RACHEL

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Thứ Sáu, 5 tháng Bảy 2013

Sáng

Có một đống quần áo nằm bên cạnh đường tàu. Vải màu xanh dương nhạt - một chiếc áo, có lẽ - lẫn với thứ gì đó bẩn thỉu màu trắng. Có lẽ là rác, rơi rớt từ đống rác bị vứt trộm vào khu rừng nhỏ rậm rạp nơi thượng nguồn sông. Có lẽ nó là do đám kỹ sư phụ trách đoạn đường ray này bỏ lại, họ có mặt ở đây khá thường xuyên. Hoặc nó có thể là thứ gì đó khác. Mẹ vẫn thường bảo tôi có trí tưởng tượng quá phong phú; Tom cũng nói thế. Tôi chẳng thể làm gì khác: tôi bắt gặp hình ảnh những thứ đầu thừa đuôi thẹo bị vứt bỏ này, một chiếc áo phông bẩn thỉu hay một chiếc giày chơ vơ, và tất cả những gì tôi có thể nghĩ đến là chiếc giày còn lại, cùng đôi chân xỏ vừa đôi giày đó.

Đoàn tàu giật mạnh, rầm rập và rin rít chuyển động trở lại, đống quần áo nhỏ biến mất khỏi tầm nhìn và chúng tôi lăn bánh tiến về London, với tốc độ chỉ bằng một người chạy bộ nhanh. Ai đó ngồi sau lưng tôi thở hắt ra một tiếng bực bội bất lực; chuyến tàu chậm khởi hành lúc 8 giờ 4 phút từ Ashbury đến Euston có thể thử thách lòng kiên nhẫn của ngay cả hành khách dày dặn nhất. Hành trình này dự kiến mất khoảng năm mươi tư phút, nhưng hiếm khi được như thế: cung đường ray này đã cũ kỹ, hư nát, đầy rẫy nhưng vấn đề về báo hiệu và những sự vụ kỹ thuật liên tu bất tận.

Đoàn tàu bò trên đường ray; nó lắc lư vượt qua các nhà kho và tháp nước, cầu và chuồng trại, qua những ngôi nhà thời Victoria khiêm tốn quay lưng vuông góc với đường ray.

Tựa đầu vào cửa sổ toa tàu, tôi nhìn những ngôi nhà ấy trôi qua như một cảnh quay chuyển động phối hợp trong một bộ phim. Tôi nhìn chúng trong khi những người khác thì không; thậm chí đến cả những chủ nhà có lẽ cũng không nhìn chúng từ góc độ này. Hai lần một ngày, tôi được trao cho cơ hội nhòm vào những cuộc đời khác, chỉ trong thoáng chốc. Thật có phần nhẹ nhõm khi nhìn thấy những người lạ an toàn ở nhà.

Điện thoại ai đó đổ chuông, một bài hát rộn rã hân hoan đến mức phi lý. Người nghe không trả lời ngày, tiếng chuông reo dai dẳng quanh tôi. Tôi có thể cảm nhận được các vị khách đồng hành ngọ nguậy trên ghế ngồi, giở báo sột soạt, gõ máy tính. Đoàn tàu lắc lư, tròng trành vòng qua đoạn đường cong, giảm dần tốc độ khi tiến gần đèn hiệu màu đỏ. Tôi cố không nhìn lên, tôi cố đọc tờ báo miễn phí được đưa cho trên đường vào ga, nhưng từ ngữ nhòa đi trước mắt tôi, chẳng có gì thu hút sự chú ý của tôi. Trong tâm trí, tôi vẫn có thể nhìn thấy đống quần áo nhỏ đó đang nằm bên vệ đường, chơ vơ.

Tối

Hỗn hợp gin và tonic pha sẵn sủi tăm trào ra cả miệng lon lúc tôi đưa lon rượu lên nhấp từng hớp. Thơm và mát lạnh, mùi vị kỳ nghỉ đầu tiên của tôi với Tom, một làng chài bên bờ biển Basque năm 2005. Sáng sáng, chúng tôi bơi nửa dặm tới hòn đảo nhỏ trong vịnh, làm tình trên những bãi biển kín đáo khuất nẻo; chiều chiều chúng tôi ngồi ở quán bar uống món gin pha tonic đậm đặc, đăng đắng, quan sát người ta chơi một trận bóng đá bãi biển hỗn loạn với mỗi đội hai mươi lăm người trên bãi cát triều thấp.

Tôi nhấp thêm hớp nữa, rồi hớp nữa; lon rượu đã cạn nửa nhưng có sao đâu, tôi vẫn còn ba lon nữa trong cái túi nylon dưới chân. Đang là thứ Sáu, vậy nên tôi không cần phải áy náy vì uống rượu trên tàu. Ơn Chúa hôm nay là thứ Sáu rồi. Vui thú bắt đầu từ đây.

Sẽ là một cuối tuần đẹp trời, người ta vẫn hay nói thế. Nắng rạng rỡ, trời trong xanh. Ngày xưa có lẽ chúng tôi đã mang theo báo và đồ picnic đánh xe tới rừng Corly, dành trọn buổi chiều nằm trên một chiếc chăn dưới ánh nắng lốm đốm, uống rượu. Có lẽ chúng tôi nướng thịt ngoài trời cùng bạn bè, hay tới quán Rose và ngồi trong quán bia vườn, mặt đỏ phừng phừng vì mặt trời và vì rượu trong quán bia lúc chiều buông, lảo đảo về nhà, tay trong tay, thiếp ngủ trên sofa.

Nắng rạng rỡ, trời trong vắt, không có ai để chơi cùng, không có việc gì để làm. Sống như thế này, cách tôi sống ngay lúc này, trở nên khóa khăn hơn hẳn vào mùa hè, khi tất cả mọi người đều ra đường đi đó đi đây, hạnh phúc một cách lồ lộ và mãnh liệt. Nó rút cạn sinh lực ta, khiến ta thấy khó chịu nếu ta không tham gia vào nó.

Kỳ nghỉ cuối tuần trải dài phía trước tôi, bốn mươi tám tiếng đồng hồ trống rỗng cần lấp đầy. Tôi lại đưa lon rượu lên miệng, nhưng chẳng còn sót giọt nào.

Thứ Hai, 8 tháng Bảy 2013

Sáng

Thật nhẹ nhõm khi được trở lại với chuyến tàu 8 giờ 4 phút. Nói như thế không có nghĩa là tôi nóng lòng được đến London để khởi đầu tuần mới - tôi không tha thiết gì với chuyện được ở London. Tôi chỉ muốn được ngả lưng vào cái ghế nhung len êm ái lún sâu, cảm nhận hơi ấm mặt trời tuôn trào qua cửa sổ, cảm nhận toa tàu lắc lư từ sau ra trước, từ sau ra trước, nhịp điệu đầu an ủi của những chiếc bánh xe trên đường ray. Tôi thà ở nơi đây, trông ra những ngôi nhà ven đường tàu, còn hơn ở bất kỳ nơi nào khác.

Trên tuyến đường này có một đèn tín hiệu bị hỏng, ở khoảng giữa cuộc hành trình của tôi. Dù sao thì tôi cũng đoán là nó bị hỏng vì hầu như lúc nào nó cũng đỏ; chúng tôi hầu như ngày nào cũng dừng ở đó, đôi khi chỉ vài giây, đôi khi hàng mấy phút. Nếu tôi ngồi ở toa D, như tôi vẫn thường làm thế, và đoàn tàu dừng lại tại chỗ đèn hiệu này, như nó gần như luôn làm thế, tôi sẽ có tầm nhìn hoàn hảo vào ngôi nhà ven đường tàu ưa thích nhất: số 15.

Số 15 cũng giống hệt những ngôi nhà khác dọc dải đường này: một ngôi nhà chung tường phong cách Victoria, hai tầng, trông ra một khu vườn hẹp được chăm sóc chu đáo chạy khoảng 6 mét về phía hàng rào chắn trước mấy mét đất hoang giáp đường ray. Tôi nắm rõ ngôi nhà này rõ như trong lòng bàn tay. Tôi biết từng viên gạch, tôi biết màu rèm trong phòng ngủ trên tầng (màu be, in hoa màu xanh dương đậm), tôi biết lớp sơn trên khung cửa sổ phòng tắm đang tróc và phía bên phải bị thiếu mấy mấy viên gạch lớp.

Tôi biết rằng vào các buổi tối mùa hè ấm áp, những người sống trong ngôi nhà này, Jason và Jess, thỉnh thoảng lại trèo ra bên ngoài ô cửa sổ rộng lắp kính trượt để ngồi ở cái sân thượng tạm chế trên nóc bếp mở rộng. Họ là một cặp đôi vàng, hoàn hảo. Anh tóc đen dáng người rắn roit, khỏe khoắn, ân cần và đầy chở che. Anh có điệu cười sảng khoái. Cô thuộc kiểu phụ nữ nhỏ nhắn ríu rít, một người đẹp da trắng xanh với mái tóc vàng cắt ngắn. Cô có khung xương hợp với kiểu đó, xương gò má nhịn, lấm tấm tàn nhang, quai hàm nhỏ nhắn.

Trong lúc chúng tôi bị kẹt lại chỗ đèn tín hiệu đỏ, tôi tìm kiếm họ. Buổi sáng, đặc biệt vào mùa hè, Jess thường ra ngoài đó uống cà phê. Thỉnh thoảng, khi nhìn thấy cô ở đó, tôi lại có cảm giác như cô cũng nhìn thấy tôi, cảm giác như cô đang nhìn thẳng và đáp lại tôi, và tôi những muốn vẫy tay chào. Tôi vô cùng lúng túng. Tôi không hay nhìn thấy Jason, anh thường xuyên vắng mặt vì công việc. Nhưng dù họ không ở đấy, tôi cũng vẫn tưởng tượng ra những gì họ có thể đang làm. Có lẽ sáng nay cả hai đều nghỉ làm và cô đang nằm trên giường trong lúc anh đang làm bữa sáng, hoặc cũng có thể họ đã đi chạy thể dục cùng nhau, vì đó đúng là kiểu hoạt động của họ. (Tom và tôi thường chạy cùng nhau vào các Chủ nhật, tôi chạy nhanh hơn một chút so với tốc độ bình thường của mình, còn anh chạy bằng nửa tốc độ quen thuộc, như vậy chúng tôi có thể chạy song song với nhau.) Có lẽ Jess ở tầng trên trong phòng dành cho khách, đang vẽ tranh, hoặc cũng có thể họ đang tắm cùng nhau, hai bàn tay cô ép lên lớp gạch ốp, hai bàn tay anh trên hông cô.

Tối

Hơi xoay người về phía cửa sổ, quay lưng lại với phần còn lại của toa tàu, tôi mở một trong mấy chai Chenin Blanc nhỏ mua từ cửa hàng Whistlestop ở ga Euston. Trời không lạnh, nưng rồi sẽ lạnh thôi. Tôi rót một ít vào cốc nhựa, vặn nắp trở lại và nhét vội chai rượu vào trong túi xách. Uống rượu trên tàu vào thứ Hai là hành vi không hề được hoan nghênh, trừ phi ta uống với bạn, mà tôi thì không thế.

Trên những chuyến tàu này có nhiều gương mặt quen thuộc, những con người tôi gặp hằng tuần, đi ngược đi xuôi. Tôi nhận ra họ và họ có lẽ cũng nhận ra tôi. Tuy nhiên, tôi không biết liệu họ có nhìn ra con người thật của tôi không.

Buổi tối hôm đó trời rất đẹp, ám áp nhưng không quá ngột ngạt, mặt trời đã bắt đầu uể oải lặn xuống, những bóng râm trải dài hơn và ánh sáng vừa bắt đầu nhuộm màu vàng rực lên cây cối. Con tàu xình xịch lăn bánh, chúng tôi lao vùn vụt qua nhà Jason và Jess, họ trôi xa trong ánh hoàng hôn nhạt nhòa. Thỉnh thoảng, không mấy thường xuyên, tôi có thể nhìn thấy họ từ phía bên này đường tàu. Nếu không có đoàn tàu nào ở phía đối diện, và nếu tàu của chúng tôi chạy đủ chậm, thỉnh thoảng tôi có thể thấp thoáng nhìn thấy họ bên ngoài nhà trên sân thượng. Nếu không - giống như hôm nay - tôi có thể tưởng tượng ra họ. Jess sẽ ngồi gác chân lên bàn ngoài sân thượng, tay cầm ly rượu, Jason đứng sau cô, hai bàn tay tì lên vai cô. Tôi có thể tưởng tượng ra cảm giác từ đôi bàn tay anh, sức nặng của chúng, trấn an và bao bọc. Đôi khi, tôi nhận thấy mình đang cố gắng nhớ lại lần gần nhất tôi có sự tiếp xúc ý nghĩa về mặt thể xác với người khác, kiểu như một cái ôm hay một cái siết tay nồng nhiệt, và trái tim tôi thắt lại.

Thứ Ba, 9 tháng Bảy 2013

Sáng

Đống quần áo từ tuần vừa rồi vẫn còn, có vẻ như bẩn thỉu hơn và trơ trọi hơn hẳn so với mấy ngày trước. Tôi từng đọc được ở đâu đó rằng khi một đoàn tàu đâm vào ta, nó có thể xé toạc quần áo ra khỏi người ta. Chuyện đó cũng chẳng có gì là bất thường, chết vì bị tàu đam. Nghe nói mỗi năm có tầm hai, ba trăm người, vậy nên cứ vài ngày lại có ít nhất một người. Tôi không chắc có bao nhiêu vụ trong số đó là tai nạn. Tôi quan sát chăm chú, khi đoàn tàu chậm chạp lăn bánh qua, cốt tìm dấu máy trên đống vải, nhưng chẳng thể thấy gì.

Đoàn tàu dừng ở chỗ đèn hiệu như thường lệ. Tôi có thể nhìn thấy Jess đang đứng trên sân, trước khung cửa kiểu Pháp. Cô đang mặc chiếc váy hoa văn sáng màu, hai bàn chân trần. Cô ngoái nhìn qua vai, vào trong ngôi nhà; có lẽ cô đang nói chuyện với Jason, hản lúc này đang làm bữa sáng. Tôi dán mắt vào Jess, vào ngôi nhà của cô, trong lúc đoàn tàu bắt đầu ì ạch tiến về phía trước. Tôi không muốn nhìn những ngôi nhà khác; tôi đặc biệt không muốn nhìn ngôi nhà cách đó bốn nhà, ngôi nhà từng thuộc về tôi.

Tôi từng sống năm năm ở số hai mươi ba, đường Blenheim, hạnh phúc ngất ngây và đau khổ tột cùng. Giờ tôi không thể nhìn vào nó. Đó là ngôi nhà đầu tiên của tôi. Không phải nhà của bố mẹ tôi, không phải là căn hộ thuê chung với các sinh viên khác, ngôi nhà đầu tiên của tôi. Tôi không thể chịu được nếu phải nhìn nó. Thế đấy, tôi có thể, tôi nhìn, tôi muốn nhìn, tôi không muốn, tôi cố không nhìn. Ngày nào tôi cũng nhủ lòng đừng nhìn, và ngày nào tôi cũng nhìn. Tôi không cưỡng lại được, cho dù ở đó chẳng có gì tôi muốn nhìn, cho dù bất cứ thứ gì tôi nhìn thấy cũng đều sẽ khiến tôi đau đớn. Cho dù tôi vẫn còn nhớ rõ mồn một tâm trạng của mình vào cái lần ngước mắt lên và để ý thấy tấm rèm bằng vải lanh màu kem trong phòng ngủ trên tầng đã biến mất, được thay thế bằng một thứ gì đó mang màu hồng nhạt trẻ con; cho dù tôi vẫn còn nhớ nỗi đau trong lòng khi nhìn thấy Anna tưới nước cho bụi hoa hồng cạnh hàng rào, chiếc áo phông bó sát cái bụng phình lên của cô ta, và tôi cắn chặt môi đến bật máu.

Tôi nhắm chặt môi và đếm đến mười, mười lăm, hai mươi. Thế, giờ đã xong rồi, chẳng còn gì mà nhìn nữa. Chúng tôi lăn bánh vào ga Witney và rồi lại lăn bánh rời khỏi, đoàn tàu bắt đầu tăng tốc khi vùng ngoại ô London nhòa dần thành vùng Bắc London bụi bặm, những ngôi nhà chung tường đã bị thay thế bởi những câu cầu có gắn biển tên và những tòa nhà trống với cửa sổ vỡ. Chúng tôi càng tiến đến gần Euston, tôi càng cảm thấy lo lắng hơn; áp lực tích tụ, ngày hôm nay sẽ như thế nào? Có một tòa nhà bè tông thấp nhếch nhác ở phía tay phải đường tàu trước lúc chúng tôi vào Eustn tầm năm trăm mét. Bên hông nhà, ai đó đã sơn một dòng chữ: CUỘC ĐỜI KHÔNG PHẢI MỘT ĐOẠN VĂN. Tôi nhớ đến đống quần áo bên đường tàu và có cảm giác cổ họng mình thít lại. Cuộc đời không phải là một đoạn văn và cái chết chẳng phải là dấu ngoặc. (1)

---------------

(1), Lấy ý từ một câu thơ trong bài Since feeling is first của E.E. Cummings: ''for life's not a paragraph/ And dealth I think is no parenthesis'', ngụ ý cả cuộc sống và cái chết đều chẳng thể gói gọn lại trong một giới hạn giản đơn.

---------------

Tối

Chuyến tàu tôi đi buổi tối, khởi hành lúc 17 giờ 56 phút, chạy chậm hơn một chút so với chuyến tàu sáng - hành trình hết một tiếng một phút, lâu hơn bảy phút so với chuyến tàu sáng, cho dù không dừng thêm ở bất kỳ ga nào khác. Tôi không bận tâm, vì cũng như chẳng mấy háo hức đến London vào buổi sáng, tôi cũng không vội trở về Ashbury vào buổi tối. Không phải chỉ vì nó là Ashbury, mặc dù tự chỗ chỗ này cũng đủ tệ lắm rồi, một thị trấn mới từ thời thập niên 1960, lan ra như một khối u trên khắp trái tim vùng Buckinghamshire. Chẳng hơn kém gì so với hàng chục thị trấn tương tự, một trung tâm chật ních những quán cà phê và cửa hàng điện thoại di động và cửa hàng đồ thể thao JD Sports, bao quanh là một dải ngoại ô mà vượt ra ngoài nó là lãnh địa của một cụm rạp chiếu phim và siêu thị Tesco nông thông. Tôi sống ở một khối nhà (có ve) mới và (có vẻ) sang trọng tọa lạc ngay tại nơi trung tâm thương mại của vùng bắt đầu giao với khu dân cư ngoại ô, nhưng nó không phải nhà tôi. Nhà tôi là ngôi nhà chung tường phong cách Victoria bên đường tàu, ngôi nhà tôi từng đồng sở hữu. Ở Ashbury, tôi không phải chủ nhàm thậm chí cũng chẳng phải người thuê nhà - tôi là một khách trọ, thuê lại phòng ngủ phụ trong căn hộ kép không có gì đặc biệt và cũng chẳng có gì đáng chê trách của Cathy, sống lệ thuộc vào sự chiếu cố và thiện ý của cô.

Cathy và tôi là bạn thời đại học. Thật ra chỉ là bạn bè kiểu xã giao, chúng tôi chưa bao giờ thân thiết hơn thế. Hồi tôi năm nhất, cô sống ở căn phòng bên kia hành lang đối diện phòng tôi và chúng tôi học cùng nhau nhiều môn, vậy nên lẽ tự nhiên chúng tôi đã trở thành đồng minh trong vài tuần đầu tiên dễ thoái lòng nản chí, cho tới khi chúng tôi gặp được những người có nhiều điểm chung với mình hơn. Sau năm thứ nhất, chúng tôi không thường gặp nhau, và đến khi đã tốt nghiệp thì hầu như chẳng bao giờ, chỉ trừ thỉnh thoảng vào dịp đám cưới. Nhưng đúng vào lúc tôi cần, cô tình cờ lại có một căn phòng để trống là thế là thành chuyện. Tôi vẫn chắc mẩm sẽ chỉ mất tầm đôi ba tháng, nhiều nhất là nửa năm, và lúc đó tôi không biết làm gì khác. Tôi chưa bao giờ sống một mình, sau khi rời khỏi bố mẹ đã có các bạn cùng trọ rồi đến Tom, và tôi khó lòng cưỡng nổi ý tưởng này nên đã đồng ý. Và đến giờ đã gần hai năm rồi.

Chuyện cũng chẳng có gì khủng khiếp. Cathy là người tử tế, theo một cách mạnh mẽ. Cô khiến ta phải để ý đến sự tử tế của cô. Sự tử tế của cô rõ ràng và hiển nhiên, nó là đức tính đã được xác định của cô và cô cần nó được thừa nhận, một cách thường xuyên gần như hàng ngày, thành ra có lẽ rất mệt mỏi. Nhưng như thế cũng chẳng phải quá tệ, tôi còn có thể tưởng tượng ra nhiều đặc điểm tệ hơn nhiều ở một người bạn cùng phòng. Không, không phải Cathy, thậm chí cũng chẳng phải Ashbury là nguyên nhân khiến tôi thấy buồn bực nhất về hoàn cảnh mới của mỉnh (tôi vẫn nghĩ về nó như một hoàn cảnh mới, cho dù đã hai năm trôi qua). Đó là sự mất kiểm soát. Trong căn hộ của Cathy, tôi luôn cảm thấy mình giống như một người khách đang ở ngay trên ranh giới sự hiếu khách của họ. Tôi cảm thấy nó trong bếp, nơi chúng tôi tranh chỗ nấu nướng bữa tối. Tôi cảm thấy nó khi tôi ngồi bên cạnh cô trên sofa, cái điều khiển từ xa bị cô nắm chặt trong bàn tay. Khoảng không gian duy nhất khiến tôi có cảm giác thuộc về mình là phòng ngủ nhỏ tí xíu của tôi, chỉ đặt có một cái giường đôi và một cái bàn vào là đã chật, gần như chẳng đủ chỗ trống để mà đi giữa chúng. Phòng cũng khá thoải mái, nhưng không phải một nơi ta mong muốn, vậy nên thay vì thế tôi nấn ná trong phòng khách hay bếp, cảm giác không thoải mái và bất lực. Tôi đã mất kiểm soát với tất cả mọi thứ, kể cả những thứ ở trong đầu tôi.

Thứ Tư, 10 tháng Bảy 2013

Sáng

Hơi nóng đang lên. Mới vừa qua tám rưỡi sáng mà ngày đã trở nên ngột ngạt, không khí đặc sệt hơi ẩm. Tôi ước gì có bão, nhưng bầu trời bạc thếch, xanh nhợt, trống rỗng đầy xấc xược. Tôi lau mồ hôi ở môi trên. Giá như lúc trước tôi nhớ ra mà mua một chai nước.

Sáng nay tôi không thể nhìn thấy Jason và Jess, và cảm giác thất vọng dâng lên gay gắt. Thật ngu ngốc, tôi biết thế. Tôi chăm chú quan sát ngôi nhà, nhưng chẳng có gì để mà nhìn. Rèm cửa dưới tầng mở nhưng cánh cửa kiểu Pháp đã đóng, ánh nắng phản chiếu trên lớp kính. Cửa sổ kính trượt trên tầng cũng đóng. Có lẽ Jason đang làm việc xa nhà. Anh là bác sĩ, tôi nghĩ, có lẽ làm việc cho một tổ chức nước ngoài. Anh lúc nào cũng sẵn sàng ứng cứu, một túi hành lý ffax được sắp sẵn trên nóc tủ quần áo; có một trận động đất ở Iran hay sóng thần ở châu Á, và cậy là anh từ bỏ mọi thứ, chộp lấy túi hành lý và chỉ trong vài tiếng đồng hồ đã có mặt tại sân bay Heathrow, sẵn sàng bay đi cứu nhiều sinh mạng.

Jess, với những trang phục vải in hoa táo bạo và đôi giày Converse cùng vẻ đẹp của cô, dáng dấp của cô, hoạt động trong ngành thời trang. Hoặc có lẽ là trong lĩnh vực âm nhạc, hoặc quảng cáo - cô có thể là một stylist hay nhà nhiếp ảnh. Cô cũng là một họa sĩ tài năng, rất giàu năng khiếu nghệ thuật. Giờ tôi có thể nhìn thấy cô, trong căn phòng dàn cho khách ở tầng trên, âm nhạc rộn ràng, cửa sổ mở, cây cọ trong bàn tay, một tấm vải vẽ khổng lồ đang áp sát tường. Cô sẽ ở đó cho tới tận nửa đêm; Jason biết ý không làm phiền khi cô đang làm việc.

Tất nhiên, tôi không thể nhìn thấy cô thật. Tôi không biết liệu cô có vẽ không, hoặc liệu Jason có điệu cười sảng khoái hay không, hoặc liệu Jess có xương gò má đẹp hay không. Từ chỗ này, tôi không thể nhìn thấy cấu trúc xương của cô và tôi cũng không bao giờ nghe thấy giọng Jason. Tôi chưa từng nhìn họ ở khoảng cách gần, hồi tôi sống cuối con đường thì họ còn chưa đến sống ở ngôi nhà đó. Họ chuyển đến sau khi tôi đi hồi hai năm trước, tôi không biết chính xác là khi nào. Có lẽ tôi đã bắt đầu để ý đến họ khoảng một năm trước, và dần dần, tháng này nối tháng khác, họ trở nên quan trọng đối với tôi.

Tôi cũng không biết tên họ, bởi vậy tôi phải tự đặt tên cho họ. Jason, bởi vì snh điển trai theo kiểu một ngôi sao điện ảnh người Anh, không phải một Deep hay một Pitt, mà là một Firth, hay một Jason Isaacs. Và Jess hợp với Jason, và hợp với cô. Nó phù hợp với cô, xinh đep và thảnh thơi đúng như cô. Họ là một cặp xứng đôi, họ là một đôi. Họ hạnh phúc, tôi có thể nói thế. Họ hiện thân cho điều tôi từng có ngày xưa, họ là Tom và tôi, năm năm trước. Họ hiện thân cho điều tôi đã đánh mất, họ hiện thân cho tất cả những gì tôi muốn được trở thành.

Tối

Chiếc áo sơ mi của tôi, bó chật đến khó chịu, hàng cúc áo bị kéo căng ngang ngực, đã lấm lem, những mảng ẩm ướt dấp dính bên dưới cánh tay tôi. Mắt và cổ họng tôi ngứa ngáy. Tối nay tôi không muốn hành trình lại kéo dài; tôi khao khát được về nhà, để cởi quần áo ra tắm một trận, để được ở một nơi không ai có thể nhìn tôi.

Tôi nhìn người đàn ông ngồi ở ghế đối diện. Anh ta trạc tuổi tôi, khoảng đầu hoặc giữa độ tuổi ba mươi, mái tóc đen, ngả màu muối tiêu hai bên thái dương. Da tái xám. Anh ta mặc com lê, nhưng đã cởi áo khoác ra và quăng nó lên cái ghế ngay cạnh. Anh ta có một cái MacBook, mỏng như tờ giấy, đang để mở trước mặt. Anh ta thuộc kiểu gõ bàn phím chậm. Anh ta đeo một cái đồng hồ bạc có mặt to uỳnh trên cổ tay phải - trông có vẻ đắt tiền, có lẽ là một chiếc Breitling. Anh ta đang nhay nhay bên trong má. Có lẽ anh ta đang lo lắng. Cũng có khi chỉ đang chìm trong suy nghĩ. Viết một email quan trọng gửi cho đồng nghiệp tại văn phòng ở New York, hoặc cẩn thận tìm lời lẽ để tuyên bố chia tay với bạn gái. Anh ta đột nhiên ngẩng lên và đối mắt với tôi; ánh mắt anh ta quét qua người tôi, quét qua chai rượu nhỏ trên bàn trước mặt tôi. Anh ta rời mắt đi. Có gì đó trong hình dáng khuôn miệng của anh ta toét lên vẻ chán ghét. Anh ta thấy chán ghét tôi.

Tôi không phải cô gái ngày xưa. Tôi không còn khiến người ta ham muốn nữa, tôi gây khó chịu theo một cách nào đấy, Không phải chì là tôi đã tăng cân, hay khuôn mặt tôi sưng húp vì uống rượu và thiếu ngủ; mà cứ như thể mọi người còn có thể nhìn thấy sự tàn phá in hằng trên khắp người tôi, họ có thể nhìn thấy nó trên khuôn mặt tôi, từ cách tôi kiềm chế, cách tôi di chuyển.

Tuần vừa rồi, một tối, lúc tôi rời khỏi phòng để lấy một cốc nước, tôi nghe lỏm thấy Cathy nói với Damien, bạn trai cô ấy, trong phòng khách. Tôi đứng trong hành lang, lắng nghe: ''Cô ấy cô đơn lắm,'' Cathy nói, ''em thật lòng lo lắng cho cô ấy. Cứ cô đơn mãi như thế thì có ích lợi gì đâu chứ.'' Rồi cô nói, ''Chẳng lẽ không có ai ở công ty sao, hay là ở câu lạc bộ bóng bầu dục chẳng hạn?'' và Damien nói, ''Cho Rachel hả? Không phải đùa đâu, Cath, nhưng anh không dám chắc anh có quen ai tuyệt vọng đến mức đó.''

Thứ Năm, 11 tháng Bảy 2013

Sáng

Tôi chọc chọc lớp băng y tế trên ngón trỏ. Nó đang ấm, nó đã bị ướt khi tôi rửa cốc uống cà phê sáng nay; giờ nó có cảm giác ẩm ướt , bẩn thỉu, dù sáng nay vẫn còn sạch sẽ. Tôi không muốn tháo ta vì vết cắt sâu. Lúc tôi về nhà Cathy đã đi ra ngoài, vậy nên tôi tới cửa hàng rượu mua hai chai vang về. Tôi uống hết chai thứ nhất và rồi thầm nghĩ nên tận dụng cơ hội cô ấy đang vắng nhà để tự nấu cho mình một bữa thịt nướng, làm xốt hành tây tím, ăn kèm với xa lát rau xanh. Một bữa ngon lành, bổ dưỡng. Tôi đã cứa vào đầu ngón tay trong lúc thái hành. Hẳn tôi đã tới phòng tắm rửa ráy sạch sẽ rồi đi nằm một lúc và cứ thế quên béng chuyện bếp núc, bởi vì tầm mười giờ tỉnh dậy, tôi nghe thấy tiếng Cathy và Damien đang nói chuyện, và anh ta đang nói thật kinh tởm khi tôi để mặc chỗ đó như thế. Cathy lên tầng gặp tôi, cô ấy gõ nhẹ lên cửa phòng tôi rồi mở hé cửa ra. Cô nghiêng đầu hỏi tôi có ổn không. Tôi xin lỗi dù chẳng biết chắc mình đang xin lỗi vì chuyện gì. Cô nói không sao cả, nhưng liệu tôi có phiền không nếu dọn dẹp qua loa một chút? Trên thớt dính vết má, căn phòng nồng nặc mùi thịt sống, miếng thịt để nướng vẫn đang nằm trên quầy bếp, đã xám ngắt lại rồi. Damien thậm chí chẳng thèm chào, anh ta chỉ lắc đầu khi nhìn thấy tôi rồi lên trên tầng vào phòng ngủ của Cathy.

Sau khi cả hai người họ đều đã đi nghỉ, tôi mới nhớ ra tôi vẫn chưa uống chai rượu thứ hai, vậy nên tôi bèn mở nó ra. Tôi ngồi trên sofa xem tivi, vặn nhỏ tiếng hết mức để họ không nghe thấy. Tôi không nhớ nổi lúc đó mình đang xem gì, nhưng hẳn là đến một lúc nào đó tôi đã phải cảm thấy cô đơn, hoặc hạnh phúc, hoặc sao đó, bởi vì tôi muốn nói chuyện với người khác. Nhu cầu liên lạc hẳn đã choáng ngợp và chẳng có ai để tôi gọi ngoại trừ Tom.

Chẳng có ai tôi muốn nói chuyện ngoại trừ Tom. Nhật kí cuộc gọi trên điện thoại của tôi cho biết tôi đã gọi bốn lần: vào 11 giờ 2 phút, 11 giờ 12 phút, 11 giờ 54 phút, 12 giờ 9 phút. Dựa vào độ dài của các cuộc gọi mà suy đoán, hẳn là tôi đã để lại hai tin nhắn. Thậm chí anh có thể đã nhấc máy, nhưng tôi không nhớ đã từng nói chuyện với anh. Tôi vẫn nhớ tôi đã để lại tin nhắn đầu tiên; tôi nghĩ là tôi chỉ đề nghị anh gọi lại cho tôi. Có khi đó cũng là điều tôi đã nói ở cả hai tin nhắn, thế thì cũng không đến nỗi tệ.

Đoàn tàu rùng mình dừng lại chỗ đèn tín hiệu đỏ và tôi ngước mắt lên. Jess đang ngồi trên sân trong, uống một cốc cà phê. Cô gác chân lên bàn và đầu cô ngả ra sau, đang phơi nắng. Đằng sau cô, tôi nghĩ tôi có thể nhìn thấy một cái bóng, ai đó đang di chuyển: Jason. Tôi tha thiết muốn thấy anh, được thoáng nhìn khuôn mặt điển trai của anh. Tôi muốn anh bước ra ngoài, để đứng sau lưng cô, theo cung cách quen thuộc của anh, để hôn lên đỉnh đầu cô.

Anh không bước ra ngoài, và đầu cô gục về phía trước. Hôm nay, trong cách cô chuyển động, có gì đó có vẻ khác hẳn; cô nặng nề hơn, mệt mỏi. Tôi những mong anh ra ngoài với cô, nhưng đoàn tàu rung lắc, ì ạch tiến về phía trước, vẫn không thấy có dấu hiệu gì của anh; cô chỉ có một mình. Và giờ đây, không hề suy nghĩ gì, tôi nhận thấy mình đang nhìn thẳng vào nhà tôi, và tôi không thể rời mắt đi được. Hai cánh cửa kiểu Pháp mở bung, ánh sáng chảy tràn vào trong bếp. Tôi không thể nói được, tôi thật sự không thể nói được, liệu có phải tôi đang nhìn thấy chuyện này hay chỉ là đang tưởng tượng ra thôi - có phải cô ta ở đó, bên bồn rửa, đang rửa ráy? Có phải có một cô bé đang ngồi ở một chiếc ghế rung trẻ em trên bàn bếp đó?

Tôi nhắm mắt lại, để mặc bóng tôi lớn dần và lan rộng cho tới khi nó từ cảm giác buồn bã biến đổi thành một thứ tệ hại hơn: một ký ức, một hồi tưởng. Tôi không chỉ yêu cầu anh gọi lại cho tôi. Giờ tôi đã nhớ rồi, lúc đó tôi đang khóc. Tôi bảo anh rằng tôi vẫn yêu anh, rằng tôi sẽ vẫn luôn yêu anh. Xin anh, Tom, xin anh, em cần nói chuyện với anh. Em nhớ anh. Không không không không không không không.

Tôi phải chấp nhận nó, sẽ không có chuyện tìm cách gạt nó đi. Tôi sẽ mang cảm giác kinh khủng suốt cả ngày, nó sẽ đến theo từng đợt - mạnh hơn rồi yếu hơn rồi lại mạnh hơn - xoắn vặn trong lõm thượng vị, nỗi thống khổ vì xấu hổ, hơi nóng dâng lên trên mặt, đôi mắt nhắm chặt lại như thể tôi có thể làm nó biến mất hoàn toàn. Và suốt cả ngày, tôi sẽ tự nhủ lòng, đó đâu phải chuyện tệ hại nhất tôi từng làm, đâu có như khi tôi ngã lộn nhào giữa chốn công cộng, hay gào thét với một người xa lạ ngay giữa phố. Đâu có như khi tôi làm bẽ mặt chồng mình trong buổi tiệc nướng mùa hè bằng cách gào to sỉ nhục vợ một người bạn của anh. Cũng đâu có như một tối nọ chúng tôi cãi lộn ở nhà và tôi vác một cây gậy đánh gôn rượt theo anh, làm bay cả một mảng vữa trong hành lang ngoài phòng ngủ. Đâu có như khi quay trở lại làm việc sau bữa trưa lúc ba giờ và loạng choạng bước xuyên qua văn phòng, tất cả mọi người đều nhìn ngó, Martin Miles lôi tôi sang một bên, Tôi nghĩ cô có lẽ nên về nhà đi, Rachel. Tôi từng đọc một cuốn sách của một người có tiền sử nghiện rượu tả lại cảnh cô ta quan hệ tình dục qua đường miệng với hai người đàn ông cô ta tình cờ bắt gặp ở một nhà hàng trên một con phố thương mại tấp nập của London. Tôi đọc nó và nghĩ, Mình không tệ đến thế. Đây chính là giới hạn.

Tối

Tôi đã nghĩ về Jess suốt cả ngày, chẳng thể tập trung vào bất kỳ điều gì khác ngoài hình ảnh tôi nhìn thấy sáng nay. Điều gì đã khiến tôi cho rằng có chuyện gì đó không ổn? Tôi không thể nhìn thấy vẻ mặt Jess ở khoảng cách xa như thế, nhưng lúc nhìn cô tôi cảm nhận được cô đang cô đơn. Còn hơn cả cô đơn - cô độc. Có lẽ đúng như thế - có lẽ anh đã đi vắng, đã lên chuyến bay đến một đất nước đang trong tình trạng căng thẳng để cứu nhiều mạng sống. Và cô nhớ anh, và cô lo lắng, mặc dù cô biết rõ anh phải đi.

Tất nhiên cô nhớ anh rồi, y như tôi vậy. Anh tử tế và mạnh mẽ, có tất cả những đức tính một người chồng nên có. Và họ là một cặp hoàn hảo. Tôi có thể nhìn thấy điều đó, tôi biết họ như thế nào. Sự mạnh mẽ của anh, vẻ che chở toát ra từ anh, nó không đồng nghĩa với việc cô là người yếu đuối. Cô mạnh mẽ theo nhưng cách khác, cô có những bước nhảy vọt về mặt trí tuệ khiến anh phải há hốc miệng ngưỡng mộ. Cô có thể đào đến tận cốt lõi vấn đề, mổ xẻ và phân tích nó trong một khoảng thời gian chỉ đủ cho người khác chào buổi sáng. Tại các bữa tiệc, anh thường nắm tay cô, cho dù họ đã bên nhau nhiều năm. Họ tôn trọng nhau, họ không làm mất mặt nhau.

Tối nay, tôi cảm thấy kiệt sức. Tôi hoàn toàn tỉnh táo. không hề bị ảnh hưởng của rượu. Có những hôm, tôi cảm thấy tệ đến mức buộc phải uống; có những hôm, tôi cảm thấy tệ đến mức không thể uống. Hôm nay, nghĩ đến chất cồn là bụng dạ tôi nhộn nhạo. Nhưng giữ mình khỏi rượu bia trên chuyến tàu tối là một thách thức, đặc biệt là bây giờ, trong cái nóng này. Một lớp màng mồ hôi phủ khắp da tôi, bên trong miệng tôi râm ran, mắt tôi ngứa ngáy, mascara cọ vào trong khóe mắt.

Điện thoại rung lên trong túi xách, khiến tôi giật bắn mình. Hai cô gái ngồi phía bên kia toa tàu nhìn tôi rồi nhìn nhau, kín đáo trao đổi những nụ cười mỉm. Tôi không biết họ nghĩ gì về tôi, nhưng tôi biết chẳng có gì đẹp. Trái tim nện thình thịch trong lồng ngực, tôi với tay lấy điện thoại. Tôi biết cuộc điện thoại này cũng chẳng có gì tốt đẹp: có lẽ là Cathy, hỏi tôi với vẻ tế nhị muôn thuở rằng liệu tối nay tôi có thể cho chàng lưu linh nghỉ một chút được không? Hoặc mẹ tôi, bảo tôi tuần sau bà sẽ có mặt ở London, và bà sẽ ghé qua văn phòng, chúng tôi có thể đi ăn trưa. Tôi nhìn màn hình. Là Tom. Tôi chỉ lưỡng lự một giây và rồi trả lời cuộc gọi.

''Rachel?''

Trong năm năm đầu tiên quen biết anh, tôi chưa bao giờ là Rachel, lúc nào cũng là Rach. Thỉnh thoảng là Shelley, vì anh biết tôi ghét thế và anh sẽ phá lên cười khi chứng kiến tôi điên tiết đến run cả người, rồi anh lại cười hinh hích khi thấy tôi chẳng thể cưỡng lại được mà đành phải cười hùa theo anh. ''Rachel, anh đây.'' Giọng anh nặng trịch, anh có vẻ mệt mỏi. ''Nghe này, em phải thôi làm thế này đi, được không?'' Tôi không nói gì. Đoàn tàu đang chạy chậm dần và tôi gần như đối diện với ngôi nhà, ngôi nhà cũ của tôi. Tôi những muốn nói với anh, Hãy bước ra ngoài đi, ra đứng trên bãi cỏ đi. Cho em được nhìn thấy anh. ''Xin em đấy, Rachel em không thể gọi suốt cho anh như thế này được. Em phải tự giải quyết vấn đề của mình đi chứ.'' Một cục nghẹn cứng đơ như viên sỏi chặn trong cổ họng tôi, nhẵn thín và ngoan cố. Tôi không thể nuốt xuống được. Tôi không thể lên tiếng được, ''Rachel? Em có ở đó không? Anh biết mọi chuyện với em không suôn sẻ, và anh lấy làm tiếc cho em, thật lòng đấy, nhưng... Anh không thể giúp em được, và những cuộc gọi liên miên này thật sự khiến Anna khó chịu. Được không? Anh không thể giúp em được nữa. Đi cai rượu hay gì đó đi. Xin em đấy, Rachel. Hôm nay tan làm hãy đến dự cuộc họp của Hội Cai rượu đi''.

Tôi lôi miếng băng trắng bẩn thỉu ra khỏi đầu nhón tay và nhìn lớp thịt tái nhợt nhăn nheo bên dưới, máu khô đã kết thành vảy ở khóe móng tay tôi. Tôi ấn ngón cái bàn tay phải vào chính giữa vết cắt và cảm nhận được nó rách toang ra, cơn đau bỏng rát và sắc buốt. Tôi nín thở. Máu bắt đầu rỉ ra từ vết thương. Hai cô gái phía bên kia toa tàu đang dõi mắt nhìn tôi, mặt đờ đẫn.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro