cs lai suat

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chính sách lãi suất là một công cụ của CSTT. Vì vậy mục tiêu theo đuổi của chính sách lãi suất phải nằm trong mục tiêu của CSTT, quá trình hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất trong từng thời kỳ luôn phải đảm bảo mục tiêu bao trùm của CSTT là ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Điều đó có nghĩa, sự thay đổi cơ chế điều hành lãi suất không được gây ra những cú sốc thị trường, đảm bảo tính ổn định và thực hiện các mục tiêu kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế. Đây là nguyên tắc cơ bản trong hoạch định chính sách lãi suất từng thời kỳ.Năm 2007:

Trong tháng 12/2007, NHNN tiếp tục điều hành lãi suất theo hướng thận trọng, linh hoạt nhằm ổn định tiền tệ, góp phần kiểm soát lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Theo đó, các mức lãi suất của NHNN công bố trong tháng 12/2007 không thay đổi so với tháng trước và tháng 12/2006: Lãi suất cơ bản 8,25%/năm, lãi suất tái cấp vốn 6,5%/năm, lãi suất tái chiết khấu 4,5%/năm.

I.Lai suat nam 2007: la thoi gian ma viet nam gia nhap WTO àchinh sach chu hcuyen von thong thoang hon nhieu.

Lai suat co ban, lai suat tai cap von, lai suat tai chiet khau, duoc giu on dinh trong nam 2007.

II.lai suat trong nam 2008

  +quy dinh tran lai suat huy dong vnd :cham dut chay dua lai suat lai suat huy dong giua cac nhtm.

  +ban hanh co che dieu hanh lai suat co ban moi

    -sau 6 nam thuc hien co che lai suat thoa thuan tu ngay 19/5/2008 NHNN da thay doi co che dieu hanh lai suat co ban phu hop voi luat NHNN va bo luat dan su.trong do cac to chuc tin dung an dinh lai suat kinh doanh bang VND doi voi khach hang khong vuot qua 150% lai suat co ban do NHNN cong bo trong tung thoi ky à lai suat co ban la cong cu dieu hanh chinh sach tien te huu hieu cua NHNN

 +lai suat co ban duoc dieu chinh linh hoat chua tung co 

   -NHNN dieu chinh lai suat co ban toi 7 lan :3 lan dieu chinh tang : 8,25->8,75->12->14 %/nam nham kiem soat chat che toc do tang du no tin dung .4lan duoc dieu chinh giam :14->13->12->11->8,5%/nam :noi long tung buoc chinh sach tien te va ngan chan suy thoai kinh te

àvoi viec dieu chinh nay muc an dinh lai suat cho vay cua cac TCTD doi voi khach hang giam tu 21->12,75%/nam, mat bang lai suat cho vay thap hon nam 2007

+lai suat tien gui DTBB va tin phieu NHNN bat buoc phat huy tac dung dac luc trong viec thu thi chinh saach tien te

  -de ho tro tang truong hop ly trong boi canh kiem che lam phat hang dau

      +NHNN dieu chinh tang tien gui DTBB (1,2%->3,6%/nam tu ngay 1/9/2008)len 5% tu ngay 1/10/2008) tang len 10% tu ngay 21/10/2008

       +lai suat tin phieu bat buoc (7,8%->13%/nam  tungay 1/7/2008)à nham khuyen khich cac TCTD dieu chinh giam lai suat cho vay thap hon muc an dinh lai suat kinh doanh toi da

Năm 2009 Chính phủ đã nỗ lực điều hành chính sách tiền tệ nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế và duy trì tăng trưởng trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu và suy thoái kinh tế thế giới. Chính phủ đã thực hiện nới lỏng tiền tệ bằng cách cắt giảm lãi suất cơ bản từ 14% xuống 7%, duy trì các mức lãi suất khác ở mức thấp Tuy nhiên, thời gian gần đây, nền kinh tế bắt đầu xuất hiện một số dấu hiệu mất cân đối vĩ mô khi lạm phát có nguy cơ quay trở lại, thị trường ngoại hối có lúc căng thẳng, vấn đề lãi suất gây trở ngại cho hoạt động tín dụng của ngân hàng và kinh doanh của doanh nghiệp. Để ứng phó với những biến động này, Chính phủ đã từng bước giảm dần liều lượng của chính sách tiền tệ nới lỏng bằng cách điều chỉnh lãi suất cơ bản từ 7% lên 8% vào tháng 12-2009 và dừng gói hỗ trợ lãi suất đúng hạn.

Tăng lãi suất cơ bản là việc làm cần thiết để ngăn chặn ngay từ đầu nguy cơ lạm phát cao có thể xảy ra; nhưng không tăng thêm mà giữ ổn định ở mức 8% trong khoảng thời gian đủ để giữ vững các cân đối vĩ mô khác phục vụ tăng trưởng kinh tế. Hoạt động cho vay cũng gặp khó khăn do thiếu vốn và phải huy động với chi phí cao, lãi suất huy động tăng cao sát với lãi suất cho vay trong khi trần lãi suất cho vay bị khống chế bởi lãi suất cơ bản

- Hệ quả của tình trạng trên dẫn tới lãi suất niêm yết bị méo mó trong những tháng đầu năm. Đối với huy động vốn, các ngân hàng buộc phải áp dụng các chương trình khuyến mãi lớn (có lúc chi phí khuyến mãi chiếm 30% - 40% chi phí vay vốn theo lãi suất niêm yết), do đó mức lãi suất thực của các ngân hàng trả cho khách hàng gửi tiền đều cao hơn lãi suất niêm yết từ 1% - 3%/năm. Còn đối với hoạt động cho vay, các ngân hàng áp dụng nhiều khung phí đối với các hợp đồng tín dụng (phí tư vấn, phí bảo lãnh, phí quản lý tài sản thế chấp, phí thẩm định dự án...), do đó lãi suất cho vay của hầu hết các ngân hàng đều vượt quá mức cho phép của Ngân hàng Nhà nước từ 4% - 7%.

- Vấn đề cần quan tâm hơn là những khó khăn trên cùng với những bất cập trong điều hành chính sách lãi suất (vô hình trung đã hình thành hai mức lãi suất trên thị trường thời gian qua) đã tạo môi trường cho hoạt động tham nhũng. Những tháng đầu năm đã xuất hiện tình trạng “chợ đen” trong hoạt động tín dụng ngân hàng; tổ chức, cá nhân đi vay phải tiến hành thỏa thuận ngầm với ngân hàng về mức lãi suất trong khi lãi suất của hợp đồng vẫn phải phù hợp quy định của Nhà nước. Sự khó khăn về việc vay vốn đã dẫn tới một số hiện tượng tiêu cực. Sau khi Ngân hàng Nhà nước cho phép áp dụng lãi suất thỏa thuận đối với các khoản cho vay trung và dài hạn, về cơ bản, đã giảm bớt căng thẳng cung - cầu cho thị trường tiền tệ. Tuy nhiên, những khó khăn về vốn của ngân hàng và doanh nghiệp vẫn là môi trường có thể nảy sinh các hoạt động tiêu cực.

- Những diễn biến thực tế trên thị trường tiền tệ thời gian qua cho thấy công cụ lãi suất cơ bản chưa phát huy hiệu quả cao trong điều hành chính sách tiền tệ: Lãi suất cơ bản vừa qua không phản ánh được quan hệ cung - cầu trên thị trường vốn, việc điều hành chính sách tiền tệ qua công cụ này còn mang tính hành chính. Những tháng đầu năm, thực tế lãi suất huy động và cho vay của các ngân hàng thương mại không còn neo vào lãi suất cơ bản, mà đã biến tướng vượt biên độ quy định, trong khi Ngân hàng Nhà nước không thể điều chỉnh biên độ quá 150% lãi suất cơ bản (do quy định của Điều 476 Bộ luật Dân sự). Hơn nữa, việc cho phép áp dụng lãi suất thỏa thuận đối với các khoản vay trung và dài hạn càng làm giảm đi vai trò của lãi suất cơ bản.

Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản từng có vai trò lịch sử khi được ban hành trong thời điểm lạm phát cao giữa năm 2008, giúp thị trường tiền tệ ổn định trở lại. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay công cụ mang tính hành chính này đã bộc lộ nhiều bất hợp lý. Một công cụ lãi suất cần thiết để Ngân hàng Nhà nước điều tiết thị trường tiền tệ là phải thông qua quan hệ vay mượn giữa Ngân hàng Nhà nước và tổ chức tín dụng. Vậy nên, lãi suất cơ bản không thể hiện được mối quan hệ này mà chính lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất liên ngân hàng, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở mới là công cụ cần thiết để thực hiện linh hoạt các mục tiêu trên theo cơ chế thị trường.

kênh lãi suất hiện đang gặp các vấn đề đó là sự có mặt đồng thời của cơ chế lãi suất thỏa thuận và lãi suất cơ bản khiến thị trường gặp khó trong việc “đọc” định hướng của NHNN; vai trò của lãi suất cơ bản đang mờ nhạt do nó không tương thích với lãi suất thị trường. Thay đổi chính sách lãi suất không có tác động lớn đến tăng trưởng và kiềm chế giá. 

Cơ chế lãi suất thỏa thuận

Trong năm 2008, Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã tăng lãi suất cơ bản 3 lần và tới thời điểm tháng 6/2008, mức lãi suất là 14%, mức cao nhất ở Châu Á, từ mức 12% trước đó. NHNN cũng giảm giá đồng VND 2% trong tháng này nhằm giải tỏa áp lực đối với đồng tiền trong nước.

Hiện nay, lãi suất cơ bản được giữ ở mức 8%. (vừa tăng lên 9% ngày 05/11/2010)

- Chính sách lãi suất qua các lần biến đổi đã tiến dần đến tự do hóa lãi suất, chuẩn bị cho sự hội nhập về lãi suất với nền kinh tế thế giới.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro