ sứ của hậu thổ Kỳ khẽ trả lời:

- Hân Lục hiệp đau đến chết giấc ba lần, không biết Giáo chủ...

Vô Kỵ nghe Nhân Bổn chưa nói dứt câu, đã vội chạy ra ngoài phòng và chạy tới phòng Ðại Nham.

Chàng thấy Lợi Hanh trợn ngược hai mắt, lại chết giấc lần nữa.

Bất Hối lo âu, nước mắt nhỏ ròng.

Còn Ðại Nham thì nghiến răng chịu đựng.

Tam Hiệp rất can trường, dù đau dớn đến đâu cũng không rên nửa tiếng. Thấy tình hình như vậy Vô Kỵ kinh hãi vô cùng, vội xoa bóp mấy yếu huyệt cho Lợi Hanh để cứu sư thúc đó lại tỉnh lại.

Ðồng thời chàng hỏi Ðại Nham rằng:

- Tam sư bá, có phải chỗ xương gãy đau lắm phải không?

Ðại Nham đáp:

- Không những đau mà gan ruột tạng phủ ngứa ngáy khó chịu... hình như, hình như có nghìn vạn con kiến đang chui rúc trong ấy vậy.

Nghe Ðại Nham nói như vậy Vô Kỵ càng kinh hãi thêm, chàng biết đó là hiện tượng trúng độc rất nặng.

Chàng lại hỏi Lợi Hanh:

- Lục thúc thấy sao?

Lợi Hanh đáp:

- Ðỏ kìa, tía kìa, xanh kìa, vàng, lắm kìa... ô đẹp mắt quá, lại có những trái cầu nhỏ bay múa quay đi quay lại... đẹp quá đẹp tuyệt, xem kìa, xem kìa...

Vô Kỵ thết lớn một tiếng và cũng suýt nữa thì chết giấc ngay. Chàng liền nghĩ tới trong cuốn sách Ðộc Kinh của Vương Nạn Cô có nói rằng "Thất trùng thất hoa cao, dùng bảy thứ độc trùng và bảy thứ hoa độc giả nát làm thành thuốc cao, kẻ trúng độc thoạt tiên, thấy nội tạng ngứa ngáy khó chịu như bị bảy thứ trùng cắn phải, sau lại thấy mắt hoa, trông thấy những màu sắc chói lọi và đẹp vô cùng như là bảy thứ hoa đang bay múa vậy..."

Càng nghĩ chàng càng hoảng sợ toát mồ hôi. Chàng biết phen này lại mắc hởm Triệu Minh lần nữa.

Thì ra bình thuốc cao đó không phải là Hắc Ngọc Ðoạn Tục cao mà là Thất Hoa Cao mà Văn sách và thằng Hai cùng bôi thứ thuốc có độc này Triệu Minh đã không thương tiếc tính mạng của hai tay cao thủ để dụ Vô Kỵ vào trong, lòng ác độc của nàng không thể tưởng tượng được.

Chàng vừa suy nghĩ vừa nhanh tay gỡ hết thốc cao ở trên vết thương của Ðại Nham và Lợi Hanh đi, rồi chàng lại dùng rượu trắng rửa sạch những vết thương cho hai người. Thấy vẻ mặt của chàng rất trịnh trọng, Bất Hối biết việc chẳng lành, nên nàng cũn gkhông giữ lễ gì nữa, giúp sức chàng lấy rượu rửa các vết rhương cho Lợi Hanh.

Vô Kỵ không dám dùng thuốc khác cứu chữa cho hai người, chỉ cho hai người uống thuốc đỡ đau và an thần thôi.

Chàng ra phòng ngoài, trong lòng vừa kinh hãi, vừa xấu hổ.

Quá mệt mỏi, chàng bỗng ngã khuỵu hai chân xuống và nằm phục dưới đất khóc lóc. Bất Hối chạy đến cạnh, thấy vậy kinh hãi vô cùng, liền lớn tiếng kêu gọi:

- Vô Kỵ, Vô Kỵ đại ca.

Vô Kỵ vừa nức nở vừa đáp:

- Tôi đã giết hại Tam sư bá và Hân Lục thúc.

Nói xong, chàng nghĩ thầm:

- Thứ cao độc ấy chế bằng hơn trăm món độc dược và không biết Triệu Minh đã dùng bảy thứ độc trùng và bảy htứ độc hoa nào, muốn hòa giải thứ thuốc độc rất mạnh ấy phải dùng phương pháp dĩ độc công độc mới được. Không biết rõ thuốc của họ nhỡ chữa lầm Tam sư bá, Lục sư thúc sẽ mất ngay.

Nghĩ đoạn, chàng từ từ đứng dậy, Bất Hối vội hỏi:

- Có phải hết cách chữa rồi phải không? Ðại ca cứ miễn cưỡng thử xem, may ra cứu được cũng chưa biết chừng?

Vô Kỵ chỉ lắc đầu chứ không nói năng gì hết.

Lúc này Bất Hối rất tự nhiên chứ không có vẻ gì kinh hoảng hết.

Chàng bỗng nghĩ lại lời nói của nàng vừa rồi, liền suy nghĩ tiếp:

- Nếu ta giết Tam sư bá và Lục sư thúc thì Bất Hối cũng vhết theo, như vậy ta đã giết một lúc ba người...

Chàng đang hoang mang, Ngô Kinh Thảo vừa đi đến trước cửa và thưa rằng:

- Thưa Giáo chủ, Triệu cô nương đã tới đang đứng ở ngoài cửa quan xin vào yết kiến Giáo chủ.

Vô Kỵ nghe thấy Minh đã tới, phẫn uất vô cùng, liền la lớn:

- Nàng ta đâu? Ta đang tìm nàng ấy đây.

Bất hối vội rút trường kiếm ra cầm ở tay, lớn bước đi theo.

Tiểu Siêu cũng gỡ hoa hạt châu cắm ở trên mái tóc xuống đưa cho Vô Kỵ và nói:

- Công tử, đem chiếc hoa này trả cho Triệu cô nương đi.

Vô Kỵ đưa mắt nhìn Tiểu Siêu và trong lòng nghĩ thầm:

- Cô bé này hiểu biết ý nghĩa của ta lắm! Ta đang thù hận cô bé họ Triệu .

Vô Kỵ, tay cầm kiếm, tay cầm chiếc hoa hạt châu rảo bước đi thẳng ra ngoài cửa quán. Chàng đã thấy Triệu Minh đứng một mình ở đó rồi.

Nàng ta đang cười, còn Huyền Minh nhị lão đang dắt ba con ngựa đứng ở chỗ cách xa nàng mười mấy trượng. Cả hai ông già đó đều quay mặt nhìn đi nơi khác.

Vừa trông Triệu Minh, Vô Kỵ đã nhảy ngay tới trước mặt nàng, một tay bắt lấy hai tay của nàng và một tay cầm kiếm, dí mũi kiếm vào ngực nàng quát hỏi:

- Mau đem thuốc giải tới đây cho ta.

Triệu Minh mỉm cười đáp:

- Giáo chủ đã uy hiếp tôi một lần, bây giờ lại muốn uy hiếp tôi lần nữa sao? Tôi tới thăm Giáo chủ thì tôi là khách, Giáo chủ đối đãi với khách như thế này à?

- Tôi muốn lấy thuốc giải, nếu cô không đưa thuốc giải cho tôi, cô đừng có hòng sống và tôi cũng vậy. cả hai ta cùng phải chết hết.

Mặt Triệu Minh hơi ửng đỏ, có vẻ hờn giận nói:

- Giáo chủ lạ thật. Giáo chủ muốn chết thì cứ việc chết, sao lại lôi cuốn tôi vào làm chi? Và còn bắt tôi chết theo để làm gì?

- Tôi không nói đùa với cô đâu, cô không đưa thuốc giải độc cho tôi thì cô phải chết theo tôi.

Triệu Minh thấy tay của Vô Kỵ đang nắm tay mình mà cứ run lẩy bẩy như người đang bị giá lạnh y, biết chàng quá khích động nên tay chân mới run như thế. Nàng lại cảm thấy gang bàn tay của chàng có một vật gì cứng rắn , vội hỏi:

- Tay Giáo chủ đang cầm vật gì thế?

- Hoa hạt châu, tôi định mang ra trả lại cho cô.

Nói xong, chàng giơ tay trái đã cắm chiếc hoa đó vào mái tóc của Triệu Minh liền, rồi chàng lại hạ tay xuống túm luôn chiếc tay đang buông xuôi của nàng.

Triệu Minh vội hỏi lại:

- Hoa này là của tôi đã tặng cho Giáo chủ, sao Giáo chủ lại không lấy?

- Cô đã làm cho tôi khốn khổ như vậy, tôi còn lấy đồ của cô làm chi nữa?

- Có thật Giáo chủ khôn g nhận đồ vật của tôi không? Vậy tại sao vừa gặp mặt Giáo chủ đã hỏi tôi lấy thuốc giải để làm gì?

Mỗi lần đấu khẩu, Vô Kỵ đều thua Triệu Minh , cả lần này cũng thế, chàng không sao trả lời được. Ðồng thời chàng nghĩ đến Tam sư bá và Lục sư thúc sắp chết đến nơi rồi, trong lòng đau đớn vô cùng, hai mắt đỏ ngầu suýt tí nữa nước mắt của chàng đã nhỏ giọt xuống. Chàng định lên tiếng van lơn, nhưng nghĩ đến thủ đoạn độc ác của Triệu Minh, chàng lại thôi, nhất định không chịu lép vế trước mặt nàng.

Lúc ấy, Thiên Chính các người đã hay tin, đều chạy ra ngoài cửa quan để xem, thấy Vô Kỵ đã Triệu Minh và Huyền Minh nhị lão thì đứng ở đằng xa, có vẻ dửng dưng, chứ không lo ngại chút nào. Mọi người liền đứng sang bên để xem.

Triệu Minh mỉm cười nói tiếp:

- Ðại ca là Giáo chủ của Minh Giáo, võ công cao cường nhất thiên hạ, nhưng hễ gặp việc gì nan giải, đại ca như một đứa trẻ thơ định khóc òa lên. Vừa rồi đại ca đã không phải không? Thật không biết xấu hổ. Ðại ca biết tôi đến đây để làm gì không? Vì tôi nghe thấy đại ca bị Huyền Minh nhị lão đánh trúng hai chưởng nên tôi phải tới đây để xem vết thương của đại ca ra sao, không ngờ vừa mới gặp mặt, đại ca cứ kêu sống kêu chết hoài, chẳng hay đại ca có chịu buông tay ra không?

Vô Kỵ nghĩ thầm:

- Dù ta có buông tay nàng cũng không thể nào tẩu thoát được .

Nghĩ đoạn, chàng liền buông tay Triệu Minh ra.

Triệu Minh đưa tay lên sờ vào chiếc hoa hạt châu rồi tủm tỉm cười và nói tiếp:

- Sao thế? Hình như đại ca không có bị thương gì cả?

- Huyền Minh thần chưởng có nghĩa lý gì đâu mà đả thương nổi tôi?

- Thế còn đại lực Kim Cương chỉ thì sao? Và thất trùng thất hoa cao...

Hai câu nói đó tựa như hai cái búa tạ giáng vào ngực Vô Kỵ, nên chàng hậm hực nói:

- Quả thật là thất trùng thất hoa cao không sai!

- Trương Giáo chủ, nếu Giáo chủ muốn lấy Hắc Ngọc đoạn tục cao, tôi cũng đưa ngay, mà muốn lấy thuốc giải của Thất trùng thất hoa cao, tôi cũng vui lòng đưa nó, nhưng cần nhất Giáo chủ phải nhận với tôi ba việc này thì tôi mới cam tâm giao tặng hai vật đó cho Giáo chủ. Nếu Giáo chủ định dùng võ lực cưỡng bách thì giết tôi rất dễ, chứ muốn lấy thuốc cao lại rất khó. Nếu Giáo chủ định dùng độc hình đối phó và bắt ép tôi, tôi sẽ đưa cho thuốc giả ngay.

Vô Kỵ cả mừng, vội hỏi:

- Ba việc gì thế? Hãy nói mau lên?

- Tôi chả nói cho Giáo chủ hay rồi là gì? Lúc này tôi chưa nghĩ ra, bao giờ tôi nghĩ đến, tôi sẽ thưa với Giáo chủ ngay. Quý hồ Giáo chủ đừng nuốt lời hứa là được rồi, tôi không bắt Giáo chủ lên trời lấy ông trăng xuống cho tôi. Tôi cũng không bảo Giáo chủ làm những việc trái với lương tâm, hay làm ngược đạo lý của võ lâm, tôi cũng không bảo Giáo chủ giết người hay nhảy vào chỗ chết.

Nghe nàng nói vậy, Vô Kỵ mới yên tâm và nghĩ thầm:

- Quý hồ ba việc yêu cầu của nàng không trái với lương tâm, không làm ngược đạo lý của võ lâm thì dù khó khăn đến đâu ta cũng phải ráng làm cho được.

Nghĩ đoạn chàng khẳng khái nhận lời:

- Nếu Triệu cô nưong vui lòng tặng thuốc để tôi chữa khỏi Tam sư bá và lục sư thúc thì cô nương có bảo tôi nhảy vào đống lửa tôi cũng tuân theo.

Triệu Minh giơ bàn tay ra nói tiếp:

- Ðược lắm, chúng ta thề bằng cách vỗ tay nhau, tôi đưa thuốc giải cho Giáo chủ để cứu chữa hai vị đại hiệp. Sau này tôi có yêu cầu Giáo chủ làm ba việc đó không trái với lương tâm, không đi ngược với đạo lý, với võ lâm thì Giáo chủ thế nào cũng phải nhận lời và tận lực làm cho tôi.

- Tôi xin tuân lời.

Triệu Minh khẽ vỗ vào bàn tay của Vô Kỵ ba cái, rồi nàng gỡ chiếc hoa ở trên mái tóc xuống trao cho Vô Kỵ và hỏi:

- Bây giờ Giáo chủ bằng lòng nhận vật của tôi tặng chưa? Vô Kỵ không giám trái ý nàng, vội nhận chiếc hoa đó liền.

Nàng lại dặn tiếp:

- Tôi cấm Giáo chủ không được chuyển tặng cho con a hoàn xinh đẹp ấy nhé!

Thấy Vô Kỵ gật đầu nhận lời, nàng liền lui về phái sau ba bước và nói tiếp:

- Thuốc giải sẽ đưa tới ngay, xin chào Giáo chủ.

Nói xong, nàng quay người đi tới chỗ Huyền Minh nhị lão.

Hai ông già đó, vội giữ ngựa để cho nàng leo lên.

Thế rồi cả ba cùng thủng thẳng xuống núi.

Nàng vừa đi khuất chỗ eo núi thì trên cây cổ thụ phía bên trái có một tráng sĩ nhảy xuống.

Người đó chính là Tiền Nhị Bái, trong nhóm thần tiễn bát trùng, tay cầm cung tên và nói:

- Chủ nhân chúng tôi có một lá thư gởi tới Giáo Chủ, xin Giáo chủ nhận cho.

Nói xong, y bắn một mũi tên tới.

Vô kỵ giơ tay ra bắt luôn mũi tên đó.

Chàng thấy mũi tên ấy đã bẻ cụt đầu. Phía đằng đuôi có buộc một lá thơ.

Chàng giở lá thư ra đọc:

- Hộp vàng có hai tầng, thuốc cao ở tầng dưới. Trong hoa hạt châu trống rỗng có giấu đơn thuốc bên trong. Hai vật đó đã sớm tặng chàng rồi, chàng hà tất phải lo âu như vậy làm chi? Vật tuy mọn thật, nhưng chàng chuyển tặng cho kẻ hầu người hạ, hay coi rẻ vứt xuống đất bùn thì tiện thiếp không vui chút nào.

Vô Kỵ đọc đi đọc lai ba lượt vừa kinh hãi vừa mừng rỡ vì quá hổ thẹn nữa. Chàng vội xoay hai những hạt châu trên chiếc hoa thì quả nhiên, chỉ xoay hai ba vòng đã tháo được hạt châu to nhất ra. Cánh chiếc hoa trống rỗng và vật gì trắng xóa nhét bên trong. Chàng móc túi lấy kim châm vẫn dùng để châm cứu ra khều tờ giấy mỏng ở trong cành hoa. Tờ giấy đó rất nhỏ và rất mỏng, nhưng ghi chú rõ cách cứu chữa Thất trùng thất hoa độc như thế nào? Chàng biết y lý, nên xem qua toa thuốc, biết ngay là toa thật, trong lòng mừng rỡ vô cùng, liền vào nội điện, biên toa hốt thuốc, đem vào cứu chữa Ðại Nham và Lợi Hanh.

Mộ tiếng đồng hồ sau, hai người cảm thấy vô cùng dễ chịu.

Chàng lại lấy hộp vàng đựng hoa hạt châu của Triệu Minh tặng ra xem.

Quả nhiên chàng thấy bên dưới có một ngăn nữa và ngăn đó đựng đầy thuốc cao đen. Mùi thơm xông lên, sờ tay vào thấy mát rượi. Lần này chàng hết sức cẩn thận, bắt một con chó bẽ gãy chân và dùng thứ thuốc cao đó rịt thử. Chờ đến sáng ngày hôm sau, con chó ấy đã lành mạnh như thường.

Ba ngày sau, trong người Ðại Nham và Lợi Hanh cũng hết chất độc rồi.

Vô Kỵ liền lấy thuốc Cao Hắc Ngọc Ðoạn Tục dán vào những vết thương cho hai người.

Lần này không còn sự gì bất ngờ xảy ra nữa. Thuốc cao đó công hiệu như thần.

Hai tháng sau, hai tay của Lợi Hanh đã hoạt động lại như thường.

Còn đại Nham vì tàn phế đã lâu, muốn được lành mạnh như trước, phải chữa liền trong sáu tháng, Tam hiệp mới bắt đầu chống nạng tập đi. Còn hai tay đã cử động được như thường, vì vậy Tam hiệp không bị nằm liệt giường, liệt chiếu như trước nữa.

Trong khi Vô Kỵ ở lại núi Võ Ðang chữa cho Tam sư bá và Lục sư thúc, chàng phái giáo chúng của Ngũ hành Kỳ hãy lần lượt về núi trước.

Chàng lại nhận được một tin rất kinh hoàng là các đệ tử của phái Nga Mi, Hoa sơn, Không động và Côn Luân đầu đánh Quang Minh Ðỉnh chưa một người nào trở về. Các môn phái khác trên giang hồ đều xôn xao bàn tán đều cho là Minh Giáo đã thừa thế thắng tiêu diệt hết các tay cao thủ của môn phái đó rồi, cả việc tăng chúng của phái Thiếu lâm đột nhiên mất tích cũng đổ diệt cho Minh Giáo đã diệt trừ. Các chưởng kỳ sứ của Ngũ Hành Kỳ nhờ có tín phù của phái Võ Ðang do Trương Tam Phong trao cho và mọi người đều cải trang làm thường dân, nên suốt dọc đường mới khỏi bị các môn phái vây đánh và làm khó dễ. Bây giờ các Chưỡng kỳ sứ quay trở lại núi Võ Ðang thưa lại mọi chuyện với Vô Kỵ. Họ còn nói hiện giờ các môn phái, bang hội và tiểu hội đều nghiêm giới và phòng bị cẩn mật. Họ chỉ sợ Minh Giáo đến tiêu diệt.

Mấy ngày sau, cha con Thiên Chính cùng quay về núi Võ Ðang cho Vô Kỵ hay rằng hiện giờ Bạch Mi Kỳ đã cải tổ xong, đều lệ thuộc Minh Giáo, nhưng quần hùng ở phía Ðông Nam đang quật khởi, nghĩa quân chống triều đình Nguyên mọc lên như nấm, thiên hạ đang lâm vào thời kỳ đại loạn.

Lúc ấy quân Nguyên vẫn còn mạnh lắm, nên không bao lâu, các đạo nghĩa quân đều bị tiêu diệt hết, không một nhóm nào làm nên đại sự cả.

Tại núi Võ Ðang, Trương Tam Phong bày một tiệc chay ở hậu điện khoản đãi cha con Thiên Chính.

Trong bữa tiệc, Thiên Chính nói rõ nguyên nhân sự thất bại của các đạo nghĩa quân. Mỗi một đạo nghĩa quân đều có đệ tử Minh Giáo và Bạch Mi Giáo tham dự. Vì vậy giáo chúng bị quân Nguyên bắt giết rất nhiều.

Quần hào nghe Thiên Chính nói xong, ai nấy cũng đều thương tiếc.

Dương Tiêu nói:

- Thiên hạ đau khổ, lòng người chỉ muốn thay đổi triều đình. Lúc này chính là dịp may cho chúng ta xua đuổi quân Thát Ðát, lấy lại giang sơn đất nước cho dân tộc ta. Năm xưa khi Dương giáo chủ chưa mất, ngày đêm lúc nào ngài cũng muốn lật đổ nhà Nguyên. Nhưng vì bổn giáo có gây thù oán với các môn phái trong võ lâm nên không sao liên lạc, đoàn kết được để đánh đổ kẻ địch. May thay, nay bổn giáo đã được trời ban cho Trương giáo chủ xuống xử lý giáo vụ, giảng hòa được với rất nhiều môn phái. Vậy lúc này, chúng ta nên đồng tâm hiệp sức để cùng đuổi kẻ thù chung ra khỏi bờ cõi.

Chu Ðiên liền nói tiếp:

- Lời của Tả sứ nghe rất hay, nhưng tiếc thay đều rỗng tuếch không có một câu nào thực tế cả.

Dương Tiêu nghe Chu điên nói như vậy, không tỏ vẻ gì là tức giận cả, nhưng liền hỏi lại:

- Xin Chu Huynh chỉ giáo cho.

Chu Ðiên đáp:

- Hiện giờ người trên giang hồ đều đồn là Minh Giáo chúng ta tiêu diệt hết cả tay cao thủ của sáu đại môn phái. Vậy hễ họ nghe đến hai chữ Minh Giáo là ghét hận rồi. Như vậy còn đồng tâm hiệp lực để đánh đổ quân thù sao? Cho nên tôi bảo lời nói của Tả Sứ nghe rất êm tai nhưng không thực tế chút nào là thế.

Bành Ngọc Doanh cùng xen lời nói:

- Lời nói của Chu huynh hoàn toàn khôn gphải vô lý đâu, theo ý tôi chúng ta nên nhóm một đại hội Minh Giáo, triệu tập các thủ lãnh của các đạo binh lại, ban bố chỉ thị làm lành với các môn phái trong võ lâm như Trương Giáo chủ vẫn chủ trương. May ra, những vị thủ lãnh đó có một vài vị hay biết tung tích của Tống Ðại hiệp, Diệt Tuyệt Sư thái các người cũng nên chăng?

Chu Ðiên thấy Doanh Ngọc đã bênh vực mình, khoái chí vô cùng vội lên tiếng nói tiếp:

- Muốn điều tra ra tung tích của Tống Ðại hiệp không khó chút nào.

Mọi người đều nhôn nhao hỏi:

- Bạn có cách gì có thể điều tra ra được dễ dàng như vậy? Sao mãi đến bây giờ bạn mới lên tiếng như thế?

Chu Ðiên càng khoái chí hơn, liền uống cạn chén rượu mới trả lời:

- Chỉ cần Trương giáo chủ hỏi Triệu cô nương một tiếng, ít ra cũng biết được chín phần. Theo ý tôi thì những vị đó không bị Triệu cô nương giết chết thì cũng bị cô ta bắt đi rồi.

Trong hai tháng liền, Nhất Tiếu, Dương Tiêu, Bành Doanh Ngọc , Nói Không Ðược đi khắp nơi tìm tung tích Triệu cô nương, nhưng từ ngày Vô Kỵ vỗ tay thề thốt với nàng trước cửa quan đến giờ thì không biết nàng ở đâu nữa, cả đến bộ hạ của nàng cũng biệt vô âm tích.

Quần hào đoán chắc nàng thế nào cũng có liên quan đến triều đình Mông Cổ.

Lúc ấy mọi người thấy Chu Ðiên nói như vậy liền hỏi:

- Lời nói của bạn mới là vô ích, nếu tìm được thiếu nữ họ Triệu ấy thì chúng ta lại không biết hỏi nàng hay sao?

Chu Ðiên vừa cười vừa đáp:

- Tất nhiên các người không thể nào kiếm ra được Triệu cô nương, còn Giáo chủ thì khỏi cần đi tìm kiếm cũng sẽ gặp được nàng vì Giáo chủ còn nợ nàng ta ba việc chưa làm, có khi nào một tiểu thư lợi hại như thế nói xong lại bỏ hay sao? Hì...Hì... cô nương ấy đẹp như hoa nở.

Mọi người thấy y nói vậy đều phì cười nhưng cũng phải công nhận y nói rất đúng!

Vô Kỵ thở dài, lên tiếng nói:

- Tôi chỉ mong nàng nói ba điều đó ra ngay, rồi tôi sẽ tận lực làm cho xong. Bằng không suốt ngày cứ lo nghĩ tới chuyện ấy mà không biết nàng còn giở những trò quỷ quái gì ra nữa? Vừa rồi Bạch Ðại sư đưa ra ý kiến triệu tập thủ lãnh các nơi về tụ họp đại hội. Việc này có thể làm được lắm! Chẳng hay các vị nghĩ sao?

Quần hào đồng thanh đáp:

- Giáo chủ dạy rất phải, chúng ta cứ đợi chờ suông trên núi Võ Ðang này rất vô ích.

Dương Tiêu cũng lên tiếng hỏi:

- Giáo chủ định cho tụ họp ở đâu?

Vô Kỵ ngẫm nghĩ giây lát rồi đáp:

- Hôm nay may mắn được làm đại diện giáo chủ, bổn nhân thường nghĩ tới ân tình của hai nhân vật của Minh Giáo. Một người là y Tiên Hồ Thanh Ngưu Tiên sinh ở Hồ Ðiệp Cốc đã chết bởi Kim Hoa Bà Bà. Còn người thứ hai là Thường Ngộ Xuân đại ca không biết bây giờ ở đâu? Tôi muốn lần đại hội này của bổn giáo chúng ta nên họp ở Hồ Ðiệp Cốc ở Hoài Bắc.

Chu Ðiên vỗ tay tán thành:

- Hay lắm! hay lắm! Anh chàng thấy chết không chịu cứu năm xưa vẫn hằng ngày đấu khẩu với tôi luôn. Y là người rất tốt, y thấy chết không cứu nên lúc chết y mới không có ai cứu y, thật là báo ứng! Chu Ðiên tôi cũng muốn đến mộ y lạy mấy lạy.

Quần hào cũng quyết định ba tháng sau vào ngày tết Trung thu, các thủ lãnh của Minh Giáo đều họp tại nhà của Hồ Thanh Ngưu trong Hồ Ðiệp Cốc ở Hoài Bắc.

Sáng hôm sau Ngũ Hành Kỳ và Bạch Mi Giáo đều lần lượt xuống núi Võ Ðang, chia nhau đi các ngã để triệu tập thủ lãnh các nơi.

Lúc ấy, cách tết Trung thu ba tháng, Vô Kỵ thấy Ðại Nham và Lợi Hanh chưa khỏi hẳn, chỉ sợ vết thương hai người đau lại thì công dã tràng xe cát nên chàng phải ở lại núi Võ Ðang.

Trong nhàn rỗi chàng vẫn thỉnh giáo Trương Tam Phong về Thái Cực quyền kiếm.

Nhất Tiếu, Doanh Ngọc, Nói Không Ðược vẫn tiếp tục đi khắp nơi để dò thăm tung tích của Triệu Minh, Dương Tiêu thừa lệnh của Giáo chủ, miễn cưỡng ở lại núi Võ đang, nhưng vì việc Hiểu Phù y rất ngượng với Lợi Hanh, nên ngày thường y chỉ đóng cửa đọc sách, không rời khỏi phòng.

Trưa nọ, Vô Kỵ đến phòng Dương Tiêu bàn về việc đại hội ở Ðiệp Cốc. Chàng tuổi trẻ, ít học, bỗng phải gánh vác trọng trách nên lúc nào cũng lo ngại. Dương Tiêu là người thấu hiểu công việc của Minh Giáo, nên chàng mới giữ y lại làm cố vấn.

Hai người trò chuyện một lát, Vô Kỵ thuận tay cầm cuốn sách để ở trên đầu bàn của Dương Tiêu, chàng thấy trên bìa cuốn sách đó đề: Minh Giáo lưu truyền Trung Thổ ký, Hạ khoảng đề là: "Ðệ tử Dương Tiêu Tả sử cùng soạn".

Chàng thở dài và khen:

- Dương Tả sứ quả thật là người văn võ toàn tài và cũng là một cột trụ của Minh Giáo nữa.

Dương Tiêu vội cám ơn đáp:

- Ða tạ Giáo chủ đã quá khen như vậy!

Vô Kỵ giở cuốn sách đó ra đọc thấy trong sách gửi rằng:

Minh Giáo truyền nhập Trung thổ từ đời Võ hậu nhà Ðường. Hồi bấy giờ người ba Tư tên Hốt Ða Ðáng cầm cuốn Tam Tôn Kinh của Minh Giáo vào triều Võ Hậu. Lúc ấy người Trung Hoa mới bắt đầu được đọc cuốn kinh điển đó, nhằm ngày hôm hai mươi chín tháng sáu, Ðường đại lịch Tân Niên. Ngôi chùa đầu tiên của Minh Giáo được xây dựng tại Lạc Dương trường An là chùa Ðại Vân Quang Minh. Sau đó ở các trọng tran như Thái Nguyên, Kinh Châu, Dương Châu, Hồng Châu và Việt Châu, v.v... đều có xây Ðại Vân Quang Minh tự. Nhưng đến năm Hội Xương Tam Niên, triều đình mới ra lệnh giết các giáo đồ của Minh Giáo. Vì vậy, thế lực của Minh Giáo mới suy đồi. Từ đó, Minh Giáo mới giáo hội bí mật thường bị ngăn cấm và bị các quan binh đàn áp.

Muốn được sinh tồn, giáo chúng của Minh Giáo hành sự rất bí mật. Minh Giáo còn tên là Na Ni Giáo chữ Na có nghĩa là cờ tay lên trên cao nhưng bị người đời hiểu lầm và ghét hận nên mới sửa chữ Na thành chữ Ma là những ma quỷ, do đó người đời cứ gọi Minh Giáo là Ma Giáo.

Vô Kỵ đọc tới đó, thở dài một tiếng và nói:

- Dương Tả Sứ, tôn chỉ bổn giáo vốn dĩ là khử ác, hành thiện, hòa hợp Thích, Ðạo hai giáo, không có gì khác lạ hết. Nhưng không hiểu vì sao từ đời nhà Ðường tới giờ, bổn giáo cứ bị giết hại như thế?

Dương Tiêu vội đỡ lời:

- Vì Thích giáo, tuy phổ độ chúng sanh, nhưng tăng chúng xuất gia, ai nấy chăm chú vào việc tu hành, không lý tới việc đời. Về Ðạo giáo cũng vậy, còn bổn giáo thì chủ trương tụ tập dân lành bất cứ ai có việc gì nguy nan đau khổ, các giáo chúng đều hết sức ra tay tương trợ. hễ gặp nhân dân bị quan quân hà hiếp oan ức, giáo chúng bổn giáo thế nào cũng chống cự ngay. Vì vậy triều đình mới ghét hận bổn giáo!

Chỉ có lúc nào quân binh của triều đình không hà hiếp lương dân và thổi hào ác bá không hoành hành, thì lúc bấy giờ bổn giáo mới hưng vượng thật sự!

Dương Tiêu thấy Vô kỵ nói như vậy liền vỗ bàn một cái thật lớn rồi nói tiếp:

- Lời nói của Giáo chủ thật đúng với tôn chỉ của bổn giáo.

- Dương Tả sứ xem, liệu trên thiên hạ này, có được một ngày thái bình như thế không?

- Không riêng gì tôi, ai ai cũng vậy, đều mong muốn có một ngày như thế. Ðời nhà Tống, Phương Liệp giáo chủ khởi cách mạng chỉ muốn các quan binh đừng đè nén lương dân thôi...

Ðọc xong đoạn đó, Vô Kỵ ngưỡng mộ vô cùng, liền gấp cuốn sách lại nói tiếp:

- Ðại trượng phu phải nên như vậy, tuy nhiên Phương giáo chủ đã tuẫn nạn nhưng dù sao cũng đã hành động oanh liệt!

Sau đó Dương Tiêu lại chỉ vài việc khác cho Vô Kỵ xem.

Vô Kỵ thở dài một tiếng, mà rằng:

- Tả Sứ cho tôi mượn cuốn sách này đọc để tôi biết những di huấn và sự nghiệp của các vị tiền hiền!

Dương Tiêu đáp:

- Chúng tôi đang mong được Giáo chủ chỉ giáo.

Vô Kỵ nhận quyển sách đó rồi nói tiếp:

- Dư Tam sư bá và Lục Thúc đã khỏi nhiều rồi! Ngày mai chúng ta lên đường đi Hồ Ðiệp Cốc. Tôi còn một việc này, muốn bàn với Tả Sứ. Ðó là việc của em Bất Hối.

Dương Tiêu tưởng chàng định nói với mình để cầu hôn, trong lòng mừng rỡ vô cùng, vội đáp:

- Bất Hối được sống còn tới ngày nay là nhờ Giáo chủ ban ân! Cha con chúng tôi muốn trả ơn Giáo chủ đã lâu, không hiểu Giáo chủ định sai bảo điều gì. Nhưng bất cứ việc gì, Giáo chủ sai bảo chúng tôi cũng tuân theo ngay.

Vô Kỵ liền đem chuyện Bất Hối nói rõ tâm sự cho mình hay kể lại cho Dương Tiêu nghe.

Dương Tiêu ngạc nhiên vô cùng, ngẩn người ra giây lát mới trả lời được:

- Tiểu nữ được Lục hiệp để ý tới, đó là một sự rất hân hạnh cho nhà họ Dương chúng tôi, nhưng tuổi của hai người chênh lệch nhau như vậy và vai vế lại...

Nói tới đó y không sao nói tiếp được nữa, Vô Kỵ lại nói tiếp:

- Hân Lục thúc chưa đầy bốn mươi, em Bất Hối gọi ông ta là thúc thúc, nhưng hai người không phải là chú cháu thực, cũng không phải là thầy trò. Bây giờ hai người đã tình đầu ý hiệp, nếu để cho hai người lấy nhau thì mối thù xưa sẽ hóa giải hết. Như vậy chả hay sao?

Dương Tiêu vốn dĩ là một người rất khoáng đạt, thấy Vô Kỵ đề nghị như vậy y nghĩ thầm:

- Bất Hối đã yêu Lợi Hanh có thể chuộc lại lỗi xưa cho mình và làm cho Minh Giáo với phái Võ Ðang trở nên thân mật .

Nghĩ đoạn, y vái chào Vô Kỵ và đáp:

- Giáo chủ đứng ra ngọc thành việc này đủ thấy giáo chủ lúc nào giáo chủ cũng quan tâm đến cha con chúng tôi. Thuộc hạ rất cám ơn Giáo chủ!

Tối hôm đó, Vô Kỵ truyền tin mừng đó ra cho mọi người hay.

Quần hào đều lần lượt vào mừng Lợi Hanh.

Bất Hối thẹn thùng, núp trong phòng không dám ra ngoài.

Tam Phong và Ðại Nham hay biết việc này, thoạt tiên cũng kinh ngạc, nhưng hai thầy trò nghĩ lại và mừng cho Lợi Hanh.

Tam Phong hỏi Lục hiệp ngày cưới thì Lợi Hanh trả lời rằng:

- Ðợi các đại sư ca về núi, con mới xin cử hành hôn lễ!

Ngày hôm nay, Vô Kỵ cùng Dương Tiêu, Thiên Chính, Dã Vương, Thiết Quan Ðạo Nhân, Chu Ðiên và Tiểu Siêu các người từ biệt thầy trò Trương Tam Phong lên đường đi về phía hoài Bắc, còn Bất Hối ở lại Võ Ðang hầu hạ Lợi Hanh.

Vô Kỵ và các thuộc hạ, ngày đi đêm nghỉ, tiến thẳng về phía Ðông Bắc.

Suốt dọc đường, quần hào thấy ruộng nương bỏ hoang, nhân dân đói rách.

Xưa kia những khu vực ven bể đều là những nơi trù mật, sung túc, nhưng giờ đây đi tới đâu cũng thấy những kẻ đói chết đầy dẫy, la liệt!

Quần hào trông thấy thảm cảnh đó đều buồn lòng.

Quần hào đi tới giới Bài Tập, cách Hồ Ðiệp Cốc không xa, bỗng nghe phía trước có tiếng hò reo chém giết chấn động cả một góc trời.

Khi tới gần mấy người mới hay có hai đội binh mã đang kịch chiến.

Quần hào phóng ngựa xuyên qua khu rừng rãm, thấy hơn nghìn quân Mông Cổ, chia làm tả hữu hai bên đang tấn công sơn trại.

Trên sơn trại có một lá cờ, vẽ một ngọn lửa đỏ thật lớn đang bay phất phới. Cờ đó chính là cờ của Minh Giáo! Vì số người trong trại quá ít nên dần dấn càng tỏ ra cầm cự không nổi! Tuy vậy người trong sơn trại vẫn hăng hái chống cự chứ không chịu khuất phục!

Quân Mông Cổ bắn tên bay như mưa, thì hò reo quát bảo:

- Phản tặc Ma Giáo! Có mau ra đầu hàng không?

Chu Ðiên vội hỏi Vô Kỵ rằng:

- Thưa Giáo chủ! Chúng ta tiến lên tấn công chứ?

Vô Kỵ đáp:

- Cũng được! Chúng ta hãy giết chết tụi quan quân chỉ huy trước!

Dương Tiêu, Thiên Chính, dã Vương, Thiết Quan Ðạo Nhân , Chu Ðiên năm người vâng lệnh, xông đến tấn công thẳng vào mặt trận.

Hai tên Bách Phu trưởng bị chém rụng đầu trước, tiếp theo tên Liên Phu trưởng bị Dã Vương chém chết.

Quân Nguyên như rắn không đầu, hàng ngũ loạn xạ ngay!

Người trong sơn trại thấy có cứu viện tới giúp mình liền lớn tiếng hoan hô.

Tiếp theo đó, cửa trại mở rộng.

Một tráng sĩ áo đen, tay cầm xà mâu tiến ra trước lính Nguyên gặp phải người đó là bị giết chết ngay.

Trước sau bị tấn công, quân Nguyên hoảng sợ vô cùng, liền bỏ chạy tán loạn.

Quần hào thấy vị tráng sĩ đó oai phong lầm lẫm, trông như một vị thiên thần, đều tắc lưỡi khen ngợi:

- Thực là một vị anh hùng tướng quân!

Lúc ấy Vô Kỵ đã trông thấy rõ mặt tráng sĩ nọ mới hay người đó chính là Thường Ngộ Xuân đại ca mà chàng vẫn nhớ nhung.

Vị tráng sĩ đó đang mải giết giặc, nên chàng không tiện lên tiếng kiến vội. Người của Minh Giáo đánh quân Nguyên một hồi, đã giết chết năm sáu trăm tên giặc, còn một số ít cắm đầu ù té chạy hết!

Ngộ Xuân giơ ngang cây xà mâu, cả cười một hồi rồi lớn tiếng hỏi:

- Chẳng hay các huynh đệ lộ quân nào tơi tương trợ thế? Thường mỗ cám ơn vô cùng!

Vô Kỵ lớn tiếng đáp:

- Thường đại ca! Tiểu đệ nhớ đại ca lắm!

Nói xong, chàng nhảy xổ lại, nắm chặt lấy hai tay của tráng sĩ nọ.

Ngộ Xuân vội quỳ xuống vái lạy và nói:

- Giáo chủ huynh đệ! Tôi là đại ca nhưng là hy thuộc của Giáo chủ, thật tôi không biết phải nói sao nữa!

Thì ra Ngộ Xuân là bộ hạ của Cự Mộc Kỳ trong Ngũ hành Kỳ. Vô Kỵ được làm Giáo chủ như thế nào, Ngộ Xuân cũng đã nghe Chưởng Kỳ Sứ kể cho hay rồi nên mấy ngày qua, chàng ngày đêm đợi chờ Vô Kỵ tới nơi . Ngờ đâu quân Nguyên bỗng tới vây đánh, chẳng thấy bên mình người ít kẻ địch thì nhiều, chàng định làm ra vẻ bại để dụ quân Nguyên vào trong trại rồi mới đóng kín cửa trại lại mà tiêu diệt kẻ thù. Nhưng Vô Kỵ đột nhiên tới cứu viện. Chàng liền thừa thế mở cửa trại xông ra chém giết quân địch. Ðịa vị của chàng trong Minh Giáo không cao lắm, nên chàng phải vái chào Dương Tiêu, Thiên Chính các người.

Quần hào thấy chàng là anh em kết nghĩa của Giáo chủ nên ai cũng coi chàng ngang hàng với mình vậy!

Ngộ Xuân mời quần hào vào trong sơn trại, giết bò giết dê, thết tiệc khoản đãi.

Vô Kỵ hỏi Ngộ Xuân tại sao lại làm giặc ở nơi đây như vậy?

Chàng ta liền cho Vô Kỵ hay là vì mấy năm gần đây, Hoài Nam, Hoài Bắc hạn hán luôn luôn, dân chúng khổ sở khôn tả, chàng cũng không có gì để sinh sống mới tụ họp một bọn anh em, làm lục lâm hảo hán để đi ăn cướp. Nhờ vậy đỡ khổ hơn lúc làm thường dân! Chàng cùng các anh em cướp được vàng bạc châu báu liền đem đi chẩn tế cho dân nghèo. Quân Nguyên đã đến vây đánh mấy lần mà không làm gì nổi chàng.

Mọi người trong sơn trại nghỉ ngơi một đêm, ngày hôm sau liền cùng Ngộ Xuân tiến thẳng vể phía Bắc.

Mấy ngày hôm sau, mọi người đã tới Hồ Ðiệp Cốc, giáo chúng hay tin Giáo chủ đã đến, mọi người ai nấy đều xếp thành hàng dài ra tận ngoài cửa Cốc nghênh đón.

Lúc ấy Cự Mộc Kỳ đã xây rất nhiều nhà gỗ, nhà lá trong Hồ Ðiệp Cốc cho giáo chúng ở. Nhất Tiếu, Doanh Ngọc, Nói Không Ðược cũng lần lượt tới.

Vô Kỵ tiếp kiến giáo chúng xong, liền cho sửa soạn những lễ vật ra tế mộ vợ chồng Thanh Ngưu và Hiểu Phù.

Chỉ còn ba ngày nữa là tết Trung Thu, giữa Hồ Ðiệp Cốc xây một cái đài thật cao. Trước đài, lửa cháy rực trời!

Vô Kỵ bước lên đài, tuyên bố ý kiến phản Nguyên cho các giáo chúng hay.

Tiếp theo chàng còn ban bố giáo quy, ra lệnh cho giáo chúng từ nay trở đi phải tuân theo tôn chỉ hành thiện khử ác, trừ bạo an lương.

Các hương chủ đều hoan hô vang động một góc trời.

Mỗi người thắp một bó nhang, thể tuân theo lệnh chỉ của Giáo chủ.

Ngày hôm đó, lửa đuốc và ánh sáng của nến làm rạng rỡ Ðiệp Cốc, khói hương nghi ngút tựa như sương mù.

Cuộc tuyên thệ của Minh Giáo không hồi nào lừng lẫy bằng hồi này.

Các giáo chúng lớn tuổi, thấy cảnh tượng hưng vượng như vậy, ai nấy đều mừng rỡ.

Vô Kỵ lại tuyên thệ rằng:

- Bổn giáo từ ngày thành lập tới giờ, đời nào cũng cấm ăn thịt uống rượu nhưng nay đang lúc tai nạn này có quyền được gặp thứ gì ăn thứ nấy! Việc phải làm của chúng ta ngày nay là đuổi quân Thát Ðát ra khỏi bờ cõi. Nếu các anh em ăn chay thì hơi sức đâu mà chống chọi với kẻ địch.

Tối hôm đó trong Hồ Ðiệp Cốc trăng sáng như ban ngày, mấy nghìn giáo chúng vui vẻ nhậu nhẹt cho tới lúc mặt trời mọc mới tan bữa tiệc.

Ngày hôm sau mọi người ngủ cho tới giữa ngọ mới thức dậy.

Vô Kỵ đang rửa mặt bỗng thấy thuộc hạ giáo chúng vào bẩm rằng:

- Chu Nguyên Chương, Từ Ðạt các người thuộc hạ của Hồng Thủy Kỳ xin vào yết kiến!

Vô Kỵ cả mừng, thân hành ra tận ngoài cửa nghênh đón.

Nguyên Chương, Từ Ðạt dẫn Thanh Hòa, Ðặng Dư, Hoa Vân, Ngô Lương các người cung kính đứng chầu chực sẳn ngoài cửa.

Bọn họ vừa thấy Vô Kỵ ra liền cúi mình hành lễ và đồng thanh lên tiếng chào:

- Tham kiến Giáo chủ!

Vô Kỵ thường nhớ đến ơn của Từ Ðạt, nên vừa trông thấy đã mừng rỡ!

Chàng vội đáp lễ, tay trái dắt Nguyên Chương, tay phải dắt Từ Ðạt cùng đi thẳng vào nhà.

Chàng mời mọi người ngồi.

Trước khi ngồi mọi người đều phải cáo tội.

Lúc này Nguyên Chương đã hoàn tục, không mặc hòa thượng như trước nữa.

Nguyên Chương lên tiếng trước:

- Thuộc hạ chúng tôi thừa lệnh của Giáo chủ, tới Hồ Ðiệp Cốc này, đáng lẽ phải đến từ trước, nhưng giữa đường gặp một việc rất lạ lùng, chúng tôi liền theo dõi để tra cứu nên mới tới chậm! Xin Giáo chủ thứ tội cho!

Vô Kỵ đáp:

- Chẳng hay quý vị gặp sự chẳng hay gì thế?

Nguyên Chương đáp:

- Hồi thượng tuần tháng sáu, chúng tôi nhận được lệnh chỉ của Giáo chủ, tất cả anh em đều mừng rỡ vô cùng! Anh em chúng tôi bàn nên đem lễ vật đến để mừng Giáo chủ mới phải! Nhưng chỗ chúng tôi ở là Hoài Bắc bị hạn hán luôn luôn, không có vật gì khả dĩ gọi là xứng đáng làm lễ vật mừng Giáo chủ. May thay cách Hội kỳ còn xa, anh em chúng tôi mới quyết định đi Sơn Ðông một phen. Chúng tôi sợ sơn binh nơi đó nhận được mặt, mới giả làm phu khiêng và phu xe. Hạ thuộc làm đầu nậu của tất cả anh em.

Hôm đó đi tới Qui Ðức Phủ của tỉnh Hải Nam gặp mấy người khách miền Tây mướn chúng tôi khuân vác hành lý cho họ đi Hà Trạch tỉnh Sơn Ðông.

Trong lúc đi đường bỗng có một người đuổi theo cướp giựt đồ đạc của chúng tôi khuân vác. Bọn chúng có vẻ hung ác lắm! Ðuổi những người khách trên xe chúng tôi xuống đất hết và bảo chúng tôi chờ và khuân vác những khách khác. Lúc ấy chú em họ Hoa rất nóng tính, liền cãi vã với bọn người nọ. Chú Từ Ðạt đưa mắt ra hiệu bảo chú Hoa Vân hãy nhận xét kỹ đối phương đã rồi sẽ ra aty cũng chưa muộn!

Bọn người nọ dồn chín chiếc xe của chúng tôi vào trong một eo núi, nơi ấy có mười mấy cái xe khác đợi sẳn. Những người ngồi dưới đất cạnh những chiềc xe đò đều là hòa thượng.

Vô Kỵ vội hỏi:

- Ðều là hòa thượng ư?

Nguyên Chương đáp:

- Vâng! Những hòa thượng đều rầu rĩ ngồi cúi gầm đầu xuống uể oải như không còn lấy một chút hơi sức nào cả. Nhưng trong bọn hòa thượng đó có vài người Thái Dương Huyệt ồ cao, thân hình vạm vỡ, trông oai hùng lắm, chứ không phải là người tầm thường!

Chú Từ Ðạt liền rỉ tai nói với tôi rằng:

- Những hòa thượng này đều là những người có võ công rất cao siêu!

Bọn người hung ác kia liền bảo những người hòa thượng đó leo cả lên xe ngồi, rồi chúng bắt chúng tôi đẩy xe và khuân hành lý cho chúng đi về phía Bắc. Chúng tôi đoán chắc bên trong thế nào cũng có chuyện gì rất kỳ lạ cho nên mới ngấm ngầm dặn nhau phải cẩn thận đề phòng, chớ có để cho chúng biết rõ tông tích của mình! Suốt dọc đường chúng tôi để ý lời nói của bọn người hung ác nhưng chùng thần bí lắm! Ở trước mặt chùng tôi, chúng không hề thốt ra nửa lời. Sau chú Ngô Lương nửa đêm lẻn tới trước cửa sổ nghe trộm, nhưng nghe liền bốn năm đêm mới hay biết được một chút xíu. Thì ra bọn hòa thượng đó đều là cao tăng của phái Thiếu Lâm ở Tung Sơn.

Vô Kỵ đã đoán ra được mấy phần trăm mà vẫn còn thất thanh kêu "ủa" một tiếng.

Nguyên Chương lại nói tiếp:

- Chú Ngô Lương lại nghe thấy một người nói: Chủ nhân chúng ta giỏi mưu cơ thật. Khiến ai cũng bái phục, hiện giờ cao thủ của sáu đại môn phái như Thiếu Lâm, Võ Ðang chẳng hạn... đều bị lọt vào tay của chủ nhân, thử hỏi từ xưa có ai làm được vậy không?

Lại có một người nữa xen lời nói: Như vậy vẫn chưa phải là kỳ lạ, còn mưu kế nhất tiễn song điểu mới thật là kỳ lạ. Chủ nhân xử dụng kế đó làm cho các ma đầu của Ma Giáo đều bị liên can vào trong vụ này!

Chúng tôi bảy người giả bộ đi đại tiện ở trong cầu tiêu để lén bàn tán với nhau. Chúng tôi thấy việc này có liên can đến bổn giáo nên ai nấy đồng lòng điều tra vụ này cho ra manh mối để về thưa cùng giáo chủ hay.

Vô Kỵ xen lời nói:

- Quý vị nói rất phải.

Nguyên Chương lại nói tiếp:

- Bọn chúng ra lệnh cho đi thẳng về phía Bắc. Chú Thang Hoa và chú Ðặng Dư giả bộ đánh nhau vì tranh cướp năm chỉ bạc. Cả hai làm như chẳng biết võ công gì hết, trông thật tức cười. Bọn hung ác kia cũng vỗ tay cả cười. Từ đó trở đi, chúng không nghi ngờ chúng tôi nữa. Anh em chúng tôi gọi chúng là quan lớn và đối với chúng rất cung kính, nên chúng rất khoái chí và thêm tin cậy chúng tôi. Giữa đường, chú Ngô Chinh định ra tay hạ chúng, để cứu bọn hòa thượng của phái Thiếu Lâm, nhưng sau chúng tôi nghĩ lại: "Trước khi chưa biết lai lịch của chúng ra sao và thấy bọn chúng tên nào cũng khôn ngoan. võ công lại cao siêu, nếu ra tay mà không hạ nổi chúng, có phải bứt dây động rừng, lỡ hết đại sự không? ". Cho nên, chúng tôi không dám ra tay vội.

Khi đi tới phủ Hà Giang, chúng tôi gặp sáu cái xe lớn, cũng có người áp giải. Người ngồi trong xe đều là những người tục. Lúc ăn cơm chúng tôi nghe thấy một nhà sư Thiếu Lâm gật đầu chào hỏi một người đứng tuổi trong bọn tân khách kia rằng:

- Tống đại hiệp cũng tới đây à?

Vô Kỵ vội đứng dậy hỏi:

- Người mà hòa thượng gọi là Tống Ðại hiệp hình dáng như thế nào?

Nguyên Chương đáp:

- Người đó vừa gầy vừa cao, tuổi trạc năm mươi, để râu ba chòm, mặt mũi trông thanh nhã lắm.

Thấy Nguyên Chương mô tả như vậy, Vô Kỵ đoán chắc là Viễn Kiều chứ không sai. Chàng mừng rỡ vô cùng.

Chàng lại hỏi và mặt mũi của những người khác.

Nguyên Chương liền tả hết hình dáng và mặt mũi những người kia cho chàng hay. Chàng biết chắc nhữn gngười đó là Dư Liên Châu, Trương Tòng Khê, Mạc Thanh Cốc rồi.

Chàng lại hỏi tiếp:

- Những vị ấy có thương không? Và có bị đeo xiềng xích không?

- Không thấy họ đeo xiềng xích và cũng không thấy bị thương gì cả. Họ ăn cơm nói chuyện như người thường vậy, chứ không có điều gì khác lạ hết. Riêng có một điều là người nào cũng vậy, chứ không chứ không điều là ngưới nào cũng vậy, tinh thần uể oải, bước đi yếu ớt, như người đau nặng mới khỏi vậy. Tống Ðại hiệp thấy hòa thường của phái Thiếu Lâm hỏi như vậy chỉ gượng cười chứ không trả lời. Nhà sư ấy định hỏi gì thêm nữa nhưng người áp giải đã chạy tới kéo nhà sư ra đằng xa. Từ đó trở đi, bọn chúng không cho hai nhóm người gần nhau, nên chúng tôi không được gặp lại bọn Tống đại hiệp. Mùng ba tháng bảy, chúng tôi đã chở các nhà sư tới Ðại Ðô.

Vô Kỵ lại hỏi:

- Chở tới Ðại Ðô ư? Như vậy, chính triều đình đã hạ độc thử rồi. Sau rồi thế nào nữa?

- Thế rồi, bọn chúng lại bắt chúng tôi đem bọn hòa thượng kia tới một ngôi chùa lớn ở Tây Vực, và bắt chúng tôi ngủ luôn tại chùa tại...

- Chùa ấy là chùa gì?

- Chúng tôi thấy tấm bảng treo ở trên cửa chùa để Vạn Pháp Tự. Tôi chỉ ngẩng lên tấm bảng ấy một cái đã bị một tên hung thần quất ngay cho một roi liền. Ðêm hôm ấy, anh em chúng tôi bàn tán với nhau, đoán chắc bọn chúng thế nào cũng bị giết hết chúng tôi để khỏi tiết lộ bí mật ấy ra bên ngoài, chờ tới lúc đêm khuya canh vắng chúng tôi vội lẻn chạy ngay.

- Bọn chúng có biết không? va có đuổi theo rượt bắt quý vị không?

Thanh hòa mỉm cười, xen lời đáp:

- Chu Ðại ca đã đoán ra trước, chúng thế nào cũng đuổi theo rượt bắt, nên trước khi đào tẩu, Chu Ðại ca phải xếp đặt một kế hoạch để đối phó với bọn chúng. Chúng tôi đi tới tiệm cho thuê xe gần đó, bắt luôn bảy tên phu xe, đem vào trong chùa, lột hết quần áo của chúng để mặc vào người mình cho chúng mặc lại quần áo của chúng tôi, rồi chúng tôi giết cả bảy tên ấy một lúc bằm nát mặt bọn chúng để bọn hung thần khỏi nhận ra là ai. Lúc ấy chúng tôi mới yên tâm đào tẩu. Khi ra tới sân ngoài, chúng tôi lại hạ thủ nốt mấy tên phu xe của chúng tôi và rải rắc tiền bạc ra khắp sân, làm như hai bọn tranh giành tiền bạc mà tự chém giết nhau vậy, bọn hung thần có trở về chùa cũng không thể nào biết rõ sự thật được.

Thấy Thanh hòa kể lại câu chuyện quá tàn nhẫn như vậy.Vô Kỵ kinh hãi thầm và thấy chỉ có một mình Từ Ðạt là có vẻ ăn năn thôi. Còn Ðặng Dư tỏ vẻ sượng sùng, Thanh hòa ra vẻ khoái chí và tự đắc, Nguyên Chương thì thản nhiên như không vậy.

Vô Kỵ nghĩ thầm:

- Thủ đoạn của người này ác độc lắm. Quả thật là một nhân vật lợi hại .

Nghĩ đoạn chàng liền bảo Nguyên Chương rằng:

- Kế ấy của Chu Ðại ca tuy thần diệu thật, nhưng từ giờ trở đi chúng ta không nên giết bừa bãi người lương thiện như thế.

Bọn Chu Nguyên Chương thấy Giáo chủ huấn thị như vậy đều đứng dậy vái chào và đáp:

- Chúng tôi xin tuân lịnh chỉ của giáo chủ.

Vô Kỵ lại nói tiếp:

- Chu Ðại ca và sáu vị anh em tìm ra được tung tích các cao thủ của Thiếu Lâm và Thiếu Lâm, công này lớn lắm! Bây giờ chúng ta phải xếp đặt việc khởi nghĩa chống quân Nguyên trước. Xong rồi, mới cùng đi Ðại Ðô cứu viện các cao thủ của hai môn phái đó.

Tối hôm đó, Vô Kỵ đại hội giáo chúng đốt lửa thắp nhang cho tất cả anh em tuyên thệ về việc khởi nghĩa diệt quân Nguyên.

Vô Kỵ nói:

- Khởi sự đánh đuổi quân Nguyên, chúng ta phải ra tay đánh một lúc để quân Nguyên không biết phải cứu viện nơi nào. Như vậy đại sự của chúng ta mới có thể thành công được.

Phương sách diệt Nguyên của Minh Giáo như sau:

"Giáo chủ Trương Vô Kỵ thống lãnh Quang Minh Tả sứ Dương Tiêu và Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu trấn giữ Tổng đàn, làm thống soái cho toàn giáo, Bạch Mi Ma Vương Hân Thiên Chính thống lãnh giáo chúng của Bạch Mi Kỳ khởi sự ở vùng Giang Nam. Chu Nguyên Chương, Từ Ðạt, Thanh Hòa, Ðặng Dư, Hoa Vân Ngô Lương và Ngô Chinh hội cùng nhân mã trong trại của Thường Ngộ Xuân và Quách Tử Hưng, Tôn Ðức Nhai khởi sự tại hoài Bắc, hoài Châu, hòa thượng Túi vải Nói Không Ðược thống lãnh Hân Sơn Ðồng, Lưu Phúc Thông, Ðỗ Tuân Ðạo, La Văn Tố, Thịnh Văn Út, Vương Hiển Chung và Hàn Giao Nhi khởi sự ở Hà Nam, Vinh Xuyên, Bàng Doanh Ngọc thống lãnh Từ Chu Huy, Chu Phổ Phượng và Minh Ngũ khởi sự tại các châu phủ thuộc tỉnh Giang Tây, Thiết Quan Ðạo Nhân thống lãnh bộ Tam Vương và Mạnh Hải Mã khởi sự ở Kinh Tương, Chu Ðiên thống lãnh Chi Mã Lý và Triệu Quân Dụng khởi sự ở vùng Từ Châu, Lãnh Thiêm họp cùng giáo chúng Tây Vực, chặn đường cứu binh của Mông Cổ, Ngũ Hành Kỳ nghe lệnh điều khiển của Tổng đàn, hễ nơi nào nguy cấp thì tới cứu viện."

Phương sách đó là do Dương Tiêu thảo hoạch trước, rồi đưa Vô Kỵ bàn tính và quyết định.

Sau cùng, Vô Kỵ mới đem ra đọc cho mọi người nghe.

Giáo chúng hoan nghênh như sấm động.

Vô Kỵ nói tiếp:

- Với lực lượng của bổn giáo khó mà lay chuyển được cơ nghiệp gần trăm năm của nhà Nguyên. Vậy ta phải liên kết với các anh hùng hào kiệt khắp thiên hạ mới mong thành công được.

Hiện giờ, các cao thủ trong võ lâm đa số bị triều đình Nguyên bắt giữ nên Tổng đàn chúng ta đang nghĩ cách cứu các cao thủ đó. Từ ngày mai trở đi, anh em chúng ta sẽ tản mác ra bốn phương, nhưng bất cứ ai gặp quân Mông Cổ là phải ra tay chém giết chúng liền. Các anh em cần phải coi trọng nghĩa khí, để đại sự lên trên, chớ vì quyền lợi mà giết hại lẫn nhau. Nếu ai bất nghĩa, Tổng đàn quyết không dung.

Mọi người đều đồng thanh:

- Chúng tôi xin tuân lệnh giáo chủ.

Sáng hôm sau, các lộ giáo chúng đều lần lượt đến cáo lộ Vô Kỵ. Ngọn lửa thánh bốc cao, một người cao lớn tiếng đọc mấy câu như sau:

- Ðốt cháy thân tàn của ta, ngọn lửa thánh đang cháy hồng. Ta sống chả thấy sung sướng nào chỉ biết hành thiện trừ ác, tiến thẳng lên con đường quanh mình, hỉ lạc. Bi sầu sẽ trở về với cát bụi. Có ai thương ta đậu trong lúc thiên hạ đầy dẫy sầu đau, hoạn nạn!

Người đó vừa dứt lời mọi người đều đồng thanh nói lại những câu đó.

Tất cả giáo chúng đều lần lượt tới trước Vô Kỵ vái chào rồi đi thẳng, không ai quay đầu lại nhìn cả.

Tất cả các người ở các nơi tới, bây giờ lại trở về chỗ cũ.

Hồ Ðiệp Cốc trở lại yên tĩnh như xưa.

Chỉ còn lại bọn Dương Tiêu, Nhất Tiếu và bọn Nguyên Chương ở lại với Vô Kỵ thôi.

Mọi người đều hỏi rõ chùa Vạn Pháp ở đâu và hình dáng của bọn người hung ác như thế nào.

Vô Kỵ liền nói:

- Chu Ðại ca! Hiện giờ gần nơi đây đang loạn lạc, đại ca không nên bỏ lỡ dịp may này, mau thống lãnh anh em khởi sự tức thì. Ðại ca khỏi phải đi với chúng tôi lên Ðại Ðô nữa. Chúng ta tạm biệt ở đây.

Nguyên Chương, Từ Ðạt, Thường Ngộ Xuân đều đáp:

- Phen này, mong Giáo chủ thành công. Thuộc hạ chúng tôi xin chúc phúc giáo chủ.

Mấy người tạm biệt Vô Kỵ rời Hồ Ðiệp Cốc.

Chờ bọn Nguyên Chương đi khỏi, Vô Kỵ nói với tả hữu:

- Chúng ta cũng phải lên đường ngay. Tiểu Siêu, cô bị đeo xiềng xích như vậy rất bất tiện trong lúc đi đường, cô nên nán lại đây chờ chúng thì hơn.

Tuy không bằng lòng, Tiểu Siêu vẫn phải nhận lời, nàng tiễn Vô Kỵ ra tận ngoài Hô Ðiệp Cốc mà lòng vẫn quyến luyến.

Vô Kỵ an ủi:

- Tiểu Siêu quay trở về đi.

Tiểu Siêu hỏi:

- Chẳng hay tướng công tới Ðại Ðô có định gặp Triệu cô nương không?

- Ðiều này tôi không dám nói trước.

- Nếu tướng công gặp cô ta, làm ơn yêu cầu cô ta giúp tôi một việc này nhé?

- Tiểu Siêu có việc gì yêu cầu cô ấy thế?

Tiểu Siêu giơ thẳng hai cánh tay rồi đáp:

- Tướng công hỏi Triệu cô nương mượn Thanh Ỷ Kiếm để chặt đứt xiềng xích này cho tôi. Bằng không tôi sẽ mất tự do suốt đời.

Thấy thái độ của nàng rất đáng thương.

Vô Kỵ không nỡ trái ý nàng vội đáp:

- Tôi chỉ e cô ta không cho mượn thanh bảo kiếm ấy đem về đây xa xôi như vậy.

- Nếu vậy... chi bằng tướng công đem tôi đi tới trước mặt nàng nhờ nàng dùng kiếm chém cho một nhát, như vậy có phải là hơn không?

Vô Kỵ vừa cười vừa tiếp:

- Nói đi nói lại chẳng qua Tiểu Siêu muốn theo chúng tôi đi lên Ðại Ðô. Dương Tả sứ thử tính xem chúng ta có thể đem nàng đi theo được không?

Dương Tiêu biết Vô Kỵ nói như vậy là đã có y đem theo Tiểu Siêu đi theo, nên vội đáp:

- Ðưa cô ta đi theo cũng không sao, đồng thời có người hầu hạ cơm nước cho Giáo chủ, như vậy cũng có ích lợi lắm. Nhưng phải nỗi xiềng xích kêu long koong, dễ làm cho người ta chú ý tới. Hay là bảo cô ta giả đau ốm, cứ ngồi yên trên xe, đừng có ló mặt ra và cũng đừng đi lại mới được.

Tiểu Siêu ca mừng:

- Cám ơn tướng công, cám ơn Dương Tả sứ.

Trưa ngày hôm đó, ba ngựa một xe tiến thẳng về phía Bắc.

Suốt dọc đường không có chuyện gì xảy ra hết.

Không bao lâu, mọi người đã lên tới Bắc Kinh đô thành của triều đình.

Vừa vào tới cổng thành, Vô Kỵ và những người đã thấy những người đi lại trong thành đa số là những kẻ mắt xanh tóc vàng.

Bọn Vô Kỵ bốn người đi đến Tây Thành, vào trọ một khách điếm.

Dương Tiêu giả vờ làm một đại phú thương tiêu xài rất rộng rãi.

Y bảo phổ ky phục địch chu đáo.

Dương Tiêu hỏi phổ ky về những phong cảnh cổ tích, những miễu hay chùa viện?

Tên phổ ky trả lời:

- Ở phía Tây thành này chỉ có chùa Vạn Pháp là lớn nhất. Trong chùa có ba tượng Phật bằng đồng cao lớn. Có lẽ khách quan đi khắp thiên hạ cũng không sao kiếm ra được pho tượng nào to lớn như vậy.

Mấy vị đến chùa chiêm ngưỡng. À quên, không may cho quý vị, mấy tháng trước đây bỗng có một vị Phật ở Tây Phiên tới ở, nên chùa đó cấm người ngoài đến thăm viếng.

Dương Tiêu lại hỏi tiếp:

- Trong chùa có Phiên tăng ở, chúng tôi đến thăm viếng, có việc gì đến họ đâu?

Tiểu nhị lắc đầu lè lưỡi, ngó nhìn chung quanh rồi mới khẽ đáp:

- Khách quan mới đến kinh thành nên chưa hiểu rõ đấy thôi. Không phải tiểu nhân lắm miệng và dọa nạt quý vị đâu, sự thật, những Phiên tăng đó hễ thấy có người lạ là đánh liền. Họ muốn giết người cũng không ai dám nói nửa lời, hễ thấy đàn bà đẹp đi qua là họ bắt luôn vào trong chùa. Tiểu nhân nghe nói đó là thánh chỉ, cho nên họ tự do hành động như vậy, và không ai dám bén mảng tới chùa đó nữa.

Phiên tăng ở Tây vực ỷ thế lực của người Mông Cổ, ngang tàng vô cùng, chuyên môn hà hiếp người Hán. Việc này Dương Tiêu biết đã lâu, nhưng mọi người không ngờ ở kinh thành này mà chúng cũng dám làm như thế.

Biết vậy, Dương Tiêu không hỏi thêm nữa.

Cơm chiều xong, mọi người đóng cửa phòng nghỉ ngơi.

Chờ đến canh hai, Vô Kỵ, Dương Tiêu, Nhất Tiếu, xuyên qua cửa sổ ra bên ngoài và tiến thẳng về phía Tây.

Chùa Vạn Pháp cao chừng bốn từng, phía sau chùa có cái tháp chín từng.

Ðứng phía xa cũng có thể thấy được cái tháp đó.

Vô Kỵ, Dương Tiêu, Nhất Tiếu giở khinh công ra, chỉ thoáng cái đã tới chùa rồi.

Ba người dùng tay ra hiệu cùng chạy vòng sang phía trái định leo lên bảo tháp đứng trên cao nhìn xuống xem tình hình trong chùa.

Ngờ đâu ba người chưa tới gần đã thấy trên tháp có bóng người thấp thoáng.

Lúc này, ba người mới hay từng tháp nào cũng có người đi lại tuần tiễu.

Dưới chân tháp lại có hai chục người canh gác nữa.

Ba người thấy vậy vừa kinh hãi vừa mừng rỡ. Vì biết bảo tháp có người canh gác nghiêm mật như vậy, muốn cứu những tay cao thủ kia ra không phải là việc dễ!

Ba người lẳng lặng rút lui.

Ba người đi được vài chục bước, đột nhiên thấy từng thứ sáu của bảo tháp có ánh sáng ló ra và thấy thấy có tám chín người tay cầm đuốc chiếu soi khắp nơi rồi chúng lại xuống từng thứ năm thứ tư cho đến từng cuối cùng, chúng cũng chiếu rọi như thế. Chiếu xong bọn người đó liền đi thẳng ra ngoài chùa.

Dương Tiêu vội giơ tay ra hiệu, rồi ba người từ từ đi tới gần.

Phía sau chùa trồng rất nhiều cây cổ thụ cao chọc trời, ba người vội ẩn thân sau những cây to lớn, hễ nghe có tiếng động là ba người chạy lên mấy trượng ngay.

Ba người biết trong chùa Vạn Pháp này có rất nhiều tay cao thủ.

Tuy có khinh công cao siêu như thế, ba người vẫn sợ đối thủ hay biết nên cứ phải đợi có cành lá rơi mới dám tiến lên một vài chục bước!

Nhờ có ánh sáng của những bó đuốc, ba người đã trông thấy rõ bọn người kia đều ăn mặc áo bào màu vàng, tay cầm khí giới, đang áp tải một ông già mặc áo bào rộng. Người đó ngẫu nhiên quay đầu lại, Vô Kỵ nhận ngay ra là Thiết Cầm Tiên sinh Hà Thái Sung, trưởng môn phái Côn Luân.

Chàng giật mình kinh hãi, nghĩ thầm:

- Thế ra Hà Thái Sung cũng bị giam giữ ở đây ư?

Bọn người kia tiến thẳng vào phía sau chùa Vạn Pháp.

Ba người thấy chung quanh quả thật không còn có một bóng người nào nữa, mới dám lẻn theo cửa sau mà đi thẳng vào trong chùa.

Trong chùa rất rộng lớn, có nhiều phòng xá qui mô không khác gì chùa Thiếu Lâm! Phòng xá nào cũng tối om, riêng có toà đại diện ở giữa là có ánh sáng đèn mà thôi!

Ba người đoán chắc Thái Sung bị áp giải đến chỗ có ánh sáng đèn đó, liền rón rén tiến đến đại điện.

Vô Kỵ nằm phục xuống đất ngó qua khe cửa bên dưới nhìn vào trong điện.

Dương Tiêu và Nhất Tiếu đứng hai bên tả hữu canh gác cho chàng phòng người đánh lén.

Nhìn mãi, Vô Kỵ mới nhìn thấy được nửa người dưới của Thái Sung, còn trong điện có ai nữa thì chàng không sao trông thấy.

Chàng nghe tiếng Thái Sung hậm hực nói:

- Ta đã bị sa vào gian kế của các ngươi, bây giờ các ngươi muốn chém muốn giết thì cứ việc ra tay đi! Còn các ngươi muốn ta làm chó săn cho triều đình thì ta chịu chết chứ không chịu nhục đâu! Các ngươi đừng có mất công dụ dỗ ta nữa!

Thấy Thái Sung nói cứng như vậy, Vô Kỵ cũng gật đầu khen ngợi và nghĩ thầm:

- Hà tiên sinh đây tuy không thể gọi là chính nhân quân tử được nhưng đến lúc nguy nan này mà y vẫn còn giữ được thái độ như thế quả thật hiếm có! Y vẫn không làm mất tôn nghiêm một người trưởng môn của phái lớn!

Chàng lại nghe một người đàn ông lạnh lùng nói:

- Bạn cứ cố chấp như vậy, chủ nhân của tôi cũng không miễn cưỡng đâu! Luật lệ nơi đây như thế nào chắc bạn cũng đã dư biết.

Thái Sung đáp:

- Dù mười ngón tay của ta có bị chém gãy ta cũng không chịu đầu hàng!

- Cũng được, để tôi nói lại một lần nữa cho bạn nghe, nếu bạn thắng được ba chúng tôi thì chúng tôi sẽ tha cho bạn ngay. Nếu bạn thua thì chúng tôi chặt gãy một ngón tay của bạn, rồi giam giữ bạn trong một tháng. Lúc ấy sẽ hỏi bạn có chịu đầu hàng hay không?

- Ta đã bị chặt hai ngón tay rồi, bây giờ có bị chặt gãy một ngón nữa cũng không sao! Ðưa kiếm cho ta!

- Chờ đến khi mười ngón tay bị chặt hết bạn mới chịu đầu hàng thì chúng tôi cũng chẳng cần thu nhận đến một người tàn phế như thế làm chi! Ðưa kiếm cho y, Mã Kha Ba Tư! ra đấu với y đi!

Một người khác với giọng thô lỗ đáp:

- Vâng!

Vô Kỵ ngấm ngầm vận thần công, đẩy khe cửa lên một chút để nhìn cho rõ. Chàng thấy Thái Sung tay cầm một thanh kiếm gỗ, đầu kiếm có bọc vải mềm vừa cứng, không thể nào đả thương và đâm chết người được, còn kẻ đối địch với y là một tên Phiên Tăng cao lớn, tay camn một thanh giới đao sáng quắc, khí giới của hai người hơn kém nhau như vậy, không cần phải tỷ thí cũng biết ai thắng ai bại rồi!

Thái Sung không sợ hãi chút nào, giơ kiếm gỗ lên và nói:

- Cứ việc tấn công đi!

Nói xong y giở Côn Luân kiếm pháp ra tấn công đối thủ ngay.

Phiên tăng Mã Kha Ba Tư thân hình tuy vạm vỡ, nhưng hành động rất lẹ làng.

Y giở đao pháp nhằm các nơi yếu điểm của Thái Sung mà tấn công tới.

Chỉ xem hai người đấu, Vô Kỵ đã kinh hãi, thầm nghĩ:

- Sao chân của Hà Tiên sinh lại yếu ớt và hơi thở của y lại hồng hộc lên như vậy? Hình như nội lực của y đã mất gần hết vậy.

Từ khi học tập được Cửu Dương thầ công và Càn Khôn Nã Di Tâm pháp rồi, võ học của thiên hạ thay đổi như thế nào Vô Kỵ chỉ nhìn qua cũng đều biết hết.

Mấy tháng gần đây chàng ở trên núi Võ Ðang lại được Trương Tam Phong chỉ bảo cho võ học lại càng tiến bộ thêm.

Lúc này chàng thấy Thái Sung đấu với Phiên tăng kia càng xem càng nhận thấy bên trong thế nào cũng có sự bí mật gì đây? Kiếm pháp của Thái Sung tuy tinh thông thật, nhưng nội lực của y không khác gì người thường. Vì vậy thế kiếm của y rất lợi hại mà không sao xử dụng hết được!

Còn tên Phiên tăng kia võ công tuy kém y hai thành, nhưng nhờ có sức mạnh và khí giới sắc bén hơn, vì vậy càng đấu Phiên tăng càng thắng thế hơn.

Nhưng có nhiều lần Phiên tăng sắp sửa giết được Thái Sung đến nơi lại bị Thái Sung dùng những thế tinh diệu mà tránh thoát được.

Hai người đấu được năm mươi hiệp, Thái Sung bỗng quát lớn:

- Trúng!

Kiếm của y đã đâm trúng vao dưới mông của tên Phiên tăng nọ liền! Nếu kiếm của y là kiếm thường thôi, thế kiếm đó củng đủ giết tên phiên tăng nọ rồi, nhưng vì kiếm của y là kiếm gỗ lại bọc vải nên đối thủ chỉ đau đớn qua loa thôi!

Mã Kha Ba Tư hãy rút lui đi! Ôn Ngọa Nhi lên tiếp chiến!

Vô Kỵ ngó về phía có tiếng nói đó thấy người ấy mặt đen như ám khói, có râu hoa râm, chàng nhận ngay ra y là một tên trong nhóm Huyền Minh Nhị Lão, y đang khoanh tay đứng yên, hai mắt nhắm nghiền, hình như không để ý tới sự việc đang xảy ra trước mắt vậy!

Chàng lại nhìn về phía trước thấy trên một cái bục phủ gấm có một đôi chân đi giày màu vàng, mũi giày có gắn một hạt Minh châu, chàng nhận ngay ra chân này là chân của Triệu Minh. Không hiểu tại sao khi gặp nhau trên Võ Ðang, chàng coi nàng như kẻ địch nhưng lúc này chàng mới thấy đôi chân của nàng đã cảm thấy trống ngực đập rất mạnh.

Chàng lại thấy chân phải của Triệu Minh khẽ đánh nhịp, chàng đoán chắc nàng đang chăm chú xem trận đấu của Hà Thái Sung với Ôn Ngọa Nhi.

Một lát sau, chàng nghe thấy Thái Sung lớn tiếng kêu: "Trúng."

Triệu Minh giơ chân phải lên dậm mạnh xuống đất một cái, thì ra nàng bực mình vì Ôn Ngọa Nhi đã bại trận.

Vô Kỵ lại nghe thấy ông già Huyền Minh nói:

- Ôn Ngọa Nhi rút lui, Hắc Lâm Bạc Phu vào tiếp chiến.

Vô Kỵ thấy Thái Sung thấm mệt. Bây giờ y lại tiếp chiến với người thứ ba.

Chàng thấy Hắc Lâm Bạc Phu xử dụng một cây côn sắt rất nặng, nên khi y múa động cây côn ấy trong điện liền có tiếng gió kêu vù vù khiến những ngọn nến thắp điện đều bị ảnh hưởng, lúc lu lúc sáng.

Ðang lúc ấy chàng bỗng nghe tiếng "cắc" một cái.

Thì ra thanh kiếm gỗ của Thái Sung bị đánh gãy.

Người chưởng môn của phái Côn Luân liền thở dài và vứt thanh kiếm gãy xuống đất. Rốt cuộc trận đấu ấy y bị thua.

Ông già Huyền Minh liền lên tiếng hỏi:

- Thiết Cầm tiên sinh đã chịu đầu hàng chưa?

Thái Sung ngang nhiên đáp:

- Tôi không hàng và cũng không phục, nếu tôi còn nội lực thì Phiên tăng kia địch tôi sao nổi.

Ông già Huyền Minh lạnh lùng bảo tả hữu rằng:

- Chém ngón tay vô danh ở bên trái của y rồi đem giam trong tháp.

Vô Kỵ vội quay đầu lại và giơ tay ra hiệu cho Dương Tiêu ý chàng muốn bảo:

- Nếu lúc này ta xông vào trong điện cứu người thế nào cũng làm hư hết việc lớn. Trong khi chàng ra hiệu cho Dương Tiêu, chàng nghe thấy trong điện có tiếng chặt ngón tay, tiếng người lo rịt thuốc và băng bó cho Thái Sung, nhưng chàng không nghe tiếng Thái Sung kêu đau và rên rỉ gì hết.

Chàng thấy bọn người áo vàng, tay ôm đuốc, tay kéo Thái Sung để đem về bảo tháp giam cầm.

Vô Kỵ vội đứng dậy và lẻn ra góc tường ẩn núp.

Dưới ánh sáng bó đuốc, chàng trông thấy Thái Sung mặt nhợt nhạt, nghiến răng mím môi lại chịu đau, thần sắc rất phẫn nộ.

Bọn người đó đi xa rồi.

Vô Kỵ bỗng nghe trong điện có tiếng Triệu Minh lanh lảnh nói:

- Lộc Trượng Khách nầy, kiếm pháp của phái Côn Luân lợi hại đấy nhỉ, y tấn công lia lịa khiến Mã Kha Ba Tư không biết đâu mà chống đỡ.

Nàng ta vừa nói vừa đi ra giữa điện tay cầm thanh kiếm gỗ và bắt chước Thái Sung mà múa theo.

Phiên tăng Mã Kha Ba Tư tay múa song đao tiến lên đối địch với nàng, Ông già Huyền Minh Lộc Trượng Khách kia liền khen ngợi:

- Chủ nhân quả thật thông minh vô cùng thế kiếm nầy chủ nhân múa đúng lắm.

Triệu Minh lại tiếp tục tấn công Mã Kha Ba Tư, thế kiếm nào nàng cũng đâm trúng dưới mông của đối thủ, tuy kiếm của nàng bằng gỗ nhưng đâm trúng cái nào cũng đau lắm. Tuy vậy tên Phiên tăng đó vẫn cố chịu đau để luyện tập với nàng.

Nàng đấu với Phiên tăng đó xong lại gọi Ôn Ngọa Nhi ra đấu với mình để thử xem người này đã dùng môn võ nào mà đánh bại được kiếm pháp của Thái Sung.

Tới lúc nầy Vô Kỵ mới biết rõ tại sao Triệu Minh lại làm như thế?

Thì ra nàng bắt các tay cao thủ của các môn phái đem về giam giữ nơi đây và cho họ uống thuốc để mất hết sức lực rồi mới bắt họ đầu hàng triều đình.

Tất nhiên không một ai chịu đầu hàng triều đình cả. Nàng liền sai người đấu võ với các tay cao thủ đó để nàng học lỏm những thế võ hay của các môn phái. Như vậy đủ thấy, dụng tâm của nàng độc biết bao và mưu kế ấy cũng ác khôn tả. Ai nghe thấy cũng phải tức giận vô cùng.

Lúc ấy Triệu Minh đang đối địch với Ôn Ngọa Nhi, đấu đến mấy thế cuối cùng nàng bỗng ngừng tay, mặt tỏ vẻ nghi ngờ, vội hỏi ông già Huyền Ming rằng:

- Lộc Trượng Khách! Thế kiếm ấy có phải đâm như thế này không?

Lộc Trượng Khách ngơ ngác một hồi, rồi quay đầu lại hỏi:

- Chú Hạc! Chú có trông thấy rõ không?

- Ðệ không nhớ rõ có lẽ Khổ Ðầu Ðà nhớ rõ hơn.

Triệu Minh vừa cười vừa quay đầu lại hỏi:

- Khổ Ðầu Ðà làm ơn ra đây chỉ điểm cho tôi một chút.

Phía bên phải có một Ðầu đà tóc bạc phủ xuống vai, lưng gù, chân thọt, mặt có rất nhiều vết sẹo. Không ai có thể biết được bộ mặt thật của y ra sao nữa. Tuy lưng gù, Ðầu đà ấy rất vạm vỡ, lưng tuy gù nhưng cao không kém gì Lộc Trượng Khách, không nói nửa lời, từ từ tiến ra đỡ lấy thanh kiếm gỗ của Triệu Minh xông lại tấn công Hắc Lâm Bạc Phu ngay. Y toàn xử dụng kiếm pháp của phái Côn Luân, hình như y luyện tập kiếm pháp của phái này từ hồi nhỏ, nên kiếm thế của y rất thuần thuộc.

Lúc ấy Vô Kỵ mới trông thấy Hắc Lâm Bạc Phu là võ sĩ Tây Vực xử dụng cây thiết trượng dài tám thước.

Khổ Ðầu Ðà bắt chước y hệt Hà Thái Sung vì vậy y cũng làm như không có chút nội lực nào còn đối thủ thì giở hết toàn lực ra chiến đấu mãi tới những ngọn nến đã tắt hơn phân nửa.

Hồi nãy Thái Sung đấu tới đây liền bị Hắc Lâm Bạc Phu đánh gãy kiếm và bại trận còn Khổ Ðầu Ðà nhẹ nhàng như con chim yến nhảy tới gần kẻ địch múa kiếm chém luôn vào tay đối thủ, nên tay y tê tái tức thì, không sao cầm vững cây thiết trượng liền đánh rớt xuống đất kêu đến "coong" một tiếng.

Mặt đỏ bừng xấu hổ vô cùng, y biết nếu kiếm của đối thủ không phải là kiếm gỗ thì tay của y bị chém gãy rồi nên vội vái chào và nói:

- Bái phục, bái phục.

Nói xong y cúi mình và nhặt cây thiết trượng lên.

Khổ Ðầu Ðà hai tay cầm kiếm gỗ trao cho Triệu Minh .

Triệu Minh, vừa cười vừa nói:

- Khổ Ðại sư tài ba thật, chẳng hay thế kiếm tinh diệu cuối cùng đó có phải là thế kiếm của phái Côn Luân không?

Khổ Ðầu Ðà trả lời bằng mấy cái gật.

Triệu Minh khẽ nói tiếp:

- Tại sao Hà Thái Sung lại không biết sử dụng thế kiếm ấy?

Khổ Ðầu Ðà chỉ gật đầu như trước.

Triệu Minh lại hỏi tiếp:

- Khổ sư phụ có dạy tôi thế kiếm ấy không?

Nhất Tiếu bỗng giơ bàn tay ra và nhổ vào đấy mấy đống nước bọt, cùng nước bọt đó sát vào đáy giầy, mấy cái rồi ha hả cả cười.

Mọi người không hiểu y làm như thế để làm chi? đột nhiên có một cái bóng xanh thấp thoáng.

Triệu Minh đã thấy hai má của mình bị ai rờ mó một cái.

Nàng ngửng mặt nhìn, thấy Nhất Tiếu đã đứng về chỗ cũ và tay đã có hai thanh đoản đao. Không hiểu y đã lấy trộm hai thanh đoản đao đó của ai.

Triệu Minh hiểu biết là ai rồi, nhưng nàng không dám đưa tay lên sờ vào má. Chỉ lấy khăn tay ra lau chùi thồi. Nàng thấy khăn đó dính đầy những bùn bẩn và đen xì.

Hiển nhiên những bùn đó là nước bọt và cát bụi ở dưới đáy giày của Nhất Tiếu, nàng càng nghĩ càng buồn nôn buồn mửa.

Nàng lại nghe thấy Nhất Tiếu nói:

- Triệu cô nương muốn làm hư bộ mặt của Chu cô nương ư? Dễ lắm, đâu có ai cấm cản cô nương được. Trương giáo chủ chúng tôi tiếng tăm lừng lầy bốn bể và lại là người anh tuấn tao nhã. Giáo chủ chúng tôi muốn lấy mấy người vợ đẹp hay là tam thê, tứ thiếp cũng không khó. Sự thật giáo chủ chúng tôi có bao giờ để ý đến Chu cô nương này đâu. Vì thấy cô nương có thủ đoạn ác độc như vậy, nên Nhất Tiếu không thể buông tha được. Ngày hôm nay nếu mặt Chu cô nương bị rạch một vết thương nào, họ Vi này sẽ trả lại gấp đôi, nghĩa là một gấp hai nếu cô nương rạch cô ta hai rạch tôi sẽ rạch cô bốn rạch. Cô chặt cô ta một ngón tôi sẽ chặt cô ta hai ngón. Họ Vi nầy đã nói ra là phải làm được, trong đời tôi chưa hề nói ngoa bao giờ. Cô đề phòng tôi chỉ có thể đề phòng nửa năm hay một năm thôi chứ cô nương không thể đề phòng tám hay mười năm Cô muốn sai người giết tôi, nhưng chưa chắc đuổi kịp họ Vi này. Bây giờ tôi xin cáo từ đây.

Y vừa nói dứt lời người y đã mất dạng liền đủ thấy thân pháp của y nhanh như thế nào. Mọi người có mặt tại đó đều kinh hoảng.

Lời nói của Nhất Tiếu rất tầm thường nhưng mọi người đều biết y không phải nói ngoa để dọa nạt đâu?

Nếu vừa rồi họ Vi tay cầm đoản đao, muốn rạch thì mặt của Triệu cô nương đã bị rách nát rồi, thân pháp của y nhanh như điện và cũng tựa như bóng ma thì dù có tay cao thủ mạnh đến đâu cũng không đề phòng y nỗi.

Vô Kỵ chắp tay vái chào và nói:

- Triệu cô nương chúng tôi xin cáo từ.

Nói xong, chàng đắt tay Dương Tiêu quay người đi ra luôn.

Chàng biết lúc này Triệu Minh hãy còn nơm nớp hãy sợ về sự đe dọa của Nhất Tiếu nên chưa dám hại Chỉ Nhược .

Triệu Minh đưa mắt nhìn theo hai người vừa xấu hổ, vừa tức giận, nhưng nàng không ra lệnh chận hai người lại.

Vô Kỵ với Dương Tiêu vừa về tới khách điếm đã thấy Nhất Tiếu ngồi chờ trong phòng rồi.

Vô Kỵ vội hỏi:

- Dương Tả sứ, về vần đề cứu người chẳng hay Tả sứ có điệu kế gì không?

Dương Tiêu trù trừ một lúc rồi đáp:

- Chúng ta chỉ có ba người, huống hồ hình tích của ta đã lộ liểu rồi. Việc này khó giải quyết thật.

Vô Kỵ có vẻ ăn năn lẩm bẩm nói:

- Vì thấy Chu cô nương nguy cấp tôi ra tay cứu mới làm hư đại sự.

Dương Tiêu lại nói:

- Sự thế như vậy ai cũng phải hành động. Nhưng Giáo chủ một mình đánh bại Huyền Minh nhị lão làm cho kẻ địch mất hết oai phong cũng đã hay lắm.

Ba người bàn tán mãi vẫn không tìm được một mưu kế hoàn hảo nào.

Cả ba đành chia tay về phòng ngủ.

Sáng sớm ngày hôm sau, Vô Kỵ thức dậy vừa mở mắt ra nhìn đã thấy cửa sổ mở toang.

Chàng giật mình kinh hãi vội mở màng ra xem, thấy một người mặt đầy sẹo, trông rất xấu.

Chàng nhìn kỹ mới hay người đó chính là Khổ Ðầu Ðà vẫn cứ ngẩn người ra nhìn chàng nhưng không có ý định hãm hại chàng.

Chàng vừa tung mình vừa nghĩ thầm:

- Sao ta ngủ say đến thế, kẻ địch đến trước cửa sổ như vậy mà ta không hay biết gì hết.

Nghĩ đoạn chàng lớn tiếng gọi:

- Dương Tả sứ! Vy Bức Vương!

Dương Tiêu và Nhất Tiếu nghe tiếng đáp lại, Vô Kỵ mới yên tâm và quay lại nhìn về phía cửa sổ không trông thấy bộ mặt của Khổ Ðầu Ðà nữa.

Chàng vội nhảy ra ngoài cửa sổ chỉ thấy bóng của Khổ Ðầu Ðà đang đi ra lối cửa giữa. Lúc ấy Dương Tiêu và Nhất Tiếu đã đuổi theo ra, ba người thấy ngoài Khổ Ðầu Ðà ra không còn có kẻ địch nào khác nên cả ba người liền giở khinh công ra đuổi theo.

Khổ Ðầu Ðà ở góc phố, thấy ba người đuổi theo tới liền quay mình đi thẳng về phía Bắc, y chỉ đi bước thôi chứ không chạy, ba người liền dùng tay hiệu bảo nhau theo dõi.

Tuy chân đi tập tễnh, Khổ Ðầu Ðà đi rất nhanh.

Lúc ấy, trời vừa mờ sáng, người đi rất ít.

Không bao lâu, cả bốn người đã ra khỏi cửa Bắc, Khổ Ðầu Ðà vẫn tiếp tục đi, rẽ vào con đường nhỏ.

Y đi thêm bảy tám dặm nữa tới một ải đồi có nhiều đá lởm chởm mới ngừng chân quay lại giơ tay ra hiệu bảo Dương Tiêu và Nhất Tiếu hãy rút lui rồi y chắp tay chào Vô Kỵ. Vô Kỵ đáp lễ và nghĩ thầm:

- Ðầu Ðà này đưa chúng ta tới đây làm chi thế? không hiểu y cố dụng ý gì. Nơi đây không có một bóng người nào. Nếu y động vô, chúng ta ba người đấu với một mình y thì chỉ có y thua thôi khi nào y lại dại như thế. Như vậy y dụ ta, tất phải có việc khác .

Chàng đang suy nghĩ Khổ Ðầu Ðà đã kêu "hù hù" một tiếng giơ tay mười ngón tay lên nhảy xổ tới, tay trái xử dụng thế Hổ Chảo, tay phải xử dụng thế Long Chảo, mười ngón tay như mười cái móc sắt, thế công của y rất độc ác.

Vô Kỵ giơ tay chưởng lên hắt ngang một cái giải luôn một thế võ của địch thủ và hỏi:

- Thượng nhân muốn gì? Xin cho biết trước rồi đấu sau cũng chưa muộn.

Khổ Ðầu Ðà không điếm xĩa đến lời nói của chàng mà cứ tấn công lia lịa. Thế công của y cũng lợi thế hết sức.

Vô Kỵ liền hỏi tiếp:

- Có thật Thượng nhân nhất định đấu không?

Khổ Ðầu Ðà vẫn tấn công như trước, Vô Kỵ liền giở Thái cực quyền pháp ra đối phó. Nhưng võ công của Khổ Ðầu Ðà phức tạp, chính có tà có uyên bác khôn lường, Vô Kỵ vẫn dùng Thái cực quyền chống đỡ.

Ðấu được bảy tám mươi hiệp Khổ Ðầu Ðà bỗng tấn công một quyền vào trước ngực đối thủ.

Vô Kỵ phong bế quyền lực của địch và dùng hữu chưởng đánh luôn vào lưng gù của đối phương nhưng chưởng của chàng không dùng một chút nội lực nào cả chỉ đụng tay vào người của địch thủ là thâu thế lại ngay.

Khổ Ðầu Ðà biết chàng nương tay không giết hại mình, y vội nhảy lui về phía sau, ngước mắt nhìn Vô Kỵ một hồi, rồi đột nhiên y giơ tay ra hiệu bảo Dương Tiêu cho mượn thành trường kiếm.

Dương Tiêu vội đưa thanh kiếm nguyên cả bao cho y.

Vô Kỵ thấy vậy ngạc nhiên vô cùng và nghĩ thầm:

- Sao Dương Tả sứ lại cho kẻ địch mượn khí giới như thế?

Khổ Ðầu Ðà rút kiếm ra khỏi bao y còn giơ tay ra hiệu bảo Vô Kỵ hỏi Nhất Tiếu mượn kiếm.

Vô Kỵ lắc đầu chỉ cầm cái bao kiếm, nắm ở tay trái thôi, rồi chàng đỡ bao kiếm lên ngực, lấy thế đợi Khổ Ðầu Ðà tấn công.

Khổ Ðầu Ðà múa kiếm tấn công luôn.

Vô Kỵ thấy y dạy Triệu Minh học kiếm hồi nãy biết kiếm của đối thủ rất cao nên chàng không dám coi thường.

Chàng liền giở Thái cực kiếm pháp đã học ở núi Võ Ðang ra tiếp chiến nhưng chàng thấy kiếm pháp của đối thủ bỗng nhanh, bỗng chậm, thế nào cũng lợi hại nhưng không làm gì nỗi Vô Kỵ hết.

Tuy vậy, Vô Kỵ cũng phải khen ngợi thầm:

- Nửa năm trước đây, ta đối địch với người nầy kiếm pháp của ta chưa chắc địch nổi y. Kiếm pháp của y còn cao siêu hơn Ngọc Diện thần kiếm, Phương Ðông Bạch nhiều.

Lòng yêu tài khiến chàng muốn đánh bại đối thủ liền.

Hai người đang đấu rất kịch liệt, thế kiếm của Khổ Ðầu Ðà nhanh đến nỗi chỉ trông thấy một luồng ánh sáng chứ không thấy lưỡi kiếm của y.

Bỗng có tiếng kêu "soẹt", Khổ Ðầu Ðà giật mình nhảy về phía sau, nhìn nhanh kiếm thấy bao kiếm đã úp chụp vào thanh kiếm rồi đồng thời khẩu tay của y đã bị Vô Kỵ nắm chặt lấy.

Y biết Vô Kỵ chỉ dùng sức một cái là thanh kiếm đó rời khỏi tay y ngay, y liền vứt kiếm xuống giơ tay đánh luôn Vô Kỵ mấy chưởng.

Vô Kỵ biết chưởng lực của địch rất lợi hại nhưng chàng vẫn giơ chưởng lên chống đỡ đồng thời chàng giở Càn Khôn Ðại Nã Di tâm pháp ra nên chưởng lực của chàng càng đánh càng mạnh.

Ðột nhiên chàng bỗng quát lớn một tiếng.

Chưởng lực của chàng càng mạnh hơn trước mấy chục lần. Nếu Khổ Ðầu Ðà còn tiếp tục chống cực thì tay và xương hông của y sẽ bị gãy vụn. Y sẽ bị chết một cách thảm thương liền. Nhưng, tay của hai người đã dính chặt nhau.

Khổ Ðầu Ðà muốn tránh cũng không sao tránh được.

Vô Kỵ giơ tay trái túm ngực đối phương, tung lên một cái Khổ Ðầu Ðà bay lên cao rớt xuống đất kêu đánh "bùng" một tiếng đá bụi cây tứ tung.

Thì ra chưởng của Vô Kỵ đã đánh trúng một tảng đá ở phía trước mặt, tiếng đá vỡ thành muôn mảnh.

Dương Tiêu và Nhất Tiếu đứng gần đó điều kinh hãi cũng kêu một tiếng "úa".

Hai người yên chí, Khổ Ðầu Ðà đấu chưởng với Giáo chủ ít ra một hồi lâu mới phân thắng bại được.

Ngờ đâu chỉ giây phút đã tới mức quyết sinh tử.

Hai người định lên tiếng nói, nhưng chưa kịp đã thấy việc xảy ra kinh khủng như trên. Khổ Ðầu Ðà bình yên nhảy xuống mặt đất hai người mới hết sợ.

Khổ Ðầu Ðà vừa hạ chân xuống tới mặt đất đã giơ tay lên trước làm kiểu như ngọn lửa đang bốc cháy vậy rồi y quỳ xuống vái lạy Vô Kỵ và nói:

- Tiểu nhân Quang Minh Hữu sứ Phạm Dao tham kiếm Giáo chủ cám ơn Giáo chủ thứ tội cho.

Vô Kỵ giật mình kinh hãi vì chàng ngỡ Khổ Ðầu Ðà vẫn câm điếc sao bây giờ không những nói được mà còn xưng là Quang Minh Hữu sứ của Minh Giáo.

Chàng vội đỡ Phạm Dao đứng dậy và đáp:

- Thế ra bạn là Phạm Hữu sứ của bổn giáo đấy à! Người nhà với nhau cả. Hà tất phải lễ phép như thế làm chi?

Khi Dương Tiêu với Nhất Tiếu mới tới đã đoán ra được ba thành rồi, nhưng vì mặt Phạm Dao thay đổi quá nhiều, nên hai người không dám nhận. Tới khi thấy Hữu sứ giở võ công ra đối địch với Vô Kỵ, hai người lại đoán biết thêm được bốn thành nữa. Bây giờ thấy Hữu sứ báo danh, hai người vội chạy lại nắm lấy tay của Phạm Dao.

Dương Tiêu ngắm Hữu sứ một hồi, nước mắt ràn rụa nói:

- Phạm hiền đệ, ngu huynh nhớ hiền đệ khôn tả...

Phạm Dao ôm lấy Dương Tiêu đáp:

- Ðại ca, cám ơn thần thánh phù hộ, ban cho bổn giáo một vị Giáo chủ tài ba như thế này. Nhờ vậy anh em chúng ta mới tái hợp.

Dương Tiêu vội hỏi:

- Sao mặt mũi chú lại thay đổi như thế?

- Nếu đệ không phá hủy bộ mặt vì tự làm thành người tàn tật như thế này thì giấu gian tặc Thành Khôn sao nổi.

Lúc này, Vô Kỵ, Dương Tiêu và Nhất Tiếu, ba người hay y tự hủy diện để nắm vùng, dò là xem Giáo chủ Dương Phá Thiên tại sao chết. Thấy Phạm Dao can đảm như thế, Dương Tiêu càng cảm động thêm liền nói tiếp:

- Chú chịu khó thật!

Năm xưa Dương Tiêu với Phạm Dao cùng được giang hồ gọi là Tiêu Dao nhị tiên, vì cả hai đều đẹp trai. Nhưng bây giờ Phạm Dao biến thành người xấu xí như vậy, nỗi khổ của y trên thế gian này có mấy người chịu đựng nổi? Tính nết của Nhất Tiếu rất kỳ dị xưa nay vẫn bất hòa với Phạm Dao, nhưng từ lúc nầy y thấy Hữu sứ hy sinh như vậy, cũng phải kính phục nên y vội quỳ xuống lạy và nói:

- Phạm Hữu Sứ! Từ nay Nhất Tiếu xin bái phục.

Phạm Dao cũng quỳ xuống đáp lễ:

- Bức Vương khinh công cao siêu nhất thiên hạ, càng tuổi già tài ba càng điêu luyện. Tối qua Khổ Ðầu Ðà sáng mắt ra.

Dương Tiêu đưa mắt nhìn quanh rồi nói:

- Nơi đây gần thành, nhĩ nhục của địch lại rất nhiều, chúng ta nên vào trong eo núi ở phía trước mặt nói chuyện thì hơn .

Bốn người liền giơ khinh công ra, chạy luôn mười mấy dặm đường, tới một cái đồi nhỏ, có thể trông thấy cảnh vật phía xa, không sợ kẻ địch ẩn núp nghe lỏm.

Bốn người liền ngồi xuống đất chuyện trò.

Khi Dương Phá Thiên đột nhiên mất tích, các cao thủ của Minh Giáo muốn tranh giành địa vị giáo chủ, không ai chịu phục ai cả nên mới chia thành bốn năm phe. Riêng có Phạm Dao vẫn tin Giáo chủ chưa chết, một mình đi tìm kiếm khắp nơi.

Ðã mấy năm Phạm Dao vẫn không sao tìm thấy tung tích của Giáo chủ. Y ngờ cho Cái Bang đã ám hại Giáo chủ, nên đã bí mật hất mấy yếu nhân của Cái Bang tra hỏi. Nhưng tra hỏi thế nào cũng không tìm ra tung tích của Giáo chủ. Tội nghiệp cho Cái Bang, có một số đệ tử đột nhiên bị chết oan vì y. Lúc ấy Phạm Dao hay tin các người trong Minh Giáo tranh chấp kịch liệt hơn trước và cho người đi khắp nơi tìm kiếm. Ðịa vị của y trong Minh Giáo rất cao nên y đứng lên hiệu triệu tất nhiên có rất nhiều giáo chúng theo y ngay. Nhưng y đã nản chí bỏ đi tu, làm một đầu đà nhưng vẫn để tóc như thường.

Một hôm, đang đi dưới chân núi Thái Hằng, bỗng trời mưa trong y liền chạy vào ngôi miếu cổ để trú mưa, vô tình y nghe lõm câu chuyện của hai người, mà hai người đó, một là Thành Khôn, còn người thứ hai kia là một vị Hòa Thượng.

Lúc ấy, y mới biết người Hòa Thượng kia là Không Kiến đại sư, người đứng đầu trong Tứ đại thần tăng của phái Không Kiến đại sư, người đứng đầu trong Tứ đại thần tăng của phái Thiếu Lâm. Y ở trên Quang Minh Ðỉnh đã được gặp Thành Khôn rồi và biết Thành Khôn là sư đệ của Dương Giáo chủ. Y định chờ hai người nói chuyện xong sẽ ra tương kiến.

Ngờ đâu y mới nghe được vài câu đã giật mình kinh hãi liền. Y thấy Thành Khôn quỳ dưới đất sám hối trước mặt Không Kiến thần tăng, Thành Khôn tự nhận là ví quá chén, nên mới định hãm hiếp vợ của Tạ Tốn, đệ tử của mình và còn giết chết cả gia đình đồ đệ đó nữa.vì vậy Tạ Tốn mới đi khắp nơi để tìm y trả thù, nhưng y cứ lánh mặt, không chịu gặp, nên Tạ Tốn mới giết các anh hùng hảo hán tên tuổi trong võ lâm và đề tên Thành Khôn.

Vô Kỵ đã biết rõ câu chuyện kết thù oán của Tạ Tốn với Thành Khôn rồi, nhưng lúc này chàng nghe Phạm Dao nhắc đến, lòng lại tức giận vô cùng.

Phạm Dao kể tiếp:

- Ngày hôm đó, tôi thấy Thành Khôn khóc lóc thảm thương và cứ van lơn Không Kiến đại sư thâu làm độ đệ. Muốn lấy lòng từ bi của nhà phật để hòa giải nghiệp chướng của Thành Khôn .

Không Kiến đại sư liền đáp:

- Thiên tai, thiên tai bể khổ không bờ bến, nhưng biết hối cãi quay đầu lại thì thấy bờ ngay. Ngày xưa đã có người đồ đệ bỏ nghề đi tu mà thành chính quả. Nếu con đã tự sám hối, không lẽ nào ta lại cự tuyệt không nhận con vào cửa phật.

Thần tăng nhận y làm đệ tử và còn nhận lời giúp y giải mối oan nghiệt Tạ Tốn.

Nói tới đó, Phạm Dao vừa ngưng lời thì Vô Kỵ đã kể qua loa câu chuyện Tạ Tốn đánh chết Không Kiến thần tăng cho ba người nghe chàng lại nói tiếp:

- Sỡ dĩ thần tăng có chịu đựng những trái quyền như búa bổ của Tạ đại hiệp là mong muốn hòa giải mối huyết cừu trong võ lâm. Ngờ đâu Thành Khôn lại lừa dối sư phụ y lúc thần tăng sắp chết, y ẩn thân không chịu ra, và cũng không chịu gặp Tạ Tốn...

Tiếp theo đó Dương Tiêu lại kể chuyện Thành Khôn tập kích lên Quang Minh Ðỉnh như thế nào, Minh Giáo ngộ nạn ra sao, rồi y đấu chưởng lực với cha con Hân Thiên Chính, sau cùng y kệt sức chết ngay tại chỗ.

Phạm Dao liền chắp tay vái trời và nói:

- A Di Ðà Phật, thiên tai, thiên tai.

Dương Tiêu thấy Phạm Dao là một nhân vật phong lưu năm xưa mà ngày nay trở nên con người xấu xí và tiều tụy như thế, trong lòng rầu rĩ vô cùng.

Phạm Dao lại nói tiếp:

- Kim Mao sư vương giao hảo với tôi rất thân. Việc gia đình của Tạ đại hiệp ngộ nạn, tôi cũng hay tin, không ngờ hung thủ lại là Thành Khôn.

Nói xong câu đó Khổ Ðầu Ðà lại tiếp:

- Lúc ấy mưa đã tạnh, Không Kiến thần tăng và Thành Khôn ra khỏi miếu đó và đi luôn. Tôi liền lẳng lặng theo sau, biết cả hai võ công rất cao siêu, nên tôi không dám đến gần. Tuy vậy Không Kiến vẫn biết có người theo dõi, nên vừa đi, ông ta vừa niệm phật hiệu và nói rằng: "Ðệ tử của Phật gia cần phải để lòng từ bi trên hết" Vì thế, tôi không dám theo nữa.

Một năm sau, tôi mới hay cái chết của Không Kiến thần tăng. Trong lòng nghi ngờ vô cùng, đoán chắc thế nào cái chết đó cũng có liên can đến Thành Khôn, nên tôi ngấm ngầm tới chùa Thiếu Lâm để điều tra. Tôi không dám đi sâu vào chùa, thì ở phía gần Tung Sơn mà dò xét thôi. Quả nhiên, trời xanh không phụ lòng người, tôi bắt gặp Thành Khôn nói chuyện với mật sứ của triều đình. Mật sứ đó không phải là ai xa lạ mà chính là Lộc Trượng Khách, người đã bị giáo chủ đánh bại đêm hôm qua. Vì thấy võ công của hai người quá cao, tôi đã tự biết địch không nỗi họ, nên tôi không dám lại gần, vì vậy tôi không sao nghe rõ được họ nói những gì? Tôi chỉ nghe bảy chữ như sau: "Cần phải tiêu hủy Quang Minh Ðỉnh".

Thuộc hạ đã biết bổn giáo lâm nạn nên không dám khoanh tay đứng nhìn, liền theo Lộc Trượng Khách vào kinh sư. Trừ Lộc Trượng Khách ra, những tay cao thủ của triều đình không có một người nào có thể địch nỗi tôi. Rốt cuộc tôi dò là thấy Lộc Trượng Khách với bọn cao thủ kia, đều là thủ hạ Nhữ Dương Vương Sát Hãn Ðặc Mục Nhĩ. Nhữ Dương Vương là tôn thất của triều đình. Làm quan Thái úy, nắm đại quyền binh mã của khắp thiên hạ, y là một người tài ba số một của triều đình và cũng là người trí dũng song toàn nữa.nghĩa quân khởi sự ở Giang Hoài đều bị y tiêu diệt hết.

Vô Kỵ nghe tên Nhữ Dương Vương đã lâu nhưng tới lúc này mới biết Lộc Trượng Khách là thủ hạ của vị tướng quân đó. Chàng kinh ngạc vô cùng.

Dương Tiêu hỏi:

- Vậy cô bé họ Triệu kia là ai thế?

Phạm Dao hỏi lại:

- Ðại ca thử đoán xem.

- Có phải nàng là con gái của Sát Hãn Ðặc Mục Nhĩ không?

Phạm Dao vỗ tay đáp:

- Ðúng đấy, Nhữ Dương Vương có một trai gái, con trai tên là Khố Khố Ðặc Mục Nhĩ, còn con gái là Triệu cô nương đấy, tên Mông Cổ của cô ta là ... Minh Minh Ðặc Mục Nhĩ.

Khố Khố Ðặc Mục Nhĩ là hiếu tử của Nhữ Dương Vương sau này sẽ là được thay thế cha làm vương tước, còn cô nương kia phong hiệu là Triệu Minh quận chúa. Hai anh em đều hiếu võ. Cả hai đều học võ từ hồi nhỏ, nên võ nghệ rất cao cường. Hai anh em lại thích mặc quần áo Hán. Thích nói tiếng Hán vì vậy có mỗi người có một tên Hán. Người anh ấy tên là Vương Bảo Bảo, người em gái lấy tên là Triệu Minh.

Phạm Dao nói tiếp:

- Sự thật họ của anh em nhà ấy là "Ðặc Mục Nhỉ" nhưng người Mông Cổ như người da trắng tên để ở đằng trước và họ đặt ở đằng sau.

Dương Tiêu hỏi:

- Triệu cô nương đúng là một mỹ nữ của người Hán, nhưng hành vi của nàng thì khác người Hán vì nàng rất dã man, hung ác như những thiếu nữ của Phiên Bang vậy.

Tới lúc này Vô Kỵ mới biết rõ lai lịch của Triệu Minh. Trước kia chàng đã biết Triệu Minh thế nào cũng là một quý nhân của triều đình nhưng chàng không ngờ nàng lại là quận chúa, con gái của Ðại Nguyên Soái Nhữ Dương Vương.

Phạm Dao lại nói tiếp:

- Thuộc hạ ngấm ngầm dò thăm được biết Nhữ Dương Vương đã quyết định tiêu diệt hết các giáo phái, Bang Hội của giang hồ. Hiển nhiên y đã thi hành mưu kế của Thành Khôn đã đặt ra. Kế đầu tiên của y là diệt trừ bổn giáo trước. Tôi thấy nội bộ của bổn giáo cứ tranh giành ngôi thứ, đánh nhau hoài mà ngoại địch mạnh như thế, đại họa diệt vong sẽ tới ngay. Muốn cứu nguy chỉ có một cách là trà trộm trong vương phủ để điều tra xem kế của Nhữ Dương Vương ra sao, rồi mới tùy cơ giải cứu. Tôi mới phải thay hình đổi dạng như thế này. Tôi đã gặp Thành Khôn nhiều lần, muốn việc làm của mình không bị bại lộ, tôi nghĩ chỉ có một cách là phải giết chết tên đó đi.

Nhất Tiếu vỗ tay khen ngợi:

- Phải làm như thế lắm!

Phạm Dao lại nói tiếp:

- Nhưng y giảo hoạt lắm, võ nghệ lại cao cường, tôi liên tiếp ám hại y ba lần đều bị thất bại. Lần thứ ba tôi đâm trúng y một kiếm, trái lại tôi cũng bị đánh trúng một chưởng, khó khăn lắm mới tẩu thoát được và không bị lộ hình tích. Vết thương ấy tôi phải chữa hơn một năm mới khỏi. Lúc ấy Nhữ Dương Vương đã bắt đầu thi hành kế tiêu diệt các giáo phái tôi đành đánh liều hủy luôn bộ mặt, đánh gãy chân giả bộ gù lưng và câm điếc rồi đi sang nước Hoa Trích Tử Mô bên Tây Vực.

Nhất Tiếu xen lời nói:

- Ði tới nước Hoa Trích Tử Mô ư? Hữu Sứ đi xa xôi hằng vạn dặm như thế để làm chi?

Phạm Dao cười đang định trả lời thì Dương Tiêu đã vỗ tay nói:

- Kế này của chú thật tuyệt diệu! Vi huynh nên biết chú Phạm Dao đi nước Hoa Trích Tử Mô để tìm dịp may biểu diễn tài ba của mình trước mặt vương công Mông Cổ ở đó. Như vậy những ngườivương công Mông Cổ, thế nào cũng mướn chú Phạm Dao bảo vệ cho mình liền. Lúc ấy Nhữ Dương Vương đang chiêu mộ võ sĩ của bốn phương, những vương công của nước Hoa Trích Tử Mô muốn lấy lòng Nhữ Dương Vương thế nào cũng đưa chú Phạm Dao đến Vương Phủ giúp việc. Như vậy, chú ấy là võ sĩ của nước Hoa Trích Tử Mô cống hiến, mặt chú ấy đã thấy đổi và giả bộ làm câm thì Thành Khôn tài ba đến đâu cũng không sao nhận ra được.

Nhất Tiếu thở dài một tiếng rồi nói tiếp:

- Dương giáo chủ rất sành nên mới đặt Tiểu Dao Nhị Tiên lên trên Tứ Ðại Pháp Vương. Mưu kế ấy trừ Tiểu Dao Nhị Tiên ra quả thật Ưng Vương chúng tôi không khi nào nghĩ ra được!

Phạm Dao lại nói:

- Vi huynh khen đệ quá đổi! Thưa Giáo chủ! Có một điều này thuộc hạ phải xin giáo chủ xá tội cho!

Vô Kỵ đáp:

Phạm Dao đứng dậy cung kính lạy rồi nói tiếp:

- Thuộc hạ đã phạm tội nặng, tàn sát anh em của bổn giáo, đúng như lời của Dương Tả Sư vừa đoán. Thuộc hạ ở nước Hoa Trích Tử Mô, giết sư tử, đánh chết hổ, gây nên oai danh rất lớn. Vương công nơi đó liền đưa hạ thuộc vào phủ Nhữ Dương Vương. Muốn lấy lòng tin của Nhữ Dương Vương, hạ thuộc đã giết chết ba tên hương chú của bổn giáo ở ngay trong đô thành. Sở dĩ thuộc hạ phải làm như thế là để tỏ cho Nhữ Dương Vương biết thuộc hạ là người có thâm thù với Minh Giáo.

Vô Kỵ liền đáp:

- Phạm Hữu sứ vì bảo vệ bổn giáo mà phải thi hành khổ nhục kế đó, chứ có phải Hữu sứ vì tư thù mà giết hại ba enh em ấy đâu! Tôi không trách cứ Hữu sứ đâu!

Phạm Dao vái lạy một cái:

- Ða tạ Giáo chủ đã thứ tội cho.

Phạm Dao thấy Vô Kỵ nói không khiển trách mình, nhưng mặt lại có vẻ không vui, liền nhanh tay rút luôn thanh trường kiếm đang giắt ở trên lưng Dương Tiêu ra chặt đứt ba ngón tay tức thì.

Vô Kỵ giật mình kinh hãi vội cướp lấy thanh trường kiếm đó và hỏi:

- Phạm Hữu sứ làm... làm... gì thế?

Phạm Dao đáp:

- Tàn sát anh em vô tội của bổn giáo như vậy là mang trọng tội, vì việc lớn chưa xong, Phạm Dao tôi chưa thể tự vận ngay được, nên tôi phải chặt ba ngón tay này trước rồi sau này khi việc lớn đã xong, tôi sẽ chặt nốt cái đầu này của tôi!

Vô Kỵ nói:

- Bổn nhân đã tha tội cho Phạm Hữu sứ rồi, hà tất Hữu sứ phải làm như thế. Trong lúc chúng ta đang gánh vác việc lớn, ai cũng phải nên tòng quyền. Từ nay trở đi Phạm Hữu sứ đừng có nhắc nhở đến chuyện này nữa!

Nói xong, chàng lấy thuốc ra rịt và băng bó vết thương cho Phạm Dao. Chàng thấy Hữu sứ quyết liệt như vậy, trong lòng cảm động vô cùng đột nhiên, chàng quỳ lạy ngay xuống và nói:

- Phạm Hữu sứ có công lớn với bổn giáo, hãy nhận lạy này của tôi, nếu Hữu sứ còn tàn sát đến bổn thân thì cũng như bảo tôi là kẻ thiếu đức thiếu tài, không đáng là Giáo chủ! Nếu Hữu sứ còn tự đậm một kiếm, tôi sẽ tự đâm hai kiếm theo, tôi tuổi còn trẻ kém kiến thức không hiểu sứ lý và cũng không biết phải trái nữa!

Phạm Dao, Dương Tiêu, Nhất Tiếu thấy Giáo chủ quỳ xuống cả ba cũng vội bái phục xuống đất.

Dương Tiêu ứa nước mắt nói:

- Chú Phạm Dao! Chú chớ có làm như vậy thế nữa! Bổn giáo hưng suy đều trông mong và một mình Giáo chủ, lệnh chỉ của Giáo chủ, chú phải tuyệt đối tuân theo!

Phạm Dao vừa vái lạy vừa nói:

- Ngày hôm nay thuộc hạ tỷ thí quyền và chưởng hết sức bái phục Giáo chủ. Khổ Ðầu Ðà tôi tính nết rất quái dị. Xin Giáo chủ xá tội cho!

Vô Kỵ giơ tay ra đỡ Khổ Ðầu Ðà đứng dậy.

Trải qua việc này, chàng với Phạm Dao liền đem chuyện của mình sau khi vào Nhữ Dương Vương Phủ như thế nào, kể hết cho ba người nghe.

Thì ra Nhữ Dương Vương quả thật là một người đại tài, tuy y đã nắm binh quyền, nhưng triều chính vừa bị bọn gian thần nắm giữ, hơn nữa nhà vua hiện thời lại là một vị hôn quân bất tài, nên thiên hạ mới đại loạn, lòng dân mới sôi nỗi như thế, nếu không nhờ có Nhữ Dương Vương đánh Ðông dẹp Bắc, tiêu diệt Nghĩa quân thì làm gì có những ngày giờ thái bình như thế!

Mấy năm sau, hai người con của Nhữ Dương Vương đã trưởng thành, người con trai là Khố Khố Mạc Mục Nhĩ tức là Triệu Minh cũng bắt chước cha và anh em chỉ huy các võ sĩ người Mông, người Hán và Tây Vực cùng phiên tăng đi tấn công các bang phái giáo hội. Thành Khôn, trong bóng ngầm ngầm giúp nàng sách hoạch mưu kế. Nhân lúc các đại môn phái vây đánh Quang Minh Ðỉnh, y xúi giục Triệu Minh đem bọn cao thủ dùng kế mối lợi ngư ông, thừa diệt Minh Giáo và sáu đại môn phái. Việc đầu độc ở Lục Liễu Trang đều do đó mà ra.

Mấy năm gần đây Phạm Dao tôi đi hải ngại để tìm tung tích Tạ Tốn, nên không tham dự vù hành quân Tây Vực. Sau khi về tới nơi, tôi mới hay rõ sự thế. Triệu Minh dùng Thập Hương Nhuyễn Cân Tán, một thứ độc được rất lợi hại, bỏ thức ăn của các cao thủ của sáu đại môn phái vừa ở Quang Minh Ðỉnh trở về. Thứ thuốc độc đó mặn như muối, thơm mùi rau, nên bỏ vào trong thức ăn không ai phân biệt được.

Ai đã uống phải thứ thuốc độc đó thì gân cốt mềm nhũn và tê tái dần. Tuy hành động vẫn như thường nhưng không sao giở được nội lực ra nữa. vì vậy các cao thủ của sáu đại môn phái viễn chinh Minh Giáo về dọc đường lần lượt bị bắt hết. Riêng phái Hoa Sơn không việc gì vì người đầu độc vụng về, bị cao thủ của môn phái đó trông thấy. Thế rồi, hai bên giở khí giới ra đánh nhau liền. Các cao thủ của phái Hoa Sơn bị Huyền Minh nhị lão thần Tiến Bát Hùngv.v ... giết chết mười mấy người, còn lại thì bị bắt hết.

Họ bắt các Hòa Thượng của phái Thiếu Lâm cũng dùng phương pháp đó, nhưng phái này phòng vệ nghiêm mặt lắm, muốn trà trộn vào trong đầu độc không phải là chuyện dễ. Thoạt tiên, tôi tưởng việc đầu độc đó do Thành Khôn phụ trách, vì y đã nhận Không Kiến thần tăng làm sư phụ, thì y có trà trộn vào, bọn tăng nhân cũng không hay biết hết, nhưng y lại tử chiến trên Quang Minh Ðỉnh, vì vậy tôi mới thắc mắc vô cùng!

Tôi vừa ở hải ngoại về, vừa gặp dịp Triệu cô nương đưa người đi vào bắt các nhà sư phái Thiếu Lâm, tôi giả bộ câm nên không tiện hỏi dò tình hình đầu độc ra sao, huồng hồ xưa nay phái Thiếu Lâm vẫn vô lễ với bổn giáo, cũng vì lẽ đó dù tất cả phái Thiếu Lâm bị giết sạch tôi cũng không cau mày chút nào! Có lẽ Giáo chủ cho sự mong muốn của tôi vô lý chăng?

Dương Tiêu xen lời hỏi:

- Có phải tượng Ðạy Ma do chú xoay ngược lại không?

Phạm Dao vừa cười vừa đáp:

- Tôi thấy Quận chúa cho gọi người khắc chữ vào tượng đá Phật Ðạt Ma, định vu oan giá họa cho bổn giáo, về sau tôi lẳng lặng trở lại xoay tượng Phật quay vào tường để tượng Phật diện bích tham thiền. Ðại ca với các vì khéo thật, việc như thế mà cũng được đại ca để ý đến, sao đại ca với các vị biết là đệ làm?

Dương Tiêu đáp:

- Chúng tôi đoán bên địch hình như có một vị cao thủ nào, bảo vệ bổn giáo, vì thế mới đoán chắc là chú còn sống và do chú làm nên việc ấy.

Thế rồi Dương Tiêu kể lại mọi chuyện xảy ra gần đây của Minh Giáo cho Phạm Dao hay và cho biết thêm Minh Giáo đã quyết giảng hòa với sáu đại môn phái để chống lại người Mông Cổ. Vì vậy mới quyết định phải cứu cho được các cao thủ của các môn phái đó ra.

Phạm Dao đỡ lời:

- Ðịch nhiều người, mà bên ta thì ít, với lực lượng của bốn chúng ta thì khó mà làm nỗi việc ấy. chúng ta cần phải tìm cho được thuốc giải Thập hương nhuyển cân tán trước để cho các Hòa Thượng ni cô đạo sĩ uống, để khôi phục nội lực rồi hợp sức nhau xông ra khỏi chùa, tấn công bọn Thát Ðát một cách bất ngờ, vậy mới mong cùng đạo tẩu ra khỏi thành phố được.

Mười năm nay y không nói nửa lời nên bây giờ y nói có vẻ ngượng ngập lắm. Xưa nay y vẫn thù hằn các danh môn chính phái, vì thế trong lời nói của y đối với các cao thủ của các môn phái không khách khứa chút nào.

Dương Tiêu sợ phật lòng Vô Kỵ, nên cứ đưa mắt ra hiệu, nhưng y không thèm điếm xỉa đến, Vô Kỵ không để ý đến tiểu tiết đó, nên chàng vỗ tay và lên tiếng hỏi:

- Lời nói của Phạm Hữu sứ rất đúng nhưng không biết làm thế nào mà lấy được thuốc giải của Thập hương nhuyển cân tán đó!

Phạm Dao đáp:

- Xưa nay tôi không khai khẩu bao giờ, vì thế Quận chúa rất kính trọng tôi, nhưng không bao giờ nàng thương lượng những chuyện quan trọng với ai cả vì mỗi lần bàn chuyện với nàng, chỉ có một mình nàng ta được nói thôi chứ người khác không được nói nửa câu. Như vậy ai mà chả bực mình, hơn nữa tôi là người của một tiểu quốc đưa tới, tất nhiên không bao giờ nàng coi tôi là kẻ tâm phúc hết. Vì thế tôi không biết thuốc giải nhuyễn cân tán là gì hết nhưng tôi biết việc nầy rất quan trọng nên tôi đã ngấm ngầm để ý nhau giữ, một người giữ thuốc độc, một người giữ thuốc giải và họ còn luân phiên nhau thay đổi giữ như vậy mới khó hiểu.

Dương Tiêu thở dài nói:

- Vị Quận chúa đó mưu kế lắm, có nhiều người đàn ông phải thua mưu nàng. Chẳng lẽ nàng còn chưa tin hẳn Huyền Minh Nhị lão hay sao?

Phạm Dao đáp:

- Không phải Quận chúa không tin Nhị Lão, nàng làm như thế chắc chắn và yên tâm hôn. Ví dụ như bây giờ chúng ta muốn cướp thuốc giải độc đó chẳng hạn chúng ta kiếm Lộc Trượng Khách hay là Hạt Bút Ông? Vả lại thuốc giải cùng một mùi thơm, cùng một màu sắc nếu không phải là người giữ thuốc, không sao phân biệt được.

Nên rõ thuốc Thập hương nhuyễn cân tán đó còn lợi hại thêm nữa, người nào uống phải thuốc độc rồi xương cốt mềm nhũn, mất hết hơi sức đó là lẽ dĩ nhiên rồi, nhưng lần thứ hai chỉ cho người đó uống một chút thôi cũng bị hộc máu ra chết liền không còn thuốc nào chữa nỗi.

Nhất Tiếu thè lưỡi ra nói:

- Theo lời Tả sứ vừa nói, thì ta phải cẩn thận lắm không thể lấy trộm nhầm thuốc được phải không?

Phạm Dao đáp:

- Tuy vậy chúng ra cứ việc lấy trộm thuốc của Nhị Lão rồi lấy thuốc của họ đem cho một đệ tử nhỏ của phái Hoa Sơn hay Không Ðộng gì đó uống thử xem nếu tên đó uống thứ thuốc bị chết tốt thì thuốc đo là thuốc độc và chúng ta biết ngay thuốc kia là thuốc giải liền.

Vô Kỵ biết tà khí của Hữu sứ chưa thoát hết nên y không coi tánh mạng của người khác vào đâu.

Nghĩ như vậy chàng vừa cười vừa lên tiếng nói:

- Như thế không nên, biết đâu chúng ta rất khó nhọc đến lấy trộm hai thứ thuốc đó mà cả hai thứ đều là thuốc độc cả thì sao?

Dương Tiêu vỗ đùi một cái và đáp:

- Giáo chủ nói như vậy rất vô lý, đêm qua chúng ta quấy rầy như vậy, có lẽ Quận chúa đã hoảng sợ và lấy thuốc giải mà giấu ở trong người cũng nên, theo ý tôi thích cần phải điều tra xem người nào giũ thuốc giải trước rồi đi lấy sau.

Nói tới đó y ngầm nghĩ giây lát rồi lại nói tiếp:

- Chú Phạm Dao, chú có biết Huyền Minh Nhị lão xưa nay vẫn ưa thích thứ gì không?

Phạm Dao đáp:

- Lộc thì hiếu sắc, mà Hạt thì ưa rượu, hai người đều không ra gì hết.

Dương Tiêu quay lại hỏi Vô Kỵ rằng :

- Thưa giáo chủ, có thứ thuốc nào có thể làm cho người ta xương cốt mềm nhũn như Thập Hương nhuyễn cân tán không?

Suy nghĩ giây lát Vô Kỵ vừa cười vừa đáp:

- Muốn làm cho người ta mệt mỏi, uể oải mơ mơ màng màng như buồn ngủ không khó chút nào, nhưng xử dụng vào những tay cao thủ chỉ có công hiệu nửa tiếng đồng hồ thôi, chứ không thể nào lâu bền như Thân hương nhuyễn cân tán.

Dương Tiêu vừa cười vừa nói:

- Làm uể oải được nửa tiếng cũng đủ rồi, hiện giờ thuộc hạ có một kế không biết thi hành được không, xin Giáo chủ xét lại xem. Tuy gọi là mưu kế nhưng nói ra không đáng một trận cười, trước hết chú Phạm Dao hãy nghĩ cách rủ Hạt Bút Ông đi uống rượu rồi bỏ thứ thuốc của Giáo chủ vào trong rượu cho y uống. Rồi chú Dao giả bộ làm như đã uống phải Thập hương nhuyễn cân tán của Bút Ông vậy, liền kêu la om sòm liền. Như vậy sẽ biết thuốc giải độc trong tay người ngay, rồi chúng ta thừa cơ đoạt thuốc cứu người.

Vô Kỵ vôi hỏi:

- Kế hoạch này có thể thi hành được hay không, phải xem tính nết của Hạt Bút Ông ra sao mới có thể định đoạt được, Phạm Hữu sứ cho lời nói của tôi có phải không?

Phạm Dao cau mày lại suy nghĩ hồi lâu, y nhận thấy kế ấy tuy rất giản dị nhưng không có một tí nào sơ hở, nên vội đáp:

- Theo ý tôi thì của Dương Ðại ca rất có thể thi hành lắm, tính nết của Hạt Bút Ông rất ác độc, nhưng nói đến kế ấy thì y lại thua Lộc Trượng Khách. Nếu thuốc giải để trong người Hạt Bút Ông thật, tuy võ nghệ của tôi không giỏi bằng y, nhưng tôi tự tin có thể đối phó nổi y.

Dương Tiêu vội hỏi:

- Nếu Lộc Trượng Khách giữ thuốc giải thì sao?

Phạm Dao cau mày lại đáp:

- Nếu thuốc giải ở trong tay Lộc Trượng Khách thì phiền lắm.

Nói xong y đứng dậy đi đi lại lại một hồi lâu rồi vỗ tay một cái và nói:

- Hay là thế này vậy, Lộc Trượng Khách khôn ngoan hơn, người muốn lừa y rất khó vì mình mưu kế cao siêu đến đâu y cũng biết hết, duy có một cách là lừa thế nào bắt được y đang làm việc phi nghĩa rồi bắt chẹt y phải theo mệnh lệnh của mình. Làm như thế may ra y mới khuất phục, còn cứ làm bừa đi, cũng được nhưng nguy hiểm lắm.

Dương Tiêu lại hỏi tiếp:

- Y đã làm việc gì phi nghĩa hay trái với lương tâm chưa? Hay chú đã bắt gặp y làm việc gì bất nghĩa rồi mà bổng dưng chú lại nói như thế.

Phạm Dao đáp:

- Mùa xuân năm nay, Nhữ Dương Vương lấy vợ bé có cho mời mấy anh em chúng tôi tới nhậu nhẹt ở trong hoa sảnh. Muốn khoe khoan vợ bé của mình xinh đẹp Nhữ Dương Vương liền bảo người vợ mới cưới đó ra mời rượu. Tôi thấy Lộc Trượng Khách cứ hai mắt hau háu nhìn vào mặt cô dâu hình như có vẻ thèm thuồng lắm.

Nhất Tiếu vừa cười vừa xen lời hỏi:

- Sau, rồi thế nào nữa?

Phạm Dao đáp:

- Sau rồi không có gì nữa vì đó là ái thiếp của Vương gia dù y có táo gan đến đâu cũng không dám làm bậy.

Nhất Tiếu vừa cười vừa hỏi tiếp:

- Y chỉ trố mắt lên nhìn như vậy không thể nói là y đã làm việc phi nghĩa rồi.

Phạm Dao đáp:

- Ðúng thế nhưng chúng ta vẫn có thể ép y làm bậy được, nhưng việc này phải phiền đến Vi huynh ra tay mới được. Huynh giở bản lảnh khinh công tột mức ra lẻn vào trong phủ của Nhữ Dương Vương cướp lấy ái thiếp của Vương gia đem tới phòng của Lộc Trượng Khách và đặt nàng nằm lên trên giường. Lão già ấy, trông thấy nàng ta xinh đẹp như vậy thế nào cũng không cầm lòng được mà nhắm mắt làm bậy ngay.

Dù y có là người biết đại thế, cầm lòng ngay được thì lúc ấy tôi xông bừa vào trong phòng vu tội cho y, thì có muốn chối cãi cũng không thể được và phải ngoan ngoãn lấy thuốc giải ra hai tay dâng lên đưa cho đệ ngay.

Dương Tiêu với Nhất Tiếu cùng vỗ tay vừa cười vừa nói:

- Mưu kế vu oan giá họa này cao thật, dù Lộc Trượng Khách có khôn ngoan đến đâu, cũng không sao tránh thoát được.

Vô Kỵ vừa bực mình vừa tức cười, nghĩ thầm:

- Những bộ hạ của ta đều là tà ma ngoại đạo, chúng hành sự gian ác âm độc không kém gì bọn thủ hạ của Triệu Minh, chỉ khác có một điểm là một đằng theo mục đích thiện, một bên theo tôn chỉ ác nhưng dùng phương pháp âm độc đối phó với những kẻ âm độc có thể nói là dĩ độc công độc .

Nghĩ tới đó chàng mới bớt băn khoăn, liền mỉm cười xen lời nói:

- Kế đó rất hay, nhưng chỉ thiệt thòi cho ái thiếp của Nhữ Dương Vương thôi.

Phạm Dao vội đỡ lời:

- Lúc ấy sẽ xông vào trong phòng không để cho Lộc Trượng Khách kịp chiếm mình ngọc, thì nàng ta cũng chẳng thiệt thòi gì hết.

Tiếp theo đó bốn người lại bàn tán đến việc sau khi cướp được thuốc giải sẽ do Phạm Dao đem lên trên tháp chia cho các tay cao thủ của các môn phái uống. Còn Vô Kỵ với Nhất Tiếu ở bên ngoài tiếp ứng hễ thấy Phạm Dao ở trong chùa Vạn Pháp đốt cây pháo bông ra hiệu là hai người phóng hỏa đốt những nhà thường dân ở quanh đó để cho quần hào thừa cơ đào tẩu. Riêng Dương Tiêu, mua sẳn ngựa và thuê xe, rồi đợi chờ ở ngoài cửa Tây thành để cho các vị hào hiệp ra đó có ngựa cởi và có xe đi.

Ai nấy làm xong công việc sẽ họp nhau ở Xương Bình.

Vô Kỵ không tán thành cuộc đốt nhà thường dân vì chàng không muốn để những người dân đó bị lụy như vậy.

Dương Tiêu vội giải thích:

- Việc đời rất khó lưỡng toàn, chúng ta cứu được quần hiệp và sau này xua đuổi được bọn Thát Ðát ra khỏi bờ cõi là để tạo hạnh phúc cho muôn dân chứ có phải định gây lợi ích riêng cho nhóm chúng ta đâu. Như vậy Ngày hôm nay, chúng ta có đốt cháy một trăm hay vài chục nóc nhà cũng không phải là hy sinh quá đáng.

Tính toán xong, bốn người chia làm ba phe đi vào trong thành để hành sự.

Dương Tiêu đi mua ngựa và thuê xe, Vô Kỵ đến tiệm thuốc để chế liều thuốc mê, rồi đưa cho Nhất Tiếu để đem đi trao cho Phạm Dao xử dụng, vì muốn che lấp không cho Hạt Bút Ông nghi ngờ, Vô Kỵ phải cho thêm ba vị thuốc Hương liệu vào để cho thuốc mê đó thơm tho đôi chút, như vậy đối phương mới không nghi ngờ và sẽ bị mắc hởm. Nhất Tiếu mua một cái túi vải lớn đem theo để xử dụng.

Chờ tới trời tối hẳn y liền lẻn vào trong Vương phủ để cướp Vương phi.

Huyền Minh Nhị lão và Phạm Dao các người, vì sự canh gác các tay cao thủ của sáu đại môn phái đều phải ngủ ở trong chùa Vạn Pháp, riêng Triệu Minh vẫn ở trong vương phủ tối, nhưng tối nào nàng cũng đi tới chùa để học võ.

Phạm Dao về đến phòng mình nghĩ tới Minh Giáo đã chia rẻ thành năm phe bảy nhóm gót hai mươi năm nay, ngày hôm nay mới có hy vọng trung hưng. Như vậy cũng không uổng cho y đã phải chịu bao nhiêu đau khổ đắng cay bấy lâu nay nên y vừa mừng rỡ vừa an ủi thầm.

Phòng y ở tại Tây thiên, còn phòng ngủ của Huyền Minh Nhị lão thì ở phía sau chùa, ngày thường vì đố kỵ nhị lão quá tinh khôn sợ lộ chân tướng mình, nên y rất ít giao thiệp với hai ông già đó.

Vì thế phòng ngủ của y cách phòng ngũ của Nhị Lão rất xa, lúc này y muốn rủ Hạt Bút Ông đi nhậu nhẹt mà không lộ một hình tích gì để cho đối phương khỏi nghi ngờ quả là khó.

Y đưa mắt nhìn về phía sau chùa thấy mặt trời đang lặn xuống phía Tây, xung quanh đã tối dần mà y vẫn chưa hề nghĩ ra được kế gì, cứ khoanh tay ra phía sau đi đi lại lại hoài.

Ðột nhiên, y ngửi thấy có mùi thịt rất thơm ở trong mấy căn phòng gần đó bay ra.

Mấy căn phòng đó là của Tam Tôn Hủy với Lý Tứ Thôi bốn người trong nhóm Thần Tiễn Bát Hùng ở Phạm Dao sực nghĩ ra một kế, liền đi tới trước mấy căn phòng đó giơ tay ra đẩy cửa một cái.

Mùi thơm của thịt liền xông ngay lên mũi, y thấy Lý Tứ Thôi đang ngồi xỏm ở dưới đất cầm quạt, quạt cái lò lửa đang cháy, trên lò để một cái nồi, mùi thơm của thịt ở trong nồi đó, theo khói bốc lên. Còn Tam Tôn Hủy đang bày bàn và bát đũa. Hiển nhiên chúng sắp ăn nhậu với nhau đến nơi.

Tam Tôn Hủy và tứ thôi bỗng thấy Khổ Ðầu Ðà đẫy cửa bước vào, đều ngẫn người ra mặt tỏ vẻ sợ hãi. Thì ra hai người vừa đánh chết một chó lớn ở ngoài đường, chặt luôn bốn chân của con chó đó đem về chùa lén nấu và ăn nhậu với nhau. Nơi đó là một ngôi chùa, đem thịt chó về nấu và ăn như vậy là không hợp pháp rồi bất cứ bị ai trông thấy cũng không tiện. Ngờ đâu, lại bị Khổ Ðầu Ðà là người của cửa Phật, nếu Ðầu Ðà nổi giận đánh cho một trận thì nguy tai.

Chúng biết Khổ Ðầu Ðà đã võ nghệ cao siêu anh em chúng không sao địch nổi. Huống hồ bây giờ chúng đang có tội bị Khổ Ðầu Ðà đánh cho một trận cũng đáng kiếp lắm cho nên chúng hoảng sợ là thế. ngờ đâu chúng thấy Khổ Ðầu Ðà tới cạnh lò mở vung nồi lên hít một hơi thật manh, rồi lẩm bẩm nói:

- Thơm lắm, thơm lắm!

Nói xong, Ðầu Ðà vội cho tay vào trong nỗi, không sợ nước đang sôi sùn sụt, bốc luôn một tiếng thịt chó bỏ vào mồm ăn ngấu nghiến liền. Chỉ thoáng cái đã nuốt những miếng thịt chó đó liền, dùng đầu lưỡi, quét mồm mép một vòng hình như y cảm thấy thịt đó rất ngon lành vậy.

Tôn Lý hai người cả mừng vội mời:

- Mời Khổ đại sư ngồi, chúng cháu có biết đâu đại sư lại ưa ăn thịt có như vậy.

Khổ Ðầu Ðà đã vẫn đứng cạnh lò, thò tay vào nồi bốc thêm miếng nữa vừa nhai vừa ngồi xỗm xuống tại chỗ. Muốn lấy lòng, Tam Hủy vội rót một bát rượu đưa đến trước mặt cho y. không khách khứa gì cả, y đỡ luôn bát rượu và uống ngay. Nhưng y nhổ ra tức thì, rồi đưa tay trái lên mũi, hít ngửi, hình y chê rượu đó không ngon nên y đứng dậy đi ra khỏi phòng đó mà trở về phòng mình, xách luôn một hủ rượu thật lớn tới.

Thoạt tiên Tôn, Lý hai người thấy y tức giận dữ đi ra trong lòng lo ngại. Chờ tới khi thấy y đem hủ rượu lớn tới cả hai mới yên dạ và mừng rỡ, rồi nói:

- Vâng, vâng rượu của chúng cháu thường lắm, nếu Khổ đại sư có rượu ngon đem sang thì có gì bằng nữa.

Hai người kẻ bắt ghế người rót rượu cung kính mời Khổ Ðầu Ðà ngồi, múc thịt chó ra cùng ăn nhậu.

Nên rõ, Khổ Ðầu Ðà là người có võ công cao siêu, thuộc nhân vật hạng nhất của nhóm thủ hạ của Triệu Minh, ngày thường Bát Hùng muốn làm thân với y cũng không được, ngày hôm nay tình cờ lại mời được y nhậu nhẹt như vậy, nên chúng lấy lòng y để y truyền thụ cho một vài pho võ công thì sẽ được sung sướng nhất đời.

Tôn, Lý hai người thấy rượu của Khổ Ðầu Ðà vừa vàng vừa keo đặc như mật ong, hơi thơm xông lên tận óc.

Cả hai đồng thanh khen ngợi:

- Rượu ngon lắm! Ngon lắm!

Khổ Ðầu Ðà nghĩ thầm:

- Không biết ngày hôm nay hai lão già Huyền Minh có nhà hay không? Nếu chúng đi vắng chưa về thì việc làm của ta sẽ mất công toi .

Y vừa nghĩ vừa cầm bát rượu, đổ vào trong một cái tô nhỏ, và đặt ngay vào trong nồi thịt để hâm nóng, mùi rượu lẫn mùi thịt bốc lên làm cho Tôn, Lý hai người đều thêm rõ dải. Chúng cầm bát rượu lên định uống, nhưng Khổ Ðầu Ðà đã giơ tay ra hiệu như có y bảo chúng rằng:

- Canh nóng đã rồi hãy uống thì ngon hơn .

Thế rồi ba người lần lượt, bỏ rượu vào trong nồi canh nóng. Hơi thơm bốc lên càng ngào ngạt hơn trước, nếu Hạt Bút Ông có nhà thế nào cũng ngửi thấy mùi thơm liền.

Quả nhiên một lát sau, Hạt Bút Ông ở đằng xa đi tới luôn mồm khen ngợi:

- Rượu thơm ngon thật!

Y đẩy cửa bước vào, thấy Khổ Ðầu Ðà với Tôn, Lý hai người đang ngồi ăn nhậu với nhau. Y ngạc nhiên giây phút, rồi vừa cười vừa nói:

- Không ngờ Khổ đại sư cũng thích cái trò này, cũng là người trong làng nhậu cả đấy!

Tôn, Lý vội đứng dậy mời:

- Mời cụ vào sơi mấy bát rượu với tôi. Rượu này là rượu của Khổ đại sư đấy, mấy khi được uống rượu ngon như vậy.

Hạt Bút Ông liền ngồi đối diện với Khổ Ðầu Ðà.

Rồi hai người nhậu hết bát rượu này đến bát rượu khác, hết tô nầy đến tô thịt nọ.

Bốn người ăn thịt nhậu ngà ngà say rồi, Phạm Dao liền nghĩ thầm:

- Bây giờ đã đến lúc ra tay được rồi .

Nghĩ đoạn y liền rót đầy một chén rượu, thuận tay để hủ rượu nằm ngang cái hồ lô xuống.

Thì ra thuốc mê của Vô Kỵ chế, Phạm Dao tán thuốc đó thành bột, nhét vào cái nút gỗ rỗng, bên ngoài bọc một lần vải hồ lô, thuốc bột vẫn nằm nguyên trong nút, rượu củabốn người vừa uống đều là thứ rượu ngon. Nhưng khi đặt cái hồ lô xuống bàn. Chỉ trong giây phút, rượu trong hồ lô biến thành rượu độc ngay.

Ðáy hồ lô tròn xoe, nên để ngang để dọc mà không ai để ý tới cả. Huống hồ đã ngà ngà say, nên họ có uống thêm thứ rượu có thuốc độc cũng chẳng hay biết gì hết.

Phạm Dao thấy Hạt Bút Ông uống cạn bát rượu bèn mở nút hồ lô ra rót cho y liền.

Hạt Bút Ông cũng cầm lấy cái hồ lô rót thêm vào hai bát của Tôn, Lý hai người võ công kém, vừa uống xong bát rượu đó, đã thấy chân tay mềm nhủn, mất hết sức.

Tôn Tam Hủy liền nói:

- Tứ đệ, không hiểu tại sao bụng sư huynh thấy khó chịu lắm.

Lý Tứ Thôi cũng lên tiếng:

- Tôi... hình như... bị trúng độc...

Lúc ấy, Hạt Bút Ông cũng cảm thấy chân tay rời rả, vội vận nội công thử xem.

Y thấy sức lực hầu như đã mất hết, liền biến sắc mặt.

Phạm Dao cũng đứng dậy tỏ vẻ tức giận dữ, túm lấy ngực y mồm kêu ú ớ chứ không thốt nên lời.

Tôn Tam Hủy kinh hãi hỏi:

- Khổ đại sư làm sao thế?

Phạm Dao dùng chấm rượu, viết lên, mặt bàn:

- Thập hương nhuyễn cân tán .

Tôn, Lý hai người đều biết Thập hương nhuyễn cân tán là do Huyền Minh Nhị lão phụ trách. Chúng xét tình hình, liền đoán chắc Khổ Ðầu Ðà với anh em chúng đã uống phải thứ thuốc độc đó rồi.

Thế rồi hai người đưa mắt ra hiệu đi tới trrước Hạt Bút Ông vừa cười vừa nói:

- Hạt công công, anh em chúng rôi không xúc phạm cụ bao giờ. Xin cụ tha thứ cứu giúp chúng tôi.

Hai tên đó đoán chắc Hạt Bút Ông định đối phó một mình Khổ Ðầu Ðà thôi, nhưng vì chàng có mặt tại đó mới vạ lây.

Hạt Bút Ông ngạc nhiên vô cùng, vì tháng này y giữ Thập hương nhuyễn cân tán để trong một cây bút mỏ hạt mà y vẫn xử dụng phía tay trái. Hai món khí giới của y lúc nào cũng mang theo trong người. Như vậy, làm sao mà lấy trộm được. Nhưng bây giờ vận hơi thử xem thì thấy không có một hơi sức nào hết. Như vậy đáng là uống phải Thập hương nhuyễn cân tán Chứ không sai. Sự thật, thuốc độc của Vô Kỵ chế ra, tuy mạnh thật nhưng còn kém Thập hương nhuyễn cân tán xa.

Sau khi uống xong, phản ứng cũng khác nhau nhiều. Nhưng Hạt Bút Ông chỉ cho người uống Thập hương nhuyễn cân tán chứ y chưa hề uống thứ thuốc này. Vì vậy sự phản ứng của hai thứ thuốc độc ấy tuy khác nhau, nhưng y không sao phân biệt được.

Lúc ấy y thấy Khổ Ðầu Ðà tức giận, Tôn, Lý hai người đang đứng cạnh miệng van lơn không ngớt, thì không còn nghi ngờ nữa, liền vội đáp:

- Khổ Ðầu Ðà chớ vội nóng, chúng ta là bạn thân với nhau, khi nào tại hạ có dã tâm như vậy. Chính tại hạ đây cũng uống nhằm thuốc đó. Không biết ai đã hại chúng ta, rồi cũng ngạc nhiên vô cùng.

Khổ Ðầu Ðà lại nhúng tay vào rượu viết lên mặt bàn bốn chữ: "Mau lấy thuốc giải."

Hạt Bút Ông gật đầu đáp:

- Phải, chúng ta phải uống thuốc giải trước rồi tìm kiếm xem kẻ nào đã đầu độc chúng ta? Hiện giờ thuốc giải do Lộc Trượng Khách giữ, Khổ đại sư đi cùng với tôi sang bên kia kiếm anh ấy.

Khổ Ðầu Ðà mừng thầm và nghĩ:

- Không ngờ mưu kế của Dương Tiêu lại hay đến thế, chỉ sơ sơ thôi cũng dò được ai giữ thuốc giải rồi.

Nghĩ đoạn, y giơ tay trái nắm cổ tay phải của Hạt Bút Ông bước đi loạng choạng, nhưng không còn hơi sức gì nữa.hai người cùng đi về phía sau chùa, chỗ ở của Huyền Minh Nhị lão.

Hai người đi tới trước cữa tịnh xá, căn nhà bên phía nam là nhà của Hạt Bút Ông căn nhà bên phía Băc là chỗ ở cửa Lộc Trượng Khách.

Hai người thấy cửa lớn đóng kín, tưởng chủ không có ở nhà, Hạt Bút Ông liền lớn tiếng kêu gọi:

- Lộc huynh có ở nhà không?

Ngờ đâu, Lộc Trượng Khách có trong nhà, lên tiếng trả lời ngay, Hạt Bút Ông liền đẩy cửa nhưng cửa đã gài then, nên lại lên tiếng gọi:

- Lộc huynh mau mở cửa, có việc rất cần.

Lộc Trượng Khách nói vọng ra:

- Có việc gì mà khẩn cấp đến thế? Tôi đang bận luyện công, chú chớ có vào quấy nhiễu tôi.

Hạt Bút Ông và Lộc Trượng Khách là sư huynh đệ, võ công của hai người ngang nhau, nhưng vì Lộc Trượng Khách là sư huynh và mưu trí hơn người nên Hạt Bút Ông vẫn tôn kính. Nay Hạt Bút Ông nghe thấy giọng nói của y có vẻ không vui nên không dám gọi tiếp nữa.

Khổ Ðầu Ðà thấy vậy, nghĩ thầm:

- Lúc này không thể trì hoãn được vì trễ một chút, thuốc trong người y sẽ tiêu tán, mất hiệu lực thì mưu kế của mình bị lộ ngay.

Nghĩ đoạn y liền dùng vai phải thích mạnh một cái, cánh cửa mở toang ra.

Y và Hạt Bút Ông cùng nghe có tiếng đàn bà rú lên.

Lộc Trượng Khách vội quay đầu lại, có vẻ xấu hổ, sượng sùng, một thiếu nữ đang nằm ngang trên giường, quấn một cái chăn mỏng chì ló đầu ra ngoài cái khăn, lại có dây thừng cột chặt y như một bó chăn. Tóc nàng xỏa ngoài chăn, da trắng, mắt rất xinh đẹp. Thiếu nữ đó trông thấy Hạt Bút Ông và Khổ Ðầu Ðà bước vào thì trợn tròn đôi mắt, tỏ vẻ hãi sợ.

Khổ Ðầu Ðà nhận ra chính là Hàn thị, ái cơ của Nhữ Dương Vương liền nghĩ thầm:

- Vi Bức Vương tài ba thật! Một mình vào trong phủ bắt cóc được Hàn Cơ đây...

Khinh công của Nhất Tiếu rất mạnh, hắn lại đa mưu, túc kế ra tay bắt cóc Hàn thị rất nhanh không ai hay biết gì cả. Chỉ có điều khó nhất là, làm thế nào đặt Hàn thị vào phòng Lộc Trượng Khách. Vấn đề này làm y phải chờ gần nửa ngày, mới thấy Trượng Khách ra khỏi phòng. Y lẻn vào trong phòng đặt Hàn Cơ trên giường rồi bỏ đi.

Lộc Trượng Khách về phòng, thấy một thiếu nữ nằm trên giường mình y bèn quay ra, tung mình nhảy lên trên mái nhà đưa mắt nhìn xung quanh, không thấy một bóng người nào hết.

Lộc Trượng Khách chỉ nghe tiếng cười của Tôn, Lý, trong phòng vang ra thôi. Tuy y biết không phải là việc tầm thường, nhưng y vẫn lẳng lặng nhảy xuống quay về phòng, tới trứơc giừơng nhìn thiếu nữ xinh đẹp, bỗng giật mình kinh hãi vì y đã nhận ra Thái Cơ, vợ mới cưới của Vương gia nhưng lòng hiếu sắc, thúc giục, y không cầm lòng được.

Lộc Trượng Khách rất hiếu sắc, trong đời y đã dày vò rất nhiều đàn bà thiếu nữ lương thiện. Bữa nọ khi thấy sắc đẹp của Thái cơ đâm nhớ nhung thương tiếc. Y ân hận tại sao không sớm gặp người đẹp ấy? Nếu gặp nàng thế nào y cũng cướp cho được. Từ hôm đó đến nay hắn vẫn mơ tưởng đến nàng luôn, nhưng vài ngày sau, y lại có người yêu khác nên mới quên nàng. Không ngờ, bây giờ, có Thái Cơ đem tới đây để lấy lòng hắn. Hắn thấy nàng trần truồng quấn trong cái chăn y cầm lònh không được liền hỏi nàng tại sao tới đây thế? nhưng y hỏi, Thái Cơ không trả lời. Y mới nghĩ ra chắc nàng bị người ta điểm trúng vào huyệt cầm nên giơ tay định giải huyệt cho nàng thì Hạt Bút Ông và Khổ Ðầu Ðà tới kêu cửa, rồi Khổ Ðầu Ðà phá cửa vào.

Sự thế xảy ra rất đột ngột nên Trượng Khách mới sượng sùng như vậy. Y đang định giấu nàng đi, nhưng không kịp, y đoán Vương gia phát giác Hàn Cơ bị bắt cóc nên mới sai Khổ Ðầu Ðà tới đây truy nã mình. Bây giờ sự thế đã xảy ra như vậy, nên y tính chỉ có một cách đào tẩu, nên y vội chộp lấy cây gậy sừng hưu, một cây ôm Hàn Cơ định phá cửa sổ bỏ chạy.

Hạt Bút Ông thấy vậy cả kinh gọi:

- Lộc sư ca mau cho đệ xin một ít thuốc giải.

Lộc Trượng Khách vội hỏi:

- Cái gì?

Hạt Bút Ông đáp:

- Tiểu đệ với Khổ đại sư không hiểu tại sao uống thuốc độc Thập hương nhuyễn cân tán.

Lộc Trượng Khách hỏi:

- Sư đệ nói gì?

Hạt Bút Ông nói lại lần nữa

Lộc Trượng Khách ngạc nhiên hỏi tiếp:

- Tháng này tới phiên chú giữ Thập hương nhuyễn cân tán mà.

- Tiểu đệ cũng không hiểu tại sao bốn anh em chúng tôi đang ăn nhậu vui vẻ thì ngộ độc. Lộc sư sa mau cho chúng tôi ít thuốc giải.

Tới lúc này Lộc Trượng Khách mới hoảng hốt bèn đặt Hàn Cơ xuống. Xưa nay Hạt Bút Ông vẫn biết vị sư huynh nầy có tính hiếu sắc y vốn thường thấy những thiếu nữ trong phòng của Trượng Khách nên y không lấy gì ngạc nhiên hết. Huống hồ sau khi trúng độc kinh hoảng ngạc nhiên nên không để ý người đó là ai cả.

Lộc Trượng Kháck đặt Hàn Cơ xuống giường xong liền nói:

- Khổ đại sư sang bên phòng chú Hạt Bút Ông nghĩ ngơi, tại hạ sẽ lấy thuốc giải ngay.

Y vừa nói vừa đẩy hai người ra khỏi phòng. Cái đẩy khiến Hạt Bút Ông suýt té, Khổ Ðầu Ðà khôn ngoan vô cùng cũng bắt chước té ngã theo làm như mất hết nội lực vậy. Nhưng sự phản ứng tự nhiên không sao giả dối được nên Lộc Trượng Khách chỉ đẩy một cái đã biết nội lực của Hạt Bút Ông mất hết. Còn Khổ Ðầu Ðà chỉ giả bộ thôi, nhưng y vẫn sợ duy tính sai nên dùng sức đẩy thêm một cái nữa Hạt Bút Ông và Khổ Ðầu Ðà đều thì té giả, Lộc Trượng Khách không nói năng gì hết, chỉ cười vừa xin lỗi:

- Xin lỗi khổ đại sư nhé.

Y vừa nói đưa tay ra đỡ, nhưng mấy ngón tay của y đã vớ ngay vào hai yếu huyệt của Khổ Ðầu Ðà. Là người rất khôn ngoan Khổ Ðầu Ðà thấy Lộc Trượng Khách ra tay như biết mưu kế của mình đã bị bại lộ nên y vội dang tay trái điểm luôn vào yếu huyệt mê của Hạt Bút Ông để cho đối thủ không sao cử động được trong ba tiếng đồng hồ. Y thấy hai tay địch thủ bị mình diệt đi một rồi bây giờ chỉ còn lại một mình Lộc Trượng Khách thôi không sợ nữa, nên y liền cười nhạt và nói:

- Bạn muốn sống hay chết? Ái cơ của Vương gia bạn cũng dám bắt cả về hưởng thụ hay sao?

Y vừa nói, Huyền Minh Nhị lão bỗng ngẩn người ra vì thấy Khổ Ðầu Ðà Ðã mười lăm mười sáu năm rồi chưa hề nói nửa lời ai cũng tưởng y câm. Bây giờ tuy Lộc Trượng Khách đã biết y có mưu mô gì đây nhưng y không ngờ Khổ Ðầu Ðà lại biết nói như vậy cho nên y nghĩ thầm:

- Y đã mưu mô như vậy hoàn cảnh của ta bây giờ rất nguy hiểm .

Nghĩ đoạn y liền đáp:

- Thế là Khổ đại sư không câm. Chẳng hay Khổ đại sư chịu đựng mười mấy năm như thế để làm chi?

Khổ Ðầu Ðà đáp:

- Vương gia biết hai vị không được trung thành lắm cho nên mới sai tôi giả bộ câm để bí mật giám thị.

Nghe Khổ Ðầu Ðà nói xong, Lộc Trượng Khách liền đáp:

- Vương gia sai bạn đến bắt tôi đấy à. Hà... hà võ công của đại sư tuy cao siêu thật, nhưng chưa chắc bắt nổi Lộc Trượng Khách này.

Nói xong y cầm lấy gậy định tấn công .

Khổ Ðầu Ðà vừa cười, vừa nói tiếp:

- Lộc tiên sinh, võ công của Khổ Ðầu Ðà này tuy không bằng bạn nhưng cũng chẳng kém mấy. Bạn muốn đánh bại tôi ít ra phải đấu một vài trăm hiệp mới được. Nhưng dù có thắng tôi chăng nữa, bạn làm sao mà đem được Hàn Cơ cùng cứu sư đệ đi. Thử hỏi Lộc Trượng Khách có tài ba như thế không?

Lộc Trượng Khách thấy Khổ Ðầu Ðà nói như vậy, liếc mắt nhìn sư đệ. Y biết lời nói của đối phương rất đúng, y với sư đệ hai người cùng theo một sư phụ từ hồi nhỏ chưa hề xa nhau nửa bước. Hai người không có vợ con nên coi nhau như anh em ruột. Y không thế nào đang tâm bỏ người sư đệ trốn một mình được. Khổ Ðầu Ðà thấy đối phương đứng ngẩn người ra suy nghĩ liền quát bảo Tôn, Lý hai người vào trong phòng đóng cửa lại rồi hỏi:

- Lộc tiên sinh! Việc này hãy còn trong bóng tối. Khổ Ðầu Ðà là tôi có thể giúp bạn giấu kín được.

Lộc Trượng Khách ngạc nhiên hỏi:

- Chẳng hay đại sư định dùng cách nào cứu tôi?

Khổ Ðầu Ðà không trả lời y vội mà nhanh tay điểm luôn yếu huyệt câm và tệ liệt của Tôn, Lý hai người.

Thấy thủ pháp điểm huyệt vừa nhanh vừa kỳ lạ, Lộc Trượng Khách thấy vậy cũng khen ngợi thầm.

Khổ Ðầu Ðà lại nói tiếp:

- Chắc bạn không bao giờ nói chuyện này cho ai hay đâu, lệnh sư đệ cũng không dám làm khó dễ bạn đâu, còn Khổ Ðầu Ðà tôi là người câm thì sau này vẫn phải câm. Còn hai chú này đã bị Khổ Ðầu Ðà nầy điểm huyệt rồi, bạn không sợ còn sợ sệt gì nữa.

Tôn, Lý hai người nghe nói cả kinh thất sắc và nghĩ thầm:

- Việc này không liên can tới chúng ta có ngờ đâu chỉ ăn vụng thịt chó mà lại bị tai họa như thế này?

Chúng định lên tiếng van lơn nhưng không sao nói nên lời.

Khổ Ðầu Ðà lại chỉ tay vào Hàn Cơ và nói tiếp:

- Còn Ái cơ của Vương gia đây lão tăng đã có hai phương pháp, một là đem nàng với Tôn, Lý tới một chỗ hẻo lánh chém cho mỗi người một đao, rồi báo cáo cho Vương gia hay bảo nàng cùng với Lý Tứ Thôi đào tẩu bị Khổ Ðầu Ðà trông thấy. Quá tức giận, Khổ Ðầu Ðà đã giết gian phu dâm phụ ngay tại chỗ. Và thấy Tôn Tam Hủy cũng có mặt tại đó nên Ðầu Ðà mới giết nốt. Kế thứ hai là bạn đem nàng chạy trốn ẩn núp ở một nơi thật kín đáo. Sau này có bị tiết lộ đó là tự bạn.

Lộc Trượng Khách quay đầu lại nhìn Hàn Cơ, thấy hai mắt nhìn mình có vẻ van lơn cầu cứu. Hiển nhiên nàng muốn mình thi hành kế hooạch thứ hai, đồng thời y thấy nàng xinh đẹp như vậy liền nghĩ thầm:

- Người đẹp như tiên thế kia nếu dùng đao chiếm chết thật là uổng.

Ý nghĩ như vậy, không nỡ để Hàn Cơ bị giết liền trả lời Khổ Ðầu Ðà rằng:

- Cám ơn đại sư đã suy tính hộ lão phu như vậy chẳng hay đại sư muốn lão phu giúp đại sư việc gì.

Y biết Khổ Ðầu Ðà như nào cũng định nhờ vả mình điều gì bằng không, không khi nào y lại tử tế với mình như thế.

Khổ Ðầu Ðà đáp:

- Việc tôi nhờ bạn rất dễ. Diệt Tuyệt sư thái trưỡng môn của phái Nga Mi quen biết tôi đã lâu. Cô bé họ Chu là con riêng của tôi với bà sư nữ ấy. Tôi chỉ muốn yêu cầu bạn cho một ít thuốc giải để cứu hai người đó ra khỏi nơi đây. Nếu Quận chúa có hỏi đã có bần tăng trả lời, cam đoan với bạn là không để bạn dính líu vào việc này đâu. Nếu tôi nói sai thì trời bắt chồng sẽ làm giặc, vợ sẽ làm đĩ và cũng chết đường chết chợ, đời sau không được đầu thai làm người.

Lộc Trượng Khách đã thấy Khổ Ðầu Ðà kể câu chuyện đó, liền ngẩn người trong giây lát, rồi mỉm cười và nghĩ thầm:

- Thế ra Khổ Ðầu Ðà muốn cứu người yêu cũ với con gái mà đặt mưu kế này ra uy hiếp ta đấy. Nhưng đó cũng là một thói thường của người đời. Việc nầy tuy nguy hiểm thật nhưng ta đổi được một giai nhân tuyệt sắc này cũng đáng lắm.

Nghĩ đoạn, y vừa cười vừa hỏi:

- Thế có phải Khổ đại sư, đã ra tay bắt cóc Ái cơ của Vương gia tới đây không?

Khổ Ðầu Ðà đáp:

- Bạn cho tôi thuốc giải độc tôi đền bù lại Hàn Cơ, đó là sự rất thường.

Lộc Trượng Khách cả mừng, nhưng đột nhiên y lại hỏi Khổ Ðầu Ðà:

- Vậy tại sao sư đệ của tôi lại trúng phải Thập hương nhuyễn cân tán, bạn lấy thuốc độc đó ở đâu thế?

Khổ Ðầu Ðà đáp:

- Khó khăn gì điều đó, thuốc độc đó do lệnh sư đệ giữ, y là người thích uống rượu, lúc uống say tôi liền ra tay lấy trộm luôn.

Lộc Trượng Khách không còn hoài nghi gì nữa, nói tiếp:

- Hay lắm! Tôi được giao kết với một người bạn như Khổ đại sư thật hân hạnh, nhưng tôi không xuất mại và mong cũng đừng lừa dối tôi.

Khổ Ðầu Ðà chỉ Hàn Cơ vừa cười vừa nói tiếp:

- Lần sau có những vụ thơm tho điễm lệ như thế này, tôi cũng mong tiên sinh xếp đặt một cái bẩy để Khổ Ðầu Ðà tôi chui vào, tôi bằng lòng ngay.

Hai người nhìn nhau rồi cười, nhưng mỗi người nghĩ một cách.

Lộc Trượng Khách suy tính thầm:

- Ta tìm một chỗ nào thật kín giấu Hàn Cơ xong, rồi ta sẽ xuất kỳ bắt y giết chết Khổ Ðầu Ðà.

Còn Khổ Ðầu Ðà thì nghĩ:

- Tuy bây giờ Lộc Trượng Khách bi ta áp bức thật, nhưng Huyền Minh Nhị lão đâu phải là tay tầm thường. chúng bị thiệt thòi không khi nào chúng chịu để ta yên tâm. Chắc y giấu diếm Hàn Cơ xong và giải được yếu huyệt cho Hạt Bút Ông rồi thế nào cũng kiếm ra để trả thù. Nhưng lúc ấy, ta đã cứu các cao thủ của các môn phái và ta cũng đi khỏi nơi đây rồi .

Phạm Dao thấy Lộc Trượng Khách mãi chưa chịu lấy thuốc giải ra, liền nghĩ thầm:

- Nếu ta thúc giục y thế nào cũng làm khó dễ liền .

Nên y thủng thẳng ngồi xuống rồi nói:

- Lộc huynh sao không giải huyệt cho Hàn Cơ đi! Ðể chúng ta cùng ngồi uống rượu với nhau dưới ánh đèn, được xem mỹ nhân như vậy thật là hạnh phúc vô cùng.

Lộc Trượng Khách biết trong chùa nầy có rất nhiều người ra vào. Nếu để Hàn Cơ ở lại lâu bao nhiêu thì nguy hiềm bấy nhiêu, y liền lấy cây gậy lộc giác, xoay cán đầu đổ một ít thuốc bột trong chén và nói:

- Khổ đại sư đa mưu túc trí thật, đệ xin bái phục đấy!

- Thuốc giải đây bạn đem đi cứu vị Sư thái với Chu cô nương mau.!

Khổ Ðầu Ðà lắc đầu đáp:

- Thuốc ít như vậy cứu sao nổi họ.

- Chỗ thuốc nầy đã cứu sáu bảy người, chứ cứu hai người thì dư nhiều lắm rồi.

- Sao bạn hà tiện thế? dù có thêm một chút đã sao nào? Nói thật cho bạn hay bạn là người túc trí đa mưu nên Khổ Ðầu Ðà tôi sợ mắc hởm bạn!

Lộc Trượng Khách thấy Phạm Dao xin thêm thuốc giải, sinh nghi và hỏi:

- Khổ đại sư định cứu người khác nữa chứ không riêng gì hai mẹ con Diệt Tuyệt Sư thái phải không?

Khổ Ðầu Ðà đang tìm lời lẽ để biện bạch, bỗng nghe ngoài sân có tiếng chân người dồn dập, ước chừng bảy tám người vậy.

Trong bọn người đó có một người lên tiếng hỏi:

- Vết chân đi tới đây, chẳng lẽ Hàn Cơ lại ở trong chùa Vạn Pháp này chăng?

Lộc Trượng Khách nghe nói hoảng sợ đến biến sắc mặt, liền cầm cái chén có thuốc giải bỏ vào túi, y tưởng Ðầu Ðà cho người mai phục bên ngoài lấy thuốc giải liền xuất mại mình. Nhưng Khổ Ðầu Ðà đã lắc đầu xua tay. Bảo y đừng kinh hoảng vội lấy cái chăn đỏ phủ lên mình Hàn Cơ và buông mùng xuống, Khổ Ðầu Ðà vừa làm xong thì ngoài sân có một người lên tiếng hỏi:

- Lộc tiên sinh có nhà không?

Khổ Ðầu Ðà lên tiếng trả lời.

Lộc Trượng Khách liền lớn tiếng nói vọng ra:

- Việc gì thế?

Người bên ngoài đáp:

- Thưa tiên sinh, trong vương phủ có một Ái Cơ bị kẻ gian bắt cóc, chúng tôi theo dõi vết chân của tên ấy đi tới Vạn Pháp chùa thì không thấy vết chân ấy nữa.

Lộc Trượng Khách giận dữ nhìn Khổ Ðầu Ðà ra vẻ nói:

- "Nếu không phải ngươi ám hại ra thì với tài ba của người cao siêu như thế khi nào lại có vết chân để lại như vậy được.

Khổ Ðầu Ðà nhếch mép dưới giơ tay ra hiệu bảo y đuổi bọn kia đi đã, đồng thời y nghĩ thầm:

- Vi Bức Vương vu oan giá họa giỏi thật, làm thế nào để cho vết chân từ vương phủ đến đây được .

Lộc Trượng Khách cười nhạt nói vọng ra ngoài:

- Các ngươi không biết chia nhau đi khắp nơi tìm kiếm hay sao mà cứ ở đây la lối om sòm vậy!

Với võ công và địa vị của y người trong vương phủ ai ai cũng kính nể. Nên y vừa nói xong bọn người kia vâng vâng, dạ dạ đi nơi khác tìm kiếm ngay.

Lộc Trượng Khách biết hiện giờ chung quanh chùa Vạn Pháp này đang có người canh giữ nghiêm mật. Tuy chúng không dám vào trong phòng mình xét, nhưng muốn đem Hàn Cơ đi nơi khác giấu thì không còn cách gì nữa, nên y cau mày lại hậm hực nhìn Khổ Ðầu Ðà.

Phạm Dao sực nghĩ ra một kế liền rỉ tai y khẽ nói:

- Lộc huynh, trong chùa này có một nới rất kín đáo, nơi ấy có thể tạm giam người yêu của bạn vào trong đó đôi ngày chắc không ai hay biết cả, chờ tới khi nào nên ngoài không còn người canh gác tuần tiểu lúc ấy bạn sẽ đem nàng ta đi nơi khác sau. Như vậy phải là tiện không!

Lộc Trượng Khách vẫn còn tức giận, nói:

- Có giấu vào trong phòng của đại sư đấy không?

- Giấu vào trong phòng tôi cũng được, nhưng người đẹp thế kia đâu biết tôi chẳng động lòng, như vậy Lộc huynh không ghen hay sao?

Lộc Trượng Khách vội hỏi:

- Vậy nơi đó là nơi nào thế?

Phạm Dao giơ tay chỉ ngọn tháp ở bên ngoài cửa sổ, mồm tủm tỉm cười.

Lộc Trượng Khách là người rất thông minh, liền gật đầu, giơ ngón tay cái lên tỏ vẻ khen ngợi:

- Ý kiến của đại sư hay lắm!

Nên biết rõ nơi giam cầm các tay cao thủ của sáu đại môn phái, người phụ trách canh gác tháp đó là Du Long Tử, đệ tử của Lộc Trượng Khách. Người ta có thể nghi ngờ kẻ giam giấu Ái Cơ của Vương gia ở khắp nơi, chớ không ai dám nghi tới kẻ gian giấu nàng Thu ở chỗ giam cầm kẻ địch và có người canh phòng rất nghiêm mật.

Khổ Ðầu Ðà khẽ nói tiếp:

- Nhân lúc này ngoài sân không có người, Lộc huynh nên đem người yêu lên trên đó ngay đi.

Nói xong, y liền lấy cái chăn đỏ cuộn Hàn Cơ vào giữa như một cái bọc áo vậy, đưa cho Lộc Trượng Khách.

Lộc Trượng Khách nghĩ thầm:

- Chẳng lẽ mi chờ ta ôm nàng ra tới sân là tri hô lên vu cho ta là kẻ gian chăng. Lúc ấy có tang vật hẳn hoi thì ta muốnchối cãi cũng không sao chối được nữa...

Y vừa nghĩ mặt vừa biến sắc không dám đưa tay ra đỡ lấy Hàn Cơ.

Khổ Ðầu Ðà thấy vậy biết ngay ý nghĩ của y liền vội nói:

- Tôi đã nói giúp bạn tôi vui lòng giúp tới cùng! Khổ Ðầu Ðà tôi vui lòng đi cùng với bạn một phen...Ai bảo tôi đang có việc nhờ vả người ta chi?

Nói xong, y vác cái bọc đó lên vai đẩy cửa đi ra, nhưng trước khi ra khỏi phòng y còn khẽ nói dặn Lộc Trượng Khách rằng:

- Lộc huynh hãy đi trước, hễ thấy ai cản trở thì cứ việc ra tay giết luôn.

Lộc Trượng Khách liền tách mình ra trước, nhưng y đi ngang người chứ không dám để lưng hướng về phía Ðầu Ðà, vì y sợ đối phương tấn công lén.

Khổ Ðầu Ðà khép cửa lại ngồi khom lưng ôm Hàn Cơ đi thẳng về phía bảo pháp.

Lúc ấy, đã là cuối giờ tuất, ngoài bảo tháp có mấy võ sĩ canh gác, trừ mấy người đó ra không còn ai dám đi lại nữa.

Mấy người võ sĩ đó trông thấy Lộc Trượng Khách đứng dậy cúi đầu vái lạy rồi cung kính đứng sang bên.

Du Long Tử đã được thuộc hạ cho hay vội chạy xuống và nói:

- Thưa sư phụ, ngày hôm nay chắc sư phụ vui vẻ lắm nên mới tới viếng bảo tháp như vậy.

Lộc Trượng Khách gật đầu, rồi cùng Khổ Ðầu Ðà định vào trong tháp, ngờ đâu trong tháp có một người vừa bước ra.

Người đó chính là Triệu Minh.

Lộc Trượng Khách giật mình khinh công.

Y không ngờ Quận chúa lại tới tháp như vậy.

Ba người liền tiến lên vái chào, Triệu Minh vừa cười vừa nói Du Long Tử rằng:

- Sư phụ ngươi thâu được một đồ đệ ngoan ngoãn thật, ngươi chỉ biết nghênh đón sư phụ chứ không thèm rước ta nữa.

Du Long Tử lại vái chào nói:

- Tiểu nhân không biết Quận chúa giá lâm. Xin Quận chúa thứ lỗi cho.

Triệu Minh vừa cười đáp:

- Ngươi xếp đặt rất chu đáo, dù Minh Giáo có phái người đến đây để cứu những người bị giam chưa chắc họ dễ dàng làm được như ý muốn.

Thì ra đêm hôm trước Vô Kỵ biết tới quấy nhiều, Triệu Minh không biết bên Minh Giáo chỉ có ba người thôi mà tưởng lầm có nhiều người tới, nên ngày hôm nay nàng phải thân hành lên trên đảo tháp tuần tiễu. Nàng thấy trên tháp giới bị rất chu mật, từng tháp nào cũng có hai tay cao thủ canh giữ nên yên lòng vô cùng.

Nàng quay lại nói Khổ Ðầu Ðà rằng:

- Ðại sư đi cùng với tôi tới nơi này!

Khổ Ðầu Ðà nghĩ thầm:

- Tốn bao nhiêu lời nói mới đánh lừa được Lộc Trượng Khách đi vào trong tháp này và thừa dịp cướp luôn thuốc giải của y, lúc ấy việc của ta sẽ hoàn thành liền? Ngờ đâu, con nhải này lại xuất hiện ở nơi đây, thế khổ cho ta không .

Y đang định kiếm cách không đi, trong lúc đột ngột này không sao nghĩ được mưu kế gì để thoái thoát. Huống hồ y lại giả bộ câm thì làm sao lên tiếng nói được. May thay y đã nhanh trí, nghĩ ra được một kế, liền giơ cái bọc áo lên, mắt nhìn Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách giật mình kinh hãi trong bụng chửi thầm Khổ Ðầu Ðà.

Ðang lúc ấy Triệu Minh liền lên tiếng hỏi:

- Lộc tiên sinh, cái bọc kia của Khổ đại sư là bộc gì thế?

Lộc Trượng Khách vội đáp:

- Dạ, dạ đó là... là chăn gối của Khổ đại sư đấy.

Triệu Minh ngạc nhiên:

- Chăn gối... Khổ đại sư định đem chăn gối đi đâu thế?

Nàng không nhịn được, cười vài tiếng lại tiếp:

- Khổ đại sư hiềm tôi ngu xuẩn không chịu thâu tôi làm đồ đệ định cuốn gói bỏ đi không làm nữa phải không?

Khổ Ðầu Ðà lắc đầu giơ tay phải giả bộ ra hiệu bừa, nhưng trong lòng nghĩ thầm:

- Tất cả mọi lẽ để cho Lộc Trượng Khách nghĩ cách nói dối. Lúc này mới biết giả bộ làm câm như vậy cũng có lợi đấy .

Triệu Minh không hiểu y nói gì, liền đưa mắt nhìn Lộc Trượng Khách. Suy nghĩ giây phút, Lộc Trượng Khách đã nghĩ ra được lời giải thích và đáp:

- Tối hôm qua mấy tên ma đầu của Ma Giáo đến đây quấy nhiễu, thuộc hạ còn sợ chúng quay trở lại đây một lần nữa nên... vì thế thuộc hạ mới cùng Khổ đại sư quyết định dọn lên trên tháp này canh gác. Như vậy mới khỏi lỡ việc lớn của quận chúa. Còn cái bọc kia là bọc chăn gối của Khổ đại sư đấy.

Triệu Minh nghe nói mừng rỡ vô cùng:

- Chính tôi cũng đang muốn mời Lộc tiên sinh và Hạt tiên sinh tới đây trấn thủ, nhưng tôi thấy phiền đến hai vị như vậy hơi quá đáng một chút, nên không tiện lên tiếng. Bây giờ hai vị lại chịu giúp tôi như vậy, thì quý hóa lắm. Khổ đại sư, nơi đây có Lộc tiên sinh canh rồi, vậy đại sư hãy theo tôi.

Nói xong, nàng nắm lấy tay Khổ Ðầu Ðà, bất đắc dĩ Khổ Ðầu Ðà đành phải tuân lệnh, nhưng trong lòng nghĩ thầm:

- Lúc này ta lột mặt nạ của Lộc Trượng Khách ra cũng không ích lợi gì cho ta. Hơn nữa, hiện giờ Hàn Cơ đang trong tay, dù ta có vu khống chưa chắc Triệu Minh đã tin. Chi bằng ta đưa cái bọc này cho Lộc Trượng Khách thì hơn.

Nghĩ đoạn y liền đưa cái bọc thì Lộc Trượng Khách vội giơ tay ra đỡ lấy bọc áo và Lộc Trượng Khách đáp:

- Khổ đại sư, tôi chờ đại sư trên tháp đấy nhé.

Du Long Tử xen lời nói:

- Thưa sư phụ, để đồ đệ đỡ tay hộ cái bọc chăn gối này cho.

Lộc Trượng Khách vừa cười vừa đáp:

- Khỏi cần, đây là đồ của đại sư, muốn lấy lòng ông ta sư phụ phải đích thân mới được.

Khổ Ðầu Ðà bụng chửi thầm, liền giơ tay vỗ mạnh vài cái bọc áo đánh trúng mông đít Hàn Cơ. Cũng may nàng đã điểm vào yếu huyệt tê liệt rồi, nên không kêu được, Lộc Trượng Khách hoảng sợ đến biến sắc mặt không dám đứng lại nữa, vái chào Triệu Minh vác Hàn Cơ vào tháp.

Vào tháp Lộc Trượng Khách vội đổi luôn cái chăn bông, đề phòng Khổ Ðầu Ðà có báo cáo Triệu Minh hay thì nhất định không chịu nhận.

Khổ Ðầu Ðà bị Triệu Minh kéo ra khỏi chùa Vạn Pháp, trong lòng vừa bực tức, vừa kinh ngạc, không hiều nàng định đem mình đi đâu.

Triệu Minh đầu đội mũ gió che lấp hai má, khẽ nói với Khổ Ðầu Ðà:

- Khổ đại sư, chúng ta đi thăm tiểu tử Vô Kỵ!

Khổ Ðầu Ðà vừa kinh ngạc vừa nhìn nàng, thấy hai má nàng đỏ hồng, lòng có vẻ vui mừng, Khổ Ðầu Ðà nghĩ lại chuyện giữa nàng với Vô Kỵ trong chùa Vạn Pháp đêm hôm qua, y biết hai người thế nào cũng có tình ý với nhau.

Nghĩ đoạn, y liền gật đầu nhìn nàng và cười một cách quái dị.

Triệu Minh hờn giận hỏi:

- Ðại sư cười gì thế?

Khổ Ðầu Ðà nghĩ thầm:

- Ðùa với ai thì được nhưng chớ nên đùa với nàng ta.

Y liền giơ tay lên chỏ chỏ ra điều nói:

- Khổ Ðầu Ðà sẽ hết sức bảo vệ quận chúa, dù có vào đầm rồng hang hổ, tôi cũng đi.

Triệu Minh liền đi trước dẫn đường, không bao lâu đã tới trước cửa khách điếm, nơi Vô Kỵ trọ.

Khổ Ðầu Ðà thấy vậy hoảng sợ nghĩ thầm:

- Quận Châu Quân thông quan đại thúc, không đầy một buổi sáng, nàng đã tìm ra chỗ ở của Minh Giáo chủ ta rồi.

Nghĩ đoạn y theo Triệu Minh đi vào trong khách điềm, Triệu Minh hỏi người phổ ky rằng:

- Chúng tôi muốn kiếm người khách trọ Tăng.

Vô Kỵ vẫn dùng cái tên giả Tăng A Ngưu.

Ðiểm Tiểu nhị vào trong thông báo.

Vô Kỵ đang ngồi ở trên giường tịnh dưỡng, để đợi pháo bông ở chùa Vạn Pháp phát lên là đi tiếp ứng.

Bỗng nghe có người đến thăm, lòng rất kinh ngạc vội ra ngoài khách đường để nghinh đón.

Chàng thấy khách đến thăm là Triệu Minh với Khổ Ðầu Ðà thì lòng càng lo ngại nghĩ thầm:

- Nguy tai! Chắc Triệu cô nương đã biết tung tích Khổ đại phu đến đây đối chất với ta.

Nghĩ đoạn, chàng tiến lên vái chào và hỏi:

- Không biết Triệu cô nương tới thăm để ra nghinh đón, xin cô nương tha lỗi!

Triệu Minh trả lời:

- Nơi đây không phải là chỗ nói chuyện, chúng ta hãy đến một tiểu tửu gia bên kia nhậu ba chén, chẳng hay Giáo chủ nghĩ sao?

Vô Kỵ đáp:

- Tôi rất vui lòng.

Triệu Minh đi trước dẫn đường, đến một tửu gia cách khách sạn của Vô Kỵ độ chừng năm sáu trượng, trong tửu điếm có bày mấy cái bàn.

Lúc ấy trời đã tối, trong tiệm không có người khách nào.

Triệu Minh, Vô Kỵ ngồi đối diện nhau, Khổ Ðầu Ðà giơ tay ra hiệu xin phép ra ngồi uống rượu, Triệu Minh gật đầu.

Rồi nàng lại bảo phổ ky lấy ba cân thịt, hai cân rượu, Vô Kỵ hồ nghi nghĩ thầm:

- Nàng là quận chúa cao quý, mà chịu cùng mình vào trong tiệm ăn nhỏ nầy, ăn uống chẳng hay nàng có bài quỷ kế chi đây?

Triệu Minh rót luôn hai ly rượu, đưa cho Vô Kỵ một chén rồi tự uống một chén cười nói:

- Rượu nầy không có thuốc độc đâu, Trương Giáo chủ cứ yên tâm mà uống.

Vô Kỵ vội hỏi:

- Cô nương gọi tôi đến đây có điều chi dạy bảo?

Triệu Minh đáp:

- Mời Giáo chủ uống cạn ba chén rượu đã rồi nói chuyện sau.

- Tôi xin cạn chén trước.

Nói xong nàng nâng ly rượu lên uống cạn ngay, Vô Kỵ cũng cầm ly rượu lên uống.

Triệu Minh lại nói tiếp:

- Uống thêm hai ly nữa, tôi biết Giáo chủ cũng còn nghi ngờ tôi, nên ly nào tôi cũng phải hớp một hớp trước.

Vô Kỵ biết nàng đa mưu, túc kế, nên việc gì chàng cũng đề phòng.

Bây giờ, thấy nàng uống trước một hớp chàng mới yên lòng.

Nhưng uống xong ba ly rượu mà nàng đã hớp qua, chàng cảm thấy trong lòng hơi khó chịu.

Chàng ngửng đầu lên nhìn Triệu Minh đang tủm tỉm cười, trông rất xinh đẹp.

Chàng không dám nhìn thêm nữa nên vội quay đầu về chỗ khác.

Triệu Minh khẽ nói:

- Trương công tử có biết ta là ai không?

Vô Kỵ lắc đầu, Triệu Minh cười, nói:

- Hôm nay tôi xin công tử được rõ. Cha tôi là Nhữ Dương Vương, cầm binh quyền của triều đình. Tôi là con gái Mông Cổ, tên là Minh Minh Ðặc Mục Nhĩ. Triệu Minh là tên Hán mà tôi đặt. hoàng thượng cho tôi làm Triệu Minh quận chúa.

Thấy nàng ta dám đem lai lịch ra nói thật cho mình biết như vậy Vô Kỵ vô cùng ngạc nhiên.

Triệu Minh hỏi:

- Tại sao công tử lại biết rõ lai lịch của tôi trước rồi?

Vô Kỵ đáp:

- Không, tôi có biết đâu? Nhưng tôi thấy cô tuổi trẻ như vậy mà sai khiến được nhiều tay võ lâm cao thủ thì tất nhiên địa vị của cô nương phải cao rồi!

Triệu Minh vuốt ve cái ly, không nói năng gì hết.

Một hồi lâu, nàng mới cầm ấm lên rót rượu cho Vô Kỵ rồi nói tiếp:

- Trương công tử! Tôi hỏi công tử một lời này, mong công tử trả lời thành thật cho tôi hay. Nếu tôi giết Chu cô nương của công tử thì công tử sẽ đối phó với tôi như thế nào?

Vô Kỵ ngạc nhiên hỏi lại:

- Chu cô nương có lỗi gì với cô đâu mà bỗng dưng cô lại đòi giết nàng ta?

- Tính tôi rất lạ, tôi không ưa ai là giết người đó liền! Chứ không cần người đó tội với tôi hay không? Trái lại có những người thất lễ và làm mất lòng tôi mà tôi không giết, như công tử chẳng hạn. công tử nghĩ xem, công tử làm bực mình tôi như thế còn chưa đủ hay sao?

Nói tới đây, mặt nàng không có vẻ tức giận gì hết, miệng tủm tỉm cười.

Vô Kỵ thở dài rồi đáp:

- Triệu cô nương, tôi thất lễ với cô là do hoàn cảnh bắt buộc, nhưng cô tặng thuốc để tôi cứu Tam sư bá với Lục sư thúc dù sao tôi cũng cám ơn cô nương.

- Lời Giáo chủ có thành ra ngớ ngẩn chăng? Dư Ðại Nham với Hân Lại Hanh đều bị thuộc hạ của tôi hạ độc thủ mà công tử không trách, lại còn cám ơn tôi?

- Tam sư bá tôi bị thương đã ngót hai mươi năm lúc ấy cô chưa ra đời.

- Nhưng những người đó đều là thuộc hạ của cha tôi. Công tử đừng nói lảng sang chuyện khác nữa, tôi hỏi công tử câu này: Nếu tôi giết Chu cô nương của công tử thì công tử đối phó với tôi như thế nào? Công tử có định giết chết tôi để báo thù cho nàng không?

Vô Kỵ ngẫm nghĩ giây lát rồi đáp:

- Tôi không biết!

- Tại sao công tử lại không biết, có phải công tử không muốn nói phải không?

- Cha mẹ tôi bị người ta bức tử, hôm đó tôi có mặt ở tại đó. Tôi đã thề trước xác của cha mẹ là sau này trưởng thành thế nào tôi cũng phải phục thù cho kỳ được. Tôi nhớ kỹ mặt những người đã bức tử cha mẹ tôi. Những người đó là của phái Thiếu Lâm và Không Ðộng v. v... Lúc ấy, tôi còn nhỏ nên trong lòng chứa đầy thù hận, nhưng đến khi tôi lớn lên, hiểu biết sự đời thì lòng thù hận đó đã phai dần. Sự thật tôi vẫn chưa được rõ ai là kẻ thù và ai đã ra tay giết hại cha mẹ tôi.

Tôi không dám bảo là Không Trí Ðại Sư và Thiết Cầm Tiên Sinh, tôi cũng không dám nói là ông ngoại hay cậu tôi, thậm chí tôi cũng không dám vu cáo cho A Ðại, A Nhị, Huyền Minh Nhị lão những bộ hạ của cô nương. Triệu cô nương! Mấy ngày hôm nay tôi chỉ nghĩ chẳng giết ai, cùng hòa khí thân ái, làm bạn với nhau, như vậy phải hơn không?

Triệu Minh thấy Vô Kỵ thành khẩn như vậy im lặng giây lát nàng nói tiếp:

- Ðó là tâm địa nhân hậu của công tử mà nên. Tôi thì không thể nào bắt chước công tử được! Ai giết hại anh và cha tôi, không những tôi giết hại cả nhà tên đó mà tôi còn giết cả những họ hàng bạn bè và cả những mgười quen biết tên đó tôi cũng giết hết!

- Nếu cô nương làm như thế thì thế nào tôi cũng ra tay ngăn cản!

- Tại sao vậy! Công tử định giúp kẻ thù của tôi ư?

- Tôi thiết nghĩ cô giết chết một người đối với cô có hại thêm và mang thêm tội mà thôi. Triệu cô nương! Chẳng hay cô nương đã giết ai chưa?

- Bây giờ thì chưa, nhưng sau này tôi lớn lên tôi sẽ giết rất nhiều người. Ông tổ của tôi là Ðại đế Thành Cát Tư Hãn, Hốt Tất Liệt v.v... những vị ấy mới thật anh hùnh hảo hán. Tôi chỉ hận, mình phận gái. Nếu là đàn ông hừ... hừ... tôi sẽ tạo nên một sự nghiệp oanh liệt!

Nói tới đó, nàng rót đầy một ly rượu, rồi cầm lên uống cạn cười nói tiếp:

- Công tử vẫn chưa trả lời câu hỏi của tôi!

- Nếu cô nương giết chết Chu cô nương hay bất cứ một người thủ hạ của tôi thì tôi sẽ không coi cô nương là bạn và sẽ không khi nào trông mặt của cô nương nữa! Và dù thấy mặt nhau tôi cũng không khi nào nói chuyện với cô nương!

- Thế bây giờ công tử coi tôi là bạn không?

- Nếu tôi ghét hận cô thì không bao giờ tôi lại ngồi ở đây uống rượu với cô! Hà!... Tôi nhận thấy muốn ghét hận một người thật là khó. Trong đời tôi người mà tôi ghét hận nhất là Thành Khôn! Nhưng y đã chết rồi, bây giờ tôi lại nhận thấy y chết như thế rất tội nghiệp, tôi lại mong y đừng chết.

- Nếu ngày mai tôi chết thì công tử sẽ nghĩ thế nào? Chắc lúc ấy công tử thế nào cũng nói: Cám ơn trời đất! Con bé đối thủ và hung ác kia đã chết rồi. Từ nay trở đi ta đỡ bị phiền phức nữa!

Vô Kỵ vội lớn tiếng đính chính:

- Không! Không! Vi Bức Vương dọa sẽ dùng rao rạch mặt cô rách nát. Sao tôi càng nghĩ càng lo lắng hộ cho cô. Triệu cô nương! cô đừng gây thù hận với chúng tôi nữa, mau tha cho những tay cao thủ của sáu đại môn phái đó đi, để chúng ta vui vẻ làm bạn với nhau! Như vậy có tốt hơn không?

Triệu Minh mừng rỡ đáp:

- Hay lắm! Tôi cũng trông mong như vậy lắm! Công tử là Giáo chủ của Minh Giáo, lời nói của công tử nặng như chín cái đình. Công tử mau đi bảo các người đầu hành triều đình đi! Ðể cha tôi tâu với hoàng thượng phong cho họ.

Vô Kỵ lắc đầu và thủng thẳng đáp:

- Người Hán chúng tôi tâm nguyện muốn các người Mông Cổ mau rời đất đai của người Hán.

Triệu Minh đứng phắt dậy vội hỏi:

- Sao vậy, sao công tử lại dám thốt ra những lời phạm thượng và phản loạn như vậy? Như thế có khác gì công tử đã công nhiên định làm loạn không?

- Tôi vốn dĩ là người phản loạn, chẳng lẽ đến bây giờ cô mới biết hay sao?

Triệu Minh ngắm nhìn Vô Kỵ một hồi vẻ tức giận và kinh ngạc tiêu tan hết, và thay thế vào bằng vẻ nhu mì nhưng hơi thất vọng, rốt cuộc nàng lại ngồi xuống và nói tiếp:

- Tôi đã sớm biết lòng công tử như vậy, nhưng tôi muốn được nghe công tử nói ra. Bây giờ tôi đã hiểu hết rồi, việc này không thể nào vãn hồi được nữa.

Nói tới đó giọng nói của nàng chứa đầy đau thương.

Hai người lẳng lặng ngồi nhìn nhau một hồi Vô Kỵ liền lên tiếng:

- Triệu cô nương! Bây giờ trời đã khuya lắm rồi, để tôi đưa cô nương về.

- Công tử không chịu ngồi ở đây với tôi một tí nữa hay sao?

- Không! Nếu cô nương thích ngồi ở đây uống rượu nói chuyện thì tôi xin ở lại đây tiếp chuyện với cô nương!

- Tôi ngồi một mình vẫn thường nghĩ: Nếu tôi không phải là người Mông Cổ và cũng không là quận chúa gì hết mà chỉ muốn giống như Chu cô nương hay là một cô bé người Hán tầm thường nào đó thì có lẽ công tử sẽ tử tế với tôi hơn! Trương công tử bảo tôi đẹp hay Chu cô nương đẹp?

Vô Kỵ không ngờ nàng lại hỏi bạo như thế? Dưới ánh sáng đèn, chàng trông thấy nàng đẹp khôn tả, liền buột miệng trả lời rằng:

- Tất nhiên là cô đẹp hơn Chu cô nương rồi!

Triệu Minh giơ tay phải ra nắm lấy tay chàng và nàng lộ vẻ mừng rỡ:

- Trương công tử có muốn gặp tôi luôn không! Và có muốn tôi mời công tử tới đây uống rượu luôn luôn không?

- Tôi không thể ở đây lâu được! Vài ngày nữa tôi sẽ xuôi miền Nam ngay!

- Công tử đi xuống miền Nam làm chi?

- Tôi không nói chắc cô nương cũng đoán ra được và sợ nói ra cô nương bực mình...

Triệu Minh nhìn mặt trăng ở ngoài cửa sổ bỗng lên tiếng hỏi:

- Công tử còn nhớ nhận lời làm ba việc cho tôi không?

- Tất nhiên không bao giờ tôi quên được, xin cô nương cứ cho biết bất cứ việc gì tôi cũng sẽ vui lòng làm ngay!

Triệu Minh quay đầu lại nhìn mặt chàng một hồi rồi nói tiếp:

- Bây giờ tôi mới nghĩ ra được một việc là tôi muốn nhờ công tử cùng tôi đi lấy thanh đao Ðồ Long.

Vô Kỵ cũng biết trước những việc mà Triệu Minh nhờ mình làm thế nào cũng rất khó khăn. Chàng không ngờ việc mà nàng nhờ vả thứ nhất đây lại là một việc tày đình như thế! Chàng cau mày suy nghĩ Triệu Minh thấy vậy vội hỏi:

- Thế nào? Công tử không chịu ư? Việc nảy không trái đạo hiệp nghĩa mà!

Vô Kỵ nghĩ thầm:

- Hiện giờ đao Ðồ Long trong tay nghĩa phụ ta, việc nầy người trên giang hồ ai cũng biết hết. Như vậy ta cũng không cần phải giấu diếm nàng làm chi?

Nghĩ đoạn, chàng liền đáp:

- Ðồ Long đao là báu vật của nghĩa phụ tôi, Kim Mao Sư Vương Ðại Hiệp, khi nào tôi lại phản nghĩa phụ mà lấy đao cho cô được?

Triệu Minh lại nói:

- Tôi không nhờ vả công tử đi lấy trộm, ăn cướp hay lừa dối và tôi cũng không phải muốn lấy được con đao đó, tôi chỉ muốn công tử đi hỏi nghĩa phụ của công tử cho tôi mượn xem và múa chơi một tiếng đồng hồ thôi rồi tôi lại trả cho Tạ Ðại hiệp ngay! Công tử với Tạ Ðại hiệp là nghĩa phụ nghĩa tử như vậy, chẳng lẽ công tử hỏi mượn trong một tiếng đồng hồ cũng không được hay sao? Mượn con đao xem chốc lát chứ có phải là nuốt mất luôn con đao ấy của Tạ đại hiệp đâu? Và tôi cũng không phải mượn nó để giết ntgười cướp của, như thế thì có gì là trái với đạo nghĩa đâu:

Con đao ấy tuy nó lừng danh võ lâm thật, nhưng nó rất xấu xí, nặng nề và không sắc bén gì hết.

Thế sao người ta vẫn nói "Võ lâm chí tôn, bảo đao Ðồ Long, hiệu lệnh thiên hạ" ai cũng phải phục tùng, nếu Ỷ Thiên không ra mặt thì không ai dám tranh sắc bén với nó. Bây giờ Ỷ Thiên Kiếm ở trong tay tôi nên tôi thế nào cũng muốn xem thanh đao Ðồ Long ấy hình dáng như thế nào?

Nếu công tử không yên tâm thì lúc xem đao công tử cứ đứng ở cạnh tôi, với bản lãnh của công tử cao cường như thế thì tôi không thể nào làm bậy cho được!

Vô Kỵ nghĩ thầm:

- Sau khi cứu được những cao thủ của sáu đại môn phái thoát nạn ta đã định đi nghênh đón nghĩa phụ về ngay và mời nghĩa phụ nhận chức vụ Giáo chủ.Triệu cô nương đã nói rõ chỉ mượn đao xem một tiêng đồng hồ thôi tuy ta không dám bảo đảm nàng sẽ không giở quỷ kế ra cướp giựt, nhưng đã có ta đứng đó để đề phòng thì chắc nàng cũng không thể làm gì cho được, nhưng nghĩa phụ ta đã nói, trong đao Ðồ Long có giấu một môn võ công tuyệt học ở bên trong, với thông minh trí tuệ của nghĩa phụ lúc hai mắt chưa mù đã cướp được bảo đao mà bấy lâu nay vẫn chưa biết rõ bí mật ở bên trong thì Triệu cô nương này chỉ xem có một tiếng đồng hồ ngắn ngủi như thế thì nàng làm sao mà biết được sự bí mật của nó, huống hồ ta cách biệt nghĩa phụ đã mười năm biết đâu trong khi ông ta ở trên đảo đã tìm ra sự bí mật của con đao đó rồi?

Triệu Minh thấy chàng yên lặng như vậy, liền vừa cười vừa nói tiếp:

- Công tử không bằng lòng cũng được, nhưng tôi bảo công tử làm việc khác chắc còn khó hơn thế nữa!

Vô Kỵ biết đàn bà điêu ngoa vừa ác độc nếu để cho nàng ta nghĩ ra vấn đề khác, chưa chắc mình đã làm nổi nên chàng vội đáp:

- Thôi được! Tôi nhận lời đưa cô đi mượn con đao Ðồ Long đó, nhưng chúng ta phải nói trước, cô nương chỉ có thể mượn xem một tiếng đồng hồ thôi, nếu cô định tâm cướp đoạt, tôi nhất định không để yên cô đâu!

- Ðược rồi! Tôi có biết xử dụng đơn đao đâu, vả lại con đao nặng chình chịch như thế thì lấy để làm gì? Dù công tử có cung kình mời tôi lấy tôi cũng không thèm. Chẳng hay công tử định bao giờ lên đường thế?

- Vài ngày nữa chúng ta sẽ đi liền.

- Như vậy thì hay! Tôi về sửa soạn hành lý, bao giờ lên đường thì công tử đến rủ tôi đi nhé!

- Theo ý tôi thì cô nương không nên đi, vì đường sá xa xôi và khó đi lắm!

- Nghe nói nghĩa phụ của công tử, hiện đang sinh sống trên một cô đảo hải ngoại, nhất định không chịu trở về Trung Thổ. chẳng lẽ lại bắt công tử dđi hằng vạn dặm để mượn đao về cho tôi xem một tiếng đồng hồ hay sao? Xem xong công tử lại đem đi vạn dặm để trả. Rồi lại đi xa hàng vạn dặm trở về đây. Tôi thiết nghĩ trên thiên hạ này không bao giờ có chuyện kỳ lạ như thế được.

Vô Kỵ cũng thấy việc đi như thế rất viển vông, liền đáp:

- Cô nương nói rất phải, nghĩa phụ tôi ở trên Băng Hỏa đảo đã được hai mươi năm nay rồi, chưa chắc ông ta chịu trở về Trung Thổ. Vả lại trên bể cả sóng gió rất lớn đi lại rất nguy hiểm. Cô nương hà tất phải thân hành mạo hiểm như thế?

- Mặc dầu chỗ đó nguy hiểm đến đâu công tử đi được thì tôi cũng đi được.

- Nhưng cha cô có chịu để cô đi không?

- Cha tôi rất bận. Mấy năm nay tôi đi đâu cha tôi cũng không hỏi tới. Vả lại cha tôi cũng bảo tôi thống lãnh quần hào trên giang hồ, nên tôi muốn đi đâu cha tôi cũng không hỏi tới.

Vô Kỵ nghe nàng nói tới đó liền nghĩ thầm:

- Ta đi Băng Hỏa đảo nghênh đón nghĩa phụ không biết ngày nào mới trở về được. Nếu nàng dùng kế điệu hổ ly sơn nhân lúc ta vắng mặt đem binh đến đánh bổn giáo có phải là nguy không? Chi bằng ta để nàng đi cùng bộ hạ của nàng. Như vậy ta đỡ phải lo âu.

Nghĩ đoạn chàng liền gật đầu đáp:

- Ðược, lúc nào đi tôi sẽ đến đón cô...

Chàng chưa nói dứt đã thấy ngoài trời đỏ rực và tiếng kêu la ở đằng xa vọng tới.

Triệu Minh đi tới cửa sổ nhìn ra ngoài để xem.

Nàng bỗng kinh hãi và la lớn:

- Ối chà! Nguy tai, bảo tháp của chùa Vạn Pháp bị cháy. Khổ Ðại sư mau lại đây...

Nàng gọi liền mấy tiếng không thấy Khổ Ðầu Ðà hiện thân ra, nàng chạy ra ngoài cửa cũng không thấy tung tích Khổ Ðầu Ðà đâu cả.

Nàng hỏi chưởng quầy, thì người chưởng quầy trả lời rằng:

- Vị đại sư ấy vừa tới đã đi liền, cách đây chừng hai tiếng đồng hồ.

Triệu Minh ngạc nhiên vô cùng, nàng không ngờ Khổ Ðầu Ðà lại phản mình như vậy. Vô Kỵ trông thấy ngọn lửa cháy càng lúc càng cao, chỉ sợ công lực của Ðại sư bá, các người chưa khôi phục hẳn, sẽ bị chết cháy trong bảo tháp.

Nên chàng vội nói với Triệu Minh rằng:

- Xin lỗi cô nương tôi có việc bận phải về ngay...

Chàng vừa nói xong đã nhảy qua cửa sổ đi luôn.

Triệu Minh vừa đuổi theo vừa kêu gọi:

- Hãy khoan cho tôi cùng đi với!

Chờ tới khi nàng nhảy ra ngoài cửa sổ thì Vô Kỵ đã biệt tích rồi.

Hãy nói Lộc Trượng Khách thấy Khổ Ðầu Ðà bị quận chúa gọi đi, mới yên lòng liền cõng Hàn Cơ vào trong phòng Du Long Tử.

Long Tử là tổng quản của bảo tháp đó, phòng của y ở trên từng thứ bảy của bảo tháp. Y ở trên đó có thể nhìn xung quanh bốn phía và có thể kiềm chế được đại cục.

Lộc Trượng Khách cõng Hàn Cơ lên tới đó rồi, liền nói với Du Long Tử rằng:

- Mi ra ngoài cửa canh gác cấm không cho ai vào trong nầy.

Du Long Tử liền ra cửa phòng tức thì.

Lộc Trượng Khách gài then cửa lại cởi bọc áo ra và đặt Hàn Cơ nằm lên trên giường, y thấy mặt nàng nhợt nhạt, mắt tỏ vẻ van lơn, y liền khẽ nói:

- Cô nương đã lên tới đây không còn hãi sợ gì hết, tôi sẽ đối đãi tử tế với cô nương!

Tới lúc ấy y cũng chưa dám giải huyệt cho nàng ta, vì sợ nàng lớn tiếng kêu la thì hỏng hết đại sự. Cho nên y chỉ lấy cái chăn bông để vào trong miếng vải bọc lại và đặt sang một bên. Y là một người đa mưu túc kế, biết để Hàn Cơ ở đây sẽ bị tai tiếng nên y vội ra ngoài phòng dặn bảo Du Long Tử không nên vào trong ấy và cũng không cho người nào vào hết. Y biết người đại đệ tử đó xưa nay vẫn kính nể và hãi sợ mình, tất nhiên người đệ tử đó không dám trái lệnh mình.

Cho nên y vừa đi vừa suy nghĩ:

- Việc này chỉ cần Khổ Ðầu Ðà giữ bí mật cho ta thôi. Vậy ta phải hết sức lấy lòng y thì ta phải tha người yêu với con gái của y trước. Tối hôm qua Giáo chủ của Minh Giáo đến đây phá bĩnh và cũng do Chu cô nương mà nên hết. Bây giờ ta tha hai mẹ con nàng ra rồi đổ là Giáo chủ Ma Giáo đã cứu đi.

Nữ đệ tử của phái Nga Mi đều bị giam giữ ở từng thứ tư. Vì là chưởng môn Diệt Tuyệt Sư thái bị giam trong một tiểu thất.

Lộc Trượng Khách xuống tới từng thứ tư, liền bảo người mở cửa phòng để đi vào bên trong.

Y thấy Diệt Tuyệt Sư tháiđang ngồi xếp bằng tròn ở dưới đất để tịnh tu. Sư thái đã tuyệt thực mấy ngày, mặt tuy tiều tụy, nhưng trái lại càng tỏ vẻ kiêu ngạo cương hãnh thêm.

Y liền hỏi:

- Diệt Tuyệt Sư thái vẫn mạnh đấy chứ?

Sư thái từ từ mở mắt ra nhìn và trả lời:

- Không ăn uống thì mạnh sao được.

Thấy Sư thái bướng bỉnh như vậy, chủ nhân tôi bảo Sư thái ở lại cũng vô ích, cho nên chủ nhân tôi sai tới đây đưa Sư thái về chầu trời.

Diệt Tuyệt Sư thái đã quyết tâm chết từ lâu rồi, nên không có vẻ gì sợ hãi hết, liền ung dung đáp:

- Hay lắm, nhưng khỏi phiền đến ngài ra tay, ngài chỉ cần cho tôi mượn một thanh đoản kiếm, là tôi tự biết giải quyết lấy và còn phiền ngài kêu đồ đệ tôi là Chỉ Nhược tới đây để tôi dặn bảo nó vài lời.

Lộc Trượng Khách quay mình đi liền và sai người đem Chỉ Nhược tới và y nghĩ thầm:

- Tình mẹ con có khác, bằng không tại sao mụ ta không gọi đại đồ đệ tới dặn bảo mà chỉ gọi một mình Chỉ Nhược như thế?

Không bao lâu, Chỉ Nhược đã tới phòng giam của sư phụ.

Diệt Tuyệt Sư thái liền nói:

- Lộc tiên sinh, mời tiên sinh hãy ra ngoài đợi chờ giây lát, tôi chỉ dặn nó vài câu thôi.

Chỉ Nhược chờ Lộc Trượng Khách ra khỏi phòng liền khép cửa lại rồi ngã vào lòng sư phụ nức nở khóc. Sư thái là người rất cứng rắn, nhưng đến lúc sắp chết, cũng không thể nào cầm lòng được, liền giơ tay lên vuốt tóc Chỉ Nhược.

Biết không còn bao nhiêu thì giờ nói chuyện với sư phụ, Chỉ Nhược liền kể đêm hôm trước Vô Kỵ đấu kiếm như thế nào cho sư phụ hay.

Sư thái cau mày nghĩ ngợi giây lát rồi hỏi lại:

- Tại sao y chỉ cứu một mình con mà lại không cứu người khác. Ngày nọ ở trên Quang Minh đỉnh con đâm y một kiếm tại sao y còn cứu con như vậy?

Chỉ Nhược xấu hổ, hai má đỏ bừng cúi mặt xuốn khẽ đáp:

- Con không biết.

- Hừ, thằng nhỏ ấy nham hiểm thật, nó là đại ma đầu của Ma Giáo thì làm gì có lòng tốt nữa. Nó xếp đặt sẳn bẫy để lừa con.

Chỉ Nhược nghe Sư thái nói, ngạc nhiên vô cùng liền hỏi lại:

- Y... y xếp đặt mưu kế để hãm hại con ư?

- Chính ta là kẻ thù của Ma Giáo và ta đã dùng Ỷ Thiên kiếm giết chết rất nhiều tên tà ác giáo đồ. Tất nhiên Ma giáo phải thù hận ta thì khi nào tên ma đầu đó lại ra tay cứu con. Theo sự nhận xét của ta thì nhất định tên ma đầu ấy đã có lòng thương con cho nên mới đặt cạm bẫy để con chui vào. Y sẽ bảo con bắt chúng ta cho y, rồi y lại cốt lấy lòng con, sẽ cứu con ra khỏi nơi đây.

- Thưa sư phụ, con thấy... y thật lòng cứu con chứ không phải là giả bộ đâu.

Sư thái cả giận quát mắng:

- Chắc con cũng như con Hiểu Phù mất dạy vậy, mới trông thấy dâm đồ của Ma giáo thì mê liền. Nếu ta không bị mất công lực, ta đã dùng chưởng chém chết con ngay.

Chỉ Nhược hoảng sợ đến tay chân mình run lẩy bẩy và khẽ đáp:

- Ðồ đệ không dám.

- Con nói thực hay nói dối, có phải con lừa dối sư phụ đấy không?

- Ðồ đệ đâu dám trái với sự giáo huấn của ân sư.

- Con phải quỳ ngay xuống đất thề thật nặng.

Chỉ Nhược nghe lời, liền quỳ ngay xuống đất, nhưng không biết nói thế nào cho phải.

Sư thái thấy vậy liền nói tiếp:

- Con phải nói như thế này: "Tiểu nữ Chu Chỉ Nhược xin thề trước trời, sau này nếu tiểu nữ có lòng ái mộ dâm đồ Trương Vô Kỵ giáo chủ của Ma giáo hay là kết thanh phu phụ với y thì cha mẹ con chết nằm dưới đất, hài cốt cũng không được yên ổn. Sư phụ tiểu nữ là Diệt Tuyệt Sư thái sẽ biến thành ác quỷ, ngày đêm sẽ làm cho tiểu nữ không yên. Nếu tiểu nữ sinh con đẻ cái với y con trai đời đời làm nô bộc, con gái sẽ đời đời làm đĩ.

Chỉ Nhược cả kinh, nàng không ngờ sư phụ lại bắt mình thề thốt độc ác như thế, không những đã làm nhục đến cha mẹ đã khuất núi mà còn lôi cả con cái chưa ra đời. Nàng không dám thề như vậy, nhưng thấy hai mắt của sư phụ đang hậm hực nhìn mình, bất đắc dĩ nàng phải theo lời dặn bảo của sư phụ mà thề độc qua một lần.

Diệt Tuyệt Sư thái thấy nàng đã chịu thề độc như vậy, mặt mới đỡ căm hờn và hạ giọng xuống để an ủi nàng:

- Như vậy mới phải là đồ đệ ngoan ngoãn của ta chứ. Thôi con đứng dậy.

Chỉ Nhược khóc sướt mướt rồi uể oải đứng dậy.

Sư thái lại sầm nét mặt lại nói tiếp:

- Chỉ Nhược, không phải sư phụ ép bức gì con đâu, chỉ muốn con có tương lai nên mới bắt con thề như vậy. Con còn ít tuổi, từ nay trở đi sư phụ không thể nào trông nom con được nữa. Nếu con còn đi trên vết bánh xe cũ của Hiểu Phù sư tỷ, sư phụ ở nơi chín suối cũng không yên dạ. Huống hồ sư phụ còn muốn con gánh vác trách nhiệm phục hưng bổn phái, cho nên con phải cẩn thận lắm mới được.

Nói xong, Sư thái tháo chiếc nhẫn sắt đeo ở nhón tay trỏ bên trái ra, từ từ đứng dậy và nói:

- Nữ đệ tử của phái Nga Mi hãy quỳ xuống nghe dạy.

Chỉ Nhược ngẩn người dây lát rồi quỳ xuống.

Sư thái giơ chiếc nhẫn sắt lên cao và nói tiếp:

- Ðệ tam đại trưởng môn nữ ni Diệt Tuyệt của phái Nga Mi cung kính truyền lại ngôi trưởng môn của bổn phái cho nữ đệ tử đời thứ tư là Chỉ Nhược.

Sau khi bị sư phụ bắt buộc phải thề độc, Chỉ Nhược thấy đầu óc mình hoang mang rối loạn. Nàng đột nhiên nghe sư thái nói truyền trao lại quyền trưởng môn cho mình phụ trách, nàng càng kinh hãi ngẩn người ra thêm.

Sư thái lại thủng thẳng nói tiếp:

- Chu Chỉ Nhược nhận lấy Thiết Chỉ hoàn trưởng môn của bổn môn. Con giơ tay trái ra.

Sư thái liền đeo chiếc nhẫn sắt vào tay nàng.

Với giọng run run Chỉ Nhược đáp:

- Thưa sư phụ, đệ tử còn ít tuổi lắm và nhập môn không được bao lâu thì làm sao gánh vác nổi trách nhiệm ấy? Còn sư phụ chắc thế nào cũng thoát khỏi nơi đây, sư phụ hà tất phải truyền ngôi trưởng môn cho đệ tử như thế làm chi. Quả thật đệ tử không đủ...

Nói tới đó, nàng khóc sướt mướt và ôm lấy hai đùi của sư phụ.

Lộc Trượng Khách ở bên ngoài chờ khá lâu, bỗng nghe tiếng khóc lóc, liền gõ cửa kêu gọi:

- Thế nào? Hai người đã nói xong chưa? Sau này ngày giờ còn dài lúc ấy sẽ nói tiếp.

- Nói cái gì lôi thôi thế?

Quát xong Sư thái lại nói với Chỉ Nhược tiếp:

- Con táo gan thật, dám trái lệnh của sư phụ hay sao?

Tiếp theo đó Sư thái đọc lại những giới quy của người trưởng môn của bổn phái cho nàng nghe, và bắt nàng phải thuộc lòng.

Chỉ Nhược thấy lời ăn lẽ nói và thái độ của sư phụ tựa như người hấp hối đang trối trăn. Nàng càng nghĩ càng kinh hãi liền đáp:

- Ðệ tử không làm nổi đâu và đệ tử cũng không thể...

Sư thái lại quát lớn:

- Con không nghe lời ta là con mang tội khi sư diệt tổ.

Nói tới đó, Sư thái thấy Chỉ Nhược khóc lóc thảm thương như vậy cũng phải động lòng và ôm ngay nàng vào lòng rồi khẽ an ủi rằng:

- Ta truyền ngôi trưởng môn cho con mà không truyền ngôi cho các sư tỷ kia, như vậy không phải là ta thiên vị đâu, vì người trưởng môn của Nga Mi phải có võ công tuyệt cao. Như vậy mới có thể ganh đua với các môn phái kia được.

- Võ công của đệ tử bằng sao được các vị sư tỷ.

- Con làm sao biết rõ bằng sư phụ, bây giờ trong các đệ tử của ta chỉ có con là có võ công cao siêu hơn hết... Ngoài ra con lại thông minh hơn chúng nhiều. Tương lai của con sau này rất rạng rỡ...

Chỉ Nhược ngơ ngác nhìn sư phụ.

Sư thái khẽ rỉ tai nàng nói tiếp:

- Con đã là trưởng môn của bổn môn nên ta phải nói cho con biết chuyện bí mật nhất của bổn môn. Tổ sư sáng lập môn phía của chúng ta là Quách nữ hiệp và cũng là con gái thứ của đại hiệp Quách Tĩnh năm xưa. Quách đại hiệp ác chiến và tử nạn trong trận đấu bị quân Nguyên phá vỡ thành Tương Dương. Lúc đại hiệp sắp chết, có nói lại sự bí mật cho tổ sư của bổn phái hay. Năm xưa Quách đại hiệp đánh trấn thiên hạ, binh sinh có hai môn tuyệt nghệ là binh pháp, dùng để hành quân đánh trận. Tuyệt kỷ thứ hai là võ công, phu nhân của đại hiệp là hoàng Dung nữ hiệp rất thông minh và đang mưu trí.

Nàng trông thấy quân Nguyên quá mạnh, thành Tương Dương không sao cho chúng giữ nổi. Thế rồi hai vợ chồng của đại hiệp quyết tâm lấy cái chết để đền nợ nước. Nhưng để cho tuyệt nghệ của Quách đại hiệp thất truyền thì thật đáng tiếc, huống hồ hoàng nữ hiệp đã biết trước, dù người Mông Cổ có chiếm được đất đai của Trung Quốc, nhưng chúng không thể nào bắt người Hán làm nô lệ cho chúng mãi mãi. Sau này Trung Nguyên thế nào cũng có một trận quyết chiến lớn.

Nên nữ hiệp biết binh pháp và võ công của chồng mình sau nầy rất hữu dụng, nữ hiệp mướn những thợ cao thủ, đem thanh huyền Thiết trọng kiếm của Dương Qua đại hiệp vào thêm một ít tinh kiếm của Tây phương để chế thanh đao Ðồ Long và thanh Ỷ Thiên kiếm.

Tới lúc này Chỉ Nhược mới biết đao Ðồ Long và Ỷ Thiên kiếm là do mẫu thân của Quách Tường nữ hiệp tổ sư của môn phái làm ra.

Sư thái lại tiếp:

- Trước khi làm đao làm kiếm, Hoàng nữ hiệp và Quách đại hiệp tốn công hơn tháng trời mới viết ra được những tính yếu của binh pháp và võ công. Rồi giấu vào trong hai môn phái khí giới đó. Bí quyết giấu trong đao Ðồ Long là binh pháp, còn bí quyết của võ công thì giấu trong Ỷ Thiên kiếm. Sở dĩ con dao đó lấy tên là Ðồ Long là có nghĩa bảo sau này, nếu ai lấy được binh thư trong con đao đó sẽ đuổi được quân Thái Ðát ra khỏi bờ cõi và chém giết vua chúa của chúng. Bí quyết võ công trong Ỷ Thiên kiếm có hai bộ quý nhất là Cửu âm chân kinh và chưởng pháp của Giáng Long thập bát chưởng mong người sau học được võ công giấu trong Ỷ Thiên kiếm, để thay trời hành đạo, trừ hại cho dân.

Chỉ Nhược trố mắt lên nhìn và càng nghe thấy kỳ lạ, sư phụ nàng lại nói tiếp:

- Hoàng nữ hiệp chế xong đao kiếm đó, liền giao bảo đao cho người con trai là Quách Phá Lỗ và bảo kiếm thì giao cho tổ sư của bổn phái. Quách tổ sư được cha mẹ truyền thụ võ công và Quách Công được truyền thụ binh pháp, nhưng Quách Công cha mẹ cùng tuẩn nạn một lúc. Quách tổ sư tính không hợp với cha, nên võ công của bổn phái khác hẳn võ công của Quách đại hiệp năm xưa.

Chỉ Nhược đã nghe thấy sư tỷ nói qua trên giang hồ các bang phái tranh giành cướp đoạt thanh đao Ðồ Long như thế nào, rồi quần hiệp cùng lên núi Võ Ðang bức tử cha mẹ Vô Kỵ, nay nàng nghe sư phụ nói mới hay thanh đao với bảo kiếm có liên can với bổn phái như thế.

Sư thái lại nói tiếp:

- Một trăm năm nay trong võ lâm xảy ra rất nhiều chuyện lôi thôi, đao kiếm cũng bị thay đổi chủ nhân mấy lần. Người đời chỉ biết đao Ðồ Long là võ lâm chí tôn, duy có Ỷ Thiên kiếm là địch nổi thôi, nhưng tại sao thanh đao đó lại được chí tôn như thế thì không một ai hiểu cả. Quách Công tuần quốc hồi còn trẻ, nên không có con cái và cũng không đồ đệ, vì vậy sự bí mật trong đao kiếm chỉ có tổ sư của bổn phái là được truyền thụ thôi. Tổ sư của bổn phái, hồi sinh tiên, đã cố hết sức đi tìm kiếm thanh đao Ðồ Long, nhưng không thành công.

Lúc hấp hối có truyền lại những bí mật đó cho ân sư của ta là Nhất Thanh sư thái. Ân sư ta quá hiền từ, lại thâu được người sư tỷ bất tài của ta, nên không những không tìm ra được thanh đao Ðồ Long mà Ỷ Thiên kiếm của bổn môn còn bị sư tỷ ta lấy trộm đem đi cống hiến cho triều đình. Vì thế ân sư ta mới uất ức lên rồi chết. khi hấp hối có ra lệnh cho ta phải đi tìm kiếm cho được thanh đao Ðồ Long và cướp lại Ỷ Thiên kiếm.

Chỉ Nhược bổng xen lời nói:

- Ủa, không ngờ con lại có người sư bá như thế.

Sư thái bổng lộ vẻ sát khí và nói tiếp:

- Những người phản loạn và khi sư diệt tổ như thế, còn kêu y thị là sư bá làm chi?

Chỉ Nhược cúi đầu im lặng.

Diệt tuyệt Sư thái nói tiếp:

- Sau rồi, phản đồ đó bị ta kiếm ra được vì y thị là người xảo trá như thế thì võ công làm sao mà học tới mức thượng thặng được? Nhờ vậy ta mới không phụ di chúc của sư tổ. Ở chân núi Nhục Lốc, vùng Trường Sa, ta đuổi kịp y thị dùng một thế kiếm đó chính y thị đã dạy cho ta và khinh thường, chế nhạo ta xử dụng không đúng. Ngờ đâu tối hôm đó dưới ánh trăng ta dùng thế kiếm Phi Hoa Phi Yến đó để giết chết y thị. Ðó là chuyện hơn hai mươi năm trước đây.

Chỉ Nhược nghe tới đó rùng mình kinh hãi, không hiểu tại sao nàng vẫn có lòng thương vị sư bá kia?

Lúc ấy Lộc Trượng Khách đã gỏ cửa và hỏi:

- Nói xong chưa? Tôi không thể nào chờ được nữa đâu!

Sư thái đáp:

- Khỏi phải nóng lòng như thế vội! Chỉ chốc lát thôi, ta sẽ nói xong.

Nói tới đó bà ta khẽ nói với Chỉ Nhược tiếp:

- Thời gian không còn mấy chốc nữa, chúng ta không thể nói nhiều lời thừa được. Nói tóm lại, sau đó vua Mông Cổ ban thanh Ỷ Thiên kiếm cho Nhữ Dương Vương, ta liền vào trong Vương phủ cướp về, lần này không may bị trúng phải gian kế nên mới phải bị bắt như vầy!

- Thế ra không phải là Triệu cô nương đã cướp thanh kiếm đó ư?

Sư thái trợn trừng mắt lên đáp:

- Con bé họ Triệu ấy rõ ràng là cùng bọn với Giáo chủ của Ma Giáo, chẳng lẽ tới giờ phút nầy mà con vẫn chưa tin lời sư phụ sao?

Tuy trong lòng không tin, Chỉ Nhược không dám cãi sư phụ.

Sư thái lại nói tiếp:

- Sư phụ bây giờ muốn con nhận chức trưởng môn như vậy là rất có thâm ý, phen nầy sư phụ bị lọt vào tay kẻ gian, tên tuổi của ta đã bị tiêu tan hết, nên ta không muốn sống khỏi tháp nầy! Tên dâm hồ họ Trương dó dã tâm với con, nên ta chắc nó không dám giết hai con đâu! Con cứ giả bộ làm thân với y để thừa cơ cướp lại thanh Ỷ Thiên kiếm. Còn con đao Ðồ Long hiện giờ đang ở trong tay của nghĩa phụ y là ác tặc Tạ Tốn. Dù sao tiểu tử cũng không chịu nói rõ chỗ ở của Tạ Tốn! Nhưng trên thiên hạ này chỉ có một người bảo y đi lấy được thanh đao ấy.

Chỉ Nhược biết sư phụ nói người đó chính là mình nên nàng vừa kinh hãi vừa xấu hổ, đồng thời nàng lại vừa mừng, vừa sợ.

Sư thái lại nói tiếp:

- Người đó chính là con đây! Ta muốn con dùng mỹ sắc quyến rũ y lấy lại cho ta được thanh Ỷ Thiên kiếm đó. Vẫn biết hành vi đó là trái với hiệp nghĩa, nhưng muốn thành đại sư, ta cũng không nên chú trọng đến tiểu tiết mà làm chi? Con thử nghĩ xem, hiện giờ Ỷ Thiên kiếm ở trong tay con bé họ Triệu, Ðồ Long đao ở trong tay ác tặc Tạ Tốn, một lứa với nhau, nếu chúng lấy được cả đao lẫn kiếm, như vậy chúng sẽ lấy được binh pháp và võ công của Quách đại hiệp. Chúng sẽ đem ra mà hát sát hại lương dân. Như vậy thiên hạ sẽ có nhiều người bị chết oan uổng, vợ ly con tán, công việc xua đuổi quân Thát Ðát ra khỏi bờ cõi lại càng khó khăn thêm.

Nói tới đây Sư thái đột nhiên đứng dậy, quỳ xuống vái Chỉ Nhược.

Chỉ Nhược kinh hãi vội quỳ xuống và kêu gọi:

- Sư phụ!...

Sư thái đáp:

- Nói khẽ chứ! Ðừng để cho ác tăng đứng bên ngoài nghe được! Chẳng hay con có nhận lời ta không? Nếu có không nhận lời, ta cứ quỳ như vầy mãi mãi!

Chỉ Nhược trong lòng bối rối, vì trong một thời gian ngắn ngủi mà sư phụ bắt nàng làm luôn ba việc rất khó. Trước hết phải thề thật độc, cấm không được yêu thương Vô Kỵ, rồi phải bắt mình nhận chức trưởng môn của bổn phái. Sau rồi bắt nàng dùng sắc đẹp để lấy đao Ðồ Long và Ỷ Thiên kiếm. Ba việc đó dù có bắt nàng trong năm chia ra từng đợt mà làm, thì một người như mì như nàng cũng không thể đảm đương nỗi huống hồ là trong chốc lát, thần trí nàng đang bắn loạn, nàng chết giấc tức thì không hay biết gì nũa. Lát sau nàng tỉnh dậy, mở mắt nhìn, thấy sư phụ vẫn quỳ trước mặt liền khóc lóc khuyên bảo:

- Mời sư phụ đứng dậy đi.

Sư thái hỏi tiếp:

- Thế nào? Con đã nhận lời chưa?

Chỉ Nhược vừa khóc vừa gật đầu.

Sư thái vội nắm lấy cổ tay nàng và nói:

- Sau khi lấy được đao Ðồ Long và kiếm Ỷ Thiên kiếm rồi, con mau kiếm một nơi ẩn, rồi tay cầm đao tay cầm kiếm vận nội lực dùng đao kiếm chém lẫn nhau, như vậy cả bao đao lẫn bảo kiếm cũng gãy liền. Lúc ấy con sẽ lấy đuợc bí kíp ở bên trong. Ðó là phương pháp duy nhất để lấy được bí kiếp đó, thì từ đó trở đi trên thiên hạ không còn bảo đao và bảo kiếm nữa, con đã nhớ chưa?

Thấy Chỉ Nhược gật đầu, sư thái lại tiếp:

- Phương pháp ấy là sự bí mật nhất của bổn phái. Từ khi hoàng nữ hiệp truyền cho Quách tổ sư đến giờ, chỉ có người trưởng môn mới biết được sự bí mật của chuyện đó thôi. Con thử nghĩ xem đao Ðồ Long và kiếm Ỷ Thiên kiếm đều là hai môn khí giới sắc bén vô cùng, bất cứ việc gì cứng rắn đến đâu cũng chịu không nổi hai thứ khí giới đó. Cho nêm dù có người lấy được bảo kiếm, bảo đao cùng một lúc, không ai dám mạo hiểm dùng đao kiếm chém lẫn với nhau như thế. vì họ thế nào cũng sợ hủy mất hai môn khí giới vô giá kia. Con lấy được binh pháp xong, kiếm một người nào lương thiện mà lại có lòng thành yêu nước, con đưa binh pháp cho người ấy học tập và bắt họ thề phải xua đuổi được quân Thát Ðát ra khỏi bờ cõi. Còn bí kiếp võ công thì con giữ lại để tự luyện.

Trong đời ta có hai nguyện vọng, một là xua đuổi được quân Thát Ðát ra khỏi bờ cõi phục lại sơn hà xã tấc, hai là làm thế nào để cho võ công của phái Nga Mi được đứng trên các môn phái khác để trở nên đệ nhất môn phái trong võ lâm Trung Nguyên. Hai việc ấy nói ra thì khó thực, nhưng bây giờ đã có lối đi tới đích rồi, con chỉ cần tuân theo mệnh lệnh của ta là được. Như vậy, ta ở dưới chín suối cũng yên vong hồn. Nếu hồn ta linh thiêng, ta sẽ phù hộ cho con...

Sư thái vừa nói tới đó thì Lộc Trượng Khách lại gỏ cửa , liền nói vọng ra:

- Cứ vào đi.

Cánh cửa hé mở, người bước vào không phải Lộc Trượng Khách mà lại là Khổ Ðầu Ðà, Sư thái không ngạc nhiên chút nào, trong lòng nghĩ thầm:

- Bọn này cá mè một lứa, tên nào cũng thế cả.

Bà ta lại nói với Khổ Ðầu Ðà rằng:

- Ngươi đem con nhỏ này ra khỏi kia đi.

Bà ta không muốn tự vận trước mặt Chỉ Nhược sợ nàng yếu bóng vía chịu không nổi sự khích động lớn lao ấy.

Ngờ đâu Khổ Ðầu Ðà lại đến gần khẽ nói:

- Ðây là thuốc giải độc, uống vào chất độc trong người sẽ hết liền. Bà uống ngay đi, chờ lát nữa bên ngoài có tiếng kêu la ai nấy đều đồng tâm hợp lực xông pha ra khỏi nơi đây.

Sư thái ngạc nhiên hỏi:

- Các hạ là ai, sao bỗng dưng lại tặng thuốc giải cho bần ni như thế?

Khổ Ðầu Ðà đáp:

- Tại hạ là Phạm Dao Quang Minh Hữu sứ của Minh Giáo lấy trộm được thuốc giải, đặc biệt tới đây sẽ cứu Sư thái.

Diệt Tuyệt Sư thái nổi giận quát mắng:

- Gian tặc của Ma Giáo kia, giờ phút này còn tới đây đùa giỡn ta ư?

Khổ Ðầu Ðà vẫn tươi cười đáp:

- Thôi, thì coi như tôi lại tới đây đùa giỡn Sư thái đi, đây là một thứ thuốc độc mạnh quá sức tưởng tượng, chẳng hay Sư thái có đủ can đảm để uống không? Uống thuốc này chỉ trong một tiếng đồng hồ thì ruột thành từng khúc liền, chết một cách thê thảm không sao cứu được.

Sư thái không nói năng gì hết, liền cướp lấy thuốc bột, bỏ luôn vào mồm nuốt chửng.

Chỉ Nhược kinh hãi kêu la:

- Sư phụ cứu con, cứu con sư phụ...

Khổ Ðầu Ðà giơ tay khác ra và quát bảo:

- Cấm không được nói năng chi hết, cô cũng phải uống thuốc độc nầy đi.

Chỉ Nhược càng kinh hãi thêm. Nàng chưa kịp quyết định ra sao đã bị Khổ Ðầu Ðà bóp mồm đổ thuốc bột và thuận tay đổ thuốc một chai nước trong vào mồm nàng nữa. Sư thái thấy vậy cả kinh, liền nghĩ thầm:

- Nếu Chỉ Nhược chết thì kế hoạch của ta hư hết!

Nghĩ đoạn, bà ta liền nhảy xổ lại giơ tay lên đánh Khổ Ðầu Ðà, nhưng lúc bấy giờ Sư thái đã mất hết nội lực, nên bị Khổ Ðầu Ðà khẽ đẩy một cái đã bắn vào vách tường liền. Khổ đầu vừa cười vừa nói tiếp:

- Các sư của phái Thiếu Lâm, các vị hiệp sĩ của phái Võ Ðang đều uống thuốc độc nầy của chúng tôi. Giáo đồ của Minh Giáo chúng tôi xấu tốt ra sao sẽ hiểu liền.

Nói xong y ha hả cười và quay mình đi ra khỏi phòng, thuận tay khép luôn cánh cửa lại.

Thì ra Khổ Ðầu Ðà hộ tống Triệu Minh đi gặp Vô Kỵ xong, trong lòng chỉ lo nhớ việc cướp thuốc giải. Cho nên Triệu Minh bảo y ở bên ngoài đợi chờ, nhưng y khỏi khách điếm trở về chùa Vạn Pháp liền. Về tới chùa y lên thẳng bảo tháp, tới phòng Du Long Tử ở trên tầng cao nhất. Y thấy Long Tử đang đứng ngoài cửa phòng, vừa thấy y tới Tử Long đã cung kính chào liền:

- Khổ đại sư.

Khổ Ðầu Ðà gật đầu, trong lòng cười thầm và nghĩ:

- Hay lắm, lão già họ Lộc làm sư phụ mà không tôn kính y núp trong phòng hú hí với ái cơ của Vương gia lại gọi đồ đề đứng ngoài cửa canh gác cho như vậy, sao ta không nhân lúc y đang khoái lạc mà cướp thuốc giải?

Nghĩ đoạn, y liền cúi khom người lại đi qua cạnh Du Long Tử đột nhiên giơ tay ra điểm luôn vào huyệt ở bụng dưới của tên đó. Vì không đề phòng, Du Long Tử bị diểm trúng yếu huyệt một cách bất ngờ, đứng đờ người ra, không sao cử động được, trong lòng ngạc nhiên vô cùng và nghĩ thầm:

- Không hiểu ta thất lễ gì với Ðầu Ðà câm này mà y lại ra tay điểm huyệt ta như thế? hay là vừa tôi ta chào y như vậy chưa được cung kính?

Khổ Ðầu Ðà đẩy cửa vào trong phòng, nhanh như điện chớp, nhảy xổ lên trên giường. Chân chưa chấm mặt ván, y đã giơ chưởng lên tấn công người nằm trên giường liền. Y biết võ công của Lộc Trượng Khách lợi hại lắm. Nếu chưởng đó không đánh được đối chủ bị trọng thương thì thế nào cũng tránh không khỏi một trận đấu chí tử, cho nên y đã dùng mười thành kỉnh lực ra đánh chưởng ấy. Chỉ nghe thấy kêu bộp một tiếng, chăn bông đã bị rách tan tành.

Y lật chăn lên xem, thấy Hàn Cơ đã hộc máu mồm máu mũi ra chết, mà không thấy hình bóng Lộc Trượng Khách đâu cả. Y sực nghĩ ra một kế, vội ra ngay ngoài cửa phòng, lôi Du Long Tử vào nhét luôn xuống dưới gầm giường, y vừa khép cửa lại, đã nghe Lộc Trượng Khách ở ngoài cửa, giận dữ quát mắng:

- Long Nhi, Long Nhi, sao mi dám tự tiện rời khỏi nơi đây?

Thì ra Lộc Trượng Khách ở ngoài cửa phòng của Diệt Tuyệt Sư thái chờ một hồi lâu, trong bụng nghĩ thầm:

- Hai mẹ con mụ ấy cứ nói chuyện với nhau mãi như vậy, không biết nói tới bao giờ mới xong?

Y lại nghĩ tới Hàn Cơ nên trở về phòng Du Long Tử tức thì. Y không thấy tên đại đệ tử đứng ở bên ngoài cửa canh gác, trong lòng tức giận vô cùng, liền đẩy cửa phòng ra. May thay y thấy không có gì lạ và cả thấy Hàn Cơ vẫn đắp chăn quay mặt vào trong trường như trước. Y liền đóng cửa lại, rồi quay người vừa cười vừa nói:

- Mỹ nhân của ta ơi, để ta giải huyệt cho mỹ nhân, nhưng mỹ nhân đừng có lên tiếng nhé.

Vừa nói y vừa thò tay vào trong chăn, nhưng tay của y vùa đụng tới lưng của Hàn Cơ thì đột nhiên thấy cổ tay bị nắm chặt, như có một cái kềm sắt lại vậy. Thế rồi chân tay và mình mẩy mềm nhũn, không còn một chút hơi sức nào hết, rồi y thấy chăn bông bật tung ra, Khổ Ðầu Ðà đang nằm đó và ngồi nhổm dậy liền.

Khổ Ðầu Ðà nắm chặt lấy mạch môn ở cổ tay của Lộc Trượng Khách rồi giơ tay của Lộc Trượng Khách rồi giơ tay trái ra điểm luôn mười chín đại huyệt của tên Phiên tăng

Thế là phiên tăng mềm nhũn, ngã lăn ra đất, không sao cử động được nữa, hai mắt chỉ lộ vẻ hờn giận thôi.

Khổ Ðầu Ðà chỉ tay vào mặt y và nói:

- Xưa nay lão phu đi không đổi họ, ngồi không cãi tên, ta dây chính là Quang Minh Hữu sứ của Minh Giáo, họ Phạm tên là Dao. Ngày hôm nay, ngươi đã bị mắt hỡm ta rồi. Ngươi vẫn tự phụ là người có mưu trí tuyệt luân, nhưng sự thật ngươi chỉ là một tên ngu xuẩn đần độn. Nếu lúc ày ta giết ngươi ngay thì ta không phải là anh hùng hảo hán. Ta để cho ngươi sống sót, nếu ngươi có can đảm, sau này cứ việc kiếm Phạm Dao mà trả thù.

Y sợ Lộc Trượng Khách nội công rất thâm hậu, có thể vận khí tự giải lấy huyệt được, cho nên y nắm chân tay của đối thủ bẻ luôn mấy cái. Chỉ nghe thấy mấy tiếng kêu "lách cách", xương chân và tay của Lộc Trượng Khách đã bị gãy liền.

Tuy vậy, Phạm Dao vẫn chưa thôi, còn cởi hết quần áo của Lộc Trượng Khách để Lộc Trượng Khách nằm chung với Hàn Cơ, rồi lấy chăn phủ lên, một sống một chết. xong đâu đấy, y mới lấy xong trượng sừng hưu của Lộc Trượng Khách ra, mở chốt đầu trượng, lấy hết thuốc giải đem đi các phòng chia cho Không Văn đại sư, Tống Viễn Kiều, Dư Liên Châu các người uống.

Y tới phòng Sư thái là cuối cùng thấy Sư thái không tin là thuốc giải, nên y mới dọa nát, bảo là thuốc độc.

Ðưa hết thuốc giải cho mọi người uống xong, y đang đắc chí bỗng nghe thấy dưới tháp có tiếng người ồn ào, có cả tiếng của Hạt Bút Ông.

Y liền trõ Hạt Bút Ông nói:

- Khổ Ðầu Ðà gian tế, phải bắt y cho mau.

Khổ Ðầu Ðà nghĩ:

- Nguy tai, nguy tai, không hiểu ai đó ra tay cứu tên này thoát nạn?

Y nhìn xuống dưới tháp, thấy Hạt Bút Ông đang dẫn theo một bọn võ sĩ và đang vây bảo tháp rất chặt chẽ. Y lại thấy Tôn Tam Hủy với Lý Tứ Thôi đang giương cung, nhắm đầu của y bắn tới mồm thì mắng chửi:

- Ác tặc Ðầu Ðà kia, mi hại chúng ta thảm khốc lắm.

Thì ra Hạt Bút Ông ba người bị điểm huyệt như vậy, nhất thời không thể nào thoát khỏi được và chúng bị nhốt trong phòng Lộc Trượng Khách thì người khác cũng không dám đương nhiên xông vào.

Ngờ đâu vừa gặp các võ sĩ của Vương phủ phái ra khám xét để tìm kiếm tung tích của Hàn Cơ, vì có người biết Lộc Trượng Khách binh xinh rất hiếu sắc, nên mới nghĩ tên phiên tăng này đã bắt cóc ái cơ của Vương gia đem về hưởng lạc.

Tuy mọi người nghi ngờ như vậy, nhưng xưa nay họ vẫn sợ anh em Lộc Trượng Khách, nên không một tên nào dám ra tay vuốt râu cọp trước. Vì thế không ai dám vào phòng Lộc Trượng Khách để khám xét cả. Sau đó tên võ sĩ bé nhỏ đến gõ cửa phòng Lộc Trượng Khách là Hạ Lỗ Xích Hoa nghĩ ra được một kế, liền sai một tên võ sĩ y đoán chắc Lộc Trượng Khách là người có địa vị cao quý như thế, dù có nổi giận, cũng không bao giờ lại đánh đập một tên tiểu võ sĩ hèn kém như vậy.

Không ngờ y thấy tên tiểu võ sĩ gõ luôn mấy tiếng mà trong phòng trông thấy một ai trả lời cả, y liền bảo tên tiểu võ sĩ đó cứ việc đẩy cửa vào bừa đi.

Ngờ đâu tên tiểu võ sĩ vừa đẩy cửa ra chúng đã trông thấy Hạt Bút Ông, Tôn Tam Hủy và Lý Tứ Thôi nằm ở dưới đất.

Lúc ấy Hạt Bút Ông vận nội công để tự giải huyệt lấy.

Ðã giải được ba bốn thành, Hạ Lổ Xích Hoa liền chạy lại, giúp đỡ một tay, nên chỉ trong phút chốc, là y đã giải hết cácyếu huyệt liền.

Y tức giận vô cùng hỏi Lộc Trượng Khách với Khổ Ðầu Ðà hiện giờ ở đâu.

Sau khi Khổ Ðầu Ðà và Lộc Trượng Khách đang ở trên bảo tháp y liền dẫn bọn võ sĩ đi bao vây và lớn tiếng hò reo, kêu gọi Khổ Ðầu Ðà xuống quyết chiến.

Khổ Ðầu Ðà đang phân vân vì thuốc giải chưa ngấm thì Hạt Bút Ông lại lớn tiếng kêu gọi:

- Tên Ðầu Ðà chết bầm kia, nếu mi không xuống thì ta lên ngay đây!

Khổ Ðầu Ðà vội quay trở vào phòng Du Long Tử lấy chăn cuốn chặt Lộc Trượng Khách với Hàn Cơ rồi đem ra bên ngoài, giơ cao hai người lên rồi lớn tiếng bảo:

- Lão già họ Hạt kia, nếu mi đi tới gần cửa tháp một bước là ta vứt tên dâm đồ họ Lộc này xuống liền.

Các võ sĩ đưa cao bó đuốc lên, bốn bên chiếu sáng như ban ngày, nên bảo tháp tuy cao thật nhưng chúng ở bên dưới vẫn trông thấy rõ mặt của Lộc Trượng Khách với Hàn Cơ. Hạt Bút Ông cả kinh lớn tiếng hỏi:

- Sư ca! Sư ca có gì không?

Y gọi luôn mấy tiếng không thấy Lộc Trượng Khách trả lời tưởng sư ca của y đã bị Khổ Ðầu Ðà giết chết, trong lòng lại đau đớn thêm. Y lại nói tiếp:

- Tặc Ðầu Ðà kia! Mi giết chết sư ca ta, ta thề không đội trời chung với mi.

Khổ Ðầu Ðà dùng khủyu tay thích mạng vào người Lộc Trường Khách một cái, để giải yếu huyệt câm cho y.

Lộc Trượng Khách liền lớn tiếng mắng chửi:

- Tặc Ðầu Ðà là gian tế, nội ứng ngoại hợp, ta phải chém mi nghìn vạn nhát đao...

Khổ Ðầu Ðà khi nào chịu để cho Lộc Trượng Khách mắng chửi, liền điểm luôn vào yếu huyệt câm. Hạt Bút Ông thấy sư huynh chưa chết trong lòng hơi yên. Nhưng y sợ Khổ Ðầu Ðà ném sư huynh xuống đất thì nguy tai, nên y không dám tới gần nữa.

Hai bên cầm cự với nhau hồi lâu, Hạt Bút Ông vẫn không dám lên cứu sư huynh. Khổ Ðầu Ðà chỉ mong kéo dài được thời gian, càng lâu càng hay.Y đứng cạnh lan can hả hả cười gọi:

- Lão già họ Hạt kia! Sư huynh của ngươi táo gan bắt cóc Ái Cơ của Vương gia. Nay ta đã bắt được tại trận đôi gian phu dâm phụ. Sao ngươi còn dám binh vục sư huynh của ngươi?

Hạ Tống Quản! Mi có mau bắt lão họ Hạt đi không? Bắt lấy Hạt Bút Ông thì thế nào Vương gia cũng phải trọng thưởng nhà ngươi.

Hạ Lổ Xích Hoa liếc nhìn Hạt Bút Ông ra tay bắt nhưng lại sợ.y thấy Khổ Ðầu Ðà đột nhiên nói được lại thấy rõ Lộc Trượng Khách và Hàn Cơ bị quấn chặt trong chăn bông bèn lên tiếng gọi:

- Khổ đại sư! Chúng tôi cùng mời Khổ đại sư xuống đây để chúng ta cùng đi đến Vương gia để coi ai phải ai trái. Ba vị toàn là bậc tiền bối cao nhân, tiểu nhân không dám xúc phạm.

Khổ Ðầu Ðà nghĩ thầm:

- Trở về Vương phủ gặp Vương gia để chờ tới khi biết rõ ai phải, ai trái các vị hào hiệp đã tỉnh táo rồi.

Nghĩ đoạn y liền lớn tiếng đáp:

- Hay lắm! Hay lắm ta đang định gặp Vương gia để lãnh thưởng. Hạ tống quản hãy coi chừng lão già họ Hạt này đào tẩu.

Ðang lúc ấy, có tiếng ngựa từ đàng xa đưa tới, một người cỡi ngựa phi về phía bảo tháp. Các võ sĩ vừa thấy y đã cúi đầu vái chào:

- Tiểu Vương Gia.

Khổ Ðầu Ðà đứng ở trên cao dòm xuống trông thấy người đó đội mảo vàng, mình mặc áo cẩm bào, chính con trai của Nhữ Dương Vương tên là Khố Khố Ðặc Mục Nhỉ tên hắn là Vương Bảo Bảo.

Y đang lớn tiếng quát bảo:

- Hàn Cơ đâu? Vương gia đang nổi giận bảo ta tới đây điều tra xem.

Hạ Lổ Xích Hoa tiến lên bẩm rõ sự thể cho Vương Bảo Bảo hay là Lộc Trượng Khách đã bắt trộm Hàn Cơ đem tới đây và bị Khổ Ðầu Ðà bắt được.

Hạt Bút Ông thấy Tổng quản nói như thế vội cãi:

- Thưa Tiểu vương gia, Tiểu vương gia chớ nghe y nói bậy, tên Khổ Ðầu Ðà kia mới là gian tế, y đã hãm hại đại sư của...

Vương Bảo Bảo trợn ngược đôi lông mày, lớn tiếng nói:

- Tất cả xuống đây nói chuyện.

Khổ Ðầu Ðà làm việc trong Vương phủ lâu năm biết Vương Bảo Bảo là người rất khôn ngoan và mẫn cán, còn hơn cả cha y, quỷ kế của mình chỉ có thể lừa dối được kẻ khác chứ không thể lừa dối được Tiểu vương gia này đâu. Y tự biết xuống dưới tháp nói chuyện chỉ đôi ba lời là Tiểu vương gia biết mưu kế của mình liền. Như vậy các võ sĩ sẽ xông lại vây đánh, riêng Hạt Bút Ông y chưa chắc đã thắng nổi, nhưng y muốn thoát thân không phải là khó, chỉ sợ các hào hiệp ở trong bảo tháp, chưa hồi sức khỏe thì không sao thoát khỏi vòng vây được. Sau khi suy tính, thấy không còn cách gì đánh lừa Vương Bảo Bảo nữa, liền lớn tiếng trả lời:

- Tiểu vương gia, tôi đã bắt được Lộc Trượng Khách, sư đệ của y tức giận tôi lắm. Nếu tôi xuống dưới đó thế nào y cũng xông lại giết tôi.

Vương Bảo Bảo lại nói:

- Ðại sư cứ xuống đây đi. Hạt tiên sinh không dám giết đại sư đâu.

Khổ Ðầu Ðà lắc đầu đáp:

- Tôi ở trên tháp vẫn bình yên hơn, bình sinh Khổ Ðầu Ðà tôi không lên tiếng nói bao giờ, ngày hôm nay bất đắc dĩ tôi mới phải mở mồm như vậy. Ðó là lòng trung thành của tôi báo đáp Vương gia đấy. Nếu Tiểu vương gia không tin thì Khổ Ðầu Ðà tôi sẽ ở đây nhảy xuống tự tử để cho Tiểu vương gia tin.

Vương Bảo Bảo nghe lời nói của Ðầu Ðà biết ngay đối phương nói dối, hiển nhiên có ý muốn kéo dài thời gian, nên y vội khẽ hỏi tên Hạ Tổng quản rằng:

- Hạ Tổng quản, y định mưu mô gì mà kéo dài thời gian ra như thế? Hay là y định chờ ai tới.

Hạ Tổng quản đáp:

- Ðiều đó tiểu nhân không được biết...

Hạt Bút Ông lại cười lời nói:

- Thưa Vương gia, tặc Ðầu Ðà đã cướp thuốc giải của sư ca rồi đều giải cứu cho những tên phản loạn bị giam giữ ở trên bảo tháp.

Vương Bảo Bảo vừa nghe nói tỉnh ngộ ngay, liền ngửng mặt về phía trước, lớn tiếng kêu gọi:

- Khổ đại sư, tôi biết công lao của đại sư rồi, vậy hãy mau xuống đây, tôi sẽ trọng thưởng cho.

Khổ Ðầu Ðà đáp:

- Tôi bị Lộc Trượng Khách đá phải, hiện giờ xương chân của tôi không thể nào cử động được, Tiểu vương gia hãy chờ giây lát để tôi vận khí chữa thương cho lành mạnh đã, rồi tôi sẽ xuống ngay.

Vương Bảo Bảo quát bảo Hạ Tống quản rằng:

- Hạ Tổng quản, mau cho người lên trên đó khiêng Khổ đại sư xuống đây.

Khổ Ðầu Ðà vội lớn tiếng đáp:

- Không được, không được, ai đụng vào người tôi, tất thân tôi bị phế liền.

Lúc ấy Vương Bảo Bảo hết hoài nghi, vì y trông thấy Lộc Trượng Khách và Hàn Cơ cũng bị quấn trong một chăn bông. Dù hai người đó không có bậy bạ với nhau thì phụ vương cũng không thể nào lấy Hàn Cơ được nữa, nên y liền khẽ dặn:

- Hạ Tổng quản, mau lấy lửa lại đây đốt cháy bảo tháp này và sai người dùng cung tên, hễ thấy ai nhảy ra khỏi tháp là bắn chết ngay.

Hạ Lổ Xích Hoa vâng lời vội vã đi truyền lệnh cho bộ hạ ngay. Liền có bọn cung tiễn thủ tới bao vây bảo tháp, tên nào tên nấy đều giương cung đợi chờ. Còn một số võ sĩ khác thì đi lấy rơm cỏ và củi lửa đến châm đốt.

Hạt Bút Ông thấy vậy kinh hãi vô cùng vội nói:

- Tiểu vương gia, sư ca ở trên đó đấy.

Vương Bảo Bảo lạnh lùng đáp:

- Chẳng lẽ cứ để tên Ðầu Ðà ở trên đó suốt đời hay sao? Bây giờ ta cho phóng hỏa như vậy thì y phải xuống liền.

Hạt Bút Ông lại nói tiếp:

- Nếu y ném sư ca tôi xuống đất thì làm sao? Tiểu vương gia không nên phóng hỏa như vậy.

Vương Bảo Bảo không nói năng gì hết và cũng không điếm xỉa gì đến Hạt Bút Ông.

Giây lát sau, các võ sĩ đã lấy đủ củi và rơm tới liền đánh lửa đốt cháy luôn.

Hạt Bút Ông là người có địa vị rất cao trong võ lâm được Nhữ Dương Vương dùng hậu lễ mời vào vương phủ giúp việc, cho nên từ trước đến giờ anh em y được vương gia kính trọng. Không ngờ ngày hôm nay anh em y đã trúng kế của Khổ Ðầu Ðà và bị Tiểu vương gia khinh thị, đồng thời y thấy tính mạng của sư huynh y sắp nguy đến nơi.

Lúc này y cũng không nể Tiểu vương gia nữa, liền cằm đôi bút mỏ bạc, tung mình nhảy tới tấn công hai tên võ sĩ đang đánh lửa đốt bảo tháp và gạt chúng bắn ra ngoài xa.

Vương Bảo Bảo vội quát mắng:

- Hạt tiên sinh định phạm thượng và làm loạn phải không?

Hạt Bút Ông đáp:

- Nếu Tiểu vương gia không bảo người phóng hỏa thì không bao giờ tôi chống Tiểu vương gia cả.

Vương Bảo Bảo không thèm trả lời y và quát bảo bọn võ sĩ.

- Mau châm lửa ngay.

Y giơ tay trái phảy một cái, đột nhiên phía sau lưng của y có năm tên phiên tăng áo đỏ nhảy tới ra đỡ lấy mấy bó đuốc của võ sĩ ném luôn vào đống rơm cỏ và những thanh củi. Rơm cỏ gặp lửa liền bốc cháy ngay.

Hạt Bút Ông thấy vậy cả kinh vội cướp một dây trường mâu của một tên võ sĩ xông lại gạt những rơm cỏ đang cháy ra ngoài.

Vương Bảo Bảo lại quát lớn:

- Mau bắt lấy tên phản tặc này cho ta.

Năm tên phiên tăng áo đỏ liền múa giới đao xông lại bao vây Hạt Bút Ông, thấy vậy Hạt Bút Ông tức giận vô cùng, liền vứt trường mâu đi và giơ tay lên cướp khi giới của một tên phiên tăng. Không ngờ tên phiên tăng đó không phải là một tay tầm thường, y vội xoay lưỡi đao, nhắm đầu vai của đối thủ chém luôn.

Hạt Bút Ông vừa nhảy sang bên tránh né thì phía sau lại có tiếng gió lấn át tới.

Y liền quay đầu lại nhìn mới hay là có hai tên phiên tăng đang múa đao chém tới.

Thì ra năm tên phiên tăng đó là những người thân tín nhất của Vương Bảo Bảo. Chúng thuộc bọn Thiên long Thập Bát Bộ, khi nào Vương Bảo Bảo ra khỏi vương phủ cứ thích cỡi ngựa đi một mình ở phía trước, còn mười tám tên phiên tăng theo sau, nhưng ở đằng xa để bảo vệ thôi chứ không dám tới gần. Bọn Thiên Long Thập Bát Bộ có tất cả ngũ đao ngũ kiếm, tứ trượng tứ bạt. Năm người này đều thuộc nhóm ngũ thần đao, người nào người nấy đều tài nghệ xuất sắc. Nếu một đấu với một thì năm người đó không phải là địch thủ của Hạt Bút Ông, nhưng năm thần đao liên hiệp, công thủ tương trợ thì võ công của Hạt Bút Ông có cao siêu đến đâu cũng chỉ có thể chống đỡ được một hồi, rồi chân tay sẽ bị cuống quýt liền. Ðồng thời y thấy ngọn lửa càng bốc càng cao, hoàn cảnh của sư huynh y rất nguy hiểm, cho nên càng đấy càng tức giận thêm.

Hạt Bút Ông bị Thiên Long ngũ đao bao vây, các thủ hạ của Vương Bảo Bảo liền thêm củi cho ngọn lửa càng cháy cao thêm.

Chỉ trong chốc lát lửa đã bao trùm hết tầng dưới của bảo tháp đó rồi. Khổ Ðầu Ðà đặt Lộc Trượng Khách xuống, chạy vào phòng của quần hiệp phái Võ Ðang đang bị giam giữ và lớn tiếng kêu gọi:

- Quân Thát Ðát đang phóng hỏa đốt tháp, chẳng hay nội lực của các vị đã khôi phục chưa?

Y thấy Tống Viễn Kiều và Dư Liên Châu các người đang ngồi vận công điều nguyên, không một ai trả lời y cả.

Hiển nhiên công lực của các người đó sắp khôi phục được.

Lúc ấy bọn võ sĩ canh gác quần hiệp đã có mấy tên xông lại can thiệp.

Nhưng chúng bị Khổ Ðầu Ðà túm cổ từng tên một, mém ra ngoài tháp.

Rớt xuống bên dưới chết tốt. Còn một số võ sĩ không dám kháng cự với Khổ Ðầu Ðà đều mạo hiểm chạy xuống từng dưới cùng.

Cũng không có một vài tên thấy cầu thang bị lửa bén tới, không sao xuống được, đành phải quay trở lên.

Một lúc sau, lửa bén lên tới từng thứ ba, người bị giam giữ trong đó là các tay cao thủ của phái Hoa Sơn.

Chúng không đợi chờ công lực khôi phục, liền chạy ra ngoài và leo thẳng lên từng thứ tư.

Ngọn lửa càng bốc cháy cao, những người bị giam từng thứ tư là các cao thủ của phái Không Ðộng.vì thấy lửa cháy đã tới nới, người của phái Không Ðộng cùng phái Hoa Sơn đều rũ nhau leo lên từng thứ năm Có người chạy chậm bị cháy xém cả râu tóc. Khổ Ðầu Ðà đang vô kế khả thi, nóng lòng sốt ruột vô cùng, bỗng nghe một người lớn kêu gọi:

- Phạm Hữu sứ hãy tiếp lấy.

Y nhận ngay ra tiếng nói đó là Vi Nhất Tiếu.

Y mừng rỡ vô cùng, liền quay đầu nhìn về phía phát ra tiếng nói đó.

Y thấy Nhất Tiếu đứng ở trên đỉnh hậu diện của chùa Vạn Pháp, hai tay đang tung một sợi dây thừng tới.

Khổ Ðầu Ðà vội giơ tay ra bắt lấy sợi dây thừng đó.

Nhất Tiếu lên tiếng nói tiếp:

- Hữu sứ cột một đầu dây thừng vào lan can, để dùng sợi dây thừng này làm cái cầu dây.

Khổ Ðầu Ðà vừa cột xong đầu dây thừng thì Triệu Nhất Thương trong nhóm Thần Tiễn bát hùng đã bắn một mũi tên lên trúng ngay sợi dây thừng đứt tức thì.

Khổ Ðầu Ðà với Nhất Tiếu cùng lớn tiếng mắng chửi, nhưng hai người biết tiễn pháp của bát hùng rất lợi hại. Vậy muốn treo một cầu dây này thì phải diệt trừ tám người kia trước.

Nhất Tiếu lại lên tiếng mắng chửi:

- Tên khốn nạn kia, ai bảo mi bắn như thế? nếu tên nào không vứt cung tên xuống, ta sẽ giết tên đó trước.

Y vừa chửi vừa rút khí giới ra, và tung mình nhảy xuống mặt đất. Khí giới của y là một đôi Hổ đầu câu. Xưa nay y không xử dụng tới khí giới đó, nhưng lần này tình thế rất nguy ngập, nên y mới động dụng tới song câu như vậy. Y vừa nhảy xuống tới mặt đất, năm tên phiên tăng áo bào xanh đã múa kiếm xông lại vây đánh liền.

Năm tên phiên tăng này thuộc ngũ kiếm tăng của nhóm Thiên Long thập bát bộ, kiếm pháp của năm người này rất quái dị. Chúng vừa tới nơi, đã tấn công Nhất Tiếu lia lịa liền.

Hạt Bút Ông vừa khổ chiến vừa lớn tiếng kêu gọi:

- Nếu Tiểu vương gia không ra lệnh dập tắt ngọn lửa đi thì tôi sẽ không vị nể nữa đâu.

Vương Bảo Bảo không thèm đếm xỉa đến y nhưng bốn tên phiên tăng cầm thiên trượng đã chạy tới đứng quanh Tiểu vương gia để hộ vệ.

Hạt Bút Ông lòng sốt ruột vô cùng, liền dùng một thế hoành Tảo Thiên quân quét ngang một cái gạt luôn ba tên phiên tăng trước mặt sang bên rồi nhảy đến cạnh bảo tháp.

Năm tên phiên tăng đều đuổi theo.

Hạt Bút Ông nhún mình một cái, tựa như con chim đại bàng nhảy lên trên mái hiên của tầng thứ nhất.

Năm tên phiên tăng thấy lửa cháy như vậy không dám đuổi theo.

Hạt Bút Ông nhảy hết từng này sang từng nọ.

Chỉ thoáng cái y đã nhảy lên tới từng thứ tư rồi.

Khổ Ðầu Ðà ngó đầu xuống nhìn và hai tay nâng người Lộc Trượng Khách lên, vừa cười vừa nói:

- Hạt lão nhị có chịu dừng chân lại không, bằng không ta sẽ ném sư huynh ngươi xuống đất bị tan xương nát thịt ngay.

Quả nhiên Hạt Bút Ông ngừng chân lại không dám nhảy lên nữa chỉ ngửng đầu lên lớn tiếng trả lời:

- Khổ đại sư, xưa nay Khổ đại sư với chúng tôi không thù oán gì hết, hà tất đại sư làm khó dễ chúng tôi như thế? đại sư muốn cứu người yêu cũ là Diệt Tuyệt Sư thái và con gái là Chu cô nương thì cứ việc cứu đi, tôi quyết không còn cản trở đâu.

Diệt Tuyệt Sư thái uống thuốc giải của Khổ Ðầu Ðà đưa cho tưởng là thuốc độc thật nên yên chí thế nào cũng chết, nhưng bà ta thấy Chỉ Nhược cũng bị Khổ Ðầu Ðà cho uống thuốc độc nốt, như vậy kế hoạch của bà ta bị tiêu tan hết, cho nên bà ta đau đớn vô cùng.

Ðang đau lòng thì bỗng nghe dưới bảo tháp có tiếng ồn ào vọng tới, tiếp theo đó bà ta nghe Khổ Ðầu Ðà cãi nhau với Hạt Bút Ông và Vương Bảo Bảo ra lệnh phóng hỏa v.v... đều rõ mồn một.

Bà ta ngạc nhiên vô cùng nghĩ thầm:

- Chẳng lẽ Ðầu Ðà quỉ quái đó đến cứu ta thực chăng?

Nghĩ đoạn, Sư thái ngấm ngầm vận sức thử xem, thấy trong người rất dễ chịu chứ không có triệu chứng gì là trúng độc cả.

Thì ra Diệt Tuyệt Sư thái không chịu nghe lệnh của Triệu Minh xuống dưới đại điện tỷ võ, nên đã tuyệt thực sáu bảy ngày. Vì vậy trong dạ dầy trống rỗng, nên thuốc giải vừa vào dễ hòa với máu liền, nên Diệt Tuyệt Sư thái chóng khỏi hơn ai hết, lại thêm nội lực của Sư thái rất thâm hậu cao hơn Viễn Kiều, Liên Châu, Thái Sung chỉ kém Không Văn thần tăng trưởng môn phái của phái Thiếu Lâm, khi thuốc độc đã hết thì nội lực nẩy nở ra liền. Không đầy nửa tiếng đồng hồ nội lực của bà ta đã khôi phục lại hơn năm sáu thành.

Bà ta đang vận nội lực bỗng nghe Hạt Bút Ông bên ngoài kêu gọi.

Tiếng nói của Hạt Bút Ông, mỗi tiếng như một mũi tên đâm sâu vào Sư thái vẫn lắng tai nghe Hạt Bút Ông nói:

- Bạn muốn cứu người tình nhân cũ của bạn là Diệt Tuyệt Sư thái và con gái là Chu cô nươn thì hãy cứu đi, tôi không bao giờ cản trở bạn đâu.

Diệt Tuyệt Sư thái đi tu từ hồi nhỏ, không bao giờ dám trông mặt người đàn ông nào cả thì làm gì có người yêu, nên khi nghe tới đó là tức giận không sao chịu nổi, liền bước đi ra ngoài lan can giận dữ quát mắng:

- Ngươi nói bậy bạ như vậy làm chi?

Hạt Bút Ông van lơn:

- Lão Sư thái, mau mau khuyên người ... người bạn già hãy buông tha sư huynh tôi xuống. Tôi cam đoan cả gia đình Sư thái được rời khỏi nơi đây một cách bình yên. Huyền Minh Nhị lão nói một là một, nói hai là hai không khi nào sai lời.

Diệt Tuyệt Sư thái càng tức giận thêm:

- Cái gì gia đình... ba người nào?

Tuy đang đứng ở chỗ nguy hiểm, Khổ Ðầu Ðà vẫn ha hả cười tỏ vẻ rất đắc chí và nói:

- Lão Sư thái, ông già kia bảo tôi với Sư thái là người yêu cũ với nhau, còn Chu cô nương là con gái của chúng ta.

Diệt Tuyệt Sư thái càng tức giận thêm, trước ánh lửa trông mặt bà ta rất kinh khủng.

Bà ta trầm giọng quát tiếp:

- Hạt lão nhị lên đây, ta sẽ đấu với mi một trăm chưởng rồi sẽ nói chuyện sau.

Nếu là ngày thường Hạt Bút Ông nói lên là lên ngay, chứ có sợ gì một người chưởng môn của phái Nga Mi đâu. Nhưng lúc này vì thấy sư huynh bị lọt vào tay người khác, nên không dám bướng bỉnh, chỉ van lơn tiếp:

- Khổ Ðầu Ðà đó là bạn tự nói ra chứ không phải do tôi bịa đặt.

Sư thái trợn trừng mắt nhìn Khổ Ðầu Ðà và quát hỏi:

- Sao ngươi lại nói như thế?

Khổ Ðầu Ðà ha hả cả cười và đang định thừa cơ chọc tức Sư thái vài câu, thì bỗng nghe thấy dưới tháp có tiếng la ồn ào, liền cúi đầu xuống nhìn. Thấy trong bóng lửa có một người như hồ điệp xuyên hoài, bay múa lẹ làng vô cùng và đồng thời chỉ nghe thấy tiếng kêu "loong coong lẻng kẻng" hoài. Y định thần nhìn kỹ, mới hay tiếng kêu đó là tiếng khí giới của các phiên tăng và võ sĩ bị đánh rớt và người đang tấn công bọn phiên tăng đó chính là Trương Giáo chủ Vô Kỵ.

Vô Kỵ ra tay một cái, đã đánh rớt năm thanh kiếm của năm tên phiên tăng đang bao vây Nhất Tiếu.

Nhất Tiếu cả mừng, liền nhảy tới cạnh chàng và khẽ nói:

- Tôi đi đến Nhữ Dương Vương phủ phóng hỏa nhé?

Vô Kỵ đã hiểu được dụng ý của Nhất Tiếu bèn gật đầu nghĩ thầm:

- Bức Vương hành động rất phải. Ở đây, chúng ta vỏn vẹn có mấy người, muốn cứu bấy nhiêu người ra không phải là chuyện dễ. Hơn nữa quân tiếp viện càng lúc càng nhiều. Bây giờ, Bức Vương phóng hỏa Vương phủ, tất nhiên đám võ sĩ phải trở về bảo vệ Nhữ Dương Vương. Kế điệu hổ ly sơn rất tuyệt diệu .

Nhất Tiếu thoáng một cái đã vượt ra khỏi tường và mất hút.

Vô Kỵ quan sát tình hình mới lớn tiếng hỏi:

- Phạm Hữu Sứ, công việc tiến hành ra sao?

Khổ Ðầu Ðà vội đáp:

- Nguy lắm rồi, lối đi đã bị lửa bịt kín, không ai có thể thoát được.

Lúc ấy đám Thiên Long thập bát bộ đả có mười bốn phiên tăng xông đến vây đánh Vô Kỵ.

Vô Kỵ nghĩ thầm:

- Bắt giặc phải bắt chúa trước. Bây giờ phải bắt Vương Tử kia trước, bắt buộc y phải ra lệnh cho dập tắt ngọn lửa và than mọi người ra .

Nghĩ đoạn, chàng phi thân lướt qua đầu bọn phiên tăng, tới gần Vương Bảo Bảo thì đột nhiên bên trái có một thanh kiếm bay tới, chàng liền kùi lại hai bước, nghe rõ giọng của một thiếu nữ:

- Trương công tử! Ðây là gia huynh Vương Bảo Bảo, công tử đừng đả thương anh ấy.

Vô Kỵ biết người đó là Triệu Minh, tay cầm Ỷ Thiên kiếm chàng vội trả lời.

- Cô nương mau ra lệnh dập tắt ngọn lửa và thả các vị anh hùng ra. Bằng không tôi đành thất lễ với hai vị.

Triệu Minh liền lớn tiếng quát bảo bọn phiên tăng:

- Thiên Long thập bát bộ! Người này võ công lợi hại lắm, mau kết Thiên Long Trận bao vây y.

Mười tám tên phiên tăng vâng lời xông lại bao vây Vô Kỵ .

Vô Kỵ thấy bộ pháp của mười tám phiên tăng đó rất quái dị. Chúng tạo một bức tương người. Chàng định thử thách xem mình có phá nổi Thiên Long trận không?

Bỗng nghe tiếng "bùng" từ trên bảo tháp một cây trụ rớt xuống.

Chàng quay đầu lại nhìn, thấy ngọn lửa đã bén đến từng thứ sáu rồi, có hai người trên đó là Diệt Tuyệt Sư Thái và Hạ Bút Ông.

Cả hai đang đấu kịch kiệt, cạnh lan can. Còn trên tầng cao nhất đứng đầy những cao thủ các môn phái. Võ công của họ chưa phục hẳn mà tầng chót vót lại cách mặt đất mấy chục trượng. Như vậy, dù có kinh công tuyệt đỉnh, nội công chưa mất chút nào, nhảy từ trên đó xuống cũng phải gãy chân què tay. Huống hồ lúc này chưa có một người nào hoàn toàn khôi phục nội lực.

Vô Kỵ sực nghĩ:

- Muốn phá nổi Thiên Long trân này phải tốn nhiều thì giờ huống hồ ta đánh bại bọn này thì lại có bọn khác đến tiếp viện. Ta muốn bắt cóc tên Vương tử kia không phải dễ. Diệt Tuyệt Sư Thái đấu với Hạ Bút Ông hăng hái như thế nội lực của bà ta đã khôi phục lại được rồi. Như vậy các sư bá của ta cũng đã bình phục, nhưng bảo tháp cao quá làm sao họ nhảy xuống được.

Nghĩ đoạn, chàng ngạc nhiên chạy quanh mọi người, hai tay, lúc đánh, lúc bắt, lúc vỗ, lúc cướp, chốc lát đã đánh té Thần Tiễn Bát Hùng và các võ sĩ cầm cung , tất cả cung tên đều bị chàng bẽ gãy hết, chàng vội lớn tiếng gọi:

- Các vị tiền bối ở trên tháp, xin hãy lần lượt nhảy xuống phía dưới đã có tại hạ tiếp đón.

Các vị hào hiệp đứng trên đỉnh tháp nghe Vô Kỵ nói đều ngẩn người suy nghỉ:

- Nơi đây, cách mặt đất những mấy chục trượng, người ta trên này nhảy xuống thì người dưới đất phải có sức khỏe ngàn cân mới đủ sức đỡ được .

Vì vậy phái Không Ðộng và Côn Luân đã có người lên tiếng:

- Không thể nhảy xuống được đâu! Chúng ta đừng mắc hởm tên tiểu tử. Chúng ta nhảy xuống là tan xương, nát thịt ngay.

Vô Kỵ thấy lửa đã bén tới gần tầng thứ bảy mà các cao thủ không chịu nhảy, tất nhiên sẽ chôn xác trong đống lửa. Chàng lên tiếng gọi:

- Thất sư thúc đối với cháu là ân nghĩa, khi nào cháu lại hại sư thúc. Xin sư thúc hãy nhảy xuống trước đi.

Mạc Thanh Cốc rất can đảm nghe Vô Kỵ nói bèn nghỉ thầm:

- Ở lại đây bị thiêu chết, chi bằng nhảy xuống dù có chết vẫn còn xác.

Nghĩ đoạn Thất hiệp trả lời:

- Ðược ta nhảy xuống ngay.

Nói xong liền tung mình nhảy xuống tức thì Vô Kỵ chờ Thanh Cốc rớt xuống còn cách mặt đất chừng bốn thước, liền giơ chưởng khẽ vỗ vào lưng Thanh Cốc.

Chưởng ấy chàng vận dụng Càn Khôn Ðại Nã Di thủ pháp ra khiện cho sức mạnh từ bên trên rớt xuống, chuyển thành từ trái sang phải, nên Thanh Cốc bị đẩy bắn ra ngoài xa mấy trượng. Nhờ công lực đã được khôi phục được bảy tám thành, nên Thanh Cốc xoay người một vòng đã lẹ làng đứng trên mặt đất rồi thuận tay đánh luôn một tên võ sĩ Mông Cổ một chưởng. Tên võ sĩ hộc máu tươi chết tốt.

Tiếp theo đó Thất hiệp lại lớn tiếng kêu gọi:

- Ðại sư ca, nhị sư ca, tứ sư ca lần lượt nhảy xuống ca đi.

Trên tháp, các người thấy Thanh Cốc bình yên vô sự, đều đồng thanh hoan hô.

Viễn Kiều rất thương con, nên muốn Thanh Thư thoát hiểm, liền lên tiếng bảo:

- Thanh Thư con nhảy xuống trước đi!

Từ khi ra khỏi tư thất, Thanh Thư cứ đứng cạnh Chỉ Nhược hoài nên khi nghe cha bảo như vậy, chàng bèn bảo Chỉ Nhược rằng:

- Chu cô nương hãy nhảy trước đi.

Chỉ Nhược thấy công lực của mình chưa khôi phục hẳn, không thể nào ra tay giúp sư phụ được nàng lắc đầu đáp:

- Tôi phải đợi sư phụ tôi.

Lúc ấy Thái Sung, Thục Nhàn lần lượt nhảy xuống.

Hai người đó cũng được Vô Kỵ dùng Càn Khôn Ðại Nã Di cứu giúp thoát hiểm.

Tuy mới khôi phục được năm phần công lực, nhưng những cao thủ cũng đủ đánh bọn phiên tăng và bọn võ sĩ Mông Cổ tơi bời rồi. Thanh Cốc cướp khí giới của kẻ địch liền đến gần bảo vệ Vô Kỵ.

Thủ hạ của Vương Bảo Bảo, Triệu Minh định xông lại không cho Vô Kỵ cứu giúp quần hào, đã bị Thanh Cốc, Thái Sung, Thục Nhàn ngăn lại.

Trên tháp có một người nhảy xuống là Vô Kỵ thêm một người giúp sức.

Từ khi bị Triệu Minh nhốt vào bảo tháp chịu đựng biết bao sự khuất nhục, còn bị chặt đứt một hai ngón tay, nên nay chẳng ai nương tay tha hồ tấn công phiên tăng và võ sĩ Mông Cổ.

Vì vậy, chỉ trong giây lát đã có mười mấy võ sĩ bị đánh chết.

Vương Bảo Bảo thấy tình thế bất lợi bèn ra lệnh:

- Mau điệu đội phi nỏ thân binh của ta tới đây.

Hạ Tổng Quản định truyền lệnh, bỗng thấy phía Ðông Nam có ngọn lửa bốc cao, kinh hãi la lớn:

- Tiểu Vương gia! Vương phủ đang cháy to. Chúng tôi phải bảo vệ Vương Gia trước.

Vương Bảo Bảo lo sợ đến an ninh của cha, nên vội nói:

- Triệu Minh, anh trở về Vương phủ trước, em ở lại chỉ huy. Hãy cẩn thận nghe chưa!.

Không đợi Triệu Minh trả lời Vương Bảo Bảo nhảy lên mình ngựa phóng đi luôn .

Vương Bảo Bảo đi khỏi, mười tám phiên tăng và bọn võ sĩ đều đã bị đánh ngã.

Các võ sĩ khác thấy Vương phủ bị cháy, lại tưởng phản loạn đông lắm tấn công vương phủ, không ngờ có một mình Nhất Tiếu. Bọn chúng vô cùng kinh hoảng.

Lúc ấy Thanh Thư, Viễn Kiều, Liên Châu, Tòng Khê đã nhảy xuống dưới rồi.

Tình thế chuyển ngược.

Phía quần hào càng lúc càng mạnh, Phía Mông Cổ càng lúc càng suy dần.

Khi thấy Không Văn, Không Trí đại sư và các cao tăng của La Hán Ðường, Ðạt Ma Ðường nhảy xuống, các võ sĩ của Triệu Minh biết không thể nào chống cự được nữa.

Triệu Minh vội ra lệnh:

- Các người lui ra khỏi chùa Vạn Pháp.

Rồi nàng quay lại nói với Vô Kỵ:

- Chiều mai mời Trương Giáo chủ lại quán cũ xơi rượu. Thế nào ngày cũng tới đừng để tôi chờ, nhỡ việc.

Vô Kỵ ngẩn người chưa kịp trả lời thì Triệu Minh đã tủm tỉm cười rồi lui vào phía sau điện chùa Vạn Pháp.

Khổ Ðầu Ðà ở trên đỉnh tháp lớn tiếng gọi:

- Chu cô nương, mau nhảy xuống đi, lửa cháy đến nơi rồi mà cô chưa chịu nhảy. Chẳng lẻ cô muốn làm mỹ nhân cháy thành than hay sao?

Chỉ Nhược đáp:

- Tôi còn phải hầu sư phụ tôi.

Diệt Tuyệt sư thái vẫn còn đấu với Hạt Bút Ông. Tuy công lực của bà ta chưa hoàn toàn hồi phục, nhưng bà ta không coi cái chết vào đâu, chưởng pháp chỉ tấn công chứ không phòng vệ.

Còn Hạt Bút Ông vì mãi lo ngại cho sư huynh nên không tập trung được tịnh thần. Hơn nữa y vừa uống một phần thuốc mê, nên tay chân chẳng còn linh động. Nhờ vậy mà hai người đấu mãi không phân thắng bại.

Sư thái nghe đồ đệ nói vậy, vội lớn tiếng bảo:

- Chỉ Nhược con mau nhảy xuống đi, đừng để ý đến ta. Lão tặc này đã làm nhục ta quá đáng, không khi nào ta tha mạng cho y đâu?

Nghe Sư thái nói, Hạt Bút Ông liền lớn tiếng quát:

- Diệt Tuyệt Sư Thái! Lời nói đó là của Khổ Ðầu Ðà nói ra chứ liên quan gì đến lão đâu.

Diệt Tuyệt Sư Thái vội ngưng tay hỏi Khổ Ðầu Ðà:

- Tên Ðầu Ðà kia, những lời nói điên rồ kia có phải là mi đặt ra không?

Khổ Ðầu Ðà vừa cười vừa đáp:

- Lời nói điên rồ ấy thế nào? Sư thái làm ơn nhắc lại cho Khổ Ðầu Ðà nghe.

Diệt Tuyệt Sư Thái đâu dám nhắc lại những lời đó, nên bà ta càng tức giận hơn và nhận thấy lời của Hạt Bút Ông không ngoa.

Hạt Bút Ông thấy Sư thái quay lưng về phía mình, liền giơ chưởng đánh thật mạnh vào lưng Sư thái.

Chỉ Nhược và Khổ Ðầu Ðà thấy rõ bèn la lớn:

- Sư phụ cẩn thận.

- Lão ni coi chừng.

Diệt Tuyệt Sư Thái vội quay lưng lại chống đỡ nhưng bà ta chỉ đỡ nổi tay trái của Hạt Bút Ông thôi. Còn tay phải của Hạt Bút Ông đánh trúng giữa lưng Sư thái.

Huyền Minh thần chưởng của y rất lợi hại.

Năm xưa trên Võ Ðang chỉ có Trương Tam Phong chống đỡ nổi thần chưởng của Huyền Minh nhị lão thôi. Lúc này, chưởng của y đánh giữa lưng Sư Thái thì Sư Thái chịu đựng sao nổi?

Vì vậy bà ta loạng choạng suýt ngã.

Chỉ Nhược thấy vậy kinh hãi, vội chạy đến đỡ.

Khổ Ðầu Ðà tức giận vô cùng, liền quát lớn:

- Quân tiểu nhân thâm độc kia để mi sống làm gì.

Nói xong, y ném luôn Lộc Trượng Khách và Hàn Cơ xuống dưới tháp.

Hạt Bút Ông là người rất độc ác, nhưng tình huynh đệ vẫn nặng.

Trong lúc nguy cấp, y không kịp suy nghỉ, vội phóng mình định chụp Lộc Trượng Khách. Nhưng không kịp, y chỉ nắm được một mảnh chăn, còn Lộc Trượng Khách và Hàn Cơ đều rớt xuống đất.

Vô Kỵ đứng dưới, bị khói bay mù mịt, nên không nhìn rõ những hoạt động phía trên tháp. Chàng bỗng thấy một vật thật lớn rớt xuống như bên trong có người.

Còn khi Hạt Bút Ông nhảy theo xuống, chàng trong thấy rõ. Vốn bản tánh từ thiện, tuy biết Hạt Bút Ông đã làm cho anh đau khổ mấy năm trời thậm chí đến cái chết của cha mẹ cũng liên can đến y, nhưng chàng vẫn không nhẫn tâm đứng nhìn kẻ thù chết tức tưởi, mới nhảy lại giơ song chưởng lên, một tay đánh vào bọc chăn và một tay đánh vào Hạt Bút Ông. Nhờ vậy Hạt Bút Ông với cái chăn kia bị đánh bay ra ba trượng.

Hạt Bút Ông chỉ lộn một vòng đã đứng dậy được và trong lòng kêu thầm:

- Nguy hiểm thực .

Y không ngờ Vô Kỵ lấy đức báo oán, đã ra tay cứu mình thoát chết. Y vội quay lại tìm kiếm sư huynh.

Y giật mình kinh hãi.

Thì ra Vô Kỵ hai tay cùng sử dụng Càn Khôn Ðại Nã Di thân pháp, đồng thời hoá giải sức mạnh ở hai bên rớt xuống. Như thế không phải là một chuyện dễ, huống hồ trong bọc chăn có Lộc trượng Khách với Hàn Cơ hai người. Tất nhiên sức rớt xuống phải nặng hơn Hạt Bút Ông, nên chàng không thể nào làm được bọc chăn đó rớt theo ý muốn của mình. Ngờ đâu bọc chăng bị chàng đánh trúng mở tung ra, bên trong có hai trần trục lăn ra rớt ngay vào trong đống lửa, Lộc Trượng Khách vẫn bị điểm huyệt không sao cử động được, nên râu tóc bị cháy liền, Hạt Bút Ông lớn tiếng kêu gọi:

- Sư ca!

Rồi y nhảy luôn vào trong đống lửa ôm lấy Lộc Trượng Khách và nhảy ra bên ngoài luôn. Y chưa đứng vững, Dư Liên Châu đã lớn tiếng nói:

- Hãy đỡ một chưởng nầy của ta.

Tam Hiệp vừa nói dứt đã múa chưởng tấn công vào đầu vai của Hạt Bút Ông liền.

Hạt Bút Ông không dám chống đỡ, vội tầm vai xuống để tránh.

Ngờ đâu chưởng của Liên Châu vẫn theo vẫn theo vai của đối thủ mà trầm xuống tấn công, nên có tiếng kêu "chộp" một cái.

Hạt Bút Ông đã đau đến toát mồ hôi lạnh. Nhưng lúc ấy y cần phải cứu người sư huynh trước, nên cứ nghiến răng cam chịu và ôm lấy Lộc Trượng Khánh tung mình nhảy lên tường cao.

Ðang lúc ấy trên tháp có một cây trục lớn cháy đỏ rớt xuống trúng ngay vào xác Hàn Cơ, chỉ trong thoáng cái xác của nàng đã cháy xém.

Những người dưới tháp đều lớn tiếng kêu la:

- Mau nhảy xuống! Mau nhảy xuống! Khổ Ðầu Ðà ở trên đỉnh tháp chạy đi chạy lại, để tránh ngọn lửa. Xà ngang và cột trụ của tháp đã bị cháy hủy, gạch đá đổ xuống lia lịa. Bảo tháp đã rung chuyển như sắp đổ vậy.

Diệt Tuyệt Sư thái quát lớn:

- Chỉ Nhược, con mau nhảy xuống đi!

Chỉ Nhược đáp:

- Sư phụ nhảy xuống trước, con nhảy xuống sau!

Sư thái đột nhiên nhảy tới giơ chưởng lên bổ vào vai trái của Ðầu Ðà quát lớn:

- Tặc tử của Ma Giáo, ta không thể dung ha cho ngươi được! Khổ Ðầu đà biết không thể nào ở lại trên đỉnh tháp nữa, liền lớn tiếng cười và tung mình nhảy xuống khỏi tháp thức thì.

Vô Kỵ giơ chưởng kên đánh khẽ đẩy Khổ Ðầu Ðà sang bên, và khen ngợi:

- Phạm Hữu sứ đã thành công rất lớn!

Khổ Ðầu Ðà vừa đứng vững liền đáp:

- Nếu không được thần công cái thế của Giáo chủ thì tất cả mọi người đều bị cháy xém như con heo rồi. Phạm Dao tôi làm việc không được chu đáo thì làm có công trạng lớn?

Sư thái thấy Khổ Ðầu nhảy xuống, thở dài một tiếng, rồi ôm chặt lấy Chỉ Nhược nhảy xuống luôn.

Khi sắp xuống tới mặt đất Sư thái tung Chỉ Nhược lên cao mấy thước, bà ta làm như vậy không khác gì Chỉ Nhược ở trên cao một trượng rớt xuống thôi nên nàng không nguy hiểm chút nào.

Trái lại thế rớt xuống của Sư thái lại càng nhanh càng mạnh.

Vô Kỵ vội chạy lại dùng Càn Khôn Ðại Nã Di đẩy luôn vào lưng bà ta.

Ngờ đâu sư thái đã quyết chí chết và cũng không mốn nhận một chút ân huệ nào của Minh Giáo hết.

Bà ta thấy Vô Kỵ dùng chưởng đánh tới vội xoay người đánh lại một chưởng, chưởng của hai người va chạm nhau kêu đến "bùng" một tiếng.

Chưởng lực Càn Khôn Ðại Nã Di của Vô Kỵ bị chưởng lực của bà ta làm đổi phương hướng. Mỗi người chỉ nghe thấy tiếng kêu "bộp" một tiếng.

Sư thái đã rớt xuống đất thật mạnh. Xương sống gãy làm mấy khúc.

Vô Kỵ bị chưởng của bà ta đánh trả lại, vì không thể đề phòng nên ngực của chàng trúng luồng chưởng phong của đối thủ.

Chàng cảm thấy khí huyết rạo rực và lui luôn phía sao mấy bước trong lòng ngạc nhiên vô cùng, nhưng chàng có biết đâu Sư thái đã giở ra hết toàn lực đánh chưởng đó để tự sát.

Chỉ Nhược chạy lại ôm lấy sư phụ vừa khóc vừa kêu gọi:

- Sư phụ! Sư phụ! Các nam nữ đệ tử khác của phái Nga Mi cũng đều chạy lại cạnh xác của sư phụ mình kêu la khóc lóc thảm thiết .

Diệt Tuyệt Sư thái liền nói:

- Chỉ Nhược, từ nay trở đi con đã là chưởng môn của bổn phái những việc ta bảo con làm không được trái lệnh nghe chưa.

Chỉ Nhược vừa khóc vừa đáp:

- Vâng! đệ tử không dám quên!

Sư thái mỉm cười và nói tiếp:

- Như vậy là ta chết cũng mãn nguyện lắm rồi.

Lúc ấy Vô Kỵ đã chạy tới gần giơ tay ra nắm cổ tay của Sư Thái để thăm mạch và xem có thể cứu chữa được không.

Ngờ đâu bà ta lật bàn tay lại nắm lấy cổ tay chàng và quát lớn:

- Dâm đồ của Ma giáo kia, nếu ngươi làm nhơ nhuốc đồ đệ yêu quý của ta, dù ta có làm ma ta cũng không tha cho ngươi...

Nhưng Sư thái chỉ nói được tới đó thì tắt thở liền. Nhưng tay của bà ta vẫn nắm chặt tay của Vô Kỵ đến nổi bật cả máu tươi ra.

Khổ Ðầu đà vội la lớn:

- Tất cả mọi người đều theo tôi đi ra ngoài cửa tây để hội họp. Nếu chậm trễ gian vương có thể phái đại nội nhân mã đến bao vây chúng ta đấy.

Vô Kỵ liền ẳm xốc Sư thái lên và khẽ nói:

- Chúng ta đi thôi.

Chỉ Nhược khẽ gỡ những ngón tay của sư phụ mình ra rồi đỡ lấy xác của Sư phụ, nàng không thèm nhìn Vô Kỵ, cắm đầu đi thẳng ra ngoài chùa.

Lúc ấy, các cao thủ của phái Côn Luân, Không Ðộng, Hoa Sơn v.v... đã lần lượt chạy theo ta.

Riêng có Không Văn, Không Trí của phái Thiếu Lâm không theo ra, là vẫn giữ được phong độ của một môn phái lớn, từ từ tiến lại chắp tay chào Vô Kỵ cùng Viễn Kiều, Liên Châu rồi đi ra ngoài cửa...

Vô Kỵ dùng Càn Khôn Ðại Nã Di thần công cứu các cao thủ của các môn phái thoát chết nội kực đã tiêu hao gần hết, sao cùng lại bị Diệt Tuyệt Sư thái đánh trúng một chưởng gần chết, đã tổn nguyên khí rất nhiều, Mạc Thanh Cốc liền ẳm chàng lên trên vai, chàng liền vận Cửu Dương thần công để lấy lại nội lực.

Lúc ấy trời đã sáng tỏ, quần hùng đã đi đến cửa Tây, xua đuổi quân binh canh gác cửa thành rồi đi ra ngoài mấy dặm thì gặp Dương Tiêu đem xe và lừa đến đón.

Mọi người nghỉ ngơi bên lề đường giây phút, một người lên tiếng:

- Phen này nếu không được Trương Giáo chủ của Minh Giáo với các vị đến cứu, thì sáu đại môn phái Trung Nguyên của chúng ta bị hao tổn nguyên khí rất nhiều, ơn lớn nầy không dám nói cám ơn. Bây giờ chỉ có một cách là chúng ta xin Trương Giáo chủ ra lệnh định đoạt ra sao?

Vô Kỵ đáp:

- Tại hạ ít tuổi, và ngu dốt, không có định kiến gì hết. Xin phương trượng của Thiếu Lâm ra lệnh cho:

Không Văn đại sư cương quyết không chịu, Tòng Khê liền xen lời nói:

- Nơi đây cách thành không xa, ngày hôm nay chúng ta ở trong kinh thành làm đảo lộn như thế tất nhiên tên gian Vương không bao giờ chịu để yên đâu. Chờ tới khi ngọn lửa ở Vương phủ dập tắt, y thế nào cũng phái binh mà đuổi theo chúng ta. Chúng ta phải mau rời khỏi nơi đây và nên đi đâu phải định đoạt ngay bây giờ.

Thái Sung xen lời nói:

- Gian Vương phái người đuổi theo thì càng hay, chúng ta đánh cho chúng ta một trận tơi bời, như vậy mới hả cơn giận bấy lâu nay.

Tòng Khê liền đáp:

- Tất cả anh em chúng ta chưa hoàn toan khôi phục công lực muốn giết quân Thát Ðát để khi khác cũng được, bây giờ chúng ta nên tránh thì hơn.

Không Văn đại sư lại nói:

- Trương Tử hiệp nói rất phải. Ngày hôm nay dù có giết được bao nhiêu quân Thát đát, chúng ta cũng phải hao mòn nhân lực rất nhiều. Chúng ta nên tạm tránh thì hơn.

Người chưởng môn của phái Thiếu Lâm đã nói như vậy, người khác không dám bàn tán nữa, Không Văn đại sư lại hỏi:

- Trương Tứ hiệp, theo ý kiến của Tứ hiệp thì chúng ta nên đi đâu để tạm tránh?

Tòng Khê đáp:

- Quân Thát Ðát thế nào cũng đùoán chắc chúng ta không đi về phía Nam thì thế nào cũng đi về phía Ðông Nam. Nhưng bây giờ chúng ta đi ngược hướng chạy thẳng lên phía Mông Cổ. Chẳng hay các vị nghĩ sao?

Mọi người đều ngẩn người ra nghỉ thầm:

- Mông Cổ là nơi căn cứ của quân Thát Ðát tại sao mình lại đi sâu vào đất địch như thế?

Dương Tiêu vỗ tay xen lời nói:

- Ý kiến của Trương Tứ hiệp rất hay, đất Mông Cổ rộng mà ít, ta tới đó tạm tránh thế nào cũng được yên ổn. Quân Thát Ðát thế nào cũng tưởng ta trở về Trung Nguyên chớ ngờ đâu ta đi lên Mông Cổ như vậy.

Mọi người nhận thấy kế của Tòng Khê rất hay liền quay ngựa về hướng Bắc.

Mọi người đi được năm mươi dặm tới một sơn cốc liền nghỉ ngơi.

Dương Tiêu đã mua sẳn các thức ăn và rượu thịt, trong lúc ngồi ăn uống nhậu nhẹt mọi người nói:

- Lần này không được Vô Kỵ và Phạm Dao hai người cứu giúp thì ai nấy đều chết hết. Còn Chỉ Nhược với bọn người của phái Nga My đang ngồi đằng kia đào lỗ chôn Diệt Tuyệt sư thái.

Không Văn, Không Trí, Vô Kỵ, Viễn Kiều, Liên Châu các người lần lượt đi tới lễ Diệt Tuyệt là một đại hiệp nhất thời tuy tính tình quái dị chuyên môn hành hiệp trượng nghĩa, chí khí lẫm liệt nên được các người trong võ lâm kính nễ.

Không Văn đại sư nói:

- Người chết không thể nào sống lại, chư hiệp của phái Nga My nên theo lời dặn của Sư thái mà tiếp tục hành hiệp. Như vậy tuy Sư thái chết như vẫn còn sống. Lần này bị kẻ gian đầu độc ai cũng thiệt thòi hết, bổn phái Không Tín sư đệ cũng bi quân Thát Ðát giết chết, thù này thế nào cũng phải trả, nhưng phải trả bằng cách nào:

Không Trí đại sư cũng xen lời nói:

- Trước khi sáu đại môn phái ở trung Nguyên đối địch với Minh Giáo nhưng Trương Giáo chủ không báo oán. Trái lại ra tay cứu giúp chúng ta. Từ nay trở đi thù hằn của hai bên coi như đã xóa bỏ. Ngày hôm nay, nhân người của sáu đại môn phái đều có mặt nơi đây, bần tăng xin đề cử Trương Giáo chủ làm Minh Chủ của võ lâm Trung Nguyên. Từ giờ trở đi hể lệnh của Trương Giáo chủ tới đâu là các môn phái của Trung Nguyên phải tuân theo hết. Chúng ta đồng tâm hiệp lực xua đuổi quân Thái Ðát ra khỏi bờ cõi.

Quần hào thấy Không Trí đại sư nói như vậy đều vỗ tay tán thành, riêng Chỉ Nhược lẳng lặng không nói năng gì hết, vì lúc này nàng bối rối đang nghỉ tới những việc sư phụ dặn bảo mình.

Vô Kỵ vội giơ tay lên xua lia liạ:

- Quý vị hãy khoan! Việc này không thể làm như thế được. Xưa nay các đại môn phái của võ lâm đều tôn phái Thiếu Lâm làm Ðảng trưởng. Hơn nữa, nói đến tuổi tác thì phải nói đến Thái Sư phụ của tôi là Trương Chân nhân, còn sư hiệp của Võ Ðang đều là sư bá, sư thúc của tôi. Tôi là một thằng nhỏ đâu dám vượt qua những người trên như thế.

Tống Viễn Kiều lên tiếng:

- Vô Kỵ, tất cả mọi người đã đều cử cháu là Minh Chủ của Võ Lâm. Tất nhiên một nữa là vì cám ơn cháu đã cứu giúp ngày hôm nay và mọi người cũng vì dân chúng trong thiên hạ mà bầu cháu như vậy. Chưởng môn các môn phái từ nay phải đồng tâm hiệp lực đừng có sát hại nhau để cùng diệt quân Thát Ðát. Nếu trong võ lâm Trung Nguyên có một Tổng Minh chủ đứng phát hiệu lệnh, thì mới mong xua đuổi được quân Thát Ðát ra khỏi bờ cõi. Bằng không, không sao hoàn thành được công việc vĩ đại đó.

Tòng Khê cũng lên tiếng nói:

- Hai vị thần tăng của phái Thiếu Lâm thành khẩn đề cử cháu, cháu nên nhận lời đi. Còn Thái sư phụ cháu tuổi tác như vậy chẳng lẽ còn mời người ra gánh vác trọng trách hay sao?

Mọi người đều nói thêm vào.

Vô Kỵ vẫn không dám nhận và đáp:

- Tiểu tử tuổi còn trẻ, kiến thức rất nghèo nàn, chỉ gọi là có đôi chút võ công thôi. Còn bây giờ bảo tiểu tử nhận chức Minh chủ võ lâm thiên hạ, trách nhiệm nặng nề như thế tiểu tử nhận sao nổi. Bây giờ chỉ có Phương trượng của Thiếu Lâm hay Tống đại sư bá mới xứng đáng chức vị đó thôi.

Dương Tiêu cũng lên tiếng:

- Giáo chủ, thời cơ đã lở không sao vớt lại được. Ngày hôm nay may mắn được quân hùng tụ hợp nơi đây, ai nấy đều đồng tâm nhất trí bầu cử Giáo Chủ làm Minh chủ, nếu Giáo chủ không chịu, thì không còn ai mà được quần hùng qui phục nữa. Nhất đáng, tất cả mọi người tản mác đi mọi nơi. Muốn triệu tập lại đông đảo như thế nầy thì khó lắm. Năm xưa Giáo chủ trên Quang Minh Ðỉnh phải hòa giải với sáu đại môn phái để cùng tâm hiệp lực đánh quân Hồ, Giáo Chủ quên rồi hay sao?

Vô Kỵ không nói năng gì, Phạm Dao lớn tiếng nói:

- Giáo chủ, đây là làm Minh Chủ của võ lâm chứ không phải làm vua đâu. Tất cả anh em không muốn Giáo chủ tác oai tác phúc mà chỉ muốn Giáo chủ gánh vác công việc nặng nề của thiên hạ thôi. Phải chịu thiên hạ oán trách, Giáo chủ có phải là nam nhu đại trượng phu không? Sao Giáo chủ lại không gánh vác việc nặng nề và bị thiên hạ oán trách như thế, Phạm Dao tôi tưởng Giáo chủ là anh hùng mới theo Giáo chủ, không ngờ lúc hữu sự Giáo chủ lại sợ sệt như thế.

Vô Kỵ liền vái chào Phạm Dao một cái và đáp:

- Phạm Hữu sứ trách tôi như vậy rất phải. Vô Kỵ tôi xin thụ giáo. Ðúng thế, nam nhi sống ở trên đời phải đảm đương những công việc nặng nề mới được.

Nói xong chàng liền chắp tay chào quần hào và nói tiếp:

- Ðược các vị đề cử như vậy, tiểu tử không dám từ chối nữa, chỉ mong công việc này thành tụ để khỏi phụ chí nguyện bình sinh thôi.

Quần hào thấy Vô Kỵ nhận lời đều vỗ tay hoan hô.

Dương Tiêu liền lấy một túi rượu đến, cắn đứt ngón tay chảy máu nhỏ vào trong rượu, mọi người cũng bắt chước y lần lượt làm như vậy.

Rồi mọi người đều uống một hớp rượu đó, và thề từ nay trở đi đồng tâm đồng sức xua đuổi quần Hồ, lấy lại sơn hà xã tắc.

Vô Kỵ vừa phấn khởi vừa hoảng sợ, nghĩ tới mấy lời nói của Phạm Dao, chàng lại thản nhiên không còn lo sợ gì nữa.

Trong mấy tháng nay, chàng đã trải qua rất nhiều phong ba bão táp, đã học hỏi được rất nhiều kinh nghiệm.

Lúc này chàng ra làm Minh chủ võ lâm, lại còn bình tĩnh hơn là lúc ra làm Giáo chủ. Ðồng thời chàng nhận thấy việc xua đuổi quân Hồ ra khỏi bờ cõi là một trách nhiệm không thể nào từ chối được.

Chờ mọi người uống máu ăn thề với nhau xong, Vô Kỵ nói:

- Hiện giờ thiên hạ đang loạn lạc, giáo chúng của chúng tôi đang phân tán bốn phương, nếu có cơ hội là họ nổi lên kháng quân Hồ ngay. Bây giờ chỉ mong các tôn trưởng các phái ra lệnh cho đệ tử mình hễ thấy nghĩa quân nổi lên thì giúp liền nhé. Ðừng có tranh cướp quyền lợi mà sát hại lẫn nhau. Nếu có những sự thị phi tranh chấp thì phải báo trưởng môn của bổn phái biết rồi do bổn nhân cùng trưởng lão, trưởng môn các phải xét xử một cách công bằng.

Mọi người đều nhận lời:

- Phải nên như vậy lắm.

Vô Kỵ lại nói tiếp:

- Ðại sự ở đây đã xong rồi, tôi còn có việc riêng cần phải về Kinh đô một phen, xin tạm biệt quý vị. từ nay trở đi trong một vài năm yhế nào cũng có một phen tôi sẽ cùng quý vị phi ngựa trên mặt trận quyết chiến với quân Thát Ðát.

Tiếng hoan hô của quần hào làm chấn động cả một vùng trời đất rồi mọi người tiễn chàng đi ra tận cửa thung lũng.

Dương Tiêu lên tiếng nói:

- Bây giờ Giáo chủ là người mà thiên hạ đều trông mong vào vậy. Giáo chủ nên cẩn thận đôi chút thì hơn.

Vô Kỵ đáp:

- Việc đó tôi biết rồi.

Nói xong, chàng thúc ngựa phi thẳng về phía Nam.

Lúc sắp tới kinh đô chàng liền nghĩ thầm:

- Câu chuyện xảy ra ở chùa Vạn Pháp hồi hôm, các võ sĩ và thủ hạ của Nhữ Dương Vương đã nhận được mặt ta rồi. Nếu để chúng bắt gặp sẽ phiền phức lắm .

Chàng vào một nhà nông mua một bộ áo cũ để thay đổi. Ðầu đội cái nón là, chàng dùng lọ nồi bôi lên mặt, mới vào thành.

Chàng đi tới khách sạn phía Tây thành, đưa mắt quan sát, không có ai theo mình mới lẻn vào trong, trở về phòng cũ.

Một tiểu thư ngồi bên cửa thấy chàng bước vào thì ngạc nhiên nhưng giây lát đã nhận ra mới mừng rỡ cười hỏi:

- Cháu lại tưởng chàng quê mùa vào nhầm phòng. Không ngờ là công tử.

Vô Kỵ cười đáp:

- Cô nương làm gì thế? Sao lại ngồi rầu rĩ?

Tiểu Siêu đỏ mặt nũng nịu:

- Cháu nhàn rỗi ngồi khâu chơi!

Nói xong, nàng cất áo xuống dưới gối. Rót nước mời Vô Kỵ uống, hỏi tiếp:

- Công tử có rửa mặt không?

Vô Kỵ đáp:

- Khỏi cần.

Chàng cầm chén nước uống , nghĩ thầm:

- Triệu cô nương bảo ta đưa nàng đi mượn Ðồ Long, ta là đại trượng phu không thất tín được. Hơn nữa, thế nào ta cũng phải đi đón nghĩa phụ về Trung Thổ. Vì vẫn lo ở Trung Thuu còn có nhiều kẻ thù mà bây giờ nghĩa phụ ta lại mù, tất thế nào khó chống đỡ với kẻ thù được. Lúc này, võ lâm quần hào đang đồng tâm hiệp sức chống quân Hồ. Mối thù cá nhân đều phải hòa giải hết thì cần có ta cạnh nghĩa phụ ta là không ai dám đông tới ông nữa. Trên bể sóng to gió lớn nguy hiểm như vậy, không dám để Tiểu Siêu đi cùng được. Nay ta phải bảo Triệu cô nương dành một căn phòng ngay trong vương phủ cho nàng ở tạm. nàng ở trong đó còn bình yên hơn ở ngoài.

Tiểu Siêu thấy Vô Kỵ bỗng nhiên cười một mình bèn hỏi:

- Công tử nghĩ gì thế?

- Tôi định đi tới một nơi thật xa nhưng không tiện đem cô nương đi nên tôi mới tìm ra một chỗ an toàn, để cô nương ở đó.

Tiểu Siêu sầm nét mặt đáp:

- Công tử đi đâu tôi theo đó. Ngày nào tôi cũng hầu hạ công tử, chớ tôi không muốn ở đâu một mình cả:

- Chỗ tôi định đi rất xa và rất nguy hiểm lại chưa biết bao giờ về.

- Trong khi ở trong Tiểu Quang Ðỉnh tôi đã quyết định rồi. Bất cứ công tử đi đến đâu tôi cũng đi theo, trừ phi công tử giết tôi mới để tôi ở lại được, hay là công tử đã ghét tôi rồi nên không muốn tôi đi theo?

- Không, không cô nương yen6 lòng bao giờ tôi cũng quý cô nương. Sở dĩ, tôi không muốn cô nương đi theo là tôi sợ nguy hiểm cho cô nương đấy thôi! Khi nào về tới sẽ kiếm cô nương ngay!

- Không! Công tử đừng bỏ tôi, Quý hồ được gần công tử là tôi mãn nguyện rồi. Tôi không sợ gì hết, công tử cứ đưa cùng đi.

Vô Kỵ nắm tay Tiểu Siêu nói:

- Tiểu Siêu! Tôi không dám nói dối cô nương, vì tôi đã nhận lời đưa Triệu cô nương du hải ngoại. Trên bề, sóng to gió lớn nguy hiểm vô cùng. Tôi trót đã nhận lời với cô ta nên mới mạo hiểm mà đi. Còn Tiểu Siêu là người ngoại cuộc việc gì mà phải mạo hiểm như vậy.

Tiểu Siêu đáp:

- Công tử đi với Triệu cô nương thì tôi lại càng phải đi theo.

Nàng nói xong câu đó thì oà lên khóc, Vô Kỵ hỏi:

- Tại sao cô nương lại quyết tâm theo tôi như thế?

- Vì Triệu cô nương rất độc ác. Cô ta có thể hại công tử dễ dàng, nên tôi phải đi theo đặng quán xuyến hộ tống công tử.

Vô Kỵ nghĩ thầm:

- Chẳng lẽ cô bé này yêu ta?

Chàng thấy Tiểu Siêu có lòng thành như vậy bèn cười trả lời:

- Thôi được, tôi nhận lời đem cô nương đi.

Tiểu Siêu cả mừng.

- Vô Kỵ lên giường ngủ bỗng nghe thấy tiếng xích trên tay Tiểu Siêu, tự nhiên lòng chàng cảm thấy buồn man mác...

Vô Kỵ ngủ cho tới chiều mới thức dậy.. Chàng ăn bát mì xong bèn bảo Tiểu Siêu:

- Tiểu Siêu! tôi đưa cô đi gặp Triệu cô nương để tôi mượn thanh Ỷ Thiên kiếm của cô ta để chặt đứt xích cho cô.

Hai người liền đi ra ngoài phố thấy quân lính Mông Cổ cỡi ngựa phi đi phi lại lục lạo. Thành phố giới bị rất nghiêm. Chàng biết vì việc vương phủ và chùa Vạn Pháp phát hỏa mà nên.

Chàng và Tiểu Siêu núp vào xó cửa gần đó,chờ cho quân Mông Cổ đi khỏi mới tiếp tục đi.

Không bao lâu, hai người đã đi tới quán rượu nhỏ, Vô Kỵ dắt Tiểu Siêu vào trong, đã thấy Triệu Minh ngồi uống rượu ở bàn hôm trước rồi.

Nàng vừa thấy Vô Kỵ bèn đứng dậy cười, nói:

- Công tử là người rất trọng chữ tín. Tôi cảm phục.

Vô Kỵ thấy nàng vẫn ung dung như thường, không tức giận gì mình thì nghĩ thầm:

- Cô nương này kín đáo thực, chẳn gnhững nàng không giận ta mà còn tỏ ra bình tĩnh thân ái với ta như thế này ta hãy xem nàng đối xử vớt ta ra sao?

Thấy trên bàn đã bày sẳn hai đôi đũa và hai cái bát Vô Kỵ vội vái chào rồi ngồi xuống, Tiểu Siêu thì đứng ở ngoài đợi.

Vô Kỵ chắp tay chào và lên tiếng:

- Triệu cô nương, chuyện xảy ra tối hôm qua tại hạ thất lễ rất nhiều, mong cô nương lượng thứ.

Triệu Minh cười đáp:

- Hàn Cơ của cha tôi rất lẳng lơ. Trông thấy y thị tôi đã ghét rồi, nên tôi càng cám ơn công tử đã cho người giết y thị. Mẹ tôi cũng khen công tử là người thông minh.

Vô Kỵ ngẩn người ra chưa biết nói sao cho phải, Triệu Minh thấy vậy nói tiếp:

- Những người đó đượcx công tử cứu đi càng hay vì để họ ở lại mà họ không hàng thì cũng vô ích. Công tử cứu họ đi, thế nào họ cũng cám ơn công tử. Như vậy, địa vị và danh vọng của công tử cao tới mức trong Võ lâm Trung Nguyên không có ai có thể sánh nữa. Vậy tôi phải mừng công tử một chén mới được.

Nói xong, nàng vừa cười vừa nâng chén lên mời.

Lúc ấy ngoài cửa có bóng người, thấp thoáng rồi có một người bước vào.

Người đó là khổ Ðầu Ðà, tiến tới vái Vô Kỵ một lạy, rồi cung kính vái Triệu Minh một lạy và nói:

- Quận chúa, Khổ Ðầu Ðà tôi tới đây để cáo từ Quận chúa.

Triệu Minh không đáp lễ, chỉ lạnh lùng trả lời:

- Khổ Ðại sư giỏi giả thật, lần này Quận chúa của đại sư bị té một cái thật đau.

Khổ Ðầu Ðà đứng dậy nghinh ngang nói tiếp:

- Khổ Ðầu Ðà tôi họ Phạm tên Dao là Quang Minh Hữu sứ của Minh Giáo. Minh Giáo là kẻ địch của triều đình. Bổn nhân trà trộn vào Vương phủ là có mục đích riêng, cám ơn Quận chúa đã đối đãi rất tử tế , cho nên mới tới đây cáo từ như thế.

Triệu Minh lạnh lùng đáp:

- Ðại sư muốn đi thì cứ việc đi, hà tất phải đa lễ làm chi?

- Ðại trượng phu làm việc gì phải quang minh chính đại, từ nay trở đi tại hạ là kẻ địch của Quận chúa. Nếu tại hạ không đến đây nói rõ thì thế nào cũng phụ lòng tốt của Quận chúa bấy lâu nay.

Triệu Minh liếc nhìn Vô Kỵ và hỏi:

- Chẳng hay công tử có bản lãnh gì mà khiến tất cả thủ hạ ai ai cũng trung thành như thế?

Vô Kỵ đáp:

- Chúng tôi chỉ vì dân vì nước, vì nhân hiệp và vì nghĩa khí mà làm việc, Phạm Hữu Sứ và tôi không hề quen biết nhau. Nhưng chúng tôi mới gặp nhau đã hợp liền. Ðây chẳng qua vì chữ nghĩa mà nên.

Khổ Ðầu Ðà thấy Vô Kỵ nói như vậy ha hả cả cười, nói:

- Mấy lời của Giáo chủ vừa nói đúng là tâm sự của hạ thuộc, Giáo chủ phải cẩn thận vì Quận chúa nương nương này độc ác lắm chớ không phải là người thường đâu!

Vô Kỵ đáp:

- Ðược rồi tôi sẽ hết sức cẩn thận.

Triệu Minh thấy Khổ Ðầu Ðà nói như vậy vội đáp:

- Cám ơn đại sư đã quá khen tôi.

Khổ Ðầu Ðà quay mình đi ra ngoài cửa điếm, lúc y đi ngang Tiểu Siêu bỗng ngạc nhiên ngẩn người ra hình như y đã trông thấy một con ma quỷ đáng sợ vậy, liền thất thanh la lớn:

- Người... người...

Tiểu Siêu ngạc nhiên hỏi:

- Cái gì thế?

Khổ Ðầu Ðà nhìn nàng rồi lắc đầu nói tiếp:

- Không phải... không phải... tôi đã nhận lầm...

Nói xong, y liền đẩy cửa ra, mồm vẫn lẩm bẩm nói:

- Giống qua... giống quá...

Triệu Minh với Vô Kỵ ngơ ngác nhìn nhau, không hiểu Khổ Ðầu Ðà nói Tiểu Siêu giống ai.

Bỗng nghe thấy đàng xa có mấy tiếng còi vọng tới, cứ ba tiếng dài, ba tiếng ngắn.

Vô Kỵ ngẩn người ra, vì biết đó là tiếng kêu gọi của các đồng môn của phái Nga Mi.

Vì năm xưa, ở Tây Vực chàng gặp Diệt Tuyệt Sư thái với các môn đồ đã được nghe Nga Mi thổi còi liên lạc với nhau.

Vì vậy chàng mới ngạc nhiên nghĩ thầm:

- Sao phái Nga Mi quay trở lại kinh thành này làm chi? Chẳng lẽ bọn họ lại gặp kẻ địch nơi đây chăng?

Chàng đang nghĩ bỗng nghe Triệu Minh hỏi:

- Ðó là tiếng báo động của phái Nga Mi. Hình như họ bị chuyện khẩn cấp gì. Chúng ta thử ra ngoài đó xem sao?

Vô Kỵ ngạc nhiên hỏi lại:

- Sao cô nương lại biết đó là tiếng báo động của phái Nga Mi?

- Tôi ở Tây Vực đã từng theo dõi bọn họ, sao tôi không biết.

- Cũng được, chúng ta đi ra ngoài đó xem họ làm gì. À Triệu cô nương, tôi nhờ nương một việc này trước, tôi muốn mượn thanh Ỷ Thiên kiếm của cô nương xử dụng giây lát.

- Công tử chưa mượn đao Ðồ Long cho tôi mà công tử lại mượn Ỷ Thiên trước kể ra công tử thông minh thật.

Nói xong nàng cởi thanh bảo kiếm ra đưa cho chàng.

Vô Kỵ rút thanh kiếm khỏi bao rồi nhìn về phía Tiểu Siêu kêu gọi:

- Tiểu Siêu cô lại đây.

Tiểu Siêu, lẹ bước đi tới trước mặt chàng. Chàng múa động trường kiếm chém luôn mấy nhát rất khẽ; xích ở tay và chân Tiểu Siêu đứt từng khúc rớt xuống mặt đất .

Tiểu Siêu liền quỳ xuống vái liền:

- Ða tạ công tử. Ða tạ quận chúa.

Vô Kỵ cắm kiếm vào bao trả cho Triệu Minh.

Lúc ấy tiếng còi của phái Nga Mi ở phía Ðông Bắc càng nghe càng rất thê thảm.

Chàng liền nói:

- Chúng ta đi thôi.

Triệu Minh móc túi lấy một thỏi vàng nhỏ ném ra lên trên, rồi ra ngoài cửa tức thì.

Vô Kỵ sợ Tiểu Siêu khinh công hãy còn non nớt không sao theo kịp, liền dùng tay phải nắm chặt tay và tay trái đỡ vào lưng nàng, kéo nàng theo Triệu Minh.

Nhưng đi được mười mấy trượng chàng cảm thấy người của Tiểu Siêu nhẹ vô cùng và chân đi rất nhanh.

Tuy bấy giờ chàng chưa giở khinh công tuyệt mức ra, nhưng chân của chàng đi đã rất nhanh mà Tiểu Siêu vẫn theo kịp.

Như vậy đủ thấy khinh công của nàng không kém mấy.

Chỉ thoáng cái, Triệu Minh đã vượt qua mấy con đường nhỏ tới môt nơi có tường vây quanh nhưng đã đổ nát gần nửa.

Vô Kỵ nghe thấy bên torng hình như có tiếng con gái đang cãi vã, biết ngay phái Nga Mi đang ở trong đó.

Chàng liền kéo tay Tiểu Siêu kéo qua bờ tường vào bên trong.

Trong bóng tối, chàng hạ chân xuống đất một cách lẹ làng không có tiếng động gì cả. Cỏ bên trong mọc rất cao, chàng định thần nhìn kỹ, mới biết nơi đó là một vườn bỏ hoang.

Triệu Minh cũng nhảy theo vào rồi ba người cùng nằm phục trong đám cỏ lau đó.

Ở phía Bắc trong vườn hoang có một cái đình đổ nát.

Trên đình tụ tập hơn mười người.

Chỉ nghe một thiếu nữ lên tiếng nói:

- Ngươi là đệ tử ít tuổi nhất trong bổn môn nói về tư vọng và võ công cũng vậy, không có một tư thế nào hơn tất cả anh chị em. Như vậy, ngươi làm gì đủ tư cách làm chưởng môn...

Vô Kỵ nghe tiếng nói đó rất quen thuộc, chàng biết ngay tiếng nói đó là của Ðinh Mẫn Quân, liền bò tới gần cái đình đổ nát kia.

Khi tới cách đình còn mấy trượng chàng liền ngừng lại.

Lúc ấy, tuy không có trăng, nhưng chàng cũng thấy cũng thấy trên đỉnh có cả đàn ông lẫn đàn bà, đều là đệ tử của phái Nga Mi hết.

Ngoài Mẫn Quân ra, còn có đại đệ tử của Diệt Tuyệt Sư thái cũng có mặt ở đó.

Người mặc áo dài xanh nhạt, đứng phía bên trái, chính là nàng Chu Chỉ Nhược.

Chàng lại nghe thấy Mẫn Quân nghiêm nghị hỏi:

- Ngươi nói đi... ngươi nói đi...

Chỉ Nhược từ từ đáp:

- Ðinh Sư Tỷ nói rất phải. Tiểu muội là đệ tử rất trẻ của bổn môn thật, bất cứ về tư cách võ công, tài ba, đức hạnh v.v... tiểu muội đều không xứng đáng làm chưởng môn nhưng, Tiên sư truyền lệnh bảo tiểu muội lãnh trọng trách đó, tiểu muội từ chối hoài, mà tiên sư nhất quyết không nghe, còn bắt tiểu muội thề độc không được phụ lời dặn bảo của Tiên sư.

Một thiếu nữ ăn mặc lối ni cô liền đỡ lời:

- Phải, lúc Tiên sư lên Tây phương cực lạc chầu Phật tổ có trối trăn bảo Chu sư muội phải kế nhậm môn bổn phái thật. Lúc ấy, chúng ta ai ai cũng nghe, khôn người đồng môn của bổn phái mà tất cả anh hào của các môn phái: Thiếu Lâm Võ Ðang, Côn Luân, Không Ðộng đều làm chứng.

Lại có một người tuổi trạc trung niên xen vào nói:

- Tiên sư rất anh minh, quả quyết. Nếu tuyển dụng sư muội làm Chưởng môn thì thế nào cũng có thâm ý gì đây?

Chúng tôi cũng đội ơn tiên sư rất lớn, tất nhiên ai ai cũng phải tuân theo di chúc của tiên sư mà đồng tâm hiệp lực phò trợ cho Chu sư muội làm chưởng môn hầu rạng rỡ bổn phái.

Mẫn Quân cười nhạt hỏi:

- Phùng sư ca nói tiên sư thế nào cũng có thâm ý? Mấy chữ đó được nói ra quả là khéo. Chúng ta ở dưới hay trên tháp đều nghe rõ, Khổ Ðầu Ðà và Hạt Bút Ông lớn tiếng kêu là gì? Chu sư muội là con của ai? tại sao tiên sư lại đặc biệt cùng cô ấy, chẳng lẽ quý vị không rõ hay sao?

Hồi hôm Khổ Ðầu Ðà nói với Lộc Trượng Khách rằng: Diệt Tuyệt Sư thái là nhân tình cũ và Chu Chỉ Nhược là con gái riêng của y. Ðó là câu nói lừa để lấy thuốc giải độc, nhưng Hạt Bụt Ông lại tưởng thiệt nói lớn cho mọi người nghe. Vì vậy mọi người thấy Mẫn Quân nhắc lại, không ai dám cãi nữa.

Chỉ Nhược run run nói với Mẫn Quân rằng:

- Ðinh sư tỷ! Nếu sư tỷ không phục tiểu muội ở chức chưởng môn thì cứ việc nói thẳng, hà tất nói bậy nói bạ như thế, làm mất thanh danh của tiên sư. Sư tỷ có biết làm như thế sẽ bị tội như thế nào không? Tiên sư của tiểu muội họ Chu, tên là Vương, tiên mẫu họ Tiết. Tiểu muội được Trương Chân Nhân của phái Võ Ðang thu làm môn hạ cho tiên sư. Trước khi tiểu muội tới đây chưa hề gặp tiên sư. Sư tỷ đội ơn của tiên sư rất lớn, mà ngày nay di hài của tiên sư chưa lạnh đã dám dùng những lời nói ra như thế.

Nói tới đó nàng đã nghẹn ngào, nước mắt ràn rụa không th6ẻ nói tiếp được nữa.

Mẫn Quân thấy vậy cười nhạt và nói:

- Cô muốn làm chưởng môn của bổn phái, chưa được các đồng môn công nhận nhất là là ta thử lai lịch của cô chưa rõ, nay cô đã muốn tác oai tác phúc, định chi phối chúng tôi phải không? Cái gì gọi là bại hoại thanh danh của tiên sư? Lại còn bảo ta là mang tội này tội nọ, có phải là cô muốn trị tội tôi không?

Hỏi cô câu này, cô được tiên sư trối trăn cho làm ngôi chưởng môn thì cô phải về ngay núi Nga Mi để phụ trách mọi công việc chứ sao cô lại lẳng lặng quay lại kinh đô là chi? Tiên sư khuất núi rồi, việc của bổn phái rất bề bộn, bất cứ việc gì cũng vậy, ai ai cũng chờ đợi người chưởng môn phân phối công việc. Thế mà cô không chịu trở về đảm nhiệm trọng trách, lại một thân một mình quay trở lại kinh đô này để làm gì?

Chỉ Nhược đáp:

- Tiên sư đã giao một gánh nặng nề cho tiểu muội, bảo tiểu muội thế nào cũng làm cho xong, vì vậy tiểu muội mới quay trở lại đây là thế.

- Việc gì thế? Nơi đây, trừ các đồng môn của bổn phái ra, không có một người nào hết, sao sư muội không nói ra cho các anh em biết?

- Việc này là một việc rất bí mật, ngoài người chưởng môn của bổn phái ra, không thể nào tiết lộ cho một ai biết hết.

- Hừ, hừ, cái gì cô cũng đổ vào hai chữ chưởng môn, nhưng cô phải biết, cô chỉ có thể loè người khác chứ không thể đánh lừa được tôi đâu. Tôi hỏi cô câu này, bổn phái với Ma Giáo có thâm thù lớn như thế, đồng môn của bổn phái bị Ma Giáo giết chết rất nhiều, trái lại giáo chúng của Ma Giáo cũng chết dưới Ỷ Thiên kiếm của tiên sư không ít. Sở dĩ tiên sư tạ thế một cách đột ngột như vậy là vì không muốn chịu ơn Giáo chủ của Ma Giáo. Cô biết di hài của tiên sư chưa lạnh, sao cô lại lẳng lặng đến tìm tên dâm tặc họ Trương của Ma Giáo kia làm chi?

Vô Kỵ núp tron bụi lau, nghe thấy Mẫn Quân nói mấy câu sau cùng, tức giận đến run lẩy bẩy, thì lúc ấy chàng bỗng thấy có một ngón tay mềm mại đưa lên má mình, khẽ gạt đi gạt lại mấy cái, hình như đang bêu xấu mình.

Chàng biết ngay đó là Triệu Minh, xấu hổ vô cùng và nghĩ thầm:

- Chẳng lẽ Chu cô nương tời đây kiếm ta thực chăng?

Chàng nghe thấy Chỉ Nhược ngập ngừng nói:

- Sư tỷ chớ có bậy....

Mẫn Quân càng đắc chí, càng lớn giọng nói tiếp:

- Ðến lúc này, cô còn phải không? Cô bảo tất cả anh chị em hãy về Nga Mi trước. Vậy chúng tôi hỏi cô quay trở lại kinh đô này với mục đích gì? Thấy cô hỏi người cha là Khổ Ðầu Ðà tên dâm đó ở đâu. Tưởng tất cả anh chị em không biết hay sao? Có phải cô tới khách điếm kiếm tên tiểu tặc không?

Mẫn Quân cứ nói tiểu dâm tặc hoài, Vô Kỵ dù mát tính đến đâu cũng không sao nhịn được.

Chàng bỗng thấy có người hà hơi vào cổ, biết ngay là Triệu Minh trêu mình. Chàng lại nghe thấy Mẫn Quân nói tiếp:

- Cô muốn yêu ai lấy ai không ai có quyền lý đến, nhưng cô nên rõ tiểu lâm tặc họ Trương là kẻ thù của bổn phái. Hồi hôm mọi người bầu y làm Minh chủ của võ lâm, cô là chưởng môn của bổn phái sao không thấy cô lên tiếng phản đối. Dù cô vì chúng ta ít người, bên chúng nhiều người, có phản đối cũng không ăn thua gì, nhưng cô cũng phải lên tiếng để tỏ rõ cho mọi người hay là phái Nga Mi chúng ta không phục y làm Minh Chủ võ lâm.

Nhưng không thấy cô nói năng gì hết, mà cô lại còn bắt chước mọi người: cắt máu ăn thề. Nhưng theo ý tôi thì lúc ấy cô sung sướng lắm, nhưng không dám để lộ cho người ta thấy thôi. Ngày nọ trên Quang Minh Ðỉnh, tiên sư bảo cô đâm y một kiếm, y không tránh né gì hết, mà nháy mắt tống tình với cô. Còn cô kẻ đâm y như gãi ngứa vậy.

Bên trong thế nào cũng có ẩn tình, có ai dám tin là cô đâm thật đâu.

Mẩn Quân nói xong. Chỉ Nhược thất thanh khóc hu hu và trả lời:

- Ai nháy mắt tống tình, chí chớ có vu oan cho người ta như thế.

- Lời nói của tôi mà cô bảo là vu oan ư? Thế hành vi của cô không sợ khó coi hay sao? Phải lời nói của cô thì dễ nghe thực cũng như vừa rồi cô hỏi người phổ ky ở khách điếm: "Cảm phiền ông cho tôi hỏi chút việc. Ở đây có một vị khách quan họ Trương phải không... người đó tuổi trạc độ ba mươi, người vừa cao vừa trong lớn, hoặc ông ta không dùng họ Trương mà dùng họ khác cũng nên?

Mẩn Quân nói mấy câu này, dùng giọng nói thẻ bắt chước Chỉ Nhược, nhưng giọng nói của y thị lại the thé, nghe rất sờn lòng.

Vô Kỵ tức giận thêm, liền nghĩ thầm:

- Ðinh Mẩn Quân là đứa tiêu ác nhất trong nhóm đệ tử của phái Nga Mi, còn Chỉ Nhược thì nhu nhược nhân từ. Như vậy nàng đối chọi với Mẩn Quân sao nỗi, nhưng nếu bây giờ ta ra tay chống chế cho Chỉ Nhược, thì sẽ bị người ta chê cười ngay. Vì đó là việc riêng của phái Nga Mi, ta không có quyền can thiệp vào. Hơn nữa Chỉ Nhược đang đứng vào địa vị bất lợi...

Ðáng lẽ có một số đồng môn phái của Nga Mi đã bằng lòng tuân theo di mệnh của Diệt Tuyệt Sư thái để cho Chỉ Nhược làm chưởng môn, nhưng Mẩn Quân ăn nói lợi hại như vậy và lời lẽ rất có tinh tiết, nghĩa lý, nên người nào người ấy đều nghĩ thầm:

- Tiên sư với Ma Giáo kết thù oán quá lớn như vậy mà Chu sư muội lạicó một sự liên can rất mật thiết với giáo chủ của Ma Giáo. Nếu nàng đem bổn phái bán cho Ma Giáo thì sao?

Mẩn Quân lại lên tiếng nói tiếp:

- Chu sư muội, sư muội là do Trương Chân Nhân của phái Võ Ðang giới thiệu cho tiên sư để làm môn hạ, còn tiểu dâm tặc là con trai của Trương Ngũ Hiệp trong phái Võ Ðang, chắc bên trong thế nào cũng có âm mưu quỹ quyệt gì đây. Cô tưởng người ngoài không biết chuyện đó hay sao?

Nói tới đó, nàng lại lớn tiếng nói tiếp:

- Các vị sư huynh, sư tỷ, tuy tiên sư có lời trối trăn bảo Chu sư muội làm chưởng môn phái của chúng ta, nhưng sư phụ của chúng ta có ngờ đâu, sau khi viên tịch, người chưởng môn của bổn phái lại đi tìm giáo chủ Ma Giáo để tư tình như vậy. Việc này liên đến sự hưng vong tồi bại của bổn môn, nếu sư phụ biết câu chuyện tối hôm nay thì thế nào sư phụ cũng sẽ lựa người khác làm chưởng môn. Di chúc của tiên sư là phải làm cho bổn phái được rạng rỡ, chứ không bao giờ muốn bổn phái bị diệt vong bởi tay của Ma Giáo. Theo ý kiến của tiểu muội, thì chúng phải thừa kế di ngôn của tiên sư, mời Chu sư muội trao cái áo cà rá sắt chưởng môn ra để chúng ta bầu một vị chưởng môn tài đức kiêm toàn khác lên thay thế. như vậy các đồng môn mới phục.

Mẩn Quân vừa nói xong, thì đã có mấy người vỗ tay tán thành liền.

Chỉ Nhược vội nói:

- Tôi thừa di mệnh của tiên sư, tiếp nhận chưởng môn của bổn phái, chiếc cà rá sắt của sư môn trao cho tôi quyết không trao cho bất cứ người nào cả. Sự thật tôi có muốn làm chức chưởng môn nầy đâu. Nhưng đã nói trót thề nặng trước mặt tiên sư, vì vậy tôi không thể nào phụ lòng phó thác của sư phụ được.

Mấy lời nói của nàng quá yếu ớt, nên những người theo nàng nghe thấy chỉ có lắc đầu thở dài thôi.

Mẩn Quân lại quát lớn:

- Cà rà sắt chưởng môn này cô không trao ra không được, điều thứ nhất, qui luật của bổn môn là cấm các môn đồ không được khi sư diệt tổ, điều thứ hai là cấm ngặt dâm tà vô sỉ, cô đã phạm điều luật thứ nhất và thứ hai, như vậy thì làm chưởng môn phái Nga Mi sao được.

Triệu Minh rỉ tai Vô Kỵ rằng:

- Nếu Chu cô nương có bị thất bại, công tử bằng lòng gọi tôi là chị thì tôi sẽ ra mặt giải vây cho cô ta liền.

Vô Kỵ biết Triệu Minh là người đa mưu túc trí, thế nào cũng có mưu kế gì cứu Chỉ Nhược thoát nguy, nhưng nàng ít tuổi hơn mình mà mình phải gọi bằng chị, thực khó nghe vô cùng.

Vô Kỵ do dự mãi không dám gọi, Triệu Minh lại hỏi:

- Sao? công tử không dám gọi ư? Thôi được, tôi đi vậy.

Vô Kỵ bất đắc dĩ đành phải gọi nàng:

- Bà chị ngoan ngoãn!

Triệu Minh phì cười, đang định đứng lên thì mọi người trong đình đã hay biết.

Mẩn Quân vội quát hỏi:

- Ai dám lén lút núp nghe trộm chúng ta vậy?

Ðột nhiên ngoài bờ tường có mấy tiếng ho vọng tới, rồi có một giọng đàn bà già và khàn hỏi:

- Trong đêm tối, phái Nga Mi các ngươi đến đây lén lút làm trò chi thế?

Tiếng nói đó vừa dứt thì Vô Kỵ và Triệu Minh đã thấy trong sẳn có thêm hai người đứng trước cái đỉnh nọ rồi.

Dưới ánh sáng trăng Vô Kỵ trông thấy rõ một bà cụ lụm khụm tay chống gậy.

Người đó chính là Kim Hoa bà bà. Còn một người nữa là một thiếu nữ xấu xí, nhưng thân hình rất ẻo lả. Thiếu nữ này chính là A Ly, em họ của Vô Kỵ và là con của Dã Vương.

Ngày nọ Nhất Tiếu bắt Thù Nhi đem đi, khi lên tới Quang Minh Ðỉnh, y liền thuận tay bỏ nàng xuống bên đường và một lát sau y quay lại tím thì không thấy nàng ta đâu cả. Từ khi chia tay với nàng tới giờ, Vô Kỵ vẫn thương nhớ, không ngờ nàng ta lại xuất hiện nơi đây mà cùng đi với Kim Hoa Bà Bà nữa.

Chàng mừng rỡ vô cùng, suýt tí nữa thì buột miệng lên tiếng gọi .

Mẩn Quân lạnh lùng hỏi:

- Kim Hoa Bà Bà tới đây làm chi?

Kim Hoa Bà Ba hỏi lại:

- Sư phụ các ngươi đâu?

Mẩn Quân đáp:

- Tiên sư viên tịch từ hồi hôm. Bà đứng ngoài vườn nghe lỏm đã lâu, biết rồi thì còn hỏi làm chi?

- Ủa, Diệt Tuyệt Sư thái đã viên tịch rồi ư? Sao Sư thái lại chết chóng như thế, sao mụ ta không đợi chờ ta tái kiếm một lần nữa rồi hãy chết? Hà, hà đáng tiếc đáng tiếc...

Nói tới đó mụ ta liền khom lưng ho hoài.

Thù Nhi vội đấm lưng cho mụ ta.

Nàng quay mặt về phía Mẩn Quân, cười nhạt một tiếng và hỏi:

- Ai thèm nghe lỏm chuyện các người, ta với bà đi qua đây nghe ngươi lải nhải nói xàm hoài ta nhận ra tiếng nói của ngươi, nên mới vào đây xem thử. Vừa rồi bà của ta hỏi ngươi, ngươi có nghe không? Tại sao sư phụ lại chết?

Mẩn Quân nổi giận đáp:

- Không việc gì đến mi, tại sao ta phải nói cho mi hay.

Kim Hoa bà bà thở dài một tiếng và từ từ nói tiếp:

- Ta bình sinh đấu với các cao thủ, chỉ thua sư phụ của mi có một lần thôi, nhưng không phải võ công của ta không bằng phụ mi, nhưng chỉ vì Ỷ Thiên Kiếm quá sắc bén nên ta địch không nổi thôi. Mấy năm nay ta đã thề thế nào cũng phải tìm cho được một khí giới sắc bén rồi mới kiếm Diệt Tuyệt Sư thái so tài sau. Ta đi khắp chân trời góc biển, cũng may không mất công phu.

Một người bạn cũ đã nhận lời cho ta mượn bảo đao để xử dụng và ta dò biết người của phái Nga Mi đang bị triều đình giam giữ ở chùa Vạn Pháp, cho nên ta mới đến đây định cứu sư phụ mi ra khỏi lao tù để cùng ta so tài một phen. Ngờ đâu chùa Vạn Pháp lại biến thành một đống gạch vụn, hà, số trời đã định như vậy. Ðời Kim Hoa Bà Bà này không còn mong có dịp rửa nhục huyết hận nữa. Diệt Tuyệt ơi, Diệt Tuyệt tại sao mụ lại không chết muộn vài ba ngày để chờ ta.

Mẩn Quân thấy Kim Hoa Bà Bà nói như vậy, liền lạnh lùng xen lời nói:

- Sư phụ ta lúc nầy còn ở trên đời thì ngươi lại thua một trận nữa, mà nếu lần nầy ngươi có thua thì chắc ngươi phục tâm nhỉ.

Ðột nhiên có mấy tiếng kêu "bộp" liên hồi.

Mọi người nhìn về phía Mẩn Quân thấy y loạng choạng suýt ngã về phía sau mới hay y thì bị Kim Hoa Bà Bà tát cho mấy cái liền.

Kim Hoa Bà Bà gầy gò và ốm yếu như vậy, ngờ đâu ra tay rất nhanh và mạnh vô cùng. Vì vậy Mẩn Quân không sao né và chống đỡ được.

Mẩn Quân vừa kinh hãi vừa tức giận, liền rút ngay trường kiếm ra chỉ vào mặt Kim Hoa Bà Bà nói:

- Mụ ăn mày già kia, có lẽ mụ hết muốn sống rồi chăng?

Hình như Kim Hoa Bà Bà không nghe thấy y thị mắng chửi, và cũng hình như không thấy thanh kiếm bóng nhoáng của đối phương đang đâm tới thản nhiên lên tiếng hỏi:

- Sư phụ ngươi chết như thế nào, bị người ta đánh chết hay là đau ốm chết?

Mũi trường kiếm của Mẩn Quân đâm tới gần, chỉ còn hai tấc nữa là trúng ngực đối phương, nhưng y thị không dám tiếp nữa, mà chỉ bướng bình mắng chửi lại:

- Mụ ăn mày già kia, ngươi là cái thá gì mà ta phải nói cho ngươi hay?

Kim Hoa Bà Bà thở dài một tiếng và nói:

- Diệt Tuyệt Sư thái một đời anh hùng như vậy mụ cũng có thể là một nhân vật xuất sắc trong võ lâm đấy. Ngờ đâu mụ vừa khuất núi mà môn hạ, đệ tử đã bất hiếu đến thế. Không có một người nào xứng đáng kể tiếp được chưởng môn để làm rạng rỡ phái Nga Mi như mụ.

Một người tuổi trạc trung niên, thân hình trong lớn, bước lên một bước chắp tay vái chào và nói:

- Bần ni Tịnh Trú tham kiến Bà Bà, lúc tiên sư viên tịch có truyền cho Chu sư muội tiếp nhận chưởng môn, những người trong bổn phái còn có một số đồng môn chưa chịu phục, bây giờ tiên sư viên tịch, lệnh Bà Bà không được toại nguyện. Ðó là số trời xui nên, biết nói sao được, hiện giờ chưởng môn của bổn phái chưa quyết định thì là ai thì không thể nào hẹn ước với Bà Bà được. Nhưng phái Nga Mi chúng tôi cũng là một đại môn phái trong võ lâm chúng tôi quyết không để cho mất oai danh của tiên sư. Vậy Bà Bà định dặn bảo điều gì xin cứ cho biết, sau này người chưởng môn của bổn phái thế nào cũng theo đúng qui cũ của võ lâm mà tới kiếm Bà Bà để giải quyết việc Bà Bà đã phán cho. Nếu Bà Bà thị mình là tiền bối ra tay hà hiếp nhưng kẻ hậu sinh, chúng tôi thì phái Nga Mi chúng tôi, dù xó bị tiêu diệt hết tại chỗ cũng phải đối phó với Bà Bà tới cùng.

Lời nói của ni cô đó rất đắc thế.

Vô Kỵ với Triệu Minh nghe thấy cũng khen ngợi thầm.

Kim Hoa Bà Bà liền trợn mắt đáp:

- Lúc Tôn sư viên tịch đã có di mệnh truyền lại phái người kế nhận chưởng môn, chẳng hay là vị nào thế? mời ra đây cho lão bà gặp mặt!

Lời nói của Kim Hoa Bà Bà đã dịu dàng hơn lúc nói với Mẩn Quân nhiều.

Chỉ Nhược tiến lên vái chào và nói:

- Chào Bà Bà, tôi, Chu Chỉ Nhược là chưởng môn đời thứ tư của phái Nga Mi, thỉnh an Bà Bà.

Mẩn Quân lớn tiếng xen lời đáp:

- Không biết xấu hổ, tự phong mình là chưởng môn thứ tư của bổn phái!

Thù Nhi cười nhạt và lạnh lùng nói:

- Chị họ Chu nầy là người rất tự tế, hồi con còn nhỏ ở Tây vực cũng đã được chị họ Chu nầy trông mom cho đấy! Chị họ Chu không xứng đáng làm chưởng môn chẳng lẽ ngươi lại xứng đáng lắm hay sao? Nếu ngươi còn hổn láo như vậy ta sẽ thưởng cho ngươi mấy cái tát liền.

Mẩn Quân cả giận rút kiếm ra xông lại đâm Thù Nhi.

Thù Nhi né mình sang bên, giơ chưởng ra tát luôn vào mặt Mẩn Quân một cái.

Thủ pháp và thân pháp của nàng nhanh nhẹn y như Kim Hoa bà bà vậy.

Mẩn Quân vội cúi đầu tránh né ví thế mà kiếm của nàng ta không thể nào đâm trúng được Thù Nhi.

Kim Hoa Bà Bà thấy vậy liền vừa cười vừa đáp:

- Con nhỏ nầy, ta dạy mi bao nhiêu lâu rồi, chỉ có một thế tát đó mà học mãi không thành công, mi thử coi đây.

Nói xong, bà ta chỉ giơ tay lên khẻ tát một cái đã tát trúng ngay gò má bên phải của Mẩn Quân liền! Rồi bà ta lại trái tay tát thêm một cái vào má bên trái của Mẩn Quân nữa.

Tiếp theo đó là bà ta lại tát Mẩn Quân luôn hai cái tát nữa.

Bốn cái tát của Kim Hoa Bà Bà rõ rệt, ai ai cũng đều trông thấy hết nhưng không hiểu tại sao Mẩn Quân cứ đứng yên, không chống cự gì cả, cứ để cho bà ta tát y như không có việc xảy ra cả vậy!

Thù Nhi thấy vậy liền cười vừa nói:

- Bà Bà! Con đã biết thủ pháp đó rồi, để con đánh thử cho Bà Bà coi!

Nói xong, nàng xông lại tát luôn Mẩn Quân một cái, vì sợ Kim Hoa Bà Bà, Mẩn Quân không dám tránh né nên mới bị thương Thù Nhi tát một cách dễ dàng như vậy, y thị tức giận vô cùng suýt chết giấc tại chỗ.

Ðột nhiên Chỉ Nhược xông lại giơ tay ra cản tay của Thù Nhi lại và nói:

- Xin chị hãy ngừng tay lại!

Nói xong, nàng quay đầu lại nói với Kim Hoa Bà Bà rằng:

- Thưa Bà Bà, vừa rồi Tịnh Trú sư tỷ đã nói rõ, võ công của đồng môn của bổn phái tuy không giỏi bằng Bà Bà thực, nhưng chúng cháu không thể nào để cho Bà Bà hà hiếp một cách nhục nhã như thế đâu.

Kim Hoa Bà Bà vừa cười vừa đáp:

- Vì con bé họ Ðinh kia nó chua ngoa và đanh đá quá, mở miệng ra là nó không phục cô em làm chưởng môn, như vậy cô em còn ra mặt nói hộ cho nó làm chi?

Chỉ Nhược vừa cười vừa đáp:

- Ðó là việc của bổn phái, không liên can gì đến người ngoài, cháu đã được tiên sư giao phó, tất nhiên bất cứ việc to nhỏ nào cháu cũng không muốn người ngoài làm nhục đến bổn phái.

Kim Hoa Bà Bà vừa cười vừa nói tiếp:

- Hay lắm! Hay lắm!...

Bà ta vừa nói có bấy nhiêu liền ho lên rũ rượi liền.

Thù Nhi liền lấy một viên thuốc đưa cho Kim Hoa Bà Bà uống.

Uống xong viên thuốc Kim Hoa Bà Bà đã đỡ ngay, đột nhiên bà ta giở song chưởng tấn công liền!

Một tay để vào trước ngực và một tay dí vào sau lưng của Chỉ Nhược, hai nơi đó là hai nơi yếu huyệt chí mạng của ta, thế công của Kim Hoa Bà Bà quái dị vô cùng, dù Chỉ Nhược đã học được rất nhiều võ công của Diệt Tuyệt Sư thái, nhưng đối với Kim Hoa Bà Bà thì kém về hơn rất nhiều nên không sao tránh né nổi và đã bị Kim Hoa Bà Bà đã kiềm chế liền, cho nên nàng biến sắc mặt không sao nói lên được nữa lời.

Kim Hoa Bà Bà lạnh lùng hỏi:

- Chu cô nương! Sao võ công của một người chưởng môn lại tầm thường như thế này? Chẳng lẽ tôn sư lại giao trọng trách cho một cô bé yếu ớt như vậy hay sao? Tôi chắc cô nương nói láo thì có.

Chỉ Nhược hoàn hồn xong, liền nghĩ:

- Bây giờ bà ta chỉ còn dùng sức ấn mạnh một cái là ta bị chết ngay tại chỗ, nhưng ta không thể nào làm mất oai danh của sư phụ được, thà chết thì chết .

Nghĩ đến sư phụ nàng bỗng cảm thấy hăng hái vô cùng, vội giơ tay phải lên và nói:

- Ðây là cà sá sắt của chưởng môn của phái Nga Mi do tiên sư đeo vào tay cháu, chứ cháu có nói dối đâu!

Kim Hoa Bà Bà vừa cười vừa nói tiếp:

- Muốn làm chưởng môn của phái Nga Mi, trách nhiệm rất nặng nề. Quý phái từ Quách nữ hiệp, tổ sư sáng lập môn phái tới giờ, chưởng môn đời nào cũng phải gánh vác gánh nặng, những sự bí mật bên trong, chẳng lẽ tôn sư cũng nói cả cho cô nương nghe hay sao? Tôi chắc tôn sư chưa nói cho cô nương biết đâu.

Chỉ Nhược vội đáp:

- Sao lại không?

Nàng sực nghĩ tới:

- Tại sao bà ta lại nói tiếp sự bí mật của bổn phái?

Kim Hoa bà bà hỏi tiếp:

- Vậy thanh Ỷ Thiên Kiếm đâu?

- Ðó là vật của bổn phái, có liên can gì đến Bà Bà đâu? Cháu xin thưa thực với Bà Bà rằng, tuy sư phục của cháu đã viên tịch thực nhưng phái Nga Mi chúng tôi không vì thế mà bị hủy, bây giờ tôi đã bị bà kiềm chế. Bà muốn giết thì giết, còn nếu Bà Bà muốn uy hiếp bắt buộc tôi phải làm những việc bất nghĩa thì tôi nhất định không khi nào làm đâu! Bổn phái mắc phải gian kế của triều đình và mọi người bị giam ở trên một cái tháp cao, nhưng không có một người nào chịu đầu hàng triều đình hết. Chỉ Nhược tôi tuy ít tuổi mà phải mang trọng trách, tự biết là khó khăn thực, nhưng tôi đã coi sự sống chết không có nghĩa lý gì hết...

Vô Kỵ thấy Chỉ Nhược bị Kim Hoa Bà Bà kềm chế như thế mà nàng vẫn còn bướng bỉnh như vậy, chàng chỉ sợ Kim Hoa Bà Bà nổi giận khẽ tay một cái là nàng sẽ bị toi mạng liền, cho nên chàng càng nóng lòng sốt ruột muốn ra tay cứu giúp.

Triệu Minh đã biết ý định của chàng vội nắm tay rồi khẽ run mấy cái, có ý bảo chàng đừng có nóng nảy như thế vội.

Chàng nghe thấy Kim Hoa Bà Bà ha hả cười rồi nói tiếp:

- Kể ra Diệt Tuyệt Sư thái cũng sành mắt đấy, người chưởng môn này võ công tuy còn non nớt nhưng tánh tình cũng khá bướng bỉnh đấy. Ở phải đấy, phải đấy! Võ công non nớt có thể luyện giỏi được, chỉ tính nết của con người thì không sao thay đổi được hết.

Sự thực lúc này Chỉ Nhược đã hãi sợ đến mất hết cả hồn vía, nhưng chàng chỉ nghĩ đến lúc sư phụ chết trối trăn như thế nào nên nàng mới dám bướng bỉnh như vậy. Không ngờ Kim Hoa Bà Bà lại tưởng rằng là người bướng bỉnh nên mới khen lầm.

Các đồng môn của phái Nga Mi đều khinh thường Chỉ Nhược nhưng lúc nầy thấy nàng không nghĩ đến thù cũ mà xông ra bênh vực Mẩn Quân như vậy và chính vì thế mà nàng bị kẻ địch kềm chế tuy bị nguy hiểm như vậy mà nàng vẫn không chịu để mất oai danh của môn phái, vì vậy ai nấy đều tỏ lòng kính phục nàng vô cùng.

Tịnh Trú giơ trường kiếm lên và huýt lên mấy tiếng còi, các đệ tử của phái Nga Mi đều rút kiếm ra bao vây chung quanh cái đình đó.

Kim Hoa Bà Bà vừa cười vừa hỏi:

- Làm gì thế? các ngươi làm cái gì thế?

Trịnh Trú đáp:

- Chẳng hay bà kềm chế chưởng môn của chúng tôi như thế làm chi?

Kim Hoa Bà Bà ho mấy tiếng rồi mới hỏi lại:

- Các ngươi muốn thị người nhiều mà thắng ta phải không? Hà, hà! Với Kim Hoa Bà Bà này, dù các ngươi có nhiều gấp bội lần thì cũng chả thấm tháp vào đâu cả!

Ðột nhiên bà ta buông Chỉ Nhược ra, lướt mình tới trước Tịnh Trú, rồi bà giơ tay hai ngón tay lên định móc mắt vị sư nữ kia.

Tịnh Trú vội xoay mũi kiếm lại đâm vào tay của Bà Bà, nhưng mọi người đều nghe thấy có người "hự" một tiếng, và có một sư nữ trẻ tuổi đứng cạnh Tịnh Trú đã té lăn ra đất liền.

Thì ra trong khi Kim Hoa Bà Bà giơ tay ra móc mắt Tịnh Trú cũng giơ chân lên đá vào yếu huyệt của vị sư nữ trẻ tuổi kia nên sư nữ ấy mới bị điểm huyệt mà té ngã như thế. tiếp theo đó, bà nhảy đi nhảy lại, nảy ngược chạy xuôi một hồi, thỉnh thoảng ho mấy tiếng nữa. Bao nhiêu đao kiếm của các đệ tử của phái Nga Mi bị bà ta điểm trúng yếu huyệt ra lăn ra đất.

Thủ pháp điểm huyệt của Kim Hoa Bà Bà rất ác độc người nào bị bà ta điểm trúng yếu huyệt đều lớn tiếng kêu la. Vì vậy trong vườn hoang cứ có tiếng kêu la thảm khốc hoài.

Ðiểm huyệt các đệ tử của phái Nga Mi bao vây bên ngoài đình xong, Kim Hoa Bà Bà vỗ tay một cái nhảy vào trong đình và nói với Chỉ Nhược rằng:

- Chu cô nương đã trông thấy võ công của ta chưa? Vậy cô nương bảo võ công của Bà Bà này có cao siêu hơn võ công của phái Nga Mi không?

Chỉ Nhược đáp:

- Dù sao võ công của bổn phái cũng cao siêu hơn Bà Bà. Năm xưa bà đã bị kiếm của tiên sư đánh bại. Chẳng lẽ Bà Bà đã quên rồi hay sao?

Kim Hoa Bà Bà tức giận vô cùng, vội hỏi:

- Lần này Diệt Tuyệt lão ni nhờ có bảo kiếm sắc bén mới thắng nổi ta đấy chứ? Có phải mụ ta giỏi võ hơn Bà Bà này đâu?

Chỉ Nhược lại đáp:

Thưa Bà Bà suy nghĩ giây lát mới đáp:

Không biết. Sỡ dĩ ngày hôm nay ta tới đây cũng muốn đấu với lệnh một phen, để xem ai giỏi hơn ai. Hà, ngờ đâu lệnh sư lại viên tịch rồi. Từ nay trở đi, trong võ lâm thiếu mất một tay cao thủ. Trước kia không trông mong thấy cố nhân, và sau này không được gặp những kẻ hậu lai, từ nay trở đi phái Nga Mi sẽ suy đồi.

Bảy tám tên đệ tử của phái Nga Mi vẫn kêu la thảm khốc hoài .

Tịnh Trú với mười mấy người đệ tử khác vội xoa bóp cho những người ấy, nhưng không thấy công hiệu gì cả.

Năm xưa, Vô Kỵ đã cứu chữa rất nhiều tay cao thủ bị Kim Hoa Bà Bà đả thương, nên chàng biết Bà Bà ra tay rất độc ác. Chàng định nhảy ra cứu chữa cho mấy người đó, nhưng nghĩ lại:

- Ta nhảy ra cứu chữa cho bọn người kia là ra tay giúp cho Chu cô nương nhưng vì thế lại mất lòng em Thù Nhi. Cô em họ nầy đệ tử với ta lắm và nàng lại là em họ ngoại của ta nữa , ta không nên làm mích lòng nàng .

Chàng nghĩ tới đó lại nghe thấy Kim Hoa Bà Bà nói tiếp:

- Chu cô nương đã chịu thua lão bà này chưa?

Chỉ Nhược vẫn cứng đầu nói:

- Võ công của bổn phái lớn rộng như bể cả, không thể nào biết hết trong một thời gian luyện tập rất ngắn ngủi được. Cháu còn ít tuổi tất nhiên không thể nào địch nổi bà rổi. Nhưng sau này cháu học tập thêm ít năm tới lúc nầy chắc đâu Bà Bà còn thắng nổi cháu nữa.

Kim Hoa Bà Bà vừa cười vừa nói tiếp:

- Hay lắm, hay lắm, Kim Hoa Bà Bà này cáo từ ngay đây. Chờ bao giờ cô nương học thành tài, Bà Bà sẽ lại đây giải huyệt cho mấy người kia.

Nói xong, bà ta dắt Thù Nhi đi luôn.

Chỉ Nhược nghĩ thầm:

- Các đồng môn bị đau đớn như thế kia, chịu sao nổi một đôi tiếng đồng hồ. Bây giờ Kim Hoa Bà Bà bỏ đi, không ai cứu chữa cho mấy người đó, chỉ sợ họ chịu không nổi sẽ chết cũng nên?

Nghĩ đoạn, nàng vội gọi:

- Bà Bà hãy khoan đi đã làm ơn giải cứu hộ sư huynh tỷ của cháu đi.

Kim Hoa Bà Bà đáp:

- Nếu muốn Bà Bà này cứu giúp thì không khó, từ nay trở đi Kim Hoa Bà Bà và Thù Nhi đi tới đâu thì phái Nga Mi phải tránh tới đó.

Chỉ Nhược nghe Kim Hoa Bà Bà nói như vậy, liền nghĩ thầm:

- Ta vừa làm chưởng môn và đã gặp một đại địch như vậy nếu nhận lời Bà Bà thì phái Nga Mi còn đứng vững trong võ lâm sao được. Như vậy có khác gì phái Nga Mi bị tiêu hủy bởi tay ta không?

Kim Hoa Bà Bà thấy Chỉ Nhược trù trừ, liền mỉm cười nói tiếp:

- Cô nương không chịu làm mất oai danh của Nga Mi cũng được. Cô nương cho tôi mượn. Ý Thiên kiếm xử dụng thì tôi sẽ giải cứu các đồng môn cho.

Chỉ Nhược đáp:

- Trong khi thầy trò cháu bị triều đình bắt giữ ở trên tháp, thanh kiếm Ỷ Thiên đã lọt vào tay triều đình rồi.

Kim Hoa Bà Bà đã biết trước việc này rồi, nhưng chưa tin hẳn, nên mới lên tiếng hỏi như vậy, nay nghe Chỉ Nhược nói, mới biết rõ là sự thực, đột nhiên lớn tiếng quát hỏi:

- Người muốn bảo tồn thanh danh của phái Nga Mi, thì không thể nào bảo tồn được tính mạng của mình.

Nói xong, bà ta móc túi lấy một viên thuốc ra đưa cho Chỉ Nhược và nói tiếp:

- Thuốc này là thuốc độc Ðoạn Trường, nếu cô nương dám uống viên thuốc nầy thì tôi sẽ cứu những người đồng môn cho.

Chỉ Nhược nghĩ tới lời dặn của sư phụ, lòng đau như ruột cắt và nghĩ tiếp:

- Sư phụ bảo ta phải lừa dối Trương công tử, ta làm sao mà làm việc đó, sống một cách khốn khổ như vầy, thà chết còn hơn nhắm mắt đi rồi trút được hết phiền não.

Nghĩ đoạn, nàng liền cầm lấy viên thuốc độc.

Tịnh Trú thấy vậy vội quát lớn:

- Chu sư muội không thể uống viên thuốc độc đó được.

Vô Kỵ thấy tình thế nguy cấp định bước ra ngăn cản, nhưng Triệu Minh rỉ tai khẽ nói:

- Ngốc tử, thuốc đó là thuốc giải chứ có phải thuốc độc thật đâu mà sợ hãi như vậy.

Vô Kỵ ngẩn người ra, ngơ ngác nhìn Triệu Minh thì Chỉ Nhược đã nuốt viên thuốc kia rồi.

Tịnh Trú và các người đều lớn tiếng kêu la hò hét định xông lại tấn công Kim Hoa Bà Bà.

Bà Bà chỉ mỉm cười nhạt và nói:

- Thuốc độc này phải lâu lắm mới ngấm được. Chu cô nương hãy theo Bà Bà này đi, nếu cô nương ngoan ngoãn nghe lời thì Bà Bà này sẽ cho uống thuốc giải.

Nói xong, Bà Bà đi đến trước những môn hạ của phái nga Mi đang nắm kêu la rên rĩ, chỉ giơ tay ra gỏ vào thân thể của mấy người đó vài cái. Lạ thay những người đó đã hết đau và không còn kêu la nữa, nhưng chân tay hãy còn tê tái, chưa cử động được thôi.

Mấy người đó thấy Chỉ Nhược hy sinh tánh mạng của mình để cứu các đồng môn khỏi đau khổ, cảm động vô cùng.

Có người liền lên tiếng nói:

- Cám ơn Chu sư muội.

Kim Hoa Bà Bà nắm tay Chỉ Nhược khẽ nói:

- Con hãy ngoan ngoãn theo ta, ta không để cho con bị đau khổ đâu.

Chỉ Nhược chưa kịp trả lời, đã thấy có một luồng sức lôi kéo và thấy thân hình của mình bay lơ lửng trên không mà đi.

- Chu sư muội...

Nữ ni định đuổi theo ngăn cản, nhưng đã bị Thù Nhi đứng cạnh đó giơ tay ra cản lại. Tịnh Trú liền thấy một luồng gió rất mạnh lấn át tới liền giơ tả chưởng lên chống đỡ.

Ngờ đâu thế công của Thù Nhi là thế hư và mọi người chỉ nghe kêu "bộp" một tiếng Mẩn Quân đã bị tát một chưởng vào mặt rồi.

Nàng đánh được Mẩn Quân, thích chí cười khúc khích, rồi giở khinh công ra chạy theo Bà Bà và Chỉ Nhược liền:

Vô Kỵ thấy vậy vội nói:

- Mau đuổi theo!

Nói xong, một tay chàng dắt Triệu Minh, một kéo Tiểu Siêu chạy qua bờ tường đuổi theo tức thì.

Tịnh Trú các người đột nhiên thấy trong đám cỏ có ba người nhảy ra, ai nấy đều kinh ngạc vô cùng.

Khinh công của Kim Hoa Bà Bà với Vô Kỵ cao siêu vô cùng.

Chờ tới khi các đệ tử của phái Nga Mi nhảy đầu tường thì họ đã đi mất rồi.

Vô Kỵ đuổi theo được mười trượng thì Kim Hoa bà bà đã hay nhưng chân đã chạy và mồm quát hỏi:

- Ai đuổi theo Bà Bà này thế?

Triệu Minh đáp:

- Ðể lại chưởng môn của bổn phái thì ta sẽ tha chết cho.

Nàng lại khẽ nói với Vô Kỵ rằng:

- Công tử áp trận hộ tôi đừng ra mắt nhé.

Nói xong, nàng tung mình nhảy lên cao mấy trưỡng, múa Ỷ Thiên Kiếm nhắm sau lưng Bà Bà đâm tới.

Nàng xử dụng thế Kim Ðỉnh Phật Quang, chính là kiếm pháp của phái Nga Mi. Nàng quả thực người thông minh, chỉ học một lần ở chùa Vạn Pháp mà bây giờ có thể xử dụng một cách đứng mức. Tuy nội lực của nàng còn non nớt, nhưng khinh công của nàng đã luyện tới mức thượng nặng nên kiếm pháp của nàng lợi hại vô cùng.

Kim Hoa Bà Bà nghe phía sau có tiếng gió động, liền quay người trở lại.

Triệu Minh lại giở thế Thiên Phong kinh tú (nghìn ngọn núi xanh biếc) .

Kim Hoa Bà Bà nhận ra thanh kiếm trong tay Triệu Minh là Ỷ Thiên kiếm mà nàng lại xử sụng kiếm pháp của phái Nga Mi lại tưởng lầm nàng là người của phái Nga Mi thực.

Vì chuyên tâm đối phó với Diệt Tuyệt Sư thái, nên Kim Hoa Bà Bà đã nghiên cứu kiếm pháp của phái Nga Mi trong mấy năm liền. Bà ta thấy công lực Triệu Minh còn non nớt, liền tiến gần định cướp Ỷ Thiên kiếm. Ngờ đâu Triệu Minh thấy tình thế quá nguy cấp vội giở kiếm pháp Côn Luân ra chống đỡ. Võ công của Kim Hoa Bà Bà tuy cao siêu thật, nhưng bà ta có ngờ đâu Triệu Minh vội xoay sang kiếm pháp của Côn Luân nên suýt nữa bà ta bị Triệu Minh đâm trúng.

Nhưng may thay bà ta đã vội nằm xuống đất, lăn luôn mấy vòng mới tránh khỏi mấy thế kiếm đó. Tuy nhiên tay áo trái của bà ta đã bị mũi kiếm của Triệu Minh rạch mất một mảnh lớn.

Kim Hoa Bà Bà vừa kinh hãi, vừa tức giận, bèn xông lên, Triệu Minh biết võ công của mình còn kém đối thủ xa, không dám xáp lá cà chỉ múa động Ỷ Thiên cắm bên trái một nhát, chém bên phải một kiếm, lúc thì dùng Không Ðộng kiếm pháp, khi thì giở Hoa Sơn kiếm pháp. Sau thế kiếm của phái Côn Luân, nàng lại giở Ðạt Ma kiếm pháp của phái Thiếu lâm tấn công liền. Thế kiếm nào của nàng cũng là tinh hoa của các phái. Hơn nữa thanh Ỷ Thiên kiếm của nàng vô cùng sắc bén, nên võ công của Bà Bà có cao siêu đến đâu cũng không dám đến gần nàng.

Bà Bà đành ở xa sáu thước, tìm sơ hở để phản công lại mà thôi.

Thù Nhi vội cởi ngay trường kiếm đang đeo ở lưng ra ném cho Kim Hoa Bà Bà.

Triệu Minh nhanh tay chém luôn bảy tám kiếm, điều kiếm thứ chín, bắt buộc Kim Hoa Bà Bà phải dùng khí giới để chống đỡ, chỉ nghe thấy kêu "soẹt" một tiếng, thanh trường kiếm của bà ta tức thì gãy làm đôi.

Kim Hoa Bà Bà kinh hãi vô cùng vội nhảy lùi về phía sau quát hỏi:

- Con nhỏ là ai thế?

Triệu Minh vừa cười vừa đáp:

- Sao mụ không giở Ðồ Long đao ra?

Kim Hoa Bà Bà cả giận trả lời:

- Nếu ta có Ðồ Long đao trong tay, thì mi địch ta sao nổi. Mi có dám theo ta đi để đấu thử Ðồ Long đao của ta không?

Vô Kỵ nghe thấy Kim Hoa Bà Bà nói tới Ðồ Long đao thì kinh ngạc vô cùng lại nghe Triệu Minh nói tiếp:

- Mụ già đi lấy được đao Ðồ Long phải không? Thế thì hay lắm, ta sẽ đợi mụ ở trên kinh đô. Mụ cứ đi lấy đao Ðồ Long tới để đấu tới để đấu với ta đi.

Kim Hoa Bà Bà trả lời:

- Mi hãy quay tréo người, nhắm mắt phải, thè lưỡi ra, hai má nhăn nhó, trông thấy xấu xí và kỳ lạ. Kim Hoa Bà Bà thấy vậy cả giận nhổ nước miếng xuống đất, rồi vứt cây kiếm gãy dắt Thù Nhi cùng Chỉ Nhược đi luôn.

Vô Kỵ liền lên tiếng:

- Chúng ta hãy đuổi theo Bà Bà.

Triệu Minh đáp:

- Khỏi cần, công tử cứ theo tôi đến đằng này tôi cam đoan với công tử Chu cô nương sẽ bình yên vô sự.

Vô Kỵ lại hỏi:

- Cô nương vừa nói đao Ðồ Long gì thế?

- Tôi nghe thấy mụ già nói chuyện trong cái vườn hoang rằng mụ ta đã mượn được thanh bảo đao của một cố nhân ở hải ngoại định đem về đây đấu với Ỷ Thiên kiếm của Diệt Tuyệt sư thái. Tôi liền nghĩ tới câu "Ỷ Thiên bất xuất thùy nhữ thanh phong". Nếu muốn tránh sắc bén với Ỷ Thiến thì chỉ có đao Ðồ Long thôi nên tôi đoán chắc mụ ta đã hỏi nghĩa phụ của công tử mượn đao Ðồ Long ấy rồi. Vừa rồi, tôi dùng Ỷ Thiên kiếm đấu với mụ ta là muốn bắt buộc mụ ta đưa đao Ðồ Long ra, nhưng mụ ta không theo cho nên mới bảo tôi đi theo thể thử. Hình như mụ ta đã biết đao Ðồ Long ở đâu rồi, nhưng chưa lấy được đấy thôi.

Vô Kỵ vừa ngầm nghĩ vừa lẩm bẩm nói:

- Thế thì lạ thật.

Triệu Minh lại nói tiếp:

- Tôi đoán chắc mụ ta thế nào cũng đi về phía bờ bể và đi thuyền ra ngoài khơi kiếm đao. Chúng ta duổi theo và đi trước mụ, đừng để cho Tạ Lão tiền bối hai mắt đã mù, tâm địa rất lương thiện bị mù già ác độc ấy đối.

Vô Kỵ nghe mấy câu đó vội đáp:

- Thoạt tiên chàng nhận lời Triệu Minh đi mượn Ðồ Long là vì đã trót hứa với nàng không muốn nuốt lời. Lúc này chàng nghĩ tới Kim Hoa Bà Bà đi làm khó dễ nghĩa phụ mình, chàng chỉ muốn có cánh bay với nghĩa phụ để ra tay cứu giúp.

Triệu Minh dẫn Vô Kỵ và Tiểu Siêu tới vương phủ dặn tên Thị vệ vài lời.

Tên Thị vệ quay trở vào ngay.

Một lát sau tên đó đã dắt ra chín con ngựa thật cao lớn và còn đem theo một túi vàng bạc đưa cho Triệu Minh.

Ba người cởi ba con ngựa và dắt theo sau sáu con để thay đổi. Cả ba cũng tiến thẳng về phía Ðông.

Sáng hôm sau, chín con ngựa đã mỏi nhoài, Triệu Minh đưa thẻ vàng của Nhữ Dương Vương ra cho quan địa phương để đổi chín con ngựa khác.

Ðêm đó ba người mới đến được bờ bể.

Triệu Minh cởi ngựa đi thẳng vào huyện thành bảo quan huyện cấp tốc lo cho mình một chuyến đi bể lớn và chắc chắn. Trên thuyền và bảo quan huyện cho lính đuổi hết những thuyền huyện đậu ở bờ bể đi về phía miền Nam. Một trăm dặm bờ bể, gần huyện thành đó cấm ngặt không cho đậu thuyền.

Thấy kim bối của Nhỉ Vương, quận huyện phải tuân lệnh.

Không đầy một ngày quan tri huyện đã làm xong mọi việc.

Triệu Minh, Vô Kỵ, Tiểu Siêu đều mặc quần áo thủy thủ.

Lấy sáp màu bôi lên mặt, nên da mặt của ba người đều vàng khè.

Ba người hóa trang xong, không ai đó có thể nhận diện được, nên cũng xuống thuyền ngồi, đợi Kim Hoa Bà Bà tới.

Bộ ước đoán của Triệu Minh rất đúng.

Quả nhiên, nhiều hôm ấy, có một chiếc xe lớn chạy tới bờ bể.

Kim Hoa Bà Bà dắt Thù Nhi và Chỉ Nhược bước xuống rồi đi về phía sau ven bể mướn thuyền.

Bọn thủy thủ đã có lệnh của Triệu Minh nên chúng cứ giả bộ thoát thác.

Sau thấy Bà Bà lấy mấy chén vàng ra, người chủ thuyền mới chịu nhận lời.

Kim Hoa Bà Bà dắt hai nàng xuống thuyền và bảo giường buồn đi thẳng về phía Ðông Nam.

Thuyền đó rất rộng, có hai từng, boong thuyền, mũi, lái cùng hai bên thành thuyền đều trang bị thiết pháo.

Thì ra chiếc thuyền đó là pháo thuyền của Hải quân Mông Cổ.

Năm xưa đại quân Mông Cổ định viễn chinh Nhật Bản nên đã mộ hết nhân tài làm thuyền để làm một hạm đội đi chinh phục Nhật Bản.

Không ngờ bị một trận gió bão, đội chiến thuyền đó điều bị gió bão đánh đắm gần hết, Mông Cổ mới thôi không đánh Nhật Bản nữa.

Triệu Minh bảo quan huyện sửa soạn một chiếc thuyền lớn và kiên cố mới có ngay.

Lúc ấy, Vô Kỵ, Triệu Minh và Tiểu Siêu ba người đã hóa trang thành thủy thủ ẩn núp ở từng dưới cùng.

Nhưng khi Triệu Minh lên tới thuyền đã thấy có nhiều sơ hở.

Nàng không ngờ quan tri huyện lại muốn lấy lòng nàng đi mượn chiếc pháo thuyền của Thủy Sứ đô đốc.

Nhưng khi ấy tất cả thuyền khác đã bị đuổi xuống miền Nam thật xa rồi, muốn có thuyền khác để thay đổi cũng không kịp.

Bất đắc dĩ, Triệu Minh đành phải bảo thủy thủ căng nhiều lưới cá để che lấp mấy khẩu thiết pháo, để trên thuyền mấy thùng cá tươi làm như chiếc pháo thuyền này đã cũ, không xử dụng được nữa, mới sửa đổi thành thuyền đánh cá.

Kim Hoa Bà Bà tìm khắp nơi không thấy một chiếc nào khác đành phải mướn chiếc thuyền lớn đậu trơ trọi ở dưới đấy.

Mụ ta chưa hay biết nhựng sơ hở mà Triệu Minh đã giấu.

Thuyền đi được hai ngày, Vô Kỵ và Triệu Minh ở dưới đáy khoang ngó qua cửa sổ, nhìn ra bên ngoài thấy mặt trời và mặt trăng đều từ bên trái lên, tức là thuyền đang đi về phía Ðông Nam.

Mùa đông giá lạnh gió bắc thổi rất mạnh, thuyền đi rất nhanh, Vô Kỵ bàn với Triệu Minh rằng:

- Nghĩa phụ ở trên đảo Băng Sơn ở phía cực Bắc tại sao thuyền này định đi kiếm ông ta lại về miền Ðông Nam như thế?

Lần nào Triệu Minh cũng trả lời rằng:

- Chắc Kim Hoa Bà Bà thế nào cũng có mưu mô gì đây, huống hồ mùa Ðông không có gió Nam, thì dù có lên miền Bắc cũng không sao đi được.

Trưa ngày thứ ba người lái thuyền lẽn xuống dưới khoang thưa với Triệu Minh rằng:

- Kim Hoa Bà Bà rất quen thuộc vùng biển này, nơi nào bãi cát ngầm, có đá ngầm đều biết rõ hơn cả người lái thuyền nữa.

Vô Kỵ đột nhiên hỏi Triệu Minh:

- Hừ phải rồi có lẽ bà ta muốn trở về Linh Xà Ðảo chắc?

Triệu Minh hỏi lại:

- Linh Xà Ðảo là gì?

Vô Kỵ đáp:

- Nhà của Kim Hoa Bà Bà ở trên đảo Linh Xà, chồng quá cố của bà ta là Ngân Ðiệp tiên sinh. Linh Xà Ðảo, Kim Hoa Ngân Ðiệp năm xưa đã oai trấn giang hồ một thời chẳng lẽ cô nương không nghe người ta nói tới hay sao?

Triệu Minh phì cười đáp:

- Công tử lớn hơn tôi bao nhiêu tuổi nào? Mà làm như rất thạo chuyện giang hồ vậy.

- Minh Giáo chúng tôi, tuy là tà ma ngoại đạo, nhưng biết nhiều chuyện giang hồ hơn Quận chúa nương nương.

Sống chung với nhau mấy ngày dưới khoang thuyền lại cùng coi Kim Hoa Bà Bà là kẻ thù chung, hai người ngày càng khắn khít.

Triệu Minh vừa cười vừa nói:

- Ðại giáo chủ làm ơn kể lại sự tích Kim Hoa Ngân Diệp Linh Xà oai trấn trên giang hồ như thế nào để cho con bể xưa nay vẫn ở trong thâm cung được hay rõ.

Vô Kỵ vừa cười vừa đáp:

- Nói ra thì xấu hổ, Ngân Diệp tiên sinh là người nhu thế nào quả thật tôi không biết gì cả. Còn Kim Hoa Bà Bà thì tôi đã gây hắn với bà ta một phen rồi.

Chàng liền đem chuyện Kim Hoa Bà Bà ở trong Hồ Ðiệp cốc như thế nào, bà ta làm cho các vị cao thủ của các môn phái sống dở chết dở ra sao.

Nhưng những người đó nhờ mình cứu chữa, rồi Kim Hoa Bà Bà đấu với Diệt Tuyệt Sư thái. Bà ta bị Sư thái đánh thua, vợ chồng Hồ Thanh Ngưu sợ bà ta tầm thù, bỏ nhà đi, nhưng rốt cuộc vẫn bị bà ta giết chếtv.v... chàng đều kể hết cho Triệu Minh nghe.

Nghĩ đến vợ chồng Thanh Ngưu, chàng lại thương tiếc, hai mắt đỏ ngầu.

Sau đó chàng kể cho Triệu Minh nghe Thù Nhi định bắt chàng đi Linh Xà đảo làm bạn nhưng chàng không nghe. Trái lại chuyện chàng cắn tay Thù Nhi, chàng không nói, vì sợ Triệu Minh cười.

Triệu Minh lẳng lặng nghe Vô Kỵ kể xong liền, liền nghiêm nét mặt lại và nói:

- Trương công tử thoạt tiên, tôi cứ tưởng bà già này là một cao thủ có võ công rất cao siêu, bây giờ mới biết bên trong còn có nhiều chuyện ân oán như thế. Nghe công tử nói thì lão Bà Bà này rất khó đối phó, chúng ta phải cẩn thận lắm mới được.

Vô Kỵ vừa cười vừa đỡ lời:

- Quận chúa nương nương văn võ toàn tài, hạ thuộc lại có rất nhiều người tài giỏi, đối phó với một Kim Hoa Bà Bà này có nghĩa lý gì đâu.

- Chỉ tiếc rằng ở trên bể cả này tôi không có cách gì gọi những võ sĩ và Phiên tăng tới đây.

- Thế những người bếp, nấu nướng, những thủy thủ kéo buồm chả là những hảo thủ hạng nhất trong giang hồ là gì? Chẳng lẽ chúng ta là hảo thủ hạng nhì hay sao?

Triệu Minh nghe Vô Kỵ nói như vậy, ngẩn người ra cười khúc khích!

- Phục thật, phục thật. Ðại giáo chủ sành thật. Cái gì cũng không thể giấu được giáo chủ.

Thì ra lúc Triệu Minh về Vương phủ lấy tiền bạc và ngựa đã ngấm ngầm điều động một số vệ sĩ ra bờ bể đợi chờ, những người đó liền phóng ngựa theo sau nên đến chậm hơn hơn Vô Kỵ chừng nửa ngày thôi.

Những người này chưa ai tham dự trận đấu ở chùa Vạn Pháp cả và cũng chưa gặp Vô Kỵ bao giờ.

Tuy chúng đã cố hết sức che đậy, nhưng người có võ nghệ giấu kín đến đâu vẫn để cho người thông thạo biết liền. Vì thế Vô Kỵ vừa trông thấy bọn chúng đã biết ngay.

Triệu Minh thấy Vô Kỵ hay biết bộ hạ của mình trong lòng lo âu vô cùng. Nàng chỉ sợ Kim Hoa Bà Bà là người gian giảo như thế, thế nào cũng hay biết trước Vô Kỵ. Cũng may bên nàng có rất nhiều người dù Kim Hoa Bà Bà hay biết hay không cũng không sợ. Nàng quyết định, nếu Kim Hoa Bà Bà để yên thì nàng sẽ giả bộ như câm như điếc. Trong mấy ngày đó, người lo lắng nhất là Vô Kỵ vì chàng sợ Chỉ Nhược uống viên thuốc độc của Kim Hoa Bà Bà, nhỡ thuốc đó làm nguy mà bị toi mạng thì sao?

Triệu Minh thấy chàng cau mày suy nghĩ nàng liền phái người lên trên boong thuyền giả tát nước xem có động tịnh về Chỉ Nhược?

Nhưng lần nào người của nàng xuống báo cáo Chỉ Nhược ăn nói và cử chỉ đã như thường rồi chứ không có vẻ gì trúng độc, Vô Kỵ mới yên tâm.

Chàng nghĩ đến câu chuyện năm xưa, Thù Nhi ngồi cạnh chàng rồi bị Thái Sung Võ Liệt và Mẫn Quân các người vây đánh.

Trước mặt những người đó chàng còn lớn tiếng nói:

- Cô nương, tôi thành tâm lấy cô nương, lấy cô nương làm vợ, chỉ mong cô đừng bảo tôi không xứng đáng làm chồng thôi.

Ngày hôm đó, chàng ngồi một góc khoang thuyền ngẫm nghĩ lại lời nói xưa thì xấu hổ, mặt đỏ bừng.

Triệu Minh đột nhiên lên tiếng hỏi:

- Có phải công tử nghĩ đến Chu cô nương đấy không.

Vô Kỵ đáp:

- Không.

- Công tử nghĩ thì nghĩ, có ai cấm đâu mà cứ phải nói dối như thế.

- Tội gì phải nói dối, tôi đã nói cho cô nương biết là tôi không nhớ Chu cô nương mà.

- Nếu công tử nhớ Khổ Ðầu Ðà, Vi Nhất Tiếu các người, mặt của công tử phải khác. Chứ không bao giờ có vẻ nhu mì và hổ thẹn như thế này.

Vô Kỵ ngượng vô cùng, tủm tỉm cười đáp:

- Cô nương lợi hại thật, người nghĩ nét mặt lộ xấu hay đẹp cô nương cũng đoán được. Nhưng nói thật để cô nương biết người mà tôi đang nghĩ đây lại xấu xí lắm.

Triệu Minh thấy vẻ mặt chàng rất thành khẩn, nên nàng chỉ mỉm cười chứ không hỏi lại nữa. Dù nàng thông minh đến đâu, nàng cũng không ngờ Vô Kỵ nghĩ đến Thù Nhi, một cô bé xấu xí.

Vô Kỵ biết sở dĩ Thù Nhi xấu xí như thế vì nàng luyện môn Thiên Thủ Tuyệt hộ thủ. Thật ra mặt của nàng rất xinh đẹp. Chàng lại nghĩ tới, khi chàng bị rớt xuống chân núi, Thù Nhi nằm phục xuống khóc lóc một cách chân thành, chàng lại cảm động thêm.

Từ khi chàng lên Quang Minh đỉnh đến giờ ngày đêm bận luyện võ hoặc đi đây đó vì việc của Minh giáo, không bao giờ được bình tĩnh và an nhàn như lúc này để hồi tưởng lại chuyện xưa. Có một lần chàng ngẫu nhiên nhớ đến Thù Nhi, đã sai lãnh Khiêm phái người đi xung quanh Quang Minh đỉnh để tìm kiếm, và cũng có lần hỏi Nhất Tiếu, nhưng không ai biết Thù Nhi đâu.

Triệu Minh bỗng hỏi:

- Công tử lại hối hận gì thế?

Vô Kỵ chưa kịp trả lời thì đột nhiên nghe thấy trên boong thyền có tiếng quát tháo vọng xuống.

Tiếp theo, một thủy thủ chạy xuống thưa rằng:

- Ðã thấy đất liền ở phía đằng trước rồi, bà cụ đang sai chúng tôi lái thuyền vào bờ.

Triệu Minh với Vô Kỵ ngó qua lỗ hổng cửa sổ, nhìn ra bên ngoài, thấy cách đó mấy dặm có một cái đảo lớn cây cối mọc um tùm. Góc phía Ðông của hòn đảo đó, có mấy ngọn núi rất cao. Thuyền được gió cứ tiến thẳng về phía ấy. Giây phút sau, thuyền đã tới trước đảo. Bờ phía Ðông của hòn đảo có đá chạy thẳng xuống bể. Bên dưới không có bãi cát nào hết, nên thuyền lớn như thế mà cũng có thể ghé vào bờ được.

Thuyền chưa đậu yên, mọi người đã nghe thấy trên đỉnh núi có tiếng rú rất dài vọng tới. Chỉ nghe tiếng rú oai hùng đó cũng khiến người ta phấn chấn.

Vô Kỵ nghe thấy tiếng rú đó liền mừng rỡ vô cùng, vì chàng nhận ra tiếng rú đó là tiếng rú của Tạ Tốn. Chàng thấy xa cách nhau hơn mười năm mà nghĩa phụ mình hùng phong vẫn như xưa, nên chàng mới mừng rỡ như thế.

Lúc ấy chàng không kịp nghĩ tới Tạ Tốn đang ở Băng Hỏa đảo, tại sao lại tới nơi đây được. Chàng cũng không sợ Kim Hoa Bà Bà biết rõ mặt mũi của mình vội leo lên trên boong thuyền đi ra đằng sau ngắm nhìn về phía có tiếng hú vọng tới.

Chàng thấy bốn người cầm khí giới đang kịch chiến với một người thân hình to lớn vạm vỡ.

Người to lớn đó mình khoác một cái áo dài xám tay không đối địch với bốn tên kia. Người đó chính là Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn.

Vô Kỵ thấy nghĩa phụ mình hai mắt tuy mù, nhưng cũng có thể tay không và một địch bốn mà không nao núng chút nào.

Chàng chưa thấy nghĩa phụ giở võ công ra đối địch với đối phương bao giờ.

Bây giờ chàng mới được trông thấy, trong lòng mừng rỡ vô cùng và nghĩ:

- Năm xưa Kim Mao Sư Vương oai trấn thiên hạ quả thực danh bất hư truyền, nghĩa phụ của ta võ công còn cao siêu hơn cả Thanh Dực Bức Vương, có thể nói là tài ba ngang với ông ngoại ta.

Nhưng bốn người này võ công cao siêu lắm, ở bên dưới trông lên trên núi cao quá nên không sao trông thấy rõ mặt họ được, nhưng chàng thấy bốn người đó ăn mặc quần áo rách rưới, trên vai có vác mấy cái túi vải, không cần nhìn rõ chàng cũng đoán biết họ là mấy trưởng lão của Cái Bang.

Bên cạnh những người đó lại còn có ba người nữa đợi chờ, hình như chúng chờ xem nếu bốn người cự không nổi thì nhảy vào trợ chiến.

Chàng lại nghe một người lên tiếng nói:

- Giao thanh đao Ðồ Long ra, thì ngươi khỏi chết, chẳng hay ngươi muốn lấy đao hay muốn lấy tính mạng?

Vì gió núi rất lớn nên tiếng nói người nọ không sao liên tục được nên Vô Kỵ chỉ nghe được có như vậy thôi.

Tuy chàng chỉ nghe có một câu như thế nhưng cũng biết được các đệ tử của Cái Bang đến đây với mục đích cướp thanh đao Ðồ Long!

Chàng lại nghe thấy Tạ Tốn ha hả cười và đáp:

- Ðồ Long đao ở bên cạnh ta đây, mấy tên giặc hôi thối của Cái Bang kia, có bản lãnh thì cứ việc lại gần đây mà lấy!

Tạ đại hiệp miệng nói mà tay chân vẫn tấn công mấy tên kia lia lịa.

Kim Hoa Bà Bà giở khinh công ra tung mình một cái nhảy lên trên bờ, vừa ho vừa nói:

- Quần hiệp của Cái Bang giáng lâm ở Linh Xà Ðảo này mà sao không cho Lão Bà này biết? Mà quý vị lại còn quấy nhiễu quý tân khách của Linh Xà Ðảo này nữa, chẳng hay quý vị muốn gì thế?

Vô Kỵ nghe Kim Hoa Bà Bà nói như vậy liền nghĩ thầm:

- Thế ra cái đảo này là Linh Xà Ðảo đây! Nghe lời nói của Kim Hoa Bà Bà thì hình như nghĩa phụ ta là khách của mụ ta mời tới. Năm xưa dù mời thế nào, nghĩa phụ ta vẫn cứ nhất định không chịu rời khỏi Băng Hoa Ðảo để trở về Trung Nguyên. Bây giờ tại sao Kim Hoa Bà Bà lại có thể mời được người như thế? Sao Kim Hoa Bà Bà lại biết chỗ ở của nghĩa phụ ta được?

Chàng biết mấy người ở trên đỉnh núi biết bên dưới có người đến cứu viện chỉ mong sớm diệt được Tạ Tốn, cho nên chúng tấn công càng ráo riết hơn trước.

Ngờ đâu chúng đã phạm phải sự tối kỵ nhất trong võ lâm.

Tạ Tốn cả cười một hồi, rồi giơ tay điểm luôn một cái, trúng ngay ngực một người kêu đến "bùng", người nọ rú lên một tiếng rất thảm khốc, rồi cả thân xác của y bị rơi từ trên đỉnh núi xuống vực sâu.

Khi xác của tên đó rơi xuống đến chân núi kêu đến bộp một tiếng, vỡ sọ vọt óc ra trông rất kinh khiếp!

Ba người đứng cạnh áp trận thấy tình thế nguy nan như vậy, một người trong bọn liền quát lờn:

- Lui ra!

Nói xong người đó đâm tới một quyền rất nhẹ nhàng. Sở dĩ y dùng thế quyền đó là muốn cho Tạ Tốn không thể nào biết được quyền của y từ đâu đánh tới.

Quả nhiên, quyền của y tấn công tới gần đích thì Tạ Tốn mới hay, vội giơ tay ra chống đỡ nhưng đã luống cuống chân tay chứ không trầm tĩnh như trước nữa.

Ba người đấu với Ðại hiệp hồi nãy đều dang ra hai bên.

Ông già đứng cạnh cũng xông vào giúp sức.

Ông già này cũng như người kia, chỉ dùng toàn những thủ pháp rất nhẹ nhàng, làm Tạ Tốn càng lép vế thêm.

Kim Hoa Bà Bà thấy vậy thét lớn:

- Quý Trưởng Lão và Trịnh Trưởng Lão, hai vị đã biết Kim Mao Sư Vương đau mắt, tại sao lại còn dùng thủ đoạn mà tấn công? Như vậy không phải là những anh hùng có tên tuổi trong giang hồ chút nào!

Mụ ta vừa nói vừa chống Thiết Quài phi thân lên núi...

- Chân mụ ta đi thì khập khiễng, nhưng khi giở khinh công ra thì nhanh vô cùng.

Kim Hoa Bà Bà chỉ nhảy nhót mấy cái là lên đến trên đỉnh núi.

Thù Nhi cũng theo sau, tuy võ công của nàng còn kém Kim Hoa Bà Bà xa, nhưng khinh công của nàng đã luyện tới mức cao siêu nên nàng chỉ kém Kim Hoa Bà Bà có mấy bước thôi.

Vô Kỵ lo ngại sự an nguy cho nghĩa phụ nên chàng cũng rảo bước đi lên trên núi.

Triệu Minh đi theo sau và khẽ gọi:

- Có Lão bà ở đấy tôi chắc Sư Vương không bị nguy hại đâu! Công tử hà tất phải ra tay, cứ giấu diếm như thế này còn hơn!

Vô Kỵ thấy Triệu Minh nói rất phải liền dắt tay nàng thủng thẳng đi theo phía sau Thù Nhi.

Một lát sau bốn người đã lên tới trên đỉnh núi.

Vô Kỵ thấy Tạ Tốn chỉ có thể bảo vệ thôi, chứ không sao có thể phản công lại được, chàng biết lối đánh của Tạ Tốn tuy không hạ được địch thủ nhưng cũng đủ tư cách để bảo vệ cho mình, nên chàng đỡ lo âu và đứng ở dưới gốc thông thật lớn để xem trận đấu.

Chàng thấy mặt của nghĩa phụ có nhiều nếp nhăn hơn trước, tóc cũng bạc hơn xưa nhiều, cảm động vô cùng, không sao nhịn được, chỉ muốn tiến lên đánh bại hai tên địch kia rồi cùng nghĩa phụ nhận nhau ngay.

Thấy sắc mặt Vô Kỵ, Triệu Minh đã biết ngay ý nghĩ của chàng như thế nào rồi, vội bóp tay chàng một cái và lắc đầu ra hiệu bảo chàng không nên làm như vậy.

Vô Kỵ lại nghe thấy Kim Hoa Bà Bà nói:

- Quý Trưởng Lão, môn Âm Sơn Chưởng Ðại Cửu thức của Trưởng Lão đã lùng danh giang hồ, hà tất Trưởng Lão phải biến môn chưởng pháp đó thành môn Miên Chưởng như vậy làm chi? Còn Trịnh Lão còn tệ hơn thế nữa, bề ngoài xử dụng Bát quái quyền nhưng sự thực trưởng lão dùng Hôi Phong Hốt Liễu quyền để đối địch? Chẳng lẽ Tạ Ðại Hiệp lại không biết rõ âm mưu của hai vị hay sao? ... Năm xưa, Cái Bang là một Ðại Bang hội, hành hiệp trượng nghĩa số một trên giang hồ, ngờ đâu bây giờ càng ngày càng suy đồi... càng hèn mạt.

Tạ Tốn không trông thấy rõ thế võ của kẻ địch ra sao, nên lúc đối địch rất thiệt thòi, lại thêm Quý, Trịnh hai trưởng lão giảo hoạt vô cùng. Lúc ra tay cố ý thay đổi thế võ luôn luôn để cho Tạ Tốn không biết đâu mà phỏng đoán?

Khi nghe Kim Bà Bà nói trắng ra như vậy, Tạ Tốn đã hiểu biết liền.

Nhân lúc Trịnh Trưởng lão chưa kịp thay đổi quyền pháp, đã múa quyền đấm luôn vào quyền của đối thủ một cái.

Quyền lực của Kim Mao Sư Vương nạnh kỳ lạ. Cũng may võ công của Trưởng lão khá cao siêu nhưng cũng bị đẩy lùi về phía sau hai bước mới đứng vững được.

May có Quý Trưởng lảo ra tay tấn công luôn nên Tạ Tốn mới không chịu đuổi theo đấm bồi thêm, chứ nếu không thì Trịnh Trưởng lão đã bị toi mạng rồi.

Vô Kỵ thấy hai trưởng lão của Cái Bang, người béo lùn, mặt đỏ hồng trông như một anh chàng đồ tể của Quý Trưởng lão, còn Trịnh Trưởng lão thì người gầy gò, mặt nhợt nhạt, trông đúng là một người ăn màu thực thụ.

Người thanh niên tuổi trạc ba mươi đứng ở đàng xa ăn mặc quần áo Cái Bang nhưng rất sạch sẽ, trên lưng đeo tám cái túi vải. Với tuổi như y mà làm tới Trưởng lão đeo tới tám cái túi trong Cái Bang như vậy thật là hiếm có.

Chàng liếc nhìn người đó, thấy mặt rất quen thuộc hình như đã gặp nhau ở đâu rồi nhưng nghĩ mãi mà không sao nghĩ ra được.

Chàng bỗng nghe thấy người đó nói:

- Kim Hoa Bà Bà tuy bề ngoài bà không ra tay trợ giúp Tạ Tốn, nhưng mồm bà nói giúp như thế chả là giúp đỡ rồi là gì?

Kim Hoa Bà Bà lạnh lùng đáp:

- Các hạ cũng là Trưởng lão của Cái Bang đấy à? Thứ lỗi bà già này mắt kém chưa hề gặp các hạ bao giờ.

Người nọ vừa cười vừa đáp:

- Tại hạ mới làm Trưởng lão không lâu, tất nhiên Bà Bà không biết. Tại hạ họ Trần tên là Hữu Lượng.

Vô Kỵ nghe người đó xưng danh mới sực nhớ ra và nghĩ thầm:

- Trần Hữu Lượng, phải rồi năm nọ Thái sư phụ đưa ta tới chùa Thiếu Lâm để chữa bệnh, có một thiếu niên chỉ đọc qua một lượt là nhớ liền, y đã đọc cuốn Cửu Dương Công của Võ Ðang mà Thái sư phụ viết ra không thiếu sót một chữ nào. Nhưng y là đệ tử của Thiếu Lâm, sao bây giờ y lại làm Trưởng lão của Cái Bang như thế? Ừ, phải rồi, trong Cái Bang có đủ cả các môn phái, như vậy đệ tử của Thiếu Lâm gia nhập Cái Bang cũng không có gì lạ. Y là người rất thông minh, lại có võ công thựong thặng, bây giờ ra nhập Cái Bang, tất nhiên phải có địa vị hơn người. Huống hồ, y đã học lỏm được Cửu Dương Công của Thái sư phụ ta, như vậy có khác gì y kiêm cả tài ba của Thiếu Lâm và Võ Ðang.

Kim Hoa Bà Bà lớn tiếng quát:

- Môn hạ đệ tử của phái Võ Ðang cũng gia nhập Cái Bang hay sao?

Vô Kỵ thấy Hữu Lượng vận dụng nội công của phái Võ Ðang nên mới bị Kim Hoa Bà Bà nói như vậy.

Chàng tức giận vô cùng và nghĩ thầm:

- Người này học lỏm Cửu Dương Công của phái Võ Ðang rồi ngấm ngần tự tu luyện lấy, thật là không biết xấu hổ một tí nào!

Chàng lại nnghe thấy Hữu Lượng vừa cười vừa trả lời với Kim Hoa Bà Bà rằng:

- Tại hạ xuất thân ở Thiếu Lâm mà bà già này cứ bảo tại hạ là phái Võ Ðang thực là buồn cười hết sức!

Y nói xong mấy câu đó liền thổi hơi ra rất mạnh, quả thật lúc này Cửu Dương Công của y là tâm pháp của Thiếu Lâm chứ không phải của phái Võ Ðang.

Vô Kỵ đã học Cửu Dương Công của cả hai môn phái nên chàng biết rất rõ.

Vì vậy chàng nghe Hữu Lượng trả lời như thế liền nghĩ tiếp:

- Người này học cả nội công của hai môn phái, hai môn y cũng luyện thành công hết, quả thật y là một người có tài chí.

Bỗng chàng nghe có tiếng hò hét vội quay lại nhìn mới hay cánh tay trái của Trịnh Trưởng lão đấm cho một quyền.

Ba tên đệ tử của Cái Bang trông thấy thế liền rút khí giới ra cùng xông lại tấn công Tạ Tốn.

Võ công của ba người này kém Quý, Trịnh hai vị trưởng lão nhiều, có chúng xông vào trận đấu lại càng vướng tay vướng cẳng thêm.

Nhưng hai mắt của Tạ Tốn đã mù, mà từ khi mù đến giờ đại hiệp chưa hề đấu với ai hết, nên không có một chút kinh nghiệm nào về đối địch cả.

Ngày hôm nay mới gặp cường địch, chỉ nghe tiếng gió mà đoán thế võ của đối thủ ra sao thôi, chứ không thể nào phân biệt được phương hướng.

Chỉ đấu được một chốc lát vai của đại hiệp bị chém trúng một kiếm liền, Vô Kỵ thấy tình thế nguy cấp đang định ra tay cứu viện, nhưng Triệu Minh khẽ nói:

- Công tử cứ yên trí. Kim Hoa Bà Bà thế nào cũng ra tay cứu cho mà xem.

Vô Kỵ hơi chần chờ, quả nhiên Bà Bà múa quài trượng cười nhạt một tiếng, nhưng không xông ra cứu viện.

Ðang lúc ấy, chân bên trái của Tạ Tốn lại bị Trịnh Trưởng Lão đá trúng một cái, loạng choạng suýt ngã.

Năm tên Bang chúng của Cái Bang thấy vậy cả mừng cùng nhảy xổ lại, Vô Kỵ đã cầm sẳn bẩy hòn đá nhỏ, vừa thấy năm người nọ xông lại chàng liền ném bẩy hòn đá đó vào năm kẻ địch.

Bẩy hòn đá đó trúng ngay vào người năm tên kia, đồng thời ba món khí giới của chúng bị chém gãy đôi ngay và còn bốn tên trong bọn, bị đao chém trúng ngực, người gãy gục rớt cả xuống dưới núi.

Chỉ có một mình Trịnh Trưởng Lão bị chém gãy một cánh tay phải ngã lăn ra đất thôi, nhưng lưng y vẫn bị hai hòn đá của Vô Kỵ bắn trúng cắm sâu vào trong người.

Bốn người bị chém rớt xuống núi chết, trên người chúng cũng bị đá cắm sâu vào trong thịt.

Sự biến cố xảy ra rất nhanh, mọi người đều kinh hãi vô cùng.

Tới khi ai nấy định thần nhìn kỹ mới hay Tạ Tốn đã cầm một con đao lớn vừa đen vừa nặng chình chịch, con đao ấy chính là Ðồ Long bảo đao, võ lâm chí tôn.

Tạ đại hiệp cầm đao đứng trên đỉnh núi trông thật oai phong lẫm liệt không khác một vị tiên thần giáng trần vậy.

Vô Kỵ đã được trông thấy thanh đao này từ hồi cỏn nhỏ, nhưng chàng không ngờ nó lại sắc bén và oai mãnh như thế.

Kim Hoa Bà Bà đứng yên, mồm lẩm bẩm nói:

- Võ lâm chí tôn, bảo đao Ðồ Long, võ lâm chí tôn, bảo đao Ðồ Long.

Trịnh Trưởng Lão bị chém gãy một cánh tay đau nhức chịu không nổi, kêu la như heo rống vậy.

Trần Hữu Lượng sợ hãi sắc mặt biến thành nhợt nhạt rồi lớn tiếng nói:

- Tạ đại hiệp võ công cái thế, chúng tôi rất lấy làm thán phục. Ðại hiệp làm ơn tha cho Trịnh Trưởng Lão xuống núi, tại hạ xin ở lại đây thường mạng và xin Tạ đại hiệp ra tay chém ngay đi.

Mọi người thấy y nói như vậy đếu cảm động vô cùng, không ngờ y lại là người trọng nghĩa khí như thế. Người trên giang hồ kính trọng nhất là chữ nghĩa.

Vô Kỵ vẫn khinh thường Hữu Lượng, bây giờ thấy y có nghĩa khí như thế trong lòng lại kính trọng thầm.

Tạ Tốn liền đáp:

- Trần Hữu Lượng, mi là một hảo hán như vậy mi cứ việc ẳm tên họ Trịnh này đi, ta cũng không giết mi đâu.

Hữu Lượng đáp:

- Tại hạ cảm ơn Tạ đại hiệp đã không ra tay giết như vậy nhưng vừa rồi đại hiệp đã giết chết năm người của Cái Bang, trong mười năm sau, tại hạ thế nào cũng luyện thành võ công và trở lại đây để trả mối ân cừu này.

Tạ Tốn thấy Hữu Lượng có can đảm như vậy, đủ thấy là một nhân vật phi thường trong võ lâm, nên đại hiệp lại nói tiếp:

- Nếu lão phu sống thêm được mười năm nữa thế nào cũng lãnh giáo võ công của các hạ có cả Thiếu Lâm và Võ Ðang.

Hữu Lượng chắp tay vái chào Kim Hoa Bà Bà và nói tiếp:

- Cái Bang tự tiện xâm nhập quý đảo, tại hạ xin tạ tội Bà Bà nơi đây.

Nói xong y ẳm Trịnh Trưởng Lão, rồi bước đi xuống dưới núi tức thì.

Kim Hoa Bà Bà trợn mắt nhìn Vô Kỵ một cái rồi hỏi:

- Lão già này ném đá điểm huyệt trúng đáo để, tại sao lão lại nắm bẩy hòn đá ở trong tay một lúc như thế? Có phải ngươi định dùng hai hòn đá để ném Hữu Lượng và Bà Bà này không?

Vô Kỵ thấy Kim Hoa Bà Bà đã biết rõ ý định của mình như vậy, nhưng chưa biết rõ mặt mình, nên chàng không trả lời chỉ mỉm cười thôi.

Kim Hoa Bà Bà lại lớn tiếng quát hỏi tiếp:

- Lão già kia quý tính danh là chi? Giả bộ làm thủy thủ theo dò lão Bà Bà nầy để làm gì? Ở trước mặt Bà Bà nầy mà giở trò quỉ ra thì không sao thoát chết được đâu.

Vô Kỵ không quen nói dối, thấy Kim Hoa Bà Bà hỏi như vậy chỉ biết đứng ngẩn người ra, không biết trả lời ra sao.

Triệu Minh dùng giọng khàn khàn vội đáp:

- Chúng ta là Cự Kình Bang xưa nay chuyên sống trên bể cả làm nghề không vốn. Lão Bà Bà bằng lòng trả một số vàng lớn như thế chúng tôi bằng lòng đưa Bà Bà đi một chuyến như vậy có sao đâu. Người anh em của chúng tôi thấy Cái Bang cậy người nhiều bắt nạt người ít, cho nên mới ra tay cứu giúp mà thôi. Ðó là lòng tốt của người anh em tôi, không ngờ Tạ đại hiệp võ công cao siêu như thế. Như vậy sự ra tay của anh em tôi là thừa.

Tuy nàng bắt chước giọng đàn ông để nói, nhưng vẫn không sao che lấp được giọng nói bén nhọn, nên nghe thấy cũng phải đinh tai. Nhờ có tài hóa trang khéo léo nên Kim Hoa Bà Bà vẫn chưa nhận được nàng là ai.

Tạ Tốn giơ tay lên phẩy một cái và nói:

- Cám ơn, các người đi đi, không ngờ ngày hôm nay Kim Mao Sư Vương vì mắt mù bị người ta hà hiếp, lại được Cự Kình Bang trợ giúp như vậy, không ngờ ta cách biệt giang hồ hai mươi năm trong võ lâm lại xuất hiện nhiều người tài năng. Biết thế ta chả cần trở về Trung Nguyên nữa.

Nói tới hai câu sau cùng, giọng nói của đại hiệp có vẻ rầu rĩ cảm khái vô cùng. Thì ra, đại hiệp nghe tiếng bảy hòn đá của Vô Kỵ ném ra mạnh vô cùng, nên mới kinh hãi, sao trong võ lâm lại có người có kình lực đến thế.

Ðại hiệp cảm khái là vì ngày hôm nay nếu không nhờ thanh đao Ðồ Long này thì khó mà thoát khỏi tay lũ quỷ kia.

Kim Hoa Bà Bà thấy vậy liền hỏi:

- Tạ hiền đệ, ngu tỷ biết hiền đệ không ưa người ngoài trợ giúp nên không ra tay chắc hiền đệ không trách ngu tỷ đâu.

Vô Kỵ thấy Kim Hoa Bà Bà gọi nghĩa phụ mình là hiền đệ trong lòng hơi ngạc nhiên, chàng lại nghe thấy Tạ Tốn trả lời:

- Có gì mà trách cơ chứ! Lần nầy trở về Trung Nguyên, Bà Bà làm ơn thầm dò tin tức Vô Kỵ đứa con nuôi của tôi xem nó có còn sống không?

Vô Kỵ cảm động vô cùng, bỗng cảm thấy một bàn tay mềm mại nắm chặt tay mình. Chàng mới biết Triệu Minh không muốn mình nhận ngay Tạ Tốn lúc này, vừa rồi chàng không nghe lời nàng đột nhiên ném đá cứu viện, nên suýt xảy ra chuyện không hay. Vì vậy, chàng thấy Triệu Minh ra hiệu như vậy, đành phải cố chịu nhịn nhất thời.

Chàng lại nghe Kim Hoa Bà Bà trả lời:

- Tôi đã dò hỏi rồi, nhưng không có tin tức gì hết, nhưng tôi dám chắc y chưa chết đâu!

Tạ Tốn thở dài một tiếng, hồi lâu mới hỏi tiếp:

- Hân phu nhân, ngày hôm nay, phu nhân chớ có đánh lừa kẻ mù này. Chẳng lẽ Vô Kỵ con của tôi vẫn còn sống ở trên đời hay sao?

Kim Hoa Bà Bà lưỡng lự mãi không dám trả lời, Thù Nhi đột nhiên xen lời nói:

- Kim Hoa Bà Bà vội giơ tay trái ra nắm chặt lấy cổ tay nàng trợn trừng đôi mắt lên nhìn, vì vậy nàng không dám nói nữa.

Tạ Tốn vội hỏi:

- Hân cô nương nói đi? Có phải Bà Bà của cô lừa dối tôi không?

Nước mắt của Thù Nhi nhỏ ròng hai bên má, Kim Hoa Bà Bà giơ hữu chưởng lên để trên đầu của nàng, hễ nàng lên tiếng nói một câu gì không hợp ý bà ta là bà ta đánh xuống luôn.

Thấy bà ta đe dọa như vậy thù Nhi liền trả lời:

- Tạ đại hiệp, bà tôi không lừa dối Tạ đại hiệp đâu. Lần này chúng tôi đi Trung Nguyên quả thật không dò thấy tin tức của Trương Vô Kỵ.

Kim Hoa Bà Bà thấy nàng nói như vậy mới đổi sắc mặt vui cười, rồi thâu ngay chưởng lại.Nhưng tay trái vẫn còn nắm chặt lấy cổ tay Thù Nhi.

Tạ Tốn lại hỏi tiếp:

- Vậy hai người đã dò thám được những tin tức gì? Minh Giáo của chúng tôi hiện giờ ra sao? Những bạn cũ của tôi hiện giờ như thế nào?

Kim Hoa Bà Bà đáp:

- Tôi không biết, vì tôi không để ý tới việc của giang hồ. Tôi chỉ mải đi tìm kiếm Diệt Tuyệt Sư thái lão ni của phái Nga Mi thôi. Tôi muốn trả được mối thù cũ, nên tôi không để ý đến việc gì khác.

Tạ Tốn nổi giận nói tiếp:

- Giỏi thật! Ở trên đảo Băng Hỏa, Hàn phu nhân đã nói gì với tôi, còn nhớ không? Phu nhân bảo vợ chồng Trương ngũ đệ của tôi đã tự tử trên núi Võ Ðang rồi. Vô Kỵ nghĩa tử của tôi trở thành đứa trẻ mồ côi không ai trông nom tới, đang lưu lạc trên giang hồ, đi đến đâu cũng bị người ta hà hiếp thảm khốc vô cùng.

Kim Hoa Bà Bà vội đáp:

- Phải.

- Phu nhân còn nói y bị người ta đánh trúng một Huyền Minh thần chưởng, ngày đêm đau đớn chịu không nổi. Phu nhân có gặp y ở Hồ Ðiệp Cốc và có gọi y đến Linh Xà đảo nầy, nhưng y không chịu đi phải không?

- Phải, nếu tôi nói dối đại hiệp thì trời di đất diệt và Kim Hoa Bà Bà tôi không bằng một đứa hạ cấp của giang hồ.

- Hân cô nương, còn cô thì nói sao?

Thù Nhi đáp:

- Tôi nói lúc ấy tôi đã hết sức khuyên y đi cùng chúng tôi tới đảo Linh Xà này, y không những không chịu đi theo mà còn cắn tôi một cái. Ðây, tay vẫn còn vết thẹo hẳn hòi chớ không phải tôi nói dối đâu.

Triệu Minh bỗng nắm chặt tay Vô Kỵ, hai mắt nhìn thẳng vào mặt chàng. Mặt tỏ vẻ cười một cách chế nhạo và oán hận. Trong óc nàng nghĩ:

- Giỏi thật, anh nói dối tôi, thì ra anh biết cô bé này từ trước, mà hai người lại còn có sự liên can như thế nữa.

Vô Kỵ xấu hổ, mặt đỏ bừng, nghĩ đến Thù Nhi, người em họ của mình, trong lòng lại cảm thấy chua chát.

Chàng đang suy nghĩ đột nhiên bị Triêu Minh cắn luôn vào mu bàn tay một cái, đến chảy máu ra, nhưng Cửu Dương Thần Công trong đầu chàng phản ứng tức thì.

Tay chàng bỗng có một sức mạnh hất bắn mồm Triệu Minh ra.

Môi nàng cũng chảy máu nốt.

Cả hai đều la rên rỉ.

Vô Kỵ đưa mắt nhìn Triệu Minh, không hiểu tại sao nàng đột nhiên cắn mình như thế. Chàng thấy mặt nàng vẫn tỏ vẻ tươi cười, hai má đỏ bừng tuy bị nứt bật máu tươi ra, nhưng vẫn không lấp nổi vẻ đẹp của nàng.

Chàng đang hồ nghi lại nghe Tạ Tốn nói tiếp:

- Ðược lắm, Hàn phu nhân, sở dĩ tôi không quản ngại đường sá xa xôi rời Băng Hỏa đảo để vế Trung Nguyên cũng chỉ vì nhớ nhung Vô Kỵ, nghĩa tử của tôi. Bà Bà nhận lời tôi đi tìm kiếm Vô Kỵ hộ, tại sao Bà Bà lại không giữ lời hứa như thế?

Vô Kỵ cảm động, nước mắt chảy quanh. Bây giờ chàng mới biết, nghĩa phụ mình không quản ngại nguy hiểm, không sợ kẻ thù giết chóc, mà trở về đất Trung Nguyên nàyđể tìm kiếm mình.

Chàng lại nghe Kim Hoa Bà Bà trả lời:

- Ngày nọ, trước khi rời khỏi Băng Hỏa, tôi có hứa tìm kiếm Trương Vô Kỵ cho đại hiệp, nhưng đại hiệp phải cho tôi mượn đao Ðồ Long. Nếu đại hiệp cho tôi mượn đao trước, lão bà nầy không bao giờ nuốt lời, thế nào cũng dò biết tin tức thiếu niên đó cho đại hiệp hay.

Tạ Tốn lắc đầu:

- Không được, Hàn phu nhân dẫn Vô Kỵ tới đây trước tôi sẽ cho mượn đao sau.

- Thế Tạ hiền đệ không tin người chị này hay sao?

- Việc đời khó nói lắm, ngay đến cha con và anh em không thể tin nhau được, huống hồ tôi với Hàn phu nhân.

Vô Kỵ biết Tạ Tốn nói như vậy là vì nghĩ đến chuyện của Thành Khôn mà nên:

Kim Hoa Bà Bà hỏi tiếp:

- Có phải Tạ hiền đệ nhất định không cho tôi mượn đao trước phải không?

Tạ Tốn đáp:

- Tôi đã tha Trần Hữu Lượng của Cái Bang xuống núi, từ nay trở đi đảo Linh Xà này sẽ không còn ngày nào yên ổn như trước nữa, rồi sẽ có rất nhiều kẻ thù của tôi tìm tiếm tới đây. Kim Mao Sư Vương bây giờ không phải Kim Mao Sư Vương năm xưa nữa, trừ thanh đao Ðồ Long này ra, tôi không còn ai che chở và giúp đỡ cho nữa, hì... hì... Vừa rồi năm người vây đánh rồi, mà hảo hán của Cự Kình Bang cũng biết cầm sẳn bảy hòn gạch, như thế đủ thấy phu nhân đã có ý muốn giết hại tôi rồi. bạn đó còn biết hoài nghi phu nhân, chẳng lẽ tôi không hoài nghi hay sao. Phu nhân chỉ mong tôi bị bọn Cái Bang giết chết rồi phu nhân ra tay giết bọn chúng sau, để cướp lại con đao Ðồ Long. tạ Tốn này tuy mắt mù nhưng lòng vẫn chưa mù. Tôi hỏi phu nhân một câu này, Tạ Tốn tôi tới Linh Xà đảo của phu nhân một cách bí mật lắm, tại sao Bang chúng của Cái Bang lại biết như vậy?

Kim Hoa Bà Bà đáp:

- Tôi đang muốn điều tra xem tại sao chúng lại hay tin như thế.

Tạ Tốn búng tay vào lưỡi đao Ðồ Long một cái rồi mới giấu thanh đao đó vào trong tay áo và nói tiếp:

- Phu nhân không chịu dò la tin tức Vô Kỵ cho tôi thì thôi, nhưng tôi cũng không dám bắt ép phu nhân. Bây giờ tôi đành tái nhập giang hồ làm cho thiên hạ đảo lộn một phen vậy.

Nói xong, y ngẩng nặt lên trời rú lên một tiếng thật dài rồi tung mình lên, chạy thẳng lên trên eo núi ở bên phía Tây. Nhưng y đi nhanh vô cùng và càng đi càng xa.

Sau cùng mọi người thấy y tiến thẳng lên trên ngọn núi ở phía Bắc của hòn đảo.

Mọi người còn thấy trên đỉnh núi có một căn nhà lá trơ trọi đoán biết ngay nhà đó thể nào cũng của Tạ đại hiệp lập nên.

Kim Hoa Bà Bà chờ Tạ Tốn đi xa rồi mới quay lại trợn trừng mắt nhìn Vô Kỵ và Triệu Minh giây lát, mồm thì quát bảo:

- Bước xuống thuyền đi.

Triệu Minh dắt tay Vô Kỵ đi xuống núi trở về thuyền liền.

Vừa đi Vô Kỵ vừa nói:

- Tôi còn phải đi thăm nghĩa phụ đã.

Triệu Minh vội hỏi:

- Khi nghĩa phụ của công tử quay người đi khỏi, đôi mắt của Kim Hoa Bà Bà lộ hung quang, chẳng hay công tử có thấy không?

Vô Kỵ đáp:

- Có, nhưng tôi không sợ mụ ta.

- Tôi thấy đảo này có nhiều sự xếp đặt rất huyền bí, nhưng không hiểu tại sao Bang chúng của Cái Bang lại tới đảo này được? Tại sao Kim Hoa Bà Bà lại biết chỗ ở của Tạ đại hiệp như thế? Tại sao mụ ta lại tìm tới Băng Hỏa đảo được. Bên trong còn có rất nhiều vấn đề khó hiểu lắm, công tử muốn đánh chết mụ ta không khó gì hết, nhưng đánh chết mụ ta rồi thì công tử không còn biết một tí gì về vấn đề khó hiểu ấy nữa.

- Tôi có muốn đánh chết mụ ta đâu. Tôi chỉ nhớ thương nghĩa phụ của tôi quá và chỉ muốn đi gặp ông ta ngay đấy thôi.

- Cách biệt nhau mười mấy năm còn được, bây giờ có phải chờ đợi thêm một vài ngày cũng chưa phải là muộn mà. Trương công tử, tôi nói như thế là muốn bảo chúng ta phải cẩn thận đề phòng Kim Hoa Bà Bà mới được. Nhưng chúng ta còn phải đề phòng cả Trần Hữu Lượng nữa.

- Trần Hữu Lượng ư? Tôi thấy người đó rất trọng nghĩa khí, kể ra y cũng là một anh hùng hảo hán đấy.

- Có thực công tử nghĩ như vậy không? Hay là công tử nói dối tôi.

- Tôi nói dối cô nương làm chi. Vừa rồi cô nương không thấy hay sao. Trần Hữu Lượng cam tâm chết thay Trịnh Trưởng Lão như vậy, chả là một hảo hán hiếm có là gì?

Thấy Vô Kỵ nói như vậy, Triệu Minh ngắm nhìn chàng một hồi rồi thở dài một tiếng, rồi mới nói tiếp:

- Trương công tử ơi. Trương công tử là giáo chủ của Minh Giáo còn phải cầm đầu bao nhiêu anh hùng hào kiệt, tốt, xấu, trung, gian, mà sao công tử lại nhẹ dạ dễ tin người như thế được.

Vô Kỵ ngạc nhiên vội hỏi lại:

- Cô nương nói sao? Tôi đã bị người ta lừa dối ư?

- Rõ ràng Trần Hữu Lượng lừa dối Tạ đại hiệp, công tử trông thấy rõ như vậy mà không hay biết gian kế của hắn hay sao?

Vô Kỵ nổi giận nhảy phắt lên và hỏi lại:

- Y lừa dối nghĩa phụ tôi?

- Lúc Tạ đại hiệp rút Ðồ Long đao ra chém một nhát, các tay cao thủ của Cái Bang liền có bốn tên bị giết chết và một tên bị thương thì Hữu Lượng võ công cao siêu đến đâu cũng không sao địch lại thanh đao Ðồ Long ấy. Trước hoàn cảnh ấy nếu y không tiến lên chịu chết thì chỉ có quỳ xuống đất van lơn thôi. Nhưng công tử thử nghĩ xem, Tạ đại hiệp không muốn để hành tung của mình tiết lộ cho người ngoài hay. Thì lúc ấy Hữu Lượng có vái lạy ba trăm cái và khóc lóc van lơn đến đâu Tạ đại hiệp cũng không tha thứ cho đâu. Chỉ có một cách giả bộ làm hiệp nghĩa thì mới lay chuyển được ý định của đại hiệp thôi.

Nàng vừa nói vừa lấy thuốc cao dán vết thương ở tay của Vô Kỵ và dùng khăn tay của mình bọc cho chàng.

Vô Kỵ thấy nàng giải thích như vậy, cho là rất có lý. Nhưng chàng trông thấy thái độ của Hữu Lượng như vậy thành thực như vậy, chàng lại bán tín bán nghi.

Triệu Minh lại nói:

- Ðược. Tôi hãy nói công tử một câu nầy, lúc Hữu Lượng nói với Tạ đại hiệp hai tay của y làm gì và chân của y làm gì?

Vì lúc ấy Vô Kỵ chỉ nhìn mặt Hữu Lượng và Tạ Tốn thôi nên không để ý đến tay chân của Hữu Lượng. Bây giờ chàng nghe Triệu Minh hỏi như vậy, liền nhắm mắt hồi tưởng giây lát rồi đáp:

- Phải đấy, lúc ấy tôi không để ý đến vấn đề đó, nhưng tôi vẫn còn nhớ y giơ tay phải lên, tay trái cứ xua lia lịa. Còn hai chân của y thì cứ đá hậu về phía sau liên tiếp. Tôi lại tưởng y tấn công lén nghĩa phụ tôi, nhưng tôi không thấy y tiến lên một chút nào hết, nên tôi không nghi ngờ nữa.

- Không ngờ Trương công tử lại ít kinh nghiệm nhận xét người đời như thế. Công tử đã biết Hữu Lượng là một người rất thông minh, trong khi y nói dối đại hiệp, y còn phòng bị đại hiệp biết rõ gian mưu ấy, nên tay y chuẩn bị một thế võ và chân y cũng chuẩn bị một thế võ nữa. Nhưng công tử có biết thế võ ở tay y là đề phòng ai thế võ ở chân là để đối phó với ai không?

Thấy Triệu Minh hỏi như vậy Vô Kỵ ngẫm nghĩ giây lát bỗng mồ hôi lạnh toát ra ướt đẫm cả áo ngoài áo trong, và với giọng run run đáp:

- Phải rồi... thế võ ở chân là y định đá vào người Trinh Trưởng Lão đang nằm dưới đất, còn thế võ trên tay là định chộp Hân cô nương phải không?

- Ðúng lắm. Y định đá Trưởng Lão bắn vào người đại hiệp và tay chộp Hân cô nương, người đã cắn tay ăn thề với công tử để đẩy vào người đại hiệp. Như vậy đại hiệp không còn tay chân đâu mà đánh y, thế là y có dịp đào tẩu liền. Tuy y biết kế đó chưa chắc đã thật hoàn hảo, nhưng ngoài kế đó ra không còn kế nào hơn thế nữa. Nếu là tôi cũng phải làm như y vậy. Chỉ trong giây lát mà y nghĩ ra được mưu kế duy nhứt ấy, đủ thấy là một nhân vật lợi hại như thế nào.

Vô Kỵ càng nghĩ càng kinh hoảng, chàng kinh lịch từ nhỏ đến giờ đã nhiều và cũng đã gặp rất nhiều kẻ nham hiểm gian giảo rồi, nhưng chưa thấy ai lại lợi hại như Hữu Lượng. Một lát sau, chàng lại nói:

- Triệu cô nương, dù y gian giảo đến đâu cũng không qua được mắt cô nương. Như vậy đủ thấy cô nương còn lợi hại hơn y nhiều.

- Công tử nhạo báng tôi phải không. Nếu công tử sợ tôi là người nham hiểm thì xa lánh tôi ngay đừng có gần tôi nữa.

- Cô nương đã xử dụng nhiều quỷ kế đối với tôi rồi, nên việc nào tôi cũng đề phòng cô nương đôi chút.

- Công tử vẫn đề phòng tôi, tại sao tôi bôi thuốc độc vào tay công tử mà công tử không hay biết gì hết?

Vô Kỵ kinh hoảng và cảm thấy tay mình hơi tê tái và ngứa ngáy thật vội cởi khăn tay ra đưa lên mũi ngửi thử, chỉ thấy mùi thơm xông lên. Chàng biết ngay đó là một thứ thuốc dán để cho tiêu hết thịt thối ở vết thương đi. Dán cái đó lên trên vết thương ở trên tay của chàng, tuy không bị hại gì mấy, nhưng cũng bị ngứa ngáy khó chịu. Vì vậy chàng vội đi kiếm nước rửa cho thật sạch.

Triệu Minh theo sau, rửa giúp chàng.

Chàng bỗng đẩy mạnh vai nàng một cái và giận dữ nói:

- Cô nương đừng tới gần tôi nữa. Cô hại tôi như thế để làm chi? Chẳng lẽ người ta không đau đớn hay sao?

Sở dĩ Vô Kỵ đã ngửi qua mùi thuốc cao nọ rồi mà không hay thuốc ấy là thuốc độc là vì Triệu Minh có hòa chút sáp son của mình vào nên Vô Kỵ chỉ ngửi thấy mùi thơm mà không hay thuốc đó có chất độc là thế.

Triệu Minh bị chàng đẩy một cái, chỉ khúc khích cười và nói:

- Công tử hồ đồ thực. Tôi sợ công tử đau đớn chịu không nổi, nên tôi mới phải dùng phương pháp ấy để chữa cho công tử.

Vô Kỵ không thèm trả lời nàng ta, vẻ mặt hầm hầm đi thẳng xuống dưới khoang thuyền, ngồi xuống nhắm nghiền mắt lại.

Triệu Minh đi theo sau liền gọi:

- Trương công tử.

Vô Kỵ giả bộ như say.

Triệu Minh lại gọi thêm mấy tiếng nữa .

Vô Kỵ không trả lời thì chớ, lại còn ngáy rất lớn là khác.

Triệu Minh thấy vậy lẩm bẩm nói:

- Sớm biết như vậy, thà tôi bôi ngay thuốc độc vào, giết chết công tử luôn còn hơn là bị công tử làm thinh không thèm trả lời như vạy.

Vô Kỵ mở mắt ra nhìn và hỏi:

- Sao cô nương lại bảo tôi hồ đồ, không biết ai tốt ai xấu như vậy?

Triệu Minh vừa cười vừa đáp:

- Nếu tôi nói được công tử phải chịu tin và chịu phục thì sao?

- Cô cãi bướng quen rồi, tôi cãi sao nổi cô chứ?

- Tôi chưa nói công tử cũng tự biết là mình đuối lý và biết tôi có thực lòng giúp công tử rồi.

- Không đúng. Trên đời có ai như cô nương không? đã cắn sứt tay người ta không xin lỗi thì chớ, lại còn bôi thêm thuốc độc vào để cho người ta bị đau đớn như vậy. Thế mà cô nương lại còn bảo có lòng tốt giúp tôi nữa?

- Hừ, Trương Vô Kỵ, tôi hãy hỏi công tử vấn đề này đã. Tôi cắn công tử bị thương như vậy có nặng bằng công tử cắn Hân cô nương không?

Thấy nàng ta hỏi như vậy, Vô Kỵ xấu hổ mặt đỏ bừng, ấp úng đáp:

- Ðó là... là việc xưa kia rồi... Cô nương còn nhắc tới làm chi?

Triệu Minh lại nói :

- Tôi cứ thích nhắc nhở tới đấy. Tôi hỏi như vậy, công tử không chịu trả lời lại cứ đánh trống lảng như thế làm chi?

- Tôi chịu nhận, tôi cắn Hân cô nương còn nặng hơn cô cắn tôi nhưng lúc ấy vì cô ta nắm tay tôi mà võ công của tôi lại kém cô ta nhiều. Tôi giằng co mãi không sao thoát khỏi tay cô ta, lúc ấy tôi còn con nít nên cắn bừa tay của cô ta. Còn bây giờ cô khác tôi hồi ấy nhiều, cô có nhỏ như tôi hồi ấy đâu? Và tôi có nắm tay cô như cô ta nắm tay tôi định lôi tới đảo Linh Xà này đâu?

- Thế thì lạ thực. Lúc ấy cô ta lôi kéo công tử phải tới đảo Linh Xà này mà công tử nhất định không chịu tới. Sao bây giờ cô ta không mời mọc gì cả, công tử lại theo dõi cô ta tới đây? Có lẽ vì người đã lớn, trái tim cũng lớn theo nên thay đổi như vậy phải không?

Vô Kỵ xấu hổ, mặt đỏ bừng, vừa cười vừa đáp:

- Lần này cô gọi tôi tới đây chứ?

Thấy chàng nói như vậy, Triệu Minh cũng xấu hổ theo, nhưng trong lòng cảm thấy thích thú.

Hai người nhìn nhau, không nói năng gì cả, rồi cả hai đều quay đầu đi.

Triệu Minh cúi đầu, tỏ vẻ ngượng nghịu khẽ nói tiếp:

- Thôi được, chúng ta không cãi lý nữa. Nhưng công tử hãy nghe tôi nói câu này đã. Năm xưa công tử cắn cô ta một cái, khiến cô ta nhớ công tử mãi mãi. Cứ nghe lời của nàng vừa nói, đủ thấy nàng ta nhớ công tử suốt đời chứ không sai. Còn tôi cắn công tử một cái là cũng muốn công tử càng nhớ tôi mãi.

Tới lúc này,Vô Kỵ mới biết thâm ý của nàng, lòng cảm động vô cùng.

Triệu Minh lại nói tiếp:

- Tôi thấu cái xẹo ở tay Hân cô nương rất sâu, tôi mới nghĩ rằng, vì công tử cắn cô ta bị thương nặng như vậy, nên cô ta mới thương nhớ công tử thiết tha? Nếu tôi không cắn công tử bị thương nặng như cô ta thì... Nhưng tôi không thể nhẫn tâm cắn công tử bị thương nặng như vậy.

Tôi lại sợ cắn công tử không đau, công tử sẽ quên tôi ngay. Nghĩ đi nghĩ lại, rốt cục tôi mới cắn công tử một cái như thế và bôi thêm thuốc Khứ Hư Tiêu Cơ Tán lên, để cho vết thương của công tử loét to ra, thì công tử mới nhớ tôi mãi mãi.

Thấy Triệu Minh có ý nghĩ ngây thơ như vậy, Vô Kỵ không sao nhịn được cười. Chàng nghe những lời chót, mới hay nàng ta có cử chỉ ngu dại như thế cũng vì quá yêu thương. Rốt cục, chàng thở dài một tiếng rồi nói:

- Tôi không dám oán trách cô đâu, và sự thực tôi không biết cô có lòng tốt như thế. Nếu cô không nói ra thì tôi làm sao hiểu được thâm ý của cô? Sự thực cô chả phải làm như thế tôi cũng không sao quên cô được.

Triệu Minh thấy Vô Kỵ nói như thế liền hỏi tiếp:

- Tôi vẫn không tin công tử mến tôi như lời công tử vừa nói. Vì từ trước tới nay, tôi làm cho công tử bực mình nhiều hơn là tử tế.

- Từ giờ trở đi, quý hồ cô nương đừng có làm cho tôi bực mình nữa là xong.

Nói tới chàng cầm tay Triệu Minh đưa lên trên miệng của mình và nói tiếp:

- Bây giờ tôi cũng cắn cô nương một cái, để cô nương phải nhớ tôi mãi mãi mới được.

Triệu Minh hổ thẹn vô cùng vội dang tay ra, chạy tới cửa khoang thuyền mở cửa khoang định phi thân ra bên ngoài thì vừa va chạm phải Tiểu Siêu.

Nàng kinh hãi giựt mình và nghĩ thầm:

- Nguy tai! Có lẽ con nhỏ này đã nghe thấy hết lời nói của hai ta rồi cũng nên? Như vậy thực xấu hổ chết đi được?

Mặt đỏ bừng, nàng vội chạy lên bong thuyền để lánh mặt.

Tiểu Siêu đi tới trước mặt Vô Kỵ và thưa rằng:

- Thưa công tử, tôi trông thấy Kim Hoa Bà Bà và cô bé xấu xí đi về phía bên kia, mỗi người vác một cái túi lớn, không biết họ định làm trò quái gì thế?

Vô Kỵ thấy Tiểu Siêu vào đột ngột như thế cũng sợ nàng ta nghe thấy lời mình nói với Triệu minh nên Tiểu Siêu nói xong chàng chỉ ầm ừ mấy ttiếng.

Giây phút sau, chàng mới định thần và hỏi lại:

- Có phải hai người đi về phía Bắc, lên trên đỉnh núi tiến về chỗ cái nhà nhỏ không?

- Thưa không phải, họ đi về phía Ðông Bắc, hình như vừa đi vừa cãi lộn với nhau. Trông mặt Kim Hoa Bà Bà có vẻ tức giận lắm.

Thấy Tiểu Siêu nói như vậy, Vô Kỵ liền lên trên boong thuyền và đi về phía đàng đuôi.

Xa xa chàng trông thấy Triệu Minh đang đứng mải chăm chú nhìn xuống mặt bể, nhưng không quay người lại.

Cả hai cùng đứng yên như vậy cho tới mặt trời lặn mới trở xuống dưới khoang.

Cơm nước xong, Vô Kỵ nói với Triệu Minh và Tiểu Siêu rằng:

- Tôi đi dò thám nghĩa phụ. Hai cô ở lại thuyền canh gác, vì đi nhiều người sẽ bị Kim Hoa Bà Bà biết liền.

Triệu Minh đáp:

- Công tử không nên đi vội, chờ trời tối hẳn hãy đi thì hơn.

Vô Kỵ tán thành ý kiến của nàng, nhưng vì nhớ thương nghĩa phụ quá, chàng đợi chờ một canh ấy, tựa như đợi chờ mười năm vậy.

Thấy trời đã tối, chàng đứng dậy nhìn Triệu Minh và Tiểu Siêu mỉm cười rồi đi ra ngoài khoang. Triệu Minh liền cởi thanh Ỷ Thiên Kiếm xuống đưa cho chàng và nói:

- Công tử đem thanh kiếm này để phòng thân thì hơn.

Vô Kỵ ngạc nhiên rồi nói:

- Thôi cô nương cứ giữ lấy để phòng thân thì hơn.

- Không, vì không hiểu tại sao tôi cảm thấy lo ngại vô cùng công tử cứ đem theo thì hơn.

- Cô nương lo ngại gì thế?

- Tôi cũng không hiểu tại sao cả, nhưng tôi thấy Kim Hoa Bà Bà là người giảo hoạt khôn lường. Và Trần Hữu Lượng lại nhiều quỷ kế. Hơn nữa tôi không biết nghĩa phụ của công tử có tin công tử là người con nuôi của ông ta không... Hà, đảo này tên là Linh Xà chưa biết chừng trên đảo này có những thú dữ rắn độc rất lợi hại? ... Huống hồ...

Nói tới đó, nàng ngừng lời, Vô Kỵ vội hỏi:

- Huống hồ cái gì?

Triệu Minh giơ tay lên để vào mồm, làm điệu cằn, rồi khúc khích cười.

Vô Kỵ biết nàng nói Hân Nhi người em họ của mình nên chàng lắc đầu xua tay mấy cái rồi nhảy đi luôn.

Triệu Minh liền gọi với:

- Ðỡ lấy!

Nàng vừa nói vừa ném thanh Ỷ Thiên Kiếm cho chàng.

Chàng vội bắt lấy thanh bảo kiếm, trong lòng thấy ấm áp và nghĩ thầm:

- Nàng tin ta như vậy, dám cho ta mượn cả thanh Ỷ Thiên Kiếm nữa.

Chàng cột thanh bảo kiếm lên trên vai, rồi giở khinh công ra đi về phía Bắc của hòn đảo.

Vừa đi vừa nhớ tới lời nói của Triệu Minh chỉ sợ trong những bụi lau có những thú dữ và rắn độc ẩn núp, nên chàng rất cẩn thận, và cứ kiếm những nơi không có cỏ lau mà đi. Ði được một lát, chàng đã tới dưới chân núi, chàng ngẩng đầu nhìn lên phía trên thấy căn nhà lá ở trên đỉnh núi tối đen như mực, liền nghĩ thầm:

- Có lẽ nghĩa phụ ta đã ngủ say chắc.

Chàng nghĩ như vậy, nhưng lại nghĩ tiếp:

- Nghĩa phụ ta mù hai mắt, thì thắp đèn làm chi? Biết đâu ông ta vẫn chưa ngủ...

Chàng đang suy nghĩ, bỗng văng vẳng nghe trên lưng núi ở phía trái có tiếng người nói vọng tới. Chàng vội bò tới nơi có tiếng nói đó.

Nhưng khi tới nơi chàng lại không nghe gì hết. Lúc ấy chỉ có tiếng gió Bắc thổi vào bụi cây có tiếng kêu "xào xào" thôi.

Chàng lại bò về phía trước bốn năm trượng, bỗng nghe thấy một giọng nói rất nhỏ của một người đang nói chuyện với một người khác:

- Sao mi còn không ra tay đi còn cứ đứng chần chừ mãi như thế làm chi?

Chàng nhận ra người đó chính là Kim Hoa Bà Bà, còn người trả lời mụ ta là Hân Nhi, chàng nghe người em họ của mình đáp:

- Bà làm như thế, không nên không phải với người bạn cũ tí nào, Tạ đại hiệp giao hảo với bà mấy chục năm liền, nên ông ta rất tin bà mới theo bà về Trung Nguyên như vậy.

Kim Hoa Bà Bà cười nhạt trả lời:

- Y tin ta ư? Buồn cười thật. Mi hãy còn ít tuổi, trẻ con không biết gì hết. Nếu y tin ta sao y không cho ta mượn thanh bảo đao. Sở dĩ y theo ta trở về Trung Nguyên là muốn tìm đứa con nuôi của y đấy chứ.

Thấy người đối đáp, Vô Kỵ biết Kim Hoa Bà Bà đang hạ độc kế hãm hại nghĩa phụ mình để cướp lấy thanh bảo đao. Vì vậy chàng bò lên mấy trượng nữa để nghe cho rõ.

Trong bóng tối chàng đã trông thấy hình bóng lom khom của Kim Hoa Bà Bà. Chàng còn nghe có tiếng kêu "coong" ở trước mặt bà như đồ kim khí va chạm vào núi đá vậy. Một lát sau có một tiếng kêu như thế nữa. Chàng ngạc nhiên vô cùng, nhưng sợ hai người phát giác nên không dám tiến tới gấn.

Chàng lại nghe thấy Hân Nhi nói tiếp:

- Bà định cướp bảo đao Ðồ Long của ông ta sao không giao chiến thẳng thắn, như vậy mới phải là hành vi của một người anh hùng. Kim Hoa Ngân Diệp của Linh Xà đảo đã oai trấn giang hồ bấy lâu nay, nếu bây giờ Bà Bà làm như vậy, thế nào chả bị thiên hạ hảo hán chê cười. Dù Bà Bà có cướp được thanh bảo đao đó đánh bại được nữ đệ tử phái Nga Mi đi chăng nữa cũng không vẻ vang gì mà.

Kim Hoa Bà Bà cả giận đứng thẳng người lên quát mắng:

- Con nhãi năm xưa ai đã cứu mi thoát chết, trong khi cha mi đang định giết mi? Bây giờ mi đã lớn rồi, không nghe lời Bà Bà này dạy bảo nữa. Tên Tạ Tốn có họ hàng thân thích với mi đâu, sao mi cứ bênh y như thế?

Tuy tức giận và quát mắng, Kim Hoa Bà Bà không vẫn không dám nói lớn, vì sợ Tạ Tốn nghe. Sự thật chỗ đứng của Kim Hoa Bà Bà còn cách nhà lá của Tạ Tốn rất xa, dù có lớn tiếng nói cũng chưa chắc nghe được nhưng Kim Hoa Bà Bà vẫn sợ hãi. Hân Nhi liền vứt cái túi đang vác trên vai xuống, liền có tiếng kêu "lẻng kẻng" đồng thời nàng nhảy lùi về phía sau ba bước.

Kim Hoa Bà Bà lại quát mắng tiếp:

- Mi làm gì thế. Bây giờ mi có lông cánh đầy đủ muốn bay phải không?

Hân Ly đáp:

- Thưa Bà Bà, con không bao giờ dám quên ơn Bà Bà, nhưng đại hiệp là nghĩa phụ của anh ấy.

Trong thế gian nầy không có ai ngu như mi cả, tiểu tử họ Trương đã rớt xuống thung lũng sâu muôn trượng như thế và mi lại nhge thấy Võ Liệt và Thanh Anh nói với nhau, bảo thằng nhỏ ấy đã chết rồi mà mi vẫn còn bắt chúng đem về tra khảo. Chúng đã khai đúng như thế, chẳng lẽ chuyện như vậy còn là chuyện giả hay sao? Có lẽ bây giờ xương cốt của thằng nhỏ họ Trương đã hóa thành tro rồi cũng nên, mà mi vẫn còn nhớ nhung y như vậy thật buồn cười.

-Thưa Bà Bà, dù sao con không thể quên anh ta được, cũng như Bà Bà đã nói... cái gì oan nghiệp kiếp trước...

Kim Hoa Bà Bà thở dài một tiếng rồi đổ giọng ôn hòa và nói tiếp:

- Ðừng nói năm xưa, thằng nhỏ ấy không chịu theo mi tới đảo Linh Xà nầy, mà dù nó có theo tới đây và đã kết thành phu phụ với con đi chăng nữa, thì nó cũng đã chết rồi, con đợi chờ sao được, cũng may nó chết sớm như vậy, nếu nó còn sống mà bây giờ trong thấy mặt con xấu xí như thế này, ta dám chắc y không khi nào yêu con đâu. Vậy con trông thấy yêu một thiếu nữ khác thì lòng con sẽ ra sao?

Thấy Hân Ly không nói năng gì hết. Kim Hoa Bà Bà lại nói tiếp:

- Không nói gì người khác cứ nói Chu cô nương của phái Nga Mi mà thấy trò ta đã bắt tới đây xinh đẹp như thế, thằng nhỏ họ Trương trông thấy thề nào cũng phải động lòng. Lúc ấy con giết Chu cô nương hay giết thằng nhỏ. Hù, hù... nếu con không luyện môn võ công này thì con vẫn là một giai nhân tuyệt sắc, nhưng bây giờ cái gì cũng khỏi nói nữa.

-Y đã chết rồi mặt con cũng đã bị hủy rồi còn biết nói năng chi nữa? Nhưng Tạ đại hiệp là nghĩa phụ của anh ta, con xin Bà Bà đừng có đụng tới một sợi lông chân của ông ta, con chỉ yêu cầu Bà Bà có điều này thôi, còn việc gì con cũng nghe lời Bà Bà dạy bảo.

Nói xong, nàng quỳ ngay xuống dưới đất. Thì ra Kim Hoa Bà Bà với Hân Ly đi đến Băng Hỏa đảo đón Tạ Tốn về, vì đường sá xa xôi, nên cả hai đi lẫn về tốn mất gần một năm trời và khi về tới Trung Nguyên, Kim Hoa Bà Bà không lai vãng với ai hết, vì thế việc Vô Kỵ lên làm Giáo chủ của Minh Giáo tuy đã đồn ầm khắp trong võ lâm mà Kim Hoa Bà Bà với Hân Ly không hay biết gì hết.

Kim Hoa Bà Bà ngẫm nghĩ giây lát rồi lại nói tiếp:

- Thôi được, con đứng dậy đi.

Hân Ly mừng rỡ vô cùng vội đáp:

- Cám ơn Bà Bà.

Ta nhận lời con, không giết y, nhưng ta thế nào cũng phải lấy được thanh bảo đao Ðồ Long mới thôi...

-Nhưng...

Kim Hoa Bà Bà vội ngắt lời nàng và quát bảo:

- Ðừng có nói lôi thôi nữa. Mi còn muốn làm cho Bà Bà này tức giận phải không?

Nói xong, bà ta giơ tay ném một cái, liền có tiếng kêu "coong" ngay.

Tiếp theo đó chỉ thấy bà ta giơ hai tay lên ném lia lịa và vừa ném vừa đi.

Hân Ly ôm đầu, ngồi trên một tảng đá nức nở khóc.

Vô Kỵ thấy nàng thương yêu mình như vậy trong lòng cảm động vô cùng.

Qua một lát sau, Kim Hoa Bà Bà ở ngoài mười mấy trượng quát bảo:

- Mau đưa ta.

Bất đắc dĩ Hân Nhi đành phải đưa hai cái túi vải ấy cho mụ.

Vô Kỵ thấy nàng đi tới gần Kim Hoa Bà Bà liền đuổi theo mấy bước nhìn xuống đất xem.

Chàng kinh hãi vô cùng, vì thấy dưới mặt đất cứ cách hai ba thước là có một mũi kim dài bảy tám tấc, cắm sâu vào trong đá.

Mũi kim bén nhọn khôn tả, chàng càng nhìn càng hoảng sợ, liền nghĩ thầm:

- Ðúng Kim Hoa Bà Bà địch không nổi nghĩa phụ ta, nên mới phải cắm kim dưới đất như thế. Mụ ta tưởng nghĩa phụ ta mắt mù, cắm kim châm như thế để cho nghĩa phụ mình dẫm phải dù không chết cũng bị thương nặng. Mụ ta xếp đặt như vậy ác độc thật. Mụ biết nếu ném bằng ám khí thể nào nghĩa phụ ta cũng nghe thấy tiếng gió tránh né hay chống đỡ. Nhưng xếp đặt như vậy thế nào nghĩa phụ ta cũng mắc kế. Nhưng tại sao mụ già ác độc ấy lại gọi nghĩa phụ ta là Tạ hiền đệ, không biết trước kia tình giao hảo giữa hai người có mật thiết không? Nếu phải, ta hãy đợi hai người giở mặt với nhau rồi ta sẽ tố cáo ác kế của mụ ta cho nghĩa phụ hay. Ngày hôm nay, trời đã để cho ta được tới đây, tất nhiên ta không để cho nghĩa phụ bị thương được.

Chàng quyết định như vậy, liền bó gối ngồi ở phía sau đó để chờ.

Bỗng có một luồng gió mạnh thổi tới, trong tiếng gió có lẫn tiếng lá cây rụng. Chàng biết ngay không phải tiếng lá rụng mà là tiếng chân của một người có khinh công rất cao siêu vừa nhảy tới chỗ cạnh mình. Chàng vội quay người lại nhìn, liền thấy một người có thân hìng gầy gò bé nhỏ bước đi rất lẹ, đang rón rén đi tới.

Người đó chính là Trần Hữu Lượng, trưởng lão của Cái Bang, tay y cầm một con đao rất mỏng nhưng dùng một miếng vải bọc ngoài đao để cho ánh sáng đao khỏi thấp thoáng.

Chàng thấy hành vi của Hữu Lượng lén lút như vậy, liền nghĩ thầm:

- Triệu Minh thông minh thật, nàng đoán việc gì cũng đúng. Quả nhiên việc này không phải là hiền lành.

Chàng đang nghĩ, bỗng nghe thấy Kim Hoa Bà Bà lớn tiếng kêu gọi:

- Tạ hiền đệ có cẩu tặc không sợ chết đến đấy.

Vô Kỵ giật mình kinh hãi, nghĩ thầm:

- Kim Hoa Bà Bà lợi hại thật. Chẳng lẽ bà ta phát giác tung tích của ta chăng. Nhưng không có lý nào mụ ta lại hay biết ta ẩn núp ở nơi đây được?

Chàng thấy Hữu Lượng nằm yên trong bụi cỏ không dám cử động chút nào.

Chàng liền tiến lên mấy trượng, sở dĩ chàng tới gần như thế là phòng nghĩa phụ có bị Kim Hoa Bà Bà ám hại thì mình mới ra tay cứu kịp.

Một lát sau, chàng thấy một bóng người to lớn trong căn nhà bé nhỏ ở phía trước núi bước ra.

Người đó chính là Tạ Tốn.

Chàng thấy nghĩa phụ mình đứng trước nhà không nói năng gì hết.

Kim Hoa Bà Bà lại lớn tiếng nói tiếp:

- Tạ hiền đệ, đối với người bạn cũ thì đề phòng cẩn mật đến thế mà đối với người ngoài thì lại tin cậy như vậy. Ngày hôm nay hiền đệ để y tẩu thoát bây giờ y quay trở lại để tìm kiếm hiền đệ đấy.

Tạ Tốn lạnh lùng đáp:

- Tạ Tốn tôi là người thật thà suốt đời bị người ta lừa gạt. Hữu Lượng lại quay trở lại kiếm ta làm chi?

Kim Hoa Bà Bà lại nói tiếp:

- Những tiểu nhân giả hoạt nầy lý đến chúng làm chi. Ngày hôm nay, lúc hiền đệ tha chết cho y có biết y đang giở trò gì không. Y chuẩn bị sẳn hai thế võ, một là Sư Tử Bát Thố của phái Võ Ðang và một là Giáng Ma Thích đấu thức. Hà hà, hiền đệ có biết y chuẩn bị hai thế võ đó để định đối phó với ai không?

Tiếng cười của Kim Hoa Bà Bà như tiếng cú kêu trong đêm khuya nghe càng rùng rợn thêm.

Tạ Tốn ngẩn người ra, đã biết lời nói của Kim Hoa Bà Bà không sai chút nào, chỉ vì mắt mình mù, nên mới bị mắc hỡm Hữu Lượng.

Nghe Kim Hoa Bà Bà nói xong, Kim Mao Sư Vương lạnh lùng đáp:

- Tạ Tốn tôi bị người ta lừa dối đã nhiều lần rồi, chứ lần này có phải lần đầu tiên đâu. Những quân hèn mạt như vậy, trên giang hồ nhiều lắm, giết một tên thì chỉ thiếu một tên thôi chứ không thể nào giết sạch chúng được. Hàn phu nhân cũng là bạn tốt của tôi, tại sao lúc ấy trông thấy lại không cho tôi hay, có phải định tâm chọc tức tôi đấy không?

Lão anh hùng vừa nói tới đó, đột nhiên phi thân tới trước mặt Hữu Lượng nhanh như điện chớp vậy.

Hữu Lượng kinh hãi vô cùng, giơ đao lên chém liền.

Nhưng Tạ Tốn đã giơ tay trái lên chộp lấy con đao của y và dùng tay phải tát cho y ba cái bạt tai liền.

Tiếp theo đó Kim Mao Sư Vương chộp cổ Hữu Lượng và nói:

- Lúc nãy ta muốn giết mi như giết một con gà vậy. Nhưng Tạ Tốn đã nói trước cho phép mi mười năm sau quay trở lại kiếm ta. Nên bây giờ ta lại tha cho mi một lần nữa. Nếu lần sau ta còn gặp mi, tất nhiên ta không thể nào tha thứ được nữa.

Nói xong Tạ Tốn khẽ vứt tên nọ xuống dưới sườn núi liền.

Vô Kỵ thấy chỗ Hữu Lượng bị rớt xuống đúng là nơi Kim Hoa Bà Bà đã cắm sẳn những ngọn kim châm. Chàng đoán chắc, tên nọ bị rớt xuống đụng phải những mũi nhọn đó thể nào cũng kêu đau. Như vậy âm mưu độc kế của Kim Hoa Bà Bà sẽ bại lộ liền. Ngờ đâu, Kim Hoa Bà Bà đã lẹ tay đưa cây thiết quài ra, đẩy người Hữu Lượng một cái, tên đệ tử Cái Bang ấy liền bị đẩy bắn ra ngoài mấy trượng.

Ðồng thời mụ già đó lại nói với theo:

- Từ nay mi còn bước lên Linh Xà đảo của mụ già này, ta sẽ giết chết một trăm đệ tử của Cái Bang liền. Kim Hoa Bà Bà nói được làm được. Ngày hôm nay hãy thưởng cho mi một bông Kim Hoa trước.

Nói xong, mụ ta giơ tay trái lên ném một cái, liền có ánh sáng vàng thấp thoáng, và tiếng kêu "bộp" một tiếng, má bên phải của Hữu Lượng bị một bông Kim Hoa ném trúng liền. Bị bông hoa vàng ấy cắm ngay vào má, Hữu Lượng không sao nói lên được, nên y cứ giơ tay lên má, cắm đầu chạy xuống dưới núi luôn.

Lúc ấy Tạ Tốn đã đi tới chỗ cách trận kim nhọn không đầy ba trượng.

Vô Kỵ ẩn núp ở sau tảng đá đang ở phía trước lão hiệp, bây giờ hóa ra ở phía sau, nội công của chàng cao siêu hơn của Hữu Lượng rất nhiều nên chàng nín thở mà Tạ Tốn với Kim Hoa Bà Bà không hay biết gì hết.

Kim Hoa Bà Bà quay người lại khen ngọi:

- Tai của Tạ hiền đệ thính thật, nếu người không biết không ai dám bảo hiền đệ mắt mù đâu. Phen nầy hiền đệ trở về Trung Thổ thế nào cũng hoành hành trên hai mươi năm là ít.

Tạ Tốn đáp:

- Hàn phu nhân đừng có ngợi khen tôi như thế làm chi nữa. Nếu tai tôi thính như phu nhân nói thì sao tôi không biết tên nọ đã sửa soạn hai thế võ. Bây giờ tôi chỉ mong hay được tin tức của Vô Kỵ rồi tôi chết cũng cam tâm. Tôi có rất nhiều người thù oán, nên cái chết của tôi có thảm khốc đến đâu cũng đáng lắm. Như vậy còn nói chi là tung hoành trên giang hồ nữa.

Hộ Giáo Pháp Vương của Minh giáo ơi, hiền đệ có giết thêm vài người nữa cũng không nghĩa lý gì mà. Tạ hiền đệ hãy đưa thanh đao Ðồ Long cho tôi mượn đã.

Tạ Tốn lắc đầu không trả lời. Kim Hoa Bà Bà lại nói tiếp:

- Bây giờ chốn này đã lộ liễu rồi, hiền đệ không thể ở lại nơi đây được nữa, để tôi tìm một nơi khác ẩn khuất hơn rồi đưa hiền đệ tới đó ở tạm vài tháng, chờ tôi đem thanh đao Ðồ Long đánh bại phái Nga Mi rồi tôi sẽ hết sức tìm kiếm Trương Vô Kỵ cho hiền đệ.

Tạ Tốn lắc đầu, Kim Hoa Bà Bà lại nói tiếp:

- Tạ hiền dệ có còn nhớ tám chữ Tứ Ðại Pháp Vương Tỷ Bạch Kim Thanh không? Thiết nghĩ năm xưa chúng ta phục vụ dưới trướng của Dương giáo chủ Hân Thiên Vương. Hân hiền đệ, Bức Vương Vi hiền đệ, và tôi với chú hai người hoành hành thiên hạ, không ai địch nổi chúng ta. Ngày hôm nay, chẳng lẽ hiền đệ lại chịu để cho người chị Tỷ Sam này bị người ta khinh thị mà không ra tay trợ giúp hay sao?

Vô Kỵ nghe nói tới đó giật mình kinh hãi nghĩ thầm:

- Nghe lời mụ ta nói chẳng lẽ mụ ta là Tỷ Sam Long Vương người đứng trên đầu của Tứ Ðại Pháp Vương của bổn giáo chăng? Sao thiên hạ lại có những chuyện kỳ lạ như thế.

Nghĩ đoạn chàng lại nghe thấy Tạ Tốn thở dài một tiếng và đáp:

-Chuyện cũ còn nhắc tới làm chi, chúng ta đã già nua cả rồi.

-Tạ hiền đệ, người chị này tuy đã già thật, nhưng hai mắt vẫn chưa hoa. Chẳng lẽ ta không nhận ra võ công của hiền đệ không tiến bộ hơn hai mươi năm trước hay sao. Hà tất hiền đệ phải khiêm tốn làm chi? Chúng ta sống ở trên đời không còn mấy tuổi nữa đâu. Theo ý ngu tỷ thì nhân lúc Tứ Ðại Pháp Vương của Minh Giáo chưa chết, chúng ta nên dắt tay nhau ra ngoài giang hồ làm một việc rất oanh liệt có hơn không?

Lúc này nhị ca với Vi hiền đệ chưa chắc còn sống sót, nhất là Vi hiền đệ bị hơi hàn độc làm nguy có lẽ đã chết lâu rồi cũng nên,

Hiền đệ đoán như vậy lầm lắm. Nói thật cho hiền đệ hay hiện giờ Bạch Mi Ưng Vương với Thanh Dực Bức Vương đang ở trên Quang Minh đỉnh, cả hai đều khoẻ mạnh như thường.

- Hân nhị ca với Vi hiền đệ trở vế Quang Minh đỉnh làm chi?

- Ðiều đó ngu tỷ không hay rõ lắm, nhưng chính mắt Hân Ly đã trông thấy và nó chính là cháu ruột của Hân hiền đệ đấy. Nó bất hiếu với cha nên cha nó định giết nó, lần đầu tiên nhờ được sư tỷ cứu giúp, lần thứ hai Vi hiền đệ ra tay cứu cho. Sau Vi hiền đệ đem nó lên Quang Minh đỉnh nhưng khi tới giữa đường thì bị ngu tỷ bắt lại đem về đây.

Nói tới đó, Kim Hoa Bà Bà quay đầu về phía Hân Ly nói tiếp:

- Hân Ly, con kể lại chuyện sáu đại môn phái vây đánh Quang Minh đỉnh thế nào nói cho Tạ công công nghe đi.

Hân Ly bèn bèn đem những chuyện mà mình đã thấy ở Tây Vực kể hết cho Tạ Tốn nghe, nhưng nàng chưa lên tới Quang Minh dỉnh đã bị Kim Hoa Bà Bà bắt cóc đem về đây. Nên những chuyện đã xảy ra trên Quang Minh đỉnh như thế nào, nàng không hay biết gì hết.

Tạ Tốn càng nghe càng lo âu vội hỏi:

- Sau rồi thế nào nữa? Sau rồi thế nào nữa? ...

Y không thấy Hân Ly trả lời, liền nỗi giận nói tiếp:

- Hàn phu nhân, vì việc tranh lộc Giáo chủ, phu nhân đã bất hòa với anh em chúng tôi. Nhưng tại sao bổn giáo bị nạn như thế mà phu nhân lại khoanh tay đứng nhìn. Phu nhân thử xem Hân nhị ca và Vi hiền đệ. Ngũ Tảng nhân với Ngũ Hành kỳ ai mà chẳng lên trên Quang Minh đỉnh cứu giúp bổn giáo là gì.

Kim Hoa Bà Bà lạnh lùng đáp:

- Tôi không lấy được con đao Ðồ Long tôi vẫn là bại tướng của Diệt Tuyệt Lão ni, như vậy dù tôi có lên trên Quang Minh đỉnh cũng không thể nào ra tay đấu với mụ ấy được. Như vậy tôi có lên trên đó cũng như là không, huống hồ ngày đó tôi hay biết chỗ ở của hiền đệ, tôi không kịp chờ đợi gì cả, tôi liền đi ngay Băng Hỏa đảo để đón hiền đệ về đây.

Tạ Tốn lại hỏi tiếp:

- Sao Hàn phu nhân biết chỗ ở của tôi như vậy, có phải người của phái Võ Ðang nói cho phu nhân hay không?

Người của phái Võ Ðang làm sao mà biết chỗ ở của hiền đệ được. Vợ chồng Thúy Sơn bị người của các môn phái bắt ép, cả hai đành tự sát mà cũng không chịu thổ lộ chỗ ở của hiền đệ cho chúng hay. Như vậy, người của phái Võ Ðang làm sao mà biết được. Bây giờ tôi cũng không cần giấu diếm hiền đệ làm chi, nói thật cho hiền đệ biết cũng không sao. Sự thực tôi đi Tây Vực gặp một người tên Võ Liệt. Không ngờ, trong khi cha con y nói chuyện, tôi tình cờ nghe chúng nói tới chỗ ở của hiền đệ.

Vô Kỵ nghe Kim Hoa Bà Bà nói như vậy hổ thẹn vô cùng, nghĩ lại năm xưa mình bị cha con Chu Trường Linh lừa gạt, nên mới tiết lộ chỗ ở của nghĩa phụ cho cha con y hay. Nếu vì thế mà nghĩa phụ bị kẻ ám hại, mình là người phải gánh hết tội lỗi đó.

Chàng lại nghe Tạ Tốn nói tiếp:

- Sáu đại môn phái vây đánh Minh Giáo như vậy, rút cục ra sao? Sao lúc phu nhân tới Băng Hỏa đảo đón tôi, lại giấu không cho tôi hay tin ấy. Phen nầy phu nhân về tới Trung Nguyên chắc hay thêm nhiều tin nữa phải không?

Kim Hoa Bà Bà đáp:

- Tôi có nói cho hiền đệ biết cũng không có ích lợi gì? Thế nào chẳng bị hiền đệ trách cứ. Sự hưng vong của Minh Giáo đã không liên can gì tới tôi đã lâu. Năm xưa Tả, Hữu Quang Minh Sứ vây đánh tôi ở trên Quang Minh đỉnh như thế nào, chắc hiền đệ đã quên bẳng chuyện ấy rồi phải không? Riêng tôi vẫn nhớ kỹ lắm.

- Hà, tư thù là việc nhỏ, bảo hộ bổn giáo là việc lớn. Theo lời của phu nhân vừa nói thì phu nhân hẹp lượng quá.

- Tôi đàn bà tất nhiên rộng lượng sao bằng đàn ông? Năm xưa tôi phá cửa ra khỏi Minh Giáo, đã thề không liên can gì tới Minh Giáo nữa. Bằng không Hồ Thanh Ngưu không coi tôi là người ngoài. Và tại sao y còn bắt tôi thề nặng không trở về bổn giáo, rồi mới chịu chữa cho Ngân Diệp tiên sinh? Nói thực cho Hiền đệ hay chính tay tôi đã giết vợ chồng Hồ Ðiệp Cốc Tiên Y, vì vậy Tỷ Sam Long Vương nầy đã phạm phải giới luật lớn của bổn giáo rồi, thì còn liên can làm sao tới Minh Giáo được.

- Hàn phu nhân, tôi biết rõ tâm sự của phu nhân lắm. Phu nhân bảo mượn con đao Ðồ Long của tôi để đi trả thù phái Nga Mi, nhưng sự thực phu nhân muốn đối phó với Dương Tiêu và Phạm Dao các người thì đúng hơn. Như vậy, tôi nhất định không cho phu nhân mượn đâu.

Kim Hoa Bà Bà ho mấy tiếng, rồi hỏi tiếp:

- Tạ hiền đệ, năm xưa võ công của hiền đệ so sánh với tôi thì ai cao ai thấp?

- Lúc ấy, Tứ Ðại Pháp Vương mỗi người có một sở trường riêng.

- Ngày nay hiền đệ đã hư cả hai mắt, vậy hiền đệ có dám đấu với tôi không?

- Có phải phu nhân muốn thị mình mạnh mà định cướp bảo đao của tôi phải không? Tuy Tạ Tốn bị mù thực, nhưng có Ðồ Long đao ở trong tay cũng như là không mù.

Nói xong Tạ Tốn ngẩng mặt lên trời rú một tiếng thực dài, rồi giận dữ quát hỏi tiếp:

- Con Ngọc Diện Hỏa Hầu theo tôi hai mươi năm như bóng với hình vậy. Tại sao phu nhân lại dùng thuốc độc giết chết nó? Tôi chịu nhịn không nói ra, chứ có phải tôi không hay biết việc ấy đâu?

Vô Kỵ nghe thấy Tạ Tốn nói như vậy, rùng mình hoảng sợ, vì năm xưa con khỉ đã cứu cha mẹ chàng thoát chết và hồi chàng còn nhỏ, nó là người bạn duy nhất của chàng. Nay chàng đột nhiên nghe nói nó đã chết vậy, chàng đau lòng vô cùng.

Kim Hoa Bà Bà lạnh lùng đáp:

- Mỗi lần con khỉ ấy trông thấy Bà Bà nó cứ trợn trừng mắt lên nhìn, hình như nó muốn tấn công lén tôi vậy. Vả lại thân pháp của nó nhanh như điện chớp, không kém gì một võ lâm cao thủ. nếu tôi không đề phòng nhỡ nó tấn công trộm, có phải tôi bị nó giết chết lúc nào hay không? Tôi muốn xem nó có phải tinh khôn như người ta vẫn nói hay không? Nên tôi mới cho thuốc độc vào mấy trái mận đào để cho nó ăn thử xem, nếu nó tinh khôn thực thì thế nào cũng không ăn. Ngờ đâu, nó chỉ có hư danh thôi, chứ không phải tinh khôn thực, vừa thấy mấy trái mận đào của Bà Bà này đã nhẩy lại ăn lấy ăn để liền, và nó còn chắp tay vái chào cám ơn Bà Bà này nữa.

Vô Kỵ nghe thấy mụ ta nói như vậy, chàng càng nghe càng tức giận thêm chỉ muốn nhảy ra đánh cho Kim Hoa Bà Bà mấy cái bạt tai mới hả dạ. Nhưng chàng sực nghĩ lại:

- Tuy mụ già này quái ác thật, nhưng dù sao mụ ta cũng là người đứng đầu trong Tứ Ðại Pháp Vương của bổn giáo, ta phải nhẫn nại để thâu phục mụ ta, như vậy mới bảo toàn được lòng nghĩa khí của các anh em trong bang phái.

Tạ Tốn thở dài một tiếng, tiến lên một bước, trợn trừng đôi mắt đã mù, hướng về phía Kim Hoa Bà Bà. Tuy vậy trông đại hiệp vẫn thần oai lẫm lẫm.

Hân Ly thấy vậy hãi sợ vô cùng, vội lui về phía sau mấy bước.

Kim Hoa Bà Bà lưng vẫn khom, tay vẫn chống quài trượng, thỉnh thoảng ho vài tiếng, mụ thấy Tạ Tốn chỉ giơ tay ra đánh một cái là trúng mụ liền, nhưng mụ đứng yên không cử động gì hết, hình như không coi Tạ Tốn vào đâu.

Vô Kỵ đã thấy Bà Bà đối địch với đối phương mấy lần, võ công của mụ ta rất lợi hại và thân pháp nhanh vô cùng. Khinh công của mụ ta không kém gì Vi Nhất Tiếu. Bây giờ chàng thấy Bà Bà đứng đối diện với Tạ Tốn mà trông mụ ta ung dung như thường, không có vẻ gì gay cấn hết. Chàng liền nghĩ thầm:

- Khi Bà Bà ở trong Minh Giáo, tên tuổi còn được xếp trên ông nội ta, nghĩa phụ và Vi Bức Vương còn phải xếp tên ở dưới bà ta nữa. Như vậy đủ thấy võ công bà ta lợi hại như thế nào . Vì vậy chàng mới lo ngại cho Tạ Tốn.

Chàng lại nghe thấy chung quanh có tiếng cú kêu và gió thổi "vèo vèo" khiến cảnh tượng ấy thêm thê thảm.

Tạ Tốn với Kim Hoa Bà Bà đứng đối diện nhau, nhưng không ai tấn công ai cả, mãi một lát lâu, Tạ Tốn mới lên tiếng nói:

- Hàn phu nhân, ngày hôm nay bắt buộc tôi phải ra tay và đã trái mất lời thề kết nghĩa năm xưa của Tứ Ðại Pháp Vương chúng ta. Tạ Tốn tôi lấy làm đau lòng vô cùng.

Kim Hoa Bà Bà đáp:

- Tạ hiền đệ là người rất hiền từ, nên tôi nghe người ta nói hiền đệ giết rất nhiều anh hùng hào kiệt có tên tuổi ở trên giang hồ, tôi không tin tí nào.

Tạ Tốn thở dài và đỡ lời:

- Sở dĩ tôi giết họ như thế là vì tôi muốn nóng lòng trả thù cho vợ con, nên tôi không còn suy nghĩ gì hết mà chém giết họ bừa như vậy. Tôi biết làm như thế rất có lỗi với giang hồ, ngoài ra còn có một việc tôi đã trót lầm lỡ, là xử dụng Thất thương quyền đánh chết Không Kiến Thần tăng.

Kim Hoa Bà Bà nghe nói, giật mình kinh hãi, vội hỏi trở lại:

- Có thực hiền đệ luyện được môn võ công lợi hại đó từ hồi nào thế?

Mụ ta vẫn tin võ công của mình đối địch được với Tạ Tốn. Bây giờ nghe thấy Tạ Tốn dùng quyền đánh chết Thần tăng nên mới hoảng sợ như thế.

Tạ Tốn đáp:

- Phu nhân khỏi lo sợ, sở dĩ tôi đánh chết được Không Kiến Thần tăng, là vì ông ta chỉ chịu đòn chứ không chống cự lại, sở dĩ ông ta chỉ chịu cho tôi đánh như thế là muốn siêu độ tôi đấy thôi.

- Có thế chứ, lão bà địch không nổi Thần tăng, mà hiền đệ chỉ đánh có mười ba quyền Thần tăng đã chết, như vậy hiền đệ chỉ đánh chín mười quyền cũng đủ diệt nổi lão bà này liền.

- Hàn phu nhân, năm xưa ở trên Quang Minh đỉnh, Hàn dại ca với phu nhân đối xử với tôi rất tử tế, tôi còn nhớ một lần tôi đau yếu, phu nhân đã trông nom tôi hơn một tháng trời, nên lúc nào tôi cũng ghi nhớ ơn ấy trong lòng.

Nói xong, đại hiệp vỗ áo bông phủi bụi và nói tiếp:

- Khi tôi ở hải ngoại, toàn mặc áo da thú bây giờ phu nhân may áo quần cho tôi mặc đấy thật là áo trong lẫn áo ngoài cũng đều đúng kích thước hết. Ðủ thấy tình nghĩa trên Quang Minh dỉnh năm xưa hãy còn, phu nhân đã trót giết con Ngọc Hỏa Hầu, ta cũng không nói gì hết. Thôi phu nhân đi đi, chúng ta cũng không cần tái kiến nữa, nhưng tôi nhờ phu nhân truyền hộ một tin nầy cho Vô Kỵ con tôi, tôi bảo nó đến đây gặp tôi một phen. Như vậy tiểu đệ rất cám ơn bà chị.

Kim Hoa Bà Bà gượng cười đáp:

- Thế ra hiền đệ vẫn còn nhớ những tình nghĩa năm xưa đấy. Tôi xin nói thực để hiền đệ hay từ khi Ngân Diệp đại ca khuất núi đến giờ, tôi chán sự đời lắm, nhưng vì còn mấy mối thù chưa trả nên tôi mới không chết theo Ngân Diệp đại ca là thế. Tạ hiền đệ, những nhân vật trên Quang Minh đỉnh đủ lợi hại đến thế nào và cơ mưu hơn người đến đâu, với ai chớ với người chị này thì không nghĩa lý chi hết. Nhưng riêng đối với Tạ hiền đệ thì ngu tỷ lại coi khác chẳng hay hiền đệ có biết tại sao không?

Kim Hoa Bà Bà tiến lên mấy bước, bỗng ngồi trên một tảng đá và nói tiếp:

- Năm xưa ở trên Quang Minh đỉnh chỉ có Dương Giáo chủ phu nhân với Tạ hiền đệ mà Tỷ Sam Long Vương nầy coi thuận mặt mà thôi. Từ khi ngu tỷ lấy Ngân Diệp tiên sinh đến giờ và chỉ có Dương phu nhân với hiền đệ là người không trách cứ ngu tỷ lấy nhầm chồng thôi.

Tạ Tốn cũng từ từ ngồi xuống trả lời:

- Tuy Hàn đại ca không phải là người trong bổn giáo nhưng cũng là người anh hùng. Các anh em phản đối như thế thì hơi hẹp lượng. Hà... hà... khi sáu đại môn phái vây đánh Quang Minh đỉnh không biết các anh em có việc gì không?

- Tạ hiền đệ ở hải ngoại mà lúc nào cũng nhớ những việc xảy ra ở Trung Thổ. Người ta sống trên đời có mấy chục năm thôi, thoáng cái đã qua liền, hà tất phải nhớ thương đến những người quanh mình làm chi?

Hai người chỉ cách nhau có mấy thước, có thể nghe thấy tiếng hơi thở của nhau được.

Tạ Tốn thấy Kim Hoa Bà Bà cứ nói một câu lại ho lên vài ba tiếng liền hỏi:

- Năm xưa phu nhân kịch chiến với Cái Bang, bị chúng đâm trúng một cái vào phổi, từ đó tới giờ cũng chưa khỏi hay sao?

- Cứ đến mùa đông tiết trời giá lạnh là ho dữ dội. Hà... đã ho ba mươi năm ho mãi nó cũng quen rồi! Tạ hiền đệ! Tôi nghe thấy hơi thở của Tạ hiền đệ không được đều đặn, có phải vì luyện Thất Thương quyền mà nội tạng đã bị thương đấy không? Vậy hiền đệ phải nên cẩn thận mà điều dưỡng mới được.

- Cám ơn bà chị đã quan tâm như vậy.

Ðại hiệp bỗng ngửng đầu lên, hướng đầu về phía Hân Ly và kêu gọi:

- Hân Ly, cháu lại đây!

Nàng liền vâng lời đi tới bên Tạ Tốn và kêu gọi:

- Tạ công công!

Tạ Tốn lại nói tiếp:

- Cháu không dám!

Tạ Tốn vừa cười vừa nói tiếp:

- Thiên Thù Tuyệt Hộ Thủ của cháu không thể đả thiương được ta đâu! Cháu cứ việc ra sức mà đâm thử đi, để ta xem công lực của cháu đã đến mức nào rồi?

Hân Ly vẫn không dám đâm thử và trả lời rằng:

- Năm xưa Tạ công công với Bà Bà cháu là bạn kết nghĩa với nhau, dù có việc gì không bằng lòng nhau cũng có thể dùng lời lẽ nói với nhau, hà tất phải tranh chấp bằng con đao mãi làm chi?

Tạ Tốn gượng cười một tiếng nói tiếp:

- Cháu cứ thử đâm một ngón tay vào người của ta xem.

Bất đắc dĩ, Hân Ly phải lấy khăn tay ra bọc lấy ngón tay trỏ của mình, rồi dùng ngón tay đó mà đâm vào vai Tạ Tốn một cái. Nàng kêu lên "ối chà" một tiếngrồi người văng bắn ra xa hơn một trượng, rơi xuống đất kêu dến "bộp" một cái, cảm thấy xương trong người như đã bị gãy hết.

Kim Hoa Bà Bà không nói năng gì hết ngồi lẳng lặng nghĩ thầm:

- Tạ hiền đệ ác độc thật, sợ ta có thêm một tay trợ giúp nên ra tay trừ khử trước.

Tạ Tốn lẩm bẩm nói:

- Con nhỏ này tâm địa cũng hiền lành lắm, nó chỉ dùng có hai ba thàng chân lực và tay của nó lại lấy khăn bọc lại, không dùng Thiên Thù Tuyệt Hộ Thủ đả thương ta, nhưng cũng may nó có lòng hiền từ như vậy. Bằng không bây giờ nó đã bị hơi độc mà chết rồi!

Vô Kỵ nghe thấy nghĩa phụ lẩm bẩm như vậy cũng phải toát mồ hôi lạnh ra và nghĩ thầm:

- Nghĩa phụ ta đã nói muốn thủ công lực của Hân Ly ra sao, nếu nàng giở hết công lực ra thì lúc này nàng đã chết rồi cũng nên! Người trong Minh Giáo ai cũng ác độc vô cùng, riêng nghĩa phụ ta tuy hiền từ thật nhưng cũng không thể tránh được những thủ đoạn độc ác như thế!

Nhưng chàng đâu có biết Tạ Tốn định tâm diệt trừ A Ly đi để cho Kim Hoa Bà Bà khỏi có thêm một người trợ giúp, ngờ đâu A Ly không có tâm hại đại hiệp nên mới bảo toàn được tánh mạng như thế!

Tạ Tốn lại lên tiếng hỏi:

- A Ly! Sao cháu lại có lòng từ tâm đối xử với ta như thế?

A Ly đáp:

- Công công là nghĩa phụ của y, lại là... cũng vì y chưa trở về đây. Bây giờ trên đời chỉ có mình công công với cháu, hai người là còn nhớ nhung đến y mà thôi!

Tạ Tốn nghe A Ly nói như vậy, kêu "ủa" một tiếng rồi nói tiếp:

- Không ngờ cháu lại tử tế với Vô Kỵ như thế, suýt chút nữa thì ta đã lỡ tay giết chết cháu rồi. Vậy cháu hãy đi gần lại đây để ta rỉ tai nói nhõ một điều này!

Hân Ly gượng bò dậy đi tới cạnh Tạ Tốn.

Kim Mao Sư Vương rỉ tai nàng khẽ nói:

- Ta truyền thụ cho cháu một pho nội công tâm pháp, pho nội công này ta sáng tác từ trên Băng Hỏa đảo, và cũng hỗn tập hết tất cả những võ công của ta lại mà thành.

Ðại hiệp không chờ đợi Hân Ly có bằng lòng hay không, liền đọc luôn tâm pháp đó cho nàng ta nghe.

Hân Ly cố hết sức ghi nhớ.

Tạ Tốn sợ nàng không nhớ kỹ, lại đọc thêm một lần nữa, rồi mới hỏi:

- Cháu đã nhớ hết cả rồi chưa?

Hân Ly gật đầu đáp:

- Cháu đã nhớ hết cả rồi!

Tạ Tốn lại nói tiếp:

-Cháu tu luyện năm năm sẽ tiểu thành. Nhưng cháu có biết ta truyền thụ tâm pháp cho cháu để làm chi không?

Hân Ly đột nhiên khóc lớn thành tiếng và đáp:

- Cháu... cháu biết lắm! Nhưng cháu... không thể nào làm như thế được!

Tạ Tốn quát lớn:

- Cháu biết gì nào? Tại sao lại không làm được?

Nói xong, Kim Mao Sư Vương giơ chưởng lên định đánh xuống nếu Hân Ly mà nói sai thì bị Kim Mao Sư Vương giết chết liền!

- Cháu biết công công bảo cháu tìm kiếm Vô Kỵ và truyền thụ môn võ công này cho anh ấy. Cháu biết công công muốn cháu luyện thành võ công thượng thặng xong, để đi bảo vệ cho anh Vô Kỵ và không để cho những kẻ khốn nạn ám hại anh ấy nhưng... nhưng...

Hân Ly chỉ nói được hai chữ "nhưng" rồi khóc oà lên.

Tạ Tốn liền đứng dậy quát:

- Nhưng cái gì cơ chứ? Có phải con ta, Vô Kỵ đã mất mạng rồi chăng?

Hân Ly ngã luôn vào lòng Tạ đại hiệp, càng lớn tiếng khóc thêm rồi nức nở:

- Anh ấy... sáu năm trước đây, ở Tây Vực... rớt xuống vực thẳm chết rồi.

Tạ Tốn nghe nói, người run lẩy bẩy liền hỏi:

- Có thực không?

- Thực đấy! Cha con Võ Liệt đã trông thấy anh ấy chết. Cháu đã dùng Thiên Thù Thủ điểm vào người chúng bảy lần rồi lại cứu chúng sống bảy lần mới bắt chúng thốt ra tin đó, như vậy cháu chắc không thể nào là giả nữa.

Tạ Tốn ngửng mặt lên trời rú lên một tiếng rất bi đát rồi nước mắt tuôn rơi lã chã.

Vô Kỵ thấy cô em họ với nghĩa phụ của mình đau đớn như vậy không sao chịu nổi, định nhảy ra nhận cả hai người nhưng Kim Hoa Bà Bà đã lên tiếng nói:

- Tạ hiền đệ! Con nuôi của Tạ hiền đệ chết rồi, hiền đệ còn giữ thanh bảo đao Ðồ Long này làm chi nữa, chi bằng cho tôi mượn đi có hơn không?

Tạ Tốn với giọng khàn khàn đáp:

- Phu nhân giấu diếm tôi hoài, làm tôi đau khổ mãi. Muốn lấy thanh bảo đao này thì hãy giết tôi trước đã!

Nói xong, Kim Mao Sư Vương khẽ đẩy Hân Ly sang bên, rồi xé luôn vạt áo ở phía đằng trước ném vào mặt Kim Hoa Bà Bà để tỏ cho Bà Bà hay đã cắt bào đoạn nghĩa, từ nay không còn tình nghĩa gì với nhau nữa!

Khi Hân Ly kể tin Vô Kỵ chết cho Tạ Tốn hay, Kim Hoa Bà Bà định chạy lại ngăn cản, nhưng sực nghĩ thầm:

- Tạ Tốn hay tin đứa con nuôi bị chết như vậy thế nào tâm thần cũng bấn loạn, ta sẽ nhân cơ hội xông lại cướp lấy bảo đao, như vậy thế nào cũng thành công.

Nghĩ đoạn, mụ ta mới chỉ ngồi đó yên lặng và cười nhạt thôi chớ không nói năng gì hết!

Vô Kỵ liền nghĩ thầm:

- Ta có nên tiến lên lúc này nói rõ cho hai người hay để cho hai người khỏi đau lòng và cũng để cho Kim Hoa Bà Bà với nghĩa phụ ta khỏi bị tiêu hao nghĩa khí.

Chàng nghĩ đến đó bỗng nghe thấy phía bên trái có tiếng hô hấp rất nhỏ và thấy có người đang bò lần về phía mình. Tiếng hô hấp đó rất nhỏ, chỉ có tai chàng rất thính mới nghe được mà thôi, chàng liền nghĩ tiếp:

- Thế ra Kim Hoa Bà Bà ngấm ngầm mai phục những tay lợi hại trợ giúp? Như vậy thì ta cũng không nên hiện thân ra vội, để chờ xem...

Chàng liền nghe thấy có tiếng khí giới bay vù vù, mới hay Tạ Tốn và Kim Hoa Bà Bà đã ra tay đấu với nhau rồi.

Chàng đưa mắt nhìn thấy Tạ Tốn xử dụng bảo đao như một con rồng đen, lúc nhanh lúc chậm biến hóa vô chừng. Còn Kim Hoa Bà Bà sợ bảo đao sắc bén, cứ chạy quanh đại hiệp chứ không dám tới gần. Hễ thấy đại hiệp sơ hở thí bà ta xông vào tấn công tức thì.

Chờ tới khi Tạ Tốn quay đao lại chém thì bà ta lại nhảy ra ngoài tránh nó luôn. Hai người đều thuộc biết võ công của nhau nên ít ra phải đánh vài trăm hiệp mới có thể phân biệt được ai hơn ai kém. Tạ Tốn thì có bảo đao sắc bén, còn Kim Hoa Bà Bà khinh đại hiệp hai mắt không thấy đường, vì vậy hai người cứ phải dùng mưu trí ra mà đấu với nhau.

Ðang lúc ấy bỗng nghe có hai tiếng kêu "soẹt soẹt" và có ánh sáng vàng thấp thoáng. Thì ra Kim Hoa Bà Bà đã xử dụng hai bông hoa vàng để tấn công lên đối thủ.

Tạ Tốn múa thanh đao Ðồ Long gạt về phía đó, hai bông hoa vàng liền dính luôn vào bảo đao tức thì.

Thì ra bông hoa đó chế bằng gang, bên ngoài bọa vàng mà thanh đao Ðồ Long lại chế bằng chất nam châm nên hai bông hoa vàng kia mới bị bảo đao hút dính như vậy. Nếu thanh đao Ðồ Long không có chất đá nam châm như thế thì chưa chắc Tạ Tốn đã chống đỡ nổi hai bông hoa vàng đó của bà ta!

Kim Hoa Bà Bà thấy ném luôn tám bông hoa ra đều bị thanh đao Ðồ Long hút hết, bà ta bực mình vô cùng, ho lên một tiếng, vội lấy nốt mười sáu mười bảy bông hoa nữa ra, nhắm Tạ Tốn ném tới luôn khiến bảo đao của Tạ Tốn không biết đâu mà dính nữa, vì dính được bông hoa bên phía Ðông thì không dính nổi những bông hoa ở phía Tây bắn tới. Nên Kim Mao Sư Vương đành phải dùng tay áo phe phẩy. Nhờ vậy tay áo của đại hiệp hất đi được bảy tám bông hoa, còn con đao thì dính được tám bông, rồi đại hiệp quát lớn:

- Hàn phu nhân trước nay vẫn tự xưng là Tỷ Sam Long Vương nhưng phu nhân có biết, biệt hiệu của mình rất kỵ với thanh đao hay không?

Kim Hoa rùng mình một cái, có vẻ sợ hãi liền.

Nên rõ, người giỏi võ nào cũng sợ kỵ húy, vì vậy mụ ta liền nghĩ thầm:

- Ta tự xưng là Long Vương, mà con đại đao kia lại tên Ðồ Long (giết rồng) quả thật rất bất lợi cho ta.

Nghĩ đoạn, Bà Bà cất tiếng cười và nói tiếp:

- Biết đâu chiếc gậy Sát Sư Trượng của tôi lại chẳng giết chết sư tử mù trước?

Nói xong, bà ta múa gậy tấn công Tạ Tốn luôn. Vội trầm vai tránh né, Tạ Tốn bỗng kêu "ủa" một tiếng, và đi loạng choạng mấy bước, nên vai trái của đại hiệp bị gậy của Bà Bà đánh trúng liền. Nhờ có bước đi loạng choạng và vai trầm xuống đôi chút, Tạ Tốn có bị đánh trúng gậy ấy thực, nhưng chỉ bị thương rất nhẹ thôi.

Vô Kỵ thấy vậy cả mừng và khen ngợi thầm.

Vô Kỵ thấy Tạ Tốn giả bộ làm như tránh né không kịp, để chịu một gậy ấy.

Chàng liền nghĩ tiếp:

- Nghĩa phụ chỉ cần hất những bông hoa dính ở trên tay áo vào người của đối thủ, như vậy Kim Hoa Bà Bà thế nào cũng phải lùi sang bên trái, rồi nghĩa phụ giở thế Thiên Sơn Vạn Thủy ra chém luôn. Bà Bà sợ bảo đao sắc bén thế nào cũng lui sang bên trái nữa. mụ ta lui luôn hai lần như vậy, sức lực tất phải giảm bớt. Nghĩa phụ vận ngay nội công, đẩu tám bông kim hoa dính ở trên thanh đao, bắn luôn vào mình của đối thủ thì kẻ địch thế nào cũng bị thương nặng ngay.

Chàng vừa nghĩ xong, quả nhiên đã thấy có ánh sáng vàng thấp thoáng liền .

Chàng thấy Tạ Tốn đã hất những bông hoa dính ở trong tay áo bắn luôn vào người của địch thủ, và quả nhiên Kim Hoa Bà Bà lui về phía trái thực.

Vô Kỵ bỗng nghĩ ra một việc, liền kêu thầm:

- Ối chà nguy tai, thì ra Kim Hoa Bà Bà đã tương kế tựu kế?

Lúc ấy, võ công của chàng đã luyện tới mức tột độ, nên hai tay cao thủ kia muốn giở thế võ gì ra đối địch với nhau, chàng cũng hay biết trước liền.

Chàng lại thấy Tạ Tốn hất những kim hoa dính ở trên đao bắn vào thân hình của đối thủ. Chỉ thấy Kim Hoa Bà Bà kêu "ối chà" một tiếng, rồi chân đi loạng choạng và nhảy lùi về phía sau mấy bước.

Tạ Tốn là người rất quyết liệt, đã cắt vạt áo đoạn nghĩa với Kim Hoa Bà Bà rồi, nên ra tay không nhường nhịn chút nào. Y biết Bà Bà đã vấp một cái suýt ngã, liền nhảy xổ lại múa đao chém kẻ địch luôn.

Y bỗng nghe Hân Ly lớn tiếng gọi:

- Cẩn thận, dưới chân có kim châm đấy.

Tạ Tốn nghe thấy Hân Ly kêu như vậy, ngẩn người ra định thâu chân ngừng bước, nhưng đã muộn rồi. Ðồng thời đại hiệp còn nghe thấy tiếng kêu "vèo vèo" liên hồi, và có tới mười mấy bông Kim hoa phi tới.

Lúc ấy Tạ Tốn đang lơ lửng trên cao, không sao lui về phía sau tránh né được.

Thì ra Kim Hoa Bà Bà đã suy tính từ trước, mụ ta định tâm lùi như thế và chờ đợi khi Tạ Tốn nhảy xổ tới, liền ném luôn Kim hoa, bắt buộc đối thủ phải đưa người sang và hạ thân xuống để tránh né, như vậy địch thủ thế nào cũng dẩm phải những mũi kim sắc bén của mụ đã xếp đặt sẳn.

Quả nhiên Tạ Tốn phải hạ chân xuống chỗ có kim và tay thì múa đao để chống đỡ những bông Kim hoa của đối phương.

Trong lúc y đang hạ chân xuống bỗng nghe thấy có một tiếng kêu "coong coong" rất khẽ. Y thấy đã đứng xuống đất rồi, mà không việc gì hết, liền rờ xem, thấy xung quanh có những mũi kim rất sắc bén cắm sâu vào trong đá thực, riêng mấy mũi kim chỗ y đứng đã bị người nào dùng đá ném gãy hết.

Y vừa kinh hãi, vừa cả giận, trong lòng nghĩ:

- Xét thủ pháp dùng đá nhỏ ném gãy kim như vậy, chỉ có thiếu niên của Cự Kình Bang ném bảy viên đá hồi nãy mới có thể ném trúng được như thế thôi? Y ẩn núp gần đây dòm ngó đã lâu mà ta không hay biết gì hết, đủ thấy khinh công của y lợi hại biết bao?

Ðại hiệp càng nghĩ càng hoảng sợ, mồ hôi lạnh toát ra như mưa.

Vừa rồi cả hai người đều xử dụng kế khổ nhục để ám hại nhau. Tạ Tốn chịu để cho đối thủ đánh một gậy vào vai thực, và Kim Hoa Bà Bà cũng chịu để cho hai bông Kim hoa bắn trúng. Tuy hai người đều không bị thương nặng, nhưng cả hai cũng thấy vết thương khá đau, vì sức đánh và sức ném của đối thủ mạnh hơn sức của người thường nhiều, nên Kim Hoa Bà Bà phải ho mấy tiếng, rồi quay về phía Vô Kỵ ẩn núp lên tiếng hỏi:

- Tiểu tử của Cự Kình Bang kia tên họ là chi? Sao dám phá bĩnh Bà Bà đôi ba phen như thế để làm chi?

Vô Kỵ chưa kịp trả lời thì đột nhiên thấy có ánh sáng thấp thoáng và thấy Hân Ly kêu "hự" một tiếng, nàng đã bị ba bông hoa bắn trúng.

Thì ra Kim Hoa Bà Bà nhận ra võ công của Vô Kỵ không kém gì mình nên mụ mới ra tay trừng trị Hân Ly trước và đoán chắc Vô Kỵ thế nào cũng ra tay cản trở, vì vậy mụ ta nói chuyện với Vô Kỵ để cho chàng không phòng bị rồi mụ ta liền trái tay ném luôn ba bông hoa vào ngực Hân Ly.

Mục tiêu của mụ ta chính là chỗ chí mạng của nàng nọ, nên Vô Kỵ mới kinh hãi phi thân ra bắt hai bông hoa đó, và vừa hạ chân xuống đất liền ôm ngay Hân Ly vào lòng.

Lúc ấy Hân Ly còn tỉnh bỗng thấy một người đàn ông có râu, ôm mình vào lòng, nàng vội dùng tay kháng cự, nhưng nàng vừa dùng sức, mồm đã phun ra mấy đống máu tươi liền!

Vô Kỵ liền tĩnh ngộ ngay, vôi giơ tay lên xoa mặt và bỏ bộ râu ra.

Hân Ly đã trông thấy rõ mặt chàng liền kêu gọi:

- Anh A Ngưu! Anh đấy à? Trời ơi!...

Vô Kỵ mỉm cười đáp:

- Phải! Chính tôi đây!

Lúc đó Hân Ly mới khoan tâm và chết giấc liền.

Vô Kỵ thấy nàng bị thương nặng không dám rút mũi ám khí trong người nàng ra, chỉ điểm những nơi yếu huyệt để tim của nàng khỏi ngừng đập mà thôi.

Chàng nghe thấy Tạ Tốn lớn tiếng nói:

- Các hạ hai lần ra tay cứu giúp, Tạ Tốn tôi xin cảm ơn vô cùng!

Vô Kỵ nức nở khóc:

- Nghĩa... Nghĩa... hà tất...

Ðang lúc ấy từ đằng xa bỗng có một tiếng "coong" vọng tới, tiếng kêu đó rất khẽ nhưng nghe rất êm tai.

Tạ Tốn, Vô Kỵ cả Kim Hoa Bà Bà đều nghe tiếng kêu đó, cả ba đều rùng mình kinh hãi, vì ba người nghe tiếng động đó không khác gì như một tiếng sấm động vang cả trời đất vậy, nên cả ba mới kinh hãi như thế.

Vô Kỵ vội trấn tĩnh tâm thần, chàng lại nghe thấy một tiếng động nữa, nhưng lần này tiếng động đó lại phát ra rất gần, chỉ cách chỗ chàng độ vài chục trượng thôi. Chàng rất kinh ngạc vì nhận thấy tiếng động đó sao lại đi một cách nhanh chóng đến thế?

Nhưng chàng nhận thấy tiếng kêu sau với tiếng kêu trước hơi khác nhau, tuy cũng đoạt phách kinh hồn nhưng không đến nỗi kinh hồn như trước! Chàng biết người tới đó thế nào cũng là một dị nhân nên chàng không dám khinh địch một chút nào, liền ẳm Hân Ly đứng dậy.

Lại đột nhiên có một tiếng kêu "coong", bốn bên sơn cốc đều có tiếng vang vọng lại tựa như trăm nghìn cái chuông cùng khua động một lúc!

Trong tiếng kêu đó, bỗng có ba người xuất hiện ra trước mặt.

Chàng đưa mắt nhìn về phía đó, thấy ba người đều ăn mặc áo bào trắng lớn rộng, hai người trong bọn thân hình rất cao lớn, còn người đứng bên phía trái là một thiếu nữ.

Cả ba người đều đứng dưới bóng trăng nên chàng không sao thấy rõ mặt. Tuy vậy chàng trông thấy góc áo bào của người nào cũng có thêu một ngọn lửa màu đỏ, chàng nhận ra ngay đó là dấu hiệu của Minh Giáo.

Người đứng giữa thân hình cao lớn nhất liền cất tiếng nói:

- Thánh Hỏa Lệnh của Minh Giáo đã đến. Hộ Giáo Long Vương và Sư Vương sao không quỳ xuống nghênh đón? Còn đợi chờ chừng nào nữa?

Lời nói của người đó rất ngượng nghịu, hình như y vừa mới học nói vậy.

Chàng giật mình kinh hãi nghĩ thầm:

- Trong di ngôn của Giáo chủ có nói: Thánh Hỏa Lệnh của bổn giáo đã thất lạc vào tay của Cái Bang từ Thạch Giáo chủ, giáo chủ đời thứ ba mươi mốt của bổn giáo, cho tới ngày nay vẫn chưa kiếm lại được, không hiểu tại sao lại lọt vào tay ba người này như vậy? Không biết Thánh Hỏa Lệnh nầy là thực hay giả? Ba người nầy không biết có phải là người của bổn giáo không?

Trong lúc chàng đang thắc mắc đã nghe Kim Hoa Bà Bà lên tiếng đỡ lời:

- Bổn nhân đã phá cửa xuất giáo rồi, các người đừng có nhắc nhở bốn chữ Hộ Giáo Long Vương với Bà Bà nầy nữa! Chẳng hay các hạ quý tính đại danh là chi? Thánh Hỏa Lệnh nầy các hạ kiếm ở đâu ra thế? Chẳng hay nó là thật hay giả?

Người nọ lớn tiếng đáp:

- Mụ đã phá cửa xuất giáo, còn nói lôi thôi như thế làm chi?

Kim Hoa Bà Bà lạnh lùng nói tiếp:

- Trong đời Kim Hoa Bà Bà này chưa hề bị ai la lớn nửa tiếng. Năm xưa dù Dương Giáo chủ còn sống đối với mụ này cũng còn phải kính nể ba thành. Ngươi là người như thế nào ở trong Minh Giáo lại lớn tiếng kêu gọi tên tuổi ta như vậy?

Chỉ thoáng cái ba người nọ đã phi thân đến gấn Bà Bà giơ tay trái lên chộp Bà Bà.

Kim Hoa Bà Bà giơ quài trượng lên gạt ngang một cái, nhưng không hiểu chân của ba người đó xê dịch như thế nào, mà đã lướt ra phía sau Kim Hoa Bà Bà liền, nên trượng của Kim Hoa Bà Bà đánh hụt luôn, đồng thời cổ của mụ ta đã bị một người chộp trúng và mụ ta đã bị người đó ném ra xa liền!

Vô Kỵ thấy ba người đó thân pháp quái dị và võ công cao siêu như thếcũng phải kinh hãi, thất thanh kêu "ủa" một tiếng đồng thời chàng đã nhận ra thân pháp và thủ pháp của người đó đều giống như Càn Khôn Ðại Nã Di Thân Pháp vậy!

Chàng liền nghĩ thầm:

- Chẳng lẽ ba người này cũng luyện thành võ công cao siêu như nhau chăng?

Trong lúc ba người đó vừa tới, Tiếng động rất lớn kia đã làm cho Hân Ly thức tỉnh, nàng mở mắt ra thấy mình đang nằm ở trong tay của Vô Kỵ, nàng cảm thấy rất khoan khoái, nhưng vết thương ở trước ngực đau đớn khôn tả khiến nàng lại nhắm nghiền mắt, cố gượng chịu đau nhưng nàng đã mê man không còn nghĩ ngợi được gì cả.

Ba người nọ vừa xê dịch thân hình một cái, chỉ có ánh sáng trăng hơi chiếu qua mặt họ một chút, Vô Kỵ đã nhận ra được mặt của họ liền.

Chàng thấy người cao nhất, râu xồm mắt xanh. Còn người thứ hai, râu vàng, mũi két, cả hai đều là người Hồ. Còn thiếu nữ thì tóc đen, trông như người Hán vậy, nhưng đôi ngươi của nàng ta rất nhợt hầu như không có mầu sắc gì hết. Mặt nàng lại rất đẹp, chàng thấy vậy nghĩ thầm:

- Thì ra ba người này đều là người Hồ hết, thảo nào họ nói tiếng Hán không sõi và chậm chạp như thế!

Chàng lại nghe thấy người râu xồm lên tiếng nói tiếp:

- Thấy Thánh Hỏa Lệnh như thấy Giáo chủ, sao Tạ Tốn không chịu quỳ xuống nghênh đón?

Tạ Tốn đáp:

- Chẳng hay ba vị là ai? Nếu là đệ tử của bổn giáo thì Tạ Tốn tôi phải quen biết. Nếu ba vị không phải là người của bổn giáo thì Thánh Hỏa Lệnh nầy không có gì liên can đến ba vị cả.

Người râu xồm vội hỏi:

- Minh Giáo xuất xứ ở đâu?

Tạ Tốn đáp:

- Nguồn gốc của Minh Giáo ở Ba Tư.

- Ta là Lưu Vân sứ giả của Tổng Giáo ở Ba Tư, còn hai vị nầy là Diệu Phong sứ giả, thừa lệnh Tổng Giáo Chủ đặc biệt tới Trung Thổ nầy.

Tạ Tốn với Vô Kỵ nghe người đó nói như thế đều ngẩn người ra.

Vô Kỵ đã được đọc cuốn Minh Giáo Lưu Truyền Trung Thổ Ký của Dương Tiêu viết, chàng biết Minh Giáo quả thật xuất xứ ở Ba Tư, bây giờ chàng thấy ba người này quả thật là người Hồ ở nước Ba Tư, võ công và thân pháp của họ quái dị như vậy tất nhiên không phải là giả dối.

Vì vậy chàng không nói năng gì hết và chỉ lặng lẽ để nghe Tạ Tốn đối đáp ra sao? Chàng lại nghe thấy Diệu Phong sứ giả, người râu vàng lên tiếng nói:

- Giáo chủ của chúng tôi nhận được tin biết Giáo chủ của chi phái ở Trung Thổ mất tích, các đệ tử đang tàn sát lẫn nhau, vì vậy thế lực của bổn giáo ngày một suy đồi, cho nên mới sai Vân Phong Nguyệt, ba sứ giả đến đây để chỉnh đốn lại chi giáo, khiến người trên người dưới đều phải thừa lệnh Tổng Giáo chủ và không được tàn sát lẫn nhau nữa.

Vô Kỵ nghe thấy người đó nói như vậy liền nghĩ thầm:

- Tổng Giáo chủ có hiệu lệnh truyền tới như vậy thì thật may mắn lắm, ta đỡ phải gánh lấy trọng trách nầy nữa. Vì ta hãy còn ít kinh nghiệm, nếu có gánh vác trọng trách nầy mãi thì thế nào cũng làm lỡ hết đại sự.

Chàng đang nghĩ lại nghe thấy Tạ Tốn lên tiếng nói:

- Tuy Minh Giáo ở Trung Thổ xuất xư ở Ba Tư thật nhưng hơn nghìn năm nay đã độc lập thành một môn phái riêng và không bao giờ chịu để cho Tổng Giáo ở Ba Tư quản thúc hết. Ba vị ở đường xa tới Trung Thổ, Tạ Tốn tôi rất hoan nghênh, còn bảo Tạ Tốn tôi quỳ tiếp thì chúng tôi không có lễ phép ấy!

Lưu Vân sứ giả thò tay vào trong túi áo lấy ra hai cái thẻ bài dài chừng hai thước, không phải làm bằng vàng mà cũng không phải chế bằng ngọc. Người đó cầm hai cái thẻ bài gõ vào nhau đến "coong" một tiếng. Tiếng quái dị đúng là tiếng động mà Vô Kỵ đã nghe thấy hồi nãy. Lúc này vì đứng cách nhau rất gần, tiếng kêu đó lại càng làm cho mọi người chịu không nổi. Cũng may Lưu Vân sứ giả chỉ gõ một cái thôi chứ không gõ thêm một cái nữa.

Gõ xong, y liền nói tiếp:

- Ðây là Thánh Hỏa Lệnh của Minh Giáo, ở Trung Thổ, Thạch Giáo Chủ của đời trước hư hỏng mới để cho Cái Bang lấy mất Thánh Hỏa Lệnh này đi, nay chúng tôi đã lấy lại được, đem lại đây, vậy các người thấy Thánh Hỏa Lệnh này cũng như thấy Giáo chủ, tại sao Tạ Tốn nghe lệnh mà không chịu quỳ xuống nghênh tiếp?

Lúc Tạ Tốn gia nhập Minh Giáo, Thánh Hỏa Lệnh đã bị mất khá lâu, nên đại hiệp chưa được trông thấy bao giờ, nhưng đã nghe các vị tiền bối kể lại những sự linh dị của lệnh đó như thế nào rồi. Nên y biết ngay sáu miếng ngọc bài của sáu người kia cầm chính là Thánh Hỏa Lệnh của bổn giáo thực sự. Huống hồ y còn nhận thấy ba người đó chỉ ra tay một cái đã vứt được Kim Hoa Bà Bà đi xa liền. Y tự biết võ công của mình không hơn gì Kim Hoa Bà Bà, dù có kháng cự chưa chắc đã thắng nổi ba kẻ địch ấy, nên y liền đáp:

- Tại hạ tin lời nói của các hạ là thực, nhưng không hiểu các hạ định chỉ bảo điều gì thế?

Lưu Vân đưa tay trái lên phẩy một cái.

Diệu Phong và Huy Nguyệt đã hiểu ý ngay, liền tung mình lên nhảy với Lưu Vân cùng một lúc.

Họ chỉ nhảy mấy cái đã phi thân tới chỗ Kim Hoa Bà Bà liền, Kim Hoa Bà Bà vội vàng lấy sáu bông Kim hoa ra ném luôn vào ba vị sứ giả một lúc.

Nhưng ba sứ giả ấy chỉ nhảy vài cái đã tránh né được hết. Huy Nguyệt liền phi thân lại gần Kim Hoa Bà Bà, giơ tay búp măng ra định điểm vào yếu huyệt ở trên yết hầu Bà Bà.

Kim Hoa Bà Bà vôi giơ quài trượng lên chống đỡ và còn tấn công thêm một thế trượng nữa.

Vô Kỵ bỗng thấy Kim Hoa Bà Bà tung mình nhảy lên, nhưng tới khi chàng nhìn kỹ mới hay, không phải là bà ta tự nhảy lên mà là bà ta bị Lưu Vân với Diệu Phong chụp cổ túm lên.

Như vậy, chắc bà ta đã bị đối thủ điểm trúng yếu huyệt ở sau lưng, không sao cử động được, nên mới để yên cho hai đối thủ chộp cổ và túm lên như thế.

Tiếp theo đó, Huy Nguyệt còn điểm thêm bảy nơi yếu huyệt ở trên người của Bà Bà.

Vô Kỵ thấy ba sứ giả ra tay nhanh và lợi hại như vậy liền nghĩ thầm:

- Thân pháp và võ công của ba người không có điểm nào hơn người khác hết, nhưng họ chỉ phối hợp rất khéo léo thôi. Cũng như vừa rồi, Huy Nguyệt ở phía trước để dụ địch, còn hai ngươi kia thì rón rén nhảy tới ra tay bắt Kim Hoa Bà Bà luôn. Sự thực võ công của từng người một chưa chắc đã cao siêu hơn Kim Hoa Bà Bà được...

Chàng đang nghĩ, đã thấy Lưu Vân khẽ hất tay một cái Kim Hoa Bà Bà đã bị ném xuống chỗ trước mặt của Tạ Tốn liền.

Rồi Lưu Vân tiến tới gần nói với Tạ Tốn rằng:

- Tạ Sư Vương, qui luật của bổn giáo có phải đã gia nhập bổn giáo rồi suốt đời không được phản bội bổn giáo phải không?

Người này tự nhận là khóa cửa xuất giáo, mụ ta là phản đồ của bổn giáo. Sư Vương dem mụ ta đi xử trảm ngay.

Tạ Tốn ngẩn người ra đáp:

- Minh Giáo của Trung Thổ xưa nay không có luật lệ ấy.

Lưu Vân lạnh lùng nói tiếp:

- Từ nay trở đi Minh Giáo ở Trung Thổ phải nghe hiệu lệnh của Tổng Giáo ở Ba Tư. Vừa rồi mụ già đã xếp đặt âm mưu độc kế giết hại người, hành vi bỉ ổi của mụ đều lọt cả vào mắt chúng ta, để mụ ấy ở lại trần gian chỉ gây tai họa cho người thôi. Vậy ngươi mau mau nghe lệnh diệt trừ mụ đi.

Tạ Tốn nghênh ngang trả lời:

- Năm xưa, Hàn phu nhân đối đãi với Tạ Tốn tôi rất tử tế. Tứ Vương của Minh Giáo coi nhau như ruột thịt, tuy ngày hôm nay bà ta đối với Tạ mỗ vong tình, nhưng Tạ mỗ không thể nào bất nghĩa mà ra tay giết bà ta được.

Diệu Phong Sứ nghe Tạ Tốn nói như vậy ha hả cười một hồi rồi xen lời nói:

- Người Trung Quốc nào cũng vậy, không khác gì đàn bà con gái, làm việc gì cũng không cả quyết. Ngươi còn nói lôi thôi làm chi nữa, mụ già định hại ngươi mà ngươi lại không dám ra tay giết mụ ta, như vậy là có nghĩa lý gì? Thực lạ lùng quá?

Tạ Tốn lại nói:

- Các vị nói thế rất lầm, xưa nay Tạ mỗ giết người không chớp mắt nhưng không bao giờ ra tay giết những người đồng giáo với mình.

Huy Nguyệt cũng xen lời nói:

- Nhưng lần này mi phải giết mụ ta mới được. Nếu ngươi không giết mụ ấy tức là không nghe hiệu lệnh, chúng ta sẽ giết ngươi trước.

Tạ Tốn liền hỏi lại:

- Ba vị tới Trung Thổ, việc thứ nhứt là ép Kim Mao Sư Vương giết Tỷ Sam Long Vương. Ba vị làm như thế là muốn lập oai và doạ nạt người phải không?

Huy Nguyệt mỉm cười đáp:

- Hai mắt tuy mù, đầu óc vẫn còn sáng suốt, ngươi mau ra tay giết mụ ấy đi, còn chần chờ gì nữa.

Tạ Tốn ngửng mặt lên trời lớn tiếng cười một hồi. Tiếng cười của y chấn động cả sơn cốc, cười xong y lại nói tiếp:

- Tạ Kim Mao Sư Vương xưa nay quang minh lỗi lạc. Ðừng nói ta không giết bạn cùng một giáo phái, dù người này có là kẻ thâm thù của ta đi chăng nữa, nhưng trong lúc người ta bị bao vây bắt giữ không có sức phản kháng. Tạ mỗ tôi không bao giờ giết chóc những người không kháng cự lại mình được.

Vô Kỵ nghe thấy lời nói của nghĩa phụ tràn đầy hào khí, trong lòng cũng khen ngợi thầm và dần dần có ác cảm với ba sứ giả người Ba Tư kia.

Chàng lại nghe thấy Diệu Phong nói tiếp:

- Giáo đồ của Minh Giáo thấy Thánh Hỏa Lệnh này như thấy Giáo chủ vậy. Ngươi táo gan dám phản giáo phải không?

Tạ Tốn liền nghĩ ra một kế liền hiên ngang đáp:

- Mắt của Tạ mỗ đã mù hơn hai mươi năm nay, dù ba vị có để Thánh Hỏa Lệnh trước mắt. Tạ mỗ tôi cũng không trông thấy gì hết. Vây ba vị không thể nói là Tạ mỗ tôi trong thấy Thánh Hỏa Lệnh mà không chịu nghe lệnh được.

Diêu Phong cả giận quát hỏi:

- Giỏi lắm, có phải ngươi định quyết tâm phản giáo đấy không?

Tạ Tốn lại đáp:

- Tạ mỗ không dám phản giáo, nhưng tôn chỉ của Minh Giáo xưa nay vẫn hành thiện khử ác, coi nghĩa khí trọng hơn hết. Tạ mỗ đành để cho người chém đứt đầu của mình, chứ không bao giờ chịu làm gương việc phi nghĩa ấy.

Tuy mình mẩy tay chân không cử động được, Kim Hoa Bà Bà vẫn nghe thấy những lời của Tạ Tốn vừa nói.

Vô Kỵ biết sự sống còn của nghĩa phụ mình sẽ bị giải quyết trước mắt. Chàng vội khẽ đặt Hân Ly xuống đất, nhưng chàng lại nghe thấy Lưu Vân nói tiếp:

- Người trong Minh Giáo không ai dám trái lệnh của Thánh Hỏa Lệnh, nếu người nào trái lệnh sẽ bị xử trảm tức thì.

Tạ Tốn quát lớn:

- Bổn nhân là Hộ Giáo Pháp Vương, dù Giáo chủ có muốn giết chết Tạ mỗ thì cũng phải khai đàn khẩn xin trời đất và nói rõ tội trạng rồi mới có thể giết Tạ mỗ được.

Diệu Phong cười khúc khích đáp:

- Minh Giáo ở Ba Tư làm gì có lắm quy luật bậy bạ như Minh Giáo ở Trung Thổ này?

Sứ giả vừa nói dứt, cả ba cùng rú lên một tiếng thực lớn, nhảy xổ lại.

Tạ Tốn liền múa Ðồ Long đao để bảo vệ bản thân.

Ba người sứ giả tấn công luôn ba thế mà không sao lại gần Tạ Tốn nên chúng rút Thánh Hỏa Lệnh ra cầm ở tay, rồi Huy Nguyệt phi thân tới gần, giơ Thánh Hỏa Lệnh ra nhắm ót của Tạ Tốn đánh xuống.

Tạ Tốn vội giơ đao lên chống đỡ, chỉ nghe "coong" một tiếng.

Tiếng kêu đó rất quái dị. Ðao Ðồ Long có thể chặt đứt sắt đá mà không hiểu tại sao lại không chặt gãy nổi thẻ bài Thánh Hỏa Lệnh ấy.

Lưu Vân liền lăn người qua bên trái và đã đánh trúng đùi Tạ Tốn một cái.

Kim Mao Sư Vương loạng choạng suýt ngã.

Diệu Phong giơ ngang Thánh Hỏa Lệnh điểm luôn vào yếu huyệt sau lưng y.

Nhưng Diệu Phong bỗng thấy tay mình bị nắm chặt và Thánh Hỏa Lệnh bị cướp mất.

Y kinh hãi quay người lại nhìn, thấy một thiếu niên ăn mặc lối thủy thủ và tay phải của người đó còn cầm cái thẻ bài Thánh Hỏa Lệnh.

Vừa tung mình nhảy ra, Vô Kỵ đã cướp được Thánh Hỏa Lệnh đó liền, chàng ra tay nhanh và xảo diệu vô cùng, nên Diệu Phong sứ không hay biết gì hết.

Lưu Vân sứ và Huy Nguyệt sứ thấy vậy vừa kinh hãi vừa tức giận và cùng chia làm hai bên nhảy xổ lại để tấn công, Vô Kỵ vội xoay người tránh sang bên trái, không ngờ chàng đã bị Huy Nguyệt đánh trúng một cái thẻ bài vào lưng kêu "bốp" một tiếng, Thánh Hỏa Lệnh đó không phải là vàng, sắt hay ngọc, nhưng cứng rắn vô cùng.

Vô Kỵ bị đối phương đánh trúng một cái thẻ bài vào lưng kêu "bốp" một tiếng, Thánh Hỏa Lệnh đó không phải là vàng, sắt hay ngọc nhưng cứng rắn vô cùng.

Vô Kỵ bị đối phương đánh trúng một thẻ bài thấy mặt mày tối tăm suýt ngã. Cũng may thần công hộ thể của chàng đã phản ứng tức thì, nên chàng chỉ đâm bổ về phía trước ba bước, rồi vô sự.

Ba sứ giả của Ba Tư vẫn vây đánh chàng kịch liệt.

Tay trái giơ ra, Vô Kỵ đã chụp được Thánh Hỏa Lệnh của Huy Nguyệt đang cầm.

Ngờ đâu, Huy Nguyệt bỗng buông tay ra, đuôi của cái Thánh Hỏa Lệnh đó bỗng bật lên phía trên kêu "bộp" một tiếng, trúng ngay vào cổ tay Vô Kỵ, Vô Kỵ thấy năm ngón tay tê tái đành phải buông tay ra, không dám cướpp chiếc Thánh Hỏa Lệnh ấy nữa. Huy Nguyệt nhanh tay bắt luôn cái thẻ bài đó lại.

Từ khi luyện thành Càn Khôn Ðại Nã Di Tâm Pháp, Vô Kỵ lại được Trương Tam Phong chỉ điểm cho Thái Cực Quyền. Từ đó trở đi, chàng tung hoành thiên hạ, chưa hề gặp một địch thủ nào. Chàng không ngờ bây giờ lại bị Huy Nguyệt, một thiếu nữ liên tiếp đánh trúng mình hai cái như thế. Nhất là cái đánh thứ hai trúng vào xương cổ tay, nếu chàng không có thần công hộ thể, làm giảm sức mạnh của cái thẻ bài ấy thì tay chàng đã gãy rồi.

Kinh ngạc vô cùng, Vô Kỵ không dám tấn công kẻ địch nữa, đứng ngẩn người ra nhìn xem thế võ của địch thủ như thế nào rồi mới nghĩ cách đối phó.

Ba sứ giả của Ba Tư, thấy chàng tuy bị đánh hai lần mà không bị thương gì hết, chúng cũng kinh ngạc vô cùng, chúng chưa hề thấy ai bị đánh như thế mà lại vô sự được?

Diệu Phong cúi xuống nhảy xổ tới húc vào người Vô Kỵ.

Theo võ học của Trung Nguyên thì thế húc đầu như thế là rất dại dột.

Nhưng Vô Kỵ vẫn đứng yên, chàng đoán chắc đối thủ dùng thế võ dại dột như vậy, thế nào cũng có ẩn phục thế võ lợi hại khác.

Chàng đợi chờ đầu của kẻ địch húc tới rất gần, chàng mới lui vế phía sau một bước để tránh né. Chàng thấy Lưu Vân tung mình nhảy lên định ngồi trên đầu mình. Thế võ này của địch lại càng quái dị thêm. Vì trong võ công không ai lấy mông đít tấn công một cách ngu dại như vậy bao giờ. Tuy vậy chàng vẫn nhảy sang bên tránh né, nhưng đã thấy ngực hơi đau.

Thì té ra Diệu Phong đã ngấm ngầm nhảy tới dùng khuỷu tay thúc vào ngực Vô Kỵ mà chàng không hay.

Nhưng khi đụng mình Vô Kỵ, Diệu Phong đã bị Cửu Dương Thần Công của chàng phản ứng nên người sứ giả đó bị đẩy lui về phía sau ba bước.

Tiếp theo đó y còn phải lui thêm ba bước nữa rồi mới đứng yên được.

Ba sứ giả của Ba Tư đều ngạc nhiên, mặt thất sắc, Huy Nguyệt lại múa hai cái thẻ Thánh Hỏa Lệnh, tiến lên quét ngang một thế.

Còn Lưu Vân đột nhiên ở trước mặt chàng lộn luôn ba vòng.

Vô Kỵ vừa bị Diệu Phong thúc khủyu tay vào ngực, hiện giờ vẫn còn cảm thấy đau đớn lại thấy Lưu Vân lộn lung tung như vậy, Vô Kỵ không hiểu đối phương lộn như thế có dụng ý gì, liền nghĩ thầm:

- Ta cứ tránh ra xa thì hơn.

Nghĩ đoạn, chàng liền lui sang trái một bước để tránh né. Nhưng chàng lại thấy trước mắt có ánh sáng thấp thoáng và vai bên phải đã bị Lưu Vân đánh trúng một cái thả Thánh Hỏa Lệnh liền. Chàng thấy thế công đó kỳ lạ quá, kẻ địch ra tay như thế nào mà chàng không hay biết một tí gì và chàng rõ ràng thấy Lưu Vân đang lộn vòng ở trên không, y làm sao lại giơ tay ra đánh trúng mình được?

Kinh hãi vô cùng, Vô Kỵ không dám tiếp tục đấu với chúng nữa. Tuy đã có Cửu Dương Thần Công hộ thể nhưng vai và hông của chàng đau đớn chịu không nổi. Chàng đang nghĩ nếu mình rút lui, nghĩa phụ sẽ mất mạng ngay.

Ngày hôm nay dù phải hy sinh tính mạng, chàng cũng phải cố đánh lui kẻ địch, bảo hộ tính mạng của nghĩa phụ, bèn hít một hơi thật mạnh, nghiến răng mím môi phi thân tiến lên, giơ chưởng lên tấn công ngay ngực của Lưu Vân tức thì.

Lưu Vân cũng tiến lên phi thân một lúc với chàng, và chỉ thấy kẻ địch cầm hai chiếc Thánh Hỏa Lệnh gõ vào nhau kêu đến "coong" một tiếng.

Vô Kỵ bỗng thấy tâm thần hoang mang, rồi người mình ở trên không rớt thẳng xuống và thấy ngang lưng đau nhức khôn tả.

Lúc ấy chàng mới biết mình bị Diệu Phong đa trúng một cái. Diệu Phong liền bị thần công của chàng đánh bạt về phía sau, nhưng cánh tay của chàng đã bị Thánh Hỏa Lệnh của Huy Nguyệt đánh trúng.

Tạ Tốn đứng cạnh, lắng tai nghe, đã biết thiến niên của Cự Kình Bang bị kẻ địch đánh trúng mấy cái liền và đang cố gắng chống chọi, đại hiệp rất bực mình vì hai mắt đã mù nên không sao tiến lên trợ giúp cho thiếu niên đó được.

Tạ Tốn nóng lòng sốt ruột, lớn tiếng kêu gọi:

- Thiếu hiệp mau rút lui đi, đây là việc của Minh Giáo không liên can gì đến các hạ. Ngày hôm nay liên tiếp được thiếu hiệp ra tay trợ giúp như vậy, Tạ Tốn tôi cám ơn vô cùng.

Vô Kỵ cũng lớn tiếng đáp:

- Tôi... thôi đại hiệp mau chạy đi, hãy nghe lời tôi mà chạy đi.

Chàng vừa nói tới đó, đã thấy Lưu Vân múa Thánh Hỏa Lệnh đánh tới liền giơ tay ra gạt chiếc Thánh Hỏa Lệnh đó một cái. Lưu Vân không sao nắm vững chiếc Hỏa Lệnh ấy, nên Thánh Hỏa Lệnh rời khỏi tay và bắn tung lên cao, Vô Kỵ tung mình lên đặng cướp chiếc thẻ bài ấy thì đột nhiên nghe "soẹt" một tiếng, sau lưng áo của chàng đã bị Huy Nguyệt sứ xé rách, móng tay của nàng ta đã cào vào chàng sướt mấy cái lằn, đau nhức vô cùng.

Nhờ đó Lưu Vân đã cướp lại được chiếc Thánh Hỏa Lệnh kia.

Trải qua mấy hiệp đấu đó, Vô Kỵ biết rõ công lực của ba người kia, người nào cũng kém mình xa, nhưng võ học của chúng rất quái dị, và khí giới của chúng lại rất thần kỳ. Vả lại lúc nào ba người cũng xông lại tấn công chàng một lượt.

Chàng liền nghĩ thầm:

- Chúng ra tay huyền bí thâm độc khôn lường. Ta chỉ cần đả thương được một tên trong bọn chúng thì trận đấu ngày hôm nay ta mới nắm chắc được phần thắng.

Nghĩ tới đó, chàng nhớ lại Diệu Phong hai lần bị đẩy té mà lần nào y cũng hình như không bị một chút nội thương nào hết.

Vô Kỵ biến đổi mấy môn quyền pháp mà vẫn không sao đánh tan được cục diện liền tay của ba người đó.

Trái lại chàng bị Thánh Hỏa Lệnh đánh trúng thêm hai cái nữa.

Lúc này ba sứ giả Ba Tư không dám dùng tay và chân chạm vào người của chàng như trước nữa.

Vì lần nào cũng vậy, chúng đánh trúng người của chàng là chúng không thấy đau đớn thì cũng bị té ngã.

Tạ Tốn quát lớn một tiếng, múa thanh đao Ðồ Long xông vào vòng chiến, nhảy tới cạnh Vô Kỵ và nói:

- Tiểu hiệp dùng đao đi.

Nói xong y liền đưa đao cho cho Vô Kỵ, Vô Kỵ vừa giơ tay ra đỡ lấy thanh đao đó và nghĩ thầm:

- May ra thần oai của thanh bảo đao này có thể đánh lui được địch cũng nên .

Tạ Tốn thấy Vô Kỵ đã cầm lấy thanh đao rồi, liền nhảy về phía sau lui ra ngoài vòng chiến.

Nhưng y đã bị Diệu Phong đánh trúng một quyền.

Y thấy ngũ tạng lục phủ như bị đảo lộn vậy, khó chịu vô cùng.

Sở dĩ Tạ Tốn bị đánh trúng quyền đó là vì quyền của đối phương rất huyền ảo, không có một tiếng động gì hết, nên y mới bị đánh trúng quyền đó như vậy.

Vô Kỵ múa đao nhắm Lưu Vân chém luôn.

Ðối phương liền giơ hai chiếc Thánh Hỏa Lệnh đã dính vào thanh đao Ðồ Long liền.

Chàng thấy tay mình rung động rất mạnh, thanh đao Ðồ Long suýt rời khỏi tay chàng. Chàng kinh hãi vô cùng, vội vận hết nội lực ra nắm chặt lấy thanh đao đó.

Xưa nay Lưu Vân dùng Thánh Hỏa Lệnh để cướp khí giới của địch dễ như trở bàn tay, chưa hề bị thất thố bao giờ.

Y không ngờ lần này lại cướp hụt khí giới của Vô Kỵ, y ngạc nhiên vô cùng.

Huy Nguyệt thét một tiếng rất thanh thoát, lại giơ hai chiếc Thánh Hỏa Lệnh lên đè xuống thanh đao Ðồ Long.

Thế là tứ lệnh đoạt đao, oai lực càng mạnh hơn trước nhiều.

Vô Kỵ bị thương bảy tám nơi, tuy những vết thương đó rất nhẹ, nhưng cũng làm giảm mất sức lực của chàng rất nhiều.

Lúc này chàng lại cảm thấy nửa bên người nóng ran.

Tay phải cầm cán đao, cứ run run hoài.

Chàng biết thanh đao nầy không khác gì tính mạng thứ hai của nghĩa phụ.

Bây giờ nghĩa phụ chưa biết thân phận và chân tướng của mình ra sao mà đã chịu cho mình mượn đao như vậy rồi, đủ thấy cử chỉ đó của nghĩa phụ thật là hào khí can vân. Nếu để thanh đao này mất bởi tay mình thì mặt mũi nào trông nghĩa phụ nữa.

Nghĩ tới đó, bỗng chàng quát lớn một tiếng, giơ cánh tay phải lên dồn Cửu Dương Thần Công ở bên trong vào thanh đao. Lưu Vân, Huy Nguyệt, hai sứ giả bỗng thấy thanh đao của đối phương càng ngày càng mạnh hơn trước, nên cả hai đều biến sắc mặt, kinh hãi vô cùng.

Diệu Phong thấy vậy cũng để một chiếc Thánh Hỏa Lệnh lên thanh đao Ðồ Long.

Lúc này Vô Kỵ đã phấn chấn nên một địch ba không nao núng chút nào, trong lòng còn mừng thầm là khác, và nghĩ:

-Cũng may là lúc mới vào đấu, ta đánh rơi được chiếc Thánh Hỏa Lệnh của Diệu Phong, bằng không bây giờ sáu chiếc Hỏa Lệnh đánh ta một lúc thì ta khó chống đỡ nữa.

Bốn người đều vận nội lực ra chống chọi với nhau.

Vô Kỵ nghĩ thầm:

-Các ngươi muốn thi thố nội lực với ta thì thật là hợp ý ta quá.

Bốn người cứ đứng yên, không cử động gì cả, ai nấy củng đều vận nội lực vào khí giới của mình để hạ dối phương .

Ðột nhiên Vô Kỵ thấy ngực đau vô cùng, hình như bị một mũi kim thật nhỏ châm phải vậy...

Chàng bị kim chích đau một cái đột ngột và đau buốt tận tim phế, vì vậy con đao Ðồ Long mới bị năm chiếc Hỏa Lệnh kia hút đi.

Sự thể xảy ra đột ngột như thế mà Vô Kỵ vẫn bình tĩnh vô cùng, thuận tay chàng rút luôn thanh Ỷ Thiên kiếm ở sau lưng, dùng thế hoàn Chuyển Như Ý của Thái Cực kiếm pháp. Chỉ thấy thanh kiếm của chàng vạch một vòng, đồng thời nhằm bụng của ba sứ giả đâm luôn.

Ba sứ giả vội nhảy về phía sau tránh né, Vô Kỵ cắm luôn thanh ỷ Thiên kiếm vào trong bao và giơ tay ra cướp luôn thanh đao Ðồ Long lại.

Bốn động tác: Mất đao rút kiếm, cắm kiếm cướp đao của Vô Kỵ nhanh như điện chớp. Và đó cũng là võ công thứ bảy của môn Càn khôn đại nã di.

Ba sứ giả đồng thanh kêu "ủa" một tiếng và có vẻ kinh ngạc vô cùng vì chúng thấy nội lực của ba người mà còn kém Vô Kỵ xa.

Vì chúng thất thanh kêu lên một tiếng như thế, ba chiếc Thánh hỏa lệnh của chúng bị thanh đao Ðồ Long hất luôn.

Ba người nọ vội vận nội lực cướp lại.

Thế rồi hai bên lại cầm cự nhau như trước.

Ðột nhiên Vô Kỵ thấy ở ngực như bị kim châm một cái.

Lần này Vô Kỵ đã biết cách đề phòng nên không bị đối phương cướp mất khí giới, nhưng tựa như có hình mà không có thực chất, chỉ thấy một luồng hơi lạnh phá Cửu Dương thần công của mình mà xuyên thẳng vào trong nội tạng.

Chàng biết đó là một nội lực rất âm hàn của ba vị sứ giả nọ xuất phát ở Thánh hỏa lệnh truyền ra.

Ðáng lẽ vật chí âm mà tấn công vật chí dương chưa chắc đã thắng nổi Cửu Dương thần công, nhưng vì Vô Kỵ dùng Cửu Dương thần công bảo hộ khắp thân thể, sức âm hàn kia lại nhỏ như sợi tóc nên âm kình đó mới xuyên qua được Cửu Dương thần công của chàng mà đả kích chàng như vậy. Tuy âm kình đó vào trong người chàng liền tiêu tán ngay, nhưng chàng cũng cảm thấy buốt tận xương.

Huy Nguyệt sứ liên tiếp vận dụng nội kình, đẩy hai mũi Thấu cốt châm tấn công lén Vô Kỵ, nhưng thấy Vô Kỵ không bị hao sức chút nào cả mà đã chống đỡ được hết nên nàng ta càng kinh hãi thêm.

Nàng lại thấy Vô Kỵ đeo thanh bảo kiếm ở ngang lưng rất sắc bén, nàng cũng muốn cướp được cả thanh bảo kiếm ấy nữa, nhưng nàng không sao rảnh tay để cướp.

Diệu phong sứ chỉ còn một cây Thánh hỏa lệnh nên tay trái trống không, đáng lẽ có thể ra tay cướp được thanh kiếm đó.

Nhưng vì đã dồn hết sức vào cánh tay phải, tay trái của y đã tê liệt như không có tay vậy. Trong khi đôi bên đang cầm cự, kẻ địch cứ liên tiếp dồn những mũi tên thấu cốt tấn công lia lịa.

Vô Kỵ liền nghĩ thầm:

- Nếu đối phương cứ dùng thấu cốt châm tấn công mãi thế này có lẽ ta chịu không nổi mất!.

Nhưng chàng không có cách gì đối phó, bỗng nghe thấy tiếng hô hấp của Tạ Tốn rất nặng và nghe thấy bước chân của đại hiệp cứ tiến tới dần.

Chàng biết nghĩa phụ mình đang tiến lên định ra tay giúp đỡ mình. Nhưng lúc ấy, nội kình của bốn người đã bao khắp toàn thân, Tạ Tốn ra tay đánh vào người của kẻ địch một chưởng thì không khác gì đánh vào người của Vô Kỵ vậy.

Ðại hiệp cũng biết điều đó nên chần chờ mãi không dám ra tay.

Vô Kỵ nghĩ thầm:

- Ta với ba sứ giả của Ba Tư không có thù oán gì hết. Vậy bây giờ cần nhất là làm sao cho nghĩa phụ thoát thân được. Nhưng nếu nghĩa phụ biết ta là Vô Kỵ thì thế nào nghĩa phụ cũng không chịu đi đâu .

Nghĩ đoạn, Vô Kỵ lớn tiếng nói:

- Tạ đại hiệp, võ công của ba sứ giả Ba Tư tuy lạ kỳ thực, nhưng tại hạ muốn thoát thân không phải là một chuyện khó. Mời đại hiệp hãy đi khỏi nơi đây, tạm tránh nhất thời, tại hạ đối phó với họ xong sẽ hoàn lại thanh đao ngay.

Ba sứ giả Ba Tư thấy chàng đấu nội lực mà còn lên tiếng nói được như thường, trong lòng kinh hãi thêm.

Tạ Tốn liền hỏi:

- Chẳng hay thiếu hiệp quý tính cao danh là gì?

Vô Kỵ chần chờ không muốn trả lời vội, liền nghĩ tiếp:

- Lúc này ta không nên cho nghĩa phụ biết ta là ai vội, bằng không nghĩa phụ thương ta và thế nào cũng quyết thí mạng với ba tên kia liền .

Nghĩ đoạn, chàng liền trả lời tiếp:

- Tại hạ họ Tăng tên là A Ngưu, sao đại hiệp không đi ngay đi, chẳng lẽ còn sợ tại hạ không chịu trả lại thanh bảo đao cho đại hiệp hay sao?

Tạ Tốn ha hả cả cười và nói tiếp:

- Tăng thiếu hiệp hà tất phải dùng lời lẽ nói khích Tạ mỗ như vậy, chúng ta can đảm tương chiến với nhau, mỗ tuổi già như vậy mà được kết giao với người bạn như thiếu hiệp, cảm thấy sung sướng vô cùng. Tăng thiếu hiệp mau rút tay và vứt thanh đao đi luôn.

Vô Kỵ biết Thất thương quyền của nghĩa phụ mình rất lợi hại, quý hồ mình đang tâm vứt con đao Ðồ Long cho kẻ địch thì quyền đó thể nào cũng đánh được Huy Nguyệt sứ, nhưng Minh giáo và tổng giáo Ba Tư sẽ gây thêm oán thù ngay. Vả lại khuyên mọi người phải dĩ hòa vi quý, nay bỗng nhiên ta giết sứ giả của tổng giáo thì hỏi rằng còn gì là phong độ của một vị giáo chủ nữa?

Nghĩ rồi chàng vội nói:

- Hãy khoan!

Và quay lại nói với Lưu Vân sứ rằng:

- Chúng ta hãy tạm ngừng tay, tại hạ có mấy lời muốn thưa cùng ba vị.

Lưu Vân sứ gật đầu tán thành.

Vô Kỵ lại nói tiếp:

- Tại hạ với Minh giáo có sự liên quan rất mật thiết, bây giờ ba vị đã cầm Thánh hỏa lệnh tới đây, tức là quý khách của tại hạ. Vừa rồi tại hạ vô lễ với quý vị, thật không phải với quý vị lắm. Bây giờ chúng ta cùng thâu lại nội lực tạm thời ngừng đấu, chẳng hay ba vị có tán thành không?

Lưu Vân sứ liền gật đầu, Vô Kỵ cả mừng liền thâu ngay nội lực và cũng thâu luôn đao Ðồ Long để ở trước ngực.

Chàng cảm thấy nội lực của ba sứ giả đó cùng rút lui liền, nhưng chàng lại cảm thấy có một luồng âm lực như đao, như kiếm, như dùi, như đục nhắm Ngọc Ðường huyệt ở trước ngực mình đâm tới.

Luồng âm lực đó tuy vô hình vô chất thật, nhưng nó không khác gì đao kiếm sắc bén, nên Vô Kỵ liền thấy hơi thở bế tắc và mình mẩy không sao cử động được.

Chàng sực nghĩ như sau:

- Sau khi ta chết, nghĩa phụ thế nào cũng không thoát khỏi bàn tay độc của chúng. Không ngờ sứ giả của tổng giáo lại vô tín nghĩa đến thế, còn Hân Ly liệu có sống sót được không? Triệu cô nương với Chu cô nương, Tiểu Siêu, tội nghiệp cho con bé ấy. Còn sự nghiệp lớn của bổn giáo là cứu dân, kháng Nguyên sau này sẽ ra sao?

Chàng vừa nghĩ đến đó, đã thấy Lưu Vân sứ giơ chiếc Thánh hỏa lệnh bên tay phải nhằm mình đánh xuống, vội vận lực dồn ra huyệt Ngọc Ðường ở trước ngực, nhưng dù sao cũng chậm hơn đối thủ.

Bỗng có một thiếu nữ lớn tiếng nói:

- Minh giáo ở Trung thổ đã tới rất đông.

Lưu Vân sứ nghe thấy nàng nọ nói như thế liền ngẩn người và ngừng tay lại không đánh chiếc Thánh hỏa lệnh ấy xuống nữa.

Ðồng thời, có một cái bóng xám như điện chớp phi tới, rút luôn thanh ỷ Thiên kiếm đeo ở ngang lưng Vô Kỵ ra, rồi cả người lẫn kiếm nhảy xổ vào trong lòng Lưu Vân sứ.

Vô Kỵ tuy không cử động được nhưng mắt còn trông thấy rõ, chàng đã nhận ngay ra người đó chính là Triệu Minh, mừng rỡ vô cùng, nhưng lại hoảng sợ ngay.

Thì ra, thế kiếm đó của Triệu Minh đang sử dụng đó là thế Ngọc tuý cô nương.

Nàng định cùng chết với kẻ địch một lúc.

Vô Kỵ biết rõ thế kiếm đó sử dụng như thế nào và kết quả của nó sẽ ra sao. Chàng biết Triệu Minh sử dụng thế kiếm này nhờ có thanh ỷ Thiên sắc bén, tất nhiên Lưu Vân sứ phải chết ngay tại chỗ và Triệu Minh cũng khó lòng thoát khỏi bàn tay độc ác của đối thủ.

Lưu Vân sứ lần đầu tiên đối địch với các tay cao thủ ở Trung Nguyên, y đấu với Vô Kỵ và còn thêm hai người nữa giúp sức cũng không sao thắng nổi đối phương. Nên y với hai người kia mới dùng gian kế mong thủ thắng. Nhưng y sắp hạ được đối thủ thì lại bỗng thấy một nhân vật, không phải là nam mà cũng không phải là nữ, nhưng thế kiếm của đối phương lợi hại vô cùng. Ðừng nói ba người của chúng liên hiệp đối phó không nổi thế kiếm đó mà cả tính mạng y cũng nguy hiểm nốt.

Trong lúc nguy cấp, y liền giơ Thánh hỏa lệnh lên đỡ thanh bảo kiếm kia, đồng thời, y lại sợ chết nên vừa đỡ một cái đã nằm xuống đất lăn ra bên ngoài luôn.

Chỉ nghe thấy kêu "coong" một tiếng, Thánh hỏa lệnh đã gạt được ỷ Thiên kiếm sang bên, nhưng má bên trái của y đã thấy lạnh buốt. Nhất thời y không biết sống chết ra sao hết, chờ tới khi y lóp ngóp bò dậy được, giơ tay lên rờ trên má, thấy nơi đó vừa ướt vừa đau nhức vô cùng.

Lúc ấy y mới biết má bên trái đã bị mũi kiếm nọ rạch mất một mảnh, cả râu lẫn da cũng bị mất hết.

Nếu Thánh hỏa lệnh không là vật báu gạt được ỷ Thiên kiếm sang bên thì đầu của y đã bị thanh kiếm đó chém đứt một mảnh rồi.

Tuy Triệu Minh mạo hiểm dùng thế kiếm đó đã đắc thắng, nhưng thanh ỷ Thiên kiếm bị đối phương hất bắn trở lại cũng chém mất một góc mũ của nàng, nên bộ tóc mây của nàng liền bị tung ra bên ngoài.

Thì ra, lúc Vô Kỵ nhảy ra để gặp Tạ Tốn, Triệu Minh đã nghĩ trước nghĩ sau.

Nàng nhận thấy Kim Hoa bà bà xảo trá và đa mưu kế, Hữu Lượng cũng đáng nghi lắm. Trên đảo Linh Xà này lại ẩn phục rất nhiều nguy cơ, nên nàng nghĩ mãi vẫn không yên tâm liền rón rén bò tới gần.

Nàng biết khinh công của mình còn non nớt, nếu tới gần một chút nữa thế nào cũng bị kẻ địch phát giác liền.

Vì vậy, nàng đành phải ngừng lại chỗ hơi xa để canh chừng.

Tới khi Vô Kỵ ra tay đấu với ba sứ giả nàng mới dám tới gần thêm.

Ðến khi nàng thấy Vô Kỵ đấu nội lực với ba sứ giả trong lòng mừng thầm và nghĩ:

- Ba tên Hồ này võ công tuy quái dị thật, nhưng nội lực của chúng bằng sao được Cửu Dương thần công Vô Kỵ .

Nàng đang nghĩ, bỗng nghe thấy Vô Kỵ lên tiếng bảo bọn người kia hãy ngừng đấu. Nàng chán ngán định lên tiếng bảo Vô Kỵ phải cẩn thận thì đối phương đã sử dụng âm kình đánh chàng rồi.

Vô Kỵ bị thương ngã lăn ra đất.

Triệu Minh thấy vậy, nóng lòng sốt ruột, không quản ngại gì hết, liền nhảy xổ ra.

Tuy nàng biết võ công của Vô Kỵ cao thâm khôn lường mà còn địch không nổi ba người kia thì mình địch sao nổi chúng?

Nhưng lúc ấy nàng không kịp nghĩ tới vấn đề đó nữa, liền nhảy xổ tới, cướp luôn thanh kiếm ỷ Thiên và sử dụng thế tuyệt học của phái Côn Luân mà nàng đã học lỏm được ở chùa Vạn Pháp ra tấn công kẻ địch.

Nàng thấy thế kiếm đó đâm được kẻ địch, liền xoay lưỡi kiếm lại nhằm người Diệu Phong sứ mà tấn công, nhưng thế kiếm này của nàng lại người ở trước mà kiếm thì ở phía sau.

Thế này gọi là thế Nhân quỹ đồng đồ là thế tuyệt học của phái Không Ðộng. Thế này sử dụng trong lúc mình kém vế hơn địch thì phải đem ra sử dụng để cùng chết luôn một thể. Lối đánh như thế rất thảm khốc, nên phái Thiếu Lâm với phái Nga Mi không có những thế độc địa như vậy.

Ngày nọ phái Côn Luân với Không Ðộng có rất nhiều tay cao thủ bị giam giữ ở chùa Vạn Pháp, những tay cao thủ đó bị nhục nhã vô cùng vì võ công và sức lực bị mất hết, không sao thắng nổi đấu thủ của bên địch. Vì vậy có vài người nóng tính, cường ngạnh một chút đã giở hai thế võ đó ra để cùng chết với đối thủ.

Triệu Minh thấy hai thế ấy độc ác như vậy, nhớ kỹ trong đầu óc và hôm nay đem ra sử dụng.

Diệu Phong sứ thấy thế công của nàng hung ác như vậy, kinh hãi vô cùng, liền cảm thấy người lạnh buốt và đứng ngẩn người ra, không cử động được nữa. Thì ra tuy y có võ công cao siêu nhưng lại rất nhát gan.

Trong đời y đã đấu rất nhiều trận mà trận nào cũng đều thắng đối thủ chớ y chưa bao giờ gặp những thế công của đối thủ lợi hại đến nỗi không có cách gì đối phó được. Vì vậy kinh hãi quá độ mà huyết mạch đều ngừng, đành thúc thủ chịu chết thôi.

Triệu Minh đã nhảy tới, người của nàng đã đụng vào Thánh hỏa lệnh của Diệu Phong sứ rồi, tay nàng ở phía sau đưa lên thật cao, nhắm lưng mình tự đâm trước. Thì ra thế kiếm này phải dùng thân hình của mình đưa vào khí giới của địch, bất cứ khí giới của địch là đao hay kiếm, đụng vào người mình cũng phải ngừng lại một chút. Rồi mình giơ kiếm lên đâm xuyên qua nách để hạ địch thủ, như vậy đối phương dù có võ công cao siêu đến đâu cũng không thể nào thoát chết được.

Diệu Phong sứ đã thấy rõ thế kiếm đó lợi hại như thế nào nên y mới ngẩn người hoảng sợ như thế. Cũng may, khí giới của y là cái thẻ sắt, không sắc bén gì cả nên người của Triệu Minh đụng vào vẫn chưa bị thương. Nhưng khi nàng vừa đưa trường kiếm đâm về phía trước thì nàng đã bị Huy Nguyệt sứ ôm chặt lấy rồi.

Ba sứ giả Ba Tư liên hiệp nghênh địch, phối hợp rất khéo léo, trên đời ít người sánh kịp, nên Triệu Minh vừa xông lên giở hai thế võ trí mạng ra tấn công đã làm cho ba tay cao thủ đó cuống cả chân tay lên.

Tới lúc này Huy Nguyệt sứ ở phía sau ôm chặt lấy Triệu Minh và cách ôm của nàng rất khéo léo nên kiếm của Triệu Minh không đâm được nữa.

Nàng thấy cánh tay mình bị ôm chặt, biết là nguy tai liền nhân lúc Huy Nguyệt sứ lôi tay mình về phía sau, đưa mũi kiếm vào bụng dưới của mình để tự sát.

Cử chỉ ấy của nàng cũng là một thế kiếm của phái Võ Ðang tên là Thiên địa đồng thọ, nhưng thế kiếm này không phải do Trương Tam Phong sáng chế ra mà là thế kiếm của Lợi Hanh nghĩ ra.

Lợi Hanh nghĩ ra thế kiếm đó là muốn cùng chết với Dương Tiêu. Vì từ khi chàng hay tin Hiểu Phù chết, trong lòng chỉ có nghĩ cách giết Dương Tiêu để trả thù thôi. Nhưng chàng tự biết võ công của mình không sao địch nổi Dương Tiêu, tuy sư phụ của chàng là đệ nhất cao thủ thực, nhưng chàng kém thông minh nên chỉ học được ba bốn thành võ công của sư phụ thôi. Chàng thấy không sao giết được Dương Tiêu thì tự mình không còn muốn sống nữa. Vì vậy chàng nghĩ mãi mới nghĩ ra được thế kiếm ác độc ấy. Trong khi luyện kiếm bị Tam Phong bắt gặp, Trương chân nhân chỉ thở dài thôi, vì biết có khuyên bảo chàng cũng không nghe. Vì thế Chân nhân mới đặt cho thế kiếm đó là Thiên Ðịa ÐồngThọ. ý nghĩa của cái tên là người tuy chết nhưng tinh thần vẫn bất hủ. Ðại đệ tử của Lợi Hanh ở chùa Vạn Pháp có thể giở thế kiếm đó ra để cùng chết với đối thủ, nhưng được Khổ Ðầu Ðà cứu kịp nên Triệu Minh mới được học thế kiếm đó và đem ra sử dụng lúc này. Thì ra thế kiếm ấy chuyên môn để đối phó với kẻ địch đứng sau và sát bên mình.

Vì thế kiếm đó đâm vào bụng mình xuyên qua phía sau và đâm luôn vào bụng kẻ địch. Thế kiếm ác độc như vậy, Huy Nguyệt Sứ làm sao tránh được nếu Diệu Phong Sứ không bị hoảng sợ đến ngẩn người ra, hay Lưu Vân Sứ đứng gần hơn một chút nữa thì may ra hai người đó có thể cứu thoát Triệu Minh và Huy Nguyệt Sứ. Nhưng chúng không thể nào ra tay cứu được hai người nên yên trí thế nào hai người nọ cũng bị thủng bụng mà chết.

Ðang lúc nguy hiểm thì Vô Kỵ đã tự giải được huyệt rồi, liền giơ tay ra cướp thanh ỷ Thiên Kiếm đó.

Triệu Minh dùng sức đẩy mạnh một cái, thoát ra khỏi lòng của Huy Nguyệt Sứ.

Nàng rất nhanh trí khôn, vội cướp lấy thẻ Thánh hỏa lệnh trong tay Vô Kỵ, ném luôn về phía xa, chỉ nghe thấy "coong" một tiếng, thẻ đó rớt ngay vào trong trận kim nhọn của Kim Hoa Bà Bà.

Ba sứ giả của Ba Tư coi Thánh hỏa lệnh đó như là tính mạng thứ hai của mình, Lưu Vân Sứ với Huy Nguyệt Sứ không nghĩ gì đến chuyện đối địch với Vô Kỵ và Triệu Minh, chúng cũng không nghĩ đến sự an nguy của Diệu Phong Sứ nữa mà cùng tung mình nhảy về phía nọ để nhặt chiếc Thánh hỏa lệnh ấy. Nhưng chúng chỉ chạy được hơn một trượng, đã sa vào trận kim nhọn mà không hay.

Vì nơi đó có lau mọc tới tận đầu gối, nên cả hai không trông thấy Thánh hỏa lệnh và những kim nhọn đâu hết. Vì vậy hai người cứ phải vừa đi vừa tìm kiếm kim để nhổ lên và vừa rờ mó xem Thánh hỏa lệnh rớt ở đâu.

Lúc ấy Diệu Phong Sứ như người nằm mơ vừa thức tỉnh, liền kinh hoàng chạy về phía đó để tìm kiếm chiếc Thánh hỏa lệnh.

Vì cứu thoát mạng của Vô Kỵ, Triệu Minh không suy nghĩ gì hết, giở luôn ba thế kiếm trí mạng như vừa rồi.

Lúc nãy nàng đã hoàn hồn, càng nghĩ lại càng hoảng sợ, liền khóc một tiếng và ngã ngay vào lòng Vô Kỵ tức thì.

Vô Kỵ giơ tay ra ôm lấy lưng nàng, trong lòng cảm động vô cùng, nhưng chàng biết ba sứ giả nọ kiếm thấy Thánh hỏa lệnh rồi thì thế nào cũng trở lại đấu tiếp, nên chàng vội nói:

- Chúng ta mau chạy đi thôi.

Nói xong, chàng quay người lại ẳm cả Hân Ly đang bị thương nặng rồi nói:

- Tạ Ðại hiệp, bây giờ chỉ có một cách tạm tránh né trong chốc lát thôi.

Tạ Tốn đáp:

- Phải.

Ðại hiệp trả lời Vô Kỵ xong, vội cúi mình giải huyệt cho Kim Hoa Bà Bà.

Vô Kỵ thấy vậy nghĩ thầm:

- Trải qua đại nạn này, chắc Kim Hoa Bà Bà không còn tức giận gì nghĩa phụ ta nữa.

Thế rồi bốn người cùng chạy xuống núi.

Nhưng vừa chạy được mấy trượng, Vô Kỵ lại nghĩ tiếp:

- Tuy Hân Ly là biểu muội ta thực, nhưng dù sao vẫn nam nữ thọ thọ bất thân.

Nghĩ đoạn chàng liền trao Hân Ly cho Kim Hoa Bà Bà.

Triệu Minh đi trước dẫn đường rồi đến Kim Hoa Bà Bà và Tạ Tốn, sau cùng là Vô Kỵ đi đoạn hậu để phòng khi địch tấn công lén.

Chàng vừa chạy vừa quay đầu lại nhìn, thấy ba sứ giả hãy còn đang khom lưng tìm kiếm, càng hoảng sợ thêm.

Chàng lại nghĩ tới vết thương của Hân Ly, không biết có thể cứu chữa được không. Mấy người đang đi bỗng nghe thấy Tạ Tốn quát lớn một tiếng, rồi giơ quyền nhắm sau lưng Bà Bà đánh luôn.

Kim Hoa Bà Bà đưa tay trái về phía sau chống đỡ.

Mụ ta gạt được quyền của Tạ Tốn sang bên, vội đặt Hân Ly xuống đất.

Vô Kỵ kinh hãi, phi thân nhảy tới, nhưng chàng lại nghe Tạ Tốn quát:

- Hàn phu nhân, sao phu nhân lại đang tay giết hại Hân cô nương như thế?

Kim Hoa Bà Bà cười nhạt đáp:

- Hiền đệ không giết tôi, đó là việc của hiền đệ, còn việc tôi giết nó hay không giết, đó là việc của tôi, không can hệ gì đến hiền đệ.

Vô Kỵ liền đỡ lời :

- Có tôi ở đây, Bà Bà không thể tuỳ tiện giết người như thế được.

Kim Hoa Bà Bà lại nói tiếp:

- Ngày hôm nay, cậu can thiệp vào việc của người khác luôn luôn như thế chưa đủ sao?

Vô Kỵ đáp:

- Sao Bà Bà lại nói như vậy? Thôi đừng nói nữa, ba sứ giả của Ba Tư đã đuổi theo kìa, có mau chạy đi không?

Kim Hoa Bà Bà cười nhạt một tiếng và chạy luôn về phía Tây.

Nhưng mụ ta vừa chạy được mấy bước, đã trái tay ném về phía sau ba chiếc bông kim hoa.

Ba bông kim hoa đó đều nhằm sau ót của Hân Ly phi tới.

Vô Kỵ vội giơ tay ra búng, chỉ nghe tháy ba tiếng kêu "vù vù vù", ba bông đó liền bay trở lại bắn ra phía sau Kim Hoa Bà Bà tức thì.

Thế đi của mấy bông hoa đó còn nhanh hơn những mũi tên.

Kim Hoa Bà Bà không ngờ nội lực của thiếu niên đó thâm hậu như thế, bà không dám giơ tay ra bắt, chỉ nằm phục xuống tránh né thôi.

Nhờ vậy ba bông hoa mới lướt qua mụ ta mà bay về phía trước. Tuy vậy lưng áo của mụ ta cũng bị rạch ba đường dài, không khác gì bị người ta dùng dao cắt vậy. Mụ ta hoảng sợ vô cùng, không dám quay đầu trở lại, liền giở hết khinh công tẩu thoát tức thì.

Vô Kỵ giơ tay ra ẳm Hân Ly lên, bỗng nghe thấy Triệu Minh kêu đau, hai tay ôm bụng và cứ khom lưng xuống. Chàng vội hỏi:

- Làm sao thế?

Chàng liền tiến lên hai bước, thấy tay nàng đầy những máu tươi, những kẽ tay đều có máu rỉ ra. Thì ra vì hồi nãy nàng sử dụng thế "Thiên Ðịa Ðồng Thọ", tuy Vô Kỵ đã cướp được thanh kiếm của nàng rồi, nhưng bụng nàng vẫn bị mũi kiếm rạch một đường khá dài.

Vô Kỵ kinh hãi vô cùng, vội nói:

- Bị thương có nặng không?

Ðang lúc ấy, chàng nghe thây Diệu Phong Sứ ở trong trận Kim nhọn đang vui vẻ la lớn:

- Kiếm thấy rồi, kiếm thấy rồi.

Triệu Minh vội nói:

- Công tử để mặc tôi, chạy mau đi, chạy mau đi.

Vô Kỵ không nói năng gì hết, vội ẳm nàng lên vai lớn bước chạy xuống dưới núi liền. Triệu Minh liền đề nghị:

- Công tử luôn chạy xuống thuyền, bảo người lái đò nhổ neo đi ngay.

Vô Kỵ liền vâng lời, một tay ẳm Hân Ly, một tay ẳm Triệu Minh, chân không ngừng bước, rảo bước chạy xuống dưới núi.

Tạ Tốn đi sau lưng chàng hộ vệ, trong lòng kinh hãi thầm và nghĩ:

- Thiếu niên này lợi hại thật, hai tay ẳm hai người mà còn đi nhanh hơn ta.

Vô Kỵ đầu óc bối rối, vì hai thiếu nữ đều bị thương nặng, nếu chữa không khỏi cho một người, mình cũng sẽ ân hận suốt đời. Chàng cảm thấy mình mẩy của hai người vẫn còn ấm áp, không có vẻ gì là sắp lạnh dần cả, nên chàng cũng đỡ lo ngại phần nào.

Hãy nói ba sứ giả Ba Tư tìm được Thánh hỏa lệnh rồi liền đuổi theo bọn Vô Kỵ. Nhưng khinh công của chúng bằng sao được Vô Kỵ và Tạ Tốn.

Vô Kỵ chạy tới bờ bể liền lớn tiếng kêu gọi:

- Minh Minh quận chúa có lệnh, các thủy thủ phải giương buồm nhổ neo, mau rời khỏi nơi đây ngay.

Chờ tới khi chàng cùng Tạ Tốn chạy tới đằng mũi thuyền thì bộ hạ của Triệu Minh đã giương hết buồm lên rồi, nhưng người lái thuyền cần phải đích thân Triệu Minh ra lệnh mới dám cho thuyền chạy. Y liền lên tiếng hỏi. Vì mất sức nhiều quá, nên Triệu Minh nói rất khẽ, vội dặn bảo người lái đò rằng:

- Người... cứ nghe... lệnh của Trương công tử...

Lúc ấy, người lái đò mới chịu cho thuyền rời khỏi bến.

Khi sứ giả Ba Tư đuổi tới bờ bể thì thuyền của mọi người đã đi được mấy chục trượng xa rồi.

Vô Kỵ đặt Triệu Minh với Hân Ly nằm xếp hàng ở trong khoang.

Tiểu Siêu vội cởi áo của hai người ra để cho Vô Kỵ xem xét vết thương.

Chàng thấy vết thương ở bụng dưới của Triệu Minh sâu hơn tấc, tuy máu chảy khá nhiều nhưng không nguy hiểm đến tính mạng, còn Hân Ly thì ba bông Kim Hoa ném trúng ba nơi yếu huyệt và bông hoa nào cũng cắm vào chỗ đó rất sâu, nên chàng không dám chắc có thể chữa khỏi được cho Hân Ly hay không.

Chàng vẫn rịt thuốc và băng bó cho hai người.

Hân Ly đã mê man bất tỉnh không hay biết gì cả, còn Triệu Minh thì nước mắt ràn rụa. Vô Kỵ vội hỏi nàng thấy sao? Nàng chỉ nghiến răng mím môi chịu nhịn chứ không trả lời, Tạ Tốn liền đến gần nói với Vô Kỵ rằng:

- Tăng thiếu hiệp, Tạ mỗ đã tựa như sống sang một thế giới khác không ngờ về Trung Thổ lại quen biết một người bạn nghĩa khí thâm trọng như chú em.

Vô Kỵ vội đỡ nghĩa phụ ngồi trên ghế ở giữa khoang thuyền, rồi chàng quỳ xuống vái lạy vừa khóc vừa nói:

- Thưa nghĩa phụ, con Vô Kỵ bất hiếu không thể sớm ngày trở ra ngoài Băng Hỏa Ðảo để đón nghĩa phụ về đây nên nghĩa phụ mới phải chịu khổ sở vất vả như thế này.

Tạ Tốn giật mình kinh hãi vội hỏi lại:

- Chú... chú nói gì thế? ...

Vô Kỵ đáp:

- Con là Trương Vô Kỵ đây.

Tạ Tốn không tin lại hỏi tiếp:

- Chú... chú em nói gì vậy?

Vô Kỵ liền đọc lại những khẩu quyết của Tạ Tốn đã dạy cho mình từ hồi còn nhỏ:

- Về môn quyền học cần nhất phải tập trung tinh thần, phải dục ý trước sức lực, như vậy mới thể thắng...

Thế rồi chàng cứ thao thao bất tuyệt đọc hết cả bài võ công yếu khuyết đó. Khi chàng đọc được hơn trăm câu, Tạ Tốn đã kinh hãi và mừng rỡ vô cùng, vội nắm lấy hai cánh tay chàng và hỏi:

- Con... có thật là Vô Kỵ của ta không?

Vô Kỵ đứng dậy ôm chặt lấy nghĩa phụ rồi chàng kể lại cho Tạ Tốn nghe qua loa những chuyện của mình từ khi về tới Trung Thổ như thế nào. Còn chàng làm giáo chủ Minh giáo thì tạm giấu không nói để Tạ Tốn khỏi phải tuân theo tôn ty trật tự của Minh giáo quỳ lạy mình. Tạ Tốn tưởng mình nằm mơ, nhưng y không thể nào không tin là sự thật, liền lẩm bẩm nói:

- Ông trời có mắt, ông trời có mắt.

Ðang lúc ấy, người lái với các thủy thủ đã la lớn:

- Thuyền của địch đã đuổi theo tới.

Vô Kỵ liền lên đuôi thuyền ngó xem thấy xa xa có một chiếc thuyền buồm thực lớn đương giương cả năm cái buồm đuổi theo tới. Trong đêm tối không sao thấy rõ được thân thuyền của địch nhưng năm cái buồm trắng đó thì rất rõ. Chàng vội bảo bọn thủy thủ rằng:

- Mau tắt đèn đi.

Chàng vừa dặn bảo xong, thuận tay cầm lấy cái bát uống nước của người lái đò, nhắm chiếc đèn bão treo ở trên cột buồm. Chỉ nghe thấy "bộp" một tiếng, ngọn đèn bão bị chàng ném tắt ngay. Tiếp theo đó là những đèn bên dưới cũng đều tắt hết. Bốn bề và thân thuyền đều tối đen như mực.

Riêng có cái buồm màu trắng không sao làm đen đi được và cũng không dám hạ buồm xuống. Vô Kỵ quay lại nhìn thấy thuyền của địch nhiều thân thuyền nhẹ nên càng đuổi càng gần. Chàng nóng lòng sốt ruột không biết tính toán như thế nào cho phải liền nghĩ thầm:

- Ðành để cho ba sứ giả của Ba Tư lên trên thuyền của chúng ta, rồi ta đấu với chúng trong khoang vậy.

Sở dĩ chàng có ý nghĩ như thế là vì trong khoang chật hẹp ba người nó khó mà hợp tác dễ dàng như ở trên bờ.

Thế rồi chàng kéo Triệu Minh với Hân Ly sang một bên, mới lên boong trở lại mang một chiếc neo lớn đem vào trong khoang để ở chỗ chính giữa dùng làm vật chướng ngại để khiến ba sứ giả đó không sao liên kết nhau được.

Chàng bố trí xong, bỗng nghe "ùm" một tiếng. Chàng thấy thân thuyền rung động rất mạnh rồi chếch sang bên một cái. Nếu mọi người trên khoang không có võ công cao cường thì đã ngã lăn lộn, rớt xuống dưới bể rồi. Tiếp đó nước bể tràn vào khoang, tên lái thuyền liền lớn tiếng hỏi:

- Thuyền của địch đã bắn đại bác! Thuyền của địch đã bắn đại bác!

Thì ra phát đại bác thứ nhất của địch bắn không trúng, chỉ bắn vào chỗ cạnh thuyền thôi. Triệu Minh liền vẫy tay Vô Kỵ lại gần.

Vô Kỵ khẽ an ủi nàng rằng:

- Em đừng sợ.

Triệu Minh với giọng yếu ớt đáp:

- Ðại ca, ta cũng có đại bác đấy.

Vô Kỵ mới sực nhớ ra thuyền này là chiếc chiến thuyền nguỵ trang, nên chàng vội chạy lên boong chỉ huy các thủy thủ dọn hết những đồ nguỵ trang rồi nhét thuốc súng và sắt vụn vào trong đại bác.

Chàng ra lệnh cho châm ngòi. "Bùng", một tiếng bắn trả lại thuyền địch một phát. Nhưng những bọn thủy thủ đó đều là thủ hạ võ sĩ của Triệu Minh võ công tuy rất cao siêu, nhưng không phải là thủy thủ chính thức, nên không biết sử dụng đại bác. Vì vậy, phát đạn đó bắn không trúng, nên thuyền địch không việc gì hết, nhưng nhờ vậy mà thuyền địch không dám đến gần nữa.

Một lát sau, thuyền địch lại bắn phát thứ hai trúng ngay vào mũi thuyền của chàng.

Lửa liền bốc cháy.

Vô Kỵ vội chỉ huy thủy thủ múc nước cứu hỏa, chàng lại thấy khoang trên cũng có lửa bốc lên. Chàng liền xách hai thùng nước dùng chân đạp tung cửa, chạy vào bên trong, nhờ vậy mới dập tắt được ngọn lửa.

Trong khói mịt mù, chàng thấy một thiếu nữ nằm ở trên giường.

Thiếu nữ đó chính là Chỉ Nhược, mình mẩy đã ướt đẫm.

Chàng vội vứt thùng nước xuống chạy vào trong phòng hỏi:

- Chu cô nương có việc gì không?

Chỉ Nhược gật đầu. Nàng trông thấy Vô Kỵ đột nhiên xuất hiện thì vô cùng kinh dị.

Khi nàng cử động tay chân, Vô Kỵ liền nghe thấy tiếng "loảng xoảng" của xích sắt, lúc ấy mới biết chân tay của nàng đã bị Kim Hoa Bà Bà dùng xích xiềng chặt.

Vô Kỵ vội chạy xuống khoang dưới lấy thanh ỷ Thiên kiếm lên chặt xiềng và khoá cho Chỉ Nhược.

Chỉ Nhược liền hỏi:

- Trương giáo chủ, sao giáo chủ lại biết mà tới đây?

Vô Kỵ chưa kịp trả lời thì thuyền của chàng lại rung động mạnh một lần nữa.

Chỉ Nhược cũng bị xiềng xích lâu ngày, chân tay tê tái, nên nàng vừa đứng dậy đã ngã ngay vào lòng Vô Kỵ.

Vô Kỵ vội giơ tay ra để đỡ nàng.

Lúc ấy ánh sáng ngoài cửa sổ chiếu vào, chàng thấy mặt Chỉ Nhược nhợt nhạt bỗng đỏ bừng, mắt long lanh mấy giọt lệ trông thật thanh nhã tú lệ.

Chàng định thần giây lát rồi mới nói:

- Chúng ta hãy xuống bên khoang dưới.

Hai người vừa ra khỏi cửa khoang đã thấy thân thuyền cứ quay tít, mới hay phát đại bác của địch vừa rồi đã bắn trúng đằng đuôi, lái bị tan nát.

Cả người cầm lái cũng bị rớt xuống bể chết.

Người thuyền trưởng vì âu lo quá liều thân hành tới trước đại bác nhét sắt vụn và thuốc súng vào để bắn. Y chỉ mong phát đại bác đó đánh đắm thuyền địch, nên nhồi rất nhiều thuốc và giả sắt vụn thật chặt rồi mới châm ngòi để bắn.

Bỗng thấy lửa đỏ sáng rực, tiếng nổ vang trời động đất, nhưng sắt vụn trong đại bác bay tứ tung và cây đại bác đó cũng tan tành nốt.

Người thuyền trưởng với bọn thủy thủ đứng cạnh đại bác bị sức nổ bắn nên tên nào tên nấy tan xương nát thịt. Thì ra người thuyền trưởng vì nóng lòng sốt ruột đã nhồi quá nhiều thuốc, nên đại bác mới bị nổ tan tành như thế.

Vô Kỵ với Chỉ Nhược vừa đi ra ngoài boong đã thấy có một sức mạnh và nóng vô cùng đẩy tới, khiến hai người bắn ra ngoài xa, Vô Kỵ liền giơ tay phải ra chộp luôn một sợi dây thừng và tay trái túm được cổ chân của Chỉ Nhược.

Nhờ vậy hai người mới không bị rớt xuống bể. Nhưng chàng thấy trên thuyền đâu đâu cũng có lửa bốc lên và thuyền sắp bị đắm đến nơi. Chàng lại thấy phía bên trái có cột một chiếc thuyền nhỏ, chàng la lớn:

- Chu cô nương hãy nhảy vào thuyền nhỏ kia trước...

Lúc ấy Tiểu Siêu ẳm Hân Ly, Tạ Tốn ẳm Triệu Minh ở khoang dưới đi ra. Thì ra đại bác nổ vừa rồi đã làm cho đáy thuyền thủng một lỗ thật lớn, nước bể liền tràn vô.

Vô Kỵ chờ Tạ Tốn và Tiểu Siêu ngòi vô trong chiếc thuyền nhỏ rồi, liền chặt dứt dây cột thuyền đó, để cho thuyền trôi lênh đênh trên mặt biển.

Chàng liền nhảy vào trong khoang thuyền rồi cầm hai mái chèo mà dùng sức bơi luôn. Lúc ấy, chiếc thuyền đã cháy đỏ, khiến cả mặt biển ở vùng đó cũng đỏ nốt.

Vô Kỵ nghĩ thầm:

- Ta chỉ cần bơi thuyền đến những chỗ không có ánh sáng chiếu tới. Ba sứ giả của Ba Tư không trông thấy thuyền nhỏ này, thì thế nào họ cũng tưởng chúng ta đã bị chôn vùi dưới đáy biển rồi. Chúng sẽ không đuổi theo nữa...

Nghĩ đoạn chàng liền dùng hết sức lực để chèo.

Tạ Tốn cũng lấy một tấm ván chèo giúp một tay. Nhờ vậy chiếc thuyền đi nhanh như tên bắn.

Giây phút sau đi tới một vùng không có ánh lửa chiếu tới. Tiếp theo đó, chàng lại nghe thấy chỗ thuyền đắm có tiếng kêu "ùm ùm" liên tiếp, thì ra những thuốc súng để ở trên thuyền đã bị lửa bén tới, nên mới nổ liên tiếp như vậy. Chiếc thuyền của sứ giả Ba Tư đuổi theo tới không dám gần đến chỉ đậu ở đằng xa để canh chừng thôi. Những võ sĩ của Triệu Minh có mấy người bơi lội rất giỏi liền bơi tới cạnh thuyền của địch cầu cứu, nhưng bị ba sứ giả đó đánh chết hết.

Vô Kỵ với Tạ Tốn vẫn không ngừng tay chèo.

Thuyền địch bắn thêm một phát đại bác nữa. Viên đạn đó rớt cách thuyền mấy trượng những làn sóng vọt cao khiến chiếc thuyền nhỏ gần úp. Cũng may nội công của hai người rất cao siêu nên mới giữ được thăng bằng cho chiếc thuyền.

Sáng sớm hôm sau, trời mây đen, sương mù bao phủ hết mặt biển.

Vô Kỵ thấy vậy mừng, nói:

- Sương mù như vậy rất may cho chúng ta. Chỉ cần bơi nửa ngày nữa là địch không thể nào đuổi kịp chúng ta nữa.

Lúc ấy đang là mùa đông, quần áo của mọi người ướt đầm, Vô Kỵ với Tạ Tốn nhờ có nội lực thâm hậu, nên không thấy lạnh, còn Chỉ Nhược với Tiểu Siêu bị gió bấc thổi giá lạnh chịu không nổi.

Cả hai đều rét run. Khốn nỗi trên thuyền nhỏ đó không có một miếng vải và một mảnh chiếu nào hết. Vô Kỵ với Tạ Tốn đành phải cởi áo ngoài ra phủ trên người Triệu Minh với Hân Ly.

Chiều hôm đó, thật là hoạ vô đơn chí, phúc bất trùng lai, trời lại mưa to gió lớn, chiếc thuyền nhỏ bị gió thổi trôi xuống miền Nam, nên Tạ Tốn, Vô Kỵ và Chỉ Nhược cùng Tiểu Siêu cứ phải lấy giầy tát nước vì sợ nước mưa xuống nhiều quá, thuyền sẽ bị đắm. Tạ Tốn gặp được Vô Kỵ, lòng khoan khoái vô cùng, dù hoàn cảnh đau khổ đến đâu cũng không quản ngại.

Tạ Tốn và Vô Kỵ chuyện trò vui vẻ.

Tạ Tốn hỏi:

- Vô Kỵ, năm xưa ta với cha mẹ con cùng đi thuyền ra ngoài bể giữa đường gặp gió bão, nhưng trận bão ấy vẫn không to bằng trận bão ngày hôm nay. Sau đó chúng ta tới Băng Sơn ăn thịt con hỏa báo để sinh sống. Ngày đó nhờ có gió Nam mới thổi đưa chúng ta tới nơi cực bắc. Ngày hôm nay, trời thổi gió bắc chẳng lẽ trời ghét Tạ Tốn này định đẩy ta đến nhà của Nam Cực Tiên ông chăng. Nếu quả thật như thế ta sẽ ở lại đó thêm hai mươi năm nữa.

Nói tới đó y ha hả cười một hồi rồi lại nói tiếp:

- Năm xưa cha mẹ con, một nam một nữ thật là nam tài nữ sắc, trời xe duyên cho hai người nhưng bây giờ con lại đem theo bốn thiếu nữ như thế này, thế là nghĩa lý gì, hà hà...

Chỉ Nhược nghe Tạ Tốn nói, xấu hổ mặt đỏ bừng, vội cúi đầu xuống, còn Tiểu Siêu thì vẫn ung dung như thường và còn xen lời nói:

- Thưa Tạ lão gia, cháu chỉ là con sen hầu hạ công tử thôi.

Triệu Minh tuy bị thương khá nặng nhưng cũng tỉnh táo.

Nàng cũng đột nhiên xen lời nói:

- Tạ lão gia chớ có nói bậy, nói bạ như thế, chờ cháu lành mạnh, thế nào cháu cũng đánh cho lão gia mấy bạt tai.

Tạ Tốn thè lưỡi vừa cười vừa đáp:

- Cô bé này lợi hại thật.

Y đột nhiên xịu nét mặt lại không cười nữa và lẩm bẩm nói:

- Ừ, tối hôm qua cô bé này thí mạng đánh ra ba thế. Thế thứ nhất là thế võ của phái Côn Luân. Thế thứ hai là của phái Không Ðộng và thế thứ ba là thế của phái nào nhỉ? ...

Lão già này quê mùa cục mịch, không nghĩ ra được thế đó là thế của phái nào.

Triệu Minh kinh hãi thầm và nghĩ:

- Thảo nào năm xưa Kim Mao Sư Vương oai trấn thiên hạ, đảo lộn giang hồ, hai mắt của y không trông thấy gì mà vẫn còn đoán ra được hai thế võ của ta. Ðến giờ ta mới biết, y quả thật danh bất hư truyền.

Nghĩ đoạn, nàng lại nói:

- Thế thứ ba là thế "Thiên Ðịa đồng thọ" của phái Võ Ðang. Hình như thế này mới sáng tạo ra cho nên lão gia mới không biết đấy.

Tạ Tốn thở dài, nói tiếp:

- Cô dùng toàn lực để cứu Vô Kỵ tất nhiên rất hay rồi, nhưng hà tất cô phải thí mạng như thế.

Triệu Minh đáp:

- Y... y...

Nàng ngập ngừng không dám nói là vì không biết có nên nói câu này ra không. Nhưng rốt cuộc nàng nhịn không được, nức nở khóc và nói tiếp:

- Ai bảo y... đầy những tình tứ.. ẳm... ẳm Hân cô nương như vậy nên tôi không muốn sống nữa.

Nói xong, nước mắt nàng đã tuôn như mưa.

Ai nấy nghe thấy nàng nói như vậy đều ngạc nhiên vô cùng, vì ai cũng không ngờ cô bé trẻ tuổi như vậy mà dám thổ lộ tâm sự của mình trước mặt mọi người như thế.

Nhưng không ai biết Triệu Minh là gái Mông Cổ, vì gái Mông Cổ không biết giữ lễ giáo như gái ở Trung Nguyên.

Gái Mông Cổ yêu là yêu, hận là hận, chứ không giả dối và làm bộ làm tịch gì hết.

Lại thêm lúc này chiếc thuyền của mọi người đang lênh đênh trên mặt biển, trời lại mưa to như vậy, không ai có thể biết mình sống thêm được bao lâu nữa hay là, chỉ một cái sóng thuyền đã bị đánh úp...

Lời nói của Triệu Minh từng chữ một rót vào tai Vô Kỵ làm chàng cảm động vô cùng và nghĩ thầm:

- Nói đúng ra, Triệu cô nương là kẻ địch của ta, lần này ta theo nàng đi hải ngoại mục đích của ta là để nghinh đón nghĩa phụ. Có ngờ đâu nàng lại yêu ta đến thế!

Nghĩ tới đó, chàng không sao cầm lòng được, giơ tay ra nắm lấy tay Triệu Minh để lên ngực mình và chàng cúi đầu dí môi vào tai nàng khẽ nói:

- Lần sau, dù sao tôi cũng không dám làm như thế nữa.

Vừa rồi Triệu Minh lỡ lời thổ lộ tâm sự mình cho mọi người hay, sau nàng nghĩ lại rất hối hận và nghĩ thầm:

- Con gái gì mà đoảng đến thế, lời nói ấy làm sao mà nói cho người khác hay được, chắc thế nào mọi người cũng khinh thường ta...

Nàng đang nghĩ bỗng thấy Vô Kỵ dặn dò mình một cách âu yếm như vậy, nàng vừa kinh hãi, vừa mừng rỡ, vừa xấu hổ, vừa yêu đương. Nàng cảm thấy khoan khoái vô cùng và nhận thấy đêm hôm trước ba lần mình xuất tử nhập sinh phiêu lưu chịu khổ ở trên bể như thế này là không phí.

Mưa thêm một hồi lâu nữa đã dần dần tạnh nhưng sương mù ngày càng dày đặc. Ðột nhiên mọi người nghe có tiếng kêu "soạt", một con cá nặng chừng ba mươi cân từ dưới biển nhảy lên, Tạ Tốn giơ tay phải một cái, năm ngón tay đã nắm sâu vào trong bụng cá và bắt con cá vào thuyền liền.

Mọi người đều vỗ tay khen ngợi.

Tiểu Siêu vừa rút trường kiếm ra mổ bụng và đánh vẩy cá xong rồi cắt từng khúc một. Lúc ai nấy vừa đói vừa khát, tuy thịt cá rất tanh nhưng phải miễn cưỡng ăn môt tí để khỏi đói khát.

Riêng có Tạ Tốn thì ăn ngon lành lắm, vì ở trên hoang đảo trên hai mươi năm đã chịu đựng đủ mọi thứ gian khổ, nên ăn cá sống như vậy là một chuyện rất thường. Vả lại ăn một vài lần thịt cá sống sẽ quen và không thấy tanh hôi, trái lại còn thấy ngon là khác. Sóng trên mặt biển cũng phẳng lặng dần, mọi người ăn thịt cá xong, nhắm mắt lại nghỉ ngơi.

Tiểu Siêu đã ngủ trước, còn Triệu Minh vẫn nắm tay Vô Kỵ không chịu buông.

Một lát sau nàng cũng ngủ thiếp đi lúc nào không hay, vì quá mỏi mệt rồi ai nấy cũng lần lượt ngủ say hết.

Bốn năm tiếng đồng hồ sau, Tạ Tốn tuổi già nên thức dậy trước, lão anh hùng nghe thấy tiếng hô hấp chậm chạp của mọi người hòa với tiếng gió ở trên bể nghe thật êm tai.

Triệu Minh với Hân Ly vì bị thương nên hơi thở ngắn và nhanh hơn.

Chỉ Nhược thì nhẹ và dài, hô hấp của Vô Kỵ như đoạn như tục rất phân biệt.

Lão anh hùng cũng phải kinh hãi và nghĩ thầm:

- Nội lực của thằng nhỏ này cao thâm thật, trong đời ta chưa hề thấy ai có nội lực cao thâm như thế.

Y nghe hô hấp của Tiểu Siêu thấy lúc nhanh lúc chậm khác hẳn người thường, hiển nhiên con nhỏ này đã luyện một môn nội công đặc biệt gì rồi.

Y cau mày lại bỗng nghĩ ra một việc rồi nghĩ tiếp:

- Lạ thật, chẳng lẽ con bé này là...

Y bỗng nghe thấy Hân Ly quát lớn:

- Trương Vô Kỵ, tiểu nữ hôi thối kia sao không theo ta đi Linh Xà Ðảo?

Vô Kỵ, Triệu Minh, Tiểu Siêu bị tiếng quát ấy đều thức tỉnh hết.

Mọi người lại nghe thấy nàng ta nói tiếp:

- Một mình ta ở trên đảo cô đơn buồn bực... Tại sao ngươi không chịu đến ở với ta cho vui? Ngươi... tiểu tử hôi thối, ta dùng kiếm giết chết ngươi ngay... chém ngươi thành mười bảy mười tám mảnh và vứt xuống dưới biển cá ăn ngươi... ngươi...

Vô Kỵ giơ tay rờ trán nàng ta thấy nóng như lửa thiêu mới hay nàng nói mê nói nhảm. Tuy Vô Kỵ rất thiện về y lý nhưng trong thuyền nhỏ này lấy đâu ra thuốc thang, nên chàng đành thúc thủ và chỉ xé một mảnh áo nhúng nước rồi đắp lên trên trán thôi. Hân Ly vẫn nói mê hoài.

Bỗng nàng thất kinh la lớn hơn thế nữa:

- Cha, cha, đừng giết mẹ con, đừng giết mẹ con, chính con đã giết hại nhị nương. Cha cứ giết con đi, chứ không việc gì đến mẹ con đâu. Mẹ chết rồi ư... chết rồi ư... Tại con mà mẹ bị giết như vậy... hu hu.

Nàng khóc rất thảm thiết, Vô Kỵ liền khuyên bảo:

- Thù Nhi, Thù Nhi em thức tỉnh đi, cha em không có ở đây, em khỏi sợ.

Hân Ly giận dữ đáp:

- Cha em không tốt, chớ có phải em sợ cha em đâu, cha em lấy vợ hai vợ ba. Một người đàn ông lấy một vợ không đủ hay sao? Cha em là người thích mới nới cũ, lấy hế người này lại lấy đến người khác, nên mới làm cho mẹ em khổ sở như thế và cả em cũng bị khổ lây. Anh không phải là cha em, anh là người đàn ông phụ bạc nhất thiên hạ, là kẻ độc ác nhất.

Vô Kỵ nghe nói giật mình kinh hãi đến mặt tái mét. Thì ra vừa rồi chàng nằm mơ thấy mình cưới Triệu Minh rồi lại cưới Chỉ Nhược. Chàng thấy Hân Ly mặt đã hết sưng biến thành một người rất đẹp và cả Tiểu Siêu cũng lấy mình. Những chuyện mà ban ngày chàng không dám tưởng tới, ngờ đâu lúc ngủ lại thấy như vậy.

Chàng nằm thấy bốn thiếu nữ này đều xinh đẹp và tử tế hết, chàng không nỡ xa cách một người nào.

Chàng an ủi Hân Ly liền tưởng tượng lại giấc mộng vừa qua.

Lúc ấy Vô Kỵ nghe thấy Hân Ly mắng chửi người cha như vậy chàng lại nghĩ đến những chuyện mà mình đã mắt thấy tai nghe trên Quang Minh đỉnh.

Tại Tây Vực, Hân Ly không nhẫn tâm thấy mẹ bị cha hà hiếp đã giết chết người thứ thiếp rất được cưng yêu của cha, vì thế mẹ nàng phải tự tử chết, nên cậu mình là Hân Dã Vương đành phải ra tay định giết con gái.

Câu chuyện luân thường đại biến thảm khốc vô cùng ấy là do Dã Vương lấy nhiều vợ và thứ thiếp mà gây nên cả. Chàng liền đưa mắt liếc nhìn Triệu Minh rồi lại nhìn Chỉ Nhược một hồi, nghĩ đến giấc mộng hồi nãy trong lòng hổ thẹn vô cùng.

Hân Ly lầm bầm nói mê nói nhảm một hồi rồi bỗng khóc lóc van lơn:

- Vô Kỵ, anh theo em đi đi, theo em đi ngay đi. Anh cắn tay em đau như vậy, em không tức giận anh tí nào. Em nguyện suốt đời hầu hạ anh, coi anh là chủ của em, anh đừng chê mặt em xấu xí, nếu anh vui lòng, em nguyện bỏ hết võ công Thiên Thù để mặt em sẽ trở lại như trước...

Lần này giọng nói cả nàng rất yểu điệu và uyển chuyển.

Vô Kỵ không ngờ người em họ mình hành sự lại hỉ nộ thất thường như thế.

Tính nàng quái dị lạ thường nhưng lòng lại rất ôn nhu.

Ngày nọ gặp nhau trong Hồ Ðiệp Cốc, ngờ đâu nàng lại chung tình với mình, cho mãi đến giờ mà nàng không quên mình như vậy.

Chàng lại nghe nàng ta nói tiếp:

- Vô Kỵ, tôi đi khắp nơi tìm kiếm anh, đi hết chân trời góc biển mà không thấy anh đâu hết. Sau em mới biết anh đã té xuống dưới chân núi chết ở Tây Vực. Em liền đi Tây Vực gặp một thiếu niên tên là Tăng A Ngưu, võ công của y vừa cao siêu, người lại có phẩm hạnh đức tính, y đã hứa cưới em làm vợ.

Triệu Minh các người đều biết Tăng A Ngưu tức là Vô Kỵ nên ai nấy đều đưa mắt nhìn chàng, chàng xấu hổ mắt đỏ bừng.

Lúc ấy Hân Ly vẫn còn mê sảng, nên chàng không thể nào ngăn cấm nàng ta đừng nói được.

Nếu chàng ra tay điểm huyệt cho nàng không nói lại sợ ảnh hưởng đến sức khoẻ nàng còn đang bị thương. Triệu Minh, Chỉ Nhược, Tiểu Siêu ba người với vẻ mặt ngạc nhiên nhìn thẳng vào mặt chàng.

Chàng xấu hổ chỉ muốn nhảy ngay xuống dưới đáy biển tức thì chờ Hân Ly tỉnh táo rồi mới nhảy trở lên.

Chàng lại nghe thấy Hân Ly lẩm bẩm nói:

- Anh A Ngưu nói với tôi rằng: Cô nương, tôi thành tâm bằng lòng lấy cô làm vợ, tôi chỉ mong cô bảo tôi không xứng đáng thôi. Anh ta còn nói: "Từ nay trở đi tôi sẽ hết sức thương yêu và bảo vệ cho cô. Dù có bao nhiêu người làm khó dễ cô hay có người lợi hại đến đâu tới hà hiếp cô, tôi nguyện hy sinh tính mạng để bảo vệ cho cô được an toàn và làm cho cô được sung sướng, quên hết những sự đau khổ dĩ vãng đi". Anh Vô Kỵ này, anh A Ngưu tính nết và đức hạnh hơn anh rất nhiều, võ công của anh ấy còn cao siêu hơn cả Diệt Tuyệt sư thái của phái Nga Mi, nhưng từ khi tôi dã có lòng yêu anh, tôi không dám nhận lời yêu anh ấy nữa. Có ngờ đâu anh lại chết non như vậy khiến tôi phải goá bụa suốt đời. Ðây anh Vô Kỵ, anh xem A Ly lần này đối xử với anh có tử tế không? Năm xưa anh không thèm đoái hoài đến tôi, bây giờ anh có hối hận không?

Thoạt tiên, Vô Kỵ nghe thấy nàng ta nhắc lại những lời nói của mình, chàng ngượng vô cùng, nhưng sau chàng nghe, chàng cảm động nước mắt cứ nhỏ ròng xuống hai má. Chàng lại nghe thấy Hân Ly nói tiếp:

- Anh Vô Kỵ ơi, anh ở dưới âm có thấy buồn tẻ không, có thấy trơ trọi không? Em cùng Bà Bà đi Băng hỏa đảo ở Bắc Hải tìm thấy nghĩa phụ của anh, em còn phải đi núi Võ Ðang để tế lễ mộ của cha mẹ anh rồi em sẽ trở lên Tây Vực leo lên ngọn núi tuyết, nơi anh té ngã để nhảy xuống chết theo anh. Nhưng việc này phải đợi chờ Bà Bà khuất núi rồi em mới đi hầu anh được, vì Bà Bà đối xử với em rất tử tế, nếu không được bà ra tay cứu, em đã bị cha em giết chết rồi. Nay em vì nghĩa phụ của anh đã phản Bà Bà, chắc bà ta hận em lắm, tuy em vẫn phải hiếu thuận với bà ta. Anh Vô Kỵ, anh bảo em làm như thế có phải có nên không? Lời nói của nàng tựa như nói với Vô Kỵ vì trong thâm tâm nàng cứ yên trí Vô Kỵ đã chết rồi. Nhưng Vô Kỵ hiện đang ngồi cạnh nàng mà nàng không hay.

Trong khi bị thương nàng mê man bất tỉnh, đáng lẽ ăn nói không có thứ tự trước sau gì hết mới phải, nhưng nàng lại nói rất có thứ tự không khác gì người thường vậy. Với giọng nói nhỏ nhẹ ôn nhu như tiếng ma nói mà lại nó ở trên mặt bể, dưới bóng trăng trong đêm khuya trên một chiếc thuyền lênh đênh, ai nghe thấy mà chẳng động lòng thương! Nhưng quý vị nên rõ mười năm nay Hân Ly vẫn hay lẩm bẩm tự nói như thế quen rồi. Hễ lúc nào nhàn rỗi là ẩn núp vào một chỗ vắng vẻ để lẩm bẩm tự nói với Vô Kỵ như thổ lộ tâm sự của mình. Lần nào nàng cũng nói tương tự như thế, nên những lời nói này nàng đã thuộc làu rồi, chonên bây giờ trong lúc mê man nàng cũng thốt ra như thế. Tiếp theo đó nàng lại nói lung tung, lời nói không có ý nghĩa và cũng không có thứ tự gì hết. Có lúc nàng giật mình kêu la, cũng có lúc nàng tức giận chửi bừa bãi. Tuy nàng còn ít tuổi nhưng trong lòng bị uất ức, những nỗi sầu khổ vô cùng tận, nàg cứ kêu gào khóc lóc mắng chửi một hồi rồi lại mê man bất tỉnh ngủ thiếp luôn. Năm người nhìn nhau không nói năng gì hết, mỗi người nghĩ một tâm sự riêng của mình. Sóng đánh vào thành thuyền kêu lộp bộp, gió mát trăng trong mà vẫn nằm, sự lo buồn của người đời quả thực vô cùng tận. Bỗng nhiên có một tiếng ca rất dịu dàng nổi lên ở mặt biển, đại khái bài hát ấy như sau:

- Khi đã tận số không ai tránh được ngày cuối cùng kia, thời gian trăm năm trôi chảy rất nhanh, nhưng người sống đến bảy mươi đã là hiếm có. Ngày giờ vẫn qua ngày này hết ngày nọ đến năm khác nước vẫn chảy hoài, không bao giờ ngừng...

Ðó là Hân Ly nằm mơ khẽ ca như vậy.

Vô Kỵ nghe bản ca đó liền rùng mình kinh hãi.

Chàng nhớ, khi ở trên Quang Minh đỉnh bị Thành Khôn bịt kín đường hầm, yên trí thế nào cũng bị chết ở trong hầm đó. Chàng có nghe thấy Tiểu Siêu ca qua bản này vì vậy chàng mới đưa mắt nhìn Tiểu Siêu.

Ngờ đâu nàng cũng đang ngắm nhìn chàng.

Nàng vừa thấy chàng đưa mắt nhìn vội quay đầu tránh mặt luôn.

Hân Ly ca xong tiểu khúc đó, lại hát một bài trường ca. Tiếng ca rất quái dị khác hẳn những bài ca của Trung Thổ, ai nghe cũng thấy rùng mình như nghe thấy tiếng va chạm của Thánh hỏa lệnh vậy. Chàng chú ý nghe lời ca, nhận ngay ra đúng như lời ca của Tiểu Siêu đã ca cho mình nghe:

- Ði như lưu thủy hề, thệ như phong bất chi hà xứ lai hề hà sở chung!

Dịch nôm: Tới như nước chảy, biến như gió không biết ở đâu tới và cũng không biết kết thúc ở nơi đâu.

Nàng ca đi ca lại bài đó, càng ca càng khẽ, rốt cuộc tiếng ca xen lẫn tiếng gió, rồi không ai còn nghe thấy tiếng ca của nàng nữa.

Mọi người nghĩ đến sự chết vô thường là một người đã qua đời.

Quả thật không biết mình ở đâu tới, bất cứ mình anh hùng hào kiệt như thế nào, rốt cuộc không tránh khỏi cái chết. Rồi lại rời khỏi trần ai, tựa như một luồng gió biến mất, không biết thổi đi phương nào cả.

Vô Kỵ thấy tay Triệu Minh lạnh buốt và hơi rung động.

Tạ Tốn bỗng lớn tiếng nói:

- Bài ca đó là bài ca tiểu khúc của Ba Tư chắc Hàn phu nhân dạy cho nàng. Hai mươi năm trước đây, có một đêm ta đang ở trên Quang Minh đỉnh cũng được nghe Hàn phu nhân ca một lần. Hà! Không ngờ Hàn phu nhân lại tuyệt tình đến như vậy, hạ độc thủ đả thương con bé nặng như thế.

Triệu Minh xen lời hỏi:

- Thưa lão gia, tại sao Hàn phu nhân lại biết ca tiểu khúc Ba Tư đó? Bản ca này chẳng là bản ca của Minh giáo là gì?

- Minh giáo truyền từ Ba Tư tới, vì vậy bản ca ấy mới có liên can đến Minh giáo. Nhưng không phải bản ca của Minh giáo, bản ca này do một thi nhân rất trứ danh của Ba Tư sáng tác cách đây đã hơn hai trăm năm rồi. Nghe nói người Ba Tư nào cũng biết ca bản ấy.

Năm xưa tôi nghe Hàn phu nhân ca bản ấy, trong lòng thấy khó chịu vô cùng. Tôi liền hỏi bà ta lai lịch của bản ca này, bà ta liền giảng nghĩa và nói rõ lai lịch của bản ca ấy cho tôi hay.

Theo Hàn phu nhân nói: "Năm xưa lúc nhà đại triết học của Ba Tư lập trường khai giảng thâu rất nhiều môn đồ. Môn hạ của nhà đại triết học ấy, có ba người đệ tử rất kiệt xuất là Nga Mạc giỏi về văn học, Ni Nhược Mâu giỏi về chính trị, Hoắc Sơn giỏi về võ công, ba người đó rất ý hợp tâm đầu và đã cắt máu ăn thề: "Phú quý có nhau, hoạn nạn cùng đương". Sau đó Ni Nhược Mâu đắc ý nhất, được làm đến Thủ tướng của Giáo Vương. Hai người bạn cũ của y đến tìm kiếm. Ni Nhược Mâu liền giới thiệu cho Giáo Vương và yêu cầu Giáo Vương ban quan chức cho hai người. Nga Mạc không muốn làm quan, chỉ xin một món tiền để được tĩnh tâm nghiên cứu thiên văn lịch pháp và uống rượu ngâm thơ thôi. Ni Nhược Mâu đối đãi với Nga Mạc rất hậu. Không ngờ, Hoắc Sơn là người có dã tâm, không chịu làm tôi tớ cho ai hết liền âm mưu nổi loạn. Nhưng việc làm của y thất bại, y liền bỏ chạy tới Nghênh Sơn và kết đảng ở đó. Sau trở nên thủ lãnh của một môn phái trong thiên hạ. Phái đó chỉ chuyên môn giết người lấy tên là Y Tư Mỹ lương phái, Thập tử quân chinh Ðông. Ở Tây Vực hễ ai nhắc tới cái tên Hoắc Sơn là mọi người kinh hoàng ngay. Lúc ấy các quân vương của các nước ở Tây Vực bị Sơn Trung lão nhân Hoắc Sơn giết chết vô số.

Theo Hàn phu nhân nói thì ở phía Tây Vực, ngoài khơi có một nước lớn, tên Anh Cát Lan. Vua ở nước ấy là Ái Ðức Hoa thất lễ với Sơn Trung lão nhân nên bị Hoắc Sơn sai người đi hành thích. Các võ sĩ thủ hạ của y đều có võ công trác tuyệt. Nên vệ sĩ của chúa ái Ðức Hoa chống cự không nổi. Quốc vương đã bị khí giới có độc chém trúng, may được hoàng hậu xả thân ra cứu, lấy mồm hút hết chất độc ở trong vết thương, nhờ vậy Quốc vương đó mới thoát chết. Hoắc Sơn không nghĩ đến ân nghĩa xưa kia liền sai người đi hành thích Ni Nhược Mâu, Thủ tướng của Ba Tư. Trước khi tắt thở vị Thủ tướng đó có ngâm câu thơ của Nga Mạc tức là hai câu trong bài ca vừa rồi: "Lai như lưu thủy hề, thệ như phong, bất tri hà xứ lai hề hà sở chung" đấy. (Theo lời chú thích của Kim thì những tuyệt cú của Nga Mạc truyền lại cho hậu thế, có tất cả một trăm linh một bài. Thơ tập đó Quách Mạc Nhược đã phiên dịch).

Hàn phu nhân nói: "Sau võ công của phái Sơn Trung lão nhân thất truyền, chỉ có Minh giáo của Ba Tư là học được thôi."

Hồi nãy võ công của sứ giả Ba Tư quái dị như vậy, chắc là võ công của Sơn Trung lão nhân truyền lại cũng nên?

Triệu Minh lại hỏi tiếp:

- Thưa lão gia, cháu thấy tính nết của Hàn phu nhân cũng tương tự như tính nết của Sơn Trung lão nhân mà lão gia vừa kể. Dù mình đối đãi với bà ta nhân nghĩa như thế nào đi chăng nữa, bà ta vẫn ngấm ngầm hại lại mình.

Tạ Tốn thở dài đáp:

- Người đời lấy oán báo đức là chuyện rất thường hà tất phải ngạc nhiên.

Triệu Minh ngẫm nghĩ hồi lâu rồi lại lên tiếng hỏi:

- Hàn phu nhân đã là người đứng đầu Tứ vương của Minh giáo, sao võ công của bà ta lại không bằng lão gia? Và tối qua, khi mụ đấu với ba người sứ giả Ba Tư, sao mụ không giở Thiên Thù Tuyệt Hộ Thủ ra?

Tạ Tốn đáp:

- Thiên Thù Tuyệt Hộ Thủ là gì? Hàn phu nhân đâu có biết môn võ công đó? Trước kia bà ta là một mỹ nhân tuyệt sắc. Bà quý sắc đẹp hơn sinh mạng của mình. Như thế, khi nào bà ta chịu luyện môn võ công đó?

Vô Kỵ, Triệu Minh, Chỉ Nhược đều ngẩn người, nghĩ thầm:

- Mặt Kim Hoa Bà Bà xấu xí như thế thì dù bà ta có trẻ hơn ba bốn chục năm đi nữa cũng không thể nào gọi là tuyệt sắc mỹ nhân được! Mũi ngửng lên trời, mặt vuông, tai to, hình thù như thế thì Bà Bà đẹp làm sao được?

Triệu Minh vừa cười vừa hỏi:

- Lão gia, cháu thấy Kim Hoa Bà Bà mặt mũi như thế sao gọi là đẹp được?

Tạ Tốn đáp:

- Cô không biết, trước kia khi Tía Sam Long Vương đẹp như tiên nữ. Hai mươi năm về trước, bà đã từng nổi danh đệ nhứt hoa khôi trong võ lâm, dù bây giờ bà ta có lớn tuổi đi chăng nữa, thì khuôn mặt của bà ta cũng không sao đến nỗi xấu xí cho lắm!... Hà! Tiếc thay, mắt tôi đã mù không thấy gì!

Triệu Minh nghe lời nói của Tạ Tốn trịnh trọng như vậy đoán chắc bên trong cũng có điều gì bí ẩn đây. Nàng thấy Kim Hoa Bà Bà lại là Tía Sam Long Vương, người đứng đầu trong nhóm Tứ Ðại Hộ Giáo Pháp Vương trong Minh giáo, nàng đã ngạc nhiên rồi, lại nghe nói Kim Hoa bà bà xấu xí như thế mà lại là đệ nhất mỹ nhân trong võ lâm năm xưa, nàng lại càng khó hiểu thêm nữa, liền ngẫm nghĩ một hồi rồi hỏi tiếp:

- Lão gia danh trấn giang hồ. Năm xưa ở Vương Bàn sơn giương đao lập oai, thiên hạ ai cũng hay biết cả. Bạch Mi ¦ng Vương tự sáng lập một môn phái để tranh nhau xưng hùng xưng bá trong võ lâm, ngót hai mươi năm trời nay mà Bạch Mi giáo vẫn hùng mạnh như thường. Thanh Dực Bức Vương thần xuất quỷ mạt ngày nọ ở trong chùa Vạn Pháp đã doạ nạt cháu và định hủy bộ mặt cháu, cho tới ngày nay cháu vẫn còn hoảng sợ. Võ công của Kim Hoa bà bà tuy cao siêu thật, cơ mưu tuy thâm thật nhưng bằng sao được ba vị mà lại đứng đầu cả ba vị thì lạ thực, không xứng đáng chút nào! Như vậy là nghĩa lý gì hở lão gia?

Tạ Tốn đáp:

- Ðó là ba anh em chúng tôi nhường lại cho bà ta đấy!

Triệu Minh lại hỏi tiếp:

- Nhưng tại sao ba vị lại chịu nhường cho bà ta?

Hỏi tới đó, nàng bỗng khúc khích cười và nói tiếp:

- Có phải bà ta là đệ nhất mỹ nhân, các vị anh hùng không qua được ải của mỹ nhân nên cả ba vị mới phải chịu nhường nhịn như thế hay không?

Nàng là gái Mông Cổ, nghĩ gì là nói ra, Tạ Tốn cũng phải phì cười rồi lão anh hùng thở dài một tiếng rồi nói tiếp:

- Cam phận làm thần tôi cho bà ta không riêng gì ba anh em chúng tôi. Lúc ấy người trong giáo và người ngoài giáo có hơn trăm người để ý đến bà ta, ai cũng muốn lấy bà ta làm vợ thì mới cam tâm.

Triệu Minh lại hỏi:

- Hồi trẻ bà ta tên là gì?

Tạ Tốn đáp:

- Ðại ỷ Ty!

- Ðại ỷ Ty là Hàn phu nhân à? Sao tên bà ta lại kỳ dị thế?

- Nàng ở Ba Tư tới, tên đó là tên của nước Ba Tư.

Vô Kỵ, Triệu Minh, Chỉ Nhược cùng giật mình kinh hãi và đồng thanh hỏi:

- Thế ra bà ta là người Ba Tư đấy à?

Tạ Tốn ngạc nhiên hỏi lại:

- Như vậy chả lẽ các người không hề hay biết bà ta là người Ba Tư sao? Nàng là người lai Trung Hoa với Ba Tư, tóc và mắt tuy đen, nhưng mũi cao và lộ khác thiếu nữ Trung Hoa nhiều! Chỉ thoáng trông đã nhận ra liền.

Triệu Minh lại hỏi tiếp:

- Không không! Bà ta mũi tẹt, mắt ti hí như chuột chứ không giống như lão gia vừa tả đâu. Có phải vậy không hả Trương công tử!

Vô Kỵ đáp:

- Phải! Chả lẽ bà ta cũng giống như Khổ đầu đà mà cố ý tự hủy gương mặt của mình hay sao?

Tạ Tốn hỏi lại:

- Khổ đầu đà là ai thế?

Vô Kỵ đáp:

- Khổ đầu đà chính là Quang Minh hữu sứ Phạm Dao đấy.

Nói tới đó chàng liền kể chuyện Phạm Dao tự hủy mặt đi vào Nhữ Dương vương phủ làm nội ứng như thế nào, kể tất cả lại cho Tạ Tốn nghe.

Tạ Tốn thở dài và nói tiếp:

- Cử chỉ ấy của Phạm huynh thực là khổ tâm và là công lớn với bản giáo. Phạm huynh quả là một dị nhân, người thường không ai có thể làm được chuyện đó! Hà...! Sở dĩ Phạm huynh làm như vậy cũng do Hàn phu nhân khiêu khích mà nên!

Triệu Minh ngạc nhiên vô cùng, vội hỏi tiếp:

- Thưa lão gia, xin lão gia kể lại chuyện đó cho chúng cháu nghe đi! Ðừng có úp úp mở mở như thế nữa.

Tạ Tốn "ừ" một tiếng rồi ngửng đầu nhìn lên trời một lúc rồi mới thủng thẳng kể lại câu chuyện cho mọi người nghe:

- Hai mươi năm trước đây, lúc ấy Minh giáo do Dương Phá Thiên giáo chủ thống lãnh phồn thịnh vô cùng. Ngày hôm đó trên Quang Minh đỉnh có ba người Ba Tư, tay cầm phong thư của tổng giáo chủ bên Ba Tư tới. Ba người đó vào yết kiến Dương giáo chủ dâng luôn phong thư ấy lên. Trong lá thư đó nói trong tổng giáo bên Ba Tư có một vị Tịnh Thiện sứ giả vốn là người Trung Hoa đến Ba Tư đã lâu gia nhập Minh giáo lập được rất nhiều công trạng nên đã lấy được một người con gái Ba Tư làm vợ, sinh được một người con gái, một năm trước đây Tịnh Thiện sứ giả đã qua đời. Lúc sắp chết có nhớ đến cố thổ để di chúc bảo đứa con gái của ông về đất Trung Hoa, tổng giáo chủ tôn trọng ý muốn của vị sứ giả đó mới sai người đem cô gái đó về Quang Minh đỉnh mong Minh giáo Trung thổ nuôi nấng dạy dỗ cho. Tất nhiên Dương giáo chủ phải nhận lời ngay và mời thiếu nữ ấy vào. Thiếu nữ vừa bước vào khách sảnh, đột nhiên khách sảnh như bừng lên! Nàng đẹp không thể tưởng tượng được! Khi nàng quỳ xuống lạy Dương giáo chủ, tả hữu Quang Minh sứ, ba phán vương, năm Tảng nhân, Ngũ hành kỳ sứ đều chấn động. Ba sứ giả ở trên Quang Minh đỉnh một đêm, ngày hôm sau giã từ Dương giáo chủ đi luôn! Còn thiếu nữ tuyệt đẹp tên là Ðại ỷ Ty thì ở lại trên Quang Minh đỉnh.

Triệu Minh vừa cười vừa hỏi tiếp:

- Lão gia! Lúc ấy có phải lão gia cũng mê cô gái Ba Tư không? Lão gia khỏi cần phải hổ thẹn, cứ nói thật ra cho chúng cháu nghe đi.

Tạ Tốn lắc đầu đáp:

- Không! Lúc ấy tôi mới lấy vợ, vợ chồng tôi rất âu yếm nhau và vợ tôi có mang, khi nào tôi có ý niệm bậy bạ đó?

Triệu Minh kêu "ủa" một tiếng và biết mình đã lỡ lời, vì nàng biết vợ con của Tạ Tốn đều bị Thành Khôn giết chết, bây giờ mình vô ý nhắc nhở đến chuyện đó thể nào cũng làm cho lão anh hùng xúc động, nên nàng vội xoay giọng nói:

- Phải đấy! Phải đấy! Thảo nào bà ta nói năm xưa khi bà ta lấy Ngân Diệp tiên sinh, người trên Quang Minh đỉnh ai ai cũng phản đối, riêng có giáo chủ với lão gia là không phản đối mà còn đối xử với bà ta rất tử tế nữa. Có lẽ Dương giáo chủ phu nhân không những là một mỹ nhân mà còn có thủ đoạn rất lợi hại nên mới khiến chồng ngoan ngoãn như vậy.

Tạ Tốn gật đầu đáp:

- Cô nương đoán không sai! Dương giáo chủ khẳng khái hào hiệp, còn Ðại ỷ Ty tuổi chỉ bằng con gái ông ta, huống hồ giáo chủ tổng giáo ở nước Ba Tư đã nhờ ông ta trông nom hộ nàng. Dương giáo chủ đối với nàng ta thật là nhân chí nghĩa tận. Như vậy khi nào ông ta lại có lòng tà? Riêng phu nhân là sư muội của giáo chủ và lại là sư thúc của tôi. Dương giáo chủ, Thành Khôn, Dương phu nhân ba người là sư huynh muội đồng môn. Dương giáo chủ là đại sư bá của tôi, năm xưa đã chỉ điểm cho tôi rất nhiều võ công và đối với tôi tử tế lắm.

Thành Khôn đã giết cả nhà Tạ Tốn, mối huyết thù này nặng lắm, nung nấu trong lòng đại hiệp đã lâu, nhưng khi đại hiệp nói đến tên Thành Khôn, coi tên đó như một người thường nên chỉ nói lướt qua thôi.

Triệu Minh đột nhiên nghĩ tới một việc liền hỏi:

- Quang Minh hữu sứ Phạm Dao hồi trẻ cũng là một thanh niên đẹp trai và rất mê nàng Ðại ỷ Ty phải không?

Tạ Tốn gật đầu đáp:

- Phải! Hai người mới gặp đã yêu nhau rồi! Sự thực không riêng gì Phạm huynh mà còn rất nhiều người nữa cũng yêu nàng. Nhưng vì luật lệ của Minh giáo rất nghiêm và ai nấy đều kính mến giáo chủ nên ai ai cũng không dám làm bậy, chỉ có tương tư mà thôi! Và những người mê nàng đều là những người chưa có vợ. Không ngờ nàng tuy đẹp nhưng đối với ai cũng đều tỏ ra lạnh lùng cả, không thèm chuyện trò với ai và cũng không hề tỏ ra có tình ý với ai hết. Hễ ai không biết điều mà chọc ghẹo là đều bị nàng mắng ngay. Dương phu nhân có ý muốn làm mai nàng cho Phạm Dao hữu sứ nhưng nàng cự tuyệt. Thấy Dương phu nhân nói nhiều quá nàng ta còn giơ kiếm lên định tự vẫn và nói với mọi người rằng: nàng quyết không lấy ai hết, nếu cứ ép buộc, nàng đành chết chứ không bao giờ ưng thuận. Vì vậy, ai cũng chán nản, không còn dám để ý đến nàng nữa. Nửa năm sau, có một người ở Linh Xà đảo tại hải ngoại tới tự xưng là họ Hàn tên là Thiên Diệp, là con trai của kẻ thù Dương giáo chủ năm xưa, y nói y lên Quang Minh đỉnh để trả thù cho cha. Mọi người thấy thanh niên họ Hàn ấy mặt rất tầm thường mà dám đơn thân độc mã lên đây tầm thù, ai nấy đều ha hả cười nhưng Dương giáo chủ rất nghiêm nghị đón tiếp người đó như một vị đại khách vậy! Giáo chủ còn thết tiệc khoản đãi y nữa! Thì ra năm xưa giáo chủ với cha y đã vì một lời nói mà giáo chủ đã dùng Ðại Cửu Thiên Thủ đánh cha của tên nọ bị thương nặng. Lúc ấy cha y có nói: Sau này phải trả được mối thù ấy mới thôi! Nhưng y tự biết võ công còn kém giáo chủ xa. Nếu sau này y không gọi con trai thì cũng gọi con gái đến mà trả thù. Dương giáo chủ liền trả lời cha tên nọ rằng: Bất cứ con trai hay con gái của mấy người tới đây ta cũng nhường cho ba thế võ trước.

Người nọ lại nói:

- Khỏi cần phải nhường như vậy, nhưng còn đấu như thế nào phải để cho con cái của ta lựa chọn lấy! Dương giáo chủ liền nhận lời ngay. Không ngờ, câu chuyện đã trôi qua mười mấy năm và Dương giáo chủ cũng đã quên hẳn đi rồi, ngờ đâu con của người họ Hàn ấy đã tới nơi thực.

Mọi người đều nói rằng:

- Người này dám một thân một mình lên Quang Minh đỉnh này tất phải có võ nghệ kinh người mới dám lên đây như thế! Nhưng công lực của Dương giáo chủ đã luyện tới mức cao siêu tuyệt diệu, người trong võ lâm không có ai đương cự nổi với ông ta cả, chưa chắc người họ Hàn nọ đã thắng nổi Dương giáo chủ một miếng hay một thế võ.

Người họ Hàn đó dù có rủ thêm năm ba người nữa đến vây đánh, Dương giáo chủ cũng không hề nao núng. Nhưng mọi người lo lắng nhất là không biết người đó sẽ giở vấn đề gì ra thôi.

Sáng ngày hôm sau, Hàn Thiên Diệp đã nhắc lại câu chuyện xưa ở trước mặt mọi người, y còn dùng lời lẽ khôn khéo khiến giáo chủ không thể nào nuốt lời được. Rồi y mới đem vấn đề ra mà nói sau. Thì ra y đòi cùng Dương giáo chủ vào trong đầm nước lạnh ở trên Quang Minh đỉnh để quyết thắng bại, nếu ai thua sẽ tự vẫn trước mặt mọi người. Thấy y nói như vậy, ai ai cũng kinh hãi ngẩn người ra vì nước trong Bích Thủy hàn đầm đó giá lạnh buốt xương, ngay mùa nóng nực không ai dám xuống huống hồ là mùa đông giá lạnh?

Giáo chủ tuy võ công cao siêu thật nhưng không biết bơi lội, như vậy xuống tới nước cũng đủ rét lạnh mà chết. Dù không sợ rét, giáo chủ không biết bơi lội cũng bị chết đuối mất.

Lúc ấy quần hùng ở trong nghị sảnh đều đồng thanh quát mắng.

Vô Kỵ lại nói tiếp:

- Việc này khó xử thực. Ðại trượng phu nhất ngôn ký xuất tứ mã nan truy. Năm xưa Dương giáo chủ đã nhận với người họ Hàn ấy là khi con cái của người đó đến đòi tỷ võ dù bằng phương pháp nào cũng phải để cho người đó tự chọn lấy. Hàn Thiên Diệp tiền bối đã lựa chọn thủy chiến và theo đúng lý thì Dương giáo chủ không có cách gì từ chối hết.

Triệu Minh khẽ nắm tay chàng bóp một cái rồi vừa cười vừa nói:

- Phải đấy! Ðại trượng phu nhất ngôn ký xuất tứ mã nan truy. Là giáo chủ của Minh giáo, có khi nào lại nuốt lời hứa mà thất tín thiên hạ chứ? Khi ông ta đã nhận lời người nọ rồi thì dù sao ông ta cũng phải làm cho được.

Lời nói của nàng chỉ có một mình Vô Kỵ biết là nàng định nói gì thôi, còn Tạ Tốn thì làm gì biết được chuyện đó.

Nên Kim Mao Sư Vương lại nói tiếp:

- Chính thế. Hôm đó Hàn Thiên Diệp lớn tiếng nói: "Tại hạ một thân một mình lên trên Quang Minh đỉnh này chỉ mong chết ở trên này thôi. Quý vị anh hùng hào kiệt cứ việc múa đao phân thây tại hạ đi. Như vậy chỉ có người của Minh giáo biết thôi, còn người trên giang hồ không ai biết chuyện này cả. Tại hạ chỉ là một tên vô danh tiểu tốt, quý vị giết một kẻ hèn này thì có nghĩa gì đâu? Quý vị muốn giết thì cứ việc ra tay giết đi, hà tất phải nói nhiều như thế làm chi? ".

Mọi người nghe nói đều im lặng hết không dám ồn ào như trước nữa.

Dương giáo chủ ngẫm nghĩ giây phút rồi đáp:

- Hàn huynh! Năm xưa tại hạ quả có hứa hẹn như vậy với lệnh phụ thực. Người hảo hán phải quang minh mới được. Tại hạ nhận thua trận đấu này. Hàn huynh muốn xử trí như thế nào tuỳ ý.

Thiên Diệp lật ngửa cổ tay một cái, mọi người đã thấy tay y cầm một con dao sáng bóng và đang dí mũi dao vào giữa ngực và nói tiếp:

- Con dao găm này là của tiên phụ để lại. Tại hạ chỉ mong Dương giáo chủ vái lạy con dao này ba lại thôi.

Quần hùng nghe y nói như vậy ai nấy đều phẫn uất vô cùng vì đường đường giáo chủ của Minh giáo khi nào lại chịu nhục như thế?

Nhưng Dương giáo chủ đã nhận thua, theo đúng quy củ của giang hồ thì giáo chủ phải tuân theo đối phương mà làm.

Lúc ấy tình thế đã tỏ rõ cho mọi người thấy, phen này Thiên Diệp tới đây là đã quyết tâm hy sinh rồi. Y nhận ba lễ của giáo chủ xong liền đâm ngay lưỡi dao găm vào ngực tự tử. Vì y biết nếu y không tự tử chết thì thế nào cũng bị quần hào của Minh giáo giết chết liền. Lúc ấy trong đại sảnh không có một tiếng động nào hết.

Quang Minh tả hữu sứ, Bạch Mi ¦ng Vương và Bành hòa thượng các người ngày thường đều là những người túc trí đa mưu, nhưng lúc này gặp vấn đề nan giải ấy, ai nấy cũng đều thúc thủ và vô kế khả thi.

Cử chỉ của Thiên Diệp là muốn bức tử Dương giáo chủ để trả thù cho cha mình rồi y mới tự sát.

Ðang lúc cuộc thế rất gay go thì Ðại ỷ Ty bỗng vượt mọi người tiến lên nói với Dương giáo chủ rằng:

- Thưa cha! Người ta có một người con trai hiếu thảo như vậy chẳng lẽ cha lại không có một người con gái hiếu thảo hay sao? Vị Hàn gia này tới đây để báo thù cho cha. Vậy con xin phép cha cho con được thay mặt để đối địch Hàn gia mấy hiệp. Việc của người đời trước đã có người đời trước đối xử, việc người đời sau đã có người đời sau tiếp tay, không thể làm loạn vai vế như thế được.

Mọi người nghe nàng nói đều ngạc nhiên vô cùng và nghĩ thầm: "Sao nàng lại gọi Dương giáo chủ là cha như thế? ".

Nhưng mọi người lại hiểu ý ngay và nghĩ tiếp: "Nàng ta giả mạo nhận là con gái cua giáo chủ để giải vây cho giáo chủ đấy thôi".

Nghĩ tới đó ai nấy đều nghi ngại: "Nàng yếu ớt ẻo lả như vậy không biết nàng có biết võ công không. Dù nàng có biết võ chăng nữa chưa chắc cao siêu hơn ai, chứ đừng nói vào trong đầm nước lạnh tử chiến nữa".

Dương giáo chủ chưa kịp trả lời thì Thiên Diệp đã cười nhạt nói tiếp:

- Cô nương muốn thay cha đấu với tại hạ cũng được. Nếu cô nương thua, tại hạ vẫn bắt buộc Dương giáo chủ vái lạy con dao găm của tiên phụ như lời tại hạ nói. Y thấy nàng đã đẹp mà lại yếu ớt nên không coi nàng vào đâu hết.

Ðại ỷ Ty lại hỏi:

- Nếu ngài thua thì sao?

Thiên Diệp đáp:

- Nếu tôi thua thì cô nương muốn xử trí thế nào cũng được. Thôi được! Chúng ta đi ngay đến Bích Thủy Hàn đầm đi.

Nói xong nàng liền dẫn đường đi trước.

Dương giáo chủ thấy vậy vôi xua tay và lớn tiếng kêu gọi:

- Không được! Việc này không liên can gì đến con đâu...

Ðại ỷ Ty đáp:

- Thưa cha, cha khỏi lo cho con.

Nói xong nàng quỳ xuống vái lạy, coi như là đã vái Dương giáo chủ làm nghĩa phụ rồi.

Dương giáo chủ thấy nàng có vẻ tự tin lắm. Vả lại ngoài cách ấy ra không còn cách gì nữa cả. Giáo chủ đành phải để mặc nàng muốn làm sao thì làm. Thế rồi mọi người cùng đi lên trên đỉnh núi đến Bích Thủy Hàn đầm.

Hồi ấy gió bắc đang thổi rất mạnh, chỉ đứng bên cạnh đầm cũng thấy lạnh buốt xương rồi. Người nào nội lực hơi kém một chút không sao chịu đựng nổi. Nước trong đầm đã đóng thành băng, có một vài nơi chưa đóng băng nhìn xuống không sao thấy đáy được, đủ thấy đầm đó sâu như thế nào rồi.

Giáo chủ nghĩ thầm: "Không nên vì ta mà để cho Ðại ỷ Ty mất mạng nơi đây".

Nghĩ đoạn, giáo chủ liền nghênh ngang nói:

- Con gái ngoan ngoãn của ta! Cha không cam đành nhận hảo ý của con. Ðể cha tiếp Hàn huynh đây vài hiệp. Nói xong, Dương giáo chủ cởi áo bào ra, tay cầm thanh đơn đao định nhảy vào trong đầm nước lạnh để kết liễu tính mạng của mình.

Ðại ỷ Ty liền mỉm cười đỡ lời:

- Thưa cha! con gái cha sinh trưởng ở bờ bể từ hồi còn nhỏ nên rất giỏi về môn bơi lội. Nói xong, nàng liền rút trường kiếm ra, phi thân nhảy vào trong giữa đầm, đứng trên mặt băng dùng kiếm rạch một lỗ vuông và dùng chân trái dẫm mạnh một cái, miếng băng đó đã chìm luôn xuống đáy đầm rồi. Lúc ấy gió lạnh của mặt bể thổi tới, khiến áo của mọi người đều bay tung lên.

Tạ Tốn kể tiếp:

- Lúc ấy Ðại ỷ Ty mặc một bộ quần áo màu tím nhạt, đứng trên mặt băng như Lăng ba tiên nữ vậy. Ðột nhiên, nàng lẳng lặng nhảy ngay xuống dưới nước, khiến quần hào đứng cạnh đó kinh ngạc vô cùng. Thiên Diệp thấy nàng nhảy vào nước có lẽ thạo lắm, y không còn kiêu ngạo như trước nữa, tay cầm dao găm cũng nhảy vào trong đầm liền. Lúc ấy nước đầm màu xanh thẫm, đứng ở trên bờ đầm không sao trông thấy tình hình trận đấu của hai người như thế nào, chỉ thấy nước đầm rung động thôi. Một lát sau mặt nước ngưng hẳn, không bao lâu mặt nước lại sủi bọt như trước.

Quần hào của Minh giáo lo âu vô cùng, vì thấy hai người lặn xuống nước đã lâu, vả lại nước lạnh như vậy làm sao mà ở lâu được? Lại qua một hồi nữa, đột nhiên thấy có máu tươi, cứ theo bọt nước sủi lên.

Mọi người lại lo âu thêm, không biết máu của Thiên Diệp hay của Ðại ỷ Ty.

Một lát sau nữa, Thiên Diệp bỗng trồi lên và đứng trên tảng băng thở hồng hộc.

Mọi người thấy y lên trước, liền giật mình đồng thanh hỏi:

- Ðại ỷ Ty đâu? Ðại ỷ Ty đâu? Mọi người thấy Thiên Diệp hai tay không, dao găm thì cắm trên ngực bên trái, hai má đều có vết thương. Mọi người đang kinh ngạc thì Ðại ỷ Ty tựa như một con cá bay từ trong nước nhảy vọt lên, tay vẫn cầm trường kiếm ra khỏi mặt nước. Nàng còn lượn trên không hai vòng rồi mới hạ chân đứng xuống mặt băng. Quần hùng vỗ tay khen ngợi không ngớt.

Dương giáo chủ liền tiến lên cầm tay nàng, mặt tỏ vẻ mừng rỡ. Không ai ngờ một cô bé ẻo lả yếu ớt như vậy mà lại có tài bơi lội giỏi như thế.

Nàng liếc mắt nhìn Thiên Diệp một cái và nói:

- Người này khá giỏi về môn bơi lội đấy. Con thấy y có lòng hiếu thảo trả thù cho cha, nên con mới không giết y. Còn y có tội với giáo chủ, mong cha tha thứ cho y đi. Tất nhiên Dương giáo chủ phải nhận lời, liền ra lệnh cho thần y Hồ Thanh Ngưu chữa vết thương cho Thiên Diệp.

Tối hôm đó, trên Quang Minh đỉnh thết tiệc, ai ai cũng khen Ðại ỷ Ty là đại công thần của Minh giáo, nếu không được nàng đứng ra giải quyết thì tên tuổi của Dương giáo chủ bị tiêu tan hết. Thế rồi Dương phu nhân mới tặng cho nàng một cái mỹ hiệu là Tía Sam Long Vương và cho nàng được ngang hàng với Ưng vương, Sư vương và Bức vương ba người.

Tam vương chúng tôi đều cam tâm tình nguyện để nàng đứng đầu bốn người. Vì ngày hôm đó thực sự công lớn của nàng đã lấn át hết cả Tam vương.

Không ngờ sau trận thủy chiến đó, kết quả lại ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Thiên Diệp tuy bại trận, không hiểu tại sao y lại chiếm được lòng yêu của nàng Ðại ỷ Ty. Có lẽ vì ngày nàng đi thăm y xem vết thương đã lành mạnh chưa mà rồi vì thương hại mới sinh ra tình yêu. Chờ tới khi Thiên Diệp lành mạnh hẳn thì nàng bỗng xin phép Dương giáo chủ để kết hôn với thanh niên đó.

Mọi người hay tin đó đều đau lòng và thất vọng vô cùng.

Có người còn hậm hực nói rằng:

- Hàn Thiên Diệp là đại địch của bản giáo, ngày nọ y đã áp bức giáo chủ và mọi người đứng vào thế khó xử, sao nàng Ðại ỷ Ty lại chịu lấy y như vậy?

Tất nhiên không ai muốn nàng Ðại ỷ Ty lấy y. Có một số anh em nóng tính một chút liền sỉa xói vào mặt Thiên Diệp mắng chửi.

Ngờ đâu nàng Ðại ỷ Ty lại cương liệt đến thế: nàng cầm kiếm đứng trước cửa sảnh, lớn tiếng nói với mọi người rằng:

- Từ nay trở đi Hàn Thiên Diệp là chồng của tôi, nếu ai nói nhục tới chàng thì Tía Sam Long vương này nhất định không để yên cho đâu. Mọi người thấy nàng nói như vậy đành hậm hực mà giải tán. Cuộc hôn lễ của Thiên Diệp với nàng rất giản dị, có già nửa số anh em không đi mừng hai người. Chỉ có Dương giáo chủ với tôi cảm ơn đức giải vây của nàng nên hết sức nâng đỡ cho nàng được thành hôn với Thiên Diệp. Vì vậy mới không có chuyện gì xảy ra nhưng khi Thiên Diệp định gia nhập Minh giáo bị rất nhiều người phản đối. Dương giáo chủ không dám trái ý đại chúng.

Không bao lâu, đột nhiên Dương giáo chủ mất tích, mọi người trên Quang Minh đỉnh đều bàng hoàng, rồi chia nhau đi bốn phương tìm kiếm.

Quang Minh hữu sứ Phạm Dao thấy Hàn phu nhân tức nàng Ðại ỷ Ty trong hầm bước ra.

Vô Kỵ nghe tới đó, rùng mình kinh hãi và xen lời hỏi:

- Nàng ở trong đường hầm ra à?

Tạ Tốn đáp:

- Phải! Quy luật của Minh giáo rất nghiêm, đường hầm đó chỉ có một mình Minh giáo giáo chủ mới được ra vào thôi.

Phạm Dao vừa kinh hãi vừa tức giận, liền tiến lên chất vấn.

Hàn phu nhân đáp:

- Tôi đã phạm trọng tội của bản giáo, muốn giết, muốn mổ bụng cũng không sao. Tuỳ bạn đấy!

Tối hôm đó quần hào đại hội.

Hàn phu nhân cũng vẫn nói mấy lời như vậy.

Mọi người hỏi nàng vào đường hầm làm chi? Dương giáo chủ đi đâu?

Nàng trả lời là không biết, nàng chỉ nhận tội là đã trót vào trong hầm đó thôi. Nàng chỉ bảo nàng đã vui lòng nhận tội rồi, sao mọi người hà tất phải hỏi lôi thôi làm chi? Ðáng lý nàng không tự vẫn thì phải tự chặt một cánh tay nhưng Phạm Dao vẫn còn nhớ tình xưa, cố hết sức chống chế cho nàng. Hơn nữa có tôi bên cạnh nói giúp nên quần hào liền quyết định giam nàng mười năm cốt ý là để cho nàng hối cải.

Ngờ đâu nàng lại trả lời mọi người rằng:

- Dương giáo chủ không có ở đây, không ai có quyền xét xử tôi cả.

Nghe tới đó Vô Kỵ liền xen lời hỏi:

- Nghĩa phụ! Hàn phu nhân lén vào trong đường hầm để làm chi?

Tạ Tốn đáp:

- Câu chuyện này nói ra thì dài lắm. Trong Minh giáo chỉ có một mình ta biết thôi. Lúc ấy ai cũng nghi nàng có liên can đến sự mất tích của Dương giáo chủ, nhưng ta cực lực cải chính cho nàng. Thế rồi, mỗi người nói một lời, không sao giải quyết được vấn đề ấy, rốt cuộc Hàn phu nhân rút lui ra khỏi giáo phái rồi đi luôn.

Từ đó trở đi, nàng không còn dính dấp với Minh giáo của chúng ta nữa. Nàng là người rút lui ra khỏi Minh giáo trước tiên. Rồi nàng cùng Thiên Diệp xuống núi ngay.

Về sau không ai biết hai người đã đi đâu.

Các anh em trong Minh giáo phái người tìm mãi không thấy giáo chủ đâu cả.

Mấy năm sau vì tranh chấp chức giáo chủ, đâm ra nghi kỵ và ghét hận lẫn nhau.

Bạch Mi Ưng vương cũng rút lui ra khỏi Minh giáo và tự sáng lập ra Bạch Mi giáo phái. Ta khuyên mãi Bạch Mi Ưng vương nhất định không nghe. Vì vậy mà hai anh em ta giận nhau. Hai mươi năm trước đây Bạch Mi giáo giương đao lập oai ở trên núi Vương Bàn sơn. Kim Mao Sư vương này vội đến đó để phá đám. Sở dĩ ta tới đó là muốn cướp được thanh bảo đao Ðồ Long, hơn nữa ta cũng muốn làm mất sĩ diện của Hân huynh để bõ tức giận năm xưa và cũng để cho Hân huynh biết sau khi y rời khỏi Minh giáo, chưa chắc đã làm nổi trò trống gì. Hà, ngày hôm nay ta nghĩ lại hồi ấy ta thật quá nóng nảy.

Nói tới đó lão anh hùng thở dài một tiếng, tỏ vẻ rất ân hận.

Mọi người đều yên lặng, không nói năng gì, giây phút sau Triệu Minh lại lên tiếng hỏi:

- Thưa lão gia, sau Kim Hoa, Ngân Diệp oai trấn giang hồ, tại sao người trong Minh Giáo không nhận ra nàng ta? Có phải Ngân Diệp tiên sinh là Hàn Thiên Diệp không? Tại sao y lại trúng độc chết như thế?

Tạ Tốn đáp:

- Ðiều đó tôi không được rõ lắm, chắc vợ chồng họ thành đạo trên giang hồ cố hết sức tránh người của Minh Giáo.

Vô Kỵ bỗng đùi kêu "bốp" một tiếng và nói:

- Phải rồi, từ đó trở đi Kim Hoa bà bà không dám gặp người trong Minh Giáo nữa khi sáu đại môn phái vây đánh Quang Minh Ðỉnh, tuy bà ta có mặt ở đó mà không chịu ra tay cứu viện.

Triệu Minh lẩm bẩm tự nói:

- Tía Sam Long Vương là người đẹp như tiên nữ, tại sao lại biến thành xấu xí đến thế, xem mặt bà ta không bị hư hỏng gì cả, tại sao lại xấu đến thế.

Tạ Tốn liền đỡ lời:

- Theo sự ức đoán của tôi thì bà ta thể nào cũng dùng một phương pháp khéo léo để thay đổi bộ mặt. Các người nên biết Hàn phu nhân suốt đời hành sự rất quái dị, mà sự thật trong nội tâm của bà ta cũng có nhiều nỗi thống khổ lắm! Suốt đời đào tẩu tránh né, chỉ sợ người của Tổng giáo Ba Tư sang đây tìm kiếm. Ngờ đâu đến lúc tuổi già mà vẫn không sao thoát khỏi bàn tay độc của Tổng giáo Ba Tư.

Vô Kỵ với Triệu Minh đồng thanh hỏi:

- Tổng giáo Ba Tư cho người tới đây tìm kiếm bà ta để làm chi?

Tạ Tốn đáp:

- Ðó là một bí mật lớn của Hàn phu nhân đang lẽ ta không nên nói ra, nhưng ta mong các người quay trở vể Linh Xà đảo cứu bà ta, bây giờ ta phải nói cho các người hay.

Triệu Minh kinh hãi hỏi tiếp:

- Chúng ta lại quay trở về Linh Xà đảo ư, lại tái đấu với sứ giả của Ba Tư hay sao!

Tạ Tốn không trả lời câu hỏi của nàng, cứ tiếp tục kể chuyện.

Từ nghìn năm xưa tới giờ, Giáo chủ Minh giáo từ Trung cổ đều cho đàn ông đảm nhiệm, trái lại bên Tổng giáo Ba Tư toàn đàn bà phụ trách. Giáo chủ phải do thanh nữ ấy đảm nhiệm để duy trì sự trong sạch thiêng liêng của Minh giáo. Bất cứ một vị giáo chủ nào cũng vậy khi được đảm nhiệm Giáo chủ xong, là phải lựa sẳn ba người con gái của nhân sĩ có địa vị cao cả nhất trong giáo để làm thánh nữ. Ba thánh nữ ấy phải thề độc trước bàn thờ tổ rồi đi du hành bốn phương để lập công tích đức cho Minh Giáo. Tới khi Giáo chủ tạ thế, các bô lão liền tụ họp xét xem công đức lớn nhất làm Giáo chủ. Nhưng trong ba thánh nữ đó mà có một người mất trinh tiết thì phải khép tội hỏa thiêu. Dù chạy tới chân trời góc biển cũng bị người của Minh Giáo rượt bắt để duy trì trinh thiện của thánh giáo...

Nói tới đó, Kim Mao Sư vương vương bỗng thấy Triệu Minh thất thanh lớn tiếng hỏi:

- Chẳng lẽ Hàn phu nhân là một trong ba thánh nữ của Tổng giáo hay sao?

Tạ Tốn gật đầu đáp:

- Chính thế, khi Phạm Dao phát hiện nàng lén vào trong đường hầm, thì sự thực tôi đã phát giác trước Hữu sứ. Hàn phu nhân coi tôi là người tri kỷ, mới đem sự thực kể hết cho tôi hay, Nàng nói khi xuống dưới đầm nước đấu với Hàn Thiên Diệp, vì đụng độ với nhau nàng bỗng có tình với kẻ địch. Sau khi hai người kết hôn, Hàn phu nhân biết Tổng giáo thế nào để chuộc tội đó. Sở dĩ nàng lén vào trong đường hầm là muốn tìm cuốn bí phổ Càn Khôn Ðại Nã Di, cuốn sách đó là sách của Tổng giáo thất truyền đã lâu, nhưng bản sao của Trung thổ hãy còn tồn tại. Vì vậy Tổng giáo phái nàng tới Quang Minh Ðỉnh để lấy cuốn bí phổ đó.

Nghe tới đo Vô Kỵ bỗng kêu "ủa" một tiếng, chàng cảm thấy trong lòng hình như có một việc gì nan giải, nhưng việc đó là việc gì, nhất thời chàng chưa nghĩ ra được.

Chàng đang thắc mắc thì Tạ Tốn lại kể tiếp:

- Hàn phu nhân lẻn vào trong đường hầm mấy lần, nhưng không sao kiếm ra cuốn võ công tâm pháp đó. Ta nghe nàng kể ró nguyên nhân đó xong mới trịnh trọng khuyến cáo nàng, không nên tái phạm nữa, vì lẻn vào đường hầm như thế, thế nào cũng bị xử trảm.

Triệu Minh bỗng xen lời nói:

- Ủa, tôi biết rồi. Sở dĩ Hàn phu nhân nhất quyết rút lui ra khỏi Minh giáo, là muốn tiếp tục lẻn vào trong đường hầm để tìm kiếm cuốn sách kia, vì bà ta rút lui ra ngoài Minh giáo bà ta không bị luật lệ của Minh giáo bó buộc nữa.

Tạ Tốn gật đầu đáp:

- Triệu cô nương thông minh thực, nhưng Quang Minh Ðỉnh là căn cứ địa của bổn giáo, khi nào để cho người ngoài tuỳ tiện đi lại được. Lúc ấy tôi cũng đoán được Triệu cô nương vậy. Sau khi Hàn phu nhân đi khỏi, tôi liền đến cạnh miệng đường hầm để canh gác. Hàn phu nhân đã lẻn lên trên núi ba lần, nhưng lần nào cũng thấy mặt tôi nàng ta cũng tỏ ra nản chí tỏ vẻ ăn năn và đi luôn...

Nói tới đi Kim Mao Sư vương ngửng đầu lên nghĩ ngợi một hồi lâu rồi bỗng hỏi Vô Kỵ và Triệu Minh rằng:

- Quần áo của ba sứ giả Ba Tư có khác quần áo của người Minh giáo ở Trung thổ không?

Vô Kỵ đáp:

- Họ đều mặc áo bào trắng của họ viền đen, chỉ có điểm đó là khác thôi.

Tạ Tốn vỗ vào thành thuyền một cái và nói:

- Phải đấy, Giáo chủ của Tổng giáo tạ thế, người Tây Vực để tang mặc màu đen chứ không mặc màu trắng. Vì vậy áo bào trắng của chúng mới có viền đen như vậy. Chắc Giáo chủ của họ mới chết. Bây giờ họ đang tuyển lựa tân giáo chủ. Vì vậy chúng mới không ngại đường sá xa xôi tìm kiếm Hàn phu nhân.

Vô Kỵ lại hỏi:

- Hàn phu nhân đã ở Ba Tư tới, tất nhiên phải biết được võ công quái dị của ba sứ giả kia, sao bà ta đấu chưa được ba hiệp đã bị đối phương kiềm chế là nghĩa lý gì?

Triệu Minh vừa cười vừa đỡ lời:

- Sao công tử dốt thế, đó là Hàn phu nhân giả bộ, bà không muốn để cho ai biết nguồn gốc của mình, nên không dám dở võ công của Ba Tư ra. Theo sự ước đoán của tôi thì lúc ấy nếu Tạ lão gia nghe lời của ba sứ giả ra tay giết bà ta thì bà ta thể nào cũng có kế thoát thân.

Tạ Tốn lắc đầu nói:

- Bà ta không muốn cho người ta biết nguồn gốc, điều đó rất đúng, nhưng bảo bà ta bị ba sứ giả điểm trúng yếu huyệt rồi mà vẫn thoát thân được thì chưa chắc.

Theo ý tôi thì bà ta đành để cho tôi giết chết, chứ không muốn để cho sứ giả bắt đem về hỏa thiêu, thì đúng hơn.

Triệu Minh lại hỏi:

- Tôi bảo Minh giáo ở Trung thổ là tà giáo, ngờ đâu Minh giáo ở Ba Tư lại càng tà hơn! Tại sao nhất định gái đồng trinh mới được làm giáo chủ? Tại sao thánh nữ thất trinh lại bị hỏa thiêu?

Tạ Tốn liền trách mắng:

- Cô bé ăn nói bậy bạ, giáo phái nào cũng có một quy củ riêng biệt, cũng như hòa thượng ni cô không được ăn mặn. Ðây chả là quy luật của Phật giáo là gì? Như vậy cô nương gọi là tà được?

Mọi người đang chăm chú nghe Tạ Tốn kể, thì bốn nghe tiếng "cập, cập, cập" ai nấy đều quay đầu nhìn, mới hay Hân Lý vì quá rét nên hai hàm răng va chạm nhau tạo thành âm thanh đó!

Vô Kỵ liền sờ trán nàng, thấy nóng như thiêu, chắc lúc này nàng vừa nóng vừa lạnh, bệnh thế rất trầm trọng, nên chàng nới với Tạ Tốn rằng:

- Nghĩa phụ, con muốn trở về Linh Xà đảo ngay, vì bệnh của cô nương rất trầm trọng, phải kiếm thuốc chữa ngay cho cô ta mới được. Chúng ta cố sức mà cứu chữa cho hai người, dù không cứu được Hàn phu nhân thì ít nhất cũng phải cứu chữa cho Hàn cô nương hết bệnh.

Tạ Tốn đáp:

- Con nói rất phải, Hân cô nương có cảm tình với con như vậy, thế nào cũng phải cứu cho cô ta mới được. Còn Chu cô nương và Triệu cô nương nghĩ sao?

Triệu Minh đáp:

- Vết thương của cô nương nặng hơn vết thương của tôi nhiều, nếu không trở về Linh xà đảo thì lấy gì để chữa cho cô ta đây?

Chỉ Nhược lạnh lùng trả lời Vô Kỵ:

- Lão gia bảo trở về thì chúng ta cứ việc trở về.

Vô Kỵ lại hỏi tiếp:

-Nếu muốn quay trở về cũng phải đợi cho sương mù tan hết thì mới biết đường đi mà đi chứ? Nghĩa phụ, hồi nãy Lưu Vân Sư lộn luôn hai vòng mà cũng có thể dùng Thánh hỏa lệnh đả thương con, như vậy là nghĩa lý gì?

Thế rồi hai người nghiên cứu các thế võ của ba sứ giả Ba Tư.

Triệu Minh cũng học được rất nhiều võ của các môn phái, nên thỉnh thoảng cũng tham bác được một vài ý kiến.

Nhưng nói nửa ngày trời, mọi người vẫn không thấy Tạ Tốn nói đến điều cốt yếu của môn võ công mà ba người đã liên hiệp ra tay.

Chờ tới khi mặt trời mọc lên đỉnh đầu, sương mù trên mặt bể tan hết, Vô Kỵ nói:

- Chúng ta ở phía Bắc đi xuống miền Nam bây giờ đang chèo sang Tây Bắc mới phải.

Chàng với Tạ Tốn, Chỉ Nhược, Tiểu Siêu lần lượt chèo.

Lúc tới thì thuận gió, lúc về thì phải nhờ sức người, thật không phải là chuyện dễ.

Cũng may Vô Kỵ với Tạ Tốn có nội lực rất thâm hậu còn Chỉ Nhược với Tiểu Siêu cũng không đến nỗi yếu ớt nên bốn người chèo mấy ngày liền, cứ xông pha sóng bể mà tiến về phía Bắc.

Ði được mấy ngày, Tạ Tốn cau mày nghĩ ngợi những võ công quái dị của ba sứ giả Ba Tư.

Lão anh hùng chỉ thỉnh thoảng lên tiếng hỏi Vô Kỵ vài câu hỏi thôi, ngoài ra không ai nói với ai nửa lời.

Ðến chiều ngày thứ sáu, Tạ Tốn bỗng hỏi Chỉ Nhược những võ công của phái Nga Mi mà nàng đã học được một cách rất cặn kẽ.

Chỉ Nhược cứ theo sự thực trả lời. Hai người một vấn một đáp cho tới khuya mới thôi. Tạ Tốn tỏ vẻ thất vọng cũng nói:

- Võ công của Thiếu Lâm, Võ Ðang và Nga Mi ba phái đều có liên can với Cửu Dương chân kinh, cũng như những võ công mà Vô Kỵ đã học được vậy, đều thiên về mặt dương cương. Nếu Trương Tam Phong chân nhân có ở đây với võ học uyên thâm bao hàm cả Dương cương, Âm nhu của ông ta, liên hiệp với Vô Kỵ. Như vậy âm - dương phối hợp mới có thể thắng nổi ba sứ giả nọ, nhưng nước xa cứu sao nổi lửa gần, còn Hàn phu nhân thì lại bị ba sứ giả ấy kiềm chế rồi, biết làm sao bây giờ đây?

Chỉ Nhược xen lời nói:

- Thưa lão gia, nghe nói trong võ lâm mấy năm trước đây có những cao nhân tinh thông cả Cửu âm chân kinh, chẳng hay chuyện ấy có thực không?

Khi ở trên núi Võ Ðang, Vô Kỵ có nghe Thái sư phụ nói đến tên Cửu âm chân kinh này, chàng mới biết lão hiệp Quách Tỉnh, cha nữ hiệp Quách Tường, tổ sư của phái Nga Mi và Thần Ðiêu đại hiệp Dương Qua các người đều học được võ công của Cửu âm chân kinh đó. Nhưng môn võ công ấy khó luyện. Quách Tường tuy là con gái của Quách Tỉnh mà cũng không sao học hỏi được.

Bây giờ chàng bỗng nghe thấy Chỉ Nhược hỏi đến vấn đề ấy, liền ngẩn người ra nhìn nàng.

Tạ Tốn liền đáp:

- Theo lời bô lão đồn đại như thế, nhưng không ai biết chuyện đó là thực hay hư. Tôi nghe các vị tiền bối nói môn võ công đó lợi hại như phép thần vậy, nhưng tôi chưa được mục kích qua môn võ công ấy. Nếu người nào biết được võ công của Cửu âm chân kinh mà liên hiệp với Vô Kỵ thì thể nào cũng diệt trừ được ba sứ giả kia.

Triệu Minh bỗng xen lời hỏi:

- Chu cô nương, phái Nga Mi của cô nương có ai biết môn võ công ấy không?

Chỉ Nhược đáp:

- Nếu phái Nga Mi chúng tôi mà có biết môn võ công đó thì tiên sư không bao giờ bị mất mạng ở chùa Vạn Pháp như vậy.

Diệt Tuyệt sư thái gián tiếp chết trong tay của Triệu Minh, nên nàng ghét hận Triệu Minh khôn tả, tuy hai người cùng ngồi chung một thuyền và cùng vào sinh ra tử mấy ngày liền như vậy thực, nhưng nàng không hề nói với Triệu Minh lấy nửa lời. Bây giờ nàng bỗng nghe thấy Triệu Minh lên tiếng hỏi, đáng lẽ nàng quát mắng Triệu Minh cho hả dạ, nhưng tính nàng rất hiền hậu, chỉ trợn mắt lên nhìn đối phương thôi chứ không nói năng gì hết.

Triệu Minh thấy Chỉ Nhược không trả lời mình, nàng cũng không tức giận, chỉ tủm tỉm cười thôi.

Vô Kỵ vừa chèo vừa nhìn về phía sau, chàng bỗng la lớn:

- Các người hãy nhìn kia, ở đằng xa có ánh sáng lửa.

Mọi người đều nhìn về phía đó thấy đằng xa quả thật có ánh sáng lấp lánh. Tuy không trông thấy gì, Tạ Tốn nghe thấy tiếng la kinh hãi và mừng rỡ của mọi người, vội chèo nhanh thêm để chóng đến chỗ đó.

Ánh sáng đó trông rất gần, nhưng sự thật thì cách mấy mươi dặm. Hai người chèo nửa ngày trời mới tới gần.

Vô Kỵ đã nhận ra chỗ ánh sáng lấp lánh đó chính là Linh Xà đảo.

Chàng liền nói:

- Chúng ta đã về đến nơi rồi.

Tạ Tốn bỗng thất thanh kêu "ối chà" một tiếng rồi hỏi:

- Tại sao ngọn lửa Linh Xà đảo lại cháy to đến thế? Chẳng lẽ chúng định đốt Hàn phu nhân chăng?

Chỉ nghe thấy kêu đến "bộp" một tiếng, Tiểu Siêu bỗng ngã lăn ra.

Vô Kỵ kinh ngạc vô cùng, vội chạy lại đỡ nàng dậy, thấy hai mắt nàng đã nhắm nghiền lại và đã bất tỉnh rồi.

Chàng vội xoa bóp các yếu huyệt để cứu nàng lại tỉnh, hỏi:

- Tiểu Siêu, cô làm sao thế?

Hai mắt Tiểu Siêu đẫm lệ, đáp:

- Tôi nghe lão gia nói họ định thiêu người, nên tôi sợ lắm.

Vô Kỵ liền an ủi nàng rằng:

- Ðó là Tạ lão gia phỏng đoán đấy thôi, chưa chắc đã là sự thực, dù Hàn phu nhân có bị chúng bắt đi chăng nữa, bây giờ ta đã về đến thì còn hy vọng cứu kịp mà.

Tiểu Siêu nắm chặt lấy hai tay chàng, van lơn:

- Trương công tử, tôi yêu cầu công tử thế nào cũng cứu Hàn phu nhân thoát chết nhé!

Vô Kỵ đáp:

- Tất cả mọi người thế nào cũng hết sức ra tay cứu Hàn phu nhân. Tiểu Siêu hãy yên tâm, chớ nên lo âu gì nữa.

Nói xong, chàng liền tiếp tục chèo thuyền, và chèo nhanh hơn trước nhiều.

Triệu Minh bỗng lên tiếng hỏi:

- Trương công tử, có hai việc này tôi đã nghĩ từ lâu rồi mà chưa nghĩ ra được. Vậy xin công tử chỉ giáo cho.

Vô Kỵ thấy nàng bỗng khách sáo như vậy, ngạc nhiên vô cùng, liền hỏi:

- Việc gì thế?

- Hồi ở ngoài Lục Dương trang tôi sai người tấn công lệnh tổ, Dương tả sứ với các vị đều nghe lệnh của cô nhỏ Tiểu Siêu này để chống đỡ bộ hạ của tôi, quả thật là thủ hạ của cường tướng không có nhược binh, một con sen nho nhỏ của Giáo chủ Minh giáo mà cũng có tài ba như vậy... thật là kỳ lạ...

Tạ Tốn xen lời hỏi:

- Cái gì giáo chủ của Minh giáo thế?

Triệu Minh vừa cười vừa đáp:

- Thưa lão gia, bây giờ cháu xin nói để lão gia rõ: Công tử nghĩa tử của lão gia là đường đường một vị giáo chủ của Minh giáo đấy, trái lại lão gia lại là thuộc hạ của Trương công tử.

Tạ Tốn bán tín bán nghi, nên không nói năng gì hết.

Triệu Minh liền kể chuyện nhận chức giáo chủ như thế nào cho Tạ Tốn hay.

Nghe xong Tạ Tốn liền hỏi Vô Kỵ có phải như thế không.

Bất đắc dĩ, Vô Kỵ đành phải kể cho Tạ Tốn hay sáu đại môn phái vây đánh Quang Minh đỉnh như thế nào, mình ở trong đường hầm tình cờ học được Càn Khôn Ðại Nã Di tâm pháp ra sao.

Tạ Tốn cả mừng, liền đứng dậy và quỳ lạy ngay ở trên thuyền và nói:

- Thuộc hạ Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn tham kiến giáo chủ.

Vô Kỵ cũng quỳ xuống đáp lễ và trả lời:

- Nghĩa phụ khỏi phải đa lễ như vậy, di mệnh của Dương giáo chủ là nhờ nghĩa phụ về tạm nhận chức vị giáo chủ. Con nhận thấy cáng đáng không nổi trọng trách này, may mắn thay trời phù hộ cho nghĩa phụ bình yên về tới nơi, đó cũng là phước của bổn giáo xui nên. Chúng ta về đến Trung thổ rồi, thế nào cũng xin nghĩa phụ tiếp nhận chức vị giáo chủ ấy.

Tạ Tốn buồn rầu đáp:

- Tuy nghĩa phụ con đã về đến Trung thổ nhưng hai mắt đã mù thì làm sao mà phụ trách được những việc nặng nề như thế. Vả lại không ai để cho một người mù như ta làm thủ lĩnh Minh giáo cả. Triệu cô nương, vừa rồi cô nương bảo là có hai việc cô chẳng rõ, vậy hai việc đó là hai việc gì thế?

Triệu Minh đáp:

- Tôi xin hỏi Tiểu Siêu cô nương, ai đã dạy cho cô nương biết thuật Kỳ môn bát quái và Âm dương ngũ hành như thế? Cô ít tuổi như vậy tại sao lại học được bản lĩnh cao siêu đến như vậy?

Tiểu Siêu đáp:

- Ðó là võ công gia truyền của nhà tôi, nhưng đối với quận chúa nương nương thì có ăn nhập vào đâu!

Triệu Minh hỏi:

- Lệnh tôn là ai mà có con gái lợi hại đến như thế? Tất nhiên lệnh tôn phải là cao thủ lừng danh trong thiên hạ.

Tiểu Siêu đáp:

- Gia phụ ẩn tính danh, nên không ai biết tới. Quận chúa hỏi như vậy để làm chi? Chẳng lẽ quận chúa muốn chặt đứt mấy ngón tay của tôi để bắt ép tôi biểu diễn võ công cho quận chúa xem hay sao?

Vô Kỵ không ngờ Tiểu Siêu ít tuổi như vậy, mồm mép lại lợi hại đến thế, nàng nhắc đến chuyện chặt ngón tay khiến Chỉ Nhược càng tức giận Triệu Minh thêm.

Triệu Minh vừa cười vừa quay đầu lại hỏi Vô Kỵ rằng:

- Trương công tử, lần gặp gỡ thứ hai ở trong tửu điếm, Khổ đầu đà Phạm Dao đến từ biệt tôi, y trông thấy Tiểu Siêu cô nương có nói mấy lời gì thế?

Vô Kỵ đã quên hẳn chuyện này rồi, bây giờ bỗng nghe lời Triệu Minh nhắc lại chuyện ấy, chàng nghĩ ngợi hồi lâu rồi mới đáp:

- Phải, cô nương thử đoán xem Khổ đại sư bảo Tiểu Siêu giống ai nào?

Triệu Minh đáp:

- Tôi có nghe đâu mà biết?

Vô Kỵ lại nói tiếp:

- Khổ đại sư nói Tiểu Siêu giống kẻ địch của đại sư, nhưng kẻ địch đó là ai, tôi không nghe thấy Khổ đại sư nói...

Mọi người đang chuyện trò thì chiếc thuyền nhỏ trôi gần đến bờ rồi.

Mọi người thấy ở phía Tây của hòn đảo có rất nhiều thuyền lớn đậu ở đấy. Thuyền nào cũng dương buồm trắng, trên buồm có vẽ nhãn hiệu của Minh giáo và buồm nào cũng có một sợi dây đen đang bay phấp phới.

Vô Kỵ cau mày lại nói:

- Không ngờ Tổng giáo bên Ba Tư lại đem nhiều người vào Trung thổ này đến thế.

Triệu Minh liền đề nghị:

- Chúng ta bơi thuyền tới phía sau đảo, kiếm một chỗ vắng vẻ để đậu và đổ bộ ngay ở nơi đó, đừng để cho chúng trông thấy chúng ta mới được.

Vô Kỵ gật đầu rồi bơi thuyền ra ngoài xa bốn trượng để vòng qua phía sau đảo. Nhưng đột nhiên nghe thấy trên thuyền lớn có tiếng tù và vang động và đại bác trên thuyền bắn tới kêu "ầm ầm" nữa. Một viên đạn rớt xuống bên trái, một viên rớt bên phải làm cho mặt nước nổi lên hai cái trụ nước thật cao, khiến cho thuyền tròng trành như sắp lật úp vậy.

Người trên thuyền lớn tiếng kêu gọi:

- Thuyền kia, có mau chèo lại đấy không, nếu không tuân lịnh, chúng ta sẽ bắn chìm thuyền ngay.

Vô Kỵ biết hai phát đại bác vừa rồi là của thuyền địch bắn ra để thị oai, chúng chỉ cố ý bắn cho chiếc thuyền tròng trành chứ không phải cố ý bắn chìm. Bây giờ càng trôi vào càng gần đại bác của chúng dễ dàng bắn trúng hơn. Chàng biết nếu thuyền mình chỉ bị một phát đại bác bắn trúng thì sáu người trên thuyền sẽ tan xác hết nên chàng đành phải bơi thuyền vào gần chiếc thuyền lớn nọ. Chàng thấy rõ ba khẩu đại bác của chiếc thuyền đang nhắm về phía thuyền mình.

Khi thuyền của chàng ghé vào cận chiếc thuyền lớn, bên trên đã buông một cái thang dây thòng xuống liền.

Vô Kỵ liền nói với mọi người rằng:

- Chúng ta cứ leo lên, và thừa cơ sẽ cướp thuyền của chúng luôn.

Tạ Tốn lần mò đến cạnh thang, liền leo lên trước tiên.

Chỉ Nhược không nói năng gì cả, cúi mình xuống ẳm Triệu Minh và leo lên, tiếp theo đó Tiểu Siêu còn Vô Kỵ thì ẳm Hân Ly lên sau cùng.

Khi mọi người lên tới boong, đều thấy những người trên đó tóc vàng mắt xanh, thân hình vạm vỡ.

Người nào người nấy đều là người Ba Tư cả.

Nhưng không thấy bọn Lưu Vân Sứ ở trên đó, chỉ thấy một người Ba Tư biết Hoa ngữ tiến lại hỏi rằng:

- Các người là ai? Ðến đây làm chi?

Triệu Minh đáp:

- Chúng tôi gặp bão, thuyền bị đắm nên mới trôi dạt tới đây, được các vị cứu giúp cho thật cám ơn vô cùng.

Người Ba Tư ấy bán tín bán nghi liền quay lại nói với người thủ lãnh ngồi ở ghế chính giữa mấy câu tiếng Ba Tư xong, người thủ lãnh lại dặn lại mấy người thủ hạ quanh đó mấy câu.

Tiểu Siêu đột nhiên tung mình nhảy lên múa chưởng nhằm người thủ lãnh tấn công luôn... Người thủ lãnh ấy kinh hãi, vội nhảy sang bên tránh né và chộp luôn cái ghế phản công lại liền.

Vô Kỵ không ngờ Tiểu Siêu lại nhanh đến thế, chỉ thấy nàng xoay người tránh né giơ tay điểm huyệt khiến tên thủ lãnh ấy té ngã liền.

Mấy chục người Ba Tư ở thuyền liền vội rút khí giới bao vây Tiểu Siêu.

Tuy những người đó đều biết võ công hết, nhưng kém ba sứ giả nọ rất xa.

Vô Kỵ dùng tay phải ẳm Hân Ly, còn tay trái điểm Ðông đánh Tây tấn công những người Ba Tư lia lịa.

Tạ Tốn giở Ðồ Long đao ra, Chỉ Nhược múa trường kiếm và thêm Tiểu Siêu với thân hình rất lanh lẹ, chỉ trong chốc lát mấy chục người Ba Tư đã bị bốn người đánh té hết. Mười mấy người bị chém nằm trên boong thuyền, và bảy tám người rớt xuống bể, còn bao nhiêu thì đều bị bốn người điểm trúng yếu huyệt cả.

Giây phút sau, gần đó liền có tiếng hò hét và tiếng tù và nổi lên.

Những chiếc thuyền khác của người Ba Tư liền tiến tới.

Những người ở trên các chiếc thuyền đó cứ muốn nhảy sang thuyền bên này để đấu với bọn Vô Kỵ.

Vô Kỵ đặt Hân Ly nằm ở trên boong thuyền, rồi xách người thủ lãnh nhảy lên trên cột buồm, lớn tiếng kêu gọi:

- Ai dám sang thuyền này, ta sẽ giết chết người này ngay.

Người này có lẽ rất có địa vị trong Tổng giáo, nên những người ở trên mấy chiếc thuyền kia nghe Vô Kỵ nói xong, chỉ kêu la chứ không dám lăm le định nhảy sang thuyền của bốn người như trước nữa.

Vô Kỵ lại nhảy xuống dưới boong, vừa đặt người thủ lãnh nằm xuống, thì chàng bỗng nghe phía sau lưng có tiếng kêu "coong" đồng thời đã có một môn khí giới nhắm chàng tấn công tới.

Chàng vội né mình để tránh và giơ chân ra đá lại luôn. Thẻ bài Thánh hỏa lệnh ấy liền bị chàng đá rớt, phía bên trái lại có một cái thẻ khác tấn công tới.

Vô Kỵ nghĩ thầm:

- Không ngờ Phong Vân Tam sư giả tới chóng như vậy.

Nghĩ đoạn, chàng liền lớn tiếng bảo mọi người rằng:

- Mọi người mau mau rút lui vào trong khoang thuyền.

Chàng lại xách người thủ lãnh lên nghênh đỡ cái thẻ Thánh hỏa lệnh nọ.

Huy Nguyệt Sứ thấy chiếc Thánh hỏa lệnh sắp đánh trúng vai trái của Vô Kỵ rồi, không ngờ chàng đột nhiên xách người thủ lãnh kia lên chống đỡ, Huy Nguyệt Sứ vội thu ngay chiếc thẻ lại.

Nhưng vì đột nhiên thu thẻ lại bên dưới thế nào cũng bỏ trống, nên nàng mới bị chân của Vô Kỵ suýt đá trúng.

Lưu Vân với Diệu Phong hai sứ giả vội xông lại tấn công, bắt buộc Vô Kỵ thu chân lại nên Huy Vân sứ giả mới không bị đá trúng là thế. Ðấu đến hiệp thứ chín, Diệu Phong sứ giả lại giở một thế võ rất quái dị ra tấn công, sắp điểm trúng bụng dưới của Vô Kỵ rồi. Vô Kỵ lại đưa thủ lãnh nọ ra chống đỡ, chỉ nghe thấy kêu "bộp" một tiếng, người thủ lãnh ấy bị chiếc Thánh hỏa lệnh kia đánh trúng vào má liền. Ba người sứ giả đó đều kinh hãi và thất thanh kêu la, mặt thất sắc, rồi chúng nhảy lui về phía sau, rỉ tai nhau thì thầm vài câu.

Ðột nhiên chúng cung kính vái chào người thủ lãnh kia. Thì ra, người thủ lãnh Ba Tư mà Vô Kỵ đang bắt cóc đó là một trong mười hai Bảo Thụ Vương của Tổng giáo tên là Bình Ðẳng Vương.

Mười hai Bảo Thụ Vương ấy là: thứ nhất Ðại Thánh, thứ hai Trí Tuệ, thứ ba Thường Thắng, thứ tư Hoan Hỉ, thứ năm Cần Tu, thứ sáu Bình Ðẳng, thứ bảy Tín Tâm, thứ tám Nhẫn Nhục, thứ chín Chính Trực, thứ mười Công Ðức, mười một Tề Tâm, mười hai Cự Minh, mười hai Bảo Thụ Vương này là mười hai Ðại Kinh Sư, tức là người thân cận nhất của Giáo Vương.

Với địa vị của họ cũng như Tứ đại hộ giáo pháp vương của Minh giáo ở Trung Thổ nhưng mười hai Bảo Thụ Vương này lại chỉ chuyên môn nghiên cứu giáo nghĩa và tinh thông kinh điển thôi, chứ không chú trọng đến võ công, vì vậy chỉ có người thứ nhất là Ðại Thánh Bảo Thụ Vương, người thứ ba là Thường Thắng Bảo Thụ Vương và người thứ mười Công Ðức Bảo Thụ Vương là có võ công trác tuyệt thôi.

Còn mấy người kia võ công đều rất tầm thường.

Họ còn kém cả Phong Vân tam sứ giả nữa.

Lần này Tổng giáo bên Ba Tư đi tìm kiếm thánh nữ về thừa kế ngôi giáo chủ, nên cả mười hai Bảo Thụ Vương đều vào Trung Thổ hết. Bình Ðẳng Vương thất thế bị Vô Kỵ bắt cóc.

Phong Vân sứ giả liền nhảy lên thuyền để cứu, trái lại chúng lại đánh một chiếc Thánh hỏa lệnh vào mặt Bình Ðẳng Vương, tuy chúng không cố ý phạm thượng, nhưng dù sao chúng cũng hoảng sợ rồi nên không dám tiếp tục chiến đấu với Vô Kỵ mà phải vái lạy xin lỗi rồi rút lui ngay.

Vô Kỵ nhẹ thở một tiếng để Bình Ðẳng Vương lên trên đầu gối của mình. Lúc này chàng biết người này có địa vị rất cao ở trong Tổng giáo, bọn mình muốn thoát chết và đào tẩu được phải trông mong vào người này.

Chàng cúi đầu xem xét vết thương ở trên má đó không nặng lắm, chàng mới yên tâm. Chỉ Nhược với Tiểu Siêu quét dọn khoang thuyền, đem những xác chết vứt vào phía sau còn những người chưa chết thì hai nàng để họ nằm xếp hàng ở trên boong thuyền. Mười mấy chiếc thuyền của Ba Tư bao quanh chiếc thuyền của bốn người và họ còn chĩa đại bác vào nữa. Chiếc thuyền nào của chúng cũng có nhiều người đứng đầy, lửa của những ngọn đuốc chiếu vào đao, kiếm, dáo mác làm loé mắt và sáng choang một góc trời. Người của họ rất đông, không biết bao nhiêu mà kể.

Vô Kỵ thấy vậy kinh hãi thầm nghĩ:

- Không nói họ cùng bắn đại bác một lúc vào thuyền, họ hàng nghìn hàng vạn người như thế, cứ xông một lúc tấn công dù ta có ba đầu sáu tay cũng không sao chống nổi được. Mà dù ta nhờ có khinh công tuyệt đỉnh mà tẩu thoát được chăng nữa, nhưng còn mấy người kia ta bảo vệ cho họ sao nổi? Hân Ly với Triệu Minh bị thương nặng như vậy lại càng nguy hiểm thêm.

Chàng đang nghĩ, bỗng nghe thấy một người Ba Tư dùng Hoa ngữ lớn tiếng nói:

- Kim Mao Sư Vương hãy nghe ta nói đây! Mười hai Bảo Thụ Vương của Tổng giáo đều có mặt tại đây cả. Mười hai vị ấy vui lòng xá tội thất lễ với Tổng giáo của ngươi, ngươi mau mau trả giáo hữu của Tổng giáo ra đây ngay, rồi ngươi tự lái thuyền đi đi.

Tạ Tốn vừa cười vừa đáp:

- Tạ mỗ không phải là đứa bé lên ba, nếu chúng ta buông tha hết tù binh thì đại bác trên thuyền của các ngươi sẽ bắn chúng ta liền.

Người nọ nghe Tạ Tốn nói xong, liền nổi giận nói tiếp:

- Chẳng hay ngươi có chịu buông tha các người đó hay không? Ngươi tưởng đại bác của chúng ta không dám bắn hay sao?

Tạ Tốn rú lên một tiếng và nói tiếp:

- Thánh nữ Ðại ỷ Ty đâu? Các người hãy trả nàng sang đây rồi chúng ta mới nói sang chuyện khác được.

Người nọ liền thương lượng với mấy người đứng cạnh đó vài lời rồi mới lớn tiếng đáp:

- Ðại ỷ Ty đã phạm lỗi với tổng giáo, thể nào cũng bị hành hình bằng cách thiêu thân. Nàng với tổng giáo của Trung thổ không có liên can gì hết.

Tạ Tốn lại nói tiếp:

- Tôi có ba điều kiện, nếu quý vị nhận lời thì chúng tôi sẽ cung kính đưa các giáo hữu này lên bờ ngay.

Người nọ liền hỏi:

- Những điều kiện của ngươi là những điều kiện gì?

Tạ Tốn đáp:

- Ðiều thứ nhất là phải do Bảo Thụ vương mười hai vị đích thân nhận lời, từ giờ trở đi, tổng giáo với Minh giáo ở Trung thổ phải tương thân, tương kính, không được quấy nhiễu lẫn nhau...

Người nọ lại hỏi:

- Còn điều thứ hai?

Tạ Tốn đáp:

- Các ngươi phải đưa Ðại ỷ Ty sang bên thuyền này, từ giờ trở đi không truy cứu tới tội thất trinh của nàng ta nữa!

Người nọ giận dữ hỏi tiếp:

- Chúng ta không thể nào tiếp nhận điều này được, vậy còn điều thứ ba?

Tạ Tốn đáp:

- Các người không nhận lời điều kiện thứ hai, còn hỏi đến điều thứ ba làm gì?

Người nọ lại nói:

- Ðược, ví như chúng ta nhận điều kiện thứ hai, ngươi cứ nói điều kiện thứ ba đi!

Tạ Tốn lại nói tiếp:

- Ðiều thứ ba dễ lắm. Các ngươi cứ phái một chiếc thuyền nhỏ đi theo sau thuyền của chúng ta ra khỏi đây năm mươi dặm, chúng ta thấy các ngươi không phái thuyền lớn theo đuổi nữa, lúc ấy chúng ta mới thả hết tù binh xuống thuyền nhỏ, trả lại cho các ngươi đem đi.

Người nọ cả giận quát lớn:

- Nói bậy, nói bậy...

Thì ra, người thông ngôn đó chính là Cụ Minh Bảo Thụ Vương, người thứ mười hai. Chỉ thấy y huýt một tiếng còi, y với mười một Bảo Thụ Vương nữa cùng nhảy lên thuyền của Vô Kỵ.

Vô Kỵ liền xông lên dùng chưởng đẩy vào ngực Tề Tâm Vương, ngờ đâu Tề Tâm Vương không chống đỡ thì chớ, mà còn giơ tay trái nhằm đầu Vô Kỵ chộp luôn. Vô Kỵ biết chưởng của mình thể nào cũng đánh trúng người của y trước, nên chàng không đổi thế võ.

Ngờ đâu Cụ Minh Vương ở bên cạnh đã đưa hai tay ra chống đỡ chưởng của Vô Kỵ liền bắt buộc Vô Kỵ phải nhảy về phía trước một bước mới tránh được thế chộp của Tề Tâm Vương.

Lúc ấy chàng mới hay hai người liên tay tấn công, như vậy họ như có bốn tay chân đối địch với mình.

Ba người đấu với nhau nhanh như điện chớp, chỉ thoáng cái đã đấu được bảy tám hiệp liền.

Vô Kỵ kinh hãi thầm và nghĩ:

- Tuy võ công của hai người này không bằng Phong Vân tam sứ nhưng võ công của họ vẫn quái dị lắm. Rõ ràng võ công của họ giống hệt Càn Khôn Ðại Nã Di tâm pháp nhưng khi sử dụng lại biến hình một cách kỳ dị đến thế khiến ta không làm sao mà biết được. Nhưng võ công của họ còn kém môn Càn Khôn Ðại Nã Di tâm pháp xa .

Ba người lại đấu thêm hai ba chục hiệp nữa, lúc ấy Vô Kỵ mới bắt đầu thắng thế.

Ðang lúc ấy, Phong Vân tam sứ ở đâu tới rú lên và xông lại tấn công.

Thì ra hồi nãy chúng lỡ tay đánh trúng Bình Ðẳng Vương một cái thẻ bài, trong lòng kinh hoảng nên chúng mới muốn cướp lại Bình Ðẳng Vương để lấy công chuộc tội.

Tạ Tốn giơ cao Bình Ðẳng Vương lên rồi múa thành một vòng tròn, nên Phong Vân tam sứ không dám đường đột xông vào cướp nữa, chỉ cứ chay quanh để chờ chỗ hở tấn công thôi. Hai phe đấu nhau kịch liệt vô cùng.

Bỗng nghe thấy Cụ Minh Vương kêu "hự" một cái đã bị Vô Kỵ đá té liền. Chàng định cúi mình xuống bắt sống địch thủ, ngờ đâu Huy Nguyệt sứ và Lưu Vân sứ cùng chạy tới đấu với chàng luôn, còn Diệu Phong sứ thì vội ẳm Cụ Minh Vương rồi nhảy lên trên thuyền mình tức thì. Lúc ấy Tề Tâm Vương nói với Vân, Nguyệt nhị sứ liền tay đấu với Vô Kỵ nhưng sự hợp tác của ba người này không chặt chẽ như Phong Vân tam sứ hồi nãy, lại thêm họ vừa đấu vừa lo cho vết thương của Cụ Minh Vương nên đấu được vài hiệp thì chúng lép vế liền, vì vậy chúng cũng nhảy về bên thuyền của chúng nốt.

Tạ Tốn liền hỏi Vô Kỵ:

- Con có hiểu được võ công của họ như thế nào không?

Vô Kỵ định thần giây lát rồi nói:

- Hình như bọn người này đã được học môn Càn Khôn Ðại Nã Di tâm pháp rồi, nhưng những người đó học sai hết cho nên chúng mới phái Ðại ỷ Ty lên Quang Minh đỉnh để lấy trộm lại môn tâm pháp ấy. Võ công của chúng non nớt thực, nhưng khi chúng vận dụng lại rất khéo léo, hiển nhiên bên trong thể nào cũng có sự bí mật gì rất quan trọng, nhưng con chưa tìm ra được nguyên nhân đấy thôi. Lớp thứ bảy của môn tâm pháp đó khó lắm, con chưa đọc được, chẳng lẽ võ công của chúng lại thoát thai trong tầng lớp ấy chăng?

Nói xong, chàng ngồi xuống ôm đầu nghĩ ngợi.

Tạ Tốn không dám nói thêm nữa vì sợ làm rối trí chàng.

Bỗng đằng xa có tiếng tù và nổi lên và có một chiếc thuyền lớn từ từ đi tới. Mũi thuyền cắm mười hai lá cờ lớn thêu kim tuyến, đằng mũi có để mười hai cái ghế dựa, trên phủ da hổ.

Chín cái ghế có người ngồi còn ba cái thì bỏ trống. Chiếc thuyền lớn tới gần liền ngừng lại.

Tề Tâm Vương và Cụ Minh Vương liền nhảy lên trên chiếc thuyền lớn đó, ngồi lên hai cái ghế bỏ trống cuối cùng. Như vậy mười hai cái ghế đó chỉ có cái ghế thứ sáu là bỏ trống thôi.

Triệu Minh thấy vậy liền hiểu ngay, vội nói:

- Chúng ta bắt cóc được người này ăn mặc cũng như mười một người kia vậy chẳng lẽ người này là một trong mười hai Bảo Thụ Vương chăng?

Vô Kỵ đáp:

- Tôi cũng đoán như vậy, địa vị của người này phải rất cao nên chúng mới không dám làm gì chúng ta...

Chàng đang nói bỗng thấy Phong Vân tam sứ đã áp giải một người dẫn tới trước mặt mười một người Bảo Thụ Vương kia.

Vô Kỵ giật mình kinh hãi, mới hay người đó chính là Kim Hoa bà bà.

Trí Tuệ Bảo Thụ Vương ngồi ở hàng ghế thứ hai liền lên tiếng hỏi bà bà.

Kim Hoa bà bà cứ chếch người xuống nghe rồi hỏi lại:

- Ngươi nói gì thế? Già này không hiểu.

Trí Tuệ vương cười nhạt một tiếng, đứng dậy giơ tay lột luôn mớ tóc trắng ở trên đầu Kim Hoa bà bà ra.

Trên đầu bà cụ hiện ra mớ tóc đen nhánh và nhỏ như tơ.

Kim Hoa bà bà lại né đầu sang bên trái để tránh.

Trí Tuệ vương lại nhanh tay lột luôn cái mặt nạ của bà nọ xuống, lúc ấy Vô Kỵ với các người đã thấy rõ mặt của Kim Hoa bà bà đẹp khôn tả.

Vô Kỵ liền nghĩ thầm:

- Sao trông mặt của bà bà giống Tiểu Siêu thế nhỉ?

Chàng vừa nghĩ tới đó thì Triệu Minh đã lên tiếng nói liền:

- Bà ta giống Tiểu Siêu quá?

Lúc ấy Ðại ỷ Ty đã bị Trí Tuệ vương lột mất mặt nạ rồi liền vứt luôn cây quẩy xuống nhưng chỉ im lặng chứ không nói gì cả.

Trí Tuệ vương lại nói thêm vài lời, nàng cũng dùng tiếng Ba Tư đối đáp, càng nghe càng tỏ vẻ nghiêm trọng, Vô Kỵ không hiểu hai người nói gì, cứ ngẩn người ra nhìn, Triệu Minh bỗng lên tiếng hỏi:

- Tiểu Siêu cô nương, họ nói những gì thế?

Tiểu Siêu ứa nước mắt đáp:

- Cô nương thông minh thật, cái gì cũng biết hết, nhưng tại sao hồi nãy cô nương không ngăn cản Tạ lão gia kể chuyện?

Triệu Minh ngạc nhiên hỏi:

- Ngăn cản Tạ lão gia làm chi?

Tiểu Siêu lại nói tiếp:

- Ðáng lẽ họ không biết Kim Hoa bà bà là Tía Sam Long Vương rồi, nhưng họ có ngờ đâu Tía Sam Long Vương lại là thánh nữ Ðại ỷ Ty. Nỗi khổ tâm của bà bà chỉ mong lừa dối được bọn họ là bắt bọn họ phải buông tha thánh nữ Ðại ỷ Ty ra. Ðó tuy là lòng hảo tâm của lão gia nhưng không sao lừa dối được Trí Tuệ Vương. Tạ lão gia không trông thấy gì, tất nhiên không biết Kim Hoa bà bà cải trang rất khéo, ai trông thấy cũng phải lầm, Triệu cô nương bảo lời nói của tôi có sai không, Triệu cô nương đã trông thấy rõ như vậy, sao lại không nghĩ đến điều đó?

Nàng trách oan Triệu Minh, sự thực Triệu Minh nghe Tạ Tốn kể chuyện xong, liền đoán ra ngay Kim Hoa bà bà là thánh nữ Ðại ỷ Ty của Minh Giáo, nhưng nàng không ngờ tới người Ba Tư chưa phát giác ra vấn đề đó.

Triệu Minh định cãi lại nhưng thấy Tiểu Siêu có vẻ rầu rĩ đau đớn, nên nàng đoán Tiểu Siêu với Kim Hoa bà bà thể nào cũng có sự liên can rất mật thiết, nên nàng không nỡ cãi lại, vì vậy nàng chỉ hỏi:

- Quả thực tôi không ngờ. Nếu tôi có ý hại Kim Hoa bà bà thì tôi sẽ chết bất đắc kỳ tử.

Tạ Tốn càng ăn năn thêm, nhưng lão anh hùng không nói năng gì hết, chỉ quyết định rằng:

- Thà mình có hy sinh tính mạng cũng phải giúp Ðại ỷ Ty thoát hiểm.

Tiểu Siêu lại vừa khóc vừa nói tiếp:

- Họ trách Kim Hoa bà bà đã lấy chồng mà còn phản giới vì vậy họ mới quyết lấy lửa thiêu bà ta.

Vô Kỵ liền an ủi Tiểu Siêu rằng:

- Tiểu Siêu, cô chớ nên lo âu như vậy làm chi, nếu có dịp may thế nào tôi cũng cứu bà bà.

Chàng quen gọi Kim Hoa bà bà là bà bà, thật ra lúc này mặt mũi thực của Tía Sam Long Vương rất xinh đẹp, tuy tuổi đã trung niên mà vẻ đẹp không kém gì Triệu Minh. Chỉ Nhược các người lại tưởng Tía Sam Long Vương là chị cả của Tiểu Siêu.

Tiểu Siêu đáp:

- Không, không, mười một vị Bảo Thụ Vương lại thêm Phong Vân tam sứ người đông và sức mạnh như thế Giáo chủ địch sao nổi, Giáo chủ mạo hiểm vào đánh nhau với họ, chỉ chết oan chết uổng thôi, bây giờ họ đang bàn cách cướp lại Bình Ðẳng Vương đấy. Triệu Minh hậm hực xen lời nói:

- Dù Bình Ðẳng Vương có sống được thoát về với chúng chăng nữa thì trên mặt cũng đã có in mấy chữ rồi. Như thế xấu hổ cũng đủ chết rồi, chứ chả cần chúng ta phải ra tay đánh nữa.

Vô Kỵ lại hỏi:

- Trên mặt y có những chữ gì?

Triệu Minh đáp:

- Người sứ giả râu vàng, dùng Thánh Hỏa lệnh đánh vào má trái của y.

Ðột nhiên, nàng nghĩ ra một vấn đề gì liền hỏi Tiểu Siêu rằng:

- Tiểu Siêu, cô biết chữ Ba Tư không?

Tiểu Siêu đáp:

- Biết.

Triệu Minh lại hỏi tiếp:

- Cô nương thử xem trên mặt Bình Ðẳng Vương in những chữ gì.

Tiểu Siêu vội quay lại nhìn, thấy bên má trái của Bình Ðẳng Vương sưng vù và có ba hàng chữ Ba Tư hiện lên rất rõ.

Thì ra mỗi chiếc Thánh Hỏa lệnh đều có khắc chữ hết.

Diệu Phong sứ lỡ tay đánh trúng Bình Ðẳng vương một cái, nên chữ trên thẻ bài ấy mới in sâu vào mặt Bình Ðẳng Vương, nhưng những hàng chữ đó không được đầy đủ, chữ có chữ không.

Tiểu Siêu theo Vô Kỵ vào đường hầm của Quang Minh Ðỉnh đã mấy lần đọc Càn Khôn Ðại Nã Di rồi. Tuy không hiểu ý nghĩa của mấy câu văn đó và cũng chưa được luyện tập, nhưng võ công pháp môn thì thuộc lòng lắm, lúc ấy nàng thấy mấy chữ trên mặt Bình Ðẳng vương, bỗng buột miệng kêu lên:

- Ủa, mấy chữ này cũng là Càn Khôn Ðại Nã Di tâm pháp.

Vô Kỵ ngạc nhiên vội hỏi:

- Cô nương nói Nã Di Càn Khôn tâm pháp gì?

Tiểu Siêu đáp:

-Không, không, thoạt tiên tôi mới trông thấy tưởng là phải nhưng không, để tôi dịch ra Hoa ngữ cho giáo chủ nghe: ý nghĩa của nó là "... nên sang trái trước cần sang phải lại lùi về sau. Tam hư thất thực vô trung sinh hữu..., còn cái gì trời vuông đất tròn...", còn bên dưới mờ lắm không thấy rõ.

Tuy chỉ có mười mấy chữ đó thôi, nhưng Vô Kỵ nghe xong không khác gì đang bị mây đen che lấp, đột nhiên có ánh sáng điện chớp mấy cái.

Nhờ có ánh sáng đó mà chàng trông thấy đường lối trong đám sương mù.

Nghe xong chàng lẩm bẩm tự nói:

- Nên sang phải thì tiến về phía trước, cần bước sang phải thì lui lại phía sau...

Chàng cố hết sức nghĩ mấy câu đó phối hợp với võ công Càn Khôn Ðại Nã Di mà chàng đã học được, nhưng hình như có lúc đã nghĩ ra lý lẽ chính của nó rồi, nhưng lại có lúc thấy những lý lẽ đó không vững.

Chàng bỗng nghe Tiểu Siêu lớn tiếng bảo:

- Trương công tử phải cẩn thận, họ đã truyền lệnh bảo Phong Vân tam sứ sang đây tấn công một mình công tử. Còn Cẩn Tu vương, Nhẫn Nhục vương và Công Ðức vương thì sang cướp Bình Ðẳng vương.

Nghe thấy Tiểu Siêu nói như vậy, Tạ Tốn liền ôm ngang Bình Ðẳng vương lên trước ngực và ném thanh đao Ðồ Long cho Vô Kỵ và nói:

- Con cứ chém bừa đi.

Triệu Minh cũng đưa thanh ỷ Thiên kiếm cho Chỉ Nhược để nàng chống đỡ với kẻ địch. Vô Kỵ cầm lấy thanh bảo đao, cắm vào hông, mồm vẫn lẩm bẩm đọc "tam hư thất thực, vô trung sinh hữu..."

Triệu Minh thấy vậy nóng lòng sốt ruột vô cùng, liền nói:

- Chàng ngốc ơi, lúc này có phải là lúc nghiên cứu võ học đâu, mau mau chuẩn bị nghênh địch đi.

Nàng vừa nói dứt, Cẩn Tu, Nhẫn Nhục, Công Ðức, ba Bảo Thụ vương đã nhảy tới giơ chưởng ra tấn công Tạ Tốn liền.

Ba người ấy sợ Bình Ðẳng vương bị thương nên chỉ dùng quyền và chưởng thôi chứ không dám dùng khí giới.

Chúng chỉ mong chộp được Bình Ðẳng vương là có thể được liền.

Chỉ Nhược đứng cạnh Tạ Tốn canh gác, hễ thấy nguy hiểm là giơ kiếm ra đâm Bình Ðẳng vương. Cẩn Tu, Nhẫn Nhục, Công Ðức ba người đành phải xoay chưởng tấn công nàng để nàng không còn rảnh tay mà đâm Bình Ðẳng vương.

Còn phía bên kia, Vô Kỵ đấu với Phong Vân tam sứ. Vì hai bên đã biết tài nhau rồi nên bên nào cũng phải cẩn thận chống đỡ. Ðấu được vài hiệp, Huy Nguyệt sứ liền múa thẻ bài Thánh hỏa lệnh đánh tới. Theo lý thuyết của võ học thì thế võ đó phải đánh vào vai trái của Vô Kỵ, ngờ đâu thẻ Thánh hỏa lệnh mới đánh tới được nửa đường, bỗng xoay luôn một vòng và đánh trúng luôn vào sau gáy của Vô Kỵ kêu đánh "bộp" một tiếng.

Vô Kỵ đau đớn vô cùng nhưng chàng đã hiểu, liền lẩm bẩm nói:

- Nên trái nhưng lại sau, thế là đáng lẽ đánh bên trái, nhưng thật ra đánh ở phía sau... Phải rồi! Phải rồi!

Ðọc tới đó, chàng không sao chịu nhịn được, liền thất thanh la, lớn tiếng nói:

- Ta hiểu rồi! Ta hiểu rồi!...

Thì ra, những miếng võ của Phong Vân tam sứ đang sử dụng chỉ là những miếng võ nhập môn của tầng lớp thứ nhất của tâm pháp Càn Khôn Ðại Nã Di thôi, nhưng trên Thánh hỏa lệnh có ghi thêm cách dùng và biến hoá quái dị nên mới hoá ra kỳ ảo như thế. Nhờ bị đánh một thẻ bài đó, chàng đã hiểu hết bốn câu của Tiểu Siêu vừa đọc ra liền. Chỉ còn có câu "trời vuông đất tròn" là chàng không sao hiểu được.

Thế rồi chàng rú lên một tiếng thanh thoát, dùng thế "Tam hư thất thực" đã cướp được hai chiếc Thánh hỏa lệnh của Huy Nguyệt sứ tức thì. Chàng lại dùng phương pháp "Vô trung sinh hữu" cướp luôn hai chiếc Thánh hỏa lệnh của Lưu Vân sứ nữa.

Trong khi hai sứ giả đang đứng ngẩn người ra nhìn, chàng đã bỏ bốn chiếc Thánh hỏa lệnh vào trong túi rồi chàng lại giơ tay chộp lấy cổ áo của hai tên sứ giả ấy ném luôn sang bên thuyền địch.

Bọn người Ba Tư liền kêu la inh ỏi.

Diệu Phong sứ biết địch không lại chàng liền nhảy về thuyền của mình.

Lúc ấy Vô Kỵ đã biết bí quyết võ công đối phương rồi, tuy chàng hiểu biết có hạng thôi, nhưng không sợ võ công của Diệu Phong sứ nữa, nên vội giơ tay phải ra đuổi bắt và chộp được chân trái của đối thủ.

Chàng lại cướp nốt hai chiếc Thánh hỏa lệnh của tên này.

Tiếp theo đó chàng giơ cao người của kẻ địch lên nhằm đầu của Nhẫn Nhục vương đánh xuống.

Ba Bảo Thụ vương thấy vậy giật mình kinh hãi.

Chúng biết địch không lại, liền ra hiệu bảo nhau chạy luôn về thuyền của chúng.

Vô Kỵ liền điểm huyệt cho Diệu Phong sứ không cử động được rồi vứt sang một bên. Thấy Vô Kỵ đắc thắng một cách đột ngột như vậy, bọn Triệu Minh mừng rỡ vô cùng, liền lên tiếng hỏi rối rít.

Vô Kỵ vừa cười vừa đáp:

- Nếu không nhờ sự đánh nhầm của chúng và mặt của Bình Ðẳng vương hiện ra những chữ kia thì lúc này chúng ta đã nguy tai lắm rồi.

Tiểu Siêu, cô mau giải thích mấy chữ trên Thánh hỏa lệnh này cho tôi nghe đi.

Mọi người xúm lại xem thấy sáu chiếc Thánh hỏa lệnh đó không phải bằng vàng và cũng không phải bằng ngọc, nhưng cứng rắn vô cùng. Sáu chiếc dài ngắn và to nhỏ khác nhau, trông những thẻ đó tựa như trong suốt, nhưng không phải trong suốt thực, ở phía sau mỗi chiếc tựa như có ngọn lửa đang bốc cháy.

Sự thực sáu chiếc thẻ đó làm bằng ngọc, chiếc nào cũng có khắc chữ Ba Tư.

Muốn giải thoát hoàn cảnh nguy nan ở trước mặt, Vô Kỵ cần phải biết rõ câu chuyện võ công của phái Ba Tư nên chàng vội nói với Chỉ Nhược rằng:

- Chu cô nương, mau dùng ỷ Thiên kiếm dí vào cổ Bình Ðẳng vương và nghĩa phụ cũng dùng đao Ðồ Long kê luôn vào cổ Diệu Phong sứ ngay để kéo dài thời gian.

Tạ Tốn với Chỉ Nhược gật đầu nhận lời.

Tiểu Siêu liền cầm sáu cái thẻ đó lên giải thích từng câu một cho Vô Kỵ nghe.

Nghe lần đầu, không hiểu gì cả. Chàng cố nghĩ mãi mà chưa hiểu nổi, nóng lòng sốt ruột vô cùng.

Triệu Minh liền đề nghị:

- Tiểu Siêu cô nương hãy giải thích cái thẻ Bình Ðẳng vương trước, rồi mới giải thích những cái khác sau.

Lúc ấy Tiểu Siêu mới tỉnh ngộ.

Nàng thấy chiếc Thánh hỏa lệnh đánh trúng Bình Ðẳng vương là chiếc dài thứ nhì, liền giải thích những chữ ấy trước.

Giảng xong lần này Vô Kỵ đã hiểu được bảy tám thành.

Tiểu Siêu lại giải đến chiếc dài nhất cho chàng nghe.

Vừa được vài câu, Vô Kỵ đã mừng rỡ nói:

- Tiểu Siêu, thì ra sáu chiếc Thánh hỏa lệnh này, chiếc càng dài, võ công càng thô sơ và dễ hiểu. Vừa rồi cô lại bắt đầu giải thích chiếc ngắn nhất cho tôi nghe, nên mới không hiểu gì cả. Bây giờ cô giảng nghĩa tới cái dài nhất này tôi mới biết những võ công ghi trong này là những thế võ nhập môn. Thì ra sáu chiếc Thánh hỏa lệnh này là của Sơn Trung lão nhân chế ra, bên trên khắc những tinh yếu võ công của đời lão nhân. Sáu chiếc thẻ này với Minh giáo truyền vào trong Trung thổ cùng một lúc.

Từ trước tới nay vẫn dùng làm lệnh phù của giáo chủ Minh giáo ở Trung thổ, lâu ngày người của Minh giáo ở Trung thổ không biết chữ Ba Tư như những lão tiền bối trước, nên không ai hay biết đó là tâm pháp của võ công. Rồi mấy chục năm trước đây Thánh hỏa lệnh lại bị Cái Bang cướp mất, về sau không hiểu làm sao lại lọt vào tay nhà buôn Ba Tư. Sau lại trở về tay của tổng giáo. Người của tổng giáo bên Ba Tư nghiên cứu những võ công ghi trên thẻ bài đó, nhưng tốn hàng mấy chục năm mà chỉ học được một chút ít thôi. Ngay đến Ðại Thánh Bảo Thụ vương là người có võ công cao siêu nhất cũng chỉ học được ba bốn thành võ công của những chiếc thẻ bài ấy thôi. Còn tâm pháp Càn Khôn Ðại Nã Di vốn là thần công hộ giáo của tổng giáo ở bên Ba Tư, những võ công ấy rất kỳ diệu, người thường khó mà học được. Vả lại luật lệ của tổng giáo cứ lựa những gái đồng trinh lên đảm nhiệm chức, thử hỏi những gái đồng trinh đó có mấy ai là người có võ công cao siêu? Vì vậy hàng nghìn năm nay, mấy đời nữ giáo chủ của tổng giáo đều là những người tầm thường, nên họ chỉ học được một chút ít tâm pháp ấy thôi. Trái lại Minh giáo bên Trung thổ lại giữ được toàn phần.

Minh giáo ở bên Ba Tư dùng một thành tâm pháp đó phối hợp với hai ba thành võ công trên Thánh hỏa lệnh thì Minh giáo có thể oai trấn trên thiên hạ được liền. Vì vậy chúng mới phái thánh nữ Ðại ỷ Ty vào Quang Minh đỉnh là thế. Không ngờ tâm nguyện của họ lại do Trương Vô Kỵ giáo chủ của Minh giáo bên Trung thổ hoàn thành được. Sự thực dù tổng giáo có lấy được Càn Khôn Ðại Nã Di tâm pháp đi nữa, nếu không có Cửu Dương thần công làm căn bản thì không sao học được. Nhưng việc đời bao giờ cũng vậy, nếu không có duyên thì không sao thành tựu được, dù có cưỡng cầu cũng vô ích thôi.

Vô Kỵ ngồi xếp bằng tròn trên mũi thuyền, Tiểu Siêu cúi đầu rỉ tai giảng giải từng câu văn trong Thánh hỏa lệnh cho chàng nghe.

Võ công cũng như văn học, một lý thông là vạn pháp thông liền.

Võ Thái Cực quyền của phái Võ Ðang, ba thứ võ công đó là ba môn võ học tuyệt mức của ba nơi Thiên Trúc, Ba Tư và Trung Hoa.

Võ công trên Thánh hỏa lệnh tuy ly kỳ, nhưng dù sao cũng chỉ là bàng môn tả đạo đã đạt tới mức tột bực thôi. Nếu nói đến tinh thần thì kém những môn võ kia nhiều.

Vô Kỵ nghe thấy Tiểu Siêu dịch xong những câu văn ở trên sáu cái thẻ đó, chỉ một lần mà chàng nghĩ được bảy tám thành liền.

Tuy vậy chàng cũng đủ đánh bại bọn Bảo Thụ vương với Phong Vân tam sứ rồi vậy.

Thời gian cứ trôi, Vô Kỵ chăm chú nghiên cứu đến môn võ học đó nên không có thì giờ để ý đến việc xảy ra ở bên ngoài, nhưng Triệu Minh với Chỉ Nhược các người nóng lòng vô cùng, thấy Ðại ỷ Ty bị xích chặt hai tay và mười một Bảo Thụ vương đang tụ họp bàn tán. Rồi lại thấy mười một Bảo Thụ vương cởi áo bào ra mặc áo giáp vào.

Mọi người thấy tả hữu đưa khí giới cho các Bảo Thụ vương ấy, môn khí giới nào cũng kỳ lạ vô cùng.

Tiếp theo đó những người Hồ đều giương cung lên nhắm thuyền của mình định bắn và mấy chục tên Ba Tư tay cầm búa nhảy xuống nước, chỉ chờ các Bảo Thụ vương ra lệnh thì chúng sẽ đến đục thủng thuyền của mình tức thì.

Lúc ấy trời sắp sáng. Trên mặt biển có ánh sáng lập lòe.

Ðại Thánh Bảo Thụ vương liền quát lớn một tiếng rồi các thuyền lớn ở chung quanh đều khua chiêng đánh trống và thổi tù và inh ỏi.

Nghe thấy tiếng tù và vang dội, Vô Kỵ giật mình kinh hãi, vội ngẩng đầu lên nhìn, thấy mười một Bảo Thụ vương mặc áo giáp bóng nhoáng, tay cầm khí giới đang nhảy sang thuyền mình.

Tạ Tốn và Chỉ Nhược đang cầm đao kiếm kề vào cổ của Bình Ðẳng vương và Diệu Phong sứ.

Mười một Bảo Thụ vương thấy vậy không dám tới gần nữa, chỉ đứng xa nhìn và đợi chờ cơ hội để tấn công.

Chỉ Nhược, Triệu Minh thấy mười một Bảo Thụ vương đó rất hung ác và thân hình cao lớn vạm vỡ.

Trí Tuệ vương dùng Hoa ngữ nói:

- Các người mau trả lại giáo hữu của bên ta thì chúng ta sẽ tha chết cho các người. Hai giáo hữu này với chúng ta chỉ tựa như lợn và chó thôi, vậy các người có kề dao vào cổ họ cũng vô ích. Dù các người có giết chết họ đi chăng nữa, chúng ta có cần đâu.

Triệu Minh vội đáp:

- Các ngươi khỏi cần phải nói dối như thế làm gì. Chúng ta đã biết hết rồi. Một trong hai người này là Bình Ðẳng vương và người kia là Diệu Phong sứ, cả hai đều có địa vị rất cao ở trong Minh giáo mà các ngươi lại bảo họ như chó với heo. Chúng ta có phải là trẻ con đâu mà các ngươi định lừa dối chúng ta?

Trí Tuệ vương cau mày nói tiếp:

- Trong thánh giáo có tất cả ba trăm sáu mươi vị Bảo Thụ vương. Bình Ðẳng vương là người thứ ba trăm năm mươi chín, chúng ta có đến những một nghìn hai trăm sứ giả. Diệu Phong sứ võ công rất tầm thường. Các ngươi mau mau giết chúng đi, chúng ta có cần gì chúng đâu.

Triệu Minh liền đáp:

- Hay lắm! Hay lắm! Các bạn cầm đao kiếm mau đem hai người vô dụng kia ra trảm đi.

Tạ Tốn liền đáp:

- Xin tuân lệnh.

Nói xong, lão anh hùng liền giơ đao Ðồ Long lên nhắm đầu Bình Ðẳng vương chém luôn.

Mọi người thấy vậy đều giật mình kinh hãi, nhưng thanh bảo đao ấy chỉ chém lướt qua đầu của Bình Ðẳng vương và chém mất một mảng tóc thôi. Mớ tóc ấy bị gió thổi bay tà tà xuống dưới bể.

Tạ Tốn lại giơ tay lên chém xuống phía trái một nhát và phía bên phải một nhát.

Ai cũng yên trí hai nhát đao ấy chém xuống, hai cánh tay Bình Ðẳng vương thế nào cũng bị đứt ngay. Nhưng khi lưỡi đao vừa chém xuống vai của nạn nhân, Kim Mao Sư Vương đã khẽ hất lưỡi đao lên một chút, nhờ vậy Bình Ðẳng vương chỉ bị chém đứt hai cánh tay áo thôi. Ba nhát đao chém khéo léo như vậy, dù người sáng mắt cũng chưa chắc đã chém được, huống hồ Tạ Tốn lại đui cả hai mắt, đủ thấy đao pháp của Kim Mao Sư Vương lợi hại biết bao! Bình Ðẳng vương yên trí thế nào cũng bị chém chết rồi, ngờ đâu lại được thoát chết như vậy nên y hoảng sợ đến chết giấc luôn.

Mười một vị Bảo Thụ vương và Phong Vân tam sứ đều kinh hãi đến thè lưỡi ra hồi lâu không sao rút vào được.

Triệu Minh lại lên tiếng nói:

Các ngươi đã được kiến thức võ công của Trung thổ chưa? Vị này là Kim Mao Sư Vương, người của Minh giáo ở Trung thổ, tên tuổi của y chỉ được xếp hạng thứ ba nghìn năm trăm lẻ chín thôi. Nếu bây giờ các ngươi thì người nhiều hà hiếp chúng ta, dù các ngươi có đắc thắng đi chăng nữa, nay mai Minh giáo thế nào chả đem đại quân sang tận đất nước của ngươi trả thù liền. Lúc ấy liệu Tổng đàn của các ngươi có chống đối nổi không? Các ngươi biết điều sớm giải hòa ngay với chúng ta có hơn không?

Tuy Trí Tuệ vương biết lời nói của Triệu Minh chưa chắc đã đúng hẳn sự thật, nhưng nhất thời y chưa nghĩ ra được kế gì, nên không dám trả lời Triệu Minh ngay.

Ðại Thánh Bảo Thụ vương bỗng lên tiếng nói vài lời.

Tiểu Siêu nghe người đó nói xong, bỗng la lớn:

- Trương công tử, chúng định đục đáy thuyền của chúng ta đấy.

Vô Kỵ nghe nói giật mình kinh hãi, vì nếu thuyền bị chúng đục thủng, thế nào người của mình cũng bị bắt liền chứ không sai.

Chàng vội nhảy tới trước mặt Ðại Thánh vương để kịp thời đối phó.

Trí Tuệ vương thấy vậy quát lớn hỏi:

- Ngươi định làm gì thế?

Công Ðức vương với Hoan Hỷ vương đứng ở hai bên vội múa truỳ và roi nhằm người Vô Kỵ đánh xuống.

Lúc ấy Vô Kỵ đã thuộc hiểu võ công của địch rồi, nên chàng không cần né tránh gì cả, chỉ giơ hai tay lên đã chộp được cổ tay của hai Bảo Thụ vương liền.

Mọi người chỉ nghe thấy "coong" một tiếng, thì ra roi và truỳ của hai Bảo Thụ vương ấy va chạm vào nhau, phát ra tiếng kêu ấy.

Hai Bảo Thụ vương bị Vô Kỵ thộp cổ tay và xách về chỗ cũ. Trong khi rút lui, Vô Kỵ còn giơ chân lên đá luôn bốn cái, làm rớt luôn hai thanh đại đao của Tề Tâm vương cùng Nhẫn Nhục vương, và đá cho Cẩn Tu vương cùng Cụ Minh vương rớt xuống dưới bể. Bỗng có một Bảo Thụ vương rất cao lớn, hai tay cầm hai thanh đoản kiếm xông lại tấn công Vô Kỵ nhanh như tia chớp.

Vô Kỵ lại phi thân lên đá cổ tay của địch. Người đó bỗng đưa tréo hai tay đâm luôn vào bụng dưới của Vô Kỵ hai nhát.

Thế ấy biến đổi rất linh động khiến Vô Kỵ phải nhảy lên mới tránh nổi.

Thì ra người đó là Thường Thắng Bảo Thụ vương và cũng là người giỏi võ công thứ hai trong nhóm thập nhị Bảo Thụ vương của Tổng giáo Ba Tư.

Thấy thế công ấy không đâm trúng Vô Kỵ, y lại xoay tay đâm luôn vào lưng chàng. Nhanh tay điểm luôn yếu huyệt mê của hai Bảo Thụ vương nọ, Vô Kỵ vứt hai địch thủ ấy vào trong khoang thuyền rồi quay lại ngay chống đỡ thế công của Thường Thắng vương. Chàng tấn công luôn ba thế và bảo thủ ba thế liền.

Trong ba lần tiến và ba lần lui ấy, chàng phải thầm khen ngợi đối thủ:

- Không ngờ người Ba Tư này lại lợi hại đến thế?

Từ khi hiểu biết võ công ghi trên sáu chiếc thẻ Thánh hỏa lệnh tới giờ, Vô Kỵ chưa hề luyện tập qua mà nay đã phải đem ra sử dụng để đối phó với đối thủ, nên chàng vừa đối địch, vừa phải nhớ lại những thế võ ghi trong những chiếc thẻ đó. Trong mười hiệp đầu, nhờ có nội công thâm hậu và những thế võ tinh diệu, chàng mới giữ nổi thế quân bình với địch thủ, nhưng khi đấu tới hiệp thứ hai mươi, chàng đã có thể phối hợp võ công trên thẻ bài với tâm pháp Càn Khôn Ðại Nã Di, nên chàng càng đấu càng thấy võ công lợi hại hơn trước nhiều.

Còn Thường Thắng vương xưa nay đấu với ai cũng chỉ mang phần thắng về mình, chưa bao giờ y gặp mặt một địch thủ lợi hại như thế. Y thấy càng đấu, đối thủ càng lợi hại thêm, còn mình thì càng bị bó chân bó cẳng, nên y càng kinh dị và càng sợ hãi thêm. Khi hai người đấu đến hiệp thứ ba mươi, Vô Kỵ bước lên một bước, rồi bỗng ngồi phịch xuống, ôm chặt hai chân của Thường Thắng vương làm cho y cảm thấy bản thân tê tái, đành chịu thất thủ để cho chàng bắt trói lại.

Vô Kỵ bỗng động lòng thương người có tài, liền lên tiếng:

- Võ công của ngươi cao siêu lắm, ta cũng phải khen phục, ta vui lòng bảo tồn tên tuổi của ngươi, vậy ngươi mau trở về thuyền bên kia đi.

Nói xong chàng buông tay ra liền.

Thường Thắng vương vừa cảm động vừa xấu hổ, vội nhảy về thuyền của mình ngay. Lúc ấy Tạ Tốn với Chỉ Nhược đã trói chặt Công Ðức vương và Hoan Hỷ vương, đem ra ngoài bong thuyền của mình, rồi kề hai lưỡi bảo đao và bảo kiếm vào cổ hai thủ lãnh trọng yếu đó.

Ðại Thánh vương bị bắt, y nghĩ nếu đục được thuyền của đối thủ chăng nữa, thì bốn Bảo Thụ vương của bên mình cũng bị chết luôn, nên y liền ra lệnh cho gọi các người trở về thuyền.

Triệu Minh lại lớn tiếng nói tiếp:

- Các ngươi mau đưa Ðại ỷ Ty sang bên thuyền này và nhận ngay ba điều kiện của Kim Mao Sư Vương đi.

Bên thuyền của Ba Tư chỉ còn lại chín vị Bảo Thụ vương thôi, chín người đó liền xúm lại bàn tán hồi lâu, rồi Trí Tuệ vương mới lên tiếng trả lời Triệu Minh rằng:

- Các ngươi muốn chúng ta nhận điều kiện ấy cũng được, nhưng võ công của thiếu niên công tử kia, rõ ràng là võ công của phái Ba Tư chúng ta, tại sao công tử ấy lại hiểu biết những thế võ đó? Chẳng hay công tử ấy học ở đâu? Các ngươi có thể giải thích cho chúng ta biết mấy điều mà chúng ta đang thắc mắc đó không?

Triệu Minh cố nhịn cười, rồi nghiêm nét mặt lại đáp:

- Còn nhiều chuyện các người không thể biết được, vị thanh niên công tử này là đệ tử thứ tám của Quang Minh sứ bổn giáo. Chàng còn bảy vị sư huynh và bảy vị sư đệ nữa sắp đến nơi rồi. Lúc ấy mười lăm sư huynh đệ của y sẽ là "Thất thượng bát lạc", rồi các người "Bất dịch lạc hồ, ô hô ai tai liền".

Thấy Trí Tuệ vương đã không thạo văn chương mà lại hay dùng văn nên nàng mới nhại như trên để chế diễu. Trí Tuệ vương là người rất thông minh, tuy không thạo Hoa ngữ, nhưng y biết Triệu Minh đã nói dóc nhiều hơn sự thật nên y suy nghĩ giây lát rồi lại nói tiếp:

- Ðược! Chúng ta bằng lòng đưa Ðại ỷ Ty sang bên thuyền các người trước.

Y vừa dứt lời đã có hai giáo đồ Ba Tư khiêng Ðại ỷ Ty đưa tới mũi thuyền Vô Kỵ.

Chỉ Nhược dùng kiếm ỷ Thiên khẽ gõ vào những xiềng xích ở chân tay nàng ta một cái, chỉ nghe thấy hai tiếng "coong coong rất nhỏ, những xiềng xích đó đã đứt ra làm mấy mảnh.

Hai tên giáo đồ của Ba Tư thấy kiếm của nàng sắc bén như vậy, hoảng sợ đến tay chân run lẩy bẩy vội nhảy lui về thuyền của chúng tức thì, nhưng một tên quá hoảng sợ, nhảy hụt chân và té xuống biển liền.

Trí Tuệ vương lại nói tiếp:

- Các người mau kéo buồm trở về Trung thổ ngay đi. Chúng ta phái một thuyền nhỏ theo sau các người thôi.

Vô Kỵ chắp tay chào và đáp:

- Minh giáo của Trung thổ với tổng giáo của Ba Tư tuy hai mà một. Chúng tôi với các bạn không khác gì anh em ruột thịt, mong quý vị đừng có hiểu lầm về sự việc xảy ra ngày hôm nay nữa. Say này, thể nào cũng có dịp mời quý vị lên trên Quang Minh đỉnh, lúc ấy chúng ta sẽ chén tạc chén thù vui chuyện với nhau. Vậy hôm nay có điều gì sơ xuất không nên, không phải, mong quý vị miễn thứ cho tiểu đệ.

Trí Tuệ vương ha hả cả cười rồi tiếp:

- Võ công của bạn giỏi lắm, chúng rất bái phục, thánh nhân đã dạy "học nhi thời tập chi, bất dịch duyệt hồ, hữu bằng từ viễn phương lai bất duyệt hồ" cũng như cô nương nọ vừa nói "thất thượng bát lạc, bất dịch lạc hồ" phải không?

Thoạt tiên, Vô Kỵ với các người nghe thấy Trí Tuệ vương lấy hai câu trong Tứ thư ra nói đều khen ngợi y là người học rộng, nhưng tới khi mọi người nghe thấy y bắt chước Triệu Minh nói hai câu sau, thì không ai nhịn được đều cười ồ lên.

Triệu Minh vội đỡ lời:

- Bạn nói rất khéo cho nên tôi mới bảo chỉ có bạn là khác những người Ba Tư kia thôi, kể cũng hiếm lắm đấy. Tôi xin chúc các bạn đa phúc đa thọ, lại cách lai hưởng, hoạ diên tiên khảo, vô tật nhi chung.

Trí Tuệ vương chỉ nghe hiểu bốn tiếng đa phúc đa thọ, lại tưởng những câu sau là những lời chúc thọ, nên y tủm tỉm cười và cảm ơn luôn mồm, Vô Kỵ chỉ sợ Triệu Minh cao hứng càng nói càng nhiều chuyện, rồi lỡ mất cơ hội thoát hiểm thì nguy cho mọi người. Nên chàng vội nhổ neo và giương buồm đi luôn.

Những thủy thủ của Ba Tư đứng trên những chiếc thuyền quanh đó, thấy chàng một mình làm công việc của mười mấy người một lúc, thần lực kinh người như vậy, nên chúng đều vỗ tay khen ngợi không ngớt.

Vô Kỵ thấy có một chiếc thuyền nhỏ theo sau và một người quăng dây thừng tới. Chàng liền thộp lấy sợi dây đó và buộc luôn vào đuôi thuyền. Chàng thấy trong chiếc thuyền nhỏ đó có hai người một nam, một nữ, hai người đó chính là Lưu Vân sứ với Huy Nguyệt sứ.

Vô Kỵ nắm chặt lấy bàn lái cho thuyền chạy thẳng về phía Tây, chàng thấy các thuyền lớn của Ba Tư không đuổi theo, trong lòng mới yên tâm.

Ði được vài dặm, chàng thấy hòn đảo với những thuyền của Ba Tư càng ngày càng bé dần và vẫn đứng nguyên một chỗ không cử động.

Chàng liền gọi Tiểu Siêu đến cầm lái, rồi vào trong khoang xem xét vết thương của Hân Ly. Chàng thấy nàng ta vẫn mê sảng như trước, tuy không đỡ chút nào, nhưng bệnh cũng không tăng thêm.

Ðại ỷ Ty đứng ở đằng mũi ngắm nhìn bể khơi, nàng nghe thấy Vô Kỵ đi ra ngoài bong rồi mà vẫn không chịu quay đầu lại nhìn.

Lúc này Vô Kỵ chỉ trông thấy mái tóc và thân hình của nàng, cũng nhận thấy Tạ Tốn bảo nàng là đệ nhất mỹ nhân trong võ lâm, quả thật không ngoa chút nào.

Thuyền đi tới chiều tối hôm đó, Vô Kỵ đoán chắc thuyền mình đã cách xa Linh Xà đảo hàng trăm dặm rồi. Chàng thấy trên mặt biển không có một mảnh buồm nào cả và đoán chắc Tổng giáo của Ba Tư bị mình uy hiếp, nên không dám đuổi theo nữa.

Chàng liền hỏi Tạ Tốn rằng:

- Thưa nghĩa phụ, bây giờ chúng ta có thể buông tha họ được chưa?

Tạ Tốn đáp:

- Cũng được, dù chúng có đuổi theo, cũng không bắt được chúng ta nữa.

Vô Kỵ liền cởi trói cho Bình Ðẳng, Công Ðức, Hoan Hỷ, ba Bảo Thụ vương và giải huyệt cho Diệu Phong sứ.

Chàng luôn mồm xin lỗi và thả họ xuống chiếc thuyền nhỏ theo sau đó.

Diệu Phong sứ trước khi xuống thuyền đã lên tiếng hỏi:

- Thánh hỏa lục lệnh này là vật báu của Tổng giáo chúng tôi, nếu để thất lạc, chúng tôi sẽ mang lỗi rất lớn, vậy xin bạn trả cho chúng tôi sáu cái thẻ bài ấy.

Tạ Tốn đáp:

- Thánh hỏa lệnh là lệnh phù của giáo chủ Minh giáo ở Trung thổ, ngày hôm nay vật đã trở về với nguyên chủ, khi nào chúng tôi lại chịu để cho các bạn đem đi như thế.

Diệu Phong sứ cứ luôn mồm đòi lấy lại cho được sáu chiếc thánh hỏa lệnh đó.

Vô Kỵ thấy vậy liền nghĩ thầm:

- Ngày hôm nay ta phải làm thế nào để chúng phải chịu khuất phục hẳn sau này mới khỏi hậu hoạ .

Nói đoạn chàng liền trả lời:

- Chúng tôi trao trả Thánh hỏa lệnh này cho các bạn cũng được, nhưng bản lãnh của các bạn còn thấp kém lắm không sao bảo tồn nổi sáu chiếc thẻ này đâu. Nếu để cho người ta cướp mất thì thà rằng để cho Minh giáo chúng tôi giữ hộ thì hơn.

Diệu Phong sứ lại hỏi tiếp:

- Người ngoài làm sao cướp được nổi sáu chiếc thẻ bài ấy chứ?

Vô Kỵ liền trả lời:

- Nếu bạn không tin cứ thử xem rõ ngay.

Nói xong chàng đưa sáu chiếc Thánh hỏa lệnh đó cho Diệu Phong sứ, tên nọ cả mừng vừa nói được một câu: "Cám ơn", Vô Kỵ đã dùng tay trái móc một cái, tay phải lôi một cái đã cướp lại được luôn sáu thẻ bài đó liền.

Diệu Phong sứ giật mình kinh hãi nổi giận nói tiếp:

- Tôi chưa cầm chắc, như vậy không kể.

Vô Kỵ vừa cười vừa trả lời:

- Bạn muốn thử lần nữa cũng được.

Chàng lại đưa sáu chiếc thẻ bài đó cho Diệu Phong sứ cầm.

Lần này Diệu Phong sứ cất bốn chiếc thẻ bài vào trong túi trước, còn hai tay cầm hai chiếc thẻ thật chắc.

Y không thấy Vô Kỵ ra tay cướp liền giơ chiếc thẻ bài bên trái lên nhằm cổ tay của đối thủ đánh luôn.

Vô Kỵ lật ngửa cổ tay lên, đã chộp luôn cánh tay phải của đối thủ và giơ chiế tay của đối thủ lên đỡ tay kia của hắn. Hai chiếc thẻ bài va chạm vào nhau kêu "coong" một tiếng.

Diệu Phong sứ cảm thấy hai tay tê tái, mình mẩy mềm nhũn hầu như tê liệt vậy, liền buông tay vứt hai chiếc thẻ xuống mặt bong thuyền.

Vô Kỵ móc túi y, lấy bốn chiếc thẻ bài ra, rồi mới cúi xuống nhặt hai chiếc kia và nói:

- Thế nào? Bạn có muốn thử thêm lần nữa không?

Diệu Phong sứ mặt nhợt nhạt như người chết đuối, mồm lẩm bẩm nói:

- Ngươi không phải là người, ngươi là ma quỷ...

Nói xong, y định nhảy xuống thuyền nhỏ, nhưng quay người, hai chân đã mềm nhũn ngã lăn ra đó liền.

Lưu Vân sứ thấy vậy, vội nhảy lên chiếc thuyền lớn vác Diệu Phong sứ lên vài rồi mới leo xuống dưới thuyền nhỏ và giương buồm đi luôn.

Công Ðức vương nắm sợi dây thừng kéo mạnh một cái, sợi dây đó đứt ngay ra làm đôi. Thế là chiếc thuyền lớn với mấy chiếc thuyền nhỏ đã cách xa nhau liền.

Vô Kỵ chắp tay và nói theo:

- Mong quý vị lượng thứ cho, xin chào quý vị. Chàng thấy bọn Công Ðức vương mặt ai nấy đều tỏ vẻ ai oán quay đầu đi không trả lời. Chiếc thuyền lớn của Vô Kỵ thuận buồm xuôi gió tiến thẳng về phía tây. Vô Kỵ quay đầu lại nhìn, thấy chiếc thuyền nhỏ của bọn người Ba Tư càng ngày nhỏ dần.

Ðang lúc ấy, chàng bỗng nghe thấy Ðại ỷ Ty quát lớn:

- Quân giặc táo gan thật, dám...

Nàng vừa nói vừa nhảy luôn xuống dưới bể.

Vô Kỵ giật mình kinh hãi vội quay lái cho thuyền ngừng lại, chàng thấy trên mặt nước có một dòng máu ở bên dưới loang ra.

Tiếp theo đó, lại thấy gần nơi đó có một dòng máu đỏ như thế. Chỉ thoáng cái chàng đã thấy có sáu dòng máu đỏ noỉo lên như vậy.

Rồi chàng thấy nàng Ðại ỷ Ty dưới nước nhô lên, mồm ngậm một thanh đoản đao, tay túm tóc một người Ba Tư đang đạp nước bơi tới.

Chàng vội thả neo ra nắm lấy xích sắt của cái neo rồi mượn sức tung mình lên trên bong thuyền thật đẹp.

Mọi người thấy tình hình như vậy, hiểu biết liền. Thì ra, người Ba Tư đã ngấm ngầm cho những người bơi lội giỏi ẩn núp dưới đáy thuyền nhỏ. Chờ tới khi hai thuyền chia rẽ nhau thì bọn thủy thủ kia liền lặn tới dưới đáy thuyền lớn để đục thuyền của Vô Kỵ.

May Tía Sam Long Vương trông thấy mặt nước có những bọt của hơi người thở sủi lên trên nên nàng vội nhảy ngay xuống dưới bể giết chết sáu tên và bắt được một tên.

Vô Kỵ đang định xét hỏi tên tù binh ấy, thì bỗng nghe thấy phía đuôi thuyền có một tiếng nổ thật lớn và khói đen bốc lên nghi ngút.

Chiếc thuyền của Vô Kỵ bị rung động như ổ đại bác bắn trúng vậy. Phía đuôi thuyền bị nổ gỗ vụn bay tung lên, Vô Kỵ cảm thấy có một luồng hơi nóng xông tới, chàng vội ra hiệu cho mọi người, rồi cùng nằm phục xuống.

Ðại ỷ Ty la lớn:

- Không ngờ bọn người này lại gian ác đến thế.

Nàng vội chạy về phía sau thuyền, thấy đuôi thuyền bị nổ, làm thủng thành một lỗ hổng rất lớn, bánh lái cũng bay đi đâu mất không hay. Nước bể cứ cuồn cuộn theo lỗ hổng dồn vào trong thân thuyền.

Triệu Minh vẻ mặt rầu rĩ liếc nhìn Vô Kỵ một cái rồi nghĩ thầm:

- Thuyền của địch sẽ đuổi theo kịp thuyền của ta ngay, chẳng lẽ chúng ta chết mà không có chỗ chôn hay sao?

Ðại ỷ Ty dùng tiếng Ba Tư hỏi tên tù binh kia vài câu, hỏi xong, nàng giơ chưởng lên đánh vỡ sọ tên kia rồi đá xác của tên ấy xuống bể.

Nàng diệt trừ người Ba Tư ấy rồi, liền quay lại nói với Vô Kỵ:

- Tôi chỉ tưởng chúng đục thuyền không, có ngờ đâu chúng lại cột thuốc nổ vào trong đuôi thuyền của chúng ta như vậy.

Lúc ấy chiếc thuyền nhỏ của Công Ðức vương đã đi xa rồi, dù Ðại ỷ Ty có bơi giỏi đến đâu cũng không sao đuổi kịp.

Mọi người rầu rĩ nhìn nhau không ai còn cách gì để tự cứu nữa đành thất thủ chịu chết vậy. Chiếc thuyền lớn ấy rất rộng, nên nhất thời chưa thể chìm được.

Mọi người bỗng nghe Ðại ỷ Ty dùng tiếng Ba Tư nói với Tiểu Siêu và Tiểu Siêu cũng dùng tiếng Ba Tư trả lời, trong khi hai người đàm thoại sắc mặt thay đổi luôn, hai người nói chuyện rất lâu, hình như đang tranh luận về một vấn đề gì vậy.

Ðại ỷ Ty hình như đang khuyên Tiểu Siêu phải nhận lời một việc gì.

Nhưng cô bé cứ lắc đầu không chịu nghe, rồi nàng liếc mắt nhìn Vô Kỵ, thở dài một tiếng và thốt ra có một tiếng thôi.

Mọi người thấy Ðại ỷ Ty ôm chặt lấy nàng hôn lấy hôn để.

Cả hai nước mắt đều nhỏ ròng, cô bé cứ nức nở khóc hoài, còn Ðại ỷ Ty thì hết sức vuốt ve an ủi nàng.

Vô Kỵ, Triệu Minh, Chỉ Nhược ngơ ngác nhìn nhau đều không hay biết gì hết. Triệu Minh liền rỉ tai Vô Kỵ:

- Công tử thử xem mặt hai người có giống nhau không?

Vô Kỵ nghe nói, liền đưa mắt nhìn hai người thấy quả thật hai người giống nhau như đúc, chàng liền nghĩ tới lời nói của Khổ đầu đà ở trước tửu điếm.

Lúc ấy, Khổ đầu đà thấy Tiểu Siêu liền nói: "giống thực, giống thực".

Bây giờ chàng mới nhận thức câu "giống thực" của đầu đà là bảo Tiểu Siêu giống mặt Tía Sam Long Vương, chàng liền nghĩ thầm:

- Như vậy Tiểu Siêu là em gái Ðại ỷ Ty chăng? Hay là con gái của bà ta?

Tiếp theo đó, Vô Kỵ lại nghĩ đến cha con Dương Tiêu và Bất Hối lúc nào cũng đề phòng Tiểu Siêu, mỗi lần chàng hỏi Dương Tiêu tại sao lại ghét cô bé ấy và coi nàng như kẻ thù như thế thì tả sứ lại ấp úng, không chịu nói rõ ra cho chàng hay. Ðến bây giờ chàng mới hiểu rõ, thì ra Dương Tiêu đã nhận thấy mặt mũi của Tiểu Siêu giống hệt Tía Sam Long Vương, nhưng vì không có bằng chứng gì cả lại thấy chàng đối đãi tử tế với Tiểu Siêu như thế nên y mới không tiện nói rõ, còn Tiểu Siêu có ý làm cho bộ mặt xấu xí là không muốn cho người ta biết mình là ai.

Ðang lúc ấy Vô Kỵ lại sực nghĩ ra một việc nữa:

- Chẳng hay Tiểu Siêu trà trộn lên Quang Minh đỉnh để làm gì thế? Sao nàng lại biết lối ra vào cửa đường hầm? Chắc thế nào cũng do Tía Sam Long Vương sai nàng đi, và bắt nàng phải lấy trộm cho được Tâm pháp Càn Khôn Ðại Nã Di. Nàng chịu làm con sen đòi của ta, gần gũi ta hơn hai năm trời, xưa nay ta không đề phòng chút nào, nếu nàng muốn sao lục cuốn Tâm pháp đó, thậtu là dễ như trở bàn tay. Ối chà, ta lại tưởng nàng là một thiếu nữ ngây thơ. Ngờ đâu nàng lại là người lắm mưu kế đến thế, trong hai năm nay ta tựa như nằm trong giấc mơ, ta đã mắc hỡm nàng mà không hay. Vô Kỵ ơi, Vô Kỵ, ngươi suốt đời tín nhiệm người khác nên việc gì cũng bị người ta đánh lừa và còn bị mắc hỡm cả con nhỏ này nữa.

Nghĩ tới đó chàng thấy tức giận vô cùng.

Ðang lúc ấy Tiểu Siêu vừa quay lại nhìn chàng, chàng thấy đôi mắt của nàng rất nhu mì và thành thật, nên chàng lại động lòng thương và nghĩ lại khi sáu đại môn phái lên Quang Minh đỉnh, Tiểu Siêu đã xả thân ra bảo vệ mình, vả lại hai năm nay nàng đã hầu hạ mình cẩn thận chu đáo, không thấy nàng có một lời lẽ và cử chỉ gì giả dối mình hết, chẳng lẽ mình nghi oan cho nàng chăng? Chàng đang nghi ngờ thì thân thuyền đã rung động mạnh một cái, rồi chiếc thuyền đó chìm ngay một nửa xuống dưới nước.

Ðại ỷ Ty liền nói:

- Trương giáo chủ và các vị khỏi phải kinh hoảng, chờ lát nữa thuyền của người Ba Tư tới, tôi với Tiểu Siêu sẽ có cách đối phó. Tía Sam Long Vương tôi tuy là đàn bà thực, nhưng cũng biết mình làm thì mình chịu, chứ không bao giờ để liên luỵ đến các vị. Trương giáo chủ với Sư Vương Tạ huynh đối xử với tôi tử tế như vậy, ơn nghĩa ấy còn nặng hơn núi Thái Sơn, Ðại ỷ Ty tôi xin cảm ơn hai vị ở nơi đây.

Nói xong, nàng quỳ xuống vái lạy.

Vô Kỵ cùng Tạ Tốn đáp lễ và nghĩ thầm:

- Người Ba Tư hành động rất ác độc, lát nữa chúng thể nào cũng bắt bà đem đi thiêu chết, chứ khi nào chịu buông tha chúng ta .

Thân thuyền càng ngày càng chìm xuống nước dần, khoang thuyền đã có nước chảy vào. Vô Kỵ vội ẳm Hân Ly lên còn Chỉ Nhược thì ẳm Triệu Minh rồi mọi người leo cả lên trên cột buồm.

Tiểu Siêu chỉ về phía Ðông và khóc ra tiếng.

Mọi người liền nhìn về phía tay chỉ của nàng, thấy phía đó trên bề mặt bể đã có những bóng buồm lố nhố.

Một lúc sau mọi người đã thấy mười mấy chiếc thuyền lớn của Ba Tư đang lướt tới.

Vô Kỵ thấy vậy, liền nghĩ thầm:

- Nếu ta là Ðại ỷ Ty thì thà nhảy xuống bể tự tử chết còn hơn để cho người Ba Tư bắt thiêu.

Nhưng chàng thấy mặt nàng ta rất thản nhiên không có vẻ gì hoảng sợ hết, trong lòng kính phục và nghĩ tiếp:

- Nàng là người đứng đầu Ðại Pháp vương có khác, quả thật can đảm hơn người. Năm xưa ¦ng vương, Sư vương, Bức vương ba người đều là những tay hào kiệt niên trưởng và đã nổi tiếng giang hồ. Còn nàng chỉ là một thiếu nữ trẻ tuổi mà lại đứng đầu trên Tam vương như thế, tất nhiên nàng phải có tài ba như thế nào Tam vương mới chịu để cho nàng đứng đầu như thế.

Chàng vừa nghĩ tới đó, đã thấy đoàn thuyền của Ba Tư sắp tới gần, liền nghĩ tiếp:

- Ta đã gây hấn với các Bảo Thụ vương rất nhiều, bây giờ lại bị chúng bao vây như vậy, chắc không mong gì còn sống sót nữa, nhưng dù sao ta cũng phải nghĩ ra một phương pháp nào để bảo vệ nghĩa phụ, Triệu cô nương, Chu cô nương, em họ và các người được an toàn, còn Tiểu Siêu, thà đành để nàng bất nghĩa với ta chớ không nên bất nhân với nàng.

Ðang lúc ấy Hân Ly bỗng cử động và mở mắt ra nhìn, thấy mình đang trong tay Vô Kỵ, liền giật mình kinh hãi và la lên hỏi:

- Anh A Ngưu, tôi ở đâu thế? Anh đang làm gì vậy?

Vô Kỵ đáp:

- Cô chớ nên kinh hoảng, cô thấy đỡ chưa?

Hân Ly lắc đầu đáp:

- Em... em đã mất hết hơi sức, không biết gì cả.

Mười mấy khẩu đại bác của mười mấy chiếc thuyền Ba Tư đều nhắm cả vào bọn Vô Kỵ.

Vô Kỵ võ công có cao siêu đến đâu, cũng không thể nào chống đỡ nổi mười mấy khẩu đại bác ấy. Những chiếc thuyền của Ba Tư đi tới chỗ cách chiếc thuyền đắm, liền buông neo xuống luôn. Chúng sợ nếu đến gần quá thì bọn Vô Kỵ sẽ sang bắt một hai vị Bảo Thụ vương thì mưu kế của chúng sẽ bị tan vỡ hết.

Nên Trí Tuệ vương đã ha hả cười đắc chí vô cùng và lớn tiếng nói:

- Các người có chịu hàng không?

Vô Kỵ lớn tiếng đáp:

- Nghĩa sĩ ở Trung thổ thà chết chứ không chịu nhục, khi nào lại hàng các ngươi như vậy, nếu các ngươi có là hảo hán thì đấu võ công với ta một phen, xem ai thắng ai bại.

Trí Tuệ vương lại đáp:

- Ðại trượng phu đấu trí chứ không đấu sức, mau mau thúc thủ để cho chúng ta bắt trói đi.

Ðại ỷ Ty đột nhiên lớn tiếng nói mấy câu bằng tiếng Ba Tư vẻ mặt rất nghiêm nghị.

Trí Tuệ vương ngẩn người ra giây phút rồi dùng tiếng Ba Tư trả lời.

Hai người cứ vấn đáp mười mấy câu liền rồi Ðại Thánh vương cũng xen lời lên tiếng hỏi. Ba người đó nói xong thì trên thuyền lớn buông một chiếc xuồng nhỏ xuống và có tám tên thủy thủ bơi chèo để tới gần thuyền của Vô Kỵ.

Ðại ỷ Ty liền nói với Vô Kỵ rằng:

- Trương giáo chủ, tôi với Tiểu Siêu sang thuyền họ trước, các vị chờ tôi giây lát.

Tạ Tốn lớn tiếng xen lời nói:

- Hàn phu nhân, Minh giáo ở Trung thổ hậu đãi phu nhân như vậy mà bây giờ sự an nguy thịnh suy của bổn giáo, đều trông mong vào một mình Vô Kỵ, nếu phu nhân xuất mại chúng tôi thì Tạ mỗ đây có chết cũng không đáng tiếc, nhưng Vô Kỵ có bị tổn thương mảy may thì dù Tạ mỗ có chết xuống âm ty, cũng sẽ hiện lên trả thù phu nhân liền.

Ðại ỷ Ty cười nhạt đáp:

- Chẳng lẽ nghĩa tử của Sư vương mới là tâm can bảo bối mà con gái của tôi lại là sành bùn đất hay sao?

Nói xong, nàng dắt tay Tiểu Siêu, khẽ nhảy một cái, đã xuống chiếc xuồng nhỏ rồi.

Tám tên thủy thủ bơi chèo ất đều ra tay, chiếc xuồng nhỏ đi nhanh như bay, chỉ trong chốc lát đã đến cạnh chiếc thuyền lớn của người Ba Tư liền.

Ðại ỷ Ty nói hai câu đó, ai nấy cũng đều ngẩn người ra nhìn nhau.

Triệu Minh lại nói:

- Tiểu Siêu quả thực là con gái của bà ta.

Mọi người trông thấy Ðại ỷ Ty với Tiểu Siêu leo lên trên chiếc thuyền lớn, nói chuyện với các Bảo Thụ vương ở đằng mũi thuyền.

Chiếc thuyền của Vô Kỵ càng lúc càng chìm dần.

Tạ Tốn thở dài một tiếng nói:

- Người nước lạ có khác, lòng họ không sao như chúng ta được. Vô Kỵ con ta ơi, nghĩa phụ đã quen biết lầm Hàn phu nhân mà con thì quen biết lầm Tiểu Siêu. Vô Kỵ, đại trượng phu có thể co, có thể giãn, chúng ta nên tạm nhịn nhục nhất thời để đợi chờ thời cơ mà đào tẩu, trọng trách của con rất nặng, hàng nghìn hàng vạn dân chúng ở Trung Nguyên đang trông mong vào Minh giáo chúng ta khởi nghĩa, xua đuổi quân Mông Cổ ra bờ cõi, nên khi thời cơ đến thì con cứ việc thoát thân lấy, đừng nghĩ đến người khác làm chi. Con là giáo chủ của một giáo phái lớn, chắc không cần phải nói rõ, con đã biết sự khinh trọng ra sao rồi.

Vô Kỵ chưa kịp đáp lời, Triệu Minh đã lên tiếng nói luôn:

- Tính mạng của mình còn chưa biết sống chết ra sao mà còn nói cái gì đến quân Mông Cổ. Lão gia bảo người Mông Cổ tử tế hay người Ba Tư tử tế nào?

Từ hồi nãy tới giờ, Chỉ Nhược không hề nói đến nửa lời, bây giờ nàng bỗng lên tiếng đỡ lời:

- Tiểu Siêu thương mến Trương công tử như vậy, tôi dám chắc không khi nào phản bội Trương công tử đâu.

Triệu Minh lại nói tiếp:

- Cô nương không thấy Tía Sam Long Vương bắt ép nàng hoài hay sao? Thoạt tiên Tiểu Siêu không chịu, sau bị ép mãi mới nhận lời, và còn vờ khóc một hồi nữa. Lúc ấy chiếc thuyền của mọi người đã chìm lỉm xuống mặt nước chỉ còn trơ lại chiếc cột buồm thôi. Vì vậy sóng bể đã bắn ướt đầu và mặt mọi người.

Triệu Minh bỗng vừa cười vừa nói tiếp:

- Trương công tử, chúng tôi được chết cùng với công tử như vậy còn hơn Tiểu Siêu là người nham hiểm xảo trá, nên mới không được chết cùng với chúng ta.

Lời nói của nàng có vẻ là đùa giỡn, nhưng sự thực bên trong bao hàm rất nhiều tình tứ, khiến Vô Kỵ cảm động vô cùng.

Chàng liền nghĩ thầm:

- Tuy ta không được lấy cả mấy người làm vợ nhưng được chết chung với họ như vậy, kể cũng có phước lắm đấy.

Nghĩ đoạn, chàng đưa mắt nhìn Triệu Minh, nhìn Chỉ Nhược rồi lại nhìn Hân Ly đang nằm gọn trong vòng tay nhưng chàng thấy Hân Ly đã mê man bất tỉnh còn Chỉ Nhược và Triệu Minh thì xấu hổ đến hai má đỏ bừng, nhưng mắt lại ứa lệ, trông không khác gì hai chiếc hoa tươi có mấy hạt sương nhỏ xuống.

Triệu Minh trông không khác gì một bông mai còn Chỉ Nhược thì tựa như chi lan. Chàng ngắm nhìn xong, khẽ thở dài một tiếng và tự hỏi:

- Thế này thì ta biết báo đáp ra sao?

Ðang lúc ấy chàng bỗng nghe thấy những người Ba Tư ở trên mười mấy chiếc thuyền, hoan hô reo hò vang động xen với tiếng sóng gió trên mặt bể làm chấn động cả một góc trời.

Bọn Vô Kỵ các người giật mình kinh hãi vội liếc nhìn sang những chiếc thuyền đó, thấy người Ba Tư ở trên thuyền nào cũng vậy đều nằm rạp xuống vái lễ.

Mọi người nhìn kỹ mới hay chúng hướng về chiếc thuyền lớn nhất mà hành lễ, các vị Bảo Thụ vương ở trên thuyền lớn cũng quỳ xuống vái lạy như những người kia.

Tất cả người Ba Tư và bọn Bảo Thụ vương đều vái lạy một người ngồi ngay ngắn ở trên ghế, người đó trông giống như Tiểu Siêu vậy, nhưng vì cách xa quá không ai trông thấy rõ mặt người.

Vô Kỵ ngạc nhiên vô cùng và không hiểu bọn người Ba Tư ấy đang làm trò quỷ gì.

Tiếp theo đó những người Ba Tư kêu la một hồi rồi cùng đứng dậy, Vô Kỵ không hiểu chúng kêu la gì, nhưng nghe tiếng kêu của chúng, chàng cũng đoán biết chúng đang sung sướng vô cùng. Hình như chúng có việc gì rất vui mừng vậy.

Một lát sau, chàng lại thấy chiếc thuyền bơi tới gần bọn mình, trong thuyền có Tiểu Siêu, nàng ta vẫy gọi chàng và nói rằng:

- Trương công tử và quý vị, xin mời lên chiếc thuyền lớn. Tổng giáo Ba Tư quyết không giết hại quý vị đâu.

Triệu Minh vội hỏi:

- Tại sao?

Tiểu Siêu đáp:

- Các vị sang đến đó sẽ hay, nếu họ ám hại quý vị, thì Tiểu Siêu tôi đâu dám mời quý vị và Trương công tử sang như thế, hơn nữa Trương công tử lại là người có ơn lớn với tôi.

Tạ Tốn bỗng lên tiếng hỏi:

- Có phải Tiểu Siêu đã làm giáo chủ của Minh giáo Ba Tư đấy không?

Tiểu Siêu chỉ cúi đầu xuống chứ không trả lời.

Giây phút sau, đôi mắt to của nàng đã có nước mắt rỏ xuống.

Lúc ấy, Vô Kỵ cảm thấy hai tai bị kích thích với tiếng động rất mạnh và chàng cũng đoán ra được bảy tám phần chuyện của Tiểu Siêu rồi, nên lòng chàng vừa khó chịu vừa cảm động rồi lên tiếng hỏi:

- Tiểu Siêu, tất cả mọi lẽ đó có phải vì tôi mà nên không?

Tiểu Siêu vẫn cúi đầu không dám đưa mắt nhìn chàng.

Tạ Tốn thở dài một tiếng và nói tiếp:

- Ðại ỷ Ty có con gái như vậy, thật không phụ tiếng tăm vang lừng nhất thời của Tía Sam Long Vương. Vô Kỵ, chúng ta sang bên kia thuyền đi.

Nói xong, lão anh hùng nhảy xuống chiếc thuyền nhỏ trước, tiếp theo đó là Chỉ Nhược ẳm Triệu Minh nhảy xuống rồi mới đến Vô Kỵ ẳm Hân Ly nhảy xuống sau cùng.

Tám tên thủy thủ liền chèo ngay.

Giây phút sau, chiếc thuyền nhỏ đã tới cạnh chiếc thuyền lớn kia.

Các vị Bảo Thụ vương đều cung kính nghênh đón giáo chủ của họ.

Tía Sam Long Vương tuy là mẹ của Tiểu Siêu thật, nhưng vẫn không dám phế lễ giáo tôn ty của giáo phái.

Mọi người lên trên thuyền lớn.

Tiểu Siêu dặn bảo mọi người Ba Tư vài câu liền có một người cung kính đem khăn mặt, thức ăn ra chia cho mọi người.

Và còn đưa các người vào trong khoang thay quần áo nữa.

Vô Kỵ thấy khoang thuyền đó rất lớn rộng và đóng thành một căn phòng lịch sự, trong có bày biện rất nhiều đồ quý giá. Chàng vừa lau khô mình mẩy thì cửa phòng đã mở và có một người bước vào, người đó chính là Tiểu Siêu, nàng đang cầm một bộ quần áo ngắn và một cái áo dài nói:

- Công tử để tiểu nữ hầu hạ thay áo cho.

Vô Kỵ thấy vậy động lòng vô cùng vội hỏi:

- Tiểu Siêu, ngày hôm nay cô đã là giáo chủ của Tổng giáo rồi, như vậy, tôi còn là thuộc hạ của cô mới phải, sao cô còn hầu hạ tôi như thế làm chi?

Tiểu Siêu van lơn rằng:

- Thưa công tử, đây là lần cuối cùng, xin công tử cho phép tiểu tử được hầu hạ như vậy. Sau đây, chúng ta kẻ Ðông người Tây xa cách hằng muôn dặm không còn dịp nào mà gặp mặt nhau nữa. Lúc ấy, tôi có muốn hầu hạ thêm công tử một lần nữa cũng không được...

Lời nói Tiểu Siêu quá cảm động.

Vô Kỵ xúc động vô cùng đành phải để cho Tiểu Siêu hầu hạ mình mặc áo như mọi khi. Mặc áo cho Vô Kỵ xong, nàng lại lấy lược chải tóc cho chàng. Nàng vừa chải, nước mắt nhỏ dòng.

Vô Kỵ không sao nhịn được, liền giơ tay ra ôm nàng vào lòng.

Tiểu Siêu chỉ khẽ kêu "ủa" một tiếng và người rung động thôi, Vô Kỵ liền cúi đầu xuống hôn nhẹ một cái và nói:

- Tiểu Siêu, thoạt tiên tôi còn trách cô lừa dối tôi, không ngờ cô lại đối xử với tôi như thế này.

Tiểu Siêu gục đầu vào ngực chàng khẽ đáp:

- Thưa công tử trước kia tiểu nữ tôi có lừa dối công tử thật, mẹ tôi vốn dĩ là sứ nữ trong ba vị Thánh sử nữ của Tổng giáo, thừa lệnh giáo chủ đến Trung thổ để tích lập công đức rồi trở về Ba Tư kế vị ngôi giáo chủ liền. Không ngờ từ khi gặp mặt cha tôi rồi, không sao cầm lòng được nên mới phản bội Tổng giáo và kết hôn với cha tôi. Tôi là con gái của cha tôi đấy, nhưng suốt đời chưa hề gặp mặt cha tôi bao giờ. Mẹ tôi tự biết lỗi của mình rất nặng nên mới truyền cái cà rá sắt của Thánh sứ nữ cho tôi và sai tôi trà trộn lên Quang Minh đỉnh để lấy trộm Tâm pháp Càn Khôn Ðại Nã Di. Thưa công tử, việc này tôi vẫn giấu giếm công tử, nhưng sự thật lúc nào trong lòng tôi cũng áy náy tự biết là không phải với công tử, nhưng vì tôi đã quyết định không làm giáo chủ Minh giáo của Ba Tư nữa, chỉ muốn suốt đời làm con sen, con hầu của công tử, suốt đời không muốn rời xa công tử. Có phải tôi đã nói với công tử câu này rồi không? Và công tử cũng đã nhận lời để cho tôi được như thế phải không?

Vô Kỵ gật đầu, rồi ôm nàng đặt ngồi lên đùi mình hôn lấy hôn để. Nàng ngoan ngoãn để yên cho Vô Kỵ hôn, nước mắt của nàng nhỏ xuống tận môi nhưng nàng vẫn cảm thấy khoan khoái pha thêm chút chua chát.

Tiểu Siêu lại nói tiếp:

- Tôi nhớ thuộc lòng Tâm pháp Càn Khôn Ðại Nã Di, nhưng tôi không bao giờ phản bội công tử. Nếu ngày hôm nay, không gặp phải bước đường cùng tận này thì tôi quyết không bao giờ dám tiết lộ việc này...

Vô Kỵ liền khẽ nói:

- Bây giờ tôi đã biết hết rồi.

Tiểu Siêu lại ai oán nói tiếp:

-Hồi tôi còn nhỏ, đã nhận thấy mẹ tôi ngày đêm không yên lòng, lúc nào cũng hình như kinh hoảng sợ sệt việc gì. Sau mẹ tôi muốn che lấp bộ mặt xinh đẹp kia đi, mới hoá trang thành một bà cụ già. Mẹ tôi lại cấm tối không được gần gũi... Mẹ tôi lại không cho tôi được ở chung, đuổi tôi đến nhà một người nhờ nuôi nấng dạy bảo hộ. Cứ cách hai năm mẹ tôi đến thăm tôi một lần, lúc ấy tôi không biết tại sao mẹ tôi lại mạo hiểm đến thế, không biết vì việc gì mẹ tôi phải hy sinh kết hôn với cha tôi. Thưa công tử, nếu ngày hôm nay chúng ta không toại ý, thì đừng nói làm giáo chủ, dù được làm nữ hoàng tôi cũng không muốn. Nói tới đó, hai má nàng đỏ bừng.

Vô Kỵ cảm thấy nàng đang nức nở khóc ở trong lòng mình.

Giữa lúc ấy, Ðại ỷ Ty ở ngoài phòng bỗng lên tiếng gọi:

- Tiểu Siêu, nếu con không kiềm chế nổi tình dục thì liên luỵ đến tính mạng của Trương công tử đấy.

Tiểu Siêu giật mình, vội đứng phắt dậy và nói tiếp với Vô Kỵ:

-Thưa công tử, xin công tử từ nay trở đi đừng có nhớ tiểu nữ Hân cô nương theo mẹ tôi lâu năm và cũng là người mà công tử đã thương từ trước đến nay. Cô ta mới thật xứng đáng kết duyên với công tử.

Vô Kỵ khẽ đáp:

- Tiểu Siêu, chúng ta cứ việc thí mạng với chúng xông ra khỏi nơi đây bắt cho kỳ được một hai tên Bảo Thụ vương rồi uy hiếp chúng phải đưa chúng mình về Linh Xà đảo.

Tiểu Siêu rầu rĩ lắc đầu nói tiếp:

- Lần này chúng đã tinh khôn rồi, Tạ đại hiệp và Hân cô nương đều bị chúng dùng dao kiếm canh chừng, nếu chúng ta có cử động gì khác, tức thì hai người đó sẽ bị chúng giết luôn.

Nói xong, nàng mở khoang thuyền ra, quả nhiên Vô Kỵ thấy Ðại ỷ Ty đang đứng ở trước cửa và có hai người Ba Tư tay cầm trường kiếm dí mũi kiếm vào lưng nàng, còn hai người Ba Tư khác thì cúi mình vái chào Tiểu Siêu.

Tiểu Siêu ngang nhiên đi thẳng ra ngoài bong thuyền, Vô Kỵ liền theo sau.

Quả nhiên chàng thấy Tạ Tốn với các người đều bị võ sĩ người Ba Tư ghìm kiếm uy hiếp.

Tiểu Siêu liền nói với Vô Kỵ rằng:

- Thưa công tử, ở đây có thuốc của người Ba Tư rất linh nghiệm, công tử hãy lấy thuốc đó chữa cho Hân cô nương!

Nói xong, nàng dùng tiếng Ba Tư dặn bảo mấy lời.

Công Ðức vương vội lấy lọ thuốc cao ra trao cho Vô Kỵ.

Tiểu Siêu lại dặn tiếp Vô Kỵ:

- Tôi sai người tiễn quý vị về Trung thổ, chúng ta từ biệt nơi đây, dù Tiểu Siêu này ở Ba Tư nhưng ngày ngày cũng chúc phúc cho công tử được khỏe mạnh và được mọi sự như ý.

Tới đó nàng nghẹn ngào không sao nói tiếp được nữa, Vô Kỵ liền đỡ lời:

- Cô nương sống một mình ở chốn hổ lang cũng phải nên cẩn thận lắm mới được!

Tiểu Siêu gật đầu, sau đó ra lệnh cho thuộc hạ sửa soạn thuyền bè tiễn đưa mọi người. Tạ Tốn, Hân Ly, Triệu Minh, Chỉ Nhược lần lượt xuống thuyền.

Tiểu Siêu đưa cả Ðồ Long đao, Ỷ Thiên kiếm và sáu chiếc Thánh hỏa lệnh cho Vô Kỵ. Rồi nàng gượng cười một tiếng, vẻ mặt rầu rĩ giơ tay lên chào từ biệt.

Vô Kỵ không biết nói năng thế nào cho phải, đứng ngẩn người ra giây lát rồi mới nhảy xuống thuyền, đồng thời nghe có tiếng tù và từ thuyền của Tiểu Siêu thổi lên "tu tu" mấy tiếng và trông thấy thuyền đó giương buồm lên đi ngay, mỗi lúc một xa dần.

Nhưng chàng vẫn thấy Tiểu Siêu đứng ở mũi thuyền hướng về phía thuyền của chàng. Chàng nhìn theo cho tới khi chiếc thuyền lớn của Tiểu Siêu chỉ còn là một chấm đen, nhưng mỗi khi gió bể thổi tới, chàng còn nghe như có tiếng khóc văng vẳng của nàng vọng lại.

Hân Ly rịt thuốc của người Ba Tư, vết thương tuy đỡ, nhưng khắp người vẫn còn nóng, nàng nói mê sảng luôn. Thì ra, nàng phiêu lưu trên mặt bể mấy ngày, người đã đau yếu, lại thêm bị gió lạnh, thuốc cứu thương kia chỉ có thể chữa được ngoại thương thôi, chứ phong tà ở trong người thì phải dùng thuốc khác mới có thể chữa khỏi được.

Vô Kỵ trong lòng lo âu vô cùng.

Ðến ngày thứ ba mọi người đã trông thấy đằng phía Ðông xa xa có một cái đảo nhỏ hiện ra.

Vô Kỵ liền dặn bảo người cầm lái cho thuyền về phía đó. Người cầm lái có vẻ không muốn, lẩm bẩm nói tiếng Ba Tư hình như muốn nói là giáo chủ chỉ sai hắn đưa mọi người về tới Ðại lục ở Trung Nguyên thôi, chứ không bảo đưa tới một hoang đảo nào cả. Vô Kỵ dùng tay chỉ trỏ để giải thích cho người đó biết là mình định lên hoang đảo tìm thuốc cứu Hân Ly. Người cầm lái vẫn không hiểu, cứ lắc đầu hoài.

Vô Kỵ nóng lòng sốt ruột, liền tiến tới gần, cướp lấy tay lái và tự ý lái lấy.

Khi thuyền tới cạnh đảo thì trời đã sâm sẩm tối.

Mọi người ở trên mặt bể lâu ngày tất nhiên ai cũng say sóng, lúc này được lên trên đất liền người nào người nấy đều cảm thấy sảng khoái vô cùng.

Ðảo này ngang dọc không đầy mấy dặm, đứng đầu này có thể trông thấy hết đầu kia, nhưng khí hậu trên đảo rất ôn hòa nên cây cối mọc um tùm, Vô Kỵ nhờ Chỉ Nhược trông nom Triệu Minh và Hân Ly hộ, rồi một mình đi kiếm thuốc cho bệnh nhân. Trên đảo tuy có rất nhiều hoa cỏ, nhưng những vị có thể dùng làm thuốc thì lại rất hiếm, chàng tìm hoài mà chỉ lấy được có một vị đành phải trở về chỗ cũ.

Chàng thấy Chỉ Nhược đã dùng củi khô đốt lửa và thấy Hân Ly tinh thần có vẻ sảng khoái hơn trước, khi thấy chàng vừa về tới, đã vội hỏi:

- A Ngưu đại ca, tối nay chúng ta ngủ ở đây, đừng xuống thuyền ngủ nữa. Thấy nàng đề nghị như vậy, ai nấy đều vỗ tay tán thành, vì thấy trên đảo có nước ngọt mà lại không có dã thú.

Sáng hôm sau, mọi người thức tỉnh, khi mở mắt ra nhìn, không thấy chiếc thuyền của Ba Tư nữa.

Vô Kỵ giật mình kinh hãi, vội chạy đến bờ biển, tìm kiếm khắp nơi cũng không thấy tung tích của chiếc thuyền đó đâu cả.

Vô Kỵ đứng dậy vừa đi được một bước thì chân vướng phải một vật gì mềm nhũn, suýt tí nữa ngã lăn ra đất.

Chàng thấy hai chân như không có sức, kinh ngạc vô cùng, vội hỏi Tạ Tốn:

- Nghĩa phụ có được mạnh không?

Nhưng chàng không nghe thấy Tạ Tốn trả lời, vội chạy tới chỗ Sư vương nằm, thấy nghĩa phụ mình đang ngủ rất say, lúc ấy mới yên tâm.

Triệu Minh, Chỉ Nhược, Hân Ly ba người thì ngủ sau một tảng đá lớn.

Chàng vội chạy tới đó xem, chỉ thấy Chỉ Nhược với Hân Ly nằm cạnh nhau, còn Triệu Minh thì mất tích.

Chàng trông thấy mặt Hân Ly đầy những máu, liền cúi xuống nhìn, thấy mặt của người yêu bị rạch mười mấy nhát dao, nằm mê man bất tỉnh. Chàng vội nắm tay nàng thăm mạch thử xem, thấy mạch vẫn chạy nhưng rất yếu ớt. Chàng lại nhìn Chỉ Nhược, thấy tóc của nàng bị cắt mất một mảng lớn, tai trái cũng bị cắt đứt mất một nửa, máu còn rỉ ra, nhưng mặt nàng rất tươi, tựa như đang nằm mơ một giấc mơ thần tiên vậy. Dưới ánh nắng mặt trời mới mọc, trông nàng đẹp như hoa nở.

Vô Kỵ thấy tình cảnh đó trong lòng đau khổ và lên tiếng kêu gọi:

- Chu cô nương, hãy mau thức tỉnh lại.

Chỉ Nhược vẫn mê man, chàng bèn lay vai nàng mấy cái mới thấy nàng ngáp, hơi thở của nàng thơm như hoa lan. Nhưng sau đó nàng lại trở mình ngủ thiếp đi. Chàng biết nàng đã uống trúng phải thuốc mê, chàng rất ngạc nhiên đêm qua xảy ra việc quái dị như vậy mà mình không hay biết gì. Và lúc này chàng lại thấy mình không có hơi sức gì hết, nên chàng mới biết chính mình cũng trúng độc rồi. Chàng gọi Chỉ Nhược hoài mà không thức dậy, liền chạy đến gọi Tạ Tốn:

- Nghĩa phụ, nghĩa phụ!

Tạ Tốn mơ mơ hồ hồ hỏi lại:

- Làm gì thế?

Vô Kỵ đáp:

- Nguy tai, chúng ta đã trúng phải âm mưu độc kế của bọn tiểu nhân rồi.

Tiếp đó, chàng kể cho Tạ Tốn hay, thuyền của người Ba Tư đã bỏ chạy, Hân Ly và Chỉ Nhược bị thương.

Tạ Tốn nghe xong kinh ngạc, hỏi tiếp:

- Còn Triệu cô nương đâu?

Vô Kỵ rầu rĩ đáp:

- Không thấy nàng đâu cả.

Nói xong, chàng vận nội công thử xem, thấy tay chân vẫn yếu ớt, không sao lấy sức được. Rồi chàng lại nói tiếp:

- Nghĩa phụ! Chúng ta đã bị người ta cho uống thuốc độc "thập hương nhuyễn cân tán" rồi.

Chuyện các tay cao thủ của sáu đại môn phái bị Triệu Minh cho uống nhuyễn cân tán, rồi cùng bị bắt trói trên chùa Vạn Pháp, Tạ Tốn đã nghe Vô Kỵ kể cho hay một lần rồi nên Sư Vương vội đứng dậy đi thử xem, thấy bước đi của mình cũng loạng choạng, không có một chút hơi sức nào cả.

Sư Vương định thần giay lát rồi nói:

- Có phải nàng đã đem cả Ðồ Long đao với Ỷ Thiên kiếm đi không?

Vô Kỵ nhìn chung quanh, quả nhiên không thấy đao kiếm đâu cả. Chàng tức giận vô cùng suýt khóc lên thành tiếng. Chàng không phải thương tiếc gì đao kiếm bị người lấy trộm mất mà không ngờ Triệu Minh lại nhân lúc nguy nan này giở gian kế ra đối xử với mình như vậy. Chàng đứng ngẩn người giây lát, bỗng sực nhớ đến vết thương của Hân Ly, vội chạy lại cạnh người tiểu muội và nàng Chỉ Nhược, chàng đẩy Chỉ Nhược mấy cái, nhưng thấy nàng vẫn ngủ say như thường liền nghĩ thầm: "Nội lực của ta cao thâm nhất, vì thế mới thức tỉnh sớm hơn hết, sau đó mới tới nghĩa phụ, còn nội lực của Chu cô nương thì kém ta với nghĩa phụ xa, nên tới giờ nàng chưa tỉnh".

Nghĩ đoạn, chàng liền xé một mảnh áo lau sạch những máu dính trên mặt Hân Ly. Chàng thấy mặt nàng bị chém ngang dọc mấy nhát dao, trông những vết thương đó chàng biết ngay kẻ tiểu nhân kia đã dùng ỷ Thiên kiếm rạch mặt nàng.

Hân Ly bị Kim Hoa bà bà đả thương đến giờ, vì máu ra quá nhiều, chất độc của những con nhện độc lan tràn theo máu mà chạy khắp mình mẩy, mặt nàng đã bớt sưng được một phần, bộ mặt xinh đẹp xưa kia đã khôi phục dần, nhưng bây giờ nàng lại bị chém mấy nhát như thế, bộ mặt lại trở nên xấu xí kinh dị.

Vô Kỵ thấy vậy vừa đau lòng vừa tức giận, nghiến răng mím môi nói:

- Triệu Minh ơi Triệu Minh! Ngươi đừng để cho ta bắt gặp thì thôi, còn nếu có dịp nhìn thấy ngươi, ta quyết sẽ rạch mặt ngươi mười bảy mười tám nhát như vậy. Nếu không làm được như thế, ta không còn là Trương Vô Kỵ nữa.

Nói xong, chàng định thần giây lát, chạy đi kiếm ít thuốc lá "chỉ huyết" bỏ vào mồm nhai nát rịt lên trên mặt Hân Ly.

Sau đó, chàng lại rịt thuốc vào trán và tai của Chỉ Nhược.

Chỉ Nhược ngáp một cái rồi mở mắt ra nhìn, nàng bỗng thấy Vô Kỵ giơ tay ra rờ đầu mình.

Nàng hổ thẹn vô cùng, mặt đỏ bừng vội giơ tay lên gạt tay Vô Kỵ ra, hờn giận hỏi:

- Giáo chủ làm gì thế?

Nàng chưa nói dứt, đã cảm thấy tai đau nhức, vội đưa tay lên rờ mó, liền thất thanh kêu "ủa" một tiếng.

Nàng giật mình kinh hãi, nhảy hẳn người lên tự hỏi:

- Tại sao thế?

Rồi đột nhiên ngã khuỵu xuống, lăn vào lòng Vô Kỵ, Vô Kỵ vội đỡ lấy nàng và an ủi:

- Chu cô nương đừng sợ.

Chỉ Nhược thoáng trông thấy mặt Hân Ly rùng rợn như vậy, vội giơ tay lên rờ mặt mình và hỏi:

- Tôi... có bị như chị Hân Ly không?

Vô Kỵ đáp:

- Không, cô chỉ bị thương nhẹ thôi.

Chỉ Nhược kinh hãi hỏi tiếp:

- Có phải bọn ác đồ Ba Tư hạ độc thủ đấy không? Tôi... tại sao tôi không biết một tí gì cả?

Vô Kỵ thở dài một tiếng rồi đáp:

- Tôi e chính Triệu cô nương đã hạ độc thủ như vậy, tối hôm qua trong lúc chúng ta ăn uống, nàng đã bỏ thuốc độc vào trong thức ăn.

Chỉ Nhược nghe nói ngẩn người ra, rờ tay lên chỗ tai bị cắt, rồi khóc nức nở.

Vô Kỵ vội an ủi:

- Chu cô nương, không có gì đáng lo ngại cả. Vết thương của cô nương không nặng lắm, tuy tai có bị cắt một miếng nhưng vẫn có thể buông xoã tóc xuống che lấp được, như thế không mất sắc đẹp của cô nương đâu.

Chỉ Nhược lại nói tiếp:

- Giáo chủ bảo lấy tóc che lấp sao được, giáo chủ coi, đuôi tóc của tôi cũng bị cắt, còn đâu nữa.

Vô Kỵ lại nói:

- Cô nương khỏi lo, nếu tóc trên đầu không mọc được, vẫn có thể đội tóc giả...

Chỉ Nhược lại hờn giận trả lời:

- Tại sao tôi lại phải đội tóc giả? Ðến bây giờ giáo chủ còn bảo vệ Triệu cô nương của giáo chủ nữa không?

Vô Kỵ bị Chỉ Nhược đay nghiến, xấu hổ vô cùng, nhưng cũng ngượng nghịu đáp:

- Y ác độc thật, chém nát mặt Hân cô nương như vậy... rồi nhất định không tha thứ cho y thị đâu!

Chàng càng nhìn mặt Hân Ly càng đau lòng và ứa nước mắt.

Lúc ấy một người mê man bất tỉnh, ba người trúng độc mất hết hơi sức cũng nằm ở trên hoang đảo.

Dù Tạ Tốn với Vô Kỵ là anh hùng nhất thời cũng phải bàng hoàng kinh hoảng.

Vô Kỵ vội ngồi xếp bằng tròn thử vận nội công xem sao. Chàng cảm thấy bị trúng độc rất nặng, chàng biết rằng trúng phải thuốc độc đó, phải có thuốc giải độc của Triệu Minh mới có thể cứu được. Nhưng chàng nghĩ ngồi thúc thủ chịu chết, thì chi bằng vận dụng nội công siêu phàm nhập thánh của mình để chống đối với thứ thuốc độc đó thử xem. Vận nội công hơn tiếng đồng hồ, chàng mới hơi yên tâm vì thấy hơi sức phục hồi rất nhiều, nhưng môn Cửu Dương thần công này không thể nào truyền cho Tạ Tốn và Chỉ Nhược ngay để hai người vận nội công cứu chữa như mình được. Cho nên chàng đành phải tự mình xua đuổi hết chất độc ra ngoài rồi mới vận thần công đó để cứu chữa cho Tạ Tốn và Chỉ Nhược. Môn thần công của chàng nói ra thì rất giản dị nhưng lúc thi hành thì lại phức tạp và phiền phức vô cùng.

Luyện tới ngày thứ bảy, Vô Kỵ chỉ đẩy được ba thành chất độc trong người thôi. "Thập hương nhuyễn cân tán" vốn là một chất độc lợi hại vô cùng. Trước đây, những người tài ba như Thiếu Lâm thần tăng mà cũng đành chịu thua môn thuốc độc này.

Bây giờ Vô Kỵ luyện nội công trong bảy ngày mà xua đuổi được ba thành chất độc, khôi phục được một hai thành công lực, như vậy kể cũng hiếm lắm rồi. Có thể nói trong thiên hạ không có người thứ hai làm nổi như chàng. Cũng may thứ thuốc độc đó chỉ làm cho người ta mất hết hơi sức thôi, chứ không làm hại đến thân thể được.

Mấy ngày đầu, Chỉ Nhược buồn bực hết sức, nhưng dần dần cũng quen đi, ngày nào cũng cùng Tạ Tốn đi bắt cá bắn chim, đun nước, thổi nấu.

Ðêm thì một mình nàng vào trong hang động ngủ còn Vô Kỵ và Tạ Tốn thì nằm ở bên ngoài, cách hang động khá xa. Hai mắt tuy mù, Tạ Tốn sớm biết nàng có tình với Vô Kỵ nên nàng mới phải thủ lễ như vậy. Vì thế Sư vương rất kính trọng nàng.

Vô Kỵ cũng hổ thẹn ngầm và nghĩ thầm:

-Mối tai hoạ này là do ta mà nên cả. Triệu cô nương rõ ràng là Quận chúa của quân Mông Cổ, là kẻ thù của Minh giáo, trong võ lâm đã có không biết bao cao thủ bị chết vì tay nàng. Thế mà ta không đề phòng nàng chút nào, thật là ngu dại vô cùng.

Chàng thấy Tạ Tốn với Chỉ Nhược không hề oán trách chàng đến nửa lời nên trong lòng lại càng hổ thẹn và đau đớn thêm.

Có lúc chàng trông thấy sắc mặt của Chỉ Nhược, cảm thấy hình như nàng muốn nói:

- Chỉ vì giáo chủ ham mê sắc đẹp của nàng Triệu Minh, nên mới gây nên tai hoạ như vậy.

Chất độc trong người của Vô Kỵ càng ngày càng ít dần, trái lại vết thương của Hân Ly càng ngày càng nặng thêm.

Trên hoang đảo này lại rất ít thuốc men, dù chàng có yêu thuật thần thông đến đâu cũng không chữa được. Chàng biết vết thương của Hân Ly có thể cứu chữa được, nhưng trên đảo không có thuốc, lại thiếu những cây lớn, bằng không chàng đã nhặt thân cây làm bè, mạo hiểm trở về đất liền rồi. Lúc ấy tim của chàng như bị muôn vạn con dao nhọn đâm trúng hòai. Tới đêm, chàng nhai một ít cỏ thoái nhiệt mớm cho Hân Ly uống. Chàng thấy nàng ta không nuốt nổi, đau lòng đến ứa nước mắt ra. Lệ của chàng nhỏ xuống mặt nàng, nàng bỗng thức tỉnh mỉm cười và nói:

- A Ngưu đại ca hà tất phải rầu rĩ như thế làm chi, em sắp xuống âm phủ và sắp được gặp tiểu quỷ Trương Vô Kỵ, con người nhẫn tâm và chết non kia. Em sẽ bảo y biết trên thế gian này có một vị là A Ngưu đại ca đối xử với em tử tế hơn Vô Kỵ nhiều.

Vô Kỵ nghẹn ngào không sao nói ra tiếng để trả lời nàng được. Chàng phân vân, không biết có nên nói rõ mình là Trương Vô Kỵ không?

Giữa lúc đó Hân Ly đã nắm chặt tay chàng và nói:

- A Ngưu đại ca, trước sau em vẫn không nhận lời lấy anh, chẳng hay anh có hận em không? Em đoán chắc vì muốn làm cho em được vui, nên anh mới dối em đấy thôi, chứ em mặt mũi xấu xí tính nết lại quái dị như thế này thì khi nào được anh để ý tới em.

Vô Kỵ đáp:

- Không, tôi không lừa dối cô đâu. Cô quả thật là một cô bé, tình thâm ý thực, nếu tôi cưới được cô làm vợ thì đời tôi thực là hạnh phúc. Chớ tới khi cô khoẻ mạnh và mọi việc của chúng ta cũng dàn xếp xong, chúng ta sẽ kết hôn với nhau, chẳng hay cô có bằng lòng không?

Hân Ly giơ tay ra khẽ vuốt má chàng, lắc đầu mấy cái rồi trả lời:

- A Ngưu đai ca, em không thể nào lấy anh được vì lòng em đã hứa cho Trương Vô Kỵ, một tên hung ác và nhẫn tâm rồi... A Ngưu đại ca, em hơi sợ, sợ xuống đến âm ty, không biết y có đối đãi với em hung ác như trước nữa không?

Vô Kỵ thấy nàng ta ăn nói tỉnh táo hai má đỏ bừng, liền giật mình, kinh hãi và thầm nghĩ:

- Ðây là hiện tượng hồi quan phản chiếu. Chẳng lẽ này hôm nay nàng sẽ tận số hay sao?. Chàng lại ngẩn người ra suy nghĩ, nên không nghe thấy Hân Ly nói gì. Nàng lại nắm lấy cổ tay chàng và hỏi lại một lần nữa.

Với giọng dịu dàng, chàng trả lời:

- Y sẽ vĩnh viễn đối đãi tử tế với cô, coi cô như hạt châu hạt báu của y vậy.

Hân Ly lại nói tiếp:

- Ðại ca thử đoán xem, y có thể đối đãi với em bằng được một nửa của sự đối đãi của đại ca không?

- Trên có trời dưới có đất chứng kiến cho, quả thật tôi biết Trương Vô Kỵ đã thành thật yêu cô. Tôi biết y đã hối hận lúc còn nhỏ đối đãi với cô nương hung tợn như vậy. Y... Y cũng như... tôi không có một tí gì khác lạ hết.

Hân Ly thở dài một tiếng, mồm tủm tỉm cười và nói tiếp:

- Nếu vậy... nếu vậy em mới yên tâm...

Nói tới đó, hai tay nàng đang nắm chặt tay của Vô Kỵ đã từ từ buông ra, hai mắt nhắm nghiền và tắt thở tức thì.

Vô Kỵ ôm xác của nàng vào lòng nghĩ thầm:

-Cho tới lúc thở hơi cuối cùng mà nàng cũng chưa biết ta là Trương Vô Kỵ. Mấy ngày gần đây nàng cứ mê man bất tỉnh, ta không sao nói rõ chân tướng của ta cho nàng hay được. Trong lúc nàng "hồi quang phản chiếu" đầu óc tỉnh táo, trong phút chốc ấy, tại sao ta không nói cho nàng hay?

Sự thực tới lúc đó, nói hay không cũng vậy thôi, Vô Kỵ lòng đau như cắt, không sao khóc ra tiếng được liền nghĩ thầm:

- Nếu Triệu Minh không rạch mặt nàng, chưa chắc nàng đã chết, nếu Triệu Minh không bỏ rơi chúng ta ở trên đảo hoang này thì chỉ trong vài ngày ta cũng đã về tới Trung thổ rồi. Như vậy có phải ta đã có cách cứu nàng thoát chết không?

Nghĩ tới đó, chàng hậm hực, buộc miệng lên tiếng nói:

- Triệu Minh ơi! Triệu Minh, lòng dạ ngươi ác độc như rắn rết, thế nào cũng có ngày lọt vào tay ta, Vô Kỵ quyết không tha thứ cho ngươi đâu.

Chàng vừa nói tới đó, bỗng nghe thấy phía sau lưng có giọng nói lạnh lùng xen lời:

- Nhưng tới khi giáo chủ trông thấy bộ mặt đẹp như hoa nở của nàng thì lại không đang tay hạ thủ phải không?

Vô Kỵ vội quay người lại, mới hay đó chính là Chỉ Nhược, vẻ mặt nàng lạnh lùng và hình như còn khinh miệt chàng nữa.

Chàng vừa đau lòng vừa hổ thẹn, vội đáp:

- Tôi đã thề trước xác của cô em họ rồi, nếu tôi không giết chết yêu nữ đó thì Vô Kỵ tôi không còn mặt mũi nào sống trên đời này nữa.

- Như vậy mới phải là chí của một người đàn ông chứ.

Nói xong, nàng tiến lên vuốt ve xác Hân Ly và lớn tiếng khóc lóc.

Tạ Tốn nghe tiếng khóc vội lần mò tới, biết Hân Ly đã chết cũng đau lòng vô cùng.

Vô Kỵ đào một cái huyệt ở trên núi để chôn cất Hân Ly rồi bẻ một cành cây cắm lên trên.

Sau đó, chàng lấy con dao găm của Hân Ly khắc trên cành cây đó mấy chữ "ái thê Thù Nhi, Hân Ly chi mộ" bên dưới khắc "Trương Vô Kỵ cẩn lộc".

Khắc xong mấy chữ đó, chàng liền quỳ xuống đất vái lạy, khóc lóc thê thảm.

Chỉ Nhược liền khuyên can:

- Trương giáo chủ, Hân cô nương yêu giáo chủ như vậy mà giáo chủ đối với nàng cũng nhân nghĩa trí tận rồi, quý hồ giáo chủ đừng phụ lời thề hôm nay, cố giết chết Triệu Minh để trả thù cho nàng. Cô em họ Hân dù có ở dưới chín suối cũng ngậm cười chớ không sai.

Vô Kỵ vì sự đau thương đó không vận nội công khiến độc tố ở trong người lại tản mát ra. Vì vậy, chàng phải tốn thêm bảy tám ngày mới dồn được độc tố đó ra khỏi người thì đã mất hơn một tháng.

Trên đảo nhỏ này khác hẳn Băng Hỏa đảo và Linh Xà đảo, cây cối thưa thớt và không có một con dã thú nào hết, vì vậy ba người càng khốn cùng thêm.

Chỉ Nhược biết Vô Kỵ đau buồn vì thương tiếc Hân Ly và tức giận Triệu Minh xảo trá, hơn nữa Vô Kỵ lại không có người hầu hạ, nên nàng càng đặc biệt an ủi chàng.

Vô Kỵ vận thần công, xua đuổi hết độc tố ở trong người của Tạ Tốn xong, lại định giúp Chỉ Nhược dồn độc tố ra ngoài, nhưng khi nghĩ đến cách xua đuổi độc tố phải để một bàn tay áp chặt vào sau lưng bệnh nhân, còn bàn tay khác ấn vào lỗ rốn, chàng lại thấy ngại ngùng, vì hai người là thanh niên nam nữ, chàng đâu dám chạm vào da thịt nàng như vậy. Nhưng nếu không chữa chạy cho nàng, thì là sao mà dồn Cửu Dương chân khí sang người nàng được. Chàng trù trừ không biết giải quyết như thế nào cho phải. Chàng suy nghĩ mấy ngày liền mà vẫn chưa tìm ra được một phương pháp nào hoàn hảo cả. Một tối hôm nọ, Tạ Tốn bỗng lên tiếng nói:

- Vô Kỵ thử nghĩ xem, chúng ta còn phải ở trên đảo này bao nhiêu ngày nữa?

Vô Kỵ ngẩn người ra giây lát rồi đáp:

- Vấn đề này khó nói lắm, bây giờ chỉ mong có thuyền bè nào đi qua đây rồi nhờ họ cứu chúng ta về Trung thổ mà thôi.

Tạ Tốn lại hỏi tiếp:

- Hơn một tháng nay, con có thấy hình bóng thuyền bè nào đi qua đây không?

- Không.

- Phải rồi, chưa biết chừng ngày mai sẽ có thuyền đến nơi, nhưng cũng chưa biết chừng trăm năm nữa mới có thuyền đi qua cũng nên.

Vô Kỵ thở dài một tiếng rồi nói tiếp:

- Hòn đảo này mọc trơ trụi ở giữa mặt bể và nơi đây cũng không phải là đường đi của các thuyền bè. nên sự hy vọng trở về Trung thổ của chúng ta rất mỏng manh.

- Trên đảo này không sao kiếm ra được thuốc giải độc, vậy độc tố ở lại trong người, ngoài việc chân tay mỏi mệt, không có hơi sức, còn có tệ hại gì nữa không?

- Không có việc gì hết, nhưng không chữa ngay, lâu ngày lục phủ ngũ tạng cũng tổn thương.

- Thế ư! Như vậy sao con không mau xua đuổi độc tố cho Chu cô nương đi? Cha mẹ của Chu cô nương vốn là người của bổn giáo, nàng lại là chưởng môn của phái Nga Mi. Người hiền hậu và có đức như thế thực trên thế gian này khó có người thứ hai, chẳng lẽ con lại hiềm mặt cô ta xấu xí hay sao?

Vô Kỵ đáp:

- Không, Chu cô nương là người đẹp nhất thế gian này, trên thế gian này không có người thứ hai đẹp như thế.

Tạ Tốn lại tiếp:

- Nếu vậy để nghĩa phụ đứng ra làm chủ hôn để con cưới nàng làm vợ, như vậy con khỏi lo ngại về vấn đề "nam nữ thụ thụ bất thân" nữa.

Chỉ Nhược đang lắng tai nghe hai người nói chuyện, thấy nói đến cuộc hôn nhân của mình, nàng hổ thẹn vô cùng, vội đứng dậy đi ra nơi khác, nhưng Tạ Tốn đã nhảy tới ra tay cản ngăn, không cho nàng đi, rồi vừa cười vừa bảo nàng rằng:

-Cháu đừng đi đâu hết, ngày hôm nay ta nhất định phải làm mai cho được cuộc hôn nhân này.

Chỉ Nhược đáp:

- Cám ơn Tạ lão gia, bây giờ chúng ta chỉ mong làm sao về được Trung thổ thôi, chứ nghĩ làm gì đến những chuyện vớ vẫn ấy.

Tạ Tốn cười ha hả và nói tiếp:

- Nam nữ hỗn hợp, đó là một đại sự của đời người, sao cháu lại bảo là bậy bạ được? Chính cha mẹ của Vô Kỵ cũng kết hôn với nhau trên hoang đảo. Nếu hai người không phải vượt qua lễ giáo của xã hội thì trên đời này làm gì có thằng nhỏ Vô Kỵ? Huống hồ ngày hôm nay đã có nghĩa phụ làm chủ hôn cho hai con, Vô Kỵ chẳng lẽ con không yêu Chu cô nương hay sao? Không muốn xua đuổi độc tố trong người nàng hay sao?

Chỉ Nhược giơ tay lên ôm mặt, cứ định bỏ chạy, nhưng Tạ Tốn đã nắm chặt tay áo của nàng, vừa cười vừa nói tiếp:

- Cô định đi đâu? Cô tưởng tránh mặt được mãi hay sao? Trên đảo này chỉ có ba chúng ta thôi, lúc nào mà chẳng gặp mặt nhau? à, hay cô không muốn lão già mù này làm bố chồng cô?

Chỉ Nhược đáp:

- Không, không phải thế.

Tạ Tốn lại hỏi tiếp:

- Thế cô đã nhận lời chưa?

Thấy Chỉ Nhược luôn mồm nói "không" hoài, Tạ Tốn liền vừa cười vừa hỏi tiếp:

- Hay là cô hiềm Vô Kỵ nghĩa tử của lão, là kẻ bất tài phải không?

Chỉ Nhược ngừng giây lát vội đáp:

- Trương công tử võ công trác tuyệt, tiếng tăm lừng lẫy vô cùng, lấy... lấy được người chồng như vậy thì còn gì bằng... nhưng... nhưng...

Tạ Tốn lại hỏi tiếp:

- Nhưng cái gì cơ chứ?

Chỉ Nhược liếc mắt nhìn Vô Kỵ rồi đáp:

- Công tử... công tử chỉ yêu một mình Triệu cô nương thôi, cháu biết lắm.

Tạ Tốn nghiến răng mím môi nói tiếp:

- Con khốn nạn Triệu Minh làm hại chúng ta như thế này, khi nào Vô Kỵ còn mê man, không tỉnh ngộ nữa. Vô Kỵ, con cứ nói thật cho ta với Chu cô nương hay đi.

Vô Kỵ chưa biết trả lời ra sao cho phải, thì bỗng chàng trông thấy hình bóng của Triệu Minh hiện lên đang tủm tỉm cười với mình, liền nghĩ thầm:

- Cưới được một người vợ như Triệu Minh, đời mình mới có hạnh phúc...

Chàng vừa nghĩ tới đó, lại thấy bộ mặt của Hân Ly dính đầy máu và bị kiếm chém nát. Chàng liền giật mình, vội trả lời Tạ Tốn ngay:

- Thưa nghĩa phụ, Triệu cô nương là kẻ thù lớn của con, thế nào con cũng phải giết nàng để trả thù cho biểu muội.

Tạ Tốn quay lại nói tiếp với Chỉ Nhược:

- Ðó, Chu cô nương nghe thấy chưa? Cô nương còn nghi kỵ gì nữa không?

Chỉ Nhược khẽ đáp:

- Cháu chưa yên tâm... trừ phi... trừ phi Trương công tử phải... phải thề thì cháu mới chịu, bằng không cháu đành để cho độc tố nó tan ra mà chết chứ không chịu để cho công tử chữa giúp.

Tạ Tốn liền ra lệnh cho Vô Kỵ:

- Vô Kỵ, con thề ngay đi.

Vô Kỵ không ngần ngại gì hết, quỳ ngay xuống đất và nói:

- Nếu Trương Vô Kỵ tôi quên mối thù của biểu muội thì trời đất sẽ không dung thứ cho.

Chỉ Nhược lại nói tiếp:

- Công tử phải nói rõ là công tử sẽ đối xử với Triệu cô nương ra sao?

Tạ Tốn nghe thấy Chỉ Nhược nói như vậy, cười thầm và nghĩ:

- Cô bé này có máu ghen không thua gì Hoạn Thư, chưa vào nhà chồng mà đã bắt chồng làm việc này việc nọ rồi. Nàng rất khôn ngoan bắt buộc Vô Kỵ như vậy, sau này Vô Kỵ không còn cách gì mà trở mặt.

Nghĩ đoạn, Sư vương liền bảo Vô Kỵ:

- Vô Kỵ, con cứ nghe lời Chu cô nương mà nói thật cho rõ đi.

Bất đắc dĩ, Vô Kỵ phải lớn tiếng nói:

- Yêu nữ Triệu Minh đã ra công giúp sức cho hoàng triều Mông Cổ của y thị, làm cho dân chúng khổ sở biết bao, lại giết hại võ lâm nghĩa sĩ và lấy trộm bảo đao của nghĩa phụ tôi để giết hại biểu muội tôi là Hân Ly. Vô Kỵ tôi sống ở trên đời này không ngày nào là quên mối thù ấy. Nếu tôi trái lời thề sẽ bị trời chu đất diệt.

Chỉ Nhược có vẻ hài lòng, tủm tỉm cười và nói tiếp:

- Chỉ sợ lúc ấy công tử lại nương tay không dám giết nàng ta thôi.

Tạ Tốn xen lời nói:

- Ở trên đảo này không có lịch để ta chọn ngày lành tháng tốt, vả lại chúng ta là người giang hồ hào kiệt, không mê tín như người thường, vậy hai bên đã bằng lòng rồi thì hãy quỳ xuống vái lạy trời đất để thành hôn, và sau đó Vô Kỵ hãy xua đuổi độc tố trong người Chu cô nương sớm ngày nào hay ngày ấy.

Vô Kỵ liền đỡ lời:

- Không, thưa nghĩa phụ và cô nương, xin hãy nghe tôi nói. Hân cô nương đối đãi với tôi tình thâm nghĩa trọng như vậy, nàng coi tôi như chồng từ hồi còn nhỏ, tôi cũng coi nàng như vợ từ lâu, tuy tôi với nàng chưa có hôn ước ràng buộc, nhưng đã có nghĩa vợ chồng, vậy nàng mới chết, xác còn chưa lạnh, tôi làm sao mà nhẫn tâm kết hôn với người khác ngay được?

Tạ Tốn ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói tiếp:

- Con nói rất phải, vậy ý con định thế nào?

Vô Kỵ đáp:

- Theo ý con thì ngay hôm nay trước hết con xin đính hôn với Chu cô nương để xua đuổi độc tố cho cô ta, như vậy có phải là thuận tiện cả không. Nếu trời phù hộ cho chúng ta bình yên về đến Trung thổ chờ con giết chết Triệu Minh, lấy lại được thanh bảo đao Ðồ Long trao cho nghĩa phụ xong, lúc đó chúng con thành hôn với nhau, có phải lưỡng toàn không?

Tạ Tốn vừa cười vừa nói:

- Con nghĩ rất phải nhưng nếu mười năm hay trăm năm nữa mà chúng ta không về được đến Trung thổ thì sao?

Vô Kỵ đáp:

- Ba năm sau, dù chúng ta có dời khỏi hòn đảo này được hay không, con cũng xin nghĩa phụ chủ trì cuộc hôn lễ cho chúng con.

Tạ Tốn gật đầu tán thành và quay đầu lại hỏi Chỉ Nhược:

- Còn Chu cô nương nghĩ sao?

Chỉ Nhược cúi đầu xuống, không trả lời, một lát sau mới lên tiếng:

- Cháu là một con bé mồ côi cha mẹ từ hồi còn nhỏ, sống không anh em chú bác gì hết, vậy cháu còn biết hỏi ý kiến ai nữa, nên bất cứ việc gì xin lão gia tự tiện làm chủ cho.

Tạ Tốn ha hả cười :

- Hay lắm, hay lắm. Thế là chúng ta ba người đã quyết định rồi, bây giờ hai người đã là vị hôn phu phụ, khỏi cần phải nghi kỵ gì nữa. Vô Kỵ, con mau xua đuổi độc tố trong người của vị hôn thê con đi.

Nói xong, lão hiệp đi luôn ra phía sau đảo để mặc cho hai người chữa bệnh cho nhau. Vô Kỵ khẽ hỏi Chỉ Nhược rằng:

- Em Chỉ Nhược, chẳng hay em có lượng thứ cho nỗi khổ tâm của tôi không?

Chỉ Nhược mỉm cười đáp:

- Chỉ vì tôi xấu xí, công tử mới vịn lẽ này lẽ nọ từ chối như vậy, nếu tôi là Triệu cô nương chắc lẽ hôm nay đã...

Nói đến đây, nàng quay đầu đi, không tiện nói nữa.

Vô Kỵ bỗng động lòng và nghĩ thầm:

- Khi còn ở trên thuyền nhỏ nổi lênh đênh trên mặt bể, ta đã vọng tưởng sau này sẽ được lấy cả bốn nàng một lúc. Sự thực người ta yêu nhất lại là tiểu yêu nữ thâm độc giảo hoạt bất cứ việc gì cũng dám làm. Ta thực uổng là một anh hùng hào kiệt, ham mê nữ sắc không biết phân biệt thiện ác gì hết...

Chỉ Nhược quay đầu lại, thấy chàng cứ đứng ngẩn người ra, nàng vội đứng dậy định đi nơi khác, Vô Kỵ vội giơ tay ra bắt lấy nàng, khẽ kéo một cái, không ngờ vì nàng uống phải thuốc độc nọ mà chân tay không còn chút hơi sức nào cả nên vừa bị Vô Kỵ kéo một cái, nàng ngã sắp về phía trước, ngã luôn vào trong lòng chàng.

Nàng hờn giận nói:

- Thế nào em cũng sẽ suốt đời bị công tử hà hiếp mất!

Vô Kỵ thấy nàng hơi hờn giận, lại càng xinh đẹp hơn trước nhiều, liền ôm chặt nàng và nói:

- Chỉ Nhược, hồi nhỏ chúng ta gặp nhau ở trên Hán Thủy, không ngờ bây giờ tôi được toại nguyện. Khi ở trên Quang Minh đỉnh, tôi một mình đấu với bốn ông già của phái Hoa Sơn và Côn Luân, nhờ có em lên tiếng chỉ điểm cho, tôi mới thoát chết, ơn đó tôi không bao giờ quên được.

Chỉ Nhược nằm tựa trong lòng chàng, thấy chàng nói như vậy, sực nghĩ lại chuyện xưa, vội hỏi:

- Hôm đó thiếp đâm chàng một kiếm, chẳng hay chàng có hận thiếp không?

Vô Kỵ đáp:

- Tôi thấy em đâm chéo mũi kiếm sang bên, không chịu đâm vào giữa ngực tôi, tôi liền biết ngay là em đã có lòng yêu tôi rồi.

Chỉ Nhược giả bộ hờn giận, hai má đỏ bừng, rồi đáp:

- Nếu sớm biết có ngày hôm nay, thì lúc ấy thiếp cứ đâm trúng ngay vào trái tim của công tử thì bây giờ đỡ phải lôi thôi phiền phức như thế này, và sau này cũng không bị công tử hà hiếp hay bị công tử chọc tức nữa.

Vô Kỵ ghì chặt lấy hai cánh tay nàng và nói tiếp:

- Từ giờ trở đi, tôi chỉ có thương mến em thêm, chứ đâu dám hà hiếp em, nhưng không biết hai vợ chồng chúng ta có trở về Trung thổ được không? Chúng ta đã lấy nhau, hai người kết thành một khối rồi thì khi nào tôi lại chọc tức em nữa.

Chỉ Nhược quay đầu nhìn mặt chàng giây phút rồi hỏi tiếp:

- Nếu thiếp làm sai lầm việc gì mà thất lễ với công tử, chẳng hay công tử có đánh mắng và chém giết thiếp không?

Chỉ Nhược quay mặt lại, mặt của nàng chỉ cách mặt Vô Kỵ có vài tấc thôi, nên khi nàng nói, hơi thở của nàng thơm như mùi hoa lan, khiến chàng không sao cầm lòng được, liền đưa môi khẽ hôn vào má nàng một cái và khẽ đáp:

- Người nhu mì văn vẻ hiền thục như em thì khi nào em còn lầm lỡ việc gì mà để cho tôi phải trách mắng.

Chỉ Nhược vuốt tóc của Vô Kỵ và nói tiếp:

- Dù là thánh hiền cũng có lúc lầm lỡ, huống chi là em. Thiếp mồ côi cha mẹ từ hồi nhỏ, không có người dạy bảo, thế nào mà chả có lúc hồ đồ.

- Dù em có lầm lỡ việc gì đi chăng nữa, tôi cũng chỉ dùng lời lẽ để khuyên bảo mà thôi.

- Công tử quyết không thay lòng đổi dạ chứ? Và cũng không bao giờ ra tay giết thiếp đấy chứ?

Vô Kỵ khẽ hôn trán nàng một cái nữa và nhẹ nhàng an ủi tiếp:

- Em chớ có nghĩ vơ vẫn nữa, không bao giờ có chuyện như thế đâu.

- Công tử phải hứa ngay với thiếp để thiếp yên lòng.

- Ðược, tôi sẽ không bao giờ thay đổi tâm tính và chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện giết em.

Chỉ Nhược ngước nhìn đôi mắt chàng, rồi nói tiếp:

- Thiếp cấm công tử cười hì hì hà hà như vậy, công tử phải nói đứng đắn mới được.

Vô Kỵ vừa cười và đáp:

- Không hiểu trong đầu óc nho nhỏ của em đang nghĩ gì thế?

Chàng vừa nói vừa nghĩ thầm:

- Có lẽ vì ta quyến luyến cùng một lúc Triệu Minh, Tiểu Siêu và biểu muội, nên nàng tưởng ta là người đa tình mới không yên trí, nhưng từ giờ trở đi, làm gì có chuyện đó xảy ra nữa?

Nghĩ đoạn, chàng nghiêm nét mặt lại, trang trọng nói tiếp:

- Chỉ Nhược, em là vợ cưng của tôi, trước kia tôi có đa tình thực, nhưng mong em đừng nghĩ chuyện đó nữa, từ nay trở đi, tôi quyết không thay lòng đổi dạ nữa. Dù em có làm lầm lỗi điều gì, tôi cũng không trách mắng em đến nửa lời.

- Vô Kỵ đại ca, đại ca là nam nhi đại trượng phu, nên giữ lời hứa hôm nay nhé.

Nàng vừa nói vừa chỉ lên mặt trăng và nói tiếp:

- Có mặt trăng kia làm chứng cho chúng ta.

- Phải, em nói rất phải, trăng trên trời tức là nhân chứng của chúng ta đấy.

Chàng vẫn ôm chặt Chỉ Nhược trong lòng ngửng mặt nhìn trăng tròn và nói tiếp:

- Chỉ Nhược, tại suốt đời bị nhiều người lừa dối và bắt nạt, hồi nhỏ vì quá tin người, nên tôi chịu đựng không biết bao nhiêu gian khổ. Bây giờ tôi cũng không nhớ ra đã bị người ta lừa dối hay đánh đập bao nhiêu lần, nhưng tôi chỉ nhớ lúc còn cha mẹ và nghĩa phụ ở trên Băng Hoa đảo, thì không có những người gian trá mưu hại chúng tôi. Lần đầu tiên, khi về đến Trung Nguyên, tôi bị ngay một tên ăn mày đánh lừa, úp chụp cái túi vải lên đầu và bắt tôi đem đi. Tôi có ngờ đâu Triệu cô nương, người cùng sống chết và cùng hoạn nạn với chúng ta, khi chạy tới đảo này, lại bỏ thuốc độc vào thức ăn hại chúng ta.

- Ðại ca không bị như thế thì có lẽ đến giờ chưa hối hận...

Vô Kỵ cảm thấy tương lai rất hạnh phúc, liền nói:

- Chỉ Nhược, em mới thực là người thân thiết vĩnh viễn của tôi, xưa nay em đối đãi với tôi rất tử tế, nếu sau này chúng ta về được tới Trung thổ, em sẽ giúp tôi đề phòng những tiểu nhân xảo trá đó. Tôi có người nội trợ hiền đức như vậy, thật là may mắn vô cùng.

Chỉ Nhược lắc đầu đáp:

- Thiếp là một con bé vô dụng, nhu nhược, bất tài. Mặt mũi lại xấu xí, đần độn thì bằng sao được với Triệu cô nương người thông minh tuyệt đỉnh, ngoài nàng ta ra, lại có cả Tiểu Siêu cũng hơn em nhiều. Ðại ca nên hiểu, Chu cô nương của đại ca chỉ là một đứa tốt và ngu xuẩn thôi. Chẳng lẽ cho tới ngày hôm nay, đại ca chưa biết con bé này tầm thường như thế hay sao?

- Chỉ có cô bé trung hậu hiền đức này mới không lừa dối tôi thôi.

- Vô Kỵ đại ca, thiếp được làm vợ chồng với đại ca, trong lòng sung sướng khôn tả, chỉ mong đai ca đừng vì thấy thiếp ngu dốt vô dụng mà khinh thường hà hiếp thiếp... thiếp thế nào cũng cố hết sức hầu hạ cho đại ca được vừa lòng.

Hai người ngồi bên cạnh bờ bể, mải chuyện trò tình tứ với nhau không biết lúc ấy trời đã sắp tối.

Ngày hôm sau, Vô Kỵ liền dùng Cửu Dương thần công xua đuổi độc tố cho Chỉ Nhược.

Chàng không ngờ Chỉ Nhược lại nhiễm độc rất ít, chàng đoán chừng bữa đó nàng ăn ít nên vết thương mới nhẹ hơn Tạ Tốn.

Nhưng chàng chữa cho nàng đến ngày thứ bảy, bỗng thấy trong người nàng có một luồng âm hàn cản trở, chống lại với Cửu Dương chân khí của mình.

Tuy Chỉ Nhược cố hết sức kiềm chế hơi hàn độc đó lại, nhưng không dễ dàng thâu được Cửu Dương chân khí vào trong người.

Vô Kỵ kinh ngạc vô cùng liền hỏi nghĩa phụ xem sao.

Tạ Tốn ngẫm nghĩ giây lát rồi đáp:

- Ta không hiểu sao hết, nhưng có lẽ nàng đã tập võ công của phái Nga Mi, nên mới có âm hàn khí như vậy.

Vô Kỵ gật đầu cho là phải. Cũng may, nội công của Chỉ Nhược kém chàng rất xa, nên không bao lâu âm hàn khí trong người của nàng đã bị Cửu Dương chân khí của chàng lấn át. Tuy vậy chàng đã phải tốn rất nhiều hơi sức hơn là lúc chữa Tạ Tốn.

Chàng khen Chỉ Nhược rằng:

- Sư phụ của em quả thật là một đại nhân kiệt, nội công của bà truyền thụ cho em là một môn nội công cao thâm nhất trong cửa Phật, bây giờ tôi đã nhận thức ra rồi. Nếu em cứ tiếp tục luyện tập, sau này có thể ngang tài với Cửu Dương thần công của tôi được.

- Ðại ca nói dối thiếp, võ công của phái Nga Mi bằng sao được Cửu Dương thần công và Càn Khôn Ðại Nã Di tâm pháp của đại ca.

- Chỉ Nhược, thiên tính của em rất thuần hậu, tuy em chưa học hỏi các môn võ công, nhưng nội công của em đã có căn bản rất vững rồi. Theo lời nói của Thái sư phụ tôi, muốn luyện võ công cho tới mức thật cao siêu thì phải có tư chất riêng mới được, chứ chỉ có chăm chỉ và thông minh không thì không thể nào luyện được tới mức tối cao được. Nghe nói cha của Quách nữ hiệp, tổ sư của môn phái em là Quách Tỉnh đại hiệp cũng vậy, người rất đần độn, nhưng võ công đã luyện tới mức thiên hạ vô địch. Thái sư phụ tôi có nói chính võ công của ông ta chưa chắc đã bằng Quách đại hiệp năm xưa. Nội công của phái Nga Mi của em còn cao siêu hơn nữa. Theo sự nhận xét của tôi thì sau này sự thành công của em còn hơn Diệt Tuyệt sư thái nữa.

Chỉ Nhược liếc mắt nhìn chàng một cái hờn giận nói tiếp:

- Ðại ca muốn lấy lòng thiếp, khỏi phải khen thiếp võ công cao siêu như vậy. Nếu thiếp học được một phần mười của tiên sư, thì thiếp đã mãn ý rồi. Khi nào đại ca truyền thụ Cửu Dương thần công và Càn Khôn Ðại Nã Di cho thiếp, thì lúc ấy thiếp sẽ cảm ơn đại ca liền.

Vô Kỵ suy nghĩ hồi lâu chưa kịp trả lời, thì Chỉ Nhược liền nói tiếp:

- Ðại ca bảo thiếp không đáng là đồ đệ của Trương giáo chủ hay sao?

Vô Kỵ đáp:

- Không, tôi nhận thấy nội công của tôi khác hẳn nội công của em nhiều. Nói trắng ra thì nội công của hai người đường lối khác hẳn nhau. Nếu tôi dạy em, thì thực khó nhất trên đời.

Chỉ Nhược thở dài một tiếng rồi hỏi tiếp:

- Ðại ca không chịu dạy tôi thì thôi, dù không học được võ công cũng không có gì là nguy hiểm hết.

- Không, Cửu Dương thần công của tôi thuộc nội công thuần dương, mà nội công của em học theo phái của Nga Mi lại là thuần âm. Muốn âm dương phối hợp vào trong người mình như thế, trên đời này chỉ có Thái sư phụ của tôi, mới có thể học được cả hai môn nội công khác như thế thôi. Người nào nội công kém một chút mà cố học cả hai môn trái ngược đó, thế nào cũng bị "tẩu hỏa nhập ma". Chờ sau này nội công của em luyện tới mức thành tài rồi, lúc ấy em có thể học môn Càn Khôn Ðại Nã Di tâm pháp của anh liền.

- Thiếp đã nói đùa với đại ca đấy thôi. Sau này thể nào thiếp cũng ở bên cạnh chàng. Như vậy võ công của chàng với võ công của thiép có phân biệt gì nữa đâu. Chắc Cửu Dương thần công của đại ca thể nào cũng khó luyện lặm, dù đại ca có bắt thiếp luyện, thiếp thấy khó chưa chắc đã chịu đâu.

Vô Kỵ nghe thấy nàng nói như vậy khoái chí vô cùng.

Hai người âu yếm bên nhau, nên không cảm thấy thời gian trôi chay mau lâu hay sao. Thoáng cái đã qua được vài tháng, lúc ấy đã Ðông cận Xuân tới, Chỉ Nhược cảm thấy sức lực của mình hoàn toàn khôi phục, nên nàng đoán chắc trong người đã hết độc tố. Hôm đó rất đẹp trời; mấy cây hoa đào ở phía Ðông đã nở rất sai.

Vô Kỵ tỉa mấy cành hoa đào đem cắm ở trước mộ Hân Ly.

Chàng nghĩ đến người em họ đó suốt đời chưa hề được một ngày nào hưởng hạnh phúc hết. Chàng rầu rĩ, bỗng nghe thấy chim hải âu trên mặt bể kêu ríu rít. Chàng ngẩng đầu lên nhìn, bỗng đằng xa, có một chiếc thuyền buồm đang đi tới.

Chàng mừng rỡ vô cùng, vội lớn tiếng kêu:

- Nghĩa phụ, Chỉ Nhược có chiếc thuyền tới đây nè.

Tạ Tốn và Chỉ Nhược nghe thấy tiếng gọi, liền chạy về phía Vô Kỵ.

Chỉ Nhược với giọng run run hỏi:

- Vô Kỵ đại ca, tại sao có thuyền tới đây như vậy?

Vô Kỵ đáp:

- Lạ thực, chẳng lẽ là thuyền của giặc?

Nửa tiếng đồng hồ sau, chiếc thuyền nọ đã thả neo đậu ở cạnh đảo.

Tiếp theo đó một chiếc thuyền nhỏ bơi vào bờ.

Bọn Vô Kỵ ba người liền chạy ra ngoài bờ bể nghênh đón.

Vô Kỵ thấy các thủy thủ ở trên thuyền đó đều ăn mặc quân phục thủy sư của người Mông Cổ.

Chàng động lòng suy nghĩ thầm:

- Chẳng lẽ, Triệu cô nương lương tâm cắn rứt, lại quay lại đảo này chăng?

Chàng vừa nghĩ vừa liếc mắt nhìn Chỉ Nhược. Chàng thấy nàng tỏ vẻ lo âu, trống ngực đập mạnh, hiển nhiên nàng có tâm sự gì rất lớn vậy. Giây phút sau chiếc thuyền nhỏ đã ghé vào bờ, liền có năm tên thủy thủ bước vào bờ.

Người đi đầu là một quan quân thủy sư, y vừa lên tới nơi đã cúi đầu vái chào Vô Kỵ và hỏi:

- Ngài có phải là Trương công tử đấy không?

Vô Kỵ đáp:

- Phải, chính tôi đây, chẳng hay trưởng quan là ai đấy?

Người nọ nghe thấy Vô Kỵ đã tự nhận, liền hân hoan hỏi tiếp:

- Tiểu nhân họ Ðạt tên là Túc Ðài, ngày hôm nay Ðạt tôi gặp công tử thật là may mắn vô cùng. Tiểu nhân được lệnh tới đây nghênh đón công tử, và Tạ đại hiệp trở về Trung thổ.

Y chỉ nói với Vô Kỵ và Tạ Tốn hai người, chứ không nhắc nhở đến tên của Chỉ Nhược. Vô Kỵ liền đáp lễ và hỏi:

- Trưởng quan ở nơi xa tới nhọc mệt, chẳng hay ai đã sai như vậy?

Ðạt Túc Ðài vội đáp:

- Tiểu nhân là thủ hạ của thủy sư đô đốc Ðạt Hoa Xích Lỗ, vẫn trú phòng ở tỉnh Phúc Yên. Tiểu nhân thừa lệnh tướng công Ðạt Nhĩ Ðô Tư, tới đây nghênh đón hai vị. Ðạt Nhĩ Ðô Tư chúng tôi đã phái tất cả tám chiếc thuyền ra bể, để tìm kiếm công tử và Tạ đại hiệp, không ngờ tiểu nhân lại lập được công đầu.

Y nói xong có vẻ khoái chí lắm, hiển nhiên là cấp trên của y đã hứa hẹn hễ ai kiếm thấy Vô Kỵ là được trọng thưởng nên y mới có vẻ mặt tươi cười như thế. Vô Kỵ nghe thấy nói tên tướng công Mông Cổ đó rất lạ, chàng chưa hề nghe thấy Triệu Minh nói tới bao giờ. Nhưng chàng đoán chắc những tướng quân Mông Cổ đó thể nào cũng thừa lệnh Triệu Minh đi tìm kiếm mình nên mới hỏi tiếp:

- Trưởng quan có biết tới đây đón tôi để làm chi không?

Ðạt Túc Ðài đáp:

- Ðạt Nhĩ Ðô Tư tướng công dặn bảo, Trương công tử là một vị đại quý nhân, và cũng là một vị anh hùng hào kiệt đương thời. Cho nên bảo tiểu nhân kiếm lấy Trương công tử, thì phải cẩn thận mà hầu hạ tiếp rước. Còn tại sao lại phải đi tới đây nghênh đón công tử về làm gì thì tại hạ không biết, vì chức vụ của tại hạ thấp kém, nên không được tướng công cho hay.

Chỉ Nhược liền xen lời hỏi:

- Có phải Minh Minh Quận chúa ra lệnh cho các người đi đón không?

Ðạt Túc Ðài đáp:

- Tiểu nhân làm gì có phúc đức được gặp Minh Minh Quận chúa như thế.

Chỉ Nhược lạnh lùng hỏi tiếp:

- Tại sao ngươi lại bảo phải có phúc mới được gặp Quận chúa?

Túc Ðài trả lời:

- Minh Minh Quận chúa là đệ nhất mỹ nhân của người Mông Cổ chúng tôi, à không, là đệ nhất mỹ nhân trên thiên hạ thì đúng hơn. Quận chúa văn võ toàn tài, lại là gái cưng của Nhữ Dương Vương. Tiểu nhân làm gì có phước mà được gặp kim diện của Quận chúa chứ.

Chỉ Nhược chỉ dùng giọng mũi kêu hừ một tiếng chứ không nói năng gì nữa.

Vô Kỵ liền nói với Tạ Tốn rằng:

- Nghĩa phụ, nếu vậy chúng ta xuống thuyền ngay đi.

Tạ Tốn liền nói với người Mông Cổ kia:

- Chúng tôi quay trở về sơn động lấy ít đồ đạc rồi trở ra thuyền ngay. Trưởng quan ở đây đợi chờ chúng tôi giây lát nhé.

Ðạt Túc Ðài nói tiếp:

- Ðể tiểu nhân với các thủy thủ khiêng hành lý hộ ba vị cho.

Tạ Tốn vừa cười vừa đáp:

- Chúng tôi làm gì có hành lý mà dám phiền đến quý vị.

Nói xong, Sư vương dắt tay Vô Kỵ và Chỉ Nhược đi ra phía hậu sơn, rồi dừng chân lại nói:

- Triệu Minh bỗng phái người đến đây đón chúng ta, chắc thế nào cũng có âm mưu gì, chúng ta phải thận trọng đề phòng.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#gái#long