Con đường của Phật (Tập 11)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

OSHO

Dhammapada: Con đường của Phật

Đây là con đường đi tới chân lí tối thượng

The Dhammapada: The Way of the Buddha

This is the Path to the Ultimate Truth

Tập 11

Mục lục

Chương 1 Giữ mồm miệng

Chương 2 Vào đúng khoảnh khắc

Chương 3 Con đường yên tĩnh tới nước hạnh

phúc

Chương 4 Tôi lại bỏ lỡ!

Chương 5 Được tự do dịu ngọt làm sao

Chương 6 Vươn lên trong tình yêu

Chương 7 Bên kia cõi bên kia

Chương 8 Tiếng cười: tình yêu, vui vẻ, biết ơn

Chương 9 Tai hại làm sao!

Chương 10 Cười con đường của bạn tới Thượng đế

Về Osho

Bài nói ngẫu hứng cho các đệ tử và bạn bè của Osho tại Thính phòng Phật Gautam Poona, Ấn Độ

**************************************************************************************************************

#1Giữ mồm miệng

Giữ mồm miệng.

Không tự đề cao mình

Nhưng làm sáng lên đạo

vì lời của ông là dịu ngọt.

Theo chân lí của đạo.

Phản ánh lên nó.

Làm nó thành của ông.

Sống nó.

Nó bao giờ cũng nâng đỡ ông.

Đừng ngoảnh mặt đi với điều được cho ông,

không với lấy điều được cho người khác,

Sợ rằng ông quấy rối yên tĩnh của người khác.

Nói lời cám ơn

với điều đã được trao cho ông,

Dù nó nhỏ thế nào.

Thuần khiết, đừng bao giờ nao núng.

Cuộc sống đầy những điều phức tạp. Ngay cả khi

chúng ta được sinh ra cũng có sợi dây được gắn vào.

Điều phức tạp nhất, cội nguồn của mọi phức tạp là vô

nhận biết, vô ý thức. Chúng ta bị hội tụ vào thế giới

khách quan và chúng ta hoàn toàn không nhận biết

chúng ta là ai.

Toàn thể thông điệp của Phật Gautama là quay

vào trong. Thông điệp này là đơn giản, nhưng thực

hiện lại gian truân. Nó gian truân bởi vì nhiều, nhiều

kiếp chúng ta đã sống ở bên ngoài, chúng ta đã sống

cuộc sống của người hướng ngoại. Chúng ta hoàn

toàn quên mất cách quan hệ với bản thể riêng của

mình, cách hiện hữu với bản thân chúng ta. Chúng ta

đã quên mất con đường, ngôn ngữ, phương pháp.

Không chỉ thế, chúng ta đã hoàn toàn quên lãng rằng

có lãnh thổ cho chúng ta. Chúng ta nghĩ dường như

chúng ta chỉ có bên ngoài. Bây giờ điều đó là ngu

xuẩn. Cái bên ngoài chỉ có thể tồn tại với cái bên

trong; không có bên trong, bên ngoài là không thể có

được. Nếu chúng ta có thể nhìn ra ngoài, chúng ta

cũng có thể nhìn vào trong. Thực tế, nhìn vào trong là

dễ hơn bởi vì chính tại đó chúng ta được bắt rễ.

Nhưng chẳng bao giờ nhìn vào trong, chúng ta cứ

xô vào trong mọi hướng, làm đủ mọi thứ, chẳng biết

tại sao, chỉ bởi vì người khác đang làm chúng. Chúng

ta bắt chước, theo sau. Chúng ta trở thành bản sao. Đó

là điêu xấu nhất trong cuộc sống: là bản sao. Con

người không bao giờ có thể phúc lạc chừng nào người

đó không nguyên bản, chừng nào người đó không biết

khuôn mặt nguyên thuỷ của mình.

Tôi đã nghe một câu chuyện rất hay. Nó có thể

đúng, nó có thể không đúng. Tính thực của nó không

mang nghĩa lịch sử, nhưng điều có ý nghĩa quan trọng

hơn nhiều, nó mang tính biểu dụ.

Câu chuyện là: Alexander Đại đế đang trên đường

tới Ấn Độ. Ông ấy gặp một fakir - nhà sư khổ hạnh,

đang ngồi bên đường với một vật tròn, nhỏ, như con

mắt trong tay.

"Cái gì đó?" Alexander hỏi.

"Tôi sẽ không nói cho ông đâu," fakir nói, "nhưng

tôi sẽ cá với ông rằng nó nặng hơn tất cả vàng, bạc và

châu báu của ông."

Alexander ra lệnh đem một cái cân khổng lồ tới

cùng với tất cả kho báu của ông ấy. Một bên cân ông

ấy chồng tất cả kho báu lên; ông fakir để vật hình mắt

tròn nhỏ lên đĩa cân kia và, trông lạ chưa kìa! nó nặng

hơn. Nó đi xuống và kho báu bao la bị nhấc lên không

trung. Alexander sững sờ.

Thế rồi ông fakir nói, "Tôi sẽ chỉ cho ông xem

một điều nữa." Ông ấy lấy ít bụi và rải lên con mắt.

Nó lập tức trở nên nhẹ, nâng bổng lên trong không

trung; còn kho báu đi xuống.

Alexander không thể kìm được ngạc nhiên thêm

nữa và hỏi ông fakir, "Thưa ông, ông phải nói cho ta

biết. Vật này là cái gì vậy?"

Ông fakir nói, "Nó chẳng là cái gì đặc biệt cả. Nó

chỉ là mắt người."

Con người có khả năng nhìn bản thân mình nữa,

nhưng năng lực đó bị phủ đầy bụi. Chúng ta có con

mắt bên trong nữa - con mắt thứ ba - nhưng con mắt

đó không hoạt động, và chúng ta đã không dùng nó

lâu tới mức nó đã mất hoàn toàn chức năng; nó đã trở

thành phần tê liệt trong con người chúng ta.

Bây giờ ngay cả các nhà sinh lí học cũng đã phát

hiện ra một phần nào đó trong não người mà dường

như tuyệt đối thừa. Họ phân vân bởi vì tự nhiên

không bao giờ tạo ra cái gì thừa. Nó phải có mục đích

nào đó, nhưng dường như nó chẳng có mục đích gì.

Nó có thể bị bỏ đi và điều đó sẽ không ảnh hưởng tới

bạn chút nào.

Nhưng tất cả các nhà huyền môn trong nhiều thời

đại đều đã nói cùng một điều - tất nhiên, không theo

thuật ngữ khoa học; họ có cách riêng của mình để nói

điều đó. Họ gọi nó là con mắt thứ ba. Một phần nào

đó của tâm trí bạn có khả năng vận hành theo cách chỉ

hướng nội. Thiền tạo ra bầu không khí đúng, bầu khí

hậu đúng cho nó vận hành.

Thiền đơn giản nghĩa là loại bỏ đi cát bụi mà ông

fakir kia đã ném vào con mắt này. Và cát bụi không là

gì ngoài toàn thể quá trình tâm trí các ý nghĩ, ham

muốn, tưởng tượng, ghi nhớ. Nếu bạn trở nên có khả

năng về vài khoảng hở, lỗ hổng, khi mọi quá trình ý

nghĩ dừng lại... bỗng nhiên bạn hiện hữu và không có

gì để nhìn ở bên trong. Thế thì chỗ rẽ xảy ra; thế thì

lập tức có thay đổi triệt để trong tầm nhìn của bạn,

thay đổi động thái của bạn. Thế giới bên ngoài biến

mất và thế giới bên trong xuất hiện.

Chính bởi vì điều này mà các nhà huyền môn nói

rằng thế giới bên ngoài là ảo tưởng. Không phải là nó

không tồn tại; nó tồn tại đấy, nhưng nó là ảo tưởng

bởi vì nhà huyền môn biết một trạng thái nào đó của

tâm thức khi nó đơn giản bay hơi, nó không được tìm

thấy ở đâu cả. Bạn đi vào trong một chiều hướng hoàn

toàn khác: chiều hướng của phúc lạc, chiều hướng của

an bình, chiều hướng của Phật, Christ, Krishna.

Những lời kinh này rất đặc biệt. Toàn thể loạt

kinh này... đây là loạt cuối cùng các kinh của Phật.

Mãi cho tới giờ ông ấy đã nói cho các đệ tử, người đã

sẵn sàng. Bây giờ phần cuối cùng của lời kinh của

ông ấy được ngụ ý dành cho bồ tát, cho những người

đã trở nên sẵn sàng, cho những người đã kinh nghiệm

cái gì đó của bên trong. Nó không dành cho người

mới điểm đạo, nó không dành cho người tinh thông

lão luyện. Do đó phần cuối này là phần quan trọng

nhất.

Phật nói có hai loại người chứng ngộ trên thế giới;

ông ấy rất khoa học về cách tiếp cận này. Phân loại

của ông ấy là rất có ý nghĩa; không ai đã làm điều đó

trước đây hay kể từ đó. Ông ấy nói loại người chứng

ngộ thứ nhất được gọi là a la hán. A la hán là nhà

huyền môn; ông ấy đã biết, ông ấy đã nhận ra, nhưng

ông ấy hoàn toàn không quan tâm tới người khác.

Ông ấy đã tìm ra con đường. Ông ấy đã đạt tới nhà

của mình và ông ấy không quan tâm tới người khác,

người đang tìm và kiếm, bởi vì hiểu biết của ông ấy là

ở chỗ nếu họ tìm và kiếm một cách đích thực họ sẽ tự

mình tìm ra con đường. Và nếu họ không phải là

người tìm kiếm thực, không ai có thể làm cho họ

thành người tìm kiếm thực được; do đó chẳng cần tới

giúp đỡ. A la hán không giúp thêm nữa. Ông ấy đã du

hành một mình và ông ấy biết mọi người đều phải du

hành một mình.

Khi bản thân Phật trở nên chứng ngộ, ý tưởng đầu

tiên của ông ấy là trở thành a la hán. Trong bẩy ngày

ông ấy vẫn còn tuyệt đối im lặng, không nói lấy một

lời.

Câu chuyện là: Các thần trên trời xuống. Họ rất lo

nghĩ bởi vì thỉnh thoảng mới có một người được thức

tỉnh, và nếu người đó vẫn còm im lặng tuyệt đối thì

thế giới sẽ bỏ lỡ thông điệp của người đó. Và thông

điệp của ông ấy là dành cho những người đang chết;

thông điệp của ông ấy là đồ nuôi dưỡng cho những

người bị đói về chân lí. Thông điệp của ông ấy có thể

là con thuyền sang bờ bên kia. Thông điệp của ông ấy

phải được chuyển giao, ông ấy phải được thuyết phục.

Họ đã tới, và họ biện minh.

Nhưng Phật nói, "Các ông phải đồng ý với ta là

không ai đã có thể giúp ta được - tất nhiên, ta đã gõ

nhiều cánh cửa - bởi vì nó là cái gì đó không thể

truyền trao được. Cho dù họ có nó họ cũng không thể

trao nó cho ta được; ta phải tìm nó bằng nỗ lực của

riêng ta. Do đó ta nghĩ đó là cách duy nhất: mọi người

phải tìm và kiếm; nó không thể được vay mượn."

Ông ấy đúng và các thần phải đồng ý. Và ông ấy

nói, "Cho dù ta nói điều đó, chỉ một trong mười nghìn

người mới hiểu. Những người còn lại sẽ không hiểu;

ngược lại, họ sẽ hiểu lầm. Cho nên tại sao tạo ra nhiều

hiểu lầm thế trên thế giới làm gì? Thế giới này đã lẫn

lộn rồi - sao tạo ra thêm lẫn lộn nữa? Vì từ bi mà ta

mới im lặng. Và người sẽ hiểu bản thân người đó sẽ

tìm thấy nó bằng cách nào đó. Người có thể hiểu điều

ta nói còn thông minh tới mức thực sự người đó

không cần giúp đỡ. Cho nên phỏng có ích gì? Sao ta

phải bận tâm?"

Các thần bị làm cho im lặng. Họ đi vào rừng để

cân nhắc lại vấn đề. "Làm sao thuyết phục được Phật?

Ông ấy dường như đúng, ông ấy logic, nhưng phải

tìm ra cách nào đó chứ." Cũng tốt là họ đã có thể tìm

ra cách nào đó, bằng không chúng ta đã lỡ

Dhammapada; những lời kinh tuyệt vời này chắc đã

bị bỏ lỡ. Thế giới chắc đã nghèo hơn nhiều. Toàn thể

công trạng được ghi cho các vị thần vô danh này,

những người đã thuyết phục Phật!

Họ đắn đo về vấn đề này trong nhiều giờ; họ tìm

ra cách. Họ quay lại và họ nói, "Chúng tôi đồng ý với

thầy, nhưng chỉ một điều chúng tôi không thể đồng ý

được. Và điểm đó là ở chỗ chúng tôi hiểu rằng duy

nhất một người sẽ hiểu trong số mười nghìn người,

cho nên thầy không cần bận tâm về người đó; người

đó tự bản thân mình chẳng chóng thì chầy sẽ tìm thấy.

Vấn đề chỉ là thời gian, và thời gian không thành vấn

đề bởi vì sự tồn tại là vĩnh hằng. Cho nên có thành

vấn đề gì, làm sao lại thành vấn đề, dù người này đạt

tới hôm nay và ai đó đạt tới ngày mai hay ngày kia?

Tất cả những người đã trở nên thức tỉnh đều đương

đại; điều đó chẳng tạo ra gì mấy khác biệt chút nào."

Đó là lí do tại sao tôi nói tôi là người đương đại

với Phật, người đương đại với Jesus, người đương đại

với Zarathustra, người đương đại với Lão Tử. Một khi

bạn biết, bạn trở nên đương đại với tất cả mọi người

biết. Mọi lỗ hổng thời gian nhỏ bé đơn giản biến mất,

chúng tí hon thế. Hai mươi nhăm thế kỉ cũng chẳng

tạo ra khát biệt chút nào.

Đó là lí do tại sao ở phương Đông chúng ta đã

không bận tâm về thời gian. Không ai biết khi nào

Krishna được sinh ra. Chúng ta cũng có thể đã tạo ra

lịch nhân danh Krishna - trước Krishna, sau Krishna -

chúng ta có thể đã tạo ra lịch sử. Và Krishna chắc

chắn đi trước Jesus ít nhất ba nghìn năm, cho nên lịch

của ông ấy chắc đã năm nghìn năm so với bây giờ.

Nhưng chúng ta chưa bao giờ bận tâm về điều đó.

Không ai biết khi nào người sáng lập ra Jaina giáo,

Adinatha, được sinh ra hay khi nào ông ấy chết. Ông

ấy phải trước ngay cả Krishna ít nhất năm nghìn năm.

Nếu chúng ta có lịch thì, lịch của ông ấy đến bây giờ

ít nhất cũng đã mười nghìn năm tuổi. Tôi đang nói "ít

nhất," bởi vì người Jaina nói rằng ông ấy còn cổ hơn.

Theo họ ông ấy cổ đại gần chín mươi nghìn năm; điều

đó là có thể.

Nhưng chúng ta đã không tạo ra lịch sử, chúng ta

đã không viết lịch sử, với lí do đơn giản là những

người đáng viết tới thì đi trước thời đại; với họ thời

gian trở thành không liên quan. Và những người

không đáng viết tới, chỉ họ mới làm om sòm trong thế

giới thời gian. Genghis Khan, Tamerlane, Adolf

Hitler, Joseph Stalin, Ayatollah Khomeiniac, những

người này làm nhiều ồn ào trong thế giới thời gian.

Một Buddha, một Krishna, một Jesus, một Zarathustra

đơn giản không để lại dấu vết trong thời gian; họ biến

mất không để lại dấu vết gì, cứ dường như họ không

phải là một phần của lịch sử, hay họ là một phần của

một loại lịch sử hoàn toàn khác mà không có tính thời

gian.

Các thần biện minh với Phật. Họ nói, "Chúng tôi

đồng ý rằng một người: người đó sẽ tìm thấy nó dù

thầy có nói cho người đó hay không, người đó thông

minh thế; nếu người đó có thể hiểu được thầy ngay

lập tức, thế thì người đó sẽ tự mình tìm ra nó. Và

chúng tôi cũng đồng ý về những người khác, hàng

nghìn người sẽ không hiểu thầy chút nào; ngược lại

họ sẽ hiểu lầm thầy. Nhưng họ đã hiểu lầm rồi, hiểu

lầm nào hơn nữa còn có thể có đó được? Cho nên

thầy không cần lo nghĩ về điểm đó. Họ đã trong lẫn

lộn rồi, thầy không thể làm họ lẫn lộn thêm nữa

được."

Và đây là kinh nghiệm của tôi nữa: dù tôi có cố

gắng đến đâu tôi vẫn không thể làm lẫn lộn bạn thêm

được! Bạn đã chạm tới đáy tảng đá rồi; không có gì

dưới nó, bạn không thể đi sâu hơn vào trong đó được.

Bạn hoàn toàn an toàn.

Cho nên các thần nói, "Thầy không thể làm lẫn

lộn họ thêm được nữa. Họ đủ tài làm lẫn lộn mình rồi,

họ đã làm điều đó tới mức tối đa. Cho nên về điều đó

chúng tôi không đồng ý.

"Và một điều nữa: có thể có một hay hai người

trong số cả nghìn người đó, người ở giữa hai loại

người này - người có thể hiểu thầy và cả triệu người

không thể hiểu được thầy và nhất định hiểu lầm thầy.

Giữa hai loại người này thầy nghĩ xem," họ nói với

Phật, "không có khả năng của vài người, một hay hai

hay ba gì đó sao - vâng, họ sẽ rất ít, họ có thể được

đếm trên đầu ngón tay - người có thể ở chính giữa,

không bị lẫn lộn tới mức họ không thể được giúp chút

nào mà lại cũng không sáng tỏ tới mức họ có thể tìm

ra con đường của mình theo cách của mình? Nói với

họ đi, họ sẽ được thầy giúp đỡ đấy."

Và Phật phải đồng ý; đó không phải là biện luận

chỉ vì biện luận; ông ấy đã thấy chân lí của điều đó.

Ông ấy nói, "Ta phải đồng ý với các ông. Đúng, có

vài người đích xác ở giữa, trên đường biên. Nếu ta

không nói gì cho họ, họ có thể bị lạc trong đám đông;

nếu sự giúp đỡ nào đó được trao cho họ, một bàn tay

nhỏ, họ có thể được kéo ra khỏi vũng bùn của mình.

Ta sẽ nói cho họ."

Ông ấy sắp sửa là một a la hán. A la hán nghĩa là

người đã đạt tới nhưng không quan tâm tới người

khác, gần như lạnh lùng, không chăm sóc chút nào.

Ông ấy trở thành bồ tát; đó là phân loại thứ hai.

Bồ tát nghĩa là người không chỉ là nhà huyền môn

mà còn là thầy, người đã không chỉ biết tới bản thân

mình, mà còn cố làm cho điều đó được người khác

biết tới. Tất nhiên, công việc của Bồ tát khó khăn hơn

nhiều; a la hán ở vị trí tốt hơn. Bồ tát phải vật lộn với

đủ mọi loại không lành mạnh - người điên, người chia

chẻ, người tinh thần phân liệt, người thần kinh, người

tâm thần. Nhân loại đầy những người này. Bồ tát phải

đi vào trong đám đông, vào trong bùn nơi bạn đang ở,

bởi vì đó là cách duy nhất để giúp bạn thoát ra. Chừng

nào ông ấy còn chưa đi vào trong số các bạn, chừng

nào ông ấy còn chưa sống với bạn, chừng nào ông ấy

còn chưa có quan hệ với bạn, chưa trao đổi với bạn,

theo cả nghìn lẻ một cách dụ dỗ bạn, tạo ra niềm khao

khát chân lí trong bạn, ông ấy không thể giúp bạn

được. Và những điều này không phải là điều dễ dàng.

Mọi người không quan tâm tới chân lí chút nào.

Họ quan tâm tới tiền bạc, họ quan tâm tới quyền lực,

tới danh vọng. Họ không quan tâm tới việc được giải

thoát, họ không muốn lành mạnh. Họ bảo vệ cái

không lành mạnh của mình theo đủ mọi cách bởi vì

họ đã đầu tư nhiều thế vào cái không lành mạnh của

họ. Nó là cái không lành mạnh của họ và họ rất tự hào

về nó.

Bạn không tự hào là người Ki tô giáo, là người

Hindu, là người Mô ha mét giáo sao? Bạn không tự

hào là người Đức hay người Anh hay người Ấn Độ

sao? Bạn tự hào về tất cả những cái không lành mạnh

này. Những phân chia này đã mang tính phá huỷ.

Những phân chia này đã chứng tỏ là tai ương cho

nhân loại. Chúng đã là thảm hoạ, nhưng bạn rất tự

hào. Mọi người đều dường như tự hào.

Tôi đã nghe:

Một người Anh nói với một người Italia. Và

người Anh hỏi người Italia, "Nếu ông được cho chọn

lựa quốc tịch trước khi sinh, ông sẽ chọn quốc tịch

nào?"

Người kia nói, "Tất nhiên tôi sẽ là người Anh!"

Và người Anh hỏi, "Ông cảm thấy thế nào?"

Người kia nói, "Tôi sẽ cảm thấy rất tự hào!"

Những ngày đó là của chiến tranh thế giới thứ hai

và người Italia và người Đức bị thất bại. Họ bị mất

danh giá và quyền lực, họ bị kết án trên khắp thế giới.

Người Italia hỏi người Anh, "Nếu ông mà không

được sinh ra là người Anh, ông sẽ cảm thấy thế nào?"

Và người Anh nói, "Tôi sẽ cảm thấy xấu hổ."

Đó là lí do tại sao người Anh dường như là người

thần kinh nhất trong mọi người - rất bị ám ảnh bởi là

người Anh, cứ dường như nó là cái gì đó rất lớn lao.

Cùng điều đó là trường hợp với người Ấn Độ; họ

cũng chịu cùng bệnh kinh niên này. Họ cảm thấy rất

tự hào là người Ấn Độ. Họ không nghĩ rằng bất kì ai

khác trên thế giới là người thực; tất cả đều ở dưới hơn

chút ít. Nhưng đó là cách mọi người nghĩ sâu bên

dưới.

Khi lần đầu tiên người châu Âu tới Trung Quốc,

họ đã viết trong nhật kí của họ rằng họ không thể tin

được người Trung Quốc là người. Đương đầu với

giống nòi khác lần đầu tiên phải rất khó chấp nhận

những người đó là người. Thế còn với người Trung

Quốc thì sao? Sử sách của họ nói rằng nhìn người

phương Tây họ rất phân vân - họ chưa bao giờ nghĩ

rằng khỉ có thể nói như con người!

Mọi người đều cố gắng bảo vệ cái không lành

mạnh của mình; do đó đấy là công việc khó khăn.

"Tâm thần học có nhiều thứ vô giá trị," một người

nói với người khác.

"Ồ?" bạn đồng hành của anh ta nói. "Sao anh nói

điều đó?"

"Thế này, hôm nay nhà tâm thần bảo tôi rằng tôi

đang yêu cái ô của tôi. Anh đã bao giờ nghe điều gì

ngu xuẩn thế không?"

"Điều đó có vẻ dớ dẩn thật."

"Tôi ngụ ý, tôi và cái ô của tôi có quí mến chân

thành với nhau. Nhưng yêu sao? Điều đó thật nực

cười!"

Quí mến thì được: "... Quí mến nào đó giữa tôi và

chiếc ô của tôi, điều đó là được, nhưng yêu sao? Điều

đó thật nực cười!"

Quan sát bản thân bạn, sự vận hành của tâm trí

bạn, cách bạn cứ bảo vệ bản thân mình. Và bạn là gì?

Chẳng là gì ngoài một chùm những không lành mạnh!

Những lời kinh này dành cho Bồ tát, cho những

người đang làm việc với đám đông, với người không

lành mạnh. Đây là gợi ý cho họ. Cố hiểu từng lời kinh

một sâu nhất có thể được.

Giữ mồm miệng.

Phật nói: Nói, nhưng chỉ nói khi điều đó tuyệt đối

cần thiết. Nói, nhưng chỉ nó cho những người sẵn

sàng lắng nghe. Đừng cứ nói cho từng và mọi người;

điều đó là cực kì phí phạm. Chỉ nói cho các đệ tử bởi

vì chỉ đệ tử mới sẵn sàng mạo hiểm. Biến đổi bản

thân bạn là thực sự mạo hiểm. Nó là mạo hiểm đương

đầu với bản thân mình, biết bản thân mình. Nó là mạo

hiểm bởi vì bằng việc biết bản thân mình tất cả các dự

án cũ của bạn sẽ sụp đổ thành cát bụi, và toàn thể

cuộc sống của bạn mà bạn đã để ra làm việc cho

chúng sẽ khô kiệt. Bạn sẽ phải bắt đầu từ ABC, mới

toanh.

Chừng nào bạn còn chưa rất dũng cảm, bạn không

thể làm nỗ lực để biết bản thân mình được. Vâng, bạn

muốn biết về bản thân mình; điều đó là rẻ. Việc biết

là rẻ bởi vì nó chỉ là thông tin, nó không phải là biến

đổi. Nhưng biết bản thân mình là biến đổi; nó gây

đau, nó cắt xé bạn. Nó phải cắt đi nhiều chùm trong

con người bạn, những thứ không cần thiết, những thứ

chỉ là điều trở ngại cho bạn, những cái chỉ là trọng

lượng không cần thiết và rào chắn trưởng thành của

bạn. Và nó gây đau bởi vì nó đi ngược lại ý tưởng của

bản thân bạn, hình ảnh về bản thân bạn.

Do đó Phật nói: Nói, nhưng tỉnh táo - chỉ nói cho

những người sẵn sàng lắng nghe. Chỉ nói cho những

người được buông xuôi để lắng nghe. Bằng không:

Giữ mồm miệng.

Phật được đủ loại người hỏi hàng nghìn câu hỏi;

ông ấy hiếm khi trả lời. Ông ấy chỉ trả lời khi đệ tử

hỏi.

Điều này xảy ra ở đây mọi ngày. Nhiều người hỏi

các câu hỏi, những người với mới tới được một hôm -

khách thăm, khách du lịch và lập tức họ hỏi những

câu hỏi lớn lao. Tôi chưa bao giờ trả lời các câu hỏi

của họ; họ cảm thấy bị xúc phạm. Họ viết những bức

thư giận dữ: "Sao thầy không trả lời câu hỏi của tôi?"

Tôi không thể trả lời được câu hỏi của bạn chừng nào

bạn còn chưa sẵn sàng nghe, chừng nào bạn còn chưa

là đệ tử.

Đệ tử nghĩa là người sẵn sàng học. Nếu câu hỏi

của bạn tới từ tri thức của bạn, tôi không định trả lời

nó đâu; nếu nó tới từ sự hồn nhiên của bạn, chắc chắn

tôi ở đây để trả lời nó. Nếu bạn chỉ hỏi để được xác

nhận rằng bất kì cái gì bạn nghĩ cũng là đúng, tôi sẽ

không trả lời bởi vì tôi không ở đây để xác nhận mọi

loại ý thức hệ ngu xuẩn.

Ai đó tin vào vật thể lạ bay UFO và cứ hỏi, "Thầy

nghĩ gì về vật thể lạ bay UFO?" Sao tôi phải nghĩ?

Tôi không nghĩ chút nào!

Mới vài ngày trước ai đó đã ở đây, người hỏi về lí

thuyết trái đất hổng. Tôi cười câu hỏi của anh ta, tôi

đùa về câu hỏi của anh ta. Nhưng mọi người bị bao

bọc trong tri thức của họ thế. Quay về Mĩ anh ta đã

viết thư cám ơn tôi, "Bất kì điều gì thầy nói, tôi biết

thầy tin vào lí thuyết trái đất hổng." Làm sao anh ta

biết rằng tôi tin vào lí thuyết trái đất hổng? Anh ta nêu

lí do rằng với người đã chứng ngộ thì không thể nào

không tin được. Bây giờ nếu tôi là người đã chứng

ngộ thì tôi phải tin vào lí thuyết trái đất hổng. Phật

chưa bao giờ nghe nói về điều đó và ông ấy đã chứng

ngộ; Jesus chưa bao giờ biết về nó và ông ấy đã

chứng ngộ. Nhưng người này viết lá thư đang nói,

"Thầy có thể đùa, thầy có thể cười vào điều đó, bởi vì

thầy không muốn nói điều gì về nó. Có thể có lí do

nào đó tại sao thầy không muốn nói nó, nhưng tôi

truyệt đối chắc chắn thầy biết nó là vậy."

Cho dù bạn phủ nhận nó, cho dù bạn cười và đùa,

những người bị thuyết phục về ý tưởng nào đó, dù

chúng là bất kì cái gì, dù chúng không lành mạnh, ngớ

ngẩn, đều sẽ tìm ra cách thức và phương tiện để kiếm

hỗ trợ cho nó. Nếu bạn không trả lời họ sẽ nghĩ bạn

không trả lời vì người khác, những người thường, sẽ

không hiểu nó; nó là vấn đề tinh tế tới mức chỉ rất ít

người mới có thể hiểu được nó.

Bây giờ một người đàn bà đã hỏi, "Thưa Thầy

kính yêu, thầy nói gì đây? Tôi cảm thấy tôi đã trở nên

chứng ngộ." Tôi chưa bao giờ hỏi bất kì ai. Sao bạn

phải hỏi tôi? Nếu bạn chứng ngộ, rất tốt! Mất hút đi!

Bạn đang làm gì ở đây? Bây giờ trở thành Bồ tát và đi

giúp đỡ người khác trở nên chứng ngộ đi. Đi tới

California đi bởi vì ở đó bạn sẽ thấy nhiều người

chứng ngộ thế, và tất cả đều xác nhận cho nhau!

Phật nói: Điều đầu tiên cần nhớ khi ông đi vào

trong quần chúng là giữ mồm miệng.

Một lần ông ấy được thuyết phục về sự kiện là

mọi người đang cần sự giúp đỡ lớn lao, ông ấy nhấn

mạnh cả đời mình rằng chừng nào bạn còn chưa tìm

thấy điều tuyệt đối mâu thuẫn với bản tính bên trong

nhất của bạn, hãy trở thành Bồ tát. Nhưng có vài

người mà với họ điều đó có thể ngược lại với bản tính

bên trong của họ; thế thì họ phải vẫn còn là a la hán.

Đừng ép buộc họ. Nhớ lấy: mọi người cần giúp đỡ.

Nếu bạn có thể có ích gì, làm bất kì cái gì bạn có thể

làm, nhưng nếu bạn không thể, nếu điều đó cho cảm

giác đơn giản là cái gì đó ngược lại bản tính cố hữu

của bạn, tiếng nói bên trong của bạn, thì quên hết về

nó đi.

A la hán cũng giúp theo cách riêng của ông ấy;

không có việc giúp nhưng ông ấy vẫn giúp - bởi sự

hiện diện của ông ấy. Ông ấy vẫn còn trong im lặng

của mình, ông ấy sống cuộc sống bình thường của

mình không nói với ai điều gì cả, không biểu lộ kinh

nghiệm của mình, không diễn đạt niềm vui của mình.

Ông ấy sống một cách vui vẻ, nhưng ông ấy không

làm nỗ lực có chủ định nào để trao đổi. Dầu vậy, vài

linh hồn nhạy cảm sẽ bị hấp dẫn tới ông ấy. Họ sẽ bắt

đầu theo ông ấy một cách im lặng, họ sẽ ngồi bên

cạnh ông ấy. Ông ấy sẽ không nói cái gì cả; họ sẽ

nghe im lặng của ông ấy. Nếu ông ấy đã đạt tới, có

hào quanh quanh ông ấy; họ sẽ được nuôi dưỡng bằng

hào quang này. Nếu ông ấy đã tìm thấy nhà mình, sẽ

có an bình toả ra mà bạn sẽ được tắm trong nó, bạn sẽ

được ân huệ ở cùng với ông ấy. Ông ấy sẽ có khả

năng giúp đỡ bạn chỉ theo cách gián tiếp.

Một dân thành thị hào hoa, nóng nảy và bận rộn

trong chiếc xe hơi lớn bị lạc vô vọng trong mê cung

các đường làng quê. Nhận ra một người địa phương

đang ngồi ở cổng, nhai cọng rơm, ông ta dừng xe đối

diện và kêu to, "Ông ơi, ông bạn tốt ơi, ông có thể cho

tôi biết con đường này đi tới đâu không?"

"Không," là lời đáp.

"Ông có thể cho tôi biết con đường kia dẫn tới

đâu không, đường rẽ sang trái đó?"

"Không."

Bắt đầu bị hơi chút bực dọc quí ông thành thị gào

lên, "Này, con đường kia rẽ sang phải đi tới đâu?"

"Không biết," là lời đáp.

"Ông phải là loại người ngốc nào đó!" quí ông

thất vọng gào lên.

"Có thể," người bình thản này nói, "nhưng ít nhất

tôi biết tôi đang ở đâu."

Đây là cách thức của a la hán: ông ấy biết nơi ông

ấy đang ở. Ông ấy sẽ không nói gì về bất kì con

đường nào, bất kì cái gì về bất kì con đường nào,

nhưng ông ấy biết nơi ông ấy ở và ông ấy hoàn toàn

mãn nguyện với điều đó. Bạn có thể ngồi bên cạnh

ông ấy, bạn có thể được nuôi dưỡng bởi sự hiện diện

của ông ấy, nhưng ông ấy sẽ không làm nỗ lực trực

tiếp nào. Một cách gián tiếp... nếu bạn có thể uống sự

hiện diện của ông ấy, bạn được đón chào, nhưng ông

ấy sẽ không gọi bạn tới, ông ấy sẽ không tìm và kiếm

bạn.

Phật nói: Phần lớn điều xảy ra là năm mươi phần

trăm người chứng ngộ là a la hán và năm mươi phần

trăm là Bồ tát. Đó là cách tự nhiên giữ cân bằng trên

mọi bình diện. Cho nên đừng lo nếu một ngày nào đó

bạn cảm thấy rằng bạn đã đạt tới, nhưng không có

ham muốn giúp đỡ bất kì ai; thế thì đừng áp đặt điều

đó. Áp đặt nó sẽ là xấu, sẽ là bạo hành, sẽ là huỷ diệt.

Nếu nó không có đó thì nó không có đó. Thế thì

Thượng đế hạnh phúc với bạn như bạn vậy.

Nhưng nếu bạn cảm thấy rằng có ham muốn nảy

sinh trong bạn để giúp đỡ, để từ bi, để nắm tay ai đó,

để làm thành chiếc thuyền và đưa mọi người sang bờ

xa hơn, thế thì đừng lo về rắc rối. Rắc rối có đó,

nhưng thế giới cần một số người có thể chỉ ra con

đường, và chỉ những người biết mới có thể chỉ ra con

đường. Ngay cả với họ cũng là khó. Và thế giới này

lại đang vô cùng cần bởi vì nó đang bị những người

ngu dẫn đi. Nó đang bị hướng dẫn bởi các chính

khách và tu sĩ, đủ mọi loại người không biết điều họ

đang làm. Đó là lí do tại sao bao giờ cũng có hỗn độn

như thế.

Con của Mulla Nasruddin về nhà muộn từ trường.

Mulla vồ lấy nó và cho nó một bạt tai, nói, "Đây là

bài học cho con lần sau chớ có về nhà muộn!"

Hôm sau cậu con trai về nhà với quần áo bẩn thỉu

do chơi đùa. Mulla cho nó một bợp, nói, "Đây là bài

học cho con chớ có làm bẩn quần áo!"

Ngày hôm sau cậu con trai về nhà với điểm xấu.

Mulla lại đánh nó, nói, "Đây là bài học cho con chớ

có bị điểm xấu!"

Ngày thứ tư, ngay khi cậu con vừa về tới nhà,

Mulla vồ lấy nó và đánh nó.

"Có chuyện gì thế bố?" cậu con trai vừa hỏi vừa

khóc. "Hôm nay con về nhà đúng giờ, quần áo sạch

sẽ, và có điểm tốt!"

"Đây là bài học cho con," Mulla Nasruddin nói.

"Không có công bằng trên thế giới này!"

Bây giờ đây là những người đã tạo ra thế giới này

và những người đang hướng dẫn nó và những người

đang dạy dỗ và nuôi dưỡng trẻ con mới - để tạo ra

nhiều hỗn loạn hơn trên thế giới.

Vâng, Bồ tát là cần thiết, nhưng con đường của họ

gian nan hơn con đường của a la hán nhiều lắm. Nhà

huyền môn tận hưởng phúc lạc của mình. Ông ấy

giống như hoa hồng đẹp, ngát hương, nhảy múa trong

gió, trong ánh mặt trời, trong mưa, nhưng không quan

tâm về bất kì cái gì khác. Bồ tát đỡ gánh nặng của

người khác trên vai mình. Ông ấy cố gắng giúp những

người không có khả năng nhận sự giúp đỡ nào, người

không chỉ không có khả năng nhận sự giúp đỡ nào mà

còn rất bướng bỉnh trong sự từ chối điều đó của họ,

người cảm thấy bị xúc phạm nếu bạn cố giúp họ.

Đó là lí do tại sao Phật nói: Giữ mồm miệng.

Phải rất có ý thức về điều bạn đang nói, bạn đang

nói điều đó với ai, vì vài lí do. Thứ nhất: chân lí bạn

đã tìm ra không thể được nói ra; ngôn ngữ là không

thích hợp. Bạn chỉ có thể nêu chỉ dẫn, bạn chỉ có thể

làm vài cử chỉ - ngón tay chỉ trăng. Bạn không thể

biện minh cho nó được. Bạn có thể thuyết phục,

nhưng bạn không thể làm cho ai tin được. Nó không

phải là kinh nghiệm của họ, cho nên đừng giận nếu họ

không nghe bạn. Nếu họ đi ngược lại bạn, đừng cảm

thấy rằng họ là bạc bẽo. Họ đơn giản cư xử theo cách

họ có thể cư xử. Bạn phải rất, rất kiên nhẫn với họ.

Bạn phải chấp nhận mọi loại lăng mạ mà họ sẽ ném

vào bạn. Bạn phải chấp nhận đá và hoa của họ. Cho

dù họ giết bạn, bạn phải chết đi mà vẫn yêu mến họ.

Đó là cách Jesus chết: với lời cầu nguyện trên môi

ông ấy với Thượng đế, "Xin tha thứ cho họ, vì họ

không biết điều họ đang làm."

Thứ hai: nói ra chân lí là làm sai nó đi - cho nên

cố gắng nói nó một cách gián tiếp; đừng bao giờ đưa

ra phát biểu trực tiếp về nó. Đừng nói "có Thượng đế"

hay "không có Thượng đế." Những phát biểu trực tiếp

này đã tạo ra nhiều lẫn lộn trên thế giới; thay vì giúp

cho mọi người họ đã tạo ra xung đột, chiến tranh, sát

hại. Đừng đưa ra phát biểu trực tiếp về Thượng đế

hay chân lí hay niết bàn. Bạn phải rất, rất tinh tế. Bạn

phải sống theo cách mà mọi người trở nên nhận biết

rằng bạn đã đạt tới cái gì đó đang bị bỏ lỡ trong cuộc

sống của họ, rằng có cái gì đó nhiều hơn trong cuộc

sống mà không sẵn có cho họ. Đó là mọi điều bạn có

thể làm được.

Đừng nói theo văn xuôi mà nói theo thơ ca. Ca bài

ca - không cần tam đoạn luận. Để cho tiếng cười của

bạn và niềm vui của bạn làm lẩy cò quá trình nào đó

trong họ để cho họ cũng có thể bắt đầu tìm và kiếm.

Để cho bạn là bằng chứng thay vì đưa ra những biện

luận lớn lao. Bồ tát không phải là nhà thượng đế học,

ông ấy không biện minh cái gì cả. Ông ấy là bằng

chứng; ông ấy không đưa ra bằng chứng khác.

Chân lí là cái gì đó bên ngoài lời và bên ngoài

ngay cả nghĩa. Nó gần với âm nhạc hơn. Cho nên để

âm nhạc bao quanh bạn: Giữ mồm miệng... bằng

không, lời của bạn có thể phá huỷ âm nhạc. Im lặng

còn nhiều nhạc tính hơn, mang tính hùng biện nhiều

hơn. Lời cho chân lí một nghĩa nào đó, một cách tự

nhiên, bởi vì lời có nghĩa. Nghĩa đóng khung chân lí,

cái vốn vô hạn.

Cũng giống như khi bạn đang nhìn từ cửa sổ lên

bầu trời sao và cửa sổ của bạn tạo ra khung cho bầu

trời. Bầu trời không có khung; nó bắt đầu ở không

đâu, kết thúc ở không đâu, nhưng bây giờ cửa sổ của

bạn đang tạo ra khung cho bầu trời. Khung đó thuộc

về cửa sổ, nhưng người bao giờ cũng sống bên trong

cửa sổ và không bao giờ đi ra ngoài nó sẽ nghĩ rằng

bầu trời là hình vuông giống như cửa sổ, rằng nó có

cùng hình và dạng.

Mọi người sống trong lời, họ chưa bao giờ biết gì

tới vô lời, cho nên cho họ một kinh nghiệm về vô lời

đi. Giúp họ thiền. Thay vì cho họ học thuyết, cho họ

kinh nghiệm.

Thứ ba: bao giờ cũng nhớ lấy, bất kì điều gì bạn

nói đều nhất định bị hàng triệu người hiểu lầm. Cho

nên đừng cảm thấy bị xúc phạm, đừng cảm thấy giận

dữ, đừng cảm thấy bị đánh giá. Khi họ đang hiểu lầm

bạn, họ đơn giản nói điều gì đó về bản thân họ, không

về bạn. Chừng nào bạn chưa thể bình thản với mọi

loại hiểu lầm đang dồn đống lên bạn, bạn không thể

có ích gì cho họ; thế thì bản thân bạn sẽ cần giúp đỡ.

Hai kẻ cực hippie đang bước đi trên đường làng

quê.

Kẻ hippie này quay sang kẻ hippie kia và hỏi,

"Mày có ỉa ra quần không?"

"Không," người kia đáp.

Đi xa thêm một chút kẻ hippie thứ nhất lại hỏi kẻ

kia, "Mày có chắc mày không ỉa ra quần khôngs?"

"Hoàn toàn chắc," kẻ kia nói.

Đi xa thêm chút nữa kẻ hippie thứ nhất nói, "Lại

đây, cởi quần mày ra và để tao xem."

Khi kẻ kia đang vâng lời, kẻ hippie thứ nhất kêu

lên, "Đấy, tao đã bảo mày thế rồi!"

"Ồ," người kia nói, "tao cứ tưởng mày nói hôm

nay!"

Mọi người hiểu tương ứng theo bản thân họ.

Mulla Nasruddin đi Italy, cho nên tôi bảo anh ta,

"Nasruddin, học chút tiếng Italia đi."

Anh ta nói, "Tôi đã học rồi. Tôi đã học bài học từ

Radha."

Khi anh ta quay về từ Italy anh ta rất giận. Tôi

nói, "Có chuyện gì vậy?"

Anh ta nói, "Một hôm tôi đi-a tới một thị trấn lớn.

Vào buổi sáng, tôi xuống ăn sáng. Tôi bảo-a người

phục vụ, 'Tôi muốn hai miếng bánh mì nướng nước

đái1.'

[1 Mulla phát âm nhầm, piece - miếng bị phát âm thành piss -

nước đái.]

"Cô ấy mang-a cho tôi chỉ mỗi một nước đái. Tôi

bảo cô ấy, 'Tôi muốn hai nước đái.'

"Cô ấy nói, 'Vào nhà xí.'

"Tôi nói, 'Không, cô không hiểu - tôi muốn hai

bãi trên đĩa của tôi.'

"Cô ấy nói, 'Tốt hơn cả ông không nên đái trên

đĩa, ông là đồ chó đẻ!'

"Sau đó tôi đi ăn ở một nhà hàng lớn. Người phục

vụ đem-a cho tôi một cái thìa và con dao, nhưng

không có đéo2.

[2 Mulla phát âm nhầm, fork - cái dĩa bị phát âm thành fuck - đéo.]

Tôi bảo cô ấy, 'Tôi muốn đéo.'

"Cô ấy nói, 'Mọi người đều muốn đéo.'

"Tôi bảo cô ấy, 'Cô không hiểu - tôi muốn đéo

trên bàn.'

"Cô ấy nói, 'Ông tốt hơn cả là không đéo trên bàn,

ông là đồ chó đẻ!'

"Thế là tôi đi về phòng mình trong-a khách sạn và

không có cứt3

[3 Mulla phát âm nhầm, sheet - ga trải giường bị phát âm shit -

cứt.]

trên-a giường tôi. Tôi gọi-a người quản

lí và bảo ông ta, 'Tôi muốn cứt.'

"Ông ta bảo tôi, 'Vào nhà xí.'

"Tôi nói, 'Ông không hiểu - tôi muốn cứt trên

giường.'

"Ông ta nói, 'Tốt hơn cả ông đừng cứt trên

giường, ông là đồ chó đẻ!'

"Tôi ra khỏi khách sạn và người ở quầy nói, 'Chúc

ông an bình.'

"Tôi nói, 'Đái4

[4 Mulla hiểu nhầm, peace - an bình bị nghe âm thành piss - đái.]

lên ông ấy, ông là đồ chó đẻ. Tôi

về nhà đây!'"

Khi bạn học tiếng Italia, tránh Radha ra! Tôi cũng

đã học từ cô ấy, nhưng từ khi Mulla Nasruddin kể cho

tôi, tôi đã thôi học - nó là nguy hiểm!

Mọi người có ngôn ngữ riêng của họ, tâm trí riêng

của họ, định kiến riêng của họ, khái niệm riêng của

họ, hệ thống triết lí, tôn giáo riêng của họ. Khi bạn

nói với họ bạn đang nói với tâm trí đầy rác rưởi; bạn

không nói với ai đó im lặng. Và chừng nào người ta

còn chưa im lặng thì nhất định có hiểu lầm. Do đó

Phật nói: Giữ mồm miệng.

Và lí do thứ tư là: chân lí là cái gì đó mang tính

tồn tại, nó không mang tính triết học. Triết học có thể

nói về; thực tế, bạn không thể làm gì được với triết

học ngoại trừ nói về nó. Nó cứ nói về và về, nó cứ

loanh quanh. Từ 'về' nghĩa là lòng vòng, loanh quanh.

Nhưng chân lí mang tính tồn tại. Bạn phải giúp mọi

người nếm trải nó. Cho nên chỉ nói, nếu bạn thấy rằng

qua việc nói bạn có thể thuyết phục một người thiền,

im lặng.

Đó là nỗ lực rất ngược đời, do đó mới khó. Bạn

phải nói cho mọi người để giúp họ trở nên im lặng.

Bạn phải nói về im lặng bởi vì mọi người không thể

hiểu được im lặng một cách trực tiếp. Điều đó rất ngớ

ngẩn - nói về im lặng, dạy mọi người im lặng - nhưng

điều đó phải được làm, đặc biệt ở lúc bắt đầu.

Thứ hai: Không tự đề cao mình....

Điều đó rất tự nhiên khi bạn trở nên chứng ngộ.

Điều đó không phải là bản ngã, điều đó xảy ra rất tự

nhiên. Nó chẳng liên quan gì tới bản ngã bởi vì nếu

bản ngã vẫn có đó thì bạn không thể trở nên chứng

ngộ được.

Phật nói: Giữ mồm miệng. Không tự đề cao

mình... bởi vì khi bạn trở nên chứng ngộ thì bản ngã

đã biến mất - bạn có thể trở nên chứng ngộ chỉ khi

bạn đã hoàn thành điều kiện đó - nhưng bây giờ kinh

nghiệm này bao la, tràn ngập, cực lạc tới mức nó bắt

đầu tự diễn đạt bản thân nó. Bạn phải học....

Người ta nói về al-Hillaj Mansoor - người đã bị

đóng đinh như Jesus, theo cách còn vô nhân đạo và

độc ác hơn bản thân Jesus - người ta nói về ông ấy

rằng cái ngày ông ấy trở nên chứng ngộ, ông ấy kêu

to, "Ana'l haq - Ta là chân lí! Ta là Thượng đế!"

Thầy ông ấy, Junnaid, cũng có mặt. Ông ấy tới

gần ông này, thì thào vào tai ông này, "Mansoor, giữ

điều đó trong ông thôi. Xin giữ điều đó bên trong

ông! Kìm nó lại! Ta biết rất khó kìm nó lại - nó bao la

thế, gần như không thể nào kìm lại được. Nó tự diễn

đạt bản thân nó. Ta biết ông không thốt ra điều đó, nó

được thốt ra bởi lực không biết nào đó, bởi bản thân

Thượng đế, nhưng dầu vậy ta nói với ông, giữ mồm

miệng!"

Và Mansoor hứa, "Tôi sẽ giữ mồm miệng." Ông

ấy hiểu ra vấn đề, nhưng rồi lặp đi lặp lại ông ấy

quên. Lặp đi lặp lại ông ấy đi tới cùng trạng thái của

ánh sáng, niềm vui, phúc lạc đó, và việc hét to lên -

tiếng gầm của sư tử, như Phật thường gọi nó - lại tới

từ ông ấy mặc cho bản thân ông ấy.

Ông sẽ tới và xin lỗi Junnaid, thầy ông ấy, nhưng

thầy nói, "Mansoor, cái gì đó phải được làm; bằng

không ông sẽ bị rắc rối không cần thiết. Ông có thể là

sự giúp đỡ lớn lao cho nhân loại, nhưng theo cách này

ông sẽ lâm vào rắc rối không cần thiết. Và không chỉ

ông, ông sẽ chấm dứt công việc của ta nữa. Điều đó

xảy ra cho ta nữa, nhưng ta phải kìm nó lại và ông

cũng phải kìm nó lại."

Nhưng Mansoor không có khả năng về điều đó.

Junnaid phái ông ta tới Kaaba trong cuộc hành hương

ba năm. "Có thể trong cuộc hành hương dài ba năm

này, ở cùng nhiều nhà huyền môn, ông ấy có thể bình

thản lại. Kinh nghiệm này mới thế; dần dần ông ấy trở

nên quen với nó." Nhưng ông ấy không thể trở nên

quen với nó được; khi ông ấy quay về ông ấy lại trong

cùng trạng thái đó. Ông ấy bị bắt bởi nhà vua, bởi mọi

người... bởi vì đó là nước Mô ha mét giáo và một

trong những tội ác lớn nhất, tội lỗi lớn nhất là tự gọi

mình là Thượng đế, tuyên bố mình là Thượng đế. Ông

ấy đã bị giết chết.

Trong hàng thế kỉ đã có thảo luận giữa những

người Sufi ai vĩ đại hơn, Junnaid hay Mansoor. Bình

thường người ta sẽ nói Mansoor: ông ấy thực sự là

người tử vì đạo: ông ấy chịu đựng và chịu đựng bằng

cách cười to. Ông ấy chết đi với tiếng cười. Ngay cả

Jesus cũng đã ở vào tình trạng bị từ bỏ chút ít. Khi

chiếc đinh cuối cùng được đóng vào tay ông ấy, ông

ấy đã nhìn lên trời và nói, "Thượng đế ơi, ngài đã từ

bỏ con rồi sao? Ngài đã quên con rồi sao?" Phải đã có

chút ít hoài nghi, chỉ là cái bóng của hoài nghi. Ông

ấy lập tức hiểu ra, ông ấy xin lỗi. Ông ấy nói, "Không,

con xin lỗi. Cứ để ý ngài được thực hiện." Nhưng

trong một khoảnh khắc ông ấy đã ngập ngừng.

Mansoor chưa bao giờ ngập ngừng.

Và ông ấy đã bị giết một cách tàn nhẫn tới mức

việc đóng đinh của Jesus dường như còn rất nhân đạo

nếu so với việc đóng đinh của Mansoor. Đầu tiên

chân ông ấy bị chặt ra, thế rồi tay bị chặt ra, rồi mắt bị

móc ra, rồi lưỡi bị cắt đi, rồi đầu bị chặt ra. Nhưng

ngay cả qua tất cả đau đớn này ông ấy vẫn là tiếng

cười.

Trước khi lưỡi bị cắt, ai đó hỏi, "Sao ông cười?"

Ông ấy nói, "Ta cười bởi vì các ông không thể

phá huỷ được kinh nghiệm của ta; bất kì điều gì các

ông làm đều không liên quan. Và ta đang cười bởi vì

các ông đang giết một người và ta là ai đó khác. Các

ông là những kẻ ngu thế, đó là lí do tại sao ta cười!

Và ta cũng cười Thượng đế. Ta cười ông ấy, 'Ngài

không thể lừa tôi được. Dù ngài tới dưới bất kì dạng

nào tôi đều sẽ nhận ra ngài. Tôi nhận ra ngài trong kẻ

đồ tể người đã chặt chân tôi, người đã chặt tay tôi. Đó

vẫn là ngài đang ở trong người đó, và không ai khác

cả.'"

Thực tế, Junnaid dường như có vẻ hơi chút hèn

nhát; nhiều người nghĩ rằng ông ấy là kẻ có hơi chút

hèn nhát. Sao ông ấy phải bảo Mansoor giữ điều đó

bên trong? Nhưng điều đó là không đúng - ông ấy

không phải là kẻ hèn nhát. Thực tế, ông ấy đã hi sinh

nhiều hơn Mansoor. Hi sinh của Mansoor là hiển

nhiên; hi sinh của Junnaid là không hiển nhiên, nó rất

tinh tế.

Kìm chân lí lại khi nó xảy ra là kì công siêu nhân,

đó là phép màu. Và ông ấy cố kìm nó để cho ông ấy

có thể giúp được mọi người. Ông ấy là Bồ tát còn

Mansoor là a la hán. Ông này không quan tâm gì vì

công việc, ông này không quan tâm gì về bất kì ai

khác. Ông này đã đạt tới, bây giờ không có vấn đề gì.

Cái chết không phải là vấn đề chút nào, ông ấy biết

mình là bất tử.

Junnaid đang làm việc im lặng, trong bóng tối, để

giúp mọi người đang mù. Và bạn không biết đau khổ

của ông ấy. Đau khổ của ông ấy là ở chỗ ông ấy phải

kìm cái gì đó mà không thể kìm nổi.

Phật nói: Không tự đề cao mình.... Tránh bất kì

việc đề cao nào, tránh bất kì công bố nào - trừ phi bạn

thấy nó sẽ có ích, trừ phi bạn thấy nó sẽ chuẩn bị con

đường; thế thì nó là được.

Bản thân Phật đã tuyên bố, "Ta là người chứng

ngộ hoàn hảo nhất." Ông ấy biết rằng điều này sẽ có

ích. Nhưng nếu Jesus mà hỏi ông ấy thì ông ấy sẽ nói,

"Không, kìm nó lại," bởi vì Jesus ở nước sai với

người sai. Tuyên bố ở đó rằng, "Ta là Thượng đế" chỉ

là mời cái chết của bạn, không gì khác.

Jesus chỉ có thể làm việc trong ba năm. Do đó Ki

tô giáo nghèo nàn thế, bởi vì thầy chỉ sống ba năm.

Cho tới năm thứ ba mươi của mình ông ấy vẫn làm

việc cho chứng ngộ riêng của mình. Khi ông ấy thực

sự ra khỏi các tu viện, bắt đầu làm việc, và thế rồi

sống chỉ ba năm. Đến ba mươi ba tuổi ông ấy bị đóng

đinh. Bây giờ, thời gian ba năm là không đủ chút nào.

Phật đã làm việc trong bốn mươi hai năm; ngay cả

điều đó cũng không đủ.

Nếu Jesus mà hỏi Phật, Phật sẽ bảo ông ấy, "Giữ

im lặng, làm việc im lặng. Cứ là giáo sĩ bình thường

thôi. Không cần tuyên bố rằng ông là Con của

Thượng đế. Ông biết điều đó, thế là đủ; và Thượng đế

biết điều đó, thế là đủ."

Nhưng ở Ấn Độ, bản thân Phật đã tuyên bố điều

đó. Đó là một chỗ hoàn toàn khác, đó là bầu khí hậu

hoàn toàn khác. Trong hàng thế kỉ chư phật đã xảy ra

trên đất nước này, họ đã chuẩn bị con đường; do đó

việc tuyên bố là rất đơn giản, không có vấn đề gì.

Dầu vậy Phật nói: Phải rất thận trọng, bởi vì chức

năng của ông là làm sáng con đường. Đừng tạo ra

nhiều rắc rối cho những người theo ông. Họ đã trong

rắc rối rồi, họ đang sống trong địa ngục. Bạn phải làm

cho họ nhẹ gánh.

vì lời của ông là dịu ngọt.

Nếu lời của bạn bắt nguồn từ im lặng, từ bi, hiểu

biết, từ trống rỗng tuyệt đối - nếu lời của bạn không

tới từ ai đó phi thường mà tới từ người bình thường -

thế thì chúng sẽ dịu ngọt và chúng sẽ giúp mọi người

sâu sắc hơn bất kì cái gì khác.

Theo chân lí của đạo.

Chân lí của đạo là gì? Phật bao giờ cũng ủng hộ

kinh nghiệm và không bao giờ ủng hộ tin tưởng. Ông

ấy nói: Bất kì điều gì ông đã kinh nghiệm, bây giờ đi

theo nó. Đừng tin vào nó bởi vì nó đã được chư phật

khác nói; theo nó chỉ khi ông đã kinh nghiệm và theo

nó chỉ tới mức độ mà ông đã kinh nghiệm. Nếu ông

theo nó tới mức độ đó, ánh sáng của ông sẽ chiếu xa

hơn một chút phía trước và ông sẽ có khả năng theo

ánh sáng đó thêm chút nữa và chút nữa. Và chỉ bằng

ngọn đèn nhỏ người ta có thể du hành qua hàng nghìn

dặm; người ta có thể đi qua đêm tối của linh hồn rất

dễ dàng, dù nó dài bao lâu.

Và nhớ đừng bao giờ tìm lối tắt. Niềm tin là lối

tắt; kinh nghiệm không phải là lối tắt.

Mới vài ngày trước đây một võ sư trưởng, Shiva,

đã bị ngã từ một bức tường. Bây giờ, một võ sĩ đạo

được mọi người coi là không thể bị ngã không dậy

được! Cho nên tôi mới hỏi, "Chuyện gì xảy ra?" Tôi

đi tới biết rằng anh ấy đang cố tìm lối tắt từ nhà này

sang nhà khác bằng việc đi qua tường. Và lối tắt hoá

ra là lối tắt dài - anh ta bị mười hai mũi khâu!

Tránh lối tắt; lối tắt không ích gì đâu. Không có

lối tắt trong cuộc sống. Cuộc sống phải được sống

trong tất cả tính toàn bộ của nó. Lối tắt nghĩa là bạn

đang né tránh vài điều. Bạn đang nhảy vào kết luận,

né tránh quá trình, né tránh vài bước. Bạn có thể đạt

tới kết luận, nhưng nó sẽ không là kết luận của bạn.

Và nếu nó không phải là kết luận của bạn thì nó chẳng

có giá trị gì, nó được vay mượn. Bạn giống như con

vẹt. Ngay cả vẹt cũng có thể rất thông thái, nhưng

điều đó không làm cho nó thành phật.

Rastus, một anh bạn da đen Harlem, sôi nổi, quyết

định rằng anh ta cần một con vẹt lai cho căn hộ xuất

sắc của mình.

Sau khi tìm một thời gian, anh ta cuối cùng cũng

tìm thấy một cửa hàng sinh vật cảnh bán vẹt biết nói.

Người chủ cửa hàng chỉ cho anh ta một con giá hai

mươi nhăm đô la.

"Vẹt muốn ăn bánh không?" Rastus hỏi, con vẹt

không đáp lại. "Con vẹt này không biết nói," Rastus

nói, "Tôi muốn có con vẹt biết nói. Ông có con nào

khác không?"

Người chủ nói có một con bẩy mươi nhăm đô la.

Ông ta đem ra một cái chuồng từ sau quầy và mở ra

có một con chim trông hấp dẫn nhất.

"Vẹt muốn ăn bánh không?" Rastus lại hỏi, và lại

không có đáp ứng lại. "Con vẹt này không biết nói,"

Rastus quát lên bực bội, "Ông không có con nào biết

nói sao?"

Người chủ tiệm bảo anh ta rằng ông ấy quả còn

giữ một con khác trong phòng sau, nhưng nó rất đắt -

hai trăm năm mươi đô la.

Ông ấy đem ra con chim đẹp nhất mà Rastus đã

từng thấy, và anh ta kích động kêu lên, "Vẹt muốn ăn

bánh không?" Không có đáp ứng. Rastus phát rồ.

"Ông có hay ông không có con chim biết nói?" anh ta

hỏi.

Người chủ tiệm ngần ngại và rồi đáp rằng ông có

một con chim hoàn toàn ngoại lệ, và mặc dầu ông ấy

không lên kế hoạch bán nó, nhưng với hai nghìn đô la

thì ông ấy có thể xem xét việc bán. Ông ta đưa Rastus

vào một phòng ở tận cùng cửa tiệm. Ở đó, được bao

quanh bởi một trong những thư viện đầy đủ nhất mà

Rastus đã từng thấy, là con vẹt đó. Nó đang đậu trên

ghế bọc dưới chiếc đèn đọc, sách ôm trong lòng, đeo

kính, mặc chiếc áo vét ám khói và đi dép lê. Nó đang

hút tẩu thuốc, chìm sâu trong việc đọc sách.

"Vẹt muốn ăn bánh không?" Rastus hỏi nín thở từ

cửa vào.

Chậm rãi, từ từ con vẹt nhìn lên từ trang sách và

nhăn nhó đáp lại, "Người da đen có muốn ăn dưa hấu

không?"

Cho dù thế thì vẹt vẫn là vẹt thôi!

Chừng nào bạn còn chưa kinh nghiệm, bất kì

niềm tin nào bạn có cũng đều tuyệt đối vô giá trị. Do

đó Phật nói: Theo chân lí của đạo. Ông ấy ngụ ý rằng

điều bạn đã kinh nghiệm bằng việc đi trên con đường

của thiền, phản ánh lên nó. Trước khi bạn bắt đầu

giúp người khác, hãy phản ánh theo kinh nghiệm đã

xảy ra cho bạn qua thiền - bởi vì kinh nghiệm nó là

một điều, diễn đạt nó là điều hoàn toàn khác. Thiền

không khó thế khi diễn đạt kinh nghiệm của thiền và

thuyết phục mọi người thiền. Các nhà huyền môn đã

từng có nhiều, các bậc thầy có rất ít.

Thầy có cái chạm vàng. Khoảnh khắc thầy chạm

vào bạn, cái gì đó trong bạn bắt đầu trưởng thành.

Thầy giống như người làm vườn có ngón tay mầu lục.

Phản ánh lên nó.

Làm nó thành của riêng ông.

Hấp thu nó một cách toàn bộ đi. Thiền lúc ban

đầu chỉ là kinh nghiệm và bạn là người kinh nghiệm.

Dần dần, dần dần khoảng cách giữa người kinh

nghiệm và kinh nghiệm biến mất; nó cần thời gian.

Chừng nào kinh nghiệm và người kinh nghiệm còn

chưa trở thành một, bạn không thể giúp được người

khác. Chừng nào thiền còn chưa trở thành chính nhịp

tim đập của bạn, bạn sẽ không có khả năng thuyết

phục được ai cả. Điều đó gần như là việc dụ dỗ! Làm

nó thành của riêng ông.

Sống nó.

Trước khi bạn bắt đầu giúp cho người khác, sống

nó theo mọi cách có thể đi. Bước đi có tính thiền, ăn

có tính thiền, ngồi có tính thiền, ngay cả ngủ cũng có

tính thiền. Để thiền bắt đầu lan toả khắp cuộc sống

của bạn. Nó phải trở thành hiện tượng hai mươi tư

giờ, giống như thở - nhiều tới mức bạn không cần nhớ

tới thiền. Nó trở thành của riêng của bạn nhiều tới

mức nó bao giờ cũng có đó như dòng chảy ngầm. Chỉ

thế thì bạn mới có thể giúp đỡ.

Sống nó.

Nó bao giờ cũng nâng đỡ ông.

Đừng ngoảnh mặt đi với điều được cho ông...

Nhớ lấy, thiền sẽ cho bạn nhiều vui vẻ, nhiều

phúc lành, nhiều món quà sẽ giáng xuống bạn.

Đừng ngoảnh mặt đi với điều được cho ông.

Đừng là kẻ keo kiệt trong việc nhận. Mọi người keo

kiệt trong việc cho, họ keo kiệt cả trong việc nhận

nữa. Khi món quà lớn giáng xuống bạn, bạn co lại,

bạn lùi lại; bạn trở nên sợ bởi vì những món quà đó

lớn tới mức bạn cảm thấy bạn có thể bị nhận chìm.

Khi phúc lạc tới với bạn nó giống như trận lụt.

Do đó Phật nói: Đừng ngoảnh mặt đi với điều

được cho ông... bởi vì nếu bạy quay mặt đi bạn sẽ bỏ

lỡ cơ hội này, và nó có thể không gõ cửa nhà bạn lần

nữa trong thời gian dài. Người ta chẳng bao giờ biết

khi nào khoảnh khắc đó sẽ tới nữa. Cho nên bất kì khi

nào cái gì đó xảy ra cho bạn trong thiền, mở trái tim

bạn ra. Cho dù bạn sợ cái không biết, dầu vậy vẫn đi

vào trong cái không biết. Và đi với nhảy múa, đi một

cách vui vẻ, bởi vì trong thiền không cái gì sai có thể

xảy ra cho bạn. Trong thiền, chỉ phúc lành là có thể.

không với lấy điều được cho người khác...

Nhưng đó là cách tâm trí chúng ta vận hành. Ngay

cả khi tâm trí mất rồi, ngay cả khi rắn không có đó, nó

vẫn để lại dấu vết của nó trên cát. Mọi người trở nên

quan tâm nhiều hơn tới điều đang diễn ra cho người

khác. Thay vì nhận cái đang xảy ra cho họ, họ bắt đầu

quan tâm tới điều đang xảy ra cho người khác; họ bắt

đầu cố gắng vì những điều khác.

Nhớ lấy, cái đang xảy ra cho bạn là của bạn và cái

không xảy ra cho bạn, bạn còn chưa chín cho điều đó;

và nó không thể xảy ra được trước thời của nó, cho

nên đừng khao khát điều đó. Chờ đợi. Giữ cho bản

thân mình kiên nhẫn nhất có thể được. Nhận bất kì cái

gì tới và đừng khao khát về cái không tới trên con

đường của bạn; nó sẽ tới.

...Sợ rằng ông quấy rối yên tĩnh của người khác.

Bạn có thể quấy rối yên tĩnh của mình theo hai

cách. Một: bằng việc từ chối cái tới với bạn, do sợ. Và

hai: bằng việc đòi hỏi cái đã không tới với bạn, do

tham vọng.

Nói lời cám ơn...

Với tất cả những cái tới với bạn, hãy biết ơn.

...với điều đã được trao cho ông,

Dù nó nhỏ thế nào.

Thuần khiết, đừng bao giờ nao núng.

Bất kì khi nào Phật dùng từ 'thuần khiết' ông ấy

bao giờ cũng ngụ ý hồn nhiên. Đừng trở nên thông

thái. Cho dù bạn đã đi tới biết bản thân mình, đừng

trở nên thông thái. Cho dù bạn đã đương đầu với

Thượng đế, đừng trở nên thông thái. Dù bạn đã biết

bất kì cái gì, quên hết tất cả về nó đi. Lại trở thành

hồn nhiên. Bao giờ cũng vẫn trong trạng thái của

không biết, thế thì nhiều điều hơn nữa sẽ xảy ra cho

bạn.

Điều thường xảy ra khi bạn đi vào trong thiền là ở

chỗ cái gì đó xảy ra, nhưng bạn không cảm thấy biết

ơn; ngược lại, bạn cảm thấy đây là quyền của bạn -

thực tế nó đáng phải xảy ra lâu trước đây rồi. Bạn là

người xứng đáng thế, đức hạnh thế, linh thiêng thế, và

bạn đã làm nhiều điều thế; sao bạn phải biết ơn?

Đó là cách tiếp cận sai; điều đó nghĩa là bạn đang

dừng quá trình lại. Trong việc biết ơn nhiều điều nữa

sẽ tới với bạn. Cho nên cho dù một thoáng nhìn nhỏ

bé tới với bạn, cảm thấy biết ơn đi. Chỉ một tia sáng

và cảm thấy biết ơn, cứ dường như toàn thể mặt trời

đã tới với bạn. Và toàn thể mặt trời sẽ tới, đi theo tia

sáng này. Nhưng nếu bạn không biết ơn, bạn trở nên

bị đóng; thậm chí tia sáng này sẽ biến mất và bạn sẽ

lại trong bóng tối của mình, trở lại trong bóng tối của

bạn.

Và nhớ bao giờ cũng vẫn còn trong trạng thái

không biết. Đừng bắt đầu trở nên thông thái, đừng bắt

đầu triết lí hoá, đừng bắt đầu tạo ra hệ thống ý nghĩ.

Điều này xảy ra; đó là lí do tại sao Phật đang làm cho

các Bồ tát của ông ấy tỉnh táo.

Tôi muốn bạn nhớ những lời kinh này bởi vì

nhiều người trong các bạn - ít nhất năm mươi phần

trăm trong các bạn - đang trở thành Bồ tát chẳng

chóng thì chầy. Cho nên nhớ lấy những lời kinh này -

chúng dành cho bạn. Tôi không quan tâm tới

Dhammapada, tôi quan tâm tới các bạn! Tôi nói cho

các bạn! Dhammapada chỉ là cái cớ. Tôi muốn nói

cùng điều đó cho bạn, nhưng Phật đã nói chúng tuyệt

vời, thơ ca tới mức tôi không thấy cần gì để nói chúng

theo cách riêng của tôi; tôi chỉ có thể bình luận về ông

ấy - bởi vì chân lí là vĩnh hằng và nó vẫn còn như thế

mãi mãi.

Tránh triết lí hoá khi bạn đi vào thế giới của thiền.

Nó nảy sinh, nó tới một cách không tránh được - rất

mong muốn triết lí - bởi vì nhiều điều hay thế đang

xảy ra và bạn muốn tạo ra hệ thống ý nghĩ quanh

chúng. Tất cả những triết học trên thế giới đã nảy sinh

theo cách này. Cái gì đó, chỉ chút ít, đã xảy ra, và họ

bắt đầu tạo ra lâu đài lớn từ cái đó. Một viên gạch có

đó là họ làm ra ngôi nhà lớn, cung điện, chỉ cung điện

tưởng tượng, từ nó. Ngay cả gạch cũng mất đi trong

lâu đài tưởng tượng đó.

Ba con chuột nhỏ ngồi trước lỗ chuột trên cánh

đồng. Chúng đang trong tâm trạng buồn bã, khi chúng

im lặng quan sát chim bay từ cây nọ sang cây kia. Sau

một chốc một con chuột nói, "Được là chim và bay

trên bầu trời thì thật tuyệt vời."

Cả ba con chuột ủ ê về điều đó trong một lúc lâu

và chúng trở nên buồn hơn.

Cuối cùng, con chuột thứ hai nói, "Là một con

chin đã rất hay rồi, nhưng sẽ còn hay hơn để là hai

con chim. Nếu mình là hai con chim mình có thể bay

sau bản thân mình."

Lũ chuột nghĩ về điều này thậm chí con lâu hơn

và chúng thậm chí trở nên buồn hơn trước.

Sau một lúc lâu con chuột thứ ba nói, "Điều tuyệt

vời nhất phải là ba con chim, bởi vì thế thì mình có

thể quan sát bản thân mình bay sau bản thân mình!"

Đây là điều triết học là gì. Mọi người cứ nghĩ mãi

về những thứ chẳng ở đâu cả. Nhưng bạn có thể tận

hưởng điều đó. Triết học được nhiều người thích thú

bởi lẽ đơn giản là mọi người đều có thể đảm đương

được triết lí. Nếu ba con chuột kia có thể đảm đương

được điều đó, còn nói gì tới con người? Mọi người

đều là triết gia.

Phật cực lực chống lại triết lí. Ông ấy nói triết lí

làm biến chất, nó làm cho bạn thành thông thái -

không làm bạn thành người biết, nó làm bạn thành

thông thái. Nó đem vào cái không thuần khiết; nó làm

ô nhiễm bản thể bên trong của bạn. Thuần khiết và

đừng bao giờ vấp ngã khỏi thuần khiết của bạn.

Nếu bạn muốn giúp người khác, những lời kinh

này phải được ghi nhớ thường xuyên. Thiền về chúng,

làm cho chúng thành của riêng bạn, sống chúng.

Chúng bao giờ cũng nâng đỡ bạn; chúng là sự nuôi

dưỡng lớn lao.

Đủ cho hôm nay.

**************************************************************************************************************

#2Vào đúng khoảnh khắc

Câu hỏi thứ nhất:

Thưa Thầy kính yêu,

Sao tôi không thể nhận tính chất sannyas? Tôi cứ

nghĩ và nghĩ và nghĩ.

Richard, tính chất sannyas chẳng liên quan gì tới

suy nghĩ chút nào. Đó là con đường của người điên

tới chứng ngộ! Bằng suy nghĩ bạn không bao giờ đi

tới quyết định khi có liên quan tới tính chất sannyas.

Suy nghĩ, nhiều nhất, chỉ có thể giúp bạn trì hoãn nó,

và bạn có thể cứ trì hoãn nó tới vô hạn. Suy nghĩ, thực

tế, là quá trình trì hoãn.

Tính chất sannyas không phải là cái gì đó bạn có

thể nghĩ về. Bạn không biết nó, bạn đã không kinh

nghiệm nó. Suy nghĩ đi vào bên trong thế giới của cái

đã biết; nó không có cách tiếp cận nào hướng tới cái

không biết, không bắc cầu với cái không biết. Và tính

chất sannyas là không biết với bạn. Bạn có thể đã thấy

các sannyasin; điều đó không có nghĩa là bạn biết tính

chất sannyas là gì. Bằng việc thấy người yêu bạn

không thể biết tình yêu là gì. Bằng việc thấy thiền

nhân bạn không thể biết thiền là gì. Có những điều chỉ

được biết bằng việc tồn tại.

Tính chất sannyas không phải là hiện tượng triết

lí, nó là cái gì đó có tính tồn tại. Bạn phải lấy cú

nhảy... thế rồi nghĩ về sau, thế rồi nghĩ nhiều tuỳ

thích, tới mãn nguyện của trái tim bạn. Nhưng một

khi bạn đã nếm trải nó, thế thì không có cách nào

quay lui.

Suy nghĩ là một phần của cái đầu còn tính chất

sannyas xảy ra trong tim; nó là chuyện tình. Nó hoàn

toàn điên, điên như tình yêu hay thậm chí còn điên

hơn, bởi vì tình yêu xảy ra về mặt sinh học còn tính

chất sannyas xảy ra về mặt tâm linh.

Tính chất sannyas xảy ra chỉ cho rất ít, rất hiếm

người. Tình yêu là bình thường; nó xảy ra cho con

vật, cho chim chóc, ngay cả cho cây cối. Nó không có

gì đặc biệt. Tôn giáo là tuyệt đối siêu tự nhiên: nó

vượt qua thế giới bản năng của bạn. Nhưng trái tim

chúng ta không vận hành, còn cái đầu không thể làm

việc được ở chỗ trái tim.

Đó là điều bạn đang làm đấy, Richard. Bạn có thể

cứ làm nó, nhưng bạn sẽ không bao giờ đi tới thế giới

của tính chất sannya. Cái đầu bất lực; nó không thể

hành động được bởi vì nó không bao giờ tự phát.

Chính chỉ là cái đầu hành động. Cái đầu chỉ phản ứng;

cái đầu chỉ cứ lặp lại quá khứ. Bạn đã không là

sannyasin trước đây, cho nên làm sao bạn có thể nghĩ

về nó được? Bạn có thể nghĩ gì về nó? Không có cơ

sở để bắt đầu.

Chỉ trái tim mới đủ dũng cảm lấy cú nhảy vào

trong cái không biết, vào trong cái không quen thuộc.

Nhưng với cái không quen thuộc hàng triệu khả năng

mở ra. Với cái không biết bạn bắt đầu trưởng thành.

Với cái biết bạn cứ đi theo vòng tròn. Có chút ít trái

tim đi, đừng nhiều ý nghĩ thế.

Richard, tên của bạn nghĩa là cứng rắn. Siêu việt

lên trên tính cứng, trở nên mềm mỏng thêm chút ít, nữ

tính thêm chút ít, tròn trĩnh thêm chút ít đi. Mất đi vài

góc nhọn sẽ cực kì có ích. Logic là cứng rắn, tình yêu

là mềm mại. Logic là hình vuông, tình yêu là đường

cong! Logic bao giờ cũng là kẻ hèn nhát; nó nghĩ và

nghĩ trước khi nó hành động. Và, thực tế, lúc thời

gian tới để hành động thì đã quá muộn rồi; khoảnh

khắc đó đã qua rồi.

Cuộc sống không tĩnh tại. Nó sẽ không đứng tĩnh

lặng vì bạn đâu, nó sẽ không đợi bạn đâu. Ai biết

được? Ngày mai tôi có thể dừng cho tính chất sannyas

- thế thì sao? Thế thì bạn sẽ lỡ tầu! Và nhớ lấy, tính

chất sannyas tôi đang trao cho bạn không ai khác có

thể trao cho bạn được. Thu lấy chút dũng cảm đi.

Hôm nay là ngày đó rồi!

Hai bộ xương trong góc phòng đang càu nhàu về

trái tim, bụi bặm, chán chường.

"Dẫu sao đi chăng nữa chúng ta đang ở đây để

làm gì?" một bộ xương hỏi.

"Chết tiệt nếu tao biết," bộ xương thứ hai đáp.

"tao sẽ đi ngay nếu tao có lòng."

#2Câu hỏi thứ hai:

Thưa Thầy kính yêu,

Tôi sợ sống còn hơn chết. Điều đó là có thể

không?

Yogananda, điều đó phải là có thể nếu nó xảy ra

cho bạn! Bạn có nghĩ rằng bạn đang xoay xở làm điều

không thể được không? Thực tế, đó là hiện tượng rất

thông thường, chẳng có gì phi thường về nó cả - rất

bình thường. Không ai sợ chết hơn sống. Sợ chết

không là gì nếu so với sợ sống.

Đó là lí do tại sao hàng nghìn người quanh trái đất

tự tử, và nhiều người nữa nghĩ nhiều lần trrong đời họ

về tự tử. Nhiều người thử nhưng bị ngăn cản; nhiều

người thử nhưng nửa vời. Nhưng rất ít người thử

sống. Con số người thử sống cuộc sống còn ít hơn

nhiều so với những người thử tự tử hay thực tế tự tử.

Người sống cuộc sống trở thành vị phật. Bạn có

bao nhiêu chư phật? Họ có thể được đếm trên đầu

ngón tay bạn. Chỉ thỉnh thoảng mới có người như

Jesus, Zarathustra, Lão Tử. Hàng thế kỉ qua đi; hàng

triệu người tới và đi, thế rồi chỉ có một người thực sự

sống, sống đích thực, sống tới cực điểm, sống bạo

dạn. Thế thì những người khác làm gì? Cuộc sống của

họ không phải là cuộc sống; ngược lại, nó là việc né

tránh cuộc sống thường xuyên. Họ đơn giản tự bảo vệ

bản thân mình khỏi cuộc sống. Họ đang ẩn trong lỗ

đen nhân danh an ninh, an toàn, thoải mái. Họ đơn

giản cố gắng lảng tránh cuộc sống.

Bạn có thể quan sát bản thân mình - bạn có sống

không? Bạn có thể quan sát người khác quanh bạn -

họ có thực sự sống không? Mọi người chỉ trở nên

nhận biết rằng họ đã sống khi họ chết. Khi cái chết gõ

cửa bạn, bỗng nhiên bạn trở nên nhận biết: "Trời đất,

mình đã sống! Và bây giờ cái chết đã tới." Nhưng khi

cái chết tới, cả triệu người cảm thấy được nhẹ gánh -

nhẹ gánh nặng, về những lo âu, về sợ sống thường

xuyên.

Chết không có sợ trong nó. Khi bạn không còn

nữa, có thể có sợ nào được? Chết không thể làm đau

bạn được - sống có thể làm đau bạn. Sống làm đau

bởi vì người ta cần rất thông minh, tỉnh táo để sống.

Nếu bạn sống vô ý thức, sống nhất định là kinh

nghiệm đau đớn, phiền não. Sống có thể là cực lạc

nữa, nhưng chỉ khi bạn tỉnh táo, nhận biết. Sống là cơ

hội, nhưng nó đòi hỏi; nó là thách thức, nó là phiêu

lưu, phiêu lưu từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc

khác vào nơi chưa hề có bản đồ.

Bạn không thể là kẻ bắt chước nếu bạn thực sự

muốn sống. Bạn không thể là người Ki tô giáo và

người Hindu và người Mô ha mét giáo. Nếu bạn thực

sự muốn sống bạn phải là bản thân mình - đơn giản là

bản thân mình. Bạn không thể là bất kì ai khác được;

đó là cách né tránh cuộc sống thực.

Thượng đế chưa bao giờ lặp lại. Ông ấy tạo ra

từng và mọi cá nhân duy nhất, tuyệt đối duy nhất. Bạn

không được chế tạo như xe hơi trên dây chuyền lắp

ráp. Do đó Jesus sẽ không bao giờ có lần nữa, Krishna

sẽ không bao giờ có lần nữa, dù họ đẹp đến đâu.

Thượng đế không tin vào bản sao; ông ấy bao giờ

cũng tạo ra các cá nhân. Ông ấy là đấng sáng tạo và

không đấng sáng tạo nào muốn lặp lại.

Nhưng đó là điều bạn đã từng được bảo phải làm,

và bạn đang làm điều đó. Ai đó cố gắng giống

Krishna hay giống Khổng Tử hay giống Mohammed;

những người này đã trở thành lí tưởng của bạn. Thế

thì bạn cứ bỏ lỡ cái bạn đang là - và đó là cách duy

nhất bạn có thể là. Bạn trở thành rởm. Vâng, là rởm

dường như có chút ít thoải mái hơn là nguyên bản, bởi

vì bạn có thể điều chỉnh theo xã hội rởm dễ dàng hơn,

thuận tiện hơn. Khi mọi người đều giả như bạn, bạn

có thể dễ dàng trở thành một phần của đám đông. Khi

bạn thực và đích thực, sống cuộc sống theo cách riêng

của bạn, theo ánh sáng riêng của bạn, không bản kế

hoạch tổng thể nào do người khác trao cho bạn - bởi

cha mẹ, bởi tu sĩ, bởi chính khách - khi bạn đang đi

mọi ngày vào trong cái không biết không có ý tưởng

về cái gì sẽ xảy ra, với sáng tạo lớn lao, nhạy cảm,

nhận biết, nhưng không có ý thức hệ cố định; khi bạn

thám hiểm những đồng cỏ mới hơn, những đỉnh mới

của bản thể, thế thì chắc chắn bạn không còn là một

phần của đám đông.

Và đám đông ghét cá nhân bởi lẽ đơn giản là họ

khác biệt thế. Nó ghét họ bởi vì họ là người nổi dậy.

Nó ghét họ bởi vì họ không thể bị bắt làm nô lệ một

cách dễ dàng; thực tế, không thể nào bắt họ làm nô lệ

được. Nó ghét họ vì thông minh của họ, nó ghét họ vì

niềm vui của họ, nó ghét họ vì tính sáng tạo của họ.

Nó muốn phá huỷ họ.

Yogananda, đó là lí do tại sao mọi người sợ sống:

sống có nhiều nguy hiểm. Phần sống đầy hiểm nguy.

Người ta chẳng bao giờ biết cái gì sẽ xảy ra khoảnh

khắc tiếp; mọi thứ đều có thể. Bạn không thể sống với

mong đợi được bởi vì cuộc sống không có nghĩa vụ

phải hoàn thành ham muốn của bạn. Bạn có thể sống

với trái tim cởi mở, nhưng bạn không thể sống với

mong đợi được. Bạn càng có nhiều mong đợi, bạn sẽ

càng thất vọng.

Và thế rồi bạn có thể đi lạc lối. Trong chết, không

ai có thể đi lạc lối; trong sống bạn có thể đi lạc lối.

Trong sống bạn có thể phạm lầm lỗi, sai lầm. Thực tế,

nếu bạn thực sự muốn sống bạn sẽ phải phạm nhiều

lỗi và nhiều sai lầm. Nhớ lấy điều đó: đừng bao giờ sợ

phạm lỗi và sai lầm; bằng không bạn sẽ bị tê liệt bởi

vì sợ. Cứ phạm sai lầm và lỗi đi. Chỉ nhớ một điều:

đừng phạm cùng sai lầm lần nữa. Một lần là đủ. Phát

minh ra sai lầm mới, khám phá ra lỗi lầm mới! Đừng

cứ rơi vào cùng rãnh - tìm ra rãnh mới! Bằng việc

phạm sai lầm, bằng việc đi lạc lối, bạn trưởng thành.

Đó là cách duy nhất để trưởng thành.

Sống là nguy hiểm; chết là rất ấm cúng, rất thoải

mái. Nằm ra trong nấm mồ của mình, có nguy hiểm

nào? Không có vấn đề gì, không lo âu. Bạn không thể

phá sản, vợ bạn không thể rời bỏ bạn, bạn không thể

chết thêm được nữa. Bạn an toàn thế trong chết! Sống

là không an toàn - bất kì cái gì cũng có thể. Sống đầy

ngẫu nhiên. Người điên nào đó có thể chặt đầu bạn...!

Tôi đã nghe:

Một nhà phân tâm lớn đang đọc, ngồi trong vườn

dưới gốc cây, và con gái ông ta, mới tám, chín tuổi

đang chơi với bạn trên bãi cỏ. Bỗng nhiên nó đánh

vào đầu đứa bạn bằng gậy cứng tới mức máu bắt đầu

chảy ra từ đầu. Nhà phân tâm chạy xô tới, nhưng

trước khi ông ta có thể nói được cái gì, con gái ông ta

quay sang ông ta và hỏi, "Bố ơi, bây giờ bảo con sao

con lại làm điều này!"

Nó phải đã nghe lặp đi lặp lại rằng bố nó cứ đi tìm

lí do cho mọi hành động, lí do vô ý thức và thế này và

thế nọ, cho nên nó hỏi, "Bây giờ bảo con sao con lại

làm điều này."

Sống có thể làm bất kì cái gì và bạn thậm chí

không thể hỏi tại sao: bạn phải chấp nhận điều đó.

Không có ai trả lời. Do đó có nỗi sợ, Yogananda. Bạn

nói, "Tôi sợ sống hơn là chết."

Mọi người đều sợ sống hơn; đó là lí do tại sao mọi

người chết. Mọi người chết gần như vào độ tuổi ba

mươi. Tất nhiên, họ không được đưa vào nấm mồ của

mình vào lúc đó; họ đi tới nấm mồ của mình quãng

tuổi bẩy mươi, tám mươi. Năm mươi năm giữa cái

chết của họ và việc họ vào trong nấm mồ chỉ là việc

kéo lê. Chính phép màu là thấy người chết vẫn bước

đi, nói, làm đủ mọi thứ. Điều đó chắc chắn là phép

màu!

Yêu cuộc sống đi. Đó là lí do tại sao với tôi sống

là tôn giáo duy nhất, thượng đế duy nhất. Sống cuộc

sống trong tính toàn bộ của nó. Và cái đẹp là ở chỗ

nếu bạn sống cuộc sống trong tính toàn bộ của nó thì

không có cái chết. Thân thể nhất định chết đi một

ngày nào đó, nhưng bạn không phải là thân thể. Nếu

bạn đã sống cuộc sống của mình một cách toàn bộ,

nếu bạn đã yêu cuộc sống của mình một cách toàn bộ,

bạn đã bắt gặp điều vĩnh hằng trong mình. Đó là gặp

gỡ với Thượng đế. Đó là đương đầu với chân lí siêu

việt trên thời gian. Và biết nó là biết phúc lạc; biết nó

là biết tất cả những cái đáng biết.

#2Câu hỏi thứ ba:

Thưa Thầy kính yêu,

Thầy gọi chỗ này là quán rượu ạ? Quán rượu

sao? Tôi đã bị bám vào quanh quán rượu này

trong hai năm và tôi vẫn không thể nào có được

bia đúng!

Niranjan, Perce bước vào chỗ mà bữa tối cuối

cùng đã được tổ chức, ngồi xuống bàn và nói với

người phục vụ, "Cho tôi rượu scotch và soda!"

"Tôi rất tiếc, thưa ngài," người phục vụ nói, "mọi

thứ chúng tôi phục vụ chỉ là rượu thôi."

"Được, cho tôi một miếng thịt nướng ngon vào

khoai tây bỏ lò và salad."

"Rất tiếc, nhưng mọi thứ chúng tôi phục vụ là

bánh mì thôi."

"Lạ quá! chỉ bánh mì và rượu! Anh chàng tổ chức

bữa tiệc này đáng phải bị đóng đinh!"

Niranjan, xin đừng đóng đinh tôi! Đây không phải

là bữa tối cuối cùng! Và nếu bạn không thể tìm được

bia đúng, lí do là vì bạn không phải là người đúng.

Bạn đã đầy bia rồi, làm sao có thể tìm được bia đúng?

Làm sao bạn có thể xoay xở biết cái gì là đúng và cái

gì là sai? Tôi không nghĩ rằng mạch máu của Niranjan

có máu - chỉ toàn bia! Tới Trung tâm y tế và khám

xem sao. Bạn không thể có máu trong mạch máu của

mình được: bạn thực sự đầy bia!

Nếu kẻ ăn thịt người nào đó tìm thấy bạn thì họ sẽ

nhảy múa vui vẻ lắm. Họ sẽ tìm ra bia đúng! Và họ sẽ

không giết bạn hay nấu bạn đâu - họ sẽ nhấm nháp

bạn!

Michael đón một cô tóc vàng ở quán rượu và sau

vài chầu rượu họ đi về phòng khách sạn và làm tình.

Vào giữa đêm Michael thức dậy ra nhà tắm và để ý

rằng người đàn bà đã tháo chân gỗ ra và để nó bên

cạnh giường.

Khi cô gái ngủ, Michael bắt đầu đùa với lò xo và

phanh của chân gỗ đó và cuối cùng thấy mình đã làm

rời chân gỗ ra và không thể nào gắn lại được nữa.

Anh ta đi vào trong phòng và dừng một người

nồng nặc hơi rượu, nói, "Ông có thể giúp tôi được

không? Tôi có một người đàn bà trong phòng với một

chân bị rời ra và tôi dường như không thể gắn nó lại

được."

"Đồ chết tiệt!" người say nói, "Tôi có một người

đàn bà trong phòng tôi với cả hai chân rời ra và tôi

thậm chí không thể tìm được cái phòng phải gió đó!"

#2Câu hỏi thứ tư:

Thưa Thầy kính yêu,

Người tìm kiếm có phải chịu khổ không tránh khỏi

trên đường không?

Deva Louis, điều đó tất cả còn tuỳ. Trưởng thành

trong bản thân nó không có khổ; khổ tới từ việc chống

cự của bạn hướng tới trưởng thành. Khổ do bạn tạo ra

bởi vì bạn chống lại liên tục, bạn không cho phép nó

xảy ra. Bạn sợ đi toàn bộ với nó; bạn chỉ đi nửa vời.

Do đó mới có khổ - bởi vì bạn trở nên bị phân chia,

bạn trở nên chia chẻ. Một phần của bạn hợp tác và

một phần của bạn chống lại nó, kháng cự lại nó. Xung

đột này bên trong bạn tạo ra đau khổ.

Cho nên vứt bỏ ý tưởng này đi - nhiều người có ý

tưởng đó - rằng bạn phải khổ nếu bạn định trưởng

thành. Điều đó là cực kì vô nghĩa. Nếu bạn hợp tác

một cách toàn bộ thì không có khổ chút nào. Nếu bạn

đang trong buông bỏ, thay vì đau khổ bạn sẽ hân

hoan. Mọi khoảnh khắc của nó đều sẽ là khoảnh khắc

của phúc lạc và phúc lành.

Cho nên đừng đổ trách nhiệm lên sự trưởng thành.

Tâm trí chúng ta rất thủ đoạn và tinh ranh: nó bao giờ

cũng đổ trách nhiệm lên ai đó, lên cái gì đó; nó chưa

bao giờ nhận trách nhiệm về bản thân nó. Bạn là

nguyên nhân của khổ.

Nếu bạn có thể nhớ được ba điều.... Điều thứ nhất

là: vứt bỏ quá khứ nếu bạn muốn trưởng thành, bởi vì

chính từ quá khứ mà chống cự nảy sinh. Bạn bao giờ

cũng phán xét từ quá khứ. Quá khứ không còn nữa,

nó tuyệt đối không liên quan, nhưng nó cứ can thiệp.

Bạn cứ phán xét theo nó; bạn cứ nói, "Cái này là đúng

và cái kia là sai," và tất cả những ý tưởng đó về đúng

và sai, tất cả những phán xét đó đều tới từ cái gì đó đã

chết. Phần chết của bạn vẫn còn đè nặng lên bạn tới

mức nó không cho phép bạn di chuyển.

Vứt bỏ quá khứ hoàn toàn đi và bạn sẽ ngạc

nhiên: nhiều khổ đã biến mất.

Điều thứ hai cần nhớ là: đừng tạo ra mong đợi về

tương lai. Nếu bạn mong đợi, thế thì bạn lại sẽ tạo ra

khổ, bởi vì mọi sự sẽ không xảy ra theo ý bạn đâu;

mọi sự sẽ xảy ra theo cái toàn thể. Sóng, con sóng nhỏ

trong đại dương, không thể là nhân tố quyết định

được. Đại dương quyết định; sóng phải trong trạng

thái buông bỏ. Nếu sóng muốn đi sang phương đông,

thế thì sẽ có rắc rối, thế thì sẽ có đau đớn. Nếu gió

không thổi về phương đông, nếu đại dương không sẵn

lòng, thế thì sóng sẽ làm gì? Nó sẽ khổ. Nó sẽ gọi đó

là số mệnh, nó sẽ gọi đó là hoàn cảnh, điều kiện xã

hội, cấu trúc kinh tế, xã hội tư bản, văn hoá tư sản, vô

ý thức Freud... và bây giờ bạn sẽ gọi nó là đau đớn

phát triển. Nhưng bạn đơn giản dịch chuyển trách

nhiệm.

Điều thực là ở chỗ bạn khổ từ mong đợi của bạn.

Khi chúng không được hoàn thành - và chúng chẳng

bao giờ được hoàn thành cả - thất vọng nảy sinh, thất

bại nảy sinh, và bạn cảm thấy bị bỏ mặc, cứ dường

như sự tồn tại không chăm nom gì tới bạn.

Vứt bỏ mong đợi về tương lai đi. Vẫn còn cởi mở,

vẫn còn sẵn có cho bất kì cái gì xảy ra, nhưng đừng

lập kế hoạch trước. Đừng tạo ra ý tưởng tâm lí, cố

định nào về tương lai - rằng mọi sự phải như thế này -

và nhiều khổ nữa sẽ biến mất. Hai điều này là nguyên

nhân gốc rễ của khổ.

Và điều thứ ba là: phong trào Tiềm năng Con

người thiếu cái gì đó bản chất. Nó cố giúp bạn trưởng

thành, nhưng nó lại chưa có khả năng tạo ra không

gian thiền trong bạn. Cho nên có vật lộn thường

xuyên, nỗ lực, ý chí, nhưng không có thảnh thơi,

không có nghỉ ngơi. Do đó điều thứ ba cần được nhớ

và mọi khổ sẽ biến mất: tạo ra năng lượng thiền, tạo

ra không gian thiền trong bạn. Phương pháp phương

Tây thiếu cái gì đó rất bản chất.

Đó là lí do tại sao ở đây trong công xã của tôi nỗ

lực là để dùng mọi phương pháp phương Tây bên

cạnh mọi phương pháp phương Đông. Đây có thể là

chỗ duy nhất trên toàn thế giới ngày nay nơi Đông và

Tây thực sự gặp gỡ, và không gặp gỡ theo cách ngoại

giao như họ gặp nhau ở Liên hợp quốc. Ở đây họ thực

sự hội nhập - không chính trị, không ngoại giao, bởi

vì gặp gỡ ngoại giao không phải là gặp gỡ, nó chỉ là

mẽ ngoài, nó là rởm. Chính gặp gỡ tình yêu đang xảy

ra ở đây. Lần đầu tiên Đông và Tây ở trong chuyện

tình.

Phương Tây đã phát triển vài phương pháp rất

quan trọng: động thái, đương đầu, nguyên thuỷ, sinh

năng và nhiều thứ khác. Phương Đông cũng đã phát

triển nhiều phương pháp: ngồi thiền, Vipassana, xoáy

tít Sufi, yoga, Mật tông. Cách tiếp cận của họ khác

nhau, khác tới mức cả hai chỉ có một nửa của một

toàn thể; do đó cả hai đều thiếu cái gì đó. Phương

pháp phương Đông có thể tạo ra không gian thiền,

nhưng họ làm cho bạn hướng nội tới mức bạn bắt đầu

trốn khỏi cuộc sống; mọi phương pháp phương Đông

đề đã chứng tỏ là kẻ trốn chạy trong quá khứ. Bạn

muốn đi vào tu viện, bạn muốn đi lên Himalaya, bạn

muốn đi vào hang động ở đâu đó và sống một mình.

Họ dạy bạn cách ở một mình, vui vẻ một mình -

nhưng thế thì cái gì đó bị lỏ lỡ.

Sống cũng là quan hệ, sống cũng là cùng nhau,

sống cũng là giao cảm. Điều hay là phúc lạc khi bạn

một mình, nhưng đó chỉ là một nửa câu chuyện; bạn

cũng nên phúc lạc khi bạn ở cùng với ai đó. Và khi

bạn phúc lạc với ai đó, phúc lạc đạt tới đỉnh cao hơn.

Khi bạn một mình bạn giống như người độc tấu sáo;

khi bạn phúc lạc với nhau trong quan hệ, âm nhạc

giống dàn nhạc nhiều hơn.

Phương Tây đã tạo ra các phương pháp cho bạn

sức thúc đẩy nhiều hơn tới hướng ngoại. Họ cho phép

bạn dùng các phương pháp, kĩ năng để quan hệ, và để

tận hưởng mối quan hệ. Chúng là các phương pháp

yêu, nhưng cái gì đó bị lỡ. Bạn tận hưởng quan hệ,

nhưng bất kì khi nào bạn một mình... và về bản chất

bạn đều một mình. Bạn được sinh ra một mình và bạn

sẽ chết đi một mình, và tại cốt lõi sâu nhất của bản thể

mình, bạn bao giờ cũng một mình. Cho nên trên bề

mặt bạn vẫn còn hạnh phúc, nhưng sâu bên dưới dòng

chảy tinh tế của khổ vẫn tiếp tục. Bạn không thể

đương đầu với bản thân mình được, bạn không thể đối

diện với bản thân mình, bạn không thể gặp gỡ bản

thân mình.

Phương Tây đã thất bại bởi vì mọi thứ nó đã phát

triển đều hướng ngoại; phương Đông đã thất bại bởi

vì tất cả những điều nó đã phát triển đều hướng nội.

Và con người không hướng ngoại không hướng nội.

Tôi muốn điều được nói công khai ra là phân loại

của Carl Gustav Jung là tuyệt đối sai. Con người

không thể bị phân chia dễ dàng thế thành các phân

loại - rằng ai đó là hướng ngoại và ai đó là hướng nội

- bởi vì con người là toàn bộ, một toàn thể. Con người

có bên trong và con người có bên ngoài, và cả hai đều

phải được nuôi dưỡng và cả hai đều phải được hoàn

thành.

Cho nên nếu bạn chỉ theo phương pháp phương

Tây bạn sẽ trải qua nhiều đau đớn bởi vì bạn sẽ không

có khả năng tạo ra không gian thiền qua chúng. Nếu

bạn chỉ theo phương pháp phương Đông bạn sẽ có

khả năng tạo ra không gian thiền, nhưng bạn sẽ trở

nên tuyệt đối vô dụng trong thế giới, và bạn sẽ bỏ lỡ

sự giầu có tới trong giao cảm với các sinh linh khác.

Nỗ lực của tôi ở đây là để tạo ra sự tổng hợp đầu

tiên giữa hướng ngoại và hướng nội và giúp con

người trở nên có khả năng của cả hai, cùng nhau,

đồng thời, dễ dàng chuyển từ hướng ngoại sang

hướng nội và từ hướng nội sang hướng ngoại tới mức

không cần phân chia con người thành các phân loại

như thế. Con người có thể trở nên linh động thế.

Điều đó đơn giản như khi bạn ra khỏi nhà mình:

bạn không nghĩ rằng bạn đang trở nên hướng ngoại

khi đi ra khỏi nhà mình. Khi bạn cảm thấy trời lạnh

bên trong nhà và ngoài nhà không có mây và trời

nắng, bạn bước ra, nhưng bạn không nghĩ chút nào.

Bạn không quyết định, "Bây giờ mình muốn là người

hướng ngoại." Hay khi mặt trời trở nên quá nóng và

bạn bắt đầu cảm thấy bức, bạn không ra quyết định

một cách có chủ ý, "Mình phải đi vào. Bây giờ mình

muốn là người hướng nội." Không, khi mặt trời quá

nóng bạn đơn giản đi vào nhà! Và khi bên trong quá

lạnh bạn đi ra ngoài. Đi ra khỏi nhà hay đi vào nhà

không phải là vấn đề chút nào, bởi vì bạn tự do với

bên trong và bên ngoài.

Nỗ lực của tôi ở đây là để giúp bạn được tự do với

bên trong và bên ngoài, bởi vì bạn không là bên trong

không là bên ngoài, bạn là cái gì đó siêu việt trên cả

hai. Cái bên trong và cái bên ngoài chỉ là các bộ phận

của tính cách của bạn; nó là ngôi nhà trong đó bạn

sống mà có cả bên ngoài và bên trong. Nhưng nhận

biết của bạn không có bên trong và không có bên

ngoài.

Cho nên ba điều này cần được nhớ: vứt bỏ quá

khứ, vứt bỏ mong đợi tương lai, và điều thứ ba, tạo ra

sự tổng hợp giữa hướng ngoại và hướng nội... và mọi

khổ biến mất.

Deva Louis, khổ không phải là không thể tránh

được đối với người tìm kiếm tâm linh. Khổ của bạn là

vì bạn không nhận biết về trách nhiệm riêng của

mình. Không phải bởi vì sự trưởng thành mà bạn khổ.

Khổ của bạn là vì bạn vô ý thức về sự chống đối của

mình, về khuynh hướng quá khứ của bạn, về mong

đợi tương lai của bạn, và bạn vô nhận biết rằng bạn

không có không gian thiền nào bên trong mình.

#2Câu hỏi thứ năm:

Thưa Thầy kính yêu,

Liệu có thể bỏ lỡ người quí hoàn hảo không?

Điều đó là có thể không?

Prem Maitri, điều đó tuỳ thuộc vào bạn có ý thức

thế nào. Nếu bạn có ý thức thì không thể bỏ lỡ được.

Nếu bạn thực sự biết người quí hoàn hảo, nếu bạn

nhận ra nó, nếu nó là linh ảnh riêng của bạn, hiểu biết

riêng của bạn, thì không thể nào bỏ lỡ nó được.

Nhưng nó có thể không như vậy. Bạn có thể đã nghe

người khác nói, "Đây là người quí hoàn hảo"; điều đó

có thể là hiểu biết được vay mượn. Thế thì đấy không

chỉ là khả năng bỏ lỡ nó, điều tuyệt đối không tránh

khỏi là bạn bỏ lỡ nó - không thể nào không bỏ lỡ nó.

Nếu bạn bắt gặp vị phật và bạn bày tỏ kính trọng

chỉ bởi vì người khác đang bày tỏ kính trọng của họ,

bởi vì người khác đang nói, "Ông ấy là vị phật, ông ấy

đã chứng ngộ, ông ấy đã thức tỉnh," bạn sẽ lỡ. Nhưng

nếu bạn cho dù có một thoáng nhìn của riêng mình

vào bản thể của vị phật, chỉ chút ít hương vị môi

trường của ông ấy, chỉ một kinh nghiệm nhỏ về

hương thơm của ông ấy, thế là đủ; không thể nào bỏ

lỡ được. Thế thì không lực nào trên thế giới có thể

làm sao lãng được bạn. Nhưng nó phải là kinh nghiệm

riêng của bạn. Và chúng ta vô ý thức tới mức chẳng

cái gì dường như là kinh nghiệm riêng của chúng ta.

Mọi người nói rằng Jesus là Christ, cho nên bạn

tin vào điều đó. Nhưng những người đã đóng đinh

ông ấy, họ chẳng thể thấy được cái gì trong ông ấy cả;

bằng không, bạn có cho rằng có khả năng cho họ

đóng đinh một người như Jesus không? Họ đã đóng

đinh ông ấy dễ dàng thế. Chẳng cảm thấy vấn đề gì;

lương tâm của họ không bị quấy rối. Họ đã làm điều

đó cũng như họ vẫn thường giết các tội phạm mọi

năm. Ngày họ đóng đinh Jesus họ cũng đã đóng đinh

hai kẻ cắp. Họ đối xử với cả ba người này theo cùng

cách; thực tế, họ đối xử với kẻ cắp theo cách còn nhân

đạo hơn vởi vì kẻ cắp giống họ nhiều hơn.

Hàng nghìn người đã tụ tập lại để xem. Không ai

than, không ai khóc, không ai có đau đớn gì trong tim.

Ngay cả các đệ tử riêng của Jesus cũng trốn hết, sợ

rằng họ có thể bị bắt.

Khi mọi người đã đi rồi - khi màn trình diễn đã

xong rồi - và Jesus đã gần chết trên cây thập tự, ba

người lính ở đó chơi bài. Họ có bổn phận canh giữ để

không ai có thể đánh cắp xác chết của Jesus. Cho nên

chỉ ngồi dưới cây thập tự họ chơi bài!

Và Maitri, bạn hỏi, "Liệu có thể bỏ lỡ người quí

hoàn hảo không?"

Ba người lính kia là người hệt như bạn thôi. Tất

nhiên, bây giờ bạn sẽ nghĩ, "Những người lính kia

phải đã hoàn toàn ngu xuẩn, những kẻ tội đồ lớn, vô ý

thức, không biết điều họ đang làm - chúng ta không

thể làm điều đó," bởi vì bây giờ bạn đã nghe tuyên

truyền trong hai nghìn năm liên tục rằng Jesus là

Christ. Nhưng người Do Thái vẫn không nghĩ rằng

ông ấy là Christ; họ vẫn nghĩ rằng ông ấy là lang băm,

rằng ông ấy là kẻ lừa dối, rằng ông ấy là cứu tinh giả.

Tuyên truyền liên tục trong hai nghìn năm đã không

ích chút nào; họ vẫn níu bám lấy ý tưởng của họ.

Bạn có cho rằng bạn sẽ nhận ra Phật không? Bây

giờ, tất nhiên - bởi vì bây giờ hai mươi nhăm thế kỉ đã

qua rồi và Phật đã trở nên ngày càng lớn hơn, khổng

lồ thế; ông ấy lừng lững trên đường chân trời như mặt

trời mọc đẹp đẽ - bạn không thể nào tin được rằng

mọi người có thể đã bỏ lỡ ông ấy. Nhưng họ đã bỏ lỡ

ông ấy! Ngay cả bố của ông ấy cũng không thể nhận

ra được rằng ông ấy đã chứng ngộ; ngay cả vợ của

ông ấy cũng không thể nào nhận ra được rằng ông ấy

đã chứng ngộ. Chỉ có vài người có dũng cảm nhận ra

ông ấy - bởi vì nhận ra ông ấy nghĩa là bạn phải thay

đổi kiểu sống của mình, nhận ra ông ấy nghĩa là bạn

không thể vẫn còn như cũ chút nào. Nhận ra vị phật

nghĩa là bạn đang thức dậy.

Quán cà phê lớn đang đông đúc. Một hàng người

dài mang khay di chuyển chậm chạp tới quầy thì ai đó

hô lên, "Cháy! Nhà McGinty cháy rồi!"

Khay đĩa vỡ lảng xoảng khi một người Italia ở

đầu hàng nhảy bổ điên cuồng ra khỏi nhà hàng, chạy

quanh góc phố, và sang bên kia phố, đâm sầm vào

mọi người và xô ngã nhiều người khi anh ta tìm lối

chạy về nhà.

Thế rồi, bất ngờ, sau khi anh ta thoát chết trong

gang tấc nhiều lần, người này dừng lại, vỗ tay lên đầu

và gào lên, "Này, tôi đang làm gì nhỉ? Tên tôi không

phải là McGinty!"

Mọi người đang sống trong vô ý thức thế. Nói gì

tới việc nhận ra vị phật? - bạn thậm chí không biết

mình là ai!

Maitri, có thể bỏ lỡ người quí hoàn hảo nếu bạn

không nhận biết. Nhưng nếu bạn nhận biết thì không

thể nào bỏ lỡ được. Tất cả đều tuỳ thuộc vào nhận

biết của bạn.

#2Câu hỏi thứ sáu:

Thưa Thầy kính yêu,

Thượng đế có thực sự làm ra thế giới không, và

chỉ trong sáu ngày?

Sujata, nhìn vào thế giới, một điều là chắc chắn:

nó đã được làm ra trong vội vàng. Bất kì ai đã làm ra

nó, nó trong đống lộn xộn tới mức nó phải đã được

làm ra trong sáu ngày. Liệu Thượng đế có làm ra nó

hay không thì tôi không thể nói được, bởi vì nếu bạn

nhìn vào thế giới nó dường như giống sáng tạo của

quỉ hơn là của Thượng đế!

Con người có tính phá huỷ, bạo hành, điên khùng

tới mức rất không thể nào có chuyện Thượng đế đã

làm ra kiểu tâm trí này. Hoặc là quỉ làm ra nó hoặc đó

chỉ là lần đầu tiên Thượng đế làm ra nó cho nên ông

ấy đã phạm phải nhiều sai lầm. Và ông ấy đã trở nên

sợ việc sáng tạo riêng của mình tới mức ông ấy đã

không thử lại nữa. Dường như ông ấy đã trốn mất rồi!

Nhìn điều mình đã làm, ông ấy phải đã trở nên khiếp

đảm.

Câu chuyện là ở chỗ ông ấy đã làm ra cấy cối và

núi non và dòng sông và con vật. Vào ngày thứ sáu

ông ấy làm ra con người và kể từ đó ông ấy đã không

làm cái gì nữa. Dường như con người đã đưa ông ấy

về ý thức của ông ấy: "Mình đang làm gì nhỉ?" Ông

ấy đơn giản dừng lại một cách tuyệt đối.

Nhưng, Sujata, sao những câu hỏi như vậy lại làm

bạn bận tâm? Nó chẳng phải là việc của bạn! Một

điều là chắc chắn: bạn đã không làm ra nó, cho nên

sao bạn phải lo nghĩ? Bạn không chịu trách nhiệm, tôi

không chịu trách nhiệm - tôi đã không làm ra nó. Cho

nên sao chúng ta phải phí thời gian của mình với nó?

Có nhiều người khùng người chẳng có gì để làm - để

điều đó cho họ nghĩ đi. Đây là chủ đề lớn lao; người

ta có thể cứ nghĩ về chúng mãi mãi; chúng không

chấm dứt. Đó là lí do tại sao triết lí bắt đầu nhưng

không bao giờ chấm dứt, thượng đế học bắt đầu

nhưng không bao giờ chấp dứt. Nó đi trong vòng tròn.

Từng câu trả lời đều đem tới nhiều câu hỏi hơn nó trả

lời.

Nếu tôi nói, "Vâng, Thượng đế đã làm ra nó," thế

thì lập tức nhiều câu hỏi sẽ nảy sinh: "Tại sao ông ấy

đã làm ra nó ngay chỗ đầu tiên? Sao ông ấy không hỏi

chúng ta liệu chúng ta có muốn được làm ra hay

không? Điều này dường như là hành độc độc đoán

thế, không dân chủ chút nào - mọi người được làm ra

mà thậm chí không hỏi họ! Và tại sao ông ấy làm ra

kiểu thế giới này khi ông ấy là toàn năng, toàn diện,

toàn thức? Ông ấy phải đã thấy điều gì sắp xảy ra,

ông ấy phải thấy tương lai chứ. Ông ấy phải đã thấy

rằng sẽ có Genghis Khan và Tamerlane và Adolf

Hitler và Mussolini và Tojo; ông ấy phải đã thấy tất

cả những người này chứ. Ông ấy phải đã thấy rằng

con người sẽ đánh nhau hàng nghìn cuộc chiến tranh.

Ông ấy phải đã thấy rằng chẳng chóng thì chầy con

người sẽ khám phá ra bom nguyên tử và bom khinh

khí và tia chết và đủ thứ linh tinh khác. Thế thì tại sao

ông ấy đã tạo ra thế giới này? Ông ấy có là bạo chúa

không? Ông ấy có thích thú mọi khổ sở này không?

Và cả triệu người sống trong khổ thế - và ông ấy tiếp

tục làm gì? Ông ấy không thể tới và giúp được sao?"

Trong kinh sách có nói... trong Shrimad

Bhagavadgita, Krishna tuyên bố: Ta sẽ tới bất kì khi

nào có quá nhiều khổ sở. Thế chưa đủ sao, nỗi khổ

mà con người đang sống bây giờ? Khi nào ông ấy sẽ

tới? Và ông ấy làm gì khi ông ấy thực sự tới? Ông ấy

đã chẳng giúp người nào. Thực tế, vào thời của ông

ấy đã diễn ra cuộc chiến lớn nhất ở Ấn Độ. Nếu

chúng ta tin vào kinh sách, biết bao nhiêu người đã

chết trong cuộc chiến đó... toàn thể Ấn Độ đã không

thể chứa được nhiều người thế. Thậm chí bây giờ toàn

thế giới chỉ chứa nhiều hơn ba lần. Đó phải đã là cuộc

chiến nào đó! Ngày nay cuộc chiến như vậy chắc đã

là còn một người trong ba người; vào những ngày đó,

năm nghìn năm trước, dân số không lớn thế. Nó có

thể đã là tận cùng của toàn thể nhân loại. Đó là loại

giúp đỡ gì vậy?

Và Thượng đế tới trong Jesus: ngài chỉ phái đứa

con duy nhất của ngài tới cứu nhân loại. Không ai

dường như đã được cứu. Jesus thậm chí đã không thể

cứu được bản thân mình - ông ấy đã bị đóng đinh! Vị

cứu tinh bị đóng bởi những người mà ông ấy đã tới;

ông ấy đã tới để cứu họ.

Cả nghìn câu hỏi sẽ nảy sinh. Bỏ những câu hỏi

đó cho người điên đi.

Hai bạn tù của viện tâm thần Michigan đang tán

gẫu trong phòng giải trí. Người điên thứ nhất nói,

"Đừng nói với ta, ta là Napoleon!"

"Ông ngụ ý gì vậy, ông là Napoleon à?" người

điên thứ hai hỏi.

"Ta bảo ông đừng nói với ta. Ta là Napoleon."

"Làm sao ông biết ông là Napoleon?"

"Thượng đế bảo ta, ta là Napoleon."

Một tiếng nói nhỏ bé lanh lảnh cất ra từ góc

phòng, "Ta không nói thế!"

Cứ để những vấn đề thượng đế học như thế cho lũ

điên!

Một số khách thăm tới nhà thương điên được

người gác đưa đi quanh.

"Ông thấy người đàn ông ở chỗ kia không?"

người gác nói. "Anh ta nghĩ anh ta là Trời."

Một trong những khách thăm tiến tới người điên

và hỏi, "Ông có thực sự làm ra trái đất này trong bẩy

ngày không?"

Người điên cười khẩy vào ông ấy, "Ta không

trong tâm trạng nói tới công việc!"

Sujata, đây không thực sự là những câu hỏi tôn

giáo đâu, mặc dầu người tôn giáo đã từng nói về

những câu hỏi này trong hàng thế kỉ - bởi vì tôn giáo

đã từng bị người mất trí chi phối hàng thế kỉ.

Những câu hỏi tôn giáo thực liên quan tới bạn, với

vô ý thức của bạn và cách biến đổi vô ý thức của bạn

thành ý thức. Tôn giáo thực không phải là siêu hình;

nó được bắt rễ trong tâm hồn, nó có tính tâm hồn, bởi

vì tôn giáo thực nghĩa là cách siêu việt lên trên tâm

trí. Chừng nào bạn chưa hiểu tâm trí bạn không thể

siêu việt lên trên nó được.

#2Câu hỏi thứ bẩy:

Thưa Thầy kính yêu,

"Giữ mồm miệng," thầy nói.

Khó thay! Gần như không thể được cho người

Italia. Cách tiếp cận của tôi tới Bồ đề tâm trong

những ngày này được chứa trong câu chuyện nhỏ

này mà đã từng ám ảnh tôi trong nhiều tháng:

Có người nhỏ bé này (bất kì ai) mà tôi gặp trên

phố (bất kì đâu) và người đó rất khổ, giống như

mọi người ở mọi nơi... và thấy tôi sau một thời

gian dài, người đó nói, "Này, anh trông khá thế!"

"Hừ," tôi đáp, "tôi muốn nói cùng điều đó với

anh, nhưng anh trông buồn thế!"

"Này, anh biết cuộc đời tôi đấy... Tôi cảm thấy

khổ thế. Nhưng anh thì sao? Sao anh trông rạng

ngời thế?"

"Thế này," tôi nói với anh ta bằng một nụ cười,

"tôi đã tìm ra thầy."

"À!" anh ta nhìn tôi một cách buồn bã. "và sao

anh lại không bảo tôi?"

Cho nên xin thầy, thầy và các anh chàng khác,

Phật, đừng bảo tôi giữ mồm miệng. Tôi không thể

chịu được anh chàng nhỏ bé cứ gõ cửa ngay cả

khi tôi đang nhảy múa, và hỏi, "Sao anh không

bảo tôi?"

Sarjano, bây giờ bạn đã bảo anh ấy rồi, điều gì

xảy ra? Người nhỏ bé đó chưa tới tôi. Chỉ việc bạn

bảo người đó thì sẽ không tạo ra khác biệt gì đâu;

người đó đơn giản nghĩ rằng bạn điên.

Người khổ nghĩ rằng nếu bạn trông phúc lạc thì

bạn điên. Họ không thể tin được rằng bất kì ai cũng

có thể phúc lạc; điều đó ở bên ngoài việc hiểu thấu

của họ. Toàn thể cuộc sống của họ là khổ thế, làm sao

họ có thể tin được có khả năng nào của việc được

phúc lạc? - trừ phi bạn điên. Nếu bạn bảo họ rằng bạn

đã tìm thấy thầy họ có thể không nói gì trước mặt bạn,

nhưng sau lưng bạn họ sẽ cười bạn; họ sẽ nghĩ cái gì

đó đã đi sai. Họ sẽ không tin bạn. Làm sao người ta

có thể trở nên phúc lạc bằng việc tìm ra thầy được?

Họ không thể thấy ra được mối quan hệ họ hàng nào

giữa vấn đề của họ và việc tìm ra thầy. Nếu vợ của họ

chì chiết họ tới chết, làm sao việc tìm ra thầy sẽ thay

đổi được điều đó? Bây giờ thầy sẽ chì chiết bạn còn

hơn! Nếu họ khổ do ác mộng - và mọi người đều khổ

từ ác mộng, ngày nọ, ngày kia - làm việc tìm ra thầy

sẽ giúp được sao? Họ không thể hiểu được nghĩa nào

của phát biểu này.

Tôi có thể hiểu được khó khăn của bạn, Sarjano.

Rất khó giữ im lặng khi bạn biết câu trả lời, nhưng

một phần của việc là Bồ tát là học nghệ thuật im lặng.

Để cho họ hỏi đi hỏi lại. Để cho họ cảm thấy rằng

phúc lạc của bạn không phải chỉ là cái gì đó điên rồ,

rằng phúc lạc của bạn là cái gì đó thực, đích thực. Cứ

để họ cảm thấy điều đó theo cách riêng của họ. Để họ

tới và gõ cửa nhà bạn lặp đi lặp lại.

Chỉ vào đúng khoảnh khắc, khi bạn thấy rằng họ

có thể hiểu được, khi bạn cảm thấy rằng trái tim họ

cởi mở, khi bạn thấy niềm khao khát thực, niềm mong

ước trong họ, khi việc tìm kiếm đã nảy sinh trong họ,

chỉ thế thì mới nói với họ; bằng không bạn sẽ đơn

giản làm phí hơi mình. Và nếu bạn cứ nói với mọi

người và không ai lắng nghe, chẳng chóng thì chầy

bạn sẽ cảm thấy rất mệt mỏi về toàn thể sự việc.

Phật là phải - rằng anh chàng kia gần như bao giờ

cũng đúng. Tất nhiên, ông ấy không nói cho người

Italia! Đó không phải là vấn đề của ông ấy, đó là vấn

đề của tôi! Nhưng tôi biết cách xoay xở điều đó.

Chân lí khăng khăng rằng nó phải được nói ra,

mặc dầu nó không thể được nói ra - đó là điều ngược

đời - nhưng nó khăng khăng rằng nó phải được nói ra.

Khi bạn biết và bạn thấy rằng người khác có thể

được giúp, không thể nào cưỡng lại được cám dỗ nói

cho họ - nhưng đó là phần của việc là Bồ tát.

Ai đó khác đã hỏi: "Thưa Thầy kính yêu, thầy nói

năm mươi phần trăm số người trở thành a la hán và

năm mươi phần trăm trở thành Bồ tát. Dầu vậy thầy

nói đi nói lại rằng có nhiều nhà huyền môn mà rất ít

thầy - dường như có mâu thuẫn trong đó...?"

Không có mâu thuẫn nào trong đó cả. Vâng,

dường như có đấy, nhưng chỉ dường như thôi. Không

phải tất cả Bồ tát đều là thầy. Bồ tát là người cố giúp

người khác; thầy là người thành công trong việc giúp

người khác. Chỉ cố không có nghĩa là bạn sẽ thành

công. Nhiều người cố, rất ít người thành công. Bất kì

ai đạt tới chân lí đều nhất định bị cám dỗ nói nó. Nếu

người đó theo bản chất không phải là a la hán thì

người đó sẽ cố nói nó cho từng người và mọi người,

và người đó sẽ bị coi là dở hơi. Trao đổi là nghệ thuật

khó, và trao đổi chân lí tối thượng là hiện tượng khó

nhất trên thế giới. Thầy là người chờ cho tới đúng

thời.

Nhiều người đã hỏi tôi tại sao tôi giữ im lặng mặc

dầu tôi đã trở nên chứng ngộ năm 1953. Trong gần

hai mươi năm tôi chưa bao giờ nói điều gì về nó cho

bất kì ai, trừ phi ai đó đích thân hoài nghi về nó, trừ

phi ai đó nói với tôi về hoài nghi của người đó,

"Chúng tôi cảm thấy rằng cái gì đó đã xảy ra cho ông.

Chúng tôi không biết nó là gì, nhưng một điều là chắc

chắn: rằng cái gì đó đã xảy ra và ông không còn là

cùng người như chúng tôi đang là - và ông đang che

giấu điều đó."

Trong hai mươi năm đó không quá mười người đã

hỏi tôi, và cho dù tôi đã né tránh họ nhiều nhất có thể

được trừ phi tôi cảm thấy rằng ham muốn của họ là

chính đáng. Và tôi chỉ nói với họ khi họ đã hứa giữ bí

mật điều đó. Và họ tất cả đều hoàn thành điều đó. Bây

giờ họ tất cả đều là sannyasin, nhưng họ tất cả đều

hoàn thành điều đó, họ giữ nó là điều bí mật. Tôi nói,

"Ông đợi đấy. Đợi cho đúng khoảnh khắc. Chỉ thế thì

tôi sẽ công bố nó."

Tôi đã học nhiều từ chư phật quá khứ. Nếu Jesus

mà giữ yên tĩnh hơn chút ít về việc là con của Thượng

đế thì chắc đã ích lợi cho nhân loại hơn nhiều. Tôi đã

thấy ra vấn đề là chừng nào tôi chưa dừng việc du

hành trong cả nước tôi sẽ không tuyên bố về nó; bằng

không tôi sẽ bị giết - bạn chắc đã không ở đây.

Có lần tôi đã chấm dứt việc du hành, trộn lẫn vào

đám đông, chuyển từ thị trấn này sang thị trấn khác....

Trong hai mươi năm liên tục tôi đã di chuyển, và đã

không có một vệ sĩ nào. Shiva và các võ sĩ đạo của

anh ấy còn chưa tới! Và tôi thường xuyên trong nguy

hiểm. Đá ném vào tôi, giầy ném vào tôi.

Tôi tới một thị trấn sau khi du hành hai mươi bốn

giờ trên tàu hoả và đám đông không cho tôi xuống ga;

họ buộc tôi quay về. Đánh nhau xảy ra sau đó giữa

những người muốn tôi xuống tàu và những người

không muốn tôi xuống, ít nhất là vào thị trấn của họ.

Nếu tôi mà công bố điều đó tôi chắc đã bị giết rất

dễ dàng. Sẽ chẳng có vấn đề gì trong điều đó; nó sẽ

đơn giản thế. Nhưng trong hai mươi năm tôi đã giữa

tuyệt đối im lặng về điều đó. Tôi đã tuyên bố điều đó

chỉ khi tôi thấy rằng bây giờ tôi đã thu thập đủ người

có thể hiểu được điều đó. Tôi đã thu thập được đủ

người, những người của tôi, người thuộc về tôi. Tôi

tuyên bố điều đó chỉ khi tôi biết rằng bây giờ tôi có

thể tạo ra thế giới nhỏ riêng của tôi và tôi không còn

quan tâm tới đám đông và quần chúng và dân chúng

ngu xuẩn.

Sarjano, có khó khăn đấy. Tôi có thể hiểu được

khó khăn của bạn. Nhưng xin giữ cái mồm to của bạn

ngậm lại - người Italy hay không Italy! Bằng không

bạn sẽ đơn giản bị coi là dở hơi. Và nếu bạn không

thể giữ được mồm đóng lại, thế thì tôi sẽ tuyên bố,

"Anh ấy dở hơi!" Thế thì chẳng ai sẽ nghe bạn. Thế

thì bạn có thể cứ nói với những người nhỏ bé này,

"Tôi đã tìm thấy thầy," nhưng họ sẽ nói, "Thầy nói

ông dở hơi!"

#2Câu hỏi cuối cùng:

Thưa Thầy kính yêu,

Sao mọi thứ đều lộn tùng phèo ở đây?

Anurati, nó phải thế thôi bởi vì người Italia đấy!

Người ta phải tìm ra lí do nào đó....

Người Italia chết và lên Ngọc Môn tại đó anh ta

được Thánh Peter đón chào và có ấn tượng với Sách

Vàng. Sau khi nhìn chăm chú vào khuôn mặt nông,

cằm yếu và đôi mắt gian giảo của đương đơn mới,

Thánh Peter tuyên bố với giọng rền vang như sấm,

"Ta tin ông không phải là người Italia?"

Giọng của Thánh Peter trở nên sang sảng, "Ông

có phải là người Italia không?"

Lời đáp của người Italia thật nhu mì, "Dạ không ạ,

thưa ngài, tôi là người Puerto Rico."

Thánh Peter mỉm cười. "Qua, anh bạn," ông ấy

nói, "Vào đi."

Ngay cả Thánh Peter cũng sợ!

Và thế rồi có một cô gái Italia - xấu tới mức khi

cô ấy đi vào phòng tất cả chuột đều nhảy lên ghế.

Người nào có thể hoài nghi rằng New York là

thành phố lớn?

Người Do Thái sở hữu nó, người Ai rơ len cai

quản nó - và người Italia sau năm mươi năm vẫn còn

tự hỏi cái gì đã xảy ra!

Columbus tình cờ phát hiện ra châu Mĩ thế nào?

Ông ấy cố gắng thoát ra khỏi Italy.

Thượng đế đã nói gì khi ngài làm ra người Italy

đầu tiên?

"Cứt! Tao đéo làm nữa!"

Đủ cho hôm nay.

**************************************************************************************************************

#3Con đường yên tĩnh tới nước hạnh phúc

Ông không có tên và không có hình hài.

Sao bỏ lỡ điều ông không có?

Người tìm kiếm không buồn khổ.

Yêu và vui vẻ

đi theo đạo,

Con đường yên tĩnh tới nước hạnh phúc.

Người tìm kiếm!

Làm rỗng thuyền,

Làm nhẹ tải,

đam mê và ham muốn và hận thù.

Và lên tàu nhanh chóng.

Có năm người ở cửa

hãy đuổi đi, và năm người nữa,

và có năm người đón vào.

Và khi năm người đã ra đi

bị mắc cạn trên bờ,

Người tìm kiếm được gọi là oghatinnoti -

"Người đã đi qua."

Một bạn tù mới được đưa vào nhà thương điên

California. Anh ta dường như hoàn toàn sung sướng -

thực tế, anh ta còn cười hô hố. "Họ hàng gần nhất?"

bác sĩ khám hỏi.

"Anh em sinh đôi," anh chàng này đáp. "Chúng

tôi là anh em sinh đôi hệt nhau. Khôn ai có thể phân

biệt được chúng tôi. Ở trường nó ném đạn giấy và

thầy mắng tôi. Có lần nó bị bắt vì chạy quá tốc độ và

chánh án phạt tôi. Tôi có bạn gái, nó đi với cô ấy."

"Thế sao anh cười?"

"Vì tôi thậm chí đã gặp nó tuần trước."

"Chuyện gì xảy ra?"

"Tôi chết và họ chôn nó."

Con người điên. Tính điên không phải là bệnh, nó

là ước định thông thường của nhân loại. Vâng, mọi

người khác nhau ở mức độ, nhưng điều đó chẳng có

gì mấy khác biệt. Con người như người đó tồn tại trên

trái đất đã là không lành mạnh.

Nỗ lực của mọi chư phật là để đem lành mạnh lại

cho bạn, xua tan cái điên khùng của bạn. Nhưng bởi

vì mọi người đều điên, cũng giống bạn, bạn vẫn còn

quên lãng về sự kiện này trong cả đời mình. Chừng

nào bạn còn chưa bắt gặp một vị phật bạn sẽ không

bao giờ nhận biết về sự kiện rằng bạn điên. Vị phật

trở thành tấm gương: ông ấy phản chiếu thực tại của

bạn, ông ấy chỉ ra khuôn mặt của bạn như nó vậy - và

nó toàn toàn bị bóp méo. Nó không phải là cách bạn

được ngụ ý là vậy. Cái gì đó về căn bản đã đi sai, cái

gì đó rất cơ bản đang bị bỏ lỡ.

Con người được sinh ra trong trạng thái vô ý thức

tới mức bất kì điều gì người đó làm cũng đều đem lại

ngày một nhiều khổ hơn cho người đó và cho người

khác. Người đó cứ oán trách số phận, người đó cứ oán

trách tự nhiên, người đó cứ oán trách xã hội - nhưng

người đó bao giờ cũng cứ oán trách người khác,

người đó không bao giờ tự trách mình. Khoảnh khắc

bạn thu đủ dũng cảm để trách bản thân mình, khoảnh

khắc bạn chấp nhận trách nhiệm về bất kì cái gì bạn

là, một tia sáng đi vào trong bản thể bạn. Bạn đang

trên con đường của biến đổi bên trong.

Những lời kinh này là dành cho các Bồ tát. Bây

giờ Phật đang nói cho các Bồ tát của ông ấy - cho

những đệ tử đang trở thành người giúp đỡ cho nhân

loại, người sẵn sàng đi vào trong thế giới và giúp

những người đang chìm trong cái không lành mạnh

của riêng họ - Phật đang nói với các Bồ tát của ông

ấy, "Đây là những điều cơ bản các ông phải bắt đầu

việc thuyết giảng của mình."

Điều thứ nhất ông ấy nói: Nói với mọi người

rằng... Ông không có tên và không có hình hài - bởi vì

đó là nơi hàng triệu người mắc kẹt. Mọi người sống

và chết vì tên tuổi và danh vọng. Dường như mục

đích sống của họ là để có tên được toàn thế giới biết

tới, cái tên sẽ được viết bằng chữ vàng trong lịch sử,

cái tên sẽ cứ vang vọng theo hành lang thời gian tới

mãi mãi.

Và toàn thể chuyện này sao ngu thế, lố bịch thế,

bởi vì bạn không có tên nào ngay chỗ đầu tiên. Bạn

được sinh ra vô danh, bạn vô danh. Mọi cái tên đều là

tuỳ tiện. Đừng hi sinh cuộc sống của mình vì cái tên.

Đừng hi sinh cái thực vì cái gì đó không thực. Chúng

ta hi sinh cái gì đó đúng vì cái gì đó không đúng và

không thể được làm thành đúng.

Khi đứa trẻ được sinh ra, bạn biết nó không mang

tên cùng nó; nó được sinh ra là vô danh. Nhưng tất

nhiên cái tên là cần; nó có tiện dụng nào đó nhưng

không phải là thực tại. Nó là tuỳ tiện. Bạn có thể gọi

nó là bất kì cái gì, bất kì cái tên nào cũng có tác dụng

- X, Y, Z đều có tác dụng. Trong thời đại khoa học

hơn có mọi khả năng là chúng ta sẽ vứt bỏ các cái tên

cũ này. Ai đó sẽ là O-11, ai đó sẽ là X-13. Cái tên sẽ

thành toán học hơn một ngày nào đó bởi vì chúng sẽ

chính xác hơn. Và không có nhu cầu có cùng tên cho

hai người; máy tính có thể quyết định. Máy tính có

thể nói rằng đây là tên mới, không ai có nó trên khắp

thế giới. Ngay bây giờ nhiều người thế có cùng tên;

điều đó nhất định xảy ra. Điều đó không thật khoa

học, nhưng nó có tác dụng.

Phật muốn các Bồ tát của ông ấy nói với mọi

người điều đầu tiên: Bạn là vô danh. Cho nên đừng lo

nghĩ về tên tuổi hay danh vọng của mình. Bạn cũng

vô hình hài: bản thể bên trong nhất của bạn không có

hình hài. Thân thể bạn có hình hài, nhưng thân thể

bạn cứ thay đổi; mọi ngày nó đều thay đổi. Trong bẩy

năm thân thể bạn hoàn toàn mới, mới toàn bộ. Thậm

chí không một tế bào nào của thân thể cũ còn tồn tại

trong nó, mọi thứ cứ thay đổi.

Nếu bạn bắt gặp tinh trùng đầu tiên của bố bạn mà

bắt đầu cuộc sống của bạn, bạn liệu có khả năng nhận

ra nó là bản thân mình không? Không thể được. Bạn

sẽ có khả năng nhận ra trứng của mẹ bạn là bản thân

mình không? Không thể được. Đó là hình hài của bạn

một ngày nào đó, nhưng bạn đã không là nó. Và thế

rồi trong thời gian chín tháng trong bụng mẹ, bạn đã

trải qua nhiều hình hài.

Các nhà khoa học nói rằng từng đứa trẻ đều trải

qua một cách nhanh chóng, rất nhanh, toàn thể tiến

hoá của nhân loại. Từ cá tới khỉ tới người, nó trải qua

mọi pha - tất nhiên trong sự kế tiếp rất nhanh chóng

bởi vì nó phải hoàn thành toàn thể tiến hoá trong chín

tháng. Đó là lí do tại sao đứa trẻ sinh non có chút ít

chậm phát triển, bởi vì nó chưa tiến hoá đầy đủ; nó

chưa có khả năng hoàn chỉnh toàn thể vòng tiến hoá.

Mọi đứa trẻ đều bắt đầu như cá trong bụng mẹ. Bạn

có khả năng nhận ra rằng con cá đó là bạn không?

Nhưng một ngày nào đó nó đã là hình hài của bạn.

Bạn có khả năng nhận ra khuôn mặt của bạn vào ngày

bạn được sinh ra không? Nếu ảnh được chụp cho bạn,

sẽ không thể nào có ai nhận ra rằng, "Đây là tôi."

Ngay bây giờ bạn có hình hài nào đó; hình hài đó

cũng sẽ mòn mỏi đi theo cùng cách. Mọi khoảnh khắc

nó đều thay đổi.

Nhưng có cái gì đó vĩnh hằng trong bạn: tâm thức

của bạn, bản thể của bạn, nhận biết của bạn. Bạn có

thể gọi nó là linh hồn của mình, bất kì cái gì bạn

muốn gọi nó; cái tên không thành vấn đề. Nhưng một

điều là chắc chắn: rằng bạn không có bất kì hình hài

đặc biệt nào; bạn trải qua nhiều hình hài. Bạn có thể

trải qua nhiều hình hài chỉ bởi vì bạn không có hình

hài nào, cho nên đừng trở nên bị gắn bó với bất kì

hình hài nào. Đừng trở nên bị gắn bó với bất kì cái tên

nào và đừng trở nên bị gắn bó với bất kì hình hài nào.

Đây là chỗ bắt đầu của tính chất sannyas. Đây là

chỗ bắt đầu của điểm đạo vào con đường.

Thực tế, bạn không có bố nào, bạn không có mẹ

nào; bạn không thể có được. Người bố là bố của thân

thể bạn và người mẹ là mẹ của thân thể bạn; họ cả hai

đều đóng góp cho thân thể bạn, cho hình hài bạn,

nhưng không cho cốt lõi bản chất của bạn. Bạn đã

từng ở trong nhiều thân thể trước đây, hàng nghìn

thân thể. Bạn đã trải qua, bạn đã sống trong nhiều,

nhiều ngôi nhà, và khi bạn sống trong ngôi nhà nào đó

bạn trở nên bị đồng nhất với nó.

Do đó mới có đau đớn của chết. Đau không phải

bởi vì cái chết, nhớ lấy; đau chỉ bởi vì sự đồng nhất

của bạn với thân thể, với hình hài thôi. Nếu bạn hiểu

thông điệp của Phật, không có đau trong chết. Nếu

bạn không bị đồng nhất với bất kì cái tên nào hay

hình hài nào thì không có ai được sinh ra và không có

ai chết đi.

Thực tế, điều đó nên là nghĩa thực của việc sinh

đồng trinh của Jesus. Mọi người đều được sinh ra theo

cùng cách. Không chỉ là bạn không có bố, bạn không

có cả mẹ nữa. Ngày bạn khám phá ra bản thể nguyên

thuỷ của mình, bạn sẽ biết rằng bạn đi qua mẹ và bố,

bạn tới qua họ, nhưng bạn không do họ tạo ra.

Một công nhân xã hội nghiên cứu các hoàn cảnh

trong một căn hộ cũ dừng một đứa trẻ rách rưới, lôi

thôi lại và hỏi nói mẹ nó sống ở đâu.

"Không có mẹ," đứa trẻ đáp.

"Thế bố con thì sao?"

"Không có đâu, thưa bà."

"Cái gì, cả bố và mẹ đều chết à!" công nhân xã

hội kêu lên.

"Không, chẳng bao giờ có gì."

"Buồn quá, nhưng điều đó là không thể được, con

à!"

"Nếu bà muốn biết, thưa bà," thằng nhóc khinh

khỉnh nói, "tên kẻ cướp ghê tởm chơi trò bẩn thỉu với

cô cháu."

Thực tế, không ai có bố hay có mẹ - và không tên

cướp ghê tởm nào đã chơi trò bẩn thỉu lên cô bạn. Bạn

là sinh linh vĩnh hằng: bạn chưa bao giờ sinh và bạn

chưa bao giờ chết. Chết và sinh là các chương hồi

trong cuộc hành trình dài, trong cuộc hành trình vĩnh

hằng của cuộc sống của bạn. Cuộc sống không bắt

đầu với sinh và không kết thúc với chết.

Nhưng đây là khả năng để biết chỉ nếu bạn trở nên

chút ít tách biệt với hình hài mà bạn đã trở nên quá

nhiều gắn bó thế. Bạn không phải là đàn ông và bạn

không phải là đàn bà; thân thể bạn là nam hay thân

thể bạn là nữ. Bạn không là người, bạn không là con

vật, bạn không là rau cỏ. Đây tất cả đều là hình hài,

hình hài ngẫu nhiên, chỉ là chu vi, không là trung tâm

của bản thể bạn. Trung tâm của bản thể bạn là hoàn

toàn khác với chu vi. Và chúng ta đã trở nên bị gắn bó

với chu vi tới mức chúng ta đã hoàn toàn quên hết

trung tâm.

Đây là nguyên nhân cơ sở và nền tảng của sự

không lành mạnh của chúng ta. Người không biết

trung tâm của mình là không lành mạnh.

Phật nói, bảo mọi người:

Ông không có tên và không có hình hài.

Sao bỏ lỡ điều ông không có?

Mọi người khổ nhiều biết bao nếu họ không nổi

tiếng, nếu họ không được biết tới! Là người vô danh

cho cảm giác bẽ mặt thế. Nếu không ai biết bạn, bạn

cảm thấy dường như bạn không sống. Mọi người càng

biết bạn, bạn càng cảm thấy sống hơn. Nếu toàn thế

giới biết bạn, bản ngã của bạn được thổi lên cực điểm,

nó nổ tung.

Đó là lí do tại sao chính trị được mọi người quan

tâm nhiều thế, bởi vì đó là cách dễ nhất để trở nên nổi

tiếng thế giới. Bạn không cần rất thông minh để là

chính khách; thực tế, nếu bạn rất thông minh bạn

không thể là chính khách được. Bạn cần ngu xuẩn nào

đó, theo lượng đủ, để là chính khách. Bạn cần bướng

bỉnh, bạn cần bạo hành, bạn cần hoàn toàn tầm

thường - để cho bạn không thể thấy được điều bạn

đang làm, để cho bạn không thể thấy được cách bạn

đang phí hoài cuộc sống của mình, và bạn cứ tiếp diễn

mãi.... Bạn phải hoàn toàn mù, bạn phải rất thô. Chính

trị có hấp dẫn lớn bởi vì nó có thể cho bạn cả tên tuổi

lớn và danh vọng lớn; nó có thể làm cho bạn thành

nhân vật thế giới.

Tôi đã nghe:

Một hôm giáo hoàng và chính khách cả hai cùng

lên trình diện trên cõi trời. Thánh Peter đón chào họ

và dẫn giáo hoàng tới chỗ ông ấy sẽ được dành cho ở

vĩnh hằng. Khi mở cửa ra, giáo hoàng thấy một căn

phòng nhỏ, đầy đồ đạc nhưng có một cửa sổ. Khi ông

ấy nhìn ra ông ấy để ý thấy chính khách được dành

cho căn hộ xa hoa ngay bên đường, được trang bị với

bồn tắm nóng, bể bơi, sân tennis và những cái như

thế.

Đầy phẫn nộ chính đáng, ông ta quay sang Thánh

Peter và phản đối kịch liệt, "Tôi là giáo hoàng! Sao

chính khách này lại được đối xử như thế này trong khi

tôi gần như chẳng được gì?"

"Thế này," Thánh Peter đáp, "chúng tôi có hai

trăm giáo hoàng cho tới giờ ở đây, nhưng đây là lần

đầu tiên chúng tôi thấy một chính khách!"

Nhưng ở đây trên trái đất này chính khách làm ra

nhiều điều nhặng xị. Chính trị đã trở thành trung tâm

của cuộc sống; báo chí đầy về nó, các chương trình

radio đầy về nó. Mọi thứ dường như được tô mầu bởi

chính trị bởi lẽ đơn giản là những người này đã được

cái gì đó mà tất cả các bạn đều khao khát - họ được

tên tuổi và danh vọng.

Nhưng Phật nói: Sao bỏ lỡ điều ông không có?

Và, thực tế, sao bỏ lỡ cái mà bạn không có và có thể

không bao giờ có? Tin rằng bạn nổi tiếng là sống

trong thiên đường của kẻ ngu. Và cho dù tên bạn có

được viết vào lịch sử... bạn có thể gây thiệt hại nhiều

tới mức họ sẽ phải viết điều đó vào lịch sử. Adolf

Hitler và Joseph Stalin và Mao Trạch Đông, tất nhiên

tên họ sẽ vẫn còn trong lịch sử, nhưng không bằng

chữ vàng. Lịch sử không được viết bằng chữ vàng

chút nào, và tên của họ sẽ chỉ ở cước chú nào đó. Và

cho dù họ có đó, có thành vấn đề gì? Toàn thể lịch sử

của bạn là thứ vô nghĩa! Nó ít tính lịch sử hơn và

nhiều cuồng loạn hơn! Tất nhiên, nếu bạn rất cuồng

loạn, bạn sẽ trở thành có tính lịch sử. Nhưng phỏng có

ích gì về tất cả điều đó? Bạn đã bỏ lỡ cơ hội lớn.

Con người thực không quan tâm về tên tuổi và

danh vọng. Con người đích thực sống cuộc sống của

mình bất kể tên tuổi và danh vọng; người đó không

quan tâm chút nào liệu bất kì ai biết mình hay không.

Người tìm kiếm không buồn khổ.

Phật nói: Dạy mọi người rằng tìm kiếm chân lí

không phải là tìm kiếm buồn. Đây là một trong những

điều đã bị hiểu lầm nhiều lắm. Bằng cách nào đó

người buồn đã chi phối toàn thể cảnh quan tôn giáo

trong nhiều thời đại. Chỉ thỉnh thoảng bạn mới tìm

thấy một Phật hay một Jesus hay một Zarathustra

những người nói về vui vẻ, người nói về sống trong

phúc lạc. Chỉ thỉnh thoảng bạn mới tìm thấy một

Krishna - người không chỉ dạy nhảy múa mà còn tự

mình nhảy múa, người không chỉ dạy hát mà còn tự

mình hát. Ngoài ra khung cảnh bị chi phối bởi những

người bệnh hoạn, hoặc bởi những kẻ tự bạo hay kẻ

bạo ác.

Chín mươi chín phần trăm cái gọi là người tôn

giáo đều là những người ốm yếu, ốm nặng. Họ đã đi

vào tôn giáo bởi vì họ đã thất bại trong cuộc sống, họ

đã đi vào trong tôn giáo bởi vì họ không thể đương

đầu được với cuộc sống. Đó là trốn tránh - và kẻ trốn

tránh không bao giờ có thể hạnh phúc.

Người Ki tô giáo nói rằng Jesus không bao giờ

cười. Bây giờ, không thể nào có dối trá nào lớn hơn

điều đó. Jesus, và không bao giờ cười sao? Thế thì ai

sẽ có khả năng cười? Thế thì không ai sẽ có khả năng

cười chút nào! Và toàn thể cuộc sống của Jesus chứng

minh rằng ông ấy phải đã là con người có bản tính rất

vui vẻ. Ông ấy phải thực sự tâm linh - theo nghĩa

người Pháp dùng từ spirituel. Trong tiếng Pháp từ

'spirituel' này nghĩa là cả "tâm linh" và "hóm hỉnh."

Dường như có sáng suốt lớn trong nó - cùng từ mang

nghĩa cả hai. Ông ấy phải đã cười với bầu bạn của

mình. Điều ai cũng biết là ông ấy thường tận hưởng

ăn uống, và khi một người tận hưởng ăn uống thì rất

khó nghĩ về người đó không bao giờ cười. Những

người tận hưởng ăn uống, những người tận hưởng tiệc

tùng, cũng tận hưởng nhảy múa và ca hát và cười đùa.

Ông ấy phải đã cười, ông ấy phải đã đùa. Người ta

không thể nào tin được rằng hai mươi bốn giờ một

ngày ông ấy toàn chuyển giao chỉ mỗi sách phúc âm -

ông ấy phải đã tán gẫu chứ!

Nhưng những người buồn, họ muốn ông ấy cũng

buồn. Mọi hình ảnh, tượng, tranh vẽ về Jesus dường

như là giả. Và chúng đã thay đổi qua các thời đại. Ở

những bức tranh sớm nhất ông ấy được vẽ không có

râu cằm và ria. Sau hai thế kỉ, bỗng nhiên râu cằm và

ria xuất hiện - bởi vì không có râu và ria ông ấy trông

không giống nhà tiên tri; ông ấy trông quá trẻ, không

đủ chín chắn. Khuôn mặt không râu và không ria

trông chút ít như trẻ con... bỗng nhiên râu xuất hiện.

Ở phương Đông chính điều đối lập lại là hoàn

cảnh. Phật không bao giờ được vẽ có râu, Krishna hay

Mahavira cũng không râu, Rama hay Patanjali cũng

không râu... chẳng ai có. Tại sao? - bởi vì ý tưởng

phương Đông là ở chỗ những người này đều trẻ thế,

trẻ tâm linh, tới mức tốt hơn cả là để họ có vẻ trẻ từ

bên ngoài nữa. Bên ngoài nên đại diện cho bên trong.

Phật trở nên rất già, ông ấy chết khi ông ấy tám

mươi hai tuổi, nhưng dầu vậy ông ấy không bao giờ

được vẽ có râu. Jesus chết khi ông ấy mới chỉ ba

mươi ba tuổi, nhưng râu đã xuất hiện sau hai thế kỉ.

Dầu vậy khuôn mặt của ông ấy không buồn. Sau hai

thế kỉ ngay cả khuôn mặt đó đã thay đổi. Ông ấy trở

nên ngày một buồn hơn - cứ dường như ông ấy đang

mang toàn thể gánh nặng của trái đất. Bây giờ họ đã

đổi ông ấy thành vị cứu tinh; ông ấy đang mang cây

thánh giá. Ông ấy đã tới để giải thoát bạn khỏi đau

khổ của bạn, ông ấy đang nhận đau khổ của bạn lên

bản thân ông ấy. Và họ đã làm sai lạc con người đẹp

đẽ này, người thường tận hưởng với bầu bạn gồm

những người rất bình thường - thợ mộc, nhân công,

người làm vườn, ngư phủ, kẻ đánh bạc, gái mãi dâm,

người say, người thu thuế, đủ mọi loại người - ngay

cả người thu thuế! Họ đang làm cho ông ấy ngày một

trừu tượng hơn; ông ấy mất đi tính nhân gian. Ông ấy

đang trở nên ngày một là khái niệm hơn là con người

thực; ông ấy đang mất đi tính nhân loại của mình.

Ông ấy không còn là Con của Người, ông ấy đang trở

thành chỉ là Con của Thượng đế.

Đây là những người buồn, người phóng chiếu cái

buồn của họ lên ông ấy. Họ nói ông ấy chưa bao giờ

cười - tôi không thể tin được vào điều đó. Tôi có thể

tin vào điều không thể được nhiều hơn....

Tín đồ của Zarathustra nói rằng ông ấy đã cười từ

chính khoảnh khắc ông ấy được sinh ra - tôi có thể tin

được điều đó, rằng ông ấy sinh ra đang cười. Điều đó

có vẻ như tuyệt đối không thể được - không đứa trẻ

nào được sinh ra mà cười cả - nhưng nó có điều gì đó

đẹp về nó. Zarathustra ra khỏi bụng mẹ, đang cười,

hấp dẫn tôi nhiều hơn. Một tâm linh vui vẻ thế! Đó là

lí do tại sao Zarathustra không thể trở thành một tôn

giáo thế giới. Các tín đồ của Zarathustra bị giới hạn

chỉ vào Bombay. Và họ là người tốt - không tôn giáo

theo nghĩa thông thường, không chút nào.

Không ai nghĩ rằng người Parsis có tính tôn giáo;

ở Ấn Độ không ai nghĩ họ có tính tôn giáo. Họ tận

hưởng ăn, họ tận hưởng quần áo đẹp, họ tận hưởng

những thứ đẹp của cuộc sống, họ tận hưởng nhà đẹp...

họ tận hưởng mọi thứ! Và chúng ta có ý tưởng về tôn

giáo như việc từ bỏ.

Tôi có thể tin Zarathustra tới thế giới này mà

cười, nhưng tôi không thể tin Jesus chưa bao giờ cười,

bởi vì với tôi buồn rầu không bao giờ có thể trở thành

nguồn cho tìm kiếm - mặc dầu cả triệu người đi vào

tìm Thượng đế chỉ bởi vì họ buồn. Bạn nhớ tới

Thượng đế chỉ khi bạn bất hạnh, khổ sở; khi bạn trong

phiền não sâu sắc thì bạn nhớ tới Thượng đế, bằng

không ai quan tâm?

Nhưng để tôi nói cho bạn: nếu bạn nhớ Thượng

đế chỉ khi bạn khổ, việc nhớ của bạn không đáng giá

gì cả. Nó gần như phàn nàn; nó không là lời cầu

nguyện, nó không thể thế được. Bạn không thể biết ơn

về việc bị khổ, và lời cầu nguyện cần biết ơn về bản

chất.

Phật nói: Người tìm kiếm không buồn khổ. Ông ấy

đang nói cho các Bồ tát của mình: Hãy đi tới mọi

người và bảo họ rằng nếu họ không vứt bỏ buồn khổ

của họ, họ không bao giờ có thể trở thành người tìm

kiếm thực. Tìm Thượng đế từ hạnh phúc, tìm Thượng

đế từ vui vẻ, tìm Thượng đế vì tiếng kêu này của con

chim cúc cu sao hay thế, vì tiếng hót của chim chóc

sao vui thế, vì hoa sao cực lạc thế, vì cuộc sống sao

ân huệ thế. Nhìn vào ân hệ mà đó chính là cuộc sống

và thế rồi đi tới cội nguồn của nó. Tất cả những tiếng

hót này và tất cả những hoa này và tất cả những vì sao

này được sinh ra từ đâu vậy? Nguyên nhân của tất cả

nó là gì, của sự tồn tại huyền bí này là gì?

Đừng đi vào tìm kiếm bởi vì bạn buồn, khổ, thất

bại. Nếu bạn đi với thất bại trong tim mình, bạn sẽ

đơn giản kìm nén nỗi buồn của mình. Bạn có thể bắt

đầu mỉm cười, nhưng nụ cười đó sẽ chỉ là nụ cười tô

vẽ. Bạn có thể thấy các tu sĩ mỉm cười, nhưng nụ cười

đó không thực, nó không thể thực được. Họ chưa bao

giờ yêu cuộc sống đủ để nụ cười của họ là thực, họ

chưa bao giờ sống cuộc sống đủ để nụ cười của họ là

thực. Họ là những kẻ trốn tránh, họ sợ cuộc sống. Và

những người sợ cuộc sống, việc tìm kiếm của họ là

sai từ chính lúc bắt đầu. Nhưng hiểu lầm này đã xảy

ra và hiểu lầm này phải bị xua tan.

Một cảnh sát đi tuần trên làn của những người yêu

lúc khá muộn trong đêm chiếu đèn pin vào cửa sổ của

chiếc xe và thấy một đôi đang làm tình. Anh ta gõ lên

cửa sổ và nói, "Tôi đợi tiếp!" Trong mười phút anh ta

lại tới và đôi này vẫn làm tình, cho nên anh ta lại gõ

lên cửa sổ và nói, "Tôi đợi tiếp!"

Sau hai mươi phút anh ta quay lại và đôi này vẫn

làm tình. Anh ta lại gõ lên cửa sổ và nói, "Tôi đợi

tiếp. Dẫu sao các vị làm gì là lâu thế?"

Người đàn ông nhìn lên và nói, "Này ông, tôi thực

sự thần kinh. Tôi chưa bao giờ giao cấu với cớm

trước đây!"

Hiểu lầm và hiểu lầm....

Chư phật đã từng bị hiểu lầm nhiều tới mức bất kì

cái gì bạn nghĩ về Jesus, Krishna, Phật, Lão Tử, phải

rất thận trọng - chín mươi chín phần trăm của việc

nghĩ đó sẽ là hiểu lầm. Nếu bạn hỏi tôi, "Ai là người

Ki tô giáo?" Tôi nói "Những người đã hiểu lầm

Christ." Nếu bạn hỏi tôi, "Ai là Phật tử?" Tôi sẽ nói,

"Những người đã hiểu lầm Phật."

Hiểu lầm dễ dàng thế bởi vì nếu bạn muốn hiểu vị

phật bạn sẽ phải vươn cao lên chút ít để xem ông ấy

đang biểu lộ cái gì. Nhưng nếu bạn muốn hiểu lầm

bạn không cần di chuyển đi bất kì chỗ nào; dù bạn ở

bất kì chỗ nào, vẫn cứ ở đấy và bạn có thể hiểu lầm.

Hiểu lầm là thoải mái thế, ấm cúng thế. Bạn có thể

hiểu lầm mà không cần nỗ lực nào; nó không đòi hỏi

thay đổi về phần bạn. Nhưng nó sẽ chỉ ra trong cuộc

sống của bạn.

Mọi người đi tới đền chùa, nhưng không có điệu

vũ trong mắt họ. Đi tới đền chùa và không có điệu vũ

trong chân bạn và không có điệu vũ trong mắt bạn -

thế thì sao bạn lại đi? Phỏng có ích gì? Sao bạn phí

thời gian của mình? Mọi người đang cầu nguyện,

nhưng không có vui vẻ, không có ánh sáng trên khuôn

mặt họ. Thế thì tại sao bạn lại phí thời gian của mình

và thời gian của Thượng đế? Nhưng một điều là tốt:

rằng Thượng đế hoàn toàn điếc - điếc với mọi ngôn

ngữ. Ông ấy chỉ nghe im lặng, ông ấy sẵn có chỉ cho

im lặng. Cho nên bạn có thể cứ cầu nguyện - chẳng ai

nghe. Nó là độc thoại thôi.

Martin Buber nói rằng lời cầu nguyện là đối thoại.

Tôi nói không, chừng nào lời cầu nguyện chưa là im

lặng tuyệt đối, nó không phải là đối thoại. Martin

Buber nói lời cầu nguyện nghĩa là đối thoại Tôi/

Người. Nếu có tôi, thì không thể có Người; hai thứ

này không thể cùng tồn tại được. Nếu có Tôi và

Người, thế thì Người chỉ là phóng chiếu và không có

đối thoại chút nào; nó là độc thoại. Bạn có thể tin rằng

ai đó đang nghe - chẳng ai đang nghe cả. Bạn đơn

giản phí thời gian của mình, phí hơi mình. Làm cái gì

đó khác đi, bất kì cái gì cũng sẽ tốt hơn. Ngay cả chơi

bài cũng sẽ tốt hơn nhiều, uống Coca-Cola sẽ tốt hơn

nhiều!

Lời cầu nguyện của bạn là vô nghĩa. Bạn không

thể che giấu được sự kiện này. Nếu bạn đi tới Thượng

đế hay chân lí trong buồn, trong khổ, theo cách này

hay cách khác, cuộc sống của bạn sẽ chỉ ra điều đó.

Chân lí không thể bị kìm nén.

Gia đình Gladwells có bé mới sinh mà không có

tai. Họ đem nó về nhà và hàng xóm của họ, nhà

Petersons, đang chuẩn bị sang thăm nó. "Bây giờ, xin

hãy cẩn thận," bà Peterson nói với chồng mình.

"Đừng nói gì về đứa bé không có tai."

"Đừng lo," Peterson nói. "Tôi sẽ không làm gì tổn

hại tình cảm của họ đâu."

Thế là họ đi sang nhà bên cạnh, leo lên phòng

dành riêng cho trẻ nhỏ và đứng nói với gia đình

Gladwell qua cũi của đứa bé mới sinh. "Nó trông xinh

thế," bà Peterson nói với người mẹ đứa bé.

"Dạ vâng ạ," bà Peterson đồng ý. "Đứa bé có chân

tay rắn chắc làm sao - nó lớn lên phải là võ sĩ nhà

nghề."

"Cám ơn," người bố đứa bé nói.

"Mắt đứa bé thế nào?"

"Mắt hoàn hảo!" Gladwell nói.

"Mắt thế là tốt hơn rồi - nó thậm chí không có khả

năng đeo kính!"

Bằng cách nào đó này khác điều đó sẽ bật ra. Làm

sao bạn tránh được điều đó? Bạn càng né tránh, khả

năng càng lớn là bạn sẽ loạng choạng vồ phải nó.

Thực tế, chính nỗ lực để tránh nó làm cho bạn bị hội

tụ vào nó; thế thì bạn không thể thấy được cái gì khác.

Một người rất linh thiêng một hôm tới bác sĩ nhãn

khoa để đặt một đôi kính mới. Đằng sau quầy là một

cô gái cực kì xinh, điều làm cho khách hàng bị lẫn lộn

toàn bộ.

"Tôi có thể giúp ông chứ, thưa ông?" cô ấy hỏi

với nụ cười mê hồn.

"Ờ - vâng - ờ... Tôi muốn có một cặp sựng kính

gòng... Tôi ngụ ý tôi muốn một cặp gọng sính cừng ...

ơ... tôi ngụ ý...."

Tại chỗ đó đích thân chuyên gia nhãn khoa tới

giải cứu.

"Thôi được rồi, cô Jones. Điều con người linh

thiêng này muốn là cặp kọng gính sừng."

Do đó Phật nói người tìm kiếm phải bắt đầu cuộc

hành trình của mình không từ khổ mà từ vui. Hân

hoan trong cuộc sống đi. Ông ấy nói:

Yêu và vui vẻ

đi theo đạo,

Con đường yên tĩnh tới nước hạnh phúc.

Khi người ta lần đầu tiên bắt gặp những từ này

người ta cảm thấy chút ít ngạc nhiên. Phật, và câu nói:

Yêu và vui vẻ đi theo đạo, con đường yên tĩnh tới

nước hạnh phúc...? Vâng, người ta hơi chút bị choáng

bởi vì các tu sĩ Phật giáo đã từng né tránh những lời

hay này, họ đã bỏ qua chúng. Họ đã từng nhấn mạnh

những từ đó của Phật, người nhấn mạnh vào bi quan.

Và ông ấy không phải là người bi quan chút nào, ông

ấy không thể thế được. Người đã biết, làm sao ông ấy

có thể là người bi quan được? Điều đó là không thể

được. Ông ấy thậm chí không phải là người lạc quan,

nhớ lấy, bởi vì người lạc quan được gắn với người bi

quan; người đó là cực đoan kia.

Phật ở bên ngoài cả hai; ông ấy không là người bi

quan không là người lạc quan. Ông ấy đơn giản muốn

bạn nhìn cái đang đó - và điều đó là đủ để làm cho

bạn yêu cuộc sống. Điều đó là đủ, quá đủ, để làm cho

bạn nhảy múa với vui vẻ, với lòng biết ơn.

Và cách thức là im lặng, rất yên tĩnh. Do đó phật

đã không dạy lời cầu nguyện nào, ông ấy chỉ dạy

thiền. Khi lời cầu nguyện là im lặng, nó là thiền; khi

thiền trở thành hùng biện nó là lời cầu nguyện. Nhưng

trước hết bạn phải học thiền; bằng không bạn sẽ đi

theo hướng sai. Không biết thiền mọi lời cầu nguyện

của bạn đều sẽ sai. Bạn sẽ rót rác rưởi của mình lên

Thượng đế - rác rưởi linh thiêng, nhưng nó tất cả là

cứt bò linh thiêng thôi!

Trước hết hãy học im lặng đã. Và vâng, từ im

lặng bài ca nào đó được sinh ra, từ im lặng hoa nào đó

nở ra. Thế thì cúng dường những bài ca đó, những

bông hoa đó cho Thượng đế. Nhưng chúng sẽ là từ

vui vẻ, từ cực kì vui vẻ.

Người tìm kiếm!

Làm rỗng thuyền,

Làm nhẹ tải,

đam mê và ham muốn và hận thù.

Để tôi nhắc đi nhắc lại cho bạn: Phật đang nói với

các Bồ tát của ông ấy, với các sứ giả của ông ấy, với

các tông đồ của ông ấy, người sắp đi tới quần chúng.

Ông ấy đang giúp họ về điều cần nói, bắt đầu từ đâu.

Ông ấy đang nói điều đầu tiên người tìm kiếm phải

hoàn thành, yêu cầu đầu tiên của người tìm kiếm thực,

là người đó phải không có hệ thống niềm tin nào, là

người đó phải không có triết lí nào, ý thức hệ nào.

Nếu bạn đã tin thế thì không có vấn đề về tìm, truy

tìm. Truy tìm nghĩa là bạn bắt đầu với trạng thái của

không biết. Do đó: Người tìm kiếm! Làm rỗng

thuyền.... Làm rỗng tâm trí bạn về tất cả những rác

rưởi mà bạn đã mang theo mình. Trở nên hoàn toàn

trống rỗng. Thế thì cùng tâm trí đã từng gây cho bạn

nhiều không lành mạnh thế, nhiều rối loạn thế, nhiều

phiền não thế... cùng tâm trí đó khi trống rỗng trở

thành con thuyền để sang bờ bên kia, sang bờ xa hơn.

Trống rỗng, nó trở thành phương tiện; bị nặng gánh

với đủ loại ý nghĩ, với đủ loại niềm tin, kinh sách, với

từng thế hệ cứ trao tay cho thế hệ tiếp.... Chúng ta bị

nặng gánh nhiều tới mức chúng ta đang mang gần như

trọng lượng của cả rặng Himalayas trên đầu mình;

không thể nào đi được với tải trọng như thế. Bạn cần

tháo dỡ ra. Bạn đã có quá nhiều tri thức; mọi tri thức

này đều phải bị vứt bỏ.

Làm rỗng thuyền, làm nhẹ tải.... Khi bạn hoàn

toàn trống rỗng, khi bạn nói, "Tôi không biết gì," thế

thì cuộc truy tìm bắt đầu. Nó tươi tắn, nó trẻ trung, nó

đích thực, bởi vì có một luật nền tảng của cuộc sống

là nếu bạn ở trong trạng thái không biết, một thôi thúc

lớn sẽ nảy sinh trong bạn để biết. Cũng như tự nhiên

ghét chân không và nó xô tới lấp đầy, đích xác theo

cùng cách nếu tâm trí bạn trống rỗng toàn bộ, chân lí

xô vào và rót đầy tâm trí

Nhưng ngay bây giờ không có không gian. Tâm

trí của bạn đầy thế, ngay cả bạn cũng không thể vào

được. Bạn phải sống ở đâu đó bên ngoài. Mọi người

đều đang sống trong hành lang của mình; nhà họ đầy

ắp những đồ đồng nát mà họ sợ đi vào. Họ có thể bị

lạc, và không có không gian nữa.

Và ba điều Phật đặc biệt nhắc tới, điều làm cho

bạn bị nặng tải, quá nặng tải. Điều thứ nhất ông ấy gọi

là si mê, điều thứ hai, ham muốn và điều thứ ba hận

thù.

Si mê nghĩa là thèm khát mang tính con vật, thèm

khát sinh học, vô ý thức. Mọi con vật đều có điều đó,

không có gì đặc biệt về nó. Nếu con người có nó, con

người đơn giản vẫn là một phần của vương quốc con

vật; đó là vốn thừa kế của con vật. Bạn không thực sự

trở thành người trừ phi bạn vượt ra ngoài thèm khát.

Bạn nghĩ rằng nó là tình yêu của bạn và bạn có những

lời to lớn, lãng mạn để mô tả nó và bạn dùng thơ ca

lớn lao, nhưng đó toàn là rác rưởi. Nếu bạn nhìn sâu

xuống dưới nó là sinh học, nó là hoá học, nó là hooc

môn và không gì khác. Nếu hooc môn của bạn bị thay

đổi bạn sẽ không quan tâm tới bất kì đàn bà nào nữa,

hay nếu bạn là đàn bà và hooc môn của bạn bị thay

đổi bạn sẽ không quan tâm tới bất kì đàn ông nào nữa,

và mọi thơ ca và mọi lãng mạn sẽ biến mất. Don Juan

đơn giản cần việc mổ nhỏ... và anh ta sẽ biến mất.

Phật nói điều đầu tiên là giữ tâm trí bạn đầy đồ

đồng nát chính là thèm khát. Và theo một cách nào

đó, điều đó là tự nhiên bởi vì trong hàng triệu năm

chúng ta đã từng trong thân thể con vật; chúng ta vẫn

đang mang những dấu vết đó, chúng ta đầy những

thừa kế của con vật. Chúng ta chín mươi chín phần

trăm là con vật; chỉ một phần trăm - cái đó nữa cũng

là có thể - chúng ta là con người. Chỉ một phần nhỏ

của chúng ta đã vươn cao lên trên một chút.

Một linh mục Italy nói năng bốc lửa vừa tuyên bố

những ngôn từ nặng nề về dục và đạo đức. Chĩa ngón

tay xương xẩu của mình vào giáo đoàn Italy Nhỏ bé,

linh mục người Ghi Nê gầm vang, "Dục là-a bẩn thỉu!

Tôi muốn-a thấy chỉ những cô gái tốt-a đêm nay. Tôi

muốn-a mọi gái trinh trong-a nhà thờ đứng-a dậy."

Giận dữ vì thiếu đáp ứng của giáo dân của mình,

ông ấy lặp lại lời hô hào của mình.

Sau một quãng dừng lâu, một cô gái trông gợi tình

bế đứa con trong tay đứng dậy.

"Gái trinh là điều tôi muốn-a!" người thuyết giảng

bị xúc phạm nói.

"Này, Cha ơi," người đàn bà hỏi, "cha có trông

đợi đứa trẻ hai tháng này tự nó đứng lên không?"

Người ta nói đó là lí do tại sao Jesus đã chọn được

sinh ra từ hai nghìn năm trước chúng ta, bởi vì chúng

ta có thể tìm đâu ra gái trinh? Và, hơn nữa, bạn sẽ tìm

đâu ra ba người đàn ông khôn ngoan? Cho dù bạn tìm

ra gái trinh - đứa trẻ hai tháng tuổi, được - nhưng ba

người đàn ông khôn ngoan? Những điều kiện này bây

giờ không thể được hoàn thành.

Mọi người cứ nói đi nói lại với tôi, "Jesus đã hứa

ông ấy sẽ quay lại." Tôi nói với các bạn, quên mọi

chuyện đó đi! - ông ấy không thể tới được đâu. Các

điều kiện không thể được hoàn thành. Nếu ông ấy vứt

bỏ các điều kiện của mình, thế thì được. Nhưng thế

thì ông ấy sẽ không là một Jesus nữa, nhớ lấy - ông ấy

sẽ chỉ là kẻ hippie khác, có thể một Jesus đồng bóng

nhưng không là Jesus!

Nhớ lấy, Phật không muốn bạn kìm nén thèm khát

của mình, ông ấy muốn bạn hiểu biết, ông ấy muốn

bạn thiền về điều đó. Ông ấy muốn bạn không kìm

nén nó, bởi vì kìm nén chưa bao giờ có ích cả. Chính

kìm nén đã làm ra tình huống buồn này trong đó nhân

loại đang sống. Chính kìm nén đã đưa nhân loại tới

điên khùng.

Phật muốn bạn biến đổi năng lượng dục, không

kìm nén nó, bởi vì nó là năng lượng duy nhất bạn có.

Nó có thể được tinh chế, nó có thể được nâng lên, nó

có thể được đổi kênh sang chiều hướng mới; nó có thể

được chuyển tới những bình diện cao hơn của bản thể.

Và nó tất cả xảy ra qua quá trình đơn giản của thiền.

Quá trình thiền không phức tạp chút nào. Nếu tâm

trí bạn có thể trở nên tuyệt đối trống rỗng, ngay lập

tức năng lượng dục của bạn bắt đầu vươn lên để lấp lỗ

hổng, cứ dường như trống rỗng kéo nó lên. Một luật

mới bắt đầu vận hành: luật của sự bay lên. Bình

thường chúng ta sống dưới luật hấp dẫn: mọi thứ cứ

kéo xuống. Và bạn nặng trên đỉnh tới mức không cái

gì có thể đi lên đỉnh được; đỉnh đã đầy rồi, mọi thứ đi

xuống. Làm đỉnh nhẹ đi.

Ở Nhật Bản họ làm ra con rối lật đật daruma.

Daruma là cái tên Nhật Bản của Bồ đề đạt ma, một đệ

tử lớn nhất của Phật, người sáng lập ra Thiền ở Trung

Quốc; ông ấy là tổ sư đầu tiên của Thiền. Bồ đề đạt

ma có tên Ấn Độ, Daruma là tên Nhật Bản của ông

ấy. Họ đã làm con rối với tên ông ấy, để kỉ niệm ông

ấy; trong hàng thế kỉ con rối này đã được làm ra. Nó

là một trong những con rối đẹp nhất; nó có thông điệp

lớn lao. Bạn ném con rối theo bất kì cách nào, nó bao

giờ cũng ngồi dậy theo tư thế Phật; bạn không thể đặt

nó lộn ngược được. Bạn có thể ném nó, bạn có thể

nghiêng nó, bạn có thể làm bất kì cái gì với nó, nhưng

bạn không thể lay động hay làm cho Daruma đổ được.

Nó bao giờ cũng ngồi lại trong tư thế hoa sen, như

Phật thường ngồi.

Bí mật là: đỉnh của nó không nặng, đáy của nó

nặng. Nó có cái đầu hổng, cái đầu rỗng; không có gì

bên trong. Cái đầu trống rỗng thế và cái đáy nặng tới

mức nó tự nhiên ngồi lại vào tư thế Phật. Nó là con

rối hay. Nó được các thiền sư phát minh ra cho trẻ

con chơi, và trẻ con nhất định hỏi, "Bí mật là gì?" Và

bí mật là ở chỗ cái đầu trống rỗng toàn bộ - bí mật là

thiền.

Điều thứ hai là ham muốn. Ham muốn có tính tâm

lí; cũng như thèm khát có tính sinh học, ham muốn có

tính tâm lí. Ham muốn nghĩa là nữa và nữa, bao giờ

cũng nữa. Không cái gì thoả mãn, không cái gì hoàn

thành; bạn cứ chạy theo nữa và nữa. Và bạn biết điều

đó, bởi vì nhiều lần bạn đã đạt tới mục tiêu của mình

nhưng không hài lòng của bạn vẫn còn như cũ. Ham

muốn lại nảy sinh về nữa, và bạn bắt đầu chạy mà

không cho nó suy nghĩ thứ hai.

Phật nói: Đợi, suy tư đi. Nó sẽ chấm dứt ở đâu?

Bạn đang săn đuổi ảo tưởng. Ham muốn nữa không

bao giờ có thể được hoàn thành. Bạn có thể có mười

nghìn ru pi và tâm trí bạn đòi một trăm nghìn; bạn có

thể có một trăm nghìn, tâm trí bắt đầu đòi nữa - và cứ

thế mãi. Bất kì cái gì bạn có, khoảng cách giữa điều

bạn có và điều tâm trí đòi hỏi vẫn còn là một. Nó là

không thể hoàn thành được. Nó lái người ta tới dở

hơi. Thấy nó, thấy ra vấn đề của nó, người ta vứt bỏ

nó. Hay tốt hơn thì nên nói: khoảnh khắc bạn thấy ra

cái vô tích sự của nó, nó rơi rụng đi theo cách riêng

của nó.

Và điều thứ ba là hận thù. Hận thù nảy sinh bởi vì

hai điều đầu tiên này, si mê và ham muốn. Bất kì ai

chen vào con đường đam mê của hạn hay con đường

ham muốn của bạn, bất kì ai trở thành cản trở, bất kì

ai trở thành kẻ cạnh tranh, đều trở thành kẻ thù của

bạn. Bất kì ai cố giằng lấy cái gì đó bạn muốn đều tạo

ra hận thù trong bạn. Nếu hai điều đầu biến mất, điều

thứ ba biến mất theo cách riêng của nó.

Hai điều đầu giống như lửa và điều thứ ba chỉ là

khói. Nếu bạn vẫn cảm thấy hận thù vì cái gì đó, vì ai

đó, thế thì nhớ lấy ở đâu đó vẫn còn có lửa. Bất kì chỗ

nào có khói đều có lửa. Hận thù và giận dữ đơn giản

chỉ ra rằng bạn vẫn sống qua thèm khát và ham muốn,

dù có ý thức hay vô ý thức. Nhưng khói của bạn chỉ

ra rằng lửa vẫn chưa bị dập tắt. Quay lại sâu bên trong

bản thể bạn và dập lửa ở đó đi. Và nó có thể dập được

không phải bởi kìm nén mà bởi hiểu biết.

Hiểu biết là thông điệp nền tảng nhất của Phật

Gautama. Nếu nó xảy ra, bạn có thể lên tàu nhanh

chóng.

Và lên tàu nhanh chóng.

Có năm người ở cửa

hãy đuổi đi, và năm người nữa,

và có năm người đón vào.

Và khi năm người đã ra đi

bị mắc cạn trên bờ,

Người tìm kiếm được gọi là oghatinnoti -

"Người đã đi qua."

Năm người này phải được hiểu. Có năm người ở

cửa....

Năm người đầu: Phật nói người thứ nhất là vị kỉ,

người thứ hai là hoài nghi, người thứ ba là tâm linh

giả, người thứ tư là đam mê và thứ năm là hận thù. Họ

bao giờ cũng đứng ở cửa. Bạn phải rất có ý thức; bằng

không họ sẽ nhảy lên bạn.

Ngay cả người nghĩ họ đang làm phục vụ vị tha -

phục vụ của họ cũng vẫn vị kỉ. Họ hi vọng được phần

thưởng nào đó ở thế giới kia, ở thiên đường; do đó họ

phục vụ. Phục vụ của họ không phải từ tình yêu, phục

vụ của họ là mặc cả. Nó là việc tìm kiếm phần thưởng

lớn nào đó - cõi trời, thiên đường và niềm vui cõi trời.

Cẩn thận với vị kỉ.

Thứ hai là hoài nghi. Ngay cả những người tin

cũng đầy hoài nghi; thực tế, nếu bạn không đầy hoài

nghi thì không có nhu cầu tin. Niềm tin đơn giản

nghĩa là bạn đã che đậy hoài nghi. Bạn có vết thương,

bạn che đậy nó bằng hoa đẹp, nhưng vết thương vẫn

còn.

Thứ ba là tâm linh giả. Khi mọi người muốn tâm

linh thì tâm linh giả là dễ dàng hơn vì nó chẳng tốn gì.

Bạn có thể là người Ki tô giáo, bạn có thể là người

Hindu, bạn có thể là người Mô ha mét giáo; nó dễ

dàng thế, nó hình thức thế. Bạn đi và làm nghi lễ nào

đó trong đền chùa và bạn là người Hindu, hay bạn vào

nhà thờ mọi chủ nhật và bạn là người Ki tô giáo - và

điều đó dễ dàng thế!

Nhưng tâm linh thực sẽ là qua lửa. Tâm linh thực

là nổi dậy chống lại mọi cái mục nát, chống lại mọi

cái là quá khứ, chống lại mọi cái bị áp đặt lên bạn bởi

người khác, chống lại mọi ước định. Tâm linh thực là

cuộc nổi dậy vĩ đại nhất có đó. Nó là mạo hiểm, nó là

phiêu lưu, nó là nguy hiểm.

Cho nên cẩn thận với tâm linh giả, cái bao giờ

cũng có đó, sẵn có, dễ dàng sẵn có tại cửa.

Và đam mê.... Bạn có thể vứt bỏ đam mê ở đây,

bạn có thể kìm nén nó ở đây, nhưng thế thì bạn đang

đòi hỏi nó ở đâu đó khác. Trong cõi trời, tất cả các tôn

giáo đều cung cấp cho đam mê của bạn - đàn bà đẹp

sẵn có ở đó. Tất nhiên, bởi vì những câu chuyện này

đã từng được viết bởi những người chỉ nói về đàn bà

đẹp. Bây giờ tôi nghĩ một số đàn bà được giải phóng

sẽ viết vài kinh sách; thế thì họ sẽ xoay xở với đàn

ông đẹp nào đó, đàn ông rất đẹp người bao giờ cũng

vẫn còn trẻ, không bao giờ trở nên già, bao giờ cũng

điển trai....

Cái gọi là các mahatmas và thánh nhân, tất cả đều

hi vọng rằng đàn bà đẹp đang đợi; vấn đề chỉ là vài

ngày. Cứ hành hạ bản thân mình thêm chút nữa và

bạn sẽ được người thậm chí còn tốt hơn. Đi vào trong

kinh sách của các tôn giáo và nhìn và bạn sẽ có khả

năng - điều đó rõ ràng thế ở đó - thấy sự phóng chiếu.

Trong thiên đường Hindu con gái chưa bao giờ

lớn hơn mười sáu tuổi, bởi vì ở Ấn Độ điều đó được

coi là tuổi đẹp nhất. Cho nên hàng nghìn năm đã trôi

qua, nhưng trong cõi trời vẫn cùng những đàn bà đẹp

đó vẫn treo quanh tuổi mười sáu. Họ không vã mồ

hôi; trong cõi trời bạn không cần chất khử mùi, bạn

không cần dùng nước hoa, vân vân! Thân thể họ được

làm bằng vàng. Tôi nghĩ nếu ngay bây giờ bạn viết lại

kinh sách bạn sẽ không làm thân thể bằng vàng bởi vì

chúng sẽ quá nặng. Bế đàn bà vàng sẽ gây cho bạn

cơn đau tim! Người nhựa sẽ tốt hơn nhiều - với những

bộ phận giặt được, đổi được! Và chỉ có vài nút... cho

nên bạn nhấn một nút và người đàn bà mỉm cười và

bạn nhấn nút khác và người đàn bà đi vào cực thích

và bạn nhấn nút khác... và ngày nay nó sẽ khoa học

hơn nhiều. Trong thời xưa những người ngu không

thể nghĩ được gì tốt hơn - thân thể bằng vàng! và nếu

nó là vàng cứng thì sẽ thực sự khó.

Nhưng bạn có thể thấy ham muốn.... Cho nên Phật

nói: Cẩn thận! Ông có thể kìm nén ở đây, nhưng ông

sẽ ham muốn ở đâu đó khác. Đam mê sẽ không rời bỏ

bạn dễ dàng thế.

Và hận thù: tất cả các thánh nhân của bạn đều đầy

hận thù - hận thù tội nhân. Đó là lí do tại sao họ đã tạo

ra địa ngục: cõi trời cho bản thân họ và địa ngục cho

tội nhân; cõi trời cho bản thân họ và địa ngục cho

những người không theo tôn giáo của họ. Nếu bạn là

người Cơ đốc giáo bạn sẽ lên cõi trời - theo các linh

mục Cơ đốc giáo. Người Hindu chẳng có hi vọng nào.

Trước hết người đó phải trở thành người Cơ đốc giáo

đã, thế rồi người đó có thể hi vọng; bằng không người

đó nhất định xuống địa ngục. Và hỏi người Hindu mà

xem: họ cười vào toàn thể ý tưởng này! Kinh sách của

họ còn cổ đại hơn và họ có truyền thống lâu hơn - và

tuyên truyền lâu hơn. Họ nghĩ rằng ngoại trừ người

Hindu không ai sẽ lên cõi trời; và thậm chí không

phải tất cả người Hindu đâu - người sudras, tiện dân,

không có chỗ ở đó.

Đây là hận thù! Đây vẫn là cùng tâm trí, cùng tâm

trí xấu xí đang chơi trò chơi mới, nhưng chẳng có gì

đã thay đổi.

Có năm người ở cửa phải đuổi đi.... Đây là năm

người đó. Phật nói: Đuổi họ đi. Hãy có tính quan sát

để cho họ không bắt giữ bạn.

Và năm người nữa.... Năm người này là rất dễ

thấy, và có năm người nữa không dễ thấy thế, nhưng

họ cũng có đó ẩn đằng sau năm người này. Năm

người đó là: thứ nhất, thèm sống.... Dễ dàng vứt bỏ

thèm khát đàn bà hay thèm khát đàn ông, nhưng rất

khó vứt bỏ thèm khát bản thân cuộc sống. Mọi người

đều muốn sống và sống lâu nhất có thể được.

Bạn có thể hỏi ở Ấn Độ - nhà yoga đang cố gắng

vất vả để sống lâu có thể được. Bây giờ đó là gì? Sao

họ phải quan tâm nhiều thế tới việc sống lâu? Và cái

gì sẽ xảy ra ngay cả khi bạn sống lâu?

Trước khi Bernard Shaw chết ông ấy để lại một

thông điệp để khắc như một văn bia trên nấm mồ của

ông ấy. Thông điệp là, "Tôi biết tất cả đều tiến nếu tôi

sống đủ lâu, cái gì đó giống như thế này sẽ xảy ra."

Cho nên dù bạn sống chín mươi năm hay một

trăm năm hay hai trăm năm, phỏng có ích gì về điều

đó? Cái chết sẽ xảy ra. Nhưng thèm khát sống.... Phật

nói rằng người thường thèm khát tiền bạc, quyền lực,

danh vọng, và cái gọi là thánh nhân của bạn thèm khát

cuộc sống, sống lâu. Và các nhà yoga cứ giả vờ rằng

họ nhiều tuổi hơn họ đang vậy.

Tôi đã nghe:

Một nhà yoga nói với mọi người rằng tuổi ông ấy

là bẩy trăm, và tất cả người Ấn Độ đều gật đầu. Một

người phương Tây cũng có ở đó, một khách du lịch,

người không thể tin được vào điều này. Người này

trông không quá bẩy mươi - và ông ấy nói ông ấy bẩy

trăm tuổi? Không thể được! Ông khách muốn tìm ra

cho nên ông ấy ở lại đó.

Ông ấy thấy một người thường phục vụ cho người

già ngày; ông ấy hối lộ anh thanh niên. Và hối lộ bất

kì ai dễ dàng thế ở Ấn Độ! Thực tế, không ai cảm

thấy bị xúc phạm bởi điều đó; điều đó là tuyệt đối

được chấp nhận. Nó là cách sống ở Ấn Độ, không có

vấn đề trong nó.

Và anh thanh niên này sung sướng. Anh ta nói,

"Ông muốn gì?"

Người phương Tây nói, "Tôi muốn biết mỗi một

điều thôi. Thầy anh có thực bẩy trăm tuổi không? -

bởi vì chỉ anh mới có thể nói được cho tôi; anh đã ở

cùng ông ấy."

Anh ta nói, "Có, tôi có thể nói cho ông chỉ một

điều thôi, nhiều hơn thế tôi không biết. Tôi đã sống

cùng với ông ấy mới chỉ ba trăm năm."

Và người này không quá ba mươi tuổi!

Và có những cuốn sách - bây giờ chúng được dịch

sang mọi ngôn ngữ trên thế giới - nói rằng nếu bạn

thực hành yoga bạn sẽ kéo dài cuộc sống của mình.

Và nếu bạn ăn cái này và nếu bạn ăn cái kia, và nếu

bạn làm asana này, tư thế này, cuộc sống của bạn sẽ

được kéo dài. Nếu bạn thở theo cách này hay theo

cách nọ....

Phật đang nói điều này là cùng thèm khát thôi.

Cho nên điều tinh vi đầu tiên là ham sống.

Và điều thứ hai: ham sinh ra ở cõi giới cao hơn.

Cho dù bạn vứt bỏ nó từ đây - "Thôi được, tôi không

muốn sống lâu ở đây " - thế thì bạn có ham muốn sâu

hơn để được sinh ra ở bình diện tinh tế nào đó, bình

diện cao hơn nào đó, bình diện vô thân thể. Bạn sẽ

muốn là thiên thần. Cẩn thận với tất cả những trò chơi

này!

Điều thứ ba là hão huyền. Những người đức hạnh

là rất hão huyền, họ không khiêm tốn. Thực tế họ có

thể đã thực hành khiêm tốn trong nhiều năm, nhưng

việc thực hành của họ về tính khiêm tốn đã cho họ chỉ

một loại hão huyền, một loại bản ngã.

Điều thứ tư: bất ổn. Những người này là bất ổn,

họ không thoải mái ở đây bây giờ, họ không thể thế

được. Tất cả hi vọng của họ đều ở đâu đó khác, bên

ngoài cái chết, trong cõi trời, trong thiên đường. Làm

sao họ có thể thoải mái ở đây bây giờ được?

Người tâm linh thực sự tuyệt đối thoải mái ở đây

bây giờ. Người đó không có thời gian khác; thời gian

duy nhất của người đó là bây giờ, và chỗ duy nhất của

người đó là ở đây. Và người đó hoàn toàn thoải mái, ở

nhà. Người đó không khao khát cái gì.

Và điều thứ năm là dốt nát về cái ta. Những người

này cứ thực hành yoga... cả nghìn lẻ một phương

pháp sẵn có. Bạn có thể xoáy vặn thân thể mình theo

cách này cách khác - bạn có thể trở thành diễn viên

giỏi trong rạp xiếc - nhưng điều đó sẽ không giúp bạn

biết mình là ai. Và chừng nào bạn còn chưa biết

"Mình là ai?" mọi tri thức của bạn và mọi đức hạnh

và thực hành được trau dồi của bạn đơn giản là vô

tích sự - bài tập trong vô tích sự hoàn toàn.

Và có năm người đón vào. Và năm người đó là

gì? Niềm tin.... Nhớ lấy, với niềm tin Phật không ngụ

ý đức tin; với niềm tin ông ấy ngụ ý tin cậy, tin cậy

đáng yêu, tin cậy trong sự tồn tại - không trong lí

thuyết, không trong kinh sách, không trong giáo điều

và tín điều, mà trong bản thân sự tồn tại, sự tin cậy -

bởi vì đây là nhà của chúng ta, chúng ta là một phần

của nó. Nếu chúng ta sống trong hoài nghi, chúng ta

sống bị ngắt rời khỏi cái toàn thể; nếu chúng ta sống

trong tin cậy, cây cầu dần dần, dần dần được tạo ra

giữa bộ phận và toàn thể. Chỉ với tin cậy người ta mới

có thể biết người ta là gì và cái toàn thể là gì; và

chúng không khác nhau. Giọt sương chứa toàn thể đại

dương; theo đích xác cùng cách này, mọi người đều

chứa cái toàn thể của Thượng đế.

Người thứ hai: tỉnh giác. Người ta phải rất tỉnh

táo. Tỉnh táo là phương pháp của Phật; yoga duy nhất

của ông ấy mà ông ấy đã dạy là yoga về việc tỉnh táo.

Chúng ta đang sống gần như máy móc, như robot.

Đem tỉnh táo về cho hành động của bạn, cho ý nghĩ

của bạn, cho tình cảm của bạn đi.

Và người thứ ba là năng lượng. Chúng ta cứ tiêu

tán năng lượng vào những điều ngu xuẩn - cãi lộn,

tranh biện, chẳng vì lí do nào cả. Gìn giữ năng lượng

của bạn đi bởi vì chừng nào bạn còn chưa có năng

lượng tràn ngập bạn sẽ không có khả năng lấy cú

nhảy tối thượng. Cú nhảy tối thượng nghĩa là dòng

sông đi vào trong đại dương, dòng sống biến mất

trong đại dương và trở thành đại dương. Nếu bạn

không đầy năng lượng bạn sẽ không có khả năng đạt

tới đại dương; bạn sẽ mất hút đâu đó trong sa mạc.

Và người thứ tư là thiền. Với "thiền" ông ấy ngụ ý

vẫn còn ngày một im lặng hơn để dần dần, dần dần

dịch chuyển xảy ra từ tâm trí sang vô trí, để dần dần,

dần dần động thái thay đổi từ ồn ào sang im lặng.

Và người thứ năm: trí huệ. Trí huệ không phải là

tri thức. Tri thức được vay mượn, trí huệ là của bạn.

Tri thức có thể được thu lấy từ thư viện; bạn có thể

chứa cả thư viện trong tâm trí mình. Dầu vậy bạn sẽ

vẫn còn dốt nát như trước; thực tế, bạn sẽ dốt nát hơn

trước bởi vì bây giờ tải là lớn hơn. Trí huệ tới từ trái

tim riêng của bạn; nó là tiếng nói của bản thể bên

trong riêng của bạn. Nó xảy ra trong thiền: khi bạn im

lặng bạn bắt đầu nghe thấy tiếng nói nhỏ bé, tĩnh lặng

bên trong. Đó là trí huệ.

Và khi năm người đã bị bỏ lại mắc cạn trên bờ....

Năm người này là gì? Tham, giận, ảo tưởng, bản ngã,

giáo huấn giả. ... Người tìm kiếm được gọi là

oghatinnoti - " Người đã đi qua."

Đây là thông điệp của Phật cho người tìm kiếm.

Ông ấy đang nói với các Bồ tát của mình hãy đi và

trao nó cho những người đã sẵn sàng, cho những

người đã được chuẩn bị, cho những người sẵn lòng

lắng nghe, hiểu, đi theo con đường.

Thiền về những lời kinh này đi - chúng dành cho

bạn đấy. Mọi thứ mà Phật nói đều rất có ý nghĩa. Nó

không phải là tôn giáo thường, nó là tính tôn giáo

thuần khiết.

Đủ cho hôm nay.

**************************************************************************************************************

#4Tôi lại bỏ lỡ!

Câu hỏi thứ nhất:

Thưa Thầy kính yêu,

Có cái gì đó mà ngay cả thầy cũng không thể làm

được. Thầy không để đưa người Italy vào chuyện

đùa của người Ai rơ len được. Điều đó là ngược

lại pháp.

Dharma Chetana, điều đó đúng đấy, tôi lại bỏ lỡ!

Cứ nhắc nhở tôi nhé. Những chuyện đùa phải gió này

là nguy hiểm! Và tôi yêu người Italy nhiều tới mức

bất kì khi nào tôi có thể tìm được chỗ cho họ tôi đều

cố gắng xoay xở. Thỉnh thoảng tôi thành công, đôi khi

tôi thất bại, nhưng bạn đã bắt tôi.

Để có ghi đúng, chuyện đùa là:

Hai quí ông đang ngồi trong vườn, một người

Anh, một người Ai rơ len.

Quí ông người Anh hỏi người Ai rơ len, "Nếu như

ông không là người Ai rơ len, ông sẽ là người gì?"

Người Ai rơ len nói, "Tất nhiên tôi sẽ là người

Anh."

Và thế rồi anh ta hỏi người Anh, "Nếu như ông

không là người Anh, ông sẽ là người gì?"

Và người Anh nói, "Tôi sẽ xấu hổ."

Nhưng tôi đã trộn lẫn rồi. Đó là lí do tại sao tôi có

mọi chuyện đùa xếp theo kiểu tôi. Chuyện đó không

theo kiểu của tôi. Về Thượng đế và về chân lí và về

tôn giáo không có rắc rối gì - tôi biết họ từ kinh

nghiệm cá nhân của tôi. Nhưng những chuyện đùa

này!

Vâng, Chetana, nó là ngược lại Pháp. Và tôi hi

vọng nó sẽ không xảy ra nữa.

Câu hỏi thứ hai:

Thưa Thầy kính yêu,

Sao tôi không thể thấy được lỗi riêng của tôi khi

tôi cực kì có khả năng thấy lỗi của người khác,

cho dù là lỗi nhỏ nhặt nhất của họ?

Prageeta, điều đó rất thông thường. Nó không

phải là cái gì đó ngoại lệ. Mắt của chúng ta hội tụ vào

người khác; chúng ta hướng sang người khác. Chúng

ta chỉ thấy người khác - vấn đề không chỉ là lỗi -

chúng ta chưa bao giờ thấy bản thân mình. Cho dù

chúng ta có muốn thấy bản thân mình chúng ta cũng

phải nhìn vào gương, chúng ta phải tạo ra ảnh. Khi

ảnh có đó người khác đã xuất hiện. Gương giúp chúng

ta nhìn bản thân mình bởi vì nó tạo ra người khác.

Bằng không chúng ta là người hướng ngoại tuyệt đối;

chúng ta đã quên ngôn ngữ về cách nhìn vào trong.

Do đó, xem như hệ quả, bạn không thể thấy được lỗi

của riêng mình; không ai có thể thấy được.

Khoảnh khắc bạn bắt đầu thấy lỗi của mình chúng

bắt đầu rơi rụng đi như lá khô. Thế thì chẳng cái gì

khác phải được làm; thấy chúng là đủ. Chỉ nhận biết

về lỗi của mình là mọi điều được cần. Trong nhận biết

đó chúng bắt đầu biến mất, chúng bay hơi. Người ta

có thể cứ phạm lỗi nào đó chỉ nếu người ta vẫn còn vô

ý thức về nó. Vô ý thức là điều phải có để cứ phạm

cùng lỗi. Cho dù bạn cố gắng thay đổi bạn sẽ phạm

phải cùng lỗi dưới dạng khác nào đó, trong hình dạng

khác nào đó. Và chúng tới trong đủ mọi kích cỡ và

mọi hình dáng. Bạn sẽ trao đổi, bạn sẽ thay thế,

nhưng bạn không thể vứt bỏ được nó bởi vì sâu bên

dưới bạn không thấy rằng nó là lỗi. Người khác có thể

nói cho bạn bởi vì họ có thể thấy.

Đó là lí do tại sao mọi người nghĩ bản thân mình

đẹp thế, thông minh thế, đức hạnh thế, thánh thiện thế

- và chẳng ai đồng ý với người đó! Lí do là đơn giản:

bạn nhìn vào người khác, bạn thấy thực tại của họ, và

về bản thân mình bạn mang hư cấu - hư cấu đẹp đẽ.

Về bản thân mình bạn rất hư cấu. Tất cả mọi điều bạn

biết về bản thân mình đều ít nhiều hoang đường; nó

chẳng liên quan gì tới thực tại.

Khoảnh khắc người ta thấy ra lỗi của mình, thay

đổi triệt để được tạo ra. Do đó mọi chư phật trong các

thời đại đều đã từng nói chỉ một điều: nhận biết. Họ

không dạy bạn cá tính. Cá tính do tu sĩ, chính khách

dạy bạn, không do chư phật dạy. Chư phật dạy bạn

tâm thức - không phải lương tâm. Lương tâm là thủ

đoạn người khác chơi trên bạn. Người khác nói với

bạn cái gì là đúng và cái gì là sai; họ ép buộc ý tưởng

của họ lên bạn. Và họ cứ ép buộc những điều đó từ

chính thời thơ ấu của bạn, khi bạn còn hồn nhiên thế,

mong manh thế, tinh tế tới mức có khả năng gây bất

kì ấn tượng nào lên bạn, bất kì dấu ấn nào lên bạn. Họ

đã ước định bạn từ chính lúc ban đầu. Ước định đó

được gọi là lương tâm và lương tâm đó cứ chi phối

toàn thể cuộc sống của bạn. Lương tâm là chiến lược

của xã hội để làm bạn thành nô lệ.

Chư phật dạy tâm thức. Tâm thức nghĩa là bạn

không học từ người khác cái gì đúng và cái gì sai;

không có nhu cầu học từ bất kì ai. Bạn đơn giản phải

đi vào trong; cuộc hành trình vào trong là đủ. Bạn đi

càng sâu, tâm thức càng toả ra nhiều. Khi bạn đạt tới

trung tâm, bạn đầy ánh sáng tới mức bóng tối biến

mất. Khi bạn đem ánh sáng vào trong phòng, bạn

không phải đẩy bóng tối ra khỏi phòng. Sự hiện diện

của ánh sáng là đủ bởi vì bóng tối chỉ là không có ánh

sáng. Mọi cái không lành mạnh, điên khùng của bạn

cũng như vậy.

Nhưng mọi người có thể thấy lỗi của người khác,

cho nên đừng lo nghĩ về điều đó, Prageeta. Đây là

tình huống trong đó mọi người đang sống.

Một người ăn mặc hệt như Adolf Hitler tới thăm

nhà tâm thần.

"Ông có thể thấy tôi không có vấn đề gì," người

đó nói. "Tôi có quân đội lớn nhất thế giới, mọi tiền

bạc tôi cần và mọi thứ xa hoa có thể quan niệm được

mà ông có thể hình dung ra."

"Thế thì cái gì dường như là vấn đề của ông?" bác

sĩ hỏi.

"Đó là vợ tôi," người đó nói. "Cô ấy nghĩ cô ấy là

bà Weaver."

Đừng cười người đáng thương này. Đấy không

phải là ai khác ngoài bạn.

Một người đi tới cửa hàng may và thấy một người

đang treo mình bằng một tay từ giữa trần nhà.

"Anh ta đang làm gì ở đó thế?" người đó hỏi thợ

may.

"Ồ, đừng chú ý," thợ may nói, "anh ta nghĩ anh ta

là bóng đèn đấy."

"Này, sao ông không bảo anh ta không phải là

vậy?" khách hàng thất kinh hỏi.

"Cái gì?" thợ may đáp. "Và làm việc trong bóng

tối sao?"

Khoảnh khắc bạn biết bạn điên, bạn không còn

điên nữa. Đó là tiêu chí duy nhất về lành mạnh.

Khoảnh khắc bạn biết bạn là người dốt nát bạn đã trở

thành trí huệ.

Nhà tiên tri ở Delphi tuyên bố Socrates là người

trí huệ nhất trên thế gian. Vài người chạy xô tới

Socrates và họ bảo ông ấy, "Vui lòng đi, hân hoan đi:

nhà tiên tri ở Delphi đã tuyên bố ông là người trí huệ

nhất trên thế giới."

Socrates nói, "Điều đó tất cả đều vô nghĩa. Tôi

biết chỉ mỗi một điều thôi: rằng tôi chẳng biết gì cả."

Mọi người đâm ra phân vân và lẫn lộn. Họ quay

trở lại ngôi đền, họ nói với nhà tiên tri, "Ông nói rằng

Socrates là người trí huệ nhất trên thế giới, nhưng bản

thân ông ấy lại phủ nhận điều đó. Ngược lại, ông ấy

nói ông ấy hoàn toàn dốt nát. Ông ấy nói ông ấy chỉ

biết mỗi một điều: rằng ông ấy không biết gì."

Nhà tiên tri cười to và nói, "Đó là lí do tại sao ta

đã tuyên bố ông ấy là người trí huệ nhất trên thế giới,

người trí huệ vĩ đại nhất trên thế giới. Đó là lí do tại

sao - chính xác bởi vì ông ấy biết rằng ông ấy là

người dốt nát."

Người dốt nát tin họ khôn ngoan. Người không

lành mạnh tin họ là người lành mạnh nhất.

Vâng, Prageeta, điều đó xảy ra; chính một phần

của bản tính con người là chúng ta cứ nhìn ra ngoài.

Chúng ta quan sát mọi người ngoại trừ bản thân mình.

Do đó chúng ta biết nhiều về người khác hơn là về

bản thân mình; chúng ta chẳng biết gì về bản thân

mình. Chúng ta không là nhân chứng cho sự vận hành

riêng của tâm trí, chúng ta không quan sát bên trong.

Bạn cần quay một trăm tám mươi độ - đó chính là

thiền tất cả là gì. Bạn phải nhắm mắt lại và bắt đầu

quan sát. Lúc đầu bạn sẽ thấy chỉ toàn bóng tối và

không gì khác. Và nhiều người trở nên hoảng sợ và

chạy xô ra bởi vì bên ngoài có ánh sáng. Vâng, có ánh

sáng bên ngoài nhưng ánh sáng đó sẽ không làm bừng

sáng bạn, ánh sáng đó sẽ không giúp ích cho bạn chút

nào. Bạn cần ánh sáng bên trong, ánh sáng có cội

nguồn của nó ở trong chính bản thể bạn, ánh sáng

không thể bị tắt đi ngay cả bởi cái chết, ánh sáng vĩnh

hằng. Và bạn có nó, tiềm năng có đó! Bạn được sinh

ra với nó, nhưng bạn để nó đằng sau bạn; bạn chưa

bao giờ nhìn vào nó.

Và bởi vì trong hàng thế kỉ, trong nhiều kiếp, bạn

đã nhìn ra ngoài, nó đã trở thành thói quen máy móc.

Ngay cả khi bạn ngủ bạn cũng nhìn trong mơ. Mơ

nghĩa là phản xạ của cái bên ngoài. Khi bạn nhắm mắt

bạn lại bắt đầu mơ ngày hay suy nghĩ; điều đó nghĩa

là bạn trở nên quan tâm tới những cái khác. Điều này

đã trở thành thói quen kinh niên tới mức thậm chí

không có khoảng hở nhỏ, cửa sổ nhỏ trong bản thể

riêng của bạn từ đó bạn có thể có thoáng nhìn về mình

là ai.

Lúc ban đầu nó là cuộc vật lộn gian khó, nó là

gian nan, nó là khó khăn - nhưng không phải là không

thể được. Nếu bạn quyết tâm, nếu bạn cam kết với

cuộc thám hiểm bên trong, thế thì chẳng chóng thì

chầy nó xảy ra. Bạn phải cứ đào xuống, bạn phải cứ

vật lộn với bóng tối. Chẳng mấy chốc bạn sẽ đi qua

bóng tối và bạn sẽ đi vào trong cõi ánh sáng. Và ánh

sáng đó là ánh sáng đúng, còn đúng hơn nhiều so với

ánh sáng của mặt trời hay mặt trăng, bởi vì mọi ánh

sáng ở bên ngoài đều tạm thời; chúng là duy nhất cho

thời gian hiện đấy.

Ngay cả mặt trời cũng sẽ chết một ngày nào đó.

Không chỉ ngọn đèn nhỏ cạn kiệt nguồn của chúng và

chết đi vào buổi sáng, ngay cả mặt trời với nguồn

mênh mông thế cũng đang chết đi mọi ngày. Chẳng

chóng thì chầy nó sẽ trở thành lỗ đen; nó sẽ chết và

không ánh sáng nào sẽ tới từ nó. Dù nó sống lâu đến

đâu thì nó cũng không vĩnh hằng. Ánh sáng bên trong

là vĩnh hằng; nó không có bắt đầu, không kết thúc. Nó

đồng nghĩa với Thượng đế.

Và tôi không quan tâm tới việc bảo bạn vứt bỏ lỗi

của bạn, làm cho bản thân bạn thành tốt, cải tiến cá

tính của bạn - không, không chút nào. Tôi không quan

tâm tới cá tính của bạn chút nào; tôi chỉ quan tâm tới

tâm thức của bạn.

Trở nên tỉnh táo hơn đi, ý thức hơn đi. Đi ngày

càng sâu hơn vào bản thân mình cho tới khi bạn thấy

trung tâm của bản thể mình. Bạn đang sống ở ngoại

vi, và ở ngoại vi bao giờ cũng có rối loạn. Bạn càng đi

sâu hơn, im lặng sâu hơn càng ngự trị. Và trong

những kinh nghiệm đó về im lặng, ánh sáng, niềm

vui, cuộc sống của bạn bắt đầu chuyển vào chiều

hướng khác. Lỗi, sai lầm bắt đầu biến mất.

Cho nên đừng lo nghĩ về sai sót và lỗi lầm và lỗi.

Quan tâm về một điều thôi, một hiện tượng thôi; đưa

toàn bộ năng lượng của bạn vào một mục đích, và đó

là cách ý thức nhiều hơn, cách thức tỉnh nhiều hơn.

Nếu bạn đưa toàn bộ năng lượng của mình vào trong

nó, nó sẽ xảy ra, nó là không tránh khỏi. Nó là quyền

tập ấn của bạn.

#4Câu hỏi thứ ba:

Thưa Thầy kính yêu,

Thầy ngụ ý gì bằng việc gọi Sarjano là mồm to?

Nirmal, đích xác điều đó: cái mồm to!

Tôi sẽ kể cho bạn một câu chuyện hư cấu:

Tôi đi lên Himalayas; Radha đi cùng tôi. Tầu hoả

dừng lại giữa đêm trong rừng rậm và cả đoàn tầu bị

cướp. Bọn cướp cũng vào khoang chúng tôi.

Tôi bảo chúng, "Đừng quấy rầy chúng tôi. Cứ lấy

bất kì cái gì các anh muốn."

Thế là bọn chúng khênh đi hai va li. Tôi lo về

Radha, rằng cô ấy có thể rất khiếp đảm, có thể trở nên

rất quan tâm về các thứ của cô ấy, nhưng tôi ngạc

nhiên. Khi chúng đi rồi cô ấy cười ha hả, "Ha, ha! Ha,

ha!"

Tôi nói, "Có chuyện gì thế, Radha? Chuyện gì?"

Cô ấy nói, "Tôi lừa được chúng rồi! Tôi đã cứu

chiếc đồng hồ kim cương năm mươi nghìn đô la của

tôi, tôi đã cứu được chiếc Rolex của tôi, tôi đã cứu

được vòng tai của tôi, tôi đã cứu được vòng vàng và

kim cương của tôi và mọi thứ có giá trị."

Tôi nói, "Bạn xoay xở thế nào?"

Cô ấy nói, "Tôi để tất cả chúng vào trong mồm

tôi."

Tôi nói, "Điều đó làm tôi rất buồn."

Cô ấy nói, "Sao thế?"

Tôi nói, "Nếu như chúng ta mang Sarjano đi cùng,

anh ấy chắc đã cứu được hai va li! Lần sau chúng ti

tới Himalayas đừng bao giờ quên: Sarjano phải đi

cùng chúng ta!"

Câu hỏi thứ tư:

Thưa Thầy kính yêu,

Đeo vòng hạt ảnh hay cây thập tự có cùng nghĩa

không?

Jan, nó không có cùng nghĩa đâu - chúng là các

đối lập cực. Những người đã trở nên quan tâm tới cây

thập tự đều bệnh hoạn. Họ không quan tâm tới Christ,

họ quan tâm tới cây thập tự. Nếu họ thực sự quan tâm

tới Christ họ cũng sẽ quan tâm tới Phật, tới Lão Tử,

tới Krishna, tới Kabir. Nhưng họ không quan tâm tới

Christ, họ quan tâm tới cây thập tự.

Do đó tôi không gọi Ki tô giáo là "Ki tô giáo," tôi

gọi nó là "Thập tự giáo." Nếu Jesus mà không bị đóng

đinh thì đã không có điều như vậy khi bạn tìm thấy

trên khắp thế giới cái tên của Ki tô giáo. Những người

này trở nên quan tâm tới cái chết; mối quan tâm này

là bệnh tật. Họ trở nên quan tâm tới việc tôn thờ cái

chết. Jesus là phụ, cây thập tự trở thành chính. Bởi vì

ông ấy bị đóng đinh, bởi vì ông ấy khổ, ông ấy thu hút

sự chú ý của họ. Có những người bao giờ cũng quan

tâm tới đau khổ, tới khổ, tới chết.

Mối quan tâm của tôi không phải là về chết, mối

quan tâm của tôi là về sống. Tôi yêu cuộc sống vô

điều kiện. Tôi mở hội cho chết nữa, chỉ bởi vì nó là

một phần của sống - không phải như chết mà là một

phần của sống, như cái chạm kết thúc, như cao trào,

như việc nở hoa tối thượng của sống. Nếu bạn đã

sống đúng, chết của bạn là hiện tượng đẹp. Nhưng

mối quan tâm của tôi về căn bản, về cốt yếu là sống.

Vòng hạt biểu thị sống, cây thập tự biểu thị chết.

Vòng hạt biểu thị nghệ thuật nào đó của việc làm

sống thành vòng hoa. Các hạt là những khoảnh khắc.

Từng hạt phải hoàn hảo; từng khoảnh khắc phải được

sống trong sự hoàn hảo của nó. Và có sợi chỉ chạy

qua chúng, cái vốn vô hình, xuyên qua từng hạt; sợi

chỉ đó là của vĩnh hằng. Từng khoảnh khắc đều được

xâu chuỗi bằng vĩnh hằng.

Chừng nào cuộc sống của bạn còn chưa biết vĩnh

hằng là gì, cuộc sống của bạn sẽ chỉ là đống hạt hay

đống hoa, nhưng nó sẽ không là vòng hoa, nó sẽ

không là vòng hạt. Nó sẽ không có hài hoà bên trong

nào - các hạt sẽ vẫn còn không có liên quan. Nó sẽ là

hỗn độn, nó sẽ không là hài hoà; sẽ không có trật tự,

không có kỉ luật. Nhưng kỉ luật phải là vô hình như

sợi chỉ.

Và làm sao người ta đi tới biết cái vĩnh hằng?

Cách duy nhất để biết sợi chỉ là đi vào bên trong hạt.

Ở đó, tại chính trung tâm của hạt, bạn sẽ thấy sợi chỉ

đi qua. Đi sâu hơn vào từng khoảnh khắc, đi toàn bộ

vào trong nó, bạn sẽ thấy cái vĩnh hằng. Từng khoảnh

khắc đều là một phần của cuộc diễu hành vĩnh hằng,

của lễ hội vĩnh hằng.

Vòng hạt biểu thị thời gian như các hạt, thấy

được, và sợi chỉ như cái vĩnh hằng, cái vô hình. Có

một trăm linh tám hạt trong vòng hạt. Một trăm linh

tám hạt biểu thị cho một trăm linh tám phương pháp

thiền; tất cả các phương pháp thiền đều có thể được

rút lại thành một trăm linh tám phương pháp - một

trăm linh tám phương pháp là phương pháp nền tảng

của thiền. Thế rồi chúng có thể có hàng nghìn phương

pháp với sự khác biệt chút ít, thay đổi chút ít - gắn hai

phương pháp hay ba phương pháp lại hay vài phần

của phương pháp này và vài phần của phương pháp

khác. Người ta có thể làm ra nhiều phương pháp có

thể có, nhưng phương pháp nền tảng là một trăm linh

tám.

Vòng hạt có một trăm linh tám hạt và có trái tim

có ảnh của ai đó... không ai biết người đó là ai. Ai đó

vô danh, ai đó nhiều tính không ai cả hơn là ai đó;

người đã chết từ lâu như một thực thể tách biệt, người

không tồn tại thêm nữa như một "tôi" mà chỉ là một

không gian mở. Đó là chỗ bạn phải đạt tới, đó là chỗ

bạn phải tới. Đó là nhà tối thượng của bạn.

Vòng hạt không phải là thập tự. Ki tô giáo tôn thờ

cái chết và đó là chỗ nó đã đi sai. Nó đã làm mất niềm

vui cuộc sống, tiếng cười, khôi hài. Nó đã mất tiếp

xúc với Jesus. Nó cứ tôn thờ Jesus bị đóng đinh,

nhưng nó không có khả năng tôn thờ Jesus sống.

Và nỗ lực của tôi ở đây là để giúp bạn tôn thờ

cuộc sống, để sống vui vẻ, với khôi hài tới mức cuộc

sống của bạn trở thành điệu vũ. Tôi không muốn bạn

trở nên buồn và nghiêm chỉnh - chân thành tất nhiên,

nhưng nghiêm chỉnh, không bao giờ. Tôi muốn bạn đi

sâu hơn vào trong sự tồn tại. Nhảy múa cùng hoa! Đối

thoại cùng sao! Nhìn vào mắt mọi người và yêu và

không giữ lại. Người phi tâm linh duy nhất là những

người giữ lại, người sống theo cách keo kiệt, người

sống chỉ bộ phận, phân mảnh, người không tích hợp.

Và đừng sống cuộc sống ngẫu nhiên; để có sợi chỉ

chạy qua nó. Từ tiếng Phạn cho sợi chỉ là sutra. Đó là

lí do tại sao những câu nói vĩ đại này của Phật,

Patanjali, Krishna, Mahavira được gọi là sutras - kinh:

đây là những sợi chỉ. Nếu bạn hiểu chúng cuộc sống

của bạn sẽ không còn chỉ là cái đống, cái đống ngẫu

nhiên. Bạn sẽ không chỉ là mẩu gỗ trôi giạt phó mặc

cho các lực vô ý thức. Cuộc sống của bạn sẽ trở thành

chuyển động có ý thức, cuộc sống của bạn sẽ trở

thành nghệ thuật. Nó sẽ có ý nghĩa về chiều hướng, và

từng hành động sẽ được nối với mọi hành động khác

của cuộc sống của bạn. Bạn sẽ không là ngẫu nhiên.

Nếu bạn ngẫu nhiên bạn sẽ chỉ là tiếng ồn; nếu bạn

không ngẫu nhiên bạn có thể trở thành âm nhạc.

Vòng hạt biểu thị cho âm nhạc, nó biểu thị cho hài

hoà. Nó chỉ ra rằng bạn đã tìm ra sutra, sợi chỉ làm

cho cuộc sống của bạn thành một toàn thể, một mảnh.

Cuộc sống đẹp khi nó là một mảnh; cuộc sống xấu khi

nó phân nhiều mảnh - khi bạn chỉ là đám đông và khi

đám đông bao giờ cũng đánh nhau bên trong bạn, khi

bao giờ cũng có nội chiến.

Tất nhiên, cây thập tự có ảnh hưởng tới nhân loại

rất nhiều, bởi vì hàng triệu người thấy nghĩa trong cây

thập tự - bởi vì nó khớp với cuộc sống của họ. Các

kiếp sống của họ gần như trên cây thập tự: họ sống

trong khổ não, họ chưa bao giờ nếm trải cực lạc là gì.

Không phải ngẫu nhiên mà thông điệp của

Krishna đã không tới được hàng triệu người. Mới

hôm nọ tôi đã kể cho bạn rằng Zarathustra đã không

đạt tới hàng triệu người bởi lí do đơn giản là ông ấy

yêu cuộc sống. Jesus đã đạt tới hàng triệu người

không phải bởi vì bản thân ông ấy mà bởi vì một tai

nạn trong cuộc đời ông ấy. Chính bởi vì người Do

Thái và người La Mã: nếu họ không đóng đinh ông

ấy, nếu họ đã dung thứ cho ông ấy, ông ấy chắc đã tự

chết đi và không ai đã nghe nói gì về ông ấy cả. Tất

cả các nhà thờ này và hàng nghìn thầu tu và xơ chắc

chúng ta đã không được thấy chút nào - họ đã tụ tập

quanh cây thập tự. Cây thập tự trở thành có ý nghĩa

bởi vì nó đồng bộ với cái gì đó trong cuộc sống của

họ. Cuộc sống của họ toàn khổ và cây thập tự đại diện

cho điều đó. Họ cũng đang trên cây thập tự. Cả đời họ

là đau khổ, cả đời họ là địa ngục.

Điều tôi đang nói sẽ không hấp dẫn với nhiều

người. Nó sẽ hấp dẫn chỉ với vài người thông minh,

người dũng cảm, chỉ với vài người thực sự mạnh khoẻ

và toàn thể. Điều này là không may, nhưng điều này

đã từng là vậy cho tới giờ.

Bất kì khi nào ai đó tới đây để dạy cuộc sống cho

bạn, người đó đều dường như là xa xăm; dường như

không đối thoại nào xảy ra giữa người đó và bạn.

Người đó nói về nhảy múa và bạn thậm chí không

biết cách bước đi! Người đó nói về cực lạc và bạn

không biết từ đó ngụ ý gì.

Một trong các sannyasin của tôi mới tới từ Hi

Lạp. Cô ấy đã thông báo cho tôi rằng ở Hi Lạp

'ecstasy-cực lạc' - ekstasis - nghĩa là điểm dừng xe

bus! Điều đó dường như có nghĩa nhiều hơn. Và theo

một nghĩa nào đó nó là điểm dừng xe bus thật, thực tế

là điểm cuối - terminus, điểm dừng cuối. Bên ngoài

chỗ đó không có cách đi - điểm dừng xe cuối cùng.

Bạn nghe từ 'ecstasy-cực lạc', âm thanh tới bạn,

nhưng nghĩa bị bỏ lỡ. Nhưng khi bạn nghe từ

'suffering-khổ' không chỉ âm thanh tới bạn, bạn biết

nghĩa nữa. Khi bạn biết cây thập tự là gì, bạn hoàn

toàn đồng ý; cuộc sống của bạn đồng ý với nó.

Nhưng cuộc sống của bạn là sai. Cuộc sống của

bạn còn chưa là cuộc sống, bạn còn chưa được sinh

ra. Đó là lí do tại sao Jesus cứ nói đi nói lại: Chừng

nào các ông còn chưa được sinh ra lần nữa....

Toàn thể nỗ lực của tôi ở đây là để cho bạn việc

tái sinh. Vòng hạt không phải là cây thập tự.

#4Câu hỏi thứ năm:

Thưa Thầy kính yêu,

Sao các nhà báo bao giờ cũng viết chống lại

thầy?

Sudarshan, cảm thấy hạnh phúc là họ bao giờ

cũng viết đi; đừng lo về điều họ viết. Nếu họ viết điều

đó nghĩa là cái gì đó đang xảy ra ở đây. Và họ chỉ có

thể viết chống lại bởi vì khi bạn viết ủng hộ cái gì đó,

bạn phải kinh nghiệm điều đang xảy ra ở đây; không

kinh nghiệm nó bạn không thể viết được bài báo ủng

hộ nó. Bạn phải ở đây trong vài tháng.

Họ tới chỉ một ngày, họ nhìn quanh, họ thấy các

thiền nhân - nhưng bằng việc nhìn các thiền nhân bạn

không thể thấy được thiền. Họ thấy rằng cái gì đó

đang xảy ra và cái gì đó mới với họ tới mức nó không

khớp với ý tưởng của họ về đạo tràng, về tu viện. Do

đó, một cách tự nhiên họ quay sang chống tôi, họ trở

thành đối kháng.

Nếu họ là người Hindu họ nhất định tuyệt đối

chống lại tôi - bởi lí do đơn giản là đây không phải là

đạo tràng Hindu; nó không khớp với ý tưởng của họ

về đạo tràng. Đạo tràng Hindu phải rất đờ đẫn và chết.

Và ở đây có nhiều nhảy múa thế và nhiều bài ca thế

và nhiều vui vẻ thế và nhiều tình yêu thế, họ bị

choáng. Và mọi thứ lại mãnh liệt thế ở đây.

Trong hàng thế kỉ họ đã tạo ra ý tưởng nào đó về

đạo tràng Hindu. Mọi người phải không được tích cực

ở đó; bất hành được tôn thờ. Mọi người phải từ bỏ

cuộc sống - và ở đây chúng ta hân hoan với cuộc

sống. Làm sao họ có thể viết để ủng hộ được? Với họ

dường như là tôi đang phá huỷ toàn thể lí tưởng của

họ. Với họ dường như là trong nhiều thế kỉ họ đã tôn

thờ một lí tưởng nào đó còn tôi đang phá nó. Và theo

một cách nào đó họ đúng.

Tôi muốn phá cái ý tưởng ngu xuẩn đó về đạo

tràng: rằng nó phải chết, mọi người phải bất hoạt, mọi

người phải đờ đẫn, không sáng tạo, chống lại cuộc

sống, chống lại tình yêu, chống lại mọi thứ có mùi vui

vẻ - họ phải là những cái xác biết đi!

Và ý tưởng Hindu về tính chất sannya là ở chỗ

người ta phải trở thành sannyasin chỉ sau bẩy mươi

nhăm tuổi. Điều đó nghĩa là ở Ấn Độ, không ai có thể

trở thành sannyasin được! Tuổi trung bình là ba mươi

sáu, cho nên khi có liên quan tới tuổi trung bình thì

dường như không có khả năng nào cho bất kì ai trở

thành sannyasin. Bẩy mươi nhăm tuổi, thế thì lấy tính

chất sannyas: giai đoạn thứ tư của cuộc sống, khi cái

chết bắt đầu gõ cửa nhà bạn, khi một chân đã trong

nấm mồ - thế thì bạn phải trở thành sannyasin.

Và ở đây họ thấy thanh niên, trẻ thế, họ không thể

nào tin được vào mắt mình. Sao những người này đã

trở thành sannyasins? Đây không phải là thời gian

dành cho tính chất sannyas!

Tôi đang cố gắng tạo ra một quan niệm mới toàn

bộ về tính chất sannyas. Bởi vì họ chống lại cuộc

sống... tất nhiên, nếu bạn chống lại cuộc sống thì bẩy

mươi nhăm tuổi dường như là đúng thời. Bởi vì cuộc

sống đã rời bỏ bạn bây giờ bạn có thể từ bỏ, ít nhất

bạn cũng có thể tận hưởng ý tưởng rằng bạn đang từ

bỏ cuộc sống. Cuộc sống đã rời bỏ bạn - phỏng có ích

gì mà từ bỏ bây giờ? Bạn từ bỏ cái gì? Toàn thể ý

tưởng này là ngu xuẩn. Thế thì sao không lấy tính

chất sannyas khi bạn chết rồi? Chỉ đợi vài ngày nữa,

có thể một tuần. Sao lại vội vàng thế? Thêm chút nữa

đi!

Ở Ấn Độ khi một người chết, họ phủ người đó

bằng vải da cam. Tôi không biết họ đang lừa ai; xác

chết được phủ bằng quần áo của sannyasin. Và họ

tụng tên Thượng đế khi họ đem xác chết đi hoả thiêu

nó. Bây giờ tôi không biết ai nghe lời tụng của họ -

anh chàng đáng thương kia không còn đó nữa. Họ đơn

giản tự lừa mình.

Người Hindu nhất định chống lại tôi. Người Jaina

tới đây, họ nhất định chống lại tôi - đây không phải là

đạo tràng Jaina. Thực tế, người Jaina bao giờ cũng

chống lại đạo tràng; không có điều như thế như đạo

tràng Jaina. Họ muốn các sannyasin của họ là người

lang thang. Họ rất sợ rằng nếu một người ở một chỗ,

người đó có thể trở nên bị gắn bó với chỗ này; với

ngôi nhà này, với mọi người bao quanh người đó. Và

họ sợ cuộc sống tới mức tốt hơn cả là cứ di chuyển.

Sư Jaina chỉ được ở lại một chỗ không quá ba ngày;

ngày thứ tư ông ấy phải ra đi. Cho nên không có gắn

bó, không tình bạn, không chuyện tình nào là có thể;

nhiều nhất người đó trở nên quen thuộc. Trong ba

ngày bạn không thể có thân mật với mọi người. Một

ngày bạn tới, thực tế chỉ một ngày bạn còn ở làng,

ngày thứ ba bạn chuẩn bị ra đi. Đây là nỗi sợ cuộc

sống! Và với tôi, sannyasin phải bạo dạn.

Cho nên khi một người Jaina tới đây, thấy nhiều

người đang sống cùng nhau với nhiều vui vẻ thế, với

tình yêu thế, trong tham dự sâu sắc với nhau, trong

thân mật lớn lao, tình bạn, chuyện tình.... Nhiều tình

yêu đang xảy ra trong diện tích này hơn nó có thể xảy

ra trên khắp thế giới. Thực tế, đôi khi tôi tự hỏi sao

diện tích ba mẫu này có thể chứa được nhiều tình yêu

thế! Dường như năng lực chứa tình yêu này là vô hạn.

Và bất kì ai tới... nếu người Ki tô giáo tới người

đó không thể nào tìm thấy ý tưởng về tu viện của

mình. Có những tu viện Ki tô giáo nơi đàn bà không

được phép vào; trong một nghìn năm không đàn bà

nào đã bao giờ vào. Thậm chí cả bé gái nhỏ, đứa trẻ

hai tháng tuổi cũng không được phép. Loại người nào

đang sống bên trong vậy - sư hay quỉ? Họ sợ cả đứa

bé hai tháng tuổi. Đứa bé hai tháng tuổi đáng thương

đó có thể làm gì được họ? Họ sợ bản thân mình - họ

có thể làm cái gì đó. Họ đang sôi lên! Và họ đang

phạm đủ mọi loại hư hỏng, họ trở thành bị đồi bại.

Nếu người ta không được phép tự nhiên thì năng

lượng của họ trở thành bị hư hỏng.

Mọi đồi bại dục đều bắt nguồn từ tu viện, nhớ lấy

điều đó. Chúng tất cả đều có nguồn gốc tôn giáo,

chúng rất rất tâm linh và linh thiêng. Mọi đồi bại dục

đều có cội nguồn của chúng ở đâu đó trong tôn giáo.

Bây giờ chỉ các sư là đang sống trong tu viện... bạn

nghĩ họ có thể tránh đồng dục được bao lâu? Chỉ các

ni đang sống trong nữ tu viện; họ có thể tránh đồng

dục nữ được bao lâu? - không thể nào tránh được. Nó

là tự nhiên, cái gì đó nhất định xảy ra.

Cho nên khi những người này tới đây họ là ai đó.

Rất khó tìm ra một nhà báo không có định kiến của

riêng mình; người đó tới với định kiến của mình. Và

chỗ này mới toàn bộ, cho nên tự nhiên họ bị khó chịu,

bị xúc phạm. Và các phát biểu của tôi toàn xúc phạm

- chúng được ngụ ý để xúc phạm. Chúng là choáng

điện cho những người này. Họ bị rất rối loạn và họ trả

thù.

Nhớ một điều: nếu bạn tường thuật cái gì đó tốt

nó chẳng bao giờ là tin tức. Không ai quan tâm tới thứ

tốt; mọi người quan tâm tới cái gì đó xấu, cái gì đó

giật gân. Cho nên họ đang tìm điều giật gân. Và bạn

có thể thấy đủ thứ giật gân ở đây, nhiều hơn bạn có

thể tìm thấy ở bất kì nơi nào khác. Bạn không cần

phát minh ra chúng - chúng tôi cung cấp chúng!

Cha Murphy là một linh mục trong giáo xứ rất

nghèo. Ông ấy xin gợi ý về cách ông ấy có thể xin

tiền cho nhà thờ của mình, và được bảo cho biết là

người chủ ngựa bao giờ cũng có tiền.

Ông ấy đi tới cuộc đấu giá ngựa, nhưng ông ấy lại

mua bán rất kém khi ngựa lại biến thành lừa.

Tuy nhiên, ông ấy nghĩ mình có thể đưa lừa vào

cuộc đua. Con lừa này về thứ ba, và sáng hôm sau các

tít trong báo đều đưa tin, "Con lừa5

[5 Ass trong tiếng Anh vừa có nghĩa là con lừa vừa có nghĩa là đít]

của cha Murphy

trình diễn."

Tổng giám mục đọc báo và giận lắm.

Hôm sau con lừa về nhất và tiêu đề báo đăng,

"Con lừa của cha Murphy về trước."

Tổng giám mục chồm dậy và hình dung ra cái gì

đó cần phải được làm.

Cha Murphy đưa con lừa vào đua lần thứ ba và nó

về nhì. Bây giờ báo chí đăng, "Con lừa của cha

Murphy ở chỗ sau." Tổng giám mục nghĩ điều này là

quá thể cho nên ông ấy cấm linh mục này đưa lừa đi

thi hôm sau, điều lại gây hứng khởi cho biên tập viết

tiêu đề, "Tổng giám mục rút lừa của cha Murphy khỏi

cuộc đua."

Cuối cùng, tổng giám mục nghe nói về điều này

và ra lệnh cho cha Murphy phải gạt bỏ con lừa đi.

Nhưng ông ấy lại không thể bán được nó, cho nên ông

ấy cho xơ Agatha làm con vật nuôi. Khi tổng giám

mục nghe thấy điều này ông ấy ra lệnh cho xơ Agatha

phế bỏ con vật này ngay. Cô ấy bán nó được mười đô

la.

Hôm sau dòng tiêu đều đăng, "Xơ Agatha rao bán

con lừa của mình với giá mười đô la."

Đừng lo nghĩ về các nhà báo. Tận hưởng bất kì

cái gì họ viết và giúp họ tìm ra những thứ để họ có thể

tiếp tục viết. Tôi quan tâm nhiều hơn ngay bây giờ là

họ nên tiếp tục viết, bởi vì dù họ viết ủng hộ hay

chống đối họ vẫn đem ngày một nhiều người tới tôi.

Và một khi một người tới đây thì rất khó trốn thoát!

Cho nên tôi tuyệt đối biết ơn các nhà báo, dù họ làm

bất kì điều gì. Họ đang làm công việc nhân đạo thế,

phục vụ lớn lao thế cho tôi!

Cho nên khi họ tới đây, đừng cảm thấy đối kháng.

Giúp họ theo mọi cách có thể đi.

#4Câu hỏi thứ sáu:

Thưa Thầy kính yêu,

Tôi ngồi im lặng không làm gì, và cỏ dại đang

mọc khắp quanh tôi.

Roderick, cỏ dại là thiêng liêng. Đừng gọi chúng

là cỏ dại. Chúng cũng tâm linh như chư phật. Chúng

cùng chia sẻ Thượng đế nhiều như hoa hồng. Bỏ con

người khỏi trái đất - sẽ có khác biệt gì giữa cỏ dại và

hoa hồng không? Tất cả những phân biệt này đều do

tâm trí tạo ra.

Bạn không thực sự ngồi im lặng đâu; bằng không,

ai đang nói với bạn cỏ dại đang mọc? Tâm trí bạn vẫn

vận hành, thì thào mọi thứ cho bạn. Nó là tâm trí của

bạn đấy! Nếu bạn thực sự im lặng thì không có tâm trí

đâu - thế thì dù cỏ dại mọc hay hoa hồng mọc tất cả

đều như nhau với bạn. Khác biệt gì có đó? Bạn không

thể tận hưởng được cỏ dại sao? Chúng là người đẹp

đấy! Nhìn cỏ dại lay động, nhảy múa trong gió, trong

ánh mặt trời.... Bạn nghĩ cái gì thiếu trong chúng mà

hoa hồng có? Chẳng cái gì thiếu cả. Đây chỉ là ý

tưởng, và ý tưởng thay đổi. Có thể một ngày nào đó

hoa hồng có thể hết thời thượng, cỏ dại có thể trở

thành một thứ "vào trong nhà."

Một trăm năm trước không ai đã bao giờ nghĩ

rằng xương rồng sẽ được mọi người yêu thích, nhưng

bây giờ xương rồng "vào trong" và hoa hồng "ra

ngoài." Nói về hoa hồng có vẻ nệ cổ, có vẻ chính

thống, theo tục lệ; nói về xương rồng là tiên tiến, nó

chứng tỏ rằng bạn là hiện đại, đương đại. Mọi người

đang để xương rồng trong phòng ngủ - xương rồng

nguy hiểm, xương rồng đầu độc, nó có thể giết chết

bạn! Nhưng chúng đã thành thời thượng, và một khi

cái gì đó đi vào thời thượng thì có nhiều kẻ ngu bắt

đầu tán thưởng nó.

Mọi người đơn giản cứ chạy theo bất kì cái gì

được làm thành thời thượng bởi vài người láu cá và

tinh ranh. Mới một trăm năm trước không ai thích

tranh của Picasso, còn bây giờ Picasso là nghệ sĩ vĩ

đại nhất - không chỉ của thế kỉ này mà của toàn thể

lịch sử. Điều gì đã xảy ra? Chỉ kiểu mốt đã thay đổi.

Mọi người phát mệt về thứ này; họ cứ chuyển sang

cực đoan đối lập.

Roderick, không có gì sai trong cỏ dại cả! Không

có gì sai trong bất kì cái gì. Ý tưởng về đúng và sai

nghĩa là tâm trí có đó. Bạn không ngồi im lặng đâu và

bạn không ngồi mà không làm gì. Bạn đang khu biệt,

và đó là hành động. Bạn đang dán nhãn, và đó là suy

nghĩ. Và bạn đang phán xét.

Vứt mọi phán xét đi, mọi việc dán nhãn, mọi khu

biệt... và chỉ quan sát cỏ dại mọc. Vậy thì sao - cứ để

chúng mọc! Khi bạn không có tâm trí chút nào, bạn

cũng là cỏ dại; cho nên cỏ dại mọc khắp quanh bạn,

đó không phải là cái gì đó kì lạ - cỏ dại bao quanh cỏ

dại! Tận hưởng đi!

Có lần một Thiền sư được vua yêu cầu - vì thầy là

hoạ sĩ lớn - vẽ bức tranh trúc.

Thầy nói, "Sẽ mất thời gian đấy."

"Bao lâu?" vua hỏi.

Thầy nói, "Khó nói được, nhưng ít nhất cũng phải

hai hay ba năm."

Vua nói, "Ông có điên hay cái gì không? Ông là

hoạ sĩ lớn nhất. Ta nghĩ ông có thể vẽ nó ngay bây

giờ!"

Thầy nói, "Chả thành vấn đề, vẽ trúc không phải

là vấn đề - nhưng trước hết ta phải là trúc đã; bằng

không làm sao ta biết trúc là gì? Ta muốn biết trúc từ

bên trong! Cho nên ta sẽ phải đi và sống trong rừng

trúc. Bây giờ, người ta chưa bao giờ biết điều đó sẽ

mất bao lâu. Chừng nào ta chưa biết trúc từ bên trong

ta không thể vẽ nó được. Đó đã từng là thực hành cả

đời ta: ta vẽ chỉ cái ta đã biết cốt lõi sâu nhất của nó."

Vua nói, "Thôi được, ta sẽ đợi."

Một năm trôi qua. Ông ấy phái vài người tới xem

điều gì xảy ra, liệu người này còn sống hay chết rồi.

Họ quay về và nói, "Người này vẫn sống, nhưng

chúng tôi nghĩ rằng người này không còn là người

nữa - người này là trúc rồi! Người này lay động cùng

trúc trong gió. Chúng tôi đi qua bên cạnh ông ấy; ông

ấy chẳng chú ý gì. Chúng tôi nói, 'Xin chào!' Người

này không nghe. Chúng tôi muốn nói với người này.

Chúng tôi đã nhìn vào mắt ông ta - chúng trống rỗng

tới mức chúng tôi trở nên hoảng sợ; hoặc là người này

đã điên hay cái gì đó đã xảy ra. Và người này có thể

làm bất kì cái gì, cho nên chúng tôi trốn mất. Người

này có thể giết hay, ai mà biết được? - người này có

thể nhảy lên chúng tôi! Người này không còn là cùng

người trước nữa."

Đích thân nhà vua tới xem, và thầy đang lay động

trong gió, trong mặt trời. Và vua hỏi, "Thưa ngài, bức

tranh của tôi thì sao?" Thầy không trả lời.

Sau ba năm thầy xuất hiện ở triều đình và thầy

nói, "Bây giờ đem vải vẽ và thuốc mầu lại đây, ta đã

sẵn sàng. Và tại sao bệ hạ là người quấy rối ta lặp đi

lặp lại thế? Nếu bệ hạ mà không quấy rối ta, ta chắc

đã tới sớm hơn chút ít rồi. Những kẻ ngu này từ triều

đình bệ hạ, họ nói mọi thứ với ta. Họ nói, 'Xin chào!'

Bệ hạ có nói chào với trúc không? Họ làm rối loạn

toàn thể sự việc. Phải mất nhiều tháng ta mới thu lại

được lắng đọng trong việc là trúc và quên rằng ta là

người. Và thế rồi bệ hạ tới và bệ hạ nói, 'Thưa ngài.'

Đó có phải là cách nói với cây trúc không? 'Khi nào

ngài sẽ vẽ?' Có ai đã bao giờ nghe thấy trúc vẽ

không? Bệ hạ là kẻ ngu, bệ hạ bị bao quanh toàn kẻ

ngu! Ta đã bảo bệ hạ rằng ta sẽ tới bất kì khi nào ta

sẵn sàng."

Vải vẽ được đưa tới, chổi vẽ và mầu, và trong vài

giây thầy đã vẽ xong trúc. Và người ta nói rằng nhà

vua khóc vì vui sướng. Ông ấy chưa bao giờ thấy bức

tranh như vậy: nó sống động thế! Nó không phải là

bức tranh thường. Nó không là từ bên ngoài, nó là từ

chính trúc - cứ dường như trúc đã mọc ra trên vải vẽ,

không được vẽ ra.

Roderick, ngồi im lặng không làm gì, và để mọi

sự xảy ra - bất kì cái gì đang xảy ra. Nếu cỏ dại mọc,

để chúng mọc. Chúng có quyền mọc nhiều như bạn

có quyền trưởng thành. Và nếu bạn cho phép mọi thứ

mà không có phán xét, nếu bạn vô phán xét, bạn sẽ

trưởng thành tới cực đỉnh của vui vẻ và phúc lành mà

bạn không thể nào hình dung ra được ngay bây giờ.

#4Câu hỏi thứ bẩy:

Thưa Thầy kính yêu,

Thật là kinh khủng về điều thầy nói về người Italy.

Đúng, tất nhiên, nhưng kinh khủng.

Adi, tôi biết nó là kinh khủng, nhưng tôi có thể

làm được gì? Tôi yêu người Italy và tôi muốn nói về

họ nhiều nhất có thể được. Họ là những người hay.

Tôi đánh chỉ khi tôi yêu. Bạn nên lo nghĩ về những

người tôi không đánh. Chẳng hạn, tôi chưa đánh

người Hà Lan. Tôi chờ đợi - khi tôi thu được đủ tình

yêu với họ thì tôi sẽ đánh họ nữa! Đó là cách của tôi

bày tỏ tình yêu và mưa rào tình yêu.

Sao người Italy không tin vào hoá thân?

Này, nhìn vào nó theo cách này: ai muốn quay lại

cuộc sống là người Italy?

Một người đàn bà ẵm đứa bé trong tay đang ngồi

trong phòng đợi tại ga tầu hoả ở Italy, nức nở một

cách cay đắng. Một người phục vụ tới và hỏi cô ấy có

rắc rối gì.

"Ôi, trời ơi," cô ấy kêu, "ai đó đã ở đây và họ đã

khiếm nhã thế với tôi về đứa con trai tôi. Tôi rất bực

tức - họ nói nó xấu thế!"

"Đó, đó bây giờ, em," người phục vụ nói một cách

mềm mỏng. "Đừng lo về điều đó. Anh bảo em cái gì -

uống chén trà ngon nhé?"

"Anh rất tốt," cô ấy nói, đưa tay chùi mắt. "Điều

đó rất tốt."

"Và trong khi anh làm điều đó," anh ta nói, "thế

chuối cho con khỉ của em thì sao?"

Một người Italy với một người cao một chân ngồi

trên vai anh ta bước vào quán rượu và gọi rượu scotch

và soda. Người chủ quán sững sờ những vẫn giao đồ

uống như đã gọi. Ngay khi anh chàng này định uống,

người nhỏ bé kia đánh cho đồ uống rơi ra khỏi tay anh

ta. Anh ta gọi cốc khác, và lần nữa người nhỏ bé lại

đánh cho đồ uống rơi ra sàn. Cảnh này lặp lại ba lần.

Cuối cùng, người đứng quầy không thể đừng

được lâu hơn. "Cái gì diễn ra ở đây thế?" ông ta hỏi.

"Đó là câu chuyện dài," người Italy nói, "nhưng

nhiều năm trước tôi đã ở Ai Cập và đã tìm ra cây đèn

thần. Tôi cọ vào nó và một thần hiện ra cho tôi ba

điều ước. Đầu tiên tôi ước có mười triệu đô la. Thế rồi

tôi ước có cuộc sống lâu mãi."

"Hay đấy," người đứng quầy nói. "Điều ước thứ

ba của ông là gì?"

"Tôi ước cho chim dài ba mươi centimet."

Hiểu chưa? Nhớ lấy nếu bạn bắt gặp một thần lúc

nào đó, đừng bao giờ hỏi điều ước thứ ba. Xem từ

điển mà tìm nghĩa thực của "chim."

#4Câu hỏi cuối cùng:

Thưa Thầy kính yêu,

Tôi cảm thấy choáng khi thầy dùng từ 'đéo'. Phải

làm gì?

Sargamo, đó là một trong những từ hay nhất.

Tiếng Anh nên tự hào về nó. Tôi không nghĩ ngôn

ngữ nào khác có từ hay như thế.

Một hôm Tom từ California đã làm nghiên cứu

lớn lao nào đó về nó. Tôi nghĩ ông ấy phải là Tôm nổi

tiếng về tiếng tăm của Tom, Dick và Harry.

Anh ấy nói:

Một trong những từ thú vị nhất trong tiếng Anh là

từ 'fuck-đéo'. Nó là một từ ma lực: chỉ bởi âm thanh

của nó, nó có thể mô tả đau đớn, hoan lạc, ghét và

yêu. Trong ngôn ngữ nó rơi vào nhiều phân loại văn

phạm. Nó có thể được dùng như động từ, cả ngoại

động từ (John đéo Mary) và nội động từ (Mary bị đéo

bởi John), và như danh từ (Mary là kiểu đéo đẹp). Nó

có thể được dùng như tính từ (Mary đang đéo đẹp).

Như bạn có thể thấy không có mấy từ có tính linh

động của 'đéo'.

Bên cạnh nghĩa dục, cũng có các cách dùng sau:

Lừa gạt: Tôi bị đéo với chiếc xe dùng rồi.

Dốt nát: Bị đéo rồi nếu mình biết.

Rắc rối: Tôi đoán tôi bị đéo bây giờ!

Hùng hổ: Đéo mày!

Không bằng lòng: Cái đéo gì đang diễn ra ở đây?

Khó khăn: Tôi không thể hiểu được cái việc đéo

này.

Bất tài: Nó đéo đi ngay.

Nghi ngờ: Anh đang làm cái đéo gì?

Tận hưởng: Tôi có một thời gian tốt đéo ra.

Yêu cầu: Làm cái đéo gì ở đây đi!

Thù địch: Tôi sẽ gõ vào cái đầu đéo ra gì của anh!

Đón chào: Anh thế đéo nào rồi?

Hờ hững: Ai cho cái đéo gì?

Canh tân: Kiếm cái búa đéo nào to hơn.

Ngạc nhiên: Đéo mẹ! Mày sợ cứt gì tao!

Lo âu: Hôm nay thực sự đéo ra gì.

Và nó rất mạnh khoẻ nữa. Nếu mọi sáng bạn làm

nó như Thiền Siêu việt - kiểu như khi bạn thức dậy,

điều đầu tiên, nhẩm mật chú "Đéo mày!" năm lần - nó

làm sạch cổ họng. Đó là cách tôi giữ cho cổ tôi sạch!

Đủ cho hôm nay.

**************************************************************************************************************

#5Được tự do dịu ngọt làm sao

Người tìm kiếm!

Đừng khinh suất.

Thiền thường xuyên

nếu không ông sẽ nuốt lửa

và kêu la: "Không thêm nữa!"

Nếu ông không trí huệ,

Làm sao ông có thể làm vững chắc được tâm trí?

Nếu ông không thể làm yên tĩnh bản thân mình,

Ông bao giờ học được cái gì?

Ông sẽ trở nên tự do thế nào?

Với tâm trí yên tĩnh

đi vào trong nhà trống đó, trái tim ông,

và cảm thấy niềm vui của đạo

Bên ngoài thế giới.

Nhìn vào trong -

Cái lên và cái xuống.

Hạnh phúc làm sao!

Tự do ngọt ngào làm sao!

Đó là bắt đầu của cuộc sống,

của việc làm chủ và kiên nhẫn,

của bạn tốt cùng trên đường,

của cuộc sống thuần khiết và tích cực.

Cho nên sống trong tình yêu.

Làm việc của ông.

Làm chỗ kết thúc của nỗi buồn của ông.

Để thấy cách hoa nhài

nở ra và làm rơi xuống

những bông hoá héo của nó.

Để rơi rụng đi chủ tâm và hận thù.

Ông có yên tĩnh không?

Làm yên tĩnh thân thể ông.

Làm yên tĩnh tâm trí ông.

Ông không muốn gì.

Lời ông tĩnh lặng.

Ông tĩnh lặng.

Bằng nỗ lực riêng của ông

đánh thức bản thân mình, quan sát bản thân mình.

và sống vui vẻ.

Ông là người chủ,

Ông là chỗ trốn tránh.

Như lái buôn luyện ngựa tốt,

Làm chủ bản thân ông.

Sung sướng làm sao ông đi theo

Lời của người đã thức tỉnh.

Yên tĩnh làm sao, chắc chắn làm sao

Ông tiến tới nước hạnh phúc,

Trái tim của tĩnh lặng.

Dù trẻ thế nào,

người tìm kiếm khởi hành trên đạo

chiếu sáng lên cả thế giới.

như mặt trăng,

ló ra từ sau đám mây!

chiếu sáng.

Người đánh cá Scots chết, tìm đường lên cõi trời,

và bị Thánh Peter bắt dừng lại trước cửa và nói, "Ông

đã nói quá nhiều điều dối trá nên không vào đây

được!"

"Có lòng đi ông," người đánh cá đáp. "Nhớ là bản

thân ông có thời cũng đã là người đánh cá rồi!"

Phật Gautama đang nhắc nhở các Bồ tát của mình

rằng con đường mà bản thân họ đi theo, chính chỗ bắt

đầu của con đường, họ có thể đã quên hoàn toàn bây

giờ. Ai nhớ những giấc mơ buổi sáng khi mình tỉnh

dậy? Trong vòng vài giây những giấc mơ đó bị quên

đi.

Cùng điều đó xảy ra khi bạn trở nên chứng ngộ:

mọi khổ, mọi ác mộng, mọi nỗi buồn mà bạn đã chịu

đựng nhiều thế đơn giản trở thành không có ý nghĩa,

không liên quan tới mức chúng biến mất khỏi tâm

thức bạn. Chúng không còn là một phần của câu

chuyện cuộc sống của bạn - cứ như chúng đã xảy ra

cho ai đó khác và không cho bạn. Do đó Phật nhắc

nhở các Bồ tát của ông ấy về cách cuộc hành trình bắt

đầu từ chính lúc đầu; chỉ thế thì những người này mới

có thể có ích cho người khác.

Điều đầu tiên ông ấy nói: Nhớ chỉ nói cho người

tìm kiếm. Có nhiều người là người hỏi nhưng không

phải là người tìm kiếm, nhiều người tò mò nhưng

không là người tìm kiếm. Người tò mò có chút ít trẻ

con. Mọi đứa trẻ đều tò mò - tò mò về từng và mọi

thứ, tò mò về cả nghìn lẻ một thứ, nhưng không thực

sự quan tâm tới việc biết. Nó hỏi một câu hỏi; đến lúc

bạn trả lời, nó đã bắt đầu hỏi cái gì đó khác. Nó không

lắng nghe câu trả lời của bạn chút nào, nó không quan

tâm tới câu trả lời đó thêm nữa; đó là hiện tượng tạm

thời. Nó trở nên bị hấp dẫn tới cái gì đó: nó thấy bông

hoa và nó hỏi về bông hoa, và thế rồi nó nghe tiếng

động của máy bay và nói bắt đầu hỏi về máy bay, và

thế rồi cái gì đó khác bắt lấy mắt nó....

Người tìm kiếm nghĩa là người mà việc hỏi của

mình không chỉ là tò mò, không là hiện tượng trẻ con,

mà là việc hỏi chín chắn, với người đó nó đã trở thành

câu hỏi sống và chết. Chừng nào chân lí còn chưa trở

thành câu hỏi sống và chết thì bạn còn chưa là người

tìm kiếm.

Phật đang nói cho các Bồ tát của ông ấy, các tông

đồ của ông ấy: Chỉ nói cho người tìm kiếm, chỉ đề cập

bản thân mình cho người tìm kiếm. Đừng phí hoài

thời gian của bạn với những người ấu trĩ, người tò mò

về từng và mọi thứ. Câu hỏi của họ có thể có vẻ lớn

lao, nhưng trái tim họ không trong câu hỏi của họ. Họ

đã hỏi chỉ để hỏi; họ không quan tâm tới việc tìm ra

câu trả lời và họ không sẵn sàng mạo hiểm bất kì cái

gì. Nếu họ có thể có được câu trả lời tự do, có thể họ

sẵn sàng nghe; nhưng họ không sẵn sàng trả giá. Và

câu hỏi thực của cuộc sống không phải để được giải

theo cách rẻ thế. Bạn phải trả giá và bạn phải trả bằng

toàn thể bản thể của bạn. Bạn phải tham dự vào; nó

cần cam kết.

Bất kì ai cũng có thể hỏi về Thượng đế, nhưng rất

ít người sẵn sàng mạo hiểm bất kì cái gì, để đi vào cái

không biết, đi vào trong cuộc phiêu lưu - và cuộc

phiêu lưu vì Thượng đế là cuộc phiêu lưu vĩ đại nhất

có đó. Và nó đòi hỏi; nó rất đòi hỏi - nó đòi hỏi cam

kết toàn bộ của bạn. Nó sẽ không cho phép bạn vào

bất kì tham dự nào khác. Nó không thể chỉ là một

tham dự trong nhiều tham dự khác; nó phải là một và

chỉ một tham dự. Chỉ thế thì mới có hi vọng rằng một

ngày nào đó bạn có thể tìm ra câu trả lời, điều giải

thoát cho bạn. Do đó ông ấy nói:

Người tìm kiếm!

Đừng khinh suất.

Và điều đầu tiên cần được dạy cho những người

này, người là người tìm kiếm, là không khinh suất.

Mọi người đang sống rất khinh suất, mọi người đang

sống rất ngẫu nhiên. Các kiếp sống của họ không có

khả năng định hướng. Họ không biết họ đi đâu, họ tới

từ đâu, tại sao họ làm điều gì đó. Có thể người khác

đang làm nó cho nên họ bắt chước, nhưng người bắt

chước không phải là người tìm kiếm. Có thể người

khác đi tới nhà thờ hay đền chùa nên họ cũng đi. Họ

không thực sự là người mà là cừu.

Người tìm kiếm phải là sư tử. Người đó phải học

tự do khỏi tâm lí đám đông, khỏi tâm lí quần chúng.

Người đó phải học cách thức của tính cá nhân, của sự

độc lập. Người đó phải nghĩ về điều mình đang làm

và tại sao. Người đó không nên chỉ là nạn nhân của

các sinh lực tự nhiên; người đó nên có khả năng định

hướng nào đó. Chỉ thế thì mới có khả năng đạt tới,

khả năng quay về nhà, khả năng đạt tới đâu đó, khả

năng đạt tới mãn nguyện, hoàn thành, nở hoa, kết quả.

Bằng không cuộc sống vẫn còn vô nghĩa; nó chỉ là mớ

bòng bong các biến cố không liên quan.

Đừng khinh suất. Điều thứ nhất: Đừng chỉ tò mò.

Điều thứ hai: Đừng khinh suất.

Thành phố New York bị kẹt cứng vì cuộc hội

nghị. Mọi khách sạn và nhà nghỉ đều đầy. Phillips mệt

mỏi - anh ta đơn giản phải tìm ra chỗ để ngủ đêm đó.

"Cái gì cũng được," anh ta nói với nhân viên

khách sạn.

"Tôi có thể cho ông một cũi trong phòng khiêu

vũ," nhân viên đáp, "Nhưng có người đàn bà ở góc

đối diện. Nếu ông không làm gì ầm ĩ gì cô ấy sẽ

không khôn hơn đâu."

"Tốt," Phillips nói. Anh ta đi vào phòng khiêu vũ

nhưng năm phút sau chạy ra chỗ nhân viên khách sạn.

"Này," anh ta kêu lên, "người đàn bà kia chết rồi!"

"Tôi biết," là câu trả lời, "nhưng làm sao anh đã

tìm ra?"

Mọi người đều tò mò chẳng bởi lí do nào cả - đấy

không phải việc của người đó. Cho dù người đó

không thể trả lời được tại sao - bản năng vô thức nào

đó, có thể là sinh học, có thể là hoá chất, nhưng

không phải là tâm thức của người đó.

Ai hay cái gì quyết định cuộc sống của bạn? - sinh

học của bạn, hoá chất của bạn, tâm lí của bạn, hooc

môn của bạn? Ai quyết định cuộc sống của bạn? Bạn

có đó không? - bạn có như một sinh linh có ý thức

không?

Một người say bước vào quán rượu ở Glasgow và

hỏi, "Đêm qua tôi có ở đây không?"

"Có, ông có ở đây," người chủ quán đáp.

"Tôi có tiêu nhiều tiền không?"

"Quãng ba mươi bảng."

"Ơn trời - tôi cứ tưởng tôi đã đánh mất nó!"

Angus loạng choạng về nhà sau một đêm với các

bạn thân về câu cá, anh ta bắt gặp một bù nhìn, tay

thò ra ngoài.

"Này, Jimmy," anh ta nói, "tôi từ chối tin vào anh.

Chưa bao giờ có cá hồi cỡ đó."

Một số lính Scot bị đưa ra toà án quân sự vì phá

hoại một nhà công cộng, và một người trong số họ

được yêu cầu giải thích với toà án sự việc rắc rối đó

đã bắt đầu thế nào.

"Dạ thưa ngài," anh ta nói, "Binh nhì McSporran

gọi binh nhì McDougall là đồ dối trá, và binh nhì

Paterson dùng ghế nện lên đầu anh ta. Binh nhì Fraser

rút dao găm của mình ra và chặt một mảnh chân của

binh nhì McDougall. Hai hay ba bạn thân của binh

nhì McDougall đè lên binh nhì Fraser, và đôi người

khác bắt đầu ném cốc và bàn xung quanh. Điều nọ

dẫn tới điều kia và thế rồi đánh nhau bắt đầu."

Phật nói:

Người tìm kiếm! Đừng khinh suất.

Thiền thường xuyên

nếu không ông sẽ nuốt lửa

và kêu la: "Không thêm nữa!"

Thiền thường xuyên. Người là người tìm kiếm sẽ

không thực sự quan tâm tới việc có được các câu trả

lời triết lí từ người khác; người đó sẽ quan tâm tới

việc biết của riêng mình. Người đó sẽ không quan tâm

tới triết lí, người đó sẽ quan tâm tới tôn giáo. Đó là

khác biệt giữa triết học và tôn giáo. Triết học đang

tung hứng với lời, nghệ thuật chẻ sợi tóc ra, biện luận

vô hạn về các ý tưởng trừu tượng, chẳng đi tới đâu cả.

Tôn giáo giống khoa học nhiều hơn: nó thực nghiệm,

nó nhấn mạnh vào kinh nghiệm. Khoa học là tôn giáo

của thế giới khách quan, và tôn giáo là khoa học của

thế giới chủ quan.

Triết học sẽ chết một ngày nào đó; nó đã trên

giường chết rồi. Bạn có thể tới các đại học và nhìn:

mọi năm càng ngày càng ít người chuyển sang khoa

triết học. Nhiều khoa triết trống rỗng, bỏ trống. Mọi

người đang đi vào khoa học hay tôn giáo. Những

người quan tâm tới việc biết chân lí về thế giới đều đi

vào cuộc truy tìm khoa học, vào vật lí, vào hoá học,

vào toán học, vào sinh học. Hay, những người quan

tâm tới lãnh thổ riêng của mình, tính chủ quan riêng

của mình, tâm thức riêng của mình, đều đi tới tôn

giáo, càng ngày càng hướng tới tôn giáo.

Tôn giáo là khoa học về cái bên trong. Triết học

không là cả hai: nó không là khoa học của cái bên

ngoài, không là khoa học của cái bên trong; nó ở giữa.

Nó chỉ nghĩ; nó nghĩ về mọi thứ - về khoa học, về tôn

giáo - nhưng nó chỉ nghĩ. Và chỉ bằng suy nghĩ, chẳng

cái gì đã bao giờ xảy ra. Bạn có thể làm ra câu trả lời

rất thông minh, nhưng chúng sẽ không giải quyết

được vấn đề thực của bạn; vấn đề là thực và câu trả

lời là trừu tượng. Vấn đề thực có thể được giải quyết

chỉ bởi câu trả lời thực.

Do đó Phật nói: Người tìm kiếm có thể được

thuyết phục thiền - chỉ người tìm kiếm mới có thể

được thuyết phục thiền. Thiền nghĩa là bạn bắt đầu

thay đổi thế giới bên trong của mình. Bạn bắt đầu loại

bỏ bụi khỏi thế giới bên trong, bạn bắt đầu loại bỏ tất

cả những cái không cần thiết trong thế giới bên trong.

Bạn loại bỏ mọi lộn xộn, mọi rác rưởi mà bạn đầy

trong mình. Thiền nghĩa là làm trống rỗng bản thân

bạn khỏi mọi điều xã hội đã đưa vào trong bạn để cho

bạn có thể có cái nhìn rõ ràng, sạch sẽ, để cho bạn có

thể có phẩm chất như tấm gương. Khi tấm gương có

đó mà không có bụi nào, nó phản xạ thực tại; đấy

cũng là trường hợp với thiền.

Thiền nghĩa là làm cho tâm thức của bạn thành

tấm gương. Ý nghĩ giống như bụi, chúng phải được

loại bỏ. Và ý nghĩ chứa mọi thứ thuộc về tâm trí: ham

muốn, tham vọng, kí ức, mơ mộng... mọi chất liệu

tâm trí đều là những dạng khác nhau của ý nghĩ, các

loại khác nhau, các tầng bụi khác nhau. Và bụi dầy tới

mức tấm gương không hoạt động chút nào - do đó bạn

phải hỏi người khác. Một khi bụi bị loại bỏ đi bạn

không cần hỏi người nào, bản thân bạn có thể thấy.

Sự tồn tại đã cho bạn tấm gương thần - nó ở bên trong

bạn.

Tôi đã nghe một chuyện ngụ ngôn hay; nó phải là

ngụ ngôn, nó không thể là hiện tượng lịch sử được:

Khi Alexander Đại đế tới Ấn Độ ông ấy thu thập

nhiều châu báu có giá trị. Và khi ông ấy ra đi ông ấy

bắt gặp một fakir, người tu khổ hạnh, một fakir trần

trụi. Ông ấy hỏi ông này, "Ông có thấy kho báu của ta

không? Ông đã bao giờ thấy người nào với nhiều

châu báu thế không?"

Fakir nói, "Mọi châu báu của ông đều không là gì,

nhưng tôi có thể cho ông một thứ mà sẽ thực sự làm

cho ông giầu có!"

Alexander không thể hình dung được người fakir

trần trụi này có thể cho mình cái gì. Trong bình bát ăn

xin của mình ông ta có một tấm gương nhỏ. Ông ta

đưa tấm gương cho Alexander.

Alexander nói, "Tấm gương này sẽ làm cho ta

thành người giầu nhất thế giới sao? Ông phải điên

rồi!"

Fakir nói, "Trước hết nhìn vào tấm gương đã."

Và Alexander nhìn vào trong tấm gương: nó

không hiện lên khuôn mặt ông ấy - nó hiện lên bản

thể bên trong của ông ấy, nó hiện lên lãnh thổ bên

trong của ông ấy, nó hiện lên tính chủ quan của ông

ấy. Bản thể của ông ấy được phản xạ trong tấm

gương.

Ông ấy chạm chân fakir và nói, "Ông đúng rồi -

mọi châu báu của ta chẳng là gì trước tấm gương

này."

Và tương truyền ông ấy đã giữ tấm gương đó liên

tục với mình.

Câu chuyện ngụ ngôn này là hay. Tấm gương đó

đại diện cho thiền. Fakir phải đã đưa cho ông ấy cách

thiền nào đó bởi vì chỉ thiền mới có thể làm cho bạn

nhận biết về mình là ai.

Nhưng Phật nói thiền phải trở thành cái gì đó

thường hằng. Phật đem tầm nhìn mới toàn bộ về thiền

cho thế giới. Trước Phật, thiền là cái gì đó bạn phải

làm một hay hai lần một ngày, một giờ buổi sáng, một

giờ buổi tối, và đó là tất cả. Phật đã cho cách diễn giải

mới toàn bộ cho toàn thể quá trình thiền. Ông ấy nói:

Loại thiền này mà ông làm một giờ buổi sáng, một

giờ buổi tối, ông có thể làm năm lần hay bốn lần một

ngày, chẳng có giá trị gì mấy. Thiền không thể là cái

gì đó mà bạn có thể làm bên ngoài cuộc sống chỉ

trong một giờ hay mười lăm phút. Thiền phải trở

thành cái gì đó đồng nghĩa với cuộc sống của bạn; nó

phải giống như thở. Bạn không thể thở một giờ buổi

sáng và một giờ buổi tối, bằng không tối sẽ không bao

giờ tới. Nó phải là cái gì đó giống như thở: ngay cả

khi bạn ngủ việc thở vẫn tiếp tục. Bạn có thể đi vào

cơn mê, nhưng việc thở vẫn tiếp tục.

Phật nói thiền nên trở thành hiện tượng thường

xuyên; chỉ thế thì nó mới có thể biến đổi bạn. Và ông

ấy đã mở ra một kĩ thuật thiền mới.

Đóng góp lớn lao nhất của ông ấy cho thế giới là

Vipassana; không thầy giáo nào khác đã đem cho thế

giới món quà lớn thế. Jesus là đẹp, Mahavira là đẹp,

Lão Tử là đẹp, Zarathustra là đẹp, nhưng đóng góp

của họ, so với Phật, không là gì cả. Cho dù họ tất cả

gắn với nhau, thế nữa đóng góp của Phật vẫn lớn hơn

bởi vì ông ấy đã cho phương pháp khoa học thế - đơn

giản, vậy mà xuyên thấu tới mức một khi bạn hài hoà

với nó, nó trở thành nhân tố thường xuyên trong cuộc

sống của bạn.

Thế thì bạn không cần làm nó; bạn phải làm nó

chỉ lúc bắt đầu. Một khi bạn đã học được mẹo về nó,

nó còn lại với bạn; bạn không cần làm nó. Thế thì bất

kì cái gì bạn làm, nó đều có đó. Nó trở thành phông

màn cho cuộc sống của bạn, nền tảng cho cuộc sống

của bạn. Bạn bước đi, nhưng bạn bước có tính thiền.

Bạn ăn, nhưng bạn ăn có tính thiền. Bạn ngủ, nhưng

bạn ngủ có tính thiền. Nhớ lấy, ngay cả phẩm chất của

giấc ngủ của thiền nhân cũng hoàn toàn khác với

phẩm chất của giấc ngủ của người không là thiền

nhân. Mọi thứ đều trở thành khác bởi vì một nhân tố

mới đã đi vào làm thay đổi toàn thể động thái.

Vipassana đơn giản nghĩa là quan sát hơi thở của

bạn, nhìn vào hơi thở của bạn. Nó không giống như

yoga pranayam: nó không thay đổi hơi thở của bạn

sang nhịp điệu nào đó - thở sâu, thở nhanh. Không, nó

không thay đổi việc thở của bạn chút nào; nó không

liên quan gì tới việc thở. Việc thở chỉ phải được dùng

như phương cách để quan sát bởi vì nó là hiện tượng

thường xuyên trong bạn. Bạn có thể đơn giản quan sát

nó, và đó là hiện tượng tinh tế nhất. Nếu bạn có thể

quan sát hơi thở của mình thế thì sẽ dễ dàng cho bạn

quan sát ý nghĩ của mình.

Một điều lớn lao vô cùng mà Phật đã đóng góp là

khám phá ra mối quan hệ giữa hơi thở và ý nghĩ. Ông

ấy là người đầu tiên trong toàn thể lịch sử nhân loại

đã làm tuyệt đối rõ ràng là việc thở và suy nghĩ có

quan hệ sâu sắc Việc thở là phần thân thể của suy

nghĩ và suy nghĩ là phần tâm lí của việc thở. Chúng

không tách rời, chúng là hai mặt của cùng một đồng

tiền. Ông ấy là người đầu tiên nói về thân tâm như

một đơn vị. Ông ấy nói lần đầu tiên về con người như

hiện tượng tâm thân. Ông ấy không nói về thân thể và

tâm trí, ông ấy nói về thân tâm. Chúng không phải là

hai, do đó không cần có 'và' để nối chúng. Chúng đã

là một rồi - thân tâm - thậm chí không cần dấu gạch

nối; thân tâm là một hiện tượng. Và từng quá trình

thân thể đều có phần tương ứng của nó trong tâm lí và

ngược lại.

Bạn có thể quan sát điều đó, bạn có thể thử thực

nghiệm. Dừng thở trong một chốc và bạn sẽ ngạc

nhiên: khoảnh khắc bạn dừng thở, suy nghĩ của bạn

dừng lại. Hay bạn có thể quan sát điều khác: bất kì

khi nào suy nghĩ của bạn đi quá nhanh việc thở của

bạn thay đổi. Chẳng hạn, nếu bạn đầy thèm khát dục

và suy nghĩ của bạn trở nên quá nóng, việc thở của

bạn sẽ khác: nó sẽ không theo nhịp điệu, nó sẽ mất

nhịp điệu của nó. Nó sẽ hỗn độn hơn, nó sẽ không

nhịp điệu.

Khi bạn giận dữ việc thở của bạn thay đổi bởi vì

việc nghĩ của bạn đã thay đổi. Khi bạn yêu việc thở

của bạn thay đổi bởi vì suy nghĩ của bạn đã thay đổi.

Khi bạn an bình, thoải mái, ở nhà, thảnh thơi, việc thở

của bạn khác. Khi bạn bất ổn, trong rối loạn, trong

đau khổ, việc thở của bạn khác. Chỉ bằng việc quan

sát hơi thở của mình bạn có thể biết loại trạng thái nào

đang xảy ra trong tâm trí mình.

Thiền nhân đi tới một điểm: khi tâm trí thực sự

dừng lại đầy đủ, việc thở cũng dừng lại. Và thế thì nỗi

sợ lớn nảy sinh - đừng sợ. Nhiều thiền nhân đã báo

cáo cho tôi, "Chúng tôi trở nên sợ lắm, rất hoảng, bởi

vì bỗng nhiên chúng tôi trở nên nhận biết rằng việc

thở đã dừng lại." Một cách tự nhiên, người ta nghĩ

rằng khi việc thở dừng lại cái chết ở cận kề. Đó chỉ là

vấn đề vài khoảnh khắc - bạn đang chết. Việc thở

dừng lại trong cái chết; việc thở cũng dừng lại trong

thiền sâu. Do đó thiền sâu và chết có một điểm tương

tự: trong cả hai việc thở dừng lại. Do đó, nếu một

người biết thiền người đó cũng đã biết chết. Đó là lí

do tại sao thiền nhân trở nên tự do khỏi sợ chết: người

đó biết việc thở có thể dừng lại và dầu vậy người đó

vẫn hiện hữu.

Việc thở không phải là sống; sống là hiện tượng

lớn hơn nhiều. Việc thở chỉ là nối với thân thể. Việc

nối có thể bị cắt rời; điều đó không có nghĩa là cuộc

sống đã chấm dứt. Cuộc sống vẫn có đó; cuộc sống

không chấm dứt chỉ bởi không xuất hiện việc thở.

Phật nói: Quan sát việc thở của ông; để nó bình

thường, như nó vậy. Ngồi im lặng, quan sát hơi thở

của bạn. Tư thế ngồi cũng sẽ có ích; tư thế Phật, tư

thế hoa sen, là rất có ích. Khi xương sống của bạn

dựng thẳng và bạn đang ngồi trong tư thế hoa sen,

chân bạn xếp chéo, xương sống bạn được gióng thẳng

theo lực trọng trường, và thân thể ở trạng thái thảnh

thơi nhất. Để xương sống được dựng thẳng và thân

thể chùng lỏng, treo trên xương sống - không căng

thẳng. Thân thể nên chùng lỏng, thảnh thơi, xương

sống dựng thẳng, cho nên sức hút có lực kéo ít nhất

lên bạn.

Bạn có quan sát điều đó không? Nếu bạn muốn đi

ngủ bạn phải nằm ra, bởi lẽ đơn giản là khi bạn nằm

ngang trên đất bạn trong tiếp xúc với lực hút ở mức

tối đa, bởi vì trên khắp thân thể lực hút trọng trường

tác động, nó kéo bạn. Bạn lập tức bắt đầu rơi vào giấc

ngủ. Đứng thì khó rơi vào giấc ngủ. Tư thế khó nhất

để rơi vào giấc ngủ là tư thế hoa sen. Thân thể thảnh

thơi thế không cần rơi vào giấc ngủ, và lực trọng

trường ở mức tối thiểu; do đó chúng không thể kéo

bạn xuống được; chúng không thể làm cho bạn nặng

nề và đờ đẫn và lờ phờ. Bạn hoạt bát, bạn đầy cuộc

sống. Bạn thông minh khi ở tư thế hoa sen hơn là bạn

có thể ở trong bất kì tư thế nào khác. Thân thể ảnh

hưởng tới tâm trí bạn.

Các nhà khoa học bây giờ đồng ý với điều này:

rằng chỉ bởi vì vài con khỉ bằng cách nào đó... họ đã

không có khả năng tìm ra lí do tại sao và làm sao điều

đó đã xảy ra, và khỉ vẫn là khỉ - có thể chỉ ngẫu nhiên

do tò mò, vài con khỉ cố đứng trên hai chân và đây là

những con khỉ đã trở thành con người nguyên thuỷ;

chúng là người khởi thuỷ. Đó là đổi mới vĩ đại nhất;

không cái gì khác lớn hơn điều đó. Vài con khỉ đứng

thẳng trên hai chân chúng đã tạo ra cuộc cách mạng vĩ

đại; cuộc cách mạng xảy ra trong trưởng thành của

tâm trí. Tư thế đứng thẳng giúp cho tâm trí thoát ra

khỏi giấc ngủ. Tâm trí trở nên thông minh hơn, nó trở

nên tỉnh táo hơn, nó trở nên ý thức hơn.

Các con vật khác di chuyển trên bốn chân đã

không có khả năng phát triển thông minh, mặc dầu

nhiều con trong chúng có trí não gần cùng năng lực

như con người. Chẳng hạn, voi có trí não gần cùng

năng lực như con người, nhưng đã không có khả năng

phát triển nó và tôi không nghĩ điều đó sẽ xảy ra.

Trong rạp xiếc họ cố gắng vất vả để dạy voi ngồi

trong ghế hay đứng trong vài giây trên hai chân,

nhưng thân thể nặng nề thế, voi không thể xoay xở

đứng trên hai chân được. Do đó não vẫn còn bị đóng;

lực hút trọng trường giữ cho nó vô ý thức.

Do đó tư thế hoa sen này là cái gì đó có giá trị. Nó

không chỉ là hiện tượng thân thể; nó ảnh hưởng tới

tâm trí. Nó làm thay đổi tâm trí. Ngồi trong tư thế hoa

sen - toàn thể vấn đề là ở chỗ xương sống của bạn

phải dựng thẳng và phải làm thành góc chín mươi độ

với đất. Đó là điểm mà bạn có khả năng thông minh

nhất, tỉnh táo nhất, ít buồn ngủ nhất.

Và thế rồi quan sát hơi thở của bạn, hơi thở tự

nhiên. Bạn không cần thở sâu, bạn không thay đổi

việc thở của mình; bạn đơn giản quan sát nó như nó

vậy. Nhưng bạn sẽ ngạc nhiên bởi một điều: khoảnh

khắc bạn bắt đầu quan sát, nó thay đổi - bởi vì ngay

cả sự kiện quan sát cũng là việc thay đổi và việc thở

không còn như cũ.

Hơi chút thay đổi trong tâm thức của bạn lập tức

ảnh hưởng tới việc thở của bạn. Bạn sẽ có khả năng

nhìn thấy nó; bất kì khi nào bạn quan sát bạn sẽ thấy

việc thở của mình đã trở nên sâu hơn chút ít. Nếu nó

trở nên như vậy theo cách riêng của nó thì thế là tốt,

nhưng bạn không làm nó bằng ý chí của mình. Quan

sát hơi thở của mình, dần dần, dần dần bạn sẽ ngạc

nhiên là khi hơi thở của bạn trở nên bình thản và yên

tĩnh, tâm trí của bạn cũng trở nên bình thản và yên

tĩnh. Và quan sát hơi thở sẽ làm cho bạn có khả năng

quan sát tâm trí.

Đó mới chỉ là bắt đầu, phần đầu tiên của thiền,

phần vật lí. Và phần thứ hai là phần tâm lí. Thế thì

bạn có thể quan sát những điều tinh tế hơn trong tâm

trí mình - ý nghĩ, ham muốn, kí ức.

Và khi bạn đi sâu hơn vào trong tính quan sát,

phép màu bắt đầu xảy ra: khi bạn trở nên có tính quan

sát, càng ngày càng ít giao thông xảy ra trong tâm trí,

càng ngày càng tĩnh lặng, im lặng hơn; càng ngày

càng nhiều không gian im lặng hơn, càng ngày càng

nhiều lỗ hổng và khoảng hở. Các khoảnh khắc trôi

qua và bạn không bắt gặp một ý nghĩ nào. Dần dần,

dần dần nhiều phút trôi qua, nhiều giờ trôi qua....

Và có số học nào đó trong nó: nếu bạn có thể vẫn

còn tuyệt đối trống rỗng trong bốn mươi tám phút,

chính ngày đó bạn sẽ trở nên chứng ngộ, chính

khoảnh khắc đó bạn sẽ trở nên chứng ngộ. Nhưng đó

không phải là vấn đề về nỗ lực của bạn; đừng cứ nhìn

đồng hồ bởi vì mỗi lần bạn nhìn, ý nghĩ đã tới. Bạn

phải đếm lại từ chính ban đầu; bạn quay lại số không.

Không cần bạn quan sát thời gian.

Nhưng điều này đã từng là kinh nghiệm ở phương

Đông của mọi thiền nhân vĩ đại: rằng bốn mươi tám

phút dường như là điểm tối thượng. Nếu lỗ hổng ngần

đó là có thể, nếu trong lỗ hổng như thế suy nghĩ dừng

lại và bạn vẫn còn tỉnh táo, không ý nghĩ nào bắt chéo

qua tâm trí bạn, bạn có khả năng đón nhận Thượng đế

bên trong. Bạn đã trở thành người chủ và khách lập

tức tới.

Nếu ông không trí huệ,

Làm sao ông có thể làm vững chắc được tâm trí?

Bạn phải rất thông minh; chỉ thế thì bạn mới có

thể làm vững chắc tâm trí. Và ông ấy ngụ ý gì bởi

thông minh? Thông thường chúng ta cư xử theo cách

rất không thông minh: chúng ta cư xử theo niềm tin;

niềm tin giữ chúng ta không thông minh. Chúng ta cư

xử theo tri thức vay mượn; điều đó giữ chúng ta

không thông minh.

Thử chấp nhận trực tiếp thách thức của cuộc sống;

đừng hành động từ niềm tin hay tri thức. Đừng tuân

theo kinh sách và truyền thống. Chúng là căn nguyên

của việc làm cho bạn thành ngu, bởi vì chừng nào bạn

còn chưa đối diện trực tiếp với cuộc sống, chừng nào

những thách thức đó còn chưa được đương đầu, thông

minh của bạn sẽ không nảy sinh - bởi vì sẽ không có

cơ hội cho nó nảy sinh. Cho nó cơ hội đi. Cuộc sống

cho nhiều cơ hội nhưng bạn cứ bỏ lỡ cơ hội bởi vì bạn

sống trên những câu trả lời vay mượn.

Đối diện cuộc sống và những câu hỏi của nó và

các thực tại của nó theo cách riêng của bạn, cho dù

đáp ứng riêng của bạn không lớn vậy - chúng không

thể thế được. Tất nhiên bạn không thể đáp ứng như vị

phật, nhưng bằng vay mượn câu trả lời nào đó từ Phật

bạn sẽ không bao giờ đủ thông minh để tự mình trở

thành vị phật. Vâng, bạn sẽ phạm nhiều lỗi, nhiều sai

lầm. Vâng, bạn sẽ đi lạc lối nhiều lần - cứ đi, đừng lo

nghĩ! Cuộc sống được ngụ ý cho điều đó, để cho bạn

có thể thử. Chính là quan thử, nhiều lỗi, nhiều sai lầm

mà người ta học. Khi bạn học bằng nỗ lực riêng của

mình, bạn trở nên thông minh. Và chỉ người thông

minh mới có thể thấy cái đẹp của thiền, mới có thể

hiểu ý nghĩa của thiền.

Nếu ông không thể làm yên tĩnh bản thân mình,

Ông bao giờ học được cái gì?

Và tất cả việc học xảy ra qua thiền; nó không xảy

ra qua nghiên cứu. Nghiên cứu là tích luỹ thông tin,

đó không phải là học. Bao giờ cũng tỉnh táo về tri

thức vay mượn: dù nó có vẻ quí giá thế nào nó cũng

là giả, rởm - cho bạn. Nó không rởm cho người đã

sống nó. Nó là đúng cho Phật, đúng cho Jesus, đúng

cho Krishna, nhưng không đúng cho bạn. Bạn sẽ phải

sống....

Phật cũng có kinh sách sẵn có. Ông ấy có thể đã

đọc Krishna; Gita có sẵn rồi. Và ông ấy là người được

giáo dục tốt - ông ấy là con vua. Mọi kinh sách đều

phải có sẵn cho ông ấy và các học giả lớn và các học

giả lớn cũng sẵn có cho ông ấy. Ông ấy có thể đã trích

đọc Gita mọi ngày; ông ấy có thể đã học Gita cho nên

tuyệt đối chắc là ông ấy đã có khả năng lặp lại nó từ

kí ức, nhưng thế thì ông ấy đã bỏ lỡ phật tính.

Và trong thời của Krishna Vedas cũng đã sẵn có

rồi, nhưng Krishna đã không vay mượn tri thức từ

Vedas. Vào thời của Jesus Kinh Cựu ước đã sẵn có

rồi, nhưng Jesus cố tìm ra chân lí cho bản thân mình.

Đây là cái gì đó rất bản chất cần hiểu: chân lí phải

được tìm thấy bởi bản thân người ta. Chỉ thế thì nó

mới giải thoát; bằng không nó trở thành tù túng - tù

túng đẹp, nhưng tất mọi dạng tù túng đều như nhau.

Và nếu bạn không thể học....

Ông sẽ trở nên tự do thế nào?

Chính chỉ qua kinh nghiệm chân lí theo cách riêng

của bạn mà tự do mới xảy ra. Tự do là hương thơm

của kinh nghiệm về chân lí.

Với tâm trí yên tĩnh

đi vào trong nhà trống đó, trái tim ông,

và cảm thấy niềm vui của đạo

Bên ngoài thế giới.

Phật nói: Với tâm trí im lặng, tâm trí yên tĩnh... đi

vào trong nhà trống đó, trái tim ông.

Trái tim bạn là nhà thực của bạn; nó hoàn toàn

trống rỗng. Cái đầu bạn đầy rác rưởi, trái tim bạn

trống rỗng toàn bộ. Đi từ đầu xuống tim đi! Toàn thể

quá trình thiền là đi từ cái đầu xuống trái tim, từ tâm

trí sang vô trí.

Đi vào trong nhà trống đó, trái tim ông, và cảm

thấy niềm vui của đạo - và bạn sẽ đầy niềm vui - bên

ngoài thế giới. Niềm vui không của thế giới này,

hương thơm tới từ cõi bên kia.

Nhìn vào trong -

Cái lên và cái xuống.

Lên và xuống của hơi thở của bạn: đó là cách nhìn

vào bên trong. Nhiều người đã nói: Nhìn vào bên

trong. Socrates đã nói: Nhìn vào bên trong, biết bản

thân ông, nhưng không ai đã cho phương pháp đích

xác. Phật cho bạn phương pháp đích xác: lên và

xuống của hơi thở. Chính là qua hơi thở mà bạn được

bắc cầu. Hơi thở là cây cầu giữa linh hồn bạn và thân

thể bạn. Nếu bạn có thể quan sát hơi thở của mình lên

và xuống, dần dần, dần dần bạn sẽ có khả năng nhìn

thân thể như tách rời khỏi bản thân mình và cũng vậy

hơi thở như tách rời khỏi bản thân bạn, bởi vì người

quan sát không thể là cái được quan sát, người quan

sát không thể là cái được quan sát. Bỗng nhiên một

hôm bạn sẽ nhận ra rằng bạn là nhân chứng của tất cả

nó. Và nhân chứng chắc chắn siêu việt lên trên tất cả

mọi cái nó chứng kiến. Trong chính khoảnh khắc đó

tự do đã xảy ra cho bạn. Thế thì:

Hạnh phúc làm sao!

Tự do ngọt ngào làm sao!

Đó là bắt đầu của cuộc sống...

Sinh không phải là bắt đầu của cuộc sống. Đây là

bắt đầu của cuộc sống, khi bạn kinh nghiệm linh hồn

chứng kiến của mình. Đó là bắt đầu....

của việc làm chủ và kiên nhẫn,

của bạn tốt cùng trên đường,

của cuộc sống thuần khiết và tích cực.

Thiền về những lời này đi. Phật tử đã không hiểu

những lời này chút nào. Làm sao người này, Phật

Gautama, lại là kẻ trốn chạy? Ông ấy nói: Đó là bắt

đầu của cuộc sống mới, của việc làm chủ và kiên

nhẫn, của bạn tốt cùng trên đường....

Ông ấy đang cho bạn thế giới mới, cách thức mới

để yêu, cách thức mới để thân thiện; ông ấy đang cho

bạn những người bạn mới. Thực tế, chỉ thiền nhân

mới có thể thân thiện với nhau bởi vì họ không phải là

kẻ cạnh tranh. Không ai khác có thể thân thiện được,

họ chỉ có thể giả vờ. Làm sao kẻ cạnh tranh có thể

thân thiện được? Sâu bên dưới họ là kẻ thù bởi vì mọi

người đều thèm muốn cùng thứ. Bạn tham tiền, bạn

của bạn cũng tham tiền. Làm sao bạn có thể thân thiện

được? Không thể được. Mọi tình bạn đều hư huyễn,

rởm.

Bạn muốn là thủ tướng và bạn của bạn cũng muốn

là thủ tướng. Ai không muốn là thủ tướng? Làm sao

bạn có thể thân thiện được? Do đó họ nói trong chính

trị không có tình bạn chút nào. Vài người là kẻ thù

công khai, vài người là kẻ thù theo cách mai danh ẩn

tích. Đó là lí do tại sao trong chính trị mọi ngày thay

đổi đều xảy ra: ai đó đã là bạn hôm qua, hôm nay là

kẻ thù; ai đó đã là kẻ thù hôm qua, hôm nay là bạn.

Đó là một thế giới kì lạ, thế giới chính trị.

Machiavelli, trong cuốn Hoàng tử, gợi ý cho các

chính khách, "Đừng bao giờ nói cái gì cho bạn của

bạn về điều bạn không muốn kẻ thù của mình được

biết, bởi vì bất kì người bạn nào cũng có thể trở thành

kẻ thù của bạn vào bất kì ngày nào." Ông ấy cũng nói,

"Đừng bao giờ nói cái gì chống lại kẻ thù của bạn mà

bạn không muốn nói chống lại bạn của mình bởi vì

bất kì kẻ thù nào cũng có thể trở thành người bạn vào

bất kì ngày nào " - thế thì sẽ khó khăn. Thế thì bạn sẽ

phải nuốt cái gì đó và điều đó sẽ bẽ mặt.

Chính khách cứ làm điều đó: họ cứ chia chẻ và

nuốt nó lặp đi lặp lại. Họ nói điều này hôm nay, điều

khác ngày mai; họ phải vậy. Trong chính trị không

thể có bạn bè được.

Bạn bè là có thể chỉ trên đường, trên đường hướng

tới Thượng đế, bởi vì đó không phải là cạnh tranh.

Bạn có thể có Thượng đế, tôi có thể có Thượng đế;

không có vấn đề là bằng việc bạn có Thượng đế tôi sẽ

không có khả năng có Thượng đế nữa. Hàng triệu

người có thể có Thượng đế và không có vấn đề gì vì

Thượng đế là vô hạn, chân lí là vô hạn. Việc có chân

lí của tôi không có nghĩa là bây giờ bạn không thể có

nó. Thực tế, ngược lại, việc có chân lí của tôi nghĩa là

bạn cũng có thể có nó! Nếu tôi có thể có nó, sao bạn

không có được? Do đó, trên đường, có một loại tình

bạn hoàn toàn mới.

... của cuộc sống thuần khiết và tích cực. Làm sao

Phật có thể bị gọi là kẻ đào tẩu được? Ông ấy nói:

...của cuộc sống thuần khiết và tích cực. Ông ấy ngụ ý

tính sáng tạo, tính sáng tạo tới từ hồn nhiên mang tính

thiền, của thuần khiết tính thiền. Và người sáng tạo

thực là có thể chỉ qua thiền. Cái gọi là hoạ sĩ của bạn,

chín mươi chín phần trăm số họ, không phải là hoạ sĩ

thực. Cái gọi là nhà thơ của bạn không phải là nhà

thơ, cái gọi là nhạc sĩ của bạn không phải là nhạc sĩ -

có thể là các nhà kĩ thuật. Họ biết cách chơi, họ biết

cách soạn, họ biết cách vẽ, nhưng chỉ biết cách vẽ

không làm cho bạn thành người sáng tạo.

Người sáng tạo là hiện tượng hoàn toàn khác.

Người sáng tạo đem cái gì đó của Thượng đế vào

trong thế giới, cái gì đó của người sáng tạo vào trong

thế giới. Nhưng làm sao bạn có thể đem cái gì đó của

Thượng đế vào trong thế giới nếu bạn không biết bản

thân Thượng đế?

Một Phật là người sáng tạo, một Jesus là người

sáng tạo. Lời của họ, hành động của họ là bằng chứng

duy nhất rằng Thượng đế tồn tại. Chính sự hiện diện

của họ là bằng chứng rằng Thượng đế tồn tại. Sự hiện

diện của họ có tính sáng tạo: trong chính sự hiện diện

của họ hàng nghìn người được biến đổi. Phật không

phải là kẻ đào tẩu; ông ấy không thể thế được. Không

người thức tỉnh nào có thể là kẻ đào tẩu. Kẻ hèn nhát

đào tẩu, người dũng cảm sáng tạo.

Cho nên sống trong tình yêu - đây là lời của Phật,

nhắc bạn:

Cho nên sống trong tình yêu.

Làm việc của ông.

Làm chỗ kết thúc của nỗi buồn của ông.

Ông ấy không chống lại tình yêu, ông ấy không

chống lại tính sáng tạo, ông ấy không chống lại công

việc. Làm việc của ông - bởi vì chừng nào bạn còn

chưa làm việc ở gần trái tim bạn, bạn sẽ vẫn còn chưa

được hoàn thành. Và thiền nhân lập tức thấy công

việc của mình là gì. Thiền nhân thấy về bản chất rằng

đây là công việc của mình; người đó không phải nghĩ

về nó. Nó rõ ràng và kêu to tới mức người đó biết

rằng mình phải là nhạc sĩ hay người đó phải là nhà

thơ hay người đó phải thế này hay thế nọ. Điều đó tới

rõ ràng tới mức không có vấn đề hoài nghi. Và thế thì

người đó bắt đầu làm việc; công việc đó là thiền của

người đó.

Có nhiều người ở đây sợ công việc. Họ không biết

điều đang xảy ra ở đây là hoàn toàn khác với việc bạn

đã bắt gặp trong cuộc sống của mình. Đó là cái gì đó

hoàn toàn khác. Khi tôi trao cho bạn việc nào đó, nó

là để giúp bạn trưởng thành. Chừng nào bạn còn chưa

có khả năng tìm ra công việc của riêng mình tôi sẽ cứ

trao nó cho bạn - chỉ cho tới khoảnh khắc bạn có khả

năng tự mình tìm thấy nó. Và bất kì công việc nào

được trao ở đây cũng không là gì ngoài việc thiền cho

bạn. Nếu nó không phải là thiền cho bạn thì bạn đã

không hiểu thông điệp của tôi chút nào.

Để thấy cách hoa nhài

nở ra và làm rơi xuống

những bông hoá héo của nó.

Để rơi rụng đi chủ tâm và hận thù.

Phật nói: Như hoa nhài rụng khi chúng đã tàn hay

lá rụng khỏi cây khi chúng chết, lá khô. Cũng hệt như

thế, để rơi rụng đi chủ tâm và hận thù. Điều đầu tiên

ông ấy nói mà phải bị vứt bỏ - dễ dàng, không nỗ lực,

cũng hệt như hoa nhài héo rụng theo cách riêng của

nó - là chủ tâm, ý chí của bạn, bản ngã của bạn.

Cho nên đôi khi tôi phải đưa bạn vào công việc

nào đó nơi bạn phải vứt bỏ bản ngã của mình và bạn

nghĩ đó là một loại trừng phạt. Nó không phải là một

loại trừng phạt đâu; nó là thách thức, nó là tình huống

nơi bạn phải vứt bỏ bản ngã chẳng chóng thì chầy bởi

vì nó tạo ra khổ lặp đi lặp lại cho bạn. Nó sẽ làm cho

bạn nhận biết rõ ràng rằng bản ngã của bạn gây ra khổ

của bạn.

Mới hôm nọ, Anshumali đã viết nói rằng, "Thưa

thầy kính yêu, làm việc ở Vrindavan dưới Deeksha

dường như là sự trừng phạt." Nó không phải vậy,

Anshumali. Nó là phần thưởng, không phải là trừng

phạt! Nó là trừng phạt nếu bạn muốn níu bám lấy bản

ngã của mình; nếu bạn để bản ngã rụng đi, nó là phần

thưởng. Và thế thì bạn sẽ có khả năng thấy cái đẹp

của công việc này, và bạn sẽ có khả năng thấy cái đẹp

của Deeksha nữa. Cô ấy là bà mẹ Italy đẹp! Cô ấy yêu

công nhân của mình, cô ấy yêu người của mình; cô ấy

hết lòng tận tuỵ. Tất nhiên, cô ấy yêu nhiều tới mức

cô ấy cũng quát lên, cô ấy cũng la lên nữa. Tình yêu

của cô ấy tới mức cô ấy tin cậy rằng bạn sẽ hiểu việc

la của cô ấy nữa. Nhưng cô ấy là phương cách tốt; cô

ấy đã từng là sự giúp đỡ mênh mông cho nhiều người.

Có một trăm nhóm trị liệu ở đây, nhưng nhóm của

Deeksha là tốt nhất! Mặc dầu nó không được biết như

nhóm trị liệu - nó là nhóm trị liệu bí mật.

Nếu bạn vứt bỏ chủ tâm của mình, bản ngã của

mình, thế thì hận thù cũng bị vứt bỏ bởi vì hận thù

không là gì ngoài cái bóng của bản ngã của bạn. Nếu

không có bản ngã thì không có hận thù; nếu có bản

ngã, bao giờ cũng có hận thù theo sau nó. Bất kì ai tới

trên con đường... và mọi người sẽ tới trên con đường

bởi vì các bản ngã không thể điều chỉnh lẫn nhau

được. Các bản ngã bao giờ cũng trong xung đột, các

bản ngã bao giờ cũng cãi nhau, chúng hay sinh sự, do

đó có hận thù.

Vứt bỏ bản ngã và nhìn cái đẹp của vô ngã. Thế

thì không có hận thù, không có giận dữ. Bạn trở nên

im lặng thế, năng lượng của bạn trở nên bình thản và

yên tĩnh tới mức bỗng nhiên bạn bắt đầu nhìn thế giới

trong ánh sáng khác, trong cảnh quan khác. Thế thì

thế giới bình thường này không còn là bình thường

nữa - nó trở thành thiêng liêng.

Ông có yên tĩnh không?

Làm yên tĩnh thân thể ông.

Làm yên tĩnh tâm trí ông.

Phật nói: Trước hết hãy bắt đầu với thân thể và

thế rồi đi sang tâm trí. Làm yên tĩnh thân thể ông

bằng việc quan sát hơi thở, làm yên tĩnh tâm trí ông

bằng việc quan sát ý nghĩ của ông.

Ông không muốn gì.

Lời ông tĩnh lặng.

Ông tĩnh lặng.

Thế thì bạn sẽ đi tới thấy rằng không có ham

muốn. Làm sao ham muốn có thể tồn tại trong tâm trí

im lặng được? Ham muốn là trạng thái rối loạn, ham

muốn là trạng thái của vô ý thức, ham muốn là điên

khùng. Khi bạn im lặng, điên khùng biến mất.

Ba lần Jessie đem Sandy tới toà linh mục, hi vọng

được làm lễ kết hôn với anh ta và làm vợ, nhưng mỗi

lần mục sư lại từ chối vì tình trạng say xỉn của chú rể

tương lai.

"Sao cô cứ khăng khăng đem anh ta lại tôi trong

trạng thái thế?" mục sư hỏi.

"Dạ thưa cha tôn kính," Jessie giải thích, "anh ấy

sẽ không tới khi anh ấy tỉnh táo!"

Khoảnh khắc bạn tỉnh táo, im lặng, bạn sẽ không

làm nhiều thứ bạn đang làm và bạn sẽ bắt đầu làm

những thứ bạn chưa bao giờ nghĩ tới trước đây. Cuộc

sống của bạn sẽ không còn bị phí hoài; nó sẽ trở nên

có tính sáng tạo, cực kì sáng tạo. Cuộc sống của bạn

sẽ không phát triển gai, nó sẽ phát triển hoa. Nó là

cùng năng lượng!

Nhưng tâm trí giữ cho bạn bận rộn trong những

thứ ngu xuẩn thế, trong những chi tiết ngu xuẩn thế về

những điều ngu xuẩn. Nhìn điều tâm trí vẫn đang làm

mà xem... và bạn sẽ không cần bất kì ai nói cho bạn

rằng bạn điên.

Một người nhỏ bé bước vào "Cửa hàng văn phòng

phẩm hoàn hảo" - một cửa hàng duy nhất ở New York

chuyên bán các sản phẩm giấy tờ. Một người bán

hàng thanh lịch tiếp cận anh ta trong bộ com lê

Brooks Brothers. "Thưa ông tôi có thể giúp gì được

cho ông?" người bán hàng ngân nga với giọng có văn

hoá.

"Vâng, tôi muốn có giấy viết."

"Ông thích giấy có đường kẻ hay không đường

kẻ, thưa ông?"

"Ồ, bất kì cái gì cũng được. Không thành vấn đề."

"Rồi ông sẽ viết bằng bút máy hay bút bi?"

"Tôi thực sự không biết. Bất kì cái gì tới tay...."

"Ông muốn dùng giấy dầy hay giấy mỏng mặt

láng, thưa ông?"

"Này, bất kì cái gì cũng được. Cứ đưa tôi bất kì

gói cũ nào!"

"Có lẽ ông ưa một trong các loại có mùi thơm?"

"Nếu ông thích. Nhưng tôi phải đón xe bus - cứ

đưa tôi giấy nào đó thôi!"

"Mất một chút thời gian thưa ông. Ông muốn

dùng giấy thủ công trong hộp quà tặng đặc biệt hay

thương hiệu đơn giản?"

Giọng của người nhỏ bé nâng lên một quãng tám.

"Trông này, lần thứ mười... giấy nào cũng được! làm

điều đó nhanh lên, được không?"

"Vậy có lẽ ông có sở thích mầu - đỏ, lam,

vàng...?"

Vừa lúc đó một người khác xô vào cửa hàng. Mắt

anh ta có quầng thẫm bên dưới và má anh ta ướt nước

mắt.

"Trông đây," anh ta nức nở, "đá lát này là mầu

nhà tắm của tôi và đây là kích cỡ nhà vệ sinh của tôi.

Tôi đã chỉ cho ông xem lỗ đít tôi hôm qua. Bây giờ,

tôi có thể có chút giấy vệ sinh được không?"

Nhìn vào tâm trí bạn... những điều ngu xuẩn và

những chi tiết ngu xuẩn tới vô hạn! Bạn đi mãi - khi

nào bạn sẽ dừng lại?... xin mời! Đó là điều Phật đang

nói.

Feinberg, giám đốc tang lễ, đang ăn trưa với bạn

mình, Weinstein.

"Tao kiếm được một mặc cả hời cho mày về quan

tài," anh ta nói.

"Tao không thích nghĩ về những điều như thế.

Bao nhiêu?"

"Nó được làm bằng gỗ gụ với tay cầm bạc và một

khoá. Nói cho mày, chỉ hai nghìn đô la thôi."

"Tao sẽ nghĩ về điều đó."

Trên đường về nhà từ chỗ làm, Weinstein dừng lại

ở nhà xác Minkis để so sánh giá.

"Tôi không thể cho anh cái gì đẹp," ông giám đốc

nói. "Tôi có một cỗ quan tài gỗ gụ với tay cầm bạc và

tôi thậm chí còn để vào đó một chiếc khoá. Giá một

nghìn đô la."

Weinstein chạy xô tới nhà Feinberg và bắt đầu la

lên. "Mày là thằng bạn gì thế! Tao vừa thấy cùng

chiếc quan tài mày muốn bán và nó rẻ hơn một nghìn

đô la."

"Nó có bằng gỗ gụ với tay cầm bạc và có khoá

không"

"Có chứ!" Weinstein đáp.

"Nó có lớp vải lót bằng bạc không?"

"Tao không nhìn. Tao nghĩ là không."

"Mày thấy đấy!" Feinberg nói. "Trong sáu tháng

mày sẽ cần lớp vải lót mới."

Không chỉ về cuộc sống mà thậm chí về sau cuộc

sống, tâm trí cứ chuẩn bị ngay cả điều đó. Mọi người

quyết định về di chúc của họ, họ quyết định về văn

bia của họ, họ quyết định cách nấm mồ của họ phải

được làm, bằng loại đá cẩm thạch nào. Con người

dường như hoàn toàn không thông minh và người đó

cứ phí hoài cuộc sống của mình về những điều như

thế mà chẳng tạo ra ý nghĩa gì hết cả. Nhưng bạn phải

nhìn vào tâm trí riêng của mình.

Ông không muốn gì. Lời ông tĩnh lặng. Ông tĩnh

lặng. Phật nói đây là cách chúng ta phải vậy - không

ham muốn, bởi vì mọi ham muốn đều vô tích sự.

Chúng là về tương lai; cuộc sống là trong hiện tại.

Mọi ham muốn đều làm bạn sao lãng khỏi hiện tại,

mọi ham muốn đều làm bạn sao lãng khỏi cuộc sống,

mọi ham muốn đều phá huỷ cuộc sống, mọi ham

muốn đều là trì hoãn cuộc sống. Cuộc sống là bây giờ

và ham muốn đem bạn đi xa, ngày càng xa hơn khỏi

bây giờ. Và khi chúng ta thấy rằng cuộc sống của

mình là khổ chúng ta cứ đổ trách nhiệm lên người

khác, và không ai chịu trách nhiệm ngoại trừ chúng

ta.

"Người tốt ơi," một vị khách tới thăm tù nhân nói,

"làm sao ngẫu nhiên mà anh tới chỗ buồn tẻ này?"

"Dạ, thưa ngài," người tù nói, "ông nhìn tôi đây,

nạn nhân bất hạnh của số mười ba không may."

"Thế à!" vị khách thăm nói. "Điều đó là thế nào?"

"Mười hai bồi thẩm và một quan toà, thưa ngài."

Không ai muốn nhận trách cứ về bản thân mình.

Bất kì cái gì cũng có tác dụng - con số không may,

tướng tay, số mệnh, chiêm tinh... sao, sao xấu đang

tạo ra khổ cho Anshumali! Cho dù họ đi tìm

Anshumali, sẽ khó cho họ tìm thấy anh ta; họ thậm

chí không thể thấy trái đất - trái đất nhỏ bé thế. Mặt

trời của chúng ta lớn hơn trái đất mười hai nghìn lần

và mặt trời của chúng ta là ngôi sao rất tầm thường.

Có ngôi sao lớn hơn mặt trời hàng triệu lần; so với

các ngôi sao đó trái đất này chỉ là hạt bụi, không đáng

để ý, có thể bỏ qua được. Nó có thể bị bỏ qua, có thể

bị quên mất, có thể bị lờ đi. Và có hàng triệu ngôi sao

mà khoa học đã đếm và hàng triệu ngôi sao nữa phải

ở bên ngoài bởi vì tầm với của chúng ta là giới hạn,

công cụ của chúng ta bị giới hạn. Và những sao này

đang quyết định số mệnh của thư kí trong văn phòng

thu thuế, của một người làm công ở ga tầu hoả!

Con người ngu thế, ngu không thể tin được.

Người đó cứ đổ trách nhiệm lên ai đó khác. Chừng

nào bạn còn chưa dừng điều này bạn sẽ không bao giờ

trở thành tôn giáo. Người tôn giáo là người nhận trách

nhiệm về bản thân mình.

Điều đầu tiên làm bạn khổ là ham muốn của bạn,

ham muốn thường xuyên về cái này và cái nọ. Dừng

điều đó lại. Và khi không có ham muốn, cũng không

có ý nghĩ. Chức năng của ý nghĩ là giúp bạn ham

muốn; chúng là công cụ. Nếu bạn không có ham

muốn, ý nghĩ nhất định biến mất theo cách riêng của

nó. Và khi không có ham muốn, không có ý nghĩ...

Ông tĩnh lặng. Bạn bình thản, tự chủ, định tâm, bắt rễ.

Đó là đám cháy vào sáng sớm, và một phóng viên

Italy trẻ khá may đã tới chứng kiến cảnh tượng để viết

bài tường trình về đám cháy từ một trong những cư

dân của nhà căn họ đã thoát ra ngoài.

"Thật là khủng khiếp," người này kể lại. "Ông

tưởng tượng các bức tường vỡ vụn về phía ông, ngọn

lửa thực tế liếm vào má ông theo bất kì hướng nào

ông quay tới và chính sắt của lan can bốc khói dưới

tay ông. Nhưng trong khói mù của tất cả những cái

đó, tôi muốn ông biết, tôi giữ hoàn toàn bình thản và

cân bằng."

"Thật là xấu hổ, vì ông đã bình thản và tự chủ,"

phóng viên đáp lại, "tới mức ông đã không nghĩ tới

việc mặc quần vào."

Những người nghĩ họ yên tĩnh và bình thản lại

không yên tĩnh và bình thản, Họ chỉ tin điều đó; họ

chỉ hi vọng rằng họ yên tĩnh và bình thản. Chỉ rất hãn

hữu nói có một người yên tĩnh và bình thản. Điều đó

chỉ xảy ra ở đỉnh tối thượng của thiền, không trước

điều đó. Cho nên đừng tự lừa mình.

Bằng nỗ lực riêng của ông

đánh thức bản thân mình, quan sát bản thân mình.

và sống vui vẻ.

Nhận trách nhiệm và điều đó cho bạn sáng suốt

lớn lao. Nếu bạn chịu trách nhiệm cho tất cả khổ của

mình, nếu bạn chịu trách nhiệm về tất cả ác mộng của

mình, thế thì điều khác cũng là có thể: bạn có thể thức

dậy. Nếu bạn chịu trách nhiệm về giấc ngủ của mình,

bạn có thể thức dậy; nếu bạn không chịu trách nhiệm,

ngôi sao nào đó chịu trách nhiệm, thế thì bạn có thể

làm gì? Bạn chỉ là nạn nhân và bạn phải chịu đựng.

Chừng nào sao còn chưa đổi ý của chúng, nếu chúng

có tâm trí....

Bằng nỗ lực riêng của ông đánh thức bản thân

mình, quan sát bản thân mình. Và sống vui vẻ. Và mọi

người nói Phật là người bi quan sao? - và ông ấy nói:

sống vui vẻ.

Phật nói: Đừng tin vào cứu tinh bởi vì đó là tâm

trí cũ, cùng tâm trí muốn đổ trách nhiệm lên ai đó

khác. Bây giờ người Ki tô giáo nghĩ Jesus cứu. Người

Hindu nghĩ rằng bất kì khi nào nhu cầu nảy sinh,

Krishna sẽ quay lại; ông ấy sẽ lấy hoá thân khác để

cứu nhân loại. Khi nào bạn sẽ cảm thấy trách nhiệm

của mình? Và mọi người không nghĩ rằng đây là điều

xấu xa, sỉ nhục, bẽ mặt; nó hạ thấp nhân phẩm con

người.

Một người Ki tô giáo và một người Do Thái đang

bước đi. Họ bắt gặp một nhà thờ và phía trước nó có

một tấm biển lớn với dòng chữ, "Jesus cứu rỗi!"

Người Do Thái nói, "Điều đó không là gì cả -

Moses đầu tư!"

Không ai có thể cứu bạn được; đừng đợi bất kì

cứu tinh nào. Bạn có thể tự cứu mình, điều đó là

đúng.

Đây cũng là một trong những cái nhìn thấu lớn lao

của Phật vào khổ của con người, vào thực tại con

người, rằng ông ấy nói: Đừng tin rằng ai đó sẽ cứu

ông. Bạn là nguyên nhân của khổ của mình, bạn có

thể là nguyên nhân của phúc lạc của mình.

Ông là người chủ,

Ông là chỗ trốn tránh.

Như lái buôn luyện ngựa tốt,

Làm chủ bản thân ông.

Sung sướng làm sao ông đi theo

Lời của người đã thức tỉnh.

Và nếu bạn thiền, nếu bạn trở nên im lặng chút ít,

tỉnh táo chút ít, bạn sẽ yêu những lời này bởi vì chúng

có hương vị của chân lí - nhưng chỉ cho những người

đang thiền.

Sung sướng làm sao ông đi theo lời của người đã

thức tỉnh. Thế thì tất cả những người đã thức tỉnh

bỗng nhiên trở thành người đương đại của bạn. Chỉ

thế thì bạn mới có thể hiểu được Jesus, Phật, Krishna,

Mahavira, Lão Tử. Chỉ thế thì, khi bạn thiền, bỗng

nhiên các điều huyền bí mở ra, những cánh cửa đã

đóng nay mở ra và mọi sự chưa bao giờ rõ ràng cho

bạn thì bỗng nhiên trở nên rõ ràng. Nhưng nó xảy ra

qua thiền và không có cách khác. Không phải bằng

nghiên cứu, không phải bằng việc thu thập ngày một

nhiều tri thức, không phải bằng biện luận, không bằng

triết lí hoá, mà chỉ bằng việc trở thành ngày một im

lặng hơn. Trong im lặng hoàn toàn, Thượng đế nói

với bạn qua tất cả những người đã thức tỉnh.

Yên tĩnh làm sao, chắc chắn làm sao

Ông tiến tới nước hạnh phúc,

Trái tim của tĩnh lặng.

Và thế rồi các bước đi của bạn có tự tin bởi vì mọi

chư phật đều là nhân chứng cho bạn. Khi bạn bắt đầu

nếm trải niềm vui của thiền, khi bạn bắt đầu trở nên

tỉnh táo với cái đẹp của thiền, khi hoa bắt đầu nở bên

trong bạn, mọi chư phật trở thành nhân chứng cho

bạn. Bạn biết bạn trên đường đúng; tự tin lớn nảy sinh

trong bạn.

Yên tĩnh làm sao, chắc chắn làm sao

Ông tiến tới nước hạnh phúc,

Trái tim của tĩnh lặng.

Dù trẻ thế nào,

người tìm kiếm khởi hành trên đạo

chiếu sáng lên cả thế giới.

Và đó không phải là vấn đề tuổi tác. Phật là người

đầu tiên điểm đạo cho thanh niên mang tính chất

sannyas. Ngoài ra, ở Ấn Độ truyền thống là chỉ người

rất, rất già, già hơn bẩy mươi nhăm tuổi, mới được

phép nhận tính chất sannyas. Tính chất sannyas dành

cho người già. Phật đã tạo ra cuộc cách mạng: ông ấy

điểm đạo cho thanh niên.

Và kinh nghiệm riêng của tôi là: bạn càng trẻ hơn,

càng tốt hơn, bởi vì khi bạn trở nên già hơn bạn thu

thập ngày càng nhiều gỉ hơn, ngày càng nhiều bụi

hơn. Khi bạn trở nên già hơn bạn trở nên ngày càng bị

nặng gánh bởi kinh nghiệm, tri thức và đủ mọi loại

thứ ngu xuẩn. Khi bạn trở nên già hơn bạn bắt đầu

mất đi hăng hái, nhiệt tình, dũng cảm để thực nghiệm

với cái không biết, để thám hiểu cái không biết. Khi

bạn trở nên già hơn bạn trở nên sợ chết tới mức do sợ

bạn đi tới Thượng đế, và những người đi từ sợ hãi tới

Thượng đế thì không bao giờ đạt tới Thượng đế. Sợ

không phải là cây cầu, nó là bức tường. Những người

đi tới Thượng đế truy tìm chân lí từ tình yêu chân lí,

chỉ họ mới được bắc cầu. Nó cần tuổi trẻ nào đó, dũng

cảm nào đó, năng lực nào đó để nhận mạo hiểm. Nó

cần nhiệt tình, tươi trẻ; bởi vì tôn giáo về căn bản là

nổi dậy.

Phật nói: Dù trẻ thế nào.... Đừng lo về điều đó.

Chín chắn không có liên quan gì tới tuổi tác cả; già đi

không nhất thiết đã là trưởng thành lên. Người ta có

thể trẻ và trưởng thành và người ta có thể rất già và

rất trẻ con. Tuổi tác và chín chắn không có móc nối

cần thiết nào. Chín chắn tới qua thiền. Già đi là quá

trình thông thường; mọi người đều già đi. Con vật già

đi, cây cối già đi, mọi người già đi; điều đó chẳng liên

quan gì tới biến đổi.

Dù trẻ thế nào,

người tìm kiếm khởi hành trên đạo

chiếu sáng lên cả thế giới.

như mặt trăng,

ló ra từ sau đám mây!

chiếu sáng.

Phật nói với các Bồ tát của mình, hãy đi và nói

cho người tìm kiếm: Như mặt trăng, ló ra từ sau đám

mây! chiếu sáng.

Cùng điều đó tôi nói với bạn: Như mặt trăng, ló

ra từ sau đám mây! chiếu sáng.

Đủ cho hôm nay.

**************************************************************************************************************

#6Vươn lên trong tình yêu

Câu hỏi thứ nhất:

Thưa Thầy kính yêu,

Tôi đã rơi vào tình yêu với người đàn bà mà tôi

đã li dị hai năm trước. Điều đó là có thể được

không?

Shraddhan, đàn ông gần như cái máy. Đàn ông

chưa là người; anh ta vận hành một cách vô ý thức,

anh ta sống trong giấc ngủ. Do đó mọi thứ đều có thể.

Thực tế, bạn bao giờ cũng rơi vào tình yêu với cùng

người đàn bà, cho dù dường như bạn rơi vào tình yêu

với ai đó khác. Kiểu người vẫn như cũ bởi vì cái thích

của bạn là như cũ, tâm trí bạn như cũ, chọn lựa của

bạn như cũ.

Quan sát mọi người, quan sát chuyện tình của họ,

và bạn sẽ ngạc nhiên. Đó bao giờ cũng là cùng người

đàn ông hay cùng người đàn bà - vâng, với khuôn mặt

khác nhau hay với mặt nạ khác nhau, quần áo khác

nhau, hình dáng và kích thước khác nhau. Nhưng

những khác biệt này không phải là khác biệt thực.

Chừng nào bạn còn chưa là người mới, làm sao

bạn có thể rơi vào tình yêu với ai đó mới được? Ai sẽ

chọn lựa? Làm sao người ta sẽ chọn? Cùng tâm trí đó

sẽ thích cùng kiểu khuôn mặt, cùng mắt, cùng mầu

da, cùng hình thể, cùng dáng người, cùng cách người

đàn bà bước đi, cùng cách cô ấy nói. Lại trong vòng

vài ngày bạn sẽ mệt mỏi, cũng như bạn đã mệt mỏi

trước đây. Bạn lại sẽ thấy mình bị sập bẫy, bị cầm tù,

và người đàn bà cũng sẽ thấy cùng điều đó. Nhưng

con người sống trong trạng thái vô ý thức tới mức bạn

không thể mong đợi nhiều hơn thế.

Nếu con người có ý thức, thế thì nhiều điều trở

thành không thể được. Ngay chỗ đầu tiên, rơi vào tình

yêu bản thân điều đó trở thành không thể được. Bạn

bắt đầu vươn lên trong tình yêu, không rơi vào tình

yêu; chính phẩm chất của tình yêu của bạn trở thành

khác toàn bộ. Nó không còn là quan hệ, nó là trạng

thái của bản thể bạn nhiều hơn. Bạn đầy tình yêu, bạn

chia sẻ tình yêu của bạn, nhưng không có đòi hỏi về

phần bạn. Nó không còn là chuyện kinh doanh, nó

không còn có điều kiện, nó không đòi hỏi gì. Nó đơn

giản cám ơn rằng ai đó đã chấp nhận, rằng ai đó đã

không bác bỏ tình yêu của bạn. Bạn cảm thấy biết ơn.

Nó không là tù túng cho người khác, nó không làm

người khác thành nô lệ. Nó không có tính sở hữu; nó

tuyệt đối phi sở hữu, vô điều kiện, không đòi hỏi. Nó

cho tự do. Và khi tình yêu cho tự do, người yêu bắt

đầu soải cánh bay cao, họ bắt đầu đi tới Thượng đế.

Tình yêu trở thành cánh cửa tới điều thiêng liêng.

Ngay bây giờ tình yêu đơn giản lôi bạn xuống.

'Rơi vào tình yêu' là cụm từ có nghĩa - bạn chắc chắn

rơi vào, bạn bị hút xuống dưới. Lúc ban đầu bạn cảm

thấy vĩ đại, nhưng chỉ lúc ban đầu thôi. Đó chỉ là mê

đắm, bởi vì bạn đang hi vọng cái gì đó mới sẽ xảy ra.

Lúc ban đầu bạn bị kích động, đó dường như là cuộc

phiêu lưu lớn, nhưng chẳng mấy chốc bạn thấy nó là

cái cũ, mục ruỗng - chẳng cái gì đặc biệt, chẳng cái gì

mới. Chỉ bạn tình đã thay đổi, nhưng trò chơi vẫn như

cũ - và được chơi với cùng bạo hành, với cùng điều

xấu xí.

Shraddhan, không chỉ bạn rơi vào trong tình yêu

với cùng người đàn bà đâu; mọi người đều làm điều

đó. Trong trạng thái thông thường, vô ý thức của nhân

loại, nhiều hơn điều đó không thể được hi vọng đâu.

Bạn may mắn là bạn đã li dị, nhưng khó sống một

mình trừ phi bạn biết cái đẹp của việc ở một mình.

Khoảnh khắc bạn một mình bạn bắt đầu chịu đựng

sự cô đơn, bạn bắt đầu khao khát bầu bạn với người

khác. Và thế rồi bất kì ai cũng có tác dụng, ngay cả

với cùng người đàn bà mà bạn đã li dị; điều đó còn tốt

hơn là cô đơn. Cho dù điều đó là khổ, mọi người ưa

thích khổ để được bầu bạn hơn là cô đơn.

Chừng nào bạn còn chưa biết tới niềm vui của

thiền, bạn không thể tránh được việc rơi vào trong

tình yêu. Một khi bạn bắt đầu tận hưởng bản thể riêng

của mình, niềm vui, không gian, tự do tuyệt đối, tâm

thức không bị cản trở, không ai bận tâm tới chú ý của

bạn, không ai cố gắng bắt lấy chú ý của bạn, không ai

đụng chạm tới tự do của bạn, không ai can thiệp vào

tự do của bạn.... Khi bạn bắt đầu tận hưởng sự một

mình của mình, bạn đã trở thành thiền nhân. Vâng,

tình yêu cũng sẽ là có thể sau điều đó, nhưng là một

loại tình yêu hoàn toàn khác.

Bạn phải đã khổ do cô đơn và, lại tìm thấy cùng

người đàn bà đó, bạn có thể đã nghĩ sống cùng cô ấy

tốt hơn là cô đơn. Và bạn phải đã quên tất cả khổ - kí

ức của mọi người rất ngắn.

Và điều này phải được hiểu: tâm trí có xu hướng

quên đi phần đau khổ, nó có xu hướng nhớ phần hoan

lạc. Đó là một trong các chiến lược của tâm trí để vẫn

còn trong kiểm soát, để vẫn còn là người chủ của bạn.

Nó bao giờ cũng có xu hướng quên đi đau khổ; nó cứ

khuếch đại, tôn cao, tô điểm cho phần hoan lạc. Thực

tại là hoàn toàn khác, nhưng tâm trí sống trong tưởng

tượng.

Và kí ức của bạn không đáng tin cậy chút nào bởi

vì kí ức của bạn là hư cấu. Bạn chỉ nghĩ nó đẹp thế

nào, bạn đã quên đi mọi khổ; bạn đã chọn chỉ vài

khoảnh khắc có thể đã đẹp. Phải có vài khoảnh khắc

đã đẹp, nhưng chỉ vài khoảnh khắc thôi, vài và xa ở

giữa. Và chúng không thể đẹp được như bạn đã nghĩ;

bằng không cần gì phải li dị người đàn bà đó? Khổ

phải đã nhiều hơn, đau phải đã quá nhiều, không thể

chịu được. Bạn phải đã chịu khổ quá nhiều, người đàn

bà này đã chịu khổ quá nhiều. Vấn đề không phải là

người đàn bà có lỗi hay bạn có lỗi; điều đơn giản là

hai người vô ý thức ở cùng nhau nhất định tạo ra khổ

cho nhau.

Nếu bạn không thể hạnh phúc một mình được,

làm sao bạn có thể tạo ra hạnh phúc cho bất kì ai

khác? Bản thân bạn không hạnh phúc, làm sao bạn có

thể cho người khác hạnh phúc được? Bạn có thể cho

chỉ cái bạn có. Bạn đau khổ - bạn có thể giả vờ rằng

bạn không đau khổ, nhưng được bao lâu? Tuần trăng

mật không thể kéo dài mãi được. Trong vòng một

tuần lễ hay nhiều nhất là hai tuần nó chấm dứt, và thế

rồi bạn biết rằng cả hai đều là người đau khổ. Và khi

hai người đau khổ sống cùng nhau, khổ không chỉ gấp

đôi lên, nhớ lấy, nó nhân lên nhiều lần.

Nhưng bạn quên tất cả những điều đó. Về sau bạn

xoá sạch những phần đau khổ đó, bạn giữ lại những

khoảnh khắc đẹp. Và bạn không chỉ gìn giữ chúng,

bạn cứ trang hoàng cho chúng, tô vẽ cho chúng, lặp đi

lặp lại. Dần dần, dần dần chúng không có quan hệ với

thực tại. Quá khứ của bạn là hư cấu, tương lai của bạn

là hư cấu; chỉ hiện tại của bạn là thực. Nhưng bạn

không sống trong hiện tại chút nào; hoặc bạn sống

trong quá khứ hoặc bạn sống trong tương lai.

Và tại sao câu hỏi này đã nảy sinh, Shraddhan?

Khổ phải đã lại bắt đầu rồi! Đó là lí do tại sao bạn

hỏi, "Điều đó là có thể được không?" bạn đã làm nó

rồi, và bạn hỏi tôi, "Điều đó là có thể được không?"

Bản thân bạn không thể tin được điều bạn đã làm.

Khi mọi người ở cùng nhau họ muốn một mình;

khi họ ở một mình họ muốn ở cùng nhau. Mọi người

là không thể được!

Rizzoli độ tuổi trung tuần ngồi ở bậc cửa trước

khóc một cách cay đắng.

"Có chuyện gì-a cho bác thế?" hàng xóm ông ấy

hỏi, Pasquale.

"Vợ của Bonnaocchi mới-a chết," Rizzoli nói, vừa

chùi nước mắt.

"Thế thì sao?" hàng xóm anh ta nói, "Cô ấy

không-a có quan hệ máu mủ-a với anh sao."

"Tôi biết điều đó," Rizzoli nói. "Đó chỉ là-a việc

mọi người dường như-a có-a vận may trừ-a tôi!"

Khi bạn ở với ai đó, lập tức cả nghìn lẻ một vấn

đề nảy sinh mà không có trước đó. Khi bạn một mình

những vấn đề đó biến mất, nhưng vấn đề mới nảy

sinh: cô đơn dường như trống rỗng thế. Bạn cảm thấy

lúng túng, bạn không biết phải làm gì. Ngay khi bạn

bắt đầu quên đi tất cả thì khổ bước ra khỏi mối quan

hệ của bạn; bạn bắt đầu khao khát mối quan hệ khác.

Bạn nghĩ, "Có thể lần này mọi việc sẽ khác." Có thể

cô ấy đã thay đổi, có thể bạn đã thay đổi. Có thể cả

hai bạn đã học được từ kinh nghiệm.

Harry và con gái anh ta, Francesca, đang trên

giường xem phim cũ của Roy Rogers trên ti vi. Khi

Roy cưỡi ngựa qua một đèo, Harry nói, "Bố cá với

con một khoản tiền là ngựa của anh ta bước vào cái

hố đào và rơi xuống."

"Được," Francesca nói, "bố hứa nhé!"

Chắc chắn, con ngựa sẩy chân ngã.

Sau khi tiền cá được trả đủ Harry nói, "Bố phải-a

nói với con bố đã xem phim này trước rồi. Đó là cách

bố đã biết."

"Con cũng đã xem rồi," cô bé Italy nói, "nhưng

con không nghĩ-a con ngựa-a lại ngu xuẩn-a để mà

ngã-a vào cùng cái hố hai lần-a!"

Nhưng con người ngu xuẩn nhiều hơn.

Bây giờ làm điều tốt nhất từ điều đó đi. Khi bạn

đã rơi vào trong hố, cố gắng làm nhà ở đó đi! Bạn là

người Mĩ, và tôn giáo duy nhất người Mĩ tin là: Thử

và thử và thử nữa.

#6Câu hỏi thứ hai:

Thưa Thầy kính yêu,

Tôi không thể nào hiểu được thầy; tôi đã thử vất

vả lắm nhưng đều thất bại. Tôi phải làm gì bây

giờ?

Govindo, có cần hiểu tôi không? Việc hiểu là gì?

Nó là nỗ lực trí tuệ. Điều tôi đang cố trao đổi với bạn

chẳng liên quan gì tới trí tuệ. Bạn có thể cảm nó,

nhưng bạn không thể hiểu được nó. Bạn có thể sống

nó, và chỉ bằng việc sống nó bạn sẽ có khả năng hiểu

nó.

Nhưng mọi người cố gắng chính cái đối lập -

trước hết họ muốn hiểu. Ý tưởng là: Chừng nào chúng

ta còn chưa hiểu một điều, làm sao chúng ta có thể

thử nó được, làm sao chúng ta có thể sống nó và chỉ

thế thì người ta mới nên thử sống.

Nhưng cuộc sống không logic; cuộc sống còn sâu

sắc hơn logic nhiều, và nhiều lần cuộc sống tuyệt đối

phi logic. Nếu bạn cố níu bám vào logic bạn sẽ bỏ lỡ

nhiều điều, và nhiều điều đó là quí giá nhất. Bạn sẽ bỏ

lỡ tình yêu, bạn sẽ bỏ lỡ thiền, bạn sẽ bỏ lỡ niềm vui,

bạn sẽ bỏ lỡ Thượng đế, bạn sẽ bỏ lỡ tự do. Bạn sẽ bỏ

lỡ tất cả những điều làm cho cuộc sống có ý nghĩa,

điều làm cho cuộc sống đẹp, huy hoàng. Bạn sẽ bỏ lỡ

sự hiện diện của tính thượng đế bao quanh bạn. Logic

là rào chắn, không là cây cầu.

Và Govindo, bạn nói, "Tôi không thể hiểu được

thầy." Bạn phải đang cố gắng từ cái đầu rồi. Đó là

giao cảm tim sang tim đấy. Nếu bạn muốn hiểu lầm

tôi thế thì cái đầu là công cụ đúng; thế thì bạn có thể

cứ hiểu lầm tôi mãi mãi và mãi mãi. Nhưng nếu bạn

muốn hiểu tôi, thế thì bạn phải quên đi tất cả những

hình mẫu cũ của bạn về việc hiểu mọi sự. Tôi đang

dạy ở đây không phải là toán học, tôi đang dạy ở đây

không phải là triết học.

Tôi đang dạy cái gì đó tuyệt đối có tính tồn tại.

Bạn phải sống nó, bạn phải lấy bước nhảy lượng tử.

Bạn phải đã từng được nghe kể đi kể lại rằng trước

khi bạn lấy cú nhảy, nghĩ hai lần đã. Còn điều tôi

đang nói với bạn là: Lấy bước nhảy trước và thế rồi

nghĩ nhiều bao nhiêu tuỳ ý, bởi vì thế thì suy nghĩ

không thể làm gì được, nó không thể làm hại bất kì ai.

Nhưng để cú nhảy xảy ra đã.

Thiền phải được kinh nghiệm. Nếu bạn thử hình

dung nó ra, nó là gì, bạn sẽ bỏ lỡ vấn đề bởi vì đó

không phải là vấn đề của tâm trí chút nào. Thiền

nghĩa là trạng thái của vô trí. Tôi thường xuyên kéo

bạn hướng tới trạng thái vô trí, theo mọi cách có thể.

Điều tôi đang làm ở đây là ngớ ngẩn, nó không

logic. Bạn sẽ phải gạt logic sang bên; bằng không tôi

sẽ nói điều này và bạn sẽ hiểu cái gì đó khác.

Quan toà hỏi triết gia đang bị xử trong toà án,

"Bây giờ thưa ngài, xin ngài nói cho tôi tại sao ngài

đậu xe ở chỗ ngài đã đậu?"

Giáo sư nói, "Có biển viết là "fine for parking6."

[6 "Fine for parking" có nghĩa "Phạt nếu đậu xe" nhưng giáo sư

này hiểu theo nghĩa "Đậu xe cũng được"]

Gạt trí năng của bạn sang bên. Và nhớ, tôi không

bảo bạn gạt thông minh của bạn sang bên. Ngược lại,

nếu bạn có thể gạt trí năng sang bên bạn sẽ thông

minh hơn nhiều bởi vì thông minh và trí năng là

không đồng nghĩa, chúng là đối kháng. Thông minh là

sáng tỏ; trí thức không là gì ngoài trạng thái che mờ.

Trí thức nghĩa là bạn quá thông thái; tri thức của bạn

cứ xen vào. Tâm trí của bạn liên tục diễn giải, tâm trí

của bạn phán xét.

Nghe tôi mà không có phán xét nào. Tôi không

nói đồng ý với tôi - không có vấn đề đồng ý hay bất

đồng - chỉ lắng nghe.

Khi bạn lên núi và bạn lắng nghe âm thanh của

thác nước, bạn đồng ý với nó hay bất đồng với nó?

Bạn đơn giản lắng nghe! Khi bạn lắng nghe âm nhạc

hay, bạn đồng ý hay bạn bất đồng? Không có vấn đề

đồng ý hay bất đồng; lắng nghe là không phán xét.

Do đó các nhà phê bình cứ bỏ lỡ nhiều điều. Nếu

nhà phê bình nghe nhạc, việc nghe của ông ấy không

toàn bộ; ông ấy thường xuyên so sánh, phán xét, diễn

giải. Bạn phải rất không phê phán. Bạn chỉ phải cởi

mở, mong manh, cảm nhận, im lặng; để cho bất kì cái

gì đang xảy ra cũng có thể thấm vào cốt lõi sâu nhất

của bản thể bạn.

Nếu bạn đầy tâm trí riêng của mình, Govindo, bạn

sẽ hiểu lầm tôi; điều đó nhất định xảy ra.

Cô Zockwoski, với bộ tóc hoe đỏ hấp dẫn, lên

một chiếc xe bus đông đúc và đứng gần một chàng

thanh niên.

Anh chàng này, nghĩ tới việc nhường chỗ mình

cho cô ấy, nhìn lên và nói, "Đi xa không?"

"Cậu thần kinh à!" cô gái Ba lan gắt gỏng. "Tôi

phải hỏi cậu đi xa không chứ?"

Nếu bạn mang cái gì đó trong tâm trí mình, nếu

bạn bận tâm, thế thì bất kì cái gì bạn nghe cũng không

phải là điều được nói, nó là cái bạn có khả năng nghe.

Người hỏi: "Thưa quí bà, để được năm mươi đô

la, xin bà nói cho tôi ai là người đàn ông đầu tiên trên

trái đất?"

Quí bà: "Adam."

Người hỏi: "Đúng rồi. Bây giờ để được hai trăm

đô là xin bà nói cho tôi lời đầu tiên của Eve khi cô ấy

gặp Adam."

Quí bà (bị mắc kẹt vì câu trả lời, quay sang người

hỏi và nói): "Nào, đó là lời khó phải không?"

Người hỏi: "Cho quí bà này hai trăm đô la!"

Govindo, đừng vẫn còn bị bận bịu với ý nghĩ

riêng của bạn. Bạn phải tới với tri thức lớn lao, bạn

phải đã tới với các quan niệm của riêng bạn và bạn

nghe qua rừng rậm những ý tưởng riêng của bạn.

Điều tôi đang nói là rất đơn giản, hoàn toàn đơn

giản. Phát biểu của tôi là tuyệt đối bình thường. Tôi

không là người linh thiêng, tôi không là thánh nhân.

Tôi còn bình thường hơn bạn nhiều! Tôi không có gì

đặc biệt về mình cả. Tôi không tồn tại chút nào, làm

sao tôi có thể đặc biệt được? Cho nên phát biểu của

tôi là rất đơn giản - đứa trẻ cũng có thể hiểu được

chúng. Nhưng bạn có thể cứ bỏ lỡ.

Trên xe bus ở Đại lộ Thứ ba trong Manhattan,

một bà cô rất đứng đắn bị choáng khi nghe lỏm

Scarpetti, một người di cư, nói với bạn của mình,

"Emma hành động-a trước, tôi hành động-a sau, hai

đít hành động-a cùng nhau, tôi hàng động-a nữa, hai

đít lại hành động-a cùng nhau nữa, tôi hành động-a

một lần nữa-a, đái-đái hai lần, thế rồi tôi hành động-a

lần cuối-a cùng."

Khi Scarpetti nói xong, bà cô già thẹn đỏ chín mặt

quay sang viên cảnh sát ngồi gần đó. "Anh có định

bắt lão già khủng khiếp đó không?" bà cô thì thào.

"Tại sao," viên cảnh sát hỏi. "Vì đánh vần

'Mississippi' sao?"

Để tôi lặp lại: "Emma hành động-a trước, tôi hành

động-a sau, hai đít hành động-a cùng nhau, tôi hàng

động-a nữa, hai đít lại hành động-a cùng nhau nữa, tôi

hành động-a một lần nữa-a, đái-đái hai lần, thế rồi tôi

hành động-a lần cuối-a cùng."

Bạn hỏi tôi, "Tôi phải làm gì? Tôi đã thử vất vả

lắm nhưng đều thất bại." Bây giờ xin đừng thử vất vả

làm gì. Thực tế, thôi cố gắng đi, vứt cố gắng đi. Chỉ

lắng nghe niềm vui vô cùng của việc lắng nghe. Gió

thổi qua rặng thông... lắng nghe. Âm thanh của nước

chảy... lắng nghe. Chim chóc hót buổi sáng... lắng

nghe. Đừng cố hiểu. Và chỉ bằng việc lắng nghe cái gì

đó sẽ bắt đầu đạt tới trái tim bạn. Bài ca, điệu vũ sẽ

bắt đầu xảy ra. Trái tim bạn sẽ bắt đầu mở ra như

bông hoa và hương thơm lớn lao sẽ được toả ra - và

đó sẽ là hiểu biết thực.

Govindo, bạn đã cố gắng vất vả không cần thiết.

Thảnh thơi với tôi, đừng cố gắng vất vả. Nếu bạn cố

gắng vất vả bạn sẽ căng thẳng - và không có khả năng

nào hiểu tôi qua căng thẳng đâu. Thảnh thơi, nghỉ

ngơi đi. Tôi ở đây để dạy bạn thảnh thơi và nghỉ ngơi

toàn bộ.

Hiểu biết sẽ xảy ra nhưng không qua cái đầu, nó

sẽ xảy ra qua trái tim - không qua logic mà qua tình

yêu.

#6Câu hỏi thứ ba:

Thưa Thầy kính yêu,

Sao tính sáng tạo lại đau đớn thế?

Prem Sarva, tính sáng tạo là đỉnh cao nhất của

tâm thức con người; do đó nó là đau đớn, nó là gian

truân. Bạn đi lên dốc. Không có tính sáng tạo là rất

thoải mái; nó là cuộc hành trình đi xuống. Bạn không

cần làm gì, chẳng cái gì được cần về phần bạn; chỉ lực

hút trọng trường là đủ. Khi bạn đi xuống từ trên đồi

xuống đồng bằng bạn có thể tắt động cơ xe hơi đi,

không cần xăng; chiếc xe sẽ cứ lăn xuống. Nhưng nếu

bạn đi lên đồi thì cần có nỗ lực, cần nỗ lực lớn.

Tính sáng tạo cần nỗ lực lớn bởi vì nhiều điều

phải bị vứt bỏ khi bạn đi lên trên; những trọng lượng

không cần thiết phải bị vứt bỏ. Và bạn đang mang

nhiều hành lí thế; nó tất cả đều không cần thiết, nó là

vô dụng. Nhưng mọi người cứ thu thập, mọi người

đều là những người thu thập lớn lao. Họ sẽ thu thập

đủ mọi loại rác rưởi, hi vọng rằng có thể một ngày

nào đó nó sẽ chứng tỏ hữu dụng nào đó. Họ tham và

họ cảm thấy trống rỗng cho nên họ cứ tọng vào bản

thân mình đủ mọi thứ. Bạn đầy bản ngã thế và bản

ngã là trọng lượng lớn. Bạn không thể đi lên được.

Bạn sẽ phải gạt bản ngã sang bên - và đó là cái đau

lớn nhất.

Là người sáng tạo nghĩa là bạn vứt bỏ chính ý

tưởng rằng "Ta tách rời khỏi sự tồn tại." Sáng tạo chỉ

xảy ra khi bạn là một với sự tồn tại. Sáng tạo chỉ xảy

ra khi bạn trong hoà điệu với người sáng tạo tới mức

không có rối loạn nào về phía bạn. Và rối loạn lớn

nhất tới từ bản ngã. Nó nuôi dưỡng bản thân nó trên

rối loạn, nó sống trong rối loạn. Bản ngã nghĩa là ý

tưởng rằng "Mình tách rời." Và nếu bạn nghĩ bạn tách

rời, bạn đang sống trong dối trá - và tính sáng tạo tuôn

chảy từ kinh nghiệm về chân lí.

Bạn phải biết chân lí này, rằng bạn không tách

rời. Không người nào là hòn đảo cả, chúng ta tất cả

đều là một phần của một lục địa bao la. Toàn thể sự

tồn tại là một, nó là một đơn vị hữu cơ; do đó mọi

điều vĩ đại đều đã tới chỉ trong những khoảnh khắc đó

khi người sáng tạo đã bị tan biến vào trong cái toàn

thể. Những bức tranh vĩ đại, những bài thơ vĩ đại, âm

nhạc vĩ đại, điệu vũ vĩ đại, tất cả chỉ xảy ra khi bạn bị

tan biến, khi bạn không còn nữa. Nếu bạn còn, bỗng

nhiên bạn trở thành khối chắn, bạn dừng tuôn chảy.

Thế thì Thượng đế không thể dùng bạn như chiếc sáo

được, ngài không thể hát lên qua bạn được. Chiếc sáo

phải chỉ là thanh trúc hổng, chỉ là khoảng không mở,

chỉ là phương tiện. Những nhà thơ lớn, những nhạc sĩ

lớn, những vũ công lớn, tất cả đều là phương tiện. Họ

không nhảy múa, họ bị nhảy múa. Họ không hát, năng

lượng không biết nào đó hát qua họ.

Đó là lí do tại sao tính sáng tạo lại đau đớn, bởi vì

không ai muốn tan chảy và hội nhập và tan biến.

Chúng ta níu bám lấy căn cước của mình. Thực tế,

chúng ta muốn có tính sáng tạo để cho chúng ta có thể

treo thêm vài phần thưởng quanh bản ngã của mình -

để cho bản ngã có thể trở nên nổi tiếng hơn, để cho

bạn có thể nói, "Tôi là ai đó đặc biệt. Tôi là nhà thơ

lớn hay nhà soạn nhạc lớn hay tác giả lớn" - hay cái gì

đó. Và đó là vấn đề lớn nhất mà bất kì người sáng tạo

nào cũng phải đối diện: rằng người đó phải vứt bỏ bản

ngã của mình.

Và lúc ban đầu chính vì bản ngã mà bạn muốn có

tính sáng tạo. Đó là quá trình rất ngược đời: bạn phải

vứt bỏ chính bản ngã cái đã là lực đẩy lúc ban đầu, cái

muốn được nổi tiếng, cái muốn để lại âm hưởng của

nó vang vọng qua hành lang thời gian, cái muốn làm

ra lịch sử. Chính cùng bản ngã đó trở thành nguyên

nhân của việc chấm dứt luồng năng lượng không biết

trong bạn. Bằng không Thượng đế bao giờ cũng rót

vào; bạn chỉ phải cởi mở, sẵn có. Bạn không tách rời.

Lúc ban đầu điều đó gây đau; còn đau hơn nếu

bạn chống lại. Nếu bạn không chống lại nhiều nó gây

đau ít; nếu bạn không chống lại chút nào nó không

gây đau chút nào. Thế thì việc vứt bỏ bản ngã có thể

là một trong những hành động vui vẻ nhất.

Đó là điều tính chất sannyas tất cả là gì. Toàn thể

thông điệp đều dựa trên một hiện tượng này: vứt bỏ

bản ngã một cách vui vẻ. Vấn đề không phải là buông

bỏ bản ngã của bạn cho tôi. Bản ngã không phải là cái

gì đó bạn có thể buông bỏ; nó chỉ là hư cấu, nó không

phải là thực tại. Cho nên khi thầy nói, "Buông bỏ bản

ngã của ông cho ta," thầy đơn giản cho bạn một

phương cách, bởi vì bạn sống cùng ý tưởng rằng bản

ngã là rất bản chất. Thầy biết nó không là gì, cho nên

thầy nói, "Buôn bỏ nó cho ta, đưa nó cho ta, và ông

được tự do với nó." Không phải là bạn đưa cái gì đâu

- chẳng có gì mà đưa cả; không phải là thầy nhận cái

gì đâu - chẳng có gì mà nhận cả. Nhưng để giúp bạn

gạt bỏ khái niệm giả, phương cách được tạo ra. Một

khi bạn đã vứt bỏ ý tưởng này, bỗng nhiên bạn thấy

toàn thể vấn đề: chẳng cái gì đã được cho, chẳng cái

gì đã được nhận. Bạn vẫn là người đó, chỉ khái niệm

cũ sai đã biến mất. Mọi người rất ngần ngại buông

xuôi.

Mới hôm nọ một sannyasin đã viết cho tôi nói,

"Tôi có thể làm mọi điều thầy nói, nhưng tôi không

thể buông xuôi được." Thế thì làm sao bạn có thể làm

mọi việc tôi nói? Đó là điều đầu tiên tôi nói mà! Và

anh ta nói, "Tôi có thể làm mọi điều thầy nói, nhưng

tôi không thể buông xuôi được." Và anh ta nghĩ anh ta

đang đưa ra phát biểu rất rõ ràng. Đó là điều duy nhất

tôi đang nói: Buông xuôi bản ngã. Và đó không phải

là vấn đề buông xuôi nó cho tôi - buông xuôi nó cho

cái cây đi, nhưng buông xuôi. Buông xuôi nó cho

dòng sông, đi và dìm nó vào trong sông. Đốt nó, chôn

nó, hoả táng nó! Làm bất kì cái gì bạn muốn làm,

nhưng bị kết thúc với nó đi.

Tôi không quan tâm tới việc thu thập các bản ngã

của bạn. Tôi sẽ làm gì với nhiều bản ngã thế? Nếu bạn

khổ nhiều thế với một bản ngã, tôi sẽ trong địa ngục

tầng thứ bẩy với nhiều bản ngã thế! Tôi không phải là

người thu thập bản ngã. Đấy chỉ là một phương cách,

một phương cách đơn giản. Bạn nói, "Tôi có thể để

bản ngã của tôi ở đâu?" Tôi nói, "Được, đưa nó cho

tôi," bởi vì tôi biết rằng chẳng có gì để đưa, nhưng

bạn sẽ sung sướng trong việc đưa nó. Ít nhất bạn sẽ

cảm thấy lớn lao rằng bạn đã buông xuôi; ít nhất bạn

đã đưa bản ngã của bạn vào những bàn tay đúng.

Nhưng sannyasin này nói, "Tôi không thể buông

xuôi được." Và mọi người tới từ phương Tây đặc biệt

thấy điều đó rất khó.

Đây là cái gì đó phải được hiểu: giáo dục phương

Tây, tâm lí học phương Tây, tất cả đều nhấn mạnh

vào bản ngã; họ tất cả đều nhấn mạnh, "Nâng cao bản

ngã, làm mạnh thêm bản ngã." Dưới những cái tên

khác nhau bản ngã được làm mạnh. Sức mạnh ý chí -

đó không là gì ngoài cái tên khác cho bản ngã. Toàn

thể ý tưởng là ở chỗ người đó phải có bản ngã bằng

thép, không thể uốn được, mạnh mẽ, cứng như đá,

rắn, bởi vì cuộc sống là cuộc tranh đấu thường xuyên

để sống còn. Bạn phải chiến đấu, bạn phải chinh

phục.

Ngay cả người như Bertrand Russell cũng viết

một cuốn sách và gọi nó là Chinh phục tự nhiên. Toàn

thể ý tưởng này, ý tưởng phương Tây, là làm sao

chinh phục; ngay cả tự nhiên cũng phải bị chinh phục.

Và bạn là ai? - một phần của tự nhiên. Một phần cố

chinh phục toàn thể. Điều đó giống như tay trái của

bạn cố chinh phục toàn thân bạn. Có thể được không?

Điều đó là nực cười. Khoa học đã không chinh phục

được tự nhiên, nhưng trong chính nỗ lực chinh phục

tự nhiên, nó đã phá huỷ nhiều.

Ở phương Đông chúng ta có ý tưởng hoàn toàn

khác: tự nhiên phải được hiểu. Luật - điều Phật gọi là

dhamma - pháp, luật nền tảng của cuộc sống - phải

được hiểu để cho bạn có thể trong hoà hợp với nó.

Vấn đề không phải là chinh phục mà là bước cùng với

nó, trong hài hoà với nó. Hài hoà với tự nhiên là phúc

lạc.

Nếu phương Tây đã đánh mất mọi phúc lạc, mọi

an bình, chẳng cái gì chịu trách nhiệm ngoại trừ ý

tưởng ngu xuẩn này về chinh phục tự nhiên. Tự nhiên

phải không bị chinh phục. Nhưng cùng ý tưởng này

cứ còn dai dẳng theo nhiều cách - trong khoa học, và

ngay cả cái gọi là người tôn giáo cứ nói hoài về sức

mạnh ý chí. Hàng trăm cuốn sách đã được viết ra về

sức mạnh ý chí. Đó là lãng phí cực kì, và không chỉ

lãng phí mà nó còn đầu độc tâm trí mọi người. Những

người như Dale Carnegie và Napoleon Hill cứ đầu

độc: Làm sao thu phục bạn bè và ảnh hưởng tới mọi

người. Sâu bên dưới ý tưởng là một thôi: làm sao

thắng, làm sao ảnh hưởng. Napoleon Hill đã viết cuốn

sách: Nghĩ và trở nên giầu có. Và cái gì là bí mật của

việc trở nên giầu? Khi bạn nhìn, bạn sẽ thấy đó là sức

mạnh ý chí; toàn thể bí mật, bí mật ảo thuật là sức

mạnh ý chí. Nhưng sức mạnh ý chí chỉ là cái tên khác

cho sức mạnh bản ngã - và bản ngã bất lực, không có

sức mạnh trong nó. Cho nên mọi người cứ tranh đấu

một cách không cần thiết, chiến đấu với nhau, cạnh

tranh với nhau, và kết quả cuối cùng là mọi người đều

khổ. Do đó với tâm trí phương Tây dường như rất khó

buông xuôi.

Tình huống cũng không tốt hơn ở phương Đông.

Ở phương Đông trong hàng nghìn năm người ta đã

dạy rằng buông xuôi là chìa khoá, cho nên mọi người

rất dễ dàng sẵn sàng buông xuôi, dễ dàng sẵn sàng

buông xuôi tới mức nó đã trở thành nghi lễ đơn giản;

nó không có ý nghĩa nào. Con người phương Đông có

thể chạm chân thầy mà không có ý định buông xuôi.

Người đó chạm chân của từng và mọi người; điều đó

chỉ là nghi lễ. Nó cũng giống như bắt tay, nó chẳng

ngụ ý điều gì; nó giống như nói lời chào. Nó chẳng có

nghĩa gì trong nó, nó là hình thức. Nó là một loại chào

mừng người lớn tuổi, với bất kì ai được người khác

kính trọng, chào mừng bất kì ai nổi tiếng có tính tôn

giáo, linh thiêng, thánh thiện. Mọi người chạm chân

bố họ, mẹ họ, họ hàng già cả của họ; đấy chỉ là ước

định.

Cho nên người phương Đông ở trong khó khăn

khác. Khó khăn của người đó là ở chỗ người đó

không biết buông xuôi là gì; người đó không có đủ

bản ngã để buông xuôi. Và người phương Tây có quá

nhiều bản ngã; do đó người đó cảm thấy ngần ngại.

Nhưng về toàn thể người phương Tây ở vị thế tốt hơn,

bởi vì nếu người đó hiểu ra vấn đề và người đó buông

xuôi có ý thức bản ngã, việc buông xuôi của người đó

đi sâu hơn nhiều so với buông xuôi của người phương

Đông.

Đó là kinh nghiệm của tôi về hàng nghìn

sannyasins từ phương Đông và từ phương Tây. Buông

xuôi của sannyasin phương Tây có tính toàn bộ hơn

nhiều. Tất nhiên điều đó là khó cho người đó, người

đó mất thời gian lâu hơn, nhưng bất kì khi nào nó xảy

ra, nó thực sự xảy ra. Buông xuôi của người phương

Đông không mất thời gian; người đó bao giờ cũng sẵn

lòng, người đó sẵn sàng, ngay cả trước khi bạn hỏi,

nhưng nó không làm thay đổi người đó. Người đó đã

từng chạm chân của nhiều người thế; thực tế, người

đó đã bắt đầu cảm thấy một loại bản ngã mới, tinhvi,

"Mình khiêm tốn tới mức mình sẵn sàng buông xuôi.

Mình buông xuôi thế." Nhưng cái 'tôi' đó vẫn còn dai

dẳng bây giờ theo cách tinh vi hơn nhiều.

Bạn hỏi tôi, Sarva, "Sao tính sáng tạo lại đau đớn

thế?"

Đó là vì bản ngã. Và thế thì có vấn đề khác nữa.

Nếu bạn quá thông thái sẽ khó cho bạn có tính sáng

tạo.

Trong Thiền họ có một truyền thống cổ. Họ nói

nếu bạn muốn thành hoạ sĩ, trong mười hai năm hãy

học hoàn hảo nhất có thể được kĩ thuật về cách vẽ, và

thế rồi trong mười hai năm quên tất cả về kĩ thuật và

về vẽ đi; làm cái gì đó khác. Quay lưng lại với vẽ

hoàn toàn; quên tất cả về nó đi, cứ dường như bạn

chẳng có liên quan gì tới nó cả. Và thế rồi một ngày

nào đó bắt đầu lại vẽ.

Đây là cái gì đó có ý nghĩa. Trong mười hai năm

bạn phải học kĩ thuật, bởi vì không có kĩ thuật việc vẽ

của bạn sẽ chỉ là trẻ con; nhưng nếu nó chỉ là kĩ thuật,

thế thì về mặt kĩ thuật nó sẽ là hoàn hảo nhưng nó sẽ

không có cuộc sống nào, nó sẽ không có tính sáng

tạo. Cho nên bạn phải học kĩ thuật, để nó ngấm đẫm

và thế rồi quên tất cả về nó để cho nó trở thành một

phần máu bạn, xương bạn, tuỷ bạn. Và thế rồi sau

mười hai năm, một ngày nào đó bỗng nhiên lại bắt

đầu vẽ. Bây giờ bạn không biết kĩ thuật. Theo một

cách nào đó bạn biết, về mặt tồn tại nó đã trở thành

một phần của bạn; nó không còn là tri thức nữa. Cho

nên việc vẽ của bạn sẽ không chỉ có tính kĩ thuật và

nó sẽ không có tính trẻ con nữa.

Đầu tiên học kĩ thuật và thế rồi dỡ bỏ kĩ thuật. Chỉ

thế thì một ngày nào đó tính sáng tạo mới bùng nổ.

Trước hết học kĩ thuật về cách nhảy múa, thế rồi quên

toàn bộ về kĩ thuật và trở thành tự phát. Chỉ thế thì....

Và có hai kiểu người - kiểu này sẽ nghĩ rằng

không cần học kĩ thuật: "Tôi muốn là người sáng tạo,

không là nhà kĩ thuật." Thế thì tranh của họ, âm nhạc

của họ, điệu vũ của họ vẫn còn chỉ là nỗ lực trẻ con,

nghiệp dư; không thể có mấy giá trị. Và thế rồi có

người đối lập, người sẽ học kĩ thuật nhiều như họ có

thể học được và thế rồi họ bị mắc trong kĩ thuật. Họ

vẽ hoàn hảo nhưng cái gì đó bị thiếu: linh hồn bị

thiếu, tâm linh bị thiếu; nó là cái xác chết. Cho nên

bạn phải vứt bỏ mọi tính thông thái. Bạn phải dỡ bỏ

để cho bạn lại có thể tươi tắn, hồn nhiên.

Và điều thứ ba: nếu bạn cố gắng có tính sáng tạo

với động cơ ngầm nào đó, bạn sẽ không bao giờ tìm

ra chiều hướng đúng cho năng lượng của mình, bởi vì

nếu các hoạ sĩ đều nổi tiếng thế thì sẽ có nhiều hoạ sĩ.

Chẳng hạn, ở Pháp có nhiều hoạ sĩ. Ở Ấn Độ bạn sẽ

không tìm thấy nhiều hoạ sĩ thế, nhưng lại nhiều

thánh nhân - bất kì cái gì là thời thượng. Ở Pháp hội

hoạ là thời thượng; những người được coi là thông

minh phải là hoạ sĩ. Ở Ấn Độ họ nên là thánh nhân -

cùng những người ngu đó! Nếu họ được sinh ra ở

Pháp họ sẽ vẽ; ở Ấn Độ cùng người ngu đó đã trở

thành thánh nhân.

Trong từng nước thời thượng mỗi khác, và ở vào

những thời kì khác nhau. Chẳng hạn, ở Ấn Độ không

thánh nhân nào đã bao giờ nghĩ tới vẽ, nhưng ở Nhật

Bản mọi thánh nhân đều thử vẽ. Họ học thư pháp và

hội hoạ - chỉ là thời thượng.

Khi bạn sống theo thời thượng phổ biến nào đó,

điều đó đơn giản nghĩa là bạn muốn nổi tiếng, bạn

muốn được chấp nhận bởi truyền thống và bởi mọi

người. Bạn không hỏi về tiềm năng thực của mình;

bạn quan tâm nhiều hơn tới ý kiến của người khác.

Bạn phải vứt bỏ cái đó nữa. Đừng lo nghĩ về ý kiến

của người khác; đơn giản tìm ra cái gì cảm thấy thoải

mái cho bạn. Không ai đã bao giờ đánh giá cao điều

đó - để làm gì? Bạn có thể không trở nên nổi tiếng -

để làm gì? Đừng lo nghĩ về điều đó. Phần thưởng

không phải là trong việc nổi tiếng; phần thưởng là

trong việc được tham gia, được tham gia toàn bộ vào

trong tính sáng tạo. Phần thưởng là trong bản thân

hành động; nó không ở ngoài hành động, nó không

theo sau hành động. Không phải là khi bạn đã vẽ xong

bức tranh và mọi người đã ca ngợi nó và nó được

trưng bày trên khắp thế giới. Không, phần thưởng là

khi bạn đang vẽ nó, khi bạn hoàn toàn bị cuốn hút vào

trong nó. Im lặng đó, niềm vui đó, năng lượng đó,

khoảnh khắc đó khi bạn không có và Thượng đế có:

đó là phần thưởng.

#6Câu hỏi thứ tư:

Thưa Thầy kính yêu,

Điều gì xảy ra? Tôi là người Italy và vẫn chưa

chứng ngộ.

Anand Shravan, là người Italy là đủ rồi; chứng

ngộ không còn được cần tới nữa. Chứng ngộ dành cho

người khác, người không phải là người Italy. Bạn có

giải thưởng đầu tiên - chứng ngộ là giải thưởng thứ

hai! Bạn không nên tham về điều đó. Là người Italy là

hiện tượng vĩ đại thế; đó là lí do tại sao không người

Italy nào đã bao giờ trở nên chứng ngộ. Và tôi không

nghĩ điều đó sẽ xảy ra, bởi lẽ đơn giản là người Italy

sinh ra đã chứng ngộ rồi. Vứt cái tham lam này đi.

Bạn sẽ làm gì với chứng ngộ? Mì ống là đủ! Tận

hưởng nó tới mãn nguyện trong lòng bạn đi. Bỏ lại

chứng ngộ cho người Ấn Độ nghèo đi; họ không có

cái gì khác. Đó là lí do tại sao ở Ấn Độ nhiều người

chứng ngộ thế đã xảy ra: khi bạn không có gì khác thì

ít nhất bạn có thể có chứng ngộ.

Và chứng ngộ cần vài điều về căn bản thiếu ở

người Italy. Nó cần thông minh. Bạn sẽ kiếm thông

minh ở đâu? Nó không phải là hàng hoá; bạn không

thể tìm thấy nó ở bãi chợ, bạn không thể mua được

nó. Nó không sẵn có ở thế giới bên ngoài. Và người

Italy hoàn toàn hướng ngoại, còn chứng ngộ xảy ra

đâu đó ở bên trong. Nó cần hiểu biết lớn lao - và

người Italy rất thạo về hiểu lầm.

Một mùa hè ở New York một con khỉ đột thoát

khỏi gánh xiếc lưu diễn. Khi Bronzini đang bước đi

dọc phố Broadway con khỉ đột nhiên xuất hiện và rụt

rè đi bên cạnh người Italy này.

Một sĩ quan cảnh sát điều khiển giao thông kinh

ngạc chạy xô tới cảnh tượng bất thường của Bronzini

và con khỉ đột.

"Này," viên cảnh sát nói, "anh làm gì với con khỉ

đột thế?"

"Tôi không biết," Bronzini nói, "Nó vừa-a tới và-a

đi dạo-a cùng tôi!"

"Tốt hơn cả anh nên đem con khỉ đột này về vườn

bách thú!"

"Được, thưa sếp," người Italy nói.

Ngày hôm sau cùng viên cảnh sát đó phát hiện ra

Bronzini và con khỉ đột đang đi tay nắm tay dọc theo

đại lộ Công viên. Viên cảnh sát cáu tiết. "Đợi một

phút đã," anh ta quát lên với Bronzini, "Tôi đã bảo

anh hôm qua đưa con khỉ về vườn bách thú cơ mà!"

"Tôi đã làm rồi," người Italy nói, "và nó thích-a

điều đó thế, hôm nay tôi-a đem-a nó đi xem chiếu

phim!"

Người Italy trần tục thế, họ là Zorbas thuần khiết!

Ngoại trừ tôi, không ai sẽ chấp nhận họ là sannyasins.

Nhưng tôi thích làm những điều ngớ ngẩn. Tôi muốn

làm phép màu này: làm vài người Italy được chứng

ngộ. Không có mấy hi vọng - tôi hi vọng ngược lại hi

vọng - nhưng chẳng có gì mất cả. Họ cần việc thử tốt.

Họ là người rất xác thịt, hoàn toàn hướng xác thịt.

Người La Mã bao giờ cũng là những người có tính

thân thể nhất trên thế gian. Điều đó có cái đẹp riêng

của nó, bởi vì người nghĩ họ là tâm linh theo nhiều

cách trở nên lập dị, gàn dở, không lành mạnh, rất bản

ngã - tất nhiên, theo cách rất ngoan đạo. Họ bao giờ

cũng nghĩ họ là "linh thiêng hơn ngươi." Và họ mờ

nhạt. Họ nói về những điều lớn lao, nhưng cuộc sống

của họ trở nên xấu.

Điều đó đã xảy ra cho phương Đông: họ nói về

Thượng đế - và bánh mì và bơ bị thiếu. Và không có

bánh mì và bơ thì không có Thượng đế, không có khả

năng cho Thượng đế.

Cho nên chẳng cái gì sai trong việc hướng xác

thịt; người ta nên được bắt rễ trong thân thể. Người ta

nên là một zorba, nhưng người ta không nên bị mắc

kẹt ở đó. Người ta nên đi cao hơn chút ít. Zorba cũng

nên trở thành vị Phật. Thế thì có hoàn thành; cả hai

được hoàn thành, thân thể và linh hồn.

Người Italy cũng hướng thân thể và họ bị mắc kẹt

ở đó.

Vợ của Granaldi vừa mới chết và anh ta đang diễn

cảnh đau khổ bên nấm mồ. Lặp đi lặp lại anh ta làm

cho nước mắt ướt tóc và gào lên, "Tôi sẽ-a làm gì-a

đây? Tôi sẽ-a làm gì-a đây? Tôi sẽ-a làm gì-a đây?"

Viên linh mục xứ đạo nhẹ nhàng cầm tay Granaldi

và cố gắng an ủi anh ta. "Con ta, ta biết con đã chịu

đựng mất mát khủng khiếp, nhưng con sẽ vượt qua nó

theo thời gian," ông ấy nói, vừa dìu Granaldi đi khỏi

nghĩa địa.

"Ôi, tôi sẽ-a làm gì-a đây?" Granaldi rền rĩ. "Tôi

sẽ-a làm gì-a đây?"

"Cố kiểm soát mình đi con," linh mục nói. "Nhiều

tháng sẽ qua, con sẽ vượt qua nỗi tiếc thương này, và

thế rồi trong một hay hai năm con sẽ gặp người đàn

bà trẻ xinh nào đó và cưới cô ấy và mọi sự sẽ tốt

lành."

"Vâng, thưa cha, con biết mọi điều đó!" người

Italy nói. "Nhưng con sẽ-a làm gì-a đêm nay?"

Người Itali phải được tự do khỏi xu hướng thân

xác quá đáng của họ. Chứng ngộ là việc nở hoa tối

thượng của tâm thức. Nó có thể xảy ra chỉ khi bạn

được bắt rễ trong thân thể, nhưng nó không thể xảy ra

chỉ với thân thể. Bạn phải đi vào bên trong, bạn phải

siêu việt lên trên thân thể nữa. Rễ của bạn phải ở

trong thân thể và cánh của bạn phải trong linh hồn.

Shravan, đừng lo nghĩ. Điều đó chưa xảy ra đâu,

nhưng nó có thể xảy ra. Có nhiều người Italy ở đây

thế; việc buông xuôi của họ còn sâu sắc hơn buông

xuôi của bất kì ai khác. Cam kết của họ cũng sâu hơn

cam kết của bất kì ai khác. Lần đầu tiên nhiều người

Italy thế đang cố đi sâu hơn vào thiền; cái gì đó nhất

định xảy ra từ điều đó. Nhưng họ tìm thấy cái gì đó

trong tôi mà họ không thể tìm thấy được ở bất kì đâu

khác. Họ có thể tìm thấy kết nối với tôi bởi vì tôi

không chống lại thân thể. Tôi không chống lại cái gì.

Tôi không nghĩ có vấn đề gì nếu bạn thích mì ống -

bạn vẫn có thể có tính tâm linh chứ! Không có đối

kháng.

Với tôi ngay cả dục và samadhi cũng có liên hệ,

cùng nhau. Với tôi tán gẫu và cẩm nang là không

khác - đâu đó sâu bên dưới chúng là các mặt của cùng

một đồng tiền. Do đó người Italy thấy đồng cảm sâu

với tôi. Họ không thể quan tâm được tới người tâm

linh nào khác, nhưng tôi không là người tâm linh theo

nghĩa thường. Tôi là con người toàn thể, tôi không

linh thiêng.

Locatelli, Swenson và O'Hara đang ngồi trong bộ

xa lông góc nhà. "Không có hoài nghi gì về điều đó,"

Swenson nói, "đàn bà Italy là vĩ đại nhất!"

"Đúng," O'Hara đồng ý, "tớ muốn dành cả tuần

đẹp với Gina Lollobrigida."

"Tớ á," Swenson nói, "tớ sẽ đem Sophia Loren

đi."

"Điều đó-a là rất hay," Locatelli nói, "nhưng tớ

muốn Virginia đường-a ống-a!"

"Chưa bao giờ nói về cô ấy!" Swenson nói.

"Cô ấy là ai?" O'Hara hỏi.

"Sao, cô ấy là-a cô gái Italy vĩ đại nhất trong tất

cả họ. Cô ấy thậm chí làm-a tiêu đề trong-a báo chí,"

Locatelli nói. "Xem đấy, đây nó ở trên-a trang-a

nhất." Và có đầu đề: "Năm người chết nằm trên

Virginia Đường ống."

Đừng lo, Shravan, tôi ở đây để giúp bạn. Lần này

có thể bạn không thể thoát được. Biết bao nhiêu người

Italy đã bị mắc lưới, vài người trong họ nhất định trở

thành chư phật. Đừng lo nghĩ, chứng ngộ sắp xảy ra

cho nhiều người - kể cả người Italy!

#6Và câu hỏi cuối cùng:

Thưa Thầy kính yêu,

Thế về những người Polack thì sao?

Purnananda, trời đất, bạn là người Polack sao?

Tôi đã nhận biết rằng một trong các sannyasin của tôi,

Anando, là người Polack, nhưng tôi không nói về

những người Polack bởi vì một người Polack không

thể làm gì mấy được. Nhưng hai người Polack là quá

nhiều; thế thì có nguy hiểm! Người Polack là người vĩ

đại, thậm chí còn vĩ đại hơn người Italy. Người Italy

không là gì khi so với người Polack! Bạn thấy đấy, họ

tìm giáo hoàng, họ không thể tìm được một người ở

Italy - họ phải chọn một người Polack. Nếu bạn tìm

người ngu bạn phải đi tới Ba Lan.

Swami Anando đã đóng góp bức thư đích thực

này từ người mẹ Ba lan của anh ta:

Con trai thân yêu,

Chỉ vài dòng để con biết rằng mẹ vẫn sống. Mẹ

viết thư này chậm vì mẹ biết con không có khả năng

đọc nhanh.

Con sẽ không biết nhà khi con về nhà đâu. Chúng

ta đã chuyển nhà rồi.

Có máy giặt ở trong nhà khi chúng ta chuyển tới,

nhưng nó không làm việc tốt đâu. Tuần trước mẹ cho

mười bốn cái áo sơ mi vào trong nó, kéo dây chuyền,

và từ đó mẹ không thấy cái áo nào cả.

Chị con mới sinh cháu nhỏ sáng nay. Mẹ không

biết nó là con trai hay con gái, cho nên mẹ không biết

liệu con là cô hay cậu.

Cậu con Leopold chết đuối tuần trước trong thùng

whisky. Một số đàn ông lặn vào để cứu ông ấy, nhưng

ông ấy đánh bật họ ra dữ lắm. Chúng ta đã hoả táng

thân thể ông ấy, nhưng phải mất ba ngày mới dập tắt

được lửa.

Bố con không có mấy mà uống vào dịp Nô en. Mẹ

để một chai dầu Castor trong nửa lít bia của ông ấy.

Cái đó giữ ông ấy uống mãi cho tới ngày đầu năm

mới.

Trời chỉ mưa hai lần tuần trước. Lần thứ nhất

trong ba ngày và thế rồi trong bốn ngày.

Cố học viết cho mẹ sớm vào.

Mẹ yêu của con,

XXX T.B. Mẹ định gửi cho con mười đô la,

nhưng mẹ đã dán phong bì rồi.

Người Polack là người vĩ đại - nhiều người Polack

hơn được cần tới ở đây! Nhưng khó cho người

Polacks nghèo tới vì nước của họ do người cộng sản

chi phối.

Mới mấy hôm trước tôi đã nhận được một bức thư

nói họ muốn bắt đầu một trung tâm đâu đó ở Ba Lan.

Họ muốn trung tâm này vẫn còn ẩn kín; tôi không

nghĩ họ sẽ có khả năng xoay xở được điều đó! Họ

thậm chí muốn trở thành sannyasin nhưng họ sẽ bị

bắt.

Ở Nga có vài sannyasin. Họ không thể mặc được

áo da cam, họ không thể đeo tràng hạt, nhưng họ đã

xoay xở giỏi. Họ có tràng hạt của họ, họ đã thu xếp để

tràng hạt tới họ. Bây giờ, bức thư này là từ Ba Lan: họ

muốn có tràng hạt và họ muốn có sách - nhưng họ lại

không cho địa chỉ của họ!

Johnson tới vườn bách thú để xem Samson và

Lionel, được quảng cáo là hai con sư tử nguy hiểm

nhất thế giới. Không có hoài nghi gì về Samson, con

nhỏ hơn, vì ngay cả một chiếc lông bay vào bên trong

tầm với của nó là nó sẽ vồ ngay và xé toạc chiếc lông

thành mảnh nhỏ. Nhưng Lionel, con kia, con sư tử lớn

hơn, không làm gì ngoài nằm trên tảng đá liếm chỗ

giữa hai chân sau.

Johnson hỏi người coi vườn thú làm sao con

Lionel được quảng cáo thế mà lại hoang dã thế.

"Cho dù nó chỉ nằm và liếm vùng nhạy cảm của

nó," người coi vườn thú giải thích, "Lionel còn dữ tợn

hơn con kia. Thực tế, mới hai mươi phút trước nó đã

ăn một người Polack bị ngã vào trong lồng."

"Thế sao nó liếm bản thân nó như thế?"

"Ồ," người coi vườn thú nói, "nó đang cố làm cho

hết mùi mồm nó!"

Purnananda, gặp Anando đi. Thử tìm ra - có thể

có vài người Polack khác cũng đang cố che giấu bản

thân họ, bởi vì họ biết một khi họ đã được biết tới thì

tôi sẽ theo đuổi họ. Bây giờ bạn có thể tuyên bố bất kì

ai là người Polack vì đằng nào tôi cũng sẽ theo sau

họ! Cho nên bạn có thể tuyên bố bất kì ai là người

Polack. Bạn có thể tạo ra xã hội nhỏ những người

Polack.

Trong công xã mới sẽ là tốt để có nhiều cộng

đồng nhỏ, các cộng đồng tách rời, của người Italy,

người Polacks, người Đức.... Sẽ có vài khó khăn.

Gayan đã viết cho tôi sáng nay nói, "Thưa Thầy

kính yêu, thầy có thể không nhận biết, nhưng bây giờ

tôi phải nói với thầy rằng tôi một nửa là người Italy -

lỗi là của bố tôi, ông ấy là người Italy - và một nửa

người Đức; lỗi đó là của mẹ tôi, bà ấy là người Đức."

Sẽ có khó khăn nào đó cho người như Gayan,

nhưng chúng ta có thể thu xếp: họ có thể sống ở

đường biên, nửa trong công xã Italy và nửa trong

công xã Đức. Và tôi không nghĩ sẽ có người là người

Đức và người Italy và người Polack, cả ba; điều đó sẽ

khó, rất khó.

Cô Zabriski bước vào văn phòng của bác sĩ điều

trị và nói, "Tôi muốn tiêm chút dắc xim."

"Thưa cô," bác sĩ nói, "tôi nghĩ cô đang nói tới

vắc xim."

"Vâng," cô gái Ba Lan nói, "và tôi không muốn

ông tiêm nó vào cánh tay tôi vì tôi mặc áo ngủ không

ngủ."

"Cô định nói áo ngủ không có tay à?"

"Và tôi không muốn tiêm nó vào đùi vì tôi mặc bộ

quần áo tắm zucchini."

"Cô định nói bộ bikini?"

"Và tôi không muốn ông vắc xim tôi vào Virginia

của tôi."

"Cô định nói âm đạo ?"

"Được rồi," cô gái kêu to. "Virginia, âm đạo, cứ

chừng nào tôi không có thằng điều khiển nhỏ là

được!"

Đủ cho hôm nay.

**************************************************************************************************************

#7Bên kia cõi bên kia

Không muốn gì

bằng cả trái tim ông

dừng dòng suối.

Khi thế gian tan biến

mọi thứ trở thành rõ ràng.

Đi ra ngoài

đường này này hay đường kia,

tới bờ xa hơn

nơi thế gian tan biến

và mọi thứ trở thành rõ ràng.

Bên ngoài bờ này

và bờ xa hơn,

Bên kia cõi bên kia,

nơi không có bắt đầu,

không kết thúc.

Không sợ, cứ đi.

Thiền.

Sống thuần khiết.

Yên tĩnh.

Làm việc của ông, với quyền làm chủ.

Ban ngày mặt trời chiếu sáng,

và chiến binh trong giáp trụ rạng ngời.

Ban đêm trăng chiếu sáng,

và người chủ sáng lên trong thiền.

Nhưng ngày và đêm

Người đã thức tỉnh

chiếu sáng trong rạng ngời của tâm linh.

"Trông kìa, thuyền trưởng Columbus, đất liền!

Chúng ta đã khám phá ra đất liền!"

"Tuyệt vời! Đánh điện cho Hoàng hậu Isabella

ngay lập tức!"

"Nhưng, thưa thuyền trưởng, điện tín còn chưa

được phát minh ra!"

"Mẹ kiếp! Tôi có-a phải tự mình-a làm mọi thứ

không!"

Khoa học là truyền thống, nó không phụ thuộc

vào khám phá của con người. Nó là sự liên tục; nhiều

người đã đóng góp, dầu vậy nhiều người sẽ còn đóng

góp. Thế nữa nó cũng không bao giờ đầy đủ; cái gì đó

bao giờ cũng còn lại để được khám phá. Nó là hiện

tượng xã hội. Không có Newton sẽ không có khả

năng về Albert Einstein; không có Albert Einstein sẽ

không có khả năng cho bất kì ai khác tìm ra cái gì đó

bên ngoài các khái niệm về tương đối. Khoa học là

liên thuộc; nó không phải là công việc của một người.

Nhiều điều phải được chấp nhận từ người khác, nhiều

điều phải được vay mượn; nó là việc kế thừa. Do đó

khoa học phụ thuộc vào quá khứ, nó được bắt rễ trong

quá khứ.

Tôn giáo là hoàn toàn khác: mọi cá nhân phải

khám phá ra theo cách riêng của mình. Tôn giáo

không phải là truyền thống và không bao giờ có thể là

truyền thống. Bạn không thể vay mượn sáng suốt từ ai

đó khác được; sáng suốt phải đích thực của bạn. Chỉ

thế thì nó mới có ý nghĩa. Bạn có thể thấy chỉ qua con

mắt riêng của mình, bạn có thể hiểu chỉ qua thiền

riêng của mình, bạn có thể kinh nghiệm chỉ qua việc

nở hoa của trái tim riêng của bạn.

Và không có vấn đề về phụ thuộc. Nếu như không

có Phật bạn có thể vẫn được thức tỉnh, nếu như không

có Christ bạn có thể vẫn chứng ngộ. Chứng ngộ của

bạn tuyệt đối là của riêng bạn, nó mang tính cá nhân.

Đó là cái đẹp của tôn giáo; đó là lí do tại sao tôn giáo

không thể được dạy. Khoa học có thể được dạy; tôn

giáo phải được khám phá lặp đi lặp lại bởi từng và

mọi cá nhân, bởi từng và mọi người tìm kiếm. Con

đường của khoa học giống như bước đi trên đất; bạn

để lại dấu chân mình. Phật đã nói: Con đường của tôn

giáo giống như chim bay trên trời - chúng không để

lại dấu chân nào... cho nên không ai có thể theo vị

phật được.

Bạn có thể yêu một Phật, nhưng bạn không thể

theo ông ấy được. Bạn có thể yêu một Christ, nhưng

bạn không thể theo ông ấy được. Vâng, tình yêu của

bạn sẽ giúp bạn, sẽ giúp bạn hiểu, sẽ cho bạn dũng

cảm để truy tìm, sẽ làm mạnh tâm linh của bạn để đi

vào trong cái không biết. Nó sẽ là sự giúp đỡ mênh

mông bởi vì cuộc hành trình này không có bản đồ nào

và bạn đang đi vào trong đại dương. Bờ bên kia, bờ

xa hơn là không thấy được; không có gì đảm bảo rằng

bạn sẽ đạt tới nó. Bằng việc yêu một Phật, một Christ,

một Zarathustra, một Krishna, một Lão Tử, tin cậy

sâu sắc nảy sinh trong bạn về bờ xa xăm - rằng nó tồn

tại: "Nếu mình tìm với toàn bộ bản thể mình, sẽ có

khả năng mình có thể phát hiện ra nó." Nhưng rủi ro

là lớn và mọi thứ phải được bạn thực hiện. Bạn phải

đi một mình. Bạn phải toàn bộ một mình; không ai có

thể đi cùng bạn trên con đường này.

Thầy có thể chỉ cho bạn con đường, nhưng thầy

không thể đi cùng bạn được. Thầy có thể đẩy bạn,

thầy có thể động viên bạn, thầy có thể giúp theo nhiều

cách, nhưng dầu vậy bạn vẫn phải đi một mình. Bạn

phải khám phá ra mọi thứ, từng chi tiết của chân lí,

lần nữa.

Trong khoa học lại hoàn toàn khác: một khi chân

lí được khám phá ra, nó được khám phá cho toàn thể

nhân loại. Một khi điện được khám phá ra, không có

nhu cầu cho mọi người khám phá nó lặp lại lần nữa.

Điều đó sẽ là ngu xuẩn, cực kì ngu xuẩn. Một khi

được khám phá ra nó trở thành một phần của di sản kế

thừa của toàn nhân loại.

Nhưng điều đó không đúng về chân lí chủ quan,

bên trong. Hàng nghìn lần nó đã được khám phá ra,

nhưng khi thành vấn đề, là cuộc truy tìm để bạn khám

phá nó, bạn phải đi lại từ ABC, cứ dường như bạn là

người đầu tiên, cứ dường như không ai đã đi trước

bạn. Bạn phải phá vỡ tảng băng, bạn phải đi vào vùng

đất chưa khai phá.

Đây là thách thức lớn. Kẻ hèn nhát co lại từ điều

đó, nhưng người dũng cảm cảm thấy cực kì hấp dẫn.

Người dũng cảm thấy nó gần như từ lực hút họ. Do đó

Phật bao giờ cũng nói về bạo dạn. Ông ấy nói: Không

sợ, cứ đi.

Các tôn giáo khác, đặc biệt là các tôn giáo có tổ

chức, đều bắt rễ trong sợ hãi. Nếu Phật mà viết

chuyện ngụ ngôn cổ về Adam và Eve và việc đuổi họ

khỏi cõi trời, ông ấy chắc đã viết nó theo cách khác

toàn bộ. Ông ấy đã ca ngợi Adam và Eve. Ông ấy sẽ

không gọi đó là tội lỗi nguyên thuỷ, ông ấy sẽ gọi đó

là đức hạnh nguyên thuỷ - rằng họ đã nổi dậy, rằng họ

đã không sợ Thượng đế và trừng phạt, rằng họ đã là

những người bạo dạn.

Ông ấy sẽ không kết án họ, chừng đó là chắc

chắn; ông ấy sẽ ca ngợi họ vô cùng. Đó là thách thức

cho tâm linh của họ, cho chính linh hồn họ, để đã

được dặn, "Không được ăn từ cây này, cây tri thức,

bởi vì nếu các ngươi ăn từ cây này các ngươi sẽ bị

trừng phạt, trừng phạt cực nặng - không chỉ các ngươi

mà con cháu các ngươi cũng sẽ bị trừng phạt đời đời

kiếp kiếp."

Và trừng phạt sẽ là lớn. Thượng đế đã nói với

Adam và Eve, "Nếu các ngươi ăn từ cây tri thức, nếu

các người ăn quả của cây tri thức, các ngươi sẽ thành

hữu tử. Ngay bây giờ các ngươi bất tử." Cái chết sẽ là

trừng phạt. Còn trừng phạt nào hơn có thể có đấy?

Chết là điều tối thượng trong trừng phạt.

Phật chắc đã đánh giá cao họ. Nếu Adam và Eve

không nổi dậy, không ăn từ cây tri thức, chắc đã

không có nhân loại - và chắc sẽ không có Christ,

không có Phật, không có Zarathustra, không có Lão

Tử. Adam và Eve chắc vẫn lang thang trần trụi như

con vật trong vường Địa đàng. Chắc đã chẳng có cái

gì như nhân loại. Tâm thức này, nhận biết này, truy

tìm này - chẳng cái gì đã có đó. Toàn thể công trạng

thuộc về Adam và Eve.

Và con rắn không chắc đã là quỉ đâu. Trong câu

chuyện của Phật, rắn phải đã là vị phật cổ khêu gợi

Adam và Eve, "Cứ đi không sợ và ăn quả đấy đi và

đừng sợ, đừng là kẻ hèn nhát!" Ở phương Đông rắn

bao giờ cũng đại diện cho trí huệ. Jesus cũng nói: Hãy

khôn ngoan như rắn. Rắn ở phương Đông đại diện

cho quyền năng cố hữu, quyền năng hạt mầm của việc

nở hoa tối thượng của bạn; nó là tiềm năng của bạn.

Do đó kundalini được gọi là xà năng.

Kundalini nghĩa là con rắn nằm đó đang ngủ say;

nó phải được đánh thức dậy. Một khi nó thức dậy nó

bắt đầu ngóc lên. Khi nó đạt tới trung tâm tối thượng

của bản thể bạn - sahasrar - trung tâm cuối cùng, bậc

thang cuối cùng của chiếc thang, bạn đã về tới nhà.

Rắn không phải là đại diện, dạng trá hình của quỉ.

Phật chắc đã viết ra toàn bộ câu chuyện này theo cách

hoàn toàn khác.

Nhưng Ki tô giáo, Do Thái giáo, cả hai đều hướng

sợ hãi; Hồi giáo cũng vậy, Hindu giáo cũng vậy. Chỉ

hai tôn giáo trên thế giới, Phật giáo và Jaina giáo, là

không; ngoài ra tất cả các tôn giáo khác đều hướng sợ

hãi. Chỉ hai tôn giáo này mới bắt rễ trong bạo dạn, và

tôi không thể thấy làm sao tôn giáo có thể hướng sợ

hãi được. Trong mọi ngôn ngữ của thế giới chúng ta

đều có các từ như 'sợ Thượng đế' dành cho người tôn

giáo; điều đó là hoàn toàn vô nghĩa. Người tôn giáo

không sợ Thượng đế, người đó yêu Thượng đế - và

yêu và sợ không tồn tại cùng nhau. Nếu bạn yêu ai đó

bạn không sợ; nếu bạn sợ bạn không thể yêu được.

Yêu không tồn tại trên thế giới bởi lí do đơn giản

là chúng ta đã cố tạo ra yêu qua sợ. Bố, mẹ, tu sĩ,

chính khách, họ tất cả đều cố tạo ra sợ trong bạn.

Người mẹ nói, "Nghe mẹ, bằng không con sẽ khổ!"

Người bố nói, "Bố có quyền." Theo cả nghìn lẻ một

cách người đó chứng minh quyền lực của mình trên

đứa trẻ bất lực và thế rồi nói với đứa trẻ, "Yêu bố đi -

bố là bố của con!" Tất nhiên đứa trẻ phải giả vờ, bởi

vì nó phụ thuộc, nó bất lực. Nó yêu người mẹ do sợ;

tình yêu của nó là giả. Nó yêu người bố vì sợ; đó chỉ

là giả vờ, đó là đạo đức giả. Nó yêu Thượng đế vì sợ -

sợ địa ngục, sợ bị trừng phạt, sợ bị hành hạ.

Và bạn có biết không? Ki tô giáo tin rằng nếu bạn

phạm tội bạn sẽ bị đoạ địa ngục vĩnh viễn. Điều đó

dường như là một quan niệm ngớ ngẩn. Một người có

thể phạm bao nhiêu tội trong một kiếp sống nhỏ bé?

Và Ki tô giáo tin chỉ vào một kiếp sống. Nếu người

Hindus nghĩ rằng bạn sẽ khổ một thời gian dài trong

địa ngục người ta còn có thể hiểu số học này bởi vì họ

đã tin vào hàng triệu kiếp, cho nên bạn có thể phạm

nhiều tội tuỳ thích. Tất nhiên, khổ sẽ có theo cùng tỉ

lệ, trừng phạt sẽ theo cùng tỉ lệ. Nhưng Ki tô giáo đề

nghị địa ngục vĩnh viễn. Và bạn có thể phạm tội gì?

Bạn có thể hút thuốc lá và thế rồi trong địa ngục bạn

sẽ bị ném vào lửa và bạn sẽ thành khói vĩnh viễn và

vĩnh viễn! Hay bạn có thể uống rượu cồn, nhưng bạn

có thể uống được bao nhiêu trong một kiếp sống nhỏ

bé? Trong bẩy mươi năm một phần ba đã dành cho

ngủ; bạn không thể phạm tội nào trong giấc ngủ của

mình trừ phi mơ của bạn cũng được tính là tội. Một

phần ba khác đi vào văn phòng, vào xưởng máy, vào

cánh đồng, vào cửa hiệu.... Bạn có bao nhiêu thời gian

để phạm tội? Cứ tính cả ngày - bạn sẽ không tìm ra

mấy thời gian. Và tội của bạn sẽ chỉ tầm thường.

Vâng, bạn có thể rơi vào tình yêu với vợ hàng xóm,

nhưng vì điều đó bạn sẽ bị khổ mãi mãi sao? Điều đó

hoàn toàn không công bằng, không thoả đáng! Có thể

ba hay bốn năm ở tù trong địa ngục sẽ đủ, nhưng vĩnh

viễn sao? Bạn có thể quan niệm được vĩnh hằng

không? Nó sẽ không bao giờ chấm dứt, khổ sẽ không

tận cùng!

Điều này chỉ để tạo ra sợ. Và mọi người yêu

Thượng đế từ sợ hãi này, họ cầu nguyện từ sợ hãi này.

Phật chống lại sợ hãi; sợ là tội lỗi nguyên thuỷ

theo ông ấy. Ông ấy tin vào không sợ - ông ấy tin, và

ông ấy tin đúng; đó là kinh nghiệm của ông ấy. Đó

cũng là kinh nghiệm của tôi nữa, rằng tình yêu thực

xảy ra chỉ khi sợ biến mất toàn bộ.

Tôn giáo thực đã không xảy ra trên thế giới này

bởi vì chúng ta đã từng cố tạo ra tôn giáo rẻ tiền dựa

trên sợ. Tình yêu thực đã không xảy ra trên thế giới.

Vợ sợ chồng, do đó cô ấy giả vờ yêu; chồng sợ vợ, do

đó anh ấy cứ nói, "Cưng ơi, anh yêu em!" thật là

nhiều lần có thể được.

Đó là điều Dale Carnegie gợi ý cho mọi đức ông

chồng: "Dù anh yêu cô ấy hay không, đó không phải

là vấn đề. Cứ lặp lại điều đó thật nhiều lần trong ngày,

như nhiều cơ hội có đó. Một hay hai lần từ văn phòng

điện về cho vợ chỉ nói 'Anh yêu em.'" Và đây tất cả

đều từ sợ.

Vì sợ mà thế giới bỏ lỡ hoa hồng của tình yêu.

Tình yêu có thể xảy ra - mọi người đều được sinh ra

với năng lực yêu vô hạn - nhưng sợ làm què quặt mọi

người, làm tê liệt mọi người.

Phật nói với các Bồ tát của ông ấy: Đi và dạy mọi

người vài điều nền tảng này. Điều thứ nhất ông ấy

nói:

Không muốn gì

bằng cả trái tim ông

dừng dòng suối.

Những lời này là lời mã hoá; bạn sẽ phải hiểu lời

mã hoá của ông ấy. Vào những ngày xưa đó mọi sự

toàn phải được nhớ, cho nên chỉ những lời kinh rất

nhỏ, những lời kinh rất cô đọng mới được cho. Từng

lời kinh đều được diễn đạt trong ngôn ngữ mã; bạn

phải giải mã nó. Bạn phải dịch nó vào ngôn ngữ

đương đại; bằng không bạn sẽ bỏ lỡ ý nghĩa của nó.

Không muốn gì.... Làm sao điều đó là có thể được

- không muốn gì sao? Đó là chân lí nền tảng nhất

trong giáo huấn của Phật. Ông ấy không nói đừng

muốn gì, nhớ lấy; điều đó sẽ là hiểu lầm. Ông ấy nói:

Không muốn gì, bằng cả trái tim ông dừng dòng suối.

Với "dòng suối" ông ấy ngụ ý tâm trí. Ông ấy bao

giờ cũng gọi tâm trí là dòng suối bởi vì nó cứ chảy;

dù bạn thức hay ngủ nó vẫn cứ chảy. Nó là dòng suối

các ý nghĩ.

Trong thế giới hiện đại, William James, một trong

những nhà tâm lí lớn, lần đầu tiên dùng cách diễn đạt

Phật giáo về tâm trí; ông ấy gọi nó là "dòng suối tâm

thức." Phật nói nó giống như dòng sông thường xuyên

chảy. Làm sao bạn có thể dừng nó lại được? Các

phương pháp cũ là kìm nén, kiểm soát, nhưng chúng

đã thất bại, hoàn toàn thất bại; chúng đã thất bại ngay

cả vào thời của Phật.

Theo một nghĩa nào đó Phật là nhà tâm lí đầu tiên

của thế giới, không phải Sigmund Freud. Và cái nhìn

sâu của Phật vào tâm trí còn đi sâu hơn nhiều so với

mọi nhà tâm lí gắn lại với nhau. Không có cách nào

gạt bỏ cơn lụt quá mạnh của năng lượng tâm trí, của

chất liệu tâm trí, chỉ bằng việc kiểm soát nó hay bằng

việc kìm nén nó. Kìm nén tuyệt đối mang tính phá

huỷ. Nếu bạn kìm nén cái gì đó nó sẽ tới đi tới lại mãi

và bạn sẽ phải kìm nén nó lặp đi lặp lại. Cả đời bạn sẽ

trở thành cuộc nội chiến; bạn sẽ thường xuyên đánh

nhau với bản thân mình. Và cuộc chiến sẽ không kết

thúc bởi vì bạn không thể phá huỷ được tâm trí theo

cách này; đây không phải là cách để gạt bỏ tâm trí.

Thực tế, bạn đang cho tâm trí năng lượng lớn bằng

việc đánh nhau với nó.

Tâm trí có thể được cho năng lượng theo hai cách:

hoặc bằng việc đánh nhau với nó hoặc bằng việc mê

say trong nó. Cách này dẫn tới kìm nén, cách kia dẫn

tới đồng nhất, và cả hai cứ nuôi dưỡng tâm trí. Dòng

suối trở nên ngày một lớn hơn.

Bạn có thể kìm nén - kìm nén là dễ dàng - và toàn

thể nhân loại đã học kìm nén bởi vì bạn bao giờ cũng

sa ngã vì dễ dàng. Kìm nén không phải là điều khó.

Giận nảy sinh: bạn có thể ngồi trên nó, bạn có thể cứ

mỉm cười nụ cười giả tạo, và chẳng chóng thì chầy

bạn sẽ quên về nó. Nhưng nó có đó đang sôi lên bên

trong bạn và bạn đang tích luỹ mọi ngày nhiều giận

hơn. Giận có cái đẹp của riêng nó nếu nó tự phát,

nhưng bạn đang tích luỹ giận, cái trở nên không liên

quan, cái sẽ không tự phát.

Cái gì đó có thể đã xảy ra từ mười năm trước; bây

giờ nó không có tham chiếu tới thực tại, không hoàn

cảnh - và bỗng nhiên bạn bùng nổ. Bạn trông điên

khùng. Đó là cách mọi người phát điên khùng. Nếu

họ đã giận từ mười năm trước khi hoàn cảnh đúng có

đó, không ai đã gọi họ là điên khùng, nhưng trong

mười năm họ vẫn ngồi trên nó; thế thì điều đó trở

thành quá nhiều. Và thế thì trong mười năm liên tục

họ đã tích luỹ ngày một nhiều giận hơn. Mọi ngày họ

đã kìm nén, họ đã ngồi trên núi lửa; chẳng chóng thì

chầy nó sẽ bùng ra. Hoặc là thế, hoặc bạn phải trở nên

chết và đờ đẫn, không sống tới mức chẳng cái gì có

thể bùng ra được. Bạn phải rút lui bản thân mình toàn

bộ khỏi cuộc sống, vào tu viện, bạn phải trở nên

không nhạy cảm với cuộc sống tới mức mọi người có

thể cứ xúc phạm bạn và bạn thu thập làn da dầy tới

mức không cái gì xuyên vào bạn được....

Giovanni bị xử tù vì đã làm tình với xác vợ mình

vài giờ sau cái chết của cô ấy. "Anh có gì nói để bào

chữa cho mình không?" chánh án hỏi.

"Nói thực nhé, thưa quí ông," người Italy đáp,

"Tôi đã không biết cô ấy-a chết đâu. Cô ấy đã-a

giống-a thế trong hai mươi năm qua-a rồi!"

Có hàng triệu người không thực sự sống - sợ việc

sống bởi vì nếu họ sống thì giận dữ của họ, thèm khát

của họ, tham lam của họ, tất cả trở thành sống động.

Để giữ cho chúng bị kìm nén họ phải sống ở mức tối

thiểu; họ chưa bao giờ sống ở mức tối đa. Và không

sống ở mức tối đa là bỏ lỡ Thượng đế, là bỏ lỡ tất cả -

tất cả cái đẹp và phúc lành của cuộc sống.

Bạn nên sống ở mức tối đa; chỉ thế thì bạn mới đi

tới biết cái đẹp vô cùng của sự tồn tại. Chỉ từ chiều

cao đó bạn mới trở nên nhận biết về huy hoàng mênh

mông, về lễ hội thường xuyên vẫn diễn ra mãi. Nhưng

bạn không thể sống tới mức tối đa được; bạn sợ bởi vì

nếu bạn sống một cách toàn bộ thế thì mọi thứ bạn đã

kìm nén sẽ trồi lên.

Hàng triệu người đã quyết định vì cuộc sống chết;

trước khi họ thực sự chết họ đã chết rồi. Họ chỉ sống

ở mức tối thiểu, để kiếm sống; không sống mà chỉ lờ

phờ tẻ nhạt. Họ sợ thế - các tu sĩ đã làm cho họ sợ thế.

Phật chống lại kìm nén. Và nếu bạn kìm nén cái gì

đó nó sẽ bắt đầu tìm cách khác nào đó để trồi ra, cách

thức hư hỏng nào đó. Đó là lí do tại sao tôi nói mọi

đồi bại dục đều có nguồn gốc tôn giáo, bởi lẽ đơn

giản là mọi tôn giáo đều đã từng chống lại dâm dục.

Dục phải được biến đổi, không bị kìm nén. Nó là

năng lượng thuần khiết, nó là lửa! Nhưng bạn không

cần đốt nhà mình bằng lửa đó. Bạn có thể sưởi nóng

ngôi nhà của mình khi nó quá lạnh, bạn có thể làm

cho nhà của mình đầy ánh sáng khi nó tối. Đó là cùng

ngọn lửa trở thành ánh sáng, trở thành nhiệt, nhưng

nó cũng có thể thiêu cháy ngôi nhà bạn. Bạn phải rất

tỉnh táo, cẩn thận, thận trọng.

Sinh lực của bạn là trung lập: chúng có thể làm

hại bạn, chúng có thể giúp bạn; tất cả đều phụ thuộc

vào bạn. Đừng kết án chúng. Bạn chịu trách nhiện -

và chỉ bạn thôi!

Nhưng mọi người cứ kết án dục dường như dục

có cái gì đó liên quan tới bạn. Dục không có gì liên

quan tới bạn cả; dục là năng lượng thuần khiết.

Nhưng nếu bạn kìm nén nó, nó sẽ trở thành hư hỏng;

thế thì nó sẽ tìm ra các con đường. Nếu bạn đóng con

đường tự nhiên, thế thì nó tới qua con đường phi tự

nhiên. Và bạn vẫn là cùng người ngu xuẩn đó, bạn đã

không thay đổi chút nào; hiểu biết của bạn đã không

trưởng thành.

Mulla Nasruddin từ làng mình ra thành phố lớn,

và một người bạn giầu có mời anh ta tới xem nhạc

kịch trong một khoang xem.

Người bạn nói, "Chúng ta sẽ ngồi gần người khác,

cho nên để chắc anh về thay tất đi trước khi tới!"

Một thời gian ngắn sau khi vào chỗ ngồi của mình

trong rạp hát, người bên cạnh bắt đầu nhăn mũi vì

mùi thối.

"Tôi đã bảo anh phải đổi tất đi mà," người bạn nói

với Mulla.

"Chắc chắn là tôi đã đổi rồi," Nasruddin nói. "Và

hơn nữa tôi biết anh sẽ không tin tôi, cho nên tôi đem

đôi tất cũ để ngay trong túi tôi để chứng minh điều

đó!"

Nếu bạn là cùng anh chàng ngu xuẩn cũ đó thì

chẳng thành vấn đề bạn làm gì với dục của bạn, với

tham của bạn, với ghen tị của bạn. Chúng sẽ quay lại

dưới dạng khác, theo con đường khác nào đó; chúng

thậm chí trở thành tinh vi hơn.

Phật nói điều được cần tới là nhận biết nhiều hơn,

hiểu biết nhiều hơn - không kìm nén không kiểm soát.

Nếu bạn có thể trở nên nhận biết về ham muốn của

mình, nếu bạn có thể quan sát ham muốn của mình,

thế thì phép màu xảy ra, phép màu lớn nhất trong tất

cả các phép màu. Khoảnh khắc bạn trở nên nhận biết

về ham muốn của mình, bạn có thể dễ dàng thấy rằng

không ham muốn nào có thể được hoàn thành; chính

bản chất của nó là không thể được hoàn thành. Mọi

ham muốn đều chỉ là khao khát về cái gì đó không thể

có được, mọi ham muốn đều nghĩa là thêm nữa, nữa

và nữa. Bây giờ, làm sao bạn có thể hoàn thành khao

khát thường xuyên này về thêm nữa? Bạn có thể có

mọi của cải của thế giới, dầu vậy ham muốn sẽ vẫn có

đó.

Tôi đã nghe nói rằng khi Diogenes nói với

Alexander Đại đế, "Ông đã bao giờ nghĩ về một điều

này chưa? - mặc dầu nó là một khả năng rất xa vời,

ông đã bao giờ nghĩ về nó chưa? Ông có thể thực sự

chinh phục cả thế giới - thế rồi cái gì nữa? Không có

thế giới khác để chinh phục, chỉ có duy nhất một thế

giới này. Nếu ông thực sự thành công - ông đã bao

giờ cân nhắc về vấn đề đó chưa? - thế thì ông sẽ làm

gì?"

Và tương truyền rằng Alexander trở nên rất buồn.

Diogenes cười và ông ấy nói, "Trông đấy! Ông vẫn

chưa chinh phục được nó, nhưng chính ý tưởng rằng

nếu ông chinh phục toàn thế giới... ông sẽ làm gì tiếp

đó? - bởi vì không có thế giới khác. Ông sẽ hoàn toàn

lúng túng, bởi vì tâm trí sẽ đòi hỏi thêm nữa. Nó sẽ

không được thoả mãn chỉ với thế giới này - nó sẽ

không được thoả mãn đâu."

Tâm trí nghĩa là không hài lòng; đó là chính bản

tính của nó. Ham muốn là cách biểu lộ duy nhất của

không hài lòng này. Khi bạn quan sát ham muốn của

mình bạn dần dần, dần dần trở nên nhận biết về cái vô

tích sự của việc ham muốn, bạn trở nên nhận biết về

bản tính ngớ ngẩn của việc ham muốn. Bạn trở nên

nhận biết rằng bởi chính bản chất của chúng ham

muốn là không thể nào được hoàn thành. Thấy ra điều

này, biến đổi xảy ra, phép màu xảy ra, thay đổi triệt

để tạo ra; nhưng bằng việc thấy điều này - không

bằng kìm nén, không bằng kiểm soát mà bằng hiểu

biết.

Một nghệ sĩ violon bị thuyết phục anh ta có thể

dùng nghệ thuật của mình để thuần dưỡng con vật

hoang. Cho nên, violon trong tay, anh ta đi vào trung

tâm rừng rậm châu Phi để chứng minh điều đó.

Anh ta bắt đầu chơi nhạc và chẳng mấy chốc chỗ

quang đãng trong khu rừng đã đầy các con vật đủ các

loại tụ tập lại để nghe anh ta chơi đàn. Chim, sư tử, hà

mã, voi - tất cả đều đứng vòng tròn mê mải với âm

nhạc tuyệt trần của anh ta.

Vừa lúc đó một con cá sấu bò lên từ con sông

cạnh đó và đi vào chỗ quang đãng và - đớp luôn! - ăn

ngấu nghiến nghệ sĩ violon.

Các con vật khác cực kì tức giận. "Mày làm cái

quái gì thế?" chúng hỏi. "Chúng tao đang thưởng thức

điều đó."

"Ê thì sao nào?" con cá sấu nói, đưa tay bịt tai nó.

Tâm trí tuyệt đối điếc; nó cứ làm cùng những điều

ngu xuẩn mãi, chưa bao giờ nhìn, chưa bao giờ nghe

thông điệp. Mọi ham muốn đều đem bạn tới điểm

thay đổi triệt để xảy ra, nhưng tâm trí không thể thấy

mà cũng không thể nghe được. Nó mù, nó điếc. Khi

ham muốn này rụng đi nó đơn giản nhảy sang ham

muốn khác. Nếu ham muốn này thất bại, tâm trí nghĩ,

"Nếu ham muốn này đã thất bại điều đó không có

nghĩa là tất cả các ham muốn khác sẽ thất bại." Nó cứ

hi vọng rằng sẽ phải có ham muốn nào đó có thể được

hoàn thành, có thể không lúc này nhưng lúc sau; nếu

không hôm nay thì ngày mai; nếu không trong kiếp

này thì trong kiếp sau, trong cõi trời. Nhưng tâm trí

cứ nghĩ mãi theo cùng con đường mòn cũ.

Trong cảnh cuộc vây bắt ở ngân hàng viên trung

sĩ cảnh sát chạy tới viên thanh tra và nói, "Nó chạy

mất rồi, thưa ngài!"

Viên thanh tra nổi cáu. "Nhưng tôi đã bảo ông để

người ở mọi lối ra rồi cơ mà!" ông ta gầm lên. "Làm

sao nó có thể chạy mất được?"

"Nó ra bằng cửa vào thưa ngài!"

Tâm trí bao giờ cũng tìm cách thuyết phục bạn về

cùng trò chơi ngu xuẩn. Phật nói quan sát nó. Chính là

qua quan sát mà không việc muốn nào xảy ra.

Và tính quan sát của bạn phải ở cùng với toàn bộ

trái tim bạn; nó phải không bộ phận, bằng không nó

sẽ không có tác dụng - bởi vì nếu bạn chỉ quan sát

một phần thế thì phần đã không được tham gia sẽ cứ

giờ các thủ đoạn cũ, chiến lược cũ. Toàn thể trái tim

của bạn phải có tính quan sát để cho không chỗ tối

nào còn lại trong bạn, để cho toàn thể bản thể bạn trở

nên nhận biết về cái ngớ ngẩn của việc ham muốn.

Jimmy Carter tới thăm một trong những viện lớn

nhất về mất cân bằng tinh thần. Ông ấy hoàn thành

việc giám định toà nhà chính và muốn xem Phần

Nông trại. Lái xe của ông ấy không ở quanh đó nên

tổng thống lên chiếc xe bus thường.

Trong vài phút người quản lí đưa lên một số bệnh

nhân. Khi họ đã ngồi vào chỗ ông ấy bắt đầu đếm, "1,

2, 3, 4, 5...." Ông ấy tới tổng thống và nói, "Ông là

ai?"

Ông Carter nói, "Sao, tôi là tổng thống nước Mĩ

đây!"

Người quản lí nói, "6, 7, 8...."

Chả thành vấn đề bạn là ai, bạn ở đâu. Nếu bạn

vẫn ham muốn, bạn vẫn điên: "6, 7, 8...." Bạn khùng

hâm. Thực tế, chừng nào bạn còn chưa đủ điên khùng,

làm sao bạn có thể cố gắng vất vả thế để là tổng thống

của một nước? Trong nhiều năm mọi người cố gắng

trở thành tổng thống của một nước; gần hết cả đời họ

được dành cho một mục đích đơn giản, là tổng thống

của một nước. Và cái gì được đạt tới? Với cùng năng

lượng đó họ có thể đã trở thành chư phật, với cùng

năng lượng đó họ có thể đã trở nên thức tỉnh. Nhưng

chúng ta đưa năng lượng của mình vào những mục

đích sai thế - tiền, quyền, danh - và chúng tất cả dều

dẫn tới điên khùng.

Việc ham muốn là điên khùng. Tận hưởng cuộc

sống đi! - nhưng đừng quá bận tâm về tương lai.

Đừng hi sinh hôm nay của bạn cho ngày mai; bằng

không bạn bao giờ cũng sẽ bỏ lỡ mọi cơ hội mở ra

cho trưởng thành bên trong của bạn.

Không muốn gì, bằng cả trái tim ông dừng dòng

suối.

Quan sát. Cố hiểu chính bản chất của việc ham

muốn, và trong chính hiểu biết đó một điểm dừng sẽ

tới theo cách riêng của nó. Dòng suối đơn giản biến

mất, bay hơi, cứ dường như nó chưa bao giờ có đó.

Và khoảnh khắc bạn tự do với tâm trí, bạn tự do với

mọi khổ, với mọi không hài lòng.

Khi thế gian tan biến

mọi thứ trở thành rõ ràng.

Với tan biến của tâm trí, toàn thế giới mà tâm trí

đã tạo ra quanh bản thân nó cũng tan biến đi, hiển

nhiên - thế giới tuỳ thuộc vào tâm trí, nó là phóng

chiếu của tâm trí. Không phải là cây sẽ biến mất và

hoa hồng sẽ biến mất đâu... hoa hồng sẽ là hoa hồng

nhiều hơn và cây sẽ xanh nhiều hơn. Mọi người sẽ

đẹp hơn nhiều; ngay cả đá cuội trên bờ biển cũng sẽ

như kim cương. Mọi thứ sẽ trở thành quí giá.

Thế giới này, thế giới thực này, sẽ không biến mất

với tâm trí bạn, nhưng bạn đang sống trong một thế

giới riêng tư hoàn toàn khác: thế giới của ham muốn

của bạn. Bạn không thấy thế giới thực, bạn chỉ thấy

thế giới riêng tư của riêng mình được phóng chiếu lên

thế giới thực. Thế giới thực đơn giản được dùng như

màn ảnh trên đó bạn cứ phóng chiếu các ham muốn

của mình. Bạn chưa bao giờ thấy cái đang đó; bạn chỉ

cứ thấy cái bạn ham muốn.

Người ta nói là thợ làm giầy chưa bao giờ nhìn

vào mặt mọi người, ông ta bao giờ cũng nhìn vào giầy

của họ. Tất nhiên ông ta không quan tâm tới khuôn

mặt của họ, ông ta chẳng liên quan gì tới mặt họ; ông

ta quan tâm tới giầy của họ. Và bằng việc nhìn giầy

ông ta biết về người này; giầy chứa mọi thông điệp

cho ông ấy: liệu người này giầu hay nghèo, thành

công hay không thành công. Giầy sẽ nói mọi điều:

hình dáng của giầy, tính mới, tính cũ, sự mệt mỏi của

giầy; mọi thứ sẽ nói người này thuộc loại nào. Giầy,

được người làm giầy phân tích, sẽ cho bạn phân tích

hoàn hảo về con người này. Không có nhu cầu đi tới

nhà phân tâm, bạn có thể đi tới người đóng giầy, để

giầy chỗ ông ấy. Và ông ấy có thể làm ra sơ đồ về

bạn: bạn là loại người nào, cái gì đang xảy ra trong

cuộc sống của bạn.

Thợ may chưa bao giờ nhìn bạn, họ chỉ nhìn quần

áo của bạn. Họ quyết định từ quần áo của bạn. Mọi

người chỉ nhìn cái họ ham muốn và họ phóng chiếu

ham muốn của họ. Nếu ai đó đầy thèm khát thì ngay

cả người đàn bà xấu cũng có thể trông đẹp.

Mulla Nasruddin thỉnh thoảng đi tới ga trên đồi;

anh ta có nhà gỗ ở đó. Thỉnh thoảng anh ta nói, "Tôi

sẽ đi ba tuần," và quay về chỉ sau mười ngày. Điều đó

xảy ra nhiều lần nên tôi hỏi anh ta, "Anh chưa bao giờ

theo quyết định của mình. Anh nói, 'Tôi sẽ đi ba tuần,'

thế rồi anh quay về trong vòng một tuần. Đôi khi anh

nói, 'Tôi sẽ đi năm tuần,' và anh quay về trong mười

ngày. Có chuyện gì vậy?"

Anh ta cười; anh ta nói, "Tôi có tiêu chí và tôi

không thể quyết định được từ đây. Ông biết rằng tôi

có căn nhà gỗ ở ga trên đồi - ở đấy, tôi đã để một

người đàn bà ở đó để trông nom căn nhà. Cô ấy là

người đàn bà xấu nhất ông có thể quan niệm được và

bao lâu tôi sẽ ở đó được người đàn bà đó xác định."

Tôi nói, "Tôi không hiểu."

Anh ta nói, "Để tôi giải thích. Cô ấy kinh tởm thế,

gớm ghiếc thế, nhưng khi tôi tới đó, sau hai hay ba

ngày cô ấy không kinh tởm, không gớm ghiếc thế.

Sau bốn hay năm ngày tôi thậm chí bắt đầu thấy cái gì

đó đẹp trong cô ấy. Đến ngày thứ bẩy hay thứ tám cô

ấy bắt đầu trông thực đẹp. Khoảnh khắc tôi thấy rằng

ham muốn về cô ấy nảy sinh trong tôi, tôi trốn đi - đó

là cách tôi quyết định. Điều đó nghĩa là bây giờ đến

lúc cho tôi ra đi. Tôi biết cô ấy xấu, nhưng mắt tôi

đang lừa dối tôi bây giờ, bây giờ chúng đang phóng

chiếu. Bây giờ thèm khát dục không được hoàn thành

của tôi bắt đầu phóng chiếu lên cô ấy; cô ấy không

phải là điều cô ấy hiện ra cho tôi. Thế thì tôi bắt đầu

trốn đi - tôi sắp điên khùng. Thế thì tôi lập tức xô về

nhà; đó là lúc về nhà, bằng không sẽ có nguy hiểm.

Và tôi không muốn làm tình với người đàn bà gớm

ghiếc đó. Tôi biết hoàn toàn rõ cô ấy kinh tởm, nhưng

một lúc tới, đâu đó ở giữa bẩy và mười ngày, khi cô

ấy bắt đầu trông đẹp thế, cứ dường như cô ấy là

Sophia Loren."

Bạn kinh nghiệm điều này lặp đi lặp lại mãi,

nhưng bạn không hiểu. Khi lần đầu tiên bạn rơi vào

tình yêu với người đàn bà hay đàn ông, người kia có

vẻ giống như nam thần hay nữ thần; đó là phóng

chiếu của bạn. Chẳng mấy chốc bạn sẽ bị vỡ mộng.

Lỗi nằm ở bạn, không ở người kia. Không phải là

người kia đã lừa bạn đâu; người kia đã không làm gì

cả. Bạn đói, bạn khao khát, bạn sống với ham muốn

bị kìm nén và ham muốn đó tạo ra ảo tưởng cho bạn.

Bạn rơi vào trong tình yêu, bạn thấy cái gì đó không

có đó. Những người yêu cứ thấy những điều không có

đó, không ai khác thấy chúng; đó là lí do tại sao

những người yêu bị mọi người khác coi là điên. Bản

thân họ sẽ nghĩ họ điên sau hai hay ba tuần, nhưng

khi họ đang trong tình yêu lần đầu tiên họ nghĩ họ đã

khám phá ra người đàn bà được làm ra cho họ - rằng

họ được làm ra cho nhau.

Ở đây, tôi vẫn thường nhận được thư. Một nữ

sannyasin tìm thấy ai đó gần như mọi tháng và cô ấy

viết cho tôi và cô ấy quên mất tất cả về sự kiện là cô

ấy đã từng viết nó trong ít nhất ba năm: "Thưa Thầy

kính yêu, dường như là chúng tôi đã được làm ra cho

nhau." Cô ấy không có ý tưởng nào rằng cô ấy đã viết

điều này ít nhất năm mươi lần! Nhưng khi cô ấy bị mê

tít với ai đó cô ấy quên hết mọi thứ khác.

Tôi nhắc cô ấy. Cô ấy nói, "Lần khác tôi có thể

sai, nhưng lần này, tin tôi đi, chúng tôi được làm ra

cho nhau!" Và trong hai hay ba tuần những người

này, người đã được làm ra cho nhau bị kết thúc.

Thực tế, không ai được làm cho bất kì ai khác;

mọi người đều được làm ra cho chính bản thân mình.

Không ai được làm cho bất kì ai - Thượng đế chưa

bao giờ làm ra bạn theo đôi cả! Vứt toàn bộ cái vô

nghĩa đó đi. Ngài đơn giản làm ra các cá nhân.

Ở phương Đông chúng ta có các câu chuyện -

chúng phải là chuyện thôi, chúng không thể là lịch sử

được. Trong kinh sách Jaina người ta nói rằng lúc ban

đầu khi thế giới hình thành, Thượng đế hay làm ra

đàn ông và đàn bà cùng nhau. Từng người mẹ thường

cho sinh đôi, một gái, một trai; chúng sẽ là chồng và

vợ. Chúng không phải là chị em hay anh em - chúng

được làm ra cho nhau! Điều đó phải là sự hoàn thành

ước mong. Đàn ông bao giờ cũng nghĩ, "Phải có ai đó

mà mình sẽ khớp tuyệt đối. Ở đâu đó ai đó phải tồn

tại người đó chỉ dành cho mình và mình dành cho cô

ấy." Không có ai chỉ dành cho bạn hay bạn chỉ dành

cho ai. Thượng đế tạo ra chỉ các cá nhân, Thượng đế

tin vào tính cá nhân - ngài là người theo chủ nghĩa cá

nhân.

Thực tế, hôn nhân là bịa đặt của con người,

Thượng đế không tin vào hôn nhân. Bản thân ngài là

một mình không có vợ; bạn có thể thấy - vấn đề rõ

ràng thế. Bằng không ngài ít nhất đã lấy Thánh thần

linh thiêng! Thánh thần linh thiêng có thể biến thành

đàn bà hay đàn ông - ma là ma thôi! Ngài không có

thân thể nào; ngài có thể đã cho nó một thân thể. Nếu

ngài có thể tạo ra cả thế giới, ngài không thể tạo ra

đàn bà cho bản thân mình sao? Ngài hào phóng thế

với đàn ông - ngài đã cho đàn ông người đàn bà đầu

tiên, Lilith. Và Lilith thực sự là người đàn bà đẹp,

nhưng đêm đầu tiên đã có đấu tranh về cái gối - người

đàn bà được giải phóng đầu tiên! Phong trào giải

phóng phụ nữ đã bắt đầu với Lilith. Và đấu tranh là vì

Thượng đế đã cho họ chỉ một giường và cả hai đều

muốn ngủ trên nó và giường lại không đủ lớn cho hai

người. Lilith đơn giản bác bỏ ý tưởng rằng cô ấy phải

ngủ trên sàn. Cô ấy nói, "Nếu anh muốn ngủ trên sàn

anh có thể ngủ!"

Adam cảm thấy bị xúc phạn lắm - một đàn ông,

mà lại ngủ trên sàn, còn đàn bà ngủ trên giường sao?

Đến nửa đêm họ gõ cửa nhà Thượng đế và nói, "Ngài

phải phân xử điều đó đi."

Thượng đế dường như rất kì lạ - một chuyện đơn

giản thế. Ông ấy đáng đã gọi Asheesh: "Làm giường

đôi đi!" Đó là điều tôi đã làm. Sao lại làm om sòm

nhiều thế về điều đó? Hay nếu Asheesh làm tốn thời

gian dài - vì anh ta thường làm thế - ngài có thể đã vứt

cái giường đi: "Cả hai đứa có thể ngủ trên sàn, bình

đẳng!" Ngài có thể đã phái Deeksha đem bỏ nó đi; cô

ấy sẽ bỏ mọi thứ đi, kể cả sàn! Nhưng cách thức của

Thượng đế là kì lạ.

Ngài đã làm Lilith biến mất tiêu. Ngài nói, "Con

biến đi. Con sẽ không có khả năng làm ra điều đó

nữa." Thế là ngài làm ra Eve, lấy một chiếc xương

sườn của Adam để cho cô ấy là một phần của Adam.

Điều đó là hành động xấu, điều đó rất chống phụ nữ.

Và từ đó Thượng đế đã là mật thám gia trưởng đàn

ông!

Không ai được làm ra cho bất kì ai khác, do đó

không có hai người nào có thể khớp tuyệt đối. Mọi ý

tưởng của bạn về khớp với người khác đều là ảo

tưởng, và chúng sẽ bị tan tành chẳng chóng thì chầy.

Hoặc bạn phải thoả hiệp hoặc bạn phải tách rời.

Nhưng không ai được làm cho người kia.

Những người hiểu, họ bắt đầu chấp nhận tính duy

nhất của người kia, họ bắt đầu kính trọng tính duy

nhất của người kia. Họ biết họ khác nhau, vậy mà họ

đã quyết định ở cùng nhau. Và điều đẹp là ở chỗ họ

khác nhau bởi vì sự đa dạng đó đem lại sự phong phú

cho cuộc sống.

Nhưng bạn cứ tạo ra thế giới quanh bản thân

mình, thế giới ảo tưởng. Phật đang nói về thế giới đó

khi ông ấy nói: Khi thế gian tan biến - ông ấy ngụ ý

khi tâm trí tan biến với mọi phóng chiếu của nó - mọi

thứ trở thành rõ ràng.

Khi tất cả mọi phóng chiếu của bạn đều mất rồi

bạn có sáng tỏ, sáng tỏ vô cùng, không mây mù trong

tâm thức bạn. Bạn có thể thấy xuyên thấu suốt. Việc

thấy đó là tự do, việc thấy đó là cứu rỗi, việc thấy đó

là niết bàn, việc thấy đó là về nhà.

Đi ra ngoài….

Đi tới việc thấy đó đi. Đi ra ngoài tâm trí, đi ra

ngoài cái đã biết, bởi vì tâm trí bao gồm cái đã biết.

Và đi ra ngoài cái có thể biết bởi vì bất kì cái gì có thể

biết chẳng chóng thì chầy sẽ trở nên được biết và sẽ

lại tạo ra tâm trí. Cho nên đi ra ngoài cái biết - cái biết

nghĩa là cái đã trở thành tâm trí của bạn - và cái có thể

biết - cái về tiềm năng sẽ trở thành tâm trí của bạn

chẳng chóng thì chầy. Đi ra ngoài cái biết và cái có

thể biết để cho bạn có thể đi vào trong cái không thể

biết, vào trong điều huyền bí. Cõi bên kia đại diện cho

điều huyền bí.

đường này này hay đường kia….

Phật không phải là người cuồng tín; ông ấy nói

bạn theo con đường nào không thành vấn đề. Nhớ lấy:

bạn phải đi ra ngoài tâm trí. Đi theo bất kì đường nào!

Đây là cái đẹp của ông ấy - nó rất hiếm hoi. Bạn sẽ

không tìm thấy phẩm chất này trong những người

cuồng tín tôn giáo đâu; ông ấy không phải là người

cuồng tín chút nào. Ông ấy nói bạn đi theo đường nào

là không quan trọng, dù bạn bơi sang bờ bên kia hay

bạn đi thuyền hay bạn đi tàu hơi nước hay mọi cách

bạn xoay xở... điều đó là tuỳ ở bạn thôi. Đi sang bờ

bên kia; đó mới là vấn đề. Mọi con đường đều hợp

thức nếu nó dẫn tới bờ bên kia, mọi con đường đều

hợp thức nếu nó dẫn bạn đi ra ngoài tâm trí.

Và chỉ có hai con đường. Một là nhận biết, thiền -

con đường của Phật. Và con đường kia là tình yêu,

sùng kính, con đường của người Sufis. Về căn bản chỉ

có hai con đường, nhưng Phật rất rõ ràng. Ông ấy nói:

đường này này hay đường kia....

Với "đường này" ông ấy ngụ ý con đường của ông

ấy; với "đường kia" ông ấy ngụ ý con đường của tình

yêu, của sùng kính. Đó không phải là con đường của

ông ấy, nhưng ông ấy không cấm bạn. Ông ấy không

nói rằng bạn không thể đạt tới được bởi con đường

kia. Ông ấy không nói, "Con đường của ta là con

đường duy nhất." Ông ấy không nói, ông ấy không

tuyên bố, "Chỉ những người tới với ta sẽ đạt tới còn

mọi người khác sẽ rơi xuống địa ngục." Không! Ông

ấy nói, "Ông có thể theo con đường khác nữa. Chỉ

nhớ một điều trong tâm thức ông - rằng ông phải vượt

ra ngoài."

tới bờ xa hơn

nơi thế gian tan biến

và mọi thứ trở thành rõ ràng.

Bên ngoài bờ này

và bờ xa hơn,

Bên kia cõi bên kia,

nơi không có bắt đầu,

không kết thúc.

"Bên kia cõi bên kia" là cách diễn đạt của Phật về

Thượng đế; ông ấy không bao giờ dùng từ 'Thượng

đế'. Nhưng "bên kia cõi bên kia" đích xác là điều từ

'Thượng đế' đại diện. Sao ông ấy nói "bên kia cõi bên

kia"? Gọi nó là "cõi bên kia" không đủ sao? Không đủ

đâu, bởi vì khi bạn nói "cõi bên kia" dường như bạn

đã hiểu nó rồi; điều đó nghĩa là tâm trí bạn đã hiểu.

Khi bạn nói "bờ bên kia" điều đó nghĩa là nó là bờ

kia, nhưng nó là cái gì đó giống như bờ này; ít nhất nó

cũng là bờ cho nên nó phải là cái gì đó giống bờ này -

có thể có chút ít khác biệt, đẹp hơn, với nhiều cây

hơn, nhiều xanh hơn, nhiều hoa đẹp và hương thơm

hơn - nhưng bờ vẫn là bờ.

"Bờ này" và "bờ kia" tâm trí bạn có thể lĩnh hội

được. Do đó ông ấy nói: Bất kì cái gì hiểu được với

tâm trí đều phải bị bỏ lại sau. Cõi bên kia là hiểu

được.

Bên ngoài bờ này và bờ xa hơn - bạn phải đi ra

ngoài cả hai bờ - Bên kia cõi bên kia, nơi không có

bắt đầu, không kết thúc.

Khi một người tới Phật - người đó đã thực hành

thiền trong nhiều năm - người đó nói, "Thầy đã bảo

tôi, 'Đạt tới cái không,' và tôi đã đạt tới nó rồi. Bây gì

tôi phải làm gì khác nữa?"

Phật nói, "Bây giờ quẳng nó đi! Đi ra và quẳng nó

đi!"

Người đó phân vân. Người đó nói, "Tôi đã mất

vài năm để đạt tới nó!"

Phật nói, "Mục đích duy nhất trong việc đạt tới nó

là để quẳng nó đi - chỉ thế thì ông mới thực sự trong

trạng thái của cái không; bằng không, cái không này

đã trở thành cái gì đó - ông đã đạt tới nó. Nó không

phải là cái không thực. Làm sao ông có thể đạt tới cái

không thực? Cái không thực là không thể đạt tới

được, nó là không thể hiểu thấu được. Nó ở bên ngoài

việc hiểu thấu, nó ở bên ngoài sự lĩnh hội. Cho nên đi

ra và quẳng nó đi!"

Một vua tới Phật mang theo nhiều kim cương

trong tay này, rất quí giá, rất hiếm hoi, và với bông

sen trong tay kia, sen trái vụ. Ông ấy muốn cúng

dường kim cương. Phật nói, "Vứt nó đi!" Thế là ông

ấy vứt kim cương - do dự lắm, vì đó là cả kho báu lớn

thế - cứ nghĩ, "Người này không hiểu điều ông ấy

đang nói." Nhưng mười nghìn sư đang có đó và

không vứt chúng sẽ có vẻ keo kiệt và mọi người sẽ

cười và họ sẽ nói, "Nếu ông đã tới cúng dường ông ấy

cái gì đó và ông ấy ra lệnh, 'Vứt nó đi!' thế thì vứt nó

đi chứ! Ông đã cúng dường chúng cho ông ấy rồi, bây

giờ làm gì chúng là việc của ông ấy." Cho nên ông ta

vứt chúng đi, nhưng rất ngần ngại.

Thế rồi ông ấy cúng dường bông sen. Phật nói,

"Vứt nó đi!" Ông ấ vứt bông sen đó nữa. Bây giờ ông

ấy đứng với bàn tay trống rỗng và Phật nói, "Vứt nó

đi!" Bây giờ nhà vua đâm ra lúng túng. Ông ta nói,

"Thưa ngài, tôi chẳng có gì để vứt; tay tôi hoàn toàn

trống rỗng." Phật nói, "Thế thì vứt nó đi!" Bây giờ

nhà vua nghĩ, "Người này dở hơi! Ta đang nói tay ta

trống rỗng, thế rồi mà ông ta vẫn nói 'Vứt nó đi!'"

Một trong các Bồ tát của Phật, Manjushree7

[7 Tên tiếng Việt của bồ tát này là Văn thù sư lị]

, cười

to và ông ấy nói, "Thưa ngài, ngài không hiểu thầy

tôi. Thầy tôi đang nói, 'Đừng mang ý tưởng này về

trống rỗng, vứt cả cái đó nữa - bởi vì ý tưởng về trống

rỗng là đủ để rót đầy bản thân ông; ý tưởng về trống

rỗng là đủ để tạo ra tâm trí.' Phật đang nói, 'Vứt mọi

thứ một cách vô điều kiện. Và khi ông đã vứt tất cả

rồi, đừng mang ý tưởng này rằng bây giờ không cái gì

còn lại. Vứt cả cái đó nữa để cho ông không có gì mà

nói cả.'"

Đó là nghĩa của việc đi ra bên kia cõi bên kia. Đó

là trạng thái tối thượng của niết bàn - khi bản ngã, tâm

trí, cá tính, tất cả đều dừng tồn tại và bạn biến mất

trong điều huyền bí, trong phép màu, trong vũ trụ.

Không sợ, cứ đi.

Thiền.

Đây là điều thiền tất cả là gì: quan sát ham muốn

của bạn, hiểu bản chất của chúng... và để chúng rơi

rụng như lá khô khỏi cây trong mùa thu.

Sống thuần khiết.

Và khi thiền đã xảy ra và ham muốn đã biến mất,

thế thì sống từ hồn nhiên đó. Ngay bây giờ bạn đang

sống từ ham muốn. Bạn ham muốn cái này, bạn ham

muốn cái nọ, và đôi khi bạn ham muốn ngay cả

Thượng đế, đôi khi bạn ham muốn niết bàn, đôi khi

bạn ham muốn ngay cả thiền, nhưng bạn sống từ ham

muốn.

Có một loại cuộc sống khác - cuộc sống thực -

điều được sống qua hồn nhiên, không ham muốn. Cho

nên bất kì cái gì tới trên đường bạn đều tận hưởng,

hạn hân hoan, nhưng bạn không ham muốn.

Sống thuần khiết - đó là điều Phật gọi là cuộc

sống thuần khiết: cuộc sống không được sống từ ham

muốn.

Yên tĩnh.

Một cách tự nhiên bạn sẽ yên tĩnh - khi không có

ham muốn còn lại, không rối loạn nào còn lại.

Làm việc của ông, với quyền làm chủ.

Thế thì bất kì cái gì bạn đang làm, bất kì cái gì

bạn tận hưởng làm, làm nó với quyền làm chủ và

khéo léo. Ông ấy thích khéo léo lắm, ông ấy thích cái

tuyệt hảo, ông ấy thích hoàn hảo. Ông ấy không phải

là người cầu toàn, nhớ lấy, bởi vì ông ấy không phải

là người thần kinh, nhưng ông ấy yêu hoàn hảo. Làm

mọi thứ với tính toàn bộ của bạn. Bất kì cái gì bạn

đang làm, làm nó với tình yêu như thế, với cam kết

như thế và sự tham dự tới mức khoảnh khắc đó là

toàn thể cuộc sống của bạn.

Có lần ai đó hỏi Vincent van Gogh, "Tranh đẹp

nhất của ông là tranh nào?"

Ông ấy đang vẽ một bức tranh. Ông ấy nói, "Bức

này - đây là bức đẹp nhất."

Vài tháng sau người này lại hỏi - ông ấy lại đang

vẽ cái gì đó - người này hỏi, "Tranh đẹp nhất của ông

là tranh nào?"

Ông ấy nói, "Tranh này."

Người này nói, "Nhưng điều này không đúng.

Mới vài tháng trước ông nói về bức tranh khác nào đó

đã là tranh đẹp nhất của ông."

Vincent van Gogh nói, "Bất kì cái gì tôi đang làm

vào khoảnh khắc này đều là đẹp nhất. Nó bao giờ

cũng thế này, nó chưa bao giờ thế nọ. Nó bao giờ

cũng bây giờ, nó chưa bao giờ lúc khác."

Đây là cách thức của hoàn hảo, cách thức của

tuyệt hảo, cách thức của khéo léo, làm chủ. Bất kì cái

gì bạn đang làm, làm nó cứ dường như nó là vấn đề

sinh và tử. Đưa toàn thể năng lượng của bạn vào trong

nó, và cho sẽ cho bạn phúc lạc vô cùng. Đừng nửa

vời. Chỉ thế thì tính sáng tạo mới nở hoa, chỉ thế thì

bạn mới trở thành người tham gia vào trong Thượng

đế đấng sáng tạo.

Ban ngày mặt trời chiếu sáng,

và chiến binh trong giáp trụ rạng ngời.

Ban đêm trăng chiếu sáng,

và người chủ sáng lên trong thiền.

Đây là những lời mã hoá. Mặt trời đại diện cho

chiến binh. Mặt trời là năng lượng nóng; mặt trời là

năng lượng bạo hành. Mặt trăng đại diện cho thiền

nhân, nhà huyền môn; nó là năng lượng mát mẻ. Nó

là cùng năng lượng, nhớ lấy - nó là cùng năng lượng,

nó không phải là năng lượng khác. Nhưng chuyển qua

mặt trăng tia sáng mặt trời trở nên mát mẻ; đó là phép

màu của trăng, thay đổi giả kim thuật xảy ra qua

trăng. Trăng đơn giản phản xạ tia sáng mặt trời; nó là

tấm gương. Nhưng chỉ bằng việc qua mặt trăng thay

đổi triệt để xảy ra: tia sáng vốn nóng, bạo hành, trở

thành im lặng, mát mẻ, an bình.

Mặt trời đại diện cho chiến binh, chiến sĩ, người

lính. Mặt trăng đại diện cho sannyasin, thiền nhân,

nhà huyền môn.

Phật nói: Ban ngày mặt trời chiếu sáng, và chiến

binh trong giáp trụ rạng ngời.

Ngày thuộc về chiến binh, mặt trời thuộc về chiến

binh. Chiến binh nghĩa là người cố chinh phục người

khác, người cố trở thành người khác. Đó là nỗ lực ngu

xuẩn, nhưng nó rẻ hơn. Dễ bắt ai đó khác làm nô lệ,

bao giờ cũng dễ tìm ra ai đó yếu hơn bạn, dễ áp đặt

bản thân bạn lên ai đó.

Nhưng nhà huyền môn, thiền nhân đi vào chiều

hướng hoàn toàn khác - người đó đi vào trong lãnh

thổ của mình. Người đó cố là người chủ của bản thân

mình, không phải là người chủ của người khác mà là

chủ của bản thân mình - và điều đó là làm chủ đúng.

Nỗ lực đầu tiên là ngu xuẩn.

Và thế giới đã bị chi phối bởi người lính trong

hàng thế kỉ, đó là lí do tại sao thế giới vẫn còn trong

đống lộn xộn thế. Thế giới cần ngày một nhiều

sannyasin hơn bởi vì từng sannyasin đều trở thành

mặt trăng: người đó biến đổi năng lượng bạo hành của

thế giới thành vũng năng lượng mát mẻ. Thế giới cần

đầy các sannyasin, chỉ thế thì chúng ta mới có thể có

một thế giới quên đi cách thức chiến tranh và học

ngôn ngữ của an bình và tình yêu. Thế giới cần nhiều

sannyasin như những người biến đổi năng lượng.

Đó đích xác là điều được ngụ ý bởi phật trường:

nơi nhiều sannyasins ở cùng nhau và tạo ra lực biến

đổi lớn tới mức tất cả mọi loại năng lượng đi qua phật

trường đều trở nên mát mẻ, trở thành nữ tính, trở

thành giống như hoa và ít như đá. Chúng mất đi tính

cứng rắn, chúng trở nên tinh tế - tinh tế như cánh hoa

hồng.

Ban đêm trăng chiếu sáng.... Đêm là thời gian của

nhà huyền môn, ngày là thời gian của chiến binh.

Đêm đại diện cho thay đổi trong toàn thể bầu không

khí. Dễ thiền trong đêm hơn là trong ngày. Thiền gần

với giấc ngủ hơn nhiều so với bất kì hoạt động nào

khác, chỉ với một khác biệt: trong giấc ngủ bạn rơi

vào vô ý thức, trong thiền bạn vẫn còn ý thức, nhưng

với cùng thảnh thơi. Ban ngày khó ngủ; nếu bạn

muốn ngủ ban ngày bạn phải đóng cửa ra vào và cửa

sổ và kéo mọi rèm để cho nó thành tối. Nếu tia sáng

mặt trời tới chúng sẽ không cho phép bạn ngủ; tia

sáng mặt trời kích hoạt năng lượng của bạn. Ban đêm

giúp cho bạn thảnh thơi và nghỉ ngơi. Đó là thời gian

của nhà huyền môn.

Sannyasin nên dùng thời gian ban đêm ngày một

nhiều hơn cho thiền. Bạn có thể đi sâu hơn, và dễ

dàng, bởi vì gió đang thổi theo cách đó; bạn có thể đi

cùng gió với ít nỗ lực hơn. Ban ngày bạn đi ngược

chiều gió. Ban ngày thiền tích cực là tốt; thiền động là

tốt vào ban ngày, thiền nhảy múa là tốt vào ban ngày.

Nhưng ban đêm Vipassana, thiền im lặng, chỉ ngồi và

không làm gì, chỉ thảnh thơi bởi vì toàn bộ bầu không

khí là thảnh thơi.... Mặt trời đã xuống, cây đã rơi vào

giấc ngủ; năng lượng đang bao quanh bạn trong đêm

mang phẩm chất hoàn toàn khác. Dễ dàng thiền.

Phật nói: người chủ sáng lên trong thiền trong

đêm.

Với "người chủ" ông ấy ngụ ý người đang cố là

người chủ của bản thân mình; với "chiến binh" ông ấy

ngụ ý người đang cố là chủ người khác. Nhưng một

khi bạn đã đạt tới, một khi bạn đã trở nên chứng ngộ,

thế thì không có vấn đề về ngày và đêm, không có

vấn để mặt trời và mặt trăng.

Nhưng ngày và đêm

Người đã thức tỉnh

chiếu sáng trong rạng ngời của tâm linh.

Vị phật, người thức tỉnh, người chứng ngộ chiếu

sáng cả trong đêm và trong ngày; không có khác biệt

cho người đó. Một khi bạn đã trở nên thức tỉnh, thế

thì chẳng cái gì tạo ra khác biệt nào. Nhưng cho tới

khi điều đó xảy ra, vẫn cứ dùng bầu không khí đêm

ngày một nhiều hơn cho thiền.

Và khi trăng có đó trong đêm còn dễ thiền hơn

nhiều. Đêm trăng tròn là tốt nhất cho thiền. Nhiều

người đã trở thành phật đều đã đạt tới chứng ngộ của

họ vào đêm trăng tròn, kể cả bản thân Phật. Điều đó

có thể là sự trùng hợp, nhưng điều có ý nghĩa cần

nhớ: ông ấy đã được sinh ra vào đêm trăng tròn, ông

ấy đã trở nên chứng ngộ vào đêm trăng tròn và ông ấy

chết vào đêm trăng tròn. Cái gì đó trong trăng tròn

dường như là đồng bộ với năng lượng của ông ấy.

Dùng nó đi. Tỉnh táo và dùng mọi khả năng để

giúp bạn đi vào trong. Một khi bạn được thức tỉnh, thế

thì không có vấn đề gì. Thế thì bạn có thể thoải mái,

nghỉ ngơi, an bình, ở bất kì đâu.

Ai đó hỏi Phật Buddha, "Khi thầy chết thầy có lên

cõi trời không?"

Phật nói, "Đừng hỏi câu hỏi vô nghĩa. Bất kì chỗ

nào vị phật ở cũng đều có cõi trời rồi. Chư phật không

lên cõi trời; bất kì chỗ nào vị phật tới, cõi trời đi tới

đó."

Điều này gần với chân lí nhiều, đẹp hơn nhiều;

chính phát biểu này là có ý nghĩa. Không có vấn đề về

người chứng ngộ đi lên thiên đường - người chứng

ngộ sống trong thiên đường ở bất kì chỗ nào họ ở.

Bạn có thể phái họ xuống địa ngục - nếu có địa ngục -

và địa ngục sẽ được biến đổi. Bằng chính hiện diện

của họ địa ngục sẽ trở thành phật trường. Bằng chính

hiện diện của họ năng lượng của địa ngục sẽ trải qua

biến đổi.

Có lần chuyện xảy ra:

Một linh mục Ki tô giáo đang giảng đạo vào chủ

nhật và ông ấy nói, "Những người không tin vào

Thượng đế và sống cuộc sống vô đạo đức sẽ xuống

địa ngục; những người tin vào Thượng đế và sống đạo

đức sẽ lên cõi trời."

Một người đứng lên và hỏi, "Một câu hỏi nảy sinh

trong tôi. Câu hỏi là: Những người không tin vào

Thượng đế và sống cuộc sống đạo đức, họ sẽ đi đâu?

Những người tin vào Thượng đế và sống cuộc sống

vô đạo đức, họ sẽ đi đâu?"

Linh mục đâm lúng túng; ông ấy đã không nghĩ

về điều đó. Câu hỏi này thật quỉ quyệt. Ông ấy nói,

"Cho tôi thời gian để cân nhắc về điều đó. Sau bẩy

ngày tôi sẽ trả lời, chủ nhật sau."

Bẩy ngày đó thực sự là địa ngục cho ông ấy. Ông

ấy cố gắng hình dung ra nó, nhưng không thể hình

dung ra nó được. Nếu ông ấy nói, "Những người

không tin vào Thượng đế nhưng đạo đức vẫn lên cõi

trời," thế thì người này sẽ nói, "Sao phải tin vào

Thượng đế? Sao phải bận tâm về Thượng đế chút

nào? Cứ sống đạo đức là đủ rồi." Ông ấy nghĩ, "Và

nếu mình nói những người không tin vào Thượng đế

và sống đạo đức phải xuống địa ngục, thì đạo đức mất

mọi liên quan. Thế thì sao phải đạo đức? Cứ tin vào

Thượng đế là đủ. Tin vào Thượng đế và sống vô đạo

đức là có thể được. Sao bỏ lỡ cơ hội đó?" Ông lấy làm

cho mình phát rồ, ông ấy không thể ngủ được. Liên

tục ông ấy nghĩ mãi và tra cứu sách vở, nhưng không

câu trả lời nào tới.

Chủ nhật tới; ông ấy dậy sớm chút ít để tới nhà

thờ cầu nguyện Jesus. "Xin hãy giúp tôi!" ông ấy cầu

nguyện với Jesus. Cả đêm ông ấy đã không ngủ cho

nên trong khi ông ấy cầu nguyện ông ấy rơi vào giấc

ngủ, và ông ấy mơ một giấc mơ đẹp, một giấc mơ rất

có ý nghĩa. Ông ấy thấy rằng mình đang trong chuyến

tàu hoả. Ông ấy hỏi tàu đi đâu và các hành khách

khác nói, "Tàu này đi lên cõi trời."

Ông ấy nói, "Điều này rất tốt! Đó là điều tôi muốn

thấy - thấy bằng chính mắt mình. Socrates chưa bao

giờ tin vào Thượng đế, nhưng ông ấy đã sống cuộc

sống đạo đức. Phật chưa bao giờ tin vào Thượng đế,

nhưng ông ấy đã sống một trong những cuộc sống

thuần khiết nhất. Mahavira chưa bao giờ tin vào

Thượng đế, nhưng ai có thể vượt qua được Mahavira

trong cuộc sống đạo đức của ông ấy? Nếu mình có thể

tìm được ba người này, thế thì vấn đề được giải quyết;

nếu mình không tìm được họ ở đó, thế nữa vấn đề

cũng được giải quyết."

Chuyến tàu lên tới cõi trời; ông ấy rất đỗi ngạc

nhiên. Nhìn cõi trời, ông ấy không thể nào tin được

vào nó - nó trông giống địa ngục hơn! Tất nhiên tấm

biển nói nó là cõi trời, nhưng nó đã không được sơn

vẽ lại, dường như nhiều thế kỉ rồi. Bao nhiêu bụi đã tụ

lại, mọi thứ đều bẩn thỉu. Nó trông như sa mạc: không

mầu xanh, không cây cối, không hoa hồng, không hoa

sen. Ông ấy bắt gặp vài thánh nhân trông gần chết,

bằng cách nào đó kéo lê bản thân họ. Bụi cũng đã tụ

lên họ cứ dường như họ đã quên cách tắm, cứ dường

như chẳng ai tắm trên cõi trời.

Ông ấy hỏi, "Socrates có đây không? Phật có đây

không? Mahavira có đây không?"

Những thánh nhân đó nói, "Chưa bao giờ nghe nói

tới những người đó."

Ông ấy chạy xô tới văn phòng hướng dẫn. Ông ấy

hỏi, "Có tàu nào đi xuống địa ngục không?"

Họ nói, "Có, tầu sắp đi ngay đây. Ông có thể đáp

nó ngay bây giờ."

Và ông ta xô lên tàu đi xuống địa ngục, và khi địa

ngục tới gần hơn ông ấy lại trong ngạc nhiên lớn:

nhiều hương thơm thế, nhiều xanh tươi thế, nhiều hoa

thế, nhiều chim đẹp thế, và hót và nhảy nhót. Ông ấy

nói, "Có chuyện gì thế nhỉ?" Và mọi người trông vui

vẻ thế, rạng ngời thế. Ông ấy hỏi mọi người về ga

này, "Đây có thực là địa ngục không? Đây mà là địa

ngục à?"

Họ nói, "Vâng, đây là địa ngục, và không ai có thể

tin được đây là địa ngục. Kể từ khi ba người -

Socrates, Phật và Mahavira - tới, mọi thứ đã thay đổi.

Họ đã biến đổi toàn thể cảnh quan. Chỉ cái tên là địa

ngục bây giờ - nó thực sự là cõi trời. Và chỗ kia chỉ là

cõi trời theo tên thôi; nó đã trở thành địa ngục."

Tôi tuyệt đối đồng ý với giấc mơ này. Tôi có thể

quán tưởng rằng cái gọi là thánh nhân của bạn, dù họ

ở đâu, đều sẽ tạo ra địa ngục. Nhưng nếu một người

như Phật hay Socrates hay Mahavira hay Jesus hay

Lão Tử hay Zarathustra mà trong địa ngục, thì địa

ngục phải thay đổi. Vấn đề không phải là chỗ; vấn đề

là ai ở đó.

Nhưng ngày và đêm

Người đã thức tỉnh

chiếu sáng trong rạng ngời của tâm linh.

Bạn có thể nói địa ngục hay cõi trời... Người đã

thức tỉnh chiếu sáng trong rạng ngời của tâm linh. Dù

người đó ở bất kì đâu, người đó đều tạo ra thế giới

mới, người đó tạo ra năng lượng hoàn toàn mới.

Người đó là người biến đổi giả kim thuật.

Đầu tiên, đừng là người lính, hãy là sannyasin,

bởi vì đó là cách một ngày nào đó bạn có thể trở

thành chư phật. Đi tới việc tự làm chủ. Dùng mọi

phương cách, phương pháp, để trở thành người chủ

cái ta của riêng bạn. Và thế rồi một ngày nào đó, khi

tâm trí đã biến mất với mọi ảo tưởng của nó và bạn đã

đạt tới sáng tỏ, khi bạn có thể thấy cái đang đó như nó

vậy, bạn là vị phật. Thế thì bất kì chỗ nào bạn ở cũng

đều có thiên đường.

Đủ cho hôm nay.

**************************************************************************************************************

#8Tiếng cười: tình yêu, vui vẻ, biết ơn

Câu hỏi thứ nhất:

Thưa Thầy kính yêu,

Có phải tất cả đều là chuyện đùa không? Nhưng

tôi không hiểu nó.

Vimalkirti, nó chắc chắn là chuyện đùa rồi, nhưng

bạn không thể hiểu được nó. Bạn là người Đức, và

không chỉ người Đức bình thường - bạn là chắt của

hoàng đế Đức! Cứ nghĩ tới ông già trong nấm mồ của

mình: ông ấy phải xoay người, lật người, khi thấy bạn

trong áo da cam, lau sàn ở Pune! Bạn nghĩ gì? - chẳng

phải là chuyện đùa sao? Chắt của bạn có thể đã bao

giờ tưởng tượng hay mơ rằng điều này đã xảy ra cho

con riêng của mình một ngày nào đó sao? Người đó

sẽ không thể nào mơ được về điều đó - nhưng nó đã

xảy ra.

Trong hàng thế kỉ bạn đã được bảo rằng cuộc

sống là chuyện nghiêm chỉnh; nó đã trở thành ước

định sâu. Bằng không cuộc sống thực sự là chuyện

đùa. Nó là vui đùa, nó là leela. Nó tất cả phụ thuộc

vào cách bạn nhìn nhận nó. Nếu bạn nhận nó một

cách nghiêm chỉnh nó trở thành nghiêm chỉnh, nhưng

thế thì bạn khổ - bạn khổ từ ý tưởng riêng của mình.

Cuộc sống trở thành nặng nề, nó trở thành trọng

lượng, thành núi đè lên ngực bạn; bạn bị nghiền nát

dưới nó. Cuộc sống mất mọi niềm vui, mọi tiếng cười.

Bạn đơn giản kéo lê, bạn không sống. Làm sao người

ta có thể sống mà không có tiếng cười?

Chính con người là con vật duy nhất trên trái đất

biết cách cười. Tiếng cười là điều duy nhất đặc biệt

cho con người, không lập luận mà tiếng cười. Con vật

cũng có thể lập luận - chúng lập luận theo cách riêng

của chúng - nhưng chúng không thể đùa được, chúng

không thể cười được, chúng không thể thấy được phía

khôi hài; điều đó là không thể được cho chúng. Mọi

con vật đều là người nghiêm chỉnh và mọi người

nghiêm chỉnh đều là con vật! Khoảnh khắc bạn gạt bỏ

cái nghiêm chỉnh của mình bạn gạt bỏ tính con vật

của mình.

Do đó tôi không có kính trọng với thánh nhân của

bạn. Họ rất nghiêm chỉnh, còn nghiêm chỉnh hơn lừa

nhiều, nghiêm chỉnh hơn trâu nhiều. Họ đã sa ngã, họ

đã không vươn lên. Thánh nhân của bạn nghiêm

chỉnh, chính khách của bạn nghiêm chỉnh, các nhà

cách mạng của bạn nghiêm chỉnh, các nhà khoa học

của bạn nghiêm chỉnh. Họ tất cả đều coi cuộc sống

dường như bằng cách nào đó người ta phải trải qua nó

- không nhảy múa. Chính khái niệm về nhảy múa là

xa xôi với họ. Họ thậm chí không thể bước đi, họ lê

lết. Họ không sống, họ chỉ chết dần. Họ tất cả đều

không sống, họ chỉ chết dần. Họ tất cả đều chờ đợi cái

chết làm giảm nhẹ nỗi đau cho họ và nỗi khổ của cuộc

sống.

Rất hiếm khi tìm ra một người không nghĩ về tự

tử một hay hai lần. Trung bình, bốn lần trong đời mọi

con người đều nghĩ tới tự tử. Người đó không làm

điều đó, đó là vấn đề khác. Có thể người đó không đủ

bạo gan để làm điều đó, có thể người đó sợ điều sẽ

xảy ra sau cái chết. Ai biết được? Nó có thể còn tồi tệ

hơn bản thân cuộc sống. Ít nhất cuộc sống cũng được

biết tới, quen thuộc; thật là mạo hiểm mà đi vào trong

cái không biết.

Người Ấn Độ không tự tử nhiều bởi vì họ tin rằng

họ sẽ được phái trở lại, cho nên phỏng có ích gì? -

hàng triệu lần bạn phải được sinh ra. Mọi tôn giáo Ấn

Độ đều tìm và kiếm không về Thượng đế, nhớ lấy, mà

về tự do khỏi cuộc sống, tự do khỏi vòng sinh tử. Làm

sao những người này có thể hân hoan và làm sao

những người này có thể cám ơn Thượng đế được? Họ

đang phàn nàn và việc phàn nàn của họ rất to. Họ

đang nói, "Chúng tôi không muốn được sinh ra.

Chúng tôi chưa bao giờ muốn được sinh ra. Sao ngài

không hỏi chúng tôi trước hết? Điều đó là không công

bằng! Nó không phải là món quà, điều không công

bằng là phái chúng tôi vào trong cuộc sống mà chúng

chúng tôi chưa bao giờ yêu cầu. Và điều không công

bằng là cứ phái chúng tôi vào trong cuộc sống mà

chẳng có gì ngoài khổ."

Nhưng cuộc sống không phải là khổ. Chính cách

tiếp cận của chúng ta, chính cách chúng ta nhìn vào

nó đã làm cho nó thành xấu. Tầm nhìn của chúng ta bị

bóp méo, không phải bản thân cuộc sống. Tấm gương

của chúng ta bị bóp méo, không phải bản thân cuộc

sống. Bởi vì tấm gương của chúng ta bị bóp méo,

cuộc sống dường như bị bóp méo.

Vimalkirti, với tôi nó tất cả đều là chuyện đùa. Và

tôi không đùa - tôi thực sự nghiêm chỉnh về điều đó!

Bạn nói, "Nhưng tôi không hiểu nó."

Tôi đã nghe nói rằng ở Đức mọi người không

được phép kể chuyện đùa vào tối thứ bẩy. Tại sao? -

bởi vì họ có thể buột ra cười vào sáng chủ nhật. Phải

mất thời gian để họ hiểu! Và bạn là chắt của hoàng đế

Đức, có thể mất thời gian lâu hơn chút ít cho bạn!

Nhưng nếu bạn ở đây bạn nhất định hiểu được nó.

Đừng lo. Cuộc sống đầy những khoảnh khắc buồn

cười tới mức gần như không thể nào bỏ lỡ được

chúng. Chính phép màu là làm sao mọi người cứ bỏ

lỡ chúng; bằng không bạn sẽ bắt gặp chuyện đùa ở

mọi nơi.

Khi Winston Churchill được bổ nhiệm làm thủ

tướng lần đầu tiên - ông ấy đã mệt mỏi từ chiến dịch

bầu cử và mọi hoạt động chính trị diễn ra trước đó và

mọi tranh đấu để lên tới đỉnh - vợ ông ấy nghĩ điều tốt

là mời một người bạn biết nhiều chuyện cười hay tới

để người đó có thể kể vài chuyện cười cho Winston

Churchill. "Điều đó sẽ làm cho ông ấy thảnh thơi,

giúp ông ấy cười một chút. Ông ấy đã nghiêm chỉnh

thế trong nhiều ngày và ông ấy trông mệt mỏi thế."

Người bạn được mời tới; người đó tới với những

chuyện cười mới nhất. Người đó hỏi Winston

Churchill, "Ông có muốn biết chuyện đùa mới nhất

không?"

Churchill nhìn ông ta và nói, "Xin đủ, không thêm

nữa - tôi đã bổ nhiệm tất cả họ vào nội các của tôi

rồi!"

Nếu bạn nhìn quanh, nếu bạn quan sát đủ, thế thì

bạn nhất định lại loạng choạng vớ phải cái gì đó hay

thế và buồn cười thế. Chính ý tưởng về việc tạo ra thế

giới và tạo ra bạn tất cả là trò đùa vũ trụ thế! Thượng

đế phải có khả năng khôi hài.

Một giáo sĩ già sắp chết và ai đó hỏi ông ấy... bởi

vì họ sợ giáo sĩ già này. Ông ấy không thật tôn giáo

mấy, không thật đức hạnh mấy; thực tế, ông ấy là cái

đối lập. Họ lo nghĩ. Họ hỏi ông ấy, "Thầy có sẵn sàng

gặp Thượng đế không?"

Ông ấy mở mắt ra và nói, "Có chứ, đó là điều ta

đang làm đây - ta đang cố nhớ vài chuyện đùa hay để

kể cho ngài. Ngài phải đã phát mệt về tất cả những

khuôn mặt dài kia, các thánh nhân buồn. Ngài sẽ thực

sự thích thú vài chuyện đùa, vài chuyện tán gẫu về

trái đất."

Và tôi tuyệt đối đồng ý với giáo sĩ già này. Nếu

bạn gặp Thượng đế, đừng khuỵ đầu gối xuống và bắt

đầu cầu nguyện - ngài mệt mỏi về tất cả những điều

đó rồi! Kể cho ngài chuyện cười hay. Điều đó sẽ là

giao cảm sâu sắc hơn với ngài. Để ngài có tiếng cười

sảng khoái. Trong tiếng cười đó sẽ có khải lộ.

Vimalkirti, vài chuyện cười cho bạn:

Karpuik bị chở gấp tới phòng cấp cứu của bệnh

viện thành phố. Bác sĩ trực ngạc nhiên khi phát hiện

ra Karpuik had bị bỏng bìu. "Chuyện đó xảy ra thế

nào?" bác sĩ hỏi.

"Tôi pha trà," người Polack đáp, "và lời hướng

dẫn nói, 'nhúng túi vào nước nóng.'"

Pilzudski đưa vợ mình tới bác sĩ và phàn nàn rằng

anh ta không thể nào giao hợp được với cô ấy vì cô ấy

quá chặt.

"Được rồi," bác sĩ nói, "chúng ta thử điều đó!"

Nhà phẫu thuật đưa người vợ lên bàn, bôi dầu

trơn nào đó vào công cụ của mình và đưa vào vợ của

Pilzudski một cách dễ dàng.

"Này," người Polack nói, khi anh ta quan sát bác

sĩ bơm vào, "nếu đấy không phải là thuốc tôi nghĩ ông

đang giao cấu vợ tôi!"

Có lần có một tu sĩ trẻ ngoan đạo,

sống gần như chỉ toàn bằng men bia;

"Vì," anh ta nói, "điều đơn giản

là chúng ta tất cả đều lại dâng lên,

và tôi muốn ít nhất được bắt đầu!"

Cách tiếp cận của tôi tới cuộc sống là cách tiếp

cận của tiếng cười. Và tiếng cười chứa tình yêu, tiếng

cười chứa niềm vui và tiếng cười chứa lòng biết ơn.

Tiếng cười chứa lòng biết ơn vô cùng với Thượng đế.

Khi bạn thực sự trong tiếng cười bụng sâu sắc,

bản ngã bạn biến mất. Nó xảy ra rất hãn hữu trong bất

kì hoạt động nào khác, nhưng trong tiếng cười nó nhất

định xảy ra. Nếu tiếng cười là toàn bộ, bản ngã không

thể tồn tại được; không cái gì giết chết bản ngã như

tiếng cười. Đó là lí do tại sao mọi bản ngã đều nghiêm

chỉnh. Bản ngã có thể tồn tại chỉ trong sự nghiêm

chỉnh; bản ngã sống, được nuôi dưỡng trên tính

nghiêm chỉnh. Và người nghiêm chỉnh là người nguy

hiểm.

Chúng ta phải phá huỷ mọi loại nghiêm chỉnh

trong thế giới. Đền chùa nên đầy tiếng cười và bài ca

và điệu vũ và lễ hội. Đó là cách cây có đó, sao có đó,

sông có đó, đại dương có đó. Toàn thể sự tồn tại,

ngoại trừ con người, đều trong trạng thái không

nghiêm chỉnh; chỉ con người dường như rất nghiêm

chỉnh. Không đứa trẻ nào được sinh ra nghiêm chỉnh,

nhớ lấy, nhưng chúng ta phá huỷ cái hồn nhiên của

đứa trẻ. Chúng ta phá huỷ phẩm chất của ngạc nhiên

và kính nể, chúng ta phá huỷ tiếng cười của nó, chúng

ta phá huỷ mọi thứ đẹp và có giá trị, và thay vì thế

chúng ta cho nó tải trọng mang trên đầu nó - về tri

thức, về thượng đế học, về triết học. Nó càng được

chúng ta giáo dục, nó càng mất mọi khả năng khôi

hài. Nó không thể thấy khôi hài nào trong sự tồn tại

bởi vì nó bắt đầu sống qua tri thức của mình; nó biết

mọi điều. Bởi vì tính thông thái của nó mọi ngạc

nhiên bị phá huỷ. Bởi vì tính tri thức của nó, phẩm

chất tôn giáo lớn nhất - kính nể - bị giết chết.

Một thanh niên ở đại học, có tên Breeze,

bị trĩu nặng bởi các học vị BA và MD,

suy sụp do căng thẳng;

nói với bác sĩ, "Đơn giản

mình đang tự giết mình bằng bằng cấp!"

Tới lúc bạn quay về từ đại học bạn gần chết rồi.

Trạng thái của bạn là bệnh hoạn. Bạn ốm - ốm với tri

thức, bị ngộp bởi tri thức. Và bạn không thể cười

được; cười chỉ dành cho trẻ con và người điên.

Và toàn thể nỗ lực của tôi ở đây, Vimalkirti này,

là để làm cho bạn đồng thời cả hai: làm bạn như trẻ

con và làm bạn hoàn toàn điên. Nếu hai điều này xảy

ra, chỉ thế thì bạn mới là sannyasin. Lời khuyên duy

nhất của tôi là tiếng cười!... và mọi thứ khác sẽ theo

sau. Nếu bạn có thể yêu và nếu bạn có thể cười, một

cách toàn bộ, một cách toàn tâm, cuộc sống của bạn

sẽ trở thành phúc lạc và phúc lành thế, không chỉ cho

bản thân bạn mà cho mọi người khác. Bạn sẽ là phúc

lành cho thế giới.

Bạn phải vứt bỏ mọi nghiêm chỉnh đi. Bạn phải

vứt bỏ tính nghiêm chỉnh này bởi vì nó đã bị ép buộc

lên bạn; đây không phải là bản tính của bạn. Bạn đã

không tới thế gian này trong nghiêm chỉnh, bạn tới

khi cười to. Từng đứa trẻ đều sôi sùng sục với niềm

vui và đến lúc nó bốn tuổi nó bắt đầu chết. Tuổi bốn

cho con trai và tuổi ba cho con gái là lúc cái chết bắt

đầu xuất hiện. Con gái bao giờ cũng đi trước con trai

theo mọi cách; ngay cả trong vấn đề này chúng cũng

trước một năm.

Và một khi cái chết lắng đọng trong bạn, nó giết

bạn dần dần. Không phải là bạn chết bất thần khi bạn

bẩy mươi hay tám mươi; đó chỉ là hoàn thành của quá

trình đã bắt đầu ở tuổi ba hay bốn. Bạn có bao giờ để

ý sự kiện là nếu bạn cố gắng nhớ lùi lại bạn không thể

vượt qua được rào chắn của tuổi ba không? Nhiều

nhất bạn có thể nhớ khi bạn được ba tuổi; bên ngoài

điều đó tất cả là khoảng trống. Tại sao? Bạn đã ở đây,

chắc chắn, và ba năm đó đã không trống chút nào;

thực tế chúng đầy kinh nghiệm hơn bất kì năm nào

khác của cuộc đời bạn đã từng trải qua. Từng khoảnh

khắc đều đầy kinh nghiệm. Bạn thường xuyên thám

hiểm cuộc sống, con người, mọi thứ; bạn thường

xuyên trong truy tìm.

Trong một đại học họ làm một thực nghiệm. Thực

nghiệm này là... ở chỗ trẻ con dường như tích cực thế

- chúng lấy nhiều năng lượng thế từ đâu? Thân thể

chúng nhỏ thế và thân thể chúng tinh tế thế - chúng

hệt như hoa, mảnh mai - nhưng chúng dường như

nhiều năng lượng thế, sống động thế, tuôn trào với

năng lượng. Chúng lấy nhiều năng lượng thế từ đâu?

Cho nên họ thử một thực nghiệm. Họ thu xếp rằng

một người rất lực lưỡng sẽ theo đứa bé, và người đó

làm đích xác bất kì cái gì đứa trẻ làm. Và họ sẽ trả

tiền cho anh ta; bất kì cái gì anh ta muốn họ đều sẽ trả

cho anh ta. Anh ta thực sự là người to lớn, lực sĩ, lực

sĩ nổi tiếng, cho nên anh ta không lo nghĩ gì về việc

theo đứa trẻ. Đứa trẻ có thể làm được gì? Nhưng

trong vòng bốn giờ anh ta nằm dài trên đất, bởi vì một

khi đứa trẻ biết rằng anh ta bắt chước nó, đứa trẻ nhảy

và đứa trẻ chạy và đứa trẻ lăn lộn trên sàn và đứa trẻ

cười om sòm.... Và đứa trẻ làm nhiều điều tới mức

anh lực sĩ, trong vòng bốn giờ, bị kết thúc!

Anh ta nói, "Chưa bao giờ trong đời mình tôi bị

mệt thế. Tôi đã đánh nhau cả đời, tôi đã đánh trong

những cuộc đánh nhau lớn, tôi bao giờ cũng là người

thắng. Đây là thất bại đầu tiên của tôi!"

Và đứa trẻ nhỏ đó không mệt chút nào; nó vẫn sẵn

sàng, nó vẫn thách thức người này. Nó nói, "Chú lại

đây! Chúng ta có thêm chút trò vui! Chú kết thúc rồi

à? Sao chú nằm dài ra đất thế?"

Mọi đứa trẻ được sinh ra với năng lượng lớn thế,

nhưng chúng ta phá huỷ nó. Chúng ta làm tê liệt mọi

đứa trẻ, chúng ta làm què mọi đứa trẻ. Và nhà thờ và

đền chùa của chúng ta đã làm điều sai nhất cho nhân

loại. Họ là tội nhân lớn nhất trên thế giới, họ là tội

nhân thực sự. Họ đã phạm tội chống nhân loại - họ đã

làm tê liệt mọi con người. Bạn không biết bạn sẽ là gì

nếu bạn được phép tự do toàn bộ từ chính lúc ban đầu

- nếu tiếng cười của bạn được tự do, tình yêu của bạn

được tự do, niềm vui của bạn được tự do, và bạn

không bị cản trở, bị can thiệp, bị bóp méo, bị thao

túng, bị ép buộc, bị đổi kênh theo hướng nào đó....

Không đứa trẻ nào quan tâm tới tiền, bởi vì không

đứa trẻ nào ngu xuẩn cả. Không đứa trẻ nào quan tâm

tới là tổng thống một nước hay thủ tướng, bởi vì

không đứa trẻ nào ngu thế. Mối quan tâm của nó tự

nhiên hơn nhiều. Nó quan tâm tới hoa, nó quan tâm

tới bướm, nó quan tâm tới đá cuội trên bãi biển. Nó

quan tâm tới nhảy múa dưới sao, nhảy múa dưới mặt

trời, nhảy múa trong gió. Nó quan tâm tới trèo cây

hay leo núi. Nó quan tâm tới bơi sông hay đi vào

trong đại dương.

Quan tâm của nó là hoàn toàn khác, nhưng chúng

ta làm chệch mọi năng lượng của nó. Chúng ta nói,

"Không cần trèo cây, không cần leo núi. Leo thang

thành công ấy!" - điều là quá trình tuyệt đối tầm

thường, điều là quá trình tuyệt đối không thông minh.

"Leo thang thành công. Giầu có hơn người khác.

Cạnh tranh. Ghen tị. Sở hữu. Tranh đấu!" - tranh đấu

vì những điều vô nghĩa. Thế thì bạn đánh mất niềm

vui của mình, thế thì bạn đánh mất tiếng cười của

mình. Thế thì cuộc sống dường như giống ác mộng

hơn là giống chuyện đùa hay.

Vimalkirti, nó là chuyện đùa vũ trụ đấy.

Và tầm nhìn của tôi là ở chỗ tính tôn giáo tương

lai nhất định được bắt rễ nhiều trong cuộc sống hơn là

trong cái chết, nhiều trong tiếng cười hơn là trong

buồn bã, nhiều nhảy múa hơn trong kéo lê cuộc sống

của bạn.

#8Câu hỏi thứ hai:

Thưa Thầy kính yêu,

Tại sao, mặc cho các dáng vẻ, trống rỗng là hiển

nhiên hơn là hình dạng, tâm thức hiển nhiên hơn

ý nghĩ, im lặng hiển nhiên hơn lời?

Deva Bruce, trống rỗng là cội nguồn của mọi hình

dạng. Trống rỗng là vĩnh hằng, hình dạng là nhất thời.

Hình dạng giống như gợn sóng trong hồ, trống rỗng là

bản thân hồ. Hình dạng tới và đi, trống rỗng còn lại.

Hình dạng chỉ là dáng vẻ, trống rỗng là thực tại.

Do đó Phật gọi thực tại là shunya. Shunya nghĩa

là trống rỗng tối thượng. Vâng, nó còn hiển nhiên hơn

nhiều so với cái gọi là vật thực của bạn, bởi vì những

vật thực này tới từ trống rỗng và sẽ quay trở lại với

trống rỗng. Trống rỗng là cội nguồn và mục đích. Mọi

thứ đều bắt nguồn từ cái không và biến mất trở lại

trong cái không.

Do đó, nhớ lấy, cái không không có nghĩa là nó là

không có gì; cái không đơn giản nghĩa là nó là tất cả.

Cái không nghĩa là "không-vật gì." Mọi vật đều có

hình dạng; cái không là năng lượng vô hình dạng. Nó

có thể biểu lộ trong hàng triệu hình dạng, và nó chỉ có

thể biểu lộ trong hàng triệu hình dạng bởi vì nó không

có hình dạng nào của riêng nó. Nó là linh động, nó

sẵn có cho bất kì hình dạng nào, nó không chống đối

lại bất kì hình dạng nào. Nó có thể diễn đạt bản thân

nó theo hàng triệu cách bởi vì nó không có ám ảnh, nó

không có cố định. Nó có thể nở như hoa hồng, nó có

thể nở như hoa sen. Nó có thể là bài ca, nó có thể là

điệu vũ, nó có thể là im lặng. Tất cả đều có thể bởi vì

cái không đơn giản nghĩa là không hình dạng nào đã

được lấy. Một khi hình dạng được lấy, mọi sự trở nên

bị giới hạn, các phương án trở nên bị giới hạn. Một

khi hình dạng được lấy bạn không còn tự do toàn bộ;

hình dạng của bạn trở thành tù túng của bạn. Do đó,

thiền là lối vào trong cái không.

Tôn giáo phương Tây đã bỏ lỡ trọn vẹn vấn đề

này. Ngay cả Thượng đế của họ cũng có hình dạng;

Thượng đế không thể có hình dạng được. Cho

Thượng đế một hình dạng là lấy con người làm trung

tâm, nó là phóng chiếu hình dạng riêng của chúng lên

Thượng đế.

Nếu ngựa mà là triết gia - và ai biết được, vài con

ngựa có thể là triết gia chứ - thế thì Thượng đế sẽ là

ngựa, ngựa đẹp, với tất cả các phẩm chất lớn của

ngựa. Ngựa không thể nghĩ về Thượng đế như con

người được, không thể được. Con người đã không tốt

với ngựa chút nào. Chúng có thể nghĩ về quỉ là con

người, nhưng không nghĩ Thượng đế là con người

được. Con người nghĩ Thượng đế là con người.

Kinh Thánh nói Thượng đế tạo ra con người theo

hình ảnh riêng của ngài. Chân lí là chính điều ngược

lại: con người tạo ra Thượng đế theo hình ảnh riêng

của mình. Do đó người da đen sẽ có hình dạng người

da đen, Thượng đế của người Hindu sẽ có hình dạng

người Hindu, Thượng đế của người Trung Quốc sẽ có

hình dạng người Trung Quốc. Thượng đế Trung Quốc

không thể có hình dạng Hindu được; không thể được.

Người Trung Quốc không thể nghĩ được rằng Thượng

đế có thể có hình dạng khác hơn người Trung Quốc -

tất nhiên, hình dạng Trung Quốc đẹp nhất, nhưng nó

sẽ là người Trung Quốc. Đây là ý tưởng của chúng ta

được phóng chiếu lên Thượng đế.

Thượng đế không phải là hình dạng, Thượng đế là

vô hình dạng. Thượng đế là cái không tuyệt đối,

Thượng đế là trống rỗng toàn bộ. Từ cái trống rỗng đó

mọi thứ nảy sinh - cây cối, người, núi non, đất, sao,

sáng tạo. Chúng tới, với thời gian hiện hữu chúng có

đó, và thế rồi chúng lại biến mất vào trong trống rỗng

tối thượng. Đó là cái bắt đầu và cái kết thúc; cái trống

rỗng là trước cái bắt đầu và sau cái kết thúc. Phật gọi

nó là cõi bên kia, cõi bên kia tối thượng, bên kia cõi

bên kia.

Bạn hỏi tôi, Bruce, "Tại sao, mặc cho các dáng vẻ,

trống rỗng là hiển nhiên hơn là hình dạng, tâm thức

hiển nhiên hơn ý nghĩ, im lặng hiển nhiên hơn lời?"

Tâm thức là Thượng đế bởi vì tâm thức là cái

không. Ý nghĩ là thế giới; do đó Phật gọi tâm trí là

"thế giới." Khoảng khắc ý nghĩ xuất hiện, con sóng đã

nảy sinh trong hồ tâm thức, hình dạng đã nảy sinh, và

hình dạng này là tạm thời, khoảnh khắc. Chẳng mấy

chốc nó sẽ biến mất; nó sẽ không kéo dài, nó không

vĩnh hằng. Đừng níu bám lấy nó. Quan sát nó vào và

quan sát nó ra. Quan sát nó nảy sinh và quan sát nó

biến mất, nhưng không níu bám lấy nó. Nhớ tâm thức,

trong đó nó nảy sinh và trong đó nó lại tan biến đi. Đó

là thực tại của bạn, đó là chân lí của bạn. Ý nghĩ có

thể tốt, ý nghĩ có thể xấu, nhưng tốt hay xấu không

tạo ra khác biệt. Ý nghĩ là ý nghĩ; nó không vĩnh hằng

- và đó là tiêu chí duy nhất của thực tại.

Đó là cách các nhà huyền môn bao giờ cũng phán

xét thực tại: bất kì cái gì vĩnh hằng đều là thực và bất

kì cái gì tạm thời đều chỉ là hiện tượng mơ. Không có

khác biệt giữa mơ bạn thấy trong đêm và mơ bạn thấy

trong ngày, mơ bạn thấy bằng mắt nhắm và mơ bạn

thấy bằng mắt mở. Vâng, có chút ít khác biệt: một

đằng mơ là tuyệt đối riêng tư. Trong đêm với mắt

nhắm bạn thấy mơ riêng tư; ban ngày với mắt mở bạn

thấy mơ tập thể, mơ khách quan. Có nhiều người

tham dự trong nó, do đó nó cho bạn cảm giác dường

như nó là thực. Nó không phải vậy. Điều gì xảy ra khi

bạn rơi vào giấc ngủ? Bạn quên tất cả về ngày.

Người ta nói về Trang Tử rằng một sáng ông ấy

thức dậy và bắt đầu cười to. Đệ tử của ông ấy tụ tập

lại và họ hỏi, "Có chuyện gì vậy?"

Trang Tử nói, "Ta bắt gặp một vấn đề ta không

thể giải quyết được. Giúp ta giải nó đi."

Đó là lần đầu tiên ông ấy yêu cầu các đệ tử của

mình giúp giải quyết vấn đề. Ngoài ra ông ấy bao giờ

cũng giải quyết các vấn đề của họ.

Các đệ tử nói, "Nó phải là vấn đề thực sự lớn lao,

phức tạp - thầy kể cho chúng tôi đi."

Ông ấy nói, "Vấn đề đơn giản thôi, nhưng theo

một cách nào đó nó rất phức tạp - và ta không nghĩ nó

có thể được giải quyết, nó dường như là không thể

giải được. Đó là lí do tại sao ta cười. Ta đã nhìn vào

nó từ mọi phía; nó dường như tuyệt đối không thể giải

được. Vấn đề là, trong đêm ta mơ rằng ta đã trở thành

bướm."

Các đệ tử nói, "Thế chẳng là gì cả. Chúng tôi tất

cả đều mơ đủ mọi thứ - mơ là mơ thôi. Bây giờ thầy

thức mơ được kết thúc rồi. Sao lại làm om sòm lên về

mơ?"

Ông ấy nói, "Ta không làm om sòm mấy về mơ

đâu. Vấn đề là: nếu Trang Tử có thể mơ rằng ông ấy

là bướm - bây giờ vấn đề nảy sinh - bướm có thể đã

rơi vào giấc ngủ và mơ rằng nó là Trang Tử! Bây giờ

cái gì là cái gì? Ta Trang Tử đã mơ về bướm hay ta

bướm đang mơ là Trang Tử?"

Thực tế không có khác biệt gì. Bướm cũng là một

hình dạng và Trang Tử cũng là một hình dạng. Hình

dạng này nảy sinh khi bạn ngủ, hình dạng khác nảy

sinh khi bạn thức, nhưng cả hai đều là hình dạng.

Trang Tử không là cả hai - ông ấy không là bướm

không là Trang Tử. Ông ấy là tâm thức, ông ấy là

nhận biết; nhận biết về giấc mơ, nhận biết về bướm và

Trang Tử. Ông ấy là nhận biết đó. Và nhận biết đó

còn thực hơn nhiều, thực tế là thực tại duy nhất. Vô ý

nghĩ là thực.

Và cùng điều đó là đúng với im lặng. Lời nảy sinh

trong cái hồ của im lặng, lời hay, nhưng chúng chỉ là

hình dạng. Do đó mới có nhấn mạnh của mọi nhà

huyền môn: chuyển từ lời sang vô lời, chuyển từ âm

thanh sang im lặng, chuyển từ hình dạng sang vô hình

dạng, chuyển từ ý nghĩ sang tâm thức. Đừng bị vướng

mắc với hình dạng, ý nghĩ, lời. Đó là điều thiền tất cả

là gì.

Đừng bị đồng nhất với tất cả những cái nảy sinh

trong bạn và biến mất. Vẫn còn được định tâm trong

cái không bao giờ xuất hiện và không bao giờ biến

mất, cái bao giờ cũng có đó. Vẫn còn được định tâm

trong thực tại kéo dài của bản thể bạn, và bạn sẽ biết

phúc lạc lớn nhất có thể có và bạn sẽ biết chân lí giải

thoát. Bạn sẽ biết tự do khỏi mọi hình dạng - bởi vì

mọi hình dạng đều tạo ra tù túng. Bạn sẽ biết bạn

không là đàn ông không là đàn bà, không da trắng

không da đen, không thế này không thế nọ - neti, neti.

Bạn sẽ biết rằng bạn là nhận biết thuần khiết, cái

không có tên, không có hình dạng.

Đó là điều Phật nói: Ông không có hình dạng nào

và ông không có tên nào. Đừng khao khát cái mà bạn

không là, bởi vì khao khát cái bạn không là tức là

đang tạo ra khổ cho bản thân bạn, là đang tạo ra đau

không cần thiết cho bản thân bạn. Cứ là cái bạn đang

là và bao giờ cũng là và bao giờ cũng sẽ là vậy. Đừng

cố trở thành - hiện hữu đi! Và bạn đã là cái đó. Vấn

đề không phải là trở thành, vấn đề không phải là ham

muốn, vấn đề không phải là đạt tới đâu đó. Bạn đã ở

đó rồi, bạn bao giờ cũng đã ở đó rồi. Chỉ thức dậy

thôi! Thức dậy từ giấc mơ, mọi giấc mơ - mơ đêm,

mơ ngày. Thức dậy từ mọi hình dạng và cư ngụ trong

cái vô hình dạng.

Và tất cả những người đã thức tỉnh đều nói cùng

một điều: Biết cái vô hình dạng đó, biết cái vĩnh hằng

đó, cuộc sống của bạn được hoàn thành. Bạn sẽ đạt

tới mãn nguyện vô cùng và phúc lạc và phúc lành.

#8Câu hỏi thứ ba:

Thưa Thầy kính yêu,

Tôi là người Hi Lạp và tôi thích tỏi. Bạn gái của

tôi không thể chịu được điều đó, cô ấy là người

Anh, cô ấy gọi tôi là nguyên thuỷ. Cái gì sai với

tôi?

Devo, chẳng cái gì sai với bạn cả, chẳng cái gì sai

với tỏi nữa, nhưng tỏi sẽ tạo ra vài vấn đề cho bạn. Và

vấn đề mà bạn đã bắt gặp không thực là vấn đề lớn

đâu; chẳng mấy chốc bạn sẽ phải đối diện với những

vấn đề lớn hơn. Quí bà Anh nhiều nhất có thể bỏ bạn;

điều đó không phải là vấn đề - điều đó sẽ là thoát ra

khỏi vấn đề đấy!

Tìm người đàn bà nào đó - tự do với quí bà đi!

Đàn bà là đẹp, quí bà là vấn đề. Và rất khó tìm được

đàn bà Anh - tôi chưa bắt gặp người nào. Họ tất cả

đều là quí bà. Đàn ông có thể không phải tất cả đều là

chúa tể, nhưng đàn bà tất cả đều là quí bà.

Một người Anh và vợ của anh ta đi dạo quanh

mảnh đất Tây Ấn của họ thì họ bắt gặp một cô và cậu

da đen đang làm tình trong bụi rậm.

"Chao ôi!" quí bà người Anh kêu lên với chồng

mình. "Họ làm điều đó hệt như con người!"

Nếu cô ấy nghĩ bạn là người nguyên thuỷ, điều đó

không là gì cả - ít nhất cô ấy cũng nghĩ bạn là người

rồi! Hay có thể cô ấy không nghĩ rằng bạn là người,

nhưng cô ấy không thể nói ra điều đó được. Thật quá

vô lễ để nói với bạn rằng bạn không là con người cho

nên cô ấy nói với bạn rằng bạn là người nguyên thuỷ.

Điều đó không phải là nguy hiểm lớn - nhiều nhất quí

bà này sẽ rời bỏ bạn. Bạn tiếp tục ăn tỏi. Nếu có chọn

lựa giữa quí bà Anh và tỏi, ưa thích tỏi hơn đi; nó còn

lành mạnh hơn nhiều. Nhưng vấn đề thực sẽ tới về

sau - một khi quí bà Anh đã rời bỏ bạn, thế thì bạn sẽ

bị rắc rối.

Bạn có nghe nói về cô gái Gypsy đã bỏ đeo tỏi

quanh cổ cô ấy không?

Nó giữ cho ma cà rồng tránh xa, nhưng nó hấp

dẫn quá nhiều người Italy.

Cho nên nếu bạn muốn vứt bỏ tỏi, vứt nó đi khi

quí bà Anh đã rời bỏ bạn; trong khi còn quí bà, cô ấy

sẽ bảo vệ bạn khỏi người Italy. Mọi đàn ông đền cần

đàn bà như thứ bảo vệ; bằng không anh ta bất lực thế.

Một khi người đàn bà khác thấy rằng một người đàn

bà đang bảo vệ bạn họ không bận tâm tới bạn.

Khoảnh khắc họ thấy bạn không được bảo vệ họ tất cả

nhảy lên bạn đấy!

Cho nên đầu tiên dùng tỏi để gạt bỏ quí bà Anh,

thế rồi lập tức thôi dùng tỏi; bằng không người Italy

sẽ bắt đầu tới. Và dễ dàng gạt bỏ quí bà Anh; tiếp đó

thì không thể nào gạt bỏ được đàn bà Italy bởi vì họ

không phải là quí bà. Họ là đàn bà thực và họ sẽ tạo

ra nhiều rắc rối cho bạn. Họ giúp chỉ trong một điều:

họ làm cho bạn nhận biết nhiều thế về rắc rối mà tình

yêu đem lại, hay cái tới trong việc thức dậy của tình

yêu, rằng bạn bắt đầu nghĩ tới tôn giáo, Thượng đế,

thiền. Tất cả những điều lớn lao này sẽ không có thể

được nếu không có đàn bà. Những người bắt đầu nghĩ

về tất cả những điều lớn lao này đều là những người

đã bị đàn bà hành hạ. Đây là chỗ trốn của họ, những

con đường trốn chạy, để cho họ có thể dung thứ được

bất kì cái gì đang xảy ra xung quanh. Họ có thể hi

vọng về thiên đường ở đâu đó sau cái chết. Họ mất tất

cả hi vọng trong cuộc sống bởi vì họ biết bất kì chỗ

nào họ tới đàn bà nào đó cũng sẽ tạo ra rắc rối cho họ.

Dường như Thượng đế làm ra đàn ông một mình

trước nhất. Ngài đã làm ra Adam, nhưng nếu đàn ông

mà một mình ở đây anh ta sẽ không bao giờ nghĩ tới

Thượng đế. Ngài đã làm ra đàn bà - đàn bà là người

nhắc nhở thường xuyên. Cô ấy không bao giờ để bạn

yên, cô ấy buộc bạn tin vào địa ngục. Và một khi bạn

tin vào địa ngục bạn phải tin vào cõi trời nữa.

Devo, chẳng cái gì sai với bạn, nhưng nếu bạn

muốn sống với tỏi, bạn phải từ bỏ cuộc sống. Quí bà

Anh có thể đúng theo nghĩa: bạn phải là người

nguyên thuỷ, bạn phải đi vào hang động, xa khỏi nhân

loại nhất có thể được. Tỏi đơn giản là nguy hiểm cho

bất kì giao cảm nào, cho bất kì trao đổi nào. Nó rất

mang tính thuốc; nó sẽ giữ bạn mạnh khoẻ và nó sẽ

giữ bạn sống lâu hơn bạn sống nếu không có nó. Hay

có thể bởi vì bạn sẽ phải sống một mình nên cuộc

sống của bạn sẽ có vẻ dài hơn!

Nếu bạn muốn thêm lời khuyên về tỏi bạn có thể

hỏi Maitreya - anh ấy là chuyên gia về tỏi và mọi

phẩm chất lớn lao của nó. Tôi chưa bao giờ nếm nó

cả, cho nên bất kì điều gì tôi nói cũng không thật tin

cậy mấy. Và tôi chưa bao giờ cho phép bất kì người

nguyên thuỷ nào ở gần tôi. Bạn biết người hít ma tuý

của tôi đấy! Không người nào ăn tỏi đã bao giờ có

khả năng tới gần tôi! Tỏi là tốt nhưng có chút ít vô

nhân: nó là tốt cho bạn, nhưng xấu cho mọi người

khác.

#8Câu hỏi thứ tư:

Thưa Thầy kính yêu,

Hồn nhiên trong người lớn có thể xảy ra mà

không có nhận biết không?

Anand Manuel, không thể nào có chuyện hồn

nhiên xảy ra cho người lớn mà không có nhận biết.

Nhận biết chỉ là phương pháp có thể giúp bạn phá huỷ

tất cả các ước định mà xã hội đã áp đặt lên bạn. Xã

hội đã thôi miên bạn, nhưng thôi miên được thực hiện

theo cách tinh vi, trong thời gian lâu thế, và nó bắt

đầu khi bạn còn nhỏ tới mức bạn chưa bao giờ trở nên

nhận biết về nó. Bạn bị thôi miên bằng sữa của mẹ

bạn, bạn được cho đủ mọi loại ước định, và những

ước định đó phá huỷ hồn nhiên của bạn.

Chừng nào bạn còn chưa trở nên nhận biết, bạn sẽ

không có khả năng thấy rằng bạn là con người bị ước

định, rằng bạn đang sống với các ý tưởng vay mượn -

ý tưởng đã từng bị người khác áp đặt lên bạn chống

lại ý chí của bạn - rằng bạn gần như là tù nhân. Không

phải là bạn sống trong tù, mà bạn sống trong ý thức

hệ, cái chính là nhà tù tinh vi. Bạn là người Hindu -

làm sao bạn có thể hồn nhiên được? Bạn là người Ki

tô giáo - làm sao bạn có thể hồn nhiên được? Ý thức

hệ giữ bạn xa khỏi hồn nhiên; nó làm cho bạn thông

thái, và tính thông thái là điều duy nhất phá huỷ hồn

nhiên. Nó tước mọi ngạc nhiên khỏi bạn.

Có hàng triệu người không cảm thấy ngạc nhiên

gì trong cuộc sống. Họ sẽ thấy hoa hồng và vậy mà họ

sẽ không thấy gì cả - không cái đẹp, không kính nể.

Họ thậm chí sẽ không dừng lại một khoảnh khắc. Hoa

hồng dường như không có thông điệp nào cho họ, cứ

dường như họ đã không nhìn thấy nó chút nào.

Mọi ngày bạn đi qua cây đẹp, chim hót trong ánh

mặt trời buổi sáng sớm, hoa toả ra hương thơm,

nhưng bạn như robot. Bạn cứ huyên thuyên bên trong

tâm trí mình, chuyện này chuyện nọ... bạn cứ nói mãi

nói hoài. Và điều bạn huyên thuyên bên trong đã bị

đặt vào trong bạn. Tâm trí bạn đã bị dùng như chiếc

máy tính: hệt như họ nạp vào máy tính, họ đã nạp vào

bạn.

Ở nước Nga cộng sản họ sẽ nạp vào bạn chủ

nghĩa cộng sản. Họ cũng sẽ dạy bạn ba ngôi thiêng

liêng, ba ngôi thiêng liêng của riêng họ. Họ sẽ dạy

bạn Kinh Thánh riêng của họ, họ sẽ dạy bạn tôn giáo

riêng của họ. Chủ nghĩa cộng sản là tôn giáo, cái thay

thế cho các tôn giáo khác. Marx, Engels, Lenin, đó là

ba ngôi của họ; Das Kapital là Kinh Thánh của họ. Và

họ tin vào tất cả những điều này cuồng tín như bất kì

người Cơ đốc giáo nào, bất kì người Hindu nào, bất kì

người Mô ha mét giáo nào. Người Mô ha mét giáo tin

vào Kaaba và người cộng sản tin vào Kremlin. Đối

tượng khác nhau, nhưng niềm tin có đó. Cả hai đều

thông thái, cả hai đều đã đánh mất sự thuần khiết của

họ, sự hồn nhiên của họ, phẩm chất như trẻ con của

họ.

Một khi bạn đầy tri thức bạn nghĩ bạn biết tất cả

mọi câu trả lời. Bạn không biết gì bởi vì chừng nào

bạn còn chưa biết tới bản thân mình, chẳng cái gì

được biết tới cả. Và cái đẹp của việc tự biết mình là ở

chỗ nó làm sâu sắc hơn điều bí ẩn của cuộc sống, nó

không giải bí ẩn đi; nó làm cho bí còn bí ẩn hơn, nó

làm cho bí ẩn còn huyền bí hơn. Con người của trí

huệ, người đã đào sâu vào trong tâm thức của riêng

mình, trở nên ngày một đầy những ngạc nhiên và kính

nể. Nhưng người thông thái bình thường sống trong

vô nhận biết tuyệt đối; không cái gì làm cho người đó

ngạc nhiên. Người đó biết mọi câu trả lời.

Một gã bước vào một nhà hàng và gọi miếng bít

tết.

"Ông muốn nấu nó như thế nào?" người phục vụ

hỏi.

"Tôi muốn nó nấu chín, có anh đào nghiền rắc lên

trên. Rồi cho một chút nước cà chua ướp lên nó và rắc

vào nó hạt tiêu."

Người phục vụ đem thức ăn lên.

"Ông có thích bữa tối này không?" người phục vụ

hỏi khi nó vừa ăn xong.

"Ngon lắm," gã đáp. "Nhân tiện, anh có nghĩ đây

là món rất kì quặc không?"

"Không," người phục vụ đáp, "tôi thích món bít

tết theo cùng cách mà."

Người phục vụ biết quá nhiều về bít tết - anh ta

không nhìn vào gã này chút nào.

Đã hai giờ sáng mà Gedalia kẻ trộm vẫn đang cố

phá vào nhà. Anh ta thử mọi cửa và cửa sổ nhưng anh

ta không thể cạy được cửa nào mở ra. Một cách thận

trọng anh ta trèo lên ban công tầng hai. Nhòm qua cửa

sổ đã khó, anh ta thấy một đứa bé mới sinh đang nằm

trong cũi. Đến lúc này anh ta hoàn toàn thất vọng nên

anh ta quyết định tranh thủ sự giúp đỡ của đứa nhỏ.

"Hu-hu, bé con," anh ta gọi một cách dịu dàng.

"Bé tí này ê ê, đi ra mở cửa sổ cho bác yêu đi?"

"Mở cửa sổ à?" đứa bé la lên. "Sao bác ngu thế,

cháu thậm chí chưa thể bước đi được!"

Đứa trẻ con không thể bước đi được, nhưng nó đã

trở nên thông thái, nó có thể nói.

Bạn có tất cả để trở nên thông thái. Bạn không

biết gì và vậy mà bạn đầy tri thức. Tri thức của bạn

đơn giản bao phủ dốt nát của bạn, nó không làm cho

bạn trí huệ. Nó đơn giản làm cho ngu xuẩn của bạn

được trang điểm thêm chút ít, được đánh bóng thêm

chút ít.

Một thanh niên có vấn đề đi tới khám bác sĩ. Bác

sĩ bảo anh ta cởi quần áo ra để khám, rồi nói, "À, anh

có sáp nến da cam trong rốn phải không? - tôi biết về

vấn đề này rồi. Mới hôm nọ một cô gái tới gặp tôi; cô

ấy cũng có sáp trong rốn - bởi vì bạn trai của cô ấy

thích ăn với ánh sáng nến. Bạn gái của anh cũng thích

ăn với ánh sáng nến phải không?"

"Không," người này nói, "cô ấy cần nến để tìm

nó."

Cứ nhìn và mọi sự, đừng đem tri thức của bạn

vào, và bạn có thể bao giờ cũng trong ngạc nhiên.

Bạn hỏi tôi, "Hồn nhiên không thể xảy ra trong

người lớn mà không có nhận biết sao?"

Điều đó là không thể được. Bắt đầu của hồn nhiên

trong người lớn là nhận biết rằng bạn bị ước định.

Hàng triệu người không nhận biết rằng họ bị ước

định. Nếu bạn không biết rằng bạn đang trong tù, sao

bạn phải cố thoát ra khỏi nó ngay chỗ đầu tiên?

Mới hôm nọ tôi bắt gặp một tờ báo. Biên tập viên

tờ báo đó phải đã ở đây, anh ấy phải đã nghe một

trong các bài nói của tôi. Anh ấy bình luận rằng bất kì

điều gì tôi nói cũng đều chống lại văn hoá Ấn Độ - cứ

dường như điều đó là đủ để phê phán tôi, rằng điều đó

là chống lại văn hoá Ấn Độ! Anh ấy coi như hiển

nhiên rằng bất kì cái gì chống lại văn hoá Ấn Độ đều

nhất định sai. Nhưng ai đã nói rằng tôi không chống

lại văn hoá Ấn Độ? Tôi chống lại tất cả các thứ mục

ruỗng - Ấn Độ, không Ấn Độ, chả tạo khác biệt gì!

Tôi chống lại chính ý tưởng về văn hoá Ấn Độ và văn

hoá Trung Quốc và văn hoá Nhật Bản. Tôi chống lại

chính ý tưởng về phân chia nhân loại và tôi chống lại

quá khứ. Tôi không ở đây để hỗ trợ cho văn hoá Ấn

Độ. Cho nên đó không phải là phê bình tôi - thực tế

đó là ca tụng!

Tôi chống lại tất cả những cái mà chết. Người ta

không nên mang xác chết mãi mãi, chúng nên được

đem chôn hay thiêu. Tôi không tin vào bất kì văn hoá

nào và tôi không tin vào bất kì nước nào và tôi không

tin vào bất kì nòi giống nào và tôi không tin vào bất kì

tôn giáo nào.

Tôi tin vào tính tôn giáo, tôi tin vào tính có văn

hoá, tôi tin vào nhân loại. Nhưng nhân loại không

phải là người Ấn Độ, tính tôn giáo không phải là Ki tô

giáo hay Hindu hay Mô ha mét giáo, tính có văn hoá

chẳng liên quan gì tới bất kì nước nào. Nó là ân huệ

tới qua thiền, qua nhận biết. Nó là cái đẹp xảy ra cho

bạn khi bạn trở nên được bắt rễ trong tâm thức của

mình, khi bạn được lắng đọng trong tâm thức của

mình, khi không cái gì có thể làm sao lãng bạn khỏi

tâm thức của mình.

Vâng, mọi người đều phải lại trở thành đứa trẻ lần

nữa, nhưng làm sao người đó sẽ trở thành đứa trẻ lần

nữa? Ngoại trừ qua việc trở nên nhận biết không có

cách nào khác. Đầu tiên, trở nên nhận biết về các ước

định của bạn - và có cả nghìn lẻ một tầng ước định -

và khi bạn nhận biết, thế thì dần dần, dần dần tự mình

thoát khỏi mọi ước định. Vứt bỏ các ước định đó, trở

nên được giải thôi miên, cho nên không tầng bụi nào

còn lại trên tấm gương của bản thể bạn. Khi không có

tầng bụi nào trên tấm gương của bản thể bạn, bạn sẽ

có khả năng phản xạ cái đang đó - và đó là Thượng đế

và đó là chân lí và đó là niết bàn.

Nhưng bạn đang hỏi câu hỏi này để cho bạn có

thể né tránh nhận biết. Bạn muốn tìm lối tắt nào đó tới

hồn nhiên. Không có lối tắt; nhận biết không thể bị né

tránh. Nhận biết là phương pháp duy nhất - để tôi

nhắc lại, phương pháp duy nhất - điều có thể cắt đi từ

chính gốc rễ mọi ước định và có thể làm cho bạn tự

do khỏi nhà tù bạn đang sống trong đó. Và chính vấn

đề duy nhất là ngày càng trở nên nhận biết hơn;

không cái gì khác có thể giúp bạn được. Tôi không

thể làm được điều đó cho bạn, không ai khác có thể

làm điều đó được cho bạn. Nếu ai đó khác làm điều

đó cho bạn, bạn sẽ bị tái ước định lần nữa. Nhớ lấy

điều đó, bạn phải được giải ước định, không bị tái ước

định. Đó là điều đang xảy ra: người Ki tô giáo trở

thành người Hindu; tất nhiên người đó trở nên được

giải ước định như người Ki tô giáo, nhưng người đó

trở nên bị tái ước định như người Hindu.

Nỗ lực của tôi ở đây là để giải ước định cho bạn,

để giúp bạn được giải ước định, và không tái ước định

bạn lần nữa. Nỗ lực của tôi là để cho bạn trong tự do

toàn bộ; thế thì bạn phải quyết định làm gì cho cuộc

sống của bạn. Bạn là người chủ cuộc sống của mình;

tôi có thể đơn giản cho bạn vài chỉ dẫn về cách gạt bỏ

tất cả những cái vô nghĩa đã từng bị áp đặt lên bạn.

Một khi bạn tự do với mọi cái vô nghĩa đó, tôi sẽ

không cho bạn bất kì chỉ dẫn khẳng định nào về cái gì

phải làm hay cái gì không làm, bởi vì điều đó sẽ là tái

ước định lần nữa.

Cho nên nhận biết sẽ giúp bạn theo hai cách: thứ

nhất nó sẽ giúp bạn trở nên được giải ước định và thế

rồi nó sẽ giúp cho bạn tìm ra cách thức và phương

tiện để sống cuộc sống của bạn. Nó sẽ là cách duy

nhất để giải ước định và cách duy nhất để tìm ra

phong cách sống mới, tầm nhìn mới về cuộc sống.

#8Câu hỏi thứ năm:

Thưa Thầy kính yêu,

Tôi chẳng mấy chốc sẽ rời đi trên cuộc hành trình

với Radha. Trước khi nghe nói về kinh nghiệm du

hành của thầy với cô ấy tôi cảm thấy tự tin và an

toàn về hành lí của chúng tôi, nhưng bây giờ thầy

có cho rằng tôi cần Sarjano cũng cùng đi với

chúng tôi không?

Anand Amito, không, dứt khoát không! Sarjano

có thể giúp cứu hộp và túi của bạn, nhưng về Radha

thì sao? Radha sẽ bị nguy hiểm. Tốt hơn cả là cứ mạo

hiểm va li đi - bạn sẽ không có khả năng cứu Radha

khỏi Sarjano. Tránh Sarjano ta, cho dù anh ấy muốn

tới. Chắc chắn anh ấy sẽ giúp bạn cứu va li, nhưng

Radha sẽ đi đời.

Cho nên điều đó là tuỳ ở bạn. Nếu bạn quá gắn bó

với va li của mình, thế thì bạn có thể đem Sarjano đi

cùng bạn; ngoài ra, sự vụ đó sẽ không xảy ra mọi lần

đâu. Và nó là cuộc hành trình hư cấu mà tôi đã nói tới

- bạn đi cuộc hành trình thực. Trên cuộc hành trình

thực mọi sự như thế không xảy ra....

Câu hỏi thứ sáu:

Thưa Thầy kính yêu,

Thầy có thực biết người Italy không? Thế thì xin

nói cho tôi từ Italy nào dành cho tủ lạnh và cũng

từ Italy nào dành cho gái xinh.

Satyam, tôi không biết mấy về người Italy đâu,

nhưng tôi sẽ cố hết sức. Từ Italy cho tủ lạnh là 'hộp

đá-a', và từ Italy cho gái xinh là 'hộp xinh-a'!

Câu hỏi cuối cùng:

Thưa Thầy kính yêu,

Có hi vọng nào cho ai đó từ Mĩ không? Về người

tới từ California thì sao, nhưng là người Anh và

người Đức; có bố dượng người Scotland và mẹ

người Do Thái; trông như người Thuỵ Điển và

cảm giác như người Italy?

T.B.: Và sống với người Polack Do Thái Nga New

York!

Anupama, bạn hoàn toàn là đống lộn xộn! Chứng

ngộ là tuyệt đối chắc chắn!

Đủ cho hôm nay.

**************************************************************************************************************

#9Tai hại làm sao!

Người chủ từ bỏ điều hại.

Người đó thanh thản.

Người đó bỏ lại mọi thứ đằng sau mình.

Người đó không xúc phạm

và người đó không cho điều đó.

Người đó không bao giờ lấy ác báo ác.

Chao ôi với người

giơ tay ra chống lại người khác,

và thậm chí nhiều hơn cho người đó

người nhận lại cú đánh.

Chống lại hoan lạc của cuộc sống

và ham muốn gây tổn thương -

cho tới khi nỗi buồn tan biến.

Đừng bao giờ xúc phạm

bởi điều ông nghĩ hay nói hay làm.

Kính trọng người thức tỉnh

và chỉ cho ông con đường.

Kính trọng ngọn lửa của hi sinh của người đó.

Tóc hoa râm hay gia đình hay đẳng cấp

không tạo ra người chủ

nhưng chân lí và lòng tốt

với điều đó người đó được ân huệ.

Tóc ông rối

và ông ngồi trên da hươu.

Ngu làm sao!

Khi bên trong ông phát rồ với thèm khát.

Quần áo của người chủ rách rưới.

Mạch của người đó lồi ra,

người đó ốm yếu gầy mòn.

Một mình trong rừng

Người đó ngồi và thiền.

Hank cưỡi ngựa đi qua vùng bãi thả súc vật, vừa

hát vừa kêu ư ử. Bỗng nhiên ngựa anh lồng lên và

dừng lại. Ở trước họ là một con rắn khổng lồ. Hank

rút súng ra và định bắn thì con rắn kêu lên, "Đừng

bắn! Nếu ông tha mạng tôi, tôi có quyền năng ban cho

ông ba điều ước tuỳ ý ông!"

"Được," Hank nói, hình dung ra mình chẳng có gì

mà mất. "Điều ước thứ nhất của ta là đẹp trai như

Paul Newman. Điều thứ hai ta muốn có thân thể cơ

bắp như Muhammad Ali. Và điều ước cuối cùng của

ta là được trang bị như con ngựa của ta đây!"

"Điều ước được ban!" con rắn nói. "Khi ông thức

dậy ngày mai ông sẽ có tất cả những điều này."

Sáng hôm say Hank thức dậy và chạy xô lại

gương. Chắc chắn, anh ta có khuôn mặt như Paul

Newman và thật sung sướng anh ta thấy đôi vai rộng

và cánh tay như Muhammad Ali. Thế rồi thoáng nhìn

xuống dưới trong kích động lớn anh ta buông ra tiếng

hú kinh hoàng, "Chết cha rồi, mình quên sạch!" anh ta

bập bẹ. "Hôm qua mình cưỡi con ngựa cái Nellie!"

Con người sống gần như trong một loại giấc ngủ

sâu. Người đó không nhận biết mình là ai, mình đang

làm gì, mình đang nghĩ gì, mình đang đi đâu, sao

mình đi. Cả đời người đó là đời của kẻ mộng du,

người vừa ngủ vừa đi. Người đó hoàn toàn vô ý thức.

từ vô ý thức này nảy sinh cả nghìn lẻ một điều tai hại;

không phải là người đó chủ ý muốn làm những điều

đó, người đó không thể tránh được chúng. Vấn đề

không phải là quyết định của người đó để dừng việc

gây hại; đó là vấn đề về nhận biết của người đó. Nếu

người đó nhận biết, điều tai hại biến mất như bóng tối

biến mất khi bạn đem ánh sáng vào. Nếu người đó

không nhận biết người đó có thể nghĩ mình đang làm

điều gì đó tốt, người đó có thể tin bằng cả trái tim

mình rằng mình đang làm điều gì đó tốt, nhưng người

đó sẽ làm cái gì đó tai hại. Ích lợi toàn bộ của cuộc

sống của người đó sẽ là hỗn độn nhiều hơn trên thế

giới.

Bạn có thể quan sát những người làm điều tốt: họ

tất cả đều cố gắng giúp đỡ, họ tất cả đều cố gắng phục

vụ; họ làm thành vấn đề là cả cuộc sống của họ phải

là cuộc sống phục vụ. Nhiều công bộc thế trên thế

giới, nhiều nhà truyền giáo thế, nhiều nhà cải cách xã

hội thế, nhiều nhà cách mạng vĩ đại thế - và nhìn vào

hình dạng thế giới đang trong đó. Nó có thể còn trong

đống lộn xộn hơn được không? Đây là kết quả của tất

cả những nỗ lực lớn lao của bạn, của tất cả các thánh

nhân vĩ đại của bạn. Cây được biết tới bởi quả, và mọi

tôn giáo của bạn và mọi thánh nhân của bạn và những

người linh thiêng chỉ có thể được biết tới bởi thế giới

mà họ đã giúp tạo ra. Nó là thế giới xấu nhất có thể

được.

Không phải là Thượng đế chịu trách nhiệm đâu -

Thượng đế đã làm ra một thế giới đẹp. Công trình của

ngài đẹp vô cùng: cây, hoa, sông, núi, sao. Nhưng thế

giới mà con người đã làm ra, cấu trúc xã hội mà con

người đã tạo ra tất cả đều xấu, bạo hành, tai hại hoàn

toàn. Nhưng mọi cái xấu có thể được làm nhân danh

cái tốt.

Adolf Hitler đã không cố gắng có ý thức để làm

điều ác, nhớ điều đó. Ông ấy không chủ ý phá huỷ;

ông ấy nghĩ ông ấy đang cố gắng giúp nhân loại. Ông

ấy nghĩ ông ấy đang cố gắng đem con người tốt hơn

vào trong thế giới - siêu nhân. Ông ấy tin tưởng sâu

sắc vào triết học của Friedrich Nietzsche về siêu nhân

và ông ấy cũng tin rằng người Đức thực sự là siêu

nhân, rằng họ được quyền cai trị thế giới.

Và không phải là ông ấy đã lừa ai; ông ấy hoàn

toàn tin chắc vào sự kiện này. Đó không phải là hư

cấu cho ông ấy, đó đã là sự kiện rằng giống nòi Đức

là dòng giống Aryan thực sự, rằng người Bắc Ấu là

người thuần khiết nhất trên thế giới. Ông ấy có thể

ảnh hưởng tới hàng triệu người rất thông minh bởi lẽ

đơn giản là ông ấy tin chắc vào điều ông ấy nói và

làm. Việc tin chắc của ông ấy đã thôi miên. Ông ấy

không phải là người của thông minh lớn, ông ấy hoàn

toàn tầm thường, nhưng một điều có đó: ông ấy đã tin

chắc rằng chỉ qua ông ấy thì thế giới mới có thể được

làm thành chỗ tốt hơn để sống. Bằng việc giết hàng

triệu người Do Thái, ông ấy không nghĩ rằng ông ấy

làm bạo hành gì - ông ấy đang phục vụ nhân loại, ông

ấy đang loại bỏ kẻ thù của nhân loại. Và vấn đề không

phải là việc ông ấy lừa phỉnh bất kì ai - ông ấy vô ý

thức tới mức bản thân ông ấy bị lừa bởi sự tin chắc

riêng của ông ấy.

Adolf Hitler đã gây ra mối hại lớn - tất cả các

chính khách đều làm vậy. Và họ bao giờ cũng làm

điều đó đằng sau những khẩu hiệu: chủ nghĩa xã hội,

dân chủ, bình đẳng và mọi thứ linh tinh. Họ tất cả đều

cố gắng cải tiến thế giới, nhưng kết quả toàn bộ là

ngày càng lẫn lộn và hỗn độn hơn. Thế giới đáng là

chỗ tốt hơn nhiều nếu chúng ta có thể đủ tỉnh táo

không nghe theo những kẻ mất trí này. Nhưng chúng

ta cũng ngủ. Điều họ nói hấp dẫn chúng ta; nó có từ

tính lớn trong nó.

Thực tế, vị Phật nhất định bị hiểu lầm, không phải

Adolf Hitler; một Jesus nhất định bị hiểu lầm, nhưng

không phải Joseph Stalin. Joseph Stalin, Adolf Hitler,

Benito Mussolini, họ nói ngôn ngữ bạn có thể hiểu

được. Họ là những người cũng như bạn; họ sống

trong cùng loại giấc ngủ. Do đó có trao đổi giữa bạn

và họ, điều bị thiếu giữa bạn và một Phật, giữa bạn là

một Lão Tử.

Phật đứng trên đỉnh Everest còn bạn sống trong

thung lũng tối tăm xa bên dưới. Bạn không nhìn lên,

bạn đã quên mất cách nhìn lên. Bạn bò trong bùn.

Những người đang bò bên cạnh bạn có thể được bạn

hiểu dễ dàng hơn. Họ nói cùng ngôn ngữ của bạn, họ

nói cùng thành ngữ của bạn; họ hoà hợp hoàn hảo với

bạn. Họ không phải là người khác. Nhưng một Phật,

một Krishna, một Mohammed, những người này là

những người khác. Họ nói ngôn ngữ khác, từ chiều

cao khác, từ tầm nhìn khác - mặc dầu họ dùng cùng

lời. Nhưng họ cho nghĩa khác với lời của bạn, và bạn

lại bỏ lỡ những nghĩa đó.

Thiền về điều này:

"Sao em không, cưng?"

"Em quá mệt."

"À, lại thế rồi...."

"Để em yên!"

"Anh sẽ không thể ngủ được!"

"Vâng, em không thể ngủ được bây giờ."

"Xin em."

"Sao thế - giữa đêm khuya khoắt thế này?"

"Vì anh dê."

"Anh dê lên vào nhiều lúc quá lắm!"

"Em không yêu anh!"

"Có, em yêu...."

"Nếu em yêu anh em sẽ làm nó chứ."

"Này, chết tiệt - thôi được."

"Có chuyện gì?"

"Anh không thể tìm được nó."

"Thế cảm thấy tốt hơn."

"Nó phải vậy chứ - nó tất cả đều là cách lên."

"Thế là đủ rồi; cám ơn em."

"Lần sau, tự mở cửa sổ đáng ghét đó ra!"

Và mọi lúc, bạn đã nghĩ gì?

Phật nói:

Người chủ từ bỏ điều tai hại.

... Bởi vì người chủ từ bỏ tâm trí. Tâm trí là mối

hại; không có mối hại khác. Tâm trí là cội nguồn của

mọi điều tai hại. Người chủ là người chủ bởi vì người

đó đã dừng bị tâm trí chi phối. Người chủ là người

chủ của bản thân mình; người đó không còn vô ý

thức. Bất kì cái gì người đó làm, người đó đều làm nó

một cách có chủ ý. Bất kì cái gì người đó là, người đó

hoàn toàn nhận biết về nó. Cuộc sống của người đó

không ngẫu nhiên. Mọi hành động của người đó đều

được bắt rễ trong tâm thức, nó là có chủ định.

Chúng ta sống trong tâm trí. Tâm trí thậm chí có

thể trở thành thánh nhân, có thể giả vờ là linh thiêng,

nhưng nó sẽ không là vậy. Điều đó là không thể được;

là linh thiêng không phải là chính bản chất của tâm

trí. Cứ nhìn vào lịch sử các tôn giáo mà xem - chúng

đầy chém giết. Thực tế tội ác đã bị phạm phải nhân

danh tôn giáo còn nhiều hơn nhân danh bất kì cái gì

khác. Thậm chí nhiều người đã bị giết, bị tàn sát nhân

danh tôn giáo, Thượng đế, chân lí, Ki tô giáo, Hồi

giáo, hơn nhân danh ý thức hệ chính trị. Tôn giáo

đứng đầu danh sách. Tôn giáo đã từng gây tai hại hơn

nhiều; nó thậm chí đã đánh bại các chính khách. Nó

có thể đánh bại họ bởi lẽ đơn giản là chính khách

không thể che giấu bản thân mình được rất lâu; chẳng

chóng thì chầy ông ta bị phơi bầy ra. Nhưng người

tôn giáo có thể che giấu bản thân mình trong nhiều

thế kỉ và bạn sẽ không bao giờ biết.

Những người đã đóng đinh Jesus thậm chí vẫn

chưa hiểu rằng họ phạm tội. Tôi không bắt gặp một

người Do Thái nào chấp nhận điều đó một cách có ý

thức, rằng đóng đinh Jesus là tội ác. Và không phải là

không có người Do Thái tốt, không phải là không có

người Do Thái thánh thiện, không phải là không có

các giáo sĩ có học... có những người rất ngoan đạo.

Ngay cả người như Martin Buber cũng không thể thu

được dũng cảm để nói, "Chúng tôi đã phạm phải tội

ác trong quá khứ." Không, điều đó dường như không

thể được. Tội là thuộc phần Jesus bởi vì ông ấy đã cố

tuyên bố bản thân mình là Con của Thượng đế. Đó là

tội: rằng ông ấy đã cố phóng chiếu hình ảnh của mình

như vị cứu tinh, như sứ giả của Thượng đế. Đó là tội

và ông ấy đã bị trừng phạt đúng - người Do Thái tuyệt

đối tin chắc vào điều đó.

Hai nghìn năm đã qua rồi; tôi đã không bắt gặp

một cuốn sách nào do một người Do Thái viết mà có

thể chấp nhận rằng "Chúng ta đã phạm sai lầm."

Dường như điều đó là không thể được. Họ không thể

thấy được điều đó bởi vì tội này đã bị phạm phải nhân

danh tôn giáo.

Hàng nghìn người Ki tô giáo đã bị người Mô ha

mét giáo giết chết, và ngược lại. Và những cuộc chiến

tranh này đã được gọi là thánh chiến jihads - chiến

tranh linh thiêng. Bây giờ, không cuộc chiến tranh

nào đã từng linh thiêng cả, không cuộc chiến tranh

nào là jihad; mọi cuộc chiến tranh đều không linh

thiêng. Cớ nào bạn tìm ra, đó là vấn đề khác; đó chỉ là

cớ để đánh nhau. Bạn muốn đánh nhau, bạn muốn

giết người và phá huỷ. Bạn tìm ra những cớ hay, cớ

đẹp - chiến tranh linh thiêng... và cả triệu người bị

tiêu diệt.

Trong những cuộc chiến tranh linh thiêng này

hàng triệu đàn bà bị cưỡng hiếp; bây giờ, cưỡng hiếp

đó là linh thiêng. Nếu giết người là linh thiêng, sao

cưỡng hiếp không? Điều đó nữa cũng linh thiêng - nó

được thực hiện nhân danh tôn giáo. Mọi thứ được làm

nhân danh tôn giáo đều tốt.

Thánh nhân của bạn, người trông linh thiêng và

ngoan đạo thế, là nguyên nhân của tất cả những điều

vô nghĩa này, của tất cả những phiền toái này trong

thế giới. Khi nào bạn sẽ gạt bỏ tất cả những cái ngu

xuẩn này? Con người còn chưa đủ chín chắn sao?

Thời gian còn chưa tới để chúng ta gạt bỏ tất cả

những ngu xuẩn này vẫn còn mạnh mẽ tràn nhập

nhiều thế kỉ sao? Không phải là thời gian đã chín

muồi để ngắt bản thân chúng ta với quá khứ sao?

Nhưng cách duy nhất để ngắt bản thân bạn với

quá khứ là ngắt bản thân bạn với tâm trí bạn bởi vì

tâm trí bạn là quá khứ. Tâm trí nghĩa là cái biết, quá

khứ. Tâm trí là lịch sử, tâm trí là thời gian. Tâm trí là

người Ki tô giáo, Hindu, Mô ha mét giáo, tâm trí là

người Ấn Độ, người Đức, người Trung Quốc. Và

chừng nào bạn còn chưa thoát ra khỏi sự nắm giữ của

tâm trí, bất kì cái gì bạn làm cũng sẽ là điều tai hại.

Nó có thể hay không thể xuất hiện tác hại cho bạn -

đó là vấn đề khác - nhưng nó sẽ là điều hại. Từ tâm trí

không cái gì tốt có thể xảy ra.

Tốt là sản phẩm phụ của thiền, và xấu, sản phẩm

phụ của tâm trí.

Một người nói với Mulla Nasruddin, "Người bạn

lớn của anh, luật sư, là thế nào?"

Mulla nói, "Tôi sợ anh ấy đang nói dối tại cửa tử."

"Những luật sư này! Tại cửa tử và vẫn nói dối

sao?"

Đó là trạng thái của tâm trí: nó cứ dối trá ngay tại

cửa tử. Thực tế, khi cái chết tới gần bạn hơn, bạn bắt

đầu dối trá ngày một nhiều hơn, bạn bắt đầu lừa dối

bản thân mình bằng nhiều hư cấu hơn, bạn bắt đầu tạo

ra huyền thoại xung quanh bạn về Thượng đế, về cõi

trời, về địa ngục. Bạn bắt đầu tạo ra mơ mộng và bạn

bắt đầu sống trong mơ bởi vì cả đời bạn bị tan tành.

Bạn đã làm phí hoài cơ hội. Bạn đã không sáng tạo,

bạn đã có tính phá huỷ.

Và nhớ lấy, không ai có thể trung lập được. Hoặc

bạn tạo ra cái gì đó hoặc bạn phá huỷ; hoặc bạn sống

trong tâm trí hoặc bạn sống bên ngoài tâm trí. Nếu

bạn sống bên ngoài tâm trí bạn trở nên sáng tạo. Ở

trong thiền là có tính sáng tạo. Thế thì bất kì cái gì

bạn làm cũng đều đẹp; nó đem tới huy hoàng hơn,

phúc lành hơn cho thế giới. Bằng không bất kì điều gì

bạn làm cũng đều sẽ làm cho thế giới xấu hơn.

Bàn và ghế đang trong tình yêu sâu sắc. Chúng

quyết định lấy nhau và trong quá trình đó chúng có kẻ

mới tới.

"Chúng ta sẽ đặt tên thánh cho nó là gì?" ghế hỏi.

"Bế," đó là lời đáp logic của bàn.

Tất nhiên con của bàn và ghế nên được gọi là bế.

Và đó là điều mọi người đang làm: họ cứ tạo ra bế.

Điều đó dường như là năng suất duy nhất của họ: tất

cả mọi điều họ có thể làm là sinh sản ra nhiều con

hơn.

Một người đàn bà bảo tôi, "Tôi ghét chồng tôi! Từ

chính tận tâm can tôi," cô ấy nói, "Tôi ghét chồng tôi!

Tôi sợ một ngày nào đó tôi có thể giết anh ấy, có thể

đầu độc anh ấy!"

Tôi nói, "Nếu chị ghét anh ấy nhiều thế, thì làm

sao chị có đến mười tám đứa con?"

Cô ấy nói, "Tôi cố tạo ra đám đông như thế để

cho anh ta mất hút vào trong đó."

Mọi người ghét và dầu vậy họ vẫn cứ sinh sản bởi

vì ngoài việc sinh sản, họ không biết cách khác.

Rena đi vào văn phòng thư kí để trình báo việc

sinh con thứ sáu của cô ta.

"Nhưng, thưa cô, đây là lần sinh thứ sáu của cô

với cùng người bố," thư kí nói. "Sao cô không cưới

anh ấy?"

"Anh có trêu tôi không đấy'?" Rena đáp. "Tôi

thậm chí không thích cái đồ chó đẻ đó!"

Nhưng mọi người phải làm cái gì đó; họ không

thể chỉ ngồi đó. Họ phải tìm ra cái gì đó để vẫn còn

bận bịu với. Đó là cách tất cả điều tai hại nảy sinh

trong thế giới này.

Phật nói: Người chủ từ bỏ tai hại.

Người đó thanh thản.

Thanh thản là hương vị của thiền, thanh thản là

hương thơm của thiền. Người đó thanh thản thế, im

lặng tới mức người đó có thể tuyệt đối trống rỗng,

không ham muốn làm gì cả. Khi tất cả ham muốn bận

bịu biến mất, chỉ thế thì cái gì đó tốt mới xảy ra qua

bạn, thế thì Thượng đế có thể xảy ra qua bạn - và cái

tốt chỉ xảy ra qua bạn khi Thượng đế xảy ra qua bạn.

Cái tốt không là gì ngoài Thượng đế tuôn chảy qua

bạn.

Người đó thanh thản.

Người đó bỏ lại mọi thứ đằng sau mình.

Người đó bỏ lại quá khứ, người đó bỏ lại tâm trí

mình, người đó bỏ lại kí ức của mình, người đó bỏ lại

truyền thống của mình. Người đó không phải là người

tuân thủ, người đó không thể là người tuân thủ được.

Không người chủ nào đã bao giờ là người tuân thủ;

điều đó sẽ là mâu thuẫn trong thuật ngữ. Người đó

bao giờ cũng là người nổi dậy. Người đó là việc nổi

dậy thuần khiết. Người đó chết đi mọi khoảnh khắc

vào quá khứ; người đó không bao giờ thu thập quá

khứ. Do đó người đó vẫn còn tươi tắn, tươi tắn như

giọt sương trong ánh mặt trời buổi sớm, tươi tắn như

lá sen, tươi tắn như cánh hồng. Người đó bao giờ

cũng tươi tắn, người đó bao giờ cũng trẻ trung; người

đó chưa bao giờ trở nên già. Người đó trưởng thành,

nhưng người đó chưa bao giờ trở nên già. Thân thể tất

nhiên trở nên già, nhưng tâm thức của người đó vẫn

còn tuyệt đối tươi tắn; nó chưa bao giờ thu thập bất kì

bụi hay gỉ nào. Và người đó thanh thản tới mức người

đó có thể ngồi một mình trong vĩnh hằng mà không

có cái gì làm - dầu vậy người đó vẫn tuyệt đối phúc

lạc. Người đó sẽ tận hưởng thanh thản của mình.

Thanh thản này không thể được trau dồi từ bên

ngoài; thanh thản này tới chỉ khi bạn đã trở thành

người quan sát tâm trí, khi bạn đã trở thành nhân

chứng của tâm trí và qua việc quan sát bạn đã siêu

việt lên trên tâm trí. Thế thì bỗng nhiên, chẳng từ đâu

cả, thanh thản bùng nổ từ mọi hướng. Nó mưa rào lên

bạn như hoa và nó cứ mưa rào hoài. Cuộc sống của

bạn vậy là cuộc sống của đức hạnh. Vấn đề không

phải là trau dồi nó, vấn đề không phải là tạo ra nó - nó

là hệ quả của thiền.

Điểm này nên được nhớ lặp đi lặp lại; đừng bao

giờ quên nó, bởi vì nó đã bị quên hàng triệu lần. Lặp

đi lặp lại vị phật tới nhắc nhở bạn nhưng bạn cứ quên

nó, bởi lẽ đơn giản là thanh thản được trau dồi là rẻ

mạt. Bạn có thể trông thanh thản đấy, bạn có thể làm

ra khuôn mặt thanh thản; bạn có thể đóng vai nó, bạn

có thể là diễn viên giỏi, bạn có thể rất hiệu quả, nhưng

điều đó sẽ chẳng là gì ngoài đạo đức giả. Sâu bên

dưới bạn sẽ sôi lên; sâu bên trong bạn sẽ có địa ngục.

Và từ bên ngoài bạn đã bôi nước hoa lên bản thân

mình còn bên trong bạn bốc mùi khắm. Bên trong bạn

níu bám lấy mọi khổ của mình, với quá khứ của mình,

với mọi thứ chết, với mọi thứ mục ruỗng, với mọi thứ

đáng phải đem đi thiêu; bạn níu bám lấy nó. Và

những người níu bám lấy các xác chết dần dần, dần

dần bản thân họ trở thành chết; những người sống với

xác chết bản thân họ trở thành xác chết. Trên bề mặt

bạn có thể mỉm cười, bạn có thể cười; sâu bên dưới

chỉ có nước mắt - nước mắt đau đớn.

Nhưng sự kiện kì lạ này về con người phải được

hiểu: rằng người đó níu bám lấy quá khứ. Cho dù quá

khứ là xấu người đó vẫn níu bám lấy quá khứ, cho dù

người đó chỉ có khổ. Sao người đó níu bám lấy quá

khứ? - bởi vì quá khứ cho người đó định nghĩa, quá

khứ cho người đó căn cước, quá khứ cho người đó ý

tưởng về người đó là ai.

Sau sáu tuần đi xa vì công việc, vị quan chức điều

hành mới cưới vợ vào nhà chứa West Side ở Chicago.

Ông ấy bước tới một bà, đưa cho bà ấy tờ một trăm đô

la và nói, "Tôi muốn người bạn tình tồi nhất trong nhà

này!"

"Nhưng thưa ngài," bà này trả lời, "một trăm đô la

ông sẽ mua được người tốt nhất của chúng tôi."

"Không," nhà kinh doanh yêu cầu, "tôi muốn cái

tồi nhất sẵn có."

"Tôi không thể để ông làm điều này được," người

đàn bà bào chữa. "Ông được quyền có người hàng đầu

cả dãy."

"Nghe đây, thưa bà," người này nói, "Tôi không

có hứng tình đâu, chỉ là nhớ nhà!"

Quan sát tâm trí bạn, cách bạn níu bám lấy quá

khứ. Chả có gì để níu bám cả - chỉ xương khô, bộ

xương, nhưng bạn ôm giữ chúng cứ dường như chúng

là chính cuộc sống của bạn. Và bởi vì bạn giữ chúng,

tay bạn không trống rỗng để giữ được cái gì khác; bởi

vì bạn đang nhìn về quá khứ bạn không thể thấy được

hiện tại và bạn không thể tận hưởng được cái đẹp của

nó, niềm vui của nó. Bạn không thể đi vào trong hiện

tại được - và hiện tại là cánh cửa tới Thượng đế. Quá

khứ không còn nữa.

Và Thượng đế chưa bao giờ là quá khứ, Thượng

đế bao giờ cũng hiện tại. Thượng đế chưa bao giờ là

tương lai, Thượng đế bao giờ cũng hiện tại. Bạn

không thể nói "Thượng đế đã có," bạn không thể nói

"Thượng đế sẽ có," bạn chỉ có thể nói "Thượng đế

có." Thực tế nói "Thượng đế có" là lặp lại bởi vì

Thượng đế nghĩa là đang có đấy rồi; tính có đấy và

Thượng đế là đồng nghĩa.

Phật nói: Người đó bỏ lại mọi thứ đằng sau mình.

Người chủ không thể là người Hindu, không thể

là Phật tử, không thể là người Ki tô giáo. Người chủ

đơn giản là người chủ; những cái tên này chỉ là của nô

lệ. Ai đó là nô lệ nhân danh Ki tô giáo và ai đó là nô

lệ nhân danh Hindu giáo. Đây toàn là nô lệ; họ không

biết tự do là gì. Họ níu bám lấy cái hoàn toàn vô

nghĩa thế, nhưng họ đang níu bám chặt tới mức họ

không thể thấy được cái gì khác. Mắt họ đầy những

bụi của quá khứ. Họ mù bởi vì quá khứ; họ mù không

vì lí do nào khác.

Bạn không bỏ lỡ Thượng đế bởi vì bạn là tội

nhân; bạn bỏ lỡ Thượng đế bởi vì bạn hướng quá khứ.

Và Thượng đế sẵn có chỉ bây giờ... ở đây. Thượng đế

chỉ biết một thời gian, bây giờ, và chỉ một chỗ, ở đây.

Và bạn chưa bao giờ ở bây giờ và bạn chưa bao giờ ở

đây; bạn bao giờ cũng ở đâu đó khác. 'Khi khác' và 'ở

kia' là những từ có ý nghĩa cho bạn; 'bây giờ' và 'ở

đây' gần như vô nghĩa cho bạn.

Người chủ sống bây giờ và sống ở đây. Người đó

bỏ lại mọi thứ đằng sau mình. Người đó cứ phá huỷ

những cây cầu người đó đã đi qua.

Người đó không xúc phạm

và người đó không cho điều đó.

Người đó không bao giờ lấy ác báo ác.

Hiển nhiên, nếu ai đó xúc phạm người đó, người

đó không nhận điều xúc phạm đó. Bạn không thể xúc

phạm được người chủ, điều đó là không thể được.

Làm sao bạn có thể xúc phạm người không nhận sự

xúc phạm đó? Để xúc phạm một người cần có hai

điều: ai đó xúc phạm người đó và sự sẵn sàng của

người đó để nhận việc xúc phạm.

Có lần Phật bị xúc phạm lắm bởi vài người. Họ

lăng mạ ông ấy thậm tệ. Ông ấy im lặng nghe và rồi

ông ấy nói, "Các ông còn gì nữa để nói không? - bởi

vì ta phải sang làng khác đúng giờ. Mọi người phải

đang chờ đợi ở đó. Nếu các ông vẫn có cái gì đó khác

để nói, khi ta quay lại ta sẽ tới vẫn cùng con đường

này và ta sẽ thông báo cho các ông và ta sẽ dành thời

gian đặc biệt cho các ông, cho nên các ông có thể tới

và nói bất kì điều gì các ông thích."

Những người đó phân vân lắm. Họ nói, "Chúng

tôi đâu có nói điều gì đó, chúng tôi xúc phạm ông

đấy!"

Phật cười. Ông ấy nói, "Để làm điều đó thì các

ông đã tới chậm chút ít rồi. Các ông đáng phải tới ít

nhất là từ mười năm trước. Bây giờ ta không ngu như

thế nữa. Các ông có thể xúc phạm, đó là tự do của các

ông, nhưng liệu nhận nó hay không thì đó là tự do của

ta. Ta không nhận nó."

Và ông ấy nói với họ, "Ở làng kia mà ta vừa qua

trước khi tới làng các ông, mọi người tới với bánh kẹo

để cúng dường ta. Ta cám ơn họ. Ta nói, 'Tôi không

cần bánh kẹo và tôi không ăn bánh kẹo.' Các ông nghĩ

xem họ phải đã làm gì với đống bánh kẹo này?"

Ai đó từ đám đông nói, "Họ phải đem chúng về

nhà thôi."

Phật nói, "Bây giờ các ông sẽ làm gì? Các ông sẽ

phải đem xúc phạm về nhà thôi. Ta không nhận xúc

phạm của các ông - không có cách khác, các ông phải

đem chúng về vậy."

Khi bạn cảm thấy bị xúc phạm bạn đã tham gia

với người này rồi. Nhưng bạn không có ý thức, cho

nên bất kì ai cũng có thể nhấn nút của bạn. Bạn vận

hành như cái máy: nhấn nút và bạn bật lên; nhấn nút

và bạn tắt đi. Bất kì ai cũng có thể làm bạn phát rồ,

bất kì ai cũng có thể làm bạn mỉm cười và cười to, bất

kì ai cũng có thể làm bạn khóc và gào. Bất kì ai, bất kì

kẻ ngu nào cũng có thể làm được điều đó! Người ta

chỉ cần biết nút ở đâu - và gần như bao giờ chúng

cũng ở cùng một chỗ. Rất hiếm khi tìm thấy một

người có nút ở chỗ khác.

Một người Polack đang lái chiếc xe Volkswagen,

thì đột nhiên nó dừng lại bởi lí do nào đó. Anh ta

xuống xem - có thể có trục trặc ở động cơ - nhưng

anh ta không thể tìm được động cơ. Cho nên anh ta

nghĩ, "Lạy chúa, động cơ của mình bị đánh cắp rồi!"

Vừa lúc đó một người Polack khác dừng lại bên

cạnh anh ta. Anh ta nói, "Có trục trặc à?"

Người thứ nhất nói, "Vâng, dường như động cơ

của tôi đã bị đánh cắp."

Người này nói, "Đừng lo. Sáng nay tôi đã nhìn

đằng sau xe tôi - có động cơ dự phòng đấy. Anh có

thể lấy nó!"

Bây giờ trong chiếc Volkswagen động cơ không ở

chỗ thông thường; nó ở đằng sau, không ở đằng trước.

Nhưng Thượng đế vẫn chưa học được gì từ xe

Volkswagen - ngài vẫn làm cùng động cơ với cùng

nút, có thể hơi khác chút ít đây đó, có thể chỉ thay đổi

chút ít. Bất kì ai cũng có thể thấy... chỉ chút ít dò dẫm

và bạn có thể thấy nút của bất kì ai khác. Nếu bạn biết

nút của mình, bạn biết nút của mọi người khác.

Bạn sẽ bị khó khăn chỉ với vị phật, bởi vì bạn có

thể cứ nhấn nút của ông ấy và chẳng cái gì sẽ xảy ra

bởi vì ông ấy không còn bị đồng nhất với cơ chế của

mình. Ông ấy sẽ quan sát việc bạn nhấn phím của ông

ấy và ông ấy sẽ thích thú bài tập mà bạn đang cho ông

ấy, nhưng có vậy thôi.

Người đó không xúc phạm và người đó không cho

điều đó. Người đó không bao giờ lấy ác báo ác.

Người đó hiểu nhân loại sâu sắc thế. Bằng việc hiểu

bản thân mình người đó đã hiểu trạng thái khổ của

mọi người. Người đó cảm thấy tiếc cho mọi người;

người đó từ bi. Người đó không lấy ác báo ác bởi lẽ

đơn giản là người đó không cảm thấy bị xúc phạm

ngay chỗ đầu tiên. Thứ hai, người đó cảm thấy tiếc

cho bạn; người đó không cảm thấy đối kháng với bạn.

Một lần chuyện xảy ra ở Baroda:

Tôi đang nói cho một đám đông lớn. Ai đó ngồi

ngay hàng trước trở nên bị rối loạn bởi điều tôi nói,

anh ta trở nên rối loạn bởi điều đó đến mức mất kiểm

soát, anh ta mất ý thức. Anh ta ném một chiếc giầy

vào tôi. Vào khoảnh khắc đó tôi nhớ là tôi thường

chơi bóng chuyền khi tôi còn là sinh viên, cho nên tôi

bắt lấy chiếc giầy của anh ta ngay giữa chừng và hỏi

anh ta về chiếc kia. Anh ta đâm ra lúng túng.

Tôi nói, "Bạn ném nốt chiếc kia nữa đi! Tôi sẽ

làm gì với một chiếc đây? Nếu bạn muốn tặng cái gì

đó...." Anh ta chờ đợi. Tôi nói, "Sao bạn chờ? Ném

nốt chiếc kia đi, bởi vì theo cách này thì tôi không thể

dùng được giầy mà bạn cũng không thể dùng được

nó. Và tôi không định ném trả lại nó, bởi vì điều ác

không nên được báo lại cho điều ác! Cho nên xin bạn

cho chiếc kia nữa."

Anh ta choáng vì anh ta không thể tin được vào

điều đó... đầu tiên, điều anh ta đã làm, anh ta không

thể tin được - anh ta là người rất tốt, một học giả, một

học giả tiếng Phạn nổi tiếng, một bác học. Người ta

không trông đợi anh ta hành xử như thế, nhưng điều

đó đã xảy ra - mọi người vô ý thức thế. Nếu tôi mà

hành động theo cách anh ta mong đợi một cách vô ý

thức, thế thì mọi sự đã ổn thoả. Nhưng tôi đã hỏi về

chiếc giầy kia, và điều đó gây choáng cho anh ta lắm.

Anh ta bàng hoàng.

Tôi bảo ai đó ngồi cạnh anh ta, "Bạn kéo chiếc

giầy kia của anh ấy ra. Tôi không để anh ấy thôi, tôi

muốn cả hai chiếc giầy. Thực tế, tôi đã nghĩ tới việc

mua đôi giầy nào đó, và người này dường như hào

phóng thế!" Và chiếc giầy quả thực mới.

Đêm đó người này tới, quì dưới chân tôi, và xin

tôi tha thứ. Tôi nói, "Bạn quên mọi chuyện đó đi,

không có vấn đề gì cả... Tôi không giận, cho nên tại

sao tôi phải tha thứ cho bạn? Để tha thứ, người ta

trước hết phải giận đã. Tôi đã không giận, tôi thích

thú cảnh này. Thực tế, nó là cái gì đó hay tới mức

nhiều người đã rơi vào giấc ngủ đột nhiên thức dậy!

Tôi đã nghĩ theo cách đó rằng đấy là một ý tưởng hay,

rằng tôi nên cắm và tín đồ của tôi, để thỉnh thoảng họ

có thể ném giầy thế là tất cả những người ngủ thức

dậy. Ít nhất trong vài khoảnh khắc họ sẽ vẫn còn tỉnh

táo vì cái gì đó đang xảy ra! Tôi cám ơn bạn."

Trong nhiều năm anh ta cứ viết thư cho tôi, "Làm

ơn tha thứ cho tôi! Chừng nào thầy còn chưa tha thứ

cho tôi, tôi sẽ cứ còn viết."

Nhưng tôi bảo anh ta, "Trước hết tôi phải giận đã.

Tha thứ cho bạn đơn giản nghĩa là tôi chấp nhận tôi

đã giận. Làm sao tôi có thể tha thứ cho bạn được?

Bạn tha thứ cho tôi, bởi vì tôi không thể nào giận bạn

được, không thể nào tha thứ cho bạn được - bạn tha

thứ cho tôi!"

Tôi không biết liệu anh ta có tha thứ cho tôi hay

không, nhưng anh ta đã quên tôi. Bây giờ anh ta

không viết nữa.

Chao ôi với người, Phật nói

giơ tay ra chống lại người khác,

và thậm chí nhiều hơn cho người đó

người nhận lại cú đánh.

Tại sao Chao ôi với người giơ tay ra chống lại

người khác...? Bởi vì người đó đang giơ tay mình ra

chống lại bản thân mình, bởi vì không có ai là người

khác cả. Tất cả sự tồn tại là một. Khi bạn đánh ai đó

bạn đang đánh chính bản thân mình. Bạn đơn giản ấu

trĩ. Nó là cùng thực tại: tôi là một trong các con sóng

của sự tồn tại, bạn là con sóng khác của nó. Con sóng

này đánh con sóng khác trong đại dương - chúng cả

hai đánh bản thân mình.

Chao ôi với người giơ tay ra chống lại người

khác, và thậm chí nhiều hơn cho người đó người nhận

lại cú đánh. Sao lại nhiều hơn cho người đó? - bởi vì

thế thì người đó tạo ra cái vòng luẩn quẩn. Và đó là

cách chúng ta đang sống, trong nhiều, nhiều vòng

luẩn quẩn. Mọi người cứ đánh nhau; một khi điều gì

đó bắt đầu thế thì dường như không có chấm dứt cho

nó. Bạn làm cái gì đó trả thù và người kia phải đợi tới

cơ hội của mình để làm cái gì đó chống lại bạn, thế

rồi bạn làm cái gì đó chống lại người đó, và cứ thế

mãi. Điều đó cứ diễn ra từ kiếp này sang kiếp khác,

nó liên tục.

Người trí huệ, người chủ là người chấm dứt tất cả

những cái vòng luẩn quẩn này.

Có lần một người tới và nhổ vào mặt Phật, ông ta

giận thế. Phật hỏi ông ta, "Đấy có phải là tất cả mọi

điều hay ông còn muốn nói cái gì nữa? Xin hãy làm

nó đi và kết thúc nó đi."

Người này hỏi, "Ông ngụ ý gì - 'Xin hãy làm nó đi

và kết thúc nó đi '?"

Phật nói, "Trong một kiếp quá khứ ta đã xúc

phạm ông và bây giờ thời gian tới khi cái vòng luẩn

quẩn có thể được đóng lại. Bây giờ ông xúc phạm ta

và ta sẽ không đáp lại cái gì; ta sẽ đơn giản chấp nhận

nó và đóng vòng tròn lại - đó chỉ là đóng tài khoản lại

với ông. Ta đang đợi ông; thực tế, ngày ta tới thị trấn

này ta đã hi vọng rằng ông tới và ông sẽ làm cái gì đó

và tài khoản có thể được đóng lại. Đây là cái vòng

luẩn quẩn cuối cùng của ta; ta đã đóng tất cả các vòng

khác. Bây giờ ta ở ngoài mọi vòng luẩn quẩn. Ta cám

ơn ông; bằng không cái gì đó đang treo trong không

trung - chỉ một sợi chỉ, nhưng cái gì đó đang treo

trong không trung, cái gì đó không đầy đủ. "Bây giờ

vòng này là đầy đủ và ta không muốn tiếp tục nó thêm

nữa. Bây giờ điều đó là tuỳ ta để tiếp tục hay không

tiếp tục. Bây giờ ta là người chủ; cho tới giờ ông đã là

người chủ. Bằng việc nhổ vào mặt ta việc làm chủ của

ông mất rồi; bây giờ ta là người chủ và ta không

muốn tiếp tục cái vòng luẩn quẩn này thêm nữa. Đây

là kiếp sống cuối cùng của ta và ta muốn đóng tất cả

mọi tài khoản với mọi người - tài khoản tốt, tài khoản

xấu, mọi loại tài khoản đều phải được đóng lại - để

cho ta có thể biến mất vào trong điều tối thượng mà

không còn sợi dây nào gắn với thế giới. Ta hạnh phúc

vô cùng," Phật nói với ông ấy.

Chống lại hoan lạc của cuộc sống

và ham muốn gây tổn thương -

cho tới khi nỗi buồn tan biến.

Hoan lạc phụ thuộc vào người khác, và bất kì cái

gì phụ thuộc người khác cũng sẽ làm cho bạn thành

nô lệ, sẽ tạo ra tù túng. Và mục đích tối thượng của

Phật là tự do, niết bàn - tự do khỏi mọi tù túng.

Do đó tất cả những người đã thức tỉnh đều nói:

Tìm phúc lạc. Đừng phí thời gian của bạn vào những

hoan lạc bình thường. Ngay chỗ đầu tiên chúng là tạm

thời; chỗ thứ hai mọi hoan lạc đều đem tới đau đớn.

Đau đớn là mặt bên kia của cùng đồng tiền. Nó đem

tới đau đớn theo cùng tỉ lệ; hoan lạc càng lớn, đau

càng lớn. Cho nên khi bạn tận hưởng cái gì đó, cẩn

thận đấy: chẳng mấy chốc đau sẽ theo sau; nó là

không tránh khỏi. Cũng như ngày tiếp theo đêm và

đêm tiếp theo ngày, đau đớn và hoan lạc theo sau lẫn

nhau. Chúng không tách rời, chúng là không thể tách

rời.

Thứ nhất, hoan lạc là tạm thời, chúng hệt như

bong bóng xà phòng. Phí hoài cuộc sống quí giá của

bạn cho chúng đơn giản là ngu xuẩn, không thông

minh. Thứ hai, mọi hoan lạc đều đem tới đau đớn.

Nhưng mọi người ngu tới mức họ chưa bao giờ nhìn

vào liên kết này. Họ nghĩ đau đớn đã tới từ nguồn

khác nào đó, họ nghĩ hoan lạc có thể là mãi mãi. Lặp

đi lặp lại họ bị hoan lạc của mình làm cho ngã vào

trong đau đớn; lặp đi lặp lại họ cứ nghĩ rằng có lí do

nào đó tại sao hoan lạc này đã bị phá huỷ.

Dù lí do có đó hay không đều không liên quan;

mọi hoan lạc đều tạm thời, nó sẽ biến mất, và trong

việc đánh thức của nó có nỗi đau.... Bạn có thể hợp lí

hoá nó; hợp lí hoá đó sẽ chỉ giúp bạn tiếp tục theo

cùng con đường mòn cũ. Nhưng thấy ra sự kiện này

đi. Thấy chân lí là giải thoát lớn; thấy rằng mọi hoan

lạc đều không tránh khỏi là kẻ đem tới đau đớn, bạn

sẽ được tự do khỏi cả hai.

Và điều thứ ba: đó là cùng năng lượng được tham

gia vào hoan lạc, cái đó phải đi tới phúc lạc. Hoan lạc

là phụ thuộc vào người khác; phúc lạc là độc lập toàn

bộ, nó là của riêng bạn. Nó nảy sinh bên trong bản thể

bạn, nó là tự tính của bạn; do đó bạn không phụ thuộc

vào bất kì ai. Và bởi vì nó là tự tính của bạn, nó là

mãi mãi. Không có mâu thuẫn, không có đối lập cho

phúc lạc.

Hạnh phúc ở giữa hoan lạc và phúc lạc. Trong

hạnh phúc cái gì đó là độc lập và cái gì đó là phụ

thuộc; nó là trộn lẫn của cả hai. Do đó người sống

trong hoan lạc cực kì là ở hoàn cảnh tốt hơn theo cách

nào đó; người đó là mạnh khoẻ, mạnh khoẻ như con

vật. Con vật sống trong hoan lạc cực kì: khi đau tới

chúng chịu đựng, khi hoan lạc tới chúng tận hưởng.

Chúng cứ quay giữa hoan lạc và đau đớn. Người sống

chỉ trong hoan lạc - một Don Juan - người đó ở trong

mạnh khoẻ theo một cách nào đó, bình thường, bởi vì

người đó là một phần của thế giới con vật; người đó

chưa là người. Theo một cách nào đó cuộc sống của

người đó là rõ ràng, nó không có phức tạp.

Nhưng người sống trong hạnh phúc hay cố tìm

hạnh phúc, sống vì hạnh phúc, còn bị lẫn lộn hơn

nhiều bởi vì người đó không ở đâu cả. Người đó

không là con vật cũng chưa là điều thiêng liêng;

người đó trong quên lãng. Người đó cưỡi trên hai con

ngựa; người đó sẽ gặp khó khăn rất lớn. Và đó là chỗ

gần như hầu hết mọi người đều là vậy. Rất hiếm khi

tìm ra một người sống thuần khiết trong hoan lạc -

hiếm khi tìm ra một Zorba người Hi Lạp, người sống

thuần khiết trong hoan lạc. Người đó là rõ ràng,

không có lẫn lộn trong người đó. Người đó đơn giản

bước đi trên đất; người đó không có ý tưởng gì về bay

trên trời. Người đó đã chấp nhận luật trọng trường và

người đó không biết luật khác.

Người sống vì hạnh phúc, người biết cái đẹp của

âm nhạc, người biết cái đẹp của tranh vẽ, nghệ thuật,

người biết cái gì đó cao hơn con vật có thể biết, còn bị

lẫn lộn hơn nhiều; người đó còn trong đống lộn xộn

hơn nhiều... bởi vì trong khi bạn nghe âm nhạc vĩ đại

cái gì đó được âm nhạc đóng góp, cái ở bên ngoài và

cái gì đó được âm nhạc đóng góp, cái ở bên trong nó

là sự gặp gỡ của hai cực. Bạn đang treo ở giữa và cả

hai đang kéo bạn theo các hướng tách rời. Bạn sẽ thấy

nhiều lo âu hơn trong cuộc sống của mình.

Đó là lí do tại sao người nghèo ít phiền não hơn

người giầu. Nước giầu sống trong phiền não bởi vì họ

có đủ hoan lạc; họ chán ngán nó. Bây giờ họ muốn cái

gì đó cao hơn, và với cái cao hơn, các vấn đề nảy

sinh.

Phần con vật đã được lắng đọng tốt bởi vì nó là di

sản kế thừa của bạn trong hàng triệu năm. Nó ở trong

hoá chất của bạn, trong sinh học của bạn, trong sinh lí

của bạn. Mọi thứ đều được lắng đọng, bản năng. Bạn

không cần nhận biết, bạn không cần làm gì cả. Nhưng

nếu bạn tìm và kiếm hạnh phúc thế thì bạn đang đi

vào trong thế giới mờ ảo hơn, cái ít bản chất hơn - cao

hơn nhưng mờ ảo hơn.

Và mục đích thứ ba là phúc lạc, cái lại là rất rõ

ràng, rõ ràng như mục đích đầu tiên, thực tế còn rõ

ràng hơn mục đích đầ tiên nhiều bởi vì mục đích thứ

nhất có sự sáng tỏ, nhưng sáng tỏ là của loại thấp hơn

nhiều. Mục đích thứ ba có sáng tỏ của phẩm chất cao

nhất. Duy nhất người thức tỉnh biết sự sáng tỏ của

mục đích thứ ba.

Phật nói: Chống lại hoan lạc của cuộc sống.... Trở

nên chín chắn thêm chút nữa đi. Đừng trẻ con, đừng

vẫn còn là con vật. Đem toàn bộ năng lượng của bạn

hướng tới mục đích cao nhất trong cuộc sống - để

phúc lạc là mục đích của bạn.

Và những người sống trong hoan lạc cũng có một

điều nữa trong cuộc sống của họ, và đó là ham muốn

làm tổn thương người khác, bởi vì hoan lạc tạo ra

cạnh tranh. Nếu bạn muốn nhiều tiền hơn, tất nhiên

bạn phải giằng nó từ ai đó khác. Nếu bạn muốn quyền

lực, thế thì ai đó khác sẽ mất quyền lực. Nếu bạn

muốn là tổng thống, thế thì ai đó khác sẽ không là

tổng thống. Do đó đấy là cuộc tranh đấu thường

xuyên. Bạn phải làm tổn thương nhiều người để thành

công. Bạn phải rất phá huỷ, phá huỷ vô nhân tính.

Đó là mục đích duy nhất của phúc lạc, cái có thể

là bất bạo hành; ngoài ra hoan lạc sẽ là bạo hành.

Phật nói: Chống lại hoan lạc của cuộc sống và

ham muốn gây tổn thương - cho tới khi nỗi buồn tan

biến. Tỉnh táo vào. Ông ấy không nói kìm nén, ông ấy

không nói điều đó. Nhận biết - để cho hoan lạc không

kéo bạn xuống dưới, để cho dần dần, dần dần bạn

được tự do với di sản kế thừa con vật của mình, để

cho dần dần, dần dần bạn có thể siêu việt lên trên sinh

học của mình.

Và tránh ham muốn làm tổn thương người khác.

Có niềm vui nào đó trong việc làm tổn thương người

khác. Chúng ta cứ làm tổn thương mọi người, nó cho

bạn cảm giác quyền lực. Nó giúp bạn cảm thấy rằng

bạn có quyền khi bạn có thể làm tổn thương ai đó. Đó

là ham muốn rất xấu, vị kỉ, nhưng mọi người đều làm

điều đó. Quan sát bản thân mình mà xem, bạn làm tổn

thương mọi người theo bao nhiêu cách thức. Bạn có

thể không làm gì đặc biệt để tổn thương họ, nhưng cử

chỉ của bạn có thể là đủ. Mọi người bước đi theo cách

mà, nói theo cách mà người khác bị tổn thương. Và

không ai có thể trách họ vì điều họ làm tinh vi thế. Họ

dùng những lời có thể gây tổn thương, và họ dùng

chúng khéo tới mức bạn không thể trách được họ. Họ

bao giờ cũng có thể tìm ra cách hợp lí hoá.

Một quí ông da đen bị bắt vì bắn một người. Sáng

hôm sau ông ta bị đem ra toà.

"Tại sao ông đã bắn người đó?" chánh án hỏi.

"Vì nó đã gọi tôi là đồ chó đẻ da đen!"

"Ông không có quyền bắn người vì điều đó!"

"Này, thưa tôn ông, ông sẽ làm gì nếu nó gọi ông

như thế?"

"Ồ, anh ta sẽ không gọi tôi như thế đâu!"

"Tôi biết, thưa ông chánh án, nhưng giả sử nó đã

gọi ông là đồ chó đẻ, thì sao? Tất nhiên nó không thể

gọi ông là 'đồ chó đẻ da đen' - ông không da đen -

nhưng ông là đồ chó đẻ, nếu nó đã gọi ông như thế,

thì sao nào?"

Mọi người có thể cứ tìm cách thức khéo léo....

Bạn phải vẫn còn nhận biết chừng nào mọi nỗi buồn

còn chưa tan biến.

Đừng bao giờ xúc phạm

bởi điều ông nghĩ hay nói hay làm.

Điều đó không có nghĩa, nhớ lấy, rằng mọi người

sẽ không bị xúc phạm. Họ có thể vẫn bị xúc phạm,

nhưng điều đó không nên là ý định về phần bạn. Phật

không nói rằng không ai sẽ bị xúc phạm bởi thầy, bởi

vì hàng nghìn người đã bị chính Phật xúc phạm. Chắc

chắn nhiều người bị Jesus xúc phạm; bằng không sao

ông ấy đã bị đóng đinh?

Phật đang nói: Đừng bao giờ xúc phạm bởi điều

ông nghĩ hay nói hay làm. Điều đó không nên là ý

định của bạn. Dầu vậy, điều đó vẫn sẽ xảy ra: bất kì

khi nào thầy nói điều gần như không tránh khỏi là

nhiều người sẽ bị xúc phạm bởi vì họ sẽ hiểu theo

cách riêng của họ về điều ông ấy nói. Họ sẽ không

nghe điều ông ấy nói; họ sẽ chỉ nghe điều họ có thể

nghe. Họ sẽ hiểu lầm ông ấy. Điều đó tuyệt đối không

thể tránh được, nó không thể được né tránh.

Lúc đó là quá trưa trong một thị trấn nhỏ. Joe,

người chủ của cửa hiệu bia địa phương, đang uể oải

đánh bóng đồ thuỷ tinh thì bạn anh ta, Mickey, chạy

tới.

"Joe," anh ta kêu lên, "về nhà anh thực nhanh lên.

Tôi vừa tới dừng ở đó để xem anh có nhà không và

nghe thấy tiếng nói của người lạ trong phòng ngủ nhà

anh. Thế là tôi nhìn qua cửa sổ và, thật kì quái, tôi

không muốn kể cho anh điều này, nhưng vợ anh đang

trên giường với người đàn ông khác!"

"Thế à?" Joe nói, đơn giản. "Anh chàng này trông

thế nào?"

"Ồ, nó cao và hói cả đầu."

"Và nó có râu cằm đỏ chứ gì?" Joe hỏi.

"Đúng! Đúng!" Mickey kêu lên.

"Anh có để ý nó có răng vàng không?"

"Chết tiệt, cậu, cậu đúng rồi!"

"Phải là thằng ngốc đó, Dick Roberts," Joe nói.

"Nó đéo bất kì cái gì!"

Bây giờ, khi bạn đang nói cho người chồng về vợ

anh ta, đó là vấn đề hoàn toàn khác. Anh ta không để

ý, anh ta không còn quan tâm, anh ta chán, anh ta

được kết thúc rồi. Bạn có thể kích động rằng cái gì đó

đã được làm, nhưng người chồng sẽ nghe qua kinh

nghiệm của anh ta về việc là chồng của người đàn bà

đó; anh ta không thể gạt được kinh nghiệm đó sang

bên.

Tôi đang nói điều gì đó với bạn; bạn sẽ nghe nó

qua kinh nghiệm của mình. Không ai biết bạn sẽ thu

thập cái gì về nó; điều đó sẽ nhiều tính của bạn hơn là

của tôi. Tôi có thể đã lẩy cò cho quá trình này, có vậy

thôi, nhưng bạn sẽ là người sáng tạo của toàn thể hiện

tượng này.

Do đó, nhớ lấy, thầy không bao giờ xúc phạm,

dầu vậy mọi người vẫn bị xúc phạm.

Phật nói:

Kính trọng người thức tỉnh.

Điều đó đã là một trong những điều đẹp nhất ở

phương Đông - bông hoa đó đã nở ở phương Đông -

phương Đông có thể tự hào về điều đó: chúng ta bao

giờ cũng kính trọng người thức tỉnh. Ở các nơi khác

trên thế giới, đặc biệt ở phương Tây, chuyên gia được

kính trọng, nhà kĩ thuật được kính trọng, nhà khoa

học được kính trọng, người có thể làm được nhiều

điều được kính trọng. Nhưng người có ý thức không

được xét tới chỉ vì ý thức của người đó.

Gurdjieff đã không được kính trọng chút nào. Ở

phương Đông ông ấy chắc đã là vị phật; ở phương

Tây ông ấy không được kính trọng chút nào - bị xúc

phạm theo mọi cách có thể, bởi lẽ đơn giản là phương

Tây không có ý tưởng nào làm sao kính trọng người

đã thức tỉnh, bởi vì người thức tỉnh không hoàn thành

mục đích tiện dụng nào. Nếu cái máy của bạn bị hỏng

người đó không thể giúp gì được; người đó không thể

sửa xe được... người đó không thể giúp bạn theo bất

kì cách nào trên thế giới. Thực tế, mọi điều người đó

có thể làm là giúp bạn gạt bỏ thế giới. Và không ai

muốn gạt bỏ thế giới; mọi người đều muốn sở hữu thế

giới. Do đó chuyên gia được kính trọng ở phương

Tây; ở phương Đông chuyên gia đã không được kính

trọng, không bao giờ. Chuyên gia là được - ông ấy là

người phục vụ, ông ấy phục vụ, ông ấy được trả tiền

cho điều đó. Nhưng chúng ta đã kính trọng phật.

Kính trọng phật là kính trọng bông hồng, cái

không có mục đích tiện dụng nào. Bạn không thể ăn

được nó. Nếu vấn đề là nạn đói, hoa hồng sẽ chẳng

giúp gì được; lúa mì sẽ tốt hơn nhiều. Nếu vấn đề là

chọn lựa giữa lúa mì và hoa hồng, bạn sẽ chọn lúa mì.

Bạn sẽ làm gì với hoa hồng? Vị phật giống như hoa

hồng: bạn có thể ca ngợi cái đẹp, bạn có thể nhảy múa

quanh hoa hồng, bạn có thể hát bài ca về nó, bạn có

thể ngắm hoa hồng và cầu nguyện Trời, nhưng còn

cái gì khác? Nó không thể đáp ứng cho cái dạ dầy đói

của bạn, nó không thể giúp bạn thành công trong thế

giới này, nó không thể làm bạn thành chiến binh lớn.

Nếu bạn mang bông hồng bạn sẽ không trở thành

Alexander Đại đế; lưỡi kiếm là cần, không phải bông

hồng.

Nhưng chuyên gia ngủ cũng như bạn vậy; không

có khác biệt, không khác về chất. Do đó ở phương

Đông chuyên gia được trả tiền nhưng ông ấy không

đủ tư cách để được kính trọng.

Một diễn viên phim điện ảnh nói với nhà tâm

thần, "Tôi bị hấp dẫn tới đàn ông thay vì tới đàn bà."

Bác sĩ tâm thần đáp, "Anh tới đúng chỗ đấy, anh

bạn đẹp trai!"

Bây giờ bác sĩ tâm thần không thể được kính

trọng ở phương Đông; ở phương Tây ông ấy đã trở

thành một trong những người được kính trọng nhất.

Ông ấy đã từng đánh bại tu sĩ. Bây giờ các tu sĩ đang

học cách là nhà tâm thần; các tu sĩ tới đại học để học

về liệu pháp tâm lí, phân tâm và mọi thứ vô nghĩa, bởi

vì bây giờ họ biết nghề của tu sĩ đã kết thúc rồi; họ

phải thêm cái gì đó nữa cho sức mê hoặc của nó. Và

họ thấy nhà tâm thần đang ngày một lên cao hơn;

người đó gần như là người được trả lương cao nhất ở

phương Tây. Ở phương Đông không ai nghĩ cái gì đặc

biệt về nhà tâm thần cả. Vâng, ông ấy không thể

nhiều hơn thợ cơ khí sửa chữa xe máy, có thể ông ấy

là nhà cơ khí tâm trí - ông ấy cũng là thợ cấp thoát

nước. Bạn trả tiền cho ông ấy, nhưng kính trọng là

khác toàn bộ.

Kính trọng chỉ có ở chỗ việc thanh toán không có

tác dụng. Chỗ bạn không thể trả tiền được, chỗ không

có khả năng nào trả tiền lại, thế thì có kính trọng.

Kính trọng là chấp nhận sự kiện rằng không thể nào

trả tiền được; món nợ không thể được trả tiền.

Kính trọng người thức tỉnh

và chỉ cho ông con đường.

Kính trọng ngọn lửa của hi sinh của người đó.

Chư phật chỉ cho bạn con đường. Bạn phải bước,

bạn phải đi; chư phật chỉ chỉ thôi. Họ không cho bạn

hướng dẫn chi tiết bởi vì từng cá nhân đều duy nhất

và khác biệt tới mức không chỉ dẫn chi tiết nào có thể

được cho. Chỉ hướng dẫn mơ hồ, chỉ chỉ báo, chỉ trỏ,

nhiều nhất là gợi ý - không ra lệnh, không lời răn....

Tôi đã nghe một câu chuyện về mười lời răn. Tất

nhiên Thượng đế đã hỏi người Ấn Độ trước, "Ông có

muốn có vài lời răn không?" Họ nói, "Không, chẳng

muốn chút nào."

Thế rồi ngài hỏi người Pháp và họ nói, "Chúng tôi

muốn sống trong tự do, chúng tôi không muốn cản trở

nào."

Và ngài cứ hỏi mãi và chẳng ai sẵn sàng nhận.

Cuối cùng ngài hỏi Moses, "Ông có muốn có vài lời

răn không?"

Ông ấy nói, "Bao nhiêu tiền?"

Và Thượng đế nói, "Cho không, tuyệt đối cho

không!"

Ông ấy nói, "Thế thì tôi lấy mười điều!"

Kính trọng người thức tỉnh và chỉ cho ông con

đường. Ông ấy không chỉ huy bạn; ông ấy không bảo

bạn, "Làm cái này và không làm cái kia." Ông ấy đơn

giản cho bạn vài hướng dẫn đây đó - và giữ cho bạn

tự do, cho phép bạn tự do toàn bộ. Ông ấy không

muốn có mọi người đều được điểm đạo hay theo sau;

ông ấy chỉ được hiểu. Bạn phải học từ người đã thức

tỉnh về cái đẹp, phúc lạc của việc được thức tỉnh, có

vậy thôi, và thế rồi bạn phải tìm kiếm theo cách riêng

của mình. Đó bao giờ cũng là tìm kiếm cá nhân, thám

hiểm riêng tư. Chân lí không thể được truyền từ tay

này sang tay khác; nó là không thể truyền được.

Kính trọng ngọn lửa của hi sinh.... Và tại sao vị

phật phải được kính trọng? - bởi vì ngọn lửa của hi

sinh của ông ấy. Bạn không thể nào hiểu được hi sinh

của vị phật bởi vì điều đó tuyệt đối vô hình với bạn.

Bạn sẽ biết nó chỉ khi bạn trở thành vị phật. Điều ông

ấy đã biết không thể đưa vào lời được, dầu vậy ông ấy

vẫn cố; đó là hi sinh thường xuyên.

Điều ông ấy đã biết ở bên ngoài tâm trí, vậy mà

ông ấy cố bằng đủ mọi cách có thể để làm cho bạn

hiểu điều đó, để giúp bạn hiểu nó. Ông ấy đưa mọi

năng lượng của mình vào trong việc làm cho hiểu

được điều không thể hiểu thấu được. Hi sinh của ông

ấy là vĩ đại. Ông ấy nhận nhiều rắc rối thế - chẳng bởi

lí do nào cả, bởi vì ông ấy không thu được cái gì từ

điều đó. Công việc của ông ấy được kết thúc rồi! Con

tàu của ông ấy đã tới bến. Ông ấy có thể bỏ thân thể

bất kì lúc nào, bất kì khoảnh khắc nào ông ấy quyết

định, dầu vậy ông ấy vẫn sống trong thân thể - cái

chính là sự giới hạn, cái chính là tù túng. Dầu vậy ông

ấy vẫn chịu khổ trong thân thể bởi lí do đơn giản là

ông ấy muốn truyền đạt điều không thể truyền đạt

được. Từ bi của ông ấy là vô hạn.

Ramakrishna bị đau đớn do ung thư. Nhiều lần

các đệ tử của ông ấy nói với ông ấy,

"Paramahansadeva, nếu thầy đau quá nhiều, chúng tôi

sẽ rất buồn, khổ, nhưng xin thầy rời khỏi thân thể."

Ông ấy nói, "Ở trong thân thể bị ung thư hay

không bị ung thư thì cũng là như nhau thôi. Ở trong

thân thể bây giờ là chịu đựng; cho dù nó mạnh khoẻ

đó vẫn là chịu đựng bởi vì bây giờ ta có thể bao la

như bầu trời. Nhưng vì các ông ta sẽ níu bám lấy thân

thể này lâu thêm chút nữa."

Và thầy phải tìm cách thức và phương tiện để níu

bám lấy thân thể bởi vì mọi liên kết cũ đã bị vỡ, mọi

kết nối cũ đã bị vỡ. Ông ấy phải nguỵ tạo ra kết nối

mới, đó thực sự là một trong những điều khó nhất

trong sự tồn tại.

Ramakrishna rất quan tâm tới thức ăn, nhiều tới

mức vợ ông ấy bao giờ cũng cảm thấy bối rối. Ông ấy

nói với các đệ tử rồi bỗng nhiên giữa chừng nói ông

ấy chạy xô xuống nhà bếp và hỏi Sharda, "Em đang

nấu gì?"

Nó cũng giống như bất thần, ngay giữa bài nói, tôi

chạy xô xuống bếp và hỏi Vivek, "Bạn đang nấu gì

thế?" và rồi quay lại, và các bạn phải đợi!

Sharda đã nói nhiều lần, "Điều này là không đúng.

Mọi người sẽ nghĩ gì?"

Ramakrishna bao giờ cũng cười và không bao giờ

trả lời. Một hôm Sharda khăng khăng: "Anh trả lời em

đi! Có cái gì đó kì lạ về nó." Bất kì khi nào bà ấy đem

thức ăn tới ông ấy đều đứng dậy; ông ấy hăm hở biết

thế. Ông ấy sẽ bỏ vải phủ ra và nhìn vào món ăn thali.

Mọi người bao giờ cũng ngồi đó và họ sẽ bắt đầu cười

và khúc khích: "Đây là loại người hiểu Thượng đế gì

thế này?"

Một hôm Sharda cứ khăng khăng hỏi, thế rồi

Ramakrishna nói, "Nếu em muốn biết sự thực anh sẽ

nói cho em: đây là cách duy nhất anh đang níu bám

lấy thân thể. Anh đã tạo ra ham muốn giả về thức ăn.

Và nhớ lấy, cái ngày anh biểu lộ không quan tâm tới

thức ăn thì đó là kết thúc. Anh sẽ chỉ sống thêm ba

ngày sau đó nữa thôi."

Sharda đã không chú ý mấy tới điều đó - ai chú ý

gì tới những người như thế? Họ cứ nói về mọi thứ,

nhiều thứ thế; bạn nghe và bạn không chú ý mấy.

Nhưng một hôm Sharda tới mang theo món thali...

Ramakrishna không đứng dậy. Không chỉ có thế: ông

ấy nhìn ra cửa, ông ấy quay lưng lại Sharda và nhìn ra

cửa sổ theo hướng khác. Sharda bỗng nhiên nhớ lại -

món thali rơi khỏi tay bà ấy.

Ramakrishna nói, "Vậy bây giờ em hiểu đấy; hôm

nọ em bỏ lỡ. Bây giờ chỉ còn ba ngày nữa...." Và đích

xác ba ngày sau ông ấy chết.

Chỉ khi bạn trở nên chứng ngộ, thức tỉnh, bạn sẽ

biết cách người đã về nhà vẫn cứ sống trong nhà trọ -

bẩn thỉu, xấu xí - và dầu vậy vẫn giúp những người

đang không lành mạnh. Kính trọng ngọn lửa của hi

sinh.... Do đó, Phật nói, tôn trọng người đó.

Tóc hoa râm hay gia đình hay đẳng cấp

không tạo ra người chủ

nhưng chân lí và lòng tốt

với điều đó người đó được ân huệ.

Tóc ông rối

và ông ngồi trên da hươu.

Ngu làm sao!

Khi bên trong ông phát rồ với thèm khát.

Cá tính không phải là nhân tố quyết định. Bạn có

thể trau dồi mẽ ngoài đẹp quanh bản thân mình,

nhưng nhân tố quyết định là ở bên trong bạn.

Quần áo của người chủ rách rưới.

Mạch của người đó lồi ra,

người đó ốm yếu gầy mòn.

Một mình trong rừng

Người đó ngồi và thiền.

Trong nhiều năm Phật đã thiền trong rừng, một

mình, không chăm nom gì quần áo, không chăm nom

gì thân thể mình, không chăm nom cái gì khác ngoại

trừ việc thiền của ông ấy; ngoại trừ một điều mọi điều

đều bị vứt bỏ khỏi tâm thức ông ấy: làm sao đạt tới

trung tâm. Một khi bạn đã đạt tới đó thế thì không có

vấn đề gì, nhưng trước khi bạn có thể đạt tới nó, nó

phải là việc tìm kiếm một điểm. Bạn phải quan tâm

một cách tập trung vào chỉ một điều, loại trừ mọi điều

khác. Chừng nào việc tìm kiếm của bạn còn chưa toàn

bộ thế, chưa toàn thể thế, chưa toàn tâm thế, bạn sẽ

không thành công trong nó.

Một mình trong rừng người đó ngồi và thiền.

Dù bạn ở bất kì đâu, học ở một mình, ngồi một

mình. Điều đó là khó, điều khó nhất trên thế giới, bởi

vì khi bạn một mình, tâm trí bắt đầu chết. Nó không

thể tồn tại được trong sự một mình, nó cần bạn đồng

hành. Do đó bất kì khi nào bạn một mình tâm trí đều

nói, "Làm cái gì đó, đi đâu đó. Bật ti vi hay radio

lên." Tâm trí muốn bạn đồng hành, dính líu, bận rộn.

Nếu bạn có thể chỉ một mình... ngồi im lặng

không làm gì, xuân tới và cỏ tự nó mọc lên. Một ngày

nào đó bản thể bên trong của bạn nở bung thành hoa

sen một nghìn cánh. Ngày đó bạn cũng đã trở thành vị

phật, và chỉ thế thì bạn mới có khả năng hiểu nghĩa

của cuộc sống của Jesus, nghĩa của lời Phật, nghĩa của

Lão Tử, Zarathustra. Trước đó bất kì cái gì bạn cố

hiểu cũng chỉ là diễn giải của tâm trí bạn, và diễn giải

đó đã là một trong những nguyên nhân lớn nhất của

điều hại.

Vứt bỏ tâm trí - điều duy nhất cần được từ bỏ trên

thế giới là tâm trí - và đi tới vô trí, im lặng bên trong

và thanh thản. Biết bản thân mình trong tính một

mình tuyệt đối của bạn và cuộc sống của bạn sẽ được

hoàn thành, cuộc sống của bạn sẽ được phúc lành:

phúc lành với phúc lạc vĩnh hằng, phúc lành với chân

lí, phúc lành với tự do.

Đủ cho hôm nay.

**************************************************************************************************************

#10Cười con đường của bạn tới Thượng đế

Câu hỏi thứ nhất:

Thưa Thầy kính yêu,

Để trở nên chứng ngộ, thầy có cần tính Do Thái

hay nó chỉ là sự giúp đỡ?

Amitabh, tôn giáo đã bỏ lỡ một phẩm chất rất nền

tảng: khả năng khôi hài. Điều đó đã là rất không may

bởi vì nó đã làm cho tôn giáo ốm yếu.

Khả năng khôi hài là một phần, phần cốt yếu, của

tính toàn thể của con người. Nó giữ con người mạnh

khoẻ, nó giữ con người trẻ trung, nó giữ con người

tươi tắn. Và trong hàng thế kỉ người buồn đã chi phối

tôn giáo. Họ đã trục xuất tiếng cười - khỏi nhà thờ,

khỏi tu viện hồi giáo, khỏi đền chùa. Cái ngày tiếng

cười quay lại trong những nơi linh thiêng họ sẽ thực

sự linh thiêng, bởi vì họ sẽ là toàn thể. Tiếng cười là

phẩm chất duy nhất phân biệt con người với con vật

khác. Duy nhất con người có thể thấy cái lố bịch, cái

ngớ ngẩn. Duy nhất con người có khả năng và ý thức

để nhận biết về trò đùa vũ trụ là sự tồn tại này đang

vậy. Nó là trò đùa vũ trụ; nó không phải là chuyện

nghiêm chỉnh.

Nghiêm chỉnh là bệnh tật, nhưng nghiêm chỉnh đã

từng được ca ngợi, tôn kính, kính trọng. Để là thánh

nhân điều tuyệt đối bản chất là phải nghiêm chỉnh; do

đó chỉ những người bệnh hoạn mới trở nên quan tâm

tới tôn giáo, người không có khả năng cười. Và người

không có khả năng cười là hạ nhân, họ còn chưa là

người - nói gì tới bản thể thiêng liêng của họ? Điều đó

là không thể được - họ còn chưa trở thành người. Và

việc là người chính là cây cầu giữa con vật và điều

thiêng liêng. Do đó tôi cực kì kính trọng khả năng

khôi hài, tiếng cười.

Tiếng cười còn thiêng liêng hơn lời cầu nguyện

nhiều, bởi vì lời cầu nguyện có thể được bất kì người

ngu nào thực hiện; lời cầu nguyện không yêu cầu mấy

thông minh. Tiếng cười yêu cầu thông minh, nó yêu

cầu hiện diện của tâm trí, nhanh chóng nhìn vào vấn

đề. Chuyện cười không thể được giải thích: hoặc bạn

hiểu nó hoặc bạn bỏ lỡ nó. Nếu nó được giải thích, nó

mất đi toàn thể vấn đề; do đó không chuyện cười nào

có thể được giải thích. Hoặc lập tức bạn hiểu nó....

Nếu bạn không hiểu nó ngay lập tức thì bạn có thể cố

gắng tìm ra nghĩa của nó; bạn sẽ thấy nghĩa đó, nhưng

chuyện cười sẽ không có đó. Nó là trong trực tiếp.

Khôi hài cần sự hiện diện, hoàn toàn hiện diện.

Vấn đề không phải là phân tích, vấn đề là sáng suốt.

Amitabh, khi có liên quan tới khôi hài, có chút ít

tính Do Thái là rất tốt - mọi người nên có chút ít tính

Do Thái! Với chứng ngộ nó sẽ chuẩn bị mảnh đất, nó

sẽ làm cho bạn sống động hơn. Chứng ngộ là đang trở

nên sống toàn bộ. Tiếng cười đem cuộc sống tới bạn.

Và nếu bạn có thể cười một cách toàn bộ, có vài

điều cần được hiểu. Trong tiếng cười sâu bản ngã biến

mất, nó không được tìm thấy ở đâu cả. Bạn không thể

có cả tiếng cười và bản ngã. Nếu bản ngã có đó nó sẽ

giữ bạn nghiêm chỉnh. Mọi kẻ bản ngã đều là người

nghiêm chỉnh, và mọi người nghiêm chỉnh đều là

người bản ngã.

Để có khả năng cười, bạn cần giống như đứa trẻ -

vô ngã. Và khi bạn cười, bỗng nhiên tiếng cười có đó,

bạn không có. Bạn quay lại khi tiếng cười qua rồi.

Khi tiếng cười biến đi xa xăm, khi nó lắng xuống, bạn

quay lại, bản ngã quay lại. Nhưng trong chính khoảnh

khắc của tiếng cười bạn có thoáng nhìn vào cái vô

ngã.

Chỉ có hai hoạt động bạn có thể cảm thấy cái vô

ngã một cách dễ dàng. Hoạt động này là tiếng cười,

hoạt động kia là nhảy múa. Nhảy múa là phương pháp

sinh lí, phương pháp thân thể để cảm thấy cái vô ngã.

Khi người múa bị mất hút trong điệu múa, người đó

không còn nữa - chỉ còn điệu múa. Tiếng cười có chút

ít tinh tế hơn điệu múa, nó có chút ít bên trong hơn,

nhưng nó cũng có cùng hương thơm. Khi bạn cười....

Nó phải là tiếng cười bụng. Nó phải không hời hợt, nó

phải không là xã giao, nó phải không là kiểu cách.

Tôi đã nghe:

Một cô đánh máy chữ vừa bỏ việc. Hôm nay là

ngày cuối cùng của cô ấy ở văn phòng, và ông chủ

đang kể chuyện cười cũ mà ông ấy bao giờ cũng kể.

Mọi người đều cười chỉ trừ cô đánh máy. Ông chủ

hỏi, "Có chuyện gì với cô thế? Cô không thể hiểu

được chuyện cười này sao?"

Cô ấy nói, "Tôi biết chúng từ lâu trước đây rồi.

Ông lặp lại chúng tới cả nghìn lẻ một lần, nhưng tôi

không cần cười thêm nữa. Đằng nào mai tôi cũng đi

rồi. Những kẻ ngu này đang cười bởi vì họ phải cười -

ông là ông chủ. Cho nên liệu chuyện cười có đáng

cười hay không cũng chẳng thành vấn đề. Họ phải

cười, đó là một phần bổn phận của họ. Nhưng tôi ra

đi, ông có thể làm gì được tôi? Tôi không cười, ông

không thể làm tôi cười với tất cả những chuyện cũ

rích kia."

Nếu bạn cười do bổn phận hay từ ý thức kiểu

cách, từ xã giao, thế thì đó không phải là tiếng cười

bụng, thế thì đó chỉ là hời hợt; ở chu vi, bạn đang

xoay xở nó. Bạn sẽ không hiểu điều tôi đang nói về

tiếng cười.

Cười để cho toàn thân bạn, toàn thể con người bạn

trở nên được tham gia, và bỗng nhiên sẽ có thoáng

nhìn. Trong khoảnh khắc đó quá khứ biến mất, mọi

thứ biến mất - chỉ có tiếng cười. Và trong khoảnh

khắc đó của tiếng cười, bạn sẽ có khả năng thấy toàn

thể sự tồn tại đang cười.

Người Ấn Độ không có khả năng của tiếng cười.

Ở Ấn Độ chúng ta không có chuyện cười Ấn Độ nào.

Mọi chuyện cười được kể ở Ấn Độ đều được vay

mượn, không có chuyện cười Ấn Độ kiểu như thế.

Người Ấn Độ là người nghiêm chỉnh, người rất tôn

giáo, người linh thiêng. Làm sao họ có thể hạ xuống

những điều thấp thế như đùa cười? Họ nói về Thượng

đế, họ nói về moksha, họ nói về niết bàn... họ không

thể cười được. Đây không phải là chuyện cười đâu!

Bạn không thể cười Thượng đế được. Nhưng nếu bạn

không thể cười được Thượng đế, bạn sẽ không bao

giờ hiểu được Thượng đế.

Các tượng Phật của Ấn Độ là hoàn toàn khác với

tượng Phật của Trung Quốc hay Nhật Bản. Bạn phải

đã chú ý tới sự khác biệt này; khác biệt là lớn. Phật

Ấn Độ có thân hình rất lực sĩ. Bụng ông ấy rất nhỏ,

gần như không tồn tại. Ông ấy chưa bao giờ có việc

cười bụng. Nếu không có bụng làm sao bạn có thể có

việc cười bụng được? Nhưng Phật Trung Quốc có

bụng to, và không chỉ bụng - ngay cả trên tượng bạn

cũng có thể thấy những gợn cười lan trên bụng. Ngay

cả trong đá bạn cũng có thể thấy ông ấy đang cười,

cái bụng đang cười.

Không người Ấn Độ nào sẽ đồng ý với tượng

Trung Quốc. Người đó sẽ nói, "Điều này không đúng,

Phật không giống thế này, với cái bụng to thế...." Phật

Trung Quốc trông như anh hề - nhưng tôi có kính

trọng lớn lao với Phật Trung Quốc. Phật Trung Quốc

đã hấp thu Lão Tử, Trang Tử, Liệt Tử. Ông ấy chứa

đầy Lão Tử, đó là lí do tại sao có cái bụng to thế. Bên

trong bụng ông ấy có Lão Tử. Và bạn không thể giữ

Lão Tử yên tĩnh được. Ông ấy phải cười và đá và làm

mọi thứ; do đó mới có gợn sóng trên bụng.

Lão Tử có khả năng khôi hài. Có thể bởi vì điều

đó mà Lão Tử không thể trở thành người sáng lập ra

tôn giáo vĩ đại. Không tồn tại tôn giáo nào mang tên

ông ấy. Vâng, vài người hiếm hoi đã theo con đường

của ông ấy, nhưng không có nhà thờ có tổ chức, bởi lẽ

đơn giản là Lão Tử dường như không nghiêm chỉnh

thế. Ông ấy thường cưỡi trâu. Bây giờ, bạn không thể

tìm được ngựa sao? Bất kì ai cũng có thể đảm đương

được có lừa - nhưng trâu sao...? Và điều đó nữa, lại

cũng không phải là ngồi đúng, mà ngồi ngược về

đằng sau! Trâu đi đường này và Lão Tử nhìn theo

đường khác. Ông ấy phải đã tạo ra tiếng cười ở mọi

nơi ông ấy đi qua. Mọi người phải đã tụ tập lại để

xem cảnh tượng này, điều đang xảy ra.

Và Trang Tử còn vượt xa thầy mình. Chưa bao

giờ có người nào hay thế như Trang Tử. Tất cả mọi

điều ông ấy đã nói đều hoàn toàn ngớ ngẩn, buồn

cười! - nhưng với nghĩa sâu sắc. Đầu tiên bạn sẽ cười

và thế rồi dần dần bạn sẽ thấy ra vấn đề mà ông ấy

đang chỉ tới, theo cách rất vui vẻ, hướng tới chân lí

nào đó mà chỉ có thể được chỉ ra theo cách vui vẻ.

Nếu bạn nghiêm chỉnh bạn không thể làm cho mọi

người hiểu được cái đẹp của sự tồn tại, lễ hội của sự

tồn tại.

Cuộc sống không phải là bi kịch, nó là hài kịch.

Nó không phải là thảm kịch. Nhưng người tôn giáo đã

phụ thuộc vào chính ý tưởng cuộc sống là thảm kịch:

nó là khổ, hoàn toàn khổ - cái gì có đó mà cười? Do

đó họ hấp dẫn những người không có khả năng của

cười, của sống, của yêu.

Nỗ lực của tôi ở đây, Amitabh này, chính là điều

đối lập. Tôi muốn bạn học nhiều nhất có thể được từ

Phật, nhiều nhất có thể được từ Lão Tử, nhiều nhất có

thể được từ Krishna, nhiều nhất có thể được từ Trang

Tử. Tôi muốn bạn hấp thu tất cả những kinh nghiệm

lớn lao đã từng xảy ra trong quá khứ, để cho sự tổng

hợp lớn hơn trở thành có thể. Trong tổng hợp cao hơn

đó tiếng cười sẽ là một trong những phẩm chất bản

chất nhất. Với chân lí, dũng cảm và đức hạnh, tiếng

cười cũng có vị trí riêng của nó.

Theo nghĩa đó người Do Thái là người hay. Họ có

khả năng lớn nhất về tiếng cười trên toàn thế giới. Họ

là ở một cực đoan này; ở cực đoan kia là người Anh.

Bao nhiêu thư tôi nhận được đều giận dữ: "Thưa Thầy

kính yêu, thầy không hiểu người Anh." Ai quan tâm

tới hiểu? Và tại sao tôi phải hiểu người Anh, để làm

gì? Không có gì khác còn lại để hiểu sao?

Tôi đã từng kể nhiều chuyện cười về người Italy,

nhưng không một bức thư nào. Họ hiểu rằng chuyện

cười là chuyện cười! Nếu bạn hiểu quá nhiều bạn

không thể đùa được. Một chút ít hiểu lầm là cần thiết.

Bây giờ, một trong đa số người Anh của tất cả các

sannyasin Anh, Prembodhi, đã viết, "Thầy không hiểu

người Anh chút nào." Bạn đơn giản chứng minh quan

điểm của tôi!

Ai đó khác đã viết, "Điều này là không đúng.

Thầy nói không đàn bà Anh nào là đàn bà; họ toàn là

quí bà." Tôi đơn giản ngỏ ý kính trọng!

Và tôi nghĩ một sự kiện nổi tiếng là không cái gì

nên được nói chống lại người chết. Với người chết

bạn bao giờ cũng phải bầy tỏ kính trọng. Đó là điều

tôi đã làm! Sao bạn giận về điều đó?

Tôi nhắc lại một lần nữa: rất khó, gần như không

thể nào tìm ra đàn bà Anh - chỉ toàn có quí bà thôi.

Mọi đàn ông có thể không là quí ông; đàn ông sau rốt

là đàn ông, con trai là con trai! Và con trai già còn

nhiều hơn thế! Nhưng khi có liên quan tới đàn bà, họ

mang cùng văn hoá, tôn giáo, họ là đá nền. Đàn bà

Anh có khuôn mặt nào đó. Không đàn bà khác nào có

loại mũi đó... họ tất cả đều cần giải phẫu thẩm mĩ độn

nhựa!

Amitabh, vấn đề duy nhất với người Do Thái là

khi đi tới chuyện giá cả. Thế thì họ sẽ cứ mặc cả hàng

thế kỉ. Chứng ngộ sẽ ở ngay trước họ, nhưng họ sẽ

mặc cả về giá đã.

Cho nên đó là vấn đề, Amitabh; ở đó bạn phải

nhận biết.

Một người Scot đi vào trong hiệu may và hỏi xem

bộ com lê.

Ông chủ Do Thái tới với bộ vải tuýt Harris đẹp.

"Xem cái này," ông ấy nói, "và nó không phải năm

mươi pound đâu, thậm chí không bốn mươi. Ba mươi

pound và nó là của ông."

Người Scot kiểm tra nó kĩ càng. "Tôi sẽ không trả

hai mươi nhăm pounds cho nó đâu, thậm chí không

hai mươi. Giá của tôi là mười tám pounds."

"Đúng," người Do Thái nói. "Đó là cách tôi thích

làm kinh doanh - không mặc cả."

Thế rồi có hai người Do Thái đâm sầm vào nhau

sau bốn mươi năm, và cùng chạy tới quán rượu gần

nhất để mở hội.

"Thật là kì diệu để được uống cùng nhau sau ngần

ấy năm," một người nói.

"Đúng," người kia nói, "nhưng đừng quên đấy,

đến phiên của cậu trả."

Bà goá giầu cần việc truyền máu, cho nên một

người cho máu Do Thái đã cứu mạng bà ấy. Bà ấy

biết ơn lắm, bà ấy cho người đó một trăm pounds,

nhưng sau khi tái phát bà ấy cần việc cho máu khác

và lần này cho người cho máu năm mươi pounds.

Lần thứ ba anh ta cứu mạng bà ấy, bà ấy có nhiều

máu Do Thái trong mình tới mức bà ấy chỉ cám ơn rất

nhiều.

#10Câu hỏi thứ hai:

Thưa Thầy kính yêu,

Tôi cực kì khổ. Làm sao tôi thoát được khổ?

Vandan, tôi chưa hề bắt gặp một người cực kì

khổ. Bạn đang dung thứ cho điều đó, bạn đang sống

với nó. Nếu nó tệ thế người ta nên dừng thở đi! Sao

người ta cứ phải sống?

Nó không thể tệ thế được. Có thể bạn thích cường

điệu hoá lên. Có những người bao giờ cũng thích mức

cao nhất, người khuếch đại mọi thứ lên. Khổ nhỏ tất

nhiên có đó, nhưng bạn có thể có khổ lớn nào? Bạn sẽ

có nó ở đâu? Bạn không thể quan niệm nổi khổ nào

mà có thể tệ tới mức bạn có thể gọi nó là tuyệt đối

được; bằng không người ta sẽ đơn giản chết, ngay lập

tức.

Cho nên một điều, nhớ lấy, dừng việc cường điệu

lại. Đó cũng là cách thức của bản ngã. Bản ngã kì lạ

tới mức nó muốn cường điệu mọi thứ. Cho dù nó khổ

nó sẽ khuếch đại khổ lên, nó sẽ làm ra ồn ào lớn từ

điều đó. Có thể chẳng có gì mấy trong nó: nếu bạn đi

tới gốc rễ bạn có thể tìm thấy chuột, nhưng bạn đang

nói về voi.

Và tôi biết bạn, Vandan. Tôi chưa bao giờ thấy

bạn cực kì khổ cả. Bạn trông hoàn toàn bình thường.

Trừ phi tất cả mọi người thường đều cực kì khổ... chỉ

bản ngã có thói quen khuếch đại.

Một cậu bé chạy từ trường về nhà. Nó thở dốc,

phun phì phì, vã mồ hôi. Nó nói với mẹ nó, "Bằng

cách nào đó Thượng đế đã cứu con. Con hổ đuổi theo

con, một con hổ rất nguy hiểm, con hỗ rất dữ tợn."

Người mẹ nói, "Con thôi cường điệu đi! Mẹ đã

bảo con cả triệu lần đừng có cường điệu, và con lại

làm điều đó. Con hổ đó đâu?"

Cậu bé chỉ cho mẹ nó qua cửa sổ. Một con chó rất

nhỏ, yếu, gầy, đói, đang đứng bên ngoài. Và người

mẹ nói, "Đây mà là hổ à? Con lên gác, cầu Thượng đế

và hỏi xin ngài tha thứ đi. Và đừng bao giờ cường

điệu nữa. Thế là đủ rồi!"

Thế là cậu bé đi lên gác. Sau năm phút nó đi

xuống chỗ mẹ, và người mẹ nói, "Con đã cầu nguyện

chưa?"

Nó nói, "Rồi ạ, con đã cầu nguyện, và mẹ có biết

Thượng đế nói gì không? Ngài nói, 'Con đừng lo. Lần

đầu tiên ta thấy con chó đó bản thân ta nghĩ rằng nó là

con hổ dữ tợn. Cho nên không có gì phải lo cả. Bản

thân ta đã bị lừa, còn nói gì tới con? Và ta to lớn thế,

dầu vậy ta nghĩ nó là con hổ rất nguy hiểm. Ta sẵn

sàng chạy, thế rồi ta nhìn lại lần nữa và thấy: ồ không,

đấy chỉ là con chó. Và con là đứa trẻ nhỏ, cho nên nếu

con sợ điều đó là tự nhiên.'"

Khổ không lớn thế như bạn làm ra đâu. Cho nên

điều đầu tiên là thu nhỏ nó lại đúng tỉ lệ. Trước khi

bạn có thể thoát ra khỏi nó, để con hổ biến mất đi.

Phải rất sự kiện. Nếu bạn thực sự muốn biến đổi cuộc

sống của mình, có tính sự kiện đi. Bạn không thể

thoát ra khỏi hư cấu được. Bạn có thể thoát ra khỏi sự

kiện; sự kiện có thể được giải quyết, nhưng hư cấu

không thể được giải quyết.

Nhưng đây là cách thức của tâm trí, cách thức của

bản ngã, là khuếch đại mọi thứ. Nó làm mọi thứ trông

có vẻ lớn. Và thế thì tất nhiên bạn bắt đầu khổ theo

cách lớn. Nguyên nhân là không lớn thế, nhưng hậu

quả có thể rất lớn - điều đó tuỳ ở bạn.

Nhìn lại đi, xét lại đi, cân nhắc lại toàn thể tình

huống. Cái gì ở đó mà bạn gọi là "cực kì khổ"? Và thế

rồi bạn sẽ thấy sự kiện bình thường của cuộc sống.

Nhưng chúng ta không muốn là bình thường. Bản ngã

khao khát là phi thường. Cho dù đó là khổ chúng ta

cũng muốn là phi thường.

Ai đó hỏi George Bernard Shaw, "Ông thích đi

đâu khi ông chết, lên cõi trời hay xuống địa ngục?"

Ông ấy nói, "Dù là ở đâu, điều đó không thành

vấn đề. Vấn đề là: tôi muốn là người đầu tiên. Cho dù

đó là địa ngục, tôi muốn là người đầu tiên. Tôi không

muốn là người thứ hai sau bất kì ai. Do đó tôi nghĩ địa

ngục sẽ tốt hơn, vì ở cõi trời Phật và Jesus và

Zarathustra... và có nhiều kẻ cạnh tranh thế. Và tôi sẽ

phải đứng xếp hàng, và tôi ghét điều đó! Tôi sẵn sàng

xuống địa ngục, tôi sẵn sàng khổ dưới địa ngục,

nhưng tôi muốn là người đầu tiên."

Bản ngã bao giờ cũng khao khát là kẻ đầu tiên.

Nó nói, "Khổ của tôi còn lớn hơn khổ của bất kì ai

khác. Dù tôi là bất kì cái gì, tôi vẫn lớn hơn, tôi là đặc

biệt, tôi là phi thường."

Có lần một chánh án toà thượng thẩm tới tôi. Vợ

ông ta thường tới tôi. Tôi ngạc nhiên, vì người vợ bao

giờ cũng nói rằng ông ấy rất chống đối tôi và ông ấy

không muốn bà ấy nghe theo tôi hay đọc sách của tôi

hay đi tới gặp tôi. Nhưng bất kì khi nào tôi tới thăm

thành phố đó bà ấy bao giờ cũng tới.

Cho nên tôi ngạc nhiên. Tôi hỏi ông ấy, "Vợ ông

bao giờ cũng nói ông chống tôi lắm."

Ông ấy nói, "Không phải là tôi chống ông rất

nhiều đâu - tôi đơn giản sợ rằng.... Vợ tôi đã đâm ra

dở hơi, và điều ông nói, nếu nó chui vào tâm trí bà ấy,

bà ấy cường điệu mọi thứ lên. Ông sẽ tạo ra nhiều rắc

rối cho tôi."

Tôi hỏi ông ấy, "Sao ông tới?"

Ông ấy nói, "Tôi tới chỉ để nói cho ông rằng nếu

bà ấy nói bà ấy bị ung thư, giảm nó thành đau đầu

thôi. Đừng bận tâm về ung thư của bà ấy. Tôi đã chịu

đựng cả đời rồi. Thế rồi tôi học được bài học này: bà

ấy cường điệu lên."

Và thực tế đó là trường hợp này. Mọi lần bà ấy tới

bà ấy lại nói về ung thư. Bà ấy kể rằng bà ấy bị ung

thư tim và thế này thế nọ - còn ông chồng nói bà ấy

chẳng bị gì! Chỉ là chứng nghi bệnh... bà ấy cứ cường

điệu lên.

Một người nghi bệnh chết. Trước khi anh ta chết

vợ anh ta hỏi, "Anh có nói lời cuối cùng không?"

Anh ta nói, "Có. Trên tảng đá nấm mồ tôi phải ghi

những chữ lớn: Bây giờ bạn có tin tôi hay không?"

Điều đầu tiên với bạn là đưa mọi thứ xuống mức

độ của thực tại. Điều đó là khó, Vandan, đặc biệt như

vậy với đàn bà. Họ sống trong tưởng tượng. Khi bạn

rơi vào tình yêu bạn nghĩ bạn đã rơi vào trong tình

yêu với thượng đế Hi Lạp, và đến lúc thời kì tuần

trăng mật kết thúc bạn biết anh ta chẳng là gì ngoài

người Hi Lạp phải gió! Trong vòng bẩy ngày thượng

đế Hi Lạp chẳng là gì ngoài người Hi Lạp phải gió.

Và điều đó sẽ xảy ra lặp lại. Bạn sẽ lại rơi vào

tình yêu, và bạn sẽ lại tạo ra tưởng tượng lớn, bạn sẽ

tạo ra phóng chiếu. Và tất cả những phóng chiếu của

bạn đều sẽ bị tan tành chẳng chóng thì chầy, bởi vì

thực tại không có nghĩa vụ phải hoàn thành phóng

chiếu của bạn.

Cho nên điều đầu tiên là hạ ý tưởng khổ của bạn

thành sự kiện, thành cái thực. Và thế rồi không khó

thoát ra khỏi nó. Thế rồi điều thứ hai là nhận biết về

nó. Cứ nhận biết về nó, và bạn ở ngoài nó - bởi vì bạn

có thể nhận biết chỉ nếu bạn không là nó.

Đó là phép màu của nhận biết. Khi bạn quan sát

cái gì đó một điều là chắc chắn, tuyệt đối chắc chắn:

rằng bạn không là nó. Người quan sát không bao giờ

là cái được quan sát. Cái được quan sát có đó như đối

tượng đương đầu với bạn. Bạn là người quan sát, bạn

là chủ thể.

Cho nên khổ có đó, đau có đó hay hoan lạc, hay

bất kì kinh nghiệm nào có đó - bạn không là nó. Bạn

ở ngoài nó!

Hai diễn viên nghiệp dư đang than vãn về những

điều khắc nghiệt làm sao trong công việc điện ảnh.

"Tớ đã không đóng vai hơn mười năm rồi," một

trong những diễn viên thở dài.

"Điều đó chưa là gì nhé," diễn viên kia nói. "Tớ

đã không làm việc từ khi phim có tiếng ra đời."

"Điều đó thực sự là khắc nghiệt."

"Cậu cá nó vậy. Tớ ước đến chết tớ có thể hình

dung ra cách nào đó để thoát ra khỏi công việc này."

Trong bốn mươi năm bạn không trong công việc,

và bạn vẫn hình dung ra cách thoát ra khỏi nó!

Cứ quan sát. Hai bước này, Vandan: thứ nhất, đưa

khổ của bạn về mức độ thực tại, và thế rồi quan sát nó

- bởi vì chỉ thực tại mới có thể được quan sát; hư cấu

không thể được quan sát, bạn trở nên bị đồng nhất với

chúng. Một khi thực tại có đó, nó có tính khách quan;

quan sát nó, và bỗng nhiên nhận biết lớn xảy ra. Bạn

là người quan sát, bạn ở ngoài nó.

Bạn hỏi tôi, "Làm sao tôi có thể thoát ra khỏi

nói?" Vandan, bạn ở ngoài nó rồi. Ngay bây giờ bạn ở

ngoài nó! Đó chỉ là ảo tưởng rằng bạn ở trong nó.

Nếu bạn muốn tin bạn có thể cứ tin rằng bạn ở trong

nó. Bằng không bạn có thể bỏ nó bất kì khoảnh khắc

nào. Thử mà xem. Thử bỏ nó. Bật ngón tay bạn và tát

vào mặt bạn và thức dậy!

#10Câu hỏi thứ ba:

Thưa Thầy kính yêu,

Thầy có chống tỏi không? Tôi đã từng ăn tỏi từ

thời thơ ấu và tôi không nghĩ rằng nó có mùi.

Virago, thiền về câu chuyện này....

Forster ngồi trong văn phòng lịch sự của bác sĩ

điều trị nổi tiếng nhất Đại lộ Công viên.

"Tôi bị vấn đề khủng khiếp này," anh ta giải thích.

"Mọi thứ tôi ăn đều biến thành rắm. Tôi vừa mới ăn

bit tết và khoai tây và nó biến thành rắm."

"Điều đó có thể là nghiêm trọng đấy," bác sĩ phản

bác lại.

"Nhưng may thay," Forster nói, "rắm của tôi

không tiếng và không mùi. Bác sĩ có thể chữa nó

được không?"

"Tôi chắc chắn là tôi có khả năng giúp được anh,

nhưng trước hết tôi sẽ gắn cho anh máy trợ thính và

rồi tôi sẽ chữa mũi cho anh đã."

Câu hỏi thứ tư:

Thưa Thầy kính yêu,

Gần đây thầy nhắc tới rằng bản ngã tâm linh còn

nguy hiểm hơn bản ngã thường. Thầy có thể giải

thích được không?

Prem Unmado, mọi bản ngã đều nguy hiểm, bởi

vì bản ngã là thực thể giả. Nó không tồn tại, thực tế.

Nó có đó bởi vì bạn không nhận biết mình là ai.

Bản ngã cũng giống như bóng tối. Bóng tối không

có sự tồn tại khẳng định của riêng nó; nó chỉ là việc

thiếu ánh sáng. Do đó bạn không thể làm được gì trực

tiếp với bóng tối. Nếu bạn muốn loại bỏ bóng tối bạn

không thể loại bỏ nó một cách trực tiếp được; bạn sẽ

phải mang ánh sáng vào. Nếu bạn muốn đem bóng tối

vào bạn cũng không thể đem nó một cách trực tiếp

được; bạn sẽ phải bỏ ánh sáng ra. Bất kì cái gì bạn

muốn làm, bạn sẽ phải làm với ánh sáng, bởi vì ánh

sáng có sự tồn tại. Bóng tối không có sự tồn tại, và

với cái không tồn tại thì chẳng cái gì có thể được làm.

Bản ngã là phi tồn tại, nó là phi thực thể. Nó là

việc thiếu nhận biết, thiếu tỉnh táo. Bạn không ý thức;

do đó bản ngã mới chiếm ưu thế, do đó bóng tối mới

còn lại.

Mọi bản ngã đều nguy hiểm, bởi vì bạn đang sống

trong cái gì đó không có. Bạn đang sống vì cái gì đó

không có, bạn đang hi sinh cái đang có vì cái gì đó

không có. Đây là nguy hiểm. Cuộc sống thực bị hiến

tế trên bàn thờ của bản ngã phi tồn tại.

Bạn đang chạy theo tiền, theo quyền, theo danh,

nhưng thực tế không ai thực sự quan tâm tới quyền,

tiền, danh. Chúng chỉ là những cách thức của bản ngã

để tồn tại. Nếu bạn có nhiều tiền hơn bạn có thể có

nhiều bản ngã hơn; nếu bạn có nhiều quyền hơn bạn

có thể có nhiều bản ngã hơn. Ham muốn cơ bản là

bành trướng bản ngã, nhưng bản ngã của bạn càng trở

nên được làm mạnh hơn, bóng tối càng trở nên dầy

đặc hơn, càng ít có khả năng bạn trở nên nhận biết.

Và không trở nên nhận biết bạn đang bỏ lỡ toàn thể

cơ hội của cuộc sống, cơ hội vàng, trong đó Thượng

đế có thể được nhận ra, trong đó chân lí có thể được

sống. Cuộc sống mà có thể là lễ hội thường xuyên,

niềm vui vĩnh hằng, bị hi sinh cho cái gì đó tuyệt đối

vô nghĩa.

Do đó, nhớ lấy, mọi bản ngã đều nguy hiểm.

Nhưng bản ngã tâm linh là nguy hiểm nhất đơn giản

bởi vì mọi bản ngã khác đều thô. Bạn có thể thấy rằng

chính khách theo đuổi bản ngã của ông ta, bạn có thể

thấy ngay cả chính khách trong những khoảnh khắc

nào đó cũng có thể thấy điều đó. Nó rất thô, làm sao

bạn có thể tránh được việc thấy nó? Bạn nhất định

loạng choạng va phải nó, nó tựa như tảng đá.

Nhưng bản ngã tâm linh là rất tinh vi, nó tựa như

hương thơm. Bạn không loạng choạng, nó không đập

vào bạn như đá. Bạn không thể loại bỏ nó dễ dàng thế

như bạn có thể loại bỏ đá. Nó là hương thơm tinh tế.

Bạn càng trở nên tâm linh hơn, bản ngã của bạn càng

trở nên tinh vi hơn. Bản ngã của bạn trở nên ngoan

đạo, và khi chất độc là ngoan đạo, tất nhiên nó còn

nguy hiểm hơn, bởi vì bạn nghĩ nó là nước cam lồ.

Bây giờ, cái nhãn là nước cam lồ; bên trong chai là

cùng chất độc.

Do đó thánh nhân là người bản ngã hơn tội nhân.

Có mọi hi vọng cho tội nhân, họ có thể đạt tới

Thượng đế dễ dàng hơn nhiều cái gọi là thánh nhân

của bạn. Thánh nhân của bạn đang sống với thái độ

bản ngã thế, họ đầy những cứt bò thiêng, rác rưởi.

Phàm nhân tuyên bố rằng mình có nhiều tiền thế

còn người tôn giáo tuyên bố rằng mình có nhiều đức

hạnh thế. Phàm nhân tuyên bố mình có nhiều quyền

thế, nhiều danh thế, còn cái gọi là người linh thiêng

của bạn tuyên bố người có cũng có quyền năng,

quyền năng tâm linh. Người đó cố chỉ ra quyền năng

tâm linh của mình.

Có lần cái gọi là người tâm linh tới gặp

Ramakrishna. Ramakrishna đang ngồi trên bờ sông

Hằng ở Dakshineshwar, nơi ông ấy thường sống.

Người tâm linh này nói với Ramakrishna, "Tôi nghe

nói rằng thầy là thánh nhân lớn. Nếu thầy thực sự là

vậy, thế thì đi cùng tôi và bước đi trên nước. Nếu thầy

có thể bước đi trên nước thì tôi có thể tin rằng thầy là

tâm linh."

Ramakrishna cười. Ông ấy nói, "Ông có thể bước

chứ...?"

Người này nói, "Vâng, tôi có thể bước được."

Ramakrishna hỏi người đó, "Ông mất bao lâu để

học đi trên nước?"

Người này nói, "Tôi mất mười tám năm nỗ lực vô

cùng, khổ hạnh, tapascharya, nhịn ăn, cầu nguyện.

Tôi sống trong một hang động ở Himalayas. Tôi đã hi

sinh mọi thứ. Thế rồi quyền năng tâm linh này đã

được trao cho tôi."

Ramakrishna nói, "Ta chẳng tâm linh gì, ta là

người đơn giản, rất bình thường. Nhưng một điều ta

muốn nói với ông. Khi ta muốn đi sang bờ bên kia,

người lái phà lấy của ta chỉ một xu thôi. Toàn thể nỗ

lực mười tám năm của ông không đáng được chừng

nấy. Ông đã phí hoài mười tám năm của mình. Ông

có thể tâm linh, nhưng ông là kẻ ngu, ông hoàn toàn

xuẩn ngốc! Ta chưa bao giờ bắt gặp người không

thông minh thế - phí hoài mười tám năm chỉ để đi trên

nước! Thế thì vấn đề là gì? Thôi được, ông có thể đi

trên nước, vậy cái gì nữa?"

Đây là bản ngã tâm linh, cái chẳng chóng thì chầy

sẽ phơi bày quyền năng của nó, để chứng minh rằng

"Ta linh thiêng hơn ông." Người đó đã tới với ý tưởng

đó - để chứng minh cho Ramakrishna rằng "Ta còn

linh thiêng hơn ông, ta cao hơn ông."

Điều đó là vô nghĩa. Phật tương truyền đã không

làm phép màu nào. Mahavira tương truyền đã không

làm phép màu nào. Và hiểu biết riêng của tôi là ở chỗ

mọi phép màu được nói tới nhân danh Jesus đều là bịa

đặt.

(mất âm thanh....)

Bạn thấy không? Một số người Ki tô giáo phát

điên! Họ tất cả đều là bịa đặt của người Ki tô giáo.

Tôi có cách tiếp cận hoàn toàn khác. Khi người Ki

tô giáo nói Jesus biến nước thành rượu đó không phải

là điều đúng theo từ về mặt sự kiện. Nó đơn giản

nghĩa là những người như Jesus bị say với nước

thường. Tôi biết điều đó từ kinh nghiệm riêng của

mình. Tôi chưa bao giờ trộn lẫn soda với rượu

whisky; tôi trộn lẫn soda với soda, và tôi bị say, còn

nói gì tới trộn nó với whisky? Chỉ không khí thuần

khiết là đủ để say rồi; nước là đủ. Nó tất cả đều mang

theo điều tinh tuý của Thượng đế, bạn còn cần gì hơn

để say? Sự tồn tại này còn nhiều hơn cái được cần.

Nhưng người tâm linh sẽ cố gắng chứng minh

bằng cách nào đó rằng mình là tâm linh. Người đó sẽ

chứng minh nó qua phép màu, người đó sẽ trở thành

kẻ phô trương. Đó là lí do tại sao bản ngã tâm linh là

nguy hiểm hơn. Người đó sẽ không có khả năng thấy

nó, và người khác sẽ không có khả năng thấy nó nữa.

Bởi vì bạn không thể thấy được nó một cách dễ dàng,

Unmado này, tôi gọi nó là nguy hiểm hơn.

Vứt chính ý tưởng rằng bạn tách rời khỏi sự tồn

tại đi. Và tôi không bảo bạn đánh nhau với bản ngã,

điều đó là vô nghĩa. Tôi đang bảo bạn tạo ra nhiều

nhận biết hơn trong bạn, trở nên đầy ánh sáng và ý

thức hơn và bản ngã sẽ biến mất theo cách của nó. Và

khi nó biến mất theo cách của nó, nó có cái đẹp, nó có

phúc lành. Khi không có bản ngã trong bạn, không

bản ngã trần tục hay bản ngã thế giới khác - khi

không có bản ngã chút nào thuộc bất kì loại nào, bạn

là một với Thượng đế. Rào chắn bị loại bỏ, rào chắn

cuối cùng đã sụp đổ.

Và kinh nghiệm Thượng đế là kinh nghiệm cuộc

sống trong sự đơn giản vô cùng của nó, trong cái đẹp

vô cùng của nó. Kinh nghiệm Thượng đế là kinh

nghiệm chân lí trong cái vĩnh hằng của nó. Thế thì

bạn ở bên ngoài cái chết và bên ngoài thời gian.

Bản ngã là rào chắn duy nhất. Nhưng đừng đánh

nhau với nó - tâm linh hay phàm tục, đó là cùng một

thứ. Tạo ra nhiều ý thức hơn, có tính thiền nhiều hơn.

Thiền là thuốc duy nhất. Cả hai từ này đều tới từ cùng

một gốc: 'thiền-meditation' và 'thuốc-medicine' - bởi

vì thiền cũng là thuốc. Nó chữa lành bạn, nó chữa cho

bạn khỏi bệnh lớn nhất, bệnh bản ngã.

#10Câu hỏi thứ năm:

Thưa Thầy kính yêu,

Liệu một ngày nào đó ngay giữa bài nói thầy có đi

xuống bếp để hỏi cái gì đang được chuẩn bị cho

thầy không?

Pantha, rất tiếc, tôi không thể làm được điều đó -

vì nhiều nguyên nhân. Một là, tôi không phải là

Ramakrishna; tôi chỉ là bản thân mình, tôi là không là

ai khác.

Thứ hai, mọi người trong bếp của tôi đều ở đây:

Vivek ở đây, Astha ở đây, Nirgun ở đây, Pragya ở đây

- chẳng có ai để hỏi cả.

Thứ ba, tôi ăn cùng một thức ăn, sáng, tối, hết

năm nọ tới năm kia. Thực tế, mọi người làm bếp của

tôi đều chán với việc chuẩn bị bữa này. Ngoại trừ tôi

mọi người đều chán! Đây là phương cách làm cho họ

chán.

Nghĩ mà xem: cùng một thứ họ phải chuẩn bị,

sáng, tối, mọi ngày. Chừng nào họ chưa trở nên

chứng ngộ họ sẽ phát rồ.

Cho nên chẳng có gì để hỏi cả, tôi đã biết rồi.

Không bao giờ có thay đổi trong thức ăn của tôi.

Thứ ba, tôi không biết nhà bếp ở đâu! Cho nên,

Pantha, cho dù tôi muốn tôi cũng không thể tìm được

nó. Tôi chỉ biết mỗi phòng của tôi, và con đường từ

phòng tôi tới Phòng Phật và quay về. Tôi sẽ bị lạc

trong Nhà Lão Tử. Và sau nhiều, nhiều kiếp bằng

cách nào đó tôi đã tìm ra được đường. Xin đừng làm

tôi bị lạc nữa.

#10Câu hỏi thứ sáu:

Thưa Thầy kính yêu,

Cái gì là chữ tục tĩu bẩn thỉu nhất trong tiếng Ấn

Độ?

Darshan, 'làm việc'!

Câu hỏi thứ bẩy:

Thưa Thầy kính yêu,

Thầy đã không kể hết câu chuyện về tu sĩ và buổi

lễ ngày chủ nhật của ông ấy. Nó là vậy sao?

Chetan Hari, điều đó đúng đấy. Tôi đã chủ ý

không kể hết nó, nhưng bây giờ bạn đã hỏi và tôi phải

kể hết nó vậy.

Khi tu sĩ thấy địa ngục đẹp thế, với những người

cực lạc thế, ông ta chắc chắn trở nên bị mê tít. Ông ấy

biết mọi cách lên cõi trời, ông ấy không có ý tưởng về

cách đi tới địa ngục. Còn bây giờ, khi thấy địa ngục

rồi, ông ấy muốn đi tới địa ngục, không muốn lên cõi

trời.

Thế là ông ấy hỏi vài người. Họ nói, "Tốt hơn cả

ông hãy hỏi Phật, ông ấy ngồi kia dưới gốc cây."

Ông ấy đi tới Phật và ông ấy hỏi, "Thưa ngài, ngài

có thể chỉ cho tôi đường tới địa ngục không, bởi vì

bây giờ tôi không muốn thấy cõi trời nữa. Một lần là

đủ rồi. Tôi không muốn đi tới đó chút nào. Tôi đã

sống cả đời chuẩn bị cho cõi trời. Tôi biết tất cả mọi

con đường và mọi phương pháp và mọi phương tiện

làm sao đạt tới đó. Tôi không biết cách xuống địa

ngục."

Phật nói, "Ông quay lại ga và mua vé tới Pune và

lấy tính chất sannyas. Đó là đường tốt nhất và ngắn

nhất để đi tới địa ngục."

Tu sĩ ấy đang ở đây. Xin đừng hỏi tôi tên ông ấy,

bởi vì các tu sĩ đều có chút ít xấu hổ, và ông ấy sẽ

cảm thấy bối rối - và đặc biệt là linh mục Cơ đốc

giáo. Nhưng ông ấy ở đây. Nếu bạn thử kĩ càng hơn

chút bạn sẽ thấy ông ấy.

Câu hỏi cuối cùng:

Thưa Thầy kính yêu,

Được rồi, nói thẳng điều đó cho tôi. Thượng đế có

thực tồn tại ở Mĩ không? Ngày mai đi rồi, tôi có

chút ít nóng ruột khi nhận ra thế giới này có xu

hướng nghiêm chỉnh làm sao, và vậy mà, thầy biết

đấy, cả Thượng đế cũng thế. Vậy thầy có cho tôi

một trong những chuyện cười hủ lậu để chia sẻ

với Ngài trong trường hợp chúng tôi gặp gỡ

không?

Toshen, bạn quên từ này 'ông ấy' đi. Thượng đế

không phải là ông, Thượng đế là bà. Nếu bạn đi với ý

tưởng này rằng ngài là ông, bạn sẽ không bao giờ thấy

ngài đâu. Đó là cách mọi người cứ bỏ lỡ ngài. Họ cứ

tìm ngài dường như ngài là đàn ông, và ngài đã tự

thay đổi bản thân mình từ lâu rồi.

Đại tá Stanford, người phân biệt chủng tộc trung

thành, chết và bằng cách nào đó tìm được đường lên

cõi trời. Một tuần sau bạn ông ta, đại tá Beauregard,

khởi hành và cũng được phép đi qua Ngọc Môn. Hai

người trong họ gặp nhau.

"Chưa bao giờ có hoài nghi gì chúng ta sẽ làm

điều đó," đại tá Beauregard nói, "nhưng bởi vì chúng

ta đã làm nó, hãy nói cho tôi, mọi sự ở đây là thế

nào?"

"Không tồi đâu," đại tá Stanford trả lời, "nhưng

tôi muốn khuyên anh nhìn bước đi của mình. Tôi đã

thấy Thượng đế hôm nọ và bà ấy là người da đen."

Và không chỉ có điều ông ấy là bà, bà ấy còn là

người da đen - đàn bà da đen. Cho nên nếu bạn thực

sự tìm Thượng đế ở Mĩ, nhớ điều này.

Và thế rồi bạn sẽ phải học vài điều. Nếu bạn gặp

người đàn bà da đen bạn sẽ phải học nghệ thuật nào

đó, bạn sẽ phải học là người đàn ông chút ít, bằng

không sẽ không có trao đổi, không có giao cảm.

Thượng đế đã thay đổi. Ngài đã mệt mỏi là giống

đực và da trắng. Mọi người đều mệt mỏi của việc là

cùng người cũ. Và mọi người vẫn nghĩ rằng ngài già.

Bạn đang tôn thờ ảnh chụp cũ, bạn đang mang quyển

ảnh cũ. Không có gì ngạc nhiên là rất ít người tìm ra

ngài.

Bây giờ nghĩ về Thượng đế như đàn bà. Và

Thượng đế chỉ có thể là đàn bà; chính ý tưởng về

Thượng đế là đàn ông là ý tưởng đàn ông gia trưởng,

nó là ý tưởng của đàn ông. Ba ngôi Ki tô giáo không

có một người đàn bà nào trong nó. Nhìn điều vô nghĩa

này: họ đã làm ra ngay cả một chỗ cho Thánh thần

linh thiêng. Bây giờ, ai là Thánh thần linh thiêng này?

Ba ngôi này đã không bỏ lỡ mấy nếu không có Thánh

thần linh thiêng, nhưng ba ngôi này có vẻ hơi xấu khi

không có đàn bà. Bố ở đó, con trai ở đó, còn mẹ đâu?

Bạn có nghĩ Thượng đế là đồng dục nam không?

Đây là phóng chiếu bản ngã của đàn ông. Nhớ

lấy: bà ấy chứa ông, nhưng ông ấy không chứa bà.

Đàn ông được sinh ra từ đàn bà, nhưng không đàn

ông nào có thể cho sinh ra đàn bà được. Điều tự nhiên

là nghĩ Thượng đế như đàn bà - như người mẹ, không

như người cha. Nghĩ người cha là ý tưởng phát xít.

Không phải ngẫu nhiên mà người Đức gọi nước

mình là "đất cha." Không ai gọi nước mình là "đất

cha." Mọi người gọi nước mình là "đất mẹ" - điều đó

dường như đúng - ngoại trừ người Đức... họ gọi nó là

"đất cha."

Thượng đế là mẹ, hiện tượng mẹ. Toàn thể sự tồn

tại có tính mẹ. Và Thượng đế còn mềm mỏng hơn

nhiều so với đàn ông có thể mềm mỏng, mong manh

hơn nhiều, cởi mở hơn nhiều. Thượng đế là bụng mẹ

của sự tồn tại. Toàn thể sự tồn tại bắt nguồn từ bụng

mẹ này.

Cho nên, Toshen này, vứt bỏ ý tưởng này về "ông

ấy" và "ông" đi; nghĩ về "bà ấy" và "bà." Và nhớ lấy:

ngài mệt là da trắng rồi, ngài không còn là da trắng

nữa. Ngài bây giờ da đen, và ngài đang tận hưởng là

da đen, bởi vì rất ít người có khả năng tìm thấy ngài

bây giờ. Cho dù bạn có bắt gặp ngài, bạn vẫn nghĩ,

"Đấy chỉ là người da đen." Cho dù ngài gõ cửa nhà

bạn, bạn sẽ không mở cửa.

Và nếu bạn gặp ngài, bạn hỏi tôi rằng bạn muốn

kể cho ngài chuyện cười nào đó. Kể cho ngài chuyện

cười này:

"Điều gì làm cho người da đen các anh là người

yêu tốt thế?" ông chủ da trắng hỏi Kinney, lái xe.

"Rắc rối với tụi da trắng các ông là ở chỗ các ông

cho nó vào đó và dúi vào, dúi vào, dúi vào và trước

khi ông biết điều đó, nó tất cả qua rồi," Kinney nói.

"Bây giờ cách tụi da đen chúng tôi làm là cho nó vào

đó, làm nó thoải mái, làm một cú dài, nói điều dịu

ngọt một chốc, dừng lại một chốc, để thời gian đấy,

thế rồi lại một cú dài chậm nữa, kiểu như vừa tế nhị

và vừa êm đềm."

Đêm đó người da trắng leo lên giường với vợ

mình và bắt đầu làm tình với cô ấy đích xác như

Kinney đã gợi ý.

Sau hai mươi phút cực kì vui thích cô ấy hổn hển

nói, "Lạy Chúa, anh đã học được ở đâu cách giao cấu

như người da đen thế?"

Đủ cho hôm nay.

END

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro