co tich TH

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Truyền thuyết về trái Đào

(Truyện cổ Trung Quốc)

Lâu lắm rồi ở miền Bắc Trung Quốc nọ có một làng nhỏ nằm heo hút trên một ngọn núi cao chỉ vài gia đình sống ở đó.Trong làng ấy có một chàng trai dũng cảm với trái tim tấm lòng nhân hậu tên là Đào tử. Mọi nguời trong làng đều rất yêu mến chàng. Cũng ở trong làng ấy có một cô gái tên là Tiểu Mỹ.

Tiểu Mỹ xinh đẹp, thông minh lại đàn hay hát giỏi. Đào Tử coi Tiểu Mỹ như em gái mình. Họ hay cùng nhau nói chuyện và ca hát, dần dần họ yêu nhau từ lúc nào cũng không hay. Tiểu Mỹ và Đào tử yêu nhau lắm nhưng khổ một nỗi Tiểu Mỹ lại là một nàng tiên và chẳng bao lâu nữa sẽ phải về trời. Do Tiểu Mỹ rất yêu Đào Tử nàng không muốn làm chàng đau khổ cho nên một hôm Tiểu Mỹ lạnh lùng nói với Đào Tử rằng:Thực ra người mà em yêu phải là người cực kỳ dũng cảm, nhưng anh lại không khống chế nổi tình cảm của em điều này cho thấy anh không phải là người dũng cảm nhất. Khi nào anh trở nên dũng cảm nhất em sẽ quay lai với anh.Thế rồi từ đó họ không gặp nhau nữa.

Lời nói của Tiểu Mỹ in sâu vào trong lòng Đào Tử.Chàng ở vào thế tiến thoái luỡng nan: Yêu Tiểu Mỹ nhưng nàng không yêu, cố quên nàng đi nhưng không quên nổi. Trái tim chàng lúc đập rộn ràng lúc thì băng giá. Khuôn mặt chàng đã mất dần màu máu, trái tim chàng đã bị cứng lại. Một hôm họ tình cờ gặp nhau Đào Tử nói cho Tiểu Mỹ nỗi đau khổ của mình, chàng nói với Tiểu Mỹ: '"Trái tim anh đã băng giá và khô cứng. Anh rất yêu em, anh yêu em bao nhiêu thì tim cứng bấy nhiêu. Anh không tin là em không yêu anh, anh chỉ muốn xem xem, trái tim em có phải vì Tình yêu mà cũng băng giá. "Sống trên cõi đời này không còn ý nghĩa gì đối với đôi trai gái này cho nên họ cùng móc trái tim của mình ra cho nhau xem và cùng chết. Nguời dân cùng làng vì cảm động trước mối tình của đôi trai gái cho nên đã chôn hai người cùng với nhau. Cùng đêm đó có một trận mưa lớn suốt đêm, dân làng nghe thấy có tiếng nói chuyện ở ngoài đường cái nhưng chẳng ai dám ra xem là có chuyện gi? Thế rồi sáng hôm sau, trên ngôi mộ của đôi trai gái mọc lêm một cái cây nhỏ, trên cây mọc đầy những bông hoa nhỏ màu hồng nhạt. Hoá ra là xác của Đào Tử mọc thành cái cây .Dân làng vì để tưởng nhớ tới Đào Tử chàng trai dũng cảm đã lấy tên chàng đặt cho cái cây ấy. Còn về Tiểu Mỹ,nàng đã hoá thành nhũng bông hoa màu hồng ấy. Sau khi chết linh hồn của nàng bay về trời nhưng nàng vẫn còn lưu luyến với mối tình ở duới trần gian Vương mẫu nương nương cảm động trước tình cảm ấy đã phong cho nàng cái tên Đào hoa nương nương tượng trưng cho Tình yêu.

Hè năm đó, trên cái cây ấy kết đày những quả có có hình trái tim gắn liền với nhau.Những người biết câu chuyện này thường sợ cây Đào đau cho nên họ đợi cho quả Đào có màu đỏ và trở nên mềm thì mới ăn. Kỳ thứ trong quả Đào còn có một cái hạt cứng bảo vệ trái tim đã hoá đá. Từ năm đó trở đi nguời dân ở đây coi hoa Đào là loại hoa tượng trưng cho Tình yêu, gỗ của cây Đào dùng làm bùa tránh tà.

Tiên Hóa Thành Trâu (tại sao cỏ mọc nhanh hơn lúa)

Thuở khai thiên lập địa, bầu trời rộng minh mông, loài người nuôi sống bằng thịt của cầm thú chớ chưa có ngũ cốc. Một hôm Ngọc Hoàng cho mở đại hội quần tiên, và phán rằng:

- Nơi trần giới nếu loài người quen việc sanh sát loại thú cầm thì e sẽ sanh điều hung dữ , nay ta muốn đem hột lúa gieo xuống trần gian cho loài người lấy đó nuôi thân khỏi phải điều chém giết . Vậy trong quần tiên , có ai sẵn sàng thi hành sứ mạng của ta?

Ngọc-Hoàng vừa dứt lời, thì tiên ông Kim-Quang vui-vẻ bước ra xin lãnh lịnh . Ngọc-Hoàng liền trao cho tiên ông Kim-Quang một túi hột lúa và năm túi cỏ, dặn rằng:

- Xuống đến trần-giới, khanh hãy gieo giống lúc xuống trước, rồi mới gieo giống cỏ xuống sau, khanh rán mà lập công sẽ được thưởng, bằng trái lại thì sẽ bị trừng phạt nặng nề.

Tiên ông Kim-Quang lãnh lấy hai thứ hột giống cúi đầu bái tạ lui ra. Lúc tới trần gian, vì sự nhọc mệt, Kim-Quang quên khuất lời dặn của Ngọc-Hoàng, lấy năm túi cỏ gieo xuống trước, rồi mới gieo túi hột lúa sau. Chẳng ngờ cỏ mọc rất mau, tràn lan khắp địa cầu, choáng chổ mọc của hột lúa.

Tại Thiên đình, Ngọc-Hoàng nghe Nam-Tào về tâu lại chuyện giống cỏ xâm chiếm gần hết mặt địa cầu thì đùng đùng nổi giận, truyền điệu Kim-Quang tới bắt trở xuống cỏi trần làm kiếp trâu, ăn cho hết giống cỏ đã gieo trồng, kỳ cho đến khi nào hết cỏ mới được hườn cốt tiên.

Khổ nỗi giống cỏ càng ngày càng sanh sôi nảy nở, dầu trâu có ăn ngày ăn đêm cũng không hết, nên tiên ông Kim-Quang vẫn mãi mãi hóa thành trâu chịu đọa đày giữa cõi trần.

 Truyện cổ tích Niigata (Nhật Bản)

    Bài hát của Okesa

    Ngày xửa ngày xưa, tại thị trấn nhỏ Ogi tại đảo Sado, có một cặp vợ chồng già sống bằng thu nhập từ quán mì soba tên là Nigasa-ya. Họ không có con cái. Đã mười sáu năm rồi, họ chỉ sống với cô mèo Asa. Một thời gian sau, tuy đã làm việc hết sức chăm chỉ, hai vợ chồng vẫn gặp phải rất nhiều khó khăn trong việc kinh doanh và nợ một khoản khá lớn. Hai vợ chồng nghĩ đến việc sẽ đóng cửa quán mì, và bí mật đi thật xa khỏi thị trấn.

    Vào buổi sáng hai vợ chồng già định rời khỏi thị trấn, họ đã nói với cô mèo Asa: "Asa, xin hãy tha lỗi cho ông bà. Ông bà không thể đem con theo được. Cuộc hành trình sẽ rất dài và gian khổ. Ngay chính bản thân ông bà cũng không biết mình sẽ đi đâu. Nhưng con là một cô mèo thông minh, con sẽ tìm được ai đó tốt bụng chăm sóc cho con, và con sẽ sống một cuộc đời hạnh phúc". Asa nhìn ông bà chủ chăm chăm, rồi như hiểu chuyện, cô mèo gật đầu buồn bã rồi lủi thủi đi ra khỏi nhà.

    Tối hôm đó, hai vợ chồng đang chuẩn bị đồ cho cuộc ra đi của mình, thì họ nghe một tiếng gõ cửa. Họ giật bắn lên, vì nghĩ rằng đó có thể là một chủ nợ đi đòi tiền vào đêm khuya. Tuy nhiên, họ lại nghe một tiếng nói rất dịu dàng và nhỏ nhẹ: "Xin chào. Cháu có thể nhờ một việc được không?".

    Ông lão ra mở cửa và thấy một cô gái xinh xắn.

    "Bây giờ rất khuya rồi, lão có thể làm được gì cho cháu đây!"

    "Cháu 16 tuổi. Cháu mới chuyển đến đây. Xin ông bà cho cháu làm việc tại quán. Cháu sẽ không cần tiền lương và sẽ không gây phiền phức gì cho ông bà"

    "Nếu quán mì vẫn còn họat động thì tốt rồi, nhưng đằng này nó đã bị đóng cửa và hai ông bà đang chuẩn bị chuyển đi" - ông lão cố gắng giải thích cho cô gái, thế nhưng cô ấy vẫn kiên quyết xin được giúp.

    "Cháu có 20 lạng bạc chưa dùng gì cả. Nếu có thể, xin ông bà hãy dùng để mở lại quán ăn. Cháu sẽ ở lại đây để phụ giúp ông bà". Cô gái lấy ra một chiếc hộp và đẩy nó về phía hai vợ chồng già đang lắp bắp vì ngạc nhiên. Đầu tiên, hai vợ chồng từ chối, nhưng cô gái rất kiên quyết với lời đề nghị của mình, vì vậy họ đành phải thỏa thuận: số tiền chỉ là khoản vay của hai vợ chồng. Họ sẽ tìm cách trả lại cho cô gái khi có thể. Và do được một khoản tiền khá lớn, quán mì lại được mở cửa vào sáng hôm sau.

    Okesa làm việc rất chăm chỉ tại cửa hàng. Mỗi khi không bận rộn, cô thường góp vui cho thực thách bằng giọng hát trong trẻo của mình. Đôi khi, cô còn hát những bài hát bản thân sự sáng tác. Một trong số bài hát như thế này:

    Ah, Sado, Sado

    Những hàng cây và bãi cỏ đang mời gọi bạn

    Sado thật xinh đẹp

    Hãy đến với thị trấn Sado của chúng tôi

    Thực khách nhiệt liệt hưởng ứng ca khúc của Okesa. Ban đầu họ vỗ tay theo nhịp, và sau đó là đung đưa lắc lư theo giọng hát thiên thần của cô gái. Nhanh chóng sau đó, ca khúc của Sado trở thành một biểu tượng, niềm tự hào của thị trấn nhỏ Ogi.

    Vì không khí nhộn nhịp và vui vẻ của quán mì, lúc nào cũng có thực khách tìm đến. Chỉ nửa năm sau, hai vợ chồng đã trả hết món nợ cho các chủ nợ khi xưa. Một năm sau, họ mở rộng quán, và thuê thêm vài người để giúp cho việc kinh doanh. Ca khúc của Okesa lúc này cũng nổi tiếng khắp cả đảo Sado

    Một buổi tối, ông lão đang ngủ thì tỉnh giấc bởi một tiếng mèo kêu. Ông quay sang thì thấy cô mèo Asa đang ngồi kế mình: "Ah, Asa, con đi đâu cả năm nay vậy. Thật tốt khi con khỏe mạnh và đã quay trở lại với chúng ta". Ông vươn người tới Asa, nhưng bỗng nhiên hình ảnh của Asa mờ dần, và biến mất như làn khói mỏng vào không khí. Ông tỉnh dậy, và lay vợ, kể cho bà lão nghe về giấc mơ kỳ lạ của mình. Cả hai thức trắng cả đêm, và nói về ngày xưa, họ nhớ cô mèo Asa da diết.

    Sáng hôm sau, mọi vật im ắng lạ thường, và cặp vợ chồng bắt đầu lo lắng. Bình thường cô gái Okesa luôn là người dậy trước tiên, nhưng hôm nay thì chẳng thấy cô ấy đâu cả.

    "Có lẽ con bé bị ốm"

    Hai vợ chồng đến phòng của Okesa, gọi cửa liên tục, nhưng vẫn không nghe trả lời. Họ bước vào phòng của Okesa, và sững sờ nhìn thấy, xác của cô mèo Asa ngay tại giường của Okesa.

    "Ôi Asa, con chính là Okesa sao?"

    Hai vợ chồng khóc rất nhiều sau đó.

    Nhiều năm sau đó, mặc dù Okesa không còn nữa, nhưng bài ca và điệu múa của cô vẫn được truyền tụng khắp nơi. Người ta gọi đó là Okesa-bushi. Và ngày nay, những người dân tại đảo Sado vẫn tiếp tục nhảy múa theo điệu múa này của Okesa.

ba bà hoàng hậu

Ngày xửa, ngày xưa, có một ông vua trẻ. Ðức vua cai trị một vương quốc giàu có, xinh đẹp, nhưng đẹp nhất có lẽ là ba bà hoàng hậu của đức vua.

Ba vị hoàng hậu này vừa có sắc lẫn có tài, nên cả ba đều được đức vua sủng ái như nhau, " Mỗi người một vẻ, mười phần vẹn mười". Cho đến một hôm, nhà vua bỗng nảy ra một ý nghĩ: Trong ba mỹ nhân này thế nào cũng có một người tuyệt diễm hơn hai người kia, nhưng ta không tài nào nhận ra được, có lẽ vì mình nhìn mãi nó quen mắt đi chăng? Hay là ta hỏi ý kiến bọn cung phi vậy".

Ðức vua bèn mở cuộc trưng cầu dân ý tại hậu cung để tìm xem trong ba mỹ nhân ai là người đẹp nhất. Kết quả cũng không lấy gì làm sáng sủa cho lắm, vì ai cũng cho rằng cả ba vị hoàng hậu đều đẹp ngang nhau. Kẻ tám lạng, người nửa cân vậy.

Nhà vua lại đem nội vụ ra bàn với đình thần. Kết quả cũng tương tợ như trên. Quan tể tướng khuyên đức vua nên dừng cuộc giảo nghiệm lại, vì e nó chẳng ích lợi gì mà đôi khi mang đến hậu họa khó lường được.

Thay vì nghe lời khuyên sáng suốt của vị trung thần lão thành ấy thì đức vua của chúng ta lại nổi cơn thịnh nộ, truyền lịnh cho quan tể tướng phải giải quyết cho xong công việc trong vòng ba hôm. Sau một lúc im lặng, quan tể tướng kính cẩn tâu:

- Muôn tâu bệ hạ, thần trộm nghĩ rằng, bọn hạ thần chỉ sở trường về chuyện cung kiếm văn thơ, còn chuyện đẹp xấu tướng hảo ra sao thì chắc phải nhường cho các vị bốc sư nổi tiếng. Hay là bệ hạ cho vời y vào, y sẽ phân biệt rõ ràng hơn không?

Nhà vua nguôi giận. Một ông thầy bói được lập tức triệu vào cung để chiêm ngưỡng dung nhan ba người đẹp. Vị bốc sư không chịu cho biết kết quả ngay mà xin khất lại ngày hôm sau để về "tra tự điển" lại.

Lão bốc sư đi rồi, quan tể tướng bèn tâu nhỏ với đức vua:

- Muôn tâu thánh thượng! Hạ thần trộm nghĩ rằng qúi đức bà, mỗi người có một vẽ đẹp riêng, tùy theo nhãn quan và sở thích của từng người. Ý kiến của chúng thần có thể bất đồng nhau, nhưng vì sợ uy quyền của quí đức bà, nên bọn hạ thần không dám nói lên ý kiến của mình mà chỉ kết luận chung chung rằng, cả ba đức bà đều tài sắc như nhau. Nếu thần không lầm thì lão bốc sư này cũng lâm vào một tình thế khó xử như bọn hạ thần, nên lão mới xin khất lại vào ngày mai đó thôi.

- Thế thì khanh giải quyết bằng cách nào?

- Muôn tâu! Ngu thần có một kế mọn là bệ hạ giả mạo bức thư, ký tên của ba đức bà, hẹn lão ấy đến ba địa điểm riêng. Nếu y đến địa điểm nào thì đức bà ấy sẽ là người đẹp nhất.

- Hay lắm, khanh hãy thi hành ngay cho trẩm.

Ba bức thư tức tốc được gởi đi và lão bốc sư đi đến chỗ hẹn với bà hoàng đẹp nhất.

Ðức vua truyền lệnh chém đầu lão thầy bói ... Và từ đó ngài đặc biệt sủng ái vị hoàng hậu vào chung kết nầy.

Hai bà hoàng hậu còn lại vô cùng tức tối, họ âm mưu với nhau dùng độc dược giết chết bà hoàng hậu đẹp nhất.

Chuyện bại lộ, đức vua truyền lệnh xử tử luôn hai bà hoàng hậu còn lại.

Ba vị hoàng hậu xinh đẹp nhất nước đều chết hết, đức vua còn lại một mình để thấy hoàng cung sao mà trống trải lạnh lẽo, bất kể Xuân Hạ Thu Ðông.

Lời bàn:

Các bạn thân mến!

Vạn pháp trên thế gian này, mỗi pháp đều có một đặc tính riêng, nhưng khi chúng ta bắt đầu "ưu tiên một" cho pháp nào, tức là để tâm vào nó, thì sự việc bắt đầu trở nên rắc rối. Có lẽ vì vậy mà đức Phật thường khuyên chúng ta là hãy để yên cho các pháp trụ ở bản vị của nó. Chớ xen vào phân biệt để tự chuốc khổ cho mình và làm di hoạ cho người chung quanh.

Cũng thế, trong cuộc tương giao với bạn bè lân cận, mỗi người bạn của chúng ta đều mang một cái tính riêng biệt, chiếm một vị trí, cách thế khác nhau, chẳng ai giống ai. Và chúng ta cũng khó mà kết luận rằng ai quan trọng hơn ai. Mùa Xuân có hoa lan, mùa Thu có hoa cúc, mỗi loài hoa đều có hương sắc riêng của nó, không thể nào bắt loại hoa này phải bắt chước hoa kia được. Em có thấy rằng số phần rủi ro luôn luôn đến với người mà chúng ta đặc biệt ưu ái hay không?

Vậy thì, ta có nên ngu muội đem cái ý thức phân biệt của mình xen vào các mối tương giao ấy, để cảm thấy cuộc đời này sao mà lạnh lẽo bất kể bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Ðông hay không?

Cô đào giết giặc

 Ngày xưa, vào cuối thế kỷ XIV (1390), ở làng Chế Cầu, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, có hai vợ chồng người dân quê tên Lương, sinh được một đứa con gái xinh đẹp, đặt tên là Huệ. Khi lớn lên, vì không muốn phải xa cha mẹ nên Huệ nhất định không lấy chồng. Đến lúc song thân đều mất, nàng lên Thăng Long làm nghề đào hát. Biết bao vương tôn công tử ở kinh đô say theo sắc đẹp và giọng hát mê hồn của nàng.

Thuở ấy, quân nhà Minh đang chiếm đóng nước Nam. Trước cảnh lầm than của đồng bào sống dưới ách đô hộ tàn ác của giặc, tiếng đàn câu hát qua trận cười thâu đêm không làm cho cô đào Huệ quên được mối thù đất nước. Gương chị em hai bà Trưng, bà Triệu ngày xưa nhắc nhở, thúc dục nàng đem mình ra cứu nước.

Nghe tiếng Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn, được toàn dân hưởng ứng, nàng bèn tìm cách liên lạc. Sau đó, nàng mở một quán rượu nổi tiếng tại đất Thăng Long, tướng sĩ quân Minh thường ngày lui tới. Nhờ sắc đẹp và tài ăn nói, chiều chuộng khách hàng, nàng dò la được biết tình hình của quân giặc.

Một hôm, nàng báo tin cho Lê Lợi hẹn ngày khởi sự "nội ứng ngoại công" để đánh chiếm kinh thành. Lê Lợi phái các tướng Lê Khôi, Đinh Liệt, Nguyễn Xí và Bùi Hưng Nhân mang quân ra Bắc.

Tối hôm ấy, đào Huệ bày tiệc lớn mời khắp các tướng tá quân Minh đến. Trong bữa tiệc, nàng dùng các cô gái đẹp để mời rượu, ép khách uống. Quân giặc không ngờ, bị phục rượu say mèm, không về được dinh trại. Đến nửa đêm, quân ta đã mai phục sẵn, vào quán bắt trói hết tướng tá quân Minh bỏ vào bao tải thả xuống sông Nhị. Đồng thời theo hỏa lệnh, quân sĩ Lê Lợi tiến đánh Thăng Long.

Đào Huệ bỏ mình trong trận mạc. Sau khi chiếm được kinh thành, nhớ công ơn cô đào đã hy sinh cứu quốc, Lê Lợi phong cho nàng làm Phúc Thần Kiến Quốc Trinh Liệt Phu Nhân, lập đền thờ ở huyện Thọ Xương (đường Hàng Trống bây giờ) gọi là đền Đông Hương.

Tương truyền rằng vào đầu nhà Lê, thôn Tự Tháp thuốc huyện Thọ Xương bị một trận hỏa hoạn lớn. Đang lúc lửa cháy lan dữ dội, người ta thấy ở trên một ngọn cây có một người đàn bà cầm cây quạt thần quạt tắt ngọn lửa. Nhờ đó mà cả vùng thoát khỏi làm mồi cho bà hỏa.

Dân chúng nhớ ơn gọi là Tháp Bà, quanh năm đèn hương nghi ngút ở đền. Người ta còn gọi đào Huệ là Ngọc Kiều Phu Nhân. Vì kiêng tên và nghề nghiệp của đào Huệ nên người ta tránh không dùng đến hoa huệ và mời ả đào hát trong dịp cúng lễ ngày húy kỵ của nàng.

Sự tích hoa Phượng

Ngày xưa, xưa lắm, ở một vùng đất đồi kia, có một ông thầy dạy võ nổi tiếng về tài đánh kiếm. Vợ ông chết sớm, ông thương vợ, không lấy ai nữa nên ông không có con. Ông đi xin năm người con trai mồ côi ở trong vùng về làm con nuôi. Ngoài những giờ luyện võ, ông lại cho năm người đi học chữ, vì ông muốn năm người cùng giỏi võ, giỏi văn.

Tuổi năm người con xấp xỉ ngang nhau. Năm ấy, họ chỉ mới mười ba, mười bốn... Người nào học cũng khá và tài múa kiếm thì nổi tiếng khắp vùng. Ai cũng dễ nhận được họ vì ông sắm cho năm người năm bộ quần áo màu đỏ, để mặc ra đường. Thương bố nuôi nên năm người con rất biết nhường nhịn nhau và yêu quý mọi người trong làng... Năm ấy trong nước có loạn. Giặc ngoài kéo vào. Nhà cháy, người chết. Tiếng kêu khóc và lòng oán giận cứ lan dần, lớn dần. Đâu cũng đồn tên tướng giặc có sức khỏe kỳ lạ. Chỉ cần đạp nhẹ một cái cũng làm bật gốc được một thân cây to. Hắn lại sử dụng một cây thương dài và nặng, đâm chết từng xâu người một cách dễ dàng. Mọi người còn đồn thêm rằng hắn sở dĩ khỏe như vậy là vì hắn thích ăn thịt sống và đặc biệt hơn nữa là chỉ thích ăn toàn xôi gấc chứ không thích ăn cơm, mỗi lần hắn ăn hàng chục cân thịt cùng với một nong xôi gấc lớn. Người thầy dạy võ ở vùng đất đồi nọ định xin vua đi đánh giặc thì ngã ra ốm. Tay chân ông bị co quắp cả lại. Cụ lang giỏi nhất vùng đến xem bệnh và chỉ biết là ông uống phải thuốc độc. Ai cũng nghi tên tướng giặc đã ngầm cho những kẻ chân tay của hắn đi tìm giết trước những người tài giỏi trong nước. Người thầy dạy võ vừa uống thuốc, vừa ngày đêm ra sức tập luyện để tay chân mình lại cử động được như xưa. Một buổi sáng, tên tướng giặc bất thình lình phóng ngựa, dẫn quân lính của hắn kéo ập vào làng.

Hắn thấy ông thầy dạy võ đang lấy chân đạp vào một gốc cây sung to. Cây sung lúc đầu bị rung khe khẽ, rồi mỗi lúc rung một mạnh hơn. Sau đó, ông nhấc một cái cối đá to đưa lên, đưa xuống, vẻ còn mệt nhọc. Tên tướng giặc cười phá lên rồi xuống ngựa giơ chân đạp nhẹ vào thân cây sung. Thế là cây sung bị gãy ngang và ào ào đổ xuống. Hắn lại nhẹ nhàng đưa một tay tóm lấy cái cối đá ném vứt đi, như ta ném một hòn gạch con và cho rơi ùm xuống cái ao lớn gần đấy. Hắn gọi mấy tên quân đến trói chặt ông thầy dạy võ lại rồi bảo:

-Tao nghe mày muốn đi đánh tao phải không? Bây giờ thì mạng mày nằm trong tay tao rồi! Muốn sống thì hãy giết một con bò tơ, lọc năm mươi cân thịt ngon nhất, nấu một nong xôi gấc rồi mang đến chỗ ta đóng quân ở trên ngọn đồi giữa làng. Phải đội trên đầu mà đi chứ không được gánh. Đi luôn một mạch, không được dừng lại hay đặt xuống nghỉ. Đội thịt đến trước! Đội xôi đến sau!

Nói xong hắn ra lệnh cởi trói cho ông. người thầy dạy võ giận tím ruột, tím gan nhưng chẳng nói gì. Lúc ấy năm người con đang đi vắng, họ phải đi học chữ xa làng và lại sắp đến mùa thi. Không ai dám rời cái bút cái nghiên. Nhưng vừa nghe tin giặc kéo đến làng, họ lập tức đeo gươm vào người mà xin thầy cho về. Về đến nhà, nghe bố kể chuyện lại, năm người con nổi giận muốn chạy đi tìm tên tướng giặc hung ác để giết ngay. Người bố liền khuyên:

-Không được! Lúc nào quân lính của hắn cũng vây quanh, khó mà đến gần. Ngọn thương của hắn lại có thể đâm chết người từ rất xa. Các con cứ bình tĩnh, ta đã có cách khử nó! Người cha đi vay tiền mua một con bò tơ, mổ thịt rồi lọc lấy năm mươi cân thịt ngon nhất để vào một cái nia to. Ông lại đi vay ba gánh nếp trắng, đi xin ba chục quả gấc đỏ, nấu một chục nồi xôi thật dẻo. Ông đội nia thịt bò tơ đến trước. Chân ông còn đau, năm mươi cân thịt đội trên đầu không phải là nhẹ. Ông đội nia đi, mồ hôi vã ra đầy trán. Tên tướng giặc thấy ông đội thịt đến, mồm cứ nuốt nước bọt ừng ực. Hết nuốt nước bọt ừng ực, hắn lại khoái trá cười to. Còn người đội thịt thì bấm ruột chịu đựng và nghĩ thầm: "Cho mày cứ cười rồi mày sẽ biết..." Tên tướng giặc cười nhận thịt xong quát to lên và giục:

-Còn nong xôi nữa, mày về đội đến đây ngay! Người thày dạy võ lại về đội nong xôi đến. Nong xôi to và nặng hơn nia thịt nhiều. Nhưng xôi nấu ngon và nhìn đẹp quá. Ông đội nong xôi đi đến đâu, ở đó cứ thơm lừng. Mới đi được nửa đường, mồ hôi ông đã vã ra đầy mặt, đầy người. Đôi chân ông mỗi lúc một yếu, cứ run lẩy bẩy. Cái cổ cứ như muốn gãy gập lại. ông vẫn bặm môi, cắn răng và bắt đầu leo lên đồi. Tuy mệt lử nhưng đôi mắt ông sáng quắc và lòng ông rất vui. Ông tự nhủ: "Gắng lên! Chỉ cần một lúc nữa, một lúc nữa..." Tên tướng giặc ngồi trên cao theo dõi, vừa hả dạ, vừa lo lắng. Hắn nghĩ: "Thằng này không bị thuốc độc của ta thì khó mà trị được nó. Mà ngay bây giờ, hắn vẫn là một tay đáng sợ". Cái nong xôi gấc to lớn, thơm lừng vẫn lù lù tiến lên đồi. Mặt người đội xôi tái hẳn lại. Chỉ có đôi mắt. Đôi mắt vẫn sáng quắc. Nong xôi có lúc lảo đảo, ngả nghiêng, nhưng liền đó lại gượng lại, rồi nhích dần lên. Tên tướng giặc vội giật lấy thanh gươm của tên lính hầu rồi đứng phắt dậy, phóng gươm đi. Đường gươm sáng rực lên như một tia chớp, cắm vào bụng người thầy dạy võ làm ông chực gục xuống. Nhưng ông đã gượng đứng thẳng lên và đưa tay rút lưỡi gươm ra, phóng lại vào ngực kẻ thù. Tên giặc tránh được.

Bỗng từ trong nong xôi, năm người con nằm quây tròn được xôi phủ kín, đã vung kiếm nhảy ra và như năm làn chớp đâm phập cả vào ngực tên giặc ác. Tên tướng giặc không chống đỡ kịp, rú lên một tiếng rung cả ngọn đồi rồi ngã vật xuống. Thấy tướng đã chết, bọn lính giặc hoảng quá, kéo nhau chạy bán sống bán chết. Dẹp giặc xong, năm người con trai trở về ôm lấy xác người bố nuôi khóc vật vã mấy ngày liền. Cả làng cùng năm người con lo chuyện chôn cất rất chu đáo. Dân làng mỗi người một nắm đất đắp cho ngôi mộ ông thày cao lên. Thương bố nuôi, năm người con lại trồng quanh khu mộ năm gốc cây con, một giống cây có lá đẹp như thêu và có nhiều bóng mát. Hàng năm, đến ngày giỗ bố, họ lại đem áo đỏ ra mặc. Họ nhớ tiếc người thầy dạy võ đã có công giết giặc cứu dân. Đến lúc năm người lần lượt chết đi thì năm cái cây họ trồng quanh khu mộ người bố cũng lần lượt ra hoa màu đỏ thắm, đúng vào ngày giỗ người thầy dạy võ. Hoa đỏ như muốn nói với mọi người rằng: tuy chết đi, nhưng năm người con vẫn yêu thương người bố nuôi và hàng năm đến mùa giỗ bố, họ lại mặc áo đỏ để tưởng nhớ người đã khuất... Hoa có năm cánh đỏ rực và nhìn cả cây hoa nở rộ, người ta thấy giống như một mâm xôi gấc. Cái mâm xôi ngày nào người bố đã giấu năm người con trong đó và đội đi giết giặc. Đó là cây hoa Phượng ngày nay. Mỗi năm, khi mùa Hè đến, mùa thi đến, hoa Phượng lại nở đỏ đầy cây, đầy trời. Khi mùa Hè qua, trên khắp các cành cây, người ta lại thấy hiện ra những quả Phượng dài như những thanh gươm của năm người con trai ngày trước...

Thần thoại

Phú hộ nhà họ Đường, tên là Hồng sống ở ngoại thành kinh đô Thăng Long, giàu có nổi tiếng nhất nước. Đến nhà vua cũng vài lần mời lão phú hộ vào cung thưởng rượu. Tuy không có vai vế trong chính sự, nhưng với lượng thuế ông nộp cho quốc khố hàng năm, ông nghiễm nhiên trở thành nhân vật được nể trọng trong kinh đô hoàng triều. Nhưng những thứ đó không làm nên một lão phú hộ được vị nể, tính tình hiền lành, bộc trực, ưa làm thiện của ông được nhân dân hết lòng ngưỡng mộ. Ông có đến hàng ngàn mẩu ruộng ở dưới quê, tính thương người của ông làm cho cả những tên côn đồ, phá phách cũng chẳng dám động chạm. Lúc trước có vài tên bợm rượu, kiếm cớ đến phá một ruộng dưa của ông. Chúng đi ngang qua một thửa dưa hấu, tiện chân đạp bể một trái còn non. Phú hộ đi qua liền chạy đến ôm trái dưa ngồi khóc. Nhiều người thấy thế bảo ông keo kiệt, có mỗi trái dưa mà làm um sùm, chẳng đáng mặt một phú ông. Nhưng ông lại không đánh, không mắng mấy tên bợm rượu, cũng chẳng nói lại những người buôn chuyện kia. Ông không nói không rằng, đem trái dưa bể đó cắt ra, để giữa làng, viết một lá thư, bảo mọi người đọc to lên. Nội dung trái dưa là một bài tế, bài tế trái dưa hấu. Một trái dưa hấu còn non mà đã chết sớm. Tuy trong trái dưa chỉ là mấy mẩu trắng trộn, nhưng nó cũng có một linh hồn. Từ khi sinh ra và lớn lên, dưa hấu mong mỏi có một ngày được người hiền thưởng thức, nhưng chưa gì đã bị đạp méo mặt. Bức thư làm cho những tên bợm rượu hối hận, chúng dắt nhau đến xin lỗi phú hộ, ông không những an ủi chúng mà còn cho chúng việc làm trên ruộng dưa kia. Phú hộ ăn ở hiền lành, đồng lời kiếm được luôn chia cho người nghèo và cúng phật. Tiếng đồn về ông vang xa đến cả nước.

Hiềm một nỗi ông không có con cái, trai cũng không mà gái cũng chẳng có. Buồn lòng, ngày ngày ông bỏ bê công ăn việc làm, giao toàn việc quản lý cho em trai là Đường Kính trông coi. Còn về phần Đường Hồng, ông lên chùa thắp nhang cầu tự, một lòng xin đức Phật ban cho mình một mụn con, con gì cũng được, không phân biệt trai gái.

Một buổi sáng, trên đường đến ngôi chùa sát chân núi. Đường phú hộ thấy có ông cụ đi ngang qua bị vấp té, ông đang ngồi kiệu vội nhảy xuống tới đỡ cụ già. Phú ông đỡ cụ đến một phiến đá ven đường, sai người đem nước cho cụ uống. Đường Hồng ngồi bên phe phẩy cây quạt kiếm gió cho cụ già. Phú ông cau mày nói:

“sao cụ lớn tuổi lại đi con đường đầy sỏi thế này? Con cái của cụ đâu?”

Cụ già cười lớn trước vẻ ân cần của phú ông, cụ mỉm cười đáp:

“ta không có con cái, anh cũng chẳng phải quen biết với ta, sao lại tỏ ra quan tâm thế?”

Phú ông tỏ ra buồn phiền, lắc đầu đáp với cụ già:

“già cả như cụ thì đáng làm cha, làm mẹ thiên hạ, xá gì là con.”

Cụ già gật đầu tỏ vẻ hài lòng:

“ừ, thôi, mà anh đang đi đâu đó?”

“con đến chùa cụ ạ”

“ta thấy anh hay đi con đường này, chẳng lẽ ngày nào cũng đến chùa hay sao?”

Phú ông thở dài đáp dạ. Cụ già gặn hỏi nguyên do, ông ta liền kể lại nguyện vọng của bản thân. Cụ già nghe xong ngẩng đầu cười to, nói rằng:

“a, tưởng gì chứ chuyện đó thì quá dễ”

Phú ông bật cười, không muốn làm cho ông cụ mất vui bèn đáp xuôi theo. Ông cụ vỗ vai phú ông rồi đứng lên, rủ ông đi tản ngoạn. Phú ông bật lên kinh ngạc, sao ông cụ bỗng nhiên đi lại nhanh nhẩu thế. Ông cụ cười cười, dắt phú ông bẻ qua cánh đồng lau bên cạnh, bỏ lại người hầu đứng chờ phía sau. Trước khi đi, phú ông không quên bảo đám người kiếm chỗ có bóng mát mà đứng cho đỡ mỏi. Ông cụ dắt phú ông đi vòng quanh đám lau, cụ cứ nhìn chỗ này rồi quay sang chỗ kia, hình như đang tìm cái gì đấy. Ông cụ cười hỏi:

“thế anh muốn con gái hay là con trai”

Phú ông thuận miệng liền nói:

“dạ, con trai hay con gái gì thì cũng là con, phân biệt mà làm gì hả cụ”

Ông cụ lại cười ồ lên, nói:

“thế thì dễ quá”

Cụ cuối xuống chỉ tới một đoạn xa xa, bảo với phú ông cứ cuối xuống nhặt ba viên đá. Nhặt xong đem về thoa lên tóc vợ, nhất định sẽ được như ước muốn. Phú ông tưởng cụ già đang đùa, vừa định quay lại đưa cụ về chỗ cũ thì bỗng nhiên, có một luồng gió mát lạnh thổi qua người ông, cuốn mây bay lên trời. Phú ông chợt vỡ lẽ thì ra có thần nhân thử lòng. Phú ông bèn sụp lạy rồi vội vã chạy đến chỗ thần nhân đã chỉ. Ông thấy có rất nhiều viên đá, đủ các màu sắc sặc sỡ, viên nào cũng chứa tới hai ba màu khác nhau trên đó. Phú ông quan niệm thứ gì đơn giản hóa ra lại dễ thương nhất, ông bèn chọn các viên đá chỉ độc một màu duy nhất: màu trắng như nước, màu vàng như nắng và một viên màu xanh ngắt như lúa. Phú ông làm y lời cụ già đã dặn, đem đá vuốt lên tóc vợ mình. Quả nhiên, sau mấy ngày, vợ ông đã mang thai. Chín tháng sau, bà sinh một lúc ba đứa con gái. đứa nào đứa nấy nhỏ như hòn đá. Lạ một nỗi, mới sinh ra mà ba đứa đã mang ba mái tóc vừa dài vừa mượt mà, lại còn mang ba màu khác nhau. Bà vợ hoảng sợ la làng, nhưng phú ông lại bảo đó là con của trời, khác người là phải. Từ sau đó, ông cố nuôi nấng ba đứa trẻ, nhưng có cho ăn uống bao nhiêu, cơ thể của chúng cũng chỉ nhỏ bằng hòn đá ông đem về. Đặt tên cho từng đứa theo cái màu mà chúng có. Cô cả có mái tóc màu trắng bạc và trong vắt như nước, ông đặt tên là Bạch Thủy. Cô thứ hai có tóc màu vàng chói như mặt trời, ông gọi là Hoàng Nhật. Cô út dễ thương nhất, có mái tóc màu xanh, gợn và rung rinh như lúa chín, đặc biệt cô bé có hai sợi lông mày dài ngoẵng cũng màu xanh. Ông đặt là Đỗ Mi.

Phú ông thương con lắm, có đi đâu cũng mang con theo. Ở nhà thì ông cũng toàn dành thời gian cho chúng. Ông vui miệng nói ba đứa con đẹp như ba bông hoa, sau này nếu mà chết đi, ông hy vọng cả nhà của mình cũng sẽ hóa thành năm bông, sẽ mãi mãi ở bên nhau. Vợ ông bảo ông nói nhảm, nhưng ông cứ cười hì hì mà nhắc đi nhắc lại mãi.

Tài sản và công việc của ông cứ giao cho Đường Kính xử lý. Gã này làm ăn dối trá, lại có mắc tật nghiện rượu. Bao nhiêu tiền cũng đem đi uống cho thả cửa. Chốc chốc, của tiền cứ thế mà đi sạch, nhiều vụ làm ăn thất bát, bị người ta lừa mất một lúc cả đống tiền. Sợ bị anh la, gã ta giấu biệt. Đến một hôm, có mấy quan tham nhận hối lộ đến lừa gạt, đổ cho nhà họ Đường tội buôn lậu. Gã Đường Kính vốn ngốc nghếch lại nhát gan, bị lừa cho uống rượu rồi ký tên giấy buôn lậu lúc nào không biết. Đường Hồng vừa nghe thấy liền lên cơn đau ngực, chỉ vài ngày sau là đổ bệnh nặng.

Quan quân xông vào nhà tịch thu toàn bộ sản điền, tiền bạc, phú ông trong một khoảnh khắc mất trắng cả gia tài, quá tức tối, ông uất đến liệt luôn cả tay chân. Gia nhân thu dọn lấy cắp mấy món đắt tiền trong nhà rồi chuồn hết. Có đứa còn ác tâm lấy cả mồi lửa đốt nhà. Vợ Đường Kính tên Thị Nuôi bỏ ba đứa con gái nhỏ vào cái tráp, rồi cõng chồng chạy trốn. Thị Nuôi cõng chồng đi khắp nơi tìm chỗ trú. Đi mất mấy ngày cũng chẳng tìm ra chỗ nào có thể ở tạm. Bà cứ chốc chốc đi hết làng này sang làng khác, bà xin người dân một cái ghế kéo, Thị Nuôi đặt chồng trên cái ghế, ngày ngày đeo dây trên lưng kéo chồng đi. Bà đi một chốc lại dừng nhỏ sữa cho con bú. Thấy chồng chỉ nằm một chỗ, không nói được, miệng bị méo do liệt, cứ ư ứ rên lên. Sợ chồng đói, bà gấp một lá bàng ven đường lại, vắt sữa ra rồi đưa cho chồng uống đỡ khát. Đi hết mấy ngày mà cũng chẳng tìm ra nơi trú chân, người thị gầy rọp đi, sữa cũng cạn dần.

Một bà già đi ngang qua thấy thị bèn vẫy tay bảo dừng, bà móc trong túi ra một nắm cơm cười bảo thị ăn đi. Lạ thay sau khi thị ăn xong, cơ thể bỗng trở nên khỏe mạnh và no căng cả bụng. Bà già cho thị một cây đàn nhị, bảo vừa đi vừa kéo nhạc kiếm cơm. Nói xong chưa kịp để Thị Nuôi cảm ơn, bà cụ bước nhanh rồi biến mất.

Trời mưa tầm tã, thị cố lắm mới tới được một ngôi làng gọi là làng Mùi. Thị đi mãi mới thấy một cái chùa nhỏ bỏ hoang, mừng rỡ, thị đem chồng và con gái vào trong chùa trú đỡ. Chỉ định ở vài ngày rồi đi tiếp, nhưng không hiểu sao không khí trong chùa rất ấm áp và thân thiết với thị. Thị đành xụp lạy phải tội với nhà chùa rồi cùng chồng con ở luôn trong đó. Khi nào muốn cho con bú, thị sợ ô uế nhà chùa liền chạy ra ngoài mới cho con bú được.

Hàng ngày thị ra ngoài đầu làng kéo đàn cho khách nghe, tiếng đàn nhị thể hiện nỗi lòng đau đớn cứ vang lên tình tang, làm người nào đi qua cũng bật lên tiếng khóc thông cảm. Từ chỗ thị hay ngồi bỗng mọc lên một cây Quế rất to. Thế là thị dựa vào nghề đàn hát mà nuôi chồng và ba đứa con gái.

Sống trong chùa, con gái của thị trở nên mạnh khỏe. Trước sự chứng kiến đầy kinh ngạc của người mẹ, ba đứa con gái bỗng chốc hóa thành kích thước của một người bình thường. Chúng lớn nhanh như phỗng, đứa nào đứa nấy mỗi ngày chỉ bú có chút sữa mà trở nên xinh xắn khác thường. Năm mười tám tuổi, ba đứa đã trở thành ba thiếu nữ như bao người khác. Ba chị em tuy mỗi người có một tính cách khác nhau, nhưng cả ba đều hiếu thuận và có điểm đặc biệt. Đặc biệt là người chị lớn Bạch Thủy, khuôn mặt trong vắt yếu ớt. Mỗi động tác của cô mềm mại tựa như nước chảy. Từ nhỏ Bạch Thủy đã thông minh và hiếu học. Dù biết nhà nghèo và làm thân con gái, không được quyền đến lớp, nhưng Bạch Thủy vẫn lén nhìn trộm vào lớp học hoặc mượn vở bạn học thuộc lòng. Nét hiền lành của Bạch Thủy làm cho mọi người không ai nỡ từ chối cô bé, sau này ngay cả thầy đồ cũng âm thầm dạy chữ cho cô. Bạch Thủy học một hiểu mười, năm mười tám tuổi, Bạch Thủy đã được công nhận còn giỏi hơn cả thầy mình. Nhưng cô bé không đi thi được nên đành dùng chữ nghĩa làm gánh hàng mà bán kiếm cơm. Cô viết những câu đối và đem ra chợ đứng bán, nhưng ngôi làng nghèo nàn thì làm gì có ai thưởng thức chữ của cô. Đến một ngày, Bạch Thủy phát hiện có những đứa bé nghèo cứ len lén nhìn gánh chữ của mình, hỏi ra mới biết các em không có tiền đi học. Bạch Thủy liền về chùa mở một lớp học nhỏ, dạy chữ miễn phí cho con nít trong làng. Dân làng phản đối, người ta bảo rằng không thể để một đứa con gái dạy học được, làm thế chẳng khác nào bôi trấu vào cái chữ. Bạch Thủy không nghe, cứ kiên trì mở lớp. Hễ dạy một buổi là có người đến phá một lần, họ lấy ném vào lớp học. Con nít có đứa vỡ đầu chảy máu, có đứa bỏ chạy tán loạn. Nước mắt lưng tròng, Bạch Thủy không còn kiên nhẫn mở lớp. Cô lại lấy gánh hàng viết chữ mà bán cầm cơm.

Hoàng Nhật tính tình vốn mạnh mẽ, tóc cột cao, mặt quần cột giây xỏ chân. Nhìn chẳng khác gì một đứa con trai. Hoàng Nhật thì không ham học như chị, cô lại thích những trò chơi mạnh mẽ, thường lén chạy chơi với mấy đứa con trai quanh xóm, hết túc cầu rồi lại đánh khăn, đánh đáo. Thành thiếu nữ mười tám rồi, cô vẫn còn ham chơi như một đứa con nít. Hoàng Nhật chơi rất thân với một anh chàng nhà giàu họ Nguyễn, tên là Qua Đô. Hai đứa chơi với nhau và không giữ kẻ, vui thì cười nói, bực thì đánh nhau, trông chẳng khác thì hai thằng con trai mới lớn. Một lần câu cá, không may Qua Đô bị té, Hoàng Nhật ra sức cứu anh chàng, kể từ đó, Qua Đô yêu Hoàng Nhật lúc nào không biết. Mỗi khi Qua Đô dẫn Hoàng Nhật về nhà chơi, cha mẹ cậu có vẻ không hài lòng vì cho Hoàng Nhật là đứa thất học, lại nghèo mạt rệp. Nhiều lần còn tỏ thái độ thô lỗ với Hoàng Nhật, cô chẳng bao giờ biết nhịn nhục, một là một, hai là hai. Người ta mắng cô, cô mắng lại không khoan nhượng, chẳng thèm vị nễ. Một lần còn lỡ lời hỗn láo bị mẹ Qua Đô tát cho mấy bạt tai. Hoàng Nhật tức mình không thèm chơi với Qua Đô nữa, từ đó cậu buồn đến sinh bệnh. Thuốc gì cho uống cũng không khỏi, ngày càng lả đi. Hoàng Nhật biết chuyện buồn rầu, đem tâm sự lại với mẹ. Thị Nuôi thương con gái không biết làm sao liền dạy cho cô bé chơi đàn nhị. Hoàng Nhật tuy có tính con trai nhưng không hiểu sao lại tỏ ra hợp với món nhạc cụ này, càng chơi càng khéo. Cô hạ quyết tâm, thỉnh thoảng lại lén đến thăm Qua Đô. Hoàng Nhật nhận ra mình cũng thương người ta mất rồi.

Cô út Đỗ Mi là đứa quái tướng nhất trong ba chị em. Trong ba đứa con, Đỗ Mi là đứa Thị Nuôi thương nhất. Đỗ Mi có bề ngoài kì dị và xấu xí, hai sợi lông mày dài đến tận cằm, tay chân ngũ đoản, thứ nào cũng chỉ ngắn bằng phân nửa người khác. Đỗ Mi lại vốn đần độn, chẳng hiểu biết gì nhiều, được cái cô bé rất thương cha, nhìn người cha tàn tật, cô không đành. Ngày nào từ sáng tới tối, cô bé cứ bóp tay, bóp chân cho cha, cố làm ông hoạt động trở lại. Hai cha con cứ thủ thỉ với nhau mà vui sống, cả ngày chỉ có cha làm bạn nên Đỗ Mi càng thương ông hơn. Nhờ sự giúp đỡ của cô con gái, bệnh của Đường Hồng cũng có chút khởi sắc. Đến năm con gái trở thành thiếu nữ, ông cũng bắt đầu đứng dậy và chuyển động được. Ông đi xin việc làm, nhưng chẳng ai nhận. Đến một lúc có lão làm nghề họa sư nhận Đường Hồng vào làm với mức lương bèo bọt. Đối với Đường Hồng thì chẳng còn gì tuyệt hơn, ông đồng ý với công việc ngay. Tuy đã hoạt động lại được nhưng di chứng thì vẫn còn nguyên đó. Đường Hồng không nói được trôi chảy, miệng của ông vẫn còn méo quẹo, gắng lắm mới lắp bắp được đủ một câu. Tay chân thì cứ xiên xiên quẹo quẹo, nhưng ông cố gắng hết mình. Công việc của ông là xếp tranh trong phòng kho cho ngăn nắp. Những ngày đầu, ông làm cho người ta thất vọng tràn trề, sắp bao nhiêu lần thì bấy nhiêu lần đống tranh rơi vãi lầm rầm. Rốt cục, một buổi chiều nọ, người ta bảo ông vào nhận tiền công rồi ra về. Cái mặt méo của Đường Hồng càng co lại nhăn nheo hơn, nước mắt nước mũi chảy tèm hem tèm huốc. Miệng ông mếu máo co lên rồi lại quặp xuống cố lắp bắp xin xỏ:

“vợ… tô..i…r..ất…là…tố..tt…bà…ấy..k   o..đàn…nuô…i… s.ống..cả…gia đình… tôi.’

Ông thở hồng hộc vì cố quá sức, rồi lại hít hà căng mặt ra, gục mặt xuống gồng mình rặng tiếp từng câu chữ, bàn tay ông co nắm lại giừn giựt như giữ cái gì đó thật chặt:

“cả…nhà…t..tôi…cố…làm…việc. T..tôi…là…th…ằng…đàn ông mà…không n…uôi…nổi….vợ..con. X..xin…ông cho… t…ôi một cơ hội nữa”

Nói tới đây thì Đường Hồng chịu, không thể nào gắng thêm được nữa. Nước mắt cứ thế mà tuôn rơi, ông quỳ xuống khóc ròng ròng. Người ta thấy thế thì ra sức xin ông chủ, cho Đường Hồng tiếp tục ở lại làm việc. Nễ những người làm công, lão họa sư cứ thế mà nhắm mắt cho qua. Dần dần Đường Hồng cũng xếp được ngay ngắn đống tranh trong phòng. Không biết vì sao nhưng từ khi có ông Đường Hồng vào làm việc, tranh của lão họa sư cứ thế mà đắt ầm ầm, khách mua tranh không ngừng ghé thăm.

Cuộc sống của cả nhà Đường Hồng cứ thế trôi qua cho đến một hôm, Hoàng Nhật trở về trong cơn mưa khủng khiếp. Hình hài ướt nhẹp, cô bé nói với chị em và mẹ, cô đã có bầu với Qua Đô. Quá đau lòng và sững sốt, Thị Nuôi nằm khóc sướt mướt rồi than trời, than đất. Cả Bạch Thủy và Đỗ Mi cũng ôm cô em gái vừa trách vừa thương. Cả nhà quyết định giấu chuyện này với ông Đường Hồng, sợ ông buồn mà ngã bệnh nữa. Ngày hôm sau, Thị Nuôi mua cau trầu dắt con gái đến nhà phú ông họ Nguyễn. Qua Đô bất ngờ nhưng mời bà và người yêu vào nhà trên ngồi. Mẹ của Qua Đô vừa nghe liền tất tả chạy ra quát mắng hai mẹ con Hoàng Nhật. Bà ta xỉa xói, bảo rằng người ta chỉ có nhà trai bước qua dạm hỏi nhà gái, chứ làm gì có chuyện nhà gái đi làm chuyện ngược lại. Vả lại bà ta còn nói chuyện bầu bí là do con gái của Thị Nuôi hư hỏng, chứ chẳng liên quan gì Qua Đô. Cậu chàng nhu nhược vừa lên tiếng can ngăn đã bị mẹ đuổi vào phòng sau, tính tình nhu nhược chẳng thể cãi lại, Qua Đô đành liếc nhìn buồn Hoàng Nhật rồi lẳng lặng đi ra sau. Hoàng Nhật coi cái nhìn đó như nát dao găm, chẳng biết làm thế nào. Cô khóc miên man sau lưng mẹ. Thị Nuôi nín nhịn vì con, bà đẩy nhẹ khay cau về phía mẹ Qua Đô, nói:

“thôi thì, chúng nó đã lỡ lầm, coi như đây là cái tội của tôi, tôi xin bà cho chúng nó lấy nhau, cũng là cái phước của chúng nó, cũng là cái phước của chúng ta”

Vừa nghe xong, mẹ Qua Đô nổi đóa, bà ta hất khay trầu vào người Thị Nuôi rồi cho gia đinh cầm gậy đuổi đánh hai mẹ con. Hoàng Nhật lấy thân che kín người mẹ, cô bị nhiều roi nện đến thừa sống thiếu chết. Đánh cho đã tay, người nhà họ Nguyễn đẩy hai mẹ con ra khỏi cửa, dập xuống bùn đất trong cơn mưa như thác lũ.

Hoàng Nhật vừa bị lôi ra liền té xỉu, Thị Nuôi cắn răng cõng con gái về chùa. Sau hôm đó, Hoàng Nhật bị bệnh thập tử nhất sinh, lang trung đến khám thì bảo cái thai đã xẩy, còn người mẹ thì chỉ còn chờ chết. Cả mẹ, cha, chị, em đều ngồi quanh giường Hoàng Nhật ngồi khóc. Thị Nuôi chỉ biết lạy tượng Quán Thế Âm cho con gái mau qua khỏi. Đêm hôm đó, Hoàng Nhật bừng tỉnh, chưa bao giờ cô thấy đau đớn về mặt tinh thần lẫn thể xác như thế, thấy người nhà đã ngủ, cô chảy dài nước mắt rồi chụp lấy cây đàn nhị bỏ đi khỏi chùa.

Cơn mưa càng lúc càng to, Hoàng Nhật lết đi trong khi cơ thể bị những cơn gió dữ dập mạnh vào người. Tới trước cửa nhà họ Nguyễn, Hoàng Nhật run lên như cầy sấy rồi cắn răng ngồi bệt xuống, kéo đàn. Tiếng đàn não nề vang lên trong tiếng mưa gầm. Hoàn toàn không ai nghe thấy tiếng đàn chỉ trừ một người. Đêm đó Qua Đô thấy lòng như lửa đốt, vừa nghe thấy việc mẹ cho người đánh Hoàng Nhật, cậu đã muốn nổi điên. Đêm nay, tiếng đàn não nề từ đâu vang lại làm Qua Đô như điếng người, cậu xông cửa chạy ra thì thấy Hoàng Nhật đã nằm ngất từ bao giờ. Thân cậu run lên, Qua Đô ôm Hoàng Nhật vào người rồi cầm đàn chạy trốn. Người nhà vừa xông ra thì chẳng thấy cậu chủ đâu. Cơn mưa quá lớn đã lấp đi hoàn toàn mọi lối đi cũng như tầm nhìn. Qua Đô bế Hoàng Nhật đi hơn một giờ thì nhìn thấy một ngôi nhà hoang, cậu liền chạy vào trong đặt Hoàng Nhật nằm xuống. Cậu lay mãi, rồi hô hấp, nhưng chẳng thấy Hoàng Nhật đỡ hơn. Nước mắt tuôn rơi, Qua Đô run người đưa tay lên mũi Hoàng Nhật, cô đã tắt thở tự bao giờ. Qua Đô như lặng người đi, cậu gào ré như một thằng điên, bứt tóc cào tai. Cậu hét như gào thi với tiếng trời gầm. Qua Đô như hóa điên, cậu cầm cây đàn nhị trong tay rồi đâm đầu chạy đi trong mưa gió.

Xác của Hoàng Nhật tự nhiên bốc lên một mùi thơm nồng rồi tự hóa thành một bông hoa vàng như ánh nắng. Bông Hoa cắm xuống nền đất gạch rồi phát ra ánh sáng lấp lánh như hoa nắng nổi trong cơn mưa…

Sau khi thấy con trai biến mất, mẹ Qua Đô và phú ông họ Nguyễn cho người xốc xáo đi tìm. Người hầu lùng xục khắp mọi nơi nhưng chẳng thấy cậu chủ đâu. Mẹ Qua Đô thì như phát điên, giận cá chém thớt. Bà ta bảo nhất định là cái nhà họ Đường sống trên chùa kia bắt cóc con Qua Đô. Thế là bà ta nhét tiền cho quan huyện, bảo ông đem lính gông cổ cả nhà Đường Hồng cho vào tù.

Sau khi vào tù, nhà của Đường Hồng bị đối xử hết sức thậm tệ. Người ta không cho họ ăn, cũng chẳng cho họ có thời gian nghĩ ngơi. Hằng ngày mẹ của Qua Đô vào đánh đập và chửi bới, bắt họ khai ra đã bắt con bà đi đâu. Thị Nuôi và Đường Hồng chỉ biết câm lặng nín nhịn mà không phản kháng gì. Bạch Thủy thì khóc sướt mướt còn Đỗ Mi thì ú ớ chẳng biết nói gì. Điên tiết khi thấy con nhỏ Đỗ Mi cứ ư ứ, khóc lóc và ôm lấy chân mình. Không biết rằng cô bé đang ra sức cầu xin bà phú hộ, bà ta chỉ thấy cô thật kinh tởm. Tiện tay, bà ta cầm hai sợi lông mày dài giựt mạnh lên. Máu từ trên mắt cô bé ứa ra loang loáng, hai sợi lông mày bị đứt ra quấn chặt lấy tay bà phú hộ. Bà ta hốt hoảng la lên rồi ra sức gỡ hai sợi lông mày ra khỏi bàn tay. Nhưng càng gỡ ra thì chúng càng bó chặt lại đau đớn hơn. Cuối cùng, những sợi lông mày cứng lại sắc như dao, quấn trên tay bà ta đến bật cả máu. Khó khăn lắm bà ta mới kêu người lấy kéo cắt ra được. Sợ hãi, bà ta chẳng dám ở lâu thêm nữa liền ra lệnh đi về. Đỗ Mi bị đứt lông mày chỉ còn biết thoi thóp nằm trong lòng mẹ. Cô không suy nghĩ được nhiều nên cũng không hiểu chuyện, chỉ thấy bà phú hộ bỏ đi mà không mắng chửi mẹ mình nữa, cô bé mỉm cười hài lòng. Trong giây lát, Đỗ Mi nhắm mắt lại rồi nhắm mắt. Cơ thể Đỗ Mi co lại hóa thành một bông hoa màu xanh cắm chặt xuống đất nhà tù.

Vài ngày sau, ba người nhà Đường Hồng được thả ra. Họ về lại ngôi chùa hoang cũ, nhưng Đường Hồng và Thị Nuôi vì nỗi đau mất đi hai đứa con, họ lâm bệnh và nằm bẹp một chỗ, chỉ chảy ra những giọt nước mắt ai oán. Cả nhà chỉ còn trông chờ vào những chữ Bạch Thủy bán ra. Nhưng công việc này của cô chỉ là phụ, làm sao có đủ tiền để nuôi cả nhà ba miệng ăn? Bấy giờ ở làng bên có một cậu ấm tên là Văn Bá. Tên này mới có gần hai mươi tuổi đã ngông nghênh đáng ghét. Đối với hắn, mọi chuyện chỉ có mỗi việc vung tiền ra mà tiêu sài. Cha của hắn làm quan phủ nên chẳng có ai dám mở miệng cãi lại hắn. Văn Bá quen thân với thủy thần sông Phù. Thường thường, gã thủy thần lại hiện hình lên ăn chơi với Văn Bá. Nhờ lễ Văn Bá cúng hậu, gã thủy thần hiển nhiên phù hộ cho cha hắn làm quan ngày càng phát to. Nghe tiếng làng bên có cô Bạch Thủy nổi tiếng xinh đẹp, Văn Bá muốn tới xem thử một lần cho biết, thế rồi một ngày trời nắng, hắn gọi thủy thần lên và cùng qua làng bên chơi. Vừa thấy nhan sắc của cô, cả Văn Bá và thủy thần đều mê đắm. Thủy thần nghe Văn Bá nói sẽ bắt cô ta về làm vợ, mới nghe hắn đã tỏ ra không hài lòng, nhưng chỉ bấm bụng làm thinh. Tối đó thủy thần hóa thành một người mua chữ, tới hỏi xem Bạch Thủy muốn bán chữ như thế nào. Vốn ngây thơ và dễ tin người, Bạch Thủy vừa đem chữ ra mời khách đã bị thủy thần bắt về sông. Văn Bá biết chuyện vô cùng tức tối, thề rằng từ nay không thèm cúng bái cho thủy thần nữa. Có được người đẹp, thủy thần xá gì chuyện ăn uống, hắn ép buộc Bạch Thủy phải làm vợ của mình. Dưới đáy sông, cô chỉ một lòng lo cho cha mẹ bị bỏ đói. Nước mắt chảy dài, Bạch Thủy cầu xin thủy thần cho về với cha mẹ. Thủy thần khuyên nhủ cũng có, đe dọa cũng có, nhưng nhất định Bạch Thủy không chịu ưng thuận. Riết rồi hắn nổi điên, hóa phép cho nàng biến thành con cá rồi đem tặng lại cho Văn Bá. Văn Bá vừa thấy con cá liền nổi giận đùng đùng, quát với thủy thần, nếu không trả người thì còn đem tôm cá đến đây làm gì. Thủy thần vuốt giận Văn Bá rồi từ từ giải thích. Con cá này chỉ đến nữa đêm là trở lại thành người, hỏi nó nếu ưng thuận làm vợ Văn Bá thì giải phép, còn không thì cứ làm cá mãi mãi. Đến đêm, Văn Bá chờ cho đến khi cá hóa thành người, hắn ra sức ép buộc cô phải về làm vợ của hắn. Bạch Thủy một mực từ chối, hết ngày này sang ngày khác. Văn Bá đành chịu thua, nhốt con cá trong cái ao to, không chờ cô hiện hình nữa. Chỉ tức nỗi hắn bị nhục mặt, Văn Bá cho xích con cá nhỏ lại trong ao, hằng ngày đổ nước dơ vào cho con cá uống. Lạ thay, bao nhiêu nước dơ đổ vào đều biến hóa, mọc thành bèo dạt. Còn riêng bên cạnh con cá thì nảy ra biết bao nhiêu là hoa sen trắng tinh. Văn Bá càng như bị chọc cho lộn ruột. Hắn cho vớt toàn bộ bèo lên rồi dập cho sen nát bấy. Hắn bóc con cá ra rồi hét bảo nhà bếp, tối nay làm thịt con cá.

Trong nhà bếp có bà chuyên thái rau là thiện tâm, bà thương cho cô gái bị thủy thần hóa thành cá. Chờ mọi người đi khỏi, bà tháo xích cho con cá rồi thay một con khác vào. Bà lại thả nó vào ao để trốn. Nữa đêm, đến hạn giải phép, Bạch Thủy hóa lại thành người. Không bị xích nữa, cô bé thoải mái lẻn đi trốn về chùa. Chạy đến gần sáng thì Bạch Thủy mới về chùa được, không ngờ vừa tới cổng chùa, ánh sáng bừng lên, cô lại hóa thành con cá giảy nảy. Thị Nuôi lúc này đã khỏe được ít nhiều, thương chồng bệnh hoạn, bà cố ra chợ đem đàn đổi lấy chút tiền mua thức ăn. Nào ngờ thấy có con cá nằm trên đất, bà mừng quá vội đem nó đi nấu canh. Bà đâu biết đó là con gái của mình, con cá đem nấu canh xong bị vứt xương trên cái chum đựng nước. Đường Hồng ăn canh xong đột nhiên thấy buồn đau vô hạn. Nước mắt ông chảy xuống mà chẳng hiểu làm sao, chỉ biết từ khi nuốt thịt cá vào bụng, ăn bao nhiêu ông lại ói ra hết, rồi cứ nhìn bãi ói mà khóc. Sau cùng ông qua đời trong cơn khóc ngất lên của vợ. Xương cá trong chum hóa thành bông hoa trắng như nước, mọc ngay trên cái chum. Đường Hồng chết đi hóa thành đóa hoa ba màu: trắng, vàng và xanh, như thể ông đang ôm trọn ba đứa con gái trong tay mình. Thị Nuôi quá đau lòng bèn chạy ra cây quế giữa làng treo cổ tự vẫn. Sau khi bà chết đi, hóa thành một đóa hoa đen như cục đất, nằm gọn dưới gốc cây quế, như mãi mãi muốn ngồi đó đợi chồng và con mình trở lại.

Anh em họ Điền

Ngày xưa, có giòng họ Điền, anh em ăn ở với nhau từ đời nọ sang đời kia rất là hòa thuận. Về sau, họ này chỉ còn lại có ba anh em. Ba người vẫn chung sống với nhau vui vẻ tử tế, cho đến khi người thứ hai lấy vợ. Người vợ tính tình ích kỷ, lại hay sinh sự, lắm lời, nên không khí trong gia đình không còn được như xưa. Rồi một hôm người vợ nhất quyết đòi chia gia tài của ba anh em và bắt ép chồng đi ở riêng. Người chồng ban đầu nghĩ tình anh em bấy lâu sum họp mà không nỡ chia lìa, song rồi vì người vợ ngày đêm cằn nhằn khó chịu, kiếm chuyện gây gỗ trong nhà, nên rồi cũng đành phải nghe theo vợ, nói với anh em đi ở riêng. Người anh cả khuyên can không được cũng đành phải chia của cải cha mẹ để lại ra làm ba phần đều nhau. Chỉ còn một cây cổ thụ trước nhà, cành lá sum sê xanh tốt, chưa biết làm cách nào để chia cho đều. Ba anh em cùng nghĩ ngợi, rồi sau cùng quyết định gọi thợ về hạ cây xuống, cưa xẻ thành ván để chia làm ba phần.

Đến hôm định hạ cây xuống, buổi sáng ba anh em ra vườn thì thấy cây cổ thụ đã khô héo tự bao giờ. Người anh cả bèn ôm lấy cây mà khóc nức nở. Hai người em thấy vậy mới bảo anh:

"Một thân cây khô héo, giá phỏng là bao mà anh phải thương tiếc như thế"?

Người anh cả đáp lại rằng: "Có phải anh khóc vì tiếc cây đâu. Song nghĩ vì loài cây cỏ vô tri nghe thấy sắp phải chia lìa mà còn biết buồn phiền khô héo đi, huống gì chúng ta đây là người cùng ruột thịt. Anh thấy cây mà suy đến cảnh ba anh em chúng ta, anh mới phải khóc".

Nghe anh nói, hai người em hiểu ý, đưa mắt nhìn nhau rồi cùng òa khóc. Người vợ xúi chồng đi ở riêng nghe thấy vậy, cũng rơm rớm nước mắt, đâm ra hối hận, cúi đầu xin lỗi hai anh em và thề không bao giờ còn tính đến việc chia lìa nhau nữa.

Từ hôm đó, ba anh em ở lại với nhau êm ấm, vui vẻ như trước.

Cây cổ thụ nọ đã khô héo cũng trở lại xanh tươi như cũ.

Con Chim Lửa

 Ngày xưa có một ông vua sinh được ba người con trai: Người thứ nhất tên là Hoàng Di, người thứ hai là Hoàng Vi và người thứ ba là Y Văn. Nhà vua cai quản cả một giang sơn phồn thịnh nhất so với các nước chung quanh và lâu đài của nhà vua cũng là toà lâu đài đẹp nhất thời bấy giờ. Vua có một khu vườn đầy hoa thơm cỏ lạ nhưng đặc biệt ngài thích nhất một cây táo thường nảy sinh ra những quả táo bằng vàng.

Một buổi sáng, cũng như thường lệ vua đi dạo chơi trong vường và dừng lại ngắm cây táo yêu qúi. Ngài lẩm bấm:

"Lạ quá nhỉ! Ta có cảm tưởng như có ai vào trong vườn này trộm ăn táo vàng của ta".

Vua liền đếm số quả táo trên cây rồi sáng hôm sau ra đếm lại, quả nhiên thấy mất thực.

Ai là người dám vào vườn nhà vua ăn cắp trộm nhỉ? Mà lại ăn trộm chính những quả táo mà vua yêu qúy nhất?

Ngay tối hôm đó vua ra rình dưới gốc cây. Vào khoảng nửa đêm, ngày thấy một con chim lạ xuất hiện, một con chim có đôi cánh đỏ rực như lửa và đôi mắt long lanh như kim cương. Con chim lạ đó mổ một quả táo vàng rồi bay đi.

Vua ngạc nhiên sững sờ, không thốt ra được một lời nào. Sáng hôm sau, ngài cho vời ba cậu con trai lại và bảo:

- Đêm qua chính mắt ta thấy một con chim lửa ăn trộm táo vàng của ta. Các con phải làm sao bắt sống được con chim quái ác đó. Con nào bắt được ta sẽ chia cho một nửa giang sơn ngay lập tức và sau này khi ta chết sẽ được nối ngôi.

Ba vị hoàng tử đồng thanh đáp:

- Thưa phụ hoàng, chúng con sẽ cố gắng hết mình để bắt sống cho được con chim lửa.

Đêm đó Hoàng Di ngồi rình dưới gốc cây. Nhưng chỉ mới ngồi được một giờ đồng hồ đã ngủ quên mất vì quá mệt. Con chim lửa xuất hiện mổ hai quả táo vàng bay đi.

Sáng hôm sau vua đến và hỏi:

- Thế nào con, hôm qua con có thấy chim lửa không?

- Thưa phụ hoàng không.

Đêm sau đến lượt ông hoàng hai canh gác. Nhưng cũng như anh, Hoàng Vi mới canh được một giờ đồng hồ cũng ngủ quên vì quá mệt. Chim lửa lại đến và lại mổ táo vàng bay đi. Và sáng hôm sau, cũng như anh, ông hoàng hai cũng nói dối vua cha là không hề thấy chim lửa.

Đêm thứ ba đến lượt hoàng tử Y Văn. Y Văn ngồi dưới gốc cây cố chống lại giấc ngủ dù đôi mắt ríu lại. Một giờ trôi qua, rồi hai giờ, rồi ba giờ. Đột nhiên khu rừng bừng sáng như ban ngày. Chim lửa hiện ra và sắp mổ vào những quả táo vàng. Y Văn nhè nhẹ tiến đến gần và nắm lấy đuôi chim. Chim vụt bay đi chỉ để lại trong tay hoàng tử một cái lông đuôi, một cái lông đỏ rực như lửa. Khu vườn sáng rực như có ai đem một bó đuốc rất to chiếu sáng.

Sáng hôm sau nhà vua cho cất cái lông đuôi vào trong kho và rất hài lòng, không còn lo nghĩ gì nữa vì đêm đó và đêm sau nữa không thấy chim lửa trở lại.

Vài ngày trôi qua, ngày nào nhà vua cũng vào trong kho nhìn lông chim vẫn đỏ rực như buổi đầu. Nhưng chẳng bao lâu vua lại nghĩ ra ý muốn bắt cho được con chim lửa. Vua lại vời ba người con đến và bảo:

- Ta vẫn giữ nguyên lời đã hứa. Con nào bắt được chim lửa sẽ được ta chia ngay một nửa giang sơn và sau khi ta chết sẽ được nối ngôi.

Hoàng Di và Hoàng Vi ghét Y Văn vì hoàng tử này đã bắt được một cái lông chim, nên từ biệt vua cha đi tìm chim lửa. Hai anh em đi với nhau để lại hoàng tử Y Văn ở nhà. Y Văn từ biệt cha lên ngựa đi một mình.

Y Văn phi ngựa rất lâu, mãi rồi cũng đến một cánh đồng cỏ xanh rì, bên trên có một cái cọc có viết mấy chữ. Chàng tiến lên và đọc:

"Kẻ nào đi thẳng đằng trước sẽ bị đói và rét. Kẻ nào đi thẳng về phía tay phải sẽ chu toàn được đời sống của chính mình nhưng sẽ mất ngựa. Kẻ nào đi về phía tay trái sẽ chết nhưng ngựa sẽ sống như thường".

Y Văn không còn ngập ngừng gì nữa. Chàng tiến về phải. Chàng lẩm bẩm: "Tiếc quá thế là mình sẽ mất ngựa. Nhưng thôi thế nào chả tìm được một con ngựa khác".

Chàng cưỡi ngựa đi trong rừng ba ngày mà chả gặp một ai. Đến ngày thứ ba mới gặp một con chó sói. Sói bảo:

- Hoàng tử tại sao lại đến đây? Hoàng tử không đọc những chữ viết trên cọc sao?

Sói vừa nói xong là con ngựa gục xuống chết liền. Sói cũng biến mất trong bụi rậm.

Y Văn buồn quá vì mất một người bạn thân từ lâu đời. Nhưng Y Văn can đảm tiếp tục cuộc hành trình. Hoàng tử đi luôn trong ba ngày liền và đến ngày thứ ba lại thấy chó sói xuất hiện trước mặt. Sói bảo:

- Hoàng tử ơi ! Tôi tiếc là hoàng tử đã mất ngựa. Tôi muốn giúp ông. Ông hãy trèo lên lưng tôi đi. Tôi sẽ đưa ông đi đến nơi nào ông muốn đến.

Y Văn ngạc nhiên, giải thích:

- Sói ơi! Ta muốn tìm bắt con chim lửa đã đến vườn phụ hoàng ta để ăn trộm những quả táo vàng.

- Tôi biết. Thôi ông trèo lên lưng tôi đi. Đừng sợ gì cả.

Sói phi nhanh hơn ngựa, phi suốt ngày, đến chiều tối dừng lại trước một tòa thành có tường cao nghều nghệu. Sói bảo:

- Hoàng tử trèo lên tường đi. Hoàng tử sẽ thấy một khu vườn và con chim lửa đang bị nhốt trong một cái lông. Hoàng tử bắt chim nhưng nhớ đừng sờ vào lồng nghe chưa?

Y Văn trèo lên tường và tụt xuống khu vườn, quả nhiên trông thấy chim lửa bị nhốt trong lồng vì chung quanh chim ánh sáng đỏ rực như lửa. Chàng mở lồng bắt chim ra định trèo qua tường sang bên kia nhưng chợt nghĩ:

- Cái lồng bằng vàng đẹp quá. Vả lại không có lồng, mình biết nhốt chim vào đâu bây giờ?

Y Văn tiến đến gần cái lồng và gỡ xuống. Nhưng vừa đụng vào lồng thì đột nhiên chuôn báo động vang lên, lính trong vườn chạy ra bắt Y Văn đưa vào nộp hoàng đế Đông Mai ngự trị trong khu đó. Hoàng đế Đông Mai hét lên hỏi Y Văn:

- Anh còn trẻ tuổi như thế mà đi ăn trộm, không biết xấu hổ sao? Anh là ai, từ đâu đến?

- Thưa, tôi tên là Y Văn

- Y Văn nói

- Con chim lửa của ngài thường đến vườn của phụ hoàng tôi ăn trộm táo vàng nên phụ hoàng tôi mới cho tôi đến đây để bắt sống chim mang về.

- Dù sao anh cũng không nên làm như anh vừa làm xong. Nếu trước đây anh đến xin tôi con chim tôi sẽ cho anh ngay với tất cả các nghi lễ xứng đáng với một hoàng tử. Nhưng nay vì anh có lỗi anh phải làm điều này cho tôi. Đằng đầu kia thế giới có một ông vua tên là A Phông. Ông ta có một con ngựa bờm vàng. Nếu anh bắt được ngựa đem về đây, ta sẽ cho anh con chim lửa.

Hoàng tử Y Văn cúi đầu bước ra khỏi cung Đông Mai. Phải làm theo lậnh của Đông Mai nếu không thì cả nước sẽ biết mình là một tên ăn trộm. Y Văn buồn nản lắm.

Sói lại đứng đợi hoàng tử ở đầu tường.

- Sao hoàng tử lại trái lời tôi dặn? - Sói hỏi. Hoàng tử buồn rầu trả lời:

- Sói nói đúng, chính là lỗi tại ta.

Rồi hoàng tử kể cho sói nghe câu truyện với hoàng đế Đông Mai. Sói bảo:

- Thôi hoàng tử lại trèo lên lưng tôi đi. Tôi sẽ đưa hoàng tử đến chỗ con ngựa bờm vàng.

Sói phi nhanh như tên suốt một ngày đường mới tới chuồng ngựa trắng đẹp của hoàng đế A Phông. Sói lại bảo:

- Hoàng tử hãy nghe tôi đây. Hoàng tử vào trong chuồng ngựa lấy con ngựa bờm vàng đi, nhưng hoàng tử đừng đụng vào yên cương đó. Nếu không sẽ có nhiều chuyện bực mình.

Y Văn rón rén vào trong chuồng ngựa. Những người chăn ngựa ngủ say như chết. Y Văn dắt con ngựa bờm vàng ra ngoài. Nhưng trước khi đi ra, anh ghé mắt nhìn bộ yên cương bằng vàng treo trên tường. Bộ yên cương đẹp quá, Y Văn cầm lòng không đậu, vội lấy xuống, nhưng chuông lại reo, bọn người chăn ngựa thức dậy và cũng như lần trước, bắt Y Văn đem về trình hoàng đế A Phông. Cũng như lần trước, hoàng đế A Phông giận đỏ mặt tía tai và doạ sẽ công bố cho toàn dân biết Y Văn là một tên trộm.

Rồi ngài bảo:

- Đằng đầu kia thế giới có nàng công chúa xinh đẹp Hê Len. Nếu hoàng tử đem được nàng về đây ta sẽ cho hoàng tử con ngựa bờm vàng và hoàng tử có thể quay về tổ quốc mình với mọi nghi lễ dành riêng cho hoàng tử. Y Văn đành chấp thuận điều kiện của A Phông, chàng đi ra, và lại gặp sói. Hoàng tử lại cúi đầu.

- Sói ơi! Sói nói đúng. Ta có lỗi quá nhiều.

Sói bảo:

- Đừng lôi thôi gì nữa. Hãy trèo lên lưng tôi, tôi sẽ đưa hoàng tử đến tận nơi.

Sói lại phi thật nhanh và đến một cánh cổng bằng vàng. Sói bảo:

- Đến nơi rồi. Bây giờ hoàng tử xuống đi, đứng đợi tôi ở gốc cây sến bên kia đi.

Y Văn nghe lời sói đến gốc cây sến ngồi chờ. Thời gian trôi qua dài lê thê cho tới khi trời tối. Lúc đó nàng công chúa Hê Len xinh đẹp từ trong nhà bước ra và đi qua cổng.

Sói lúc đó đang rình trước cổng, vội nhảy chồm lên, bắt lấy nàng công chúa, đặt lên lưng rồi chạy vội qua gốc cây sến và gọi Y Văn nhảy lên đằng sau nàng Hê Len xinh đẹp. Sói chạy hết tốc lực và chẳng bao lâu về tới kinh đô nhà vua A Phông. Tất nhiên những người hầu công chúa chạy về báo động nhưng khi mọi người chạy ra thì sói đã đi quá xa.

Trong lúc ngồi trên lưng sói, Y Văn tha thồ ngắm nghía nàng công chúa xinh đẹp, ngắm mãi và sau cùng đem lòng yêu nàng. Cho nên khi về đến kinh đô nhà vua A Phông, hoàng tử rất buồn khi thấy sắp phải xa người đẹp. Sói hỏi:

- Hoàng tử sao vậy?

- Sói ơi! Làm sao không buồn rầu được khi phải đem đổi nàng Hê Len xinh đẹp nhường này lấy con ngựa bờm vàng. Nếu không đổi thì cả nước này đều sẽ biết tôi là một tên ăn trộm.

- Tôi đã giúp hoàng tử nhiều lắm rồi - Sói nói - Thôi hoàng tử hãy tin cậy nơi tôi đi. Hoàng tử sẽ được hài lòng.

Sói bày mưu cho hoàng tử và dặn phải làm đúng như lời mình dặn. Hoàng tử liền đem công chúa Hê Len giấu vào một bụi cây rồi cùng sói đi vào chầu vua A Phông. Đến cửa ngọ môn, sói biến thành một nàng công chúa xinh đẹp tuyệt trần trông giống Hê Len như đúc. Vua A Phông vui mừng tiếp đón hai người rất trọng thể. Vua bảo Y Văn:

- Hoàng tử rất xứng đáng được con ngựa bờm vàng và bộ yên cương bằng vàng lắm. Thôi hoàng tử cứ tự do đưa ngựa và yên cương đi. Chúc hoàng tử gặp mọi sự may mắn trên đường về.

Y Văn nhảy lên con ngựa phi nhanh như gió. Đến khu rừng nơi giấu Hê Len, Y Văn dừng lại đem nàng lên ngựa rồi phi nước đại. Đột nhiên hoàng tử kêu lên:

- Sói của ta đâu rồi nhỉ? Nhớ sói quá, sói ơi!

Thế là lập tức sói hiện ra. Hoàng tử mừng quá, nhảy lên lưng sói nhường ngựa cho Hê Len rồi cả ba cùng đi như bay, cho đến khi về đến kinh đô hoàng đế Đông Mai. Nhưng mặt Y Văn lại sa sầm. Sói hỏi:

- Hoàng tử sao thế?

- Sói ơi! Sói không thấy là công chúa Hê Len rất xứng đáng với con ngựa bờm vàng sao. Bây giờ mà đem con ngựa đổi lấy con chim lửa thì buồn quá.

- Thôi hoàng tử đừng buồn nữa. Tôi sẽ giúp hoàng tử một lần nữa. Nhưng hoàng tử phải theo đúng lời tôi mới được.

Nàng công chúa Hê Len và con ngựa bờm vàng lại được đem giấu vào trong một khu rừng gần đó rồi sói lại biến thành một con ngựa bờm vàng rất đẹp đi theo hoàng tử vào cung.

Hoàng đế Đông Mai hài lòng, cho Y Văn con chim lửa và cho luôn cả cái lồng bằng vàng.

Y Văn đem chim về đến khu rừng, đem Hê Len ngồi lên lưng ngựa rồi nắm chặt cái lồng và chim lửa, cả hai phi ngựa đi thật nhanh. Nhưng đột nhiên hoàng tử lại kêu lên:

- Sói của ta bây giờ đâu nhỉ?

Lập tức sói hiện ra. Cũng như lần trước Y Văn nhường ngựa cho Hê Len còn mình lại trèo lên lưng sói và phi đi như gió. Đi thật lâu mới về đến chỗ con ngựa trước của Y Văn bị chết. Sói ngừng lại bảo:

- Đây là chỗ con ngựa của hoàng tử chết dạo nọ. Hoàng tử xuống đi. Hoàng tử đã có con ngựa bờm vàng rồi. Hoàng tử lên ngựa muốn đi đâu thì đi. Tôi không còn giúp hoàng tử được việc gì nữa đâu.

Nói xong sói chạy biến vào trong bụi rậm.

Hoàng tử rất buồn, thở dài buồn rầu rồi trèo lên ngồi đằng sau nàng công chúa Hê Len xinh đẹp rồi phi ngựa đi.

Họ đi rất lâu. Khi gần đến nhà chỉ còn cách chừng 20 dặm thôi, Y Văn xuống ngựa, cùng công chúa ngồi nghỉ ngơi dưới gốc cây. Bộ yên cương treo trên cây gần đó, lồng chim trong đó có con chim lửa để bên cạnh, hai người nằm dài trên cỏ nói chuyện với nhau rất vui.

Họ nói chuyện mải mê đến nỗi quên cả thời gian. Đột nhiên họ nghe tiếng chân ngựa dồn dập chạy đến và có hai chàng kỵ mã đứng dừng trước mặt họ. Đó là hai hoàng tử Hoàng Di và Hoàng Vi.

Ba anh em gặp nhau chào hỏi vui vẻ. Y Văn kể cho hai anh nghe câu chuyện kỳ lạ của mình. Hai người anh ghen tức liền nảy ra ý muốn cướp chim và ngựa cùng nàng công chúa Hê Len xinh đẹp nên nhảy đến bắt Y Văn trói vào gốc cây, rồi đem cả chim và nàng Hê Len nháy lên ngựa phi tuốt về thành.

Đi được một quãng hai anh em dừng lại và Hoàng Di nói:

- Thưa công chúa, hiện nay công chúa đang ở trong tay chúng tôi. Công chúa phải làm theo lời chúng tôi dặn. Chỉ ít phút nữa thôi chúng tôi sẽ về tới hoàng cung vào chầu phụ hoàng của chúng tôi. Công chúa phải nói cho ngài biết chính chúng tôi đã mạo hiểm đưa công chúa về đây, chính chúng tôi đã bắt được con chim lửa và ngựa bờm vàng.

Nhưng công chúa bưng mặt khóc. Hoàng Di rút gươm ra đe doạ.

- Nếu công chúa không làm theo lời chúng tôi, chúng tôi sẽ đâm chết công chúa ngay bây giờ.

Hai hoàng tử bàn nhau và thoả thuận là Hoàng Di sẽ lấy công chúa còn chim lửa và con ngựa bờm vàng sẽ thuộc về Hoàng Vi. Rồi họ lên ngựa thi nhau xem ai về thành trước.

Y Văn bị trói dưới gốc cây, đói và rét quá, chàng chịu đựng được trong bốn ngày rồi đến ngày thứ năm mệt và đói rét quá, đầu chàng gục trên ngực chỉ còn chờ chết. Quạ đã bắt đầu đến đậu đen trên cành cây trên đầu chàng, chỉ còn chờ chàng chết là sà xuống rỉa thịt.

Đến lúc đó tự nhiên sói từ trong bụi cây chạy ra và hét lên bảo con quạ đầu đàn:

- Hỡi quạ, các ngươi phải giúp ta mau cởi trói cho hoàng tử Y Văn chứ.

- Nhưng thưa ông sói, chúng tôi đang đợi hoàng tử chết để ăn một bữa tiệc thực to đây.

Sói giận điên lên, nói bằng một giọng run run:

- Ngươi phải giúp ta nếu không ta sẽ không để cho một con quạ nào sống sót trong khu rừng này.

- Xin vâng! Xin vâng!

Quạ đầu đàn ra lệnh cho các quạ con. Chúng xúm lại lấy mỏ mổ rất nhanh và liên tiếp vào sợi dây trói, chẳng bao lâu dây trói tuột ra và hoàng tử Y Văn ngã lăn xuống đất.

Sói ra lệnh cho quạ đi lấy nước đem về.

Dần dần nhơ sự săn sóc chu đáo của sói và quạ, Y Văn tỉnh lại, nhìn chung quanh ngạc nhiên vô cùng. Sói bảo:

- Nếu tôi không đến kịp và nếu các vị quạ ở đây không chịu giúp tôi thì hoàng tử đã chết từ lâu rồi. Hai anh hoàng tử tồi tệ quá, hoàng tử nhảy mau lên lưng tôi đi về thành cho kịp vì ông anh Hoàng Di của hoàng tử sắp làm lễ thành hôn với nàng công chúa xinh đẹp rồi.

Y Văn vội vã làm theo lời sói rồi chẳng bao lâu cả hai đã về tới cổng thành. Sói bảo:

- Thôi chúng ta chia tay nhau ở đây thôi. Tôi hy vọng rằng từ nay trở đi hoàng tử không cần đến sự giúp đỡ của tôi nữa. Thôi vĩnh biệt hoàng tử.

Y Văn vội vã chạy ngay vào hoàng cung trèo lên cầu thang bước vào phòng ăn trong hoàng cung lúc đó đang yến tiệc linh đình. Vua cha ngồi giữa, bên trái có công chúa Hê Len và bên phải có Hoàng Di. Hoàng Di ngồi bên trái công chúa. Vừa trông thấy Y Văn công chúa kêu lên:

- Thưa, đây mới là người đã mạo hiểm đưa tôi về đây.

Vua cha ôm hôn Y Văn rất âu yếm. Vua tưởng Y Văn đã chết, vì hoàng tử kia đã kể cho vua nghe là Y Văn đã chết. Vua muốn được nghe công chúa Hê Len kể lại đầu đuôi câu chuyện thực rõ ràng. Hê Lên nói hết cho vua nghe, nào chuyện bắt chim lửa, nào chuyện bắt con ngựa bờm vàng và chuyện bắt mình ra sao. Khi nghe Hê Len kể xong, vua tức giận quắc mắt nhìn hai ông con trai nhưng cả hai đã biến mất từ hồi nào.

Vua liền hạ lệnh cho bữa tiệc tiếp tục linh đình như cũ và cho Y Văn làm lễ thành hôn cùng công chúa.

Cặp vợ chồng đẹp đôi đó sống trong hạnh phúc tràn trề, trăm năm đầu bạc.

 Quả Bầu Kỳ Lạ

Tờ Chú (có nghĩa là anh đen) nghèo nhất làng. Họ nghèo lắm, nghèo đến nỗi không có một con dao mẻ để phát nương, một cái thuổng để đào củ mài. Tờ Chú phải đi ờ cho chủ làng để lấy cơm gạo nuôi thân, nuôi mẹ.

Nhà chủ làng giàu lắm, trâu hàng đàn, voi hàng lũ, ruộng chim bay mỏi cánh, muông thú chạy chồn chân không hết. Tờ Chú không ao ước gì hơn ngoài mảnh ruộng, đám nương để cấy lúa, trồng ngô nuôi mẹ.

Một hôm Tờ Chú nói vơi chủ làng:

- Tôi không muốn ở thuê cho chủ làng mãi. Tôi muốn có một mảnh ruộng, một đám nương. Chủ làng có thể cho tôi một khoảng rừng để tôi phái nương, vỡ ruộng được không?

Chủ làng nghe chàng trai nói vậy, lắc đầu.

Nhiều lần Tờ Chú hỏi xin nhưng không lần nào chủa làng trả lời cả. Một hôm chủ làng đang uống rượu, Tờ Chú lại vào xin. Hắn bực mình chỉ lên dãy núi xanh xanh phía chân trời và nói:

- Thôi được, mày đã muốn thì tao cũng chẳng tiếc nữa. Nếu mày có sức thì cả dãy núi kia, tha hồ cho mày phát.

Nghe chủ làng nói thế, Tờ Chú sung sướng quá, vội chạy về báo tin cho mẹ biết. Mẹ khuyên:

- Con chớ nên đi, dãy núi hoang kia là chỗ ở của hùm beo, rắn rết. Con lên đấy sẽ bị chết mất xác. Rồi đây, ai thay con nuôi nấng, chăm sóc mẹ?

Tờ Chú an ủi:

- Mẹ không lo. Hùm beo con chẳng sợ, rắn rết con chẳng kinh. Chủ làng đã cho đất, nhất định con sẽ phát được nương, vỡ được ruộng.

Thấy con quả quyết, người mẹ cũng không can ngăn nữa. Sáng hôm sau, Tờ Chú từ biệt mẹ lên đường. Chàng cứ nhắm hướng núi xanh trước mặt mà đi. Đi mãi, suốt chín ngày, chín đêm liền không nghỉ, ngày thứ mười, Tờ Chú đến chân núi. Đó là một khu rừng rộng bạt ngàn, cây to cây nhỏ chen nhau kín mặt đất. Chàn dùng tay không bẻ gãy cây nhỏ, lấy đá đập đổ cây to. Qua chín ngày, chín đêm nữa, Tờ Chú đã khai phá được một khu đất rộng. Đến ngày thứ mười, anh bỗng thấy một con chim gõ kiến bay đến nói:

- Nghĩ tay một tý đã, Tờ Chú. Tôi có câu chuyện muốn nói vơi anh. Hãy để cho loài chim chúng tôi ít cây để làm tổ. Rẫy của anh đã dài hơn rẫy chủ làng rồi đó. Tôi bay rã cả cánh ra rồi mà vẫn không hết đám rẫy anh vừa phát.

Nghe chim gõ kiến nói, Tờ Chú ngưng tay không phát theo chiều dọc nữa. Chàng quay lại phát chiều ngang. Cũng đến ngày thứ mười thì chàng thấy một con nai vàng từ trong rừng chạy ra, nói:

- Rẫy của anh rộng gập đôi rẫy của chủ làng rồi. Tôi chạy đã mỏi cả gối mà vẫn không hết. Anh hãy dành chỗ đất cho loài thú chúng tôi.

Tờ Chú nghe lời nai, ngừng tay. Đúng là rẫy của chàng bề dài hơn rẫy của chủ làng, bề ngang rộng hơn rẫy chủ làng. Từ nay, gia đình chàng sẽ có ngô, lúa. Tờ Chú đập đá lấy lửa đốt rẫy. Xong việc, chàng về bản lấy thóc giống lên gieo. Nhưng khi về đến nhà, bao nhiêu thóc giống, mẹ chàng đã ăn hết cả rồi. Chàng hỏi vay các nhà trong bản, nhưng chẳng ai còn thóc cho chàng vay. Cùng đường, Tờ Chú phải đến nhà chủ làng vay thóc giống. Tên chủ làng nham hiểm cho chàng vay loại thóc đã luộc chín rồi. Tờ Chú không biết cứ mang lên rẫy gieo. Không thấy lúa mọc, chàng lại đến nhà chủ làng vay lần nữa. Chủ làng nói:

- Giàng không cho mày sướng đâu ,Tờ Chú ạ. Mày đừng phí công vô ích. Nếu lần này mày gieo không mọc thì đúng là cái số mày như vậy. Mày lại đến ở thuê cho tao thôi.

Đúng như chủ làng nói, lần thứ hai, Tờ Chú gieo lúa vẫn không mọc. Nhìn cả đám rẫy, cỏ đã bắt đầu mọc, cây non đã đâm chồi. Tờ Chú buồn quá ngồi khóc. Chắc là Giàng không muốn cho mẹ con chàng có gạo cơm, bỗng thấy một quả bầu khô từ đâu trôi đến, đụng vào chân. Bực mình, chàng đá quả bầu cho trôi theo dòng nước, nhưng nó lại trôi trở lại, đụng vào chân chàng. Hai ba lần như vậy, Tờ Chú nghĩ: "Hay là mình trồng bầu ăn vậy. Ăn bầu người cũng sống được. Nếu không, mình chỉ còn cách là lại đi làm thuê cho chủ làng".

Nghĩ vậy, chàng vớt quả bầu lên rồi về nhà từ biệt mẹ lên rẫy trồng bầu. Đến nơi, chàng ghè quả bầu vào đá, lấy hạt rắc khắp rẫy.

Hôm sau, ra xem rẫy. Tờ Chú hết sức kinh ngạc vì rẫy của chàng đã là một rừng bầu. Hôm sau nữa, bầu đã ra hoa và ngày thứ ba thì khắp rẫy lố nhố những quả.

Tờ Chú mừng quá, hái một quả về nướng ăn thì thấy rất thơm ngon. Sung sướng quá, chàng reo lên:

- Sống rồi, ta sẽ mang bầu về cho mẹ, chắc là mẹ mừng lắm.

Nhưng khi ra đến rẫy định hái bầu về cho mẹ thì cả rẫy bầu đã úa vàng. Quả bầu mới hôm qua xanh mơn mởn, hôm nay đã khô đét. Tờ Chú đi đi lại lại khắp rẫy, nhìn những quả bầu khô, nước mắt cứ trào ra. Chàng nghĩ: "Giàng không cho ăn bầu tươi, thì lấy hạt bầu về cho mẹ ăn cầm hơi vậy". Chàng liền hái một quả ghé vào đá. Quả bầu vỡ đôi, tung ra không biết cơ man nào là hạt, nhưng không giống những hạt bầu mà là một thứ hạt nhỏ, vỏ cứng. Tờ Chú nhìn kỹ thì đúng là hạt thóc. Thóc cứ chảy rào rào như thác nước. Kinh ngạc quá, chàng đập thử quả thứ hai rồi quả thứ ba, quả nào cũng đầy những thóc là thóc. Tờ Chú mừng quá vội đi hái bầu, chất từng đống vào chòi rồi gùi thóc về nhà cho mẹ.

Đến nhà, thấy mẹ đang nằm co quắp bên đống lửa tàn, da bọc lấy xương vì đói. Tờ Chú hốt hoảng lay gọi mẹ.

- Mẹ ơi, có lúa gạo rồi. Con đem về đây, mẹ dậy mà ăn.

Người mẹ mở mắt, trông thấy con, nước mắt cứ trào ra. Đến khi nhìn thấy gùi thóc bên bếp bà lại nhắm mắt lại và nói.

- Con đem bán thóc trả cho người ta, con ạ. Mẹ không nở ăn cơm gạo không phải do sức của mẹ con ta làm ra. Thà là mẹ chết còn hơn ăn phải của ăn trộm, ăn cắp.

- Mẹ ơi, thóc của nhà ta đấy mà. Tờ Chú vội nói.

Người mẹ vẫn lắc đầu:

- Con đi gieo lúa, lúa không mọc. Con đi gieo bầy, bầy ăn được thì Giàng lại làm cho héo đi. Thế mà con bảo là thóc của rẫy nhà ta thì mẹ tin sao được.

- Nếu mẹ không tin thì để con cõng mẹ lên rẫy xem, mẹ sẽ rõ.

Không đợi mẹ trả lời, Tờ Chú nâng mẹ dậy, sốc bà cụ lên lưng cõng đi. Chàng đi như bay, phút chốc đã đến chòi giữa rẫy. Chàng đặt mẹ nằm bên bếp lửa rồi lấy một quả bầu, ghè vào đá. Thóc từ trong quả bầu rào rào chảy ra như thác nước. Người mẹ thấy vậy, mắt sáng lên:

- Giàng giúp mẹ con ta rồi con ơi.

Từ ngày có rẫy bầy kỳ lạ, mẹ con Tờ Chú trở nên no đủ. Dân dưới bản bị đói, kêu nhau lên rẫy đào củ, được mẹ con chàng cho thóc, nhờ vậy mà qua được nạn đói.

Chủ làng nghe tin Tờ Chú nhờ phát rẫy trên núi trồng bầy mà có dư lúa gạo, bèn tìm cách đòi nợ. Tờ Chú trả rất sòng phẳng hàng chục quả bầu, chủ làng hí hửng màng bầy về, chắc mẩm phen này sẽ suốt đời dư thóc gạo. Nhưng khi đập bầu ra thì quả nào cũng toàn sỏi cát. Chủ làng tức giận nhưng không làm gì được chàng trai. Còn mẹ con Tờ Chú từ đó trở đi không bao giờ bị đói như xưa nữa.

Cây Củ Cải

Ngày xưa có hai anh em đều đi lính. Anh thì giàu, em thì Nghèo. Người em không muốn sống nghèo khổ mãi, bỏ lính về làm Nông dân. Anh cuốc một vạt đất ở đầu cánh đồng và gieo hạt củ cải. Mầm mọc, củ lớn dần, lớn dần, lớn không ngừng đến mức có thể coi Là củ cải chúa, chưa bao giờ từng có củ cải nào to như vậy và cũng Sẽ chẳng bao giờ sẽ thấy củ cải to như thế. Cuối cùng, nó thành một Củ cải khổng lồ, một mình nó có thể chiếm hết một xe chở và phải Gióng hai con bò để kéo xe. Bác nông dân không biết dùng củ cải ấy Làm gì và tự hỏi không biết đây là phúc hay là họa. Rút cuộc, bác tự Bảo: "Nếu mang bán thì người ta sẽ trả bao nhiêu? Nếu ăn củ cải Thì ăn những củ nhỏ cũng đến thế thôi. Tốt nhất là ta mang tiến Vua để tỏ lòng thành kính".

Bác khiêng củ cải lên một cái xe, gióng hai con bò, dắt xe đến Cung nhà vua để dâng vua.

- Cái vật kỳ lại này là cái gì vậy?" - Vua phán - Ta đã từng trông thấy Nhiều vật lạ, nhưng chưa thấy một vật khổng lồ như thế này, không biết mọc từ Cái hạt giống gì ra? Hoặc giả ngươi là phù thủy và đã đích thân làm ra củ này? - Tâu bệ hạ, không phải thế đâu ạ - Bác nông dân trả lời - Thần Là một anh lính nghèo nuôi thân không xong nên phải thôi lính về Làm đất. Thần có một người anh giàu có, bệ hạ biết nhiều về anh ấy. Nhưng thần thì không có gì, nên bị mọi người ruồng bỏ. Nhà vua thương hại bác nông dân và phán:

- Nhà ngươi sẽ không nghèo đói nữa, ta sẽ ban cho ngươi của Cải để nhà ngươi cũng giàu như anh nhà ngươi.

Vua ban cho bác nông dân rất nhiều vàng, ruộng nương, đồng Cỏ và gia súc, đến mức bác trở nên rất giàu, của cải người anh Không sánh được.

Khi người anh biết là em trở nên giàu có nhờ có một cây củ cải, Thì anh ta ghen tức và nghĩ nát óc ra tìm một cách để cũng gặp may Như em. Anh láu hơn em, mang biếu nhà vua vàng và ngựa, nghĩ Rằng vua sẽ ban cho anh nhiều của cải hơn em. Nếu em ta chỉ biếu Nhà vua có một củ cải mà được vua ban cho chừng nấy của thì vua Sẽ ban cho ta biết mấy để đáp lại những tặng phẩm quý giá! Vua Nhận đồ dâng của anh và phán là không có gì quý hơn và hiếm hơn Là cây củ cải. Vua bèn cho anh cây củ cải to tướng. Người anh đành Chất cây củ cải của người em lên một cái xe rồi kéo về nhà.

Về đến nhà, người anh không biết trút cơn tức giận lên đầu ai Cho tới khi nẩy ra ý nghĩ độc ác là giết em. Anh thuê những kẻ giết Người và cho chúng nấp ở một nơi. Anh đến gặp em và bảo: "Chú ạ, Tôi biết nơi cất giấu một kho vàng, chúng ta cùng đi lấy rồi chia Nhau". Người em đi với anh, không nghi ngờ gì cả. Khi hai người đi Tới nơi đã định, những kẻ giết người nhảy xổ vào người em, trói em Lại và chuẩn bị treo cổ lên một cái cây. Khi chúng đang làm việc đó Thì ở xa có tiếng hát và tiếng vó ngựa vọng lại. Chúng sợ hãi nhét Người bị bắt - đầu lộn ngược - vào một cái bao, treo lên một cái cây Rồi chạy trốn. Ở trên cây, người em giãy giụa cho tới khi cái bao bị Thủng một lỗ, đầu lọt ra. Người đi tới chẳng qua là một cậu sinh Viên đi lang thang, một thanh niên đang vừa ruổi ngựa trong rừng Và hát vang lên. Người em ở trên cây thấy có người vừa qua bên Dưới bèn kêu to:

- Cậu đến thật đúng lúc!

Cậu sinh viên ngó quanh, không biết tiếng nói từ đâu ra. Cuối Cùng cậu nói:

- Ai gọi tôi thế?

Từ ngọn cây, người em trả lời:

- Hãy ngẩng lên mà nhìn. Tôi ở trên cao, trong một cái túi dạy Khôn. Trong một thời gian ngắn, tôi đã học được không biết bao Nhiêu điều hay; những điều học ở trường chẳng thấm vào đâu. Tôi Học sắp xong rồi, tôi sẽ xuống và tôi sẽ giỏi hơn mọi người trên thế Gian này. Tôi thông thiên văn, biết hướng đi của gió, cát ở ngoài Biển, cách chữa mọi bệnh tật, công dụng của cây cỏ, các loại chim và Các loại đá. Nếu anh chui vào đây, anh sẽ thấy ở trong túi dạy khôn Này hạnh phúc biết chừng nào.

Cậu sinh viên nghe thấy thế ngạc nhiên vô cùng và nói: - Quả là trời phù hộ cho tôi được gặp bác. Bác làm ơn cho tôi Vào trong túi một lúc có được không?

Người em trả lời như có vẻ chần chừ: "Tôi cũng muốn để anh Chui vào một tí nếu anh đưa tôi một ít tiền và ăn nói tử tế, nhưng Anh hãy đợi một giờ nhé. Còn có điều tôi muốn học thêm đã". Cậu sinh viên chờ một chốc, sốt ruột năn nỉ xin người em cho Chui vào vì anh nóng lòng muốn học khôn. Người em giả bộ như Cũng chiều ý cậu và nói:

- Muốn để tôi bước ra khỏi cái nhà dạy khôn này, anh hãy hạ Túi dọc theo cái dây thừng. Sau đó sẽ đến lượt anh vào". Cậu sinh viên hạ người em xuống, mở túi cho anh chui ra. Sau Đó, cậu kêu lên:

- Giờ thì hãy kéo tôi lên cao nhanh lên!" Rồi anh chui vào trong túi. "Hượm đã!" - người em nói, - "như Thế chưa được". Anh đẩy cậu sinh viên đầu lộn ngược vào túi, buộc Miệng túi lại rồi kéo lên cây. Anh đẩy cho cái túi đu đưa trên không Rồi hỏi:

- Cậu thấy thế nào hở cậu? Cậu thấy đấy, cậu cảm thấy khôn Ngoan đang đến đấy, cậu đã học được nhiều. Hãy cứ nằm im, cho Đến khi nào khôn ngoan hơn."

Sau đó, người em nhảy lên con ngựa của anh sinh viên và đi. Được một giờ, anh cho người đến tháo cho cậu sinh viên xuống. “Ở hiền gặp lành" là sợi chỉ đỏ xuyên suốt nội dung của các Truyện cổ tích. Trong câu chuyện trên ca ngợi người em sống thật Thà thì luôn gặp may mắn, hạnh phúc. Người anh tham lam dù có Cố gắng đến đâu cũng không bao giờ đạt được mục đích.

Dũng Sĩ Diệt Quỹ

Tại một làng nọ, có một bà già sống trong cảnh góa bụa hẩm hiu. Bà thường than vắn thở dài cho số phận chẳng may của mình. Nhưng than thở cũng chẳng ích gì vì thực tế bà phải kiếm gạo nuôi đứa con trai độc nhất, tên là Ná.

Hiện tại, Ná là nguồn an ủi lớn lao cho bà. Ná là kết quả của sự sống chung với người chồng đã quá cố, người chồng mà bà thương yêu hơn chính bản thân mình.

Thật vậy, tình mẫu tử còn bao la hơn cả trời cao đất rộng. Bà có thể nhịn ăn để Ná thừa cơm ấm áo, chứ nhất định bà không chịu để chú bé phải dãi nắng dầm sương, nay đầu ghềnh, mai cuối bãi, lặn lội theo bà để kiếm ăn.

Vì lòng hy sinh cao cả của mẹ nên Ná thương mẹ lắm, ngày đêm mơ ước lớn nhanh, khỏe vội để nuôi mẹ dưỡng già trong khoảng thời gian còn lại của đời bà.

Một hôm, trời đất cho Ná toại nguyện: Sau một đêm ngủ dậy, Ná tự nhiên thay đổi hẳn. Từ một chú bé khẳng khiu ốm yếu, Ná trở nên mạnh khỏe gấp mười người lớn. Ngực Ná nở tròn, căng như chiếc nỏ đã lên dây. Tay Ná nở phồng và đen bóng như bồ hóng. Ná càng khỏe thì càng ăn nhiều. Mẹ nấu cho nồi cơm lớn, Ná ăn sạch; nấu đến nồi ba, nồi năm, nồi bảy, nồi mười, Ná cũng ăn hết ráo.

Thoạt tiên mẹ mừng vì con chóng khỏe, nhưng chẳng bao lâu, mẹ đâm ra ái ngại thở dài. Lúa gạo trong bồ, dự trữ từ mấy năm nay, phút chốc hết sạch. Mẹ càng nai lưng làm lụng vất vả cho đến một ngày kia, bà ngã bệnh trầm trọng. Thấy mẹ đau, Ná buồn lắm, bèn chạy thuốc cứu mẹ từ ông lang này qua ông lang khác, nhưng bệnh tình của mẹ vẫn không thuyên giảm. Dù thế Ná vẫn không thất vọng. Một hôm, Ná dắt con chó vàng vào rừng đi tìm lá cứu mẹ. Leo tới lưng chừng núi, con chó bỗng rướn cổ sủa vang. Ná cứ cắm cổ đi thẳng, không để ý gì đến chung quanh, vì đầu óc của Ná chỉ nghĩ đến bịnh tình của mẹ mà thôi. Bỗng con chó giựt dây chạy biến. Ná nhìn lại, thấy nó đang rượt đuổi một con hươu lửa rất đẹp. Ná vội vã chạy theo. Ná chạy rất nhanh, nhanh hơn cả tên bay, gió thoảng thế mà lạ thay, vẫn không đuổi kịp con hươu kia. Đến đỉnh đồi, con chó bị lạc mồi, chúi mõm vào tay chủ. Ná thì đang thở dốc, hơi thở kêu phò phò như một con rắn hổ mang.

Khi hết mệt rồi, Ná nhìn quanh quất cốt ý tìm dấu vết con mồi, nhưng chẳng thấy gì. Chợt nhìn sang bên trái, Ná thấy một ông già, râu tóc bạc phơ, đầu chít khăn trắng, đang đưa tay vẫy ra dấu bảo Ná lại gần. Ná do dự chưa biết tính sao thì ông già đã lên tiếng:

- Sao ngươi dám đem chó vào chốn rừng thiêng của ta? Người không biết đây là cõi Tiên hay sao?

Ná ngơ ngác nhìn ông già rồi hỏi:

- Thưa cụ, thế... cụ là Tiên?

Ông Tiên gật đầu, nói tiếp:

- Con hươu lửa mà người đuổi theo hồi nãy là con của ta đấy. Nó đi dạo chơi, không động chạm gì đến ngươi, sao ngươi lại đuổi nó?

Trước hình dung quắc thước lạ thường của ông Tiên, không chần chờ gì nữa, Ná phục mình xuống sát đất, vừa lạy vừa nói:

- Thưa Ngài, quả thật là con không biết con hươu kia là con Ngài. Nếu biết, con đã không dám...

Ông Tiên vừa vuốt râu bạc phơ vừa thong thả nói với Ná:

- Thôi, đứng dậy đi! Ta tha cho ngươi lần này. Từ rày về sau, hễ thấy con ta đâu thì không được hỗn nữa.

Nói đến đây, ông Tiên quay gót định đi. Ná thấy vậy càng lạy tới tấp và nói:

- Thưa Ngài, xin Ngài nghĩ tình thương con mà đừng đi vội, cho con thưa cùng Ngài một chuyện...

Ông Tiên nghe Ná ăn nói lễ phép, vội dừng lại, nhìn Ná một hồi rồi nói bằng một giọng đầy yêu thương:

- Chuyện gì? Con có chuyện gì muốn nói?

Ná mừng lắm, bèn kể rõ bệnh tình của mẹ và xin Tiên ra tay cứu giúp. Sau một hồi trầm ngâm, Tiên nói:

- Con hiếu thảo lắm! Ta rất yêu những người biết lễ nghĩa và hiếu thảo như con. Thôi được, ta cho con cái này...

Vừa nói Tiên vừa trao cho Ná một viên sỏi trắng. Ná vui mừng như mở cờ trong bụng. Hai tay run run cầm viên sỏi, Ná cúi đầu tạ ơn Tiên lia lịa. Tiên nói:

- Viên sỏi đó quý lắm. Chẳng những nó cứu được mẹ con mà còn có thể giúp con thêm mạnh. Con dùng nó, người con sẽ đổi khác hoàn toàn. Con sẽ trở thành một thiếu niên có sức mạnh vô địch, không một chướng ngại nào cản trở được con...

Một lần nữa, Ná lại vái lạy tạ ơn Tiên lia lịa. Tiên bảo tiếp:

- Con nhớ đem viên sỏi này về nhà, lựa một thân cây trên núi mà con thích rồi ủ kín nó đi. Chờ đủ ba ngày ba đêm, bao giờ nghe tiếng gà rừng gáy o o, con chạy đến cây kia, sẽ thấy thuốc đưa về cứu mẹ...

Về đến nhà, Ná làm đúng như lời Tiên dặn. Đúng ba ngày ba đêm, bữa nọ, trời chưa sáng tỏ, Ná đang ngồi trong bếp bỗng nghe văng vẳng tiếng gà rừng gáy o o. Mừng quá, từ trên nhà Sàn, Ná chạy lẹ xuống cầu thang, chạy tắt qua nhà nem tơ ne , qua đập ngăn nước chận cá, leo vội lên cây có giấu kín viên sỏi. Ná nhìn kỹ chẳng thấy sỏi đâu cả, nhưng từ giữa thân cây, mọc lên một nho nhỏ, lá xanh biếc, có củ con đèo dưới gốc.

Biết là thuốc tiên, Ná nâng tay cầm lấy cây quý chạy miết về nhà. Vừa chạy Ná vừa ngắt một củ cắn thử xem. Lạ lùng thay! Ở trong củ cứ rỉ ra một thứ nước tươi như máu hồng. Về đến nhà, Ná soi của vào ánh lửa ngắm xem thì thấy củ có màu óng ánh xanh, đỏ, vàng, trắng, tím đẹp như cầu vồng ngũ sắc.

Ná đem nửa củ cho mẹ ăn. Chỉ một lúc sau me. Ná thấy khỏe ngay, ngồi dậy được và cười nói như thường. Thấy l ạ, Ná ăn thử một củ. Vừa ăn xong, người Ná bỗng trở nên cao lớn lạ thường. Một hiện tượng lạ xảy ngay sau đó: Tay tự nhiên vạm vỡ, rắn chắc như cành ké, chân tự nhiên lớn dần và cứng như cây kơ-rông (một loại cây không bao giờ mục trong rừng). Chưa hết, vai Ná tự nhiên to bằng ba bốn vai trâu rừng ghép lại, ngực tự nhiên căng phồng và cứng như một khối đá nặng ngàn cân.

Ná cất bước thì sàn nhà chao đi chao lại, cột kèo nghiến răng rắc muốn gãy. Ná bước xuống cầu thang thì cầu thang lún sâu xuống đất, thấp lè tè như cái nắm tí teo. Ná cầm cây mít trước nhà lắc thử, nhưng mới lắc qua chưa kịp lắc lại, gốc mít đã bật khỏi đất. Ná vác gốc mít lên vai thấy nhẹ như vác cây mía.

Mẹ thấy Ná cao lớn khác trước nhiều quá, sợ hãi la lên. Dân làng chạy đến xem, thấy Ná sừng sững giữa sân, cao lớn như núi, cũng một phen kinh hồn bạt vía.

Vì mạnh nên Ná càng ăn khỏe gấp ngàn lần trước đây: Điều này không có gì lạ, phù hợp với định luật tăng trưởng của cơ thể con người! Biết là mẹ và cả dân làng nữa cũng không thể kham nổi về vấn đề ăn uống của Ná nên chàng đi vào rừng tìm một cành dõn to nhất, lung kiếm những dây mây bự nhất, những gốc tre lồ ô già nhất để làm nỏ và tên. Từ đó ngày nào Ná cũng đi săn thú để ăn. Nếu rừng này bắt đầu khan hiếm voi, hổ, trâu rừng... thì Ná lại đi kiếm ở những khu rừng khác. Nhà Ná lúc nào cũng đầy rẫy những xương, sườn và da của bầy dã thú.

Ná ở với mẹ thêm được bốn năm thì mẹ chết. Ngày mẹ mất Ná buồn lắm. Sau khi chôn cất mẹ xong xuôi, Ná thường bỏ nhà, bỏ làng đi tìm vui trong thú giang hồ đây đó.

Nơi nào Ná đặt chân đến là nơi đó tên tuổi chàng vang danh cùng khắp. Thành thử một hôm, một "buông nọ vì có chuyện cần Ná giúp đỡ nên vời chàng đến. Số là tại đây có một con quỷ chuyên ăn thịt người và bắt cóc phụ nữ. Sào huyệt của nó ở tận ngoài đảo heo hút, tên gọi là Lý Sơn . Nó mạnh vô cùng. Sức nó có thể đánh chết một lúc hàng trăm thanh niên lực lưỡng. Nó lại có tài phù phép: Hễ bắt được đàn bà con gái, nó hóa phép thu hình nhỏ lại như hột mít, bỏ vào trong cái ống tre có chạm trổ những hình thù kỳ quái.

Biết được tin đó, Ná nổi giận và muốn đi tìm quỷ ngày. Dân trong "buông" góp mỗi người một hũ rượu cần, một chiếc bánh tét, một gùi gạo, rồi đánh chiêng trống inh ỏi, mở hội mừng Ná lên đường.

Đầu chít khăn đỏ , vai vác giáo dài, tay cầm tên nỏ, Ná chào bà con xuống núi. Chàng đi ròng rã hơn chín ngày đường, băng qua không biết bao nhiêu đèo cao, rừng rậm, sông dài.

Đảo Lý Sơn ở cách xa đất liền dài bằng một quãng đường mà sức con ngựa khỏe phải phi ngót mấy ngày trời. Ná leo lên một chiếc thuyền, thuyền tròng trành, không chịu nổi sức nặng của chàng. Nước trào vào thuyền, rồi thuyền chìm nghỉm. Tức quá, Ná ngửa mặt lên trời xin Tiên xuống giúp. Chàng vừa khấn vái xong thì trời nổi mưa to gió lớn. Từ trên nguồn bỗng trôi về một bè chuối rất lớn, dạt vào chân Ná. Ná hoan hỉ bước xuống. Bè chở chàng đi. Trời trở lại quang đãng. Gió từ đâu vù vù thổi về, vừa thổi mát cho chàng vừa đẩy bè trôi nhanh. Chẳng bao lâu, đảo Lý Sơn hiện trước mặt chàng.

Đến đảo, Ná vội bước lên bờ. Chàng rẽ lau lách đi vào động quỷ. Bốn bề im lặng ghê sợ. Chẳng có bóng sinh vật nào thấp thoáng nơi đây. Phải chăng đây là đất chết? Ná tự nghĩ thầm như vậy. Mà quả đây là đất chết thật: Đầu lâu trắng hếu, xương sọ, xương tay chân khẳng khiu rơi vung vãi khắp cửa động âm u!

Ná đi miết, luồn qua động này, sang động khác; chàng cũng chẳng thấy một ai. Đến một cửa hang lớn, chàng thấy bếp lửa còn bốc khói. Ná dừng lại, đoán đây là nơi dung thân của quỷ. Chàng lặng lẽ ngồi xuống một tảng đá lớn để đợi quỷ. Đợi đã khá lâu mà chàng chẳng thấy quỷ xuất hiện. Tai chàng nghe tiếng lao xao kỳ lạ: Ná vội nhìn quanh thì thấy một ống tre đậy nắp thật kỹ cứ lăn qua lăn lại dưới chân chàng. Bực mình, Ná cầm lên lắc mạnh và mở mạnh nắp. Nắp bật, một hột mít nhỏ rơi xuống đất. Chỉ trong chớp mắt, hột mít biến thành một người con gái nhan sắc tuyệt trần, bẽn lẽn nhìn Ná. Ná giật mình, hỏi:

- Cô là ai? Là người hay quỷ hóa thân?

Cô gái nhỏ nhẹ đáp:

- Không, tôi không phải là quỷ đâu! Tôi là người bằng xương bằng thịt hẳn hoi!

Ná nhìn nàng một lúc rồi hỏi tiếp:

- Thế sao cô hóa thành hột mít?

Cô gái mỉm cười, đáp:

- Không phải tôi tự ý hóa ra, mà do quỷ hóa phép buộc tôi phải thế! Tôi vốn là con út của vua Thủy Tề. Một hôm tôi đang thơ thẩn dạo chơi thì bị quỷ bắt về đây làm vợ. Ban ngày nó đi luyện phép trên đỉnh núi, đêm đến mới mò về. Mỗi lần nó đi đâu, nó cũng biến tôi thành hột mít và nhốt trong ống tre...

Nghe nàng nói, Ná thấy thương hại cho nàng. Con vua mà phải bị cưỡng ép làm vợ cho quỷ! Trời đất sao nỡ làm ngơ, trước cánh hoa đương độ hương sắc ngọt ngào đành phải tàn phai quá sớm! Ná thở dài, nói với cô gái:

- Cô cứ yên chí, tôi sẽ giết quỷ cứu cô thoát nạn!

Cô gái thở dài não ruột:

- Nó mạnh lắm! Không khéo nó lại ăn thịt anh đấy!

Ná nói bằng giọng đầy tự tin:

- Ăn thịt tôi thế nào được! Tôi ăn thịt nó thì có!

Cô gái lắc đầu rồi nói:

- Tôi không biết anh mạnh đến mức nào, nhưng thôi, tôi cũng tin và mong là anh mạnh hơn nó đi! Nhưng xin anh nhớ cho điều này...

Cô gái nói chưa dứt câu, Ná đã vội nói ngang:

- Điều gì? Cô nói cho tôi biết...

Trầm ngâm một lúc, cô gái nói tiếp:

- Quỷ mạnh khi người giao đấu với nó mở mắt nhìn nó; chứ còn nhắm mắt thì nó chịu. Anh nhớ chứ?

Ná gật đầu không nói. Sau đó, cô gái nấu cơm cho Ná ăn. Ăn xong, Ná đem giấu người con gái xinh đẹp vào chiếc gùi mà chàng đang mang sau lưng. Ná thiu thiu ngủ, đợi quỷ về...

Tối đến, sau khi con cú kêu dứt chín tiếng thì con quỷ xuất hiện. Nó rống ồ ồ: Một mùi thối xông ra nồng nặc. Đến hang lớn, nó mở ống tre ra xem. Không thấy nàng con gái của vua Thủy Tề, quỷ gầm thét điên cuồng. Vừa lúc ấy, từ trong góc hang, Ná bừng mở mắt. Chàng vội lắp tên vào nỏ, nhắm ngực quỷ bắn liền bảy phát. Quỷ quay lại trợn mắt và phun hơi độc về phía Ná. Thấy bắn liền bảy phát mà quỷ chẳng hề gì, chàng mới sực nhớ lời người con gái. Ná bèn nhắm mắt lại, cầm giáo xông ra đánh quỷ.

Trận chiến đôi bên kéo dài ngày này qua ngày khác. Tiếng gầm thét khi giao đấu của hai đối thủ vang lên nghe tựa sấm sét. Những mũi tên bay vèo vèo nghe như tiếng gió hú ở chốn rừng xanh núi thẳm. Những mũi giáo xẹt ngang nhanh như tia chớp vào lúc đêm đông, mạnh như vũ bão vào mùa gió lớn!

Ná giao đấu càng lúc càng hăng; ngược lại sức quỷ càng lúc càng yếu. Nhớ thế cuối cùng chàng giết được quỷ.

Biết tin quỷ chết, chim chóc lại trở về làm tổ trên cành. Chim hót líu lo như lời chào mừng người chiến thắng! Ná và cô con gái vua Thủy Tề, tay trong tay, vui vẻ rời động quỷ. Hai người quấn quít bên nhau, quyết sống chết có nhau, không rời nửa bước.

Từ ngày giết được quỷ, tên tuổi Ná thêm lẫy lừng! Chàng hãnh diện về chuyện đó một phần, nhưng phần khác, chàng hãnh diện hơn: Chàng cưới được cô con gái con vua Thủy Tề làm vợ.

Nhưng Ná đâu ngờ rằng, vì tên tuổi chàng vang lừng khắp chốn nên hễ cần đến sức mạnh của chàng, người ta lại khẩn khoản mời chàng ra tay cứu giúp. Vì vậy chàng không có nhiều thì giờ để gần gũi vợ. Suốt ngày tháng, Ná dong ruổi đi đánh quỷ hết đằng đông lại đến đằng tây. Cô vợ cảm phục chàng, đưa cho chàng một cái hoa tre màu đỏ thắm và dặn: "Bao giờ đi xa quá, hễ gặp nguy nan gì, hay có nhớ tôi thì anh hãy cầm cái hoa tre vẽ hình tôi dưới đất, phút chốc tôi sẽ đến, nhưng khi vẽ, nhớ khoanh hình lại, nếu không tôi sẽ mất hút vĩnh viễn".

Ná mừng lắm và từ buổi ấy, hễ nhớ vợ hay cần vợ giúp sức, chỉ vẽ và đóng khung hình nàng là nàng tới ngay. Nhưng một hôm, tai vạ đến với chàng: Số là bữa đó, Ná một mình đi đánh với một con quỷ hung ác ở vùng sơn cước Đác Lây. Quỷ có tài biến mình thành núi rồi lại hóa thành người. Hễ giao đấu với ai, cùng một lúc quỷ vừa biến thành núi cao hùng vĩ vừa biến ra hàng loạt người, kẻ đánh chiêng, người múa hát quay cuồng. Đối thủ nào chưa có kinh nghiệm thực tế thì bị nó khép vòng vây lại bóp cổ chết, hoặc làm cho núi đổ đè bẹp hình hài.

Ná giao đấu với quỷ dữ hơn mấy ngày rồi mà vẫn không phân thắng bại. Nóng lòng giết quỷ, Ná bèn rút hoa tre cắm trên tóc vẽ hình vợ dưới đất. Vợ liền hiện ra và mách nước cho chàng đánh bại quỷ... Mừng quá, chàng hăng say chiến đấu mà quên khoanh tròn hình nàng lại. Bởi thế khi giết được quỷ, Ná định lên tiếng khen ngợi vợ hi^'n thì hỡi ơi, nàng đã mất hút tăm hơi.

Mất vợ, Ná hối hận, khóc than thảm thiết. Ngày ngày chàng thất thểu từ "buông" này qua "bản" nọ, với hy vọng tìm thấy bóng vợ hiền.

Nhưng hy vọng không bao giờ đến vì sau đó ít lâu, Ná trút hơi thở cuối cùng bên mép núi đìu hiu.

Vì thương cho chàng nghĩa hiệp hào hùng, trời cho Ná biến thành cây dõn, cành rất dẻo, lõi rắn như thép. Cây dõn mọc bên bờ giếng dưới chân núi, ngày đêm soi bóng xuống làn nước lặng trong. Vì biết cây dõn là kiếp sau của Ná nên thanh niên lũ lượt tìm cành dõn để làm nỏ, hòng hy vọng hồn Ná linh thiêng phò trợ cho họ trong nghề cung kiếm.

Riêng về các cô gái Thượng thì chỉ nhìn thấy khía cạnh bi đát của mối tình của Ná, qua hình ảnh cành dõn rũ bóng xuống dòng nước phẳng lặng như tờ. Họ đã kết dệt thành thơ và thường hát cho nhau nghe, từ bao thế hệ đã qua. Bài thơ tạm phỏng dịch như sau:

Ná ơi, Ná hỡi, Ná hời!

Thương anh giết quỷ cứu người lầm than.

Quên lời dặn cũ nên đành,

Hóa cây dõn mọc bên gành giếng khơi.

Bởi chưng ân hận, hỡi ơi

Ôm hình ảnh vợ nghìn đời chưa tan...

 Cô Gái Thông Minh

Ngày xưa có hai anh em, một người thì nghèo, một người thì giàu. Người em nghèo đến cả cái bát ăn cơm, cái vá múc canh, cái chén uống nước cũng chẳng có. Một lần, người anh giàu có đột nhiên đến nhà người em nghèo khổ, đưa cho em một con bò sữa và nói:

- Chú hãy làm việc cho tôi ít nhiều, con bò sữa này sẽ là của chú!

Vì thế, người em nghèo đến làm việc cho người anh. Một thời gian sau, người anh đòi lại con bò:

- Đưa con bò lại cho tôi!

Người em không đồng ý:

- Anh ơi, vì con bò này, em đã làm việc cho anh mà!

- Chú làm cho tôi những gì? Thật không đáng kể ra ! Thế mà chú hãy xem, đây là con bò như thế nào? Hãy trả lại bò cho tôi ! Hãy trả lại cho tôi!

Người em nghĩ: Không thể mất toi công sức được. Nói gì mình cũng không bằng lòng giao trả con bò. Thế là họ đến gặp một cụ già nhờ phân xử. Nhưng cụ già thì sao? Cụ cũng không biết phải phân xử ra sao, cuối cùng cụ bèn nói với hai anh em:

- Ai trả lời đúng câu đố của ta thì con bò sẽ thuộc về người đó.

- Xin cụ hãy đưa ra câu đố, thưa cụ !

- Hãy nghe nhé: trên thế giới cái gì béo nhất, cái gì nhanh nhất, và cái gì đáng yêu nhất? Ngày mai hãy cho ta nghe câu trả lời.

Hai anh em đi về. Trên đường về nhà, người anh giàu có nghĩ: Thực là lời mê sảng hoang đường, đây, thử đoán xem ông cụ đố gì? Có gì có thể béo hơn con lợn của ông cụ? Có gì có thể nhanh hơn con chó săn của ông cụ? Có gì có thể đáng yêu hơn tiền bạc? Con bò là của ta rồi!

Người em nghèo trở về nhà, nghĩ mãi mà vẫn không đoán ra. Anh có một người con gái tên là Masa, thấy cha mình về nhà với dáng nghĩ ngợi, cô hỏi cha:

- Bố ơi, bố có gì buồn bã thế? Ông cụ đã nói những gì ạ?

- Ông cụ đưa ra những câu đố như thế thật là bảo người ta vắt óc ra suy nghĩ.

- Câu đố gì hả bố?

- Trên thế giới cái gì béo nhất? Cái gì nhanh nhất? cái gì đáng yêu nhất?

- Chà, bố ơi ! các câu này dễ thôi mà ! bố cứ yên tâm nói giống lời của con là được.

Ngày hôm sau hai anh em lại đến chỗ ông cụ. Ông cụ hỏi:

- Thế nào, các anh đã đoán ra chưa?

- Chúng tôi đã đoán ra rồi, thưa cụ.

Người anh chạy đến trước, bật ra câu trả lời.

- Thưa cụ, béo nhất là con lợn nhà cụ, nhanh nhất là con chó săn của cụ, đáng yêu nhất là tiền bạc.

- Ấy, ấy, ấy ! nói bậy nào ! Nói bậy nào ! - cụ già kêu lên. - Ôi, đáp án của anh không đúng!

Lúc này người em mới lên tiếng:

- Cụ ơi, là như thế này, không có gì có thể béo hơn mẹ Đất, Người nuôi dưỡng vạn vật trên thế gian, lại đem vạn vật làm thức ăn cho con người.

- Đúng, đúng ! - ông cụ nói. - Thế cái gì nhanh nhất nào?

- Nhanh nhất là ý nghĩ của con người, ý nghĩ của con người có thể theo gió đến bất cứ nơi đâu.

- Đúng là như vậy. Còn cái gì đáng yêu nhất?

- Đáng yêu nhất là giất ngủ say. Bất cứ ai, một khi đã ngủ say đều có thể giũ bỏ tất cả.

- Hoàn toàn đúng! - Cụ già nói. - Con bò là của anh rồi ! Nhưng anh phải nói cho ta biết anh tự mình nghĩ ra hay đã có ai giúp đỡ anh?

- Thưa cụ. - Người em nghèo khổ nói. - Tôi có một đứa con gái tên Masa, chính nó đã bảo cho tôi điều đó.

- Có việc này ư? Ta thông minh như thế, còn cô ta chỉ là cô gái bình thường, thế mà lại đoán được câu đố của ta.

Cụ suy nghĩ và quyết định thử tài cô gái này. Cụ nói với người em:

- Đây là mười quả trứng gà chín, hãy đưa cho con gái anh, bảo cô ấy đem gà mẹ ấp qua một đêm phải nở ra những con gà. Sau đó đem những con gà đó nuôi lớn, rồi con gái anh hãy giết ba con quay chín mang đến cho ta ăn sáng. Sáng mai, trước khi ta ngủ dây, anh hãy mang đến đây. Ta sẽ đợi. Nếu như không làm được thì anh và con gái anh sẽ gặp rắc rối đấy!

Người em trở về nhà và ân hận vô cùng khi đã đến nhờ ông cụ phân xử dùm. Nghĩ tới sáng mai, anh bật khóc. Người con gái thấy, chạy ra hỏi:

- Bố ơi, sao bố lại khóc? Lời giải đáp của con đã sai sao?

- Không phải. Chúng ta gặp rắc rối rồi con ơi ! Ông cụ đưa cho con mười quả trứng gà chín, con cần phải đem trứng cho gà mẹ ấp ra gà con, yêu cầu sau một đêm gà phải nở, lại phải nuôi lớn rồi giết ba con quay lên làm bữa sáng cho ông cụ.

Cô gái sau một hồi suy nghĩ rồi đem ra một chậu cháo nói:

- Bố ơi, bố hãy đem chậu cháo đến đưa cho ông cụ, bảo với ông cụ rằng ông cụ hãy đào một cái hố, đem chậu cháo trồng xuống đó, cây mạ mọc lên, khi lúa chín rồi hãy gặt lúa về, xát thành hạt gạo, nghiền vỡ ra rồi đem đến cho những con gà nở từ những quả trứng chín này ăn.

Người em nghèo mang chậu cháo chín đưa cho ông cụ già và đem những lời con gái nói với ông cụ.

Ông cụ nhìn đi nhìn lại chậu cháo, rồi đem chậu cháo ra cho con chó nhà mình ăn. Sau đó, ông cụ tìm một rễ cây gai đưa cho người em nghèo và nói:

- Hãy cầm rễ cây gai này đưa cho con gái anh, bảo nó ngâm thật kỹ rồi phơi nắng, đập tơi, đem dệt thành một trăm tấm vải, nếu như không làm được thì lời nói kia khó mà chấp nhận được.

Người em nghèo chạy về nhà, lại khóc. Con gái anh hỏi:

- Chuyện gì nữa vậy bố?

- Con nhìn đây, ông cụ đưa cho con một rễ cây gai, yêu cầu con ngâm vào nước rồi phơi nắng, đập kỹ và phải dệt ra một trăm tấm vải.

Masa suy nghĩ rồi lấy con dao chặt một cành cây nhỏ đưa cho bố nói:

- Bố ơi, hãy đem cành cây này đưa cho ông cụ, xin ông cụ hãy làm khung cửi dùng để dệt rễ gai này.

Người em nghèo cầm cành cây đến gặp ông cụ, đem những lời con gái nói lại với ông cụ. Ông cụ nhìn đi nhìn lại cành cây nhỏ, rồi ném nó đi, trong lòng thầm nghĩ: “Xem ra đây đúng là một cô gái thông minh”. Ông cụ rất muốn gặp mặt cô gái, nhưng lại nói với người em nghèo:

- Anh hãy quay trở về nói với con gái anh, bảo cô ấy đến làm khách nhà tôi sáng mai, nhưng phải nhớ là không được đi bộ cũng không đi xe, không đi chân không cũng không đi giày, không cần đem theo lễ vật nhưng không thể thiếu lễ vật. Nếu con gái anh không đến, chắc anh biết chuyện gì sẽ xảy ra.

Người em nghèo lại trở về nhà trong tâm trạng buồn rầu. Đến nhà, anh đem lời nói của ông cụ nói với con. Nghe xong, sau một hồi suy nghĩ, Masa nói với cha:

- Bố ơi ! chớ có buồn, tất cả đều tốt. Xin bố đem về cho con một con thỏ sống.

Người em nghèo ra đi, đem về một con thỏ sống.

Sáng sớm hôm sau, Masa xỏ một chân vào đôi giầy rách, còn một chân đi không. Sau đó cô lại đem theo một con chim sẻ, tìm một cái xe trượt tuyết buộc vào con dê. Cô giấu con thỏ trong nách áo, con sẻ cầm trên tay, một chân để dưới đất, một chân đặt trên xe trượt tuyết - rõ ràng con dê đi bộ thay cô. Rồi cứ như thế, cô đi đến sân nhà ông già.

Từ xa, ông cụ đã nhìn thấy một cô gái đi đến bèn gọi người hầu bảo:

- Hãy thả hai con chó săn ra.

Hai con chó săn của ông cụ chạy tới chổ cô gái, cô nhanh nhẹn thả con thỏ ra, con chó thấy con thỏ liền bỏ cô gái chạy đuổi theo con thỏ. Lúc này cô gái đã đến trước mặt cụ già, cung kính vái chào ông cụ và nói:

- Thưa cụ, đây là lễ vật cháu biếy cụ. - Nói rồi cô đưa con chim sẻ cho ông cụ.

Ông cụ vừa đưa tay đón lấy thì cô gái buông tay, con chim sẻ lập tức bay vọt từ cửa sổ ra ngoài.

Ngay lúc ấy có hai người nông dân đến kiện nhau. Ông cụ hỏi họ:

- Các anh có việc gì thế?

Một người nói:

- Sự việc là như thế này cụ ạ. Hai chúng tôi cùng ở ngoài đồng qua đêm, sáng sớm thấy con ngựa cái của tôi đã đẻ ra một con ngựa con.

Người kia nói:

- Không đúng, đó là do con ngựa của tôi đã đẻ. Xin cụ hãy sáng suốt phân xử.

Nhớ tới cô gái đang đứng đó, ông cụ bèn bảo cô gái hãy thử phân xử việc này. Đứng nghe hai người nông dân nói này giờ, cô gái cũng đã nghĩ ra một cách nên liền nói:

- Hãy buộc con ngựa con lại, đưa con ngựa mẹ từ trên xe xuống, thả ngựa mẹ ra. Con ngựa mẹ nào chạy về với con ngựa con thì đó chính là con ngựa đã sinh ra con ngựa con.

Ông cụ nghe phải bèn làm theo lời cô gái. Kết quả là có một con ngựa mẹ chạy đến với con ngựa con, còn con ngựa kia thì đứng yên không động đậy.

Ông cụ thấy cô gái thật túc trí đa mưu nên rất nể phục, tiếp đãi rất chu đáo và khi ra về đã thưởng cho cha con cô thật hậu hĩnh.

Chua Ngọt Tại Cây

Chung Khánh Dư là danh sĩ ở Liêu Đông, đi xuống miền Nam thi Hương. Nghe nói ở phủ Phiên Vương có một Đạo sĩ biết được họa phúc của người ta, nên nóng lòng muốn xem cho rõ điều hung, kiết, nhưng còn ngần ngại, bèn gọi tiểu đồng là Cát Nha đến, mà nói rằng:

- Ta muốn đi coi bói, nhưng sợ mình là người có học, mà lại chuộng ba cái… thần tiên đó, thì mất mặt đi chăng?

Cát Nha từ tốn đáp:

- Từ xưa đến nay, biết bao Công Hầu Khanh Tướng đều ao ước biết chuyện tương lai, mà chẳng có ai ra làm sao hết cả, thì lý do chi phải sầu bi ôm lấy? Khi ở cõi trần vui ít… đục nhiều hơn. Khi đám tha nhân chỉ biết cao sang là quan trọng.

Khánh Dư bỗng lặng người đi một chút, rồi yếu ớt nói rằng:

- Dẫu là vậy, nhưng ta dù gì cũng là danh sĩ đời nay. Há lại để cõi… bên kia phủ lên điều tai tiếng?

Cát Nha nghe vậy, mới trố mắt ra nhìn Khánh Dư, thì thấy vẻ mặt ngây ngây như mang điều khó nghĩ, bèn thì thào bảo dạ:

- Muốn, mà sợ người ta biết được điều mong ước của mình, đến nỗi phải giấu đi, thì đúng là người biết nhìn sau trông trước. Tự biết mình là người có học, thấm đạo Thánh hiền, nên biết trọng nhẹ cân phân. Không dám coi bởi sợ người ta nói đến, thì đúng là người biết bỏ nhỏ lượm to, biết hy sinh cái riêng để mưu cầu… đại cuộc. Có điều, vì sợ mất mặt mà sinh điều nói dối. Dối cả với người dối tận đến thân ta, thì cái dối kia lại khéo ra… hay hơn điều nói thật…

Nghĩ vậy, Cát Nha cười một nụ thật tươi, rồi mạnh dạn đáp rằng:

- Nếu có điều tiếng gì. Cậu cứ đổ cho con, thì khỏi phải lo lắng điều chi hết cả!

Khánh Dư gật gù đáp:

- Ăn cây nào rào cây nấy, thì phải rào… kỹ kỹ, để con cháu còn có trái mà ăn. Chớ không thể chỉ biết ăn mà có hoài mãi được!

Rồi mấy hôm sau, Khánh Dư đến gặp Đạo sĩ, thì thấy nhiều người bu kín chung quanh, tưởng chừng ruồi bay cũng hổng lọt. Khánh Dư không biết làm sao, mới rầu rầu tự nhủ:

- Tai vách mạch rừng. Người mà như kiến kiểu này, còn dấu đặng hay chăng?

Đoạn, dợm bước ra về, bỗng thấy Đạo sĩ vẹt đám đông chạy đến. Ngó tới ngó lui, rồi hớn hở nói rằng:

- Trong kho tàng của con người. Quý nhất là cái Đức. Nay thí chủ có Đức, thì còn lo lắng làm chi nữa?

Rồi thuận tay kéo Khánh Dư vô nhà nói chuyện. Huyên thuyên một hồi, bỗng nhìn ngay vào mặt của Dư, mà thận trọng nói rằng:

- Giày còn có số, huống chi đời sống của một con người. Nay thí chủ cùng ta gặp duyên hội ngộ, thì tiếc gì mà chẳng giúp nhau một hai lời đoán điếc. Thí chủ nghĩ sao?

Khánh Dư ngập ngừng bởi chưa biết tính mần răng cho phải. Chợt nghe Đạo sĩ nhẹ nhàng nói tiếp:

- Không thành thật với mình, thì sao thành thật với người? Thí chủ trong lòng thì muốn, mà ngoài lại tỏ bộ như không. Há chẳng khiến cho người ta thêm phần thắc mắc?

Khánh Dư vội vàng đáp:

- Tôi là danh sĩ đất Liêu Đông, nên nguyện suốt đời coi… bằng cấp là quan trọng. Nay đến được đất này, lại nghe tiếng Đạo sĩ có thần thông cái thế. Biết được tương lai, nên lòng tràn hâm mộ. Ngặt một nỗi nếu tôi nhảy ào vô coi bói - mà lỡ đụng đồng hương - thì tiếng xấu kia bao giờ mới rửa được?-

Đạo sĩ liền kéo Khánh Dư tới vách nhà. Chỉ vào đồ hình huyệt đạo đang còn treo trên vách, rồi hỏi:

- Thí chủ có biết tử huyệt nằm ở đâu không?

Khánh Dư lắc đầu đáp:

- Không!

Đạo sĩ lại kéo Khánh Dư đi ra trước cửa, rồi chỉ vào tấm hình Bát quái, mà chậm rãi hỏi rằng:

- Thí chủ có hiểu hết những điều mầu nhiệm của nó chăng?

Khánh Dư hoảng hồn đáp:

- Không!

Lúc ấy, Đạo sĩ mới nở nụ cười độ lượng, mà nói rằng:

- Trường học, chỉ là một phần của trường đời. Thí chủ có thể làu thông vạn quyển, để đạt chữ công danh, nhưng cái đạt đó, chỉ ép phê trong vài lãnh vực. Thí chủ có vài cái bằng, mà đã sợ người ta dị nghị nói này nói nọ - đến độ không dám sống thật với bản thân - thì còn mong chi ở trường đời đó nữa?

Đoạn, nhìn thẳng vào mắt của Khánh Dư, mà nói:

- Cái thí chủ biết chỉ bằng giọt nước. Cái thí chủ không biết, là cả một đại dương. Hà cớ chi lại bận tâm đến sự khen chê, mà để cho đời mình tăm tối?

Rồi lại hỏi:

- Thí chủ có muốn biết tương lai của mình không?

Khánh Dư rụt rè đáp:

- Dạ có.

Đạo sĩ nói:

- Thí chủ phúc mệnh rất bạc. Tuy nhiên, khoa thi này có thể đỗ được. Chỉ sợ khi vinh quy rồi, không gặp mẹ nữa mà thôi!

Khánh Dư là người rất có hiếu, nghe nói thế bèn rống lên mà khóc. Cát Nha thấy vậy, mới lấy vội cái khăn, rồi ấp úng nói rằng:

- Khi mở mắt chào đời, là đã báo cảnh biệt ly, thì cớ chi cậu lại khóc nhiều đến thế? Vả lại, từ nào tới giờ, nước mắt chảy xuống chớ nào chảy ngược lên, thì mẹ có tiếp tục… hy sinh cũng là điều dễ hiểu.

Khánh Dư chậm vội đôi dòng nước mắt, rồi nắm lấy tay của Cát Nha, mà hỏi dồn hỏi tới:

- Bình thường ngươi hay nói lời mộc mạc dễ nghe, mà nay lại huyền bí cao thâm khiến lòng không hiểu được, là cớ làm sao?

Cát Nha liền ghé miệng vào tai, rồi thu hết sức hơi mà nói này nói nọ:

- Bà đã hy sinh gần hết cuộc đời cho cậu, thì còn một chút này. Chẳng lẽ bà từ chối đặng hay sao? Theo ý em thì cậu cứ lo chuyện công danh cho tới bờ tới bến - rồi hẵng chạy về lo chuyện… đám ma - thì vẫn hơn bỏ thi mà về ngay gối mẹ. Chớ cứ nôn nóng lên đường cho mau chóng - mà mẹ vẫn… đi - thì cái gấp đó chẳng ăn thua gì hết cả, bởi số đã tới bà làm sao trốn thoát? Khi sinh tử có phần đã định liệu cõi cao. Đã dzớt ngay tên làm sao bà tránh được?

Khánh Dư mặt cắt không còn hột máu. Chẳng biết tính sao. Mãi một lúc sau mới thì thầm bảo dạ:

- Mẹ già thì mẹ quy tiên. Cõi dương gian ai mà chả thế? Có điều. Mình mê đắm chuyện bằng cấp - mà bỏ mẹ một bên - rồi lỡ thế nhân nói làm sao mà đỡ được?

Đoạn, quay mặt qua nhìn Cát Nha, rồi mạnh dạn hỏi rằng:

- Công danh và tình mẫu tử. Cái nào nặng hơn?

Cát Nha vội liếc Đạo sĩ một cái, rồi nói những lời nghe thấy mẹ thấy cha:

- Cậu mà thi đậu, ắt có ngày bái tổ vinh quy. Chừng lúc ấy xây… mả cho to cũng như là báo hiếu. Còn bây giờ cậu quay về. Trước là lỡ chuyện công danh, sau cũng chẳng giúp cho mẫu thân kéo dài thêm tuổi thọ, rồi lúc đó bà con chòm xóm - vốn quý những người lắm bạc lắm kim ngân - sẽ chê bai không thèm chơi với cậu. Chừng lúc ấy mới chằng ăn trăn quấn. Mới biết cuộc đời lắm đục thật ít trong. Mới biết có công danh là có liền tất cả…

Khánh Dư nghe thế, trong bụng đã muốn chơi luôn, nhưng nước mắt ở đâu bỗng ào tuôn như thác, bèn giật mình bảo dạ:

- Ta chuộng bằng cấp mà bất hiếu với mẹ, thì ở mai này. Con ta sẽ ra sao? Hay lại đối với ta như tấm gương đang bày ra trước mắt?

Đoạn bước lại gần bên Đạo sĩ, mà thảng thốt nói rằng:

- Năm này thi không được thì năm khác. Chớ tôi không về, thì… di chúc làm sao mà lấy được?

Đạo sĩ đáp:

- Đi hay ở là tùy thí chủ. Bần đạo không quyết. Chỉ là bỏ khoa này, thì chẳng thể nào đỗ nữa được đâu!

Khánh Dư buồn bã thưa:

- Mẹ chết mà không về, thì lỗi đạo làm con. Không đạt chữ công danh, thì lỗi đạo làm dân trong một nước. Lỗi với mẹ, thì chỉ có một người, nhưng lỗi với quốc gia, thì biết bao giờ mới trả được?

Nói rồi, khóc lóc rất là thảm thiết. Đạo sĩ thấy vậy, mới nắm lấy đôi vai, mà nhỏ nhẹ nói rằng:

- Bần đạo với thí chủ kiếp trước có một chút duyên, nên ngày nay sẽ hết lòng cứu giúp.

Đoạn thò tay vào túi lấy ra một hoàn thuốc, rồi nói với Dư rằng:

- Bây giờ, thí chủ hãy gấp rút sai người đi suốt ngày đêm, đặng kịp dâng hoàn thuốc này cho bá mẫu, thì kiếp nhân sinh sẽ kéo dài thêm đôi tháng. Chừng lúc đó thí chủ đã thi xong, thì vẫn đủ thời gian để trùng phùng với mẹ…

Khánh Dư nghe thế mắt sáng lên. Tưởng trúng số… đuôi cũng khó lòng vui hơn thế được, bèn vòng tay tạ Đạo sĩ một phát, rồi hớn hở nói rằng:

- Vay nên nợ, đợ nên ơn, thì nghĩa cử hôm nay, nguyện sẽ có ngày báo đáp.

Đạo sĩ liền xua nhẹ cánh tay, rồi dịu dàng nói rằng:

- Bần đạo làm chẳng nghĩ đến ơn, thì nhắc đến làm chi cho thêm phần khúc mắc?

Khánh Dư liền sai Cát Nha lên đường cho kíp, rồi vội cáo từ cho kịp đến trường thi. Mấy hôm sau, khi chuyện thi cử đã xong, Khánh Dư liền quay về với mẹ, thì biết được mẹ trong mình khỏe khoắn, mới thấy dạ an tâm, mà nói này nói nọ:

- Con tưởng chuyến này mẫu tử chia ly. Chớ có dè đâu mẹ lại… tươi ra như hồi ba năm trước.

Bà mẹ cười cười, bảo:

- Thuốc thiệt có khác. Để vô một cái là thấy phẻ phắn ngay. Chớ chẳng phải ưu tư theo tháng ngày chờ đợi!

Khánh Dư mừng hổng biết để đâu cho hết, nên chắp tay lại mà vái lịa vái lia, rồi thích thú mà nói với mẹ rằng:

- Họa phúc của người ta thiệt khó mà lường trước được, nên con nguyện với lòng: Sẽ chẳng bao giờ phải làm điều khuất tất - hầu đáp lại hồng ân - đã nhận của trong xanh mà chẳng tốn hao gì hết cả!

Bà mẹ bỗng cau mày lại, rồi bực mình gắt nhẹ với thằng con:

- Phàm ở đời mà muốn được cao sang, thì phải nằm lòng câu dạy dỗ, là: Thẳng thắn thật thà thường thua thiệt. Vậy nếu hổng muốn thua thiệt thì đừng… thật thà. Chớ cái gì con cũng bày ra hết ráo, thì biết bao giờ mới rạng được tông môn?

Mấy ngày sau, mẹ của Khánh Dư hoàn toàn khỏe mạnh, lại được tin con mình đỗ đầu thi Hương, nên thắp vội nén nhang mà tỏ phân điều hơn thiệt:

- Thời buổi bây giờ, người ta thường định giá trị của một người trên số tiền mà họ kiếm được. Nay con ông đã công thành danh toại. Bảng hổ đề tên, ắt ông cũng được… ngậm cười nơi chín suối…

Đoạn, bà dừng lại một chút để thở, rồi hào hứng nói tiếp:

- Ông sống khôn thác thiêng, thì xui khiến cho con gặp được một người hái ra… tiền mà nâng khăn sửa túi. Chớ đừng lầm lạc mà thương kẻ khó khăn, kẻo phí đi một đời sinh thành dưỡng dục. Chớ tui thấy người ta… hột này hột khác - mà mình chỉ hột… thị cầm chơi - thì tránh sao khỏi nỗi tủi thân đêm ngày dính

 Hại Người Trở Lại Hại Mình

Thuở xưa, trong hàng Bà La Môn có một người dâm phụ đương lúc tuổi còn xuân xanh, săc duyên đằm thắm, mà trong lòng đã mang một khối tình rất lai láng. Mặc đầu nàng đã có chồng, nhưng thường có tính lẳng lơ, vì thế hằng ngày mơ tưởng việc ngoại tình. Tuy cái ý tưởng củ nàng muốn như vậy, nhưng ngặt vì trong nhà còn chút mẹ chồng, nên nàng còn kiêng nể và phải đè nén lòng dục vọng của mình.

Một hôm nàng bèn nghĩ ra một mưu kế rất hiểm độc, bề ngoài thì nàng thường giả mượn điều hiếu thảo mà đố với mẹ chồng, nên hằng ngày thường lo sắm những thức ngon vật lạ cho bà ăn uống, nhưng trong lòng chờ cơ hội để hại bà.

Người chồng của nàng thấy vậy thì có ý mừng thầm mà nghĩ rằng: "Ngày nay mẹ ta đã tuổi cao sức yếu, mà lại may mắn gặp được một người vợ hiền, biết lo hết bổ phân làm dâu mà chăm sóc mẹ ta được ăn no ngủ khỏe trong khi đầu bạc da nhăn như vậy, thật là một điều hết sức vui mứng."

Người dâm phụ biết chồng đã lầm kế của mình rồi, bèn thừa cơ nói với chồng rằng: "Thưa chàng! Tuy thiếp đã hết lòng nuôi dưỡng mẹ như thế, nhưng sự ấy chẳng qua là điều ở thế gian mà thôi, nên sự hiếu dưỡng cũng chưa lấy gì đáng gọi là mỹ mãn cho lắm!

Vậy chàng cũng nên tìm một phương pháp chi khác, đặng hóa sanh độ tử cho mẹ được siêu thoát linh hồn và được vãng sanh về cõi Trời mà hưởng những hạnh phúc thần tiên, thì chúng ta mới trọn đạo làm con; chớ những vật chất ở đời nầy cũng chỉ là nó giả dối trong lúc còn sống mà thôi!"

Người chồng nghe vơ nói những lời tha thiết như thế, liền đáp rằng: "Nếu chúng ta muốn cho mẹ được mau siêu thăng lên cỡi Trời, thì chỉ có một pháp của đạo Bà La Môn, là phải dùng hầm chất củi mà đốt mẹ. Nhưng ta không nỡ làm như vậy".

Người dâm phụ nghe chồng đáp thì biết đã trúng kế của mình nên nói thêm rằng: "Phải lắm! Trong đạo hạnh của mình đã có pháp giải thóat siêu thăng như vậy thì chúng ta cũng nên thi hành liền, đặng cho mẹ được lên chốn thiên đường hưởng lộc Trời, mà chúng ta cũng đền đáp được ân sanh thành nữa".

Nghe qua mấy lời cửa vợ, người chồng liền tin, chớ chẳng ngờ vợ xúi đốc làm như thế là có ý quyết hại mẹ mình, nên chàng ra ngoài đồng ruộng đào một cái hầm rất lớn mà lại thật sâu, và chở củi đem chất dưới hầm, rồi đốt lửa hừng lên đỏ lòm.

Đoạn chàng lạp lập một tiệc ở gần cái hầm, rồi trở về nhà dẫn mẹ ra đó đứng làm chủ tiệc và mới cả thảy những bà con tân khách cùng các chúng Bà La Môn đến dự và uống rượu nghe đờn.

Sau khi yến tiệc vừa xong, các tân khách đều lui về nhà, hai vợ chồng người dâm phụ bèn dẫn mẹ ra mé hầm xem, rồi thình lình xô mẹ xuống hầm.

Người vợ tưởng chắc rằng xác thịt của mẹ chồng đã tiêu diêu tự tại nơi cõi Trời, nên giắt nhau trở về nhà.

Ngờ đâu trong hầm ấy lại có một khoản trống không có lửa, khiến bà sa vào đó mà chẳng có điều gì hại đến tánh mạng, nên bà có thể tìm đường chun ra được.

Khi bà ra khỏi chốn hiểm nguy rồi, thì trời đã về khuya, bốn bề tĩnh mịch, bà lần mò theo đường cũ trở về nhạ Nhưng vì đường xa và trời lại tối đen nhu mực nên bà mới gắng leo lên một nhành cây to và rậm để ẩn thân.

Trong khi bà ngồi trên cây, bỗng đâu dó một lũ ăn trộm vừa đến nghỉ tại dưới gốc. Bà liền tằng hắng một tiếng lớn, bọn trộm hoảng kinh lật đật bỏ chạy tứ tán, để lại những đồ của chúng nó đã lấy của ngườị

Đến khi trời vừa tảng sáng, bà liền leo xuống, thì thấy những đồ châu báu và bạc tiền đầy dưới gốc nên bà lựa những món qúy giá như: vàng, bạc, ngọc, ngà, xuyến, bông tai, v.v... rồi lần lượt đem về nhà.

Con dâm phụ thấy mẹ chồng trở về, liền kinh hãi và tưởng rằng bà đã hiện hồn về nhà, nên nhắm mắt và lánh mặt cúi đầu, chẳng dám chào hỏị Còn chồng của nàng thì lại tưởng mẹ mình đã được siêu sanh nơi cõi Trời, nay về thăm mình, nên lật đật chấp tay lạy mẹ mà nói rằng: "Con nhớ vợ của con khuyên bảo dùng phương pháp "Hóa sanh độ tử, thoát kiếp siêu hồn". Nên nay em. được lên ở cõi Trời mà về thăm con, thì con rất vui mừng".

Bà mẹ nghe con nói như vậy mới biết dâu mình đã muốn hại mình, nên bà "nhân kế tựu kế", nghĩa là bà dùng cái kế của người dâu đã hại bà dó mà trở lại hại nó. Bà bèn lại rằng: "Mẹ nhớ hai vợ chồng con làm phép siêu thăng cho mẹ, nên nay mẹ được giải thoát mà sanh về cõi Trời, hưởng được nhiều điều phước báọ Hai vợ chồng con ăn ở như vậy mới được trọn phần hiếu thảo".

Bà lại day mặt qua người dâu, và đưa mấy món báu cầm nơi tay mà nói rằng: "Những món: ngọc, bông tai, vòng, vàng, xuyến nầy là vật của ông bà con cậy mẹ đem về cho con. Nhưng vì mẹ chân yếu gối đùn, thân gầy sức mỏng, nên xách đem về chẳng đặng nhiềụ Vả lại mấy người ấy nhắn với mẹ bảo con cũng làm phép siêu thăng như con đã làm mẹ vậy, đặng con lên Thiên đường mà lãng lấy những đồ châu báu ấy còn rất nhiều".

Người dâm phụ nghe mẹ chồng mình nói như vậy, tưởng là sự thật, nên vui mừng mà nói với chồng rằng: "Ngày nay mẹ có duyên sa xuống hầm lửa mà dược lên cõi Trời hưởng những vật lạ của báu; nhưng tiếc vì thân mẹ già yếu, nên chẳng đem hết của về được. Vậy nếu chàng bằng lòng cho phép thiếp làm phép siêu thăng như mẹ vậy, thì chắc thiếp đem tất cả những đồ châu báu ấy về hết, khi ấy chúng ta sẽ trở thành đại phú gia, mặc sức cùng nhau hưởng sự sung sướng!"

Người chồng nghe vợ tỏ ý như thế, thì cũng vui vẻ bằng lòng, liền đào một cái hầm làm y theo cách đã thiêu mẹ mình ngày trước.

Nhưng than ôi! Khi hầm lửa vừa sắp đặt xong, con dâm phụ kia liền gieo thân mình xuống, của cải châu báu đâu chẳng thấy trái lại phải bị ngọn lửa thiêu đốt nóng không thể tưởng tượng và kết quả báo rùng rợn đáng làm gương cho những nàng dâu bất hiếu với mẹ chồng.

Trich sách: Gương Nhân Quả

- Hại người sẽ bị người hại

- Oán người sẽ bị người oán,

- Đánh người sẽ bị người đánh.

Trần Châu Nhu

Hoài âm huyện có người tiểu thương tên là Chương Thu mở một quán bán rượu bên một con lộ lớn ở mé Bắc thành, để bán cho khách vãng lai. Trong quán bàn ghế bày biện có phần gọn gàng sạch sẽ, Chương lại còn bán kèm cặp thêm cả các loại dưa muối, đậu hũ, cũng đều ngon cả.

Duy có điều vốn liếng ít ỏi, lời lãi không được là bao, chỉ đủ cho gia đình chàng bữa cháo bữa cơm mà thôi, chẳng hề dám mong đến cuộc sống của hạng trung lưu giàu có.

Sau quán là ba gian phòng nhỏ làm nơi cư trú cho vợ con Chương. Gian giữa quán mướn một người hỏa kế làm việc.

Vợ Chương họ Phạm tên Tam Nương, cũng là người có đôi chút nhan sắc, cử chỉ dịu dàng, thỉnh thoảng ra quán giúp chàng bán rượu, phong thái yểu điệu phảng phất như nàng Trác Văn Quân thuở xưa. Tính Chương lại rất hiếu khách, phàm các văn nhân nghệ sĩ đến quán của Chương ăn uống, hễ ai thiếu tiền, Chương đều không đòi. Trước cửa quán là một cái bãi đất trống, cỏ hoang tạp thảo mọc đầy chen lẫn những ngôi mộ cổ mấp mô. Sau quán có một khe nước lớn chảy quanh vòng vèo, trên bờ liễu rủ bóng râm, xanh um một cõi. Một hôm gặp tiết Ðoan Ngọ, mồng năm tháng năm, vào khoảng giữa trưa, đường xá nhà nào nhà nấy đều đã đóng kín cổng im lìm, riêng chỉ có quán rượu của Chương là vẫn còn mở cửa.

Chương sai tên hỏa kế ở trên nhà coi quán, còn chàng tự xuống bếp nướng cá sào thịt để sửa soạn thưởng thức ngày lễ.

Thình lình, Chương thấy sai dịch nghiệt ty áp giải năm tên tù phạm, thuộc vào hạng đầu trộm đuôi cướp, lê xích leng keng bước vào quán. Vừa ngồi xuống ghế, bọn chúng đã nhao nhao gọi rượu thịt, thái độ tỏ ra rất là nóng nẩy.

Tên tửu bảo sợ hãi, nói là đã hết rượu, thì bọn tù phạm đập bàn đập ghế, la hét chửi bới mắng mỏ, khí thế rất là hung hãn, khiến cho tên tửu bảo càng thêm sợ hãi, co đầu rụt cổ, bỏ trốn vào trong nhà, không dám thò ra ngoài nữa.

Chương và vợ chạy ra xem, thấy thế bèn tươi cười an ủi bọn tù phạm:

- Quý khách đường xá xa xôi, chắc hẳn là đói bụng. Hôm nay, nhân cảnh trời đẹp, khí hậu ôn hòa, nếu quý khách không quá chê, thì tệ quán xin phép sửa soạn rượu thịt, để quý khách tùy tiện no say một bữa.

Nói xong, Chương gọi tửu bảo hâm rượu, bày biện chén bát. Còn vợ chàng cũng xuống bếp bưng lên các món ăn vừa nấu xong còn nóng hổi, mùi vị hết sức thơm ngon.

Lại còn thêm cả bánh trôi chay ra đãi đằng.

Vợ Chương ngọt ngào mời mọc:

- Quý khách đều là người phương Bắc phải không? Ăn cháo chắc không được no bụng đâu, phải ăn thêm thứ bánh bột này nữa, nh­ng làm gấp quá, nếu không ngon, xin quí vị lượng thứ cho nhà hàng nhá!

Cả bọn tù đều đáp:

- Ðược? Ðược? Chủ quán thật là hiếu khách, rất đáng mặt đồng đạo chủ.

Tửu lượng và sức ăn của bọn tù, tên nào cũng bằng hai ba người thường. Chỉ một thoáng, bát chén nhẵn không, chồng chất đầy bàn. ăn xong, bọn tù còn được Chương thết trà, rồi đun nước ấm đựng trong các ang lớn bằng gỗ để tắm rửa. Cả bọn tù đều tỏ ra hoan hỉ, hài lòng, nhưng không hề nói một lời cảm tạ, chỉ khe kháng hỏi thăm danh tính của chủ quán, rồi ghi nhớ trong lòng trước khi rời quán.

Lúc đó bọn trẻ con, làng xóm thấy lạ, chen nhau đứng xem ở trước cửa quán, đều trào phúng chê Chương là ngốc. Còn Chương lại tự hào sảng khoái, vợ rửa hết chén bát, quét nhà, kê lại bàn ghế cho chỉnh tề như cũ.

Sang đến mùa Thu, bỗng có ba người, quần áo vải thô vào quán, hỏi thăm:

- Ai là Chương Thu, chủ quán này đây?

Chương vừa kịp đáp "Có mỗ dây," thì lập tức bị ba người ấy choàng gông vào cổ khóa lại. Cả nhà thấy vậy đều kinh hoàng sợ hãi. Tam Nương, vợ chàng cũng kêu gào khóc lóc. Chừng đưa đến huyện, mới hay là tên đầu sỏ bọn cướp đã khai Chương là người toa trữ các vật cướp được nên bắt Chương để đối chất.

Huyện lệnh cho người trói Chương lại cho thật chặt giam trong một cũi gỗ, rồi sai vệ binh giải chàng lên phủ.

Vợ con chàng ra tống hành, khóc lóc vang động cả xóm.

Chương cũng khóc theo, nói:

- Chuyến đi này sống chết lẽ nào chưa biết, nàng hãy về đóng cửa quán, chờ đợi xem quan xét xử thế nào.

San đó lén bảo người con lớn dấu tiền làm lộ phí bí mật đi theo, rồi gạt lệ đăng trình.

Lúc đến Tô Châu thì viên Lương tri phủ có việc phải đi Kim Lăng vắng nhà. Chương bị tống giam vào đại lao, ban đêm cột chung với bọn đạo tặc lúc trước. Nhà lao đuốc đóm lờ mờ ảm đạm, côn trùng nỉ non hiu hắt, càng làm cho Chương khiếp sợ bồn chồn, lo lắng như có bóng ma quỉ chờn vờn rình rập. Bên ngoài tiếng mõ cầm canh nửa đêm, thình linh tai Chương nghe có tiếng người gọi đến tên chàng , âm thanh bất nhất, già có, trẻ có, Nam có, Bắc có. Chàng nghe giọng quen quen, nhưng không dám trả lời.

Một lúc lâu sau, bỗng Chương lại nghe có tiếng gọi khe khẽ:

- Chương huynh, quên bọn này rồi sao. Cố nhân cả đấy mà.

Bấy giờ Chương mới nho nhỏ trả lời:

- Chương Thu chính là đệ đây. Còn các huynh là ai vậy?

Có tiếng đáp lại:

- Bọn đệ chính là những kẻ đã quấy quả rượu trà tại quán của huynh vào ngày Tết mồng năm tháng năm bữa nọ đấy.

Chương sót xa than thở:

- Nào ngờ bọn mình lại gặp nhau cả ở đây. Nhưng không biết đệ phạm tội gì, các huynh có ai hay không?

Cả bọn đạo tặc nghe Chương hỏi thế đều cười khỉnh đáp:

- Chính bọn đệ mời huynh vào đây. Mấy hôm trước bị tra tấn đủ cả ngũ hình ở ngoài cửa công, bọn đệ kiên quyết không khai, duy có nói huynh là người chủ chứa các đồ đã cướp được, như nếu có bắt được huynh thì mới chịu nhận tội, ai ngờ huynh lơ là để rơi vào lưới.

Chương nói:

- Ðệ với các huynh chẳng oán thù chi, lẽ nào lại hãm hại nhau như vậy?

Tiếng nói đáp lại:

- Bọn đệ lẽ nào lại có thù oán gì với huynh. Cái ơn cơm no rượu say đãi đàng hôm ngày Tết mồng năm tháng năm đến nay vẫn còn nhớ, nên muốn nhân dịp này đền đáp lại huynh. Thú thực với huynh bọn đệ đều là những tay giang hồ đạo tặc đầu sỏ. Chẳng hạn như Lâm Hắc Nhi là người Ðàm Thành, rồi đến Ngoa Nô người Cối Kê; người thứ ba là Trương Báo, người Hải Lăng; người thứ tư là Vương Tử Cầm, ngư­ời Mộc Dương; người thứ năm là Tiểu Thứ Phi, người Ðại Lương. Tất cả bọn đệ đều giỏi võ nhanh nhẹn, đã nhiều lần chống cự với quan quân, nên bị án tử hình. Nay tuy bị bắt, nhưng trốn khỏi nhà giam này đối với bọn đệ đâu khó khăn gì, chỉ vì biết đại số đã đến kỳ đều đành thúc thủ tựu mệnh vậy thôi. Ngày huynh ra khỏi nhà tù, ấy chính là ngày bọn đệ lên đoạn đầu đài đấy. Xin huynh nhớ kỹ tính danh bọn đệ, để mỗi năm cho một bát cơm, một chén rượu, một sâu tiền giấy, thì bọn đệ ở dưới cửu tuyền cũng muôn vàn cảm kích ân sâu.

Bấy giờ Chương mới hiểu rõ nguyên nhân bọn đạo tặc muốn đưa chàng vào nhà lao, bèn nói:

- Ðệ vốn là kẻ nhát gan hay sợ, còn các huynh là những tay nghĩa sĩ trên đời. Ðệ xin cố gắng làm theo dặn bảo của các huynh.

Một lát sau thì trời hừng sáng. Tia nắng qua các khe hở lọt vào trong nhà tù, soi tỏ diện mạo từng người. Bấy giờ cả bọn mới nhìn nhau chào hỏi, vừa lau nước mắt vừa cười, tựa như những người bạn cố tri biết nhau đã từ lâu rồi vậy.

Tối hôm sau, Chương nghe bên ngoài nhà tù có tiếng ngựa xe huyên náo, lính tráng hò hét dọn đường, thì chàng biết là quan tri phủ họ Lương đã trở về.

Lâm Hắc Nhi vội vã cởi áo ngắn lót mình trao cho Chương mặc vào người. Còn Ngoa Nô và Trương Báo mỗi người cũng tự cởi chiếc áo ngắn tay đưa cho Chương, rồi ghé tai dặn dò:

- Trong cái áo này có một vật, huynh đừng để mất, cũng đừng nói cho ai biết. Nếu không, vật trong đó sẽ không còn là của huynh nữa đâu. Trước cửa nhà huynh, giữa đám gò mả lau sậy, có một cây bạch dương đã chết khô, trên cây có hai tổ chim thước, dưới gốc cây là một ngôi cổ mộ, dưới tấm bia đá có hai cái chum thật lớn, bên trong cất dấu nhiều châu báu. Khi ra về, huynh hãy chờ đêm tối không có ai thì ra đào lên mà lấy. Nhớ kỹ, xin huynh đừng quên đấy.

Nói xong, khảng khái dạt dào, lã chã lệ sa. Chương cũng cầm lòng không nổi, khóc chẳng thành tiếng.

Một lát sau lại nghe có tiếng bọn lại dịch hò hét chửi bới, hung hãn như lang sói. Ðã đến giờ quan thẩm án thăng đường. Cả bọn đạo tặc năm tên bị lôi ra khỏi nhà lao. Sau đấy có tiếng hô gọi đến tên Chương, rồi chàng cũng bị đem ra khỏi nhà lao, dẫn đến công đường. Lúc bị thẩm vấn, thấy Chương mình mẩy run rẩy, đau khổ khóc lóc, Lâm Hắc Nhi vừa cười vừa mắng:

- Ðồ cẩu trệ? Ta há lại quen nhà ngươi sao. Hôm Tết mồng năm tháng năm nếu biết đem rượu thịt đãi đằng bọn ta thì đâu đến nỗi này.

Nhân thế chiêu cung:

- Tên họ Chương này quả tình vô tội. Chẳng qua hôm chúng tôi đi đào tang vật lên, đường từ Hoài Âm đi qua nhà hắn, xin hắn cho ít rượu thịt, chẳng những hắn không cho, lại còn lấy cành hoa lựu mà đập lên đầu, nên để tâm thù hận, vu cho hắn để nhập chung cùng án, hắn thực không phải là người toa tàng đồ gian. Còn như bọn chúng tôi, phạm phải tử tội, không còn sinh lộ, nay xin chiêu cung để cho vụ án kết thúc.

Vị quan thẩm án an ủi Chương, nói:

- Anh là người dân lương thiện vô tội bị liên lụy, nhưng cũng có cái tội là không chiêu đãi khách hàng.

Sau đó tháo cũi thả Chương ra.

Chương khấu đầu tạ ơn rời khỏi công đường, đi tìm người con lớn ở lữ quán, thì quả nhiên được biết là năm tên cường đạo bị giết đúng ngày chàng được thả.

Chương bảo con lén mua quan tài, thâu nhập thi thể của các cường đạo, rồi mua một khoảnh đất mai táng tử tế.

Lúc về đến nhà, Chương cởi chiếc áo lót cùng hai chiếc áo ngắn tay ra xem, chỉ thấy sáng lạn lấp lánh đầy những vàng bạc châu báu, trị giá hơn vạn tiền.

Ðến nửa đêm Chương đem sống cuốc ra chỗ gốc cây bạch dương, nậy tấm bia lên, thì quả nhiên ở bên dưới có hai chiếc chum lớn, đúng như lời dặn của bọn cướp, vật tàng trữ tính ra giá đáng hàng chục vạn.

Từ đấy Chương trở thành cự phú, dời nhà đến Tô Châu, và bảo con cái chọn mua một khoảnh đất gần chỗ mộ phần của năm tên cướp, hàng năm cúng tế không quên.

Chương cũng nghỉ nghề bán quán, chuyển sang kinh doanh thương mại. Ðến nay cả vùng Hoài Âm còn nghe truyền tụng câu chuyện trên đây.

Con Quỷ Và Bà Nó

Ngày xưa xảy một cuộc chiến tranh lớn. Nhà vua có rất nhiều Lính, trả lương cho họ quá ít, không đủ để sống. Có ba người lính Bèn rủ nhau đào ngũ.

"Nếu họ bắt được chúng ta, họ sẽ treo cổ chúng ta. Vậy thì làm Thế nào bây giờ?", người thứ nhất nói.

Người thứ hai nói:

- Cách anh hãy trông cánh đồng lúa bát ngát kia. Nếu chúng ta Trốn trong đó thì không ai có thể tìm thấy được chúng ta. Quân đội Không được phép sục vào ruộng lúa. Ngày mai thì đơn vị mình đã Chuyển quân đi nơi khác.

Thế là họ chui vào ruộng lúa, nhưng quân đội không di chuyển Đi đâu mà ở nguyên vị trí chung quanh đó. Ba người lính trốn trong Ruộng lúa hai ngày, hai đêm. Họ đói lả như sắp chết đến nơi. Họ Không dám ló ra vì sợ chết. Họ bảo nhau: "Trốn trong ruộng lúa này Không được tích sự gì cả. Chúng ta sẽ chết và thối rữa ra ở đây mất Thôi".

Đúng lúc đó, có một con rồng lửa bay trên trời qua đó. Nó xà Xuống gần họ và hỏi tại sao lại trốn ở đấy. Họ trả lời: "Chúng tôi là Ba người lính, chúng tôi đào ngũ vì lương ít quá. Giờ thì chúng tôi Sẽ chết đói ở đây hoặc người ta sẽ treo cổ chúng tôi nếu chúng tôi ra Khỏi đây"

- Nếu các anh đồng ý phục vụ ta bảy năm, Rồng nói, ta sẽ đưa Các anh lên cao, bay qua cả cánh quân lớn mà không ai chạm được Vào các anh.

- Chúng tôi làm gì có quyền lựa chọn, đành bằng lòng thôi. Họ Trả lời.

Rồng quắp họ vào móng, đưa họ khỏi cánh quân khá xa, rồi lại Để họ xuống đất. Rồng đâu phải ai khác, chính nó là con quỷ. Nó Đưa cho họ một cái roi nhỏ và bảo: "Các anh hãy tự đánh vào người Bằng cái roi này, ở trong người các anh sẽ tuôn ra số tiền mà các Anh cần có; các anh sẽ sống sung sướng như ông hoàng, tha hồ lên Xe xuống ngựa. Nhưng sau bảy năm, các anh sẽ thuộc về ta". Nó Đưa cho ba người lính một quyển sách và bảo ký tên vào đó. Nó lại Nói thêm:

- Lúc đó sẽ ra cho các anh một câu đố, nếu giải được thì các anh Sẽ được tự do và thoát khỏi quyền lực của ta". Nói xong, con rồng Bay đi.

Ba người lính bắt đầu sử dụng cái roi. Họ có nhiều tiền, họ đi May quần áo sang trọng và đi chu du thiên hạ. Ở đâu họ cũng sống Vui và xa hoa, lên xe xuống ngựa, ăn uống thỏa thích nhưng họ Không làm điều gì xấu. Thời gian trôi đi rất nhanh, và bảy năm sắp Qua. Hai người lính cảm thấy tim thắt lại vì sợ hãi. Trong khi đó, Người thứ ba vẫn còn nhìn mọi việc với khía cạnh tốt. Anh nói: "Các Cậu ạ, đừng sợ! Tớ có phải là đồ ngu đâu! Tớ sẽ giải được câu đố!" Họ cùng đi ra cánh đồng, ngồi xuống. Hai người đầu mặt mày rầu Rĩ.

Lúc đó, có một bà già đi tới. Bà hỏi tại sao họ buồn thế? - "Dào ôi! Cụ biết thì có ích gì cho cụ đâu? Dù sao, cụ cũng không giúp gì Được chúng tôi!"

- Biết đâu đấy! Cụ trả lời, - các anh hãy tin ta, hãy kể ta nghe Nỗi lo lắng của các anh.

Họ kể với bà cụ là đã thành người hầu của con quỷ trong bảy Năm. Nó đã cung cấp cho họ tiền tiêu tha hồ, và họ sẽ thuộc hẳn về Nó nếu sau bảy năm, họ không giải được một câu đố. Bà già nói: "Nếu các anh muốn ta giúp đỡ, thì một người trong các anh phải Vào rừng. Anh ta sẽ đến một tảng núi bị sập, nom như một cái nhà. Anh ta phải vào trong nhà ấy và sẽ được giúp đỡ".

Hai người lính đầu buồn rầu nói: "Có làm việc đó cũng không đi Đến đâu cả", rồi ngồi ỳ ra. Người thứ ba luôn luôn vui vẻ, đứng dậy Đi vào rừng; anh đi mãi cho tới khi tới cái nhà ở tảng núi sập. Trong Nhà có một cụ già ngồi như phỗng đá. Đó là người đàn bà của quỷ. Cụ hỏi anh, ở đâu đến và muốn gì. Anh kể cụ nghe những việc đã Qua. Vì anh được lòng bà cụ nên cụ thương hại anh và hứa sẽ giúp Anh. Cụ nhấc hòn đá to che lối vào một cái hầm và bảo: "Anh hãy Trốn vào đấy. Anh sẽ nghe thấy mọi lời nói. Hãy bình tĩnh và đừng Có bị kích thích, khi rồng về, ta sẽ hỏi nó về câu đố. Nó sẽ nói hết Với ta. Còn anh, anh hãy lắng nghe các câu nó trả lời".

Đến nửa đêm, rồng về và đòi ăn. Bà nó dọn ra bàn ăn rượu và Đồ nhắm để nó vui lòng. Họ cùng nhau ăn uống. Trong khi nói Chuyện, bà nó hỏi nó về các chuyện xảy ra trong ngày, và nó đã Chiếm được bao nhiêu linh hồn. "Hôm nay, cháu không gặp may - Nó trả lời. Nhưng cháu đã bắt được ba thằng lính, chắc chắn cháu Sẽ chiếm được linh hồn những thằng này" - "Ba người lính à! Bà cụ Hỏi, đó là những trai tráng, có thể chúng nó sẽ thoát tay mày".

Con quỉ nói với giọng khinh miệt: "Chúng thuộc về cháu mà. Cháu sẽ ra cho chúng một câu đố mà chúng không giải được"

- "Câu Đố thế nào?" bà hỏi.

- Để cháu nói và nghe: ở biển Bắc bao la có một con mèo biển Chết, nó sẽ được mang rán và cháu sẽ cho chúng ăn. Một cái xương Sườn cá voi sẽ dùng làm thìa và một cái móng ngựa cũ dùng làm cốc Cho chúng uống rượu vang.

Khi con quỉ đi ngủ, người bà nhấc hòn đá lên, cho người lính ra.

- Anh đã nghe thấy hết chưa?

- Thưa cụ rồi ạ, cháu đã biết kha khá và cái đó sẽ giúp cháu. Anh lính trèo qua cửa sổ không một tiếng động, và vội vào đi Tìm các bạn. Anh kể cho họ nghe là người bà sẽ giương bẫy lừa con Quỷ thế nào và anh đã học được cách giải câu đố. Cả bọn đều vui vẻ, Mặt mày hớn hở, cầm roi đánh vào người và tiền vung ra khắp bốn Phía.

Bảy năm đã trôi qua. Con quỷ mang quyển sách đến, chỉ cho họ Những chữ ký và bảo:

- Ta sẽ dẫn các anh xuống địa ngục, ở đấy các anh sẽ được ăn Một bữa. Nếu các anh đỗán sẽ được ăn thịt gì rán, thì các anh sẽ Được tự do và được giữ lại cả cái roi nữa.

Lúc đó người lính thứ nhất bắt đầu nói:

- Ở biển Bắc bao la, có một con mèo biển chết. Chắc chắn nó sẽ Được rán cho bọn tôi ăn.

- Con quỷ nổi giận, nói "Hừ! Hừ! Hừ!" và hỏi người lính thứ hai: "Nhưng các anh lấy gì làm thìa?"

- "Một cái sườn con cá voi sẽ dùng Làm thìa". Con quỉ tái mặt đi, lại làu nhàu ba lần: "Hừ! Hừ! Hừ!" và Bảo người lính thứ ba: "Anh có biết là cái gì sẽ dùng làm cốc uống Rượu vang không?"

- "Một cái móng ngựa cũ sẽ dùng làm cốc uống Rượu vang cho chúng tôi".

Quỷ liền bay đi và thét to lên. Nó không còn quyền lực gì đối Với ba người lính. Còn ba người lính thì giữ lại được cái roi, họ làm Ra rất nhiều tiền tùy theo ý muốn và sống sung sướng đến hết đời. Các em vừa đọc được câu chuyện nói về sự thông minh của con Người. Không có thế lực nào có thể thắng được con người cho dù đó Là quỷ, một nhân vật huyền thoại có sức mạnh siêu nhiên.

 Bình Khôi Công Chúa

Bình Khôi Thông Tuệ Trinh Thục Công Chúa, Đại Vương. Là tước hiệu mà triều Lê thượng phong cho bà Trưng Nhị, nguyên là phó tướng, phó vương của bà Trưng Trắc (Trưng Vương) trong cuộc khởi nghĩa mang tên Hai Bà.

Cũng như chị, bà Trưng Nhị là một nữ tướng thao lược, đã cùng khởi nghĩa và lập nên nhiều chiến công hiển hách.

Ngồi trên bành voi, Hai Bà chỉ huy tướng sĩ, đốc thúc lực lượng tiêu diệt thành Luy Lâu và nhiều huyện, thành khác.

Khi cuộc khởi nghĩa thắng lợi, bà Trưng Trắc xưng vương, đóng đô ở Mê Linh, còn bà Trưng Nhị cũng được phong vương, đóng quân ở thành Dền.

Thành Dền, tên chữ là Cự Triền, được xây dựng ở trang Cự Triền, đến nay hãy còn dấu vết, cách thành Mê Linh khoảng 9 dặm.

Thành đắp hình bán nguyệt, có tường cao hào sâu, bốn bề có tháp canh, lại có cổng thành chắc chắn, quân lính canh gác ngày đêm cẩn mật. Trong thành có chỗ ăn chỗ nghỉ cho quân sĩ, có chỗ luyện tập, thi đấu võ nghệ, lại có giếng nước, kho lương đầy đủ.

Khi trận chiến đấu ở Lãng Bạc thất thế, Hai Bà rút về thành Dền cố thủ. Quân địch đánh mãi không được, Mã Viện phải dùng kế bao vây lâu dài.

Y sai đắp một thành khác, cách thành Dền 3 dặm, gọi tên là thành Vượn (thuộc xã Tam Đồng, Yên Lãng). Từ thành Vượn và từ phía Mê Linh (nơi quân giặc đã chiếm) chúng án ngữ các đường tiếp tế và tổ chức nhiều đợt tấn công vào thành Dền. Bất đắc dĩ Hai Bà phải bỏ thành Dền, lui về đất Cẩm Khê.

Tại Cẩm Khê, nhiều cuộc chiến đấu nữa diễn ra. Cuối cùng vì lực lượng ít, quân ta đã thất bại. Cả Hai Bà đều nhảy xuống sông Hát tự tận.

Lại có thuyết nói bà Trưng Nhị bị tử thương trên sông Nguyệt Đức, lúc ấy đang có bão, từng đợt sóng đang dâng lên cuồn cuộn. Quân ta thừa thế xông vào trận địa cướp lấy thi thể của vị chủ tướng rồi vượt sóng đưa về an táng trên núi Hy Sơn thuộc đất Phong Châu ngày nay.

Tại Phong Châu và thành Dền có đền thờ của bà Trưng Nhị. Còn tên của bà, từ bao đời nay, vẫn gắn liền với bà Trưng Trắc. Nhân dân gọi hai vị khởi xướng và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa đầu tiên, đơn giản chỉ là "Hai Bà Trưng", một cách gọi thật dân dã, gần gũi mà kính trọng.

 Thuồng Luồng

Ngày xưa ở thôn Bản Bừa, xã Đồng Lang thuộc vùng Tiên Yên (Bắc Việt) có một cô gái chăn trâu ở bờ sông Nàm Cổ, một hôm gặp một chàng trai khỏe đẹp, rồi đôi bên luyến ái nhau. Chàng trai đưa cô gái về âm phủ rồi chung chạ với nàng. Cô gái có chửa, nhớ cha mẹ, xin phép người yêu trở về thăm. Trước khi cô gái ra đi, chàng trai dặn dò: "Con mình đẻ ra sau này dù thế nào cũng phải nuôi nó theo cách này: là chỉ cho nó uống nước thôi và đừng để bao giờ thiếu nước".

Cô gái trở về nhà cha mẹ, mười t háng saua, sinh ra một thứ cá. Theo lời cha nó đã dặn, thiếu phụ chỉ cho nó uống nước. Nhưng nó mau lớn quá, mà càng lớn thì càng cần thêm nước, tất cả người ở trong nhà không cung cấp đủ số nước cho nó. Thiếu phụ mới mang đến bờ sông Nàm Cổ, thả nó xuống nước mà nói: "Mẹ không nuôi con được nữa, con hãy trở về sống theo loài của con". Con cá chiếm vực sông Nàm Cổ mà ở.

Một hôm con cá lên nằm nghỉ trên bãi cát ở bờ sông, có rể của viên chúa Bầu đi săn ngang qua trông thấy, bắn chết. Con vật chết hóa thiêng báo oán làm cho chúa Bầu mất cả giang sơn.

Người ta gọi con vật này là con tu nước hay con tu ngu nàm, còn người Việt gọi tên là thuồng luông. Thiếu phụ đã sinh ra giống thủy tộc này thuộc tộc họ Hoàng nên tất cả gia đình họ Hoàng về sau đền thờ làm vật tổ.

Người Đàn Ông Che Dù

R. Dahl (1916-1990) nhà văn Anh nổi tiếng về truyện thiếu nhi và truyện kì dị cho người lớn, đồng thời cũng là tác giả nhiều kịch bản phim ăn khách.

Ông là phi công trong Thế chiến 2, rồi được nhà văn C.S. Forester khuyến khích viết những truyện ngắn đầu tiên về đời lính.

Truyện của ông được đăng trên nhiều báo ở Anh cũng như Mỹ và được dựng thành phim nhựa cũng như truyền hình.

Mấy tập truyện thiếu nhi nổi tiếng của ông là Someone Like You (1953; Một ai đó giống như bạn) và Charlie and the Chocolate Factory (1964; “Charlie và nhà máy sôcôla”).

Tôi sẽ kể cho bạn nghe một chuyện buồn cười mà tôi và mẹ tôi gặp tối hôm qua. Tôi là con gái và mới mười hai. Mẹ tôi ba mươi tư nhưng tôi đã cao gần bằng bà.

Chiều hôm qua, mẹ dẫn tôi lên London chữa răng. Tôi bị một lỗ trong răng hàm và ông nha sĩ trám lại nhẹ nhàng chẳng đau gì cả. Sau đó chúng tôi vào một quán cà phê. Mẹ tôi uống một tách cà phê còn tôi ăn một đĩa kem chuối. Lúc chúng tôi đứng dậy ra về thì đã gần sáu giờ.

Khi chúng tôi vừa bước ra khỏi quán thì trời đổ mưa. “Phải kiếm một chiếc taxi thôi,” mẹ tôi nói. Chúng tôi chỉ đội nón và mặc áo khoác mỏng, mà mưa lớn thiệt tình.

“Sao mình không vào quán ngồi chờ nó tạnh?” tôi nói. Tôi muốn ăn một đĩa kem nữa. Nó ngon tợn.

“Nó không tạnh đâu,” mẹ tôi nói. “Mình phải về thôi.”

Chúng tôi đứng ở lề đường dưới trời mưa, chờ taxi. Nhiều chiếc chạy qua nhưng đều có khách. “Phải chi nhà mình có xe và tài xế riêng,” mẹ tôi nói.

Ngay lúc đó, một người đàn ông tiến lại. Ông ta nhỏ thó và già lắm rồi, chắc cỡ bảy mươi là ít nhất. Ông lịch sự giở nón và nói với mẹ tôi, “Xin lỗi. Mong bà thứ lỗi...” Ông ta có ria mép bạc trắng, đôi mày rậm cũng trắng và khuôn mặt hồng hào đầy nếp nhăn. Ông ta cầm một chiếc dù giơ cao trên đầu.

“Sao?” Mẹ tôi nói, lạnh lùng và xa cách.

“Không hiểu bà có thể làm ơn giúp tôi một chuyện không,” ông ta nói. “Chuyện rất nhỏ.”

Tôi thấy mẹ tôi nhìn ông ta nghi ngờ. Mẹ tôi là chúa đa nghi. Bà đặc biệt nghi ngờ hai thứ - người lạ và trứng luộc. Khi cắt đầu quả trứng luộc, bà thường thọc muỗng vào và rà quanh quả trứng, cứ như bà định tìm ra một con chuột hay thứ gì khác trong đó vậy. Với người lạ, bà có một châm ngôn vàng là, “Một người trông càng lịch sự thì mình càng phải coi chừng.” Ông già nhỏ bé này trông cực kì lịch sự, lại ăn nói nhỏ nhẹ, quần áo tươm tất nữa. Đúng là dân quí phái. Tôi nghĩ ông ta quí phái là do đôi giày. Mẹ tôi có một châm ngôn ưng ý khác, là “Mình nhận ngay ra một người quí phái là nhờ đôi giày của họ.” Ông già này có đôi giày nâu thật đẹp.

“Sự thể là,” ông già nói tiếp. “Tôi cần giúp đỡ chút đỉnh. Không nhiều đâu. Hầu như chẳng có gì, nhưng tôi kẹt thực sự, Bà thấy đó, người già như tôi thường hay quên...”.

Cằm mẹ tôi hất lên và bà nhìn ông ta dài theo sống mũi bà. Cái kiểu nhìn theo sống mũi này kinh người lắm. Nhiều người đã rụng rời khi bị bà nhìn như thế. Tôi đã từng thấy cô giáo của tôi trở nên lắp bắp và lúng túng như con ngốc khi bị bà nhìn như thế. Nhưng người đàn ông che dù kia chẳng buồn chớp mắt. Ông ta mỉm cười nói tiếp, “Xin bà tin tôi, tôi không có thói chặn các bà trên phố để kể lể chuyện rắc rối của mình đâu.”

“Tôi cũng mong thế,” mẹ tôi đáp.

Tôi thấy áy náy vì cái kiểu lạnh lùng của bà. Tôi muốn bảo bà. “Ô kìa, mẹ. Ông ấy lớn tuổi rồi, lại lịch sự nhã nhặn nữa. Ông ấy đang gặp rắc rối, mẹ đừng thô bạo như thế chứ.” Nhưng tôi chẳng nói gì cả.

Người đàn ông chuyển cây dù sang tay kia. “Tôi chưa bao giờ quên nó ở nhà,” ông ta nói.

“Quên cái gì?” mẹ tôi hỏi lạnh lùng.

“Quên cái ví,” ông ta đáp. “Chắc tôi bỏ trong túi cái áo khoác kia. Thật lú lẫn phải không?”

“Ông muốn xin tiền hả?” mẹ tôi độp ngay.

“Ôi, Chúa ơi, không!” ông ta kêu lên. “Ai làm chuyện bậy bạ vậy!”

“Thế ông muốn gì?” mẹ tôi gắt. “Và nói nhanh lên. Mẹ con tôi cứ đứng đây thì ướt hết.”

“Tôi hiểu,” ông ta nói. “Thế nên tôi muốn để lại cho bà cái dù này để che mưa, và bà cứ giữ luôn nếu như...”

“Nếu như gì?”

“Nếu như bà cho tôi một bảng để trả tiền taxi về nhà.”

Mẹ tôi vẫn đầy nghi ngờ. “Nếu ông không có tiền thì làm sao tới được chỗ này?”

“Tôi đi bộ,” ông ta đáp. “Ngày nào tôi cũng đi dạo khá xa rồi kêu taxi về. Tôi đi dạo như thế cả năm nay rồi.”

“Sao bây giờ ông không đi bộ về?” mẹ tôi hỏi.

“Ôi, phải chi tôi đi được.” Ông ta đáp. “Nhưng chân cẳng yếu rồi đi thêm không nổi nữa. Bữa nay tôi đi hơi xa.”

Mẹ tôi đứng cắn môi. Bà đang xiêu lòng, tôi thấy rõ như thế. Ý nghĩ có cái dù che mưa khiến bà thích tợn.

“Cây dù dễ thương lắm,” ông già nói.

“Tôi thấy.” Mẹ tôi bảo.

“Bằng lụa đấy.”

“Tôi thấy mà.”

“Vậy bà lấy đi,” ông ta tiếp. “Tôi mua nó tới hai chục bảng đấy. Nói thật. Nhưng chuyện đó có đáng gì. Tôi chỉ mong về được tới nhà cho cái chân được nghỉ.”

Tôi thấy mẹ tôi rờ miệng ví. Bà thấy tôi nhìn bà dọc theo sống mũi giống hệt kiểu của bà. Bà biết tôi muốn nói gì. Tôi muốn nói, mẹ này, mẹ đừng lợi dụng một ông già như thế. Thối tha lắm. Bà nhìn lại tôi rồi nói với ông già. “Lấy cái dù hai chục bảng của ông thì vô lí quá. Để tôi cho ông tiền về xe rồi mình chia tay.”

“Ố, không được!” ông ta kêu lên. “Không đời nào tôi lại nhận tiền của bà như thế! Bà cứ nhận cái dù này đi, che cho khỏi mưa!”

Mẹ liếc nhìn tôi đắc ý. Thấy chưa, ông ấy muốn mẹ lấy cây dù mà. Bà móc trong ví ra tờ một bảng và đưa cho ông già. Ông nhận tiền và đưa cây dù cho mẹ tôi. Ông ta nhét tiền vào túi, giở nón và cúi người chào, rồi nói, “Cám ơn bà. Cám ơn nhiều.” Và ông ta quay lưng đi.

“Đứng vào dù tránh mưa đi con,” mẹ tôi nói. “Mình hên quá phải không. Mẹ chưa từng có cây dù lụa nào... vì nó đắt quá.”

“Thế sao lúc đầu mẹ khó chịu với ông ta thế?” tôi hỏi.

“Mẹ sợ ông ấy là loại lừa đảo. Cũng may ông ta là người tử tế. Mẹ mừng vì đã giúp được ông ấy.” Ngưng một lát bà tiếp, “Ông ấy chắc giàu lắm, nếu không làm sao mua nổi dù lụa. Không chừng ông ta còn được phong tước nữa kìa. Dân quí tộc thật sự.”

“Dạ.”

“Đây là bài học hay cho con,” mẹ tôi tiếp. “Đừng bao giờ vội vã. Luôn thong thả khi đánh giá người khác. Như thế con sẽ không bao giờ sai lầm.”

“Coi ông ta đi kìa!” tôi kêu lên.

“Đâu?”

“Đàng kia. Ông ta đang băng qua đường. Coi bộ vội dữ.”

Chúng tôi nhìn theo ông già đang lách qua dòng xe cộ. Sang đến bên kia, ông rẽ trái và bước đi rất nhanh.

“Coi bộ ông ta đâu có mệt nhọc gì đâu, mẹ thấy không?”

Mẹ tôi im lặng.

“Mà trông cũng không có vẻ là ông ta đang tìm taxi.” Tôi tiếp.

Mẹ tôi đứng cứng đơ, nhìn theo ông già nhỏ thó. Chúng tôi thấy rõ là ông ta đang vội vã. Ông đi dọc vỉa hè, qua mặt những người khác, hai tay vung mạnh như người lính đang diễn hành.

“Ông ta đang gấp chuyện gì đó.” Mẹ tôi nói, mặt nghiêm lại.

“Mà chuyện gì?”

“Mình phải tìm biết cho ra,” mẹ tôi nói nhanh. “Đi với mẹ.” Bà nắm tay tôi và hai mẹ con qua đường, rồi cũng đi về phía trái.

“Thấy ông ta không?” mẹ tôi hỏi.

“Dạ thấy. Ông ta rẽ phải ngay ngã tư kia.”

Chúng tôi đi theo hướng đó và thấy ông ta chỉ độ hai chục mét phía trước mặt. Ông ta chuồn đi nhanh như thỏ và chúng tôi phải cố lắm mới theo kịp. Mưa bắt đầu nặng hạt hơn và tôi có thể thấy nước chảy thành dòng từ vành nón xuống vai áo ông ta. Còn chúng tôi vẫn khô ráo bên dưới cây dù.

“Lỡ ông ta quay lại thấy mình thì sao?” tôi hỏi.

“Kệ ông ấy chứ,” mẹ tôi nói. “Ông ta đã nói láo với mẹ con mình. Ông ta đi ào ào chứ có mệt nhọc gì đâu. Đồ nói láo trơ trẽn!”

Ở góc đường kế, ông ta quẹo phải, sau đó quẹo trái, rồi quẹo phải nữa.

“Mẹ không chịu thua đâu.” Mẹ tôi nói.

“Đâu rồi? Tôi kêu lên. “Ông ta biến đâu rồi?”

“Mẹ thấy rồi.” Mẹ tôi đáp, “Ông ta vào cánh cửa đàng kia. Ôi trời! Quán rượu à!”

Đó là một tiệm rượu với bảng hiệu chữ lớn THE RED LION.

“Mình vào không mẹ?”

“Không,” mẹ tôi đáp, “Ở ngoài nhìn vô cũng được.”

Có một ô cửa kính lớn dọc mặt tiền quán rượu, và tuy bên trong hơi mù mịt khói nhưng chúng tôi cũng vẫn nhìn rõ nếu đứng sát vào đó.

Tôi bấu vào tay mẹ. Mưa dội nghe rõ mồn một trên cây dù. “Ông ta kìa,” tôi nói. “Đàng đó đó.”

Căn phòng bên trong đầy những người và khói thuốc lá. Ông già nhỏ thó đang ở trong đó, lúc này ông ta không còn nón và áo khoác nữa, và đang chen tới quầy rượu. Ông ta đặt cả hai tay lên quầy và nói với anh bồi quầy. Anh bồi quay lưng đi trong chốc lát rồi quay lại với một cốc rượu rót đầy tới miệng. Ông già đặt tờ một bảng lên quầy.

“Tờ một bảng của mẹ hồi nãy!” mẹ tôi rít thầm. “Ông già điên rồi!”

“Li gì vậy mẹ?” tôi hỏi.

“Whisky,” mẹ tôi đáp. “Không pha.”

Anh bồi quầy chẳng thối lại cho ông ta xu nào cả.

“Chắc là một li ba.” Mẹ tôi nói.

“Li ba là sao?” tôi hỏi.

“Một li gấp ba lần li thường.”

Ông già đưa li lên miệng, nghiêng từ từ... cao dần... cao dần... rồi toàn bộ li rượu trôi tuột vào cổ họng ông ta.

“Uống thứ này đắt quá,” tôi nói.

“Quái gở thật!” mẹ tôi nói, “Trả một bảng cho cái thứ uống chỉ một hơi là hết!”.

“Còn hơn một bảng nữa kìa,” tôi nói. “Nó làm ông ta mất toi cây dù lụa giá hai chục bảng.”

“Ông ta điên rồi.” Mẹ tôi nói.

Ông già nhỏ thó đứng bên quầy với cái li không trong tay. Ông ta mỉm cười, một vẻ rạng rỡ lan dần trên khuôn mặt hồng hào. Ông ta thò lưỡi liếm hàng ria mép bạc, như muốn vét nốt giọt whisky quí giá cuối cùng.

Chậm rãi, ông ta rời quầy rượu, len qua đám đông ra chỗ ông ta treo mũ và áo khoác. Ông ta đội mũ, mặc áo. Rồi, một cách vô cùng thản nhiên và thờ ơ đến độ không ai có thể nhận ra điều gì bất thường, ông ta cầm lấy một trong những cây dù ướt sũng móc trên giá, và đi ra.

“Con thấy không!” Mẹ tôi rít lên. “Thấy ông ta làm gì chưa!”

“Sssụyt!” tôi thì thào. “Ông ta ra kìa!”

Mẹ tôi hạ thấp dù che mặt, rồi cúi đầu nhìn ra.

Ông ta bước ra ngoài nhưng không nhìn về phía chúng tôi. Ông ta bung dù và đi trở ngược hướng cũ.

“Té ra trò ma của ông ta là thế!” mẹ tôi nói.

“Gọn gàng,” tôi nói. “Ngon lành.”

Chúng tôi theo ông ta ra tới phố chính nơi đã gặp ông ta ban nãy và thấy ông ta lại tìm cách đổi dù lấy một bảng. Lần này là với một người đàn ông cao gầy gò chẳng có mũ lẫn áo khoác. Khi hai bên đổi chác xong, ông già lẹ làng đi dọc theo phố và biến vào đám đông. Nhưng lần này không đi theo hướng cũ nữa.

“Ông già khôn ghê!” mẹ tôi nói. “Ông ta không vào quán rượu nào hai lần.”

“Ông ta có thể cứ làm thế suốt đêm.” Tôi nói.

“Ừ,” mẹ tôi đáp. “Nhưng chắc ông phải cầu nguyện dữ lắm để ngày nào xủng có mưa.”

Thần Hồ Trong Thắng Cảnh Hương Sơn

Trong thắng cảnh Hương Sơn ( huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà tây) có một hệ thống đền chùa mà điểm trung tân là động chùa Hương Tích. Khách hành hương hay khách du lịch đi đò trên dòng suối Yến thì nơi đầu tiên ghé vào thăm là đền Trình ở dãy núi Ngũ Nhạc.

Khu vực đền trình xưa kia là rừng rậm, giang sơn của mãnh hổ. Có lẽ vì thế mà vị thần được thờ ở đền Trình cũng là dòng dõi chúa Sơn Lâm. Theo thần phả (sách ghi lịch sử của thần) các cụ ở làng Yến Vĩ kể rằng:

Vào đời Hùng Vương , có một người tên là Hùng An, ở huyện Siêu Loại, thuộc Kinh Bắc, lấy vợ họ Nguyễn tên là Liễu, dòng dõi thần ở núi làng Yên Vĩ. Một hôm, vợ chồng vào rừng hương Sơn kiếm củi, người vợ bị mãnh hổ cõng đi mất. Chồng thương vợ, đi tìm khắp trong rừng mấy ngày liền không thấy. Bỗng nghe tiếng vợ vẳng từ xa. Nhìn ra thì không thấy người mà chỉ thấy một con hổ cái nói tiếng người ( người đàn bà ấy đã hóa Hổ), rằng " Nhân duyên của chàng với thiếp chỉ có thế thôi! Thiếp xin để lại cho chàng một đứa con". Nói rồi Hổ cái biến mất, để lại một cái bọc_ cái bào thai. Được 14 tháng, bọc tự nức ra như một bông hoa nở. Một đứa con ra đời. Chú bé có tướng mạo lạ kỳ: mặt vuông tai to được đật tên là Hùng Lang, con của Hùng An, lớ lên văn võ đều giỏi khác thường. Giặc Ân kéo đến cướp nuớc, gây bao nhiêu tai học cho dân ta. Hùng Lang sẵn có thang gươm báo mà thần đã trao cho Bố năm xưa, đem quân đi đánh giặc, đanh đâu thắng đấy. Thắng trận, Hùng Lang về ở làng Yến Vĩ. Sau khi chết được phong làm phúc thần của làng.

Trong tín ngưỡng cổ sơ, hình ảnh người dũng tướng họ Hùng và hình ảnh mảnh hổ được đồnh nhất với nhau. làng Yến Vĩ xưa có tục lệ dùng lợn sống làm vật hiến tế vào ngày hội làng.

 Sơn Ca và Nụ Hồng Đỏ

"Nàng hứa sẽ khiêu vũ với tôi nếu tôi đem đến cho nàng những cánh hồng đỏ," Mọt Sách than van; "nhưng tìm đâu ra trong khu vườn này."

Sơn Ca nghe thấy, nàng nhìn qua tàn lá cây sồi. Trầm ngâm.

"Không có cành hồng đỏ nào trong khu vườn này!" hắn đấm ngực, long lanh giọt nước mắt trên đôi mắt đẹp. "Ôi, hạnh phúc chỉ cần cái chuyện cỏn con ấy! Ta đã đọc ngàn chân kinh, ta đã thông tất cả bí mật triết lý, vậy mà chỉ vì cánh hồng bé tí xíu làm đời ta khốn khổ."

"À đây là người chân tình," Sơn Ca nhủ thầm. "Hằng đêm ta đã hát vì chàng, cho dù chẳng biết chàng là ai, hằng đêm ta kể lể chuyện đời chàng cho các vì sao trên cao, và hôm nay ta được thấy chàng. Tóc chàng thẫm cụm lan dạ hương, môi chàng thắm tựa niềm khao khát; nhưng dục vọng làm da mặt mất vẻ hồng hào, nỗi đau buồn chiếm ngự trên đôi ngài."

"Hoàng Tử sẽ tổ chức dạ hội vào đêm mai," Mọt Sách lầu bầu, "người con gái tôi yêu sẽ đi cùng tôi. Nếu tôi tìm ra được cành hồng đỏ, nàng sẽ bên tôi cho đến sáng. Có cánh hồng đỏ, tôi ôm nàng trong vòng tay đê mê, nàng sẽ tựa đầu vào vai tôi, những ngón tay mềm mại đan vào nhau. Nhưng nào có nụ hồng đỏ nào nơi đây, tôi đành phải ngồi không, và nhìn nàng đi qua. Nàng sẽ không thèm ngó ngàng đến trái tim vỡ của tôi."

"Trời ạ! Đây đúng là kẻ chân tình," Sơn Ca tự nghĩ. "Những gì ta ca tụng lại là điều đau khổ của chàng. Tình Yêu tuyệt vời lắm chứ. Đáng trân trọng ngàn lần hơn bích ngọc, và những viên hột xoàn. Hạt trai và tất cả đá quý cũng có mua được đâu, vì nó có được trưng bày rao bán ở xạp nào đâu. Chẳng thể nào mua được tình yêu nơi tay con buôn, cũng chẳng thể cân bao nhiêu tấn vàng cho vừa.

"Những tay nhạc công đại tài sẽ hiện diện," Mọt Sách than thở, "và tấu lên những cung nhịp du dương, người con gái tôi yêu cùng tôi lả lướt trong âm hưởng phong cầm và vĩ cầm. Đôi chân nàng sẽ nhẹ như tơ trên sàn nhảy, với tất cả thèm thuồng của kẻ tham dự. Nhưng nàng sẽ bỏ rơi tôi, vì tôi không có cánh hồng đỏ trao cho nàng"; hắn ngã người xuống bãi cỏ, ôm lấy mặt và khóc.

"Tại sao hắn khóc vậy?" Mối Xanh chổng đuôi lên hỏi.

"Nguyên do từ đâu?" Bướm phẩy đôi cánh dưới ánh mặt trời.

"Ừ nhỉ, vì sao vậy?" Tím Dại thầm thì hỏi chị hàng xóm.

"Chàng khóc vì không có cánh Hồng Đỏ," Sơn Ca trả lời.

"Cánh hồng đỏ?" Chúng thốt lên; "có điên không vậy!" Mối Xanh lăn ra cười.

Nhưng Sơn Ca hiểu rõ u uẩn của Mọt Sách, nàng ngồi yên lặng trên cành sồi, thả hồn vào bí ẩn của Tình Yêu.

Nàng vỗ đôi cánh nâu thẳng lên không trung. Tựa chiếc bóng, nàng vun vút bay vào Lạc Viên.

Giữa bãi cỏ là cội hồng thật duyên dáng.

"Hãy cho tôi 1 nụ hồng đỏ," Sơn Ca van lơn, "và tôi sẽ hát cho ngài nghe bài ca ngọt ngào nhất."

Nhưng Cây lắc đầu.

"Hoa của tôi lại mầu Trắng," hắn trả lời "trắng như bọt biển, trắng hơn tuyết băng đỉnh núi. Nhưng hãy đến hỏi người anh em của tôi ở cạnh Đồng Hồ, có thể người ấy cho bạn nụ hoa bạn muốn."

Và Sơn Ca bay đến cụm nọ.

"Hãy cho tôi 1 nụ hồng đỏ," Sơn Ca cầu khẩn, "và tôi sẽ hát cho ngài nghe bài ca ngọt ngào nhất."

Nhưng Cây lắc đầu.

"Hoa tôi lại mầu Vàng," hắn trả lời "vàng tựa tóc mỹ nhân ngư ngự trị trên ngai vàng, vàng hơn cả loài thủy tiên vàng nở rộ trên đồng cỏ trước khi loài người đem lưỡi liềm ghé thăm. Nhưng bạn hãy đến người anh em ở dưới cửa sổ Mọt Sách, có thể người anh em ấy cho bạn nụ hoa bạn ao ước."

Và Sơn Ca bay đến cụm nọ.

"Hãy cho tôi 1 nụ hồng đỏ," Sơn Ca cầu khẩn, "và tôi sẽ hát cho ngài nghe bài ca ngọt ngào nhất."

Nhưng Cây lắc đầu.

"Hoa tôi mầu Đỏ," hắn trả lời, "đỏ tựa đôi chân bồ câu, đỏ hơn những tàn lá san hô ẩn hiện dưới sóng. Nhưng mùa đông đã bóp nghẹt đường tĩnh mạch, sương giá cắt hết nụ, và cơn bão đã lấy đi những cành non, thế nên tôi không có gì để tặng bạn cho đến năm sau."

"Chỉ một nụ thôi," Sơn Ca năn nỉ, "chỉ một nụ thôi! Có cách nào không?"

"Có chứ," Cây trả lời, "nhưng đau thương đến nỗi tôi không muốn nói bạn nghe."

"Nói cho tôi nghe đi," Sơn Ca reo lên, "Tôi không ngán đâu."

"Nếu bạn muốn nụ Hồng Đỏ," Cây nói, "bạn phải dùng âm tơ của Trăng, trộn lẫn máu tươi của bạn. Bạn sẽ phải hát với lồng ngực để sát cạnh gai nhọn. Hát trọn một đêm, và để gai nhọn đâm nát vào trái tim bạn, để máu nguồn chạy vào tĩnh mạch tôi biến thành máu tôi."

"Cái chết là cái giá cũng xứng đáng cho một nụ Hồng Đỏ," Sơn Ca thản nhiên trả lời, "sự sống cũng rất ư là thân mến với muôn loài. Ngồi bên rừng xanh, ngắm mặt trời vàng, cùng trăng ngọc lăn tròn qua ôi sao lộng lẫy. Hương hoa chuông và hoa chanh nở trong góc vườn ôi sao ngọt ngào. Tình Yêu mãi mãi, dù đời sống có ngừng lại, trái tim loài chim có đáng là gì so với trái tim loài người?"

Xòe rộng đôi cánh nâu bay bổng lên. Sơn Ca lượn quanh mảnh vườn như chiếc bóng, nghiêng nghiêng làm chiếc bóng qua khu rừng nhỏ.

Mọt Sách vẫn nằm thừ ra trên bãi cỏ. Trên đôi mắt đẹp vẫn chưa khô dòng nước mắt.

"Hãy vui lên," Sơn Ca reo, "sống trong hạnh phúc đi; anh sẽ có nụ Hồng Đỏ. Tôi sẽ nhuộm máu tim tôi vào tơ Trăng. Tôi chỉ xin bạn một ân huệ là bạn sẽ đẹp duyên cùng người chân tình, vì Tình Yêu sáng suốt hơn Triết Lý, vì nàng là trí tuệ, oai hùng hơn Quyền Lực, vì chàng là sức sống. Đôi cánh rực rỡ nồng nàn là hình hài Tình Yêu. Đôi môi chàng ngọt tựa mật, thơm tho hương trầm.

Mọt Sách từ bãi cỏ ngơ ngác nhìn lên, nghe ngóng, nhưng gã chẳng hiểu gì cả. Những quyển sách kia chưa bao giờ có ai đề cập đến ý tưởng vừa lọt vào tai hắn.

Nhưng Sồi thấm hiểu và xót xa, vì niềm yêu mến Sơn Ca với chiếc tổ nhỏ được kết trên ngón Sồi.

"Xin em hát cho anh nghe bài ca cuối cùng," Sồi thì thầm; "anh sẽ rất cô đơn khi vắng em."

Sơn Ca cao giọng líu lo nồng nàn men rượu tăm.

Vừa nghe Sơn Ca hát xong, Mọt Sách đứng dậy lôi trong túi ra tập giấy và cây bút.

"Nó có hình dạng," gã vừa lẩm bẩm vừa bước vào khu rừng nhỏ -- "khó mà lẫn lộn với loài chim khác; nó có tình cảm không? Chắc là không đâu. Nó tựa như người cuồng điên trong nghệ thuật; có đủ cung cách, chỉ thiếu niềm thiết tha. Chẳng bao giờ nó sẽ hy sinh cho ai. Nó chỉ đắm đuối trong âm điệu, và ai cũng biết nó rất ích kỷ. Nhưng phải công nhận giọng ca của nó tuyệt vời. Tiếc thay điều đó chẳng mang đến lợi lộc gì, chẳng nghĩa lý gì, chẳng làm được trò trống gì!" Gã trở về phòng, nằm trên nệm và suy tư về người yêu. Hắn đi vào giấc ngủ hồi nào không hay.

Khi thấy Trăng lấp ló trong màn đêm, Sơn Ca cất cánh đến cành Hồng, ôm ghì buồng ngực vào gai nhọn. Nàng hát cả đêm từ tình ca này đến hạnh khúc kia. Sau mỗi bài, chiếc gai nhọn lại xuyên vào sâu hơn và sâu hơn vào trái tim để nguồn máu lăn lăn vào cội hoa. Ánh trăng lạnh nghiêng xuống.

Nàng hoan tụng tình đầu trong trái tim 2 đứa trẻ thơ. Ồ kia, cánh hồng dần đỏ hồng từng cánh sau từng bài hát tiếp lời ca. Sơn Ca dần lịm đi tựa vùng khói trên mặt hồ -- lịm dần đi dưới đôi chân bình minh.

Cội Hồng thét lên bảo Sơn Ca ôm ngọn gai chặt hơn nữa. "Ghì sát hơn, Sơn Ca bé bỏng, nếu bình minh đến sẽ làm hỏng đi nụ Hồng Đỏ chưa được hoàn thành."

Sơn Ca vâng lời, ôm chặt lấy ngọn gai, cùng cao giọng hơn sau từng ca khúc, vì đến lúc hoan tụng nguồn khởi đầu sữa mật đam mê trong lòng Chàng và Nàng.

Lá hồng cũng dần ửng hồng tựa như niềm e thẹn trên đôi má người trinh nữ đón nụ hôn đầu của người yêu. Gai vẫn chưa cứa vào được tâm trái tim, nên những cánh nhỏ giữa nụ vẫn là mầu trắng của trăng.

"Ghì sát hơn, Sơn Ca bé bỏng, nếu bình minh đến sẽ làm hỏng đi nụ Hồng Đỏ chưa được hoàn thành."

Sơn Ca dùng hết sức ôm chặt ngọn gai vào sâu hơn. Chợt nỗi đau vô tận xé tan hình hài nàng. Đắng, đắng sao niềm thống khổ, tiếng hát cứ cao vút lên, cao vút lên trong lời hoan tụng Tình Yêu nương vào Cái Chết đi vào Vĩnh Cửu, vì nơi Tình Yêu an nghỉ không phải là những nấm mộ hoang.

Nụ Hồng Đỏ thẫm nét đẹp áng sáng bình minh. Giữa tâm hoa rực rỡ trong vắt viên hồng ngọc.

Giọng Sơn Ca yếu dần, đôi cánh giật giật, đôi mắt là làn nước long lanh. Bài ca dần nhỏ đi sau từng tiếng nấc.

Gom hết tàn hơi, Sơn Ca phát lên âm giai lạ. Trăng nghe thấy, chẳng màng ánh bình minh nghiêng xuống lắng nghe. Nụ Hồng Đỏ nghe thấy, rùng mình lên trong ngây ngất, mở từng cánh trong bầu trời lạnh giá. Âm giai vọng xa đến từng hang hốc ngọn núi kia, đánh thức những gã chăn cừu đang say sưa giấc mộng. Nó loang vào giòng sông, tan vào biển rộng.

"Nhìn kìa! Nhìn kìa!" Cội Hồng reo lên, "nụ Hồng Đỏ đã được hoàn thành"; nhưng Sơn Ca nằm im lìm chẳng trả lời. Giữa trái tim còn lồi lên một cành gai rất nhọn.

Giữa trưa, Mọt Sách thức giấc, ra mở cửa sổ nhìn ra.

"Ô! trúng số rồi!" hắn la toáng lên; "đây là lô độc đắc! Ta chưa bao giờ nhìn thấy nụ hoa nào đẹp như vầy trong suốt cuộc đời ta. Đẹp quá! Chắc là phải có danh tự trong quyển tự điển cổ xưa"; hắn nhoài ra cắt.

Nắm chặt trong tay, hắn vội vàng chạy đến nhà nàng.

"Em hứa là sẽ trong vòng tay anh nếu anh đem đến em nụ Hồng Đỏ," Mọt Sách cuồng dại. "Đây là nụ Hồng đỏ nhất em có thể có trong cõi nhân gian này. Em đính lên áo cạnh tim em, và khi chúng ta luân vũ, nụ hoa này sẽ nói lên tình yêu anh dành trọn vẹn cho em."

Nàng xịu mặt xuống.

"Em sợ là nó không hợp với áo dạ hội của em," nàng trả lời; "vả lại, chiều hôm qua cháu trai bá tước đã trao tặng em những vòng vàng châu báu, ai ai cũng trân trọng hơn là những nụ hoa."

"Dựa trên lời em nói, em là kẻ vô ơn," Mọt Sách gầm gừ; hắn vứt cánh hoa xuống đất, rơi vào rãnh nước. Chiếc xe bò vô tình lăn bánh lên.

"Vô ơn!" nàng lớn tiếng. "Để tôi nói cho anh nghe, anh là kẻ tồi bại; còn nữa, anh là cái thá gì? Chỉ là con Mọt Sách. Cả đến một đồng anh chưa chắc đã có nữa là!"; nói xong, cô nàng nguây nguẩy vào nhà sập cửa lại.

"Tình Yêu sao lại điên rồ thế nhỉ," Mọt Sách vừa đi vừa lẩm bẩm. "Trị giá của nó chỉ đáng nửa so với Luận Lý, vì nó chẳng minh chứng được điều gì, chỉ láo lếu phỏng đoán những điều chưa chắc đã thành sự thật, làm mù quáng đôi mắt con người. Hão huyền, thời buổi này thực tế là tất cả. Trở lại thế giới Triết Học và Thần Học là phải đạo nhất."

Và... hắn trở lại phòng riêng, phủi bụi một quyển kinh lấy ra từ trên kệ, ngồi xuống chìm đắm trong dòng chữ.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#tích