Công ước luật biển 1982

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN1

(Ký kết ngày 10 tháng 12 năm 1982)

CÁC QUỐC GIA THÀNH VIÊN CỦA CÔNG ƯỚC 

Với lòng mong muốn giải quyết, trên tinh thần hiểu biết và hợp tác với nhau, 

mọi vấn đề liên quan đến luật biển, và ý thức được tầm vóc lịch sử của Công 

ước là một cống hiến quan trọng vào việc giữ gìn hòa bình, công lý và tiến bộ 

cho tất cả các dân tộc trên thế giới; 

Nhận thấy rằng, những sự kiện mới nảy sinh kể từ các Hội nghị của Liên hợp 

quốc về luật biển được nhóm họp tại Giơnevơ năm 1958 và năm 1960, đã làm 

tăng thêm sự cần thiết phải có một Công ước mới về luật biển có thể được mọi 

người chấp nhận; 

Ý thức rằng, những vấn đề về các vùng biển có liên quan chặt chẽ với nhau và 

cần được xem xét một cách đồng bộ; 

Thừa nhận rằng,  điều  đáng mong muốn là, bằng Công  ước với sự quan tâm 

đúng mức đến chủ quyền của tất cả các quốc gia, thiết lập được một trật tự pháp 

lý cho các biển và đại dương làm dễ dàng cho việc sử dụng công bằng và hiệu 

quả những tài nguyên, việc bảo tồn những nguồn lợi sinh vật của các biển và 

các đại dương, việc nghiên cứu, bảo vệ và gìn giữ môi trường biển; 

1

 Bản dịch tiếng Việt của Bộ Ngoại giao.   

Bản đánh máy do các cộng tác viên của Quỹ nghiên cứu Biển Đông 

(www.seasfoundation.org): 

•  Nguyễn Hoàng Việt 

•  Hà Phương Lê   

•  Lê Hồng Thuận 

•  Phượng  

•  Vũ 

•  Hoa Phạm 

•  Phạm Thị Bích Phượng 

•  gkhuongtang 

•  Vũ Lê Phương 

•  Nhóm Lã Vân 

Nguyễn Thái Linh (Quỹ Nghiên cứu Biển Đông) điều hành và kiểm tra việc đánh máy. 

 Cho rằng, việc thực hiện các mục tiêu này sẽ góp phần thiết lập nên một trật tự 

kinh tế quốc tế đúng đắn và công bằng, trong đó có tính đến các lợi ích  và nhu 

cầu của toàn thể loài người và đặc biệt là các lợi ích và nhu cầu riêng của các 

nước đang phát triển, dù có biển hay không có biển; 

Mong muốn phát triển bằng Công ước, các nguyên tắc trong Nghị quyết 2749 

(XXV) ngày 17 tháng 12 năm 1970, trong đó Đại hội đồng Liên hợp quốc đã đặc 

biệt trịnh trọng tuyên bố rằng khu vực đáy biển và đại dương, cũng như lòng đất 

dưới đáy các khu vực nằm ngoài giới hạn chung của loài người và việc thăm dò, 

khai thác khu vực này sẽ  được tiến hành vì lợi ích của toàn thể loài người, 

không phụ thuộc vào vị trí địa lý của các quốc gia;  

Tin tưởng rằng, việc pháp điển hóa và sự phát triển theo chiều hướng tiến hóa 

của Luật biển được thực hiện trong Công ước sẽ góp phần tăng cường hòa bình, 

an ninh, hợp tác và quan hệ hữu nghị giữa tất cả các dân tộc phù hợp với các 

nguyên tắc công bằng và bình đẳng về quyền, và sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho 

tiến bộ về kinh tế và xã hội của tất cả các dân tộc trên thế giới, phù hợp với các 

mục tiêu và các nguyên tắc của Liên hợp quốc như  đã  được nêu trong Hiến 

chương; 

Khẳng định rằng, các vấn đề không quy định trong Công ước sẽ tiếp tục được 

xử lý bằng các quy tắc và nguyên tắc của pháp luật quốc tế chung; 

Đã thỏa thuận như sau: 

PHẦN I 

MỞ ĐẦU 

ĐIỀU 1. Sử dụng các thuật ngữ và phạm vi áp dụng 

1.  Những thuật ngữ được sử dụng trong Công ước cần được hiểu như sau: 

1.  “Vùng” (Zone): là đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài giới 

hạn quyền tài phán quốc gia; 

2.  “Cơ quan quyền lực” (Autorité): là cơ quan quyền lực quốc tế về  đáy 

biển; 

3.  “Các hoạt  động  được tiến hành trong Vùng” (activités menées dans la 

Zone): là mọi hoạt động thăm dò và khai thác các tài nguyên của Vùng; 

4.  “Ô nhiễm môi trường biển” (Pullution du milieu marin): là việc con người 

trực tiếp hoặc gián tiếp đưa các chất liệu hoặc năng lượng vào môi trường 

biển, bao gồm cả các cửa sông, khi việc  đó gây ra hoặc có thể gây ra những tác hại như gây tổn hại đến nguồn lợi sinh vật, và đến hệ động vật 

và hệ thực vật biển, gây nguy hiểm cho sức khỏe con người, gây trở ngại 

cho các hoạt động ở biển, kể cả việc đánh bắt hải sản và các việc sử dụng 

biển một cách hợp pháp khác, làm biến  đổi chất lượng nước biển về 

phương diện sử dụng nó và làm giảm sút các giá trị mỹ cảm của biển; 

5.  a) “Sự nhận chìm” (immersion) là: 

i. mọi sự trút bỏ có ý thức xuống biển các chất thải hoặc các chất khác từ 

các tàu thuyền, phương tiện bay, giàn nổi hoặc công trình khác được bố trí 

ở biển. 

ii. mọi sự đánh chìm tàu thuyền, phương tiện bay, giàn nổi hoặc các công 

trình khác được bố trí ở biển. 

b) Thuật ngữ “nhận chìm” không nhằm vào: 

i. việc vứt bỏ các chất thải hoặc các chất khác được sản sinh trực tiếp hoặc 

gián tiếp trong việc khai thác bình thường của tàu thuyền, phương tiện 

bay, giàn nổi hoặc các công trình khác được bố trí trên biển, cũng như các 

thiết bị của chúng, ngoại trừ các chất thải hoặc các chất khác được chuyên 

chở hoặc chuyển tài trên các tàu thuyền, phương tiện bay, giàn nổi hoặc 

các công trình khác bố trí ở biển được dùng để thải bỏ các chất đó, trên 

các tàu thuyền, phương tiện bay, giàn nổi hay các công trình đó tạo ra; 

ii. việc tàng chứa các chất với mục  đích không phải chỉ là  để thải bỏ 

chúng với điều kiện là việc tàng chứa này không đi ngược lại những mục 

đich của Công ước. 

2.1 “Các quốc gia thành viên” (Etats Parties) là những quốc gia đã chấp nhận 

sự ràng buộc của Công ước và Công ước có hiệu lực đối với các quốc gia đó. 

2.  Công ước được áp dụng mulatis mutandis (với những thay đổi cần thiết về 

chi tiết) cho những thực thể nói trong Điều 305 khoản 1, điểm b, c, d, e và 

f đã trở thành thành viên của Công ước, theo đúng với các điều kiện liên 

quan  đến từng thực thể; trong giới hạn  đó, thuật ngữ “quốc gia thành 

viên” cũng dùng để chỉ những thực thể này. 

PHẦN II 

LÃNH HẢI VÀ VÙNG TIẾP GIÁP 

Mục 1 

CÁC QUY ĐỊNH CHUNG 

ĐIỀU 2. Chế độ pháp lý của lãnh hải và vùng trời ở trên lãnh hải cũng 

như đáy và lòng đất dưới đáy của lãnh hải 

Chủ quyền của quốc gia ven biển được mở rộng ra ngoài lãnh thổ và nội thủy 

của mình, và trong trường hợp một quốc gia quần  đảo, ra ngoài vùng 

nước quần  đảo,  đến một vùng biển tiếp liền, gọi là lãnh hải 

(merterritoriale) 

Chủ quyền này được mở rộng đến vùng trời trên lãnh hải, cũng như đến đáy 

và lòng đất của biển này.  

Chủ quyền của Công ước và các quy tắc khác của pháp luật quốc tế trù định. 

Mục 2  

RANH GIỚI CỦA LÃNH HẢI 

ĐIỀU 3. Chiều rộng của lãnh hải 

Mọi quốc gia đều có quyền ấn định chiều rộng lãnh hải của mình; chiều rộng 

này không vượt quá 12 hải lý kể từ  đường cơ sở  được vạch ra theo  đúng 

Công ước. 

ĐIỀU 4. Ranh giới phía ngoài của lãnh hải 

Ranh giới phía ngoài của lãnh hải là một đường mà mỗi điểm ở trên đường 

đó cách điểm gần nhất của đường cơ sở một khoảng cách bằng chiều rộng 

của lãnh hải. 

ĐIỀU 5. Đường cơ sở thông thường 

Trừ khi có quy  định trái ngược của Công  ước,  đường cơ sở thông thường 

dùng để tính chiều rộng lãnh hải là ngấn nước triều thấp nhất dọc theo bờ 

biển, như được thể hiện trên các hải đồ tỷ lệ lớn đã được quốc gia ven biển 

chính thức công nhận. 

ĐIỀU 6. Các mỏm đá (recifs) 

Trong trường hợp những bộ phận đảo cấu tạo bằng san hô hoặc các đảo có đá 

ngầm ven bờ bao quanh, thì đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải là 

ngấn nước triều thấp nhất  ở bờ phía ngoài cũng của các mỏm  đá, như  đã 

được thể hiện trên các hải đồ được quốc gia ven biển chính thức công nhận. 

 ĐIỀU 7. Đường cơ sở thẳng 

1.  Ở nơi nào bờ biển bị khoét sâu và lồi lõm hoặc nếu có một chuỗi đảo nằm 

sát ngay và chạy dọc theo bờ biển, phương pháp đường cơ sở thẳng nối 

liền các điểm thích hợp có thể được sử dụng để kẻ đường cơ sở dùng để 

tính chiều rộng lãnh hải. 

2.  Ở nơi nào bờ biển cực kỳ không ổn định do có một châu thổ và những đặc 

điểm tự nhiên khác, các điểm thích hợp có thể được lựa chọn dọc theo 

ngấn nước triều thấp nhất có chuyển dịch vào phía trong bờ, các đường cơ 

sở đã được vạch ra vẫn có hiệu lực cho tới khi các quốc gia ven biển sửa 

đổi đúng theo Công ước. 

3.  Tuyến các đường cơ sở không được đi chệch quá xa hướng chung của bờ 

biển, và các vùng biển ở bên trong các đường cơ sở này phải gắn với đắt 

liền đủ đến mức đạt được chế độ nội thủy. 

4.  Các đường cơ sở thẳng không được kéo đến hoặc xuất phát từ các bãi cạn 

lúc nổi lúc chìm, trừ trường hợp ở đó có những đèn biển hoặc các thiết bị 

tương tự thường xuyên nhô trên mặt nước hoặc việc vạch các đường cơ sở 

thẳng đó đã được sự thừa nhận chung của quốc tế.  

5.  Trong những trường hợp mà phương pháp kẻ đường cơ sở thẳng được áp 

dụng theo khoản 1, khi ấn định một số đoạn đường cơ sở có thể tính đến 

những lợi ích kinh tế riêng biệt của khu vực đó mà thực tế và tầm quan 

trọng của nó đã được một quá trình sử dụng lâu dài chứng minh rõ ràng. 

6.  Phương pháp  đường cơ sở thẳng do một quốc gia áp dụng không  được 

làm cho lãnh hải của một quốc gia khác bị tách khỏi biển cả hoặc một 

vùng đặc quyền kinh tế. 

ĐIỀU 8. Nội thủy 

1.  Trừ trường hợp đã được quy định ở Phần IV, các vùng nước ở phía bên 

trong đường cơ sở của lãnh hải thuộc nội thủy của quốc gia. 

2.  Khi một đường cơ sở thẳng được vạch ra theo đúng phương pháp được 

nói ở Điều 7 gộp vào nội thủy các vùng nước trước đó chưa được coi là 

nội thủy, thì quyền đi qua không gây hại nói trong Công ước vẫn được áp 

dụng ở các vùng nước đó. 

ĐIỀU 9. Cửa sông 

Nếu một con sông đổ ra biển mà không tạo thành vụng thì đường cơ sở là 

một đường thẳng được kẻ ngay qua cửa sông nối liền các điểm ngoài cùng 

của ngấn nước triều thấp nhất ở hai bên bờ sông. 

ĐIỀU 10. Vịnh 

 1.  Điều này chỉ liên quan đến những vịnh mà bờ vịnh thuộc một quốc gia 

duy nhất. 

2.  Trong Công ước, “Vịnh” (baie) cần được hiểu là một vùng lõm sâu rõ rệt 

vào đất liền mà chiều sâu của vùng lõm đó so sánh với chiều rộng ở ngoài 

cửa của nó đến mức là nước của vùng lõm đó được bờ biển bao quanh và 

vùng  đó lõm sâu hơn là một sự uốn cong của bờ biển. Tuy nhiên, một 

vũng lõm chỉ được coi là một vịnh nếu như diện tích của nó ít nhất cũng 

bằng diện tích một nửa hình tròn có đường kính là đường thẳng kẻ ngang 

qua cửa vào của vùng lõm. 

3.  Diện tích của một vùng lõm được tính giữa ngấn nước triều thấp nhất dọc 

theo bờ biển của vùng lõm và đường thẳng nối liền các ngấn nước triều 

thấp nhất ở các điểm của cửa vào tự nhiên. Nếu do có các đảo mà một 

vùng lõm có nhiều cửa vào, thì nửa hình tròn nói trên có đường kính bằng 

tổng số chiều dài các đoạn thẳng cắt ngang các cửa vào đó. Diện tích của 

các đảo nằm trong một vùng lõm được tính vào diện tích chung của vùng 

lõm. 

4.  Nếu khoảng cách giữa các ngấn nước triều thấp nhất ở các điểm của cửa 

vào tự nhiên một vịnh không vượt quá 24 hải lý, thì đường phân giới có 

thể được vạch giữa hai ngấn nước triều thấp nhất này và vùng nước ở phía 

bên trong đường đó được coi là nội thủy. 

5.  Khi khoảng cách giữa các ngấn nước triều thấp nhất ở các điểm của cửa 

vào tự nhiên của một vịnh vượt quá 24 hải lý, thì  được kẻ một  đoạn 

đường cơ sở thẳng dài 24 hải lý ở phía trong vịnh, sao cho phía trong của 

nó có một diện tích nước tối đa. 

6.  Các quy định trên đây không áp dụng đối với các vịnh gọi là “vịnh lịch 

sử” và cũng không áp dụng đối với các trường hợp làm theo phương pháp 

đường cơ sở thẳng được trù định trong Điều 7. 

ĐIỀU 11. Cảng 

Để  ấn  định ranh giới lãnh hải, các công trình thiết bị thường xuyên là bộ 

phận hữu cơ của một hệ thống cảng, nhô ra ngoài khơi xa nhất, được coi là 

thành phần của bờ biển. Các công trình thiết bị ở ngoài khơi xa bờ biển và 

các đảo nhân tạo không được coi là những công trình thiết bị cảng thường 

xuyên. 

ĐIỀU 12. Vũng tàu 

Các vũng tàu được dùng thường xuyên vào việc xếp dỡ hàng hóa và làm khu 

neo tàu, bình thường nằm hoàn toàn hoặc một phần ở ngoài đường ranh giới 

bên ngoài của lãnh hải cũng được coi như là bộ phận của lãnh hải. 

ĐIỀU 13. Bãi cạn lúc chìm lúc nổi 

 1.  “Bãi cạn lúc chìm lúc nổi” (haut-fonds découvrants) là những vùng  đất 

nhô cao tự nhiên có biển bao quanh, khi thủy triều xuống thấp thì lộ ra, 

khi thủy triều lên cao thì bị ngập nước. Khi toàn bộ hay một phần bãi cạn 

đó ở cách lục địa hoặc một đảo một khoảng cách không vượt quá chiều 

rộng của lãnh hải, thì ngấn nước triều thấp nhất ở trên các bãi cạn này có 

thể được dùng làm đường cơ sở để tính chiều rộng của lãnh hải. 

2.  Khi các bãi cạn lúc chìm lúc nổi hoàn toàn ở cách lục địa hoặc một đảo 

một khoảng cách vượt quá chiều rộng của lãnh hải, thì chung không có 

lãnh hải riêng.  

ĐIỀU 14. Sự kết hợp các phương pháp để vạch các đường cơ sở 

Quốc gia ven biển, tùy theo hoàn cảnh khác nhau, có thể vạch ra các đường 

cơ sở theo một hay nhiều phương pháp được trù định ở các điều nói trên. 

ĐIỀU 15. Việc hoạch  định ranh giới lãnh hải giữa các quốc gia có bờ 

biển kề nhau hoặc đối diện nhau 

Khi hai quốc gia có bờ biển kề nhau hoặc đối diện nhau, không quốc gia nào 

được quyền mở rộng lãnh hải ra quá đường trung tuyến mà mọi điểm nằm 

trên đó cách đều các điểm gần nhất của các đường cơ sở dùng để tính chiều 

rộng lãnh hải của mỗi quốc gia, trừ khi có sự thỏa thuận ngược lại. Tuy 

nhiên, quy định này không áp dụng trong trường hợp do có những danh nghĩa 

lịch sử hoặc có các hoàn cảnh đặc biệt khác cần phải hoạch định ranh giới 

lãnh hải của hai quốc gia một cách khác. 

ĐIỀU 16. Hải đồ và bản kê các tọa độ địa lý 

1.  Các đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải được vạch ra theo đúng 

các Điều 7, 9 và 10 hoặc các ranh giới hình thành từ các điều đó và các 

đường hoạch định ranh giới được vạch ra đúng theo các Điều 12 và 15, 

được thể hiện trên các hải đồ có tỷ lệ thích hợp để xác định được vị trí của 

nó. Nếu không, thì có thể thay thế bằng một bản kê các tọa độ địa lý các 

điểm, có ghi rõ hệ thống trắc địa đã được sử dụng. 

2.  Quốc gia ven biển công bố theo đúng thủ tục các hải đồ hay các bản kê 

các tọa độ địa lý và gửi đến Tổng thư ký Liên hợp quốc một bản để lưu 

chiếu. 

Mục 3 

ĐI QUA KHÔNG GÂY HẠI TRONG LÃNH HẢI 

TIỀU MỤC A 

CÁC QUY TẮC ÁP DỤNG CHO TẤT CẢ CÁC LOẠI TÀU THUYỀN 

ĐIỀU 17. Quyền đi qua không gây hại 

Với điều kiện phải chấp hành Công ước, tàu thuyền của tất cả các quốc gia, 

có biển hay không có biển,  đều  được hưởng quyền  đi qua không gây hại 

trong lãnh hải.  

ĐIỀU 18. Nghĩa của thuật ngư “Đi qua” (Passage) 

1.  “Đi qua” là đi ở trong lãnh hải, nhằm mục đích 

a)  Đi ngang qua nhưng không đi vào nội thủy, không đậu lại trong một vũng 

tàu hoặc một công trình cảng ở bên ngoài nội thủy; hoặc 

b) Đi vào hoặc rời khỏi nội thủy, hoặc đậu lại hay rời khỏi một vũng tàu hay 

một công trình cảng trong nội thủy. 

2.  Việc đi qua phải liên tục và nhanh chóng. Tuy nhiên, việc đi qua bao gồm 

cả việc dừng lại và thả neo, nhưng chỉ trong trường hợp gặp phải những 

sự cố thông thường về hàng hải hoặc vì một trường hợp bất khả kháng 

hay mắc nạn hoặc vì mục đích cứu giúp người, tàu thuyền hay phương 

tiện bay đang lâm nguy hoặc mắc nạn. 

ĐIỀU 19. Nghĩa của thuật ngữ “đi qua không gây hại” (Passage 

inoffensif) 

1.  Việc đi qua là không gây hại, chừng nào nó không làm phương hại đến 

hòa bình, trật tự hay an ninh của quốc gia ven biển. Việc đi qua không gây 

hại cần phải được thực hiện theo đúng với các quy định của Công ước và 

các quy tắc khác của pháp luật quốc tế. 

2.  Việc đi qua của một tàu thuyền nước ngoài bị coi như phương hại đến hòa 

bình, trật tự hay an ninh của quốc gia ven biển, nếu như ở trong lãnh hải, 

tàu thuyền này tiến hành một trong bất kỳ hoạt động nào sau đây: 

a)  Đe dọa hoặc dùng vũ lục chống lại chính quyền, toàn vẹn lãnh thổ hoặc 

độc lập chính trị của quốc gia ven biển hay dùng mọi cách khác trái với 

các nguyên tắc của pháp luật quốc tế đã được nêu trong Hiến chương Liên 

hợp quốc; 

b)  Luyện tập hoặc diễn tập với bất kỳ kiểu loại vũ khí nào; 

c)  Thu nhập tình báo gây thiệt hại cho quốc phòng hay an ninh của quốc gia 

ven biển; 

d)  Phóng đi, tiếp nhận hay xếp lên tàu các phương tiện bay; 

e)  Phóng đi, tiếp nhận hay xếp lên tàu các phương tiện quân sự; 

f)  Tuyên truyền nhằm làm hại đến quốc phòng hay an ninh của quốc gia ven 

biển; g) Xếp hoặc dỡ hàng hóa, tiền bạc hay đưa người lên xuống tàu trái với các 

luật và quy định về hải quan, thuế khóa, y tế hoặc nhập cư của quốc gia 

ven biển; 

h) Gây ô nhiễm cố ý và nghiêm trọng, vi phạm Công ước; 

i)  Đánh bắt hải sản; 

j)  Nghiên cứu hay đo đạc; 

k)  Làm rối loạn hoạt động của mọi hệ thống giao thông liên lạc hoặc mọi 

trang thiết bị hay công trình khác của quốc gia ven biển; 

l)  Mọi hoạt động khác không trực tiếp quan hệ đến việc đi qua. 

ĐIỀU 20. Tàu ngầm và các phương tiện đi ngầm khác 

Ở trong lãnh hải, tàu ngầm và các phương tiện đi ngầm khác buộc phải đi nổi 

và phải treo cờ quốc tịch. 

ĐIỀU 21. Các luật và quy định của quốc gia ven biển liên quan đến việc 

đi qua không gây hại 

1. Quốc gia ven biển có thể định ra, phù hợp với các quy định của Công ước 

và các quy tắc khác của pháp luật quốc tế, các luật và quy định liên quan đến 

việc đi qua không gây hại ở trong lãnh hải của mình về các vấn đề sau đây: 

a)  An toàn hàng hải và điều phối giao thông đường biển; 

b)  Bảo vệ các thiết bị và các hệ thống bảo đảm hàng hải và các thiết bị hay 

công trình khác; 

c)  Bảo vệ các đường giây cáp và ống dẫn; 

d)  Bảo tồn tài nguyên sinh vật biển; 

e)  Ngăn ngừa những sự vi phạm các luật và quy định của quốc gia ven biển 

liên quan đến việc đánh bắt; 

f)  Gìn giữ môi trường của quốc gia ven biển và ngăn ngừa, hạn chế, chế ngự 

ô nhiễm môi trường; 

g) Nghiên cứu khoa học biển và đo đạc thủy văn; 

h) Ngăn ngừa những sự vi phạm các luật và quy định về hải quan, thuế khóa, 

y tế hay nhập cư của quốc gia ven biển; 

2. Các luật và quy định này không áp dụng đối với cách thiết kế, việc đóng 

hoặc đối với trang bị của tàu thuyền nước ngoài, nếu chúng không có  ảnh 

hưởng gì đến các quy tắc hay quy phạm quốc tế được chấp nhận chung. 

3.  Quốc gia ven biển công bố theo đúng thủ tục các luật và quy định này. 

4.  Khi thực hiện quyền  đi qua không gây hại  ở trong lãnh hải tàu thuyền 

nước ngoài phải tuân thủ các luật và quy định này, cũng như tất cả các 

quy định quốc tế được chấp nhận chung có liên quan đến việc phòng ngừa 

đâm va trên biển.  

ĐIỀU 22. Các tuyến đường và cách bố trí phân chia luồng giao thông ở 

trong lãnh hải 

1.  Quốc gia ven biển khi cần bảo đảm an toàn hàng hải có thể đòi hỏi tàu 

thuyền nước ngoài đi qua không gây hại trong lãnh hải của mình phải đi 

theo các tuyến đường do mình ấn định và phải tôn trọng các cách bố trí 

phân chia các luồng giao thông do mình quy định nhằm  điều phối việc 

qua lại các tàu thuyền. 

2.  Đặc biệt,  đối với các tàu xi-teec (navires-citernes), các tàu có  động cơ 

chạy bằng năng lượng hại nhân và các tàu chở các chất hay các nguyên 

liệu phóng xạ hoặc các chất khác vốn nguy hiểm hay độc hại, có thể bị bắt 

buộc chỉ được đi theo các tuyến đường này. 

3.  Khi ấn định các tuyến đường và quy định cách bố trí phân chia luồng giao 

thông theo điều này, quốc gia ven biển lưu ý đến: 

a)  Các kiến nghị của tổ chức quốc tế có thẩm quyền; 

b)  Tất cả các luồng lạch thường được sử dụng cho hàng hải quốc tế; 

c)  Các đặc điểm riêng của một số loại tàu thuyền và luồng lạch; 

d) Mật độ giao thông. 

4.  Quốc gia ven biển ghi rõ các tuyến đường và các cách phân chia luồng 

giao thông nói trên lên hải đồ và công bố theo đúng thủ tục. 

ĐIỀU 23. Tàu thuyền nước ngoài có động cơ chạy bằng năng lượng hạt 

nhân và tàu thuyền chuyên chở các chất phóng xạ hay các chất vốn nguy 

hiểm hoặc độc hại. 

Các tàu thuyền nước ngoài có động cơ chạy bằng năng lượng hạt nhân cũng 

như các tàu thuyền chuyên chở các chất phóng xạ hay các chất khác vốn 

nguy hiểm hay độc hại, khi thực hiện quyền đi qua  không gây hại trong lãnh 

hải, buộc phải mang đầy đủ các tài liệu và áp dụng những biện pháp phòng 

ngừa đặc biệt theo quy định của các điều ước quốc tế đối với loại tàu thuyền 

đó. 

ĐIỀU 24. Các nghĩa vụ của quốc gia ven biển 

1.  Quốc gia ven biển không được cản trở quyền đi qua không gây hại của 

các tàu thuyền nước ngoài trong lãnh hải, ngoài những trường hợp mà 

Công ước đã trù định. Đặc biệt khi áp dụng Công ước, quốc gia ben biển 

không được: 

a)  Áp đặt cho các tàu thuyền nước ngoài những nghĩa vụ dẫn đến việc cản 

trở hay hạn chế việc thực hiện quyền đi qua không gây hại của các tàu 

thuyền này; b)  Phân biệt đối xử về mặt pháp lý hay về mặt thực tế đối với các tàu thuyền 

chở hàng từ một quốc gia nhất định hay đến quốc gia đó hoặc nhân danh 

một quốc gia nhất định. 

2.  Quốc gia ven biển thông báo thích đáng mọi nguy hiểm về hàng hải của 

mình biết trong lãnh hải của mình. 

ĐIỀU 25. Quyền bảo vệ các quốc gia ven biển 

1.  Quốc gia ven biển có thể thi hành các biện pháp cần thiết trong lãnh hải 

của mình để ngăn cản mọi việc đi qua có gây hại. 

2.  Đối với tàu thuyền đi vào vùng nội thủy hay vào một công trình cảng ở 

bên ngoài vùng nội thủy đó, quốc gia ven biển cũng có quyền thi hành 

những biện pháp cần thiết để ngăn ngừa mọi sự vi phạm đối với các điều 

kiện mà tàu thuyền này buộc phải tuân theo để được phép vào vùng nội 

thủy hay công trình cảng nói trên. 

3.  Quốc gia ven biển có thể tạm thời đình chỉ việc thực hiện quyền đi qua 

không gây hại của tàu thuyền nước ngoài tại các khu vực nhất định trong 

lãnh hải của mình, nếu biện pháp này là cần thiết để bảo đảm an ninh của 

mình, kể cả  để thử vũ khí, nhưng không  được phân biệt  đối xử về mặt 

pháp lý hay về mặt thực tế giữa các tàu thuyền nước ngoài. Việc đình chỉ 

này chỉ có hiệu lực sau khi đã được công bố theo đúng thủ tục. 

ĐIỀU 26. Lệ phí đối với tàu thuyền nước ngoài 

1.  Không được thu lệ phí đối với tàu thuyền nước ngoài đi qua lãnh hải, nếu 

không phải vì lý do trả công cho những dịch vụ riêng đối với những tàu 

thuyền này. Khi thu lệ phí đó không được phân biệt đối xử. 

TIỂU MỤC B 

QUY TẮC ÁP DỤNG CHO TÀU BUÔN VÀ TÀU NHÀ NƯỚC DÙNG 

VÀO MỤC ĐÍCH THƯƠNG MẠI 

ĐIỀU 27. Quyền tài phán hình sự ở trên một tàu nước ngoài 

1.  Quốc gia ven biển không được thực hiện quyền tài phán hình sự của mình 

ở trên một tàu nước ngoài đi qua lãnh hải để tiến hành việc bắt giữ hay 

tiến hành việc dự thẩm sau một vụ vi phạm hình sự xảy ra trên con tàu 

trong khi nó đi qua lãnh hải, trừ các trường hợp sau đây: a)  Nếu hậu quả của vụ vi phạm đó mở rộng đến quốc gia ven biển; 

b) Nếu vị vi phạm có tính chất phá hoại hòa bình của đất nước hay trật 

tự trong lãnh hải; 

c)  Nếu thuyền trưởng hay một viên chức ngoại giao hoặc một viên 

chức lãnh sự của quốc gia mà tàu mang cờ yêu cầu sự giúp đỡ của 

các nhà đương cục địa phương hoặc 

d) Nếu các biện pháp này là cần thiết để trấn áp việc buôn lậu chất ma 

túy hay các chất kích thích. 

2.  Khoản 1 không đụng chạm gì đến quyền của quốc gia ven biển áp dụng 

mọi luật pháp mà luật trong nước mình qui định nhằm tiến hành các việc 

bắt giữ hay tiến hành việc dự thẩm ở trên con tàu nước ngoài đi qua lãnh 

hải, sau khi rời khỏi nội thủy. 

3.  Trong những trường hợp nêu ở các khoản 1 và 2, nếu thuyền trưởng yêu 

cầu, quốc gia ven biển phải thông báo trước về mọi biện pháp cho một viên 

chức ngoại giao hay cho một viên chức lãnh sự của quốc gia mà tàu mang 

cờ và phải tạo điều kiện dễ dàng cho viên chức ngoại giao hay viên chức 

lãnh sự đó tiếp xúc với đoàn thủy thủ của con tàu. Tuy nhiên trong trường 

hợp khẩn cấp, việc thông báo này có thể tiến hành trong khi các biện pháp 

đang được thi hành. 

4.  Khi xem xét có nên bắt giữ và các thể thức của việc bắt giữ, nhà đương cục 

địa phương cần phải chú ý thích đáng đến các lợi ích về hàng hải. 

5.  Trừ trường hợp áp dụng phần XII hay trong trường hợp có sự vi phạm các 

luật và quy định được định ra theo đúng phần V, quốc gia ven biển không 

được thực hiện một biện pháp nào ở trên một con tàu nước ngoài khi nó đi 

qua lãnh hải nhằm tiến hành bắt giữ hay tiến hành việc dự thẩm sau một vụ 

vị phạm hình sự xảy ra trước khi con tàu đi vào lãnh hải mà không đi vào 

nội thủy. 

ĐIỀU 28. Quyền tài phán dân sự đối với các tàu thuyền nước ngoài 

1.  Quốc gia ven biển không được bắt một tàu nước ngoài đang đi qua lãnh hải 

phải dừng lại hay thay đổi hành trình của nó để thực hiện quyền tài phán 

dân sự của mình đối với một người ở trên con tàu đó. 

2.  Quốc gia ven biển không thể áp dụng các biện pháp trừng phạt hay biện 

pháp bảo đảm (mesures conservatoires) về mặt dân sự đối với con tàu này, 

nếu không phải vì những nghĩa vụ đã cam kết hay các trách nhiệm mà con 

tàu phải đảm nhận trong khi đi qua hoặc để được đi qua vùng biển của quốc 

gia ven biển. 

 3.  Khoản 2 không đụng chạm đến quyền của quốc gia ven biển áp dụng các 

biện pháp trừng phạt hay bảo đảm về mặt dân sự do luật trong nước của 

quốc gia này quy định đối với tàu thuyền nước ngoài đang đậu trong lãnh 

hải hay đang đi qua lãnh hải, sau khi đã rời nội thủy.  

TIỂU MỤC C 

QUY TẮC ÁP DỤNG CHO CÁC TÀU CHIẾN VÀ CÁC TÀU 

THUYỀN KHÁC CỦA NHÀ NƯỚC ĐƯỢC DÙNG VÀO 

NHỮNG MỤC ĐÍCH KHÔNG THƯƠNG MẠI 

ĐIỀU 29. Định nghĩa “tàu chiến” (navire de guerre) 

Trong Công ước, « tàu chiến »  là mọi tàu thuyền thuộc lực lượng vũ trang của 

một quốc gia và mang dấu hiệu bên ngoài đặc trưng của các tàu thuyền quân 

sự thuộc quốc tịch nước đó; do một sĩ quan hải quân phục vụ quốc gia đó chỉ 

huy, người chỉ huy này có tên trong danh sách các sĩ quan hay trong một tài 

liệu tương đương; và đoàn thủy thủ phải tuân theo các điều lệnh kỷ luật quân 

sự. 

ĐIỀU 30. Tàu chiến không tuân thủ các luật và quy định của quốc gia ven 

biển 

Nếu một tàu chiến không tôn trọng các luật và quy định của quốc gia ven biển 

có liên quan đến việc đi qua trong lãnh hải và bất chấp yêu cầu phải tuân thủ 

các luật và quy định đó đã được thông báo cho họ, thì quốc gia ven biển có thể 

đòi chiếc tàu đó rời khỏi lãnh hải ngay lập tức. 

ĐIỀU 31. Trách nhiệm của quốc gia mà tàu mang cờ đối với hành động 

của một tàu chiến hay một tàu khác của Nhà nước 

Quốc gia mà tàu mang cờ chịu trách nhiệm quốc tế về mọi tổn thất hoặc về 

mọi thiệt hại gây ra cho quốc gia ven biển do một tàu chiến hay bất kỳ tàu 

thuyền nào khác của Nhà nước dùng vào những mục đích không thương mại vi 

phạm các luật và quy định của quốc gia ven biển có liên quan đến việc đi qua 

lãnh hải hay vi phạm các quy định của Công ước hoặc các quy tắc khác của 

pháp luật quốc tế. 

ĐIỀU 32. Các quyền miễn trừ của các tàu chiến và các tàu khác của Nhà 

nước dùng vào những mục đích không thương mại 

Ngoài những ngoại lệ đã nêu ở Tiểu mục A và ở các Điều 30 và 31, không một 

quy  định nào của Công ước  đụng chạm  đến các quyền miễn trừ mà các tàu chiến và các tàu khác của Nhà nước dùng vào những mục đích không thương 

mại được hưởng. 

Mục 4 

VÙNG TIẾP GIÁP 

ĐIỀU 33. Vùng tiếp giáp  

1.  Trong một vùng tiếp giáp với lãnh hải của mình, gọi là vùng tiếp giáp, quốc 

gia ven biển có thể thi hành sự kiểm soát cần thiết, nhằm: 

a)  Ngăn ngừa những phạm vi  đối với các luật và quy  định hải quan, thuế 

khóa, y tế hay nhập cư trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình; 

b) Trừng trị những vi phạm đối với các luật và quy định nói trên xảy ra trên 

lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình. 

2.  Vùng tiếp giáp không thể mở rộng quá 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để 

tính chiều rộng của lãnh hải. 

PHẦN III 

EO BIỂN DÙNG CHO HÀNG HẢI QUỐC TẾ 

Mục 1 

CÁC QUY ĐỊNH CHUNG 

ĐIỀU 34. Chế độ pháp lý của vùng nước các eo biển dùng cho hàng hải 

quốc tế 

1.  Chế độ đi qua các eo biển dùng cho hàng hải quốc tế mà phần này quy định 

không ảnh hưởng gì về bất cứ phương diện nào khác đến chế độ pháp lý 

của vùng nước các eo biển này, cũng như đến việc quốc gia ven eo biển 

thực hiện chủ quyền hay quyền tài phán của mình ở các vùng nước ấy, ở 

đáy biển tương ứng và lòng đất dưới đáy biển, cũng như vùng trời ở trên 

các vùng nước đó. 

2.  Các quốc gia ven eo biển thực hiện chủ quyền hay quyền tài phán của mình 

trong những điều kiện do các quy định của phần này và các quy tắc khác 

của pháp luật quốc tế trù định. 

 ĐIỀU 35. Phạm vi áp dụng của phần này 

Không một quy định nào của phần này được đụng chạm đến: 

a)  Nội thủy thuộc một eo biển, trừ khi việc vạch ra một tuyến đường cơ sở 

thẳng theo đúng với phương pháp nói ở Điều 7 đã gộp vào trong nội thủy 

những vùng nước trước đây không được coi là nội thủy; 

b)  Chế độ pháp lý của các vùng nước nằm ngoài lãnh hải của các quốc gia 

ven eo biển, dù chúng thuộc vùng quốc tế hay thuộc biển cả; 

c) Chế độ pháp lý của các eo biển mà việc đi qua đã được quy định toàn bộ 

hay từng phần trong các công ước quốc tế đặc biệt nhằm vào các eo biển này 

đã có từ lâu đời và vẫn đang có hiệu lực. 

ĐIỀU 36. Các đường ở biển cả hay đường qua một vùng đặc quyền kinh 

tế nằm trong các eo biển dùng cho hàng hải quốc tế. 

Phần này không áp dụng đối với các eo biển dùng cho hàng hải quốc tế, nếu 

như có thể vượt qua eo biển đó bằng một con đường ở biển cả hay một con 

đường qua một vùng đặc quyền kinh tế cũng thuận tiện như thế về phương 

diện hàng hải và về các đặc điểm thủy văn; về các con đường này, những 

phần khác tương ứng của công ước có thể được áp dụng, kể cả các quy định 

liên quan đến tự do hàng hải và tự do hàng không. 

Mục 2 

QUÁ CẢNH 

ĐIỀU 37. Phạm vi áp dụng của mục này 

Mục này được áp dụng đối với các eo biển dùng cho hàng hải quốc tế giữa 

một bộ phận của biển cả hoặc một vùng đặc quyền về kinh tế và giữa một bộ 

phận khác của biển cả hoặc một vùng đặc quyền về kinh tế. 

ĐIỀU 38. Quyền quá cảnh 

1. Trong các eo biển nói ở Điều 37, tất cả các tàu thuyền và phương tiện bay 

đều được hưởng quyền quá cảnh mà không bị cản trở, trừ trường hợp hạn chế 

là quyền đó không được áp dụng cho các eo biển do lãnh thổ đất liền của một 

quốc gia và một hòn đảo thuộc quốc gia này tạo thành, khi ở ngoài khơi hòn 

đảo đó có một con đường đi trên biển cả, hay có một con đường đi qua một 

vùng đặc quyền về kinh tế cũng thuận tiện như thế về phương diện hàng hải 

và về các đặc điểm thủy văn. 2. Thuật ngữ “quá cảnh” có nghĩa là việc thực hiện, theo  đúng phần này, 

quyền tự do hàng hải và hàng không với mục đích duy nhất là đi qua liên tục 

và nhanh chóng qua eo biển giữa một bộ phận của biển cả hoặc một vùng đặc 

quyền về kinh tế và một bộ phận khác của biển cả hoặc một vùng đặc quyền 

về kinh tế. Tuy nhiên, đòi hỏi quá cảnh liên tục và nhanh chóng không ngăn 

cấm việc đi qua eo biển để đến lãnh thổ của một quốc gia ven eo biển, đề rời 

khỏi hoặc lại đến lãnh thổ đó, theo các điều kiện cho phép đến lãnh thổ của 

quốc gia đó. 

3. Bất kỳ hoạt động nào không thuộc phạm vi thực hiện quyền quá cảnh qua 

các eo biển đều tùy thuộc vào các quy định khác có thể áp dụng của Công 

ước. 

ĐIỀU 39. Các nghĩa vụ của tàu thuyền và phương tiện bay trong khi quá 

cảnh 

1. Trong khi thực hiện quyền quá cảnh, các tàu thuyền và phương tiện bay: 

a) Đi qua hay bay qua eo biển không chậm trễ; 

b) Không được đe dọa hay dùng vũ lực để chống lại chủ quyền, toàn vẹn lãnh 

thổ hay độc lập chính trị của các quốc gia ven eo biển hay dùng mọi cách 

khác trái với các nguyên tắc pháp luật quốc tế được nêu trong Hiến chương 

Liên hợp quốc; 

c)  Không  được có hoạt  động nào khác ngoài những hoạt  động cần cho sự 

quá cảnh liên tục và nhanh chóng, theo phương thức đi bình thường, trừ 

trường hợp bất khả kháng hoặc trừ trường hợp nguy cấp; 

d) Tuân thủ các quy định thích hợp khác của phần này. 

2. Trong khi quá cảnh các tàu thuyền tuân thủ: 

a) Các quy định, thủ tục và tập quán quốc tế đã được chấp nhận chung về mặt 

an toàn hàng hải, nhất là các quy tắc quốc tế để phòng ngừa đâm va trên biển; 

b) Các quy định, thủ tục và tập quán quốc tế đã được chấp nhận chung nhằm 

ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do các tàu thuyền gây ra. 

3. Trong khi quá cảnh, các phương tiện bay: 

a) Tôn trọng các quy định về hàng không do Tổ chức hàng không dân dụng 

quốc tế đề ra để áp dụng cho các phương tiện bay dân dụng; bình thường các 

phương tiện bay của Nhà nước phải tuân thủ các biện pháp an toàn do các 

quy định này đề ra và khi hoạt động vào bất kỳ lúc nào, các phương tiện bay 

cũng phải chú ý đến an toàn hàng không. 

b) Thường xuyên theo dõi tần số điện đài mà cơ quan có thẩm quyền được 

quốc tế chỉ định làm nhiệm vụ kiểm soát giao thông hàng không đã phân bổ 

cho, hoặc tần số quốc tế về nguy cấp.  

ĐIỀU 40. Nghiên cứu và đo đạc thủy văn 

Trong khi quá cảnh, các tàu thuyền nước ngoài, kể cả các tàu thuyền chuyên 

dùng cho nghiên cứu khoa học biển hay cho đo đạc thủy văn, không được 

dùng để nghiên cứu hoặc đo đạc nếu không được phép trước của các quốc gia 

ven eo biển. 

ĐIỀU 41. Các tuyến đường và các cách bố trí phân chia luồng giao thông 

trong các eo biển dùng cho hàng hải quốc tế 

1. Theo đúng phần này, các quốc gia ven eo biển khi có nhu cầu bảo đảm an 

toàn cho tàu thuyền đi qua các eo biển, có thể ấn định các tuyến đường và 

quy định các cách phân chia luồng giao thông. 

2. Các quốc gia nói trên, khi hoàn cảnh đòi hỏi và sau khi đã công bố theo 

đúng thủ tục biện pháp này, có thể  ấn  định các tuyến  đường mới hay quy 

định các cách mới phân chia luồng giao thông thay thế mọi tuyến đường hay 

mọi cách phân chia luồng giao thông đã được ấn định hay quy định trước đó. 

3. Các tuyến đường và cách bố trí phân chia luồng giao thông cần phải phù 

hợp với quy định quốc tế đã được chấp nhận chung. 

4. Trước khi ấn định hay thay thế các tuyến đường hoặc trước khi quy định 

hay thay thế các cách phân chia luồng giao thông, các quốc gia ven eo biển 

gửi các đề nghị của mình cho tổ chức quốc tế có thẩm quyền thông qua. Tổ 

chức này chỉ có thể chấp nhận các tuyến đường và cách phân chia luồng giao 

thông nào đã có thể thỏa thuận với các quốc gia ven eo biển; khi đó, các quốc 

gia này có thể ấn định, quy định hoặc thay thế các tuyến đường và các cách 

phân chia luồng giao thông này. 

5. Khi đề nghị thiết lập trong một eo biển các tuyến đường hay cách phân 

chia luồng giao thông có liên quan đến vùng nước của nhiều quốc gia ven eo 

biển, các quốc gia hữu quan hợp tác với nhau để soạn thảo các đề nghị, có sự 

tham khảo ý kiến của tổ chức quốc tế có thẩm quyền. 

6. Các quốc gia ven eo biển ghi rõ ràng lên các hải đồ tất cả các tuyến đường 

hay tất cả các cách phân chia luồng giao thông mà mình đã thiết lập và công 

bố các hải đồ này theo đúng thủ tục. 

7. Trong khi quá cảnh, tàu thuyền tôn trọng các tuyến  đường và các cách 

phân chia luồng giao thông đã được thiết lập theo đúng điều này. 

ĐIỀU 42. Các luật và quy định của quốc gia ven eo biển liên quan đến 

việc quá cảnh 

1. Với điều kiện chấp hành mục này, các quốc gia ven eo biển có thể ra các 

luật và quy định liên quan đến việc đi qua eo biển về các vấn đề sau: a) An toàn hàng hải và điều phối giao thông trên biển như đã được nêu ở 

Điều 41; 

b) Ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường, bằng cách thi 

hành quy định quốc tế có thể áp dụng được về việc trút bỏ dầu, cặn dầu và 

các chất độc hại trong eo biển; 

c) Việc cấm đánh bắt hải sản đối với các tàu đánh bắt hải sản; kể cả quy 

định việc xếp đặt các phương tiện đánh bắt; 

d) Xếp, dỡ hàng hóa, tiền bạc hay đưa người lên xuống tàu trái với các 

luật và quy định hải quan, thuế khóa, y tế hay nhập cư của quốc gia ven eo 

biển. 

2. Các luật và quy định này không được dẫn đến bất kỳ một sự phân biệt đối 

xử nào về mặt pháp lý hay về mặt thực tế giữa các tàu thuyền nước ngoài, 

việc áp dụng các luật và quy định này không được có tác dụng ngăn cản, hạn 

chế hay gây trở ngại cho việc thực hiện quyền quá cảnh như  đã  được xác 

định trong mục này. 

3. Các quốc gia ven eo biển công bổ những luật và quy định này theo đúng 

thủ tục. 

4. Các tàu thuyền nước ngoài khi thực hiện quyền quá cảnh qua eo biển phải 

tuân thủ các luật và quy định này. 

5. Trong trường hợp một tàu hay một phương tiện bay  được hưởng quyền 

miễn trừ về chủ quyền vi phạm các luật và quy định này, quốc gia mà con tàu 

mang cờ hay quốc gia đăng ký phương tiện bay phải chịu trách nhiệm quốc 

tế về mọi tổn thất hay thiệt hại có thể gây ra cho eo biển. 

ĐIỀU 43. Các thiết bị an toàn, bảo đảm hàng hải và các thiết bị khác, và 

việc ngăn ngừa hạn chế, chế ngự ô nhiễm môi trường 

Các quốc gia sử dụng một eo biển và các quốc gia ven eo biển cần thỏa thuận 

hợp tác với nhau để: 

a) Thiết lập và bảo dường các thiết bị an toàn và bảo đảm hàng hải cần 

thiết cũng như các thiết bị khác đặt trong eo biển dùng để làm dễ dàng cho 

hàng hải quốc tế, và 

b) Ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự nạn ô nhiễm do tàu thuyền gây ra. 

ĐIỀU 44. Các nghĩa vụ của các quốc gia ven eo biển 

Các quốc gia ven eo biển không được gây trở ngại cho việc quá cảnh và phải 

thông báo đầy đủ và mọi nguy hiểm đối với hàng hải trong eo biển hoặc đối 

với việc bay trên eo biển mà các quốc gia này nắm  được. Việc thực hiện 

quyền quá cảnh không thể bị đình chỉ.  

Mục 3 

ĐI QUA KHÔNG GÂY HẠI 

ĐIỀU 45. Đi qua không gây hại 

1. Chế độ đi qua không gây hại được nêu ở Mục 3 của phần II được áp dụng 

trong các eo biển dùng cho hàng hải quốc tế: 

a) Nằm ngoài phạm vi áp dụng của chế độ quá cảnh theo Điều 38, khoản 

1; hoặc 

b) Nối liền lãnh hải của một quốc gia với một bộ phận của biển cả hay 

với một vùng đặc quyền kinh tế của một quốc gia khác. 

2. Việc thực hiện quyền đi qua không gây hại trong các eo biển không thể bị 

đình chỉ. 

PHẦN IV 

CÁC QUỐC GIA QUẦN ĐẢO 

ĐIỀU 46. Sử dụng các thuật ngữ 

Trong công ước: 

a) “Quốc gia quần đảo” (Etat Archipel) là một quốc gia hoàn toàn được 

cấu thành bởi một hay nhiều quần đảo và có khi bởi một số hòn đảo khác 

nữa. 

b) “Quần đảo” (Archipel) là một tổng thể các đảo, kể cả các bộ phận của 

các  đảo, các vùng nước tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác có liên 

quan với nhau đến mức tạo thành về thực chất một thể thống nhất về địa lý, 

kinh tế và chính trị, hay được coi như thế về mặt lịch sử. 

ĐIỀU 47. Đường cơ sở quần đảo 

1. Một quốc gia quần đảo có thể vạch các đường cơ sở thẳng của quần đảo 

nối liền các điểm ngoài cùng của các đảo xa nhất và các bãi đá lúc chìm lúc 

nổi của quần đảo, với điều kiện là tuyến các đường cơ sở này bao lấy các đảo 

chủ yếu và xác lập một khu vực mà tỷ lệ diện tích nước đó với đất, kể cả 

vành đai san hô, phải ở giữa tỷ lệ số 1/1 và 9/1. 2. Chiều dài của các đường cơ sở này không vượt quá 100 hải lý; tuy nhiên 

có thể tối đa 3% của tổng số các đường cơ sở bao quanh một quần đảo nào 

đó có một chiều dài lớn hơn nhưng không quá 125 hải lý. 

3. Tuyến các đường cơ sở này không được tách xa rõ rệt đường bao quanh 

chung của quần đảo. 

4. Các đường cơ sở không thể kéo dến hay xuất phát từ các bãi cạn lúc chìm 

lúc nổi, trừ trường hợp tại đó có xây đặt các đèn biển hay các thiết bị tương 

tự thường xuyên nhô trên mặt biển hoặc trừ trường hợp toàn bộ hay một phần 

bãi cạn ở cách hòn đảo gần nhất một khoảng cách không vượt quá chiều rộng 

lãnh hải. 

5. Một quốc gia quần đảo không được áp dụng phương pháp kẻ các đường 

cơ sở khiến cho các lãnh hải của một quốc gia khác bị tách rời với biển cả 

hay với một vùng đặc quyền kinh tế. 

6. Nếu một phần  của vùng nước quần đảo của một quốc gia quần đảo nằm 

giữa hai mảnh lãnh thổ của một quốc gia kế cận, thì các thuyền và mọi lợi ích 

chính  đáng mà quốc gia kế cận này vẫn  được hưởng theo truyền thống  ở 

trong các vùng nước nói trên, cũng như tất cả các quyền nảy sinh từ các điều 

ước được ký kết giữa hai quốc gia, vẫn tồn tại và vẫn được tôn trọng. 

7. Để tính toán tỷ lệ diện tích các vùng nước so với diện tích phần đất đã nêu 

ở khoản 1, các vùng nước trên trong các bãi đá ngầm bao quanh các đảo và 

vành đai san hô, cũng như mọi phần của một nền đại dương có sườn dốc đất 

đứng, hoàn toàn hay gần như hoàn toàn do một chuỗi đảo đá vôi hay một 

chuỗi các mỏm đá lúc chìm lúc nổi bao quanh, có thể được coi như là một bộ 

phận của đất. 

8. Các đường cơ sở được vạch ra theo đúng điều này phải được ghi trên hải 

đồ có tỷ lệ thích hợp để xác định được vị trí. Bản kê tọa độ địa lý của các 

điểm, có ghi rõ hệ thống trắc địa được sử dụng có thể thay thế cho các bản đồ 

này. 

9. Quốc gia quần đảo công bố theo đúng thủ tục các bản đồ hoặc bảng liệt kê 

tọa độ địa lý và gửi đến Tổng thư ký Liên hợp quốc một bản để lưu chiểu. 

ĐIỀU 48. Đo chiều rộng lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng  đặc quyền về 

kinh tế và thềm lục địa 

Chiều rộng của lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm 

lục địa được tính từ cách đường cơ sở quần đảo theo đúng Điều 47. 

ĐIỀU 49. Chế độ pháp lý của các vùng nước quần đảo và vùng trời ở 

trên cũng như đáy biển tương ứng và lòng đất dưới đáy biển đó 1. Chủ quyền của quốc gia quần  đảo mở rộng ra vùng nước  ở phía trong 

đường cơ sở quần  đảo  được vạch ra theo  đúng Điều 47,  được gọi là vùng 

nước quần đảo (eaux archipélagiques), bất kể chiều sâu và khoảng cách xa bờ 

của chúng thế nào. 

2. Chủ quyền này  được mở rộng  đến vùng trời trên vùng nước quần  đảo, 

cũng như đến đáy vùng nước đó và lòng đất tương ứng và đến các tài nguyên 

ở đó. 

3. Chủ quyền này được thực hiện theo các điều kiện nêu trong phần này. 

4. Chế  độ  đi qua vùng nước quần  đảo do phần này quy  định không  đụng 

chạm về bất kỳ một phương diện nào khác đến chế độ pháp lý của vùng nước 

quần đảo, kể cả các đường hàng hải, đến việc quốc gia quần đảo thực hiện 

chủ quyền của mình ở vùng nước đó, ở vùng trời phía trên, đáy nước vùng đó 

và lòng đất tương ứng cũng như đối với các tài nguyên ở đó. 

ĐIỀU 50. Hoạch định ranh giới nội thủy 

Ở phía trong vùng nước quần  đảo, quốc gia quần  đảo có thể vạch những 

đường khép kín  để hoạch  định ranh giới nội thủy của mình theo  đúng các 

Điều 9, 10, và 11. 

ĐIỀU 51. Các điều ước hiện hành, các quyền đánh bắt hải sản truyền 

thống và các dây cáp ngầm đã được lắp đặt 

1. Không phương hại đến Điều 49, các quốc gia quần đảo tôn trọng các điều 

ước hiện hành đã được ký kết với các quốc gia khác và thừa nhận các quyền 

đánh bắt hải sản truyền thống và những hoạt  động chính  đáng của những 

quốc gia kế cận trong một số khu vực thuộc vùng nước quần đảo và quốc gia 

quần đảo. Các điều kiện và thể thức thực hiện các quyền và các hoạt động 

này, kể cả tính chất, phạm vi của chúng và cả khu vực thực hiện các quyền và 

các hoạt động nói trên, được xác định theo yêu cầu của bất cứ quốc gia nào 

trong các quốc gia hữu quan qua các điều ước tay đôi được ký kết giữa các 

quốc gia  đó. Các quyền này không  được chuyển nhượng hay chia sẻ cho 

quốc gia thứ ba hay cho các công dân của các quốc gia ấy. 

2. Các quốc gia quần  đảo tôn trọng các dây cáp ngầm hiện có của những 

quốc gia khác đặt và đi quan vùng nước của quốc gia quần đảo mà không 

đụng đến bờ biển của mình. Các quốc gia quần đảo cho phép bảo dưỡng và 

thay thế các đường dây cáp này sau khi họ đã được thông báo trước về vị trí 

của chúng và về những công việc bảo dưỡng hay thay thế dự định tiến hành. 

ĐIỀU 52. Quyền đi qua không gây hại 1. Với điều kiện tuân thủ Điều 53 và không phương hại đến Điều 50, tàu 

thuyền của tất cả các quốc gia đều được hưởng quyền đi qua không gây hại 

trong vùng nước quần đảo đã được quy định ở Mục 3 phần II. 

2. Quốc gia quần đảo có thể tạm thời đình chỉ việc đi qua không gây hại của 

tàu thuyền nước ngoài trong các khu vực nhất định thuộc vùng nước quần 

đảo của mình, nếu biện pháp này là cần thiết để đảm bảo an ninh của nước 

mình, nhưng không có sự phân biệt đối xử nào về mặt pháp lý hay về mặt 

thực tế giữa các tàu thuyền nước ngoài. Việc đình chỉ này chỉ có hiệu lực sau 

khi đã được công bố theo đúng thủ tục. 

ĐIỀU 53. Quyền đi qua vùng nước quần đảo 

1. Trong các vùng nước quần đảo và lãnh hải tiếp liền, quốc gia quần đảo có 

thể ấn định các đường hàng hải và các đường hàng không ở vùng trời phía 

trên các đường này để các tàu thuyền và phương tiện bay nước ngoài được đi 

qua nhanh chóng và liên tục. 

2. Tất cả các tàu thuyền và phương tiện bay được hưởng quyền đi qua quần 

đảo theo các tuyến đường hàng hải và các đường hàng không đó. 

3. “Đi qua vùng nước quần đảo” là việc các tàu thuyền và phương tiện bay 

thực hiện không bị cản trở, theo phương thức hàng hải, hàng không bình 

thường và theo đúng Công ước, các quyền hàng hải và hàng không của mình, 

với mục đích duy nhất là quá cảnh liên tục và nhanh chóng giữa một điểm 

của biển cả hay một vùng đặc quyền kinh tế. 

4. Các đường hàng hải và các đường hàng không đi qua các vùng nước quần 

đảo và lãnh hải tiếp liền hoặc vùng trời phía trên phải bao gồm tất cả các con 

đường thường dùng cho hàng hải quốc tế trong vùng nước quần đảo và vùng 

trời phía trên; các đường hàng hải cần theo đúng tất cả các luồng lạch thường 

dùng cho hàng hải, tất nhiên, không cần phải thiết lập nhiều con đường thuận 

tiện như nhau giữa một điểm vào và một điểm ra nào đó. 

5. Các đường hàng hải và hàng không này được xác định qua hàng loạt các 

đường trục liên tục nối liền các điểm vào với các điểm ra của chúng. Trong 

quá trình đi qua các tàu thuyền và phương tiện bay không được đi chệch các 

đường trục này quá 25 hải lý, tất nhiên, các tàu thuyền và phương tiện bay 

này không  được  đi cách bờ một khoảng cách dưới 1/10 khoảng cách giữa 

những điểm gần nhất của các đảo nằm dọc theo một con đường. 

6. Quốc gia quần  đảo khi  ấn  định các  đường hàng hải theo  đúng  điều này 

cũng có thể quy định các cách phân chia luồng giao thông nhằm bảo đảm an 

toàn cho các tàu thuyền sử dụng các luồng lạch hẹp  ở bên trong các con 

đường này. 

7. Khi hoàn cảnh đòi hỏi, quốc gia quần đảo, sau khi đã công bố theo đúng 

thủ tục, có thể ấn định những đường hàng hải mới hay quy định cách bố trí phân chia luồng giao thông mới để thay thế cho mọi con đường hay mọi cách 

phân chia luồng giao thông do quốc gia đó đã thiết lập từ trước. 

8. Các đường hàng hải và cách phân chia luồng giao thông đó phải phù hợp 

với quy định quốc tế được chấp nhận chung. 

9. Khi ấn định hay thay thế các đường hàng hải hoặc khi quy định hay khi 

thay thế các cách bố trí phân luồng giao thông, quốc gia quần đảo gửi các đề 

nghị của mình cho tổ chức quốc tế có thẩm quyền để được chấp nhận. Tổ 

chức quốc tế này chỉ có thể được chấp thuận các đường hàng hải và các cách 

bố trí phân chia luồng giao thông mà họ đã có thể thỏa thuận với quốc gia 

quần đảo; khi đó, quốc gia quần đảo có thể ấn định, quy định hay thay thế 

các đường hàng hải và các cách phân chia luồng giao thông đó. 

10. Quốc gia quần đảo ghi rõ ràng lên các hải đồ được công bố theo đúng thủ 

tục các đường trục của các đường hàng hải mà quốc gia đó ấn định và các 

cách phân chia luồng giao thông mà quốc gia đó quy định. 

11. Khi đi qua vùng quần đảo, các tàu thuyền tôn trọng các đường hàng hải 

và các cách chia phân luồng giao thông được thiết lập theo đúng điều này. 

12. Nếu quốc gia quần đảo không ấn định các đường hàng hải hay các đường 

hàng không thì quyền đi qua vùng nước quần đảo có thể thực hiện bằng cách 

sử dụng các con đường thường dùng cho hàng hải và hàng không quốc tế. 

ĐIỀU 54. Các nghĩa vụ của tàu thuyền và phương tiện bay trong khi đi 

qua, nghiên cứu và đo đạc thủy văn, các nghĩa vụ của quốc gia quần đảo, 

các luật và quy định của quốc gia quần đảo liên quan đến việc đi qua 

quần đảo 

Các Điều 39, 40, 42, 44 được áp dụng Mutatis mutandis (với những thay đổi 

cần thiết về chi tiết) cho việc đi qua vùng quần đảo. 

PHẦN V 

VÙNG ĐẶC QUYỀN KINH TẾ 

ĐIỀU 55. Chế độ pháp lý riêng của vùng đặc quyền về kinh tế 

Vùng đặc quyền về kinh tế là một vùng nằm ở phía ngoài lãnh hải và tiếp liền 

với lãnh hải, đặt dưới chế độ pháp lý riêng quy định trong phần này, theo đó 

các quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển và các quyền tự do của 

các quốc gia khác đều do các quy định thích hợp của Công ước điều chỉnh. 

 ĐIỀU 56. Các quyền, quyền tài phán và các nghĩa vụ của các quốc gia 

ven biển trong vùng đặc quyền về kinh tế 

1. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven biển có: 

a) Các quyền thuộc chủ quyền về việc thăm dò khai thác, bảo tồn và quản 

lý các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước 

bên trên  đáy biển, của  đáy biển và lòng  đất dưới  đáy biển, cũng như về 

những hoạt động khác nhằm thăm dò và khai thác vùng này vì mục đích kinh 

tế, như việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió. 

b) Quyền tài phán theo đúng những quy định thích hợp của Công ước về 

việc: 

i. Lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình; 

ii. Nghiên cứu khoa học về biển; 

iii. Bảo vệ và gìn giữ môi trường biển; 

c) Các quyền và các nghĩa vụ khác do Công ước quy định. 

2. Trong vùng  đặc quyền về kinh tế, khi thực hiện các quyền và làm các 

nghĩa vụ của mình theo Công ước, quốc gia ven biển phải tính đến các quyền 

và nghĩa vụ của các quốc gia khác và hành động phù hợp với Công ước. 

3. Các quyền có liên quan đến đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nêu trong 

điều này được thực hiện theo đúng phần VI. 

ĐIỀU 57. Chiều rộng của vùng đặc quyền về kinh tế 

Vùng  đặc quyền về kinh tế không  được mở rộng ra quá 200 hải lý kể từ 

đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. 

ĐIỀU 58. Các quyền và các nghĩa vụ của các quốc gia khác trong vùng 

đặc quyền về kinh tế 

1. Trong vùng  đặc quyền về kinh tế, tất cả các quốc gia, dù có biển hay 

không có biển, trong những điều kiện trong những quy định thích hợp của 

Công ước trù  định,  được hưởng các quyền tự do hàng hải và hàng không, 

quyền tự do đặt dây cáp ngầm nêu ở Điều 87, cũng như quyền tự do sử dụng 

biển vào những mục đích khác hợp pháp về mặt quốc tế và gắn liền với việc 

thực hiện các quyền tự do này và phù hợp với các quy định khác của Công 

ước, nhất là những khuôn khổ việc khai thác các tàu thuyền, phương tiện bay 

và dây cáp, ống dẫn ngầm. 

2. Các Điều từ 88 đến 115, cũng như các quy tắc thích hợp khác của pháp 

luật quốc tế, được áp dụng ở vùng đặc quyền kinh tế trong chừng mực mà 

chúng không mâu thuẫn với phần này. 3. Trong vùng  đặc quyền về kinh tế, khi thực hiện các quyền và làm các 

nghĩa vụ của mình theo Công ước, các quốc gia phải tính đến các quyền và 

các nghĩa vụ của quốc gia ven biển và tôn trọng các luật và quy định mà quốc 

gia ven biển  đã ban hành theo  đúng các quy  định của Công  ước và trong 

chừng mực mà các luật và quy định đó không mâu thuẫn với phần này và với 

các quy tắc khác của pháp luật quốc tế. 

ĐIỀU 59. Cơ sở giải quyết các tranh chấp trong trường hợp Công ước 

không quy định rõ các quyền và quyền tài phán trong vùng đặc quyền về 

kinh tế 

Trong những trường hợp Công ước không quy định rõ các quyền hay quyền 

tài phán trong các vùng đặc quyền về kinh tế cho quốc gia ven biển hay cho 

các quốc gia khác và ở đó có xung đột giữa lợi ích của quốc gia ven biển với 

lợi ích của một hay nhiều quốc khác thì sự xung đột này phải được giải quyết 

trên cơ sở công bằng và có chú ý đến tất cả mọi hoàn cảnh thích đáng, có tính 

đến tầm quan trọng của các lợi ích có liên quan đó đối với các bên tranh chấp 

và đối với toàn bộ cộng đồng quốc tế. 

ĐIỀU 60. Các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trong vùng đặc quyền 

về kinh tế 

1. Trong vùng  đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven biển có  đặc quyền tiến 

hành xây dựng, cho phép và quy định việc xây dựng, khai thác và sử dụng: 

a) Các đảo nhân tạo; 

b) Các thiết bị và công trình dùng vào các mục đích được trù định ở Điều 56 

hoặc các mục đích kinh tế khác; 

c) Các thiết bị và công trình có thể gây trở ngại cho việc thực hiện các quyền 

của quốc gia ven biển trong vùng. 

2. Quốc gia ven biển có quyền tài phán đặc biệt đối với các đảo nhân tạo, các 

thiết bị và các công trình đó, kể cả về mặt các luật và quy định hải quan, thuế 

khóa, y tế, an ninh và nhập cư. 

3. Việc xây dựng các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình đó phải được thông 

báo theo đúng thủ tục, và việc duy trì các phương tiện thường trực để báo 

hiệu sự có mặt của các đảo, thiết bị và công trình nói trên cần được bảo đảm. 

Các thiết bị hay công trình đã bỏ hoặc không dùng đến nữa cần được tháo dỡ 

để đảm bảo an toàn hàng hải, có tính đến những quy phạm quốc tế đã được 

chấp nhận chung do tổ chức quốc tế có thẩm quyền đặt ra về mặt đó. Khi 

tháo dỡ phải tính  đến việc  đánh bắt hải sản, bảo vệ môi trường biển, các 

quyền và các nghĩa vụ của quốc gia khác. Cần thông báo thích đáng về vị trí, 

kích thước và độ sâu của những phần còn lại của một thiết bị hoặc công trình 

chưa được tháo dỡ hoàn toàn. 4. Quốc gia ven biển, nếu cần, có thể lập ra xung quanh các đảo nhân tạo, các 

thiết bị hoặc công trình  đó những khu vực an toàn với kích thước hợp lý; 

trong các khu vực đó, quốc gia ven biển có thể áp dụng các biện pháp thích 

hợp để bảo đảm an toàn hàng hải, cũng như an toàn của các đảo nhân tạo, các 

thiết bị và công trình đó. 

5. Quốc gia ven biển ấn định chiều rộng của những khu vực an toàn có tính 

đến các quy phạm quốc tế có thể áp dụng được. Các khu vực an toàn này 

được xác định sao cho đáp ứng một cách hợp lý với tính chất và chức năng 

của các đảo nhân tạo, các thiết bị và các công trinh, và không thể mở rộng ra 

một khoảng cách quá 500m xung quanh các đảo nhân tạo, các thiết bị và các 

công trình, tính từ mỗi điểm của mép ngoài cùng của các đảo nhân tạo, thiết 

bị và các công trình dó, trừ ngoại lệ do các vi phạm của quốc tế đã được thừa 

nhận chung cho phép hoặc tổ chức quốc tế có thẩm quyền kiến nghị. Phạm vi 

của khu vực an toàn được thông báo theo đúng thủ tục. 

6. Tất cả các tàu thuyền phải tôn trọng các khu vực an toàn đó và tuân theo 

các tiêu chuẩn quốc tế được chấp nhận chung liên quan đến hàng hải trong 

khu vực của các đảo nhân tạo, các thiết bị, các công trình và các khu vực an 

toàn. 

7. Không được xây dựng những đảo nhân tạo, thiết bị hoặc công trình, không 

được thiết lập các khu vực an toàn xung quanh các đảo, thiết bị, công trình đó 

khi việc đó có nguy cơ gây trở ngại cho việc sử dụng các đường hàng hải đã 

được thừa nhận là thiết yếu cho hàng hải quốc tế. 

8. Các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình không được hưởng quy chế 

của các đảo. Chúng không có lãnh hải riêng và sự có mặt của chúng không 

có tác động gì đối với việc hoạch định ranh giới lãnh hải, vùng đặc quyền về 

kinh tế hoặc thềm lục địa. 

ĐIỀU 61. Bảo tồn các nguồn lợi sinh vật 

1. Quốc gia ven biển ấn định khối lượng đánh bắt có thể chấp nhận được đối 

với các tài nguyên sinh vật ở trong vùng đặc quyền về kinh tế của mình. 

2. Quốc gia ven biển dựa vào các số liệu khoa học đáng tin cậy nhất mà mình 

có, thi hành các biện pháp thích hợp về bảo tồn và quản lý nhằm làm cho 

việc duy trì các nguồn lợi sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của mình 

khỏi bị ảnh hưởng do khai thác quá mức. Quốc gia ven biển và các tổ chức 

quốc tế có thẩm quyền, các tổ chức phân khu vực, khu vực hay thế giới, hợp 

tác với nhau một cách thích hợp để thực hiện mục đích này. 

3. Các biện pháp đó cũng nhằm để duy trì hay khôi phục các đàn (stocks) hải 

sản được khai thác ở mức bảo đảm đạt năng suất ổn dịnh tối đa, có tính đến 

các yếu tố sinh thái và kinh tế thích đáng, kể cả các nhu cầu kinh tế của tập 

thể ven bờ sống về nghề đánh bắt hải sản và các nhu cầu riêng của các quốc 

gia đang phát triển, và có tính dến các phương thức đánh bắt, đến quan hệ hỗ tương giữa các  đàn (stocks) và  đến tất cả các quy phạm quốc tế tối thiểu 

thường được kiến nghị ở cấp phân khu vực, khu vực hay thế giới. 

4. Khi áp dụng các biện pháp đó, quốc gia ven biển chú ý đến tác động của 

chúng đối với các loài quần hợp với các loài được khai thác hoặc phụ thuộc 

vào các loài đó để duy trì hoặc khôi phục các đàn (stocks) của những loài 

quần hợp hay phụ thuộc này ở một mức độ làm việc sinh sản của chúng khỏi 

nguy cơ bị tổn hại nghiêm trọng. 

5. Các thông tin khoa học có thể sử dụng, các số liệu thống kê liên quan đến 

việc đánh bắt và đến sức đánh bắt và các số liệu khác liên quan đến việc bảo 

tồn các đàn (stocks) cá được phổ biến và trao đổi đều đặn qua trung gian của 

các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, các tổ chức phân khu vực hoặc thế giới 

và khi có điều kiện thì tiến hành với sự tham gia của tất cả các quốc gia hữu 

quan, nhất là các quốc gia có công dân được phép đánh bắt trong vùng đặc 

quyền về kinh tế. 

ĐIỀU 62. Khai thác tài nguyên sinh vật 

1. Quốc gia ven biển xác định mục tiêu là tạo điều kiện thuận lợi cho việc 

khai thác tối ưu các tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền về kinh tế mà 

không phương hại đến Điều 61. 

2. Quốc gia ven biển xác định khả năng của mình trong việc khai thác các tài 

nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền về kinh tế. Nếu khả năng khai thác đó 

thấp hơn tổng khối lượng đánh bắt có thể chấp nhận thì quốc gia ven biển 

cho phép các quốc gia khác, qua điều ước hoặc các thỏa thuận khác và theo 

đúng các thể thức, điều kiên, các luật và quy định nói ở khoản 4, khai thác số 

dư của khối lượng cho phép đánh bắt; khi làm như vậy, cần đặc biệt quan 

tâm đến các Điều 69 và 70 nhất là quan tâm đến các quốc gia đang phát triển 

nói trong các điều đó. 

3. Khi đồng ý cho các quốc gia khác vào hoạt động trong vùng đặc quyền về 

kinh tế của mình theo điều này, quốc gia ven biển tính đến tất cả các yếu tố 

thích đáng, trong đó có: tấm quan trọng của các tài nguyên sinh vật thuộc khu 

vực đối với nền kinh tế và đối với các lợi ích quốc gia khác của nước mình; 

các Điều 69 và 70, các nhu cầu của các quốc gia đang phát triển trong khu 

vực hay phân khu vực về vấn đề khai thác một phần của số dư, và sự cần 

thiết phải giảm bớt đến mức tối thiểu những rối loạn kinh tế trong các quốc 

gia nào có những công dân thường đánh bắt hải sản ở trong khu vực hoặc đã 

đóng góp nhiều vào công tác tìm kiếm và thống kê các đàn (stocks) hải sản. 

4. Công dân của các quốc gia khác khi tiến hành đánh bắt trong vùng đặc 

quyền về kinh tế phải tuân thủ theo các biện pháp bảo tồn và các thể thức, 

các điều kiện khác được đề ra trong các luật và quy định của quốc gia ven 

biển. Các luật và quy định đó phải phù hợp với Công ước và đặc biệt có thể 

đề cập các vấn đề sau đây: a) Việc cấp giấy phép cho ngư dân hay tàu thuyền và phương tiện đánh 

bắt, kể cả việc nộp thuế hay mọi khoản phải trả khác, trong trường hợp đối 

với các quốc gia ven biển đang phát triển, có thể là một sự đóng góp thích 

đáng vào ngân sách, vào việc trang bị và vào sự phát triển kỹ thuật của công 

nghiệp đánh bắt hải sản; 

b) Chỉ rõ các chủng loại cho phép đánh bắt và ấn định tỉ lệ phần trăm, 

hoặc là đối với các đàn (stocks) hay các nhóm đàn hải sản riêng biệt hoặc đối 

với số lượng đánh bắt của từng chiếc tàu trong một khoảng thời gian nhất 

định, hoặc là đối với số lượng đánh bắt của các công dân của một quốc gia 

trong một thời kỳ nhất định; 

c) Quy định các mùa vụ và các khu vực đánh bắt, kiểu, cỡ và số lượng các 

phương tiện đánh bắt, cũng như kiểu, cỡ và số lượng tàu thuyền đánh bắt có 

thể được sử dụng; 

d) Ấn định tuổi và cỡ cá và các sinh vật khác có thể được đánh bắt; 

e) Các thông tin mà tàu thuyền đánh bắt phải báo cáo, đặc biệt là những số 

liệu thống kê liên quan đến việc đánh bắt và sức đánh bắt và thông báo vị trí 

cho các tàu thuyền; 

f) Nghĩa vụ tiến hành, với sự cho phép và dưới sự kiểm soát của quốc gia 

ven biển, các chương trình nghiên cứu này, kể cả việc lấy mẫu các thứ đánh 

bắt được, nơi nhận các mẫu và việc thông báo các số liệu khoa học có liên 

quan; 

g) Việc quốc gia ven biển đặt các quan sát viên hay thực tập sinh trên các 

tàu thuyền đó; 

h) Bốc dỡ toàn bộ hay một phần các sản phẩm đánh bắt được của các tàu 

thuyền đó ở các cảng của quốc gia ven biển; 

i) Các thể thức và điều kiện liên quan đến các xí nghiệp liên doanh hoặc 

các hình thức hợp tác khác; 

j) Các điều kiện cần thiết về mặt đào tạo nhân viên, về chuyển giao kỹ 

thuật trong lĩnh vực đánh bắt hải sản, kể cả việc đẩy mạnh khả năng nghiên 

cứu nghề cá của quốc gia ven biển; 

k) Các biện pháp thi hành. 

5. Quốc gia ven biển phải thông báo theo đúng thủ tục các luật và quy định 

mà mình ban hành về mặt bảo tồn quản lý. 

ĐIỀU 63. Các  đàn cá (stocks)  ở trong vùng  độc quyền về kinh tế của 

nhiều quốc gia ven biển hoặc đồng thời ở trong vùng đặc quyền về kinh 

tế và trong một khu vực tiếp liền với vùng đặc quyền về kinh tế 

1. Khi cùng một đàn (stocks) cá hoặc những đàn (stocks) các loài quần hợp ở 

trong vùng đặc quyền về kinh tế của nhiều quốc gia ven biển, các quốc gia này cố gắng, trực tiếp hoặc qua trung gian của các tổ chức phân khu vực hay 

khu vực thích hợp, thỏa thuận với nhau về các biện pháp cần thiết nhằm phối 

hợp hoặc bảo đảm việc bảo tồn và phát triển các đàn cá đó mà không phương 

hại đến các quy định khác của phần này. 

2. Khi cùng một đàn cá hoặc những đàn các loài quần hợp đồng thời ở trong 

vùng  đặc quyền về kinh tế và  ở trong một khu vực tiếp liền với vùng  đó, 

quốc gia ven biển và các quốc gia khác khai thác các đàn này ở trong khu 

vực tiếp liền cố gắng trực tiếp hoặc qua trung gian của các tổ chức phân khu 

vực hay khu vực thích hợp, thỏa thuận với nhau về các biện pháp cần thiết để 

bảo tồn các đàn cá này trong khu vực tiếp liền. 

ĐIỀU 64. Các loài cá di cư xa (Grands migranteurs) 

1. Quốc gia ven biển và các quốc gia khác có công dân chuyên  đánh bắt 

trong khu vực những loài cá di cư xa ghi ở bảng danh mục của Phụ lục I, cần 

trực tiếp hoặc qua trung gian của các tổ chức quốc tế thích hợp, hợp tác với 

nhau nhằm bảo đảm việc bảo tồn các loài cá nói trên và đẩy mạnh việc khai 

thác tối ưu các loài cá đó trong toàn bộ khu vực, ở trong cũng như ở ngoài 

vùng đặc quyền về kinh tế. Trong những khu vực không có tổ chức quốc tế 

thích hợp, thì quốc gia ven biển và các quốc gia khác có công dân khai thác 

các loài cá đó trong khu vực, hợp tác với nhau để lập ra một tổ chức như thế 

và tham gia vào khu vực của tổ chức này. 

2. Khoản 1 được áp dụng thêm vào các quy định khác của phần này. 

ĐIỀU 65. Loài có vú ở biển (Mammiferes marins) 

Không một quy định nào của phần này hạn chế quyền của một quốc gia ven 

biển cấm, hạn chế hay quy định việc khai thác các loài có vú ở biển chặt chẽ 

hơn những quy định của phần này, cũng như hạn chế thẩm quyền của một tổ 

chức quốc tế về việc này nếu có. Các quốc gia hợp tác với nhau nhằm bảo 

đảm việc bảo vệ các loài có vú ở biển và đặc biệt là qua trung gian của các tổ 

chức quốc tế thích hợp, tìm mọi cách để bảo vệ, quản lý và nghiên cứu loài 

cá voi. 

ĐIỀU 66. Các đàn cá vào sông sinh sản (Stocks de poissons anadromes) 

1. Các quốc gia có các dòng sông mà ở đó các đàn cá (Poissons anadromes) 

vào sinh sản là những nước đầu tiên phải quan tâm đến các đàn cá này và 

phải chịu trách nhiệm trước hết về loại cá này. 

2. Quốc gia nguồn gốc của các đàn cá vào sông sinh sản cần chăm lo đến 

việc bảo tồn các đàn cá đó bằng việc thi hành những biện pháp thích hợp quy 

định việc đánh bắt trong tất cả các vùng nước nằm bên trong ranh giới ngoài của vùng đặc quyền về kinh tế, cũng như việc đánh bắt nói ở khoản 3, điểm 

b. Quốc gia nguồn gốc có thể xác định tổng số được phép đánh bắt các loài 

cá được sinh sản ra từ các dòng sông của họ, sau khi đã tham khảo các quốc 

gia nói trong các khoản 3 và 4 đang khai thác các đàn cá đó. 

3. a) Chỉ có thể đánh bắt các đàn cá vào sông sinh sản trong các vùng 

nước nằm bên trong ranh giới ngoài của các vùng đặc quyền về kinh tế, trừ 

các trường hợp mà việc áp dụng quy định này có thể dẫn đến những rối loạn 

kinh tế cho một quốc gia không phải là quốc gia nguồn gốc. Đối với việc 

đánh bắt bên ngoài ranh giới phía ngoài của các vùng đặc quyền về kinh tế, 

các quốc gia hữu quan cần tham khảo ý kiến của nhau để thỏa thuậ về các thể 

thức và điều kiện của việc đánh bắt này, nhưng phải tính đến các đòi hỏi của 

việc bảo tồn và các nhu cầu của quốc gia nguồn gốc về đàn (stoscks) cá đó. 

b) Quốc gia nguồn gốc góp phần giảm bớt đến mức tối thiểu những rối 

loạn về kinh tế trong các quốc gia khác đang tiến hành khai thác các loài cá 

này bằng cách tính đến việc đánh bắt bình thường của các quốc gia này và 

đến các cách mà họ khai thác đàn cá đó, cũng như đến tất cả các khu vực mà 

các đàn cá đó được khai thác. 

c) Các quốc gia nói ở điểm b tham gia qua sự thỏa thuận với các quốc gia 

nguồn gốc, vào những biện pháp bảo  đảm khôi phục các  đàn cá vào sông 

sinh sản, đặc biệt là bằng cách đóng góp tài chính cho các biện pháp này; các 

quốc gia đó được quốc gia nguồn gốc quan tâm đặc biệt trong việc khai thác 

các loài cá được sinh sản ra từ các dòng sông của mình. 

d) Việc áp dụng quy định liên quan đến các đàn cá vào sông sinh sản ở 

ngoài vùng đặc quyền về kinh tế được bảo đảm qua sự thỏa thuận giữa quốc 

gia nguồn gốc và các quốc gia hữu quan khác. 

4. Khi các đàn cá vào sông sinh sản di cư đến các vùng nước hoặc đi qua các 

vùng nước nằm bên trong ranh giới ngoài của vùng đặc quyền về kinh tế của 

một quốc gia không phải là quốc gia nguồn gốc, quốc gia này hợp tác với 

quốc gia nguồn gốc nhằm bảo tồn và quản lý các đàn cá đó. 

5. Quốc gia nguồn gốc của các đàn cá vào sông sinh sản và các quốc gia khác 

đánh bắt cá này ký kết các thỏa thuận nhằm áp dụng điều này, nếu có thể 

được thì qua trung gian của các tổ chức khu vực. 

ĐIỀU 67. Các loài cá ra biển sinh sản (espèces catadromes) 

1. Một quốc gia ven biển mà trong vùng nước của mình loài cá ra biển sinh 

sản sống phần lớn cuộc  đời của chúng chịu trách nhiệm quản lý chúng và 

chăm lo đến việc các loài cá này vào hoặc ra khỏi vùng nước đó. 

2. Chỉ được khai thác các loài cá ra biển sinh sản trong những vùng nước bên 

trong các ranh giới ngoài của các vùng đặc quyền về kinh tế. Trong các vùng đặc quyền về kinh tế, việc khai thác được tiến hành theo điều này và các quy 

định khác của Công ước liên quan đến việc đánh bắt trong các vùng này. 

3. Trong những trường hợp mà các loài cá ra biển sinh sản, dù đã đến hay 

chưa đến thời kỳ sinh sản, di cư qua vùng đặc quyền về kinh tế của một quốc 

gia khác thì việc quản lý các loài cá này, kể cả việc khai thác, được quy định 

qua thỏa thuận giữa quốc gia nói ở khoản 1 và quốc gia hữu quan kia. Thỏa 

thuận này cần được bảo đảm việc quản lý hợp lý các loài cá được xem xét và 

có tính đến trách nhiệm của quốc gia nói ở khoản 1 về việc bảo tồn các loài 

này. 

ĐIỀU 68. Các loài định cư (espèces sédentaires) 

Phần này không áp dụng đối với các loài định cư, như đã được quy định ở 

Điều 77, khoản 4. 

ĐIỀU 69. Quyền của các quốc gia không có biển 

1. Một quốc gia không có biển có quyền tham gia, theo một thể thức công 

bằng, khai thác một phần thích hợp số dư các tài nguyên sinh vật của các 

vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia ven biển trong cùng một phân 

khu vực hoặc khu vực, có tính đến các đặc điểm kinh tế và địa lý thích đáng 

của tất cả các quốc gia hữu quan và theo đúng điều này và các Điều 61 và 62. 

2. Các điều kiện và các thể thức của việc tham gia này được các quốc gia 

hữu quan ấn định thông qua thỏa thuận tay đôi, phân khu vực hay khu vực, 

đặc biệt tính đến: 

a) Sự cần thiết phải tránh mọi  động tác có hại cho cộng  đồng những 

người đánh bắt hoặc cho công nghiệp đánh bắt của các quốc gia ven biển; 

b) Mức độ quốc gia không có biển, theo đúng điều này, tham gia hoặc có 

quyền tham gia, theo các thỏa thuận tay đôi, phân phu vực hay khu vực hiện 

hành, vào việc khai thác các tài nguyên sinh vật của các vùng đặc quyền về 

kinh tế của các quốc gia ven biển khác; 

c) Mức độ các quốc gia không có biển khác hoặc các quốc gia bất lợi về 

địa lý tham gia vào việc khai thác các tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền 

về kinh tế cuả quốc gia ven biển và sự cần thiết tránh cho quốc gia ven biển 

nào đó hoặc cho khu vực nào đó của quốc gia này một gánh nặng đặc biệt; 

d) Những nhu cầu thực phẩm của dân cư ở các quốc gia được xem xét. 

3. Khi khả năng đánh bắt của một quốc gia ven biển cho phép một mình quốc 

gia đó có thể đánh bắt được hầu như toàn bộ khối lượng đánh bắt có thể chấp 

nhận, được ấn định cho việc khai thác các tài nguyên sinh vật trong vùng đặc 

quyền về kinh tế của mình thì quốc gia đó và các quốc gia hữu quan khác 

hợp tác với nhau để ký kết các thỏa thuận tay đôi, phân khu vực hoặc khu vực một cách công bằng cho phép các quốc gia đang phát triển không có biển 

trong cùng khu vực hay phân khu vực đó tham gia một cách thích hợp vào 

việc khai thác những tài nguyên sinh vật của các vùng đặc quyền về kinh tế 

của các quốc gia ven biển thuộc phân khu vực hay khu vực, có tính đến các 

hoàn cảnh và điều kiện thỏa đáng đối với tất cả các bên. Để áp dụng điều quy 

định này, cũng cần tính đến các yếu tố đã nêu ở khoản 2. 

4. Các quốc gia phát triển không có biển chỉ có quyền tham gia khai thác các 

tài nguyên sinh vật theo điều này, trong các vùng đặc quyền về kinh tế của 

các quốc gia ven biển phát triển ở trong cùng phân khu vực hay khu vực, có 

tính đến chừng mực mà quốc gia ven biển, khi cho các quốc gia khác vào 

khai thác tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của mình, đã xem 

xét sự cần thiết phải giảm đến mức tối thiểu những tác hại đối với cộng đồng 

những người đánh bắt cũng như những rối loạn kinh tế trong các quốc gia có 

công dân vẫn thường tiến hành việc đánh bắt trong vùng. 

5. Các quy định nói trên được áp dụng không phương hại đến các thỏa thuận 

được ký kết nếu có trong các phân khu vực hay khu vực, mà ở đó các quốc 

gia ven biển có thể dành cho các quốc gia không có biển ở cùng phân khu 

vực hay khu vực đó những quyền ngang nhau, hoặc ưu tiên để khai thác các 

tài nguyên sinh vật ở vùng đặc quyền về kinh tế của mình. 

ĐIỀU 70. Quyền của các quốc gia bất lợi về địa lý 

1. Các quốc gia bất lợi về địa lý có quyền tham gia, theo một thể thức công 

bằng, vào việc khai thác một phần thích hợp số dư của những tài nguyên sinh 

vật trong các vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia ven biển ở cùng 

phân khu vực hay khu vực, có tính đến các đặc điểm kinh tế và địa lý thích 

đáng của tất cả các quốc gia hữu quan và theo đúng điều này và các Điều 61 

và 62. 

2. Trong phần này, thuật ngữ “quốc gia bất lợi về địa lý” có nghĩa là các quốc 

gia ven biển, kể cả các quốc gia ở ven bờ một biển kín hoặc nửa kín, mà vị trí 

địa lý của họ làm cho họ phải lệ thuộc vào việc khai thác những tài nguyên 

sinh vật ở các vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia khác trong phân 

khu vực hoặc khu vực để có đủ cá dùng làm thực phẩm cung cấp cho dân cư 

hay một bộ phận dân cư của họ, cũng như các quốc gia ven biển không thể có 

một vùng đặc quyền kinh tế riêng. 

3. Các  điều kiện và thể thức của việc tham gia  đó  được các quốc gia hữu 

quan ấn định thông qua con đường thỏa thuận tay đôi, phân khu vực hay khu 

vực, đặc biệt có tính đến: 

a) Sự cần thiết phải tránh mọi tác hại cho cộng đồng những người đánh 

bắt hay cho công nghiệp đánh bắt của các quốc gia ven biển; 

b) Mức độ quốc gia bất lợi về địa lý, theo đúng điều này, tham gia hoặc 

có quyền tham gia theo các thỏa thuận tay đôi, phân khu vực hay khu vực hiện hành, vào việc khai thác các tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền về 

kinh tế của các quốc gia ven biển khác; 

c) Mức độ các quốc gia bất lợi về địa lý khác và các quốc gia không có 

biển tham gia vào việc khai thác tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền về 

kinh tế của quốc gia ven biển và sự cần thiết tránh cho quốc gia ven biển nào 

đó hoặc cho khu vực nào đó của quốc gia ấy phải chịu một gánh nặng đặc 

biệt; 

d) Những nhu cầu về thực phẩm của dân cư ở các quốc gia được xem xét. 

4. Khi khả năng đánh bắt của một quốc gia ven biển cho phép một mình quốc 

gia đó có thể đánh bắt được hầu như toàn bộ khối lượng đánh bắt có thể chấp 

nhận, được ấn định cho việc khai thác các tài nguyên sinh vật trong vùng đặc 

quyền về kinh tế của mình, quốc gia đó và các quốc gia hữu quan khác hợp 

tác với nhau để ký kết các thỏa thuận tay đôi, phân khu vực hay khu vực một 

cách công bằng, cho phép các quốc gia đang phát triển bất lợi về địa lý trong 

cùng một phân khu vực hay khu vực đó tham gia một cách thích hợp vào việc 

khai thác những tài nguyên sinh vật của các vùng đặc quyền về kinh tế của 

các quốc gia ven biển trong phân khu vực hay khu vực, có tính đến các hoàn 

cảnh và các điều kiện thỏa đáng đối với tất cả các bên. Để áp dụng điều quy 

định này, cũng cần tính đến các yếu tố đã nêu ở khoản 3. 

5. Các quốc gia phát triển bất lợi về địa lý chỉ có quyền tham gia vào việc 

khai thác tài nguyên sinh vật, theo  điều này, trong các vùng  đặc quyền về 

kinh tế của các quốc gia phát triển ở cùng một phân khu vực hay khu vực, có 

tính đến chừng mực mà quốc gia ven biển, trong khi cho các quốc gia khác 

vào khai thác tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của mình, đã 

xem xét sự cần thiết phải giảm đến mức tối thiểu những tác hại đối với cộng 

đồng những người đánh bắt, cũng như những rối loạn kinh tế trong các quốc 

gia có công dân vẫn thường tiến hành đánh bắt ở trong vùng. 

6. Các quy  định trên  được áp dụng không phương hại  đến các thỏa thuận 

được ký kết nếu có trong các phân khu vực hoặc khu vực mà ở đó các quốc 

gia ven biển có thể dành cho các quốc gia bất lợi về địa lý trong cùng khân 

khu vực hay khu vực các quyền ngang nhau hoặc ưu tiên để khai thác các tài 

nguyên sinh vật ở vùng đặc quyền về kinh tế của mình. 

ĐIỀU 71. Trường hợp các Điều 69 và 70 không thể áp dụng được 

Các Điều 69 và 70 không áp dụng đối với các quốc gia ven biển có nền kinh 

tế lệ thuộc rất nặng nề vào việc khai thác tài nguyên sinh vật  ở vùng  đặc 

quyền về kinh tế của mình. 

ĐIỀU 72. Những hạn chế về chuyển giao các quyền. 1. Các quyền khai thác các tài nguyên sinh vật nêu  ở các Điều 69 và 70 

không thể chuyển giao trực tiếp hay gián tiếp cho các quốc gia thứ ba hay 

cho các công dân của các quốc gia này, dù bằng con  đường cho thuê hay 

bằng giấy phép, hoặc bằng việc thành lập các xí nghiệp liên doanh hay bằng 

bất cứ một thỏa thuận nào khác mà tác dụng là tạo ra một sự chuyển giao như 

thế, trừ trường hợp các quốc gia hữu quan có thỏa thuận khác. 

2. Điều quy định trên không ngăn cấm các quốc gia hữu quan nhận của quốc 

gia thứ ba hay các tổ chức quốc tế sự trợ giúp về kỹ thuật hay tài chính nhằm 

làm dễ dàng cho việc thực hiện các quyền của họ theo đúng Điều 69 và 70, 

với điều kiện là việc này không dẫn đến một tác dụng nói ở khoản 1. 

ĐIỀU 73. Thi hành các luật và quy định của quốc gia ven biển 

1. Trong việc thực hiện các quyền thuộc chủ quyền về thăm dò, khai thác, 

bảo tồn và quản lý các tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền về kinh tế, 

quốc gia ven biển có thể thi hành mọi biện pháp cần thiết, kể cả việc khám 

xét, kiểm tra, bắt giữ và khởi tố tư pháp để bảo đảm việc tôn trọng các luật và 

quy định mà mình đã ban hành theo đúng Công ước. 

2. Khi có một sự bảo lãnh hay một bảo đảm đầy đủ khác thì cần thả ngay 

chiếc tàu bị bắt và trả tự do ngay cho đoàn thủy thủ của chiếc tàu này. 

3. Các chế tài do quốc gia ven biển trù định đối với những vụ vi phạm các 

luật và quy  định về mặt  đánh bắt trong vùng  đặc quyền về kinh tế không 

được bao gồm hình phạt tống giam, trừ khi các quốc gia hữu quan có thỏa 

thuận khác, và không bao gồm một hình phạt thân thể nào khác. 

4. Trong trường hợp bắt hay giữ một tàu thuyền nước ngoài, quốc gia ven 

biển thông báo ngay cho quốc gia mà tàu mang cờ biết, bằng các con đường 

thích hợp, các biện pháp được áp dụng cũng như các chế tài có thể sẽ được 

tuyên bố sau đó. 

ĐIỀU 74. Hoạch định ranh giới vùng đặc quyền về kinh tế giữa các quốc 

gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện nhau 

1. Việc hoạch định ranh giới vùng đặc quyền về kinh tế giữa các quốc gia có 

bờ biển tiếp liền hay  đối diên nhau  được thực hiện bằng con  đường thỏa 

thuận theo đúng với pháp luật quốc tế như đã nêu ở Điều 38 của Quy chế Tòa 

án quốc tế để đi đến một giải pháp công bằng. 

2. Nếu không đi tới được một thỏa thuận trong một thời gian hợp lý thì các 

quốc gia hữu quan sử dụng các thủ tục nêu ở phần XV. 

3. Trong khi chờ ký kết thỏa thuận ở khoản 1, các quốc gia hữu quan, trên 

tinh thần hiểu biết và hợp tác, làm hết sức mình để đi đến các dàn xếp tạm 

thời có tính chất thực tiễn và không phương hại hay cản trở việc ký kết các thỏa thuận dứt khoát trong giai đoán quá độ này. Các dàn xếp tạm thời không 

phương hại đến hoạch định cuối cùng. 

4. Khi một điều ước đang có hiệu lực giữa các quốc gia hữu quan, các vấn đề 

liên quan đến việc hoạch định ranh giới vùng đặc quyền về kinh tế được giải 

quyết theo đúng điều ước đó. 

ĐIỀU 75. Các hải đồ và các bản kê tọa độ địa lý 

1. Với điều kiện tuân thủ phần này, các ranh giới phía ngoài của vùng đặc 

quyền về kinh tế và các đường hoạch định ranh giới được vạch theo đúng 

Điều 74 đều được ghi lên các hải đồ có tỷ lệ thích hợp để xác định được vị trí 

của nó; có trường hợp việc vẽ các ranh giới  ngoài hay các đường hoạch định 

ranh giới đó có thể thay thế bằng các bản kê các tọa độ địa lý các điểm, có 

ghi rõ hệ thống trắc địa được sử dụng. 

3.  Quốc gia ven biển công bố theo đúng thủ tục các bản đồ hay bản kê các 

tọa độ đại lý gửi đến Tổng thư ký Liên hợp quốc một bản để lưu chiểu. 

PHẦN VI 

THỀM LỤC ĐỊA 

ĐIỀU 76. Định nghĩa thềm lục địa 

1.  Thềm lục địa của một quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất 

dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia đó, trên toàn bộ phần kéo 

dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài của rìa 

lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 

hải lý, khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia đó ờ khoảng cách gần 

hơn. 

2.  Thềm lục địa không mở rộng ra ngoài các giới hạn nói ở các khoản từ 4 

đến 6. 

3.  Rìa lục địa là phần kéo dài ngập dưới nước của lục địa của quốc gia ven 

biển, cấu thành bởi đáy biển tương ứng với thềm, dốc và bờ, cũng như 

lòng đất dưới đáy của chúng. Rìa lục địa không bao gồm các đáy của đại 

dương ở độ sâu lớn, với các dải núi đại dương của chúng, cũng không bao 

gồm lòng đất dưới đáy của chúng. 

4. a) Theo công ước, quốc gia ven biển xác định bờ ngoài của rìa lục địa mở 

rộng ra quá 200 hải lý các đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 

bằng: i. Một đường vạch theo đúng khoản 7, bằng cách nối các điểm cố 

định tận cùng nào mà bề dày lớp đá trầm tích ít nhất cũng bằng một phần 

trăm khoảng cách từ điểm được xét cho tới chân dốc lục địa hay, 

ii. Một đường vạch theo đúng khoản 7, bằng cách nối các điểm cố 

định ở cách chân dốc lục địa nhiều nhất là 60 hải lý; 

b) Nếu không có bằng chứng ngược lại, chân dốc lục địa trùng hợp với 

điểm biến đồi độ dốc rõ nét nhất ở nền dốc 

5. Các điểm cố định xác định trên đáy biển, đường ranh giới ngoài cùng 

của thềm lục địa được vạch theo đúng khoản 4, điểm a), điểm nhỏ i) và  

ii), nằm cách  điểm cơ sở  để tính chiều rộng lãnh hải một khoảng cách 

không vượt quá 350 hải lý hoặc nằm cách  đường  đẳng sâu 2500m là 

đường nối liền các điểm có chiều sâu 2500m, một khoảng cách không quá 

100 hải lý. 

6. Mặc dù đã có khoản 5, một dải núi ngầm, ranh giới ngoài của thềm lục 

địa không vượt quá một đường vạch ra ở cách đường cơ sở dùng để tính 

chiều rộng lãnh hải 350 hải lý. Khoản này không áp dụng cho các địa hình 

nhô cao dưới mặt nước tạo thành các yếu tố tự nhiên của rìa lục địa, như 

các thềm, ghềnh, sông núi, bãi hoặc mỏm. 

7. Quốc gia ven biển ấn định ranh giới ngoài thềm lục địa của mình, khi 

thềm này mở rộng ra quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều 

rộng lãnh hải, bằng cách nối liền các điểm cố định xác định bằng hệ tọa 

độ kinh vĩ độ, thành các đoạn thẳng dài không quá 60 hải lý. 

8. Quốc gia ven biển thông báo những thông tin về ranh giới các thềm lục 

địa của mình, khi thềm này mở rộng quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở 

dùng để tính chiều rộng lãnh hải, cho ủy ban ranh giới thềm lục địa được 

thành lập theo Phụ lục II, trên cơ sở sự đại diện công bằng về địa lý. Ủy 

ban gửi cho các quốc gia ven biển những kiến nghị về các vấn  đề liên 

quan đến việc ấn định ranh giới ngoài thềm lục địa của họ. Các ranh giới 

do một quốc gia ven biển ấn định trên cơ sở các kiến nghị đó là dứt khoát 

và có tính chất bắt buộc. 

9. Quốc gia ven biển gửi cho Tổng thư ký Liên hợp quốc các bản đồ và 

các điều chỉ dẫn thích đáng, kể cả các dữ kiện trắc địa, chỉ rõ một cách 

thường xuyên ranh giới ngoài của thềm lục  địa của mình. Tổng thư ký 

công bố các tài liệu này theo đúng thủ tục. 

10. Điều này không xét đoán trước vấn đề hoạch định ranh giới thềm lục 

địa giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hoặc đối diện nhau.  

ĐIỀU 77. Các quyền của các quốc gia ven biển đối với thềm lục địa  

1. Quốc gia ven biển thực hiện các quyền thuộc chủ quyền đối với thềm lục 

địa về mặt thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của mình. 

2. Các quyền nói ở khoản 1 có tính chất đặc quyền, nghĩa là các quốc gia 

ven biển không thăm dò thềm lục địa hay không khai thác tài nguyên thiên 

nhiên của thềm lục địa, thì không ai có quyền tiến hành các hoạt động như 

vậy, nếu không có sự thỏa thuận rõ ràng của quốc gia đó. 

3. Các quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa không phụ thuộc 

vào sự chiếm hữu thực sự hay danh nghĩa, cũng như vào bất cứ tuyên bố rõ 

ràng nào. 

4. Các tài nguyên thiên nhiên  ở phần này bao gồm các tài nguyên thiên 

nhiên khoáng sản và các tài nguyên thiên nhiên không sinh vật khác của 

đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như các sinh vật thuộc loại định 

cư, nghĩa là những sinh vật nào, ở thời kỳ có thể đánh bắt được, hoặc nằm 

bất  động  ở  đáy, hoặc lòng  đất dưới  đáy; hoặc là không có khả năng di 

chuyển nếu không có khả năng tiếp xúc với  đáy hay lòng  đáy dưới  đáy 

biển. 

ĐIỀU 78. Chế độ pháp lý của vùng nước và vùng trời ở phía trên, và 

các quyền và các tự do của các quốc gia khác 

1. Các quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa không đụng chạm 

đến chế độ pháp lý của vùng nước ở phía trên hay của vùng trời trên vùng 

nước này. 

2. Việc quốc gia ven biển thực hiện các quyền của mình đối với thềm lục 

địa không gây thiệt hại đến hàng hải hay các quyền và các tự do khác của 

các nước khác đã được công ước thừa nhận, cũng không được cản trở việc 

thực hiện các quyền này một cách không thể biện bạch được. 

ĐIỀU 79. Các dây cáp và ống dẫn ngầm ở thềm lục địa  

1. Tất cả các quốc gia có quyền đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm ở thềm 

lục địa theo đúng điều này. 

2. Trong điều kiện thi hành các biện pháp hợp lý nhằm thăm dò thềm lục 

địa, khai thác tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa và ngăn chặn, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do ống dẫn gây ra, quốc gia ven biển không được cản 

trở việc lắp đặt hay bảo quản các ống dẫn và dây cáp đó. 

3. Tuyến ống dẫn đặt ở thềm lục địa cần được sự thỏa thuận của quốc gia 

ven biển. 

4. Không một quy định nào ở phần này đụng chạm đến quyền của quốc gia 

ven biển đặt ra các điều kiện đối với các đường dây cáp hay các đường ống 

dẫn đi vào lãnh thổ hay lãnh hải của mình, cũng như, không đụng chạm đến 

đường tài phán của quốc gia này đối với dây và ống dẫn được đặt, hoặc sử 

dụng trong khuôn khổ của việc thăm dò thềm lục  địa của mình hay việc 

khai khác tài nguyên thiên nhiên của mình, hoặc của việc khai thác các đảo 

nhân tạo, thiết bị hay công trình thuộc quyền tài phán của quốc gia này. 

5. Khi đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm, các quốc gia phải tính đến các dây 

cáp và ống ngầm đã được đặt trước. Đặc biệt họ cần lưu ý không làm hại 

đến khả năng sửa chữa các đường dây cáp và ống dẫn đó. 

ĐIỀU 80. Các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình ở thềm lục địa 

Điều 60 áp dụng mutatis mutandis (với những sửa đổi cần thiết và chi tiết) 

đối với các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình ở thềm lục địa. 

ĐIỀU 81. Việc khoan ở thềm lục địa 

Quốc gia ven biển có đặc quyền cho phép và quy định việc khoan ở thềm 

lục địa bất kỳ vào mục đích gì. 

ĐIỀU 82. Những khoản đóng góp bằng tiền hoặc hiện vật vào việc khai 

thác thềm lục địa ngoài 200 hải lý 

1. Quốc gia ven biển nộp các khoản đóng góp bằng tiền hay bằng hiện vật 

về việc khai thác tài nguyên thiên nhiên không sinh vật của thềm lục địa 

nằm ngoài 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. 

2. Các khoản đóng góp được nộp hàng năm tính theo toàn bộ sản phẩm thu 

hoạch được ở một điểm khai thác nào đó, sau năm năm đầu khai thác điểm 

đó. Năm thứ 6 tỉ lệ đóng góp là 1% của giá trị hay của khối lượng sản phẩm 

khai thác được ở điểm khai thác. Sau đó, mỗi năm tỷ lệ này tăng lên 1% 

cho đến năm thứ 12 và bắt đầu từ năm thứ 12 trở đi tỷ lệ đó ở mức 7%. Sản 

phẩm không bao gồm các tài nguyên được dùng trong khuôn khổ của việc 

khai thác. 

3. Quốc gia đang phát triển nào là nước chuyên nhập khẩu một khoáng sản 

được khai thác từ thềm lục địa của mình được miễn các khoản đóng góp đối 

với loại khoáng sản đó.  

4. Các khoản đóng góp này được thực hiện thông qua Cơ quan quyền lực; 

cơ quan này phân chia các khoản đó cho các quốc gia thành viên, theo tiêu 

chuẩn phân chia công bằng có tình đến lợi ích và nhu cầu của các quốc gia 

đang phát triển, đặc biệt là các quốc gia chậm phát triển nhất hay các quốc 

gia không có biển. 

ĐIỀU 38. Hoạch định ranh giới thềm lục địa giữa các quốc gia có bờ 

biển tiếp liền hay đối diện nhau 

1. Việc hoạch định ranh giới thềm lục địa giữa các quốc gia có bờ biển tiếp 

liền hay  đối diện nhau  được thực hiện bằng con  đường thỏa thuận theo 

đúng luật pháp quốc tế như đã được nêu ở Điều 38 của Quy chế tòa án quốc 

tế, để đi tới một giải pháp công bằng. 

2. Nếu không đi tới một thỏa thuận trong một thời hạn hợp lý thì các quốc 

gia hữu quan sử dụng các thủ tục nêu ở phần XV. 

3. Trong khi chờ  đợi ký kết thỏa thuận nói ở khoản 1, các quốc gia hữu 

quan trên tinh thần hiều biết, và hợp tác, làm hết sức mình để đi đến các 

giải pháp tạm thời có tính chất thực tiễn và để không phương hại hay cản 

trở việc ký kết các thỏa thuận dứt khoát trong giai đoạn quá độ này. Các 

dàn xếp tạm thời không phương hại đến việc hoạch định cuối cùng. 

4. Khi một điều ước đang có hiệu lực giữa các quốc gia hữu quan, các vấn 

đề liên quan đến việc hoạch định ranh giới thềm lục địa được thực hiện theo 

đúng điều ước đó. 

ĐIỀU 84. Các hải đồ và bản kê các tọa độ địa lý 

1. Với điều kiện tuân thủ phần này, các ranh giới ngoài của thềm lục địa và 

các đường hoạch định ranh giới được vạch ra theo đúng Điều 83 được ghi 

rõ lên các hải đồ có tỷ lệ thích hợp để xác định được vị trí của nó, có trường 

hợp việc vẽ ranh giới ngoài hay các đường hoạch đinh ranh giới này có thể 

được thay thế bằng các bản kê các tọa  độ  địa lý các  điểm, có ghi rõ hệ 

thống trắc địa được sử dụng. 

2. Quốc gia ven biển công bố theo đúng thủ tục các bản đồ hay các bản kê 

các tọa  độ  địa lý và gửi  đến Tổng thư ký liên hợp quốc một bản  để lưu 

chiểu, và đối với các bản đồ hay các bản kê các tọa độ địa lý vị trí của ranh 

giới ngoài của thềm lục địa, thì gửi đến Tổng thư ký của Cơ quan quyền lực 

một bản để lưu chiểu.  

ĐIỀU 85. Việc đào đường hầm 

Phần này không  đụng chạm  đến quyền của quốc gia ven biển  được khai 

thác lòng đất dưới đáy biển bằng cách đào hầm, bất kể độ sâu của các vùng 

nước ở nơi ấy là bao nhiêu.  

PHẦN VII 

BIỂN CẢ 

Mục 1 

CÁC QUY ĐỊNH CHUNG 

ĐIỀU 86. Phạm vi áp dụng của phần này 

Phần này áp dụng cho tất cả những vùng biển không nằm trong vùng đặc 

quyền về kinh tế, lãnh hải hay nội thủy của một quốc gia cũng như không 

nằm trong vùng nước quần đảo của một quốc gia quần đảo. Điều này không 

hạn chế về bất cứ phương diện nào các quyền tự do mà tất cả các quốc gia 

được hưởng trong vùng đặc quyền về kinh tế theo Điều 58. 

ĐIỀU 87. Tự do trên biển cả 

1. Biển cả được để ngỏ cho tất cả các quốc gia, dù có biển hay không có 

biển. Quyền tự do trên biển cả được thực hiện trong những điều kiện do các 

quy định của Công ước hay và những quy tắc khác của pháp luật quốc tế trù 

định. Đối với các quốc gia dù có biển hay không có biển, quyền tự do này 

đặc biệt bao gồm: 

a) Tự do hàng hải; 

b) Tự do hàng không; 

c) Tự do đặt các dây cáp hoặc ống dẫn ngầm với điều kiện tuân thủ Phần 

VI; 

d) Tự do xây dựng các đảo nhân tạo hoặc các thiết bị khác được pháp luật 

quốc tế cho phép, với điều kiện tuân thủ phần VI; 

e) Tự do đánh bắt hải sản trong các điều đã được nêu ở Mục 2; 

f) Tự do nghiên cứu khoa học với các điều kiện tuân thủ các Phần VI và 

VIII. 

2. Mỗi quốc gia khi thực hiện các quyền tự do này phải tính đến lợi ích của 

việc thực hiện tự do trên biển cả của các quốc gia khác, cũng như đến các 

quyền được Công ước thừa nhận liên quân đến các hoạt động trong Vùng. 

ĐIỀU 88. Sử dụng biển cả vào mục đích hòa bình 

Biển cả được sử dụng vào các mục đích hòa bình 

ĐIỀU 89. Tính bất hợp pháp của những yêu sách về chủ quyền đối với 

biển cả 

Không một quốc gia nào có thể đòi đặt một cách hợp pháp một bộ phận nào 

đó của biển cả thuộc vào chủ quyền của mình ĐIỀU 90. Quyền hàng hải 

1. Mỗi quốc gia quy định các điều kiện cho phép tàu thuyền mang quốc tịch 

của nước mình, các điều kiện đăng ký các tàu thuyền trên lãnh thổ của mình 

và các  điều kiện cần phải có  để cho tàu thuyền  được quyền treo cờ của 

nước mình. Các tàu thuyền mang quốc tính của quốc gia mà chúng được 

phép treo cờ. Cần phải có một mối quan hệ thực chất giữa quốc gia và các 

con tàu. 

2. Quốc gia nào cho phép tàu thuyền treo cờ nước mình thì cấp cho tàu 

thuyền đó các tài liệu có liên quan đến mục đích đó. 

ĐIỀU 92. Điều kiện pháp lý của tàu thuyền 

1. Các tàu thuyền chỉ hoạt động dưới cờ của một quốc gia và, trừ những 

trường hợp ngoại lệ đã được quy định rõ ràng trong các hiệp ước quốc tế 

hay trong Công ước, chỉ thuộc quyền tài phán của quốc gia này khi ở biển 

cả. Không được thay đổi cờ trong một chuyến đi hay trong một dịp đậu lại, 

trừ trường hợp có sự chuyển giao thật sự quyền sở hữu hay có thay  đổi 

đăng ký. 

2. Một tàu thuyền hoạt  động dưới cờ của nhiều quốc gia mà nó sử dụng 

theo sở thích của mình thì không thể sử dụng đối với mọi quốc gia thứ ba, 

bất cứ quốc tịch nào trong số đó và có thể được coi như là một tàu thuyền 

không có quốc tịch. 

ĐIỀU 93. Các tàu thuyền treo cờ của Tổ chức Liên hợp quốc, của cơ 

quan chuyên môn của Liên hợp quốc hay của Cơ quan năng lượng 

nguyên tử quốc tế 

Các điều trên không đề cập vấn đề các tàu được dùng vào dịch vụ chính 

thức của Liên hợp quốc, của các cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc 

hay Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế. 

ĐIỀU 94. Các nghĩa vụ của quốc gia mà tàu thuyền mang cờ 

1. Mọi quốc gia đều thực sự thi hành quyền tài phán và sự kiểm soát của 

mình trong các lĩnh vực hành chính, kỹ thuật và xã hội  đối với các tàu 

thuyền mang cờ của mình. 

2. Đặc biệt mọi quốc gia: 

a) Có một sổ đăng ký hàng hải có ghi tên và đặc điểm của các tàu thuyền 

mang cờ nước mình, trừ các tàu thuyền do kích thước nhỏ không nằm trong 

quy định quốc tế được chấp nhận chung; b) Thi hành quyền tài phán theo đúng luật trong nước mình đối với bất kỳ 

tàu thuyền nào mang cờ nước mình, cũng như  đối với thuyền trưởng, sĩ 

quan và đoàn thủy thủ về các vấn đề hành chính, kỹ thuật và xã hội liên 

quan đến tàu thuyền. 

3. Mọi quốc gia phải có các biện pháp cần thiết  đối với các tàu thuyền 

mang cờ của nước mình để đảm bảo an toàn trên biển, nhất là về: 

a) Cấu trúc, trang bị của tàu thuyền và khả năng đi biển của nó; 

b) Thành phần, điều kiện làm việc và việc đào tạo các thủy thủ, có tính đến 

các văn bản quốc tế có thể áp dụng được; 

c) Việc sử dụng các tín hiệu, tình trạng hoạt động tốt của hệ thống thông tin 

liên lạc và việc phòng ngừa đâm va. 

4. Các biện pháp này bao gồm các biện pháp cần thiết để đảm bảo rằng: 

a) Tàu thuyền nào cũng phải được một viên thanh tra hàng hải có trình độ 

kiểm tra trước khi đăng ký vào sổ và sau đó, trong những khoảng thời gian 

thích hợp và trên tàu thuyền cần có các hải  đồ, các tài liệu về hàng hải, 

cũng như dụng cụ và máy móc hàng hải mà sự an toàn hàng hải đòi hỏi; 

b) Tàu thuyền nào cũng phải được giao cho một thuyền trưởng và các sĩ 

quan có trình độ chuyên môn cần thiết, đặc biệt là việc điều động, hàng hải, 

thông tin liên lạc và điều khiển các máy, thủy thủ có trình độ chuyên môn 

cần thiết và đủ số so với loại tàu thuyền, kích thước, máy móc và trang bị 

của tàu thuyền; 

c) Thuyền trưởng, các sỹ quan và ở mức độ cần thiết, đoàn thủy thủ hoàn 

toàn nắm vững và sẵn sàng tôn trọng các quy tắc quốc tế có thể áp dụng 

được về việc cứu sinh trên biển, việc phòng ngừa các tai nạn đâm va, việc 

ngăn ngừa hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển và việc duy trì 

thông tin liên lạc bằng vô tuyến điện 

5. Khi thi hành các biện pháp nói ở các khoản 3 và 4, mỗi quốc gia buộc 

phải tuân thủ các quy tắc, thủ tục và tập quán quốc tế đã được chấp nhận 

chung và thi hành mọi biện pháp cần thiết để đảm bảo cho các quy tắc, thủ 

tục và tập quán nói trên được tôn trọng. 

6. Quốc gia nào có những lý do đúng đắn để nghĩ rằng quyền tài phán và 

quyền kiểm soát thích hợp đối với một tàu thuyền đã không được thi hành, 

thì có thề thông báo những sự kiện đó cho quốc gia mà tàu mang cờ. Khi 

được thông báo, quốc gia mà tàu mang cờ phải tiến hành điều tra và nếu 

cần, có các biện pháp điều chỉnh cần thiết. 

7. Mỗi quốc gia ra lệnh mở cuộc điều tra do một hay nhiều nhân vật có đầy 

đủ thẩm quyền tiến hành, hoặc là cuộc điều tra được tiến hành trước những 

nhân vật đó về bất cứ tai nạn nào trên biển hay sự cố hàng hải nào xảy ra 

trên biển cả có liên quan đến một chiếc tàu mang cờ của nước mình và đã gây ra chết người hay gây trọng thương cho những công dân của một quốc 

gia khác, hoặc đã gây ra những thiệt hại nghiêm trọng cho tàu thuyền và 

công trình thiết bị của một quốc gia khác hay cho môi trường biển. Quốc 

gia mà tàu mang cờ và quốc gia hữu quan đó tổ chức về một tai nạn trên 

biển hay một sự cố hàng hải thuộc loại này. 

ĐIỀU 95. Quyền miễn trừ của các tàu chiến trên biển cả 

Các tàu chiến trên biển cả  được hưởng quyền miễn trừ hoàn toàn về tài 

phán của bất kỳ quốc gia nào khác ngoài quốc gia mà tàu mang cờ. 

ĐIỀU 96. Quyền miễn trừ của các tàu thuyền chỉ dùng cho một cơ 

quan Nhà nước không có tính chất thương mại      

Các tàu thuyền của Nhà nước hay do Nhà nước khai thác và chỉ dùng cho 

một cơ quan Nhà nước không có tính chất thương mại trên biển cả được 

hưởng quyền miễn trừ hoàn toàn về tài phán của bất kỳ quốc gia nào khác 

ngoài quốc gia mà tàu mang cờ. 

ĐIỀU 97. Quyền tài phán hình sự về tai nạn đâm va hoặc bất cứ sự cố 

hàng hải nào 

1. Trong trường hợp xảy ra tai nạn đâm va hay bất kỳ sự cố hàng hải nào 

trên biển cả mà trách nhiệm hình sự hay trách nhiệm kỷ luật thuộc về 

thuyền trưởng hoặc thuộc về bất kỳ thành viên nào trong đoàn thủy thủ của 

con tàu, chỉ có thể yêu cầu truy tố hình sự hay thi hành kỷ luật họ trước các 

nhà đương cục tư pháp hay hành chính của quốc gia mà tàu mang cờ hoặc 

là của quốc gia mà đương sự mang quốc tịch. 

2. Về mặt kỷ luật, quốc gia nào đã cấp bằng chỉ huy hay giấy chứng nhận 

khả năng hoặc giấy phép, là quốc gia duy nhất có thẩm quyền công bố, với 

việc tôn trọng các thủ tục họp pháp, thu hồi các bằng hay chứng chỉ  đó 

không thuộc quốc tịch của quốc gia đó. 

3. Không thể ra lệnh bắt hay giữ chiếc tàu, ngay cả trong khi tiến hành công 

việc dự thẩm, nếu không phải là nhà đương cục của quốc gia mà tàu mang 

cờ. 

ĐIỀU 98. Nghĩa vụ giúp đỡ 

1. Mọi quốc gia đòi hỏi thuyền trưởng của một chiếc tàu mang cờ của nước 

mình, trong chừng mực có thể làm được mà không gây nguy hiểm nghiêm 

trọng cho con tàu, cho đoàn thủy thủ hay cho hành khách trên tàu, phải: 

a) Giúp đỡ bất kỳ ai đang gặp nguy khốn trên biển; 

b) Hết sức nhanh chóng đến cứu những người đang bị nguy cấp nếu như 

được thông báo những người này cần được giúp đỡ, trong chừng mực mà người ta có thể chờ đợi một cách hợp lý là thuyền trưởng phải xử lý như 

thế; 

c) Trong trường hợp xảy ra tai nạn đâm va, giúp đỡ chiếc tàu kia, đoàn 

thủy thủ và hành khách của nó và, trong phạm vi có thể, cho chiếc tàu đó 

biết tên và cảng đăng ký của tàu mình, và cảng gần nhất mà tàu mình sẽ cập 

bến. 

2. Tất cả các quốc gia ven biển tạo điều kiện dễ dàng cho việc thành lập và 

hoạt động của một cơ quan thường trực về tìm kiếm và cứu trợ thích hợp và 

hiệu quả, để đảm bảo an toàn hàng hải và hàng không, và nếu có thể, thì 

hợp tác với những nước láng giềng của mình trong khuôn khổ của những 

dàn xếp có tính chất khu vực, để thực hiện mục đích nói trên. 

ĐIỀU 99. Cấm chuyên chở nô lệ 

Mọi quốc gia đều thi hành các biện pháp có hiệu quả để ngăn ngừa và trừng 

trị việc chuyên chở nô lệ trên các tàu được phép mang cờ của nước mình, 

và để ngăn ngừa việc lạm dụng sắc cờ của mình vào mục đích nói trên. Mọi 

người nô lệ ẩn náu ở trên một chiếc tàu, dù con tàu này mang cờ của bất kỳ 

quốc gia nào, cũng được tự do ipso-facto (ngay tức khắc). 

ĐIỀU 100. Nghĩa vụ hợp tác để trấn áp nạn cưới biển 

Tất cả các quốc gia hợp tác với nhau, bằng mọi khả năng của mình, để trấn 

áp cướp biển trên biển cả hay ở bất kỳ nơi nào khác không thuộc quyền tài 

phán của quốc gia nào. 

ĐIỀU 101. Định nghĩa cướp biển 

Một trong những hành động sau đây là hành động cướp biển: 

a) Mọi hành động trái phép dùng hành động hay bắt giữ hoặc bất kỳ sự 

cướp phá nào do thủy thủ hoặc hành khách trên một chiếc tàu hay một 

phương tiện bay tư nhân gây nên, vì những mục đích riêng tư, và nhằm: 

i. Chống lại một chiếc tàu hay một phương tiện bay khác, hay chống lại 

những người hay của cải ở trên con tàu hoặc phương tiện bay đỗ ở biển 

cả; 

ii. Chống lại một chiếc tàu hay một phương tiện bay, người hay của cải, ở 

một nơi không thuộc quyền tài phán của một quốc gia nào; 

b) Mọi hành động tham gia có tính chất tự nguyện vào việc sử dụng một 

chiếc tàu hay một phương tiện bay, khi người tham gia biết từ những sự 

việc rằng chiếc tàu hay phương tiện bay đó là một tàu hay phương tiện bay 

cướp biển; 

c) Mọi hành động nhằm xúi giục người khác phạm những hành động được 

xác định ở điểm a hoặc b hay phạm phải với chủ định làm dễ dàng cho các 

hành động đó.  ĐIỀU 102. Hành động cướp biển của một tàu chiến, một tàu Nhà nước 

hay một phương tiện bay của Nhà nước mà đoàn thủy thủ hay đội bay 

đã nổi loạn gây ra 

Những hành động cướp biển, như đã được xác định ở Điều 101, của một 

tàu chiến hay một tàu Nhà nước hay một phương tiện bay của Nhà nước bị 

đoàn thủy thủ hay đội bay nổi loạn làm chủ, được coi là hành động của các 

tàu hay phương tiện bay tư nhân. 

ĐIỀU 103. Định nghĩa một tàu hay một phương tiện bay cướp biển 

Những tàu hay phương tiện bay mà kể kiểm soát nó thực sự, chủ trương sử 

dụng để phạm một trong những hành động được nêu ở Điều 101, được coi 

là những tàu hay phương tiện bay cướp biển. Những chiếc tàu hay phương 

tiện bay đã được dùng để phạm những hành động nói trên cũng được coi là 

tàu hay phương tiện bay cướp biển chừng nào nó còn ở dưới quyền kiểm 

soát của những người gây ra những hành động đó. 

ĐIỀU 104. Giữ hay mất quốc tịch của một con tàu hay một phương 

tiện bay cướp biển 

Một con tàu hay một phương tiện bay đã trở thành cướp biển có thể giữ 

quốc tịch của mình. Việc giữ hay mất quốc tịch do luật trong nước của quốc 

gia đã trao quốc tịch đó điều chỉnh. 

ĐIỀU 105. Bắt giữ một chiếc tàu hay phương tiện bay cướp biển 

Mọi quốc gia ở biển cả, hay ở bất cứ nơi nào khác không thuộc quyền tài 

phán của bất kỳ quốc gia nào,  đều có thể bất giữ một chiếc tàu hay một 

phương tiện bay  đã trở thành cướp biển, hoặc một chiếc tàu hay một 

phương tiện bay bị chiếm đoạt sau một hành động cướp biển và đang nằm 

trong tay bọn cướp biển, và đều có thể bắt giữ người và của cải ở trên con 

tàu hay phương tiện bay đó. Các tòa án của quốc gia đã tiến hành việc bắt 

đó có thể công bố các hình phạt cũng như các biện pháp áp dụng đối với 

chiếc tàu, phương tiện bay hay của cải, trừ những người lương thiện trong 

cuộc. 

ĐIỀU 106. Trách nhiệm trong trường hợp bắt giữ một cách độc đoán 

Khi bắt giữ một chiếc tàu hay một phương tiện bay bị tình nghi là cướp 

biển mà không có lý do đầy đủ, quốc gia nào đã tiến hành việc bắt giữ đó 

phải chịu trách nhiệm về bất kỳ tổn thất hay thiệt hại nào do hành động đó 

gây ra đối với quốc gia mà tàu mà phương tiện bay đó mang quốc tịch. 

ĐIỀU 107. Các tàu và phương tiện bay có đủ tư cách để thực hiện việc 

bắt giữ vì lý do cướp biển  Chỉ có các tàu chiến hay phương tiện bay quân sự, hoặc các tàu thuyền hay 

phương tiện bay khác mang các dấu hiện bên ngoài chứng tỏ rõ ràng là của 

một cơ quan Nhà nước và được tiến hành nhiệm vụ này, mới có thể thực 

hiện việc bắt giữ vì lý do cướp biển. 

ĐIỀU 108. Buôn bán trái phép các chất ma túy và các chất kích thích 

1. Tất cả các quốc gia hợp tác với nhau để trấn áp việc buôn bán trái phép 

các chất ma túy và các chất kích thích do các tàu đi lại ở biển cả tiến hành, 

vi phạm các công ước quốc tế. 

2. Mọi quốc gia khi đã có lý do chính đáng để cho rằng một tàu mang cờ 

của nước mình đang buôn bán trái phép các chất ma túy và các chất kích 

thích đều có thể yêu cầu các quốc gia khác hợp tác để chấm dứt việc buôn 

bán đó. 

ĐIỀU 109. Phát sóng không được phép từ biển cả 

1. Tất cả các quốc gia hợp tác với nhau để trấn áp phát sóng không được 

phép từ biển cả. 

2. Trong Công ước “phát sóng không được phép” là các cuộc phát thanh và 

vô tuyến truyền hình nhằm vào quảng đại quần chúng từ một chiếc tàu hay 

một thiết bị ở biển cả vi phạm các quy chế quốc tế, trừ việc phát các tín 

hiệu cấp cứu. 

3. Người nào tiến hành truyền các cuộc phát sóng không được phép đều có 

thể bị truy tố trước tòa án của: 

a) Quốc gia mà chiếc tàu phát sóng mang cờ; 

b) Quốc gia đăng ký của thiết bị; 

c) Quốc gia mà người nói trên là công dân; 

d) Mọi quốc gia mà ở đó các cuộc phát sóng có thể thu được; 

e) Mọi quốc gia có các đài thông tin vô tuyến được phép đã bị nhiễu do 

các cuộc phát sóng đó. 

4. Ở biển cả, một quốc gia có quyền tài phán ở theo đúng khoản 3, có thể 

theo  đúng Điều 110, bắt bất kỳ người nào hay giữ bất kỳ chiếc tàu nào 

truyền các cuộc phát sóng không được phép và tịch thu phương tiện phát 

sóng. 

ĐIỀU 110. Quyền khám xét 

1. Trừ những trường hợp mà việc can thiệp là căn cứ vào những quyền do 

hiệp ước mang lại, một tàu chiến khi gặp một tàu nước ngoài ở trên biển cả không phải là một tàu được hưởng quyền miễn trừ như đã nêu ở các Điều 

95 và 96, chỉ có thể khám xét chiếc tàu đó nếu có những lý do đúng đắn để 

nghi ngờ chiếc tàu đó: 

a) Tiến hành cướp biển; 

b) Chuyên chở nô lệ; 

c) Dùng vào các cuộc phát sóng không được phép, quốc gia mà chiếc tàu 

mang cờ có quyền tài phán theo Điều 109; 

d) Không có quốc tịch; hay 

e) Thật ra là cùng quốc tịch với chiếc tàu chiến, mặc dù chiếc tàu này treo 

cờ nước ngoài hay từ chối treo cờ của mình. 

2. Trong những trường hợp nêu ở khoản 1, tàu chiến có thể kiểm tra các 

giấy tờ cho phép mang cờ. Vì mục đích này, tàu chiến có thể phái một chiếc 

xuồng, dưới sự chỉ huy của một sĩ quan, đến gần chiếc tàu bị tình nghi. Sau 

khi kiểm tra các tài liệu, nếu vẫn còn nghi vấn thì có thể tiếp tục điều tra 

trên tàu với một thái độ hết sức đúng mực. 

3. Nếu việc nghi ngờ xét ra không có cơ sở thì chiếc tàu bị khám xét được 

bồi thường về mọi tổn thất hay thiệt hại xảy ra, với điều kiện là chiếc tàu 

này không phạm một hành động nào làm cho nó bị tình nghi. 

4. Các điều quy định này được áp dụng mutatis mutandis (với những sửa 

đổi cần thiết về chi tiết) đối với các phương tiện bay quân sự. 

5. Các điều quy định này cũng được áp dụng đối với tất cả các tàu thuyền 

hay phương tiện bay khác đã được phép một cách hợp lệ và mang những 

dấu hiệu bên ngoài chỉ rõ rằng chúng được sử dụng cho một cơ quan Nhà 

nước. 

ĐIỀU 111. Quyền truy đuổi 

1. Việc truy đuổi một tàu nước ngoài có thể được tiến hành nếu những nhà 

đương cục có thẩm quyền của quốc gia ven biển có những lý do đúng đắn 

để cho rằng chiếc tàu này đã vi phạm các luật và quy định của quốc gia đó. 

Việc truy đuổi phải bắt đầu khi chiếc tàu nước ngoài hay một trong những 

chiếc xuồng của nó đang ở trong nội thủy, trong vùng nước quần đảo, trong 

lãnh hải hay trong vùng tiếp giáp của quốc gia truy đuổi, và chỉ có thể được 

tiếp tục ở ngoài ranh giới của lãnh hải hay vùng tiếp giáp với điều kiện là 

việc truy đuổi này không bị gián đoạn. Không nhất thiết là chiếc tàu ra lệnh 

cho tàu nước ngoài đang đi trong lãnh hải hay trong vùng tiếp giáp dừng lại 

cũng phải có mặt tại các vùng biển  ấy khi mà chiếc tàu nước ngoài này 

nhận được lệnh. Nếu chiếc tàu nước ngoài ở trong vùng tiếp giáp, được quy 

định ở Điều 33, việc truy đuổi chỉ có thể bắt đầu nếu tàu đó đã vi phạm các 

quyền, mà việc thiết lập vùng tiếp giáp có nhiệm vụ bảo vệ.  

2. Quyền truy đuổi được áp dụng matatis mutandis (với những sửa đổi cần 

thiết về chi tiết) đối với những hành động vi phạm các luật và quy định của 

quốc gia ven biển có thể áp dụng, theo đúng Công ước, cho vùng đặc quyền 

kinh tế hay thềm lục địa, kể cả các vùng an toàn bao quanh các thiết bị ở 

thềm lục địa, nếu các vi phạm này đã xảy ra trong các vùng nói trên. 

3. Quyền truy đuổi chấm dứt khi chiếc tàu bị truy đuổi đi vào lãnh hải của 

quốc gia mà nó thuộc quyền hay của một quốc gia khác. 

4. Việc truy đuổi chi được coi như bắt đầu, nếu chiếc tàu truy đuổi bằng các 

phương tiện có thể sử dụng được mà mình có, biết một cách chắc chắn là 

chiếc tàu bị  đuổi, hay một những trong chiếc xuồng của nó hoặc các 

phương tiện đi biển khác hoạt động thành tốp và dùng chiếc tàu bị truy đuổi 

làm chiếc tàu mẹ,  đang  ở bên trong ranh giới của lãnh hải, hay tùy theo 

trường hợp đang ở trong vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế hay ở trên 

thềm lục địa. Việc truy đuổi chỉ có thể bắt đầu sau khi đã phát tín hiệu nhìn 

hoặc nghe bắt nó dừng lại, ở một cự ly cần thiết để chiếc tàu nói trên nhận 

biết được. 

5. Quyền truy  đuổi chỉ có thể  được thực hiện bởi các tàu chiến hay các 

phương tiện quân sự hoặc các tàu hay phương tiện bay khác có mang các 

dấu hiện ở bên ngoài chỉ rõ rang rằng, các tàu hay phương tiện bay đó được 

sử dụng cho một cơ quan Nhà nước và được phép làm nhiệm vụ này. 

6. Trong trường hợp mà chiếc tàu bị một phương tiện bay truy đuổi: 

a) Các khoản 1 đến 4 được áp dụng mutatis mutandis (với những thay đổi 

cần thiết và chi tiết); 

b) Phương tiện bay nào phát lệnh dừng lại phải tự mình truy đuổi chiếc 

tàu cho đến lúc một chiếc tàu hay phương tiện bay khác của quốc gia ven 

biển; sau khi được phương tiện bay nói trên thông báo, đã đến những vị trí 

để tiếp tục cuộc truy đuổi nếu như phương tiện đầu tiên không thể tự mình 

giữ được chiếc tàu. Để chứng minh cho việc bắt một chiếc tàu dừng lại ở 

ngoài lãnh hải là đúng, thì riêng việc phát hiện chiếc tàu này đã vi phạm 

hay bị nghi ngờ là vị phạm là chưa đủ, mà còn phải xác định đồng thời xem 

nó có bị phương tiện bay hay tàu khác yêu cầu dừng lại và việc truy đuổi 

này phải không hề bị gián đoạn. 

7. Không thể đòi hủy lệnh giữ một chiếc tàu bị bắt ở địa điểm thuộc quyền 

tài phán của một quốc gia và bị dẫn độ về một cảng của quốc gia này để 

cho các nhà đương cục có thẩm quền tiến hành điều tra với lý do duy nhất 

là vì hoàn cảnh bắt buộc chiếc tàu đó đã đi có hộ tống qua một phần của 

vùng đặc quyền về kinh tế hay của biển cả. 8. Một chiếc tàu đã bị bắt dừng lại hay bị bắt ở ngoài lãnh hải trong những 

hoàn cảnh không chứng minh được cho việc sử dụng quyền truy đuổi thì 

được bồi thường về mọi tổn thất hay tổn hại nếu có. 

ĐIỀU 112. Quyền đặt các dây cáp hay ống dẫn ngầm 

1. Mọi quốc gia có quyền đặt các dây cáp hay ống dẫn ngầm ở đáy biển cả 

bên ngoài thềm lục địa. 

2. Điều 79, khoản 5, được áp dụng đối với đường dây cáp và ống dẫn ngầm 

này. 

ĐIỀU 113. Về việc một dây cáp hay một ống dẫn ngầm bị đứt đoạn hay 

bị hư hỏng 

Mọi quốc ra đều định ra các luật và quy định cần thiết để coi là hành động 

vi phạm có thể bị trừng phạt: một chiếc tàu mang cờ của quốc gia đó hay 

một người thuộc quyền tài phán của quốc gia đó đã cố ý hay do cẩu thả mà 

làm cho một đường dây cáp cao thế hay một đường ống dẫn ngầm ngoài 

biển cả bị đứt đoạn hay hư hỏng một đường dây cáp điện báo hay điện thoại 

ngầm trong chừng mực có nguy cơ làm rối loạn hay làm gián đoạn thông 

tin điện báo hay điện thoại. Điều quy định này cũng áp dụng cho bất kỳ 

hành động nào có thể gây nên tình trạng các đường dây cáp hay ống dẫn 

ngầm nói trên bị cắt đứt hoặc hư hỏng hay cố ý nhằm gây nên tình trạng đó. 

Tuy nhiên, điều quy định này không áp dụng khi việc làm đứt đoạn hay hư 

hỏng đường dây cáp và ống dẫn là hành động của những người, sau khi đã 

thi hành tất cả các biện pháp phòng ngừa cần thiết để tránh gây ra tình trạng 

đó, chỉ hành động nhằm mục đích chính đáng cứu lấy sinh mạng hay con 

tàu của họ. 

ĐIỀU 114. Về việc một dây cáp hay một ống dẫn ngầm bị đứt đoạn hay 

hư hỏng do người chủ của một dây cáp hay một ống dẫn khác gây ra 

Mọi quốc ra đều định ra các luật và quy định cần thiết để trong trường hợp 

một dây cáp hay một ống dẫn ngầm ở biển cả bị đứt đoạn hay hư hỏng do 

việc đặt một dây cáp hay một ống dẫn ngầm khác của một người có quyền 

tài phán của mình, người này phải chịu những phí tổn để sửa chữa những 

thiệt hại mà mình gây ra. 

ĐIỀU 115. Bồi thường những thiệt hại gây ra do việc tránh làm hư 

hỏng một dây cáp hay ống dẫn ngầm Mọi quốc ra đều định ra các luật và quy định cần thiết để người chủ của con 

tàu nào đưa ra được chứng cứ chứng minh rằng đã chịu mất một chiếc neo, 

một tấm lưới hay một phương tiện đánh bắt khác nhằm trành làm hư hỏng 

một dây cáp hay một ống dẫn ngầm, thì được người người sở hữu của dây 

cáp hay một ống dẫn ngầm bồi thường, với điều kiện là người chủ của con 

tàu đó đã dùng mọi biện pháp đề phòng hợp lý. 

Mục 2 

BẢO TỒN VÀ QUẢN LÝ CÁC TÀI NGUYÊN SINH VẬT 

CỦA BIỂN CẢ 

ĐIỀU 116. Quyền đánh bắt ở biển cả 

Tất cả các quốc gia đều có quyền cho công dân của mình đánh bắt ở biển 

cả, với điều kiện: 

a) Tuân theo các nghĩa vụ ghi trong công ước; 

b) Tôn trọng các quyền và nghĩa vụ cũng như các lợi ích của các quốc gia 

ven biển như đã được trù định, đặc biệt là trong Điều 63, khoản 2 và trong 

các Điều từ 64 đến 67; và 

c) Tuân theo mục này 

ĐIỀU 117. Nghĩa vụ của các quốc gia có các biện pháp bảo tồn tài 

nguyên sinh vật của biển cả đối với các công dân của mình 

Tất cả các quốc gia có nghĩa vụ định ra các biện pháp có thể cần thiết để áp 

dụng đối với các công dân của mình nhảm bảo tồn tài nguyên sinh vật của 

biển cả hoặc hợp tác với các quốc gia khác trong việc định ra các biện pháp 

như vậy. 

ĐIỀU 118. Sự hợp tác của các quốc gia trong việc bảo tồn và quản lý 

tài nguyên sinh vật biển 

Các quốc gia hợp tác với nhau trong việc bảo tồn và quản lý tài nguyên sinh 

vật ở biển cả. Các quốc gia có công dân khai thác tài nguyên sinh vật khác 

nhau ở trong cùng một khu vực hoặc các tài nguyên sinh vật giống nhau, 

thương lượng với nhau để có những biện pháp cần thiết trong việc bảo tồn 

các tài nguyên đó. Nhằm mục đích đó, nếu cần, các nước này hợp tác để lập 

ra các tổ chức đánh bắt phân khu vực hoặc khu vực. 

ĐIỀU 119. Việc bảo tồn tài nguyên sinh vật của biển cả 

 1. Khi quy định khối lượng cho phép đánh bắt và thi hành các biện pháp 

khác để bảo tồn các tài nguyên sinh vật ở biển cả, các quốc gia phải: 

a) Dựa trên những số liệu đáng tin cậy nhất của mình, quan tâm đến việc 

khôi phục hay duy trì các đàn (stocks), những loài khai thách ở những mức 

độ đảm bảo năng suất ổn định tối đa, có chú ý tới những yếu tố sinh thái và 

kinh tế thích đáng, kể cả những nhu cầu đặc biệt của những quốc gia đang 

phát triển và có tính  đến những phương pháp  đánh bắt,  đến quan hệ hỗ 

tương giữa các đàn (stocks) và đến tất cả mọi quy phạm quốc tế tối thiểu 

thường được kiến nghị chung trong phạm vi phân khu vực, khu vực hay thế 

giới; 

b) Quan tâm đến những tác động của các biện pháp này đối với những loài 

quần vợt với các loài bị khai thác hay phụ thuộc vào chúng, để duy trì và 

khôi phục các đàn (stocks) của các loài quần hợp hay phụ thuộc này ở mức 

độ mà việc sinh sản của chúng không có nguy cơ bị tổn hại nghiêm trọng. 

2. Các thông tin khoa học sẵn có, những số liệu thống kê liên quan đến việc 

đánh bắt và đến khả năng của nghề cá và các dữ kiện khác liên quan đến 

việc bảo tồn và các đàn cá được phổ biến và trao đổi đều đặn qua trung gian 

của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền phân khu vực, khu vực hay thế giới, 

và nếu được, với sự tham gia của tất cả các quốc gia hữu quan. 

3. Các quốc gia hữu quan chăm lo sao cho những biện pháp bảo tồn và việc 

áp dụng những biện pháp đó không dẫn đến một sự phân biệt đối xử nào về 

mặt pháp lý hay về mặt thực tế đối với bất cứ ngư dân nào, bất kể họ là 

công dân của quốc gia nào. 

ĐIỀU 120. Các loài có vú ở biển 

Điều 65 cũng áp dụng cho việc bảo tồn và quản lý các loài có vú ở biển cả. 

PHẦN VIII 

CHẾ ĐỘ CÁC ĐẢO 

ĐIÊU 121. Chế độ các đảo 

1. Một đảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc, khi thủy triều lên 

vùng đất này vẫn ở trên mặt nước. 

2. Với điều kiện phải tuân thủ khoản 3, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc 

quyền về kinh tế và thềm lục địa của hòn đảo được hoạch định theo đúng 

các quy định của Công ước áp dụng cho các lãnh thổ đất liền khác. 

 3. Những hòn đảo đá nào không thích hợp cho con người đến ở hoặc cho 

một đời sống kinh tế riêng, thì không có vùng đặc quyền về kinh tế và thềm 

lục địa. 

PHẦN IX 

BIỂN KÍN HAY NỬA KÍN 

ĐIỀU 122. Định nghĩa 

Trong Công ước, “biển kín hay nửa kín” là một vịnh, một vũng hay một 

vùng biển do nhiều quốc gia bao bọc xung quanh và thông với một biển 

khác hay với đại dương qua một cửa hẹp, hoặc là hoàn toàn do chủ yếu hay 

các lãnh hải và các vùng đặc quyền về kinh tế của nhiều quốc gia tạo thành. 

ĐIỀU 123. Sự hợp tác giữa các quốc gia ven biển kín hay nửa kín 

Các quốc gia ở ven bở một biển kín hay nửa kín cần hợp tác với nhau trong 

việc sử dụng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ của họ theo Công ước. Vì 

mục đích này, trực tiếp hoặc qua trung gian của một tổ chức khu vực thích 

hợp, các quốc gia này cố gắng: 

a) Phối hợp trong việc quản lý, bảo tồn, thăm dò và khai thác các tài 

nguyên sinh vật của biển; 

b) Phối hợp trong việc sử dụng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ của 

họ có liên quan đến việc bảo vệ và giữ gìn môi trường biển; 

c) Phối hợp các chính sách khoa học của họ, và nếu có thể, thực hiện các 

chương trình nghiên cứu khoa học chung trong vùng được xem xét; 

d) Nếu có thể thì mời các quốc gia khác hay các tổ chức quốc tế hữu quan 

hợp tác với họ trong việc áp dụng điều này. 

PHẦN X 

QUYỀN CỦA CÁC QUỐC GIA KHÔNG CÓ BIỂN ĐI RA BIỂN 

VÀ TỪ BIỂN VÀO, VÀ TỰ DO QUÁ CẢNH 

ĐIỀU 124. Sử dụng các thuật ngữ 

1. Trong Công ước: 

a) “Quốc gia không có biển”  (Etat sans littoral) có nghĩa là mọi quốc 

gia không có bờ biển; b) “Quốc gia quá cảnh” (Etat de transit) là mọi quốc gia có hay không có 

bờ biển, ở giữa một quốc gia không có bờ biển và biển, việc vận chuyển 

quá cảnh phải đi qua quốc gia đó; 

c) “Vận chuyển quá cảnh” (trafic en transit) là việc quá cảnh người, hàng 

hóa, của cải và các phương tiện vận tải qua lãnh thổ của một hay nhiều 

quốc gia quá cảnh, khi quãng đường ở trên lãnh thổ này, dù có hoặc không 

có việc chuyển tải, việc lưu kho, việc chở hàng bị ngắt quãng hay việc thay 

đổi phương thức vận chuyển, chỉ là một phần của một chuyến đi hoàn chỉnh 

hay bắt đầu kết thúc trên lãnh thổ của quốc gia không có bờ biển; 

d) “Phương tiện vận chuyển” (moyens de transport) là: 

i. Phương tiện chạy trên đường sắt, tàu đi biển, tàu chạy trên hồ, trên sông 

và các xe cộ trên đường bộ; 

ii. Khi các điều kiện địa phương bắt buộc, là những người khuân vác hoặc 

súc vật kéo. 

2. Các quốc gia không có biển và các quốc gia quá cảnh có thể thỏa thuận 

xếp vào các phương tiện vận chuyển các ống dẫn và ống dẫn khí đốt và các 

phương tiện khác ngoài các phương tiện đã nêu ở khoản 1. 

ĐIỀU 125. Quyền đi ra biển và từ biển vào, và tự do quá cảnh 

1. Các quốc gia không có biển có quyền đi ra biển và từ biển vào để sử 

dụng các quyền được trù định trong Công ước, kể cả các quyền liên quan 

đến tự do trên biển cả và liên quan đến di sản chung của loài người. Vì mục 

đích ấy, các quốc gia đó được hưởng tự do quá cảnh qua lãnh thổ của các 

quốc gia quá cảnh bằng mọi phương tiện vận chuyển.  

2. Các điều kiện và thể thức sử dụng quyền tự do quá cảnh được thỏa thuận 

giữa các quốc gia không có biển và các quốc gia quá cảnh hữu quan qua 

con đường thỏa thuận tay đôi, phân khu vực hay khu vực. 

3. Trong việc sử dụng chủ quyền toàn vẹn trên lãnh thổ của mình, các quốc 

gia quá cảnh có quyền ra tất cả mọi biện pháp cần thiết để đảm bảo rằng, 

các quyền và các điều kiện thuận lợi được quy định trong phần này vì lợi 

ích của quốc gia không có biển, không hề đụng chạm đến lợi ích chính đáng 

của quốc gia quá cảnh. 

ĐIỀU 126. Loại trừ việc áp dụng điều khoản tối huệ quốc 

Các quy định của Công ước cũng như các điều ước đặc biệt liên quan đến 

việc sử dụng quyền ra biển và đi từ biển vào trù định các quyền và các điều 

kiện thuận lợi cho các quốc gia không có biển do vị trí địa lý đặc biệt của 

quốc gia đó, bị loại trừ khỏi việc áp dụng điều khoản tối huệ quốc. 

ĐIỀU 127. Các thuế quan, thuế và các khoản lệ phí khác 

 1. Việc vận chuyển quá cảnh không phải nộp thuế quan, thuế hay mọi 

khoản lệ phí khác, ngoài các khoản thuế trả cho các dịch vụ đặc biệt liên 

quan đến việc vận chuyển đó. 

2. Các phương tiện vận chuyển quá cảnh và các điều kiện thuận lợi khác 

cho việc quá cảnh dành cho quốc gia không có biển và được quốc gia này 

sử dụng, không phải chịu các thứ thuế hay các khoản lệ phí cao hơn các 

khoản phải trả cho việc sử dụng các phương tiện vận chuyển của quốc gia 

quá cảnh. 

ĐIỀU 128. Vùng miễn thuế và các điều kiện thuận lợi khác về hải quan 

Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc quá cảnh, vùng miễn thuế hay các điều 

kiện hải quan thuận lợi khác có thể trù định ở cảng vào và cảng ra của các 

quốc gia quá cảnh, qua con  đường thỏa thuận giữa quốc gia này và các 

quốc gia không có biển. 

ĐIỀU 129. Sự hợp tác trong việc đóng và cải tiến các phương tiện vận 

chuyển 

Khi trong các quốc gia quá cảnh không có các phương tiện vận chuyển cho 

phép sử dụng thật sự quyền tự do quá cảnh, hoặc khi các phương tiện hiện 

có, kể cả các trang thiết bị cảng, không thích đáng về bất cứ một phương 

diện nào, quốc gia quá cảnh và quốc gia không có biển hữu quan có thể hợp 

tác để đóng hay cải tiến các phương tiện hiện có. 

ĐIỀU 130. Các biện pháp nhằm tránh tình trạng chậm trễ hay những 

khó khăn có tính chất kỹ thuật trong việc vận chuyển quá cảnh, hay 

nhằm để loại trừ các nguyên nhân gây ra tình trạng đó 

1. Quốc gia quá cảnh thi hành mọi biện pháp thích hợp để tránh mọi tình 

trạng chậm trễ hay những khó khăn có tính chất kỹ thuật trong việc vận 

chuyển quá cảnh. 

2. Các nhà đương cục có thẩm quyền của quốc gia quá cảnh không có biển, 

trong trường hợp có tình trạng chậm trễ hay khó khăn, hợp tác để nhanh 

chóng loại trừ các nguyên nhân của tình trạng đó. 

ĐIỀU 131. Việc đối xử bình đẳng ở trong các cảng biển  

Các tàu mang cờ của một quốc gia không có biển được hưởng trong các 

cảng biển sự đối xử bình đẳng như các tàu nước ngoài khác. 

ĐIỀU 132. Việc dành những điều kiện thuận lợi rộng rãi hơn cho việc 

quá cảnh  Công ước không có hàm ý rút bớt những điều kiện thuận lợi rộng rãi hơn 

những điều mà Công ước đã trù định và đã được sự thỏa thuận giữa các 

quốc gia thành viên hay đã được một quốc gia thành viên chấp nhận. Công 

ước cũng tuyệt đối không cấm các quốc gia thành viên trong tương lai dành 

những điều kiện thuận lợi rộng rãi hơn. 

PHẦN XI 

VÙNG 

Mục 1 

CÁC QUY ĐỊNH CHUNG 

ĐIỀU 133. Sử dụng các thuật ngữ 

Trong phần này  

a) “Tài nguyên” (ressources) là tất cả các tài nguyên khoáng sản ở thể rắn, 

lỏng hoặc khí in situ (ở ngay tại chỗ) trong Vùng, nằm ở đáy biển hay lòng 

đất dưới đáy biển này, kể cả các khối đá kim (nodules polymétalliques); 

b) Các tài nguyên, một khi đã được khai thác từ Vùng, được gọi là “các 

khoáng sản” (minéraux)  

ĐIỀU 134. Phạm vi áp dụng của phần này  

1. Phần này được áp dụng đối với Vùng 

2. Các hoạt động tiến hành trong Vùng do phần này điều chỉnh. 

3. Việc gửi lưu chiểu các bản đồ hay bản kê các tọa độ địa lý xác định vị trí 

các ranh giới nêu ở Điều 1, khoản 1, cũng như việc công bố các bản đồ hay 

bản kê tọa độ đó, do phần VI điều chỉnh. 

4. Không một điều nào của quy định này đụng chạm đến việc xác đinh ranh 

giới ngoài của thềm lục địa theo đúng phần VI hay đến hiệu lực của các 

điều ước liên quan đến việc hoạch định ranh giới giữa các quốc gia có bờ 

biển tiếp liền hay đối diện nhau. 

ĐIỀU 135. Chế độ pháp lý của vùng nước và vùng trời nói trên 

Phần này cũng như các quyền được hưởng hay được thực hiện theo phần 

này không ảnh hưởng đến chế độ pháp lý của vùng nước ở phía trên Vùng 

hay đến chế độ pháp lý của vùng trời ở phía trên vùng nước này. 

Mục 2 

CÁC NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ VÙNG 

ĐIỀU 136. Di sản chung của loài người 

Vùng và tài nguyên của nó là di sản chung của loài người. 

ĐIỀU 137. Chế độ pháp lý của Vùng và các tài nguyên của nó 

1. Không một quốc gia nào có thể  đòi hỏi thực hiện chủ quyền hay các 

quyền thuộc chủ quyền  ở một phần nào  đó của Vùng hoặc  đối với tài 

nguyên của Vùng; không một quốc gia nào và không một tự nhiên nhân hay 

pháp nhân nào có thể chiếm đoạt bất cứ một phần nào đó của Vùng hoặc tài 

nguyên của Vùng. Không một yêu sách, một việc thực hiện chủ quyền hay 

các quyền thuộc quyền chủ quyền này cũng như một hành động chiếm đoạt 

nào được thừa nhận. 

2. Toàn thể loài người, mà Cơ quan quyền lực là người thay mặt có tất cả 

các quyền đối với các tài nguyên của Vùng. Những tài nguyên này không 

thể chuyển nhượng được. Còn các khoáng sản đã được khai thác từ Vùng 

thì chỉ có thể chuyển nhượng theo  đúng phần này và phù hợp với các 

nguyên tắc, quy định và các thủ tục của Cơ quan quyền lực. 

3. Một quốc gia hay một tự nhiên nhân hay pháp nhân chỉ được đòi hỏi, 

giành lấy hoặc thực hiện các quyền đối với các khoáng sản đã được khai 

thác ở Vùng theo đúng phần này. Các quyền  đã đòi hỏi, giành được hay 

được thực hiện bằng cách khác đều không được thừa nhận. 

ĐIỀU 138. Cách xử sự chung của các quốc gia liên quan đến Vùng 

Trong cách xử sự chung liên quan đến Vùng, các quốc gia tuân theo phần 

này, các nguyên tắc được nêu trong Hiến chương Liên Hợp quốc và các quy 

tắc khác của pháp luật quốc tế, với sự quan tâm giữ gìn hòa bình và an ninh, 

đẩy mạnh sự hợp tác quốc tế và hiểu biết lẫn nhau. 

ĐIỀU 139. Nghĩa vụ chăm lo  đến việc tôn trọng Công  ước và trách 

nhiệm trong trường hợp có thiệt hại 

1. Các quốc gia thành viên có nghĩa vụ quan tâm đến việc bảo đảm cho các 

hoạt động trong Vùng, dù do bản thân các quốc gia đó, do các xí nghiệp 

Nhà nước của họ hoặc do các tự nhiên nhân hay pháp nhân mang quốc tịch 

của họ hoặc chịu sự kiểm soát thật sự của họ hay các công dân của họ, được tiến hành theo đúng với phần này. Các tổ chức quốc tế cũng có nghĩa vụ 

như vậy với các hoạt động trong vùng. 

2. Không phương hại đến các quy tắc của pháp luật quốc tế và đến Điều 22 

của Phụ lục III, một quốc gia thành viên hay một tổ chức quốc tế phải chịu 

những trách nhiệm về các thiệt hại do một thiếu sót của mình đối với những 

nghĩa vụ mà họ phải đảm nhận theo phần này; các quốc gia thành viên hay 

các tổ chức quốc tế khi cùng hành động thì phải liên đới chịu trách nhiệm. 

Tuy nhiên, quốc gia thành viên không chịu trách nhiệm về các thiệt hại do 

một thiếu sót như vậy của một người do quốc gia này bảo trợ theo Điều 

153; khoản 2, điểm b, nếu quốc gia này đã thi hành tất cả các biện pháp cần 

thiết và thích hợp để bảo đảm việc tôn trọng thật sự phần này của các phụ 

lục có liên quan, như đã trù định trong Điều 153, khoản 4 và Điều 4 khoản 

4 của Phụ lục III. 

3. Các quốc gia thành viên là hội viên của các tổ chức quốc tế cần thi hành 

những biện pháp thích hợp để bảo đảm việc áp dụng điều này đối với các tổ 

chức đó. 

ĐIỀU 140. Lợi ích của loài người 

1. Các hoạt động trong vùng được tiến hành, như đã được ghi nhận rõ ràng 

trong phần này, là vì lợi ích của toàn thể loài người, không phụ thuộc vào vị 

trí của các quốc gia, dù là quốc gia có biển hay không có biển, và có lưu ý 

đặc biệt đến các lợi ích và nhu cầu của quốc gia đang phát triển và của các 

dân tộc chưa giành  được nền  độc lập  đầy  đủ hay một chế  độ tự trị khác 

được Liên hợp quốc thừa nhận theo  đúng Nghị quyết 1514 (XV) và các 

nghị quyết tương ứng khác của Đại hội đồng. 

2. Cơ quan quyền lực bảo đảm việc phân chia công bằng, trên cơ sở không 

phân biệt  đối xử, những lợi ích tài chính và các lợi ích kinh tế khác do 

những hoạt  động tiến hành trong Vùng qua một bộ máy thích hợp theo 

đúng Điều 160 khoản 2, điểm f, điểm nhỏ i, đem lại. 

ĐIỀU 141. Sử dụng vùng vào những mục đích hoàn toàn hòa bình 

Vùng  để ngỏ cho tất cả các quốc gia, dù quốc gia có biển hay không có 

biển, sử dụng vào những mục đích hoàn toàn hòa bình, không phân biệt đối 

xử và không phương hại đến các điều quy định khác của phần này. 

ĐIỀU 142. Các quyền và lợi ích chính đáng của các quốc gia ven biển 

1. Trong trường hợp các vỉa tài nguyên của Vùng trải rộng ra ngoài ranh 

giới của Vùng, thì những hoạt động tiến hành trong Vùng cũng được mở 

rộng như thế, nhưng phải tính đến các quyền và lợi ích chính đáng của quốc 

gia ven biển có quyền tài phán đối với các vỉa tài nguyên nói trên. 2. Một phương thức tham khảo ý kiến với quốc gia hữu quan, và nhất là 

phương thức thông báo trước, đặt ra để tránh bất kỳ sự xâm phạm nào đến 

các quyền và lợi ích đó. Trong những trường hợp mà các hoạt động tiến 

hành trong Vùng có thể dẫn đến việc khai thác các tài nguyên ở phía trong 

các ranh giới thuộc quyền tài phán quốc gia của một quốc gia ven biển thì 

cần phải có sự đồng ý trước của quốc gia này. 

3. Phần này cũng như các quyền được thừa nhận hay được sử dụng theo 

phần này, không xâm phạm đến quyền của quốc gia ven biển được thi hành 

những biện pháp phù hợp với các quy định tương ứng của phần XII có thể 

cần thiết  để ngăn ngừa, hạn chế hay loại bỏ một mối nguy hiểm nghiêm 

trọng và sắp xảy ra đối với vùng duyên hải của họ hoặc đối với các lợi ích 

có liên quan do một tình trạng ô nhiễm hay một sự đe dọa ô nhiễm nảy sinh 

từ tất cả các hoạt động tiến hành trong Vùng hay do tất cả các tai nạn khác 

gây ra bởi các hoạt động đó. 

ĐIỀU 143. Việc nghiên cứu khoa học biển 

1. Việc nghiên cứu khoa học biển trong Vùng được tiến hành nhằm những 

mục đích hoàn toàn hòa bình và vì lợi ích của toàn thể loài người theo đúng 

phần XIII. 

2. Cơ quan quyền lực có thể thực hiện các công trình nghiên cứu khoa học 

biển đối với Vùng và các tài nguyên của Vùng và có thể ký các hợp đồng 

nhằm mục  đích này. Cơ quan quyền lực tạo  điều kiện thuận lợi, khuyến 

khích việc nghiên cứu khoa học biển trong Vùng; phối hợp, phổ biến các 

kết quả của các công trình nghiên cứu và phân tích đó khi chúng sẵn sàng 

sử dụng được. 

3. Các quốc gia thành viên có thể tiến hành các công trình nghiên cứu khoa 

học biển trong Vùng. Các quốc gia này tạo điều kiện dễ dàng cho việc hợp 

tác quốc tế về nghiên cứu khoa học biển trong vùng, bằng cách: 

a) Tham gia các chương trình quốc tế và khuyến khích việc hợp tác về 

nghiên cứu khoa học biển do nhân viên của các nước và nhân viên của Cơ 

quan quyền lực thực hiện; 

b) Quan tâm đến việc các chương trình, được soạn thảo qua trung gian 

của Cơ quan quyền lực hay tùy theo tình hình, qua trung gian của các tổ 

chức quốc tế khác, vì lợi ích của các quốc gia đang phát triển và các quốc 

gia kém phát triển về mặt kỹ thuật, nhằm: 

i. Tăng cường tiềm lực nghiên cứu của họ; ii. Đào tạo nhân viên của quốc gia đó và nhân viên của Cơ quan quyền 

lực về kỹ thuật và về  ứng dụng công trình nghiên cứu tiến hành trong 

Vùng; 

c) Phổ biến một cách có hiệu quả các kết quả nghiên cứu và phân tích, 

khi các kết quả này có thể sử dụng được, qua trung gian của Cơ quan quyền 

lực hay nếu có thể, qua các bộ máy quốc tế khác. 

ĐIỀU 144. Chuyển giao kỹ thuật. 

1. Theo đúng Công ước, Cơ quan quyền lực thi hành các biện pháp để: 

a) Nắm được những kỹ thuật và kiến thức khoa học liên quan đến các 

hoạt động tiến hành trong Vùng; và 

b) Tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích việc chuyển giao cho các 

quốc gia đang phát triển các kỹ thuật và kiến thức khoa học nói trên, sao 

cho mọi quốc gia thành viên đều được hưởng. 

2. Vì mục đích này, Cơ quan quyền lực và các quốc gia thành viên hợp 

tác để thúc đẩy việc chuyển giao kỹ thuật và các kiến thức khoa học liên 

quan đến những hoạt động tiến hành trong Vùng sao cho Xí nghiệp và tất 

cả các quốc gia thành viên đều có thể được hưởng. Đặc biệt, Cơ quan quyền 

lực và các quốc gia thành viên đề xuất hoặc khuyến khích: 

a) Các chương trình để chuyển giao cho Xí nghiệp và cho các quốc gia 

đang phát triển các kỹ thuật liên quan đến các hoạt động tiến hành trong 

Vùng, nhất là trù định cho Xí nghiệp và các quốc gia đang phát triển, những 

điều kiện thuận lợi để nắm được các kỹ thuật thích hợp theo những thể thức 

và các điều kiện công bằng hợp lý; 

b) Những biện pháp nhằm bảo đảm sự tiến bộ về kỹ thuật của Xí nghiệp 

và những kỹ thuật trong nước của các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là 

tạo điều kiện cho nhân viên của Xí nghiệp và của các quốc gia này được 

đào tạo về khoa học và kỹ thuật biển, cũng như được tham gia đầy đủ vào 

các hoạt động tiến hành trong vùng. 

ĐIỀU 145. Bảo vệ môi trường biển 

Đối với các hoạt động tiến hành trong Vùng, các biện pháp cần thiết phải 

được thi hành theo đúng Công ước để bảo vệ có hiệu quả môi trường biển 

chống lại những tác hại có thể do các hoạt động đó gây ra. Vì mục đích đó, 

Cơ quan quyền lực định ra các quy tắc, quy định và thủ tục thích hợp, đặc 

biệt nhằm để: 

a) Ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự nạn ô nhiễm môi trường biển, kể cả 

vùng duyên hải và đối phó với những nguy cơ khác đe dọa môi trường đó, cũng như với bất kỳ sự biến động nào về tình trạng cân bằng sinh thái của 

môi trường biển, bằng cách, đặc biệt chú ý đến sự cần thiết phải bảo vệ môi 

trường chống lại những tác hại của những hoạt động như khoan, nạo vét, 

đào, loại bỏ các chất thải, xây dựng và khai thác hay bảo dưỡng các thiết bị, 

ống dẫn và các phương tiện khác được sử dụng vào các hoạt động này; 

b) Bảo vệ và bảo tồn các tài nguyên thiên nhiên của Vùng và phòng 

ngừa thiệt hại đối với hệ thực vật và động vật ở biển. 

ĐIỀU 146. Bảo vệ sự sống của con người 

Đối với các hoạt  động tiến hành trong Vùng, những biện pháp cần thiết 

phải được thi hành để bảo đảm việc bảo vệ có hiệu quả sự sống của con 

người. Vì mục đích ấy, Cơ quan quyền lực định ra các quy tắc, quy định và 

thủ tục thích hợp để bổ sung cho pháp luật quốc tế hiện tại như đã ghi trong 

các hiệp ước về vấn đề này. 

ĐIỀU 147. Sự phù hợp của các biện pháp được tiến hành ở trong Vùng 

và các hoạt động khác đang thực hiện trong môi trường biển 

1. Các hoạt động được tiến hành trong Vùng cần phải được quan tâm một 

cách hợp lý đến các hoạt động khác đang được thực hiện trong môi trường 

biển. 

2. Các điều kiện sau đây được áp dụng cho các thiết bị được sử dụng cho 

các hoạt động tiến hành trong Vùng: 

a) Các thiết bị này chỉ được xây lắp, bố trí và tháo gỡ theo đúng với 

phần này và trong các điều kiện do các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ 

quan quyền lực đề ra. Việc xây lắp, bố trí và tháo gỡ chúng phải được thông 

báo đúng thủ tục và cần phải duy trì các phương tiện thường trực để báo 

hiệu sự có mặt của các thiết bị đó; 

b) Các thiết bị này không được đặt ở các vị trí có thể gây trở ngại cho 

việc sử dụng các đường giao thông được thừa nhận là thiết yếu đối với hàng 

hải quốc tế, cũng không được đặt trong các vùng mật độ đánh cá tập trung; 

c) Các thiết bị này được các vùng an toàn bao quanh; các vùng an toàn 

này được đánh dấu một cách thích hợp để bảo đảm an toàn cho bản thân và 

các thiết bị đó và cho hàng hải. Hình thể và vị trí của các Vùng an toàn này 

được xác định sao cho chúng không tạo thành một vành đai cản trở các tàu 

thuyền đi đến một số Vùng biển nào đó một cách hợp pháp, hay cản trở 

giao thông trên các đường hàng hải quốc tế; 

d) Các thiết bị này được dùng vào những mục đích hoàn hòa bình; e) Các thiết bị này không có quy chế của các đảo. Chúng không có lãnh 

hải riêng; sự có mặt của chúng không ảnh hưởng đến việc hoạch định ranh 

giới lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế hay thềm lục địa. 

3. Các hoạt động khác diễn ra trong môi trường biển được tiến hành với 

sự chú ý đúng mức đến các hoạt động được tiến hành trong Vùng. 

ĐIỀU 148. Sự tham gia của các quốc gia đang phát triển vào các hoạt 

động tiến hành trong Vùng 

Việc tham gia của các quốc gia đang phát triển vào các hoạt động tiến hành 

trong Vùng được khuyến khích, như đã được trù định rõ ràng trong phần 

này, với sự chú ý thích đáng đến các nhu cầu và lợi ích đặc biệt của các 

quốc gia này, và nhất là nhu cầu đặc biệt của các quốc gia đang phát triển 

không có biển hay ở vào hoàn cảnh địa lý bất lợi, cần vượt qua những trở 

ngại do vị trí bất lợi của họ gây ra, đặc biệt là vì họ ở xa Vùng và việc họ 

đến Vùng và rời khỏi Vùng đều khó khăn. 

ĐIỀU 149. Các di vật khảo cổ và lịch sử 

Tất cả các di vật khảo cổ hay lịch sử tìm thấy ở trong Vùng, đều được bảo 

tồn hay nhượng lại, vì lợi ích của toàn thể loài người, đặc biệt quan tâm đến 

các quyền ưu tiên của quốc gia hay của nơi xuất xứ hoặc của quốc gia xuất 

xứ về văn hóa, hay còn của quốc gia xuất xứ về lịch sử hay khảo cổ. 

Mục 3 

KHAI THÁC CÁC TÀI NGUYÊN CỦA VÙNG 

ĐIỀU 150. Chính sách chung liên quan đến các hoạt động tiến hành 

trong Vùng 

Các hoạt động tiến hành trong Vùng, như đã được trù định rõ ràng trong 

phần này, phải làm sao tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển hài hòa nền 

kinh tế thế giới và sự mở rộng một cách cân đối nền thương mại quốc tế, 

thúc đẩy hợp tác quốc tế vì sự phát triển toàn diện của tất cả các quốc gia, 

và đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, và nhằm: 

a) Khai thác các tài nguyên của Vùng; 

b) Quản lý một cách có phương pháp, chắc chắn và hợp lý các tài 

nguyên của Vùng, đặc biệt quan tâm làm sao cho các hoạt động tiến hành trong Vùng có hiệu quả, tránh bất kỳ sự lãng phí nào, theo  đúng những 

nguyên tắc đúng đắn về bảo tồn. 

c) Tăng cường các khả năng tham gia vào các hoạt động này, đặc biệt là 

phù hợp với Điều 144 và Điều 148; 

d) Bảo đảm cho Cơ quan quyền lực được dự phần vào các thu nhập và 

việc chuyển giao kỹ thuật cho Xí nghiệp và cho các quốc gia  đang phát 

triển theo đúng Công ước; 

e) Tùy theo nhu cầu, tăng thêm số lượng khoáng sản khai thác từ Vùng 

để cùng với các khoáng sản khai thác từ nguồn khác, bảo đảm cung cấp cho 

người tiêu thụ các khoáng sản này; 

f) Tạo điều kiện thuận lợi để hình thành giá cả đúng và ổn định đối với 

các khoáng sản được khai thác từ Vùng, cũng như các khoáng sản từ các 

nguồn khác, có lợi cho người sản xuất và đúng mức cho người tiêu thụ, bảo 

đảm sự cân bằng lâu dài giữa cung và cầu; 

g) Tạo cho tất cả các quốc gia thành viên, bất kể chế độ xã hội và kinh 

tế hay địa lý của họ như thế nào, có những khả năng to lớn hơn trong việc 

tham gia khai thác các tài nguyên của Vùng, và ngăn cản việc độc quyền 

hóa các hoạt động tiến hành trong Vùng; 

h) Bảo vệ các quốc gia đang phát triển, theo đúng Điều 151, khỏi những 

ảnh hưởng bất lợi đối với nền kinh tế hay thu nhập về xuất khẩu của họ do 

việc hạ giá của một khoáng sản trong số các khoáng sản  được khai thác 

trong Vùng hay do sự giảm bớt khối lượng xuất khẩu loại khoáng sản này, 

trong chừng mực mà việc hạ giá hay giảm bớt  đó do các hoạt  động tiến 

hành trong Vùng gây ra; 

i) Khai thác di sản chung vì lợi ích của toàn thể loài người; 

j) Làm sao cho những  điều kiện tiếp xúc với các thị trường  để nhập 

khẩu các khoáng sản khai thác từ Vùng và nhập khẩu những sản phẩm đầu 

tiên được rút ra từ những khoáng sản này, không thuận lợi hơn những điều 

kiện thuận lợi nhất áp dụng cho việc nhập khẩu các khoáng sản và các sản 

phẩm đầu tiên khai thác được từ các nguồn khác. 

ĐIỀU 151. Chính sách về sản xuất 

1. a) Không phương hại đến những mục tiêu đã được nêu ở Điều 150 và 

nhằm áp dụng điểm h) của điều đó, qua trung gian của các cấp thẩm quyền 

hiện có, hay nếu cần thì, trong khuôn khổ của những dàn xếp hay hiệp định 

mới với sự tham gia của tất cả các bên hữu quan, kể cả người sản xuất và 

người tiêu thụ, Cơ quan quyền lực thi hành các biện pháp cần thiết để tạo thuận lợi cho sự gia tăng, sự hoạt động có hiệu quả và sự ổn định của các 

thị trường đối với những sản phẩm đầu tiên rút ra từ các khoáng sản khai 

thác trong Vùng, với giá cả có lợi cho người sản xuất và đúng mức đối với 

người tiêu thụ. Tất cả các quốc gia thành viên hợp tác vì mục đích này. 

b) Cơ quan quyền lực có quyền tham gia vào bất kỳ hội nghị sản phẩm 

nào bàn về những sản phẩm đầu tiên này, và ở đó, tất cả các bên hữu quan, 

kể cả người sản xuất và người tiêu thụ, đều tham dự. Cơ quan quyền lực có 

quyền trở thành thành viên của bất kỳ sự dàn xếp hay hiệp  định nào  đạt 

được khi kết thúc những hội nghị như vậy. Đối với những vấn đề có liên 

quan đến việc sản xuất trong Vùng, Cơ quan quyền lực tham gia vào bất kỳ 

cơ quan nào được lập ra theo dàn xếp hay hiệp định đã nêu trên theo đúng 

các quy tắc có liên quan đến cơ quan đó. 

c) Cơ quan quyền lực làm tròn các nghĩa vụ được giao phó theo các dàn 

xếp hay hiệp định nói ở khoản này, bảo đảm cho các dàn xếp hay hiệp định 

đó được áp dụng thống nhất và không phân biệt đối xử đối với toàn bộ việc 

sản xuất các khoáng sản có liên quan trong vùng. Làm như thế, Cơ quan 

quyền lực hành  động một cách phù hợp với các  điều khoản của các hợp 

đồng hiện hành và các quy  định của những kế hoạch làm việc của Xí 

nghiệp đã được chuẩn y. 

2. a) Trong giai đoạn quá độ được định rõ ở khoản 3, việc sản xuất hàng 

hóa chỉ có thể bắt  đầu dưới danh nghĩa một kế hoạch làm việc  đã  được 

chuẩn y, nếu người khai thác đã xin phép Cơ quan quyền lực và đã được Cơ 

quan quyền lực cho phép sản xuất; Việc cho phép này không thể xin hay 

cấp trước thời hạn dự kiến bắt đầu sản xuất hàng hóa theo kế oạch làm việc 

quá 5 năm, trừ khi Cơ quan quyền lực quy định một thời hạn khác trong các 

quy tắc, quy định và thủ tục của mình, căn cứ vào tính chất và tiến trình 

thực hiện các dự án; 

b) Trong đơn xin phép của mình, người khai thác ghi rõ số lượng kền 

hàng năm dự kiến khai thác theo kế hoạch làm việc đã được chuẩn y. Đơn 

này gồm có 1 bảng chi phí mà, sau khi nhận được giấy phép, sẽ được người 

khai thác thực hiện và đã được tính toán một cách hợp lý để cho phép người 

khai thác bắt đầu việc sản xuất hàng hóa vào thời điểm đã được dự định. 

c) Để áp dụng các  điểm a và b, Cơ quan quyền lực  định ra các quy 

phạm về hiệu quả, theo đúng Điều 17 của Phụ lục III. 

d) Cơ quan quyền lực cấp một giấy phép sản xuất theo số lượng được 

ghi rõ trong đơn yêu cầu, trừ khi tổng số lượng này và những số lượng được 

phép trước đây vượt quá, đối với bất cứ một năm sản xuất nào trong giai 

đoạn quá  độ, mức cao nhất về sản lượng kền  được tính toán theo  đúng 

khoản 4 cho năm mà giấy phép được cấp; e) Đơn xin và cấp giấy phép sản xuất trở thành bộ phận hữu cơ của kế 

hoạch làm việc được chuẩn y; 

f) Nếu đơn xin phép của người khai thác bị từ chối theo điểm d, người 

này bất cứ lúc nào cũng có thể nộp đơn mới cho Cơ quan quyền lực. 

3. Giai đoạn quá độ bắt đầu 5 năm trước ngày mùng 1 tháng Giêng của năm 

dự tính bắt đầu việc sản xuất hàng hóa đầu tiên với danh nghĩa của một kế 

hoạch làm việc đã được chuẩn y. Trong trường hợp việc bắt đầu sản xuất 

hàng hóa bị hoãn đến một năm nào đó sau năm đã dự kiến thì thời điểm bắt 

đầu của giai đoạn quá độ và mức tối đa của sản lượng tính toán ban đầu 

được điều chỉnh lại cho phù hợp. Giai đoạn quá độ kết thúc sau 25 năm, 

hoặc cho đến khi kết thúc Hội nghị xét duyệt lại được nêu ở Điều 155, hay 

cho đến ngày mà các thỏa thuận hay hiệp định mới đề cập ở khoản 1 có 

hiệu lực, thời hạn nào gần nhất thì được sử dụng, nếu các thỏa thuận hay 

hiệp định đó đã trở nên hết hiệu lực hay không còn tác dụng vì một lý do 

nào đó, thì những quyền được trù định trong điều này đối với phần còn lại 

của giai đoạn quá độ được trao lại cho Cơ quan quyền lực. 

4. a) Mức sản xuất tối đa có hiệu lực cho bất cứ một năm nào của giai đoạn 

quá độ có được do tổng của: 

i. Số chênh lệch giữa giá trị của đường biểu diễn xu hướng tiêu thụ kền 

cho năm trước năm bắt đầu sản xuất hàng hóa đầu tiên và giá trị của đường 

biểu diễn đó cho năm ngay trước khi bắt đầu giai đoạn quá độ, các giá trị đó 

được tính theo đúng điểm b; và 

ii. 60% số chênh lệch giữa giá trị của đường biểu diễn xu hướng tiêu 

thụ kền cho năm xin cấp giấy phép sản xuất và giá trị của đường biểu diễn 

này cho năm trước năm bắt đầu sản xuất hàng hóa đầu tiên; những giá trị 

này được tính toán theo đúng điểm h. 

b) Trong điểm a này: 

i. Những giá trị của đường biểu diễn xu hướng được sử dụng để tính 

toán mức sản lượng kền tối đa là những giá trị tiêu thụ kền hàng năm thể 

hiện trên một đường biểu diễn xu hướng độc lập nên trong năm cấp giấy 

phép sản xuất. Đường biểu diễn đó được lập ra theo phép hồi quy tuyến tính 

lô-ga-rít các số liệu vầ mức tiêu thụ kền thực sự hàng năm tương ứng với 

giai đoạn 15 năm gần nhất mà người ta có các số liệu, thời gian được coi là 

biến số thiên độc lập. Đường biểu diễn xu hướng này được gọi là đường 

biểu diễn xu hướng ban đầu; 

ii. Nếu tỷ suất tăng hàng năm được thể hiện trên đường biểu diễn xu 

hướng dưới 30% để xác định các số lượng đã nói ở điểm a, người ta thay 

đường biểu diễn này bằng một đường biểu diễn xu hướng lập ra sao cho nó cắt đường biểu diễn xu hướng ban đầu ở điểm biểu thị giá trị tiêu thụ cho 

năm đầu của thời kỳ 15 năm được xem xét, và để cho độ dốc của nó phù 

hợp với một sự gia tăng hàng năm là 3%. Tuy nhiên, sản lượng tối đa được 

quy định cho một năm nào đó của giai đoạn quá độ trong bất kỳ trường hợp 

nào cũng không thể vượt quá số chênh lệch giữa giá trị của đường biểu diễn 

xu hướng ban đầu cho năm xem xét đó và giá trị của đường biểu diễn này 

cho năm ngay trước khi bắt đầu giai đoạn quá độ. 

5. Đối với mức sản xuất ban  đầu của Xí nghiệp, Cơ quan quyền lực 

dành cho Xí nghiệp một số lượng 38.000 tấn kền trên số lượng  được  ấn 

định là sản lượng tối đa theo đúng khoản 4; 

6. a) Trong một năm nào đó, một người khai thác có thể sản xuất dưới 

mức sản xuất hàng năm các khoáng sản lấy từ các khối đa kim đã ghi trong 

giấy phép sản xuất của mình hoặc vượt qua mức đó, tối đa là 8%, miễn là 

tổng sản lượng không vượt quá sản lượng ghi trong giấy phép. Bất kỳ sự 

vượt quá nào trong khoảng từ 8% đến 20% đối với một năm nào đó hay bất 

kỳ sự vượt quá nào đối với một năm tiếp theo 2 năm liên tiếp trong đó mức 

sản xuất ấn định bị vượt, đều phải thương lượng với Cơ quan quyền lực; Cơ 

quan quyền lực có thể đòi người khai thác phải xin một giấy phép sản xuất 

bổ sung. 

b) Cơ quan quyền lực chỉ xét các đơn yêu cầu sản lượng bổ sung, khi 

mà cơ quan đó đã xét xong tất cả các đơn xin sản xuất đang chờ giải quyết 

và đã xem xét đúng mức đến các khả năng còn có những đơn vị khác nữa. 

Về vấn đề này nguyên tắc chỉ đạo của Cơ quan quyền lực là trong bất cứ 

một năm nào của giai đoạn quá độ không được vượt quá tổng sản lượng 

được phép sản xuất theo công thức hạn chế sản lượng. Cơ quan quyền lực 

không cho phép bất cứ một kế hoạch làm việc nào sản xuất một khối lượng 

vượt quá 46.500 tấn kền trong một năm. 

7. Sản lượng các kim loại khác như đồng, cô-ban và măng-gan rút ra từ 

các khối đa kim được khai thác theo một giấy phép sản xuất, không được 

vượt quá mức có thể đạt được, nếu như những người khai thác đã lấy ra từ 

các khối đa kim này số lượng kền tối đa tính đúng theo điều này. Cơ quan 

quyền lực định ra các quy tắc, quy định và thủ tục theo đúng Điều 17 của 

Phụ lục III, trong đó có trù định các thể thức thi hành những khoản này. 

8. Các quyền và nghĩa vụ liên quan  đến các tập quán kinh tế không 

chính  đáng  được trù  định trong khuôn khổ và các hiệp  định thương mại 

nhiều bên tương ứng,  được áp dụng vào công việc thăm dò và khai thác 

khoáng sản trong Vùng. Để giải quyết các tranh chấp thuộc phạm vi điều 

quy định này, các quốc gia thành viên tham gia vào các hiệp định thương 

mại nhiều bên nói trên dựa vào các thủ tục giải quyết các tranh chấp được 

trù định trong các hiệp định đó. 9. Cơ quan có quyền hạn chế mức sản xuất các khoáng sản trong Vùng, 

ngoài các khoáng sản rút ra từ các khối  đa kim, theo các  điều kiện và 

phương pháp mà Cơ quan quyền lực cho là thích hợp, bằng cách thông qua 

các quy tắc theo đúng Điều 161, khoản 8. 

10. Theo kiến nghị của Hội đồng, dựa trên ý kiến của Ủy ban kế hoạch 

hóa kinh tế, Đại hội đồng định ra một chế độ bù trừ hoặc thi hành các biện 

pháp trợ giúp khác, có tác dụng tạo điều kiện dễ dàng cho việc điều chỉnh 

kinh tế, kể cả việc hợp tác với các cơ quan chuyên trách hay các tổ chức 

quốc tế khác, đề giúp đỡ các nước đang phát triển mà nền kinh tế và thu 

nhập xuất khẩu bị ảnh hưởng nghiêm trọng trước những tác động bất lợi do 

một khoáng sản trong số các khoáng sản được khai thác từ Vùng bị hạ giá 

hay do khối lượng xuất khẩu loại khoáng sản đuộc khai thác từ Vùng bị hạ 

giá hay do khối lượng xuất khẩu loại khoáng sản này của họ giảm sút, trong 

chừng mực mà việc hạ giá hay giảm sút khối lượng này do các hoạt động 

trong Vùng gây nên. Cơ quan quyền lực tiến hành nghiên cứu về những vấn 

đề của các quốc gia có nguy cơ bị ảnh hưởng nặng nề nhất, nhằm giảm đến 

mức tối thiểu những khó khăn của họ, và  để giúp  đỡ họ tiến hành  điều 

chỉnh kinh tế theo yêu cầu của họ. 

ĐIỀU 152. Việc thi hành các quyền hạn và chức năng 

1. Cơ quan quyền lực tránh mọi sự phân biệt  đối xử trong khi thi hành 

quyền hạn và chức năng của mình, nhất là khi Cơ quan quyền lực cho phép 

tiến hành các hoạt động trong Vùng. 

2. Tuy nhiên, theo các điều được quy định rõ ràng của phần này, Cơ quan 

quyền lực có thể dành sự qua tâm đặc biệt đối với các quốc gia đang phát 

triển, và  đặc biệt là những quốc gia không có biển hay bất lợi về  địa lý 

trong số các quốc gia phát triển này. 

ĐIỀU 153. Hệ thống thăm dò và khai thác 

1. Các hợp đồng tiến hành trong Vùng được Cơ quan quyền lực thay mặt 

cho toàn thể loài người tổ chức, thực hiện và kiểm soát theo đúng điều này, 

và theo đúng các quy định tương ứng khác của phần này và phụ lục liên 

quan đến các hoạt động đó, cũng như, các quy tắc, quy định và thủ tục của 

Cơ quan quyền lực. 

2. Các hoạt  động tiến hành trong Vùng theo  đúng khoản 3 do các thành 

phần sau đây tiến hành: 

a) Xí nghiệp và, 

b) Kết hợp với Cơ quan quyền lực, các quốc gia thành viên hay các xí 

nghiệp Nhà nước, hoặc các tự nhiên nhân hay pháp nhân có quốc tịch của các quốc gia thành viên hay do quốc gia đó hoặc các công dân của các quốc 

gia đó kiểm soát thực sự, khi họ được sự bảo trợ của các quốc gia này hoặc 

của bất kỳ một nhóm nào thuộc những loại kể trên đáp ứng các điều kiện 

được quy định trong phần này và ở Phụ lục III; 

3. Các hoạt động tiến hành trong Vùng phải theo một kế hoạch làm việc 

chính thức và bằng văn bản, được lập ra theo đúng phụ lục III và được Hội 

đồng chuẩn y, sau khi  được Ủy ban pháp lý và kỹ thuật xem xét. Trong 

trường hợp các hoạt động tiến hành trong vùng theo giấy phép của Cơ quan 

quyền lực do các thể hay cá nhân nói ở khoản 2, điểm b thực hiện, kế hoạch 

làm việc mang hình thức của một hợp đồng, theo đúng Điều 3 của Phụ lục 

III. Hợp đồng có thể trù định các thỏa thuận về liên doanh theo đúng Điều 

11 của Phụ lục III. 

4. Cơ quan quyền lực thực hiện kiểm soát cần thiết đối với các hoạt động 

tiến hành trong Vùng, để bảo đảm tôn trọng các quy định tương ứng của 

phần này và của các phụ lục có liên quan, các quy tắc, quy định và thủ tục 

của Cơ quan quyền lực, cũng như, các kế hoạch làm việc được chuẩn y theo 

đúng khoản 3. Các quốc gia thành viên giúp đỡ Cơ quan quyền lực bằng 

cách thi hành tất cả các biện pháp cần thiết để bảo đảm tôn trọng các văn 

bản này theo đúng Điều 139. 

5. Bất kỳ lúc nào, Cơ quan quyền lực cũng có quyền thi hành mọi biện pháp 

được trù định trong phần này để bảo đảm tôn trọng phần này và để có thể 

thi hành các chức năng kiểm soát và ra quy định của mình theo phần này 

hay theo một hợp đồng. Cơ quan quyền lực có quyền kiểm tra tất cả các 

thiết bị được sử dụng để tiến hành các hoạt động trong Vùng và được đặt ở 

trong Vùng. 

6. Mọi hợp đồng được ký kết theo đúng khoản 3 đều trù định việc bảo đảm 

danh nghĩa. 

Do vậy, chỉ có thể xét lại, tạm hoãn hay hủy bỏ hợp đồng theo các điều 18 

và 19 của Phụ lục III. 

ĐIỀU 154. Xem xét định kỳ 

Cứ 5 năm một lần kể từ khi Công ước có hiệu lực, Đại hội đồng lại tiến 

hành một cuộc xem xét chung và có hệ thống xem chế độ quốc tế của Vùng 

do Công ước lập ra đã hoạt động trong thực tiễn như thế nào. Dựa vào kết 

quả của cuộc xem xét này, Đại hội đồng có thể thi hành hay khuyến nghị 

cho các cơ quan khác thi hành các biện pháp phù hợp với các quy định, thủ 

tục được trù định trong phần này và các phụ lục có liên quan và cho phép 

cải tiến sự hoạt động của chế độ. 

ĐIỀU 155. Hội nghị xét duyệt lại 1. 15 năm sau ngày mùng 1 tháng Giêng của năm bắt đầu sản xuất hàng hóa 

đầu tiên theo một kế hoạch làm việc đã được chuẩn y, Đại hội đồng sẽ triệu 

tập một hội nghị để xét duyệt lại các quy định của phần này và các phụ lục 

có liên quan,  điều chỉnh hệ thống thăm dò và khai thác tài nguyên của 

Vùng. Dưới ánh sáng của kinh nghiệm thu được trong giai đoạn qua, hội 

nghị sẽ xem xét cụ thể: 

a) Các quy định trong phần này điều chỉnh hệ thống thăm dò và khai 

thác tài nguyên của Vùng có đạt được những mục tiêu của chúng về mọi 

mặt không, và nhất là xem toàn thể loài người có được hưởng lợi do các 

quy định đó đem lại không; 

b) Xem trong thời hạn 15 năm này, các khu vực dành riêng có  được 

khai thác một cách có hiệu quả và cân đối so với các khu vực không được 

dành riêng không; 

c) Xem việc khai thác và sử dụng Vùng và các tài nguyên của Vùng có 

được tiến hành theo cách tạo thuận lợi cho việc phát triển hài hòa của nền 

kinh tế thế giới và việc mở rộng cân đối nền thương mại quốc tế không; 

d) Xem sự độc quyền hóa  các hoạt động tiến hành trong Vùng được 

ngăn ngừa hay không; 

e) Xem xét các chính sách đã nêu ở các Điều 150 và 151 có được tuân 

thủ không; và 

f) Hệ thống có cho phép phân chia một cách công bằng những mối lợi 

thu được từ các hoạt động tiến hành trong Vùng, với sự quan tâm đặc biệt 

đến lợi ích và nhu cầu của các quốc gia đang phát triển không. 

2. Hội nghị  xét duyệt quan tâm đến việc giữ vững nguyên tắc di sản chung 

của loài người, chế độ quốc tế nhằm khai thác công bằng di sản đó vì lợi 

ích của tất cả các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, và sự 

tồn tại của một Cơ quan quyền lực có trách nhiệm tổ chức tiến hành và 

kiểm soát các hoạt động trong vùng. Hội nghị cũng quan tâm đến việc duy 

trì các nguyên tắc đã được nêu trong phần này có liên quan đến việc loại trừ 

mọi yêu sách và mọi sự thực hiện chủ quyền ở một khu vực nào đó của 

Vùng, đến các quyền của các quốc gia và thái độ chung của họ có quan hệ 

đến Vùng, cũng như việc tham gia của họ vào các hoạt động được tiến hành 

trong Vùng theo  đúng Công ước,  đến việc  độc quyền hóa các hoạt  động 

tiến hành trong Vùng, việc chỉ sử dụng Vùng vào những mục đích hòa bình, 

những phương diện kinh tế của các hoạt động tiến hành trong Vùng, việc 

nghiên cứu khoa học biển, việc chuyển giao kỹ thuật, việc bảo vệ môi 

trường biển, và bảo vệ sự sống của con người, các quyền của các quốc gia 

ven biển, chế độ pháp lý của vùng nước và vùng trời phía trên Vùng và sự phù hợp giữa các hoạt động tiến hành trong Vùng và các hoạt động khác 

trong môi trường biển. 

3. Thủ tục ra quyết định áp dụng trong Hội nghị cũng là thủ tục đã áp dụng 

ở Hội nghị về luật biển lần thứ ba của Liên hợp quốc. Hội nghị sẽ cố gắng 

hết sức  để  đi  đến thỏa thuận về tất cả các  điểm sửa  đổi nếu có, bằng 

consensus (thỏa thuận), và chỉ biểu quyết các vấn đề đó, sau khi đã cố gắng 

hết sức mà không đi đến consensus (thỏa thuận). 

4. Năm năm sau khi bắt đầu hội nghị xét duyệt lại, nếu không đi đến được 

thỏa thuận về hệ thống thăm dò và khai thác tài nguyên của Vùng thì trong 

vòng 12 tháng sau đó, Hội nghị có thể quyết định theo đa số ba phần tư các 

quốc gia thành viên thông qua và đưa ra cho các quốc gia thành viên phê 

chuẩn hay tham gia đối với những điều sửa đổi dẫn đến sự thay đổi hay sửa 

đổi hệ thống, mà Hội nghị xét thấy cần thiết và thích hợp. Những điều sửa 

đổi này sẽ có hiệu lực đối với tất cả các quốc gia thành viên 12 tháng sau 

ngày gửi lưu chiểu những văn kiện phê chuẩn hay tham gia ba phần tư quốc 

gia thành viên. 

5. Những điểm sửa đổi được hội nghị xét duyệt lại thông qua điều này, sẽ 

không đụng chạm đến các quyền đã có được theo các hợp đồng hiện hành. 

Mục 4 

CƠ QUAN QUYỀN LỰC 

TIỂU MỤC A 

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG 

ĐIÊU 156. Thành lập Cơ quan quyền lực 

1. Một Cơ quan quyền lực quốc tế về đáy biển được lập ra, hoạt động theo 

sự điều chỉnh của phần này. 

2. Tất cả các quốc gia thành viên là những thành viên ipso facto (tất nhiên) 

của Cơ quan quyền lực. 3. Các quan sát viên ở Hội nghị lần thứ 3 của Liên hợp quốc về luật biển đã 

ký vào Định ước cuối cùng và không nằm trong phạm vi Điều 305, khoản 

1,  điểm c, d, e hay f có quyền tham dự vào các công việc của Cơ quan 

quyền lực với tư cách quan sát viên theo đúng các quy tắc, quy định và thủ 

tục của Cơ quan quyền lực. 

4. Cơ quan quyền lực đặt trụ sở ở Gia-mai-ca. 

5. Cơ quan quyền lực có thể lập ra các trung tâm hay các cơ quan chỉ đạo 

khu vực xét thấy cần thiết để thi hành chức năng của mình. 

ĐIỀU 157. Tính chất của Cơ quan quyền lực và các nguyên tắc cơ bản 

điều chỉnh hoạt động của cơ quan này 

1. Cơ quan quyền lực là tổ chức mà qua đó, các quốc gia thành viên tổ chức 

và kiểm soát các hoạt  động tiến hành trong Vùng, đặc biệt là nhằm mục 

đích quản lý các tài nguyên của Vùng theo đúng phần này. 

2. Cơ quan quyền lực nắm các quyền hạn và chức năng Công ước giao phó 

một cách rõ ràng. Cơ quan quyền lực có những quyền hạn và chức năng nói 

trên đối với những hoạt động tiến hành trong Vùng. 

3. Cơ quan quyền lực  được thành lập trên nguyên tắc bình  đẳng về chủ 

quyền của tất cả các thành viên. 

4. Để bảo đảm cho mỗi thành viên các quyền và lợi ích do tư cách thành 

viên mà có, tất cả các thành viên của Cơ quan quyền lực phải làm tròn một 

cách trung thực những nghĩa vụ của họ theo phần này. 

ĐIỀU 158. Các cơ quan của Cơ quan quyền lực 

1. Một đại hội đồng, một Hội đồng và một Ban thư ký được lập ra là những 

cơ quan chính của Cơ quan quyền lực. 

2. Một Xí nghiệp được lập ra là cơ quan mà thông qua đó, cơ quan quyền 

lực thi hành các chức năng được nêu ở Điều 170, khoản 1. 

3. Các cơ quan phụ trợ  được coi là cần thiết có thể  được thành lập theo 

đúng phần này. 

4. Mỗi cơ quan chính của Cơ quan quyền lực và Xí nghiệp có nhiệm vụ thi 

hành những quyền hạn và chức năng đã được giao phó. Trong khi thi hành 

các quyền hạn và chức năng này, mỗi cơ quan tránh những hành động có 

thể đụng cham hoặc làm hại cho việc thi hành các quyền hạn và chức năng 

riêng đã được giao phó cho một cơ quan khác. 

TIỂU MỤC B 

ĐẠI HỘI ĐỒNG 

ĐIỀU 159. Cơ cấu, thủ tục và biểu quyết 

1. Đại hội đồng bao gồm tất cả các thành viên của Cơ quan quyền lực. Mỗi 

thành viên có một  đại diện  ở Đại hội  đồng, người này có thể có những 

người thay thế và cố vấn đi theo. 

2. Đại hội  đồng họp thường kỳ hàng năm, và họp bất thường theo quyết 

định của Đại hội đồng hay do Tổng thư ký triệu tập theo yêu cầu của Hội 

đồng hay của đa số các thành viên của Cơ quan quyền lực. 

3. Các khóa họp của Đại hội đồng được tiến hành tại trụ sở của Cơ quan 

quyền lực, trừ khi Đại hội đồng có quyết định khác. 

4. Đại hội đồng thông qua quy chế nội bộ của mình. Mỗi khi khai mạc khóa 

họp thường kỳ, Đại hội đồng bầu ra chủ tịch và số ủy viên cần thiết khác 

của cơ quan chỉ đạo. Những người này lãnh trách nhiệm cho đến khi bầu cử 

một cơ quan chỉ đạo mối ở khóa họp thường kỳ tiếp theo. 

5. Số đại biểu cần thiết (quorum) là đa số thành viên của Đại hội đồng. 

6. Mỗi thành viên của Đại hội đồng có một phiếu. 

7. Các quyết định về những vấn đề thủ tục kể cả việc triệu tập một khóa 

họp bất thường của Đại hội đồng được thông qua theo đa số thành viên có 

mặt và bỏ phiếu. 

8. Các quyết định về các vấn đề nội dung phải được hai phần ba thành viên 

có mặt và bỏ phiếu thông qua, với điều kiện là đa số này phải gồm đa số 

các thành viên tham dự khóa họp. Trong trường hợp còn nghi ngờ không rõ 

có phải là một vấn đề nội dung hay không, thì vấn đề bàn cãi đó được coi 

như là một vấn đề nội dung, trừ trường hợp Cơ quan quyền lực có quyết 

định khác theo đa số cần thiết đối với những quyết định về các vấn đề nội 

dung. 

9. Khi một vấn đề nội dung sắp được đem ra biểu quyết lần đầu thì Chủ tịch 

có thể hoãn và nếu có ít nhất một phần năm số thành viên của Đại hội đồng 

yêu cầu, thì cần phải hoãn việc biểu quyết về điểm này trong một thời hạn 

không được quá 5 ngày. Quy tắc này chỉ có thể được áp dụng một lần đối với cùng một vấn đề, và việc áp dụng quy tắc này không được làm cho vấn 

đề bị hoãn đến quá ngày kết thúc khóa họp. 

10. Khi có ít nhất một phần tư số thành viên của Đại hội đồng thỉnh cầu 

bằng một văn bản gửi lên Chủ tịch Đại hội đồng, yêu cầu các Đại hội đồng 

lấy ý kiến tư vấn xem một đề nghị đưa ra Đại hội đồng yêu cầu Viện giải 

quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển của Tòa án quốc tế về luật biển 

có ý kiến tư vấn. Cuộc biểu quyết được hoãn đến khi Viện phát biểu ý kiến. 

Nếu trước khi khóa họp kết thúc một tuần mà chưa nhận được ý kiến tư vấn 

thì Đại hội đồng quyết định thời gian sẽ họp lại để biểu quyết về đề nghị đã 

bị hoãn lại đó. 

ĐIỀU 160. Các quyền hạn và chức năng 

1. Đại hội đồng, cơ quan duy nhất bao gồm tất cả các thành viên của Cơ 

quan quyền lực, được coi là cơ quan tối cao của Cơ quan quyền lực; Các cơ 

quan chính khác chịu trách nhiệm trước nó, như đã được quy định rõ ràng 

trong Công ước; Đại hội đồng có quyền, căn cứ vào các quy  định tương 

ứng của Công ước quyết định chính sách chung của Cơ quan quyền lực về 

bất kỳ vấn đề gì hay về bất kỳ việc gì thuộc thẩm quyền của Cơ quan quyền 

lực. 

2. Ngoài ra, Đại hội đồng còn có các quyền hạn và chức năng sau đây: 

a) Bầu ra các ủy viên của Hội đồng theo đúng Điều 161; 

b) Bầu ra Tổng thư ký trong số các ứng cử viên do Hội đồng đề nghị; 

c) Dựa vào giới thiệu của Hội đồng, bầu ra các ủy viên của Hội đồng 

quản trị và Tổng giám đốc Xí nghiệp; 

d) Nếu cần, thì thành lập các cơ quan phụ trợ để có thể làm tròn các 

chức năng của mình theo đúng phần này. Về cơ cấu của các cơ quan phụ 

trợ này cần phải chú ý thích đáng đến nguyên tắc phân bổ công bằng theo 

địa lý về các thành viên, đến các lợi ích riêng biệt và đến sự cần thiết bảo 

đảm cho các cơ quan này tuyển chọn được các thành viên có trình độ và 

thông thạo trong những lĩnh vực mà họ đảm nhiệm; 

e) Quy  định phần  đóng góp của các thành viên vào ngân sách hành 

chính của Cơ quan quyền lực theo một ba-rem đã được sử dụng cho ngân 

sách thông thường của Liên hợp quốc, cho đến khi Cơ quan quyền lực có 

được các khoản thu nhập lấy từ các nguồn khác đủ để trang trải các chi phí 

hành chính của mình; 

f) i. Dựa vào kiến nghị của Hội đồng, xem xét và phê chuẩn các quy 

tắc, quy định và thủ tục liên quan đến việc phân chia công bằng từ các mối lợi về tài chính và các mối lợi về kinh tế khác thu được từ những hoạt động 

tiến hành trong Vùng cũng như những đóng góp được trù định ở Điều 82, 

có quan tâm đặc biệt đến các quyền lợi và nhu cầu của các nước đang phát 

triển và các dân tộc chưa giành  được  độc lập hoàn toàn hay chưa  được 

hưởng một chế độ tự trị khác. Nếu đại hội đồng không tán thành các kiến 

nghị của Hội đồng, thì gửi trả lại các kiến nghị đó cho Hội đồng đề Hội 

đồng xem xét lại dưới ánh sáng các quan điểm mà Đại hội đồng đã nêu ra; 

ii. Xem xét và phê chuẩn các quy tắc, qui định và thủ tục của Cơ quan 

quyền lực, cũng như tất cả những điều sửa đổi đối với văn bản này, mà Hội 

đồng đã tạm thời chấp nhận theo Điều 162, khoản 2, điểm c, ii. Các quy tắc, 

quy định và thủ tục này nhằm vào việc thăm dò, khảo sát và khai thác trong 

Vùng, vào vấn đề quản lý tài chính và vấn đề hành chính nội bộ của Cơ 

quan quyền lực và, trên cơ sở kiến nghị của Hội  đồng quản trị của Xí 

nghiệp, vào vấn đề chuyển khoản của Xí nghiệp sang cho Cơ quan quyền 

lực; 

g) Quyết định việc phân chia công bằng các mối lợi về tài chính và các 

mối lợi về kinh tế khác có được từ các hoạt động tiến hành trong Vùng, một 

cách phù hợp với Công ước và các quy định và thủ tục của Cơ quan quyền 

lực; 

h) Xem xét và phê chuẩn dự trù ngân sách hàng năm của Cơ quan 

quyền lực mà Hội đồng đã đệ trình lên; 

i) Xem xét và báo cáo định kỳ của Hội đồng và của Xí nghiệp, cũng 

như các báo cáo đặc biệt mà Đại hội đồng yêu cầu Hội đồng và bất kỳ cơ 

quan nào của Cơ quan quyền lực trình lên; 

j) Cho tiến hành các cuộc nghiên cứu và soạn thảo các kiến nghị nhằm 

đẩy mạnh hợp tác quốc tế liên quan  đến các hoạt  động tiến hành trong 

vùng, và khuyến khích sự phát triển pháp luật quốc tế theo hướng tiến bọ và 

pháp điển hóa bước phát triển đó; 

k) Xem xét những vấn đề có tính chất chung có liên quan đến các hoạt 

động tiến hành trong Vùng, đặc biệt là những vấn đề nảy sinh đối với các 

quốc gia đang phát triển, cũng như đối với những vấn đề mà các hoạt động 

này đặt ra đối với một số quốc gia, do vị trí địa lý của họ, nhất là các quốc 

gia không có biển và các quốc gia có hoàn cảnh địa lý bất lợi; 

l) Theo kiến nghị của Hội đồng, dựa vào ý kiến của Ủy ban kế hoạch 

hóa kinh tế, lập ra một chế độ bù trừ hay thi hành các biện pháp giúp đỡ 

khác nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều chỉnh kinh tế như đã trù 

định trong Điều 151, khoản 10; m) Tuyên bố đình chỉ các quyền và các đặc quyền gắn liền với tư cách 

thành viên theo Điều 185; 

n) Thảo luận bất kỳ vấn  đề gì hay việc gì thuộc thẩm quyền của Cơ 

quan quyền lực và quyết  định một cách phù hợp với việc phân chia các 

quyền và chức năng giữa các cơ quan quyền lực xem cơ quan nào sẽ giải 

quyết một vấn đề gì hay một việc gì chưa được giao dứt khoát cho các cơ 

quan đó. 

TIỂU MỤC C 

HỘI ĐỒNG 

ĐIỀU 161. Cơ cấu, thủ tục và bỏ phiếu 

1. Hội đồng gồm 36 ủy viên của Cơ quan quyền lực do Đại hội đồng bầu ra 

theo thứ tự như sau: 

a) Bốn ủy viên được lựa chọn trong số các quốc gia thành viên mà việc 

tiêu thụ hay nhập khẩu thuần túy các sản phẩm cơ bản thuộc các loại 

khoáng sản được khai thác trong vùng vượt quá 2% mức tiêu thụ hay mức 

nhập khẩu của thế giới về các sản phẩm đó trong khoảng thời gian 5 năm 

lại đây có số liệu thống kê; trong số 4 ủy viên này, ít nhất phải có một quốc 

gia thuộc khu vực Đông Âu (xã hội chủ nghĩa) cũng như quốc gia tiêu thụ 

lớn nhất; 

b) Bốn ủy viên được lựa chọn trong số tám quốc gia thành viên; những 

quốc gia này, trực tiếp hoặc qua trung gian của các công dân nước mình, đã 

được thực hiện những khoản đầu tư quan trọng nhất cho việc chuẩn bị và 

thực hiện những khoản đầu tư quan trọng nhất cho việc chuẩn bị và thực 

hiện các hoạt động tiến hành trong Vùng; trong số bốn ủy viên này, ít nhất 

phải có một số quốc gia thuộc khu vực Đông Âu (xã hội chủ nghĩa); 

c) Bốn ủy viên được lựa chọn trong số tám quốc gia thành viên; những 

quốc gia này, trực tiếp hoặc qua trung gian của các công dân nước mình, đã 

thực hiện những khoản đầu tư quan trọng nhất cho việc chuẩn bị và thực 

hiện các hoạt động tiến hành trong Vùng; trong số bốn ủy viên này, ít nhất 

phải có hai quốc gia đang phát triển mà nền kinh tế bị lệ thuộc nặng nề vào 

việc xuất khẩu các khoáng sản này; 

d) Sáu  ủy viên  được lựa chọn trong số các quốc gia thành viên  đang 

phát triển và  đại diện cho những lợi ích  đặc biệt. Những lợi ích  đặc biệt 

phải được đại diện bao gồm những lợi ích của các quốc gia có dân số đông, của các quốc gia không có viển hay ở vào hoàn cảnh địa lý bất lợi, của các 

quốc gia trong số các quốc gia nhập khẩu chủ yếu các loại khoáng sản sẽ 

được khai thác trong Vùng, của các quốc gia có tiềm năng sản xuất các 

khoáng sản đó và của các quốc gia kém phát triển nhất; 

e) Mười tám ủy viên được bầu theo nguyên tắc phân bổ công bằng theo 

địa lý đối với toàn bộ số thành viên của Hội  đồng; tất nhiên là theo quy 

định này, cứ mỗi vùng địa lý có ít nhất là một quốc gia được bầu làm ủy 

viên. Các khu vực địa lý nói ở đây là Châu Phi, châu Mỹ la – tinh, châu Á, 

Đông Âu (xã hội chủ nghĩa), cũng như Tây Âu và các quốc gia khác. 

2. Khi bầu các ủy viên của Hội đồng theo đúng khoản 1, Đại hội đồng phải 

chú ý đến: 

a) Đại diện của các quốc gia không có biển và của các quốc gia có hoàn 

cảnh địa lý bất lợi tương ứng một cách hợp lý với sự đại diện của họ tại Đại 

hội đồng; 

b) Đại diện của các quốc gia ven biển, đặc biệt là các quốc gia đang 

phát triển, không có đầy đủ các điều kiện đã nêu ở khoản 1, điểm a, b, c hay 

d, tương ứng một cách hợp lý với sự đại diện của họ ở Đại hội đồng; 

c) Mỗi nhóm quốc gia thành viên được có đại diện ở Hội đồng sẽ do các 

ủy viên được nhóm đó chỉ định, tùy theo tình hình làm đại diện. 

3. Các cuộc bầu cử được tiến hành trong một khóa họp thường lệ của Đại 

hội đồng. Mỗi một  ủy viên của Hội  đồng được bầu với nhiệm kỳ là bốn 

năm. Tuy nhiên, trong cuộc bầu cử các ủy viên của Hội đồng lần đầu, một 

nữa số ủy viên đại diện cho mỗi nhóm nước nói ở khoản 1 có nhiệm kỳ là 2 

năm. 

4. Các ủy viên của Hội đồng có thể được tái cử, nhưng cần phải chú ý thích 

đang đến việc bảo đảm sự luân phiên của các ủy viên. 

5. Hội đồng thi hành chức trách của mình ở trụ sở của Cơ quan quyền lực; 

Hội  đồng nhóm họp theo yêu cầu hoạt  động của Cơ quan quyền lực và, 

trong bất kỳ trường hợp nào, cũng bảo đảm mỗi năm họp ba lần. 

6. Số đại biểu cần thiết (quorum) là đa số ủy viên của Hội đồng. 

7. Mỗi ủy viên của Hội đồng có một phiếu. 

8. a) Các quyết định về các vấn đề thủ tục được thực hiện theo đa số các ủy 

viên có mặt và bỏ phiếu. 

b) Các quyết định về những vấn đề nội dung được đề ra liên quan đến 

Điều 162, khoản 2, điểm f, g, h, I, n, p, v và Điều 191, được thông qua theo đa số hai phần ba các ủy viên có mặt và bỏ phiếu, với điều kiện là đa số này 

phải bao gồm đa số các ủy viên của Hội đồng; 

c) Các quyết định về những vấn đề nội dung được đặt ra liên quan đến 

các điều quy định liệt kê sau đây phải được đa số ba phần tư các ủy viên có 

mặt và tham gia bỏ phiếu thông qua, với điều kiện là đa số này phải bao 

gồm đa số các ủy viên của Hội đồng: Điều 162, khoản 1; Điều 162, khoản 

2, điểm a, b, c, d, e, l, q, r, s, t; Điều 162, khoản 2, điểm u, trong những 

trường hợp một người ký hợp đồng hay quốc gia bảo trợ người đó không 

thực hiện hợp  đồng; Điều 162, khoản 2,  điểm w, với  điều kiện các lệnh 

được đưa ra theo điểm này chỉ có thể là bắt buộc quá 30 ngày, nếu nó được 

một quyết định phù hợp với điểm d, xác nhận; Điều 162 khoản 2 điểm x, y, 

z; Điều 163, khoản 2; Điều 174, khoản 3; Điều 11 của phụ lục IV; 

d) Các quyết định về những vấn đề nội dung được đặt ra liên quan đến 

Điều 162, khoản 2, điểm m và o, cũng như về việc thông qua các điều sửa 

đổi đối với phần XI phải được thông qua bằng consensus (thỏa thuận). 

e) Theo điểm d, f và g, thuật ngữ “consensus” (thỏa thuận) có nghĩa là 

không có bất kỳ ý kiến phản đối chính thức nào. Trong 14 ngày tiếp sau 

một kiến nghị được trình lên Hội đồng, Chủ tịch phải xem xét xem có ý 

kiến phản đối chính thức nào không. Nếu Chủ tịch của Hội đồng nhận thấy 

rằng có một ý kiến có một ý kiến phản đối, thì trong vòng ba ngày, Chủ tịch 

lập và triệu tập một ủy ban hòa giải, gồm nhiều nhất là chín ủy viên của Hội 

đồng, dưới sự chủ tọa của bản thân Chủ tịch nhằm loại bỏ những ý kiến bất 

đồng và dự thảo một đề nghị có thể được thông qua bằng “consensus” (thỏa 

thuận). Ủy ban hòa giải nhanh chóng làm tròn nhiệm vụ của mình và báo 

cáo lên Hội đồng trong vòng 14 ngày sau khi thành lập. Nếu ủy ban không 

có khả năng đề xuất một đề nghị có thể được thông qua bằng “consensus” 

(thỏa thuận) thì phải trình bày trong báo cáo của mình những lý do của ý 

kiến đối lập với để nghị; 

f) Các quyết định về những vấn đề không được liệt kê ở trên mà Hội 

đồng có quyền hạn giải quyết theo các quy tắc, quy định và thủ tục của đó, 

nếu không thì theo quy định của khoản này, được ghi trong các quy tắc, quy 

định và thủ tục  đó, nếu không thì theo quy  định  được xác  định bởi một 

quyết định của Hội đồng được thông qua bằng consensus (thỏa thuận). 

g) Trong trường hợp còn chưa thật rõ một vấn đề có thuộc phạm vi của 

các điểm a, b, c hay d không, thì vấn đề được coi như thuộc quy định đòi 

hỏi, tùy trường hợp, theo quy định đòi hỏi, tùy từng trường hợp, theo đa số 

cao nhất hay bằng consensus (thỏa thuận). 

9. Hội  đồng  định ra một thử tục cho phép một thành viên của Cơ quan 

quyền lực không có  đại diện ở Hội đồng được tham dự vào một cuộc họp của Hội đồng khi thành viên này có yêu cầu được tham dự, hoặc khi Hội 

đồng xét một vấn đề có liên quan đặc biệt đến thành viên này. Đại diện của 

thành viên này có thể tham gia vào các cuộc tranh luận nhưng không được 

quyền bỏ phiếu. 

ĐIỀU 162. Các quyền hạn và chức năng 

1. Hội đồng là cơ quan chấp hành của Cơ quan quyền lực có quyền căn cứ 

vào Công ước và chính sách chung do Đại hội đồng xác định, định ra các 

chính sách riêng mà Cơ quan quyền lực phải theo đối với mọi vấn đề hay 

mọi việc thuộc thẩm quyền của mình. 

2. Ngoài ra, Hội đồng còn: 

a) Giám sát và tổ chức phối hợp việc áp dụng phần này đối với tất cả 

các vấn đề và các việc thuộc thẩm quyền của Cơ quyền lực và lưu ý Đại hội 

đồng về những trường hợp không tuân thủ; 

b) Đề nghị lên Đại hội đồng danh sách các ứng cử viên vào chức vụ 

Tổng thư ký; 

c) Giới thiệu lên Đại hội đồng các ứng cử viên vào các chức vụ ủy viên 

Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc xí nghiệp; 

d) Tùy theo điều kiện thích hợp, và có lưu ý đúng mức đến các đòi hỏi 

về tiết kiệm và kém hiệu quả, lập ra các cơ quan phụ trợ xét thấy cần thiết 

để thi hành các chức năng của mình theo  đúng phần này. Đối với thành 

phần của các cơ quan này, cần nhấn mạnh đến sự cần thiết là các ủy viên 

phải có trình độ và tinh thông trong những lĩnh cực kỹ thuật mà các cơ quan 

đó phụ trách, nhưng phải tính đến các nguyên tắc phân bổ công bằng theo 

địa lý và đến các lợi ích đặc biệt; 

e) Thông qua quy chế nội bộ của mình, đặc biệt là xác định cách thức 

chỉ định chủ tịch của Hội đồng; 

f) Thay mặt Cơ quan quyền lực, ký kết các hiệp định với Liên hợp quốc 

và các tổ chức quốc tế khác, trong phạm vi thẩm quyền của mình và với 

điều kiện được Đại hội đồng phê chuẩn. 

g) Xem xét các báo cáo của xí nghiệp và chuyển các báo cáo đó lên Đại 

hội đồng có kèm theo các kiến nghị của mình; 

h) Trình Đại hội đồng báo cáo hàng năm cũng như các báo cáo đặc biệt 

mà Đại hội đồng đòi hỏi; 

i) Chỉ đạo xí nghiệp theo đúng Điều 170; j) Chuẩn y các kế hoạch làm việc theo đúng Điều 6 của Phụ lục III. Hội 

đồng quyết định về từng kế hoạch làm việc trong thời hạn 60 ngày sau ngày 

kế hoạch làm việc  được Ủy ban pháp lý và kỹ thuật trình lên trong một 

phiên họp Hội đồng theo đúng các thủ tục sau đây: 

- Khi Ủy ban đề nghị chuẩn y một kế hoạch làm việc, thì kế hoạch này 

xem như  được Hội  đồng chấp nhận, nếu không có  ủy viên nào của Hội 

đồng gửi lên cho Chủ tịch, trong thời hạn 14 ngày, một kháng nghị bằng 

văn bản rõ ràng viện dẫn việc không tuân thủ các điều kiện ghi ở Điều 6 

của Phụ lục III. Nếu một kháng như vậy được đưa ra, thì thủ tục hòa giải 

được trù định ở Điều 161, khoản 8, điểm e, được áp dụng. Nếu vào lúc kết 

thúc thủ tục đó mà vẫn còn tiếp thủ tục kháng nghị, thì kế hoạch làm việc 

coi như được Hội đồng chuẩn y, trừ khi được Hội đồng bác bỏ kế hoạch 

này bằng consensus (thỏa thuận), không kể quốc gia hay các quốc gia đưa 

ra kế làm việc hay bảo trợ người đưa ra kế hoạch đó; 

- Khi Ủy ban kiến nghị bác bỏ một kế hoạch làm việc hay không đưa ra 

kiến nghị, Hội đồng có thể chuẩn y kế hoạch làm việc theo đa số ba phần tư 

số ủy viên có mặt và tham gia bỏ phiếu, với điều kiện là đa số này bao gồm 

đa số các ủy viên tham gia khóa họp; 

- Chuẩn y các kế hoạch làm việc do Xí nghiệp đưa lên theo đúng Điều 

12 Phụ lục IV, áp dụng mutatis mutandis (với những sửa đổi cần thiết về 

chi tiết) các thủ tục nói ở điểm j; 

l) Thi hành việc kiểm soát  đối với những hoạt  động tiến hành trong 

vùng theo đúng Điều 153, khoản 4 và các quy tắc, quy định và thủ tục của 

Cơ quan quyền lực; 

m) Dựa vào kiến nghị của Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế, theo đúng Điều 

150,  điểm h,  định ra các biện pháp cần thiết và thích hợp  để bảo vệ các 

quốc gia đang phát triển khỏi bị những tác động kinh tế bất lợi nói trong 

quy định đó; 

n) Dựa vào ý kiến của Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế, làm các kiến nghị 

gửi lên Đại hội đồng về việc lập chế độ bù trừ hay định ra các biện pháp 

giúp đỡ người khác nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều chỉnh kinh 

tế đã được trù định ở Điều 151, khoản 10; 

o) i. Kiến nghị lên Đại hội đồng những quy tắc, quy định và thủ tục về 

việc phân chia công bằng những mối lợi về tài chính và những mối lợi kinh 

tế khác, thu được từ các hoạt động tiến hành trong Vùng, cũng như về các 

khoản đóng góp được trù định ở Điều 82, đặc biệt lưu ý đến các lợi ích và 

nhu cầu của các quốc gia  đang phát triển và của các dân tộc chưa giành 

được độc lập hoàn toàn  hay chưa được hưởng một chế độ tự trị khác; ii. Thông qua và áp dụng tạm thời, trong khi chờ  đợi Đại hội  đồng 

chuẩn y, các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực và mọi 

điều sửa đổi đối với những văn bản này, có lưu ý đến những kiến nghị của 

Ủy ban pháp lý và kỹ thuật hoặc của mọi cơ quan cấp dưới có liên quan 

khác. Những quy tắc, quy định và thủ tục này đề cập việc thăm dò, khảo sát 

và khai thác trong Vùng, cũng như việc quản lý tài chính và hành chính nội 

bộ của quy tắc, quy định và thủ tục liên quan đến việc thăm dò và khai thác 

các khối đa kim. Các quy tắc, quy định, thủ tục thăm dò và khai thác mọi 

tài nguyên ngoài các khối đa kim được thông qua trong một thời hạn 3 năm 

kể từ ngày Cơ quan quyền lực nhận được đơn của một trong các ủy viên 

của mình về vấn đề này. Các quy tắc, quy định và thủ tục đó có hiệu lực 

tạm thời đến khi được Đại hội đồng chuẩn y hoặc đến khi được Hội đồng 

sửa đổi dưới ánh sáng các quan điểm mà Đại hội đồng phát biểu; 

p) Quan tâm  đến việc thanh toán tất cả các khoản tiền do Cơ quan 

quyền lực nợ hay phải trả cho Cơ quan quyền lực, về các hoạt động được 

thực hiện theo đúng phần này; 

q) Tiến hành lựa chọn giữa những người yêu cầu cấp giấy phép sản xuất 

theo Điều 7 của Phụ lục III, trong những trường hợp được trù định trong 

điều đó; 

r) Đệ trình dự án ngân sách hàng năm của Cơ quan quyền lực lên Đại 

hội đồng để được phê chuẩn; 

s) Gửi các kiến nghị lên Đại hội đồng về chính sách phải theo đối với 

mọi vấn đề hay mọi viện thuộc thẩm quyền của Cơ quan quyền lực; 

t) Gửi các kiến nghị lên Đại hội  đồng về việc  đình chỉ thi hành các 

quyền và đặc quyền gắn liền với tư cách ủy viên theo Điều 185; 

u) Nhân danh Cơ quan quyền lực giao cho Viện giải quyết các tranh 

chấp liên quan đến đáy biển xét xử trong những trường hợp không tuân thủ; 

v) Thông báo cho Đại hội  đồng quyết  định của Viện giải quyết các 

tranh chấp liên quan đến đáy biển đã được giao cho xét xử theo điểm u, và 

có những kiến nghị về các biện pháp mà Hội đồng thấy cần thiết phải thi 

hành; 

w) Trong trường hợp khẩn cấp thì ra lệnh và tùy theo tình hình, kể cả 

lệnh đình chỉ hay thay đổi các hoạt động, để đề phòng mọi thiệt hại nghiêm 

trọng có thể gây ra cho môi trường biển vì các hoạt động tiến hành trong 

Vùng; x) Không cho các người ký kết hợp đồng hay xí nghiệp khai thác một 

số khu vực khi có những lý do nghiêm túc để cho rằng điều đó sẽ dẫn đến 

hậu quả gây thiệt hại nghiêm trọng cho môi trường biển; 

y) Thành lập một cơ quan phụ trợ chuyên trách việc dự thảo những quy 

tắc, thủ tục và quy định tài chính có liên quan đến: 

i. Việc quản lý tài chính theo đúng các Điều 171 đến 175; và 

ii. Các thể thức tài chính  được trù  định trong Điều 134 và Điều 17, 

khoản 1, điểm c, của phụ lục III; 

z) Bố trí các bộ máy thích hợp  để  điều khiển và giám sát một  đoàn 

thanh tra làm nhiệm vụ theo dõi các hoạt động tiến hành trong Vùng để xác 

định xem phầm này, các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền 

lực và các điều kiện của các hợp đồng được ký kết với Cơ quan quyền lực 

có được tuân thủ không. 

ĐIỀU 163.  Các cơ quan của Hội đồng 

1. Các cơ quan của Hội đồng thành lập gồm có: 

a) Một Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế; 

b) Một Ủy ban pháp lý và kỹ thuật. 

2. Mỗi ủy ban gồm 15 ủy viên do Hội đồng bầu ra trong số các ứng cử viên 

do các quốc gia thành viên giới thiệu. Tuy nhiên, nếu cần thiết, Hội đồng có 

thể quyết  định mở rộng các thành phần của Ủy ban này hay  ủy ban kia, 

nhưng phải tính đến yêu cầu về tiết kiệm và về hiệu quả. 

3. Các ủy viên của mỗi ủy ban phải có trình độ chuyên môn cần thiết trong 

những lĩnh vực thuộc thẩm quyền của ủy ban. Để bảo đảm cho các ủy ban 

thực hiện chức năng có hiệu quả, các quốc gia thành viên cử các ứng cử 

viên tinh thông nghiệp vụ nhất, có trình độ chuyên môn cần thiết trong các 

lĩnh vực tương ứng. 

4. Khi lựa chọn, cần phải tính đến sự cần thiết phải phân bổ các thành viên 

công bằng theo địa lý và đại diện được cho các lợi ích đặc biệt. 

5. Không một quốc gia thành viên nào có thể giới thiệu quá một ứng cử 

viên vào cùng một ủy ban. Không ai có thể được bầu vào quá một ủy ban. 

6. Các ủy viên của ủy ban được bầu với nhiệm kỳ là 5 năm. Họ có thể được 

bầu lại một nhiệm kỳ mới. 7. Trong trường hợp một ủy viên của một ủy ban bị chết, bất lực hay từ 

chức trước khi hết nhiệm kỳ, thì Hội đồng bầu một ủy viên của cùng khu 

vực địa lý hay đại diện cho cùng loại lợi ích để tiêp tục hoàn thành nhiệm 

kỳ của ủy viên trước. 

8. Các ủy viên của các ủy ban không được có lợi ích tài chính trong bất kỳ 

hoạt động nào liên quan đến việc thăm dò và khai thác ở Vùng. Với các 

trách nhiệm của họ đối với ủy ban mà họ là ủy viên, họ không được phép 

tiết lộ một bí mật công nghiệp nào hay số liệu nào thuộc sở hữu công 

nghiệp đã được chuyển giao cho Cơ quan quyền lực theo Điều 14 của Phụ 

lục III, cũng không được tiết lộ các tin tức bí mật mà họ biết được do chức 

trách của họ ngay cả sau khi họ đã thôi việc cũng vậy. 

9. Mỗi ủy ban phải làm tròn chức năng của mình theo đúng các nguyên tắc 

và các chỉ thị do Hội đồng quyết định. 

10. Mỗi ủy ban soạn thảo và trình lên Hội đồng thông qua các quy tắc và 

quy định cần thiết để ủy ban hoạt động được tốt. 

11. Các thủ tục ra quyết định của các ủy ban do các quy tắc, quy định và 

các thủ tục của cơ quan quyền lực quy  định. Nếu có thể  được thì những 

kiến nghị gửi lên Hội đồng phải kèm theo một bản trình bày tóm tắt những 

ý kiến khác nhau trong ủy ban. 

12. Bình thường, các ủy ban làm việc ở trụ sở của Cơ quan quyền lực và 

phải nhóm họp theo sự cần thiết để hoàn thành chức năng của mình một 

cách có hiệu quả. 

13. Trong việc thi hành chức năng của mình, nếu có thể được thì mỗi ủy 

ban tham khảo ý kiến của ủy ban khác hay mọi cơ quan có thẩm quyền của 

Liên hợp quốc và của các cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc hoặc mọi 

tổ chức quốc tế có thẩm quyền trong lĩnh vực xem xét. 

ĐIỀU 164. Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế 

1. Các ủy viên của ủy ban kế hoạch hóa kinh tế cần có trình độ nghiệp vụ 

cần thiết, nhất là về mặt khai thác mỏ, quản lý các tài nguyên khoáng sản, 

thương mại quốc tế và về kinh tế quốc tế. Hội đồng cố gắng bảo đảm cho 

Ủy ban, qua thành phần của mình, có trình độ nghiệp vụ cần thiết một cách 

đồng bộ. Trong số  ủy viên của Ủy ban phải có ít nhất hai công dân của 

quốc gia đang phát triển mà nền kinh tế phụ thuộc nặng nề vào việc xuất 

khẩu các loại khoáng sản trong Vùng. 

2. Ủy ban có nhiệm vụ: a) Theo yêu cầu của Hội  đồng,  đề xuất các biện pháp thực hiện các 

quyết định được thông qua theo đúng Công ước có liên quan đến các hoạt 

động tiến hành trong Vùng; 

b) Nghiên cứu các xu hướng của cung, cầu và giá cả của các khoáng 

sản có thể lấy từ Vùng, cũng như các nhân tố có tác động đến các dữ kiện 

này, có lưu ý đến các lợi ích của các nước nhập khẩu, cũng như của các 

nước xuất khẩu, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển trong số các nước 

đó; 

c) Xem xét mọi tình huống có thể gây ra những ảnh hưởng bất lợi đã đề 

cập ở Điều 150, điểm h, do quốc gia thành viên hay các quốc gia thành viên 

hữu quan đã lưu ý Ủy ban và gửi các kiến nghị thích hợp lên Hội đồng; 

d) Đề xuất với Hội  đồng  để  đệ trình lên Đại hội  đồng, như  được trù 

định trong Điều 151, khoản 10, một chế độ bù trừ có lợi cho các nước đang 

phát triển mà các hoạt động tiến hành trong Vùng đã gây nên những ảnh 

hưởng bất lợi hoặc là các biện pháp giúp đỡ khác nhằm tạo điều kiện thuận 

lợi cho việc điều chỉnh kinh tế, và gửi lên Hội đồng những kiến nghị cần 

thiết để thực hiện, trong những trường hợp cụ thể, chế độ bù trừ hay các 

biện pháp giúp đỡ đã được Đại hội đồng chấp nhận. 

ĐIỀU 165. Ủy ban pháp lý và kỹ thuật 

1. Các ủy viên của Ủy ban pháp lý và kỹ thuật phải có trình độ nghiệp vụ 

cần thiết, nhất là về mặt thăm dò, khai thác và chế biến tài nguyên khoáng 

sản, về hải dương học và về việc bảo vệ môi trường biển hoặc về những 

vấn đề kinh tế hay pháp lý liên quan đến các hoạt động khai thác quặng ở 

biển hay trong những lĩnh vực có liên quan khác. Hội  đồng cố gắng bảo 

đảm cho Ủy ban qua thành phần của mình có trình độ nghiệp vụ cần thiết 

một cách đồng bộ. 

2. Ủy ban có nhiệm vụ: 

a) Theo yêu cầu của Hội đồng, soạn thảo các kiến nghị lên Hội đồng về 

việc thi hành các chức năng của Cơ quan quyền lực; 

b) Xem xét các kế hoạch làm việc chính thức và bằng văn bản có liên 

quan đến các hoạt động tiến hành trong Vùng theo đúng Điều 153, khoản 3 

và trình lên Hội đồng các kiến nghị thích hợp. Ủy ban chỉ dựa vào những 

quy định trong Phụ lục III, để chuẩn bị các kiến nghị và trình lên Hội đồng 

một báo cáo đầy đủ về các kiến nghị đó; 

c) Theo yêu cầu của Hội đồng, giám sát các hoạt động tiến hành trong 

Vùng, nếu có thể được, thì hỏi ý kiến và hợp tác với mọi thực thể hay cá nhân tiến hành các hoạt động này hay với quốc gia hay các quốc gia hữu 

quan, và làm báo cáo gửi lên Hội đồng; 

d) Đánh giá những tác động về sinh thái của các hoạt động đã tiến hành 

hoặc đang tiến hành trong Vùng; 

e) Làm các kiến nghị gửi lên Hội đồng về việc bảo vệ môi trường biển, 

có chú ý đến các ý kiến của các chuyên gia được thừa nhận; 

f) Soạn thảo và đệ trình lên Hội đồng các quy tắc, quy định và thủ tục 

nêu ở Điều 162, khoản 2, điểm o, có tính đến tất cả các yếu tố thích hợp, kể 

các việc đánh giá những tác động về sinh thái của các hoạt động tiến hành 

trong Vùng; 

g) Qua từng thời kỳ, xem xét lại những quy tắc, quy định và thủ tục này 

và kiến nghị lên Hội đồng những điều sửa đổi mà mình xét thấy cần thiết 

hay nên làm; 

h) Gửi các kiến nghị lên Hội đồng liên quan đến việc bố trí một chương 

trình giám sát bao gồm việc quan sát, đo đạc, đánh giá và phân tích định kỳ 

bằng những phương pháp khoa học được thừa nhận đối với những nguy cơ 

hay ảnh hưởng của các hoạt động tiến hành trong Vùng về mặt ô nhiễm môi 

trường biển, bảo đảm cho các quy định hiện có được thích hợp và được tôn 

trọng, và việc phối hợp thực hiện chương trình giám sát, một khi chương 

trình này được Hội đồng chuẩn y; 

i) Kiến nghị lên Hội đồng để Hội đồng nhân danh cơ quan quyền lực 

giao cho Viện giải quyết các tranh chấp có liên quan đến đáy biển xét xử, 

đặc biệt lưu ý  đến Điều 187, theo  đúng phần này và các phụ lục có liên 

quan đến phần này; 

j) Trình lên Hội đồng các kiến nghị về các biện pháp thi hành sau khi 

Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển được giao giải quyết 

theo điểm i đã ra quyết định; 

k) Kiến nghị lên Hội đồng để trong trường hợp khẩn cấp, Hội đồng ra 

lệnh, kể cả lệnh đình chỉ hoặc sửa đổi các hoạt động nếu cần, nhằm phòng 

ngừa bất kỳ tổn thất nghiêm trọng nào có thể gây ra cho môi trường biển do 

các hoạt  động tiến hành trong Vùng; Hội  đồng ưu tiên xem xét các kiến 

nghị này; 

l) Kiến nghị lên Hội đồng không cho những người ký kết hợp đồng hay 

Xí nghiệp khai thác một số khu vực khi có những lý do nghiêm túc để cho 

rằng  điều  đó sẽ dẫn  đến nguy cơ gây ra tổn thất nghiêm trọng cho môi 

trường biển; m) Gửi các kiến nghị đó lên Hội đồng liên quan đến việc chỉ đạo và 

giám sát một đoàn thanh tra có nhiệm vụ theo dõi các hoạt động tiến hành 

trong Vùng và có nhiệm vụ xác định xem phần này, các quy tắc, quy định 

và thủ tục của Cơ quan quyền lực và các điều khoản, điều kiện của mọi hợp 

đồng đã ký kết với Cơ quan quyền lực có được tuân thủ không; 

n) Tính toán sản lượng tối đa và thay mặt Cơ quan quyền lực cấp giấy 

phép sản xuất theo Điều 151, từ khoản 2 đến khoản 7, một khi Hội đồng đã 

tiến hành sự lựa chọn cần thiết, nếu như cần phải chọn, trong số những 

người yêu cầu cấp giấy phép sản xuất theo đúng Điều 7 của Phụ lục III. 

3. Theo yêu cầu của mọi quốc gia thành viên mọi bên hữu quan khác, 

các ủy viên của Ủy ban, khi thực hiện chức trách giám sát và thanh tra của 

mình phải cho một đại diện của quốc gia hay của bên hữu quan này tham 

dự. 

TIỂU MỤC D 

BAN THƯ KÝ 

ĐIỀU 166. Ban thư ký 

1. Ban thư ký của Cơ quan quyền lực gồm có một Tổng thư ký và số nhân 

viên theo sự cần thiết của Cơ quan quyền lực. 

2. Tổng thư ký do Đại hội đồng bầu ra trong số các ứng cử viên do Hội 

đồng đề nghị với nhiệm kỳ là 4 năm và có thể được bầu lại. 

3. Tổng thư ký là viên chức cao nhất của Cơ quan quyền lực và hoạt động 

với tư cách này trong tất cả các cuộc họp của Đại hội đồng và Hội đồng và 

của mọi cơ quan phụ trợ. Tổng thư ký thực hiện mọi chức trách hành chính 

khác mà cơ quan này giao cho. 

4. Tổng thư ký trình lên Đại hội đồng một báo cáo hàng năm về hoạt động 

của Cơ quan quyền lực. 

ĐIỀU 167. Nhân viên của Cơ quan quyền lực 

1. Nhân viên của Cơ quan quyền lực bao gồm những người có trình  độ 

nghiệp vụ trong các lĩnh vực khác mà Cơ quan quyền lực cần để thi hành 

các chức năng quản lý của mình. 2. Căn cứ cao nhất trong vấn  đề tuyển lựa và xác  định các  điều kiện sử 

dụng nhân viên là bảo  đảm cho Cơ quan quyền lực có những nhân viên 

phục vụ có năng lực làm việc cao nhất, tinh thông và liêm khiết nhất. Ngoài 

căn cứ này, phải tính đến tầm quan trọng của việc tuyển lựa trên cơ sở địa 

lý càng rộng rãi càng tốt. 

3. Nhân viên do Tổng thư ký bổ nhiệm. Các  điều kiện và thể thức bổ 

nhiệm, trả lương và thải hồi phải phù hợp với các quy tắc, quy định và thủ 

tục của Cơ quan quyền lực. 

ĐIỀU 168. Tính chất quốc tế của Ban thư ký 

1. Trong khi thực hiện chức trách của mình, Tổng thư ký và nhân viên 

không  được xin hay nhận chỉ thị của bất kỳ một chính phủ nào hay một 

nguồn nào khác ngoài Cơ quan quyền lực. Tổng thư ký và nhân viên tránh 

mọi hành vi không phù hợp với tư cách các viên chức quốc tế và họ chỉ 

chịu trách nhiệm đối với Cơ quan quyền lực. Mỗi quốc gia thành viên cam 

kết tôn trọng tính chất quốc tế thuần túy của các chức trách của Tổng thư ký 

và nhân viên của Cơ quan quyền lực và cam kết không tìm cách gây ảnh 

hưởng đến họ trong khi họ thi hành nhiệm vụ. Mọi hoạt động thiếu trách 

nhiệm của một viên chức được đưa ra trước một tòa án hành chính được chỉ 

định theo các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực. 

2. Tổng thư ký và nhân viên không được có những lợi lộc tài chính trong 

một hoạt động nào liên quan đến việc thăm dò và khai thác tiến hành trong 

Vùng. Với các trách nhiệm của họ đối với Cơ quan quyền lực, họ không 

được tiết lộ một bí mật nào, một số liệu nào thuộc sở hữu công nghiệp và đã 

được chuyển giao cho Cơ quan quyền lực theo Điều 14, Phụ lục III và một 

thông tin mật nào khác mà họ biết do các chức trách của họ ngay cả sau khi 

đã thôi việc cũng vậy. 

3. Nếu một viên chức của Cơ quan quyền lực có những thiếu sót đối với các 

nghĩa vụ nói ở khoản 2 thì, theo yêu cầu của một quốc gia thành viên bị 

thiệt hại sao thiếu sót đó, hay theo yêu cầu của một tự nhiên nhân hay pháp 

nhân do một quốc gia thành viên bảo trợ theo Điều 153, khoản 2, điểm b bị 

thiệt hại do thiếu sót này, Cơ quan quyền lực sẽ truy tố viên chức này trước 

một tòa án được chỉ định theo các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan 

quyền lực. Bên bị thiệt hại có quyền tham gia vào việc tố tụng, nếu tòa án 

kiến nghị, Tổng thư ký phải thải hồi nhân viên đó. 

4. Các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực trù định các thể 

thức áp dụng điều này. 

ĐIỀU 169. Tham khảo ý kiến và hợp tác với các tổ chức quốc tế và các 

tổ chức phi chính phủ 1. Đối với các vấn đề thuộc thẩm quyền của Cơ quan quyền lực, Tổng thư 

ký, sau khi được Hội đồng phê chuản, ký các thỏa thuận để tham khảo ý 

kiến và hợp tác với các tổ chức quốc tế và các tổ chức phi chính phủ được 

Hội đồng kinh tế và xã hội của Liên hợp quốc thừa nhận. 

2. Bất kỳ tổ chức nào mà Tổng thư ký đã ký với họ một thỏa thuận theo 

khoản 1 đều có thể chỉ định các đại diện tham dự với tư cách là quan sát 

viên vào các hội nghị của các cơ quan thuộc Cơ quan quyền lực, theo đúng 

quy chế nội bộ của các cơ quan này. Các thủ tục được định ra để cho các tổ 

chức đó trình bày quan điểm của họ trong những trường hợp thích hợp. 

3. Tổng thư ký có thể phân phát cho các quốc gia thành viên các báo cáo 

bằng văn bản của các tổ chức phi chính phủ nói ở khoản 1 về các vấn đề 

thuộc thẩm quyền riêng của họ và có liên quan đến công việc của Cơ quan 

quyền lực. 

TIỂU MỤC E 

XÍ NGHIỆP 

ĐIỀU 170. Xí nghiệp 

1. Xí nghiệp là cơ quan của Cơ quan quyền lực trực tiếp tiến hành các hoạt 

động trong Vùng theo Điều 153, khoản 2, điểm a, cũng như các hoạt động 

vận chuyển, chế biến và buôn bán các khoáng sản  được khai thác trong 

Vùng. 

2. Trong khuôn khổ của Cơ quan quyền lực là pháp nhân quốc tế, Xí nghiệp 

có tư cách pháp nhân được trù định trong Phụ lục IV. Xí nghiệp hoạt động 

theo đúng Công ước và các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền 

lực, cũng như theo đúng chính sách chung do Đại hội đồng quyết định, và 

Xí nghiệp tuân theo các chỉ thị của Hội đồng và chịu sự kiểm soát của cơ 

quan này. 

3. Xí nghiệp có cơ quan chính đóng tại trụ sở của Cơ quan quyền lực. 

4. Theo đúng Điều 173, khoản 2 và Điều 11 của Phụ lục IV, Xí nghiệp có 

những nguồn tài chính cần thiết để thực hiện các chức năng của mình, và có 

các kỹ thuật đã được chuyển giao theo Điều 144 và theo các quy định thích 

hợp khác của Công ước. 

  TIỂU MỤC F 

TỔ CHỨC TÀI CHÍNH CỦA CƠ QUAN QUYỀN LỰC 

ĐIỀU 171. Các nguồn tài chính của Cơ quan quyền lực 

Các nguồn tài chính của Cơ quan quyền lực gồm có: 

a) Các khoản đóng góp của các thành viên của Cơ quan quyền lực được 

quy định theo đúng Điều 160, khoản 2, điểm e; 

b) Những thu nhập mà Cơ quan quyền lực thu được, theo Điều 13 của 

Phụ lục III, từ các hoạt động tiến hành trong Vùng; 

c) Các khoản tiền do Xí nghiệp chuyển khoản theo Điều 10 của Phụ lục 

IV; 

d) Vốn đi vay theo Điều 174; 

e) Các khoản đóng góp tự nguyện của các quốc gia thành viên hay của 

các nguồn khác; và 

f) Các khoản nộp vào một quỹ bù trừ theo đúng Điều 151, khoản 10 mà 

Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế phải kiến nghị các nguồn. 

ĐIỀU 172. Ngân sách hàng năm của Cơ quan quyền lực 

Tổng thư ký lập dự án ngân sách hàng năm của Cơ quan quyền lực và trình 

lên Hội đồng. Hội đồng xem xét dự án đó và đệ trình lên Đại hội đồng với 

những kiến nghị của mình để Đại hội đồng phê chuẩn theo Điều 160, khoản 

2, điểm h. 

ĐIỀU 173. Chi phí của Cơ quan quyền lực 

1. Những khoản đóng góp nói ở Điều 171, điểm a được nộp vào một tài 

khoản đặc biệt và dùng để trang trải các khoản cho hành chính của Cơ quan 

quyền lực cho đến khi Cơ quan quyền lực có được các khoản thu từ các 

nguồn khác đủ để trang trải các khoản chi này. 

2. Các nguồn tài chính của Cơ quan quyền lực trước tiên dùng  để thanh 

toán những khoản chi hành chính. Ngoài những khoản đóng góp nói ở Điều 

171, điểm a, quỹ còn lại sau khi thanh toán các chi phí hành chính có thể 

dùng, đặc biệt để: 

a) Phân chia theo đúng Điều 140 và Điều 160, khoản 2, điểm g; b) Cấp cho Xí nghiệp các nguồn vốn nói ở Điều 170, khoản 4; 

c) Đền bù cho các quốc gia đang phát triển theo đúng Điều 151 khoản 

10 và với Điều 160, khoản 2, điểm l. 

ĐIỀU 174. Quyền vay vốn của Cơ quan quyền lực 

1. Cơ quan quyền lực có quyền vay vốn. 

2. Đại hội  đồng  ấn  định giới hạn của quyền này trong quy chế tài chính 

được thông qua theo Điều 160, khoản 2, điểm f. 

3. Hội đồng thực hiện quyền vay vốn này. 

4. Các quốc gia thành viên không chịu trách nhiệm về các khoản nợ của Cơ 

quan quyền lực. 

ĐIỀU 175. Kiểm tra tài chính hàng năm 

Mỗi năm các báo cáo sổ sách và tài khoản của Cơ quan quyền lực, kể cả 

các bản quyết toán tài chính hàng năm được một kiểm soát viên độc lập do 

Đại hội đồng cử ra kiểm tra. 

TIỂU MỤC G 

QUY CHẾ PHÁP LÝ, CÁC ĐẶC QUYỀN VÀ QUYỀN MIỄN 

TRỪ 

ĐIỀU 176. Quy chế pháp lý 

Cơ quan quyền lực là pháp nhân quốc tế và có quyền về pháp lý cần thiết 

để thi hành chức năng và đạt tới các mục đích của mình. 

ĐIỀU 177. Các đặc quyền và quyền miễn trừ 

Để có thể thực hiện các chức năng của mình, Cơ quan quyền lực  được 

hưởng trên lãnh thổ của mỗi quốc gia thành viên những đặc quyền và quyền 

miễn trừ  được trù  định trong tiểu mục này. Những  đặc quyền và quyền 

miễn trừ liên quan đến Xí nghiệp được trù định ở Điều 13 của Phụ lục IV. 

ĐIỀU 178. Quyền miễn trừ về mặt tài phán và tịch thu tài sản 

Cơ quan quyền lực cũng như tài sản và của cải của mình đều được hưởng 

quyền miễn trừ về mặt tài phán và tịch thu tài sản, trừ phạm vi mà Cơ quan quyền lực đã từ bỏ rõ ràng quyền miễn trừ này trong một trường hợp đặc 

biệt. 

ĐIỀU 179. Quyền miễn trừ khám xét và miễn mọi hình thức sai áp 

khác 

Những của cải và tài sản của Cơ quan quyền lực, dù chúng nằm ở đâu và 

người giữ chúng là ai, đều được miễn khám xét, trưng thu, tịch thu, tước 

đoạt và mọi hình thức sai áp khác theo một biện pháp của cơ quan hành 

pháp hay lập pháp. 

ĐIỀU 180. Quyền miễn trừ mọi sự kiểm soát, hạn chế, quy định hay 

lệnh tạm hoãn nợ 

Tài sản và của cải của Cơ quan quyền lực được miễn mọi sự kiểm soát, hạn 

chế, quy định hay lệnh tạm hoãn nợ nào. 

ĐIỀU 181. Hồ sơ và các thông tin chính thức của Cơ quan quyền lực 

1. Hồ sơ của Cơ quan quyền lực dù chúng được cất giữ ở đâu đều bất khả 

xâm phạm. 

2. Các số liệu thuộc sở hữu công nghiệp, các thông tin thuộc bí mật công 

nghiệp của Cơ quan quyền lực và các thông tin tương tự, cũng như các hồ 

sơ về nhân sự không được để trong các cơ quan lưu trữ đại chúng. 

3. Đối với các thông tin chính thức, mỗi quốc gia thành viên dành cho Cơ 

quan đối xử ít nhất cũng thuận tiện như đối với các tổ chức quốc tế khác. 

ĐIỀU 182. Các  đặc quyền và quyền miễn trừ  đối với các nhân viên 

hoạt động trong khuôn khổ của Cơ quan quyền lực 

Đại biểu các quốc gia thành viên tham dự các cuộc họp của Đại hội đồng, 

của Hội đồng hoặc của các cơ quan của Đại hội đồng hay của Hội đồng, 

cũng như Tổng thư ký và nhân viên của Cơ quan quyền lực, được hưởng 

trên lãnh thổ của mỗi quốc gia thành viên: 

a) Quyền miễn trừ về tài phán và tịch thu tài sản đối với các hành động 

của họ trong khi thi hành các chức vụ của mình, trừ phạm vi quốc gia mà 

họ đại diện hoặc Cơ quan quyền lực đã từ bỏ rõ ràng quyền miễn trừ này 

trong một trường hợp đặc biệt; 

b) Các quyền miễn trừ như các quyền đã được quốc gia mà trên lãnh 

thổ quốc gia đó họ có mặt, dành cho các đại diện, công chức và nhân cấp 

tương đương của các quốc gia thành viên khác về các điều kiện nhập cư, 

các thủ tục đăng ký người nước ngoài và các nghĩa vụ phục vụ quốc gia, cũng như các điều kiện thuận tiện như thế liên quan đến quy định về hối 

đoái và về di chuyển, trừ khi họ là công dân của quốc gia hữu quan. 

ĐIỀU 183. Miễn thuế hay lệ phí và miễn thuế quan 

1. Trong khi thi hành chức năng của mình, Cơ quan quyền lực cùng với của 

cải, tài sản và thu nhập của mình, cũng như những hoạt động và giao dịch 

được Công ước này cho phép, đều được miễn mọi thứ thuế trực thu và các 

tài sản mà Cơ quan quyền lực nhập khẩu hay xuất khẩu để sử dụng trong 

công vụ đều được miễn mọi thứ thuế quan. Cơ quan quyền lực không thể 

yêu cầu miễn bất cứ khoản tiền phải trả nào cho các dịch vụ mà họ được 

hưởng. 

2. Đối với những việc mua của cải hay trả tiền dịch vụ của Cơ quan quyền 

lực hay nhân danh Cơ quan quyền lực có một giá trị lớn, cần thiết cho việc 

thực hiện chức năng của Cơ quan quyền lực và nếu giá các loại tài sản đó 

hay giá dịch vụ đó bao gồm cả thuế, lệ phí hay thuế quan, thì các quốc gia 

thành viên sẽ cố gắng hết sức thi hành những biện pháp thích hợp để miễn 

hay hoàn lại các khoản thuế, lệ phí hay thuế quan. Các của cải nhập khẩu 

hay mua theo chế độ miễn trừ được quy định ở điều này không được bán, 

chuyển nhượng bằng cách nào khác trên lãnh thổ của quốc gia thành viên 

đã cho phép miễn thuế, trừ khi việc đó được tiến hành theo các điều kiện đã 

thỏa thuận với quốc gia thành viên này. 

3. Các quốc gia thành viên không được thu một loại thuế trực thu hay 

gián thu nào đánh vào tiền lương, tiền thù lao hay vào các khoản tiền khác 

mà Cơ quan quyền lực trả cho Tổng thư ký và cho các nhân viên của mình, 

cũng như cho các chuyên gia thực hiện những nhiệm vụ do Cơ quan quyền 

lực giao, trừ khi họ là công dân của các nước đó. 

TIỂU MỤC H 

ĐÌNH CHỈ VIỆC HƯỞNG CÁC QUYỀN VÀ ĐẶC QUYỀN CỦA 

CÁC THÀNH VIÊN 

ĐIỀU 184. Đình chỉ quyền bỏ phiếu 

Trong việc thanh toán các khoản đóng góp của mình cho Cơ quan quyền 

lực, một quốc gia thành viên nộp chậm, thì không được tham gia vào các 

cuộc bỏ phiếu, nếu tổng số tiền còn thiếu bằng hoặc cao hơn tổng số tiền 

phải đóng góp cho 2 năm tròn đã qua. Đại hội đồng có thể cho phép thành viên này tham gia bỏ phiếu, nếu Đại hội đồng xét thấy việc thiếu sót này là 

do những hoàn cảnh nằm ngoài ý muốn của họ. 

ĐIỀU 185. Đình chỉ việc hưởng các quyền và đặc quyền vốn có của các 

thành viên 

1. Một quốc gia vi phạm phần này một cách nghiêm trọng và kéo dài thì có 

thể bị Đại hội đồng, theo kiến nghị của Hội đồng đình chỉ việc hưởng các 

quyền và đặc quyền vốn có của thành viên. 

2. Không một quyết định nào có thể được thi hành theo khoản 1, chừng nào 

mà Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển không xác nhận 

rằng quốc gia thành viên hữu quan đã vi phạm phần này một cách nghiêm 

trọng và kéo dài. 

Mục 5 

GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP VÀ Ý KIẾN TƯ VẤN 

ĐIỀU 186. Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển của 

Tòa án quốc tế về luật biển 

Mục này, phần XV và Phụ lục VI điều chỉnh quy chế của Viện giải quyết 

các tranh chấp liên quan đến đáy biển và các cách thức mà Viện thi hành 

thẩm quyền của mình, 

ĐIỀU 187. Thẩm quyền của Viện giải quyết các tranh chấp liên quan 

đến đáy biển 

Theo phần này và các phụ lục có liên quan, Viện giải quyết các tranh chấp 

liên quan  đến  đáy biển có thẩm quyền xét xử những loại tranh chấp về 

những hoạt động tiến hành trong Vùng sau đây: 

a) Các vụ tranh chấp giữa các quốc gia thành viên liên quan đến việc 

giải thích hay áp dụng phần này và các phụ lục có liên quan; 

b) Các vụ tranh chấp giữa một quốc gia thành viên và Cơ quan quyền 

lực liên quan đến: 

i. Các hành  động hay thiếu sót của Cơ quan quyền lực hay của một 

quốc gia thành viên được viện dẫn là đã vi phạm các quy định của phần này hay các phụ lục có liên quan hay các quy tắc quy định hay thủ tục đã được 

Cơ quan quyền lực thông qua theo đúng các quy định này; hoặc 

ii. Các hành động của Cơ quan quyền lực được viện dẫn là đã vượt quá 

thẩm quyền của mình hay đã lạm quyền; 

c) Các vụ tranh chấp giữa các bên ký kết một hợp đồng, dù các bên này 

là các quốc gia thành viên, là Cơ quan quyền lực hay Xí nghiệp, hay các xí 

nghiệp của Nhà nước hoặc các tự nhiên nhân hay pháp nhân đã nêu ở Điều 

153, khoản 2, điểm b, liên quan đến: 

i. Việc giải thích hay thi hành một hợp  đồng hay một kế hoạch làm 

việc; hoặc  

ii. Các hành động hay thiếu sót của một bên ký kết hợp đồng liên quan 

đến các hoạt động tiến hành trong Vùng và làm ảnh hưởng đến bên khác 

hay trực tiếp gây tổn hại đến các lợi ích chính đáng của các bên khác đó; 

d) Các vụ tranh chấp giữa Cơ quan quyền lực và một người yêu cầu 

được một quốc gia bảo trợ theo  đúng Điều 153, khoản 2,  điểm b và  đã 

thoản mãn các  điều kiện  được quy  định  ở Điều 4, khoản 6 và Điều 13, 

khoản 2 của Phụ lục III, có liên quan đến việc từ chối ký kết hợp đồng hay 

đến một vấn đề pháp lý nảy sinh trong khi thương lượng về hợp đồng; 

e) Các vụ tranh chấp giữa Cơ quan quyền lực và một quốc gia thành 

viên, một xí nghiệp Nhà nước hoặc một tự nhiên nhân hay pháp nhân do 

một quốc gia thành viên bảo trợ theo đúng Điều 153, khoản 2, điểm b, khi 

thấy rằng, theo Điều 22 của Phụ lục III, việc tranh chấp này có đụng đến 

trách nhiệm của Cơ quan quyền lực; 

f) Bất kỳ tranh chấp nào khác mà Công ước đã trù định rõ ràng Viện có 

thẩm quyền giải quyết. 

ĐIỀU 188. Việc đưa những vụ tranh chấp ra trước một Viện đặc biệt 

của Tòa án quốc tế về luật biển hay ra trước một viện ad-hoc (đặc biệt) 

của Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển hay ra trước 

một trọng tài thương mại bắt buộc 

1. Các vụ tranh chấp giữa các quốc gia thành viên đề cập ở Điều 187, điểm 

a có thể được đưa ra trước: 

a) Một viện đặc biệt của Tòa án quốc tế về luật biển được lập ra theo 

đúng các Điều 15 và 17 của Phụ lục VI, theo yêu cầu của các bên tranh 

chấp; hay b) Một viện ad – hoc (đặc biệt) của Viện giải quyết các tranh chấp liên 

quan đến đáy biển được lập ra theo đúng Điều 36 của Phụ lục VI, theo yêu 

cầu của bất kỳ bên tranh chấp nào. 

2. a) Các vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng một hợp 

đồng nêu ở Điều 187, điểm c điểm nhỏ i theo yêu cầu của bất kỳ bên tranh 

chấp nào, được đưa ra trước trọng tài thương mại bắt buộc, trừ khi các bên 

tranh chấp có thỏa thuận khác, Tòa trọng tài thương mại xét xử một vụ 

tranh chấp như thế không có thẩm quyền phán xét về một điểm giải thích 

Công ước. Nếu vụ tranh chấp bao hàm một điểm giải thích Phần XI và các 

phụ lục có liên quan, về các hoạt động tiến hành trong Vùng thì điểm này 

phải được chuyển lên cho Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy 

biển quyết định. 

b) Lúc khởi tố hay trong quá trình tiến hành một thủ tục trọng tài như 

vậy, nếu như Tòa trọng tài thương mại, theo yêu cầu của một trong những 

bên tranh chấp hoặc tự ý mình, thấy rằng quyết định của mình phụ thuộc 

vào một quyết định của Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy 

biển, thì Tòa trọng tài này phải chuyển đổi quan điểm này lên cho Viện nói 

trên quyết định. Sau đó, Tòa trọng tài sẽ ra phán quyết theo đúng quyết định 

của Viện; 

c) Nếu trong hợp đồng thiếu một điều quy định về thủ tục trọng tài có 

thể áp dụng cho vụ tranh chấp, thì công việc trọng tài được thực hiện theo 

quy chế trọng tài của CNUDCI hay theo bất kỳ quy chế trngj tài nào khác 

có thể được trù định trong các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan 

quyền lực, trừ khi các bên có thỏa thuận khác. 

ĐIỀU 189. Giới hạn thẩm quyền liên quan đến các quyết định của Cơ 

quan quyền lực 

Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển không có thẩm 

quyền phán xét đối với việc Cơ quan quyền lực, theo đúng phần này, thi 

hành các quyền tùy ý quyết định của mình; trong bất kỳ trường hợp nào, 

Viện này cũng không thể thay thế cho Cơ quan quyền lực trong việc thi 

hành các quyền tùy ý quyết định nói trên. Không phương hại đến Điều 191, 

khi thi hành thẩm quyền được thừa nhận theo Điều 187, Viện giải quyết các 

tranh chấp liên quan đến đáy biển không được phán xét đối với các vấn đề 

xem một quy tắc, quy định hay một thủ tục của Cơ quan quyền lực có phù 

hợp với Công ước hay không và không thể tuyên bố quy tắc, quy định hay 

thủ tục này là vô hiệu. Thẩm quyền của Viện chỉ giới hạn trong việc xác 

định xem việc áp dụng quy tắc, quy định hay thủ tục của Cơ quan quyền 

lực trong những trường hợp riêng biệt có ngược lại với những nghĩa vụ theo 

hợp đồng của các bên tranh chấp hay với các nghĩa vụ của họ theo Công 

ước không và xét xử những trường hợp kháng cáo về việc không đủ thẩm quyền hay lạm quyền, cũng như những yêu cầu bồi thường thiệt hại và 

những yêu cầu đền bù khác do một trong các bên kiện bên kia vì thiếu sót 

trong việc thi hành nghĩa vụ theo hợp đồng hay nghĩa vụ của họ theo Công 

ước. 

ĐIỀU 190. Sự tham gia tố tụng và ra trước tòa của các quốc gia thành 

viên đã nhận bảo trợ 

1. Quốc gia thành viên bảo trợ cho một tự nhiên nhân hay pháp nhân tham 

gia vào một vụ tranh chấp đã nêu ở Điều 187 được nhận thông báo về vụ 

tranh chấp và có quyền tham gia vào trình tự tố tụng bằng cách trình bày 

những nhận xét bằng văn bản hay bằng lời. 

2. Khi một vụ kiện do một tự nhiên nhân hay pháp nhân được một quốc gia 

thành viên khác bảo trợ, đệ đơn kiện một quốc gia thành viên về một vụ 

tranh chấp đã nêu ở Điều 187, điểm c, thì quốc gia bị đơn có thể yêu cầu 

quốc gia bảo trợ ra trước tòa nhân danh bên nguyên. Nếu không ra trước tòa 

được, thì quốc gia bị đơn có thể ủy quyền cho một pháp nhân mang quốc 

tịch của mình thay mặt. 

ĐIỀU 191. Ý kiến tư vấn 

Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển đưa ra các ý kiến tư 

vấn theo yêu cầu của Đại hội đồng, hay Hội đồng về những vấn đề pháp lý 

được đặt ra trong những thời hạn ngắn nhất. 

PHẦN XII 

BẢO VỆ VÀ GÌN GIỮ 

MÔI TRƯỜNG BIỂN 

Mục 1 

CÁC QUY ĐỊNH CHUNG 

ĐIỀU 192. Nghĩa vụ chung 

Các quốc gia có nghĩa vụ bảo vệ và gìn giữ môi trường biển. 

ĐIỀU 193. Quyền thuộc chủ quyền của các quốc gia khai thác các tài 

nguyên thiên nhiên của mình 

 Các quốc gia có quyền thuộc chủ quyền khai thác các  tài nguyên thiên 

nhiên của mình theo chính sách về môi trường của mình và theo đúng nghĩa 

vụ bảo vệ và gìn giữ môi trường biển của mình. 

ĐIỀU 194. Các biện pháp nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô 

nhiễm môi trường biển 

1. Các quốc gia, tùy theo tình hình, thi hành riêng rẽ hay phối hợp với 

nhau, tất cả các biện pháp phù hợp với Công ước, cần thiết để ngăn ngừa, 

hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển, sử dụng các phương tiện 

thích hợp nhất mà mình có, và cố gắng điều hòa các chính sách của mình 

về mặt này. 

2. Các quốc gia thi thành mọi biện pháp cần thiết để cho các hoạt động 

thuộc quyền tài phán hay quyền kiểm soát của mình không gây tác hại do 

ô nhiễm cho các quốc gia khác và cho môi trường của họ và để cho nạn ô 

nhiễm nảy sinh từ những tai nạn hay từ các hoạt  động thuộc quyền tài 

phán hay quyền kiểm soát của mình không lan ra ngoài các khu vực mà 

mình thi hành các quyền thuộc chủ quyền theo đúng Công ước. 

3. Các biện pháp được sử dụng để thi hành phần này cần phải nhằm vào 

tất cả các nguồn gây ra ô nhiễm môi trường biển. Nhất là, chúng bao gồm 

những biện pháp nhằm hạn chế đến mức cao nhất: 

a.  Việc thải bỏ từ khí quyển xuống hay  đi qua khí quyển do nhận 

chìm các chất độc có hại và độc hại, đặc biệt là các chất không bị 

phân hủy từ các nguồn ở đất liền; 

b.  Ô nhiễm do các tàu thuyền gây ra,  đặc biệt là những biện pháp 

nhằm đề phòng các sự cố và đối phó với các trường hợp khẩn cấp, 

nhằm  đảm bảo an toàn cho các hoạt  động trên biển, ngăn ngừa 

những hành động thải bỏ, dù cố ý hay không, và quy định về cách 

thiết kế, cấu trúc, trang bị và việc khai thác các tàu thuyền; 

c.  Ô nhiễm bắt nguồn từ các thiết bị hay phương tiện được sử dụng để 

thăm dò hay khai thác các tài nguyên thiên nhiên của đáy biển và 

lòng đất dưới đáy biển này, đặc biệt là các biện pháp nhằm phòng 

ngừa các sự cố và đối phó với các trường hợp khẩn cấp, đảm bảo an 

toàn cho các hoạt động trên biển, và quy định về cách thiết kế, cấu 

trúc, trang bị và việc khai thác các thiết bị hay phương tiện này,và 

thành phần nhân viên được sử dụng ở đó; 

d.  Ô nhiễm xuất phát từ các thiết bị hay phương tiện khác hoạt động 

trong môi trường biển,  đặt biệt là những biện pháp nhằm phòng ngừa những sự cố và đối phó với các trường hợp khẩn cấp, bảo đảm 

an toàn cho các hoạt động trên biển, và quy định về cách thiết kế, 

cấu trúc, trang bị và  khai thác các thiết bị hay phương tiện này,và 

thành phần nhân viên được sử dụng ở đó. 

4. Khi thi hành các biện pháp phòng ngừa, hạn chế , hay chế ngự ô nhiễm 

môi trường biển, các quốc gia tránh chấp cứ sự can thiệp vô lý nào vào 

các hoạt động của các quốc gia khác đang thi hành các quyền hay đang 

thực hiện nghĩa vụ của họ theo đúng Công ước. 

5. Các biện pháp  được thi hành theo  đúng phần này bao gồm các biện 

pháp cần thiết để bảo vệ và gìn giữ các hệ thống sinh thái hiếm hoi hay 

mỏng manh cũng như điều kiện cư trú của các loài và các sinh vật biển 

khác đang thoái hóa, có nguy cơ hay đang bị hủy diệt. 

ĐIỀU 195. Nghĩa vụ không được đùn đẩy thiệt hại hay các nguy cơ và 

không  được thay thế một kiểu ô nhiễm này bằng một kiểu ô nhiễm 

khác 

Khi thi hành các biện pháp để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi 

trường biển, các quốc gia phải làm sao để không đùn đẩy, trực tiếp hay gián 

tiếp, thiệt hại hay các nguy cơ từ vùng này sang vùng khác và không được 

thay thế một kiểu ô nhiễm này bằng một kiểu ô nhiễm khác. 

ĐIỀU 196. Sử dụng các kỹ thuật hay du nhập các loài ngoại lai hoặc 

mới 

1. Các quốc gia thi hành mọi biện pháp cần thiết để ngăn ngừa, hạn chế và 

chế ngự ô nhiễm môi trường biển từ việc sử dụng các kỹ thuật trong khuôn 

khổ quyền tài phán hay dưới sự kiểm soát của mình, hoặc do du nhập cố ý 

hay vô tình vào một bộ phận môi trường biển các ngoại lai hoặc mới có thể 

gây ra ở đó các thay đổi đáng kể và có hại. 

2. Điều này không ảnh hưởng đến việc áp dụng các quy định của Công ước 

có liên quan  đến các biện pháp nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô 

nhiễm môi trường biển. 

Mục 2 

HỢP TÁC TRÊN PHẠM VI THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC 

ĐIỀU 197. Hợp tác trên phạm vi thế giới hoặc khu vực  

Các quốc gia hợp tác trên phạm vi thế giới và nếu có thể thì trên phạm vi 

khu vực, trực tiếp hay qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm 

quyền, trong việc hình thành và soạn thảo các quy tắc và các quy phạm, 

cũng như các tập quán và thủ tục được kiến nghị mang tính chất quốc tế 

phù hợp với Công ước, để bảo vệ và gìn giữ môi trường biển, có tính đến 

các đặc điểm có tính chất khu vực. 

ĐIỀU 198. Thông báo về một nguy cơ gây thiệt hại sắp xảy ra hay 

thông báo về một thiệt hại thực sự 

Quốc gia nào biết được trường biệt môi trường biển đang có nguy cơ sắp 

phải chịu những thiệt hại hay đã chịu những thiệt hại do ô nhiễm thì phải 

lập tức thông báo cho các quốc gia khác mà mình xét thấy có nguy cơ phải 

chịu những tổn thất này cũng như cho các tổ chức quốc tế có thẩm quyền. 

ĐIỀU 199. Kế hoạch khẩn cấp chống ô nhiễm 

Trong các trường hợp đã nêu ở Điều 198, các quốc gia ở trong khu vực bị 

ảnh hưởng, theo khả năng của mình, và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền 

hợp tác với nhau đến mức cao nhất nhằm loại trừ ảnh hưởng của ô nhiễm 

và nhằm ngăn ngừa và giảm đến mức tối thiểu những thiệt hại. Nhằm mục 

đích này, các quốc gia cần cùng nhau soạn thảo và xúc tiến các kế  hoạch 

khẩn cấp để đối phó với những tai nạn gây ra ô nhiễm môi trường biển. 

ĐIỀU 200. Công tác nghiên cứu, các chương trình nghiên cứu và trao 

đổi thông tin và các dữ kiện 

Trực tiếp hoặc qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, các 

quốc gia hợp tác với nhau nhằm đẩy mạnh công tác nghiên cứu, thực hiện 

các chương trình nghiên cứu khoa học và khuyến khích việc trao đổi các 

thông tin và các dữ kiện về ô nhiễm môi trường biển. Các quốc gia cố gắng 

tham gia tích cực vào các chương trình khu vực và thế giới nhằm thu được 

những kiến thức cần thiết để xác định tính chất và phạm vi ô nhiễm, đối 

tượng có nguy cơ bị ô nhiễm, những con đường mà nạn ô nhiễm đi qua, 

những nguy hiểm mà nạn ô nhiễm chứa đựng và những phương thức khắc 

phục có thể có. 

ĐIỀU 201. Tiêu chuẩn khoa học để soạn thảo các quy định 

Lưu ý đến các thông tin và các dữ kiện thu được trong khi áp dụng Điều 

200, trực tiếp hoặc qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, 

các quốc gia hợp tác với nhau nhằm lập ra các tiêu chuẩn khoa học thích 

hợp để xây dựng và soạn thảo các quy tắc và quy phạm, cũng như các tập quán và thủ tục  được kiến nghị nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô 

nhiễm môi trường biển.  

Mục 3 

GIÚP ĐỠ KỸ THUẬT 

ĐIỀU 202. Giúp đỡ cho các quốc gia đang phát triển trong các lĩnh vực 

khoa học và kỹ thuật 

Trực tiếp hoặc qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, các 

quốc gia cần: 

a. Đẩy mạnh các chương trình giúp đỡ cho các quốc gia đang phát triển 

trong các lĩnh vực khoa học, giáo dục, kỹ thuật và trong các lĩnh vực 

khác nhằm bảo vệ và gìn giữ môi trường biển và nhằm ngăn ngừa, hạn 

chế và chế ngự ô nhiễm biển. Sự giúp đỡ này đặc biệt gồm có: 

i.  Đạo tạo nhân viên khoa học và kỹ thuật của các quốc gia này; 

ii.  Tạo điều kiện dễ dàng cho việc tham gia của các quốc gia này 

vào các chương trình quốc tế thích hợp; 

iii.  Cung cấp cho các quốc gia này cơ sở vật chất và những  điều 

kiện thuận lợi cần thiết; 

iv.  Tăng cường khả năng tự sản xuất cơ sở vật chất nói trên cho các 

quốc gia đó; 

v.  Giúp đỡ các ý kiến tư vấn và phát triển các phương tiện vật chất 

liên quan  đến các chương trình nghiên cứu, các chương trình 

giám sát liên tục, chương trình giáo dục và các chương trình 

khác; 

b. Thực hiện sự giúp đỡ thích hợp, đặc biệt là cho các quốc gia  đang 

phát triển, để giúp các quốc gia này giảm bớt đến mức tối thiểu những 

ảnh hưởng của các tai biến lớn có nguy cơ gây ra một nạn ô nhiễm 

nghiêm trọng cho môi trường biển; 

c. Thực hiện sự giúp  đỡ thích hợp,  đặc biệt là cho các quốc gia  đang 

phát triển, để xây dựng các đánh giá về sinh thái học. 

ĐIỀU 203. Việc đối xử ưu tiên cho các quốc gia đang phát triển  

Để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển hoặc để hạn 

chế đến mức tối thiểu các ảnh hưởng của nó, các tổ chức quốc tế dành sự 

đối xử ưu tiên cho các quốc gia đang phát triển về: a.  Việc trợ cấp vốn và các phương tiện giúp đỡ kỹ thuật thích hợp; và 

b.  Việc sử dụng các cơ sở chuyên môn của mình. 

Mục 4 

GIÁM SÁT LIÊN TỤC VÀ ĐÁNH GIÁ VỀ SINH THÁI 

ĐIỀU 204. Giám sát liên tục các nguy cơ ô nhiễm và ảnh hưởng của ô 

nhiễm 

1. Các quốc gia cần cố gắng hết sức mình và phù hợp với các quyền của 

các quốc gia khác, trực tiếp hoặc qua trung gian của các tổ chức quốc tế 

có thẩm quyền,  để quan sát,  đo  đạc,  đánh giá và phân tích, bằng các 

phương pháp khoa học được thừa nhận, các nguy cơ ô nhiễm môi trường 

biển hay những ảnh hưởng của vụ ô nhiễm này. 

2. Đặc biệt, các quốc gia phải thường xuyên giám sát những tác động của 

mọi hoạt động mà họ cho phép hay họ tiến hành để xác định xem các hoạt 

động này có nguy cơ gây ra ô nhiễm môi trường biển hay không. 

ĐIỀU 205. Việc công bố các báo cáo 

Các quốc gia công bố các báo cáo về kết quả thu được trong khi áp dụng 

Điều 204 hay, theo khoảng thời gian thích hợp, cung cấp các báo cáo như 

vậy cho các tổ chức quốc tế có thẩm quyền và các tổ chức quốc tế này cần 

phải để cho mọi quốc gia khác sử dụng các báo cáo này. 

ĐIỀU 206. Đánh giá những tác dụng tiềm tàng của các hoạt động 

Khi các quốc gia có những lý do xác đáng để cho rằng các hoạt động đã dự 

tính thuộc quyền tài phán hay quyền kiểm soát của mình có quy cơ gây ra 

một vụ ô nhiễm nghiêm trong hay làm thay đổi đáng kể và có hại đối với 

môi trường biển, thì trong chừng mực có thể, các quốc gia này cần đánh giá 

các tác động tiềm tàng cùa các hoạt động này đối với môi trường đó và cần 

báo cáo lại những kết quả của những đánh giá này theo cách đã được quy 

định ở Điều 205. 

Mục 5 

QUY ĐỊNH QUỐC TẾ VÀ LUẬT TRONG NƯỚC NHẰM NGĂN 

NGỪA, HẠN CHẾ VÀ CHẾ NGỰ Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG BIỂN 

 ĐIỀU 207. Ô nhiễm bắt nguồn từ đất 

1.  Các quốc gia thông qua các luật và quy định để ngăn ngừa, hạn chế và chế 

ngự ô nhiễm môi trường có nguồn gốc từ đất, kể cà các ô nhiễm xuất phát 

từ các dòng sông, ngòi, cửa sông, ống dẫn và các thiết bị thải đổ, có lưu ý 

đến các quy tắc và quy phạm cũng như các tập quán và thủ tục được kiến 

nghị và chấp nhận trên phạm vi quốc tế. 

2.  Các quốc gia thi hành mọi biện pháp có thể cần thiết để ngăn ngừa, hạn 

chế và chế ngự nạn ô nhiễm này. 

3.  Các quốc gia có cố gắng điều hòa các chính sách của mình về mặt này ở 

mức độ khu vực thích hợp. 

4.  Đặc biệt khi hành động qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm 

quyền hay qua một hội nghị ngoại giao, các quốc gia cố gắng thông qua 

các quy tắc và quy phạm, cũng như các tập quán và thủ tục  được kiến 

nghị trên phạm vi thế giới và khu vực để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự 

nạn ô nhiễm bắt nguồn từ đất đối với môi trường biển, có tính đến các đặc 

điểm khu vực, đến khả năng kinh tế của các quốc gia đang phát triển và 

các đòi hỏi về phát triển kinh tế của các quốc gia này. Các quy tắc và quy 

phạm cũng như các những tập quán và thủ tục  được kiến nghị này tùy 

theo sự cần thiết mà qua từng thời kỳ, được xem xét lại. 

5.  Các luật, quy chế và các biện pháp cũng như các quy tắc, quy phạm và các 

tập quán, thủ tục được kiến nghị đã nêu ở khoản 1, 2 và 4, bao gồm những 

biện pháp nhằm hạn chế đến hết mức việc trút vào môi trường biển các 

chất độc, có hại và độc hại, đặc biệt là các chất không thể phân hủy được. 

ĐIỀU 208. Ô nhiễm do các hoạt  động liên quan  đến  đáy biển thuộc 

quyền tài phán quốc gia gây ra 

Các quốc gia ven biển thông qua các luật và quy định để ngăn ngừa, hạn chế 

và chế ngự ô nhiễm đối với môi trường biển trực tiếp hay gián tiếp do các 

hoạt động liên quan đến đáy biển thuộc quyền tài phán quốc gia gây ra, 

hay xuất phát từ các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình thuộc quyền tài 

phán của mình theo các Điều 60 và 80. 

Các quốc gia thi hành mọi biện pháp khác có thể cần thiết để ngăn ngừa, hạn 

chế và chế ngự sự ô nhiễm này. 

Các luật, quy định và biện pháp này không được kém hiệu quả hơn các quy 

tắc và quy phạm quốc tế hay các tập quán và thủ tục đã được kiến nghị có 

tính chất quốc tế.  

Các quốc gia cố gắng điều hòa các chính sách của mình về mặt này ở mức độ 

khu vực thích hợp. 

Đặc biệt khi hành động qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền 

hay qua một hội nghị ngoại giao, các quốc gia thông qua các quy tắc và 

quy phạm cũng như tập quán và thủ tục được kiến nghị, trên phạm vi thế 

giới và khu vực,  để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự nạn ô nhiễm môi 

trường biển nói ở khoản 1. Các quy tắc và quy phạm cũng như tập quán 

và thủ tục được kiến nghị này, tùy theo sự cần thiết mà qua từng thời kỳ 

được xem xét lại. 

ĐIỀU 209. Ô nhiễm do các hoạt động tiến hành trong Vùng gây ra 

1.  Các quy tắc, quy định và thủ tục quốc tế được thông qua theo đính Phần 

XI  để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển do các 

hoạt động tiến hành trong Vùng gây ra. Các quy tắc, quy định và thủ tục 

này, tùy theo sự cần thiết mà qua từng thời kỳ được xem xét lại. 

2.  Trong điều kiện tuân theo các quy định thích hợp của mục này, các quốc 

gia thông qua các luật và quy định để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô 

nhiễm môi trường biển này sinh từ các hoạt động tiến hành trong Vùng 

của các tàu thuyền hay xuất phát từ các thiết bị, công trình hay các 

phương tiện khác, tùy theo trường hợp, treo cờ của các quốc gia đó, đăng 

ký  ở trên lãnh thổ hay thuộc quyền của họ. Các luật và quy  định này 

không được kém hiệu lực hơn các quy tắc,quy định và thủ tục quốc tế nói 

ở khoản 1. 

ĐIỀU 210. Ô nhiễm do sự nhận chìm 

Các quốc gia thông qua các luật và quy định để phòng ngừa, hạn chế và chế 

ngự ô nhiễm môi trường biển do sự nhận chìm. 

Các quốc gia thi hành tất cả các biện pháp khác có thể cần thiết để ngăn 

ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm này. 

Các luật, quy  định và biện pháp phải bảo  đảm rằng không một sự nhận 

chìm nào có thể được tiến hành mà không được phép của các nhà đương 

cục có thẩm quyền của các quốc gia. 

Đặc biệt khi hành  động qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm 

quyền hay qua một hội nghị ngoại giao; các quốc gia cố gắng thông qua 

trên phạm vi thế giới và khu vực các quy tắc và quy phạm cũng như tập 

quán và thủ tục  được kiến nghị  để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm này. Các quy tắc và quy phạm cũng như tập quán và thủ tục được 

kiến nghị này, tùy theo sự cần thiết mà qua từng thời kỳ được xem xét 

lại. 

Việc nhận chìm ở trong lãnh hải và trong vùng đặc quyền về kinh tế hay 

trên thềm lục địa không thể được tiến hành nếu không được sự đồng ý rõ 

ràng trước quốc gia ven biển; quốc gia ven biển có quyền cho phép, quy 

định và kiểm soát sự nhận chìm này, sau khi đã xem xét đúng mức vấn 

đề với các quốc gia khác mà do những hoàn cảnh địa lý nên việc nhận 

chìm này có thể có những tác hại đối với họ. 

Các luật và quy  định cũng như các biện pháp quốc gia không  được kém 

hiệu lực hơn các quy tắc và quy phạm có tính chất thế giới  để ngăn 

ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm này. 

ĐIỀU 211. Ô nhiễm do tàu thuyền gây ra 

Hành động qua trung gian của tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một 

hội nghị ngoại giao chung, các quốc gia thông qua các quy tắc và quy 

phạm quốc tế nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường 

biển do các tàu thuyền gây ra và quan tâm tạo điều kiện dễ dàng cho 

việc  định ra, cũng theo cách nói trên, nếu cần, các cách bố trí  đường 

giao thông cho tàu thuyền nhằm hạn chế đến mức tối thiểu nguy cơ xảy 

ra tai nạn có thể làm cho môi trường biển kể cả vùng duyên hải bị ô 

nhiễm, và do đó mà đụng chạm đến những lợi ích có liên quan của các 

quốc gia ven biển. Các quy tắc và quy phạm này, cũng theo cách như 

thế, tùy theo sự cần thiết mà qua từng thời kỳ được xem xét lại. 

Các quốc gia thông qua các luật và quy định để ngăn ngừa, hạn chế và chế 

ngự ô nhiễm môi trường biển do tàu thuyền mà mình cho mang cờ hay 

cho đăng ký gây ra. Các luật và quy định này không được kém hiệu quả 

hơn các quy tắc và quy phạm quốc tế được chấp nhận chung và được 

xây dựng qua trung gian của tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một 

hội nghị ngoại giao chung. 

Nhằm mục đích ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển, 

các quốc gia khi đặt ra các điều kiện đặt biệt cho các tàu thuyền nước 

ngoài đi vào các cảng hay nội thủy của mình hoặc công trình cảng cuối 

cùng ở ngoài khơi, cần phải công bố đúng thủ tục về các điều kiện này 

và phải thông báo cho các tổ chức quốc tế có thẩm quyền. Để điều hòa 

chính sách về mặt này, khi hai hay nhiều quốc gia ven biển đặt ra các 

điều kiện như vậy dưới một hình thức giống nhau, cần ghi rõ trong 

thông báo các quốc gia nào tham gia vào các thỏa thuận như vậy. Mọi 

quốc gia đòi hỏi thuyền trưởng của một chiếc tàu mà mình cho mang cờ hay đăng ký, khi tàu có mặt ở trong lãnh hải của một quốc gia tham gia 

vào những thỏa thuận chung này, phải cung cấp, theo yêu cầu của quốc 

gia này, những thông tin chỉ rõ liệu chiếc tàu này có hướng về một quốc 

gia thuộc cùng khu vực tham gia vào các thỏa thuận này không và, nếu 

đúng, cần xác định xem chiếc tàu này có đáp ứng đầy đủ các điều kiện 

do quốc gia này đặt ra liên quan đến việc đi vào trong các cảng của mình 

không. Điều này được áp dụng không phương hại đến việc tiếp tục thực 

hiện quyền đi qua không gây hại của một chiếc tàu hay đến việc áp dụng 

Điều 25, khoản 2. 

Trong việc thi hành chủ quyền đối với lãnh hải của mình, các quốc gia ven 

biển có thể thông qua các luật và quy định để ngăn ngừa, hạn chế và chế 

ngự ô nhiễm môi trường biển do tàu thuyền nước ngoài gây ra, kể cả các 

tàu thuyền đang thực hiện quyền đi qua không gây hại. Các luật và quy 

định này, theo đúng với Mục 3 của phần II, không được cản trở việc đi 

qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài. 

Nhằm thực hiện việc áp dụng đã nói ở mục 6, các quốc gia ven biển có thể 

thông qua các luật và quy định nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô 

nhiễm do tàu thuyền gây ra trong vùng đặc quyền về kinh tế của mình; 

các luật và quy định đó phải phù hợp và đem lại hiệu lực cho các quy tắc 

và quy định quốc tế được chấp nhận chung và được xây dụng qua trung 

gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại 

giao chung. 

a. Khi các quy tắc và quy phạm quốc tế nói ở khoản 1 không cho phép đáp 

ứng một cách thích đáng với những tình huống đặc biệt và nếu một quốc 

gia ven biển có lý do chính đáng để cho rằng một khu vực đặc biệt và 

được xác định rõ ràng trong vùng đặc quyền về kinh tế của mình, đòi hỏi 

phải thông qua các biện pháp bắt buộc đặc biệt để ngăn ngừa ô nhiễm do 

tàu thuyền gây ra, vì những lý do kỹ thuật được thừa nhận do những đặc 

điểm hải dương học và sinh thái học của khu vực đó cũng như do việc 

sử dụng hay việc bảo vệ các tài nguyên của khu vực đó và do đặc điểm 

riêng của luồng giao thông, thì quốc gia này, sau khi thông qua trung 

gian của tổ chức quốc tế có thẩm quyền, đã tham khảo ý kiến thích đáng 

với mọi quốc gia hữu quan, có thể gửi lên tổ chức này một thông báo 

liên quan  đến khu vực xem xét bằng cách  đưa ra những chứng minh 

khoa học và kỹ thuật, cũng như những chỉ dẫn về cá thiết bị thu nhận 

cần thiết  để chứng minh. Trong thời hạn 12 tháng sau khi nhận  được 

thông báo, tổ chức quyết định xem tình hình trong khu nvực được xem 

xét có  đáp  ứng các  điều kiện kể trên không. Nếu tổ chức quyết  định 

đúng là như vậy, thì quốc gia ven biển có thể thông qua cho khu vực này 

các luật và quy định nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do 

các tàu thuyền gây ra đem lại hiệu lực cho các quy tắc và quy phạm hay tập quán về hàng hải quốc tế mà tổ chức đã đưa ra áp dụng cho những 

khu vực đặc biệt.Các luật và quy định này chỉ được áp dụng đối với các 

tàu thuyền nước ngoài sau một thời hạn là 15 tháng kể từ ngày thông 

báo cho tổ chức; 

Quốc gia ven biển công bố các giới hạn của các khu vực đặc biệt và được 

xác định rõ ràng này; 

Khi làm thông báo kể trên, quốc gia ven biển cần đồng thời nói rõ cho tổ 

chức rằng họ có ý định thông qua, cho khu vực mà họ đề cập, những luật 

và quy định bổ sung nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi 

trường do tàu thuyền gây ra hay không. Các luật và quy dịnh bổ sung 

này có thể  đề cập việc thải bỏ hay những tập quán hàng hải, nhưng 

không bắt buộc các tàu thuyền nước ngoài phải tôn trọng các tiêu chuẩn 

khác về mặt thiết kế, cấu trúc và trang bị, ngoài các quy tắc và quy phạm 

quốc tế đẵ được chấp nhận chung; các luật và quy định bổ sung này có 

thế áp dụng cho tàu thuyền nước ngoài, sau 15 tháng kể từ ngày thông 

báo cho tổ chức này, với điều kiện là tổ chức này, trong một thời hạn là 

12 tháng, kể từ ngày được thông báo, đã chuẩn y các luật và quy định bổ 

sung nói trên. 

Các quy tắc và quy phạm quốc tế nêu ở điều này còn cần trù định nghĩa vụ 

phải thông báo ngay lập tức cho các quốc gia ven biển mà vùng duyên 

hải hay các lợi ích liên quan của họ có nguy cơ bị những tai nạn trên 

biển tác động đến, nhất là những tai nạn dẫn đến hay có nguy cơ dẫn đến 

những việc thải bỏ. 

ĐIỀU 212. Ô nhiễm có nguồn gốc từ bầu khí quyển hay qua bầu khí 

quyển 

Để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển có nguồn gốc 

từ bầu khí quyển hay qua bầu khí quyển, các quốc gia thông qua các luật 

và quy định áp dụng ở vùng trời thuộc chủ quyền của mình và áp dụng 

cho các tàu thuyền mang cờ của mình hay cho các tàu thuyền hoặc các 

phương tiện bay mà mình cho  đăng ký, có tính  đến các quy tắc quy 

phạm, cũng như những tập quán và thủ tục được kiến nghị, và đã được 

chấp nhận trên phạm vi quốc tế vá có tính đến an toàn hàng không.  

Các quốc gia thi hành các biện pháp khác có thể cấn thiết để ngăn giữ, hạn 

chế và chế ngự ô nhiễm này. 

 Đặc biệt khi hành động qua trung gian cảu các tổ chức quốc tế có thẩm 

quyền hay qua một hội nghị ngoại giao, các quốc gia cố gắng thông qua 

các quy tắc và quy phạm, cũng như các tập quán và thủ tục được kiến 

nghị trên phạm vi thế giới và khu vực để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự 

nạn ô nhiễm này.  

Mục 6 

VIỆC ÁP DỤNG 

ĐIỀU 213. Việc áp dụng quy định liên quan đến ô nhiễm xuất phát từ 

đất 

Các quốc gia đảm bảo việc áp dụng các luật và quy định và thi hành theo 

đúng Điều 207; Các quốc gia thông qua luật và quy định và thi hành các 

biện pháp cần thiết khác để đem lại hiệu lực cho các quy tắc và quy phạm 

quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao nhằm ngăn ngừa, 

hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển bắt nguồn từ đất. 

ĐIỀU 214. Việc áp dụng các quy định liên quan đến ô nhiễm do các 

hoạt động liên quan đến đáy biển gây ra 

Các quốc gia bảo đảm việc áp dụng các luật và quy định đã được thông qua 

theo đúng Điều 208; họ thông qua các luật và các quy định và thi hành các 

biện pháp cấn thiết khác để đem lại hiệu lực cho các quy tắc và quy phạm 

quốc tế có thể áp dụng, được xây dựng qua trung gian của các tổ chức quốc 

tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao, để ngăn ngừa, hạn chế 

và chế ngự ô nhiễm môi trường do các hoạt động liên quan đến đáy biển và 

thuộc quyền tài phán của mình, trực tiếp hay gián tiếp gây ra, hay xuất phát 

từ các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình được đặt dưới quyền tài phán 

của mình theo các Điều 60 và 80. 

ĐIỀU 215. Việc áp dụng quy định quốc tế liên quan đến ô nhiễm do các 

hoạt động tiến hành trong Vùng gây ra 

Việc áp dụng quy tắc, quy định và thủ tục quốc tế được xây dựng theo đúng 

Phần XI để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển gây ra 

bởi các hoạt động tiến hành trong Vùng do phần này điều chỉnh. 

ĐIỀU 216. Việc áp dụng quy định liên quan đến ô nhiễm do việc nhận 

chìm 

Các luật và quy định được thông qua theo đúng Công ước và các quy tắc và 

quy phạm quốc tế có thể áp dụng, được xây dựng qua trung gian của các 

tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao nhằm 

ngăn ngừa,hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển bởi việc nhận 

chìm do các đối tượng sau đây thi hành: Quốc gia ven biển, đối với việc nhận chìm nằm trong giới hạn của 

lãnh hải hay vùng đặc quyền về kinh tế hay trên thềm lục địa của 

mình; 

Quốc gia mà tàu mang cờ, đối với các tàu thuyền mang cờ của mình 

hay các tàu hay phương tiện bay mà mình cho đăng ký; 

Bất kỳ quốc gia nào,  đối với việc  đưa ra chất cặn bã hay các chất 

khác lên lãnh thổ của mình hay lên các công trình cảng cuối cùng 

ra khơi. 

Theo điều này, không quốc gia nào được khởi tố, khi vụ kiện đã được một 

quốc gia khác khởi tố cũng theo đúng điều này. 

ĐIỀU 217. Các quyền hạn của các quốc gia mà tàu mang cờ 

Các quốc gia quan tâm đến việc tàu thuyền mang cờ của mình hay được 

mình cho đăng ký tôn trọng các quy tắc và quay phạm quốc tế có thể áp 

dụng, được xây dựng qua trung gian của tổ chức quốc tế có thẩm quyền 

hay qua một hội nghị ngoại giao chung, cũng như các luật và quy định 

mà các quốc gia này đã thông qua theo đúng Công ước để ngăn ngừa 

hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển do tàu thuyền gây ra và họ 

thông qua các quy luật và quy định, và thi hành các biện pháp cần thiết 

để đem lại hiệu lực cho các quy luật và quy định đó. Quốc gia mà tàu 

mang cờ phải quan tâm đến việc các quy tắc, quy phạm, luật và quy định 

này được áp dụng một cách có hiệu quả, bất kể việc vi phạm xảy ra ở 

đâu. 

Đặc biệt, các quốc gia thi hành các biện pháp thích hợp  để cấm các tàu 

thuyền mang cờ của nước mình hay được mình cho đăng ký chuẩn bị 

nhổ neo, chừng nào chúng không tuân theo  đúng các quy tắc và quy 

phạm quốc tế nêu ở khoản 1, kể các quy định liên quan đến cách thiết 

kế, cấu trúc, và trang bị của tàu thuyền. 

Các quốc gia quan tâm đến việc các tàu thuyền mang cờ của nước mình hay 

được mình cho đăng ký phải có đủ các chứng từ cấn thiết và được cấp 

theo các quy tắc và quy phạm quốc tế nêu ở khoản 1. Các quốc gia quan 

tâm  đến việc các tàu thuyền mang cờ nước mình phải  được kiểm tra 

định kỳ xác minh xem lời ghi chú ở trên các chứng từ này có phù hợp 

với tình trạng thực tế của con tàu hay không. Các quốc gia khác chấp 

nhận các chứng từ này cũng có giá trị như là những chứng từ mà mình 

cấp, trừ khi có lý do xác đáng để cho rằng tình trạng con tàu trong một 

chừng mực quan trọng không phù hợp với các ghi chú ở trên các chứng 

từ này. 

 Nếu một con tàu vi phạm các quy tắc và quy định được xây dựng qua trung 

gian của tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay qua một hội nghị ngoại giao 

chung, quốc gia cho tàu mang cờ, với điều kiện không phương hại tới 

các Điều 218, 220 và 228, phải lập tức tiến hành mọi cuộc điều tra và, 

nếu thấy cần thì, khởi tố đối với vụ vi phạm được suy đoán đó, bất kể 

nơi xảy ra vụ vi phạm này hay vị trí mà nạn ô nhiễm do vụ vi phạm gây 

ra đã xảy ra hoặc được xác nhận là ở đâu. 

Khi tiến hành điều tra vụ vi phạm, quốc gia mà tàu mang cờ có thể yêu cầu 

sự giúp đỡ của mọi quốc gia khác mà sự hợp tác có thể có ích để làm 

sáng tỏ các hoàn cảnh của sự việc. Các quốc gia cố gắng đáp ứng các 

yêu cầu thích hợp của các quốc gia mà tàu mang cờ. 

Theo yêu cầu bằng văn bản của một quốc gia,các quốc gia phải tiến hành 

điều tra về mọi vi phạm do tàu thuyền mang cờ của họ có thể đã phạm 

phải. Quốc gia mà tàu mang cờ phải tiến hành không chậm trễ việc truy 

tố về nội dung chính của sự vi phạm đã được suy đoán theo đúng luật 

trong nước của mình, nếu tin chắc rằng đã có đủ chứng cứ để tiến hành 

công việc này. 

Quốc gia mà tàu mang cờ thông báo ngay cho quốc gia yêu cầu và tổ chức 

quốc tế có thẩm quyền về vụ việc đã được khởi tố và kết quả của nó. Tất 

cả các quốc gia đều được tiếp xúc với những thông tin đã được thông 

báo đó. 

Những chế tài được trù định trong các quy luật và quy định của quốc gia 

đối với các tàu thuyền mang cờ của mình cần phải nghiêm khắc để hạn 

chế các vụ vi phạm,ở bất cứ đâu. 

ĐIỀU 218. Các quyền hạn của quốc gia có cảng 

Khi một chiếc tàu tự ý có mặt ở trong một cảng hay ở một công trình cảng 

cuối cùng ngoài khơi, quốc gia có cảng có thể mở một cuộc điều tra và, 

khi có các chứng cứ để chứng minh, có thể khởi tố đối với bất kỳ sự thải 

đổ nào do chiếc tàu tiến hành ở ngoại nội thủy, lãnh hải hay vùng đặc 

quyền về kinh tế của mình, vi phạm các luật và quy phạm quốc tế có thể 

áp dụng,  được xây dựng qua trung gian của tổ chức quốc tế có thẩm 

quyền hay qua một hội nghị ngoại giao chung. 

Quốc gia có cảng không thể khởi tố theo khoản 1 đối với một vụ vi phạm 

do việc thải đổ nào do chiếc tàu tiến hành ở ngoài nội thủy, lãnh hải hay 

vùng đặc quyền về kinh tế của mình, hoặc là quốc gia mà tàu mang cờ 

hay quốc gia đã chịu, hay có nguy cơ phải chịu, các tổn thất do việc thải 

đổ này gây ra yêu cầu.  

Khi một con tàu tự ý có mặt trong một cảng hay ở một công trình cảng cuối 

cùng ngoài khơi, quốc gia có cảng cố gắng chấp nhận những đơn yêu 

cầu điều tra của bất kỳ quốc gia nào khác về việc thải đổ có khả năng 

gây ra vụ vi phạm đã nêu ở khoản 1 có thể đã xảy ra trong nội thủy, lãnh 

hải hay vùng đặc quyền về kinh tế của quốc gia yêu cầu, và có thể đã 

gây ô nhiễm hay có nguy cơ gây ô nhiễm cho các vùng này.  Quốc gia 

có cảng cũng cố gắng chấp nhận đơn yêu cầu điều tra của quốc gia mà 

tàu mang cờ về những vi phạm như thế, bất kể các vụ vi phạm này có 

thể xảy ra ở đâu. 

Hồ sơ điều tra do quốc gia có cảng tiến hành theo điều này được chuyển 

cho quốc gia mà tàu mang cờ hay cho quốc gia ven biển theo yêu cầu 

của các quốc gia này.  Bất kỳ việc nào do quốc gia có cảng khởi tố dựa 

trên cơ sở của cuộc  điều tra này, có thể bị  đình chỉ theo yêu cầu của 

quốc gia ven biển, với điều kiện phải tuân theo các quy định của Mục 7, 

khi vụ vi phạm đã xảy ra trong nội thủy, lãnh hải hay vùng đặc quyền về 

kinh tế của quốc gia ven biển này.  Khi đó những chứng cứ, hồ sơ về sự 

việc, cũng như mọi sự bảo lãnh hay đảm bảo tài chính đã được gửi cho 

những nhà đương cục của quốc gia có cảng phải được chuyển cho quốc 

gia ven biển.  Sau khi chuyển giao hồ sơ, quốc gia có cảng không theo 

đuổi vụ kiện nữa. 

ĐIỀU 219. Các biện pháp kiểm tra khả năng  đi biển nhằm tránh ô 

nhiễm 

Với điều kiện tuân thủ Mục 7, khi các quốc gia, theo yêu cầu hay tự ý mình 

xác định rằng một con tàu đang ở một trong các cảng của mình hay ở một 

trong các công trình cảng cuối cùng ở ngoài khơi của mình đã vi phạm các 

qui tắc và quy phạm quốc tế có thể áp dụng liên quan đến khả năng đi biển 

của tàu thuyền và có nguy cơ từ đó gây ra thiệt hại cho môi trường biển, 

cần thi hành các biện pháp hành chính trong phạm vi khả năng của mình để 

ngăn không cho chiếc tàu này rời bến.  Các quốc gia này chỉ cho phép chiếc 

tàu này đi vào xưởng sửa chữa thích hợp gần nhất và, một khi đã loại trừ 

các nguyên nhân gây ra vi phạm, các quốc gia này cho phép chiếc tàu này 

tiếp tục hành trình của mình ngay lập tức. 

ĐIỀU 220. Các quyền hạn của quốc gia ven biển 

Khi một chiếc tàu tự ý có mặt trong cảng hay ở một công trình cảng cuối 

cùng ngoài khơi với điều kiện tuân thủ Mục 7, quốc gia có cảng có thể 

khởi tố về bất kỳ vi phạm nào đôi với các luật và quy định mà mình đã 

thông qua theo đúng Công ước hay theo đúng các qui tắc và quy phạm 

quốc tế có thể áp dụng nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do tàu thuyền gây ra, nếu vụ vi phạm đã xảy ra trong lãnh hải hay trong 

vùng đặc quyền kinh tế của mình. 

Khi một quốc gia có lý do xác đáng cho rằng chiếc tàu trong lúc đi qua lãnh 

hải của mình đã vi phạm các luật và quy định mà mình đã thông qua 

theo đúng công ước hay các nguyên tắc và quy phạm quốc tế có thể áp 

dụng nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do các tàu thuyền 

gây ra thì quốc gia này có thể tiến hành kiểm tra cụ thể chiếc tàu đã gây 

ra vụ vi phạm, nhưng không làm phương hại đến việc áp dụng các quy 

định thích hợp của Mục 3 thuộc phần II, và, khi có các chứng cứ  để 

chứng minh được điều đó thì có thể khởi tố và đặc biệt có thể ra lệnh giữ 

chiếc tàu theo đúng luật trong nước của mình, với điều kiện phải tuân 

thủ theo quy định của Mục 7. 

Khi một quốc gia có lý do xác đáng để cho rằng một con tàu đi trong vùng 

đặc quyền về kinh tế hay trong lãnh hải của mình đã vi phạm các quy tắc 

và quy phạm quốc tế đó và đem lại hiệu lực cho chúng, quốc gia này có 

thể yêu cầu con tàu cung cấp các thông tin liên quan đến lý lịch và cảng 

đăng ký của tàu, cảng cuối cùng và cảng sắp ghé vào của tàu và các 

thông tin thích hợp cần thiết khác để xác định có phải một vụ vi phạm 

đã xảy ra không. 

Các quốc gia thông qua các luật và qui định và thi hành các biện pháp cần 

thiết cho các tàu thuyền mang cờ của mình  đáp  ứng các yêu cầu về 

thông tin đã nêu ở khoản 3. 

Khi một quốc gia có các lý do xác đáng để cho rằng một chiếc tàu đi trong 

đặc quyền kinh tế hay trong lãnh hải của mình đã gây ra một vụ vi phạm 

trong vùng đặc quyền kinh tế đã nêu ở khoản 3 dẫn đến những việc thải 

đổ nghiêm trọng vào môi trường biển, đã gây ra hoặc có nguy cơ gây ra 

ở môi trường biển này một vụ ô nhiễm  đáng kể, quốc gia có thể tiến 

hành kiểm tra cụ thể con tàu để xác minh xem có phải đã có sự vi phạm 

không, nếu như con tàu từ chối không  đưa ra các thông tin, hay nếu 

những thông tin được cung cấp mâu thuẫn rõ ràng với sự thật, và nếu 

các hoàn cảnh của sự việc lý giải cho sự kiểm tra này. 

Khi có chứng cứ chứng tỏ rằng một chiếc tàu đi trong vùng đặc quyền về 

kinh tế hay lãnh hải của một quốc gia đã gây ra trong vùng đặc quyền về 

kinh tế một vụ vi phạm đã nêu ở khoản 3 dẫn đến những việc thải đổ 

gây hoặc có nguy cơ gây ra những tổn thất nghiêm trọng cho vùng 

duyên hải hay cho các lợi ích có liên quan của quốc gia ven biển hay cho 

tất cả tài nguyên của lãnh hải hay vùng đặc quyền về kinh tế của mình, 

thì quốc gia đó, với điều kiện tuân thủ Mục 7 và nếu có các chứng cứ chứng minh được điều trên, có thể tiến hành khởi tố, nhất là ra lệnh giữ 

con tàu lại theo đúng luật trong nước của mình. 

Mặc dù đã có khoản 6, trong mọi trường hợp mà các thủ tục thích hợp đã 

được đặt ra qua trung gian của tổ chức quốc tế có thẩm quyền, hoặc do 

thỏa thuận bằng mọi cách khác để tôn trọng các nghĩa vụ liên quan đến 

việc nộp tiền bảo lãnh hay việc ký gửi một khoản bảo  đảm tài chính 

thích hợp khác, nếu như quốc gia ven biển có bị các thủ tục  đó ràng 

buộc, thì quốc gia  đó cho phép chiếc tàu tiếp tục cuộc hành trình của 

mình. 

Các khoản 3, 4, 5, 6 và 7 cũng được áp dụng vào các luật và quy định quốc 

gia được thông qua theo điều 211, khoản 6. 

ĐIỀU 221. Các biện pháp nhằm ngăn chặn ô nhiễm tiếp theo sau một 

tai nạn xảy ra trên biển 

Không một qui định nào của phần này đụng đến các quyền của các quốc 

gia, theo pháp luật quốc tế, kể cả tập quán lẫn theo công ước, định ra và 

tiến hành áp dụng ở ngoài lãnh hải các biện pháp cân xứng với những 

thiệt hại mà các quốc gia này đã thật sự phải chịu đựng hay bị đe dọa 

phải chịu nhằm bảo vệ vùng duyên hải hay các lợi ích có liên quan của 

mình, kể cả việc  đánh bắt hải sản, chống nạn ô nhiễm hay  đe dọa ô 

nhiễm do một tai nạn xảy ra trên biển hoặc do những hành vi gắn liền 

với một tai nạn như vậy gây ra mà người ta có căn cứ để chờ đợi những 

hậu quả tai hại. 

Trong điều này, thì “tai nạn trên biển” có nghĩa là một vụ đâm va, mắc cạn 

hay sự cố hàng hải khác hoặc sự kiện xảy ra ở trên hay ở một con tàu 

gây ra những thiệt hại về vật chất hay đe dọa sắp gây ra những thiệt hại 

về vật chất cho một chiếc tàu hay hàng hóa của nó. 

ĐIỀU 222. Việc áp dụng quy định liên quan đến ô nhiễm có nguồn gốc 

từ bầu khí quyển hay qua bầu khí quyển… 

Trong giới hạn của vùng trời thuộc chủ quyền của mình hay đối với các tàu 

thuyền mang cờ của mình hoặc các tàu hay phương tiện bay được mình cho 

đăng ký, các quốc gia bảo đảm việc áp dụng các luật, quy định mà mình đã 

thông qua theo đúng điều 212, khoản 1, theo đúng các quy định khác của 

Công ước, thông qua các luật và qui định, thi hành các biện pháp khác để 

phát huy hiệu lực của các quy tắc và quy phạm quốc tế có thể áp dụng, 

được xây dựng qua trung gian của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay 

qua một hội nghị ngoại giao nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm 

môi trường có nguồn gốc từ bầu khí quyển hay xuyên qua bầu khí quyển, theo đúng tất cả các quy tắc và quy phạm quốc tế tương ứng liên quan đến 

an toàn hàng không. 

Mục 7 

CÁC BẢO ĐẢM 

ĐIỀU 223. Các biện pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển 

khai một vụ kiện 

Khi có một vụ kiện do áp dụng phần này, các quốc gia thi hành các biện 

pháp để tạo thuận lợi cho việc nghe nhân chứng và thu nhận các chứng cứ 

do các nhà đương cục của một quốc gia khác hay do tổ chức quốc tế có 

thẩm quyền cung cấp và tạo điều kiện thuận lợi cho việc tham gia các phiên 

tòa của các đại biểu chính thức của tổ chức này, của quốc gia mà tàu mang 

cờ hay của bất kỳ quốc gia nào bị ảnh hưởng bởi nạn ô nhiễm nảy sinh từ 

mọi vi phạm.  Các đại biểu chính thức tham gia các phiên tòa này có quyền 

và nghĩa vụ do luật trong nước hay pháp luật quốc tế trù định. 

ĐIỀU 224. Việc thi hành các quyền cảnh sát 

Chỉ có những nhân viên chính thức có đủ tư cách, cũng như các tàu chiến 

hay phương tiện bay quân sự hay các tàu thuyền hoặc các phương tiện bay 

khác có mang những dấu hiệu bên ngoài chứng tỏ rõ ràng rằng chúng thuộc 

một cơ quan nhà nước và được phép tiến hành công việc đó, có thể thi hành 

các việc cảnh sát đối với các tàu thuyền nước ngoài theo phần này. 

ĐIỀU 225. Nghĩa vụ đối với các quốc gia tránh các hậu quả tai hại có 

thể xảy ra trong khi thi hành các quyền cảnh sát của họ 

Khi thi hành quyền cảnh sát của mình đối với tàu thuyền nước ngoài theo 

Công ước, các quốc gia không được gây ra nguy hiểm cho an toàn hàng hải, 

không được gây ra một rủi ro nào cho một con tàu hay dẫn con tàu đó về 

một cảng hoặc khu neo nguy hiểm, cũng không gây ra rủi ro quá đáng cho 

môi trường biển. 

ĐIỀU 226. Các cuộc điều tra có thể được tiến hành đối với tàu thuyền 

nước ngoài 

a) Các quốc gia không được giữ một chiếc tàu nước ngoài lâu quá mức cần 

thiết để tiến hành các cuộc điều tra đã được trù định ở các Điều 216, 218 

và 220.  Việc kiểm tra cụ thể một chiếc tàu nước ngoài phải được giới hạn ở việc xem xét các chứng từ, sổ đăng ký hay các tài liệu khác mà 

chiếc tàu có nhiệm vụ phải mang theo, theo các quy tắc và quy phạm 

quốc tế được chấp nhận chung, hay mọi tài liệu tương tự; chỉ có thể tiến 

hành kiểm tra cụ thể chiếc tàu tỉ mỉ hơn tiếp theo sau cuộc xem xét này 

và với điều duy nhất là: 

Có các lý do xác đáng để cho rằng tình trạng con tàu hay trang thiết 

bị của nó về cơ bản không phù hợp với những ghi chú ở trên các tài 

liệu. 

Nội dung của các tài liệu này không đủ để xác minh và thẩm tra vụ vi 

phạm đã được suy đoán. 

Con tàu không mang theo các chứng từ và tài liệu có giá trị. 

b) Khi qua cuộc điều tra mà thấy rằng đã có sự vi phạm các luật và qui 

định có thể áp dụng hay các quy tắc và quy phạm quốc tế nhằm bảo vệ 

và gìn giữ môi trường biển, sau khi con tàu đã hoàn thành các thể thức 

hợp lý, như việc ký gửi một khoản tiền bảo lãnh hoặc một khoản bảo 

đảm tài chính khác, thì cần chấm dứt ngay việc cầm giữ. 

c) Không làm phương hại đến các quy tắc và quy phạm quốc tế có thể 

áp dụng về mặt khả năng đi biển của tàu thuyền, nếu việc chấm dứt cầm 

giữ một con tàu sẽ có nguy cơ dẫn tới thiệt hại do khinh suất đối với môi 

trường biển, thì con tàu nói trên có thể không được phép tiếp tục cuộc 

hành trình, hoặc được phép nhưng với điều kiện là phải đi đến xưởng 

sửa chữa thích hợp gần nhất.  Trong trường hợp mà việc chấm dứt cầm 

giữ con tàu bị từ chối hay bị đặt các điều kiện, thì quốc gia mà tàu mang 

cờ phải được thông báo ngay về việc này và có thể yêu cầu chấm dứt 

việc cầm giữ này theo đúng phần XV. 

2. Các quốc gia hợp tác để soạn thảo các thủ tục nhằm tránh khỏi việc kiểm 

tra cụ thể thừa đối với tàu thuyền trên biển. 

ĐIỀU 227. Việc không phân biệt đối xử với tàu thuyền nước ngoài 

Khi thi hành các quyền và làm tròn các nghĩa vụ của mình theo phần này, 

các quốc gia không được bắt các tàu thuyền của một quốc gia nào khác phải 

chịu một sự phân biệt đối xử về mặt pháp lý hay về mặt thực tế. 

ĐIỀU 228. Việc đình chỉ các cuộc truy tố và các hạn chế đối với việc 

truy tố 

Khi một quốc gia tiến hành các cuộc truy tố nhằm trừng phạt một vi phạm 

do một chiếc tàu nước ngoài gây ra ở bên ngoài lãnh hải của quốc gia 

trên đối với các luật và quy định có thể áp dụng hay các quy tắc và qui 

phạm quốc tế nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do tàu thuyền gây ra, thì các cuộc truy tố này phải bị  đình chỉ ngay sau khi 

quốc gia mà tàu mang cờ đã tự mình tiến hành các cuộc truy tố đối với 

nội dung chính của vụ vi phạm nói trên, trong vòng 6 tháng tiếp theo 

việc khởi tố đầu tiên, trừ khi việc khởi tố này nhằm vào một trường hợp 

đã gây thiệt hại nghiêm trọng cho quốc gia ven biển, hay quốc gia mà 

tàu mang cờ nói trên đã nhiều lần không làm tròn nghĩa vụ của mình để 

bảo đảm áp dụng thực sự các quy tắc và các quy phạm quốc tế hiện hành 

đối với các vụ vi phạm do tàu thuyền của mình gây ra.  Quốc gia mà tàu 

mang cờ khi đã yêu cầu đình chỉ các cuộc truy tố theo đúng điều này 

trao lại trong thời gian thích hợp cho quốc gia đầu tiên một hồ sơ đầy đủ 

về sự việc và các văn bản gốc của vụ án.  Khi các tòa án của quốc gia 

mà tàu mang cờ đã tuyên án thì các cuộc truy tố phải chấm dứt sau khi 

đã thanh toán xong các chi phí về thủ tục, thì bất kỳ khoản tiền bảo lãnh 

hay khoản bảo đảm tài chính nào khác được ký gửi khi tiến hành các 

cuộc truy tố này đều phải được quốc gia ven biển trả lại. 

Không thể tiến hành các cuộc truy tố đối với tàu thuyền nước ngoài sau thời 

hạn 3 năm kể từ ngày vi phạm, và không quốc gia nào có thể tiến hành 

rồi, với điều kiện phải tuân thủ khoản 1. 

Điều này không  đụng chạm  đến quyền của quốc gia mà tàu mang cờ sử 

dụng mọi biện pháp, kể cả quyền tiến hành các cuộc truy tố, theo đúng 

luật trong nước của mình, không phụ thuộc vào các cuộc truy tố do một 

quốc gia khác tiến hành trước. 

ĐIỀU 229. Việc kiện về trách nhiệm dân sự 

Không một quy định nào của Công ước đụng chạm đến quyền khởi tố về 

trách nhiệm dân sự trong trường hợp xảy ra những thiệt hại hay tổn thất do 

ô nhiễm môi trường biển. 

ĐIỀU 230. Các hình thức sử phạt bằng tiền và việc tôn trọng quyền 

bào chữa 

Đối với trường hợp vi phạm các luật và quy định quốc gia hay các quy tắc 

và quy phạm quốc tế có thể áp dụng nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế 

ngự ô nhiễm môi trường biển do các tàu thuyền nước ngoài gây ra  ở 

ngoài lãnh hải thì chỉ có thể áp dụng hình thức phạt tiền. 

Đối với tình trạng vi phạm các luật và quy định quốc gia hay các quy tắc và 

quy phạm quốc tế có thể áp dụng nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô 

nhiễm môi trường biển, do một tàu nước ngoài gây ra ở trong lãnh hải, 

thì chỉ có thể áp dụng hình thức phạt tiền, trừ trường hợp đó là một hành 

động cố ý và gây ra ô nhiễm nghiêm trọng.  

Trong tiến trình các cuôc truy tố đã được tiến hành nhằm trừng phạt các vụ 

vi phạm thuộc lọai này do một tàu nước ngoài phạm phải mà chiếc tàu 

có thể phải chịu  đụng những hình thức xử phạt, các quyền  được thừa 

nhận của bị cáo vẫn được tôn trọng. 

ĐIỀU 231. Việc tôn trọng thông báo cho quốc gia mà tàu mang cờ và 

cho các quốc gia hữu quan khác 

Các quốc gia thông báo không chậm trễ cho các quốc gia mà tàu mang cờ 

và cho mọi quốc gia hữu quan khác tất cả các biện pháp được sử dụng với 

tàu thuyền nước ngoài trong việc áp dụng Mục 6, và giao cho quốc gia mà 

tàu mang cờ tất cả các báo cáo chính thức có liên quan đến biện pháp này. 

Tuy nhiên, trong trường hợp các vụ vi phạm xảy ra trong lãnh hải, quốc gia 

ven biển chỉ thực hiện các nghĩa vụ này đối với các biện pháp đuợc dùng 

trong khuôn khổ các cuộc truy tố. Các nhân viên ngọai giao hay các viên 

chức lãnh sự, và trong trường hợp có thể được, nhà đương cục về biển của 

quốc gia mà tàu mang cờ được thông báo ngay về mọi biện pháp thuộc loại 

này. 

ĐIỀU 232. Trách nhiệm của các quốc gia về biện pháp thi hành 

Các quốc gia chịu trách nhiệm về những thiệt hại và tổn thất có thể qui cho 

họ do các biện pháp đã được sử dụng trong việc áp dụng Mục 6, khi các 

biện pháp này là bất hợp pháp hay vượt quá mức cần thiết hợp lý, có xét 

đến các thông tin sẵn có. 

ĐIẾU 233. Các bảo đảm liên quan đến các eo biển dung cho hàng hải 

quốc tế 

Không một quy định nào của Mục 5, 7 và 6 đụng chạm đến chế độ pháp lý 

của các eo dùng cho hàng hải quốc tế. Tuy nhiên, nếu một chiếc tàu nước 

ngoài không phải là các tàu thuyền đã nêu ở Mục 10 vi phạm các luật và 

quy định đã nêu ở Điều 42 khoản 1, điểm a, và b, gây ra hay đe dọa gây ra 

các thiệt hại nghiêm trọng cho môi trường biển của các eo biển, thì quốc gia 

có eo biển có thể thi hành các biện pháp cảnh sát thích hợp, trong khi vẫn 

tôn trọng mutatis mutandis (với những sửa  đổi cần thiết về chi tiết) mục 

này. 

Mục 8 

NHỮNG KHU VỰC BỊ BĂNG BAO PHỦ 

 ĐIỀU 234. Các khu vực bị băng bao phủ 

Các quốc gia ven biển có quyền thông quan và tiến hành áp dụng các luật 

và quy định không phân biệt đối xử nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô 

nhiễm môi trường biển do tàu thuyền gây ra trong khu vực bị băng bao phủ 

và nằm trong ranh giới của vùng đặc quyền về kinh tế, khi các điều kiện khí 

hậu đặc biệt khắc nghiệt và việc các khu vực bao phủ phần lớn thời gian 

trong một năm gây trở ngại cho hàng hải hoặc hoặc làm cho việc hàng hải 

trở nên đặc biệt nguy hiểm, và nạn ô nhiễm môi trường biển có nguy cơ gây 

tác hại nghiêm trọng đến sự cân bằng sinh thái hay làm rối lọan sự cân bằng 

này một cách không thể hồi phục được. Các luật và quy định này phải lưu ý 

thích đáng đến hàng hải cũng như đến việc bảo vệ và gìn giữ môi trường 

biển trên cơ sở của các dữ kiện khoa học chắc chắn nhất mà người ta có thể 

có được. 

Mục 9 

TRÁCH NHIỆM 

ĐIỀU 235. Trách nhiệm 

Các quốc gia có trách nhiệm quan tâm đến việc hoàn thành các nghĩa vụ 

quốc tế của mình về vấn đề bảo vệ và gìn giữ môi trường biển. Các quốc 

gia có trách nhiệm theo đúng luật quốc tế. 

Quốc gia quan tâm làm sao cho luật trong nước của mình có được những 

hình thức tố tụng cho phép thu được sự đền bù nhanh chóng và thích 

đáng, hay sự bồi thường khác  đối với những thiệt hại nảy sinh từ ô 

nhiễm môi trường do tự nhiên nhân, hay pháp nhân thuộc quyền tài phán 

của mình gây ra. 

Để bảo đảm một sự đền bù nhanh chóng và thích đáng mọi thiệt hại nảy 

sinh từ ô nhiễm môi trường biển, các quốc gia cần hợp tác để bảo đảm 

áp dụng và phát triển luật quốc tế về trách nhiệm có liên quan đến việc 

đánh giá và bồi thường các thiệt hại và việc giải quyết các tranh chấp về 

mặt này, cũng như, nếu có thể, đến việc soạn thảo các tranh chấp và thủ 

tục  để thanh toán tiền bồi thường thích  đáng, chẳng hạn trù  định một 

khoản bảo hiểm bắt buộc các quỹ bồi thường. 

Mục 10 VIỆC MIỄN TRỪ CÓ TÍNH CHẤT CHỦ QUYỀN 

ĐIỀU 236. Việc miễn trừ có tính chất chủ quyền 

Các quy  định của Công  ước liên quan  đến việc bảo vệ và gìn giữ môi 

trường biển không áp dụng  đối với các tàu chiến hay tàu thuyền bổ trợ, 

cũng như  đối với các tàu thuyền khác hay  đối với các phương tiện bay 

thuộc một quốc gia hay do quốc gia này, khai thác, khi trong thời gian xem 

xét, quốc gia này chỉ sử dụng chúng vào những mục đích công vụ không có 

tính chất thương mại. Tuy nhiên, mỗi quốc gia thi hành các biện pháp thích 

hợp không ảnh hưởng đến các hoạt động hay khả năng hoạt động của tàu 

thuyền hay phương tiện bay thuộc mình hay do mình khai thác, sao cho các 

tàu thuyền hay phương tiện bay này hành  động một cách thích hợp với 

Công ước trong chừng mực có thể làm được. 

Mục 11 

NGHĨA VỤ PHÁT SINH TỪ CÁC CÔNG ƯỚC KHÁC VỀ VIỆC 

BẢO VỆ VÀ GÌN GIỮ MÔI TRƯỜNG BIỂN 

ĐIỀU 237. Các nghĩa vụ phát sinh từ các công ước khác về việc bảo vệ 

và gìn giữ môi trường biển 

Phần này không ảnh hưởng đến các nghĩa vụ riêng thuộc bổn phận của các 

quốc gia theo các công ước hay điều ước đặc thù được ký kết trước đây 

về mặt bảo vệ và gìn giữ môi trường biển, cũng không ảnh hưởng đến 

các điều ước có thể được ký kết để áp dụng các nguyên tắc chung đã 

được nêu trong Công ước. 

Các quốc gia phải làm tròn các nghĩa vụ riêng thuộc phận sự của mình có 

liên quan đến việc bảo vệ và gìn giữ môi trường biển theo Công ước đặc 

biệt, một cách thích hợp với các nguyên tắc và mục tiêu chung của Công 

ước. 

PHẦN XIII 

VIỆC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC  BIỂN 

 Mục 1  

CÁC QUY ĐỊNH CHUNG 

ĐIỀU 238. Quyền tiến hành các cuộc nghiên cứu khoa học biển 

Tất cả các quốc gia, bất kể vị trí địa lý thế nào, cũng như các tổ chức quốc 

tế có thẩm quyền, đều có quyền tiến hành các cuộc nghiên cứu khoa học 

biển, với điều kiện tôn trọng các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia khác 

như đã đuợc quy định trong Công uớc. 

ĐIỀU 239. Nghĩa vụ tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu khoa 

học biển 

Các quốc gia và tổ chức quốc tế có thẩm quyền khuyến khích và tạo điều 

kiện thuận lợi cho việc triển khai và chỉ đạo công tác nghiên cứu khoa học 

biển theo đúng Công uớc. 

ĐIỀU 240.  Các nguyên tắc chung chi phối việc chỉ đạo công tác nghiên 

cứu khoa học biển 

Công tác nghiên cứu khoa học biển phải phục tùng các nguyên tắc sau đây:

Công tác này  đuợc tiến hành nhằm vào những mục  đích hoàn toàn hòa 

bình; 

Công tác này đuợc tiến hành bằng cách dùng các phương pháp và phương 

tiện khoa học thích hợp phù hợp với Công uớc; 

Công tác này không cản trở một cách vô lý những việc sử dụng biển hợp 

pháp khác phù hợp với Công uớc và nó phải đuợc quan tâm đến trong 

các việc sử dụng này. 

Công tác này đuợc tiến hành theo đúng mọi quy định tương ứng đuợc thông 

qua để thi hành Cống uớc, kể cả các quy định nhằm bảo vệ và giữ gìn 

môi truờng biển. 

ĐIỀU 241. Việc không thừa nhận công tác nghiên cứu khoa học biển 

với tư cách là cơ sở pháp lý cho một yêu sách nào đó 

Công tác nghiên cứu khoa học biển không tạo ra co sở pháp lý cho một yêu 

sách nào đối với một bộ phận nào đó của môi truờng biển hay của các tài 

nguyên của nó. 

 Mục 2 

SỰ HỢP TÁC QUỐC TẾ 

ĐIỀU 242. Nghĩa vụ tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác quốc tế 

Chấp hành nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và quyền tài phán, và trên cơ sở 

của nguyên tắc có đi có lại về lợi ích, các quốc gia và các tổ chức quốc 

tế có thẩm quyền tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác quốc tế về mặt 

nghiên cứu khoa học biển vì mục đích hòa bình. 

Trong bối cảnh này và không làm phương hại đến các quyền và nghĩa vụ 

các quốc gia theo Công uớc, một quốc gia khi hành động theo phần này, 

cần tùy theo tình hình mà dành cho các quốc gia khác các khả năng hợp 

lý để nhận đuợc của mình hay với sự hợp tác của mình các thông tin cần 

thiết để ngăn ngừa và chế ngự các tác hại đối với sức khỏe và đối  với sự 

an toàn của con nguời và môi truờng biển. 

ĐIỀU 243. Việc tạo ra các điều kiện thuận lợi 

Các quốc gia, tổ chức quốc tế có thẩm quyền hợp tác với nhau qua việc ký 

kết các hiệp định hai bên và nhiều bên để tạo ra các điều kiện thuận lợi cho 

việc chỉ đạo công tác nghiên cứu khoa học biển trong môi truờng biển và 

kết hợp những nỗ lực của các nhà nghiên cứu khoa học tiền hành nghiên 

cứu bản chất của các hiện tuợng, các quá trình xảy ra trong môi truờng biển 

và các tác động qua lại của chúng. 

ĐIỀU 244. Việc công bố và phổ biến các thông tin và kiến thức 

Bằng các con đuờng thích hợp và theo đúng Công uớc, các quốc gia và tổ 

chức quốc tế có thẩm quyền công bố, phổ biến các thông tin liên quan 

đến các chương trình chủ yếu đuợc dự tính và các mục tiêu của chúng, 

cũng như những kiến thức đuợc rút ra từ công tác nghiên cứu khoa học 

biển. 

Vì mục đích này, các quốc gia, tự mình hay hợp tác với các quốc gia khác 

và với các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, tích cực tạo điều kiện thuận 

lợi cho việc trao đổi các dữ kiện, thông tin khoa học và cho việc chuyển 

giao các kiến thức rút ra từ công tác nghiên cứu khoa học biển, đặc biệt 

là cho các quốc gia đang phát triển cũng như cho việc tăng cuờng khả 

năng của chính các quốc gia này để tiến hành các công tác nghiên cứu 

khoa học biển, nhất là bằng các chuong trình giúp cho các nhân viên kỹ 

thuật và khoa học của họ đuợc huởng một sự giáo dục và đào tạo thích 

hợp.  Mục 3 

SỰ CHỈ ĐẠO CÔNG TÁC NGHIÊN CỨU 

KHOA HỌC BIỂN VÀ HOẠT ĐỘNG NHẰM 

TẠO ĐIỀU KIỆN THUẬN LỢI CHO CÔNG VIỆC NÀY 

ĐIỀU 245. Việc nghiên cứu khoa học biển ở trong lãnh hải 

Trong việc thực hiện chủ quyền của mình, các quốc gia ven biển có  đặc 

quyền quy định, cho phép và tiến hành các công tác nghiên cứu khoa học 

biển ở trong lãnh hải chỉ đuợc tiến hành vợi sự thảo thuận rõ ràng của quốc 

gia ven biển và trong các điều kiện do quốc gia này ấn định.  

ĐIỀU 246. Việc nghiên cứu khoa học biển trong vùng  đặc quyền về 

kinh tế và trên thềm lục địa 

Trong việc thi hành quyền tài phán của mình, các quốc gia ven biển có 

quyền quy định, cho phép và tiến hành các công tác nghiên cứu khoa 

học biển trong vùng đặc quyền về kinh tế và trên thềm lục địa của mình 

theo đúng các quy định tương ứng của Công uớc. 

Công tác nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền về kinh tế và trên 

thềm lục địa đuợc tiến hành với sự thỏa thuận của quốc gia ven biển. 

Trong những truờng hợp bình thuờng, các quốc gia ven biển thỏa thuận cho 

thực hiện các dự án nghiên cứu khoa học biển mà các quốc gia khác hay 

các tổ chức quốc tế có thẩm quyền dự  định tiến hành trong vùng  đặc 

quyền về kinh tế hay trên thềm lục địa của mình theo đúng Công uớc, 

nhằm vào những mục đích hoàn toàn hòa bình và để tăng thêm kiến thức 

khoa học về môi truờng biển, vì lợi ích của toàn thể loài nguời. Vì mục 

đích này, các quốc gia ven biển thông qua các quy tắc và thủ tục bảo 

đảm sẽ cho phép trong những thời hạn hợp lý và sẽ không khuớc từ một 

cách phi lý. 

Trong việc áp dụng khoản 3, các truờng hợp có thể đuợc coi là bình thuờng 

ngay cả khi giữa quốc gia ven biển và quốc gia đề nghị thực hiện công 

trình nghiên cứu không có quan hệ ngoại giao. 

Tuy nhiên, quốc gia ven biển có thể tùy ý mình không cho phép thực hiện 

một dự án nghiên cứu khoa học biển do một quốc gia khác hay một tổ 

chức quốc tế có thẩm quyền đề nghị tiến hành ở vùng đặc quyền về kinh 

tế hay trên thềm lục  địa của mình trong các truờng hợp sau: 

a. Nếu dự án có ảnh huởng trực tiếp đến việc thăm dò và Khai thác các 

tài nguyên thiên nhiên, sinh vật và không sinh vật; b. Nếu dự án có dự kiến công việc khoan trong thềm lục địa, sử dụng 

chất nổ hay đưa chất độc hại vào trong môi truờng biển; 

c. Nếu dự án dự kiến việc xây dựng, khai thác hay sử dụng các đảo nhân 

tạo, thiết bị và công trình đã nêu ở các Điều 60 và 80; 

d. Nếu những thông tin đuợc thông báo về tình chất và mục tiêu của dự 

án theo Điều 248 không đúng, hoặc nếu quốc gia hay tổ chức quốc tế có 

thẩm quyền, tác giả của dự án không làm tròn những nghĩa vụ đã cam 

kết với quốc gia ven biển hữu quan trong một dự án nghiên cứu truớc 

đây. 

Mặc dầu khoản 5 đa quy định như thế, các quốc gia ven biển cũng không 

thể thi hành quyền tùy ý khuớc từ theo điểm a của khoản này, đối với 

các dự án nghiên cứu khoa học biển đuợc tiến hành theo đúng phần này 

trên thềm lục địa ở cách đuờng cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 

quá 200 hải lý, ngoài các khu vực đặc biệt mà bất kỳ lúc nào các quốc 

gia ven biển cung có thể chính thức chỉ định làm nơi hoặc sẽ làm nơi để 

tiến hành công việc khai thác hay thăm dò đi vào chi tiết trong một thời 

hạn hợp lý. Các quốc gia ven biển thông báo trong những thời hạn hợp 

lý các khu vực mà mình chỉ định cũng như tất cả những thay đổi có liên 

quan, nhung không có trách nhiệm cung cấp các chi tiết về các công việc 

trên các khu vực này. 

Khoản 6  đuợc áp dụng không phương hại  đến các quyền  ở thềm lục  địa 

đuợc thừa nhận cho các  quốc gia ven biển ở Điều 77. 

Các công tác nghiên cứu khoa học biển nói ở điều này không đuợc gây trở 

ngại một cách phi lý cho các hoạt động do quốc gia ven biển tiến hành 

trong việc thi hành quyền thuộc chủ quyền và quyền tài phán mà Công 

uớc đã trù định. 

ĐIỀU 247. Các dự dán nghiên cứu do các tổ chức quốc tế thực hiện hay 

duới sự bảo trợ của các tổ chức này 

Một quốc gia ven biển là hội viên của một tổ chức quốc tế, hay bị ràng 

buộc với tổ chức quốc tế đó qua một hiệp định tay đôi và ở vùng đặc quyền 

về kinh tế hay thềm lục địa của quốc gia đó, tổ chức quốc tế nói trên muốn 

trực tiếp tiến hành, hay cho tiến hành duới sự bảo trợ của mình một dự án 

nghiên cứu khoa học biển, thì nếu như quốc gia đó đã chuẩn y dự án chi tiết 

khi tổ chức quốc tế quyết định tiến hành dự án, hay là quốc gia đó đã sẵn 

sàng tham gia dự án nghiên cứu khoa học biển và không có ý kiến phản đối 

nào sau thời gian 4 tháng, kể từ khi tổ chức đó thông báo cho quốc gia về 

dự án nói trên, thì quốc gia đó coi như đa cho phép thực hiện dự án đúng 

theo các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật đã thỏa thuận. 

ĐIỀU 248. Nghĩa vụ cung cấp các thông tin cho quốc gia ven biển 

Các quốc gia và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền muốn tiền hành các 

công tác nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền về kinh tế hay 

trên thềm lục địa của một quốc gia ven biển, phải cung cấp cho quốc gia 

này, chậm nhất là không quá 6 tháng truớc thời gian dự kiến để bắt đầu dự 

án nghiên cứu khoa học biển, một bản mô tả đầy đủ, chỉ rõ: 

Tính chất và các mục tiêu của dự án 

Phương pháp và các phương tiện sẽ  đuợc sử dụng; có nói rõ tên, trọng 

luợng, kiểu và loại tàu thuyền, và một bản mô tả các dụng cụ khoa học; 

Các khu vực địa lý cụ thể mà dự án sẽ thực hiện; 

Các thời hạn dự định cho chuyện đến đầu tiên và chuyện ra đi cuối cùng 

của các tàu thuyền nghiên cứu, hay thời hạn dự định cho việc triển khai 

và rút thiết bị, và thời hạn dự định cho việc thu hồi dụng cụ nghiên cứu, 

tùy theo truờng hợp; 

Tên cơ quan bảo trợ cho dự án nghiên cứu, tên của giám đốc cơ quan này 

và của nguời chịu trách nhiệm dự án; 

Mức độ mà quốc gia ven biển có thể tham gia vào dự án hay đuợc cử đại 

diện  

ĐIỀU 249.  Nghĩa vụ tuân thủ một số điều kiện 

1. Các quốc gia và tổ chức quốc tế có thẩm quyền thực hiện công tác 

nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền về kinh tế hay trên thềm 

lục địa của một quốc gia ven biển, cần phải đáp ứng các điều kiện sau đây: 

a. Bảo  đảm cho quốc gia ven biển, nếu quốc gia này muốn, quyền tham gia 

vào dự án nghiên cứu khoa học biển hay đặc biệt là khi có thể đuợc, cử đại 

diện lên trên các tàu thuyền và các xuồng nghiên cứu khác hay lên trên các 

thiết bị nghiên cứu khoa học, nhung không phải thanh toán một khoản tiền 

thù lao nào cho những nhà nghiên cứu của quốc gia này, và quốc gia này 

cũng không bị buộc phải đóng góp vào các kinh phí của dự án; 

b. Một khi công việc nghiên cứu đã kết thúc, phải cung cấp càng sớm càng 

tốt, theo yêu cầu của quốc gia ven biển, những báo cáo sơ bộ, cũng như các 

kết quả và kết luận cuối cùng; 

c. Cam kết cho quốc gia ven biển, theo yêu cầu của họ, tiếp xúc với tất cả 

các mẫu vật và dữ kiện thu đuợc trong khuôn khổ của dự án nghiên cứu 

khoa học biển, cũng như cam kết cung cấp cho quốc gia này những dữ kiện 

có thể sao lại và các mẫu vật có thể đuợc phân chia mà không làm giảm giá 

trị khoa học của chúng;  

d. Cung cấp cho quốc gia ven biển, theo yêu cầu của họ, một bản đánh giá 

về các dữ kiện, các mẫu vật và các kết quả nghiên cứu đó, hay giúp đỡ cho 

quốc gia này tiến hành đánh giá hoặc giải thích chung; 

e. Với điều kiện phải thực hiện quy định ở khoản 2, bảo đảm cho các kết 

quả của công tác nghiên cứu đuợc sẵn sàng đưa ra sử dụng càng sớm càng 

tốt trên truờng quốc tế qua các con đuờng quốc gia hay quốc tế thích hợp. 

f. Thông báo ngay cho quốc gia ven biển bất kỳ sửa đổi quan trọng nào đối 

với dự án nghiên cứu; 

g. Một khi công tác nghiên cứu đã kết thúc, phải tháo gỡ các thiết bị hay 

công cụ nghiên cứu khoa học, trừ khi có sự thỏa thuận khác. 

2. Điều này đuợc áp dụng không làm phương hại đến các điều kiện do các 

luật và quy định của quốc gia ven biển ấn định về việc thi hành quyền tùy ý 

quyết định đồng  ý hay không đồng ý theo Điều 246, khoản 5, kể cả việc 

bắt buộc phải đuợc sự đồng ý truớc của nuớc đó mới đuợc phổ biến trên 

phạm vi quốc tế các kết quả nghiên cứu thuộc một dự án có liên quan trực 

tiếp đến việc thăm dò và khai thác các tài nguyên thiên nhiên. 

ĐIỀU 250. Các thông tin liên lạc liên quan đến các dự án nghiên cứu 

khoa học biển 

Các thông tin liên lạc liên quan đến các dự án nghiên cứu khoa học biển 

phải đuợc tiến hành qua các con đuờng chính thức thích hợp, trừ khi có sự 

thỏa thuận khác. 

ĐIỀU 251. Các tiêu chuẩn chung và các nguyên tắc chỉ đạo  

Các quốc qia hay các tổ chức quốc tế có thẩm quyền có thể thực hiện một 

dự án nghiên cứu khoa học sau một thời hạn 6 tháng kể từ ngày các thông 

tin cần thiết theo Điều 248 đã đuợc thông báo cho quốc gia ven biển, trừ 

khi trong một thời hạn 4 tháng kể từ lúc nhận đuợc các thông tin này, quốc 

gia ven biển đã báo cho quốc gia hay tổ chức đề nghị thực hiện các công tác 

nghiên cứu biết: 

Quốc gia ven biển đã khuớc từ theo Điều 246; hay 

Các thông tin do quốc gia hay tổ chức quốc tế có thẩm quyền này cung cấp 

về tính chất hay mục tiêu của dự án không phù hợp với sự thực hiển 

nhiên; hay Quốc gia ven biển cần có một thông báo bổ sung về những thông tin hoặc 

những điều kiện đã nêu ở các Điều 248 và 249; hay 

Các nghĩa vụ nẩy sinh từ các điều kiện đã đuợc quy định ở Điều 249 cho 

một dự án nghiên cứu khoa học biển do quốc gia hay tổ chức quốc tế 

này thực hiện truớc đây đã không đuợc làm tròn. 

ĐIỀU 253. Việc đinh chỉ  hoặc chấm dứt công việc nghiên cứu khoa học 

biển 

1. Quốc gia ven biển có quyền yêu cầu đinh chỉ các công việc nghiên cứu 

khoa học biển  đang tiến hành trong vùng  đặc quyền về kinh tế hay trên 

thềm lục địa của mình: 

Nếu công việc này không đuợc tiến hành theo đúng các thông tin đã đuợc 

thông báo theo Điều 248 mà quốc gia ven biển đã dựa vào để đồng ý 

cho phép; hay 

Nếu quốc gia hay tổ chức quốc tế có thẩm quyền khi tiến hành công việc 

này không tôn trọng các quy  định của Điều 249 liên quan  đến các 

quyền của quốc gia ven biển đối với dự án nghiên cứu khoa học biển. 

2. Quốc gia ven biển có quyền yêu cầu chấm dứt mọi công việc nghiên cứu 

khoa học biển trong tất cả các truờng hợp mà việc không tuân thủ Điều 248 

có nghĩa là làm thay đổi lớn dự án các công trình nghiên cứu. 

3. Quốc gia ven biển cũng có thể yêu cầu chấm dứt các công việc nghiên 

cứu khoa học biển, nếu như, trong một thời gian hợp lý, một điểm bất kỳ 

trong những tình hình nêu ở khoản 1 không đuợc sửa chữa. 

4. Sau khi nhận đuợc thông báo về quyết định của quốc gia ven biển đòi 

đinh chỉ hay chấm dứt công việc nghiên cứu khoa học biển, các quốc gia 

hay tổ chức quốc tế có thẩm quyền đã đuợc phép tiến hành các công việc 

này phải chấm dứt những công việc thuộc đối tuợng của thông báo.  

5. Lệnh đinh chỉ đuợc đưa ra theo khoản 1 phải do quốc gia ven biển thu 

hồi, và dự án khoa học nghiên cứu biển có thể đuợc tiếp tục ngay khi quốc 

gia hay tổ chức quốc tế có thẩm quyền thực hiện các công tác nghiên cứu 

khoa học biển này đã tuân theo các điều kiện quy định ở các Điều 248 và 

249. 

ĐIỀU 254. Các quyền của các quốc gia láng giềng không có biển và các 

quốc gia láng giềng có hoàn cảnh địa lý bất lợi 

1. Các quốc gia và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền khi đã trao cho một 

quốc gia ven biển một dự án nghiên cứu khoa học biển nêu ở Điều 246, 

khoản 3, cần thông báo dự án này cho các quốc gia láng giềng không có biển và các quốc gia láng giềng có hoàn cảnh địa lý bất lợi, và báo cho quốc 

gia ven biển việc gửi các thông báo này. 

2. Một khi quốc gia ven biển có liên quan đã chấp thuận dự án, theo đúng 

điều 246 và các quy định thích hợp khác của Công uớc, các quốc gia và các 

tổ chức quốc tế có thẩm quyền khi thực hiện dự án cần cung cấp cho các 

quốc gia láng giềng không có biển và các quốc gia láng giềng có hoàn cảnh 

địa lý bất lợi các thông tin  đã  đuợc quy  định rõ ở các Điều 248 và 249, 

khoản 1, điểm f, theo yêu cầu của họ và tùy theo sự cần thiết.  

3. Các quốc gia không có biển và các quốc gia bất lợi về mặt địa lý đã nói ở 

trên, theo yêu cầu của mình, có khả năng đuợc tham gia trong chừng mực 

có thể vào dự án nghiên cứu khoa học hiển đã đuợc dự tính qua các chuyên 

gia có trình độ do mình chỉ định và đuợc quốc gia ven biển chấp nhận, theo 

những điều kiện mà quốc gia ven biển và quốc qia hay các tổ chức quốc tế 

có thẩm quyền tiến hành công tác nghiên cứu khoa học biển đã thảo luận để 

thực hiện dự án, phù hợp với Công uớc. 

4. Các quốc gia và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền đã nêu ở khoản 1 

cung cấp cho các quốc gia không có biển và các quốc gia bất lợi về mặt địa 

lý nói trên, theo yêu cầu của họ, những thông  tin và sự giúp đỡ đã đuợc 

quy định rõ ở Điều 249, khoản 1, điểm d, với điều kiẹn phải tuân thủ khoản 

2 của chính điều này.  

ĐIỀU 255. Những biện pháp nhằm tạo  điều kiện dễ dàng cho việc 

nghiên cứu khoa học biển và giúp đỡ cho các tàu thuyền nghiên cứu 

Các quốc gia cố gắng thông qua các quy tắc,  quy định và thủ tục hợp lý 

nhằm khuyến khích và tạo  điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu khoa 

học biển đuợc tiến hành theo đúng Công uớc ở ngoài lãnh hải, và nếu cần, 

thì tạo điều kiện cho các tàu thuyền nghiên cứu khoa học biển chấp hành 

các quy định thích hợp của phần này vào ra cảng của các quốc gia nói trên 

đuợc dễ dàng, với điều kiện là phải tuân thủ theo các luật và quy định của 

các quốc gia này, và phải khuyến khích sự giúp đỡ cho các tàu thuyền này.  

ĐIỀU 256. Việc nghiên cứu khoa học biển trong Vùng 

Tất cả các quốc gia, bất kể hoàn cảnh địa lý của mình như thế nào, cũng 

như các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, đều có quyền thực hiện việc nghiên 

cứu khoa học biển trong Vùng, theo đúng phần XI. 

ĐIỀU 257. Việc nghiên cứu khoa học biển trong phần nuớc nằm ngoài 

ranh giới của vùng đặc quyền về kinh tế  

Tất cả các quốc gia, bất kể hoàn cảnh địa lý của mình như thế nào, cũng 

nhu các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, đều có quyền thực hiện việc nghiên 

cứu khoa học biển theo đúng Công uớc trong phần nuớc nằm ngoài ranh 

giới của vùng đặc quyền về kinh tế.  

Mục 4 

CÁC THIẾT BỊ VÀ DỤNG CỤ NGHIÊN CỨU 

KHOA HỌC TRONG MÔI TRUỜNG BIỂN 

ĐIỀU 258. Việc đặt và sử dụng 

Việc đặt và sử dụng các thiết bị hay dụng cụ nghiên cứu khoa học thuộc bất 

kỳ kiểu nào ở một vùng nào đó của môi truờng biển phải phụ thuộc vào 

cùng các  điều kiện như  đã  đuợc Công uớc trù  định cho việc tiến hành 

nghiên cứu khoa học biển ở trong khu vực kể trên. 

ĐIỀU 259. Chế độ pháp lý 

Các thiết bị hay dụng cụ đuợc nêu trong mục này, không có quy chế của 

các đảo. Chúng không có lãnh hải riêng, và sự có mặt của chúng không có 

ảnh huởng đến vấn đề hoạch định ranh giới lãnh hải, vùng độc quyền về 

kinh tế hay thềm lục địa. 

ĐIỀU 260. Khu vực an toàn 

Các khu vực an toàn có một chiều rộng hợp lý không quá 500m có thể đuợc 

lập ra xung quanh các thiết bị nghiên cứu khoa học, theo đúng các quy định 

tuong ứng của Công uớc. Tất cả các quốc gia phải chú ý bảo đảm cho tàu 

thuyền của mình tôn trọng các khu vực an toàn này. 

ĐIỀU 261.  Nghĩa vụ không đuợc gây trở ngại cho hàng hải quốc tế 

Việc đặt và sử dụng các thiết bị hay dụng cụ nghiên cứu khoa học thuộc bất 

kỳ kiểu nào không đuợc gây cản trở cho việc hàng hải theo các con đuờng 

quốc tế thuờng dùng.  

ĐIỀU 262. Dấu hiệu nhận dạng và phương tiện báo hiệu 

Các thiết bị hay dụng cụ đã nêu trong mục này phải có các dấu hiệu nhận 

dạng chỉ rõ quốc gia đăng ký hay tổ chức quốc tế mà chúng phụ thuộc vào, 

cũng như, phải có các phuong tiện báo hiệu thích hợp đã đuợc chấp thuận trên truờng quốc tế nhằm bảo đảm an toàn hàng hải và hàng không, có tính 

đến các quy tắc và quy phạm do các tổ chức quốc tế có thẩm quyền đặt ra. 

Mục 5 

TRÁCH NHIỆM 

ĐIỀU 263. Trách nhiệm  

Bổn phận của các quốc gia và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền là phải 

quan tâm, sao cho việc nghiên cứu khoa học biển, bất kể chúng do hoặc 

nguời thay mặt cho họ thực hiện, đều đuợc tiến hành theo đúng Công 

uớc. 

Các quốc gia và tổ chức quốc tế có thẩm quyền chịu trách nhiệm về những 

biện pháp mà mình thi hành, vi phạm Công uớc, liên quan đến các công 

việc nghiên cứu khoa học biển do các quốc gia khác, các tự nhiên nhân 

hay pháp nhân có quốc tịch của các quốc gia khác  đó hoặc do các tổ 

chức quốc tế có thẩm quyền tiến hành, và phải đền bù các tồn thất do 

các biện pháp đó gây ra.  

Các quốc gia và tổ chức có thẩm quyền phải chịu trách nhiệm, theo Điều 

235, về các tổn thất gây ra bởi nạn ô nhiễm môi truờng biển xuất phát từ 

việc nghiên cứu khoa học biển do mình thực hiện hay do nguời thay mặt 

cho mình thực hiện. 

Mục 6 

GIAỈ QUYẾT CÁC TRANH CHẤP 

VÀ CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM 

ĐIỀU 264. Việc giải quyết các tranh chấp  

Các tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng các quy định của 

Công uớc về việc nghiên cứu khoa học biển đuợc giải quyết theo đúng các 

Mục 2 và 3 của Phần XV 

ĐIỀU 265. Các biện pháp bảo đảm 

Chừng nào một tranh chấp chưa đuợc giải quyết theo đúng các Mục 2 và 3 

của Phần XV, thì quốc gia hay tổ chức quốc tế có thẩm quyền đuợc phép 

thực hiện dự án nghiên cứu khoa học biển, không cho phép thực hiện hay tiếp tục việc nghiên cứu khoa học nếu không có sự đồng ý rõ ràng của các 

quốc gia ven biển hữu quan.  

PHẦN XIV 

PHÁT TRIỂN VÀ CHUYỂN GIAO KỸ THUẬT BIỂN 

Mục 1 

CÁC QUY ĐỊNH CHUNG 

ĐIỀU 266. Việc xúc tiến phát triển và chuyển giao các kỹ thuật biển 

1. Các quốc gia hợp tác trực tiếp, hoặc thông qua các tổ chức quốc tế có 

thẩm quyền, trong phạm vi khả năng của mình, nhằm tích cực tạo điều kiện 

thuận lợi cho sự phát triển và chuyển giao khoa học và kỹ thuật biển theo 

các thể thức và điều kiện công bằng và hợp lý. 

2. Các quốc gia tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển khả năng trong 

lĩnh vực khoa học và kỹ thuật biển của các quốc gia có nhu cầu và yêu cầu 

được hưởng một sự giúp đỡ về kỹ thuật trong lĩnh vực này, nhất là các quốc 

gia đang phát triển, kể cả quốc gia không có biển hay bất lợi về mặt địa lý, 

trong việc thăm dò, khai thác, bảo vệ và quản lý các tài nguyên của biển, 

trong việc bảo vệ và giữ gìn môi trường biển, trong việc nghiên cứu khoa 

học biển và các hoạt động khác nhằm tiến hành trong môi trường biển phù 

hợp với Công ước, nhằm thúc đẩy tiển bộ xã hội và kinh tế của các quốc gia 

đang phát triển. 

3. Các quốc gia cố gắng giúp tạo ra các điều kiện kinh tế và pháp lý thuận 

lợi cho việc chuyển giao kỹ thuật biển, trên cơ sở công bằng, có lợi cho tất 

cả các bên hữu quan. 

ĐIỀU 267. Việc bảo vệ các lợi ích chính đáng 

Để tạo điều kiện cho sự hợp tác theo Điều 266, các quốc gia cần phải tính 

đến tất cả các lợi ích chính  đáng, cũng như các quyền và nghĩa vụ của 

người nắm giữ, những người cung cấp và những người được nhận các kỹ 

thuật biển. 

ĐIỀU 268. Các mục tiêu cơ bản 

Các quốc gia trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, 

cần phải xúc tiến: Việc nắm,  đánh giá và phổ biến các kiến thức trong lĩnh vực kỹ thuật 

biển; các quốc gia này tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp xúc với các 

thông tin và các dữ liệu tương ứng; 

Việc phát triển các kỹ thuật biển thích hợp; 

Việc phát triển hạ tầng cơ sở về kỹ thuật cần thiết để làm dễ dàng cho việc 

chuyển giao các kỹ thuật biển; 

Việc khai thác nguồn nhân lực qua việc  đào tạo và giảng dạy cho các 

công dân của các quốc gia và các nước  đang phát triển,  đặc biệt là 

những nước kém phát triển nhất trong các quốc gia đang phát triển đó; 

Việc hợp tác quốc tế ở mọi mức độ, nhất là việc hợp tác theo khu vực, 

phân khu vực và tay đôi. 

ĐIỀU 269. Các biện pháp được thi hành để đạt tới các mục tiêu cơ bản 

Để đạt đến các mục tiêu cơ bản đã nêu ở Điều 268, ngoài các biện pháp 

khác, các quốc gia tìm cách, trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức quốc tế có 

thẩm quyền, để: 

Lập ra các chương trình hợp tác kỹ thuật nhằm chuyển giao thực sự các 

kỹ thuật biển thuộc đủ mọi loại cho các quốc gia có nhu cầu và yêu 

cầu hưởng một sự giúp  đỡ về mặt kỹ thuật biển trong lĩnh vực này, 

nhất là cho các quốc gia đang phát triển không có biển hay bất lợi về 

địa lý, cũng như cho các quốc gia đang phát triển khác không có khả 

năng hoặc  để tạo ra hoặc  để phát triển khả năng kỹ thuận riêng của 

mình trong lĩnh vực khoa học biển và trong lĩnh vực thăm dò và khai 

thác các tài nguyên của biển, cũng không có khả năng phát triển hạ 

tầng cơ sở cần thiết cho các kỹ thuật này; 

Giúp tạo ra các điều kiện thuận lợi cho việc ký kết các hiệp định, các hợp 

đồng hay các thỏa thuận tương tự khác, trong những điều kiện công 

bằng, hợp lý; 

Tổ chức các hội nghị, hội thảo và các cuộc thảo luận về các vấn đề khoa 

học và kỹ thuật, nhất là về các chính sách và phương pháp cần đề ra để 

thực hiện chuyển giao các kỹ thuật biển; 

Tạo điều khiện thuận lợi cho việc trao đổi các nhà khoa học, kỹ thuật và 

các chuyên gia khác; 

Thực hiện các dự án và xúc tiến các xí nghiệp liên doanh và các hình thức 

hợp tác hai bên và nhiều bên khác. 

Mục 2 

VỀ HỢP TÁC QUỐC TẾ 

ĐIỀU 270. Khuôn khổ và hợp tác quốc tế 

Việc hợp tác quốc tế để phát triển và chuyển giao kỹ thuật biển được thực 

hiện, khi có thể được và thích hợp, trong khuôn khổ của các chương trình hai bên, khu vực, và nhiều bên hiện có, cũng như trong khuôn khổ của các 

chương trình  được mở rộng và của các chương trình mới, nhằm làm dễ 

dàng cho việc nghiên cứu khoa học biển và chuyển giao kỹ thuật biển, đặc 

biệt, trong các lĩnh vực mới, và việc cấp kinh phí quốc tế thích hợp cho việc 

nghiên cứu đại dương và khai thác các đại dương. 

ĐIỀU 271. Các nguyên tắc chỉ đạo, các tiêu chuẩn và quy phạm 

Các quốc gia, trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, 

tìm cách xúc tiến việc soạn thảo các nguyên tắc chỉ đạo, các tiêu chuẩn và 

qui phạm được chấp nhận chung về việc chuyển giao kỹ thuật biền trong 

khuôn khổ của các thỏa hiệp hai bên hay trong khuôn khổ của các tổ chức 

quốc tế và cơ quan khác, đặc biệt, có tính đến các lợi ích và nhu cầu của 

quốc gia đang phát triển. 

ĐIỀU 272. Việc phối hợp các chương trình quốc tế 

Trong lĩnh vực chuyển giao kỹ thuật biển, các quốc gia cố gắng bảo đảm 

cho các tổ chức quốc tế có thâtm quyền phối hợp với các hoạt động của họ, 

kể cả mọi chương trình khu vực và thế giới, có tính đến các lợi ích và nhu 

cầu của các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là các quốc gia không có biển 

hay bất lợi về mặt địa lý. 

ĐIỀU 273. Việc hợp tác với các tổ chức quốc tế và Cơ quan quyền lực 

Các quốc gia tích cực hợp tác với các tổ chức quốc tế có thẩm quyền và với 

Cơ quan quyền lực nhằm khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc 

chuyển giao cho các quốc gia đang phát triển, cho công dân của họ và cho 

xí nghiệp những kiến thức thực tiễn và kỹ thuật biển có liên quan đến các 

hoạt động trong Vùng. 

ĐIỀU 274. Các mục tiêu của Cơ quan quyền lực 

Về các hoạt động tiến hành trong Vùng, Cơ quan quyền lực quan tâm tới 

mọi lợi ích chính đáng cũng như các quyền và nghĩa vụ của những người 

nắm giữ, những người cung cấp và những người được nhận kỹ thuật, đảm 

bảo cho: 

Theo đúng nguyên tắc phân chia công bằng về mặt địa lý, các công dân 

của các quốc gia đang phát triền, dù là quốc gia ven biển, không có 

biển hay có hoàn cảnh địa lý bất lợi, được đưa vào làm nhân viên tập 

sự trong số các nhân viên kỹ thuật, quản lý và nghiên cứu được tuyển 

cho các nhu cầu hoạt động của Cơ quan quyền lực; 

Tài liệu kỹ thuật về dụng cụ, máy móc thiết bị và phương pháp đã dùng 

phải để cho tất cả các quốc gia sử dụng, nhất là cho các quốc gia đang phát triển đang có nhu cầu và yêu cầu được hưởng sự giúp đỡ kỹ thuật 

trong lĩnh vực này; 

Các quy định thích hợp phải được xác định ngay trong Cơ quan quyền lực 

để tạo điều kiện dễ dàng cho các quốc gia có nhu cầu và yêu cầu được 

hưởng một sự giúp đỡ kỹ thuật trong lĩnh vực kỹ thuật biển, nhất là các 

quốc gia đang phát triển, và công dân của các nước này, nắm được các 

kiến thức và có trình độ thành thạo cần thiết, kể cả việc được hưởng 

một sự đào luyện về nghề nghiệp. 

Các quốc gia có nhu cầu và yêu cầu được hưởng một sự giúp đỡ kỹ thuật 

trong lĩnh vực này, nhất là các quốc gia  đang phát triển, nhận  được 

một sự giúp đỡ để có được trang thiết bị, các phương pháp, dụng cụ và 

bí quyết kỹ thuật cần thiết, trong khuôn khổ của các thỏa thuận tài 

chính trù định trong Công ước. 

Mục 3 

CÁC TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 

VÀ KỸ THUẬT BIỂN CỦA QUỐC GIA VÀ KHU VỰC 

ĐIỀU 275. Việc thành lập các trung tâm quốc gia  

1. Các quốc gia, trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức quốc tế có thẩm 

quyền và Cơ quan quyền lực, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập, 

nhất là trong các quốc gia ven biển đang phát triển, các trung tâm quốc gia 

nghiên cứu khoa học và kỹ thuật biển, và tăng cường các trung tâm hiện có, 

để động viên và xúc tiến việc nghiên cứu khoa học biển trong các quốc gia 

này và để phát triển khả năng riêng của từng nước nhằm sử dụng và gìn giữ 

các tài nguyên biển của họ cho mục đích kinh tế. 

2. Các quốc gia, thông qua các tổ chức quốc tế có thẩm quyền và Cơ quan 

quyền lực, góp phần giúp đỡ thích đáng để tạo điều kiện dễ dàng cho việc 

thành lập và tăng cường các trung tâm quốc gia nhằm làm cho các quốc gia 

có nhu cầu và yêu cầu  được hưởng sự giúp  đỡ như vậy có  được những 

phương tiện đào tạo tiên tiến, những thiết bị, những kiến thức thực tiễn và 

sự thông thạo cần thiết, cũng như các chuyên gia kỹ thuật. 

ĐIỀU 276. Việc thành lập các trung tâm khu vực 

1. Phối hợp với các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, Cơ quan quyền lực và 

các viện nghiên cứu quốc gia về khoa học và kỹ thuật biển, các quốc gia tạo 

điều kiện dễ dàng cho việc thành lập, nhất là trong các quốc gia đang phát 

triển, các trung tâm nghiên cứu khoa học và kỹ thuật biển của khu vực, nhằm khuyến khích và thúc đẩy việc nghiên cứu khoa học biển trong các 

quốc gia này và để làm dễ dàng cho việc chuyển giao kỹ thuật biển. 

2. Tất cả các quốc gia của cùng một khu vực cần tập hợp tác với các trung 

tâm của khu vực để bảo đảm tốt hơn việc thực hiện các mục tiêu của họ. 

ĐIỀU 277. Những chức năng của các trung tâm khu vực 

Ngoài các chức năng khác, các trung tâm khu vực có trách nhiệm bảo đảm: 

Các chương trình đào tạo và giảng dạy ở mọi trình độ trong các lĩnh vực 

nghiên cứu khoa học và kỹ thuật biển khác nhau, đặc biệt là môn sinh 

vật biển, đề cập trước hết là việc bảo về và quản lý các tài nguyên sinh 

vật, môn hải dương học, thủy văn học, kỹ thuật công trình, thăm dò địa 

chất đáy biển, khai thác mỏ và kỹ thuật khử mặn nước biển; 

Việc nghiên cứu công tác quản lý; 

Các chương trình nghiên cứu có quan hệ đến việc bảo vệ và gìn giữ môi 

trường biển và việc ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm; 

Việc tổ chức các hội nghị, hội thảo và các cuộc thảo luận thuộc khu vực; 

Thu thập và xử lý dữ kiện và thông tin trong lĩnh vực khoa học và kỹ 

thuật biển; 

Phổ biến nhanh chóng các kết quả của việc nghiên cứu khoa học và kỹ 

thuật biển trong các tài liệu dễ phổ cập; 

Phổ biến các thông tin về các chính sách quốc gia liên quan  đến việc 

chuyển giao kỹ thuật biển, và việc nghiên cứu so sánh có hệ thống các 

chính sách này; 

Sưu tập và hệ thống hóa các thông tin liên quan đến việc thương mại hóa 

các kỹ thuật, cũng như đến các hợp đồng và các thỏa thuận khác về các 

chứng chỉ; 

Hợp tác kỹ thuật với các quốc gia khác của khu vực. 

Mục 4 

VIỆC HỢP TÁC GIỮA CÁC TỔ CHỨC QUỐC TẾ 

ĐIỀU 278. Việc hợp tác giữa các tổ chức quốc tế 

Các tổ chức quốc tế có thẩm quyền nói trong phần này và Phần XIII thi 

hành mọi biện pháp cần thiết để trực tiếp hay bằng cách hợp tác chặt chẽ, 

làm tròn các chức năng và nhiệm vụ mà mình đảm đương theo phần này. 

PHẦN XV GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP 

Mục 1 

CÁC QUY ĐỊNH CHUNG 

ĐIỀU 279. Nghĩa vụ giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa bình 

Các quốc gia thành viên giải quyết mọi tranh chấp xảy ra giữa họ về việc 

giải thích hay áp dụng Công ước bằng các phương pháp hòa bình theo đúng 

Điều 2, khoản 3 của Hiến chương liên hợp quốc và, vì mục đích này, cần 

phải tìm ra giải pháp bằng các phương pháp đã được nêu ở Điều 33, khoản 

1 của Hiến chương. 

ĐIỀU 280. Giải quyết các tranh chấp bằng bất kỳ phương pháp hòa 

bình nào do các bên lựa chọn 

Không một quy định nào của phần này ảnh hưởng đến quyền của các quốc 

gia thành viên đi đến thỏa thuận giải quyết vào bất cứ lúc nào, bằng bất kỳ 

phương pháp hòa bình nào theo sự lựa chọn của mình một vụ tranh chấp 

xảy ra giữa họ và vấn đề giải thích hay áp dụng Công ước. 

ĐIỀU 281. Thủ tục phải tuân theo khi các bên không đạt tới một cách 

giải quyết  

1. Khi các quốc gia thành viên tham gia và một vụ tranh chấp liên quan đến 

việc giải thích hay áp dụng Công  ước  đã thỏa thuận tìm cách giải quyết 

tranh chấp này bằng một phương pháp hòa bình theo sự lựa chọn của mình, 

thì các thủ tục được trù định trong phần này chỉ được áp dụng nếu người ta 

không đạt được một cách giải quyết bằng phương pháp này và nếu sự thỏa 

thuận giữa các bên không loại trừ khả năng tiến hành một thủ tục khác.  

2. Nếu các bên cùng thỏa thuận về một thời hạn, thì khoản một chỉ được áp 

dụng kể từ khi kết thúc thời hạn này. 

ĐIỀU 282. Các nghĩa vụ xuất phát từ các hiệp định chung, khu vực hay 

hai bên 

Khi các quốc gia thành viên tham gia vào một vụ tranh chấp liên quan đến 

việc giải thích hay áp dụng Công ước, trong khuôn khổ của một hiệp định 

chung, khu vực hay hai bên hay bất kỳ cách nào, đã thỏa thuận rằng một vụ 

tranh chấp như vậy, sẽ phải tuân theo một thủ tục dẫn đến một quyết định 

bắt buộc, thì thủ tục này được áp dụng thay cho các thủ tục đã được trù định 

trong phần này, trừ khi các bên tranh chấp có thỏa thuận khác. 

 ĐIỀU 283. Nghĩa vụ tiến hành các cuộc trao đổi về quan điểm 

1. Khi có tranh chấp xảy ra giữa các quốc gia thành viên liên quan đến việc 

giải thích hay áp dụng Công ước, các bên tranh chấp tiến hành ngay một 

cuộc trao đổi quan điểm về cách giải quyết tranh chấp bằng thương lượng 

hay bằng các phương pháp hòa bình khác. 

2. Cũng như vậy, các bên tiến hành ngay một cuộc trao đổi quan điểm mỗi 

khi kết thúc một thủ tục giải quyết đối với một vụ tranh chấp như vậy mà 

không giải quyết được, hay mỗi khi đã có một giải pháp và các hoàn cảnh 

đòi hỏi các cuộc tham khảo ý kiến liên quan đến việc thi hành giải pháp đó. 

ĐIỀU 284. Việc hòa giải 

1. Bất kỳ quốc gia nào thành viên nào tham gia vào một vụ tranh chấp liên 

quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước đều có thể yêu cầu quốc gia 

khác hay các bên khác đưa vụ tranh chấp ra hòa giải theo thủ tục đã được 

trù định ở Mục 1 của Phụ lục V, hay theo một thủ tục hòa giải khác. 

2. Khi yêu cầu đã được chấp nhận và nếu các bên đồng ý về thủ tục hòa giải 

sẽ được áp dụng, thì bất kỳ bên nào cũng có thể đưa ra vụ tranh chấp ra hòa 

giải theo thủ tục đó. 

3. Khi yêu cầu không được chấp nhận hay nếu các bên không thỏa thuận 

được về thủ tục hòa giải, thì coi như đã chấm dứt việc hòa giải. 

4. Khi một vụ tranh chấp đã được đưa ra hòa giải, thì chỉ kết thúc việc hòa 

giải theo đúng thủ tục hòa giải đã thỏa thuận, trừ khi các bên có sự thỏa 

thuận khác. 

ĐIỀU 285. Việc áp dụng mục này cho các vụ tranh chấp đã được đưa 

ra theo phần XI 

Mục này được áp dụng cho bất kỳ vụ tranh chấp nào mà theo Mục 5 của 

Phần XI cần được giải quyết theo đúng các thủ tục đã trù định trong phần 

này. Nếu một thực thế không phải là một quốc gia thành viên tham gia vào 

một vụ tranh chấp như thế, thì mục này được áp dụng mutalis mutandis (với 

những sửa đổi cần thiết về chi tiết). 

Mục 2 

CÁC THỦ TỤC BẮT BUỘC 

DẪN TỚI CÁC QUYẾT ĐỊNH BẮT BUỘC 

 ĐIỀU 286. Phạm vi áp dụng mục này 

Với điều kiện tuân thủ Mục 3, mọi tranh chấp liên quan đến việc giải thích 

hay áp dụng Công ước khi không được giải quyết bằng cách áp dụng Mục 

1, theo yêu cầu của một bên tranh chấp, đều được đưa ra trước tòa án có 

thẩm quyền theo mục này. 

ĐIỀU 287. Việc lựa chọn thủ tục 

1. Khi ký hay phê chuẩn Công ước hoặc tham gia Công ước, hay ở bất kỳ 

thời điểm nào sau đó, một quốc gia được quyền tự do lựa chọn, hình thức 

tuyên bố bằng văn bản, một hay nhiều biện pháp sau đây để giải quyết các 

tranh chấp có liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước: 

Tòa án quốc tế về Luật biển được thành lập theo đúng Phụ lục VII; 

Toà án quốc tế; 

Một tòa trọng tài được thành lập theo đúng Phụ lục VII; 

Một tòa trọng tài đặc biệt được thành lập theo đúng Phụ lục VIII để giải 

quyết một hay nhiều loại tranh chấp đã được qui định rõ trong đó. 

2. Một bản tuyên bố theo khoản 1 không ảnh hưởng đến nghĩa vụ của một 

quốc gia thành viên phải chấp nhận, trong phạm vi và theo các thể thức 

được trù định ở Mục 5 của phần XI, thẩm quyền của Viện giải quyết các 

tranh chấp có liên quan đến đáy biển thuộc Toàn án quốc tế về luật biển và 

tuyên bố đó cũng không bị nghĩa vụ này tác động đến. 

3. Một quốc gia thành viên tham gia vào một vụ tranh chấp mà không được 

một tuyên bố còn có hiệu lực bảo vệ, thì được xem là đã chấp nhận thủ tục 

trọng tài đã trù định ở Phụ lục VII. 

4. Nếu các bên tranh chấp  đã chấp nhận cùng một thủ tục  để giải quyết 

tranh chấp, thì vụ tranh chấp đó chỉ có thể được đưa ra giải quyết theo thủ 

tục đó, trừ khi các bên có thỏa thuận khác. 

5. Nếu các bên tranh chấp không chấp nhận cùng một thủ tục để giải quyết 

tranh chấp, thì vụ tranh chấp đó chỉ có thể được đưa ra giải quyết theo thủ 

tục trọng tài đã được trù định ở Phụ lục VII, trừ khi các bên có thỏa thuận 

khác. 

6. Một bản tuyên bố theo đúng khoản 1 vẫn còn hiệu lực trong vòng 3 tháng 

sau khi đã gửi một thông báo hủy bỏ cho Tổng thư ký Liên hợp quốc. 

7. Một tuyên bố mới, một thông báo hủy nbỏ hay việc một tuyên bố hết hạn 

không hề ảnh hưởng đến thủ tục đang tiến hành trước một toàn án có thẩm 

quyền theo điều này, trừ khi các bên có thỏa thuận khác.  

8. Các tuyên bố và thông báo đã nêu ở điều này được gửi đến Tổng thư ký 

Liên hợp quốc để lưu chuyển và Tổng thư ký Liên hợp quốc chuyển các 

bản sao cho các quốc gia thành viên.  

ĐIỀU 288. Thẩm quyền 

1. Một tòa án đã nêu ở Điều 287 có thẩm quyền xét xử bất kỳ tranh chấp 

nào liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước đã được đưa ra cho 

mình theo đúng phần này. 

2. Một tòa án nói ở Điều 287 cũng có thẩm quyền xét xử bất kỳ tranh chấp 

nào liên quan đến việc giải thích hay áp dụng một điều ước quốc tế có liên 

quan  đến các mục  đích của Công  ước và  đã  được  đưa ra cho mình theo 

đúng điều ước này. 

3. Viện giải quyết tranh chấp liên quan  đến  đáy biển  được lập nên theo 

đúng phụ lục VI và bất kỳ viện nào khác, hay tòa trọng tài nào khác, đã nêu 

ở Mục 5 của Phần XI, đều có thẩm quyền xét xử mọi vấn đề đã được đưa ra 

cho mình theo đúng mục đó. 

4. Trong trường hợp có sự tranh cãi về vấn đề một tòa án có thẩm quyền 

hay không, thì vấn đề này do tòa án đó quyết định. 

ĐIỀU 289. Các chuyên viên 

Đối với mọi tranh chấp  đụng chạm  đến những vấn  đề khoa học hay kỹ 

thuật, một tòa án khi thi hành thẩm quyền của mình theo mục này, theo yêu 

cầu của một bên hay tự ý mình, và qua tham khảo ý kiến các bên, có thể lựa 

chọn trên một bản danh sách thích hợp được lập nên theo đúng Điều 2 của 

phụ lục VIII, ít nhất là 2 chuyên viên khoa học hay kỹ thuật tham gia tòa án 

nhưng không có quyền biểu quyết. 

ĐIỀU 290. Những biện pháp bảo đảm 

1. Nếu một tòa án được đề nghị xét một vụ tranh chấp theo đúng thủ tục và 

thấy prima facie (hiển nhiên) là mình có thẩm quyền theo phần này hay 

Mục 5 của phần XI, thì tòa án này có thế qui định tất cả các biện pháp bảo 

đảm mà mình xét thấy thích hợp với tình hình để bảo vệ các quyền riêng 

của từng bên tranh chấp hay  để ngăn không cho môi trường của biển bị 

những tổn thất nghiêm trọng, trong khi chờ quyết định cuối cùng. 

2. Các biện pháp bảo đảm có thể bị sửa đổi hay hủy bỏ ngay khi các hoàn 

cảnh chứng minh cho các biện pháp đó thay đổi hay không còn tồn tại.  

3. Các biện pháp bảo đảm chỉ có thể được qui định, sửa đổi hay hủy bỏ theo 

điều này, theo yêu cầu của một bên tranh chấp và sau khi đã tạo cho các 

bên tranh chấp khả năng thỏa thuận được với nhau. 

4. Toà án thông báo ngay mọi biện pháp bảo đảm hay mọi quyết định sửa 

bỏ hay hủy bỏ biện pháp đó cho các bên tranh chấp, và nếu xét thấy thích 

hợp, thì thông báo cho các quốc gia thành viên khác. 

5. Trong khi chờ lập ra một tòa trọng tài xét xử một vụ tranh chấp theo mục 

này, mọi tòa án do các bên thỏa thuận với nhau chỉ định, hoặc, nếu không 

thỏa thuận được trong một thời hạn 2 tuần sau ngày có yêu cầu các biện 

pháp bảo đảm. Toà án quốc tế về luật biển, hay trong trường hợp của các 

hoạt động tiến hành trong Vùng, Viện giải quyết các tranh chấp liên quan 

đến đáy biển, có thể quy định, sửa đổi hay hủy bỏ các biện pháp bảo đảm 

theo đúng điều này, nếu như họ thấy prima facie (hiển nhiên) rằng tòa án 

cần được lập ra sẽ có thẩm quyền, và nếu như họ xét thấy rằng tính chất 

khẩn trương của tình hình đòi hỏi phải làm như vậy. Một khi được thành 

lập, tòa án được giao xét xử vụ tranh chấp, hành động theo đúng các khoản 

1 đến 4, có thể sửa đổi, hủy bỏ hay xác nhận biện pháp bảo đảm này. 

6. Các bên tranh chấp phải tuân theo không chậm trễ các biện pháp bảo 

đảm được quy định theo điều này. 

ĐIỀU 291. Việc sử dụng các thủ tục giải quyết tranh chấp 

1. Tất cả các thủ tục giải quyết tranh chấp được trù định trong phần này đều 

để ngỏ cho các quốc gia thành viên. 

2. Các thủ tục để giải quyết tranh chấp được trù định trong phần này chỉ để 

ngo cho các thực thể không phải là quốc gia thành viên trong phạm vi mà 

Công ước đã trù định một cách rõ ràng. 

ĐIỀU 292. Giải phóng ngay cho tàu thuyền bị cầm giữ hay trả tự do 

cho đoàn thủy thủ của nó 

1. Khi các nhà chức trách của một quốc gia thành viên đã bắt giữ một chiếc 

tàu mang cờ của một quốc gia thành viên khác và nếu thấy rằng quốc gia 

bắt giữ chiếc tàu đã không tuân theo các qui định của Công ước trù định 

việc giải phóng ngay cho tàu thuyền hay trả tự do cho đoàn thủy thủ của nó 

ngay khi ký gởi một khoản tiền bảo lãnh hợp lý hay một khoản bảo đảm tài 

chính nào khác, thì vấn đề giải phóng tàu hay trả tự do cho đoàn thủy thủ 

phải được đưa ra trước một tóa án do các bên chỉ định theo một thỏa thuận 

chung; nếu không thỏa thuận đuợc trong một thời hạn 10 ngày kể từ lúc bắt giữ chiếc tàu hay đoàn thủy thủ, vấn đề này có thể được đưa ra trước một 

tòa án được quốc gia đã tiến hành bắt hay giữ tàu hay đoàn thủy thủ chấp 

nhận theo đúng Điều 287, hay trước Tòa án quốc tế về luật biển, trừ khi các 

bên có thỏa thuận khác. 

2. Yêu cầu giải phóng hay trả tự do chỉ có thể do quốc gia mà tàu mang cờ 

hoặc nhân danh quốc gia ấy đưa ra. 

3. Tòa án nhanh chóng xem xét yêu cầu này và chỉ xét xử vấn đề giải phóng 

tàu hay trả tự do cho đoàn thủy thủ, việc này không có ảnh hưởng gì đến 

tiến trình tiếp sau của mọi vụ kiện mà chiếc tàu, người chủ chiếc tàu hay 

đoàn thủy thủ của nó có thể là  đối tượng trước quyền tài phán quốc gia 

thích hợp. Các nhà chức trách của quốc gia đã tiến hành bắt, giữ vẫn có đủ 

tư cách ra lệnh giải phóng tàu hay trả tự do cho đoàn thủy thủ của nó vào 

bất kỳ lúc nào. 

4. Ngay khi đã ký gửi khoản tiền bảo lãnh hay một khoản bảo đảm tài chính 

khác theo quyết định của tòa án, các nhà chức trách của quốc gia đã bắt giữ 

tàu phải tuân theo quyết định của tòa án về việc giải phóng tàu và trả tự do 

cho đoàn thủy thủ của nó. 

ĐIỀU 293. Luật có thể áp dụng 

1. Tòa án có thẩm quyền theo mục này áp dụng các qui định của Công ước 

và các qui tắc khác của pháp luật quốc tế không mâu thuẫn với Công ước. 

2. Khoản 1 không đụng chạm đến quyền hạn của tòa có thẩm quyền theo 

mục này để xét xử ex aequo bono (công bằng) nếu các bên thỏa thuận. 

ĐIỀU 294. Các thủ tục sơ bộ 

1. Tòa án được trù định ở Điều 287 nhận được đơn yêu cầu xét xử một vụ 

tranh chấp nói ở Điều 297 quyết định theo thỉnh cầu của một bên, hay có 

thể quyết định theo ý mình, xem yêu cầu này có phải là một sự lạm dụng 

các phương pháp tố tụng hay prima facie (hiển hiên) là có căn cứ. Nếu tòa 

án xét thấy rằng, đó là một sự lạm dụng các phương pháp tố tụng hay prima 

facie (hiển hiên) là không có căn cứ, thì tòa án thôi không xét đơn nữa. 

2. Lúc nhận được đơn, tòa án thông báo ngay cho bên kia hay các bên kia, 

và qui định một thời hạn hợp lý, để các bên này có thể yêu cầu tòa quyết 

định về các điểm đã nêu ở khoản 1. 

3. Điều này không hề đụng chạm đến các quyền của một bên tranh chấp 

nêu lên những phản bác sơ bộ theo đúng các qui tắc tố tụng có thể áp dụng.  

ĐIỀU 295. Trường hợp các biện pháp tố tụng nội bộ đã được sử dụng 

hết 

Một vụ tranh chấp giữa các quốc gia thành viên liên quan  đến việc giải 

thích hay áp dụng Công ước, chỉ có thể được đưa ra giải quyết theo các thủ 

tụ đã qui định ở mục này sau khi các biện pháp tố tụng nội bộ đã được sử 

dụng hết theo đòi hỏi của pháp luật quốc tế. 

ĐIỀU 296. Tính chất tối hậu và bắt buộc của các quyết định 

1. Các quyết định do tòa án có thẩm quyền theo mục này đưa ra là có tính 

chất tối hậu, và tất cả các bên tranh chấp phải tuân theo. 

2. Các quyết  định  đó chỉ có tính chất bắt buộc  đối với các bên và trong 

trường hợp riêng biệt được xem xét. 

Mục 3 

CÁC GIỚI HẠN VÀ NGOẠI LỆ ĐỐI VỚI VIỆC ÁP DỤNG 

ĐIỀU 297. Các giới hạn áp dụng mục 2 

1. Các vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước về 

việc thi hành các quyền thuộc chủ quyền hay quyền tài phán của quốc gia 

ven biển như đã được trù định trong Công ước, được xét theo các thủ tục 

giải quyết đã được trù định ở Mục 2 trong các trường hợp sau đây: 

Khi thấy rằng quốc gia ven biển đã không tuân theo Công ước liên quan 

đến tự do và quyền hàng hải, hàng không hoặc tự do và quyền đặt các 

dây cáp và  ống dẫn ngầm, cũng như  đến việc sử dụng biển vào các 

mục đích khác mà quốc tế thừa nhận là chính đã nêu ở Điều 58; 

Khi thấy rằng trong việc thi hành các tự do và các quyền đó hoặc trong 

việc sử dụng các quyền này, một quốc gia đã không tuân theo Công 

ước hay các luật hoặc các qui định do quốc gia ven biển đề ra phù hợp 

với các qui định của Công ước và các qui tắc khác của pháp luật quốc 

tế không trái với Công ước; hoặc 

Khi thấy rằng quốc gia ven biển đã không tuân theo các qui tắc hay quy 

phạm quốc tế đã được xác định nhằm bảo vệ và gìn giữ môi trường 

biển có thể áp dụng cho quốc gia này và đã được Công ước đặt ra, hay 

được đặt ra thông qua một tổ chức quốc tế có thẩm quyền hay một hội 

nghị ngoại giao hành động phù hợp với Công ước. 

2. a) Các vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng các qui 

định của Công ước về nghiên cứu khoa học biển được giải quyết theo đúng Mục 2, trừ khi quốc gia ven biển không chịu chấp nhận theo cách giải quyết 

như thế đối với một vụ tranh chấp phát sinh từ: 

Việc quốc gia này thi hành một quyền tùy ý quyết định theo đúng Điều 

246; hay 

Quyết định của quốc gia này ra lệnh đình chỉ hoặc chấm dứt tiến hành 

một dự án nghiên cứu theo đúng Điều 253; 

b) Các vụ tranh chấp phát sinh từ một luận cứ của quốc gia nghiên cứu 

cho rằng trong trường hợp của một dự án riêng biệt, quốc gia ven biển 

không sử dụng các quyền mà các Điều 246 và 253 đã dành cho mình một 

cách phù hợp với Công ước, thì theo yêu cầu của bên này hay bên khác 

được đưa ra hòa giải theo thủ tục đã được trù định ở Mục 2 của Phụ lục V, 

dĩ nhiên là Ủy ban hòa giải không được xét việc thi hành quyền tùy ý quyết 

định của quốc gia ven biển trong việc chỉ định các khu vực đặc biệt, như đã 

được trù  định  ở Điều 246, khoản 6, cũng như việc thi hành quyền tùy ý 

không cho phép theo đúng khoản 5 của cùng điều đó. 

3. a) Các việc tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng các qui 

định của Công ước về việc đánh bắt hải sản được giải quyết theo đúng Mục 

2, trừ khi quốc gia ven biển không chịu chấp nhận cách giải quyết như vậy 

về một vụ tranh chấp liên quan đến các quyền thuộc chủ quyền của mình 

đối với các tài nguyên sinh vật thuộc Vùng đặc quyền về kinh tế của mình, 

hay liên quan đến việc thi hành các quyền này, kể cả quyền tùy ý qui định 

khối lượng đánh bắt có thể chấp nhận được và khả năng đánh bắt của mình, 

phân phối số dư ra giữa các quốc gia khác, quyết định các thể thức, điều 

kiện đặt ra trong các luật và qui định của mình về bảo vệ và quản lý; 

   b) Nếu việc vận dụng Mục 1, không cho phép đi đến một cách giải quyết, 

thể theo yêu cầu của một bên nào đó trong số các bên tranh chấp, vụ tranh 

chấp được đưa ra hòa giải theo thủ tục được trù định ở Mục 2 của Phụ lục 

V, khi chứng minh được rằng quốc gia ven biển đã: 

Rõ ràng không thực hiện nghĩa vụ phải dùng các biện pháp bảo vệ và 

quản lý thích hợp  để bảo  đảm rằng việc duy trì các tài nguyên sinh vật 

thuộc vùng đặc quyền kinh tế không bị ảnh hưởng nghiêm trọng; 

Độc đoán từ chối việc quy định, theo yêu cầu của một quốc gia khác 

khối lượng  đánh bắt có thể chấp nhận  được và khả năng khai thác tài 

nguyên sinh vật của mình đối với các đàn (stocks) hải sản mà việc khai thác 

có liên quan đến quốc gia khác đó; hay 

Độc đoán từ chối việc chia cho một quốc gia nào đó toàn bộ hay một 

phần số cá dư mà mình đã xác nhận, như đã trù định ở các Điều 62, 69 và 

70 và theo các thể thức và điều kiện mà bản thân mình đã qui định và phù 

hợp với Công ước; 

Ủy ban hòa giải không có trường hợp nào được phép dùng quyền túy ý 

quyết định của mình thay cho quyền tùy ý quyết định của các quốc gia 

ven biển. Báo cáo của Ủy ban hòa giải phải được thông báo cho các tổ chức quốc tế 

thích hợp. 

Khi đàm phán về các thỏa thuận đã trù định ở các Điều 69 và 70, các quốc 

gia thành viên, trừ khi có thỏa thuận khác, ghi vào đó một điều khoản 

trù  định các biện pháp mà mình phải thi hành  để giảm  đến mức tối 

thiểu các khả năng bất đồng về việc giải thích hay áp dụng thỏa thuận, 

cũng như thủ tục phải tuân theo trong trường hợp vẫn có bất đồng. 

ĐIỀU 298. Những ngoại lệ không bắt buộc đối với việc áp dụng Mục 2 

1. Khi ký kết, phê chuẩn hay tham gia Công ước, hoặc ở vào bất kỳ thời 

điểm nào sau đó, với điều kiện không phương hại đến các nghĩa vụ phát 

sinh từ Mục 1, một quốc gia có thể tuyên bố bằng văn bản rằng mình không 

chấp nhận một hay nhiều thủ tục giải quyết các tranh chấp đã được trù định 

ở Mục 2 có liên quan đến một hay nhiều loại tranh chấp sau đây: 

a) i. Các vụ tranh chấp về việc giải thích hay áp dụng các Điều 15, 74 và 

83 liên quan đến việc hoạch định ranh giới các vùng biển hay các vụ tranh 

chấp về các vịnh hay danh nghĩa lịch sử, nghĩa là khi một tranh chấp như 

thế xảy ra sau khi Công ước có hiệu lực và nếu các bên không đi đến một 

thỏa thuận nào bằng con đường thương lượng trong một thời hạn hợp lý, thì 

quốc gia đã tuyên bố, theo yêu cầu của một trong các bên, chấp nhận đưa 

vụ tranh chấp đó ra hòa giải theo thủ tục đã được trù định ở Mục 2 của phụ 

lục V, và đương nhiên không thể đưa ra xét theo thủ tục này một vụ tranh 

chấp nào đòi hỏi nhất thiết phải xem xét đồng thời một vụ tranh chấp chưa 

được giải quyết liên quan đến chủ quyền và các quyền khác trên một lãnh 

thổ đất liền hay đảo; 

ii. Một khi Ủy ban hòa giải đã trình bày báo cáo của mình, báo cáo 

phải nói rõ được lý do, thì các bên thương lượng về một thỏa thuận trên cơ 

sở của báo cáo này; nếu các cuộc thương lượng không thành, thì các bên, 

qua sự thỏa thuận với nhau, đưa vấn đề ra theo các thủ tục đã được quy 

định ở Mục 2, trừ khi các bên có thỏa thuận khác; 

iii. Điểm nhỏ này không áp dụng đối với các vụ tranh chấp liên quan 

đến việc hoạch định ranh giới các vùng biển đã được một thỏa thuận giữa 

các bên giải quyết dứt khoát, cũng như đối với các vụ tranh chấp phải được 

giải quyết theo đúng một bạn thỏa thuận hai bên hay nhiều bên có tính chất 

ràng buộc các bên;  

b) Các vụ tranh chấp liên quan  đến các hoạt  động quân sự, kể cả hoạt 

động quân sự của tàu thuyền và phương tiện bay của Nhà nước  được sử 

dụng cho một dịch vụ không có tính chất thương mại, và các vụ tranh chấp 

liên quan đến các hành động bắt buộc chấp hành, đã được thực hiện trong 

việc thi hành các quyền thuộc chủ quyền hoặc quyền tài phán mà Điều 297, 

khoản 2 và 3, đã loại trừ khỏi thẩm quyền của một Tòa án; 

c) Các vụ tranh chấp mà Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, trong khi thi 

hành các chức năng của mình do Hiến chương Liên hợp quốc giao phó có trách nhiệm giải quyết, trừ khi Hội  đồng bảo an quyết  định xóa vấn  đề 

trong chương trình nghị sự của mình hay yêu cầu các bên tranh chấp giải 

quyết tranh chấp của họ bằng các phương pháp đã qui định trong Công ước. 

2. Một quốc gia thành viên đã ra một tuyên bố theo khoản 1, thì bất kỳ lúc 

nào cũng có thể rút lui tuyên bố đó hay thỏa thuận đưa ra một vụ tranh chấp 

mà tuyên bố này đã loại trừ, ra trước bất cứ thủ tục giải quyết nào đã được 

trù định trong Công ước. 

3. Một quốc gia thành viên đã ra một tuyên bố theo khoản 1, thì không thể 

đưa ra một vụ tranh chấp, nằm trong một loại tranh chấp đã bị loại trừ, ra 

trước một thủ tục nào đó trong số các thủ tục đã được trù định trong Công 

ước, nếu không có sự thỏa thuận của quốc gi thành viên đang tranh chấp 

với mình. 

4. Nếu một quốc gia thành viên đã ra một tuyên bố theo khoản 1, điểm a, 

thì bất kỳ quốc gia thành viên nào khác cũng có thể đưa ra mọi tranh chấp 

giữa quốc gia đó với quốc gia đã ra tuyên bố và nằm trong một loại tranh 

chấp đã bị loại trừ, ra giải quyết theo thủ tục được định rõ trong tuyên bố 

này. 

5. Một tuyên bố mới hay một thông báo rút lui một tuyên bố không hề có 

tác động đến thủ tục đang áp dụng trước một toàn án xét xử theo đúng điều 

này, trừ khi các bên có thỏa thuận khác. 

6. Các tuyên bố hay các thông báo rút lui các tuyên bố nói ở điều này phải 

được gửi cho Tổng thư ký Liên hợp quốc để lưu chuyển, Tổng thư ký Liên 

hợp quốc chuyển các bản sao các văn kiện đó cho các quốc gia thành viên. 

ĐIỀU 299. Quyền của các bên trong việc thỏa thuận các thủ tục 

1. Bất kỳ tranh chấp nào khi đã bị loại khỏi các thủ tục giải quyết các tranh 

chấp được trù định ở Mục 2 theo Điều 297 hoặc bằng một tuyên bố theo 

đúng Điều 298, thì chỉ có thể được đưa ra giải quyết theo các thủ tục này 

qua sự thỏa thuận của các bên tranh chấp. 

2. Không một quy định nào của mục này đụng chạm đến quyền của các bên 

tranh chấp trong việc thỏa thuận sử dụng một thủ tục khác để giải quyết vụ 

tranh chấp, hay thỏa thuận giải quyết vụ tranh chấp bằng sự giàn xếp ổn 

thỏa. 

PHẦN XVI 

CÁC QUY ĐỊNH CHUNG  

ĐIỀU 300. Thiện chí và lạm quyền 

Các quốc gia thành viên phải có thiện chí hoàn thành các nghĩa vụ đã đảm 

nhận theo nội dung Công ước, và thực hiện các quyền, thẩm quyền và các 

tự do  đã  được thừa nhận trong Công  ước, sao cho không  để xảy ra tình 

trạng lạm quyền. 

ĐIỀU 301. Việc sử dụng biển vào những mục đích hòa bình 

Trong việc thực hiện các quyền và làm tròn nghĩa vụ của mình theo đúng 

Công ước, các quốc gia thành viên tránh dựa vào việc đe dọa hay sử dụng 

vũ lực để xâm phạm toàn vẹn lãnh thổ hay độc lập chính trị của mọi quốc 

gia hay tránh cùng bất kỳ cách nào khác không phù hợp với các nguyên tắc 

của pháp luật quốc tế đã được nêu trong Hiến chương Liên hợp quốc. 

ĐIỀU 302. Việc tiết lộ các thông tin 

Không phương hại đến quyền của mọi quốc gia thành viên dựa vào các thủ 

tục giải quyết các vụ tranh chấp đã được trù định trong Công ước, không 

qui định nào của Công ước có thể được giải thích như là bắt buộc một quốc 

gia thành viên, trong khi thi hành các nghĩa vụ của mình theo Công ước, 

cung cấp các thông tin mà việc tiết lộ sẽ là trái với các lợi ích thiết yếu của 

mình về mặt an ninh. 

ĐIỀU 303. Các hiện vật khảo cổ và lịch sử được phát hiện ở biển 

Các quốc gia có nghĩa vụ bảo vệ các hiện vật có tính chất khảo cổ hay lịch sử 

được phát hiện ở biển; các quốc gia hợp tác với nhau vì mục đích ấy. 

Để kiểm soát việc mua bán hiện vật này, bằng cách áp dụng Điều 33, quốc 

gia ven biển có thể coi việc lấy các hiện vật đó từ đáy biển trong vùng nói 

ở điều đó mà không có sự thỏa thuận của mình là sự vi phạm các luật và 

qui  định của quốc gia ven biển  ở trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của 

mình, đã được nêu ở Điều 33. 

Điều này không đụng chạm đến các quyền của những người sở hữu có thể 

được xác nhận, cũng không đụng chạm đến quyền thu hồi các xác tàu và 

các qui tắc khác của luật hàng hải cũng không đụng chạm đến các luật và 

tập quán về mặt trao đổi văn hóa. 

 Điều này không làm phương hại đến các điều ước quốc tế khác và các qui tắc 

của pháp luật quốc tế liên quan đến việc bảo vệ các hiện vật có tính chất 

khảo cổ hay lịch sử. 

ĐIỀU 304. Trách nhiệm trong trường hợp xảy ra thiệt hại 

Các qui định của Công ước liên quan đến trách nhiệm trong trường hợp xảy 

ra thiệt hại không phương hại đến việc áp dụng các qui tắc hiện hành và 

việc lập ra các qui tắc mới liên quan đến trách nhiệm theo pháp luật quốc 

tế. 

PHẦN XVII 

CÁC QUI ĐỊNH CUỐI CÙNG 

ĐIỀU 305. Ký kết 

1. Công ước để ngỏ cho các đối tượng sau đây được ký: 

Tất cả các quốc gia; 

Nước Na-mi-bi-a do Hội đồng của Liên hợp quốc về Na-mi-bi-a đại diện; 

Tất cả các quốc gia liên kết tự trị đã chọn chế độ này qua một hành động tự 

quyết do Liên hợp quốc giám sát và phê chuẩn theo Nghị quyết 1514 

(XV) của Đại hội đồng và có thẩm quyền đối với các vấn đề mà Công ước 

đề cập, kể cả thẩm quyền ký các hiệp ước về các vấn đề đó; 

Tất cả các quốc gia liên kết tự trị mà theo các văn bản liên kết, có thẩm 

quyền đối với các vấn đề mà Công ước đề cập, kể cả thẩm quyền ký các 

hiệp ước về các vấn đề đó; 

Tất cả các lãnh thổ có quyền tự trị hoàn toàn về nội trị được Liên hợp quốc 

thừa nhận, nhưng chưa giành  được nền  độc lập hoàn toàn phù hợp với 

Nghị quyết 1514 (XV) của Đại hội đồng và có thẩm quyền đối với các 

vấn đề mà Công ước đề cập, kể cả thẩm quyền ký các hiệp ước về các vấn 

đề đó; 

Các tổ chức quốc tế theo đúng phụ lục IX. 

Công ước để ngỏ cho việc ký kết tại Bộ Ngoại giao nước Gia-mai-ca cho 

đến ngày 09-12-1984 cũng như tại trụ sở của Liên hợp quốc tại Niu Oóc 

từ 1-7-1983 đến 9-12-1984. 

ĐIỀU 306. Việc phê chuẩn và việc xác nhận chính thức  

Công  ước phải  được các quốc gia và các thực thể khác nói  ở Điều 305, 

khoản 1, các điểm b, c, d và e phê chuẩn và được các thực thể nói ở khoản 

1, điểm f, của điều đó xác nhận chính thức theo đúng Phụ lục IX.  Các văn 

kiện phê chuẩn và xác nhận chính thức được lưu chiểu bên cạnh Tổng thư 

ký Liên hợp quốc. 

ĐIỀU 307. Việc tham gia 

Công ước vẫn để ngỏ cho các quốc gia và thực thể khác nói ở Điều 305 

tham gia.  Việc tham gia của các thực thể nói ở Điều 305, khoản 1, điểm f 

do Phụ lục IX điều chỉnh.  Các văn kiện tham gia được lưu chiểu bên cạnh 

Tổng thư ký Liên hợp quốc. 

ĐIỀU 308. Có hiệu lực 

1. Công ước có hiệu lực sau 12 tháng kể từ ngày gửi lưu chiểu văn bản phê 

chuẩn hay tham gia thứ 60. 

2. Đối với mỗi quốc gia phê chuẩn Công ước hay tham gia vào Công ước 

sau khi văn bản phê chuẩn hay tham gia thứ 60 đã được gửi lưu chiểu, thì 

Công ước sẽ có hiệu lực vào ngày thứ 30 sau ngày quốc gia này gửi lưu 

chiểu văn bản phê chuẩn hay tham gia của mình, với điều kiện phải tuân thủ 

quy định ở khoản 1. 

Đại hội đồng của Cơ quan quyền lực sẽ nhóm họp vào ngày mà Công ước 

bắt  đầu có hiệu lực và sẽ bầu ra Hội  đồng của Cơ quan quyền lực.  

Trong trường hợp Điều 161 không thể thực hiện hoàn toàn đầy đủ, thì 

Hội đồng đầu tiên phải được thành lập sao cho phù hợp với những mục 

tiêu đã nói ở điều đó. 

Các quy tắc, quy định và thủ tục do Ủy ban trù bị soạn thảo sẽ được tạm 

thời áp dụng trong khi chờ cho các qui tắc, qui định và thủ tục đó được 

Cơ quan quyền lực chính thức thông qua theo đúng Phần XI. 

Cơ quan quyền lực và các cơ quan của nó hành động theo đúng nghị quyết 

II của Hội nghị luật biển lần thứ III của Liên hợp quốc liên quan đến các 

khoản vốn đầu tư ban đầu và với các quyết định của Ủy ban trù bị để 

thực hiện nghị quyết này. 

ĐIỀU 309. Các bảo lưu và ngoại lệ 

 Công ước không chấp nhận bảo lưu, cũng không chấp nhận các ngoại lệ 

ngoài những điều đã được các điều khác của Công ước cho phép một cách 

rõ ràng. 

ĐIỀU 310. Các tuyên bố 

Điều 309 không ngăn cấm một quốc gia, vào lúc mà quốc gia này ký hay 

phê chuẩn Công ước hoặc tham gia vào Công ước, ra các tuyên bố, bất kể 

lới văn hay tên gọi của tuyên bố đó thế nào, đặc biệt là nhằm điều hòa luật 

lệ và qui định quốc của họ với Công ước, với điều kiện là các tuyên bố này 

không nhằm loại trừ hay sửa  đổi hiệu lực pháp lý của các qui  định của 

Công ước trong việc áp dụng chúng vào quốc gia này. 

ĐIỀU 311. Mối quan hệ với các công ước và điều ước quốc tế khác 

Giữa các quốc gia thành viên, Công ước có giá trị hơn các Công ước Giơ-

ne-vơ ngày 29 tháng 4 năm 1958 về luật biển. 

Công ước không thay đổi chút nào về các quyền và nghĩa vụ của các quốc 

gia thành viên bắt nguồn từ các Hiệp ước khác phù hợp với Công ước và 

các quyền và nghĩa vụ đó không đụng chạm đến việc các quốc gia khác 

được hưởng các quyền mà Công ước dành cho họ, cũng như việc các 

quốc gia khác thi hành nghĩa vụ của họ bắt nguồn từ Công ước. 

Hai hoặc trên hai quốc gia thành viên tham gia vào Công ước có thể ký các 

điều ước sửa đổi hay đình chỉ việc áp dụng các qui định của Công ước 

và chỉ áp dụng vào các mối quan hệ giữa họ với nhau, với điều kiện là 

các điều ước này không đụng đến một trong các qui định Công ước mà 

việc không tôn trọng sẽ không phù hợp với việc thực hiện nội dung và 

mục  đích của Công  ước, và cũng với  điều kiện là các  điều  ước này 

không đụng chạm đến việc áp dụng các nguyên tắc cơ bản đã được nêu 

trong Công  ước, cũng không  đụng chạm  đến việc các quốc gia khác 

hưởng và thi hành các quyền hay nghĩa vụ bắt nguồn từ Công ước. 

Các quốc gia thành viên dự định ký kết một điều ước nói ở khoản 3 cần 

thông báo cho các bên khác, qua trung gian của người lưu chiểu Công 

ước, ý định ký kết điều ước của mình cũng như những sửa đổi hay việc 

đình chỉ áp dụng các qui định của Công ước mà điều ước đó trù định. 

Điều này không đụng chạm đến các điều ước quốc tế được phép hay được 

duy trì một cách rõ ràng theo các điều khác của Công ước. 

Các quốc gia thành viên thỏa thuận rằng không thể có sự sửa đổi nào đối 

với nguyên tắc cơ bản về di sản chung của loài người đã được nêu lên ở Điều 136 và các quốc gia này sẽ không tham gia vào một điều ước nào 

vi phạm nguyên tắc ấy. 

ĐIỀU 312. Sửa đổi 

Sau một thời gian 10 năm kể từ ngày Công ước có hiệu lực, mọi quốc gia 

thành viên có thể, qua văn bản gửi lên Tổng thư ký Liên hợp quốc, đề 

nghị các điểm sửa đổi đối với Công ước về những điểm cụ thể, trong 

chừng mực mà các điểm sửa đổi đó không nhằm vào các hoạt động tiến 

hành trong Vùng, và đề nghị triệu tập một hội nghị có nhiệm vụ xem xét 

các điều sửa đổi được đề xuất như vậy.  Tổng thư ký chuyển văn bản 

này cho các quốc gia thành viên.  Nếu trong 12 tháng sau ngày chuyển 

văn bản, có ít nhất là một nửa số quốc gia thành viên trả lời một cách 

thuận lợi cho yêu cầu này, thì Tổng thư ký triệu tập hội nghị. 

Trừ khi Hội nghị sửa đổi có quyết định khác, Hội nghị đó sẽ áp dụng thủ 

tục ra quyết định đã được dùng trong hội nghị luật biển lần thứ III của 

Liên hợp quốc.  Hội nghị phải cố gắng hết sức để đi đến thỏa thuận về 

các điểm sửa đổi bằng consensus (thỏa thuận) và hội nghị chỉ được tiến 

hành bỏ phiếu về vấn đề khi mọi cố gắng để đạt tới một sự thỏa thuận 

không còn nữa. 

ĐIỀU 313. Việc sửa đổi bằng thủ tục đơn giản hóa 

Qua văn bản gửi lên cho Tổng thư ký Liên hợp quốc, mọi quốc gia thành 

viên có thể đề nghị một điều sửa đổi đối với Công ước, không phải là 

một điều sửa đổi nhằm vào các hoạt động tiến hành trong Vùng, và yêu 

cầu rằng điều sửa đổi đó được thông qua theo thủ tục đơn giản hóa được 

trù  định trong  điều này, không cần triệu tập một hội nghị  để xem xét 

điều sửa đổi đó.  Tổng thư ký Liên hợp quốc chuyển văn bản đó cho tất 

cả các quốc gia thành viên. 

Nếu trong 12 tháng sau ngày chuyển văn bản này, một quốc gia thành viên 

có ý kiến phản đối điều sửa đổi đã được đề nghị hay phản đối ý kiến đề 

xuất nhằm làm cho  điều sửa  đổi  đó  được thông qua theo thủ tục  đơn 

giản hóa, thì điều sửa đổi coi như bị bác bỏ.  Tổng thư ký Liên hợp quốc 

thông báo ngay việc đó cho tất cả các quốc gia thành viên. 

Nếu 12 tháng sau ngày chuyển văn bản, không có một quốc gia thành viên 

nào có ý kiến phản đối điều sửa đổi đã được đề xuất hay phản đối đề 

nghị nhằm làm cho điều đó được thông qua theo thủ tục đơn giản hóa, 

thì điều sửa đổi được đề xuất coi như được chấp thuận.  Tổng thư ký 

thông báo cho tất cả các quốc gia thành viên việc chấp nhận điều sửa đổi 

đã được đề xuất này.  

ĐIỀU 314. Những điều sửa đổi đối với các qui định của Công ước chỉ 

liên quan đến các hoạt động tiến hành trong Vùng 

1.  Qua biên bản gởi lên Tổng thư ký của Cơ quan quyền lực, mọi quốc gia 

thành viên có thể  đề nghị một  điều sửa  đổi  đối với các qui  định của 

Công ước chỉ liên quan đến các hoạt động tiến hành trong Vùng, kể cả 

các qui định của Mục 4 thuộc Phụ lục VI.  Tổng thư ký gởi văn bản này 

cho tất cả các quốc gia thành viên.  Một khi Hội đồng chuẩn y, điểm sửa 

đổi  được  đề xuất phải  được Đại hội  đồng chuẩn y. Đại  biểu của các 

quốc gia thành viên có toàn quyền để xem xét và thông qua điều sửa đổi 

được đề xuất. Đề nghị sửa đổi, như đã được Hội đồng và Đại hội đồng 

chuẩn y, coi như được chấp thuận. 

2.  Trước khi chuẩn y một điều sửa đổi theo đúng khoản 1, Hội đồng và Đại 

hội  đồng phải biết chắc rằng  điều sửa  đổi không  đụng chạm  đến hệ 

thống thăm dò và khai thác các tài nguyên của Vùng trong khi chờ đợi 

triệu tập cuộc hội nghị xét duyệt lại theo đúng Điều 155. 

ĐIỀU 315. Những điều sửa đổi: ký, phê chuẩn, tham gia và các văn bản 

chính thức 

Những điều sửa đổi đối với Công ước khi được thông qua, được để ngỏ cho 

các quốc gia thành viên ký kết tại trụ sở của Liên hợp quốc ở Niu Oóc, 

trong thời hạn là 12 tháng kể từ ngày thông qua các điều sửa đổi này, trừ 

khi các điều sửa đổi đó có qui định khác. 

Các Điều 306, 307 và 320 được áp dụng cho tất cả các điều sửa đổi đối với 

Công ước. 

ĐIỀU 316. Các điều sửa đổi có hiệu lực 

Đối với các thành viên  đã phê chuẩn hay  đã tham gia công  ước, ngoài 

những điều đã nói ở khoản 5, sẽ có hiệu lực vào ngày thứ ba mươi tiếp 

sau việc gửi lưu chiểu các văn bản phê chuẩn hay tham gia của hai phần 

ba số quốc gia thành viên hay của 60 quốc qia thành viên, số lượng nào 

cao nhất sẽ được sử dụng.  Các điều sửa đổi không đụng chạm đến việc 

các quốc gia khác  được hưởng các quyền mà Công ước dành cho họ, 

cũng không đụng chạm đến việc họ thi hành các nghĩa vụ bắt nguồn từ 

Công ước. 

Một điều sửa đổi có thể trù định rằng, việc nó có hiệu đòi hỏi phải có một 

số lượng quốc gia phê chuẩn hay tham gia cao hơn số lượng mà điều 

này đòi hỏi.  

Đối với một quốc gia đã phê chuẩn một điều sửa đổi nói ở khoản 1 hay đã 

tham gia vào điều sửa đổi đó sau ngày số lượng các văn bản phê chuẩn 

hay tham gia cần thiết đã được lưu chiểu, điều sửa đổi này có hiệu lực 

vào ngày thứ ba mươi tiếp sau ngày nộp lưu chiểu văn bản phê chuẩn 

hay tham gia của quốc gia thành viên đó. 

Bất kỳ quốc gia nào khi trở thành thành viên của Công ước, sau khi một 

điều sửa đổi có hiệu lực theo đúng khoản 1, nếu không biểu thị một ý 

định khác, thì được coi như là: 

Thành viên của Công ước đã được sửa đổi; và 

Thành viên của Công ước không được sửa đổi đối với mọi quốc gia 

thành viên không bị ràng buộc bởi các điều sửa đổi. 

Các điều sửa đổi chỉ nhằm vào các hoạt động tiến hành trong Vùng và các 

điều sửa đổi đối với Phụ lục VI sẽ có hiệu lực đối với tất cả các quốc gia 

thành viên sau ngày có ba phần tư số quốc gia thành viên nộp lưu chiểu 

các văn bản phê chuẩn hay tham gia. 

Mọi quốc gia khi trở thành thành viên của Công ước, sau khi các điều sửa 

đổi nói trong khoản 5 có hiệu lực được coi như thành viên của Công ước 

đã được sửa đổi. 

ĐIỀU 317. Việc từ bỏ 

Một quốc gia thành viên có thể từ bỏ Công ước, qua thông báo viết gửi lên 

cho Tổng thư ký Liên hợp quốc, và nói rõ những lý do của việc từ bỏ.  

Dù quốc gia thành viên này không nêu rõ lý do đó, thì việc từ bỏ vẫn 

không vì thế mà vô hiệu lực.  Việc từ bỏ có hiệu lực sau một năm kể từ 

ngày nhận được thông báo, trừ khi trong thông báo có trù định một thời 

hạn chậm hơn. 

Việc từ bỏ cũng không làm cho một quốc gia tránh khỏi các nghĩa vụ về 

mặt tài chính và hợp đồng mà họ phải đảm nhận, khi mà quốc gia này 

còn là thành viên của Công ước, và việc từ bỏ cũng không ảnh hưởng 

đến các quyển, nghĩa vụ hay các  địa vị pháp lý của quốc gia này bắt 

nguồn từ việc áp dụng Công ước, trước khi Công ước không còn hiệu 

lực đối với quốc gia đó. 

Việc từ bỏ không hề  ảnh hưởng chút nào tới bổn phận của mọi quốc gia 

thành viên phải làm tròn mọi nghĩa vụ đã nêu trong Công ước, mà quốc 

gia này phải tuân thủ theo pháp luật quốc tế độc lập với Công ước. 

ĐIỀU 318. Quy chế của các phụ lục  

Các phụ lục là bộ phận hoàn chỉnh của Công ước, một sự viện dẫn Công 

ước cũng là một sự viện dẫn các phụ lục của nó và sự viện dẫn một phần 

của Công ước cũng là sự viện dẫn các phụ lục có liên quan đến phần đó, trừ 

trường hợp có quy định trái ngược rõ ràng. 

ĐIỀU 319. Người lưu chiểu 

Tổng thư ký Liên hợp quốc là người lưu chiểu Công ước và các điều sửa 

đổi có liên quan đến công ước. 

Ngoài chức năng của người lưu chiểu, Tổng thư ký Liên hợp quốc còn: 

Báo cáo cho tất cả các quốc gia thành viên, Cơ quan quyền lực và các tổ chức 

quốc tế có thẩm quyền về các vấn đề mang tính chất chung xuất hiện liên 

quan đến Công ước. 

Thông báo cho Cơ quan quyền lực các văn bản phê chuẩn, xác nhận chính 

thức và tham gia Công ước và các điều sửa đổi đối với Công ước, cũng 

như các văn bản từ bỏ các Công ước; 

Thông báo cho các quốc gia thành viên các điều ước được ký kết theo đúng 

với Điều 311, khoản 4; 

Chuyển cho các  quốc gia thành viên các điều sửa đổi đã được thông qua theo 

đúng Công ước để phê chuẩn hay tham gia; 

Triệu tập các cuộc họp cần thiết của các quốc gia thành viên theo đúng Công 

ước. 

3. a) Tổng thư ký cũng chuyển cho các quan sát viên nói ở Điều 156: 

Các báo cáo nói ở khoản 2, điểm a; 

Các thông báo nói ở khoản 2, điểm b và c; 

Văn bản các điểm sửa đổi nói ở khoản 2, điểm d với tính chất để thông báo. 

b) Tổng thư ký cũng mời các quan sát viên này tham gia các hội nghị của 

các quốc gia thành viên nói ở khoản 2 điểm e với tư cách là quan sát viên 

ĐIỀU 320. Các văn bản chính thức 

Nguyên bản của Công ước bằng tiếng Anh, Ả Rập, Trung Quốc, Tây Ban 

Nha, Pháp, và Nga đều có giá trị chính thức như nhau và được lưu chiếu 

bên cạnh Tổng thư ký Liên hợp quốc, theo Điều 305, khoản 2. 

Để làm tin, các đại diện toàn quyền ký dưới đây là những người được phép 

hợp thức ký vào Công ước. 

Làm tại Môn-tê-gô Bay ngày mồng Mười tháng Mười hai năm Một ngàn 

chín trăm tám mươi hai.  

LIÊN HỢP QUỐC PHỤ LỤC I 

CÁC LOÀI CÁ DI CƯ XA 

Tên bằng tiếng Việt 

Nam 

Tên bằng tiếng Pháp  Tên bằng tiếng La tinh 

1. Cá ngừ vây dài  Thon blanc germon  Thunnus alalunga 

2. Cá ngừ  Thon rouge  Thunnus thynnus 

3. Cá ngừ mắt to  Thon abèse à grosoceil  Thunnis obesus 

4. Cá ngừ vằn  Bonite à ventre rayé  Katsuwonus pelamis 

5. Cá ngừ vàng  Thon à nageoire jaune  Thunnus albacares 

6. Cá ngừ đen  Thon noir  Thunnus atlanticus 

7. Cá ngừ Đài Loan  Thonine  Euthunnus  alletteatus; 

Euthunnus affinis 

8. Cá ngừ phương nam  Thon à nageoire bleue  Thunnus maccoyii 

9. Cá ngừ dẹp  Auxide  Auxis thazard; Auxis 

rochie 

10. Cá ven biển  Brème de mẻ  Bramide 

11. Cá ngừ môn nhái  Martin  Tetrapturus  angustirostris; 

Tetrapturus belone; 

Tetrapturus pluegeri; 

Tetrapturusalbidus; 

Tetrapturus audax; 

Tetrapturus georgei; 

Makaira mazara; Makaira 

india; Makaira nigricans; 

Istiophorus platyterus 

12. Cá cờ  Voilier  Istiophorus albicans 

13. Cá mũi kiếm  Espadon  Xiphias gladius 

14. Cá thu đao  Sauri ou balaou  Scomberesor  saurus; 

cololabis saira; Cololabis 

adocetus; Scomberesox 

saurus; Scombroides 

15. Cá nục heo  Coryphène ou dorade 

tropicale 

Corypheana hippurus; 

Corypheana equiselis 

16. Cá nhám  Requin  Hexanchus  griseus; 

Cetorhinus maximus; 

Alpildae; Rhincodon typus; Carcharhinidae; 

Sphyrnidae; Isuridae 

17. Cá loài cá voi  Cétacés  Physeteridae; 

Balaenopteridae; 

Balanenidae; 

Eschrichtiidae; 

Monodontidae; Ziphiidae; 

Deiphinidae. 

PHỤ LỤC II 

ỦY BAN RANH GIỚI THỀM LỤC ĐỊA 

ĐIỀU 1. Để thi hành Điều 76, một ủy ban ranh giới thềm lục địa ngoài 200 

hoải lý được thành lập theo đúng các điều sau đây. 

ĐIỀU 2. 

1. Ủy ban gồm 21 ủy viên là chuyên gia về địa chất, địa vật lý hay địa thủy 

văn, do các quốc gia thành viên tham gia Công ước lựa chọn trong số công 

dân của mình, có tính đến sự cần thiết phải bảo đảm một sự đại diện công 

bằng về địa lý, các ủy viên này phải thi hành các chức trách của mình với tư 

cách cá nhân. 

2. Cuộc bầu cử đầu tiên sẽ được tiến hành ngay khi có điều kiện, và dù sao 

cũng phải được tiến hành trong một thời hạn là 18 tháng kể từ khi Công 

ước có hiệu lực. Ít nhất là ba tháng trước ngày tiến hành mỗi cuộc bầu cử, 

Tổng thư ký Liên hợp quốc gửi một văn thư cho các quốc gia thành viên để 

mời họ giới thiệu ứng cử viên, sau khi đã có các cuộc tham khảo ý kiến 

thích hợp ở khu vực và việc này tiến hành trong một thời hạn là ba tháng. 

Tổng thư ký lập ra một danh sách theo thứ tự a, b, c, tất cả các ứng cử viên 

được chỉ định nói trên và gửi danh sách này cho tất cả quốc gia thành viên. 

3. Việc bầu cử các ủy viên của Ủy ban được tiến hành trong một hội nghị 

của các quốc gia thành viên do Tổng thư ký triệu tập tại trụ sở của Liên 

hiệp quốc. Số đại biểu cần thiết (quorum) là hai phần ba số phiếu của các 

đại biểu có mặt và bỏ phiếu, thì trúng cử ủy viên của Ủy ban. Mỗi vùng địa 

lý được tuyển chọn ít nhất ba ủy viên. 

4. Các ủy viên của Ủy ban được bầu với một nhiệm kỳ là 5 năm. Họ có thể 

được bầu lại. 

5. Quốc gia thành viên nào đã giới thiệu ứng cử viên vào Ủy ban phải bảo 

đảm mọi khoản chi tiêu cho ủy viên đó khi họ thi hành phận sự của mình 

nhân danh Ủy ban, quốc gia ven biển hữu quan phải chịu các kinh phí có 

liên quan đến những ý kiến nêu ở Điều 3, khoản 1, điểm d của phụ lục này. 

Chi phí Văn phòng của Ủy ban do Tổng thư ký Liên hiệp quốc bảo đảm.  

ĐIỀU 3. 

Các chức năng của Ủy ban là: Xem xét các số liệu và các thông tin khác do các quốc gia ven biển gửi đến 

có liên quan đến ranh giới ngoài của thềm lục địa, khi thềm lục địa này mở 

rộng quá 200 hải lý và đưa ra các kiến nghị theo đúng điều 76, và Giác thư 

thỏa thuận (Memorandum d’accord) đã được Hội nghị luật biển lần thứ III 

của Liên hợp quốc thông qua ngày 39-8-1980. 

Theo yêu cầu của quốc gia ven hữu quan, phát biểu các ý kiến về khoa học 

và kỹ thuật để xây dựng các số liệu ở ý kiến về khoa học và kỹ thuật để xây 

dựng các số liệu nói ở điểm trên.  

Trong phạm vi được đánh giá là cần thiết và hữu ích, Ủy ban có thể hợp tác 

với Ủy ban Hải dương học liên chính phủ của UNESCO, Tổ chức thủy văn 

quốc tế và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền khác nhằm thu được các số 

liệu khoa học và kỹ thuật có thể giúp cho mình hoàn thành trách nhiệm. 

ĐIỀU 4. Quốc gia ven biển nào dự định xác định ranh giới ngoài của thềm 

lục địa ngoài 200 hải lý theo Điều 76 cần gửi cho Ủy ban ngay khi có điều 

kiện và trong bất kỳ hoàn cảnh nào trong một thời hạn 10 năm kể từ khi 

công ước có hiệu lực đối với quốc gian này, các đặc điểm của ranh giới này 

với những số liệu khoa học và kỹ thuật để chứng minh. Đồng thời, quốc gia 

ven biển thông báo tên tất cả các ủy viên của Ủy ban đã cung cấp cho mình 

các ý kiến về khoa hoc và kỹ thuật. 

ĐIỀU 5. Trừ trường hợp Ủy ban có quyết  định khác, Ủy ban hoạt  động 

thông qua hai tiểu ban gồm bảy ủy viên được chỉ định một cách cân bằng 

có tính đến các yếu tố riêng của mỗi đơn yêu cầu do một quốc gia ven biển 

gửi lên các ủy viên của Ủy ban là công dân của quốc gia này các ý kiến về 

khoa học và kỹ thuật về đường ranh giới này, không thể tham gia vào tiểu 

ban có trách nhiệm xem xét đơn yêu cầu, nhưng học có quyền tham gia với 

tư cách là các ủy viên vào các công việc của Ủy ban có liên quan đến đơn 

này. Quốc gia ven biển khi đã gửi một đơn yêu cầu lên Ủy ban, thì có thể 

gửi các  đại diện của mình tới tham gia các công việc thích hợp, nhưng 

không có quyền biểu quyết. 

ĐIỀU 6. 

1. Tiểu ban gửi các kiến nghị của mình lên Ủy ban. 

2. Ủy ban chuẩn y các kiến nghị của Tiểu ban theo đa số hai phần ba các ủy 

viên và bỏ phiếu. 

3. Các kiến nghị của Ủy ban được gửi bằng văn bản tới quốc gia ven biển 

đã đưa đơn yêu cầu cũng như cho Tổng thư ký Liên hợp quốc. 

ĐIỀU 7. Các quốc gia ven biển xác định ranh giới ngoài thềm lục địa của 

mình theo đúng Điều 76, khoản 8 và theo các thủ tục quốc gia thích hợp. 

 ĐIỀU 8. Nếu không đồng ý với các kiến nghị của Ủy ban, quốc gia ven 

biển gửi lên cho Ủy ban trong một thời hạn hợp lý một  đơn yêu cầu  đã 

được xem xét lại hoặc một đơn mới. 

ĐIỀU 9. Các hành động của Ủy ban không xét đoán trước các vấn đề liên 

quan đến việc thiết lập các ranh giới giữa các quốc gia mà bờ biển tiếp liền 

hoặc đối diện.  

PHỤ LỤC III 

CÁC QUI ĐỊNH CƠ SỞ ĐIỀU CHỈNH VIỆC THĂM DÒ, 

KHẢO SÁT VÀ KHAI THÁC 

ĐIỀU 1. Các quyền đối với các khoảng sản 

Việc chuyển giao các quyền đối với các khoáng sản diễn ra vào lúc khai 

thác các khoáng sản này theo đúng Công ước. 

ĐIỀU 2. Thăm dò 

1. a) Cơ quan quyền lực khuyến khích việc thăm dò trong vùng. 

b) Việc thăm dò chỉ có thể bắt đầu khi Cơ quan quyền lực nhận được của 

người sẽ tiến hành thăm dò một bản cam  đoan thỏa  đáng là sẽ tôn trọng 

Công ước, các quy tắc, quy định và thủ tục của cơ quan quyền lực có liên 

quan đến việc hợp tác trong các chương trình đào tạo nói trong các Điều 

143 và 144 và về việc bảo vệ môi trường biển, và người đó chấp nhận để 

cho Cơ quan quyền lực kiểm tra việc thi hành của mình. Đồng thời với bản 

cam đoan này, người sẽ tiến hành thăm dò sẽ thông báo cho Cơ quan quyền 

lực biết các giới hạn gần đúng của khu vực hay các khu vực sẽ tiến hành 

thăm dò.  

c) Công việc thăm dò có thể được nhiều người thăm dò thực hiện đồng thời 

trong cùng một hay cùng những khu vực. 

2. Việc thăm dò không dành cho người thăm dò một quyền nào đối với các 

tài nguyên. Tuy nhiên, người thăm dò có thể khai thác một số lượng hợp lý 

khoáng sản để làm mẫu. 

ĐIỀU 3. Khảo sát và khai thác 

1. Xí nghiệp, các quốc gia thành viên và các thực thể hay cá nhân khác nói 

ở Điều 153, khoản 2, điểm b, có thể yêu cầu cơ quan quyền lực phê chuẩn 

các kế hoạch làm việc về hoạt động tiến hành trong vùng. 

2. Xí nghiệp có thể làm một đơn yêu cầu nhằm vào bất kỳ khu vực nào của 

vùng, nhưng các đơn yêu cầu đối với các khu vực dành riêng do các thực 

thể hay cá nhân khác gửi đến khi còn phải thỏa mãn các điều kiện đã nêu ở 

Điều 9 của Phụ lục này. 

3. Việc khảo sát và khai thác chỉ tiến hành trong những khu vực đã được 

nói rõ trong các kế hoạch làm việc đã nêu ở Điều 153, khoản 3 và đã được Cơ quan quyền lực chuẩn y theo đúng Công ước, và các quy tắc, quy định 

và thủ tục tương ứng của Cơ quan quyền lực. 

4. Mọi kế hoạch làm việc được chuẩn y đều phải:  

a) Phù hợp với công ước và các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan 

quyền lực; 

b) Trù định việc kiểm soát của cơ quan quyền lực đối với các hoạt động 

tiến hành trong Vùng, theo đúng Điều 153, khoản 4; 

c) Trao cho người khai thác, theo đúng các quy tắc, quy định và thủ tục của  

Cơ quan quyền lực, các đặc quyền đối với việc khảo sát và khai thác trong 

khu vực nói trong kế hoạch làm việc, các loại tài nguyên được ghi rõ trong 

kế hoạch làm việc chỉ liên quan đến giai đoạn khảo sát hay khai thác, thì 

người đó chỉ được giao cho các đặc quyền đối với giai đoạn đó thôi. 

5. Một khi được cơ quan quyền lực chuẩn y, mọi kế hoạch làm việc, nếu 

không phải là kế hoạch làm việc do xí nghiệp đề nghị, đều mang hình thức 

một hợp đồng ký kết giữa cơ quan quyền lực và người hay những người 

yêu cầu. 

 ĐIỀU 4. Các điều kiện về tư cách của những người yêu cầu 

1. Ngoài các xí nghiệp ra, những người yêu cầu được coi là có tư cách, là 

những người thực hiện đầy đủ các điều kiện nói trong Điều 153, khoản 2, 

điểm b về các vấn đề quốc tịch hay vấn đề về kiểm soát và bảo trợ, và tuân 

theo các thủ tục, đáp ứng các tiêu chuẩn về tư cách đã được nêu trong các 

quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực. 

2. Với điều kiện tuân thủ khoản 6, các tiêu chuẩn về tư cách đó có liên quan 

tới khả năng tài chính và kỹ thuật của người yêu cầu, cũng như với tư cách 

mà người này thực hiện các hợp đòng ký kết trước đây vơi Cơ quan quyền 

lực. 

3. Mọi người yêu cầu đều phải được quốc gia thành viên mà người yêu cầu 

là công dân, bảo trợ, trừ khi người yêu cầu có qua một quốc tịch như: trong 

trường hợp một Công ty hay Công-xoóc-xi-om gồm nhiều thực thể cá nhân 

thuộc các quốc gia khác nhau, tất cả các quốc gia thành viên hữu quan phải 

bảo trợ đơn yêu cầu; trong trường hợp người yêu cầu do một quốc gia thành 

viên khác hay các công dân của quốc gia khác này kiểm soát một cách thực 

sự và thủ tục áp dụng các điều kiện bảo trợ được nêu trong các quy định 

quy tắc và thủ tục của Cơ quan quyền lực. 

4. Theo điều 139 và theo chế độ pháp lý của mình, quốc gia thành viên hay 

các quốc gia thành viên bảo trợ một đơn yêu cầu có nghĩa vụ tham quan 

tâm đến các hoạt động trong vùng của một người ký kết, mà quốc gia đó hay các quốc gia bảo trợ, được tiến hành theo đúng các nghĩa vụ của họ 

theo hợp  đồng và theo Công  ước. Tuy nhiên, một quốc gia thành viên 

không chịu trách nhiệm về những tổn thất gây ra do thiếu sót của người ký 

kết mà mình bảo trợ đối với những nghĩa vụ của người đó, nếu quốc gia nói 

trên đã thông qua các luật và qui chế và đã quy định các biện pháp hành 

chính, mà đối với chế độ pháp lý của quốc gia này, thì thích hợp một cách 

đúng mức để bảo đảm cho những người thuộc quyền tài phán của mình tôn 

trọng thực sự các nghĩa vụ đó. 

5. Các thủ tục để xét đơn của các quốc gia thành viên phải tính đến tư cách 

Nhà nước của họ. 

6. Các tiêu chuẩn tư cách đòi hỏi bất kỳ người yêu cầu nào, không ngoại lệ, 

cũng phải cam đoan trong đơn yêu cầu của mình:  

a) Chấp nhận coi như có tính chất bắt buộc và tôn trọng các nghĩa vụ của 

mình theo phần XI, các quy tắc quy định, thủ tục của Cơ quan quyền lực, 

các quyết định của các cơ quan của Cơ quan quyền lực và các điều khoản 

của các hợp đồng đã được ký kết với Cơ quan quyền lực; 

b) Chấp nhận để Cơ quan quyền lực thực hiện việc kiểm soát như Công ước 

đã cho phép đối với các hoạt động tiến hành trong Vùng; 

c) Cung cấp cho Cơ quan quyền lực bản cam đoan sẽ hoàn thành một cách 

trung thực những nghĩa vụ của mình theo hợp đồng; 

d) Tông trọng các  điều quy  định liên quan  đến việc chuyển giao các kỹ 

thuật đã nêu trong Điều 5 của phụ lục này. 

ĐIỀU 5. Chuyển giao các kỹ thuật 

1. Khi đệ trình một kế hoạch làm việc, mọi người yêu cầu đều phải cung 

cấp cho Cơ quan quyền lực một bản mô tả chung về trang bị các phương 

pháp sẽ  được sử dụng  đối với các hoạt  động tiến hành trong Vùng, các 

thông tin tương ứng khác không phải là sở hữu công nghiệp và có liên quan 

đến các đặc tính của các kỹ thuật được dự tính, cũng như các thông tin chỉ 

rõ nơi có các kỹ thuật này. 

2. Mọi người khai thác đều thông báo cho Cơ quan quyền lực các điều thay 

đổi đối với bản mô tả các dữ kiện và các thông tin đã đưa đến cho Cơ quan 

quyền lực sư dụng theo khoản 1, mỗi khi có sự sửa đổi hay đổi mới về kỹ 

thuật quan trọng. 

3. Mọi hợp đồng về các hoạt động trong vùng đều phải có các điều khoản; 

trong đó, người ký hợp đồng cam đoan: 

a) Theo yêu cầu của Cơ quan quyền lực, theo các thể thức và  điều kiện 

thương mại công bằng, hợp lý, để cho xí nghiệp sử dụng các kỹ thuật mà 

mình dùng để tiến hành các hoạt động trong vùng theo hợp đồng và mình có quyền chuyển giao. Việc chuyển giao này được tiến hành qua các thỏa 

thuận về giấy phép hay các dàn xếp thích hợp khác, mà người khai thác 

thương lượng với xí nghiệp và đã được ghi lại trong một bản thỏa thuận đặc 

biệt bổ sung cho hợp đồng. Sự cam kết này chỉ có thể được đề cập, nếu xí 

nghiệp xét thấy rằng, mình không có khả năng có được trên thị trường tự do 

chính những kỹ thuật này hoặc những kỹ thuật cũng có hiệu quả và thích 

hợp như thế, theo các thể thức và điều kiện thương mại công bằng, hợp lý; 

b) Nhận  được bản cam kết của người sở hữu mọi kỹ thuật dùng  để tiến 

hành các hoạt đọng trong Vùng theo hợp đồng và không được nêu ở điểm a, 

và nói chung cũng không có sẵn trên thị trường tự do; bản cam kết đó nói 

rằng theo yêu cầu của Cơ quan quyền lực, người đó sẽ cho phép Xí nghiệp, 

qua các thỏa thuận về giấy phép hay các dàn xếp thích hợp khác, sử dụng 

các kỹ thuật này trong cùng một mức độ của người ký hợp đồng, theo các 

thể thức và điều kiện thương mại công bằng, hợp lý. Nếu không có cam kết 

này, thì người khai thác không thể được sử dụng các kỹ thuật nói trên để 

tiến hành các hoạt động trong Vùng. 

c) Theo yêu cầu của Xí nghiệp và nếu có thể tiến hành mà không làm cho 

người ký kết hợp  đồng phải chịu những chi phí quan trọng thì bằng một 

hợp đồng có tính chất bắt buộc phải chấp hành, đạt được quyền chuyển giao 

cho Xí nghiệp mọi kỹ thuật dùng để tiến hành các hoạt động trong Vùng 

theo danh nghĩa của hợp đồng, mà người đó chưa có quyền chuyển giao và 

nói chung không sẵn có trên thị trường tự do. Nếu có mối liên hệ thực chất 

trong khuôn khổ của một công ty, giữa người khai thác và người sở hữu kỹ 

thuật, thì tính chất chặt chẽ của mối liên hện này và mức độ kiểm soát hay 

ảnh hưởng được lưu ý đến khi cần xác định xem họ đã cố gắng hết sức để 

có được quyền đó không. Nếu người ký hợp đồng có sự kiểm soát thực sự 

đối với người sở hữu và không giành được từ người sở hữu quyền đó, thì 

điều  đó sẽ  được tính  đến trong việc xác  định tư cách của người ký hợp 

đồng, khi họ đưa một đơn mới xin chuẩn y một kế hoạch làm việc. 

d) Nếu Xí nghiệp yêu cầu, thì tạo điều kiện dẽ dàng để Xí nghiệp có được 

mọi kỹ thuật nói ở điểm b, qua các thỏa thuận về giấy phép hoặc các dàn 

xếp thích hợp khác, theo các thể thức và điều kiện thương mại công bằng và 

hợp lý, trong trường hợp mà Xí nghiệp quyết định sẽ thương lượng trực tiếp 

với người sỡ hữu kỹ thuật nói trên: 

e) Áp dụng cũng các quy định như các quy định đã ghi ở điểm a, b, c và d 

đối với một quốc gia hay một nhóm quốc gia đang phát triển đang xin ký 

kết một hợp đồng theo Điều 9 của phụ lục này, với điều kiện là: các điều 

quy định này giới hạn ở việc khai thác phần của khu vực mà người ký kết 

hợp đồng đề nghị đã được dành riêng theo Điều 8 của phụ lục này; các hoạt 

động được trù định trong hợp đồng mà quốc gia hay nhóm quốc gia đang 

phát triển đang ký kết không dẫn đến việc chuyên giao kỹ thuật vì lợi ích 

của một quốc gia thứ ba hay của các công dân của một quốc gia thứ ba. 

Nghĩa vị do điều quy định này trù định chỉ áp dụng đối với các người ký hợp  đồng có những kỹ thuật không phải là  đối tượng của một yêu cầu 

chuyển gia cho Xí nghiệp. 

4. Các tranh chấp liên quan đến các cam kết đòi hỏi ở khoản 3, cũng như 

những tranh chấp liên quan đến các điều khoản khác của hợp đồng, thuộc 

phạm vi của giải quyết tranh chấp có tính chất bắt buộc được trừ định trong 

Phần XI, và việc không tôn trọng các cam kết này có thể bị phạt tiền và bị 

đình chỉ hay hủy bỏ hợp  đồng, theo  đúng Điều 18 của Phụ lục này. Các 

tranh chấp về vấn đề xét xem các đề nghị của người ký kết hợp đồng có bao 

hàm các thể thức và điều kiện thương mại công bằng và hợp lý không, có 

thể được một trong các bên nào đó đưa ra giải quyết theo thủ tục trọng tài 

thương mại có tính chất bắt buộc được trù định trong bản Quy tắc trọng tài 

của CNUDCI hay theo bất kỳ thủ tục trọng tài nào khác  được quy  định 

trong quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực. Nếu trọng tài đi 

đến kết luận phủ đình về vấn đề đó, thì người ký kết hợp đồng có được 45 

ngày để sửa đổi đề nghị của mình nhằm làm cho nó bao gồm các thể thức 

và điều kiện thương mại công bằng theo Điều 18 của Phụ lục này. 

5. Nếu Xí nghiệp không có khả năng có được các kỹ thuật thích hợp theo 

các thể thức và điều kiện thương mại công bằng, hợp lý để Xí nghiệp thực 

hiện đúng lúc việc khai thác và chế biến các khoáng sản của Vùng, thì Hội 

đồng và Đại hội đồng có thể triệu tập một nhóm các quốc gia thành viên, 

bao gồm các quốc gia tiến hành các hoạt động như vậy trong Vùng và các 

quốc gia khác nắm được những kỹ thuật này. Sau khi đã thảo luận, nhóm 

này thi hành các biện pháp có hiệu quả cao sao cho Xí nghiệp được sử dụng 

các kỹ thuật này theo các thể thức và điều kiện thương mại công bằng hợp 

lý. Mỗi quốc gia thành viên trên sẽ thi hành tất cả mọi biện pháp thực tế 

thực hiện mục đích đó, trong khuôn khổ chế độ pháp luật của mình. 

6. Trong trường hợp các công ty liên doanh với Xí nghiệp, việc chuyển giao 

các kỹ thuật được tiến hành theo đúng vơi thỏa thuận về các công ty liên 

doanh đó. 

7. Các cam kết đòi hỏi ở khoản 3 được ghi vào mỗi hợp đồng về các hoạt 

động trong Vùng đến hết một thời hạn 10 năm, sau khi Xí nghiệp bắt đầu 

việc sản xuất hàng hóa và có thể được viện dẫn trong thời hạn này. 

8. Trong điều này, thuật  ngữ “kỹ thuật” dùng để chit thiết bị chuyên dụng 

và bí quyết kỹ thuật, kể cả các bản mô tả, sổ tay, tài liệu hướng dẫn, việc 

đào tạo, các hướng dẫn về kỹ thuật và việc giúp đỡ kỹ thuật cần thiết để lắp 

đặt, bảo dưỡng và vận hành một hệ thống có thể  đứng vững  được, cũng 

như, quyền sử dụng các yếu tố nói trên vào mục đích này trên cơ sở không 

có tính chất đặc quyền. 

 ĐIỀU 6. Việc chuẩn y các kế hoạch làm việc 

1. Sáu tháng sau khi Công ước có hiệu lực, Cơ quan quyền lực sẽ tiến hành 

xem xét các kế hoạch làm việc đã được đề nghị, sau đó cứ bốn tháng lại xét 

một lần. 

2. Khi xem xét một đơn xin chuẩn y một kế hoạch làm việc dưới hình thức 

một hợp đồng, trước hết, Cơ quan quyền lực phải xác định: 

a) Xem người yêu cầu có tuân theo các thủ tục đệ đơn yêu cầu nói trong 

Điều 4 của Phụ lục này không, xem người yêu cầu có cam kết và có những 

đảm bảo đối với Cơ quan quyền lực theo đòi hỏi của điều này không. Nếu 

các thủ tục này không được tuân thủ, hoặc thiếu một trong những cam kết 

và đảm bảo nào đó nêu trên, Cơ quan quyền lực cho người yêu cầu một thời 

hạn là 45 ngày để sửa chữa các thiếu sót đó; 

b) Xem người yêu cầu có đủ tư cách theo tinh thần của Điều 4 của phụ lục 

này không. 

3. Tất cả các kế hoạch làm việc đã đề nghị đều được xem xét theo thứ tự 

tiếp nhận. Các kế hoạch làm việc đã đề nghị phải phù hợp và tôn trọng các 

điều quy định tương ứng của Công ước cũng như các quy tắc, quy định và 

thủ tục của Cơ quan quyền lực, kể cả các  điều kiện liên quan  đến các 

nghiệp vụ, những đóng góp tài chính và những cam kết về việc chuyển giao 

kỹ thuật. Cơ quan quyền lực chuẩn y những kế hoạch làm việc  được  đề 

nghị phù hợp với các điều quy định này, với điều kiện là chúng cũng phù 

hợp với những điều kiện như nhau và không phân biệt đối xử nói trong các 

quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực, trừ khi: 

a) Một phần hay toàn bộ vùng mà kế hoạch làm việc được đề nghị nhắm 

vào nằm trong một kế hoạch làm việc đã được chuẩn y hay trong một kế 

hoạch làm việc đã được đề nghị trước mà Cơ quan quyền lực còn chưa có 

quyết định cuối cùng; 

b) Việc khai thác một phần hay toàn bộ Vùng mà kế hoạch làm việc được 

đề nghị nhắm vào đã bị Cơ quan quyền lực bác bỏ theo Điều 162, khoản 2, 

điểm x; hay 

i. Quốc gia đã được chuẩn y các kế hoạch làm việc liên quan đến việc thăm 

dò và khai thác các vỉa quặng khối  đa kim trong những khu vực không 

được dành riêng; khi diện tích của chúng, cộng thêm với diện tích của phần 

này hay phần khác của Vùng mà kế hoạch làm việc được đề nghị nhắm vào, 

sẽ vượt quá 30% diện tích của một vùng hình tròn có diện tích 400.000 km2 

được xác định từ tâm của phần này hay một phần khác của vùng nói trong 

kế hoạch làm việc được đề nghị; 

ii. Quốc gia đã được chuẩn y các kế hoạch làm việc liên quan đến việc thăm 

dò và khai thác các vỉa quặng khối đa kim trong các khu vực không được 

dành riêng có diện tích toàn bộ bằng 2% tổng diện tích của Vùng chưa được dành riêng và việc khai thác chưa bị loại trừ theo Điều 162, khoản 2, điểm 

x. 

4. Để áp dụng quy tắc đã nêu ở khoản 3, điểm c, một kế hoạch làm việc do 

một công ty hay một công – xoóc – om đề nghị phải được khấu theo tỷ lệ 

vào các quốc gia thành viên bảo trợ cho công ty hay công – xoóc – om theo 

đúng Điều 4 khoản 3 của phụ lục này. Cơ quan quyền lực có thể chuẩn y 

các kế hoạch làm việc do khoản 3, điểm c điều chỉnh, nếu Cơ quan quyền 

lực xác minh được rằng, việc chuẩn y này không cho phép một quốc gia 

thành viên hay các thực thẻ hoặc quyền về các hoạt động trong Vùng hay 

cản trở các quốc gia thành viên khác tiến hành các hoạt động trong Vùng. 

5. Mặc dù đã có khoản 3, điểm a, sau khi kết thúc giai đoạn quá độ nói ở 

điều 151, khoản 3, Cơ quan quyền lực có thể dựa vào các quy tắc, quy định 

và thủ tục để thông qua các thủ tục và tiêu chuẩn khác phù hợp với Công 

ước, để xác định trong số các người đệ trình các kế hoạch làm việc đối với 

một vùng nào đó, kế hoạch của ai sẽ được chuẩn y trong trường hợp cần có 

sự lựa chọn. Các thủ tục và tiêu chuẩn này phải đảm bảo cho việc chuẩn y 

các kế hoạch làm việc trên một cơ sở công bằng và không phân biệt đối xử. 

ĐIỀU 7. Sự lựa chọn giữa những người xin cấp giấy phép sản xuất 

1. Sáu tháng sau khi Công ước có hiệu lực, sau đó cứ 4 tháng một, Cơ quan 

quyền lực xem xét các đơn xin cấp giấy phép sản xuất đã gửi tới trong thời 

kỳ trước đó. Nếu tất cả các đơn yêu cầu này có thể được chuẩn y mà không 

làm cho các giới hạn sản lượng bị vượt quá và không làm cho Cơ quan 

quyền lực vi phạm những nghĩa vụ mà mình phải bảo đảm theo một hiệp 

định, hay một thỏa thuận về sản phẩm mà Cơ quan quyền lực là thành viên, 

như đã trù định ở Điều 151, thì Cơ quan quyền lực cấp các giấy phép đã 

được yêu cầu. 

2. Khi một sự lựa chọn cần phải được tiến hành giữa những người xin cấp 

giấy phép sản xuất do vấn đề giới hạn sản lượng đươc trù định ở Điều 151, 

các khoản từ 2 đến 7, hoặc do các nghĩa vụ thuộc bổn phận của Cơ quan 

quyền lực theo một hiệp định hay một thỏa thuận về sản phẩm, trong đó Cơ 

quan quyền lực là thành viên như đã được trù định ở Điều 151, khoản 1, thì 

Cơ quan quyền lực tiến hành việc lựa chọn này dựa trên cơ sở các tiêu 

chuẩn khách quan và không phân biệt đối xử đã được ấn định trong các quy 

tắc quy định và thủ tục của mình. 

3. Trong việc áp dụng khoản 2, Cơ quan quyền lực dành ưu tiên cho những 

người yêu cầu: a) Đưa ra những bảo đảm tốt nhất về hiệu quả theo khả năng tài chính kỹ 

thuật của họ, và theo cách thức mà họ thực hiện các kế hoạch làm việc đã 

được chuẩn y trước, nếu như có các kế hoạch đó; 

b) Cho cơ quan quyền lực thấy triển vọng có các khoản thu tài chính nhanh 

hơn, tính theo thời hạn trù định để bắt đầu việc sản xuất hàng hóa; 

c) Đã đầu tư nhiều nhất về vốn liếng và công sức trong việc kháp sát và 

thăm dò. 

4. Những người yêu cầu nào không được lựa chọn trong một thời kỳ nào 

đó; thì được ưu tiên trong thời kỳ sau cho đến lúc được cấp một giấy phép 

sản xuất. 

5. Việc lựa chọn được tiến hành có tính đến sự cần thiết phải tạo cho tất cả 

các quốc gia thành viên có được khả năng để tham gia tốt nhất vào các hoạt 

động trong Vùng và sự cần thiết tránh độc quyền hóa các hoạt động này 

không phụ thuộc vào chế độ kinh tế và xã hội của các quốc gia đó hay vị trí 

địa lý của họ nhằm đảm bảo không có sự phân biệt đối xử với bất cứ quốc 

gia hay chế độ nào. 

6. Mỗi khi trong hiện tình khai thác, có khu vực được dành riêng hơn khu 

vực không dành riêng, thì các đơn xin phép liên quan đến các khu vực dành 

riêng được ưu tiên. 

7. Cơ quan quyền lực ra các quyết định nói ở điều này càng sớm, càng tốt, 

sau khi kết thúc mỗi thời kỳ. 

ĐIỀU 8. Việc dành riêng các khu vực 

Mỗi đơn yêu cầu, không phải là các đơn yêu cầu của các Xí nghiệp hay của 

cả các thực thể hay cá nhân khác và về các khu vực dành riêng, cần phải 

bao gồm một khu vực, không nhất thiết phải liền một mạch, có tổng diện 

tích và một giá trị thương mại ước tính đủ để cho phép tiến hành hai hoạt 

động khai thác mỏ. Người yêu cầu chỉ rõ các tọa độ cho phép chia khu vực 

làm hai phần có giá trị thương mại ước tính bằng nhau và thông báo tất cả 

các số liệu mà mình thu được đối với hai phần của khu vực. Không phương 

hại đến các quyền hạn của Cơ quan quyền lực có liên quan đến các khối đa 

kim và các kim loại trong khối đó. Trong vòng 45 ngày tiếp sau khi nhận 

được các số liệu này, Cơ quan quyền lực sẽ tiến hành thông qua Xí nghiệp 

hay hợp tác với các quốc gai đang phát triển. Sự chỉ định này có thể kéo dài 

thêm 45 ngày nữa, nếu Cơ quan quyền lực trao cho một chuyên gia độc lập 

xác định xem tất cả các số liệu mà điều này đòi hỏi có được thông báo cho 

Cơ quan quyền lực không. Khu vực được chỉ định trở thành một khu vực 

được dành riêng ngay khi kế hoạch làm việc liên quan đến khu vực không 

được dành riêng được chuẩn y và hợp đồng được ký kết. 

 ĐIỀU 9. Các hoạt động được tiến hành trong khu vực được dành riêng 

1. Xí nghiệp được quyền quyết định có tự mình tiến hành các hoạt động 

trong mỗi khu vực dành riêng hay không. Quyết định này có thể được đưa 

ra bất kỳ thời điểm nào, trừ khi Cơ quan quyền lực nhận được một thông 

báo theo đúng khoản 4, trong trường hợp này, xí nghiệp phải ra quyết định 

trong một thời hạn hợp lý. Xí nghiệp có thể quyết định tiến hành khai thác 

các khu vực này , với danh nghĩa của các xí nghiệp liên doanh với quốc gia 

hoặc thực thể hay cá nhân hữu quan. 

2. Xí nghiệp có thể ký kết các hợp đồng để thi hành một phần các hoạt động 

của mình theo đúng Điều 12 của Phụ lục IV. Để tiến hành các hoạt động 

này, xí nghiệp cũng có thể hợp tác trong các xí nghiệp liên doanh với bất kỳ 

thực thể hay cá nhân nào có tư cách tiến hành các hoạt động trong Vùng 

theo Điều 153, khoản 2, điểm b. Khi dự tính đến các xí nghiệp liên doanh 

thuộc loại này, xí nghiệp tạo cho các quốc gia thành viên là những quốc gia 

đang phát triển, cũng như các công dân của các quốc gia này có được khả 

năng tham gia thực sự. 

3. Trong các quy tắc, quy định và thủ tục của mình, cơ quan quyền lực có 

thể quy định các điều kiện về nội dung và về thủ tục điều chỉnh các hợp 

đồng và xí nghiệp liên doanh kể trên. 

4. Bất kỳ quốc gia thành viên nào là quốc gia đang phát triển, hoặc bất kỳ 

tự nhiên nhân hay pháp nhân nào do quôc gia này bảo trợ và do quốc gia 

này hay một quốc gia đang phát triển khác kiểm soát thật sự, là một người 

yêu cầu có tư cách, hoặc mọi nhóm của các loại nói trên, đều có thể thông 

báo cho cơ quan quyền lực ý muốn của mình đưa ra một kế hoạch làm việc 

đối với khu vực được dành riêng theo Điều 6 của Phụ lục này. Kế hoạch 

làm việc được xem xét, nếu xí nghiệp quyết định theo khoản 1, không tiến 

hành hoạt động trong khu vực này. 

ĐIỀU 10. Ưu đãi và ưu tiên dành cho một số yêu cầu 

Khi mà theo điều 3, khoản 4, điểm c của phụ lục này, một kế hoạch làm 

việc đã được chuẩn y chỉ để thăm dò, thì người đưa ra kế hoạch đó sẽ được 

ưu tiên ưu đãi hơn so nới các người yêu cầu khác, nếu người yêu cầu  ấy 

đưa ra một kế hoạch làm việc về vấn đề khai thác cùng khu vực đó đối với 

cùng những tài nguyên ấy. Tuy nhiên, quyền ưu tiên, ưu đãi thuộc loại này 

có thể bị rút trong trường hợp mà người khai thác nói trên, đã không thực 

hiện tốt kế hoạch làm việc. 

ĐIỀU 11. Các thỏa thuận liên doanh 

 1. Các hợp đồng có thể trù định các thảo thuận liên doanh giữa người ký kết 

và cơ quan quyền lực, hoạt  động thông qua xí nghiệp, dưới hình thức xí 

nghiệp liên doanh hay chia sản lượng, cũng như mọi hình thức thỏa thuận 

liên doanh khác: các thỏa thuận này cũng được hưởng sự bảo hộ về vấn đề 

sửa đổi, đình chỉ hay hủy bỏ như các hợp đồng ký kết với cơ quan quyền 

lực. 

2. Những người ký kết hợp đồng đã ký với xí nghiệp các thỏa thuận liên 

doanh như vậy, có thể được hưởng những kích thích về tài chính được trù 

định trong Điều 13 của phụ lục này. 

3. Các bên cùng hợp tác với xí nghiệp trong một xí nghiệp liên doanh phải 

đóng góp như đã quy định ở Điều 13 của phụ lục này theo prorata ( tỷ lệ) 

tham gia của họ vào xí nghiệp liên doanh, có tính đến các kích thích về tài 

chính được trù định trong điều này. 

ĐIỀU 12. Các hoạt động do xí nghiệp tiến hành 

1. Các hoạt động  do Xí nghiệp tiến hành trong vùng theo Điều 153, khoản 

2, điểm a do Phần XI, các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền 

lực điều chỉnh. 

2. Mọi kế hoạch làm việc do xí nghiệp  đề nghị cần phải có các tài liệu 

chứng minh khả năng tài chính và kỷ luật của kế hoạch đó. 

ĐIỀU 13. Các điều khoản tài chính của các hợp đồng  

1. Khi thông qua các quy tắc, quy định và thủ tục liên quan đến các điều 

khoản tài chính của các hợp đồng giữa cơ quan quyền lực và các thực thể 

hay cá nhân đã nêu ở Điều 153, khoản 2, điểm b và khi thương lượng các 

điều khoản tài chính của một hợp đồng như thế theo đúng Phần XI và các 

quy tắc, quy định và thủ tục đó, cơ quan quyền lực nhằm các mục tiêu sau 

đây: 

a) Bảo đảm mức thu nhập tối đa tự việc sản xuất hàng hóa; 

b) Bảo đảm sao cho các khoản vốn đầu tư và các kỹ thuật thích hợp được 

dành cho việc thăm dò và khai thác các tài nguyên của vùng; 

c) Bảo  đảm sao cho các người ký kết  được  đối xử bình  đẳng về mặt tài 

chính và có những nghĩa vụ tài chính tương đương; 

d) Cung cấp các kích thích trên cơ sở đồng đều và không phân biệt đối xử 

để khuyến khích các người ký kết hợp đồng ký các thỏa thuận liên doanh 

với xí nghiệp và các quốc gia đang phát triển hay các công dân của quốc gia 

này, động viên việc chuyển giao các kỹ thuật cho xí nghiệp, cho các quốc 

gia đang phát triển hay cho các công dân của quốc gia này và đào tạo nhân 

viên của cơ quan quyền lực và của các quốc gia đang phát triển; e) Cho phép xí nghiệp tiến hành khai thác các tài nguyên đồng thời với các 

thực thể hay cá nhân nói ở điều 153, khoản 2, điểm b; 

f) Tránh tình trạng do những kích thích tài chính dành cho những người ký 

kết hợp đồng theo khoản 14 hay theo các điều khoản của hợp đồng đã được 

xét lại theo đúng Điều 19 của phụ lục này, hoặc còn theo Điều 11 của cùng 

phụ lục này liên quan đến các xí nghiệp liên doanh mà các người ký kết 

hợp đồng được trợ cấp đến mức họ có được lợi thế một cách giả tạo trong 

cuộc cạnh tranh với những người khai thác các vỉa quặng ở đất liền. 

2. Thu một khoản lệ phí là 500.000 đô la Mỹ theo một đơn yêu cầu để đảm 

bảo các khoản chi hành chính có liên quan đến việc nghiên cứu các đơn yêu 

cầu chấp thuân các kế hoạch làm việc dưới hình thức  hợp đồng. Số tiền của 

khoản lệ phí  được hội  đồng xét lại từng thời kỳ,  để bảo  đảm  được các 

khoản chi hành chính cần thiết. Nếu các khoản chi của cơ quan quyền lực 

để nghiên cứu một đơn yêu cầu thấp hơn số tiền đã  ấn định, thì cơ quan 

quyền lực hoàn lại khoản chênh lệch cho người yêu cầu. 

3. Bên ký kết hợp  đồng nộp một khoản thuế hằng năm cố  định làm 

1.000.000 đô la Mỹ kể từ ngày hợp đồng có hiệu lực. Nếu thời gian đã được 

chuẩn y để bắt đầu việc sản xuất hàng hóa bị lùi lại do co sự chậm trễ trong 

việc cấp phát giấy phép sản xuất theo đúng Điều 151, thì bên ký kết được 

miễn một phần khoản thuế hằng năm cố định tương đương với thời hạn kéo 

dài. Ngay khi bắt đầu sản xuất hàng hóa, người ký kết hợp đồng phải nộp 

hoặc khoản tiền thuế  đánh trên sản lượng hoặc khoản thuế hàng năm cố 

định, nếu khoản thuế này cao hơn. 

4. Trong thời hạn một năm kể từ khi bắt đầu việc sản xuất hàng hóa, theo 

đúng khoản 3, người ký kết hợp đồng lựa chọn các hành thức sau đây để 

đóng góp tài chính cho cơ quan quyền lực: 

a) Hoặc chỉ nộp một khoản tiền thuế đánh trên sản lượng; 

b) Hoặc chỉ nộp một khoản tiền thuế đánh trên sản lượng và nộp một phần 

các thu nhập thuần túy của mình. 

5. a) Nếu bên ký kết lựa chọn viêc  đóng góp tài chính của mình cho cơ 

quan quyền lực bằng cách chỉ nộp một khoản tiền thuế đánh trên sản lượng, 

thì số tiền thuế này được tính bằng một tỉ lệ phần trăn giá trị hành hóa của 

các kim loại tinh chế từ các khối đa kim được khai thác trong khu vực nói 

trong hợp đồng, tỷ lệ phần trăm được quy định như sau: 

i. 5% từ năm sản xuất hàng hóa thứ nhất đến năm thứ mười; 

ii. 12% từ năm sản xuất thứ mười một đến khi kết thúc thời kỳ sản xuất 

hàng hóa. 

b) Giá trị hàng hóa của các kim loại tinh chế được tính toán bằng cách nhân 

số lượng kim loại tinh chế từ các khối đa kim được khai thác trong khu vực nói trong hợp đồng với giá trung bình của các kim loại này trong tài khóa 

được xem xét, được xác định theo đúng các khoản 7 và 8. 

6. Nếu bên ký kết chọn việc đóng góp tài chính cho cơ quan quyền lực bằng 

cách nộp một khoản tiền thuế  đánh trên sản lượng và nộp một phần thu 

nhập thuần túy của mình, thì tổng số tiền của những khoản đóng góp này 

được xác định như sau: 

i. 2% cho thời kỳ sản xuất hàng hóa đầu tiên. 

ii. 4% cho thời kỳ sản xuất hàng hóa thứ hai. 

Trong thời kỳ sản xuất hàng hóa thứ hai, như đã xác định ở điểm d, nếu 

hiệu suất đầu tư trong một tài khóa nào đó, theo định nghĩa ghi ở điểm m, 

dưới 15%, do phải nộp khoản tiền thuế đánh trên sản lượng với tỷ lệ 4%, thì 

tỷ lệ tiền thuế đánh trên sản lượng được ấn định là 2% trong tài khóa này; 

b) Giá trị hàng hóa của các kim loại tinh chế được tính toán bằng cách nhân 

số lượng kim loại tinh chế từ các khối đa kim được khai thác trong khu vực 

nói trong hợp đồng với giá trung bình của các kim loại này, được xác định 

trong tài khóa được xem xét, theo đúng các khoản 7 và 8; 

c) i. Phần các thu nhập thuộc về cơ quan quyền lực được trích trong phần 

thu nhập thuần túy của người ký kết hợp đồng có thể khấu trừ vào các hoạt 

động khai thác tài nguyên của khu vực theo hợp đồng; sau đây gọi là thu 

nhập thuần túy có thể khấu vào; 

ii. Phần thu nhập thuần túy có thể khấu vào thuộc về cơ quan quyền lực 

được xác định theo barem lũy tiến sau: 

Phần thu nhập thuần túy có thể khấu vào 

thuộc về Cơ quan quyền lực  Phần thu nhập thuần túy

có thể khấu vào  Thời kì sản xuất hàng

hóa thứ nhât 

Thời kì sản xuất hàn

hóa thứ hai 

Phần trích trong trường hợp 

hiệu quả vốn đầu tư cao hơn

0% nhưng dưới 10% 

35%  40% 

Phần trích trong trường hợp 

hiệu quả vốn đầu tư bằng 

hoặc cao hơn 10% nhưng 

dưới 20% 

42.5%  50% 

Phần trích trong trường hợp 

hiệu quả vốn đầu tư bằng 

hoặc cao hơn 20% 

50%  70% 

d) i. Thời kì sản xuất hàng hóa đầu tiên nói ở các điểm a và c bắt đầu vào 

tài khóa đầu tiên của thời kì sản xuất hàng hóa và kết thúc vào tài khóa khi mà 

các chi phí phục vụ khai thác (despeenses de mise en valeur) của người kí kết 

hợp đồng đã được điều chỉnh, có tính đến khoản tiền lãi thuộc phần chưa khấu 

hao của các khoản chi phí trước đây, được khấu hao hoàn toàn nhờ vào số dư thực tế như  được nói rõ sau  đây:  đối với tài khóa  đầu tiên phát sinh ra các 

khoản chi phí phục vụ khai thác, những khoản chi phí phục vụ khai thác không 

được khấu hao là những khoản chi phí phục vụ khai thác đã khấu trừ đi số dư 

thực tế trong tài khóa được xem xét. Đối với mỗi tài khóa tiếp sau, các khoản 

chi phí phục vụ khai thác không  được khấu hao,  được tính bằng cách cộng 

thêm vào các khoản chi phí phục vụ khai thác không được khấu hao cuối tài 

khóa trước, cùng với một tài khoản lãi hàng năm là 10%, các khoản chi phí 

phục vụ khai thác trong tài khóa hiện hành và bằng cách lấy tổng số tiền này 

trừ đi số dư thực tế của người kí kết hợp đồng cho tài khóa đó. Tài khóa mà 

các chi phí phục vụ khai thác cộng thêm tiền lãi thuộc phần không được khấu 

hao của các khoản chi phí này, được khấu hao hoàn toàn là tài khóa đầu tiên 

mà các chi phí phục vụ khai thác bằng không; số dư thực tế của người kí kết 

hợp đồng đối với mọi tài khóa là tổng thu nhập của họ trừ đi các phí tổn về 

khai thác và các khoản phải nộp cho cơ quan quyền lực theo đúng điểm c. 

ii. Thời kì sản xuất hàng hóa thứ hai bắt đầu vào tài khóa được tính từ khi 

kết thức thời kì thứ nhất và kéo dài cho đến khi kết thúc hợp đồng; 

e) Thuật ngữ “thu nhập thuần túy có thể khấu vào” (recettes nettes 

imputables) nghĩa là các thu nhập thuần túy của người kí kết hợp đồng nhân 

với tỉ số giữa các khoản chi phí phục vụ khai thác gắn với việc khai thác 

khoáng sản và tổng số các chi phí phục vụ khai thác của người kí kết hợp 

đồng. Khi mà các hoạt động của người kí kết hợp đồng nhằm vào việc khai 

thác và vận chuyển các khối đa kim, cũng như vào việc sản xuất hàng hóa, chủ 

yếu là ba kim loại tinh chất như coban, đồng, kền, thì số tiền thu nhập thuần 

túy có thể khấu vào của người kí kết hợp đồng không thể dưới 25% thu nhập 

thuần túy của người  đó. Với  điều kiện phải tuần thủ các thể thức  đã nêu  ở 

điểm n, trong tất cả các trường hợp khác, kể cả trường hợp mà các hoạt động 

của người kí kết hợp đồng nhằm vào việc khai thác, vận chuyển các khối đa 

kim và vào việc sản xuất hàng hóa bốn kim loại tinh chế như coban,  đồng, 

mangan và kền, cơ quan quyền lực có thể định ra trong các quy tắc, quy định 

và thủ tục của mình các tỉ lệ tối thiểu thích hợp bằng cách áp dụng cũng các 

công thức tỉ lệ như khi ấn định tỉ lệ tối thiểu 25% được quy định trong trường 

hợp của ba kim loại; 

f) Thuật ngữ “các thu nhập thuần túy của người kí kết hợp đồng” là tổng 

thu nhập của người kí kết hợp đồng, đã trừ các phí tổn về khai thác và khoản 

dùng để khấu hao các chi phí phục vụ khai thác của người đó theo các thể thức 

đã được trù định ở điểm j; 

g) i. Nếu các hoạt động của người kí kết hợp đồng nhằm vào việc khai thác, 

vận chuyển các khối đa kim và sản xuất hàng hóa các kim loại tinh thể, thuật 

ngữ “tổng thu nhập của người ký kết hợp đồng” là tổng số tiền thu nhập bán 

các kim loại tinh chế và mọi khoản thu khác được coi như có thể tính một cách 

hợp lý vào các nghiệp vụ đươc thực hiện theo hợp đồng, theo đúng các quy 

tắc, quy định và thử tục tài chính của cơ quan quyền lực; 

  ii. Trong tất cả các trường hợp, ngoài những trường hợp đã nói rõ ở 

điểm g,i và điểm n,iii, thuật ngữ “tổng thu nhập của người kí kết hợp đồng” là tổng số tiền thu nhập của việc bán các kim loại sơ chế từ khối đa kim khai thác 

trong khu vực nói trong hợp đồng và tất cả các khoản thu khác được coi như 

có thể tính một cách hợp lý vào các nghiệp vụ thực hiện theo hợp đồng, theo 

đúng các quy tắc, quy định và thủ tục tài chính của cơ quan quyền lực; 

h) Thuật ngữ “chi phí phục vụ khai thác của người kí kết hợp đồng” nghĩa 

là: 

i. Tất cả các khoản chi trước khi bắt đầu việc sản xuất hàng hóa, trực tiếp 

gắn với sự phát triển khả năng sản xuất của khu vực nói trong hợp đồng và với 

các hoạt động có liên quan, dưới danh nghĩa các nghiệp vụ trù định trong hợp 

đồng trong mọi trường hợp khác, ngoài những trường hợp được định rõ ở điểm 

n, theo đúng các nguyên tắc kế toán được thừa nhận chung, bao gồm cả những 

chi phí về thiết bị, mua sắm công cụ, tàu thuyền, thiết bị chế biến, các chi phí 

liên quan đến các công trình xây dựng, mua sắm nhà cửa, đất đai và tất cả các 

chi phí liên quan đến việc xây dựng đường sá, thăm dò và khảo sát khu vực 

nói trong hợp đồng, đến việc nghiên cứu – phát triển, đến tiền lãi, tiền thuê bất 

thường, các giấy phép, các khoản tiền thuế; và 

ii. Các chi phí giống như chi phí đã nêu ở điểm n,i thực hiện sau khi bắt 

đầu việc sản xuất hàng hóa để có thể thực hiện kế hoạch làm việc, không tính 

đến các khoản thuộc về phí tổn khai thác; 

i)  Các khoản thu từ việc chuyển nhượng các trang thiết bị và giá trị hàng 

hóa của các trang thiết bị không còn cần thiết nữa đối với các nghiệp vụ được 

trù định trong hợp đồng mà không đem bán, được trù khỏi các chi phí phục vụ 

khai thác của người kí kết hợp  đồng trong tài khóa  được xem xét. Khi các 

khoản phải trừ này vượt quá số tiền chi phí phục vụ khai thác, thì số dư được 

cộng thêm vào tổng thu nhập; 

j)  Các chi phí phục vụ khai thác của người kí kết hợp đồng trước khi bắt 

đầu sản xuất hàng hóa nói ở điểm h,i. và điểm n,i. hàng năm được khấu trừ 

làm mười đợt bằng nhau kể từ ngày bắt đầu sản xuất hàng hóa. Các chi phí 

phục vụ khai thác của người kí kết hợp đồng nói ở điểm h,ii và điểm n,iv sau 

khi bắt đầu sản xuất hàng hóa, hàng năm được khấu trừ thành mười đợt bằng 

nhau hay bằng một số đợt bằng nhau hàng năm ít hơn, sao cho các chi phí này 

hoàn toàn được khấu trừ khi hợp đồng hết hạn; 

k)  Thuật ngữ “phí tổn khai thác của người kí kết hợp đồng” nghĩa là tất cả 

các khoản chi phí đã phát sinh sau khí bắt đầu việc sản xuất hàng hóa để khai 

thác khả năng sản xuất theo khu vực theo hợp đồng và chi cho các hoạt động 

có liên quan theo danh nghĩa các nghiệp vụ được trù định trong hợp đồng, theo 

đúng các nguyên tắc kế toán được thừa nhận chung, nhất là kể cả khoản tiền 

thuế đánh trên sản lượng hay khoản tiền thuế cố định hàng năm, nếu khoản 

tiền thuế này cao hơn, các chi phí liên quan đến tiền lương, tiền công và các 

khoản phụ cấp liên quan, các công cụ, dịch vụ, vận tải, chế biết và tiêu thụ, 

tiền lãi, công trình công cộng, việc giữ gìn môi trường biển, đến chi phí quản 

lý chung và chi phí hành chính trực tiếp gắn liền với các nghiệp vụ được trù 

định trong hợp đồng, cũng như bất kì thiếu hụt nào trong việc khai thác được 

chuyển sổ theo một trong hai hướng sau đây: Sự thiếu hụt trong việc khai thác có thể được chuyển sổ hai lần liên tiếp, từ tài khóa này sang tài khóa khác, trừ 

hai năm cuối cùng của hợp đồng, thì có thể được chuyển trở lại vào hai tài 

khóa trước đó; 

l)  Nếu người kí kết hợp đồng bảo đảm chủ yếu việc khai thác, vận chuyển 

các khối đa kim và sản xuất hàng hóa các kim loại đã tinh chế và sơ chế thì 

thuật ngữ “chi phí phục vụ khai thác gắn với việc khai thác khoáng sản” nghĩa 

là phần chi phí phục vụ khai thác của người kí kết hợp đồng trực tiếp gắn với 

việc khai thác các tài nguyên của khu vực nói trong hợp đồng, theo đúng các 

nguyên tắc kế toán được thừa nhận chung và các quy tắc quản lý tài chính, 

cũng như các quy tắc, quy định và thủ tục tài chính của cơ quan quyền lực, kể 

cả số lệ phí phải nộp cho việc nghiên cứu đơn xin ký hợp đồng, số tiền thuế cố 

định hàng năm và, nếu có, cả các chi phí đã phát sinh về khảo sát và thăm dò 

khu vực nói trong hợp đồng, và một phần của các chi phí nghiên cứu – phát 

triển; 

m)  Thuật ngữ “hiệu suất vốn đầu tư” đối với một tài khóa nào đó, là tỉ số 

giữa thu nhập thuần túy có thể khấu vào của tài khóa này và các chi phí phục 

vụ khai thác gắn liền với việc khai thác khoáng sản. Trong việc tính toán tỉ số 

này, các chi phí phục vụ khai thác gắn liền với việc khai thác khoáng sản là 

các chi phí được dùng để mua sắm công cụ mới hay để thay thế công cụ được 

sử dụng vào các hoạt động khai thác khoáng sản, đã trừ đi giá ban đầu của 

công cụ được thay thế; 

n)  Nếu người kí kết hợp đồng chỉ khai thác khoáng sản thì: 

i.  Thuật ngữ “thu nhập thuần túy có thể khấu vào” có nghĩa là tổng thu 

nhập thuần túy của người kí kết hợp đồng; 

ii. Thuật ngữ “thu nhập thuần túy của người kí kết hợp đồng” có nghĩa như 

đã được ghi trong điểm f; 

iii. Thuật ngữ “tổng thu nhập của người kí kết hợp đồng” có nghĩa là toàn 

bộ thu nhập bán các khối đa kim và tất cả các khoản thu khác được coi như có 

thể tính một cách hợp lý vào các nghiệp vụ được thực hiện theo danh nghĩa 

của hợp đồng, theo đúng các quy tắc, quy định và thủ tục tài chính của cơ quan 

quyền lực; 

iv.  Thuật ngữ “chi phí phục vụ khai thác của người kí kết hợp đồng” có 

nghĩa là tất cả các chi phí đã phát sinh trước khi bắt đầu việc sản xuất hàng 

hóa như đã được chỉ rõ tại điểm h,i. và tất cả các chi phí đã phát sinh sau khi 

bắt đầu sản xuất hàng hóa như đã được chỉ rõ ở điểm h,ii.; những chi phí này 

trực tiếp gắn với việc khai thác các tài nguyên của khu vực nói trong hợp đồng 

được tính toán theo đúng các quy tắc kế toán được chấp nhận chung; 

v. Thuật ngữ “phí tổn khai thác của người kí kết hợp  đồng” có nghĩa là 

những tổn phí khai thác của người kí kết hợp đồng đã được nêu ở điểm k, trực 

tiếp gắn liền với việc khai thác các tài nguyên của khu vực nói trong hợp đồng 

được tính toán theo đúng các nguyên tắc kế toán được chấp nhận chung; 

vi. Thuật ngữ “hiệu suất vốn đầu tư” của một tài khóa nào đó là tỷ số giữa 

những khoản thu nhập thuần túy tài khóa này và những chi phí phục vụ khai 

thác của người kí kết hợp đồng. Trong việc tính tỉ số này, các chi phí phục vụ khai thác là các chi phí đã phát sinh về mua sắm công vụ mới hay về thay thế 

công cụ, đã trừ đi giá ban đầu của công cụ được thay thế; 

o) Việc hoàn thành các chi phí liên quan đến việc chi trả lãi của người kí 

kết hợp đồng đã nói ở các điểm h, k, l và n được phép thực hiện trong phạm vi 

mà ở mọi trường hợp, Cơ quan quyền lực, theo đúng Điều 4, khoản 1 của Phụ 

lục này, thừa nhận rằng tỉ số giữa vốn công ty và nợ cũng như các lãi suất là 

hợp lý, có tính đến các thủ tục thương mại hiện hành; 

p) Các chi phí đã nói trong đoạn này không bao gồm các món tiền đã trả 

dưới danh nghĩa thuế đánh vào các công ty hay các lệ phí tương tự, do các 

quốc gia thu vào các nghiệp vụ của người kí hợp đồng. 

7. a) Thuật ngữ “kim loại tinh chế” đã được dùng ở khoản 5 và khoản 6 có 

nghĩa là những kim loại ở dưới dạng thông dụng nhất thường được trao đổi 

trên thị trường quốc tế cuối cùng. Để thực hiện điểm này, cơ quan quyền lực 

phải chỉ rõ trong các quy tắc, quy định và thủ tục tài chính các thị trường quốc 

tế cuối cùng thích hợp. Đối với các kim loại không được trao đổi trên các thị 

trường quốc tế này, thì thuật ngữ “kim loại tinh chế” có nghĩa là những kim 

loại dưới dạng thông dụng nhất thường được trao đổi trong khuôn khổ các giao 

dịch thông thường phù hợp với các nguyên tắc kinh doanh độc lập. 

b) Nếu Cơ quan quyền lực không thể xác định bằng một cách nào khác số 

lượng kim loại tinh chế được sản xuất ra từ những khối đa kim khai thác trong 

khu vực theo hợp  đồng nói ở khoản 5,  điểm b và ở khoản 6,  điểm b thì số 

lượng này được xác định theo hàm lượng kim loại của các khối đó theo tỉ suất 

thu hồi sau khi đã tinh chế và các yếu tố thích hợp khác, theo đúng các quy 

tắc, quy  định và thủ tục của Cơ quan quyền lực và các nguyên tắc kế toán 

được thừa nhận chung. 

8.  Nếu một thị trường quốc tế cuối cùng đưa ra một cơ chế thích đáng để 

định giá các kim loại đã được tinh chế, các khối đa kim và các kim loại sơ chế 

từ các khối quặng, thì Cơ quan quyền lực sử dụng giá trung bình ở trên thị 

trường này. Trong tất cả các trường hợp khác, Cơ quan quyền lực, sau khi 

tham khảo ý kiến của người kí kết hợp đồng, định ra một giá công bằng cho 

những sản phẩm này theo đúng khoản 9. 

9. a) Tất cả mọi phí tổn, mọi khoản chi, khoản thu, cũng như mọi giá cả và 

giá trị nói ở điều này được tính theo các giao dịch phù hợp với những nguyên 

tắc ở thị trường tự do hoặc kinh doanh độc lập. Nếu không như vậy, thì Cơ 

quan quyền lực sẽ xác định, sau khi đã tham khảo ý kiến của người kí kết hợp 

đồng, coi như trong các giao dịch phù hợp với các nguyên tắc của thị trường tự 

do hoặc kinh doanh, có tính đến các giao dịch tương ứng ở trên các thị trường 

khác; 

b) Để bảo đảm việc áp dụng và tôn trọng khoản này, Cơ quan quyền lực 

dựa theo các nguyên tắc đã được thông quan và dựa vào việc giải thích đối với 

các giao dịch phù hợp với nguyên tắc kinh doanh độc lập của Ủy bản thuộc Liên hợp quốc về các xí nghiệp xuyên quốc gia (tranonationales) của nhóm 

chuyên gia về các Công ước thuế khóa giữa các nước phát triển và các nước 

đang phát triển và của các tổ chức quốc tế khác, và Cơ quan quyền lực quy 

định trong các quy tắc, quy định và các thủ tục khác các quy tắc và thủ tục kế 

toán thống nhất, có thể chấp nhận được trong phạm vi quốc tế, cũng như các 

phương pháp mà người kí kết hợp  đồng sẽ phải áp dụng  để lựa chọn các 

chuyên gia kế toán độc lập đẻ có thể được Cơ quan quyền lực chấp nhân, để 

kiểm tra các tài khoản theo đúng các nguyên tắc, quy định và thủ tục này. 

10. Người kí kết hợp đồng cung cấp cho các chuyên gia kế toán theo đúng 

các nguyên tắc, quy định và thủ tục tài chính của Cơ quan quyền lực, những số 

liệu tài chính cần thiết cho phép xác minh rằng điều này đã được tôn trọng. 

11. Tất cả mọi phí tổn, mọi khoản chi, khoản thu cũng như mọi giá cả và 

giá trị đã được nêu ở điều này, được xác định theo đúng các nguyên tắc kế 

toán được chấp nhận chung, các quy tắc, quy định, thủ tục tài chính của Cơ 

quan quyền lực. 

12. Những số tiền phải nộp cho Cơ quan quyền lực theo các khoản 5 và 6 

phải được thanh toán bằng đồng tiền có thể sử dụng tự do hay bằng các đồng 

tiền được chuyển đổi tự do và đang được sử dụng trên những thị trường hối 

đoái chính hay, theo sự lựa chọn của người kí kết hợp đồng, dưới hình thức 

tương đương bằng kim loại đã tinh chế, được tính trên cơ sở của giá trị hàng 

hóa. 

Giá trị hàng hóa được xác định theo đúng khoản 5, điểm b, những đồng tiến 

có thể sử dụng tự do và những đồng tiền mà người ta có thể chuyển đổi tự do 

và đang sử dụng trên các thị trường hối đoái chính được xác định trong các 

quy tắc, quy định, thủ tục của Cơ quan quyền lực theo đúng các tập quán tiền 

tệ quốc tế thông dụng. 

13. Tất cả các nghĩa vụ tài chính của người kí kết hợp  đồng  đối với Cơ 

quan quyền lực, cũng như tất cả các khoản tiền phải nộp, phí tổn, chi phí, thu 

nhập nói ở điều này được điều chỉnh bằng giá trị không đổi, lấy theo một năm 

quy chiếu. 

14. Nhằm phục vụ các mục tiêu đã nêu ở khoản 1, dựa theo các kiến nghị 

của Ủy ban kế hoạch hóa kinh tế và của Ủy ban Pháp lý và kĩ thuật, Cơ quan 

quyền lực có thể thông qua các quy tắc, quy định và thủ tục trú định việc dành 

cho các bên kí kết hợp đồng những kích thích trên một cơ sở thống nhất và 

không phân biệt đối xử. 

15. Khi có tranh chấp giữa Cơ quan quyển lực và một bên kí kết hợp đồng 

có liên quan đến việc giải thích hay áp dụng các điều khoản tài chính cảu một 

hợp  đồng, bên này hay bên kia có thể  đưa vụ tranh chấp ra một trọng tài thương mại có quyền lực bắt buộc, trừ khi hai bên thỏa thuận giải quyết tranh 

chấp bằng các phương pháp khác, theo đúng Điều 188, khoản 2. 

ĐIỀU 14. Việc thông báo các số liệu 

Theo đúng các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực và tùy 

theo các điều kiện, thể thức của kế hoạch làm việc, người khai thác thông báo 

cho cơ quan quyền lực, theo những khoảng thời gian do cơ quan quyền lực 

quy định, tất cả các số liệu vừa cần thiết, vừa thích hợp, nhằm để cho các cơ 

quan chính của cơ quan quyền lực thi hành có hiệu quả các quyền hạn và chức 

năng của họ có liên quan đến khu vực mà kế hoạch làm việc nhắm vào. 

Các số liệu được thông báo về khu vực mà kế hoạch làm việc nhằm vào và 

được coi là sở hữu công nghiệp chỉ có thể được sử dụng vào các mục đích nói 

trong điều này. Các số liệu cần thiết cho cơ quan quyền lực trong việc soạn 

thảo các quy tắc, quy định và thủ tục liên quan đến việc bảo vệ môi trường 

biển và đến sự an toàn, ngoài các số liệu liên quan đến kiểu trang thiết bị, thì 

không được coi là sở hữu công nghiệp. 

Cơ quan quyền lực không được thông báo cho xí nghiệp hay bất kì ai ở bên 

ngoài cơ quan quyền lực các số liệu mà những người thăm dò, những người 

yêu cầu kí hợp đồng và những người kí kết hợp đồng cung cấp cho cơ quan 

quyền lực và được coi là sở hữu công nghiệp, nhưng những số liệu liên quan 

đến khu vực dành riền có thể được thông báo cho xí nghiệp. Xí nghiệp không 

được thông báo cho cơ quan quyền lực hay cho bất kì ai ở bên ngoài cơ quan 

quyền lực các số liệu cùng loại đó đã được cung cấp cho xí nghiệp theo cách 

nói trên. 

ĐIỀU 15. Các chương trình đào tạo 

Người kí kết hợp đồng vạch ra các chương trình thực tiễn đào tạo nhân viên 

của cơ quan quyền lực và của các quốc gia đang phát triển, nhất là trù định sự 

tham gia của các nhân viên nói trên vào tất cả các hoạt động tiến hành trong 

vùng thuộc đối tượng của hợp đồng, theo đúng Điều 144, khoản 2. 

ĐIỀU 16. Độc quyền về thăm dò và khai thác 

Cơ quan quyền lực, theo Phần XI và các quy tắc, quy định và thủ tục của mình 

cho người khai thác  đặc quyền thăm dò, khai thác một loại tài nguyên nhất 

định trong khu vực và kế hoạch làm việc nhằm vào và luôn luôn chú ý  để 

không cho một thực thể hay một cá nhân nào khác tiến hành trong cùng khu 

vực nói trên, các hoạt động nhằm vào một loại tài nguyên khác, một cách có thể gây trở ngại cho các hoạt động cho người khai thác. Người khai thác được 

bảo đảm danh nghĩa theo đúng Điểm 153, khoản 6. 

ĐIỀU 17. Quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực 

1.  Cơ quan quyền lực thông qua và áp dụng một cách thống nhất các quy 

định, quy tắc và thủ tục theo Điều 160, khoản 2, điểm f,ii và Điều 162, khoản 

2, điểm o,ii để thi hành các chức trách của mình như đã được nêu ở phần XI, 

nhất là về các vấn đề sau: 

a.  Các thủ tục hành chánh liên quan đến việc khảo sát, thăm dò và khai 

thác trong vùng; 

b.  Các nghiệp vụ; 

i.  Diện tích của khu vực; 

ii.  Thời hạn của các nghiệp vụ 

iii.  Các quy phạm hiệu lực, kế cả những bảo đảm đã được trù định ở 

điều 4, khoản 6, điểm c của phụ lục này; 

iv.  Các loại tài nguyên; 

v.  Sự từ bỏ các khu vực; 

vi.  Các báo cáo về tiến trình của công việc; 

vii.  Thông báo các số liệu; 

viii.  Kiểm tra và kiểm soát các nghiệp vụ; 

ix.  Các biện pháp được thi hành để không làm cản trở đến các hoạt 

động khác trong môi trường biển; 

x.  Việc một người kí kết hợp đồng chuyển nhượng các quyền và 

nghĩa vụ của mình; 

xi.  Các thủ tục liên quan đến việc chuyển giao các kĩ thuật cho các 

quốc gia đang phát triển theo đúng Điều 144, cũng như đến việc tham gia trực 

tiếp của các quốc gia này; 

xii.  Quy phạm và tập quán khai thác khoáng sản, kể cả những quy 

phạm và tập quán có quan hệ đến an toàn của các nghiệp vụ, đến việc bảo tồn 

các tài nguyên và việc bảo vệ môi trường biển; xiii.  Xác định việc sản xuất hàng hóa; 

xiv.  Các tiêu chuẩn về tư cách của các người yêu cầu. 

c.  Những vấn đề tài chính: 

i.  Soạn thảo các quy tắc thống nhất và không phân biệt đối xử về 

việc tính toán giá cả và về kế toán và biện pháp lực chọn các nhân viên kiểm 

tra; 

ii.  Phân chia các khoản thu được từ các nghiệp vụ; 

iii.  Các kích thích nêu ở điều 13 của khu vực này; 

d.  Thi hành các quyết định theo Điều 151, khoản 10 và Điều 164, khoản 

2, điểm d; 

2.  Các quy tắc, quy định và thủ tục liên quan đến những vấn đề sau đây 

cần đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn khách quan được nêu dưới đây: 

a.  Diện tích của khu vực: 

Cơ quan quyền lực quy định diện tích của các khu vực thăm dò có thể đến 

mức lớn gấp đôi diện tích các khu vực khai thác, để cho việc thăm dò có hiệu 

suất hơn. Diện tích các khu vực khai thác được tính toán để đáp ứng được các 

đòi hỏi của Điều 8 của phụ lục này, liên quan đến việc dành riêng các khu vực, 

cũng như đáp ứng các đòi hỏi về sản xuất đã được trù định; các đòi hỏi này 

phải phù hợp với điều 151 và các điều khoản của hợp đồng, có tính đến tình 

trạng các kĩ thuật sẵn có trong lĩnh vực khai thác khoáng sản ở đáy biển và các 

đặc điểm tự nhiên thích đáng của khu vực. Diện tích của các khu vực không 

thể nhỏ hơn hay lớn hơn diện tích cần thiết để đáp ứng mục tiêu này. 

b.  Thời gian của các nghiệp vụ: 

i.  Thời gian khảo sát là không giới hạn; 

ii.  Thời gian của giai đoạn thăm dò phải đủ để cho phép tiến hành 

công tác nghiên cứu kĩ càng đối với khu vực được nhắm đến, công tác nghiên 

cứu và xây dựng phương tiện khai thác đối với khu vực này, việc lập các kế 

hoạch, việc xây dựng các nhà máy chế biến có công suất nhỏ và vừa để tiến 

hành việc thử các hệ thong khai thác và chế biến kim loại. 

iii.  Thời gian khai thác phải tùy thuộc vào thời gian hoạt động kinh 

tế của dự án khai thác mỏ, có tính đến các yếu tố như: vỉa quặng bị cạn, tuổi thọ của phương tiện khai thác, các thiết bị chế biến và khả năng đứng vững về 

thương mại. Thời gian của giai đoạn khai thác phải đủ để cho phép tiến hành 

việc khai thác hàng hóa các khoáng sản của khu vực và cần phải bao gồm một 

thời hạn hợp lý để xây dựng các thiết bị khai thác mỏ và chế biến trên quy mô 

thương mại, thời hạn mà trong đó chưa thể đòi hỏi bất cứ một sự sản xuất hàng 

hóa nào. Tuy nhiên, toàn bộ thời gian khai thác cũng cần phải tương đối ngắn 

để cho cơ quan quyền lực có thể sửa  đổi các  điều kiện và thể thức của kế 

hoạch làm việc vào lúc mà cơ quan quyền lực nghiên cứu việc kí lại kế hoạch 

làm việc đó, theo đúng các quy tắc, quy định và thủ tục mà cơ quan quyền lực 

đã thông qua sau khi đã chuẩn y kế hoạch làm việc; 

c.  Các quy phạm về hiệu lực: 

Trong giai đoạn thăm dò, cơ quan quyền lực đòi hỏi người khai thác phải 

tiến hành chỉ tiêu theo định kì tương ứng hợp lý với diện tích khu vực mà kế 

hoạch làm việc nhằm vào và với các khoản chi phí cần phải chi của một người 

khai thác trung thực dự định tiến hành việc sản xuất hàng hóa ở khu vực đó, 

trong những thời hạn do cơ quan quyền lực  ấn  đinh. Không  được  ấn  định 

những chi phí cần thiết trên đây ở mức độ gây nản lòng những người khai thác 

sử dụng những kĩ thuật rẻ tiền hơn các kĩ thuật thường dùng. Cơ quan quyền 

lực ấn định một thời hạn tối đa để bắt đầu việc sản xuất hàng hóa, sau khi kết 

thúc giai đoạn thăm dò và những hoạt động khai thác đầu tiên. Để xác định 

thời hạn này, Cơ quan quyền lực cần tính đến tình hình là việc xây dựng các 

thiết bị khai thác và chế biến quan trọng chỉ có thế được tiến hành khi giai 

đoạn thăm dò đã kết thức và giai đoạn khai thác đã bắt đầu. Do đó, thời hạn 

được dành để chuẩn bị bắt đầu sản xuất hàng hóa của một khu vực cần phải 

được ấn định có tính đến thời gian cần thiết để xây dựng các thiết bị này sau 

giai đoạn thăm dò; hơn nữa, nên trù định các thời hạn hợp lý cho những chậm 

trễ không thể tránh được trong chương trình xây dựng. Một khi đã đạt tới gia 

đoạn sản xuất hàng hóa, cơ quan quyền lực yêu cầu người khai thác tiếp tục 

việc sản xuất hàng hóa này trong suốt thời gian của kế hoạch làm việc mà vẫn 

ở trong phạm vi các giới hạn hợp lý và vẫn chú ý tới tất cả các yếu tố tương 

ứng. 

d.  Các loại tài nguyên 

Để xác định các loại tài nguyên mà đối với chúng các kế hoạch làm việc có 

thể được chuẩn y, ngoài các yếu tố khác, cơ quan quyền lực dựa vào các yếu tố 

sau đây: i.  Việc những tài nguyên khác nhau cần đến biện pháp khai thác 

giống nhau; 

ii.  Việc các tài nguyên khác nhau có thể  được nhiều người khai 

thác đồng thời trong cùng một khu vực mà không gây quá nhiều trở ngại cho 

nhau; 

Điều quy định này không cản trở cơ quan quyền lực chuẩn y một kế hoạch 

làm việc đối với nhiều loại tài nguyên trong cùng khu vực; 

e.  Từ bỏ các khu vực: 

Người khai thác vào bất kì lúc nào cũng có thể từ bỏ tất cả hay bộ phận các 

quyền của mình đối với khu vực do kế hoạch làm việc nhằm vào mà không bị 

phạt; 

f.  Bảo vệ môi trường biển: 

Các quy tắc, quy định và thủ tục được định ra nhằm bảo vệ có hiệu quả môi 

trường biển, trước những tác hại trực tiếp nảy sinh từ các hoạt động tiến hành 

trong vùng, hay từ việc tinh chế các khoáng sản lấy được từ một địa điểm khai 

thác trên một con tàu ở ngay trên địa điểm khai thác khoáng sản đó, có tính 

đến mức  độ trong  đó các tác hại như thế có thể trực tiếp do các hoạt  động 

khoan, nạo vét, khoan lấy lõi đất và đào, cũng như việc tháo đổ, nhận chìm và 

vứt bỏ trong môi trường biển các chất cặn bã hay nước thải gây ra. 

g.  Sản xuất hàng hóa 

Việc sản xuất hàng hóa được coi như đã bắt đầu khi một người khai thác đã 

thực hiện các hoạt động khai thác liên tục và ở trên quy mô lớn, sản xuất được 

một số lượng vật phẩm quan trọng, đủ để chứng tỏ rõ rang mục tiêu chủ yếu 

của các hoạt động đó là một việc sản xuất trên quy mô lớn và không phải là 

một việc sản xuất nhằm để thu thập thông tin, tiến hành các công việc phân 

tích hay thử nghiệm các công cụ hay thiết bị 

ĐIỀU 18. Phạt 

Các quyền theo hợp đồng của người kí kết hợp đồng chỉ có thể bị đình chỉ 

hay chấm dứt trong các trường hợp sau: 

Khi mà mặc dù đã có những lời cảnh cáo của cơ quan quyền lực, người kí 

hợp đồng vẫn tiến hành các hoạt động của mình theo cách dẫn đến những vi 

phạm nghiêm trọng, kéo dài và cố ý, đối với các điều khoản cơ bản của hợp đồng, đối với các quy tắc, quy định và thủ tục của cơ quan quyền lực và đối 

với phần XI, hoặc 

Khi người kí kết hợp đồng không tuân theo một quyết định dứt khoát và bắt 

buộc do cơ quan giải quyết các tranh chấp đề ra cho mình. 

Trong những trường hợp vi phạm các điều khoản của hợp đồng ngoài các 

trường hợp nói ở khoản 1, điểm a, hoặc thay cho việc tuyên bố đình chỉ hay 

hủy bỏ hợp đồng, trong các trường hợp nói ở khoản 1, điểm a. Cơ quan quyền 

lực có thể bắt người kí hợp đồng chịu những khoản tiền phạt theo tỉ lệ về mức 

độ nghiêm trọng của việc vi phạm. 

Trừ trường hợp các mệnh lệnh được đưa ra trong tình hình khẩn cấp theo 

Điều 162, khoản 2, điểm w, Cơ quan quyền lực chưa thể thi hành một quyết 

định liên quan đến các khoản tiền phạt hoặc đến việc đình chỉ hay hủy bỏ hợp 

đồng, chừng nào người kí hợp đồng chưa có khả năng hợp lý để khai thác hết 

những căn cứ pháp lý mà mình có, theo đúng Mục 5 của Phần XI. 

  ĐIỀU 19.  Xét lại hợp đồng 

Theo ý kiến của một trong các bên, khi xảy ra hay có thể xảy ra các hoàn 

cảnh có tác dụng làm cho một hợp đồng trở nên không công bằng, hoặc gây 

tổn hại, hoặc ngăn cản việc thực hiện các mục tiêu được đề ra trong hợp đồng, 

hay trong phần XI, các bên tiến hành các cuộc thương lượng nhằm xét lại hợp 

đồng theo hoàn cảnh mới 

Một hợp đồng được kí kết theo đúng Điều 153, khoản 3, chỉ có thể được 

xét lại với sự thỏa thuận của các bên kí kết. 

ĐIỀU 20. Chuyền giao các quyền và nghĩa vụ 

Các quyền và các nghĩa vụ nảy sinh từ một hợp đồng chỉ được chuyển giao 

với sự thỏa thuận của Cơ quan quyền lực và theo đúng các quy tắc, quy định, 

thủ tục của nó. Nếu không có lý do đầy đủ, Cơ quan quyền lực không được từ 

chối việc chấp thuận sự chuyển giao, nếu xét về mọi phương diện, người có 

thể được giao là một người yêu cầu có tư cách và bảo đảm tất cả các nghĩa vụ 

của người giao, và nếu việc chuyển giao không giao cho người được giao một 

kế hoạch làm việc mà việc chuẩn y đã bị cấm theo Điều 6, khoản 3, điểm c của 

phụ lục này. 

ĐIỀU 21. Luật áp dụng Hợp đồng thuộc sự điều chỉnh của các điều khoản của hợp đồng, các quy 

tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực, Phần XI, cũng như các quy 

tắc khác của pháp luật quốc tế không mâu thuẫn với Công ước. 

Mọi quyết định cuối cùng do một tòa án có thẩm quyền theo Công ước đưa 

ra về quyền và các nghĩa vụ của Cơ quan quyền lực và của người kí hợp đồng 

có hiệu lực trên lãnh thổ của bất kì quốc gia thành viên nào. 

Một quốc gia thành viên không thể bắt một người kí kết hợp đồng phải theo 

các điều kiện không phù hợp với Phần XI. Tuy nhiên, việc một quốc gia thành 

viên áp dụng đối với những người kí kết hợp đồng do mình bảo trợ hay đối với 

các tàu mang cờ nước minh, các luật và quy định liên quan đến việc bảo vệ 

môi trường biển hay các luật và quy định khác chặt chẽ hơn các quy tắc, quy 

định, thủ tục do Cơ quan quyền lực đặt ra theo Điều 17, khoản 2, điểm f của 

phụ lục này, không bị coi là không phù hợp với Phần XI. 

ĐIỀU 22. Trách nhiệm 

Người kí kết hợp  đồng phải chịu trách nhiệm về mọi tổn thất do một hành 

động trái phép của họ trong khi tiến hành công việc gây ra, có tính đến phần 

trách nhiệm có thể quy cho Cơ quan quyền lực do các hành động hay thiếu sót 

của cơ quan này, Cơ quan quyền lực cũng phải chịu trách nhiệm về những tổn 

thất do những hành động trái phép mà họ phạm phải trong khi thực hiện các 

quyền hạn và chức năng của mình, kể cả các hành động vi phạm Điều 186, 

khoản 2, có tính đến phần trách nhiệm có thể quy cho người kí kết do những 

hành động hay thiếu sót của họ. Trong mọi trường hợp, mức bồi thường phải 

tương ứng với thiệt hại thực sự. PHỤ LỤC IV 

QUY CHẾ CỦA XÍ NGHIỆP 

  ĐIỀU 1. Các mục đích 

1. Xí nghiệp là cơ quan của Cơ quan quyền lực trực tiếp tiến hành các hoạt 

động trong Vùng theo Điều 153, khoản 2, điểm a, cũng như các hoạt động 

vận chuyển, chế biến và tiêu thụ các khoáng sản được khai thác từ Vùng. 

2. Để thực hiện những mục đích và thi hành các chức năng của mình, Xí 

nghiệp hành động theo đúng Công ước, các quy tắc, quy định và thủ tục của 

Cơ quan quyền lực. 

3. Để khai thác các tài nguyên của Vùng theo khoản 1, với điều kiện phải 

tuân theo Công ước, Xí nghiệp tiến hành các hoạt động của mình theo đúng 

các nguyên tắc quản lý thương mại đúng đắn. 

ĐIỀU 2. Các quan hệ với cơ quan quyền lực 

1. Theo Điều 170, Xí nghiệp hành động theo đúng chính sách chung do Đại 

hội động quyết định và theo đúng các chỉ thị của Hội đồng. 

2. Với điều kiện tuân thủ khoản 1, Xí nghiệp hành động theo cách tự quản. 

3. Không một điều quy định nào của Công ước làm cho Xí nghiệp có trách 

nhiệm về những hành  động hay nghĩa vụ của Cơ quan quyền lực, cũng 

không làm cho Cơ quan quyền lực chịu trách nhiệm về những hành động 

hay nghĩa vụ của Xí nghiệp. 

ĐIỀU 3. Giới hạn trách nhiệm 

Không phương hại đến Điều 11, Khoản 3 của Phụ lục này, không một uỷ 

viên nào của Cơ quan quyền lực phải chịu trách nhiệm về những hành động 

hay nghĩa vụ của Xí nghiệp chỉ vì tư cách uỷ viên của mình. 

ĐIỀU 4. Cơ cấu 

Xí nghiệp có một Hội đồng quản trị, một Tổng giám đốc và nhân viên cần 

thiết để thực hiện các chức năng của mình.  

ĐIỀU 5. Hội đồng quản trị 

 1. Hội đồng quản trị gồm có 15 uỷ viên được Đại hội đồng bầu ra theo đúng 

Điều 160, khoản 2, điểm c. Khi bầu các uỷ viên của Hội đồng quản trị, phải 

tính đến các nguyên tắc phân chia công bằng về mặt địa lý. Trong khi bầu 

cử các ứng cử viên vào Hội đồng, các uỷ viên của Cơ quan quyền lực cần 

tính  đến sự cần thiết phải chỉ  định các  ứng cử viên tinh thông nhất về 

nghiệp vụ và có các phẩm chất cần thiết trong các lĩnh vực thích hợp để bảo 

đảm khả năng đứng vững và thành công của Xí nghiệp. 

2. Các uỷ viên của Hội đồng quản trị được bầu ra với một nhiệm kỳ 4 năm 

và có thể được bầu lại. Khi bầu và bầu lại các uỷ viên của Hội đồng quản 

trị, phải tính đến các nguyên tắc luân phiên. 

3. Các uỷ viên của Hội đồng quản trị làm nhiệm vụ cho đến khi bầu những 

người thay thế. Nếu khiếm khuyết một uỷ viên của Hội đồng quản trị, thì 

theo Điều 160, khoản 2,  điểm c, Đại hội  đồng bầu một uỷ viên mới cho 

khoảng thời gian còn lại thuộc nhiệm kỳ của uỷ viên bị khuyết. 

4. Các uỷ viên của Hội đồng quản trị hành động với tư cách cá nhân. Trong 

khi thi hành chức trách của mình, họ không được xin, nhận các chỉ thị của 

một chính phủ nào hay của một nguồn nào khác. Các uỷ viên của Cơ quan 

quyền lực tôn trọng tính độc lập của các uỷ viên của Hội đồng quản trị và 

tránh bất kỳ ý đồ nào gây ảnh hưởng đến các uỷ viên của Hội đồng quản trị 

trong việc thi hành các chức trách của họ. 

5. Mỗi uỷ viên của Hội đồng quản trị được nhận một khoản tiền thù lao tính 

vào các nguồn tài chính của Xí nghiệp. Số tiền thù lao này được Đại hội 

đồng quy định, dựa theo kiến nghị của Hội đồng. 

6. Bình thường, Hội đồng quản trị làm việc tại trụ sở cơ sở chính của Xí 

nghiệp và nhóm họp mỗi khi công việc của Xí nghiệp đòi hỏi. 

7. Số  đại biểu cần thiết (quorum) là hai phần ba số uỷ viên của Đại hội 

đồng quản trị. 

8. Mỗi uỷ viên của Hội đồng quản trị có một phiếu. Hội đồng quản trị quyết 

định về tất cả các vấn đề mà mình xem xét theo đa số các uỷ viên của mình. 

Nếu có vấn đề nào gây nên tranh chấp về quyền lợi đối với một uỷ viên thì 

uỷ viên này không tham gia bỏ phiếu về vấn đề này. 

9. Bất kỳ uỷ viên nào của Cơ quan quyền lực cũng có thể yêu cầu Hội đồng 

quản trị cung cấp các thông tin liên quan đến các hoạt động có quan hệ đặc 

biệt đến mình. Hội đồng cố gắng cung cấp các thông tin này. 

ĐIỀU 6. Các quyền hạn và chức năng của hội đồng quản trị Hội đồng quản trị điều hành Xí nghiệp. Với điều kiện chấp hành Công ước, 

Hội đồng quản trị thi hành các quyền hạn cần thiết để thực hiện các mục 

đích của Xí nghiệp, kể các các quyền: 

a) Bầu một Chủ tịch trong số các uỷ viên của mình; 

b) Thông qua quy chế nội bộ của mình; 

c) Lập và gửi lên Hội đồng các kế hoạch làm việc theo đúng thể thức 

và bằng văn bản theo đúng Điều 153, khoản 3, và Điều 162, khoản 2, điểm 

j; 

d) Soạn thảo các kế hoạch làm việc và các chương tình để thực hiện 

các hoạt động nói trong Điều 170;  

e) Thảo và trình lên Hội đồng những đơn xin cấp giấy phép sản xuất, 

theo đúng Điều 151, các khoản 2 đến 7;  

f) Cho phép các cuộc thương lượng liên quan đến việc mua các kỹ 

thuật, nhất là các cuộc thương lượng đã trù định ở Điều 5, khoản 3, điểm a, 

c và d của Phụ lục III, và chuẩn y các kết quả của các cuộc thương lượng 

này. 

g) Ấn định các điều kiện và thể thức cho phép các cuộc thương lượng 

liên quan đến các xí nghiệp liên doanh và các hình thức thoả thuận về liên 

doanh khác đã nói trong các Điều 9 và 11 của Phụ lục III và chuẩn y các kết 

quả của các cuộc thương lượng này;  

h) Làm các kiến nghị lên Đại hội đồng về phần thu nhập thuần tuý 

của xí nghiệp cần phải được dành ra để lập nên các dự trữ theo đúng Điều 

16 khoản 2, điểm f, và Điều 10 của Phụ lục này;  

i) Chuẩn y ngân sách hàng năm của Xí nghiệp;  

j) Cho phép mua tài sản và thuê dịch vụ theo đúng Điều 12, Khoản 3 

của Phụ lục này;  

k) Trình báo cáo hàng năm lên Hội đồng theo đúng Điều 9 của Phụ 

lục này;  

l) Trình lên Hội đồng để được Đại hội đồng chuẩn y các dự thảo quy 

tắc liên quan đến tổ chức, quản lý, bổ nhiệm và thải hồi nhân viên của Xí 

nghiệp, và thông qua các quy định đem lại hiệu lực cho các quy tắc này; 

m) Vay vốn và cung cấp những bảo hành và bảo đảm khác mà mình 

xác định theo đúng Điều 11, khoản 2 của Phụ lục này;  

n) Quyết định việc kiện tụng, ký các hiệp định, thực hiện những cuộc 

giao dịch và thi hành mọi biện pháp khác theo sự trù định trong Điều 13 

của Phụ lục này;  

o) Uỷ nhiệm, với  điều kiện  được sự chuẩn y của Hội  đồng, mọi 

quyền hạn không có tính chất tuỳ ý quyết định cho các uỷ ban hay Tổng 

giám đốc của mình;  

ĐIỀU 7. Tổng giám đốc và nhân viên 

1. Dựa theo kiến nghị của Hội đồng, Đại hội đồng bầu ra trong số các ứng 

cử viên do Hội đồng quản trị đề nghị, một Tổng giám đốc Xí nghiệp, người này không được là uỷ viên của Hội đồng quản trị. Tổng giám đốc được bầu 

trong một nhiệm kỳ nhất định không quá 5 năm và có thể được bầu lại cho 

những nhiệm kỳ sau. 

2. Tổng giám đốc là người đại diện hợp pháp của Xí nghiệp và là người 

đứng  đầu Xí nghiệp về mặt hành chính, trực tiếp chịu trách nhiệm trước 

Hội đồng quản trị trong việc điều hành các hoạt động của Xí nghiệp. Tổng 

giám đốc chịu trách nhiệm về tổ chức, quản lý, bổ nhiệm và bãi miễn nhân 

viên, theo đúng quy tắc và quy định nêu ở Điều 6, điểm 1 của Phụ lục này. 

Tổng giám đốc tham dự các cuộc họp của Hội đồng quản trị, nhưng không 

có quyền bỏ phiếu; ông ta có thể tham gia các cuộc họp của Đại hội đồng 

và của Hội đồng khi các cơ quan này xem xét những vấn đề liên quan đến 

Xí nghiệp, nhưng không có quyền bỏ phiếu. 

3. Căn cứ bao trùm trong việc tuyển mộ và quyết  định các  điều kiện sử 

dụng nhân viên là bảo đảm cho Xí nghiệp những người phục vụ có năng lực 

làm việc cao nhất và tinh thông nghiệp vụ nhất. Ngoài ra, phải tính đến tầm 

quan trọng của việc tuyển mộ trên cơ sở công bằng về mặt địa lý. 

4. Trong khi thi hành các chức trách của mình, Tổng giám đốc và nhân viên 

của Xí nghiệp không được xin, nhận các chỉ thị của một chính phủ nào hoặc 

của một nguồn nào khác, ngoài Xí nghiệp. Họ tránh bất kỳ hành vi nào 

không phù hợp với tư cách viên chức quốc tế của Xí nghiệp và chỉ chịu 

trách nhiệm trước Xí nghiệp. Mỗi quốc gia thành viên cam kết tôn trọng 

tính chất quốc tế thuần tuý của các chức trách Tổng giám đốc và nhân viên 

của Xí nghiệp và không tìm các gây ảnh hưởng tới việc thi hành nhiệm vụ 

của họ. 

5. Các nhân viên của Xí nghiệp cũng có những trách nhiệm nói ở Điều 168, 

khoản 2. 

ĐIỀU 8. Địa điểm 

Xí nghiệp có văn phòng chính đặt tại trụ sở của Cơ quan quyền lực; 

Xí nghiệp có thể mở các văn phòng và các cơ sở khác ở trên lãnh thổ của 

bất kỳ quốc gia thành viên nào với sự thoả thuận của quốc gia này. 

ĐIỀU 9. Các báo cáo và các bản quyết toán tài chính 

1. Trong một thời hạn 3 tháng sau khi kết thúc mỗi tài khoá. Xí nghiệp phải 

gửi một báo cáo hàng năm, bao gồm một bản quyết toán tài chính đã được 

thẩm tra lên cho Hội đồng xem xét, và trong những khoảng thời gian thích 

hợp gửi lên Hội đồng một bản quyết toán tài chính tổng hợp về tình hình tài chính của mình và một bản quyết toán các khoản lỗ, lãi, thể hiện kết quả 

khai thác của mình. 

2. Xí nghiệp công bố báo cáo hàng năm của mình và tất cả các bản quyết 

toán mà mình xét thấy cần thiết. 

3. Tất cả các báo cáo và các bản quyết toán tài chính đã nêu trong điều này 

được gửi cho các uỷ viên của Cơ quan quyền lực. 

ĐIỀU 10. Phân chia thu nhập thuần tuý 

1. Với điều kiện tuân thủ khoản 3, Xí nghiệp nộp cho Cơ quan quyền lực 

các khoản tiền được trù định trong Điều 13 của Phụ lục III hoặc một thứ 

tương đương. 

2. Dựa theo kiến nghị của Hội đồng quản trị, Đại hội đồng quy định phần 

thu nhập thuần tuý của Xí nghiệp cần phải được dành ra để lập nên các quỹ 

dự trữ, số dư được chuyển cho Cơ quan quyền lực. 

3. Trong thời kỳ ban đầu, cần thiết đối với Xí nghiệp để tự túc cho chính 

mình với một thời gian tối đa là 10 năm, kể từ khi bắt đầu việc sản xuất 

hàng hoá, Đại hội  đồng miễn cho Xí nghiệp những khoản nộp  đã nêu  ở 

khoản 1 và đưa toàn bộ thu nhập thuần tuý của Xí nghiệp vào trong các quỹ 

dự trữ của Xí nghiệp. 

ĐIỀU 11. Tài chính 

1. Các nguồn tài chính của Xí nghiệp gồm có: 

a) Các khoản tiền nhận  được của Cơ quan quyền lực phù hợp với 

Điều 173, khoản 2, điểm b; 

b) Những đóng góp tự nguyện của các quốc gia thành viên nhằm mục 

đích tài trợ cho các hoạt động của Xí nghiệp;  

c) Tổng số tiền vay mượn của Xí nghiệp theo đúng các khoản 2 và 3;  

d) Thu nhập mà Xí nghiệp rút ra được từ các hoạt động của mình;  

e) Các nguồn tài chính khác giao cho Xí nghiệp sử dụng để cho phép 

Xí nghiệp bắt đầu công việc của mình càng sớm càng tốt và việc thi hành 

các chức năng của mình. 

2. a) Xí nghiệp có quyền đi vay và cung cấp một sự bảo hành hay bảo đảm 

khác mà Xí nghiệp có thể xác  định được. Trước khi tiến hành việc công 

khai bán các trái phiếu của mình trên thị trường tài chính hay bằng đồng 

tiền của một quốc gia thành viên, Xí nghiệp phải được sự đồng ý của quốc 

gia này. Tổng số tiền vay mượn phải được Hội đồng chuẩn y dựa theo ý 

kiến của Hội đồng quản trị. b) Các quốc gia thành viên cố gắng hết sức trong phạm vi hợp lý ủng 

hộ các yêu cầu vay mượn của Xí nghiệp ở trên các thị trường tài chính và 

với các cơ quan tài chính quốc tế. 

3. a) Xí nghiệp được cung cấp các nguồn tài chính cần thiết để thăm dò và 

khai thác một khu vực nhỏ, đẻ bảo đảm việc vận chuyển, chế biến và tiêu 

thụ các khoáng sản mà Xí nghiệp khai thác được ở đó và các kim loại như 

kền, đồng, cô-ban và măng-gan lấy ra từ các khoáng sản và để trang trải 

những chi phí quản lý ban đầu của mình. Uỷ ban trù bị chỉ rõ trong dự thoả 

về các quy tắc, quy  định và thủ tục của Cơ quan quyền lực, tổng số các 

nguồn tài chính này, cũng như các tiêu chuẩn và yếu tố để thực hiện các 

điều chỉnh cần thiết; 

b) Tất cả các quốc gia thành viên cung cấp cho các Xí nghiệp một số 

tiền tương đương với một nửa các nguồn tài chính đã nêu ở điểm a, dưới 

hình thức cho vay dài hạn không lấy lãi, theo đúng ba-rem của các khoản 

đóng góp vào ngân sách thông thường của Liên hợp quốc hiện hàng, vào 

lúc nộp những khoản đóng góp này với những điều chỉnh, vì có các quốc 

gia không phải là thành viên của Liên hợp quốc. Nửa khác của các nguồn 

tài chính của Xí nghiệp là các khoản do Xí nghiệp vay với sự bảo đảm của 

các quốc gia thành viên theo ba-rem nói trên; 

c) Nếu tổng số tiền đóng góp của các quốc gia thành viên thấp hơn 

tổng số tiền của các nguồn tài chính phải được cung cấp cho Xí nghiệp theo 

điểm a, Đại hội đồng xem xét ở khoá họp đầu tiên của mình chỗ thiếu hụt 

và có tính đến những nghĩa vụ của các quốc gia thành viên theo các điểm a 

và b và đến các kiến nghị của uỷ ban trù bị để thông qua bằng consensus 

(thoả thuận) các biện pháp về khoản thiếu hụt này;  

d) i. Trong 60 ngày sau khi Công ước có hiệu lực hay trong 30 ngày 

tiếp theo ngày gửi lưu chiểu các tài liệu phê chuẩn hay gia nhập, thời hạn 

nào dài nhất thì  được sử dụng, mỗi quốc gia thành viên cần gửi tới Xí 

nghiệp các kỳ phiếu không thể chuyển  đổi, không thể chuyển dịch hay 

không có lãi tương đương với số tiền thuộc phần mình về các khoản tiền 

cho vay không có lãi nói ở điểm b;  

ii. Càng sớm càng tốt, sau khi Công ước bắt đầu có hiệu lực, sau đó 

cứ hàng năm hay theo những khoảng thời gian thích hợp khác, Hội đồng 

quản trị của Xí nghiệp, cùng với sổ kỳ hạn (échéancier) cấp kinh phí cho 

các chi tiêu hành chính của xí nghiệp và cho các hoạt động mà xí nghiệp 

tiến hành theo Điều 170 và Điều 12 của Phụ lục này;  

iii. Qua trung gian của Cơ quan quyền lực, Xí nghiệp thông báo cho 

các quốc gian thành viên phần đóng góp của họ và các chi phí này, được 

xác định theo đúng điểm b; Xí nghiệp thu các kỳ phiếu tương đương với 

tổng số tiền cần thiết để bảo đảm các khoản chi tiêu đã ghi trong sổ kỳ hạn 

cấp kinh phí, có tính đến những khoản vay không có lãi;  iv. Ngay khi nhận được thông báo, các quốc gia thành viên giao cho 

Xí nghiệp sử dụng các phần bảo đảm của mình đối với các khoản vay nợ 

theo đúng điểm b;  

e) i. Nếu Xí nghiệp yêu cầu, các quốc gia thành viên có thể cung cấp 

các khoản bảo đảm nợ, thêm vào các khoản mà họ cung cấp theo ba-rem 

nói ở điểm b;  

ii. Thay thế cho một sự bảo đảm nợ, một quốc gia thành viên có thể 

nộp cho Xí nghiệp một khoản đóng góp tự nguyện với một số tiền tương 

đương với phần nợ mà quốc gia đó có thể đã hứa bảo đảm;  

f) Việc trả nợ có lãi được ưu tiên hơn việc trả nợ không lãi. Các món 

nợ không có lãi được hoàn trả theo một lịch được Đại hội đồng chấp nhận, 

dựa theo kiến nghị của Hội đồng và sau khi có ý kiến của Hội đồng quản trị 

của Xí nghiệp. Hội  đồng quản trị thi hành chức năng này theo  đúng các 

điều khoản tương ứng trong các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan 

quyền lực. Các quy tắc, quy định và thủ tục này có tính đến sự cần thiết cơ 

bản là bảo đảm cho Xí nghiệp hoạt động tốt, và đặc biệt là, bảo đảm được 

tính độc lập về tài chính của Xí nghiệp ; 

g) Các khoản tiền đóng góp cho Xí nghiệp là bằng những đồng tiền 

có thể sử dụng tự do hay bằng những đồng tiền được chuyển đổi tự do và 

đang được sử dụng thực sự trên thị trường hối đoái chính. Những đồng tiền 

này  được xác  định trong các quy tắc, quy  định và thủ tục của Cơ quan 

quyền lực theo đúng các tập quán tiền tệ quốc tế thông dụng. Với điều kiện 

tuân thủ khoản 2, không một quốc gia thành viên nào áp dụng hay áp đặt 

những điều hạn chế có liên quan đến khả năng để cho Xí nghiệp giữ, sử 

dụng hay trao đổi các khoản tiền này. 

h) Thuật ngữ "bảo đảm nợ", có nghĩa là một quốc gia thành viên hứa 

với các chủ nợ của Xí nghiệp, giữ trọn nghĩa vụ tài chính của Xí nghiệp 

được bảo đảm trong phạm vi được trù định trong ba-rem thích hợp, sau khi 

các chủ nợ thông báo về việc Xí nghiệp không thực hiện các nghĩa vụ nói 

trên. Các thủ tục thi hành các nghĩa vụ này phải phù hợp với các quy tắc, 

quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực. 

4. Các nguồn tài chính, tài sản và chi phí của Xí nghiệp phải tách khỏi các 

nguồn tài chính, tài sản và chi phí của Cơ quan quyền lực. Tuy nhiên, Xí 

nghiệp có thể ký kết với Cơ quan quyền lực các thoả thuận về việc hoàn lại 

các chi phí hành chính mà cơ quan này đã chi phí cho cơ quan kia. 

5. Các tài liệu, sổ sách và tài khoản của Xí nghiệp, kể cả các bản quyết toán 

hàng năm, được một uỷ viên kế toán độc lập do Hội đồng chỉ định kiểm tra 

hàng năm. 

ĐIỀU 12. Các nghiệp vụ 

 1. Xí nghiệp đề xuất với Hội đồng các dự án liên quan đến các hoạt động 

nói trong Điều 170. Những dự án này bao gồm một kế hoạch làm việc 

chính thức và bằng văn bản về các hoạt động tiến hành trong Vùng, theo 

đúng Điều 153, khoản 3, cũng như tất cả những thông tin hay số liệu khác 

có thể cần thiết cho việc uỷ ban pháp lý và kỹ thuật đánh giá các dự án đó 

và cho việc Hội đồng chuẩn y các dự án này. 

2. Một khi dự án đã được Hội đồng chuẩn y, Xí nghiệp thi hành nó theo kế 

hoạch làm việc chính thức và bằng văn bản đã nêu ở khoản 1. 

3. a) Nếu Xí nghiệp không sẵn có các tài sản và dịch vụ cần thiết cho các 

hoạt động của mình, thì có thể tìm lấy của cải và dịch vụ đó. Vì mục đích 

đó, Xí nghiệp tiến hành gọi thầu và ký giao kèo với những người nhận thầu 

nào lời nhất cả về chất lượng, giá cả lẫn thời gian giao hàng ; 

b) Nếu nhiều đơn nhận thầu đáp ứng được các điều kiện này, thì giao 

kèo đấu thầu phải theo đúng: 

i. Nguyên tắc không phân biệt  đối xử dựa trên các lý do chính trị 

hoặc lý do khác không liên quan gì đến việc thi hành nhanh chóng và có 

hiệu quả các nghiệp vụ;  

ii. Các chỉ thị do Hội đồng quyết định có liên quan đến việc dành ưu 

tiên cho các tài sản và dịch vụ do các quốc gia đang phát triển cung cấp, 

đặc biệt là, các nước không có biển hay ở vào hoàn cảnh địa lý bất lợi trong 

số các nước đó;  

c) Hội đồng quản trị có thể thông qua các quy tắc xác định các hoàn 

cảnh  đặc biệt, mà trong  đó, vì lợi ích của Xí nghiệp, nó có thể vi phạm 

nghĩa vụ phải tiến hành các cuộc đấu thầu. 

4. Xí nghiệp có quyền sở hữu đối với tất cả các khoáng sản và tất cả các 

chất được chế biến mà xí nghiệp sản xuất ra. 

5. Xí nghiệp bán các sản phẩm của mình trên một cơ sở không phân biệt đối 

xử, và không chấp nhận việc giảm giá không có tính chất kinh doanh. 

6. Không phương hại đến các quyền hạn chung hoặc đặc biệt nào do các 

quy định khác của Công ước giao cho; Xí nghiệp sử dụng các quyền hạn 

cần thiết để điều hành các hoạt động kinh doanh của mình. 

7. Xí nghiệp không được can thiệp vào các hoạt động chính trị của các quốc 

gia thành viên và không để cho khuynh hướng chính trị của quốc gia mà 

mình có quan hệ gây ảnh hưởng đến các quyết định của mình. Các quyết 

định của Xí nghiệp chỉ dựa trên cơ sở các lý do thuộc về thương mại mà Xí 

nghiệp xem xét một cách vô tư nhằm đạt đến các mục đích được xác định ở 

Điều 1 của Phụ lục này. 

 ĐIỀU 13. Quy chế pháp lý, các quyền miễn trừ và đặc quyền 

1. Để cho phép Xí nghiệp thi hành các chức năng của mình, quy chế pháp 

lý, các quyền miễn trừ và  đặc quyền  được xác  định trong  điều này  được 

thừa nhận cho Xí nghiệp hưởng trên lãnh thổ của các quốc gia thành viên. 

Để cho nguyên tắc này có hiệu lực, Xí nghiệp và các quốc gia thành viên có 

thể ký kết các hiệp định đặc biệt mà họ thấy cần thiết. 

2. Xí nghiệp có quyền về mặt pháp lý cần thiết để thi hành các chức năng 

và thực hiện các mục đích của mình, và đặc biệt có quyền:               

a) Ký các hợp đồng và các thoả thuận liên doanh hay các thoả thuận 

khác, kể cả các hiệp định với các quốc gia hay các tổ chức quốc tế. 

b) Mua sắm, thuê mướn, gìn giữ, và chuyển nhượng các động sản và 

bất động sản;  

c) Kiện tụng. 

3. a) Xí nghiệp chỉ có thể bị kiện trước các toà án có thẩm quyền ở một 

quốc gia thành viên mà trên lãnh thổ nước đó, xí nghiệp: 

i. Có một văn phòng, hay có các cơ sở ; 

ii. Đã chỉ định một nhân viên để tiếp nhận việc truyền đạt các bản 

tống đạt về tư pháp;  

iii. Ký giao kèo về của cải hay dịch vụ;  

iv. Phát hành các chứng khoán, hoặc 

v. Thực hiện một hoạt động thương mại dưới bất kỳ hình thức nào 

khác. 

b) Các của cải và tài sản của xí nghiệp, dù ở đâu và người giữ là ai, 

đều được miễn mọi hình thức cầm giữ hay mọi biện pháp tịch thu tài sản 

khác chừng nào mà một bản án cuối cùng  đối với Xí nghiệp chưa  được 

tuyên bố. 

4. a) Của cải và tài sản của xí nghiệp, dù ở đâu và do ai giữ, cũng được 

miễn không bị trưng thu, tịch thu, tước đoạt hay phải chịu bất kỳ hình thức 

sai áp nào khác do một biện pháp thuộc quyền hành pháp hay quyền lập 

pháp.                    

b) Của cải, tài sản của Xí nghiệp, dù ở đâu và do ai giữ, cũng không 

phải chịu một dự kiểm soát, hạn chế, quy định hay lệnh tạm hoãn nào mang 

tính chất phân biệt đối xử, dù thuộc loại nào. 

c) Xí nghiệp và nhân viên của Xí nghiệp tôn trọng các luật và quy 

định của bất kỳ quốc gia hay lãnh thổ nào mà ở đó, Xí nghiệp hay nhân 

viên tiến hành các hoạt động công nghiệp và thương mại hay các hoạt động 

khác.     

d) Các quốc gia thành viên bảo đảm cho xí nghiệp được hưởng tất cả 

các quyền, quyền miễn trừ và  đặc quyền mà họ  đã  đồng ý dành cho các 

thực thể hoạt động thương mại ở trên lãnh thổ của mình. Các quyền, quyền miễn trừ và đặc quyền này được dành cho các Xí nghiệp theo các thể thức 

không kém thuận lợi hơn các quyền dành cho các thực thể hoạt  động 

thương mại tương tự. Khi các quốc gia đồng ý cho các quốc gia đang phát 

triển hay các thực thể thương mại của họ hưởng các quyền ưu tiên đặc biệt, 

thì Xí nghiệp cũng được hưởng các đặc quyền này trên một cơ sở ưu tiên 

tương tự;             

e) Các quốc gia thành viên có thể đồng ý cho Xí nghiệp được hưởng 

các kích thích, quyền, đặc quyền và quyền miễn trừ đặc biệt mà họ không 

buộc phải dành cho các thực thể thương mại khác hưởng. 

5. Xí nghiệp thương lượng với các quốc gia mà ở trên lãnh thổ các quốc gia 

đó, Xí nghiệp có các văn phòng và các cơ sở, để được miễn tất cả mọi thứ 

thuế trực thu và gián thu. 

6. Mỗi quốc gia thành viên thi hành các biện pháp cần thiết để đem lại hiệu 

lực trong pháp luật của mình cho những nguyên tắc đã được nêu trong Phụ 

lục này và thông váo cho Xí nghiệp biết những biện pháp cụ thể mà họ đã 

định. 

7. Xí nghiệp có thể từ bỏ bất kỳ đặc quyền hay quyền miễn trừ nào do điều 

này do các hiệp định đặc biệt nói ở khoản 1 dành cho mình, trong phạm vi 

và theo các điều kiện do mình quy định.            

PHỤ LỤC V 

VIỆC HOÀ GIẢI 

MỤC 1 

HOÀ GIẢI THEO ĐÚNG MỤC 1 CỦA PHẦN XV 

ĐIỀU 1. Khởi đầu thủ tục 

Nếu các bên trong một vụ tranh chấp thoả thuận đưa ra hoà giải theo thủ tục 

được trù định ở mục này, theo đúng Điều 248, thì bất kỳ bên tranh chấp nào 

đều có đề xuất thủ tục bằng một thông báo viết gửi đến cho bên khác hay 

các bên khác trong vụ tranh chấp. 

ĐIỀU 2. Danh sách các hoà giải viên 

1. Tổng thư ký Liên hợp quốc lập và giữ một bản danh sách các hoà giải 

viên. Mỗi quốc gia thành viên có quyền chỉ định bốn hoà giải viên có tiếng 

là công minh nhất, có trình độ và vô tư nhất. Tên của các nhân vật được chỉ 

định như vậy được ghi trên bản danh sách. 

2. Nếu vào một thời điểm nào đó, số lượng các hoà giải viên do một quốc 

gia thành viên chỉ định và thể hiện ở trên bản danh sách dưới bốn người, thì 

quốc gia này có thể tiến hành việc chỉ định bổ sung mà mình có quyền. 

3. Tên của một hoà giải viên được ghi trên bản danh sách cho đến khi bị 

quốc gia thành viên chỉ định người đó rút đi, đương nhiên là hoà giải viên 

này tiếp tục giữ chức ở bất kỳ uỷ ban hoà giải nào mà người này đã được 

cử, cho đến khi thủ tục tiến hành trước khi uỷ ban này được hoàn thành. 

ĐIỀU 3. Cơ cấu của uỷ ban hoà giải 

Trừ khi các bên có thoả thuận khác, uỷ ban hoà giải được lập ra theo các 

cách sau đây: 

a) Với điều kiện tuân thủ điểm g, uỷ ban hoà giải gồm có năm uỷ 

viên. 

b) Bên đề xuất thủ tục chỉ định hai hoà giải viên được tuỳ ý lực chọn 

trên bản danh sách nói ở Điều 2 của Phụ lục này, và một trong hai hoà giải 

viên đó có thể là công dân của mình, trừ khi các bên có thoả thuận khác. 

Việc chỉ định này được ghi rõ trong thông báo được trù định ở Điều 1 ; c) Bên kia trong vụ tranh chấp, trong một thời hạn 21 ngày, kể từ khi 

nhận được thông báo nói ở Điều 1, chỉ định hai hoà giải viên theo cách đã 

trù định ở điểm b. Nếu việc chỉ định này không được tiến hành trong thời 

hạn quy định, bên đề xuất thủ tục, trong tuần lễ tiếp sau khi hết thời hạn 

này, có thể hoặc chấm dứt thủ tục bằng thông báo gửi cho bên kia, hoặc yêu 

cầu Tổng thư ký Liên hợp quốc tiến hành những bổ nhiệm người này theo 

đúng điểm e;  

d) Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày bổ nhiệm người hoà giải cuối 

cùng, bốn hoà giải viên chỉ định một người thứ năm, được lựa chọn trên 

danh sách nói ở Điều 2 của Phụ lục này, người thứ năm này sẽ là Chủ tịch. 

Nếu việc bổ nhiệm không được làm trong thời gian quy định, thì mỗi bên, 

trong tuần lễ tiếp sau khi kết thúc thời hạn này, có thể yêu cầu Tổng thư ký 

Liên hợp quốc tiến hành việc bổ nhiệm này theo đúng điểm e;  

e) Trong thời hạn 30 ngày kể từ khi nhận được một yêu cầu làm theo 

các  điểm c hoặc  điểm d. Tổng thư ký Liên hợp quốc tiến hành việc bổ 

nhiệm cần thiết bằng cách lựa chọn, có tham khảo ý kiến với các bên trong 

vụ tranh chấp, các nhân vật ghi ở bản danh sách nêu ở Điều 2 của Phụ lục 

này ; 

f) Cần bổ sung bất kỳ ghế nào bị trông theo cách đã trù định cho việc 

bổ nhiệm ban đầu ; 

g) Khi hai bên hay nhiều bên thoả thuận cũng đứng về một phía thì 

họ cùng nhau chỉ định hai hoà giải viên. Khi hai hay nhiều bên không cùng 

đứng về một phía hay không thể thoả thuận về điểm có đứng về một phía 

hay không, thì họ chỉ định các hoà giải viên riêng lẻ;  

h) Khi có quá hai bên không đứng về cùng một phía hay không thể 

thoả thuận về điểm có đứng về một phía hay không, thì các bên trong vụ 

tranh chấp áp dụng các điểm a đến f đến hết mức có thể. 

ĐIỀU 4. Thủ tục 

Trừ khi các bên hữu quan có thoả thuận khác, uỷ ban hoà giải tự quyết định 

thủ tục của mình. Với sự thoả thuận của các bên trong vụ tranh chấp, uỷ 

ban hoà giải có thể mời bất kỳ quốc gia thành viên nào trình bày với mình 

những ý kiến của họ bằng lời hay bằng văn bản. Các quyết định về thủ tục, 

các kiến nghị và báo cáo của uỷ ban được thông qua theo đa số các uỷ viên 

của mình. 

ĐIỀU 5. Giải pháp hoà giải 

Uỷ ban có thể lưu ý các bên về mọi biện pháp có thể có để làm dễ dàng cho 

giải pháp hoà giải vụ tranh chấp. 

ĐIỀU 6. Các chức năng của uỷ ban Uỷ ban lắng nghe các bên, xem xét các đòi hỏi và ý kiến phản đối của họ và 

nêu ra các đề nghị nhằm giúp họ đạt tới một giải pháp hoà giải vụ tranh 

chấp. 

ĐIỀU 7. Báo cáo 

1. Uỷ ban làm báo cáo trong vòng 12 tháng sau khi được lập ra. Báo cáo 

của uỷ ban bao gồm bất kỳ thoả thuận nào đạt được và, nếu không có thoả 

thuận, các kết luận của uỷ ban về tất cả các điểm về thực tế hay pháp lý có 

quan hệ tới đối tượng của vụ tranh chấp, cũng như những khuyến nghị mà 

uỷ ban xét thấy thích hợp, nhằm đi tới một giải pháp hoà giải. Báo cáo được 

gửi lên Tổng thư ký Liên hợp quốc và chuyển tới các bên tham gia vụ tranh 

chấp. 

2. Báo cáo của uỷ ban, kể cả mọi kết luận hay khuyến nghị trong đó, không 

ràng buộc các bên. 

ĐIỀU 8. Việc kết thúc thủ tục 

Thủ tục hoà giải kết thúc khi vụ tranh chấp đã được giải quyết khi các bên 

đã chấp nhận hay một bên đã bác bỏ các khuyến nghị trong báo cáo qua con 

đường thông báo bằng văn bản gửi lên cho Tổng thư ký Liên hợp quốc, 

hoặc là sau ba tháng kể từ ngày truyền đạt báo cáo cho các bên.  

ĐIỀU 9. Tiền thù lao và lệ phí 

Tiền thù lao và lệ phí của Uỷ ban do các bên tham gia tranh chấp chịu. 

ĐIỀU 10. Quyền của các bên không theo thủ tục 

Các bên tham gia tranh chấp, qua một thoả thuận áp dụng chỉ cho vụ tranh 

chấp này, có thể thoả thuận bỏ qua bất kỳ quy định nào của Phụ lục này. 

MỤC 2 

BẮT BUỘC THEO THỦ TỤC HOÀ GIẢI THEO ĐÚNG 

MỤC 3 CỦA PHẦN XV 

ĐIỀU 11. Việc khởi đầu thủ tục 

1. Theo đúng mục 3 của phần XV, bất kỳ bên nào trong một vụ tranh chấp 

có thể đưa ra hoà giải theo thủ tục đã trù định ở mục này, có thể bắt đầu thủ tục bằng một bản thông báo gửi cho bên kia hay các bên kia trong vụ tranh 

chấp. 

2. Bất kỳ bên nào trong vụ tranh chấp, khi đã nhận được thông báo đã được 

trù định ở khoản 1, thì bắt buộc phải chấp nhận thủ tục hoà giải. 

ĐIỀU 12. Không có trả lời hay từ chối chấp hành thủ tục 

Việc một hay nhiều bên tham gia vào vụ tranh chấp không trả lời thông báo 

mở  đầu một thủ tục hoà giải hay không chấp nhận một thủ tục như thế, 

không phải là một trở ngại cho thủ tục. 

ĐIỀU 13. Thẩm quyền 

Trong trường hợp có tranh cãi về điểm, liệu một uỷ ban hoà giải được lập 

nên theo mục này có thẩm quyền không, thì uỷ ban này quyết định. 

ĐIỀU 14. Áp dụng mục 1 

Các Điều 2 đến 10 của mục 1 của Phụ lục này được áp dụng với điều kiện 

tuân thủ các quy định của mục này.  

PHỤ LỤC VI 

QUY CHẾ CỦA TOÀ ÁN QUỐC TẾ VỀ LUẬT BIỂN 

ĐIỀU 1. Các quy định chung 

1. Toà án quốc tế về luật biển được thành lập và hoạt động theo đúng các 

quy định của Công ước và quy chế này. 

2. Toà án đặt trụ sở tại thành phố tự do và buôn bán Hăm-buốc thuộc nước 

Cộng hoà liên bang Đức. 

3. Tuy nhiên, toà án có thể đặt trụ sở và thi hành các chức năng ở nơi khác, 

nếu xét thấy tiện lợi hơn. 

4. Việc  đưa một vụ tranh chấp ra toà phải do các phần XI và XV  điều 

chỉnh. 

MỤC 1 

TỔ CHỨC CỦA TOÀ ÁN 

ĐIỀU 2. Thành phần 

1. Toà án là một tập thể gồm 21 thành viên độc lập, được tuyển chọn trong 

số các nhân vật nổi tiếng nhất về công bằng và liêm khiết, có năng lực rõ 

ràng trong lĩnh vực luật biển. 

2. Thành phần của Toà án phải đảm bảo có sự đại điện của các hệ thống 

pháp luật chủ yếu của thế giới và một sự phân chia công bằng về mặt địa lý. 

ĐIỀU 3. Các thành viên của Toà án 

1. Toà án không thể có quá một công dân của cùng quốc gia. Về phương 

diện này, một nhân vật có thể bị coi là công dân của quá một quốc gia sẽ 

được coi như là công dân của quốc gia mà nhân vật đó thường thi hành các 

quyền dân sự và chính trị của mình. 

2. Mỗi nhóm theo địa lý do Đại hội đồng Liên hợp quốc xác định phải có ít 

nhất là 3 thành viên ở trong Toà án. 

 ĐIỀU 4. Các việc ứng cử và bầu cứ 

1. Mỗi quốc gia thành viên có thể chỉ định nhiều nhất là hai người có đủ các 

điều kiện được trù định ở Điều 2 của Phụ lục này. Các thành viên của Toà 

án được tuyển lựa trên bản danh sách những người đã được chỉ định như 

thế. 

2. Ít nhất là ba tháng trước ngày bầu cử Tổng thư ký Liên hợp quốc, nếu là 

cuộc bầu cử đầu tiên, hay thư ký của Toà án, nếu là cuộc bầu cử sau, gửi 

giấy mời các quốc gia thành viên, trong một thời hạn là hai tháng, thông 

báo danh sách các ứng cử viên của họ. Tổng thư ký hay thư ký của Toà án 

lập ra một bản danh sách theo thứ tự a, b c tất cả những ứng cử viên được 

chỉ định như vậy, có ghi rõ các quốc gia thành viên chỉ định họ, và thông 

bao danh sách này cho các quốc gia thành viên trước ngày thứ bảy của 

tháng cuối cùng trước ngày bầu cử. 

3. Cuộc bầu cử đầu tiên diễn ra chậm nhất là sáu tháng sau ngày Công ước 

có hiệu lực. 

4. Các thành viên của Toà án được bầu bằng cách bỏ phiếu kín. Các cuộc 

bầu cử được tiến hành trong một hội nghị các quốc gia thành viên do Tổng 

thư ký Liên hợp quốc triệu tập đối với trường hợp bầu cử đầu tiên, và theo 

thủ tục do các quốc gia thành viên quy định trong trường hợp các cuộc bầu 

cử tiếp sau. Ở mỗi hội nghị này, số đại biểu cần thiết (quorum) của hội nghị 

gồm hai phần ba số quốc gia thành viên. Các thành viên của Toà án được 

bầu là những ứng cử viên đạt được số phiếu bầu cao nhất và phải được hai 

phần ba số quốc gia thành viên có mặt và bỏ phiếu, đương nhiên là đa số 

này phải gồm đa số các quốc gia thành viên. 

ĐIỀU 5. Nhiệm kỳ 

1. Các thành viên của Toà án được bầu với nhiệm kỳ là chín năm và có thể 

được tái cử; tuy nhiên, đối với các thành viên được bầu ở cuộc bầu cử đầu 

tiên, bảy người sẽ mãn nhiện kỳ sau ba năm và bảy người khác sẽ mãn 

nhiệm kỳ sau sáu năm. 

2. Các thành viên của Toà án mãn nhiệm kỳ theo các thời hạn ban đầu là ba 

năm và sáu năm nói ở trên sẽ được chỉ định qua rút thăm do Tổng thư ký 

Liên hợp quốc thực hiện ngay sau cuộc bầu cử đầu tiên. 

3. Các thành viên của Toà án giữ chức vụ cho tới khi có người thay thế. 

Mỗi khi bị thay thế, họ tiếp tục xét xử các vụ mà họ đang xét trước đó. 

 4. Nếu một số thành viên của Toà án từ chức, đơn xin từ chức được gửi lên 

cho Chánh án Toà án. Ghế của thành viên trở nên bị trống vào thời gian 

nhận được đơn xin từ chức. 

ĐIỀU 6. Các ghế bị trống 

1. Các ghế bị trống phải được bổ sung theo phương pháp đã dùng cho cuộc 

bầu cử đầu tiên, với điều kiện phải theo quy định sau đây: thư ký của Toà 

án tiến hành trong tháng tiếp theo ngày có ghế bị trống việc mời theo quy 

định của Điều 4 của Phụ lục này và Chánh án Toà án quy định thời gian 

bầu cử sau khi tham khảo ý kiến của các quốc gia thành viên. 

2. Thành viên của Toà án được bầu thay cho một thành viên chưa hết nhiệm 

kỳ hoàn thành nốt nhiệm vụ của người mình thay thế. 

ĐIỀU 7. Sự không thể kiêm nhiệm 

1. Một thành viên của Toà án không thể đảm nhiệm bất kỳ một chức vụ 

chính trị hay hành chính nào, cũng như không được chủ động tham gia hay 

có liên quan về tài chính trong một hoạt động nào của một xí nghiệp đang 

tiến hành thăm dò hoặc khai thác các tài nguyên ở biển hay ở dưới đáy biển 

hoặc một việc sử dụng biển hay đáy biển vào mục đích thương mại khác. 

2. Một thành viên của Toà án không được làm những nhiệm vụ đại diện, cố 

vấn hay luật sư trong bất cứ vụ kiện nào. 

3. Trong trường hợp có nghi vấn về các điểm này, Toà án quyết định theo 

đa số các thành viên khác có mặt. 

ĐIỀU 8. Các điều kiện liên quan đến việc tham gia của các thành viên 

vào việc giải quyết một vụ kiện nhất định 

1. Một thành viên của Toà án không thể tham gia vào việc giải quyết một 

vụ kiện nào mà trước đây ông ta đã tham dự với tư cách đại diện, cố vấn 

hay luật sư của một trong các bên, hay với tư cách thành viên của một Toà 

án quốc gia hay quốc tế hay với bất cứ danh nghĩa nào khác. 

2. Nếu vì một lý do đặc biệt, một thành viên của Toà án thấy không nên dự 

vào việc giải quyết một vụ kiện nhất định, thì ông ta báo cho Chánh án. 

3. Nếu Chánh án thấy một thành viên của Toà án, vì một lý do đặc biệt, 

không được ngồi xử trong một vụ kiện nhất định, thì báo cho thành viên đó. 

 4. Trong trường hợp có nghi vấn về các điểm này, Toà án quyết định theo 

đa số các thành viên khác có mặt. 

ĐIỀU 9. Hậu quả do một thành viên của Toà án không đáp ứng các 

điều kiện cần thiết 

Nếu theo ý kiến nhất trí của các thành viên khác, một thành viên của Toà án 

đã không đáp ứng các điều kiện cần thiết, thì Chánh án Toà án tuyên bố ghế 

của thành viên này trống. 

ĐIỀU 10. Các đặc quyền và quyền miễn trừ 

Trong khi thi hành các chức trách của mình, các thành viên của Toà án 

được hưởng các đặc quyền và các quyền miễn trừ ngoại giao. 

ĐIỀU 11. Cam kết long trọng 

Trước khi đảm nhận chức trách, bất kỳ thành viên nào của Toà án cũng cần 

công khai cam kết long trọng thi hành các quyền hạn của mình hoàn toàn 

vô tư và hết sức trung thực. 

ĐIỀU 12. Chánh án, phó chánh án và thư ký toà án 

1. Toà án bầu ra Chánh án và phó chánh án với nhiệm kỳ 3 năm, các vị này 

có thể được bầu lại. 

2. Toà án bổ nhiệm thư ký của Toà án và có thể bổ nhiệm những viên chức 

khác như thế, nếu thấy cần thiết. 

3. Chánh án và thư ký của Toà án làm việc tại trụ sở của Toà án. 

ĐIỀU 13. Số đại biểu cần thiết (quorum) 

1. Tất cả các thành viên có mặt của Toà án ngồi xử án, phải đủ 11 thành 

viên được bầu mới được lập Toà án. 

2. Toà án quyết định những thành viên nào có thể được sử dụng để xét một 

vụ tranh chấp nhất định nào đó, có tính đến Điều 17 của Phụ lục này và sự 

cần thiết bảo đảm hoạt động tốt của các Viện nói ở các Điều 14 và 15 của 

Phụ lục này. 

3. Toà án quyết định về tất cả các tranh chấp và về tất cả các đơn đã trình 

lên mình, trừ khi Điều 14 của Phụ lục này được áp dụng hoặc trừ khi các 

bên yêu cầu áp dụng Điều 15 của cùng Phụ lục này.    

ĐIỀU 14. Viện giải quyết các vụ tranh chấp liên quan đến đáy biển 

Một Viện giải quyết các vụ tranh chấp liên quan đến đáy biển được thành 

lập theo đúng Mục 4 của Phụ lục này. Thẩm quyền, các quyền hạn và các 

chức năng của Viện được xác định trong Mục 5 của Phần XI. 

ĐIỀU 15. Các viện đặc biệt 

1. Nếu thấy cần thiết, Toà án có thể lập ra các viện, gồm ít nhất là ba thành 

viên được bầu để xét xử các loại vụ kiện nhất định. 

2. Toà án lập ra một viện để xét xử một vụ tranh chấp nhất định được đệ 

trình lên Toà, nếu các bên yêu cầu. Thành phần của viện này được Toà án 

quy định với sự thoả thuận của các bên. 

3. Nhằm giải quyết nhanh các vụ kiện, mỗi năm Toà án lập ra một viện 

gồm năm thành viên được bầu để xét xử theo thủ tục rút gọn. Ngoài ra có 

thêm hai thành viên được chỉ định để thay thế những thành viên không có 

khả năng tham dự vào một vụ kiện nhất định. 

4. Các Viện  được trù  định  ở  điều này tiến hành xét xử, nếu các bên có 

quyền yêu cầu. 

5. Bất kỳ phán quyết nào của một trong số các viện đã được trù định ở điều 

này và Điều 14 của Phụ lục này đều được coi như phán quyết của Toà án. 

ĐIỀU 16. Quy chế của Toà án 

Toà án xác định qua một quy chế, cách thức thi hành các chức năng của 

mình. Đặc biệt là Toà án quy định thủ tục của mình. 

ĐIỀU 17. Các thành viên có quốc tịch của các bên 

1. Thành viên có quốc tịch của một bên nào đó trong số các bên của một vụ 

tranh chấp có quyền ngồi xử. 

2. Khi xét xử một vụ tranh chấp, nếu Toà án có một thành viên thuộc quốc 

tịch của một trong các bên, thì bất kỳ bên nào khác trong vụ tranh chấp có 

thể chỉ định một người theo sự lựa chọn của mình để tham gia xét xử với tư 

cách thành viên của Toà án. 

3. Khi xét xử một vụ tranh chấp, nếu Toà án không có một thành viên nào 

thuộc quốc tịch của các bên, thì mỗi bên trong các bên này có thể chỉ định một người theo sự lựa chọn của mình để tham gia xét xử với tư cách thành 

viên của Toà án.    

4. Điều này được áp dụng cho các viện nói trong các Điều 14 và 15 của Phụ 

lục này. Trong trường hợp như vậy, Chánh án Toà án sau khi trao đổi với 

các bên, yêu cầu một số thành viên đúng số lượng cần thiết nhường chỗ cho 

các thành viên của Toà án thuộc quốc tịch của các bên hữu quan và nếu 

không có hoặc trong trong trường hợp trở ngại, thì nhường chỗ cho các 

thành viên được các bên này chỉ định một cách đặc biệt. 

5. Khi nhiều bên cùng đứng về một phía trong việc áp dụng các điều quy 

định nói trên, họ chỉ được coi như một bên. Trong trường hợp nghi vấn, 

Toà án sẽ quyết định. 

6. Các thành viên được chỉ định theo đúng các khoản 2, 3 và 4 cần phải đáp 

ứng những điều kiện trong các Điều 2, 8 và 11 của Phụ lục này. Họ tham 

gia vào việc quyết  định trong những  điều kiện hoàn toàn bình  đẳng với 

đồng nghiệp của họ. 

ĐIỀU 18. Thù lao 

1. Mỗi thành viên của Toà án nhận một khoản tiền lương hàng năm, cũng 

như một khoản trợ cấp  đặc biệt cho mỗi ngày mà họ làm nhiệm vụ của 

mình, miễn là tổng số tiền trợ cấp đặc biệt mỗi năm không được vượt quá 

tổng số tiền lương hàng năm.   

2. Chánh án được một khoản trợ cấp đặc biệt hàng năm. 

3. Phó chánh án nhận một khoản trợ cấp đặc biệt cho mỗi ngày mà ông ta 

làm nhiệm vụ của chánh án. 

4. Các thành viên được chỉ định theo Điều 17 của Phụ lục này, ngoài các 

thành viên  được bầu của Toà án,  được phụ cấp cho mỗi ngày mà họ thi 

hành các chức trách của họ. 

5. Các khoản tiền lương, trợ cấp và phụ cấp này  được quy  định lại theo 

từng thời gian, trong các cuộc họp của các quốc gia thành viên, có tính đến 

khối lượng công việc của Toà án. Các khoản này không thể bị giảm bớt 

trong suốt thời gian thi hành chức vụ. 

6. Lương của thư ký Toà án được quy định trong các cuộc họp của các quốc 

gia thành viên dựa trên đề nghị của Toà án. 

 7. Các quy định được thông qua trong các cuộc hội nghị của các quốc gia 

thành viên ấn định các điều kiện, trong đó các khoản tiền hưu được trợ cấp 

cho các thành viên của Toà án và cho thư ký Toà án cũng như các điều kiện 

thanh toán các chi phí đi lại của họ. 

8. Lương, trợ cấp và phụ cấp được miễn mọi thứ thuế. 

ĐIỀU 19. Các kinh phí của Toà án 

1. Các kinh phí của Toà án do các quốc gia thành viên và Cơ quan quyền 

lực đảm nhận trong các điều kiện và theo cách thức được quyết định trong 

các cuộc hội nghị của các quốc gia thành viên. 

2. Khi một thực thể không phải là một quốc gia thành viên hay Cơ quan 

quyền lực, là một bên trong một vụ tranh chấp đưa ra Toà án xét xử, thì Toà 

án quyết định phần đóng góp của bên này vào các kinh phí của Toà án.      

MỤC 2 

THẨM QUYỀN CỦA TOÀ ÁN 

ĐIỀU 20. Quyền được đưa vấn đề ra Toà án 

1. Toà án được để ngỏ cho các quốc gia thành viên. 

2. Toà án được để ngỏ cho các thực thể không phải là các quốc gia thành 

viên trong tất cả các trường hợp đã được quy định rõ trong phần XI hay cho 

mọi tranh chấp được đưa ra theo mọi thoả thuận khác, giao cho Toà án một 

thoả quyền được tất cả các bên trong vụ tranh chấp thoả thuận. 

ĐIỀU 21. Thẩm quyền 

Toà án có thẩm quyền đối với tất cả các vụ tranh chấp và tất cả các yêu cầu 

được đưa ra Toà theo đúng Công ước, và đối với tất cả các trường hợp được 

trù định rõ trong mọi thoả thuận khác, giao thẩm quyền cho Toà án. 

ĐIỀU 22. Việc đưa ra Toà án các vụ tranh chấp liên quan đến các thoả 

thuận khác 

Nếu  được sự thoả thuận của tất cả các bên trong một hiệp  ước hay một 

Công ước đã có hiệu lực có quan hệ đến một vấn đề do Công ước đề cập, 

thì bất kỳ tranh chấp nào liên quan đến việc giải thích hay áp dụng hiệp ước hoặc Công ước đó có thể được đưa ra Toà án theo đúng như điều đã thoả 

thuận. 

ĐIỀU 23. Luật áp dụng 

Toà án phán quyết về mọi tranh chấp và về mọi đơn từ theo đúng Điều 293. 

MỤC 3 

THỦ TỤC 

ĐIỀU 24. Việc khởi tố 

1. Tuỳ theo trường hợp, các vụ tranh chấp có thể được đưa ra Toà án hoặc 

thông qua về một thoả hiệp dựa vào trọng tài hoặc qua đơn thỉnh cầu gửi 

cho thư ký Toà án. Trong cả hai trường hợp, nội dung của vụ tranh chấp và 

các bên cần được ghi rõ. 

2. Thư ký Toà án thông báo ngay thoả hiệp dựa vào trọng tài hay đơn thỉnh 

cầu cho các bên hữu quan. 

3. Thư ký Toà án cũng thông báo về thoả thiệp dựa vào trọng tài hay đơn 

thỉnh cầu nói trên cho các quốc gia thành viên. 

ĐIỀU 25. Biện pháp đảm bảo 

1. Theo đúng Điều 290, Toà án và Viện giải quyết các tranh chấp liên quan 

đến đáy biển có quyền quyết định các biện pháp bảo đảm. 

2. Nếu Toà án không mở phiên xử, hoặc nếu số uỷ viên có mặt thấp hơn số 

thẩm phán cần thiếu thì các biện pháp bảo đảm sẽ do Viện thủ tục rút gọn 

được lập ra theo đúng Điều 15, khoản 3 của Phụ lục này quyết định. Mặc 

dù có Điều 15, khoản 4 của chính Phụ lục này, các biện pháp bảo đảm này 

có thể được quy định theo yêu cầu của bất kỳ bên nào trong vụ tranh chấp. 

Các biện pháp này phải phục tùng sự đánh giá và xem xét lại của Toà án. 

ĐIỀU 26. Phiên toà 

1. Các phiên toà phải do chính Chánh án Toà án chủ tọa, hay nếu Chánh án 

bận, thì do phó chánh án chủ toạ; trong trường hợp cả hai người bận, thì 

phiên toà do thẩm phán lâu năm nhất trong số các thẩm phán của Toà có 

mặt chủ toạ. 

 2. Phiên toà phải mở công khai, trừ khi Toà án có quyết định khác, hoặc trừ 

khi các bên yêu cầu xử kín. 

ĐIỀU 27. Điều hành vụ kiện 

Toà án ra các quyết định về việc điều hành vụ kiện và xác định các hình 

thức và thời hạn mà trong đó mỗi bên cuối cùng phải trình bày các chứng 

cứ của mình; Toà án thi hành mọi biện pháp cần thiết cho việc quản lý các 

chứng cứ. 

ĐIỀU 28. Vắng mặt 

Khi một trong các bên không ra Toà án hay không trình bày các lý lẽ của 

mình, thì bên kia có thể yêu cầu Toà án tiếp tục trình tự tố tụng và ra quyết 

định. Việc một bên vắng mặt hay việc một bên không trình bày các lý lẽ 

của mình không cản trở trình tự tố tụng. Trước khi ra quyết định, Toà án 

phải biết chắc chắn rằng không những Toà án có thẩm quyền xét xử, vụ 

tranh chấp mà còn bảo đảm rằng đơn kiện có cơ sở về mặt thực tế và pháp 

lý. 

ĐIỀU 29.  Đa số cần thiết để ra quyết định 

1. Toà án ra các quyết định theo đa số các thành viên có mặt. 

2. Trong trường hợp số phiếu ngang nhau, phiếu của Chánh án hay của 

người thay thế Chánh án là lá phiếu quyết định. 

ĐIỀU 30. Bản án 

1. Bản án phải nêu rõ căn cứ 

2. Cần ghi tên các thành viên của Toà án đã tham gia vào bản án. 

3. Nếu bản án không thể hiện hoàn toàn hay từng phần ý kiến nhất trí của 

các thành viên Toà án, thì bất kỳ thành viên nào cũng có thể đính theo bản 

trình bày ý kiến riêng hay bất đồng của mình. 

4. Bản án phải được Chánh án và thư ký Toà án ký. Bản án được đọc trong 

một phiên công khai, các bên tham gia tranh chấp phải được báo trước. 

ĐIỀU 31. Việc yêu cầu được tham gia 

 1. Trong một vụ tranh chấp, khi một quốc gia thành viên cho rằng một 

quyền lợi có tính chất pháp lý của mình bị đụng chạm, thì có thể gửi lên 

cho Toà án một đơn thỉnh cầu để yêu cầu xin tham gia. 

2. Toà án phát biểu ý kiến về đơn thỉnh cầu này. 

3. Nếu Toà án chấp nhận đơn thỉnh cầu, thì quyết định liên quan đến vụ 

tranh chấp có tính chất bắt buộc đối với quốc gia xin tham gia trong phạm 

vi mà quyết định này có quan hệ đến các điểm là nội dung của việc tham 

gia. 

ĐIỀU 32. Quyền can thiệp và những vấn đề giải thích hay áp dụng 

1. Khi một vấn đề về giải thích hay áp dụng Công ước được đặt ra, thư ký 

Toà án lập tức thông báo cho tất cả các quốc gia thành viên. 

2. Trong khuôn khổ của các Điều 21 và 22 của Phụ lục này, khi việc giải 

thích hay áp dụng một điều ước quốc tế được đặt ra, thư ký Toà án thông 

báo điều đó cho tất cả các bên tham gia vào điều ước đó. 

3. Mỗi bên nói ở các khoản 1 và 2 có quyền tham dự vào vụ kiện, và nếu 

bên đó thi hành quyền hạn này, thì nội dung giải thích trong bản án cũng có 

tính chất bắt buộc đối với bên đó. 

ĐIỀU 33. Tính chất quyết định về hiệu lực bắt buộc của các phán quyết 

1. Phán quyết của Toà án có tính chất tối hậu và tất cả các bên trong vụ 

tranh chấp đều phải tuân theo. 

2. Phán quyết của Toà án chỉ có tính chất bắt buộc đối với các bên tranh 

chấp và đối với trường hợp đã được quyết định. 

3.Trong trường hợp có sự tranh cãi về ý nghĩa và phạm vi của phán quyết, 

thì Toà án có trách nhiệm giải thích theo yêu cầu của bất kỳ bên nào. 

ĐIỀU 34. Án phí 

Nếu Toà án không có quyết định khác, thì mỗi bên phải đảm nhận phần án 

phí của mình. 

MỤC 4 VIỆN GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP LIÊN QUAN ĐẾN ĐÁY 

BIỂN 

ĐIỀU 35. Thành phần 

1. Viện giải quyết các tranh chấp liên quan đến đáy biển nói trong Điều 14 

của Phụ lục này gồm có 11 thành viên do Toà án lựa chọn trong các thành 

viên đã được bầu của Toà án, theo đa số các thành viên đó. 

2. Trong việc lựa chọn các thành viên của Viện, sự  đại diện cho các hệ 

thống pháp luật chủ yếu của thế giới và việc phân chia công bằng về địa lý 

phải được bảo đảm. Đại hội đồng của Cơ quan quyền lực có thể định ra các 

quyết nghị có tính chất chung về sự đại diện và phân bố nói trên. 

3. Các thành viên của Viện được lựa chọn ba năm một lần và chỉ có thể 

được lựa chọn thêm một nhiệm kỳ. 

4. Viện bầu ra chủ tịch trong số các thành viên của mình. Chỉ tịch đảm nhận 

chức trách trong nhiệm kỳ của Viện. 

5. Nếu các vụ kiện đang giải quyết chưa xong vào cuối nhiệm kỳ ba năm 

của Viện, thì viện phải hoàn thành việc xét xử với thành phần ban đầu của 

mình. 

6. Khi một ghế của Viện bị trống, Toà án chọn trong số các thành viên đã 

được bầu của mình một người kế tục để hoàn thành nhiệm kỳ của người 

tiền nhiệm của người ấy. 

7. Để lập ra Viện, phải có một số lượng cần thết là bảy người do Toà án lựa 

chọn trong các thành viên của mình. 

ĐIỀU 36. Các viện ad-hoc (đặc biệt) 

1. Viện giải quyết các vụ tranh chấp liên quan đến đáy biển lập ra một viện 

ad-hoc (đặc biệt), gồm có ba thành viên trong số thành viên của mình, để 

xét xử một vụ tranh chấp nhất định mà viện có trách nhiệm theo đúng Điều 

188, khoản 1, điểm b. Thành phần của Viện này do Viện giải quyết các vụ 

tranh chấp liên quan đến đáy biển quyết định, với sự đồng ý của các bên 

hữu quan. 

2. Nếu các bên không thoả thuận về thành phần của viện ad-hoc (đặc biệt) 

đã nêu ở khoản 1, thì mỗi bên trong vụ tranh chấp, chỉ định một thành viên 

và thành viên thứ 3 được chỉ định qua thoả thuận, hoặc nếu một bên không 

chỉ định thành viên, thì Chủ tịch của Viện giải quyết các vụ tranh chấp liên quan đến đáy biển phải tiến hành ngay việc chỉ định thành viên này hoặc 

các thành viên này, lựa chọn trong số các thành viên của Viện, sau khi đã 

tham khảo ý kiến của các bên. 

3. Các thành viên của viện ad-hoc (đặc biệt) không được làm việc cho một 

bên tranh chấp nào, cũng không  được là công dân của một quốc gia nào 

trong số các quốc gia tranh chấp. 

ĐIỀU 37. Quyền đưa vấn đề ra Viện 

Viện để ngỏ cho các quốc gia thành viên, cho Cơ quan quyền lực và các 

thực thể hay cá nhân nói ở Mục 5 của phần XI. 

ĐIỀU 38. Luật áp dụng 

Ngoài các quy định của Điều 293, Viện áp dụng: 

a) Các quy tắc, quy định và thủ tục của Cơ quan quyền lực đã được 

thông qua theo đúng Công ước; và 

b) Các điều khoản của bất kỳ hợp đồng nào liên quan đến các hoạt 

động tiến hành trong vùng, về tất cả các vấn đề liên quan đến hợp đồng nói 

trên. 

ĐIỀU 39. Việc thi hành các quyết định của Viện 

Các quyết định của Viện có hiệu lực ở trên lãnh thổ của các quốc gia thành 

viên như các quyết định hay lệnh của cơ quan pháp luật cao nhất của quốc 

gia thành viên trên lãnh thổ mà ở đó phải thi hành các quyết định nói trên. 

ĐIỀU 40. Việc áp dụng các mục khác của Phụ lục này 

1. Các quy định của các mục khác trong Phụ lục này không mâu thuẫn với 

mục này được áp dụng cho Viện. 

2. Trong việc thi hành các quyền hạn về tư vấn của mình. Viện dựa theo các 

quy  định của Phụ lục này liên quan  đến thủ tục tiến hành trước Toà án, 

trong phạm vi mà Viện thấy rằng các quy định này có thể áp dụng được. 

MỤC 5 

CÁC ĐIỀU SỬA ĐỔI 

ĐIỀU 41. Các điều sửa đổi  

1. Các điều sửa đổi đối với Phụ lục này, ngoài các điều sửa đổi liên quan 

đến Mục 4, chỉ có thể  được thông qua theo  đúng  Điều 313 hoặc bằng 

consensus (thoả thuận) tại một hội nghị được triệu tập theo đúng Công ước. 

2. Các  điều sửa  đổi đối với Mục 4 chỉ có thể  được thông qua theo  đúng 

Điều 314. 

3. Toà án có thể qua trao đổi bằng văn bản đưa ra cho các quốc gia thành 

viên xét các đề nghị sửa đổi đối với Phụ lục này mà Toà án thấy cần thiết 

theo đúng khoản 1 và 2.  

PHỤ LỤC VII 

TRỌNG TÀI 

ĐIỀU 1. Việc khởi tố 

Với điều kiện phải tuân thủ Phần XV, bất kỳ bên nào trong một vụ tranh 

chấp đều có thể đưa vụ tranh chấp ra giải quyết bằng thủ tục trọng tài đã trù 

định trong Phụ lục này bằng một thông báo viết gửi tới bên kia hoặc hoặc 

các bên kia trong vụ tranh chấp. Thông báo có kèm theo bản trình bày các 

yêu sách và các lý do làm căn cứ cho các yêu sách đó. 

ĐIỀU 2. Danh sách các trọng tài 

1. Tổng thư ký Liên hợp quốc lập ra và giữ một bản danh sách các trọng tài. 

Mỗi quốc gia thành viên có thể chỉ định bốn trọng tài có kinh nghiệm về 

những vấn đề biển và nổi tiếng nhất về sự công bằng, về năng lực và liêm 

khiết. Tên của những người được chỉ định như vậy được ghi rõ trên một 

bản danh sách. 

2. Vào một thời  điểm nào  đó, nếu số lượng trọng tài  được một quốc gia 

thành viên chỉ định và có trong bản danh sách dưới bốn người thì quốc gia 

này có quyền tiến hành việc chỉ định bổ sung mà mình có quyền. 

3. Tên của một trọng tài được ghi ở trên bản danh sách cho đến khi quốc 

gia thành viên đã chỉ định người trọng tài này rút người đó khỏi danh sách; 

dĩ nhiên, người trọng tài này phải tiếp tục làm nhiệm vụ trong mọi Toà 

trọng tài mà họ  được cử cho  đến khi thủ tục tiến hành trước toà này kết 

thúc. 

ĐIỀU 3. Thành lập Toà trọng tài 

Theo thủ tục được trù định trong Phụ lục này, trừ khi các bên liên quan có 

thoả thuận khác, Toà trọng tài được lập ra, như sau: 

a) Với điều kiện tuân thủ điểm g, Toà trọng tài gồm có năm thành 

viên;  

b) Bên nguyên cử một thành viên mà mình tuỳ ý lựa chọn ở trên bản 

danh sách nói ở Điều 2 của Phụ lục này và người đó có thể là công dân của 

mình. Tên của người đó được ghi trong bản thông báo nói trong Điều 1 của 

Phụ lục này; 

c) Bên bị trong vụ tranh chấp cử trong thời hạn 30 ngày, tính từ khi 

nhận được thông báo nói ở Điều 1 của Phụ lục này một thành viên mà mình tuỳ ý lựa chọn trên bản danh sách, và người đó có thể là công dân của mình. 

Nếu họ không cử người trong thời hạn nói trên, thì bên nguyên có thể yêu 

cầu tiến hành việc cử thành viên đó theo đúng điểm c trong hai tuần lễ sau 

khi hết thời hạn này; 

d) Ba thành viên khác được các bên thoả thuận cử ra. Họ được các 

bên tuỳ ý chọn trên bản danh sách và là công dân của các quốc gia thứ ba, 

trừ khi các bên có thoả thuận khác. Các bên cử Chánh toà của Toà trọng tài 

trong số ba thành viên  đó. Nêu trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày nhận 

được thông báo nói ở Điều 1 của Phụ lục này, các bên hữu quan không thể 

thoả thuận về việc chỉ định một hay nhiều thành viên của Toà mà họ phải 

cử theo thoả thuận chung hay là về việc cử Chánh toà, thì theo yêu cầu của 

bất kỳ bên nào trong vụ tranh chấp, cần tiến hành cử 1 người hay những 

người đó theo đúng điểm e Yêu cầu đó phải được đưa lên trong hai tuần sau 

khi hết hạn 60 ngày này; 

e) Trừ khi các bên hữu quan thoả thuận giao cho một người hoặc cho 

một quốc gia thứ ba do họ lựa chọn tiến hành các việc cử người cần thiết 

theo điểm c và d, Chánh án của Toà án quốc tế về luật biển cần tiến hành 

việc hành. Nếu Chánh án bận hoặc là công dân của một trong các bên trong 

vụ tranh chấp, thì việc cử người giao cho thành viên thâm niên nhất của 

Toà án quốc tế về luật biển sẵn sàng làm việc này và không phải là công 

dân của một trong các bên hữu quan. Việc cử người tiến hành bằng cách lựa 

chọn trên bản danh cách nói ở Điều 2 của Phụ lục này trong một thời hạn là 

30 ngày kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu và có tham kháo ý kiến của các 

bên. Các thành viên  được cử như thế cần phải thuộc các quốc tịch khác 

nhau, không được làm việc cho một bên nào trong vụ tranh chấp; họ không 

trú ngụ thường xuyên ở trên lãnh thổ của một trong các bên hữu quan đó và 

không phải là công dân của một bên nào; 

f) Mọi ghế bị trống đều được cử người thay thế theo các quy định 

cho lần bổ nhiệm đầu tiên ; 

g) Các bên cùng một phía cùng nhau cử một thành viên của Toà qua 

thoả thuận chung. Khi có nhiều bên  đối lập nhau hay trong trường hợp 

không thống nhất về điểm liệu các bên có đứng vào cùng một phía không, 

thì mỗi bên trong số họ cử một thành viên của Toà. Số lượng thành viên của 

Toà do các bên cử riêng rẽ bao giờ cũng phải ít hơn một người so với số 

lượng các thành viên của Toà được các bên hữu quan cùng cử ; 

h) Các điểm a đến f được áp dụng đến hết mức có thể vào các vụ 

tranh chấp xảy ra có quá hai bên hữu quan trở lên. 

ĐIỀU 4. Các chức năng của Toà trọng tài 

Một toà trọng tài được thành lập theo Điều 3 của Phụ lục này thi hành các 

chức năng của mình theo đúng Phụ lục này và quy định khác của Công ước. 

ĐIỀU 5. Thủ tục Trừ khi các bên có thoả thuận khác, Toà trọng tài tự quy định thủ tục của 

mình bằng cách cho mỗi bên có khả năng bảo vệ các quyền của mình và 

trình bày căn cứ của mình. 

ĐIỀU 6. Những nghĩa vụ của các bên 

Các bên tham gia tranh chấp tạo điều kiện dễ dàng cho Toà trọng tài thực 

hiện nhiệm vụ của mình và, đặc biệt là, theo đúng pháp luật của mình và 

bằng tất cả các phương tiện thuộc quyền sử dụng của mình, cần phải: 

a) Cung cấp cho Toà mọi tài liệu, các điều kiện dễ dàng và các thông 

tin thích hợp; và 

b) Cho Toà, khi  điều  đó là cần thiết, có khả năng dẫn ra và nghe 

người làm chứng hoặc các chuyên gia và đến tại chỗ. 

ĐIỀU 7. Lệ phí 

Trừ khi Toà trọng tài có quyết định khác vì có những hoàn cảnh đặc biệt 

của vụ việc, lệ phí của Toà, kể ca thù lao cho các thành viên của Toà, phải 

do các bên trong vụ tranh chấp chịu ngang nhau. 

ĐIỀU 8. Đa số cần thiết phải thông qua các bản án 

Các quyết định của Toà trọng tài được thông qua theo đa số các thành viên 

của Toà. Sự vắng mặt hoặc bỏ phiếu trắng của dưới một nửa số thành viên 

không cản trở Toà ra quyết định. Trong trường hợp số phiếu ngang nhau, lá 

phiếu của Chánh toà là lá phiếu quyết định. 

ĐIỀU 9. Vắng mặt 

Khi một trong số các bên trong vụ tranh chấp không ra Toà hoặc không 

trình bày các lý lẽ của mình, thì bên kia có thể yêu cầu Toà tiếp tục trình tự 

tố tụng và phán quyết. Việc một bên vắng mặt hay việc một bên không 

trình bày các lý lẽ của mình không cản trở cho trình tự tố tụng. Trước khi ra 

phán quyết, Toà trọng tài cần phải biết chắc chắn rằng không những Toà có 

thẩm quyền xét xử vụ tranh chấp mà còn chắc chắn rằng đơn kiện có cơ sở 

về mặt thực tế pháp lý. 

ĐIỀU 10. Bản án 

Bản án của Toà trọng tài được giới hạn ở nội dung của vụ tranh chấp và 

phải nêu căn cứ. Bản án nêu tên của các thành viên của Toà trọng tài đã 

tham gia xét xử và thời gian ra bản án. Bất kỳ thành viên nào của Toà cũng 

có thể đính thêm vào bản án trình bày ý kiến riêng hoặc bất đồng của mình. 

 ĐIỀU 11. Tính chất tối hậu của bản án 

Bản án có tính chất tối hậu và không được kháng cáo, trừ khi các bên trong 

vụ tranh chấp phải tuân theo bản án này. 

ĐIỀU 12. Giải thích hoặc thi hành bản án 

1. Bất kỳ tranh cãi nào có thể xảy ra giữa các bên trong vụ tranh chấp liên 

quan đến việc giải thích hay cách thi hành bản án, đều có thể được bên này 

hoặc bên kia đưa ra để Toà trọng tài đã tuyên án quyết định. Vì mục đích 

ấy, các ghế bị trống đều được cử người thay theo phương pháp được trù 

định cho việc bổ nhiệm ban đầu các thành viên của Toà. 

2. Nếu tất cả các bên trong vụ tranh chấp thoả thuận, thì bất kỳ tranh cãi 

nào thuộc loại này đều có thể được đệ trình lên một Toà khác theo đúng 

Điều 287. 

ĐIỀU 13. Áp dụng  đối với các thực thể không phải là các quốc gia 

thành viên 

Phụ lục này được áp dụng mutatis mutandis (với những thay đổi cần thiết 

về chi tiết) cho mọi vụ tranh chấp nào liên quan đến các thực thể không 

phải là quốc gia thành viên.  

PHỤ LỤC VIII 

TRỌNG TÀI ĐẶC BIỆT 

ĐIỀU 1. Việc khởi tố 

Với điều kiện tuân thủ phần XV, mọi bên tham gia vào một vụ tranh chấp 

liên quan đến việc giải thích hay áp dụng các điều khoản của Công ước liên 

quan đến: 1- Việc đánh bắt hải sản, 2- Việc bảo vệ và gìn giữ môi trường 

biển, 3- Việc nghiên cứu khoa học biển, hoặc 4- Hàng hải, kể cả nạn ô 

nhiễm do các tàu thuyền hay do nhận chìm, có thể đưa vụ tranh chấp ra giải 

quyết theo thủ tục trọng tài đặc biệt được trù định trong Phụ lục này bằng 

thông báo viết gửi tới bên kia hoặc các bên kia trong vụ tranh chấp; thông 

báo có kèm theo bản trình bày các yêu sách và các căn cứ của các yêu sách 

đó. 

ĐIỀU 2. Danh sách các chuyên viên 

1. Một danh sách chuyên viên được lập ra và được duy trì cho mỗi lĩnh vực 

sau đây: 1- Việc đánh bắt hải sản, 2- Việc bảo vệ và gìn giữ môi trường 

biển, 3- Việc nghiên cứu khoa học biển, 4- Hàng hải, kể cả nạn ô nhiễm do 

tàu thuyền hay do nhận chìm gây ra. 

2. Về mặt đánh bắt hải sản, danh sách chuyên viên do Tổ chức lương thực 

và nông nghiệp của Liên hợp quốc lập ra và duy trì; về mặt bảo vệ và 

phòng giữ môi trường biển, do Chương trình của Liên hợp quốc về môi 

trường; về mặt hàng hải, kể cả nạn ô nhiễm do tàu thuyền hay do nhận chìm 

gây ra, thì do Tổ chức hàng hải quốc tế hoặc, tuỳ theo mỗi một trường hợp, 

do cơ quan phụ trợ thích hợp mà Tổ chức, Chương trình hoặc Uỷ ban nói 

trên đã uỷ quyền thực hiện chức năng này. 

3. Mỗi quốc gia thành viên có thể chỉ  định trong một lĩnh vực  đó hai 

chuyên viên có năng lực được xác minh và thừa nhận chung về pháp lý, 

khoa học hay kỹ thuật trong lĩnh vực nói trên và là những người nổi tiếng 

công minh, liêm khiết nhất. Trong mỗi lĩnh vực, bản danh sách có tên 

những người được chỉ định đó. 

4. Ở vào một thời điểm nào đó, nếu số lượng chuyên viên do một quốc gia 

thành viên chỉ định và thể hiện trên một bản danh sách dưới hai người, thì 

quốc gia thành viên này có thể tiến hành việc chỉ định bổ sung và họ có 

quyền. 

 5. Tên của một chuyên viên được ghi trên bản danh sách cho đến khi bị bên 

đã chỉ định chuyên viên đó rút đi, dĩ nhiên là chuyên viên này phải tiếp tục 

thi hành nhiệm vụ của mình trong mọi Toà trọng tài đặc biệt cho đến lúc 

thủ tục tố tụng trước Toà này đã kết thúc. 

ĐIỀU 3. Cơ cấu của Toà trọng tài đặc biệt 

Theo thủ tục được trù định trong Phụ lục này, trừ khi các bên có thoả thuận 

khác, Toà trọng tài đặc biệt được cấu thành như sau: 

a. Với điều kiện tuân thủ điểm g, Toà trọng tài đặc biệt gồm có năm 

thành viên; 

b. Bên nguyên cử hai thành viên được lựa chọn tuỳ ý ở bản danh sách 

hay các bản danh sách nói ở Điều 2 của Phụ lục này liên quan đến nội dung 

của vụ tranh chấp, một trong hai người này có thể là công dân của nước đó. 

Tên của các thành viên được cử như vậy, được ghi trong thông báo nói ở 

Điều 1 của Phụ lục này; 

c. Bên bị trong vụ tranh chấp, trong thời hạn 30 ngày tính từ ngày 

nhận được thông báo nói ở Điều 1 của Phụ lục này, cử hai thành viên do họ 

tuỳ ý chọn trên danh sách hay các danh sách liên quan đến nội dung của vụ 

tranh chấp, và trong hai người đó, một người có thể là công dân của nước 

ấy. Nếu bên bị không cử người trong thời hạn này, thì bên nguyên có thể 

trong hai tuần sau khi hết hạn, yêu cầu tiến hành việc cử người theo đúng 

điểm e;  

d. Các bên thoả thuận cử Chánh toà trọng tài đặc biệt được lựa chọn 

tuỳ ý trên danh sách thích hợp và là công dân của một nước thứ ba, trừ khi 

các bên có thoả thuận khác. Trong một thời hạn là 30 ngày kể từ ngày nhận 

được thông báo nói ở Điều 1 của Phụ lục này, nếu các bên không thể thoả 

thuận việc cử Chánh toà, thì việc cử này được tiến hành theo đúng điểm e 

theo yêu cầu của bất kỳ bên nào trong vụ tranh chấp. Yêu cầu đó được gửi 

đến trong vòng hai tuần sau khi hết thời hạn kể trên;  

e. Trừ khi các bên thoả thuận giao phó cho một người hay một quốc 

gia thứ ba do họ lựa chọn, tiến hành việc cử người, Tổng thư ký Liên hợp 

quốc tiến hành việc cử các uỷ viên cần thiết này trong thời hạn 30 ngày kể 

từ khi nhận được yêu cầu theo các điểm c hay d. Việc của người này được 

tiến hành bằng cách lựa chọn ở trên bản danh sách hay các bản danh sách 

chuyên viên thích hợp nói ở Điều 2 của Phụ lục này, có trao đổi với các bên 

tranh chấp và với tổ chức quốc tế thích hợp. Các uỷ viên được cử như vậy 

phải thuộc quốc tịch khác nhau, không  được làm việc cho một bên nào 

trong vụ tranh chấp; họ không được trú ngụ thường xuyên ở trên lãnh thổ 

của một trong số các bên trong vụ tranh chấp và không phải là công dân của 

một trong các bên này;  

f. Mọi ghế bị trống đều được cử người thay theo cách thức được trù 

định cho lần cử đầu tiên;  g. Các bên cùng đứng về một phía cũng nhau thoả thuận cử hai thành 

viên của Toà. Khi có nhiều bên đối lập nhau, hay trong trường hợp không 

thống nhất về điểm liệu các bên có cùng một phía hay không, thì mỗi bên 

trong số họ cử một thành viên của Toà;  

h. Các điểm a đến f được áp dụng để hết mức có thể đối với các vụ 

tranh chấp có quá hai bên hữu quan trở lên. 

ĐIỀU 4. Các quy định chung 

Các Điều 4  đến 13 của Phụ lục VII  được áp dụng mutatis mutadis (với 

những sửa đổi cần thiết về chi tiết) vào thủ tục trọng tài đặc biệt nói ở trong 

Phụ lục này. 

ĐIỀU 5. Việc xác lập các sự kiện 

1. Các bên của một vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng 

các quy định của Công ước về: 1- Việc đánh bắt hải sản, 2- Việc bảo vệ và 

gìn giữ môi trường biển, 3- Hàng hải, kể cả nạn ô nhiễm môi trường do tàu 

hay do nhận chìm gây ra, có thể, vào bất cứ lúc nào, thoả thuận yêu cầu một 

Toà trọng tài đặc biệt được thành lập theo đúng Điều 3 của Phụ lục này tiến 

hành một cuộc điều tra và xác lập các sự kiện từ nguồn gốc của vụ tranh 

chấp. 

2. Trừ khi các bên có thoả thuận khác, những sự kiện do Toà trọng tài đặc 

biệt xác nhận theo khoản 1 được coi là những chứng cứ đã được xác minh 

giữa các bên hữu quan. 

3. Nếu tất cả các bên trong vụ tranh chấp yêu cầu thì Toà trọng tài đặc biệt 

có thể thảo ra các khuyến nghị; những khuyến nghị này không có giá trị 

quyết định mà chỉ là cơ sở để các bên tiến hành xem xét lại những vấn đề 

làm phát sinh ra tranh chấp. 

4. Với điều kiện tuân thủ khoản 2, Toà trọng tài đặc biệt cần tuân thủ Phụ 

lục này, trừ khi các bên có thoả thuận khác.  

PHỤ LỤC IX 

SỰ THAM GIA CỦA CÁC TỔ CHỨC QUỐC TẾ 

ĐIỀU 1. Việc sử dụng thuật ngữ "tổ chức quốc tế" 

Trong Điều 305 và Phụ lục này, thuật ngữ "các tổ chức quốc tế" được hiểu 

là một tổ chức liên chính phủ được các quốc gia lập nên, các quốc gia này 

trao cho tổ chức đó thẩm quyền về các vấn đề mà Công ước đề cập, kể cả 

thẩm quyền ký kết các hiệp ước về vấn đề này. 

ĐIỀU 2. Việc ký kết 

Một tổ chức quốc tế có thể ký Công ước, nếu đa số các quốc gia hội viên 

của tổ chức này là những bên ký kết Công ước, một tổ chức quốc tế ra một 

tuyên bố nói rõ các vấn đề thuộc phạm vi Công ước mà các quốc gia hội 

viên ký Công ước đã trao thẩm quyền cho tổ chức quốc tế này, cũng như 

tính chất và phạm vi của thẩm quyền này. 

ĐIỀU 3. Việc xác nhận chính thức và việc gia nhập 

1. Một tổ chức quốc tế có thể gửi lưu chiểu một văn bản xác nhận chính 

thức hay gia nhập, nếu đa số các quốc gia hội viên của nó gửi hoặc đã gửi 

lưu chiểu các văn bản phê chuẩn hay gia nhập của mình. 

2. Văn bản của tổ chức quốc tế gửi lưu chiểu lên cần phải có các cam kết và 

tuyên bố đã quy đinh ở Điều 4 và 5 của Phụ lục này. 

ĐIỀU 4. Phạm vi tham gia, các quyền và nghĩa vụ 

1. Đối với các vấn đề mà các quốc gia hội viên và là thành viên của Công 

ước đã giao thẩm quyền cho tổ chức quốc tế thì văn bản xác nhận chính 

thức hoặc gia nhập do tổ chức quốc tế đó gửi lưu chiểu cần có lời cam kết 

chấp nhận các quyền và nghĩa vụ đã được trù định trong Công ước đối với 

các quốc gia. 

2. Một tổ chức quốc tế là thành viên của Công ước trong phạm vi các giới 

hạn thẩm quyền được xác định trong các tuyên bố, thông tin hoặc thông báo 

nói ở Điều 5 của Phụ lục này. 

3. Đối với các vấn đề đã được các quốc gia hội viên là thành viên của Công 

ước trao thẩm quyền cho thì một tổ chức quốc tế sẽ sử dụng các quyền và 

làm tròn nghĩa vụ, mà lẽ ra theo Công ước là những quyền và nghĩa vụ của các quốc gia này. Các quốc gia hội viên của một tổ chức quốc tế không sử 

dụng thẩm quyền của mình mà trao cho tổ chức này. 

4. Không thể có trường hợp nào mà sự tham gia của một tổ chức quốc tế lại 

dẫn đến một sự đại diện cao hơn sự đại diện mà các quốc gia hội viên là 

thành viên của Công ước có thể đòi hỏi. Quy định này đã được áp dụng, đặc 

biệt là đối với các quyền ra các quyết định. 

5. Việc tham gia của một tổ chức quốc tế không đem lại cho các quốc gia 

hội viên của tố chức đó không phải là thành viên của Công ước một quyền 

nào do Công ước trù định. 

6. Trong trường hợp có tranh chấp giữa những nghĩa vụ thuộc bổn phận của 

một tổ chức quốc tế theo Công ước và những nghĩa vụ thuộc bổn phận của 

tổ chức này theo điều ước đã thành lập ra nó hoặc theo mọi văn bản có liên 

quan, thì các nghĩa vụ do Công ước quy định có giá trị cao hơn. 

ĐIỀU 5. Các tuyên bố, thông báo và thông tin 

1. Tài liệu xác nhận chính thức hoặc gia nhập của một tổ chức quốc tế cần 

có một tuyên bố xác định rõ các vấn đề thuộc phạm vi Công ước mà các 

quốc gia hội viên là thành viên của Công ước đã trao thẩm quyền cho tổ 

chức quốc tế này. 

2. Một quốc gia hội viên của một tổ chức quốc tế, khi phê chuẩn hay gia 

nhập Công ước, hoặc khi tổ chức quốc tế gửi lưu chiểu văn kiện xác nhận 

chính thức hay gia nhập, phải làm một tuyên bố xác định các vấn đề đề cập 

trong Công ước mà tổ chức đã được trao thẩm quyền, vào ngày muộn nhất 

trong hai thời điểm nói trên. 

3. Các quốc gia thành viên là hội viên của một tổ chức quốc tế, thành viên 

của Công ước được coi như có thẩm quyền về tất cả các vấn đề thuộc phạm 

vi của Công ước mà các quốc gia nói trên đã không ghi một cách rõ ràng 

rằng, họ đã trao thẩm quyền cho tổ chức bằng một tuyên bố, thông tin hoặc 

thông báo làm theo đúng điều này. 

4. Tổ chức quốc tế và các quốc gia hội viên là thành viên của Công ước 

thông báo ngay cho người lưu chiểu bất kỳ sự sửa đổi nào về việc phân chia 

các thẩm quyền được ghi rõ trong các tuyên bố nói ở khoản 1 và 2, kể cả 

những việc chuyển giao thẩm quyền mới. 

5. Bất kỳ quốc gia thành viên nào cũng có thể yêu cầu một tổ chức quốc tế 

và các quốc gia hội viên của tổ chức này là thành viên của Công ước, chỉ rõ 

ai trong tổ chức hay trong các quốc gia hội viên này có thẩm quyền đối với một vấn đề nhất định được đặt ra. Tổ chức này và các quốc gia hội viên hữu 

quan thông báo tình hình này, trong một thời hạn hợp lý. Họ cũng có thể tự 

mình chủ động thông báo một tình hình đó. 

6. Tính chất và vi phạm của những thẩm quyền được chuyển giao cần phải 

được xác định rõ trong các tuyên bố, thông tin và thông báo làm theo điều 

này. 

ĐIỀU 6. Trách nhiệm 

1. Các bên có thẩm quyền theo Điều 5 của Phụ lục này có trách nhiệm về 

mọi thiếu sót đối với những nghĩa vụ nảy sinh từ Công ước và đối với tất cả 

các vi phạm khác đối với Công ước. 

2. Bất kỳ quốc gia thành viên nào cũng có thể yêu cầu một tổ chức quốc tế 

hoặc các quốc gia hội viên của tổ chức đó là thành viên của Công ước chỉ 

rõ người có trách nhiệm trong một trường hợp riêng biệt. Tổ chức và các 

quốc gia hội viên hữu quan cần phải thông báo tình hình này. Nếu không 

thực hiện điều này trong một thời gian hợp lý, hoặc nếu họ thông báo các 

thông tin trái ngược nhau, thì họ phải cùng nhau và liên  đới chịu trách 

nhiệm. 

ĐIỀU 7. Giải quyết các vụ tranh chấp 

1. Khi gửi lưu chiểu văn kiện xác nhận chính thức hay gia nhập của mình, 

hoặc vào bất kỳ thời điểm nào tiếp sau, một tổ chức quốc tế có quyền tự do 

lựa chọn, qua tuyên bố bằng văn bản, một hoặc nhiều phương pháp đã nêu 

ở Điều 287, khoản 1 điểm a, c, và để giải quyết các tranh chấp liên quan 

đến việc giải thích hoặc áp dụng Công ước. 

2. Phần XV được áp dụng mutatis mutadis (với những thay đổi cần thiết về 

chi tiết) cho bất kỳ vụ tranh chấp nào giữa các thành viên của Công ước mà 

một hoặc nhiều thành viên đó là các tổ chức quốc tế. 

3. Khi một tổ chức quốc tế và một hoặc nhiều quốc gia hội viên của tổ chức 

này đứng về một phía, thì coi như tổ chức đã chấp nhận các thủ tục giải 

quyết tranh chấp như các quốc gia này; trong trường hợp mà một trong số 

các quốc gia này chỉ chọn Toà án quốc tế theo Điều 287, thì tổ chức và 

quốc gia hội viên này coi như đã chấp nhận trọng tài theo thủ tục trù định ở 

Phụ lục VII, trừ khi các bên tham gia vào vụ tranh chấp thoả thuận lựa chọn 

một phương pháp khác. 

ĐIỀU 8. Áp dụng Phần XVII 

 Phần XVII được áp dụng mutatis mutadis (với những thay đổi cần thiết về 

chi tiết) cho các tổ chức quốc tế, với điều kiện tuân thủ các quy định sau 

đây 

a. Văn kiện xác nhận chính thức hoặc gia nhập của một tổ chức quốc 

tế không được tính đến trong việc áp dụng Điều 303, khoản 1;  

b. i. Một tổ chức quốc tế có quyền đặc biệt để hành động theo các 

Điều 312 đến 315, nếu tổ chức này có thẩm quyền theo Điều 5 của Phụ lục 

này đối với toàn bộ vấn đề nói trong điều sửa đổi;  

ii. Khi một tổ chức quốc tế có thẩm quyền theo Điều 5 của Phụ lục 

này đối với toàn bộ vấn đề trong điều sửa đổi, thì văn kiện xác nhận chính 

thức hoặc gia nhập của tổ chức này liên quan đến điều sửa đổi nói trên được 

coi như văn kiện phê chuẩn hoặc gia nhập của từng quốc gia hội viên là 

thành viên của Công ước trong việc áp dụng Điều 316, các khoản 1, 2 và 3;  

iii. Trong tất cả các trường hợp khác, văn kiện xác nhận chính thức hoặc gia 

nhập của một tổ chức quốc tế không được tính đến trong việc áp dụng Điều 

316, khoản 1 và 2; 

c. i. Trong Điều 317, một tổ chức quốc tế mà trong số các hội viên 

của nó có một quốc gia thành viên của Công ước và tổ chức quốc tế đó vẫn 

tiếp tục thoả mãn các điều kiện đã được trù định trong Điều 1 của Phụ lục 

này, thì tổ chức quốc tế này không thể từ bỏ Công ước; 

ii. Một tổ chức quốc tế phải từ bỏ Công ước, nếu trong số hội viên của nó 

không còn một quốc gia nào là thành viên của Công ước hoặc nếu tổ chức 

này đã thôi không thoả mãn các điều kiện đã được trù định trong Điều 1 của 

Phụ lục này. Sự từ bỏ đó có hiệu lực ngay lập tức.   

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#law