End

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 61: Lập thu

Năm Phổ Khánh thứ ba, Lập thu.

Thi Vô Đoan mất tích hơn một tháng rốt cuộc hiện thân ở Hoài Châu, Cố Hoài Dương vui mừng quá đỗi, tự mình dẫn người ra nghênh đón.

Mạnh Trung Dũng càng khoa trương hơn, túm Thi Vô Đoan mà ra sức vỗ lưng hai cái như rèn sắt, suýt nữa đập nát bả vai y, lớn tiếng kêu lên: “Mở tiệc mở tiệc! Đại ca, tiểu lục về rồi, chúng ta nên mở tiệc thôi!”

Nhưng Thi Vô Đoan lại chỉ gặp mặt mọi người lấy lệ, lúc cười luôn có chút như là hơi xuất thần, khá có xu hướng ngoài cười trong không cười, chỉ từ chối nói mệt mỏi, bảo mọi người tan đi, sau khi an trí qua liền một mình đi vào trạm dịch thu nhận lưu dân ven đường, xắn tay áo xin một bát cháo loãng rồi ngồi xuống chậm rãi húp.

Y mặc áo vải khá cũ, môi khô nứt, hình dáng tiều tụy, trên người phảng phất có cảm giác gió bụi mệt mỏi, như đã đi một đoạn rất xa.

Thoạt nhìn chẳng khác gì những bình dân cả nhà chạy nạn bởi vì gia viên bị hủy kia. Nhưng mà khuôn mặt cực bình tĩnh lộ ra lại vẫn không giấu được sự tuấn tú, lẳng lặng ngồi đó, nhìn một phương hướng trong hư không, thản nhiên như là biết mình định trước đến nơi đến, lại phải đi nơi đi.

Mỗi người đi qua đều không nhịn được nhìn y một cái, nhưng mà mỗi một người nhìn y rồi chẳng biết vì sao lại không nhìn lần thứ hai nữa.

Trung thu chưa đến, hàng loạt thương đội vận lương đột nhiên rút khỏi vùng Tây Bắc, giống như có một bàn tay nhanh chóng lấy đi lương thực trên thị trường, giá gạo tăng cao, triều đình vẫn không phát bạc, Nhan Chân biết, đây là một lần trả thù mà hắn lợi dụng hình tích của thương đội để tính kế Cố Hoài Dương.

Là thời là vận là mệnh, Nhan thái phó chẳng qua bốn mươi mà tóc đã hoa râm, ban ngày thận trọng từng bước, dường như mọi thời điểm đều chắc chắn đến mức không giống người, ban đêm cô độc, lại thủy chung không biết mình làm thế này là đúng hay chăng.

Hắn không nhịn được nhớ tới cành cây nhỏ bị gió thổi gãy làm đôi trên đài thiên Cửu Lộc sơn kia, trong lòng thấy vô lực gấp bội.

Ma quân không thấy tăm hơi, ảnh ma hoành hành tứ xứ, căn bản chẳng ai ước thúc, mật ước giáo tông đã hủy, Huyền Tông thiệt hại nặng, Đại Thừa giáo tông thái độ mờ ám, trong triều Trâu Yến Lai Trương Chi Hiền đang nhìn hắn, cả triều văn võ đang nhìn hắn, Hoàng thượng đang nhìn hắn, bách tính Phổ Khánh đang nhìn hắn.

Trước mắt thoạt nhìn thì triều đình hơi cao hơn một bậc, nhưng Nhan Chân biết mình kỳ thật là cờ thua một chiêu, trong triều nuôi binh ngàn ngày, hiện tại lại cùng quân Khăn Đỏ “đám ô hợp” trong mắt hắn đánh đến khó phân ở Mân Giang, thật sự không phải chuyện gì vẻ vang, đây là thứ nhất.

Thứ hai, hắn biết Thi Vô Đoan mấy năm nay có hoạt động ở Hải Ninh, hắn vẫn rõ Thi Vô Đoan vươn tay rất dài, nhưng không ngờ y vươn dài như vậy, có thể ẩn ẩn chi phối thị trường lương thực Tây Bắc.

Thi Vô Đoan dường như có sự mẫn cảm kinh người với tiền bạc, người này giống như có thể tính được cả một lượng bạc, hút tiền như thế nào lại dùng tiền như thế nào, làm sao để được thứ y muốn mà không lãng phí một xu.

Nhan Chân vốn cho rằng Thi Vô Đoan chỉ âm thầm tổ chức một thương đội, không ngờ y dệt lưới trên cả đại lục, như một con nhệnâm thầm giăng tơ, kéo một cái có thể động toàn thân, mà nay triệt tra trong chợ lương, tấm lưới này loáng thoáng trình hiện trước mặt Nhan Chân.

Cho dù một ngày kia bản thân Thi Vô Đoan chết đi, mọi người cũng đều có thể đâu vào đấy. Nhan Chân không thể không bội phục, trên đời chẳng còn người thứ hai có thủ đoạn kín đáo như y, nếu hắn có Thi Vô Đoan, nếu triều đình có Thi Vô Đoan-

Mỗi khi nghĩ đến đây, Nhan Chân đều không nhịn được bóp cổ tay.

Lúc này nhà dột còn gặp mưa suốt đêm, một trận lũ lụt xô đổ hai bờ Mân Giang, vô số lưu dân cần an trí, Lý Như Sương thủ lĩnh phản quân nhân loạn đánh lén vựa lúa lớn Hồ Châu, Nhan Chân vô kế khả thi, đành hạ lệnh giới nghiêm tiệt đường, hướng về các lộ thương nhân chuẩn bị tích gạo nâng giá lấy “vay gạo” làm danh để ngầm cướp đoạt, tính toán không nói đạo lý.

Đại khái phía sau mỗi một kẻ vô sỉ, đều có cả hàng lệ chua xót tên là “bất đắc dĩ”.

Nhưng dù cho như thế, Nhan thái phó cuối cùng vẫn không thể tránh được trách phạt của Hoàng đế Phổ Khánh sớm không vừa mắt với hắn, Hoàng đế dường như đang khóc tang cho tiên hoàng, lưu loát viết một bài tự chiếu tội rưng rưng nước mắt, tự mình phản tỉnh một lần, sau đó dứt khoát bãi quan Nhan thái phó lần thứ hai – thật là thưởng phạt phân minh cực kỳ.

Lần này cùng chung xúi quẩy còn có Trương Chi Hiền xuất thân Huyền Tông, Đại tướng quân thật sự tương đối vô tội, ù ù cạc cạc bị gán cho một tội danh, gánh tiếng xấu thay Hoàng thượng, trong một đêm giáng liền ba cấp, bồi phái đi Tây Bắc đốc tra việc bình ổn thị trường – nói theo cách thông tục thì là đi cường thủ hào đoạt.

Hoàng đế Phổ Khánh đọc nhiều sách sử, lòng như gương sáng, biết trong triều này Hoàng đế chỉ là một con rối, chân chính nói chuyện có tác dụng vĩnh viễn là giáo tông thay phiên làm chủ, bởi vậy vào lúc sống còn dễ dàng để người ta đục nước béo cò này, Hoàng đế hiển nhiên không định chuyên môn chèn ép Mật Tông, để tránh cho Huyền Tông thừa cơ, vì thế vẫn giở thuật cân bằng, để hai bên tám lạng nửa cân.

Đủ thấy hết sức tinh thông thuật đế vương… minh bạch cướp ngoại tất an nội, vô luận là ai hãm thành đều phải thu hồi hoàng quyền du lịch bên ngoài sớm chẳng biết họ Trương hay họ Vương kia, cũng coi như không làm hồn thiêng của tiên đế thất vọng.

Về phần vị tiên hoàng anh minh thần võ đến mức cười chết bản thân kia có nhận hay không thì không rõ.

Nhưng chiến tranh còn đang tiếp tục.

Nhan Chân về vườn, Trương Chi Hiền xuống dưới, nhưng Trâu Yến Lai còn đang gánh chiến trường nam bắc Mân Giang.

Hoàng đế để tránh thiếu người, vào thời khắc mẫn cảm này đích thân gửi thiếp đến tam đại giáo tông, yêu cầu họ bổ sung máu mới cho triều đình – Hoàng đế Phổ Khánh cho rằng cách làm của mình rất hợp lý, đây mới là vị trí thích hợp của giáo tông, họ là thần tử, là bán mạng cho giang sơn này, một đám hỏng rồi, chết rồi thì thay đám mới, y tự mình quyết định, mà không phải do mấy loạn thần tặc tử của giáo tông khống chế giang sơn.

Đánh từ cuối thu đến mùa đông, ngay cả đêm đại niên, Trâu Yến Lai và Cố Hoài Dương cũng phải chạy đến một chỗ, tính toán nhân lễ tết đối phương thả lỏng cảnh giác, nửa đêm tập kích đốt lương thảo, ai ngờ đánh lén đụng phải đánh lén, ngược lại là nhân đêm hồ đồ chiến một trận.

Vài tiếng pháo lẻ loi vang lên, lại nhanh chóng chìm mất trong phế tích mười nhà trống chín, dường như để tỏ rõ đao binh tương kiến mùa xuân năm sau còn chưa thôi.

Hoài Châu Đông Nhạc vốn là nơi cá gạo phú thứ, lại liên tục gặp thủy hoạn binh hoạn, cơ hồ thành đất cằn sỏi đá.

Nhưng Thi Vô Đoan không ở đây, y lén lút dẫn một đội người đi Hồ Châu, định qua Hồ Châu chỉ thẳng về Tây Bắc, cùng Trương đại tướng quân truyền rằng xuất thân đồng môn đọ sức một phen, thứ đã đánh mất không thể mất uổng được.

Mà Bạch Ly bị y vây trong Ác Hỏa cảnh, nên trở về trong vòng mười tám ngày, lại thủy chung không thấy bóng dáng.

Không biết vì sao, Thi Vô Đoan luôn nhớ tới Bạch Ly, ba mươi sáu ngày ở chung tại nơi quỷ quái chim chẳng những ỉa mà còn cắn người, dường như so với một đời còn nhiều hơn và rõ nét hơn.

Y đột nhiên phát hiện, có người là không thể gặp.

Thí dụ như lãng tử rời nhà ra ngoài, vô luận cùng người ta liều mạng tranh đấu thế nào, tâm ngoan thủ hắc thế nào, một khi về đến nhà, có cha mẹ trong mắt, có vợ con trong miệng, sẽ sinh ra sự mệt mỏi vô cùng, bao nhiêu hùng tâm tráng chí, hào ngôn tráng ngữ trước kia đều không còn, sẽ quên mất sự hiểm ác của bản thân, chỉ nhớ sự hiểm ác bên ngoài, muốn trốn trong nhà cả đời không đi đâu nữa.

Thí dụ như trong kịch nói: nguyện đời này già đi giữa sự ôn nhu, chẳng thèm tiên cảnh mây vờn.

Đôi lúc Thi Vô Đoan sẽ nghĩ, hay là mình thật sự có lỗi với Bạch Ly.

Năm qua tháng lại, giữa hai người đã biến thành một khoản nợ rối, không nói rõ được ai đúng ai sai, tóm lại là lập trường bất đồng, chẳng ai bằng lòng thoái nhượng mà thôi, lại bởi vì Bạch Ly… lấy một hình thức gần như điên cuồng, gần như thấp kém tha thứ cho y, mà biến thành không còn ngang hàng nữa.

Trận pháp mình bày ra chẳng qua xếp đá rất tùy tiện, tối đa là một mánh khóe mô phỏng trận thật, có thể vây khốn Bạch Ly hai canh giờ đã không dễ, dù tệ hơn thì sau mười tám ngày y cũng nên ra rồi chứ, nhưng thời gian đã qua một quý, y lại đi đâu rồi?

Thi Vô Đoan ngồi trên xe ngựa, từ khe cửa nhìn phong cảnh tròng trành bên ngoài, trong lòng bỗng nhiên thầm nghĩ, sẽ không xảy ra chuyện gì bất trắc chứ? Y ra vào nơi quỷ quái đó chẳng biết bao nhiêu ngày, cũng chưa thấy xảy ra chuyện gì, chung quy không đến mức mình vừa đi là…

Y không đâu vào đâu mà cân nhắc một mạch như vậy, mãi đến lúc nghỉ trưa, Lan Nhược gọi vài tiếng, y mới phản ứng được.

Lan Nhược bưng trong tay một bát chẳng biết là thảo dược gì, thoạt nhìn khá khủng khiếp, bốc ra thứ mùi không thể tưởng tượng, thấp giọng nói: “Lục gia, thuốc đến rồi.”

Thi Vô Đoan “Ừm” một tiếng, vô ý thức tránh đi khuôn mặt Lan Nhược khiến y hơi quen mắt, nhận bát thuốc kia – đây đương nhiên không phải cho người mà là cho thỏ.

Con thỏ từ sau khi Thi Vô Đoan rời khỏi liền bắt đầu tuyệt thực, dường như lão thỏ hiểu thấu hồng trần ngồi thiền, làm thế nào cũng không chịu ăn, cho dù thỏ huynh trước kia có chút lòng rộng thể béo thì vẫn chẳng chịu nổi giày vò thời gian dài như vậy. Trên thực tế chờ Thi Vô Đoan trở về, phát hiện nó đã thoi thóp, chưa trực tiếp đi gặp tổ tông tám đời đã là kỳ tích rồi.

Song bộ lông thỏ trắng như tuyết kia đã rối thành một cục, kéo hơi mạnh một chút là rụng từng mảng, Thi Vô Đoan bệnh cấp chữa bừa, dọc đường kêu người tìm kiếm thú y tứ xứ. Nhưng mà súc vật nông gia nuôi, phần lớn chẳng qua là trâu bò gà chó, thật sự không có thú y nào giỏi về chữa bệnh cho thỏ, chỉ có thể chữa đại.

Một đại phu khám bệnh cho ngựa, một khám bệnh cho trâu bò, cùng một khám bệnh cho gà vịt tam đường hội thẩm, dường như nhiều người nhiều sức mà tìm ra một phương thuốc.

Kỳ thật Lan Nhược rất muốn khuyên nhủ lục gia, con thỏ này nuôi hơn mười năm rồi, sớm nên hết thọ mà yên nghỉ, nhưng nhìn dáng vẻ để bụng con thỏ còn hơn bản thân kia, lại không dám nói gì nữa.

Hạ Đoan Phương vừa vặn đẩy cửa tiến vào, nhìn lướt qua con thỏ bệnh trong lòng Thi Vô Đoan, lại đưa tay khẽ cọ cổ thúy bình điểu đứng trên cái xà bên cạnh, ho nhẹ một tiếng rồi nói: “Lục gia, mọi việc làm thỏa rồi, tin tức đã tản ra.”

“Ừm, đa tạ.” Thi Vô Đoan dường như cũng không lưu tâm lắm, thuận miệng đáp một tiếng, dưới ánh mắt của Hạ Đoan Phương và Lan Nhược cô nương hai người, vô cùng bình tĩnh dùng đầu ngón tay chấm một chút thảo dược đưa vào miệng mình.

Lan Nhược nói: “Lục gia, cái đó là…”

Hạ Đoan Phương lộ ra biểu cảm đau răng, giống như kẻ thử thuốc là bản thân hắn vậy.

Thi Vô Đoan nhai thử thảo dược người thấy thương tâm người nếm rơi lệ kia, cũng chẳng biết y đã nếm ra cái gì, cho ra kết luận gì, lúc này mới cẩn thận đút cho con thỏ. Con thỏ ban đầu không muốn nhận tình – chắc là mùi vị thảo dược thật sự quá tệ, Thi Vô Đoan liền chậm rãi dùng năm ngón tay vỗ về bộ lông trụi một mảng sau lưng nó, cực ôn nhu cực kiên nhẫn mà cho một con thỏ dùng thuốc như dỗ trẻ nhỏ.

Hạ Đoan Phương nhìn Lan Nhược một cái rồi nói: “Cô nương đi trước đi, ta muốn nói mấy câu với lục gia.”

Lan Nhược lập tức khôn khéo lui ra.

Hạ chưởng môn liền tự mình tìm một cái ghế, ngồi xuống không hề khách khí, nhìn khí sắc của con thỏ ngắc ngoải kia, nói: “Đây không phải thỏ bình thường.”

Thi Vô Đoan trầm lặng một hồi, lúc này mới chậm chạp uể oải mà nói: “Ta biết.”

Hạ Đoan Phương liền nói chuyện không nên nói: “Đã không phải thỏ bình thường, thì không thể trị liệu bằng phương pháp bình thường, không biết nó xảy ra vấn đề gì, chỉ là ta thấy mắt nó không có ánh sáng lại không đành lòng cãi lời ngươi, thiết nghĩ bản thân cũng biết đại nạn sắp đến.”

Thi Vô Đoan nghe vậy, im lặng ngẩng đầu nhìn hắn một cái, trên mặt không có biểu cảm gì, nhưng ánh mắt nặng nề, lại ẩn chút giận dữ như mưa tuyết kéo đến, song Hạ Đoan Phương không sợ y, chỉ nói: “Ta nói thẳng thắn với ngươi, không giả dối.”

Thi Vô Đoan nhìn hắn chằm chằm một hồi, lại cúi xuống vuốt ve đầu con thỏ.

Hạ Đoan Phương thở dài, không nhịn được nói: “Ngươi đối với những súc sinh này trái lại còn thân cận hơn con người.”

Thi Vô Đoan chẳng buồn ngẩng đầu nói: “Ngươi với tiền vuông chẳng phải cũng thân cận hơn con người?”

“Điều đó đâu có giống.” Hạ Đoan Phương bật cười, người khác đeo hà bao ngọc bội trên xiêm y, Hạ chưởng môn sáng tạo kêu người ta làm một đồng tiền to đeo lên, như thể chỉ sợ người khác không nghe thấy mùi tiền của mình, giây lát sau lại nói, “Điều đó đâu có giống, làm sao giống nhau được? Vàng bạc là vật chết, cầm trong tay thì nó là của ngươi, không giống vật sống.”

“Thân gặp loạn thế, người như bèo trôi, chấp nhất với người, chẳng phải định trước là mỗi ngày nơm nớp lo sợ sao?” Hạ Đoan Phương nhẹ giọng nói, sau đó nhìn Thi Vô Đoan một cái, làm như vô tình nói một câu, “Đúng rồi, ta nghe tin tức đạo hữu chỗ Đại tướng quân truyền đến, dường như những ma vật tán loạn tứ xứ bị nhốt trong Mân Giang đó gần đây bắt đầu cùng nhau dời về hướng đông.”

Chương 62: Thỏa hiệp

Tây Bắc đất rộng người thưa, lắm non ít nước, những địa phương nhân khẩu tụ cư trên thực tế chẳng được mấy.

Không giống khu vực Trung Nguyên, vẫn nói “mười dặm tám thôn”, một dòng sông là có thể nuôi sống mấy trăm khẩu, Tây Bắc trừ vài thành lớn, còn lại phần lớn là tiểu thôn rải rác trên núi, ở trên núi đường không thông, có đôi khi một thôn chỉ là dăm ba hộ trên một khoảng đất bằng phẳng cực hẹp ở sơn khẩu mà thôi.

Nơi này ra vào bất tiện, dân phong lại hết sức dũng mãnh, bất kể gây sự hay chém người đều cực kỳ có tài năng.

Nam nữ già trẻ, bất kể là đan sọt hay làm ruộng, mọi người xúm lại cùng nhau quyết định tạo phản, thế là đều buông việc trong tay, cầm những món đồ sắt có thể cầm – dao thái dao bổ củi, nồi niêu muôi chậu tính hết – đi ra ngoài làm một chuyến, một tốp nhân mã nhỏ, có đôi khi bị triều đình quét sạch, nhưng triều đình lại chẳng có biện pháp gì với họ, còn phải ôn hòa khuyên giải an ủi, cho chút tiền tài lương thực mới đuổi được.

Trên thực tế quan binh địa phương hiểu rõ, lão bách tính nơi này vốn ở vùng xa xôi, thiếu khai hóa, đối nhân xử thế khá giống gia súc, lại thêm mấy năm liền hạn hán, đói đến gào khóc, tự nhiên phải gây rối, xử lý thích đáng thì họ vẫn là thuận dân, nếu hơi không thỏa đáng, những phụ lão hương thân dăm ba hộ thành một thôn này, nhiều đời thông gia với thôn khác, ai chẳng biết ai và ai có chút quan hệ thân thích, biết người nào là cô dì chú bác của người nào?

Thật sự tử thương một người thì những người khác sẽ phải liều mạng, có thể nói là sóng cũ chưa yên lại dâng sóng mới – đây là giáo huấn hàm huyết lệ tổng kết ra từ vô số lần đấu trí đấu dũng của triều đình với nạn dân địa phương.

Vẫn nói “không tiếc bị giảo, dám lôi Hoàng đế xuống ngựa”, nhân dân Tây Bắc giữa chết đói và chết trận không hề sợ sệt lựa chọn cách sau, chính là đầu trọc không sợ nắm tóc, trong đói khổ lạnh lẽo cứ thế coi triều đình thành oan đại đầu, thường xuyên đảm nhiệm vai quỷ đòi nợ.

Đứng trước tình huống này, trong triều lục bộ cửu khanh hợp kế, Lễ bộ Thượng thư liền dâng thư, trích dẫn kinh điển, cho rằng đây là do “lễ nhạc suy sụp” gây nên, nếu muốn giải quyết tình huống này thì phải quảng khai thư viện học đường ở đây, truyền thụ đạo thánh nhân cho những hài đồng vô tri đó, nhằm hưng học phục lễ.

Tân đế Phổ Khánh cũng rất hay đọc sách, nghe xong cho rằng có đạo lý, liền theo lời quảng khai thư viện, làm hàng loạt từ đường ở Tây Bắc.

Hoàng đế thấy đọc sách tập võ chính là việc hết sức vinh diệu, sinh ra làm người chẳng lẽ không nên lấy giúp đỡ xã tắc, hưng bang báo quốc làm nhiệm vụ của mình sao?

Hiển nhiên, nhân dân Tây Bắc lúc này không cho là như vậy.

Họ cho là: mẹ kiếp lão tử cơm cũng không được ăn, đói đến ngã ngửa, còn đọc cái rắm.

Vì thế Lễ bộ Thượng thư hết cách, đành dâng thư lần nữa, sau đó liền quy định, một nhà nếu đưa một con trai vào thư viện thì có thể lĩnh thêm bốn lạng lương thực – một tay giao người một tay giao hàng.

Cứ như thế, thư viện trên thực tế thi hành được một thời gian, bởi vì khi đó Nhan Chân đưa ra chủ ý, điều động đại thương hộ dân gian từ các nơi, lấy khoản tài vụ lương thực vận chuyển đến Tây Bắc để gia quan tiến tước, coi như tạm giải quyết nguy cấp, nhất thời thế cục Tây Bắc tương đối ổn định, bấy giờ mới rút được binh lực đến Hoài Châu Đông Nhạc vây tiễu Cố Hoài Dương.

Vẫn nói có sữa là mẹ, chỉ cần có ăn có uống, kỳ thật cái gì cũng dễ nói.

Nhưng đột nhiên có người thao túng trị trường lương thực, rất nhiều lương thương bỗng nhiên bắt đầu liên hợp nâng giá – điều này khá dễ lý giải, thương nhân vốn trọng lợi, chỉ cần có người có tâm dẫn dắt, hiệp nghị này không khó đạt thành, dù sao thì triều đình cần đồ, đoạt được có quan để làm. Đồng thời, Hoàng thượng lấy nhân trị thiên hạ, ăn cơm trả tiền là nên thôi, kiếm thêm chút bạc lại có gì không tốt đâu?

Nhưng chó mà quýnh lên cũng phải nhảy qua tường, triều đình không chịu làm vụ mua bán lỗ vốn này, Trương Chi Hiền bị biếm quan lập hai mươi ba trạm kiểm soát trên tuyến Hoàng Hổ lĩnh Tây Bắc, làm việc mua bán “cho phép vào không cho phép ra”, “muốn qua đường này phải để lại tiền mãi lộ”.

Thi Vô Đoan cải trang dẫn một nhóm người lên phía bắc Hoàng Hổ lĩnh, ở lại Long Câu.

Mỗi ngày phân công người trốn trên Long Câu, Nhĩ Khố, Bí Dương các chợ, thương đội ban đầu bị vây ở nơi này có một số là người của họ, còn một bộ phận nhỏ là người có làm ăn lui tới, những người khác thì là bị quân đội triều đình cưỡng ép khống chế, Thi Vô Đoan bên này cho người vừa mua vừa bán, thực tế đều là tự mua tự bán.

Hết thảy âm thầm tiến hành, có đôi khi là tự mình ra mặt mua bán, có đôi khi sử chút thủ đoạn, thông qua tay người khác tẩu tán tiền lương.

Mùng một mười lăm họp chợ, mỗi khi gặp lúc này, liền có người đi quanh chợ như bách tính tầm thường, sau khi thông qua tập hợp, nghiệm chứng nhiều mặt, không toàn diện mà tính nhân số lai vãng, mỗi ngày mua bán bao nhiêu, giá lương thế nào vân vân, do Hạ Đoan Phương tham tiền chỉnh lý giao cho Thi Vô Đoan, kế đó y lại thống nhất điều phối.

Việc này tính ra dường như cực chậm, nhưng may mà họp chợ mỗi tháng chỉ có hai lần, Thi Vô Đoan có kế hoạch gì thì đều có thể tiến hành.

Trong một đêm, người bán lương mua lương trên chợ nhiều hẳn, thị trường lương thực ứ đọng đột nhiên lại sục sôi, nhưng nơi có thể mua được lương thực không biết vì sao mà ít hơn hẳn, giá cả dường như bị một bàn tay chậm rãi đẩy lên.

Lúc này, Thi Vô Đoan ru rú trong khách điếm, quả thực đại môn không ra nhị môn không bước.

Ban ngày y dốc lòng chăm sóc con thỏ, giống như con thỏ kia là cha mẹ y chứ chẳng phải một món đồ chơi. Trừ bàn công vụ thì không hay nói chuyện với người ta.

Lan Nhược chỉ cảm thấy, lục gia vốn nói một câu nghĩ mười câu, một ngày có mười câu thì ở bên ngoài phải nói mười một câu, sớm nói hết mất rồi, một khi trở về thì không thích để ý đến người ta lắm, vô luận là thân hữu hay hạ nhân, chỉ cần Thi Vô Đoan vào viện và phòng của mình rồi thì từ sáng đến tối cũng chẳng nghe thấy đôi câu vài lời.

Lại là bản thân nàng, không biết cớ làm sao, chắc là hợp mắt y, mỗi lần gặp gỡ còn có thể hàn huyên vài câu chuyện gẫu.

Chính bởi vì vậy, tứ nương đã hiểu lầm trêu ghẹo vô số lần, nhưng Lan Nhược biết bổn phận, nàng là một cô nương, cô nương đa phần hơi mẫn cảm, luôn cảm thấy… lúc lục gia nhìn nàng, ánh mắt giống như nhìn rất xa, nói chuyện với nàng mà dường như là đang nói với một người khác.

Ý nghĩ này chỉ thoáng qua, Lan Nhược biết bổn phận, nghĩ còn chẳng dám nên đương nhiên cũng không dám hỏi.

Mãi đến lần này lục gia trở về, nàng phát hiện dường như y cố ý tránh mình, mỗi lần đẩy cửa đưa đồ vào, y thậm chí chẳng ngẩng đầu lên, càng đừng nói đến trò chuyện, không mở miệng thì thôi, hễ mở miệng là “không còn việc gì, cô nương đi đi” nọ kia.

Điều này khiến cho trong lòng nàng ít nhiều vẫn có vài phần ủy khuất.

Con thỏ của Thi Vô Đoan ngày một kém hơn, giống như nửa người đã xuống mồ vậy, y ban đầu là bầu bạn mỗi ngày, sau đó biến thành ôm mỗi ngày, chỉ có lúc tắm rửa sợ nước bắn lên người nó mới bỏ qua bên một lúc, ngày ngày nghe Hạ Đoan Phương nói việc công, đâu vào đấy mà tính toán một loại rắc rối khó gỡ khác giữa những thương hộ đó, chỉ có thời điểm đêm khuya vắng vẻ cảm thấy trong lòng rất khó chịu.

Y từng dùng tinh bàn tính mệnh của mình, nhưng mà không tính được.

Lão nhân nói người còn sốnghai mắt bôi đen, chỉ nhìn rõ được trái phải mà không nhìn thấy trước sau bản thân, dù là có năng lực hơn thì cũng chẳng tính được tiền căn hậu quả, sinh lão bệnh tử của bản thân. Cho dù tính không ra, Thi Vô Đoan vẫn cảm thấy mình đại khái là hơi… khắc người khác.

Hết thảy những người tốt với y, từng thân cận với y, từng người đều đi mất, hoặc là tính tình đại biến, hoặc là sinh ly tử biệt.

Y từng âm thầm rất lo lắng, trước kia hết sức thân mật với mấy huynh đệ, thích nhất là dẫn tiểu nữ nhi của tam ca đi chơi, hiện giờ Lục Lộ đã lớn thành thiếu nữ đậu khấu thướt tha, nhưng y đã rất lâu rồi không gặp cô, nếu không phải chính sự thì ngay cả đại ca y cũng không hay tìm nữa.

Đến bây giờ, giống như ngay cả một con thỏ y cũng chẳng giữ được.

Con thỏ này có duyên với y như vậy, từ sau khi gặp gỡ trên Cửu Lộc sơn thì vẫn đi theo y, giữa chừng gặp biến cố vài lần, từng cùng nhau chạy nạn, cũng từng xa cách, rồi bao nhiêu năm sau thần xui quỷ khiến lại gặp nó, nhưng duyên phận lớn như vậy, hiện giờ chẳng phải cũng sắp tận rồi sao?

Mắt thấy… nó sẽ phải chết.

Thi Vô Đoan trước đây cảm thấy con thỏ này ngốc, nhất là từ sau khi xơi nhầm đóa hoa do máu Bạch Ly nở ra, liền biến thành ăn suốt ngày, giống như luôn không tỉnh ngủ, ai chọc cũng chẳng phản ứng, trước mắt lại phát hiện kỳ thật nó thông nhân tính.

Con thỏ trước kia béo như chó biến thành gầy trơ cả xương, nó lại bỗng nhiên tỉnh táo, Thi Vô Đoan ôm, nó liền ngoan ngoãn rúc trong lòng y, không nhúc nhích một chút, cho uống thuốc, dù rất không muốn, chỉ cần nhẹ nhàng vuốt lưng là nó sẽ ngoan ngoãn nhai thảo dược.

Sau khi nhai liền mở to đôi mắt như hạt đậu nhìn về hướng Thi Vô Đoan, dùng biểu cảm cố hữu… thoạt trông rất ngạc nhiên kia mà nhìn y, Thi Vô Đoan luôn cảm thấy nó đang muốn nói rõ chuyện gì đó, chỉ là mình không hiểu được mà thôi.

Còn cả Bạch Ly.

Hạ Đoan Phương mang đến tin tức, nói rất nhiều ảnh ma đang bỏ chạy về phương đông – qua Mân Giang khẩu đến vùng Đông Việt, hướng đông không phải là Đông Hải sao?

Chúng đến đó chung quy không thể là tắm rửa được. Là Bạch Ly đã ra đây, hiện giờ y dưỡng thương khỏi rồi, mấy thứ đó đương nhiên không thể động đến y mảy may, thu phục áp chế hẳn là không thành vấn đề, chỉ là…

Vì sao y thân là Ma quân mà không đi tìm Trâu Yến Lai?

Giá gạo ở Tây Bắc đã bất tri bất giác tăng cao không ít, Thi Vô Đoan đưa tay làm động tác vê, Hạ Đoan Phương lập tức hiểu ý, quay người đi – ngày hôm sau chính là mùng một, sẽ có người biết, một đại thương hộ tính toán thu mua hàng loạt lương thảo… Dùng để làm gì, không cần nói cũng biết.

Chỉ là lời đồn thì thôi, Trương Chi Hiền lại cực kỳ căng thẳng, đích thân dẫn người tuần tra, khiến cho chuyện năm phần như là thật đến chín phần.

Mà đầu sỏ gây nên sự tình sau khi Hạ Đoan Phương rời khỏi lại lẳng lặng ngồi một hồi trong phòng, rồi đột nhiên lấy một sợi tóc từ trong hà bao.

Tóc là của Bạch Ly, khi ở trong Ác Hỏa cảnh y đột nhiên té xỉu, nói mớ không ngừng mà ngã trong lòng Thi Vô Đoan, Thi Vô Đoan thừa cơ kiếm được.

Y chần chừ một chút, bày tinh bàn rồi giơ tóc Bạch Ly lên, tinh bàn lóe sáng u ám, mấy sợi tinh ti lập tức quấn ngón tay y mà bò lên cọng tóc kia.

Sao bắt đầu trượt với một quỹ đạo quỷ bí, Thi Vô Đoan một tay ôm con thỏ, chỉ ngồi đó, toàn bằng tính nhẩm.

Nhớ rất nhiều năm trước, Bạch Ly có hai mệnh tinh, một đã xuất hiện, vậy thì một ngôi khác…

Đúng lúc này, con thỏ ngoan ngoãn rúc trong lòng y đột nhiên giãy ra, bổ vào tinh bàn, chân trước và cổ lập tức bị tinh ti tham lam của bộ tinh bàn từng hút ác quỷ quấn lên.

Thi Vô Đoan quát: “Láo xược!”

Nơi đầu ngón tay lướt qua, những sợi tơ quấn lấy con thỏ kia liền rũ xuống như chết héo.

Con thỏ dường như hoảng sợ, toàn thân run rẩy, nằm trên tinh bàn mở to mắt nhìn Thi Vô Đoan.

Lúc này, Thi Vô Đoan đột nhiên nhớ tới lời rất lâu về trước đạo tổ từng nói với y: thiên cơ không thể tiết lộ, mệnh thuật không phải trò đùa, người biết được quá nhiều, là phải giảm thọ giảm phúc.

Y chợt giật mình, thầm nghĩ, chẳng lẽ mọi người bên cạnh từng người một không còn, hiện giờ ngay cả… nó cũng muốn rời mình mà đi, chính bởi vì mình không biết trời cao đất dày quá mức, muốn biết quá nhiều sao?

Trên khuôn mặt thường niên không nhìn ra biểu cảm gì của Thi Vô Đoan bỗng nhiên nhu hòa hẳn, hai tay bế con thỏ khỏi tinh bàn, phất tay áo làm loạn những ngôi sao lấp lánh, thấp giọng nói: “Thôi.”

Thân thể con thỏ ấm áp, ngón tay y dường như có thể chạm đến nội tạng và xương cốt của nó, cảm thấy trái tim nho nhỏ kia đang đập từng hồi. Thúy bình điểu từ trên xà bay xuống cọ mặt y. Thi Vô Đoan thầm nghĩ, trừ chúng nó ra, hiện giờ mình còn gì nữa đây?

Y xưa nay không tôn thiên kính địa, không tin quỷ thần, càng không sợ thuyết báo ứng, vào khoảnh khắc này lại yếu đuối mà thỏa hiệp một lần.

Chương 63: Ngọn đèn thứ nhất

Đám Thi Vô Đoan âm thầm nâng giá lương vốn là chuyện không khả thi.

Bởi vì vô luận là cướp hay tham ô từ nơi khác, trên thị trường lương thực Tây Bắc có một phần gạo lương không hề là lương thương tư nhân, mà là thuộc triều đình. Mệnh lệnh đầu tiên của Trương đại tướng quân sau khi nhậm chức chính là bảo quan viên các cấp khống chế nghiêm giá lương, nếu ai cả gan một mình nâng giá tích lương thì xử trảm theo luật.

Trương đại tướng quân một lòng vì dân, cho dù gánh ô danh “tướng quân cướp đường” thì vẫn tử thủ ở Hoàng Hổ lĩnh. Nhưng mà không phải mỗi người đều một lòng vì dân.

Thời Phổ Khánh, lương thực quan gia từ triều đình đến tay bách tính phải qua không ít người, tỷ như vận chuyển lương, gọi là tào quan, còn cần một chủ bộ của kho lương mỗi ngày kiểm tra bảo quản, thông thường là do quan địa phương nơi đó kiêm nhiệm, định giá thế nào, nắm giữ thế nào, đều có triều đình – cũng chính là Trương đại tướng quân thống nhất hạ lệnh, không được vi phạm.

Nhưng mà trên có lệnh, dưới… tự nhiên có thể không làm.

Tây Bắc tuy không phải miếng thịt béo nhưng đậu nành còn có thể ép ra vài giọt dầu nữa là. Biện pháp người chủ bộ lương thực quan gia dùng để đối phó Trương Chi Hiền cực kỳ đơn giản – trộn thêm vào lương thực, ngoài cùng không nhìn ra nhưng cầm một vốc thì thấy bên trong lại lẫn cát đá linh tinh, trộn bao nhiêu cũng cần chú ý, giá lương tư thương trên chợ nâng bao nhiêu, họ liền trộn bấy nhiêu, dù sao thì chẳng ai được lợi.

Việc này Trương Chi Hiền không hề biết, hắn vốn không phải người chuyên về nghề này, không có kinh nghiệm và tâm tư cẩn thận như vậy, đồng bào Trâu Yến Lai đang ở Hoài Châu cùng quân Khăn Đỏ cấu xé đến đỏ cả mắt, tiền bối Nhan đại nhân Bồ Tát bùn qua sông ngoài tầm tay với, thuộc hạ càng không ai nhắc nhở hắn – quan lại bao che cho nhau, mỗi người đều cầm phần lợi của mình, ai sẽđi đập bát cơm của ai đây?

Hạ Đoan Phương rải lời đồn, mướn xe ở các nơi trong thành, không ngừng phái người đi khắp nơi hỏi thăm lâm thời thuê kho lúa của các đại thương hộ… Tóm lại là nhảy trên lủi dưới, ngay cả chính hắn cũng suýt nữa tin là thật. Giống như phát ra cho các đại nhân béo núc, động một cái là toàn thân chảy mỡ một tín hiệu cực kỳ hấp dẫn – từ xưa ruồi bọ bay theo da, chỉ cần cái rắm này đánh vừa thối vừa vang thì chẳng lo lắng họ không cắn câu.

Đôi lúc hắn cũng đang suy nghĩ một việc, đồng thời tự thấy cực kỳ có đạo lý.

Tạo phản là một chuyện khó cỡ nào?

Gió nổi từ gốc bèo, chỉ có khi triều đại thay đổi, anh hùng mới không hỏi xuất xứ, những người này chẳng qua là hạng nông dân giết chó, trong triều lại có từng lứa đại nho đại tướng quân văn thành võ đức, mỗi người tài hoa nổi bật, phong lưu phóng khoáng, muốn bản lĩnh có bản lĩnh, muốn năng lực có năng lực.

Dựa vào cái gì để thắng được họ đây?

Ban đầu Hạ Đoan Phương cho rằng, là trong triều đập mục nát trên rễ, hắn cho là vương hầu tướng há có gan. Nhưng sau đó hắn đã biết Nhan Chân, biết Trâu Yến Lai, tự mình giao thủ với đông đảo tướng quân Phổ Khánh, thậm chí người trong giáo tông, mới phát hiện kỳ thật họ rất có gan. Dù là Thi Vô Đoan người mình, coi như là “xuất thân hiển hách” – đệ tử quan môn của tiền chưởng môn Huyền Tông, nếu đạo tổ không chết, mông Thi Vô Đoan ngồi trên hàng ghế nào thì còn phải chờ thương thảo.

Hiện tại Hạ Đoan Phương đã hiểu. Bởi vì trong lòng những người từng tạo phản đều có sự phẫn nộ, không phải sự phẫn nộ vung tay hô một câu, ngửa mặt lên trời thét dài, mà là năm này tháng nọ kìm nén trong xương máu, khiến mỗi người họ đều chìa một tay, ôm lấy thân thể đồng bạn, cùng nhau vào sinh ra tử.

Mà trong đối thủ, tuy rằng nhân tài xuất hiện lớp lớp, nhưng mỗi nhân tài đều đang phá đám người khác.

Đến tháng mười một, Thi Vô Đoan phái người cho Hạ Đoan Phương biết, sắp động thủ được rồi – gạch đã giơ lên cao, chỉ chờ hung tợn nện xuống.

Mười lăm tháng mười một, đám chủ bộ lương thực quan gia hoảng sợ phát hiện, những tư thương đó bán ra hàng loạt gạo lương như đã phát điên, lời đồn rộ lên thời gian trước không công tự phá, nhưng lời đồn phá rồi, giá lương cao chót vót bị việc trữ lương điên cuồng tạo thành lại không hề phá.

Giá lương đã lên đến đỉnh, Tây Bắc vốn lạnh sớm, lúc này càng vào sâu mùa đông, thương hộ dường như đoàn kết sẵn sàng, chiêu cáo xung quanh, lên án lương thực quan gia trộn cát đá, không thèm để ý sự sống chết của bách tính, tư thương liên hợp bán lương, muốn duy trì buổi chợ ba ngày để mọi người qua mùa đông.

Món nợ này là tính như thế – trước khi bọn Thi Vô Đoan ẩn vào, chỉ nhìn thị trường lương thực Long Câu, giá gạo là một lượng bốn đồng một thạch, sau khi họ tự mua tự bán kinh doanh hai tháng, tư lương biến thành hai lượng bạc một đồng một thạch, mà khi Hạ Đoan Phương giả vờ giả vịt cho người đi thuê kho chuẩn bị lương, bởi vì hàng loạt lương thương và quan gia chủ bộ tích gạo, giá cả trong một tháng lên thẳng một mạch đến bốn lượng một thạch, còn không mua được lương thực tốt nhất.

Mười lăm tháng mười một, Thi Vô Đoan lệnh người phá chợ, vừa khai trương đã giảm giá gạo xuống hai lượng hai đồng, bách tính chạy đi cho biết, đêm đó giá gạo đã về đến hai lượng tám đồng, ngày hôm sau chủ bộ lương thực quan gia phản ứng lại, biết đại sự không ổn, nhưng chẳng có biện pháp nào.

Lương thực ra vào bao nhiêu đều phải báo cho Trương Chi Hiền xin phê chuẩn, họ có thể giở trò tích gạo nâng giá một cách táo tợn, nhưng không thể ép giá chịu thiệt theo tư thương.

Bằng không chẳng cách nào ăn nói được!

Khi họ ra roi thúc ngựa tụ tập chủ bộ các nơi cùng thương thảo xem làm sao đem chuyện này vo tròn trình tin tức cho Trương Chi Hiền ở Hoàng Hổ lĩnh, ngày thứ hai kể từ lúc khai trương, lương thực đã trở nên hỗn loạn, khai trương giá gạo hai lượng ba đồng, kẻ mua lương lại đều như là không cần tiền, tới ngày thứ ba lương trên tay Thi Vô Đoan vốn có một phần được đám chủ bộ ngu ngốc tích lương chờ người khác mua giá cao gom đi, còn lại thì đã ra tay hết, cho đến lúc này, giá lương về tới một lượng chín đồng.

Thi Vô Đoan giống như một con chim ưng lượn vòng trên không, chuẩn bị lao xuống cắp con mồi bất cứ lúc nào, chỉ cần hạ miệng thì nhất định kéo theo một tảng thịt kèm máu.

Tiền này cơ hồ là tay không bắt sói trắng, Thi Vô Đoan biết lúc này không thể giấu được, Trương Chi Hiền ở Hoàng Hổ lĩnh trong ba ngày tất có động tĩnh, vì thế nhanh chóng qua tay tản tiền ra, ngoài thành Long Câu bốn mươi dặm chính là núi non liên miên, bắt đầu từ ngày Thi Vô Đoan cải trang qua Hoàng Hổ lĩnh, đã một mặt tính kế tiền lương, một mặt cấu kết đại sơn phỉ nơi đây.

Gọi là sơn phỉ cũng không hẳn vậy, không ít người vốn chẳng qua là nông dân thợ săn bình thường, trong loạn thế để sống tạm, không thể không liên tục chiếm núi làm vương, lần này bị cái bánh từ trên trời rơi xuống đập chắc nịch, cơ hồ quên mất mình họ gì, lập tức âm thầm đạt thành hiệp nghị với Thi Vô Đoan, tự đeo khăn đỏ, muốn cùng Hoài Châu hô ứng từ xa.

Đương nhiên – Thi Vô Đoan sẽ không tin tưởng.

Bất cứ ai có tiền có người, đều sẽ bị dã tâm đốt đến quên mình họ gì, quyết không còn nhớ “ân nhân” từng ngu ngốc đẩy mình một phen kia là mấy mũi mấy mắt.

Y chỉ là vì đốt một mồi lửa sau lưng Trương Chi Hiền – chờ đám ô hợp này tiêu sạch tiền rồi thì ngọn lửa cũng có thể hết thọ yên nghỉ, công thành lui thân.

Việc này y làm đâu vào đấy, phần cuối cùng cơ hồ là dao sắc chặt đay rối, ngày hôm sau liền dẫn người thần không biết quỷ không hay rút khỏi Long Câu, hóa chẵn thành lẻ, chui khỏi kẽ ngón tay Trương Chi Hiền.

Hôm ấy Lan Nhược nhìn thấy Thi Vô Đoan lấy ra một tấm địa đồ vô cùng đặc biệt, bên trên có người dùng bút vạch một nét mảnh mạng lưới không nhìn ra là hình dạng gì, có bảy điểm, lúc nàng đưa thuốc cho con thỏ, phát hiện Thi Vô Đoan vẽ một vòng trên một điểm trong đó.

Thi Vô Đoan cũng chẳng sợ nàng nhìn, buồn rầu mấy tháng, rốt cuộc hiếm được cười rạng rỡ với nàng, thậm chí nói thêm một câu: “Đây là ngọn đèn thứ nhất, đã đốt rồi.”

Lan Nhược không rõ nguyên cớ, cũng không dám hỏi lại, chỉ lăng lăng nghĩ thầm, lục gia cười thật là đẹp mà.

Nhưng Thi Vô Đoan nhìn quét nàng một cái, nụ cười trên mặt dần mất đi, xua tay nói: “Ngày mai ngươi đi theo Hạ đốc tra là được, không cần quản ta nữa.”

Lan Nhược kinh hãi, thất thanh nói: “Lục gia không đi chung với mọi người?”

Thi Vô Đoan nói: “Không, ngươi không cần lo lắng, ta sẽ tự dẫn năm ba người đến một nơi, trở về đại gia hay tứ nương hỏi thì cũng không hề gì, Hạ đốc tra tự nhiên biết nên nói thế nào.”

Lan Nhược ngẩn ra hồi lâu, rốt cuộc đánh bạo nói: “Nếu… Nếu nô tỳ đi rồi thì ai hầu hạ lục gia đây?”

Thi Vô Đoan nghiêng đầu, dường như muốn cười với nàng, nụ cười thoạt nhìn lại không chân thành lắm, y ôm con thỏ trầm mặc giây lát rồi mới nói: “Ta đâu phải người tinh tế gì, lăn lộn quen rồi, những năm qua không có ai hầu hạ, sống đến bây giờ cũng rất tốt, ngươi… ngươi là một cô nương tốt, trở về đi theo tứ nương, tỷ ấy sẽ tự an bài cho một tiền đồ tốt.”

Lan Nhược vội nói: “Là nô tỳ đã làm chuyện gì không vừa mắt lục gia, khiến lục gia ghét bỏ sao?”

Lúc nói lời này vành mắt nàng đỏ hoe, khóe mắt hơi xếch lên có vẻ càng thêm diễm lệ, Thi Vô Đoan như bị màu đỏ nọ làm bỏng mắt một chút, vô ý thức cúi đầu, bắt gặp ánh mắt không nói rõ được của con thỏ gần đất xa trời kia.

Rất lâu sau y khoát tay, lại không giải thích thêm, chỉ nói: “Ngươi là cô nương tốt, đi đi.”

Sau đó một tay bưng bát trà, ánh mắt dừng ở công văn sổ sách trên bàn, lại là ý tứ tiễn khách, không để ý tới nàng nữa.

Lan Nhược mắt ngấn lệ, quay đầu bưng mặt nhanh chóng chạy ra ngoài.

Sáng sớm hôm sau, Thi Vô Đoan và mọi người mỗi người đi một ngả, dẫn mấy thị vệ lên đường, y không hề đi hướng nam, mà là hướng đông, ngông nghênh cùng Trương Chi Hiền sượt vai nhau, qua Trường Bình quan và thảo nguyên Ô Đồ, đến Bồ Đề sơn nơi cực bắc, đứng dưới chân núi tuyết đọng quanh năm.

Bồ Đề sơn – chính là nơi Đại Thừa giáo tông sở tại.

Dù cho không ít thảo dược, con thỏ trong lòng y lại ngày một kém hơn, khá có xu thế như mặt trời sắp lặn, Thi Vô Đoan đứng giữa bãi cỏ rậm rạp dưới Bồ Đề sơn, dõi mắt trông về phía xa, lại phát hiện chẳng nhìn thấy gì hết, trừ tuyết vẫn là tuyết, trừ núi vẫn là núi, chỉ có khi ánh dương chiếu trên tuyết mới có một chút thần thánh bất cận nhân tình như vậy.

Y thở dài, đặt con thỏ xuống đất, định để đám cỏ khô cao không quá mắt cá chân đó đánh thức nó.

Nhưng nó không hề nhúc nhích, mặt hướng về phương đông, chẳng ai biết nó đang nhìn những gì.

Chẳng ai biết, có lẽ có một người toàn thân trắng như tuyết, đang đứng trên đảo nhỏ ở Đông Hải nơi cực đông, dường như cảm giác được điều gì đó, xuyên qua đại hải mênh mang, dõi về phương hướng tây bắc, nghe thấy tiếng tim mình đập.

Chương 64: Ngọn đèn thứ hai (1)

Đại Bồ Đề tuyết sơn về hướng đông chưa đến mười dặm có một lán trà nhỏ hết sức đơn sơ, tứ phía gió lùa, trên nóc nhà cũng chỉ che một cái chăn chiên chẳng biết đan bằng lông súc vật gì, khách ngồi bên trong thông qua khe hở có thể trông thấy không trung xanh thẳm.

Mỗi năm vào khoảng thời gian cuối xuân đến đầu thu, thời điểm Bồ Đề sơn chưa giá rét đến không hợp lẽ như vậy, sẽ có rất nhiều người hoặc cầu học hoặc tồn nghi từ các nơi đến đây, Đại Thừa giáo tông sẽ mở giảng đường giữa sườn núi, nếu có duyên thì còn có thể tán gẫu đôi câu với các đại sư đức cao vọng trọng trong giáo tông.

Mùa này lại khá quạnh quẽ, lán trà buôn bán cũng không tốt lắm, ông chủ vừa uể oải lau bàn vừa nhìn lũ trâu gặm mầm cỏ còn sót lại trong tuyết địa ngoài cửa, xa xa truyền đến tiếng ca như ẩn như hiện, lanh lảnh vang xa, là tiếng mục dân nam nữ tuổi trẻ cách núi hát đối.

Một nam nhân tuổi trẻ ngay lúc này lại xốc mành cửa tiến vào, trong lòng ôm một cái bao vải, từ khe hở của bao lộ ra một dúm lông trắng, có thể nhìn ra được là động vật nhỏ nào đó.

Nam nhân đi vào, đầu cũng không ngẩng lên, chẳng hề nhìn người, chỉ tìm một nơi gần góc ngồi xuống, thấp giọng phân phó: “Một bình trà nóng, tùy tiện thêm chút bánh ngọt nữa.”

Chủ quán nhanh chóng bưng lên thứ y muốn rồi lui sang bên tiếp tục công việc lau bàn, nhưng mà hắn luôn không nhịn được lén đánh giá nam nhân kỳ quái này.

Vào lán trà uống trà trừ mục dân địa phương thì là người cầu đạo gió bụi mệt nhoài, đường xa mà đến. Trong đó có thể có một số người khí chất xuất chúng, nhưng hắn chưa từng thấy nam nhân rõ ràng đi trước mắt người ta mà thân vẫn đang ở nơi khác như vậy.

Chủ quán nghĩ thầm trong bụng, không phải là để mình gặp được thần tiên chứ?

Lúc này, nam nhân mở bao vải, ôm từ bên trong ra một con thỏ, lông trên người nó đã rụng lởm chởm chỗ có chỗ không, thoạt nhìn có thể dọa người ta giật thót. Nam nhân lại không hiềm chút nào, đưa tay đặt lên đầu nó, con thỏ dường như đã không mở mắt ra được, cố sức ngẩng đầu lên, dùng cổ đỡ cái đầu run rẩy, dịch một chút, dùng cái tai mềm nhũn cọ cổ tay y.

Nam nhân giống như cúi đầu cười một thoáng, nụ cười ấy lại tựa như dùng que vẽ trên cát, gió thổi qua là không còn. Đầu con thỏ chầm chậm gục xuống, giống như không kham được gánh nặng nữa.

Nam nhân trơ mắt nhìn nó chậm rãi nhắm mắt, thân thể vẫn run khe khẽ dần dần an tĩnh, tay y đỡ ngực bụng con thỏ, cảm thấy nơi đó càng lúc càng yên lặng, càng lúc càng trầm tịch.

Rốt cuộc, con thỏ giống như dùng hết toàn lực mà vươn một chân trước, đáp lên tay nam nhân, sau đó như là thở hắt một hơi, đột nhiên bất động, vẻ sáng bóng trong đôi mắt màu đen chầm chậm biến mất.

Ngón tay nam nhân chậm rãi vuốt lông thỏ dừng lại, cả người y giống như lặng lại đó, có nháy mắt như vậy, chủ quán cảm thấy y dường như đã ngưng hẳn hô hấp, biến thành một tảng đá không hề nhúc nhích.

Vì thế chủ quán không nhịn được nói: “Công tử, chim bay thú chạy đều có thọ số, ngươi đừng quá để ý, sinh lão bệnh tử, người còn như thế, huống chi là nó.”

Nam nhân cúi xuống, giống như những chân dung thần linh thần bí mà an tường trong Đại Thừa giáo, tuấn tú đến mức phảng phất mất nhân khí, dường như y chỉ có một cái xác đi ở nhân gian, chỉ có một chút hồn phách như vậy xuyên thấu qua ánh mắt y, dùng tư thái tịch mịch tuyệt đỉnh, nhìn thế gian bách thái mênh mênh mang mang.

Một lúc lâu sau nam nhân mới thấp giọng nói: “Sinh lão bệnh tử…”

“Không phải sao.” Chủ quán nói tiếp, “Con người không phải cỏ cây, ai có thể vô tình đây, nuôi một số chó mèo, gà vịt cá thỏ, thời gian dài đều sẽ có tình cảm, đều sẽ không nỡ bỏ, nhưng có biện pháp nào đâu? Mấy thứ này luôn phải chết, ngươi còn trẻ, phải nghĩ thoáng.”

Nam nhân ngây ra giây lát, bỗng nhiên ngẩng đầu lên, nghiêm túc nhìn ông chủ một cái mà hỏi: “Sao có thể nghĩ thoáng đây?”

Ông chủ nhe hàm răng vàng, giống như bị hỏi đến á khẩu.

Sao có thể nghĩ thoáng đây? Những việc này chẳng qua là ngoài cuộc tỉnh táo thôi, người hãm bên trong làm sao nghĩ thoáng được đây?

Đúng lúc này chỉ nghe một người nói: “Chỉ cần ngươi ngẩng đầu nhìn trời, cúi đầu nhìn nước, đến phía trước nhìn một chút, thấy ngọn núi lớn kia, là biết nghĩ thoáng như thế nào.”

Rèm cửa lán trà một lần nữa bị vén từ bên ngoài, một lão nhân đầu chít khăn đi đến, trên trán ông ta có một dấu vết dính bụi đất như là dập đầu mà ra, mặc áo choàng cũ nát, chỉ một tay áo đã vá ba bốn chỗ, vá chồng lên nhau khiến tấm áo bào vốn màu sắc khá sẫm có vẻ túc mục trang trọng kia biến thành hơi lòe loẹt.

Mắt ông ta lại cực sáng, diện mạo đặc biệt dễ thân, bỗng dưng giống như là mang theo ba phần nét cười.

Ôn ta ăn mặc hệt như một lão khất cái, biểu cảm lại giống đại thần quan.

Chủ quán vừa thấy người này liền run tay, sợ tới mức suýt nữa đánh rơi khăn lau trong tay, trợn mắt há mồm thầm nghĩ, ôi mẹ ơi!

Hắn từng cùng một thân thích xa lên Bồ Đề sơn, ở đó bàng thính đại sư giảng kinh một hồi, may mắn từng thấy mặt lão nhân này một lần, tuy không biết ông ta danh hào là gì, lại biết ông ta là một trong những đại sư trí tuệ đỉnh cấp nhất Đại Thừa giáo tông. Lập tức ngay cả nam nhân như thần tiên kia cũng chẳng chú ý được nữa, vội vàng ra cửa đón, hai tay duỗi bằng, lòng bàn tay hướng lên, khom lưng rất sâu, thành kính nói: “Đại sư.”

Lão nhân khoát tay cười nói: “Tiểu lão nhân chỉ là mặt dày vào xin một bát nước ấm, không cần đa lễ, không cần đa lễ.”

Chủ quán hưng phấn xoa tay, đại sư lại đến uống nước chỗ lán trà của hắn, đây không phải là vinh hạnh lớn lao sao? Bát trà kia phải dính tiên khí, tương lai không thể không cúng, liền luôn miệng đáp lời mà chạy xuống.

Trong lán trà có vô số bàn ghế, lão nhân lại lập tức đi tới ngồi xuống trước mặt nam nhân ôm con thỏ chết kia, ánh mắt dừng trên thi thể con thỏ, trong mắt dường như hàm chứa sự từ bi lớn lao, thấp giọng thở than: “Công tử nhìn không thoáng, là bởi vì không nhìn, nghĩ không thoáng, là bởi vì không nghĩ, đã như vậy, hà tất chấp mê bất ngộ kia chứ?”

Nam nhân này chính là Thi Vô Đoan một mình đến Đại Bồ Đề sơn, y vừa nãy chuyên chú nhìn chằm chằm con thỏ, trong đôi mắt đen sẫm giống như có một vũng nước cạn, mà hiện giờ lớp nước này đã đóng thành băng.

Thi Vô Đoan chẳng nhìn lão nhân này một cái, đã cười khẩy nói: “Ta đương nhiên không nghĩ thoáng bằng đại sư, đại sư nhân vật ra sao, biết rõ chúng ta mai phục, còn thống khoái triệt khỏi Đại Châu sơn, bán đứng Huyền Tông và Mật Tông.”

Lão nhân cúi đầu, không hề đối chọi gay gắt với y, ngón tay nhem nhuốc chậm rãi vuốt qua kinh văn trên chiếc chày hàng ma trong tay, như là thầm đọc từng lần.

Thi Vô Đoan vẫn không buông tha, tiếp tục nói: “Ai có thể nghĩ đến kẻ phá mật ước ngàn năm không phải Huyền Tông dối trá thành tính, không phải Mật Tông dã tâm bừng bừng, ngược lại là Đại Thừa giáo tông miệng đầy nhân nghĩa đạo đức, ân huệ thương sinh đây? Kẻ học sau quả thật giật thót, đại sư nói xem?”

“Người của Đại Thừa ta, kính thiên úy địa, kính sơn xuyên hà lưu, kính phi cầm tẩu thú, kính mỗi một sinh linh khổ hải. Mật ước với ta có thêm gì? Công danh lại thêm gì cho ta? Người ngoài vòng giáo hóa mới có thể phổ thế cứu người, tiên sinh đã có diệu kế, đoạn mật ước, chúng ta lại có đạo lý gì mà chấp nhất?” Lão nhân không kinh không giận, chỉ chậm rãi nhướng mí mắt già nua, nhìn hướng xác thỏ trong tay Thi Vô Đoan, bỗng nhiên nhìn bên cạnh mà nói với y, “Nghèo tất sinh biến, vạn vật sinh trong biến thông, chết vào cố định, dù là dòng nước cũng biết không vây trong đầm đơn, hồng trần si nhân các ngươi, hà tất không bỏ xuống được như thế?”

Thi Vô Đoan cảm thấy ông ta đang đánh rắm, khịt mũi khinh bỉ cực kỳ.

Nhưng mà đúng lúc này, đột nhiên một làn khói mờ mờ bay ra từ trên người con thỏ, vừa vặn chủ quán bưng trà nóng đi ra nhìn thấy, lập tức sợ quá kêu “A” một tiếng, Thi Vô Đoan liếc thấy, vung tay áo, chủ quán nọ liền im hơi lặng tiếng ngã xuống, cũng chẳng biết làm thế nào, lão nhân lại đón được ấm trà trong tay hắn.

Khói trắng kia lại chậm rãi ngưng tụ thành một hình người, Thi Vô Đoan càng lúc càng kinh sợ không thôi, sau đó y đứng bật dậy, đụng cái bàn bày đầy chén vang lách cách, chẳng biết qua bao lâuy mới gọi khe khẽ một tiếng: “Tiểu Ly Tử…”

Bóng người do khói trắng ngưng tụ thành phảng phất hơi hư ảo, khẽ chập chờn giữa không trung, lẳng lặng nhìn Thi Vô Đoan, ánh mắt ấy ôn nhu cực kỳ, lại có phần không giống Bạch Ly.

Y phảng phất có thiên ngôn vạn ngữ, lại dường như không thể nói gì, chỉ mấp máy môi khe khẽ, người khác không nghe thấy tiếng.

Lão nhân cúi mắt thở dài, ngón tay cạo chày hàng ma từng vòng.

Cái bóng của Bạch Ly càng lúc càng mờ nhạt, chỉ giây lát mà khuôn mặt y đã không thấy rõ, y khẽ khàng giơ tay giống như muốn sờ mặt Thi Vô Đoan, tay lại hóa thành một làn sương mù, mới chạm đến thân thể người nọ, liền nhẹ nhàng tiêu tan.

Y hơi nhướng mày, nét mặt thoáng ưu thương, sau đó tiến lên một chút, vươn đến trước mặt Thi Vô Đoan, toàn thân hóa thành một làn khói trắng mơ hồ, dường như đang ôm người nọ.

Sau đó khói trắng biến thành một luồng mỏng manh mà bay lên không, quanh quẩn hai vòng trên đỉnh đầu Thi Vô Đoan rồi lưu luyến bay ra cửa.

Thi Vô Đoan đứng tại chỗ, nhíu mày gắt gao, mắt lại mở to, không cầm được lòng vươn một tay, giống như muốn níu kéo hồn phách không thể giữ được kia.

Lão nhân nhẹ giọng nói: “Bụi về bụi, đất về đất, đây là y quay về nơi y nên về.”

Thi Vô Đoan trầm mặc cúi đầu nhìn ông ta.

Lão nhân nói: “Nếu công tử bằng lòng thì cùng ta đi bái sơn đi, coi như kết thiện duyên.”

Nói rồi uống cạn nước trong ấm, đưa tay mời. Thi Vô Đoan giương mắt nhìn thẳng vào ông ta hồi lâu, lấy từ trong lòng ra mấy đồng tiền đặt trên bàn, chẳng chút khách khí sải chân đi ra ngoài trước một bước.

Chương 65: Ngọn đèn thứ hai (2)

Thi Vô Đoan theo không xa không gần lão nhân lai lịch bất minh này, bản thân y chưa từng chân chính tiếp xúc với Đại Thừa giáo tông, hết thảy lui tới lén lút đều là do đám Hạ Đoan Phương xử lý, y đoán người này không phải một trong tam đại trưởng lão Đại Thừa giáo tông, mà chính là đại giáo tông chủ, Chấp Diệp đại sư.

Trong đầu y nhanh chóng lướt qua đủ mọi chuyện, ôm trên tay lại chỉ có thi thể một con thỏ, cảm thấy nó dường như… càng lúc càng nặng.

Lão nhân không hề nói nhiều, sau khi lên đường thì dường như chẳng quan tâm đến y nữa, dọc đường dập đầu quỳ lạy, đúng như lời bản thân ông ta nói, kính sơn kính thủy kính thần linh, gặp sơn bái sơn, gặp thủy bái thủy, dù gặp phải mấy tảng đá to lởm chởm đột nhiên nhô lên cũng phải quy củ mà quỳ xuống, bày đá nhỏ dưới chân thành hình tam giác, sau đó đầu rạp xuống đất.

Dọc đường ba quỳ chín khấu, lại là bái sơn xuyên thảo mộc, mà không phải đế vương nhân gian.

Dọc đường bởi vậy đi cực chậm, lão nhân không sợ Thi Vô Đoan bỏ mặc bản thân, Thi Vô Đoan lại giống như chính mình cũng chẳng biết mình đang làm gì, thấy lão đầu tử kia dừng chân, trong lòng thầm mắng một tiếng lắm chuyện, nhưng luôn chờ bên cạnh chứ chưa từng tự mình đi trước.

Lúc chờ đợi, có khi y nhìn chằm chằm bóng lưng lão nhân đang quỳ lạy, có khi nhìn mũi chân mình, cũng chẳng biết đang nghĩ những gì.

Đi không biết bao nhiêu dặm đường, thấy lão nhân gia chẳng rõ đã dập đầu bao lần – hiện tại, Thi Vô Đoan nhìn chung hiểu được vì sao tấm áo bào trên người lão nhân này vui mắt như vậy – rốt cuộc đã đến dưới một gốc đại thụ.

Gốc cây này xem chừng phải trăm ngàn tuổi rồi, không nhìn ra là giống gì, cành lá um tùm, giữa trời đông giá rét lá cây vẫn tươi tốt đến kinh người, trong tuyết trắng mịt mù có vẻ hết sức gai mắt, nó đứng một mình ở nơi này bằng tư thái di thế độc lập, dường như giữa đất trời chỉ có một cây vậy.

Lão nhân sau khi thành kính dập đầu bái lạy, lúc này mới nói với Thi Vô Đoan: “Đây là cây đại bồ đề, truyền thuyết là giống ngoài cửu thiên, chư thần tưới linh chi ngọc dịch, đủ ba nghìn ba trăm năm nhô khỏi mặt đất, ba nghìn ba trăm năm nảy mầm, ba nghìn ba trăm năm trổ cành, thêm ba nghìn ba trăm năm cành lá xanh um, một chiếc lá có thể thông thiên.”

Ông ta dùng hai tay nâng một chiếc lá từ trên cây rơi xuống, cuộn tròn lại mà đến gần bên tai Thi Vô Đoan, nói: “Cuốn làm ống, có thể nghe tiên âm.”

Thi Vô Đoan mặt không biểu cảm nhìn ông ta một lúc, lại thật sự lắng tai nghe một hồi, giây lát mới nói: “Ta chẳng nghe thấy gì hết.”

Lão nhân thở dài nói: “Không sai, sinh trong trần thế tam gian, có thể không kính quỷ thần, trí thân dưới cây đại tiên, có thể không nghe tiên âm, trừ chủ nhân của quỷ bàn thì còn ai đây?”

Thi Vô Đoan hơi ngước lên nhìn ông ta, chỉ thấy lão nhân khom người thả chiếc lá về với đất, nói: “Tinh bàn chính là linh vật đệ nhất đẳng trên thế gian, có thể nhìn trộm thiên cơ, diễn thấu nhân mệnh, hai mươi năm trước, có một bộ bàn đại hung vừa xuất thế đã có thể phệ hồn phách lệ quỷ giáng xuống, trong “Đại Thừa khải thị lục” thánh điển của giáo ta năm nghìn năm trước đã có ghi lại tên là quỷ bàn, lúc này xuất hiện, hiển nhiên mạt thế đã đến.”

“A.” Thi Vô Đoan nghe vậy gật đầu, sau đó dùng giọng điệu chậm rì rì quen thuộc kia mà nói, “Chẳng trách, hóa ra quý giáo sớm có dự ngôn, thảo nào Đại Thừa giáo tông thức thời như thế, không chút do dự chỉ lo thân mình, tránh thoát cuộc vây tiễu Đại Châu sơn, kẻ học sau bội phục.”

Lão nhân nhìn y một cái mà thở than: “Trong lòng có khổ, ngươi không cần thiết nhất định lấy ác nghiệp báo người, nếu ngươi không thể bình tâm tĩnh khí, sao có thể phân rõ thị phi đúng sai?”

Thi Vô Đoan cười nhạo: “Kẻ thuận ta là thị, nghịch ta là phi, điều này có gì mà khó phân biệt?”

Lão nhân nói: “Lời này của ngươi lại có gì khác biệt với cửu u ma vật đâu?”

Thi Vô Đoan thản nhiên nói: “Vốn chẳng có gì khác biệt.”

Lão nhân lắc đầu, lại không dây dưa trên ngôn ngữ với y nữa, kiễng chân cố sức kéo một cành bồ đề nhỏ xuống – nhánh cây nọ thoạt nhìn vút lên cao nhưng mềm dẻo khác thường, bị ông ta kéo lại nhẹ nhàng rủ xuống như có ý thức, còn mềm mại hơn cành liễu.

Lão nhân quay đầu vẫy tay gọi Thi Vô Đoan: “Đến đây.”

Thi Vô Đoan không hiểu ý, nhướng mày bước lên trước, chỉ thấy lão nhân ôm thi thể con thỏ trong lòng y, dùng cành cây mảnh quấn lên từng vòng một, lá cây nọ tựa như một bộ quần áo, bao lấy con thỏ, chỉ lộ ra một cái đầu.

Lão nhân buông tay, cành cây cuốn con thỏ liền chậm rãi khôi phục nguyên trạng, dường như với nó mà nói thì trọng lượng của một con thỏ căn bản chẳng tính là gì, nhánh cây vẫn hướng về phía chân trời, ngay cả con thỏ cũng theo nó thành một hình thẳng đứng, cái đầu lộ ra đối với bầu trời xanh ngắt, như có một hồn phách sẽ từ đầu nó phóng lên trời, thăng thiên mà đi vậy.

Lão nhân chắp tay, theo thứ tự điểm từ đỉnh đầu đến khóe môi rồi xuống ngực, miệng lẩm nhẩm, chẳng biết đang làm gì.

Có gió lạnh lẽo thoảng mùi băng tuyết từ xa xa bay đến, tán cây to lớn kia vang xào xạc, lại có vẻ hài hòa dị thường với niệm tụng mơ hồ trong miệng lão nhân.

Có một chớp mắt như vậy, Thi Vô Đoan lại cảm thấy sự an bình không nói nên lời một cách kỳ dị, an bình qua đi, xót xa lại dâng lên từ đáy lòng, xông thẳng lên mắt, khiến vành mắt y đỏ lên, suýt nữa không nhịn được phải rơi lệ.

Y vội quay đầu đi, tự dưng hoảng loạn hẳn, giống như một đứa trẻ nấp sau khôi giáp, cho rằng mình đồng da sắt chẳng sợ hãi gì, lại đột nhiên bị người ta lột mất lớp xác ngoài, nguyên hình tất lộ.

Lão nhân ở bên thấp giọng nói: “Đây gọi là ‘thụ táng’, cổ nhân nói, nếu là tiểu nhi dưới ba tuổi chết non, thì đem cột lên đại thụ, để sinh linh đi theo hồn cỏ cây. Tiểu nhi mới đến, không coi là người trên đời này, đến đi một chuyến, chưa kịp làm thiện, cũng chưa kịp làm ác, vô thiện vô ác, vô nhân vô quả, mới là sinh linh tinh thuần tột cùng, cho nên không chôn xuống đất được, để tránh bị tà linh xâm hại.”

Ông ta quay đầu nhìn Thi Vô Đoan, ánh mắt bình hòa ấm áp dị thường, dường như không phải nhìn một đầu lĩnh tạo phản ly kinh phản đạo, mà là một vãn bối thân thiết thuần lương thành thật, tiếp tục nói: “Ta nghe nói, nếu là người lòng có chấp nhất lớn, đột nhiên bị kịch biến, sẽ lưu lại một phần tinh phách, bám trên người chấp nhất hoặc là vật chấp nhất kia, trừ phi tử sinh lướt qua, bằng không sẽ chẳng bao giờ rời bỏ.”

Thi Vô Đoan cắn răng cực chặt, dường như đang cố hết sức ẩn nhẫn điều gì, khiến đường nét hai má thoáng nhu hòa cũng sắc bén hẳn lên.

Lão nhân thở dài mà nói: “Nhưng tạo hóa trêu người, kẻ đánh mất một phần tinh phách của mình, luân hồi lần nữa lại không vào được ba đạo trên, kiếp sau chỉ có thể làm súc sinh mộng đổng, nếu trở về nhân thế thì tâm tính cũng nhất định có biến hóa, mọi chuyện xoáy vào bế tắc, cố chấp không thể nói lý, ngược lại cầu mà không được.”

Thi Vô Đoan ngẩn ra.

Lão nhân lắc đầu: “Người tính thủy chung không bằng trời tính, công tử không kính thiên địa, không tin quỷ thần, chẳng lẽ không biết tạo hóa chi công? Công tử tinh thông thôi diễn chi thuật, quy tắc chi pháp, chẳng lẽ không biết mệnh thuật khó trái?”

Thi Vô Đoan giấu tay trongống tay áo hơi dài, trầm mặc hồi lâu, nắm tay bất tri bất giác quá chặt, móng tay cơ hồ đâm vào thịt, chẳng biết qua bao lâu y mới nói với giọng khàn khàn: “Ta… không tin.”

Lão nhân thở dài nhắm mắt, chỉ im lặng.

Thi Vô Đoan ngẩng đầu nhìn hướng con thỏ bị cành lá cuốn lên, hạ giọng cực nhẹ: “Ta không tin. Mệnh thuật là gì? Tạo hóa là gì? Ta đều chưa từng nhìn thấy, dù là… nhìn thấy rồi, lại như thế nào?”

Sau đó y cười khe khẽ một tiếng mà nói: “Bổ nó ra, giẫm dưới chân là được.”

Lão nhân đưa mắt nhìn y, thấy Thi Vô Đoan sắc mặt trắng bệch nhưng biểu cảm đã bình tĩnh, hai tay áp sát trong tay áo, nói: “Kẻ học sau hôm nay đến, kỳ thật là muốn hỏi Chấp Diệp đại sư mấy câu.”

Lão nhân thần sắc thoáng biến động, ngẩng đầu nhìn y – ông ta quả nhiên là Chấp Diệp đại sư tông chủ của đại giáo tông.

Thi Vô Đoan cười nói: “Ta biết chư vị đại sư quý giáo muốn thanh tu, nếu Vô Đoan muốn các vị đại sư xen vào những chuyện của tục nhân này, đó là cưỡng cầu, ta chỉ hy vọng đại sư cho ta một cam đoan – không giúp hai bên.”

Chấp Diệp trầm lặng giây lát rồi nói: “Sao? Hiện giờ chúng ta đã thoái nhượng như thế mà công tử còn chưa thỏa mãn ư?”

Thi Vô Đoan thở dài: “Ta sợ… chư vị là gió bên nào mạnh ngả bên đấy.”

Y nói lời này nghe cực đáng ghét, may mà Chấp Diệp đại sư giỏi kiềm chế, không hề chấp nhặt với tên Thi Vô Đoan vô sỉ đen lòng, chỉ trầm mặc giây lát rồi nói: “Công tử muốn bảo đảm gì?”

“Một phần mật ước.” Thi Vô Đoan nói, “Vây Đại Bồ Đề sơn xa gần hai mươi dặm, ta muốn bày một Đại hỏa trận, giam thành một vòng, hy vọng đến lúc đó nếu đại ca ta cùng triều đình tranh chấp, Đại Thừa giáo tông ở bên trong đứng vững vàng một chút, nếu chư vị vượt Lôi Trì một bước, mật ước xóa bỏ, tất dẫn lửa đốt núi. Đương nhiên, kẻ học sau cũng không ra giá trên trời, ta thay chư vị huynh đệ bảo đảm với đại sư, nếu chúng ta khởi sự thành công, quý giáo tất không bị khó dễ, vẫn tôn Đại Bồ Đề sơn làm nơi thái miếu của thiên tử, ngài thấy thế nào?”

Chấp Diệp đại sư im lặng giây lát rồi trầm giọng hỏi: “Ngày xưa Nhan thái phó lấy tâm huyết đốt bảy ngọn sơn đăng, vay mệnh trời bảy mươi năm, công tử nếu sự không thành thì sao?”

Thi Vô Đoan cười nói: “Vậy ngài cứ dâng thư khải tấu Hoàng thượng, nói là Thi Vô Đoan ta bày trận hại ngài không được sao, vật chứng đủ hết, ai có năng lực giải trận pháp này thì bảo y giải là được, nếu không có thì ngày sau các triều các đời, đại giáo tông cũng khỏi cần tham dự phân tranh, chẳng phải thành toàn tâm tư đại sư tị thế của chư vị? Hay là… quý giáo đều là những người mua danh cầu tiếng?”

Chấp Diệp đại sư do dự giây lát rồi thi lễ nói: “Sự tình trọng đại, bản thân tiểu lão nhân cũng khó làm chủ, mong công tử thư thả cho mấy ngày, ta về núi triệu tập các trưởng lão thương thảo một phen, lại cho câu trả lời sau.”

Thi Vô Đoan vui vẻ gật đầu nói: “Thế kẻ học sau chờ tin tức tốt của đại sư.”

Chấp Diệp đại sư quay người đi lên Đại Bồ Đề sơn, lúc này người tâm sự trùng trùng đã biến thành ông ta.

Thi Vô Đoan chần chừ một chút, lại đột nhiên mở miệng gọi: “Đại tông chủ, kẻ học sau… còn có một việc muốn thỉnh giáo.”

Chấp Diệp đại sư dừng chân: “Mời công tử nói.”

Thi Vô Đoan cúi đầu mím môi giây lát mới thấp giọng nói: “Nếu một người… tinh phách ly thể, tự nguyện phân ly huyết mạch, cắt cốt nhục tâm huyết, thì làm sao có thể biến về đây?”

Chấp Diệp đại sư nhíu mày, ngẫm nghĩ một chút mới đáp: “Chờ khi y nhận cốt nhục bị y tự tay cắt bỏ kia, buông xuống chấp nhất, thật tâm ăn năn, nhận hết nỗi khổ da thịt xương cốt nứt hợp, mới có thể viên mãn.”

Thi Vô Đoan chỉ im lặng, Chấp Diệp đại sư lắc đầu thở dài mà rời khỏi.

Mười ngày sau, đại tông chủ của Đại Thừa giáo tông cùng vị khách thần bí thường xuyên ở lán trà qua ngày kia ký kết mật ước đại hỏa, đến đây thì ngọn đèn thứ hai đã đốt lên.

Thi Vô Đoan ruổi xe rời khỏi vùng Đại Bồ Đề sơn, đi đến mục đích kế tiếp.

Lúc này, nơi tiểu đảo Đông Hải, một làn khói trắng bay tới trước mặt Bạch Ly, miễn cưỡng ngưng tụ thành hình người, hai bên đối mặt, lại là dung mạo giống nhau như đúc, dường như là soi gương vậy.

Bạch Ly thấp giọng nói: “Là ngươi, ngươi quay về rồi.”

Bạch Ly do khói trắng ngưng tụ thành lơ lửng giữa không trung, lẳng lặng nhìn y.

Bạch Ly cúi đầu, chẳng biết bao lâu sau, rốt cuộc mới thấp giọng nói: “Là… ta không đúng.”

Người trong khói trắng lộ ra vẻ mặt thoải mái, phiêu đãng trên đầu y một chút rồi cúi xuống, khói trắng chậm rãi tan ra, vây trọn Bạch Ly trong đó.

Từ xưa đến nay, vô luận là tình cảnh nào, người hãm càng sâu, dùng tình càng chân thành, luôn cúi đầu trước tiên.

Chương 66: Ngọn đèn thứ ba (1)

Bên Đông Hải không hề là nơi cá gạo phồn hoa gì, đất đai cằn cỗi mà lắm gò.

Trông về xa là biển khơi vô biên vô hạn, khi màn đêm buông xuống, bóng của những ngọn núi đó liền mờ mờ ảo ảo quanh quẩn nơi này, lộ ra đá ngầm lởm chởm phía dưới, thỉnh thoảng một hai chiếc thuyền nhỏ trôi qua, hải đăng chiếu ra ánh sáng lạnh băng, như một ánh đao chỉ vào quái thú nơi vực thẳm sâu dưới Đông Hải trong truyền thuyết.

Không ai biết giới hạn của nó ở đâu, chưa từng có ai đi qua, những tiểu đảo Đông Hải xa hơn về hướng đông kia dường như đã tuyệt tích vết chân, nghe nói có thần ma trên đó, ngư dân tầm thường không dám tiếp cận.

Nơi này cực lắm đá ngầm, dù là dựa núi ăn núi dựa biển ăn biển thì cũng tương đối nghèo khó, hàng năm đều có rất nhiều thiếu niên vác hành lý đơn giảnrời khỏi nhà, đi đến nơi rất xa, vì kiếm ăn mà phiêu bạt tha hương, phải gần tới cuối năm mới trở về, có khi là một năm, có khi là vài năm, có khi là vài chục năm.

Khi đi toàn thịnh hồng nhan tử, khi về bán bách bạch đầu ông, dù giọng nói quê hương chưa sửa, cố hương và người về đều đã hoàn toàn thay đổi, cơ hồ rơi vào cảnh không nhận nhau.

Vì thế nơi này liền có tập tục, sau Đông chí năm năm hai mươi lăm ngày, lấy cành mai mà tính, chính là tiết Đông phong, sau đó cũng gọi là tết tiểu đoàn viên, nam tử ra ngoài lục tục trở về quê nhà đoàn tụ cùng thê nhi già trẻ, đều tự mang theo trang phục tốt nhất, cố hết sức để vẻ vang trở về.

Dân phong Đông Hải khá dũng mãnh, ngày tết tiểu đoàn viên, nữ nhân sẽ ăn mặc xinh đẹp, đứng chờ ven đường, nam tử chưa kết hôn phải cắm một nhánh cây nho nhỏ trên mũ, nếu y nở mày nở mặt áo gấm về làng, nếu tiểu tử tướng mạo tuấn tú hơn một chút, sẽ có các nữ nhân phương tâm thầm hứa.

Dần dà, tết tiểu đoàn viên nơi này trở nên giống như Thất tịch, thành một ngày hội ái muội mà tốt đẹp thanh niên nam nữ tỏ lòng với nhau.

Hôm ấy, trong làng chài nhỏ bên Đông Hải sẽ giăng đèn kết hoa, nam nữ tuổi trẻ sẽ vây quanh đống lửa ngồi trên đỉnh núi cao cao mà ca hát nhảy múa, dù là sóng Đông Hải rét mướt mà có vẻ hơi không hợp lẽ cũng phảng phất dịu dàng hơn không ít, lão binh thủ quan sẽ ở trên hải đăng cao cao dùng sáo thổi một điệu không biết của địa phương nào để trợ hứng, theo tiếng sáo và ánh đèn bay xuống, có lực xuyên thấu như nhau, có thể theo mặt biển cuồn cuộn ra từng tầng.

Truyền lên hải đảo tít ngoài khơi xa.

Truyền vào tai Bạch Ly thính lực đã mơ hồ.

Xương cốt của y giống như đều đang bốc cháy, phảng phất có một thanh đao nhỏ bổ y ra rồi nối lại, cả người Bạch Ly chôn vùi trong làn sương trắng càng lúc càng dày đặc, cảm giác người cầm đao kia có đôi mắt bi thương mà trầm mặc – y biết đó chính là y.

Lúc này, Bạch Ly cảm thấy mình sắp chết rồi.

Chết giữa tiếng sáo vui vẻ và tiếng ca cao vút lanh lảnh của thiếu nữ, chúng bị gió lùa qua đây, âm cuối có vẻ hơi lạc điệu, truyền vào tai có sự quạnh quẽ không nói nên lời, những quái vật nấp trong bóng, tùy thời rục rịch chờ ăn thịt uống máu y đều lom lom mắt hổ vây lại bên cạnh, chờ lao đến bất cứ lúc nào.

Lại là cụm sương trắng cực mềm mại mà cực cường đại kia, đang lăng trì y, cũng đang bảo hộ y.

Bạch Ly chưa bao giờ biết, một nửa huyết mạch bị mình tự tay vứt bỏ lại cường đại như vậy.

Rất lâu trước kia, y muốn sức mạnh vô biên, có thể phiên vân phúc vũ, làm gì tùy thích, nhưng mà khi y trăm phương ngàn kế, thật sự làm được rồi, lại phát hiện… mình thủy chung vẫn không thể có được tâm của một người.

Y hiểu vô số thứ, nhưng thủy chung không phải một con người, không hiểu lòng người.

Bạch Ly kêu lên thảm thiết, có nháy mắt như vậy, một ý nghĩ tích tắc lóe qua trong lòng, y nghĩ, không cần Thi Vô Đoan nữa, nếu cứ thế chết đi, kiếp sau làm trâu làm ngựa, làm heo làm chó, cũng chẳng muốn gặp lại người nọ.

Ý nghĩ này chỉ lướt qua trong phút chốc, y liền cảm thấy một luồng khí mát rượi vô cùng từ trán chui vào toàn thân, đau đớn như thiêu đốt khoảnh khắc phai nhạt không ít, sương trắng dường như mỏng hơn một chút, hình người do sương trắng ngưng tụ thành cũng không thấy nữa, vừa vặn lúc này từ trán chui vào thân thể y.

Khoảnh khắc thần kỳ dị thường như vậy, Bạch Ly cảm thấy mình giống như là một người buồn ngủ đã rất lâu, vẫn giãy giụa trong cơn mơ màng nửa mộng nửa tỉnh, đột nhiên về tới hiện thế.

Thương Vân sơn rất lâu trước kia đã chôn vùi ở nơi sâu nhất trong ký ức rõ ràng trước mắt, những khoảng thời gian thiếu niên u ám mà lại vui vẻ đó giống như đột nhiên bằng không hiện lên, mấy chục năm như một chớp mắt.

Một người… vô luận xuất thân thế nào, huyết thống thế nào, đều không thể cắt rời bản thân, cho dù thật sự tự tay vứt bỏ, bản thân cũng sẽ không còn là người ban đầu kia nữa, Bạch Ly phúc đến lòng sáng, chợt hiểu thế nào là… quay đầu lần nữa, đã trăm năm.

Y bỗng nhiên hoảng sợ – không, sao có thể không gặp Thi Vô Đoan.

Tất cả yêu ghét tham si suốt đời này của mình toàn cho một người như vậy, chỉ có là y, không còn ai khác nữa.

Trên mặt bỗng lành lạnh, Bạch Ly giơ tay lên, ngạc nhiên phát hiện, chẳng biết từ khi nào mà mình đã rơi lệ đầy mặt.

Phạm vi sương trắng sở tại đột nhiên thu nhỏ lại, một luồng hào quang cực sáng cực trắng từ chính giữa dâng lên, ngay cả những người tụ hội ven biển xa xa cũng đều bị kinh động, mọi người ngạc nhiên dừng lại, nhìn phương hướng xa xăm, không biết là ai hô một câu trước: “Thần tiên hiển linh rồi!”

Họ quỳ xuống, thành kính nhắm mắt lại, có kẻ lặng lẽ nghĩ tâm nguyện hoặc lớn hoặc nhỏ của bản thân, khẩn cầu thần linh phù hộ cho nhân duyên của mình, có kẻ niệm âm dung danh tính của người tương tư, khẩn cầu sợi tơ hồng trong minh minh kia.

Bạch Ly cảm thấy cả người bị xé thành hai nửa, ý thức mới tỉnh táo lại chợt bởi vì đau nhức mà mê man, ngay cả tiếng kêu cũng không phát ra được, chỉ cảm thấy trước mắt tối sầm, chẳng biết gì nữa.

Trước lúc hôn mê, Bạch Ly nắm chặt một chút thanh minh cuối cùng mà nghĩ, đời này cùng y dây dưa ràng buộc như vậy, nếu có kiếp sau, duyên phận sượt vai nhau chung quy vẫn phải có, cho dù thấy y một lần nữa, cho dù chẳng nói câu nào, đã trực tiếp lướt qua như gió mát trăng sáng…

Thấy y, biết y ổn, vậy là an tâm rồi.

Ngoại trừ điều này, không dám cầu nhiều.

… Không dám nữa.

Thi Vô Đoan bôn ba mấy ngày liền, lúc này đã ngủ trong khách điếm đột nhiên giật mình tỉnh giấc, tim đập nhanh như sấm, y dường như còn chưa tỉnh táo, vô ý thức đưa tay túm một cái, không túm được gì, bấy giờ mới nhớ con thỏ vẫn được y ôm trong lòng đã không còn nữa, hồn phách chẳng biết bay đến nơi nào rồi, thân thể thì được y tự tay táng trên cây đại bồ đề.

Y chầm chậm thở ra một hơi, mở mắt nằm xuống, nhìn khách điếm lâu năm có vẻ cũ kỹ mà ngây ra rất lâu.

Sao ta lại ở đây? Y nghĩ, hồi lâu chẳng nghĩ ra đáp án, trong lòng trống rỗng như là hoang nguyên bị lửa rừng quét qua.

Y nằm nghiêng, lấy một cái hà bao từ trong lòng, mở ra, bên trong là một dúm lông động vật.

Con thỏ ngốc kia là Bạch Ly ư? Y dùng ngón tay nhẹ nhàng vê dúm lông thỏ đã mất đi vẻ sáng bóng, nói với mình, nhưng mà… sao nó lại là Bạch Ly được?

Thi Vô Đoan đột nhiên buông lỏng ngón tay, lông thỏ rơi vào lòng bàn tay, bị y nắm chặt. Y dùng cánh tay che mắt, bắt buộc mình không nghĩ nữa.

Tây Bắc chiến sự tái khởi, hỗn loạn y lưu lại rất đủ cho triều đình thu dọn, mật ước với Đại Thừa giáo tông cũng đã đạt thành, Thi Vô Đoan tùy thời gửi hành trình của mình cho đám Cố Hoài Dương và Hạ Đoan Phương.

Nghe nói Bích Đàm chân nhân đã ngồi không yên, tự mình chỉnh đốn mảnh đất cũ nát sứt mẻ của Huyền Tông, ra trận đánh giáp lá cà với đám Hạ Đoan Phương, mà Cố Hoài Dương lại nhân loạn một lần nữa đánh hạ vùng Đông Nhạc, lão hồ ly lần này không khinh suất tiến vào, ba tiến ba xuất, quân tiễu phỉ triều đình lại bị coi thành phỉ mà xử sạch sẽ, bấy giờ mới chia binh làm hai lộ, một lộ đánh thẳng một mạch từ vùng Đông Nhạc ban đầu, một lộ vòng qua Đông Nhạc đi thẳng đến Trung Nguyên, mang theo binh lực gấp mấy lần trước lũ lụt, chỉ thẳng đại doanh Từ Nam.

Đó chính là mồi lửa thứ ba Thi Vô Đoan phải đốt.

Từ Nam tiến có thể công lui có thể thủ, có thể nói là thành chắn thiên nhiên, thủ tướng Tống A nghe nói là một nhân vật cương trực công chính, đánh được giết được, lại thêm có Trâu Yến Lai lui thủ Từ Nam, chỉ sợ là khúc xương khó nhằn.

Bất quá luôn có khe hở. Khóe miệng Thi Vô Đoan trong bóng tối nhếch lên, nhưng mà rất nhanh chóng lại biến mất.

Song cho dù y đang đốt lửa thì y vẫn cảm thấy rất lạnh.

Trời đông giá rét, một mình nằm ở khách điếm tha hương, nghe tiếng gió tuyết lẫn lộn bên ngoài, trong lòng suy nghĩ đều là âm mưu quỷ kế, ngay cả địa long cũng không dùng được, góc chăn vẫn lạnh ngắt – dường như là loại lạnh có làm thế nào cũng không ấm áp nổi đó.

Bạch Ly người gần như cao ngạo thế kia, vì sao lại chịu rơi vào trong thân thể con thỏ béo ú không hề có linh tính?

… Không nghĩ điều này, mật thám của đại doanh Từ Nam rốt cuộc có trà trộn vào thành công không?

Mấy chục năm như một ngày, y là vì sao? Vì sao?

Sao còn ở nơi này? Đại doanh Từ Nam…

Khó trách y điên điên khùng khùng hỉ nộ vô thường như vậy, cũng khó trách… con thỏ có thể có ánh mắt như thế.

Con thỏ đã chết rồi! Bạch Ly còn sống lại có thể thế nào? Liên quan gì đến ngươi? Sao vẫn suy nghĩ! Từ Nam…

Đại tông chủ nói y phải nhận hết sự đau khổ, y bây giờ đang ở nơi nào? Nếu thật sự là như vậy, làm sao có thể áp chế những ma vật trong bóng đó, nếu như…

Thi Vô Đoan ngồi bật dậy, sau đó ngớ ra rất lâu, mới chầm chậm vùi mặt lên đầu gối, từ từ nhắm mắt lại.

Vậy thì thế nào? Y nói với mình từng lần một cách phí công, vậy thì… thế nào? Trong loạn thế này, ai có thể nắm giữ sinh tử của mình, người nào không phải thân như lục bình, nước chảy bèo trôi? Ai còn quản được ai đây?

Vẫn lạnh. Y cuộn tròn cả người, rốt cuộc, kêu loạn trong lòng chỉ còn lại một câu này -

Vẫn lạnh.

Chương 67: Ngọn đèn thứ ba (2)

Ma quân Bạch Ly mất tích tháng thứ ba, tìm kiếm tứ xứ, vẫn không một tin tức.

Tống A khi nhìn Trâu Yến Lai mặt mày cau có, hạ liền ba mệnh lệnh, sai người tiếp tục tìm kiếm, không nhịn được xen vào: “Chuyện trên chiến trường là do đao thương định đoạt, nắm đấm của ai cứng thì người đó có thể đánh thắng, có Lão Tống ta ở chỗ này một ngày thì khiến tên khốn họ Cố kia không qua được Từ Nam, ngươi thật chẳng có đạo lý gì cả, không có việc không chuẩn bị phòng ngự, đi kiếm một số giáo tông chỉ biết cố làm ra vẻ ở đó giở trò gì, còn phải khổ tâm phí sức đi tìm yêu quái kia!”

Tống A là một tướng quân rất giỏi đánh trận, đáng tiếc hắn là người thô lỗ, tuy rằng cũng biết chữ, chưa biết chừng gặp trường hợp phong nhã còn có thể ứng phó vài câu đối, nhưng biết đọc thơ không có nghĩa là người phong nhã chân chính, hắn mặc dù biết đọc nhưng vẫn rất không giỏi nói chuyện, mỗi lần nói ra đều phải đắc tội vài người, tỷ như Trâu Yến Lai – chính là đã bị hắn đắc tội đến mất cảm giác luôn rồi.

Vị Tống tướng quân này trước nay không nhìn nổi giáo tông, theo lý thì việc này căn do đã lâu. Thế lực trong triều cơ bản chia đôi, một bên là văn thần võ tướng xuất thân giáo tông, một bên là người văn khoa võ cử đăng đường thiên tử, thông thường mà nói, có thể đưa con em vào giáo tông bồi dưỡng, không phải đại phú đại quý thì là lai lịch hiển hách, chỉ như thế còn chưa đủ, còn phải rất có cơ duyên, có ngộ tính mới được.

Con em bần dân lại ít có cơ hội như vậy, bởi thế quan viên xuất thân giáo tông vẫn tự xưng là thanh cao, nắm giữ đại bộ phận quyền lực trong triều, con em hàn môn thì phải tất lộ lam lũ cẩn trọng mười mấy năm, mới có thể khúm núm thấp giọng mà vấn an những đồng liêu tiên thiên cao hơn người một bậc.

Bất công như vậy, phàm là người thì không thể nào cư xử thản nhiên được.

Chẳng bao lâu sau cá chép đã bắt đầu không nhảy được long môn, thế lại sẽ bắt đầu có bao nhiêu người… tính toán thiết lập một long môn mới đây?

Không hoạn ít, mà hoạn không đều.

Vừa vặn Tống tướng quân là một nông dân đăng đường thiên tử như vậy, hắn chính là xuất thân võ Trạng nguyên tam giáp, nhưng mà ở trong triều chìm nổi mấy chục năm, vào sinh ra tử bán mạng, cuối cùng lại chẳng bằng Trương Chi Hiền một hậu bối trẻ tuổi, đương nhiên là không quen nhìn giáo tông đã lâu.

Nhưng thế lực giáo tông suy cho cùng vẫn cực lớn, dù là ngươi không quen nhìn hơn, trừ vị Tống đại tướng quân không theo khuôn mẫu này thì cũng chẳng có bao nhiêu người trực tiếp nói ra.

Huống chi người nói vô tâm, người nghe hữu ý, vị người nghe này còn là Trâu đại nhân một cao đồ Mật Tông căn chính miêu hồng* như vậy.

Trâu Yến Lai nhướng mày, hiển nhiên là rất không vui, nhưng mà thời khắc phi thường, một tướng khó cầu, cũng không thể làm khó quá, chỉ có thể bóp mũi nhịn xuống, trong lòng có phần khó chịu mà nghĩ, nếu không phải trong triều thiếu người thì nhất định phải nghĩ một biện pháp đuổi mãng hán này đi xa tít, tránh ở trước mặt gây chướng mắt.

Tống A cũng chẳng biết là cố ý khiến người ta ghét hay là thiên tính như thế, thấy Trâu Yến Lai không thèm để ý còn chưa chịu bỏ qua, dường như nhất định phải cùng đồng liêu thảo luận một phen về lỗi của giáo tông mới được, cũng chẳng nhìn xem mông vị đồng liêu này là ngồi trên cùng một hàng ghế với ai. Liền tiếp tục nói: “Ta nghe nói, lúc tiên hoàng tấn thiên, chỉ yêu quái kia cười to ba tiếng, thảm đạm mà đi, ai biết rốt cuộc là chuyện thế nào? Theo ta thấy, đám mọt lộc quốc gia này hại nước hại dân nhất, nếu không có họ, chỉ sợ cũng chẳng có những sự cố lộn xộn này, chưa biết chừng Phổ Khánh ta bây giờ còn là một giang sơn thanh bình, các nơi mưa thuận gió hòa, bách tính an cư lạc nghiệp.”

Lời này thật sự thái quá, quả thực nhịn được chuyện này thì còn gì không thể nhịn.

Trâu Yến Lai từ vùng Đông Nhạc vừa đánh với quân Khăn Đỏ của Cố Hoài Dương vừa lui thủ Từ Nam, ngày đêm lo lắng hết lòng, gối giáo chờ sáng. Hắn tuy thân cư cao vị, suy cho cùng xuất thân hiển hách, xưa nay thong dong, đã khi nào từng chịu khổ như thế?

Chiến trường vô tình, mỗi một ngày đều có người chết đi, trên mỗi một tấc đất đều dính đầy máu của đối thủ và người mình.

Tam đại giáo tông tổn thất quá nửa, người khác không biết, chỉ nói Mật Tông, phàm là người mười hai tuổi trở lên, có thể vác được trường thương, kéo được trường cung đều đã lên chiến trường, xác chết quấn da ngựa còn không trọn vẹn, một vốc hoàng thổ qua loa rắc lên còn chưa khô, dù Trâu Yến Lai giỏi kiềm chế hơn, nghe lời này cũng không thể không thay sư môn xung quan nhất nộ.

Hắn đập bàn đứng bật dậy, giận dữ nhìn Tống A đại tướng quân, lồng ngực phập phồng kịch liệt mấy lần, mới gằn ra một câu: “Loạn trong giặc ngoài, quốc nạn ập xuống, thỉnh… Tống tướng quân nói năng cẩn thận.”

Tống A cùng hắn nhìn nhau giây lát rồi cười khẩy nói: “Ta chẳng qua hơi thêm ngôn ngữ thăm dò, Trâu đại nhân đã phỏng đoán như vậy, thị phi trong đây, mạt tướng nhìn chung minh bạch rồi.”

Trâu Yến Lai chau mày hỏi: “Tống tướng quân nói như vậy là có ý gì?”

Tống A âm chí nhìn hắn chằm chằm giây lát, nhưng không trả lời, gật gật đầu rồi quay người vén mành doanh trướng đi ra ngoài, dường như đã thông suốt điều gì.

“Sâu kiến hoành hành, quốc không ngày yên tĩnh, không biết xã tắc hôm nay, họ gì tên chi.”

Nét chữ cứng cáp biểu hiện ra dưới ánh đèn tù mù, bị Tống A xem xong nuốt mất, từng chữ từng câu đều như là chứa trong bụng.

Tờ giấy này đến từ lão sư của hắn, Tôn Minh Xung Binh bộ Thượng thư tiền triều hiện giờ đã ẩn cư hương dã, mười mấy năm qua, một đám người tu đạo tạp bài dã lộ dị quân đột khởi, còn có kỳ tài trận pháp Thi Vô Đoan bất thế, trước giải mật ước, sau lại chia nhau mấy lần chuyên môn vây tiễu ám sát người trong giáo tông, thêm chiến tranh kéo dài, giáo tông trước mắt đã hoàn toàn không thể so với thời kỳ đỉnh thịnh.

Có thể nói là nhân tài suy tàn, chính là một thời cơ tốt.

Tống A nhận được tờ giấy này vào ba ngày trước, hắn biết một nhóm người của lão sư trong triều đã bắt đầu hành động, tân hoàng không nhu nhược như tiên đế, từ khi đăng cơ tới nay năm lần bảy lượt có động tác, đều có khuynh hướng phế giáo tông, nhưng khổ nỗi thế lực giáo tông quá lớn, đồng thời không thể danh chính ngôn thuận.

Trước mắt Trâu Yến Lai kháng địch bất lợi, lui thủ Từ Nam, vừa vặn là một cơ hội tốt.

Không biết xã tắc hôm nay, họ gì tên chi…

Tống A đem câu này lặng lẽ nghiền ngẫm rất lâu, ngẩng đầu nhìn hướng sao trời sáng chói đến mức có phần quỷ dị, nhìn thẳng đến nơi bị ngọn núi cách trở không trông thấy.

Đây là thời đại loạn nhất, thời đại khiến người ta đổ máu đổ lệ, cũng là một thời đại cho người ta có thể mở ra khát vọng trong lòng, không phụ sở học bình sinh.

Văn trị võ công hơn mười năm, chẳng qua cúc cung tận tụy vì gia quốc thiên hạ, cho dù sau trăm tuổi sử xanh vô tình chẳng qua một nét, cũng coi như… không sống uổng đời này.

Tướng quân râu tóc bạc một nửa ánh mắt kiên định, quay người rảo bước đi về doanh trướng của mình, lại là một đêm thức trắng.

Đồng thời, Cố Hoài Dương lĩnh binh bức thẳng đại doanh Từ Nam nhận được một tờ giấy đến từ Thi Vô Đoan, bên trên chỉ có một chữ – bại.

Thêm hai mươi ngày, Đại tướng quân Tống A của đại doanh Từ Nam cùng đầu lĩnh phản quân Cố Hoài Dương đại chiến ở Cự Châu suốt một ngày một đêm, Cố Hoài Dương tuyến loạn cờ giạt, lui thủ Tương Dương, Tống tướng quân tự mình dẫn binh truy kích ba mươi dặm, trong ba ngày liên tiếp thu phục “Lư Châu” “Cam Châu” “Dĩnh Lư” “Dương Thành” các nơi.

Một trận chiến thành danh, bức Cố Hoài Dương về tây cảnh Đông Nhạc.

Một phong thư liên danh cùng ngày liền đệ trình đến chỗ Hoàng thượng khi tin đại thắng truyền đến, công khai buộc tội đệ tử giáo tông ngồi không ăn bám, lấy Trâu Yến Lai ở Đông Nhạc thất bại làm trò cười.

Từ xưa đến nay, giáo tông và hoàng tộc giống như hai gốc cây sống dựa vào nhau, tuy rằng luôn bằng mặt không bằng lòng song không ai rời được ai. Thế nhưng trận pháp học trong giáo tông sớm suy vong, biến thành chi nhánh như bàng môn tà đạo, lại bởi vậy mà bại trong tay Thi Vô Đoan, vẫn bị y đè đánh suốt, mấy năm qua liên tiếp bại lui.

Từ Nam đại thắng, lại cho Hoàng đế rốt cuộc thấy được hy vọng.

Dưới sự đồng ý ngầm của Hoàng đế, tháng tư năm này, cuộc dâng thư phản giáo thanh thế lớn do thắng lợi của một trường chiến dịch cùng quần tình kích phấn đã bắt đầu.

Mâu thuẫn trăm ngàn năm qua như sóng ngầm cuộn trào rốt cuộc được vạch kế, càng không thể vãn hồi.

Mà Thi Vô Đoan to gan lớn mật – đại phản tặc trong phản quân danh tiếng chỉ sau Cố Hoài Dương lúc này cực kỳ lưu manh mà cải trang một phen, trà trộn trong đế đô Bình Dương, mai danh ẩn tích qua lại như thoi trong tổ chức thần bí “Nhân Tự Hào thương phố” do y một tay kiến lập, đến nay rốt cuộc bắt đầu phát huy tác dụng, ở kinh thành ngay dưới chân thiên tử, liên lạc những “nghĩa sĩ” phản giáo càng lúc càng nhiều vào một chỗ, trở thành một nhánh lực lượng đặc biệt.

Nhỏ từ hiệu cơm sáng, lớn đến tiền trang kỹ quán, chỉ cần nơi có tiền lưu thông thì đều có bóng dáng của Nhân Tự Hào thương phố.

Thi Vô Đoan ngồi trong tửu quán, viết “ngọn đèn thứ ba” trên một tờ giấy be bé, sau đó nhét vào ống trúc dài nhỏ, gọi: “Tiểu nhị, tính tiền.”

Tiểu nhị nhanh nhẹn qua đây, dùng người che mà cất bạc vụn và ống trúc, miệng nói: “Khách quan đi thong thả, lần sau lại đến!”

Sau đó sượt vai mà qua, như là chưa bao giờ quen biết.

Thi Vô Đoan điềm nhiên đi dạo một vòng trên phố thị, lúc này mới về tới chỗ ở tạm thời – hậu viện của một phường bạc, lấy ra cuộn giấy ban nãy bị nhét vào tay áo, bên trên là một hàng chữ nét mực hơi nhòe:

Đông Hải chúng ma ảnh đột nhiên biến mất, không thấy bóng dáng Ma quân.

Thi Vô Đoan cúi mắt nhìn tờ giấy này rất lâu, trong lòng bàn tay bấy giờ mới bùng lên một ngọn lửa nhỏ, đốt nó đi, hỉ nộ không ra sắc mà đứng tại chỗ một lúc lâu, rồi quay người vào phòng.

Chỉ có lúc vào cửa trên mu bàn tay nắm khung cửa lộ ra gân xanh-

Y rốt cuộc đi đâu rồi?

Y… còn sống chứ?

Ngoài ngàn dặm, trên Đại Bồ Đề sơn thời điểm cả nước đã xuân về hoa nở vẫn đang bị tuyết phủ kín, lúc này lại có một vị khách không mời.

Người tới vận bạch y, thoạt nhìn như là đã đi một quãng đường rất xa, bạch y không còn trắng như thế nữa, thoáng có vẻ gió bụi mệt nhoài, đứng ngây ra ngay bên ngoài Đại hỏa chi trận Thi Vô Đoan bố trí, nét mặt ngỡ ngàng, dường như có chút thất hồn lạc phách.

Vòng lửa to kia không ai có thể nhìn thấy, trừ phi có người muốn xâm nhập Đại Bồ Đề sơn, hoặc là Đại Thừa giáo tông vi ước, thế nhưng nam nhân này lại có thể.

Phong trào phản giáo ngày càng mạnh, Đại Thừa giáo tông co cụm trên Bồ Đề sơn không ra, đóng cửa tạ khách, dù sao cũng là đại trận cổ xưa mà cổ giáo lưu truyền ngàn năm tới nay khởi động, cơ hồ phong bế cả ngọn núi.

Nhưng mà đúng lúc này, trên tuyết sơn lại có một đệ tử trẻ tuổi đi xuống, từ xa xa thi lễ với nam nhân bạch y, cất cao giọng nói: “Tông chủ có mệnh, khách quý đến, lệnh vãn bối ra nghênh đón.”

Bạch y nam nhân thoáng sửng sốt hỏi: “Ta?”

Đệ tử trẻ tuổi gật đầu: “Mời theo vãn bối, tông chủ đang chờ khách nhân ở đình nghênh khách.”

Bạch y nhân dừng một chút rồi im lặng theo lên.

Đình nghênh khách của Đại Thừa giáo tông ở ngay lưng chừng núi, chính là đường ranh giới của đỉnh tuyết và thực vật, nơi đó nở rộ một loại hoa kỳ dị, không có lá cũng chẳng có cọng, trực tiếp từ dưới đất chui ra, một nửa màu tím đen, một nửa màu trắng, tên là âm dương hoa, truyền thuyết là hoa thần ngăn cách âm dương hai giới.

Một lão nhân hành động có vẻ hơi chậm chạp đang kiên nhẫn tưới âm dương hoa.

Đệ tử trẻ tuổi dẫn đường sau khi hành lễ liền tự động lui ra, bạch y nhân chìa tay sờ âm dương hoa, mặt màu trắng tự động uốn qua, mặt tím đen lại chủ động dán trong lòng bàn tay y như có sinh mệnh.

Lão nhân không hề quay đầu nói: “Đến rồi? Ngồi đi.”

Bạch y nhân nhíu mày hỏi: “Ông biết ta là ai sao?”

Lão nhân buông bình nước, quay đầu lại nhìn y một cái mà cười nói: “Đại danh của Ma quân như sấm bên tai.”

Bạch y nhân chính là Bạch Ly mất tích không biết đã bao lâu, y chần chừ một chút rồi ngồi trên chiếc ghế đá dưới âm dương hoa thấp thoáng. Lão nhân cũng chẳng nói chuyện với y, chỉ chậm rãi tưới hoa, cả một đình hoa lần lượt tưới đến, nhất nhất dọn dẹp cành lá, làm từ chính ngọ mãi đến khi mặt trời ngả về tây.

Bạch Ly hiếm khi không sốt ruột, chỉ lẳng lặng ngồi bên cạnh nhìn ông ta loay hoay, chẳng nói câu nào – nếu để người biết rõ nhìn thấy thì nhất định phải kinh ngạc một phen vì Ma quân hỉ nộ vô thường mà cũng có thời điểm bình hòa như vậy.

Mãi đến lúc tịch dương ngả về tây, lão nhân mới xắn tay áo dính bùn đất, ngồi đối diện Bạch Ly, dùng đôi tay lấm lem rót một chén trà lạnh, đặt trước mặt Bạch Ly nói: “Mời Ma quân.”

Bạch Ly thật sự bưng lên uống.

Lão nhân nhìn y chậm rãi uống hết, bấy giờ mới nói: “Trà này chính là tập hợp sương hoa từ âm dương hoa, cần được pha trong nước tuyết, uống một chén, tuy rằng lạnh băng thấu xương, lại là giai phẩm có thể nâng cao tinh thần, cường thân kiện thể.”

Bạch Ly lại nói: “Đa tạ.”

Lão nhân nhìn y gật đầu, đoạn hỏi: “Ma quân vì sao đến đây?”

Câu hỏi này khiến Bạch Ly sửng sốt, y nhíu mày, ngẩng đầu nhìn những cánh hoa màu tối không ngừng tụ tập bên cạnh, rất lâu sau mới hơi do dự nói: “Ta… không biết.”

Lão nhân không hề thúc giục, chỉ im lặng ngồi đối diện, cẩn thận thưởng thức món trà lạnh do âm dương hoa lộ đọng thành.

Không biết bao lâu sau, Bạch Ly mới thấp giọng nói như độc thoại: “Ta không biết, cũng không minh bạch, càng không rõ nên làm thế nào. Họ nói ông là đại tông chủ, là lão hồ ly không biết xấu hổ, còn có kẻ nói ông là người có trí tuệ nhất trên đời này, ông biết chứ?”

Đại tông chủ Chấp Diệp đại sư cười nhặt một chiếc lá to từ trên non xa bay xuống, cuốn một vòng dán bên tai Bạch Ly mà nói: “Đây là lá cây bồ đề tiên, hãy lắng nghe cẩn thận.”

Bạch Ly lắng tai nghe giây lát, sau đó nhíu mày nói: “Ta không nghe thấy gì cả.”

Chấp Diệp đại sư nói: “Vốn chẳng có gì cả, tiên âm gì đó đều là gạt người thôi.”

Bạch Ly khó hiểu nhìn ông ta.

Chấp Diệp đại sư nói: “Có người nói y nghe thấy, kỳ thật chẳng qua là trong lòng y nghĩ như vậy rồi tẩu hỏa nhập ma, còn tưởng rằng mình nghe thấy được – con người ta luôn tin tưởng thứ mình muốn tin tưởng mà.”

Ông ta chìa ngón tay trỏ ngực Bạch Ly mà nói: “Tâm chính là ma chướng, vây khốn ngươi không ra được, cũng vây khốn y không ra được.”

Bạch Ly ôm ngực.

Chấp Diệp đại sư tiếp tục nói: “Nhưng mà Ma quân đã tìm về huyết mạch và hồn phách thất lạc, trải qua trăm kiếp, cửu tử nhất sinh. Chẳng lẽ không phải đã buông xuống rồi sao? Chẳng lẽ không phải đã ra được rồi sao?”

Bạch Ly nói: “Nhưng ta không hề… Ta vẫn không biết nên làm thế nào.”

Chấp Diệp đại sư cười ha ha, đứng dậy quay người đi lên núi, miệng lại nói: “Chuyện này có khó gì, đẩy đại sơn kia ra, tách nước sâu kia ra, gạt đổ bức tường sập, sau đó bện một người cỏ để dỗ y, dỗ đến khi y nín khóc mà cười, chẳng phải được rồi sao?”

Bạch Ly ngớ ra.

Mãi đến khi Chấp Diệp đại sư rời khỏi rất lâu, y vẫn đứng ngơ ngác trên đỉnh núi hoàng hôn bao phủ, không biết bao lâu sau mới chậm rãi lộ ra nụ cười đã lâu không thấy, đầu cũng chẳng quay lại mà đi xuống chân núi.

*Căn chính miêu hồng: Xưng hô đặc thù trong niên đại đặc thù. Đại khái là khi đó thân phận bần nông khá cao, nên thường nói “căn chính miêu hồng” (căn là rễ còn miêu là mầm), “càng nghèo càng cách mạng”. Con em địa phú thì luôn bị xa lánh. Hiện nay thì căn chính miêu hồng chỉ con cháu cộng sản. Tuy nhiên trong bối cảnh truyện có lẽ câu này còn chưa được dùng, nên mình nghĩ đại khái là để chỉ chung các môn đồ giáo tông địa vị khá cao, “gốc” khá to thời bấy giờ.

Chương 68: Ngọn đèn thứ tư (1)

“Nói đi.”

Thi Vô Đoan đẩy cái đĩa nhỏ trong tay ra trước, Hạ Đoan Phương ngồi đối diện tưởng như chạy nạn trở về, vẻ mặt tang thương, giành lấy như quỷ chết đói đầu thai. Bánh nướng trong đĩa không to, bị hắn một hơi nuốt chửng như không kịp nhai.

Ăn đủ bảy tám cái, hắn mới thống khổ ngẩng đầu, nói với Thi Vô Đoan: “Trà…”

Thi Vô Đoan nhìn tướng ăn như hổ đói kia, cùng với vụn bánh dính đầy râu hắn, vốn mấy ngày nay ăn uống không tốt, lúc này quả thực có chút buồn nôn, cảm thấy khát thay, liền tùy tay lấy ra một ấm nước lạnh, rót cho một chén, nhìn Hạ Đoan Phương uống từng ngụm như trâu, hỏi: “No rồi chứ?”

Nét mặt Hạ Đoan Phương càng thống khổ, nói: “Bánh nướng này sao có nhân thịt? Bao nhiêu đồng một cái vậy?”

Thi Vô Đoan nói: “Ta trả tiền.”

Hạ Đoan Phương lập tức bình tĩnh lại: “À, thế cho ta đĩa nữa.”

Thi Vô Đoan: “…”

Cho đến khi đĩa bánh thứ hai bưng lên, Hạ Đoan Phương mới vừa ăn vừa nói: “Hành tung của Ma quân chúng ta không truy tra được, nhưng có thể thấy phía triều đình cũng không truy tra được, bằng không lần này Hoàng đế công nhiên truy cứu giáo tông như vậy, Mật Tông vẫn có quan hệ không kém với Ma quân, sao có thể không liên lụy đến y?”

Thi Vô Đoan nhíu mày nói: “Ai bảo ngươi nói chuyện này?”

Hạ Đoan Phương nói: “A, không nói chuyện này à? Không nói chuyện này vậy vì sao ngươi cho các huynh đệ môn thứ mười bảy đi truy tung dấu vết ma ảnh?”

Thi Vô Đoan nhìn hắn một hồi, im lặng giây lát, sau đó hơi cao giọng nói: “Người đâu! Trướng phòng đâu? Bảo với trướng phòng, tiền cơm tính vào người này…”

Thi Vô Đoan còn chưa dứt lời thì Hạ Đoan Phương đã bổ đến như lâm đại địch mà bịt miệng y: “Lục gia ngài đại nhân không so đo với tiểu nhân, phi! Xem cái miệng của ta, không có việc gì liền nói càn nói bậy.”

Thi Vô Đoan nhìn hắn.

Hạ Đoan Phương đành nghiêm mặt nói: “Hướng đi của Trâu Yến Lai đã rõ ràng, Đả Cốc đạo bên kia đã bố trí tốt rồi, vạn sự sẵn sàng chỉ thiếu gió đông, lục gia cứ yên tâm.”

Thi Vô Đoan bấy giờ mới gật đầu, xoay chén trà chơi một hồi rồi hỏi: “Thời gian này, giáo tông bên kia có động tĩnh gì?”

“Hoàng đế hạ lệnh, liệt ra mấy tội trạng của Nhan Chân, chắc hẳn lục gia đã biết rồi.” Hạ Đoan Phương nói.

Thi Vô Đoan gật đầu: “Biếm làm thứ dân, vĩnh viễn không dùng.”

Hạ Đoan Phương thở dài: “Không sai, theo ta thấy thì Hoàng đế này cũng là một người sát phạt quyết đoán, chỉ tiếc quyết đoán đến độ không hợp thời.”

Thi Vô Đoan nửa thật nửa giả cười cười mà nói: “Bên giường há dung người khác ngủ ngáy, cũng là nhân chi thường tình thôi. Ta nghe được tin tức đến từ chỗ đại ca, bảo rằng Mật Tông tiên phong còn trên chiến trường, lão Hoàng đế cũng rất thú vị, rõ ràng là dùng người ta như lừa, đánh roi còn muốn để người ta kéo xe cho mình.”

Y nhớ tới điều gì đó, lại hỏi: “Huyền Tông thì sao? Huyền Tông thế nào?”

Hạ Đoan Phương chần chừ giây lát rồi nói: “Bích Đàm chân nhân đóng cửa tạ khách, sự vụ bên dưới nhất loạt giao cho đệ tử xử lý, nghe nói là vất vả lâu ngày thành tật, mỗi ngày giả nhu nhược, Cửu Lộc sơn có một số đặc thù, Hoàng đế không tiện trực tiếp khai đao, đành treo đó, hạ một mệnh lệnh không mặn không nhạt, mệnh phản tỉnh.”

Thi Vô Đoan nhíu mày – Hoàng đế đương nhiên không dám động đến Cửu Lộc sơn, dù sao bảy ngọn sơn đăng vẫn là đốt trên tế đàn của người ta, dù trước mắt vị Thánh thượng này có chút đặc lập độc hành, tính toán trùng chỉnh triều cương, tước đại quyền của giáo tông trăm ngàn năm qua, vẫn phải chú ý một chút, liền nói: “Thư ta bảo ngươi đưa, ngươi đưa đến chưa?”

Sắc mặt Hạ Đoan Phương lập tức biến thành rất bất thường.

Thi Vô Đoan lập tức nhìn ra, truy hỏi: “Sao? Khổ Nhược sư thúc nói thế nào?”

Hạ Đoan Phương ấp úng hồi lâu mới nói: “Ta phái người lén gặp Khổ Nhược đại sư, bà ấy… bà ấy nói ‘Nếu sớm liệu được tiểu tặc Thi Vô Đoan này một ngày kia sẽ khi sư diệt tổ, đại nghịch bất đạo như vậy, lúc trước không nên bảo vệ hắn, mà nên tự tay bóp chết hắn trên Cửu Lộc sơn, tránh cho hiện giờ lão bà tử ta dù nhắm mắt, cũng không còn mặt mũi nào đối mặt với liệt tổ liệt tông giáo ta’.”

Trên mặt Thi Vô Đoan không hề có phản ứng gì mạnh, ngược lại như là trong dự kiến, một lát sau mới dùng giọng điệu bình bình nói: “À.”

“Còn có…” Hạ Đoan Phương cúi đầu.

Thi Vô Đoan hơi nghi hoặc nhìn qua, thản nhiên nói: “Bà ấy còn nói lời gì không dễ nghe, ngươi cứ việc cho ta biết, không sao đâu.”

Hạ Đoan Phương im lặng hồi lâu mới thấp giọng nói: “Khổ Nhược đại sư không nói gì khác nữa. Bà ấy xé thư của ngươi, đuổi người ta phái ra ngoài, đêm đó, liền…”

Thi Vô Đoan thần sắc thoáng biến đổi, hỏi: “Cái gì?”

“Treo cổ tự tử…” Hạ Đoan Phương nhanh chóng nhìn lướt qua nét mặt Thi Vô Đoan, nói, “Vào thời khắc đặc biệt như hiện giờ, Huyền Tông không muốn có thêm rắc rối, chuyện này nếu nói không rõ, bị tội ‘phản quốc thông địch’ chỗ Hoàng đế kia không tính là gì, chỉ sợ là họ đã phong tỏa tin tức, bí mật không phát tang…”

Trong đầu Thi Vô Đoan “Ầm” một tiếng, nhìn thấy môi Hạ Đoan Phương mấp máy, nhưng không nghe rõ hắn nói những gì, chén trà trong tay phút chốc vỡ làm đôi, chẳng biết qua bao lâu y mới nói khàn khàn: “Ngươi nói… ngươi nói cái gì?”

Hạ Đoan Phương mím môi, nói nhỏ: “Lục gia, nên nén bi thương đi.”

“Nhưng bà ấy chẳng phải nói… chẳng phải nói không còn mặt mũi nào đối mặt với liệt tổ liệt tông giáo ta sao?” Câu này chẳng biết thế nào lại buột miệng mà ra, Thi Vô Đoan giống như không biết mình đang nói những gì, ngay cả ánh mắt cũng trống rỗng, lắc đầu cực chậm chạp, “Bà ấy chẳng phải nói… Bà ấy chết cái gì?”

“Lục gia…”

Thi Vô Đoan đột nhiên đứng bật dậy, tay áo quét ấm chén trên bàn vang lách cách một hồi, Hạ Đoan Phương vội kéo y lại mà hỏi: “Ngươi muốn đi đâu?”

Thi Vô Đoan không nói không rằng bẻ tay hắn ra rồi quay người đi ra ngoài.

Hạ Đoan Phương bị khuôn mặt trắng bệch lại không hề biến hóa kia của y dọa, ở phía sau gọi: “Lục gia! Lục…”

Nhưng Thi Vô Đoan càng lúc càng bước nhanh, ném lại một câu “Đừng đi theo ta”, rồi không còn thấy bóng dáng.

Y dường như không biết đi phương nào, hãy còn ngây ngây ngơ ngơ, nhảy lên ngựa, tùy súc sinh kia đi đông đi tây, bản thân cũng chẳng biết mình phải đi đâu.

Trên đời này, thống khổ nhất vĩnh viễn không phải là bị người khác phụ, nếu là như thế, chỉ cần mình nguyện ýthì buông ra rất dễ, nhưng nếu phụ người, mỗi khi nhớ tới luôn phải bị lương tâm làm phiền, không kết thúc, không ngừng nghỉ.

Cho dù là hạng đại gian đại ác ngoài miệng vạn loại vô tình, trong lòng muôn vàn vô sỉ, để tiếng xấu muôn đời, thậm chí rơi vào bêu danh trăm năm, suốt cuộc đời cũng nhất định phải có một tuyến lương tâm, chỉ cần một hơi thở vẫn còn thì không tránh được đêm khuya mộng hồi bị ác mộng đánh thức, mỗi khi mồ hôi lạnh chảy ròng ròng đều phải tự hỏi một câu rằng… Đâu chỉ như thế?

Đâu chỉ như thế?

Thi Vô Đoan nghĩ, trưởng bối duy nhất từng bảo hộ y thời thiếu niên kia, người duy nhất từng dùng tính mạng, tự do và tôn nghiêm bảo hộ y, khi nhìn thấy người Hạ Đoan Phương phái đi, nên là tâm tình thế nào, mới có thể giận cực mà cười? Lại nên là tâm tình thế nào, mới có thể khiến bà treo cổ tự tử ngay đêm đó?

A… Đúng rồi, y thoáng mù mờ nói với mình, Khổ Nhược sư thúc cả đời đều sợ sư môn chia rẽ, đồng môn tương tàn.

Ngực y dường như có một ngọn lửa bốc cháy dữ dội, đốt hết ngũ tạng lục phủ, tim gan ruột bụng, đau cực kỳ.

Thi Vô Đoan khom lưng, cơ hồ là từ trên lưng ngựa lăn xuống, sau đó cả người nằm ngửa trên bãi cỏ vùng ngoại thành, cuộn tròn mình lại. Ngón tay gắt gao xuyên qua bùn đất, chụp đến rễ cỏ, có cảm giác muốn rống to, hoặc là khóc to một hồi, nhưng mà ngẩng đầu nhìn thấy tứ dã mênh mang, thủy chung chỉ có thể chịu đựng không rên một tiếng.

Khoảnh khắc ấy kéo dài đến không thể dài hơn, khiến người ta phảng phất có ảo giác rằng thống khổ sẽ vĩnh viễn không qua đi.

Đột nhiên, một con tiểu trùng bện bằng cỏ xiêu xiêu vẹo vẹo khập khiễng nhảy đến trước mặt y, không biết là ai làm mà có thể thô đến thiên địa kinh quỷ thần khiếp như thế, ngay cả đầu và đuôi cũng chẳng phân rõ.

Chính bản thân tiểu trùng cũng thường xuyên không biết nên đi phương hướng nào, đành vung vẩy bốn cái chân không đều, dùng hết tứ chi mà ủi Thi Vô Đoan.

Nhưng mà… trùng gì mới có bốn chân?

Thi Vô Đoan sửng sốt hồi lâu, chậm rãi ngồi dậy, mặc cho vật mới mẻ bốn chân kia nhảy lên đùi. Sau đó y thấy, ở nơi không xa có một người đứng đó, người nọ dường như hơi mất tự nhiên, chẳng biết làm thế nào cho phải, bắt gặp ánh mắt y liền cuống quýt dời tầm nhìn, giây lát sau lại không nhịn được nhìn qua.

Y lặp lại động tác chẳng hề có ý nghĩa này không biết bao lâu, rốt cuộc mới lấy đủ dũng khí, dùng giọng điệu nghiêm túc dị thường, gượng gạo nói: “Ngươi… cười cái đi?”

Chương 69: Ngọn đèn thứ tư (2)

Thời gian giống như đã đảo ngược một vòng, trở về hai mươi năm trước, thiếu niên nho nhỏ trong sơn động nhón tiểu trùng bằng cỏ, chơi xấu mà nói: “Ôi ôi, Tiểu Ly Tử, cười cái đi.”

Họ từng hồn nhiên như vậy.

Một người giống như tờ giấy trắng, không hề có tâm sự, chẳng hiểu gì hết, một người trong lòng chỉ có chút hỉ bi nhỏ như vậy, được tiểu gia hỏa kia ở bên ngoài gọi một tiếng là phiền não gì cũng mất sạch.

Nháy mắt ấy, Thi Vô Đoan phảng phất có ảo giác kỳ dị, dường như hết thảy đều chưa từng phát sinh, ai cũng chưa từng chảy nhiều máu như vậy, ngực ai cũng chưa có vết sẹo đỏ thắm như chu sa kia, gặp mặt mang máng như hôm qua, xa xa gọi một tiếng tiểu danh, là có thể nắm tay đi ra ngoài, rong chơi giữa sơn thủy.

Con người ta… rốt cuộc vì sao mà phải lớn lên?

Nếu có thể vĩnh viễn sống ở thời ấu niên, phải chăng sẽ không có sầu lo, không có thù hận, không có xung đột với cả thế đạo nhiều và dữ dội như vậy, sẽ không gánh vác trên lưng lắm đến thế, không cần cùng người từng thân mật khăng khít, sóng vai ngủ dưới đại thụ mỗi người mỗi ngả, đao binh chĩa vào nhau?

Phải chăng muốn chạy là có thể chạy, muốn nhảy là có thể nhảy, toét miệng là có thể cười to, mỗi ngày đều có thể tràn ngập hiếu kỳ, tràn ngập khoái lạc mà sống tiếp, vì một số việc nhỏ nhặt không đáng kể mà phiền não?

Phải chăng, đừng hiểu nhiều như vậy thì tốt rồi?

Đồ ăn nếu còn thừa, dăm ba hôm là phải mọc nấm, trái cây nếu nhét dưới đất, hai ngày là thối, nước trà để bên ngoài, qua đêm là không thể dùng nữa.

Lòng người cất trong bụng mấy chục năm, chẳng lẽ cũng sẽ thối rữa, biến chất… thậm chí hoàn toàn thay đổi?

Thi Vô Đoan cố gắng vài lần, khóe miệng máy móc nhếch lên lại hạ xuống, nhưng thủy chung không thành nụ cười, giây lát sau y rốt cuộc thấp giọng nói: “Ta không cười được.”

Bạch Ly thăm dò tiến một bước, phát hiện Thi Vô Đoan không hề phản đối, lúc này mới như động vật nhỏ đi vào địa bàn không thuộc về mình, gần như nơm nớp lo sợ mà lại gần, mãi cho đến trước mắt Thi Vô Đoan, mới chậm rãi ngồi xổm xuống, cùng y bốn mắt nhìn nhau.

Thi Vô Đoan đột nhiên cảm giác được “huyết thống và hồn phách trở về” là gì, sao có thể như Chấp Diệp đại sư nói, khiến người ta tê tâm liệt phế rồi thoát thai hoán cốt, y phát hiện ánh mắt Bạch Ly đột nhiên trở nên trong veo khác thường, vẻ bạo ngược thoạt nhìn khiến người ta kinh hồn táng đảm bỗng nhiên đều không thấy nữa, như tiểu hồ ly tính tình hơi không tốt nhiều năm trước trong sơn cốc kia, có sự yêu ghét thuần túy nhất.

Sự chấp nhất trong ánh mắt ấy giống với Ma quân, nhưng sự ôn nhuận và trong veo lại như là con thỏ đôi mắt đen láy kia.

Bạch Ly hỏi khẽ: “Ngươi làm sao vậy?”

Thi Vô Đoan đột nhiên quay đi, chỉ cảm thấy trong dạ dày quay cuồng một cơn, phảng phất đau đớn như thiêu đốt trong ngực bụng vừa nãy còn chưa qua đi, khó chịu đến mức cơ hồ trước mắt tối sầm, y lại chỉ ôm chặt lấy ngực mình, không rên một tiếng.

Bạch Ly nhẹ nhàng nắm lấy tay y, một cánh tay khác vòng qua lưng, ôm hờ vai y, như là không dám lỗ mãng, trong lúc đó thoáng chần chừ một chút.

Nhưng Thi Vô Đoan lại đột nhiên vùi đầu xuống, gục đầu lên ngực người nọ, chẳng ai thấy rõ nét mặt y.

Sau đó Bạch Ly nghe thấy y cười khe khẽ.

Tiếng cười kia đến cuối cùng lại có chút đáng sợ, pha lẫn sự lạnh lẽo không nói nên lời, dường như kết vụn băng, đóng băng hết trong trong ngoài ngoài.

Hỉ cực mà khóc, bi cực mà cười.

Trăm mối cảm xúc ngổn ngang, chẳng biết làm sao cho phải, chỉ có một tiếng cười thảm. Tất cả ủy khuất của hai mươi năm phong đao sương kiếm lẻ loi độc hành nằm hết trong đó, hóa ra cả đời này, kỳ thật có thể khổ như vậy, khổ đến tột cùng, không thể nói được.

Không người để nói, không chỗ để kể, chỉ có thể giả vờ vững vàng bất động, từ đầu đến cuối.

Bạch Ly thở dài, cảm thấy hình như mình đã làm sai, hoặc là bị lão hòa thượng trông không tốt đẹp kia lừa rồi – nụ cười này của Thi Vô Đoan, quả thực túm tim y lên mà treo giữa không trung, vô luận thế nào cũng chẳng rơi xuống được.

Y ôm chặt lấy Thi Vô Đoan, giữa tứ dã mênh mang, nơi vết chân hiếm đến, ôm lấy người nọ như nương tựa lẫn nhau… Dường như y đã không còn là Ma quân thân phận xấu hổ, người nọ cũng chẳng phải là Thi lục gia xuất quỷ nhập thần.

Chẳng biết bao lâu sau, Bạch Ly cảm thấy ngực không biết từ khi nào đã bắt đầu ướt đẫm, chất lỏng ấm áp xuyên thấu qua y phục, dán lên ngực y.

Khi y muốn cho Thi Vô Đoan khóc, Thi Vô Đoan luôn đáp bằng nụ cười lạnh, hiện giờ y muốn chọc cười người nọ, lại chọc khóc mất tiêu.

Tâm tư Bạch Ly chẳng biết đã bay tới nơi xa nhường nào, trong lòng ôm người kia, ngẩng đầu nhìn nơi xa xăm, trong nháy mắt mù mờ cực kỳ. Y nghĩ, ta đã làm cái gì thế? Mấy năm nay, đều đang tranh giành những gì đây?

Bảo tọa chí tôn hoặc uy danh vô địch, đều như là một trò cười nhàm chán.

Chỉ có cuối cùng của cuối cùng, khi vết thương chồng chất mà dựa vào nhau, rốt cuộc mới được yên tĩnh giây lát, động cũng chẳng nỡ động một chút, đắm chìm trong sự yên tĩnh như thế, phảng phất ngồi đó, là có thể đợi đến khi nhìn thấy trời tàn đất tận vậy.

Ta biết ta sai rồi, Bạch Ly nghĩ thầm trong lòng, ôm Thi Vô Đoan chặt hơn – nhưng đồ khốn nhà ngươi, sao lại cố chấp như vậy chứ? Ngươi thì không sai sao? Ngươi có dám cúi đầu một lần không?

Sau đó y cúi đầu, vai động động khe khẽ, mặt Thi Vô Đoan theo động tác của y hơi ngẩng lên, chẳng biết từ khi nào lại ngủ thiếp đi.

Y dường như đã kiệt sức, nhưng vẫn nhíu mày rõ chặt, cơ hồ lưu lại đó một đường thâm căn cố đế.

Vừa nhìn biết ngay chẳng có mộng đẹp gì, Bạch Ly nhẹ nhàng giơ ngón tay vuốt bằng vùng chân mày của y, trong lòng thầm nghĩ, người thẹn với lòng mới không mơ thấy mộng đẹp, ngươi từ nhỏ thông minh như vậy mà không hiểu được đạo lý này sao? Hoặc giả hiểu được… chỉ là không muốn thừa nhận nhỉ.

Bạch Ly nhớ tới lúc nhỏ, mỗi một lần hai người tranh cãi, đều là Thi Vô Đoan cúi đầu trước, cho dù mình biến thành tiểu nữ hài lừa gạt như vậy, y cũng chỉ một câu đã tha thứ ngay.

Vậy thì… lần này nên đến phiên ta nhường ngươi một lần đi.

Bạch Ly chậm rãi ngửa ra sau, nằm trên cỏ, để người nọ dựa được thoải mái hơn một chút.

Y nhắm mắt lại, trong lòng vẫn chua chua ngọt ngọt mà thầm nghĩ – mẹ kiếp, chuyện này mà cũng phong thủy luân chuyển sao?

Sau đó khóe miệng Bạch Ly không thể ức chế mà hơi nhếch lên, ánh dương ấm áp chiếu lên mặt y.

Kỳ thật cũng không có gì – Bạch Ly nói với mình, ít nhất ta có thể thoải mái mà nở một nụ cười với mình như vậy, không phải cũng tính là lời rồi sao?

Thi Vô Đoan mất khống chế, lửa y đốt lại không hề thoát ly quỹ đạo thiết kế sẵn, ngọn đèn thứ tư trên đại lục này đã mượn tay Hạ Đoan Phương bố trí xuống – đó là yếu đạo nam bắc Đả Cốc đạo.

Đây còn là quan đạo năm đó Thái Tông Hoàng đế xây dựng khi tại vị, từ đế đô Bình Dương phía tây vòng qua Tam Dương quan, qua Hồ Châu, Lan Châu, cho đến Hoài Trung, xuyên suốt nam bắc, vận lương tống binh đều phải đi qua đường này, trên đường qua Từ Nam, Tam Dương quan, Chu Châu ba đại doanh đóng quân, dọc đường đề phòng nghiêm ngặt, lại thêm giáo tông, cam đoan dù đại tai đại nạn hay hưng binh ở đây, cũng khiến cho Đả Cốc đạo không bị cắt đứt, trừ phi thành trì một bên bị chiếm lĩnh, nếu không đường sá nhất định bình thường, tuyệt khó phá hoại.

Muốn qua quan đạo, văn điệp thông quan các loại phải đủ hết, nếu không nhẹ thì bị nghiêm tra, nặng thì hạ ngục.

Mà lúc này Mật Tông Trâu Yến Lai bị tội, bị Hoàng đế điều đến Tây Bắc, chính là tuyến Đả Cốc đạo, phải chung đường với Trương Chi Hiền, đi thu dọn hỗn loạn nơi đó.

Hôm ấy hắn rời khỏi là một ngày diễm dương mười dặm, không ai tiễn, thậm chí không ai biết, hắn lặng lẽ mang theo một tờ thánh chỉ, một chiếc đơn xa chậm rãi đi trên cổ đạo bụi mù lởn vởn.

Rất nhiều người từng kỳ vọng vào hắn, cho rằng hắn là một anh hùng, hắn từng bày mưu nghĩ kế, tính toán quyết thắng ngàn dặm, lại phát hiện, anh hùng cũng cần thời cuộc thành toàn.

Một người rốt cuộc có thể khuất phục tới mức độ nào đây?

Mỹ đức không ai biết, hay là… vừa mới muốn đại triển hoành đồ thì đã bị bẻ gãy cánh?

Chẳng ai biết nháy mắt ấy trong lòng Trâu Yến Lai đang suy nghĩ gì, hắn chỉ không nói không rằng ngồi trong xe với khuôn mặt đầy râu ria, ngỡ ngàng nhìn nóc xe tròng trành, phảng phất ngay cả phẫn nộ và hậm hực cũng không phát ra được, một hơi trút hết, dường như chẳng thể thở nổi nữa.

Không biết qua bao lâu, nam nhân từng ở trên núi cao tính kế vạn ngàn thần ma này đột nhiên động một chút, mắt xoay qua bên cạnh, giống như là thình lình sống lại vậy.

Sau đó hắn trầm trầm mở miệng hỏi: “Đến nơi nào rồi?”

Xa phu cẩn thận hồi đáp: “Hồi đại nhân, chúng ta đã rời khỏi cảnh nội Từ Nam, về phía tây Tam Dương quan, sẽ lập tức vào cảnh nội Cát An.”

Đã ra khỏi Tam Dương quan, Trâu Yến Lai đột nhiên dùng tay bưng mặt, thình lình phát ra một tràng cười, tiếng cười đè rất thấp, dường như mắc trong họng, thanh âm càng lúc càng khàn, cuối cùng lại có chút như đứt hơi khản tiếng. Đang cười thì nước mắt rơi xuống, chảy ra theo kẽ ngón tay, vừa mặn vừa đắng.

Chim còn chưa hết, cớ sao đã cất cung tốt?

… Nguyện thiên tử thánh minh triều ta vạn tuế vạn tuế, vạn vạn tuế.

Đúng lúc này, xe ngựa đột nhiên dừng lại, cả người Trâu Yến Lai suýt nữa đập lên cửa xe, bên ngoài truyền đến tiếng ngựa hí chói tai và tiếng kêu to có chút kinh hoảng của xa phu.

Trâu Yến Lai định thần, miễn cưỡng kìm nén cảm xúc, trầm giọng hỏi: “Chuyện gì vậy?”

Qua một hồi lâu, tiếng một thị vệ mới từ ngoài cửa xe truyền đến, người nọ nói: “Đại nhân, chỉ sợ phía trước đã xảy ra chuyện.”

“Cái gì?” Trâu Yến Lai xốc màn xe bước xuống, vừa mới lộ diện, lập tức bị một con đại điểu quỷ dị sượt qua đầu, hắn hoảng sợ, vội cúi đầu né, chỉ thấy đất trời đen kịt, không thấy trăng sao, vừa nãy vẫn là mười dặm diễm dương, lúc này lại đột nhiên tối sầm, đại lôi liên miên vang lên từ chân trời, phi điểu cổ quái toàn thân đen sì, nhìn kỹ mới thấy lại là quạ đen sinh ra để ăn thịt thối, lượn vòng không đi, đáng sợ vô cùng.

Trâu Yến Lai thầm run sợ, phản ứng đầu tiên là Đả Cốc đạo đã xảy ra chuyện, song giây lát sau hắn liền phản ứng được, minh bạch Thi Vô Đoan bị Tống A đại tướng quân ngăn trở, kỳ thật không vươn tay đến nơi này, hắn sửng sốt một lát, không biết đó là thủ thuật che mắt gì, nhưng trong lòng hiểu rõ là nhằm vào mình.

Đột nhiên tiếng nổ tung vang lên sau lưng, Trâu Yến Lai quay phắt đầu, lại phát hiện thị vệ và xa phu đều không thấy đâu, ngay cả ngựa kéo xe cũng chẳng thấy bóng dáng, giống như những vật sống đó chưa bao giờ tồn tại vậy.

Thi Vô Đoan quả nhiên đuổi tận giết tuyệt người trong giáo tông, Trâu Yến Lai cười gằn một tiếng, cầm bảo kiếm tùy thân, rảo bước đi về hướng tây bắc – trận pháp này hắn từng gặp qua, là một tiểu hoạt trận, tên là Lũy đệ tiểu trận.

Chương 70: Ngọn đèn thứ năm

Tây Bắc nguyên bản núi cao, lúc này biến thành bình nguyên nhìn qua là rõ hết, biên giới mơ hồ trên tuyến trời đất nối liền, không hề nhấp nhô. Dõi mắt có thể nhìn thấy nơi cực xa, rồi lại không nhìn thấy gì hết… bởi vì căn bản chẳng có gì cả.

Người đứng bên trong, dường như vĩnh viễn không đi được đến cuối, trời đất bao la này, sinh tử đều phảng phất chật hẹp một đường mà ngừng, huống chi cuộc đời nhấp nhô, huống chi nhân thế vinh nhục.

Trâu Yến Lai ra sức cắn đầu lưỡi, sự tỉnh táo trong nháy mắt như hồi quang phản chiếu, nhanh chóng bị vùi lấp.

Lũy đệ tiểu trận, tuy rằng tên là tiểu trận, nhưng trong đó một li là một tầng, một li nữa liền lấy bội số mà chồng lên, trong một tấc, có thể tới vô cực.

Trâu Yến Lai nghỉ chân, rút bội kiếm bên hông, quỳ một gối mà ghim chặt trường kiếm kia xuống đất.

Chuôi kiếm hướng xuống, hơi rung rung, một làn gió túc sát chẳng biết từ chỗ nào thổi tới, khiến cho chỗ dừng kiếm kia giống như mộ phần, trên mặt đất tĩnh mịch truyền ra thanh âm nho nhỏ như tiếng gió, xung quanh càng có vẻ trống rỗng hơn.

Trâu Yến Lai day ấn đường, trong lòng thầm nghĩ, nếu không biết số lũy đệ, chẳng phải phiền toái? Một nơi rộng như thế, Thi Vô Đoan rốt cuộc sẽ dùng số nào?

Nhưng mà Thi Vô Đoan không hề để hắn đoán quá lâu, ngay khi hơi đứng yên, đột nhiên một luồng kinh lôi đánh xuống cuối phương hướng tây bắc, liên tục bổ xuống đất. Cả đại địa chấn động, một khe nứt sâu hoắm tựa như thủy triều từ phương xa tràn đến, vừa vặn sượt qua thân thể Trâu Yến Lai.

Quét ngang cả bình nguyên bằng sức mạnh như bẻ gãy nghiền nát.

Rồi tiếng gió kiếm quỷ dị đình chỉ, một lát sau, cuồng phong từ khe nứt dâng lên, mang theo mùi tanh mặn sâu trong đại địa, dường như sự phẫn nộ của nơi sâu nhất bị mồi lửa nhen lên.

Bị vạn vật giẫm dưới chân, đại địa trầm tịch ngàn vạn năm đột nhiên nổi giận, tất cả mọi thứ trong áp lực đều biến thành càng lúc càng hỗn loạn, có một ngày đẩy ra mọi ngọn núi, giũ rơi tất cả tuyết, cho dù biến bản thân thành thương tích chất chồngcũng phải gầm thét ra.

Trâu Yến Lai bị gầm thét thâm trầm như vậy chấn động, trợn mắt há mồm nhìn hết thảy, cảm thấy mình đột nhiên biến thành một hài tử không biết làm sao, dưới thanh âm ầm vang và cuồng phong đánh xuống đó, như một con phù du có thể bị thổi đi bất cứ lúc nào.

Đầu gối đột nhiên mềm nhũn, hắn quỵ xuống đất, phảng phất trong minh minh có một lực lượng đang đè cổ hắn, ra sức đè hắn xuống, bắt hắn quỳ bái cái gì đó.

Sau đó đại hỏa bùng lên, vô số bóng người hiện lên bên trong, giống như đột nhiên bỏ thêm vô số oán linh trên bình nguyên trống trải, họ như là vỏ sò bị sóng biển tận thế cuốn vào, bỗng nhiên nam bắc, không biết nên rẽ phương nào, hệt như một đám lục bình.

Nhưng giờ đây, những lục bình này tụ tập một chỗ, rốt cuộc khiến cả mặt biển đều biến sắc, mỗi người họ gương mặt mơ hồ, không biết nam nữ lão ấu, phảng phất chỉ là một cái bóng, chợt hiện, lại chợt biến mất, hóa thành nhiên liệu cho đại hỏa kia.

Trong khoảnh khắc từ sinh đến tử, sử xanh rõ nét – bắt đầu từ cuộc đại chiến kéo dài này, bắt đầu từ khi triều đại kiến lập, bắt đầu từ khi tiền triều sụp đổ, bắt đầu từ khi lão nhân râu tóc bạc trắng đầu tiên ở dưới đèn viết chữ đầu tiên trên tấm thẻ tre đầu tiên, bắt đầu từ khi trời sinh vạn vật cỏ cây, bắt đầu từ khi khai thiên lập địa, vũ trụ hồng hoang tách ra từ hỗn độn…

Cuối cùng tất cả đều kết thúc bằng tro tàn.

Phảng phất cả đời chỉ vì bốc cháy một lần này, chỉ vì hiến tế một lần này.

Đại hỏa dần dần bao vây cả đất trời, Trâu Yến Lai mở to hai mắt, hắn bỗng nhiên minh bạch – đây là Âm thi hỏa!

Năm ấy nhân lúc chí âm Thái Âm sắp khuyết, Trâu Yến Lai tự mình ở ngoài thành Cổ Cát thi pháp đốt Âm thi hỏa, lấy những thi cốt người chết ở bãi tha ma ngoài thành làm chất dẫn, đốt ra một Ma quân tuyệt thế.

Trường đại hỏa kia trực tiếp dẫn phát một cuộc chiến đấu và giằng co kịch liệt nhất mấy ngàn năm qua, khiến cho trong thành bay ra bông tuyết màu xám.

Nhưng không mạnh tay như vậy.

Trong lòng Trâu Yến Lai bỗng nhiên sinh ra loại ảo giác nào đó, hắn nghĩ, Âm thi hỏa này của Thi Vô Đoan rốt cuộc dùng cái gì làm dẫn đây? Chẳng lẽ y thật sự dùng sấm sét bổ A Tỳ địa ngục ra, thả tất cả tiểu quỷ âm ty lên mặt đất, cùng làm nhiên liệu hay sao?

Trận pháp thiên hạ… liệu có hữu giả có thể vượt Thi Vô Đoan. Nếu trên đời có thần tiên thật, thần tiên có năng lực như y chứ?

Lật tay sáng thế, úp tay hủy đi.

Đốt Âm thi hỏa trên Đả Cốc đạo… Trâu Yến Lai giật mình, đột nhiên hiểu được, đây là Thi Vô Đoan muốn “lấy mâu của ngươi, công thuẫn của ngươi”, tam đại giáo tông cùng canh phòng Đả Cốc đạo, hiện giờ giáo tông suy tàn, nhưng mà “hạch” do từng thế hệ các tiền bối cao nhân lưu lại trong giáo tông không hề cải biến.

Họ vẫn sẽ cùng cả sơn hà sinh ra loại cộng minh kỳ dị nào đó, giống như đã tan vào cốt huyết của cả hà sơn, chỉ cần một điểm sinh cơ bé nhỏ này ùn ùn không ngừng thì Đả Cốc đạo sẽ không đoạn.

Thi Vô Đoan lại tiệt Đả Cốc đạo tại Tam Dương quan, bố trí Lũy đệ tiểu trận, đem không gian gang tấc mở rộng đến bước không ngừng không nghỉ, sau đó đốt một trận Âm thi hỏa không tiền tuyệt hậu. Tất cả hồn phách lang bạt kỳ hồ thậm chí chết trong chiến hỏa và loạn thế toàn bộ cuốn vào đó, người chết lấp đường, oán khí ngút trời, nơi đại hung như vậy, tất nhiên khiến giáo tông bị phản phệ.

Vì sao là Tam Dương quan?

Bởi vì phía bắc Tam Dương quan không đến trăm dặm là Đại Bồ Đề sơn, phía tây không qua ba con sông, là Cửu Lộc sơn, về nam không qua một dãy núi, là đến Mật Tông cốc.

Không… Trâu Yến Lai kích động hẳn lên, Đả Cốc đạo giống như tâm mạch của triều đình, tâm mạch bị cắt đứt, thì nam bắc không thông, phương nam đại quan diệt hết, lúc này Bồ Đề sơn bị vây, Tây Bắc rối ren, còn cái gì có thể cứu vớt xã tắc đã vô phương cứu chữa này?

Không!

Hắn đứng bật dậy, gân đầu gối nhũn xuống đột nhiên kéo căng, gió lớn thổi tung búi tóc, mái tóc hơi xác xơ bay trên không trung, giống như lão Nhan thái phó hai mươi mấy năm trước trên tế đài, hắn cầm chặt chuôi kiếm ghim dưới đất, ánh mắt hoảng loạn sợ hãi thình lình kiên định hẳn, như vô số người tuẫn đạo.

Sau đó, vị Trâu đại nhân xuất thân Mật Tông mấy phen lên xuống trong quan trường này một tay chỉ trời, kết thành pháp ấn. Hắn nhắm mắt lại, một chút ánh sáng kết thành trên không trung nhanh chóng bị phong hỏa vô biên đánh cho tan tành khói bụi.

Trâu Yến Lai không bị lay chuyển, kiếm đâm xuống đất sâu thêm ba tấc, giẫm mặt đất ra một dấu chân thật mạnh, khiến cho cả người hơi lõm xuống, vẫn rì rầm niệm tụng chú văn không ai nghe thấy.

Muốn đóng một cái chêm trong thế giới phong hỏa mù trời này, lấy thân xác mình hoãn lại lực thêm vào của giáo tông cổ xưa.

Chú văn chưa ra miệng đã vụn vỡ, pháp ấn chưa kết thành đã bị thổi tan, Trâu Yến Lai giống như một con nhện bền bỉ giăng tơ trong cơn lốc này.

Máu tươi chậm rãi chảy xuôi xuống từ khóe miệng, lưng hắn vẫn thẳng tắp. Như là kiến càng đang đẩy đại thụ sắp đổ.

Quốc gia này từng dưỡng dục hắn, từng cho hắn thanh danh hiển hách, vinh diệu vô thượng, đặc quyền cao không thể với, cũng từng cho hắn một gậy vào đầu, ném hắn từ trên mây xuống bùn lầy, từng nghi ngờ lòng trung thành của hắn, nghi ngờ máu và mồ hôi của hắn.

Hiện giờ, hắn biết rõ không thể làm, lại vẫn một mình tử thủ trên quan đạo chạy dài nghìn thu muôn đời này.

Tuy cửu tử, mà vẫn chưa hối.

Sau đó hắn rốt cuộc bị phong hỏa to lớn bao phủ, sau khi sức mạnh dữ dội kia va chạm, trên mặt đất chẳng còn gì cả, mặt đất chỗ Đả Cốc đạo hở ra cao trăm trượng, chính giữa lưu lại một khe sâu không nhìn thấy đáy.

Nhưng mà bên cạnh vách núi kia, lưu giữ một đôi dấu chân người, lại sâu đến ba thước.

Trong một đêm bãi bể nương dâu, đến đây thì con đường cuối cùng nối liền tam đại giáo tông rốt cuộc sụp đổ, ngọn đèn vẫn đốt ở “hữu từ” trong Đại Thừa giáo tông đột nhiên tắt ngấm, một làn khói nhẹ rơi xuống.

Tiểu đệ tử thêm dầu giật thót, sửng sốt giây lát rồi sấp ngửa chạy ra ngoài, dọc đường kêu lên: “Không tốt, không tốt…”

Lại không cẩn thận ngã vào lòng một lão nhân, y lăng lăng ngẩng đầu nhìn đại tông chủ bình nhật thần long kiến thủ bất kiến vĩ của họ, Chấp Diệp đại sư nhìn ngọn đèn đã tắt, lại cười khổ ra tiếng mà nói: “Ta biết, chung quy có một ngày, trên đời không còn thứ nào có thể ngăn cản bước chân y nữa.”

Tiểu đệ tử không rõ nguyên cớ nhìn ông ta nói: “Tông chủ…”

Chấp Diệp đại sư đổ dầu trong ngọn đèn ra, nói: “Trên đời này, có phương pháp Âm thi hỏa có thể xem hồn phách của nghìn thu muôn đời thành nhiên liệu? Ta hiện giờ mới hiểu rõ.”

Tiểu đệ tử nói: “Thỉnh giáo tông chủ.”

Chấp Diệp đại sư nói: “Đó là mộ đế vương trong long mạch – các đời đế vương triều ta long ngự tân thiên, làm đại lễ đều chỉ chôn áo mũ, mộ đế vương chân chính vẫn là bí mật của triều đại. Bảo tọa vương quyền, chính là do máu tươi và vô số hồn phách chồng chất mà thành, Âm thi hỏa dùng thân thể chân long đốt ra, đương nhiên có thể khiến giáo tông bấp bênh không thôi.”

Tiểu đệ tử hỏi: “Đã là bí mật, thì sao lại bị người ta phát hiện?”

“Là sơn đăng.” Chấp Diệp đại sư nói, “Năm đó bảy ngọn sơn đăng đốt lên, để thỉnh mệnh thương thiên, vay vận bảy mươi năm. Biện pháp sơn đăng tá vận chính là Mật Tông và Huyền Tông cùng nhau bảo tồn, dù là Nhan Hoài Phác và đạo tổ những người này, cũng chẳng qua là biết như thế nhưng không biết nguyên do, thiên biến vạn hóa bên trong, có thể tiết lộ toàn bộ vận thế trăm ngàn năm qua của triều ta, càng khỏi cần nhắc đến mộ đế vương chí quan trọng kia.”

Tiểu đệ tử ngơ ngác hỏi: “Người làm phép hiểu thấu được sao?”

Người làm phép hiểu thấu được sao?

Chấp Diệp đại sư thở dài, lại mập mờ nước đôi: “Ai biết y có hiểu thấu hay chưa?”

Long mạch hủy, yếu đạo đoạn, ngọn đèn thứ tư và thứ năm phân biệt đốt lên – ngươi muốn mượn lực hậu thổ để làm ngược hoàng thiên sao?

Chấp Diệp đại sư chậm rãi quay người đi về thiền phòng của mình, trong lòng bỗng nhiên thầm nghĩ, hóa ra trên đời thật sự có người, trời sinh là ứng kiếp mà ra.

Chương 71: Trở về

Trên Đả Cốc đạo xuất hiện dị tượng, công văn khẩn cấp tám trăm dặm chưa đến mấy ngày đã truyền vào triều, Hoàng đế bệ hạ đang “thả lỏng một khắc” sau khi cùng các cung phi ăn cơm chiều, đương trường cho vô số hoàng tử long tôn chạy đến, điều này khiến Hoàng đế nôn đến ba ngày không ăn nổi cơm… Đương nhiên cụ thể sự kiện Đả Cốc đạo hay là sự cố nhỏ nửa đêm thầm thì khi không người chuyện nào khiến tâm tình y buồn nôn hơn một chút thì không thể kiểm tra.

Trong triều văn võ bá quan vốn là chín người mười ý, vừa nghe thấy việc này thì bất kể có hiểu hay không đều sôi sùng sục hệt như chợ chó nổ nồi, ồn đến mức cũng chẳng biết ai là cô dì chú bác của ai.

Tin tức Trâu Yến Lai Trâu đại nhân chết không hề dấy lên một chút gợn sóng nào, đại khái một số người chỉ có mệnh hiển hách khi còn sống, cả đời bất kể luồn cúi như thế nào, chờ một ngày kia hắn chết thì chẳng còn ai nhớ đến nữa.

Tin tức này vẫn là do thúy bình điểu truyền vào tay Thi Vô Đoan, được một ánh mắt thù địch của y mà ngừng lại.

“Ồ, Trâu Yến Lai chết rồi?” Thi Vô Đoan nói như vậy, thúy bình điểu khi bay vào đánh đổ bát nước trên bàn y, chủ nhân bắt nó ngồi bên cạnh bàn vẩy nước lạnh, lúc này đang vỗ cánh chải lông – từ sau khi con thỏ chết, nó dở chết dở sống trầm tịch rất lâu, nhưng khoảnh khắc nhìn thấy Bạch Ly trở về liền sống lại, dường như nó cũng biết người trước kia vẫn khiến nó sợ hãi chính là đồng bọn nhỏ đã bầu bạn vô số năm tháng.

Mạnh Trung Dũng và Lý tứ nương đang ngồi bên cạnh chờ nghe cao luận của y, ai ngờ Thi Vô Đoan giống như đã quên mất việc này, hết sức chuyên chú chùi tay áo nước nhỏ giọt.

Mạnh Trung Dũng rong ruổi chiến trường mười mấy năm, sớm không còn là thanh niên lỗ mãng lúc trước ngồi xổm trong viện, trộm chia một bát mì với thiếu niên Thi Vô Đoan, khuôn mặt anh tuấn tự nhiên liền có sự túc sát lẫm liệt, tuy rằng vẫn hùng hùng hổ hổ không câu nệ tiểu tiết, nhưng đã biến thành một nam nhân nguy hiểm mà sắc sảo, không còn giống một động vật cỡ lớn đơn thuần.

Thi Vô Đoan hành tung quỷ bí, mấy năm qua càng tụ ít xa nhiều với bọn họ, nhưng dù cho như thế, Mạnh Trung Dũng mỗi lần vừa thấy bộ dáng nghiêm túc đánh rắm một phát cũng phải cẩn trọng này của y, liền cảm thấy trứng đau không thôi.

May mà có mặt Lý tứ nương, hắn không dám mở miệng nói bậy, chỉ đành làm bộ nhân mô cẩu dạng hỏi: “Ngươi mới vừa nói Trâu Yến Lai chết rồi, như thế nào vậy?”

“Rất tốt.” Thi Vô Đoan tiếp lời, “Trâu Yến Lai vừa chết, Nhan Chân như đứt một tay, cao thủ Mật Tông trên chiến trường tổn quá nửa, ta cảm thấy chuyện này không tồi, có thể làm một bát mì để chúc mừng.”

Lý tứ nương nhíu mày, lúc này đã nghe ra ý tại ngôn ngoại: “Sao? Ngươi cảm thấy Hoàng đế kia phải tự nuốt lời, khởi phục Nhan Chân?”

“Điều đó cũng chẳng có gì cả, Hoàng thượng mà, đương nhiên là miệng vàng lời ngọc, nói không giữ lời.” Thi Vô Đoan dừng một chút, cúi mắt xắn tay áo mà nói tiếp, “Cho dù y không định khởi phục Nhan Chân, ta cũng đã gửi thư cho đại ca, thời cuộc bức bách, y không thể không khởi phục.”

Mạnh Trung Dũng hỏi: “Hoàng đế khởi phục ai, có quan trọng như vậy không?”

Thi Vô Đoan chậm rãi nhếch môi thành nụ cười lạnh, thong thả nói: “Không khởi phục Nhan Chân, ta lại phải lấy cái gì để một lưới bắt hết bọn họ đây?”

Y đứng dậy, khoanh tay mà đứng ngay cửa sổ, nhìn những đóa hoa mùa hè nở rộ rực rỡ khắp viện, trong lòng bỗng nhiên mở ra một bức đại đồ người khác quyết không nhìn thấy, cũng không tưởng tượng được, như là từ độ cao của các vì sao nhìn xuống thành trì nhân gian, tất cả trạm dịch, quan đạo, tường thành toàn bộ cặn kẽ ở bên trong.

Lúc còn là một thiếu niên trầm lặng, y từng âm thầm thề với mình như vậy, rồi có một ngày, phải cho thời đại chuyên quyền của giáo tông kết thúc trong tay mình, đến lúc đó mọi người đều có thể lựa chọn cách sống của bản thân, mỗi một người xuất thân hàn môn, hoặc là thời trẻ long đong, cũng có thể dựa vào nỗ lực của bản thân, trở thành trên vạn vạn người.

Những thuật mưu lợi trong giáo tông đó sẽ bị mọi người hiện tại điên cuồng sùng bái chúng quên mất, kẻ tập văn an bang, kẻ tập võ định quốc, họ sẽ cùng nhau giúp mảnh đất này càng thêm phì nhiêu, cho mọi người trên đó một cuộc sống tốt hơn.

Một ngày nào đó, thiên hạ mênh mông này sẽ biến thành như vậy.

Bắt đầu từ phong thư đầu tiên, mầm mống đã chôn xuống.

Thi Vô Đoan thầm nghĩ trong lòng, cứ để ta đẩy nó đi xa hơn một chút.

Những lời này không thể nói ra miệng, bởi vì còn có Hạ Đoan Phương, còn có tất cả kỵ binh tu đạo cùng chiến đấu hăng hái với các tướng sĩ trong quân Khăn Đỏ, đây là một nhiệm vụ nghìn thu muôn đời tích lũy từng tầng mới có thể hoàn thành, Thi Vô Đoan đưa tay đè song linh, trong lòng âm thầm nói với mình, không vội.

Lúc này, Thi Vô Đoan nhìn thấy người đứng dưới một gốc đại thụ ở nơi không xa – Bạch Ly. Y biết Thi Vô Đoan đang cùng Lý tứ nương và Mạnh Trung Dũng trao đổi chính sự của họ, cho nên chỉ đứng chờ xa xa chứ không hề đến quấy rầy.

Trên vai y đã rơi cả một tầng hoa trắng, chẳng biết là đợi bao lâu rồi, vừa vặn bắt gặp ánh mắt Thi Vô Đoan trong lúc vô ý quét qua, Bạch Ly liền lộ ra nụ cười an tĩnh, dường như chỉ cần nhìn thấy người nọ là có thể an tâm vậy.

Thi Vô Đoan còn chưa thể thích ứng với Bạch Ly đột nhiên xuất hiện sau khi mất tích rất lâu, chuyện này y còn chưa làm rõ, lại bị đủ các việc vặt cần qua tay y dời đi lực chú ý.

Vì thế lúc này đành phải nhanh chóng dời tầm mắt, bỗng nhiên có phần không biết nên đối mặt với Bạch Ly hiện giờ như thế nào.

Trước kia người nọ bất luận hành sự thế nào đều luôn như một đứa trẻ, đơn thuần lại chấp nhất, luôn cáu kỉnh đi đòi thứ không thuộc về mình, không chịu thỏa hiệp mảy may, còn mang theo một loại ích kỷ và cố chấp chẳng ngó ngàng gì, chưa từng để ý người khác nghĩ thế nào. Bạch Ly trời sinh chính là người như vậy, có huyết thống ma bạo ngược, ở cùng với yêu, bị giấu trong Thương Vân cốc sâu thẳm, chẳng hề có tâm cơ mà lớn lên.

Đó mới là Bạch Ly y quen thuộc, từng làm y thích, tức giận, thậm chí sinh ra thù hận, ẩn ẩn có cách nghĩ “nếu người này chưa bao giờ tồn tại thì không biết phải bớt được bao nhiêu phiền toái”.

Mà hiện giờ, Thi Vô Đoan phát hiện, tất cả ký ức của y với Bạch Ly, kỳ thật đều là hỗn loạn.

Tiểu hồ ly tinh sẽ vì một câu của y mà trái lòng lộ ra nụ cười kia, nam nhân sau lưng gánh ma ảnh nặng nề, mang theo chiếm hữu dục điên cuồng kia, ma vật trong đêm đại âm không chút lưu tình muốn lấy tính mạng y kia, địch thủ trên Đại Châu sơn kéo cung cài tên, một tên bắn vào ngực y kia.

Bạch Ly trong Ác Hỏa cảnh bởi vì hồn phách không toàn vẹn mà hỉ nộ vô thường lại thống khổ bất kham kia, cùng Bạch Ly bình tĩnh mà ẩn nhẫn trước mắt này, họ đều là Bạch Ly.

Con người ta luôn như vậy, lúc đối chọi gay gắt, đều cảm thấy mình vạn loại ủy khuất, chẳng có mảy may sai lầm, dù cho lòng biết thì cũng cậy vào tuổi trẻ khí thịnh mà tuyệt không chịu thừa nhận.

Mà lâu ngày, khi gút mắt kia đã phức tạp đến mức cắt không đứt, chỉnh còn loạn, một người đột nhiên cúi đầu, đơn phương cắt đứt sợi dây thừng chẳng biết đã kéo bao lâu, bên còn lại tất nhiên cũng sẽ không biết làm gì.

Ánh mắt Thi Vô Đoan dao động giây lát, rốt cuộc không nhịn được lại nhìn Bạch Ly một cái, phát hiện người nọ vẫn đang chăm chú nhìn mình, xa xa đối nhau, tựa như chưa bao giờ rời khỏi vậy.

Lồng ngực chết lặng nhiều năm đột nhiên nóng lên, có vị chua chát không nói nên lời trào dâng. Thi Vô Đoan nghĩ, nếu năm đó mình đừng cố chấp như vậy, đừng bởi vì y là Bạch Ly mà bới lông tìm vết, có thể khoan dung, nhớ tình bạn cũ một chút, có tình cảm một chút, nếu chưa từng đối đãi y như thế… với bất cứ ai cũng đều đề phòng đủ kiểu, nếu trong lòng thiếu một phần mưu tính, có thể nhìn y thêm một lần, biết y từng xảy ra chuyện gì, liệu có phải… những việc đó sẽ không phát sinh nữa?

Nhưng mà cho đến hôm nay, lại vẫn là y lặng lẽ trở về, dùng tư thái sám hối thu hồi máu thịt năm đó dưới cơn bi phẫn đã tự tay cắt bỏ, gần như hèn mọn mà tìm về hồn phách bám trên người súc sinh, trầm lặng cúi đầu trước.

Y vốn… là một người kiêu ngạo như vậy.

Thi Vô Đoan thầm nghĩ, đột nhiên rất khó chịu, hốc mắt bỗng cay cay, miễn cưỡng cúi đầu che giấu.

Lý tứ nương kỳ thật sớm nhìn thấy Bạch Ly, thấy y thần sắc lơ đãng, liền kéo Mạnh Trung Dũng mà nói: “Tiểu lục, ngươi hôm nay vừa mới trở về, thiết nghĩ ruổi xe vất vả cũng mệt rồi, sớm đi nghỉ ngơi đi, chúng ta không quấy rầy nhiều nữa.”

Thi Vô Đoan chậm nửa nhịp mới hồi phục tinh thần, Mạnh Trung Dũng ngáp xong một cái y mới “Ừm” một tiếng. Mạnh Trung Dũng thấy thế còn định nói gì đó nữa, lại bị Lý tứ nương lôi đi, hắn dường như hơi lấy làm lạ mà nhìn nam nhân chờ đợi dưới đại thụ kia, không biết lục đệ của mình lần này kiếm từ đâu về một người như vậy.

Hắn chưa từng mặt đối mặt giằng co với Bạch Ly, hơn nữa Bạch Ly dung mạo tuy rằng không thay đổi, khí chất quả thật khác xa, Mạnh Trung Dũng nhất thời lại không nhận ra, lúc bị Lý tứ nương kéo đi, từ xa xa nhìn thoáng qua, chỉ cảm thấy hơi quen mắt, nhưng không nhớ được là ai.

Mãi đến khi họ đều đi rồi, Bạch Ly mới từ dưới đại thụ đi ra, không nhiều lời mà vào nhà, chỉ thấy Thi Vô Đoan vẫn đang nhìn song linh ngẩn người, y cũng chẳng quấy rầy, cứ thế lẳng lặng đứng bên cạnh, giống một u linh như bóng với hình.

Đột nhiên, Thi Vô Đoan quay người lại, nói khe khẽ: “Tiểu Ly Tử…”

Tích tắc xưng hô rất lâu rồi không có ai gọi này từ miệng y nói ra, đôi mắt bình tĩnh đến mức có chút ảm đạm của Bạch Ly bỗng chốc sáng lên, giống như pháo hoa nổ tung trong đêm khuya tĩnh lặng, chói đến mức không mở được mắt, cũng khiến Thi Vô Đoan chẳng thể nói tiếp nửa câu sau.

“Ngươi đang gọi ta sao?” Bạch Ly dùng thanh âm dịu dàng quen thuộc đó, dường như có phần không dám tin mà bước về trước một bước.

Thi Vô Đoan nhìn dáng vẻ này của Bạch Ly, không biết vì cớ gì mà bỗng nhiên cảm thấy như có một mẩu chì rơi xuống lòng, nặng đến đau nhói, khiến y đột nhiên chìa tay ôm lấy Bạch Ly, bàn tay kề trên xương bả vai gồ lên sau lưng, dường như có thể chạm đến sự tiều tụy của người nọ.

Thi Vô Đoan nhắm mắt lại, trong lòng thầm nghĩ, tiểu hồ ly này, sao lại cố chấp như vậy chứ?

Chương 72: Cẩm sắt

Mỗi khi nhớ tới quá khứ gian nan của mình, Bạch Ly đều sẽ rất phẫn nộ. Đại khái bắt đầu từ khi sinh ra, y đã không hề có duyên phận với từ “vừa lòng đẹp ý” này.

Gian nan, đối với đại đa số mà nói, chỉ là một loại trong vô số cách sống, thông thường, lựa chọn một con đường gian nan hơn đa phần mọi người trên đời, cũng có nghĩa là sẽ được sinh mệnh phong phú hơn phần đa thế nhân.

Nhưng mà rừng lớn, chim gì cũng có, Bạch Ly lại không ở trong đây. Đôi lúc y cảm thấy, dù là trên trời giáng bánh xuống đập đầu mỗi người một cái thì cũng phải sót mất y.

Khả năng thật sự có người thời điểm sinh ra đã không được ông trời ưu đãi?

Chẳng ai có thể làm rõ món nợ rối tung giữa y và Thi Vô Đoan, chỉ sợ là bản thân Thi Vô Đoan giỏi tính kế nhất trên đời cũng khó mà làm rõ được, rốt cuộc là ai phụ ai nhiều hơn.

Duy nhất không khó nói chính là, đi đến bước như hiện giờ, họ cực kỳ bất hạnh… là lưỡng bại câu thương.

Bạch Ly đôi khi nhớ tới, sẽ có ảo giác rằng kỳ thật”Thi Vô Đoan” căn bản không tồn tại, phảng phất hết thảy đều là chấp niệm do y suy tưởng ra, cho dù là lúc y ôm người này, cảm giác ấm áp từ mạch máu đang chảy trên cổ đối phương chậm rãi truyền đến, đều dường như ngưng tụ thành một xúc cảm không chân thật lắm.

Hận người kia sao?

Bạch Ly chưa bao giờ là thánh nhân, người khác tổn thương y một phần, y phải đòi lại gấp năm, dù giờ này khắc này, nghĩ đến đủ loại hành vi của người nọ, từng chữ tru tâm, cũng có ý nghĩ hận không thể cắn chết y như vậy.

Nhưng mà có lẽ do một nửa huyết mạch và hồn phách thất lạc trở về, ý nghĩ này tuy rằng còn đó, song không điên cuồng nữa. Y rốt cuộc bình tĩnh trở lại, nhắm mắt nghiêm túc cảm thụ vòng tay gầy gò mà mạnh mẽ của người nọ, hồi tưởng đôi tay thiếu niên bẩn lem nhem mà mềm mại nhiều năm trước kia… Vì thế Bạch Ly nói với mình, tiếp tục hận nữa thì vĩnh viễn cũng chẳng có được y.

Thân xác và tâm hồn dường như đã tự động lựa chọn thay y.

Tâm phản loạn là một cây gai, đâm trên cột sống của người ta, khiến cho nó thẳng tắp một đường, có sức mạnh vô địch, có thể làm ra một phen sự nghiệp, bởi vì khi một người có khát vọng với thứ nào đó, dường như khát vọng của người sắp chết đuối với không khí, y sẽ trở nên mạnh mẽ đến khó tin.

Thế nhưng cuộc đời đằng đẵng, dựa vào cái này, là không thể sống tiếp.

Đời người như nước, cứng quá dễ gãy. Luôn có một số người, một số việc, là không thể không thỏa hiệp, luôn có một nháy mắt như vậy, vì thứ gì đó, người nổi giận đùng đùng hơn nữa cũng phải dừng lại, bình tĩnh giây lát, thu hồi gai quanh thân, tha thứ cho người khác một lần, cũng tha thứ cho chính mình một lần.

Chỉ có lúc này, mới phát hiện, hóa ra một trong những đầu sỏ bức mình đến tuyệt cảnh, chính là lòng mình.

Tay Thi Vô Đoan chậm rãi áp lên mái tóc Bạch Ly nằm ngoan ngoãn đằng sau, chúng chậm rãi chảy xuôi giữa kẽ ngón tay như nước, lòng y đang mềm lại trong sự đau nhói, giống như người lạnh cóng bước vào giữa vùng ấm áp, phải chậm rãi chịu đựng ngứa ngáy và đau đớn thời gian dài, gắng sức xoa bóp, mới có thể làm cho huyết dịch đã tạm dừng tuần hoàn một lần nữa.

Chẳng biết bao lâu sau y mới thở dài khe khẽ, gần như không thể nghe thấy mà nói bên tai Bạch Ly: “… Ta sai rồi.”

Bạch Ly thấp giọng đáp: “Ừm.”

Các vì sao bị trường thiên ngăn cách ra hai bên đi qua ngân hà không bờ bến kia, truy đuổi quang âm vạn năm, rốt cuộc đi đến điểm cuối, khoảnh khắc ấy bởi vì mệt mỏi mà sinh ra loại chột dạ trống rỗng nào đó, tất cả cảm xúc kịch liệt dâng trào, đều tựa như nước lặng ngưng trệ, chỉ khi nhìn kỹ mới có thể tìm được một hà đạo be bé, dòng nước ấy ngưng tụ thành một khe suối nhỏ, nhuận vật vô thanh mà chậm rãi chảy xuôi ra ngoài.

Thi Vô Đoan nhẹ nhàng buông y ra, thấp giọng hỏi: “Ngươi còn định trở về thành Bình Dương chứ?”

Khóe miệng Bạch Ly lộ ra một chút khổ sở, hỏi ngược lại: “Trở về… thành Bình Dương? Nơi đó thành nhà của ta từ lúc nào?”

Thi Vô Đoan quay người đi, ngồi trên chiếc ghế vừa nãy đám Lý tứ nương từng ngồi, nói: “Trâu Yến Lai đã chết.”

“Ta biết.” Qua giây lát Bạch Ly mới nói: “Ùng Ục biến mất rồi, đó là vật khế ước của ta và Mật Tông, người khế ước chính là Trâu Yến Lai, nó biến mất, người đầu kia chỉ sợ đã chết rồi.”

Thi Vô Đoan dường như nhớ tới điều gì, trầm ngâm không nói.

Bạch Ly lại đột nhiên nhất thời xúc động mà mở miệng hỏi: “Năm đó Mật Tông sử dụng mật pháp, thả ta ra khỏi Vạn ma chi tông, phong tam cảnh, tổn hủy Thương Vân cốc hầu như không còn, mà ta thì bởi vì nhân quả mà cột vào chung với quốc vận, cùng với bảy ngọn đèn kia.”

Tim Thi Vô Đoan đập thót, y ngẩng đầu nhìn Bạch Ly.

Y bởi vì thường niên kìm nén hỉ nộ không ra sắc mà hình thành thói quen nào đó, cho dù không muốn che giấu thì biểu cảm trên mặt cũng chậm hơn suy nghĩ trong lòng mấy nhịp, để không lộ ra là không hợp thời, y dứt khoát chẳng để gì trên mặt, ngũ quan tuấn tú luôn trình hiện ra loại thâm trầm trống rỗng nào đó.

… Cho dù giờ này khắc này y không muốn nhìn Bạch Ly một cách trống rỗng như vậy, lại giống như một dã nhân rất nhiều năm chưa từng nói tiếng người, đã chẳng còn theo kịp tốc độ mở miệng của người bình thường – y luôn không phản ứng được đến lúc này nên cười hay là nên nhíu mày.

Bạch Ly nhắm mắt, rốt cuộc nói ra câu nói như vết rách vắt ngang giữa hai người: “Đến lúc đó, ngươi cũng muốn giết ta sao?”

Như Cửu Lộc sơn Thanh thô, như Huyền Tông Khổ Nhược đại sư… Ngươi cũng muốn giết ta sao?

Thi Vô Đoan còn chưa kịp trả lời, Bạch Ly đã cười khe khẽ một tiếng mà nói: “Nếu là như vậy thì ngươi cứ việc nói thẳng, ta đã… không còn muốn đấu với ngươi nữa.”

Y hơi lộ ra một chút chán ghét: “Ta cảm thấy đủ rồi.”

“Ta không muốn giết ngươi.” Thi Vô Đoan đột nhiên mở miệng, ánh mắt y dừng trên chén trà đã lạnh, qua một hồi lâu trên mặt mới hơi lộ ra một chút tươi cười lững lờ đến muộn không dễ phát hiện, “Đại khái trước kia có đôi khi từng nghĩ như vậy, có điều… ta đã không muốn giết người nữa, hơn nữa không muốn…”

Y nhanh chóng chớp mắt một cái, hàng mi dài mà dày kia như khẽ gãi trong lòng Bạch Ly. Chỉ nghe Thi Vô Đoan thấp giọng nói: “Ta vẫn đang nghĩ cách, nếu…”

Y ngẩng đầu, dừng lại một lần nữa, may mà Bạch Ly không phải Mạnh Trung Dũng, cho dù Thi Vô Đoan nói một câu phải xẻ thành một trăm tám mươi mảnh thì cũng sẽ kiên nhẫn chờ đợi – cho dù thật sự đã đợi chờ quá lâu rồi.

“Nếu mọi sự đều kết thúc rồi, ngươi còn nguyện ý đi với ta chứ?” Sau đó Bạch Ly đợi được câu kia của y, Thi Vô Đoan nói bằng một ngữ điệu kỳ dị, từng chữ rất rõ ràng, trên âm cuối lại có một chút run rẩy khiến người ta không dễ phát hiện, loại run rẩy quen thuộc đó đột nhiên để Bạch Ly cảm giác được, kỳ thật người ngồi ở nơi không xa kia, là một dạng với mình.

Thi Vô Đoan tiếp tục nói: “E rằng không thể quay về nữa, e rằng không thể nhìn thấy những người khác, ở một nơi rất xa sống trọn kiếp này, ngươi cam tâm chứ?”

Bạch Ly nhìn y bằng một ánh mắt kỳ dị, lần này Thi Vô Đoan rốt cuộc không trốn tránh, y lẳng lặng để ánh mắt ổn định, đối mắt nhìn nhau, Bạch Ly liền cười rộ, khuôn mặt đẹp đến kinh người kia lộ ra một chút ánh sáng càn rỡ, hỏi: “Ngươi đang hỏi ta? Vì sao phải gặp người khác, hai ta những năm qua khổ bi, chẳng lẽ không phải đều là bởi vì ‘người khác’ mà ra sao? Ta có gì mà không cam tâm?”

“Nếu sức mạnh và thủ đoạn thông thiên của ngươi cũng không còn nữa?” Thi Vô Đoan tiếp tục hỏi.

Đây vốn là tử huyệt của Bạch Ly, bởi vì sức mạnh mới là thứ y từng dựa vào để sinh tồn, là thứ y khổ sở truy tìm, từng không tiếc cùng Thi Vô Đoan mỗi người một ngả, thậm chí tự tay moi ra máu thịt của bản thân, nhưng mà y suy nghĩ một hồi rồi lắc đầu nói: “Điều đó cũng không hề gì… Kỳ thật về sau ta cảm thấy, điều đó cũng đều không hề gì.”

Một người là lớn lên như thế này, đầu tiên mộng đổng vô tri, sau đó có một ngày, bị thế gian phong đao sương kiếm tổn thương, bắt đầu hiểu được thất tình lục dục, bắt đầu nhắm vào một thứ thoạt nhìn rất trọng đại, khổ sở tìm cầu, vì cái này mà y vứt bỏ rất nhiều thứ, sau đó một ngày kia, khi y đứng trên vị trí mình từng ngưỡng mộ, chiếm được thứ y từng nhìn thấy mà không với đến, lại phát hiện những thứ đó đều chẳng có gì là trọng đại.

Có cũng vậy, không có cũng vậy, thậm chí không có… khả năng còn hạnh phúc hơn một chút.

Đây là toàn bộ hành trình mà một sinh mệnh nhỏ nhoi như lục bình đi qua giữa đất trời rộng lớn. Một người nhất định phải đi qua một con đường như vậy, nếu y chưa từng cầm lên, thì sẽ vĩnh viễn không buông xuống, có một số thứ, chỉ những ai từng chiếm được, mới có thể nói ra một câu “Điều đó cũng đều không hề gì” kia.

Thi Vô Đoan nhìn người nọ, trong đôi mắt có vẻ hơi trống rỗng đột nhiên ngấn lệ, giống như là trên lòng sông thường niên khô cạn lộ ra một ít thủy thảo ẩm ướt, y dường như cố ý bắt chước ngữ điệu trẻ con nào đó, khiến giọng nói nghe hơi cổ quái, nhẹ nhàng chậm rãi mà bảo: “Được lắm, vậy ngươi cứ làm tức phụ cho ta đi!”

Đó vẫn là hơn hai mươi năm trước, có một tiểu hồ ly tránh né thiên kiếp xông vào sơn động, được sự che chở của thiếu niên thời điểm ấy còn ngốc nghếch như gì, khi đó trên mặt thiếu niên không hề có vẻ u ám, có thể dễ dàng tươi cười rạng rỡ, y lấy ra một chiếc khăn tay cho tiểu hồ ly lau tóc trên trán, sau đó tiểu hồ ly kia vừa vụng dại vừa nghiêm túc biểu đạt lòng biết ơn của mình: “Ta sẽ báo đáp ngươi.”

Thiếu niên lại chẳng chút để ý đáp: “Được lắm, vậy ngươi cứ làm tức phụ cho ta đi.”

Thúy bình điểu đột nhiên bay lên đậu trên vai Bạch Ly, đôi cánh rộng lớn mang đến một cơn gió, thổi bay tóc Bạch Ly, quét qua chiếc đàn sắt năm mươi dây treo trên tường cùng tinh bàn, tiếng đàn ưu sầu kia lan ra như nước gợn, nghe vào lòng, khiến người ta có cảm giác muốn òa khóc nức nở.

Thử tình khả đãi thành truy ức, chỉ thị đương thời dĩ võng nhiên.

Chương 73: Ngọn đèn thứ sáu (1)

Trung thu năm ấy nhanh chóng đến trong sự khô hạn và nóng bức, khi ánh trăng tròn thành một cái bánh nướng, Thi Vô Đoan nhận được chiến báo – Cố Hoài Dương đã dẫn binh vượt qua Đông Nhạc lần nữa, hạ được một trạm gác lớn cuối cùng khu vực Trung Nguyên – đại doanh Từ Nam, bắt sống Tống A.

Sau đó Tống đại tướng quân tự sát.

Có lẽ về sau tên của hắn có thể chói lọi ngàn thu, là một hán tử ngoan cố đến cùng, trung quân ái quốc, sinh tại thời đại mục nát nhất, lại chưa bao giờ thỏa hiệp với giáo tông, từng lập chiến công hiển hách, cũng dùng sinh mệnh bảo hộ tôn nghiêm võ sĩ cuối cùng vào thời điểm không thủ được.

… Tiền đề là, không ai biết đây là một âm mưu lớn.

Mà hiện giờ, âm mưu sẽ còn tiếp tục.

Thi Vô Đoan nắm giữ một đám người thần bí nhất trong loạn thế, nó lúc ban đầu là tiểu thương hội do một số tài phú thông qua thủ đoạn phi thường cướp đoạt được kiến lập, sau đó chậm rãi thò tay đến nơi xa hơn, bồi dưỡng càng nhiều thế lực và cứ điểm, theo thời gian trôi qua, nó trở nên càng thêm bí ẩn, cũng càng thêm rắc rối phức tạp.

Có lẽ trừ bản thân Thi Vô Đoan tự tay kiến lập thì không ai có thể làm rõ hệ thống rối ren ấy, không ai biết nó vận hành thế nào, đến bây giờ cho dù là Cố Hoài Dương cũng láng máng biết trong tay Thi Vô Đoan có một số thương nhân và binh lính có thể thần tốc truyền tin tức.

Chỉ là trước mắt họ vẫn là hảo huynh đệ, Cố Hoài Dương vẫn là một loạn thế kiêu hùng “dùng người không nghi, nghi người không dùng”, không có tinh lực đi kiêng kỵ gì Thi Vô Đoan.

Con đường tin tức đặc thù này mang đến cho Thi Vô Đoan tin thứ hai – Hoàng đế bất đắc dĩ, lại bắt đầu dùng Nhan Chân.

Quả nhiên – lúc ngồi trên ghế Thi Vô Đoan nghĩ như vậy, y đang dùng dao gọt một quả lê, việc này vốn là do Bạch Ly làm, có điều trái cây qua tay Bạch Ly đều biến thành chẳng to hơn hột đến đâu, không biết thao tác cụ thể thế nào mà ướt cả tay áo.

Thi Vô Đoan xem thế là đủ mà ở đằng sau y quan sát một hồi, cho rằng mười ngón tay của Bạch Ly kỳ thật chỉ để trang trí – căn bản ngay cả kẽ cũng không bẻ ra, đành tự mình ngồi trên ghế trong viện, nhận dao trên tay y mà bắt đầu gọt.

Một người trẻ tuổi ăn mặc kiểu người hầu trà bên cạnh thấy tình cảnh này, ngay cả mí mắt cũng không nhướng một thoáng, chỉ hơi dừng một chút rồi lại tiếp tục: “Nhan Chân quan phục nguyên chức ngày thứ hai liền phái người đến thảo nguyên A Mộc.”

“A.” Thi Vô Đoan nghe đến đó cười nói, “Mới muốn ngủ đã có người tặng gối cho.”

Thanh niên ăn mặc kiểu người hầu kia nói nhạt nhẽo: “Nhan Chân mấy phiên lên xuống, Hoàng đế lúc này mới nhớ khởi phục y, thiết nghĩ là quá muộn rồi, nếu đây là tổng thể, lúc này trên bàn cờ đã chẳng còn bao nhiêu vị trí có thể đặt quân, y muốn làm gì, kỳ thật rất dễ đoán.”

“Cũng không thể nói như vậy được.” Thi Vô Đoan đưa quả lê đã gọt cho Bạch Ly, ban đầu lúc có người, Bạch Ly sẽ tự động né tránh, về sau quen rồi không né nữa, nhưng cũng không nói lời nào, ở bên cạnh như làm nền, sau đó Thi Vô Đoan chọn tới chọn lui trong đĩa lê – giống như y thật sự có thể nhìn ra sự khác biệt của chúng, qua cả buổi y mới nhớ tới đề tài Nhan Chân, vì thế tiếp tục nói, “Tuy rằng Nhan gia… cũng coi như nhiều thế hệ trung lương, nhưng Nhan Chân và phụ thân không giống nhau. Dẫu cho quyền cao chức trọng, hiện giờ cao tuổi, vẫn có thể nghĩ đến, lúc còn trẻ y nhất định cũng là một người ly kinh phản đạo, cho dù là hiện tại, khi làm một số việc, vẫn quen với kiếm đi nghiêng mũi, trong lúc làm việc có kèm tà khí.”

Hai người khác lẳng lặng nghe, Thi Vô Đoan lại dường như nhớ tới điều gì, nói: “Năm đó khi ta lần đầu tiên nhìn thấy y ở Cửu Lộc sơn, Nhan Chân còn từng nói muốn nhận ta làm đệ tử, đại khái hai ta tuy là đối thủ một mất một còn nhưng cũng rất có xu hướng xú vị tương đầu.”

Nam nhân trẻ tuổi nọ không hề động dung, chỉ nói: “Thỉnh giáo lục gia, bước tiếp theo nên làm thế nào cho phải.”

“Làm theo kế hoạch.” Thi Vô Đoan nói, qua giây lát lại bổ sung, “Việc này vô luận là đại ca hay là đám Hạ chưởng môn đều không cần thông báo, ngươi biết nên làm thế nào.”

Người trẻ tuổi nói: “Vâng.”

Nói xong quay người rời khỏi, giống như chưa bao giờ đến.

Thi Vô Đoan vừa ngước lên, phát hiện Bạch Ly đã im lặng ăn hết một quả lê, đang ngồi nghiêm chỉnh ở đó chờ quả kế tiếp, người đến người đi, y thậm chí chẳng ngước mắt, toàn xem như người khác không tồn tại, trong mắt chỉ có trái cây trên tay Thi Vô Đoan, có vẻ cực chuyên chú, ánh mắt ấy làm Thi Vô Đoan nhớ tới con thỏ y từng nuôi.

Thi Vô Đoan tức khắc cảm thấy… kỳ thật Bạch Ly là người cực kỳ dễ nuôi, chỉ cần cho ăn đúng giờ là được, y thậm chí cũng không kén ăn.

Lúc này, Lan Nhược bưng một đĩa to bánh trung thu vỏ xốp đi đến, nhẹ giọng nói: “Lục gia, đây là tứ nương đặc biệt phái người đưa qua, nghe nói là mời người làm theo ngự thiện trong cung, mời lục gia và… Bạch công tử nếm thử.”

Nàng nhìn Bạch Ly một cái, lại nhanh chóng dời tầm mắt, dường như hơi sợ y.

Bạch Ly vốn ngồi đó như bên cạnh không người khoảnh khắc Lan Nhược vào lại ngước lên. Cặp mắt sắc bén kia của y ngày xưa lúc bao hàm sát ý dù là dũng sĩ vạn phu không bằng khi đối thị cũng thấy rét run, càng khỏi cần nói một cô nương gia như vậy.

Lan Nhược giật mình, cái khay trong tay suýt nữa rơi xuống đất, Thi Vô Đoan đón được – món bánh trung thu kia không biết làm như thế nào mà xốp cực kỳ, chấn nhẹ như vậy nhưng vẫn tự vỡ, lộ ra phần nhân màu sắc đẹp mắt bên trong.

Lan Nhược mặt mũi trắng bệch, nhưng mà không chờ nàng nói, Thi Vô Đoan đã nhẹ nhàng khoát tay bảo: “Không hề gì.”

Y khá hiếu kỳ nhìn món bánh trung thu xốp đến thần kỳ kia một cái, nhón một miếng nhỏ nếm thử, cảm khái: “Năm đó khi ta mới gặp tứ nương, tỷ ấy vẫn là người nấu cơm sẽ xắn tay áo tự mình xuống bếp, không ngờ hiện giờ lại biết nhiều trò thế này.”

Thiết nghĩ bất hạnh sinh trong thời đại này, chém người là một môn kỹ năng còn cao quý hơn nấu cơm nhỉ?

Y còn chưa dứt lời thì đột nhiên một bàn tay thò qua, không biết nặng nhẹ ôm cổ y, Bạch Ly nhanh chóng sán đến, lại liếm một chút vụn bánh trung thu trên khóe miệng y, sau đó không biết là cố ý hay vô ý mà nhìn quét Lan Nhược một cái. Cô nương đáng thương chỉ đành mắt nhìn mũi mũi nhìn miệng, lập tức sợ tới mức không thốt được câu nào.

Thi Vô Đoan mất khoảng thời gian một chén trà vẫn chưa phản ứng được, ngây người hồi lâu mặt mới đỏ lên không dễ phát hiện, dời ánh mắt nói với Lan Nhược: “Ngươi… Ngươi đi trước, hôm nay ăn tết, sớm đi nghỉ ngơi, không cần làm gì nữa.”

Lan Nhược lúng túng đáp một tiếng rồi lướt ra như mộng du.

Thi Vô Đoan lúc này mới liếc sang Bạch Ly mà thấp giọng nói: “Trước mặt người khác, ngươi làm cái gì thế?”

Bạch Ly tràn ngập địch ý nhìn bóng lưng Lan Nhược, nói: “Cô ta chính là người hầu hạ ngươi? Họ tìm một nữ nhân chưa gả chồng như vậy hầu hạ ngươi là có ý gì?”

Thi Vô Đoan giật mình, đột nhiên nhớ năm đó khi y bị thương mới gặp Lan Nhược, lại bởi vì mặt mày nàng hơi giống Bạch Ly mà thất thần rất lâu, liền không nhịn được nhìn Bạch Ly cười rộ lên.

Bạch Ly hơi giận nói: “Cười cái…”

Thi Vô Đoan đem một miếng bánh trung thu vỡ nhét vào miệng y, nói: “Cho bớt chua.”

Bạch Ly lại nắm cổ tay y, cố ý ngậm cả đầu ngón tay y vào miệng. Lòng bàn tay như có chút mồ hôi, ánh mắt nhìn chằm chằm mắt Thi Vô Đoan – mắt người nọ vẫn đen trắng rõ ràng như nhiều năm trước, ấn đường lại bởi vì cười ít nhíu mày nhiều mà lưu lại một dấu vết nhàn nhạt, khiến khuôn mặt tuấn tú luôn lộ ra một chút sầu khổ.

Bạch Ly thầm nghĩ, kỳ thật mấy năm nay y cũng chưa bao giờ vui vẻ.

Lúc này, Lan Nhược đã đi ra ngoài mới như vừa tỉnh mộng, nhớ tới một câu phải nói với Thi Vô Đoan – tam gia đến rồi.

Nhưng đã muộn, Lục Vân Châu vốn là hơi khách khí một chút mới để nàng thông báo thay, căn bản cũng chẳng đợi người bên trong đến mời đã đi vào như nhà mình.

Hiện giờ đối với quân Khăn Đỏ thì chiến cuộc đã khá ổn định, lần này hắn trở về đại bản doanh Hoài Châu, lại là vì hôn sự của tiểu nữ nhi Lục Lộ, thuận tiện nghe nói Thi Vô Đoan đã về nên đến thăm một chút.

Ai ngờ vừa vào viện đã nhìn thấy Bạch Ly trước.

Mạnh Trung Dũng nhất thời không nhớ nổi Bạch Ly là ai, nhưng Lục Vân Châu nhận ra được. Năm đó khi Thi Vô Đoan và Bạch Ly phát sinh xung đột bởi vì Âm thi hỏa, chính là hắn chặn ngang một kiếm, định quyết một trận tử chiến với yêu ma quỷ quái vong ân phụ nghĩa này. Hiện giờ Lục tam ca mặc dù con gái cũng đã làm lễ cập kê, chuẩn bị xuất giá, lại vẫn chưa đổi khí khái giang hồ hào hiệp một lời không hợp là rút kiếm chĩa đến của năm đó.

Hắn vừa thấy Bạch Ly, thoạt tiên sửng sốt – rồi lập tức nổi giận đùng đùng rút trường kiếm trên hông, giận dữ nói: “Yêu nghiệt, ngươi còn dám tới Hoài Châu!”

Thi Vô Đoan công phu mồm mép không tồi, nhưng xét theo tập tính chậm rì rì, luôn nói không nhanh bằng kiếm của Lục Vân Châu, còn chưa kịp ra tiếng thì Lục Vân đã chém đến, Bạch Ly nhẹ nhàng lướt khỏi chỗ đang ngồi, dường như không mất sức mà dừng lại bên cạnh.

Y lại chỉ tránh né chứ không hề đánh trả, ánh mắt nhìn hướng Thi Vô Đoan.

Thi Vô Đoan vội nói: “Tam ca!”

Lục Vân Châu quát: “Câm miệng!”

Thi Vô Đoan quả thực muốn trợn mắt, cảm thấy tình này cảnh này rất là quen thuộc, nghe nói lúc Lục Lộ cùng một đệ đệ tiền phong thủ hạ Cố Hoài Dương lưỡng tình tương duyệt bị cha đụng phải, thiếu niên đáng thương kia cũng bị nhạc phụ tương lai xách kiếm truy sát qua tám con phố.

Y giơ tay cầm chiếc đũa bạc trên bàn đỡ nghiêng mũi kiếm của Lục Vân Châu, vẫn không nhanh không chậm nói: “Tam ca, huynh khoan động thủ, nghe ta…”

Cho dù là dưới tình huống bình thường, Lục Vân Châu cũng chẳng kiên nhẫn nghe y nói cho hết lời, càng khỏi cần nói lúc này nổi giận đùng đùng, Lục Vân Châu khẽ quát một tiếng, một đao bức Thi Vô Đoan buông tay, chẳng thèm nhìn y một cái, ánh mắt nhìn Bạch Ly cực kỳ thù hận, như thể một tiểu cô nương bị người xấu dụ bắt.

Thi Vô Đoan dở khóc dở cười, Bạch Ly lại không tốt tính như vậy, sớm bị người này làm phiền, vung tay áo đánh nghiêng kiếm của Lục Vân Châu, lạnh giọng nói: “Ngươi lại là kẻ nào, quản chuyện bao đồng gì đây? Năm đó là ta có lỗi trước, cho nên không chấp nhặt với ngươi, ngươi còn thật sự cho là ta không làm gì được ngươi sao?”

Lục Vân Châu vừa nghe lời này, liền như lửa cháy đổ thêm dầu, lập tức giận đến mức không nhận cả con gái, nổi nóng muốn xuyên Bạch Ly thành kẹo hồ lô, ai ngờ một cái bóng đột nhiên lướt qua, mũi kiếm của hắn lại khó đẩy về trước thêm một phân – Thi Vô Đoan lần này dùng hai chiếc đũa kẹp lấy kiếm của hắn.

Thi Vô Đoan nói bằng giọng điệu khá vô lực: “Tam ca, ta đâu phải là Tiểu Lộ.”

Lục Vân Châu giận quá hóa cười: “Ngươi còn không bằng Lục Lộ, ít nhất nó biết không đi chung với tà ma ngoại đạo như vậy.”

Bạch Ly híp mắt, nói tranh: “Ta là cái gì, không tới phiên ngươi xen vào.”

Lục Vân Châu nói: “Ta vốn chẳng cần nói gì, giết ngươi là được!”

Bạch Ly cười lạnh nói: “Chỉ bằng ngươi?”

Lục Vân Châu: “Chỉ bằng thanh kiếm trong tay ta!”

Bạch Ly nói: “Ha!”

Thi Vô Đoan rốt cuộc không thể nhịn được nữa, nhíu mày nói: “Được rồi!”

Y dường như chẳng hề có cảm giác, trực tiếp dùng tay nắm kiếm của Lục Vân Châu, lưỡi kiếm cắt bàn tay ra một vết thương nhỏ, cũng may y không dùng sức cho nên máu chảy không nhiều.

Thi Vô Đoan để mũi kiếm trên người mình, nói: “Tam ca, nếu huynh khó chịu thì cứ đâm nơi này là được, việc trước kia đủ loại nội tình ngoại tình, nhất thời cũng không nói rõ được, tóm lại… kỳ thật là ta sai nhiều hơn một chút.”

Phía sau y, Bạch Ly thần sắc chấn động, đủ loại lãnh lệ vừa nãy lại chợt dịu đi.

Lục Vân Châu không thể nhịn được nữa nói: “Thi Vô Đoan! Ngươi… Ngươi xem kịch nhiều quá hay sao?”

Thi Vô Đoan không nhịn được lộ ra một chút ý cười, y không nghiêm túc như thế, càng khiến Lục Vân Châu nổi cơn tam bành, Lục tam ca “Hà” một tiếng, nhìn nhìn y, lại nhìn Bạch Ly một cái, cắn răng ném kiếm trong tay, quay người rảo bước rời khỏi chẳng thèm ngoái đầu – giống như nhìn thấy đôi cẩu nam nam này một cái là phải lên lẹo vậy.

Thi Vô Đoan chùi tơ máu trên tay, còn không quên ở đằng sau bổ sung: “Tam ca không cần lo lắng, khi Tiểu Lộ khoác áo cưới, người làm lục thúc ta đây cũng phải cho một phần hồi môn.”

Lời này quả thực không nên nói, chuẩn nhạc phụ vốn cảm thấy nữ tế hời không vừa mắt rốt cuộc dừng lại, hung hãn trừng y một cái, sau đó đi nhanh hơn, dưới chân như nổi gió.

Năm nay Trùng dương chưa đến, Lục Lộ hòn ngọc quý trên tay tam gia đã khoác áo cưới, tiểu cô nương khi ba tuổi từng phát chí nguyện to lớn, nói lớn lên phải gả cho lục thúc, rốt cuộc quay đầu là bờ từ bỏ lục thúc thần long kiến thủ bất kiến vĩ kia, gả làm vợ người khác.

Tháng mười cùng năm, đại quân của Cố Hoài Dương tiếp tục bắc tiến, văn võ bá quan ở đế đô Bình Dương kinh hoảng thất thố, Nhan Chân lại triệu tập mười vạn yêu quân từ thảo nguyên A Mộc, cùng quân Khăn Đỏ đối chọi trên Thái An sơn, chiến sự một lần nữa giằng co.

Chương 74: Ngọn đèn thứ sáu (2)

Cuối tháng, Thi Vô Đoan thông báo cho Cố Hoài Dương, lấy danh nghĩa “Cố đại tướng quân”, gửi mật tín đến yêu vương.

Mông bên thứ ba trong cuộc chiến tranh của nhân loại này rốt cuộc sẽ ngồi cùng hàng ghế với ai, cơ hồ đã là nhân tố có tính quyết định của việc ai vương ai khấu trong chiến dịch này.

Sau hôn lễ của Lục Lộ, Thi Vô Đoan lại rời khỏi Hoài Châu, thần không biết quỷ không hay lần thứ hai giá lâm Đại Bồ Đề sơn của Đại Thừa giáo tông.

Ban đầu y chỉ vòng quanh chân núi chứ không hề đi lên, với nhãn lực của Bạch Ly, có thể nhìn ra xung quanh Đại Bồ Đề sơn có một vòng quang quyển không biết là cái gì, vây cả Bồ Đề sơn bên trong, mà linh khí do tu vi đại đạo ngưng luyện nhiều năm của Bồ Đề sơn lại chậm rãi trôi mất theo Đả Cốc đạo bị đứt phía nam Tam Dương quan.

Bạch Ly rất mẫn cảm với linh khí, vì sao từ xưa có câu “chung linh dục tú” như thế, vô luận là người hay yêu, muốn tu luyện thì nhất định phải có một đầu nguồn có thể ngưng luyện linh khí, hiện giờ đột khởi trên Đả Cốc đạo trực tiếp cắt đứt điểm giao hội của tam đại giáo tông, đây giống như là dòng máu vốn thông suốt trên thân một người bị buộc vào một chỗ vậy, nhẹ thì tê liệt, nặng thì dứt khoát ô hô thương thay.

Với nhãn lực của y, lại không nhìn ra lạch trời do sức người tạo thành trên Đả Cốc đạo là đưa linh khí rò rỉ này đi đâu.

Chỉ nghe Thi Vô Đoan nhìn đỉnh núi tuyết trắng bao trùm mà nói khẽ: “Ta lừa lão hồ ly kia một lần, nếu lại lên núi của ông ta, liệu có bị đánh xuống không?”

Bạch Ly trầm mặc một hồi, quả thực không biết nên nói gì cho phải, cứ cảm thấy người này nếu không thể bị xách ra đánh cho một trận thì quả thực không đủ để tạ tội với anh hùng thiên hạ, qua một lúc lâu y mới nhẹ nhàng đưa tay vén tóc Thi Vô Đoan quệt trong xe ngựa hơi rối sang một bên, hỏi: “Tại sao ngươi không thể làm một số chuyện tốt?”

“Ta làm chính là chuyện tốt mà.”

“Ta không nhìn ra.” Bạch Ly thẳng thắn nói, cho dù là đối mặt với Thi Vô Đoan, cũng rất khó khiến Ma quân này uyển chuyển một chút, “Trừ đại ca của ngươi, ta không thấy những việc này ngươi làm có lợi cho ai, bởi vì ngươi mà rất nhiều người đã chết, ta nhìn thấy trên sách chỗ Trâu Yến Lai viết ‘nhân nghĩa lễ trí tín’ ‘ôn lương cung kiệm nhượng’ gì đó, mặc dù có phần không đúng, nhưng thoạt nhìn luôn có chút đạo lý, ngươi tự mình nói xem, ngươi đã chiếm được loại nào?”

Thi Vô Đoan nhướng mí mắt nhìn y một cái, không khách khí hỏi: “Vậy ngươi còn đi theo ta làm gì?”

“Được rồi,” Bạch Ly nhàn nhạt ngắt ngang, “Đừng cáu kỉnh nữa, ta từng nói không đấu với ngươi, thì sẽ không đấu với ngươi nữa.”

Thấy Thi Vô Đoan trừng y, Bạch Ly liền nói tiếp: “Cũng không có gì, chỉ là hiện giờ ta là người ngoài cuộc chờ ngươi xử lý, thấy chuyện khó hiểu nên hỏi nhiều một câu thôi.”

Thi Vô Đoan thở dài, dịch một cánh tay Bạch Ly ra, bản thân không chút khách khí nằm trên đùi y, mặt hơi nghiêng sang bên, có vẻ mỏi mệt, miệng lại nói: “Ta nằm một lúc.”

Bạch Ly vòng tay ôm vai y, kéo y vào trong lòng mình một chút để y nằm được thoải mái hơn, thoạt nhìn thân mật không hở mà ôm y.

Qua một hồi lâu, Thi Vô Đoan mới nhắm mắt, khẽ nói: “Bạch Ly, người ngươi thích, kỳ thật là thiếu niên hơn hai mươi năm trước trên Cửu Lộc sơn không hề có tâm sự kia. Y không có khái niệm gì với hết thảy tốt xấu trên đời này, mỗi ngày chỉ biết chơi đùa và phá phách, chẳng có phiền não, chẳng có thù hận, trong lòng bởi vì quá sạch sẽ, cho nên rộng đến mức ai cũng có thể vào.”

Bạch Ly bỗng nhói lòng.

Tiếp đó Thi Vô Đoan nói gần như không thể nghe thấy: “Nhưng mà y đã chết rồi.”

Bạch Ly không nói gì, Thi Vô Đoan liền mở mắt, tầm mắt hai bên đối nhau.

Tay Bạch Ly đang ôm y đột nhiên siết chặt, ánh mắt đen đến gần như sâu thẳm, khiến người ta không nhìn thấy đáy. Bỗng nhiên, y kéo Thi Vô Đoan dậy, cắn môi đối phương như một tiểu dã thú, hơi thở nóng hổi phả vào mặt khiến Thi Vô Đoan dường như bị phỏng mà co rúm một chút.

Bạch Ly dùng tay đè lưng y, cho đến khi Thi Vô Đoan bởi vì không thở nổi mà gắng sức đẩy ra, mới oán hận nhìn Thi Vô Đoan, gầm khẽ: “Ngươi không thể nhìntâm tình ta tốt một chút sao? Cho dù chỉ là lừa ta?”

Trên mặt y phảng phất có vết sẹo không nhìn thấy kêu gào đòi ra, như là dã thú bị vết thương tra tấn đau đớn cực kỳ, phẫn nộ cực kỳ, lại không biết phải phát tiết thế nào.

Thi Vô Đoan đột nhiên thở dài, tấm lưng cứng còng hơi mềm đi, sau đó túm gáy Bạch Ly, kéo y qua gác lên vai mình, nói khẽ: “Ta không lừa ngươi nữa.”

Y xuôi theo lưng Bạch Ly, nhẹ nhàng vỗ về người thân thể run nhè nhẹ, nói: “Sao hồn phách tìm trở về rồi mà vẫn nóng tính như vậy? Được rồi, ngươi yên tâm, ta sẽ không lừa ngươi nữa… Ta thề với trời.”

Lúc này xe ngựa dừng lại, tiếng xa phu từ bên ngoài truyền đến: “Lục gia, có người chặn đường.”

Thi Vô Đoan hỏi: “Ai?”

Chỉ nghe tiếng một nam tử nói: “Hậu bối chính là đệ tử Đại Thừa giáo tông hàng chữ Giản, đại tông chủ mệnh cho ta chờ khách quý ở đây.”

Thi Vô Đoan chỉnh vạt áo, sờ soạng mặt Bạch Ly một phen, miệng nói: “Được rồi, đừng giận nữa.”

Sau đó y nhảy xuống xe, trừ đôi môi màu sắc hơi tươi hơn bình thường thì vẫn là dáng vẻ không hề gì trời sập cũng coi thành chăn, bình tĩnh chắp tay nói với đệ tử Đại Thừa giáo tông kia: “Đa tạ, xin dẫn đường cho.”

Xa phu đánh xe ngựa chậm rì rì theo bên cạnh, Bạch Ly lại vẫn không ra, Thi Vô Đoan cho rằng y còn đang phải nguôi giận, kỳ thật Bạch Ly là ngơ ngác ngồi trong xe, bưng khuôn mặt bị Thi Vô Đoan sờ soạng một phen như khinh bạc mà ngẩn người.

Đi một đoạn, Bạch Ly đang ngẩn người đột nhiên biến sắc, xa phu chỉ cảm thấy một cơn gió lướt qua bên cạnh, còn chưa kịp nghĩ rõ thì Bạch Ly đã kéo Thi Vô Đoan lại, đẩy y ra đằng sau mình, kế đó những móng tay dài sắc bén bật ra, chỉ thẳng vào cổ họng đệ tử Đại Thừa giáo tông dẫn đường kia, lạnh lùng nhìn đối phương.

Đệ tử nọ giật thót, nhưng mặc dù bị một thân sát khí lạnh băng của y chấn nhiếp, tốt xấu cũng là hậu bối danh môn, hơi kích động song không hề hoảng loạn, gian nan mở miệng hỏi: “Khách nhân… đây là ý gì?”

Bạch Ly nói: “Có mùi yêu.”

Thi Vô Đoan khó hiểu nói: “Mùi gì?”

Bạch Ly vẫn dùng ánh mắt lăng trì vị đệ tử dẫn đường này, miệng nói: “Yêu tự mình tu luyện, bình thường không nhiễm nhân quả với con người, nếu không hậu hoạn vô cùng, chỉ có những kẻ ham giết chóc trong tay từng dính máu người mới có mùi này.”

“À.” Thi Vô Đoan tỉnh ngộ gật đầu, “Khó trách, ta hẹn bách thú yêu vương đại nhân gặp mặt ở đây, nghe đồn vị đại nhân kia chân thân chính là một con hổ, không ngờ tiểu hồ ly ngươi mũi linh thật, xa như vậy đã nghe thấy rồi.”

Bạch Ly biểu cảm cứng đờ, hơi xấu hổ thu hồi móng tay, mặt như bị đóng băng, quay đầu nhìn Thi Vô Đoan.

Thi Vô Đoan thấy thú vị, không biết vì sao liền tùy tay sờ đầu y một phen,rồi theo vị đệ tử giáo tông bị kinh sợ kia tiếp tục lên núi.

Bạch Ly lúc này mới không tình nguyện đuổi theo hỏi: “Không phải các ngươi đang đánh nhau à?”

Thi Vô Đoan nói: “Đâu ra lắm thâm thù đại hận như vậy, nhân nghĩa không thể mua bán, mọi người có thể ngồi xuống đạt thành hiệp nghị, đương nhiên tốt hơn chĩa đao thương vào nhau mà đánh tới đánh lui.”

Trên mặt Bạch Ly thoáng dao động, Thi Vô Đoan nhận ra đó là một biểu cảm khó mà lý giải, khóe miệng y liền chậm chạp lộ ra một chút tươi cười, trong lòng thầm nghĩ, ngươi là một tiểu hồ ly ngốc nghếch, trừ ăn uống tiểu tiện và đánh đánh giết giết thì căn bản chẳng biết gì khác, làm gì mà cũng phải dính vào?

Một lát sau, Bạch Ly lại không nhịn được hỏi: “Không phải ngươi nói họ Cố viết mật tín cho tên đó, muốn gặp mặt à? Vì sao cũng không đợi hắn đến?”

Thi Vô Đoan không hề quay đầu nói: “Ngay cả ngươi cũng biết thì tínhlà mật tíngì?”

Bạch Ly kinh ngạc nói: “Là giả?”

Thi Vô Đoan nói: “Không, cái đó là thật, qua một thời gian ta đại khái còn phải về Hoài Châu một chuyến để hỗ trợ chủ trì mật hội.”

Trên mặt Bạch Ly lại lộ ra vẻ nghi hoặc, điều này khiến sự hung hãn và khí huyết tinh đều phai nhạt không ít, hơi giống con thỏ bị xách tai là sẽ không động đậy kia. Vì thế dứt khoát chẳng nghĩ nữa, chỉ thầm nói, nếu có năng lực, ai cản đường thì giết kẻ đó, làm gì mà tính tới tính lui như vậy, gặp lén không nói, còn phải gặp lén của lén.

Y phát hiện, cho dù mình từng được đại tông chủ chỉ điểm thì vẫn chẳng hiểu nổi tâm tư của những người này, đi theo đằng sau Thi Vô Đoan, không nhịn được ngáp một cái, trong lòng thầm nghĩ, những người này sao mà nhàm chán như vậy?

Họ nhanh chóng trông thấy đại tông chủ và bách thú yêu vương đang chờ dưới tiểu đình, yêu vương kia thoạt nhìn là dáng vẻ nam tử trung niên, bất ngờ là y không hề hùng hổ bức người, mặc áo bào bình thường, màu khá cũ, tựa như một thư sinh nghèo túng.

Bạch Ly đứng khá xa, nếu không phải do mùi vị trên người đối phương thì y cơ hồ cho rằng mình nhận sai – người này thoạt nhìn thật sự không giống lão hổ tinh chút nào.

Đại tông chủ bị người ta mưu tính không hề có phản ứng đặc thù gì, vẫn đang cực kỳ không quan tâm hơn thua mời Thi Vô Đoan và Bạch Ly ngồi xuống.

Bách thú yêu vương kia lại vẫn vô cùng có tri thức hiểu lễ nghĩa, tự xưng Triệu Nhung, ánh mắt gần như ôn nhuận, chỉ khi nhìn chằm chằm người khác mới có thể nhìn thấy sự sắc bén hơi lướt qua bên trong.

Thi Vô Đoan thoạt nhìn lại khá hiểu rõ y, sau khi gặp mặt liền nói: “Trăm nghe không bằng một thấy, mời yêu vương.”

Triệu Nhung gật đầu, ánh mắt dừng trên người Bạch Ly, nhìn y một hồi mới hỏi: “Đây chính là Ma quân điện hạ? Mấy năm nay hồ vương Bạch nương nương khá nhớ ngươi.”

Sau khi Thương Vân cốc bị hủy, hồ vương liền dẫn số tộc nhân lác đác chuyển đến thảo nguyên A Mộc, nhận sự che chở của yêu vương.

Bạch Ly khoanh tay trước ngực, không hề ngồi xuống, chỉ tựa vào cây cột bên cạnh, ngoài cười trong không cười mà nói: “Vạn phần làm phiền.”

Triệu Nhung nhìn y chậm rãi nói: “Năm đó tiểu tiên cô hồ tộc kia bị ma khí nhiễm, bị dẫn lên tà lộ, thậm chí thân hoài ma thai, suốt bảy bảy bốn mươi chín ngày, kiệt lực mới sinh hạ một người con, lâm chung phó thác cho Bạch nương nương, trước khi nhắm mắt vẫn không bỏ được ma vật dưới cửu u nọ. Hồ tính vốn dâm, nhưng cũng có không ít người si tình như vậy. Năm đó Ma Tông rung chuyển, Bạch nương nương đưa ngươi lên tế đài, thật sự cũng là bất đắc dĩ, Ma quân dù sao… không phải tộc loại, mong rằng ngươi đừng ghi hận.”

Bạch Ly thản nhiên nói: “Ngươi đã tôn ta một tiếng Ma quân, thì nên biết ta và hồ tộc không có một chút quan hệ nào, lời này nên bớt nói thì hơn.”

Y dung nhẫn Thi Vô Đoan không biết lựa lời gọi y là “tiểu hồ ly”, nhưng không có nghĩa là y cũng rộng lượng như vậy với người khác.

Triệu Nhung cười khổ một tiếng, lắc đầu nói: “Đã đắc tội.”

Sau đó y chuyển hướng sang Thi Vô Đoan, nói: “Chuyện lục gia dặn dò, chúng ta đã làm thỏa đáng.”

Bạch Ly thấy dáng vẻ không kinh không giận kia của Thi Vô Đoan, trong lòng đột nhiên sinh ra một phỏng đoán, chẳng lẽ mười vạn yêu binh chặn đứng đại quân bắc tiến của Cố Hoài Dương là do y một tay thao túng? Vì sao y phải làm như vậy?

Chẳng lẽ y cũng… không tin được Cố Hoài Dương?

Dường như nhìn ra nghi vấn của y, đại tông chủ bên cạnh bỗng nhiên mở miệng giải thích: “Công tử ở Tây Bắc thao túng thị trường gạo, dẫn đại quân triều đình về tây, rồi sau đó lại phong Đại Thừa giáo tông, cắt đứt Đả Cốc đạo, quân Tây Bắc lập tức hai mặt thụ địch, lại mệnh cho người nhân loạn yểm hộ, mở một thông lộ, lợi dụng trận pháp mật ước với ta, dẫn linh khí từ phía tây tới thảo nguyên A Mộc, có phải không?”

Triệu Nhung nói tiếp: “Còn chưa tạ lục gia.” – mấy năm nay không ít bộ lạc yêu tinh do chiến hỏa mà trốn lên thảo nguyên A Mộc, thảo nguyên vốn cằn cỗi, kể từ đó càng thêm giật gấu vá vai, đem so sánh thì một việc gần như “vô tư” này của Thi Vô Đoan, thứ nhất xem như giải sự khẩn cấp sém lông mày cho họ, thứ hai cơ hồ vạch ra một đường giới hạn rõ ràng giữa người và yêu, đại lục người yêu hỗn cư, tu đạo tu tiên trăm nhà đua tiếng này, bất tri bất giác lại bị y một tay quy hoạch lần nữa.

Thảo nguyên A Mộc chính là yêu giới, trước nay cùng nhân gian nước giếng không phạm nước sông, Bạch Ly nhìn về hướng Thi Vô Đoan, thầm nghĩ, chẳng lẽ y muốn triệt để chặt đứt con đường tu đạo của con người trên đại lục này.

“Đâu nào.” Thi Vô Đoan lấy từ trong lòng ra một trục cuốn nho nhỏ, đem để trên bàn đá, nói với Triệu Nhung, “Thứ này vốn nên lấy ra vào thời điểm Hoài Châu dạ yến, chỉ là ta không yên tâm lắm, mong rằng yêu vương thứ lỗi.”

Bạch Ly nhìn qua một cái liền biết đó là một phần mật ước khác, từng điều cực kỳ cẩn thận, chỉ cần Triệu Nhung ký rồi thì từ đây yêu tộc sẽ không được tương phạm nhân gian, nếu không ắt gặp đại hình.

Triệu Nhung miệng nói phải nhưng vẫn xem kỹ từng điều, sau đó cả một buổi chiều, Bạch Ly liền thấy y với Thi Vô Đoan thương thảo đàm phán từng điều, lại không phân lớn nhỏ, chẳng ai chịu nhường.

Chỉ là Triệu Nhung hiện tại ở nhược thế, biết trong tay người trước mắt nhất định có lợi thế khác, nhân gian, giáo tông, yêu giới đều bị y thu thập sạch sẽ, trước mắt còn chưa biết y xử lý Ma Tông như thế nào, Thi Vô Đoan chưa lật át chủ bài, vĩnh viễn không ai biết bước tiếp theo y tính toán thế nào, người này cả trời còn dám lừa, huống chi một yêu vương nho nhỏ như mình?

Y cũng chỉ là… cố hết sức tranh thủ một chút quyền lợi thay tộc nhân.

Bạch Ly nghe họ xoi mói từng điều, cảm thấy hơi buồn chán, liền chuyển hướng sang đại tông chủ uống trà bên cạnh, thấy ông ta vẫn là dáng vẻ không hề dậy sóng, vì thế ngạc nhiên nói: “Ông không giận sao?”

Đại tông chủ ngẩng đầu nhìn y.

Bạch Ly hỏi: “Y lừa ông ký mật ước, lại làm rò rỉ linh khí của giáo tông, ông không giận sao?”

Đại tông chủ cười nói: “Lục gia đã đáp ứng Đại Thừa giáo tông mọi thời đại là từ đường của quân vương, thiết nghĩ nhất định sẽ không nuốt lời, chẳng lẽ không phải là đã cực nể mặt chúng ta?”

Bạch Ly nhíu mày.

Đại tông chủ nói: “Đại Thừa giáo ta, không hề thượng võ như Huyền Tông, cũng không thượng thuật như Mật Tông, chúng ta kính sợ thiên địa, biết tiến thoái, hiểu được đạo tự nhiên của vạn vật sinh trưởng, đây mới là Đại Thừa giáo nghĩa chân chính, đạo thuật cao thấp, không thể chứng minh cái gì. Có sơn xuyên linh khí hay không lại có thể thế nào đây? Người trong giáo ta vẫn có thể được vạn dân kính ngưỡng, vẫn sẽ có vô số người đến bái sơn, thỉnh cầu chỉ điểm bến mê.”

Bạch Ly vẫn cau mày.

Đại tông chủ nhẹ giọng nói: “Tương lai tất cả giáo tông đều sẽ biến mất, vô luận là lớp già chúng ta hay lớp trẻ tương lai, hỗn loạn sắp ngưng hẳn, nhân hoàng mới là người thống trị tối cao của nhân gian, chỉ có Đại Thừa giáo tông ta sẽ được bảo tồn, làm từ đường và điện thờ, cùng với nơi đại đức, đây chẳng phải là vận may sao?”

Thi Vô Đoan không nhịn được ngẩng đầu nhìn ông ta một cái, trong lòng thầm nghĩ – lão này nghĩ lắm quá.

Bạch Ly trầm mặc rất lâu, trong lòng bỗng nhiên nhớ đến một câu chuyện, đó là một câu chuyện kể cho trẻ nhỏ – rất lâu trước kia, thiên địa nguyên bản hỗn độn, lúc này, Bàn Cổ đại thần xuất hiện, y nhấc búa lớn bổ hỗn độn ra, khiến cho khinh giả thành trời, trọc giả xuống đất, tách sơn xuyên nhật nguyệt, bình cốc tinh tử…

Hóa ra đây mới là ngọn đèn chân chính chuyển hoán quốc vận.

Bạch Ly nhìn lưng Thi Vô Đoan thoáng cong lại, đột nhiên muốn đến ôm y, nghĩ đến sự trầm lặng của Thi Vô Đoan khi ở trên xe ngựa, liền không nhịn được thầm nghĩ, vì sao ngươi không nói ra?

Sau đó y thật sự bỗng nhiên đứng dậy, trực tiếp cắt ngang đàm phán của Thi Vô Đoan và Triệu Nhung, dưới ánh mắt ngạc nhiên của Triệu Nhung, thình lình ôm Thi Vô Đoan từ đằng sau, đè chặt trong lòng mình.

Vì sao không nói ra?

Bởi vì… nói ra cũng sẽ chẳng có ai tin tưởng?

Một phàm nhân, sao có thể làm được chuyện Bàn Cổ đại thần từng làm?

Chương 75: Ngọn đèn thứ bảy (1)

Bạch Ly trước nay là một kẻ không thèm để ý sắc mặt người khác, nhiều năm sát phạt luyện thành Ma quân như thế, luôn luôn nghĩ sao làm vậy, vì thế yêu vương đang thận trọng suy xét khế ước liền bị y xem nhẹ.

Yêu vương Triệu Nhung há miệng, cân nhắc giây lát, cảm thấy Ma quân làm chuyện này rất thiếu nhãn lực, người ta đang thảo luận chính sự, y thình lình chặn ngang một gậy, quấy rối khiến mình quên cả lời, nhưng y là Ma quân, mình được tôn xưng là yêu vương song kỳ thật cũng chỉ là một hổ tinh con con, lại có thể làm gì người ta đây?

… Ngoài ra y nhìn nét mặt vị Thi lục gia kia là biết, đối phương chắc hẳn cũng rất rối rắm mà quên lời luôn rồi.

Thi Vô Đoan bị móng vuốt của Bạch Ly đè chặt lấy, không thể động đậy mảy may, chỉ có thể gian nan quay cổ, giơ tay vỗ vỗ cánh tay Bạch Ly, hỏi: “Sao vậy?”

Bạch Ly không nói gì, trong lòng rất khó chịu, nhưng không hình dung ra được, chỉ cúi đầu, cánh tay hơi run rẩy khe khẽ.

Thi Vô Đoan kinh ngạc một hồi, sau đó không biết vì sao mà trầm mặc, lưng y dán sát lên người Bạch Ly, có thể cảm giác được sự run rẩy và độ ấm rất nhẹ truyền đến từ người kia.

Chưa từng có ai hỏi y, cơ quan tính hết như vậy là vì cái gì, y cũng chưa bao giờ giải thích với người khác.

Thứ như giải thích thật là quá vô dụng – bởi vì có một số chuyện, cho dù nói ra thì người khác cũng chưa chắc hiểu được, trái lại rước lấy những người không hề biết chuyện đó hống hách chỉ trích.

Sau đó Thi Vô Đoan liền nghĩ thoáng, y minh bạch một đạo lý – người bất đồng luôn có cách sống bất đồng.

Có người giống cỏ dại, cho y một mẫu ba phân đất, trên có ngói che gió, dưới có giường lót cỏ tranh, một cái bát vỡ một cái bàn, có ăn có uống là có thể sống được; có người giống đồ sứ, phải cẩm y ngọc thực, làm bạn với son phấn phong nguyệt, mới có thể sống như một đóa hoa, một chút gió táp mưa sa cũng có thể khiến y héo rũ; có người giống chim ưng, nơi tốt nhường nào người đẹp nhường nào đều không thể giữ được lòng y, y nhất định phải tự tại, mọi thời khắc đi trên những con đường bất đồng chưa biết, không tự do chi bằng chết.

Mỗi người đều đang theo bản năng truy cầu thứ mình coi là quan trọng nhất, là ấm no, hòa tan, tự do, dã tâm, hay chỉ là lòng của một người.

Người có ba bảy loại, kiếp trước hoặc ăn thịt hoặc ăn cỏ, chung quy đều bất đồng. Đôi lúc Thi Vô Đoan cảm thấy, không ai có thể chân chính lý giải một người khác.

Sau đó khoảnh khắc Bạch Ly dùng sức ôm lấy y từ đằng sau, Thi Vô Đoan đột nhiên có ảo giác rằng trong lòng đối phương đều minh bạch cả. Điều này khiến y dù rằng biết rất có khả năng là ảo giác, cũng phải có sự mê hoặc ngắn ngủi. Trái tim đập ổn định như bị thứ gì đó túm lấy, bỗng tạm dừng một nhịp.

Yêu vương Triệu Nhung may mắn được thưởng thức Thi lục gia mở miệng lại ngậm vào, năm lần bảy lượt đến cuối cùng vẫn là bộ dáng không biết nên nói gì cho phải, sau chót chỉ thấy y ho một tiếng mà nói: “Sự thể lớn, hôm nay sắc trời đã muộn, ta thấy yêu vương nếu không vội thì có thể nghỉ trên núi này một đêm trước, ngày mai chúng ta tái thương lượng.”

Nói xong Thi Vô Đoan mới muộn màng nhớ tới chủ nhân chân chính của Đại Bồ Đề sơn, vì thế quay đầu lại làm bộ khách khí hỏi: “Chẳng biết có thể quấy rầy đại tông chủ một đêm nữa không?”

Đại tông chủ cười tươi rói, trong lòng thầm nghĩ, cưu muốn chiếm tổ thước, thước dám nói một lời sao?

Đoàn người ở lại Đại Thừa giáo tông, cách một ngày, Triệu Nhung rốt cuộc cùng Thi Vô Đoan đạt thành hiệp nghị, hai người hòa khí chia tay, đều tự làm đủ phần mình, hơn nửa tháng sau, Cố Hoài Dương và Triệu Nhung gặp riêng ở Hoài Châu, do Thi Vô Đoan chủ trì, tế tra Hạ Đoan Phương giúp đỡ, yến thỉnh quần yêu tại Ty Vân các.

Hậu nhân xưng đêm này là quần yêu dạ yến, đúng vào mùng một tháng Chạp, liền lập là “Dạ yến tiết”, lúc này, nghe nói nhân gian bách yêu hoành hành, bách tính hoan ca suốt đêm, để chiêu đãi những đại tiểu tiên này, không hề giới nghiêm, trong thành cử hành tế điện cùng với hội đèn lồng, mỗi năm có thanh niên nam nhân hoặc là danh kỹ trong phường ăn mặc thành dáng vẻ yêu tinh mà biểu diễn tiết mục.

Cố Hoài Dương hứa hẹn kéo dài đông tây nam bắc vùng thảo nguyên A Mộc ra hai trăm dặm, hóa thành thuộc địa của yêu tinh, lập thề ước vĩnh viễn không xâm phạm nhau. Yêu tộc từ đây không được dính máu người nữa, nếu không ắt bị thiên lôi hạ tội.

Yêu vương Triệu Nhung làm bộ làm tịch một lần nữa ký tên mình trên khế ước từng ký một lần, một tia sáng bay lên từ trong tay Hạ Đoan Phương, biến thành một sợi xích, quấn lên người nhân hoàng tương lai và yêu vương, Tử Vi tinh nhanh chóng lóe qua một luồng lưu quang, ngân hà rộng lớn phảng phất phản xạ cả khế ước một phen, sợi xích kia lập tức biến thành lửa, rơi xuống khế ước, nháy mắt đốt sạch sẽ.

Đêm đó Triệu Nhung dẫn mười vạn yêu chúng triệt quân.

Sự náo nhiệt này Bạch Ly sẽ không ra xem, biết rõ là đóng kịch mà còn phải giả vờ chưa từng phát sinh, Bạch Ly tự nhận không làm được, ngay khi đêm đã rất khuya, y tắt ngọn đèn trong phòng, nhắm mắt nghỉ ngơi giống như ngồi thiền, đột nhiên một cái bóng lướt qua ngoài cửa.

Bạch Ly thình lình mở mắt quát khẽ: “Ai?”

Có tiếng một nữ nhân từ bên ngoài truyền đến: “Tiểu yêu Bích La Cơ, phụng mệnh vương của ta mời Ma quân một câu.”

Bạch Ly kéo cửa, nữ yêu ngoài cửa kia dưới ánh nhìn của y rõ ràng hơi co rúm, không nhịn được lui một bước.

Bạch Ly lạnh lùng hỏi: “Yêu vương? Triệu Nhung tìm ta có chuyện gì?”

Nữ yêu run giọng nói: “Tiểu yêu không biết.”

Bạch Ly liếc nàng một cái, cũng không làm khó lắm, chỉ nhàn nhạt nói: “Dẫn đường.”

Nữ yêu cuống quýt đi ra ngoài, giống như theo đằng sau là mãnh thú nước lũ, khiến nàng thậm chí không dám quay đầu lại.

Yến hội còn đang tiếp tục, Triệu Nhung đang chờ bên chiếc bàn đá trong tiểu hoa viên, chẳng biết ra bằng cách nào, nữ yêu dẫn Bạch Ly đến, nhìn y bằng đôi mắt đầy trông mong, Triệu Nhung nói một câu: “Bích La, không còn việc của ngươi nữa, đi đi.” khiến nàng như được đại xá, quả thực dưới chân nổi gió mà chạy mất.

“Mời Ma quân ngồi.” Triệu Nhung nói.

Bạch Ly dứt khoát nói: “Không được, ngươi có chuyện mau nói có rắm mau đánh.”

Triệu Nhung nhìn y một cái, bản thân cũng đứng dậy để tỏ vẻ không dám lỗ mãng trước mặt Ma quân, mở miệng nói: “Ma quân đã là người thống khoái, thì ta không quanh co nữa, thiết nghĩ… hình thức hiện giờ, Ma quân đều nhìn thấy rồi, dù Nhan Chân còn đang dựa vào nơi hiểm yếu để chống cự, nhưng cũng chỉ là vấn đề thời gian, Cố tướng quân đã đánh thành Đại Thông, sẽ ngay lập tức huy sư về kinh thành.”

Bạch Ly không nói gì.

Triệu Nhung chắp tay sau lưng, quay đầu nhìn y, dùng gương mặt nhìn thế nào đều như là lòng đầy vạn cổ ưu sầu kia mà nói: “Không biết Ma quân có từng nghe Mật Tông truyền ra một câu – Vạn ma chi tông tương liên với quốc vận, Ma quân không chết, cựu giang sơn sẽ bất hủ.”

Ánh mắt Bạch Ly như đao, cơ hồ khoét qua mặt Triệu Nhung, gằn ra một câu: “Liên quan gì đến ngươi?”

Triệu Nhung nói: “Đương nhiên, sự tình này nói đến huyền diệu, người tu hành chúng ta trong lòng đều minh bạch, bất quá là đạo khởi từ nhân quả, chỉ cần đoạn nhân quả năm đó thì không còn liên quan nữa – Ma quân có thể xuất thế, không ngoài nhờ Mật Tông Nhan đại nhân làm phép, lấy ngoại lực trợ Ma quân xé mở Vạn ma chi tông, thu phục vạn ngàn ảnh ma. Chỉ cần ma huyết trên người Ma quân bụi về bụi đất về đất, chịu được nỗi đau lột da rút gân, hạ thấp làm yêu, phế công pháp tuyệt thế, thì cũng là một biện pháp đền nhân quả này.”

Sắc mặt Bạch Ly lại như thường, không hề tức giận, chỉ trầm mặc mà nhìn y bằng khuôn mặt không biểu cảm.

“Thiết nghĩ lục gia cũng định giải quyết như vậy.” Triệu Nhung nhìn y một cái mà nói.

Bạch Ly nói: “Ngươi muốn nói gì?”

Triệu Nhung nhếch khóe môi tươi cười, chậm rãi nói: “Ma quân như mẫu, tình thâm như biển, cam nguyện giao ra toàn bộ thân tâm, Triệu mỗ bội phục, chỉ là có phần thấy không đáng thay cho Ma quân.”

Bạch Ly cười gằn nói: “Ta hiện giờ xem như hiểu được lời thô tục phố phường nói như thế nào – yêu vương thật đúng là ăn no rửng mỡ.”

Triệu Nhung ngẩng đầu nhìn thẳng vào y mà nói: “Ma quân định đập nồi dìm thuyền, tự đoạn đường lui, khư khư cố chấp sao?”

Y biết lời này sẽ điểm trúng tâm sự của Bạch Ly – lòng người dễ đổi, ai biết những nồng tình mật ý ấy, trong dòng năm tháng đằng đẵng sẽ tiêu mòn như thế nào đây?

Trên đời này vốn chẳng có gì là bất biến, huống chi lòng người nói không thể nhìn không được, họ đều là người từng khốn khổ giãy giụa trong loạn thế, biết nơi dưới thần linh ba thước này, trừ đao kiếm trên tay mình thì không còn thứ gì để dựa vào nữa. Ý tứ trong những lời Triệu Nhung nói rất rõ ràng – lúc ngươi cường đại như vậy y còn chẳng muốn chú ý đến, vì một người mà chịu khổ như thế, vứt bỏ bản thân đổi lấy sinh tồn, có đáng không?

Triệu Nhung nhẹ giọng nói: “Thế sự thiên quân, tình như nhất phát. Ta không hề có ý tứ khác, chỉ hy vọng Ma quân nghĩ kỹ hẵng làm.”

Mí mắt Bạch Ly khẽ giật một chút, ánh mắt lạnh băng như thực chất dừng trên người Triệu Nhung, nhưng yêu vương chẳng mảy may trốn tránh, ngược lại nhìn thấy sự dao động thoáng qua trong mắt Bạch Ly.

Y thở dài, không ý đồ chọc giận Bạch Ly nữa, mà lấy một cái bình nhỏ từ trong lòng, bình sứ kia dưới ánh trăng phát ra quầng sáng u ám, Triệu Nhung nhẹ nhàng đẩy đến trước mặt Bạch Ly, giải thích: “Vật này tên là ly hận thủy, nghe nói lấy một vì sao từ si tình thiên, lấy một gáo nước mắt từ ly hận hải, luyện chế ngàn năm trong cửu u minh hỏa, mới được một bình nhỏ.”

Bạch Ly không chút để ý nhận lấy quan sát.

Triệu Nhung tiếp tục nói: “Đem vật này cho người có tình uống, thì có thể khiến y từ đây không thay lòng, nếu không ắt gặp nỗi khổ như bị hàng vạn con kiến moi tim.”

Bạch Ly cười nhạo: “Ta còn tưởng là thứ gì giỏi lắm, chẳng qua như điêu trùng tiểu kỹ của người Miêu Nam Cương mà thôi.”

Triệu Nhung nghiêm mặt nói: “Không đâu, người Miêu dùng cổ chẳng qua thả trùng trong thân thể người, ly hận thủy là một cái ấn khắc trên hồn phách, chỉ cần một bình nhỏ thì từ đây đời đời kiếp kiếp thoát ra ngoài Tam Sinh thạch, chỉ cần không hồn bay phách tán thì vĩnh thế không được siêu thoát.”

Dù là Bạch Ly cũng không nhịn được nổi lên một lớp da gà.

Triệu Nhung hạ giọng nói: “Giao cho Ma quân vậy, ta không tiện rời tiệc lâu lắm, không nói thêm nữa.”

Bạch Ly nói: “Đứng lại – ngươi cho ta cái này, là có ý gì?”

Triệu Nhung dừng bước, quay đầu nhìn y một cái, khóe miệng lộ ra nụ cười: “Đương nhiên là… năm sau hy vọng lục gia có thể nể Ma quân mà lưu cho chúng ta thêm chút đường sống.”

Bạch Ly nheo mắt.

Triệu Nhung nói: “Bước tiếp theo của lục gia, bằng phàm nhân chúng ta là không thể phỏng đoán y sẽ động thủ như thế nào, giáo tông rải rác năm đó y thu sớm bị biên vào kỵ binh, mọi người chỉ thấy được nếu y định ra chỉ huy, kết hợp chú pháp trận pháp cùng võ sĩ, sẽ là chiến thuật vô song, nhưng đâu biết đó không hề là kết quả y muốn, hiện giờ ta mới biết, huấn luyện giáo tông thành một vũ khí, một đội sĩ binh, để họ hình thành thói quen kỷ luật nghiêm minh, như vậy đợi khi Cố Hoài Dương đoạt thiên hạ mới dễ dàng khống chế.”

“Ai biết y hôm nay thu thập giáo tông rồi, ngày mai sẽ không thu thập yêu giới ta?” Triệu Nhung lắc đầu nói như độc thoại, “Theo ta thấy, y đem tất cả thế lực phân tích cặn kẽ mà thanh trừ, hiển nhiên là muốn thu dọn sạch sẽ giang sơn này, từ đây song phương không cần minh tranh ám đấu, có thể nhìn thấy, tương lai nhất định sẽ có ba trăm năm thanh bình thịnh thế. Nhưng sau đó thì sao?”

Triệu Nhung lắc đầu nói: “Xưa nay như thế, phân phân hợp hợp, chỉ có vận số vô thường, khởi thừa chuyển hợp, nếu ba trăm năm sau thảo nguyên A Mộc linh khí khô kiệt? Nếu ba trăm năm sau Trung Nguyên đại tai, nhiều người lại biến thành ít, vương triều của Cố gia cũng không còn? Kết quả tất nhiên chỉ còn lại mật ước tổn hủy, đấu đá lẫn nhau lần nữa.”

Bạch Ly cảm thấy những người này quả thực không cách nào sống nữa, chuyện ba trăm năm sau cũng muốn nhọc lòng từ bây giờ.

Triệu Nhung nói tiếp: “Đạo lý này ta nghĩ được, Thi lục gia nếu không thể nghĩ được mới là lạ. Giữa người đạo yêu, y tất nhiên phải tìm kiếm loại cân bằng nào đó để kiềm chế nhau mới yên tâm. Trước mắt xem ra bước ngoặt này chỉ có Ma Tông thôi. Ngươi đem cái này cho y uống, y liền bị quấn vào trong trường nhân quả mới, nếu như… ‘thần’ không thể trí thân ngoài sự, ta không tin y còn có thể thong dong thành thạo như vậy.”

“Hơn nữa,” Triệu Nhung ngẩng đầu nhìn Bạch Ly, ánh mắt sáng đến dọa người, “Y sẽ vĩnh sinh vĩnh thế là của ngươi.”

Bạch Ly chấn động, Triệu Nhung biết lời mình nói đã hữu hiệu, cười cười quay người bỏ đi – nhìn ra được Bạch Ly là một mầm mống si tình, Thi Vô Đoan như thế nào lại khó mà nói, đến lúc đó tháo chuông còn cần người buộc chuông, y cứ ở đây chờ Thi lục gia đến cầu ly hận ấn đi.

Chương 76: Ngọn đèn thứ bảy (2)

Quần yêu dạ yến, đương nhiên là ồn ào thế nào cũng được.

Mùng một tháng Chạp vừa vặn tuyết rơi, trước bắt đầu như hạt muối, rơi lên Hoài Châu thành cổ ngàn năm, theo bóng đêm buông xuống lại dần dần to hơn, rào rào ngưng tụ thành lông ngỗng đập lên người, cũng nặng trịch như có trọng lượng.

Vùng Trung Nguyên từ xưa trọng nông, thói quen tìm ăn trong đất được lão tổ tông truyền xuống, cho nên hàng năm vừa đến khi rét đậm, thứ truyền thừa trong huyết mạch liền khiến người ta không cầm lòng được mà buông lỏng, ngay cả tinh thần cũng không nhịn được mệt nhoài, phảng phất chỉ cần nhóm một lò lửa, hâm một bầu rượu, là có thể uống đến mùa xuân sang năm.

Vừa qua nửa đêm, mặt nạ liền phải lột xuống, đám yêu ma quỷ quái uống nhiều rượu đều hiện nguyên hình, làm ầm ĩ một địa phương đến đèn đuốc sáng trưng, một tiểu yêu say quá nhảy xuống thành hào, biến thành một con cá chép vàng to lớn, hào quang kia chói mắt quá mức, nhất thời xung quanh giống như ban ngày, kinh động nửa thành Hoài Châu.

Bách tính đều mặc quần áo ùa ra đường cái xem cảnh hiếm lạ, không ít tiểu yêu tinh càng náo nhiệt biểu diễn thuật pháp các nhà hệt như kẻ điên.

Trong thành đèn đuốc sáng trưng, trên bầu trời các loại ánh sáng và pháo hoa rực rỡ, hai bên con đường chính trong thành bị hoa yêu gieo mầm, những thực vật ấy nhanh chóng nảy mầm chui khỏi mặt đất, sinh trưởng thành dây leo bám lên tường viện cổ xưa, bên trên nở ra những đóa hoa sáng rực, hô ứng với đại tuyết như lông ngỗng, dẫn đến từng tràng kinh hô tán thán.

Ước chừng là một con chim do tiểu yêu biến thành bay lên tường thành cao cao, cất tiếng hát một khúc ca khiến cả thành trì đều an tĩnh lại, tiếng ca du dương cực kỳ, giống như tuyệt thế danh linh, lưng mọc ra hai cánh, nhón chân đứng trên tảng đá to kia, phối với hoa đăng khắp thành, khiến người ta chợt có ảo giác như nghe thịnh thế hoa âm.

Triệu Nhung giơ chung rượu uống một hơi cạn sạch, ánh mắt dưới đại tuyết có vẻ cực kỳ mông lung, y thở dài tựa như thì thầm: “Sau ngàn năm ngăn cách, yêu với người, nhất định không phải tộc loại, nếu gặp lại cảnh tượng trước mắt, sợ không phải muôn người đổ xô ra đường như ăn tết, mà phải kinh hoảng thất thố cầm thương cầm kiếm?”

Thi Vô Đoan cách đó không xa quay đầu nhìn y, ánh mắt cũng không còn tỉnh táo, chẳng biết đêm nay đã uống bao nhiêu rượu vào bụng.

Hai người lặng im rất lâu, dường như còn đắm chìm trong tiếng ca của tiểu yêu thúy điểu kia.

Giây lát sau Triệu Nhung vỗ bàn nói: “Đổi bát to! Hôm nay ta và lục gia không say không ngừng!”

Thi Vô Đoan tùy tay ném chung rượu sang bên, nói trầm trầm: “Nhất định phụng bồi đến cùng.”

Chờ khi ánh dương ló dạng, Thi Vô Đoan mới được thả về, lúc đi đường chẳng hề ngẩng đầu, dáng vẻ nhất phái trấn định, chắc chỉ có người thấy mặt y mới có thể biết y đã say đến mức soi gương cũng chẳng nhận ra mình.

Bỏ lại khay chén hỗn độn, y quay về tiểu viện của mình, mất sức của chín trâu hai hổ mới mở được cửa, trong phòng đốt hỏa long, không khí khô nóng hất vào mặt, Thi Vô Đoan đứng ở cửa một lúc lâu, dường như thận trọng ngẫm nghĩ, sau đó ngồi phịch xuống dựa lên khung cửa, nhìn tiểu viện bị tuyết trắng phủ kín mà ngẩn người.

Bạch Ly bị một bình ly hận thủy nọ làm phiền đến mức cả đêm không ngủ được, đang ở bên giường nắm cái bình nhỏ ngẩn người, nghe thấy động tĩnh bên kia, do dự giây lát liền bỏ bình vào lòng rồi đẩy cửa đi ra ngoài.

Thi Vô Đoan đã sắp không mở được mắt, cổ giống như chẳng còn sức lực để đỡ cái đầu đa tư đa lự kia, uể oải vẹo sang bên, cho đến khi Bạch Ly thở dài đỡ y dậy, y mới muộn màng tươi cười.

“Ta hơi say, trong phòng nóng, ngồi ở bên ngoài một hồi.” Thi Vô Đoan thấp giọng giải thích, dường như y rất tỉnh táo – chỉ là Bạch Ly luôn cảm thấy chân y thõng xuống đất.

Giây lát sau Thi Vô Đoan hỏi: “Tiểu Ly Tử?”

Bạch Ly: “Ừm.”

Thi Vô Đoan “A” một tiếng mà nhíu mày, dường như vắt hết óc ngẫm nghĩ, nói: “Ngươi khoan đi, để ta nghĩ một chút đã.”

Bạch Ly dừng lại, hỏi: “Ngươi nghĩ cái gì?”

“Ta nghĩ xem phải bước chân nào trước.”

Bạch Ly khóe mắt giật giật, nhìn dáng vẻ như lâm đại địch kia, sau đó cúi xuống ôm ngang y lên.

“Nghĩ cái rắm.” Bạch Ly nói, “Ma men.”

Thi Vô Đoan ngoan ngoãn chẳng hề giãy giụa, chỉ mở mắt nhìn chằm chằm một nơi trong hư không, giống như nơi đó có một thế giới người khác không nhìn thấy – có lẽ y thật sự có thể thấy một thế giới khác.

Bạch Ly nhẹ nhàng thả y lên giường mình, kéo gối lót sau lưng y rồi nói: “Nằm nghỉ một lúc, để ta đi lấy canh giải rượu cho ngươi.”

Thi Vô Đoan bị tiếng nói của y kinh động, ngước đôi mắt đen như mực nhìn y, Bạch Ly lại bị ánh mắt này nhìn cho mất tự tại, dặn dò một tiếng rồi vội vàng chạy khỏi phòng.

Đại tuyết vẫn đang rơi, trong lòng y lại dường như có một ngọn lửa – chỉ cần y vừa nghĩ đến lời Triệu Nhung nói thì ngọn lửa trong ngực kia sẽ kích động mà bốc cháy lên.

Đó là một dấu ấn đóng trên hồn phách.

Y sẽ vĩnh sinh vĩnh thế đều là của ngươi…

Nhưng mà đôi mắt Thi Vô Đoan phút chốc lướt qua lòng y, như một chậu nước lạnh hắt xuống, khiến Bạch Ly cơ hồ rùng mình một cái.

Y từng thề, không cưỡng cầu nữa, không lao tâm phí lực, bỏ sinh quên tử tính kế lẫn nhau, tranh đấu không ngớt nữa.

Nếu như…

Bạch Ly vô ý thức sờ trong tay áo, nhưng không mò được gì, nhất thời dừng lại, một lát sau sắc mặt bỗng nhiên trắng bệch, quay người lao về phòng.

Sau đó y nhìn thấy một cái bình nhỏ quen thuộc trên tay Thi Vô Đoan.

Thi Vô Đoan chẳng biết đốt đèn từ khi nào, dường như không ngồi được mà vặn vẹo nhoài lên bàn, nương ngọn đèn hơi tối cẩn thận đánh giá cái bình nhỏ kia, ngọn đèn như hạt đậu chiếu vào mắt y, như là bên trong có một mồi lửa nho nhỏ, ánh mắt lưu chuyển quả thực tràn đầy các sắc thái.

Bạch Ly lại dừng bước ngay cửa, cả người tưởng như bị đóng băng.

“… Đây là ly hận thủy?” Thi Vô Đoan thấp giọng hỏi như độc thoại.

Trong lòng Bạch Ly bỗng nhiên dâng lên nỗi tuyệt vọng không thể nói bằng lời, y mở miệng, giọng nói lại khản đến không ngờ: “Là… ta…”

Kế đó Thi Vô Đoan kéo một bát trà từ trên bàn qua, cau mày, dường như đang thận trọng nghiên cứu thứ trong cái bình nhỏ này, sau đó dốc cả một bình ly hận thủy vào bát trà, để sát đến ngửi thử, lại dùng ngón tay chấm một chút mà vê nhẹ, khi Bạch Ly còn đang trợn mắt há hốc mồm, bưng lên uống một hơi cạn sạch.

Bạch Ly thất thanh nói: “Vô Đoan, ngươi…”

Thi Vô Đoan lại nhíu mày nói: “Phù, sao lại mặn vậy? Càng uống càng khát.”

Bạch Ly: “…”

Chỉ thấy Thi Vô Đoan loạng choạng vịn bàn đứng dậy, có phần không vững mà xách ấm trà trên bàn rót vào bát, lại phát hiện không có nước.

“Ta muốn uống nước, sao trong phòng ngươi ngay cả nước cũng không có vậy?” Y giống như ủy khuất tày trời mà nói với Bạch Ly.

Bạch Ly chỉ ngây ngốc đứng đó.

Thi Vô Đoan bước lên trước một bước, đột nhiên dúi đầu, ấm trà trong tay thình lình rơi xuống đất vỡ nát.

Bạch Ly vội đưa tay ôm lấy trước khi người nọ cắm đầu xuống đất, lúc này y thấy trên cổ Thi Vô Đoan dường như có một đường văn lộ bò lên, y dừng một chút, nhẹ nhàng kéo vạt áo Thi Vô Đoan ra, để lộ lồng ngực ấm áp của người nọ, chỉ thấy bắt đầu từ ngực Thi Vô Đoan, một văn lộ đang lan tràn trên da như cây.

Nảy mầm từ ngực, chậm rãi bò lên cổ, chui ra, cuốn lấy cổ tay Bạch Ly.

Bạch Ly ngơ ngác nhìn thứ giống dây leo kia, chỉ cảm thấy cổ tay đau nhói, phát hiện nó lại chọc thủng cổ tay mình, một giọt huyết châu tuôn ra, nhanh chóng ngấm vào sợi dây leo nối liền hai người, một luồng sáng khiến người ta không mở được mắt lóe lên, trước mắt nhoáng lên một cái, Bạch Ly không tự chủ được quay đầu đi.

Sau đó trong lòng y dâng lên cảm giác tựa bi tựa hỉ nào đó, cánh tay ôm Thi Vô Đoan không nhịn được siết chặt, cảm giác đau xót chợt đến kia tràn ngập lồng ngực.

Không biết qua bao lâu, bạch quang mới rút đi, Bạch Ly mở mắt ra, phát hiện trên ngực Thi Vô Đoan và cổ tay mình đều tự thêm một ấn ký nhỏ như hình xăm, như là một giọt nước… hoặc là hình dạng một giọt nước mắt.

Trong lòng y thình lình trào lên sự mỏi mệt, dường như không nhịn được phải ngủ thiếp đi từ đây, cố gắng đứng dậy thả Thi Vô Đoan lên giường, sau đó nằm bên cạnh rồi nhanh chóng mất đi ý thức.

Thi Vô Đoan cảm thấy trong bóng đêm có thứ gì đó một mực kéo y xuống, cổ tay lại vẫn bị người khác nắm chặt lấy, nhưng mà lúc y sờ soạng, lại chẳng sờ được thứ gì – tựa như cái tay kia chỉ là một suy tưởng vô căn cứ của y.

Song y rất bình tĩnh, cảm giác say còn trong thân thể, chúng lẳng lặng thiêu đốt máu y, nhưng không hề khó chịu, bởi vì độ ấm như vậy vừa vặn có thể trung hòa dòng máu lạnh lẽo quá mức kia của y.

Rượu có thể thêm can đảm.

Thi Vô Đoan rùng mình thầm nghĩ trong bóng tối, nếu là lúc tỉnh táo, y tính tới tính lui không biết bao nhiêu lâu, chỉ sợ cũng chẳng dám uống một lọ ly hận thủy kia.

Sau đó trước mắt y có ánh sáng nhỏ nhoi lấp lánh – y ngẩng đầu, trông thấy một trời sao, từng ngôi cực thấp như đè trên mặt đất, trước mắt là một đại dương không nhìn thấy bờ bến, bên trên tĩnh lặng chẳng hề gợn sóng, lại chiếu rọi kỹ lưỡng những vì sao trên trời.

Bản thân y thì ở trên một hòn đảo nhỏ, trên đảo có một gốc cây, dường như rất lâu trước kia y đã nhìn thấy cái cây này rồi, nhưng không làm sao nhớ nổi.

Chẳng hiểu tại sao mà Thi Vô Đoan cứ biết được, bầu trời này chính là si tình thiên, dòng nước này chính là ly hận hải.

Y ngồi xuống dưới tàng cây, ngẩng đầu trông lên quỹ tích quần tinh, trong lòng hiếm được an bình giây lát, không hề ý đồ nhìn ra quỹ tích gì từ trong đó, cũng chẳng muốn tính ra vận số của thứ nào, chỉ như một đứa trẻ chăm chú ngắm sao, nhớ tới khúc hát sớm đã quên mất là nghe được từ nơi nào -

Hạo hạo hà trung nguyệt, nguy nguy tiên nhân điện. Hành hành phục hành hành, thất tuế khứ lai hoàn. Tương tư hoảng triêu mộ, minh diệt loạn hà hán. Sâm Thương bất dữ cộng, nhất vọng thiên tuế hàn…

Lần này ngươi có thể yên tâm rồi? Thi Vô Đoan vươn vai dựa lên đại thụ nọ, nhớ tới dáng vẻ kinh sợ đan xen của Bạch Ly, lộ ra nụ cười – như lúc còn nhỏ sau khi nghịch ngợm gây sự lén nhoài lên cửa sổ nhìn sư phụ nổi trận lôi đình mà cười xấu xa.

Đã lâu lắm rồi không thấy.

Sắp sửa kết thúc rồi, y nói với mình.

Chương 77: Ngọn đèn thứ bảy (3)

Thi Vô Đoan trong lúc vô ý nghiêng người, cảm thấy mu bàn tay đập phải thứ gì đó, y tỉnh táo lại, mở mắt thấy màn giường hơi xa lạ, bấy giờ mới nhớ đây không phải là phòng mình.

Chẳng biết xuất phát từ tâm lý gì, y không nhìn sang bên cạnh, chỉ thoáng xấu hổ mà rụt cánh tay không cẩn thận khoác lên người ta, lại bị Bạch Ly bắt được tay.

Ánh dương chiếu vào, mặt trời đã lên cao ba sào, Bạch Ly không say, hiển nhiên sớm tỉnh dậy, nhưng y chỉ nghiêng người gối lên một tay mình, nằm đó yên lặng nhìn Thi Vô Đoan, chẳng biết nhìn đã bao lâu, dường như ngay cả mắt cũng không nỡ chớp một cái.

Thi Vô Đoan nhẹ nhàng đẩy y một phen, muốn rụt tay về, Bạch Ly lại không nhường.

“Đừng quậy.” Y nói.

Lực tay Bạch Ly lại đột nhiên tăng lên, cả người dán qua, tay kia thì ôm hông Thi Vô Đoan, vùi mặt vào hõm vai đối phương, một lát sau y mới nói nhỏ: “Sao ngươi biết trên đời có ly hận thủy?”

Thi Vô Đoan dừng một chút rồi nói: “Chân thân của phu nhân yêu vương chính là một gốc cây hợp hoan, ly hận thủy là bí mật bất truyền của bộ tộc hợp hoan. Yêu tộc ở thảo nguyên A Mộc lâu, bị Nhan Chân cuốn vào chiến cuộc chẳng qua là việc sớm muộn, ta tất nhiên phải biết mình biết người.”

Tay Bạch Ly đang ôm y lại siết chặt, hỏi: “Chuyện tối hôm qua, ngươi biết?”

Thi Vô Đoan cười khẽ nói: “Bắt đầu từ lúc yêu vương rời tiệc, nhất cử nhất động của y, chí ít có hơn mười đôi mắt quan sát. Ta biết y muốn tìm thứ gì đó để kiềm chế ta… Chỉ là yêu tộc ở lâu bên ngoài, không hề giống người, dù sao cũng đơn thuần, biện pháp y có thể nghĩ ra để đối phó ta, thật sự không nhiều lắm.”

“Vậy tại sao ngươi phải uống?”

Thi Vô Đoan thở dài, cánh tay Bạch Ly cấn y không thoải mái lắm, nhưng mà y chỉ nhẹ nhàng vuốt ve mái tóc xõa sau lưng Bạch Ly, không trả lời.

Bạch Ly dường như cũng không muốn nhận được câu trả lời của y, chỉ nói như độc thoại: “Ngươi đã biết, vì sao còn phải uống? Ngươi… ngươi là nguyện ý sao?”

Thi Vô Đoan nghe âm sắc khác thường liền nghiêng mặt qua, nhẹ nhàng nâng cằm Bạch Ly, lại phát hiện người nọ rơi lệ đẫm cả khuôn mặt.

Thi Vô Đoan chợt sửng sốt, chân tay luống cuống, không biết phải làm thế nào, qua một lúc lâu mới nói: “Ngươi… khóc cái gì? Ly hận thủy tự nhiên là có công dụng khác, ta chẳng qua lợi dụng Triệu Nhung…”

Y đột nhiên dừng lại, bởi vì Bạch Ly thình lình vùng dậy, nhẹ nhàng vén vạt áo lộn xộn của y, gần như thành kính mà quỳ xuống, cúi người hôn ấn ký ly hận thủy trên ngực y.

Nước mắt rơi lên ngực y, lại cùng dấu vết như lệ kia ánh nhau sáng rực.

Dây dưa… đại khái từ xưa đến nay có ba kết cục, hoặc là si tâm cảm thiên động địa, vạn hạnh ông trời thương tình, có thể từ dây dưa biến thành triền miên, hoặc là một phương nhìn thấu buông xuống, từ đây thiên nhai không gặp lại nhau, cả đời không qua lại, hoặc là lưỡng bại câu thương, tử sinh gút mắt suốt đời, chẳng qua thành tựu một đoạn nghiệt duyên không thể nói được.

Thiết nghĩ, cho dù đời này chữ duyên không cạn, tình lại luôn phải sâu hơn trong lòng ba tấc.

Cuối năm vừa qua, Cố Hoài Dương rốt cuộc hãm thành Bình Dương.

Hoàng đế Phổ Khánh sớm chẳng còn uy nghi của thiên tử một triều nữa, đầu tiên là vào lúc lâm triều mắng văn võ bá quan vốn lòng người hoảng sợ đến càng thêm hoảng sợ, đập chậu đập bát như hạng đàn bà chanh chua, chờ đập chán chê rồi, sự phẫn nộ cũng mất đi, mà sợ hãi lại sinh ra.

Hoàng đế lúc hạ triều cảm thấy đầu gối mềm nhũn, được thái giám đỡ về tẩm cung, y cho mọi người lui đi, suy sụp ngồi xuống, đột nhiên ôm lấy một chân long sàng mà khóc ầm lên.

Sau đó sự sợ hãi cũng chảy hết theo nước mắt, chỉ còn lại ngỡ ngàng.

Y nghĩ, chết đi, tìm một mảnh bạch lăng, giống như một nam nhân mà chết đi cho rồi.

Sau đó y gọi: “Người đâu! Người đâu!”

Tiểu thái giám bị đuổi ra ngoài sấp ngửa lăn vào, chỉ nghe Hoàng đế bệ hạ nói đầy kinh thế hãi tục: “Đi… Đi lấy cho trẫm một tấm bạch lăng.”

Tiểu thái giám nhũn chân, đầu rạp xuống đất rơi lệ giàn giụa: “Hoàng thượng, không thể được!”

Hoàng thượng đờ đẫn nói: “Trẫm còn chưa chết mà các ngươi đã muốn kháng chỉ, không sợ rơi đầu sao?”

Tiểu thái giám quỳ xuống đất liều mạng dập đầu nói: “Hoàng thượng phải lấy xã tắc làm trọng, bảo trọng long thể!”

Hoàng đế một lòng một dạ muốn đi tìm cái chết mắng: “Cút! Nói thêm một câu nữa, trẫm sẽ tru cửu tộc nhà ngươi!”

Tiểu thái giám quay đầu nhìn ngó, chung quanh không có ai, hắn dù trung can nghĩa đảm như thế nào thì cũng chẳng có ai trông thấy, cân nhắc một chút về cửu tộc nhà mình cùng cổ rồng của Hoàng đế, ai nhẹ ai nặng vừa nhìn hiểu ngay… Dù sao tiên hiền cũng nói, dân làm quý, xã tắc là thứ, quân làm khinh mà.

Vì thế hắn chỉ do dự giây lát, liền nhẹ tay nhẹ chân đi lấy bạch lăng cho bệ hạ.

Hoàng đế bị các đại nhân hở ra là tranh nhau lấy đầu đâm cột đâm tường trên triều đường bức quen rồi, chưa từng nhìn thấy ai dễ hù dọa như vậy, lại ngẩn ra, giây lát sau tiểu thái giám chạy chậm mà lấy bạch lăng y muốn qua đây, hai tay dâng lên, chờ tiễn vị thiên tử thánh minh này lên đường.

Hoàng đế cho hắn lui, treo bạch lăng lên xà nhà, đứng ngẩn ra rất lâu, bắt đầu hồi ức cuộc đời binh hoang mã loạn này, chờ y nghĩ xong thì một bầu tự quyết tràn ngập bi tráng kia đã giống như một cái bong bóng heo bị thủng – thứ nên chảy ra đều đã chảy ra hết.

Y suy sụp lui hai bước, cảm thấy chết tốt không bằng sống tạm, dời đô hoặc là trốn đến quan ngoại, cho dù thoái vị xưng vương, tốt xấu cũng là một đường sống vinh hoa phú quý, bách tính tầm thường vất vả phấn đấu cả đời, nếu trước khi chết được làm một đế vương tướng, chẳng phải cũng có thể mỉm cười mà chết sao?

Đang nghĩ như vậy thì có người đến báo: “Hoàng thượng, Nhan đại nhân đến…”

Thanh âm nhẹ nhàng, giống như chỉ sợ dọa vị Hoàng đế tinh thần mong manh hệt như tờ giấy của họ lại làm ra chuyện thiêu thân uống thuốc gì.

Hoàng đế ngẩng đầu lên, trong đôi mắt như nước lặng hơi lộ ra một chút ánh sáng, y thầm nghĩ, đúng vậy, còn có Nhan Chân, còn có người của Nhan gia, còn có Mật Tông, Huyền Tông… Họ thần thông quảng đại như vậy, nhất định có biện pháp, dù thời gian trước chèn ép họ nhiều, chẳng qua là cân bằng, lôi đình mưa móc đều là quân ân, họ há dám oán phẫn?

Vì thế y cuống quýt nói: “Mau mời!”

Giây lát sau Nhan Chân rảo bước vào, lễ nghi còn chưa làm chu toàn đã bị Hoàng đế ngăn lại, nhiệt tình đón nhận chưa từng có bao giờ, miệng nói: “Mời mau dậy! Nhan ái khanh mời mau mau đứng dậy – người đâu, ban tọa.”

Nhan Chân đã mấy ngày chưa từng chợp mắt, đưa mắt nhìn vị thiên tử quả thực “tè ra quần” này một cái, âm thầm thở dài – đây vẫn là lần đầu tiên khi hắn một mình triều kiến Hoàng đế được thù vinh ban tọa.

Quả nhiên, tôn mông của Nhan đại nhân còn chưa chạm ghế, Hoàng đế đã khó dằn nổi hỏi: “Thế cục trước mắt làm sao cho được? Ái khanh có biện pháp chứ?”

Nhan đại nhân còn chưa kịp nói gì, Hoàng đế lại tiếp tục: “Ái khanh thấy dời đô thì thế nào? Lưu được thanh sơn, không sợ không có củi đốt, trẫm dẫn văn võ bá quan tạm thời tránh lui, dời đô quan ngoại, giải mối nguy sém lông mày trước mắt, tương lai còn dài…”

Nhan Chân lập tức ngắt lời: “Hoàng thượng không thể.”

Hoàng đế sửng sốt, ngơ ngác nhìn hắn.

Nhan Chân hơi dịu giọng nói: “Chuyện dời đô không thể nhắc lại, quan ngoại không hề là nơi lâu dài, thứ nhất đất rộng người thưa, khí hậu cũng hết sức ác liệt, nhiều núi lắm đường, chỉ sợ không có chỗ cho bệ hạ và các vị nương nương xây hành cung, huống chi ăn gió nằm sương, rất nhiều nơi trừ cỏ dại um tùm thì chẳng có gì, áo cơm cũng thành vấn đề.”

Nhan Chân biết mình không cần nói tiếp nữa, chỉ một điều này đã có thể khiến đế vương nhân gian lớn lên trong yên vui này lui bước, quả nhiên, Hoàng đế nhíu mày nói: “Điều này… nói cũng phải, đế đô Bình Dương chính là thể diện của xã tắc ta, làm sao có thể để những tiểu tặc đó họa hại được?”

Nhan Chân lại nói: “Bệ hạ không cần kinh hoảng, thần đã có kế lui địch.”

“Cái gì?”

Nhan Chân nói: “Gia phụ sinh tiền từng nói, việc vay quốc vận, bảy ngọn sơn đăng khởi ở Cửu Lộc, chung ở Thương Vân cốc, Vạn ma chi tông chính là nơi hết thảy định số sở tại, cho nên nhiều năm trước thần thỉnh mấy người của Mật Tông, làm phép mời Ma quân ra, đem quốc vận nối liền. Trước mắt chúng ta đã mất đi tung tích của Ma quân, nhưng mà thần cùng đông đảo đồng môn Mật Tông thương nghị, cảm thấy hiện tại vẫn có một biện pháp khả dụng.”

“Đả Cốc đạo hiện giờ bị tặc hại, chi bằng chúng ta tương kế tựu kế, linh khí giáo tông đã rò rỉ, thế thần thỉnh mệnh Hoàng thượng, mở ra Vạn ma chi tông, mời hàng tỉ quân ma thủ thành cho đế đô ta…”

“Được!” Không đợi hắn nói xong, Hoàng đế đã dẫn đầu đứng lên, vui mừng ra mặt khen ngợi, “Ái khanh quả nhiên là phúc của xã tắc ta! Thần tử đắc lực của trẫm! Nếu có thể thủ được đế đô Bình Dương, trẫm nhất định phải thưởng ngươi đàng hoàng! Sẽ phong ngươi làm nhất đẳng hộ quốc công, con cháu thừa kế, ngươi thấy thế nào? Không… Không đúng, còn có Mật Tông, về sau Mật Tông sẽ là nơi triều ta trưng bày đế vương từ…”

Nhan Chân chỉ cảm thấy mệt mỏi, trong tai tràn ngập hứa hẹn của Hoàng đế vui mừng ra mặt, không nói được một lời, chờ y nói xong thì tạ ơn lui ra.

Ma vật thủ thành, đâu phải dễ mời? Đến lúc đó chỉ sợ mời thần dễ tiễn thần khó, ngàn năm trước bao nhiêu cao thủ giáo tông lấy thân tuẫn táng mới phong được Vạn ma chi tông, mấy thứ đó đều là ăn tươi nuốt sống, hút hồn phách người ta mà sống, một khi thả ra, thế gian nhất định là yêu ma hoành hành, sinh linh đồ thán.

… Bệ hạ tự nhiên không suy nghĩ, dù sao nhiều cao thủ giáo tông như vậy, vô luận thế nào cũng sẽ không để ma vật gây hại vào hoàng cung.

Chuyện đến bây giờ, Nhan đại nhân qua tuổi nửa trăm lại hơi mù mờ, hắn nghĩ những việc mình làm đều là đúng sao? Nhưng mà ý nghĩ này chỉ thoáng qua, tịch dương như máu từ đỉnh cung điện nguy nga lặn xuống, chiếu mái ngói vàng son hào quang tứ xạ.

Đã… đi đến bước này rồi.

Thi Vô Đoan ở ngoài thành Bình Dương, tập trung tất cả khinh kỵ giáo tông, lấy Hạ Đoan Phương làm đầu, mỗi người đều đến dưới trướng y – y đang dưỡng tinh bàn.

Tinh bàn nhận chủ sẽ hấp thụ tinh hoa của thiên địa nhật nguyệt, nhưng bộ đời sau được xưng là “quỷ bàn” này của Thi Vô Đoan lại thích hồn phách lệ quỷ, hoặc là huyết nhục tinh phách người sống.

Thi Vô Đoan đang lấy máu của mình nuôi nó, hành vi này bị Bạch Ly thấy, còn giận dữ đến mức suýt nữa tranh cãi với y, lại bị một câu “Ngươi ban đầu còn nuôi ảnh ma trong bóng của mình mà” của Thi Vô Đoan chặn họng.

Hạ Đoan Phương luôn cảm thấy Thi Vô Đoan lúc ngồi trước bộ tinh bàn kia, cả khuôn mặt đều bị ánh đến âm thảm, có chút đáng sợ. Hắn loáng thoáng có thể biết một chút dụng ý của việc Thi Vô Đoan làm, nhưng không hề suy nghĩ, cũng không hề nói.

Bởi vì hắn biết, trước mắt hết thảy đã đi đến chung cuộc, tất cả đường lui và đường về đều bị chặn chết, không ai có thể ngăn cản những việc lập tức phải phát sinh này.

Vinh hoa phú quý và im miệng không nói… mới là thứ vô luận khi nào nơi nào đều có thể bo bo giữ mình, đây là chuyện ngay cả vị trong hoàng cung kia cũng hiểu rõ.

Thi Vô Đoan mới giơ cổ tay lên, Bạch Ly lập tức đưa tay bóp nơi còn đang chảy máu của y, chỉ thấy tinh bàn kia hào quang sáng ngời đến chói mắt, Thi Vô Đoan nhìn vạn ngàn vì sao bên trên, mở miệng nói: “Nhan Chân trước mắt không còn phương pháp khác, chỉ có thể lại mở Ma Tông, mời ma vật thủ thành.”

Hạ Đoan Phương ngớ ra, Bạch Ly cũng ngớ ra, tiếng thì thầm khe khẽ rộ lên, Thi Vô Đoan không biến sắc, cổ tay để trong tay Bạch Ly, lẳng lặng chờ họ nghị luận xong.

Sau đó y nhẹ giọng nói: “Không có gì đáng ngại.”

Chương 78: Ngọn đèn thứ bảy (4)

Mười lăm tháng Giêng, Thượng nguyên giai tiết.

Khai chiến.

Người dưới thành lấy thịt làm thuẫn, trên tường thành tên bay như mưa, từng tốp người ngã xuống, máu tươi nhuộm đỏ cả thành hào Bình Dương, nhưng mà binh tướng như thủy triều, sóng trước lui sóng sau lại lên, đao thương kiếm kích, Nhan Chân ở trên tường thành nhìn một cái, cảm thấy những người này giống như muốn dùng móng tay móc bung cả tường thành, hung ác đến mức khiến người ta ngứa ran da đầu.

Giờ Ngọ qua đi, đệ tử giáo tông còn sót lại trong thành Bình Dương xuất động, giằng co với kỵ binh dưới thành, ban ngày như đêm, đêm như ban ngày, trời đất tối sầm, chẳng ai biết trước mắt là giờ nào, thậm chí có người ngay cả mình còn sống hay đã chết cũng không phân rõ, chỉ xung sát theo bản năng.

Mãi đến khi kiệt sức rã rời, mãi đến khi rát bỏng cổ họng.

“Bích Đàm sư thúc.” Thi Vô Đoan xa xa nhìn nam nhân tọa trấn Huyền Tông sứt đầu mẻ trán trên tường thành, bỗng nhiên lộ ra một nụ cười khổ, dường như muộn màng ý thức được mình là một phản đồ của sư môn.

Sau đó y vẫy tay gọi bên cạnh, trong tiếng kêu giết câu trước câu sau không ăn nhập mà hỏi: “Ngươi có biết, nếu một người máu thịt phân ly, mà thời điểm một bên sắp chết, sẽ thế nào chứ?”

Bạch Ly nhíu mày nói: “Sao vậy?”

“Không có gì, chỉ hỏi thử thôi.” Thi Vô Đoan dời ánh mắt, y gần đây dường như gầy đi không ít, chẳng biết có phải là suy nghĩ quá nhiều hay không mà trên mặt càng lúc càng thiếu biểu cảm, thoạt nhìn hơi giống một mộc đầu nhân điêu mài tinh tế.

“Ngươi đang hỏi ta năm đó một hồn một phách, thêm huyết nhục hồ tộc bị cắt ra, là trở về như thế nào sao?” Bạch Ly hỏi.

Thi Vô Đoan lại hỏi: “Vậy ngươi… năm đó vì sao lại vào trong thân thể một con thỏ?”

Y chưa bao giờ đề cập vấn đề này, hiện giờ rốt cuộc hỏi ra, Bạch Ly lại giơ tay, vén mái tóc bị gió thổi tung của y sang một bên, đầu ngón tay đụng tới gò má bị gió thổi lạnh băng, qua một hồi lâu mới nói: “Đại khái là không yên tâm về ngươi thôi? Nếu không nhìn thấy ngươi, không biết ngươi thế nào, ta sẽ hoảng sợ.”

Thi Vô Đoan ngơ ngẩn nhìn y, nhưng mà lúc này, một tiếng trống kinh thiên động địa đột nhiên truyền đến, Thi Vô Đoan phục hồi tinh thần, ngẩng đầu nhìn lại, chỉ thấy không trung vừa nãy còn thấy được ngân hà đột nhiên bị hắc khí che phủ, một luồng sáng màu tím đen lên từ phương tây, gió ngừng một cách quỷ dị, một mùi rữa nát không biết lên từ đâu, như là mùi vị truyền ra khi bãi tha ma chôn đầy xác thối bị động đất lật lên.

Thanh âm sột soạt từ phương xa truyền đến, như là có ai đang thầm thì khe khẽ.

Đột nhiên có người la hoảng lên: “Ma vật! Là cửu u ma vật!”

Hạ Đoan Phương lập tức vô thức nhìn Thi Vô Đoan, chỉ thấy y nhìn phương hướng tường thành, khuôn mặt nghiêng bị ánh lửa chớp tắt chiếu đến thoáng mơ hồ, y hơi ngẩng đầu, chiếc cằm hơi nhọn kéo căng quá, búi tóc bị cơn gió vừa nãy thổi tung non nửa, hiện giờ đều buông xuống, lẳng lặng rơi phía sau… Vẻ mặt y lại là bình tĩnh.

Dường như y vĩnh viễn đều bình tĩnh, hỉ nộ ai lạc trên thế giới này, chẳng còn bất cứ thứ gì có thể dao động y. Có đôi khi Hạ Đoan Phương không khỏi hoài nghi, nếu Bạch Ly không quay về, một ngày kia phải chăng y hoặc là biến thành một kẻ điên, triệt triệt để để bộc phát ra, hoặc là biến thành một tảng đá, quên mất hết thảy bi hoan?

Trên tường thành chẳng biết từ khi nào đã có một loạt tiểu nhi tóc trái đào bị đẩy lên, mỗi một đứa trẻ đều bị trói bằng dây thừng, đám sĩ binh nửa người nhuộm máu cầm đao thương đứng phía sau chúng.

Nhan Chân cúi mắt, nhẹ nhàng khoát tay.

Chỉ thấy một bé trai bụ bẫm trông rất đáng yêu bị đẩy ra, nó bất lực quay đầu nhìn một cái, không biết từ đâu bộc phát ra một tiếng khóc chói tai, rồi nhanh chóng bị người ta bịt lại.

Sĩ binh sau lưng đứa bé đờ đẫn nhìn nó, lại đẩy vai nó một phen.

Đứa bé hơi lảo đảo rồi đứng vững, khóc nức nở hô to với dưới cửa thành: “Nghịch tặc các ngươi!”

Thanh âm của nó trong trẻo hơn nhiều tiểu hài tử bình thường, ước chừng là một con hát, chỉ thấy lời này vừa ra khỏi miệng, cổ họng nó gian nan động một chút, quát: “Nghịch tặc các ngươi nghe đây, sinh dưới hoàng thiên, trên hậu thổ, không nghĩ đến trung quân báo quốc, nhân nghĩa hiếu đạo, dùng võ phạm kỵ, hoành hành ngang ngược, đến mức khiến chư thần phẫn nộ, giáng tội vào con người, vạn ngàn lê dân trôi giạt khắp nơi, mà lấy ô hỏa độc chủ thượng ta, lấy yêu pháp loạn triều cương ta! Các ngươi, các ngươi…”

Tiếng của đứa bé bắt đầu khàn khàn, mở miệng mà không phát ra tiếng, vì thế đột nhiên ở trên tường thành gào khóc ầm lên, khuôn mặt tròn nén thành màu đỏ tía, vừa khóc ra thì cả một loạt tiểu đồng cao giọng khóc theo, giống như trên thành kia là một sân khấu kịch, đang diễn một vở hoang đường tột cùng.

Cho đến khi thằng bé khóc tới không thở nổi, mới nghẹn ngào nói: “Các ngươi… các ngươi tội ác tày trời! Vạn… chết khó chuộc!”

Cả tường thành đều bị hắc ảnh phủ kín, như là quét một lớp hắc thủy thật dày, chúng lúc nhúc, nôn nóng nhìn mười mấy tiểu đồng da mỏng thịt mềm này, thân ảnh lững lờ phảng phất có thể cho người ta cảm giác được khát vọng và sự tham lam dơ bẩn kia của chúng.

Trên chiến trường rộng lớn, hơn mười vạn người ở đây, lại không một ai lên tiếng, chỉ có Thi Vô Đoan khóe môi lộ ra nụ cười như có như không, lúm đồng tiền trên má trái hơi lõm xuống, y nhẹ nhàng mở miệng, thanh âm lại cho mọi người đều nghe được – từng chữ từng câu truyền lên thành cao nguy nga.

Y chậm rãi nói: “Được, Nhan đại nhân, vô độc bất trượng phu, đập nồi dìm thuyền như vậy, trong lòng kẻ học sau rất bội phục.”

Nhan Chân từ xa xa nhìn y, ánh mắt chớp động, tiếng một nam nhân ngân nga từ phía sau hắn truyền đến, dường như một tiếng thở dài, người nọ nói: “Hiến tế…”

Lũ trẻ đồng thời bị đẩy xuống tường thành, cơ hồ nháy mắt liền bị hắc ảnh nhấn chìm, tiếng kêu thảm thiết ngắn ngủi mà chói tai của hài tử trong khoảnh khắc không còn thấy đâu, sau đó hắc ảnh tan đi, một đống bạch cốt nho nhỏ dính máu lộ ra, người nọ run giọng xướng: “Lễ thành…”

Mặt đất chấn động, hắc ảnh che lấp trời đất tràn ngập ra, chúng ở trên mặt đất, trên không trung, trên tường thành, trong bóng, ăn thịt hút tủy, cưỡng ép nhét những hồn phách sứt mẻ đó vào thân thể mình, trong đêm tối triển lộ ra thân xác xấu xí, Bạch Ly đột nhiên nắm chặt tay.

Thi Vô Đoan lại nắm lấy cổ tay y, nhẹ nhàng bẻ ngón tay y ra.

Ánh mắt nam nhân cực sâu, cũng cực nhu hòa, Bạch Ly nghe thấy y nói khẽ: “Cầm cái này.”

Bạch Ly không tự chủ được xòe hai tay nhận lấy, chỉ thấy đó là một mộc đầu nhân nho nhỏ, bất đồng với thanh khuê thô kệch bản thân y từng khắc, mộc đầu nhân này trông rất sống động, có lẽ phải cực khéo tay mới làm được, ngay cả sợi tóc cùng lúm đồng tiền trên mặt cũng rõ nét, hiện rõ đến từng chân tơ kẽ tóc.

Người gỗ nhỏ chính là bản thân Thi Vô Đoan, chỉ là hai má phúng phính hơn hiện tại một chút, với nụ cười xấu xa không hề phiền não, đại khái là y thời điểm thiếu niên.

“Cất kỹ.” Thi Vô Đoan nói, “Đây là ta đưa cho ngươi, sau này ta sẽ trở về tìm ngươi.”

Nói xong không đợi Bạch Ly phản ứng lại, y đột nhiên thúc ngựa xông ra, Hạ Đoan Phương thần sắc phức tạp nhìn Bạch Ly một cái rồi giục ngựa đuổi theo, chỉ khoảnh khắc đoàn người đã tách họ ra, Bạch Ly trơ mắt nhìn bóng lưng Thi Vô Đoan, nhưng vô luận thế nào cũng khó mà lao khỏi quân Khăn Đỏ đang bao vây.

Y không nhịn được giận dữ nói: “Tránh ra hết cho ta, cho rằng có y là ta không dám giết các ngươi sao? Ta mới là Ma quân! Dù là mấy thứ đó dốc tổ mà ra thì thế nào, ta có biện pháp giết bọn chúng một lần, là có thể giết bọn chúng lần thứ hai!”

Không ai để ý tới y, đã lên chiến trường này thì chẳng ai tính toán còn sống trở về.

Bạch Ly vung roi ngựa, tuy rằng mắt cũng đỏ lên vì gấp, lại vẫn bởi vì cố kỵ Thi Vô Đoan mà không hề hạ sát thủ, roi kia chỉ như có mắt, tự mình đánh một vòng trên không trung, cuốn một người ngăn trước mặt ra, y trợn mắt nhìn chăm chú bóng lưng mỗi lúc một xa kia, vừa định đuổi theo thì một luồng thanh quang lại từ dưới chân dâng lên, trên mặt đất chẳng biết từ khi nào sinh ra vô số sợi tơ như tơ nhện, càng lúc càng nhiều, quấn lấy Bạch Ly.

Chúng dừng lại trên da y, không hề thương tổn, chỉ buộc chặt y tại chỗ, xúc cảm lạnh băng đó Bạch Ly từng nhiều lần gặp được – là tinh ti, tinh ti trên bộ quỷ bàn kia.

Y ngạc nhiên cúi đầu, rất nhiều người đều làm động tác giống y, chỉ thấy mặt đất phảng phất biến thành một tấm gương lớn, giống như loại ảo thuật Thi Vô Đoan sử dụng phối hợp với trận pháp khi thư sát Huyền Tông trên Đại Châu sơn, các ảo thuật sư đứng trong kỵ binh đồng thời cao giọng nói: “Khởi!”

Đại biểu cho hoàn thành quá trình bố trí, Thi Vô Đoan đã đứng ở giữa gương, phản xạ trong gương chính là một bộ tinh bàn, tinh bàn nguyên bản chẳng qua một thước vuông bị gương phóng đại vô số lần, bên trên tinh vân lưu động, y giống như là giẫm lên ngân hà.

Tiểu tượng mộc đầu nhân trong tay Bạch Ly phát ra ánh sáng giống những tinh ti tinh tử đó, trên mặt tiểu nhân tượng ngây thơ kia đột nhiên bị cắt ra một huyết châu, như là chảy xuống một đường huyết lệ, để cùng với nụ cười không hề có tâm sự kia, có vẻ xa cách lạ thường.

Bạch Ly đột nhiên ý thức được, mảnh gỗ dùng để điêu khắc nhân tượng này vốn là một phần của đế tinh bàn.

Trong lòng chợt dâng lên nỗi bất an mãnh liệt, nhớ tới Thi Vô Đoan mỗi ngày dùng máu mình nuôi tinh bàn, nhớ tới câu vừa nãy y đột nhiên hỏi… Y muốn làm gì?

Vô số hắc ảnh ùa đến Thi Vô Đoan chính giữa tinh bàn như phát điên, y thậm chí chẳng buồn nhướng mí mắt, dường như mấy thứ đó chẳng qua đều là bụi đất, gió lốc lên từ dưới chân y như cuồng phong không gì cản nổi, không chút lưu tình quét hết những hắc ảnh đó.

Hạ Đoan Phương nghiêm nghị đứng một bên, bộ râu luôn có vẻ hơi buồn cười kia cùng đồng tiền to đeo trên người đều sinh ra vài phần trang trọng khác thường trong buồn cười.

Chỉ nghe Thi Vô Đoan nói từng chữ: “Tham Lang nhập lục cung, tiến tam tức, tẩu thần tọa…”

Rất nhiều năm trước, Giang Hoa tản nhân dùng một Lục hồi hoạt trận vây Thi Vô Đoan trên núi, tiểu gia hỏa nọ không biết trời cao đất dày, mượn một cây chày ngân hà của Bạch Ly, thao tác sao trên tinh bàn đi theo tâm ý của y, lừa hoạt trận biến động theo các vì sao kia tự mình mở ra.

Mấy chục năm về sau, y đều không làm trò đùa dai có trình độ lại to gan lớn mật như vậy nữa, Thi Vô Đoan cơ hồ có phần không xác định phải chăng mình càng sống càng đi lùi.

Sao trên tinh bàn chậm rãi di động, mây đen mù trời đột nhiên đình trệ, giống như bị hai tầng trời trên dưới này mê hoặc.

Ba đôi yêu cảnh ngoài Ma Tông chính là nối liền nhau bằng hình thức của Lục hồi hoạt trận, chia Ma Tông và nhân gian từ một ra làm hai, thành quang ảnh của nhau, Nhan Chân lợi dụng nhân quả của Bạch Ly, lại cưỡng ép mở Ma Tông, Lục hồi trận bị xé rách, Thi Vô Đoan liền vừa vặn mượn cơ hội này để đốt ngọn đèn diệt thế cuối cùng của y.

Không phá không lập.

Nhan Chân động dung, mọi người đều động dung, Cố Hoài Dương đột nhiên đẩy mọi người ra, bắt lấy một kỵ binh vừa nãy hỗ trợ mượn sức dựng kính tượng, hỏi: “Ngươi… Ngươi nói cho ta biết! Lục gia muốn làm gì?!”

Kỵ binh nghiêm nghị nói: “Hồi tướng quân, lục gia nói, đây là tuyến cuối cùng dính với cái gọi là ‘quốc vận’, tuyến này cắt đứt, là ông trời không làm gì được việc trùng chỉnh trật tự trên đại lục này của y, mọi thứ đều sẽ có trật tự mới, xin tướng quân yên tâm.”

“Yên tâm?!” Cố Hoài Dương cơ hồ trừng lồi mắt, quay đầu thoáng nhìn Thi Vô Đoan đứng giữa tinh bàn giống như đang hiến tế cái gì đó, túm cổ áo kỵ binh, “Ta yên tâm cái gì? Đó là huynh đệ của ta, từ nhỏ được ta nhặt về, nuôi nấng đến bằng này, ta coi y như nửa con, ngươi bảo ta yên tâm cái gì!”

Gió từ dưới chân dâng lên triệt để đánh tung búi tóc của Thi Vô Đoan, mỗi một ngôi sao đều ở trong tay y, những quỹ đạo vận chuyển phức tạp đó, tựa như mệnh số vô thường lại liên lụy lẫn nhau, trăm ngàn năm qua không ai có thể tính rõ được.

Màu đen trên không trung chậm rãi tan đi, rõ ràng là nửa đêm, lại đột nhiên ló ra một chùm ánh dương từ dưới tầng mây, tuyến ánh sáng ấy giống như lợi kiếm đến từ thiên ngoại, ghim thẳng một đoàn ma vật đen kịt trên mặt đất, trong khoảnh khắc đốt thành một đống than.

Nhan Chân lui phắt ra sau một bước, cả người run rẩy dữ dội: “Y lại dám… lại dám…”

Không trung đột nhiên dâng lên sáu luồng sáng màu sắc khác nhau, như là màu sắc bất tường lộ ra khi động đất sắp đến, hết đợt này đến đợt khác, hô ứng từ xa, mọi người che mắt, ngay cả Bạch Ly cũng bị ánh sáng ấy đâm nhói mắt, nhưng y nhận được, đây chính là yêu cảnh bao vây bên ngoài Ma Tông, từng vây y và Thi Vô Đoan trong đó hơn một tháng.

Những ngôi sao ấy kín kẽ vận chuyển đến một chỗ, sáu luồng sáng đột nhiên tản ra, tự chọn một phương hướng rồi chìm vào đại địa, mặt đất ầm ầm như sắp nứt ra, mà phương xa, sáu ngọn núi mọc từ đất bằng, như là đóng sáu cái đinh cho đại lục muốn bay lên.

Vô số tia sáng đột nhiên từ trên thiên không chiếu xuống, gần như quét sạch đám ma vật trên mặt đất, chúng thét lên, vặn vẹo, thanh âm khàn khàn, dần dần bị tấm lưới to do tinh ti dệt thành đè dưới đất, ánh sáng ấy phảng phất mang theo độ ấm cháy bỏng, Bạch Ly không nhịn được muốn nghiêng đầu tránh lui, lại phát hiện đám tơ quấn trên người y như một con nhộng đã thay y ngăn hết những tia sáng nọ.

Y ngước mắt, phát hiện Thi Vô Đoan từ giữa ngàn vạn người quay đầu nhìn qua đây, trên mặt dường như lộ ra nụ cười.

Sau đó kinh lôi bổ xuống, thiên địa bị lừa gạt rốt cuộc tức giận, cơn giận lôi đình giáng lên phàm nhân mưu toan làm việc thần thánh này, ánh nắng quỷ dị và tia chớp cùng lên cùng xuống, mỗi người đều mù trong nhất thời.

Thi Vô Đoan lại buông tiếng cười rộ lên.

Hạ Đoan Phương ngồi xổm một bên, hai tay ôm đầu, bị cơn giận của thiên địa chấn nhiếp đến mức phải cuộn tròn lại không dám động đậy, nghe tiếng cười càn rỡ của người nọ bên tai, lòng thầm nghĩ, sao Bạch công tử đã quay về rồi mà lục gia y vẫn điên vậy?

Khoảnh khắc ấy tất cả ủy khuất, bi phẫn trong lòng Thi Vô Đoan đều hóa thành tiếng cười to như điên cuồng mà buột khỏi miệng. Thần phật thì thế nào? Thiên địa lại thế nào?

Đã cho ta linh hồn, vì sao vây ta bên trong? Đã cho ta hai mắt, vì sao bắt ta không được nhìn xa? Đã sinh cho ta đôi tai, vì sao không nghe thấy nửa câu lời thật? Đã cho ta miệng lưỡi, cớ sao mọi chuyện bức ta nói năng thận trọng?

Không được tự do!

Không được tự do!

Không được tự do!

Tạo hóa là gì? Dựa vào cái gì mà là tạo hóa? Hiện giờ chẳng phải cũng bị ta đùa bỡn trong tay sao?

Sấm sét bổ lên người, phỏng rát tận xương, Thi Vô Đoan thầm nghĩ, cũng chẳng qua như thế sao.

Cái gọi là cơn giận lôi đình của thiên địa, chẳng qua hủy thân xác một phàm nhân, xuẩn vật bị lường gạt này có lẽ vĩnh viễn không hiểu được – chỉ cần tinh phách chưa chết thì mầm mống phản kháng sẽ không vỡ nát.

Chương 79: Chung

Sau đó tiếng cười của y rốt cuộc chôn vùi trong tiếng sấm vô biên.

Hai mươi năm trước, một đạo cửu thiên thần lôi bổ Thương Vân cốc ra, vì cảnh cáo một ấu đồng không được tiết lộ thiên cơ, để Ma Tông trấn dưới đất lộ ra một tuyến manh mối, là bắt đầu cho hết thảy nhân quả.

Mà nay, hết thảy nhân quả sắp kết thúc tại đây, ấu đồng ngày xưa bị bắt dập đầu với tây thiên đã lớn lên, một thân phản cốt trưởng thành, y cửu tử không hối, không sợ hãi gì.

Không trung đột nhiên mọc lên bảy ngọn sơn đăng, chỉ là sấm chớp kia chấn động quá mức, thế cho nên chẳng ai lưu ý đến, những ngọn đèn nọ chậm rãi lên giữa không trung, từng ngọn tắt ngấm, phù quang lược ảnh, cuối cùng toàn bộ quy về trầm tịch.

Ầm một tiếng.

Bạch Ly giãy giụa dữ dội, nhưng không thể thoát khỏi sự trói buộc như kén tằm kia, trong lòng sinh ra sự tuyệt vọng vô biên, y gọi tên Thi Vô Đoan từng tiếng, mãi đến khi tiếng gào thét như côn trùng kêu, không thể phát ra mảy may âm thanh, cổ họng trào ra một búng máu.

Nhưng mà… Vô luận y là tiểu hồ ly suy nghĩ quá nhiều kia, hay là Ma quân vạn người sợ hãi, thế gian này thủy chung có một người như vậy, có thể dễ dàng vây khốn y.

Sau đó trói buộc trên người y đột nhiên không còn, tất cả những sợi tơ như là chết héo, biến thành đám dây không hề có sức sống, suy sụp rũ xuống đất, Bạch Ly cứng đờ người, hai mắt đỏ ngầu ngẩng đầu nhìn nơi chính giữa chúng nhân rõ ràng đã trống không, nơi đó chẳng còn tung tích của người nọ, chỉ sót lại một vốc bụi dưới đất.

Tấm gương dưới chân đột nhiên nát bấy, hết thảy đều là ảo giác, bỗng nhiên trời trong… Chỉ có chỗ bụi bặm ở đó, lưu lại một bộ tinh bàn bị gọt mất một đế, đầu cao đầu thấp, sao dốc xuống, hóa thành một vốc cát bình thường.

Bạch Ly nhảy xuống ngựa, một mình xuyên qua thiên quân vạn mã, trong tay cầm một mộc đầu nhân be bé.

Đột nhiên, một người cao giọng nói: “Y… Y là Ma quân!”

Có kẻ không biết sống chết lên ngăn y, nhưng còn chưa tiếp cận thì đầu mình đã chia lìa, đầu bay ra trong tiếng ngựa hí chói tai, Bạch Ly thoát khỏi trói buộc, trong khoảnh khắc liền hạ xuống nơi Thi Vô Đoan biến mất.

Y đờ đẫn quỳ xuống, cảm thấy người cầu cả đời, truy đuổi cả đời, mới cho rằng bắt được trong tay, lại đột nhiên hóa thành một tấc gió nhẹ bay xa, giống như là… cuộc đời y cứ thế qua đi mất vậy.

Bạch Ly chìa ngón tay, nhẹ nhàng chùi đám bụi phảng phất còn sót lại độ ấm trên mặt đất, trong lòng thầm nghĩ, sao có thể như vậy chứ?

Thi Vô Đoan, sao ngươi có thể như vậy?

Cố Hoài Dương đột nhiên định thần lại, quát: “Công thành! Công thành!”

Sau đó hắn lại một ngựa làm đầu xông ra, chẳng mảy may cố kỵ thân phận chủ soái trung quân của mình, tầm mắt đều bị thứ gì đó chiếm hết, luôn cảm thấy hơi không rõ.

Khó cầm nổi lòng, tim như đao giảo.

Lục Vân Châu theo sát sau đó, Mạnh Trung Dũng còn thất thần, đột nhiên quay đầu lại, hỏi: “Tứ nương, tiểu lục đâu?”

Không biết từ khi nào bụi đất trên mặt Lý tứ nương đều đã bị nước mắt gột sạch.

Cho dù dưới cửa thành người chết chất đống, người sau cũng có thể giẫm những thi thể này để trèo lên từng bước một.

Bạch Ly lại phảng phất thân ở nơi khác, mọi người đều tự động tránh lui, họ ở bên cạnh chạy trốn, kêu la, xung sát, bụi tung cao ba trượng… đều như là người cách ngàn vạn năm cùng âm binh, nháy mắt tương phùng, nhưng chẳng ai liên quan đến ai.

Trong mắt y chỉ còn lại một vốc đất.

Bỗng nhiên, đám tro tàn đó chậm rãi lưu động, Bạch Ly cả kinh, chỉ thấy tro tàn dường như bị cái gì đó dẫn dắt, chậm rãi chảy vào mộc đầu nhân trong tay y.

Chỗ ngực mộc đầu nhân lóe lên một chút ánh sáng nhạt, như là… hình dạng một giọt nước.

Bạch Ly trợn tròn hai mắt, sau đó đột nhiên đứng bật dậy, một tay xách bộ tinh bàn sứt mẻ, điên điên khùng khùng mà lẩm bẩm: “Đúng… y nói y sẽ trở về, y nói…”

Y lôi kỵ binh chạy qua bên cạnh xuống ngựa, trèo lên ngựa mà ra sức vung roi: “Đi!”

Bạch Ly phóng ngựa đi ngược ra khỏi chiến cuộc, từ đây không còn ai thấy vị Ma quân truyền kỳ này nữa.

Một trận đánh suốt mười ngày, thủ quân Bình Dương dựa vào nơi hiểm yếu chống cự, dường như phải chết đến người cuối cùng, sau đó thành lâu gánh sự trung quân ái quốc lung lay sắp đổ của họ rốt cuộc bị phá, quân Khăn Đỏ ùa vào, Nhan Chân chết trận, Bích Đàm bị bắt.

Ngày hôm sau, Bích Đàm chân nhân tự sát trong ngục.

Lúc Cố Hoài Dương tiến cung, Hoàng đế Phổ Khánh trốn dưới gầm giường, bị lôi sống sờ sờ ra, lại bị Cố Hoài Dương người đầy bụi mù và vết máu dọa cho quỳ xuống đất không dậy nổi.

Hóa ra Hoàng đế họ phí hết tâm cơ giết địch, trải hết trăm cay nghìn đắng mới tìm được… kết quả chính là một người như vậy. Cố Hoài Dương đột nhiên không thể miêu thuật tâm tình của mình, cứ như một quái vật phảng phất không thể chiến thắng, họ liều mạng đánh, liều mạng đánh, đánh rơi từng tầng máu thịt của nó, đánh chết vô số huynh đệ bên này, rốt cuộc nhìn thấy dưới khôi giáp quái vật chỉ có một tên lùn run rẩy.

Cố Hoài Dương từng nghĩ, nhất định phải đem cẩu Hoàng đế hại nước hại dân này lăng trì từng đao trước mặt vạn dân, nhưng nhìn nam nhân liên tiếp dập đầu hứa hẹn lập tức hạ chiếu thoái vị kia, hắn đột nhiên chẳng còn tâm tình, cảm thấy rất mệt, rất… không đáng.

Hắn khoát tay, gọi người dẫn người này đi trông giữ, ngay cả giết cũng lười.

Ba tháng mùa xuân qua đi, đại tuyết tan, Hoàng đế Phổ Khánh thoái vị, hạ chiếu tội mình, tự xưng vô tài vô đức, không xứng làm đế, tự biếm thành vương, truyền ngôi cho Cố Hoài Dương Cố đại tướng quân, từ đấy thay đổi triều đại.

Mật ước với Đại Thừa giáo tông tự động đạt thành, Cố Hoài Dương theo mật ước của Thi Vô Đoan và đại tông chủ, hạ lệnh Đại Bồ Đề sơn thành từ đường của các đời đế vương, lễ ngộ gấp đôi.

Thế là luận công hành thưởng, tái lập bá quan, đại xá thiên hạ, miễn thuế ba năm.

Bách tính đều tỏ ý vui mừng.

Hạ Đoan Phương lại cầm một phong di thư của Thi Vô Đoan giao cho Cố Hoài Dương, Cố Hoài Dương xem rất lâu không nói gì, Hạ Đoan Phương quỳ xuống nói: “Bệ hạ, thần tự xin đi trấn ma sơn.”

Nhan Chân xé nát Lục hồi hoạt trận, Thi Vô Đoan lấy tinh bàn giả mạo ngân hà, lừa được ông trời, nặn lại đại trận, phong ba đôi đối cảnh vào sáu ngọn núi lớn, đóng chặt chẽ Ma Tông dưới đất, y đích xác sớm tính đến, trong thư đem mỗi một ngọn núi phái những người nào trấn thủ liệt hết ra.

Cố Hoài Dương trầm mặc rất lâu rồi hỏi: “Ngươi cam tâm chứ?”

Hạ Đoan Phương cười nói: “Ít nhất thần còn chưa biến thành một đống bụi, còn có mệnh hưởng vinh hoa, có gì mà không cam tâm?”

Hắn dừng một chút rồi lại cười khổ nói: “Thần vẫn đi theo lục gia, kỳ thật bắt đầu từ lúc Đả Cốc đạo bị cắt đứt, linh khí của đại địa đều bị dẫn vào thảo nguyên A Mộc, chẳng qua hai ba mươi năm sẽ không xa khô kiệt, trừ phi có người thiên phú dị bẩm, trời sinh linh khí đại tạo hóa, nếu không con đường tu đạo của thường nhân sẽ gần như đoạn tuyệt. Ngày sau nếu có ai khư khư cố chấp, cố muốn đi cướp linh khí của yêu quái để tu hành đạo pháp, căn cứ mật ước, yêu tộc đứng mũi chịu sào có quyền lợi xử lý y, nếu tự nguyện đi trấn ma sơn, ngày sau có bổng lộc triều đình, tuy không còn chú pháp, ít nhất còn có thể luyện tập võ nghệ, được thuật trận pháp họa phù lục gia lưu lại.”

Cố Hoài Dương rốt cuộc cười khổ ra tiếng, nói: “Y thật đúng là… tính toán không bỏ sót.”

Hạ Đoan Phương cũng cười khổ theo mà nói: “Không sai, ngỗ nghịch y hiện giờ đều chẳng có kết cục tốt, phàm nhân chúng ta, nên thành thật làm theo việc lục gia đã viết sẵn đi, mật tín lui tới lục gia vốn đã tiêu hủy, đạo hữu đã vào kỵ binh sẽ không biết, xin Hoàng thượng yên tâm.”

Cố Hoài Dương rốt cuộc gật đầu, thở dài khoát tay bảo hắn đi xuống.

Năm ấy mưa thuận gió hòa khác tầm thường, các nơi cùng có tin vui thu hoạch truyền tới, hết thảy đều bắt đầu khôi phục, phảng phất ngày đông giá rét qua đi, trên đại địa bắt đầu một lần nữa mọc ra cỏ non, cho đến khi hàn đông lại đến, Đại Bồ Đề sơn lại bị đại tuyết phong kín.

Đại tông chủ Chấp Diệp bưng một chén trà, nhìn tuyết rơi rào rào ngoài cửa sổ, nói: “Có lẽ năm nay sẽ không còn ai chết vì lạnh và đói nữa.”

Một nam nhân dáng vẻ thanh niên ngồi đối diện, khuôn mặt thản nhiên, không hề tiếp lời.

Thanh niên thoạt nhìn mặt hơi có đào hoa, dùng cách ngôn mà nói thì là kèm chút tướng hồ mị, chân mày khóe mắt đều cực ái muội mà nhướng khẽ, nếu có người tu đạo ở đây là có thể vừa nhìn đã nhận ra người này có huyết thống hồ tộc, nhưng tướng đào hoa kia lại bị một thân khí túc sát âm hàn xua bớt, khiến người ta xa xa nhìn thấy là hận không thể tránh lui ba thước.

Trên cổ thanh niên lại dùng tơ hồng đeo một mộc đầu nhân nhỏ tinh xảo, thoạt nhìn có chút không hòa hợp, nhưng chẳng biết vì sao lại có sự hài hòa không nói nên lời.

Chính là Bạch Ly bán hồ bán ma mất tích ngoài thành Bình Dương.

Đại tông chủ cười nhìn Bạch Ly nói: “Sao? Ma quân vẫn đang lo lắng?”

Bạch Ly phục hồi tinh thần, ánh mắt tối xuống, không kìm được đưa tay cầm tiểu mộc nhân đeo trên cổ, hỏi: “Trên người ta liên lụy nhân quả tiền triều, vì sao…”

Đại tông chủ nói: “Vì sao nhân quả đã phá, ngươi lại vẫn sống, mà còn sống không có gì bất đồng với trước kia?”

Bạch Ly cau mày gật đầu.

Đại tông chủ cười nói: “Ma quân còn chưa minh bạch sao? Lục gia y uống ly hận thủy, chính là đem hồn phách liên lụy với ngươi, y lại động thủ trùng chỉnh Ma Tông đại trận, chịu nỗi khổ sét đánh, tự nhiên là đem nhân quả này chuyển lên người y, tiền triều với ngươi đã xong hết mọi chuyện.”

Ngón tay Bạch Ly siết chặt, đại tông chủ lại tiếp tục: “Lục gia lòng dạ quá cứng, lại chỉ một mềm hai mềm với Ma quân, đủ thấy y dẫu có bản lĩnh thông thiên triệt địa, chung quy cũng là một con người, là người, thì hiểu được tình ý, minh bạch ly hận hỉ bi, dù là một tuyến lương tri còn đó, vô luận treo đến đâu, đều có thể khiến y nóng ruột nóng gan.”

Bạch Ly lẩm bẩm: “Y uống ly hận thủy là vì điều này sao?”

Đại tông chủ nói: “Cũng không hẳn thế.”

Bạch Ly đưa mắt hỏi: “Sao cơ?”

Đại tông chủ chỉ mộc đầu nhân ở ngực y nói: “Lục gia bắt chước ngươi năm đó ném bỏ huyết nhục, đem bản thân chia ra làm đôi, lấy tinh huyết hồn phách dưỡng tinh bàn, khắc mộc đầu nhân để lại cho ngươi, nhưng mà… đại khái là y không tự tin lắm, sợ mình không thâm tình bằng ngươi, thế cho nên không tìm được ngươi, mới mượn dùng ngoại vật.”

Đại tông chủ uống một ngụm trà, chép một chút mùi thơm nơi đầu lưỡi kia, cười nói: “Nhưng mà si nhân này, chẳng lẽ không biết, khi y trăm phương ngàn kế như vậy, là đã không cần dùng mấy thứ này nữa?”

Bạch Ly im lặng giây lát rồi hỏi: “Bồ đề mộc kia… khi nào thì có thể xong?”

Đại tông chủ không nhanh không chậm nói: “Không vội, thân thể thần mộc tạo, cũng cần dưỡng đủ bảy bảy bốn mươi chín ngày, tính ra thì chỉ trong mấy hôm nay thôi, ngươi yên tâm, nếu y nguyện ý, chung quy sẽ vì ngươi mà cúi đầu trước thần thụ.”

Bạch Ly cười khổ nói: “Y… đã bao giờ cúi đầu?”

Đại tông chủ chậm rãi nói: “Y có từng cúi hay chưa, chẳng lẽ trong lòng Ma quân không biết sao?”

Đúng lúc này, bỗng nhiên lòng bàn tay Bạch Ly như bị thứ gì đó làm phỏng một chút, y buông tay, ngạc nhiên phát hiện chỗ ngực tiểu mộc nhân trên cổ kia chợt lóe ánh sáng, một đống tro tàn từ trên người mộc nhân bay ra ngoài cửa sổ.

Bạch Ly đứng phắt dậy, đụng đổ một đống ấm chén trên bàn, lại bất chấp tất cả, đuổi theo tro tàn kia chạy như điên ra ngoài.

Đại tông chủ tay bưng chén trà, cười cười mà nói tiếp lời người trẻ tuổi không kiên nhẫn nghe hết: “… Huống chi lục gia tuy rằng quật cường, nhưng không phải là không thông tình lý, y trước nay ăn mềm không ăn cứng, dùng tay đè, chi bằng dùng tình lay chuyển. Thế nhưng có nhiều người không biết như vậy, đè đầu y nhất định bắt y nam bắc đông tây, không khiến y xù lông sao?”

Truyền rằng bồ đề thần thụ là gốc của sinh mệnh, cuốn một chiếc lá có thể nghe âm thiên ngoại, đem thi thể táng trên cành cây có thể tẩy sạch linh hồn, gọt cây làm xương, cuốn lá làm thịt, dùng máu người sống trước đây để tưới, có thể sinh tử nhục cốt, lấy linh hồn thảo mộc sinh ra hồn phách.

Chỉ là kẻ tự nguyện phân ly cốt nhục, nhất định phải thành tâm hối lỗi, nhận hết nỗi đau tê tâm liệt phế, mới có thể trở về bản nguyên.

Bụi trong mộc nhân vừa vào thân thể do cây bồ đề và máu tinh bàn dung thành, người trên băng sàng nọ liền đột nhiên giãy giụa như co giật, thân thể kia không như ban đầu, cho dù cười cũng thoáng có ba phần sầu khổ, mà càng giống y thời thiếu niên hơn, tay dài chân dài, có một chút gầy gò và non nớt của riêng thiếu niên.

Bạch Ly từng chịu nỗi khổ như vậy, liền ôm lấy y, đè lại tay chân đang giãy giụa, chịu đựng người phảng phất mới được ban cho sinh cơ cắn tay mình một cái, chỉ cảm thấy dấu răng sâu hoắm kia cũng mang theo hy vọng vô hạn.

Bị y cắn cả một đêm, máu đã nhuộm đỏ quá nửa khuôn mặt người bộ dáng thiếu niên.

Thi Vô Đoan mới bình tĩnh trở lại, vì thế giống như lăn một vòng trên núi đao chảo dầu, mỏi mệt tột cùng mở mắt ra, hơi thở yếu ớt mỉm cười, trong lúm đồng tiền lộ ra như là chứa đầy ý xấu sau trò đùa dai, dùng giọng điệu nhẹ tênh dị thường, nhẹ đến mức cơ hồ khiến người ta không nghe thấy mà nói: “Tức phụ, lần này… chúng ta… hòa nhau rồi.”

Tim Bạch Ly như bị một tảng đá treo cao cao đập xuống, y cẩn thận ôm thân thể đã có hơi thở, một lần nữa hôn mê vào lòng, nhắm mắt lại, cẩn thận cảm nhận hô hấp yếu ớt kia từng chút một phả lên cổ, như nghe âm thanh tốt đẹp nhất trên thế giới.

Sau đó y nói: “Ừm.”

Liền thêm lên một tờ phong ấn khi bụi bặm lắng xuống, phong lại đủ loại chân trời góc biển, đủ loại chua ngọt đắng cay…

Y nghĩ, chúng ta rốt cuộc vẫn quay về rồi.

Chương 80: Phiên ngoại

Thi Vô Đoan ngày bé từng uống nhầm lưu phong lộ, suýt nữa mất luôn cái mạng nhỏ, sau đó ước chừng là họa hại di ngàn năm, không cẩn thận sống lại, thành thể chất hư hàn, từ đây cũng rất sợ lạnh, vừa đến mùa đông là dễ dàng cảm mạo ho khan.

Về sau y trưởng thành, làm chuyện xấu đến mức bị sét đánh, lại suýt nữa đánh mất luôn cái mạng nhỏ, sau đó ước chừng vẫn là họa hại di ngàn năm, không cẩn thận sống lại tiếp, lấy một đoạn thần mộc của đại tông chủ làm căn cơ để tạo một thân thể mới, từ đây vừa sợ lạnh vừa sợ nóng, thật sự coi mình thành thực vật, tam cửu tam phục đều không ra khỏi phòng.

Bạch Ly từng rất lo lắng, đặc ý lên Đại Bồ Đề sơn một chuyến, cẩn thận quan sát cây bồ đề thần mộc kia, phát hiện người ta vừa không sợ lạnh cũng chẳng sợ nóng, lúc mùa hè theo cỏ cây cùng nhau sinh trưởng, lá cây tỏa hương, thời điểm mùa đông đại tuyết phong núi nó vẫn xanh ngắt bất tử.

Y hết sức nghi hoặc hỏi đại tông chủ đây là chuyện thế nào: “Vì sao y vừa đến mùa đông là sẽ cảm thấy rất lạnh?”

Đại tông chủ trả lời: “Thời điểm mùa đông ngươi cũng sẽ cảm thấy rất lạnh.”

Vì vậy Bạch Ly lại hỏi: “Thế vì sao y vừa đến tiết tam phục thì không có tinh thần?”

Đại tông chủ nói: “Con người ta tới tiết tam phục đều sẽ không có tinh thần.”

Bạch Ly ngẫm thử, cảm thấy có đạo lý, song vẫn chưa yên tâm, liền nói: “Nhưng mà y trước kia không có yếu ớt như vậy.”

Đại tông chủ ngắn gọn trả lời: “Ba ngày không đánh, leo nóc lật ngói.”

Bạch Ly nhìn ông ta một cái, liên tưởng chuyện lần trước lão đầu tử bảo mình bện cỏ, cảm thấy ông ta trừ bịp người và đánh rắm ra thì chẳng biết cái khỉ gì hết, bèn bỏ đi.

Thi Vô Đoan ngày xưa không thể tự do, nhưng trước mắt rốt cuộc tự do, cũng chẳng thấy y đi khắp trời nam biển bắc, ngược lại sống những ngày đại môn không ra nhị môn không bước, thời điểm lạnh không ra cửa, thời điểm nóng không ra cửa, thời điểm trời mưa trời gió cũng không ra cửa, phải trời trong nắng ấm, có thái dương còn không được gắt lắm, y mới như một con rùa không mai, lười biếng ra khỏi tiểu viện giữa sườn núi kia mà tản bộ, đến hậu sơn lượn lờ.

Dường như “tự do” đối với y chẳng qua là một loại cảm giác.

Dùng lời của bản thân y mà nói thì là: “Điều này cũng giống như nếu nhốt ta trong một gian phòng, khả năng ta mỗi ngày đều liều mạng muốn chạy ra, thà rằng liều cá chết lưới rách cũng phải ra ngoài, nhưng nếu ta giống như bây giờ, muốn đi đâu thì đi, ta tối đa chỉ nghĩ một chút, nghĩ xong thì nhìn một chút, nắng gắt như thế, cũng sẽ lười động đậy.”

Lúc y nói lời này, hai người đang sóng vai nằm trên nóc nhà, trên đầu là ánh trăng tròn vành vạnh, chính giữa để một bầu rượu, quá nửa là bị Bạch Ly túm không buông, Thi Vô Đoan cũng chẳng tranh, dù sao rượu nhạt, không hề say người.

Bạch Ly nghe y nói thế liền bảo: “Vậy ngươi lại đây một chút.”

Thi Vô Đoan quay đầu nhìn đối phương, Bạch Ly nghiêng người, vươn dài cánh tay ôm lấy y, cọ cọ như làm nũng, sau đó cau mày trầm ngâm nói: “Ừm…”

Thi Vô Đoan hỏi: “Sao vậy?”

Bạch Ly khá buồn rầu nói: “Ngươi nói thoạt nghe thì có lý, nhưng thực tế không phải như vậy.”

Thi Vô Đoan không hiểu: “Sao lại không phải như vậy?”

Bạch Ly nói: “Tỷ như ta hiện tại muốn ôm ngươi liền ôm ngươi, muốn sờ đâu thì sờ đó, nhưng vẫn không thỏa mãn, muốn làm chút chuyện khác.”

Y vừa nói vừa luồn tay vào vạt áo Thi Vô Đoan từ đường cổ áo, ngón tay dán trên trung y cọ tới cọ lui, nhưng không lần vào trong, miệng nhẹ nhàng gọi: “Vô Đoan…”

Thi Vô Đoan túm cổ tay y hỏi: “Ngươi đến kỳ động dục rồi à?”

Bạch Ly thẳng thắn nói: “Ta mỗi tối lúc ngủ bên cạnh ngươi đều muốn, nhưng ngươi ngủ quá sớm, sợ đánh thức ngươi cho nên ta phải nhịn.”

Nếu có người khác, cân nhắc giữ chút thể diện cho Thi Vô Đoan, Bạch Ly còn hơi đắn đo, lười đắn đo thì không nói câu nào, nhưng trong tiểu viện lưng chừng núi chỉ có hai người họ, dù sao bình thường Thi Vô Đoan sẽ không bởi vì vài câu nói mà giận dỗi y, vì thế có gì nói nấy.

Y nói hùng hồn đầy lý lẽ: “Chúng ta ở bên nhau, chẳng lẽ vĩnh viễn không làm loại sự tình này sao?”

Thi Vô Đoan ngẫm thử, cảm thấy lời này có lý, bị y cọ tới cọ lui bản thân cũng rất khó chịu, vì thế dùng khuỷu tay chống lên nóc nhà, xoay người đè Bạch Ly, bàn tay đang nắm cổ tay y nhẹ nhàng dời lên trên một chút, cào cào lòng bàn tay Bạch Ly, nheo mắt cười nói: “Được lắm, thế ta hầu hạ Bạch gia.”

Yết hầu Bạch Ly gian nan động một chút, Thi Vô Đoan cúi đầu, không chút hoang mang liếm khóe miệng người nọ, thành thạo như tình thánh ngàn năm, Bạch Ly nhìn mặt y sát đến, nhắm mắt rồi lại lập tức mở ra, giống như không nhìn thấy y một cái cũng không nỡ.

Sau đó…

Sau đó Bạch Ly bỗng xoay người, đè tay Thi Vô Đoan nói: “Sao chân tay lóng ngóng thế?”

Thi Vô Đoan kiên nhẫn nói: “Tiểu nương tử, vi phu không phải chân tay lóng ngóng, là động chân động tay.”

Bạch Ly nói trắng ra: “Ngươi là làm bộ động chân động tay, kỳ thật cả động ở đâu cũng không biết nhỉ?”

Thi Vô Đoan đẩy y ra, dùng đầu gối tách chân y: “Ta biết!”

Bạch Ly một lần nữa bổ lên: “Ngươi biết cái rắm.”

Thi Vô Đoan hỏi ngược: “Chẳng lẽ ngươi biết? Là ai lần trước khiến ta sốt mấy ngày liền?”

Bạch Ly dừng một chút, giống như nhớ tới đoạn chuyện cũ kia, cảm thấy khá có lỗi với y, vừa thất thần như vậy, lại bị Thi Vô Đoan dùng sức mạnh đè lần nữa.

Vì thế Bạch Ly nhỏ giọng nói: “Ta biết… Lần trước làm ngươi bị thương, sau đó ta đã mua sách xem.”

Thi Vô Đoan dường như không nghe rõ, hoảng hốt nói: “Ngươi mua cái gì?”

“Sách trên phố.” Bạch Ly giống như chẳng mảy may cảm thấy đây là một chuyện rất đáng khinh, quang minh chính đại nói, “Chính là dạy hai người bên nhau nên làm như thế nào ấy, từng bước một đều có tranh, ta nhất nhất ghi nhớ rồi.”

… Như thể y xem không phải “Long dương mười tám thức” gì đó, mà là võ lâm bí tịch vậy!

Thi Vô Đoan hết nói nổi… Cái này y thật sự chưa từng xem.

Y trợn mắt, nhãn châu xoay tròn, hàng mi chớp chớp, phảng phất đồng bộ với hô hấp phả trên mặt người ta, chẳng biết có phải là nhớ lại thứ dạy trên sách kia hay không, Bạch Ly chỉ cảm thấy trong lòng nóng lên, hai tay liền từ sau lưng Thi Vô Đoan dời xuống, mò đến mãi giữa đùi…

Thi Vô Đoan lại đột nhiên nói: “Không được, ngươi là luận binh trên giấy.”

Vì thế hai người lại bắt đầu cấu xé, lăn qua lăn lại trên nóc nhà, kết quả chính là cùng nhau lăn xuống.

Bạch Ly ôm lấy y, nhẹ nhàng xoay người trên không trung, hai chân nhanh nhẹn hạ đất, ai ngờ một chân vừa giẫm lên vườn rau bên cạnh tiểu viện thì nghe có một tiếng vang nhỏ, một làn khói trắng từ dưới đất bốc lên.

Bạch Ly liền có dự cảm xấu -

Vườn rau trong tiểu viện nhà y không phải trồng rau mà là những lúc rỗi rãi Thi Vô Đoan dùng để loay hoay nghịch trận pháp.

Thi Vô Đoan chỉ cảm thấy cánh tay ôm mình buông lỏng, nếu không phải y phản ứng nhanh thì suýt nữa ngã nhào xuống đất. Sau đó y quay đầu lại… Chỉ thấy Bạch Ly giẫm một chân trong trận pháp do đám đá nhỏ bày ra, biến thành một ấu đồng trên dưới mười tuổi, búi tóc dáng vẻ người lớn, tai hồ lại chui ra từ đỉnh đầu, đang nhìn y bằng khuôn mặt không biểu cảm.

Thi Vô Đoan nhịn rất lâu, cúi đầu rồi lại ngẩng lên, rốt cuộc vẫn không nhịn được, lùi về sau hai bước mà phá lên cười.

Bạch Ly cả giận nói: “Cười cái…”

Vừa thốt ra y liền tự mình ngậm miệng, trong miệng phun ra chính là giọng trẻ con non nớt hệt như đang làm nũng.

Y hít sâu một hơi, cố hết sức hạ giọng cho trầm trầm mà nói: “Đây là thứ quỷ quái gì, mau mau giải cho ta.”

Thi Vô Đoan ngồi xổm xuống đất, chống cằm đánh giá y trên dưới một phen, nói: “Cái này à… Tên là Khổn tiên trận, mặc cho ngươi có năng lực lớn cỡ nào, giẫm vào đó, trong một canh giờ cũng mất hết tu vi, tiểu yêu thì bị đánh về nguyên hình, thiết nghĩ ngươi không thể biến thành tiểu hồ ly, chỉ có thể biến thành ấu đồng tai hồ thôi.”

Nói xong y dùng bàn tay nắm tai Bạch Ly mà xoa nắn trêu ghẹo một phen. Bạch Ly thoắt cái đỏ ửng mặt, ngoài mạnh trong yếu quát: “Đụng bậy cái gì!”

“Ôi chao, không thể đụng vào đây à?” Bạch Ly càng trốn, Thi Vô Đoan càng hăng hái.

Cạm bẫy lớn nhỏ trong vườn rau đều do nam nhân rảnh đến đau trứng này làm, dù là Bạch Ly cũng không dám tùy tiện giẫm bừa, chỉ có thể co tròn mặc cho chòng ghẹo, chẳng dễ dàng gì Thi Vô Đoan mới trêu đủ, khom lưng bế Tiểu Bạch Ly ra khỏi vườn, thấy y nhìn không chớp mắt mà ghi nhớ lộ tuyến dưới chân mình, liền biếng nhác nói: “Không cần nhìn nữa, cái này mỗi ngày đều thay đổi, với bộ óc mua rau cũng chẳng tính tiền được đó của ngươi là không hiểu nổi đâu.”

Bạch Ly nghiêng người cắn cổ y một cái.

Dù sao cũng không đau, Thi Vô Đoan liền vỗ lưng y nói: “Tức phụ, ngươi đừng sốt ruột mà, tuy rằng bộ dáng này từ nhỏ đã tuấn tú, nhưng vi phu sẽ không làm việc cầm thú như vậy đâu.”

Bạch Ly không nói không rằng, ẩn ẩn cảm giác được sức mạnh đang áp chế y, vì thế toàn tâm toàn ý đối kháng.

Thi Vô Đoan không hề có ý thức nguy cơ, bế Bạch Ly vào nhà, sau đó thả y lên giường, nhìn dáng vẻ hai chân không chạm đất của y, thật sự hết sức thú vị, vậy là lại cúi đầu trộm vui vẻ cả buổi, múc một chậu nước rồi cười hì hì dỗ: “Cục cưng ngoan, lau mặt xong cha cởi quần áo cho con.”

Bạch Ly hiện tại trong bộ dáng này, quần áo trên người thật sự quá dài quá rộng, quét hết xuống đất.

Lúc Thi Vô Đoan quay người đi, Bạch Ly liền cúi đầu nhìn chằm chằm ống tay áo của mình, chỉ thấy ống tay áo kia rung một chút, sau đó từ từ ngắn lại, biến thành vừa người.

Bạch Ly cũng không nói gì, trên mặt lại lộ ra nụ cười, chờ khi Thi Vô Đoan quay người lại, tay áo kia đã khôi phục nguyên trạng.

Y nghiêm túc ngồi đó, như một đứa trẻ giả làm người lớn.

Chờ khi Thi Vô Đoan lau xong mặt cho y như chơi búp bê, đưa tay muốn cởi quần áo trên người y, Bạch Ly lại giơ tay ngăn cản, nói: “Ngươi cởi trước.”

Thi Vô Đoan nhướng mày cười nói: “Ngươi cũng như vậy rồi, còn muốn làm gì nữa?”

Bạch Ly phớt lờ, lao tới tháo đai lưng của đối phương, Thi Vô Đoan giang hai tay như trêu y, mặc cho y loay hoay, thấy Bạch Ly muốn lột sạch mình mới chậm rì rì nói: “Được rồi được rồi, để lại cho ta một kiện, đêm lạnh.”

Chưa dứt lời thì đột nhiên trước mắt nhoáng lên, Bạch Ly quỳ trên đầu gối thình lình nặng hơn không ít, Thi Vô Đoan còn chưa kịp phản ứng đã bị ấn vai ghim trên giường, Bạch Ly khôi phục nguyên trạng cười khẩy nói: “Chút kỹ xảo vặt đó của ngươi, vây được người khác một canh giờ, chẳng lẽ cũng vây được ta sao?”

Thi Vô Đoan “A” một tiếng, lập tức thấy gió bẻ lái, so với hồi nhỏ bị đánh còn sửa nhanh hơn, miệng nói: “Ta sai rồi, ta sai rồi, a… tức phụ đừng lột nữa, lạnh… ê ê!”

Sau đó nữa thì… Dù sao Bạch Ly sẽ không để y bị lạnh, các vị hiểu hết mà, phi lễ chớ nhìn.

Phiên ngoại 2: Quy khứ lai hề

Năm tháng như nước róc rách.

Thái Tổ Cố Hoài Dương kiến lập Đại Nguyên, băng hà vào năm thứ mười ba, truyền ngôi cho Thái tử, Thái tử sửa niên hiệu thành “Đoan Thụy”, nghe nói là để tưởng niệm vị lục thúc khi tuổi nhỏ chỉ gặp được vài lần ít ỏi kia.

Năm Đoan Thụy thứ hai, phu phụ Đại tướng quân vương Mạnh Trung Dũng cáo lão, Hoàng đế nhiều lần giữ lại, vẫn cố từ, toại ân chuẩn.

Năm Đoan Thụy thứ sáu, Tam vương gia Lục Vân Châu bệnh mất, sống thọ và chết tại nhà, hậu nhân đánh giá: trung nghĩa cả đời, ngôn ngữ và thần sắc không giả dối.

Rất nhiều thứ đã xuất hiện, rất nhiều thứ đã biến mất, rất nhiều thứ đã hóa thành truyền thuyết.

Giống như Thi Vô Đoan từng trù tính, yêu tinh không còn xuất hiện ở nhân gian nữa, thỉnh thoảng có một hai tiểu yêu vào nhầm, cũng đều sẽ bị xử lý rất nhanh chóng, dần dà yêu tinh rốt cuộc chỉ tồn tại trong tiểu thuyết thoại bản dân gian.

Giáo tông từng huy hoàng mấy ngàn năm, rốt cuộc theo từng thế hệ truyền thừa và quên lãng, biến mất khỏi ký ức của mọi người, thư sinh đời sau chỉ biết cái gọi là “giáo tông” chính là một đảng đặc biệt trong triều, không hề tin tưởng có việc tu đạo.

Nhân gian tiên ma cùng tồn tại trở thành một bí mật bị chôn giấu dưới ngàn thước.

Về phần những người vẫn đang còn sống, vẫn đang nhớ rõ, không còn sân khấu của họ, vì thế họ liền chậm rãi lui ra sau màn, biến thành “dị nhân lánh đời” trong truyền thuyết.

Cửu Lộc sơn dần thành hoang sơn, sau đó bị nhi tử của nhi tử của Thái Tổ hạ một đạo thánh chỉ, vạch đến cảnh nội Triều Châu bên cạnh, lệnh cho Tuần phủ Triều Châu dẫn người khai sơn, để nông dân địa phương trồng trà trên đây, không biết có phải là do linh khí nhiều năm trước mang máng ảnh hưởng, trà Cửu Lộc sơn vị ngọt mà hồi vị dài lâu, một độ từng là trà cống đại nội, tiểu viện đạo tổ chân nhân từng ở bị sửa thành một từ đường cung phụng “trà tiên”, cũng chẳng biết đạo tổ chân nhân tu hành dưới chín suối có nhận được hương khói hay chăng.

Đáy cốc Mật Tông bị một cơn lũ dữ hai trăm năm sau xô đổ, rồi sau đó bãi bể nương dâu mấy độ đổi dời, lại thành một nơi đạp thanh phong cảnh tuyệt đẹp.

Đại tông chủ Đại Thừa giáo tông từ lúc Hoàng đế Đoan Thụy tại vị đã sớm truyền ngôi cho đệ tử rồi phiêu nhiên vân du, có người nói ông chết ở hải ngoại, cũng có người nói ông tất lộ lam lũ, một thân một mình đến vùng Vân Hoang của Tây Nam truyền giáo, sau đó độ thế thành tiên, dù sao cũng không còn ai gặp lại nữa.

Đại Thừa giáo tông về sau mấy lần lên xuống, một độ bị người đời quên đi, một độ lại trở thành tín ngưỡng trên từ thiên tử trọng thần, dưới đến bách tính dân gian đều hết lòng tin theo, sau đó nữa, kính thiên địa, tôn vạn vật đã thành một môn học vấn cầu phúc tĩnh tâm, có nhất phái văn chương.

Nhưng mà mọi người không bao giờ còn biết hai chữ “giáo tông” từng có ý nghĩa gì.

Đó là… chuyện rất nhiều năm về sau.

Mà sáu ngọn ma sơn năm đó những người tu đạo cuối cùng đi trú thủ cũng chậm rãi bị quên lãng, dần dà, để giảm bớt dự toán của triều đình, chúng bị sửa thành trạm dịch.

Năm tháng xoay vần, gió sương trăm năm, năm đó Hạ Đoan Phương đem điển tịch Thi Vô Đoan lưu lại khắc hết lên đá, nét chữ trên đá rốt cuộc bị mài mòn, đến đây thì ngay cả cuộc đại chiến kinh thiên động địa kia cũng chẳng còn lưu lại một chút manh mối nào.

Dường như chưa bao giờ tồn tại vậy.

Ba chữ Thi Vô Đoan này, rốt cuộc còn lại một cái tên thần bí, hết thảy ghi chép về y, bắt đầu từ thiếu niên cổ quái Thái Tổ Hoàng đế nhặt được trong một trường bạo loạn, đến Thái Tổ phong vương phái tướng, một câu “như con em trẫm”, cho y một hư danh “Lục vương gia” làm kết.

Không có thừa kế, bởi vì y chưa có con nối dòng, không xây từ đường, bởi vì chẳng biết quê nhà y nơi nào.

Y giống như đến từ thiên ngoại, không khéo rơi vào nhân gian, chỉ làm khách qua đường một hồi, trừ thanh danh thì chẳng lưu lại gì cả.

Dần dà, đồn đãi về y rất nhiều, có người nói y là vương tôn quý tộc sa sút của tiền triều, có người nói y là do thần tiên phái tới để thay đổi triều đại, có người nói y chẳng qua là một mưu thần, đông đảo lời đồn về y thật sự là suy diễn chiếm đa số, nói quá sự thật. Về phần kết cục, cách nói chính thống là y chết trong trận chiến cuối cùng Thái Tổ dẫn binh vây đế đô Bình Dương, càng nhiều truyền thuyết dân gian nói y hiểu được đạo lý cùng hưởng lạc không bằng chung hoạn nạn, sau khi trợ Thái Tổ thành đại sự liền dẫn gia quyến ẩn cư sơn dã.

“Tiểu Ly Tử, qua đây xem này.”

Trong lán trà nhỏ bên cạnh cổ đạo, có hai người qua đường ngồi đó.

Mọi người qua lại đều phải nhìn cả hai một cái, chỉ thấy một người dáng dấp thiếu niên, đầu đội mũ che nắng, hai ống quần xắn lên một đoạn, ngồi trên ghế, một chân còn lúc lắc tới lui, tay cầm một quyển sách sử cũ nát chẳng biết kiếm từ đâu, sau lưng đeo một cây đàn hình thức cổ quái – nhìn giống sắt, lại thêm không ít dây so với sắt tầm thường. Một nam nhân khác dáng điệu thanh niên diện mạo rất tuấn mỹ, chỉ là đeo một cây trường cung, nhìn bộ dáng ấy, chưa biết chừng là người trong giang hồ, sợ rằng không dễ chọc.

Thiếu niên chỉ một đoạn trên sách mà đọc: “Lục vương Thi Vô Đoan, sinh mất không rõ, người này túc trí đa mưu, tướng mạo xấu xí, loắt choắt có tật, mặt nhọn như chuột…”

Nam tử đeo trường cung nọ sặc trà, vội giơ tay áo che khóe miệng dính nước, trong ánh mắt lộ ra một chút ý cười.

Thiếu niên hạ thấp giọng, phẫn nộ nói: “Hắn lại còn nói ta đầu hoẵng não chuột! Ta loắt choắt sao? Tướng mạo xấu xí sao? Nhìn như chuột sao?”

Nam nhân đeo cung nọ nhận lấy quyển sách, lật mặt bìa chỉ thấy trên viết: Nguyên thư, Hạ Đoan Phương.

Người dáng dấp thiếu niên kia lại là Thi Vô Đoan trong truyền thuyết đã chết một ngàn tám trăm năm, y nói: “Đi, chúng ta đi đào mộ tổ nhà họ Hạ.”

Bạch Ly nói: “Ngươi có thất đức không?”

Nói rồi y lật quyển sách nọ, một lát sau hơi nhướng mày nói: “Sao phàm là nhắc tới ngươi thì đều là minh khen ám chê vậy?”

Thi Vô Đoan nói: “Hừ.”

Bạch Ly ngẫm nghĩ một chút rồi gấp sách, lại hạ giọng thấp hơn mà hỏi: “Đúng rồi, Vô Đoan, có một việc, ta vừa mới định hỏi ngươi, hiện giờ ma sơn đã thay tên mấy lần, nơi trấn thủ lại thành trạm dịch mất, không có vấn đề chứ?”

Thi Vô Đoan xách bản “Nguyên thư” kia qua, bắt đầu xé sách với vẻ mặt đầy oán niệm, không chút để ý nói: “Có vấn đề gì? Ta năm đó dùng quỷ bàn giả mạo thiên tinh, đem Lục hồi hoạt trận lục đại chuyển hoán phong chết toàn bộ lối ra, sớm tách rời Ma Tông với nhân gian, bằng không ngươi cảm thấy ta dựa vào cái gì mà bị sét đánh?”

Bạch Ly im lặng giây lát, khó hiểu nói: “Thế sáu ngọn ma sơn là…”

“Đương nhiên là lừa họ.” Thi Vô Đoan thuận miệng nói, “Bằng không làm sao an bài những đạo hữu khá có bản lĩnh đó? Có thứ không ổn định này ở lối vào ma sơn, bọn họ đám đại trượng phu lấy thiên hạ hưng vong làm nhiệm vụ, tất nhiên phải quên mình vì người, kẻ giỏi lắm vất vả, ta không tìm việc cho họ, chẳng lẽ để họ ở trong triều tranh quyền đoạt thế, lại lập một số giáo tông mới, một lần nữa giở lại khuôn mẫu cũ sao? Đến lúc đó đại ca ta nếu muốn quét sạch, chưa biết chừng còn gánh tiếng ‘ăn cháo đá bát’.”

Bạch Ly: “…”

Giây lát sau y rốt cuộc không nhịn được nói: “Thiết nghĩ là Hạ Đoan Phương lúc tuổi già đã suy xét được.”

Thi Vô Đoan nói: “Thứ ta lưu lại không nhiều, nhưng nếu hắn đủ thông minh, có thể nghiên cứu minh bạch, chắc hẳn sau đó cũng hiểu được rồi.”

Bạch Ly dừng một chút rồi nói: “Hắn viết ngươi thành như vậy, đại khái bởi vì ngươi ở trong lòng hắn thật sự là tướng do tâm sinh.”

Thi Vô Đoan im lặng một hồi, cúi đầu nghiêm túc suy nghĩ một lúc, giây lát sau ngẩng đầu nói: “Hạ Đoan Phương cả đời yêu tích góp, trong thời chiến tiểu kim khố đã rất khá, lão quỷ lúc sinh tiền nói với ta thế sự vô thường, chỉ có tiền vuông mới là vĩnh hằng, sau khi chết nhất định bồi táng rất nhiều, chúng ta có thể cướp phú tế bần, ngươi thấy sao?”

Bạch Ly: “…”

Có nháy mắt như thế, y còn cho là Thi Vô Đoan đang áy náy vì từng lừa cả đám người, lúc này y đã ý thức được là mình nghĩ nhiều.

“Ngươi còn được tiền nhang đèn tín đồ bỏ vào từ đường trà tiên trên Cửu Lộc sơn.” Bạch Ly nói hơi vô lực.

Thi Vô Đoan nói: “Sư phụ ta sẽ không để ý.”

“Ngươi còn bẻ một đốt của cây đại bồ đề trên Đại Thừa giáo tông.”

“Vốn là sinh cùng căn.”

“Ngươi đêm qua còn vẽ một trận pháp trên cửa lữ điếm ngủ trọ, khiến tiểu nhị đi đánh thức vòng quanh đó suốt hai canh giờ, sợ đến tè ra quần.”

“Đó là hắc điếm, ngươi uống rồi không nhận ra vị thuốc mê trong nước trà sao?”

“Ngươi chẳng qua là một khúc gỗ, sợ gì thuốc mê? Đụng phải người xấu kiểu này, một đao giết luôn là được.”

Thi Vô Đoan đúng lý hợp tình nói: “Thế thì có gì thú vị? A, đúng, ta còn để lại chiêu âm phù trên cửa nhà bọn họ, về sau ông chủ bộ dạng hệt như cái bánh bao thịt người kia mỗi ngày đều sẽ nằm mộng xuân.”

Bạch Ly thở dài hỏi: “Còn làm gì nữa? Ngươi không ngủ đàng hoàng, nửa đêm trèo tường ra ngoài làm gì?”

Thi Vô Đoan thành thật khai báo: “Còn đem một nửa chiêu âm phù khác dán lên cửa nhà Huyện lệnh, hai người bọn họ tối nay có thể gặp nhau, vừa vặn để quan phỉ một ổ danh chí thực quy, phải xem bản lĩnh bắt gian của bà chủ cọp cái kia.”

Bạch Ly không nhịn được cốc đầu y một cái, bình luận: “Lão quỷ rảnh đến đau trứng này.”

Thi Vô Đoan đứng dậy, lẳng quyển sách bị y xé làm từng mảnh vào lòng, dự định nhét vào trong quan tài của Hạ Đoan Phương, sau đó ném tiền trà xuống, cười nói: “Chê ta già? Thật đúng là hồng nhan chưa già mà ân đã đoạn trước.”

Bạch Ly bước đến cùng y sóng vai mà đi, không hề kiêng dè người khác, thoải mái kéo tay y nói: “Làm sao dám, ta không phải cũng già rồi sao?”

Thi Vô Đoan nghiêng đầu nhìn y một cái: “Lão bất tử.”

“Nếu không phải lão mà bất tử, bằng vẻ lười nhác đó của ngươi, cả đời cũng chẳng đi hết tam sơn lục thủy này.”

“Người dịch sống, cây dịch chết – ta hiện tại là một gốc cây.”

“Ta thấy ngươi dịch tới dịch lui sống cũng rất tốt, chỉ cần tưới chút nước xấu là đủ rồi…”

Họ khoan thai đi trên quan đạo bụi mù cuồn cuộn, không sốt ruột chút nào, dù sao tương lai còn dài.

Trên sử xanh chẳng qua vài nét ít ỏi, nhưng mà cái tên “Thi Vô Đoan” này sẽ khắc vào mỗi một tấc non sông.

Trường giang nước chảy ba nghìn dặm, trường không nguyệt minh ba nghìn dặm.

Mà hiện giờ, ân oán đã chết, chẳng qua muốn cùng ngươi làm một đôi lão ngoan đồng khiến người ta ghét thôi.

-Toàn văn hoàn-

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro