Con Đường Của Người Đệ Tử

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

ANNIE BESANT

CON ĐƯỜNG CỦA NGƯỜI ĐỆ TỬ

Dịch giả Cao thị Lan

Đánh máy  Như Khuê Tiểu Hoa Nhi

CON ĐƯỜNG CỦA NGƯỜI ĐỆ TỬ

MỤC LỤC

đầu sách  cuối sách  chương 1 2 3 4

Bài tựa của dịch giả H. Demergian

Bài tựa của dịch giả Cao Thị Lan

1- Những bước đầu tiên

Con Đường hành động

Phép tin luyện

…………..

2- Những đức tính cần thiết

Kiểm soát tư tưởng

Tham thiền

Lập hạnh

…………………….

3- Đời sống của người đệ tử

Con đường nhập môn

Bốn bực điểm đạo

…………………..

4- Sự tiến bộ vi lai của Nhân Loại

BÀI TỰA CỦA DỊCH GIẢ H. DEMIRGIAN

Từ Anh Văn ra Pháp văn

.

Trong số những bài diễn văn rất nhiều và rất bổ ích mà thế gian đã thọ lãnh của bà Annie Besant nhờ năng lực vô biên và sự tận tâm tuyệt đối của bà trong sự hoàn thành cái nhiệm vụ cao cả mà vì đó bà đã hy sinh đời bà, có lẽ không có những bài nào đáng chú ý và có ích cho người học Đạo hơn là bốn bài thuyết trình tại Adyar năm 1895, nhân dịp lễ kỷ niệm năm thứ 20 của ngày thành lập Hội Thông Thiên Học và được gom lại thành một quyển sách với nhan đề là "CON ĐƯỜNG CỦA NGƯỜI ĐỆ TỬ" (The Path of Discipleship).

Những bài thuyết pháp cao siêu này đã gây cho chúng tôi một sự xúc cảm sâu xa và lành mạnh khiến chúng tôi đã không ngần ngại dịch ra Pháp văn, hy vọng rằng một ngày kia sẽ in được ra thành sách để những đồng bào không quen đọc Anh văn có thể được hưởng thụ được những kho tàng quý báu vô giá chứa đựng trong những bài này.

Xin quý vị độc giả nhớ cho rằng những bài này được thuyết trình trước một cử tọa Ấn Độ.

Như vậy, người ta sẽ không thể ngạc nhiên về quan niệm mà bà Annie Besant tự chọn cũng như về những từ ngữ tiếng Phạn rải rác trong bài diễn văn.

H. DEMIRGIAN

___________________

BÀI TỰA

Của

dịch giả Cao Thị Lan từ Pháp Văn ra Việt Văn

Cũng vì những lý lẽ mới kể ra trên đây và để giúp ích cho đồng bào, chư thiên tín không quen thuộc với Anh Văn và Pháp Văn, chúng tôi cố dịch quyển này ra Việt Văn. Xin độc giả thứ cho những câu dịch không được suông sẻ, đó chỉ tại Anh Văn và Pháp Văn có những điều và những biệt ngữ dịch ngay ra Việt Văn thì nghe rất chướng tai. Chúng tôi phải cố gắng châm chước thế nào cho:

1-

Không mất ý nghĩa câu văn của diễn giả,

2-

Mà cũng không mất cách hành văn của người Việt.

Cao Thi Lan

--------------------------------------------------------

I

NHỮNG BƯỚC ĐẦU TIÊN

đầu sách  cuối sách  chương 1 2 3 4

Con đường hành động- Phép tinh luyện

Thưa quý huynh,

Hai năm trước đây, cũng tại giảng đường này tôi đã xin quý huynh chú ý đến sự tạo lập Vũ trụ một cách khái quát, đến những giai đoạn tấn hóa của nó, và những phương pháp được áp dụng trong sự tiếp diễn đại quy mô của những hiện tượng. Năm ngoái, tôi đã thuyết trình về sự tiến hóa của Chơn linh, cái Chơn linh trong con người hơn là cái Chơn linh nơi Vũ trụ, và tôi đã cố gắng diễn giải cho quý huynh rõ Chơn linh đã thu góp kinh nghiệm như thế nào xuyên qua các thể của nó để rốt ráo làm chủ hoàn toàn được những thể thấp của mình(1).

[i]

Đối với con người cũng như đối với Vũ trụ, đối với cá nhân cũng như đối với càn khôn, mục đích chỉ có một: ấy là một sự cố gắng bền bỉ để hợp nhất với Chơn linh, tức phản bổn hoàn nguyên vậy. Tuy nhiên, thỉnh thoảng người ta có nói với tôi, trong những cuộc thảo luận về những đề tài cao cả này rằng:

Cái đó có liên quan gì với kiếp sống của con người tại thế gian này, trong khi con người bị chia phối bởi những nhu cầu của đời sống hằng ngày, những náo động quay cuồng của hiện tượng giới làm cho con người không thể có một tư tưởng nào về Chơn linh, vì luôn luôn bị nghiệp quả lôi cuốn vào mọi nghành hoạt động của thế gian? Có một

sự liên quan nào giữa giáo lý cao siêu với đời sống của con người, và do cách nào con người giữa thế gian này có thể tiến lên khá cao để thực hiện được một đời sống tinh thần siêu việt?”

Năm nay tôi cố gắng giải đáp câu hỏi này.

Tôi sẽ ráng giải nghĩa cho quý huynh hiểu bằng cách nào một người ở thế gian này, bị bó buộc trong những phận sự gia đình, những bổn phận xã hội và vô số hoạt động của đời sống, có thể tự chuẩn bị cuộc đời tu hành và đặt những bước đầu tiên trên con đừng Đạo Duy Nhất Vô Thượng. Tôi sẽ ráng tả cùng quý huynh những sự tiến bộ phải thực hiện trên con đường này, tôi bắt đầu bằng đời sống của bất cứ một người nào đó, tôi đi từ cái vị trí của đa số quý huynh hiện giờ, như thế quý huynh có thể nhận định được rằng có một mục đích phải đạt cho được, có một con đường phải đi qua- con đường nầy có khởi điểm, nơi đây, ở trong đời sống gia đình, đời sống xã hội, quốc gia, và cái mục phiêu của nó ở một nơi xa xăm không ai tưởng tượng nổi; con đường nầy sau rốt sẽ dẫn người lữ khách đến nơi trú ngụ vĩnh viễn của y. Đó là mục đích của bốn buổi thuyết pháp này, đó là những nấc thang mà tôi chắc chắn rằng quý huynh sẽ vui lòng trèo lên với tôi.

Để hiểu rõ đề tài, chúng ta hãy xem xét một cách nhanh chóng quá trình của cơ tiến hóa, ý nghĩa và mục đích của nó để cho cái nhìn ngay thẳng về tổng quát khiến ta có thể thưởng thức được đề tài và hiểu được sự thích

nghi của con đường thẳng tiến mà chúng ta sắp bước theo từng bước một.

Chúng ta nhận thức rằng cái Duy Nhất biểu lộ ra thiên hình vạn trạng. Chúng ta hãy nhìn lại dĩ vãng và xem những cõi u minh nguyên thủy bao trùm vạn vật; chúng ta sẽ nghe như một tiếng thì thầm từ những cõi u minh ấy vọng ra.”Ta sẽ tự sinh sôi nẩy nở”. Sự biểu lộ thành thiên hình vạn trạng ấy chính là sự tạo lập vũ trụ cùng những sinh vật sống trên đó. Trong cái ý chí tự sinh sôi nảy nở này, do “Đấng Độc Nhất Vô Nhị” biểu lộ ra, chúng ta trông thấy nguồn cội của mọi sự biểu hiện, và như thế chúng ta nhận biết được cái mầm nguyên thủy của Vũ Trụ Càn Khôn.

Và khi mà chúng ta hiểu rằng Vũ Trụ đã khởi nguyên bằng cách nào, khi mà chúng ta nhận định được cài phức tạp và cái hằng hà sa số nảy sinh từ cái đơn thuần và cái duy nhất nguyên thủy, chúng ta sẽ hiểu được rằng mỗi sự biểu lộ trong hiện tượng giới đều có tính cách bất toàn, và nội cái việc mà một hiện tượng chỉ có thể phát sinh với điều kiện bị giới hạn, cũng đủ là một bằng cớ hiển nhiên để chứng minh rằng cái hiện tượng ấy còn thấp kém hơn Đấng Duy Nhất và lẽ cố nhiên nó không được hoàn hảo. Điếu ấy làm cho ta hiểu lý do của biến tính và đặc tính hằng hà sa số người và vật. Lúc đó, chúng ta mới bắt đầu hiểu rằng sự hoàn thiện của Vũ trụ hữu hình là do chính ở cái sự biến dị ấy; rằng ở chỗ nào không những chỉ có Đấng Duy Nhất mà còn có cái gì thêm nữa, thì cái hằng hà sa số ấy là cần thiết để Đấng Duy Nhất cũng giống như một vầng Thái Dương mãnh liệt ban rải những ánh sáng huy hoàng ra mọi phía, có thể ban rải chúng khắp mọi nơi, và chính sự hoàn thiện và sự quang minh của thế gian ngự trị trong sự tổng hợp của tất cả những tia sáng ấy. Những sự vật càng nhiều, càng đẹp đẽ và càng khác nhau thì cái phản ảnh của Đấng Duy Nhất trong Vũ trụ của Ngài sinh ra càng rõ rệt, tuy rằng vẫn luôn luôn chưa được hoàn thiện.

Sự cố gắng đầu tiên của cơ tiến hóa - là tạo ra nhiều mạng sống riêng biệt- ít ra riêng biệt về bề ngoài- để khi nhìn từ ngoại cảnh, chúng nó có vẻ đông đúc, nhưng nếu nhận xét về tinh hoa của chúng thì chúng ta thấy rằng cái Chơn linh của mọi vật thì chỉ là Một. Khi chúng ta nhận định được điều nầy, chúng ta hiểu rằng trong khi nhập thế nhiều lần, cá nhân tự biểu lộ như là một phản ảnh chiếu yếu ớt và bất hoàn hảo của Chơn linh. Chúng ta cũng bắt đấu hiểu rằng Vũ trụ nầy sẽ đi đến đâu, tại sao sự tiến hóa của vô số cá nhân ấy lại cần thiết, tại sao sự chia rẽ khác biệt ấy lại đóng một vai trò khẩn yếu trong sự tiến hóa của toàn thể. Quả vậy, chúng ta hiểu rằng Vũ trụ nầy phải có mục đích đào tạo vị Thượng Đế của một Vũ trụ khác, những vị Đại Thiên Thần, hướng dẫn mọi quyền lực của Vũ trụ nấy, cùng các vị Thánh Sư có bổn phận giáo hóa nhân loại sơ sinh trên Vũ trụ mới đó. Tất cả những thế giới nấy đây, những sinh vật bây giờ đều theo một triều lưu tiến hóa vững chắc và bất biến, do đó mỗi Vũ trụ mới có thể chu cấp cho mỗi Vũ trụ tương lai vị Thượng Đế, các Thiên Thần, các vị Bàn Cổ Đầu Tiên, cùng tất cả các Đấng Cao Cả có oai lực cần thiết để xây dựng, cấu tạo, quản trị và giáo huấn cái Vũ trụ chưa nảy sanh đó.

Như thế, các Vũ trụ đều liên lạc với nhau, những Đại Kiếp ( Manvantara) nối tiếp nhau, những kết quả thâu nhập được ở Vũ trụ này sẽ dùng làm hạt giống cho Vũ trụ sinh sau. Ở trong đám hằng hà sa số ấy có một đơn vị rộng lớn hơn đang tiến hóa và để làm nồng cốt cho Vũ trụ sắp nẩy sanh, nó sẽ là cái Uy lực chưởng quản, cai trị của Vũ trụ tương lai.

Đến đây, một câu hỏi được nêu lên- tôi biết câu hỏi nấy sẽ làm bận trí nhiều khối óc, vì ở Đông phương cũng như ở Tây phương người ta đã bao lần hỏi tôi như thế - tại sao sự tiến hóa lại có nhiều khó khăn như vậy? Tại sao sự tạo tác lại để lại dấu vết của biết bao lần thất bại bề ngoài? Tại sao con người lại cư xử sái cách trước khi cư xử đúng đắn? Tại sao họ lại theo điều ác nó làm cho họ đê hèn thay vì tha thiết với điều thiện nó sẽ đưa họ lên cao? Vậy Đức Thượng Đế của Vũ trụ ta cùng các nhân viên của Ngài là các Thiên Thần cùng các vị Bàn Cổ cao cả đã giáng trần để dìu dắt những bước đầu

tiên của nhân loại há lại không có phương thế nào để tránh cho công trình tạo tác khỏi bị những thất bại bề ngoài hay sao? Các Ngài há lại không có thể điều khiển thế giới cách nào để cho con đường đi được ngay hàng thẳng lối, thay vì xa xôi và cng queo như thế ru? Chúng ta đi đến một giai đoạn mà sự tiến hóa của nhân loại trở nên cực kỳ khó khăn, chỉ vì mục đích phải đạt cho được.

Thật rất dễ mà uốn nắn một nhân loại hoàn toàn và hướng dẫn những năng lực khởi sanh của nó về một phía làm cho nó đi mãi về nẻo thiện, không bao giờ để cho nó quay về phía ác. Nhưng một công nghiệp dễ dàng như vậy thì có cái đặc biệt gì? Chắc chắn là nó biến con người thành một cái máy tự động bị một sức mạnh bên ngoài thúc đẩy và nó bắt buộc con người phải tuân theo một luật lệ cưỡng áp, không sao thoát khỏi. Thế giới của khoáng chất phải chịu một định luật như vậy. Những sự tương quan kết hợp những nguyên tử đều phục tùng cái động lực thúc bách ấy. Nhưng khi chúng ta tiến hóa dần dần, chúng ta tuần tự thấy nảy nở ra một sự tự do càng ngày càng lớn hơn, cho đến khi chúng ta nhận thức được nơi con người một năng lực đột khởi tự nhiên, một sự tự do lựa chọn, nó chính là lúc khởi đầu sự biểu lộ của Thượng Đế hay Chơn linh bắt đầu xuyên qua con người. Cái mục tiêu thật sự, cái mục đích phải đạt được không phải là xây dựng những người máy để theo một cách mù quáng một con đường đã vạch sẵn cho họ, nhưng là xây dựng cái phản ảnh của Đức Thượng Đế, tạo thành một nhóm người có uy lực, sáng suốt và hoàn toàn, có thể ưa chuộng điều thiện vì nhận định và hiểu biết được điều này, và họ có thể xua đuổi điều ác, sau khi do kinh nghiệm mà biết được rằng điều ác bất lực và dẫn đến những mối đau khổ. Như vậy, giữa những Đấng Cao Cả sẽ lãnh đạo Vũ trụ vị lai, cũng như giữa các Vị đang lãnh đạo Vũ trụ hiện tại, có một sự nhất quyết do sự quy hợp của tất cả ý chí làm một, nhờ sự hiểu biết và sự tự do chỉ định các ý chí ấy phấn khởi bởi một ý muốn duy nhất do ở sự thông hiểu tất cả mọi việc, các ý chí ấy đã hợp nhất với Định luật vì đã biết rằng Định luật chí công, các ý chí ấy muốn hòa mình với Định luật không phải do một động lực bên ngoài thúc đẩy mà do một sự tự do đồng ý bên trong. Ở cái Vũ trụ vị lai này, Định luật chỉ có Một, cũng giống như ở Vũ trụ hiện tại, và sẽ được thi hành do các Đấng làm tiêu biểu cho Định luật ấy, vì các Ngài có những quan niệm đồng nhất, những kiến thức đồng nhất, cùng những uy lực đồng nhất; Định luật này sẽ không mù quáng và vô tâm, nó sẽ là kết quả của ý chí của một nhóm người vì đã vào bực Siêu Phàm cho nên thành hiện thân của Định luật vậy.

Không có con đường nào khác giúp ta có thể đạt được mục đích như thế, giúp cho tự do ý chí của đa số hợp nhất được với Thiên nhiên cao cả và duy nhất, hợp nhất được với Định luật cao cả và duy nhất; vâng, không còn có con đường nào khác ngoài cái Định Luật nơi đó kinh nghiệm được thâu thập, nơi đó người ta biết được sự ác cũng như sự thiện, người ta biết được sự thất bại cũng như sự thành công. Chừng đó con người trở thành những vị Thiên đế, và do những kinh nghiệm thâu hoạch được, các Ngài đều mong muốn, đều cảm xúc

và đều có uy lực giống hệt nhau.

Trong khi cố gắng để đạt tới mục đích này, các vị Chân sư và các vị lãnh đạo nhân loại chúng ta đã đặt nền móng cho nhiều sự văn minh; tất cả đều cấu tạo để đạt mục đích đã ấn định. Tôi không đủ thời giờ để lập lại nền văn minh cao cả của Giống Dân chánh thứ tư đã có trước khi nảy sinh giống dân Aryen oai hùng. Tôi chỉ nói phớt qua rằng một nền văn minh cao cả đã được đem ra thí nghiệm và trong một thời gian đã cho những kết quả tốt đẹp dưới sự lãnh đạo của những vị Chấp Chánh khác nhau. Rồi các Vị này rút lui, không trực tiếp lãnh đạo nữa, cũng như một người mẹ không nâng đỡ đứa con khi nó học điđể xem nó có thể tiến bước và sử dụng tứ chi của nó mà không cần đến cánh tay của bà mẹ chăng. Cũng vì lý do ấy, các đấng Thánh Sư, các vị Chấp Chánh Thiêng Liêng ẩn mình để coi nhân loại ấu trĩ khi tập đi, sẽ đi được vững hay không. Và nhân loại ấu trĩ này đã vấp ngã,

và cái nền văn minh cao cả, oai hùng và hoàn toàn trong những tổ chức xã hội của nó, cái nền văn minh vinh quang vì đã được tạo thành bởi uy quyền và sự hiểu biết, liền sụp đổ dưới sức nặng của lòng ích kỷ của con người, dưới sức nặng của những dục vọng thấp hèn mà nhân loại chưa ngự trị được. Lại phải thử thí nghiệm một lần nữa, và giống dân Aryen cao cả được tạo lập- luôn luôn với những vị Chấp Chánh Thiêng Liêng, luôn luôn với những vị Lãnh Đạo Thiêng Liêng; với một Đức Bàn Cổ. Ngài ban cho luật pháp, xây nền móng văn minh, phác họa hiến pháp, với các Đấng Thánh Sư tụ họp xung quanh Ngài, trông nom sự thi hành pháp luật và dìu dắt nền văn minh ấu trĩ. Như vậy, một gương sáng lại được nêu lên một lần nữa cho nhân loại, một kiểu mẫu mà nhân loại phải tiến theo lại được đưa ra. Rồi những vị Đại Giáo Chủ lại rút lui đi trong một thời gian, để cho nhân loại có thể thử sức mình, xem có thể tự lực bước đi một mình không, và chỉ tự tin nơi mình, nhờ Chơn linh bên trong điều khiển, chớ không do những sự biểu hiện bên ngoài. Như chúng ta đã biết, lần này cũng như lần trước, sự thí nghiệm cũng hoàn toàn thất bại. Như chúng ta có thể nhận định lấy bằng cách nhìn về dĩ vãng, lần này chúng ta cũng trông thấy cái nền văn minh có nguồn gốc thiêng liêng kia dần dần trụy lạc dưới sức mạnh của những bản ngã thấp hèn mà con người chưa học được cách ngự trị, nền văn minh này nhất thời sụp đổ dưới áp lực của những dục vọng bất trị của nhân loại.

Chúng ta hãy trở về với nước Ấn Độ thuở xưa, chúng ta thấy sự cấu tạo hoàn toàn của nó, cái tinh thần thiêng liêng kỳ diệu của nó, và chúng ta lấy con mắt mà theo dõi sự suy đồi của nó từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, khi bàn tay thiêng liêng dìu dắt tự rút ra khỏi tầm mắt con người. Ở mỗi trường hợp, chúng ta nhận thấy rằng sự cố gắng thực hiện cái lý tưởng thiêng liêng đều đưa đến sự thất bại.

Chúng ta hãy nhìn vào thế giới hiện kim và chúng ta trông thấy cái bản năng thấp hèn của con người đã thắng cái lý tưởng thiêng liêng đến mức nào,

lý tưởng này đã được nêu lên làm gương mẫu cho con người ngay từ khi khởi đầu của giòng giống Aryen.

Chúng ta thấy rằng ở thời đại ấy, cái lý tưởng của phái Bà la môn, một lý tưởng mà người ta có thể mô tả như là của một tâm hồn sắp được giải thoát, không đòi hỏi gì đến những của cải thế gian, không ham muốn những thú vui xác thịt nữa, không ham muốn giàu có, quyền thế, uy lực cùng những lạc thú của cuộc đời; cái đặc điểm của người Bà la môn là nghéo mà sáng suốt, còn như bây giờ chúng ta thường quá thấy ở nơi người mang danh từ Bà la môn sự giàu có và sự vô minh thay vì sự thanh bạch và sự minh triết. Đó, trong giai cấp này các bạn đã thấy một trong những bằng cớ của sự suy đồi của thế hệ cũ, và ở mỗi giai cấp khác thì cũng thế.

Bây giờ chúng ta thử xem bằng cách nào các đấng Giáo Chủ đưa con người đến chỗ tự do, chọn lựa cái lý tưởng đã đưa ra cho họ- mà họ đã rời bỏ- bằng cách nào các vị Đại Giáo chủ đã cố gắng hướng dẫn sự tiến hóa chưa hoàn toàn của nhân loại đến cái lý tưởng hoàn toàn đã được biểu lộ lúc tiến hóa đã không đạt nó được là do sự yếu đuối và sự non dại của con người.

Để có thể thu thập được kết quả đó trong thời gian của nhiều thế kỷ, người ta dạy con người “Con đường hành động” (Karma yoga). Đó là pháp môn tu luyện để hợp nhất với Thượng Đế bằng sự hành động. Đó là phép tu thích hợp với những người sống giữa chốn phồn hoa đô hội, bị những hoạt động của đời sống vây khốn, ám ảnh, khuấy nhiễu, nhưng mà chính là nhờ những hoạt động này đào tạo và huấn luyện, mà con người có thể bước những bước đầu tiên dắt họ đến sự “hợp nhất”. Và vì đó mà “Con đường hành động” được quy định để huấn luyện con người.

Xin quý huynh chú ý đến sự liên kết của những chữ “hành động” và “hợp nhất”, sự hành động thực hiện lấy ảo tưởng làm kết quả, và sự hành động được hướng dẫn để phát sinh sự hợp nhất. Chúng ta phải nhớ rằng chính là những hoạt động của chúng ta nó chia rẽ chúng ta, nó ngăn cách chúng ta; chính là sự hoạt động thiên hình vạn trạng và luôn luôn biến chuyển nầy nó lôi cuốn chúng ta và làm cho chúng ta bị cô lập. Vậy nói về sự hợp nhất, do sự hành động, nói về sự hợp nhất nhờ cái điều đã sinh ra sự chia rẽ thì hình như mâu thuẫn. Nhưng sự Minh Triết của các Chơn Sư xứng đáng với nhiệm vụ cao cả của các Ngài, cái nhiệm vụ dung hòa, giải lý điều mâu thuẫn bề ngoài nầy. Chúng ta hãy chú ý theo lời giải và xem coi nó ra thế nào.

Dưới ảnh hưởng của ba năng lực của tạo hóa, những “gunas”, những trạng thái của sự vật(1)

[ii]

con người sớn sác chạy khắp mọi phía: Chơn nhơn giam mình trong xác thịt bị những trạng thái ấy chi phối. Những năng lực này làm việc, chúng nó hoạt động và tạo thành Vũ trụ hữu hình, và con người tự đồng hóa với những hoạt động ấy. Y tưởng y hành động, trong khi thật ra chính những năng lực ấy hoạt động. Y tưởng y mắc bận việc, trong khi thật ra chính những năng lực ấy tạo ra những kết quả. Sống giữa chúng, bị chúng làm cho mù quáng, phải chịu phục tùng những ảo ảnh của chúng tạo ra, con người hoàn toàn mất sự tự hiểu biết và bị lôi kéo phía bên nầy, phía bên kia, bị thúc đẩy đi nơi này, đi nơi nọ, bị những triều lưu lôi cuốn đi, vì thế cho nên tất cả những điều mà con người thấy trong đời sống chỉ là những sự hoạt động của ba trạng thái của sự vật mà thôi. Lẽ cố nhiên, trong những trường hợp ấy, y không thể thực hành những giai đoạn cao siêu của phép Yoga, lẽ cố nhiên khi mà những ảo tưởng này chưa được tiêu tan đi, ít nhất là một phần, thì những mức cao nhất của con đường Đạo hãy còn xa vời đối với y. Y phải bắt đầu hiểu ba trạng thái của sự vật, phải tự ly khai ra khỏi những hoạt động đó của thế giới hữu hình. Và những kinh sách của pháp môn Yoga này- vì chúng ta có thể dùng danh từ đó- những kinh sách của con đường hành động này, đó là những điều đã được Đức Krishna công bố trên chiến trường Kurukshetra, khi Ngài dạy pháp môn ấy cho hoàng tử Arjuna, một chiến sĩ, một người phải sống trong xã hội, phải chiến đấu trong trường đời, phải cai trị quốc gia, và phải dự phần vào mọi hoạt động bên ngoài; chính ở đó là bài học ngàn đời cho những ai sống trong thế gian này, bài học dạy họ tuần tự vượt lên cao khỏi tầm những trạng thái của sự vật (gunas), và như thế để đi đến sự hợp nhất với Thượng Đế.

Trước hết, “Con đường hành động” này làm cho những tác động kể trên được thuần lại và có quy thức. Như các bạn đã biết, có ba trạng thái của sự vật là: Động (Rajas), Tĩnh(Tamas) và Thăng bằng(Sattva). Do ba trạng thái này mà mọi vật xung quanh chúng ta được xây dựng, kết hợp, hòa hợp muôn ngàn cách. Trạng thái này tác động nơi đây, trạng thái kia làm việc ở mọi hướng. Phải ngự trị chúng, phải bắt buộc chúng giữ cho được quân bình. Chơn nhơn nhập thế, người chủ của xác thân, phải là chủ nhân có uy quyền và phải lập một sự phân biệt giữa y và những trạng thái của sự vật, những “gunas”. Cái việc phải làm là tự giảng giải những nhiệm vụ của chúng, kiểm soát và hướng dẫn những hoạt động của chúng. Ta không thể đương nhiên vượt khỏi tầm của chúng hay làm trái ý chúng- cũng như một trẻ nít không thể làm công việc của người lớn. Trong cái trạng thái tiến hóa chưa hoàn

toàn này, nhân loại có thể đạt đến chỗ tuyệt đích của pháp môn Yoga được không? Không, vì nếu con người ráng tập thử thì thiệt là không khôn ngoan thì không những em nhỏ làm không nổi mà, trong khi thử làm, em sẽ vượt cái mức của sức em, và điều này sẽ đưa đến sự thất bại, trong tương lai cũng như hiện tại, vì cái nhiệm vụ quá nặng nề đối với sức lực của em sẽ làm cho sức lực ấy kém suy và mòn mỏi. Trước khi có thể thành công, người ta phải tập rèn sức của mình đã, cũng như con nít phải đến tuổi trưởng thành trước khi có thể làm một công việc của người lớn.

TAMAS

Ta hãy xem xét trong chốc lát cái nhiệm vụ của trạng thái Tĩnh (Tamas) mà người ta dịch bằng những danh từ: tối tăm, biếng nhác, bất động, trễ nãi v.v… Nếu người ta dùng trạng thái này để giúp sự tiến hóa của nhơn loại, thí nó có thể làm cái nhiệm vụ nào? Về phương diện phát triển con người và giải thoát linh hồn thì trạng thái Tĩnh này có ích lợi gì? Trong con Đường Hành Động, trạng thái nầy chỉ được dùng như là một sức mạnh mà người ta phải đương đầu và phải thắng nó, để phát triển sức lực trong sự đấu tranh, để làm nảy nở sức mạnh của ý chí trong sự cố gắng nầy, tập lấy sự tự chủ và kềm chế bản thân. Người ta có thể nói rằng trạng thái nầy có ích cho sự tiến hóa của con người, cũng như những quả tạ trong sự tập dượt của người lực sĩ. Người nầy sẽ không thể làm tăng sức bắp thịt của mình nếu không có dụng cụ để luyện tập. Y sẽ không có những bắp thịt mạnh mẽ nếu chúng không cứng rắn lại trong khi cố gắng đễ nhấc bổng những quả tạ. Cái quan hệ không phải là sức nặng của những quả tạ mà là việc sử dụng những quả tạ ấy, và nếu một người muốn cho những bắp thịt của thân thể y, như những bắp thịt của cánh tay chẳng hạn, trở nên thiệt mạnh, cái điều tốt nhất mà y có thể làm, là lấy một quả tạ và luyện tập hằng ngày để chống lại với cái sức mạnh kháng cự. Do cách đó, mà trạng thái Tĩnh, nghĩa là sự trễ nãi hay sự tối tăm, có nhiệm vụ trong sự tiến hóa của con người. Y phải thắng trạng thái nầy và phát triển sức lực của mình trong khi chiến đấu, những bắp thịt của tâm hồn sẽ mạnh khi y làm chủ được tánh trễ nãi, tánh lười biếng, tánh lãnh đạm, nghĩa là những tánh của trạng thái Tĩnh có sẵn trong bản chất y.

Quý huynh sẽ nhận thấy rằng những lễ bái nghi thức của tôn giáo được đặt ra là để ngự trị những tính chất của trạng thái Tĩnh đó, ít nhất một phần nào, mục đích của chúng là giúp cho con người thắng sự chậm chạp, sự lười biếng và sự uể oải thuộc bản thể thấp thỏi của y, và để cho y phải làm một vài bổn phận trong một lúc nhất định, dù lúc đó y muốn làm hay không muốn làm, dù lúc đó y hoạt động hay lười biếng- tôi nói là để cho y đứng trước những bổn phận phải làm trong một lúc nhất định, nghĩa là luyện tập cho y chế ngự sự chậm chạp, sự khinh xuất hay là sự bướng bỉnh của cái bản thể thấp thỏi của y và bắt y theo con đường mà người ta đã muốn vạch sẵn cho y.

RAJAS

Nhưng nếu chúng ta xét trạng thái Động (Rajas) thì cũng thế. Quý huynh sẽ thấy rằng trong Con Đường Hành Động (Karma Yoga), những hoạt động của con người được hướng theo một vài nẻo nhất định mà tôi sắp theo dõi cùng với quý huynh để quý huynh có thể hiểu bằng cách nào những hoạt động ấy, luôn luôn được tác dụng trong thế giới hiện kim, nó tự biểu lộ trong mọi phương hướng, nó đưa đến sự vội vàng, sự chuyển động và sự luôn luôn cố gắng, dể được thành công trong đời sống thấp thỏi và thâu được những kết quả, những hiện tượng vật chất; bằng cách nào những hoạt động ấy được dần dần hướng dẫn, luyện tập, tinh luyện, cho đến khi chúng không có thể ngăn cản sự biểu lộ của Chơn linh nữa.

Cái mục đích của Con Đường Hành Động (Karma Yoga) là lấy bổn phận thay thế cho sự sung sướng cá nhân. Con người hành động để thỏa mãn những dục vọng thấp hèn của y; y hành động là vì y muốn có một vật gì; y hành động để được lợi, để được một vật mà y muốn, để được một phần thưởng. Y làm việc vì y muốn có tiền để tìm kiếm cho mình những sự thích thú. Y làm việc vì y ham muốn quyền tước, nó sẽ làm thỏa mãn bản ngã thấp thỏi của y. Những hoạt động, những tánh chất “Động” ấy được vận chuyển để giúp những bản năng thấp hèn của y. Muốn khép những hoạt ấy vào kỷ luật và điều hòa chúng nó, ngõ hầu được xử dụng cho những mục tiêu của Chơn Linh cao cả, thì phải làm cho con người biết lấy bổn phận mà thay thế cho sự sung sướng riêng tư; làm việc vì công việc là một trong những bổn phận của y, phải hoạt động giúp đời, vì đó là nhiệm vụ của y, và để có thể làm cái điều mà Đức Krishna đã tuyên bố chính Ngài cũng đã làm. Ngài hành động không phải vì Ngài có một vật gì cần phải kiếm ở cõi đời nầy hay ở cõi khác đâu, nhưng vì nếu Ngài không hành động thì thế giới sẽ tận diệt, vì nếu không có sự hành động của Ngài thì bánh xe tạo hóa sẽ không quay nữa. Và những ai tu luyện theo phép Yoga đều phải hành động trong một tinh thần giống như Ngài, hành động cho toàn thể chớ không phải cho phần tử, hành đông để thực hiện Thiên Ý trong Vũ trụ chớ không phải để làm vui thích một cá nhân riêng biệt nó tự cho là độc lập, nhưng thật ra nó phải làm việc dưới Thiên Lệnh. Người ta sẽ đạt được mục đích ấy bằng cách nâng cao dần dần cái phạm vi hoạt động của mình. Bổn phận phải thay thế cho sự sung sướng cá nhân, và những lễ nghi tôn giáo và những sự cúng kiến được đặt ra để dắt dẫn con người lần lần đến cái đời sống thật sự mà họ phải sống. Mọi sự hành lễ có tính cách tôn giáo chỉ là một phương tiện để dẫn con người đến đời sống thật sự, đời sống cao siêu.

Một người bắt đầu tham thiền sáng sớm và khi mặt trời lặn, rồi sau cùng cả cuộc đời của y chỉ là một sự tham thiền dài vô tận. Y tham thiền trong một giờ để tự chuẩn bị tham thiền mãi mãi. Mọi hoạt động sáng tác đều là kết quả của sự tham thiền, và quý huynh sẽ không quên rằng tất cả những thế giới được tạo nên là do sự tham thiền vậy. Để con người có thể đạt được cái uy lực sáng tác cao cả ấy của sự tham thiền, để y có thể xử dụng cái sức mạnh thiêng liêng ấy, y phải được luyện tập nhờ những lễ nghi tôn giáo, nhờ sự tham thiền từng lúc. Sự tham thiền có giờ khắc là bước đầu tiên để đi đến sự tham thiền bất tuyệt; nó thu hút một phần của đời sống hằng ngày, với mục đích rốt ráo là thấm nhuần trọn kiếp sống, và người ta tham thiền hằng ngày để sự tham thiền có thể dần dần kéo dài suốt đời.

Rồi tới một lúc kia, người hành giả (Yogi) không còn có thì giờ nhất định để tham thiền nữa, vì đời y chỉ là một sự tham thiền dài

dòng

. Dù y làm một việc gì ở ngoại cảnh y cũng tham thiến, và luôn luôn y quỳ dưới chân Sư Phụ y, dù cho khối óc và xác thân y hoạt động trong thế giới loài người. Đối với những loại hoạt động khác cũng thế, con người thoạt đầu học làm một việc như một sự hy sinh cho bổn phận, một sự trả nợ đối với thế gian nơi đó y sống, như sự đền bù lại cho mọi phần tử của Tạo Hóa về những điều mà chúng nó đã chu cấp cho y. Rồi sau này, sự hy sinh vượt khỏi tính cách một sự trả nợ, để trở thành sự hiến dâng vui vẻ tất cả những gì mà con người có thể đem tặng. Sự hy sinh một phần, đó là món nợ được trang trải, sự hy sinh hoàn toàn, đó là sự hiến dâng tất cả. Một người tự hiến dâng tất cả những hoạt động của y, với tất cả những khả năng của y, không những chỉ bằng lòng bỏ ra một phần cái gì thuộc về phần sở hữu của y, như người ta trả một món nợ, nhưng y nộp tất cả như người tiêu pha rộng rãi. Khi người ta đi đến mức này, phép tu Yoga đã hoàn tất và bài học của Pháp Môn Hành Động (Karma Yoga) đã thuộc làu.

NĂM SỰ HY SINH HẰNG NGÀY

Quý huynh hãy coi “năm sự hy sinh hằng ngày” như là một bước dắt đến mục đích nói trên; ít ra danh từ của năm sự hy sinh này đã quen thuộc đối với quý huynh và quý huynh đã nhận định được lý do của mỗi sự hy sinh. Mỗi sự hy sinh là một cách trả nợ, ấy là sự biết ơn của con người, với tư cách cá nhân, vì con người còn mắc nợ của toàn thể trong hoàn cảnh mà y đang sống. Và nếu quý huynh phân tách riêng những sự hy sinh này ra, dù có phân tách rất nhanh chóng, quý huynh sẽ thấy rõ ràng mỗi sự hy sinh là một sự trả nợ thật sự.

1.-SỰ CÚNG TẾ CÁC ĐẤNG THẦN MINH.Chúng ta hãy nói về sự hy sinh đầu tiên: “Sự cúng tế các đấng Thần Minh”. Tại sao có sự cúng tế này? Vì con người phải hiểu biết rằng y mắc nợ thế gian và những vị Thần Linh chỉ huy những tác động trong thiên nhiên nhờ đó quả Địa Cầu mới có cây trái và cho con người thực phẩm. Con người đã lấy được để ăn, để nuôi sống xác thân, thì muốn trả nợ, con người phải hoàn lại cho Tạo Hóa một cái gì tương đương với thứ đã được chu cấp cho y, nhờ sự hợp tác của những Thần Linh trong vũ trụ, những vị Thiên Thần dìu dắt những động lực của Hạ Giới. Người ta đã dạy con người rằng y phải rải rác món đồ hy sinh của y trong lửa.Tại sao? Câu trả lời để giải đáp là: “Agni, Hỏa Đức Tinh Quân, là miệng của những Thần Linh”, và mọi người lập lại câu nói đó mà không tìm hiểu cài nghĩa của nó, không tìm cách vượt khỏi cái danh từ Thiên Thần để có thể hiểu nhiệm vụ của Ngài trong thế gian. Nghĩa thiệt của câu này là chung quanh ta, khắp mọi nơi, đều có những cộng sự viên có ý thức và tiềm thức của Tạo Hóa, sắp lại thành những hệ thống, với một vị Đại Thiên Thần của Vũ Trụ cầm đầu mỗi hệ thống ấy. Như thế, dưới quyền của vị Thiên Thần cai trị lửa, không khí, nước và đất (bốn chất Địa, Thủy, Hỏa, Phong) có vô số những vị Thần nhỏ có những nhiệm vụ hoạt động khác nhau để phát động những mãnh lực thiên nhiên của Vũ Trụ, như mưa gió, những khả năng sinh sản ra cây trái của đất và các thứ ảnh hưởng làm cho đất đai phì nhiêu. Vậy cái hy sinh mà chúng ta nói đây có mục đích nuôi những nhân viên thấp thỏi ấy, cung cấp đồ ăn cho họ qua ngọn lửa và lửa được gọi là “miệng của những Thần Linh”, vì nó làm tan rã, vì nó biến đổi những chất đặc và lỏng ném vào đó ra chất hơi và những chất nhẹ hơn, cuối cùng, những chất này thành ra dĩ thái, và dưới hình thức ấy, để dùng làm thực phẩm cho những tinh linh thấp thỏi (âm binh)(1)

[iii]

chúng nó thi hành những mệnh lệnh của những Thiên Thần. Con người trả nợ Thần Linh như thế đó, và để đền đáp lại mưa rơi xuống những miền ở dưới lớp không khí bao bọc trái đất, trái đất mới sinh cây trái và con người mới có đồ ăn. Đó là điều mà Đức Krisna muốn nói, khi Ngài dạy con người rằng: “Ngươi hãy nuôi những Thần Linh thì những Thần Linh sẽ nuôi lại ngươi”. Đó là cái sự tuần hườn hạ cấp của sự nuôi dưỡng mà con người phải học cho biết. Thoạt đầu, y coi điều đó như là một giáo lý, rồi đến một lúc kia y coi đó như là một sự mê tín dị đoan, khi y chưa hiểu những nguyên do thật sự vì y chỉ mới thấy bề ngoài. Về sau mới hiểu biết một cách sâu xa hơn, khi mà khoa học, trước kia hướng về phần duy vật rồi dần dần, nhờ một sự nghiên cứu thâm sâu hơn, mà đi đến sự hiểu biết vế địa hạt tinh thần. Khoa học khởi sự giải nghĩa bằng những danh từ khoa học để diễn tả những điều mà các Thánh Sư đã thuyết bằng những danh từ thần bí, điều đó có nghĩa là con người có thể hướng dẫn và điều hòa sự tác động của những mãnh lực hạ cấp thiên nhiên bằng những hành vi của y. Như vậy khoa học tân tiến đang cho những giáo lý cổ truyền là hữu lý và chứng minh cho trí khôn thấy cái điều mà người phi phàm trông thấy bằng trực giác, bằng nhãn quang siêu linh.

2.-Sự thờ phụng tổ tiên. Rồi đến sự thờ phụng tổ tiên. Ấy là sự biết ơn những bậc tiền bối trên thế gian; ấy là sự trả nợ cho thế gian; ấy là sự trả nợ cho những ai đã làm việc trên thế gian trước khi con người sinh ra; ấy là lòng biết ơn và sự tôn kính dành cho những bậc tiền bối đã góp phần tạo nên thế giới hiện kim cho chúng ta và đã đem vào đó những sự cải thiện mà chúng ta thừa hưởng. Công ấy là một món nợ ân nghĩa mà ta phải mang, đối với những vị đã đến trước chúng ta trong trường tiến hóa của nhân loại; các Ngài đã dự một phần vào sự tiến hóa này trong lúc Ngài còn sống trên thế gian, và đã để lại cho chúng ta cái kết quả những công việc của các Ngài đã thi hành. Vì chúng ta hái cái quả của những việc các Ngài đã làm, nên chúng ta trả nợ bằng cách bày tỏ lòng biết ơn đối với các Ngài. Vì vậy mà một trong những sự hiến dâng hằng ngày là sự nhận biết món nợ ân nghĩa mà chúng ta còn thiếu của những người đã khuất bóng.

3.-Sự hiến dâng kiến thức. Dĩ nhiên, kế đó là “sự hiến dâng kiến thức” “sự hiến dâng sự học hỏi”, để mà nhờ sự nghiên cứu những Thánh Kinh mà con người có thể: một là, giúp đỡ và huấn luyện những kẻ ngu dốt hơn mình và hai là, làm cho họ phát triển cái sự hiểu biết cần thiết cho sự biểu lộ của Phàm nhơn.

4.-Sự hy sinh cho nhân loại. Thứ tư là “sự hy sinh cho nhân loại”, sự làm tròn nhiệm vụ của mình đối với nhân loại, sự nuôi sống một người nào đó để tuyên bố rằng mọi người phải giúp đỡ lẫn nhau, thân thiện cùng nhau về đủ mọi mặt ở cõi đời vật chất, phải cưu mang nhau như anh em ruột thịt. Sự hy sinh cho nhân loại là sự nhận biết hẳn hòi về nhiệm vụ nầy, và khi nuôi những kẻ đói, khi thiết đãi những kẻ cần được nuôi nấng, dẫu rằng quý huynh chỉ nuôi có một người, thật ra, về phương diện lý tưởng, và do theo ý tốt của quý huynh, chính quý huynh đã nuôi tất cả nhân loại vậy. Khi huynh cho một người đi qua cửa thức ăn và chỗ ở, thì huynh mở cửa lòng huynh cho tất cả nhân loại như là một đại thể; khi huynh giúp đỡ và cho một người trú ngụ thì huynh đã giúp đỡ và cho tất cả nhân loại trú ngụ vậy.

5.- Sự nuôi dưỡng loài vật. Đối với sự hiến dâng cuối cùng, sự nuôi dưỡng loài vật thì cũng thế. Người chủ gia đình phải để đồ ăn dưới đất, đặng cho bất cứ con vật nào đi qua cũng có thể ăn được. Đó là bổn phận của huynh đối với loài vật thấp kém, vì huynh phải giúp đỡ, nuôi nấng và dạy dỗ chúng. Sự nuôi dưỡng loài vật có mục đích in vào trí nhớ chúng ta rằng chúng ta xuống thế gian này để dạy bảo, hướng dẫn và giúp đỡ những sinh vật thấp kém, nghĩa là tất cả những loài nào còn thấp kém hơn chúng ta trên nấc thang tiến hóa. Mỗi khi chúng ta phạm lỗi, hung bạo, cộc cằn, ác độc, với loài vật,

thiệt ra chúng ta có lỗi đối với Đấng ngự trong mình chúng, bởi vì chúng là những biểu lộ thấp thỏi của Ngài. Con người phải nuôi dưỡng cho loài vật, không phải nuôi dưỡng cho cái hình thể bề ngoài, mà cho Thượng Đế ẩn tàng bên trong, để tập phân biệt được cái gì tốt lành ở nơi loài vật, để y có thể hiểu rằng Đức Krishna ngự nơi súc vật thấp thỏi, mặc dầu Ngài ngự nơi đó dưới một hình thức được che kín hơn là ở con người. cái cách duy nhất để chúng ta nuôi dưỡng cho loài vật là cư xử với chúng cho tử tế, dịu dàng và từ ái, dạy dỗ chúng, giúp chúng tiến hóa thay vì xô đuổi chúng một cách tàn bạo, ác độc như chúng ta thường trông thấy xung quanh.

Như thế, con người nhờ những lễ nghi cúng kiếng bề ngoài, mà học được những chân lý thiêng liêng để chúng nó thấm nhuần đời y. Và sau khi đã làm đầy đủ năm sự hiến dâng, con người phải đi vào trong xã hội loài người để hiến dâng nữa những hành động thuộc một loại khác, để hiến dâng bằng cách làm đầy đủ bổn phận hằng ngày. Và mỗi ngày của y bắt đầu bằng năm sự hiến dâng, được Thánh hóa và trôi qua trong đời sống ngoại cảnh của xã hội. Trong đời sống ngoại cảnh nầy, sự cẩu thả không lo tròn nhiệm vụ đã tăng lên cúng một lúc với sự hững hờ đối với năm sự hiến dâng này. Không phải chính sự hiến dâng đó là cần thiết, vì tới một lúc kia, con người sẽ vượt khỏi chúng nó; nhưng quý huynh hãy nhớ điều này: con người chỉ vượt khỏi năm sự hiến dâng này khi nào tất cả cuộc đời y đã biến thành một sự hiến dâng trường kỳ. Từ đây cho đến lúc đó, sự nhận thức rõ ràng về những bổn phận của y là cần thiết để y có thể làm cho đời sống của mình cao thượng hơn. Nhưng đáng thương thay, tại Ấn Độ bây giờ, người ta rất ít quan tâm đến những sự hiến dâng này, không phải vì người ta đã vượt khỏi chúng nó, cũng không phải vì đời sống của người ta đã khá trong sạch, thiêng liêng và cao thượng để họ không còn cần đến sự giáo dục sơ cấp và sự nhắc nhở luôn luôn, nhưng là bởi vì người ta đã bơ thờ, duy vật và đã xuống thấp hơn cái lý tưởng của Đức Bàn Cổ đã dạy họ. Họ từ chối, không công nhận những món nợ mà họ còn thiếu đối với những thần lực cao hơn họ, và vì vậy, họ không làm những bổn phận của họ đối với những người xung quanh.

Bây giờ, chúng ta hãy xem xét đời sống ngoại cảnh hằng ngày hay là bổn phận của con người trong xã hội. Dù y là người thế nào, y cũng sinh trưởng trong một gia đình riêng biệt; điều nầy tạo nên những bổn phận của y đối với gia đình. Y thuộc về một nhóm trong xã hội: do đó y có những bổn phận đối với xã hội. y là một phần tử của một quốc gia: điều nầy buộc y có những bổn phận đối với quốc gia. Giới hạn những bổn phận của mỗi người được ấn định bởi hoàn cảnh nơi đó y đã ra chào đời, hoàn cảnh nầy do Định Luật, do sự thúc đẩy của nghiệp quả đối với mỗi người mà thành một cái trường hoạt động, một cái sân để luyện tập, trong đó y phải học hỏi. Ví vậy người ta mới nói rằng: mỗi người phải làm đầy đủ bổn phận của chính mình, dù một cách chưa hoàn toàn đi nữa cũng còn hơn là kiếm cách làm một nhiệm vụ cao cả của kẻ khác, bởi vì cái nhiệm vụ do giai cấp của huynh ấn định chính là điều mà huynh cần đến, và đó là cái trường hoạt động tốt nhất của huynh.

Huynh hãy làm bổn phận mình mà không âu lo đến những kết quả, và huynh sẽ học được bài học của đời sống, huynh sẽ đi vào con Đường Đạo. Lúc thoạt đầu, mỗi hành động dĩ nhiên sẽ thực hiện để có kết quả. Con người hành động vì muốn hưởng một sự ban thưởng. Điều nầy làm cho huynh hiểu những lời giáo huấn đầu tiên mà con người đã nhận được, khi người ta đã dạy y hành động với mục đích thâu những kết quả ở cõi Thiên Đường. Sự phát triển của con người ấu trĩ được thực hiện bằng sự hứa hẹn ban thưởng xứng đáng. Người ta chỉ cho y Thiên Đường là cõi phải đạt được do việc làm; khi làm đầy đủ bổn phận về tôn giáo, con người sẽ được ban thưởng ở cõi Thiên Đường. Theo cách đó, y dần dần thực hành đạo đức, giống hệt như huynh dìu dắt một đứa trẻ nít học bài bằng cách hứa cho em một sự ban thưởng. Nhưng nếu ta muốn lấy Đạo (Yoga) làm mục đích, chứ không phải một phần thưởng nào cả thì ta phải hành động như khi ta thực hiện một bổn phận.

Quý huynh hãy thử xét qua bốn giai cấp lớn(1)

[iv]

và nhận định cái mục đích mà người ta đã nhắm khi lập ra những giai cấp ấy.

I.-Người Bà la môn. Người bà la môn có bổn phận dạy dỗ, làm những bậc thấy sáng suốt để dìu dắt sự tiến hóa của nòi giống. Y không được học hỏi để kiếm tiền, để có quyền thế, để thâu thập bất cứ một cái gì cho bản thân y; y phải học hỏi để làm đầy đủ nhiệm vụ mình,y phải có sự hiểu biết để có thể truyền nó lại cho kẻ khác. Như vậy, một quốc gia được thành lập một cách hoàn hảo luôn luôn phải có những bậc thầy để dạy bảo, những bậc thầy để có thể hướng dẫn, khuyên răn và không bao giờ đuổi theo một mục đích ích kỷ. Theo cách đó, ông Thầy không được kiếm chác cho riêng mình, nhưng phải làm điều lợi lộc cho toàn dân, và hành động như vậy, ông làm đầy đủ cái thiên chức của mình và linh hồn được giải thoát.

II.-Người chiến sĩ. (Kshattriya: Sài-đế-lị). Rồi đến con Đường Đạo dành cho con người đầy hoạt động, có bổn phận cai trị và gìn giữ trật tự, con Đường Đạo dành cho giai cấp thống trị, giai cấp các chiến sĩ(Sài-đế-lị). Người chiến sĩ(Kshattriya) phải cai trị. Tại sao vậy? Không phải để làm thỏa mãn lòng khao khát uy quyền của mình, nhưng để thực hiện sự công bằng, để cho kẻ nghèo được an toàn và để kẻ giàu không được áp chế, bạo ngược, để làm nổi bật sự chân chánh và công bình trong cõi thế gian đấy những sự tranh đấu không ngừng này. Và như vậy,

là vì ở chính giữa cõi đời đấy những sự chiến đấu, những sự căm hờn, những sự tranh chấp này, nơi đó con người tìm cách thỏa mãn lòng ích kỷ của họ thay vì theo đuổi quyền lợi công, phải dạy cho họ biết rằng sự công bình phải được thực hiện; nếu người khỏe mạnh lạm dụng sức mạnh của mình, thì chánh quyền vô tư sẽ đàn áp sự lạm dụng bất chánh ấy, và kẻ yếu đuối không thể bị chà đạp, đè nén. Và bổn phận của ông Vua là ban rải sự công bình cho mọi người để họ có thể coi ngôi báu như là nguồn cội của sự công bình thiêng liêng. Đó là lý tưởng của vị Thánh Đế, của vị Đế Vương thay Trời trị dân. Đức Rama

đã giáng trần để dạy lý tưởng nầy. Đức Krishna cũng đã giáng trần để dạy lý tưởng nầy, nhưng con người mê muội tối tăm đến đỗi không muốn học bài học đó. Người chiến sĩ (Sài-đế-lị)l ại dùng uy quyền mình để tự làm thỏa mãn dục vọng và để đàn áp kẻ khác. Y chiếm đoạt của cải của người ta và bắt người ta phải làm việc cho y. Y đã quên mất cái lý tưởng của vị Vua thay Trời trị dân, lý tưởng này hiện thân của sự công bình trên thế gian đầy những sự tranh đấu giữa loài người. Nhưng cái lý do duy nhất của đời sống y là lấy sự thực hiện cái lý tưởng này làm mục đích trọn một kiếp của mình, và vì vậy bổn phận của y là cai trị đất nước làm sao được lợi lộc cho cả xứ sở, chớ không phải để có lợi riêng cho mình. Khi y được gọi đi làm nhiệm vụ một quân nhân, thì cũng thế. Dân chúng phải có thể làm ăn trong cảnh thái bình. Những người nghèo khổ và hiền lương phải có thể sống trong sự an ninh, giữa gia đình sung sướng và đông đúc của họ. Người thương gia phải có thể yên tâm mà lo việc buôn bán. Mọi công việc của thế gian nầy phải được thực hiện mà không phải lo sợ về những sự tấn công, cướp bóc. Vì vậy, người ta dạy người chiến sĩ rằng khi y phải chiến đấu thì đó là nhân danh người bảo vệ cho những kẻ yếu đuối; nếu y tự do hy sinh đời sống của mình thì đó là để cho những kẻ yếu đuối có thể sống an ổn.Y không được chiến đấu vì muốn có tiền, cũng không được chiến đấu để chiếm đoạt đất đai. Y không được chiến đấu vì ham quyền tước hay là ham ngôi báu. Nhiệm vụ của y là làm một bức tường thành cứng như thép xung quanh guốc gia để cho mọi sự tấn công đều tan vỡ khi chạm vào thân thể y, và để cho ở phía trong cái vòng tròn mà y đã vẽ, người ta có thể sống sung sướng trong cảnh thái bình và an lạc. Muốn đi con Đường Đạo, thì trong khi làm cái nhiệm vụ chiến sĩ, y phải tự coi mình như là nhân viên của Thượng Đế và vì thế mà Đức Krishna đã dạy rằng Ngài đã làm tất cả những điều đó và Arjuna chỉ lập lại cái hành động ấy trong thế giới loài người mà thôi. Và mỗi khi người ta tìm thấy Thượng Đế trong mỗi hành động của con người thì con người có thể hành động như làm bổn phận thôi, không mong mỏi cái gì khác, và những hành động của y không còn có thể ràng buộc y được nữa.

III.-NGƯỜI THƯƠNG GIA (Vaishya: Tỉ xá). Đối với người thương gia (Vaishya: Tỉ xá) có nhiệm vụ thu góp, chất chứa những của cải thì cũng thế. Y làm việc này không phải để thỏa thích sự thỏa mãn riêng của mình, mà để nuôi dưỡng quốc gia. Y phải giàu có để mọi ngành hoạt động cần đến của cải thì có liền tay, và để có thể phát triển về đủ mọi phương diện, để có khắp mọi nơi những chỗ ở cho kẻ nghèo nàn, những nhà nghỉ chân cho khách lữ hành, những bệnh viện cho con người cũng như cho loài vật, những đền miếu để thờ phụng và sau cùng, để có khắp nơi những tiền của cần thiết để tiêu dùng về những hoạt động của một quốc gia hoàn hảo. Cái nghiệp của y là thu góp những của cải trong sự ích lợi chung, chớ không phải để thỏa lòng riêng tư của mình. Theo cách đó, y cũng có thể đi trên con Đường Đạo, và do con Đường Hành Động, y tự chuẩn bị sống một cuộc đời cao siêu.

IV.- Người tôi tớ. (Shudra: Su-Tra). Đối với người tôi tớ phải làm đầy đủ nhiệm vụ mình cho sự ích lợi công cộng thì cũng thế. Y có thể ví như bàn tay của quốc gia, mang đến cho sứ xở điều gì cần thiết và làm những công việc gia sự. Đạo của y, nếu y thực hành nó, là phải vui vẻ làm bổn phận mình, bổn phận mà y phải làm, chớ không phải để được ban thưởng xứng đáng với công việc đã làm.

Thoạt đầu, con người chỉ hành động để tự thỏa mãn ý thích riêng tư, và kinh nghiệm của y chỉ đem đến sự tiến bộ; về sau y tập hành động vì bổn phận, và bắt đầu hành đạo trong đời sống hằng ngày; sau cùng y hành động vì tinh thần hy sinh vui vẻ, không đòi hỏi sự gì bù đắp lại, mà trái lại còn đem hết sức lực của mình để làm đấy đủ nhiệm vụ. Sự Hợp Nhất với Thượng Đế được thực hiện theo cách đó.

Chúng ta hiểu nghĩa chữ “tinh luyện”; khi chúng ta xem xét những giai đoạn nối tiếp của sự sung sướng cá nhân, của việc làm bổn phận vì bổn phận, và sau cùng sự hiến dâng trọn vẹn tất cả những gì ta có, dưới hình thức của sự tự ý hy sinh. Đó là những giai đoạn mà người ta phải trải qua trên con đường tinh luyện. Nhưng bằng cách nào để đạt được một thứ tinh luyện nó dắt ta đến những mức độ cao siêu, nó ban cho ta cái địa vị đệ tử mà tất cả những hoạt động của thế gian nầy phải dùng để đào luyện. con người phải được tinh luyện toàn diện, về thể chất cũng như về trí thức. Tôi không có thì giờ nhấn mạnh về sự tinh luyện xác thân, nhưng tôi cần nhắc quý huynh nhớ lại nhựng giáo lý của kinh “Thánh Sư Ca” (Bhagavad gita). Những giáo lý đó nói rằng người ta có thể đi đến sự tinh luyện ấy bằng sự điều độ ở mọi sự, chớ không phải bởi một sự khổ hạnh nó hành hạ xác thân và hành hạ cả Thượng Đế ngự nơi đó, như Đức Krishna đã nói. Con Đường Đạo được thực hiện bằng cách kiểm soát bản thân một cách điều hòa, bằng cách chế ngự những dục vọng thấp hèn của mình, bằng sự lựa chọn một cách điềm tĩnh thức ăn tinh khiết, bằng sự luyện tập có chừng mực tất cả những hoạt động về thể xác để có thể huấn luyện một cách điều hòa và giữ cho có chừng mực những cơ năng của cả thân thể, cho đến khi người ta có thể đặt xác thân dưới sự kiểm soát của Ý Chí và Chơn Linh. Vì vậy cho nên đời sống gia đình được ấn định, vì trừ một vài trường hợp hiếm có, con người chưa có thể theo con đường độc thân khó khăn. Sự độc thân của người Bà la môn giáo (Brahmacharya), không phải là dành để cho tất cả mọi người. Do đời sống gia đình, con người tập cho lòng dục của mình có điều độ, chớ không phải là tuyệt dục- một sự mà đa số người ta không thể thực hành được, và nếu người ta cứ thử cố gắng trừ tuyệt nó bằng một sự quyết chí khinh suất, thì việc ấy sẽ gây ra một phản động lực xô đẩy kẻ dại dột vào hố trụy lạc và sống một đời cuồng loạn- Vậy thì không phải cố gắng để nhổ tận gốc rễ hay trừ tuyệt sự ái ân một lần một, mà là cố gắng tập luyện dần dần cho có điều độ bằng cách từ bỏ những thú vui trong lòng,nơi đó những dục vọng thấp hèn phải được tiết chế và có thói quen để cho những bản năng cao siêu điều khiển. Chúng nó phải từ bỏ cách hoạt động cuồng loạn để rồi hoàn toàn phục tòng Đấng Duy Nhất. Con Đường Hành Động này khởi đầu như sau đây: Người chủ gia đình phải dần dần học cách tự kiểm soát, bằng cách giữ cho có chừng mực trong mọi việc, y đem để những dục vọng thấp hèn của mình ở dưới quyền sai khiến của những bản năng cao siêu, và tự rèn luyện như vậy hằng ngày cho đến khi những bản năng ấy hoàn toàn tuân theo mạng lệnh của ý chí. Như vậy y tự tinh luyện xác thân và có thể tiến lên những mức cao siêu của con Đường Đạo. Rồi y lại phải hoàn toàn tinh luyện những dục vọng thấp hèn của y.

1.- SỰ NÓNG GIẬN

Chúng ta hãy lấy vài thí dụ- Tôi muốn cho quý huynh ba thí dụ để quý huynh có thể áp dụng chúng trong đời sống. Chúng ta hãy thí dụ tật hay giận dữ và thử xem xét tánh này có thể biến đổi cách nào trên Con Đường Hành Động để trở thành một tánh tốt. Sự giận dữ là một sức mạnh, một sức mạnh tuôn ra tự con người để sinh ra những ảnh hưởng xung quanh nó. Ở con người kém mở mang và ít luyện tập sự tức giận này là cuồng tính. Nó lấy nhiều hình thức khác nhau làm đổ vỡ những gì chống đối với nó, và rất ít lo đến những phương tiện mà nó sử dụng, nó chỉ cốt xua đuổi tất cả những gì chống đối với sự thỏa mãn ý muốn của nó. Ở trong trạng thái này, cái sức mạnh thiên nhiên đó có tính cách vô trật tự và tàn phá, và ai muốn đi theo Con Đường Hành Động chắc chắn là phải chinh phục nó. Vậy y phải chinh phục và huấn luyện sự giận dữ này bằng cách nào? Thoạt đầu y phải loại ra mọi yếu tố cá nhân. Khi y bị nhục mạ, hay phải chịu một sự thiệt hại cá nhân, thì y tập không cảm thấy sự nhục mạ hay sự thiệt hại đó. Ấy là cái điều mà đa số quý huynh phải làm. Nếu một người nào cư xử không phải hay bất công với huynh, thì huynh sẽ làm gì? Có thể huynh tự để cho sự tức giận lôi cuốn mình và đánh người ấy. Một người đã lường gạt huynh ư? Để trả thù, huynh tìm cách làm cho y bị thiệt hại và sẽ lợi dụng y. Y phản bội huynh ư? Huynh cũng sẽ tấn công y ở phía sau và tìm cách làm hại y. Theo cách ấy, sự giận dữ sinh ra những sự tai hại, và ở mọi phía, người ta chỉ trông thấy sự tàn phá trong xã hội loài người, chớ đáng lẽ ra xã hội phải tốt đẹp nhiều hơn nữa. Phải tinh luyện tật xấu này bằng cách nào? Tất cả các Vị Đại Sư đã trả lời câu hỏi nầy khi các Ngài dạy Con Đường Hành Động; các Ngài đã chỉ bảo bằng cách nào những hành động thực hiện trong thế giới loài người có thể phụng sự Thiên Ý. Huynh hãy nhớ rằng sự tha thứ khi bị nhục

mạ là một trong mười bổn phận mà Luật của Đức Bàn Cổ bắt buộc chúng ta phải theo(1).

[v]

Huynh hãy nhớ đến lời nói của Đức Phật khi Ngài dạy: “Lấy ân đáp oán cái oán mới tiêu. Lấy oán đáp oán cái oán không dứt”. Huynh cũng nhớ rằng Đức Gia Tô cũng lấy cảm hứng ở tư tưởng ấy khi Ngài nói: “Các con đừng để cho điều ác làm chủ mình, nhưng các con hãy lấy điều thiện mà thắng phục điều ác”. Đó là Con Đường Hành Động. Huynh hãy tha thứ khi bị nhục mạ, hãy mang tình thương yêu mà đáp lại oán thù, hãy ngự trị điều ác bằng điều thiện. Bằng cách đó, huynh sẽ loại bỏ ra ngoài cái yếu tố cá nhân; huynh sẽ không giận dữ nữa khi người ta làm thiệt hại mình; một khi huynh đã loại trừ cái yếu tố cá nhân đi rồi, thì ở lòng huynh, sự giận dữ không còn mang cái hình thức thấp thỏi ấy nữa. Nhưng một thứ giận dữ khác, có tính cách cao thượng hơn có thể còn sót lại. Huynh thấy người ta hành hạ một con vật và huynh bực tức đối với ai đã độc ác như vậy; huynh thấy người ta hà hiếp một kẻ đáng thương và huynh tức giận kẻ hà hiếp. Đó là sự tức giận vô tư kỷ, sự tức giận này cao thượng hơn sự tức giận vì yếu tố cá nhân và là một giai đoạn cần thiết trong sự tiến hóa của nhân loại. Cảm thấy một sự tức giận dối với người làm ác, như vậy còn cao thượng hơn, tốt đẹp hơn một ngàn lần sự thản nhiên lạnh lùng viện cớ rằng sự đau khổ mà người ta phải chịu đựng không gợi lòng thiện cảm của mình. Sự tức giận vô tư kỷ này, với một tính cách cao thượng, thiệt là thanh cao hơn sự lãnh đạm thờ ơ, nhưng đấy chưa phải là cái hình thức cao cả nhất của nó. Đến lượt nó phải được biến dổi thành một tâm tánh tự nhiên khiến cho huynh xử sự công bình đối với kẻ mạnh cũng như đối với kẻ yếu, khiến cho huynh phàn nàn giùm kẻ cường bạo cũng như kẻ bị hà hiếp làm huynh hiểu rằng kẻ cường bạo đã tự làm hại mình, nhiều hơn là làm hại kẻ bị hà hiếp, khiến huynh thương giùm y cũng như thương giùm nạn nhân của y, nó làm cho huynh thương xót và đối xử công bình với kẻ áp chế lẫn kẻ bị áp chế.

Người tinh luyện tật giận dữ đến mức đó đã diệt trừ được sự ác, vì làm chấm dứt sự ác là bổn phận y, nhưng y còn từ bi đối với kẻ làm ác vì kẻ này cũng cần được giúp đỡ và dạy đỡ. Như vậy một sự tức giận muốn trả thù một sự nhục mạ cá nhân trở thành một sự công bình nó chấm dứt mọi điều ác, nó che chở cả kẻ mạnh lẫn kẻ yếu. Đó là sự tinh luyện trong thế giới, của những hành vi, đó là những sự cố gắng hằng ngày nhờ đó mà cái bản tính thấp hèn được tinh luyện để cho sự Hợp Nhất có thể thực hiện được.

2.-TÌNH YÊU

Rồi chúng ta lấy tình yêu làm thí dụ. Thoạt đầu, ta thấy nó ở trong cái hình thức thấp thỏi nhất, thô kệch nhất, đó là dục vọng tầm thường theo thú tánh giữa hai giống, nam và nữ. Cái lòng dục nầy không đếm xỉa gì đến tính nết của người được thương yêu, không kể gì đến cái vẻ đẹp trí thức và đức hạnh, nhưng chỉ trìu mến vẻ đẹp của thể xác, chỉ nhớ tới sự hấp dẫn và thú vui xác thịt. Đó là lòng dục dưới cái hình thức thấp thỏi nhất của nó. Người ta nghĩ đến mình, và chỉ nghĩ đến mình thôi.

Người đi theo Con Đường Hành Động tinh luyện lòng dục này. Y biến đổi nó thành ra thứ tình yêu thúc đẩy y tự hy sinh cho người yêu. Y làm đầy đủ bổn phận gia đình, coi sóc vợ con, và làm đủ mọi việc mà y có thể làm cho vợ con y, bằng cách hy sinh sự vui thích riêng của mình, hy sinh cả những lúc nhàn rỗi cùng sự thỏa mãn riêng tư của mình. Y làm việc để nâng cao tình trạng gia đình để có thể tự y chu cấp cho gia đình những thứ cần thiết. Ở lòng y tình thương yêu không phải chỉ hạn định trong sự tìm kiếm thú vui riêng tư, nhưng là sự cố gắng giúp đỡ những người mà y yêu mến hứng chịu lấy những sự không may hăm dọa họ, để họ được che chở, dung thứ và cứu rỗi. Khi theo Con Đường Hành Động, con người tinh luyện tình thương yêu của mình, lọc sạch hết mọi yếu tố ích kỷ, và cái sự trước kia chỉ là một lòng dục có thú tính đối với người khác giống, nay thành tình yêu của người chồng, của người cha, của người anh cả, của người họ hàng, làm bổn phận mình bằng cách làm việc cho những kẻ mà mình thương yêu, để cho đời sống của họ có thể trở nên êm ấm hơn, sung sướng hơn.

Đến đây mới bắt đầu giai đoạn cuối cùng, mà tình yêu được gột bỏ mọi tính cách vị kỷ và ban rải cho tất cả mọi người. Nó không còn chỉ ban rải trong cái vòng gia đình chật hẹp, nhưng ở mỗi người mà nó gặp, nó trông thấy một kẻ phải giúp đỡ; ở mỗi người đói khát nó trông thấy một huynh đệ phải nuôi dưỡng; ở mỗi người phụ nữ bị ruồng bỏ, nó trông thấy một người em gái phải cứu vớt. Con người được tinh luyện như vậy trở thành người cha, người anh, người bạn của tất cả những kẻ cô độc, không phải vì y thương yêu họ một cách vị kỷ, nhưng vì yêu thương họ trong lý tưởng, và y chỉ tìm cách ban rải tình yêu vì tình yêu, chớ không phải vì sự vui được người ta thương yêu lại. Tình yêu trong sự biểu lộ cao thượng nhất của nó, tình yêu phát sinh ra trong Con Đường Hành Động không đòi hỏi một sự gì để đổi chác lại điều nó đã cho ra. Nó không tìm kiếm sự biết ơn, nó không mong muốn được người ta nhận biết, nó muốn tự dấu mình đi; khi tự trong bóng tối ban rải ra để người ta không nhận thấy, thì nó sung sướng hơn là khi hành động để người ta chú ý đến và khen ngợi.

Sau cùng, tình yêu được tinh luyện hoàn toàn khi nào nó trở thành một thứ Tình Thiêng Liêng, khi nó cho ra là vì bản chất nó là ban rải hạnh phúc, nó không còn đòi hỏi gì cho chính mình nữa, nhưng chỉ tìm cách làm cho kẻ khác được sung sướng.

3.-SỰ THAM LAM

Về tật thèm muốn và tham lam thì cũng thế. Con người làm ra tiền để có thể tự kiếm cho mình những sự sung sướng. Họ mong muốn có tiền để trở nên có thế lực, họ ráng kiếm tiền để tiến lên cao trong xã hội. Thoạt đầu, họ tinh luyện cái hình thức thứ nhất của tật thèm muốn ấy và mong mỏi có tiền bạc để gia đình đước hạnh phúc hơn, để địa vị gia đình được tốt đẹp hơn, để gia đình khỏi bị đau khổ và thiếu thốn,

như vậy họ bớt ích kỷ hơn khi trước. Họ còn đi xa hơn nữa và tham vọng tăng thêm phương tiện của mình để có thể dùng vào việc thiện, để có thể làm điều ích lợi trong một phạm vi rộng hơn gia đình, và sau cùng, cũng như ở trường hợp của tình yêu, họ tập cho ra mà không thu nhận cái gì để bù lại. Họ tập muốn có trí thức và của cải, không phải là để giữ lấy, mà để ban rải, không phải để hưởng thụ, mà để phát ra khắp nơi. Bằng cách ấy, tánh ích kỷ được diệt trừ.

Có bao giờ quý huynh tự hỏi rằng tại sao Đấng mà người ta gọi là “Mahadeva” (Đại Thiên Thần)(1)

[vi]

lại ở môt xứ nóng như lửa. Người ta phải nghĩ rằng thật lạ kỳ mà Đấng Tối Cao là tượng trưng của sự Tinh Khiết lại ở một nơi như thế! Câu nói bóng gió: “miền viêm địa” có ẩn ý về: “Đời sống con người” và tại miền viêm đại nầy là nơi Đức Thượng Đế Shiva ngự trị; tất cả những gì thấp hèn trong đời sống con người đều bị lửa đốt cháy rụi. Nếu Thượng Đế Shiva không ngự nơi nầy, mọi cặn bã của đời sống thế gian còn lại sẽ sình ươn lên, thối nát đi để thành nguyên nhân của mọi sự nguy hại, lan tràn khắp mọi nơi, sinh ra bệnh tật và sự thối tha. Nhưng trên miền viêm địa của Ngài ở, những ngọn lửa của Ngài xuyên qua từ đầu nầy đến đầu kia, tất cả những gì ích kỷ, tất cả những gì tư riêng, tất cả những gì có bản chất thấp hèn đều bị cháy rụi. Người hành giả được tinh luyện do những ngọn lửa hồi sinh ấy, không còn mang dấu của yếu tố cá nhân, vì những ngọn lửa thiêng liêng đã đốt tiêu những dục vọng tấp hèn, và không còn để lại một sự gì có thể nhiễm độc hay là làm cho đau ốm. Vì vậy, người ta gọi Ngài là Đấng Phá hoại, phá hoại mọi sự gì ti tiện, để sự phục sinh có thể thực hiện được, vì lúc nguyên thủy, linh hồn sinh ra tự những ngọn lửa của Ngài, và chính tại nơi “miền viêm địa” ấy mà Chơn linh được tinh luyện,

Theo cách đó, những bước đầu tiên nầy dẫn huynh đến cái địa vị thiệt thọ của người đệ tử, huynh đã tìm Sư Phụ trong Linh Điện, nơi linh thiêng nhất trong mọi nơi linh thiêng, Đức Sư Phụ của Nhân Loại ngự tại nơi đó. Ấy là những nấc thang đầu tiên mà huynh phải trèo, ấy là con đường mà huynh phải theo. Quý huynh là những người sống giữa xã hội, bị những giây chướng ngại ràng buộc, bị chi phối bởi những nhu cầu của đời sống xã hội, chính trị, và tuy vậy, tự nơi đáy lòng, quý huynh vẫn mong ước đến Con Đường Chân Chánh, đến sự hiểu biết thuộc về đời sống vĩnh viễn trường tồn chớ không phải vế đời sống phù du giả tạm. Nếu mỗi người tự dò xét kỹ nơi thâm sâu của lòng mình, thì sẽ tìm thấy ở đấy sự nồng nhiệt muốn học hỏi thêm mãi, muốn sống cao thượng hơn là nếp sống từ trước đến giờ. Huynh có thể hình như quyến luyến sự vật ở thế gian và trìu mến chúng thật tình, do cái bản ngã thấp thỏi của huynh, nhưng trong lòng của mỗi người Ấn Độ chơn chánh chưa hoàn toàn từ bỏ tôn giáo và xứ sở của mình, luôn luôn có một hoài vọng về một lý tưởng cao thượng hơn là cõi đời nầy, một ý muốn dù yếu đuối đến đâu mặc dầu, dù đó chỉ do những tục lệ cổ truyền của dĩ vãng, một ý muốn được trông thấy xứ Ấn Độ trở nên cao quý hơn hiện giờ, và dân tộc Ấn xứng đáng hơn với dĩ vãng của họ. Đó là con đường mà quý huynh phải bắt đầu noi theo. Một quốc gia chỉ có thể cao cả nếu con dân của quốc gia ấy cao cả, một dân tộc không thể nào hùng cường nếu những cá nhân trong dân tộc nghèo hèn và sống một đời ích kỷ. Quý huynh phải khởi hành tự cái điểm của quý huynh đứng hiện giờ, từ cuộc đời mà quý huynh đang sống hiện giờ, và quý huynh sẽ tiến đến gần Đường Đạo bằng cách tuân theo cái lối sống mà tôi vừa tả qua loa cho quý huynh thấy.

Quý huynh hãy để cho tôi chấm dứt bằng cách nhắc cho quý huynh rõ Con Đường Đạo sẽ dẫn ta tới đâu, tuy rằng trong những bài diễn văn sau nầy đọc trước quý huynh, tôi phải cùng quý huynh tiến đến gần nó.

Con Đường Đạo dẫn đến sự Hợp Nhất. Con Đường Hành Động mà chúng ta vừa học dẫn đến sự Hợp Nhất do những sự hành động. Còn các nấc thang khác phải vượt qua. Nhưng trước hết, Hợp Nhất nghĩa là gì? Quý huynh còn nhớ Đức Krishna miêu tả con người đã thoát khỏi những đặc tánh của vật chất,

(gunas), đã xứng đáng uống nước cam lồ, trường sinh bất tử, và sẵn sàng hiểu biết Đấng Tối Cao, sẵn sàng hợp nhất với Ngài. Y chỉ biết có một yếu tố duy nhất là những gu na, nhưng y biết trên cao kia còn có cái gì nữa. Y trông thấy những gu na tác động, nhưng khi không có chúng, y cũng không muốn có chúng làm gì, mà khi có chúng, y cũng không xua đuổi chúng. Y vẫn hoàn toàn thăng bằng giữa bạn và thù, hoàn toàn thăng bằng trước sự khen ngợi hay chê bai; tự tin, y coi mọi vật như nhau, y nhìn một cục đất cũng như một đống vàng, nhìn bạn cũng như nhìn thù. Y cư xử với mọi người cùng một cách, vì y đã vượt khỏi những gu na và không thể còn mắc vào những ảo ảnh của chúng nữa. Đó là cái mục đích mà chúng ta đang tìm kiếm. Đó là những nấc thang đầu phải trèo để tới Con Đường Đạo nó dẫn chúng ta lên cao nữa. Khi chưa vượt qua những mức nầy thì không thể có một sự tiến bộ nào cả, nhưng khi người ta vượt khỏi rồi, thì sự Nhập Đạo thiệt thọ càng ngày càng rõ rệt.

II

NHỮNG ĐỨC TÁNH CẦN THIẾT

đầu sách  cuối sách  chương 1 2 3 4

KIỂM SOÁT TƯ TƯỞNG- THAM THIỀN- LẬP HẠNH

Thưa quý huynh,

Cái khía cạnh đặc biệt của vấn đề mà chúng ta phải giải quyết hôm nay có liên quan đến những đức tánh cần thiết để thành một người đệ tử. Tôi sẽ bắt đầu diễn giải cho quý huynh rõ luật luân hồi và những phương tiện khiến cho mỗi người nhận định được cái gì là đức tính của người đệ tử và chọn lấy mục đích ấy cho đời sống vị lai của mình. Quý huynh hãy nhớ những đều tôi đã nói hôm qua, về những giai đoạn khác nhau của sự hành động: một người bắt đầu hành động với mục đích làm thỏa mãn những dục vọng thấp hèn của y và để thâu hoạch được những lợi lộc thế gian, rồi thế nào, sự thực hành Con Đường Hành Động dần dần dạy y hoạt động không phải với mục đích được lợi lộc cho bản thân, nhưng chỉ để làm bổn phận mình, như vậy là hợp nhất với Định luật, và như thế tham dự một cách có ý thức vào cái công trình vĩ đại của thế gian. Sau lại tôi đã nói với quý huynh rằng có một giai đoạn cao hơn những giai đoạn nầy, một giai đoạn trong đó sự hy sinh được thực hiện, không phải như một bổn phận mà thôi, mà là một sự hiến dâng vui vẻ tất cả mọi cái gì mà con người đang có. Lẽ cố nhiên là khi nào con người tìm cách đi đến giai đoạn này, khi y làm một việc không phải chỉ vì đó là bổn phận của y phải làm, nhưng vì y muốn hiến dâng tất cả thân thế và tài sản để phụng sự Đấng Tối Cao; lẽ cố nhiên, chỉ lúc ấy y mới có thể dứt khoát với những sự ràng buộc của dục vọng và được giải thoát, khỏi vòng luân hồi.

Cái điều nó lôi kéo con người và bắt con người phải luân hồi xuống thế gian, đó là ý muốn; ý muốn thụ hưởng những của cải mà người ta có thể tìm thấy ở thế gian, ý muốn làm được mọi việc mà người ta có thể làm ở nơi đó. Bất cứ ai có những tham vọng hồng trần, bất cứ ai đặt một mục đích hồng trần cho đời mình, thì lẽ cố nhiên là bị những ý muốn ấy buộc chặt. Khi mà những dục vọng con người còn nhắm vào những điều mà cõi Hồng trần có thể cung cấp cho y thì y còn phải xuống thế gian để thỏa mãn những dục vọng ấy. Khi mà chỉ một nỗi vui hay một vật thuộc về đời sống phù du, đời sống vật chất ở thế gian còn có quyền lực lôi cuốn y, thì nó cũng có quyền lực trói buộc y. Nói một cách khác, mọi dục vọng đều trói buộc linh hồn và dẫn linh hồn đến nơi nào mà nó phải được thỏa mãn

.

Bản chất của con người vốn thiêng liêng và con người giống như một vị Thượng Đế, cho đến đỗi cái sức mạnh tự ý phát ra (mà chúng ta gọi là dục vọng, có quyền lực tự thỏa mãn. Nó muốn điều gì là được điều nấy, nó muốn cái gì thì Tạo Hóa cho nó cái nấy, đúng lúc thích nghi, khi đến giờ, đến lúc.

Vì thế cho nên, như người ta thường nói, con người làm chủ số kiếp của mình, và tất cả những gì mà y đòi hỏi nơi Vũ trụ, Vũ trụ sẽ cho y. Lẽ đương nhiên, y sẽ hái được kết quả của những điều y muốn tại cảnh giới của Vũ trụ nơi đó chúng ta đã nảy sanh. Như vậy, nếu những dục vọng của y thuộc về cõi Hồng trần, thì y phải trở lại cõi Hồng trần để dục vọng y có thể được thỏa mãn. Con người cũng bị trói buộc vào vòng luân hồi bởi những dục vọng chỉ có thể được thỏa mãn trong những cảnh giới phù du thoảng qua ở bên kia cửa tử. Những cảnh giới phù du ở bên kia cửa tử, như chúng ta biết, đều dẫn dắt chúng ta đến sự luân hồi tại thế gian này, cho nên nếu những sự ước vọng của con người nhắm vào nỗi vui của Thiên Đường, nếu y mong mỏi hái, tại một cảnh giới cũng phù du như y, những kết quả của đời sống tại thế gian nầy, và nếu y khước từ những thú vui Hồng trần với mục đích nhất định là đạt được những sự vui ở Thiên đường, thì những sự vui nầy sẽ là phần thưởng do những cố gắng ấy mà có, và phần thưởng nầy sẽ ban cho y, vào lúc thích hợp đúng kỳ. Nhưng vì rằng Thiên Đường cũng là cõi giả tạm phù du, cho nên y rút cục cũng chỉ chọn con đường gọi là con đường ảo mộng (con đường của mặt trăng) dẫn đến sự luân hồi. Quý huynh cũng nhớ câu: “Mặt trăng là cửa dẫn đến Thiên Đường”- như vậy, khi từ giã Thiên Đường, linh hồn con người lại trở lại cõi Hồng trần của thế nhân. Do đó mà dục vọng- dù có được thỏa mãn ở cõi nầy hay cõi khác cũng phù du, giả tạm như nhau- trói buộc linh hồn vào bánh xe luân hồi,

và vì lý do ấy mà Kinh sách đã viết rằng linh hồn chỉ có thể giải thoát khi “những giây trói buộc của lòng bị cắt đứt”.

Sự giải thoát, hoàn toàn trong một thời gian, có thể đạt được do sự tuyệt trừ những dục vọng ấy. Không cần làm một việc gì có tính cách thật cao thượng, không cần phải đạt đến một mức rất cao trong sự tiến hóa của linh hồn, không cần phải phát triển mọi năng khiếu thiêng liêng ẩn tàng trong lương tri con người, không cần phải lên đến chót đỉnh cao cả nơi đó có các Đấng Giáo Chủ và các Vị Hộ Trì của nhân loại ngự trị; nếu muốn, con người có thể được hưởng một sự giải thoát thiệt ích kỷ, nó đem y lên cao hơn cõi thế gian đau khổ này, nó cắt đứt mọi giây trói buộc y vào cái cảnh giới sinh tử này, nhưng y không giúp đỡ người khác, không cắt đứt giây trói buộc cho họ, không giải thoát họ. Đó là một cách giải thoát có lợi cho cá nhân chớ không phải cho toàn thể, một sự giải thoát do đó cá nhân từ bỏ nhân loại, để mặc nhân loại tự vạch lấy con đường mà đi. Tôi biết rằng rất nhiều người không có ước vọng nào cao hơn thế, rất đông là những người chỉ tìm sự giải thoát cho mình, không nghĩ đến người khác. Như tôi đã nói cái mục đích ấy rất dễ đạt được. Muốn như vậy, chỉ cần nhận định được cái tính chất phù du giả tạm của sự vật tại thế gian, cái tính cách mộng ảo của những tham vọng mà thế nhân vuốt ve hằng ngày, nhưng rốt cuộc sự giải thoát ấy chỉ dài được một thời, có lẽ một Đại Kiếp(1)

[vii]

rồi sau con người vẫn bị bắt buộc phải trở lại. Như thế, tuy đã lìa bỏ cõi thế gian nầy, nhưng linh hồn vẫn còn phải trở lại trong một cuộc tuần hoàn vị lai, để tiến lên một bước nữa cho đúng với kiếp số thiêng liêng, thật sự của con người; ấy là sự tiến hóa của lương tri nhân loại trong cái đại Lương Tri của Vũ Trụ mà nhiệm vụ là giáo huấn, phù trợ và điều khiển những thế giới vị lai.

Bây giờ, tôi xin nói đến những linh hồn khôn ngoan và đại lượng hơn họ tuy muốn cắt đứt những giây trói buộc của dục vọng, nhưng không phải để chính mình thoát khỏi những khó khăn của đời sống hồng trần, mà để có thể theo đuổi con Đường cao siêu, cao thượng, gọi là con đường của kẻ chí nguyện muốn làm đệ tử, để theo những Đấng Cao cả, các Ngài đã đặt con đường ấy vừa tầm sức của nhân loại. Những linh hồn này tìm những vị Chân Sư sẵn sàng thâu nhận những ai đủ tư cách để theo con đường ấy, không phải với mục đích duy nhất là tự giải thoát, không phải để thoát khỏi mọi lo Sư và những Đấng Cứu Thế. Những linh hồn nầy hoàn lại cho toàn thể thế giới những gì mà con người đã nhận được của các Chân Sư Tiền Phong. Cái địa vị đệ tử này được ghi trong những Đại Thánh Kinh của thế giới. Sự tìm một Sư Phụ giáo huấn loài người, là một lý tưởng của những linh hồn cao thượng và tiến hóa nhất; họ đã tìm cách thực hiện Thiên Ý ở thế giới ngoại cảnh nầy. Quý huynh hãy lấy bất cứ Thánh Kinh nào và hãy xem coi cách giải bày về vấn đề nầy ra sao. Quý huynh hãy coi hết kinh Upanishads nầy cho đến kinh Upanishads khác, và hãy coi ở đấy người ta nói về Sư Phụ làm sao, và người chí nguyện muốn làm đệ tử được khuyến khích để kiếm và tìm thấy Ngài bằng cách nào. Đó là điều mà hôm nay tôi muốn nói với quý huynh, nói về các đức hạnh cần phải có để trở thành một người đệ tử, nói về những sự gì phải làm trước khi được thu nhận làm đệ tử, về những điều gì phải hoàn tất trước để cho việc đi tìm Chơn Sư có thể may ra thành công; về những việc gì phải làm ở thế gian, trong đời sống tầm thường của mọi người, bằng cách xem cuộc đời như một trường học, như là một nơi ở đó người ta học những bài yếu lược, như là một nơi để cho con người học những đức tính cần thiết để xứng đáng đi đến chân các Vị Đại Sư. Các Ngài sẽ ban cho y sự phục sinh thật sự, sự phục sinh nầy được tượng trưng trong mọi tôn giáo công truyền bởi một nghi lễ nào đấy, tự nó thì chẳng có gì thiêng liêng, nhưng rất thiêng liêng ở cái điều mà nó tượng trưng vậy. Huynh sẽ thấy trong Ấn Độ ngữ danh từ “được sinh ra hai lần” có hàm nghĩa là người ta không phải chỉ được sinh ra do một người cha và một người mẹ xác thịt, mà còn được sinh ra lần thứ hai nữa, lần này do Chơn Sư ban cho linh hồn. Điều nầy được tượng trưng bởi sự Điểm Đạo cho người con trai, do vị Thầy của gia đình hay do người cha; điều nầy khiến cho ở thế gian người ta gọi y là người sinh hai lần, nhưng ở những thời xưa - cũng như ở thời nay - đã có và hiện đang có một sự Điểm Đạo thật sự nó sinh ra mọi nghi lễ bề ngoài. Có một sự Điểm Đạo thiệt thọ nó không phải chỉ là sự thu nhận vào một giai cấp bề ngoài, nhưng nó cho ta một sự phục sinh thiêng liêng thật sự, sự Điểm Đạo do một vị Đại Sư thay mặt cho Đấng Tối Cao, Đấng duy nhất được phép Điểm Đạo cho nhân loại. Chúng ta thấy những kinh sách có thuật lại những cuộc Điểm Đạo ấy, chúng ta biết rằng những sự Điểm Đạo ấy hiện giờ vẫn còn. Toàn thể Lịch Sử chứng minh sự ấy có thiệt.

Ở Ấn Độ có những đền đài mà phía dưới đất lại có những Thánh Điện để dùng cho những cuộc Điểm Đạo cổ thời mà hiện nay dân chúng không biết đến; Chỗ nầy được dấu kín, để tránh những cặp mắt tò mò của người trần. Những Thánh Điện ấy hiện giờ vẫn còn và những kẻ xứng đáng vẫn còn có thể bước qua ngưỡng cửa các nơi đó. Mà không phải chỉ ở Ấn Độ mới có những Thánh Điện kiểu ấy; nước Ai Cập cổ thời cũng có những hầm kín dùng để Điểm Đạo và những Kim Tự Tháp hùng vĩ, trong một vài trường hợp, bao phủ Thánh Điện cổ thời, nay được che kín, không cho con mắt của người đời thấy được. Những cuộc Điểm Đạo cuối cùng mà quý huynh thấy ghi ở lịch sử Hy Lạp và lịch sử xứ Ai Cập, như là sự Điểm Đạo của các nhà hiền triết đều diễn ra tại các đền đài phía ngoài mà dân chúng biết; những đền đài này bao phủ những Thánh Điện chánh thức của sự Điểm Đạo. Không phải nhờ khoa học bề ngoài mà được quyền bước qua ngưỡng cửa những Thánh Điện thiệt thọ nầy. Thí sinh bắt buộc phải có đủ những điều kiện nêu ra từ ngàn xưa và bây giờ cũng còn y như ở thời trước vậy; và nếu toàn thể lịch sử chứng minh rằng sự Điểm Đạo có thiệt, thì cũng chứng minh rằng người được Điểm Đạo có thiệt. Đứng đầu của bất cứ tôn giáo lớn nào cũng có những Vị Siêu Phàm cao hơn người trần tục, những Vị đã viết ra những Thánh Kinh cho các dân tộc, mà lịch sử đã miêu tả như vượt khỏi những kẻ đồng thời bởi sự hiểu biết sâu xa những vấn đề tinh thần- sự hiểu biết nầy đã bao quanh các Ngài một vòng hào quang; nhờ huệ nhãn các Ngài thấy được và chứng minh được những điều các Ngài đã thấy. Quả vậy, có một điều mà chúng ta thường thấy ở những Đại Chơn Sư mà các Ngài không chủ trương, mà các Ngài quả quyết, các Ngài không thảo luận mà các Ngài tuyên bố các Ngài không đi đến kết quả bằng những phương pháp lý luận mà bằng trực giác thiêng liêng. Các Ngài hiện đến và nói ra một cách có uy tín một uy tín được chứng minh bằng chính những lời nói của các Ngài, và lòng con người nhận biết được chơn lý của những điều các Ngài giáo hóa, dù các Ngài có vượt lên đến những cảnh giới cao siêu mà trí thông minh của con người không hiểu nổi. Ở trong lòng mỗi người luôn luôn có cái động lực thiêng liêng má các Thánh Sư không ngớt gợi đến, nó tiếp đón sự dậy dỗ về tinh thần, mặc dầu trí thông minh không đủ sức để có thể phân biệt cái chơn lý mà tinh thần nhận thấy. Những vị Thánh Sư nầy đã được ghi trong lịch sử như là Những Bậc Thầy Cao cả, cùng với những vị mà lịch sử nói đến như là những nhà Đại Hiền Triết. Các Ngài toàn là những Vị đã được Điểm Đạo, đã vượt lên cao hơn những người thường; các Vị nầy bây giờ hiện còn sống cũng như các Ngài đã sống tự ngàn xưa. Thiệt vậy, sự chết làm sao có thể xâm phạm đến các Vị đã thắng được cả sự sanh lẫn sự tử, đã làm chủ được cà cái bản năng thấp hèn. Sự tiến hóa của các Ngài đã đưa các Ngài lên mức cao tột trong những thế kỷ đã qua, có những vị thuộc về nhân loại chúng ta, có những vị thuộc về những nhân loại sinh trước chúng ta. Vài Vị trong số các Ngài, từ những Thế Giới hay là những hành tinh khác mà đến cõi trần, trong thuở nhân loại chúng ta hãy còn ở vào thời kỳ ấu trĩ. Những Vị khác đã trưởng thành khi nhân loại nầy đã đi được một đoạn khá dài trên con đường tiến hóa để có thể tự sản xuất cho mình những Vị được Điểm Đạo, những Vị Thánh Sư của nòi giống chúng ta, để giúp cho nhân loại tiến tới mà chính các Ngài là những phần tử trong đó. Khi một người đã đi hết con đường Đạo và đã tới mục đích nầy, thì sự chết không còn có một quyền năng gì đối với Ngài, vì Ngài đã đạt đến cõi Trường Sinh bất tử vậy. Chỉ một việc lịch sử nói đến các Ngài là một sự bảo đảm về đời sống hiện tại của các Ngài rồi, điều nầy đủ để chứng minh rằng các Ngài vẫn còn, không cần đến sự làm chứng càng ngày càng nhiều của những ai đã tìm thấy và đã biết các Ngài, đã được các Ngài dạy bảo, và đã học hỏi dưới chân các Ngài. Thật vậy, trong thời đại của chúng ta hiện giờ, người học Đạo vẫn tìm thấy, hết người nầy đến người khác, con Đường Đạo cổ thời; đến bây giờ họ vẫn còn tìm thầy, kẻ trước người sau, cái con đường Đạo gay go, mỏng như lưỡi dao cạo, nó nâng cao con người lên và khiến y có thể đi vào con đường của người chí nguyện muốn làm đệ tử. Khi một người trong bọn họ khám phá ra con đường nầy, y thành một nhân chứng có thể tuyên bố sự xác thực của những kinh sách ngày xưa, và sau khi y đã đi vào con đường nầy rồi, y có thể vượt qua tất cả mọi giai đoạn của nó.

Bây giờ chúng ta hãy xác định đức tính cần thiết để có quyền bước vào con Đường Đạo. Trong những đức tính nầy, đức tính thứ nhất phải được phát triển ít nhất cũng đến mực thật cao trước khi con người có thể khởi sự ước ao được thu nhận làm đệ tử. Cái đức tính đầu tiên ấy người ta gọi nó là sự kiểm soát cái trí, và nhiệm vụ đầu tiên của tôi là giải nghĩa cho quý huynh một cách rất rõ rằng sự kiểm soát cái trí là gì, cái trí (mà ta phải kiểm soát) là gì, và lấy cái gì mà kiểm soát nó. Chúng ta đừng quên rằng đối với đa số quần chúng, cái trí tức là con người. Khi người ta nói đến mình thì người ta nói đến cái trí của người ta vậy. Khi người ta nói: tôi, thì người ta đồng hóa cái “Tôi” ấy với cái trí, cái thức thông minh hiểu biết vậy. Và khi con người nói: “Tôi nghĩ, tôi cảm xúc, tôi biết”, nếu huynh tìm kiếm một cách cẩn thận mà y gán cho những chữ đó, thì huynh sẽ thấy rằng ý nghĩa nầy không vượt qua giới hạn của trạng thái tâm thức y khi y còn thức dậy. Đó là điều mà y thường hiểu về chữ: “Tôi”. Thật vậy, những ai học hỏi chính chắn đều biết rằng cái “Tôi” ấy là ảo tưởng cho đến mức nào, nhưng tuy biết như vậy, dưới hình thức một định lý trí thức, họ không lấy đó làm một trong những chơn lý thực tế của đời sống. Với tư cách của nhà triết học, họ thừa nhận định lý nầy, nhưng họ không lấy đó làm căn bản của đời sống của họ ở thế gian. Để chúng ta có thể hiểu một cách rõ ràng sự kiểm soát cái trí là gì, và chúng ta có thể kiểm soát nó bằng cách nào, chúng ta hãy thử xét cái việc mà người ta gọi là sự tự chủ, khi ta nói về một người ở trong thiên hạ; chúng ta sẽ thấy rằng sự tự chủ nầy cón thiếu sót đến đâu khi ta so sánh nó với cái đức tính cần phải có của người chí nguyện muốn làm đệ tử. Khi ta nói rằng một người tự chủ được, ta muốn nói rằng cái trí của y mạnh hơn những dục vọng của y; nếu ta lấy cái bản thể thấp thỏi của y, những dục vọng và những cảm xúc của y, rồi ta đem cái bản chất trí thức của y, sự thông minh của y, cái ý chí và cái quyền năng lý luận của y mà chống chọi lai, thì những năng khiếu sau nầy sẽ thắng những dục vọng nói trên: nói tóm lại, trong lúc bị quyến rũ hay đứng trước một sự khêu gợi dục vọng mình, y có thể nói rằng: “Không, tôi không muốn nhượng bước; tôi sẽ không để cho những dục vọng của tôi lôi cuốn tôi, tôi sẽ không để cho những giác quan của tôi ngự trị; những giác quan nầy chỉ là những con ngựa kéo cái xe của tôi, trong khi đó tôi là người đánh xe và tôi sẽ không để cho chúng phóng nước đại trên đường lộ mà chúng nó lựa chọn”. Như thế, chúng ta nói rằng người nầy tự chủ. Đó là cái ý nghĩa thông thường của những chữ nầy, và chúng ta hãy ghi nhớ, sự tự chủ nầy là một đức tính rất đáng khen. Nó tượng trưng một giai đoạn mà mọi người phải trải qua. Con người phóng đãng, không kỷ cương, hoàn toàn ở dưới sự chế ngự của giác quan, dĩ nhiên là phải cố gắng nhiều lắm trước khi có thể đạt được cái tính tự chủ nầy, nhưng còn phải cố gắng nhiều, nhiều hơn thế nữa. Khi ta nói đến một người có ý chí cương quyết và một người có ý chí yếu đuối, ta thường muốn nói rằng: người cương quyết là người đứng trước những sự quyến rũ và những nỗi khó khăn thường tình của cõi đời nầy, sẽ dùng đến lẽ phải và sự suy luận trước khi chọn con đường của mình và sẽ để cho cái ký ức của dĩ vãng nó dìu dắt cùng với những lời kết luận do ký ức đó sinh ra. Như vậy, chúng ta nói rằng y có một ý chí cương quyết, vì y không để cho những trường hợp đẩy đưa, vì y không tuân theo những sự đột phát của cảm xúc, và không giống như một con thuyền bị giòng sông lôi cuốn đi, bị đưa trôi đến nơi nầy nơi khác, tùy theo chiều gió thổi. Y giống như một cái thuyền do một người thủy thủ lành nghề điều khiển, y biết lợi dụng những ngọn gió và những giòng nước để lái con thuyền về phía của y muốn, biết dùng ý chí như một bánh lái để giữ con thuyền trên con đường mà chính y đã lựa chọn. Có được một ý chí cương quyết thay vì một ý chí yếu đuối, đó là dấu hiệu sáng tỏ nhất về sự phát triển tuần tự của con người và của sự tăng trưởng của cá tính y.

Tôi nhớ rằng bà H.P.Blavatsky có nói trong một bài về cá tính rằng người ta có thể nhận biết sự hiện hữu của cá tính ở con người và sự khiếm diện của nó ở loài vật bằng lối chiêm nghiện cách cư xử của người và vật trong một vài trường hợp. Quý huynh hãy lấy một số thú rừng và hãy đặt chúng trước những trường hợp giống nhau, quý huynh sẽ thấy tất cả chúng đều theo một cách cư xử in như nhau. Cách hành động của chúng do hoàn cảnh của chúng định đoạt, mỗi con vật không tìm cách hành động

để thay đổi tình thế, không đem những trường hợp này đối chọi với những trường hợp kia để tìm lấy một con đường lựa chọn. Tất cả chúng nó đều hành động giống nhau. Nếu huynh biết bản tính của con vật, cũng như biết tánh cách những hoàn cảnh của chúng, từ khi mà huynh biết cách hành động của một hai con vật cùng một loại, thì huynh có thể

suy luận ra cách hành động của cả bầy nó. Đó là bằng cớ tuyệt đối của sự thiệt không có cá tính trong loài vật. Nhưng nếu huynh lấy một số người, huynh không thể kết luận trước rằng họ sẽ hành động tất cả cùng một lối, vì cái cách họ hành động khác nhau trước những trường hợp giống nhau sẽ tùy theo cái trình độ tiến hóa của mỗi người. Những cá nhân đều giống nhau, và do đó mà hành động khác nhau; mỗi người có ý chí riêng biệt, vì vậy y có thể lựa chọn tùy theo ý muốn. Ngưới mà ý chí yếu đuối thì cá tính không được mạnh, kém phát triển và chưa đi xa trên con đường tiến hóa.

Nhưng con người có thể làm nhiều hơn nữa và thay vì chỉ lo cho bản tính cao thượng của mình kiểm soát bản tính thấp hèn, y có thể bắt đầu nhận thức về cái sức mạnh sáng tạo của tư tưởng. Muốn làm được điều nầy con người cần có một phạm vi tư tưởng rộng hơn phạm vi của người thường, con người cần phải có một số kiến thức về triết học. Tỉ dụ nếu y đã học những kinh sách chánh đại của Ấn Độ, y sẽ có một quan niệm trí thức rất sáng suốt về sức mạnh sáng tạo của tư tưởng; nhưng một khi y nhận biết được điều nầy, y sẽ kết luận rằng còn có một cái gì cao hơn cái trí của y, vì nếu có một sức mạnh phát sinh ra tư tưởng, nếu do sự trung gian của cái trí mình mà con người có thể tạo ra tư tưởng, thì những tư tưởng nầy phải được phát sinh ra do một cái gì ẩn tàng phía sau cái trí đã sinh ra chúng nó. Sự hiện hữu của sức mạnh sáng tạo của tư tưởng và nội cái việc con người có thể dùng nó để rèn luyện cái trí của mình cũng như cái trí của người khác, cũng đủ chứng minh rằng cón có một cái gì cao hơn cái trí; có thể nói được rằng đó là một cái gì không tùy thuộc cái trí mà lại có thể xử dụng cái trí nầy như một dụng cụ. Người học Đạo tìm cách tự hiểu mình,bắt đầu nhận thấy rằng y có một cái trí rất khó điều khiển, và những tư tưởng vẫn đến, mặc dầu y không tìm kiếm; có thể nói rằng chúng tủa ra, mà không cần có sự tác dụng của ý chí. Khi y bắt đầu xem xét những sự hoạt động của cái trí, y nhận thấy rằng những tư tưởng ào tới nó tuy y không kêu gọi chúng; y nhận thấy rằng y bị những ý kiến không tốt, khuấy rối y ngoài sự mong muốn của y. Cái trí của y bị mọi sự ngông cuồng xâm chiếm, y muốn đuổi chúng đi, nhưng y như bị tước khí giới và không thể diệt trừ chúng được… Y tự thấy mình bị bắt buộc phải nghiền ngẫm những tư tưởng ngự trị trong trí y, chúng không tuân theo lời kêu gọi hay uy quyền của y chút nào. Lúc đó y bắt đầu nghiên cứu những tư tưởng ấy. Y tự hỏi: chúng ở đâu đến? chúng tác động như thế nào? Người ta có thể làm chủ chúng bằng cách nào? Và dần dần y hiểu được rằng nhiều tư tưởng xâm chiếm trí y bắt nguồn từ trong trí của

người khác, và tùy theo cái đường lối tư tưởng đặc biệt của y, y thu hút những tư tưởng của người khác, ở thế giới tư tưởng bên ngoài. Đến lượt y, y lại ảnh hưởng đến tư tưởng của kẻ khác bằng những tư tưởng của mình phát ra, và y bắt đầu hiểu rằng cái trách nhiệm nầy quan trọng hơn là việc xưa kia y chưa từng nghĩ tới. Từ trước đến giờ y vẫn tưởng rằng chỉ khi nào y nói thì y mới có thể gây ảnh hưởng đến cái trí của kẻ khác, cùng là chỉ có những hành động của y mới có thể được coi như một gương mẫu và làm thay đổi cách hành động của kẻ đồng loại; nhưng khi sự hiểu biết của y tăng trưởng dần dần, y bắt đấu cảm thấy một mãnh lực huyền bí tỏa ra tự con người đang tư tưởng và cảm đến cái trí của người khác. Khoa học đã có đề cập đến vấn đề nầy và đã đi đến những kết luận cũng giống như vậy. Nhiều cuộc thí nghiệm đã chứng minh rằng một tư tưởng có thể chuyển đi được từ khối óc nầy đến khối óc kia, không cần phải nói một lời, không cần phải viết một chữ, và trong tư tưởng có một vật gì cụ thể có thể nhận xét được, giống như một luồng rung động làm rung động những vật khác, không cần phải nói lên một lời, không cần phải phát ra một âm thanh. Khoa học đã khám phá rằng tư tưởng có thể truyền từ người nầy qua người khác, trong sự im lặng thâm sâu nhất, không cần một phương tiện giao thông nào ở bên ngoài- hay là như giáo sư Lodge đã nói, không cần có những phương tiện vật chất để giao thông- vật chất đây có nghĩa là vật chất hữu hình Hồng trần- một cái trí có thể ảnh hưởng đến một cái trí khác.

Nếu như vậy, chúng ta đều ảnh hưởng lẫn nhau bằng tư tưởng, không cần dùng đến lời nói hay sự hành động, vì một đàng, những tư tưởng mà chúng ta phát ra rải rác khắp thế gian và tác động trong cái trí của những người khác, và một đàng, những tư tưởng của người khác phát ra sáp nhập vào trí óc ta, và cảm đến cách suy nghĩ của ta.

Như vậy, chúng ta nhận thấy rằng sự suy nghĩ thường chiếm một chỗ rất nhỏ trong đời sống chúng ta; cái sự mà ta gọi là suy nghĩ thật ra chỉ là cái phản ảnh của những tư tưởng kẻ khác.

Thật vậy, cái trí của con người rất giống như cái quán trọ nơi đó khách lữ hành dừng chân nghỉ ban đêm; ít ra cái trí của một số người chỉ là thế mà thôi. Một tư tưởng đi vô rồi đi ra, con người thêm rất ít vào cái tư tưởng nó tới với y. Y nhận nó, cho nó trú ngụ rồi nó ra đi

.

Nhưng cái điều mà chúng ta có bổn phận phải làm là tự mình suy nghĩ một cách có ý thức với ý định thực hành cái điều mà ta đã nhất quyết làm.

Tại sao phải liểm soát cái trí, phải kiểm soát tư tưởng, phải bắt tư tưởng ngừng nghỉ, và phải từ khước không cho tư tưởng của kẻ khác trú ngụ trong trí ta? Tại sao những việc nầy lại quan hệ như thế? Tại sao tất cả

những điều nầy lại làm thành một điều kiện tất yếu phải hoàn thành xong xuôi trước khi được thâu nhận làm đệ tử. Vì những tư tưởng của một người được làm đệ tử sẽ vô cùng mãnh liệt, vì cái cá tính của ai đã thành đệ tử đều phát triển, tăng trưởng mạnh mẽ hơn trước, và vì mỗi tư tưởng của y có một sinh lực và một năng lực lớn hơn và cảm hóa một cách mạnh mẽ hơn đến xã hội loài người.

Tư tưởng của con người có thể giết chết người, tư tưởng con người có thể chữa bệnh; nó có thể cảm hóa quần chúng; nó có thể tạo ra một ảo tưởng mắt trông thấy được để có thể gạt gẫm kẻ khác và làm cho họ đi lạc đường.

Bởi vì tư tưởng trở nên mãnh liệt như thế khi cá tính càng phát triển và tăng trưởng, và bởi vì cái địa vị đệ tử bắt buộc cá tính phải phát triển nhanh chóng và phải tăng trưởng cấp bách để cho con người chỉ nội trong vài kiếp có thể sở đắc được những gì mà người thường chỉ có thể hoàn thành được trong hàng chục ngàn năm; cho nên trước khi sự tăng gia quyền lực nầy được giao phó cho y, y cần phải học cách kiểm soát tư tưởng, trừ bỏ những gì xấu xa trong tư tưởng, và chỉ thu những tư tưởng tinh khiết, từ thiện và hữu ích. Việc Chơn Linh kiểm soát tư tưởng đã được nêu ra như là điều kiện đối với người chí nguyện làm đệ tử, vì trước khi con người nhờ những lời dạy dỗ của Chơn Sư mà mở thêm được quyền năng, thì y phải làm chủ cái dụng cụ phát sinh ra tư tưởng, để cho dụng cụ nầy chỉ làm cái điều mà y đã quyết định, và không phát sinh ra cái gì mà y không ưng thuận.

Tôi biết rằng công chúng sẽ khó mà hiểu được điều nầy. Công chúng sẽ hỏi rằng: “Cái cá tính luôn luôn tăng trưởng ấy là gì? Cái cá tính nó phát triển quyền năng của ý chí và quyền năng kiểm soát cái trí ấy là cái gì? Mà bà nói rằng cá tính ấy không phải là cái trí, mà còn cao hơn cái trí nữa kìa?” Tôi xin dùng một hình ảnh mượn ở đời sống tại cõi trần nầy để giúp quý huynh hiểu cái cá tính nảy sinh và phát triển cách nào. Hãy tỉ dụ rằng quý huynh đi vào trong một bầu không khí đầy hơi nước, nhưng khá nóng để cho hơi nước ở được lưng chừng nơi đó con mắt không thấy được, và nơi đó đối với quý huynh như trống rỗng. Quý huynh sẽ nói: “Ở đây chẳng có gì cả, chỉ có không khí thôi”. Tuy nhiên, quý huynh biết rằng nếu một nhà hóa học lấy một chút không khí đầy hơi nước nầy, nhốt nó trong một cái ve và làm cho nó dần dần lạnh đi, thì quý huynh sẽ trông thấy một chút sương mù nhẹ, một vệt mây hiện ra ở chính giữa khoảng mà thoạt đầu ta tưởng là trống không ấy. Quý huynh sẽ thấy rằng đám sương nầy càng ngày càng dầy đặc cho đến lúc sự lạnh càng tăng và quý huynh sẽ thấy hiện ra một giọt nước ở cái chỗ mà trước kia quý huynh không trông thấy gì cả. Chúng ta có thể coi cái tỷ dụ nầy như là một hình ảnh vật chất thô sơ, có thể dùng để giải nghĩa sự cấu tạo cá tính.

Tự trung tâm Đấng Vô Hình, tức là Đấng Duy Nhất sinh ra vạn vật, có một đám mây mỏng bay bốc lên, thấy rõ ràng; ấy là một đám sương mù nhẹ đặc lại, tự rời xa cái đám mây vô hình bao bọc xung quanh nó, và nó dần dần đặc lại, cho đến khi thành cái giọt nước cá nhân mà chúng ta coi như một đơn vị. Từ trung tâm cái Đại Thể, bỗng xẹt ra cái mảnh riêng biệt mà bản chất giống hệt bản chất Đại Thể, tinh hoa của nó cũng giống như tinh hoa của Đại Thể, nhưng mảnh nhỏ nầy khác Đại Thể bởi những đặc tính

của nó và thành một cá nhân riêng biệt. Theo cách đó, linh hồn riêng biệt của con người phát sinh từ cái Đại Hồn Duy Nhất và mỗi ngày đều thêm nhiều kinh nghiệm. Nó lớn lên và phát triển dần dần trải qua hàng trăm kiếp luân hồi tại thế gian, từ kiếp nấy sang kiếp khác, từ thời đại nầy qua thời đại kia, và cái mà chúng ta gọi là cái trí chỉ là một trong những cái mầm nhỏ của nó trong thế giới hữu hình.

Cũng giống như con trùng a míp (amibe) (1)

[viii]

khi cần đồ ăn thì đẩy một phần tử của thân hình nó nhô ra phía ngoài, chiếm lấy một miếng nhỏ chất bổ, rồi lại thu vào phía trong cái phần tử đã cho nhô ra, tự nuôi thân bằng cái chất đã lấy được; cũng theo cách ấy, cá tính ném ra ngoài cõi đời, cõi Hồng trần, một bàn tay của Chơn Linh, có nhiệm vụ thu thập kinh nghiệm cũng như một thứ đồ ăn, rồi lại thu cái bàn tay ấy vào lúc mà ta gọi là bỏ xác, Chơn Linh tiêu hóa cái kinh nghiệm ấy để nuôi dưỡng sự phát triển của mình.

Cái trí chính là cái bàn tay ấy trong cảnh giới Hồng trần, đó là một phần của cá tính, một phần của linh hồn

.

Cái tâm thức tức là quý huynh vốn cao hơn cái trí, cao hơn cái mà quý huynh gọi là trí tuệ. Tất cả dĩ vãng, tất cả kinh nghiệm mà quý huynh thu thập được đều ẩn tàng nơi tâm thức. Tất cả cái kiến thức mà quý huynh đã đồng hóa được với mình đều gom trong cái tâm thức nó chính là quý huynh đó. Khi ra đời, quý huynh ném ra ngoài một phần nhỏ của mình, nó có nhiệm vụ thu thập một số kinh nghiệm mới để làm cho tâm thức được phong phú hơn nữa; linh hồn đồng hóa kinh nghiệm ấy để tự phát triển và ở mỗi kiếp mới nó gắng sức dùng cái Tâm Thức đã mở mang để hướng dẫn cái bàn tay.” Cái mà chúng ta gọi: “Tiếng nói của Lương Tâm” chính là tiếng của Chơn Linh Cao Cả nói với cái bản ngã thấp hèn để tìm cách dìu dắt sự vô minh của bản ngã này nhờ cái kiến thức mà Chơn linh đã thu thập được trong những kiếp sống liên tiếp. Chúng ta biết rằng cái trí, cái bản thể thấp hèn mang đến cho ta những sự khó khăn. Quý huynh có nhớ lời Arjuna nói với Đức Krishna, khi bàn về sự kiểm soát hạ trí mà ta xét luận đây không. Quý huynh có nhớ Arjuna nói với Đức Thượng Đế Sư Phụ của Ngài rằng hạ trí của Ngài cuồng loạn đến mức nào chăng? Arjuna nói: “ Hỡi Krishna, cái trí thật là loạn động, buông lung, mãnh liệt và khó mà uốn nắn, tôi tưởng khó mà kiềm hãm nó cũng như khó mà kiềm hãm gió vậy”. Và thật vậy, kẻ nào muốn kiềm chế cái trí đều biết điều nầy. Ai ráng kiểm soát cái trí đều biết nó buông lung, mãnh liệt, hung hăng, khó trị là dường nào. Nhưng quý huynh có nhớ câu trả lời của Đức Thượng Đế Krishna khi Arjuna thưa với Ngài rằng cái trí khó trị như gió chăng. Ngài nói rằng: “Lẽ cố nhiên là cái trí nghịch ngợm và khó trị, hỡi người chiến sĩ võ trang đầy đủ, nhưng mà người ta có thể thắng phục nó nhờ một sự luyên tập không ngừng và nhờ tính lãnh đạm”! Không còn có cách nào khác nữa. Một sự luyện tập không ngừng, không một ai có thể làm việc nầy thay thế cho quý huynh, không một Chơn Sư nào có thể luyện tập giùm cho quý huynh. Quý huynh phải chính tự mình làm công việc nầy, và khi nào quý huynh chưa thực hành điều đó thì chưa có thể gặp Chơn Sư. Tuyên bố rằng quý huynh muốn tìm thấy Ngài, rất là vô ích nếu quý huynh không chịu uốn mình theo những điều kiện mà tất cả các Vị Đại Sư bắt buộc phải tuân theo để dẫn quý huynh đi đến dưới chân các Ngài. Đây, một Vị Đại Sư, một Vị Thượng Đế giáng trần(1)

[ix]

chỉ bảo điều cần phải làm và tuyên bố rằng điều đó có thể thực hiện được. Và khi một Vị Thượng Đế giáng trần nói như vậy thì cái đó chứng tỏ rằng ai có ý chí cương quyết đều có thể đạt được kết quả nầy, vì Ngài biết rõ quyền lực của những người mà Ngài đã thấy, và với tư cách là Đấng Tối Cao, Ngài đã đặt để họ trong thế gian nầy. Và khi lời nói thiêng liêng của Ngài quả quyết với chúng ta rằng có thế thành công thì chúng ta há dám nói nghịch lại, nghĩa là phủ nhận lời của Đức Thượng Đế đã nói hay không?

Chúng ta sẽ đạt được kết quả nầy bằng cách nào?. “Bằng một sự luyên tập không ngừng”.

Đấng Cao Cả đã nói như thế, nghĩa là trong đời sống hằng ngày của quý huynh, trong cái đời sống hoạt động của quý huynh, quý huynh phải bắt đầu rèn luyện cho thuần thục cái trí lung lăng của mình và bắt đầu tuân theo ý chí mình.

Quý huynh hãy thử suy nghĩ đàng hoàng một lát. Quý huynh sẽ nhận thấy rằng những tư tưởng của mình bay nhảy lung tung. Vậy quý huynh sẽ làm gì?

Quý huynh sẽ dẫn dắt chúng về vấn đề mà quý huynh muốn chúng phải tập trung vào đó. Quý huynh hãy chọn một đề tài và hãy chú ý vào đó một cách hoàn toàn và không gián đoạn

. Quý huynh nên nhớ rằng quý hunh có một ưu điểm rất lớn về sự huấn luyện cái trí này, quý huynh có những tập tục cổ truyền Ấn Độ; sự truyền thống về thể xác đã được uốn nắn theo những tập tục đó, và nền giáo dục trong thời thanh niên của quý huynh đã làm cho quý huynh quen thuộc với sự luyện tập cái trí. Đối với một người Tây Phương, làm chủ được sự hỗn loạn của cái trí thì khó hơn là đối với quý hunh, vì ở Tây Phương, sự kiểm soát cái trí không được truyền dạy trong khuôn khổ Đạo Giáo như ở tại đây.

Ở Tây Phương con người có xu hướng đi từ vấn đề nầy sang vấn đề khác một cách không mạch lạc

.

Cái thói quen luôn luôn đọc nhật báo- tôi chỉ lấy một thí dụ tầm thường- mỗi ngày đọc đến ba bốn tờ, là một trong những điều nó khiến cho sự kiểm soát cái trí rất khó khăn.

Quý huynh nhảy từ vấn đề nầy đến vấn đề kia; đây, thoạt tiên một vài điện tín nó làm đảo lộn cái trí, từ nước Anh đến nước Pháp, từ nước Y pha nho đến mũi “Kam Tchatka”, từ Tân Tây Lan đến Mỹ Châu. Khi quý huynh đã đọc một cột báo hay nửa cột báo, quý huynh sẽ thấy một thứ tin tức khác. Đó là những tài liệu về cách sinh hoạt của một dân tộc quen biết, những bài tường thuật về những buổi hát ban đêm, hay những phiên xử ở tòa án. Nhìn xuống nữa, một cuộc đua thuyền hay một cuộc chạy bộ, những chi tiết về thể thao hay điền kinh v.v… Tất cả quý huynh đều biết phần nội dung rất khác nhau của các nhật báo.

Người ta không hiểu cái tổn hại gây cho họ bằng cách phung phí năng lực của trí não, như họ vẫn thường làm, về những vấn đề tầm thường và ít quan hệ như thế.

Tôi biết rõ ở Tây Phương có người, tôi dám chắc, mỗi ngày đọc năm sáu tờ nhật báo, trong lúc họ đọc như vậy, họ phung phí bao nhiêu năng lực của cái trí,

vì khi họ hoang phí não lực như thế hằng ngày, và một khi điều đó trở thành một thói quen họ không còn có thể tập trung tư tưởng một cách dễ dàng vào một ý nghĩ nữa

, ngoài ra còn mất một thời gian quý báu có thể dành cho những vấn đề cao thượng hơn nhiều. Tôi không nói rằng sống trong xã hội, quý huynh không nên biết đến những điều xảy ra xung quanh mình, nhưng chỉ đọc một cách yên tĩnh trong vài phút một tờ nhật báo nói đến những vấn đề quan trọng nhất, như vậy là đủ lắm rồi. Nếu quý huynh biết cách đọc, thì thế là vừa đối với những việc ở cõi đời nầy.

Để quý huynh có thể chống lại với cái xu hướng phung phí tư tưởng ở thời đại nầy, quý huynh phải tập cái thói quen hằng ngày suy nghĩ một cách liên tiếp, và tập trung sự chú ý của mình, trong một thời gian vào một vấn đề.

Để rèn luyện cái trí của mình, quý huynh hãy tập mỗi ngày đọc một vài trang của một cuốn sách bàn về những điều quan trọng của đời sống, về những điều vĩnh cửu trường tồn hơn là về những điều phù du mộng ảo, và quý huynh hãy tập trung cái trí của mình vào điều mình đang đọc. Quý huynh đừng cho nó đi vơ vẩn, tự tiêu hao sức lực vào những điều hoàn toàn vô ích. Nếu nó đi xa, quý huynh hãy kéo nó trở về, hãy bắt nó suy nghĩ lại bắt đầu làm chủ nó; nhờ một sự luyện tập liên tiếp, quý huynh sẽ học cách kềm chế nó, và bắt nó phải theo con đường mà quý huynh đã lựa chọn cho nó. Dù đối với những việc thế gian, cái khả năng nầy cũng cho ta những lợi ích lớn lao. Không những nó chuẩn bị cho quý huynh sống một đời sống cao siêu mở rộng ra trước mặt quý huynh, mà người nào có thể tập trung tư tưởng vào một mục đích còn là người thành công nhất trong những sự việc của đời sống hằng ngày. Người có thể tư tưởng một cách liên tiếp, sáng suốt và rõ ràng, là người biết cách tự vạch con đường đi của mình, dù là trong đời sống Hồng Trần. Sự luyện tập liên tiếp cái trí sẽ hữu ích cho quí vị trong những sự nhỏ nhặt cũng như trong những sự cao thượng, và quý huynh sẽ dần dần phát triển cái quyền năng kiểm soát, nó là một trong những đức tính của người Chí Nguyện làm Đệ Tử.

Nhờ sự tập rèn cái trí của mình như vậy, quý huynh có thể đi đến một kết quả khác- đó là sự tham thiền

.

Sự tham thiền là cái cách luyện tập cho cái trí quen định lại, trụ lại trên một tư tưởng, tùy ý mình và không bao giờ gián đoạn.

Quý huynh phải luyện tập như vậy hằng ngày, vì làm như thế ngày qua ngày, huynh sẽ nhờ thói quen của xác thân và cái trí giúp sức. Điều mà quý huynh làm hằng ngày sẽ trở thành một thói quen, chẳng bao lâu quý huynh sẽ làm được nó mà không phải khó nhọc gì; cái điều thoạt đầu khó khăn sau trở nên dễ dàng nhờ sự thực hành.

Người ta phân biệt hai cách tham thiền: tham thiền có tính cách sùng bái và tham thiền có tính cách mở mang trí thức,

và con người Đạo Hạnh có ước vọng làm đệ tử sẽ tập tham thiền cả hai cách

. Y tập định trí và để tư tưởng mình trụ trên lý tưởng thiêng liêng, trụ vào Sư Phụ mà y chưa biết nhưng y hy vọng một ngày kia sẽ gặp. Luôn luôn có cái lý tưởng hoàn toàn ấy trước mắt, y sẽ lấy đó làm mục tiêu của cái trí y, trong những giờ tham thiền, làm mục đích của những ước vọng kiên cố bất biến và không hề lay chuyển của mình. Khi cái trí càng phát triển, thì điều vừa nói trên lại càng dễ dàng: lấy lý tưởng đó làm đối tượng của những sự tham thiền liên tiếp của mình, sau cùng y sẽ là phản ảnh của lý tưởng ấy và sẽ lần lần giống in nó. Đó là một trong những khả năng sáng tạo của cái trí- con người sẽ tiến tới lý tưởng mà y luôn luôn nghĩ thì sau nầy chính y cũng đạt được nó. Dần dần khi quả quyết định trí mình vào cái lý tưởng ấy, khi ước vọng đạt được nó, khi muốn tiếp xúc với nó, thì con người sẽ nhận thấy rằng trong những giờ tham thiền nầy, cái Hạ Trí lắng yên và chìm đắm trong một trạng thái yên tĩnh; y không còn có những cảm giác của thế giới bên ngoài, và cái trạng thái cao cả của Lương tri sáng chói rực rỡ như một ánh lửa bên trong, cái trạng thái cao cả của Lương tri cá nhân đã nhận định được mình là thế nào. Khi cái Hạ Trí lắng yên như thế, khi sự cuồng loạn của nó đã bị kiềm chế, thì nó trở thành một cái hồ êm ả, không một ngọn gió nào có thể làm xao động được, không một dòng nước nào có thể làm rung chuyển được.

Cái hồ nầy giống như một tấm gương, mặt trời phản chiếu cái vẻ huy hoàng của những tia sáng trên diện tích trong sáng và yên tĩnh của cái gương nầy và soi hình trên những dòng nước êm ả của nó. Cũng giống như thế, cái trạng thái cao cả của Lương tri soi mình trên gương của Hạ trí yên tịnh. Lúc đó con người hiểu biết do sự kinh nghiệm riêng biệt của mình, chớ không phải do lới ai thuật lại, rằng chính y là một cái gì cao hơn cái trí mà y đã khảo cứu để biết rõ như là trí thức, và cái trạng thái Lương tri của y cao hơn cái trạng thái ý thức phù du của cái trí.

Lúc đó có thể y bắt đầu hợp nhất với cái gì cao cả ở nơi y và y trông thấy thoáng qua, dù chỉ trong chốc lát, sự huy hoàng của Chơn Linh.

Thật vậy, quý huynh đừng nên quên rằng Thánh Kinh luôn luôn dạy rằng chính quý huynh là cái tinh hoa cao cả chớ không phải là cái thấp hèn. Lời tuyên bố mà chúng ta đọc được trong kinh Chhandogyapanishad và trong nhiều sách khác nữa: “Ngươi là Brahma”, “Ngươi là Thượng Đế” và người mà những người Phật tử đều nhắc lại: “Ngươi là Phật” có ý nghĩa gì? Điều nầy sẽ không bao giờ là một sự thực đối với tâm thức quý huynh, dù về phương diện trí thức, quý huynh nhận định được nó một cách hoàn toàn đến đâu mặc dầu, cho đến khi quý huynh có thể do sự tham thiền mà biến đổi được cái Hạ trí thành một tấm gương để phản chiếu Thượng trí. Rồi một giai đoạn mới của sự tham thiền sẽ làm cho quý huynh đi đến sự hợp nhất với Thượng trí một cách có ý thức, và lúc đó quý huynh sẽ biết cái điều mà tất cả các vị Đại Sư đã muốn diễn tả bằng cái câu bất hủ nói trên, nó nhận định cái yếu tố thiêng liêng có sẵn ở trong con người.

Khi người ta áp dụng hằng ngày những nguyên tắc nầy, trong nhiều tháng và nhiều năm không ngừng, sau cùng chúng nó sẽ thấm nhuần cả đời sống và trở thành vĩnh viễn, chớ không phải chỉ có từng lúc, từng hồi mà thôi. Thoạt đầu, chỉ hạn chế trong những giờ tham thiền, sau chúng sẽ lan rộng đến đời sống của con người trong xã hội. Quý huynh có thể nói: “Tôi làm sao nhận biết được điều nầy trong khi tôi phải bận rộn trong đời sống vật chất? Tôi làm sao luôn luôn nhận thức được Thượng trí, trong khi Hạ trí đang hoạt động mạnh? Vậy chớ quý huynh không biết rằng khi quý huynh đến nghiêng mình trước bàn thờ, xác thân huynh có thể bận dâng hoa, trong khi mà trí của quý huynh vẫn tập trung vào Đấng Thiêng Liêng.

Cái hình hài vật chất của quý huynh thật đang hoạt động, trong khi tư tưởng của quý huynh không trụ vào những bông hoa của quý huynh hiến dâng, mà lại trụ vào Đấng mà quý huynh kính dâng bông hoa.

Bàn tay làm hoàn toàn cái phận sự dâng hoa, tuy lúc đó tư tưởng của cái trí tập trung vào Đấng Thiêng Liêng. Ở xã hội vật chất của loài người thì cũng vậy, quý huynh có thể dâng những bông hoa của bổn phận bằng cách sống một cuộc đời luôn luôn hoạt động, một đời sống khó nhọc hằng ngày; quý huynh có thể hiến dâng những bông hoa nầy một cách cụ thể và thành tâm bằng cách hết lòng làm đầy đủ nhiệm vụ của mình, ở cõi đời vật chất, trong khi quý huynh luôn luôn đắm đuối trong sự tham thiền và sự tôn sùng. Quý huynh hãy học phân tách cái lương tri cao cả với cái lương tri thấp thỏi của mình, và sau cùng, quý huynh sẽ có được cái năng khiếu hoạt động về trí não mà không quên cái “Chơn Ngã” thiệt thọ; cái trí làm đầy đủ những nhiệm vụ của mình, trong khi Chơn Linh ngự trên một cảnh cao hơn.

Quý huynh sẽ không bao giờ rời bỏ Thánh điện nội tâm, dù ở trong xã hội loài người, quý huynh hoạt động cách nào trong đời sống vật chất. Chính theo cách ấy mà một người tự chuẩn bị để thành Đệ Tử.

Chúng ta còn phải xét qua một cách mau lẹ một giai đoạn khác nữa; đó là cái giai đoạn mà tôi gọi là cái khía cạnh trí thức của sự tham thiền, có liên quan đến sự lần lần xây dựng tính nết. Chúng ta hãy trở lại với cuốn đại luận “Con Đường Hành Động”, với những giáo lý của Đức Krishna trong Thánh Kinh Bhagavad Gita. Khi đọc chương 16, ta thấy bản danh sách dài kể những đức tính mà một người phải mở mang để một kiếp sau có sẵn chúng nó trong mình. Người ta gọi chúng là những “Năng khiếu thiêng liêng” và Sư Phụ nói với Arjuna: “Người sinh ra với những năng khiếu thiêng liêng hỡi

những kiếp vị lai, quý huynh phải phát triển chúng trong kiếp hiện tại. Để có thể mang chúng theo khi quý huynh

ra đời, quý huynh phải dần dần đào tạo chúng trong những kiếp liên tiếp, và con người ở thế giới này muốn biết mình có thể xây dựng tính cách nào thì không có gì hơn là coi cái bản danh sách kể những đức tính cần phải có ấy,

những “Năng khiếu thiêng liêng” cần thiết cho người đệ tử, và mở mang từng đức tính một trong đời sống hằng ngày của mình theo phương pháp song đôi, vừa Tham Thiền vừa Hành Động

.

Tính trong sạch- Thí dụ một trong những đức tính ấy là sự Trong Sạch. Sự Tinh Khiết bằng cách nào con người có thể phát triển tính Tinh Khiết nơi mình? Bằng cách đem đức tính đó vào trong số những đề tài mà y phải tham thiền mỗi buổi sáng và bằng cách nhận định rõ ràng “Tinh Khiết” nghĩa là gì? Không một tư tưởng ô trọc nào được chạm phớt qua nơi y; không một hành động đê tiện nào được làm nhơ bẩn y;

y phải tinh khiết theo ba khía cạnh: tư tưởng , lời nói và việc làm

.

Đó là ba bổn phận mà một ngày trước đây tôi đã nhắc nhở quý huynh, ba sợi dây mà người Bà la môn luôn luôn mang theo mình là biểu hiệu của chúng nó.

Buổi sáng, con người phải nghĩ đến tính Tinh Khiết như là một sự đáng ước ao phải đạt được, rồi giữ cái cảm giác của lúc tham thiền buổi sáng ấy khi y đi làm công kia, việc nọ

. Y phải coi chừng những hành động của y, y sẽ không để cho một hành động quấy quá nào làm nhơ bẩn thể xác của y, suốt ngày y sẽ không phạm tới một việc hèn mạt nào, vì y dò xét mỗi hành động của mình để không có một sự tiếp xúc xấu xa nào có thể nhiễm y. Y phải coi chừng lời nói và không thốt ra

một lời thô tục nào; trong khi nói chuyện y không nói xa gần đến một đề tài bẩn thỉu nào, không bao giờ y tự làm dơ dáy miệng mình vì một câu nói có ẩn ý khiếm nhã. Tất cả những lời nói của y sẽ khá trong sạch để nếu cần, y có thể kính cẩn thốt ra trước Sư Phụ; mắt Ngài thấy rõ cái dấu vết nhơ nhớp mà mắt con người thường không nhận ra. Y sẽ làm thế nào để mỗi lời nói của y sẽ là lời trong sạch nhất mà y có thể thốt ra được, và y sẽ không bao giờ tự làm hoen ố mình hay làm hoen ố kẻ khác bởi một tiếng hay một câu có ẩn ý ô trọc.

Tư tưởng của y

sẽ luôn luôn Tinh Khiết. Không bao giờ y dung thứ cho một tư tưởng nhơ nhớp chiếm giữ trí mình, và nếu tư tưởng ấy có đến, y sẽ xua đuổi nó đi ngay tức khắc

. Ngoài ra, biết rằng tư tưởng đó không thể đến được nếu trí mình không chứa đựng một cái gì để thu hút nó, y sẽ ân cần tinh luyện cái trí để không một tư tưởng ô trọc nào, dù từ đâu đến, cũng không thể dùng áp lực mà vào được. Sự kiểm soát sẽ tác động như vậy, ở cái điểm đặc biệt ấy, suốt cả ngày.

Tính chơn thật.- Rồi y sẽ lấy tính Chơn Thật làm đề tài tham thiền buổi sáng.

Y nghĩ đến sự Chơn Thật, y tưởng tới sự quan hệ của nó ở đời, trong xã hội, trong tính tình y, và khi y đi đến chỗ đông người, không bao giờ y phạm vào một hành động có thể lường gạt, không bao giờ y nói một tiếng diễn tả một tư tưởng sai lầm. Không những y không nói dối mà thôi, y còn không nói một điều gì không đúng, bởi vì làm như vậy cũng là phô diễn một sự sai lầm.

Thuật lại một cách không đúng điều mà mình đã trông thấy, thế cũng là nói dối. Người muốn làm đệ tử thì mọi sự nói quá đáng, thêm nhân thêm nhị trong một câu chuyện, tất cả những gì không hoàn toàn đúng với những sự xảy ra, như y biết, đều phải gạt bỏ một bên. Những tư tưởng của y cũng phải phù hợp với sự thật. Y phải coi chừng cho mỗi tư tưởng đều được đúng với sự thật, nhiều chừng nào tốt chừng nấy, để cái trí y không bị nhiễm cái bóng tối của sự sai lầm.

Tính Từ Bi.-Về đức tính Từ Bi cũng thế; buổi sáng y sẽ tham thiền về đức tính nầy và ráng thực hành nó suốt ngày

.

Y sẽ tỏ ra hết sức từ ái đối với những người xung quanh, y sẽ giúp đỡ tất cả mọi việc mà y có thể làm, đối với gia đình, bằng hữu và xóm giềng. Y sẽ ráng nâng đỡ những ai túng thiếu; y sẽ ráng an ủi những người mà y biết đang ở trong cảnh buồn rầu; y sẽ làm thế nào cho những nỗi đau khổ mà y ặp sẽ được nhẹ nhàng. Không những y nghĩ đến đức từ ái, mà y còn sống một cuộc đời hoàn toàn từ ái, để khiến đức hạnh nầy thành một thành phần của tính tình y.

Sức mạnh của linh hồn.- Về sức mạnh của linh hồn cũng vậy; y sẽ tham thiền về sự cao thượng của con người có chí khí mà không một sự gí xảy ra có thể làm cho nản lòng hay khiến cho kiêu hãnh. Thành công cũng chẳng vui mừng, thất bại cũng chẳng khổ sở; người có chí khí không để cho hoàn cảnh lôi cuốn; ngày hôm nay không buồn rầu vì tình thế khó khăn, và ngày hôm sau không vui vẻ vì mọi việc đều tốt đẹp. Y sẽ tìm cách để luôn luôn giữ vững thăng bằng và có nghị lực và sẽ thực hành nguyên tắc nầy trong mọi trường hợp ở đời. Nếu y đứng trước những sự lo lắng, y sẽ nghĩ đến những việc trường tồn trong đó không có những sự bận tâm; nếu y bị hao tài tốn của, y sẽ nghĩ đến những kho tàng kiến thức của y mà không một sự gì làm cho mất được; nếu Tử Thần cướp mất của y một người bạn, y sẽ nhớ rằng không có một linh hồn nào có thể chết được; cái hình hài đã thác chỉ là một thứ y phục mà người ta cởi bỏ ra khi nó hư nát, để mặc một cái khác vào, và một ngày kia y sẽ gặp lại bạn y.

Đối với tất cả những đức tính khác cũng vậy, như sự tự chủ, sự Điềm tĩnh,lòng Can đảm, y sẽ tham thiền về những đức tính đó và cố gắng thực hành. Không phải tham thiền và thực hành một lượt tất cả những đức tính ấy. Không một ai sống ở cõi đời này mà có đủ thời giờ để ngày nào cũng tham thiền về mỗi đức tính ấy, nhưng y sẽ tập dần dần từng đức tính một, và sẽ hợp nhất tính tình mình với nó. Quý huynh hãy làm việc không ngừng, đừng nản chí trước cái thời gian phải dành cho công việc này; chớ sợ hãi cái sự khó khăn mà việc nầy có thể đem lại cho mình. Cái điều mà quý huynh xây dựng, quý huynh xây dựng cho thời gian trường tồn bất diệt và quý huynh có thể tỏ ra kiên nhẫn khi thời gian trường cửu ấy mở ra trước mặt mình. Tất cả những gì mà quý huynh thâu hoạch được, thì quý huynh thâu hoạch được mãi mãi.

Nhưng nếu chỉ tham thiền không mà thôi, hay chỉ thực hành không mà thôi, thì không đủ để xây dựng tính tình. Cả hai phương pháp đều phải đi đôi với nhau, cả hai đều phải dự phần vào đời sống hằng ngày, và khi đó, kết quả

là sự tạo tác nên một tính tình cao thượng.

Con người đã tự huấn luyện như thế, con người đã hết sức cố gắng như vậy, đã dành thời giờ, tư tưởng và công lao của mình để tự làm cho mình xứng đáng gặp được Chơn Sư, thì chắc chắn thế nào cũng tìm được Ngài, hay nói cho đúng hơn thì thế nào Ngài cũng tìm y và tự hiện ra cho linh hồn y biết. Trong sự mù quáng và vô minh của mình, dễ thường quý huynh tưởng rằng các vị Chơn Sư muốn ẩn mình ư? Quý huynh nhầm lẫn đến nỗi nghĩ rằng các Ngài tự ý trốn tránh cặp mắt loài người để cho nhân loại vấp ngã mà không ai cứu trợ, và các Ngài không muốn giúp đỡ và dìu dắt nhân loại chăng? Tôi nói với quý huynh rằng, thật sự, cái ý nguyện tìm Chơn Sư của quý huynh có thể mạnh mẽ đến đâu, thì việc Ngài quyết ý muốn tìm quý huynh để giúp đỡ quý huynh còn gấp ngàn lần mãnh liệt hơn nữa. Nhìn xuống cõi trần này, các Chơn Sư nhận thấy rằng các Ngài cần phải có nhiều người giúp việc, và hiện giờ các Ngài có rất ít những người như thế. Cả đám quần chúng thác vì vô minh, họ cần có những người dạy dỗ, và họ chết hằng hà sa số vì không có ai giúp đỡ họ. các vị Đại Sư cấn có những đệ tử sống trong cõi trần nầy, và sau khi được các Ngài huấn luyện, đi cứu giúp những ai đau khổ, dạy dỗ những ai trí tuệ còn u ám. Các Ngài luôn luôn tìm kiếm trong đời một linh hồn muốn được giúp đỡ và sẵn sàng để để các Ngài giúp đỡ. Các Ngài luôn luôn nhìn xuống thế gian để có thể trả lời ngay với tiếng gọi của những linh hồn sẵn sàng tiếp rước các Ngài và không xua đuổi các Ngài, bởi vì tấm lòng của chúng ta đã bị khóa chặt trong ba lớp cửa để ngăn các Ngài vào, và các Ngài không thể dùng cường lực để tống cửa mà vô. Nếu một người khóa cửa lại sau khi đã chọn đường đi xong xuôi, thì chỉ có y mới vặn khóa mở cửa được mà thôi. Chúng ta bị giam nhốt trong vòng những dục vọng thế tục, trong vòng sự thèm khát những vật Hồng Trần, chúng ta bị giam hãm dưới ba lớp cửa của tội lỗi, của sự lãnh đạm và của sự lười biếng. Và Sư Phụ đợi mở cửa ra, để Ngài có thể bước qua ngưỡng cửa và soi sáng trí ta.

Quý huynh sẽ hỏi tôi rằng: “Các Ngài làm thế nào mà phân biệt giữa bao nhiêu người, linh hồn nào làm việc cho các Ngài và tự sửa soạn để đón tiếp các Ngài? Câu trả lời đã được đưa ra dưới hình thức bóng dáng: Tỉ dụ như một người ở đỉnh núi nhìn xuống những thung lũng xung quanh. Người ấy nhận thấy một ánh sáng lấp lánh trong một cái nhà, vì ánh lửa ấy nổi bật lên giữa những chốn tối tăm bao phủ nó. Cũng giống như thế, linh hồn tự chuẩn bị cũng chói sáng ở giữa những cảnh hắc ám trần gian, làm cho Ngài đứng trên đỉnh núi canh chừng chú ý đến. Quý huynh phải soi sáng linh hồn mình, để Chơn Sư có thể nhận thấy được nó. Ngài canh chừng luôn luôn, nhưng quý huynh phải ra dấu hiệu để Ngài có thể thành Sư Phụ của quý huynh và dìu dắt những bước của quý huynh trên Đường Đạo. Quý huynh có

lẽ sẽ hiểu rằng điều nầy, cần thiết đến mực nào, sau khi sự học hỏi của chúng ta chấm dứt, sau khi tôi tả xong với quý huynh cái công việc của người đệ tử và giải nghĩa cho quý huynh biết những điều mà y có thể làm được; nhưng sáng hôm nay tôi xin từ giã quý huynh với cái tư tưởng sau nầy mà tôi muốn ghi khắc vào trí của quý huynh: “Sư Phụ canh chừng và chờ đợi. Ngài muốn tìm đến quý huynh và huấn luyện quý huynh. Quý huynh có quyền lực hấp dẫn Ngài tới mình, và chỉ có quý huynh mới có quyền cho phép Ngài giúp đỡ quý huynh, Ngài có thể gõ cửa lòng của quý huynh, nhưng chính quý huynh phải thốt ra những lời mời Ngài vào. Nếu quý huynh theo con đường mà tôi đã vạch rõ sáng hôm nay, nếu quý huynh dần dần kiểm soát cái trí, học tham thiền và xây dựng tính tình, thì đó là quý huynh đã thốt ra ba tiếng khiến cho Sư Phụ nhận lời cầu khẩn của quý huynh. Khi quý huynh van vái lầm thầm trong sự yên lặng của tâm hồn, thì Sư Phụ sẽ hiện ra. Linh hồn sẽ quỳ dưới chân Chơn Sư mà nó đã tìm từ lâu.”

III

ĐỜI SỐNG CỦA NGƯỜI ĐỆ TỬ

đầu sách  cuối sách  chương 1 2 3 4

CON ĐƯỜNG NHẬP MÔN- BỐN BỰC ĐIỂM ĐẠO

Thưa quý huynh, công việc của chúng ta sáng hôm nay rất là khó khăn. Trong hai bài thuyết trình trước, như tôi đã nói đến đời sống thường ngày của những người trong trần thế nầy và tôi đã chỉ cho quý huynh thấy bằng cách nào họ có thể vừa sống cuộc đời của họ theo thói quen, vừa tự chuẩn bị để tuần tự đi đến những giai đoạn cao cả của sự tiến hóa, bằng cách nào họ có thể tự luyên tập lần lần để tiến triển một cách nhanh chóng hơn. Hôm nay trái lại, chúng ta phải tự vươn lên cao hơn cái đời sống tầm thường ấy; nói như thế không phải chỉ đứng về phương diện bên ngoài, nhưng có nghĩa là chúng ta sẽ học hỏi về cái chân tính của đời sống của nội tâm.

Những giai đoạn của sự tiến bộ của nhân loại sắp nói đây là những giai đoạn rõ ràng và xác định, nó dẫn con người vượt khỏi đời sống của cõi thế gian nầy để nâng y lên đến đời sống trên những cảnh giới cao siêu, nó làm cho y tách ra khỏi nhân loại tầm thường để nhập vào một nhân loại hoàn toàn siêu phàm nhập thánh.

Chính vì sự học hỏi về những giai đoạn nầy bắt buộc chúng ta phải vượt qua giới hạn của những sự hiểu biết thông thường, như tôi đã nói với quý huynh, công việc trở nên khó khăn hơn, khó khăn cho quý huynh đang nghe đây, cũng như khó khăn cho tôi đang biện giải. Thật thế, muốn bàn luận về những vấn đề cao siêu và những ai có đủ tư cách nhất để theo dõi những giáo lý cao thượng nầy là những người đã cố gắng tinh luyện đời sống của mình một phần nào và xây dựng tính nết mình theo như hai bài thuyết trình trước đã nói.

Hôm qua tôi đã dẫn quý huynh đến cái mực của một người sau khi cố gắng cải thiện đời sống của mình và kiểm soát tư tưởng để tự chuẩn bị đi đến địa vị một người đệ tử, đã làm cho một Vị Đại Sư chú ý đến và y đủ sức trải qua những giai đoạn đầu tiên của đời người đệ tử. Sáng nay, chúng ta sẽ cũng phải ráng miêu tả chu tất cái đời sống của người đệ tử. Người ta thường gọi những giai đoạn đầu tiên là “Con đường nhập môn” nghĩa là giai đoạn Thử lòng để phân biệt với giai đoạn được thu nhận làm đệ tử Thiệt thọ. Trong thời gian thử thách, chúng ta nhận thấy vài sự tiến bộ và sự hoạch đắc vài đức tính xác định; những sự tiến bộ nầy chưa được rõ rệt bằng khi đi trên con đường đạo thiệt thọ, trên con đường của người đã được Chơn Sư nhìn nhận và thâu nhận làm đệ tử. Trên con đường Đạo thiệt thọ, trên con đường mà không những người đệ tử được Sư Phụ nhìn nhận mà chính y cũng biết được Ngài, y trải qua bốn giai đoạn hoàn toàn riêng biệt, mệnh danh khác nhau và được ngăn cách nhau bởi những sự Điểm Đạo đặc biệt. Người ta có chỉ những giai đoạn trong quãng đường của vị tân tín đồ nhập môn, nhưng không phân biệt một cách rõ ràng như ở đây. Người ta có thể coi những giai đoạn ấy như là diễn ra cùng cả một lúc với nhau hơn là đoạn nọ nối tiếp đoạn kia. Người đệ tử tạm thời, ta có thể gọi như vậy bất cứ người nào đi vào trong những đoạn đường nầy, không bị bắt buộc phải làm một cách hoàn toàn tất cả những gì mà y bắt đầu thực hành. Người ta muốn y làm thử, nhưng người ta không đòi hỏi ở y một sự thi hành hoàn hảo. Y chỉ cần phải thành thực và luôn luôn cố gắng, đừng thay đổi ý kiến và đừng lãng quên cái mục đích mà y tự vạch ra cho mình. Y sẽ được nhiều sự dễ dàng, cũng như chúng ta thường nói về những công việc ở thế gian nầy, bởi vì con người dễ lầm lỗi và yếu đuối và bởi vì sự vô minh ngăn cản không cho y tiến bước. Những sự khó khăn mà y phải chịu đựng, những sự thử thách mà y phải trải qua là những sự khó khăn và thử thách mà người ta gặp trong đời sống hằng ngày; những sự khó khăn đủ mọi loại, đủ mọi thứ, mà lát nữa tôi sẽ nói qua vài lời, nhưng chúng không giống chút nào với những sự khó khăn gặp trên Đường Đạo thiệt thọ. Những giai đoạn của “Con Đường Nhập Môn” nếu tôi nhớ đúng, đã được mô tả cách đây vài năm, theo những giáo lý rất quen thuộc đối với những người Ấn Độ- do một người Bà la môn, anh là Hội Viên Thông Thiên Học, tên là Mohini Mohun Chatterji, người Calcutta, lúc đó anh đang cư trú bên Anh cát lợi (anh quốc). Anh đã mô tả những điều mà người ta gọi là những sự tiến bộ đầu tiên mà con người bắt buộc phải hoàn thành; họ nhờ các Tôn Sư của họ giúp đỡ một phần nào, nhưng thường thường họ không biết được việc đó nghĩa là khi ở trong trạng thái thức tỉnh bình thường thì người đệ tử tưởng rằng y đã vượt qua quãng đường một mình, và y đã có thể tin cậy ở sức lực và năng lực của mình mà thôi. Tôi không cần nói rằng đó là một ảo tưởng do sự mù quáng và vô minh của y mà ra, vì Sư Phụ y coi chừng y, tuy trong lúc còn ý thức không biết điều đó, và một sự giúp đỡ liên tiếp ban rải cho y từ những cảnh giới cao cả của Chơn Linh; sự giúp đỡ nầy biểu lộ trong đời sống của y, mặc dầu trí của y không thấy việc đó rõ ràng.

Giờ đây, chúng ta sẽ thấy rằng những đức tính cần phải có, mà chúng ta đã nói đến như là những đức tính chuẩn bị, theo cái nghĩa đại cương của nó, sẽ có một hình thức rõ ràng hơn trong Con Đướng Nhập Môn.

Đức tính thứ nhất Viveka (Tính Phân Biện).

Cái đức tính thứ nhất là kết quả của những sự thử thách mà con người đã trải qua; chúng làm nẩy nở nơi y tính phân biện (Viveka) cái năng khiếu phân tách sự chân thật và ảo tưởng, sự trường tồn và sự phù du. Y sẽ bị ràng buộc ở Hồng Trần vì sự vô minh; và những sự vật ở thế gian nầy sẽ triệt để quyến rũ y, làm mê hoặc y cho đến khi nào y có được tính phân biện. Y phải mở mắt ra và phải vượt qua bức màn của ảo tưởng, ít nhất trong một mức khá đủ để nhận đúng chân giá trị những sự vật của Hồng Trần, và do tính phân biện (Viveka) phát sinh ra đức tính thứ hai.

Đức tính thứ nhì Vaĩrâgya (Tính Dứt Bỏ hay là Đoạn Tuyệt), - Tôi đã làm cho quý huynh chú ý rằng con người phải khởi đầu bằng cách tự luyện tập hầu không còn để ý đến những lợi lộc do hành động của y có thể mang tới cho y. Y phải tự luyện để hành động như người ta làm một bổn phận, luôn luôn không hề hoài vọng đến một mối lợi tư riêng nào. Chúng ta tỉ dụ rằng một người đã luyện tập như vậy trong nhiều kiếp, trước khi người ta đòi hỏi ở y cái điều y phải hoạch đắc được, trong một phạm vi rất rộng, trước khi y có thể được Điểm Đạo, nghĩa là một sự Lãnh đạm hoàn toàn đối với những sự vật Hồng trần. Nói tóm lại, Vaĩrâgya, tính dứt bỏ, là đức tính thứ hai mà người chí nguyện làm đệ tử phải có trên Con Đường Nhập Môn. Y đã phát triển được tính phân biện ( Viveka), và như chúng ta đã thấy, đó là cái năng khiếu phân biệt được sự chân thật với sự ảo mộng, sự phù du với sự vĩnh cửu. Và khi cái cảm giác chân thật và vĩnh cửu xâm nhập vào cái trí của con người thí lẽ cố nhiên những sự vật ở cõi thế gian nầy không còn quyến rũ được y nữa; đối với chúng, y chỉ còn sự lãnh đạm mà thôi. Khi người ta đã nhận thấy sự chơn thật rồi, thì ảo tưởng thật là không còn thấm thía vào đâu. Khi người ta đã phân biệt được sự trường tồn, dù chỉ trong chốc lát thôi, thì sự phù du hình như không đáng theo đuổi chút nào. Trên Con Đường Nhập Môn, tất cả những sự vật bao vây chúng ta đều mất cả cái mãnh lực quyến rũ của chúng, và con người không cần phải ráng sức để lánh xa chúng, từ nay y không còn cần phải cố ý kêu gọi đến ý chí để tự răn mình không nên hành động với mục đích được lợi lộc. Những sự vật, tự chúng nó đã mất tất cả những mãnh lực quyến rũ; những cội rễ của dục vọng lần lần bị tiêu rụi, và như Thánh Kinh Bhagavad-Gita đã nói, mọi vật đều lánh xa vị Chơn Nhơn hoàn toàn tiết dục đương ngự ở xác thân. Không phải vì y tự ý kiêng cữ, nhưng chính vì mọi sự ấy đã mất mọi quyền lực làm thỏa mãn y một cách nào đó. Tất cả những gì làm cho giác quan ưa thích đều lánh xa y, do cái sự luyện tập mà chúng ta đã nói trên và y đã trải qua.

T

ừ nay, nhìn thấy sự vật dưới cái khía cạnh phù du của nó, lẽ dĩ nhiên sự lãnh đạm của y đối với sự vật sẽ phát sinh ra cái đức tính mà y đã cố gắng hoạch đắc từ lâu, tức là sự lãnh đạm đối với những kết quả, bởi vì chính những kết quả ấy cũng chỉ là những sự vật mà thôi. Những kết quả đều gồm trong những sự vật mà y thấy rõ bản tính phù du và ảo tưởng, từ khi y nhận biết được sự chân thật và sự trường cửu.

Đức tính thứ ba Shatsampatti (Sáu đức tính thuộc về nhóm năng lực trí thức). Phải thấm nhuần cái đức tính thứ ba cần phải có trên Con Đường Nhập Môn, Shatsampatti, cái nhóm gồm sáu năng khiếu thuộc về cái trí, hay những phẩm tính của cái trí,

chúng biểu lộ trong đời sống của những kẻ mà chúng ta gọi là thí sinh đệ tử. Y đã chiến đấu từ lâu để có thể làm chủ tư tưởng của y. Y đã thực hành tất cả những phương pháp mà chúng ta đã nói hôm qua, để có thể tự chủ, để quen tham thiền và để làm việc xây dựng tính tình. Từ nay, sự thực hành nầy giúp y bộc lộ được trong con người thiệt thọ của y- vì chúng ta đây bàn luận về con người thiệt thọ, chớ không phải về cái vẻ bề ngoài, ảo mộng, đức tánh đầu tiên của Shatsampatti là:

a)

Shâma. Shâma tức là sự kiểm soát cái trí, cái kỷ luật nghiêm nhặt

Của những tư tưởng, sự hiểu biết minh bạch về những hậu quả của tư tưởng và những mối liên quan mà chúng thiết lập giữa y và xã hội xung quanh tùy theo chúng hướng về điều thiện hay điều ác, bởi một sự kiện chắc chắn là y có quyền lực giúp đỡ hay phá rối đời sống kẻ khác do những tư tưởng của y; y có quyền lực làm cản trở hay làm cho dễ dàng sự tiến hóa của nòi giống, y trở thành một người hữu tâm cộng tác với sự tiến bộ của nhân loại và tất cả những sinh linh đang tiến hóa trong giới hạn của cõi đời mà y đang sống đây. Và cái kỷ luật của những tư tưởng- nó từ nay là cái trạng thái bình thường của cái trí y- chuẩn bị cho y trở thành một người đệ tử thiệt thọ, như các bạn sẽ thấy; tất cả những tư tưởng của người đệ tử nầy đều phải được xử dụng cho công việc Chơn Sư; cái trí của người đệ tử nầy phải theo dõi một cách tự nhiên những con đường mà ý chí đã vạch sẵn cho y.

Đức tánh thứ nhì là Dâma. Do cái kỷ luật của tư tưởng bây giờ đã

Được xây dựng chắc chắn, tự nhiên sẽ nẩy sinh ra Dâma, sự kiểm soát giác quan và xác thân hay là cái kỷ luật của hạnh kiểm. Quý huynh có để ý rằng, khi ngưới ta bàn luận những vấn đề theo quan điểm huyền bí, thì chúng nó bị hiểu ngược lại đối với cái quan điểm hồng trần. Mọi người ở thế gian nầy thì chú trọng đến hạnh kiểm hơn là chú trọng đến tư tưởng. Trái lại, những nhà huyền bí học để tư tưởng lên trên hạnh kiểm. Nếu tư tưởng chơn chánh thì lẽ tự nhiên phẩm hạnh sẽ được thanh cao. Nếu tư tưởng có kỷ luật thì chắc chắn hạnh kiểm sẽ được kiểm soát kỹ lưỡng và được hướng dẫn trúng cách. Cái trạng thái hữu hình, tức là sự hành động chỉ là sự phô diễn của tư tưởng thầm kín nó khoác cái lớp áo bề ngoài mà chúng ta gọi là sự hành động trong thế giới hữu hình nầy; nhưng cái bản chất của nó là sản phẩm của đời sống nội tâm, và cái hình hài của nó được đóng trong cái khuôn do tinh lực làm ra, mà tinh lực mới là kẻ thiệt thọ tạo hình hài đó. Thế giới vô hình, cõi Thượng Thiên, là thế giới của những nguyên nhân, còn thế giới hữu hình, cõi Hạ thiên, chỉ là thế giới của những hiệu quả. Vì vậy sự giữ gìn tư tưởng cố nhiên phải phát sinh ra cái hiệu quả là kỷ luật của hành động,

hành động chỉ là sự biểu hiệu tự nhiên và không tránh khỏi của tư tưởng.

c) Đức tính thứ ba là Uparati (Khoan dung). Cái phẩm tính thứ ba biểu thị cái trạng thái của con người nội tâm là “Uparati” nếu dịch một cách đúng nhất thì là một sự khoan dung rộng rãi, cao thượng và bền bỉ- tôi dùng chữ khoan dung với ý nghĩa rộng rãi nhất mà quý huynh có thể cho nó được- một sự khoan dung với tất cả mọi vật xung quanh, một tính kiên nhẫn cao cả có thể đợi chờ và thông cảm, do đó nó không đòi hỏi ở ai cái gì quá sức họ. Điều nầy cũng là một sự chuẩn bị đến một giai đoạn rất đặc biệt trên con đường của người Đệ tử thiệt thọ. Cái thái độ đầy khoan dung nầy khiền y có thể tạo ra những sự dễ dàng cho mỗi người và mỗi vật; khiến y nhìn mọi người không theo cái vẻ bề ngoài của họ, nhưng theo cái vẻ bên trong; khiến y có thể phân biệt được những hoài vọng của họ, những ý muốn và những nguyên do của họ, chớ không phải chỉ nhắm vào những vẻ thô tục và thường thường mâu thuẫn mà họ đã khoác trên con người họ trong thế giới hữu hình nầy. Con người học tập khoan dung về tín ngưỡng đối với tất cả những tôn giáo, học chịu đựng đủ thứ tập quán cùng những phong tục khác nhau của người đời. Y hiểu rằng đó chỉ là những giai đoạn nhất thời mà con người sẽ vượt qua, và y không vô lý đến nỗi trông đợi ở nhân loại, hãy còn ở thời kỳ ấu trĩ, cái tầm mắt rộng rãi và cao xa, cái tính kiên nhẫn đầy vẻ uy nghi là cái nét đặc biệt của nhân loại trong cái giai đoạn trưởng thành chớ không phải trong những giai đoạn phát triển đầu tiên. Người sắp được điểm đạo luôn luôn giữ gìn thái độ của tư tưởng như thế, và y phải có được cái tính khoan dung ấy nhờ sự hiểu biết sâu xa về Chơn Lý; y còn phải phân biệt Chơn Lý đó ở tận dưới lớp màn phỉnh phờ của những hình thức bề ngoài. Quý huynh có để ý rằng trên con đường Nhập Môn, sự thay đổi lớn lao được thực hiện nơi con người chỉ là buổi bình minh của ý niệm về sự thật hay không? Y không bị những vẻ bề ngoài gạt gẫm như xưa nữa. Dần dần với sự phát triển của y, y nhận thấy sự thật rõ ràng hơn và lần lần cởi bỏ được ảo tưởng. Y tự giải thoát ra mọi sự lệ thuộc của hình dáng bên ngoài và nhìn nhận được Chơn Lý cho dù nó ẩn trong một hình thức ảo mộng.

d) Đức tính thứ tư là titiksha, tính Chịu Đựng (Kiên nhẫn) tức là cái khả năng chịu đựng một cách kiên nhẫn tất cả những sự gì xảy ra mà hoàn toàn không hề thù oán. Quý huynh hãy nhớ lại: tôi đã khiến quý huynh chú ý đến khả năng nầy như là một năng khiếu mà người ta phải cố gắng mở mang, tôi đã giảng giải với quý huynh rằng con người phải tự giải thoát ra khỏi mọi khuynh hướng tự cảm thấy mình bị sỉ nhục; y phải phát triển nơi y lòng bác ái, sự xót thương và sự tha thứ, và sự phát triển nầy sẽ có kết quả: đó là một trạng thái vững chắc và nhất định của cái trí. Như vậy con người nội tâm tự giải thoát khỏi mọi sự oán thù, bất cứ là oán thù sự gì, đối với người, đối với thời cuộc, đối với mọi vật xung quanh y trong đời sống. Tại sao? Vì y đã thấy Chơn Lý và biết Định Luật; bởi vì y trông thấy hiệu quả của Định luật chí thiện; trong những hoàn cảnh bao quanh y, mặc dầu những hoàn cảnh ấy thế nào; y biết rằng những thế nhân, mặc dầu họ đối đãi với y cách nào, cũng chỉ là những nhân viên vô tâm của Luật Quả Báo. Y biết rằng tất cả những gì có thể xảy đến cho y kiếp nầy là do y tạo ra trong dĩ vãng. Cho nên cái thái độ đặc biệt của y là không hề oán ghét thù hiềm. Y đã có được cái quan niệm của sự công bằng và không một điều gì cón có thể làm cho y nổi giận, vì không một sự gì đến với y nếu y không xứng đáng thọ lãnh; không một chướng ngại nào có thể hiện ra trên con đường y đi, nếu ở những tiền kiếp, chính y không tự tay tạo ra nó. Như vậy, chúng ta thấy rằng không còn một sự vui hay một sự buồn nào còn có thể làm cho y ra khỏi đường của y đi, không một sự cản trở nào trên con đường của y có thể làm cho y đổi hướng. Y trông thấy con đường và y theo nó. Y trông thấy mục đích và cố đạt được. Y không còn theo một phương hướng mờ mịt và không nhất định, lúc đi phía nầy, lúc đi phía kia, nhưng với những bước chân vững vàng và quả quyết, y theo con đường mà y đã chọn. Sự vui thích không thể làm cho y xa con đường ấy được; sự đau khổ cũng không thể làm y bỏ con đường ấy được. Y sẽ không tự để cho mình thối chí, hoặc vì buồn rầu, hoặc vì sự trống rỗng vì hư vô; không một tiếng gọi nào khiến y lìa con đường ấy, trừ tiếng gọi của Chơn Sư mà y tìm cách đến quỳ dưới chân Ngài. Không thể nào tự để cho mình bị lôi kéo, có sức mạnh để chịu đựng tất cả; Ôi, thật đó là những đức tính mà y cần phải có trên Con Đường Nhập Môn. Quả nhiên tôi đã nói đến những sự thử lòng rải rác trên con đường của y đi, và tôi cần phải cho quý huynh hiểu lý do của những sự khó khăn ấy. Người tự dấn mình vào con đường nhập môn định thực hiện trong số ít kiếp sống cái công việc mà người thường ở thế gian nầy phải mất hàng trăm kiếp mới làm xong. Y hành động như người muốn lên đỉnh núi mà không lần theo con đường khu ốc và tự nhủ rằng: “Tôi sẽ đi thẳng băng lên sườn núi. Tôi không muốn mất thì giờ đi trên con đường vạch sẵn nhưng ngoằn nghoèo và dài dòng như thế nầy, trên cái đại lộ rộng rãi bằng thẳng và thuận tiện mà gần hết lộ trường đã mang dấu vết của muôn ức bàn chân dẫm lên. Tôi sẽ theo con đường ngắn nhất, đi mau nhất, thẳng băng trên sườn núi. Bất cần những sự khó khăn, tôi sẽ leo núi. Dù những sự cản trở có là thế nào đi nữa, tôi cũng sẽ tiến đến trước; nếu tôi thấy những hố sâu, những tường thành bằng đá tảng, tôi sẽ vượt qua; nếu có những trở ngại hay những khối đá trên con đường của tôi, tôi sẽ thu xếp cách nào để vượt chúng hay đi vòng quanh; nhưng tôi nhất định leo lên sườn núi nầy”. Kết quả của điều nầy sẽ ra sao? Y sẽ bị cả ngàn khó khăn nổi lên bao vây y. Cái thời gian mà y sẽ rút ngắn được, y phải trả bằng cách chịu đau khổ để thắng những nỗi khó khăn của nhiệm vụ y. Ai tự dấn thân vào Con Đường Nhập Môn thì giống như người đã chọn con đường ngắn nhất để đi lên đỉnh núi, và y lôi kéo vào bản thân tất cả cái nghiệp quả mà y đã tích trữ xưa nay, mà y cần phải trả một phần lớn, trước khi xứng đáng được Điểm Đạo. Những vị Nam Tào Bắc Đẩu, cầm cán cân của Luật Nhân Quả, mà có khi người ta gọi là những Vị Bảo Thủ Văn khố của Nghiệp Quả, hay những Vị Trông Coi Văn Khố của chất Tiên Thiên Khí (Akasha) trong đó có ghi chép tất cả những tư tưởng và những hành động quá khứ của con người; những Vị Đại Thiên Tôn, những Đấng Thiêng Liêng ấy, cao siêu hơn chúng ta tột bực; cái oai lực cao cả của các Ngài vượt khỏi cái tầm hiểu biết của chúng ta xa không biết bao nhiêu mà kể, đến nỗi lý trí của chúng ta không sao hiểu nổi những Đấng Cao Cả, ấy mà những Đấng Thiêng

Liêng ấy như có một cuốn sổ cho mỗi người. Dưới những con mắt vạn năng của các Ngài, các Ngài thấy công và tội của mỗi đời sống, và số công và tội này cần phải được thanh toán một phần lớn trước khi vượt qua ngưỡng cửa của sự Điểm Đạo. Và khi một người chí nguyện thành thực dấn mình trên Con Đường Nhập Môn, khi y tự động đặt chân lên đó, thì chính việc ấy là một lời cầu khẩn các Vị Nam Tào Bắc Đẩu, để xin các Ngài thanh toán những món nợ của y và đưa ra cho y cái số lượng nghiệp quả mà y phải trả. Trong

khăn. Cái món nợ nghiệp quả phải trả trong hằng trăm kiếp sống nay phải thanh toán trong vài kiếp, có khi chỉ trong một kiếp thôi, và lẽ cố nhiên là con đường phải đi sẽ khó khăn vậy. Con người sẽ bị những sự buồn rầu về gia đình quấy rối, những nỗi khó khăn trong công việc làm ăn dồn dập tới, bị những sự đau đớn về tinh thần hay thể xác dày vò. Vậy thì quý huynh có ngạc nhiên không khi tôi nói rằng y phải quả quyết để tiếp tục tiến trên Con Đường Nhập Môn, thay vì đi lùi trở lại, và đừng nản lòng. Tất cả hình như âm

làm cho mọi sự được tốt đẹp nhất, thì sao y lại phải chịu được tất cả những gì nặng nhọc đau khổ nhất? Tại sao y lại bị tất cả những nỗi khó khăn và đau khổ quấy nhiễu khi y sống một cuộc đời tốt đẹp hơn những kiếp trước của y? - điều nầy có vẻ bất công, tàn ác, khi tự thấy mình bị Số Phận bạc đãi hơn bao giờ hết, đúng vào lúc mình đang sống một cách cao thượng nhất từ xưa tới nay. Y phải chiến thắng sự thử lòng và không cho rằng: thế là bất công. Y phải tự nhủ: “Đó là kết quả của điều mà tôi đã làm. Tôi đã xin trả quả. Nay tôi đã được trả quả đó thì thật không có gì là lạ lùng cả”. Ngoài ra y còn có thể tự an ủi bằng cách nghĩ rằng cái món nợ mà y đang trả đây nay được thanh toán vĩnh viễn, và một khi đã thanh toán rồi thì nó không còn bao giờ đến quấy rầy y nữa. Mỗi món nợ nghiệp quả mà y trả đều được xóa bỏ vĩnh viễn trên cuốn sổ bộ đời của y. Ít nhất y cũng đã trả sạch món nợ đó. Như thế, nếu bệnh tật vật ngã y thì y nghĩ rằng nên thoát khỏi sự lo lắng lớn lao đó; nếu y bị sự đau khổ và sự lo âu quấy rầy, y nhận những cách thử lòng đó và tự nhủ: “Điều nầy là thuộc về dĩ vãng của tôi, ở sau lưng tôi, chớ chẳng phải ở tương lai của tôi trước mặt tôi đâu”. Đó vì vậy mà y tràn ngập sự vui vẻ ở giữa những nỗi lo buồn, tràn ngập hy vọng ở giữa những sự nản lòng, y thơ thới ở giữa những sự đau khổ, vì con người nội tâm hài lòng với Nghiệp Quả, sung sướng vì lời cầu xin của mình đã được chấp thuận. Nếu không có sự đáp lời, thì như vậy có nghĩa là tiếng nói của y không lên đến tai các Đấng Cao Cả, nghĩa là lời y cầu nguyện đã rơi xuống đất, vì những nỗi lo

tranh đấu, những nỗi khó khăn, những sự cố gắng nầy, y có thể đạt được cái đức tính thứ năm của thể trí, đó là: Shraddha.

e) Đức tính thứ nămshraddha là Đức Tin (ta cũng có thể gọi là lóng Tin cậy; tin cậy nơi Sư Phụ và tin cậy nơi mình nữa). Quý huynh hiểu dễ dàng làm sao Đức tin là kết quả của một sự tranh đấu như thế. Quý huynh sẽ tự giải thích một cách dễ dàng tại sao mà sau cơn chiến đấu, lòng tin cậy phải nảy sinh, giống như một cái bông nở ra dưới ảnh hưởng hỗn hợp của ánh sáng mặt trời với trận mưa. Con người đã tập tin cậy nơi Sư Phụ y vì Ngài đã giúp y vượt được quãng đường chông gai và đã dẫn y đến phía bên kia, nơi đó có những cửa Điểm Đạo hé mở trước mặt y. Y cũng đã tập được tự tin nơi mình, không phải tin nơi bản ngã thấp thỏi, mà y đã chế ngự được tính yếu đuối, nhưng tin cậy nơi Chơn Thần Thiêng liêng của y mà y bắt đầu nhận thấy uy lực. Từ nay, y hiểu rằng mỗi người đều thiêng liêng và ngày nay Sư Phụ y thế nào thì một ngày kia, trong những kiếp lai sinh y sẽ giống in như Ngài vậy. Y tin cậy nơi quyền lực của Sư Phụ, Ngài dạy bảo và hướng dẫn y; tin cậy nơi kiến thức của Ngài, Ngài có thể dìu dắt và dạy dỗ y; tự nơi y, y cũng có một tấm lòng tự tín, rất khiêm nhượng, nhưng rất mạnh mẽ, nó làm cho y tin chắc rằng mình có cái quyền năng tự cải thiện, vì chính y là bản chất thiêng liêng; và cái uy lực ở nơi y là uy lực của Thượng đế; lòng tin nầy có đủ sức khiến y có thể vượt qua mọi nỗi khó khăn, để y có thể chịu đựng mọi sự thử lòng và đắc thắng, mặc dầu những sự khó khăn phải chiến thắng lớn như thế nào.

f) Đức tính thứ sáu là Samâdhânâ (sự Điềm Tĩnh).Cái đức tính thứ sáu thuộc vế trí là “samâdhânâ”, sự điềm tĩnh, điềm đạm, sự an tĩnh của cái trí: sự thăng bằng và lòng quả cảm nầy là kết quả của những đức tính đã đạt được ở trên kia. Sau khi đã thực hiên được cái đức tính cuối cùng nầy, Con Đường Nhập Môn đã được vượt khỏi, người thí sinh đệ tử thấy mình đứng trước cửa ngõ, và không cần phải cố gắng thêm nữa, cái Đức Tính thứ Tư Mumuksha đương nhiên sẽ hiện ra.

IV.-Mumuksha. “Mumuksha” ý muốn được giải thoát, ta có thể xem nó như là sự kết liễu của những sự cố gắng lâu dài của thí sinh, khiến y thành một vị Adhikari (1)

[x]

sẵn sàng để được Điểm Đạo. Y đã bị thử thách và không bị coi như là không xứng đáng; sự phân biện của y thật tế nhị; sự lãnh đạm của y không phải là một sự chán nản nhất thời do một sự bất đắc chí mà ra; cái trạng thái đạo đức và trí thức của y vốn Cao thượng; y đã đúng bực, sẵn sàng để được Điểm Đạo. Người ta không đòi hỏi ở y một điều gì nữa, từ nay y xứng đáng được đối diện với Sư Phụ y, xứng đáng đương đầu với cái đời sống mà y đã tìm kiếm bấy lâu.

Quý huynh hãy lưu ý rằng trước khi chúng ta vịn được cánh cửa Điểm Đạo, mỗi năng khiếu phát triển trên Con Đường Nhập Môn chỉ là một sự chuẩn bị để sau nầy phải được hoàn thiện. Chính những năng khiếu đạo đức và trí huệ là điều bắt buộc phải có, chớ chẳng phải những tài phép, chẳng phải một sự phát triển linh năng bất thường, gọi là những phép thần thông đâu. Những phép thần thông nầy không hề bắt buộc phải có, hay là phải trình bày. Một người có thể đã phát triển một vài phép thần thông, nhưng vẫn chưa sẵn sàng để được Điểm Đạo.

Y phải có những phẩm tánh đạo đức. Những phẩm tánh nầy bắt buộc phải có một cách gắt gao không có chi làm lay chuyển quyết định đó được. Xin phép quý huynh cho tôi nói phớt qua sự gắt gao nầy; đó chính là kết quả của sự kinh nghiệm vậy. Những Vị Đại Sư, từ những ức triệu năm rồi, không ngớt huấn luyện dần dần nhơn loại. Với những kinh nghiệm sâu xa của các Ngài.

Các Ngài biết rằng những đức tính cần thiết để trở thành một người Đệ tử thiệt thọ phải căn cứ trên sự mở trí và trên những điều kiện đạo đức, chớ không phải trên sự phát triển năng khiếu thần thông; sự phát triển thần thông nầy sẽ được thực hiện vào lúc thích nghi.

Muốn thành một đệ tử được thâu nhận thì Thể Trí và trạng thái Đạo Đức phải sẵn sàng trình bày dưới mắt của Chơn Sư. Những đức tính mà Ngài bắt buộc phải có là những đức tính mà chúng ta vừa mô tả, và những đệ tử của Ngài phải mang những đức tính đó đến với Ngài trước khi nhận được sự Phục Sinh mà chỉ có Ngài mới ban cho họ được mà thôi. Những đức tính nầy bao hàm sự hiểu biết và lòng sùng đạo- sự phát triển kiến thức nó giúp cho con ngưới thấy được, và nếu không có sự phát triển của lòng sùng đạo thì con người không sao vượt nổi quãng đường.

Vì thế mà chúng ta đọc trong Thánh Kinh “Upani shads” rằng sự Hiểu Biết mà không có lòng Sùng Đạo thì không đủ, và chỉ một lòng Sùng Đạo không thôi, thì hãy còn thiếu. Cả hai đức tính nầy đều cần thiết, vì chúng là những cánh giúp cho người Đệ tử lấy đà mà bay lên.

Bây giờ chúng ta đi đến Con Đường Đạo chính thức. Thỉnh thoảng trong cõi Hồng Trần có một vài tiếng, tự miệng các Vị Chơn Sư thốt ra, về những Sự Đại Điểm Đạo nó đánh dấu những giai đoạn của Con Đường Đạo, sau khi người Đệ Tử đã được Sư Phụ thu nhận, và sau khi Ngài đảm nhiệm cái việc hướng dẫn, dạy bảo và coi chừng Đệ tử Ngài.

Chúng ta có thể tìm thấy ở nơi nầy hay ở nơi khác những câu nói bóng gió gián tiếp, sau nầy được chứng minh bởi sự kinh nghiệm của những ai đã bước vào cửa Đạo; những lời bóng gió nầy được phép loan truyền trong một phạm vi nhỏ hẹp, không phải để làm thỏa mãn một sự tò mò tọc mạch vô ích, mà để dạy bảo những ai muốn tự mình chuẩn bị tiến đến cái trình độ cao siêu ấy.

Tất cả những gì mà người ta có thể nói về những cuộc Điểm Đạo nầy, lẽ cố nhiên là còn thiếu sót; những điều được phép tiết lộ ra với thế giới loài người về những sự huyền bí cao siêu ấy, chỉ là những tài liệu không đầy đủ

. Nhiều câu hỏi phát sinh ra ở trí óc quý huynh, khi tôi dần dần gom góp những khái niệm ấy để làm thành một đại thể tuy mỏng mảnh nhưng đồng nhất; nhiều câu hỏi sẽ làm bận trí quý huynh, mà sự cẩn mật không cho phép trả lời. Như tôi đã nói với quý huynh, những tài liệu nầy được trưng ra không phải là để làm thỏa mãn sự tò mò tọc mạch, hoặc để cho quý huynh có dịp đặt một loạt câu hỏi và nhận được một câu trả lời cho mỗi câu hỏi ấy. Những khái niệm nầy chỉ dành riêng cho những người chí nguyện chân thành; cho những người muốn biết để có thể tự mình chuẩn bị; cho những ai muốn hiểu để có thể thi hành. Vì vậy cho nên thỉnh thoảng những lời bóng gió gián tiếp được nói ra, thổ lộ một phần tài liệu vừa đủ để chỉ dẫn nhưng không có tính cách làm thỏa mãn một tính hiếu kỳ vô ích thuộc về thế tục.

Hai vị Đại Sư có tên trong lịch sử đã cho những lời chỉ giáo về vấn đề nầy nhiều hơn là những vị khác. Mỗi vị nầy là Giáo Chủ của một tôn giáo rộng lớn như thế gian. Tôi dùng những tiếng “rộng lớn như thế gian” không phải với ý nghĩa của diện tích rộng rãi, mà với ý nghĩa ảnh hưởng của tôn

Sư ấy là Vị Sáng Lập ra Phật Giáo, tức là Đức Phật; Vị Chơn Sư thứ hai là Đức Shri Shankarâchârya, Ngài đã làm cho Ấn Độ giáo cái việc mà Đức Phật đã làm cho những xứ ở ngoài phạm vi của Ngài, bằng cách sáng lập giáo lý công truyền(1)

[xi]

. Về con đường Đạo phải đi theo. Giáo lý của hai Ngài giống hệt nhau, cũng như giáo lý của những Vị đã được Điểm Đạo bực cao. Mỗi Ngài đều ấn định những giai đoạn giống nhau: mỗi Ngài đều phân chia những giai đoạn nầy bằng những cuộc Điểm Đạo đặc biệt ngăn cách những giai đoạn đã qua cũng như những giai đoạn sắp tới. Giáo lý của hai Ngài cũng hoàn toàn in nhau; nếu có khác thì chỉ khác cách hành văn thích nghi cho mỗi tôn giáo. Đó cũng là một trường hợp để cho con người tập phân biệt Chơn Lý dưới mọi hình thức và mọi phương diện của nó; thay vì cãi nhau về những hình thức bề ngoài, con người nhận định được rằng dưới những danh từ khác nhau, những nhãn hiệu bên ngoài đều có ẩn tàng những Chơn Lý

Tôi nói có Bốn giai đoạn khác nhau, và mỗi giai đoạn đều có sự Điểm Đạo đặc biệt. Bây giờ đây, sự Điểm Đạo nghĩa là gì. Điểm Đạo nghĩa là sự nẩy nở kiến thức thâu thập được do sự can thiệp nhất định của Chơn Sư; Ngài hành động với tư cách Đại Diên của Đấng Duy Nhất Chí Tôn cầm quyền Điểm Đạo cho nhân loại và Nhân Danh Đấng Cao Cả nầy mà cho ta Phục Sinh. Có thể nói rằng sự nảy nở kiến thức là cái đặc điểm của sự Điểm Đạo,

Đạo thấy những chân trời mới mẻ về kiến thức và quyền năng. Nó đặt trong tay y cái chìa khóa mở những cửa của Thiên Nhiên. Như thế để làm gì? Nói một cách tổng quát để người được Điểm Đạo có ích cho đời hơn trước; để cho cái quyền năng phụng sự nhân loại của y được tăng thêm; để y có thể hợp với một nhóm ít người đã hiến thân cho nhân loại và đã từ bỏ cái bản ngã thấp thỏi của mình; họ chẳng ước mong điều gì hơn là việc phụng sự Chơn Sư và nhân loại; họ biết rằng việc phụng sự Chơn Sư và việc phụng sự nhân loại chỉ là một; họ đã dứt khoát với thế gian và với tất cả những gì mà thế gian có thể mang đến cho họ; sau cùng họ đã vĩnh viễn tự hiến dâng để phụng sự những Đấng Cao Cả, để làm những dụng cụ cho các Ngài, làm những đường vận hà cho các Ngài ban rải xuống Hồng Trần ân huệ và sự cứu giúp.

Ở giữa hai cuộc Đại Điểm Đạo, vài kết quả đã ấn định phải xuất hiện- những sự thay đổi ở con người bên trong- nhưng rất khác hẳn với những sự thay đổi mà chúng ta đã học từ trước đến giờ. Khi một người đã qua được một lần Điểm Đạo, mỗi việc mà y làm, phải được thực hiện trong sự toàn mỹ; mỗi công trình phải hoàn toàn thành tựu, mỗi dây xiềng xích phải nhất quyết chặt đứt. Không còn công việc nào là bất toàn; người Đệ tử không thể tiến lên hơn nữa trước khi thật hành, trong sự toàn mỹ, công việc của trong giai đoạn mà y phải trải qua. Trạng thái nầy có đặc điểm nhất định- mà người ta không tìm thấy ở nơi nào khác trong đời sống- ấy là sự hoàn tất mỗi giai đoạn trước khi bước sang giai đoạn kế tiếp. Một việc làm nửa chừng, một công trình còn khuyết điểm sẽ không được chấp thuận. Mặc dầu phải mất bao nhiêu thời giờ, công việc phải hoàn tất xong xuôi, trước khi người ta có thể tiến thêm một bước nữa. Nói theo lối chuyên môn, điều nầy được gọi là “phá tan xiềng xích” do đó mà vài sự vật còn làm trở ngại cho linh hồn. Ở đoạn chót của Con Đường Đạo là giai đoạn Jivanmukti” (giai đoạn của Người Thành Đạo). Đã trải qua Đường Đạo tức là đã tiến đến giai đoạn mà nơi đó đời sống được tự do; như vậy phải phá vỡ hoàn toàn những xiềng xích

Theo Đức Shri Shankarâchârya thì sự Đại Điểm Đạo lần thứ Nhất làm cho con người thành một vị “Parivra Jaka”, còn Đức Phật gọi là “Shrotapatti”, (Tu Đà Hườn). Danh từ Phật giáo nầy thường dùng dưới hình thức Pâli của nó, có nghĩa là “Kẻ đã nhập lưu” nó ngăn cách y với thế gian. Y không còn thuộc về cõi Hồng trần nầy nữa, tuy y còn có thể sống trong đó; ở đó y không còn giữ một địa vị nào; không cón có cái gì có thể cầm y lại được nữa. Đồng nghĩa đó là chữ “Parivra Jaka”, “Người đi ta bà, Vô trú” tức là người không có chỗ ở nhất định. Không phải nhất định là đi ta bà bằng xác thân, hay không có nhà ở cho xác thân- như sau nầy người ta đã dịch ra theo ngôn ngữ công truyền- mà chính là con người, trong đời sống nội tâm, đã tách ra khỏi nội tâm nầy, y không có nơi chốn, không có chỗ ở nhất định trong cõi đời giả tạm nầy, nơi đây chốn nào cũng như chốn nấy. Y sẵn sàng đi chỗ nầy chỗ kia, đi khắp mọi nơi mà Sư Phụ y muốn sai y đến. Không một chỗ nào có thể cầm giữ y lại, y không quyến luyến một nơi nào, vì y đã phá tan xiềng xích nó trói buộc y vào một chỗ đặc biệt. Vì vậy, y được gọi là “Con người ta bà, Vô trú”. Lẽ cố nhiên tôi biết, cũng như quý huynh biết rằng: ngày nay người ta gán cho cái giai đoạn ấy một nghĩa eo hẹp theo công truyền, nhưng tôi quan niệm nó chính theo cái ý nghĩa bí truyền bên trong, theo cái nghĩa mà các Đấng Cao cả đã đặt ra cho giai đoạn ấy. Than ôi! Chúng ta biết rằng đã có bao nhiêu sự thay đổi tự xưa đến giờ; cái điều xưa kia là một trong những sự thật của đời sống, thì ngày nay đã trở thành một vấn đề danh từ và hình dáng bên ngoài. Nhưng tôi muốn cho quý huynh biết Bốn giai đoạn của Con Đường Đạo, như đã được mô tả trong Ấn Độ giáo vì mọi người đã tưởng lầm rằng chính Đức Phật đã tiết lộ những giai đoạn ấy trong khi Ngài chỉ mô tả lại cái Con Đường Đạo cổ kính, gay go mà mỗi Vị đã được Điểm Đạo của Hội Quần Tiên Duy Nhất đã trải qua, đương trải qua, và sẽ trải qua trong tương lai.

Chúng ta hãy khởi đầu bằng sự thực tế. Tôi đã nói rằng Con người Nhập Lưu đã hoàn toàn cách biệt với thế gian. Người không còn lo nghĩ đến là để thi hành nơi đó những mệnh lệnh của Sư Phụ người. Đó là cái đặc điểm của Sự Đại Điểm Đạo đầu tiên của con người,đã được tái sinh một lần nữa, lần thứ hai. Trong đa số những trường hợp, sự Phục Sinh nầy được ban cho con người ở ngoài xác thân, nhưng trong một trạng thái hoàn toàn thức tỉnh, nghĩa là người ta thường được Điểm Đạo trong khi ở trong thể vía, với lương tri sáng suốt, lúc đó xác thân ở trong trạng thái xuất thần mê man. Thỉnh thoảng, một người Đệ tử được Điểm đạo, mà khi thức tỉnh, y không được phép biết sự đó trong ít lâu. Nhưng trong hai trường hợp nầy, cái gì đã thâu hoạch được thì không thể mất đi nữa; con người không thể trở lại cái trạng thái xưa kia của y đâu. Đứa trẻ sơ sinh có thể trong một thời gian không biết được cái hoàn cảnh mới mẻ của mình, nơi đó nó sống,

nhưng nó không thể nào chui vào nằm trong bụng mẹ như khi trước được nữa; nó không thể trở về cái vị trí cũ của nó, khi nó chưa sinh ra đời. Cũng như thế, người được Điểm Đạo đã trải qua một sự Phục Sinh,

không thể nào trở lại cái trạng thái cũ của mình, khi y chưa được Phục Sinh, và y không thể dự phần vào trong đời sống ở thế gian nầy, giống như những ai chưa được Phục Sinh vậy. Y không thể chần chừ trên con đường tiến hóa, y có thể tiến chậm chạp, y có thể dùng nhiều thời giờ hơn thường lệ để cởi bỏ những xiếng xích còn trói buộc y; nhưng không thể nào trở thành một người chưa được Điểm Đạo; cái chìa khóa không thể thoát khỏi tay y nữa. Y đã Nhập Lưu. Y thoát khỏi thế gian, y phải tiến lên, dù có chậm chạp đến đâu, dù y có phải dành cho việc nầy biết bao nhiêu là kiếp sống.

Người ta đã hỏi, giữa trình độ nầy và sự giải thoát cuối cùng, sự hoạch đắc được quả “Jivanmukti”(1),

[xii]

,phải cần bao nhiêu kiếp sống. Tôi nhớ có về nguồn dư luận thông thường cho rằng vị thí sinh Đệ tử phải tu luyện trong bảy kiếp mới được giải thoát, làm một vị Chơn Tiên. Ngài nói lên một câu rất đúng và rất có ý nghĩa như sau đây: “Có thể phải cần đến bảy kiếp cũng như bảy chục kiếp, cũng như có thể chỉ cần đến bảy ngày hay bảy giờ thôi”. Như thế có nghĩa là đời sống của linh

hồn không thể đánh giá bằng năm tháng ở cõi Hồng trần. Sự thành công là tùy theo khí lực, sức lực và ý chí của linh hồn ấy. Một người có thể phung phí thời giờ hay dùng nó một cách hết sức hữu ích, và những sự tiến bộ mà y có thể thực hiện được sẽ tùy theo sự kiện nói trên đây. Nhưng trong cái giai đoạn nầy, nó bắt đầu từ lúc được Điểm Đạo lần thứ Nhất và chấm dứt vào lúc được Điểm đạo lần thứ Hai, có ba việc khác nhau mà con người phải hoàn toàn cởi bỏ trước khi có thể vượt qua ngưỡng Cửa thứ Nhì. Cái việc đầu tiên là Ảo tưởng về Bản ngã. Cái bản ngã nầy phải được diệt trừ, không phải chỉ chế ngự nó, làm giảm bớt nó đi hay kìm hãm nó là đủ. Phải diệt nó, phải vĩnh viễn trừ nó đi. Cái ảo tưởng về bản ngã cá nhân riêng biệt phải mất đi. Người Đệ tử phải nhìn nhận rằng y chỉ là một đối với những người khác, vì Chơn Linh của vạn vật vẫn duy nhất. Y phải nhận định rằng tất cả những gì bao quanh y, con người, thú vật, thảo mộc, những hình thức khoáng chất và tinh chất của đời sống cũng chỉ là một người mà thôi. Y phải thoát ly cái Ảo tưởng về bản ngã. Quý huynh thấy sự phát triển kiến thức có thể giúp đỡ mình biết bao nhiêu ở điểm nầy; bỏ những sự sai lầm; sự nhận thức được cái chân giúp ta biết bao nhiêu vào sự loại trừ cái giả; theo cách đó, cái ảo tưởng về bản ngã có thể diệt trừ hoàn toàn. Tại sao? Vì mắt con người đã mở rộng, và tầm mắt của y đã vượt khỏi cái vòng ảo tưởng. Như thế, y đoạt được sự tự do và thoát khỏi những xiềng xích mà người ta gọi là “ảo tưởng về bản ngã”.

Kế đó, người đệ tử phải trừ tuyệt tính Hoài nghi hay là Mơ hồ. Đó là sự trở ngại thứ hai nó ngăn cản không cho y tiến xa hơn nữa. Y phải vượt qua sự trở ngại nầy bằng cách đã được định rõ tức là hoạch đắc sự hiểu biết. Những sự vật ở cõi vô hình đối với y, không còn là những vấn đề lý thuyết nữa; những chơn lý cao siêu của tôn giáo, đối với y, không phải chỉ là những tư tưởng triết lý mà thôi. Y phải công nhận những điều đó như là những sự thật. Y không cần phải tự hỏi: “Tại sao?” hay “Bằng cách nào?” bất cứ về điều gì. Có những chơn lý căn bản về đời sống mà y không còn có thể nghi ngờ gì được nữa.

Trước khi tiến lên một bước nữa, y phải có lòng tin tưởng gần như tuyệt đối về vấn đề Đại Chơn Lý Luân Hồi, không một mảy hoài nghi. Cái Chơn lý tối đại về Nhân Quả đã được hoàn toàn chứng minh đối với y

y phải có một lòng tin chắc chắn mà không có gì lay chuyển nổi về một Chơn lý trọng đại khác nữa, đó là sự hiện hữu của những bực Siêu nhân, những vị jivanmuktas, các Ngài là những Chơn Sư của nhân loại. Về những điểm đó, sự hiểu biết của y không còn là những lý thuyết suông mà thôi, mà phải là những hiểu biết thật sự, thực tế, để không có một mảy hoài nghi nào có thể làm mờ ám cái trí của y; cái trường hợp duy nhất có thể cho ta lòng tin nầy, ấy là cái trường hợp nơi đó sự hiểu biết thay thế cho lý thuyết, nơi đó sự tiếp xúc hoàn toàn với thực tại từ nay khiến cho ta không còn có những nỗi thất vọng sinh ra vì những ảo tưởng của cõi đời vật chất.

Cái xiềng xích cuối cùng mà ta phải chặt đứt hoàn toàn trong giai đoạn nầy là Tính Dị Đoan. Quý huynh hãy nhận rõ điều nầy muốn nói gì và quý huynh sẽ hiểu rõ tại sao Đức Shri Shankarâchârya và Đức Phật đã dùng những danh từ như nhau để chỉ định giai đoạn đó trong đời sống của người đệ tử.

Mê tín, dị đoan theo cái ý nghĩa chuyên môn của danh từ, nghĩa là sự tin cậy ở những lễ nghi bề ngoài của những giáo phái để được giúp đỡ tinh thần.

Nói về cái tính chất bề ngoài của những lễ nghi nầy, con người nhận thức được, qua cái sắc tướng, cái chơn lý chứa đựng bên trong, và nếu chơn lý thiệt ở nơi đó, thì cái giá trị của hình thức bề ngoài sẽ tùy theo sự thích nghi nhiều hay ít đối với cái thế giới vô minh và ảo tưởng nầy. Con người đã vượt khỏi những hình thức bề ngoài công truyền và những lễ nghi, nhưng quý huynh đã quen thuộc với cái quan niệm ấy trong đời sống hàng ngày rồi. Người Sannyasi (1)

[xiii]

được coi như là đã vượt khỏi những lễ nghi, người ta không đòi hỏi nơi tu sĩ mấy việc đó nữa. Tại sao vậy? Vị tu sĩ được coi như là đã đạt được chơn lý, không cần đến những lễ bái ấy nữa, nó chỉ là những nấc thang mà con người phải trèo lên, và chỉ cần thiết ở những giai đoạn đầu tiên; quý huynh đừng quên điều nầy, đó là một vấn đề tiến hóa. Nếu quý huynh muốn đi lên nóc nhà, quý huynh phải trèo lên cái thang và điên cuồng thay là kẻ nào nói: “Tôi không muốn trèo thang” trừ khi y có một quyền lực và một sự hiểu biết những định luật của thiên nhiên, khiến y có thể thay đổi tính phân cực của xác thân y, và lên cao bằng cách gọi là thuật khinh thân (lévitation)- bằng cách dùng ý chí- thay vì dùng cái phương pháp tương đối chậm chạp, nghĩa là bước lên từng nấc thang một. Đối với một người như thế thì cái thang thật vô ích, vì y có thể lên tới nóc nhà nhờ sức ý chí mà không cần xử dụng cái phương pháp chậm chạp là trèo thang. Như vậy, không có nghĩa là cái thang vô ích; như vậy không có nghĩa là những người khác cũng có thể đi lên nóc nhà mà không thèm dùng thang. Ngày nay, người ta thấy có nhiều người chính tự bản thân họ không đủ năng lực bay lên cao, mà họ lại từ chối không dùng thang nữa; họ quên rằng khi mà ý chí chưa được phát triển, thì những phương tiện thấp thỏi là cần thiết, nếu người ta có chút ý muốn lên cao.

Điều đó khiến tôi muốn nói đôi lời về người Sannyasi chơn chánh. Cũng như ngày nay, năm ngàn năm về trước, tiếng nầy đã được xử dụng mà không có thực tế. Chính đã năm ngàn năm rồi, ở buổi đầu thời mạt pháp, chúng tôi thấy Đức Krishna phân biệt người Sannyasi giả với người Sannyasi thật. Quý huynh nhớ rằng khi luận thuyết về vấn đề nầy, Ngài đã nói: “Kẻ nào hành động vì bổn phận, không màng tưởng đến kết quả của những việc mình làm thì là một người Sannyasi và một người Yogi, chớ không phải những kẻ không có ngọn lửa thiêng và không làm gì cả. Kẻ không có ngọn lửa thiêng nghĩa là kẻ không đốt lửa hy sinh, kẻ không thi hành những lễ nghi cúng bái, vì người ta không đòi hỏi ở người Sannyasi những sự đó. Nhưng Đức Krishna đã nói

: “Kẻ nào chỉ làm cho người ta chú ý đến mình bằng cách không thi hành những lễ nghi cúng bái và không hoạt động trong thế giới loài người, thì kẻ đó chẳng phải là một người Sannyasi chơn chánh đâu”

. Và nếu điều này là thật đã năm ngàn năm rồi thì, ngày nay nó lại còn đúng hơn nữa. Nếu điều nầy đã đúng khi Đức Thượng Đế (1)

[xiv]

giáng trần bên Ấn Độ, thì bây giờ nó còn đúng hơn nữa sau năm ngàn năm phương Đông, nếu chúng ta chiêm nghiệm chính xứ Ấn Độ với vô số những người Sannyasi của xứ đó, thì ta thấy những người chỉ là Sannyasi do bộ áo của họ mặc, chớ chẳng phải do cái cách họ sống; những người chỉ là sannyasi bởi cái hình thức bề ngoài, chớ không phải do những hy sinh nội tâm. Và nếu chúng ta từ giã Ấn Độ để đi đến Tích Lan, Miến Điện, Trung Hoa hay Nhật Bản, chúng ta cũng thấy ở đấy những vị Tu Sĩ theo Phật Giáo, họ chỉ là Tu Sĩ do bộ áo mầu vàng của họ, chớ không phải do một đời sống thanh cao, do hình thức bên ngoài chớ chẳng phải do Chơn lý bên trong. Nếu có thật rằng tôn giáo nơi đây dễ thực hành hơn ở mọi xứ khác; nếu có thật rằng tập tục cổ truyền của Ấn Độ khiến cho đất Ấn Linh Thiêng và khiến bầu không khí của nó có vẻ tinh thần hơn ở xứ khác; nếu có thật rằng ở đất Ấn có những địa phương đã được Thánh Hóa do những người đã sống nơi đó đến nỗi đối với thế nhân bình thường, chỉ việc đặt chân đến những địa phương ấy, cũng đủ làm cho cái trí yên tịnh và làm thức tỉnh những ước vọng của linh hồn; nếu có thật rằng vì những điều nầy mà xứ Ấn Độ trở nên thiêng liêng và được mến yêu đời đời, thì than ôi! Những con dân của nó ngày nay không còn xứng đáng với nó và đã sa ngã đủ mọi cách. Nếu chúng ta lấy con mắt mà dò xét toàn cõi Hồng trần, chúng ta thấy không một nơi nào đời sống tinh thần được thực hành một cách toàn diện; không một quốc gia nào đặt đời sống tinh thần lên hàng đầu. Kẻ nào biết rằng con người có thể làm được điều nầy, mà lại làm khác hơn; kẻ nào biết rằng việc phải như thế nầy, mà thấy nó lại thành như thế kia; kẻ nào đã thấy rõ Chơn Lý, mà than ôi, nay chỉ gặp nơi đây sự dối trá dưới cái vẻ bề ngoài của Chơn Lý, thì kẻ ấy thấy cõi lòng tan nát. Tuy nhiên, dù sao mặc lòng không có một vị đệ tử nào mà cõi lòng phải tan nát, bởi vì các Chơn Sư luôn luôn còn sống và đệ tử các Ngài vẫn đi chu du khắp thiên hạ đặng thuyết đạo; nhưng ngày nay tư cách của họ không lộ ra bằng cái vẻ bề ngoài và bộ áo của họ mặc, nhưng bởi đời sống nội tâm, bởi kiến thức, bởi tính tinh khiết và lòng sùng đạo; mấy đức tính nầy vẫn luôn luôn mở những cửa Điểm Đạo.

Điểm Đạo lần thứ nhì.- Bây giờ chúng ta đi đến giai đoạn thứ nhì mà Đức Shankarâchârya gọi là giai đoạn của người “Koutichaka” nghĩa là người dựng một túp lều; những người Phật Tử gọi giai đoạn nầy là giai đoạn của người “Sakridâgâmin” Tư Đà Hàm, tức là của người được phục sinh một lần nữa. Ở giai đoạn nầy, người ta không còn phải phá tan những xiềng xích chỉ định, nhưng phải hoạch đắc một vài năng khiếu. Đó là lúc cần đến những năng khiếu thần thông. Sau khi Điểm Đạo lần thứ Nhì, những năng khiếu nầy phải được khai triển, vì người đệ tử đã đi đến một giai đoạn có những bổn phận rất rộng lớn đang chờ đợi người, không phải chỉ ở trong đời sống Hồng trần của nhân loại, mà còn ở những cảnh giới khác ngoài cõi Hồng trần. Người phải có thể nói được, không những chỉ bằng miệng mà thôi, mà còn bằng cách giao thông trực tiếp từ cái trí nầy đến cái trí khác (1)

[xv]

, và làm như vậy một cách tỉnh táo và có ý thức. Ngày mai tôi sẽ cố gắng giảng giải những bổn phận khác nhau của người đệ tử, những bổn phận nầy ảnh hưởng đến cõi Hồng trần, và nếu được làm đầy đủ một cách hoàn toàn- đó không phải là trường hợp ngày nay- thì nó sẽ thay đổi rất nhiều cho đến cả cái khuynh hướng của đời sống vật chất của con người. Nhưng người đệ tử muốn làm tròn cái phần nhiệm vụ ấy của mình, để có thể tự chuẩn bị làm những bổn phận cao cả hơn; khi tất cả những nguồn kiến thức được mở ra cho người và khi tạo hóa

đã vén lên tất cả những tấm màn khá dầy mịt che án mắt người, thì người đệ tử một khi tiến đến gần giai đoạn nầy, phải phát triển những năng khiếu tiềm tàng của mình và phô bầy dần dần tất cả những khả năng chưa hoạt động nơi mình. Chính trong giai đoạn nầy, ngọn lửa tiềm tàng phải được khơi động, nếu từ đó đến giờ chưa làm việc nầy (2)

[xvi]

; chính trong giai đoạn nầy, phải khơi cho luồng hỏa hầu Kundalini tác động trong xác thân và trong thể Vía của con người đã được thêm sức. Quý huynh đã đọc được trong một vài cuốn sách, như trong cuốn “Ananda Lahiri” của Shri Shankarâchârya, những đoạn nói về cách khơi ngọn lửa sống nầy và dẫn nó từ Luân Xa nầy sang Luân Xa khác. Khi được khơi động, ngọn lửa nầy cho con người cái quyền lực tự ý rời bỏ xác thân bất cứ lúc nào, vì khi ngọn lửa đi dần dần từ Luân Xa nầy đến Luân Xa khác, nó làm cho thể Vía tách ra khỏi Xác thân và hoạt động tự do. Kể từ lúc đó, con người vẫn luôn luôn thức tỉnh, có thể rời bỏ xác thân để đi vào thế giới vô hình, hoạt động ở đó một cách hoàn toàn tỉnh táo và khi trở về nhớ lại hết tất cả những việc đã làm mà không hề có ở trong thể trí một sự lãng quên nào ngăn cách trạng thái nầy với trạng thái khác. Chính trong giai đoạn thứ nhì, tất cả những quyền năng nầy đều được phát triển và tiến hóa, và khi mà chúng vẫn chưa được hoàn toàn hoạt động; mà khi chúng chưa trọn vẹn ở dưới mệnh lệnh của người đệ tử; khi mà những hàng rào ngăn cách cảnh giới hữu hình với cảnh giới vô hình chưa được phá vỡ, thì người đệ tử không thể tiến xa hơn nữa. Khi những hàng rào ấy rơi xuống do sự phát triển của quan năng và những quyền lực ẩn tàng nơi con người, do sự hoạch đắc những phép thần thông, người đệ tử thấy mình sẵn sàng bước một Bước Lớn thứ Ba trên con đường tiến hóa và đi vào một giai đoạn sinh hoạt mới mẻ và cao cả hơn. Quý huynh sẽ hiểu một cách dễ dàng tất cả sự tai hại mà những người chuẩn bị không đúng phép tự đem lại cho mình, khi họ thử tiến đến giai đoạn nầy theo cách của họ tạo ra trước ngày giờ mà sự tiến hóa tự nhiên đem họ đến đó, trước khi họ được phát triển về phương diện tinh thần. Trong nhiều cuốn sách đã được in ra, nhất là những cuốn “Tantrika” có chứa đựng những đại cương nói về những phép thần thông, làm say mê những người ước vọng có quyền năng. Họ không cần xem xét coi những khả năng đạo đức và trí thức của họ có đủ sức giúp cho họ điều khiển một cách đúng đắn những quyền lực ấy không. Trong nhiều kinh sách “Tantras” có những chân lý ẩn tàng, để sẵn cho những ai có thể đạt được; nhưng những lời chỉ dẫn mơ hồ, vì khiếm khuyết, nên thường gây lầm lạc cho những ai

không thông hiểu sự thực và không có Thầy để giảng cho họ hiểu những lời ngụ ý nói bóng dáng và những câu nói không cạn lời. Vì thế cho nên một vài người vì vô minh, đã đem thực hành những bài học khuyết điểm nầy, với mục đích mở mang mau lẹ những phép thần thông, trước khi sự phát triển về đạo đức và trí thức giúp họ phát triển quyền năng một cách an toàn- những ngưới nấy quả có đạt được những kết quả, nhưng những kết quả nầy thường làm hại chớ không làm lợi cho họ. Thường khi họ tự làm hại sức khỏe, bị mất trí, và tự làm hỏng những năng khiếu trí thức của họ, khi họ ráng hái những trái của cây Trường Sanh trước khi chúng nó chín mùi, khi họ thử đi vào chỗ Thiêng Liêng nhất của Linh Điện với những bàn tay nhơ nhớp và ngũ quan không tinh khiết. Trong đền thờ nầy, bầu không khí tinh khiết đến nỗi không có gì ô trược mà tồn tại được; những làn rung động ở đó mãnh liệt đến nỗi chúng làm tan vỡ tất cả những gì khác âm giai, xé tan từng mảnh tất cả những gì nhơ bợn, tất cả những gì không có bản chất thích nghi với sự hoạt động đáng kinh sợ của chúng.

Điểm Đạo lần thứ Ba.-Nhưng khi dưới sự hướng dẫn của Chơn Sư vì chỉ nên làm việc nầy trong cái điều kiện duy nhất đó thôi. Khi dưới sự hướng dẫn của Chơn Sư, người đệ tử đã hoàn toàn trải qua cái giai đoạn nầy, thì người được Đại Điểm Đạo lần thứ Ba và trở thành một vị “Hamsa) (1)

[xvii]

theo Shri Shankarâchârya, hay là trở thành một vị Anagamin, A na Hàm theo kinh sách nhà Phật,

một người không còn bị bắt buộc phải đầu thai

nữa

,

nếu người không tự ý muốn đầu thai. Giai đoạn nầy, như đã được Đức Shri Shankarcharya chỉ định đó là giai đoạn mà con người tiến đến quan niệm hợp nhất, phải biết rằng y chỉ

là một với Đấng Tối Cao

.

Danh từ nầy được ban cho y vì rằng sự phát triển trạng thái tâm thức của y đã nâng y lên cao đến cái cảnh giới của Vũ Trụ nơi đó sự hợp nhất nầy trở thành một sự thực đã thâu hoạch được, và y đã có cái kinh nghiệm:

Tôi là Ngài

. Sau khi luyện đến mức cao tột những khiếu linh năng cùng sự liên quan của chúng đối với giác quan hồng trần của y, không những y có thể đi vào những cảnh giới nơi đó người ta thấy được cái quan niệm duy nhất, mà y còn có thể mang cái trí nhớ của quan niệm ấy trở về trạng thái thức tỉnh hàng ngày,và in nó vào khối óc hồng trần của y. Như vậy, có cần phải nói với quý huynh rằng, người đệ tử phải rứt bỏ

cái mảnh cuối cùng của Dục Vọng hồng trần

,

nếu y còn giữ những dấu vết của nó khi đã đi đến trình độ nầy chăng? Vậy ở giai đoạn nầy, y phá vỡ một xiềng xích cuối cùng mà người ta gọi là

Kamarâga

”,

dục vọng nhuốm chút ít màu hồng trần, vì khi người ta nhận định được Bản thể duy nhất của Vũ trụ, thì tất cả những gì bề ngoài có vẻ chia rẽ, đều vĩnh viễn mất hết cái quyền lực làm cho ta bị lung lạc. Vậy người đệ tử đã vượt lên cao hơn những giới hạn của sự chia rẽ và chế ngự được không những các điều mà ở thế gian nầy người ta gọi là những dục vọng hồng trần, mà còn chế ngự được cả những

dục vọng thanh khiết nhất, tinh thần nhất

,

có liên quan đến bản ngã cá nhân. Chính những dục vọng tinh thần cũng rời bỏ đệ tử khi y đi tới mức cao siêu như thế; không thể tự tách khỏi các kẻ khác, dù chỉ trong tư tưởng, như vậy, y không sao có được những ham muốn tinh thần cho chính mình, như một cá nhân riêng biệt; nhưng y chỉ ham muốn cho mình với tư cách là một phần tử trong toàn bộ của đại thể.

Cái điều mà y hoạch đắc được là hoạch đắc cho tất cả, cái điều mà y thu được là thu cho tất cả

. Y ở trong một cảnh giới của Vũ trụ tự nơi đó thần lực ban rải xuống cõi Hồng trần, và những gì mà y thu được, y truyền nó, y tuôn nó ra cho tất cả, y chia sớt nó với tất cả. Do đó mà thế gian trở nên tốt đẹp hơn mỗi khi một người tiến đến mức cao siêu ấy. Tất cả những gì mà y hoạch đắc được là hoạch đắc cho nhân loại, và tất cả những gì đến vừa tầm tay của y thì chỉ qua bàn tay đó để ban rải xuống thế giới loài người mà thôi. Người đệ tử

hợp nhất với Thượng Đế và do đó, hợp nhất với mỗi sự biểu lộ của Ngài.

Y hoàn toàn nhận định được điều nầy trong tâm thức của y chớ không phải chỉ do những hy vọng và ước vọng mà thôi. Người ta dùng một danh từ lạ lùng để chỉ định cái điều ràng buộc thứ hai mà y phải phá vỡ trong giai đoạn nầy, người ta dùng cái danh từ Pâli

“Patigha”

mà chúng ta bắt buộc phải dịch là “

thù ghét”,

tuy ở trường hợp nầy; danh từ đó thật phi lý. Thật ra, người ta muốn nói rằng, đã tự hợp nhất với tất cả, người đệ tử không còn phân biệt những giống dân, những giòng họ, những sự vật khác nhau ở cõi trần nầy. Từ nay, y không còn có thể cảm thấy tình yêu thương hay lòng thù ghét nầy sinh ra bởi những sự khác biệt bên ngoài. Từ nay, y không còn có thể yêu thương hay thù ghét một người vì người ấy thuộc một giống dân khác. Từ nay, y không còn có thể thương yêu hay thù ghét do sự phân biệt những người và vật xung quanh mình. Quý huynh còn nhớ cái từ ngữ lạ lùng của Đức Krishna khi Ngài nói về bậc Hiền Triết; bậc Hiền Triết nầy

không phân biệt chút nào giữa một người Bà la môn sáng suốt và một con chó.

Người đã đạt được cái quan niệm của sự duy nhất, và trông thấy Thượng Đế ở khắp mọi vật, hay để tôi dùng một từ ngữ khác, người trông thấy Đức Krishna ở khắp mọi nơi, và cái vẻ bề ngoài mà Ngài khoác lên không có nghỉa lý gì đối với con mắt tinh khiết của người. Người tuyệt nhiên không còn cái điều mà chúng ta bắt buộc phải gọi là “

lòng thù ghét”

hay sự “

ghê tởm”,

k

hông có cái gì làm người ghê tởm, không có cái gì làm người lùi bước lại, dội ngược lại. Người chỉ còn cảm thấy lòng bác ái và tình thương xót đối với mọi vật và mọi người. Có thể nói rằng người làm sáng chói xung quanh mình một bầu không khí đầy dẫy sự thương yêu. Tất cả những ai đến với người, tất cả những ai lại gần người đều cảm thấy cái ảnh hưởng của lòng từ bi thiêng liêng nơi người. Vì thế cho nên ở cái thuở mà những người Bà la môn còn thật sự là những gì đúng với cái danh từ của họ, thì người ta hợp nhất với Thượng Đế và khá rộng rãi để chứa đựng tất cả những gì mà Thượng Đế đã tạo tác ra.

Điểm đạo lần thứ tư.-

Sau khi đã vĩnh viễn cởi bỏ cái ảo tượng của sự chia rẽ, người đệ tử đi vào giai đoạn cuối cùng mà Shri Shankarâchârya gọi là “Paramahansa” và danh từ Phật học là “Arhat” (La Hán). Về điều này, hiện nay, chúng ta lại nhận thấy một lần nữa sự làm giảm giá trị những danh từ thiêng liêng, khi cái danh từ chỉ định địa vị cao cả này được đem dùng một cách bừa bãi và cẩu thả; người ta thường dùng nó vì xã giao tầm thường để chỉ một vẻ bề ngoài, chớ không phải để chỉ một thực sự linh động bên trong. Cái ý nghĩa thật sự của danh từ nầy là con người đã trải qua lần Đại Điểm Đạo thứ tư và đang vượt qua cái

giai đoạn trước giai đoạn thành Đạo tức là giai đoạn “jvanmukti”;

người có thể hoàn toàn thức tỉnh mà lên cao đến cảnh giới

“Turiya”(Bồ Đề)

(1)

[xviii]

,

và sống ở đấy. Người không cần phải rời bỏ xác thịt để cảm thấy Chơn phước, để hoàn toàn thức tỉnh tại cảnh giới đó.

Cái trạng thái tâm thức của người đệ tử tăng trưởng đến nỗi bao trùm luôn cảnh giới đó, mà vẫn hoạt động trong khối óc hồng trần.

Đó là một trong những đặc điểm khi lên tới mức nầy. Tâm thức không một chút nào cần phải rời bỏ khối óc hồng trần để tác động tại cảnh giới cao cả nầy; cái tâm thức của người đệ tử tăng trưởng đến nỗi bao trùm cả cảnh giới ấy, và trong khi người nói, người hành động ở thế gian tất cả cái kiến thức rộng lớn nầy nằm dưới mắt người và người tự tiện thí nghiệm. Trong giai đoạn nầy, người tự giải thoát khỏi

năm “chướng ngại” cuối cùng để trở thành người “Jivanmoukta”

(2).

[xix]

1.)cái chướng ngại thứ nhất gọi là “

Ruparâga” tức là ý muốn có một đời sống sắc tướng

vì không một ý muốn nào về một đời sống như thế sinh ra trong lòng người.

2.)Kế đó là dứt bỏ

“Aruparâga”, ý muốn có một đời sống vô sắc tướng,

không một dục vọng nào thuộc loại đó còn lung lạc được người.

3.)Rồi người tự giải thoát khỏi

“Mana”

và chúng ta lại bắt buộc phải dùng một lần nữa một tiếng quá thô sơ để diễn tả cái bản chất thật sự và tế nhị của cái chướng ngại nầy, tức là

lòng kiêu hãnh;

không một lúc nào người nghĩ đến sự cao cả của mục đích mà người đã đạt được, vì đối với người, không có chỗ nào cao mà cũng không có chỗ nào thấp, không có những núi non hùng vĩ mà cũng không có những thung lũng bé nhỏ, hẹp hòi.

Tất cả đối với người chỉ là một.

4.)Kế tiếp, người dứt bỏ chướng ngại thứ tư gọi là Uddhachcha

“còn có thể bị một việc làm cho chênh lòng”.

Dù sự gì xảy ra, người vẫn vững vàng, không hề lay chuyển. Những tinh cầu có thể đụng chạm với nhau, người vẫn điềm nhiên như không. Không còn có một sự gì xảy ra ở cõi đời hữu hình nầy lại có thể phá rối sự trầm lặng cao cả của con người đã lên đến

mức quan niệm được Cái Đại Hồn của Vũ trụ.

Dù một thảm họa xảy ra cũng không sao, chỉ riêng cái hình hài là bị tan vỡ. Dù thế giới bị sụp đổ cũng không sao, đó chỉ là cái cách biểu lộ nó thay đổi. Người sống trong cái gì cổ kính, vững bền, bất tử, trường cửu; không một điều gì có thể làm rối loạn sự bình tĩnh của người, không có gì có thể làm mất đi cái cảm giác hoàn toàn an tịnh của người. Thực hiện được điều nầy, thì người thoát khỏi sự trở ngại cuối cùng

5.)Avidya,

vô minh hay cái sự sinh ra ảo vọng,

đám mây mỏng mảnh cuối cùng nó che cái kiến thức hoàn toàn và cái tự do triệt để. Người không còn phải tái sinh nữa, không một sự ép buộc nào có thể dắt người trở lại địa cầu nữa, nhưng người có thể tự ý đi đầu thai. Kiến thức của người bao gồm tất cả những gì chứa trong

dãy hành tinh của chúng ta.

Người học được tất cả những gì mà sự biểu lộ nầy có thể dạy người, không một bài học nào mà người chưa thuộc, không một bí mật nào ẩn tàng, không còn một xó, một góc nào mà mắt người chưa dò xét, không có một cơ hội nào mà người không có khả năng nắm lấy. Sau giai đoạn nầy, tất cả những bài học đã thuộc rồi, tất cả những quyền năng đều được hoạch đắc hoàn toàn

người trở nên toàn trí toàn năng trong tất cả dãy hành tinh nầy. Người đã hoàn tất sự tiến hóa của nhân loại; Người đã vượt qua cái mức cuối cùng mà nhân loại sẽ bước qua khi hết Đại Kiếp, khi nhiệm vụ của Vũ trụ nầy được kết liễu.

Đối với người, không còn cái gì bị che khuất, không còn có cái gì ở riêng trong người, vì cái trạng thái lương tri của người đã nở ra để bao hàm tất cả sự vật. Khi nào người muốn, người có thể vào cõi Niết Bàn, nơi đó có sự duy nhất, có lương tri vũ trụ, và sự sống tràn đầy ngự trị.

Người đã đạt được cái mục đích của nhân loại;

cái cửa cuối cùng ở ngay trước mặt người và mở rộng cả hai cánh khi nghe thấy tiêng chân người bước đến.

Điểm Đạo lần thứ năm.-

Vượt qua cửa nầy, người thành ra vị Jivanmoukta, theo từ ngữ của người Ấn Độ, vị Chơn Tiên “Aseka” hay vị không còn phải học hỏi gì nữa, như danh từ Phật giáo chỉ định. Mọi việc đều thông hiểu, mọi việc đều hoàn tất. Trước mặt Ngài bây giờ, những con đường khác nhau được mở rộng; Ngài có thể lựa chọn dễ dàng con đường Ngài muốn theo. Ngoài giới hạn của dãy hành tinh này, ngoài giới hạn của Vũ trụ chúng ta, tại những miền mà chúng ta không sao hiểu được, những con đường được mở rộng ra để Ngài Jivanmoukta có thể chọn đường mà Ngài muốn đi. Nhưng có một con đường-

một con đường khó khăn, nặng nhọc nhất, tuy rằng đó là con đường mau lẹ nhất – mà người ta gọi là con đường Hy Sinh cao cả.

Nếu Ngài chọn con đường này, sau khi xem xét kỹ càng thế giới loài người, thì vị Jivanmoukta không rời xa nó; Ngài tuyên bố rằng Ngài muốn ở đó, chịu đầu thai hết kiếp nầy sang kiếp khác để dạy dỗ và giúp đỡ loài người. Một lần nữa, Shri Shankarâchârya nói đến các vị ở lại và làm việc cho đến khi nào nhiệm vụ hoàn thành. Nhiệm vụ riêng của các Ngài đã xong rồi, nhưng các Ngài tự hợp nhất với nhân loại, và khi mà sự tiến hóa của nhân loại nầy chưa chấm dứt, thì các Ngài sẽ không bao giờ rời bỏ hàng ngũ của những con người đang chiến đấu. Các Ngài đã được tự do giải thoát, nhưng các Ngài tự ý ở trong vòng nô lệ. Các Ngài đã được sự giải thoát, nhưng sự giải thoát nầy chỉ hoàn toàn khi những kẻ khác cũng được giải thoát như các Ngài.

Đó là những Chơn Sư Từ ái sống gần nhân loại, để loài người khỏi phải ở vào địa vị một trẻ mồ côi không cha, để những người đệ tử khỏi phải uổng công tìm kiếm Sư Phụ dạy dỗ mình.

Đó là những vị Đại Sư mà chúng ta biết ơn một cách rất sâu xa, vì các Ngài còn ở trên trái đất nầy mà vừa sống ở cõi cao siêu, trong một trạng thái lương thức của Niết Bàn, để có thể giữ gìn một sự liên lạc giữa những cảnh giới cao siêu và những con người chưa được tự do; những con người mà xác thân là một nhà tù nơi đó đời sống chưa được giải thoát. Tất cả những vị nào đã đạt được cái mức cao cả đó đều là những Đấng Vinh Quang; tất cả những Vị ở mức đó đều thiêng liêng, nhưng người ta có thể nói mà không sợ phạm tội vô lễ rằng: đó là những Vị mà nhân loại trìu mến nhất, quyến luyến nhất, bởi lòng biết ơn nồng nhiệt, vì cái sự Hy Sinh đã thực hiện: chính các Ngài có thể lìa bỏ chúng ta, có thể để chúng ta côi cút, nhưng các Ngài đã không muốn lánh xa để đảm nhiệm cái vai Từ Phụ (Cha lành) cho nhân loại. Đó là những vị Đại Sư, chúng ta cúi đầu dưới chân các Ngài; đó là những

Đại Sư Phụ nâng đỡ Hội Thông Thiên Học.

Các Ngài đã sai người sứ giả,

bà H.B.Blavatsky

để mang lại cho thế giới một giáo lý đã gần hoàn toàn bị lãng quên, chỉ để lại cho đời thấy con

Đường Đạo nhỏ hẹp và cổ kính mà ngày nay có một vài người theo đuổi, mà quý huynh có thể in dấu chân lên đấy.

IV

SỰ TIẾN BỘ VỊ LAI CỦA NHÂN LOẠI

đầu sách  cuối sách  chương 1 2 3 4

NHỮNG PHƯƠNG PHÁP CỦA KHOA HỌC VỊ LAI

SỰ PHÁT TRIỂN VỊ LAI CỦA CON NGƯỜI

Thưa quý huynh, nhiệm vụ của chúng ta sáng nay không dễ dàng chút nào. Cho đến bây giờ tôi đã mô tả cùng quý huynh sự tiến hóa của con người; cho đến bây giờ, tôi đã giảng với quý huynh bằng cách nào, một người, đã quả quyết tự ấn định mục đích nầy,

có thể lên cao từng bước một từ đời sống thế tục đến đời sống của người đệ tử,

bằng cách nào y có thể vượt qua sự tiến hóa của nhân loại, bằng cách nào

y có thể hoàn tất trong một niên số ngắn ngủi cái việc mà giống dân sẽ hoàn tất trong vô số thế kỷ.

Nhưng sáng nay, nhiệm vụ của tôi lại khác. Tôi sẽ ráng tả với quý huynh cái triều lưu của sự tiến hóa nầy qua mọi thời đại. Tôi sẽ ráng trình bầy với quý huynh, lẽ cố nhiên là một cách rất ngắn ngủi, những giai đoạn lớn của sự tiến hóa của nhân loại được coi như một Đại Thể. Điều đó sẽ dường như cho chúng ta một khái niệm đại cương về sự tiến hóa, một tổng niệm không những của dĩ vãng do nơi chúng ta đã khởi hành để tiến tới trình độ hiện tại của chúng ta, mà còn cả tương lai dành cho giống nòi của chúng ta nữa. Tôi sẽ nói với quý huynh về sự tiến hóa của các quốc gia; chúng ta sẽ xem xét về sự phát triển của nhân loại. Khi thử cất cánh bay bổng như thế thì hình như tôi mời quý huynh cùng lên với tôi trên con tuấn mã của Đức Vishnou, con mãnh điểu Sarouda và nhanh nhẹn vượt qua cái bầu không khí của vô số thời đại, ghé mắt vào cái bản đồ toàn cảnh đang diễn ra dưới mắt chúng ta. Lẽ dĩ nhiên quý huynh và tôi sẽ bị hụt hơi sau một cuộc du hành như thế. Có thể nói rằng điều nầy đối với tôi dễ dàng hơn đối với quý huynh, vì những tư tưởng nầy rất quen thuộc với tôi vì tôi có nhiều dịp trầm ngâm chúng nó, còn như đối với đa số quý huynh, vấn đề có vẻ lạ lùng,

và cái quan niệm Thông Thiên Học về sự tiến hóa vạn kỷ sẽ hình như hơi mới mẻ trong những chi tiết của nó.

Tôi cần phải lướt qua nhanh chóng từng điểm nầy sang điểm khác mà không giải thích, và vì thế, tôi sẽ đưa quý huynh vượt qua nhanh lẹ nhiều sự khó khăn, đó là do chúng ta muốn đi nhanh, chớ chẳng phải là quý huynh đã hiểu biết rõ ràng đại thể rồi. Nhưng tôi xin nói điều nầy, tôi có thể lầm lộn trong một vài chi tiết, tôi có thể sai lầm trong một phần phụ thuộc của cái cảnh trí rộng lớn nầy, nhưng cái sự mô tả đại cương thì đúng, sự mô tả nầy không phải của tôi, nó có một nguồn gốc khác, và tuy sự yếu đuối của kẻ thuyết trình có thể là nguyên do của những sai lầm về chi tiết, nhưng cái sự đúng đắn căn bản của sự phác họa nầy có tính cách đáng cho ta tin cậy.

Con người

mà dưới mắt các Đấng Cao Cả tức là các Giáo Chủ đầu tiên của loài người, các Vị đầu tiên cai trị họ, và các Vị lãnh đạo đầu tiên của họ, thì không phải là

con người mà chúng ta thấy ngày nay,

vì y chưa đạt đến cái mức dành cho y mà một ngày kia y sẽ phải đi đến. Như thế không phải là tôi muốn nói rằng, về đại cương, sự tiến bộ của y không đáng khen. Cái vị trí mà y đã đạt được trong sự tiến hóa, vị trí đầy những sự khó khăn, những sự hoài nghi và những sự đau khổ, theo đại cương,

thì đã khá làm cho ta hài lòng, khi ta nhìn nó tự một điểm cao nhất và nếu người ta kể đến cái thời gian rất ngắn đã qua đi (

thời gian rất ngắn

theo những sự

đo lường

cõi Thiêng Liêng,

nhưng nó có vẻ thật

lâu dài

nếu người ta tính theo những

năm tháng ở hồng trần

). Chắc chắn rằng con người như bây giờ đây không một chút nào giống với cái lý tưởng của các Vị

đã định cho y nhập thế để chu du, của các Vị đã đưa y lên con đường tiến hóa. Y đã chấm dứt sự đi sâu xuống vật chất và đã qua khỏi cái điểm thấp nhất của cuộc hành trình. Y còn phải leo lên những đỉnh núi chon von trên đó nhân loại toàn thiện và vinh quang sẽ khác xa nhân loại bây giờ, trên đó, nhân loại sẽ giống như Thiên Ý đã định.

Quý huynh hãy luôn luôn nói rằng vũ trụ gồm bảy cảnh giới rất lớn riêng biệt, do tư tưởng của Thượng Đế mà sinh ra, chúng được thành lập từ trong ra ngoài hay từ trên xuống dưới, theo từ ngữ mà quý huynh ưa thích- một Vũ trụ oai hùng chia làm Bảy Cảnh Giới hay Bảy Miền Vật chất của mỗi cảnh giới đều khác biệt nhau, tuy rằng tất cả những vật chất ấy đều do một chất tinh hoa duy nhất mà ra:

Paramâtma

, nguồn cội của vạn vật. Khi cái Tư Tưởng Thiêng Liêng nầy thành hình do ý chí của Thượng Đế, trong vũ trụ hữu hình, và dần dần theo sự kết tạo của mỗi cảnh giới, thì cảnh giới nầy khác cới cảnh giới nọ bởi trọng lượng của vật chất cấu thành, tùy theo cái sinh lực đầu tiên bị che khuất bởi nhiều hay ít lớp vỏ- như vậy, muốn phác họa một bức bản đồ đại cương, quý huynh có thể coi cái Đại Vũ Trụ nầy cùng với Thượng Đế đã tạo ra nó, như một Thái Dương Hệ hùng vĩ trong đó mặt trời thay mặt Đức Thượng Đế, và mỗi khối cầu trong những khối cầu đồng một trung tâm điểm kế tiếp là một cảnh giới trong Vũ Trụ. Những khối cầu ở phía trong là những cảnh giới mà vật chất tế nhị nhất và sinh lực ít bị che lấp nhất, trái lại những khối cầu ở phía ngoài là những cảnh giới mà vật chất thô sơ nhất và sinh lực như bị tê liệt vì bởi tỷ trọng của vật chất bao phủ nó.

Kế tiếp, quý huynh phải nhớ rằng mỗi cảnh giới ấy có những dân cư riêng biệt, và triều lưu tiến hóa là một

sự lan tỏa từ trung tâm ra mí vành tròn, rồi lại từ mí vành tròn trở về trung tâm.

Khi Khí Hư Vô của Thái Cực tuôn ra và khi vật chất tự biểu lộ thì vật chất nầy càng ngày càng dầy đặc và có một thời kỳ nó tiến đến mức dầy đặc tối đa, còn tinh thần thì ở mức thấp nhất. Lúc đó, hình hài cứng rắn hơn bao giờ hết. Lúc đó, hình hài cứng rắn hơn bao giờ hết, và đời sống ở vào thời kỳ bị bao phủ nhất. Kế tiếp, khi Khí Hư vô của Thái cực tự rút lui, khi sự hoạt động sáng tạo của nó trở lại về phía trung tâm, thì vật chất trở nên càng ngày càng tế nhị, đời sống càng ngày càng bớt bị bao phủ cho đến khi Khí Hư Vô của Thái Cực đã rút lấy ở nơi vũ trụ hữu hình nầy tất cả những kinh nghiệm đã thâu được tại những thế giới khác nhau.

Nhân loại tức là mục tiêu và kết quả của sự tiến hóa nầy, sẽ trở thành thiêng liêng và sẵn sàng tiến đến những giai đoạn còn cao hơn nữa.

Nếu chúng ta theo cái đường cong lớn đi từ trung tâm cho đến mí tròn, chúng ta nhận thấy rằng khi dân cư đi qua một nơi có vật chất dầy đặc thì đường cong nầy có khuynh hướng làm cho chúng nó trở thành những cá nhân biệt lập. Như vậy, nếu ta ngoảnh về phía sau mà nhìn những dân cư của những cảnh giới khác nhau, chúng ta thấy thứ mà người ta gọi là tính chất mang những hình hài càng ngày càng rõ rệt. Nó tiến hóa theo con đường đi xuống, như vậy nó càng ngày càng riêng biệt, và hình hài nó càng ngày càng dầy đặc. Đó là một sự đi sâu vào vật chất; còn như sự tiến hóa hiện thời của nhân loại đang đi trở lên, thế nên sự tiến hóa ấy làm cho nhân loại hợp nhất và cung cấp cho nhân loại những hình hài tế nhị hơn bởi vì đó là một sự đi trở lên về phía đời sống không bị che lấp.

Như thế quý huynh có thể bị hình dung một hình ảnh đại cương của toàn thể Vũ trụ và quý huynh có thể nhận thấy ở những cảnh giới không dầy đặc như cảnh Hồng trần, chúng ta không những chỉ có một nhân loại đi trở lên, đang tiến hóa, mà còn có loại tính chất đi trở xuống, đang tiến mà còn có loại tính chất đi trở xuống, đang tiến sâu vào vật chất. Cái điểm chuyển hướng là ở tại loại kim thạch, đó là thời kỳ dầy đặc nhất. Trong sự tiến hóa đi lên, loài kim thạch và loài thảo mộc của cõi trần nầy chiếm cảnh giới Hồng trần và không tiến tới một trạng thái lương tri cao cả; theo cơ tiến hóa thì loài thú vật tiến lên một mức, và con thú sẽ được sống trong cảnh Trung giới

năm cảnh giới trong bảy cảnh của Vũ trụ.

Y phải hành động và điều khiển ở cõi Hồng trần, cõi Trung giới và cõi Thượng giới, nó là cõi “Svarga” của người Ấn Độ hay cảnh “Devakhan” (Thiên Đường) của người Thông Thiên Học. Chúng tôi có thể dùng một danh từ khác nó diễn tả đúng nhất cái trạng thái lương thức ấy, đó là danh từ “Soushouti” một trạng thái hiện nay tại cõi trần chỉ có những ai tiến hóa một cách đặc biệt mới biết được mà thôi. Lần lần theo đà tiến hóa thì

đa số nhân loại

sẽ kinh nghiệm được trạng thái nầy. Ở trên cao nữa là cảnh giới thứ tư hay cảnh giới : “

Turiya”, cảnh Bồ Đề,

và cao hơn nữa là cảnh giớí

Niết Bàn

hay

“Turiya Tita”.

Như thế chúng ta có

năm cảnh giới riêng biệt

của Vũ Trụ

mà nhân loại phải cư ngụ trong triều lưu tiến hóa nầy-

cảnh Hồng trần, cảnh Trung giới, cảnh Thượng giới, cảnh Bồ đề

cảnh Niết Bàn.

Đó là những giai đoạn phát triển của trạng thái của lương thức mà con người phải trải qua nếu y muốn hoàn tất cuộc lữ hành đã vạch sẵn cho y. Mỗi cá nhân có thể vượt những cấp bực nầy một cách

nhanh chóng hơn bằng phép tu Dô ga,

nhưng đa số nhân loại chỉ hoàn thành sự tiến hóa nầy qua nhiều thế kỷ.

Trước khi Đại kiếp kết liễu, đa số nhân loại, chớ không phải tất cả nhân loại,

đã làm chủ được tất cả những cảnh giới phát triển

của trạng thái của lương thức và sẽ hoàn toàn hoạt động ở cả Năm cảnh giới;

như thế con người tự tạo cho mình những vận cụ trong đó trạng thái lương thức của y có thể hoạt động ở mỗi cảnh giới. Và nếu chúng ta lấy con người hiện thời làm tỉ dụ, chúng ta biết rằng

y có nơi bản thân cái khả năng phát triển đời sống gần năm trạng thái ấy, phát triển năm thể, năm vận cụ, chúng ta sẽ ở những cảnh giới khác nhau và chúng ta sẽ làm cho y trở thành vị Chúa tể và Chủ nhân của Vũ trụ hữu hình nầy, đó là mục tiêu mà y phải đi đến.

Ở trên cao và còn xa hơn nữa, còn có

hai cảnh giới

mà đa số nhân loại sẽ không sao tiến đến trong triều lưu tiến hóa nầy- hai cảnh giới mang những danh từ không sao khêu gợi được một ý kiến rõ rệt nào trong trí óc chúng ta vì những cảnh giới ấy quá cao, vượt mức những quan niệm cao siêu nhất của chúng ta. Những cảnh giới ấy, thoạt đầu là cảnh

Đại Niết Bàn,

rồi cao hơn nữa là cảnh

Tối Đại Niết Bàn.

Những trạng thái ấy là gì? Chúng ta dù có tưởng tưởng tượng đến cũng không nổi.

Đó là

bảy giai đoạn của Vũ trụ.

Đa số nhân loại phải chiếm hữu và cư ngụ tại

năm

cảnh trong

bảy

cảnh giới đó, và một vài con cháu của nhân loại sẽ tiến đến cả hai cảnh giới cuối cùng cao siêu hơn nữa, nhưng đối với đa số loài người,

sự tiến hóa được hạn định ở Vũ trụ có năm cảnh giới đó thôi.

Điều đó có thể cho quý huynh một ý kiến- tôi không có thì giờ nói dài về vấn đề trong bài thuyết trình nầy- về những con số

năm

và con số

bảy

trong Vũ trụ. Đã có nhiều sự tranh luận về đế tài nầy, nhất là giữa một vài người Thông Thiên Học và các huynh đệ Bà La môn của chúng ta. Những vị Bà La môn đòi hỏi sự sắp loại theo số

năm,

còn những người Thông Thiên Học nhấn mạnh về sự sắp thứ loại theo số

bảy.

Sự thật là cách xếp thứ loại tổng cộng thì theo số

bảy,

như quý huynh sẽ nhận thấy khi đọc những Thánh Kinh “Upanishads” thường có lời nói bóng gió về ngọn lửa bảy thể tự phân chia. Những sự tiến hóa hiện thời chỉ là một bản thể có năm lớp

do năm chất

Prana (

sinh khí) tượng trưng rất quen thuộc với chúng ta trong kinh sách Ấn Độ. Tôi chỉ nói sơ qua về điều nầy, vì những cuộc thảo luận như vầy sẽ không còn, nếu mọi người thông cảm với nhau hơn. Nếu họ đi đến trung tâm của sự vật chớ đừng bàn cãi về những vẻ bề ngoài, thì họ thường tìm thấy một nơi để liên kết. Như tôi đã nói với quý huynh, tôi không có thời giờ ngừng lại ở vấn đề nầy, nhưng đó là cái chìa khóa mở sự bí ẩn về con số năm và con số bảy. Thường thường nhân loại phát triển năm thể ứng đối với sự tiến hóa năm mặt, còn những ai là tinh hoa của nhân loại sẽ đạt đến hai giai đoạn khác cao xa hơn nữa.

Khi học về sự tiến hóa của nhân loại, chúng ta thấy giống dân Chánh Thứ Nhất và Thứ Nhì để cho hình hài và bản chất thấp thỏi hay là thú tính, tiến hóa. Nghĩa là những giống dân ấy đã phát triển

xác thân, cái phách (Linga Sharira), cái vía

hay là bản chất dục vọng mà các bạn thấy ở thú vật cũng như ở con người. Khi đi đến giống Dân Chánh Thứ Ba, chúng ta nhận thấy rằng giống dân ấy được giúp đỡ một cách đặc biệt, lúc nó đến quãng giữa của sự tiến hóa của nó. Như thế không có nghĩa là nhân loại sẽ không phát triển theo giòng những thế kỷ nếu không có sự giúp đỡ ấy mà cái mức tiến của nhân loại đã được thúc đẩy rất nhiều và sự tiến hóa đã được thực hiện nhanh chóng nhiều hơn là nếu không có sự giúp đỡ ấy. Những Vị Đại Thiên Tôn gọi là “Koumâras” (1)

[xx]

cao cả, những vị mà người ta gọi là các Đấng Mânasapoutras(2)

[xxi]

, dòng dõi của Tư tưởng(3)

[xxii]

, tinh hoa của một triều lưu tiến hóa đã qua, đã đến giúp đỡ cho nhân loại trưởng thành và khi ban phát ra một tia sáng của chính bản thể của các Ngài, các Ngài đã thúc đẩy nhân loại như đã nói trên; do đó Manas cái linh hồn cá nhân, đã phát sinh nơi con người.

Cái kết quả đầu tiên do sự giúp đỡ đặc biệt ấy, như tôi vừa nói, là khiến cho sự tiến hóa của nhân loại được nhanh chóng hơn lên gấp bội. Chính ở lúc đó mà cái thể được chỉ định bằng danh từ “

KâranaSharrira” hay là Thượng Trí (corpscausal)

được thành hình. Đó là cái thể của Manas (của linh hồn cá nhân) nó tồn tại suốt đời sống của Chơn nhân truyền kiếp(1)

[xxiii]

. Nó tồn tại từ kiếp nầy sang kiếp khác, mang đến mỗi kiếp sống cái kết quả của kiếp vừa qua. Vì thế, người ta mới gọi nó là “

corps causal”

nghĩa là cái thể chứa đựng những nguyên nhân (causes) phát sinh những hiệu quả ở những cảnh giới thấp của đời sống Hồng trần.

Bắt đầu từ lúc nầy, con đường phát triển của con người là như sau đây: Cái

Thượng trí (corps causal)

đã được tạo thành là một thể, một vận cụ trong đó tất cả mọi sự có thể để dành và chất chứa; nó là một cái bình chứa, một cái kho đựng những kinh nghiệm đã thực hiện được. Khi đầu thai xuống trần như trước kia tôi đã giảng với quý huynh, con người ném xuống cõi ấy một cái bóng của chính mình và dùng đời sống Hồng trần để thu thập kinh nghiệm, bằng cách gặt hái ở thế gian vài sự việc, vài kiến thức, nói tóm lại, tất cả những gì mà người ta thường gọi là kinh nghiệm của đời sống. Khi y bước qua ngưỡng cửa tử, con người phải thông hiểu cái kinh nghiệm đã thâu nhặt được, và y sống ngoài xác thân một cuộc đời vô hình đối với thế gian nầy, y sống trên những cõi Trung giới và Thượng giới, ngoài cõi Hồng trần. Nơi đó y phát sinh một vài hiệu quả và nghiền ngẫm kinh nghiệm đã thu hoạch được ở cõi trần, thấm nhuần và đồng hóa nó với chính bản chất y. Mỗi kiếp sống cho y một vài kết quả, y chiếm hữu lấy chúng và biến chúng thành những năng khiếu, những quyền lực. Tỉ dụ nếu một người trong đời sống Hồng trần đã dùng nhiều nghị lực để suy nghĩ, nếu y đã cố gắng để hiểu biết, để thâu thập kiến thức, để phát triển cái trí, thì trong thời gian ở

giữa lúc chết và lúc tái sinh, y sẽ biến đổi những sự cố gắng ấy thành những năng khiếu trí thức mà y sẽ mang theo khi trở lại đầu thai ở Hồng trần.

Cũng theo cách ấy, những ước vọng cao thượng của y, những hy vọng và ý muốn tinh thần của y sẽ được hợp nhất với cái tính chất của bản thể y, trong khoảng thời gian từ lúc y chết cho đến lúc tái sinh. Khi y trở lại cõi Hồng trần nầy, y sẽ đầu thai vào một nơi có tính cách giúp cho y tiến tới một cách dễ dàng, và y sẽ mang theo mình những năng khiếu tinh thần mà y đã phát triển, mà y có thể sử dụng để thúc đẩy xa hơn nữa sự phát triển của y trong kiếp sống mới nầy tại thế gian.

Quý huynh nhìn thấy những giai đoạn tiến hóa nối tiếp nhau một cách đều đặn hoàn toàn như thế nào, trong thể

Thượng trí

nó tồn tại từ kiếp nầy sang kiếp khác. Thể

Kârana Sharira (corps causal)

ném một cái bóng của chính mình xuống những cảnh thấp và gặt hái kinh nghiệm nơi đó; kế tiếp y thâu cái bóng ấy về cùng với kinh nghiệm của y, y để cái bóng đó một thời gian nơi

Thượng giới (Thiên Đàng)

để nó nghiền ngẫm sự kinh nghiệm ấy, và biến đổi kinh nghiệm thành năng khiếu, quyền lực, khả năng, rồi y thâu hút trọn vẹn cái bóng đó vào nơi y, như vào một thể dùng để chứa đựng trạng thái của lương thức. Rồi sự sống nay đã được phát triển hơn lại ném cái bóng của mình xuống những cảnh giới thấp để biểu lộ những quyền lực để hoạch đắc được theo cách đó. Như thế, sự tiến hóa tiếp diễn từ kiếp nầy sang kiếp khác, một cách đều đặn và liên tiếp, và thể

Kârana Sharira (Thượng trí)

là bình chứa tất cả những kinh nghiệm hoạch đắc; thể đó chính là con người trường tồn thu hút mọi kinh nghiệm.

Khi quý huynh đã nhận thức được điều nầy, quý huynh sẽ hiểu cái sự mà người ta gọi là “

Cuộc hành hương của linh hồn”.

Cứ mỗi kiếp sống mới, con người phải trở thành cao cả hơn do cái trí của y, cao cả hơn do những năng khiếu đạo đức của y, cao cả hơn do những khả năng tinh thần của y. Đó là chương trình tiến hóa. Chương trình nầy đã được thực hiện một cách không được hoàn toàn, và đó là nguyên do của sự dài đăng đẳng của cuộc Hành Hương. Chương trình được thức hiện với những khúc quanh co lộn rồng lộn rắn, với những sự đi lạc ra ngoài, những sự đào tẩu trên những con đường xuyên ngang, thay vì thẳng tiến lên phía trước. Đó, tại sao cuộc hành trình của nhân loại lại dài như thế ấy, tại sao muốn hoàn thành sự tiến hóa lại cần đến hàng triệu ức thế kỷ. Tuy nhiên, sự tiến hóa nầy sẽ được hoàn tất vì đó là Thiên ý đối với con người, và Thiên ý không sao có thể thất bại, mặc dầu sự hoàn tất có thể chậm trễ đến đâu.

Sự tiến hóa đã cứ tiếp diễn trong những giống dân phụ thứ năm, thứ sáu và thứ bảy của giống Dân Chánh Thứ Ba và đã tiến đến giống Thứ Tư, nền văn minh cường thịnh của châu “Atlantide” được phát triển đến mức chót, đến tuyệt đỉnh của nó vào thời kỳ của giống dân phụ cao cả mà chính khoa học Tây phương đã nói một vài lời với quý huynh, giống dân “Toltèques”. Đó là một nền văn minh kỳ diệu do những kết quả đạt được, nhưng nó đã trưởng thành giữa những khó khăn lớn lao. Trên con đường vòng cung đi trở lên, con người hãy còn ở mức rất thấp và bị chìm đắm sâu vào vật chất. Những năng khiếu tinh thần của y rất giống cái điều mà chúng ta gọi là những năng khiếu thần thông, và cần phải che phủ chúng trong một thời gian, để cho những năng khiếu trí thức có thể tiến hóa và để cho sự tiến hóa cao cả của nhân loại có thể thực hiện được trong tương lai. Vì thế nên cái Đại luật của Vũ trụ, mà không có sức nào ngăn cản nổi, thúc đẩy giống dân vào một nền văn minh vĩ đại, nhưng rất vật chất. Những năng khiếu thần thông nầy lại mau mau biến đi một phần nào, do sự hành động hữu ý của những giai cấp lãnh đạo của đế quốc “Toltèque” ở châu “Atlantide”. Một cách cố ý và để thực hiện dễ dàng những dự định ích kỷ của họ, những giai cấp ấy cố gắng làm giảm bớt những năng khiếu thần thông và ngăn cản chúng phát triển ở những giai cấp thấp thỏi trong dân gian, những giai cấp thấp kém về phương diện tiến hóa, và do thấp kém trong nấc thang xã hội. Để biến đổi họ thành những dụng cụ thích hợp nhất để phục vụ cho những ý định riêng tư của mình, những giai cấp quý phái dùng những phép thần thông của những giai cấp dưới. Trong những trường hợp đó, sự phát triển các năng khiếu ấy bị con người làm ngưng lại nhiều hơn là việc của Đại Luật Vũ Trụ mong muốn, và điều đó khiến tôi chỉ cho quý huynh thấy một chuyện rồi quý huynh mặc tình suy ngẫm. Đó là không một người nào có thể đi ngược triều lưu vĩ đại của Định Luật Vũ Trụ, không một người nào có thể ngăn cản cái đà tiến hóa dũng mãnh của Cơ Trời nhưng con người, tuy nhiên, được tự do cộng tác với Thiên Cơ hay ngăn cản nó. Y được tự do làm những điều thiện cũng như làm những điều ác; nhận biết được sự khôn ngoan và cái vẻ vĩ đại của công nghiệp, y có thể hợp tác vào đó do bổn phận và quy phục Thiên ý; nhưng y cũng có thể chiếm lấy một vài sức mạnh của Thiên nhiên để làm lợi ích riêng tư cho mình, và dùng nó để làm thỏa mãn sự ích kỷ cá nhân và ảo mộng của mình, thay vì giúp đỡ sự thực hiện Thiên ý.

Khi một người dùng những sức mạnh vĩ đại của Vũ trụ với một mục đích ích kỷ, y tự tạo cho mình một nghiệp quả cá nhân xấu xa

, tuy rằng đại cương của nghiệp quả của giống dân không bị thay đổi.

Như vậy, một người có thể làm hại tương lai của mình mà vẫn ở trong triều lưu của Định Luật Vũ Trụ. Y có thể sửa soạn cho mình chịu những sự đau khổ trong cái vòng tròn hẹp hòi của sự phát triển cá nhân riêng biệt của y, vì nếu y sử dụng một cách ích kỷ Định Luật Vũ Trụ, thì y cũng sẽ gặt hái những kết quả ích kỷ.

Theo cách đó, dưới sự ngự trị của Định Luật vĩ đại và duy nhất, y tự sửa soạn cho mình lãnh những nghiệp quả cá nhân sung sướng hay đau khổ. Cái điều mà tôi nói với các huynh đây, tôi xin quý huynh hãy chú ý đến nó một cách nghiêm trọng nhất, vì nó có thể giúp quý huynh giải quyết một vài vấn đề mà con người thường tự đặt ra để hỏi mình;

điều nầy sẽ làm cho quý huynh hiểu bằng cách nào Luật Nhân quả có thể là một Định Luật Thiêng Liêng thúc đẩy con người tiến tới, có thể giống như một định mệnh đã ấn định cho y, trong khi y biết rằng ý chí của mình tương đối được tự do; điều nầy sẽ giảng cho quý huynh biết rằng bằng cách nào con người có thể lựa chọn con đường mình đi, nhưng không thoát khỏi sự thúc đẩy vĩ đại ấy.

Như tôi đã nói, trong cái nền văn minh quá khứ đó, con người đã dùng cái Định Luật vĩ đại của Vũ Trụ để thỏa mãn những tham vọng ích kỷ của mình, và kết quả là châu “Atlantide” bị phá hủy, nền văn minh nầy hoàn toàn tiêu diệt, trừ một vài mảnh còn sót lại rải rác khắp hoàn cầu, và nhất là ở Nam Mỹ, trong nền văn minh của xứ Pérou, nơi đó môt vài dấu vết của sự huy hoàng đã bị xóa mờ nay lại tìm thấy. Những mảnh còn sót lại ấy đẹp đẽ đến nỗi tuy chúng đã bị trụy lạc mà khi người Y Pha Nho phương Tây chiếm cứ xứ Pérou, họ đã ngạc nhiên về hạnh phúc ngự trị trên xứ xở, về sự dịu dàng, tính dễ thương và sự tinh khiết của những cá nhân, về sự khôn ngoan của chính phủ và về sự thịnh vượng của toàn quốc. Cái nền văn minh mà người Y Pha Nho bóp chết, và những đạo binh xâm chiếm của họ dày xéo dưới chân, chỉ là cái ánh sáng cuối cùng và chập chờn của nền văn minh mà tôi đã đề cập, cái nền văn minh vĩ đại như thế, khi đến mức cao tột của nó rồi, nó bị sụp đổ tan tành và bị thiên tai quét sạch; sau khi đó, những dòng nước của Đại Tây Dương đang cuồn cuộn chảy ở cái nơi mà trước đây có những dãy đất phì nhiêu.

Lướt nhanh trên vấn đề nầy, chúng ta đi đến sự tiến hóa của chính

giống dân của chúng ta, giống thứ Năm. Muốn theo đúng sự tiến hóa còn lại nầy, quý huynh phải nhớ rằng Đức Thượng Đế của Thái Dương Hệ chúng ta tự biểu lộ dưới ba trạng thái khác nhau. Quý huynh biết rằng trong các tôn giáo lớn, Ba Ngôi là sự biểu lộ của Thượng Đế Hữu Hình, và quý huynh cũng biết rằng, hay ít nhất, những người ưa suy nghĩ và triết lý nhất trong quý huynh đều biết rằng Ba Ngôi chỉ là

biểu lộ ba mặt của Đấng Duy Nhất, ba khía cạnh của Đời Sống Duy Nhất vô hình,

mà chúng ta chỉ có thể biết được khi nó hiện ra trong Vũ Trụ. Quý huynh cũng biết rằng trong Ba ngôi của Thượng Đế, người ta trông thấy cái trạng thái

Uy quyền,

cái trạng thái

Minh triết và cái trạng thái Bác Ái. Tất cả các hoạt động của nhân loại đều mang dấu vết của Ba Ngôi của Thượng Đế; tất cà các hoạt động của nhân loại có thể xếp vào một trong ba trạng thái của Ngài, những hoạt động nầy mang cái vẻ của uy quyền, của minh triết hay của bác ái do đó tất cả những giống dân được xếp loại cũng như tất cả các ngành hoạt động của các quốc gia và của các cá nhân. Tôi chọn sự xếp loại nầy, vì khi nói về một vấn đề phức tạp như vấn đề nầy, hình như nó cho ta một trò chơi gồm có những hộp nhỏ trong đó chúng ta có thể để dành những phần khác nhau của đề tài buổi diễn thuyết, để quý huynh có thể thong thả nghĩ đến và xem xét. Quý huynh chớ quên rằng tuy Ba Ngôi, nhưng mà chỉ là Một. Ba Ngôi hỗn hợp lẫn nhau và sự phân chia nầy chỉ liên quan đến vẻ hữu hình chớ không liên quan đến bản chất

. Nhưng vì chúng ta sống trong thế giới hữu hình và sự phân biệt cũng hướng về phương diện hữu hình, nên chúng ta có thể dùng sự phân biệt đó, nó sẽ không làm cho chúng ta sai lầm, nếu chúng ta nhận định được sự duy nhất căn bản, nguồn cội của mọi sự.

Trạng thái bác ái.-

Thí dụ nếu chúng ta xem xét cách xếp loại nầy dưới ba khía cạnh của nó, và nếu chúng ta còn phân chia nó ra hơn nữa, chúng ta sẽ xếp trong loại bác ái tất cả những hoạt động của thể Trí liên quan một phía về Tôn giáo, một phía về lòng thương nhân loại, hai danh từ nầy được hiểu theo cái nghĩa rộng nhất của nó; Tôn giáo có ngĩa là bổn phận đối với những vị bề trên của ta và tình thương nhân loại có nghĩa là bổn phận đối với những người xung quanh ta và với những người thấp hơn ta. Như vậy, trong cái khía cạnh của bác ái,chúng ta hiểu tất cả những sự hoạt động của loài người được diễn tả bằng một sự tôn kính với các vị tiền bối trên con đường tiến hóa, và bởi một sự giúp đỡ, một sự hộ trì những ai ngang vai chúng ta hay thấp kém hơn chúng ta, sự hộ trì nầy còn kèm thêm một cảm tình thương xót. Nếu chúng ta phân biệt các vị Thiêng Liêng với con người, thì Tôn Giáo có liên quan đến những bổn phận trực tiếp với các Đấng Thiêng Liêng- và trong chốc lát quý huynh sẽ rõ như thế nghĩa là gì- còn lòng thương nhân loại liên quan đến những bổn phận trực tiếp đối với con người, trước nhất ở cõi Hồng trần, đối với những người mà chúng ta trông thấy xung quanh ta.

Trạng thái Minh triết.-

Dưới đề mục Minh Triết bao gồm tất cả các hoạt động cái trí của con người, cả hai hạ trí và thượng trí,

mà điều này chúng ta có thể phân chia nhỏ nữa thành ra khoa học, triết học và nghệ thuật. Ở điểm này chúng ta có ba lãnh vực rộng lớn của hoạt động cái trí nằm trong đề mục minh triết; không phải kiến thức tự nó là minh triết, mà những chất liệu trong kiến thức đó, qua một sự luyện kim tinh thần, minh triết mới được mở ra, nhờ có sự chuyển hoá tinh thần của kiến thức mà nó trở thành minh triết; vì vậy chúng ta có thể đặt tất cả hoạt động của kiến thức nằm hoàn toàn trong đề mục minh triết.

Trạng thái uy quyền.-

Kế tiếp, chúng ta sắp đặt trong các loại của quyền lực tất cả những hoạt động của nhân loại liên quan đến sự cai trị loài người, đến sự thi hành những nhiệm vụ hành chính và hành pháp, đến hiến pháp của các quốc gia, đến sự thành lập những thị xã, nói tóm lại, đến tất cả những gì cần đền sự dùng uy quyến. Cũng trong loại đó gồm có những năng khiếu sáng tạo mà con người sẵn có vì bẩm sinh là dòng dõi thiêng liêng, dụng đến một cách

có ý thức,

chúng là những nguyên nhân mạnh mẽ của sự tiến hóa của nhân loại và là một sức mạnh lớn lao thúc đẩy con người tiến lên. Tất cả những hoạt động của các Chơn Sư Thiêng Liêng, trong dĩ vãng cũng như trong hiện tại, đều hướng về việc cung cấp cho những trường hoạt động rộng lớn ấy một nền văn hóa sáng suốt tốt đẹp cho nhân loại để con người có thể cầy sâu những trường hoạt động ấy và do đó mà tiến hóa. Tất cả những sự cố gắng của các Ngài có mục đích là: cho những hoạt động ấy một phương hướng chơn chánh, dù đó là những hoạt động của lòng bác ái,

của đức minh triết hay của uy quyền, để thúc đẩy chúng trên con đường trực tiếp của sự tiến hóa toàn thể của nhân loại. Vì lẽ đó mà tất cả những tôn giáo lớn được thành lập, vì lẽ đó mà những bộ luật luân lý cao thượng được tuyên dạy; đó là nguyên nhân của bao nhiêu sự thúc đẩy nấy đã cho con người một sự trình bày mới mẻ và hoàn toàn về tất cả những chơn lý cổ kính dưới danh từ Minh Triết Thiêng Liêng, danh từ nầy ngày nay rất quen thuộc đối với

quý huynh dưới cái hình thức Hy lạp của nó gọi là Thông Thiên Học.

Đó chỉ là chơn lý cổ kính được trình bày lại một cách mới mẻ, một sự cố gắng mới của những vị Chơn Sư ấy để hướng dẫn những hoạt động đó của đời sống nhân loại.

Vì hiện giờ điều ấy cần thiết hơn bao giờ hết, vì nếu quý huynh nhìn qua toàn thể thế giới, quý huynh sẽ nhận thấy rằng trong mọi ngành hoạt động của nhân loại, con người như đã tiến đến cái giới hạn của năng lực y. Y đã chiếm được cảnh giới Hồng trần, y đã làm chủ được nó đến nỗi cái khía cạnh vật chất thu hút quá nhiều sự chú ý và những sự săn sóc của y, trong khi mà những sự thật của những cảnh giới cao siêu bị che khuất nên mắt y không thấy. Nếu chúng ta xem xét những hoạt động của đời, chúng ta thấy

Tôn giáo một mặt thì bị chủ nghĩa duy vật công kích và một mặt thì bị sự mê tín dị đoan làm cho suy vi; như vậy nhân loại đưa về phía Tôn giáo hai lưỡi gươm đe dọa sự sống còn của nó, tức là tính hoài nghi không tin cẩn chi hết và sự mê tín dị đoan, tin tưởng một cách sai lầm. Cả hai đều gây tai hại cho sự tiến hóa của nhân loại trong cái phạm vi hoạt động đặc biệt nầy. Nếu rời bỏ Tôn giáo, chúng ta quay về phía tình thương nhân loại của xã hội hiện kim, chúng ta thấy một sự nghèo khổ quá lớn lao và sâu xa làm cho con người phải chiến đấu với nó. Ở nơi nào mà văn minh hiện đại thành công nhiều nhất, quý huynh sẽ gặp phải một sự tích trữ lớn lao nhất những nỗi đau khổ và một sự nghèo nàn ghê gớm nhất, nó có thể đè bẹp đời sống con người. Khi quý huynh nghiên cứu những nỗi đau khổ nầy, không những quý huynh nhận thấy rằng mọi tình thương nhân loại đều bất lực trước chúng, mà chúng còn phát sinh ra sự oán hận, thù ghét giữa những giai cấp khác nhau, chúng phát sinh ra những mối hăm dọa làm cách mạng và vô chính phủ. Nền văn minh vì thế mà bị đe dọa ngay ở căn bản của nó, và loài người không cón biết chống giữ cách nào với sự nguy hiểm, vì họ đã mất cái quan niệm về tình bác ái rồi.

Nếu từ tình bác ái, quý huynh đi sang sự minh triết, quý huynh sẽ thấy rằng cái trường hoạt động rông rãi của nó đâu đâu cũng dẫy đầy những nỗi khó khăn. Khoa học hình như đã xài cho đến khô cạn những tài nguyên vật chất của nó. Những khí cụ của khoa học đã tế nhị, tinh vi một cách kỳ diệu, đến nỗi ở phương diện nầy dường như không còn có thể thực hiện một sự tiến bộ nào nữa; những cái cân của khoa học đã cân đúng một cách đáng khen đến nỗi chúng có thể cân một phần tử hết sức nhỏ nhặt của một hạt, và tuy vậy, khoa học đã tuyên bố rằng có những chất không sao cân được, dù đối với những cái cân tinh vi nhất. Với những phương pháp hiện tại, khoa học như gần hết tài nguyên và nó tự cảm thấy- mặc dầu nó không muốn- như nó bị những mãnh lực tinh vi và huyền diệu hơn những mãnh lực mà nó đã quen nhìn nhận đương chi phối nó. Nếu chúng ta nhìn vào phòng thí nghiệm của một nhà hóa học, hay trong phòng làm việc của một nhà khoa học thì thấy được bằng cách cân hay đo lường. Những mãnh lực nầy làm họ bối rối vì chúng nó quả có thật, mà cùng trong một lúc, chúng nó chống đối với những phương pháp khoa học của họ với tất cả những gì mà họ tưởng đã biết được về Thiên Nhiên. Trong phạm vi triết học, quý huynh có thấy sự chống chọi giữa thuyết duy vật, và thuyết lý tưởng.

Thuyết duy vật còn khuyết điểm và điều nầy đã được chứng minh, nó chưa có thể đứng vững chắc trên một nền tảng nhất định để không ai chỉ trích được.

Trong phạm vi nghệ thuật, quý huynh cũng chỉ thấy sự bất lực và sự khô khan; nghệ thuật không còn tạo tác được cái gì cao cả và tân kỳ, mà chỉ cứ bắt chước người xưa một cách vụng về. Bởi vì bất lực và khô khan, cho nên nó đã mất cái động lực sáng tác.

Bây giờ chúng ta hãy xem xét sự hoạt động dưới trạng thái uy quyền tức là trạng thái thứ ba trong những trạng thái cao cả mà tôi đã chỉ dẫn cho quý huynh. Trong thế giới hiện hữu, chúng ta trông thấy gì? Hết quốc gia này đến quốc gia khác đang cố gắng thử nghiệm (những thể chế, chính sách),

rốt cuộc họ đã đánh mất đi những vị vua thiêng liêng thưở xưa mà các Ngài có thể cai trị họ và dẫn họ trên con đường thịnh vượng và hạnh phúc. Họ tìm cách đền bù sự mất những vị Vua Thiêng liêng ấy bằng cách tự cho mình một ông vua có nhiều đầu mà người ta gọi là Dân chúng; thay vì nền quân chủ thiêng liêng của những Vị được Điểm Đạo cao cấp, họ, đưa ra chánh thể tự trị và những phương pháp dân chủ- họ làm như chỉ cần lấy sự vô minh nhân với một con số khá to để có được một kết quả là sự thông thái vậy. Còn về những năng khiếu sáng tác, người ta không còn nhớ đến chúng nữa, và con người đã quên mất

cái phần gia tài thiêng liêng của mình

đến nỗi ai mà còn nói về điều đó thì

sẽ trở thành lố bịch.

Tất cả những sự thể nầy chứng tỏ cái gì? Sự thể nầy chứng tỏ với ta rằng toàn thể nhân loại sẽ lại tiến lên một bước mới nữa. Nó chứng tỏ rằng chúng ta đã đi tới một trong những giai đoạn chuyển tiếp, giao thời, nơi đó những cách thức phát triển và nảy nở cũ, đã cổ kính, phải nhường chỗ cho những cách thức mới. Ở giữa sự bối rối và xáo trộn, ở giữa sự nguy ngập và phân vân, những mầm mống của sự tiến bộ sắp đến đang trưởng thành trong lòng nhân loại; nó sẽ trả lại cho ta ba loại hoạt động vừa nói trên cái thế lực cũ của chúng, thế lực nầy được tăng thêm bởi một sự phát triển mới mẻ và cái tính cách rõ rệt của chúng thuở xưa. Thật vậy, sự tiến hóa không đi thối lùi, nhưng nó hồi sinh những sự tiến bộ đã qua và những phương pháp cũ, bằng cách tiến theo một đường khu ốc đi lên, trên mỗi vòng của đường xoáy nầy người ta lại tìm thấy, dưới một hình thức cao hơn, cái gì tốt đẹp nhất ở vòng trước. Ngày nay nhân loại tiến hóa trên đường khu ốc đó, để có thể thực hiện được, với những quyền lực mới mẻ và những năng khiếu rộng rãi hơn, cái gì mà dĩ vãng đã phô bày cho chúng ta thấy dưới những hình thức khác nhau.

Chúng ta hãy xét về tình yêu thương. Khi mà nhân loại sẽ tiến thêm một bước mới nữa- và chúng ta đã thấy ở nơi nầy, nơi kia những dấu hiệu báo trước rằng nhân loại đang tự chuẩn bị để bước tới; bởi chưng nhân loại đã hoàn thành cái

xác thân

mình, cho nên mục đích của những sự cố gắng của loài người sẽ là hoàn tất cái thể thứ nhì, nghĩa là

cái thể vía.

Nó sẽ giúp y thức tỉnh và hoạt động tự do ở cõi Trung Giới. Trong hàng ngàn năm nữa, nhân loại sẽ phát

triển cái thể thứ nhì ấy và đa số loài người sẽ có thể dùng nó để làm việc ở cõi Trung giới, một cách cũng thong thả và dễ dàng như con người đang hoạt động ngày nay ở cõi Hồng trần bằng cách dùng xác thân mình làm vận cụ vậy. Vì tất cả mọi người không bình đẳng như người khờ dại hiện kim thường tin. Thế nên không phải

toàn thể nhân loại

đa số nhân loại

sẽ thực hiện được sự tiến bộ đó trong khi tiến hóa. Họ sẽ phát triển thể

Vía

của mình và sẽ xử dụng nó hoàn toàn; như vậy sự tiến tới của loài người không bao giờ ngừng.

Cái tiến bước ấy sinh ra sự thay đổi nào? Về Tôn giáo với cái nhãn trường được mở rộng, nhân loại sẽ nhìn thấy cái cảnh giới mà người ta gọi là cõi Trung giới, nơi đó nhiều Đấng Cao cả sẽ tự biểu lộ bằng cách hiện hình, với mục đích giúp đỡ và dạy bảo nhân loại. Con người sẽ học cách nhìn xem và nhận biết những Đấng cao Cả ấy mà tất cả những Tôn Giáo lớn đã tuyên bố là có thật. Con người sẽ biết được các Ngài cũng như hiện nay cũng có thể biết hay tưởng là biết được những xác thân xung quanh y. Y sẽ biết được những nhân vật của cảnh giới đó mà hiện nay cũng có thể trông thấy được.

Như thế đa số loài người sẽ chia với những ai đã tột bực tiến hóa trong thời hiện

đại của chúng ta cái sự hiểu biết trực tiếp mà hiện giờ rất hiếm hoi,

và sự tin vững chắc lấy từ nguồn cội, sự hiểu biết sự tin vững chắc nầy khiến cho con người không còn hoài nghi được nữa. Khi trong cái trạng thái lương thức thường ngày của mình, con người biết được những cảnh giới vô hình ấy cùng những dân cư của nó- họ bao vây quanh ta tứ phía- thì y không còn có thể nghi ngờ về những điều đó cũng như chính quý huynh không thể nghi ngờ đời sống của cha mẹ và con cái quý huynh (Tôi không thảo luận về cái vấn thế giới hữu hình và tôi dùng danh từ với cái nghĩa thường mà ta gán cho chúng trong khi chúng ta giao tiếp với nhau). Khi cái bước đó đã thực hiện được rồi, thì tánh cách của tôn giáo sẽ hoàn toàn thay đổi, và những chơn lý hiện nay được các nhà tiên tri và có thần nhãn thông hiểu và công bố sẽ được tất cả mọi người biết đến, họ có thể kinh nghiệm nó mỗi ngày. Điều nầy sẽ làm cho sự hoài nghi không còn có được nữa, cũng như hiện giờ người ta không sao hoài nghi được một phần lớn những bằng cứ của khoa học. Sự mê tín dị đoan cũng bị diệt trừ như sự hoài nghi. Nhờ sự vô minh, của con người cho nên sự mê tín mới sống trong bóng tối, phát triển và thịnh vượng được, và trở thành một hiểm họa cho các dân tộc, vì có một số người còn giữ được cái truyền thuyết của sự hiểu biết mà không hiểu biết thực sự, nên đã xử dụng cái truyền thuyết nầy để nô lệ hóa đồng bào. Vì vô minh, những đồng bào nầy khiếp sợ cái sự hiểu biết giả mạo kia và cúi đầu trước những kẻ mạo nhận là có những chìa khóa của sự hiểu biết, tuy rằng những chìa khóa đó đã bị sét ăn và không thể quay vặn được trong những ống khóa nữa. Và, chúng ta sẽ thấy, như hiện nay chúng ta đang thấy, rằng sự mê tín dị đoan sẽ không sao còn được, khi mắt của con ngưới đã được mở ra. Quý huynh không biết được những tai hại của sự mê tín dị đoan gây ra ở bên kia cửa tử.

Quý huynh không tưởng tượng được những nỗi đau đớn khổ sở và những kinh nghiệm mà rất nhiều linh hồn phải chịu khi họ lìa bỏ xác thân mà bước sang một thế giới xa lạ đối với họ; ở đấy họ thấy không biết bao nhiêu hình nộm tưởng tượng dọa nạt họ, chính là sự hiểu biết giả mạo hướng dẫn sự mê tín dị đoan mới tạo ra chúng nó. Nhất là ở trường hợp phương Tây nơi đó người ta nói đến một

đại ngục đời đời

và nói rằng sau khi chết đi không có sự mở mang mà cũng không có sự tiến bộ, họ cho rằng kẻ có tội bị quăng vào một hồ lửa đỏ, y phải ở đó trong vô số thế kỷ của thời gian vô tận, không hy vọng được cứu rỗi hay giải thoát. Quý huynh không thể tưởng tượng được những hiệu quả mà những tín ngưỡng đó đã tạo ra cho những linh hồn bước qua cửa tử để đi sang thế giới bên kia. Những linh hồn đáng thương ấy tưởng rằng những chuyện ấy có thật và họ có thể là nạn nhân của những mối khủng khiếp và do những vị lãnh đạo dốt nát của họ đã mô tả và tuyên bố. Những ai giúp đỡ họ bên kia cửa tử phải khó nhọc lắm mới có thể làm cho họ yên lòng dần dần không còn sợ hãi nữa và làm cho họ hiểu rằng ở đâu cũng có định luật, và trong những quyền lực chỉ huy vũ trụ, không hề có sự sâu độc và tàn ác đâu. Như tôi vừa nói với quý huynh, sự hoài nghi và sự

mê tín sẽ không thể còn được nữa; chúng ta sẽ gặp phải những nỗi khó khăn khác, những vấn đề tối trọng

,

nhưng hai kẻ thù sinh đôi của con người, sự hoài nghi và sự mê tín, sẽ bị diệt trừ, chúng không sao có thể tái sinh được nữa, khi ngày đó sẽ tới với nhân loại.

Còn về tình bác ái, tình thương nhân loại cũng sẽ rất tấn tới, vì ở cảnh giới nầy, người ta có thể hành động một cách tốt đẹp hơn nhiều để làm lợi ích cho nhân loại hơn là ở cõi Hồng trần. Những hoạt động ở cõi trần thì rất ầm ỹ, nhưng có những kết quả tương đối ít ỏi. Quý huynh trông thấy một người chạy từ chỗ nầy đến chỗ kia, ban ra những bộ luật, làm việc nầy hay việc nọ ở trong chính giới cũng như trong xã hội, và quý huynh tưởng rằng sự nghiệp của y sẽ lớn lao lắm và sẽ có những kết quả kỳ diệu. Nhưng những kết quả đó nhỏ nhen và thấp thỏi biết bao khi người ta so sánh chúng với cái đại triều ảnh hưởng của cái công nghiệp vô hình thực hiện trong sự bình tĩnh và yên lặng, không cần nói một lời, không phải một sự cố gắng nào của xác thân, của cái công nghiệp thực hiện bằng cái trí, trong cái phẩm chất tế nhị nó ảnh hưởng đến tư tưởng hơn là đến xác thân con người, ảnh hưởng đến cái trí của y hơn là đến những lớp vỏ bề ngoài. Khi nhân loại tiến lên đến cảnh giới cao siêu đó, cái ảnh hưởng nầy sẽ được lan rộng ra nhiều hơn là bây giờ và người ta sẽ bài trừ sự nghèo nàn, tội ác và những nỗi đau khổ bằng cách ảnh hưởng đến cái trí của dân chúng, người ta tinh luyện và thêm sức cho họ để đem họ lên khỏi những cảnh ngộ mà họ đương chìm đắm trong đó.

Tất cả quý huynh đều nhận thấy rằng khi phát sinh ra một tư tưởng ô trược, thù hận, tức giận hay thấp hèn, mỗi người trong chúng ta ném cái tư tưởng ấy ra ngoài thế gian, dưới hình thức của một sức mạnh linh động, một sinh vật lưu động nó cảm nhiễm xã hội và nhập vô trí những kẻ yếu đuối nhất, nhạy cảm nhất, kém tấn hóa nhất. Như thế, chúng ta thấy những tư tưởng của những người đáng kính gieo rắc những mầm mống của tội ác ở giữa những đám đông, và tội lỗi cùng những sự hành động của những đám đông nầy sẽ thuộc về quả báo của những ai đã sinh ra những tư tưởng ác đức ấy

.

Cái chơn lý nầy không được truyền rộng ra như đáng lẽ nó phải được tuyên truyền. Người ta không tin chắc ở nó như đáng lẽ người ta phải tin.

Mỗi người khi có một cảm tình thù hận, liền ném vào cõi Trung giới một sức mạnh phá hoại, và khi nó gặp một người yếu đuối mang một nghiệp quả xấu, bị những hoàn cảnh bất lợi bao vây, bị những sự kích thích chi phối mà y không thể làm chủ được và bị những dục vọng và ngự trị cái trí của y, thì những tư tưởng xấu xa kia nhập vô trí y

:

tất cả những tư tưởng kinh khủng ấy phát sinh bởi những người được hưởng một địa vị đáng kính trong xã hội. Nếu người yếu đuối vừa nói trên bị một sự bất công kích thích, bị một sự sỉ nhục nào làm cho y điên cuồng lên, y sẽ bị thúc đẩy mà phải phạm vào cái tội giết người. Tuy rằng chính cánh tay bằng xương bằng thịt của y cầm con dao, mà người ta có thể chắc chắn theo dõi sự trách nhiệm của vết dao đâm thì biết nguyên nhân của sự giết người là do những tư tưởng của nhiều kẻ có ý muốn trả thù với một bản chất sát nhân xúi dục, mặc dầu họ không có khoác cái vẻ bề ngoài của kẻ sát nhân.

Quý huynh sẽ không thế nào trừ tuyệt được tội ác trong những lớp cặn bã của xã hội nếu quý huynh chưa tinh luyện được những tư tưởng của những giai cấp thượng lưu, của những người có học thức, của những người có thể hiểu bản chất sự vật. Và khi nào tất cả điều nầy được mọi người thấu rõ, khi nào cảnh Trung giới được mở rộng ra trước mắt nhân loại, thì chúng ta sẽ có trong tay một sức mạnh mới mẻ để giúp và nâng đỡ nhân loại.

Thật vậy, con người sẽ không còn hồ nghi sức mạnh của tư tưởng. Y sẽ nhận định được cái trách nhiệm của mình khi phát sinh ra những tư tưởng, và sẽ ban rải ra ngoài những ảnh hưởng bác ái và nâng đỡ, thay vì những ảnh hưởng xấu xa thấp hèn mà ngày nay y thường cho ra.

Y cũng sẽ nhận thấy rằng y có thể giúp đỡ một cách trực tiếp như hiện nay chúng ta được giúp đỡ, từ nơi mấy cảnh cao của cõi Thượng giới,

bởi vì những điều mà những nhà khoa học phát minh ra thường đến với họ từ cái cảnh giới cao siêu ấy, do một ảnh hưởng trực tiếp tới cái Trí của họ.

Khi một nhà khoa học bắt đầu thực hiện một cách nhận xét mới mẻ, khi một người như ông Crookes khám phá ra được căn nguyên của nghững nguyên tử (1)

[xxiv]

–(một trong những lý thuyết đại cương tốt đẹp nhất của khoa học kim thời)- dễ hồ quý huynh tưởng rằng vì bắt đầu đi từ dưới thấp mà ông có thể lên cao đến sự hiểu biết ấy sao? Tôi xin thanh minh rằng những ý kiến như thế là do tự trên cao đi xuống, chớ không phải tự dưới thấp đi lên. Theo cách từ trên đi xuống đó, những vị Chơn Sư ảnh hưởng đến cái trí của những người có một vài khả năng có thể dùng được, và như thế từ cái cảnh giới của tư tưởng, đi xuyên qua cảnh Trung giới, nơi đây tư tưởng là những sinh vật sống và động tác. Thỉnh thoảng các Ngài ảnh hưởng đến một vài người để thúc đẩy sự tiến hóa của thế gian và làm dễ dàng sự phát triển của nhân loại. Nếu ngày nay điều nầy ít khi xảy ra, thì lý do là: khi mà phương diện đạo đức của con người chưa được phát triển, thì con người chẳng nên biết quá rõ ràng về những sức mạnh vô hình ẩn kín sau bức màn che đậy chúng, y sẽ lạm dụng chúng thay vì sử dụng chúng đúng phép, y sẽ dùng chúng một cách bất lương để thỏa mãn những dục vọng ích kỷ của mình thay vì dùng chúng để giúp đỡ và thêm sức mạnh cho đồng loại. Đó là duyên cớ tại sao sự hiểu biết không được ban rải ra một cách rộng rãi hơn. Đó là lý do tại sao khoa học không được giúp đỡ nhiều hơn nữa. Như lời của một trong những Đấng Cao cả đã nói: “

Trước nhất, khoa học phải phụng sự nhân loại thì mới xứng đáng được giúp đỡ một cách rộng rãi của các Đấng Chí Tôn Cai quản tất cả những Vị Phò Trợ và tất cả những Vị Cứu Thế.”

Về mặt khác nữa, người ta sẽ tấn tới nhiều lắm ở cái thời đại mà chúng ta đang nói đây.

Giáo dục.-

Về giáo dục, tôi tỷ dụ rằng khi tiếp xúc với các trẻ em, với những em trai nhỏ, quý huynh không mấy khi chú ý đến những khả năng cao cả mà người ta sẽ khám phá ra nơi các em, nếu mấy vị thầy của các em khá hiểu biết để nuôi dưỡng những căn chất tốt đẹp ấy và làm dập tắt những xu hướng xấu đi. Quý huynh biết rằng xung quanh xác thân của mỗi người có một vòng hào quang mà con mắt quen luyện tập nhận thấy được- thí dụ như con mắt của một nhà Dô Ghi- hào quang nầy khiến ta có thể nhận xét được cái trạng thái phát triển của cái Trí, cái bản chất của tính nết và cho ta biết một cách rõ ràng về cái trình độ tiến hóa của linh hồn ở trong xác thân ấy và về những nét đặc biệt và những thuộc tính của linh hồn.

Mỗi người trong quý huynh đều mang theo xung quanh mình cái tờ tường trình đó về địa vị riêng biệt của mình, cái bằng chứng rất rõ ràng của trình độ mà mình chiếm được trên nấc thang tiến hóa.

Xung quanh mỗi người trong quý huynh có một châu vi đặc biệt nó chỉ rõ bản chất của tư tưởng và của tính nết quý huynh, rất dễ khám phá ra đối với con mắt đã được luyện tập- chẳng khác gì con mắt Hồng trần nhìn thấy những nét mặt- và nó cho ta biết rất nhiều về tính nết con người.

Khi một em nhỏ ra đời, trong lúc đầu tiên của thời kỳ em lớn lên thì hào quang của em có đặc điểm sau nầy: nó chứa những kết quả của cái nghiệp của em trong dĩ vãng, nhưng cái phần lớn của những xu hướng về trí não và về tính nết của em trong hào quang đó chỉ ở trong trạng thái mầm mống chớ không phải ở trong trạng thái đã chín mùi. Nếu quý huynh xem xét hào quang của một em nhỏ, quý huynh sẽ thấy nó tương đối trong trắng, những màu sắc của nó sáng sủa và trong suốt chớ không phải dầy đặc, dơ dáy như bùn lầy ở người nam hay người nữ đã trưởng thành, và trong cái hào quang nầy, có những xu hướng tiềm tàng có thể phát triển được. Có những xu hướng tốt và có những xu hướng xấu. Những nết đặc biệt nầy con mắt đã tinh luyện nhìn nhận ra được, người ta có thể phát triển những xu hướng tốt và bóp nghẹt những xu hướng xấu bằng cách đặt em nhỏ dưới những ảnh hưởng tốt. Nếu quý huynh muốn hạt giống sẽ cho mình một cây non, lành mạnh và sống lâu thì quý huynh phải để hạt giống đó vào một miếng đất tốt, tưới nước cho nó và coi chừng mặt trời chiếu vào nó chan hòa. Hạt giống chứa tất cả những gì thiết yếu trong cây nhưng cây nầy chưa được hoàn toàn phát triển và tùy theo bản chất của miền đất gieo hạt, tùy theo sự săn sóc của quý huynh, tùy theo ngọn gió mát sẽ mơn trớn cây và mặt trời sẽ sưởi ấm cây, cây sẽ nẩy nở hoàn toàn, nhiều hay ít, cây có thể lớn lên và trở thành rất đẹp, hay có thể cằn cỗi và không lớn lên được nữa.

Trong một phạm vi rộng rãi, thì đứa con nít cũng vậy. Một em nhỏ ra đời; thí dụ em có mang theo mình mầm mống của sự giận dữ, mầm mống của một bản chất hung bạo và si tình. Nếu chúng ta tỉ dụ những người xung quanh em đều khôn ngoan và hiểu biết, thì họ sẽ biết cách đối đãi với em ra sao. Không bao giờ người ta được để cho em nghe thấy một lời giận dữ, không bao giờ để em chứng kiến một hành động si tình. Tất cả những ai ở xung quanh em đều phải dịu dàng, mến yêu và tự chủ, và không bao giờ được truyền cho cái mầm mống mà em đã có sẵn, cái sức kích thích của sự giận dữ của người lớn tuổi, sức nầy sẽ có hiệu quả thúc đẩy sự giận dữ phát triển nơi đứa nhỏ, khiến tính nầy tăng thêm mực độ và trở thành chín mùi.

Quý huynh phải coi chừng làm sao cho đứa trẻ ở trong vòng của những ảnh hưởng có tính cách kích thích những điều tốt đẹp, cao thượng và trong trắng nơi các em. Và nếu quý huynh làm điều nầy cho mỗi em nhỏ, thì nhân loại sẽ tiến với một tốc độ nhanh như chạy thay vì hiện giờ nhân loại đang đi như một kẻ què chân khập khễnh. Sự vô minh làm mờ tối cái trí con người và họ không còn biết cách nào nuôi dạy trẻ nhỏ ra sao nữa. Chung quanh chúng ta chỉ có những sự thất bại, và những sự thất bại nầy sẽ biến đi khi con người có một sự hiểu biết rộng rãi hơn, khi y sẽ dạy bảo một cách sáng suốt chớ không mù quáng như bây giờ, khi y dạy dỗ căn cứ vào sự hiểu biết chớ không phải vào sự vô minh. Sự cần thiết của một nền giáo dục chơn chánh nầy giải nghĩa tại sao xưa kia mỗi đứa trai nhỏ đều phải gởi đến một vị Thầy. Cái tục lệ cổ kính nầy có mục đích để một cái trí đã phát triển đầy đủ, ảnh hưởng đến cái trí của con nít và để được sự giúp đỡ của một Chơn Sư có những kiến thức sâu xa vượt khỏi những kiến thức của người thường. Vị Thầy bao giờ cũng là một người thông hiểu.

Vị Thầy bao giờ cũng là một người sáng suốt, có thần nhãn, thấy rõ, và trẻ em được trao đến tay Ngài là vì nhờ nền giáo dục được ban phát như thế, những bản năng xấu xa được diệt bỏ, và những bản năng tốt được phát triển

. Khi mà những Vị Thầy Chơn Chánh đã mất đi, thì nhơn loại đã mất sự lợi ích lớn lao ấy, nhưng điều lợi ích nầy sẽ tìm lại được khi sự hiểu biết được ban rải rộng rãi hơn trong dân chúng và khi một giai đoạn cao hơn trong sự phát triển của loài người sẽ làm cho cái cách giáo dục cao thượng ấy có thể

thực hiện được.

Y học.-

Trong mọi giai đoạn của sự hiểu biết, những phương pháp sẽ được thay đổi. Người y sĩ sẽ không còn bị bắt buộc chẩn bịnh do những dấu hiệu bên ngoài, ông sẽ căn cứ sự chẩn bệnh vào sự nhìn thấy trực tiếp chớ không phải vào sự suy luận nữa. Để ấn định một cách chẩn bệnh, người ta bắt đầu sử dụng cái mà người ta gọi là những năng khiếu thần thông hay là thần nhãn. Thay vì bị sự dầy đặc của xác thân ngăn cản, thầy thuốc sẽ nhờ đến người có thần nhãn nhìn xuyên qua vật chất Hồng trần và có thể chính mình thấy rõ ràng chứng bệnh, y thấy được một cơ quan đau yếu, trong những bộ phận của thân thể con người. Do sự có thần nhãn ấy, người y sĩ biết được những điều mà ông ta cần biết khiến ông có thể hành động chắc chắn hoàn toàn và coi chừng được hiệu quả sinh ra do những món thuốc đã cho uống. Quý huynh hãy tưởng tượng khoa y học sẽ trở thành như thế nào, nếu tất cả những vị y sĩ đều có cái năng khiếu thần nhãn ấy, nếu năng khiếu nầy trở nên thông thường thay vì là một sự đặc hữu của một vài người, để khiến cho những người thầy thuốc có thể ấn định sự chẩn bệnh một cách vững chắc và có thể coi chừng những hiệu quả của cách chữa bệnh với cái tính cách rõ ràng mà chỉ riêng thị giác mới cho được mà thôi.

Hóa học.-

Đối với khoa hóa học cũng vậy, những kết quả mà nhà hóa học sẽ thâu thập được sẽ vượt xa những kết quả hiện tại biết bao nếu mắt ông được mở ra, hay hơn nữa, nếu ông có thể theo dõi tất cả những giai đoạn phối hợp của các nguyên tố, nếu ông có thể cấu thành những hợp chất với lòng tin chắc chắn vì mắt đã trông thấy thay vì làm việc đó do sự ngẫu nhiên, và phải đợi kết quả của một sự thí nghiệm trước khi biết được chắc chắn cái kết quả xảy ra. Người ta sẽ tránh được biết bao nhiêu tai nạn. Sự hiểu biết đó sẽ thúc đẩy những sự tấn bộ của khoa học biết bao.

Tâm lý học.-

trong phạm vi của khoa tâm lý học cũng thế; khi con người giao cảm với nhau bằng tư tưởng, thay vì dùng những phương pháp chậm chạp của khoa học vật chất, thì tư tưởng sẽ bay nhanh chóng biết bao từ khối óc

nầy sang khối óc khác, truyền thông những ý nghĩ mà không cần đến những phương pháp thô sơ thường sử dụng ngày nay. Quý huynh sẽ nhận định ngay được cái ý nghĩa của sự đó như thế nào, đối với nhân loại, bằng cách tự đặt mình vào cái quan điểm của cảnh giới Hồng trần. Tôi muốn nói rằng lúc đó cái ý nghĩa chia rẽ chỉ còn là một sự vật của dĩ vãng, rằng non núi cũng như đại dương sẽ không còn có thể chia rẽ được hai người, hai bằng hữu, hai người quyến thuộc nữa. Tôi muốn nói rằng khi mà con người đã chiếm được cái cảnh giới ấy của thiên nhiên, thì họ sẽ có thể giao cảm với nhau, từ cái trí nầy sang cái trí khác, dù họ đang du lịch ở nơi nào, dù họ cư ngụ ở xứ nào, vì đối với cái trí, những biên giới của thời gian và không gian không còn nữa, như chúng ta vẫn tồn tại ở cõi Hồng trần. Khi con người làm cho cái Vía được tinh vi, y sẽ xuất vía được, y sẽ luôn luôn đi đến được với người thân yêu, và những nỗi đau khổ về sự vắng mặt sẽ mất đi. Cũng như thế, sự chết sẽ mất cái quyền lực chia rẽ. Quý huynh hãy xem xét đời người hiện nay, và quý huynh sẽ thấy rằng sự tử biệt và sự sanh ly là hai mối đau đớn lớn lao đang đè nặng lên nhân loại. Cả hai sẽ mất cái áp lực chánh của chúng khi con người tiến bộ được một bước lớn như thế, cả hai sẽ mất cái quyền lực chia rẽ khi con người tiến đến cái trình độ cao vút đó. Cái điều mà ngày nay chỉ có những người Đệ Tử được hưởng, thì sẽ được Họ chia sớt với đa số, và đời sống vật chất của con người sẽ thành tốt đẹp hơn, khi mà những ảnh hưởng trên đây thường làm bối rối cuộc đời, sẽ biến đi mất.

Triết học.-

Dĩ nhiên, đối với Triết học thì cũng thế, nhờ sự hiểu biết thâm sâu hơn về những khả năng của vật chất và những sự thật của đời sống.

Sử học.-

Đối với Sử học cũng thế, khi tất cả những tài liệu của nó được lấy ở những văn khố của chất Tiên Thiên Khí (Akasha), và khi môn Sử học không còn được viết với mục đích thỏa mãn những dục vọng của một đảng phái chính trị, hay để binh vực một vài lý thuyết về sự tiến triển của nhân loại hay một vài giả thuyết do trí tưởng tượng của các nhà thông thái mà sinh ra. Tất cả lịch sử đều được ghi chép trong chất Tiên Thiên Khí (Akasha); đó là những văn khố không bao giờ hư hoại và không sao bị tiêu diệt được. Không một hành động nào của nhân loại trong dĩ vãng mà lại không được ghi chép ở đấy, không một sự việc gì của lịch sử loài người mà lại không được thu vào đấy đối với những con mắt có thể nhìn thấy. Rồi sẽ đến lúc tất cả lịch sử sẽ lấy ở đó ra thay vì được viết theo cái phương pháp đầy vô minh được sử dụng hiện giờ, và khi nào con người muốn biết về dĩ vãng y chỉ việc nhìn vào những văn khố không thể hủy hoại đó và sẽ dùng chúng để tự phát triển, bằng cách xử dụng kinh nghiệm của dĩ vãng, để giúp sự phát triển của nhân loại được nhanh chóng hơn.

Mỹ thuật.-

Còn nghệ thuật sẽ tiến như thế nào, khi những quyền lực tân kỳ đó sẽ ở trong tay của con người, thì có lẽ chỉ những ai ngày nay đang hưởng thụ nghệ thuật đến một mức nào, mới có thể tưởng tượng điều đó được. Những hình dáng tân kỳ, đẹp hơn mọi danh từ, sẽ được xử dụng; những màu rực rỡ hơn, không thể tưởng được sẽ được dùng đến, những màu sắc không có ở cõi trần và sẽ nảy sinh trong chất tế nhị nhất trong cõi Trung giới, những màu sắc mà không ai có thể tả được vì tả bằng lời nói thì không sao mà làm cho ta hiểu biết được cái bản chất của một màu lạ lùng như thế. Tất cả điều này sẽ ở trong phạm vi của nghệ thuật, cũng như tất cả những khả năng kỳ diệu của những giác quan tế nhị hơn.

Thế lực và uy quyền.-

Vậy thế lực và uy quyền sẽ ra sao? Nền quân chủ thiêng liêng (1)

[xxv]

sẽ trở lại xuất hiện trên trái đất. Con người sẽ được xếp hạng trong xã hội tùy theo trình độ tiến hóa mà họ đã đi tới chớ chẳng phải tùy theo những ý muốn ngông cuồng của sự ngẫu nhiên như ta thường thấy ngày nay. Tất cả mọi người sẽ có thể biết được cái trình độ tiến hóa của chính mình và của người khác, vì cái hào quang của mỗi người sẽ chỉ rõ để ai cũng có thể trông thấy được những khả năng về trí thức và những khả năng đạo đức của y, và do đó, cái địa vị mà y xứng đáng có trong xã hội loài người, chúng ta sẽ thấy những thanh niên tập luyện làm cái công việc mà họ có năng khiếu, cái loại công việc mà những thiên bẩm của họ khiến họ có thể hoàn tất được một cách tốt đẹp. Cái sự bất mãn đương ngự trị ngày nay sẽ mất đi vì nó có nguồn gốc: a) ở trong sự thất vọng vì muốn làm những nghề nghiệp thích hợp mà lại bị ngăn cản, _b) ở trong cái ý tưởng phải chịu một sự bất công, nó hiện rõ trong cái trí của con người, khi họ tin chắc rằng họ có những năng khiếu mà lại không có được dịp nào làm cho những năng khiếu ấy nổi bật lên; họ có những khả năng mà họ không thể phô ra được. Nếu họ khôn ngoan thì họ sẽ biết rằng đó là kết quả của Nghiệp Báo của họ; nhưng chúng ta nói đây là nói về đám đông chớ không phải nói đến những nhân vật thông minh hơn. Đối với những đám đông nầy, sẽ không còn sự bất mãn nữa, khi mỗi người có được một địa vị mà những năng khiếu hiển nhiên của y cho phép y chiếm, và như thế, chúng ta sẽ có một xã hội được tổ chức một cách tốt đẹp. Cùng ở lúc đó chúng ta sẽ biết cách đối đãu với những người thấp kém trong nhân loại ra sao. Chúng ta sẽ không trừng phạt những kẻ tội lỗi nữa. Chúng ta sẽ sửa chữa tính tình họ, chúng ta không xử tử họ nữa, chúng ta dạy dỗ họ. Chúng ta sẽ có thể phân biệt được cái nhược điểm cần phải nâng đỡ và người ta sẽ trông thấy sự minh triết nó sửa chữa thay thế cho tức giận nó trừng phạt. Không những người ta cải tạo xã hội bằng cách cải thiện chính cái bản tính của con người, mà cái vẻ bề ngoài của xã hội cũng được thay đổi, và toàn thể loài vật sẽ phục tòng cái quyền năng cải tạo của loài người. Con người sẽ không còn là một bạo chúa và một kẻ áp bức như bây giờ, nhưng sẽ là người nâng đỡ, người giáo hóa và dạy bảo súc vật thấp kém. Y sẽ thành người che chở và người giáo dục cho con vật, chính sứ mạng y là phải như thế, chớ không phải là kẻ đao phủ áp bức loài vật như người ta thường thấy ngày nay đâu. Tôi không cần phải nói thêm rằng mọi sự tàn ác sẽ dần dần biến mất; máu của loài vật sẽ không còn chảy loang trên mặt đất nữa, cũng như bây giờ nó đang thấm sâu xuống đó; giống vật sẽ không còn chạy trốn con người vì sợ hãi và kinh khủng nữa, vì biết rằng đó là một người bạn chớ không phải là kẻ thù; lúc đó chúng ta sẽ tiến đến một thời đại hoàng kim mới mẻ, khi ấy tất cả những sinh vật đều thương yêu nhau chớ không oán thù nhau.

Lương thức trên cõi Thượng giới.-

(1)

[xxvi]

_ Những điều tôi vừa nói với quý huynh giống như một truyện Thần Tiên, tuy nhiên, đó chỉ là cái giai đoạn gần nhất sắp tới của sự phát triển của con người, đó chỉ là cái kết quả của sự làm chủ cõi Trung giới, cái cảnh giới ở ngay trên cảnh Hồng trần. Sự thể sẽ như thế nào khi con người còn lên cao hơn nữa và sẽ mở rộng lương thức trên cảnh Thượng giới hay cảnh của cái Trí. Tôi có thể lấy một hay hai thí dụ để cho quý huynh có thể tưởng tượng về sự phát triển hoàn toàn của lương thức ở cái thời đại quá xa xôi ấy. Tỉ dụ như có một diễn giả với những thính giả. Chúng ta sẽ thấy bao nhiêu sự khác biệt giữa cái tài hùng biện với hiệu quả của tài đó đối với công chúng. Thay vì nghe thấy những tiếng, những âm thanh được thốt lên và vào đến lỗ tai, âm thanh chỉ truyền được một phần nhỏ của tư tưởng đã không hoàn toàn mà còn sai nghĩa, thì thính giả sẽ trông thấy tư tưởng trong thực trạng của nó. Tư tưởng nầy sẽ xẹt ra dưới mắt họ, sẽ khoác một màu tươi chói, sẽ có một âm điệu huy hoàng và một hình thức tuyệt diệu, như người ta nói với họ bằng âm nhạc vậy. Người ta sẽ nói với họ bằng một thứ ngôn ngữ được điển hình bằng những màu sắc và hình thức, đến mức làm cho một căn phòng đầy âm nhạc tuyệt hảo, đầy màu sắc và hình thức tuyệt hảo. Quả thật đó sẽ là tài hùng biện của tương lai, khi con người sẽ làm chủ được cái cảnh giới cao cả của trạng thái của lương tri và của đời sống. Quý huynh tưởng rằng tôi chiêm bao hay sao. Tôi xin tuyên bố hiện nay có những người đã đi tới cái cảnh giới ấy của lương tri, họ đã biết nó, cảm thấy hiệu quả của nó; những người nầy đã vượt qua những tấm màn đã che lấp con mắt của đa số nhân loại và ngăn cản họ không cho hiểu biết những khả năng cao cả của đời sống. Một người đứng trên đỉnh một cái tháp cao có thể nhìn ngắm phong cảnh tứ phía và nhận được những âm thanh,, những màu sắc và những hình dáng tự khắp các nơi của phong cảnh ấy mang lại, nhưng nếu y đi xuống thang lầu của cái tháp, thì y chỉ còn trông thấy cái phần phong cảnh được đóng khung trong cái cửa sổ đục ở vách tường thôi. Đời sống của con người trên cảnh Thượng giới cũng giống thế. Sự hiểu biết tự tứ phía đến với y tràn trề, không phải do sự trung gian của những giác quan mà chúng ta biết, nhưng nhờ một giác quan duy nhất, nó ứng đối với tất cả những làn rung động của ngoại cảnh. Và khi con người trở xuống những thể thấp, thì sự nầy có một hiệu quả giống hệt như khi đi xuống thang lầu; y chỉ còn có thể nhận thấy được những cái gì mà mắt , tai, mũi- những cái cửa sổ bé nhỏ đục ở trong tường – cho phép y hiểu biết được ngoại cảnh, vì các giác quan chỉ là những cửa sổ, và chúng ta bị giam hãm đằng sau có những bức tường của xác thân. Chúng ta chỉ còn có một cách là vượt lên khỏi cái xác thân này thì mới có thể nhận thấy cái cảnh giới bao bọc xung quanh ta, trong tất cả sự huy hoàng của nó, trong tất cả vẻ đẹp của nó và với tất cả những sự ký diệu của nó.

Lúc đó, cái mãnh lực của đời sống sẽ được tăng lên thập bội. Tất cả những sự biểu lộ cao cả của trí thức đều tự cảnh giới nầy mà ra và xuyên qua Trung giới. Những ảnh hưởng có uy lực nhất thuộc về thể trí ngày nay dùng để giúp đỡ con người ở cõi Hồng trần, đều ở những cảnh cao của Thượng giới ban xuống do những người có thể hoạt động trên ấy. Những đệ tử của các Chơn Sư đều ở đó, hoàn toàn thức tỉnh, làm việc để giúp đỡ con người, để làm cho nhân loại thêm mạnh mẽ, và tất cả những ai đã bước qua những cánh cửa lớn của sự Điểm Đạo mà hôm qua tôi đã nói với quý huynh, đếu sống trong cảnh giới nầy và giúp đỡ con người. Người đệ tử có thể làm việc đó ở cõi Hồng trần, nhưng y sẽ làm việc một cách hoàn hảo hơn khi y ở trên cái cảnh giới cao cả và có hiệu quả nầy. Nơi đây, y hoạt động nhiều nhất, nơi đây, y hữu ích nhất. và khi nào đa số nhân loại tiến tới cảnh giới nầy thì số người làm việc sẽ lớn biết bao, sự liên hiệp của những người cứu giúp sẽ rộng rãi biết bao. Ngày nay, nơi đó chỉ độ vài trăm người làm việc

để giúp đỡ muôn triệu người khác trong nhân loại, và công việc thì không được hoàn toàn, vì số người làm việc ít ỏi. Nhưng khi mà toàn thể nhân loại ên cao đến cảnh giới nầy thì con người sẽ vượt qua những nấc thang dưới một cách nhanh chóng biết bao. Nhân loại sẽ phát triển một cách nhanh chóng đến đỗi ngày nay chúng ta không thể tưởng tượng được.

Lương thức trên cõi Bồ Đề.-

Con người sẽ đi lên cao hơn nữa, để đứng trên một cảnh giới khác; trên cảnh giới nầy, tất cả đều là sự đồng nhất, con người biết và cảm thấy rằng mình chỉ là một đối với vạn vật hữu hình, đó là cảnh giới Turiya, (Bồ Đề) mà con người sẽ chiếm hữu trước khi Đại Kiếp kết liễu. Cái cảnh giới nầy chỉ mở rộng ra cho người đệ tử trong giai đoạn cuối cùng của sự phát triển của y, như tôi đã tả hôm qua. Giống Dân Chánh Thứ Bảy sẽ trèo lên những đỉnh cao ấy và sẽ ở trên đó. Khi người ta đã tiến đến cái sự phát triển ấy của trạng thái lương thức, thì không còn cái gì có thể chia rẽ loài người được nữa; mỗi người đều biết rằng mình chỉ là một đối với những người khác, mình cảm thấy cái điều mà họ cảm thấy, mình nghĩ và biết cái điều mà họ nghĩ và biết; đó là một trạng thái lương thức được mở rộng ra, cho đến khi gom vào đó cả ức triệu sinh linh. Đến lúc đó, Huynh Đệ Đại Đồng là một việc đã hoàn tất, vì ở nơi đó, người ta cảm thấy cái tinh hoa của sự vật, chớ không phải chỉ thấy cái vỏ bề ngoài của nó mà thôi, ở nơi đó, người ta trông thấy sự thật chớ không phải chỉ thấy sự biểu lộ hữu hình. Tất cả đều nhìn nhận cái Chơn Thần Duy Nhất sống ở mọi sinh linh, và đối với người hiểu biết thì không làm sao mà có thể thù hận được nữa.

Lương thức trên cõi Niết Bàn.-

Cao hơn nữa, còn có một mức khác mà tôi không thể dùng một tiếng nào mà mô tả được, mà không một câu nào có thể cho ta một ý niệm được, cái mức mà các Vị Thánh Minh gọi là Niết bàn, mà các Ngài đã hoài công kiếm cách giải, vì ngôn ngữ loài người không thích hợp với việc ấy; tất cả những sự cố gắng của các Ngài để làm chia sớt sự hiểu biết của mình cho kẻ khác chỉ làm thành một quan niệm sai lầm mà thôi. Đó là trạng thái của lương thức cao cả đến nỗi ta không sao có thể hiểu được; đó là một trạng thái lương thức bao gồm trọn cả vũ trụ và do đó mà khiến cho loài người – họ chỉ có một sự hiểu biết hữu hạn – có cái cảm tưởng Niết Bàn là tịch diệt. Nhưng tôi xin nói với quý huynh, đời sống ở Niết Bàn, đời sống của các Tiên Thánh đã đi tới Niết Bàn, là một trạng thái lương thức mà bên cạnh nó, trạng thái lương thức của chúng ta giống như trạng thái của hòn đá, vì bị những hạn định ràng buộc, vì bị sự vô minh nó làm cho tối tăm, và vì do những phương pháp vụng về của nó; ở đấy y có một đời sống vượt khỏi tất cả những giấc mơ của chúng ta về cuộc đời, một sự hoạt động cao hơn tất cả những gì mà chúng ta có thể tưởng tượng, một đời sống duy nhất, và tuy vậy nó ban rải ra bằng nhiều hoạt động cụ thể; một đời sống nơi đó Đức Thượng Đế là Ánh Sáng hiện hình ban rải những tia sáng xuyên qua tất cả những cảnh giới của vũ trụ. Cái trình độ ấy cũng là một mục đích mà con người phải tiến tới trong Đại Kiếp nầy, và y sẽ đi đến đó khi giống Dân Chánh Thứ Bảy hoàn thành xong sự tiến hóa của họ. Những tinh hoa của nhân loại chúng ta (1)

[xxvii]

hiện nay đã biết được mục đích đó; một ngày kia các vị ấy sẽ thấy hàng ức triệu sinh linh ở chung quanh mình cũng biết mục đích đó như mình vậy. Rồi đến Đời Sống của Thượng Đế trong những kỳ gian vô số kể và Ngài sẽ hoàn toàn phản chiếu vào những sanh linh trưởng thành theo gương Ngài, cho tới khi một vũ trụ mới nảy sinh, cho tới khi một vũ trụ mới khởi đầu hoạt động. Và mỗi vị trong những Sanh Linh ấy, đến lượt họ lại trở thành một Vị Thượng Đế, lại xây dựng một vũ trụ mới, lại dạy dỗ một nhân loại mới. Đó là cái tương lai đang chờ đợi chúng ta; đó là cái vinh dự huy hoàng sẽ được tỏ bày ra cho chúng ta biết vậy./.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro