co tich tong hop

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

  Binh học Trung Quốc đã phôi phai từ thời Thượng cổ, ngay từ thời Tam Hoàng Ngũ Đế (2697 – 2205 trước Tây lịch kỹ nguyên ) đã có cuốn Huỳnh Đế binh pháp. Đến đời Chu, Hán, Đường, Tống, Minh và Thanh, bất luận triều đại nào cũng có biên soạn binh thư.

    Số binh thư được phổ biến nhiều đến nổi không một ai có thể nghiên cứu cho hết được, và số binh thư kia quá nhiều, nội dung phức tạp, tư tưởng sai biệt, nên các nhà nghiên cứu võ học, nhất là các binh gia không biết phải đọc cuốn nào trước và phải nghiên cứu cuốn nào sau. Lý do đó các binh gia đời Tống – Minh mới gom góp các tài liệu trên, rồi soạn thành những bộ binh thư tổng hợp như:

    - Võ kinh tổng yếu

    - Võ kinh thất thư

    - Võ kinh khai tong

    - Võ biên

    - Võ bị chí v.v.

    Trong những bộ võ kinh trên , chỉ có bộ Võ Kinh Thất Thư là được các nhà nghiên cứu võ học và các binh gia ưa thích hơn cả. Bộ Võ Kinh này được phổ biến rộng rãi trong giới võ học Trung quốc và các cường quốc Tây phương như Anh, Mỹ, Nga, Pháp, Đức v.v. dịch ra tiếng bản xứ dùng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo tại các quân trường nơi rèn quân luyện tướng.

    Bộ Võ Kinh Thất Thư gồm có 7 cuốn:

    1/- Tôn Tử Binh Pháp… của Tôn Võ

    2/- Ngô Tử Binh Pháp …. của Ngô Khởi

    3/- Tư Mã Binh Pháp….. của Nhương Tư

    4/- Uất Liễu Tử Binh Pháp ….của Uất Liễu

    5/- Lục Thao ………. của Khương Thượng

    6/- Tam Lược …….. của Huỳnh Thạch Công

    7/- Đường Thái Tông – Lý Vệ Công vấn đối…. của Lý Tịnh

    Bộ Võ Kinh Thất Thư là kết tinh nghệ thuật điều binh, khiển tướng, là tinh hoa của võ học qua những kinh nghiệm chiến tranh mà ngày nay vẫn còn nhắc đến.

    Để giới thiệu những bộ vỏ kinh lừng danh nầy, người viết ghi lại một vài tư tưởng bất hủ để quý đọc giả tường lãm trước khi đọc những bộ võ kinh như trên.

    TÔN TỬ viết:“ Biết người biết mình, trăm trận không nguy.

    Nhưng ông lại nói:

    “ Trăm trận trăm thắng chưa hẳn là hay trong cái hay, không đánh mà khuất phục binh người mới là hay trong cái hay “

    Tôn Tử còn viết:

    Trị nhiều người như trị ít người, đó là phân chia ra mà trị. Nhiều người đánh cũng như ít người đánh, đó là nhờ mệnh lệnh ( hình danh ).

    Xua quân đông đảo đương đầu địch mà không bại, đó là nhờ KỲ CHÍNH.

    Binh đánh vào đâu như ném đá vào trứng, đó là nhờ phép HƯ-THỰC.

    Phàm đánh giặc nên lấy CHÍNH để nghinh địch, lấy KỲ để thắng địch.

    Cho nên người giỏi dùng KỲ-CHÍNH thì không cùng như trời đất, bất tận như sông ngòi, đầu cũng như ngọn, như mặt trời mặt trăng, như sống đi chết lại, như bốn mùa của năm vậy “

    NGÔ-KHỞI viết:

    “ Pháp lệnh không rõ ràng, thưởng phạt không phân minh, đánh chiêng không dừng, đánh trống không tiến, tuy có một triệu quân cũng không dùng được “

    NHƯƠNG TỬ viết:

    “ Giết người mà yên người thì nên giết, đánh nước người mà thương dân người thì nên đánh, dùng chiến tranh để chấm dứt chiến tranh thì nên có chiến tranh “.

    HUỲNH THẠCH CÔNG viết:

    “ Bậc vua có đức thì lấy điều vui để làm cho người vui, vua không có đức thì lấy điều vui làm cho bản thân mình. Làm cho người vui thì được lâu dài. Làm cho bản thân mình vui thì không lâu sẽ mất.

    KHƯƠNG THƯỢNG viết:

    “ Dùng binh ít mà đánh binh đông thì phải đợi khi chiều tối rồi cho quân mai phục ở chổ có cây rậm rạp và những đọan đường hiển yếu mà đánh địch. Dùng binh yếu đánh binh mạnh thì phải có sự giúp đở của nước lớn và các nước láng giềng “.

    UẤT LIỂU TỬ viết

    ” Thiên thời không bằng địa lợi, đạ lợi không bằng nhân hòa …., kẻ làm tướng ở trên không bị chế ngự bởi trời, ở dưới không bị chế ngự bởi đất, ở trước không bị chế ngự bởi địch, ở sau không bị chế ngự bởi vua “.

    LÝ-TỊNH viết:

    “ CÔNG là nguồn máy của THỦ, Thủ là mưu sách của Công, chung quy chỉ nhằn đánh thắng địch mà thôi “’

    Võ Thư Thất Kinh nầy cũng có trong tủ sách quân sự của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thuộc Trường Chỉ Huy và Tham Mưu và được các binh gia nghiên cứu những tư tưởng Đông Tây kim cổ

TẤM NỆM TOTTORI

    Ngày trước lâu lắm rồi, tại tỉnh Tottori có một quán trọ nhỏ vừa khai trương thì ngay trong đêm đầu tiên đã có một người khách đến trọ.

     Đó là một người lái buôn. Chủ quán trọ tiếp đón ông khách vô cùng hậu hĩ, với ý mong rằng tiếng khen quán trọ nhỏ của mình sẽ theo người lái buôn mà vang xa khắp nơi. Ông khách được dọn một bữa ăn no nê, có rượu sake thật ngon hâm nóng uống thỏa thích. Ăn xong khách được nằm ngủ trên bộ nệm futon trải trên nền nhà lát chiếu tatami.

     Thế nhưng, hầu như ông khách chưa chợp mắt được bao lâu, thì nghe có tiếng người nói trong phòng, làm khách tỉnh giấc. Mà đó là giọng nói của mấy đứa trẻ con nói chuyện với nhau, cứ hỏi di hỏi lại mãi một điều:

    - Anh có lạnh không?

    - Em có lạnh không?

     Khách khẽ lên tiếng quở trách thì giọng nói kia im bặt được một lúc. Lát sau, giọng nói ấy lại cất lên thì thào khe khẽ, ra chiều như sợ khách nghe được, xong vẫn rõ mồn một:

    -Anh có lạnh không?

    Một giọng nói khác ân cần đáp lại:

    -Em có lạnh không?

     Khách vùng dậy, thắp đèn lên soi, xem xét khắp phòng, nhưng không thấy có ai cả. Các cánh cửa shoji dán giấy đều khép kín. Dòm vào trong tủ thì thấy tủ trống trơn. Khách lấy làm lạ, cứ để đèn sáng mà nằm ngủ. Tức thì, khách vừa ngả đầu xuống gối chưa được bao lâu, lại nghe có tiếng hỏi:

    -Anh có lạnh không?

    -Em có lạnh không?

     Lúc bấy giờ, khách mới chợt rùng mình, thấy lạnh cả xương sống, nhưng đó không phải là cái lạnh vì hơi đêm, mà là vì khách chợt nhận ra rằng giọng nói ấy phát ra từ trong tấm nệm futon mà khách đang nằm. Chỉ có chính tấm nệm mới có thể cất tiếng hỏi như vậy thôi.

    Khách hấp tấp bước xuống cầu thang dẫn xuống nhà dưới, gọi chủ trọ quán dậy và kể hết đầu đuôi sự tình. Xong người chủ quán trọ lại ra chiều tức giận, bảo khách:

    - Quý khách uống rượu say nên nằm chiêm bao thấy chuyện vớ vẩn chẳng ra đâu vào đâu đấy thôi ạ.

    Chiều tối hôm sau, lại có người khách khác đến xin trọ lại một đêm. Đêm khuya, người khách này cũng lại đánh thức chủ quán trọ dậy, và lại kể cho nghe những điều giống hệt như ông khách hôm trước. Và một điều lạ lùng là người khách hôm nay không hề uống một giọt rượu nào.

     Khách đi rồi, chủ nhân nghĩ bụng cho là điều quái dị, bèn vào căn phòng dành cho khách ở tầng hai mà xem xét các tấm nệm. Thế rồi trong lúc đang ở trong căn phòng ấy, chủ quán trọ bỗng nghe có tiếng người. Bấy giờ chủ trọ mới biết rằng điều mà hai ông khách đã kể lại là có thật. Và chỉ có một tấm nệm duy nhất lên tiếng, còn các tấm nệm khác thì im bặt chẳng nói năng gì.

     Trời sáng ra, chủ quán trọ bèn đến cửa hiệu bán nệm futon nơi đã bán cho mình tấm nệm ấy, đem câu chuyện vừa xảy ra ở quán trọ mà hỏi chủ hiệu bán nệm. Nhưng chủ hiệu bán nệm cũng không biết gì về tấm nệm. Ông ta cho biết đã mua lại tấm nệm này từ một cửa hàng nhỏ hơn, đó là một hiệu buôn nghèo nàn ở mãi tận cuối phố. Thế là chủ quán trọ cứ đi lần hỏi hết nơi này đến nơi khác, cuối cùng tìm đến được một hiệu bán nệm nghèo nàn tồi tàn nhất, và mới được biết câu chuyện của chiếc nệm ấy như sau.

     Số là có một gia đình nọ có hai đứa con trai, đứa bé sáu tuổi, đứa lớn tám tuổi. Họ là dân tha phương cầu thực đến ngụ cư ở đây. Một ngày mùa đông người cha lâm bệnh được một tuần lễ thì qua đời. Sau đó người mẹ yếu đuối lắm bệnh tật lâu nay, chẳng bao lâu cũng qua đời theo chồng, để lại hai đứa con thơ. Hai đứa bé không có một người thân nào để nương tựa, nên chúng bèn bán dần mòn các thứ trong nhà lấy tiền sống qua ngày. Mỗi ngày chúng đều đem bán một thứ trong nhà, cho đến khi không còn gì để bán, ngoài một tấm nệm để nằm. Đã đến lúc chúng không còn gì để ăn, lại còn đang thiếu nợ tiền thuê nhà.

     Đến ngày đại hàn, một ngày trời lạnh khủng khiếp, lạnh hơn bao giờ hết. Hôm ấy tuyết rơi nhiều và đóng rất dầy, hai đứa bé không thể ra khỏi nhà mà đi đâu xa. Hai đứa bé cùng đắp chung một tấm nệm mà run bần bật, không còn có cách nào khác là lo lắng hỏi thăm nhau theo kiểu trẻ con:

    - Anh có lạnh không?

    - Em có lạnh không?

     Hai đứa bé sợ gió lạnh, nhưng chúng còn sợ chủ nhà hơn thế nữa. Là vì chủ nhà đã đến dựng cổ chúng dậy mà đòi nợ. Người chủ nhà này là một gã đàn ông tướng tá dữ dằn, và không biết mủi lòng. Khi biết không có ai trả tiền nhà cho hai đứa bé, gã bèn đuổi chúng ra ngoài đường giữa lúc trời tuyết, tịch thu nốt cả tấm nệm còn lại và khóa chặt cửa lại.

     Hai đứa bé phong phanh có mỗi một manh áo mỏng nhuộm màu lam, là vì chúng đã bán hết quần áo để mua cái ăn. Và chúng cũng không biết đi về đâu. Ở cách đấy không xa có một ngôi chùa nhỏ thờ đức Phật Quan Âm, nhưng vì tuyết rơi dầy quá, nên hai đứa bé không tới đó được. Sau khi chủ nhà bỏ về rồi, hai đứa bé bèn lén quay trở lại phía sau căn nhà. Đúng lúc đó cái lạnh làm hai đứa bé buồn ngủ, hai anh em bèn ôm chặt lấy nhau cho đỡ lạnh.

     Trong lúc hai đứa bé ngủ thiếp đi thì thần thánh thương tình đã đem cho chúng chiếc nệm mới. Đó là tấm nệm trắng nõn và đẹp chưa từng thấy trên đời này, và nhờ vậy hai đứa bé không còn thấy lạnh nữa. Hai đứa bé ngủ say hết ngày này sang ngày khác. Rồi người ta tìm thấy chúng, xây cho chúng một chỗ nằm trong nghĩa địa của ngôi chùa thờ đức Phật Thiên Thủ Quan Âm có ngàn cánh tay.

     Sau khi biết rõ đầu đuôi câu chuyện về tấm nệm, người chủ quán trọ bèn đem cúng tấm đệm ấy cho vị hòa thượng trụ trì ở ngôi chùa thờ Phật Thiên thủ Quan Âm, để nhờ ngài tụng kinh cầu nguyện cho linh hồn hai trẻ nhỏ.

     Thế là từ đó, tấm nệm im bặt không còn lên tiếng nữa.

Bà Lão Chăn Ngỗng

Ngày xưa có một bà già nua, sống cùng đàn ngỗng tại một nơi Hẻo lánh giữa núi rừng. Bà ở trong một căn nhà nhỏ. Chúng quanh Có một khu rừng lớn. Sáng nào bà cũng chống nạng lẩy bẩy đi vào Rừng. Bà bận nhiều việc lắm, một người nhiều tuổi như bà tưởng Khó có thể làm nổi: đi kiếm cỏ cho ngỗng, hái quả dại vừa tầm tay Với, vác cả lên lưng về nhà.

     Trông thì tưởng chừng bà vác nặng đến ngã khuỵu xuống mất, Nhưng cũng may là bao giờ bà cũng mang về được tới nhà. Bà gặp Ai cũng chào hỏi niềm nở:

     - Chào người bà con. Hôm nay trời đẹp nhỉ! Bà con thấy già đi Tha cỏ về thì chắc lấy làm lạ lắm nhỉ, ai mà chẳng phải vác gánh Nặng của mình trên lưng.

     Tuy vậy, thiên hạ không thích gặp bà lão, họ thường đi đường Vòng để tránh bà. Khi một ông bố cùng con trai đi qua mặt bà, ông Khẽ bảo con:

     - Con phải coi chừng mụ già này. Mụ ấy thâm hiểm lắm. Đó là Một mụ phù thủy đấy.

     Một buổi sáng, có chàng thanh niên đẹp trai đi qua rừng. Trời Nắng, chim kêu ríu rít, gió mát thổi qua cành lá, lòng chàng lâng Lâng vui sướng. Chàng chẳng gặp một ai. Bỗng chàng nhìn thấy bà Phù thủy đang cắt cỏ bằng liềm. Bà đã nhét vào tay nải một mớ Nặng, cạnh đó còn có hai giỏ đầy lê và táo dại.

     Chàng nói:

     - Này bà lão, bà làm thế nào mà mang hết đi được?

     Bà già đáp:

     - Thưa ngài, thế mà tôi vẫn phải mang cho được đấy. Con nhà Giầu có đâu cần như vậy. Nhưng nông dân thường nói: "Thôi đừng Ngó quẩn ngó quanh làm gì! Cái lưng người vốn nó phải còng." Chàng đứng bên bà, bà bèn bảo:

     - Thế chàng giúp già một tay có được không? Lưng chàng còn Thẳng, chân còn cứng, đối với chàng thì dễ thôi. Nhà già cũng gần Đây, trên cái bãi hoang kia, ở ngay sau núi, chàng chạy một lát thì Đến ngay đấy mà.

     Chàng thanh niên thương hại bà lão, trả lời:

     - Quả cha tôi không phải là nông dân, mà là một v? bá tước Giàu có, nhưng thôi cứ để tôi mang giúp bà chiếc tay nải kia. Bà già nói:

     - Nếu chàng cố giúp cho thì quý hóa quá. Chắc chắn là chàng Phải đi mất một giờ đấy, nhưng đối với chàng thì thấm vào đâu. Chàng phải mang giúp cho cả táo và lê đến đấy nữa nhé! Nghe nói đi mất một giờ thì vị bá tước trẻ tuổi hơi phân vân, Nhưng bà già không buông chàng ra, bà buộc khăn gói trên lưng Chàng, khoác đôi giỏ vào cánh tay chàng và nói:

     - Chàng thấy chưa, cũng dễ thôi mà!

     Bá tước vừa đáp vừa nhăn nhó:

     - Đâu, không dễ đâu! Cái bọc nặng như là bọc đá ấy, lê táo cũng Nặng như chứ. Thở chẳng ra hơi nữa!

     Chàng muốn trút tất cả mọi thứ, nhưng bà già không chịu. Bà Nói mỉa:

     - Trông kìa! Có đời thuở nhà ai một vị trai tráng mà không chịu Mang cái mà một bà già như ta đã từng lê đi bao nhiêu lần. Nói Hay, nói đẹp thì sao mà mau thế! Hễ công việc thật thì chỉ muốn lẩn Thôi.

     Bà nói tiếp: - Sao chàng lại chần chừ, đứng ỳ ra như thế! Chịu khó nhấc Chân lên chứ. Không ai đỡ gói cho đâu.

     Còn đi trên đất bằng thì chàng còn chịu nổi. Nhưng khi lên núi, Phải trèo, đá lăn dưới chân chàng y như chúng là những vật sống Thì thật là quá sức chàng. Mồ hôi nhễ nhại trên trán, chảy ròng Ròng xuống lưng chàng, khi thì nóng bốc lên, khi thì lại lạnh toát Sống lưng. Chàng nói:

     - Bà già ơi, tôi không chịu nổi nữa, cho tôi nghỉ một tí. Bà già đáp:

     - Không nghỉ ở đây được. Để đến nơi đã, hãy nghỉ. Bây giờ cứ đi Đi. Biết đâu thế chả là điều hay cho chàng. Bá tước nói:

     - Mụ già kia, mụ thật hỗn xược. Chàng định vứt chiếc khăn gói đi, nhưng loay hoay mãi mất Công toi. Khăn gói dính chặt vào lưng chàng y như là nó mọc từ Lưng ra. Chàng quay cuồng, vặn vẹo mãi mà không tài nào thoát ra Được.

     Bà già thấy vậy cười và nhảy nhót trên đôi nạng một cách Khoái trá. Bà nói:

     - Chàng ơi, xin chàng chớ tức giận, mặt chàng đã đỏ chín lên Như gà chọi rồi. Chàng cứ chịu khó đeo khăn gói đi, đến nhà, già sẽ Thưởng cho xứng công.

     Chàng biết làm sao bây giờ? Chàng đành tuân theo số phận, Nhẫn nhục lê theo bà già. Bà ta có vẻ mỗi lúc một lanh lẹn, còn Chàng thì thấy gánh trên vai mỗi lúc một thêm nặng. Rồi bỗng bà Nhún người nhảy một cái, ngồi trên khăn gói.

     Bà gầy khẳng khiu như cái cọc rào, mà sao nặng hơn cả một Mụ nông dân béo? Chàng thanh niên lảo đảo, nhưng nếu chàng Không chịu đi thì bà lây roi và cành gai đánh vào chân chàng. Chàng không ngừng rên rỉ, trèo lên núi, mãi đến khi sắp khuỵu Xuống mới tới nhà bà. Đàn ngỗng thấy bà già gọi thì vỗ cánh vươn Cổ lên, chạy ra đón và kêu quang quác. Một mụ đã có tuổi, mạnh Khỏe to lớn, xấu như ma lem, cầm roi theo sau đàn ngỗng. Bác ta Bảo bà lão:

     - Mẹ ơi, có việc gì mà sao lâu thế?

     Bà lão đáp:

     - Con cứ yên tâm, chả gặp điều gì dữ cả. Trái lại, chàng đây lại Mang giúp cho mẹ. Này con ạ, khi mẹ mệt chính chàng ta lại cõng Mẹ trên lưng nữa. Thành ra đường đi không thấy xa, đi rất vui vẻ Và luôn luôn đùa giỡn với nhau.

     Mãi sau bà già mới chịu tụt xuống, đỡ khăn gói khỏi lưng Chàng, lấy giỏ khỏi tay chàng, thân mật nhìn chàng và bảo:

     - Thôi bây giờ, chàng hãy ngồi ở chiếc ghế dài trước cửa mà Nghỉ. Chàng thật đáng được trả công một cách xứng đáng. Mà nhất Định là có thôi.

     Rồi bà bảo mụ chăn ngỗng: - Con hãy vào trong nhà, con ạ. Con đứng một mình với chàng Trai trẻ thật là không tiện, không nên đổ dầu vào lửa. Chàng ta có Thể mê con đấy.

     Bá tước chẳng biết nên cười hay nên khóc. Chàng nghĩ bụng: đồ Của thừa như thế, giá có trẻ hơn ba chục tuổi cũng chẳng làm cho Mình rung động được.

     Trong khi ấy, bà lão vuốt ve đàn ngỗng như con, bà cùng mụ Con gái vào nhà. Chàng thanh niên ngả mình trên chiếc ghế dài ở Gốc một cây táo. Không khí êm dịu, ấm áp. Chung quanh rải ra một Đống cỏ xanh rờn, đầy hoa ngọc châu, hoa bách lý và hàng trăm thứ Hoa khác. Một con suối trong veo, lóng lánh ánh mặt trời chảy Ngang. Đàn ngỗng trắng nhởn nhơ đi qua đi lại hoặc lội bì bõm dưới Nước. Chàng nghĩ bụng:

     - Ở đây thật là yêu kiều, nhưng ta buồn ngủ quá, mắt cứ díp Lại. Ta phải ngủ đi một tí mới được. Chỉ mong đừng có cơn gió nào Thổi bay đôi chân mình đi, chân mình đã nhũn ra như bùi nhùi mất Rồi.

     Chàng ngủ được một lát thì bà già đến lay dậy, bà bảo: - Dậy đi, chàng ơi! Chàng không ở lại đây được đâu, quả là già Đã làm cho chàng vất vả, nhưng cũng chưa hại gì đến tính mạng. Giờ thì già trả công cho chàng. Tiền bạc và của cải thì chàng không Cần đến, để ta cho thứ khác.

     Nói rồi, bà nhét vào tay chàng một chiếc hộp nhỏ làm bằng một Viên ngọc xanh nguyên khối và dặn: - Chàng hãy giữ hộp này cẩn thận, nó sẽ mang phúc đến cho Chàng. Bá tước vùng dậy, cảm thấy trong người khoan khoái, lại sức, Cảm ơn bà già rồi lên đường, không buồn quay lại nhìn con gái xinh Đẹp của bà lấy một lần. Chàng đi được một quãng đường vẫn còn Nghe thấy tiếng ngỗng kêu vui vẻ từ xa vọng lại.

     Bá tước phải lang thang ba ngày trong rừng hoang mới tìm ra Được lối đi. Chàng đến một thành phố lớn. Ở đấy không ai biết Chàng. Người ta dẫn chàng đến cung điện. Vua và hoàng hậu đã Ngự triều. Bá tước quì xuống, rút chiếc hộp bằng ngọc xanh ở túi ra Để xuống chân hoàng hậu. Bà truyền cho chàng đứng dậy, chàng Cầm lấy chiếc hộp dâng lên bà vừa mở ra xem thì ngã xuống đất bất Tỉnh nhân sự. Bá tước bị bọn thị vệ nắm chặt lấy định đem tống Ngục. Nhưng hoàng hậu mở mắt, truyền phải tha chàng. Bà đuổi Mọi người ra và muốn tiếp chuyện riêng chàng.

     Khi chỉ còn mình bà với bá tước, hoàng hậu khóc lóc thảm thiết Và bà nói:

     - Giàu sang phú quí đối với ta có làm gì, vì sáng nào ta thức Dậy cũng phải lo âu phiền não. Ta có ba con gái, con gái út đẹp Nhất, thiên hạ coi là của quí kỳ diệu. Da nó trắng như tuyết, má nó Hồng như táo, tóc nó rực rỡ như ánh sáng mặt trời. Khi nó khóc, Không phải giọt lệ thường, mà là hạt châu, hạt ngọc ở mắt nhỏ ra. Năm nó mười lăm tuổi, vua cho đòi ba chị em nó đến trước ngai Vàng. Chàng không thể tưởng tượng quần thần trố mắt ra nhìn thế Nào khi đứa thứ ba bước vào. Thật y như mặt trời mọc. Vua phán "Các con ạ, cha không biết ngày nào cha chết. Hôm nay, cha muốn Quyết định xem sau khi cha chết, mỗi con được hưởng gì. Các con Đều yêu cha cả, nhưng con nào yêu cha tha thiết nhất sẽ được Hưởng cái quý nhất". Cô nào cũng nhận là yêu cha tha thiết nhất. Vua hỏi: "Các con hãy nói xem các con yêu cha thế nào. Cha sẽ hiểu Được lòng các con". Cô cả nói: "Con yêu cha như yêu đường ngọt Nhất". Cô thứ hai nói: "Con yêu cha như yêu chiếc áo đẹp nhất của Con". Cô thứ ba lặng thinh. Vua cha liền hỏi: "Thế nào, con yêu ta Như thế nào?". Cô đáp: "con không biết lấy gì ví lòng con yêu cha". Nhưng vua cha đòi cô phải nói lên cái gì để ví. Sau mãi cô mới nói: "Món ăn ngon nhất mà thiếu muối thì con không thể ăn ngon được. Do đó con yêu cha như muối". Vua cha nghe vậy, nổi giận phán: "Nếu mày yêu ta như muối thì ta sẽ lấy muối thưởng tấm lòng của Mày". Vua liền chia giang sơn làm đôi cho hai cô con gái lớn và sai Bược lên lưng cô đi một bị muối, rồi cho hai người nông nô dẫn cô Vào rừng hoang.

     Hoàng hậu nói tiếp:

     - Tất cả chúng tôi đều van xin, nhưng vua vẫn không nguôi Giận. Chao ôi! Con tôi nó khóc lóc thảm thiết làm sao khi nó phải từ Bỏ chúng tôi. Suốt dọc đường rơi đầy châu ngọc ở mắt nó tuôn ra. Sau đó ít lâu, vua hối hận vì đã quá nhẫn tâm. Vua cho đi tìm đứa Con đáng thương khắp trong rừng nhưng chẳng ai thấy nó. Ta cứ Nghĩ nó bị thú dữ ăn thịt là ta lại buồn rầu. Đôi khi, ta tự an ủi với Hy vọng là nó vẫn còn sống, chui rúc trong một cái hang nào đó hay Nương tựa ở nơi nào có người thương hại. Chàng có thể tưởng tượng Được không, khi ta mở chiếc hộp con bằng ngọc xanh của chàng ra, Ta thấy có một hạt ngọc đúng như hạt lệ ở mắt con ta nhỏ ra. Chàng Hiểu tại sao ta thấy ngọc mà lòng ta xúc động. Chàng phải nói cho Ta biết làm sao ngọc ấy lại vào tay chàng.

     Bá tước kể lại cho hoàng hậu biết là chàng nhận được ngọc của Một bà lão trong rừng, có vẻ khả nghi lắm, chắc là một mụ phù Thủy. Chàng không hề nghe nói gì về công chúa hoặc trông thấy Nàng. Vua và hoàng hậu quyết định đi tìm bà lão vì nghĩ là ngọc ở Đâu ắt là có thể tìm ra tung tích con mình ở đó.

     Bà lão ngồi ở ngoài trời, chỗ bãi hoang, kéo sợi bên chiếc Giường. Trời đã tối. Ở dưới bếp, một thanh củi hắt ra ánh sáng leo Lắt. Bỗng ở ngoài có tiếng ồn ồn, ngỗng từ đồng cỏ về nhà, kêu Quang quác ầm lên. Một lát sau, một người đàn bà bước theo vào. Bà lão chả buồn chào đáp lại người ấy, chỉ khẽ gật đầu. Người đàn Bà lại ngồi bên mẹ cầm guồng quay sợi nhanh nhẹn như một thiếu Nữ. hai người ngồi vậy hai giờ, không nói với nhau nửa lời. Mãi sau Có tiếng động khẽ ở cửa sổ. Rồi có đôi mắt sáng như lửa chằm chằm Nhòm vào. Đó là một con cú, nó hú lên ba lần. Bà già ngẩng lên Nhìn một tí rồi bảo:

     - Con ạ, đã đến lúc con đi ra làm việc rồi con ạ. Người đàn bà đứng dậy đi ra. Bác đi đâu vậy? Bác băng qua Đồng cỏ, đi mãi đến thung lũng. Sau đó bác đến một dòng suối, trên Bờ có ba cây sồi cổ thụ. Trong khi ấy mặt trăng tròn và to đã lên Quá đỉnh núi. Trăng sáng đến nỗi có thể tìm được cái kim nhỏ. Bác Bỏ miếng da úp trên mặt ra rồi xuống suối rửa. Xong xuôi, bác Nhúng miếng da vào nước rồi đặt xuống đồng cỏ để phơi khô và cho Bạc màu dưới ánh trăng. Bác biến đổi khác hẳn. Chưa ai được thấy Một người đẹp đến thế! Mái tóc hoa râm vừa rơi xuống thì mớ tóc Vàng sổ ra như ánh mặt trời, phủ lên khắp người như một chiếc áo Khoác. Đôi mắt cô thiếu nữ sáng ngời như sao trên trời, đôi má ửng Hồng mịn dịu như hoa táo.

     Nhưng cô gái xinh đẹp lại buồn rầu. Cô ngồi khóc thảm thiết, Nước mắt tuôn lã chã trên mớ tóc dài rơi xuống đất. Cô cứ ngồi mãi Cho đến khi trên cành cây gần đó có tiếng loạt xoạt, rào rào. Cô nhảy chồm lên như con hoẵng nghe tiếng súng của người đi Săn, đúng lúc ấy mặt trăng bị mây che phủ. Chỉ trong giây lát, cô Lấy miếng da đắp lên mặt như cũ rồi biến đi như ngọn đèn bị gió Thổi tắt.

     Cô run rẩy như lá liễu, bỏ chạy về nhà. Bà già đứng trước cửa. Cô định kể lại sự việc xảy ra. Nhưng bà lão cười thân mật và bảo: - Mẹ biết hết cả rồi.

     Bà dẫn cô vào buồng và nhóm thêm một thanh củi nữa. Nhưng Bà không ngồi bên guồng nữa mà đi lấy một cái chổi quét tước sạch Sẽ.

     Bà bảo cô:

     - Tất cả mọi thứ đều phải tinh tươm, sạch sẽ.

     Cô bảo:

     - Này mẹ, nhưng sao khuya rồi mẹ mới bắt đầu làm việc? Mẹ Định làm gì?

     Bà già hỏi:

     - Thế con không biết mấy giờ rồi à?

     Cô đáp:

     - Chưa đến nửa đêm, nhưng đã quá mười một giờ rồi. Bà nói tiếp:

     - Thế con không biết cách đây ba năm, đúng ngày này năm ấy, Con đã đến đây với ta à? Vận hạn của con đã hết, chúng ta không Thể cùng ở với nhau nữa.

     Cô gái sợ hãi hỏi:

     - Trời ơi, mẹ yêu dấu, mẹ định bỏ con à! Con biết đi đâu bây Giờ? Con không có bạn bè, không có quê hương, con biết nương tựa Vào ai? Mẹ muốn gì, con đều đã làm cả, có bao giờ con làm phật ý Mẹ đâu. Xin mẹ đừng đuổi con đi!

     Bà già không muốn nói cho cô gái việc sắp xảy ra.

     Bà bảo cô:

     - Mẹ không thể ở đây lâu hơn nữa. Nhưng khi mẹ dọn đi thì Nhà cửa phải cho sạch sẽ. Vì vậy, con đừng làm cản trở công việc Của mẹ. Về phần con, chớ có lo ngại. Con sẽ tìm ra một mái nhà có Thể ở được. Con cũng sẽ hài lòng về công xá mẹ trả cho con. Cô gái lại hỏi:

     - Nhưng mẹ hãy nói cho con biết việc sắp xẩy ra. - Mẹ bảo con lần nữa là đừng có quấy rầy mẹ trong khi mẹ bận Làm. Con đừng nói gì nữa, con cứ về phòng riêng bỏ miếng da che Mặt xuống, mặc chiếc áo lụa vào, chiếc áo mà con mặc khi con đến Với mẹ, rồi cứ đợi ở trong phòng cho đến khi mẹ gọi ra.

     Nhưng để tôi kể cho các bạn nghe về việc vua và hoàng hậu Cùng bá tước ra đi tìm bà già ở bãi hoang. Ban đêm, vào rừng, bá Tước bị lạc vua và hoàng hậu nên phải đi một mình. Chàng đi mãi Đến xẩm tối. Chàng trèo lên một cây định ngủ qua đêm vì lo lạc Đường. Ánh trăng vừa tỏ xuống, sáng khắp vùng thì chàng thấy có Một bóng người thẫn thờ từ trên núi xuống. Người đàn bà không Cầm roi trong tay nhưng chàng nhận ra ngay là bác chăn ngỗng mà Chàng đã gặp ở nhà bà già trước kia. Chàng kêu lên:

     - Chà, mụ ấy đây rồi. Ta đã vớ được mụ phù thủy này thì mụ Kia cũng không thoát được đâu.

     Chàng rất ngạc nhiên khi thấy mụ đến bên suối, bỏ tấm da che Mặt ra rửa thì mớ tóc vàng xõa xuống cả người. Trên đời, chàng Chưa từng thấy có ai đẹp thế. Chàng nín thở, cố vươn cổ qua cành lá Nhìn không chớp mặt. Không hiểu tại chàng vươn quá xa hay tại Duyên cớ gì khác, bỗng cành cây kêu đánh rắc một cái và ngay lúc Đó cô gái lại đeo bộ da mặt vào, nhảy như con hoẵng khỏi nơi đó. Cùng lúc ấy, mây che khuất mặt trăng, chàng không nhìn thấy Nàng nữa.

     Nàng vừa biến mất thì bá tước trèo xuống, rảo bước theo sau. Chàng đi được một lát thì thấy bóng tối lờ mờ, hai bóng người đi Trên đồng cỏ. Đó là vua và hoàng hậu. Hai người nhìn thấy xa xa có ánh đèn trong chiếc nhà nhỏ của bà già bèn đi lại đó. Bá tước kể lại Những điều kì lạ chàng được nhìn thấy bên suối và hai người đinh Ninh đó là cô con gái bị lạc. Họ vui mừng đi tiếp và chẳng mấy chốc Tới căn nhà con. Chung quanh nhà, ngỗng nằm ngủ, đầu ấp vào Cánh, không con nào động đậy. Họ nhìn qua cửa sổ thấy bà lão ngồi Yên lặng, kéo sợi, đầu gật gù, không nhìn ngang ngửa.

     Trong buồng sạch sẽ y như là nơi ở của những người ngoài trần Tục, chân không dính một tí bụi nào. Nhưng họ không nhìn thấy con Gái bà đâu cả. Họ đứng nhìn mọi thứ một lúc rồi đánh bạo, khẽ gõ Cửa sổ.

     Hình như bà lão vẫn chờ họ nên bà đứng dậy một cách niềm Nở: - Xin các vị cứ việc vào, già biết các vị rồi.

     Khi họ vào buồng rồi bà lão nói:

     - Nếu cách đây ba năm, các người đừng đuổi đưa con ngoan Ngoãn dễ thương một cách bất công thì có phải đỡ một quãng đường Dài không? Kể ra thì cũng chẳng thiệt hại gì cho cô ta, cô phải chăn Ngỗng ba năm thôi. Cô chẳng tiêm nhiễm điều gì xấu cả, cô vẫn giữ Được tấm lòng trong sạch. Các người đã bị trừng phạt khá đủ rồi vì Đã sống trong lo sợ.

     Nói rồi, bà lão đi đến phòng gọi:

     - Con ơi ra đi con.

     Cửa mở, công chúa đi ra, mặc áo lụa, tóc vàng mắt sáng ngời. Nàng đi tới cha mẹ, ôm choàng lấy cổ hôn. Lẽ dĩ nhiên là tất cả mọi Người đều khóc vì vui mừng. Vị bá tước trẻ tuổi đứng bên họ. Khi Nàng nhìn thấy chàng thì mặt nàng đỏ ửng như đỗá hoa hồng, chính Nàng cũng không biết tại sao.

     Vua bảo:

     - Con yêu dấu ơi, biết lấy gì cho con bây giờ, giang sơn của cha, Cha đã cho đi hết rồi.

     Bà lão nói: - Nàng không cần gì đâu. Già đã tặng cho nàng những giọt lệ Đã vì các người mà khóc. Đó toàn là ngọc cả, đẹp hơn hạt châu dưới Bể, quí giá hơn tất cả giang sơn nhà vua. Để trả công hầu hạ của Nàng, già để cho nàng căn nhà con của già.

     Bà lão nói xong thì biến mất. Ở trên tường có tiếng nổ khe khẽ, Họ nhìn quanh thì thấy căn nhà nhỏ đã biến thành một tòa lâu đài Rực rỡ, tiệc hoàng gia dọn linh đình, kẻ hầu người hạ chạy đi chạy Lại tới tấp.

     Câu chuyện còn tiếp diễn, bà tôi kể chuyện này trí nhớ kém Quá nên quên mất đỗån sau. Thôi thì tôi cứ cho là nàng công chúa Đẹp đẽ lấy bá tước, hai vợ chồng ở lại lâu đài, hưởng phúc trời cho. Tôi không rõ nhưng tôi không ngờ những con ngỗng trắng như Tuyết chăn ở bên nhà cũng đều là những cô thiếu nữ (xin đừng ai Mếch lòng) mà bà cụ đã đem về nuôi, và có lẽ các cô ấy cũng đã hiện Nguyên hình để làm thị nữ cho bà hoàng hậu trẻ tuổi.

     Có một điều chắc chắn là bà lão không phải là một mụ phù Thủy như người ta tưởng mà là một bà lão tốt bụng. Rất có thể đó là Bà mụ khi sinh ra công chúa đã chúc cho nàng khóc ra châu lệ chứ Không phải nước mắt thường. Ngày nay truyện ấy không xẩy ra Nữa, nếu không thì người nghèo khó chẳng mấy chốc trở nên giàu Có.

     Các em có bao giờ ăn cơm mà không có muối chưa, chắc là chưa Đúng không nào? Vậy các em hãy thử bảo bố mẹ làm các món ăn mà Không cho muối xem sao! Ta coi muối là rất bình thường trong các Bữa ăn mà không biết nó quý giá đến chừng nào. Từ đó các em có Thể đỗán được tại sao nàng công chúa út lại quý cha như muối.

Một Đồng Tiền Vàng

Ngày xưa, có hai vợ chồng giàu có nọ sinh được một người con trai. Vì quá đổi yêu thương con nên bà mẹ hầu như cả ngày chẳng để cậu ta đụng đến việc gì, dần dần cậu con trai trở nên lười ơi là lười, đến nỗi một đồng xu cũng không kiếm nỗi.

    Người cha dồn toàn bộ tinh lực để nuôi đứa con trưởng thành, đến lúc tuổi đã cao, sức đã yếu mà nhìn lại thấy đứa con trai vẫn chứng nào tật nấy, chẳng chịu sửa đổi, lo lắng làm lụng gì hết thì lấy làm buồn bã vô cùng.

    Một hôm, ông nằm trên giường gọi bà vợ lại và nói:

    - Bà à, toàn bộ tài sản chúng ta đã để dành được từ trước tới nay, sau này khi tôi chết đi, tùy bà muốn đem cho ai thì cho chớ tôi đã quyết định không để lại cho thằng con này một xu nào. Đồ lười chảy thây chẳng chịu làm gì cả như nó thì sẽ không được gì hết.

    Người mẹ nghe xong liền ra sức bênh con trai:

    - Ông nói nghe lạ, chẳng lẽ con mình tệ đến nỗi chẳng bao giờ kiếm được một đồng hay sao?

    Người chồng nói dứt khoát:

    - Được, nếu bà đã nói thế thì bà hãy bảo nó thử đi kiếm tiền đi ! Dù chỉ kiếm được một đồng xu thôi cùng được, tôi sẽ giao toàn bộ tài sản này lại cho nó.

    - Được! Vậy là ông hứa rồi đó nhé - người vợ nói.

    - Ừ, tôi sẽ cố chờ xem xem nó làm được việc gì!

    Ngay sáng hôm sau, người mẹ đi đến bên đứa con, đưa cho cậu ta một đồng tiền vàng và căn dặn:

    - Con trai yêu quý của mẹ ! Con hãy đi loăng quăng đâu đó, thích đến đâu thì đến, đợi đến chiều tối hãy quay về và đưa ngay đồng tiền này cho cha con, nói rằng đây là tiền con đã từ mình kiếm được nhé.

    Cậu con trai cứ vậy mà làm. Đến chiều tối cậu quay về đưa đồng tiền vàng cho cha. Người cha cầm lấy tiền rồi tiện tay ném ngay ra ngoài cửa số:

    - Đây không phải tiền mày đã kiếm được. - Người cha nói.

    Cậu con trai thấy cha làm thế vẫn không nói một lời. Thản nhiên đi tới chiếc ghế gần đó và ngồi xuống.

    Qua ngày hôm sau, người mẹ lại đưa cho đứa con trai một đồng tiền vàng khác và dặn:

    - Con hãy leo lên núi chơi, đến chiều tối thì chạy lấy vài vòng, sao cho khắp người ướt đẫm mồ hôi, sau đó chạy về nhà và nói với cha con rằng đây là đồng tiền tự tay con đã kiếm được chẳng dễ dàng gì.

    Cậu con trai làm đúng như lời mẹ dặn, đến chiều tối thì toàn thân mệ lử, mồ hôi mồ kê toát ra như tắm, chạy về nhà và nói với cha rằng:

    - Cha ơi, cha hãy nhìn xem, người con ướt sũng cả! Đồng tiền này con kiếm được thật chẳng dễ dàng gì!

    Người cha nhận lấy đồng tiền từ tay đứa con trai lật qua lật lại xem xét rồi lại ném ra ngoài cửa số, người cha ném hơi mạnh tay nên rơi tuốt xuống ao gần đó. Và quát lên:

    - Chớ có lừa ta, đồ trẻ ranh. - Người cha nói tiếp, - Đây không phải là tiền do mày kiếm được.

    Đứa con thấy thế bật cười rồi bước đi nơi khác.

    Bà mẹ bây giờ mới hiểu rằng sự việc không thế tiếp tực lừa dối được nữa. Nếu đứa con muốn có được toàn bộ gia tài của người cha thì chỉ còn cách đi kiếm việc làm thật sự. Và ngay sáng hôm sau, bà mẹ đến phòng con trai và nói:

    - Không được, con trai ạ, chúng ta không thể lừa cha được nữa, con đành phải tự mình đi kiếm tiền thôi, tìm một việc gì đó mà làm, cho dù một ngày chỉ kiếm được vài xu cũng tốt, con hãy đưa số tiền đó cho cha, cha nhất định sẽ tin con.

    Người con trai nghe theo lời mẹ, ra đi kiếm việc làm, và cậu đã thực sự làm việc trọn một tuần lễ. Nay làm việc này, mai làm việc khác, cuối cùng cậu cũng đã gom đủ một đồng tiền vàng mang về cho cha. Người cho nhận lấy đồng tiền vàng và tiện tay ném ngay vào bếp lò đang cháy gần đấy.

    - Không, đây vẫn không phải tiền do con kiếm được. Mày đừng tưởng là ta không biết!

    Cậu con trai rất bất ngờ khi thấy cha mình ném những đồng tiền của mình vào lửa và đã không chút do dự chạy ngay đến bếp lò, vừa dùng tay nhặt lấy đồng tiền vàng từ trong đám lửa cháy rực, vừa lớn tiếng gào:

    - Cha, cha điên rồi hay sao! Con đã phải làm trâu làm ngựa cho người ta, đầu tắt mặt tối suốt cả tuần mới kiếm được đủ một đồng tiền vàng này. Cha không tin thì thôi, cớ sao cha lại ném nó vào trong lò lửa chứ!

    Lúc này, người cha nước mắt giàn giụa, cầm tay đứa con trai mà nói:

    - Con trai của ta! Cha thật hạnh phúc khi thấy con đã biết quý trọng những đồng tiền. Bây giờ thì cha đã thật sự tin rằng những đồng tiền này là do tự tay con kiếm được. Và cha cũng thật yên tâm khi giao toàn bộ của cải, sản nghiệp này lại cho con, con trai ạ!

Người Đẹp Trong Tranh

 Vào đời Hồng Đức, có một người học trò nghèo, cha mẹ chết sớm, trọ học ở phường Bích Câu, phía Nam thành Thăng Long. Chàng rất hay chữ, tuy chưa đỗ đạt gì người ta cũng gọi chàng là Tú Uyên.

     Một ngày, vào mùa xuân, chúa Ngọc Hồ mở hội Vô gia, thiện nam tín nữ ở kinh đô và bốn phương tụ hội rất đông. Tú Uyên không bỏ lỡ cơ hội đi tìm người đẹp. Chàng vui chân đi quanh quẩn mãi đến tận chiều, bèn ngồi nghỉ gốc đa gần chùa. Chợt trông thấy một cái lá bay đến trước mặt, chàng nhặt lên xem, thì ra sau lưng lá có đề một bài thơ đầy những lời trêu ghẹo. Chàng tưởng có người nào đó ở trên lầu cao ném xuống rồi nấp vào một chỗ. Nhưng ngước nhìn mọi nơi, chẳng thấy gì cả. Đương lúc ngơ ngác, Tú Uyên bỗng thấy một đám người từ trong chùa đi ra, trong đó có một cô gái rất đẹp. Thấy nàng liếc mắt đưa tình, chàng lại bắt chuyện. Hai người vừa đi vừa chuyện trò vui vẻ. Lòng Tú Uyên như nở hoa. Nhưng khi sắp đến đình Quảng Văn thì người con gái bỗng nhiên biến mất. Tú Uyên đứng ngẩn ra rất lâu, mãi đến tối mới trở về nhà.

     Từ đấy, Tú Uyên đêm mơ ngày tưởng không thiết gì ăn uống, học hành. Nghe tin đền Bạch Mã rất thiêng, chàng đến xin quẻ rồi ngủ đêm tại đền cầu mộng. Đêm ấy, thần hiện ra trong giấc mộng của chàng bảo rằng: “Này anh chàng mê sắc kia, sáng mai hãy đến cầu Đông, ta sẽ cho biết một tin rất tốt”. Hôm sau, chàng y hẹn đến cầu Đông, đợi mãi mới gặp một ông già bán tranh, đưa tới mời chàng mua một bức tố nữ. Chàng mở ra xem thì hình dạng người tố nữ trong tranh chẳng khác gì người mà mình mong đợi. Chàng mua ngay, đem về treo bên cạnh chỗ ngồi. Đến bữa ăn chàng dọn ra hai đôi đũa, hai cái bát mời người trong tranh ăn cùng như mời người thật. Chàng hơi ngạc nhiên cảm thấy tố nữ trong tranh hai má đỏ bừng như có ý thẹn.

     Một hôm, Tú Uyên đi học về thì thấy giữa giường đã có sẵn sàng một mâm cơm có thức ăn ngon, khác với mâm cơm rau thường ngày. Tuy chưa hiểu có ai cho nhưng đói bụng, chàng cũng ngồi vào ăn. Tiếp mấy hôm sau, mâm cơm đều dọn như thế. Chàng nửa ngờ nửa mừng không hiểu ra làm sao.

     Hôm khác chàng giả tảng đi học, nửa đường lộn về nấp ngoài cửa sổ dòm vào. Chàng thấy tố nữ từ trong tranh bước ra dọn dẹp nhà cửa và xuống bếp làm cơm. Chàng đột ngột xô cửa bước vào nắm lấy tay nàng mà rằng:

     - Để tôi bấy lâu trông đợi mòn mỏi con mắt! Thôi, bây giờ nhất định không cho nàng ra khỏi đây đâu!

     Nói xong, Tú Uyên giật bức tranh trên tường xé đi. Người con gái đỏ hai gò má, se sẽ đáp lại:

     - Sao chàng ác thế, thiếp đã lạc vào nhà chàng rồi, đâu dám không vâng lời.

     Rồi nàng cho biết tên mình là Giáng Kiều, vốn có duyên nợ với chàng nên được xuống trần cùng kết làm đôi lứa. Tú Uyên tưởng không có gì sung sướng hơn thế nữa. Chàng giơ tay lên trời thề bồi. Hai người chuyện trò hồi lâu. Tú Uyên gịuc nàng thành thân. Giáng Kiều bảo:

     - Để thiếp bày tiệc mời các bạn tiên đến chứng kiến cho lễ cưới của đôi ta.

     Nói xong, nàng rút trâm trên đầu hoá phép thành một màn gấm rèm ngọc, kẻ hầu người hạ rầm rập, đồ ăn thức uống lộng lẫy. Chỉ một lát cỗ bàn bày ra, đàn sáo vang lừng, các bạn tiên lần lượt đến ăn uống trò chuyện, ca hát nhảy múa rất vui vẻ.

     Nhưng từ ngày được vợ đẹp Tú Uyên không buồn giở đến sách nữa. Suốt ngày chàng ở bên vợ và đặc biệt một điều là chàng thích uống rượu và ăn ngon. Giáng Kiều khuyên can mãi nhưng Tú Uyên chứng nào vẫn tật ấy. Ba năm trôi qua, chàng không lai vãng đến học hành. Dần dà chàng trở nên nghiện rượu, đã uống là uống đến say, khi say không biết trời đất là gì, thậm chí nhiều lần chửi mắng vợ. Giáng Kiều giận lắm, một hôm chồng từ tửu quán khật khưỡng bước về, nàng vực vào giường rồi nhân chồng ngủ thiếp đi, nàng bay về trời.

     Tỉnh rượu, Tú Uyên không thấy vợ đâu, rất lấy làm hối hận, suốt một tháng, chàng bỏ ăn, bỏ ngủ, kêu khóc thảm thiết. Bạn bè hết lời khuyên dỗ nhưng chàng không sao giảm được ưu sầu. Giận thân, chàng chỉ muốn tự vẫn cho xong đời. Nhưng khăn vừa vắt lên xà thì bỗng có trận gió thoảng đưa mùi hương đến. Giáng Kiều đã hiện ra trước mặt. Chàng vừa mừng vừa thẹn, thề xin chừa hẳn rượu, hai vợ chồng lại vui vẻ như xưa.

     Chẳng bao lâu Giáng Kiều sinh được một bé trai, đứa bé lớn lên rất thông minh và ngày một giỏi.

     Một đêm nọ bỗng có hai con hạc đến đón ở sân, hai vợ chồng dặn con ở lại rồi cưỡi hạc bay lên trời.

Sự Tích Hoa Tuy Líp

  Bạn đã có dịp được nghe hoa trò chuyện chưa? Còn tôi, thú thật là vào một sớm đầu xuân tôi đã tình cờ được nghe hoa Tuyết trò chuyện với hoa Tuy Líp của người Udơbếch rồi. Đúng hơn là hoa Tuy Líp nói, còn hoa Tuyết thì chỉ lắng tai nghe, thi thoảng mới ngắt lời bạn bằng một vài câu hỏi.

    Nhưng tốt nhất là tôi sẽ kể lần lượt cho các bạn nghe mọi chuyện. Tôi đã được một người bạn gái tặng cho mấy hạt hoa Tuy Líp tìm được trên các sườn đá Derapsan. Về mùa Thu, tôi đem những cái hạt ấy trồng trong mảnh vườn bên cạnh bức tường nhà, gần một khóm hoa Tuyết.

    Mùa Xuân, tuyết thường tan vào tháng ba, tiết trời ấm áp một cách đặc biệt. Tất cả các bông hoa Tuyết cũng như hoa Tuy Líp đều lần lượt nhú lên qua một lớp tuyết mỏng và hớn hở đón chào mùa xuân.

    Vào một đêm tháng tư, tôi ngồi lại khá muộn trước một công trình mà tôi chỉ muốn làm cho xong ngay. Khi tôi đặt dấu chấm cuối cùng rồi ra mở cửa sổ, ngồi xuống chiếc ghế bành nghỉ xả hơi, hít thở luồng không khí trong lành thì ở phía chân trời đã rực lên ánh bình minh. Tôi chợt nghe có tiếng reo thanh thanh, thật tươi rói và dễ chịu, hệt như những chiếc ly pha lê chạm nhẹ vào nhau ở đâu đó.

    - Xin chào - Bông hoa Tuyết khẽ lên tiếng.

    Sau đấy là giọng đáp lại hơi khô một chút:

    - Chào!

    - Hẳn cậu là người ở xứ khác đến khu vườn nhà chúng tớ? - Vẫn giọng nói thanh thản hỏi.

    - Lần đầu tiên tôi được nở hoa ở đây.

    - Vậy, chúng ta quen nhau rồi nhé. Tôi là cây hoa Tuyết.

    - Còn tôi là hoa Tuy Líp.

    - Cậu từ đâu tới đây?

    - Từ một miền xa lắm, có tên là Udơbêkixtan.

    - Ồ, cậu ở xa thật đấy - Hoa Tuyết thỏ thẻ, làm như nó đã quá biết Udơbêkixtan ở đâu và xa xôi như thế nào - Theo phong tục của vườn nhà tớ, cậu cần phải kể cho tớ nghe về chuyện của đời cậu.

    - Chuyện đời mình thì ngán ngẩm lắm - Hoa Tuy Líp thở dài. Chúng tôi đã truyền đời truyền kiếp kể cho nhau nghe để không một ai trong chúng tôi quên rằng, cô bé Tuy Líp đã phải gánh chịu những bông hoa của chúng tôi phải cháy lên ngọn lửa vĩnh cửu để tưởng nhớ ai... Một ngàn năm trước đây tại một thung lũng trong núi

    Derapsan có một người sống bằng nghề chăn cừu tên là Xabiđan. Ông sống rất cực khổ vì đàn cừu ông chăn dắt không phải là sở hữu của ông mà là của điền chủ Hamít. Xabiđan chỉ có đôi cánh tay lực lưỡng, một cây sáo tự khoét lấy và bảy cô con gái mắt đen huyền. Cô út có tên gọi hơi khác thường: Tuy Líp. Xabiđan rất yêu quí các con gái của mình, xong cũng đã nhiều lần ông than thở:

    - Ôi, giá ta có đứa con trai....

    - Vì sao ông ta lại thích con trai hơn? - Cây hoa Tuyết hỏi.

    - Vì đối với một người cha, con trai giống như đôi cánh. Còn con gái... con gái rồi sẽ đi lấy chồng, sẽ bỏ cha và để lại cho trái tim ông nỗi đơn độc và buồn rầu.

    Một hôm, cô út và là cô gái đẹp nhất của người chăn cừu - nàng Tuy Líp mười tuổi, mang bữa ăn trưa đến cho cha. Để cho người cha đang mệt mỏi được khuây khỏa, nàng bèn cất tiếng hát những bài hát nàng tự nghĩ ra và nhảy những điệu múa trông thật uyển chuyển và đẹp mắt. Đôi gò má nàng cứ hồng hào thêm lên, và cặp mắt đen láy thì sáng rực như hai vì sao, không một công chúa nào có thể sánh được.

    Đúng giờ khắc ấy, số phận cay nghiệt đã phái điền chủ Hamít cưỡi một con ngựa hùng dũng đến trước đàn cừu. Vừa trông thấy nàng Tuy Líp nhảy múa, gã bèn dừng ngựa lại, nấp sau mấy bụi cây nhỏ theo dõi từng động tác nhảy tuyệt diệu của cô gái kiều diễm.

    Nhảy xong Tuy Líp nói với cha:

    - Cha ơi, con muốn được múa hát cả đời để cho mọi người được vui sướng.

    - Ôi, con yêu quí của ta - người cha lắc đầu - Con là một cô gái nghèo hèn, kiếm đâu ra những xiêm áo lụa là và những bộ y phục múa trong suốt?

    Hamít rình chờ cho đến khi cô gái mang bát đĩa về nhà thì xông ra túm lấy cô đưa cô về dinh cơ nhà mình. Gã đẩy Tuy Líp vào một căn phòng kín, ở đó đã có hàng trăm cô gái đẹp đang dệt thảm. Suốt từ lúc mặt trời mọc cho đến tận hoàng hôn, Tuy Líp dầm mình trong đám bụi nhuế nhóa với công việc dệt thảm tẻ ngắt và mệt mỏi. Một mùa Hè tối tăm và tuyệt vọng đã qua. Rồi mùa Thu và mùa Đông cũng chấm hết. Nhưng khi mùa Xuân vừa đến thì nỗi buồn nhớ núi non, nhớ những con suối chảy rì rào và tiếng chim ca bỗng dày vò Tuy Líp khôn nguôi, khiến nàng phải đi đến quyết định: Hoặc là chết hoặc là trở về với tự do.

    Một bữa nọ, cô gái lại bên cửa sổ phóng tầm mắt qua lỗ khe nhỏ nhìn xuống phía dưới. Nàng phát hiện ra ở ngay dưới chân cửa sổ có vô số những mảnh chai, kính vỡ - đó chính là cái bẫy, nếu tù nhân nữ nào liều mạng phá cửa sổ bỏ trốn thì sẽ bị cứa đứt chân.

    Đúng lúc đó có một con chim bay đến đậu ngay bên bệ cửa sổ - đấy chính là con bồ câu trắng của người chị cả tên là Phairidôđa.

    Làm thế nào để báo tin về nhà đây? Tuy Líp không biết viết, thậm chí ở nhà cũng chẳng ai biết đọc. Cô vội vã cắt ngay một mớ tóc đen của mình, dứt một vài sợi quí vẫn thường dùng để dệt thảm rồi chuyển qua khe hở cho chú bồ cầu tin cẩn. Chim tạm biệt nàng, bay đi.

    Khi nhận được tin em út, Phairidôđa nghĩ nát óc tìm cách cứu em gái. Cuối cùng nàng đến gặp bà lão Turơxun. Bà lão sống đơn độc trong túp lều rách nát, ngày ngày kiếm cây cỏ làm thuốc chữa bệnh. Tương truyền Turơxun có thuốc phục sinh.

    Turơxun nghe hết chuyện Phairidôđa kể, bà liếc nhìn mặt trăng rồi lầm bầm khấn:

    - Tự do không phải thứ quà tặng mà phải đánh đổi nó bằng máu.

    - Bằng máu của Tuy Líp? - Phairidôđa sợ hãi kêu lên.

    - Phải, bằng máu của Tuy Líp, bằng máu của tất cả bảy chị em nhà ngươi. Mà không chỉ có thế, còn bằng chính cả máu của tất cả những người bạn quí, của những đứa bé nghèo nàn của các ngươi nữa. Hãy nghe ta nói đây.

    Sau hai đêm nữa, đến đêm thứ ba, khi mặt trăng bắt đầu mọc lúc nửa đêm, Hamít sẽ tổ chức tại dinh cơ nhà lão một bữa đại tiệc. Như thường lệ, bọn lính gác bao giờ cũng là những kẻ bị chuốc rượu say trước nhất, mặc dù sáng hôm sau họ phải trả giá bằng một cái đầu. Ngay đêm ấy, trước lúc trăng lên, chị em các ngươi và các bạn gái của Tuy Líp phải lọt được vào dinh cơ, còn chim bồ câu sẽ chỉ cho các ngươi cửa sổ phòng giam các cô gái. Hãy đi chân đất đến gần cửa sổ mà mở ra. Ta nói là phải đi chân đất. Bàn chân các ngươi sẽ bị thương vì mảnh kính. Bây giờ ta sẽ nói tại sao. Hamít nhanh chóng phát hiện ra bầy nô lệ của gã chạy trốn và gã sẽ đuổi theo. Căn cứ vào một vài vết máu, gã có thể biết một cách rõ ràng bầy nô lệ trốn đi đâu, nhưng nếu dấu vết đó lại quá nhiều thì gã sẽ lúng túng, trong khi đó có người lại đang leo lên một sườn dốc đứng mà ngựa của gã không leo được.

    Phairidôđa làm tất cả những việc mà Turơxun chỉ vẽ. Những tên lính canh bị chuốc rượu say mềm không còn nhận ra các cô gái đang lén lút bỏ trốn. Sau khi bị mảnh kính cứa nát bàn chân, các cô mở cửa sổ ra và khẽ gọi Tuy Líp. Tuy Líp nhảy ào qua cửa sổ, mặc dù hai bàn chân bị thương đau nhói nàng vẫn không dám kêu ca. Các bạn gái của nàng cũng chịu những đau đớn như thế.

    Các cô gái chạy toán loạn theo sườn núi. Dù hai bàn chân bị thương, phải chạy một cách khó khăn, các cô vẫn không dám rên rỉ, vì nếu để lộ, các cô sẽ mất tự do, một món quà mà các cô phải đổi bằng một giá quá đắt. Các cô cứ men theo sườn núi đá còn phủ tuyết mà chạy cho đến khi nghe rõ những tiếng vó ngựa dồn dập.

    - Hamít đang đuổi theo chúng ta đấy! - Tuy Líp hét lên, giục mọi người - hãy chạy nhanh lên!

    Các cô gái chạy trốn dường như có gió giúp sức cho họ. Tuy vậy Tuy Líp đã bắt đầu đuối sức, nàng bị rớt lại sau. Ngựa của Hamít đã ập đến sau lưng nàng. Chẳng lẽ nàng lại trở thành tù nhân của gã điền chủ không đội trời chung này, và lại không được trông thấy mặt trời cùng núi rừng nữa hay sao? "Không, thà chết trong tự do còn hơn là sống đời nô lệ!" Và, thế là Tuy Líp gieo mình xuống dưới vó ngựa. Cả bốn vó ngựa xéo lên người nàng, nhưng chính con vật đã bị khuất và bị gẫy một chân. Hamít bị thương lết về nhà lúc trời còn chưa sáng, hối hả giục lũ gia nhân đuổi bắt những kẻ trốn chạy.

    Tuy Líp người đẫm máu cố gượng đứng lên, nhưng mới đi được vài bước, nàng đã khựng lại và ngã sấp xuống tuyết.

    Sáng hôm sau, Hamít cùng lũ lâu la mò lên đỉnh núi cao tuyết phủ. Trước mắt chúng hiện ra một cảnh tượng kì lạ: trên bãi tuyết trắng lạnh có cơ mang những bông hoa đỏ đã bừng nở.

    - Chuyện đời tôi như vậy đấy, do đó tại sao tôi lại có tên là Tuy Líp. Tuy Líp nói xong liền im lặng. Cây hoa Tuyết cũng lặng thinh.

    Tôi cảm thấy sống lưng ớn lạnh. Tôi đứng dậy lấy khăn chùm kín cổ, bước ra vườn.

    Lạ chưa kìa, những bông tuyết mảnh mai kia đã kịp rơi xuống và trải khắp khu vườn một lớp trắng mỏng tự khi nào vậy? Còn một chậu hoa, gần bức tường nhà có một bông Tuy Líp đỏ rực đã nở hết cỡ. Tôi cúi xuống và phát hiện ra một giọt nước mắt khá to, trong suốt, dính chặt vào chiếc cánh dưới của bông hoa Tuyết.

Sự Tích Hoa Mộc Lan

 Ở Nhật Bản có một người con gái tên là Câycô, mồ côi cả cha lẫn mẹ. Nhà nghèo, ngay từ khi còn nhỏ nàng đã phải tự đi làm để kiếm sống.

    Một cô bé như nàng phỏng có thể làm được việc gì? Nàng phải làm hoa giấy đem ra phố bán. Nhưng hoa bán đã nhiều, mà tiền thu về chẳng đáng là bao. Khi đã ra dáng một thiếu nữ. Câycô cũng không có đủ tiền sắm nổi một bộ Kimônô mà các cô con nhà quý phái vẫn mặc.

    Một đêm nọ, khi Câycô đang mải làm việc trong phòng của mình, bỗng có một con vẹt bay đến đậu trên bậc cửa sổ bỏ ngỏ. Đôi cánh màu xanh của nó đã nhợt nhạt, có lẽ nó đã già song vẫn còn đủ minh mẫn và biết nói tiếng người.

    - Đừng đuổi ta, ta sẽ tiết lộ cho nàng một điều bí mật về cách làm giàu.

    - Vẹt yêu quí ơi, cớ sao ta lại đuổi mi - Câycô buồn bã mỉm cười - ở đời ta chẳng còn biết thổ lộ tâm tình với ai, thế mà mi lại nói được tiếng người. Cứ ở lại đây, cùng chia nghèo, sẻ khổ với ta, còn sự giàu sang, phú quý, tốt nhất là chẳng nên màng tới, vì ta rất xa lạ với chuyện ấy.

    - Đa tạ Câycô tốt bụng - Vẹt gật gù - Trước khi đi tìm chủ mới, ta đã chăm chú theo dõi các cô gái bán hoa, và ta đã thấy nàng tặng bông hoa đẹp nhất của mình cho một cô gái nghèo như thế nào rồi. Cô gái nghèo ấy không có tiền nhưng lại rất muốn làm cho người bà ốm yếu của mình được thanh thản nỗi lòng.

    Nhưng vì sao ngươi lại phải đi tìm chủ mới? - Câycô hỏi - Phải chăng chủ cũ không tốt với mi?

    - Bà ta đã qua đời - Vẹt đau đớn báo tin, rồi im lặng giây lát - Bà ta chết vì tham lam.

    - Bà ấy nghèo lắm à? - Câycô hỏi tiếp.

    - Không, rất giàu là đằng khác. Song với bà, như thế còn quá ít. Bà đã bán đến giọt máu cuối cùng để lấy vàng - Vẹt nguẩy mỏ vẻ trách móc.

    - Đổi máu lấy vàng là thế nào, ta không hiểu? - Câycô ngạc nhiên.

    - Chuyện là thế này. Bà chủ của ta cũng làm nghề bán hoa giấy như nàng, song có một mụ phù thuỷ đã tiết lộ cho bà một bí mật về cách làm cho hoa giả trở thành hoa tươi, nghĩa là phải lấy máu của mình tiếp sức cho các cành hoa. Chính nàng cũng thừa hiểu hoa tươi quý như thế nào rồi. Chẳng bao lâu bà chủ trở nên giàu có. Lúc đó mụ phù thủy đã báo trước cho bà ta rằng, dù thế nào cũng chớ có hiến đến giọt máu cuối cùng. Nhưng với bà chủ của ta, dầu có tích góp được bao nhiêu của cải cũng vẫn cứ là ít. Và thế là khi có một vị khách ngoại bang hứa cho bà một khoản tiền lớn nếu bà bằng lòng tiếp thêm sinh lực cho hoa. Bà chủ đã không ngần ngại ngay cả đến giọt máu cuối cùng để có thêm nhiều tiền và bà đã phải chuốc lấy cái chết. Số của cải bà để lại trở thành miếng mồi ngon cho đám họ hàng xâu xé nhau.

    - Thật là khủng khiếp! - Câycô thốt lên - Vì sao mi không ngăn cản bà ta?

    - Rơi vào hoàn cảnh ấy, người ta khó mà sáng suốt - Vẹt phàn nàn. - Ta đã thẳng thắn khuyên nhủ bà đừng hành động một cách ngu ngốc, song bà trả lời như thế nào, nàng biết không? "Ta đã chán ngấy những lời đường mật của họ nhà Vẹt rồi!" bà chủ nói thế đấy.

    - Vẹt già tốt bụng ơi, hãy ở lại đây với ta và làm cố vấn cho ta - Câycô gợi ý. Vẹt cảm thấy hởi lòng, hởi dạ.

    Sau khi bán được ít hoa tươi đầu tiên, Câycô liền mua ngay một bộ Kimônô lụa và một đôi dép thật đẹp. Nàng chải lại mái tóc đen mượt và cài lên đó một bông hồng đỏ thắm rồi đi ra phố. Từ bóng cửa sổ xa xa, nàng nhìn thấy một cô gái xinh đẹp. Câycô gật đầu chào. Cô gái cũng gật đầu chào lại. Hai người cùng mỉm cười với nhau. Câycô đoán rằng cô gái đó có lẽ là hình bóng của nàng được phản chiếu vào gương.

    Câycô nhanh chóng hoà vào dòng người trẻ tuổi, và lần đầu tiên trong đời nàng, được đặt chân tới một gian phòng rực rỡ ánh đèn, nơi có từng cặp trai gái đang nhảy múa uyển chuyển như chim bay, bướm lượn. Có một chàng trai đến mời Câycô. Nàng vừa nhảy vừa mỉm cười một cách sung sướng. Chàng trai khiến nàng thích thú nhất ấy có tên là Aratumi.

    - Câycô ơi! - Aratumi nói, - Em đẹp khác nào một đoá hoa Anh Đào nở chúm chím. Hãy nói đi, biệt thự nhà em ở đâu và vì sao một cô gái sang trọng như em lại đến nơi vũ hội của đám sinh viên nghèo hèn này?

    Câycô toan thú nhận nàng chỉ là một cô gái nghèo rớt đang sống trong một căn nhà dột nát, nhưng nàng chợt nhớ tới nhan sắc tuyệt trần của mình, nàng hình dung ngay việc nàng sẽ nhanh chóng trở nên giàu có và sẽ xây được biệt thự ra sao. Chính bản thân Câycô cũng không nhận thấy nàng đã vẽ ra trước mắt chàng trai mơ ước của mình về một toà biệt thự y như thật. Khi nàng im lặng, Artumi thở dài nói:

    - Đáng tiếc là em giàu có như vậy. Một chàng sinh viên nghèo đâu dám đặt chân tới toà biệt thự, vậy mà anh lại cứ muốn được trông thấy em.

    Câycô không dám thú nhận rằng nàng không hề có biệt thự nào cả. Song nàng cũng rất muốn gặp lại Aratumi và ngỏ ý rằng, hôm khác nàng sẽ tới công viên thành phố dạo chơi.

    Khi Câycô và Aratumi gặp nhau ở công viên, họ cầm tay nhau cùng bước đi trên những con đường nhỏ, và kỳ diệu thay, từ lúc nào cặp môi của họ đã xoắn xuýt với nhau trong một cái hôn dài.

    - Câycô, Câycô của anh! - Aratumi thì thào - nhưng mặt chàng lập tức sa sầm lại - Đó phải chăng là một cái hôn vĩnh biệt? Vì cha em sẽ không cho phép em được làm vợ một sinh viên nghèo.

    Câycô bắt đầu khóc lóc và nàng đành thú nhận rằng, biệt thự, đó chỉ là chuyện nàng bịa ra, rằng nàng chỉ là một cô gái bình thường chuyên nghề làm hoa giấy đem ra phố bán.

    Nếu Câycô thấy được nét mặt Artumi thay đổi như thế nào thì chắc hẳn nàng đã không tiết lộ cho chàng biết điều bí mật của đời mình. Nhưng vì xấu hổ, nàng đã nhắm nghiền mắt lại. Còn Aratumi, sau khi nghe chuyện nàng, đã vội nắm lấy bàn tay nàng. Chàng thậm chí còn tỏ ra vui vẻ, bởi sắc đẹp của Câycô sẽ hứa hẹn một sự giàu có vô biên.

    Cô gái Câycô mảnh khảnh bắt đầu những ngày lao động cật lực. Cần phải làm thật nhiều hoa, đặc biệt làm thêm hoa tươi nhiều hơn nữa, rồi đem bán đi để mua một ngôi nhà nhỏ. Họ sẽ sống ở đó sau khi cưới. Nàng sẽ mua thêm thảm, tranh, đồ sứ cùng những bộ quần áo mới cho mình và cho chồng. Một buổi chiều, Vẹt nói như muốn thức tỉnh cô gái:

    - Câycô ơi, nàng đang tiêu phí máu mình một cách quá dễ dãi đấy!

    - Ôi, anh bạn Vẹt già đáng yêu của ta! - Câycô vuốt đầu Vẹt - khi Aratumi học hành xong, chàng sẽ kiếm đủ tiền và ta sẽ được nghỉ ngơi.

    Nhưng khi hai người vừa tổ chức xong lễ cưới thì Aratumi cũng bỏ luôn trường lớp, vì chàng chẳng thiết theo đuổi đèn sách nữa.

    - Anh chỉ thích được xem những ngón tay nhỏ nhắn của em trổ tài khéo léo và duyên dáng khi em làm hoa thôi.

    Nghe những lời nói ngon ngọt của chồng, nàng cảm thấy thật sung sướng. Nhưng chỉ vài năm sau, ngôi nhà bé nhỏ kia đối với Aratumi thật quá xuềnh xoàng. Nhiều lần chàng nói với vợ:

    - Tất thảy chúng bạn của anh đều sống rất sung túc. Trước họ anh cảm thấy rất ngượng.

    Và những ngón tay của Câycô lại làm việc miệt mài hơn. Để có được một ngôi nhà khang trang ngày tháng sao ngắn ngủi thế. Cứ chiều chiều, khi Câycô đi bán hoa ngoài phố thì Aratumi ngồi một mình bên ấm trà. Chàng còn biết làm gì vào lúc này?

    - Câycô ơi, Câycô - Vẹt lắc đầu buồn bã mỗi khi chủ của nó trở về nhà ngồi vào chỗ làm việc với dáng vẻ mệt mỏi.

    Còn chàng Aratumi nghèo khổ lúc nào cũng chỉ thích sống trong một biệt thự. Chàng cho rằng Câycô đã lừa dối chàng. Nàng đã hứa với chàng sẽ có một chỗ ở khang trang, vậy mà cho đến giờ chàng vẫn cứ phải chui rúc trong túp lều tồi tàn. Câycô cảm thấy mình có lỗi, bởi nàng càng ngày càng thêm yêu Aratumi.

    - Chúng ta sẽ có biệt thự, nàng cam kết với chàng như vậy, và càng rút ngắn bớt thời gian nghỉ ngơi của mình.

    - Câycô ơi, hãy cẩn thận, - Vẹt báo trước - Nàng đã quá yếu rồi, máu trong tim nàng còn lại rất ít đấy.

    - Bạn ơi, chúng ta sắp có biệt thự rồi, lúc đó ta sẽ bắt đầu đầu sống như một bà hoàng - Câycô nói.

    Lời đồn đại về cô gái bán hoa bé bỏng có tên là Câycô lan truyền khắp gần xa. Magơnon, một nhà kinh doanh hoa người Pháp đã lặn lội sang tận Nhật Bản để mua hoa của Câycô. Đối với Magơnon, chỉ có hoa không, chưa đủ. Ông hứa sẽ cho Câycô một khoản tiền lớn nếu nàng làm cho những bông hoa cùng với gốc của chúng trở thành hoa thật. Hơn nữa, chúng phải có đủ bốn màu: trắng, vàng, hồng và đỏ.

    Câycô đã bán cho Magơnon đủ các loại hoa và vào phút chót nàng còn làm thêm một bông hoa đỏ chói có cả cành lẫn gốc. Nhưng nàng cũng không còn đủ sức để trích đầu ngón tay của mình và dùng máu tiếp sức cho rễ hoa nữa.

    - Câycô, Câycô ơi! - Vẹt hét lên một cảnh thảm thiết, - chớ có cho giọt máu cuối cùng!

    - Thôi đủ rồi, anh bạn già ạ, loài Vẹt nhà mi chỉ quen khoác lác thôi - Aratumi dúi đầu Vẹt xuống và túm lấy cánh nó ném sang phòng khác.

    - Aratumi yêu quý, em chỉ còn giọt máu cuối cùng thôi. - Câycô lặng lẽ nhìn vào mắt chồng.

    - Ta cần một bông hoa đỏ, đỏ thật sự - Magơnon hồi hộp nói - Ta sẽ không tiếc tiền, miễn là nàng làm cho bông hoa đỏ này thành bông hoa thật.

    - Câycô, em cần phải hiểu rằng điều đó có ý nghĩa đối với chúng ta lắm chứ? Aratumi lắc mạnh vai vợ - Em có hiểu không, đời sẽ thế nào nếu chúng ta sẽ có một tòa biệt thự? Tòa biệt thự mà em đã hứa với anh đó!

    Sau khi lấy hết hơi tàn sức kiệt, Câycô chích đầu ngón tay mình, vắt ra giọt máu cuối cùng tiếp sức cho rễ bông hoa đỏ.

    Aratumi xây xong toà biệt thự và cưới một cô vợ khác. Magơnon mang những bông hoa tươi rói về Pháp và đặt tên cho nó là Magơnôlia, nghĩa là "Hoa Mộc Lan", Còn nàng Câycô thì sao? Nàng đã lùi vào những trang huyền thoại của loài người.

 Sự Tích Hoa Phong Lan

 Ở một miền xa xôi, khí hậu ấm áp và đất đai trù phú có một bộ lạc tên là Aruaki may mắn hơn các bộ lạc khác vì họ sai khiến được loài chim Oócchít chuyên đẻ những quả trứng bằng vàng. Khi một con chim đẻ trứng vào tổ trong hốc cây thì thủ lĩnh Nato dùng tay chuyển quả trứng đó sang một cái cây khác, và sự kiện đó được coi như một ngày hội lớn.

    Các cô gái của thủ lĩnh thay nhau phục trên các cành cây, bảo vệ tổ chim khỏi bị chim ưng phá hoại. Tuy vậy, trong từng góc buôn làng, các trai tráng tay cầm những mũi tên tẩm thuốc độc đứng canh giữ không cho các chiến binh của bộ lạc khác đến đánh chiếm kho báu của bộ lạc mình.

    Từ ngày quả trứng vàng kia, những tay thợ lành nghề đã chế tạo ra các vòng tay, hoa tai và đủ các loại trang sức. Số trứng vàng dự trữ mỗi ngày một nhiều đồ dùng khác. Đàn ông của bộ lạc chuyên nghề săn bắn, còn đám đàn bà, con gái ở nhà dệt những tấm khăn voan, đan giỏ và hái nhặt thảo quả.

    Một hôm cánh đàn ông đi săn trở về với một tâm trạng đầy lo lắng. Họ đã chạm trán cánh thợ săn của một bộ lạc xa lạ. Cánh thợ lạ này đã kể cho họ nghe về những chiến thuyền khổng lồ đã cập bờ biển, và về những con người tóc cắt ngắn, mặt mũi trắng trẻo nom rất lạ lùng, đã đặt chân lên đất liền. Những kẻ da trắng này rất hám vàng, đã dùng một loại súng có tai khạc ra những mũi tên có lửa khủng khiếp, cướp giật vòng chân, vòng tay của chị em, tra khảo dân bản xứ nơi có vàng. Nếu những người Aruaki hiểu rằng, con người cũng có thể biến thành những kẻ tàn ác, thấp hèn, thì chắc chắn không bao giờ họ lại cho phép kẻ lạ mặt kia vào làng bản của họ. Nhưng họ không hiểu được điều đó. Họ vẫn cứ khiêng những người thợ săn lạ mặt bị gấu đánh bị thương vào làng. Vị thủ lĩnh còn ra lệnh cho đám phụ nữ đi tìm những người bị thương, còn cánh đàn ông lại lên đường đi săn.

    Một kẻ lạ mặt có tên là Khơramooi Métvét. Anh ta rất mê những đồ trang sức của phụ nữ và cứ gặng hỏi họ kiếm ở đâu thứ đá vàng làm ra được các loại vòng và hoa tai này. Nhưng chị em chỉ trả lời bằng một nụ cười. Dần dà, Métvét kết thân được với cô gái cả con của thủ lĩnh tên là Dincadơvin, và hứa hẹn sẽ cưới nàng làm vợ rồi ở lại với bộ lạc. Dincadơvin nói rằng nàng phải chờ đợi cha trở về để xin ý kiến.

    Métvét bắt đầu làm công việc dò hỏi Dincadơvin về việc tại sao chị em nàng cứ thỉnh thoảng lại biến vào rừng sâu và ở đó làm gì. Còn Dincadơvin đã tự cho mình là vợ chưa cưới của Métvét rồi, bởi vậy nàng đã phạm sai lầm còn lớn hơn cả sai lầm của cha nàng cho phép đưa kẻ lạ mặt bị thương vào buôn làng.

    Dincadơvin không hề ngờ rằng, người tình của nàng đã bán linh hồn cho bọn da trắng để lấy một thùng rượu, và còn hứa với họ sẽ tiết lộ bí mật của bộ lạc Aruaki? Và thế là sau khi biết chắc chị em nàng thường thay nhau phục trên cây, bảo vệ bầy chim đẻ trứng vàng, Métvét liền chuốc rượu cho những người canh gác say mèm, rồi thông báo điều bí mật cho bọn da trắng biết.

    Métvét không hay rằng trên đỉnh một ngọn cây cao nhất còn có chàng Ôta Te đang phóng tầm mắt quan sát khắp vùng gần xa. Anh đã phát hiện ra có những người da trắng đang đến gần nơi con chim đẻ trứng vàng mà người dẫn đầu là Métvét. Sau khi loan báo cho buôn làng hay về mối nguy hiểm đang đe doạ và về sự phản trắc của Métvét, anh liền đóng chuông báo động.

    Dincadơvin đau đớn thốt lên:

    - Ôi, cớ sao ta lại tiết lộ cho chàng bí mật của loài chim? Thảo nào mà chàng cứ căn vặn ta! - Rồi nàng quay lại hỏi ông thầy cúng - Hãy chỉ cho ta biết ta phải làm gì và làm thế nào để cứu loại chim đẻ trứng vàng?

    - Cô cô cô! - Tiếng thầy cúng thốt lên, có nghĩa là "Cứ sẵn sàng đi!"

    Hết thảy đàn bà và con gái chạy đến, cùng đáp to: "Khô!"

    Điều đó có nghĩa là: "Chúng tôi đã sẵn sàng!"

    - Hỡi các cô gái! Hãy nhanh chóng trèo lên ngồi vào các cành cây! Khi đó bọn da trắng sẽ không biết được chim làm tổ trên cây nào. Còn nếu chúng tìm thấy tổ chim thì Taxan-útke sẽ chạy đi tìm những người thợ săn, gọi họ về đuổi bọn da trắng đi.

    Taxan-útke, tên thường gọi của con Ngựa chiến, phi như bay về phía những người đàn ông của bộ lạc đang mải săn bắn, còn hàng trăm cô gái khác thì vội vàng lao lên cây, tay ôm chặt lấy các cành cây.

    Métvét dẫn đoàn người da trắng vào rừng, nhưng hắn lúng túng không biết nên chỉ vào cây nào. Bọn da trắng nổi giận, bắn những mũi tên có lửa vào các cô gái, nhưng các cô, kể cả các cô đã chết, vẫn ôm chặt các cành cây.

    Khi cánh đàn ông chạy về tới buôn làng, đuổi được bọn da trắng đi thì đã quá muộn - những người con ưu tú - những cô gái đẹp của họ đã chết. Ông thầy cúng trỏ tay lên trời, gọi tên họ và nói:

    - Các con đã xả thân bảo vệ kho báu của bộ lạc ta, các con xứng đáng được ban thưởng. Tâm hồn các con sẽ biến thành những bông hoa ngát hương, chúng sẽ không ngừng sinh sôi trên các cành cây kia và sẽ kể lại cho các thế hệ mai sau về chiến công bảo vệ loài chim mỏ vàng của các con.

    Những bông hoa tuyệt vời và đủ loại tựa như các cô gái của bộ lạc Aruaki đang đua nở trên các cành cây.

    Người đời nay gọi đó là hoa Oóckhiđêa - hay là hoa Phong Lan.

Người Con Gái Thần Rắn

 Về phía Nam suối Ngọc có cái miếu cổ, hư sập rồi không ai chữa lại. Dựa bên miếu có cây đào to lớn, cành lá um Tùm. Trong miếu có hang, hang sâu thăm thẳm. Dưới hang có một con rắn to lớn không biết ngần nào. Rắn sống lâu Năm, linh thiêng hóa hình người được. Cây đào bên miếu sống cũng lâu và cũng thiêng. Mỗi năm đến cuối mùa đông, Bắt đầu mùa xuân, khi hoa đào đua nở, thì trong những cành sây bông hiện ra một giai nhân đẹp tươi như hoa đào; cứ Mỗi đêm ca hát trước miếu. Mãn mùa xuân, lúc hoa tàn, cánh hoa đào rơi trước gió, người ấy biến mất, chờ mùa xuân Sang năm lại ra.

     Chốn ấy hoang vu, không ai lai vãng. Có người bảo đấy là ổ trăn, vì họ thấy mang máng nhiều sọ người nằm trong bụi Rậm. Có hôm mưa giông người ta gặp một con rắn lớn dị thường bò trước miếu, hoặc khoanh tròn dưới gốc đào, lúc Tạnh thì biến mất. Từ đấy họ sợ thêm, và lần lần quanh miếu thành một khu rừng nhỏ, không dấu chân người.

     Bấy giờ cuối mùa đông, cây cỏ đâm chồi, trên nhành đào lấm tấm lộc non. Khi xuân đến, hoa điểm hồng mơn mởn.

     Một đêm nồng, giai nhân hiện ra tha thướt. Nàng cất tiếng hát. Rắn thần đang yên giấc thức dậy lắng nghe. Đêm Trong, ngàn sao lóng lánh, từng trận gió thoảng rải hương ngào ngạt. Thần rắn nhìn giai nhân nhởn nhơ bên những Cành đào, lòng thần hồi hộp. Rồi uốn thân mình, thần hoá một trang thanh niên tuấn tú. Chàng là một tài tử, tiếng sáo Véo von, nhịp nhàng với lời ca thanh tao của giai nhân...

     Từ đó hai người quen biết nhau, thân mật nhau rồi trở nên vợ chồng.

     Mùa xuân năm ấy hoa đào lộng lẫy hơn các hôm khác. Đêm đến, trong không uyển chuyển tiếng yêu đương của Chàng và nàng.

     Những chim én đưa thoi, dệt thời gian lẹ làng và thấm thoắt. Sang hè, cuộc ái ân tạm ngừng. Giai nhân tuy buồn về Nỗi tạm biệt chàng, nhưng vui tươi bày tỏ cùng chàng một mầm hy vọng. Rắn thần dẫu bịn rịn khúc chia ly, nhưng Khấp khởi mừng thầm vì ái ân đã kết quả. Rồi một tia nắng nồng, một ngày nồng nực làm héo những đáo hoa cuối Mùa. Luồng gió nồm thoảng nhẹ, rải trên bờ cỏ úa vàng bao cành hoa đẹp. Giai nhân từ biệt thần rắn và biến theo vẻ Đẹp cây đào.

     Mùa xuân năm sau, hoa đào nở rất ít nhưng màu sắc đậm đà. Thần rắn trông chờ giai nhân, và, một tối đầu mùa xuân Nàng trở về. Sắc nàng kém tươi nhưng thâm thuý. Nàng sinh một gái, xinh đẹp hồng hào. Thần rắn vui mừng khôn Xiết, nhưng một cái buồn tự đâu xâm về chiếm lấy tâm linh chàng. Giữa mùa xuân, trong lúc cây cỏ xanh tươi, trăm Hoa đến lúc dậy thì dưới ánh vàng ấm áp, giai nhân than thở cùng chàng:

     - Thiếp không dè ái ân của đôi ta đến đây kết liễu. Thiếp không còn sống nữa để cùng chàng sum họp và nuôi con, ái Tình đã đem cho thiếp tất cả nhan sắc và đẹp đẽ của sự sống. Ăn ở với chàng được một mụn con, đó là kỷ niệm êm Đềm trong đời hai ta. Chàng sống lâu vì chàng là sức mạnh. Chàng sẽ ở lại săn sóc con thơ. Thiếp là sự đẹp rất mong Manh, ái tình đã làm cho thiếp thêm xuân nhưng cũng làm cho thiếp chóng tàn. Bây giờ thiếp chết, nhưng thiếp còn để Dấu vết nhan sắc lại cho con. Chàng nuôi con hết lòng, đó cũng như chàng tỏ tình còn mến thiếp. Nhưng thiếp xin nhờ Chàng một điều: lúc con khôn lớn, chàng nên căn dặn nó, đừng lâm vào vòng ái ân mà kiếp sống phải ngắn lại. Nếu Nó muốn sống đời đời kiếp kiếp, trẻ mãi, vui tươi mãi, thì phải xa lánh ái tình.

     Nói xong, nàng khóc rất lâu, trao con cho thần rồi biến mất. Hôm sau, những hoa đào tàn rụng. Cây đào khô héo lần Rồi chết.

     Thần rắn chắt chiu nuôi con thơ, dấu tích của người yêu quý. Ngày ngày chàng vào rừng xa tìm sữa đem về. Ngày Qua, nàng lớn khôn; đúng mười sáu năm thì nàng đẹp đẽ và thông minh hơn loài người. Nhan sắc nàng chính là nhan Sắc của mẹ ngày xưa; nhưng trong nhan sắc ấy ẩn vẻ huyền bí của cha. Thông minh của nàng là thông minh của loài Rắn. Đôi mắt của nàng trong như trời quang không mây. Cái nhìn nàng chính cái nhìn thôi miên thu cả tâm hồn người Và vật của tổ tiên loài rắn để lại. Miệng nàng cười xinh đẹp như hoa đào. Nàng đi tha thướt, yểu điệu, uyển chuyển. Tất cả tính nết và sắc đẹp của cha mẹ, nàng đều thọ lãnh.

     Thần rắn thấy con lớn khôn và xinh đẹp thì lo âu. Ngày ngày dặn con chơi quanh nơi miếu, không được đi xa. Thần lo Sợ nàng bị ái tình quyến rũ. Thần chưa dám ngỏ cái sợ ấy cho con biết, cùng nói lại lời trối của giai nhân cho con Nghe. Thần cũng không nói câu nào với con mà có lẫn hai tiếng ái tình vào, vì thần biết hai tiếng ấy có sức mạnh vô Ngần. Ngày ngày nàng quanh quẩn bên miếu, tâm hồn ngây thơ và chất phác.

     Hàng ngày, thần rắn ra sức tìm thức ăn về cho con. Cực nhọc, nhưng thần vẫn sung sướng vì thấy con chóng lớn và Khôn ngoan. Nhiều lần suýt chết với thú dữ trong rừng, thần trở về buồn rầu, gương mặt còn in nét sợ. Nhưng khi thấy Nàng chạy đến mừng rỡ, nói những lời ngây thơ, thần bỗng quên tất cả ưu tư, trở lại vui vẻ, nô đùa với con.

     Một buổi chiều, trời mưa tầm tã, thần quảy thức ăn về xong, hồi tưởng đến ngày xưa... Thuở ấy, thần hống hách oai Linh, không ai dám phạm đến tên tuổi. Thú dữ, người vật thảy đều xa lánh. Thần rất khoẻ mạnh, không biết mệt nhọc Là gì. Nhưng từ lúc yêu cho đến bấy giờ, linh tính phai dần, để san sẻ cho con. Ngày trước, thần muốn đi đâu, chỉ uốn Mình hoá gió bay đi. Bây giờ phép ấy không linh nghiệm. Thần đã mất thiêng. Nhưng mất phép màu nào, thì con thần Được thêm một đức tính. Cảm nhận bấy nhiêu, thần tự an ủi:?Dẫu sao, ta sẽ còn sống mãi mãi, bởi đứa con ta?

     Cứ như thế mà ngày tháng trôi đi. Rồi một hôm, thần mệt nhọc, biết mình sắp chết. Thần gọi con lại bên mình trối Rằng:

     - Con chắc không biết ta là ai và mẹ con ở đâu. Ta xưa là rắn, rất công phu luyện tính mình. Trải mấy trăm năm lao Khổ, tính mới được linh và hoá được làm người. Ta phải trau dồi trong mấy trăm năm lòng ta trong sạch, trí ta sáng Suốt để hơn cả mọi người và thành thần. Ta ước ao sống đời đời kiếp kiếp dung dưỡng tính tình, nhưng vì ta yêu mà sự Sống phải bớt lại để trao sự sống cho con.

     Mẹ con trước kia là cây đào, cùng trải mấy trăm năm chất chứa tinh hoa, gộp Cả nhan sắc từ đời nào mới hoá hình người được. Rồi cũng vì yêu, mà đem cả vẻ đẹp san lại cho con để phải bỏ mình. Chúng ta đều vì yêu mà chết, vì con mà hy sinh tất cả thông minh, tất cả vẻ đẹp của chúng ta. Ngày ấy, lúc mẹ con sắp Mất, có lời trối này mà cũng là lời trối của ta:

     Con là kết quả ái tình của một thần linh và một nhan sắc tuyệt trần. Con Là một giai nhân của những giai nhân trong đời, một thần linh trong những thần linh. Đời con sẽ là đời của mẹ con và Của ta hợp lại. Nhưng nếu con muốn giữ vẹn toàn đức tính, con phải xa lánh tình yêu đi; gương mẹ con ngày trước và Của ta bây giờ đủ cho con thấy xa...?

     Nói xong, thần rắn thấy lòng bứt rứt, giãy giụa. Một lát sau lăn lộn dữ dội, biến hình rắn hổ mang mà chết...

     Nàng thương tiếc khôn xiết, đem thây cha chôn cạnh gốc đào. Từ ấy nàng ghê tởm ái tình. Nàng không biết là gì, Nhưng cũng nguyện trước mồ cha mẹ, hễ gặp ái tình chốn nào sẽ tiêu diệt đi.

     Nhan sắc và thông minh của nàng quyến rũ các loài vật. Những con ong về đóng ổ nhả mật cho nàng, những chim trĩ, Gà rừng đẻ trứng và để nàng bắt làm thịt. Sự sinh sống như vậy mà dễ dàng, sung sướng. ở mãi một nơi, nàng thấy bực dọc muốn đi xa, tìm cảnh mới, muôn dịp tìm ái tình để trả thù cho cha mẹ, nàng hoá Một bà cụ già, đầu tóc bạc phơ xuống kinh đô, hỏi thăm ái tình ở đâu. Những người nghe hỏi đều mỉm cười chế nhạo.

     Họ bảo nhau:

     - Đã già từng ấy tuổi mà còn đi tìm thú nguyệt hoa.

     Nàng thấy họ chế nhạo mình, tưởng rằng ái tình không có đây, và mình tìm một việc không có cho nên họ cười. Nàng Đi nơi khác, thay hình một trang thanh niên tuấn tú. Gặp đoàn thiếu nữ đang chuyện trò với nhau, vui cười thích chí, Nàng đến gần hỏi có biết ái tình không. Bọn ấy cả thẹn, đôi má mỗi người đều ửng hồng, họ nhìn nhau e lệ, rồi tản lạc Bỏ nàng đứng đấy.

     Hoài công tìm kiếm, nàng trở lại chốn cũ, và nản chí tưởng không cách gì gặp được ái tình.

     Một buổi chiều, nàng ra bờ suối Ngọc, ánh chiều rọi trên dòng, gió mát từng chặp thoảng qua, nàng nghe lòng lâng Lâng bát ngát. Một đôi chim song song, bay về phương xa, tận chân trời, rồi khuất trong làn sương; nàng cảm thấy Buồn vơ vẩn, một thứ buồn nhẹ nhàng và vô cớ, nương theo gió theo mây, để tràn thấm vào tâm tư nàng.

     Từ đấy không đi đâu nữa, chiều đến, nàng chỉ ra nhìn làn nước suối để lắng nghe cái cảm giác ấy, như ru như cám Dỗ. Nàng không biết cảm giác ấy là gì, nàng thấy một ngày một lẻ loi, và lòng mang mang khát khao thèm thuồng.

     Đôi khi nàng hổ thẹn với nàng, nhưng có lúc, dường táo bạo hơn nữa, nàng trông chờ..., nhưng nàng cũng không rõ Mình trông chờ sự gì nữa.

     Bỗng một buổi chiều gần tàn. Vòm trời phương Tây trong như nước biếc, tha thướt một vài áng mây hồng. Mặt trời đã Khuất lâu rồi, nhưng chót vót mấy ngọn thông cao, còn nhuộm một ít điểm vàng của ngày sắp tắt. Gió thổi, cành lá Đong đưa. Nàng nhìn màu chiều biến đổi trên dòng như mọi ngày. Bỗng nàng e thẹn tránh núp vào một khóm lau để Xem. Một thanh niên dắt một bầy trâu xuống bờ bên kia uống nước. Thanh niên an nhiên cởi trần, tắm vào dòng mát.

     Chàng lội bơi nô đùa, tưởng chốn ấy vắng vẻ, không còn giữ gìn lo sợ điều gì. Nàng nghe má nóng bừng, muốn quay Đi. Nhưng chàng trai có một hấp lực gì, khiến nàng đứng yên một chỗ để trộm nhìn chàng. Tắm xong, chàng dắt trâu Đi. Cảnh đẹp, chàng ngồi trên lưng trâu lấy tiêu ra thổi. Tiếng tiêu uyển chuyển trong không khí tịch mịch. Nàng nhìn Chàng đến lúc khuất đằng sau những nẻo quanh, nhưng thanh âm vẫn trầm bổng du dương trong không khí, lòng đê Mê phập phồng, nàng khóc lúc nào cũng không hay.

     Từ đó, như hẹn với dòng nước, cứ chiều đến, chàng trai ấy trở lại suối tắm mát. Khi trời còn sớm, chàng ngồi trên bờ Xanh lấy tiêu ra thổi. Ở bên này, nàng vẫn lắng nghe cái âm thanh kỳ diệu ấy như cám dỗ nàng, và gợi cho nàng một Cảm giác say mê.

     Thế rồi một hôm nàng gặp chàng trai, vì nàng cảm thấy tiếng tiêu của chàng mỗi ngày thêm thiết tha, quyến luyến. Nàng không cần giấu thân thể nàng được nữa. Hai người yêu nhau, nhưng nàng vẫn ngây thơ, không biết mình đang Yêu, chỉ cảm nhận mơ hồ đang chiều theo một sự kích thích nào của cơ thể. Nàng rất ưa cái sức khoẻ cuồng bạo của Chàng, cái luồng điện ngây ngất của chàng truyền sang người nàng. Những đêm trăng sáng, trong như ngọc, chàng lại Với nàng, thổi tiêu cho nàng nghe, rồi cả hai mê nhau đắm đuối.

     Một đêm như thế, nàng nằm trong lòng thanh niên, nhìn chàng và hỏi:

     - Sao chàng mạnh khoẻ vậy?

     Trang thanh niên cười đùa mà đáp:

     - Ta mạnh khoẻ vì muốn sống lâu dài.

     Rồi chàng sẽ nâng mặt nàng lên, nhìn đôi mắt trong. Nàng lim dim đê mê chờ đợi...

     ... Lúc tỉnh, chàng còn thiêm thiếp ngủ, nàng mệt nhọc thấy mình oán hận sự gì. Nhìn lại chàng, nàng đột nhiên nhớ Lời của chàng đã thốt trong cơn âu yếm, và liên tưởng đến lời trối của cha; chàng muốn sống lâu dài, cha mẹ nàng Cũng muốn sống lâu dài.

     Nàng nghe mình yếu ớt vì mệt mỏi; cái yếu ớt do sức mạnh của chàng gây ra. Nàng bỗng sợ hãi cái sức cuồng bạo ấy Đã làm giảm sức nàng. Nàng nghĩ đến cái họa ái tình, và cho cái sức mạnh của chàng là ái tình đáng ghê kia vậy.

     Một áng mây qua, làm mờ ánh sáng trăng. Bóng tối trùm lên gương mặt thanh niên. Một hình ảnh tiều tuỵ hiện ra Trước mắt, nàng sực nhớ đến cái chết của cha. Nàng ngồi phắt dậy, lần tay vào mái tóc lấy một mũi kim dài và sắc của Cha nàng để lại, chích sâu vào ngực của chàng. Chàng thanh niên rú lên:

     - Nàng làm gì thế?

     - Thiếp giết ái tình.

     Mũi kim truyền nọc độc của loài rắn vào mạch máu. Mắt thanh niên hoa lên, cả người chàng mềm nhũn. Rất khẽ, Chàng bảo nàng trong một hơi thở.

     - Không, nàng giết ta chớ không giết được ái tình.

     Lòng nàng không yên. Chiều chiều nàng vẫn ra bờ suối trông chàng, vì nàng không tin chàng đã chết. Nàng chỉ giết ái tình. Trong gió chiều, nàng còn vẳng nghe tiếng sáo của chàng. Lắm lúc ở bên này nhìn sang bờ bên kia, nàng mơ Thấy chàng cởi áo, rồi nhảy vào dòng suối. Làn nước nổi sóng và bọt trắng tung toé trên dòng. Nhưng, đó chỉ là bông Lau bị gió hốt rải trên mặt nước.

     Nàng trở lại chốn đêm xưa, một mùi hôi tanh xông lên. Thây chàng thanh niên túa ra những đường nước vàng mà Từng đám ruồi đáp xuống. Đôi mắt chàng chỉ là hai hố sâu, lúc nhúc những ký sinh trùng. Nàng quay đi, ghê tởm cái Chết của ái tình. Nhưng còn chàng thanh niên xinh đẹp kia, chàng không thể chết, vì chàng không phải ái tình. Trong Gió chiều, nàng còn vẳng nghe tiếng sáo của chàng. Chàng trai ấy không bao giờ trở lại, và nàng cũng không thôi Trông mong.

     Một hôm, ngồi nhìn dòng nước, hồi tưởng chuyện đêm xưa, nàng bỗng nghe ngóng. Một tiếng người êm ả rót vào tai Nàng:

     - Không, nàng giết ta chớ không giết được ái tình.

     Nàng run lên sợ hãi. Một luồng gió nhẹ lướt qua: khóm lau nghiêng đầu về một phía. Nàng bịt tai chạy trốn để không Nghe lời kỳ dị ấy. Nàng hãi hùng, tưởng tượng ái tình còn đeo đuổi, hãm hại nàng. Nàng bỏ chốn cũ, lìa mồ mả đi Lang thang. Nàng tìm nơi nào có thể không còn nghe tiếng kêu gọi tha thiết ấy.

     Nàng tìm khắp nơi, và lúc đi tìm, nàng nhận thấy người nàng đổi khác. Dạ dưới của nàng mỗi ngày một lớn thêm. Có Người bảo nàng có thai, nàng lắc đầu không hiểu, và không biết họ bảo gì. Nàng cảm nhận mỗi ngày, đức tính của Cha mẹ để lại kém sút lần, và không rõ những đức tính ấy san sẻ về đâu. Nàng bớt nhanh nhẹn, bớt vui tươi như ngày Còn nhỏ, sức mạnh kém thuở nàng gặp chàng thanh niên.

     Một hôm, uống nước trên sông, nước trong in bóng nàng. Nàng bỗng rú lên ngạc nhiên. Nàng không còn vẻ đẹp lộng lẫy ngày trước. Dòng nước lặng lẽ bảo nàng: đôi má hóp, Đôi mắt lờ đờ, đôi môi lợt lạt. Nàng ôm mặt khóc rưng rức như trẻ con.

     ... Mấy tháng sau, một hôm nhớ cha mẹ, nàng trở về thăm mả cũ. Cảnh điêu tàn. Nàng bùi ngùi nhớ lời dặn của cha Mẹ ngày xưa. Nàng lưỡng lự không biết có theo lời dạy của cha mẹ nàng không; sau rồi nàng quả quyết rằng có, và Không bao giờ nàng bị ái tình quyến rũ. Hơn nữa, nàng đã giết ái tình và rửa thù cho cha mẹ.

     Đêm ấy, nàng thấy trong người đau tức, không sao chịu nổi. Nàng rên xiết lăn lộn. Đến khuya, trăng mờ, hệt như đêm Xưa, nàng khát, nước, ôm bụng lần ra bờ suối. Uống xong, mệt lả người, nàng gục xuống bờ cỏ, rồi ngất đi.

     Sáng hôm sau, một lữ khách qua đấy nghe tiếng trẻ khóc, bèn vạch lau đi tìm. Trên nỗng cỏ, một đứa bé hồng hào Vừa lọt lòng, nằm khóc vì khát sữa.

     Cạnh đứa nhỏ, một con rắn - lưng điểm những chấm hồng xa trông như lấm tấm Hoa đào - nằm khoanh thiêm thiếp. Nơi bụng con rắn, đứt một lằn dài. Lữ khách sợ hãi, cầm đòn đập chết con vật, rồi Vội vã bồng đứa bé đi.

Tú Uyên

Ngày xưa, ở phường Bích Câu, gần kinh đô Thăng Long, dưới đời Trần, có một thư sinh tên là Trần Uyên, người đương thời vẫn gọi là Tú Uyên. Mồ côi cha mẹ từ năm mười lăm tuổi, Tú Uyên sống nhờ tài nghệ văn chương ở trong phường bấy giờ là nơi trú ngụ của tao nhân mặc khách.

Tú Uyên thường cùng các bạn đi viếng những danh lam thắng cảnh để ngâm vịnh, đề thợ Nhưng chàng vẫn tỏ ra không tin là có thần tiên.

Một năm, có lễ lớn ở chùa Ngọc Hồ. Tú Uyên theo đám đông đến dự lễ. Chiều tối mọi người đã ra về, chàng thư sinh trẻ tuổi còn thẩn thơ ở trước cửa chùa. Bỗng nhiên một ngọn lá có đề bài thơ lượn lờ bay rơi trước mặt chàng. Tú Uyên nhặt lên xem xong rồi thở dài: "Người ta vẫn cho mình là kẻ tài thơ, làm sao mình có thể biết được tác giả bài thơ trên lá này để bày tỏ nỗi lòng?" Rồi chàng thầm khấn: "Trời Phật đã run rủi cho ta việc này, ước gì lá thắm se duyên cho đôi lứa"!

Bỗng nhiên một làn hương nhẹ thoảng qua, rồi chàng thấy một cô gái cực kỳ xinh đẹp, lối chừng mười tám tuổi, từ trong chùa đi ra, cùng vài cô bạn. Tú Uyên vội bước theo, ngỏ lời ướm hỏi, cô gái đã vội vã ra khỏi chùa, đi về phía lầu Quảng Văn rồi biến mất. Chàng lần theo người đẹp, ngẩn ngơ tiếc rẻ, trở về sinh ốm tương tự Suốt ngày Tú Uyên chỉ thẫn thờ nhớ tiếc người đẹp, quên cả ăn uống, bỏ cả đèn sách.

Người bạn họ Hà thấy vậy mới khuyên chàng đi lễ đền Bạch Mã để xin một quẻ thăm. Đêm hôm ấy, Tú Uyên nằm mộng thấy một ông già râu tóc bạc phơ, chống gậy trúc đến bảo rằng: "Sáng mai đến phía Cầu Đông thì sẽ được gặp"! Chàng giật mình tỉnh dậy, mong đợi cho chóng sáng mà đi đến Cầu Đông.

Trọn ngày Tú Uyên trông ngóng chẳng thấy gì, toan bỏ ra về, bỗng gặp một ông lão bán tranh tố nữ, nhận thấy người trong tranh y hệt cô gái đã gặp ở Ngọc Hồ. Chàng vội hỏi mua lấy, đưa về nhà treo ở phòng văn.

Đến mỗi bữa cơm, Tú Uyên dọn hai đôi đũa, hai cái bát rồi cất tiếng mời người trong tranh ra. Một hôm, chàng đi học về, thấy dọn sẵn một mâm đầy thức ăn nấu khéo. Nhìn lên chàng để ý đến chiếc trâm cài đầu của người đẹp trong tranh cài có hơi khác. Chàng thầm đoán việc đã xảy ra, ngồi vào mâm ăn và không quên mời người trong tranh.

Hôm sau, Tú Uyên vờ đi đến trường, được nửa đường thì quay trở về, bắt gặp cô gái trong tranh đang nấu ăn ở bếp. Chàng chạy vội đến nàng, chào hỏi: "Sao nàng lại bắt tôi phải đợi chờ mòn mỏi như thế? Tôi đã bắt gặp được nàng rồi, nàng tên là gì"? Cô gái đáp: "Thiếp là Hà Giáng Kiều, vâng lệnh Ngọc Hoàng và theo lời thần Bạch Mã, xuống trần kết duyên cùng chàng".

Ngay hôm ấy, Tú Uyên lấy nàng tiên làm vợ. Ăn ở với nhau được ít lâu, chàng đâm ra say sưa rượu chè, rồi đánh đập vợ. Giáng Kiều nhiều lần khuyên bảo chồng không được, một hôm bỏ chàng bay về trời. Đến lúc tỉnh rượu, thấy vợ đã biến mất, Tú Uyên đau đớn tuyệt vọng toan treo cổ tự tử. Người vợ tiên bỗng hiện ra. Chàng khóc lóc xin lỗi vợ, hứa sẽ hối cải.

Từ đó, hai vợ chồng sống với nhau rất đằm thắm, lối một năm thì sinh được một con trai. Tú Uyên ngày đêm chăm lo dùi mài kinh sử, mong một ngày kia tên chiếm bảng vàng. Một sáng Giáng Kiều bảo chồng: "Vẫn biết danh vọng ở đời là đáng kể, thói tục cõi trần không nên coi khinh, nhưng con người ta chỉ sống theo sự phối hợp của ngũ hành, thủy, hỏa, mộc, kim, thổ. Cuộc đời sống chết chẳng khác nào bọt đầu ngọn sóng, sương trên ngọn cỏ, có thể tiêu tan trong khoảnh khắc. Với trí thông minh, tài giỏi hơn người, anh cũng chỉ sống trong khoảng năm, sáu mươi năm, hay nhiều lắm thì cũng đến bảy, tám mươi tuổi là cùng. Đời sống con người, dù đến trăm năm phước lộc, giàu sang, cũng chỉ bằng một buổi sáng nhàn hạ Ở cõi Tiên. Thử hỏi anh hùng, danh tướng người xưa giờ đây đâu tá? Mà lạc thú, khổ đau, xum họp, biệt ly chỉ là những lối thường tình của người đời. Cả quãng đời niên thiếu của anh há chẳng đã dẫm bước vào đấy ư? Vậy tốt hơn là từ hôm nay anh nên xóa bỏ thất tình, rửa sạch dục trần mà ngao du đó đây, buổi sáng trong ba dãy núi, buổi chiều trên chín tầng trời, bạn cùng trăng gió".

Tú Uyên im lặng nghĩ ngợi. Giáng Kiều lại nói: "Phải chăng bổn phận thiêng liêng của người đàn ông là săn sóc cha mẹ? Song thân của anh đều đã khuất núi. Về phần em, em không thiết giàu sang với danh vọng. Sao anh lại định chôn chặt thân mình trong cõi đời khổ ải để giữ lấy một mảnh hình hài diệt vong"? Tú Uyên gật gù bảo vợ: "Nếu không có em vạch rõ con đường mộng ảo, thì chút nữa anh đã mắc vào lối mòn trần tục".

Thế rồi từ đó chàng bỏ chí nguyện theo đuổi công danh thi cử, chuyên tâm học đạo thần tiên. Được ít lâu, một hôm có hai con hạc trắng từ trời bay xuống, Giáng Kiều cùng Tú Uyên và con trai cỡi lên lưng chim bay vút vào quãng không.

Sau đó hai vợ chồng hiện ra một cách màu nhiệm tại vùng Bích Câu. Dân chúng tỏ lòng ngưỡng mộ, xây một ngôi đền ở ngay phòng học của Tú Uyên, gọi là Bích Câu đạo quán, ngày nay hãy còn dấu tích.

Chiếc kim thô

andecxen

Một hôm có một cái kim thô dùng để lược quần áo, tự cho là thanh tú lắm, nên cứ tưởng mình là một cái kim khâu. Cô ả bảo các ngón tay đang sắp cầm mình rằng:

Này, giờ thì các anh phải chú ý giữ tôi cho khéo nhé! Chớ mà có đánh rơi tôi đấy! Tôi mà ngã xuống đất thì chắc chắn là không bao giờ tìm thấy tôi được đâu. Người tôi nhỏ nhắn thế này cơ mà!

Các ngón tay bảo:

-Cứ mặc cho người ta làm nào! - Nói rồi chúng tóm lấy người cô ả.

-Nhìn đây một tí mà xem. Tôi đến với đoàn tuỳ tòng của tôi đây này.

ả kim thô vừa nói vừa kéo theo mình một sợi chỉ dài, nhưng là sợi chỉ không thắt nút.

Các ngón tay điệu ả kim ta về phía chiếc giầy "băng túp" của chị nấu bếp. Da giày phía trên bị rách cần phải khâu lại. ả kim bảo:

-Vải gì mà thô đến thế! Tôi không thể nào chọc thủng được đâu; tôi đến gãy mất, gãy mất thôi!

Và quả nhiên, cô ả gẫy thật. ả kêu ầm lên:

-Tôi chẳng bảo thế là gì? Người tôi mảnh dẻ lắm cơ mà!

Các ngón tay bảo nhau:

-Bây giờ thì chẳng dùng được vào việc gì nữa rồi.

Nói thế nhưng chúng vẫn giữ cô ả. Chị nấu bếp làm cho cô ả một cái đầu bằng xi măng rồi dùng cô ả để cài khăn quàng. ả kim nói:

-Thế là mình trở thành trâm cài rồi! Mình biết lắm, biết là mình danh giá mà! Khi con người ta vốn dĩ đã có giá trị thế nào cũng nổi danh.

Rồi cô ả làm bộ kiêu hãnh, ngó nghiêng tứ phía chẳng khác gì cậu xà ích đánh xe ngày hội. Chị đanh gim láng giềng bảo:

-Dám xin hỏi quý nương, có phải quý nương bằng vàng không đấy ạ? Diện mạo quý nương xinh đẹp và quý nương có cái đầu kỳ lạ lắm! Song le và nó chỉ hơi bé một chút thôi, quý nương nên gắng sức làm cho nó nhỉnh ra một tí để khỏi phải dùng đến xi như các kẻ khác.

Nghe vậy cô nàng kiêu hãnh ưỡn người nghểnh mạnh cái đầu đến nỗi từ khăn quàng rơi xuống cái máng giặt, nơi chị bếp đang vò quần áo. ả kim bảo:

-Thế là ta sắp được chu du một phen. Miễn rằng đừng có thất lạc là được.

Quả nhiên cô ả bị thất lạc. Trong khi nằm dí trong máng giặt, cô ả lẩm bẩm:

-Mình thật quá nhỏ nhắn đối với cái thế gian này. Ta cũng tự biết ta lắm, biết mình thì bao giờ cũng được vừa lòng đôi chút.

Nhưng ả vẫn cứ hớn hở giữ bộ điệu kiêu hãnh. Rồi một loạt các thứ bơi qua trên đầu ả; nào là dằm gỗ, nào là rơm rạ và những mẩu báo cũ. ả lẩm bẩm:

-Hãy xem cái tụi kia bơi với lội kìa! Thậm chí mình nằm ngay đây mà chúng cũng chẳng ngờ rằng bên dưới chúng có cái gì cả? Kìa, một chú dằm gỗ ngoi qua kìa! Cu cậu chẳng nghĩ đến ai trên đời này ngoài cu cậu ra cả, hừ, ngoài cu cậu ra! Lại một cô ả rơm đang du ngoạn! Cô ả đang quay cuồng vùng vẫy gớm chưa! Này, đi cẩn thận đấy nhá, kẻo lại va đầu vào đá đấy. Còn cái mảnh báo cũ này nữa. Đến là vênh vang! Nhưng mà từ lâu lắm thiên hạ cũng chẳng nhớ hắn ta đã đăng tin gì rồi. Chỉ có mình ta là vẫn kiên tâm và bình thản; ta tự biết ta lắm và luôn luôn giữ lấy giá trị của ta.

Một hôm cô ả cảm thấy có vật gì nằm cạnh, một vật sáng rực rỡ mà cô ả cho là một viên kim cương. Đó là một mảnh chai vỡ. Thấy hắn ta lóng lánh trông như một cái trâm cài đầu, kim bèn cất giọng săn đón:

-Chắc hẳn bà chị là kim cương?

-Một loại na ná như thế.

Thế là ả nọ cứ tưởng ả kia quý phái lắm. Và rồi câu chuyện giữa hai đứa nở ran, đặc một giọng kiêu kỳ chúa soái ở trên đời. Kim ta lên giọng:

-Mình ở trong một cái tráp của tiểu thư. Vị tiểu thư ấy làm nghề nấu bếp. Mỗi bàn tay của nàng có năm ngón. Mình chưa hề thấy ai kiêu căng tự phụ như các lão ngón tay ấy, thế mà chúng cũng sinh ra để nâng mình ra khỏi hộp rồi lại cất mình vào thôi.

Mảnh chai hỏi:

-Thế các lão ngón tay ấy có thuộc dòng dõi quý phải không?

Kim đáp:

-Quý phái! Không đâu, nhưng kiêu căng. Chúng nó tất cả năm anh em và tất cả đều thuộc dòng dõi... họ nhà ngón tay. Chúng tuy dài ngắng khác nhau nhưng đứng cạnh nhau một cách hợm hĩnh. Ngón ngoài, cũng gọi là ngón cái, lùn và mập đứng tách riêng ra vì hắn chỉ có trần một khớp nên chỉ có thể gập lại một đốt thôi, nhưng hắn luôn luôn khoe rằng nếu người nào mà cụt mất hắn thì không thể nào mà làm việc nhà binh được.

Ngón thứ hai lúc nếm mứt, lúc nếm mù tạt; hắn còn chỉ chỏ được cả mặt trăng lẫn mặt trời nữa và chính hắn ấn quản bút khi người ta viết lách đấy. Lão thứ ba thì cao hơn tất cả các lão kia. Lão thứ tư đeo một cái đai bằng vàng và lão thứ năm bé nhất chẳng làm ăn gì cả. Vì thế nên hắn kiêu ngạo lạ thường. Bọn chúng lúc nào cũng làm bộ làm tịch, bắc bậc kiêu kỳ, nên mình đã bỏ chúng mà đi nơi khác đấy.

Mảnh chai bảo:

-Có thế chúng mình mới ngồi với nhau ở đây mà lấp lánh chứ.

Lúc đó người ta đổ nước vào máng giặt. Nước chảy lên thành máng và cuốn hai đứa đi. Kim thở phào:

-Đấy, thế là chúng ta lại tiến bước rồi đấy.

Mảnh chai tiếp tục lăn đi, còn ả kim đọng lại ở dưới suối.

-ấy đấy! Mình mảnh dẻ qúa, không nhúc nhích được nữa; nhưng cũng đành vậy biết sao?

Quả nhiên cô ả nắm dí ở đây, ôm ấp những hoài bão vĩ đại của cô ả.

-Mình rồi cũng đến phải tin rằng mình là con của một tia nắng vì mình nhỏ nhắn thế này kia mà! Hình như những tia nắng xuống tận đáy nước tìm mình thì phải. Nhưng mình nhỏ nhắn đến nỗi thân mẫu mình chẳng tìm thấy mình đâu. Giá ví thử người ta chưa đánh gãy mất cái mắt của mình thì mình cũng còn khóc được cơ đấy! Nhưng không, mình chẳng muốn khóc, mình mà lại than khóc à?

Một hôm, trẻ con đến sục sạo dòng suối. Chúng mò tìm đanh cũ, xu đồng và các của tương tự loại ấy. Công việc chẳng hào hứng lắm, nhưng chúng thích làm việc ấy và đứa nào nhặt được gì thì lấy nấy. Một đứa trong bọn bị cái kim đâm vào tay kêu lên:

-ôi chao! Cái đồ ăn mày này!

ả kim vội cãi:

-Tôi không phải là ăn mày đâu. Tôi là một tiểu thư khuê các đây.

Nhưng nào có ai thèm nghe nó. Đến lúc ấy cái đầu xi của nó đã tuột đi mất rồi và kim ta lại trở nên đen xì từ đầu đến chân; nhưng càng đen thì thân hình trông càng có vẻ nhỏ đi, nên cô ả tưởng mình mảnh dẻ hơn lúc nào hết. Trẻ con bàn nhau:

-Có cái vỏ trứng trôi đến kia rồi!

Thế là chúng cắm kim vào vỏ trứng. Cô ả hí hửng:

-May lắm! Giờ thì mình nổi bật rồi, vì mình thì đen mà thành quách xung quanh lại trắng toát một màu. ít ra thiên hạ cũng nhận ra mình ngay. Miễn là chớ có say sóng mà gãy tan xác

Cô ả không say sóng nên chẳng hề bị gãy.

-Đi biển mà có cái bụng bằng thép như mình thì thật là may mắn lắm thay! Mình hơn người ở chỗ ấy đấy. Ai dám tự hào có được cái bụng như ta? Thể chất mình tốt thật! Mà càng nhỏ bao nhiêu thì lại càng tránh được tai nạn bấy nhiêu.

Một chiếc xe tải hàng chẹt lên, vỏ trứng vỡ đánh "rắc" một cái. Kim rên la:

-Trời! Sao mình bị đè khiếp thế này! Hình như mình bị say sóng thì phải. Mình bị gãy nát mất rồi.

Tuy bị chẹt xe nhưng ả kim không gãy. Cô ả vẫn như trước, nằm sõng sượt dưới lòng suối. Mặc xác ả!

Lời nguyền nơi kim tự tháp Ai Cập

 Một tấm thảm kịch lạ lùng kinh dị cùng diễn ra một lần tại hai nơi rất xa khi con chó của nhà khảo cổ lừng danh Lord Carnarvon bỗng nhiên hốt hoảng tru lên những tiếng hãi hùng rồi lăn ra chết đúng vào lúc người chủ thân yêu của nó là Lord Carnarvon ở cách xa đến hàng ngàn dậm cũng tự nhiên kêu lên một tiếng rồi ngã vật ra trút hơi thở cuối cùng trong một căn phòng của khách sạn ở Cairo, thủ đô Ai Cập.

    Câu chuyện khởi đầu từ ngày 17 tháng 2 năm 1929, khi nhà khảo cổ Lord Carnarvon và đoàn thám hiểm của ông đục phá cửa đá bí mật của Kim Tự Tháp nổi tiếng ở Ai Cập để đột nhập vào ngôi mộ của vua Tutankhamen. Chính ngay ở ngôi mộ cổ này, Howard Carter đã khám phá ra được thêm một kho tàng vô giá vượt ngoài sức tưởng tượng hoặc ước mơ của họ, những đồ vật bằng vàng khối, những bảo thạch, những đồ dát ngọc tập trung nơi chiếc quan tài rực rỡ chứa đựng thi thể vua, nơi đây hai nhà khảo cổ còn tìm thấy được những thứ mà từ lâu họ từng thiết tha mong đợi.

    Щều làm cho kẻ đột nhập ngôi cổ mộ trong thấy trước tiên có lẽ là hàng chữ khắc trong vách đá, hàng chữ mà nội dung là cả một lời nguyền đầy vẻ cảnh cáo hăm dọa: "Kẻ nào làm quấy động giấc ngủ của Pharaon (vua Ai Cập) đều phải chết!"

    Không ai có thể ngờ được, nhất là đối với nhà khoa học, dòng chữ khắc trên đá ấy lại là cả một lời nguyền với sức mạnh siêu linh huyền bí tác động lên những ai dám mạo hiểm đột nhập vào ngôi cổ mộ của vua Ai Cập.

    Về sau, những người dấn thân vào việc khám phá Kim Tự Tháp và đến bên áo quan của vua Tutankhamen đều lần lượt trả giá rất đắt.

    Trước tiên là nhà khảo cổ Lord Carnarvon, một hôm đang ngủ trong căn phòng của khách sạn Continental thì bỗng nhiên thức dậy nói lẩm bẩm như người ngủ mê:

    - Tôi cảm thấy thích chốn địa ngục.

    Vừa lúc đó con trai của ông chạy vào lo lắng hỏi han, nhưng nhà khảo cổ vẫn lẫm bẩm câu nói quái gỡ ấy và ngớ ngẩn như chẳng còn biết gì ở chung quanh. Ѓ?m đó, ông trút hơi thở cuối cùng. Cùng thời điểm ấy, con chó nhà ông tru lên từng hơi... Sau đó không lâu tại khách sạn này, nơi trú của một nhà khảo cổ quan sát về Kim Tự Tháp Ai Cập lại xảy ra một thảm kịch nữa, nhà khảo cổ Mỹ là Arthur Mace tự nhiên kêu van là mệt mỏi rồi bất thình lình vùng dậy tất tả đi về hướng Kim Tự Tháp và đòi vào thăm cho được chiếc quan tài của vua Ai Cập Tutankhamen lần nữa mặc dù đêm đã khuya. Thế rồi, Arthur Mace nấc lên và chết. Các bác sĩ không tìm được nguyên nhân của cái chết của nhà khảo cổ này.

    Mọi người chưa dứt sự bàng hoàng về cái chết lạ kỳ trên thì George Gould, bạn của nhà khảo cổ Carnarvon (người đã vào tận hầm mộ của vua Ai Cập trong Kim Tự Tháp và đã chứng kiến tận mắt xác thân và gương mặt của nhà vua) bỗng nhiên lên cơn sốt dữ dội và chết sau một đêm không chợp mắt. Tiếp đến, Reid, người đã chiếu tia X qua xác ướp của vua Tutankhamen để mong khám phá những điều mới lạ đã chết một cách đột ngột.

    Rồi điều kinh dị khác xảy ra; người thư ký của nhà khảo cổ Carnarvon (đã theo ông ta bất cứ nơi đâu trong các cuộc khảo sát Kim Tự Tháp) được phát giác là đã chết khi đang nằm trên giường ngủ, theo bác sĩ khám nghiệm thì người thư ký này chết vì chứng trụy tim.

    Chưa hết, nhà tư bản công nghiệp Anh là Joel Wool, một trong những người đào hầm mộ của vua Tutankhamen cũng tự nhiên chết sau một cơn sốt lạ kỳ.

    Tính kỹ lại thì chỉ trong vòng có 6 năm sau cuộc khai mở canh cửa bí mật nơi Kim Tự Tháp của đoàn khảo cổ để vào tận mộ của vua Ai Cập , đã có 12 người chết một cách bí mật dị kỳ.

    Một Đêm Với Thần Tượng Sphinx

    Người du khách cuối cùng đã về; người hướng dẫn viên cuối cùng đã lập lại đến cả ngàn lần những điều hiểu biết của mình để giới thiệu cho du khách ngoại quốc về xứ cổ Ai Cập. Một bầy lừa mệt mỏi và đàn lạc đà bất kham đã lần bước chậm chạp trên đường về, với những du khách cuối cùng trong ngày.

    Trong khung cảnh xứ Ai Cập, bóng hoàng hôn có một vẻ đẹp siêu nhiên và khó quên. Mọi vật đều khoe màu đổi sắc, giữa khoảng trời đất bao la nổi bật lên những khoảng tương phản lạ lùng.

    Tôi còn ngồi lại một mình trên bãi cát vàng, đối diện với pho tượng Sphinx hùng vĩ oai nghiêm tuyệt trần. Tôi nhìn một cách say mê cái cảnh tượng những màu sắc mỏng manh như sương phai mờ dần một cách nhẹ nhàng, trong khi mặt trời lặng đã cất đi những ánh vàng lộng lẫy trên nền trời Ai Cập. Những ánh lửa diệu huyền, nét huy hoàng tuyệt đối mà mặt trời lặn của châu Phi còn bỏ sót lại trong không gian, có ai tiếp nhận bức thông điệp thiêng liêng của trời mà không cảm giác được trong giây lát cái phút lạc lõng của cõi Thiên Đàng? Niềm phúc lạc đó sẽ còn tồn tại khi con người chưa đến quá nỗi trụy lạc trong vòng trần gian ô trược, trong sự sa đọa tâm linh, nó sẽ tồn tại khi con người còn biết yêu vần Thái Dương nầy là nguồn góc của sự sống và của bao nhiêu màu sắc huy hoàng lộng lẫy xuất hiện trước mắt ta. Cổ nhân xứ Ai Cập thật ra đã không kém minh triết khi họ tôn thờ Râ, biểu tượng ngôi mặt trời, mà trong thâm tâm họ coi như một vị Thần...

    Trong bối cảnh hoàng hôn Ai Cập, dưới một nền trời xám ngắt đã tối mờ dần, tôi nhìn pho tượng đá Sphinx mỗi lúc càng sậm màu, cho đến khi những tia nắng vàng sậm cuối cùng đã tắt hẳn và không còn chiếu vào gương mặt lạnh lùng bí hiểm của nó nữa. Hình thần tượng Sphinx nhô lên giữa bãi sa mạc mênh mông gương mặt khổng lồ, than hình nằm duỗi ra, trải qua nhiều thế hệ đã từng gây sự sợ hãi cho những người Ả Rập dị đoan, và làm ngạc nhiên những người du khách hoài nghi, mà bằng chứng là những câu hỏi từ người lữ khách, lần đầu tiên con quái vật khổng lồ xuất hiện trước đôi mắt kinh ngạc của họ. Pho tượng đá bí hiểm mình sư tử đầu người này có một sức hấp dẫn rất lạ lùng và phức tạp đối với bao nhiêu thế hệ du khách. Nó là một sự bí mật đối với người Ai cập, và một bài toán bí hiểm cho toàn thế giới. Ai đã điêu khắc ra nó? Vào thời đại nào? Không ai biết được. Nhà Ai Cập học chuyên môn nhất cũng chỉ đưa ra những giả thuyết vu vơ về ý nghĩa và lịch sử của hình thần tượng Sphinx.

    Dưới ánh sáng le lói cuối cùng của một ngày đã tàn, đôi mắt tôi ngừng lại trên đôi mắt bằng đá của pho tượng thản nhiên bất động. Nó đã từng thấy hằng bao nhiêu là tỷ ức người lần lượt đến trước mặt nó, với những cái nhìn im lặng, đưa ra những câu hỏi không lời và không giải đáp, rồi bước chân ra về trong sự hoang mang! Nó đã từng thản nhiên lặng nhìn châu Atlantide bị tràn ngập dưới cơn đại hồng thủy và biến mất dưới lòng biển sâu. Cái nụ cười thoảng qua của nó đã từng chứng hiến công trình vĩ đại của vua Mena, vị Quốc Vương Ai Cập đầu tiên đã đổi dòng sông Nile yêu quý của người Ai Cập và bắt nó chảy qua một đường hướng khác. Cái nhìn im lặng đượm mùi mến tiếc của nó đã từng thấy nhà tiên tri Moise, nghiêm cẩn và ít nói, từ giả nó lần cuối cùng. Câm lặng và đau thương, nó đã nhìn thấy những nỗi đau khổ của xứ Ai Cập bị tàn phá, suy vong sau cuộc xâm lăng của vị bạo chúa Cambyse, hoàng đế nước Ba Tư. Có lẻ vừa thích thú vừa khinh bỉ, nó từng nhìn thấy nữ hoàng Cléopâtre đẹp lộng lẫy và kiêu hãnh trong chiếc thuyền rồng mũi trạm vàng, buồm may bằng nhung đỏ thắm và mái chèo đúc bằng bạc. Nó từng sung xướng nhìn thấy đức Jesu trên đường đi tìm đạo lý phương đông để chuẩn bị chờ ngày thi hành sứ mạng, ngày mà đức Chúa Cha gửi Ngài đi truyền bá cho thế gian một thông điệp thiêng liêng về đức nhân từ bác ái. Như một kẻ báo hiệu không lời, biểu tượng Sphinx chào mừng Bonaparte, khí cụ của định mệnh các nước Châu Âu, trước khi tên Mã Phá luân nổi bật làm lu mờ những tên khác, và ngay khi ông ta hãy còn là một nhân vật chưa tên tuổi, chưa đặt chân xuống chuyến thuyền Bellérophon để sang chinh phục xứ Ai Cập. Nó cũng nhìn thấy, với ít nhiều bi ai, toàn thể thế giới chú ý đến Ai Cập khi ngôi lăng tẩm của một vị Pharaon, vua Ai Cập thời cổ bị khai quật lên để cho người đời tọc mạch nhìn xem xác ướp của vua với những đồ ngọc ngà châu báu.

    Thật vậy, đôi mắt bằng đá của pho tượng đã từng chứng kiến những điều đó và nhiều điều khác nữa. Nhưng bây giờ nó nhìn thấy gì? Không màng để ý kẻ thế nhân phàm tục đang bôn tẩu trên đường danh lợi, thản nhiên trước nỗi sung sướng, khổ đau của nhân loại, hình như biết rõ cái định mệnh đã ghi sẵn tất cả mọi biến cố lớn của trần gian, đôi mắt bằng đá kia nhìn thẳng vào cõi vô cùng...

    Hình thần tượng Sphinx đã chuyển màu xám sang màu đen, rồi một màu đen như mực, nền trời đã mất cái nét xám bạc của lúc ban chiều, tất cả điều đắm chìm trong đêm tối, chúa tể của sa mạc. Nhưng pho tượng vẫn còn hấp dẫn sự chú ý của tôi và làm cho tôi bị thu hút như do mãnh lực của một luồn từ điện vô hình. Đó là vì tôi cảm thấy rằng màn đêm rủ xuống đã đem pho tượng trở về nguyên quán của nó. Cái bối cảnh đen âm u, đó mới đúng là cái bối cảnh thực sự của nó. Những gì là thần bí của một đêm Châu Phi tạo cho nó một bầu không khí thích nghi. Cũng trong những giờ ban đêm mà Râ và Horus, Isis và Osiris, những vị Thần Linh của xứ cổ Ai Cập, luôn luôn trở về với nhân gian. Tôi nhất định đợi lúc trăng lên và sao mọc để nhìn thấy một lần nữa cái chân tướng của hình thần tượng Sphinx. Tôi ngồi một mình giữa đóng cát bao la, nhưng tôi không cảm thấy cô đơn, thật vậy, cảm giác cô đơn hiu quạnh không thẻ nào có được với tôi.

    Ban đêm, tôi có thể ngắm nhìn thần tượng Sphinx dưới cái khía cạnh mà ít người du khách được nhìn thấy. Tạc trong khối đá, in trên nền trời xanh như chàm, cao bằng một ngôi nhà lầu bốn tầng, con sư tử đầu người khổng lồ vươmình nằm dài trong thung lũng của đồng cát. Dưới ánh trăng sao vừa lố dạng, những nét hùng vĩ của nó hiện rõ lần lần. Đó là cái biểu tượng lạ lùng của một xứ Ai Cập mà nguồn gốc bí ẩn được truy nguyên đến những thời đại xa xăm vô định. Giống như con vật nằm canh gát những bí mật của thời tiền sử, nghĩ đến những thế hệ của châu Atlantide mà ký ức mong manh của người đời không còn nhớ đến nữa, pho tượng đá khổng lồ chắc cũng sẽ còn tồn tại mãi qua mọi thế hệ văn minh của loài người hiện nay, và nó cũng sẽ giữ nguyên vẹn không hề tiết lộ sự bí mật nội tâm của nó. Gương mặt khắc khổ và uy nghiêm của nó không phản ánh một điều gì, đôi môi khép chặt của nó vẫn giữ một sự im lặng muôn đời. Nếu pho tượng Sphinx có giữ gìn cho nhân loại một thông điệp ẩn dấu nào mà nó đã chuyển đạt qua nhiều thế kỷ cho một số rất ít người hữu hạnh có một năng khiếu linh cảm khác thường, thì điều bí mật đó có khi sẽ được nhắn nhủ thầm bên tai của người thí sinh tầm đạo.

    Đêm tối dành cho hình thần tượng Sphinx một khung cảnh tuyệt hảo. Ở phía sau, bên mặt và bên trái pho tượng là "Thành phố của người chết," một khoảng đất rộng dẫy đầy những nấm mộ hoang cùng lăng tẩm.

    Chung quanh vùng cao nguyên lởm chởm những núi đồi và đá tảng nhô lên từ dưới đồng cát ở phía nam, phía tây và phía bắc pho tượng Sphinx, những lăng tẩm và mồ mả được xây cất chứa những cổ quan tài đựng hài cốt và những xác ướp của những vị vua chúa, các vị đại thần và chức sắc của triều đình hay tôn giáo của xứ Ai Cập thời cổ.

    Không có một ngôi lăng tẩm nào mà khi bước vào mà người ta không thấy cỗ quan tài bật nắp ra và những đồ vàng ngọc châu báo tô điểm xác ướp đã bị lấy đi mất. Sự cướp bóc này đã xảy ra cùng lúc với sự khai quật những nấm mồ trong những cuộc đào xới để khảo cổ. Người ta chỉ lại tại chỗ những pho tượng nhỏ và những bình, vại chứa đựng ruột gan của những xác chết đã đem ướp bằng chất hương liệu. Ngay ở xứ Ai Cập thời cổ cũng đã có những kẻ trộm đào mồ, khi dân chúng nổi loạn chống giai cấp thống trị càng ngày càng trở nên suy tàn, họ trả thù bằng cách khai quật mồ mả và cướp bóc nơi nghĩa trang rộng lớn của nhà vua, tại đây những vị đại thần được cái vinh dự yên nghĩ giấc nghìn thu bên cạnh xác ướp của các bậc vua chúa mà họ đã phụng sự từ thuở sinh tiền.

    Một số ít những người chết mà xác ướp thoát khỏi bàn tay cướp bóc của những kẻ trộm đầu tiên, đã nằm yên nghỉ trong một thời gian khá lâu cho đến khi người Hy Lạp, người La Mã và người Ả Rập lần lượt thay phiên nhau đến đánh thức họ. Những ngôi mộ, lăng tẩm nào thoát khỏi cướp bóc và khai quật trong những cuộc biến cố sau này, được yên nghỉ thêm một thời gian khá lâu nữa cho đến đầu thế kỷ mười chín, khi các nhà khảo cổ hiện đại ra công thám hiểm dưới lòng đất của xứ Ai Cập để tìm kiếm những gì mà kẻ trộm thời xưa còn sót lại chưa lấy đi. Như thế há phải chẳng tội nghiệp cho những bậc vua chúa, vương hầu bất hạnh của thời xưa, tuy xác ướp họ còn nằm đó, mà bị người ta khai quật mồ mả và cướp bóc kho tàng? Dầu cho những xác ướp của họ không bị dập tan ra từng mảnh do bàn tay bạo tàn của những kẻ trộm báu vật, thì những xác ướp đó cũng đã bị giam cầm cho nằm yên nghỉ trong những cổ tàng viện để làm thỏa mãn sự tò mò và làm mụch tiêu dị nghị bình phẩm của mọi người.

    Đó là cái bối cảnh rùng rợn của thần tượng Sphinx khi nó vươn mình và nhô đầu dậy trong cô đơn tịch mịch giữa đồng cát. Nó đã từng quan sát những hầm tối trong "Thành phố của xác chết," lần lượt bị sự cướp bóc của người dân Ai Cập nổi loạn và quân xâm lăng Ả Rập. Vị quản thủ đồ cổ Ai Cập tại bảo tàng viện British Museum là ông Wallis Budge không làm ai ngạc nhiên khi ông đi đến kết luận rằng: "Thần tượng Sphinx là để đuổi tà ma ra khỏi những nghĩa địa và lăng tẩm ở vùng chung quanh." Cũng không ai ngạc nhiên mà thấy rằng ba ngàn bốn trăm năm trước, vua Thoutmès thứ tư của Ai Cập có cho khắc vào một tảng đá lớn mà ông đặt ngay trước ngực tượng Sphinx, hàng chữ: "Một sự bí mật linh thiêng đã từng bao phủ vùng này từ lúc sơ khởi, vì gương mặt của pho tượng Sphinx là một biểu tượng của thần Khepera, vị thần của sự Bất Tử, chủ tể các vị thần linh và ngự trị vùng này. Dân chúng ở thành Memphis và ở khắp địa phương cùng đưa tay lên để cầu nguyện trước mặt Ngài".

    Như vậy không ai còn lạ gì mà thấy dân Ả Rập ở làng Gizeh gần bên có nhiều truyền thống rất dồi dào về những chuyện vong linh và âm hồn thường lởn vởn ban đêm trong bầu không khí chung quanh hình thần tượng Sphinx, một nơi họ cho rằng có nhiều ma nhất thế giới! Phải chăng bằng cách ướp xác những nhân vật quyền quý của thời xưa, người cổAi Cập đã kéo dài trong một thời gian vô hạn định sự tiếp xúc giữa những vong linh thời cổ với nhân loại chúng ta ngày nay?

    Quả thật ban đêm là lúc mà người ta có thể ngắm nhìn thần tượng Sphinx một cách thú vị nhất. Vì dường như ban đêm là lúc mà cõi giới âm linh có vẻ gần gủi với ta hơn, tâm hồn ta sẵn sàng mở rộng đối với những cảm giác bất ngờ, trong khi ở chung quanh ta, dưới màn đêm bao phủ, thậm chí những hình thể vật chất thô kệch cũng thoát lấy một vẻ mờ ảo u huyền. Màn trời ban đêm đã trở thành màu chàm pha lẫn màu đỏ thắm, một thứ màu thần bí phù hạp với sự tìm tòi thám hiểm của tôi.

    Đêm tối kéo dài một cách từ từ êm ả và câm lặng như một con heo, nếu người ta không để ý đến những tiếng rú rùn rợn giống như tiếng người của vài con beo đốm trong sa mạc, là những tiếng động duy nhất điểm giờ khắc trôi qua. Chúng tôi vẫn ngồi đó, thần tượng Sphinx và tôi, dưới ánh sao vằng vặc của nền trời Châu Phi, sự giao cảm giữa chúng tôi mỗi lúc càng thêm sâu đậm; từ sự quen biết nhau, chúng tôi tiến đến tình bạn, có lẽ chúng tôi bắt đầu hiểu nhau ít nhiều.

    Khi tôi đến với nó lần đầu cách đây vài năm, nó nhìn ra chỗ khác, yên lặng và khinh ngạo. Khi ấy tôi là gì đối với con vật khổng lồ này, nếu không phải là một kẻ phàm tục như bao nhiêu kẻ khác, là những sinh vật náo động đi bằng hai chân, làm bằng những chất liệu kiêu căng, tự mãn, những dục vọng phù phiếm và những tư tưởng điên rồ? Về phần tôi, tôi đã tưởng nó là biễu tượng của một chân lý mà chưa ai tìm ra, một biểu tượng khổng lồ bí hiểm mà mọi lời cầu nguyện không được giải đáp và rốt cuộc chỉ rơi vào khoảng hư vô. Tôi đã bước ra về, hoài nghi và thất vọnh hơn trước, chán nản cõi trần gian tục lụy và lòng tràn ngập những nỗi niềm cay đắng.

    Nhưng đó không phải là vô ích mà ngày tháng đã trôi qua. Cuộc đời: đó là sự giáo dục tâm linh và thầy học của chúng ta.

    Vị thầy học vô hình ấy đã dạy tôi một hai điều quan trọng. Tôi đã hiểu rằng bầu thế giới của chúng ta không phải xoay trong vòng không gian mà không có mục đích.

    Tôi đã trở lại với thần tượng Sphinx, với một tâm hồn già dặn và sáng suốt hơn. Ở lại ban đêm bên cạnh nó trên đồng cát xứ Ai Cập, tôi ngồi tịnh tọa, hai chân xếp bằng, và cố gắng thiền định để suy gẫm về ý nghĩa huyền bí của hình biểu tượng khổng lồ này.

    Cả thế giới đều biết hình thần tượng Sphinx và nhận ra gương mặt hủy hoại và tàn phá của nó. Điều mà thế giới không hề biết, là bằng cách nào và tự bao giờ nó được tạc ra trong tản đá nhô lên giữa đồng cát, và những bàn tay nào đã biến khối đá hùng vĩ ấy thành một pho tượng khổng lồ như thế.

    Khoa khảo cổ vẫn im lặng, các nhà bác học nghiêng đầu suy nghĩ với một sự hoang mang thầm lặng, vì họ phải gạt bỏ một loạt những giả thuyết mong manh mà từ trước đến nay họ đã từng nêu ra một cách quả quyết và tin tưởng. Họ không dám đưa ra một cái tên nhất định, cũng không dám mạo hiểm ra một ngày giờ chắc chắn. Họ không còn nói rằng thần tượng Sphinx là công trình của vua Khafra hay vua Khoufou, vì họ nhận thấy các tài liệu cổ tạc trên đá đã chứng minh rằng pho tượng đã có sẵn dưới triều đại của các vị vua này. Việc sưu tầm các di tích cổ do những cuộc đào xới phát hiện được, đã đưa ra ánh sáng một bản cổ tự đề cập đến hình thần tượng Sphinx như một công trình điêu khắc mà nguồn gốc đã mất đi trong vực thẳm của thời gian, mà người ta đã tình cờ khám phá ra được sau khi nó đã bị chôn lấp dưới bãi cát sa mạc và hoàn toàn bị lãng quên, không còn ai nhớ đến nữa. Bản cổ tự này xuất xứ từ triều đại thứ tư, gồm những vì vua trị vì xứ Ai Cập cách đây gần sáu nghìn năm. Đối với những vị vua ở vào thời kỳ cổ xưa ấy, hình biểu tượng Sphinx đã là một điều bí hiểm rồi, mà không ai biết có từ lúc nào!

    Ban đêm đem lại giấc ngủ, nhưng từ giờ này qua giờ khác, tôi đã cố gắng đánh lui cơn buồn ngủ. Tuy nhiên, trong khi tôi vẫn tiếp tục cơn thiền định suy tư, đôi mí mắt của tôi đã nặng trĩu do sự phản ứng của cơ thể và tôi đã sắp thiếp đi. Bấy giờ thì có hai mãnh lực tương phản đang kình chống nhau để tranh thủ lấy tôi. Một là sự ước muốn mãnh liệt thức luôn suốt đêm như để chia xẻ phiên gác của con sử tử đá Sphinx. Hai là khuynh hướng để cho tinh thần lẫn thể xác của tôi tự thả trôi theo cái thú vị triền miên giữa cảnh vật trầm lặng và huyền ảo của đêm trường tịch mịch. Sau cùng tôi đã hòa giải được cả hai khuynh hướng đó, theo sự thỏa hiệp này, tôi ngồi lim dim, đôi mắt hé mơ chỉ còn là hai cái khe nhỏ xuyên qua đó tôi hầu như không còn nhìn thấy gì nữa, và thần trí mơ màng nữa tỉnh nữa mê, tôi để cho giòng tư tưởng của tôi đắm chìm trong một giấc mơ huyền diệu.

    Tôi ngồi một lúc như thế, tự trả trôi theo một sự yên tĩnh triền miên nó xảy ra khi tư tưởng chấm dứt. Tôi mơ như thế được bao lâu, tôi cũng không hay biết nhưng sau một lúc tôi không còn nhìn thấy màu sắc gì nữa, mà thay vào đó, một cảnh tượng sống động xảy ra trước mắt tôi như một cuốn phim. Trong cảnh tượng đó, ánh trăng khuya chiếu vào một tia sáng nhạt mờ huyền ảo...

    Chung quanh tôi muôn nghìn gương mặt nắng rám, da sậm đang lăng xăng hoạt động, kẻ tới người lui, kẻ thì đội trên đầu những rổ đá sạn, người thì trèo lên hay bước xuống những giàn tre mỏng manh dựng lên sát cạnh một khối đá khổng lồ. Trong số đó có những người cai truyền khẩu lệnh cho những thợ thuyền, hoặc kiểm soát công việc của những người thợ đá đang sử dụng búa rìu trên ngọn đồi mà họ tạc theo một kiểu mẫu đã vạch sẵn. Những tiếng búa đục của họ giáng xuống liên tiếp vang dội trong bầu không khí chung quanh. Tất cả những người lao công thợ thuyền này điều có một gương mặt dày dạn phong trần, màu da mầu sậm đỏ, hoặc vàng mà hơi sám. Họ có một cái môi trên dày, và thân hình lực lưỡng.

    Công việc của họ vừa xong, thay vì một tảng đá dốc đứng kiên cố hùng vĩ trên mặt đất trước kia, nay đã nhô lên một gương mặt người khổng lồ với thân hình một con sư tử đại quy mô xem ra là một con quái vật dị kỳ đang vươn mình trong một thung lũng lớn giữa đồng cát. Trên đỉnh đầu con quái vật, mà cái bờm vĩ đại dợn sóng phủ phía sau hai mép tai, có đặt một cái dĩa tròn bằng vàng khối.

    Thần tượng Sphinx!

    Những phu thợ đã biến mất. Cảnh vật trở lại lặng im như một nấm mồ vô chủ. Khi đó ta nhìn thấy một biển lớn đang đập sóng trong khoảng không gian bên trái tôi, mà bờ biển chỉ cách đó độ một cây số. Trong cái im lặng đó có một cái gì rùng rợn, tôi cũng chưa kịp hiểu đó là gì cho đến khi từ trong lòng biển đại dương dậy lên mộ tiếng gầm kinh khủng và kéo dài, mặt đất chuyển động và rung rinh dưới chân tôi. Với một tiếng gầm long trời lở đất, nước biển trào lên, một ngọn sóng lớn và cao như vách trường thành từ xa thình lình phóng tới chúng tôi, và nuốt chửng cả con quái vật Sphinx và tôi.

    Cơn đại hồng thủy!

    Lại một cơn im lặng, nó kéo dài được bao lâu, trong khoảng một phút hay là mười hai năm trường, điều đó tôi không định chắc ra được! Rồi bỗng nhiên tôi lại thấy tôi ngồi dưới chân pho tượng đá. Tôi nhìn chung quanh, không còn thấy biển đâu nữa mà chỉ thấy một khoảng rộng lớn đầy những ao đầm đã gần cạn, và rãi rác đó đây những bãi muối rất lớn đang khô dưới ánh mặt trời. Và ngôi mặt trời ngự trị khắp nơi một cách ngạo nghễ, những bãi cát mỗi lúc càng rộng lớn và càng nhiều. Vầng thái dương vẫn thản nhiên phóng những tia nắng đỏ hút cho đến khô ráo những di tích ẩm ước cuối cùng, và biến khoảng không thành một xứ đầy cát mịn và khô, phản chiếu một màu vàng nhạt.

    Bãi sa mạc!

    Thần tượng Sphinx vẫn ngắm nhìn cảnh vật, đôi môi dầy, rắn chắc và nguyên vẹn của nó hình như sắp nở một nụ cười, dường như nó cũng mãn nguyện với sự cô đơn độc chiếc. Thật là một sự hòa hợp tuyệt diệu giữa những con quái vật cô đơn với cảnh vật đìu hiu lặng lẽ của vùng chung quanh. Dường như cái tinh thần đơn độc đã tìm thấy sự thể hiện xứng đáng của nó nơi con quái vật khổng lồ và thản nhiên này.

    Thần tượng Sphinx vẫn nằm giữa đồng cát như thế cho đến khi một đoàn tàu từ xa tiến đến và ngừng lại trên bờ sông, thả lên bờ một nhóm người. Nhóm người này từ từ tiến đến gần, cúi rạp xuống lạy hình thần tượng và thốt ra những lời cầu nguyện đầy vẻ vui tươi an lạc.

    Kể từ ngày ấy, cái im lặng thần tiên đã gián đoạn. Người ta bắt đầu dựng lên những nhà cửa ở vùng thung lũng gần bên, các bậc vua chúa cùng với triều đình và tăng lữ lục tục kéo đến để chầu thần tượng Sphinx, chúa tể của sa mạc và vua không có triều đình!

    Tới đây, cái linh ảnh hiện ra trong trí tôi đã chấm dứt, nó vụt tắt như ngọn lửa rụi tàn của một cái đèn đã hết dầu.

    Gỡ bỏ lời nguyền của xác ướp Tutankhamen

    Quan tài của Tutankhamen được mở ra lần đầu tiên vào năm 1923.

    Các nhà khoa học Australia tuyên bố, không cần phải sợ hãi lời nguyền của vị hoàng đế Ai Cập trẻ tuổi thêm nữa. Vì rằng, tất cả những người quấy rối lăng mộ của Tutankhamen tuy đều đã chết, nhưng họ thọ chẳng kém gì những người chưa từng đặt chân đến nơi an nghỉ vĩnh hằng của ông.

    Tuyên bố này được đưa ra trong một cuộc điều tra mới nhất đăng trên tạp chí British Medical.

    Theo ghi chép của nhà khảo cổ người Anh Howard Carter (người cũng có mặt khi quan tài của Tutankhamen được mở ra vào tháng 2/1923), có 44 người phương Tây ở Ai Cập vào thời điểm đó, trong đó 25 người bị coi là đã tiếp xúc với lời nguyền. Họ là thành viên của đoàn khai quật, nhà báo, các quan chức Anh, thành viên hoàng gia Bỉ, những chức sắc và chuyên gia do chính phủ Ai Cập đề cử hỗ trợ đoàn thám hiểm. Tuy nhiên, tiến sĩ Mark Nelson, Đại học Monash ở Australia, khi phân tích tuổi thọ của những người này, đã phát hiện thấy nhóm động đến "lời nguyền" có tuổi thọ chẳng kém bao nhiêu so với những người không có liên quan.

    Lời nguyền xuất hiện như thế nào?

    Tháng 2/1923, người ta khai quật lăng mộ của Tutankhamen tại Thung lũng của các ông hoàng, gần Luxor, Ai Cập. Lời nguyền xuất hiện và lan truyền khi Lord Carnarvon, người hỗ trợ tài chính cho cuộc thám hiểm, bị chết ngay trong năm sau. Carnarvon, 57 tuổi, mất vì nhiễm độc máu và viêm phổi do các vết muỗi cắn bị nhiễm trùng. Tuy nhiên, báo chí trên thế giới nhanh chóng loan tin rằng đó là do lời nguyền Tutankhamen đã phát huy hiệu lực. Thậm chí cả con chó 3 chân của Carnarvon, do đau buồn vì cái chết của chủ nên thường tru lên những tiếng kêu thảm thiết, cũng bị "buộc tội" là một bóng ma. Lần lượt sau đó, 25 người phương Tây có mặt tại thời điểm mở ngôi mộ đều được xác nhận là đã chết vì những nguyên nhân thần bí, có liên quan đến lời nguyền.

    Vô hiệu hóa lời nguyền

    Tiến sĩ Nelson đã tìm hiểu cuộc sống của tất cả những người này để xem liệu họ có thực là chết trẻ như lời nguyền nói. Ông liệt kê ngày chết của tất cả những người có mặt và 11 người khác không có mặt lúc mở hầm mộ nhưng ở Ai Cập vào thời điểm đó. Nelson phát hiện thấy, tuổi thọ trung bình của 25 người đã đụng phải “lời nguyền” là 70, trong khi tuổi thọ của nhóm kia là 75. Trung bình, 25 người này vẫn sống thêm từ 3 đến 10 năm nữa sau khi đã lĩnh "bản án tử thần" của Tutankhamen. Phát hiện chứng tỏ rằng, "lời nguyền" không có bất cứ ảnh hưởng nào tới tuổi thọ của những người đã chạm đến căn phòng chứa xác ướp của vị hoàng đế danh tiếng.

    “Tôi không tìm thấy bằng chứng nào về sự tồn tại của lời nguyền. Có lẽ sau cùng, giống như với vị hoàng đế trẻ tuổi đáng thương Tutankhamen, người ta nên để cho lời nguyền đó được nằm yên trong dĩ vãng”, tiến sĩ Nelson kết luận

    Lời nguyền - Truyền thuyết hay điều có thật đã được mã hoá

    Liệu những cái chết bí ẩn xung quanh kim tự tháp có liên quan đến lời nguyền?

    Vào thế kỷ 17 và 18, những hầm mộ đầu tiên của các Pharaon bị khai quật. Từ đó, câu chuyện có thật về lời nguyền đã hơn một lần vượt khỏi các kim tự tháp, vang lên điều răn đe khủng khiếp. Người ta nhớ đến vụ cả nước Anh run lên vì cái nắp quách được tìm thấy vào năm 1860, thuộc sở hữu của Viện Bảo tàng Hoàng gia Anh.

    Cái nắp đó lấy lên từ phần mộ của một nữ tu sĩ thời xưa. Khi về Anh quốc, vật phẩm lạ kia đã gieo rắc tai họa cho tất cả những người tiếp xúc với nó. Người chủ sở hữu đầu tiên là ông Douglas Murray. Ông này bị mất hẳn một cánh tay ngay sau khi mua cái nắp bởi một viên đạn phát nổ từ chính khẩu súng của mình. Ít lâu sau, người thứ hai nếm trải sự trừng phạt là một nhà báo ở London. Cô mượn cái nắp về nhà để… xem. Ít ngày sau, mẹ cô đột ngột qua đời, rồi lời hứa hôn bị tan vỡ và cô bị mắc một chứng bệnh nan y bí hiểm, y học thời đó bó tay.

    Nhưng sự trừng phạt vẫn tiếp tục khi ông Murray “cung tiến” cái nắp quỷ quái nọ cho Viện Bảo tàng. Một nhà khoa học về Ai Cập, khi đang xem xét những dòng chữ cổ in trên nắp, bỗng lăn ra chết bất ngờ. Nạn nhân tiếp theo là một nhà nhiếp ảnh. Ông này đột tử sau khi chụp được tấm ảnh làm rõ nét gian ác của khuôn mặt vẽ phía ngoài nắp (mà ai cũng cho là gương mặt hiền lành, khả ái)…

    Tin đồn về sự ghê gớm của cái nắp quách lan nhanh đến nỗi vào thập niên 1930, đồ cúng lễ từ khắp hành tinh tới tấp gửi về Viện bảo tàng Hoàng gia Anh, đặc biệt là các vòng hoa quanh nắp luôn tươi mới. Nhưng nhiều cái chết kỳ lạ và đột ngột vẫn liên tiếp diễn ra ở các điểm khai quật khảo cổ ở Ai Cập và những nơi khác trên thế giới.

    Lời nguyền không chỉ có từ các đồ vật ở mộ phần các Pharaon. Những vị chủ nhân khác cũng có khả năng “tẩm” lời nguyền độc địa vào cái mà họ cảm thấy cần giữ gìn. Thurston Hopkins ghi lại câu chuyện như sau:

    Vào thời Nữ hoàng Victoria, tên sát nhân William Corder đã giết chết tình nhân của hắn tại Polsted (nước Anh) vào khoảng tháng 5/1827. Hắn bị hành hình. 50 năm sau, phần thi thể của tên sát nhân được vị bác sĩ có tên Kilmer cất giữ. Ông là một nhà khoa học có quan điểm rõ ràng đối với hiện tượng kỳ bí. Vị bác sĩ đã tách chiếc sọ của tên giết người, đánh bóng nó và bày “làm cảnh” ở phòng làm việc. Thế rồi điều kỳ lạ xảy ra. Vị bác sĩ và cả cô hầu đều cùng nhìn thấy lúc mơ hồ, lúc rất rõ kẻ lạ mặt đứng trong phòng, vận y phục thời Victoria. Riêng bác sĩ Kilmer còn nghe rõ cả tiếng lẩm bẩm và hơi thở phì phò. Nhiều lần nửa đêm thức giấc, bác sĩ nghe nhiều tiếng động bất bình thường ở căn phòng chứa cái sọ. Một đêm, cơn gió lạnh từ đâu thốc tới, giữa lúc Kilmer bước vào phòng, cái giá đặt sọ rơi vỡ tung, còn sọ tên sát nhân tự dịch chuyển sang vị trí khác và ông thấy nó như cười nhăn nhở (?). Kilmer đã kiểm soát nhà cửa nhưng tịnh không thấy dấu hiệu nào của người lạ hiện diện bên trong. Vị bác sĩ, nhà khoa học, thật sự thảng thốt. Ông đem chiếc sọ Corder trả lại cho cha Thurston Hopkins, ông này đem các thứ ấy chôn cất ở nghĩa địa. Từ đó trở đi, hiện tượng kỳ lạ trong gia thất bác sĩ Kilmer cũng biến mất.

    Chuyện chiếc áo khoác của Nhà hát Công tước York gây ra nỗi khiếp sợ đến lạnh người. Vào năm 1948, Thora Hird, nữ diễn viên hài kịch nổi tiếng đã mặc chiếc áo đó khi trình diễn một vở kịch. Cô kinh hãi khi thấy chiếc áo cứ ngày càng thít chặt vào mình. Tất cả đồng nghiệp của cô cũng gặp nỗi sợ tương tự khi khoác chiếc áo này lên người...

    Phải chăng lời nguyền đã bao phủ lên tai họa trong các câu chuyện trên, hay tai họa có nguyên do từ nỗi khiếp sợ ám ảnh. Câu hỏi vẫn lơ lửng khi người ta ngày càng tìm thấy nhiều bằng chứng kỳ bí ở những vật hiếm hoi, đắt tiền hơn. Viên kim cương “Hy vọng” là điển hình của chuỗi giai thoại theo mô típ ấy: Mở đầu là thảm họa của vị chủ nhân thứ nhất: mất cả người lẫn của. Sau đó tai ương giáng xuống hoàng hậu Marie Antoinette, cũng từ việc sở hữu “Hy vọng”. Tiếp đến, nó liên tiếp reo rắc những vụ tự sát, khuynh gia bại sản cho một loạt những người khác, trong đó có một vị vua Hồi giáo mất ngôi.

    Đi tìm lời giải cho truyền thuyết có thật về lời nguyền, nhiều nhà khoa học đồng tình với ý kiến cho rằng nguyên nhân của những cái chết và cả loạt tai họa bí ẩn trên là do một loại vi khuẩn “chưa biết đến” đang nằm yên trong hầm mộ, tích tụ ngày một nhiều trong các đồ vật. Khi hầm mộ được khai quật, các “quái vật” nhỏ li ti giải phóng khỏi chổ ẩn náu, chúng liền chứng tỏ ngay sức mạnh tàn phá.

    Nhưng vẫn còn nhiều điều bí ẩn chưa biết đến, và liệu lời giải thích bằng loại “vi khuẩn chưa biết đến" này có đủ sức chinh phục những người còn tin vào sự hiện hữu mang vóc dáng thêu dệt của lời nguyền.

    Lời nguyền nơi kim tự tháp Ai Cập

    Một tấm thảm kịch lạ lùng kinh dị cùng diễn ra một lần tại hai nơi rất xa khi con chó của nhà khảo cổ lừng danh Lord Carnarvon bỗng nhiên hốt hoảng tru lên những tiếng hãi hùng rồi lăn ra chết đúng vào lúc người chủ thân yêu của nó là Lord Carnarvon ở cách xa đến hàng ngàn dậm cũng tự nhiên kêu lên một tiếng rồi ngã vật ra trút hơi thở cuối cùng trong một căn phòng của khách sạn ở Cairo, thủ đô Ai Cập.

    Câu chuyện khởi đầu từ ngày 17 tháng 2 năm 1929, khi nhà khảo cổ Lord Carnarvon và đoàn thám hiểm của ông đục phá cửa đá bí mật của Kim Tự Tháp nổi tiếng ở Ai Cập để đột nhập vào ngôi mộ của vua Tutankhamen. Chính ngay ở ngôi mộ cổ này, Howard Carter đã khám phá ra được thêm một kho tàng vô giá vượt ngoài sức tưởng tượng hoặc ước mơ của họ, những đồ vật bằng vàng khối, những bảo thạch, những đồ dát ngọc tập trung nơi chiếc quan tài rực rỡ chứa đựng thi thể vua, nơi đây hai nhà khảo cổ còn tìm thấy được những thứ mà từ lâu họ từng thiết tha mong đợi.

    Щều làm cho kẻ đột nhập ngôi cổ mộ trong thấy trước tiên có lẽ là hàng chữ khắc trong vách đá, hàng chữ mà nội dung là cả một lời nguyền đầy vẻ cảnh cáo hăm dọa: "Kẻ nào làm quấy động giấc ngủ của Pharaon (vua Ai Cập) đều phải chết!"

    Không ai có thể ngờ được, nhất là đối với nhà khoa học, dòng chữ khắc trên đá ấy lại là cả một lời nguyền với sức mạnh siêu linh huyền bí tác động lên những ai dám mạo hiểm đột nhập vào ngôi cổ mộ của vua Ai Cập.

    Về sau, những người dấn thân vào việc khám phá Kim Tự Tháp và đến bên áo quan của vua Tutankhamen đều lần lượt trả giá rất đắt.

    Trước tiên là nhà khảo cổ Lord Carnarvon, một hôm đang ngủ trong căn phòng của khách sạn Continental thì bỗng nhiên thức dậy nói lẩm bẩm như người ngủ mê:

    - Tôi cảm thấy thích chốn địa ngục.

    Vừa lúc đó con trai của ông chạy vào lo lắng hỏi han, nhưng nhà khảo cổ vẫn lẫm bẩm câu nói quái gỡ ấy và ngớ ngẩn như chẳng còn biết gì ở chung quanh. Ѓ?m đó, ông trút hơi thở cuối cùng. Cùng thời điểm ấy, con chó nhà ông tru lên từng hơi... Sau đó không lâu tại khách sạn này, nơi trú của một nhà khảo cổ quan sát về Kim Tự Tháp Ai Cập lại xảy ra một thảm kịch nữa, nhà khảo cổ Mỹ là Arthur Mace tự nhiên kêu van là mệt mỏi rồi bất thình lình vùng dậy tất tả đi về hướng Kim Tự Tháp và đòi vào thăm cho được chiếc quan tài của vua Ai Cập Tutankhamen lần nữa mặc dù đêm đã khuya. Thế rồi, Arthur Mace nấc lên và chết. Các bác sĩ không tìm được nguyên nhân của cái chết của nhà khảo cổ này.

    Mọi người chưa dứt sự bàng hoàng về cái chết lạ kỳ trên thì George Gould, bạn của nhà khảo cổ Carnarvon (người đã vào tận hầm mộ của vua Ai Cập trong Kim Tự Tháp và đã chứng kiến tận mắt xác thân và gương mặt của nhà vua) bỗng nhiên lên cơn sốt dữ dội và chết sau một đêm không chợp mắt. Tiếp đến, Reid, người đã chiếu tia X qua xác ướp của vua Tutankhamen để mong khám phá những điều mới lạ đã chết một cách đột ngột.

    Rồi điều kinh dị khác xảy ra; người thư ký của nhà khảo cổ Carnarvon (đã theo ông ta bất cứ nơi đâu trong các cuộc khảo sát Kim Tự Tháp) được phát giác là đã chết khi đang nằm trên giường ngủ, theo bác sĩ khám nghiệm thì người thư ký này chết vì chứng trụy tim.

    Chưa hết, nhà tư bản công nghiệp Anh là Joel Wool, một trong những người đào hầm mộ của vua Tutankhamen cũng tự nhiên chết sau một cơn sốt lạ kỳ.

    Tính kỹ lại thì chỉ trong vòng có 6 năm sau cuộc khai mở canh cửa bí mật nơi Kim Tự Tháp của đoàn khảo cổ để vào tận mộ của vua Ai Cập , đã có 12 người chết một cách bí mật dị kỳ.

    Một Đêm Với Thần Tượng Sphinx

    Người du khách cuối cùng đã về; người hướng dẫn viên cuối cùng đã lập lại đến cả ngàn lần những điều hiểu biết của mình để giới thiệu cho du khách ngoại quốc về xứ cổ Ai Cập. Một bầy lừa mệt mỏi và đàn lạc đà bất kham đã lần bước chậm chạp trên đường về, với những du khách cuối cùng trong ngày.

    Trong khung cảnh xứ Ai Cập, bóng hoàng hôn có một vẻ đẹp siêu nhiên và khó quên. Mọi vật đều khoe màu đổi sắc, giữa khoảng trời đất bao la nổi bật lên những khoảng tương phản lạ lùng.

    Tôi còn ngồi lại một mình trên bãi cát vàng, đối diện với pho tượng Sphinx hùng vĩ oai nghiêm tuyệt trần. Tôi nhìn một cách say mê cái cảnh tượng những màu sắc mỏng manh như sương phai mờ dần một cách nhẹ nhàng, trong khi mặt trời lặng đã cất đi những ánh vàng lộng lẫy trên nền trời Ai Cập. Những ánh lửa diệu huyền, nét huy hoàng tuyệt đối mà mặt trời lặn của châu Phi còn bỏ sót lại trong không gian, có ai tiếp nhận bức thông điệp thiêng liêng của trời mà không cảm giác được trong giây lát cái phút lạc lõng của cõi Thiên Đàng? Niềm phúc lạc đó sẽ còn tồn tại khi con người chưa đến quá nỗi trụy lạc trong vòng trần gian ô trược, trong sự sa đọa tâm linh, nó sẽ tồn tại khi con người còn biết yêu vần Thái Dương nầy là nguồn góc của sự sống và của bao nhiêu màu sắc huy hoàng lộng lẫy xuất hiện trước mắt ta. Cổ nhân xứ Ai Cập thật ra đã không kém minh triết khi họ tôn thờ Râ, biểu tượng ngôi mặt trời, mà trong thâm tâm họ coi như một vị Thần...

    Trong bối cảnh hoàng hôn Ai Cập, dưới một nền trời xám ngắt đã tối mờ dần, tôi nhìn pho tượng đá Sphinx mỗi lúc càng sậm màu, cho đến khi những tia nắng vàng sậm cuối cùng đã tắt hẳn và không còn chiếu vào gương mặt lạnh lùng bí hiểm của nó nữa. Hình thần tượng Sphinx nhô lên giữa bãi sa mạc mênh mông gương mặt khổng lồ, than hình nằm duỗi ra, trải qua nhiều thế hệ đã từng gây sự sợ hãi cho những người Ả Rập dị đoan, và làm ngạc nhiên những người du khách hoài nghi, mà bằng chứng là những câu hỏi từ người lữ khách, lần đầu tiên con quái vật khổng lồ xuất hiện trước đôi mắt kinh ngạc của họ. Pho tượng đá bí hiểm mình sư tử đầu người này có một sức hấp dẫn rất lạ lùng và phức tạp đối với bao nhiêu thế hệ du khách. Nó là một sự bí mật đối với người Ai cập, và một bài toán bí hiểm cho toàn thế giới. Ai đã điêu khắc ra nó? Vào thời đại nào? Không ai biết được. Nhà Ai Cập học chuyên môn nhất cũng chỉ đưa ra những giả thuyết vu vơ về ý nghĩa và lịch sử của hình thần tượng Sphinx.

    Dưới ánh sáng le lói cuối cùng của một ngày đã tàn, đôi mắt tôi ngừng lại trên đôi mắt bằng đá của pho tượng thản nhiên bất động. Nó đã từng thấy hằng bao nhiêu là tỷ ức người lần lượt đến trước mặt nó, với những cái nhìn im lặng, đưa ra những câu hỏi không lời và không giải đáp, rồi bước chân ra về trong sự hoang mang! Nó đã từng thản nhiên lặng nhìn châu Atlantide bị tràn ngập dưới cơn đại hồng thủy và biến mất dưới lòng biển sâu. Cái nụ cười thoảng qua của nó đã từng chứng hiến công trình vĩ đại của vua Mena, vị Quốc Vương Ai Cập đầu tiên đã đổi dòng sông Nile yêu quý của người Ai Cập và bắt nó chảy qua một đường hướng khác. Cái nhìn im lặng đượm mùi mến tiếc của nó đã từng thấy nhà tiên tri Moise, nghiêm cẩn và ít nói, từ giả nó lần cuối cùng. Câm lặng và đau thương, nó đã nhìn thấy những nỗi đau khổ của xứ Ai Cập bị tàn phá, suy vong sau cuộc xâm lăng của vị bạo chúa Cambyse, hoàng đế nước Ba Tư. Có lẻ vừa thích thú vừa khinh bỉ, nó từng nhìn thấy nữ hoàng Cléopâtre đẹp lộng lẫy và kiêu hãnh trong chiếc thuyền rồng mũi trạm vàng, buồm may bằng nhung đỏ thắm và mái chèo đúc bằng bạc. Nó từng sung xướng nhìn thấy đức Jesu trên đường đi tìm đạo lý phương đông để chuẩn bị chờ ngày thi hành sứ mạng, ngày mà đức Chúa Cha gửi Ngài đi truyền bá cho thế gian một thông điệp thiêng liêng về đức nhân từ bác ái. Như một kẻ báo hiệu không lời, biểu tượng Sphinx chào mừng Bonaparte, khí cụ của định mệnh các nước Châu Âu, trước khi tên Mã Phá luân nổi bật làm lu mờ những tên khác, và ngay khi ông ta hãy còn là một nhân vật chưa tên tuổi, chưa đặt chân xuống chuyến thuyền Bellérophon để sang chinh phục xứ Ai Cập. Nó cũng nhìn thấy, với ít nhiều bi ai, toàn thể thế giới chú ý đến Ai Cập khi ngôi lăng tẩm của một vị Pharaon, vua Ai Cập thời cổ bị khai quật lên để cho người đời tọc mạch nhìn xem xác ướp của vua với những đồ ngọc ngà châu báu.

    Thật vậy, đôi mắt bằng đá của pho tượng đã từng chứng kiến những điều đó và nhiều điều khác nữa. Nhưng bây giờ nó nhìn thấy gì? Không màng để ý kẻ thế nhân phàm tục đang bôn tẩu trên đường danh lợi, thản nhiên trước nỗi sung sướng, khổ đau của nhân loại, hình như biết rõ cái định mệnh đã ghi sẵn tất cả mọi biến cố lớn của trần gian, đôi mắt bằng đá kia nhìn thẳng vào cõi vô cùng...

    Hình thần tượng Sphinx đã chuyển màu xám sang màu đen, rồi một màu đen như mực, nền trời đã mất cái nét xám bạc của lúc ban chiều, tất cả điều đắm chìm trong đêm tối, chúa tể của sa mạc. Nhưng pho tượng vẫn còn hấp dẫn sự chú ý của tôi và làm cho tôi bị thu hút như do mãnh lực của một luồn từ điện vô hình. Đó là vì tôi cảm thấy rằng màn đêm rủ xuống đã đem pho tượng trở về nguyên quán của nó. Cái bối cảnh đen âm u, đó mới đúng là cái bối cảnh thực sự của nó. Những gì là thần bí của một đêm Châu Phi tạo cho nó một bầu không khí thích nghi. Cũng trong những giờ ban đêm mà Râ và Horus, Isis và Osiris, những vị Thần Linh của xứ cổ Ai Cập, luôn luôn trở về với nhân gian. Tôi nhất định đợi lúc trăng lên và sao mọc để nhìn thấy một lần nữa cái chân tướng của hình thần tượng Sphinx. Tôi ngồi một mình giữa đóng cát bao la, nhưng tôi không cảm thấy cô đơn, thật vậy, cảm giác cô đơn hiu quạnh không thẻ nào có được với tôi.

    Ban đêm, tôi có thể ngắm nhìn thần tượng Sphinx dưới cái khía cạnh mà ít người du khách được nhìn thấy. Tạc trong khối đá, in trên nền trời xanh như chàm, cao bằng một ngôi nhà lầu bốn tầng, con sư tử đầu người khổng lồ vươmình nằm dài trong thung lũng của đồng cát. Dưới ánh trăng sao vừa lố dạng, những nét hùng vĩ của nó hiện rõ lần lần. Đó là cái biểu tượng lạ lùng của một xứ Ai Cập mà nguồn gốc bí ẩn được truy nguyên đến những thời đại xa xăm vô định. Giống như con vật nằm canh gát những bí mật của thời tiền sử, nghĩ đến những thế hệ của châu Atlantide mà ký ức mong manh của người đời không còn nhớ đến nữa, pho tượng đá khổng lồ chắc cũng sẽ còn tồn tại mãi qua mọi thế hệ văn minh của loài người hiện nay, và nó cũng sẽ giữ nguyên vẹn không hề tiết lộ sự bí mật nội tâm của nó. Gương mặt khắc khổ và uy nghiêm của nó không phản ánh một điều gì, đôi môi khép chặt của nó vẫn giữ một sự im lặng muôn đời. Nếu pho tượng Sphinx có giữ gìn cho nhân loại một thông điệp ẩn dấu nào mà nó đã chuyển đạt qua nhiều thế kỷ cho một số rất ít người hữu hạnh có một năng khiếu linh cảm khác thường, thì điều bí mật đó có khi sẽ được nhắn nhủ thầm bên tai của người thí sinh tầm đạo.

    Đêm tối dành cho hình thần tượng Sphinx một khung cảnh tuyệt hảo. Ở phía sau, bên mặt và bên trái pho tượng là "Thành phố của người chết," một khoảng đất rộng dẫy đầy những nấm mộ hoang cùng lăng tẩm.

    Chung quanh vùng cao nguyên lởm chởm những núi đồi và đá tảng nhô lên từ dưới đồng cát ở phía nam, phía tây và phía bắc pho tượng Sphinx, những lăng tẩm và mồ mả được xây cất chứa những cổ quan tài đựng hài cốt và những xác ướp của những vị vua chúa, các vị đại thần và chức sắc của triều đình hay tôn giáo của xứ Ai Cập thời cổ.

    Không có một ngôi lăng tẩm nào mà khi bước vào mà người ta không thấy cỗ quan tài bật nắp ra và những đồ vàng ngọc châu báo tô điểm xác ướp đã bị lấy đi mất. Sự cướp bóc này đã xảy ra cùng lúc với sự khai quật những nấm mồ trong những cuộc đào xới để khảo cổ. Người ta chỉ lại tại chỗ những pho tượng nhỏ và những bình, vại chứa đựng ruột gan của những xác chết đã đem ướp bằng chất hương liệu. Ngay ở xứ Ai Cập thời cổ cũng đã có những kẻ trộm đào mồ, khi dân chúng nổi loạn chống giai cấp thống trị càng ngày càng trở nên suy tàn, họ trả thù bằng cách khai quật mồ mả và cướp bóc nơi nghĩa trang rộng lớn của nhà vua, tại đây những vị đại thần được cái vinh dự yên nghĩ giấc nghìn thu bên cạnh xác ướp của các bậc vua chúa mà họ đã phụng sự từ thuở sinh tiền.

    Một số ít những người chết mà xác ướp thoát khỏi bàn tay cướp bóc của những kẻ trộm đầu tiên, đã nằm yên nghỉ trong một thời gian khá lâu cho đến khi người Hy Lạp, người La Mã và người Ả Rập lần lượt thay phiên nhau đến đánh thức họ. Những ngôi mộ, lăng tẩm nào thoát khỏi cướp bóc và khai quật trong những cuộc biến cố sau này, được yên nghỉ thêm một thời gian khá lâu nữa cho đến đầu thế kỷ mười chín, khi các nhà khảo cổ hiện đại ra công thám hiểm dưới lòng đất của xứ Ai Cập để tìm kiếm những gì mà kẻ trộm thời xưa còn sót lại chưa lấy đi. Như thế há phải chẳng tội nghiệp cho những bậc vua chúa, vương hầu bất hạnh của thời xưa, tuy xác ướp họ còn nằm đó, mà bị người ta khai quật mồ mả và cướp bóc kho tàng? Dầu cho những xác ướp của họ không bị dập tan ra từng mảnh do bàn tay bạo tàn của những kẻ trộm báu vật, thì những xác ướp đó cũng đã bị giam cầm cho nằm yên nghỉ trong những cổ tàng viện để làm thỏa mãn sự tò mò và làm mụch tiêu dị nghị bình phẩm của mọi người.

    Đó là cái bối cảnh rùng rợn của thần tượng Sphinx khi nó vươn mình và nhô đầu dậy trong cô đơn tịch mịch giữa đồng cát. Nó đã từng quan sát những hầm tối trong "Thành phố của xác chết," lần lượt bị sự cướp bóc của người dân Ai Cập nổi loạn và quân xâm lăng Ả Rập. Vị quản thủ đồ cổ Ai Cập tại bảo tàng viện British Museum là ông Wallis Budge không làm ai ngạc nhiên khi ông đi đến kết luận rằng: "Thần tượng Sphinx là để đuổi tà ma ra khỏi những nghĩa địa và lăng tẩm ở vùng chung quanh." Cũng không ai ngạc nhiên mà thấy rằng ba ngàn bốn trăm năm trước, vua Thoutmès thứ tư của Ai Cập có cho khắc vào một tảng đá lớn mà ông đặt ngay trước ngực tượng Sphinx, hàng chữ: "Một sự bí mật linh thiêng đã từng bao phủ vùng này từ lúc sơ khởi, vì gương mặt của pho tượng Sphinx là một biểu tượng của thần Khepera, vị thần của sự Bất Tử, chủ tể các vị thần linh và ngự trị vùng này. Dân chúng ở thành Memphis và ở khắp địa phương cùng đưa tay lên để cầu nguyện trước mặt Ngài".

    Như vậy không ai còn lạ gì mà thấy dân Ả Rập ở làng Gizeh gần bên có nhiều truyền thống rất dồi dào về những chuyện vong linh và âm hồn thường lởn vởn ban đêm trong bầu không khí chung quanh hình thần tượng Sphinx, một nơi họ cho rằng có nhiều ma nhất thế giới! Phải chăng bằng cách ướp xác những nhân vật quyền quý của thời xưa, người cổAi Cập đã kéo dài trong một thời gian vô hạn định sự tiếp xúc giữa những vong linh thời cổ với nhân loại chúng ta ngày nay?

    Quả thật ban đêm là lúc mà người ta có thể ngắm nhìn thần tượng Sphinx một cách thú vị nhất. Vì dường như ban đêm là lúc mà cõi giới âm linh có vẻ gần gủi với ta hơn, tâm hồn ta sẵn sàng mở rộng đối với những cảm giác bất ngờ, trong khi ở chung quanh ta, dưới màn đêm bao phủ, thậm chí những hình thể vật chất thô kệch cũng thoát lấy một vẻ mờ ảo u huyền. Màn trời ban đêm đã trở thành màu chàm pha lẫn màu đỏ thắm, một thứ màu thần bí phù hạp với sự tìm tòi thám hiểm của tôi.

    Đêm tối kéo dài một cách từ từ êm ả và câm lặng như một con heo, nếu người ta không để ý đến những tiếng rú rùn rợn giống như tiếng người của vài con beo đốm trong sa mạc, là những tiếng động duy nhất điểm giờ khắc trôi qua. Chúng tôi vẫn ngồi đó, thần tượng Sphinx và tôi, dưới ánh sao vằng vặc của nền trời Châu Phi, sự giao cảm giữa chúng tôi mỗi lúc càng thêm sâu đậm; từ sự quen biết nhau, chúng tôi tiến đến tình bạn, có lẽ chúng tôi bắt đầu hiểu nhau ít nhiều.

    Khi tôi đến với nó lần đầu cách đây vài năm, nó nhìn ra chỗ khác, yên lặng và khinh ngạo. Khi ấy tôi là gì đối với con vật khổng lồ này, nếu không phải là một kẻ phàm tục như bao nhiêu kẻ khác, là những sinh vật náo động đi bằng hai chân, làm bằng những chất liệu kiêu căng, tự mãn, những dục vọng phù phiếm và những tư tưởng điên rồ? Về phần tôi, tôi đã tưởng nó là biễu tượng của một chân lý mà chưa ai tìm ra, một biểu tượng khổng lồ bí hiểm mà mọi lời cầu nguyện không được giải đáp và rốt cuộc chỉ rơi vào khoảng hư vô. Tôi đã bước ra về, hoài nghi và thất vọnh hơn trước, chán nản cõi trần gian tục lụy và lòng tràn ngập những nỗi niềm cay đắng.

    Nhưng đó không phải là vô ích mà ngày tháng đã trôi qua. Cuộc đời: đó là sự giáo dục tâm linh và thầy học của chúng ta.

    Vị thầy học vô hình ấy đã dạy tôi một hai điều quan trọng. Tôi đã hiểu rằng bầu thế giới của chúng ta không phải xoay trong vòng không gian mà không có mục đích.

    Tôi đã trở lại với thần tượng Sphinx, với một tâm hồn già dặn và sáng suốt hơn. Ở lại ban đêm bên cạnh nó trên đồng cát xứ Ai Cập, tôi ngồi tịnh tọa, hai chân xếp bằng, và cố gắng thiền định để suy gẫm về ý nghĩa huyền bí của hình biểu tượng khổng lồ này.

    Cả thế giới đều biết hình thần tượng Sphinx và nhận ra gương mặt hủy hoại và tàn phá của nó. Điều mà thế giới không hề biết, là bằng cách nào và tự bao giờ nó được tạc ra trong tản đá nhô lên giữa đồng cát, và những bàn tay nào đã biến khối đá hùng vĩ ấy thành một pho tượng khổng lồ như thế.

    Khoa khảo cổ vẫn im lặng, các nhà bác học nghiêng đầu suy nghĩ với một sự hoang mang thầm lặng, vì họ phải gạt bỏ một loạt những giả thuyết mong manh mà từ trước đến nay họ đã từng nêu ra một cách quả quyết và tin tưởng. Họ không dám đưa ra một cái tên nhất định, cũng không dám mạo hiểm ra một ngày giờ chắc chắn. Họ không còn nói rằng thần tượng Sphinx là công trình của vua Khafra hay vua Khoufou, vì họ nhận thấy các tài liệu cổ tạc trên đá đã chứng minh rằng pho tượng đã có sẵn dưới triều đại của các vị vua này. Việc sưu tầm các di tích cổ do những cuộc đào xới phát hiện được, đã đưa ra ánh sáng một bản cổ tự đề cập đến hình thần tượng Sphinx như một công trình điêu khắc mà nguồn gốc đã mất đi trong vực thẳm của thời gian, mà người ta đã tình cờ khám phá ra được sau khi nó đã bị chôn lấp dưới bãi cát sa mạc và hoàn toàn bị lãng quên, không còn ai nhớ đến nữa. Bản cổ tự này xuất xứ từ triều đại thứ tư, gồm những vì vua trị vì xứ Ai Cập cách đây gần sáu nghìn năm. Đối với những vị vua ở vào thời kỳ cổ xưa ấy, hình biểu tượng Sphinx đã là một điều bí hiểm rồi, mà không ai biết có từ lúc nào!

    Ban đêm đem lại giấc ngủ, nhưng từ giờ này qua giờ khác, tôi đã cố gắng đánh lui cơn buồn ngủ. Tuy nhiên, trong khi tôi vẫn tiếp tục cơn thiền định suy tư, đôi mí mắt của tôi đã nặng trĩu do sự phản ứng của cơ thể và tôi đã sắp thiếp đi. Bấy giờ thì có hai mãnh lực tương phản đang kình chống nhau để tranh thủ lấy tôi. Một là sự ước muốn mãnh liệt thức luôn suốt đêm như để chia xẻ phiên gác của con sử tử đá Sphinx. Hai là khuynh hướng để cho tinh thần lẫn thể xác của tôi tự thả trôi theo cái thú vị triền miên giữa cảnh vật trầm lặng và huyền ảo của đêm trường tịch mịch. Sau cùng tôi đã hòa giải được cả hai khuynh hướng đó, theo sự thỏa hiệp này, tôi ngồi lim dim, đôi mắt hé mơ chỉ còn là hai cái khe nhỏ xuyên qua đó tôi hầu như không còn nhìn thấy gì nữa, và thần trí mơ màng nữa tỉnh nữa mê, tôi để cho giòng tư tưởng của tôi đắm chìm trong một giấc mơ huyền diệu.

    Tôi ngồi một lúc như thế, tự trả trôi theo một sự yên tĩnh triền miên nó xảy ra khi tư tưởng chấm dứt. Tôi mơ như thế được bao lâu, tôi cũng không hay biết nhưng sau một lúc tôi không còn nhìn thấy màu sắc gì nữa, mà thay vào đó, một cảnh tượng sống động xảy ra trước mắt tôi như một cuốn phim. Trong cảnh tượng đó, ánh trăng khuya chiếu vào một tia sáng nhạt mờ huyền ảo...

    Chung quanh tôi muôn nghìn gương mặt nắng rám, da sậm đang lăng xăng hoạt động, kẻ tới người lui, kẻ thì đội trên đầu những rổ đá sạn, người thì trèo lên hay bước xuống những giàn tre mỏng manh dựng lên sát cạnh một khối đá khổng lồ. Trong số đó có những người cai truyền khẩu lệnh cho những thợ thuyền, hoặc kiểm soát công việc của những người thợ đá đang sử dụng búa

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro