con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Câu 20: phân tích quan điểm của HCM : “con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng” ?. trong sự nghiệp đổi mới ở VN, đảng ta đã vận dụng tư tưởng đó của Người vào việc bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người hiện nay như thế nào?

                                                       Bài làm.

                       Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với giải quyết xã hội và giải phóng con người. Trong đó, vấn đề con người là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu và là vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ nội dung tư tưởng của Người

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với giải quyết xã hội và giải phóng con người. Trong đó, vấn đề con người là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu và là vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ nội dung tư tưởng của Người. Tin ở dân, dựa vào dân, tổ chức và phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, bồi dưỡng, đào tạo và phát huy mọi năng lực của dân (ở từng cá nhân riêng lẻ và của cả cộng đồng), đó là tư tưởng được Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh cách mạng giành độc lập dân tộc cũng như xây dựng đất nước. Tư tưởng đó cũng chính là nội dung cơ bản ủa toàn bộ tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh.

Đối với Hồ Chí Minh, con người vừa tồn tại vừa tư cách cá nhân, vừa là thành viên của gia đình và của cộng đồng, có cuộc sống tập thể và cuộc sống cá nhân hài hòa, phong phú. Người đã nêu một định nghĩa về con người: "Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người". Quan điểm đó thể hiện ở chỗ Người chưa bao giờ nhìn nhận con người một cách chung chung, trừu tượng. Khi bàn về chính sách xã hội, cũng như ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hoàn cảnh, Người luôn quan tâm đến nhu cầu, lợi ích của con người với tư cách nhu cầu chính đáng. Đem lại lợi ích cho con người chính là tạo ra động lực vô cùng lớn lao cho sự nghiệp chung, vì nếu như những nhu cầu, lợi ích của mỗi cá nhân không được quan tâm thỏa đáng thì tính tích cực của họ sẽ không thể phát huy được. Trong khi phê phán một cách nghiêm khắc chủ nghĩa cá nhân, Người viết: "Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là "giày xéo lên lợi ích cá nhân". Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia đình mình". Trong quan điểm về thực hiện một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, theo Người, phải là một nền dân chủ chân chính, không hình thức, không cực đoan, trong đó mỗi con người cụ thể phải được đảm bảo những quyền lợi và nghĩa vụ của mình theo hiến pháp và pháp luật. Con người, với tư cách là những cá nhân, không tồn tại biệt lập mà tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với cộng đồng dân tộc và với các loài người trên toàn thế giới.

 Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không tồn tại như một phạm trù bản thể luận có tính trừu tượng hóa và khái quát hóa, mà được đề cập đến một cách cụ thể, đó là nhân dân Việt Nam, những con người lao động nghèo khổ bị áp bức cùng cực dưới ách thống trị của phong kiến, đế quốc; là dân tộc Việt Nam đang bị đô hộ bởi chủ nghĩa thực dân; và mở rộng hơn nữa là những "người nô lệ mất nước" và "người cùng khổ". Lôgíc phát triển tư tưởng của Người là xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước để đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Theo lôgíc phát triển tư tưởng ấy, khái niệm "con người" của Hồ Chí Minh tiếp cận với khái niệm "giai cấp vô sản cách mạng". Người đề cập đến giai cấp vô sản cách mạng và sự thống nhất về lợi ích căn bản của giai cấp đó với các tầng lớp nhân dân lao động khác (đặc biệt là nông dân). Người nhận thức một cách sâu sắc rằng, chỉ có cuộc cách mạng duy nhất và tất yếu đạt tới được mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự nô dịch, áp bức. Toàn bộ các tư tưởng, lý luận (chiếm một khối lượng lớn trong các tác phẩm của Người) bàn về cách mạng (chiến lược giải pháp; bàn về người cách mạng và đạo đức cách mạng, về hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội; về rèn luyện và giáo dục con người v.v...) về thực chất chỉ là sự cụ thể hóa bằng thực tiễn tư tưởng về con người của HCM.

 Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người được khái niệm vừa là mục tiêu của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, vừa là động lực của chính sự nghiệp đó. Tư tưởng đó được thể hiện rất triệt để và cụ thể trong lý luận chỉ đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Trong lý luận về xây dựng chế độ mới, Hồ Chủ tịch đã khẳng định xây dựng chế độ dân chủ nhân dân gắn liền với việc thực hiện bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong kháng chiến giải phóng dân tộc cần xây dựng chế độ dân chủ nhân dân để đẩy mạnh công cuộc kháng chiến, đồng thời tạo ra những tiền đề cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội; trong xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải thực hiện chế độ dân chủ nhân dân, vì như Người nói: "Đây là cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại những cái gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi". Cuộc chiến đấu ấy sẽ không đi đến thắng lợi, nếu không "dựa vào lực lượng của toàn dân". Về chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh không bao giờ quan niệm hình thái xã hội đó như một mô hình hoàn chỉnh, một công thức bất biến. Bao giờ Người cũng coi trọng những điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa khách quan. Người chỉ đề ra những mục tiêu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội với những bước đi thiết thực và những nội dung cơ bản nhất. Theo Người: "Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết là làm cho nhân dân lao động thoát khỏi bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và được sống đời hạnh phúc"; "Chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân" xây dựng chủ nghĩa xã hội tức là làm cho nhân dân ta có một đời sống thật sung sướng, tốt đẹp. Người dạy xây dựng chủ nghĩa xã hội phải thiết thực, phù hợp với điều kiện khách quan, phải nắm được quy luật và phải biết vận dụng quy luật một cách sáng tạo trên cơ sở nắm vững tính đặc thù, tránh giáo điều, rập khuôn máy móc. Sự sáng tạo đó gần gũi, tương đồng, nhất quán với luận điểm của Ăngghen: "Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay". Vì vậy, không chỉ trong lý luận về đấu tranh giành độc lập dân tộc mà cả trong lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội khi định ra những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, trước hết, "cần có con người xã hội chủ nghĩa", Hồ Chí Minh đã thể hiện nhất quán quan điểm về con người: con người là mục tiêu, đồng thời vừa là động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính bản thân con người.

Tấm lòng Hồ Chí Minh luôn hướng về con người. Người yêu thương con người, tin tưởng con người, tin và thương yêu nhân dân, trước hết là người

lao động, nhân dân mình và nhân dân các nước. Với Hồ Chí Minh, "lòng thương yêu nhân dân, thương yêu nhân loại" là "không bao giờ thay đổi". Người có một niềm tin lớn ở sức mạnh sáng tạo của con người. Lòng tin mãnh liệt và vô tận của Hồ Chí Minh vào nhân dân, vào những con người bình thường đã được hình thành rất sớm. Từ những năm tháng Người bôn ba tìm đường cứu nước, thâm nhập, lăn lộn, tìm hiểu thực tế cuộc sống và tâm tư của những người dân lao động trong nước và nước ngoài. Người đã khẳng định: "Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương ẩn giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét, và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến"1. Tin vào quần chúng, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đó là một trong những phẩm chất cơ bản của người cộng sản. Và đây cũng chính là chỗ khác căn bản, khác về chất, giữa quan điểm của Hồ Chí Minh với quan điểm của các nhà Nho yêu nước xưa kia (kể cả các bậc sĩ phu tiền bối gần thời với Hồ Chí Minh) về con người. Nếu như quan điểm của Hồ Chí Minh: "Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết toàn dân", thì các nhà Nho phong kiến xưa kia mặc dù có những tư tưởng tích cực "lấy dân làm gốc", mặc dù cũng chủ trương khoan thư sức dân", nhưng quan điểm của họ mới chỉ dừng lại ở chỗ coi việc dựa vào dân cũng như một "kế sách", một phương tiện để thực hiện mục đích "trị nước", "bình thiên hạ". Ngay cả những bậc sĩ phu tiền bối của Hồ Chí Minh, tuy là những người yêu nước một cách nhiệt thành, nhưng họ chưa có một quan điểm đúng đắn và đầy đủ về nhân dân, chưa có đủ niềm tin vào sức mạnh của quần chúng nhân dân. Quan điểm tin vào dân, vào nhân tố con người của Người thống nhất với quan điểm của Mác, Ăngghen, Lênin: "Quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính ra lịch sử".

Tin dân, đồng thời lại hết lòng thương dân, tình thương yêu nhân dân của Hồ Chí Minh có nguồn gốc sâu xa từ trong truyền thống dân tộc, truyền thống nhân ái ngàn đời của người Việt Nam. Cũng như bao nhà Nho yêu nước khác có cùng quan điểm "ái quốc là ái dân", nhưng điểm khác cơ bản trong tư tưởng "ái dân" của Người là tình thương ấy không bao giờ dừng lại ở ý thức, tư tưởng mà đã trở thành ý chí, quyết tâm thực hiện đến cùng sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại cần lao, xóa bỏ đau khổ, áp bức bất công giành lại tự do, nhân phẩm và giá trị làm người cho con người. ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước gắn bó không tách rời với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Tình thương yêu cũng như toàn bộ tư tưởng về nhân dân của Người không bị giới hạn trong chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi mà nó tồn tại trong mối quan hệ khăng khít giữa các vấn đề dân tộc và giai cấp, quốc gia với quốc tế. Yêu thương nhân dân Việt Nam, Người đồng thời yêu thương nhân dân các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh luôn coi trọng sức mạnh đoàn kết toàn dân và sự đồng tình ủng hộ to lớn của bè bạn khắp năm châu, của cả nhân loại tiến bộ. Người cũng xác định sự nghiệp cách mạng của nước ta là một bộ phận không thể tách rời trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh giải phóng nhân loại trên phạm vi toàn thế giới.

Tóm lại: Quan niệm về con người, coi con người là một thực thể thống nhất của "cái cá nhân" và "cái xã hội", con người tồn tại trong mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân với cộng đồng, dân tộc, giai cấp, nhân loại; yêu thương con người, tin tưởng tuyệt đối ở con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính bản thân con người, đó chính là những luận điểm cơ bản trong tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh. Xuất phát từ những luận điểm đúng đắn đó, trong khi lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh luôn tin ở dân, hết lòng thương yêu, quý trọng nhân dân, biết tổ chức và phát huy sức mạnh của nhân dân. Tư tưởng về con người của Người thông qua thực tiễn cách mạng của Người thông qua thực tiễn cách mạng đã trở thành một sức mạnh vật chất to lớn và là nhân tố quyết định thắng lợi của chính sự nghiệp cách mạng ấy.

Tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh dựa trên thế giới quan duy vật triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chính vì xuất phát từ thế giới quan duy vật triệt để ấy, nên khi nhìn nhận và đánh giá vai trò của bản thân mình (với tư cách là lãnh tụ), Người không bao giờ cho mình là người giải phóng nhân dân. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, người cán bộ (kể cả lãnh tụ) chỉ là "đầy tớ trung thành" có sứ mệnh phục vụ nhân dân, lãnh tụ chỉ là người góp phần vào sự nghiệp cách mạng của quần chúng. Tư tưởng này đã vượt xa và khác về chất so với tư tưởng "chăn dân" của những người cầm đầu nhà nước phong kiến có tư tưởng yêu nước xưa kia. Và đây, cũng chính là điều đã làm nên chủ nghĩa nhân văn cao cả ở Hồ Chí Minh, một chủ nghĩa nhân văn cộng sản trong cốt cách của một nhà hiền triết phương Đông.

Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Tư tưởng về con người của Đảng Cộng sản Việt Nam nhất quán với tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh. Sự nhất quán ấy được thể hiện qua đường lối lãnh đạo cách mạng và qua các chủ trương chính sách của Đảng trong suốt quá trình Đảng lãnh đạo công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, tư tưởng đó tiếp tục được Đảng ta quán triệt vận dụng và phát triển. Con người Việt Nam đang là trung tâm trong "chiến lược phát triển toàn diện"; đang là động lực của công cuộc xây dựng xã hội mới với mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội".

          Như vây,  “con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng”.

                  (đào tạo con người trong sự nghiệp cách mạng hiện nay).

Con người không thể tồn tại khi tách khỏi xã hội, chỉ trong xã hội con người mới có thể trao đổi lao động thông qua đó mà thoả mãn nhu cầu trong cuộc sống như ăn, ở, đi lại; thông qua mối quan hệ giữa người và người trong xã hội mà mỗi người nhận thức về mình một cách đầy đủ hơn trên cơ sở đó rèn luyện, phấn đấu mọi mặt để hoàn thiện nhân cách. Xã hội càng phát triển mối quan hệ giữa con người với con người càng bền chặt thì con người nhận thức về mình rõ hơn; sự hiểu biết của con người về xã hội nhiều hơn thì vai trò của con người trong xã hội càng tăng.

Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành lập đến nay đã rất chú ý đến vấn đề con người trong đường lối chiến lược cách mạng của mình. Quan tâm xây dựng con người, phát huy sức mạnh của con người để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người là sự nghiệp cách mạng cao cả của Đảng ta và của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội cần có con người xã hội chủ nghĩa. Con người xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng trong giai đoạn hiện nay theo tinh thần Hội nghị BCH Trung ương 5 khóa VIII đó là: con người phát triển toàn diện, hài hoà về nhân cách, cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tâm hồn, trong sáng về đạo đức cụ thể: Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc vì chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Có ý thức tập thể, đoàn kết phấn đấu vì lợi ích chung. Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng, có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích bản thân, gia đình, tập thể và xã hội. Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực. Như vậy, Đảng ta đã nhấn mạnh đến những phẩm chất cơ bản của con người mới phù hợp với thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đó là những con người có lý tưởng xã hội chủ nghĩa, yêu nước, phát triển toàn diện cả về thể lực, trí lực, đạo đức, thẩm mỹ, có ý chí và nhiệt tình lao động… Nói cách khác, con người mới phải là conngười vừa hồng vừa chuyên, vừa có đức vừa có tài.

Trên cơ sở quan điểm của Hội nghị BCH Trung ương 5 khóa VIII; Đại hội IX của đảng đã nêu phẩm chất nhân cách con người việt nam trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thực công đồng, nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, có lối sống văn hóa, quan hệ hài hoà với gia đình cộng đồng, xã hội”. Để đạt được tiêu chuẩn đó chúng ta phải từng bước thực hiện các nhiệm vụ chiến lược xây dựng, phát huy nguồn lực con người một cách tích cực chủ động. Phải xác định chiến lược xây dựng con người và phát triển nguồn nhân lực có mối quan hệ biện chứng với nhau. Đào tạo con người như thế nào thì có kết quả nguồn nhân lực tương ứng, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực trong từng thời kỳ ở mức độ nào thì phải có chiến lược xây dựng con người phù hợp.

Chủ nghĩa xã hội có được xây dựng thành công hay không là tuỳ thuộc vào việc chúng ta có phát huy tốt nguồn lực con người hay không

Từ thực tiễn 20 năm đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X rút ra một số bài học lớn, trong đó có bài học “Phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới”. Đại hội khẳng định: Phát huy nội lực, xem đó là nhân tố quyết định đối với sự phát triển; nội lực có vai trò quyết định đối với sự phát triển, vì có phát huy được nội lực mới thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài. Có tăng cường nội lực mới bảo đảm được độc lập tự chủ về kinh tế và thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế thành công. Phát huy nội lực, theo Đại hội X, trước hết là phát huy nguồn lực con người, nguồn lực của toàn dân tộc, khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên và sử dụng tốt nhất các nguồn lực của Nhà nước. Như vậy, Đảng ta đã chỉ ra muốn phát triển kinh tế - xã hội cần phải kết hợp nguồn lực trong nước và nguồn lực bên ngoài. Có kết hợp tốt nội lực với ngoại lực mới tạo được sức mạnh tổng hợp để phát triển. Cả nội lực và ngoại lực đều quan trọng, nhưng nội lực là nhân tố quyết định. Trong các nguồn nội lực, Đảng ta đã nhấn mạnh vai trò quyết định của nguồn lực con người, trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Trên lĩnh vực kinh tế, bất cứ quốc gia nào muốn phát triển đều phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước. Nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội bao gồm tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học công nghệ và lao động… Trong đó, nguồn lực lao động là nhân tố quyết định việc tổ chức, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khác.

 Nguồn lực lao động bao gồm các yếu tố tri thức, kỹ năng, trình độ quản lý, khả năng tổ chức điều hành sản xuất kinh doanh; ý chí, tình cảm, đạo đức là những yếu tố cơ bản quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội. Nhưng yếu tố cơ bản nhất vẫn là năng lực trí tuệ của con người. Bởi vì trong bất cứ xã hội nào người lao động cũng là yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất; đặc biệt ngày nay khoa học công nghệ ngày càng phát triển, hàm lượng chất xám kết tinh trong giá trị hàng hóa càng cao thì vai trò của người lao động có trí tuệ lại càng quan trọng. Vì con người được đào tạo kiến thức toàn diện, có trình độ, có năng lực, được làm chủ tư liệu sản xuất sẽ là người lao động làm nên năng suất lao động cao.

Con người là chủ thể sáng tạo ra công nghệ kỹ thuật… công nghệ kỹ thuật có phát triển hiện đại đến trình độ nào thì cũng không thể thay thế khả năng con người, vì con người sáng tạo ra máy móc, công nghệ kỹ thuật, sử dụng nó, cải tiến nó là để phục vụ lợi ích của con người, nâng cao năng suất lao động, cải thiện đời sống vật chất tinh thần. Vì thế, trí tuệ con người phát triển tới đâu sẽ tạo ra trình độ công nghệ kỹ thuật tương ứng.

Ngoài ra vai trò nguồn lực con người trong quá trình sản xuất còn thể hiện ở lương tâm, trách nhiệm, nghề nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật tạo nên ý chí lớn, tình cảm lớn, tư tưởng lớn tạo động lực giúp cho con người vượt qua khó khăn thử thách, chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu xây dựng đất nước theo mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh” Điều đó tạo ra những điều kiện thuận lợi để phát huy nguồn lực con người, phát triển kinh tế xã hội nhanh, bền vững, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước .

Không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà mặt khác trên lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội vai trò nguồn lực con người cũng được thể hiện rõ khi người lao động có trí thức, có năng lực, thấy được trách nhiệm của mình sẽ tham gia tích cực vào quản lý xã hội, quản lý nhà nước, thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ công dân góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Xây dựng nền văn hóa mới, con người mới XHCN, giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới để làm phong phú nền văn hóa dân tộc.

Với ý nghĩa đó việc xây dựng và phát huy con người là vấn đề quan trọng có ý nghĩa chiến lược cấp bách trước mắt, đồng thời mang tính chiến lược lâu dài hiện nay ở nước ta. Đó là quá trình đào tạo, bồi dưỡng làm tăng nguồn lực con người về thể lực, trí lực, phẩm chất đạo đức… là quá trình khai thác có hiệu quả những yếu tố đó trong học tập, lao động, nhằm phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa  đất nước

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xu hướng phát triển của các nước trên thế giới. Đó cũng là con đường phát triển tất yếu của nước ta để đi lên mục tiêu “Xã hội công bằng văn minh, dân giàu nước mạnh” công nghiệp hóa, hiện đại hóa không chỉ là công cuộc xây dựng kinh tế mà chính là quá trình biến đổi cách mạng sâu sắc với lĩnh vực đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, khoa học của con người…) làm cho xã hội phát triển lên một trạng thái mới về chất. Sự thành công của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi ngoài môi trường chính trị ổn định, phải có nguồn lực cần thiết như nguồn lực con người, vốn tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật. Các nguồn lực này quan hệ chặt chẽ với nhau. Cùng tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng mức độ tác động vào vai trò của chúng đối với toàn bộ quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa không giống nhau, trong đó nguồn nhân lực phải đủ về số lượng mạnh về chất lượng. Nói cách khác nguồn nhân lực phải trở thành động lực phát triển. Nguồn nhân lực phát triển thì tất yếu công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải tiến hành để đáp ứng nhu cầu đó.

Trên cơ sở nhận thức rõ về con người và vai trò nguồn lực con người trong giai đoạn hiện nay, để phát huy nguồn lực con người nhằm góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước chúng ta cần làm tốt một số nhiệm vụ sau;

- Kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc đồng thời tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa, nhân tố tích cực và giá trị tốt đẹp của thời đại hiện nay để xây dựng và phát huy nhân tố con người .

- Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là điều kiện để xây dựng, bồi dưỡng phát huy nguồn lực con người, đồng thời đến lượt nó phát huy nguồn lực con người là yếu tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

- Xây dựng và từng bước hoàn chỉnh hệ thống chính sách xã hội nhằm phát huy nhân tố con người trên cơ sở kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng, tiến bộ xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển.

- Xây dựng con người phát triển toàn diện, làm cho nguồn lực con người trở thành động lực, mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội.

- Nâng cao trình độ dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ trí thức mới, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Từng bước xây dựng và không ngừng hoàn thiện cơ chế quản lý XHCN, xác định rõ trách nhiệm và nghĩa vụ, phát huy quyền làm chủ của người lao động, tao điều kiện cho họ tham gia tích cực vào việc quản lý xã hội, quản lý nhà nước.

  

          

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro