cotuc thanhhuongd91

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

   Khái niệm : Cổ tức là một phần lợi nhuận sau thuế được chia cho các cổ đông của một công ty cổ phần. Cổ tức có thể được trả bằng tiền hoặc bằng cổ phiếu.

+ Chi trả cổ tức bằng cổ phiếu là là việc phân bổ theo tỷ lệ các cổ phần bổ sung của 1 công ty cho các cổ đông

+ Chi trả cổ tức bằng cổ phiếu là các hình thức công ty phát hành thêm những cổ phiếu của chính công ty đó tương ứng với phần lợi nhuận sau thuế dành trả cổ tức và phân phối cho cổ đông theo tỷ lệ cổ phần mà họ đang nắm giữ

 Chúng ta có thể thấy các công ty chi trả cổ tức bằng cổ phiếu trong các trường hợp sau :

+ Công ty sử dụng cổ phiếu được quyền phát hành nhưng chưa lưu hành để trả cổ tức

+ Công ty cổ phần sử dụng cổ phiếu quỹ để trả cổ tức

 Việc các công ty chi trả cổ tức bằng cổ phiếu xuất phát từ việc thị giá của cổ phiếu công ty trên thị trường đạt mức giá cao và công ty muốn giảm giá thị trường của cổ phiếu để gia tăng lượng các giao dịch mua bán của cổ phiếu công ty đó ,hoặc công ty không đủ tiền mặt để chi trả cổ tức cho cổ đông

  Ở một tỉ lệ chi trả cổ phiếu ở tỷ lệ thấp thì chúng ta có thể coi việc này như chi trả cổ tức bằng tiền mặt vì nó không làm ảnh hưởng đáng kể đến giá cổ phiếu

  Bằng việc chi trả cổ tức bằng cổ phiếu này thì các công ty cổ phần đã thực hiện việc giảm giá trị thị trường của cổ phiếu .Điều này đồng nghĩa với việc các nhà đầu tư cổ phiếu đó trên thị trường chứng khoán là người được lợi đầu tiên từ hành động đó của công ty.Khi thị giá của cổ phiếu ở mức thị giá cao thì đồng nghĩa với việc nhà đầu tư sẽ gặp khó khăn khi bán các cổ phiếu đó trên thị trường do lượng khách hàng muốn mua bị thu hẹp ở mức giá cao.Khi thực hiện việc trả cổ tức băng cổ phiếu thì nó đã làm giảm đáng kể thị giá của cổ phiếu và đồng nghĩa với nó là việc một lượng các nhà đầu tư khác có nhu cầu và muốn mua cổ phiếu đó tăng lên hay nói cách khác bằng việc trả cổ tức bằng cổ phiếu đã làm tăng tính thanh khoản cho cổ phiếu đó.Với hành động chi trả cổ phiếu bằng cổ tức này công ty đã gián tiếp quảng cáo về hình ảnh của công ty vì khi thực hiện nghiệp vụ chi trả cổ tức dưới hình thức cổ phiếu này thì công ty đã thông báo việc chi trả cổ tức trên các kênh thông tin đại chúng.Với các nhà đầu tư việc một công ty với các tiềm năng phát triển trong dài hạn thì việc họ trả cổ tức bằng cổ phiếu đồng nghĩa với việc các nhà đầu tư khác có thêm cơ hội để đầu tư vào công ty và gia tăng lợi nhuận theo kì vọng của họ

   Nói cách khác cổ tức cổ phần là một sự gia tăng một lượng cổ phần của doanh nghiệp với các cổ phần mới được chia cho các cổ đông hiện hữu của mình . Ví dụ, nếu một công ty quyết định trả cổ tức cổ phần  5%, nó sẽ gia tăng số lương cổ phần lên 5%. Nếu doanh nghiệp có 1 triệu cổ phần, có nghĩa là doanh nghiệp sẽ có thêm 50.000 cổ phần nữa. Nếu bạn sở hữu 100 cổ phần trong công ty, bạn sẽ nhận được 5 cổ phần tăng thêm nữa.

Song cổ tức cổ phần giống như cổ tức tiền mặt, cổ tức cổ phần  không làm gia tăng giá trị của công ty. Nếu một cổ phần doanh nghiệp có giá là 10 USD một cổ phần, thì giá trị công ty sẽ là 10 triệu USD. Sau khi cổ tức cổ phần được chia, giá trị doanh nghiệp vẫn như cũ, nhưng giá trị mỗi cổ phần sẽ giảm xuống 9.52 USD một cổ phần để điều chỉnh cho khoản cổ tức đã được chia. Lợi thế của cổ tức cổ phần ở đây chỉ  đơn giản là mang đến cho cổ đông sự lựa chọn. Các cổ đông có thể giữ cổ phần và hi vọng công ty sẽ có thể sử dụng tiền đó để tạo ra một tỷ suất sinh lợi tốt hơn hoặc các cổ đông có thể bán một số cổ phần mới để tạo ra cổ tức tiền mặt cho riêng mình. Lợi ích lớn nhất của cổ tức cổ phần là các cổ đông không bị đánh thuế trên giá trị cổ tức nhận được.

Cổ tức cổ phần được cho là tốt hơn so với cổ tức tiền mặt nếu chúng không đi kèm với quyền chọn cổ tức tiền mặt. Điều này đơn giản chỉ bởi chúng ta đang so sánh giữa cổ tức cổ phần và cổ tức tiền mặt. Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là cổ tức tiền mặt không tốt, đơn giản là cổ tức tiền mặt không có sự lựa chọn nào ngoài việc bạn phải nhận tiền mặt. Cổ đông vẫn có thể tái đầu tư từ cổ tức tiền mặt vào công ty thông qua các dự án tái đầu tư từ cổ tức. Ưu điểm lớn nhất của tiền mặt là tính thanh khoản rất cao, cầm tiền mặt trong tay bao giờ cũng chắc chắn hơn là bạn cầm cổ phiếu trong tay. Hơn nữa, việc đánh thuế trên cổ tức tiền mặt được nhận vẫn chưa được thực hiện tại Việt Nam. Nếu bạn là nhà đâu tư ngại rủi ro và muốn chắc chắn thì có lẽ bạn sẽ yêu thích cổ tức tiền mặt hơn, vì giá trị của chúng rất chắc chắn. Và các doanh nghiệp chi trả cổ tức bằng tiền mặt có thể là một sự lựa chọn của bạn.

Nhìn chung các doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn  2007 không có tính thống nhẩt trong phương thức chi trả cổ tức. Phần lớn các doanh nghiệp đều trả cổ tức hai lần một lần, có thể kể đến như: Công ty cổ phần TM-XNK Thiên Nam (TNA), Công ty cổ phần Sữa Việt Nam (VNM), CTCP Khách sạn Sài Gòn (SGH), Công ty cổ phần Khoáng sản Bình Định (BMC), Công ty cổ phần Nhựa Bình Minh (BMP)… Có doanh nghiệp lại chia cổ tức 3 lần một năm như CTCP Đầu tư Thương mại SMC (SMC), Công ty Cổ phần Phát triển Nhà Thủ Đức. Và cũng có những doanh nghiệp chỉ chi trả cổ tức theo năm như CTCP Vật liệu xây dựng Lâm Đồng (LBM) hay CTCP Nhựa Đà Nẵng (DPC), Công ty cổ phần Nước giải khát Sài Gòn (TRI), Công ty cổ phần Khu công nghiệp Tân Tạo (ITA), Công ty CP Phát triển Đầu tư Công nghệ FPT

 Trong giai đoạn thị trường chứng khoán Việt Nam được coi là bước vào giai đoạn “hoàng kim” từ cuối năm 2006, khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên  WTO. Với sự tham gia mạnh mẽ mang tính xúc tác của khối đầu tư nước ngoài, giá của tất cả cổ phiếu niêm yết tăng nhanh chóng, VN-Index lên điểm mạnh mẽ, từ khoảng 500 điểm lên đến đỉnh 1.179,32 điểm ngày 12/3/2007. Diễn biến của thị trường chứng khoán trở thành tâm điểm trên rất nhiều mặt báo cũng như các mạng truyền thông khác (thậm chí cho đến nay).

Tranh thủ cơ hội trên, việc phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn cũng được nhiều công ty niêm yết, công ty chứng khoán và công ty đại chúng khác tận dụng tối đa. Nhiều công ty trong vòng 1 năm đã tổ chức 2 lần phát hành thêm cổ phiếu.

Tại thời điểm đó, thì việc tăng vốn nói chung, dù được thực hiện để làm gì (tài trợ cho các dự án, xây nhà máy mới, mua tàu biển mới... hay chỉ cần lý do là tăng vốn điều lệ) hay dưới hình thức nào đi chăng nữa (phát hành cổ phiếu thưởng, trả cổ tức bằng cổ phiếu hay phát hành quyền mua cổ phiếu mới) đều được cổ đông ủng hộ nhiệt liệt, đơn giản là cổ phiếu cho dù được điều chỉnh giảm theo tỷ lệ phân phối thì cũng vẫn tiếp tục tăng giá. Mức cổ tức bằng tiền mặt không thể nào bằng mức lãi do chênh lệch giá

  Đó là những thông tin khá tốt với các nhà đầu tư trong thời kì được gọi là hưng thịnh của thị trường chứng khoán việt nam khi các công ty công bố việc chi trả cổ tức bằng cổ phiếu.Nhưng bên cạnh những mặt ưu thế của việc chi trả cổ tức bằng cổ phiếu đối với các nhà đầu tư ,Nhưng mặt khác băng hình thức này các nhà đầu tư phải chấp nhận những rủi ro như :

  Khi thị trường biến động thì nhà đầu tư càng nắm nhiều cổ phiếu càng lỗ. Cắt lỗ là mục tiêu hàng đầu, nhưng đôi khi trong các đợt phát hành, nhà đầu tư nếu còn nắm cổ phiếu (thực tế có mấy ai hoàn toàn cắt được lỗ?) trước ngày chốt sổ cổ đông thì buộc phải nhận (hoặc mua) cổ phiếu mới, nếu không phải chịu thêm khoản lỗ do điều chỉnh giá tham chiếu. Ngoài ra, các cổ phiếu mới phải mất 1-2 tháng mới về tài khoản, do đó lỗ càng thêm nặng. Cổ tức bằng tiền mặt, tuy ít những cũng trở thành một khoản thu nhập thật sự. Do đó nhiều người từ chối việc phát hành thêm cổ phiếu, và họ thấy rằng cùng nhau phản đối tại các cuộc họp đại hội cổ đông mới có hy vọng khiến cho đợt phát hành không được thực hiện.

   Chúng ta thấy rằng ở đây xảy ra  mâu thuẫn trong việc theo đuổi quyền lợi giữa đôi bên: doanh nghiệp và cổ đông. Mâu thuẫn này xuất phát từ sự khác biệt trong chính mục tiêu đầu tư giữa các cổ đông lớn (vốn gắn liền lợi ích của doanh nghiệp với lợi ích của chính mình trong dài hạn) và cổ đông nhỏ (vốn chỉ là cổ đông “tạm thời” – do “lướt sóng”, hay đầu tư ngắn hạn) của cùng một công ty, và sâu xa hơn, nó xuất phát từ sự “ngộ nhận” của nhiều nhà đầu tư cũng như sự “nuông chiều” của thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2007

Ngộ nhận đó là : Không phải cổ phiếu nào có tỷ lệ chi trả cổ tức cao cũng là cổ phiếu tốt. Ta nhận thấy một thực tế về cổ tức ở các doanh nghiệp như sau : Cổ tức là một trong những chính sách quan trọng của bất cứ công ty cổ phần đại chúng nào trên thế giới, không chỉ ở Việt Nam. Lãnh đạo doanh nghiệp luôn cân nhắc thận trọng về chính sách này vì nó phải đáp ứng đồng thời 3 mục tiêu: làm hài lòng các cổ đông qua việc trả cổ tức định kỳ, đảm bảo luôn có tái đầu tư để phát triển doanh nghiệp, mức trả cổ tức phải ổn định để dự phòng cho cả những năm kinh doanh không như mong đợi. Bản thân doanh nghiệp, hay nói cách khác là ban lãnh đạo doanh nghiệp – hơn ai hết hiểu rõ những lợi thế và khó khăn của mình. Họ biết lúc nào công ty cần vốn và cần giữ lại lợi nhuận để bổ sung cho nguồn vốn của mình, cũng như lúc nào mới bắt đầu tăng thêm cổ tức cho cổ đông.Do đó  trả cổ tức bằng cổ phiếu vẫn giúp doanh nghiệp giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư, tăng vốn điều lệ để mở rộng thêm các hạn mức cho vay hay huy động vốn (đối với ngành ngân hàng), đồng thời giúp cho giá cổ phiếu trở nên “rẻ hơn nữa” và mang lại tâm lý không thể “down” thêm được trong giới đầu tư. Sâu xa hơn, việc trả cổ tức này sẽ gia tăng giá trị cho cổ đông trong tương lai, căn bản vẫn dựa trên hiệu quả kinh doanh của chính doanh nghiệp.

      Bản thân cổ đông cũng sẽ được hưởng lợi ích cho dù không nhận cổ tức, vì khoản lợi nhuận giữ lại đó sẽ góp phần làm gia tăng các giá trị nội tại của doanh nghiệp, và từ đó sẽ làm tăng giá cổ phiếu trong tương lai. Nếu phải trả cổ tức trong khi thực tế doanh nghiệp lại đang rất cần vốn , công ty có thể trả cổ tức bằng cổ phiếu thay cho tiền mặt. Bản chất của việc trả cổ tức bằng cổ phiếu là một cam kết tái đầu tư của cổ đông để sau đó chính cổ đông sẽ thu được nhiều hơn nữa lợi nhuận trong tương lai.

       Trả cổ tức bằng cổ phiếu cũng làm giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán được điều chỉnh giảm xuống và trở nên “rẻ hơn nữa” trong con mắt của nhà đầu tư, đặc biệt khi thị trường đang lên. Khi thị trường chứng khoán “đảo chiều”, nhà đầu tư còn gánh thêm rủi ro do việc “cắt lỗ không thành công” do cổ phiếu mới phát hành chưa kịp về đến tài khoản để bán đi. Do đó, họ sẽ không chấp nhận việc công ty phát hành thêm cổ phiếu, cho dù chỉ để trả cổ tức (trường hợp này nhà đầu tư không phải nộp tiền giống như phát hành quyền).

Cộng thêm vào đó là các quy định của pháp luật liên quan đến việc chia cổ tức của các công ty giai đoạn 2007 đã có phần đơn giản, trước kia trước mỗi đợt phát hành cổ phiếu mới để trả cổ tức, các công ty niêm yết phải xin phép Ủy ban chứng khoán Nhà nước kèm theo các tài liệu chứng minh nguồn vốn hợp pháp dùng để phát hành, không lạm vào vốn điều lệ thì hiện nay Hội đồng quản trị được toàn quyền quyết định. Nhiều trường hợp, cổ đông lại... ép HĐQT chia cổ tức bằng cổ phiếu nhằm kích giá cổ phiếu trên thị trường.Trong thời kỳ thị trường chứng khoán bong bóng ở giai đoạn 2006-2007, nhiều doanh nghiệp kinh doanh không hiệu quả đã phát hành được cổ phiếu với giá cao và nhờ vậy, thu về nhiều lợi nhuận.

     Trả cổ tức bằng cổ phiếu hay trả cổ phiếu thưởng là những hình thức huy động vốn trong ngắn hạn nhằm giảm tỷ lệ trả cổ tức bằng tiền mặt trong một vài năm với mục đích tiết kiệm vốn để tái đầu tư, mở rộng sản xuất, kinh doanh. Vấn đề đặt ra là doanh nghiệp lấy nguồn lợi nhuận từ đâu để chia cổ tức bằng cổ phiếu. Trong đa số các trường hợp, phải là các doanh nghiệp luôn kinh doanh hiệu quả mới có nguồn lợi nhuận để chia cổ phiếu. Doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả, làm ăn thua lỗ không thể có lợi nhuận để chia cổ phiếu song cũng không hiếm doanh nghiệp cứ... lạm dụng hình thức này.

   Thêm nữa ,đối với các cổ đông chiếm giữ các cổ phiếu mà thị giá  quá cao , ban lãnh đạo DN hoàn toàn có thể dùng chiêu chia cổ tức bằng CP này để có nhiều... CP lẻ (do tỷ lệ chia quá thấp), để được mua lại giá hời! Ngược lại, nếu vẫn muốn tăng số CP cho cổ đông hiện hữu, DN có thể 'lách" bằng chia CP thưởng, lấy từ nguồn lợi nhuận chưa phân phối hoặc thực hiện chia tách CP!

  Vậy các nhà đầu tư nên lưu ý một số điểm sau trước những thông tin về việc chia cổ tức hay thưởng bằng cổ phiếu:

- Nhà đầu tư phải kiểm tra mức độ tin cậy của tin đồn, lợi nhuận tích lũy và các quỹ có đủ để thực hiện việc chia cổ tức hay thưởng bằng cổ phiếu theo tin đồn đó hay không, lý do thúc đẩy doanh nghiệp chia cổ phiếu.

- Việc chia cổ phiếu không làm thay đổi nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp nhưng làm tăng số lượng cổ phiếu lưu hành, sẽ dẫn đến lợi nhuận trên đầu mỗi cổ phiếu tạm thời giảm xuống. Vì thế, nhà đầu tư cần đánh giá lợi nhuận kỳ vọng của doanh nghiệp trong 12 tháng tới có tăng lên nhiều hay không, nếu lợi nhuận dự kiến của doanh nghiệp trong vòng 12 tháng tới tăng nhiều thì tùy theo EPS dự phóng đó mà nhà đầu tư sẽ kỳ vọng mức giá cổ phiếu tăng tương ứng. Nếu lợi nhuận doanh nghiệp không có xu hướng tăng mạnh trong vòng 12 tháng tới thì việc chia cổ phiếu sẽ khó làm cho giá cổ phiếu tăng như kỳ vọng.

- Nhà đầu tư cần có một cách đánh giá định lượng về khoảng giá mà cổ phiếu có thể tăng khi có thông tin về việc chia cổ phiếu để có quyết định mua bán phù hợp, tránh chạy theo đám đông mà mua phải cổ phiếu ở mức đỉnh giá hoặc bán cổ phiếu quá sớm khi tiềm năng tăng giá cổ phiếu vẫn còn.

Vậy còn với các doanh nghiệp thì sao ? Như đã nói ở trên khi chia cổ tức bằng cổ phiếu thì trả cổ tức bằng cổ phiếu vẫn giúp doanh nghiệp giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư, tăng vốn điều lệ để mở rộng thêm các hạn mức cho vay hay huy động vốn (đối với ngành ngân hàng), đồng thời giúp cho giá cổ phiếu trở nên “rẻ hơn nữa” và mang lại tâm lý không thể “down” thêm được trong giới đầu tư và khoản lợi nhuận giữ lại đó sẽ góp phần làm gia tăng các giá trị nội tại của doanh nghiệp, và từ đó sẽ làm tăng giá cổ phiếu trong tương lai.

 Trên thực tế, việc chia cổ tức bằng CP của DN giống như cách DN bỏ một phần tiền từ túi bên trái (vốn được đánh dấu bằng chữ “Lợi nhuận") sang túi bên phải (được ghi là "Vốn góp cổ phần ")! Do đó, nghiệp vụ chia cổ tức bằng CP chỉ là một hình thức khẳng định chắc chắn: DN được cổ đông đồng ý cho giữ cổ tức lại để tái đầu tư, mà không có bất kỳ một dòng tiền mới nào vào - ra DN.

   Khác biệt lớn nhất cho DN sau nghiệp vụ này là số CP tăng lên, tức áp lực làm đẹp báo cáo tài chính trong các năm tiếp theo cũng tăng lên. Do đó, nếu tính giá trị CP chia cổ tức theo giá nào thì DN cũng chẳng có gì thay đổi trong cơ cấu tài chính (cái khác là tỷ lệ chia cổ tức của DN và cách điều chỉnh giá trên thị trường)!

Nhưng nhìn ở góc độ tích cực, áp lực này cũng khiến DN phải chịu sức ép tăng hiệu quả kinh doanh, nên nếu cho rằng có thể ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển lâu dài của DN là chưa chuẩn xác.

Trong khi đó, việc chia cổ tức bằng tiền của DN lại làm giảm đi một lượng tiền tương ứng. Điều này sẽ là bình thường nếu DN không có nhu cầu huy động vốn mới để tiếp tục đầu tư, nhưng với các DN có ý định mở rộng kinh doanh, rõ ràng, đây không phải là hướng lựa chọn tối ưu.

 Vậy lí do từ đâu để các doanh nghiệp lựa chọn hình thức chi trả cổ tức này :

- Trong một thị trường đang hồi phục mạnh mẽ như thời gian qua, việc chia cổ tức hay thưởng bằng cổ phiếu sẽ là một tin hết sức hấp dẫn với cổ đông và góp phần đẩy giá cổ phiếu lên cao. Khi thị trường đang sôi động và trào lưu chia cổ phiếu đang thịnh hành, việc doanh nghiệp đứng ngoài cuộc chơi cũng có thể gây thiệt thòi cho cổ đông trong khi các doanh nghiệp lại thực hiện việc chia cổ  phiếu.

- Một số mã cổ phiếu đã tăng giá quá cao, khả năng tăng tiếp sẽ khó hơn, khi giá quá cao thì thường tính thanh khoản cổ phiếu sẽ thấp, vì thế việc chia cổ tức hoặc thưởng bằng cổ phiếu sẽ tạm thời điều chỉnh giá cổ phiếu giảm xuống, tăng tính thanh khoản cho cổ phiếu cũng như gia tăng tiềm năng tăng giá tiếp tục của cổ phiếu.

- Thông thường trong một nền kinh tế đang có xu hướng phục hồi, các doanh nghiệp dự báo được lợi nhuận trong vòng 12 tháng tới của doanh nghiệp sẽ tiếp tục tăng, nên sau khi chia cổ tức hoặc thưởng bằng cổ phiếu, số lượng cổ phiếu tuy có tăng thêm nhưng lợi nhuận vẫn tăng tương ứng, vì thế giá cổ phiếu sau thời điểm chốt quyền vẫn có xu hướng tăng tiếp tục.

- Việc chia cổ tức hay thưởng bằng cổ phiếu sẽ làm tăng vốn điều lệ, điều này có nghĩa phần lợi nhuận hay các quỹ để lại sẽ được giữ lại mãi mãi cho doanh nghiệp, khi đó doanh nghiệp sẽ có thêm một nguồn vốn dài hạn để đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh, tuy nhiên khi số lượng cổ phiếu tăng lên thì doanh nghiệp phải có thêm trách nhiệm đối với cổ đông và áp lực chia cổ tức trên mỗi cổ phiếu sau này.

- Một trong những tiêu chí để ngân hàng xem xét các khoản vay lớn, các đối tác ký các hợp đồng lớn hay các quy định khác của pháp luật có liên quan đến vốn điều lệ thì thường các doanh nghiệp có vốn điều lệ lớn sẽ có những lợi thế nhất định trong việc tiếp cận các nguồn vốn lớn và các hợp đồng lớn…, vì thế khi thị trường thuận lợi, các doanh nghiệp sẽ tranh thủ chia cổ tức hay thưởng bằng cổ phiếu để tăng vốn điều lệ.

- Một lý do khác mà các doanh nghiệp tranh thủ chia cổ tức và thưởng bằng cổ phiếu là để tránh thuế thu nhập cho cổ đông

     Thực tế ở Việt Nam, có ý kiến cho rằng cổ đông buộc Hội đồng Quản trị (HĐQT) phải chia cổ tức bằng cổ phiếu để làm giá ngắn hạn xuất phát từ thực trạng là có những cổ phiếu sau khi có thông tin chia cổ tức bằng cổ phiếu thì giá tăng đáng kể, ít nhất là trong ngắn hạn.

Một công ty phải được quyền tự chủ về các quyết định của mình để hướng về nhóm nhà đầu tư họ muốn phục vụ.

Trách nhiệm của nhà làm luật và quản lý thị trường nên làm sao cho thị trường có đủ thông tin để “trừng phạt” những công ty chỉ nhắm đến lợi ích ngắn hạn của một số nhà đầu tư, của ban lãnh đạo công ty chứ không nhắm tới lợi ích lâu dài.

Thực trạng này dường như bắt đầu sôi động vào giai đoạn 2004 - 2007 khi mà xu thế tăng giá của toàn thị trường đang bước sang một chu kỳ tăng ấn tượng không ngừng nghỉ. Nhiều bài báo trong giai đoạn này cũng nhìn nhận, tình hình tranh nhau mua cổ phiếu có thông tin chia cổ tức bằng cổ phiếu, thưởng cổ phiếu... Khi đó nhiều doanh nghiệp chọn chia cổ tức bằng cổ phiếu hơn là cổ tức tiền mặt vì cổ đông thích như vậy.

   Vì vậy, nói một cách nào đó, việc chọn chia cổ tức bằng cổ phiếu hay tiền mặt là do HĐQT xét thấy nên làm gì để “vui lòng” nhà đầu tư (hay chính xác hơn là số đông nhà đầu tư có tham gia biểu quyết).

   Như vậy, gốc rễ của vấn đề có làm giá hay không thông qua việc chia cổ tức bằng cổ phiếu là do chất lượng của HĐQT và chất lượng quản trị công ty (corporate governance). Nếu HĐQT thấy giá cổ phiếu đang quá cao, phát hành thêm cổ phiếu để làm giá rồi giúp một số cổ đông bán ra nhiều cổ phiếu hơn với giá cao hơn trước khi giá giảm về mức hợp lý, đó cũng là quyết định kinh doanh để “làm vừa lòng các ông chủ”.

Nó có làm tổn hại đến cổ đông nhỏ, cổ đông đến sau hay không là tùy thuộc vào chất lượng quản trị công ty của doanh nghiệp đó. Nếu công ty có chất lượng quản trị tốt, không nhắm tới lợi ích ngắn hạn, chỉ chia cổ tức bằng cổ phiếu khi thấy có cơ hội đầu tư tốt, hay vì chỉ muốn tăng thanh khoản cho việc giao dịch cổ phiếu này dễ dàng thì việc giá cổ phiếu công ty này tăng sau khi có tin chia cổ tức bằng cổ phiếu mà cũng bị gọi là làm giá thì có phần gây tiếng xấu cho doanh nghiệp

   Qua những phân tích trên, có thể thấy vấn đề làm giá trong chia cổ tức bằng cổ phiếu xuất phát từ gốc rễ của nó, đó là chất lượng quản trị công ty và sự thiếu minh bạch thông tin trên thị trường khiến nhiều công ty nhắm tới mục tiêu làm giá hưởng lợi ngắn hạn cho một số cổ đông và tổn hại lợi ích của những nhà đầu tư khác.

Một công ty phải được quyền tự chủ về các quyết định của mình để hướng về nhóm nhà đầu tư họ muốn phục vụ. Trách nhiệm của nhà làm luật và quản lý thị trường nên làm sao cho thị trường có đủ thông tin để “trừng phạt” những công ty chỉ nhắm đến lợi ích ngắn hạn của một số nhà đầu tư, của ban lãnh đạo công ty chứ không nhắm tới lợi ích lâu dài.

Thay vì lo vá những lỗ hổng nhỏ này có lẽ nên dành nhiều công sức để nâng cao chất lượng thông tin, chất lượng quản trị công ty và vai trò cung cấp thông tin từ các nhà phân tích của các định chế tài chính nhằm giúp thị trường dần dần ổn định, không bị dẫn dắt lệch lạc bởi chuyện “thưởng” cổ phiếu.

   Đó là những vấn đề về việc lợi ích của việc chia cổ tức theo hình thức này và nguyên do tại sao trong giai đoạn 2007 khá nhiều công ty lựa chọn hình thức chi trả cổ tức bằng cổ phiếu .Hình thức đó chỉ đáp ứng nhu cầu về vốn cho công ty trong thời gian ngắn nhưng lại đẩy các công ty phải nỗ lực kinh doanh hiệu quả ,Hệ quả tất yếu là các công ty làm ăn tốt thì không sao nhưng các công ty làm ăn không hiệu quả sau khi chi trả cổ tức thì họ buộc phải dùng các khoản lợi nhuận khác hoặc cắt giảm các khoản chí phí hàng tồn kho hay nợ đọng để có một bản báo cáo tốt làm hài lòng các nhà đầu tư ,Nếu việc này diễn ra trong thời gian lâu nó sẽ ảnh hưởng đến công ty do việc lãi ảo lỗ thực gây ra

 Đồng thời khi đưa ra các chiến lược kinh doanh công ty cần cân nhắc đến sự tác động của nó đến tâm ký nhà đầu tư

 Kết luận : Việc chi trả cổ tức bằng cổ phiếu đối với các doanh nghiệp giúp các doanh nghiệp tăng giá cổ phiếu trên thị trường với các cổ phiếu mà thị giá của chúng đang ở mức cao đồng thời tạo điều kiện cho việc quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh của cong ty.khắc phục giới hạn của công cụ vay nợ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh .tiết kiệm chi phí so với phát hành cổ phiếu mới ra công chúng và giúp cổ đông hiện hữu hoãn thuế thu nhập cá nhân so với việc trả cổ tức bằng tiền mặt .Nhưng bên cạnh đó là những bất lợi đó là :đòi hỏi khoản chi phí về thủ tục lớn hơn trả cổ tức bằng tiền.đồng thời là việc giảm thu nhập trên 1 cổ phần(EPS)

                         TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 1.3

   Đề tài 1: Nội dung chính sách cổ tức của công ty cổ phần, tác động của các hình thức chi trả cổ tức đến giá cổ phiếu và tình hình tài chính doanh nghiệp. Liên hệ thực tế tại tập đoàn FPT.

I.                   Cơ sở lý luận

1. Chính sách cổ tức

1.1. Khái niệm: cổ tức và chính sách cổ tức

Cổ tức được hiểu là phần lợi nhuận sau thuế của công ty dành để chi trả cho các cổ đông (chủ sở hữu công ty)

Chính sách cổ tức là chính sách ấn định phân phối giữa lợi nhuận giữ lại tái đầu tư và chi trả cổ tức cho cổ đông.

1.2.           Các hình thức chi trả cổ tức:

Thông thường, có 3 phương thức chi trả cổ tức cơ bản là: cổ tức bằng tiền mặt, cổ tức bằng cổ phiếu, và cổ tức bằng tài sản. Trong đó, 2 phương thức đầu là phổ biến nhất.

Cổ tức trả bằng tiền mặt

Hầu hết cổ tức được trả dưới dạng tiền mặt. Cổ tức tiền mặt được trả tính trên cơ sở mỗi cổ phiếu, được tính bằng phần trăm mệnh giá. Trả cổ tức bằng tiền mặt làm giảm tiền mặt dẫn đến giảm tài sản và giảm vốn lợi nhuận, nghĩa là làm giảm vốn cổ phần cổ đông.

Cổ tức trả bằng cổ phiếu

Trả cổ tức bằng cổ phiếu là doanh nghiệp đưa ra thêm những cổ phiếu của doanh nghiệp theo tỷ lệ đã được Đại hội đồng cổ đông thông qua. Doanh nghiệp không nhận được khoản tiền thanh toán nào từ phía cổ đông. Hình thức trả cổ tức bằng cổ phiếu được áp dụng khi doanh nghiệp dự định giữ lợi nhuận cho các mục đích đầu tư và muốn làm an lòng cổ đông.Việc trả cổ tức bằng cổ phiếu cũng giống như việc tách cổ phiếu. Cả hai trường hợp đều làm số lượng cổ phần tăng lên và giá trị cổ phần giảm xuống. Trả cổ tức bằng cổ phiếu làm tài khoản chủ sở hữu tăng lên và phần lợi nhuận giảm xuống. Trong khi đó tách cổ phiếu làm giảm mệnh giá mỗi cổ phần.

Cổ tức trả bằng tài sản

Doanh nghiệp trả cổ tức cho cổ đông bằng thành phẩm, hàng bán, bất động sản hay cổ phiếu của công ty khác do doanh nghiệp sở hữu. Hình thức này rất hiếm xảy ra trong thực tiễn.

1.3.           Các nhân tố ảnh hưởng tới quyết định chi trả cổ tức:

Các yếu tố khách quan:

Các quy định pháp lý về việc trả cổ tức là các cơ sở ban đầu cho quyết định chính sách và hoạt động chi trả cổ tức của mỗi doanh nghiệp. Một số nguyên tắc quan trọng về việc trả cổ tức của công ty: nguyên tắc lợi nhuận ròng, nguyên tắc tài chính lành mạnh, nguyên tắc lập quỹ dự trữ.

Xu thế vận động của nền kinh tế: nếu nền kinh tế suy thoái, lãi suất thị trường sụt giảm, có ít cơ hội đầu tư. Nếu có nhu cầu về vốn, công ty dễ dàng vay vốn với lãi suất thấp và có thể dành phần lớn lợi nhuận sau thuế để trả cổ tức. Trong nền kinh tế tăng trưởng nhanh, có nhiều cơ hội đầu tư, nguồn vốn khan hiếm, lãi suất thị trường tăng cao, công ty phải tăng lượng giữ lại để đáp ứng nhu cầu đầu tư và sẽ làm giảm phần chi trả cổ tức.

Chi phí phát hành chứng khoán: việc phát hành chứng khoán thường được thực hiện bởi các tổ chức bảo lãnh phát hành chuyên nghiệp, tất yếu sẽ nảy sinh chi phí phát hành. Nếu chi phí phát hành cao, công ty sẽ quyết định tăng phần giữ lại để tái đầu tư và ngược lại.

Tâm lý của nhà đầu tư: những người đã về hưu có xu hướng muốn nhận thu nhập ổn định nên luôn muốn công ty trả cổ tức cao, đều đặn. Ngược lại, những nhà đầu tư trẻ thường ưa mạo hiểm, có thể hy sinh khoản thu nhập từ cổ tức để công ty có thể giữ lại lợi nhuận sau thuế để đầu tư.

Vị trí của các cổ đông trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế thu nhập cá nhân: khi công ty do một số đại cổ đông nắm giữ, họ thường muốn chia cổ tức với tỷ lệ thấp để tránh phải nộp thuế thu nhập cá nhân với mức cao và ngược lại.

 Các yếu tố chủ quan

Cơ hội đầu tư: công ty có những cơ hội đầu tư hứa hẹn khả năng sinh lợi cao thường có xu hướng giữ phần lớn lợi nhuận sau thuế để tái đầu tư, do vậy chỉ dành một phần nhỏ để chia cổ tức.

Nhu cầu thanh toán các khoản nợ đến hạn: nếu nhu cầu thanh toán các khoản nợ đến hạn cảu DN lớn sẽ buộc DN phải ưu tiên thanh toán nợ trước, điều này ảnh hưởng trực tiếp tới việc chi trả cổ tức.

Mức tỷ suất lợi nhuận trên vốn đạt được của công ty: nếu tỷ suất lợi nhuận trên vốn của công ty cao hơn các công ty khác thì cổ đông có xu hướng muốn để lại phần lớn lợi nhuận sau thuế để tái đầu tư để tăng thu nhập trong tương lai, và ngược lại.

Sự ổn định về lợi nhuận của công ty: một công ty có lợi nhuận tương đối ổn định có thể dành phần lớn lợi nhuận sau thuế để chi trả cổ tức và ngược lại.

Khả năng thâm nhập vào thị trường vốn: những công ty lớn, thời gian hoạt động lâu dài, ổn định về mặt lợi nhuận, uy tín cao trong kinh doanh, mức độ rủi ro thấp sẽ dễ dàng huy động vốn hơn. Do đó, công ty này có thể dành nhiều lợi nhuận sau thuế để trả cổ tức cho cổ đông hơn.

Quyền kiểm soát công ty: DN có thể tăng vốn thông qua phát hành cổ phiếu, điều này sẽ làm pha loãng quyền kiểm soát công ty của các cổ đông hiện hành. Nếu các cổ đông hiện hành muốn duy trì quyền quản lý, kiểm soát công ty thì DN thường giữ lại phần nhiều lợi nhuận sau thuế để tái đầu tư và ngược lại.

Tình hình luồng tiền của công ty: một DN kinh doanh có lãi không đồng nghĩa với việc DN đó có đủ nguồn tiền để trả cổ tức cho cổ đông. Do đó, trước khi quyết định trả cổ tức bằng tiền DN cần xem xét khả năng cân đối luồng tiền của mình.

Chu kỳ sống của doanh nghiệp: chu kỳ sống của một DN nói chung trải qua 4 giai đoạn: ra đời, phát triển, hoàn thiện và suy thoái. Trong mỗi giai đoạn, công ty phải thiết lập chính sách tài chính cụ thể (đã bao gồm chính sách cổ tức). Ví dụ: trong giai đoạn công ty mới thành lập, sản phẩm chưa chiếm lĩnh được thị trường, uy tín chưa cao, khả năng huy động vốn khó khăn công ty cần giữ lại phần lớn lợi nhuận sau thuế để tái đầu tư.

1.4. Các chính sách cổ tức thông dụng

  Chính sách ổn định cổ tức

- Được xây dựng trên cơ sở lý thuyết ổn định cổ tức: Theo đó, công ty duy trì trả cổ tức đều đặn qua các năm với biến động nhỏ

- Công ty chỉ thực hiện chi trả cổ tức ở mức cao hơn khi công ty có thể đạt được sự gia tăng lợi nhuận một cách vững chắc, đủ khả năng cho phép tăng cổ tức; đồng thời,khi đã tăng cổ tức thì sẽ cố gắng duy trì cổ tức ở mức đã định cho tới khi công ty thấy rõ không thể hi vọng ngăn chặn được sự giảm sút lợi nhuận kéo dài trong tương lai.

- Lợi ích của việc theo đuổi chính sách ổn định cổ tức: ổn định tâm lý của cổ đông, giữ chân được lượng cổ đông ổn định, thị giá cổ phiếu tăng, rủi ro đầu tư thấp

- Bất lợi: Cty bỏ lỡ cơ hội đầu tư, gia tăng chi phí vay vốn hoặc phát hành thêm cổ phiếu mới, gia tăng rủi ro tài chính do vay vốn, nguy cơ mất quyền kiểm soát do phát hành cổ phiếu mới.

 Chính sách thặng dư cổ tức

- Được xây dựng trên cơ sở lý thuyết ổn định lợi tức cổ phần.Theo đó, công ty duy trì trả cổ tức liên tục qua các năm với mức trả các năm tương đối ổn định,có thể có sự biến động,song không đáng kể so với sự biến động lợi nhuận hang năm của công ty.

- Công ty chỉ thực hiện chi trả cổ tức ở mức cao hơn khi công ty có thể đạt được sự gia tăng lợi nhuận một cách vững chắc, đủ khả năng cho phép tăng cổ tức; đồng thời,khi đã tăng cổ tức thì sẽ cố gắng duy trì cổ tức ở mức đã định cho tới khi công ty thấy rõ không thể hi vọng ngăn chặn được sự giảm sút lợi nhuận kéo dài trong tương lai.

-Lợi ích của theo đuổi chính sách thặng dư cổ tức: Cổ tức tăng nhanh, thị giá tăng nhanh, uy tín công ty tăng, hài lòng cổ đông

-Bất lợi: rủi ro đầu tư cao, LN giữ lại để tái đầu tư có xu hướng thấp

1.5.           Vai trò của chính sách cổ tức:  

- là công cụ đảm bảo lợi ích cho cổ đông Đại bộ phận cổ đông đầu tư vào công ty đều mong đợi được trả cổ tức do vậy, chính sách phân chia cổ tức ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của các cổ đông. Mặt khác,việc công ty duy trì trả cổ tức ổn định hay không ổn định,dều đặn hay dao động thất thường sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự biến động giá trị cổ phiếu của công ty trên thị trường chứng khoán.

- là công cụ tác động đến sự tăng trưởng và phát triển của công ty: Chính sách cổ tức lien quan tới việc xác định lượng tiền mặt dung trả cổ tức cho các cổ đông. Vì vậy,nó có mối liên hệ chặt chẽ với chính sách tài trợ và chính sách đầu tư của công ty. Việc phân chia lợi tức cổ phần quyết định số lợi nhuận lưu giữ nhiều hay it, điều này ảnh hưởng tới nguồn vốn bên trong tài trợ cho các nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh của công ty trong tương lai. Mặt khác,việc trả cổ tức sẽ làm giảm lợi nhuận giữ lại để tái đầu tư,vì vậy sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu huy động vốn từ bên ngoài của công ty.

2. Tác động của hình thức chi trả cổ tức tới giá cổ phiếu và tình hình tài chính của CTCP

·                     Trả cổ tức bằng tiền

Hầu hết cổ tức của công ty được trả bằng tiền mặt, bởi điều này sẽ thuận lợi cho cổ đông trong việc sử dụng vào các mục đích có tính chất tiêu dung cá nhân. Mức cổ tức tiền mặt được trả có thể được tính trên cơ sở mỗi cổ phần, hoặc theo tỷ lệ % so với mệnh giá cổ phiếu.

Từ công thức xác định giá cổ phiếu theo phương pháp chiết khấu cổ tức:

Trong đó:  Po là giá cổ phiếu ở thời điểm hiện tại

                  Dt là cổ tức dự kiến nhận được ở cuối năm thứ t

        r: tỷ suất lợi nhuận đòi hỏi của nhà đầu tư

      Pn: giá bán cổ phiếu ở cuối năm thứ n

Từ công thức trên có thể thấy, với mức tỷ suất lợi nhuận xác định mức cổ tức dự tính trong tương lai có quan hệ trực tiếp tới giá cổ phiếu. Tuy nhiên, trả cổ tức cao không có phải luôn đi cùng với giá cổ phiếu tăng cao trên thị trường, nó còn phụ thuộc vào cách tiếp cận của nhà đầu tư khi ra quyết địn mua cổ phiếu. Có nhà đàu tư mong muốn nhận được các khoản cổ tức đều đặn hàng năm, có nhà đầu tư lại hy vọng nhận được thu nhập lãi vốn (chênh lệch giá bán ra và giá mua vào cổ phiếu). Viêc chi trả cổ tức bằng tiền mặt sẽ làm ảnh hưởng tới phần lợi nhuận giữ lại để đầu tư. Nếu phần lợi nhuận giữ lại được đầu tư có hiệu quả sẽ đảm bảo cho sự tăng trưởng lâu dài của công ty, từ đó sẽ tạo niềm tin tăng giá cổ phiếu trong tương lai. Khi mức độ trả cổ tức bằng tiền tăng qua các năm sẽ có tác dụng tích cực tới tâm lý nhà đầu tư, nâng cao uy tín của doanh nghiệp và giá cổ phiếu có thể tăng.

Tác động tới tình hình tài chính doanh nghiệp, việc chi trả cổ tức bằng tiền sẽ làm giảm lượng tiền mặt của công ty, giảm khả năng thanh toán, khả năng tự cung ứng vốn của doanh nghiệp trong năm tài chính tiếp theo. Nếu nhu cầu sử dụng vốn vượt quá khả năng tự cung ứng, doanh nghiệp buộc phải đi vay để đầu tư và doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với gánh nặng nợ vay.

-    Trả cổ tức bằng cổ phiếu

     Việc trả cổ tức bằng tiền mặt có thể ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng thanh toán và nhu cầu đầu tư của công ty. Vì vậy trong một số trường hợp thay vì trả cổ tức bằng tiền, công ty có thể tiến hành trả cổ tức bằng cổ phiếu.

Doanh nghiệp phát hành thêm cổ phiếu mới để trả cổ tức cho cổ đông sẽ làm giảm NAV tăng lưu lượng cổ phiếu, khả năng cung ứng cổ phiếu trên thị trường tăng qua đó thị giá cổ phiếu giảm.

Mặt khác trả cổ tức bằng cổ phiếu sẽ làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp vì vốn điều lệ = mệnh giá cổ phiếu * khối lượng cổ phiếu đang lưu hành. Tuy nhiên trên thực tế công ty không thu được một đồng nào và có thể dẫn tới nguy cơ pha loãng quyền điều hành do tỷ lệ sở hữu thay đổi sau khi phát hành cổ phiếu nội bộ.

Trả cổ tức bằng tài sản khác

Mặc dù không có tính chất phổ biến , song các công ty cổ phần cũng có thể trả cổ tức bằng các tài sản khác: chứng khoán của công ty khác, khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, thành phẩm, hàng hóa, bất động sản,... việc trả cổ tức bằng tiền mặt sẽ làm giảm các khoản đầu tư, giảm lượng hàng hóa, thành phẩm... từ đó làm giảm tài sản, vốn chủ sở hữu của công ty và đặc biệt nó làm giảm nghiêm trọng uy tín của công ty kéo giá cổ phiếu sụt giảm mạnh. Vì vậy việc trả cổ tức bằng tài sản khác chỉ được thực hiện trong trường hợp công ty không thể sử dụng các phương án trả cổ tức khác.

II.                Thực tiễn tại tập đoàn FPT

             1. TẬP ĐOÀN FPT 

Trụ sở chính: Tòa nhà FPT, lô B2 Cụm sản xuất tiểu thủ Công nghiệp và Công nghiệp nhỏ Đường Phạm Hùng, quận Cầu Giấy, Hà Nội

Website: www.fpt.com.vn

Điện thoại: +84 4 73007300

Fax: +84 4 37687410

Về kinh doanh: Kết thúc năm tài chính 2009, với những nỗ lực trong kinh doanh, quản trị, doanh số toàn tập đoàn đạt mức 18.751 tỷ đồng (tương đương trên 1 tỷ USD), đạt 109,8% kế hoạch đề ra, tăng 11,6% so với năm 2008.

Lãi trước thuế đạt trên 1.702,2 tỷ VND, vượt 12,3% so với kế hoạch năm và tăng 37,3 % so với cùng kỳ năm 2008. Lãi sau thuế cổ đông công ty mẹ đạt gần 1.061,8 tỷ VND, so với năm 2008 đã tăng 17,3%. Lãi cơ bản trên cổ phiếu bình quân là 7.486,5 đồng trên một cổ phiếu, tăng 18,4% so với cùng kỳ năm 2008.

Năm 2009, mặc dù chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, các lĩnh vực kinh doanh truyền thống của FPT như: Tích hợp hệ thống; Xuất khẩu phần mềm; Viễn thông; Đào tạo và Phân phối sản phẩm công nghệ viễn thông vẫn đạt được kết quả tích cực.

Các lĩnh vực này đã hoàn thành kế hoạch đề ra về lợi nhuận trong năm 2009 lần lượt là 108%; 87,5%; 101,9%; 102,8% và 105,1%.

Về nhân sự: Tính tới 31/12/2009, số lượng cán bộ nhân viên làm việc tại FPT đã đạt tới con số 10.163.

Về cơ cấu tổ chức: FPT hiện có:

- 11 công ty thành viên: Công ty Cổ phần Hệ thống Thông tin FPT (FPT Information System); Công ty Cổ phần Thương mại FPT(FPT Trading Group); Công ty Cổ phần Viễn thông FPT (FPT Telecom Corporation); Công ty Cổ phần Phần mềm FPT (FPT Software); Công ty Trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ Tin học FPT; Công ty Trách nhiệm hữu hạn Truyền thông Giải trí FPT; Công ty Cổ phần Quảng cáo FPT; Đại học FPT; Công ty Trách nhiệm hữu hạn Phát triển Khu công nghệ cao Hoà Lạc FPT; Công ty Trách nhiệm hữu hạn Bất động sản FPT (FPT Land); Công ty Dịch vụ trực tuyến FPT (FPT Online).

-3 Công ty liên kết: Công ty Cổ phần Chứng khoán FPT (FPT Securities), Công ty Cổ phần Quản lý quỹ đầu tư FPT (FPT Capital), Ngân hàng Thương mại Cổ phần Tiên Phong.

- Có mặt tại 9 quốc gia trên thế giới và các chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng.

Các lĩnh vực hoạt động chính của FPT:

- Công nghệ Thông tin và Viễn thông: Tích hợp hệ thống, Giải pháp phần mềm, Dịch vụ nội dung số, Dịch vụ dữ liệu trực tuyến, Dịch vụ Internet băng thông rộng, Dịch vụ kênh thuê riêng, Điện thoại cố định, Phân phối sản phẩm công nghệ thông tin và viễn thông, Sản xuất và lắp ráp máy tính, Dịch vụ tin học, Lĩnh vực giáo dục-đào tạo, Đào tạo công nghệ.

- Đầu tư: Giải trí truyền hình, Dịch vụ tài chính-ngân hàng, Đầu tư phát triển hạ tầng và bất động sản, Nghiên cứu và phát triển.

FPT đang làm chủ công nghệ trên tất cả các hướng phát triển của mình với các chứng chỉ ISO cho tất cả các lĩnh vực hoạt động, CMMi cho phát triển phần mềm.

Bên cạnh đó, FPT cũng đang sở hữu trên 1,000 chứng chỉ công nghệ cấp quốc tế của các đối tác công nghệ hàng đầu thế giới.

Các dịch vụ giá trị gia tăng của FPT luôn đáp ứng được nhu cầu của khách hàng và đối tác. Đến nay, FPT đã giành được niềm tin của hàng nghìn doanh nghiệp và hàng triệu người tiêu dùng.

Trong suốt những năm qua, FPT liên tục được bạn đọc tạp chí PC World Việt Nam bình chọn là Tập đoàn tin học uy tín nhất Việt Nam. Nhiều năm nhận giải thưởng “Đối tác doanh nghiệp xuất sắc nhất năm” của Cisco, IBM, HP… và đạt được các giải thưởng: Giải thưởng Sao vàng Đất Việt cho thương hiệu FPT; Giải thưởng Sao Khuê; Các giải thưởng, cúp, huy chương tại các triển lãm, cuộc thi như Vietnam Computer World Expo, IT Week, Vietgames…

Sản phẩm và dịch vụ của FPT luôn giành được những giải thưởng cao nhất của Hội Tin học Việt Nam, Hội Tin học thành phố Hồ Chí Minh và Hiệp hội Doanh nghiệp Phần mềm Việt Nam. Với những đóng góp tích cực cho sự phát triển của ngành tin học và viễn thông nói riêng và sự phát triển của nền kinh tế nói chung, FPT đã được Nhà nước trao tặng Huân chương Lao động hạng Nhất năm 2003.

2.  Khái quát hoạt đông chi trả cổ tức của công ty từ 2006- 2010:  thu nhập của cổ đông FPT tương đối ổn định qua các năm.

Năm

Thu nhập bằng tiền mặt (%/vốn)

Thu nhập bằng cổ phiếu (%/vốn)

Tổng 

Ghi chú 

thu nhập (%/vốn)

Năm 2010

10.00%

- 06 tháng đầu năm 2010 

tiền mặt: 10% ngày 13/08/2010

Năm 2009

25.00%

33.30%

58.30%

- Đợt I – tiền mặt: 10% ngày 08/06/2009

- Đợt II – tiền mặt: 15% ngày 16/12/2009 

- Đợt III – cổ phiếu, tỷ lệ 3:1 ngày 13/05/2010

Năm 2008

26.00%

50.00%

76.00%

- Đợt I – tiền mặt: 10% ngày 30/07/2008

- Đợt II – tiền mặt: 16% ngày 11/11/2008 

- Cổ phiếu thưởng, tỷ lệ 2:1 ngày 11/11/2008

Năm 2007

36.00%

0.00%

36.00%

-Đợt I - tiền mặt: 6% ngày 26/07/2007

-Đợt II - tiền mặt: 20% ngày 10/10/2007

-Đợt III - tiền mặt: 10% ngày 23/04/2008

Năm 2006

12.00%

50.00%

62.00%

-Đợt I - tiền mặt: 6% ngày 30/08/2006

-Đợt II - tiền mặt: 6% ngày 08/03/2007 

-Đợt III - cổ phiếu: tỷ lệ 2:1 ngày 23/05/2007

                                         ( nguồn: fpt.com.vn)

3. Phân tích tác động của hình thức trả cổ tức tới giá cổ phiếu:

·        Trả cổ tức đợt 1/ 2008

- Tỷ lệ thực hiện: 10% trên mệnh giá (tương ứng với 1000 đồng trên 01 cổ phiếu)

- Hình thức chi trả: Tiền mặt

- Ngày giao dịch không hưởng quyền: 28/07/2008

- Ngày đăng ký cuối cùng: 30/07/2008

- Thời gian chi trả cổ tức: 22/08/2008

Ngày 28/ 7/2008: giá 71.000đ/cp; KL: 164.670

Ngày 30/7/2008: giá 65.500đ/cp; KL: 610.540

Ngày 22/8/2008: giá 101.000đ/cp; KL: 87.220

Từ đồ thị trên, có thể thấy: trước khi có thông tin trả cổ tức, giá cổ phiếu chỉ giao động quanh mức 60.000đ/cp. Và dưới tác động của việc trả cổ tức bằng tiền mặt với tỷ lệ 10% mệnh giá, giá cổ phiếu FPT đã tăng mạnh tuy sau đó có sự sụt giảm nhưng giá cổ phiếu sau khi hoàn thành chi trả cổ tức vần giao động quanh ngưỡng giá cao hơn (khoảng 90.000đ/cp). Sau khi có thông tin chi trả cổ tức băng tiền mặt thì nhiều người muốn mua cổ phiếu để hưởng cổ tức bằng tiền là do khủng hoảng tài chính toàn cầu  ảnh hương tới Việt Nam gây lam phát cụ thể Lạm phát của Việt Nam trong tháng 5 lên tới 25% do vậy cổ đông muốn năm giữ tiền hơn cổ phiếu  do vậy cầu cổ phiếu tăng dẫn đến giá tăng. Sau khi chi trả cổ tức giá cổ phiếu tăng vọt là do FPT công bố thông tin  rằng FPT không bị ảnh hưởng nhiều bởi những biến động chung về kinh tế, tài chính Việt Nam mặt khác niềm tin nhà đầu tư được khôi phục từ dấu hiệu kinh tế vĩ mô có chuyển biến tích cực vì vậy tạo niềm tin cho nhà đầu tư đầu tư vao loại cổ phiếu này do vậy cầu cổ phiếu tăng cung không đổi dẫn đến giá tăng

·        Trả cổ tức đợt 2- 2008:

Ngày 3/11/2008, Hội đồng quản trị CTCP Phát triển Đầu tư Công nghệ FPT đã họp và nhất trí thông qua tạm ứng cổ tức đợt 2

- Ngày thông báo: 11-04-2008

- Ngày giao dịch không hưởng quyền: 07-11-2008

- Ngày đăng ký cuối cùng: 11-11-2009

- Thời gian thực hiện: 05/12/2008

- Tỷ lệ phân bổ quyền: 1:1

- Tỷ lệ thực hiện: 16% trên mệnh giá (tương ứng với 1.600 đồng trên 01 cổ phiếu)

- Hình thức chi trả: tiền mặt. Ngày 7/11/2008: giá 61.000đ KL: 1.095.780cp

Ngày 11/11/2008: giá 61.000đ KL: 536.910cp

Ngày 5/12/2008: giá 48.900đ KL: 268.230cp

Trong quý 4 năm 2008, do ảnh hưởng từ suy thoái kinh tế thế giới thị trường chứng khoán Việt Nam sụt giảm mạnh VN-Index liên tục sụt giảm, thị trương chứng khoán Việt Nam có nhiều rủi ro, tính thanh khoản thấp, giá cổ phiếu FPT đã sụt giảm.

·        Tạm ứng cổ tức đợt I năm 2009:

· Ngày giao dịch không hưởng quyền: 04/06/2009

· Ngày đăng ký cuối cùng: 08/06/2009

Thời gian thực hiện: 26/06/2009

- Tỷ lệ phân bổ quyền: 1:1

- Tỷ lệ thực hiện: 10% trên mệnh giá (tương ứng với 1.000 đồng trên 01 cổ phiếu)

- Hình thức chi trả: Tiền mặt

            Ngày 4/6/2009: giá 70.500 đ KL: 642.540 cp

Ngày 8/6/2009 giá 77.500 đ KL: 319.760 cp

Ngày 26/6/2009 giá 73.500 đ KL: 549.500 cp

Từ biểu đồ trên có thể thấy: Trước ngày 4/6/2009, giá cổ phiếu giao động quanh mức 65.000đ/cp, với việc chi trả cổ tức bằng tiền mặt của FPT đã đẩy giá cổ phiếu lên giao động quanh mức cao hơn, khoảng 70.000đ/cp.

Do tập đoàn có những bước khởi sắc nhất định. Kết thúc sáu tháng đầu năm 2009, Tập đoàn FPT cũng đã đạt được những kết quả kinh doanh đầy khả quan. Doanh thu toàn tập đoàn quý II đạt gần 4.294 tỷ VND, nâng tổng doanh thu của 6 tháng đầu năm lên 8.223 tỷ VND và đạt 114,08% so với kế hoạch. Lãi trước thuế 6 tháng đầu năm tăng trưởng 24,7% so với cùng kỳ năm 2008; vượt 32,92% kế hoạch đề ra và đạt gần 787 tỷ đồng. Lãi sau thuế cổ đông công ty mẹ tăng so với cùng kỳ năm 2008 là 16,4% và đạt trên 451 tỷ đồng. Lãi cơ bản trên cổ phiếu bình quân đạt 3.203 đồng trên một cổ phiếu và tăng 15,3% so với cùng kỳ năm 2008.

Đạt được kết quả như vậy là do Tập đoàn FPT đang nỗ lực tái cơ cấu hoạt động của các công ty thành viên và hệ thống nhân sự để nhằm xây dựng một FPT gắn kết, tăng trưởng và bền vững hơn ngoài ra tập đoàn tái cấu trúc tập đoàn bằng cách tập trung vào 2 mảng hoạt động chính quản trị doanh nghiệp và quản trị tài chinh doanh nghiệp, ngành nghề hinh doanh chủ chốt của FPT là viễn thông, công nghiệp nội dung, dịch vụ công nghệ thông tin trong 06 tháng đầu năm tập đoàn FPT đã tiếp tục thu được kết quả kinh doanh rất khả quan trên các mảng kinh doanh chính của mình. FPT đạt kết quả vượt trội so với các công ty cùng ngành do đó công ty rất có triển vọng trong tuơng lai nâng cao uy tín doanh nghiệp có tác động tích cực tâm lý của nhà đầu tư.

·        Trả cổ tức đợt 2 - 2009

Ngày 1/12/2009, hội đồng quản trị công ty cổ phần FPT đã họp và thông qua kế hoạch trả cổ tức đợt 2/2009 cho cổ đông thường với tỷ lệ chi trả 15%/mệnh giá (1.500 VNĐ/cổ phần) và dự kiến thực hiện trước ngày 31/12/2009.

Ngày 4/12/2009, công ty thông báo tới các cổ đông thường về việc trả cổ tức đợt 2/ 2009 theo đó  Ngày giao dịch không hưởng quyền: 14/12/2009

· Ngày đăng ký cuối cùng: 16/12/2009

- Thời gian thực hiện: 31/12/2009

- Tỷ lệ phân bổ quyền: 1:1

- Tỷ lệ thực hiện: 15% trên mệnh giá (tương ứng với 1.500 đồng trên 01 cổ phiếu)

- Hình thức chi trả: Tiền mặt

Giá cổ phiếu tại một số thời điểm: trước thời điểm FPT công bố trả cổ tức đợt 2/ 2009 cho cổ đông thường bằng tiền mặt với tỷ lệ 15 %, giá FPT chỉ giao động quanh mức giá khoảng 75.000đ/ cp.

Ngày 14/12: 74.000 đ khối lượng giao dịch:

Ngày 16/12: 72.000 đ

Ngày 31/12: 79.000 đ, sau đo giá cổ phiếu tiếp tục giao động ở ngưỡng giá cao hơn khoảng 77.000 đ/ cp

Từ đồ thị ta có thể thấy: dưới tác động của việc FPT trả cổ tức cho cổ đông thường bằng tiền mặt đã góp phần đẩy giá cổ phiếu FPT lên một ngưỡng giá mới.

Quý III năm 2009 FPT phát hành trái phiếu kèm theo chứng quyền với mệnh giá 100.000, tổng mệnh giá không quá 1800 tỷ đồng, trái phiếu có kỳ hạn 3 năm. Việc phát hành trái phiếu làm tăng tỷ lệ tiền mặt công ty do đó công ty có khả năng chi trả tốt cổ tức bằng tiền mặt.

Sau khi trả cổ tức bằng tiền mặt đợt 2 thì giá cổ phiếu tăng lên vì tỷ lệ trả cổ tức cao hơn so với đợt 1 và công ty vẫn giữ hình thức chi trả cổ tức bằng tiền mặt, điều này tạo niêm tin cho các nhà đầu tư.

·        trả cổ tức đợt 3/ 2009

Ngày 28/04/2010, Công ty Cổ phần FPT đã nhận được công văn số 409/TB-SGDHCM của Sở Giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh thông báo việc trả cổ tức bằng cổ phiếu từ lợi nhuận 2009:

- Ngày giao dịch không hưởng quyền: 11/05/2010 (trường hợp giao dịch thỏa thuận từ 100.000 cổ phiếu trở lên trong các ngày 11, 12/05/2010 thì người bán không được hưởng quyền).

- Ngày đăng ký cuối cùng: 13/05/2010

- Mục đích: Trả cổ tức bằng cổ phiếu từ lợi nhuận năm 2009

- Tỷ lệ thực hiện: 3:1 (vào ngày đăng ký cuối cùng, mỗi cổ đông sở hữu 03 cổ phần sẽ được nhận thêm 01 cổ phần mới). Số cổ phần mới sẽ được làm tròn đến hàng đơn vị, phần lẻ thập phân phát sinh (nếu có) sẽ bị hủy bỏ.

- Số lượng cổ phiếu dự kiến phát hành thêm: 47.846.322 cổ phiếu.

- Quyền nhận cổ tức bằng cổ phiếu không được chuyển nhượng.

- Số cổ phiếu phát hành thêm để trả cổ tức sẽ không bị hạn chế chuyển nhượng.

- Thời gian thực hiện giao dịch dự kiến: 13/06/2010

Ngày 28/4/2010: giá 88.500đ/cp KL: 156.830cp

Ngày 11/5/2010: giá 64.000đ/cp KL: 155.980cp

Ngày 13/5/2010: giá 63.500đ/cp KL: 91.730cp

Ngày 14/6/2010: giá 68.500đ/cp Kl: 222.930cp

         Từ đồ thị trên ta thấy: phản ứng trước thông tin CTCP FPT trả cổ tức bằng cổ phiếu thường, giá chứng khoán FPT đã sụt giảm mạnh vì trả cổ tức bằng cổ phiếu gây hiệu ưng pha loãng cổ phiếu cung  cổ phiếu tăng.

·        Tạm ứng cổ tức 6 tháng đầu năm 2010:

Ngày 22/7/2010, Hội đồng Quản trị Công ty Cổ phần FPT đã họp và thông qua phương án tạm ứng cổ tức 06 tháng đầu năm với mức tạm ứng cổ tức 06 tháng đầu năm: 10% trên mệnh giá (1.000 VNĐ/01 cổ phần) và thời gian thực hiện dự kiến: Không muộn hơn tháng 09/2010.

Ngày 6/8/2010: Thông báo về ngày đăng ký cuối cùng tạm ứng cổ tức 06 tháng đầu năm 2010

Ngày giao dịch không hưởng quyền: 11/08/2010 (trường hợp giao dịch thỏa thuận từ 100.000 cổ phiếu trở lên trong các ngày 11,12/08/2010 thì người bán không được hưởng quyền.

- Ngày đăng ký cuối cùng: 13/08/2010

- Thời gian thanh toán: 31/08/2010

phân tích tác động tới giá cổ phiếu:  

Giá cổ phiếu FPT tại một số thời điểm:

Ngày 22/7 giá 69.000 đ/cp; số lượng: 398.000 cp

Ngày 6/8 giá 76.000 đ/cp; số lượng 277.060 cp

Ngày 11/8 giá 74.000 đ/cp; số lượng 33.000 cp  

Ngày 13/8 giá 71.000 đ/cp; số lượng 173.160 cp

Ngày 31/8 giá 75.000 đ/cp; số lượng 590.670 cp

Từ đồ thị ta có thể thấy: từ ngày 22/7 tới ngày 11/8 phản ứng trước việc FPT thông qua phương án tạm ứng cổ tức đợt 1 năm 2010 bẳng tiền mặt, các nhà đầu tư đã tăng cường mua vào cổ phiếu này để được hưởng cổ tức và giá được đẩy lên cao hơn so với thời gian trước. Ngày 5/8 giá cổ phiếu lập đỉnh ở mức 78 nghìn đồng/ cổ phiếu. Sau ngày giao dịch không hưởng quyền (11/8), giá FPT có sự sụt giảm đôi chút mức giá giao động quanh ngưỡng 72 nghìn đồng/ cổ phiếu, và mức giá này tiếp tục được duy trì cho tới thời điểm hiện tại ( 15/10/2010)

4. Tác động của hình thức chi trả cổ tức tới tình hình tài chính của công ty cổ phần FPT

·        trả cổ tức đợt 1 năm 2009

2009

Quy I năm 2009

Quy II năm 2009

Khả năng thanh toán nợ ngắn hạn

1.61

1,65

1,58

Khả năng thanh toán nhanh

1.31

1,13

1,05

Khả năng thanh toán tức thời

0.48

0,33

0,3

Khả năng thanh toán lãi vay

16.47

30,5

28,3

Khả năng thanh toán chung

1.57

2,17

2,16

Tác động tới tình hình tài chính doanh nghiệp, việc chi trả cổ tức bằng tiền sẽ làm giảm lượng tiền mặt của công ty cụ thể lượng tiền mặt giảm ...so với quý I, giảm khả năng thanh toán,khả năng thanh toán nhanh ,khả năng thanh toán tức thời, khả năng tự cung ứng vốn của doanh nghiệp  khiến cty phát hành trái phiếu mệnh giá 100.000 tông mẹnh giá không quá 1800 tỷ đồng để tăng khả nằng tự cung ứng vốn cho các du án sau này

·        Trả cổ tức đợt 2 năm 2009

Quy IV năm 2009

Quý III năm 2009

Khả năng thanh toán nợ ngắn hạn

1,68

1,57

Khả năng thanh toán nhanh

1,36

1,13

Khả năng thanh toán tức thời

0,48

0,45

Khả năng thanh toán lãi vay

7,59

31,9

Khả năng thanh toán chung

1,56

2,01

Nhìn vào bảng trên ta thấy mặc dù công ty chi trả cổ tức bằng tiền mặt cao hơn đợt 1 nhưng khả năng thanh toán nợ ngắn hạn,khả năng thanh toán nhanh và khả năng thanh toán tức thời đều giảm nhưng khả năng thanh toán lãi vay giảm vì công ty phat hành trái phiếu do đó tăng các khoản lãi phải trả và tăng lượng tiền mặt cho công ty dẫn đến tăng tài sản ngăn hạn

Trả cổ tức đọt 3 năm 2009

Mặt khác trả cổ tức bằng cổ phiếu sẽ làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp vì vốn điều lệ = mệnh giá cổ phiếu * khối lượng cổ phiếu đang lưu hành. Tuy nhiên trên thực tế công ty không thu được một đồng nào và có nguy cơ pha loãng quyền điều hành do tỷ lệ sở hữu thay đổi sau khi phát hành cổ phiếu nội bộ.

Nhận xét chung về tác động cúa hình thức chi trả cổ tức đến tình hình tài chính của doanh nghiệp:

Tổng hợp số liệu từ báo cáo tài chính của CTCP FPT các năm 2007- 2010, chúng ta lập được bảng sau:

STT

đơn vị tính

Năm 2007

Năm 2008

Năm 2009

6 tháng đầu 2010

1

Tổng TS

triệu đồng

5356052

6124834

10395415

11481761

2

TSLĐ

triệu đồng

4342621

4658263

7678505

8459816

3

Tiền

triệu đồng

895514

1242503

2310510

1710798

4

Tổng nợ

triệu đồng

3094037

3,227,108

6677492

6905964

5

Nợ ngăn hạn

triệu đồng

2974892

3,222,179

4765832

5015563

6

Tổng số cpud đang lưu hành

cổ phiếu

435520

1191105

902215

995493

7

Tổng cpt đang lưu hành

cổ phiếu

91899459

139787819

142649197

192206764

8

LNTT

triệu đồng

1028985

1240085

1697522

889681

9

Lãi vay

triệu đồng

42955

80487

109698

126604

10

hàng tồn kho

triệu đồng

1428218

1223957

1426043

1854758

11

Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn

1.459757531

1.44568722

1.611157296

1.686713137

12

hệ số khả năng thanh toán nhanh

0.979666825

1.0658334

1.311935041

1.316912578

13

khả năng thanh toán lãi vay

24.95495286

16.40727074

16.47450273

8.02727402

14

khả năng thanh toán chung

1.731088542

1.897932762

1.556784344

1.66258628

15

NAV

triệu đồng/cổ phiếu

0.024566628

0.020644252

0.026000152

0.023754846

16

NAV

nghìn đồng/cổ phiếu

24.56662775

20.64425191

26.00015232

23.75484595

            Năm 2008 :mấy tháng đầu năm dưới hinh thúc chi trả băng tiền mặt làm giá cổ phiéu tăng cao chot vót làm tăng lượng doanh thu tăng lượng tiền công ty do đó tăng khả năng thanh toán nhanh  nhưng sau đó duới ảnh hưởng khửng hoảng kinh tê toàn cầu kèm theo lam phát tăng cao ảnh hưởng hiệu quả kinh doanh sản xuất công ty buộc công ty chi trả cổ tức bằng  Cổ phiếu thưởng, tỷ lệ 2:1 ngày 11/11/2008 làm Tổng cpt đang lưu hành tăng dẫn đến NAV giảm,công ty phải tăng khoản vay nợ ngắn hạn do dố khả năng thanh toán nợ ngắn hạn,khả năng thanh toán lai vay giảm

Năm 2009, Tập đoàn FPT đang nỗ lực tái cơ cấu hoạt động của các công ty thành viên và hệ thống nhân sự để nhằm xây dựng một FPT gắn kết, tăng trưởng và bền vững hơn ngoài ra tập đoàn tái cấu trúc tập đoàn bằng cách tập trung vào 2 mảng hoạt động chính quản trị doanh nghiệp và quản trị tài chinh doanh nghiệp ,ngành nghề hinh doanh chủ chốt của FPT là viễn thông,công nghiệp nội dung,dịch vụ công nghệ thông tin trong 06 tháng đầu năm tập đoàn FPT đã tiếp tục thu được kết quả kinh doanh rất khả quan trên các mảng kinh doanh chính của mình.FPT đạy kết quả vượt trội so với các công ty cùng ngành do đó công ty rất có triển vọng trong tuơng lai nâng cao uy tín doanh nghiệp.Với hinh thức chi trả cổ tức bằng tiền làm ổn định các nhà đàu tư làm giảm hệ số khả năng thanh toán nhanh, khả năng thanh toán nợ ngắn hạn,nhưng do công ty phát hành trái phiếu nên các hệ số nay tăng và khả năng thanh toán lãi vay giảm và NAV tăng là  26.00015232 do tổng số lượng cpt lưu hanh tăng it hơn so với tốc độ tăng của tài sản (hình thức chi trả cổ tức bằng cổ phiếu dến 30/06/2010 mới thực hiện).

Năm 2010:trả cổ tức bằng cổ phiếu năm 2009 với 03 cổ phiếu cũ được chia thêm 01 cổ phiếu mới trước ngày 30/06/2010. đã làm cho tổng số lượng cổ phiếu lưu hành tăng dẫn đến NAV giảm chỉ còn 23.75484595

III.            Kết luận

Danh sách của nhóm 2 môn QTCL :

1.Vũ ngọc Hải  01689948663  [email protected]

2.Phạm thị minh Huyền  0973212491  [email protected]

3.Lâm thị Huyền  01676555214  [email protected]

4.Ngô thị huyền  01663772301  [email protected]

5.Bùi thị thanh Hương  01649801579  [email protected]

6.Lê thị lan hương  01686099970  [email protected]

7.Vũ thị Hương  01649596063  [email protected]

8.Chu quỳnh Hoa  0983316707  [email protected]

9.Trần văn Hạnh  01649728084  [email protected]

PHIẾU PHÂN TÍCH CHIẾN LƯỢC DOANH NGHIỆP

Tên đầy đủ DN :

Tên viết tắt DN :

Trụ sở :

Ngày tháng năm thành lập :

Loại hình doanh nghiệp :

Tel :

Website:

1/Ngành nghề kinh doanh của DN (Theo giấy chứng nhận đăng kí số …) :

Xác định các hoạt động kinh doanh chiến lược (SBU) :

1-

2-

3-

Tầm nhìn, Sứ mạng kinh doanh của DN :

¨  Tầm nhìn chiến lược :

¨  Sứ mạng kinh doanh :

Một số chỉ tiêu tài chính cơ bản :

¨  Tổng doanh thu :

¨  Doanh thu thuần :

¨  Lợi nhuận trước thuế :

¨  Lợi nhuận sau thuế :

¨  Tổng tài sản :

¨  Tổng nguồn vốn :

¨  Tỷ suất sinh lời :

2/PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG BÊN NGOÀI :

(Các) Ngành  kinh doanh  của doanh nghiệp :

Tốc độ tăng trưởng năm 2004 :

Tốc độ tăng trưởng năm 2005 :

Tốc độ tăng trưởng năm 2006 :

Giai đoạn trong chu kỳ phát triển của ngành :

¨  Mới xuất hiện

¨  Tăng trưởng

¨  Trưởng thành / Bão hòa

¨  Suy thoái

Đánh giá tác động của môi trường vĩ mô : Nhận dạng các nhân tố môi trường có tác động mạnh nhất (Hiện nay và trong dài hạn) đến DN ?

Đánh giá cường độ cạnh tranh (Giải thích ngắn gọn các câu trả lời) :

v    Tồn tại các rào cản ra nhập ngành : Ví dụ :

v    Quyền lực thương lượng từ phía các nhà cung ứng :

v    Quyền lực thương lượng từ phía khách hàng :

v    Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành :

v    Đe dọa từ các sản phẩm thay thế : Ví dụ :

v    Đe dọa từ các ra nhập mới : Ví dụ :

Đánh giá :

¨  Cường độ cạnh tranh mạnh

¨  Cường độ cạnh tranh trung bình

¨  Cường độ cạnh tranh thấp

¨  Ngành hấp dẫn

¨  Ngành không hấp dẫn

Xác định các nhân tố thành công chủ yếu trong ngành (KFS) :

1-

2-

3-

3/PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG BÊN TRONG :

Sản phẩm chủ yếu :

Thị trường : 

Đánh giá các nguồn lực, năng lực dựa trên chuỗi giá trị của DN :

¨  Hoạt động cơ bản :

¨  Hoạt động bổ trợ :

Xác định các năng lực cạnh tranh  (Giải thích ngắn gọn các câu trả lời)

1-

2-

3-

Vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp (Giải thích ngắn gọn các câu trả lời)

¨  Mạnh

¨  Trung bình

¨  Yếu

Thiết lập mô thức TOWS (Định hướng chiến lược) : 

4/CHIẾN LƯỢC CỦA DOANH NGHIỆP :

Chiến lược cạnh tranh + Các chính sách triển khai (Giải thích ngắn gọn các câu trả lời) :

¨  Chiến lược dẫn đầu về chi phí

¨  Chiến lược khác biệt hóa

¨  Chiến lược tập trung

Chiến lược tăng trưởng + Các chính sách triển khai (Giải thích ngắn gọn các câu trả lời)

¨  Chiến lược chuyên môn hóa

¨  Chiến lược đa dạng hóa

¨  Chiến lược tích hợp

¨  Chiến lược cường độ

  Chiến lược liên minh, hợp tác, M&A,…

¨  Chiến lược khác

5/ĐÁNH GIÁ  TỔ CHỨC DOANH NGHIỆP :

Loại hình cấu trúc tổ chức (Giải thích ngắn gọn các câu trả lời) :

¨  Chức năng

¨  Bộ phận

¨  Ma trậ

¨  Khác

Phong cách lãnh đạo chiến lược (Giải thích ngắn gọn các câu trả lời) :

¨  Định hướng con người

¨  Định hướng nhiệm vụ

¨  Lãnh đạo nhóm

¨  Thờ ơ

Một số nhận xét về văn hóa doanh nghiêp :

 Nộp kèm với phiếu đánh giá chiến lược doanh nghiệp :

1) Biên bản họp nhóm + Phiếu đánh giá thành viên

2)Danh mục tài liệu tham khảo (Ttất cả các tài liệu cần thiết).

3) Photocopy 3 tài liệu quan trọng nhât 

PHẦN 1 : Chu quỳnh Hoa

PHẦN 2 : Phạm thị minh Huyền , Vũ ngọc Hải ,Bùi thị thanh Hương

PHẦN 3 : Trần văn Hạnh ,Lâm thị Huyền

PHẦN 4 : Lê thị thanh Hương , Vũ thị Hương

PHẦN 5 : Ngô thị huyền

Mọi người trong cùng 1 nhóm liên hệ với nhau để hoàn thành phần bài của nhóm mình,cố gắng tổng hợp luôn phần bài đó của nhóm gửi cho mình nhé.Hạn nộp bài là thứ 3 tuần sau 25/10.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro