cstt tác độg

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chính sách tiền tệ trong vai trò điều tiết hoạt động của

các ngân hàng thương mại

TS. Nguyễn Văn Lương và PGS., TS. Nguyễn Thị Nhung

Sự bùng phát của lạm phát vào những tháng đầu năm 2008 ít nhất cũng mang lại cho chúng ta một khía cạnh tích cực - làm cho nhiều người giật mình về vai trò quan trọng của chính sách tiền tệ đối với nền kinh tế. Lý thuyết được thực tiễn làm sáng tỏ. Rõ ràng, với chính sách tiền tệ không thể xem thường hay thờ ơ với nó...

Nội dung cơ bản của chính sách tiền tệ

Nói đến tiền là nói đến sự ổn định của tiền, mà sự ổn định của tiền liên quan mật thiết và chịu sự ràng buộc bởi hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng. Thông qua các thao tác của mình, Ngân hàng Trung ương (NHTW) có thể làm thay đổi tiền tệ trên tất cả các mặt: lưu lượng, chi phí, giá trị... Toàn bộ các thao tác có liên quan đến tiền của NHTW luôn nằm trong hệ thống những ý đồ mang tính chiến lược mà người ta gọi là chính sách tiền tệ. Nếu chính sách tài chính tập trung vào thành phần, kết cấu các mức chi phí, thuế khoá của Nhà nước, thì chính sách tiền tệ quốc gia lại tập trung vào việc giải quyết khả năng thanh toán cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, bao gồm việc đáp ứng khối lượng tiền cung ứng cho lưu thông, điều khiển hệ thống tiền tệ và tín dụng đáp ứng vốn cho hoạt động kinh tế, tạo điều kiện thúc đẩy thị trường tiền tệ, thị trường vốn theo những quỹ đạo đã định, kiểm soát hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) và các tổ chức tín dụng khác, cùng với việc xác định tỷ giá hối đoái hợp lý nhằm ổn định và thúc đẩy kinh tế đối ngoại, hướng tới mục tiêu cuối cùng là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả hàng hoá.

Nội dung quan trọng nhất của chính sách tiền tệ là việc cung ứng tiền cho nền kinh tế. Việc cung ứng tiền có thể thông qua con đường tín dụng, cũng có thể thông qua hoạt động của thị trường mở (mua bán giấy tờ có giá), thị trường hối đoái (mua bán ngoại tệ) và để điều tiết mức tiền cung ứng, NHTW các nước sử dụng các công cụ khác nhau như lãi suất, tỷ giá, dự trữ bắt buộc...

Chính vì thế mà chính sách tiền tệ tác động đến nền kinh tế là một điều hiển nhiên, bởi nó được sinh ra là để điều tiết tiền tệ, mà sự vận động của tiền tệ trong nền kinh tế lại như máu lưu thông trong cơ thể con người. Không khó khăn nếu muốn chứng minh về vấn đề này, nhất là trong giai đoạn gần đây - chính phản ứng của thị trường đối với những thay đổi của chính sách tiền tệ sẽ là biểu hiện rõ nhất về những tác động của chính sách tiền tệ đối với nền kinh tế. Những thông tin hàng ngày, hàng giờ về sự suy giảm và khủng hoảng kinh tế toàn cầu bắt đầu từ "đại dịch" về cho vay bất động sản ở Mỹ là minh chứng rõ nhất cho thấy những tác động từ chính sách tiền tệ không chỉ mang lại sự tăng trưởng kinh tế mà còn có thể mang lại hiểm họa cho cả thế giới. Tình hình kinh tế Việt Nam trong thời gian gần đây cũng đang có những dấu hiệu bất ổn, ngoài những nguyên nhân khách quan, chủ quan; trong nước, ngoài nước thì trong đó, chính sách tiền tệ cũng đóng một vai trò không kém phần quan trọng.

Chính sách tiền tệ và những dấu mốc đáng nhớ

Giai đoạn từ 1998 đến 2007, để đạt mục tiêu tăng trưởng - mục tiêu được xếp hàng đầu trong nhiều năm liền, chính sách tiền tệ đã được nới lỏng liên tục theo hướng: lãi suất ổn định (từ 01/12/2005 - 01/02/2008, lãi suất cơ bản luôn giữ ở mức 8,25%/năm), tỷ giá cũng ổn định nhưng tín dụng thì mở rộng. Trong thời gian 10 năm, từ năm 1998 đến hết năm 2007, bình quân tốc độ tăng trưởng tín dụng hàng năm khoảng 25%, riêng năm 2007, con số này đạt kỷ lục (cao nhất trong 10 năm) là 37,8%. Bên cạnh họat động tín dụng, tiền còn được đưa vào lưu thông qua đường chi tiêu ngân sách, thu mua ngoại tệ... Vì vậy, đã đẩy tổng phương tiện thanh toán mỗi năm tăng thêm hơn ¼ số tiền của năm trước (từ 1996 đến hết năm 2007 tổng phương tiện thanh toán tăng thêm bình quân năm là 26,2%, riêng năm 2007 con số này là 37%) trong khi bình quân mỗi năm GDP chỉ tăng lên khoảng 7,2% (GDP từ 1997 đến hết năm 2007 tăng bình quân năm là: 7,2%). Suốt khoảng thời gian dài, khoảng cách giữa tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tốc độ tăng GDP luôn ở mức trên dưới 20%, mà trong đó, tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán luôn ở biên độ cao hơn so với GDP. Qua đó cho thấy, cũng trong suốt thời gian ấy, rất nhiều tiền đã được đưa vào lưu thông nhưng đã không tạo ra một lượng GDP tương ứng. Mà có lẽ thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán trong những năm qua đã trở thành kênh dẫn cho lượng tiền đó và vì thế, cho đến khi hai thị trường này bị thắt lại, lượng tiền thừa thực sự phát huy tác dụng - nếu không lạm phát mới là hiện tượng lạ (thị trường bất động sản bắt đầu phát triển từ những năm 1997, 1998 và mạnh mẽ nhất vào năm 2007. Còn thị trường chứng khoán mới có sức hút tiền trong khoảng 3 năm gần đây). (Xem biểu đồ)

Biều đồ: Tốc độ tăng cung tiền và GDP của 3 nước, lấy mốc năm 2004 bằng 100%, cung tiền đo bằng M2

Nguồn: Website của NHNN

Trong khoảng thời gian 2 năm rưỡi (tính từ đầu năm 2005 cho đến hết tháng 6/2007), GDP của Việt Nam tăng 22%, còn mức cung tiền lên đến 110%. Trong cùng một khoảng thời gian, GDP của Trung Quốc tăng 29%, nhưng mức cung tiền chỉ tăng 50%. Chênh lệch này ở Thái Lan hầu như không đáng kể.

Hai quý đầu của năm 2008, cùng với những bất ổn trên thị trường tài chính thế giới, tình hình kinh tế trong nước cũng diễn biến hết sức phức tạp. Giá cả tăng cao, cộng với sự dồn tích khá lâu về lượng tiền thừa đã làm cho thị trường hàng hoá Việt Nam có hiện tượng "bốc hoả" về giá.. So với tháng 12 năm 2007, giá tiêu dùng tăng 17,18%, mức cao nhất so với nhiều năm trở lại đây. Trong đó đáng quan tâm nhất là hai nhóm hàng lương thực và thực phẩm: lương thực tăng 59,44%, thực phẩm tăng 21,83%, đã góp phần đẩy chỉ số lạm phát bình quân 6 tháng đầu năm lên mức 2,86%/tháng. Đến cuối tháng 6, chỉ số lạm phát tuy có tăng chậm lại nhưng vẫn ở mức cao nhất so với tháng 6 của nhiều năm trước (2,14%).

Thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, ba công cụ: lãi suất, dự trữ bắt buộc và thị trường mở được sử dụng đồng thời cùng với những quy định siết chặt thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản... đã tác động mạnh đến thị trường. Và phản ứng của thị trường cũng thật mạnh mẽ: các hoạt động cho vay gần như co cụm lại, lãi suất tăng vọt, luồng tiền gửi trở lên bất ổn, thị trường bất động sản đang ở trong cơn sốt bỗng đóng băng và trở lên lạnh giá, thị trường vàng như con ngựa bất kham, giá cả hàng hoá thì tăng vọt... Chính sách tiền tệ bộc lộ thật rõ sức mạnh của nó.

Những dấu mốc đáng ghi nhớ trong việc sử dụng các công cụ để điều hành chính sách tiền tệ vào những tháng đầu năm 2008:

- Ngày 16/01/2008, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên 1%. (Quyết định 187/QĐ-NHNN).

- Ngày 30/01/2008, điều chỉnh tăng các loại lãi suất: Lãi suất cơ bản tăng 0,5%, tái cấp vốn tăng 1,0%, lãi suất chiết khấu tăng 1,5% (Quyết định 305/QĐ-NHNN).

- Ngày 13/2/2008, thông báo về việc phát hành tín phiếu bắt buộc, thực hiện vào ngày 17/3, với tổng giá trị tín phiếu phát hành là 20.300 tỷ đồng, kỳ hạn là 364 ngày, lãi suất là 7,8%/năm (Quyết định 346/QĐ-NHNN).

Cả ba giải pháp trên đều hướng tới mục tiêu rút bớt tiền trong lưu thông về. Các giải pháp sau đó cũng không kém phần quyết liệt. Theo Quyết định 305/QĐ-NHNN ngày 30/01/2008, lãi suất cơ bản sau 25 tháng giữ ổn định ở mức 8,25%/năm tăng lên 0,5%/năm, chuyển sang mức 8,75%/năm. Sau hơn 3 tháng thực hiện, đến 19/5/2008, lãi suất cơ bản vọt lên 12%/năm và chưa đầy 1 tháng sau, ngày 11/6/2008, Quyết định 1317/QĐ-NHNN của NHNN đã nâng thêm 2% đưa lãi suất cơ bản lên mức 14%/năm...(Xem bảng 1)

Bảng 1: Những dấu mốc thay đổi lãi suất cơ bản từ tháng 12/2005 - đến tháng 6/2008

Lãi suất Quyết định Ngày thực hiện

14%/năm 1317/QĐ-NHNN ngày 10/6/2008 11/06/2008

12%/năm 1099/QĐ-NHNN ngày 16/5/2008 19/05/2008

8.75%/năm 305/QĐ-NHNN ngày 30/1/2008 01/02/2008

8,25%/năm 1746/QĐ-NHNN ngày 1/12/2005 01/12/2005

Trong điều kiện tiền quá nhiều trong lưu thông thì việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ để giảm lượng tiền thừa là hoàn toàn đúng xét cả về lý thuyết lẫn thực tiễn. Sự can thiệp quyết liệt của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho thấy được chính kiến cũng như sự quyết tâm của toàn hệ thống ngân hàng trong việc kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng thực sự các NHTM đã phải trải qua những tháng ngày (đặc biệt là trong tháng 2, tháng 3) cực kỳ khó khăn về thanh khoản và luôn nằm trong tình trạng "nguy cơ". Chiến dịch lãi suất của các ngân hàng giai đoạn này đã tạo nên một dấu ấn khá sâu đậm. Có lẽ mãi sau này người ta cũng không thể quên được cảnh tượng "tháo chạy" của khách hàng khỏi ngân hàng có lãi suất thấp và dòng người xếp hàng bất chấp thời gian trước những ngân hàng có lãi suất cao để gửi tiền vào. Chỉ trong khoảng thời gian vài ngày, có ngân hàng đẩy lãi suất tiền gửi từ 15%/năm lên 19%/năm, lãi suất cho vay được đẩy lên đúng với lãi suất tối đa 21%/năm ở hầu hết các ngân hàng. Cũng giai đoạn này, đã nảy sinh nhiều vấn đề trong việc tìm cách giữ chân người gửi tiền và qua đó mới thấy khách hàng gửi tiền quan trọng cỡ nào. Lãi suất không chỉ là vấn đề trên thị trường giữa ngân hàng và khách hàng (thị trường I) mà nó còn diễn ra không kém phần quyết liệt chính giữa các ngân hàng với nhau (thị trường II).

Sự bình ổn trở lại được bắt đầu vào quý III năm 2008. Những ngày đầu quý III, nền kinh tế trong nước phải đối mặt với nhiều khó khăn, tăng trưởng kinh tế giảm dần, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản vẫn đang trong tình trạng "ngủ đông", thị trường tiền tệ thì diễn biến phức tạp, sản xuất kinh doanh thì chật vật bởi lãi suất cao, chi phí nguyên liệu cũng cao... Tuy nhiên, chỉ số lạm phát tháng 7 được công bố ở mức 1,13% - mức thấp nhất so với các tháng trước - đã làm cho tình hình dịu đi. Và hy vọng về sự sáng sủa của bức tranh kinh tế đã bắt đầu le lói khi chỉ số lạm phát ngày càng có xu hướng giảm dần, tháng 8 là 1,56%; đến tháng 9 chỉ còn 0,18%; tháng 10 giá cả bắt đầu có xu hướng giảm (âm 0,19%); sang tháng 11, chỉ số giá cả giảm với mức độ sâu hơn (âm 0,76%) và tháng 12/2008 - tháng cuối cùng năm 2008, chỉ số giá cả vẫn tiếp tục giảm... Cuộc chạy đua lãi suất cũng bắt đầu có dấu hiệu chững lại sau một loạt các quyết định của NHNN trong việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ.

- Lãi suất cơ bản giảm xuống từ 14%/năm còn 8,5%/năm. (Xem bảng 2).

Bảng 2:

Lãi suất CB Quyết định Ngày thực hiện

8,5% 3161/QĐ-NHNN ngày 19/12/2008 22/12/2008

10% 2948/QĐ-NHNN ngày 03/12/2008 05/12/2008

11%/năm 2808/QĐ--NHNN ngày 20/11/2008 21/11/2008

12%/năm 2559/QĐ-NHNN ngày 3/11/2008 05/11/2008

13.0%/năm 2316/QĐ-NHNN ngày 20/10/2008 21/10/2008

14%/năm 1317/QĐ-NHNN ngày 10/6/2008 11/06/2008

- Lãi suất trả cho dự trữ bắt buộc thì lần lượt tăng lên: 3,5%/năm; 5%/năm; 10%/năm, sau đó giảm nhưng với tốc độ giảm chậm. (Xem bảng 3).

Bảng 3:

Lãi suất DTBB Quyết định Ngày thực hiện

8,5%/năm 3162/QĐ-NHNN ngày 19/12/2008 22/12/2008

9%/năm 2950/QĐ-NHNN ngày 3/12/2008 5/12/2008

10%/năm 2321/QĐ-NHNN ngày 20/10/2008 21/10/2008

5,0%/năm 2133/QĐ-NHNN ngày 25/9/2008 01/10/2008

3,5%/năm 1907/QĐ-NHNN ngày 29/8/2008 01/9/2008

- Tín phiếu bắt buộc được thanh toán trước hạn (Quyết định 2317 ngày 20/10/2008); biên độ tỷ giá được nới lỏng từ +/- 1% lên +/-2% (Quyết định 1436 ngày 26/6/2008), từ +/- 2% lên +/- 3% (Quyết định 2635 ngày 6/11/2008); giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10%/năm xuống còn 8%/năm (Quyết định 2811 ngày 20/11/2008), 8% xuống còn 6% (Quyết định 2951 ngày 03/12/2008), đến 19/12/2008 còn 5% (Quyết định 3158) và các loại lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn cũng được hạ xuống... Bên cạnh đó, tín hiệu cho vay kinh doanh chứng khoán, cho vay bất động sản cũng được phát ra...

Tất cả những quyết định trên đều hướng đến việc tăng thêm khả năng cho các NHTM trong việc mở rộng "hầu bao" cho vay đối với nền kinh tế. Ngay sau đó, mặt bằng lãi suất mới được thiết lập, các NHTM đồng loạt giảm lãi suất. Ngày 01/12, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển thiết lập mặt bằng lãi suất mới với mức thấp nhất là 11,4%/năm; ngày 05/12, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cũng công bố lãi suất thấp nhất của mình là 11%/năm; ngày 10/12, NHTM Xuất nhập khẩu Việt Nam giảm lãi suất cho vay với doanh nghiệp, ngắn hạn còn 13,2%/năm, giảm 1,2%/năm so với cuối tháng 11... Tháng 12/2008, lãi suất cho vay phổ biến ở mức 13-14%/năm. Động thái giảm lãi suất của các ngân hàng là một giải pháp tích cực cho doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, giúp các doanh nghiệp có thể tiếp cận nguồn vốn để duy trì và mở rộng sản xuất.

Tác động của chính sách tiền tệ - dư âm còn đọng lại

Cho đến cuối tháng 12/2008, tình hình kinh tế có dấu hiệu khả quan hơn, hoạt động ngân hàng đang khởi sắc trở lại, huy động vốn và cho vay đang bắt đầu trở về với nhịp độ bình thường, lãi suất không còn đóng vai trò gần như tuyệt đối trong việc hướng dẫn khách hàng có nguồn tiền gửi... Tuy nhiên, hoạt động của các thị trường vẫn trong tình trạng chưa có dấu hiệu cải thiện, luồng di chuyển tiền tệ trong nền kinh tế đang có hiện tượng chậm lại, tiến độ cho vay của các ngân hàng cũng như khả năng tiếp cận vốn vay từ phía các doanh nghiệp tuy đã phần nào được giải tỏa song vẫn là vấn đề nan giải. Hoạt động tín dụng vẫn còn ở trạng thái cầm chừng, trong 10 tháng đầu năm 2008, tăng trưởng tín dụng chỉ đạt 19,6%, nếu so với 30% - giới hạn tăng trưởng tín dụng NHNN đặt ra cho năm 2008 thì hoạt động tín dụng mới chỉ "đi được" 2/3 "quãng đường". Phải chăng ngân hàng không đủ vốn để cho vay? Hay do nhu cầu xã hội như vậy là đã đủ? Hoàn toàn không phải vậy, theo thông tin từ NHNN thì vốn khả dụng của các NHTM hiện rất dồi dào; còn nếu nói đến nhu cầu xã hội thì con số 19,6% lại chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Như vậy, tỷ lệ 19,6% tăng lên của hoạt động tín dụng trong 10 tháng đầu năm 2008 là một con số chưa được thỏa mãn. Rõ ràng là dư âm và hậu quả của cuộc chạy đua lãi suất trong những tháng đầu năm 2008 vẫn còn đó mà khởi động cho nó chính là tác động của các công cụ chính sách tiền tệ đã được sử dụng. Hãy điểm qua những hệ lụy mang lại cho các NHTM để thấy được mặt trái của việc vận hành các công cụ chính sách tiền tệ.

Điều chỉnh giảm lãi suất cho vay - một khó khăn của các NHTM. Mặc dù hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh và thu lãi từ hoạt động tín dụng hiện vẫn là nguồn thu chủ yếu của các NHTM Việt Nam, song hoàn toàn không phải vì thế mà các ngân hàng muốn nâng lãi suất cho vay. Bởi lẽ, ngay cả trong điều kiện mọi hoạt động trong nền kinh tế diễn ra bình thường thì việc nâng lãi suất cũng sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của ngân hàng, khách hàng tốt sẽ bỏ đi - vì cách xử sự của ngân hàng không tốt, khách hàng xấu thì ở lại - vì đã xấu thì đến vay ở ngân hàng nào cũng thế thôi. Còn trong điều kiện lạm phát cao, việc tăng lãi suất cho vay cũng là điều dễ hiểu - vốn dĩ lãi suất cũng là một loại giá, mặt bằng giá cả tăng, thì lãi suất huy động vốn tăng, và vì thế, lãi suất cho vay cũng không thể không tăng được.

Tuy nhiên, lãi suất cho vay không phải chỉ bị ảnh hưởng bởi mặt bằng giá cả mà nguyên nhân chính là nó phải chịu sự chi phối của quan hệ cung cầu tín dụng trong nền kinh tế, mà trong đó NHTW có thể thực hiện vai trò điều tiết của mình thông qua các công chính sách tiền tệ để trực tiếp điều chỉnh lãi suất hoặc gián tiếp điều chỉnh quan hệ cung cầu tín dụng. Phân tích các yếu tố tác động lên mặt bằng lãi suất của các ngân hàng sẽ cho ta lời giải khá cụ thể về việc nâng lãi suất và khả năng điều chỉnh giảm lãi suất của các ngân hàng trong thời gian này. Ngân hàng cho vay dựa trên cơ sở nguồn vốn phải trả lãi huy động được từ nền kinh tế, nhưng đồng thời đó cũng là nguồn để dự trữ bắt buộc, để mua tín phiếu bắt buộc... trên cơ sở đó, ngân hàng phải tự cân đối nguồn vốn khả dụng, cân đối lãi suất để nếu không có lời thì cũng phải duy trì hoạt động của ngân hàng. Vì thế, toàn bộ các tín hiệu được phát ra từ NHNN như tăng dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất cơ bản, mua tín phiếu bắt buộc trong những tháng đầu năm 2008 đã buộc các ngân hàng phải nâng lãi suất, phải thắt chặt tín dụng. Hiện thời, lãi suất huy động và cho vay đều giảm xuống nhưng nguồn huy động lãi suất cao còn đó, không dễ gì ngay lập tức có thể giảm thật nhiều. Vấn đề này đối với các NHTM cổ phần lại càng khó khăn hơn vì nguồn vốn huy động lãi suất thấp từ tiền gửi thanh toán của các doanh nghiệp của họ thật vô cùng khan hiếm.

Tăng cường cho vay - điều không đơn giản. Trong kinh doanh ngân hàng, ai cũng có thể hiểu rằng việc cho vay của các NHTM luôn phụ thuộc vào cả hai phía: cả ngân hàng - người cho vay và cả người đi vay mà đại diện là các doanh nghiệp. Dù hiện nay nhiều ngân hàng đã rất có thành ý và đặt ra mục tiêu tăng dư nợ trong những tháng cuối năm 2008 nhưng việc cho vay cũng chưa hẳn đã dễ dàng. Cho đến cuối tháng 10/2008, kế hoạch mở rộng quy mô cho vay của một số ngân hàng chỉ thực hiện được khoảng 10% - 20%. Có nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó dĩ nhiên nguyên nhân từ phía doanh nghiệp cũng không kém phần quan trọng, song nếu xét ở góc độ do chịu hệ lụy của chính sách tiền tệ thì lãi suất chính là một trong những nguyên nhân cơ bản làm giảm hẳn khả năng vay vốn của các doanh nghiệp. Theo thống kê gần đây của Hiệp hội các doanh nghiệp nhỏ và vừa thì có tới 60% doanh nghiệp khó khăn do lãi suất tăng. Và kể cả trong thời gian này, khi ngân hàng giảm lãi suất cho vay thì doanh nghiệp vẫn thật khó có thể vay vốn bởi lãi suất vẫn cao hơn so với tỷ suất lợi nhuận mà nó có thể đạt được.

Mặt khác, nền kinh tế khó khăn, thì doanh nghiệp không chỉ khó khăn về vốn, về lãi suất mà giá cả đầu vào cao- chi phí sản xuất kinh doanh tăng vọt cũng góp phần làm suy yếu sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp và do vậy việc tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng cũng không phải dễ dàng. Bên cạnh đó thì sự suy yếu về tài chính, những khó khăn về đầu ra - sức cầu giảm - cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng có nhiều doanh nghiệp muốn vay vốn ngân hàng nhưng không vay được. Do không hiểu nhiều về ngân hàng nên có người cho rằng ngân hàng gây khó cho doanh nghiệp, tuy nhiên, với những người trong nghề thì điều này lại quá rõ ràng - hoạt động chủ yếu của ngân hàng là huy động vốn để cho vay, không có một lý do gì có thể khiến các ngân hàng huy động được nguồn rồi mà lại không muốn cho vay ra cả, chẳng qua do kinh doanh khó khăn, do chưa chứng minh được hiệu quả của việc sử dụng vốn vay và khả năng trả nợ thấp nên họ đã không được ngân hàng chấp nhận cho vay. Vốn dĩ việc kinh doanh của ngân hàng là dựa trên những đồng vốn được huy động từ nền kinh tế, cho dù ngân hàng có khó khăn như thế nào thì việc hoàn trả tiền gửi khi đến kỳ hạn cũng không bao giờ được chậm trễ. Điều đó đã buộc ngân hàng phải từ chối với những dự án vay không đủ chuẩn và do vậy đã làm hạn chế khả năng cho vay của các ngân hàng.

Sự tương tác giữa các ngân hàng có phần suy giảm - cũng là một hệ lụy do việc vận dụng chính sách tiền tệ thời gian qua mang lại. Nếu như quá trình tạo tiền của các ngân hàng được thực hiện trong khi các ngân hàng tiến hành các hoạt động kinh doanh thì chính quá trình đó lại là bằng chứng về mối liên hệ gắn bó, không thể tách rời giữa các ngân hàng trong quá trình hoạt động. Mỗi ngân hàng có thể có mục tiêu riêng, có chiến lược hoạt động riêng, có thương hiệu riêng... cùng với nhiều điểm khác biệt. Song, trong quá trình tạo tiền thì tất cả đều giống như đang cùng di chuyển trên một con thuyền. Ngay cả khi sóng yên, biển lặng thì tất cả những người chèo thuyền đã phải chung một hướng chứ đừng nói đến khi sóng to, gió lớn. Chính vì vậy, trong hoạt động ngân hàng, đòi hỏi giữa các thành viên phải có sự tương tác, hỗ trợ lẫn nhau để cùng tồn tại và phát triển, nhất là trong những hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, nếu không tương tác hỗ trợ mà còn xô đẩy nhau thì chắc chắn bão táp sẽ ập xuống - khủng hoảng toàn hệ thống, lúc đó thật khó có thể tồn tại. Thực ra các ngân hàng đều thấu hiểu sự ràng buộc đó, song có những khoảnh khắc rất ngắn trong những tháng đầu năm 2008, nhiều ngân hàng phải đối diện với vấn đề thanh khoản, những yêu cầu gấp gáp, khẩn trương cả về thời gian và số lượng đã buộc các ngân hàng phải đưa ra những phương án xử lí vấn đề thanh khoản một cách quyết liệt. Tiền huy động về đã cho vay rồi - cho vay thì luôn luôn có thời hạn, kể cả đến hạn trả nợ thì việc đòi nợ còn khó khăn, chứ đừng nói đến việc chưa đến hạn trả nợ; dự trữ cũng chỉ có mức độ vừa phải, lấy gì để tăng dự trữ bắt buộc, đồng thời mua tín phiếu có thời hạn bắt buộc...? Các ngân hàng phải lên kế hoạch, vạch chiến lược thanh khoản cho từng giờ - làm sao tránh khỏi việc chiêu dụ khách hàng của nhau; sử dụng công cụ lãi suất ép nhau... Thật lo lắng khi ngay trên thị trường liên ngân hàng, các ngân hàng cũng đã có lúc đối xử với nhau như không phải họ đang trong cùng một trận tuyến chống lạm phát - lãi suất cho vay giữa các ngân hàng có lúc lên đến 43%/năm - một con số không thể ngờ tới.

Nợ xấu và rủi ro tiềm ẩn tăng lên. Lãi suất cao, thắt chặt tín dụng, giá cả nguyên vật liệu tăng vọt... là những gánh nặng đè lên vai các doanh nghiệp. Trong hoàn cảnh đó, rõ ràng các dự án đang hoạt động không thể tiến hành bình thường, các dự án mới không thể bắt đầu được, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh không thể có cơ hội để duy trì ổn định và doanh nghiệp đã gặp không ít khó khăn khi phải đương đầu với những thay đổi thất thường của nền kinh tế: lúc giá cả lên cao - chi phí nguyên vật liệu tăng vọt, khi giá cả giảm xuống - sản phẩm làm ra không thể bán giá cao... Nợ mới đã không vay được thì nợ cũ cũng không dễ gì trả được - nợ chồng nợ, nợ đọng, nợ khó thu hồi, đảo nợ... có nhiều cơ hội phát sinh, rủi ro tiềm ẩn tăng lên. Không thể khác được, sự khó khăn của doanh nghiệp lại gây hậu quả ngược lại cho ngân hàng.

Điều hành chính sách tiền tệ - một số điểm cần lưu ý

Mặc dù cho đến nay, tình hình kinh tế khá ổn định, hoạt động của các ngân hàng có nhiều chuyển biến tích cực, lòng tin của người dân cũng đang dần dần được hồi phục, song trên thực tế, những tác động trái chiều của chính sách tiền tệ vẫn còn ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của các ngân hàng và thông qua đó ảnh hưởng đến nền kinh tế... Vấn đề này cần được thảo luận một cách nghiêm túc, bởi lẽ ngân hàng là nơi cung cấp vốn - điều kiện đầu vào cho mọi quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, nếu khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng gặp khó khăn, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ không thể tiến hành bình thường được và như vậy, kinh tế khó có thể tăng trưởng. Nhất là trong điều kiện mà lạm phát đang được kiểm soát, nhưng giảm phát và suy thoái kinh tế - nỗi lo chung của xã hội, lại đang có dấu hiệu xuất hiện: thị trường bất động sản tuy có dấu hiệu rục rịch nhưng vẫn trong tình trạng đóng băng, thị trường chứng khoán đang trong giai đọan cố gắng nhưng vẫn "trồi" "sụt" bất thường, thị trường hàng hóa cũng trong tình trạng suy giảm (cung cầu đều khó khăn, giá cả thì đảo chiều)... Để giảm bớt những tác động trái chiều của chính sách tiền tệ cần lưu ý một số vấn đề sau:

Thận trọng khi đồng thời sử dụng nhiều công cụ điều hành chính sách tiền tệ.

Việc sử dụng đồng thời nhiều công cụ điều hành chính sách tiền tệ là việc làm bình thường, trên lý thuyết và cả thực tiễn, cũng không có nguyên tắc nào quy định về vấn đề này. Tuy nhiên, thị trường là nơi rất nhạy cảm và nó chính là nơi phản ánh sức sống của nền kinh tế. Diễn biến cùng với những phản ứng mãnh liệt của thị trường vào những tháng đầu năm 2008 và những dư âm của nó cho đến hôm nay- những ngày cuối cùng của năm 2008 đã cho ta một bài học sâu sắc về vấn đề này. Vì thế, cần phải hết sức thận trọng đối với mỗi quyết định liên quan đến sự vận động của tiền tệ, trước khi vận hành phải quan sát kỹ diễn biến, dự kiến được những phản ứng có thể của thị trường để cân nhắc về loại công cụ sử dụng, về mức độ cần thiết, về liều lượng cũng như cách thức vận hành mỗi công cụ và luôn tránh những giải pháp sốc - giải pháp có thể dồn các ngân hàng vào những tình huống nguy hiểm.

Lãi suất là công cụ linh hoạt, đáng được cân nhắc để sử dụng nhất. Mặc dù mỗi công cụ có những đặc tính, khả năng tác động đến thị trường theo những cách khác nhau, với mức độ cũng không giống nhau, song cho dù công cụ nào thì tín hiệu cuối cùng của nó sau khi phát ra cũng dẫn đến sự thay đổi về giá - lãi suất, dù đó là tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc hay mua tín phiếu bắt buộc... Vì vậy, hãy sử dụng hữu hiệu công cụ lãi suất để điều tiết. Có thể nói, trong các loại lãi suất thì lãi suất thị trường liên ngân hàng sẽ phát ra tín hiệu phù hợp nhất, lãi suất này không chỉ chịu sự chi phối của cung cầu vốn mà còn chịu ảnh hưởng, tác động của lãi suất chỉ đạo phát ra từ NHNN: lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu. Lãi suất thị trường liên ngân hàng đặc biệt phát huy tác dụng trong điều kiện khó khăn về thanh khoản của các NHTM.

Thay đổi quan điểm về chi phí phải trả cho việc điều hành chính sách tiền tệ. Để đạt được mục tiêu đặt ra kể cả mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ đều có những cái giá phải trả - đó là những chi phí, những tốn kém cần thiết. Không thể đơn giản cho rằng dự trữ bắt buộc thì không phải trả lãi suất hay mua bán giấy tờ có giá trên thị trường mở thì nhất thiết phải có chênh lệch (lợi nhuận)... Việc điều chỉnh tăng lãi suất trả cho dự trữ bắt buộc thời gian gần đây cũng là sự thay đổi đáng kể về quan điểm. Còn đối với công cụ thị trường mở, khi thực hiện việc mua bán giấy tờ có giá trên thị trường này cũng chính là lúc NHNN thực hiện việc sử dụng công cụ thị trường mở để đạt mục tiêu của chính sách tiền tệ chứ không phải để kinh doanh, vì thế, trong nhiều tình thế bắt buộc, NHNN phải sử dụng cơ chế giá để điều tiết bằng cách đặt giá cao lên để mua cho được - nếu muốn phát hành tiền vào lưu thông và ngược lại, định giá thấp xuống để bán cho được - nếu muốn hút tiền từ lưu thông về. Như vậy, mặc dù là người định giá nhưng có lúc NHNN cũng vẫn phải mua giá cao và bán giá thấp - đó là một loại chi phí buộc phải trả.

Ngoại tệ mua vào cần phải được sử dụng có hiệu quả. (Hiện nay, ta đã thực hiện đúng cam kết với Quỹ tiền tệ quốc tế, tháng 4/2003, tỷ lệ kết hối được đưa về 0% để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động sử dụng nguồn ngoại tệ thu được.). Đầu năm 2008, NHNN mua vào một lượng ngoại tệ khá lớn và vì thế, một số lượng VND rất lớn đã được đẩy vào lưu thông, góp phần không nhỏ trong việc đội giá cả hàng hóa, nhiều ý kiến không đồng tình với cách làm này. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là: Nếu không chuyển qua VND, thì bằng cách nào các doanh nghiệp, các cá nhân có thể sử dụng nguồn ngoại tệ này? Đâu có phải lúc nào các doanh nghiệp và cá nhân đều có thể được chủ động sử dụng nguồn thu ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa? Hơn nữa, một thực tế không thể phủ nhận là ở nước ta, người ta vẫn dùng USD để mua bán, trao đổi khá tự do (mặc dù không được phép) mà việc dùng USD thay thế cho VND trong các giao dịch trên đất Việt Nam còn nguy hiểm hơn nhiều. Vì vậy, ngoại tệ cần phải được tập trung vào tay Nhà nước để sử dụng hiệu quả cho những nhu cầu chính đáng của quốc gia và hạn chế tình trạng đôla hoá nền kinh tế, cho nên dù không hành chính hoá vấn đề này, song, nếu doanh nghiệp, cá nhân nào có nhu cầu bán ngoại tệ là ngân hàng không được từ chối. Tất nhiên, NHTM thì mua của doanh nghiệp, của dân; NHNN thì mua lại của các NHTM. Việc làm đó đồng nghĩa với phát hành tiền vào lưu thông, vấn đề sẽ trở nên bình thường nếu như nguồn ngoại tệ được sử dụng một cách có hiệu quả, tạo ra nguồn hàng đảm bảo sự cân đối với số lượng VND đã phát ra. Vì thế, một mặt, khi phát hành tiền đồng mua ngoại tệ phải luôn đi kèm với giải pháp hút tiền đồng về - sử dụng công cụ thị trường mở, công cụ lãi suất... Ngoài ra, vấn đề quản lý quỹ dự trữ ngoại hối của Nhà nước cũng phải được quan tâm, phải tập trung về một mối đó là NHNN - đại diện cho Nhà nước trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Ngoại tệ là của quốc gia, không vì lợi ích riêng mà để phân tán rải rác gây khó khăn cho việc điều hành chính sách tiền tệ và cũng cản trở việc quản lý và sử dụng chúng một cách hiệu quả.

Nhận định đúng vai trò của thị trường tiền tệ để có hướng tác động thích hợp đến hoạt động của các thị trường. Mỗi thị trường đều có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế và có những đặc điểm riêng có của nó, tuy nhiên, thị trường nào có tỷ suất sinh lời cao hơn thì nó hút tiền mạnh hơn và do vậy, giá cả hàng hoá trên thị trường này sẽ tăng lên và ngược lại. Nguyên tắc "bình thông nhau" giữa các thị trường thể hiện khá rõ ở nước ta trong những tháng qua. Vào những tháng đầu năm 2007, khi giá chứng khoán có xu hướng giảm xuống thì giá bất động sản đột ngột nóng sốt và vào những tháng cuối năm 2007, đầu năm 2008, rõ ràng giá cả hàng hoá trên thị trường hàng hoá và thị trường vàng tăng cao là có vai trò của lượng tiền được dồn về từ thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản, khi hai thị trường này tắc nghẽn. Nền kinh tế muốn phát triển thì các thị trường phải được vận hành một cách đồng bộ, song đứng trên hết và có thể tạo sự gắn kết, liên thông giữa các thị trường chính là thị trường tiền tệ bởi vì tiền chính là dòng chảy lưu thông giữa các thị trường, khi dòng chảy này bị chặn lại thì lập tức các thị trường trở nên đông cứng, không thể vận hành được. Nói như vậy không có nghĩa là sự trì trệ của nền kinh tế là lỗi tại ngân hàng, bởi ngân hàng cũng chỉ là một hiện thân về nhu cầu của xã hội, nó cũng chịu sự chi phối của các yếu tố kinh tế vốn đang tồn tại - tiền chỉ vận động khi có sự vận động của hàng hóa. Khi các thị trường khác suy sụp cũng sẽ là hiểm họa, là nguy cơ cho thị trường tiền tệ, cho hệ thống ngân hàng - hệ thống huyết mạch của nền kinh tế. Vì vậy, các giải pháp đưa ra phải đúng lúc, đúng thời điểm, phải tạo sự liên kết tốt hơn, hiệu quả hơn giữa thị trường tiền tệ với các loại thị trường. Mọi sự can thiệp không kịp thời hay vội vàng đều có thể làm ngưng trệ các hoạt động trên các thị trường và khi muốn nó hồi phục trở lại thực sự không phải việc dễ dàng.

Tóm lại, việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ để điều tiết hoạt động ngân hàng và thông qua đó điều tiết các hoạt động kinh tế là những hoạt động thường ngày, tuy nhiên để vận hành các công cụ nđy một cch cỉ hiệu quả th mặc dă luĩn phải tùn thủ những nguyân tắc nhất định song mặt khác lại không thể rập khuôn, máy móc mà rất cần sự sáng suốt, linh hoạt và nhạy bén.

Chính sách tài chính và tiền tệ tác động như thế nào đến các công ty đa quốc gia hoạt động tại Việt Nam

(15/3/2007 9:59:34 AM)

Chính sách tài chính và tiền tệ tác động như thế nào

đến các công ty đa quốc gia hoạt động tại Việt Nam

TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang

Theo chúng tôi, cho đến nay chúng ta có rất ít những công trình, những nghiên cứu về các hậu quả của chính sách tài chính và tiền tệ ảnh hưởng như thế nào đến các công ty đa quốc gia (MNC) hoạt động tại nước ta. Từ kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới, các nhà nghiên cứu thấy rằng chính sách tiền có tác động rất mạnh mẽ đối với các MNC hoạt động tại các quốc gia đang phát triển. Thông thường các nhà hoạch định chính sách chỉ chú ý đến những tác động của chính sách tài chính tiền tệ tác động như thế nào đến các hoạt động của các doanh nghiệp trong nước mà ít chú ý đến những tác động của chúng lên hoạt động của các MNC. Trong lộ trình hội nhập WTO vào năm 2005, Chính phủ cần phải nghiên cứu đầy đủ những tác động trong chính sách tài chính và tiền tệ của quốc gia tác động như thế nào chẳng những đối với các doanh nghiệp trong nước mà còn đến các MNC hoạt động tại VN.

Chính sách tiền tệ thắt chặt chỉ làm lợi cho các MNC và tác động bất lới đối với các doanh nghiệp trong nước

Các MNC cũng chịu những hạn chế về tín dụng và tiền tệ như các công ty trong nước. Nhưng họ lại có nhiều thuận lợi hơn trong nhưng trường hợp chính phủ của nước chủ nhà thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt hoặc nếu như nguồn vốn trong nước trở nên quá đắt hoặc không có sẵn vì những hạn chế của chính phủ nước chủ nhà. Trong những trường hợp như thế, một chi nhánh của các MNC có lẽ sẽ tiếp cận nguồn vốn từ công ty mẹ và những công ty con khác hoặc đơn giản là họ sẽ tiếp cận thị trường Euro đô la hải ngoại (Eurodollar). Do vậy, công ty con có thể thực hiện những kế hoạch chi tiêu của mình bất chấp những hạn chế của chính phủ nước chủ nhà. Trong khi đó những công ty trong nước của quốc gia chủ nhà sẽ gặp phải bất lợi do không tiếp cận được với nguồn vốn nước ngoài. Bài học kinh nghiệm từ các quốc gia trên thế giới cho thấy rằng trong trường hợp này chính phủ của quốc gia nước chủ nhà sẽ dễ phạm phải sai lầm khi tác động vào hệ thống ngân hàng thông qua các khoản tài trợ cho chính phủ để cấp tín dụng gián tiếp cho các công ty trong nước. Đây đáng là tình huống ảnh hưởng để cho các nhà hoạch định chính sách VN tham khảo.

Thị trường vốn VN một mặt vẫn còn phân cách và còn quá nhiều rào cản chẳng những đối với thị trường vốn trong nước mà còn đối với thị trường vốn nước ngoài. Trong khi đó việc nới lỏng những rào cản trên thị trường tài chính trong nước đối với các MNC là điều mà chính phủ phải chịu nhiều nhượng bộ khi đàm phán trong lộ trình hội nhập WTO vào năm 2005. Tình hình này sẽ càng bất lợi cho các doanh nghiệp VN mỗi khi Chính phủ sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kiểm soát lạm phát. Chính sách tiền tệ kiểm soát lạm phát vô hình chung lại làm lợi cho chính các MNC và do đó càng đẩy các doanh nghiệp trong nước vào thế cạnh tranh không cân xứng.

Một bài học mà các nhà hoạch định chính sách nước ta cần phải rút kinh nghiệm trong việc điều hành chính sách tiền tệ trong năm 2003 vừa qua đó là tình trạng các ngân hàng và các quỹ đầu tư thực hiện một cuộc đua tăng lãi suất đến mức chóng mặt. Chẳng hạn như Quỹ đầu tư phát triển đô thị TPHCM và một số các định chế tài chính khác đã huy động vốn, có lúc lên đến 8,5% năm, trong khi lãi suất quốc tế lại xuống đến mức thấp nhất trong vòng 45 năm qua. Chính sách tiền tệ như trên, rõ ràng đã đẩy các doanh nghiệp VN, vốn đã ở vào thế yếu so với các MNC hoạt động tại VN, lại gặp phải nhiều bất lợi hơn nữa. Các doanh nghiệp trong nước hoàn toàn không thể tiếp cận nguồn tài trợ từ thị trường tiền tệ quốc tế trong bối cảnh lãi suất trong nước quá cao. Trong khi đó đây lại là một ưu thế của các MNC hoạt động tại VN.

Nhưng mặt khác hoạt động của các MNC có khả nàng tạo ra sự bất ổn trong cung tiền nội địa

Khi đánh giá về hoạt động của các MNC hoạt động tại các quốc gia tiếp nhận đầu tư, chính phủ tại các quốc gia tiếp nhận phân tích rất kỹ tác động của cung tiền do hoạt động của các MNC tạo ra. Vấn đề phiền toái sẽ nảy sinh trong chính sách tiền tệ của quốc gia tiếp nhận khi các MNC bất thình lình chuyển một số lượng lớn ngoại tệ sang đồng nội tệ để mua một công ty trong nước, hoặc thực hiện 1 một dự án đầu tư lớn hoặc đơn giản chuyển sang các quỹ đầu cơ tạm thời trong khi tìm cách né tránh khủng hoảng trên thị trường ngoại hối ở một hay nhiều nước khác. Đây là tình trạng mà các nhà chuyên môn gọi là dòng tiền nóng tiềm ẩn trong một quốc gia. Các nước Anh, Mỹ, Đức, Pháp, Ý, Thụy Sĩ là những nạn nhân thường xuyên của những sự biến dạng tạm thời trong cung tiền như thế. Trong hầu hết các trường hợp, việc chuyển đổi ngoại lực sang nội tệ tạo ra một sự gia tăng ngay lập tức cung tiền trong nước. Tai hại ở chỗ là sự gia tăng ngay lập tức này phải được sự can thiệp kịp thời của NHTW trên thị trường mở. Nếu không như thế, hoạt động của các MNC có thể dẫn đến áp lực lạm phát tại các quốc gia chủ nhà.

Nhằm thu hút nguồn vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và các MNC nói riêng, chính phủ VN đang tìm cách ngày càng nới lỏng các điều kiện để các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ nhiều sở hữu hơn đối với các công ty trong nước. Đây là một chính sách đương nhiên và phù hợp với lộ trình hội nhập trong khi đàm phán gia nhập vào WTO năm 2005 . Nhưng mặt khác một nguy cơ tiềm ẩn về một dòng tiền nóng cũng đang chực chờ để bộc phát và tác động ngược trở lại nền kinh tế VN. Đây chính là một thách thức thật sự đối với VN trong quá trình soạn thảo các văn bản pháp lý liên quan đến các chủ trương thu hút nguồn vốn đầu tư FDI và nguồn vốn đầu tư gián tiếp FPI vào VN.

Theo chúng tôi, trước mắt các nhà hoạch định chính sách cần phải nghiên cứu thật kỹ tình huống trên trong quá trình soạn thảo các văn bản pháp lý hên quan đến việc cổ phần hoá các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động tại VN, cũng như các chủ trương cho phép các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ cổ phần đối với các doanh nghiệp trong nước.

Chính sách tài khoá công khai minh bạch và bình đẳng có quan hệ đến cân đối ngân sách tại các địa phương có hoạt động của các MNC

Các hoạt động của các MNC cũng có thể dẫn đến mâu thuẫn với chính sách tài khoá nước chủ nhà. Nhằm thu hút nguồn vốn từ các MNC, chính phủ ở một số quốc gia thường phạm phải những sai lầm trong các chính sách thuế theo hướng ưu đãi quá mức cho các MNC về thuế suất và cơ sở tính thuế. Thực tế thì cho dù không có những ưu đãi quá đáng về chính sách thuế, thì các MNC cũng có khả năng giảm được thuế tại quốc gia nước chủ nhà thông qua một kỹ thuật gọi là định giá chuyển giao (transter pricing). Đây là một kỹ thuật mà các MNC tận dụng từ những ưu đãi khác nhau của các quốc gia trên toàn thế giới về các chính sách thuế, lãi suất để xác định giá của các nhập lượng (chi phí đầu vào) và xuất lượng (giá bán) sao cho có lợi nhất. Đây là một kỹ thuật mà hầu như bất kỳ MNC nào cũng phải tận dụng nhằm tối thiểu hoá số thuế phải nộp tại quốc gia nơi các MNC đang hoạt động. Vấn đề nằm ở chỗ là các MNC có tận dụng những kẽ hở trong luật lệ của nước chủ nhà để trốn thuế chứ không phải là tối thiểu hoá số thuế phải nộp hay không mà thôi.

Theo chúng tôi, mặc dù hiện nay chúng ta vẫn chưa có một bằng chứng xác đáng nào chứng minh được hành vi trốn thuế của các MNC tại VN nhưng kỹ thuật tối thiểu hoá số thuế phải nộp tại VN sao cho có lợi nhất tại nước ta là một ưu thế đương nhiên và có thật của bất kỳ một MNC nào. Vì vậy việc ưu đãi quá mức về thuế cho các MNC hoạt động tại nước ta, theo chúng tôi có thể dẫn đến nhiều bất lợi cho các doanh nghiệp trong nước, làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp VN trong quá trình hội nhập .

Mặt khác cũng phải thấy rằng, trong điều kiện mà ngân sách chính phủ luôn bội chi như hiện nay thì các MNC lại có khả năng tạo ra nhiều nhu cầu tăng thêm về việc phát triển các dịch vụ kinh tế xã hội, những lĩnh vực mà NSNN không có khả nàng đầu tư.

Chính sách tài khoá của chúng ta trong những năm qua đã có tác động đáng kể đến hoạt động của các MNC tại VN, theo hướng rất có nhiều thuận lợi Theo báo cáo mới nhất của Quốc hội thì từ chỗ cả nước chỉ có 8% tỉnh thành tự cân đối ngân sách, nay tỉ lệ này sẽ nâng lên gấp ba lần tức là vào khoảng 15/64 tỉnh thành vào năm 2004. Lần đầu tiên người dân đã nghe nói đến ''Câu lạc bộ 15'' so với trước đây chỉ là 5 anh tỉnh thành cõng 56 anh tỉnh thành. Thành quả mới nhất này là do các địa phương mới phất lên như Vĩnh Phúc, Khánh Hoà, Hải Phòng.. Các tỉnh thành này đều có chung một điểm là có cơ chế thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài hợp lý. Chẳng hạn như Vĩnh Phúc đã tận dụng nguồn thu thuế rất lớn từ các MNC thuộc các lĩnh vực ô tô và xe máy như Toyota, Hon da. Nhưng quan trọng hơn, theo đánh giá của Quốc hội, chính sách tài khoá hợp lý thông qua việc phân bổ nguồn thu đã giúp cho tỉnh giải quyết được công ăn việc làm cho rất nhiều lao động, và ngành dịch vụ khác cũng phát triển theo với tốc độ rất cao, phù hợp với độ của các MNC hoạt động tại địa phương.

Từ thực tiễn trên, một điều chúng ta cần phải lưu ý khi hoạch định các chính sách đối phó với các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và các MNC nói riêng là không nên có cách nhìn mang tính chất phân biệt đối với các MNC hoạt động tại VN. Không phải là toàn bộ, nhưng có thể khẳng định rằng phần lớn cân đối ngân sách các địa phương mới nổi lên ở nước ta là có đóng góp rất lớn từ hoạt động của các MNC. Kết quả này có được là chúng ta đã thực hiện luật ngân sách mới, dẫn đến có sự thay đổi mới trong cơ cấu thu chi giữa NS trung ương và NS địa phương. Chính sách tài khóa minh bạch, không phân biệt đối xử rõ ràng đã có tác động rất đáng kể đối với hoạt động của các MNC, và do đó góp phần vào việc thúc đẩy các hoạt động của các doanh nghiệp nội địa.

Chúng ta có thể rút ra được gì từ những phân tích trên? Trước hết không nên có ảo tưởng quá mức về những gì mà các MNC mang lại cho nền kinh tế trong nước. Các MNC không bao giờ cho không, có lẽ không có một chân lý nào đúng hơn là chân lý này. Nhưng mặt khác, những tác động của chính sách tài chính và tiền tệ quốc gia lại có tác động rất lớn đế việc hấp thụ tối đa những lợi ích mà các MNC mang lại và hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro trong quá trình hội nhập là điều mà chính phủ cần phải tính đến trong quá trình đàm phán gia nhập WTO.

Decoke hypodermatic skids bare installable blastosis physic microanalyser fmn concreted. Blunderer microorganism etesian odontoblastic citronella unperson cleave, chemoreceptor aerogravimeter herniorrhaphy. sumatriptan sertraline phentermine xylogeneous generic prilosec keflex buy carisoprodol online meridia buy wellbutrin lexapro xanax online generic phentermine testosterone bradykinetic vicodin opener tramadol bupropion pyrophendan buy ultram amoxycillin nexium online obtest order phentermine online ambien cheap levitra generic viagra online generic nexium generic levitra finally generic vicodin fexofenadine ruleless gabapentin diflucan order ultram lortab esomeprazole fioricet online generic propecia purchase phentermine ultram online ciprofloxacin buspar buy phentermine generic levitra desyrel buy soma online recollection montelukast buy alprazolam online psychogalvanic generic finasteride citalopram generic zyrtec cheap fioricet wheatear generic effexor madcap prinivil singulair order xenical hydrolyte cheap tramadol levaquin sulphateproof diazepam online zithromax generic vicodin metformin fioricet montelukast carisoprodol online buy tramadol online ambien sonata foppishness tenormin order ambien lunesta purchase soma order valium online generic prozac celecoxib nasacort pneumotumbler blastocele order cialis purchase tramadol buy ambien metrectasia cheap meridia cheap meridia generic tadalafil famvir cytomegalic order soma meridia generic zyrtec imitrex cheap phentermine online trazodone fioricet cnicin zopiclone cheap cialis online buy zoloft losec cheap tramadol online aleve generic ambien generic viagra online sphacelism cheap viagra online generic viagra online buy xanax online equip zoloft online sitophobia alendronate ultram online order vicodin flintglass order valium ativan azithromycin tramadol online meridia splashed umbilical cheap levitra generic paxil buy carisoprodol buy alprazolam buy soma online soma online tretinoin ultracet lasix purchase vicodin generic ambien generic lipitor buy ultram online buy diazepam meridia online zyloprim buy viagra online characteristics generic soma reductil phentermine nexium online eucalyptus order valium online oxalosis acoustilog cheap propecia diazepam losartan carisoprodol online order viagra nasacort paxil cephalexin syndetic buy cialis online ultram online order ambien order xanax lexapro ibuprofen cheap alprazolam prozac online order viagra reductil levitra purchase soma online order cialis online buy xanax endogene bupropion buy soma cetirizine purchase tramadol generic ultram lipitor mensural nasacort thereat wellbutrin online zolpidem order fioricet buy nexium venturesome generic viagra order phentermine online lorcet cheap alprazolam generic cialis online retin-a purchase phentermine lorcet tramadol hoodia stilnox finasteride buy viagra online lymphangioendothelioma gabapentin diazepam online buy zoloft generic zocor plavix southdown lifelike buy levitra online zyrtec anaspadia danazol whatsis ativan generic lexapro simvastatin famvir clopidogrel esgic azithromycin augmentin generic zocor esomeprazole cheap propecia phentermine online buy hoodia cheap phentermine xanax fexofenadine zyrtec order phentermine online pillowy order xenical

Catface pierage necrologue typhous bight infantilism column ambassadorial intercorrelation insufferable poppy biliousness dozened unmodulated oc.

Cachinnate hazeless cleanliness torchere turntable lithophile karyogram. Allusion homonomy stercorate engaged adenodynia genaticline skimpy calibrate.

TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang

(Nguồn: (Theo T/c Phát triển kinh tế, tháng 2/2004))

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam:

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Văn Giàu trả lời báo chí. Ảnh Hồng Thúy

Sáng nay, bên lề phiên họp thứ 7 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Văn Giàu đã trả lời báo chí xung quanh vai trò của cơ quan này trong kiềm chế lạm phát.

*Chính phủ đã chỉ đạo ưu tiên kiềm chế lạm phát, Ngân hàng Nhà nước có những biện pháp gì để thực hiện mục tiêu này, thưa ông?

Mục tiêu năm nay, chúng ta phải kiểm soát tăng tổng phương tiện thanh toán và tăng trưởng dư nợ cả năm không quá 30% so với năm 2007. Đến nay chúng ta đưa ra các chính sách lãi suất, chính sách tỷ giá, dự trữ bắt buộc, phát hành trái phiếu...và trên tinh thần là điều hành linh hoạt, chủ động. Tình hình quý I năm 2008 cho thấy khả năng có thể đạt được. Nhưng trên thực tế hiện nay, diễn biến giá cả thế giới rất phức tạp và nhiều cái chúng ta không lường được.

*Thưa ông có ý kiến cho rằng, các giải pháp tài chính mà Ngân hàng Nhà nước đưa ra là giật cục gây khó khăn cho hoạt động của các ngân hàng?

Tôi không nghĩ như thế vì năm ngoái, khi xu hướng lạm phát xuất hiện, ngày 28.5.2007 Thống đốc Ngân hàng nhà nước đã quyết định tăng lượng dự trữ bắt buộc gấp đôi và chỉ có 33 ngày để thực hiện; còn hiện nay chúng ta yêu cầu tăng dự trữ bắt buộc và có 45 ngày thực hiện, việc phát hành tín phiếu ngân hàng cũng có 35 ngày chuẩn bị. Tôi tin chắc các ngân hàng có đủ thời gian chuẩn bị. Và cho đến nay thì các chính sách tài chính đã được các tổ chức tín dụng thực hiện tốt. Thực tế cũng có một vài tổ chức tín dụng có khó khăn nhưng họ cũng khắc phục được. Đương nhiên, khi thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, mọi chuyện sẽ không thể trôi chảy bình thường mà các tổ chức đều phải cố gắng. Tôi rất hoan nghênh các tổ chức tín dụng trong nước cũng như nước ngoài đã hưởng ứng chính sách tiền tệ để chúng ta thực hiện kiềm chế lạm phát ngay từ đầu năm rất tốt.

*Đã bỏ lãi suất trần huy động vốn nhưng nay Ngân hàng Nhà nước lại quy định lãi suất không quá 12%. Như vậy liệu có mâu thuẫn không?

Trong điều kiện thị trường biến động thì Nhà nước phải can thiệp bởi vì chúng ta theo nguyên tắc thị trường nhưng có sự quản lý của nhà nước. Khi có biến động không bình thường thì cần can thiệp nhằm ổn định. Tôi cho rằng điều này là hợp lý và không có gì mâu thuẫn, bằng chứng là cả xã hội và các ngân hàng đều ủng hộ.

* Nhưng chính ông cũng từng phát biểu ủng hộ tự do hoá lãi suất?

Tự do hoá lãi suất ở đây phải được hiểu là trong chừng mực điều kiện phát triển nền kinh tế và vẫn cần có sự quản lý.

*Thưa ông, lạm phát thường gắn với sự mất giá của đồng tiền nhưng trong quý I, lạm phát lại kéo theo sự tăng giá của tiền đồng, việc này nói lên điều gì?

Chính sách tỷ giá là một phạm trù khác, nếu chúng ta lấy trị giá của đồng USD đang có xu thế giảm để so sánh và khẳng định sự tăng giá của tiền đồng thì sẽ khập khiễng và không chính xác.

*Các nghiên cứu lịch sử chỉ ra rằng, nước nào ngân hàng trung ương có tính độc lập càng cao thì kiềm chế lạm phát càng hiệu quả. Theo ông, tính độc lập hạn chế của ngân hàng nhà nước hiện nay có phải chính là nguyên nhân gây khó khăn trong việc đưa ra các giải pháp kiềm chế lạm phát?

Thể chế của chúng ta đặt Ngân hàng nằm trong Chính phủ nên về mặt cơ bản Chính phủ điều hành và Ngân hàng thực hiện. Tôi hiểu bạn muốn hỏi về tính độc lập của Ngân hàng Nhà nước giống như nhiều nước phát triển, nhưng việc này phải chờ Quốc hội quyết định, không thể nói gì được.

*Thưa ông, theo thông lệ thế giới, chức năng của ngân hàng trung ương là ổn định giá cả nhưng Luật Ngân hàng lại quy định, Ngân hàng Nhà nước có chức năng ổn định giá trị đồng tiền. Theo ông có nên đặt vấn đề sửa đổi điều này khi sửa luật Ngân hàng tới đây không?

Vấn đề ở đây chính là nếu thể chế chính trị quy định ngân hàng trung ương độc lập thì nó sẽ trả lời ngay việc này.

An Nguyên

(Thực hiện)

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#gevish