Cú Vọ và Đàn Bồ Câu

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Cú Vọ và Đàn Bồ Câu

Nguyên bản : CAT AMONG THE PIGEONS

Dịch giả: Vũ Đình Phòng

Nguồn: vnthuquan.net

Người đánh máy: HanAn

Người đóng gói PARROT

Chương I

Mẹ thân yêu,

Đêm qua trong trường chúng con xảy ra một vụ án mạng: cô giáo Springer dạy thể dục bị giết. Cảnh sát đến đây từ sáng và thẩm vấn tất cả mọi người.

Bà giáo Chadwik dạy toán ra lệnh cấm chúng con không ai được lộ tin này ra, nhưng con nghĩ rằng mẹ muốn biết mọi tin tức ở đây.

Jennifer Sutcliffe là một học sinh trung học 15 tuổi, rất thích chơi tennis. Trước khi vào năm học mới, cô được mẹ, theo lời khuyên của bác sĩ, đưa đến Trung Đông để nghỉ dưỡng, nhằm giúp cô phục hồi lại sau căn bệnh viêm phổi. Một trong những điểm mà mẹ cô chọn đưa cô đến là Ramat, một xứ sở chan hòa ánh nắng.

Cậu của Jennifer, một phi công riêng cho hoàng thân của xứ sở Ramat, đã tử nạn trên đường đưa Hoàng thân thoát khỏi cuộc đảo chính trong nước ông ngay vào khoảng thời gian Jennifer và mẹ đang du lịch ở đó. Xung quanh cái chết của ông, người ta tin rằng có nhiều chuyện liên quan đến mẹ con cô.

Jennifer, như đa phần các cô bé ở độ tuổi đó, rất vô tư và chưa có suy nghĩ sâu sắc. Mùa hè năm đó, cô vào trường Meadowbank - một trường nội trú dành cho nữ sinh. Mọi việc ở trường, nhìn trên bề mặt đều không có gì bất thường, dù có sự hiện diện của một học sinh mới rất danh tiếng là công nương Shaila - người thừa kế duy nhất và hợp pháp của hoàng thân xứ Ramat. Nhưng cô không biết là ở đó cũng có sự hiện diện của “một con cú vọ giữa đàn bồ câu”: cái ác, mà cái ác thì không dừng lại trước bất cứ thứ gì, kể cả giết người, để đạt được điều mà chúng mong muốn…

***

Hôm nay là ngày khai giảng của Trường Nữ học nổi tiếng Meadowbank. Đã gần cuối chiều, ánh nắng xiên khoai vẫn còn chiếu xuống những lối đi rộng xuyên qua hoa viên, dẫn đến một toà nhà kiến trúc theo kiểu cổ. Cô giáo Vansittard trong bộ áo liền váy may cắt tuyệt đẹp đang tiếp đón các phụ huynh học sinh đưa con em họ tựu trường.

Ngay cạnh đấy là bà giáo Chadwick, dáng điệu hoàn toàn thoải mái, khiến người ta có cảm tưởng bà là người không thể thiếu trong trường nữ học này. Mà đúng thế, bà giáo Chadwick đã có mặt tại trường ngay từ ngày đầu. Chính bà đã cùng với bà hiệu trưởng Bulstrode sáng lập ra trường nữ học này.

Bà giáo Chadwick đeo kính cận, mặc tấm áo dài hết sức giản dị, thái độ niềm nở. Cần nói ngay rằng bà còn là một giáo viên dạy toán tuyệt vời.

Đám phụ huynh và con cái họ vẫn tiếp tục đi vào toà nhà.

Trong văn phòng nhà trường trên tầng hai, cô Ann Shapland, thư ký riêng của bà hiệu trưởng Bulstrode đang lo gửi thư từ giao dịch đi các nơi. Cô trạc ba mươi tuổi, có mái tóc đen nhánh búi lại và thắt một dải xa tanh sau gáy. Cô vừa làm việc vừa chốc chốc đưa mắt nhìn qua cửa sổ xuống sân trường, nơi học sinh đang tấp nập kéo đến.

Đột nhiên cô thư ký ngừng tay, chăm chú nhìn xuống dưới. Một chiếc xe du lịch cực kỳ sang trọng nhãn Cadillac màu xanh da trời lăn bánh qua cổng ngoài, đến đậu sát thềm toà nhà. Xe vừa đỗ, người tài xế da rám nắng, râu quai nón nhanh nhẹn mở cửa xe bước ra, đĩ vòng sang bên đối diện, kính cẩn mở cửa xe cho một cô gái trẻ da nâu bước ra.

"Có lẽ chính là vị công nương nhà trường đang đợi đấy chăng?" cô thư ký Ann thầm nghĩ và ngay lúc đó cô thầm tự hỏi, liệu nàng công nương mảnh dẻ của một quốc gia Trung Đông kia, khi mặc bộ đồng phục nữ sinh của trường Meadowbank trông sẽ ra sao? Ann nhún vai, quay vào tiếp tục làm việc.

Đây là lần đầu tiên Ann Shapland làm việc trong một trường học. Trước đó cô đã từng làm thư ký cho một trong những nhà doanh nghiệp lớn nhất, thậm chí đã từng làm nhân viên văn phòng cho một bộ của chính phủ, lần đó đích thân ông Bộ trưởng mời cô đến làm thư ký riêng cho ông. Lúc nhận làm việc cho trường nữ học Meadowbank này, Ann đã thầm tự hỏi, liệu làm ở một nơi chỉ toàn nữ giới có tẻ nhạt không? Xung quanh mình chỉ toàn đàn bà con gái!

"Tuy nhiên, ta cũng cứ thử vào làm xem sao?" Vả lại cô đã có Dennis, chàng trai kiên trì, lần nào đi công cán ở Malaisia, Miến Điện, hoặc một quốc gia xa xôi nào đó trên thế giới về, cũng đến tìm gặp Ann ngay và nhắc lại lời cầu hôn với cô. Lần nào Ann Shapland cũng lần lữa, chưa chịu trả lời dứt khoát. Dennis là chàng trai rất đáng quý, nhưng cô e ngại, lấy một người chồng thường xuyên đi công cán nước ngoài liệu cô có chịu nổi không? Cuộc sống của cô có đơn điệu quá không?

Đơn điệu ư? Điều e ngại lúc trước bây giờ quay trở lại. Trường học này chỉ nhận nữ sinh. Các giáo viên cũng đều là nữ. Cả trường không có một người nam giới, trừ bác thợ làm vườn già, ngoài sáu mươi tuổi, lại suốt ngày chỉ cặm cụi trong khu hoa viên của trường. Ann Shapland đang miên man suy nghĩ theo hướng đó thì đột nhiên, lúc đưa mắt nhìn qua cửa sổ xuống vườn, cô chú ý đến một người nam giới lạ mặt đang sửa lại hàng rào cây xanh dưới vườn hoa. Ann chăm chú nhìn, người đàn ông này hoàn toàn không phải ông già, thậm chí còn khá trẻ, vóc người cân đối và dáng điệu đặc biệt nhanh nhẹn.

Ai thế nhỉ? Phụ việc cho bác già Briggs chăng? Hẳn là như thế.

Cô thư ký Ann ngắm nghía anh ta thêm chút nữa. Trông anh ta có vẻ trí thức, ít nhất cũng là người có học vấn cao. Cô thầm đoán, chắc anh ta xin vào làm chân phụ việc cho bác già làm vườn chỉ là làm thêm. Chẳng là giá cả hồi này leo thang, lương không đủ tiêu dùng. Chắc là như thế.

Cô thầm nghĩ : "Dù sao cũng còn có một nam giới để mình trò chuyện những lúc cần giải khuây”. Cô dự định, thảo xong lá thư giao dịch cho bà hiệu trưởng, sẽ lững thững xuống vườn dạo chơi.

Chương II

Hai tháng trước đấy, tại một quốc gia Trung Đông diễn ra những sự kiện đảo lộn cuộc sống nơi đó dư âm của nó lan xa, tác động cả đến cuộc sống tại ngôi trường nữ học nổi tiếng trên hòn đảo Anh quốc này.

Trong Cung điện Hoàng gia tại Ramat, hai người đàn ông còn khá trẻ vừa hút thuốc lá vừa trao đổi về triển vọng sắp tới của tình hình vương quốc. Một người có nước da mầu nâu, cặp mắt to màu đen u buồn, chính là Hoàng thân Ali Yusuf, người đang đứng đầu vương quốc Ramat. Tuy là một quốc gia nhỏ, nhưng Ramat lại là một trong những quốc gia giàu nhất khu vực Trung Đông này. Người đàn ông thứ hai tóc vàng, chứng tỏ ông ta là người châu u. Đó là phi công riêng của Hoàng thân chỉ sống bằng đồng lương, mặc dù đồng lương hậu hĩ. Bất chấp địa vị hai người hết sức khác nhau, một là chủ và một là người làm công, nhưng họ đối xử với nhau rất bình đẳng và thân thiết. Bởi hai người là bạn học của nhau từ thời Hoàng thân du học bên Anh.

- Vậy là vừa rồi bọn chúng bắn chính là nhằm vào chúng ta? - Vị Hoàng thân lặp lại câu hỏi, dường như vẫn chưa tin vào điều đó.

- Điều đó đã quá rõ ràng, không còn phải nghi ngờ gì nữa - viên phi công Bob Rawlinson đáp.

- Vậy là bọn chúng có mưu đồ thật sự?

- Tất nhiên! Chúng muốn giết chúng ta mà lại.

- Nếu vậy từ nay chúng ta phải hết sức thận trọng.

- Đúng thế. Nhưng bây giờ đã quá muộn rồi. Trước đây hai tuần tôi đã khuyên Hoàng thân nên lánh ra nước ngoài...

- Trốn tránh là điều bất đắc dĩ. Cùng đường lắm mới phải tính đến cách đó.

Sau một chút im lặng suy nghĩ, viên phi công người Anh gợi ý :

- Sứ quán Anh có thể cho chúng ta ẩn náu...

Hoàng thân Ali ngắt lời :

- Trốn vào Sứ quán Anh? Không đời nào! Bọn đảo chính sẽ không tôn trọng quy chế ngoại giao đâu. Chưa kể làm như thế rất nguy hiểm cho ta. Bọn chúng sẽ có cớ kết tội ta cấu kết với Phương Tây.

Người phi công hỏi khẽ :

- Hoàng thân có người nào thân tín trong quân đội không?

Hoàng thân Ali lắc đầu :

- Trước đây thì có, tất nhiên. Thậm chí ta có đến mười lăm sĩ quan thân tín. Nhưng hiện giờ thì ta không còn tin bất cứ ai. Thậm chí ngay trong cung điện này cũng đã có những kẻ sẵn sàng phản bội ta.

Viên phi công Anh gật đần .

- Tôi hiểu.

- Trong cung điện nào trên thế giới chẳng có gián điệp? Chúng ngày đêm theo dõi.

- Thậm chí chúng có mặt cả trong sân bay. Hôm trước, nhân viên bảo vệ sân bay đã bắt quả tang một tên đang lúi húi phá hoại động cơ một chiếc máy bay. Cho nên tôi nghĩ chúng ta chỉ còn cách duy nhất là chạy trốn ra nước ngoài. Mà phải trốn ngay bây giờ. Chậm trễ là sẽ không gỡ lại được.

- Đúng thế. Ta ở lại, sẽ bị chúng giết

Giọng Hoàng thân Ali điềm tĩnh, không một chtút xúc động. Người phi công Anh Bob Rawlinson nói tiếp:

- Lúc này toàn bộ điều quan trọng đối với Hoàng thân là phải bảo toàn cho được mạng sống. Chúng ta bay theo hướng Bắc sẽ không ai nghi ngờ. Tuy nhiên hướng đó toàn núi cao chót vót cho nên máy bay rất dễ gặp chuyện rủi ro. Dù sao cũng không còn cách nào khác.

- Ta rất không muốn ông vì ta mà gặp phải điều bất hạnh.

- Bây giờ không phải là lúc nghĩ đến những chuyện đó. Vả lại tôi chọn nghề này có nghĩa đã chấp nhận sớm muộn sẽ tan xác cùng với máy bay. Lúc này điều duy nhất cả hai chúng ta cần quan tâm là số phận của Hoàng thân.

Hoàng thân Ali im lặng một chút rồi nói:

- Ta hoàn toàn không muốn làm một kẻ trốn chạy. Nhưng ta cũng không muốn bị đám dân chúng kia xé xác.

Sau một lát suy nghĩ, Hoàng thân quyết định:

- Thôi đành. Không còn cách nào khác. Vậy bao giờ ta cất cánh?

- Càng sớm càng tốt. Tốt nhất là ngay bây giờ. Hoàng thân hãy đi xe ra sân bay, viên một cớ nào đó, thí dụ đi kiểm tra công trường xây dựng ở Al Jasar chẳng hạn. Trên đường đi, lúc xe chạy ngang qua bên ngoài sân bay, Hoàng thân ngỏ ý muốn dùng máy bay để kiểm tra từ trên cao nhìn xuống công trường, và cho xe chạy vào sân bay. Đúng lúc đó tôi đã chuẩn bị xong máy bay, chúng ta sẽ cất cánh. Dĩ nhiên Hoàng thân đừng mang theo hành lý gì hết để tránh bị nghi ngờ...

- Ta sẽ không mang theo bất cứ một thứ gì, ngoài...

Nói đến đây. hoàng thân Ali mỉm cười và người phi công thấy đột nhiên nét mặt ông ta biến đổi hẳn. Hoàng thân Ali không còn vẻ mặt một con người đã từng theo học tại châu u như mọi khi, mà trở lại là một ông vua phương Đông hiểm độc, đầu óc chứa đầy mưu mẹo để thoát khỏi những hiểm nguy ghê gớm nhất. Ông thọc tay sâu vào tận lớp áo trong, từ từ lôi ra một cái túi nhỏ bằng da thuộc.

Người phi công Anh còn đang ngơ ngác chăm chú nhìn thì vị hoàng thân đã mở chiếc túi nhỏ bàng da, dốc tất cả những gì đựng trong đó lên mặt bàn.

Người phi công Anh như nghẹn thở. Ông lẩm bẩm:

- Lạy Trời. Toàn thứ thiệt đấy sao?

Hoàng thán cười láu lỉnh:

- Tất nhiên!? Những viên kim cương và đá quý này là của cha ta. Người đã tậu được qua các trung gian tin cậy ở Anh, Ấn Độ và ở ngay cả trên đất Nam Phi. Dòng họ vương tộc của ta vốn có lệ đó, luôn luôn trữ sẵn những thứ này đề phòng trường hợp bất trắc... Ông hiểu chứ?

Rồi giọng nói trở nên mơ màng, hoàng thân Ali Yusuf tiếp lời:

- Theo thời điểm hiện nay, toàn bộ số đá quý này trị giá không dưới bảy triệu bảng Anh.

Viên phi công Anh thì thầm:

- Có cái túi này trong người thì quả là vượt qua được bất kỳ trở ngại nào.

- Đúng thế. Nhưng số báu vật này mà có người nhìn thấy thì chưa biết những chuyện gì có thể xảy ra. Những vụ án mạng ấy chứ. Thứ này ta không dám giao phó cho phụ nữ. Họ sẽ không nhịn được mà đeo lên người, thế là mất mạng như chơi. Trái lại ta muốn giao phó cái túi này cho ông!

- Giao phó cho tôi? - Bob Rawlinson kêu lên.

- Đúng thế, vì ông là người lương thiện, và ta biết ông sẽ nghĩ ra được cách giấu kín nó. Sau đây ta sẽ cho ông biết tên và địa chỉ một người mà ta tuyệt đối tin cậy để ông định liệu, nếu trường hợp ta chết trong chuyến hành trình này… Bởi làm sao con người biết được ý muốn của Thượng Đế Allah?

Chương III

Bước chân dọc theo những hành lang ngoắt ngoéo trong cung điện Hoàng gia Ramat, gót giầy nện xuống nền đá hoa cương tạo nên những tiếng vang khô khốc, phi công Bob Rawlinson cảm thấy như xung quanh đang có hàng trăm cặp mắt nấp sau những hàng cột kia lén nhìn mình. Chưa bao giờ ông dám nghĩ là một ngày nào đó, sẽ mang trong người một tài sản thậm chí trị giá chỉ bằng một phần ngàn kho báu lớn lao này. Người phi công Anh cố giữ cho dáng đi cũng như vẻ mặt hoàn toàn tự nhiên để không một người nào trong cung điện có thể thoáng một chút nghi ngờ.

Ra đến sân, các lính canh bồng súng chào Bob. Trong lòng vẫn còn bàng hoàng, viên phi công Anh ra đến Đại lộ lớn nhất của thủ đô Ramat. Giống như mọi đường phố lớn của các thủ đô phương Tây, nơi đây cũng bộc lộ rõ sự chênh lệch quá lớn giữa giàu và nghèo. Ta đi đâu bây giờ? Bob Rawlinson thầm tự hỏi. Ông chưa có kế hoạch nào hết, tính sẽ tuỳ cơ định liệu, nhưng phải định liệu thật nhanh. Thời gian đã gấp gáp lắm rồi.

Đầu óc như mụ đi, không nghĩ được gì hết, Bob Rawlinson quyết định ghé vào một tiệm giải khát để trấn tĩnh. Ông bước vào một quán rượu của dân bản địa, gọi một ly trà đường pha chanh. Khung cảnh nơi này rất thích hợp để ông định thần trở lại. Bàn bên cạnh có hai người đàn ông đang chơi xấp ngửa, mải sát phạt nhau, không quan tâm gì đến xung quanh. Bàn cách xa là một ông già đang nhấm nháp ly rượu, mắt lơ đãng nhìn xuống chiếc ly.

Bob Rawlinson không tin rằng mọi số phận đã được định đoạt từ trên trời, ông theo châm ngôn: "Ta tự cứu mình thì rồi Thượng đế sẽ cứu ta!" Ông thầm tính. Hay đem số báu vật này đến gửi ở Đại sứ quán Anh? Không được! Bởi không đời nào sứ quán chịu ôm lấy một trách nhiệm to lớn đến như vậy. Cách đơn giản nhất là tìm một người tin cẩn, đồng thời người đó lại phải không gây nghi ngờ khi vượt qua biên giới để sang nước khác, thí dụ sang Anh chẳng hạn. Nhưng hải quan nhiều quốc gia, nhất là hải quan nước Anh rất tò mò... Nếu một tài sản lớn, trị giá hàng triệu bảng như thế này, bị họ phát hiện thì chưa biết hậu quả sẽ ra sao? Tuy biết như thế, nhưng Bob không tìm ra được cách nào tốt hơn.

Đột nhiên Bob Rawlinson sực nhớ ra. Mải lo nhiều chuyện quá, ông quên bẵng mất bà chị ruột tên là Joan Sutcliffe, hiện cũng đang có mặt tại Ramat cùng với đứa con gái tên là Jennifer. Sau khi khỏi bệnh viêm phổi, đứa bé được bác sĩ khuyên nên dưỡng bệnh ít lâu tại một nơi nào nhiều ánh nắng và không khí không ẩm thấp. Joan bèn đưa con sang đây. Vài hôm nữa hai mẹ con sẽ trở về Anh, họ không đáp máy bay được mà phải taa2u biển. Bob biết rằng bà chị ruột là người ông có thể hoàn toàn tin cậy.

Ít nhất ông cũng biết rằng không sợ bà chị đem những thứ nữ trang này ra đeo. Điều duy nhất làm ông ngại là tính bà Joan toàng toạc, không giấu được ai cái gì bao giờ. Với tính nết như thế, nếu Bob có căn dặn bà đừng lộ ra với ai thì bà sẽ để lộ ra bằng cách khác, nghĩa là chăm chăm giữ vẻ bí mật như để nói với mọi người rằng "Tôi đang giữ một thứ cực kỳ bí mật đây!" Và như thế còn nguy hiểm hơn.

Nhưng thời gian đã rất gấp, không thể chần chừ được nữa. Viên phi công Bob Rawlinson bước ra khỏi quán hàng và như cái máy, ông đi nhanh về phía khách sạn lớn nhất thủ đô Ramat, có cái tên huênh hoang là Khách sạn Ritz. Cô tiếp viên khách sạn nhìm thấy người phi công Anh, niềm nở:

- Chào ông sĩ quan! Hẳn ông muốn gặp bà chị phải không? Hai mẹ con bà ấy đi pic-nic mất rồi.

- Pic-nic?

Bob không còn tin vào tai mình nữa: tình hình rối loạn thế này mà vẫn đi chơi được? Lại còn pic-nic nữa!

- Vâng, đúng thế đấy, thưa ông. Bà Sutcliffe đi cùng với ông bà Hurst ở Công ty Dầu Lửa. Họ lên đập Katat Diwa.

Suýt nữa Bob văng tục: đi chơi xa thế thì phải nhiều tiếng đồng hồ nữa bà chị ông mới về khách sạn được.

- Cô vui lòng cho tôi mượn chìa khoá phòng bà ấy vậy - cuối cùng Bob nói.

Như mọi khi, phòng hai mẹ con bà Sutcliffe hết sức bừa bộn. Bà chị ông có tính rất ghét sự trật tự, ngăn nắp. Những chiếc gậy chơi gôn quăng bừa bãi trên ghế xa lông, còn cây vợt tennis thì nằm trên giường, áo quần tung toé bừa bãi ra khắp mọi chỗ. Trên bàn, cả một chồng bưu thiếp, với mấy cuộn phim và đủ thứ vật kỷ niệm nhỏ sản xuất tại Nhật Bản, Bombay... Nằm sát tường là mấy chiếc va li, cái đóng cái mở.

Một điều đã rõ ràng. Bob sẽ không gặp được bà chị trước khi lên máy bay chạy trốn cùng với Hoàng thân Ali. Lao lên tận đập Katat Diwa tìm bà Sutcliffe rồi quay về thì không thể được. Tất nhiên Bob có thể bọc cái túi da đựng kim cương, để lại đây kèm theo một mảnh giấy dặn dò, nhưng ông biết rằng ở Ramat này, bất cứ người dân châu âu nào cũng bị theo dõi xít xao, cho dù y có cẩn thận đến mấy. Có nghĩa việc ông vào khách sạn Ritz này không thể không có người đã biết. Họ sẽ vào đây, mở cái túi da và đọc mảnh giấy ông viết cho bà Sutcliffe.

Thời gian vẫn tiếp tục trôi nhanh. Hay giữ lại kho báu này? Hoàn toàn không thể được. Bob Rawlinson đưa mắt nhìn khắp căn phòng, đột nhiên ông mừng rỡ. Ông nghĩ ra được một cách. Viên phi công lấy kho báu trong túi áo ra, bắt tay ngay vào việc thực hiện.

Đang làm, bỗng ông giật mình, nhìn vội ra ngoài cửa sổ. Không phải. Phòng bà chị không có bao lơn. Thần hồn nát thần tính, ông đã tưởng có ai ngoài đó đang theo dõi.

Làm xong, Bob thở phào nhẹ nhõm. Vậy là không hề có ai nghi ngờ gì hết. Ngay bà Sutcliffe, và cả đứa cháu gái, tất nhiên càng không ngờ. Bà chị ông là người chỉ quan tâm đến mỗi một mình bà.

Bob Rawlinson cẩn thận xoá mọi dấu vết của công việc ông vừa làm. Sau đấy ông bước đền gần cuốn lốc lịch đặt trên ghế đẩu. Tất nhiên ông phải để lại mấy chữ cho Joan, nhưng viết thế nào để ai tò mò đến mấy cũng không đoán ra được ý nghĩa thật. Nếu viết khéo, còn có thể đánh lạc hướng kẻ nào đọc được bức thư này. Khi về đến nước Anh, ông sẽ tìm cách liên lạc ngay với bà chị.

Bức thư như sau :

Chị Joan thân mến, em đến tìm chị định rủ đến Câu lạc bộ chơi vài ván gôn vào tối nay, nhưng chị lại đi vắng, em không gặp được. Nếu có thể được, mai đến gặp em ở Câu lạc bộ Gôn nhé? Vào 17 giờ, được không? Bob.

Vậy là đạt được cả hai mục tiêu, Bob Rawlinson thầm tự bằng lòng: bà chị ông không hề biết ông em sắp rời khỏi đây, và như thế có nghĩa cũng sẽ không ai biết. Thêm vào đó là nếu có chuyện gì, không ai có thể nghi ngờ bà Joan Sutcliffe được.

Bob suy nghĩ một lát rồi nhác máy điện thoại, quay số Đại sứ quán Anh.

- John đấy phải không? Bob Rawlinson đây... Đúng thế, Mình cần gặp cậu ngay, càng sớm càng tốt. Chẳng là có một cô ả tuyệt đẹp... cực kỳ hay, nhưng mình lại vụng về làm cô ả giận...

- Mình hiểu. Cậu thì bao giờ chẳng thế, chuyện làm con gái giận. Thôi được, mình sẽ đến gặp cậu lúc 14 giờ.

Thế là xong. Bob đã báo tin được cho sứ quán. "Cô gái tuyệt đẹp" là ám hiệu để chỉ "có một âm mưu lớn đang được chuẩn bị". Bộ máy nghe trộm điện thoại ở Ramat hoạt động rất hiệu quả, nhưng cũng không thể đoán ra dược nội dung điều ông báo tin cho sứ quán.

Bây giờ thì Bob Rawlinson yên tâm. Ông đã báo được cho bạn biết chuyện về "kho báu” và bà chị ông thì không biết bì hết. Bob còn báo thêm cho bạn ở sứ quán biết vài hôm nữa bà Joan Sutcliffe sẽ đưa con về Anh bằng đường biển. Còn những chuyện khác thì hiện chưa thể đoán trước. Hoàng thân Ali Yusuf có thể sang được châu u mà cũng có thể bị nạn dọc đường và chết... Còn số phận của Bob thì lại phụ thuộc vào số phận của Hoàng thân.

Liếc nhìn lại lần cuối cùng căn phòng đồ đạc bừa bộn, Bob đặt phong bì vào chỗ dễ nhìn thấy nhất rồi ông bước ra cửa. Ngoài hành lang không có ai.

Chương IV

Phòng khách sạn bà Joan Sutcliffe thuê không có bao lơn, nhưng phòng bên cạnh lại có. Tại thời điểm lúc viên phi công người Anh của hoàng thân Ali ra đến hành lang thì bà khách thuê căn phòng bên cạnh cũng rời khỏi vị trí quan sát, tay vẫn còn cầm chiếc gương soi nhỏ. Thật ra, lúc nãy bà ta bước ra ngoài bao lơn chỉ cốt để soi gương nhìn cho rõ sợi lông mọc oái oăm trên ca82m. Sau khi đã nhổ xong sợi lông, bà ta chìa khuôn mặt ra ngoài ánh sáng trời để soi gương cho kỹ thêm, xem còn chiếc lông xấu xí nào nữa không. Tình cờ bà ta nhìn thấy trong tấm gương một cảnh tượng gợi cho bà ta trí lò mò. Chẳng là do đưa lên vào một góc độ nào đó, trên mặt tấm gương nhỏ hiện ra một phần của tấm gương lớn trong phòng bên cạnh, và trên tấm gương này bà khách nhìn thấy hình một người đàn ông, ông ta quay lưng về phía gương, đang lúi húi làm những động tác hơi lạ...

Bà khách tò mò, bèn giữ nguyên vị trí như cũ, đứng bất động tiếp tục quan sát. Bà ta rất bực mình thấy không sao đoán nổi người đàn ông phòng bên cạnh đang làm gì.

Hẳn là người dàn ông đó có thể nhìn thấy tấm gương nhỏ trên mặt tấm gương lớn trong phòng ông ta, nhưng vì ông ta mải mê làm công việc của mình, nên không ngẩng đầu nhìn lên gương một lần nào.

Rồi bà khách phòng bên cạnh nhìn thấy người đàn ông hí hoáy viết lên tờ giấy bóc ở lốc lịch. Sau đó hình người đàn ông biến mất trên tấm gương soi, bà ta đoán ông ta ra gọi điện thoại. Bà cố dỏng tai nhưng không nghe được ông ta nói những gì. Tuy nhiên bà ta linh cảm thấy cuộc trò chuyện trong điện thoại có vẻ không quan trọng. Cuối cùng bà khách nghe thấy tiếng sập cửa.

Chờ một lát cho người đàn ông đi xa hẳn, bà khách phòng bên cạnh lén bước ra hành lang. Một nhân viên khách sạn đang dùng chổi lau phủi thứ gì đó trên tấm thảm. Đợi cho người nhân viên làm xong, đi khuất, bà ta không chút ngập ngừng, bước vào phòng bên cạnh. Cửa khoá, đúng như bà ta dự đoán. Bà ta rút chiếc cặp tăm và mở lưỡi con dao díp nhỏ, bắt đầu loay hoay. Có vẻ người phụ nữ khá thành thạo những loại công việc như thế này.

Chỉ lát sau bà ta đã mở được khoá, bước vào phòng, thận trọng khép cửa lại. Việc đầu tiên là xem bức thư. Phong bì dán hờ và bà ta dễ dàng bóc ra. Nội dung lá thư làm bà ta chau mày: không có gì đặc biệt. Bà ta vừa dán phong bì như cũ thì nghe thấy có tiếng người trò chuyện dưới sân. Tiếng trò chuyện vọng lên phòng này qua ô cửa sổ để ngỏ, bà ta nhận ra một trong hai giọng nói là của người phụ nữ thuê căn phòng này.

Bà ta bèn bước ra gần cửa sổ để nghe cho rõ. Quả là hai mẹ con bà Joan Sutcliffe đã về và bà mẹ đang to giọng với một người đàn ông Anh. Bà Joan tỏ ra rất bực mình với người đàn ông, có vẻ là quan chức của sứ quán Anh, ông ta vừa mới đề nghị hai mẹ con bà rời ngay khỏi quốc gia Trung Đông này.

- Vô lý! - Bà Joan nhắc lại - Phố xá vẫn bình thường, có gì đâu? Lại một lần nữa chưa chi các ông đã hoảng hốt.

Giọng người đàn ông có vẻ đã quá mệt mỏi:

- Thưa bà, chúng tôi cũng rất mong không có chuyện gì, nhưng trách nhiệm của chúng tôi buộc chúng tôi phải báo vệ tính mạng cho bà và cháu...

Bà Joan Sutcliffe giận dữ ngắt lời người đàn ông:

- Hành lý của chúng tôi cồng kềnh lắm, với lại chỉ Thứ tư này chúng tôi sẽ đáp tàu biển rời khỏi đây. Bác sĩ nói rằng ngồi tàu biển sẽ rất tốt cho sức khỏe của con Jennifer. Cho nên tôi không đáp máy bay của các ông đâu.

Người đàn ông trình bày rằng máy bay sẽ chỉ chở họ đến Aden, sau đó họ có thể lên tàu biển như bình thường.

- Thế còn đống hành lý của chúng tôi?

- Việc ấy tôi xin chịu trách nhiệm.

Không còn lý do để từ chối, bà Joan Sutcliffe đành nhượng bộ:

- Nếu vậy thì tôi đành làm theo yêu cầu của các ông vậy - bà thở dài nói - Bây giờ tôi về phòng sửa soạn hành lý chứ?

- Xin bà chuẩn bị thật nhanh cho.

Trong phòng Joan Sutcliffe, bà khách phòng bên cạnh đọc nhanh nhãn dán ngoài chiếc vali rồi vội vã chạy ra ngoài. Đúng lúc đó, bà Joan bước ra khỏi thang máy, nhưng bà ta phải dừng lại vì cô nhân viên tiếp tân của khách sạn đã cuống quít chạy bốn bậc một lên thang gác, thở hổn hển đuổi theo bà:

- Xin quý bà tha lỗi. Tôi quên không báo bà biết là ông phi công em của bà lúc nãy đến đây tìm bà. Ông có vào phòng ngồi chờ một lát nhưng không thấy bà về nên lại ra và đi rồi.

- Tiếc quá! - Bà Joan nói với con gái - Mẹ đoán cậu Bob cũng hoảng hốt như cái ông ban nãy... Ôi, cận ấy hấp tấp đi ra mà quên khoá cửa phòng, một sơ suất nguy hiểm.

Vào đến phòng, nhìn thấy chiếc phong bì đặt trên bàn, bà Joan Sutcliffe kêu lên:

- Ôi, có thư của ai kìa.

Đọc xong thư, bà Joan leo lên vui vẻ:

- Vậy ra cậu Bob vẫn bình tĩnh! Xem chừng cậu ấy không hay biết gì về tình hình đang nguy hiểm. Nhưng thôi, mẹ con mình phải đóng gói đồ đạc nhanh lên kẻo người ta kêu. Chà, "đảo chính"! Đúng là trò dớ dẩn.

- Chưa bao giờ con được nhìn thấy một cuộc đảo chính đấy - Jennifer nói giọng đăm chiêu. Năm nay em đã mười lăm tuổi.

- Còn lâu con mới được nhìn thấy.

- Ôi tiếc quá nhỉ! - Cô bé thất vọng nói.

Chương V

Sáu tuẫn lễ sau, tại nước Anh, một người đàn ông trẻ tuổi kín đáo gõ vào cánh cửa phòng trong một ngôi nhà tại khu phố Bloomsbury ở thủ đô London. Đây là một căn phòng nhỏ. Một người đàn ông to béo, tuổi trung niên, đang ngồi ngủ gật trên chiếc ghế tựa. Tấm áo vét của ông ta nhàu nát và dính đầy tàn thuốc.

Mắt hơi hé mở, ông ta hỏi người trẻ tuổi mới đến:

- Thế nào?

Về cặp mắt của Đại tá Pikeaway, người ta đồn chúng không bao giờ mở hẳn, cũng không bao giờ nhắm hẳn. Một số người khác thì quả quyết rằng ông ta thật ra không phải tên là Pikeaway, và cũng chưa hề là Đại tá. Nhưng lời đồn đại thì tin sao được?

- Thưa Đại tá, ông Edmonson ở Bộ Ngoại giao đã đến - người trẻ tuổi nói rất khẽ.

Pikeaway không hề tỏ thái độ gì. Dường như ông ta vẫn còn ngủ.

- Cậu ta là bí thư thứ ba Sứ quán ta tại Ramat phải không nhỉ?

- Thưa, vâng. Đúng thế.

- Tôi nghĩ tôi cần tiếp cậu ta - ông Đại tá hờ hững nói.

Đại tá Pikeaway ngồi lại cho ngay ngắn, rồi phủi qua loa tàn thuốc dính trên áo vét.

Khách bước vào. Edmonson cao lớn, tóc vàng, trong bộ âu phục hết sức lịch sự, đúng là một quan chức ngoại giao. Thái độ ông ta thận trọng, dè dặt, cũng lại đúng là do nghề nghiệp tạo nên.

- Đại tá Pikeaway, nếu tôi không lầm? - Khách nói - Tôi được người ta cho biết là hai chúng ta nên gặp nhau trao đổi.

- Vậy ư? Mời ông ngồi.

Cặp mắt viên Đại tá dường như muốn nhắm vào, nhưng ông ta cố cưỡng lại.

- Ông có mặt tại Ramat trong những ngày diễn ra cuộc đảo chính đấy chứ?

- Vâng. Những hôm đó thật chẳng vui vẻ gì.

- Tôi cũng đoán như vậy. Bob Rawlinson là bạn của ông phải không ?

- Đúng thế.

- Anh ta đã chết?

- Vâng, thưa Đại tá. Nhưng tôi không biết có nên...

- Ông giấu giếm vô ích. Chúng tôi đã biết hết. Vậy là Bob Rawlinson lên máy bay với Hoàng thân Ali Yusuf ngay từ hôm đầu tiên và sau đó không ai biết tin tức gì về số phận của họ. Cũng có thể họ đã hạ cánh an toàn xuống một nơi nào đó trong vùng núi. Nhưng người ta lại tìm thấy xác chiếc máy bay trên dãy núi Avolez, và thấy cả xác hai người ấy nữa. Tin này đến ngày mai mới được công bố trên đài phát thanh. Tin ấy chính xác chứ?

Edmonson gật đầu. Đại tá Pikeaway nói tiếp:

- Họ bay trên độ cao, rất có thể là gặp gió to. Nhưng cũng có thể do có kẻ phá hoại. Thí dụ chúng gài săn một quả bom nổ chậm. Cuộc điều tra tiến hành đã khá lâu, và đến giờ vẫn chưa kết thúc.

- Tất cả những chuyện đó thật đáng tiếc. Hoàng thân Ali Yusuf lẽ ra rất có thể là một quốc trưởng tuyệt vời, vì ông ta đã được thấm nhuần tư tưởng dân chủ.

- Có khi chính vì thế mà ông ta bị đám kia chống lại. Nhưng chúng ta chẳng nên mất thời giờ vào việc luyến tiếc một ông vua. Tôi được người ta giao cho tiến hành điều tra - một cuộc điều tra nào đó và những người quan tâm sẽ cung cấp tiền bạc, phương tiện. Nghe nói Chính phủ Hoàng gia nước Anh chúng ta rất ủng hộ họ. Ông hiểu ý tôi chứ?

Edmonson điềm tĩnh đáp:

- Người ta đã có nói bóng gió cho tôi biết về chuyện đó.

Đại tá Plkeaway không nhúc nhích:

- Chắc ông biết là một vật rất có giá trị đã bị mất, người ta không tìm thấy trên thi thể các nạn nhân cũng như trong đống xác máy bay. Rất có thể nông dân địa phương đã lục lọi và lấy đi tất cả những gì có thể lấy được, và họ cũng kín tiếng không kém gì các nhà ngoại giao các ông. Bây giờ ông hãy nói cho tôi, ông còn biết được những thông tin gì nữa?

- Không có gì đặc biệt - Edmonson tự ái đáp.

- Ông có nghe nói về một cái gói nhỏ mà người ta đang ra sức tìm chứ?... Nếu không phải thế thì tại sao người ta lại khuyên ông đến gặp tôi?

- Người ta bảo tôi rằng ông muốn gặp tôi hỏi một số điều.

Cặp mắt Đại tá Pikeaway lúc này mới hé mở to thêm đôi chút.

- Nếu tôi đưa ra một số câu hỏi, ông sẽ trả lời nghiêm tức chứ?

- Hẳn là như thế.

- Thôi được. Vậy trước khi lên máy bay rời khỏi Rumat, Bob Rawlinton có nói lộ chuyện gì ra với ông không?

- Về chuyện gì, thưa Đại tá?

Lần này, viên Đại tá nhìn thẳng vào mắt Edmonson:

- Thôi được, ông kín đáo là phải. Nhưng trong trường hợp này, kín đáo là không hợp thời. Nếu quả ông không biết ý tôi muốn nói đến cái gì thì câu chuyện giữa hai chúng ta nên dừng lại ở đây. Tôi e sau này ông sẽ hối tiếc là đã không cởi mở với tôi đấy.

Xem chừng câu nói làm Edmonson bối rối. Ông ta quyết định nói.

- Điều tôi biết thật ra khá mơ hồ. Bob với tôi có thống nhất một kiểu mật mã riêng mỗi khi chúng tôi thông báo cho nhau bằng điện thoại. Lâu lâu anh ta lại cho tôi biết một số thông tin anh ta thu lượm được trong cung điện hoàng gia ở Ramat. Đổi lại, tôi cũng thông báo cho anh ta những điều tôi biết.

- Ông cứ nói tiếp.

Buổi sáng hôm cách mạng nổ ra, Bob gọi điện cho tôi, hẹn hai chúng tôi gặp nhau tại một chỗ quy định. Nhưng hai chúng tôi chưa kịp gặp nhau thì cuộc bạo động đã bùng nổ và cảnh sát chặn khắp các ngả đường. Tôi không gặp được Bob, và ngay buổi trưa hôm đó, anh ta trốn đi bằng máy bay cùng với hoàng thân Ali.

- Ông có đoán được Bob Rawlinson gọi điện thoại từ máy nào không?

- Rất tiếc rằng không.

- Đúng là đáng tiếc thật. Ông quen bà Joan Sutcliffe chứ?

- Chị của Bob? Tôi có gặp bà ta đi cùng với đứa con gái nhỏ, nhưng tôi chưa nói chuyện với bà ta lần nào.

- Hai chị em có thân thiết với nhau lắm không?

Edmonson nghĩ một chút rồi đáp:

- Tôi không dám quả quyết. Bà ta hơn tuổi cậu em rất nhiều, và Bob lại không ưa ông anh rể. Bob thường gọi ông ta là "lão huênh hoang”.

- Bob không lầm đâu. Anh rể ông ta là một nhà kinh doanh tầm cỡ, và loại người đó vô cùng tẻ nhạt. Vậy là ông có cảm giác Bob Rawlinson đã giao phó cho bà chị anh ta một điều bí mật?

- Tôi không dám chắc, nhưng tôi ngờ là như vậy.

- Thôi được, hai mẹ con bà Joan Sutcliffe, sau một chuyến ngao du trên biển Địa Trung Hải, ngày mai sẽ cập bến Tilbury, trên con tàu Eastern Queen.

Đại tá Pikeaway im lặng chăm chú nhìn khách. Rồi, như thể đã quyết định một điều gì, ông ta chìa tay cho Edmonson:

- Ông đến đây là rất tốt.

- TôI rất tiếc đã không giúp ích cho Đại tá được nhiều hơn.

Rồi khách đi ra. Liền sau đó, người đàn ông trẻ tuổi lúc trước dẫn Edmonson đến, quay vào. Viên Đại tá nói:

- Ta đã định cử anh ta đến Tilbury để chặn không cho bà Joan Sutcliffe kia biết tin em trai bà ta đã chết. Nhưng rồi ta đã nghĩ lại. Thằng cha này công tử bột quá. Ta sẽ cử đứa khác. Thằng cha hôm nọ tên là gì ấy nhỉ?

Thưa, Đại tá định nói đến Derek ấy ạ?

- Phải rồi, Derek. Cậu đã hiểu ta tính sẽ làm thế nào chưa?

- Thưa Đại tá, tôi mới lờ mờ hiểu.

- Chưa đủ đâu. Cậu phải hiểu thấu đáo mới được. Nhưng thôi, hãy gọi thằng cha Derek đến đây, ta cần giao một nhiệm vụ cho nó.

Chương VI

Viên Đại tá Pikeaway dường như lại định ngủ tiếp thì Derek bước vào.

- Cậu có thích vào làm trong một trường nữ học không? - Đại tá Pikeaway hỏi, không hề có vẻ đùa giỡn.

- Trường nữ học? Tức là trường con gái ấy ạ? - Derek sửng sốt - Chẳng lẽ trường nữ học lại được dùng làm nơi chế tạo bom?

- Hoàn toàn không phải thế. Meadowbank là một trường nữ học nội trú thực sự nghiêm chỉnh, đúng với nghĩa của nó, và còn là một trường nữ học đang có uy tín rất lớn.

- Meadowbank? Thưa Đại tá, tôi chưa hiểu.

- Thế này nhé: công nương Shalla, em họ của Hoàng thân Ali Yusuf và là người thừa kế hợp pháp ngai vàng Marat, sắp vào học ở trường nữ học rất nổi tiếng kia. Trước đây, công nương học trong một trường nội trú ở Thuỵ Sĩ.

- Vậy Đại tá giao cho tôi việc bắt cóc cô bé hoàng tộc ấy chăng?

- Hoàn toàn không phải. Tình hình là thế này. Rất có thể sắp tới sẽ có những kẻ quan tâm đến cô ta. Ta muốn giao cho cậu nhiệm vụ bí mật giám sát cô học sinh công nương kia. Cậu sẽ phải báo ta biết tất cả những nguy cơ nào có thể sẽ xảy ra với cô ta, thí dụ có kẻ nào đó là bạn bè của cô ta đến bắt liên lạc chẳng hạn, bạn bè hoặc họ hàng... thật hoặc giả. Tóm lại, hễ cậu thấy có bất cứ kẻ nào khả nghi xuất hiện ở đó...

- Nhưng tôi làm cách nào để giám sát tại chỗ cô công nương kia được? Tôi có phải thầy giáo đâu mà lọt vào đấy được?

- Mà cậu có là thầy giáo thì cũng không thể lọt vào, bởi muốn xin vào dạy học trong trường đó, điều kiện tiên quyết là phải thuộc giống cái. Cho nên ta nghĩ, cậu chỉ có thể vào đó làm với tư cách thợ làm vườn.

- Liệu có được không?

- Được. Nhưng cậu có làm được thứ công việc ấy không? Ta không lầm đấy chứ?

- Tôi làm được. Hồi còn ít tuổi, tôi đã từng viết một số bài đăng trong tạp chí Người làm vườn.

- Ta biết. Nhưng lần này công việc của cậu không phải là viết những bài lý thuyết suông. Mà cậu sẽ phải thật sự cầm lấy cái cuốc, phải trồng cây, xén cành, cuốc đất hẳn hoi. Cậu làm được không?

- Những công việc ấy tôi đã từng làm trong khu vườn của mẹ tôi hồi tôi còn nhỏ.

- Tốt lắm. Bởi trường Meadowbank đang cần thuê một người phụ việc cho ông già làm vườn ở đó. Ta sẽ xoay cho cậu lấy đủ chứng chỉ về nghề làm vườn để người ta nhận cậu vào làm. Nhưng ta dặn, nếu như các cô học sinh trong trường chú ý đến cậu, phần vì tò mò, phần vì cậu đẹp trai, thì cậu phải có cách ngăn chặn, rõ chưa? Cấm không được dính vào những chuyện dớ dẩn ấy. Ta rất không muốn họ tống cổ cậu ra.

Derek cố nở một nụ cười gượng gạo. Đại tá Pikeaway đã nói tiếp:

- Cậu định lấy tên là gì nào?

- Edden, được không ạ? Đấy cũng là tên một khu vườn khu vườn trên Thiên Đàng...

- Chà ra cậu cũng biết hài hước đấy. Thôi được, vậy từ nay tên cậu là Adam Goodman, thích hợp chứ? Bây giờ cậu về chuẩn bị ngay. Ta đang cần gặp lão Robinson. Hẳn giờ này lão đã đến rồi và đang chờ ta.

Ronnie ngạc nhiên:

- Robinson ạ? Ông ta cũng tham gia vụ này ạ?

- Ta bảo cậu đi kia mà? Đừng bắt ta phải nhắc đến lần thứ hai.

Tiếng chuông cửa kêu một cách kín đáo.

- Lão đến đấy. Lão Robinson này bao giờ cũng đúng giờ.

- Thưa Đại tá, tên thật của ông ta là gì ạ? Tôi muốn được biết.

- Robinson! Đó là tất cả những gì ta biết về lão, và ta tin rằng không kẻ nào biết thêm điều gì về lão ngoài cái tên đó.

Chương VII

Người đàn ông vừa bước vào gian phòng nhỏ này hoàn toàn không thích hợp với cái tên Robinson. Giá tên ông ta là Demetrios, Isaacstein hay Perenna thì có lý hơn, bởi trông ông ta giống người Hy Lạp, người Do Thái, người Tây Ban Nha hoặc người ở xứ sở nào đó chứ tuyệt nhiên không có lấy một nét gì giống người Anh, mặc dù ông ta nói tiếng Anh không hề vướng chút âm sắc nước ngoài nào.

Vóc người Robinson to béo, da mặt thiên về phía chủng tộc da vàng, mắt to và đen, đượm chút u buồn, vầng trán cao và cái miệng rất to với hàm răng trắng bóng. Ông ta ăn mặc chải chuốt, hai bàn tay thon mịn, được chăm chút tỷ mẩn như tay con gái.

Cách ông ta ăn nói với viên Đại tá khiến người ta có cảm tưởng như hai vị Vua chúa đàm đạo. Sau vài câu thù tiếp xã giao, Đại tá mời khách một điếu xì gà rồi di vào vấn đề cụ thể hơn.

- Tối rất lấy làm hân hạnh được ông vui lòng hỗ trợ.

“Ngài” Robinson chậm rãi hít một hơi xì gà rồi mới đáp:

- Có gì đâu, ông bạn thân mến. Tôi quen biết rộng và người ta luôn thổ lộ nhiều điều rất riêng tư với tôi. Tại sao họ tin tôi đến thế, chính tôi cũng không biết.

Đại tá Pikeaway bỏ qua câu nói khiêm tốn đó.

- Tôi đoán ông biết việc người ta đã tìm thấy xác chiếc máy bay của Hoàng thân Ali Yusuf…

- Thứ tư vừa rồi. Người lái chiếc máy bay đó là phi công trẻ tuổi Bob Rawlinson. Nhưng máy bay bị nạn không phải do lỗi ở phi công mà do thợ máy ở sân bay phá hoại từ trước lúc nó cất cánh. Thủ phạm vụ phá hoại đó là nhân vật hiện đang giữ một chức vụ trọng yếu trong bộ máy chính quyền mới ở Ramat.

- Thì ra có âm mưu phá hoại! Bây giờ tôi mới biết. Quả là một câu chuyện đáng buồn.

- Đúng thế. Nhưng tôi không nghĩ chúng ta gặp nhau để nuối tiếc quá khứ! Tôi nghĩ rằng hai chúng ta gặp nhau hôm nay là vì một điều chúng ta cùng quan tâm, có thể lý do quan tâm khác nhau giữa hai chúng ta, nhưng đó chính là những thứ mà vị hoàng thân xấu số kia để lại trên cõi đời.

- Cụ thể là…?

Ông Robinson nhún vai.

- Một tài khoản khá lớn ở ngân hàng Thụy Sĩ, một khoản tín dụng nhỏ lưu tại Anh, những bất động sản của ông trong nước - riêng hững thứ này tất nhiên đã bị những chủ nhân mới chia nhau và không phải khi chia không xảy ra lắm mâu thuẫn, hiềm khích, và cuối cùng… là một thứ rất nhỏ, hoàn toàn là tài sản cá nhân của riêng hoàng thân Ali Yusuf.

- Ôg nói là "nhỏ”?

- Đấy là tôi nói về khối lượng. “Nhỏ” đây có nghĩa có thể dễ dàng mang theo trong người.

- Nhưng nghe đâu người ta không tìm thấy thứ gì đặc biệt trong áo quần của vị Hoàng thân…

- Dễ hiểu thôi. Vị Hoàng thân đã trao vật đó cho Bob Rawlinson.

- Ông biết chắc là như thế? - Giọng đại tá có phần sôi nổi hơn đôi chút.

- Thật ra không có gì có thể biết chắc chắn được - ông Robinson đáp như thể nhận lỗi - Bao giờ trong mỗi cung điện vua chúa cũng có những lời bàn tán đủ loại, và không phải tất cả những lời đồn đại là chuyện có thật. Nhưng trong trường hợp này, quá nhiều người nói và lại nói giống nhau.

- Tạm cho là như thế. Nhưng người ta đã không tìm thấy gì trong xác viên phi công.

- Cho nên chúng ta phải kết luận rằng "vật kia" đã được một người khác, chứ không phải Bob Rawlinson, đưa ra khỏi lãnh thổ Ramat. Hoặc nó được đưa ra nước ngoài bằng một mưu mẹo nào đó.

- Ông có ước đoán nào không?

- Sau khi nhận túi đá quý - bây giờ ta gọi nó bằng đúng tên của nó - viên phi công Bob Rawlinson đã ghé vào một tiệm giải khát nhỏ, nhưng tại đây anh ta không hề gặp gỡ ai, không trò chuyện với ai. Các khách ăn khác đều không ai chú ý đến anh ta. Sau đấy Bob đến khách sạn Ritz. Bà chị anh ta đi vắng, anh ta đã lên phòng, ở lại trong đó khoảng hai mươi phút. Rời khỏi khách sạn Ritz, Bob Rawlinson đến một nhà băng, đổi một tấm ngân phiếu lấy tiền mặt. Anh ta vừa ra khỏi nhà băng thì cuộc bạo động nổ ra, nhưng Bob Rawlinson vẫn đến được sân bay cùng với người phụ lái là Achmed.

- Sau đó?

- Theo như anh ta đã thoả thuận trước với Hoàng thân, chắc thế. Hoàng thân Ali Yusuf rời cung điện hoàng gia bằng ôtô, bảo rằng đi kiểm tra công trường xây dựng một con đường, thật ra là để gặp Bob, bảo anh này chở ông đi thị sát bằng máy bay. Đúng là máy bay có cất cánh thật, nhưng sau đó mất tích.

- Qua toàn bộ sự việc trên, ông kết luận ra sao?

- Chắc cũng như ông thôi. Bob Rawlinson ghé vào phòng bà chị để làm gì, khi đã biết phải muộn bà ta mới về đến khách sạn? Bob có để lại một bức thư, nhưng thư quá ngắn ngủi, chỉ cần vài ba phút cũng đủ để viết xong. Vậy hai chục phút kia anh ta dùng làm gì?

- Ông cho rằng Bob đã giấu số kim cương và đá quý kia trong đống hành lý của bà chị?

- Qua những sự kiện trên thì hầu như chắc chắn là như thế, ông có tán thành không? Ngay hôm đó, hai mẹ con bà Joan Sutcliffe đã sơ tán cùng với những công dân Anh khác. Họ đáp máy bay đến Aden, rồi xuống tàu biển. Ngày mai con tàu này sẽ về đến Anh, cập bến ở Tilbury.

- Tôi biết và chúng tôi sẽ bảo vệ bà ta.

- Ông làm thế là rất đúng, bởi mang trong người một tài sản lớn như thế, bà ta rất dễ gặp nguy hiểm.

Ông Robinson nháy mắt rồi nói tiếp:

- Tôi rất ghét kiểu bạo lực.

- Ông thật sự cho rằng...?

- Nhiều nhóm đang quan tâm đến chuyện này, với động cơ xấu.

- Tôi cũng nghe là như thế.

- Và tất nhiên chúng giành giật nhau bằng đủ mọi thủ đoạn, mưu mẹo. Thế là vấn đề sẽ rối tinh lên.

- Rất có thể là như thế. Vậy ông... ông có mối quan tâm cá nhân nào đến vụ này không, thưa ông Robinson?

Tuy câu hỏi được đưa ra bằng giọng dè dặt, nhưng cũng vẫn làm khách hơi tự ái.

- Dù sao tôi cũng đại diện cho một tập đoàn - ông Robinson nói - Phần lớn số đá quý kia là do tập đoàn chúng tôi nhượng lại cho vị Hoàng thân đã quá cố theo một mức giá phải chăng. Đó chính là một trong những lý do khiến tôi quan tâm đến số phận của những viên đá quý đó. Hay ông còn đòi tôi đưa ra ý kiến của vị hoàng thân đã khuất kia? Tôi rất không muốn nói thêm gì nữa. Vấn đề này quá nhạy cảm. À, mà nhân tiện xin hỏi, ông có biết những người thuê các phòng bên cạnh phòng của bà Joan Sutcliffe ở khách sạn Ritz lúc đó là ai không?

Đại tá Pikeaway làm bộ như cố nhớ lại trước khi đáp:

- Để tôi nhớ lại xem... À phải rồi, phòng bên trái là Angelica de Toredo, một vũ nữ Tây Ban Nha, làm việc tại một quán rượu ở Ramat. Rất có thể cô ta không hoàn toàn mang dòng máu Tây Ban Nha, nhưng thật sự là một vũ nữ có tài, được khách hàng rất mến mộ. Còn phòng bên phải thì là mấy cô giáo.

Ông Robinson cười toác miệng :

- Ông vẫn y hệt như ngày xưa! Tôi đến để cung cấp thông tin cho ông thì ai ngờ ông đã biết đầy đủ cả rồi

- Đâu có!

- Hai chúng ta, nói riêng với nhau, chúng ta đã nắm được nhiều thông tin đấy.

Họ đưa mắt nhìn nhau.

- Thưa ông Robinson, tôi có cảm giác là hai chúng ta đã biết khá nhiều điều, ít nhất cũng cho đến lúc này...

Chương VIII

- Không sai chút nào! - Bà Joan Sutcliffe kêu lên lúc rời khỏi cửa sổ trong phòng khách sạn - Mẹ không sao hiểu nổi tại sao lần nào mẹ đi xa rồi trở về nước Anh, trời cũng mưa? Thật đáng ghét quá.

Cô bé Jennifer đáp:

- Con thì lại rất sung sướng được trở về quê hương. Ít nhất cũng được nghe thấy người xung quanh nói tiếng Anh, và chỉ lát nữa thôi, con sẽ được uống thứ trà ngon tuyệt cùng với mọi thứ kèm theo ly trà.

- Con đúng là nhà quê, con yêu quý ạ. Nghe con nói câu vừa rồi, mẹ thấy đưa con đi ngao du tận Vịnh Ba Tư đâm thành công cốc.

- Con có phàn nàn gì đâu, thưa mẹ? Nhưng quả là con rất sung sướng thấy mình lại được đứng trên mảnh đất này.

- Thôi được nhưng mẹ phải kiểm tra lại hành lý xem có thiếu gì không. Từ hồi chiến tranh, con người đâm ra gian giảo quá đáng. Mẹ tin rằng nếu mẹ đãng trí một chút thôi thì thế nào cũng có kẻ ăn cắp cái xắc xanh này của mẹ. Lúc ở Tilbury mẹ đã thấy có đứa cứ lảng vảng bên cạnh mấy cái va-li của mẹ con mình. Lúc lên tàu hoả, mẹ lại thấy cũng vẫn thằng cha đó. Bọn chúng chỉ rình hễ hành khách say sóng hoặc mệt mỏi, không còn tỉnh táo nữa là chúng "chớp" liền.

- Ôi, mẹ! Mẹ làm như tất cả mọi người đều là kẻ gian hết.

- Có rất nhiều kẻ gian.

- Nhưng không phải ở nước Anh chúng ta.

- Ở nước Anh?... Nhưng ở nước Anh còn tồi tệ hơn mọi nơi khác. Sống ở ngoại quốc, bao giờ chúng ta cũng cảnh giác, nhưng về đến đây là chúng ta dễ buông lơi, coi thường, và thế là bọn lưu manh lọi dụng sự chủ quan đó... Thôi, bây giờ mẹ phải kiểm lại xem… Chiếc va li to màu đỏ này, chiếc va li đen này... cả hai chiếc mầu hung và cái xắc xanh... Kia là số gậy đánh gôn, cây vợt tennis. Ba cái xắc khác, hộp kim loại mẹ con mình mua dọc đường... mười bốn kiện... Đủ cả!

- Con đói rồi - Jennifer kêu lên.

- Vậy thì con xuống dưới kia mà ăn điểm tâm. Mẹ thì cần nghỉ. Mà ba lại không ra đón kia chứ! Cuộc họp Giám đốc rơi đúng vào lúc vợ con về đến nhà.

Jennifer đang vội vã chuẩn bị xuống nhà thì chuông điện thoại kêu. Bà Joan Sutcliffe nhấc máy:

- Vâng, tôi đây. Ôi, xin đợi cho một chút.

Vì vừa lúc ấy có tiếng gõ cửa.

- Mời vào?

Một người đàn ông mặc bộ áo quần lao động mầu xanh, tay xách hòm đồ nghề bước vào.

- Xin lỗi, tôi là thợ điện của khách sạn. Người ta vừa yêu cầu tôi kiểm tra lại các đường dây phòng bà. Người khách hàng thuê phòng này trước bà phàn nàn là đèn tối quá. Tôi xin phép vào buồng tắm, được không ạ?

- Ông cứ làm công việc của ông - bà Joan Sutcliffe đáp.

Rồi bà lại cầm máy điện thoai.

- Tôi xin lỗi. Ông cần gì ạ?

- Bà tha lỗi, nhưng tôi cần gặp bà, về chuyện ông em của bà.

- Về Bob? Ông có tin tức gì về cậu em tôi à?

- Vâng.

- Nếu vậy mời ông lên phòng của tôi: tầng ba, số 110.

Joan Sutcliffe cau mày, ngồi xuống giường. Bob làm sao? Bà đã linh cảm thấy có chuyện chẳng lành.

Một tiếng gõ cửa kín đáo, rồi một người đàn ông trẻ tuổi từ tốn bước vào phòng. Nhìn vẻ mặt anh ta, bà Sutcliffe không còn hồ nghi gì nữa.

- Tên tôi là O connor, làm ở Bộ Ngoại giao - khách nói.

- Em tôi chết rồi phải không? - Chị người phi công hỏi độp ngay.

Khách khẽ cúi đầu rồi mới nói:

- Hoàng thân ngồi trong máy bay lúc máy bay bị nạn rơi xuống một ngọn núi.

Bà Sutcliffe rùng mình, kêu lên:

- Tại sao người ta không báo tin cho tôi biết bằng vô tuyến lúc tôi đang ngồi trên tàu biển?

- Lúc bấy giờ chưa có tin tức đích xác. Mới chỉ biết máy bay mất tích và người ta vẫn còn hy vọng. Sau này người ta mới tìm thấy xác máy bay. Dù sao cũng có một điều giảm bớt cho bà nỗi đau lòng là ông em bà đã không phải chịu đau đớn nhiều trước khi từ giã cõi đời.

- Cái kết thúc bi thảm đó không hề làm tôi ngạc nhiên - bà Joan ngắt lời.

Giọng bà run run, nhưng bà vẫn trán tĩnh được.

Khách thầm nghĩ "một phụ nữ sắt đá!"

Bây giờ bà đã lại nói được.

- Tôi biết trước là Bob sẽ phải chết trẻ. Nó không biết sợ là gì, luôn làm những trò mạo hiểm. Ít ra thì tôi cũng được nghe người ta nói như vậy, bởi mấy năm vừa rồi tôi rất ít được gặp nó.

Một giọt nước mắt rơi xuống ngực áo bà. Joan Sutcliffe ngẩng đầu lên.

- Tôi quá xúc động, ông thứ lỗi. Ít ra thì tôi biết rõ em tôi, chắc chắn nó không thể không giúp đỡ Hoàng thân. Nếu nó không làm thế, tôi còn đau lòng hơn. Và tôi tin rằng tai nạn kia không phải do lỗi của em tôi.

- Đúng thế, thưa bà. Cuộc chạy trốn tiềm chứa rất nhiều hiểm nguy, nhưng ông em bà đã không hề ngần ngại.

- Tôi hiểu. Cảm ơn ông đã đến cho tôi biết.

Không khí im lặng một lúc, rồi O connor đưa ra câu hỏi:

- Xin bà cho phép tôi hỏi một câu. Ông em bà có nhờ bà chuyển hộ một thứ gì đó về nước Anh không?

- Không. Tại sao ông lại nghĩ là em tôi giao cho tôi thứ gì đó?

- Chúng tôi phỏng đoán như vậy vì trước giờ nổ ra cuộc đảo chính kia, ông em bà có ghé vào phòng khách sạn của bà.

- Có tôi biết. Cậu em tôi thậm chí còn để lại một lá thư, nhưng nội dung chẳng có gì quan trọng: cậu ấy mời tôi đến câu lạc bộ chơi gôn. Lá thư cho thấy đến lúc đó em tôi vẫn chưa biết là sẽ lái máy bay cho ông Hoàng thân chạy trốn khỏi Ramat.

- Tất cả chỉ có thế?

- Lá thư ấy ạ? Vâng, chỉ có thế.

- Bà còn giữ lá thư đó không ?

- Tôi giữ làm gì? Nội dung chẳng có gì quan trọng cho nên tôi xé rồi.

- Tất nhiên là như thế. Tuy nhiên tôi cũng xin hỏi là...

- Là sao? Là ngoài lá thư ra còn có gì nữa phải không? Nói cho cùng thì còn có những điều viết ra bằng thứ mực vô hình.

- Vô hình?... Hẳn bà định nói đến thứ hoá chất thường được nói đến trong các truyện tình báo?

Có vẻ bà Joan Sutcliffe không hưởng ứng câu nói đùa của khách mà bà cho là nhạt nhẽo. Bà thầm nghĩ “Vô duyên!".

- Tôi e rằng ông Bob Rawlinson có dùng thứ hoá chất đó thật - O Connor nói dường như để thanh minh.

- Dớ dẩn! Tôi tin chắc Bob không bao giờ sử dụng cách đó. Tính em tôi quá ngay thẳng thì có...

Lại một giọt nước mắt nữa lăn trên gò má bà Sutcliffe.

- Ôi, cái xắc tay của tôi đâu rồi nhỉ? Tôi cần lấy khăn tay. Chắc tôi để quên trong phòng tắm...

- Để tôi Sang lấy cho bà.

Chưa nói hết câu, khách đã bước qua cửa vào buồng tắm và bỗng ông ta đứng sững lại: một người đàn ông mặc đồng phục xanh công nhân đang cắm cúi lục một chiếc va li bỗng bật nhổm dạy.

- Tôi là thợ điện - anh ta vội nói - Một chỗ dây cần chữa gấp.

O’Connor ấn vào nút điện. Đèn buồng tắm bật sáng.

- Đèn vẫn sáng tốt, có làm sao đâu? - O Connor lộ vẻ ngạc nhiên.

- Tại tôi vừa chữa xong mà lại - người thợ điện vừa đáp vừa vội vã thu dụng cụ bỏ vào hòm đồ nghề, bước nhanh ra ngoài.

Sau khi lấy chiếc xắc tay, O Connor bước đến máy điện thoại.

- Phòng 110 đây. Khách sạn có cử thợ điện lên đây sửa chữa gì không?.. Vâng, tôi đợi... Không à? Không cử ai lên à? Không, không có hỏng hóc gì hết.

Bà Sutcliffe lộ vẻ lo lắng:

- Kẻ trộm à?

- Chắc thế!

Bà hoảng hốt mở xắc kiểm tra lại, rồi thở phào nhẹ nhõm:

- May chưa mất gì. Tiền còn nguyên.

Tuy nhiên, O Connor lại có vẻ lo lắng.

- Đúng là bà tin chắc rằng ngoài lá thư ra, ông em bà không để lại cho bà thứ gì nữa chứ?

- Chắc chắn là như thế.

- Rất có thể ông Rawlinson nhét thứ gì đó vào giữa các đồ đạc mà bà không biết... Thí dụ một gói nhỏ nào đó chẳng hạn?

- Vô lý! Mà để làm gì kia chứ?

- Có khả năng là hoàng thân Ali Yusuf nhờ ông em bà giữ một vật quý nào đó, nhưng ông em bà lại cho rằng cất thứ đó trong hành lý của bà an toàn hơn là ông ta mang theo trong mình.

- Ôi! Nếu như thế thì tôi không biết thật.

- Hay bà cho phép tôi giúp bà thử lục các hành lý của bà xem sao, được không ạ?

Bà Joan Sutcliffe hoảng hốt:

- Lục tung tất cả lên hay sao?

- Tôi biết việc này làm phiền bà, nhưng kết quả lại có tầm quan trọng hết sức lớn. Và xin bà đừng ngại, tôi sẽ xếp mọi thứ lại y như cũ, mẹ tôi bảo tôi là đứa ngăn nắp không ai bằng.

Câu nói khéo của ông ta đã có tác dụng. Bà Joan Sutcliffe chịu để O Connor làm:

- Nếu việc quan trọng đến thế thì tôi đành để ông làm vậy - bà nói rất khẽ.

O’Connor không chần chừ gì nữa. Ông ta cười nói:

- Vậy ta làm luôn.

Chương IX

Bốn mươi lăm phút sau, cô bé Jennifer đi ăn sáng về. Vừa mới vào phòng, thấy quang cảnh như vậy cô sửng sốt:

- Mẹ làm gì thế kia?

- Mở hành lý! Con không nhìn thấy à? Bây giờ mẹ xếp lại như cũ. Ôi, tôi quên. Ông O Connor, đây là con gái tôi, Jennifer.

- Nhưng mẹ mở tất cả ra làm gì?

- Hình như cậu Bob có nhét thứ gì đó vào trong các hành lý của mẹ con mình. Mà mẹ quên chưa hỏi, cậu có đưa con cái gì không đấy?

- Đưa con ấy ạ? Tại sao cậu lại đưa con? Nhưng mẹ mở cả va li riêng của con đấy ạ?

- Mớ tất - O Connor vui vẻ đáp - Nhưng bây giờ thì xong rồi, tôi không thấy có thứ gì cả. Tôi sẽ xếp lại ngăn nắp cho cô bé. À, bà Sutcliffe ạ, tôi nghĩ bà nên dùng một chút gì đó. Để tôi gọi khách sạn mang thứ gì lên phòng nhé? Trà hoặc rượu Brandy pha Sôđa nào?

O’Connor bước về phía máy điện thoại.

- Nếu vậy, tôi xin một tách trà - bà Sutcliffe nói.

Gọi lấy trà xong, O Connor xếp các thứ vào vào khéo léo đến mức làm bà chị của phi công Bob Rawlinson phải khâm phục.

- Bà mẹ ông nhận xét đúng đấy - bà nói.

- Mẹ tôi rất chú ý đến tính trật tự ngăn nắp của tôi.

Thật ra bà mẹ của O Connor đã mất từ rất nhiều năm rồi, và tác phong ngăn nắp trật tự của ông ta hoàn toàn chỉ là học được trong thời gian làm việc cho Đại rá Pikeaway.

Làm xong công việc, O Connor ho một tiếng trước khi nói tiếp với bà Joan Sutcliffe:

- Có một điều tôi mong bà lưu ý: bà nên hết sức thận trọng, cảnh giác trong việc đi lại.

- Ông nói thận trọng cảnh giác, cụ thể là thế nào?

O’Connor không muốn nói cụ thể.

- Những cuộc đảo chính thường hay làm nảy sinh nhiều rắc rối hết sức phưc tạp, không phải chỉ trong nước mà cả ở nước. Bà định ở lại London một thời gian chứ?

- Không. Mai chúng tôi vê quê ở tỉnh. Nhà tôi sẽ đưa chúng tôi đi.

- Rất tốt! Nhưng xin bà đừng có hành động nào thiếu cân nhắc nhé. Nếu bà thấy có hiện tượng gì lạ, xin bà đừng ngần ngại gọi điện ngay đến số máy 999.

- Ôi, số máy của ông là ba con chín! - Jennifer reo lên thích thú - Cháu rấT thích quay máy những con số kiểu ấy.

- Đừng ngốc nghếch thế! - Bà mẹ ngắt lời con gái.

Chương X

Trích một bài đăng trên báo địa phương:

"Hôm qua, một người tên là Andrew Ball bị đưa ra toà về tội đột nhập vào nhà ông bà Sutclifffe định ăn trộm. Nói thêm, căn phòng của bà Sutcliffe đã bị tên gian lục lọi tung toé, trong lúc cả gia đình ra lễ nhà thờ ngày Chủ nhật. Các đầy tớ trong nhà mải nấu ăn dưới bếp không ai nghe thấy gì. Bỗng không biết tại sao, tên gian đột nhiên hốt hoảng, vội vã bỏ chạy. Có lẽ y nghe thấy tiếng động nào đó làm y hoảng hốt, vì khi bỏ chạy, y chưa kịp lấy đi thứ gì. Khi bị thẩm vấn, Andrew khai y thất nghiệp. Xin nói thêm rằng, đồ nữ trang của bà Sutcliffe đều đã được gửi ở nhà băng."

- Tôi đã nói rồi, cửa sổ phòng khách cần phải gia cố thêm - ông Henri Sutcliffe nói với vợ.

Bà Joan Sutcliffe vừa cau mày lại thì cô con gái Jennifer chen vào:

- Con không hiểu tại sao cảnh sát lại đoán được là có kẻ gian đột nhập nhà mình và đến đúng lúc để bắt nó?

- Mẹ thì lấy làm lạ là nó không lấy đi thứ gì.

- Mình tin chắc nó không lấy mất thứ gì chứ?

- Căn phòng bị lục soát tung toé, các ngăn kéo đều bị cầy xới cho nên em phải mất rất nhiều thời gian kiểm tra mới dám tin chắc là không mất mát thứ gì. Có mỗi một thứ em chưa thấy là chiếc khăn choàng đỏ.

- Ôi, lỗi tại con đấy. Hôm đi trên tàu biển, con lấy ra choàng rồi bị gió cuốn xuống biển mất - Jennifer thú nhận.

Bà mẹ đã định nói một câu cáu kỉnh nhưng Jennifer đã kịp phản công trước:

- Con không vào học cái trường nội trú Meadowbank ấy đâu. Một đứa bạn con học nội trú ở đó kêu lắm. Người ta dạy toàn những thứ dớ dẩn: cách bước vào xe Rolls-Royce, rồi cách bước ra, phép tắc cư xử khi được mời đến dự tiệc ở Cung điện Hoàng gia Buckingham, toàn những nghi lễ chẳng bao giờ dùng đến.

Bà mẹ ngắt lời con gái :

- Thôi đi! Con không biết xin được vào trường đó khó khăn lắm sao? Không phải bạ ai cũng vào được đâu. Trường đó nhận con là vì vị trí xã hội của ba và có thêm thư giới thiệu của cô Rosamonde. Phải có những điều kiện như thế, bà hiệu trưởng Bulstrode mới chịu xét đấy. Vả lại sau này biết đâu có lúc con được Nữ hoàng mời đến dự tiệc ở Cung điện Buckingham thì sao? Khi đó con phải biết nghi lễ, phép tắc mà xử sự chứ!

Chương XI

Toà tuyên phạt Andrew Ball, không có nơi ở cố định ba tháng tù giam về tội xâm phạm nhà tư. O’Connor ngồi kín đáo trong phòng xét xử theo dõi. Nghe thấy tuyên án xong, ông ta vội vã đi tìm một trạm điện thoại để gọi về báo tin:

- Cảnh sát không tìm thấy gì trong người hắn. Lúc ấy chúng tôi đã chờ khá, lâu sau mới đánh động để hắn bỏ chạy. Xem chừng thằng cha là người của nhóm Greko, và thuộc loại chuyên được dùng vào kiểu những công việc như thế này. Đầu óc hắn không sáng láng gì, nhưng được cái tận tụy.

- Và hắn chịu nhận bản án ấy, ngoan như một con cừu non chứ gì? - Đầu dây đằng kia Đại tá Pikeaway nhếch mép cười chê bai.

- Vâng, đúng thế. Y hệt thái độ của một cậu học trò ngu xuẩn bị dồn vào ngõ cụt. Họ không hề gắn hắn ta vào "chiến công", đúng với nghĩa chiến công.

- Vậy là hắn ta không phát hiện ra được thứ gì? Cả cậu nữa, cậu cũng không tìm ra được thêm điều gì hay sao?.. Nếu vậy có nghĩa chúng ta lầm, thằng cha phi công Bob Rawlinson không hề nhét vật đó vào trong số hành lý của bà chị. Cậu nghĩ sao?

- Các nhóm khác hình như đều tin là Bob có nhét…

- Bọn chúng làm lộ liễu quá! Hay chúng cố tình làm thế để đánh lạc hướng chúng ta?

- Theo Đại tá thì ngoài khả năng này, còn có khả năng nào khác nữa không?

- Có chứ, nhiều là đằng khác. Vật đó rất có thể vẫn còn ở Ramat, và được giấu trong một chỗ nào đó bên trong khách sạn Ritz. Một khả năng nữa: Bob Rawlinson đã giao phó nó cho một người khác, trước khi anh ta ra sân bay. Hoặc khả năng mà lão Robinson đã phỏng đoán: một phụ nữ khác đã đoạt lấy thứ đó. Khả năng cuối cùng là thứ đó quả thật nằm trong số hành lý của bà Joan Sutcliffe, nhưng do bà ta không biết nên đã vô tình quăng xuống biển cùng với một vật nào đó mà bà ta không cần đến nữa... Nếu khả năng này là sự thật thì chính lại là hay nhất cho tất cả mọi người đấy.

- Nhưng đây là một tài sản cực lớn.

- Vậy ra cậu cho rằng cuộc sống của con người là nhỏ hay sao?

Chương XII

Thư của Julia Upjohn gởi cho mẹ.

Con đã vào học nội trú trong trường Meadowbank. Con chơi thân với một đứa cũng mới vào học, tên là Jennifer. Hai đứa rât hay đánh quần vợt với nhau. Nó gặp đôi chút khó khăn, vì cây vợt của nó, như nó kể cho con nghe, đã một lần bị rơi xuống biển, may mà vớt lên được. Nó còn kể là hồi nó nghỉ dưỡng bệnh ở Ramat, nó suýt được nhìn thấy một cuộc đảo chính. Đúng lúc cuộc đảo chính sắp nổ ra thì nó và mẹ nó bị người ta bốc đến sứ quán, chở bằng máy bay rồi bằng tàu biển về nước Anh.

Bà hiệu trưởng Bulstrode, bề ngoài trông lành hiền, nhưng rất ác. Bọn con đặt cho bà ta biệt hiệu là Bò Tót. Cô Rich dạy văn thì khủng khiếp: mỗi khi cô trích đọc một đoạn trong bi kịch của Shakespeare, thì tất cả bọn con run lên cầm cập, chỉ trừ mỗi con Jennifer, nó là đứa quá từng trải rồi mà.

Môn riêng Pháp thì cô Blanche dạy, tính cô luộm thuộm lắm. Đáng ghét nhất là cô giáo thể dục, tên là cô Springer. Cô ấy tóc hung và lại hôi nách nữa chứ. Hôm nào trời nóng thì bốc mùi kinh khủng.

Bà Chadwick dạy toán. Bà ấy rất vui tính và dễ dãi. Môn lịch sử và tiếng Đức được giao cho cô Vansittart, cô này gần như một thứ hiệu phó của bà hiệu trưởng Butstrode.

Trường có rất nhiều học sinh nước ngoài, trong đó có hai đứa Italia, một con Đức, một đứa Thuỵ Điển, và đặc biệt có một Công nương, nửa như Thổ Nhĩ Kỳ nửa như Iran. Nó được người ta gọi là "Công nương Shaila". Nó khoe rằng nếu như Hoàng thân Ali Yusuf, cố Quốc trưởng Ramat, không bị tai nạn máy bay thì ông ta sẽ lấy nó. Con Jennifer bảo con là con công nương kia nói dối, vì ông hoàng thân Ali đã có người yêu khác rồi. Đúng là phịa.

Con đoán mẹ sắp đi du lịch. Mẹ đừng quên hộ chiếu như lần vừa rồi đấy...

Thư của Jenniffer gửi cho mẹ .

Càng ngay con càng thấy thích học ở đây, không như con tưởng lúc trước. Thời tiết tuyệt đẹp. Mẹ có thể cho con một cây vợt khác được không ạ? Ngày mai, khá nhiều đứa trong bọn con đi London để xem một vở vũ kịch. Bữa ăn ở đây rất ngon.

Nhà có còn bị kẻ trộm mò vào lần nào nữa không ạ?

Thư của Margaret Gore West gửi cho mẹ:

Không có chuyện gì mới. Có tin đồn bà hiệu trưởng Bulstrode sắp nghỉ hưu, và cô Vansittart dạy môn lịch sử và tiếng Đức sẽ thay. Con đem chuyện này hỏi bà Chadwick dạy toán, thì bà Chadwick trả lời rằng tin đồn không đúng. Cho nên con cố gắng từ nay không nghe những câu chuyện ngồi lê đôi mách nữa...

Cô Rich dạy văn vẫn đáng yêu như trước, nhưng bọn con rất ghét cô Springer dạy thể dục...

Thư của Ann Shapland, thư ký của bà Hiệu trưởng Bulstrode, gửi Dennis Rathbone:

Không có gì mới ở trường Meadowbank. Khu vườn hoa đẹp tuyệt vời và chúng em có một người làm vườn mới đến làm, phụ việc cho bác già Briggs. Một chàng trai thân hình rất cân đối. Đáng tiếc là bọn con gáai đôi khi khá ngu ngốc.

Thư của cô Blanche, giáo viên dạy tiếng Pháp, gửi René Dupont, P.R. tại thành phố Bordeaux nước Pháp:

Tình hình ở đây vẫn phẳng lặng: tuy nhiên em không thể nói rằng em thích thú nhiều tại nơi này. Đám học sinh khá vô giáo dục, nhưng em không muốn phàn nàn với bà hiệu trưởng Bulstrode. Đối với loại phụ nữ như bà ta, cần phải cảnh giác. Cho đến lúc này chưa có dấu hiệu gì là quá tồi tệ,

nhưng con người không thể chỉ sống bằng hy vọng…

Chương XIII

Trong trường Meadowbank cuộc sống vẫn lặng lẽ trôi. Hôm đó, trong phòng nghỉ của giáo viên, hai giáo viên "tân binh" phải trả lời những câu chất vấn của các đồng nghiệp. Thoạt đầu là cô Blanche dạy tiếng Pháp. Đã bao giờ đến đất Anh chưa? Sinh ra tại vùng nào của nước Pháp?

Cô Blanche trình bầy lễ độ, nhưng khá dè dặt, trái với cô Springer dạy thể dục, sôi nổi và ầm ĩ. Người ta tưởng như đang ngồi dự một hội nghị, với chủ đề là trình độ chuyên môn. Cô Springer không tinh ý, cô không biết cử toạ không hài lòng về thái độ của cô. Cô nói:

- Cần phải coi sự vô ơn là chuyện bình thường - giọng cô mỗi lúc một to thêm - Cái đáng buồn là con người ta nhiều khi quá hèn, không dám đương đầu với sự thật. Đó là điều tôi căm ghét nhất, bởi tôi thích thẳng tiến đến cái đích mình đã chọn lựa, và tôi luôn vạch trần những điều xấu xa bị người ta che giấu.

-Cô giáo thể dục Springer cất tiếng cười vang rồi nói thêm:

- Các chị hẳn sẽ sửng sốt nếu tôi kể ra cho các chị thấy một loạt chuyện xấu xa tôi đã khám phá ra được, về những con người mà chúng ta đinh ninh là đạo đức không ai bằng.

- Hẳn tất cả những chuyện vạch mặt người khác đó làm chị thích thú, đúng vậy không? - Cô Blanche dạy tiếng Pháp mỉa mai hỏi.

- Tất nhiên là tôi không thích thú gì, nhưng mặt khác, tôi cảm thấy tôi đã làm tròn một bổn phận, nhưng người ta không tán thành tôi. Vì thế tôi đã nộp đơn xin từ chức để phản kháng.

Cô đưa mắt nhìn một lượt khắp xung quanh, rồi lại cười khanh khách:

- Tôi hi vọng trong số những người ngồi đây, không ai có điều gì phải giấu kín trong đáy lòng, một điều khiến lương tâm phải cắn rứt chứ?

Không đồng nghiệp nào của cô thích thú cái trò đùa dai này, nhưng cô Springer lại là người kém tinh ý và cô không nhận thấy gì hết.

Chương XIV

Bà hiệu trưởng Bulstrode vừa tiếp bà giám thị Johnson và câu chuyện giữa hai người suýt làm bà bật cười. Chẳng là bà Johnson phát hiện ra rằng nữ học sinh Shaila mặc một kiểu nịt vú rõ ràng là để nâng bộ ngực lên, cần nói rõ thêm là bộ ngực cô ta rất nhỏ. Shaila chính là công nương nước Ramat, mới vào học đầu năm nay. Bà giám thị Johnsơn nói giọng đầy phẫn nộ: "Mới mười lăm tuổi ranh!"

Khi được bà hiệu trưởng gọi lên để hỏi, "kẻ có tội” đã trả lời nhanh nhẩu rằng vào tuổi cô, cô thấy cần phải chứng minh cho mọi người thấy rằng cô là phụ nữ. Chỉ liếc qua, bà hiệu trưởng Bulstrode đã thấy ngay rằng công nương Shaila, học sinh nội trú này, quả là còn chưa ra khỏi tuổi thiếu niên. Bà thầm nghĩ: "Con gái phương Đông phát triển sớm". Tuy nhiên bà cũng ra lệnh cấm công nương Shaila đeo kiểu nịt vú "tội lỗi" đó.

Sau khi cô nữ sinh ra khỏi phòng, bà giám thị Johnson kêu lên:

- Sao con bé không noi gương con Julia Upjohn nhỉ? Con Julia rất chi là ý tứ.

- Nếu tất cả nữ sinh trong trường đều bắt chước Julia thì trường nội trú của chúng ta đơn điệu biết bao - bà hiệu trưởng Bulstrode đáp, khiến bà giám thị Johnson há hốc miệng kinh ngạc.

"Đơn điệu...” bà hiệu trưởng lẩm bẩm khi còn lại một mình trong phòng giấy. Rõ ràng tính từ kia không thể áp dụng vào cho trường nữ học nội trú Meadowbank được. Nhà trường đã phải đương đầu với bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu cơn khủng hoảng không ai ngờ có thể xảy ra. Nhưng lần nào cũng vậy, uy quyền và sự khéo léo của bà hiệu trưởng Bulstrode đã vượt qua được hết. Quả là một cuộc sống sôi động! Ngay lúc này đây, mặc dù nhiều lúc phải nín nhịn, bà Bulstrode vẫn chưa muốn nghỉ hưu.

Bà vẫn tràn trề sức khoẻ, vẫn hầu như nhanh nhẹn không kém gì thời bà cùng với bà giáo Chadwick hiện nay dạy toán chung vốn để sáng lập ra cái trường Meadowbank này, lúc đầu chỉ lèo tèo vài mống học sinh.

Với một ý chí kiên cường, bà hiệu trưởng Bulstrode không bao giờ bỏ qua một sáng kiến cải tiến nào. Nhờ đó, bà đã đưa trường nữ học này lên đến một uy tín vượt quá mọi mơ ước ban đầu.

Kết quả về mặt vật chất: đôi bạn gái đã tích luỹ được một khoản tiền khá lớn, đủ đảm bảo cuộc sống cho họ lúc về già. Tuy nhiên, bà hiệu trưởng Bulstrode vẫn tự hỏi, không biết bà Chadwick đã muốn nghỉ hưu chưa? Chắc là chưa. Ngôi trường phần nào đã gần như trở thành gia đình, tổ ấm của bà ta, và nếu bà Bulstrode nghỉ hưu, bà Chadwick vẫn sẽ tiếp tục mang hết sức mình ra hỗ trợ cho người hiệu trưởng mới nào đó thay chân bà, kế tục sự nghiệp cao quý này.

Nhưng tìm người kế tục ở đâu? Thoạt đầu bà Bulstrode đã nhắm một người, nhưng rồi lại thay đổi ý kiến... Bà cho rằng điều quan trọng là mỗi hành động phải chọn đúng thời điểm, và chính bây giờ là thời điểm chính xác nhất: bà cần "ra đi" trước khi sức lực suy giảm, trước khi uy tín sút kém, hoặc trước khi người ta quá ngán mình...

Nghĩ đến lúc phải từ bỏ công việc lãnh đạo cái trường mà bà đã bỏ ra bao công sức xây dựng, bà hiệu trưởng thở dài. Nhưng bà lập tức gạt đi nỗi yếu đuối của mình, cho gọi cô thư ký Shapland lên để đọc cho cô ta thảo một bức thư. Xong công việc bà giữ cô thư ký lại trò chuyện.

- Tôi hỏi thật nhé: tại sao chị chọn nghề thư ký?

- Chính tôi cũng không biết. Có lẽ vì tôi không thấy thích hẳn một nghề nào. Mà khi không thích hẳn một nghề nào, con người ta tự nhiên rơi vào nghề thư ký chăng?

- Chị không thấy nghề thư ký quá đơn điệu ư?

- Thật ra số tôi may mắn, tôi đã từng được làm thư ký ở một số nơi khá lý thú. Thậm chí có lần tôi làm thư ký cho một nữ nghệ sĩ nổi tiếng.

Nhớ lại kỷ niệm đó, cô thư ký Ann Shapland lại cười. Bà hiệu trưởng Bulstrode nói giọng hơi như trách.

- Phải chăng lớp trẻ các cô ngày nay thích liên tục thay đổi nơi làm việc như vậy?

- Cái chính là tôi không thể ở lâu một nơi nào. Mẹ tôi luôn đau ốm, thỉnh thoảng tôi phải về chăm sóc bà cụ.

- Tôi hiểu.

- Tuy nhiên, tôi e rằng tính tôi cũng thích thay đổi nữa kia. Nghĩ đến chuyện phải làm lâu dài ở một nơi nào đó, tôi rất sợ. Luôn chuyển nơi làm việc khiến cuộc sống đỡ đơn điệu.

- Đơn điệu... - bà hiệu trưởng Bulstrode nhắc lại hai chữ đã làm bà suy nghĩ lúc trước.

Cô thư ký Ann Shapland ngạc nhiên nhìn cấp trên.

- Chị đừng chú ý đến câu tôi vừa nói, Shapland. Đôi khi có một ý niệm cứ trở đi trở lại hoài trong trí óc con người. Mà... chị có thích làm giáo viên không?

- Không. Tôi hoàn toàn không thích.

- Tại sao?

Cô thư ký Ann Shapland lúng túng không biết trả lời ra sao. Thấy vậy bà hiệu trưởng Bulstrode vội vã nói:

- Công việc dạy học hoàn toàn không đơn điệu chút nào. Thậm chí, có lẽ đó là nghề lý thú nhất trên đời. Riêng tôi, tôi rất tiếc là sắp tới sẽ phải nghỉ.

- Bà nói sao? Quả thật bà định nghỉ hưu ạ?

- Bởi tôi đã cống hiến cạn kiệt sức lực cho trường này. Và thời gian làm việc ở đây đã đem lại cho tôi một niềm vui hết sức to lớn. Tôi muốn ngừng công việc giữa lúc tôi đang gây được ấn tượng tốt đẹp nhất, chứ không đợi đến lúc sức lực suy giảm...

- Vậy sau khi bà nghỉ, trường ta vẫn tiếp tục hoạt động chứ ạ?

- Tất nhiên. Tôi sẽ chọn một người kế tục tôi.

- Chắc bà chọn cô giáo Vansittart, phải không ạ?

- Có nghĩa chị tán thành cô giáo Vansittart phải không?

Bà hiệu trưởng Bulstrode chăm chú nhìn cô thư ký Shapland thăm dò:

- Tôi rất muốn biết ý kiến của chị.

- Ôi, tôi hỏi thế chỉ vì tôi nghe thấy người ta bàn tán. Riêng ý tôi thì cô giáo Vansittart sẽ làm tròn chức vụ hiệu trưởng một cách xuất sắc. Và chị ấy sẽ theo đúng đường hướng của bà. Vansittart là một phụ nữ có bản lĩnh và tác phong khá lịch lãm. Tôi cho rằng yếu tố thái độ bên ngoài cũng rất quan trọng. Và tôi tin rằng cô giáo Vansittart sẽ gìn giữ được uy tín sẵn có của trường nữ học chúng ta.

Nói xong, cô thư ký Anh Shapland chào rồi đi ra. Còn lại một mình, bà hiệu trưởng tiếp tục suy nghĩ.

"Gìn giữ uy tín hiện nay đâu phải là điều ta mong muốn? Rất có thể cô giáo Eleanor Vansittart muốn giữ nguyên như thế này? Nhưng mình thì lại muốn người kế tục mình sẽ đem đến cho trường Meadowbank này một nét gì mới mẻ. Phải có một người kế tục mình kiểu như... cô Eileen Rich chẳng hạn! Khốn nhưng Eileen Rich còn trẻ quá, chưa có kinh nghiệm, sợ sẽ làm hỏng việc chăng?

Vừa lúc đó, bà giáo Chadwick vào.

- Chào chị Chadwick - Bà hiệu trưởng Bulstrode reo lên mừng rỡ - Đang mong gặp chị.

Bà giáo Chadwick hơi ngạc nhiên:

- Chị làm sao thế, Bulstrode? Có chuyện gì mới phải không?

- Chỉ đơn giản là tôi đang suy nghĩ và mọi ý nghĩ rối tung cả lên. Đang mong có người hỗ trợ đây. Chị đến rất đúng lúc.

- Vậy à? Chị mà cũng có lúc bối rối kia à? Lạ đấy!

- Chính tôi cũng thấy lạ. À, tình hình tam cá nguyệt này ra sao?

- Theo tôi là tốt.

Tuy nhiên câu trả lời của bà Chadwick không có vẻ quả quyết lắm. Thấy vậy bà hiệu trưởng cau mày.

- Chị nói thật đi, có chuyện gì vậy, Chadwick?

- Đúng ra thì chẳng có chuyện gì lớn. Tuy nhiên...

Trán bà giáo dạy toán nhăn lại như võ sĩ quyền Anh lúc đang tính miếng tấn công.

- Một linh cảm thôi! Các học sinh mới đến có vẻ yên ổn cả... Trong khi đó, các cô giáo thì lại...

- Cô giáo nào chẳng hạn?

- Blanche, tôi rất không bằng lòng cô giáo dạy tiếng Pháp này... hơi thâm hiểm thế nào ấy.

Bà hiệu trưởng Bulstrode không quan tâm đến nhận xét này của bạn. Bà Chadwick có tính hay chê các giáo viên dạy tiếng Pháp về tội "thâm hiểm".

- Cô Blanche có trình độ đấy chứ - bà hiệu trưởng đáp - Các giấy chứng chỉ của cô ấy đều có những nhận xét rất tốt.

Bà Chadwick nói tiếp:

- Ngược lại, tôi thấy cô Springer dạy thể thao mới thật sự là hoàn hảo. Chỉ phải cái tội hơi xấn xổ một chút.

- Nhưng cô Springer làm tròn mọi nhiệm vụ.

- Tất nhiên rồi.

- Bao giờ những người mới đến làm cũng có điều gì đó khiến chúng ta không vừa lòng. Chỉ vì chúng ta chưa quen với tính nết của họ, có vậy thôi.

- Chị nói đúng - bà Chadwick vội vã nói - Còn chuyện này nữa. Anh thợ vườn phụ việc cho bác Briggs trẻ quá và lại đẹp trai quá, cũng là điều đáng ngại cho chúng ta đấy.

- Chúng ta sẽ phải để mắt thường xuyên đến anh ta.

Hai bà rất thông cảm với nhau. Không ai hơn hai bà trong việc nhận biết một thân hình đẹp trai có thể gây tác hại cho trái tim các cô gái trẻ đến mức nào.

Chương XV

- Cậu làm được đấy - bác già giọng miễn cưỡng nói với "Adam".

Bác giao cho anh ta cuốc thử một khoảnh đất và bây giờ nhận xét kết quả. Bác già nói thêm.

- Có điều cậu không cần phải làm kỹ quá như thế này. Tốt nhất là làm vừa phải thôi.

"Người phụ việc" hiểu rằng bác già Briggs không muốn ai làm tốt hơn bác ta. Bác đang nói tiếp:

- Chỗ này ta sẽ trồng cúc đại đoá. Tôi biết bà ta không thích cúc nhưng tôi mặc. Đàn bà hay khó tính, và nếu ta lờ đi, chín phần mười trường hợp, họ nói dứt khỏi miệng là quên ngay họ đã nói gì.

"Adam" đã biết ông già làm vườn nói "bà ta” là để chỉ bà hiệu trưởng Bulstrode.

- Này - đột nhiên ông già hỏi - Lúc nãy có một đứa con gái ra đây với cậu, đứa nào thế?

- Tôi không biết tên, chỉ biết cô ta là học sinh của trường.

- Mấy đứa ranh ma ấy hẳn? Tôi dặn cậu, đừng dính đến chúng mà có ngày ân hận. Hồi đại chiến thứ nhất tôi đã "bị" với những đứa như thế rồi đấy, cho nên tôi có kinh nghiệm là nên tránh cho xa. Cậu hiểu chưa?

- Cô này không hề có mưu đồ gì - Adam trả lời cho qua chuyện - Cô ta chỉ hỏi tên một giống hoa, có vậy thôi

- Nếu vậy thì được. Nhưng cậu đừng có chuyện trò gì với đám học sinh đấy. Bà ta không bằng lòng đâu. Kìa, bà ta đang đi về phía này đấy. Lại sắp sai tôi làm một việc gay go đây, chắc chắn là như thế.

Bà hiệu trưởng đi nhanh đến:

- Chào bác Briggs. Chào...

Bà nhìn người phụ việc.

- Thưa bà, tôi là Adam,

- À, phải rồi, Adam. Bác Briggs này, tấm lưới quần vợt bị trùng. Bác kéo căng lên cho tôi nhé.

- Tất nhiên rồi, thưa bà hiệu trưởng.

- Bác định trồng hoa gì ở đây?

- Tôi định...

- Không được trồng cúc đâu đấy. Trồng thược dược!

Nói xong, bà đi nhanh khuất. Bác già Briggs nhún vai.

- Bà ta ra lệnh thoáng qua thế thôi, nhưng bà ta để ý khiếp lắm. Cậu bạn trẻ, đừng quên lời tôi nói với cậu về lũ con gái láu lỉnh kia. Mà coi chừng cả bà ta nữa!

- Bà ấy thì tôi không ngại. Bà ta mà không vừa lòng thì tôi có cách - Adam nói - Thiếu gì công ăn việc làm kia chứ, tôi xin làm ở đâu mà chẳng được?

- Đúng là lớp trẻ ngày hôm nay, không chịu nghe ai.

Adam tiếp tục làm việc, còn bà hiệu trưởng Bulstrode thì quay về văn phòng. Đột nhiên bà cau mày: cô giáo Vansittart dạy lịch sử và tiếng Đức đang tiến về phía bà.

- Trời nóng quá! - cô giáo Vansittart nói.

- Oi nữa chứ! - Bà hiệu trưởng Bulstrode đáp. Chị có để ý anh thợ làm vườn phụ việc mới đến làm không ?

- Tôi không chú ý lắm.

- Tôi thấy anh ta... biết nói thế nào nhỉ? Tóm lai tôi thấy anh ta không có vẻ loại người chuyên làm thứ công việc này.

- Có lẽ anh ta tốt nghiệp một trường nào đó, làm tạm để kiếm ăn trong khi chờ gặp công việc thích hợp.

Thì cứ cho là như thế, nhưng anh ta đẹp trai quá, đám nữ sinh có vẻ đã quan tâm đến anh ta rồi đấy.

- Vậy ta áp dụng chiến thuật kinh điển chứ ạ, thưa bà hiệu trưởng?

- Đúng thế, bề ngoài vẫn để bọn nữ sinh thoải mái, nhưng bên trong ta kín đáo giám sát chặt chẽ.

- Vâng, đúng là phải làm như thế. Cách đó lần nào cũng hiệu nghiệm. Trong trường nữ học Meadowbank chúng ta, chưa bao giờ xảy ra chuyện tai tiếng. Bà có thể hãnh diện về kết quả mà bà đã đạt được rồi đấy, thưa bà hiệu trưởng.

- Tôi chỉ nghĩ rằng tôi làm đúng phận sự. Nhưng nếu chị thay tôi lãnh đạo cái trường này, chị có định thực hiện những cải tiến như thế nào không? Chị cứ trả lời thẳng, đừng ngần ngại. Tôi rất muốn biết các dự định của chị, Vansittart!

- Tôi nghĩ không có thứ gì phải thay đổi. Mục tiêu cũng như các biện pháp thực hiện của trường Meadowbank đã rất hoàn hảo rồi.

- Nghĩa là chị sẽ giữ đúng cách làm từ trước đến nay?

- Tất nhiên, thưa bà Bulstrode. Tôi thấy không nên thay đổi gì hết.

Bà hiệu trưởng im lặng một lúc, thầm nghĩ: “Hay cô ta nói như vậy chỉ cốt để vừa lòng mình?"

- Dù sao - bà hiệu trưởng Bulstrode nói - Tôi lại cho rằng trên đời không có gì có thể cho là hoàn hảo được. Bao giờ và lúc nào cũng cần phải có những sửa đổi, cải tiến để cho tốt hơn và nhất là thích hợp với thời đại hơn. Vì con người và hoàn cảnh mỗi thời mỗi khác, ngày hôm nay không thể giống cách đây hai chục năm.

- Tôi đồng ý với bà, thưa bà hiệu trưởng. Đúng là phải theo kịp thời đại. Nhưng đây là trường của bà! Bà chính là cột trụ của trường, và bà biết rằng truyền thống đóng vai trò cực kỳ to lớn.

Bà Bulstrode không đáp, mặc dù bà rất muốn nói lên một ý tưởng mà bà cho là quan trọng. Bởi bà ngại cô giáo dạy lịch sử này sẽ hiểu sai ý của bà, cho rằng bà chưa muốn rời khỏi cái trường này. Mà thật ra, trong đáy lòng, bà có ý nghĩ đó thật. Tuy nhiên, những ý kiến của bà sẽ bổ ích cho cô giáo Vansittart, giúp cô làm tốt công việc lãnh đạo trường. Tất nhiên còn Chadwick nữa, người đã cùng bà Bulstrode sáng lập nên cái trường này. Chị ấy rất tận tuỵ, nhưng chưa đủ trình độ lãnh đạo một trường học tầm cỡ như thế này.

Tiếng chuông vang lên ở xa.

- Đến giờ tiếng Đức của tôi rồi! - Cô giáo Vansittart kêu lên.

Rồi bước chân thoăn thoắt nhưng vẫn đàng hoàng, cô đi nhanh về pha lớp học. Bà hiệu trưởng đi theo, đầu cúi, suýt vấp phải cô giáo Eileen Rich dạy văn, vừa từ một lối đi nhỏ trong hoa viên bước nhanh ra.

- Ôi, xin lỗi, thưa bà hiệu trưởng! Tôi không nhìn thấy bà.

Giống như mọi khi, đầu tóc cô Rich bù rối, xòa ra bên ngoài tấm khăn đội đầu. Lại một lần nữa bà Bulstrode nhận thấy khuôn mặt cô giáo dạy văn này quá gầy, gò má nhô cả lên. Cô giáo Eileen Rich quả là một phụ nữ khác thường. Trẻ trung, hiếu động, và luôn buộc người ta phải chú ý đến cô.

- Chị có giờ dạy bây giờ phải không?

- Vâng, giờ tiếng Anh ạ.

- Chị thích nghề dạy học chứ?

- Vâng, tôi mê nghề này.

- Vì sao?

- Thú thật là chính tôi cũng đang cố cắt nghĩa xem tại sao tôi lại mê nghề này đến thế. Phải chăng vì nghề dạy học là một nghề cực kỳ quan trọng? Không, có lẽ tôi đã quá phóng đại ý nghĩa của nó. Thật ra tôi mê nghề dạy học vì nguyên nhân khác. Tôi cho rằng nghề dạy học giống như nghề đâm cá. Phóng mũi lao xuống nước nhưng chưa biết sẽ đâm được con cá gì, và chính đó là thứ vô cùng hấp dẫn. Tôi rất sung sướng mỗi khi "tóm" được một suy nghĩ độc đáo, một ý tưởng bất ngờ của học sinh. Rất tiếc là các em học sinh rất ít khi có những suy nghĩ mới mẻ, độc đáo...

Bà hiệu trưởng Bulstrode gật đầu. Vậy là bà đã không lầm, cô giáo trẻ nay quả là con người có cá tính. Bà nói:

- Tôi nghĩ rằng thế nào cũng đến một ngày chị có được một trường học riêng, do chị lãnh đạo, để chị phát huy mọi ý tưởng đẹp đẽ của chị.

- Ôi, nếu được thế thì còn gì bằng!

- Chắc chị đã có lúc suy nghĩ, là nếu được lãnh đạo một trường thì chị sẽ làm những gì rồi chứ?

- Tôi cho rằng ai cũng có những mơ ước riêng của bản thân mình về chuyện đó. Một số những ý nghĩ đó là viển vông và khi vấp phải thực tế sẽ dẫn đến thất bại. Đúng thế. Nhưng tôi cho rằng mọi ý tưởng đều phải được đem ra thử nghiệm. Phải dám làm, rồi mới có cái mà rút kinh nghiệm, tiếp tục học hỏi thêm. Không thể chỉ dựa vào kinh nghiệm của người khác. Tôi nghĩ như vậy có đúng không, thưa bà?

- Kể ra thì chưa hoàn toàn. Nhưng chị nói đúng. Thất bại là cần thiết, ít nhất cũng để lần san không mắc phải sai lầm nữa. Tôi thấy chị không sợ mở ra những con đường mới, có phải thế không? Chị không sợ mạo hiểm.

- Tôi cho rằng tôi luôn sống bằng mạo hiểm...

Một thoáng suy nghĩ nào đó lướt qua trên nét mặt cô, và Eileen Rich vội vã nói thêm:

- Nhưng tôi phải xin phép bà thôi, thưa bà hiệu trưởng! Các em học sinh đang chờ tôi.

Bà hiệu trưởng Bulstrode nhìn theo cô giáo trẻ, thầm nghĩ:

"Tiếc quá, cô ấy còn quá non nớt. Lúc này giao phó cho cô ta công việc thay ta, e chưa được”.

Bà giáo Chadwick đi ngang qua, nhận thấy vẻ băn khoăn trên khuôn mặt bà hiệu trưởng.

- Chị lo lắng chuyện gì thế?

- Đúng là tôi có băn khoăn. Tôi biết trường chúng ta cần một hiệu trưởng như thế nào, nhưng lại thấy có nhiều e ngại...

- Tôi tha thiết xin chị bỏ cái ý nghĩ nghỉ hưu ấy đi. Chị đã quá gắn bó với cái trường Meadowbank này rồi. Trường không thể vắng chị được.

- Đối với chị, trường nữ học này là tất cả, đúng thế không, Chadwick?

- Đúng thế, và tôi cho rằng không có trường nữ học nào sánh được với nó!

Bà hiệu trưởng Bulstrode trìu mến đặt tay lên vai người đồng sáng lập trường và là người bạn gái thân thiết:

- Đúng thế, chị Chadwick thân mến ạ! Chị còn là người đầu tiên, chính yếu đã hỗ trợ tôi. Chị quan tâm đến mọi thứ liên quan đến ngôi trường này.

Bà giáo dạy toán Chadwick đỏ bừng mặt sung sướng. Hiếm khi bà thấy người bạn gái lâu năm mất đi vẻ nghiêm nghị thường ngày như hôm nay.

Chương XVI

- Không thể chơi bằng cái vợt tồi tệ này được! - Giận dữ, Jennifer quăng cây vợt xuống sân.

- Sao mà bạn cáu kỉnh đến thế? - Julia kêu lên rồi cúi xuống nhặt cây vợt lên - Cây vợt của bạn còn tốt hơn cây vợt của mình ấy chứ! Vợt của mình mới thật sự thảm hại! Mình nói mãi mà mẹ mình không chịu đem đến thợ để họ sửa lại cho.

- Vậy mà mình lại thích cây vợt của bạn hơn cây vợt tồi tệ của mình đấy.

Jennifer đỡ lấy cây vợt của bạn, đánh thử vài cái:

- Đúng là còn khá hơn cây vợt của mình. Hay bạn đổi cho mình nhé?

- Được thôi !

Họ bóc mảnh giấy nhãn trên cây vợt này dán sang cây vợt kia.

Chương XVII

Adam vừa vui vẻ huýt sáo vừa căng lại lưới quần vợt. Đột nhiên cửa Cung Thể thao bật mở, cô giáo Blanche dạy tiếng Pháp, biệt danh "Chuột nhắt" bước ra. Nhìn thấy chàng trai phụ việc, cô tỏ vẻ hết sức ngạc nhiên. Cô ngập ngừng một chút rồi lại quay vào nhà.

"Cô ta có mưu đồ gì chăng mà vừa thò ra thấy mình lại thụt vào như vậy?" Adam thầm nghĩ.

Thái độ cô giáo kia làm Adam đặc biệt chú ý, rõ ràng là thái độ của một kẻ "bị bắt quả tang".

Lát sau cô giáo Blanche lại mở cửa Cung Thể thao, kín đáo bước ra rồi khép cửa lại thật khẽ. Khi đi ngang qua Adam, cô đứng lại, hỏi:

- Anh sửa lưới quần vợt đấy à?

- Vâng, thưa cô giáo.

- Công trình xây dựng này quả là tuyệt đẹp, không thiếu thứ gì: bể bơi, các sân bóng, toà nhà điền kinh. Bên Anh các anh thể thao rất được coi trọng.

- Có lẽ thế, thưa cô giáo.

- Anh có chơi quần vợt không?

Cô giáo Blanche lộ vẻ quan tâm đến thân hình chàng trai, một kiểu quan tâm rất nữ tính.

- Không, thưa cô giáo - Adam nói dối - Tôi không có thời gian.

- Thế hockev, anh có chơi hockey không?

- Hockey thì có, nhưng hồi còn nhỏ thôi.

Họ im lặng một lát.

- Từ hôm đến đây, tôi chưa có thời giờ đi một vòng xem toàn bộ khu vực - cô Blanche nói - Nhân hôm nay đẹp trời, tôi quyết định sang xem Cung Thể thao, để còn viết thư kể cho mấy đứa bạn đang mở một trường học bên Pháp.

Lại một lần nữa Adam lấy làm lạ. Cô gái người Pháp này việc gì phải thanh minh chuyện cô ta sang Cung Thể thao? Chẳng lẽ cô ta không có quyền đến bất cứ nơi nào trong khu vực trường nữ học này hay sao? Mà tại sao cô lại phải thanh minh với một tên làm vườn phụ việc?

Adam đăm chiêu nhìn cô gái. "Có lẽ ta phải tìm hiểu thêm về nhân vật này chăng?" Anh ta bèn thay đổi thái độ một chút. Vẫn lễ phép, nhưng thoải mái hơn một chút, Adam tự cho phép nhìn cô giáo Blanche một cách ... làm duyên.

- Dạy học trong một trường nữ học, hẳn đôi khi cô cũng thấy tẻ nhạt chứ, thưa cô giáo? - Adam bắt chuyện.

- Anh nói đúng. Chẳng thú vị gì.

- Nhưng cô lại có được nhiều lúc rảnh rang, đúng vậy không thưa cô?

Họ lại im lặng. Hẳn là cô giáo Blanche đang suy tính gì đó, kết quả là cô chuyển sang thái độ xa cách, khiến Adam cụt hứng.

- Trong trường này, mọi điều kiện sinh hoạt đều hoàn hảo đến mức không thể chê vào đâu được.

Cô giáo tiếng Pháp khẽ gật đầu "tạm biệt" rồi bước thoăn thoắt đi.

"Đúng là cô ta đang mưu đồ chuyện gì đó", Adam vẫn tiếp tục thầm nghĩ. "Và mưu đồ kia chắc liên quan đến Cung Thể thao này? "

Dường như theo bản năng, Adam vào toà nhà "Cung Thể thao" xem thử. Đưa mắt quan sát xung quanh, không nhận thấy có gì đặc biệt, nhưng anh ta vẫn chưa thật yên tâm.

Lúc quay ra, Adam chạm trán với cô thư ký Anh Shapland.

- Anh có nhìn thấy bà hiệu trưởng Bulstrode ở đâu không?

- Bà hiệu trưởng quay về văn phòng rồi. Lúc nãy bà ấy nói chuyện với bác Briggs ở đây.

- Anh vừa vào Cung Thể thao làm gì? - Cô thư ký cau mặt hỏi.

Câu hỏi làm Adam khó chịu. "Cô này đa nghi thật”, anh thầm nghĩ. Rồi Adam trả lời giọng có phần hơi sẵng:

- Tôi muốn ngó qua một cái. Không được hay sao?

- Anh nên làm công việc của anh thì hơn.

- Tôi vừa căng xong cái lưới quần vợt.

Rồi quay mặt về phía Cung Thể thao, Adam nói tiếp :

- Cung Thể thao này vừa mới xây xong, phải không bà? Hẳn là tốn kém lắm. Nhà trường không tiếc tiền bạc tạo điều kiện cho các nữ học sinh.

- Thật ra là tiền của học sinh cả - cô thư ký Anh Shapland lạnh lùng đáp.

- Đúng thế - Adam gật đầu tán thành.

Anh không hiểu tại sao anh lại cảm thấy mất cảm tình với cô thư ký này. Phải chăng vì cô ta quá khinh người? Nhưng Shapland đã nhún vai rồi bước đi nhanh. Tuy nhiên được một quãng, cô ta ngoái đấu lại nhìn anh. Cô nhìnA dam rồi nhìn Cung thể thao, và trên khuôn mặt cô lộ một vẻ bí hiểm, cô đi khuất.

Chương XVIII

Trong phòng trực đêm của đồn cảnh sát Phố Hurst, trung sĩ Green đang ngáp thì chuông điện thoại reo. Lát sau, thái độ của Green thay đổi hẳn, anh ta vớ cuốn sổ theo dõi, nói vào máy:

- Bà nhắc lại cho, Meadowbank... Có chuyện gì vậy? Bà đánh vần từng chữ cho S-p-r-i-n-g-e-r... Springer, đúng không ạ?... Thôi được, xin bà giữ nguyên hiện trường. Tôi sẽ cử người đến ngay.

Thế là Trung sĩ Green tiến hành quy trình thường lệ quen thuộc.

- Meadowbank à? - Thanh tra cảnh sát Kelsey nói ở đầu dây bên kia - Theo tôi biết thì đấy là một trường nữ học. Nạn nhân bị giết là ai?

- Một phụ nữ tên là Springer, giáo viên thể dục.

- Chà, nghe giống như một cốt truyện hình sự rẻ tiền vậy.

- Kẻ gây ra một vụ án mạng kiểu đó có thể là ai được nhỉ? - Green hỏi.

- Nhà thể thao điền kinh vẫn có thể vướng vào những chuyện tình rắc rối được lắm chứ, Trung sĩ! Người ta thấy thi thể nạn nhân ở chỗ nào?

- Trong ngôi nhà được họ gọi là Cung Thể thao. Chắc chỉ là một phòng tập cho học sinh.

- Nạn nhân bị bắn bằng súng ngắn à?

- Vâng.

- Tìm thấy hung khí chưa?

- Chưa.

Chương XIX

Cổng chính vào trường Meadowbank mở rộng và gian tiền sảnh đèn bật sáng. Bà hiệu trưởng Bulstrode bước ra đón Thanh tra cảnh sát Kelsey. Giống như hầu hết dân chúng trong vùng, viên thanh tra cảnh sát đã biết mặt bà hiệu trưởng này. Ngay cả trong tình hình hiện nay, bà vẫn giữ được nét mặt điềm tĩnh.

- Tôi là Thanh tra cảnh sát Kelsey - khách lịch thiệp tự giới thiệu.

- Ông muốn đi xem nơi nào trước? Hẳn là Cung Thể thao... Hay ông muốn hỏi các nhân chứng trước?

- Cùng đi với tôi có bác sĩ pháp y và hai trợ lý của ông ta để khám nghiệm tử thi. Xin bà hiệu trưởng cho người dẫn họ ra hiện trường. Riêng tôi, tôi muốn được hỏi bà một số điều.

- Cô Rowan, một phụ giáo của trường, sẽ đưa ông bác sĩ đi. Tại đấy tôi đã bố trí người canh để không cho ai di chuyển thứ gì. Mời ông thanh tra vào phòng giấy của tôi.

Vào đến phòng, câu hỏi đầu tiên của Thanh tra Kelsey là :

- Ai là người đầu tiên phát hiện ra tử thi?

- Bà Johnson, tổng giám thị của trường. Đêm hôm qua, một em nữ học sinh của chúng tôi bị đau tai nên bà Giám thị ngồi chăm sóc em. Do thấy một tấm rèm cửa sổ chưa được khép kín, bà Johnson bèn ra kéo lại. Ra đến đó, bà tình cờ nhìn về phía Cung Thể thao, thấy có ánh đèn. Bà ngạc nhiên: Lúc đó đã một giờ sáng, lẽ ra đèn phải tắt hết từ lâu rồi.

- Tôi hiểu. Bà giám thị hiện ở đâu?

- Bà Johnson đang sẵn sàng tiếp ông. Ông muốn hỏi bà ấy không ạ?

- Lát nữa. Bây giờ xin bà nói tiếp cho, thưa bà hiệu trưởng.

- Thế là bà giám thị đánh thức bà Chadwick dạy toán. Hai người quyết định ra đó xem có chuyện gì. Vừa ra khỏi toà nhà này thì hai bà nghe thấy một tiếng súng nổ. Họ bèn chạy nhanh về phía đó, và nhìn thấy...

- Tôi đã đoán được sự việc diễn ra tiếp theo, thưa bà hiệu trưởng. Bây giờ bà có thể cho tôi biết một vài thông tin về nạn nhân được không? Nạn nhân làm việc ở trường ta lâu chưa?

- Chưa. Cô giáo Springer mới đến dạy ở trường từ đầu niên học này. Cô giáo dạy thể dục trước cô Springer đã đi Úc.

- Bà biết những gì về lai lịch cô giáo Springer?

- Toàn những bản nhận xét rất tốt ở những nơi cô ấy đã làm việc.

- Trước khi nạn nhân vào làm ở trường ta, bà có quen biết cô ấy không?

- Không.

- Bà có ý kiến gì, dù chỉ là mơ hồ, về nguyên nhân của sự kiện bi thảm này không? Chẳng hạn những chuyện phức tạp trong cuộc sống của nạn nhân... những chuyện ta tạm gọi là "đáng tiếc"?

- Tôi không biết gì về những chuyện đại loại như thế. Tôi chỉ thấy cô giáo Springer sống hết sức nghiêm túc, thậm chí nguyên tắc nữa. Tôi không hề thấy cô có biểu hiện gì có vẻ vượt ra ngoài nguyên tắc. Ngược lại thì có.

- Đôi khi cuộc sống có những điều làm chúng ta hoàn toàn bất ngờ. Bây giờ tôi xin hỏi chuyện bà Giám thị, rồi tôi sẽ ra Cung Thể thao, bà gọi chỗ đó như vậy phải không, thưa bà?

- Vâng. Toà nhà đó mới xây, nằm cạnh bể bơi. Tất nhiên ở đấy có một gian để quần áo, dụng cụ thể thao, cả áo tắm nữa.

- Cô giáo Springer có phận sự nào cần có mặt ban đêm trong đó không, thưa bà?

- Không - bà hiệu trưởng Bulstrode khẳng định dứt khoát.

- Thôi được. Xin bà cho mời bà giám thị vào đây cho tôi gặp.

Bà hiệu trưởng ra, rồi quay vào ngay cùng với bà giám thị Johnson. Để bà này trấn tĩnh thần kinh, bà hiệu trưởng rót mời một ly rượu mạnh, ai ngờ rượu lại khiến bà giám thị nói nhiều hơn hẳn mọi khi.

- Đây là ông thanh tra Kelsey. Bà hãy kể ông thanh tra nghe tất cả những gì bà đã thấy.

- Khiếp quá! - Bà giám thị Johnson kêu lên - Không bao giờ tôi có thể nghĩ là cô Springer lại bị ai giết!

Câu nói làm viên thanh tra cảnh sát chú ý.

- Tại sao vậy, thưa bà giám thị?

- Vì cô ấy là loại người thừa sức đánh ngã một tên ăn trộm, thậm chí hai tên nữa ấy chứ.

- Tên ăn trộm? Nhưng trong toà nhà ấy có gì để kẻ trộm lấy được?

- Đúng là trong ấy không có thứ gì quý giá để ăn trộm thật.

- Vậy thì không phải kẻ trộm. Khoá có bị phá không?

- Tôi lại sơ ý chưa nhìn ổ khoá đấy. Lúc hai chúng tôi vào, tôi và bà giáo Chadwick, thì cửa đã mở sẵn.

Bà hiệu trưởng Bulstrode chen vào:

- Hình như khoá vẫn nguyên vẹn.

- Tức là người mở có chìa khoá.

Rồi quay sang bà giám thị Johnson, thanh tra Kelsey hỏi:

- Nạn nhân có phải là người được lòng mọi người trong trường không?

Bà Giám thị im lặng một lát rồi đáp:

- Quả thật tôi rất khó trả lời câu ông hỏi. Dù sao cô ấy cũng đã mất rồi.

Viên thanh tra soi mói, đoán được ý nghĩ thầm kín của bà này.

- Nghĩa là bà không ưa cô giáo Springer.

- Tôi cho rằng không ai thật sự ưa cô ấy. Tính cô ấy quá thẳng đuỗn, luôn phê phán tất cả mọi người. Nhưng phải công nhận cô ấy rất có khả năng và làm việc hết sức tận tụy.

- Điều ấy thì đã quá rõ - bà hiệu trưởng Bulstrode nói thêm.

- Xin bà Giám thị kể cho tôi nghe từ đầu.

- Một em học sinh của chúng tôi tên là Jane nửa đêm thức dậy kêu đau khủng khiếp một bên tai. Tôi bèn chạy đi tìm thuốc giảm đau. Lúc quay vào, tôi nhìn thấy một tấm rèm cửa sổ chưa kéo hết. Sợ gió lạnh làm tai em học sinh càng đau thêm, tôi chạy ra định buông tấm rèm xuống, chợt tôi rất ngạc nhiên thấy bên Cung Thể thao xó ánh đèn. Tôi thấy rất rõ ánh đèn chạy đi chạy lại…

- Nghĩa là không phải có người bật đàn mà là đèn pin?

- Đúng thế. Tôi thầm nghĩ, vào giờ này mà sao lại có người vao Cung Thể thao làm gì? .. Không lẽ là kẻ trộm...

- Bà không đoán là có chuyện gì sao?

Bà Giám thị liếc nhìn bà Hiệu trưởng trước khi trả lời.

- Lúc ấy tôi chưa kịp đoán là có chuyện gì khác…

Bà Hiệu trưởng đỡ lời:

- Tôi đoán lúc ấy bà Giám thị ngờ một em học sinh nào có chuyên hẹn hò trai gái ở đó, tôi đoán thế có đúng ý bà không, bà Johnson?

Bà Giám thị như thể giật mình:

- Lúc đó thì quả là như thế, tôi nghi có chuyện vụng trộm trai gái. Vì trong số nữ sinh có một em người Italia trông khá phát triển về cơ thể. Tôi có kinh nghiệm các em người nước ngoài phát triển sớm hơn các em gái Anh...

- Bà đừng nên thành kiến như thế, bà Johnson - bà hiệu trưởng Bulstrode ngắt lời - Các nữ sinh Anh cũng dám mạo hiểm lắm chứ.

- Xin bà Giám thị kể tiếp cho - thanh tra Kelsey giục.

- Tôi bèn tính rủ bà giáo dạy toán Chadwick cùng sang đó xem có chuyện gì.

- Tại sao bà lại nghĩ đến rủ bà giáo Chadwick?

- Bởi tôi không muốn đánh thức bà Hiệu trưởng mà bà Chadwick cũng có uy tín ở trường gần bằng bà Hiệu trưởng, gần như người thứ hai trong trường.

- Thế là bà sang đánh thức bà Chadwick?

- Vâng, nghe tôi kể, bà Chadwick tán thành điều nghi ngờ của tôi. Bà mặc áo len dài tay, khoác áo măng tô rồi đi theo tôi. Nhưng vừa ra đến sân thì chúng tôi nghe thấy một tiếng súng nổ. Chúng tôi vội chạy về phía đó. Ngốc quá, chúng tôi không mang theo đèn pin, và hai lần chúng tôi vấp mô đất suýt ngã. Đến Cung Thể thao chúng tôi thấy cửa mở, chúng tôi vội bật đèn lên...

- Lúc hai bà đến, bên trong toà nhà không có đèn sáng?

- Không... Hoàn toàn tối om.. Rồi chúng tôi nhìn thấy...

- Thôi, thế là đủ - thanh tra cảnh sát Kelsey nhẹ nhàng nói - Bây giờ tôi sang hiện trường . Lúc chạy đến đó, bà có nhìn thấy một bóng người nào không?

- Không.

- Hay bà có nghe thấy tiếng chân người chạy không?

- Cũng không.

Thanh tra Kelsey quay sang hỏi bà Hiệu trưởng:

- Trong trường còn ai nghe thấy tiếng súng không?

- Tôi không biết. Không thấy ai nói gì về chuyện này. Cung thể thao nằm cách khá xa toà nhà chính. Và vào giờ đó, thường mọi người đều đang ngủ rất say.

- Tôi hiểu. Thôi, bây giờ tôi sang hiện trường.

- Để tôi đưa ông đi - bà Hiệu trưởng Bulstrode nói.

- Ông thanh tra có muốn cả tôi cũng sang đó không? - bà Giám thị Johnson nói.

- Không cần đâu, thưa bà Giám thị - thanh tra Kelsey nói.

Gian phòng để quần áo và dụng cụ thể thao khá rộng. Tủ đựng có rất nhiều ngăn, mỗi ngăn dành cho một học sinh, bên ngoài ghi tên họ từng người. Cuối gian phòng là chỗ để các dụng cụ thể thao: vợt tennis, gậy đánh hockey, và những dụng cụ khác. Một cửa thông sang phòng tắm hoa sen và ngăn để nữ sinh thay quần áo. Các nhân viên cảnh sát, giúp việc cho thanh tra Kelsey, đang tấp nập làm việc: người chụp ảnh góc độ, người lấy dấu vân tay…

Thanh tra Kelsey bước đến gặp bác sĩ pháp y, ông này đang quỳ gối xem xét tử thi.

- Thủ phạm bắn từ cự ly khoảng ba mét, trúng tim. Chết tức khắc - bác sĩ nói.

- Vào giờ nào?

- Khoảng một giờ sáng.

Thanh tra Kelsey quay sang nhìn bà giáo Chadwick, người đã phát hiện tử thi cùng với bà giám thị Johnson. Lúc này bà Chadwick đứng tựa vào tường, dáng điệu như con chó giữ nhà. Viên thanh tra cảnh sát thầm đoán: "Khoảng năm mươi nhăm tuổi". Vầng trán cao, miệng bướng bỉnh, mái tóc hoa râm hơi bù rối, không hề có biểu hiện tinh thần hoảng loạn. Loại người có thể tin cậy được những khi gặp sóng gió, mặc dù trong cuộc sống bình thường không tỏ vẻ gì đặc biệt.

- Bà là bà Chadwick? - viên thanh tra hỏi.

- Vâng, thưa ông.

- Bà cùng với bà Giám thị là hai người đầu tiên phát hiện tử thi?

- Đúng thế, thưa ông. Mọi thứ lúc đó được giữ y nguyên cho đến lúc này.

- Lúc ấy là mấy giờ?

- Khi bà giám thị Johnson đánh thức tôi dạy, tôi nhìn đồng hồ thì là mười hai giờ năm mươi phút.

"Vậy là gần khớp với lời khai của bà giám thị", thanh tra Kelsey thầm nghĩ rồi quay sang quan sát tử thi. Mái tóc màu hạt dẻ của nạn nhân cắt ngắn. Khuôn mặt đầy tàn nhang. Cằm nhô ra. Thân thể chứng tỏ đã được tập luyện điền kinh nhiều. Nạn nhân mặc váy dạ kiểu xứ Ecốt, áo len dài tay đen, chân đi dép, không có tất.

- Chưa thấy vết tích của hung khí?

Một nhân viên cảnh sát đáp:

- Chưa thấy một dấu vết nhỏ, thưa ông thanh tra.

- Cả ngọn đèn pin hung thủ dùng để soi?

- Có một chiếc đèn pin nằm ở góc phòng bên trái nhưng dấu vân tay lại là của nạn nhân.

- Ra thế! Nghĩa là cô ta cầm đèn pin? - Thanh tra Kelsey cau mày nói.

"Tại sao lại như thế?" viên thanh tra thầm nghĩ. Rồi quay sang mọi người, ông hỏi:

- Các vị có nhận xét gì thêm nữa không?

Bà giáo dạy toán Chadwick nói:

- Có lẽ cô Springer quên một thứ gì đó trong phòng tập, bèn sang để xem lại. Nhưng khả năng ấy khó thể có, bởi lúc đó đã quá khuya.

- Nhưng nếu khả năng đó là đúng thì vật bỏ quên phải là thứ hết sức quan trọng.

Viên thanh tra cảnh sát đưa mắt nhìn khắp xung quanh. Mọi thứ đều vô cùng trật tự ngăn nắp, trừ những cây vợt tennis: trong một góc phòng, chúng chất thành một đống ngay trên sàn.

Đột nhiên bà Chadwick nói:

- Cũng có thể cô Springer nhìn thấy một luồng sáng...

- Không loại trừ khả năng đó - thanh tra Kelsey đáp - Tuy nhiên có một chi tiết cần làm sáng tỏ: tại sao nạn nhân dám liều lĩnh sang đây một mình giữa đêm khuya như vậy?

- Đúng thế. Người khác gặp trường hợp ấy, thường rủ thêm người khác cùng sang. Nhưng cô Springer có tính rất tự tin vào bản thân mình.

- Tôi muốn biết thêm một chi tiết nữa: khi bà cùng với bà giám thị Johnson ra khỏi trường để sang Cung Thể thao, bà thấy cửa vào Cung có khoá không?

- Không.

- Có thể cô Springer mở xong rồi chưa kịp đóng?

- Có lý!

- Như vậy ta có thể đoán cô Spirnger định khám phá một điều gì bí mật. Kết quả là cô bị giết.

Vêin thanh tra Kelsey nhìn thẳng vào mắt bà hiệu trưởng Bulstrode:

- Bà thấy giả thuyết ấy có chấp nhận được không?

Bà triệu trưởng trả lời không chút ngập ngừng:

- Chưa hẳn là được. Tất nhiên tôi công nhận khả năng cô Springer phát hiện thấy ánh sáng bên Cung Thể thao và muốn tiến hành một cuộc điều tra nhỏ. Nhưng kẻ kia lại thấy cần phải thủ tiêu cô, đó là điều lôi không hiểu được. Hung thủ vào Cung Thể thao mà lại mang súng theo để làm gì, trongg khi ở đây không có gì đáng để lấy cắp? Nhất là không có một thứ gì khiến hắn dám liều lĩnh đến thế? Vậy mà hắn đã giết người ta?

Kelsey khẽ ho thông cổ họng rồi nói.

- Bà định nói rằng, có thể một cặp trai gái tình tự vụng trộm ở đây và bị nạn nhân phát hiện thấy?

- Tôi cho khả năng đó là có lý hơn cả - bà hiệu trưởng Bulstrode nói - Tuy nhiên lý do đó chưa đủ khiến kẻ kia gây án mạng. Các em học sinh của trường chúng tôi không bao giờ mang súng theo người, và người đàn ông mà các em có khả năng hò hẹn để tình tự cũng không thể đến đây mà mang theo súng.

Thanh tra Kelsey gật đầu:

- Bà nói có lý. Nhưng còn một khả năng khác: cô Springer sang đây chính là để gặp một người đàn ông...

Tiếng cười suýt bật lên nhưng bị ghìm lại, và bà giáo dạy toán Chadwick kêu lên:

- Ôi, cô Springer hoàn toàn không phải loại người như thế.

- Tôi nghĩ không nhất thiết người đàn ông đó là người tình - thanh tra Kelsey khó chịu cãi lại - Tôi thoáng nghĩ vụ án mạng này có thể được tính toán từ trước, nghĩa là hung thủ quyết tâm giết nạn nhân. Y hẹn cô Springer ra đây giữa đêm khuya rồi hạ sát cô.

Chương XX

Thư của Jennifer gửi mẹ là bà Joan Sutcliffe:

Đêm qua trong trường chúng con xảy ra một vụ án mạng: cô giáo Springer dạy thể dục bị giết. Cảnh sát đến đây từ sáng và thẩm vấn tất cả mọi người.

Bà giáo Chadwik dạy toán ra lệnh cấm chúng con không ai được lộ tin này ra, nhưng con nghĩ rằng mẹ muốn biết mọi tin tức ở đây.

* * *

Danh tiếng của trường nữ học Meadowbank khá lớn, đủ để thu hút sự chú ý của các quan chức cao cấp trong ngành cảnh sát. Trong khi cuộc điều tra đang tiến hành, bà hiệu trưởng không ngồi yên. Bà gọi điện thoại cho một quan chức cao cấp ngành báo chí và cho Bộ trưởng Nội Vụ, cả hai đều là bè bạn của bà. Kết qủa là báo chí chỉ đưa tin rất dè dặt: người ta tìm thấy một giáo viên viên thể dục bị chết ngay trong phòng tập, nguyên nhân còn chưa rõ. Hầu hết những tin vắn đăng trên báo chí đều giống như những lời nhận lỗi: tóm lại, độc giả có cảm tưởng nạn nhân do thiếu tế nhị nên mới bị giết trong hoàn cảnh như thế.

Cô thư ký Anh Shapland suốt ngày phải đánh máy những lá thư gửi các phụ huynh học sinh. Bà hiệu trưởng Bulstrode cho rằng căn dặn học sinh đừng báo tin này về cho gia đình là vô ích, bởi họ sẽ viết và còn thêm thắt ít nhiều. Cho nên bà chủ trương chủ động gửi thông báo cho các phụ huynh học sinh, trong đó tấn bi kịch được trình bày một cách “có mức độ", và những thông báo này sẽ đến tay các bậc phụ huynh cùng một lúc với những bức thư sôi nổi của con cái họ.

Hết giờ học chiều, bà hiệu trưởng Bulstrode triệu tập một cuộc họp nhỏ, không chính thức, có ông Cảnh sát trưởng và thanh tra Kelsey cùng dự. Thái độ "dìm đi" của báo chí đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiến hành điều tra được êm ả.

- Vụ án mạng này hết sức đáng tiếc - ông Cảnh sát trưởng nói - Tôi e sẽ gây nhiều khó khăn cho hoạt động của nhà trường.

- Một vụ án mạng bao giờ cũng gây tác động xấu - bà Hiệu trưởng đáp. Nhất lại ở một trường nữ học. Nhưng tôi nghĩ chẳng nên nói nhiều về chuyện đó. Chúng tôi sẽ đương đầu với khó khăn này: bởi chúng tôi chẳng đã từng đương đầu với bao bão tố khác đấy ư? Toàn bộ điều tôi mong ước là vụ án được khám phá trong thời gian ngắn nhất.

- Mà tại sao lại không làm được như thế kia chứ? - ông Cảnh sát trưởng nói, quay sang thanh tra Kelsey.

- Vụ án sẽ được điều tra dễ dàng hơn, nếu chúng tôi biết rõ hơn về nạn nhân, cô giáo Springer - thanh tra Kelsey nói.

- Thật sự ông cho là như thế ạ? - Bà hịệu trưởng ngắt lời.

- Có kẻ nào đó căm ghét nạn nhân.

Bà hiệu trưởng không nói gì nữa.

- Bà cho rằng thủ phạm vụ án mạng nằm ngay trong trường nữ học Meadowbank? - Ông cảnh sát trưởng hỏi.

- Thanh tra Kelsey cũng nghĩ như tôi - bà hiệu trưởng Bulstrode nói - Chỉ có điều ông thanh tra muốn tránh cho tôi phải chịu thêm một nỗi choáng váng nữa, có lẽ thế.

Thanh tra Kelsey chậm rãi nói:

- Đúng, tôi cũng cho rằng vụ án này có nguyên nhân nằm trong nội bộ trường Meadowbank. Giống như một thành viên khác của trường, cô giáo thể dục Springer cũng có những quãng thời gian rảnh rỗi, và nếu muốn, cô có thể bố trí những cuộc hò hẹn tại bất kỳ địa điểm nào. Nhưng tại sao cô lại chọn Cung Thể thao và vào giữa lúc đêm khuya?

Cảnh sát trưởng hỏi:

- Thưa bà Hiệu trưởng, bà không phản đối nếu chúng tôi tiến hành lục soát cả những nơi khác trong trường học của bà chứ?

- Không. Tôi không hề phản đối. Các ông định tìm hung khí phải không?

- Đúng thế. Căn cứ vào đường đạn đi thì đây là một khẩu súng ngắn loại nhỏ, chế tạo tại nước ngoài .

- Chế tạo tại nước ngoài... - bà Hiệu trưởng lẩm bẩm suy nghĩ.

- Theo bà biết, trong trường có một học sinh hoặc nhân viên nào có khả năng giữ một khẩu súng ngắn không?

- Nhân viên thì tôi không biết, nhưng học sinh thì tôi biết chắc là không có ai. Chính tay chúng tôi kiểm soát rất kỹ hành lý của các em khi nhập học, vào sinh hoạt nội trú ở đây. Nếu có vũ khí tất chúng tôi phát hiện được ngay. Nhưng như đã nói lúc trước xin các ông cứ tiến hành mọi việc gì các ông thấy cần thiết. Tôi đã nhìn thấy người của các ông lục soát những công trình phụ và ngoài vườn.

- Và thêm nữa - thanh tra cảnh sát Kelsey nói - tôi muốn được thẩm vấn toàn bộ giáo viên và nhân viên nhà trường. Có thể một người nào đó đã nghe thấy một câu nói nào đó của cô giáo Springer, và câu đó lại giúp chúng tôi thấy được hướng điều tra. Hoặc một người nào đó nhận thấy ở cô Springer một thái độ nào đó không bình thường.

Ngừng một lát, thanh tra Kelsey nói tiếp.

- Cả các học sinh nữa.

- Tôi đang định tối nay sẽ họp học sinh, sau giờ cầu kinh, để đề nghị các em là nếu phát hiện ra vấn đề gì mới thì đến ngay văn phòng báo cho tôi biết.

- Bà làm thế là rất tốt - ông cảnh sát trưởng khen ngợi.

- Tuy nhiên - bà Hiệu trưởng Bulstrode nói tiếp - cần lưu ý đến một điều là rất có thể một người nào đó phóng đại một chi tiết cốt để tỏ ra quan trọng, thậm chí có thể bịa ra một chi tiết thật ra không có. Tôi nghĩ kiểu khai bịa như thế các ông đã từng gặp và đã có kinh nghiệm. Đúng vậy không ạ?

- Bà nói rất đúng - thanh tra Kelsey nói - Vậy xin bà cho một bản danh sách các giáo viên và nhân viên.

Chương XXI

- Tôi đã lục soát tất cả các ngăn đựng quần áo và dụng cụ trong phòng gửi đồ - một nhân viên cảnh sát báo cáo với thanh tra Kelsey.

- Và anh không tìm thấy gì?

- Không thấy thứ gì quan trọng. Một số ngăn có những thứ đồ chơi kỳ quái, nhưng không giúp ích được gì cho chúng ta.

- Không ngăn nào khoá chặt?

- Không, nhưng ngăn nào cũng lắp khoá.

Thanh tra Kelsey trầm ngâm nhìn xuống sàn nhà. Các cây vợt tennis và gậy đánh hockey đều đã được xếp lại gọn gàng.

- Tôi phải quay về trường để thẩm vấn các giáo viên và nhân viên - ông nói.

-Rất có thể đây là một vụ "án mạng nội bộ" - Nhân viên cảnh sát rụt rè nói.

- Có thể lắm. Không ai có bằng chứng ngoại phạm, ngoài hai người: bà giáo Chadwick và bà giám thị Johnson... cả cô học sinh Jane bị đau tai nữa. Về lý thuyết thì mọi người khác đều đang ngủ trên giường của họ, nhưng chưa có gì chứng thực là tất cả đều ngủ... Bởi ở đây, các nữ sinh nội trú, mỗi người đều có phòng ngủ riêng... cả các cô giáo và nhân viên cũng vậy. Bất cứ ai cũng có thể ra khỏi phòng, sang Cung Thể thao gặp nạn nhân... hoặc bám theo nạn nhân, để rồi sau khi gây án, lén lút quay về phòng ngủ của mình bằng cách lần theo các bụi cây ngoài vườn, rồi chui qua cửa ngách ở cuối vườn để về toà nhà chính. Khó khăn nhất trong việc điều tra là tìm cho ra động cơ của hung thủ! Hiện nay chúng ta còn biết quá ít về nội tình của trường.

Ra đến vườn, thanh tra Kelsey nhìn thấy bác già Briggs vẫn đang cặm cụi làm việc, mặc dù đã đến giờ nghỉ trưa. Nhìn thấy viên thanh tra cảnh sát ông già làm vườn đứng thẳng dậy:

- Bác làm cả ngoài giờ à? - Thanh tra Kelsey tươi cười hỏi.

- Công việc thợ làm vườn thì làm gì có giờ giấc, làm bao nhiêu cũng vẫn thấy còn những việc khác chưa làm. Có hôm tôi làm đến hai mươi tiếng đồng hồ ấy chứ... Có thế vườn trông mới tàm tạm. Tôi rất tự hào về cái vườn của tôi.

- Bác có quyền tự hào đấy. Chưa ở đâu tôi thấy các luống hoa ngay ngắn và nhiều hoa như thế này. Nhất là thời nay, ít có khu vườn hoa nào được trông nom tỷ mỷ lắm.

- Ông thanh tra nói đúng: thời nay. Bởi thời bây giờ... nhưng mới đây tôi may mắn có được cậu phụ việc chăm chỉ, mặc dù cậu ta còn quá trẻ. Lại chính cậu ta tự nguyện xin vào làm đấy chứ.

- Mới đây? - Thanh tra Kelsey đột nhiên chú ý.

- Mới đầu tam cá nguyệt này. Tên cậu ta là Adam Goodman.

- Tôi chưa nhìn thấy anh ta.

- Cậu ta xin tôi cho nghỉ một ngày và tôi đã bằng lòng. Các ông cảnh sát đến đây điều tra, lúc nào cũng nhốn nháo thế này, có làm cũng chẳng được là bao.

- Nhưng sao không ai nói về anh ta cho tôi biết nhỉ?

- Ông thanh tra nói thế nghĩa là sao?

- Trong bản danh sách nhân viên nhà trường tôi không thấy tên anh ta.

- Mai ông sẽ gặp cậu ta thôi. Tôi không tin cậu ta có điều gì bổ ích có thể khai ra với các ông cảnh sát.

- Biết đâu đấy.

Một người nam giới đến xin việc vào đầu tam cá nguyệt này? Thanh tra Kelsey cảm thấy đây là sự việc "không bình thường" nhất trong những sự việc ông biết được từ đầu cuộc điều tra.

Chương XXII

Tối hôm ấy tại hội trường, sau buổi cầu kinh tối, các học sinh đã đứng dậy định về phòng riêng để đi ngủ thì bà Hiệu trưởng bước vào, giơ cao tay ý bảo họ ngồi lại.

- Ta muốn thông báo với các em một việc. Hẳn các em đã biết đêm qua, người ta đã thấy cô Springer dạy thể dục bị giết trong phòng tập Cung Thể thao. Nếu em nào nghe thấy một chi tiết nào có liên quan, dù rất nhỏ, đến cuộc sống riêng tư của cô Springer thì đến ngay phòng giấy hiệu trưởng, báo cho ta biết, bất kể vào giờ nào buổi tối.

Sau đó, các nữ sinh xếp hàng đi ra. Nữ sinh Julia Upjohn thở một hơi dài:

- Mình rất muốn phát hiện một điều nào đấy... nhưng chúng mình lại chẳng biết gì hết.

- Tất nhiên rồi - Jennifer thì thầm.

- Cô Springer chẳng có chút gì đặc biệt, vậy mà lại thành nạn nhân của một vụ án mạng bí hiểm thì lạ thật!

- Mình thì cho rằng chẳng có gì bí hiểm hết. Chỉ là một vụ trộm hết sức bình thường.

- Chắc tên gian định lấy trộm mấy cây vợt tennis của bọn mình - Julia nói.

- Mà cũng có thể là một vụ tống tiền - một nữ sinh khác chêm vào.

- Tống tiền? Cô Springer thì làm gì có tiền? - Jennifer bác lại

Và các em đều thấy không thể có chuyện "tống tiền" ở đây.

Chương XXIII

Người đầu tiên được thẩm vấn là cô Vansittart dạy lịch sử và tiếng. Đức. Thoạt nhìn cô, thanh tra Kelsey đã thoáng nghĩ: "Cô giáo này có dáng đây”. Trạc bốn mươi hoặc hơn thế một chút, cô giáo Vansittart có dáng người dong dỏng, thân hình cân đối, mái tóc màu tro, áo quần chải chuốt, có vẻ biết rõ giá trị của mình. Cô giống bà hiệu trưởng Bulstrode ở chỗ dáng vẻ tự tin, quyết đoán. Tuy nhiên có sự khác nhau giữa hai người: bà hiệu trưởng là người luôn có những ý tưởng mới mẻ, nhưng cô giáo này thì không có vẻ như thế. Cô tầm thường hơn nhiều.

Quả là cô giáo Vansittart không nhìn thấy gì, không nghe thấy gì. Đúng, cô giáo Springer làm tròn mọi phận sự với tinh thần trách nhiệm cao, mặc dù cô có hơi thô lỗ trong cách ăn nói, đối xử, nhung bụng dạ thì không có gì. Vả lại dạy môn thể dục thì thái độ khéo léo không phải là thứ quan trọng.

Tóm lại, cô giáo Vansittart không cung cấp được thông tin nào bổ ích cho việc điều tra.

* * *

Cô giáo được thẩm vấn thứ hai là Eileen Rich dạy văn. Cảm giác đầu tiên của viên thanh tra Kelsey là cô giáo này quá xấu. Nhưng rồi ông lại nhận thấy cô có một chút duyên ngầm. Những câu cô trả lời đều không đem lại chút ánh sáng nào cho vụ án. Thanh tra Kelsey bèn chuyển cách hỏi:

- Cô có cảm thấy có ai căm ghét cô giáo Springer về chuyện gì không?

- Không - cô giáo Eileen Rich đáp - Tôi thấy chính đó là khía cạnh bi thảm của vụ án mạng này.

- Cô nói thế nghĩa là sao?

- Vì Springer không thuộc loại người bị ai căm ghét đến mức muốn giết chị ấy. Chị ấy nói gì, làm gì đều không bao giờ có ác ý. Tất nhiên đôi khi chị ấy cáu kỉnh khi thấy người nào vi phạm điều quy định nào đó, nhưng không bao giờ chị ấy để bụng. Cho nên không ai giận chị ấy được. Theo tôi thì chị ấy bị giết chỉ là ngẫu nhiên.

- Xin cô nói cho rõ hơn.

- Thí dụ trong một vụ cướp nhà băng, một nhân viên tầm thường bị giết, chỉ hoàn toàn vì kẻ cướp bắt gặp trên con đường chúng đi. Không phải vì bản thân Springer làm gì, mà chỉ đơn giản vì chị ấy làm trở ngại cho bọn chúng.

Cô Eileen Rich nhún vai rồi nói tiếp:

- Chị Springer có tính luôn thấy mọi người vi phạm trật tự trong trường, và hễ thấy người nào làm trái quy định là xông ra cản lại.

- Cô định nói là cô giáo Spnnger luôn dò xét mọi người?

- Nói dò xét thì không đúng. Chỉ có điều mỗi khi thấy có gì lén lút là chị ấy lập tức tìm xem lén lút chuyện gì, rồi vạch trần ra. Trong trường hợp này, theo tôi đoán, chị ấy thấy hiện tượng gì đó không bình thường, thế là chị ấy tìm cho ra nhẽ.

- Hình như cô không ưa cô Spnnger?

- Thú thật là tôi ít thân với chị ấy. Springer chỉ là giáo viên dạy thể dục... Ôi, tôi lại nói câu xấu thói rồi! Mỗi người một nghề chứ, và chị Springer cũng có quyền tự hào về công việc của chị ấy như bất cứ một giáo viên yêu nghề và tận tuỵ nào khác.

Thanh tra Kelsey tò mò quan sát cô giáo dạy văn rồi hỏi:

- Tôi thấy cô có tài nhận xét rất tinh tế.

- Cũng có thể.

- Cô làm việc ở trường nữ học Meadowbank này đã lâu chưa?

- Mười tám tháng rồi.

- Cô không thấy trong trường xảy ra chuyện gì đặc biệt chứ, trong quãng thời gian ấy?

- Không. Cuộc sống ở đây rất phẳng lặng, ít nhất cũng cho đến tam cá nguyệt này.

Thanh tra Kelsey liền chớp luôn cơ hội:

- Hình như cô có nhận xét trên không phải chỉ vì chuyện xảy ra vụ án mạng, mà còn những sự việc khác nữa?

Cô giáo Eileen Rich ngập ngừng một chút rồi nói:

- Đúng thế. Nhưng nhận xét của tôi thật ra rất mơ hồ. Tôi chỉ cảm thấy như vậy chứ không có chứng cứ rõ rệt.

- Xin cô cứ nói cho tôi nghe.

Cô giáo Eileen Rich lại ngập ngừng một chút, rồi suy nghĩ trước khi nói :

- Tôi có cảm giác không khí trong trường năm học này không êm ả như năm trước. Dường như trong số những người hiện có mặt, có một kẻ nào đó lẽ ra không nên lọt vào đây...

Rồi cô giáo dạy văn mỉm cười nói tiếp:

- Điều này rất khó nói để ông hiểu... Nhưng tôi có cảm giác trong chuồng cừu này vừa lọt vào một con chó sói. Nhưng con chó sói đó đến nay vẫn chưa lộ mặt.

- Cô nói quá mơ hồ, thưa cô Rich.

- Đúng là quá mơ hồ. Thậm chí còn vô lý nữa. Vì đó chỉ là cảm giác của tôi. Nhưng tôi nhắc lại: tôi có cảm giác một kẻ mang ý đồ xấu vừa lọt vào trường này. Tôi rất băn khoăn vì chưa tìm ra được là ai...

Cô cố sức nặn óc để nói cho rõ hơn, trong khi thanh tra Kelsey vẫn chăm chú chờ đợi cô giáo này nói tiếp.

- … Cảm giác đó làm tôi thấy sợ, không phải tôi chỉ cảm thấy kẻ đó đang âm mưu kia dường như trong một làn ánh sáng tăm tối, giống như một bóng ma, nhìn không rõ mặt, mà thậm chí có lúc tôi còn cảm thấy dường như hắn chăm chú nhìn tôi bằng cặp mắt đầy tội ác... Khổ một nỗi tôi không làm sao nhìn rõ mặt kẻ đó, tất cả chỉ như đằng sau một lớp sương mù... Hình như những điều tôi vừa nói với ông lại còn mơ hồ hơn cả những điều lúc nãy. Vả lại ông đâu cần đến những cảm giác mơ hồ, ông cần sự việc cụ thể kia chứ!

- Tất nhiên, cảm giác không thể dùng làm chứng cứ. Nhưng những nhận xét của bà hết sức lý thú và bổ ích. Tôi đề nghị, khi nào đột nhiên bà thấy những cảm giác của bà hiện lên rõ rệt hơn, xin bà đừng ngần ngại, hãy đến gặp tôi ngay.

Cô giáo Eileen Rich gật đầu:

- Nhất định là như thế. Bởi một người bị giết mà chúng ta chưa biết thủ phạm là ai và động cơ gây án là gì. Mặt khác kẻ sát nhân rất có thể ở đây, trong cái trường này. Và nếu như vậy thì hung khí cũng đang nằm trong phạm vi nhà trường. Như vậy chúng ta chưa thể yên tâm, đúng không thưa ông?

Cô giáo khẽ cúi đầu chào rồi đi ra.

- Cô giáo này làm ra vẻ ta đây thông minh - nhân viên cảnh sát nói với thanh tra Kelsey.

- Tôi lại không nghĩ như thế. Bà giáo này thuộc loại người có hoạt động cảm giác phát triển cao. Những người thuộc loại này, cảm giác thấy có một con mèo lọt vào phòng, rồi sau đó mới nhìn thấy nó. Nếu bà giáo Eileen Rich này sống trong một bộ lạc thổ dân châu Phi, hẳn bà ta sẽ là một phù thuỷ kiêm bà lang chữa bệnh có uy tín cao.

- Một chuyên gia về khám phá những gì gây ra tai hoạ.

- Đúng thế. Chính tôi, tôi rất muốn tập cho mình cái khả năng cảm giác ấy. Vả lại chưa ai cung cấp được thông tin nào cụ thể, chúng ta đành dựa vào cảm giác của họ vậy. Nhưng thôi, cậu ra mời bà giáo người Pháp vào đây.

Chương XXIV

Thoạt nhìn, cô giáo dạy tiếng Pháp Blanche trạc ba mươi nhăm tuổi. Không một chút son phấn. Tóc màu hạt dẻ, chải gọn gàng. Quần áo nghiêm túc, hoàn toàn không làm duyên chút nào.

Đúng, cô mới đến làm việc ở trường từ đầu niên học này và không định ở đây lâu.

- Không thú vị gì khi dạy ở một trường có án mạng - cô bĩu môi nói - Mà ở đây lại không có hệ thống báo động nữa chứ.

- Vì trong trường không có vật quý giá nào khiến kẻ gian muốn ăn trộm - thanh tra Kelsey nhận xét.

Cô giáo người Pháp nhún vai:

- Sao ông biết? Học sinh ở đây toàn con nhà giàu. Có nhiều đứa bố mẹ rất giầu. Bọn gian phi rất có thể nghĩ học sinh ở đây mang theo vào trường những nữ trang quý.

- Nhưng nếu có nữ trang quý, không đời nào chúng để ở Cung Thể thao.

- Có chắc như thế không? Mỗi học sinh có một ngăn riêng để đựng đồ đạc, có khoá kia mà.

- Nhưng chỉ để cất quần áo và dụng cụ thể thao.

- Về nguyên tắc thì như thế, nhưng chúng rất có thể giấu một vật quý nào đó trong một chiếc áo len cũ kỹ chẳng hạn.

- Thí dụ vật quý gì?

Cô giáo Blanche không đưa ra được thí dụ cụ thể.

- Kể cả những ông bố giàu nhất và nuông chiều con nhất cũng không đời nào cho con mang một dây chuyền gắn kim cương vào trường nội trú - thanh tra Kelsey nói - Xin hỏi, trước khi dạy ở trường này, cô đã dạy tiếng Pháp ở đâu chưa?

- Trước đây ít lâu, tôi dạy ở một trường miền Bắc nước Anh, rồi ở Thuỵ Sĩ và ở Pháp. Có một lần ở Đức. Tôi tính sang đây làm để hoàn chỉnh thêm tiếng Anh của tôi. Một trong số bạn tôi đang dạy ở trường nữ học Meadowbank này thì bị ốm, phải nghỉ việc. Chị ta đã giới thiệu tôi với bà Hiệu trưởng Bulstrode. Nhưng tôi không thích nơi này, tôi đã nói với ông rồi.

- Tại sao?

- Ngoài chuyện vụ án mạng vừa rồi thì còn chuyện học sinh trường này rất vô lễ.

- Các học sinh đều không còn là trẻ con nữa, đúng như vậy không, thưa cô?

- Một số thì đúng là vẫn như trẻ con, số khác thì xử sự đã như đàn bà thật sự. Và tất cả đều được rất tự do. Tôi thích những trường có học sinh lành hiền.

- Cô biết rõ cô giáo Springer chứ?

- Thật ra tôi hầu như không trò chuyện với chị ấy bao giờ. Tính chị ấy thô lỗ, tôi còn tránh khỏi phải tiếp xúc với chị ấy nữa kia. Đã thế người lại xấu mặt đầy tàn nhang, ăn nói thì lỗ mãng. Chị ta thường vô lễ với tôi.

- Về chuyện gì chẳng hạn?

- Chị ta không muốn để tôi vào Cung Thể thao. Có một lần, tôi sang đó chỉ vì muốn tham quan toà nhà mới xây và khá đẹp. Tôi đang ngắm nghía thì chị ta chạy đến nói: "Chị không có phận sự gì phải vào đây". Chị ta dám nói như thế với tôi, một giáo viên dạy ở trường này! Chị ta làm như tôi là học sinh vậy.

- Đúng là thiếu lễ độ thật - thanh tra Kelsey nói để xoa dịu cơn giận dữ của cô giáo tiếng Pháp.

Nhưng Blanche đã nói tiếp:

- Thế là tôi bước ra, sập cửa lại, chìa khoá trong ổ bật ra, tôi cúi xuống nhặt lên, thì chị ta giật lấy làm như thể tôi định ăn cắp chiếc chìa khoá ấy.

- Hay cô giáo Springer sợ bà nhìn thấy một thứ gì mà cô ấy muốn giấu?

Viên thanh tra định thả câu để tóm được "con cá” nào đấy, nhưng cô giáo Blanche đã cười vang.

- Chị ta thì có gì đáng phải giấu? Thư tình chăng? Tôi cam đoan với ông là không đàn ông nào gửi thư tình cho Springer.

Sau một số câu trả lời vô giá trị, cô giáo Blanche đi ra.

- Một phụ nữ kỳ quái - nhân viên cảnh sát nhận xét.

- Nhưng tôi lại thấy cô ta lộ ra một điều bổ ích, đó là nạn nhân rất không muốn ai vào Cung Thể thao của cô ta. Tại sao lại như thế?

- Có thể là cô giáo dạy tiếng Pháp kia theo dõi nạn nhân.

- Nhưng cô giáo tiếng Pháp tò mò để làm gì, trong khi nạn nhân không có gì phải giấu giếm ai? Còn ai nữa nhỉ?

- Hai giáo viên phụ, Blake và Rowan, và cô thư ký của bà Hiệu trưởng.

- Vậy ta làm tiếp.

* * *

Cô Blake trẻ măng và khuôn mặt rất dễ mến.

Do biết rất ít về nạn nhân nên cô không cung cấp được điều gì bổ ích.

Trái lại, như thường thấy ở những người tốt nghiệp cử nhân "vật lý", cô Rowan lại đưa ra được một giả thuyết bất ngờ: "Có thể đây là một vụ tự sát?"

Viên thanh tra cảnh sát nhún vai:

- Cô giáo Springer có nỗi đau khổ nào lớn không?

- Chị ta có tính hay gây gổ - ánh mắt cô phụ giáo Rowan loé sáng sau cặp mắt kính trắng dầy cộm - Một cách che giấu niềm tự ti của chị ta.

- Những người khác lại bảo cô giáo Springer rất tự tin, thậm chí quá tự tin - thanh tra Kelsey nói.

- Chị ta cố tình làm ra vẻ tự tin thế thôi - cô phụ giáo Rowan nói - Một số câu chị ta nói làm tôi rất ngạc nhiên.

- Thí dụ?

- Chị Springer hay nói bóng gió đến những người mà chị ta bảo là "đóng kịch" và chị ta còn kể rằng ở nơi làm việc trước đây, chị ta đã từng vạch mặt một số người. Tuy nhiên bà Hiệu trưởng không tin, còn các cô giáo khác thì đều chống lại Springer.

Đang cơn sôi nổi, cô phụ giáo Rowan chồm dậy, dướn người về phía viên thanh tra cảnh sát, nói tiếp:

- Ông biết thế nghĩa là sao không? Đó chính là cơn điên cuồng trước khi tự sát.

Thanh tra Kelsey điềm tĩnh nói rằng những phỏng đoán của cô giáo Rowan nghe có thể có lý, nhưng trên thực tế, không thể có chuyện tự tử ở đây vì khẩu súng nhả đạn ở vị trí cách nạn nhân ba mét... Cô giáo Springer không thể với tay ra xa đến thế để tự bắn vào mình được.

Trước khi bước ra và đóng sập cửa lại, cô phụ giáo Rowan lớn tiếng tuyên bố, bệnh cố hữu của giới cảnh sát nói chung là coi thường khoa tâm lý học.

* * *

Tiếp theo là cô Ann Shapland, thư ký của bà Hiệu trưởng.

- Chào cô Shapland, cô có thể cung cấp được thêm gì giúp vào việc làm sáng tỏ vụ án mạng nào? - Thanh tra Kelsey nói, sau khi nhận thấy tấm áo dài giản dị nhưng may cắt rất có "gu và dáng điệu rất tự tin của người vừa bước vào.

- Tôi e rằng tôi không cung cấp được gì thêm. Tôi ngủ ở một phòng cách xa phòng ngủ của mọi người, và phòng làm việc của tôi cũng lánh ra một góc. Tôi lại hầu như không quan hệ với ai. Vụ án mạng này đúng là không thể tưởng tượng nổi.

- Cô nói thế là theo nghĩa thế nào?

- Thế này nhé. Cô giáo Springer đã bị giết. Ta cứ cho rằng có một kẻ lẻn vào Cung Thể thao, và cô giáo Springer thấy động bèn sang đó dò xem kẻ đó là ai và lẻn vào để làm gì. Nhưng kẻ nào lại có ý nghĩ lẻn vào cái Cung Thể thao ấy kia chứ?

- Có thể một chàng trai nào đó muốn vào lấy đi một thứ gì, hoặc muốn tạo một trò cười cho các cô gái học sinh.

- Nếu chỉ là như thế thì tôi cam đoan cô giáo Springer sẽ chỉ mắng rồi đuổi thằng cha kia đi.

- Cô có thấy cô giáo Springer có một thái độ đặc biệt nào đó đối với Cung Thể thao không?

Cô thư ký Ann Shapland tròn xoe mắt tỏ vẻ ngạc nhiên:

- Một thái độ...

- Ý tôi muốn nói cô Springer coi Cung Thể thao như của riêng cô ấy và không muốn cho giáo viên hoặc nhân viên nào vào đó?

- Điều đó thì tôi không biết. Nhưng tại sao chị ấy lại nghĩ như thế được, bởi Cung Thể thao chỉ là một bộ phận của trường.

- Thế có lần nào cô vào Cung chưa, và nếu có thì cô có thấy thái độ khó chịu của cô giáo Springer không?

- Tôi có vào đấy một hoặc hai lần, để truyền đạt một mệnh lệnh của bà Hiệu trưởng cho một học sinh nào đó, nhưng tôi không thấy thái độ của chị Springer có gì khó chịu cả.

- Cô có biết một lần cô Blanche dạy tiếng Pháp vào và bị cô Springer đuổi ra không?

Cô thư ký ngập ngừng một chút rồi nói.

- Tôi nhớ hình như có chuyện ấy thì phải. Nhưng theo tôi, thái độ chị Springer không phải như chị Blanche thuật lại bằng giọng phẫn nộ. Tính chị Blanche như thế. Quá nhiều tự ái, hơi một tí là nổi nóng. Tôi chứng kiến đã có một lần, cô giáo dạy vẽ chỉ góp ý một câu rất nhẹ, thế mà chị Blanche đùng đùng nổi giận. Blanche dạy rất ít giờ, vì chỉ dạy có một môn phụ là tiếng Pháp, cho nên chị ta rất rỗi rãi, và chị ta còn có tính tò mò nữa.

- Cô có nghĩ rằng khi cô Blanche vào Cung Thể thao, cô ấy dám tự ý mở các ngăn riêng của học sinh để xem trộm không?

- Các ngăn đựng quần áo dụng cụ thể thao ấy à? Tôi không nghĩ rằng chị ấy dám làm thế. Nếu có thì chỉ là để thoả một cơn tò mò chốc lát thôi.

- Cô giáo Springer có một ngăn riêng của cô ấy không?

- Tất nhiên là có.

- Và nếu cô Springer bắt gặp bà giáo Blanche đang lục lọi ngăn riêng của cô ấy, tôi tin rằng cô Springer sẽ rất cáu.

- Tất nhiên.

- Cô có biết gì về đời tư của cô Springer không?

- Theo tôi, không ai có thể trả lời câu ông vừa hỏi. Vì chị Springer không hề có đời tư!

- Cô có thấy gì lạ về Cung Thể thao ấy không?

Cô thư ký Shapland ngập ngừng.

- Có, nhưng tôi nghĩ chẳng quan trọng. Chỉ là một trong hai người làm vườn, anh phụ việc của bác Briggs ấy, có một lần tôi thấy anh ta trong Cung Thể thao đi ra, mà anh ta có phận sự gì trong đó đâu? Cũng có thể anh ta vào đó chỉ do tò mò, hoặc để dừng tay trong lúc căng lại lưới quần vợt hôm đó bác Briggs giao cho anh ta làm. Sự việc đó đúng là chẳng có gì quan trọng.

- Vậy mà cô lại nhớ! Tại sao?

- Vị thái độ anh ta lúc đó có gì đó tôi thấy không bình thường. Anh ta giống như một kẻ gây gổ. Nhất là câu anh ta nói về các khoản tiền phụ huynh học sinh đóng góp cho nhà trường. Anh ta bảo tất cả những phúc lợi học sinh được hưởng ở đây chỉ là do tiền của phụ huynh móc túi chi ra.

- Tôi hiểu loại người đó... và tôi sẽ lưu ý.

- Chúng ta vẫn chỉ như kiến bò miệng chén, chưa đi đến đâu - nhân viên cảnh sát nói, sau khi cô thư ký Ann Shapland ra khỏi phòng - Tôi hy vọng đám nhân viên lao công sẽ cung cấp cho chúng ta được thông tin nào đó có giá trị.

* * *

Nhưng tình hình lại không phải như thế. Bà già nấu bếp thì càu nhàu :

- Tôi thì biết gì đâu mà hỏi tôi? Tai tôi nghễnh ngãng, các anh hỏi gì tôi đâu có nghe thấy? Với lại tôi ở lì trong bếp. Ban đêm tôi ngủ thì lại ngủ say như chết. Mãi sáng nay tôi mới nghe chuyện.

Thanh tra Kelsey phải hét vào tai bà cụ vài câu hỏi, nhưng cũng chỉ thu được những chi tiết chẳng quan trọng gì: đúng là cô Springer không được mọi người mến như cô giáo dạy thể dục năm trước. Cô thư ký Shapland cũng là người mới đến làm. Những điều này thì thanh tra Kelsey đã biết.

Các nhân viên lao động khác đều không biết gì hơn, bởi họ bận công việc. Cuộc thẩm vấn đang tiến hành thì bị ngắt quãng: bà Hiệu trưởng Bulstrode vào.

- Một em học sinh muốn nói chuyện với ông thanh tra - bà nói với Kelsey.

Viên thanh tra xem chừng rất chú ý:

- Cô bé biết được chuyện gì phải không, thưa bà?

- Tôi chưa biết. Để rồi ông nghe xem sao. Em này là một trong số học sinh người nước ngoài, là Công nương Shaila, cháu của Ngài Giáo chủ Ibrahim. Tôi chỉ muốn ông lưu ý là em học sinh này thích làm ra vẻ em là nhân vật quan trọng.

Bà hiệu trưởng Bulstrode đi ra và bước vào là một thiếu nữ vóc trung bình, gầy guộc và nước da mầu nâu xám. Cặp mắt đen lánh chăm chú nhìn viên thanh tra cảnh sát, nhưng không hề có vẻ xấc xược.

- Ông là người của cơ quan cảnh sát?

- Vâng - Kelsey đáp, cố ghìm một nụ cười - Mời cô ngồi rồi kể tôi nghe cô biết những gì.

Shaila chậm rãi ngồi xuống, dướn người về phía viên thanh tra cảnh sát, nói nhỏ:

- Có những kẻ đang rình mò trong toà nhà này, tất nhiên chúng giấu mặt, nhưng việc có mặt của chúng ở đây là chắc chắn.

Viên thanh tra cảnh sát thấy ngay cô gái này đang làm ra vẻ quan trọng.

- Nhưng họ theo dõi trường học này để làm gì?

- Bởi chúng muốn bắt cóc tôi.

Câu trả lời vượt ra khỏi những dự đoán của thanh tra Kelsey. Ông chăm chú nhìn cô gái da nâu.

- Tại sao họ muốn bắt cóc cô?

- Tất nhiên để đòi tiền chuộc.

- Có thể - thanh tra Kelsey hỏi vẻ nghi ngờ - Nhưng chuyện đó liên quan gì đến việc cô giáo Springer bị giết?

- Chắc cô Springer đã khám phá ra được âm mưu của chúng và chúng đã biết điều đó. Chúng bèn đút lót tiền để cô không nói lộ ra. Đêm qua cô ấy ra Cung Thể thao để nhận tiền, vì đó là nơi kín đáo nhất, và cô đã bị chúng giết.

- Nhưng cô Springer không phải loại người chịu nhận tiền theo kiểu như thế?

- Ông tưởng làm chân giáo viên thể dục lương cao lắm sao? - Shaila đáp bằng giọng mỉa mai - Ông không cho rằng có nhiều tiền là sung sướng hay sao? Có nhiều tiền là dược du lịch mọi nơi, được hưởng mọi thứ gì mình thích. Nhất là đối với một phụ nữ loại như cô Springer, không được người đàn ông nào để mắt tới. Có nhiều tiền, cô ấy sẽ có điều kiện để trả thù đời.

- Chà! Tôi không biết phải trả lời câu hỏi vừa rồi của cô thế nào đây.

Vấn đề là viên thanh tra cảnh sát chưa bao giờ nhìn sự việc theo góc độ này.

- Tôi đoán tất cả những điều cô vừa nói chỉ là cảm tưởng riêng của cô. Hay cô giáo Springer đã có thổ lộ tâm sự với cô?

- Cô Springer không bao giờ nói câu gì khác ngoài những câu hầu như muôn thuở: "Nhấc cao đầu gối! Đưa cánh tay lên! Nhanh thêm!" - Công nương Shaila nhắc lại những câu kia bằng giọng khinh bỉ.

- Vậy là cô đã tưởng tượng ra toàn bộ âm mưu bắt cóc kia?

Shaila lộ vẻ tự ái:

- Ông vẫn chưa hiểu gì hết! Anh họ tôi là Hoàng thân Ali Yusuf, quốc trưởng nướ Ramat. Anh tôi bị tử nạn trên đường chạy trốn cuộc cách mạng ở đó. Trước đó, tôi được nghe nói anh ấy định cầu hôn với tôi. Do đó, tôi không phải là nhân vật bình thường... Cho nên, cũng có thể không phải bọn chúng muốn bắt cóc tôi, mà chúng muốn giết tôi!

Thanh tra Kelsey mỗi lúc một thêm nghi hoặc.

- Câu chuyện khá ly kỳ đấy.

Công nương Shaila không hiểu lời nói kháy của viên thanh tra cảnh sát.

- Chắc chắn là chúng quan tâm đến số đá quý - cô thốt lên.

- Số đá quý nào?

- Anh họ tôi, Hoàng thân Ali, cùng cha của anh ấy, vị Vua Ramat trước anh, đã tích cóp được một số khá lớn kim cương và đá quý. Thế là bọn người hiện đang bám sát tôi tưởng rằng tôi biết số đá quý kia giấu ở dân. Trước khi giết tôi, chúng hy vọng sẽ moi được ở miệng tôi nơi cất giấu kho báu đó mà chúng tin rằng tôi biết.

- Theo đúng pháp luật thì ai là người được quyền sở hữu số đá quý đó?

- Anh họ tôi đã chết, thì người thừa kế hợp pháp số đá quý đó chính là tôi. Bởi trong số họ hàng thân cận nhất còn sống của Ali Yusuf, chỉ có tôi, chưa kể tôi là vị hôn thê của anh ấy, dì tôi là vợ của Ngài Giáo chủ Ibrahim.

- Vậy mà cô không biết số đá quý kia hiện đang ở đâu?

- Tất nhiên là tôi không biết! Còn có khả năng khác: một kẻ nào đó ở Ramat đã đoạt lấy số đá quý kia, và đang tìm cách bán đi hoặc bắt liên lạc với tôi để bán lại cho tôi lấy một khoản tiền nào đó.

- Trên thực tế là chưa ai gặp cô để thương lượng việc này.

- Đúng thế - Shaila công nhận.

Thanh tra Kelsey quyết định:

- Qua tất cả những chuyện đó, tôi đánh giá toàn bộ chỉ là chuyện viển vông - ông ta nói bằng giọng khoái trá.

Công nương Shaila trợn mát lên giận dữ:

- Tôi đã kể hết những điều tôi biết.

- Rất cảm ơn cô.

Thanh tra Kelsey tiễn công nương ra đến tận cửa.

- Một câu chuyện trong “Nghìn lẻ một đêm"! - ông kêu lên lúc quay lại bàn giấy - Nào bắt cóc, nào kho báu! Còn gì gì nữa chứ?

Chương XXV

Khi thanh tra Kelsey quay về cơ quan cảnh sát, trung sĩ canh gác ngoài cổng nói:

- Một người tên là Adam Goodman đang cần gặp ông Thanh tra.

- Adam Goodman? A, phải rồi, người làm vườn phụ việc...

Một gã trai trẻ đang đứng trước mặt thanh tra Kelsey. Cao lớn, da nâu, dáng điệu dễ dãi, mặc áo vét nhung kẻ, quần âu, thắt bằng chiếc thắt lưng trễ, sơ mi xanh công nhân để mở khuy cổ.

- Ông muốn gặp tôi phải không?

Giọng y ta sẵng và thái độ y xấc xược giống như hầu hết lớp trẻ thời nay.

Thanh tra Kelsey đơn giản đáp:

- Đúng thế. Mời anh vào phòng giấy của tôi.

- Tôi hoàn toàn không biết gì về vụ án mạng - khách nói, đúng hơn là y sủa - Vào giờ xảy ra án mạng, tôi đang ngủ ở nhà tôi.

Làm một cử chỉ mơ hồ, viên thanh tra cảnh sát nửa như chấp nhận, cốt để khỏi lộ những điều ông đã biết về y. Thanh tra Kelsey ngồi vào sau bàn giấy, rồi ra hiệu cho Adam ngồi xuống. Một nhân viên cảnh sát đã kín đáo theo sau họ vào phòng.

- Vậy ra anh là Adam Goodman? - thanh tra Kelsey hỏi.

- Vâng, thưa ông. Nhưng trước tiên tôi muốn đưa ông xem một thứ này.

Y móc túi lấy ra một tờ giấy, đặt lên bàn.

Hàng lông mày của thanh tra Kelsey dướn lên đôi chút lúc ông đọc tờ giấy. Rồi ông ngẩng đầu:

- Tôi không cần đến cậu nữa, Barber, ông ta nói với nhân viên cảnh sát lúc nãy đã kín đáo vào phòng làm anh này thoáng ngạc nhiên.

Đợi nhân viên Barber ra khuất, viên thanh tra cảnh sát chăm chú ngắm nghía Adam một cách không giấu giếm.

- Vậy ra ông như thế này đây? Nhưng ông làm cái trò gì trong...

- Trong một trường nữ học chứ gì? - Gã trai trẻ cười ngắt lời viên thanh tra - Đây là lần đầu tiên tôi được giao một chân như vậy. Nhưng ông thấy tôi có theo đúng dáng dấp của chân phụ việc làm vườn không?

- Chưa đúng lắm. Tại vùng này, làm vườn thường là những người nhiều tuổi hơn thế này. Ông làm công việc ấy được chứ?

- Được. Mẹ tôi đã dạy tôi rất nhiều về cách thức trồng trọt.

- Vậy trong trường nữ học Meadowbank xảy ra chuyện gì mà cơ quan ông lại cử ông đến đó?

- Có chuyện gì rõ rệt đâu! Tôi chỉ được giao nhiệm vụ ở đó theo dõi xem có chuyện gì thì... ít nhất thì nhiệm vụ đó cũng cho đến đêm hôm qua.Một giáo viên thể dục bị giết chính là sự kiện vượt ra khỏi dòng sống tẻ nhạt, đơn điệu của một trường nữ học.

- Mọi thứ đều có thể xảy ra và vào bất kể lúc nào - thanh tra Kelsey thở dài nói - Tôi đã có dịp suy nghiệm thấy điều đó. Tuy nhiên, tôi công nhận vụ án mạng kia làm tôi đặc biệt chú ý, vì rất lạ. Đằng sau nó là cái gì vậy?

Adam lộ ra cho viên thanh tra biết.

- Lúc nãy tôi đã có thái độ không đúng với cô ta, công nương Shaila - sau đó thanh tra Kelsey thừa nhận - Nhưng ông phải thấy là câu chuyện về số đá quý kia chỉ là chuyện hoang đường: một kho báu trị giá sáu bảy triệu bảng Anh. Mà đúng ra số tài sản đó là thuộc quyền sở hữu của ai?

- Câu ông hỏi rất khó trả lời! Muốn tìm ra câu trả lời chính xác, cần phải có cả một binh đoàn luật sư cỡ quốc tế và đến lúc đó xem chừng vẫn khó tìm ra được câu trả lời khả dĩ tất cả đều tán thành. Ba tháng trước đây, đó là tài sản của Hoàng thân Ali Yusuf. Nhưng bây giờ thì... chịu! Nếu người ta tìm thấy số đá quý đó trên đất Ramat, chính quyền nước đó sẽ thu hồi. Nhưng mặt khác, nếu vị Hoàng thân quốc trưởng kia có muốn thừa kế cho ai đi nữa, thì làm sao tìm ra được chúc thư? Đã đành số báu vật đó thuộc về gia đình ông ta, nhưng điểm cơ bản là nếu ông hoặc tôi nhặt được nó ngoài phố, chúng ta chỉ việc nhấc nó lên, bỏ vào túi và sử dụng. Số đá quý đó sẽ thuộc sở hữu của ông hay của tôi cho đến khi một quyết định của toà án buộc ta phải trả lại cho ai đó. Điều này tôi cho rằng khó xảy ra.

- Ông muốn nói rằng đấy là của rơi, kẻ nào nhặt được cứ việc hưởng? - Thanh tra Kelsey hỏi - Như thế là không còn đạo lý gì hết.

- Cũng có thể. Nhưng trong trường hợp này, theo tôi biết, lại có hơn một người đang lùng tìm nó. Và trong khi tìm, họ không cần nương nhẹ thứ gì. Họ đã đánh tiếng, ông thấy rồi đấy. Lời đồn đại cho rằng số đá quý đó đã lọt ra khỏi nước Ramat từ trước khi cuộc cách mạng bùng nổ. Cụ thể như thế nào thì có hàng ngàn giả thuyết.

- Nhưng tại sao lại dính đến trường nữ học Meadowbank? Do ở đấy có một học sinh là công nương vùng Trung Đông chăng?

- Thanh tra định nói công nương Shaila, em họ của Hoàng thân Ali Yusuf chứ gì? Đã có kẻ đang tìm mọi cách bắt liên lạc với cô bé ấy. Thật ra, rất nhiều kẻ đáng ngờ hiện đang cư trú xung quanh đây. Chẳng hạn Phu nhân Kolinsky, hiện ở trong khách sạn Grand Hotel tại London. Bà ta là thành viên của một nhóm mà ta tạm gọi là "Công ty Sương Mù”. Họ chưa làm gì vượt ra ngoài khuôn khổ luật pháp nhưng đã tiến hành cả một chiến dịch thu thập thông tin. Còn một phụ nữ nữa từng làm chân vũ nữ trong một quán rượu tại Ramat. Nghe đâu cô ta đang làm việc cho một chính phủ nước ngoài. Hiện nay chúng ta chưa biết cô ta đang ở đâu, thậm chí chưa thấy dấu vết cô ta. Nhưng theo tin đồn thì cô ta hiện đang ở không xa chúng ta. Xem chừng trường nữ học Meadowbank đã trở thành một trung tâm thu hút sự chú ý của rất nhiều người, nhiều tổ chức, nhiều băng đảng. Cô giáo Springer là một biểu hiện.

Sau một chút im lặng, thanh tra Kelsey hỏi:

- Theo ông thì đêm qua chuyện gì đã xảy ra?

Adam suy nghĩ rất kỹ rồi mới trả lời.

- Cô giáo Springer vào Cung Thể thao để làm gì không biết. Toàn bộ vấn đề là cô vào đó làm gì? Tìm hung thủ là chuyện vô ích, nếu chưa tìm ra được lý do cô ta có mặt trong toà nhà đó vào một giờ không bình thường. Ta giả định, cô ấy không ngủ được, dậy và nhìn thấy có ánh sáng trong Cung Thể thao. Mà còn phải xem cửa sổ của phòng cô ta có hướng về phía Cung Thể thao không?

Thanh tra Kelsey gật đầu:

- Có!

- Vậy thì được. Vốn là người phụ nữ gan góc, cô giáo Springer bèn ra khỏi nhà, sang đó xem có chuyện gì. Và cô đã phá rối một kẻ nào đó lúc này đang có mặt trong Cung. Hắn vào đó làm gì? Chúng ta chưa biết. Nhưng chúng ta đoán tên kia thấy có nguy cơ công việc bại lộ nên đã hạ sát cô giáo bất hạnh kia để thủ tiêu đầu mối.

Thanh tra Kelsey gật đầu nói:

- Chúng tôi đã xét sự việc theo góc độ đó. Nhưng điểm cuối cùng làm tôi băn khoăn: Tên kia sẽ không hạ sát nếu như ...

- Nếu như hắn không cần tìm một vật quan trọng nào đó chứ gì - Adam ngắt lời viên thanh tra - Có ba giả thuyết: hoặc Springer vô tội, là nạn nhân tinh thần trách nhiệm của bản thân cô ta; hoặc cô ta sau khi biết được một số thông tin đã chủ động xin vào làm trong trường này. Giả thuyết cuối cùng là cô ta đã làm theo lệnh của một người nào đó. Trong hai trường hợp sau, cô ta đợi đến một dịp thuận lợi và đêm khuya mò vào Cung Thể thao. Một kẻ nào khác đã bám theo cô ta, hoặc rình cô ta trong toà nhà, mang sẵn khẩu súng để nếu không khai thác được cô ta thì thủ tiêu... Nhưng lại vẫn câu hỏi kia trở lại: để làm gì? Trong cái toà nhà khốn kiếp kia có thứ gì quan trọng đến thế? Đấy đâu phải nơi có thể giấu thứ gì?

- Tôi dám cam đoan với ông rằng tôi đã cho lục soát tất cả các ngăn đựng đồ, kể cả ngăn của cô giáo Springer, nhưng không thấy bất cứ một vật gì có giá trị.

- Có thể tên gian cần một thứ không có giá trị. Nhưng còn một khả năng nữa. Bọn chúng chọn Cung Thể thao làm nơi gặp cô giáo Springer hoặc một người khác, vì nơi này ở gần toà nhà chính. Ta giả định cô giáo Springer sang Cung để gặp một người thứ ba: giữa cô ta và y nổ ra một cuộc cãi cọ… và thế là tên kia gây án. Hoặc một giả thiết nữa, cô Springer quả đã nhìn thấy một người vừa ra khỏi trường học, bèn bám theo, kết quả là cô ta đã nghe được một điều mà bọn chúng cần giữ bí mật...

- Tôi chưa được nhìn thấy cô giáo Springer trong khi cô ta còn sống, nhưng nghe các nhân chứng kể, tôi có cảm giác cô ta là người rất tò mò.

- Đấy chính là cách cắt nghĩa khả dĩ chấp nhận được nhất. Tính tò mò đã giết chết cô ta.

Thanh tra Kelsey nói tiếp:

- Còn nếu quả là một cuộc hẹn để gặp gỡ nhau thì...

Viên thanh tra ngừng nói, nhưng Adam đã tiếp lời:

- ... thì trong trường nữ học này tất yếu có một người đáng cho chúng ta chú ý. Có nghĩa trong chuồng cừu đã lọt vào một con chó sói.

Thanh tra Kelsey phản ứng tức thì:

- Con chó sói... cô giáo Rich dạy văn sáng nay cũng đã dùng đúng cái từ ấy.

Sau một thoáng suy nghĩ, ông thanh tra nói tiếp:

- Niên học năm nay, trường Meadowbank có thêm ba cô giáo và nhân viên mới: cô Blanche dạy tiếng Pháp, cô Springer dạy thể dục và cô Shapland làm thư ký cho bà Hiệu trưởng Bulstrode. Cô Springer thì đã chết. Nếu có chó sói thì tức là một trong hai cô còn lại: Blanche hoặc Shapland.

Adam cố nhớ lại các chi tiết rồi kết luận:

- Tôi nghi cô thư ký Shapland nhiều hơn. Nhưng sao ông lại cười?

- Vì chính cô ta lại nghi ông, cô thư ký kia bảo đã bắt quả tang anh thợ phụ làm vườn trong Cung đi ra, và thái độ lúng túng...

- Quái quỷ! - Adam phẫn nộ kêu lên.

Nhưng thanh tra Kelsey đã lấy lại vẻ nghiêm túc.

- Do trường nữ học Meadowbank có uy tín lớn và bà hiệu trưởng Bulstrode là người đáng kính, chúng ta cần hành động nhanh, và trả lại cho trường nữ học này sự yên tĩnh vốn có của nó.

Ngừng nói, thanh tra Kelsey chăm chú nhìn Adam, kết luận:

- Đã đến lúc cần lộ cho bà hiệu trưởng Bukstrode chức vụ thật của ông. Ông đừng sợ, bà ấy sẽ giữ kín.

Chương XXVI

Bà hiệu trưởng Bulstrode còn có một phẩm chất nữa khiến bà vượt lên trên hầu hết các phụ nữ khác đó là bà rất biết nghe. Cho nên khi bà nghe xong thanh tra Kelsey nói về chức vụ thật của Adam, bà không hề tỏ thái độ gì. Cuối cùng bà chỉ thốt lên hai chữ:

- Kỳ lạ!

"Chính bà mới là người kỳ lạ" - Adam thầm nghĩ, nhưng anh ta không nói ra.

Bà hiệu trưởng nói tiếp:

- Vậy các ông yêu cầu tôi điều gì? - Bà có tác phong nói thẳng vào vấn đề như vây.

Thanh tra Kelsey ho để thông cổ họng:

- Trước hết, cho phép tôi được nói với bà rằng, cả vì quyền lợi của nhà trường, tốt nhất là bà cần được thông tin đầy đủ.

- Tất nhiên - bà hiệu trưởng đáp bằng giọng đĩnh đạc - Trường nữ học này là niềm lo lắng đầu tiên của tôi, tôi phải chịu trách nhiệm về an ninh và hạnh phúc của toàn bộ học sinh. Và muốn như thế dư luận càng ít nói đến tấn bi kịch vừa qua càng tốt cho tôi. Có thể tôi nghĩ như thế có phần ích kỷ, nhưng nếu các ông thấy việc này phải đưa ra công khai để thuận tiện cho việc điều tra của các ông thì xin các ông đừng ngại ngùng gì mà cứ tiến hành. Nhưng có thật cần thiết phải đưa ra công khai không?

Thanh tra Kelsey đáp:

- Trong trường hợp cụ thể này, tốt nhất là vẫn phải giấu kín thực chất của vụ án mạng. Tôi nói như thế có nghĩa chúng ta đưa tin vụ án mạng, nhưng nói chệch đi đôi chút, chẳng hạn chỉ nói rằng có một toán thanh niên thoái hoá chuyên đi ăn trộm ban đêm, cô giáo Springer phát hiện ra chúng nên bị chúng giết. Báo chí đưa tin theo cách đó thì công chúng chỉ thấy đây là một vụ án không có gì đặc biệt. Tất nhiên tôi cũng hiểu rằng một vụ án mạng ở trường Meadowbank cũng là sự việc vượt ra ngoài khuôn khổ bình thường. Dù sao chúng ta vẫn cần làm cho nó không thành ầm ĩ, bà có thấy như vậy không, thưa bà Hiệu trưởng?

- Về mặt này, tôi thấy có thể giúp được các ông - bà Hiệu trưởng Bulstrode nói - Tôi không thiếu người quen trong giới cao cấp.

Bà cười và nêu tên tuổi một số nhân vật, trong đó có Bộ trưởng Nội vụ, hai nhân vật đứng đầu ngành báo chí, cả Bộ trưởng Giáo dục và một Giám mục. Bà nói thêm:

- Tôi sẽ cố gắng đến mức tối đa - rồi bà quay sang Adam - Ông cũng đồng ý chứ?

- Hoàn toàn đồng ý, thưa bà. Chúng ta cần giữ tuyệt đối bí mật công việc của chúng ta.

- Ông vẫn tiếp tục giúp việc cho bác làm vườn Griggs của chúng tôi chứ?

- Nếu bà cho phép, tôi vẫn giữ cương vị đó, vì như thế tôi sẽ dễ theo dõi những diễn biến tiếp theo của vụ án.

Lần này, trán bà Hiệu trương cau lại.

- Tôi hy vọng sẽ không có những vụ án mạng khác nữa.

- Sẽ không có thêm vụ nào nữa đâu, thưa bà.

- Càng hay, bởi tôi nghĩ nếu lại xảy ra một vụ án mạng nữa ngay trong tam cá nguyệt này thì quả là nhà trường khó đứng vững.

Rồi bà hiệu trưởng Bulstrode quay sang thanh tra Kelsey:

- Các nhân viên cảnh sát của ông đã làm xong công việc ở Cung Thể thao rồi chứ? Tôi không muốn đóng cửa quá lâu nơi tập cho các em học sinh.

- Thưa bà, công việc của chúng tôi trong đó đã xong. Theo tôi, toà nhà đó không có gì giúp chúng tôi làm sáng tỏ vụ án mạng. Đó hoàn toàn chỉ là một phòng tập với các dụng cụ thể thao.

- Các ông không phát hiện thấy gì trong các ngăn đụng quần áo của học sinh à?

Kelsey gượng cười:

- Chỉ vài thứ không đáng kể: một cuốn truyện tiếng Pháp là Candide... có cả minh hoạ, thuộc loại sách quý .

- Chà, con bé giấu cuốn sách ở đó - bà Hiệu trưởng tỏ vẻ khó chịu - Đó là ngăn của một học sinh tên là Giselle d Aubray, chắc thế.

Viên thanh tra cảnh sát thán phục:

- Không thứ gì qua mắt được bà, thưa bà Hiệu trưởng.

- Xin hỏi lại các ông một lần nữa: tôi có cần làm gì để giúp các ông không?

- Hiện nay tôi thấy chưa cần. Nhân đây xin hỏi thêm bà, từ hôm khai giảng niên học mới đến giờ, bà có thấy một hiện tượng nào lạ, một thái độ không bình thường của một học sinh nào không?

Bà hiệu trưởng im lặng một lát rồi chậm rãi nói:

- Cụ thể thì không có.

Adam hỏi lại ngay:

- Nghĩa là bà có linh cảm gì đó?

- Đúng vậy. Nhưng tôi rất khó nói cho rõ ràng... ít nhất thì...

Bà hiệu trưởng lại suy nghĩ khá lâu, rồi kể cho Adam nghe về một phụ huynh học sinh, tên là bà Upjohn. Bà này đưa con gái đến nhập học cùng với các phụ huynh học sinh khác hôm khai trường. Lúc bà ta đứng trong phòng tiếp khách, ngó ra ngoài sân, bà ta nhìn thấy một người nào đó và kêu lên ngạc nhiên. Tiếng kêu của bà Upjohn khiến bà hiệu trưởng có cảm giác như bà ta nhìn thấy một người lẽ ra không đến đây thì lại có mặt ở đây.

Bà hiệu trưởng Bulstrode nói:

- Lúc đó, tôi suy nghĩ như thế, nhưng chưa kịp hỏi xem người ngoài sân kia là ai thì đã có một phụ huynh hỏi tôi điều gì và tôi phải trả lời. Sau đó tôi định gặp bà Upjohn kia để hỏi thì bà ta lại đang mải trò chuyện với một phụ huynh khác trong phòng. Tôi lắng nghe thì được biết thêm rằng trong thời gian chiến tranh bà Upjohn đã từng hoạt động tình báo. Vừa lúc ấy, lại có người hỏi tôi, tôi đành bỏ việc gặp bà Upjohn kia.

- Chà - thanh tra Kelsey nhân xét - Người phụ nữ bà Upjohn kia nhìn thấy ngoài sân hẳn là bạn đồng nghiệp cũ, cũng hoạt động tình báo, và nay là mẹ của một học sinh trong trường nữ học này, hoặc là người nhà của một nhân viên trong trường.

- Mà cũng có thể không phải cả hai - bà hiệu trưởng Bulstrode nói.

- Dù sao, chúng tôi cũng sẽ liên hệ với bà Upjohn - thanh tra Kelsey nói - Càng sớm càng tốt. Bà có địa chỉ của bà Upjohn kia không ạ?

- Tất nhiên là có, nhưng tôi e thời gian này bà ta đang ở nước ngoài. Để tôi thử hỏi xem.

Bà hiệu trưởng gọi điện thoại, nhưng đầu dây kia không ai trả lời. Bà bèn ra hành lang, gọi một học sinh đứng ngoài đó:

- Paula, cô muốn nhờ em gọi hộ bạn Julia Upjohn lên gặp cô ngay, được không?

Lúc bà hiệu trưởng quay vào phòng, Adam đứng dậy:

- Tôi không nên ở lại đây trong lúc cô học sinh kia đến, vì cô ta sẽ ngạc nhiên thấy tôi tham gia vào việc điều tra. Với người ngoài, tôi vẫn thuộc số người bị cảnh sát tình nghi. Ta nên đóng một màn kịch nhỏ: sau khi không khai thác được gì ở tôi, thanh tra Kelsey đuổi tôi ra. Nên làm thế, phải không, thưa ông thanh tra?

Thanh tra Kelsey bèn cao giọng nói:

- Thôi được tôi tạm để anh đi, nhưng anh nên biết cảnh sát sẽ không rời mắt khỏi anh đâu đấy, anh bạn trẻ.

Khi ra đến cửa, trước khi mở cửa, Adam quay sang bà hiệu trưởng Bulstrode, nói thêm:

- Nhân đây xin đề nghị với bà một điều, cho phép tôi được lạm dụng đôi chút vị trí của tôi trong trường. Thí dụ cho tôi tán tỉnh đôi chút các nhân viên của bà, được không ạ?

- Những ai chẳng hạn?

- Chẳng hạn cô giáo Blanche.

- Cô giáo dạy tiếng Pháp? Ông định...

- Tôi cảm thấy hình như cô người Pháp ấy ở đây đang buồn...

Bà hiệu trưởng cau mày, có vẻ không hài lòng, nhưng bà vẫn nói:

- Có lẽ ông nhận xét đúng. Còn ai nữa?

- Tôi sẽ lợi dụng khả năng chinh phục phụ nữ của tôi, mở rộng ra hầu như với tất cả mọi người ở đây - Adam vui vẻ nói - Và nếu bà hiệu trưởng thấy đột nhiên rất nhiều nữ sinh của bà quan tâm đến nghề làm vườn thì bà hãy hiểu cho rằng tôi làm thân với họ hoàn toàn chỉ để phục vụ cho việc điều tra.

- Ông cho rằng đám học sinh biết được điều gì chăng?

- Mỗi người đều biết một điều gì đó, thưa bà.

- Cũng có thể... Đúng thế...

Có tiếng gõ cửa. Nữ sinh Julia Upjohn bước vào, thở hổn hển. Thanh tra lên giọng nạt nộ với Adam:

- Thôi hãy tạm thế, Adam Goodman! Anh về làm việc tiếp đi.

Adam bước ra nhanh, không quên kèm theo câu nói chua chát:

- Không khác gì mật thám phát xít!

Julla nói:

- Cô tha lỗi cho em ăn mặc lôi thôi thế này mà dám vào gặp cô, thưa cô hiệu trưởng. Chẳng là em đang đánh quần vợt, nghe lệnh cô gọi, em vội chạy cho nhanh về đây.

- Không sao - bà hiệu trưởng nói - Ta chỉ muốn hỏi em một điều nhỏ, cho ta biết địa chỉ hiện nay của mẹ em để ta gởi thư cho bà.

- Ôi, tốt nhất là cô gửi cho dì Isabelle, bởi mẹ em đang ở nước ngoài.

- Địa chỉ của bà Isabcue thì ta biết, nhưng ta muốn gửi thư cho bà Upjohn.

- Em không biết mẹ em hiện giờ ở đâu. Em chỉ biết mẹ em bảo đi Thổ Nhĩ Kỳ bằng xe ca.

- Bằng xe ca - bà hiệu trưởng ngạc nhiên.

Julia gật đầu:

- Tính mẹ em thích thế. Đi xe ca rẻ, tuy có thiếu tiện nghi đôi chút. Phải ít nhất ba tuần lễ nữa em mới biết được mẹ em ở đâu.

- Đáng tiếc! Julia, mẹ em có lần nào nói với em về một phụ nữ mẹ em nhìn thấy ở đây hôm khai giảng không? Hình như bà ấy cùng hoạt động với mẹ em hồi chiến tranh thì phải.

- Em không biết bà ấy, thưa cô hiệu trưởng... Đúng là em không biết.

- Hình như ngày trước bà Upjohn có làm cho cơ quan Mật vụ?

- Vâng, mẹ em rất thích loại hoạt động ấy. Tuy nhiên mẹ em không đặt bom phá hoại bao giờ, và cũng không bị mật vụ Đức bắt lần nào. Cho nên mẹ em cũng chưa hề bị tra tấn. Hình như mẹ em đã từng hoạt động ở Thuỵ Sĩ hay Bồ Đào Nha thì phải.

Cô nữ sinh nói như nhận lỗi:

- Mẹ em kể nhiều chuyện về chiến tranh lắm nhưng em không chăm chú nghe mấy.

- Ta cảm ơn em, Julia.

Sau khi cô nữ sinh đã ra ngoài, bà Hiệu trưởng thốt lên:

- Sang tận Thổ Nhĩ Kỳ mà đi bằng xe ca thì quả tôi không hiểu nổi. Mà cô bé kia nói cứ như mẹ nó đi xe buýt đến phố Regent mua sắm ấy.

Chương XXVII

Mặt nhăn nhó, tay vung vẩy cây vợt, Jennifer Sutcliffe rời khỏi sân quần vợt. Cô bé rất bực về những lỗi cô phạm phải trong ván vừa rồi. Tất cả chỉ do cây vợt tồi quá. Jennifer rất tiếc là cô giáo Springer đã chết, cô ấy đánh quần vợt rất giỏi và dạy được cho Jennifer bao nhiều điều. Chơi quần vợt là một trong những say mê lớn nhất của em.

- Xin lỗi... - Một tiếng người ngay bên tai cô bé.

Jennifer giật mình quay lại, thấy một phụ nữ ăn mặc sang trọng, mái tóc vàng óng, tay ôm một hộp dẹt và dài, đứng ngay trên lối đi. Jennifer ngạc nhiên, bà ta đi nhẹ chân thế nào mà em không nghe thấy tiếng chân bước? Jennifer không hề biết bà ta đã nấp sẵn sau gốc cây to, chờ em từ lâu bây giờ mới bước ra.

Giọng hơi có chút âm sắc Mỹ, bà khách hỏi:

- Cô bé làm ơn chỉ cho tôi làm thế nào gặp được em học sinh tên là Jennifer...

- Cháu chính là Jennifer đây.

- Ôi! May quá!... Vậy thì thế này... Tối hôm qua, trong một bữa tiệc, nghe thấy cô nói hôm nay có việc trên vùng này, dì hay cô hay mẹ đỡ đầu của cháu, cô không hỏi kỹ và cũng quên cả tên, đã đến gặp cô, hỏi cô có thể ghé qua trường nữ học Meadowbank, chuyển một thứ nhỏ cho cháu được không. Hình như cháu đang ao ước có một cây vợt mới phải không?

Nét mặt Jennifer rạng rỡ hẳn lên: tuyệt vời!

- Chắc là mẹ đỡ đần của cháu đấy, tên là bà Campbell, nhưng cháu quen gọi là cô Gina. Chắc chắn không phải dì Rosemonde rồi, bởi dì ấy "keo" lắm, hôm Noel chỉ cho cháu mỗi tờ giấy mười shilling.

- Bây giờ thì cô nhớ ra rồi, bà ấy tên là bà Campbell.

Jennifer đỡ lấy cái hộp, mở ra ngay:

- Tuyệt trần gian! - Em reo lên - Cháu thèm có một cây vợt như thế này từ lâu lắm rồi. Cây vợt cũ quá tồi tệ không thể chơi nổi. Cảm ơn cô quá!

- Không có gì. À, bà Campbell còn nhờ cô cầm về cho bà cây vợt cũ của cháu, để bà thuê cửa hàng căng dây lại.

Lúc nãy mừng rỡ quá, Jennifer đã quẳng cây vợt cũ xuống đất, em chưa kịp nhặt lên thì bà khách đã cúi xuống nhặt lấy. Jennifer bèn nói:

- Cây vợt cũ ấy chỉ có vút đi thôi.

- Cháu cũng cần có một cây vợt dự trữ chứ? Cây này căng lại dây còn dùng được tốt. Nhưng thôi muộn rồi, cô phải đi thôi.

- Để cháu gọi tăcxi cho cô.

Jennifer định chạy đi gọi điện thoại thì bà khách ngăn lại:

- Không cần cháu ạ. Cô có xe chờ ngoài cổng. Cô bảo tài xế đợi ngoài đó rồi đi bộ vào đây tìm cháu thôi. Chúc cháu chơi quần vợt giỏi.

Bà khách bước nhanh ra cổng, chưa kịp để Jennifer chào và cảm ơn.

Cô bé sung sướng chạy đi tìm bạn thân, Julia Upjohn. Gặp bạn, Jennifer khoe cây vợt mới.

Julia Upjohn ngắm nghía cây vợt:

- Đẹp quá! Kiếm đâu ra đấy?

- Mẹ đỡ đầu của mình, cô Gina, vừa nhờ người chuyển đến đây cho mình đấy. Cô Gina giàu khủng khiếp. Chắc cô nghe thấy mẹ mình kể là mình xin một cây vợt mới.

Đúng lúc đó, công nương Shaila bước đến. Jennifer bèn khoe bạn:

- Tuyệt chưa?

Công nương Shaila cầm cây vợt chăm chú xem rồi trả lại cho Jennifer:

- Loại vợt này đắt tiền lắm đây.

Rồi cô ta đi tiếp. Đôi bạn thân thiết còn lại, dắt tay nhau quay về sân quần vợt. Cung Thể thao lúc này đã không còn nhân viên cảnh sát nữa.

Julia Upjohn hỏi:

- Bạn định làm gì với cây vợt cũ?

- Bà khách vừa rồi lấy đi rồi, để đưa về cho mẹ mình căng lại dây.

- Thế à? - Julia hơi ngạc nhiên, rồi cô bé lộ vẻ suy nghĩ.

- Bà Hiệu trưởng gọi lên có việc gì đấy? - Jennifer hỏi bạn.

- Chuyện nhỏ thôi, bà ấy hỏi địa chỉ hiện nay của mẹ mình. Nhưng làm sao mình biết được? Mẹ mình đi Thổ Nhĩ Kỳ bằng xe ca... Mà này, Jennifer, cây vợt bạn đưa bà khách kia đâu phải của bạn?

- Sao lại không phải của mình?

- Bạn quên rồi à? Chúng mình đổi vợt cho nhau mà lại.

- Ừ nhỉ? Thì có gì quan trọng đâu nào?

Chương XXVIII

Kỳ nghỉ cuối tuần lễ thứ ba trong tam cá nguyệt đầu của niên học diễn ra theo như thường lệ: nhiều phụ huynh đón con ra ngoài đi chơi cho nên trường nữ học nội trú Meadowbank vắng tanh. Thậm chí một số nhân viên cũng xin nghỉ để về nhà. Riêng bà hiệu trưởng Bulstrode thì nhận lời đến thăm công tước phu nhân Welsham, là người đang có hai con gái học tại trường nữ học này.

Sáng Thứ bảy, bà hiệu trưởng Bulstrode đang đọc cho cô thư ký Shapland ghi nội dung các lá thư cần thảo, thì chuông điện thoại reo. Cô thư ký Shapland nhấc ống nghe rồi nói với bà Hiệu trưởng:

- Ngài Giáo chủ Ibrahim nhắn là Ngài đã đến nước Anh, hiện đang nghỉ tại khách sạn Claridge, muốn gặp cháu Ngài là công nương Shaila.

Bà hiệu trưởng Bulstrode cầm máy nói chuyện một lát rồi đặt máy xuống, gọi cô Shapland.

- Ngài Giáo chủ Ibrahim muốn công nương Shaila chuẩn bị sẵn để Ngài cho xe đến đón vào lúc mười một rưỡi. Tám giờ tối nay, Ngài sẽ cho xe chở công nương về trường. Mấy vị khách Trung Đông này chuyên môn cứ sát nút mới báo. Tôi đã đồng ý cho Shaila đi chơi với hai mẹ con Giselle d Aubray trong kỳ nghỉ cuối tuần này. Đành phải hoãn cuộc đi chơi ấy đến dịp khác vậy.

- Vâng, thưa bà Hiệu trưởng.

- Vậy là tôi có thể yên tâm đi được rồi. Thảo xong số thư từ kia, chị gửi đi ngay, sau đó, chị được tự do cho đến sáng Thứ hai.

- Cảm ơn, thưa bà.

- Có cậu nào rồi chứ?

- Vâng - cô thư ký Shapland đỏ mặt đáp - Vẫn là anh ấy thôi.

- Nếu đã quyết định lấy anh ta thì tôi khuyên nên cưới ngay. Bây giờ chị đi tìm bà Chadwick cho tôi.

Cô thư ký ra và chỉ lát sau, bà giáo Chadwick dạy toán đã vội vã bước vào.

Bà hiệu trưởng Bulstrode nói:

- Ngài Giáo chủ Ibrahim đến nước Anh, nghỉ ở khách sạn Claridge, ngỏ ý muốn đón Shaila đến chơi với Ngài. Nếu đích thân Ngài Giáo chủ đến đây, chị nhớ kể rằng cháu gái Ngài học hành rất tốt.

- Thật ra thì hoàn toàn không phải thế - bà giáo Chadwick nhăn mặt nói khẽ.

- Về mặt học vấn thì có thể như thế, nhưng về mặt cuộc sống thì cô ta giỏi giang đấy chứ. Phụ nữ Trung Đông phát triển sớm hơn phụ nữ da trắng chúng ta nhiều.

- Về mặt này, tôi chưa hoàn toàn đồng ý với chị, Bulstrode ạ. Nhưng chị yên tâm, chị cứ đi chơi thoải mái, không phải lo lắng gì hết.

- Đây cũng là dịp để Eleanor Vansittart thử sức trong việc lãnh đạo. Chị ấy là phụ nữ có năng lực, lại có chị bên cạnh hỗ trợ, tôi không phải lo lắng gì hết.

- Tôi cũng hy vọng là như thế. Nhưng bây giờ tôi phải đi gặp công nương Shaila báo cho cô bé chuẩn bị.

Cô công nương Trung Đông tỏ vẻ rất ngạc nhiên và dường như không hài lòng khi nghe tin ông chú đến nước Anh.

- Sáng mai em phải đi gặp chú em ạ? - Cô ta nói giọng bực dọc - Nhưng thưa cô Chadwick, trường đã quyết định sáng mai cho em đi chơi với Giselle và mẹ của bạn ấy rồi kia mà?

- Việc ấy đành phải hoãn lại, để dịp khác vậy.

- Em thích đi chơi với bạn Giselle d Aubray hơn nhiều - cô bé sôi nổi nói - Chú em khó tính khó nết lắm, lúc nào cũng cau có, gắt gỏng rất khó chịu.

- Em không được nói thế - bà Chadwick nói - Ngài Giáo chủ Ibrahim cũng chỉ ở lại nước Anh một tuần lễ thôi, và Ngài sang đây công cán, muốn gặp cháu là chuyện tất nhiên.

- Rất có thể chú em sang đây gặp em là để thu xếp chuyện hôn nhân của em. Thôi, cũng được...

* * *

Sáng Chủ nhật, thời tiết đẹp tuyệt vời. Sau khi bà hiệu trưởng Bulstrodc đi, cô thư ký cũng đi.

Đến mười giờ thì cô giáo Eileen Rich dạy văn và cô phụ giáo Blake cũng đi. Cả bà giám thị Johnson. Còn lại ở trường Meadowbank chỉ có cô Vansittart dạy lịch sử và tiếng Đức ở lại trông nom công việc thay bà hiệu trưởng, cô giáo Blanche dạy tiếng Pháp và cô phụ giáo Rowan.

Bà giáo Chadwick dạy toán nói với cô giáo Vansittart dạy lịch sử và tiếng Đức:

- Mong rằng đám học sinh về nhà không loan truyền về vụ kia quá nhiều... Là tôi nói đến vụ cô Springer ấy...

- Mong người ta sớm quên đi chuyện đó - cô giáo Vansittart đáp.

* * *

Sau buổi cầu kinh sáng, các phụ huynh lục tục đến đón con cái họ đi chơi. Đôi bạn thân thiết Julia và Jennifer đang dán mũi lên cửa kính nhìn ra ngoài. Julia nói:

- Giá có ai đến đón mình đi chơi nhỉ? Ít nhất thì cũng là dì Isabelle!

- Mẹ mình hẹn tuần sau đến đón mình. Tuần này ba mình phải thết tiệc khách khứa nên mẹ mình không đi được.

- Kìa Shaila! - Julia kêu lên - Ăăn vận diêm dúa để đi London có khác. Bạn nhìn gót giầy của nó kìa.

Đúng lúc đó, một tài xế mặc chế phục kiểu gia nhân nhà quan ở một quốc gia Trung Đông bước trong một chiếc xe hơi bóng lộn ra, mở cửa xe.

Công nương shaila nhanh nhẹn chui vào và xe lập tức lăn bánh.

- Bạn tính làm gì trưa nay? Viết thư chứ gì? Mình thì không phải viết, tuần sau mẹ mình đã đến đây rồi - Jennifer nói.

- Mình thấy bạn rất ít viết thư. Tại sao vậy, Jennifer?

- Mình không thấy hứng.

- Mình thì lại rất thích viết, nhưng chẳng biết viết cho ai. Mẹ mình thì quanh năm ngao du khắp mọi nơi, không lúc nào có địa chỉ ổn định. Mà mình chưa hiểu... Bà hiệu trưởng Bulstrode bảo rất cần gửi thư cho mẹ mình. Không biết có chuyện gì nhỉ? Lúc bà ấy gọi mình lên để hỏi địa chỉ mẹ mình, trông mặt bà ấy như đang xúc động gì ghê gớm lắm.

- Chắc chắn không phải để kế về bạn, vì bạn có phạm lỗi gì đâu? Có khi bà hiệu trưởng muốn kể cho mẹ bạn về vụ cô giáo thể dục Springer.

Họ im lặng một lát. Rồi Julia nói:

- Bạn có thấy không? Người ta giấu chúng mình rất nhiều chuyện xung quanh cái chết của cô Springer đấy.

- Chuyện gì chẳng hạn?

- Theo mình đoán thì sau vụ án mạng đã có nhiều chuyện kỳ lạ khác xảy ra tiếp theo. Nguyên cái chuyện cây vợt của bạn chẳng hạn…

- Mình kể cho bạn nghe nhé - Jennifer nói - Ngay hôm đó mình đã gửi thư cho cô Gina để cảm ơn nhưng cô Gina viết trả lời mình thế này có lạ không? Cô ấy rất vui thấy mình mãn nguyện, nhưng cô ấy bảo "người tặng cháu cây vợt không phải là cô". Thế nghĩa là sao? Người cho mình cây vợt tuyệt vời ấy là ai vậy?

- Và mình nhắc thêm để bạn nhớ: cây vợt cũ mà bạn đưa bà khách hôm ấy chính là của mình. Câu chuyện thật lạ. Bạn còn đã kể mình nghe là nhà bạn có kẻ trộm đột nhập.

- Nhưng không mất gì.

- Như thế lại càng khả nghi. Hai sự kiện kia khiến mình nghĩ, bạn và ba mẹ bạn cần phải hết sức cảnh giác.

- Có lẽ bạn nói đúng.

- Bạn đã bao giờ đọc truyện trinh thám chưa? Rất có thể gia đình bạn đang "có chuyện" đấy. Tuần sau, mẹ bạn đến đây, bạn thử hỏi mẹ bạn xem. Rất có thể trước khi rời khỏi Ramat, mẹ bạn đã nhận được một số tài liệu bí mật nào đó.

- Chắc chắn không có chuyện ấy.

- Làm sao bạn dám chắc chắn? Bạn nhớ lại những chuyện về các tài liệu để chế tạo bom nguyên tử xem. Vậy là bạn không chịu đọc sách báo gì hết!

Jennifer nhún vai, thầm nghĩ: "Con Julia này quá giàu tưởng tượng!"

Chương XXIX

Hai bà giáo Vansittart và Chadwick đang ngồi trong phòng dành cho giáo viên thì cô phụ giáo Rowan hốt hoảng chạy vào:

- Xe Ngài Giáo chủ đến hỏi công nương Shaila.

- Sao? - Bà giáo Chadwick kêu lên - Cô nghe lầm rồi. Chiếc xe ôtô ấy đã đến đón Shaila đi từ gần một tiếng đồng hồ rồi.

- Có sự lầm lẫn nào đấy thôi. Ngài Giáo chủ đã sai một lái xe đi, nay quên, lại sai một lái xe khác - Cô giáo Vansittart nói.

Sau đó cô ra hiên gọi to:

- Đã có một xe khác đến đón công nương Shaila trước đây gần một tiếng đồng hồ rồi!

Người lái xe lộ vẻ ngạc nhiên:

- Sao lại thế được? Bởi tôi nhận được lệnh rất rõ: đưa xe đến đón công nương Shaila ở trường nữ học Meadowbank. Hay là Ngài Giáo chủ ra lệnh bằng điện thoại cho bộ phận thư ký, rất có thể bộ phận này lại có mấy người, đâm mấy lệnh cùng được truyền đi. Kết quả là hai lái xe cùng đi một công việc. Hẳn là chỉ do như thế thôi.

Xe đi khuất, cô giáo Vansittart băn khoăn một lúc lâu rồi tin rằng đây chỉ là chuyện lầm lẫn, cô ngồi xuống bình thản.

Chiều hôm đó, khoảng bốn giờ rưỡi, bà giáo dạy toán Chadwick đang ngồi trong phòng trực, nghe thấy chuông điện thoại reo.

- Trường nữ học Meadowbank phải không?... Bà hiệu trưởng có nhà không ạ? - Tiếng người hỏi ở đầu dây bên kia.

- Bà hiệu trưởng đi vắng. Tôi là Chadwick, giáo viên.

- Tôi gọi điện từ khách sạn Claridge đây, theo lệnh Ngài Giáo chủ Ibrahim. Ngài Giáo chủ rất ngạc nhiên sao không thấy ai báo cho Ngài.

- Báo gì ạ?

- Là công nương Shaila không thể đến gặp Ngài được?

- Nghĩa là công nương Shaila chưa đến khách sạn Claridge?

- Chưa. Nhưng bà có tin chắc là công nương đã rời khỏi trường không?

- Đấy là điều chắc chắn. Một chiếc xe đã đến đây chở công nương Shaila đi từ lúc mười một rưỡi.

- Lạ nhỉ! Để tôi gọi điện hỏi đoàn xe xem sao. Lạy Chúa! Xe gặp tai nạn chăng?

- Bà đừng vội lo quá. Chúng ta sẽ biết tin ngay bay giờ thôi.

Nhưng bà giáo Chadwick không thể yên tâm. Bà lẩm bẩm:

- Sao có lắm chuyện kỳ quái đến thế?

- Tôi cho rằng...

Thái độ ngập ngừng ở đầu dây bên kia.

- Ông nói đi, có chuyện gì vậy? - Bà Chadwick năn nỉ.

- Điều tôi nghi ngờ lúc này tôi chưa dám thưa với Ngài Giáo chủ, mà chỉ nói riêng với bà thôi. Liệu trong trường có một cậu trai nào tán tỉnh công nương của chúng tôi không?

- Không thể có chuyện đó trong trường chúng tôi, thưa ông - bà Chadwick đáp bằng giọng nghiêm nghị.

- Tôi chưa nghĩ công nương trốn đi, mà chỉ dám đoán công nương... đi chơi với một bạn trai nào đó.

- Chuyện đó cũng không thể có ở trường chúng tôi.

Nói xong, bà chợt nghĩ "Sao mình dám khẳng định như vậy?"

Bà đặt máy điện thoại xuống rồi vội vã lao đi tìm cô giáo Vansittart. Bà không tin rằng cô Vansittart có biện pháp xử trí nào thông minh hơn bà, nhưng lúc này bà rất cần có người để trao đổi.

Cô giáo Vansittart lộ vẻ sửng sốt .

- Vậy xe kia chở Shaila đi đâu?

Hai người phụ nữ nhìn nhan, bối rối.

- Hay ta báo cảnh sát? - bà Chadwick nói.

- Đừng vội.

- Tuy nhiên, chính Shaila có lần đã nói rằng có kẻ đang âm mưu bắt cóc nó...

- Điều ấy hoàn toàn vô lý - cô Vansittart ngắt lời bà Chadwick.

Rồi không đợi bà Chadwick nói thêm, cô Vanisttart tiếp luôn:

- Bà hiệu trưởng Bulstrode đã giao phó toà nhà này cho tôi và trong khi chưa có lệnh của bà ấy, tôi không cho ai được gọi bất cứ người nào bên ngoài đến đây. Chúng ta đã phải chịu bao nhiêu phiền toái với đám nhân viên cảnh sát rồi đấy thôi.

Bà Chadwick không tán thành chủ trương của cô Vansittart, nhưng người được bà hiệu trưởng giao quyền thay mặt bà lại là cô Vansittart chứ không phải bà. Dù sao, bà cũng tìm cách bắt liên lạc với bà hiệu trưởng vậy. Bà gọi điện đến nhà công tước phu nhân Welsham, nhưng cả nhà đều đi đâu cả.

* * *

Nằm trên giường nhưng bà Chadwick không sao ngủ được, mặc dù bà đã đếm rất nhiều.

Đến tám giờ tối, biết chắc chắn học sinh Shaila vẫn chưa về và người ta không được tin tức gì về công nương, bà quyết định gọi điện báo cho thanh tra cảnh sát Kelsey. Bà cảm thấy đôi chút yên tâm khi viên thanh tra cảnh sát khuyên bà đừng nên vội hoảng hốt. Ông ta nói việc này ông sẽ lo, bà không phải nghĩ gì về nó nữa. Bà cần hỏi xem có tai nạn giao thông nào trong vùng lân cận là biết ngay. Sau đó ông ta sẽ bắt liên lạc với London. Có khả năng chỉ là công nương Shaila trốn học thôi. Cô ta xưa nay vẫn khá tự do... Dù sao thì ông thanh tra Kelsey cũng khuyên bà Chadwick hãy tin rằng đêm nay cô Shaila kia sẽ về ngủ ở khách sạn Claridge.

- Không thể có chuyện công nương Shaila bị bắt cóc. Nếu bà hiệu trưởng Bulstrode có mặt ở trường, chắc chắn bà ấy sẽ đồng ý với nhận định của tôi. Bà hãy tin cậy ở chúng tôi.

Nhưng nằm vào giương, bà Chardwick vẫn không ngủ được. Bà quyết định dậy, uống một viên thuốc an thần, và nếu cần thì hai viên. Bà bật đèn đầu giường, nhìn đồng hồ: một giờ mười lăm sáng... Hôm trước, cô giáo Springer cũng... vào khoảng giờ này. Đột nhiên bà bất giác đưa mắt ra ngoài cửa sổ, về phía Cung Thể thao, và... lạ chưa?

Có ánh sáng ở đó...

Bà Chadwick không ngập ngừng gì nữa. Bà vội vã xỏ chân vào giầy, khoác áo măng tô, vớ chiếc đèn pin, lao ra ngoài cửa. Tất nhiên hôm trước bà có thầm trách, sao cô Springer dám liều lĩnh giữa đêm khuya một mình sang khu thể thao. Nhưng lần này, chính bà cũng liều lĩnh như vậy, do rất nóng lòng muốn biết kẻ bí hiểm kia là ai. Ra đến gian tiền sảnh, bà dừng lại nhìn quanh xem có thứ gì để làm vũ khí. Tất nhiên không hẳn là vũ khí, mà chỉ là giống như vũ khí... Rồi bà lao ra ngoài sân, theo lối đi nhỏ giữa các bụi cây, về phía Cung Thể thao. Thở hổn hển nhưng đầy quyết tâm, bà đã đến cửa. Cửa hé mở. Bà đẩy rất nhẹ cánh cửa, cố không gây tiếng động, rồi ngó vào trong.

* * *

Cũng vào khoảng thời gian bà Chadwick ngồi dậy lấy thuốc an thần thì cô thư ký Ann Shapland, trong bộ váy áo quyến rũ bằng nhung đen, đang ngồi trong nhà hàng Le Nid Sauvage, thưởng thức món "gà hầm hảo hạng", vẻ mặt tươi roi rói đối diện với chàng Dennis kiên trì và thuỷ chung. Chàng Dennis mà cô vẫn thường nghĩ về anh ta: "Nếu lấy anh ta, mình sẽ không thể chịu được. Một chàng trai rất đáng yêu, nhưng..."

- Thay đổi khung cảnh bao giờ cũng là một nguồn vui - cô nói to lên ý nghĩ của mình.

- Nơi làm mới của em thế nào? - Dennis hỏi.

- Đến lúc này thì em chưa thấy gì là khó chịu.

- Anh có cảm giác nơi đó không thích hợp với em.

Ann Shapland cười vang.

- Anh nói có phần đúng, Dennis. Chưa có gì khó chịu nhưng cũng chưa có gì lý thú. Tính em thích luôn thay đổi khung cảnh sống.

- Anh vẫn chưa làm sao hiểu được, tại sao em lại bỏ chân thư ký riêng cho ông già Bộ trưởng Mervyn Todhunter đấy.

- Chỉ đơn giản là em thấy ông ta suốt ngày đêm chăm chỉ công việc, bà vợ ông ta đâm nghi ngại. Em có một nguyên tắc là phải nương nhẹ các bà vợ thủ trưởng. Lôi thôi là họ sẽ trở thành những kẻ thù nguy hiểm.

- Thành sư tử cái.

- Không phải thế. Em lại rất thông cảm với các bà ấy. Nhưng tại sao anh ngạc nhiên thấy em vào làm ở đây nhỉ?

- Vì đấy là một trường học. Chất nhà giáo, chất sư phạm là trái ngược với bản chất của em nhất!

- Đúng là em rất ghét lĩnh vực nhà giáo, nhất là trong một trường học toàn phụ nữ, từ giáo viên, nhân viên cho đến học sinh. Nhưng chân thư ký ở trường Meadowbank thì đôi khi lại thú vị. Bà hiệu trưởng Bilstrode là một tính cách hiếm có! Cặp mắt màu tro của bà ấy như thể xuyên qua người khác, thấy được hết mọi bí mật trong ruột gan họ. Bà ta rất có tài chỉ huy và em rất không muốn viết sai chính tả trong khi thảo các công văn, thư từ cho bà.

- Anh rất mong, tất cả những chân làm việc kia cuối cùng sẽ làm em chán - Dennis nói - Đã đến lúc em thôi đừng bay hết chỗ này đến chỗ khác nữa. Và em cần phải có một tổ ấm...

- Rất cảm ơn anh đã nói câu đó - Ann Shapland nói khẽ nhưng vẫn không bị đổ.

- Hai chúng mình có thể tổ chức một cuộc sống rất dễ chịu…

- Vâng, đúng thế, nhưng chưa đến lúc ấy. Với lại em còn mẹ. Mẹ em lâu lâu lại lên một cơn đau ốm, rất cần có em chăm sóc.

- Anh đang định nói với em về chuyện đó đây.

- Anh định nói sao?

- Hẳn em đã nghe nói đến những nhà dưỡng lão vào đấy mẹ sẽ được chăm sóc hết sức chu đáo.

- Nhưng họ đòi nhiều tiền lắm.

- Em quên là chính phủ đã ban hành những điều luật mới về xã hội à, em yêu quý?

Giọng cô thư ký Ann Shapland trở nên chua chát:

- Khéo rồi đến lúc em phải sử dụng đến những điều luật ấy mất. Nhưng hiện nay, trong khi chờ đợi em thuê một bà già nhà gần đấy trông nom bà cụ. Nói chung mẹ em rất biết điều, còn nếu những khi bà cụ có chuyện gì đó, em sẽ đích thân về chăm sóc mẹ, và chỉ ít ngày cụ lại bình thường như cũ.

- Thỉnh thoảng mẹ lại không bình thường à?

- Anh định nói cụ lên cơn thần kinh chứ gì? Trí tưởng tượng của anh đúng là kém cỏi! Mẹ em không lên cơn thần kinh bao giờ, mà cụ đột nhiên không biết gì nữa, thậm chí không biết cụ đang ở đâu. Thế là cụ bỏ nhà đi, gặp tàu là cụ lên tàu, gặp xe buýt là cụ lên xe buýt, chẳng biết mình cần đi đâu. Điều lạ nhất là trong những lúc như thế, cụ lại có vẻ sung sướng vô cùng. Dường như cụ ý thức được rằng cụ đang mê và cụ tận hưởng trạng thái ấy - Cô nói xong, cười khúc khích.

- Anh chưa có dịp nhìn thấy cụ đấy.

- Em không muốn ai đến gặp mẹ em. Em không muốn những người thân của em bị người ta tò mò xem xét hoặc... thương hại.

- Anh hoàn toàn không tò mò đâu.

- Nếu vậy thì anh sẽ thương hại. Đúng không nào, Dennis?

- Anh hiểu ý em.

- Mà lúc nãy anh hiểu lầm em đấy. Không phải em thích thay đổi chỗ làm chỉ vì có điều kiện thỉnh thoảng về chăm sóc mẹ em đâu, mà cái chính là em muốn làm thử nhiều nơi để tìm ra một nơi thích hợp với em nhất. Muốn vậy, em phải tiếp xúc với nhiều loại người, sống trong nhiều loại môi trường. Hiện giờ em đang học kinh nghiệm sống trong một trường học thuộc loại tốt nhất của nước Anh. Thời gian nghiên cứu là hai niên học, tức là mười tám tháng.

- Tóm lại, em chưa gắn bó với thứ gì hết.

- Đúng thế. Em thích quan sát ngay từ thuở nhỏ. Gần giống như bình luận viên trên đài phát thanh ấy.

- Tóm lại, em cũng không thật sự quan tâm đến ai.

- Em nghĩ chuyện ấy sẽ đến trong một ngày nào đó.

- Anh không tin là em có thể làm ở Meadowbank được đến một năm đâu. Một nơi toàn phụ nữ sẽ làm em ngán đến chết mất.

- Nhưng trong trường có một anh chàng làm vườn khá đẹp trai.

Ann Shapland phá lên cười khi nhìn thấy Dennis nhăn mặt.

- Anh yên tâm, em nói đùa thế để được nhìn thấy anh ghen thôi.

Họ im lặng một lúc, rồi Dennis chuyển sang câu chuyện khác:

- Chưa thấy em kể gì về vụ án mạng một giáo viên trong trường?

Mặt Ann Shapland bỗng tối xầm lại:

- Đúng là quái đản. Chị ta dạy môn thể thao. Anh biết không, chị ta thuộc loại phụ nữ hết sức đặc biệt. Em cho rằng đằng sau vụ án mạng này có rất nhiều thứ.

- Nhưng điều quan trọng là em đừng dính vào những trò bẩn thỉu ấy đấy.

- Thú thật với anh nhé, em chưa bao giờ có dịp thử sức của em trong công việc điều tra, nên lần này... em cũng muốn khám phá ra một thứ gì đó. Lý thú lắm chứ, anh!

- Nhưng anh can em đấy.

- Anh đừng lo. Em sẽ không định khám phá xem thủ phạm là kẻ nào, chuyện ấy quả nguy hiểm, nhưng em muốn hiểu xem Tại sao và Ai? Đến ngày hôm nay em đã thu lượm được một số thông tín khá lý thú.

- Anh, anh van em...

- Anh yên tâm! Em sẽ không dại gì xông vào chỗ nguy hiểm đâu.

Rồi cô vui vẻ nói tiếp:

- Nếu một vụ án mạng thứ hai xảy ra, vấn đề sẽ được sáng tỏ hơn.

Chương XXX

- Ông đi với tôi - thanh tra Kelsey nói với Adam - Lại có một vụ án mạng nữa.

- Vụ nữa? - Adam sửng sốt hỏi lại.

- Đúng thế, một vụ án mạng khác.

Viên thanh tra cảnh sát vừa nói vừa bước ra khỏi phòng. Adam đi theo ông. Lúc họ trao đổi những câu vừa rồi, là viên thanh tra cảnh sát đã nhận được một cú điện thoại.

- Nan nhân là ai? - Adam hỏi lúc hai người xuống thang gác.

- Lại cũng một giáo viên, tên là Vansittart, hình như day lịch sử và tiếng Đức thì phải.

- Xảy ra ở đâu?

- Vẫn lại trong Cung Thể thao. Nhưng lần này ông sẽ chịu trách nhiệm điều tra, vì kỹ thuật của các ông hình như tốt hơn kỹ thuật của chúng tôi. Đúng là có một cái gì bí hiểm trong toà nhà khốn kiếp đó. Nếu không, tại sao bọn chúng lại tiếp tục giết người trong đó thế?

Hai người chui vào xe ôtô.

- Tôi tin rằng lúc này bác sĩ pháp y đã có mặt bên cạnh tử thi. Vì nhà ông ta ở gần đấy mà.

Lúc họ vào Cung Thể thao, các đèn đều đã bật sáng. Thanh tra Kelsey bất giác lùi lại: ấn tượng về vụ án mạng trước như một giấc mơ đã trở lại. Giống hệt lần trước, ông ta nhìn thấy bác sĩ đang cúi xuống khám nghiệm tử thi.

Bác sĩ nói khẽ:

- Chết cách đây khoảng nửa giờ. Nhiều lắm là bốn mươi phút.

Thanh tra Kelsey hỏi:

- Ai là người phát hiện đầu tiên?

Một nhân viên cảnh sát đáp:

- Bà giáo Chadwick.

- Bà có tuổi và dạy môn toán ấy phải không?

- Vâng, đúng thế. Buổi tối, đang trong phòng, bà tình cờ nhìn ra ngoài cửa sổ, thấy có ánh sáng bên Cung Thể thao, bà liền chạy sang xem có chuyện gì. Sau khi về đến phòng, bà lên cơn thần kinh, và người gọi điện báo cho chúng tôi là bà Johnson, tổng giám thị,

- Hung thủ dùng súng à? - Thanh tra Kelsey hỏi bác sĩ.

- Không. Nạn nhân bị một đòn đánh vào gáy, bằng một cái chùy hoặc một bọc cát.

Gần cửa, vẫn còn một chiếc gậy chơi hockey, đầu bịt kim loại.. Vật duy nhất không nằm đúng chỗ của nó trong gian để quần áo và dụng cụ thể thao.

- Bằng vật này chăng? - Thanh tra Kelsey hỏi.

Bác sĩ đáp không chút ngập ngừng:

- Không phải. Vì trên da nạn nhân không thấy vết sây sát. Theo tôi thì hung khí phải là một vật như chùy hoặc bọc cát.

- Hoặc một thứ giống như quả còn, đồ chơi?

- Cũng có thể. Hung thủ lén đến sau lưng để nạn nhân không nhìn thấy mặt hắn, rồi đánh mạnh vào gáy nạn nhân,

- Lúc đó nạn nhân đang làm gì?

- Rất có thể đang lục lọi ngăn đựng đồ này.

Viên thanh tra cảnh sát chăm chú xem xét ngăn đồ:

- Trên nhãn ghi tên "Shaila". Hình như là tên của cô Công nương Ai Cập phải không nhỉ?

Quay sang Adam, thanh tra Kelsey nói:

- Một sự trùng hợp lạ lùng!... Chính là cô công nương mất tích, chúng ta được báo chiều nay.

- Đúng thế, thưa ông thanh tra - một nhân viên cảnh sát nói - Cô học sinh này lên một chiếc xe ôtô được coi là xe của ông chú cô ta hiện đang nghỉ ở khách sạn Claridge sai đến đón.

- Hiện chưa có tin tức gì về cô ta?

- Chưa. Nhưng cuộc điều tra đang được tiến hành và lần này Tổng cục Cảnh sát trực tiếp làm.

- Một cuộc bắt cóc hết sức nhẹ nhàng - Adam nói - Không có vật lộn, không có tiếng kêu thét. Bọn chúng biết cô ta đang đợi xe của ông chú đến đón, thế là chúng cho một chiếc xe đến nẫng đi trước. Cô ta lên xe mà không nghi ngờ gì hết.

- Có tìm thấy một chiếc xe bỏ lại ở đâu không?

- Chưa thấy được gì. Cảnh sát Đặc nhiệm đang tiến hành điều tra.

- Có vẻ là một vụ bắt cóc chính trị. Nhưng tôi tin rằng chúng không thể đưa cô ta ra khỏi nước Anh.

- Nhưng mục đích cuộc bắt cóc? - Viên bác sĩ hỏi.

- Có mà Trời biết - thanh tra Kelsey đáp - Hôm trước, cô ta có kể với tôi là cô ta đang lo bị bắt cóc vậy mà tôi không tin, cho là cô ta tưởng tượng ra đấy thôi.

- Tôi cũng thế, hôm ấy tôi không tin - Adam thú nhận.

Thanh tra Kelsey đưa mắt nhìn xung quanh rồi nói:

- Theo tôi ở đây không còn có gì phải xem xét nữa. Ta sang bên trường đi.

Tại đây, người tiếp ông là bà giám thị Johnson. Bà ta rất hoang mang nhưng cố giữ điềm tĩnh.

- Đúng là tai hoạ, thưa ông thanh tra. Hai giáo viên của chúng tôi bị giết. Bà Chadwick không chịu nổi, đang lên cơn hoảng loạn trên kia.

- Tôi muốn lên gặp bà ấy ngay bây giờ - thanh tra Kelsey nói.

- Bác sĩ đã cho bà ấy uống thuốc an thần và bệnh tình có thuyên giảm đôi chút. Có cần tôi dẫn ông lên không?

- Khoan đã. Bây giờ bà hãy cho tôi biết, lần cuối cùng bà gặp cô giáo Vansittart là lúc nào?

- Trong ngày hôm nay tôi không gặp cô ấy lần nào, vì tôi về nhà. Khoảng mười một giờ tôi mới về đến trường là đi ngủ ngay.

- Trước lúc đi ngủ, bà có tình cờ nhìn về phía toà nhà Cung Thể thao không?

- Không. Tôi nằm vào giường, lấy cuốn sách đọc một chút là ngủ luôn. Thế rồi đột nhiên tôi thức dậy, thấy bà Chadwick đứng ngay bên giường, mặt trắng bệch, toàn thân run bắn lên...

- Cô giáo Vansittart không lúc nào rời khỏi trường ngày hôm nay chứ?

- Không, bởi bà hiệu trưởng đi vắng, giao lại việc cho cô ấy, và cô ấy phải có mặt ở trường để giải quyết mọi công việc.

- Vẫn còn cả một số giáo viên ở lại trường chứ?

- Có bà Chadwick, cô Blanche và cô Rowan.

- Thôi được bây giờ bà dẫn tôi lên gặp bà Chadwick.

Bà này đang ngồi trong phòng mình. Mặc dù thời tiết ấm áp, nhưng lò sưởi điện được mở ở độ cao nhất. Bà Chadwick đắp tấm chăn len che kín chân, ấy thế mà người bà vẫn run lên bần bật. Bà quay khuôn mặt nhợt nhạt về phía thanh tra Kelsey, thều thào:

- Cô ấy chết thật rồi à?.. Không có cách gì làm cô ấy sống lại được sao?

Thanh tra Kelsey chậm rãi lắc đầu.

- Khủng khiếp quá! - Bà Chadwick rên rỉ - Nhất là bà hiệu trưởng lại đi vắng...

Bà khóc nức nở rồi nói trong tiếng nghẹn ngào:

- Trường học này đến tan mất thôi... Tôi không giữ được nó nữa rồi.

Viên thanh tra cảnh sát ngồi xuống bên cạnh bà, lấy giọng dịu dàng nói:

- Tôi biết tất cả những chuyện này khiến bà đau đớn đến mức nào. Bà đã tận tuỵ cùng với bà hiệu trưởng Bulstrode xây dựng nên trường nữ học danh tiếng này trong ngần ấy năm trời. Nhưng chưa phải tình hình đã tuyệt vọng đến thế. Bà hãy can đảm lên. Và bây giờ bà hãy bình tĩnh kể lại cho tôi nghe tất cả những gì bà biết. Chúng tôi càng mau tìm ra thủ phạm, trường ta càng tránh được tai tiếng và chóng lấy lại được uy tín như xưa.

- Tôi hiểu. Tối qua, tôi tính đi ngủ sớm, nhưng nằm mãi không sao ngủ được, bao nhiêu ý nghĩ rối bời khiến tôi thao thức mãi...

- Về tình hình nhà trường?

- Vâng, và cả về chuyện một học sinh bị mất tích. Công nương Shaila ấy... Rồi lại còn chuyện vụ án mạng cô giáo Springer làm phụ huynh học sinh rút cơn cái họ về không cho học nữa... Trăm thứ chuyện làm tôi không sao nhắm được mắt...

- Tôi hiểu. Nhưng bà kể tiếp đi. Bà không ngủ được thế rồi sao nữa?

- Tôi bèn ngồi dậy lấy thuốc an thần... Tình cờ tôi hé rèm cửa sổ nhìn ra ngoài... sang phía Cung Thể thao... Có lẽ lúc ấy ý nghĩ của tôi hướng về cô Springer chăng? Bỗng tôi thấy có ánh sáng bên Cung...

- Bà thấy kiểu ánh sáng thế nào?

- Một vệt sáng dường như nhảy múa... Đúng là kẻ nào đó soi đèn pin. Giống như lần trước, hôm tôi và bà giám thị Johnson...

- Tôi hiểu... thế rồi sau đó?

Giọng bà Chadwick mỗi lúc một thêm run rảy:

- Sau đó, tôi quyết định lần này phải tìm cho ra bên Cung Thể thao kia có chuyện gì, và tại sao. Thế là tôi vội vã mặc quần áo, lao ra...

- Bà không nghĩ nên rủ thêm ai?

- Không. Tôi muốn sang đó thật nhanh, để kẻ kia không kịp chạy trốn...

- Thế rồi?...

- Tôi chạy thật nhanh, khi đến gần cửa Cung Thể thao, tôi rón rén chân để tránh gây tiếng động. Thấy cửa mở hé, tôi bèn đẩy rất nhẹ, nhìn vào bên trong... Cô ấy đang nằm úp mặt xuống sàn nhà...

Bà Chadwick toàn thân run bắn lên. Thanh tra Kelsey nói:

- Lúc tôi vào, thấy một cây gậy đánh hockey nằm gần cửa ra vào, cách tử thi không xa.

- Gậy hockey à? - bà Chadwick nhắc lại như thể chưa hiểu - Tôi không nhớ nữa... Ôi, tôi nhớ ra rồi... Tôi đã nhặt nó trong một góc phòng ở đây, trước khi ra khỏi toà nhà chính này. Tôi tính nếu cần có thể dùng để tự vệ. Khi nhìn thấy chị Vansittart nằm đấy, tôi hốt hoảng để rơi cái gậy xuống sàn, chắc thế. Cuối cùng tôi lao chạy về trường, lên đánh thức bà giám thị Johnson...

Lại một cơn hoảng loạn làm toàn thân bà run lẩy bẩy. Bà giám thị Johnson bảo thanh tra Kelsey:

- Phát hiện liền hai vụ án mạng, đúng là tuổi tác của bà Chadwick không đủ sức chịu đựng. Tôi hy vọng ông thanh tra không có gì cần hỏi thêm bà ấy nữa chứ?

Viên thanh tra gật đầu. Hai người ra ngoài, xuống thang gác. Thanh tra Kelsey nhìn thấy những túi đựng cát và hai chiếc xô dưới gầm cầu thang. Chắc là những thứ còn lại từ thời chiến tranh, ông nghĩ. Nhưng đột nhiên ông lại nghĩ, rất có thể một kẻ nào đó chuẩn bị sẵn những thứ này để khi cần gây án, không phải dùng súng gây tiếng động lớn, mà dùng những thứ này, trông tưởng vô hại, thật ra hết sức nguy hiểm. Rất có thể "hắn" xếp lại gọn gàng như thế này để khỏi ai chú ý.

* * *

"Bà ta đang rối tung đầu óc nhưng vẫn giữ được vẻ bình tĩnh bên ngoài" Adam nghĩ như vậy.

Anh ta nhìn bà hiệu trưởng Bulstrode và chưa bao giờ Adam thán phục nghị lực một phụ nữ đến như vậy. Sự nghiệp toàn bộ cuộc đời bà đang dần dần sụp đổ vậy mà bà vẫn ngồi đĩnh đạc, điềm tĩnh, như không hề có chuyện gì quan trọng xảy ra. Chốc chốc chuông điện thoại reo, và lần nào cũng là một phụ huynh học sinh nào đó xin đón con nghỉ học về nhà.

Đột nhiên bà hiệu trưởng Bulstrode quyết định. Bà xin lỗi các nhân viên cảnh sát rồi cho gọi cô thư ký Ann Shapland, đọc để cô thảo một bản thông báo ngắn gọn, nói trường nữ học Meadowbank tạm đóng cửa, cho đến hết tam cá nguyệt này. Tuy nhiên, những gia đình nào không muốn con cái nghỉ học trở về nhà, vẫn có thể để con ở lại trường, và con cái họ vẫn được chăm sóc chu đáo.

- Chị gọi điện thoại, báo ngay cho tất cả những người có liên quan - bà hiệu trưởng nói với cô thư ký Shapland - Và đồng thời, chị gửi thêm thông báo này bằng đường bưu điện để chính thức hoá thêm.

- Vâng, thưa bà hiệu trưởng - cô thư ký Ann Shapland đáp.

Khi cô thư ký đã ra đến cửa, cô quay đầu lại nói với bà hiệu trưởng:

- Bà tha lỗi, thưa bà Bulstrode, nhưng quyết định này của bà có vội vã quá không? Tôi chỉ muốn nói rằng... rất có thể chỉ lúc đầu phụ huynh hơi hoang mang, nhưng khi đã bình tĩnh lại, họ sẽ không muốn rút con cái họ về...

Bà hiệu trưởng chăm chú nhìn cô thư ký:

- Chị tưởng tôi chấp nhận đần hàng dễ dàng như vậy sao?

- Xin bà thông cảm, chỉ là tô ...

- Chị lầm rồi. Tôi không bao giờ đầu hàng! Tôi hành động theo cách tôi hiểu tâm lý người đời. Tôi yêu cầu họ rút con cái họ về, thật ra họ đâu có muốn rút, ít nhất thì cũng không nhiều người muốn. Đa số họ muốn để con cái họ ở lại trường, và họ sẽ tìm ra được những lý do để gửi lại. Trường hợp xấu nhất là họ rút về, nhưng cuối tam cá nguyệt sẽ đưa con họ trở lại đây, nếu như trường chúng ta còn tiếp tục mở cửa thêm một tam cá nguyệt nữa...

Bà chau mày rồi nói với thanh tra Kelsey:

- Vấn đề này phụ thuộc vào ông: khám phá ra những vụ án mạng kia. Các ông làm tròn trách nhiệm thì mọi thứ sẽ lại đâu trở về đấy.

Viên thanh tra ngập ngừng, rồi nói:

- Chúng tôi sẽ làm hết sức mình.

Cô thư ký Anh Shapland đi khuất, bà hiệu trưởng Bulstrode nói:

- Một cô gái thông minh và thẳng thắn!

Nhưng lời bình phẩm trên chỉ là một phút ngưng nghỉ nhỏ. Liền sau đó, bà hiệu trưởng đã trở về với công việc. Bà quay sang viên thanh tra, hỏi:

- Quả thật ông chưa có một nhận định nào chăng? Một nghi ngờ chẳng hạn? Tôi nghĩ là đến giai đoạn này thì ông đã phải có một đánh giá nào rồi chứ? Nhất là qua vụ bắt cóc vừa rồi, có thể nói đó là đỉnh điểm của vụ án. Tôi cũng phải nhận một phần trách nhiệm, bởi Shaila đã có nói đến những kẻ âm mưu bắt cóc cô ta. Xin Chúa tha tội, tôi đã đinh ninh rằng cô ta chỉ nói thế để tự đề cao mình. Vậy mà bây giờ...

Bà ngừng lại vài giây rồi nói tiếp:

- Thế nào? Ông thanh tra chưa có một hướng nhận định nào thật à?

- Chưa, thưa bà. Nhưng tôi nghĩ ta chưa nên tuyệt vọng. Vụ bắt cóc kia, cơ quan đặc nhiệm đã nhận điều tra, và chỉ trong vòng hai mươi tư tiếng đồng hồ, chậm lắm là ba mươi tiếng, họ sẽ tìm ra được cô học sinh Shaila của bà. Chúng ta có lợi thế là sống trên một hòn đảo. Các sân bay đều đã nhận được lệnh báo động, và trong khắp các quận, lực lượng cảnh sát đều được huy động. Bắt cóc một người thì tương đối dễ, nhưng giấu người đó thì là cả một vấn đề, đúng là như thế.

- Tôi hy vọng các ông tìm thấy được cô bé còn sống và lành lặn. Tôi có cảm giác bọn này không cơi tính mạng con người là cái gì đâu.

Adam chen vào:

- Nếu chúng định thủ tiêu cô ta, tại sao chúng còn bắt cóc? Giết cô ta ngay tại đây dễ dàng hơn nhiều.

Bà hiệu trưởng chua chát nói:

- Thì chúng đã giết rồi đấy thôi.

Chuông điện thoại lại reo. Bà hiệu trưởng nhấc máy.

- Điện thoại của ông, thưa ông thanh tra.

Bà hiệu trưởng và Adam chăm chú theo dõi thanh tra Kelsey. Ông này lầu bầu gì đó rồi lấy sổ ghi, sau đấy nói vào máy:

- Tôi hiểu: vùng Alderton, quận Wallshire... Vâng, thưa sếp, tôi vẫn đang tiếp lục ở đây.

Đặt máy xuống xong, ông ta như vẫn còn mải suy nghĩ, rồi ông gọi Adam:

- Ngài Giáo chủ Ibrahim sáng nay nhận được một lá thư, đánh máy bằng loại máy chữ xách tay. Ngoài bì dán tem đóng dấu bưu điện Portsmouth, nhưng tôi tin rằng đấy chỉ là một cách đánh lạc hướng. Trong thư, bọn chúng đòi tiền chuộc.

- Điều kiện thế nào?

- Hai trăm ngàn bảng Anh, cho vào một phong bì, đặt ở vị trí chúng quy định, vào hai giờ sáng ngày mai. Vị trí đó cách dinh cơ Alderton ba cây số trên một dải đất hoang. Nghe có vẻ kẻ bắt cóc thuộc loại nghiệp dư.

- Bây giờ ông tính sao? - Bà hiệu trưởng hỏi.

Thanh tra Kelsey chưa trả lời, giữ thái độ dè dặt đúng kiểu một quan chức nhà nước:

- Chúng tôi có phương pháp của chúng tôi, thưa bà.

- Lúc nãy ông nói "thuộc loại nghiệp dư"? - Bà hiệu trưởng khẩn khoản - Tôi thoáng có ý nghĩ, liệu tôi có còn tin được vào các nhân viên của tôi không? Cụ thể, là vào số nhân viên còn lại?

Thanh tra Kelsey còn đang nghĩ câu trả lời thì bà hiệu trưởng đã nói thêm:

- Hẳn ông ngại? Nếu tôi biết ông nghi ngờ ai, tôi sẽ nhìn người đó bằng con mắt khác đi chăng? Nếu ông ngại như thế thì xin ông yên tâm.

- Tôi không ngại như thế, thưa bà hiệu trưởng - thanh tra Kelsey đáp - Tôi không nghĩ thủ phạm nằm trong số các nhân viên của bà, ít ra cũng qua những thông tin chúng tôi hiện có. Chúng tôi đã đặc biệt kiểm tra tất cả những người mới đến làm trong niên học này. Cô giáo Blanche, cô giáo Springer và cô thư ký của bà, cô Anh Shapland. Tiền sử của cô này rất tốt - cha là tướng về hưu và cô đã hoàn thành tốt mọi công việc cô được giao trong những nơi làm trước. Các thủ trưởng cũ của cô đều nhận xét cô rất tốt. Chưa kể cô có bằng chứng ngoại phạm trong đêm qua. Trong lúc cô giáo Vansittart bị giết thì cô Shapland đang ngồi trong nhà hàng Le nid Sauvage với một người tên là Dennis Rathbone và người này được dư luận coi là người rất tốt. Quá khứ của cô Blanche cũng rõ ràng: cô đã dạy tiếng Pháp tại một trường học ở miền Bắc nước Anh, và trong hai trường nội trú ở Đức. Các giấy nhận xét về cô cũng toàn lời khen. Cô được nhận xét là một giáo viên xuất sắc.

- Tôi thì không nhận thấy cô Blanche như thế - bà hiệu trưởng Bulstrode khinh bỉ nói.

- Chúng tôi đã nhận được từ bên Pháp những thông tin chúng tôi yêu cầu. Toàn những điều đáng yên tâm. Những thông tin chúng tôi hỏi xin về cô giáo Springer thì không được đầy đủ như thế. Quả là cô ta có học trong những trường cô ta khai, nhưng từ khi học xong đến nay, lý lịch của cô có nhiều mảng trống mà chúng tôi chưa có đủ thông tin để lấp kín. Tuy nhiên cô đã chết, và coi như đã bị loại ra khỏi vòng chiến.

Bà hiệu trưởng mỉa mai nói:

- Tôi công nhận người nào chết rồi là đã bị loại khỏi cuộc chiến. Hai cô giáo Springer và Vansittart không còn đáng để chúng ta tìm hiểu nữa, nhưng tôi nghĩ chúng ta nên tỉnh táo một chút. Cho dù lý lịch có tinh khiết đến đâu, như cô Blanche chẳng hạn, thì đã nên loại cô ấy ra khỏi vòng nghi ngờ chưa, chỉ với lý do đơn giản là cô ấy còn sống?

- Cô Blanche vẫn thuộc số những người có khả năng phạm vào hai vụ án mạng kia, nguyên vì sự thật là cô có mặt tại Meadowbank vào đúng những giờ đó. Đã đành cô quả quyết rằng cô đi ngủ sớm, và không nghe thấy gì cho mãi đến lúc có tin loan báo. Điều này không thể kiểm tra được, nhưng cũng không có điều gì phản bác lại. Và nói chung, chúng tôi chưa tìm thấy điều gì chống lại cô ấy... Tuy nhiên bà giáo Chadwick đã khẳng định là cô Blanche có tính thâm hiểm.

Bà hiệu trưởng Bulstrode lập tức bác lại điều nhận xét trên: bà Chadwick có tính luôn chê các giáo viên tiếng Pháp! Chắc bà ấy định kiến với họ.

- Còn ông Adam, ông thì nghĩ sao?

- Tôi nhận xét thấy cô giáo Blanche luôn nhúng mũi vào mọi việc, chắc tính cô ta như thế. Rất khó khẳng định đó là thói tật hay do có động cơ gì ở đây. Đã đành cô ta không có vẻ gì là một tội phạm, nhưng điều đó làm sao ta biết được?

Thanh tra Kelsey nói tiếp:

- Đúng thế. Sự thật là tại đây, có một tên tội phạm, một tên giết người tàn bạo, bởi hắn đã giết hai mạng... Nhưng, tôi nhắc lại, chúng tôi ít tin rằng hắn ở trong số các giáo viên của trường. Bà giám thị thì hôm qua ở chơi nhà người chị tại Limeston-on-Sea. Hơn nữa bà là người đã làm ở đây bảy năm rồi mà không có chuyện gì. Bà giáo Chadwick thì ngay từ lúc thành lập trường, đã chung vốn với bà hiệu trưởng và đóng góp bao nhiêu công sức vào việc duy trì và phát triển trường. Tôi còn biết cô giáo Rich đêm qua ngủ ở khách sạn Alton Grange Hotel, cách đây ba mươi hai cây số, và cô giáo Blake thì đến thăm bè bạn ở thị trấn Littleport. Cô phụ giáo Rowan thì có tiếng là người tốt từ lâu rồi. Tôi cũng không thấy trong số các nhân viên lao công, có người nào làm điều gì đáng trách cứ. Và họ cũng không "có dáng" của kẻ giết người, tất cả đều sinh trưởng trong vùng này.

Bà hiệu trưởng Bulstrode gật đầu .

- Tôi hoàn toàn đồng ý với ông. Nhưng nếu không ai có gì đáng nghi ngờ thì...

Bà ngừng nói một lát rồi nhìn Adam:

- Nếu như vậy thì chỉ còn duy nhất một người, là ông, phụ làm vườn!

Adam lộ vẻ ngạc nhiên.

- Đúng thế - bà hiệu trưởng nói thêm - Chẳng phải ông có mặt ở đây trong các thời điểm kia, ông lại được tự do đi lại... có thể nghi ông được lắm chứ. Giấy tờ chứng chỉ của ông đều tuyệt vời, nhưng biết đâu đấy?

Adam đã trấn tĩnh lại được:

- Đúng thế, thưa bà hiệu trưởng. Bà quả là người đáng kính phục. Bà có tài quán xuyến toàn bộ, không bỏ sót thứ gì.

Chương XXXI

Adam một mình trong Cung Thể thao. Hai bàn tay khéo léo của anh lục lọi vào tận ngóc ngách các ngăn đựng quần áo dụng cụ của mỗi học sinh. Rất khó có khả năng anh ta tìm được thứ gì sau khi cảnh sát đã khám xét kỹ càng, nhưng Adam vẫn thử. Thanh tra Kelsey đã chẳng nói rằng mỗi ngành an ninh có một số kỹ thuật riêng đó sao?

Toà nhà mới xây và rất sang trọng này có mối liên quan gì với những cái chết vừa qua? Khả năng bọn tội phạm dùng nơi này làm điểm hẹn gặp nhau đã được loại trừ, ít nhất cũng trong vụ án mạng thứ hai, bởi không ai lại chọn vị trí bí mật gặp nhau ở đúng địa điểm đã bị chú ý. Do đấy nên trở lại giả thuyết cho rằng tại đây có một vật nào đó bọn chúng muốn đoạt lấy. Những viên đá quý được giấu ở đây chăng? Rất ít có khả năng đó: không có một nơi bí mật nào, không có một chỗ nào "nghi binh”, mọi chỗ đều đã được lục soát và không thấy có gì khả nghi.

Tuy có một số thứ "bí mật” nhưng là bí mật học trò: bao thuốc lá, vài cuốn tiểu thuyết bậy bạ...

Adam dừng lại trước ngăn của cô "công nương" Shaila. Chính là cô giáo Vansittart đã bị hạ sát trong lúc đang cúi xuống lục lọi ngăn này. Cô ta hy vọng tìm thấy thứ gì vậy? Và đã tìm thấy chưa? Liệu hung thủ có đoạt được thứ cô giáo Vansittart tìm thấy không, trước khi hắn vội vã tẩu thoát trước khi bà Chadwick ngó vào? Nếu quả là như vậy thì có nghĩa "vật kia” đã không còn ở đây, và bây giờ mới tìm kiếm là vô ích.

Tiếng chân người bên ngoài làm Adam chú ý. Anh ta vội ngồi dậy, châm điếu thuốc lá, ung dung đứng hút giữa gian để quần áo dụng cụ thể thao. Cô học sinh Julia Upjohn hiện ra trên ngưỡng cửa. Cô bé có vẻ do dự.

- Cô có cần gì không? - Adam hỏi.

- Em muốn lấy cây vợt tennis của em, được không ạ?

- Tôi thấy chẳng có gì là không được. Nhân viên cảnh sát canh gác chỗ này vừa đi ra có việc, nhờ tôi canh giúp - Adam nói dối trắng trợn - Vợt của cô ở đâu?

- Vợt của em có chữ "U" trên nhãn, nó nằm ở bên phải, cuối cùng ấy. Vợt của đứa nào đều ghi tên của đứa ấy trên nhãn, chữ "U" là của em, vì họ của em là " Upjohn".

Tìm thấy cây vợt, Adam đưa cho cô bé:

- Vợt cũ rồi, nhưng vẫn còn tốt lắm.

- Em muốn lấy cả cây vợt của bạn Jennifer, được không ạ? Bởi hai đứa muốn chơi quần vợt với nhau.

- Cây vợt này còn mới nguyên - Adam nói lúc đưa cây vợt có chữ "S” trên nhãn cho cô bé.

- Vâng, đúng thế! Mẹ đỡ đầu nó vừa gửi đến tặng nó đấy.

Julia Upjohn cầm hai cây vợt, cảm ơn, rồi chạy biến mất.

* * *

Trên sân quần vợt, Jennifer vừa đỡ trượt một quả tennis, em giận dữ hét toáng lên. Đôi bạn gái đang chơi thì dừng lại vì thấy cô giáo Eileen Rich dẫn một phụ nữ có tuổi đang đi về phía chúng. Jennifer nhận ra mẹ, bà Sutcliffe. Cô bé nhăn mặt.

- Mẹ mình bắt mình về đấy. Bạn may mắn, có một bà mẹ ở tận Thổ Nhĩ Kỳ.

- Nhưng mình còn dì Isabelle!

- Đúng thế, nhưng các bà dì đâu quá lo cho cháu bằng mẹ lo cho con!

Bà Sutcliffe đã đến trước mặt con gái:

- Chuẩn bị đồ đạc về nhà, Jenniffer! - Bà nói ngay.

- Con phải về nhà ạ?

- Đúng thế! Và về ngay bây giờ.

- Nhưng…

- Không có nhưng gì cả. Đấy là lệnh của ba!

- Nhưng chỉ có các cô giáo mới bị giết thôi, chứ học trò có đứa nào việc gì đâu ạ? Với lại chỉ còn ba tuần lễ nữa là đến Hội Thể Thao rồi, mà con thì rất nhiều triển vọng đoạt giải...

- Không thắc mắc gì hết! Về phòng chuẩn bị ngay rồi đi với mẹ. Thắc mắc gì thì về nói với ba.

Nói xong, bà đi cùng cô giáo Rich về phía toà nhà chính của trường.

Jennifer nói với bạn:

- Chỉ tại Cô Springer và cô Vansittart! Ba mình nhát quá. Mình rất không muốn về nhà.

- Lệnh của các cụ thì đành phải chấp hành thôi. Mình sẽ viết thư kể mọi chuyện cho bạn, không thiếu một chi tiết nhỏ nào hết.

- Nếu bà giáo Chadwick thành nạn nhân thứ ba nữa thì tiếc quá đấy. Mình chỉ mong nếu có nạn nhân thứ ba thì sẽ là cô Blanche - Jennifer nói.

- Mình cũng nghĩ thế. Cô Blanche mà làm sao thì mình sẽ không thương tiếc gì hết. Vừa rồi bạn có nhận thấy cô Rich có gì khác thường không?

- Mình chỉ thấy cô ấy giống một người mình biết, nhưng cô kia to béo hơn nhiều. Nhưng bạn thấy cô Rich làm sao?

- Mình có cảm giác cô ấy đang thuyết phục mẹ bạn đừng bắt bạn về nhà.

- Nếu cô ấy can được mẹ mình thì tuyệt vời...

Giữa lúc ấy, có tiếng thúc của bà Sutchffe:

- J-e-n-n-i-f-e-r?

- Con vào đây! - Cô bé gào to đáp lại.

- Nhanh lên chứ! - bà Sutchffe lại hét.

Jennifer chạy về phía toà nhà chính của trường. Còn lại một mình, Julia cầm hai cây vợt chậm chạp đi về phía Cung Thể thao. Bước chân cô bé mỗi lúc một chậm, cuối cùng cô đứng lại, như mải suy nghĩ điều gì.

Tiếng chuông báo đã đến giờ ăn trưa, nhưng cô bé vẫn mải suy nghĩ, tay cầm hai cây vợt. Rồi em đi hai bước về phía Cung Thể thao, trước khi quay gót đi nhanh về phía toà nhà chính.

Julia vào theo lối cổng chính - xưa nay cấm học sinh không được sử dụng - để tránh gặp các bạn. Gian tiền sảnh không có ai. Mọi người đang ở nhà ăn. Julia bước nhanh lên thang gác. Đến trước cửa căn phòng nhỏ của mình, em ngó sang hai bên, rồi bước nhanh vào. Julia đóng cửa lại, nhét cây vợt xuống dưới nệm, rồi lấy vẻ mặt thản nhiên, ra hành lang, xuống nhà ăn.

* * *

Tối hôm đó, các học sinh đi ngủ lặng lẽ và trật tự hơn thường lệ. Một phần cũng vì một số khá đông đã được cha mẹ rút về nhà.

Julia Upjohn là một trong số học sinh lên phòng sớm nhất. Vào trong phòng, em lập tức đóng cửa lại áp tai nghe xem bên ngoài có động tĩnh gì không? Chỉ có những tiếng "Chúc ngủ ngon!" không lớn và vui vẻ như mọi khi. Khi bên ngoài đã gần như yên lặng hoàn toàn, Julia mới thôi không áp tai vào cánh cửa nghe ngóng nữa.

Rất tiếc là các phòng học sinh không có chìa khoá để khoá cánh cửa. Julia phải lấy ghế chèn để lỡ có ai vào thì tất phải gây tiếng động. Nội quy nhà trường cấm học sinh không được vào phòng riêng của nhau ban đêm. Người duy nhất Julia lo có thể vào phòng mình là bà giám thị Johnson.

Sau khi đã chèn kỹ, cô bé quay vào giường, lật tấm nệm lên, lôi cây vợt ra, thầm tự hỏi: "Không biết người ta có thể giấu thứ gì vào trong một cây vợt tennis nhỉ?" Em đoán phải là thứ gì quan trọng lắm. Julia đã biết chuyện kẻ gian đột nhập vào nhà Jennifer, rồi chuyện người đàn bà lạ mặt hôm trước đến lấy đi cây vợt của Jennifer, không biết rằng thật ra đó là cây vợt của Juha, hai đứa đã đổi cho nhau và thay cả nhãn ghi tên bên ngoài. Cây vợt giấu dưới nệm này mới chính là của Jennifer, và chắc trong nó phải được giấu một thứ gì rất quan trọng... Thứ gì vậy? Julia rất tò mò nóng lòng muốn biết.

Em ngắm nghía cây vợt. Nếu ai giấu thứ gì trong này thì không thể có chỗ nào khác ngoài cái cán. Julia nhấc nhấc thử. Quả là cái cán hơi nặng hơn bình thường, hẳn nào Jennifer kêu ca là khó điều khiển. Julia cẩn thận bóc lớp da bọc ngoài bằng mũi một con dao nhíp. Lộ ra một lỗ tròn bít kín. Chà! Em linh cảm thấy mình sắp khám phá ra một thứ gì hết sức quan trọng. Em lấy mũi dao khoét, thấy chỉ là chất nhựa. Lỗ tròn đã được mở rộng, em nhìn thấy một vật gì lóng lánh bên trong. Em nhẹ tay moi dần ra từng hạt. Tất cả đều là những viên đá quý trong vắt, ánh lên đủ mọi màu sắc.

Julia ngả lưng ra thành ghế, mắt hoa lên trước cả một cuộc hội ngộ rực rỡ của muôn vàn tia sáng ngũ sắc lấp lánh. Vào tuổi này, tuy chưa phải đàn bà, nhưng em cũng không còn là trẻ con. Em biết giá trị của đồ nữ trang. Em đoán đây là những viên kim cương. Như thể mê đi, em vốc chúng lên rồi thả dần dần xuống nệm giường trắng tinh, và tưởng như mình lạc vào một hang chứa kho báu trong truyện cổ tích... Một nghìn lẻ một đêm chẳng hạn.

Một tiếng động nhẹ bên ngoài làm em sực tỉnh. Julia vội vã thu tất cả lại, gói vào một mảnh vải nhỏ cho vào cái túi đựng gương lược và phấn sáp. Sau đó, em quay ra, dán lại lớp da bọc cán vợt cho giống hệt như cũ, ai tinh mắt lắm mới có thể phát hiện ra được. Bây giờ thì cây vợt đã hoàn toàn như trước.

Julia đăm chiêu nhìn giường, nhưng chưa cởi quần áo. Rồi em lo lắng nghe động tĩnh ngoài hành lang. Bất giác em cảm thấy toàn thân lạnh toát. Em nhớ đến hai cái chết vừa rồi. Nếu ai biết em đã phát hiện ra điều bí mật này, chúng sẽ không để em yên. Và nạn nhân thứ ba sẽ là Julia!

Trong phòng có một chiếc tủ lớn, Julia phải dùng hết sức lực đẩy dần nó ra, chẹn thêm vào cánh cửa. Rồi em nhìn cửa sổ. Chạy ra ngó xuống dưới. Chắc không ai lọt được vào đây bằng lối cửa sổ này. Nhưng tốt nhất là cứ cẩn thận.

Em đưa mắt nhìn đồng hồ: mười rưỡi. Julia sực nhớ vội vã tắt đèn để khỏi làm ai chú ý đến căn phòng nhỏ này. Em nhẹ tay kéo rèm ra, ánh trăng bên ngoài dội vào cánh cửa. Ngồi trên giường, em lo lắng, tay cầm sẵn chiếc giầy cao gót, chuẩn bị đối phó nếu có kẻ xông vào. Em tính toán. "Nếu có kẻ tìm cách đẩy cửa vào hoặc leo theo lối cửa sổ mình đập thật mạnh vào tường, con Mary King ở phòng bên cạnh sẽ thức dậy. Rồi mình hét thật to. Nếu không phải kẻ lạ, mình sẽ nói thác đi là mình mê thấy một cơn ác mộng. Mà thấy ác mộng là chuyện dễ hiểu lúc này, sau khi trong trường xảy ra liền hai vụ án mạng..."

Julía cố thức để canh chừng. Nhưng cuối cùng, em không cưỡng lại được cơn buồn ngủ. Em thiếp đi lúc nào không biết, co quắp trong bộ quần áo mặc lúc ban ngày.

* * *

Sau bữa điểm tâm và buổi cầu kinh sáng, học sinh lục tục vào các lớp. Julia cũng vào lớp em, rồi lợi dụng các lối đi đan nhau, em lẩn được ra vườn. Em biết thời gian này việc em vắng mặt trong giờ học không bị ai chú ý, bởi gần như mỗi lớp chỉ còn khoảng một nửa số học sinh. Không cô giáo nào nắm được danh sách những học sinh còn ở lại trường những học sinh nào đã bị cha mẹ bắt về nhà.

Julia leo lên một cây dương gần tường rào, nấp trong một đám lá rậm, ngồi bất động trong đó. Chốc chốc em lại nhìn đồng hồ đeo tay. Đến một lúc em nhìn đồng hồ lần cuối, rồi nhẹ nhàng nhảy ra bên ngoài bức tường thấp. Thế là em đã ở ngoài nhà trường. Chụp chiếc mũ dạ lên mái tóc, em đi nhanh ra ga xe lửa và lên chuyến tàu đi London.

Trong phòng ngủ của em ở trường Meadowbank, Julia để lại chiếc phong bì đề tên Bà hiệu trưởng Bulstrode. Nội dung lá thư bên trong như sau:

Kính thưa cô Hiệu trưởng Bulstrode.

Không phải em bị bắt cóc đâu, mà lần này em trốn học. Nhưng em sẽ đi không lâu đâu. Cho nên xin cô đừng lo lắng. Khi nào xong việc, em sẽ về trường ngay.

Học trò của cô: Julia UPJOHN

Chương XXXII

Tại ngôi nhà số 228 đại lộ Whitehouse, cậu giúp việc cho thám tử Hercule Poirot ra mở cửa và không ngạc nhiên gì mấy, khi thấy một cô bé học sinh khuôn mặt không lấy gì làm sạch sẽ.

- Cho cháu gặp ông Hercule Poirot, được không ạ?

Thấy một người khách quá bất ngờ, anh người ở George suy nghĩ một lát:

- Ông chủ tôi không tiếp những khách không có hẹn trước.

- Cháu e cháu không có đủ thời gian để tiến hành cho đúng mọi thủ tục. Cháu có việc cần phải nói ngay với ông Poirot... về những vụ án mạng, những vụ ăn trộm... và nhiều thứ khác nữa.

George suy nghĩ rồi nói:

- Thôi được, tôi vào thưa với ông chủ, xem ông chủ có bằng lòng tiếp cô hay không?

Lát sau, anh ta lại mở cửa, mời cô bé mặt mũi lem luốc vào. Julia tỏ thái độ hết sức lễ phép nhưng đồng thời chân thật:

- Chào ông Poirot. Tên cháu là Julia Upjohn. Cháu biết ông quen với một bà bạn thân của mẹ cháu, bà Summerhages. Mới mùa hè vừa rồi, mẹ cháu và cháu đến thăm bà ấy, và mấy người nói rất nhiều chuyện về ông.

" Bà Summerhages", Poirot nhớ đến một ngôi làng xinh xắn trên một quả đồi... và một toà nhà dễ mến trên đỉnh đồi. Poirot nhớ đến một khuôn mặt duyên dáng, chiếc đi văng lò xo đã hỏng, và cả một đàn chó đông đúc, cùng rất nhiều thứ khác, cả đáng mến lẫn đáng ghét.

- Bà Maureen Summerhages? Có, tôi có quen.

- Cháu thường gọi bà ấy là cô Maureen. Cô ấy đã kể không biết bao nhiêu chuyện kỳ lạ về ông, thưa ông Poirot, cũng như không biết bao nhiêu lần ông đã gỡ tội cho những người bị nghi oan. Vì hiện nay cháu có một việc không biết kể với ai, nên cháu nghĩ đến ông.

- Cảm ơn cô quá khen - Poirot khẽ nghiêng mình. Rồi ông mời Julia ngồi.

- Bây giờ cô nói đi. Cô nói với George là cô muốn nói với tôi về những vụ án mang, những vụ ăn trộm và những chuyện khác nữa, đúng thế không nhỉ?

- Vâng. Hai cô giáo bị giết: cô Springer và cô Vansittart. Rồi một vụ bắt cóc. Nhưng vụ bắt cóc thì cháu không biết gì.

- Những chuyện đó xảy ra ở đâu?

- Trong trường cháu, trường nữ học ở Meadowbank.

- Meadowbank? - Poirot kêu lên.

Ông với tay lấy tờ báo được gấp cẩn thận trên bàn giấy, giở ra, liếc nhìn trang đầu.

- Tôi bắt đầu hiểu rồi - ông nói - Vậy, Julia, cô hãy kể tôi nghe tất cả những gì cô thấy và cô biết, kể từ đầu.

Julia bắt đầu kể rõ ràng, tỷ mỷ, thỉnh thoảng dừng lại, khi em thấy cần bổ sung thêm một chi tiết ở đoạn trước mà em quên chưa kể. Đến đoạn em quan sát cây vợt trong phòng ngủ của em đêm qua, Julia nói:

- Lúc ấy, cháu nghĩ, trong cây vợt này tất phải có một thứ gì.

- Và cô đã tìm thấy?

- Vâng.

Không giả vờ làm ra bộ xấu hổ, Julia kéo váy lên, móc tay vào tận quần lót, khó khăn lắm mới lôi ra được một gói nhỏ, kèm theo một tiếng kêu khẽ đau đớn. Gói nhỏ được bọc rất cẩn thận và cô bé đặt lên bàn, mở ra, đổ ra mặt bàn: cả một dòng suối sắc mầu lấp lánh.

- Trời! - Poirot trợn mắt kêu lên.

Ông vốc lên bàn tay, rồi mở các ngón tay cho những viên đá quý kia lọt xuống qua các kẽ ngón tay.

- Khủng khiếp? Không phải đồ giả đấy chứ?

Julia gật đầu:

- Nếu là đồ giả thì mấy con người kia đã không bi thiệt mạng vào tay những kẻ tìm cách chiếm đoạt những viên đá này.

Rồi như thể bóng đen qua đi, cặp mắt em trở lại cặp mắt rực sáng của một đứa trẻ thơ, bị những báu vật kia hút hồn. Poirot nhận ngay thấy điều đó.

- Toàn ngọc thật cả... - Julia thầm thì.

- Thì ra cô đã khám phá ra những của quý này trong cái cán của cây vợt?

Julia tiếp tục kể nốt câu chuyện.

- Cô không bỏ sót một chi tiết nào đấy chứ?

- Cháu nghĩ là cháu đã kể hết. Cũng có thể cháu đã phóng đại một vài chi tiết nào đó, tính cháu ngược lại với tính đứa bạn cháu Jennifer. Nó lại có tính giản đơn hoá mọi thứ.

Rồi Julia tiếp tục ngắm những viên kim cương, đá quý vẫn đang ánh lên muôn vàn tia sáng óng ánh đủ mọi màu sắc.

- Thưa ông, số báu vật này, chủ nhân đích thực của chúng là ai ạ?

- Hiện nay tôi chưa biết, nhưng có lẽ tìm ra được chủ nhân đích thực của chúng cũng chẳng dễ dàng lắm đâu. Nhưng một điều chắc chắn, chúng không thuộc về cô cũng không thuộc về tôi. Thôi, bây giờ chúng ta cần tiến hành một số công việc.

Julia chăm chú nhìn ông Poirot, không rời mắt.

- Cô hoàn toàn tin cậy ở tôi chứ? - ông nói.

Rồi nhắm mắt lại một lát, viên thám tử lừng danh nói tiếp:

- Có lẽ trong trường hợp này tôi không thể ngồi yên trong ghế bành của tôi nữa. Ta phải vạch ra một kế hoạch chi tiết, cụ thể và tiến hành từng bước. Như vậy là trong vụ này có rất nhiều người dính vào, và họ có những mục đích hết sức khác nhau. Tuy nhiên tất cả đều quy tự vào một mối, đó là trường nữ học Meadowbank. Do đấy, tôi cũng sẽ phải đến đó. Còn cô, Julia thân mến... À, mẹ của cô ở đâu nhỉ?

- Mẹ cháu hiện đang du lịch trên đất Thổ Nhĩ Kỳ.

- Vậy ư? Lại thế nữa kia đấy. Tận Thổ Nhĩ Kỳ? Tôi biết mẹ cô là bạn thân của bà Summerhages, một phụ nữ cũng rất đặc biệt.

Poirot nhấc máy điện thoại, bảo Julia:

- Cô hãy báo tin cho bà hiệu trưởng, nói với bà rằng tôi sẽ cùng cô đến đó ngay...

- Về chuyện báo tin thì ông đừng lo. Bà Bulstrode biết cháu đi có công việc rồi. Cháu đã để lại trong phòng một lá thư gửi cho bà...

- Nhưng bà sẽ rất vui mừng nếu nhận được một lời khẳng định nữa.

Poirot quay số và chỉ lát sau, đường dây đã được nối.

- A lô! - ông Poirot nói - Bà hiệu trưởng Bulstrode phải không ạ? Tôi là Hercule Poirot. Một học sinh của bà, em Julia Upjohn, đang ở chỗ tôi. Tôi đang định đi cùng em đến chỗ bà ngay bây giờ, và nhờ bà báo cho ông thanh tra cảnh sát đảm trách việc này biết rằng "vật” kia, một túi nhỏ, đã được tôi gửi vào nhà băng. Tuyệt đối an toàn!

Poirot đặt máy xuống, Julia nói ngay:

- Nhưng số đá quý này đã nằm ở nhà băng đâu, thưa ông Poirot?

- Rồi nó sẽ nằm trong đó - Poirot đáp - Còn hiện giờ, tốt nhất là mọi người tin rằng số đá quý này đã nằm trong nhà băng. Như vậy tất cả những người quan tâm đến chúng sẽ để yên cho chúng ta. Gửi vào nhà băng thì chỉ trong nháy mắt, nhưng lấy ra thì không phải dễ dàng đâu, cô bé yêu quý của ta. Tôi nói với bà hiệu trưởng câu vừa rồi chỉ vì tôi rất không muốn kẻ nào gây chuyện nguy hiểm cho em. Julia, lòng can đảm và trí thông minh của em làm ta hết sức kính phục đấy. Em xứng đáng được hưởng sự an toàn tuyệt đối.

Nghe người thám tử lừng danh nói câu đó, Julia vừa sung sướng vừa ngượng ngùng.

* * *

Hercule Poirot đang chuẩn bị tinh thần đón đợi thái độ của một phụ nữ quý tộc nhìn một người đàn ông có tuổi hình dạng lố lăng, với đôi giầy đánh xi bóng loáng nhưng mũi nhọn hoắt, và trên mặt là bộ na mép dài chĩa đôi. Nhưng ông hài lòng nhận thấy sự thật không diễn ra như ông dự đoán. Bà hiệu trưởng Bulstrode tiếp ông một cách lịch sự và tin cậy. Bà đã biết danh tiếng nhà thám tử tư vấn Hercule Poirot và thái độ của bà làm ông cảm thấy thoải mái ngay.

- Rất hân hạnh được đón tiếp ông, thưa ông Poirot. Cú điện thoại của ông đã đến trước khi tôi kịp lo lắng về cô bé học sinh của tôi. Vì nhiều phụ huynh rút con em họ về nhà nên trong bữa điểm tâm, sự vắng mặt của em Julia không được ai chú ý. Phải sau khi nhận được điện thoại của ông, tôi mới chạy lên phòng ngủ của em và thấy lá thư em để lại.

- Thưa cô hiệu trưởng, em muốn cô đừng lo là em bị bắt cóc.

- Ta đánh giá rất cao thái độ đó của em, Julia. Nhưng sao em không kể cho ta nghe từ trước những dự định của em?

- Thưa cô, em nghĩ rằng nên giữ tuyệt đối bí mật, như thế sẽ an toàn cho cả cô lẫn cho em... Em nghĩ kẻ thù có tai rất thính!

- Ta rất tán thành thái độ thận trọng của em.

Rồi quay sang thám tử Poirot, bà nói tiếp:

- Bây giờ tôi hy vọng ông cho tôi biết có chuyện gì đã xảy ra chứ ạ?

- Vâng, tất nhiên rồi. Vậy xin phép bà - Poirot nói.

Ông bước ra mở cửa, ngó ra ngoài, rồi khẽ đóng lại. Khi đã ngồi vào chỗ, mặt ông tươi lên:

- Bây giờ chỉ có ba chúng ta - ông nói giọng bí hiểm - Ta có thể yên tâm trò chuyện.

Bà hiệu trưởng nhìn viên thám tử, đưa mắt nhìn ra cửa, rồi lại quay nhìn ông chăm chú, mắt mở to. Sau đó, bà khẽ nghiêng người, lấy dáng điệu quả quyết nói với Julia.

- Em nói đi, Julia. Và cố gắng đừng bỏ sót chi tiết nào đấy.

Cô bé lần lượt kể hết câu chuyện: từ việc em đổi vợt tennis với Jennifer, chuyện người đàn bà bí hiểm đến tìm Jennifer để trao cây vợt mới và lấy đi cây vợt cũ thật ra chỉ là vợt của Julia, rồi việc em khám phá ra số đá quý trong cán cây vợt, vốn là của Jennifer.

Julia kể xong, bà hiệu trưởng đưa mắt nhìn viên thám tử.

- Em Julia đã kể và em kể rất đầy đủ - Poirot nói - Tôi đã đem gửi số đá quý em mang đến vào một nhà băng, và bây giờ số đá quý đó được cất giữ ở một nơi tuyệt đối an toàn. Do đấy, tôi tin rằng từ nay sẽ không còn sự việc gì đáng tiếc xảy ra nữa.

- Tôi hiểu - bà hiệu trưởng Bulstrode nói.

Bà im lặng một lúc, rồi nói tiếp:

- Nhưng ông thấy có nên để em Julia ở lại đây không? Hay tôi tạm thời cho người đưa em về nhà bà dì em ở London?

Julia vội vã phản đối:

- Đừng, thưa cô hiệu trưởng. Cô cho phép em ở lại đây.

- Em muốn ở lại trường à? - Bà hiệu trưởng hỏi lại một lần nữa - Nhưng ta e em ở đây không được an toàn.

- Không! Em thích ở đây. Trường ta luôn có những chuyện ly kỳ...

Bà hiệu trưởng cau mặt:

- Chỉ gần đây thôi. Xưa nay trường Meadowbank có bao giờ xảy ra chuyện gì tương tự đâu?

- Nhưng em rất thích ở lại trường, thưa cô.

Poirot chen vào:

- Tôi nghĩ em Julia sẽ không gặp chuyện gì nguy hiểm được nữa. Tuy nhiên chúng ta phải giữ thật kín mọi chuyện.

Ông quay sang Julia nói tiếp:

- Em nhận thức được đầy đủ điều đó chứ?

Bà hiệu trưởng nói thêm.

- Ông thám tử ý nói rằng em phải hết sức giữ gìn lời ăn tiếng nói. Em thấy có thể giữ kín mọi chuyện em biết được không?

- Thưa cô được ạ.

- Sẽ rất phiền nếu em lộ ra một chút xíu nào của câu chuyện cho bè bạn em đấy. Em không có tính thích khoe mẽ chứ? Một câu chuyện ly kỳ chỉ riêng mình biết, con người ta rất khó giữ kín mà không lộ ra với ai... Cả một kho báu được giấu trong cán cây vợt tennis! Còn câu chuyện nào ly kỳ hơn?

- Em thề nếu em để lộ ra với ai, cô cứ treo cổ em lên.

Bà hiệu trưởng Bulstrode bật cười:

- Ta hy vọng chẳng bao lâu nữa mẹ em sẽ trở về. Thanh tra Kelsey cho ta biết, cơ quan an ninh đang làm mọi cách để bắt liên lạc với bà Upjohn. Rất tiếc là các xe "ca" của Thổ Nhĩ Kỳ luôn chạy chậm so với giờ quy định, cho nên việc liên lạc với bà không thể nhanh như ta mong muốn.

- Em có thể kể chuyện này với mẹ em chứ ạ?

- Tất nhiên! Bây giờ em được tự do, Julia.

Chương XXXIII

- Bây giờ - ông Cảnh sát trưởng nói - chúng ta thử khớp các thông tin của chúng ta lại với nhau. Thưa ông Poirot, rất sung sướng được ông cộng tác. Ông thanh tra Kelsey còn nhớ ông rất rõ.

- Chuyện ấy cách đây rất lâu rồi - thanh tra Kelsey tiếp lời - Hồi đó tôi mới là Trung sĩ cảnh sát.

Ông Cảnh sát trưởng khẽ ho rồi nói tiếp:

- Ông Adam Goodman có mặt ở đây hôm nay là người ông thám tử chưa quen, nhưng tôi tin rằng chắc ông thám tử biết rõ thủ trưởng của ông Adam ở cơ quan An ninh?

- Đại lá Pikcaway? - Poirot nói khẽ, dáng suy nghĩ - Đã lâu tôi không được gặp ông ấy. Ông Đại tá vẫn có vẻ lúc nào cũng như ngủ đấy chứ gì?

Adam lộ vẻ thích thú:

- Vậy là ông có trí nhớ rất tốt. Chưa bao giờ tôi nhìn thấy sếp của tôi hoàn toàn tỉnh táo. Và nếu Đại tá có vẻ tỉnh táo thì tôi lại lo ông ấy không nghe thấy ai nói gì xung quanh nữa.

- Anh tinh ý đấy, anh bạn trẻ ạ - Poirot nói.

- Bây giờ ta đi thẳng vào vấn đề - ông Cảnh sát trưởng nói - Các vụ việc vừa qua diễn ra trên nhiều bình diện, tôi nghĩ chúng ta cần xét chúng trên một bình diện đã.

Ông ngừng lại một chút rồi quay sang thám tử Poirot, nói tiếp:

- Về mặt công khai, đây chỉ là câu chuyện ly kỳ, một em học sinh gái tìm thấy những viên kim cương giả mà em tưởng là kim cương thật, đã đến gặp thám tử nổi tiếng Poirot, đúng vậy không, thưa ông thám tử?

Trong khi nói, ông Cảnh sát trưởng không rời mắt khỏi người thám tử.

- Tôi cũng nghĩ thế - Poirot đơn giản trả lời.

- Đường lối ngoại giao đòi hỏi chúng ta phải hết sức tế nhị. Đây là chuyện dính đến những mỏ dầu lửa ở Trung Đông, và chúng ta phải tính đến chính phủ các quốc gia đó. Cho nên chúng ta không thể công bố toàn bộ sự thật. Chúng ta sẽ chỉ dừng lại ở mức độ một vụ án.

- Tôi đồng ý - Poirot nói.

- Vì lẽ đó - ông Canh sát trưởng nói tiếp - tôi nghĩ rằng tôi sẽ không lầm khi nói rằng Ngài cố quốc trưởng Ramat trước kia là bạn thân thiết của nước ta và tất nhiên chúng ta tôn trọng tất cả những tài sản có thể thuộc quyền sở hữu của Ngài. Trên thực tế, hiện nay chưa ai biết số của cải đó là những gì. Nếu chính phủ đương quyền ở Ramat yêu cầu trả lại họ những tài sản đó, chúng ta sẽ trả lời rằng chúng ta không biết những tài sản đó gồm những gì và hiện nằm ở đâu. Bởi một sự từ chối dứt khoát sẽ gây tổn hại cho mối bang giao giữa hai quốc gia.

- Trên bình diện này - Poirot nói - chúng ta sẽ nói rằng chính phủ Anh không hề biết gì về số "vật báu” mà người ta đồn là vị quốc trưởng quá cố, Hoàng thân Ali Yusuf đã sở hữu. "Vật báu” đó rất có thể vẫn còn nằm trong nước Ramat và được một người bạn thân tín của cố Hoàng thân cất giấu...

Viên Cảnh sát trưởng gật đầu:

- Điều tôi định nói đúng là như vậy. Trên thực tế, thưa ông Poirot, ông có nhiều người bạn nắm giữ những vị trí cao trong chính quyền, và họ rất tin cậy ông. Tôi nghĩ, tôi được phép giả định rằng các quan chức cao cấp kia trên tư cách tư nhân với nhau, có thể đã nghĩ đến chuyện nhờ ông giữ hộ. Nếu như vậy ông không từ chối chứ?

- Hoàn toàn không. Nhưng chúng ta sẽ phải đương đầu với một vấn đề quan trọng hơn.

Poirot đưa mắt nhìn ba người đang ngồi xung quanh:

- Các ông có thấy như vậy không? Dù sao thì một tài sản trị giá sáu bảy triệu bảng Anh cũng không có nghĩa gì, nếu đem so với tính mạng của một vài con người?

- Ông nghĩ rất đúng - viên Cảnh sát trưởng nói.

- Vì vậy - thanh tra Kelsey nói - chúng ta cần tìm ra hung thủ. Thưa ông Poirot, chúng tôi rất muốn được nghe quan điểm của ông. Cho đến lúc này, chúng tôi mới chỉ có thể có những giả thuyết. Và trong lĩnh vực này, không ai sánh được với ông, nhất là qua điều tra, chúng tôi thấy ở đây là cả một cuộn chỉ rối, hết sức khó lần ra được đầu mối.

- Dùng hình ảnh "cuộn chỉ rối" là rất đắt đấy - Poirpt vuốt ria mép nói - Và trong mớ chỉ rối rắm ấy cần tìm ra một hung thủ. Tôi đề nghị các ông cho biết tất cả những gì các ông đã biết cho đến lúc này.

Thanh tra Kelsey, rồi Adam, lần lượt kể, sau đó, ông Cảnh sát trưởng tạm thời tóm tắt. Poirot ngồi tựa lưng ghế, mắt lim dim chăm chú nghe. Sau một phút im lặng, ông bắt đầu nói:

- Hai vụ án mạng xảy ra tại cùng một địa điểm, và trong hoàn cảnh gần giống nhau. Tiếp đó là một vụ bắt cóc. Nạn nhân của vụ bắt cóc, đáng lý có thể là nhân vật trung tâm của vụ âm mưu, nếu có thể nói như thế. Trước hết, chúng ta cần làm sáng tỏ, bọn chúng bắt cóc cô ta để làm gì?

- Tôi xin nhắc lại nguyên văn lời cô học sinh "công nương" ấy khai với chúng tôi - thanh tra Kelsey nói.

Nghe xong, thám tử Poirot lẩm bẩm.

- Thoạt nghe, những lời đó quả là phi lý.

- Nhưng cuối cùng, cô ta bị bắt cóc thật.

- Kẻ bắt cóc đã gửi giấy đòi tiền chuộc - viên Cảnh sát trưởng bổ sung.

- Chỉ đơn giản là chúng tạo ra một cớ giả cho vụ bắt cóc - thám tử Poirot đáp.

- Nghĩa là chúng bắt cóc công nương Shaila vì một động cơ khác. Động cơ nào?

- Chắc để cô ta khai ra chỗ cất giấu kho báu - Adam gợi ý, nhưng giọng không được quả quyết lắm.

Poirot vẩy tay:

- Cô ấy có biết đâu! Nhưng cũng có thể bọn chúng tưởng cô ta biết. Không! Chúng nhằm một động cơ khác...

Trán cau lại, ông ta im lặng một lúc lâu.

- Cặp đầu gối của cô ta... - đột nhiên Poirot thốt lên - Các ông có lúc nào chú ý đến đầu gối của cô Shaila ấy không?

Adam lộ vẻ ngạc nhiên.

- Không! Nhưng tại sao ông lại hỏi đến đầu gối?

- Có rất nhiều lý do khiến người ta chú ý đến đầu gối của một cô gái trẻ - Poirot ngắt lời - Riêng trong trường hợp này, đáng tiếc là các ông đã không chú ý đến đầu gối, một trong những chi tiết rất dễ bị lộ tẩy của cô ta.

- Phải chăng chỗ ấy có một vết sẹo? Nhưng làm sao thấy được vết sẹo ấy? Phụ nữ bao giờ cũng di tất dài che khuất đầu gối.

- Cả khi họ tắm trong bể bơi chăng?

- Tôi chưa có dịp nào quan sát Shaila trong bể bơi. Thời tiết nước Anh quá lạnh đối với cô ta, một công nương sinh trưởng tại một xứ sở quanh năm nóng bức. Nhưng tôi vẫn chưa hiểu tại sao ông quan tâm đến đầu gối cô ta: hay ông nghi cô ta có vết sẹo ở đó thật?

- Hoàn toàn không phải thế. Dù sao thì sơ suất đó của các ông cũng rất đáng tiếc.

Rồi viên thám tử quay sang ông Cảnh sát trưởng:

- Xin ông cho phép tôi gọi điện thoai đến Sở cảnh sát thành phố Geneva Thụy Sĩ. Tôi nghĩ họ có thể giúp được chúng ta.

- Vì công nương Shaila trước đây có học trong một trường nội trú ở đó chăng?

- Đúng thế. Đây chỉ là ý nghĩ thoáng qua của tôi. Nhưng thôi, ta tạm gác vụ bắt cóc lại để xem xét những vụ quan trọng hơn: hai vụ án mạng ở Meadowbank... Hai! - Poirot nhắc lại, vẫn trầm ngâm suy nghĩ.

- Chúng tôi đã kể với ông rồi - thanh tra Kelsey nói - Ông cần hỏi thêm gì nữa không?

- Tại sao lại xảy ra trong Cung Thể thao, ông Adam muốn hỏi như thế chứ gì? Vậy câu giải đáp là thế này: trong Cung Thể thao có một cây vợt tennis chứa bên trong nó một kho báu, gồm nhiều viên kim cương. Bọn chúng biết như vậy. Nhưng "chúng" là ai? Có thể là cô giáo Springer. Các ông đã kể rằng cô giáo ấy có thái độ quan tâm khác thường đến Cung Thể thao kia. Cô ta không muốn người không có trình độ vào đó. Thậm chí cô ta còn nghi họ có những ý đồ xấu. Chẳng hạn cô giáo Blanche, đặc biệt là cô này, đã có lần bị đuổi ra.

- Cô giáo Blanche người Pháp.... - thanh tra Kelsey dướn lông mày thốt lên.

Poirot lại quay sang Adam, nói tiếp:

- Ông còn nhận xét thấy thái độ không bình thường của cô giáo Blanche sau khi bị cô giáo Springer đuổi ra khỏi toà nhà đó thì phải?

- Đúng thế - Adam trả lời.

- Còn một điều nữa, là cô giáo Springer bị giết trong Cung Thể thao vào một thời điểm mà cô không có nhiệm vụ gì để vào đó.

Nói xong, Poirot quay sang hỏi thanh tra Kelsey:

- Trước khi vào làm ở trường nữ học Meadowbank, cô Springer ở đâu?

- Chúng tôi không biết. Cô ta thôi việc tại một trường nổi tiếng từ đầu mùa hè năm ngoái. Từ thời điểm đó đến lúc vào làm ở trường Meadowbank, cô ta ở đâu và làm gì chúng tôi chưa biết. Cô ta lại không có họ hàng gần và, hình như cũng không quan hệ chặt chẽ với ai...

- Không phải không có khả năng cô ta ở Ramat trong khoảng thời gian đó - Poirot ngắt lời thanh tra Kelsey.

Mọi người ngạc nhiên nhìn người thám tử, và từ lúc này, không ai rời mắt khỏi ông ta. Lát sau, Adam lên tiếng:

- Bây giờ tôi mới nhớ ra, trong mùa hè năm nay, có một nhóm giáo viên sang nghỉ mát bên đó, vào đúng thời gian trước lúc xảy ra cuộc đảo chính.

- Vậy ta có thể giả định, Springer đã tham gia nhóm du lịch đó, và rất có thể cô ta nghe thấy nói đến cây vợt có một không hai kia. Ta tiếp tục phỏng đoán. Sau khi đã nắm vững quy luật sinh hoạt của trường Meadowbank, cô ta quyết định một đêm mò vào Cung Thể thao. Đến lúc cô ta gần tìm ra được cây vợt kia thì… một kẻ khác xuất hiện. Có thể kẻ này đã theo dõi cô ta từ lâu, thậm chí từ tối. Kẻ này có súng, bèn giết Springer, nhưng nghe tiếng chân người, hắn vội tẩu thoát, chưa kịp moi ra những viên kim cương giấu trong cây vợt.

- Ông cho rằng sự việc diễn ra đúng như vậy? - Viên cảnh sát trưởng hỏi Poirot.

- Tôi mới phỏng đoán thôi. Một khả năng khác: kẻ kia đến trước và bị cô Springer phát hiện. Một kẻ mà cô đã nghi ngờ từ lâu. Các ông chẳng đã kể với tôi rằng, cô giáo Springer này có tính thích khám phá những bí mật của người khác?

- Còn nạn nhân thứ hai, cô giáo Vansittart? - Viên Cảnh sát trưởng hỏi.

- Hiện giờ, cả các ông cũng như tôi đều chưa biết gì về vụ án mạng thứ hai này. Rất có thể cô giáo Vansittart là nạn nhân của một kẻ thứ ba, từ bên ngoài nhà trường đột nhập vào...

Có vẻ Poirot chờ một câu trả lời. Câu trả lời này do thanh tra Kelsey cung cấp:

- Tôi không tin có kẻ nào bên ngoài lọt vào được trong trường. Chúng tôi đã rà soát cẩn thận khắp vùng lân cận và chú ý đặc biệt đến những người từ nơi xa đến. Chỉ có một phụ nữ tên là Kolinski thuê một phòng khách sạn gần đây, nhưng xét kỹ thì thấy bà ta không liên quan gì đến hai vụ án mạng kia.

- Nếu vậy, chúng ta phải kiếm trong trường. Chỉ có một phương pháp duy nhất ở đây là loại trừ dần.

Thanh tra Kelsey thở dài:

- Vụ án mạng thứ nhất thì diện nghi vấn rất rộng, bất cứ ai cũng có thể là thủ phạm giết cô giáo Springer, chỉ trừ bà giám thị Johnson, bà giáo Chadwick và em học sinh đau tai. Ngược lại, đến vụ án thứ hai thì diện nghi vấn bị thu hẹp rất nhiều. Ba giáo viên có bằng chứng ngoại phạm: cô giáo Rich, cô phụ giáo Blake và cô thư ký Shapland. Cả bà hiệu trưởng Bulstrode cũng được loại ra ngoài vòng nghi vấn vì bà ấy đi nghỉ ở nhà một người bạn, theo như người ta nói với tôi.

- Còn lại cô phụ giáo Rowan và cô giáo Blanche.

- Ông quên là còn đám học sinh - thám tử Poirot nói.

Thanh tra Kelsey bật dậy:

- Ông cho rằng thủ phạm có thể là học sinh?

- Thật ra tôi không cho là như vậy. Nhưng chúng ta không nên bỏ qua bất cứ ai.

Thanh tra Kelsey không trả lời vào câu nói ấy mà ông nói sang chuyện khác:

- Cô phụ giáo Rowan đã làm việc ở đây một năm và tỏ ra là người rất tốt. Chưa thấy có biểu hiện gì có thể nghi cô ấy được.

- Vậy ta xét đến cô Blanche, quân bài cuối cùng của chúng ta.

Mọi người im lặng một lát. Thanh tra Kelsey lên tiếng trước:

- Không có biểu hiện nào. Các giấy chứng chỉ của cô Blanche đều rất tốt.

- Nhưng cô ta chú ý đến mọi thứ - Adam nói - Tất nhiên thói ấy chưa phải đã chứng tỏ cô ta là kẻ tội phạm.

- Khoan đã - thanh tra Kelsey ngắt lời - Có một chuyện dính đến cô ta đấy: chuyện chiếc chìa khoá trong lần đầu tiên tôi thẩm vấn cô ta. Cô giáo Blanche đã nhặt chìa khoá lên nhưng quên chưa cắm lại vào ổ, thế là cô Springer nhìn thấy, liền giật lấy và đuổi cô Blanche ra ngoài Cung Thể thao.

- Người nào muốn đêm khuya lọt vào Cung Thể thao, tất phải có chìa khoá. Mà muốn có chìa khoá cần phải có khuôn hình của nó để đánh.

- Nếu như vậy, thì không đời nào cô giáo Blanche kể ông nghe chuyện kia - Adam bác lại.

- Lập luận của ông chưa phải đã chính xác hoàn toàn. Bởi rất có thể cô Blanche kể để đề phòng cô Springer cũng sẽ kể, và như thế vô cùng tai hại cho cô Blanche. Chính hành động cẩn thận đó cũng đáng cho chúng ta quan tâm - ông Cảnh sát trưởng nói.

- Vậy là vụ án này chúng ta chưa làm rõ thêm được chút nào - thanh tra Kelsey thở dài nhìn thám tử Poirot.

- Nếu như tôi được thông tin đúng - Poirot nói - thì hôm khai trường, bà mẹ của Juila đã nhận ra một người quen cũ và bà ngạc nhiên sao bà kia lại có mặt ở đây. Qua đấy ta có thể rút ra là người đó hiện nay làm việc trong trường Meadowbank, nhưng xưa kia đã từng hoạt động trong ngành mật vụ. Nếu sắp tới, ta liên lạc được với bà Upjohn, mẹ của Julia, mà bà ta nói người bà nhìn thấy hôm đó là cô Blanche thì chúng ta có thêm được một thông tin giá trị để xét cô Blanche đấy.

- Liên lạc với bà Upjohn hết sức khó. Chúng tôi được biết, bà ta du lịch ở Thổ Nhĩ Kỳ bằng "xe ca”, thật ra là xe ca địa phương. Bà ta lang thang từ nơi này đến nơi khác tại đó bằng cách như vậy cho rẻ tiền. Mà Thổ Nhĩ Kỳ đâu phải nước nhỏ...

- Đúng là tìm được bà ta vô cùng khó - Poirot thừa nhận.

- Tôi e ta phải đợi rất lâu đấy - thanh tra Kelsey nói - Liệu cô giáo Blanche có thấy động mà chạy trốn không, hay ta cần có cách giữ chân cô ta lại?

Poirot vẩy tay:

- Cô ta sẽ không trốn đâu.

- Sao ông dám quả quyết như thế?

- Vì nếu chính cô ta là thủ phạm, thì cô ta không dám làm điều gì khiến người ta chú ý đến cô ta, và sẽ ở lại trường này cho đến hết tam cá nguyệt.

- Tôi hy vọng ông nhận định đúng.

- Và ông nên nhớ rằng người phụ nữ bà Upjohn nhìn thấy, không biết rằng mình đã bị nhận mặt. Khi nào bà Upjohn về đây, sự bất ngờ sẽ là hoàn toàn.

Thanh tra Kelsey nhún vai:

- Nhưng từ nay đến lúc đó?

- Dư luận bàn tán đóng một vai trò quan trọng.

- Nghĩa là sao? - Thanh tra Kelsey ngạc nhiên hỏi.

- Khi có một vụ án mạng, sớm hay muộn người ta cũng sẽ xì xào bàn tán...

- Và kẻ có tội sẽ có lúc nói hoặc làm điều gì khiến lộ ra chứ gì?

- Chưa hẳn là như thế. Tôi muốn gặp bà hiệu trưởng hỏi xem ở đây có ai vẽ giỏi không?

Nói xong, thám tử Poirot đứng dậy:

- Tôi xin lỗi, phải ra ngoài một lát.

Poirot ra khỏi, Adam thốt lên:

- Lúc nãy thì nói đến đầu gối, bây giờ lại đến người nào giỏi vẽ. Chịu, tôi không hiểu nổi ông ta!

Chương XXXIV

Bà hiệu trưởng Bulstrode nói:

- Hôm nay cô giáo dạy vẽ đi vắng. Có việc gì thế thưa ông? Cụ thể là ông cần vẽ thứ gì?

- Vẽ những khuôn mặt người, thưa bà.

- Cô giáo Rich của chúng tôi vẽ chân dung rất giỏi. Bức nào cũng giống lắm.

Khi cô giáo Rich đến, bà hiệu trưởng giới thiệu xong, Poirot hỏi:

- Thưa cô Rich, cô có thể vẽ nhanh khuôn mặt của một con người, vẽ bằng bút chì, được không?

- Đấy là một cái thú của tôi.

- Hay lắm! Vậy cô vui lòng vẽ chân dung cô giáo Springer, được không thưa cô?

- Hơi khó. Bởi tôi ít gần chị ấy. Nhưng thôi được, tôi cứ thử xem.

Và cô ngồi loay hoay với cây bút chì và tờ giấy. Lát sau cô đã hoàn thành bản vẽ.

- Bây giờ - Poirot nói - cô vẽ cho những khuôn mặt của bà hiệu trưởng Bulstrode, cô phụ giáo Rowan, cô giáo Blanche và người phụ việc làm vườn Adam.

Hơi ngạc nhiên nhưng cô giáo Rich vẫn thực hiện.

Thám tử Poirot ngắm các bức vẽ.

- Rất tốt. Chỉ vài nét bút chì, thế mà những nét đặc biệt của mỗi người hiện lên rất rõ ràng, đầy đủ nữa chứ. Bây giờ tôi muốn cô thử làm một việc khó hơn xem sao. Thí dụ bức vẽ bà hiệu trưởng, cô thử thay đổi vị trí cặp lông mày xem.

Cô giáo Eileen Rich ngạc nhiên nhìn Poirot.

- Không, tôi không điên đâu. Tôi chỉ muốn làm một thí nghiệm nhỏ.

Cô giáo Rich cúi xuống, làm theo lời yêu cầu của Poirot.

- Tuyệt! Cô vui lòng làm như thế với hai bức chân dung của cô Blanche và cô Rowan.

Cô Rich làm xong, Poirot đặt ba bức vẽ bên nhau, ngắm nghía rồi nói:

- Sau những thay đổi, bà hiệu trưởng vẫn giống bà, nhưng hai người kia thì khác hẳn, không còn nhận ra được nữa. Cô có nhận thấy như vậy không?

- Bây giờ thì tôi hiểu ông muốn biết thứ gì rồi.

Cô chăm chú nhìn người thám tử cuộn các bản vẽ lại.

- Ông định dùng chúng làm gì?

- Có việc đấy thưa cô.

Poirot không nói thêm gì nữa.

* * *

Hôm sau thám tử Poirot đến nhà bà Sutcliffe, mẹ của Jennifer. Sau khi xem thư giới thiệu của bà hiệu trưởng Bulstrode, bà Sutcliffe gọi con gái ra phòng khách để người thám tử hỏi chuyện.

- Chào cô Jennifer. Tôi muốn hỏi cô về người phụ nữ đem cây vợt mới đến cho cô hôm trước. Cô còn nhớ mặt bà ta chứ?

- Sau này cháu mới biết người nhờ chuyển cho cháu cây vợt tuyệt vời kia không phải là cô Gina.

- Tôi biết. Nhưng cô nhớ mặt bà ta chứ? Cô có thể tả qua hình dạng bà ta được không?

Cô bé suy nghĩ một lát rồi nói:

- Cháu chỉ nhớ bà ấy mặc áo dài nhung, khoác một tầm khăn choàng màu xanh lam, và hình như đội chiếc mũ khá rộng.

Poirot khẽ ho:

- Tôi muốn cô tả khuôn mặt bà ấy.

- Trát rất nhiều son phấn - Jennifer nói giọng thản nhiên - Chắc là người nước ngoài, vì người Anh ít khi trát phấn son nhiều đến như thế. Tóc vàng... Cháu đoán bà ấy là người Mỹ.

- Trước đó cô có gặp bà ấy lần nào chưa?

- Chưa bao giờ. Chắc bà ta không phải người vùng lân cận với trường Meadowbank. Bà ấy bảo cháu rằng bà ấy chỉ có việc đến vùng này thôi.

Người thám tử chăm chú quan sát cô bé. Jennifer có vẻ ít quan tâm đến thứ gì, coi mọi chuyện chỉ là bình thường.

- Bà ta nói dối cô đấy .

- Chắc thế, cháu cũng chẳng biết nữa.

- Cô tin rằng cô chưa gặp bà ta trước đó bao giờ chứ gì? Nhưng rất có thể đó là một người ở trường nữ học cải trang để cô không nhận ra. Một cô giáo chẳng hạn...

- Cải trang? - Cô bé ngạc nhiên nhắc lại.

Poirot đưa cô bé xem bức chân dung của cô giáo Blanche do cô Rich vẽ.

- Có phải mặt mũi bà ta thế này không?

Jennifer ngập ngừng:

- Cũng có thể. Cháu không nhớ rõ lắm. Lúc đó cháu sướng quá, mải mê ngắm cây vợt mới nên không nhìn kỹ bà ấy.

- Thôi được. Bây giờ tôi sang chuyện khác. Cô có thấy ở trường Meadowbank người nào giống một người cô đã gặp ở Ramat không?

- Ở Ramat ạ? Không. Mà cháu cũng chẳng nhớ nữa...

Thái độ không tự tin ấy của Jennifer làm Poirot chú ý.

- Vậy là cô không quả quyết? Cô thử cố nhớ lại xem.

Sau một lúc, Jennifer mới nói:

- Có một người... Nhưng bà ở Ramat béo hơn nhiều.

"Béo hơn... Lạ thật..." Poirot thầm nghĩ. Liền sau đó, Jennifer nói tiếp:

- Cô Eileen Rich hơi giống bà ta... Nhưng không thể là một người, và cháu biết chắc là như thế. Bởi hôm cháu nghi cô Rich chính là bà kia, mặc dù bà kia béo hơn nhiều, cháu đã dò hỏi, thì ra thời gian cháu với mẹ cháu ở Ramat, cô Rich nghỉ ốm. Cô nghỉ suốt cả một tám cá nguyệt cuối cùng của niên học trước.

- Trong số nhân viên và học sinh ở trường, cô thấy còn ai giống một người nào cô đã biết ở Ramat không?

- Có thể có một hoặc hai người, nhưng cháu không nhớ. Ôi, cháu thèm về trường quá. Ông có nói hộ với ba mẹ cháu cho cháu lại về trường được không ạ?

- Tôi sẽ nghĩ cách giúp cô được trở về trường.

* * *

- Tôi muốn nói chuyện với chị, Eileen - bà hiệu tưởng nói.

Cô giáo Eileen Rich theo bà hiệu trưởng Bulstrode vào phòng giấy của bà. Trường nữ học Meadowbank lúc này vắng vẻ. Số học sinh còn lại chỉ hai mươi nhăm, đều là con em những gia đình mà phụ huynh không thể để họ ở nhà vì nhiều lý do khác nhau.

Tuy nhiên các giáo viên và nhân viên, trừ hai người bị ám hại, tất cả đều ở lại. Bà giám thị Johnson hầu như không có công việc gì làm. Bà giáo Chadwick dạy toán thì già sọp đi và trông dáng thảm hại, suốt ngày đi lang thang như người mất hồn. Bà có vẻ tuyệt vọng hơn nhiều so với bà hiệu trưởng Bulstrode, là người vẫn giữ được vẻ điềm tĩnh. Các giáo viên trẻ có vẻ thích thú thấy số giờ dạy giảm hẳn xuống. Họ tắm ở bể bơi, viết những lá thư dài lê thê và nghiên cứu những cuốn sách của các hãng du lịch.

Về phần mình, cô thư ký Anh Shapland dùng phần lớn thời gian của mình vào việc làm vườn, và cô bộc lộ khả năng đặc biệt về cây cỏ, hoa trái. Không có gì lạ việc cô trò chuyện nhiều với cậu trai trẻ Adam hơn là với bác già Briggs.

Vào đến phòng giấy, cô giáo Eileen Rich đứng lại chờ.

- Chuyện là thế này - bà hiệu trưởng nói - Tôi chưa biết liệu trường này có tiếp tục hoạt động được nữa không, và không chừng tôi sẽ phải đóng cửa hẳn mất...

- Đừng, thưa bà hiệu trưởng... - Cô giáo Rich ngăn.

Cô giậm mạnh chân xuống sàn làm mái tóc cô sộc sệch:

- Bà không được bỏ cái trường này - cô kêu lên - Làm như thế là một tội ác!

- Chị nói hơi quá đấy, Eileen ạ.

- Vì tôi thấy rất rõ vị trí quan trọng của trường này, trong khi rất nhiều hoạt động khác là trò vô tích sự.

- Chiến đấu cho một lý tưởng không làm chị sợ ư? Thôi được, tôi rất quý những người có gan. Thật ra, tôi đâu thuộc loại người dễ dàng đầu hàng. Khi tình hình quá tốt đẹp, người ta dễ ngủ trên vòng nguyệt quế, hoặc người ta thấy mệt mỏi. Nhưng đấy không phải tình trạng của tôi lúc này. Tôi sẽ đem toàn bộ sức lực ra chiến đấu, tôi sẵn sàng bỏ ra đến đồng xu cuối cùng. Bây giờ ta đi thẳng vào công việc cụ thể. Nếu trường vẫn tồn tại được, liệu chị có nhận liên kết, chung sức với tôi trong việc lãnh đạo nó không?

- Tôi ấy ạ?... - Cô Eileen Rich kinh ngạc kêu lên.

- Đúng, chị!

- Tôi chưa đủ sức đâu. Tôi còn quá trẻ và chưa có kinh nghiệm, sợ không đáp ứng được yêu cầu của bà.

- Tôi chưa biết tôi cần yêu cầu người cộng tác phải như thế nào. Vả lại hiện nay, vị trí tôi đề nghị với chị chẳng lấy gì làm hấp dẫn, và chị thừa sức làm tròn. Tuy nhiên, tôi thấy cần phải nói với chị rằng, ngay khi cô giáo Vansittart còn sống, tôi đã nghĩ đến chị. Tôi cho rằng chị là người có đầy đủ phẩm chất để cùng với tôi quản lý cái trường này.

Eileen Rich chăm chú nhìn bà hiệu trưởng:

- Tôi tưởng... mà mọi người ở đây đều đinh ninh là chị Vansittart...

- Tôi chưa hề quyết định điều gì về chị ấy. Mới chỉ là đã có lúc tôi nghĩ đến chọn chị ấy. Có thế thôi và ý nghĩ ấy nảy sinh mới từ hai năm nay. Nhưng đến thời gian gần đây, tôi nhận ra rằng Vansittart chưa phải là người tôi muốn chọn để thay thế tôi.

- Tôi tưởng chị ấy cũng đạt được mọi điều kiện và sẽ lãnh đạo trường này theo đúng những phương châm bà đề ra chứ?

- Chính vì như thế mà tôi quyết định không chọn chị ấy. Con người không thể chỉ sống theo quá khứ. Truyền thống có cần thiết không? Cần, nhưng không phải chỉ có truyền thống! Chúng ta cần xây dựng một trường học cho thế hệ học sinh ngày nay, chứ không phải cho thế hệ học sinh cách đây năm chục hoặc ba chục năm. Khi tôi đứng ra sáng lập trường nữ học này cùng với bà Chadwick, tôi chưa bằng tuổi chị bây giờ. Chị hãy nhớ lại trong Thánh Kinh có viết: "Người già mơ mộng, người trẻ hành động". Tại đây, chúng ta không chỉ mơ mộng về quá khứ, mà phải hành động, phải hướng tới tương lai. Chính vì vậy tôi đi đến kết luận rằng chỉ chính là người tôi cần tìm kiếm. Chị, chứ không phải Eleanor Vansittart.

- Nếu quả như vậy thì thật là tuyệt vời. Vị trí lãnh đạo trường nữ học này là vị trí tôi mong ước nhất trong tất cả mọi vị trí khác.

Bà hiệu trưởng Bulstrode cố ghìm cảm xúc lại, không để lộ ra cho cô giáo Rich nhìn thấy cảm giác khó chịu của bà trước niềm vui quá mức của cô. Bà từ tốn nói:

- Tôi hiểu. Đó là vị trí tuyệt vời đấy, trong lúc này.

- Không phải. Tôi không định nói như thế - cô giáo Eileen sôi nổi nói - Hiện giờ tôi chưa thể kể chi tiết ra với bà, nhưng nếu chuyện này bà nói ra cách đây chỉ mười lăm ngày thôi, tôi sẽ trả lời rằng tôi không thể nhận trách nhiệm bà giao cho. Lý do duy nhất khiến tôi có thể nhận là, lúc này trách nhiệm kia hết sức nặng nề. Bà cho phép tôi được suy nghĩ thêm rồi mới trả lời dứt khoát, được không ạ?

- Sẵn sàng! - Bà hiệu trưởng trả lời đơn giản.

Bà vẫn đang bàng hoàng ngạc nhiên trước câu trả lời của cô giáo Eileen Rich. Bà thầm nghĩ . "Thì ra không bao giờ ai có thể biết được đáy lòng người khác."

Chương XXXV

- Anh nhìn Eileen Rich kìa, tóc tai rối bù! - cô thư ký Ann Shapland dừng tay cuốc trên một luống hoa, nói - Nếu chị ta không chịu chải đầu tóc cho hẳn hoi, thì thà cắt béng đi còn hơn. Bởi cái sọ của chị ta cũng khá xinh xắn đấy chứ.

- Sao chị không góp ý kiến với bà ấy?

- Tôi với chị ta không thân nhau, nói thế nào được nhỉ? Mà anh nghĩ sao, liệu cái trường này còn mở cửa lại được không?

- Khó đoán lắm - Adam trả lời - Với tại tôi rất ít hiểu biết về lĩnh vực này.

- Tôi lại thấy anh hiểu biết về nó không kém bất kỳ ai khác. Xem chừng rồi sẽ ổn thoả thôi. Bà ta kiên trì lắm. Anh biết không, chỉ một tháng tạm đóng cửa thôi, mà tôi cảm thấy như dài cả một năm trời.

- Nếu mọi sự lại yên ổn, trường lại mở cửa, chị có ở lại đây nữa không?

- Không - Ann Shapland trả lời dứt khoát - Tôi dị ứng với các trường học rồi. Từ nay cho đến già, tôi sẽ không bao giờ vào làm cho bất cứ một trường học nào nữa. Nhất lại là trường nữ học. Tự chôn mình trong một nơi chỉ toàn giống cái cả thế này tôi không chịu nổi. Thứ hai nữa là tôi rất không thú các vụ án mạng. Nằm trên giường đọc chuyện một vụ án đăng trên báo để buồn ngủ thì được, chứ sống trong vòng không khí của nó thì chịu, vượt quá sức chịu đựng của tôi.

Một phút im lặng.

- Tôi tin rằng - cô thư ký nói tiếp - thôi việc ở đây xong, tôi sẽ lấy anh Dennis và xây dựng một tổ ấm.

- Dennis? Chính là anh chàng chị đã có lần kể cho tôi nghe rồi phải không? Nếu tôi không nhầm thì anh ta làm cái nghề luôn phải đi Miến Điện, Mã Lai hoặc thậm chí Nhật Bản nữa. Vậy mà chị định xây dựng tổ ấm với anh ta sao được?

Cô thư ký Ann Shapland bật cười:

- Có lẽ anh nói có lý.

- Tôi cho rằng chị có thể kiếm được một anh chồng khá hơn Dennis.

- Anh nói như thế là định ngỏ lời với tôi đấy phải không?

- Tất nhiên là không. Chị có nhiều tham vọng, lấy một thằng cha làm vườn, mà lại chỉ là phụ việc không hợp với chị đâu.

- Tôi đang nghĩ lấy một anh chồng làm trong cơ quan an ninh khéo lại hay.

- Cơ quan an ninh? Nhưng tôi có phải nhân viên an ninh đâu?

- Tất nhiên - cô thư ký Shapland thản nhiên đáp - Ta tạm quên đi những câu những chữ. Anh không phải nhân viên an ninh, cô bé công nương Shaila không bị bắt cóc, và khu hoa viên này mới đẹp làm sao!

Anh Shapland đưa mắt nhìn xung quanh rồi nói:

- Tuy nhiên tôi vẫn chưa hiểu gì về cái chuyện, cô bé Shaila kia sao lại trở về Thuỵ Sĩ? Thì đấy cũng là chuyện người ta kể với chúng ta lúc này. Chắc anh với các cộng sự của anh đã quá sơ suất, bởi nếu điều kia là chính xác thì tức là cô công nương kia đã bị người ta trục xuất khỏi nước Anh.

- Giữ mồm giữ miệng đấy! - Adam nói.

- Tôi cho rằng các anh chưa biết cái lõi của vụ này.

- Về chuyên ấy, chị phải đi mà hỏi ông Poirot ấy chứ.

- Sao? Cái ông hình dạng cổ quái đã tháp tùng con bé Julia về trường Meadowbank, và đã vào gặp bà hiệu trưởng Bulstrode bàn tán gì đó ấy à?

- Đúng đấy. Lão ta tự xưng là thám tử tư vấn.

- Không làm sao hiểu nổi mục tiêu các hoạt động của lão ta. Lão tìm gặp cả bà cụ mẹ tôi... Lão hoặc một người bạn của lão.

- Gặp mẹ chị?... Mẹ chị thì dính dáng gì đến những chuyện ở đây?

- Chịu, tôi không hiểu. Xem chừng lão ta thích nói chuyện với các bà mẹ! Một thích thú bệnh hoạn. Hình như lão ta đến thẩm vấn cả mẹ của cô học sinh Jennifer nữa đấy?

- Lão có đến thẩm vấn hai bà mẹ của cô giáo Rich và bà giáo Chadwick không?

- Tôi không tin là mẹ chị Rich còn sống, nếu còn thì chị ấy chẳng bỏ rơi bà cụ đâu. Còn mẹ bà Chadwick thì sống ở Cheltenham, năm nay ít nhất cũng tám mươi tuổi rồi. Tội nghiệp bà Chadwick! Bà ta trông cũng như bà già tám mươi. Kìa, bà ta đang đi về phía này đấy.

Adam ngước mắt lên nhìn.

- Tuần vừa rồi, bà ta già thêm hàng chục tuổi!

Đúng thế, bà giáo Chadwick đang chậm chạp đi tới: bà không còn chút sinh khí nào nữa.

- Bà hiệu trưởng Bulstrode muốn gặp anh đấy, Adam. Bà ấy muốn nói có với anh về chuyện trồng hoa.

- Tôi làm nốt mấy cái luống này đã - anh ta nói rồi đi về phía khu vườn lợp kính.

Bà giáo Chadwick và cô thư ký Ann Shapland cùng quay về trường.

Cô thư ký đưa mắt nhìn xung quanh, nói:

- Vắng vẻ quá! Hệt như rạp hát vắng khách ấy, và khách phải ngồi rải rác ra các hàng ghế để bớt đi cái cảm giác tàn tạ.

- Khủng khiếp quá! - Bà giáo Chadwick rên rỉ - Thật khủng khiếp! Không thể ngờ trường nữ học Meadowbank lại sa sút đến mức độ này. Tôi không biết làm thế nào bây giờ. Ban đêm tôi không sao chợp mắt được. Bao công sức ngần ấy năm trời bây giờ tan thành mây khói.

- Chắc rồi sẽ phục hồi được thôi - cô thư ký Ann Shapland an ủi, làm ra vẻ lạc quan - Người đời chóng quên lắm, bà đừng lo.

- Họ không quên nhanh như cô tưởng đâu - bà Chadwick nói rất khẽ.

Cô thư ký không trả lời, nhưng trong thâm tâm cô đồng ý với bà giáo già.

* * *

Cô giáo Blanche vừa dạy xong giờ tiếng Pháp. Cô liếc nhìn đồng hồ. Còn đủ thời giờ để làm một việc cô dự định làm. Học sinh bây giờ còn lại ít, giáo viên rất nhàn, có nhiều thời gian rảnh rỗi.

Cô Blanche lên phòng, lấy mũ đội. Cô có tính không bao giờ đi đâu đầu trần. Rồi cô soi vào gương. Không có gì đáng ngắm nghía, bởi trông cô hoàn toàn thành một người không có nét gì đặc biệt, một người không làm ai chú ý. Blanche mỉm cười: cách này hay thật. Hình dạng của cô đã tạo điều kiện cho cô sử dụng những văn bằng chứng chỉ của chị cô, cũng làm nghề dạy học. Ngay tấm ảnh trong hộ chiếu cũng không làm ai nghi ngờ.

Nghề dạy học đúng là ngán ngẩm, nhưng dạy ở đây lương của cô lại vượt xa mọi công việc trước đây cô đã làm... Chưa kể tình hình diễn biến của các sự kiện đang rất thuận lợi. Cô giáo Blanche thầm nghĩ, tương lai sẽ khác xa thế này, do tình hình chỉ nay mai sẽ thay đổi hẳn. Cô hình dung đến lúc dạo chơi ở những thành phố nghỉ mát nổi tiếng thế giới bên bờ biển Địa Trung Hải, như Cannes hoặc Monte-carlo, trong bộ y phục sang trọng, với khuôn mặt trang điểm diễm lệ. Khi đã có nhiều tiền trong tay thì muốn gì mà không được? Cuộc sống sẽ tươi đẹp biết bao! Và quãng thời gian buồn tẻ trong cái trường học đáng ghét này ít ra cũng giúp ích cô được phần nào.

Cô giáo Blanche cầm xắc tay, ra khỏi phòng. Cô bước nhanh trên hành lang dẫn ra cầu thang. Trên đường đi, cô gặp một nữ lao công mới vào làm, đang quỳ loay hoay làm gì đó. Chắc chị ta được cảnh sát thuê để dò xét, Blanche thầm nghĩ. Bọn cảnh sát này quá ngu xuẩn, chúng tưởng mình không biết là chúng dò xét mình!

Một nụ cười mỉa mai hiện trên cặp môi, cô giáo tiếng Pháp ra khỏi trường, tiến đến ga xe buýt. Trên cơn đường thôn quê này, người đi lại vắng vẻ. Một người đàn ông đang cúi xuống đầu xe ôtô sửa chữa gì đó. Một người khác có vẻ chờ xe buýt. Gần đấy, một chiếc xe đạp dựa vào hàng rào. Hẳn một trong hai gã kia là nhân viên cảnh sát và sắp bám theo mình. Chúng làm ăn lộ liễu quá, lừa sao được mình? Cho chúng bay bám!

Xe buýt chạy đến. Mười lăm phút sau, cô giáo Blanche xuống xe, đã ở trung tâm thị xã. Cô không thèm ngoái đầu nhìn phía sau, mà đi thẳng đến một cửa hàng lớn, trong tủ kính trưng bày đủ loại y phục được coi là "sang trọng". Thật ra hết sức quê mùa, cô thầm nghĩ. Tuy nhiên cô cũng làm ra vẻ chăm chú ngắm nghía một lúc lâu.

Rồi cô đi sâu vào bên trong. Mua vài thứ lặt vặt xong, Blanche ra chỗ tiếp khách, vào một tủ điện thoại. Cô quay số, chờ. Khi thấy giọng nói đầu dây bên kia đúng là người cô cần gặp, cô ấn vào một nút, nói:

- Nhà Trắng đây. (Tên cô "Blanche" cũng có nghĩa là "Trắng")... Nhà Trắng đây. Có một khoản chưa được thanh toán... Hạn cuối cùng là tối mai. Đúng, tối mai. Khoản đó phải được chuyển vào tài khoản của Nhà Trắng, tại Ngân hàng Tín dụng Quốc gia, phố Ledbury, London. Tôi nhắc lại, khoản tiền đó là...

Cô Blanche đọc các con số rồi nói thêm:

- Nếu đến hẹn, khoản tiền kia không được thanh toán tôi sẽ buộc phải báo cáo những điều tôi khám phá ra được cho những người có trách nhiệm. Vâng, các vị còn những hơn hai mươi tư tiếng đồng hồ kia mà.

Blanche đặt máy xuống rồi ra ngoài. Một phụ nữ vừa vào sau cô, hay lại là... Dù sao chị ta cũng đến quá muộn và chưa nghe thấy mình nói gì. Cô Blanche rẽ vào nhà vệ sinh, rồi sang gian bán áo choàng, trò chuyện vài câu với một nhân viên bán hàng. Sau đó, không mua thêm gì, cô ra khỏi cửa hiệu, nét mặt rạng rỡ. Cô dừng lại trước cửa kính một hiệu sách rồi lên xe buýt trở lại trường nữ học Meadowbank.

Vậy là mọi sự ổn thoả. Số tiền cô yêu cầu không phải là quá đáng, cho nên họ có thể trả một cách dễ dàng. Số tiền ấy ít ra cũng đủ chi dùng trong thời gian này... Bởi sẽ còn nhiều "đơn đặt hàng" khác nữa. Một nguồn kiếm tiền bất tận.

Cô Blanche không hề thấy lương tâm cắn dứt. Cô nhìn thấy, và cô không có trách nhiệm phải báo cảnh sát. Cô giáo Springer kia là một con mụ đáng ghét, vô giáo dục và lại còn dò xét người khác nữa chứ!

Về đến trường, cô giáo Blanche dừng lại một lúc cạnh bể bơi. Cô giáo Eileen Rich bơi một lát, sau đó đến cô thư ký Anh Shapland, một tay nhảy cầu rất giỏi. Gần đấy, đám học sinh nội trú cười đùa vui vẻ. Đột nhiên chuông reo, cô giáo Blanche bèn vào lớp để dạy tiết của cô. Giờ học diễn ra tẻ nhạt, học sinh lơ đãng hết sức. Nhưng có gì quan trọng đâu? Công việc ngán ngẩm này sắp kết thúc rồi.

Hết tiết dạy, cô Blanche lên phòng để thay quần áo, chuẩn bị xuống nhà ăn. Cô có cảm giác mơ hồ, chỉ mơ hồ thôi, là lúc sáng mình đã sơ suất quên không treo tấm áo làm vườn lên mắc, mà vẫn vắt trên ghế tựa.

Cô soi gương sửa sang trang điểm. Đột nhiên cô không kịp chống cự: tấm áo làm vườn tụt xuống sàn rồi như thể biến thành hình người, và một cánh tay cầm cái chày giơ lên sau lưng cô, giáng xuống. Cô Blanche không kịp kêu một tiếng...

* * *

Bà Upjohn đang ngồi bên vệ con đường chạy men theo một khe núi sâu. Bà nói tiếng Pháp, làm các điệu bộ trước một phụ nữ Thổ Nhĩ Kỳ. Các hành khách khác ngồi rải rác gần đó. Lái xe và phụ lái đang loay hoay chữa xe. Bà Upjohn đã mất khái niệm về thời gian. Nước lũ chặn con đường chính và xe phải chạy theo một con đường ngoằn ngoèo trên núi cao. Vậy mà bây giờ lại còn gặp dòng suối nước dâng cao này, và họ đã phải chờ ở đây bảy tiếng đồng hồ rồi. Chưa biết bao giờ xe mới đến được Ankara.

Bỗng một tiếng người kêu to, hoàn toàn không thích hợp chút nào với khung cảnh xung quanh:

- Hình như bà Upjohn phải không?

Bà Upjohn nhìn ra, thấy một chiếc xe du lịch. Người vừa gọi bà nhanh nhẹn bước ra, mừng rỡ tiến lại. Rõ ràng là một người Anh, mặc bộ âu phục mầu ghi may cắt rất đẹp.

- Lạy Chúa! - bà Upjohn reo lên - Bác sĩ Livingstone!

- Không hẳn là như thế - người mới đến mỉm cười - Tên tôi là Atkinson, nhân viên Đại sứ quán Anh tại Ankara. Đã ba ngày nay chúng tôi tìm cách bắt liên lạc với bà mãi không được...

- Có chuyện gì vậy?

Bà Upjohn bỗng hốt hoảng đứng phắt dậy:

- Hay con tôi làm sao? Cháu Julia làm sao phải không, thưa ông?

- Không đâu, thưa bà Upjohn - Atkinson nói - Chỉ là có một chuyện rắc rối ở trường nữ học Meadowbank. Tôi đến đón bà về Ankara để bà đáp máy bay về Anh ngay.

Bà Upjohn định hỏi cho rõ thêm, nhưng lại thôi. Bà chỉ nói:

- Ông đừng quên chiếc va li của tôi. Chiếc màu xanh lam ấy.

Sau khi chào chia tay người phụ nữ Thổ Nhĩ Kỳ rồi chào mọi người khác, bà đi theo Atkinson...

Chương XXXVI

Bà hiệu trưởng Bulstrode nhìn qua một lượt những người bạ triệu tập đến dự cuộc họp này: các giáo viên, hiện chỉ còn bà Chadwick, cô Rich, hai nữ giáo viên khác và bà giám thị Johnson. Cô thư ký Anh Shapland ngồi bên cạnh bà hiệu trưởng, tay cầm cuốn sổ và cây bút. Ngay gần bà là thanh tra Kelsey và thám tử Poirot. Cách đấy một quãng là Adam, ngồi kín đáo trong một góc. Điểm qua một lượt tất cả mọi người, bà hiệu trưởng nói bằng giọng đĩnh đạc như mọi khi:

- Tôi thấy cần thông báo với các vị về kết quả cuộc điều tra cho đến ngày hôm nay. Thanh tra Kelsey đã tin cho tôi biết một số điều. Riêng ông Poirot, nhờ những người quen ở nước ngoài, đã nhận được sự giúp đỡ đáng quý tại Thuỵ Sĩ.

Bà hiệu trưởng quay sang thanh tra Kelsey.

- Về mặt chính thức, tôi không được quyền kể ra những gì tôi đã biết. Tôi chỉ được quyền thông báo với ông rằng chúng tôi đã có được một số ánh sáng về thủ phạm ba vụ án mạng xảy ra tại đây. Nhưng ông bạn tôi, ông Hercule Poirot, không bị những nguyên tắc nhà nước cản trở, có thể công bố với các vị một số chi tiết. Tuy nhiên vì lợi ích của tất cả chúng ta, tôi đề nghị các vị hãy tạm thời giữ kín. Tôi tha thiết đề nghị như vậy, các vị hiểu rõ chứ ạ?

Tất cả mọi người có mặt đồng thanh tán thành.

- Bây giờ xin mời ông Poirot...

Hercule Poirot vui vẻ đứng lên, cẩn thận vuốt hàng ria mép. Đám phụ nữ vội quay mặt đi chỗ khác để khỏi phì cười.

Poirot bắt đầu nói:

- Trước hết tôi xin nói với các vị rằng tôi rất hiểu nỗi lòng các vị. Chỉ trong một thời gian ngắn, ba người trong trường chúng ta bị thiệt mạng, trong đó có một người đã dạy học ở đây từ lâu: cô giáo Vansittart. Tất nhiên hai cô giáo Springer và Blanche là những mười mới đến, nhưng tôi tin chắc rằng cái chết của họ cũng làm chúng ta choáng váng.

Các vị hẳn đã có lúc lo sợ cho bản thân vì nghĩ rằng kẻ nào đó có mối hằn thù đối với các giáo viên của trường chúng ta. Tôi và thanh tra Kelsey xin khẳng định với các vị rằng hoàn toàn không phải thế. Tuy nhiên sau một loạt sự kiện bi thảm, trường nữ học Meadowbank chúng ta đã thu hút sự chú ý của dư luận và bị nhiều người nghĩ xấu về nó. Kết quả là đã có nhiều người nhận định, một con chó sói đã lọt vào trong đàn cừu. Ngoài ba vụ án mạng, lại có thêm một vụ bắt cóc. Đây là vụ tôi muốn nói với các vị đầu tiên, bởi trong mọi tấn bi kịch, điều khó khăn nhất là tìm cho ra nguyên nhân những sự kiện mà thật ra không liên quan trực tiếp với các tội ác, nhưng lại làm lạc hướng công việc điều tra, khiến hướng đó mất sự tập trung... Hướng đó ở đây là một tên hung thủ nào đó đã lọt vào trường chúng ta.

Hercule Poirot lấy trong túi áo ra một tấm ảnh.

- Mời các vị nhìn tấm ảnh này xem.

Thanh tra Kelsey cầm tấm ảnh đưa cho bà hiệu trưởng Bulstrode. Sau khi bà truyền cho người khác, và cứ thế, mọi người trong phòng đều được xem tấm ảnh. Đi xong một vòng nó được trả về cho viên thám tử tư vấn Poirot. Ông này liếc nhìn những nét mặt bối rối của cử toạ hướng về ông, nói:

- Tôi xin hỏi tất cả các vị một câu: có vị nào nhận ra người trong ảnh là ai không?

Mọi người lắc đầu, Hercule Poirot nói tiếp:

- Đấy chính là công nương Shaila. Tấm ảnh này người ta đã gửi từ Thuỵ Sĩ đến cho tôi.

- Shaila! - bà giáo Chadwick sửng sốt kêu lên - Vậy mà tôi không nhận ra được!

- Bà không làm tôi ngạc nhiên - viên thám tử nói - Xin hãy nghe tôi giải thích. Sự việc bắt đầu từ thủ đô nước Ramat ở Trung Đông. Cách đây khoảng ba tháng, ở đấy nổ ra một cuộc đảo chính, chắc nhiều người ngồi đây đã biết. Quốc trưởng nước đó lúc ấy là Hoàng thân Ali Yusuf, trên đường chạy trốn đã tử nạn cùng với viên phi công riêng của Ngài trên một chiếc máy bay. Một vật quý có giá trị rất lớn của Ngài mang đi bị thất lạc, và dư luận cho rằng vật quý đó đã được đưa sang nước Anh chúng ta. Thế là nhiều nhóm người tìm cách điều tra xem vật báu kia ở đâu để chiếm đoạt nó. Một trong những nhận định của họ là rất có thể công nương Shaila biết vật quý kia nằm ở chỗ nào. Công nương là em họ của Hoàng thân Ali, và là người họ hàng duy nhất còn lại, đồng thời cũng là người thừa kế hợp pháp của Ngài. Công nương đang theo học một trường nội trú tại thủ đô Geneva, Thuỵ Sĩ. Rất có khả năng vật báu kia, sau khi được đưa ra khỏi Ramat, đã được chuyển đến tay công nương. Đám âm mưu kia lại biết thêm rằng công nương Shaila thôi không học trường nội trú ở Thuỵ Sĩ nữa, mà chuyển sang học trường nữ học Meadowbank ở Anh. Do đấy bọn chúng tiến hành một việc khá đơn giản là bắt cóc công nương, rồi đưa đến học ở trường chúng ta một người khác đóng giả làm công nương. Việc này không khó khăn gì vì họ hàng duy nhất còn lại của công nương là ông chú rể của cô, Ngài Giáo chủ Ibrahim, hiện đang sống tại Ai Cập, và nhiều khả năng là trong mùa hè này, Ngài không sang Anh. Bọn âm mưu đã điều tra rất cẩn thận và có những thông tin khá chính xác như các vị đã thấy. Mặt khác, hiệu trưởng của trường nữ học Meadowbank, bà Bulstrode, lại chưa biết mặt người học trò sắp đến theo học trường mình. Việc chuyển công nương sang Anh và vào học ở đây do một đại diện của Ngài Giáo chủ Ibrahim thường trú tại London thu xếp.

Kế hoạch của bọn chúng vấp phải một trục trặc: đến phút cuối cùng thì Bà hiệu trưởng trường nội trú của công nương Shaila tại Thuỵ Sĩ lại quyết định đưa cô sang Anh một cách không công khai. Ra khỏi trường, công nương Shaila được bọn âm mưu kia bí mật đưa đến một lâu đài cổ tại một thị trấn hẻo lánh, và tất nhiên cô được đối xử hết sức tử tế. Trong khi đó, tại London, một quan chức chưa hề biết mặt công nương, tháp tùng một Shaila giả đến trường Meadowbank. Cô gái sắm vai Shaila này tuy nhiều tuổi hơn Shaila thật đôi chút, nhưng điều này không quan trọng, bởi mọi người có định kiến từ lâu là con gái Trung Đông phát triển sớm hơn con gái châu u. Thêm nữa, bọn chúng chọn một nữ diễn viên trẻ để đóng vai này.

Dừng lại một lúc, thám tử Hercule Poirot nói tiếp:

- Có lần tôi hỏi xem có ai trong các vị chú ý đến đầu gối của công nương Shaila không, chính là vì thế. Đầu gối của một phụ nữ hai mươi ba tuổi không thể giống đầu gối của một thiếu nữ mười bốn mười lăm tuổi. Đáng tiếc là không ai chú ý.

Nhưng mưu đồ này cũng lại bị trục trặc. Mãi không thấy có ai đến bắt liên lạc với "công nương Shaila". Thư từ gửi đến không có mà cũng không ai gọi điện thoại đến. Nếu có người bắt liên lạc, tất "công nương Shaila" giả này sẽ báo tin ngay cho đồng bọn. Lại xảy ra thêm một khó khăn nữa cho bọn chúng, là Ngài Giáo chủ Ibrahim bất cứ lúc nào cũng có thể xuất hiện, mà Giáo chủ tất phải biết rõ mặt cháu gái Ngài. Đến khi được tin ông chú đến London và muốn gặp cháu gái, công nương giả bèn gọi điện báo cho đồng bọn, thế là nửa giờ trước khi xe ôtô của Ngài Giáo chủ đến, một chiếc ôtô khác gắn tấm biển "Ngoại Giao Đoàn” giả đã đón "công nương" đi. Chiếc xe mang biển giả này đã được tìm thấy bị bỏ mặc tại cái thành phố, nơi cô diễn viên kia xưa nay vẫn cư trú. Tất nhiên đó là xe ăn cắp. Bon chúng tạo cho sự việc thành vụ bắt cóc bằng cách sau đấy gửi thư đòi tiền chuộc... Thật ra đây là vụ bắt cóc giả, trong khi vụ bắt cóc thật đã xảy ra tại Thuỵ Sĩ cách đây ba tháng, mà nạn nhân là công nương Shaila "thật”.

Bây giờ tôi xin kể về những sự kiện quan trọng hơn nhiều: các vụ án mạng. Thủ phạm không thể là diễn viên đóng vai công nương Shaila, bởi nhiệm vụ bọn âm mưu giao cho cô ta không phải là giết ai, mà chỉ là ngồi đấy chờ người bắt liên lạc và giao "vật quý" của Hoàng thân Ali, hoặc cho biết thông tin về nó.

Nhưng tôi muốn các vị quay lại Ramat. Chỉ ít lâu sau đó, người ta được biết Hoàng thân trước khi chạy trốn đã giao phó vật quý kia cho người thân tín là viên phi công người Anh tên là Bob Rawlinson. Và ngay sáng hôm đó, Rawlinson đã đến khách sạn lớn nhất của thủ đô Ramat gặp chị ông ta, là bà Sutcliffe, mẹ của em Jennifer. Nhưng ông ta không gặp được bà chị: hai mẹ con đi chơi vắng. Rawlinson đã vào phòng họ, ở lại trong đó khoảng hai mươi phút và để lại một là thư ngắn.

"Khi phát hiện ra chi tiết này, có rất nhiều cách phỏng đoán, cho là viên phi công đã giấu vật quý kia trong hành lý của bà chị và bà đã đem vật quý đó về Anh mà không hay biết tí gì về nó. Kết quả là bọn âm mưu tiến hành đột nhập vào nhà bà Sutcliffe để ăn cắp, thực ra là để tìm vật báu kia lấy đi. Nhưng tên đột nhập đã không tìm thấy, mà lại bị bắt và đưa ra toà. Điều này chứng tỏ chúng không biết đích xác vật báu đó ở đâu.

Trong khi đó lại có một kẻ biết chính xác nơi viên phi công Bob Rawlinson giấu vật báu! Bây giờ tôi đã có thể nói rõ để các vị biết, nơi đó làtrong cán cây vợt của con gái bà Sutcliffe: em Jennifer. Chính vì thế mà em Jennifer thấy sử dụng cây vợt khó khăn, em đinh ninh là vợt hỏng và năn nỉ mẹ mua cho cây vợt khác.

Kẻ biết được điều bí mật kia đợi lúc đêm khuya, đã lẻn vào Cung Thể thao để lấy cây vợt của Jennifer. Y đã cẩn thận lấy chìa khoá in vào một khuôn dẻo để đánh một chiếc khác. Vào giờ mọi người trong trường Meadowbank đang ngủ say, y đột nhập vào Cung Thể thao. Nhưng ai ngờ cô giáo dạy thể dục Springer nhìn thấy ánh sáng đèn pin ở đó, bèn chạy sang, hy vọng bắt quả tang kẻ gian. Vốn khoẻ và can đảm, cô chủ quan, chạy sang đó một mình. Kẻ gian đang loay hoay tìm cây vợt thì bị cô giáo Springer phát hiện và nhận được mặt. Y chỉ còn một cách là thủ tiêu cô. Sợ có người nghe thấy tiếng súng, y bèn chạy trốn ngay lập tức chưa kịp thu dọn các cây vợt...

Rồi vài ngày san, bọn âm mưu thay đổi chiến thuật. Một phụ nữ lạ mặt, giả nói giọng tiếng Anh của Hoa Kỳ đến tìm em Jennifer, nói dối là một họ hàng của em tặng em cây vợt mới, đồng thời lấy về cây vợt cũ. Nhưng lần này bọn chúng cũng lại không đạt kết quả: cây vợt "bà khách Hoa kỳ" đem về không phải cây vợt của Jennifer. Em đã đổi vợt cho bạn là em Julia. Còn cây vợt kia chỉ là cây vợt của Julia.

Tôi xin sang vụ án mạng thứ hai: vì một nguyên do nào bí hiểm, có thể là do việc công nương Shaila bị bắt cóc lúc trưa, buổi tối hôm đó cô giáo Vansittart sang Cung Thể thao. Một kẻ đã bám theo cô và hạ sát cô bằng một túi cát, trong lúc cô đang cúi xuống ngăn đựng đồ thể thao của Shaila. Liền sau đó, vụ án mạng được bà giáo Chadwick phát hiện.

Lại một lần nữa cảnh sát lục lọi gian phòng này, và tưởng như hung thủ không dám hoạt động gì nữa. Nhưng em học sinh Julia Upjohn, thông minh, đã thấy lạ và suy nghĩ. Em nhận ra rằng cây vợt của em, tức là của Jennifer trước đây, hẳn phải có gì đặc biệt. Em bèn tiến hành một cuộc điều tra riêng và đem đến cho tôi thứ em tìm ra được. Toàn bộ số "vật báu” này đã được gửi ở một nơi tuyệt đối đảm bảo và hiện nay, ở đây, chúng tôi không phải lo lắng gì cho số phận vật báu đó nữa.

Hercule Poirot ngừng lại một lát rồi nói tiếp:

- Còn vụ án mạng thứ ba. Điều mà cô giáo Blanche đã biết hoặc nghi ngờ. chúng ta sẽ không bao giờ biết được đích xác, bởi cô đã mang theo nó sang thế giới bên kia. Rất có thể cô đã nhìn thấy một kẻ nào đó rời khỏi trường Meadowbank đêm hôm xảy ra vụ án mạng đầu tiêu, khi cô giáo Springer bị giết. Nếu như vậy, rất có thể cô Blanche đã biết hung thủ giết cô Springer là ai. Nhưng cô giữ kín và tính "bán" điều bí mật ấy. Không có gì nguy hiểm hơn là định tống tiền một kẻ đã hai lần phạm tội giết người. Cô Blanche đã thi hành mọi biện pháp an toàn, nhưng cô đã lầm, và đã phải trả giá cho sai lầm đó.

Hercule Poirot lại ngừng một lát rồi nói tiếp:

- Bây giờ các vị đã có thể thấy được bao quát toàn bộ các sự việc.

Mọi cặp mắt đều hướng vào ông. Lúc nãy, trong khi nghe, họ đều căng thẳng trong một sự im lặng. Bây giờ, tất cả mới "ồ" lên trong một sự giải toả thần kinh.

Hercule Poirot khẽ nghiêng mình, nói:

- Tôi rất hiểu tâm trạng của các vị, nỗi lo lắng cảm thấy có một con chó sói trong chúng ta. Chính vì vậy thanh tra Kelsey, nhân viên an ninh Adam Goodman và tôi đã quyết điều tra đến cùng. Vậy liệu có một con chó sói, được trang bị đầy đủ giấy tờ, lọt vào trong số chúng ta không?

Trong phòng họp bỗng có một trạng thái như thể tất cả đều rùng mình, và dường như ai cũng rất muốn ngó sang người bên cạnh nhưng cố ghìm lại.

Thám tử tư vấn Poirot nói.

- Tôi rất sung sướng được nói rõ điểm này với các vị. Lúc này đây, các vị đúng là những người có tên thật ghi trong giấy tờ căn cước cũng như trong các giấy chứng chỉ. Riêng ông Adam Goodman mang tên giả, nhưng mọi giấy tờ của ông đều mang tên thật của ông. Do đó, không phải chúng ta tìm một người đội tên khác mà một kẻ tội phạm, mặc dù dưới lốt căn cước thật sự của y.

Không khí trong phòng lặng lẽ hẳn đi và căng thẳng đến tột độ. Hercule Poirot khẽ ho một tiếng rồi nói:

- Trước hết chúng ta cần tìm một người có mặt tại Ramat cách đây ba tháng. Chỉ có một cách duy nhất biết được viên phi công Bob Rawlinson giấu vật báu vào chỗ nào, là nhìn thấy ông ta đang làm việc đó. Vậy trong các vị, ai thời gian đó có mặt tại Ramat? Bà giáo Chadwick thời gian đó đang ở trường Meadowbank. Bà hiệu trưởng Bulstrode cũng vậy, cả cô phụ giáo Rowan và cô phụ giáo Blake…

Poirot bất ngờ chĩa ngón tay trỏ chỉ vào cô giáo Eileen Rich, ông nói:

- Nhưng cô giáo Rich hình như không ở trường trong tam cá nguyệt cuối cùng của niên học trước, có phải đúng như thế không?

Cô giáo Rich vội vã trả lời ngay:

- Tôi bị ốm cho nên nghỉ.

- Chúng tôi mới phát hiện ra điều vừa rồi một cách hoàn toàn ngẫu nhiên. Hôm cảnh sát thẩm vấn cô, cô chỉ nói rằng cô đã ở Meadowbank từ mười tám tháng nay. Về một mặt nào đó thì đúng là như thế, nhưng lại có khoảng thời gian cách quãng trong tam cá nguyệt kia. Hoàn toàn có thể cô Rich đã sang Ramat trong thời gian đó. Thậm chí tôi tin là cô Rich đã sang. Cô hãy chú ý: chúng tôi có thể kiểm tra việc này trên hộ chiếu của cô.

Sau một lát, cô giáo Eileen Rich thú nhận:

- Thôi được, tôi đã sang Ramat! Thì có gì là lạ đâu?

- Cô sang đó nhằm mục đích gì?

- Các người đã biết rồi: tôi bị bệnh và bác sĩ khuyên tôi nên dưỡng bệnh ở nước ngoài. Tôi đã viết thư báo cho bà hiệu trưởng Bulstrode biết chuyện này, và bà tỏ ý hoàn toàn thông cảm.

- Đúng thế - bà hiệu trưởng Bulstrode nói - Tôi nhận được thư của ông bác sĩ, cho biết sức khoẻ cô giáo Rich không cho phép cô tiếp tục dạy học trước tam cá nguyệt sau.

- Và thưa cô giáo Rich, cô đã chọn nơi dưỡng bệnh là Ramat?

- Tôi chỉ nghĩ, đến đâu nghỉ là quyền của tôi - cô giáo nói, giọng đã run - Giáo viên được giảm giá vé và nơi đó rất nhiều ánh nắng. Tại sao tôi lại không được quyền đến Ramat, tôi xin hỏi? Tại sao?

- Nhưng tại sao cô lại giấu, không hề nói rằng cô có mặt ở đấy trong thời gian diễn ra cuộc đảo chính?

- Chuyện ấy có ảnh hưởng đến ai đâu? Hơn nữa, tôi không hề phạm một tội lỗi nào. Tôi nhắc lại: tôi không phạm bất cứ một tội lỗi nào!

- Cô nên biết rằng người ta đã nhận ra cô. Khi chúng tôi hỏi em Jennifer về chuyện này, quả thật những câu trả lời của em không quả quyết lắm. Jennifer tin rằng đã gặp cô giáo Rich ở Ramat, nhưng lại bảo rằng có thể người kia không phải cô vì to béo và khoẻ khoắn hơn cô nhiều.

Thám tử tư vấn Poirot dướn người về phía trước, chăm chú nhìn cô giáo Eileen Rich:

- Xin cô cho biết về nhận xét đó của em học sinh Jennifer.

Cô giáo Rich chống lại mạnh mẽ:

- Tôi biết ông muốn ép tôi phải nhận là kẻ gián điệp hoạt động lén lút, một kẻ tội phạm! Ông muốn tôi phải nhận là người đã có mặt tại chỗ, đã tình cờ nhìn thấy người ta giấu số đá quý kia trong cán cây vợt, là người sau khi biết Jennifer sắp vào học trường nữ học Meadowbank, đã thấy có cơ hội để đoạt số đá quý kia. Nhưng người đó không phải là tôi!

Thám tử Polrot quay sang thanh tra Kelsey:

- Ông thanh tra...

Kelsey bước ra cửa, mở cửa. Bà Upjohn bước vào.

* * *

- Chào bà hiệu trưởng Bulstrode - bà Upjohn nói, có vẻ ngượng nghịu - Tôi xin lỗi là ăn mặc luộm thuộm thế này, nhưng tại mới hôm qua tôi còn ở Thổ Nhĩ Kỳ, và thời gian gấp quá, tôi chưa kịp thay bộ đồ khác đã phải đến đây ngay...

Thám tử Poirot ngắt lời:

- Chuyện đó không quan trọng, thưa bà. Chúng tôi muốn bà trả lời cho một câu.

Thanh tra Kelsey nói:

- Thưa bà Upjohn, hôm bà đưa con gái bà, em Julia đến đây tựu trường, ngồi trong phòng tiếp khách của trường, bà nhìn qua cửa sổ đã kêu lên một tiếng ngạc nhiên vì nhìn thấy một người nào đó ngoài sân. Có đúng như vậy không, thưa bà?

Bà Upjohn chăm chú nhìn thanh tra Kelsey một lát rồi mới trả lời:

- Hôm đưa cháu Julia?... Tôi nhớ ra rồi, hôm đó tôi nhìn thấy một người...

- Và bà có ngạc nhiên?

- Nói đúng hơn, chị ta gợi tôi nhớ lại một thời xa xăm...

- Bà định nói đến thời gian bà hoạt động cho cơ quan tình báo?

- Vâng. Cách đây khoảng mười lăm năm rồi. Tất nhiên bây giờ chị ta nhiều tuổi hơn thời đó, nhưng tôi nhận ra ngay và tôi thầm nghĩ, chị ta làm gì trong cái trường nữ học Meadowbank này?

- Xin bà vui lòng nhìn mọi người có mặt ở đây, xem có người phụ nữ đó không?

- Cần gì phải nhìn? Tôi đã nhận ra chị ấy ngay từ lúc mới bước vào đây. Kia, chị ấy kia...

Bà Upjohn trỏ tay. Thanh tra Kelsey và Adam đã đoán trước tình thế nhưng không ngờ sự việc diễn ra nhanh đến thế. Nhanh như chớp, cô thư ký Anh Shapland đã rút trong túi ra một khẩu súng nhỏ chĩa vào bà Upjohn. Trước cả thanh tra Kelsey và Adam, bà hiệu trưởng Bulstrode đã lao lên, những bà giáo Chadwick còn nhanh hơn bà. Bà này định che không phải cho bà Upjohn mà cho bà hiệu trưởng, lúc này ở vị trí giữa cô thư ký Shapland và bà Upjohn.

- Đừng, chị! - Bà giáo Chadwick kêu lên, ôm chặt lấy bà hiệu trưởng. Nhưng súng đã nổ.

Bà giáo Chadwick loạng choạng rồi từ từ khuỵu xuống. Bà giám thị Johnson đã vội chạy lại, trong khi thanh tra Kelsey và Adam giữ chặt cô thư ký Ann Shapland lúc này đang giẫy giụa như con mèo rừng bị người ta túm.

Bà Upjohn thở hổn hển, nói khẽ:

- Hồi đó, chị ta đã được coi là điệp viên loại nguy hiểm bậc nhất. Mật danh chị ta bấy giờ là Angelica.

- Đồ dối trá thối tha! - cô thư ký Shapland thét lên giận dữ.

- Hoàn toàn không phải dối trá. Cho đến ngày hôm nay, không ai ngờ được những hoạt động bí mật của chị. Mọi chức vụ chị đã làm đều đứng tên họ thật của chị và đều bình thường, và chị là một nhân viên mẫu mực. Nhưng trong mọi chức vụ, chị lại chỉ nhằm một mục đích: thu thập thông tin. Ngay cả với nữ diễn viên kia, một phụ nữ dưới sự bảo hộ của một chính khách nổi tiếng. Ngay từ lúc mười sáu tuổi, chị đã làm "điệp viên dò la, thu thập thông tin cho nhiều "ông chủ . Trong hầu hết thời gian, chị đều dùng tên thật, nhưng trong rất nhiều vụ, chị đã phải thay hình đổi dạng. Chính vì thế, chị kiếm cớ là có một bà mẹ già ốm yếu, tnỉnh thoảng chị phải ghé về chăm sóc.

Tuy nhiên, tôi đã đến tận nơi điều tra và được biết đấy không phải mẹ chị. Chị chỉ dùng bà cụ ốm yếu đó làm bình phong, mỗi khi chị cần "đi vắng" để làm một "vụ việc" nào đó. Mùa đông vừa rồi, trong ba tháng mà chị bảo ở nhà chăm sóc mẹ, thật ra chị sang Ramat. Tại đấy tên chị không phải Ann Shapland, mà là Angelica de Toredo - một "vũ nữ Tây Ban Nha", làm trong một quán rượu và chị thuê căn phòng bên cạnh phòng khách sạn của bà Sutcliffe. Bằng cách nào đó, chị biết được nơi viên phi công Bob Rawlinson giấu số đá quý. Chị không thể đoạt ngay lúc đó, vì thời gian cấp bách quá: bà Sutcliffe và con gái được sứ quán Anh tại Ramat bốc lên xe chở ra sân bay để sơ tán ra khỏi nơi đang có nguy cơ không an toàn.

Xin vào làm một chân trong trường Meadowbank quá dễ dàng, chị chỉ việc dùng một khoản tiền lớn đưa người nữ thư ký trước để chị này xin thôi việc. Chị tin rằng những việc còn lại hoàn toàn dễ dàng: một cây vợt bị mất nào có quan trọng gì? Nhưng chị lại không tính đến cô giáo Springer. Biết đâu cô giáo thể dục đã nhìn thấy chị chú ý đến các cây vợt, và cô đã theo dõi chị, cho đến cái đêm tai hại kia, chị đã giết cô ấy. Sau này, cô giáo Blanche biết tội ác của chị đã tống tiền chị, và chị cũng lại thủ tiêu luôn cô ấy. Đối với chị, giết một con người chỉ là chuyện vặt vãnh. Bây giờ thì chị nói sao đây?

Để đáp lại, cô thư ký Ann Shapland tuôn ra một tràng chửi rủa tục tĩu đến mức làm cử toạ khiếp đảm. -

Thế là thanh tra Kelsey lôi chị ta ra ngoài. Adam nhăn mặt:

- Không thể ngờ thủ phạm của ngần ấy vụ án mạng lại là một phụ nữ xinh đẹp, duyên dáng?

Bà giám thị Johnson vẫn đang săn sóc bà giáo Chadwick:

- Bà ấy bị thương rất nặng, tôi nghĩ phải mời bác sĩ ngay và trong khi chờ bác sĩ ta không nên làm gì vội.

Chương XXXVII

Thanh tra Kelsey hình như chưa hoàn toàn thoả mãn, ông nói với thám tử Poirot:

- Chúng tôi công nhận ông nói và làm được nhiều việc mà chúng tôi chưa làm được. Và tôi cũng thán phục thủ pháp của ông, thoạt đầu làm Shapland tưởng ông nghi cô giáo Eileen Rich cho nên không phòng bị, cho đến khi bà Upjohn bước vào chị ta mới bị bất ngờ đến như thế.

- Chẳng khó khăn gì trong việc đoán trước phản ứng của chị ta.

- Thì cứ cho là như vậy, thưa ông Poirot. Nhưng tôi chưa hiểu làm sao Ann Shapland lại giết cô giáo Vansittart được? Hơn nữa, chị ta có bằng chứng ngoại phạm đêm hôm đó. Chẳng lẽ ông Dennis trẻ tuổi kia và toàn thể những người làm trong nhà hàng đó đều là tòng phạm của chị ta?

Thám tử Poirot lắc đầu:

- Bằng chứng ngoại phạm của Ann Shapland là đúng. Nếu chị ta giết cô Springer và cô giáo Blanche, thì cô giáo Vansittart lại là do…

Hercule Poirot ngập ngừng một chút rồi đưa mắt về phía chỗ ngồi của bà hiệu trưởng Bulstrode. Lúc này bà đang chăm chú lắng nghe. Ông nói:

- Hung thủ giết cô giáo Vansittart... - ông nói rất chậm - chính là bà giáo Chadwick.

- Ông nói sao? - Cả bà hiệu trưởng Bulstrode lẫn thanh tra Kelsey đều sửng sốt bật dậy - Vô lý!

Bà hiệu trưởng còn nói thêm:

- Không thể có chuyện ấy được!

- Điều này tôi hoàn toàn khẳng định - Poirot nói.

- Nhưng. Tại sao lại như thế được? Bà Chadwick giết cô giáo Vansittart để làm gnì?

Thám tử chậm rãi đáp:

- Vì bà ấy quá yêu trường Meadowbank. Tôi đoán thế.

Rồi ông trầm ngâm nhìn chăm chú bà hiệu trưởng Bulstrode-

Cuối cùng bà hiệu trưởng Bulstrode nói rất khẽ.

- Ông định nói rằng ...

- Bà Chadwick đã cùng với bà là hai người sáng lập ra trường nữ học này. Từ ngày đó, bà Chadwick coi trường như đứa con... mà bà ấy với bà là hai người mẹ...

- Về một góc độ nào đó thì bà Chadwick nghĩ thế là đúng - bà hiệu trưởng gật đầu thừa nhận.

- Vâng, bà ấy nghĩ thế là đúng, tôi công nhận. Nhưng khi bà tính đến chuyện nghỉ hưu, bà Chadwick đinh ninh người thay bà làm hiệu trưởng dĩ nhiên phải là bà ấy.

- Nhưng Chadwick cũng đã cao tuổi rồi!

- Đúng, nhưng bà ấy lại không nghĩ như thế. Đến khi thấy bà định chọn cô giáo Vansittart thì trong thâm tâm bà Chadwick nảy sinh một phản ứng. Bà ấy không tin và không ưa cô giáo Vansittart. Kết quả là càng ngày bà ấy càng căm ghét cô giáo Vansittart.

- Điều này thì ông nhận xét đúng, thưa ông Poirot. Quả thật, cô giáo Vansittart có nhược điểm là quá tự tin cho rằng mình giỏi về tất cả mọi mặt. Đó là điều mà những người có thói ghen ghét không chịu nổi! Mà bà Chadwick lại có cái thói đó. Ông suy luận như thế chứ gì?

- Đúng, thói ghen ghét đó là do bà Chadwick quá yêu trường Meadowbank, đồng thời lại không tin ở tài năng cô giáo Vansittart. Bà ta cảm thấy không thể chịu nổi phải làm việc dưới quyền cô giáo ấy. Bên cạnh đó, bà Chadwick lại thấy bản thân bà, thưa bà hiệu trưởng, cũng do dự trong việc chọn cô giáo Vansittart để thay chân mình.

- Đúng thế! Tôi muốn tìm một người nào đó năng động hơn cô Vansittart. Đã có lúc tôi nhắm một cô giáo khác, nhưng cô này còn trẻ quá… Và Chadwick biết điều đó.

- Bà Chadwick cho rằng bà đã quay lại cô giáo Vansittart. Tấn bi kịch đã diễn ra như sau: nửa đêm, bà Chadwick thức dạy, thấy một vệt ánh sáng bên Cung Thể thao, thế là bà ấy băng ra khỏi toà nhà chính, chạy sang đó. Mục đích là bắt quả tang kẻ đêm khuya đột nhập vào Cung, rất có thể tên đó chính là thủ phạm của mấy vụ án mạng trước. Trước khi sang đó, bà Chadwick kiếm một thứ vũ khí để phòng thân, đó là một bao cát nhỏ. Vào đến Cung Thể thao, bà Chadwick bắt gặp cảnh tượng gì? Cô giáo Vansittart đang lúi húi trước ngăn đựng quần áo, dụng cụ thể thao của công nương Shaila. Bà bỗng như người mất trí, giơ cao bao cát, quật xuống gáy cô giáo kia… Bà Chadwick không phải kẻ quen giết người, cho nên sau khi phạm tội ác vào một lúc không tỉnh táo, bà đã hoảng sợ hết hồn…

Cô giáo Vansittart chết. Bà Chadwick tất nhiên không dám thú nhận mình là hung thủ. Khi người ta hỏi về cây gậy đánh hockey lăn lóc trong góc phòng, bà đã bảo chính bà đem cây gậy đó đến đây… Thật ra hung khí của bà ta là một trong những túi đựng cát vẫn nằm ở gậm cầu thang trong toà nhà chính, từ ngày chiến tranh.

- Nhưng tại sao Ann Shapland lại cũng dùng thứ hung khí đó để giết cô giáo Blanche? - Bà hiệu trưởng Bulstrode hỏi.

- Chỉ đơn giản là túi cát rất nặng, có thể làm chết người nhưng lại không gây tiếng động. Bà hãy nhớ lại vụ án mạng đầu tiên, cô giáo Springer: tiếng súng nổ làm hung thủ phải vội vã bỏ trốn ngay. Hơn nữa, Ann Shapland rất xảo quyệt. Chị ta giết cô giáo Blanche bằng đúng thứ hung khí bà Chadwick đã dùng để giết cô giáo Vansittart, khiến mọi người sẽ cho thủ phạm của hai vụ án mạng đó chỉ là một người.

- Tôi vẫn chưa hiểu cô giáo Vansittart đêm khuya vào Cung Thể thao để làm gì?

- Tôi đoán, sau khi công nương Shaila mất tích, cô giáo Vansittart rất băn khoăn, tuy không để lộ ra. Cô băn khoăn lo lắng không kém gì bà giáo Chadwick. Rất có thể, với tư cách người sắp thay bà hiệu trưởng, cô Vansittart thấy mình có trách nhiệm đối với tình hình nhà trường. Cô giáo Vansittart bèn bí mật vào Cung Thể thao, dò xem trong ngăn của Shaila có gì đặc biệt, giúp cô hiểu được vụ bắt cóc không…

- Mọi thứ, ông đều có được cách cắt nghĩa, thưa ông Poirot!

- Đấy là nghiệp vụ chuyên môn của ông ấy mà - thanh tra Kelsey nói, giọng hơi mỉa mai.

- Còn việc ông nhờ cô giáo Eileen Rich vẽ chân dung những người trong trường là để làm gì?

- Tôi muốn thẩm tra xem em học sinh Jennifer liệu có khả năng nhận diện một con người không? Tôi đã thấy em nhận xét rất đại khái. Và như thế, thật dễ hiểu là em đã không nhận ra cô giáo Blanche, khi trên bức vẽ, cô này thay đổi cách chải tóc. Và Jennifer cũng không nhận ra Ann Shapland trong vai "bà khách Hoa Kỳ".

- Ông cho rằng người phụ nữ đem đổi cây vợt cho Jennifer chính là Ann Shapland?

- Đúng thế. Hôm đó Ann Shapland chỉ cần đội mớ tóc giả mầu vàng, kẻ lại lông mày, mặc một kiểu áo và đội một kiểu mũ khác ngày thường, bắt chước thêm giọng nói của người Hoa Kỳ nữa, thế là xong. Những bức vẽ của cô giáo Eileen Rich cho tôi thấy thay đổi bộ mặt không khó khăn

- Eileen Rich… - bà hiệu trưởng Bulstrode nói khẽ - Nhưng tôi vẫn chưa hiểu...

- Xin bà cho cô giáo Rich vào đây, đó là cách tốt nhất để bà hiểu - thám tử Poirot ngắt lời bà hiệu trưởng.

Poirot kín đáo đưa mắt cho thanh tra Kelsey và ông này xin phép ra ngoài một lát.

Lát sau, cô giáo Eileen Rich bước vào, vẻ mặt uất hận, nhưng thái độ hết sức bướng bỉnh. Vừa vào đến nơi, cô hỏi luôn bà hiệu trưởng Bulstrode:

- Bà muốn biết tôi sang Ramat làm gì phải không?

- Đúng thế, hiện nay tôi vẫn còn hồ nghi - bà hiệu trưởng nói.

- Chính xác - thám tử Poirot nói - Thời nay lớp trẻ ít hiểu biết cuộc sống, nhưng cặp mắt của họ lại luôn ánh lên một sự vô tư.

Nói xong, ông xin phép ra ngoài.

Bà hiệu trưởng Bulstrode nói tiếp.

- Jennifer nhận xét rằng người phụ nữ em gặp ở Ramat to béo hơn, và khoẻ mạnh hơn nhiều so với chị. Con bé không biết rằng đó là một người có thai.

- Bà nói đúng - Eileen Rich đáp không chút ngập ngừng. Lúc đó tôi có thai, nhưng tôi lại không muốn bỏ việc ở trường Meadowbank. Một bác sĩ cấp cho tôi giấy xác nhận sức khoẻ và tôi quyết định trên một nơi thật xa để sinh con, nơi không ai biết tôi. Cháu đã mất. Tôi quay về trường vào tam cá nguyệt sau đấy, hy vọng chuyện tôi sinh con không ai biết. Vậy bây giờ bà đã hiểu tại sao lần đầu tôi trả lời bà rằng giá như bà mời tôi cùng quản lý cái trường này sớm hơn thì tôi đã từ chối. Chỉ đến bây giờ, khi trường ta sa vào những tai hoạ như thế này, tôi lại muốn nhận lời bà.

Một lát sau, cô nói thêm, giọng bình thản:

- Bây giờ bà có muốn tôi rời ngay khỏi trường không, hay đợi cho đến hết tam cá nguyệt này?

- Chị đừng đi đâu nữa - bà hiệu trưởng Bulstrode đáp- Nếu trường này không phải đóng cửa, tôi muốn chị vẫn ở lại đây.

- Nghĩa là bà vẫn muốn giữ tôi?

- Tất nhiên! Chị không giết người, không chiếm đoạt đá quý! Chị chỉ vướng một thứ, đó là trong một thời gian dài chị đã sống buông thả, và cuối cùng chị đã say mê người đàn ông theo đuổi chị. Tội đoán chị không thể lấy ông ta, đúng thế không?

- Tôi đã biết từ trước là không thể nghĩ đến chuyện hôn nhân giữa tôi và anh ấy. Anh ấy không đáng trách.

- Tóm lại, chị đã có một cuộc tình vụng trộm. Chị muốn có đứa con phải không?

- Tất nhiên!

- Thôi được! Tôi chỉ muốn nói thêm rằng, theo ý tôi thiên chức của chị vẫn là nghề dạy học. Tôi cho rằng, nghề dạy học đem lại cho chị nhiều niềm vui hơn là cuộc sống bình thường với một người chồng và những đứa con.

- Tôi cũng tin là như thế - cô giáo Eileen Rich đáp - Nguồn vui duy nhất còn lại của tôi là dạy học, đúng như thế.

Bà hiệu trưởng trìu mến nhìn cô gái trẻ:

- Nếu vậy, chị nên dứt khoát đi. Tôi đã ngỏ lời mời chị làm người cộng sự với tôi. Tất cả những chuyện không vui này sẽ qua đi, chỉ và tôi sẽ cùng chung lưng đấu cật vực cái trường này lên. Tôi biết chị có những ý đồ trong việc này. Tôi cũng có. Hai chúng ta sẽ trình bày cho nhau nghe rồi cùng thống nhất một hướng đi. Tôi tin chắc rằng trong số ý tưởng của chị có nhiều ý tưởng rất quý. Hẳn chị đã từng suy nghĩ về hướng thay đổi cách thức tổ chức và giảng dạy của cái trường Meadowbank này rồi?

- Về một góc độ nào đó thì bà đoán đúng. Một trong những ý tưởng đầu tiên của tôi là trong cách thức tuyển chọn học sinh.

- Tôi hiểu. Chị muốn giảm bót những tiêu chuẩn mang tính thời thượng.

- Đúng thế... Tôi cho rằng những tiêu chuẩn đó hạn chế các tài năng.

- Chị còn trẻ, Eileen, và dễ không thực tế. Nhưng phần nào chị có lý. Cái quan trọng trong việc tuyển chọn học sinh là tài năng và thiên hướng chứ không phải gia đình có thuộc tầng lớp thượng lưu hay không. Tuy nhiên tôi nghĩ chúng ta cũng không được coi thường yếu tố thương mại. Khi con cái một số nhân vật cao cấp vào học trường này, mọi người sẽ đua nhau chạy chọt để con em họ được nhận vào trường nữ học Meadowbank. Chị cứ để tôi làm theo hướng này cho đến khi trường ta nổi danh lừng lẫy, rồi chị tha hồ thực hiện phương pháp của chị.

Eileen Rich reo lên sung sướng:

- Trường nữ học nổi tiếng nhất nước Anh!

- Ta sẽ còn phải bàn bạc với nhau nhiều... Nhưng thôi, tôi phải lên thăm chị Chadwick đã...

* * *

Bà giáo Chadwick nằm bất động trên giường. Da mặt bà nhợt nhạt như không còn máu. Một nhân viên cảnh sát ngồi túc trực bên cạnh giường. Bà tổng giám thị Johnson nhìn bà hiệu trưởng Bulstrode, lắc đầu.

- Chadwick? - bà hiệu trưởng khẽ hỏi, cầm tay người bạn gái thân thiết đã bao năm gắn bó.

Bà giáo Chadwick khẽ mở mắt:

- Tôi thấy cần phải nói với chị rằng - bà mấp máy môi thều thào - Rằng chính tôi...

Tôi đã biết - bà hiệu trưởng ngắt lời bạn.

- Tôi ghen ghét... Tôi muốn…

- Chị đừng nói nữa, Chadwick! - Bà hiệu trưởng trìu mến nói.

Nước mắt chảy dòng dòng trên má người hấp hối.

- Khủng khiếp quá! Tôi không hiểu tại sao tôi lại làm như vậy? - Bà giáo Chadwick thều thào.

Bà hiệu trướng bóp nhẹ thêm bàn tay bạn.

- Chadwick, chị hãy nghe tôi nói: chị đã cứu sống tôi. Chị đã cứu sống cả bà Upjohn. Điều ấy không đáng kể sao?

- Tôi muốn hiến dâng cả cuộc đời tôi cho chị. Tôi muốn hy sinh mọi thứ chỉ cốt cho trường chúng ta lấy lại được uy tín như xưa... - giọng bà đã nhỏ đến mức bà hiệu trưởng phải cúi xuống mới nghe được.

Bà gật đầu thương xót nhìn bạn.

Bà giáo Chadwick lấy hơi, cố mỉm cười. Rồi đột nhiên đầu bà ngoẹo sang một bên... Bà thở hơi cuối cùng.

Chương XXXVIII

- Một ông xưng tên là Robinson muốn gặp ông chủ.

- Thế à? - Thám tử Hercule Poirot nói.

Ông nhấc lá thư trên bàn, chăm chú đọc lại lần nữa, rồi nói:

- Anh mời ông Robinson vào, George.

Lá thư ông vừa đọc lại khá lạ lùng:

Ông Poirot thân mến,

Có thể một người tên là Robinson sắp đến gặp ông. Chắc ông đã nghe nói về ông ta. Một nhân vật khá quan trọng trong một số lĩnh vực. Xã hội chúng ta cần đến nhữngcon người như thế. Tôi dám nói rằng, trong những loại công việc như vừa qua, ông ta là một thiên thần. Nếu ông còn chút hồ nghi ông ta thì câu tôi vừa nhận xét hẳn là một lời giới thiệu với đúng nghiã của nó. Tất nhiên, tôi cần nói rõ thêm là tôi chưa biết mục đích ông ta đến gặp ông là để làm gì…

Người mãi mải là bạn ông.

Ephraim PIKEAWAY

Thám tử Poirot đặt lá thư vào chỗ cũ rồi đứng lên, đúng lúc ông Robinson bước vào phòng. Poirot khẽ cúi đầu, chìa tay trỏ một chiếc ghế bành.

Ông Robinson ngồi xuống, rút khăn tay lau mồ hôi trên khuôn mặt to bè, mầu nâu nhạt, như thể muốn nói rằng trời quá oi bức.

- Thưa, ông đi bộ đến đây? - Poirot hỏi.

- Đi bộ? - Khách đáp vẻ kinh hoàng - Tất nhiên là không rồi. Tôi có chiếc Rolls Royce. Nhưng xe cộ quá đông, mấy chỗ tắc đường, có lần tôi phải chờ gần nửa tiếng.

Họ im lặng, như để kết thúc phần đầu của cuộc tiếp xúc, chuyển sang phần thứ hai, ông Robinson nói:

- Tôi nghe nhiều tiếng đồn, mà lời đồn thì phần lớn là sai, rằng ông giúp vào việc điều tra cho một trường nữ học?

- Nhưng sự thật lại đúng là như vậy đấy - Poirot đáp.

Viên thám tử ngồi xuống ghế tựa, đặt hai tay lên lưng ghế. Robinson nói tiếp:

- Vâng, trường Meadowbank.

Ngừng lại một giây rồi khách dướn người về phía thám tử Poirot:

- Thứ đó hiện nằm ở đâu?

- Ông không biết sao? - Poirot điềm tĩnh đáp.

- Nói thật là tôi có biết. Nhà băng là thứ có ích.

Poirot cười:

- Ta chẳng nên nói loanh quanh nữa, đúng không, thưa ông? Vậy ta quyết định thế nào bây giờ?

- Tôi chờ ý kiến của ông.

- Thực tế là số đá quý đem gửi nhà băng đó không phải của tôi. Tất nhiên tôi rất muốn trả lại cho người nào là thừa kế hợp pháp, nhưng tôi nhìn thấy trước là việc đó không dễ dàng.

- Trước hết, cần phải có lời công bố chính thức của chính phủ Hoàng gia Anh là hoàn toàn không có thông tin nào về số tài sản đó.

- Tôi đồng ý, nhưng tôi không thể để thứ đó nằm vĩnh viễn trong két nhà băng.

- Chính vì thế mà tôi đến đây đề nghị ông trao lại nó.

- Cho ông?

- Đúng thế. Số đá quý đó là sở hữu của cố Hoàng thân Ali Yusuf, và ông ta trao cho viên phi công Bob Rawlinson chỉ là để viên phi công trao lại cho tôi, nếu gặp trường hợp bất trắc.

- Ông có bằng chứng chứ?

- Tất nhiên!

Khách lấy ra một chiếc phong bì dài, lôi trong đó ra rất nhiều giấy tờ, bày trước mặt người thám tử.

Sau khi xem xét kỹ lưỡng các giấy tờ, thám tử Poirot gật đầu:

- Tôi thấy các giấy tờ đều hợp lệ.

- Vậy ông tính sao?

- Tôi xin hỏi một câu, được không?

- Tất nhiên!

- Ông định thu lợi ở chuyện này?

Khách lộ vẻ ngạc nhiên.

- Nhưng thưa ông bạn thân mến, đấy là chuyện tự nhiên.

Thám tử Hercule Poirot chăm chú nhìn vị khách. Robinson nói tiếp:

- Một nghề kinh doanh cũ kỹ, nghe đâu như có từ thời thượng cổ. Rất lãi, đúng thế. Giới kinh doanh kim cương đá quý chúng tôi tạo thành một mạng lưới phủ khắp quả địa cầu: chúng tôi đã hứa là không bao giờ sai. Rất nhiều khi chúng tôi giúp ích được vô số người.

- Thôi được, tôi đồng ý trao cho ông - Poirot nói.

- Tôi cam đoan với ông rằng ông quyết định như vậy là mọi người đều mãn nguyện - khách nói, đồng thời liếc mắt nhìn lá thư của Đại tá Pikeaway trên bàn giấy của Poirot.

Viên thám tử tư vấn nói tiếp:

- Khoan đã. Tôi tò mò muốn biết ông định dùng số tài sản này theo cách nào?

Một nụ cười toác ra trên khuôn mặt phì nộn của khách.

- Sau đây ít lâu, tôi sẽ nói ông biết.

Chương XXXIX

Đám trẻ nhỏ đùa nghịch ầm ĩ trên đường phố.

Lúc nặng nề lôi tấm thân phì nộn ra khỏi chiếc xe Rolls Royce cực kỳ sang trọng, ông Robinson bị bọn trẻ con xô đẩy, ông nhẹ nhàng gạt chúng ra rồi nhìn vào một tấm biển số nhà: số 15. Vậy là đúng rồi! Ông đẩy cánh cổng sắt, bước lên ba bậc thang dẫn đến cửa. Các tấm rèm trắng ở cửa sổ đều rất sạch sẽ, ông chú ý đến điều đó. Một ngôi nhà bình thường trong một phố nhỏ, nằm trong một khu vực ít ai để ý đến, nhưng lại không tầm thường chút nào.

Cửa mở, một thiếu phụ đẹp như mộng, khoảng hai mươi lăm tuổi, niềm nở đón khách:

- Chào ông Robinson. Mời ông vào.

Nàng dẫn khách vào một phòng khách nhỏ, xinh xắn. Một đài thu hình, một cây đàn piano kê sát tường.

- Ông dùng trà nhé? - bà chủ hỏi.

- Cảm ơn, tôi không uống trà bao giờ và tôi cũng không ngồi được lâu. Hôm nay tôi đến gặp bà chỉ để chuyển cho bà thứ tôi đã nói đến trong thư.

- Của Ali?

- Vâng.

- Không còn chút hy vọng gì nữa sao, thưa ông? Là tôi hỏi việc Ali đã không còn nữa có chính xác không?

- Thật đáng tiếc...

Khách lấy trong túi áo ra một gói nhỏ, đặt lên mặt bàn:

- Bà mở ra xem.

Tay run run, thiếu phụ mở gói. Rồi nàng như thể choáng váng: một dòng suối óng ánh đủ sắc màu chảy xuống bàn, khiến gian phòng khách nhỏ tăm tối này bỗng biến thành cái hang của chàng Aladin trong "Một ngàn lẻ một đêm".

Robinson không rời mắt khỏi cặp mắt của nàng. Ông đã thấy bao nhiêu cặp mắt phụ nữ sáng rực lên khi cần nhìn thấy một viên trong số những viên kim cương như thế này. Phụ nữ có một bản năng là say mê nữ trang quý.

Cuối cùng, nàng mới thốt lên được:

- Không thể là đồ thật được?

- Vậy mà tất cả đều là thật, tôi xin cam đoan với bà.

- Nếu vậy, trị giá của chúng phải đến ...

Nàng không biết nói lên con số bao nhiêu.

- Nếu bà đem bán, bà sẽ được ít nhất là sáu triệu bảng Anh - ông Robinson quả quyết.

- Trời !

Đột nhiên, thiếu phụ thu các viên đá quý lại, cho vào bọc, gói lại như cũ.

- Chúng làm tôi sợ. Xin trả lại ông! - Nàng kêu lên.

Cửa ra vào bật mở. Một đứa bé trai mắt đen, da nâu chạy như lao vào phòng:

- Mẹ! Thằng Bill cho con mượn một thứ đồ chơi rất đẹp...

Chợt nhìn thấy khách, cậu bé ngừng bặt.

- Con xuống bếp đi, Allen - thiếu phụ bảo con trai - Mẹ chuẩn bị thức ăn sáng cho con rồi đấy.

Cậu bé chạy nhanh ra ngoài. Thiếu phụ đỏ mặt, quay sang khách:

- Allen là tên tiếng Anh gần với cái tên Ali nhất. Nhưng thưa ông Robinson, ông khuyên tôi như thế nào đây?

- Trước hết, bà có giấy chứng thực hôn thú chứ? Tôi biết bà đã kết hôn với Hoàng thân Ali thời gian Ngài Hoàng thân theo học Đại học ở London, nhưng...

Thiếu phụ lấy giấy tờ ra đưa khách. Khách xem qua rất nhanh, rồi nói:

- Thế là đủ. Bây giờ giả sử bà uỷ nhiệm hoàn toàn cho tôi, tôi sẽ đem bán tất cả những thứ này và một công chứng viên sẽ tư vấn cho bà về cách sử dụng khoản tiền đó. Bà sẽ giàu ghê gớm và tất cả những tên lưu manh, lừa đảo, côn đồ đủ loại sẽ bám sát bà từng bước chân bà đi. Cuộc sống của những người giàu không phải bao giờ cũng nhàn tản, nhưng tôi tin rằng bà đủ can trường và khôn ngoan để thoát được những cạm bẫy của chúng. Sau này con trai bà sẽ sung sướng hơn cha nó ngày xưa. Vậy bà đồng ý như thế chứ?

Thiệu phụ đẩy gói đá quý về phía khách. Đột nhiên, nàng nói:

- Cô học sinh tìm ra được những viên đá quý này... Mắt cô ấy mầu gì?

Robinson nghĩ một chút:

- Bà hãy cho cô bé ấy một viên ngọc xanh. Màu xanh gợi lên vẻ huyền bí, sẽ rất thích hợp với cô ấy đấy. Ý định của bà tuyệt vời và cô bé ấy sẽ cực kỳ sung sướng.

Khách đứng lên:

- Nhân đây, tôi muốn xin nhận của bà tiền thù nhưng bà yên tâm, tôi không đòi quá đáng đâu.

Thiếu phụ liếc nhìn khách rồi nói:

- Tôi tin là như thế. Và tôi rất cần dựa vào một người am hiểu. Tôi rất dốt về kinh doanh.

- Nếu vậy tôi đem tất cả đi... Nhưng có lẽ bà muốn giữ lại một vài viên nào chứ?

Khách tò mò nhìn chủ: một chút run rảy, một ánh mắt thèm khát. Rồi mọi biểu hiện đó hoàn toàn biến mất:

- Không - thiếu phụ nói - Có thể ông cho việc từ chối một thứ kỷ niệm giá trị như thế này là dại dột. Nhưng, mặc dù Ali là tín đồ đạo Hồi, anh ấy vẫn thường cho phép tôi thỉnh thoảng đọc một đoạn trong kinh thánh của đạo Giatô cho anh ấy nghe. Và tôi nhớ có lần đọc một đoạn, nói về một người phụ nữ có giá trị hơn mọi viên bích ngọc... Không, tôi không muốn giữ lại một viên ngọc nào từ phía anh ấy!

"Một người phụ nữ quá lạ kỳ" - ông Robinson thầm nghĩ khi quay ra chiếc xe Rolls Royce của ông ta.

HẾT

Agatha Christie

Tại Sao Không Là Evans

Tác giả: AGATHA CHRISTIE

Người dịch: NGUYỄN VĂN QUA

Thể loại: Tiểu thuyết trinh thám

Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn (2000)

Đánh máy: HanAn - vnthuquan

Đóng gói: PARROT

Nguyên tác tiếng Anh: WHY DIDN’T THEY ASK EVANS)

hi chàng Bobby Jones, con trai thứ tư của một mục sư sống tại làng Marchbolt, trong một trận gôn đã đánh chệch đường banh vào vách núi, và khi đi tìm lại trái banh gôn ấy, anh phát hiện ra một tai nạn: một người đàn ông bị té xuống vực núi, do thời tiết lúc ấy đầy sương mù.

Người đàn ông ấy đang hấp hối. Trước khi chết, trong giây phút tỉnh táo duy nhất, ông ta nói một câu “Tại sao không là Evans?”. Bobby giúp phủ mặt người chết bằng chính chiếc khăn tay lấy ra từ túi của ông ta, và khi anh kéo khăn ra, một tấm hình của một phụ nữ xinh đẹp cũng rơi ra theo.

Người chết được nhận dạng là Alex Pritchard bởi người em gái. Cô em gái này, theo báo chí, thì được tìm thấy nhờ vào tấm hình trong túi của người chết. Khi đến làm chứng trước tòa với tư cách người phát hiện ra nạn nhân đầu tiên, Bobby thật ngỡ ngàng khi người em gái có mặt tại tòa hoàn toàn khác xa với người trong ảnh.

Với bản tính thật thà, chân thật, Bobby đã viết thư cho “người em gái” của nạn nhân để nhắc lại lời nói của cùng mà Alex Pritchard đã nói với anh khi hấp hối. Và cũng vì việc cung cấp tin tức này mà Bobby - với sự hợp tác của tiểu thư Frances Derwent, tên gọi thân mật là Frankie - bị lôi kéo vào một cuộc phiêu lưu, trong đó tính mạng anh và Frankie nhiều lần bị đe dọa.

* * *

Chương 1: Tai nạn

Bobby Jones đặt quả bóng gôn trên sân chơi rồi giơ gậy khoằm về phía sau lấy đà, đập một cú mạnh và nhanh.

Quả bóng vạch một đường đạn tuyệt vời tưởng chừng sẽ lăn gọn vào hốc thứ tư?... Nhưng không!... trệch rồi, nó nẩy thia lia trên sân rồi biến vào trong bụi mất tăm.

Người chứng kiến duy nhất quả đập vụng về là bác sĩ Thomas, chẳng hề biểu lộ chút ngạc nhiên nào. Điều ấy cũng dễ giải thích thôi: người chơi chẳng phải là một cầu thủ nổi tiếng xưa nay, mà là con trai thứ tư mục sư vùng Marchbolt, một trạm nghỉ treo cờ hiệu giáo phái trên sườn núi xứ Galles.

Bobby thốt lên lời rủa bực bội.

Đó là một chàng trai khá hấp dẫn ở độ tuổi hai mươi tám. Có thể nói là anh chàng đẹp trai, gương mặt đầy thiện cảm, cặp mắt nâu thuỷ chung.

- Tôi chơi ngày một tồi đi! - Anh lẩm bẩm chán nản -

- Anh chơi hấp tấp quá - người cùng chơi nhận xét.

Đó là một người đã luống tuổi, mái tóc bạc, gương mặt hồng hào dễ mến.

Họ lại tiếp tục chơi.

Bác sĩ Thomas phát bóng trước, ông vụt một cú thẳng nhưng không mạnh lắm.

Bobby đặt bóng, đung đưa gậy một lát rồi giương cao về phía sau, nheo nheo mắt, đầu ngẩng lên, vai phải lệch một chút… tóm lại là có những động tác trái ngược với thói quen thường làm, rồi anh đập rất mạnh, khiến cho quả bóng vụt thẳng như kẻ chỉ.

- Chà chà… rất tiếc... lại trệch đích... - Bác sĩ Thomas nói.

- Bực thật! - Bobby lại lầu bầu - Nhưng này! Hình như tôi nghe thấy tiếng ai kêu! Mong rằng quả bóng chẳng trúng phải ai.

Anh ta chăm thú nhìn thẳng quan sát khoảng đất phía quả bóng văng tới. Mặt trời chiều hôm chiếu chênh chếch. Từ phía biển sương mù bốc nhè nhẹ. Khoảng trăm mét phía xa có một vách đá cắt ngang tầm nhìn.

- Có một con đường nhỏ dọc theo khe núi - Bobby nói - nhưng chẳng lẽ quả bóng lăn được tới đó sao. Tuy nhiên, chính tai tôi nghe thấy tiếng kêu…

Người thầy thuốc thì chẳng nghe thấy gì.

Bobby chạy đi tìm quả bóng. Anh tìm thấy nó trong bụi kim tước.

Cuộc chơi tiếp tục. Bóng lăn tới hốc thứ mười bẩy. Trong đầu Bobby vẫn bị ám ảnh về tiếng kêu mà anh nghe thấy vừa qua, tiếng kêu phát ra từ phía một vực thẳm có độ sâu đến chóng mặt.

Bobby hít mạnh, lấy sứt vụt quả bóng. Nó nẩy thia lia vài lần rồi lại biến mất.

- Lại tí hút! Thật là tồi tệ!

Chàng trai lầu bầu tiếp. Anh ta cư dọc theo mép vực đá, mắt nhìn xuống tận phía sâu nơi có dòng nước chảy lấp lánh.

Bắt chợt Bobby đứng dừng lại và gọi người cùng chơi.

- Ô này! Bác sĩ! Hãy nhìn kìa.

Ở khoảng hơn chục mét phía dướ họ, có một đống mầu sẫm trông giống như đống quần áo.

Bác sĩ Thomas bỗng kêu lên:

- Có ai đó đã ngã xuống vực. Hay cứu nạn nhân ngay! Nhanh lên!

Hai người lần từng bước men xuống vực sâu khá vất vả. Trẻ, khoẻ và vốn năng tập luyện, Bobby đỡ bác sĩ cùng xuống. Cuối cùng họ cũng đã tới được chỗ nạn nhân. Đó là một người đàn ông khoảng bốn chục tuổi hãy còn thoi thóp thở nhưng bất tỉnh.

Thầy thuốc cúi sát xuống người bị nạn và khám các chấn thương. Rồi ông ngước nhìn Bobby.

- Nạn nhân chẳng còn chịu đựng được lâu. Sống lưng anh ta đã bị gẫy. Chắc là do chẳng thạo đường và đi trong sương mù, nên đã bước hụt ngã xuống vực. Đã rất nhiều lần tôi đã đề nghị với Hội đồng thành phố cho dựng hàng lan can ở đây.

Ông đứng đậy.

- Tôi sẽ đi tìm cách cấp cứu cho anh ta. Trước hết phải đưa được anh ta lên khỏi vực. Anh ở lại đây nhé?

Bobby đồng ý và hỏi ý kiến thầy thuốc.

- Tôi có thể làm gì để làm cho anh ta đỡ đau?

- Chẳng có cách nào. Anh ta chỉ còn từng phút... mạch đập nhanh và rất suy nhược. Cũng có thể là… tuy chẳng có gì chắc chắn lắm, anh ta sẽ tỉnh lại trước lúc chết. Thường là thế.

- Nhưng nếu anh ta hồi tỉnh thì chăm sóc ra sao?

- Vô ích thôi. Anh ta chẳng còn chịu đựng nổi...

Bác sĩ Thomas leo lên theo vách đá. Bobby nhìn theo ông cho tới lúc ông leo tới đỉnh và đi khuất chẳng còn nhìn thấy nữa. Bobby ngồi trên mỏm một hòn đá nhô ra để hút một điếu thuốc lá. Cái tai nạn này đã gây một ấn tượng mạnh mẽ cho anh; và tới lúc này, anh vẫn chưa đến gần để xem xét xác chết.

Nạn nhân đã có một cái chết thảm khốc! Mây mù buông xuống vào lúc chiều hôm, rồi anh ta lỡ hụt một bước chân... thế là tong! Hết đời một người khoẻ mạnh, to con. Vẻ nhợt nhạt của xác chết đã làm giảm bớt màu da rám nắng vốn có của nạn nhân. Trông dáng vẻ bên ngoài dường như người chết ở một nơi xa nào đến và có vẻ phong trần chứ chẳng phải người sống tĩnh tại ở một chỗ nào ngay trong địa phương. Bobby đến gần để quan sát kỹ: tóc xoăn và mầu nâu điểm bạc hai bên thái dương, mũi cao, quai hàm nở vẻ cương nghị, dáng người tầm vóc, hai bàn tay thanh, nổi gân. Đôi chân gập khúc một cách quái dị... Chắc là do hậu quả bị rơi từ trên cao xuống.

Dường như đã tới lúc người hấp hối có thể hồi tỉnh như bác sĩ Thomas nói vừa rồi, nạn nhân hé mở đôi mắt. Một đôi mắt mầu xanh nhìn chằm chằm vào Bobby. Cái nhìn chẳng hề có vẻ đờ dại hoặc ngần ngại mà hình như vừa có vé chăm chú lại vừa có vẻ dò hỏi.

Nhanh nhẹn, Bobby đứng dậy và tới gần. Trông thấy Bobby sắp tới gần mình, nạn nhân dường như gắng hết sức để nói với anh cho thật rõ ràng:

- Tại sao không là Evans…?

Nói xong câu nói trên dường như anh ta kiệt sức, chân tay run lên, mí mắt buông xuống, hàm cứng ra.

Người gặp nạn chẳng rõ lai lịch ấy đã chết.

Chương 2: Suy nghĩ về cha

obby quì gối sát bên xác người chết và anh chẳng còn nghi ngờ gì nữa: người gặp nạn đã sang thế giới bên kia. Sự hồi tỉnh ngắn ngủi, câu nói cuối cùng và rồi… sự kết thúc.

Để tìm ra miếng vải phủ mặt cho người chết, Bobby mạnh bạo thọc tay vào túi anh ta, lấy ra một chiếc khăn mùi xoa rồi trải ra đắp lên khuôn mặt đã khô cứng vào lúc ấy.

Bất chợt, khi rút chiếc khăn ra, anh thấy văng ra theo một tấm ảnh. Anh nhặt tấm ảnh lên và đưa mắt nhìn.

Ảnh một người đàn bà có gương mặt xinh đẹp đáng chú ý. “Gương mặt đó - Bobby thầm nghĩ - nếu ai đã nhìn thì khó mà quên được". Anh nhét lại tấm ảnh vào đúng cái túi nơi mà tấm ảnh văng ra, rồi anh ngồi yên chờ đợi.

Những phút chờ đợi trôi qua thật chậm chạp... Chàng trẻ tuổi sốt ruột đứng ngồi chẳng yên. Anh nhớ đến lời hứa của mình với cha là sẽ đánh đàn oóc phục vụ cho phần nhạc lễ vào buổi sáu giờ chiều nay, vậy mà giờ đây đã là sáu giờ kém mười! Anh tiếc là đã không nhờ người thầy thuốc báo cho cha mình biết về sự việc xẩy ra.

Vào lúc này mục sư Thomas Jones tỏ ra rất phiền muộn. Ông vốn là người hay lo lắng, chuyện nhỏ mọn cũng có thế làm ông bồn chồn phát ốm lên được. Bobby thì nghĩ: “Người cha khốn khổ của mình đến phát điên lên mất thôi. Giá như không có lời hứa trước thì sự phiền muộn của ông cũng chẳng đến mức căng thẳng. Đến là khổ khi mà ông vẫn còn coi mình như một đứa trẻ còn đang bú mẹ!"

Vốn là người con hiếu thảo và rất yêu thương cha mình, nhưng Bobby đã không tránh khỏi cảm thấy khó chịu bực tức khi thấy ý chí tạo dựng cuộc sống tự lập của mình luôn bị những ý nghĩ thiển cận của cha mình kiềm chế. Còn ngài Jones thì lúc nào cũng cho rằng cậu con trai thứ tư của mình hãy còn trẻ người non dạ. Và bởi vậy mà cha con ngày thường hay xung khắc với nhau.

Bobby đứng dậy, đi đi lại lại, nôn nóng. Vừa lúc ấy thì anh nghe thấy tiếng động phía trên vách đá. Ngước mắt nhìn lên, anh vui mừng nhận ra có người đến cứu.

Chẳng phải là thầy thuốc mà là một người đàn ông mặc quần thể thao bóng gôn mà anh chưa từng gặp bao giờ.

- Điều gì xẩy ra vậy? - Người mới đến hỏi - Có ai bị tai nạn chăng?

Dưới ánh sáng mờ nhạt lúc chiều hôm. Bobby chẳng nhìn được rõ mặt người mới đến, mà chỉ nhận ra một bóng dáng cao và nghe thấy một giọng nói đàn ông phát âm cao và dễ nghe.

Bobby kể cho người mới đến mọi tình tiết và hỏi anh ta có biết chuyện gì đã xảy ra khi anh đến.

- Không, không hề biết.

- Thật đáng buồn! - Bobby phàn nàn - Tôi có việc bận, người ta chờ tôi vào lúc sáu giờ.

- Và anh không muốn bỏ đi...

- Không, tôi không muốn bỏ mặc người gặp nạn. Anh ta đã chết, tôi chẳng làm gì để cứu được anh ta, tuy nhiên tôi chẳng nỡ...

- Anh đừng băn khoăn gì nữa. Tôi sẽ xuống và trông thay cho anh, chờ người cứu nạn tới.

- Anh giúp được tôi thế sao? - Bobby vui mừng nói đầy vẻ biết ơn - Anh thông cảm, cha tôi đang chờ tôi. Lúc này ông đang mong và lo lắng. Anh đã nhìn thấy lối xuống chưa? Theo con đường nhỏ rẽ trái một quãng rồi sẽ thấy lối xuống bên phải.

Cuối cùng. người đàn ông đã xuống được khoảnh mặt bằng hẹp nơi có Bobby và người gặp nạn. Anh ta khoảng ba lăm tuổi, mặt đầy đặn, nhẵn nhụi. Anh ta nòi:

- Tôi là người ở xa mới đến ở vùng này. Tên tôi là Bassington - ffrench. Tôi đang đi tìm thuê một nơi ở trong vùng này. Thật là một tai nạn khủng khiếp. Có phải anh ta ngã từ trên vách đá lăn xuống vực?

- Đúng vậy. Khi có sương mù chỗ này quả là một khu vực nguy hiểm. Tôi rời đi đây. Chào anh và cám ơn.

- Xin đừng cám ơn làm gì. Chỉ là lẽ đương nhiên thôi. Chẳng ai lỡ bỏ mặc người lâm nạn một mình…

Bobby leo theo vách núi dốc đứng, lên đến đường mòn. Anh chạy vội về giáo khu. Để tranh thủ thời gian anh đi theo đường tắt, nhảy qua tường của nghĩa địa chứ không đi vòng quanh theo hàng rào. Nhìn qua cửa sổ ở kho đồ thờ, mục sư chứng kiến những hành động táo bạo của con mình và ông đã nổi giận.

Đã sáu giờ năm phút mà chuông nhà thờ vẫn còn rung. Mục sư đành nén giận, xếp mọi chuyện mắng mỏ, giáo dục con mình lại. Ông cho buổi lễ được bắt đầu.

Bobby ngồi vào ghế, tay ấn vào các phím của cây đàn ac-mô-ni-um. Vừa ở nơi người bị nạn về anh thương cảm chọn bản nhạc phù hợp. Anh dạo bản Khúc đưa đám của Chopin.

Sau buổi lễ, mục sư gọi con trai của mình lại để giáo dục, nhắc nhở bổn phận của anh ta.

- Bobby này, nếu con thấy chẳng thể làm tốt được việc cha giao cho thì tốt nhất là con nên thôi đi… Con năn nỉ xin được ngồi dạo đàn ac-mô-ni-um phục vụ lúc hành lễ. Việc đó cha chẳng hề bắt buộc con... nhưng nếu con thích vui chơi hơn...

- Xin cha thứ lỗi cho con - Bobby bao giờ cũng nói với giọng nói vui vẻ lễ độ cho dù cha anh có mắng mỏ nghiêm khắc ở mức độ nào cũng vậy - Lần này chẳng phải lỗi tự con gây nên. Con chẳng nỡ bỏ mặc một người chết vì tai nạn.

- Con gặp người chết vì tai nạn thế nào?

- Anh ta ngã từ trên vách đá rớt xuống vực. Chắc là cha cũng biết chỗ vực sâu ấy...

- Lạy chúa! Cái chết mới thê thảm làm sao! Người bị nạn chết ngay ư?

- Không, anh ta chết sau khi bác sĩ Thomas rời đi tìm cách cứu chữa. Con chẳng nỡ bỏ mặc anh ta nằm đấy một mình. May thay có một người đi dạo qua đã thay thế con, túc trực bên người bị nạn chờ người đến cấp cứu.

Mục sư thở dài buồn bã rồi nói với con:

- Bobby con, thái độ và cách sống của con làm cho cha sầu não vô cùng. Vừa rồi con đã đối đầu với cái chết mà thái độ con vẫn cứ thản nhiên! Dường như con còn lấy đó làm vui nữa là khác... với những người còn trẻ như các con, chẳng còn điều gì trên cõi đời này là thiêng liêng nữa sao?

Bobby cảm thấy rất bực bội với những lời nói của cha mình, nhưng anh nghĩ rằng mọi sự tranh cãi với cha chỉ là vô ích. Vả lại anh cũng muốn giấu cha mình những ý nghĩ và tình cảm riêng, nên trước sau anh chỉ một mực xin lỗi cha bằng những lời lẽ nhẹ nhàng.

Hai cha con đi cùng trên đường về nhà. Mỗi người có sự suy nghĩ của riêng mình.

Mục sư thì nghĩ: "Chẳng biết đến bao giờ Bobby mới trở thành chín chắn và tìm được việc làm?"

Bobby thì lại nghĩ thầm: "Chẳng biết mình còn phải sống phụ thuộc vào cha đến bao giờ?"

Ngoài những niềm sầu tư của mỗi người thường là chẳng bao giờ hoà hợp với nhau hai cha con mục sư luôn dành cho nhau những tình cảm yêu thương trìu mến.

Chương 3 : Đi xe lửa

ái tai nạn chết người ấy đang được cảnh sát mở cuộc điều tra. Vài hôm sau, vào một buổi sáng Bobby lên đường đi Londres để gặp một người bạn của anh, bàn việc hùn vốn mở một xưởng sửa chữa ô-tô.

Hai ngày sau, khi sự bàn bạc đã thoả thuận xong, Bobby đáp xe lửa về nhà. Anh tới ga Paddington muộn nên phải chạy tắt qua lối đường ngầm phụ trong ga thông lên ke số 3 vừa lúc đoàn tầu chuyển bánh. Bất chấp sự ngăn lại của người soát vé, anh nhảy đại lên toa đầu.

Đẩy mạnh cửa toa tàu và nhảy vội anh ngã dúi xuống sàn toa, thân chống trên hai tay và đầu gối. Cánh cửa toa được người kiểm vé đóng lại. Bobby đứng dậy và thấy mình đang đứng ngay trước một nữ hành khách duy nhất của toa hạng nhất.

Đó là một cô gái trẻ, da nâu, người thon thả, mồm ngậm một điếu thuốc lá. Cô ta mặc một cái váy đỏ, một áo jắc-két xanh, một mũ bon-nê mầu xanh sáng. Ẩn trong bộ quần áo đi đường bình dị vừa kể, là một thân hình duyên dáng có nhiều nét độc đáo cùng với gương mặt đầy đặn có sức quyến rũ.

- Ồ! Là Frankie ư? - Bobby reo lên - Có dễ một thế kỷ rồi chúng ta không gặp nhau!

- Chào anh! - Cô gái đon đả - Nào lại đây, hãy ngồi trước mặt tôi nào!

Bobby nhăn nhó:

- Vé của tôi chẳng đồng mầu với vé hạng nhất.

- Ồ, chuyện vặt. Chuyện ấy giải quyết dễ thôi. Tôi sẵn sàng trả họ tiền chênh lệch.

Vừa lúc đó một nhân viên người to cao, mặc đồng phục mầu xanh xuất hiện ngoài hành lang trước cửa toa tầu.

- Để tôi giải quyết! - Frankie đề xuất.

Cô gái nhoẻn miệng cười rất duyên với người soát vé khi người này buông bàn tan chào khỏi vành mũ kê-pi và bấm lỗ vào chiếc vé của cô ta.

- Đây là anh Jones, bạn tôi vừa vào toa trao đổi với tôi vài lời. Anh cho phép tôi phải không?

- Tất nhiên, thưa nữ hoàng. Tôi hy vọng ông anh chẳng ở đây lâu quá - Anh ta khẽ ho và nói thêm - Tôi sẽ trở lại soát vé lượt nữa trước lúc đến ga Briston.

- Một cô gái xinh đẹp với một nụ cười là giải quyết xong ngay một tình huống!... - Bobby nhận xét sau khi người soát vé rời đi.

Cô nương Frances Derwent gật gù tỏ ý tán đồng ý kiến của anh:

- Đúng là nụ cười thiện cảm biết dùng sẽ đem lại hiệu quả tốt. Với nó, tôi đã góp phần và đã thành công trong việc giúp đỡ cha thu xếp một cách độ lượng những yêu sách của công nhân.

- Tôi tin rằng vừa qua cô rời xứ Galles đi Londres đã giúp ông cụ được nhiều việc tốt?

Cô gái thở phào:

- À! Anh chẳng lạ gì ở thế hệ bố mẹ chúng ta cách giải quyết của các cụ nhiều lúc đã lỗi thời! Người thời nay dường như chẳng còn thích sống ở các vùng quê…

Cô gái chuyển câu chuyện sang vấn đề khác...

- Tuy nhiên, sau nhiều buổi tối ở Londres, nơi tôi vừa sống qua, tôi thường tự hỏi có phải đúng là tôi đã chẳng còn thích cuộc sống ở đồng quê hơn là thành thị như trước đây?

- Điều gì đã làm cho cô chẳng thích thú trong các buổi tối ở thành thị?

- Ồ! Chẳng có gì đặc biệt đâu. Chỉ là những buổi tối như những buổi tối khác. Gặp gỡ nhau ở nhà hàng Savoy vào lúc tám rưỡi chẳng hạn. Cả một nhóm bạn bè. Rồi cùng ăn tối với nhau, đến nhà hát múa rối… đơn điệu và buồn, và cũng đến cả các sàn đấu… còn buồn hơn. Cũng có tối đi chơi và dừng lại trước một gánh cà phê bán rong, ăn bánh rán. Khi trở về nhà ai nấy đều mỏi mệt. Như vậy đấy Bobby ạ, cuộc sống ở thành phố chẳng phải là đều vui thú.

- Tôi cũng có cảm xúc giống như cô.

Tuy nhiên, đối với Bobby, ngay cả ở những lúc chơi ngông nhất anh cũng chưa từng có hoàn cảnh vào những hộp đêm ăn chơi theo mốt như nhà hs2t múa rối hoặc đấu trường.

Mối quan hệ giữa Frankie và Bobby về thực chất khá đặc biệt.

Hồi còn nhỏ Bobby và các anh của mình kết bạn với các cô bé, cậu bé trong lâu đài. Giờ đây đã truởng thành họ ít gặp nhau. Ở những ngày còn nhỏ ấy, chơi với nhau họ thường gọi nhau bằng những cái tên trẻ con. Mỗi khi Frankie ở thành phố về sống ở lâu đài. Bobby và các anh thường hay đến lâu đài chơi tennis, và khi chơi từng cặp họ thường thiếu người cùng chơi là con trai.

Đôi khi con trai con gái chơi với nhau cũng thấy ngượng. Những đứa con nhà Derwent dòng dõi quí tộc luôn bày tỏ sự thân mật để dễ gần quí nhau và cũng để nói lên là chẳng bao giờ họ nghĩ đến sự phân cách giai cấp. Còn những đứa con nhà Jones thì luôn giữ ý tứ để tỏ ra là họ chẳng cần cầu cạnh hay nhờ vả gì. Tuy nhiên Bobby rất quý mến Frankie và lấy làm thích thú khi sự tình cờ đã xui khiến họ gặp nhau.

- Tôi thấy chán ngấy mọi thứ - Frankie tâm sự với một giọng ảo não - Còn anh sao, Bobby?

- Còn tôi? Không đâu, chẳng đến nỗi thế.

- Anh có nhiều may mắn.

- Ô! Tôi chẳng có ý muốn nói là tôi có một cuộc sống như ý muốn.

Hai người nhìn nhau đầy thiện cảm.

- À này! Về chuyện một người đàn ông ngã từ trên vách đá cao xuống vực ra sao?

- Bác sĩ Thomas và tôi phát hiện ra người bị nạn. Tại sao cô biết?

- Tôi đọc tin trên báo. Đây này!

Cô gái lấy ngón tay chỉ vào các cột báo, trên có tít đề: Tai nạn ngã chết người trong sương mù.

Nạn nhân người vùng Marchbolt đã được xác định lai lịch chiều hôm qua, nhờ có tấm ảnh Bà Leo Cayman. Bà đã được gọi tới Marchbolt và đã nhận ra người chết là ông Allex Pritchard chính là em trai bà. Ông Pritchard vừa mới ở Thái Lan về đất nước sau mười năm xa quê hương. Nhà chức trách đang tiến hành điều tra. Buổi họp thẩm vấn sẽ được triệu tập vào ngày mai tại Marchbolt.

Đọc xong bản tin, Bobbty chợt nhớ tới vẻ đẹp quyến rũ trên gương mặt người trong tấm ảnh văng ra từ túi người chết hôm ấy.

- Chắc chắn là họ sẽ mời tôi đến với tư cách là nhân chứng.

- Ồ, thế thì tuyệt. Tôi sẽ tới nghe.

- Tôi chẳng biết gì nhiều lắm để khai báo. Chúng tôi chỉ tình cờ phát hiện ra người bị nạn.

- Phát hiện ra khi anh ta đã chết rồi sao?

- Không. Anh ta chết sau đó mười lăm phút rồi tôi ở lại một mình với anh ta.

Bobbty ngừng một lát rồi lại kể tiếp. Frankie nói:

- Thật kinh khủng!

Cô gái ái ngại thay cho anh, khi nghe anh kể cha anh trách mắng như thế nào.

- Người bị nạn thật đáng thương… một chàng trai khỏe mạnh... đầy sức sống, một bước hụt trên vách đá thế là xong một đời! Trong sương mù...

- Anh đã trông thấy người chị gái nạn nhân chưa?

- Chưa. Tôi thường đi Londres hai ngày. Tôi đến đó bàn bạc với một người bạn mở một xưởng sửa chữa ô-tô. Cô có biết anh ta không: Badger Beadon?

- Tôi chẳng nhớ anh ta. À! Phải. Tôi biết anh nói đến ai rồi. Có phải anh chàng trước đây mở trại chăn nuôi rồi sau đó đi sang Úc làm ăn, không được bao lâu lại trở về nước?

- Đúng vậy! Chả là anh ta sau đó bị phá sản.

- Bobby, tôi hy vọng anh sẽ chẳng đầu tư tiền bạc vào công việc mở xưởng ô-tô?

- Tôi không có tiền, bởi vậy chẳng có gì là mạo hiểm đối với tôi. Nói cho đúng ra thì Badger cũng muốn tìm một người cộng tác hùn vốn với mình, nhưng chẳng phải là tìm được dễ dàng.

- Có phải ai cũng là người ngu ngốc đâu.

- Nhưng Frenkie này, Badger vốn là người thật thà xưa nay...

- Ồ, điều ấy thì chắc chắn rồi... Nhưng anh ta lấy tiền ở đâu ra mà mở xưởng?

- Anh ta được thừa hưởng tài sản của người cô chết đi để lại cho một xưởng với sáu cái ô-tô, một cơ ngơi cửa hàng bên trên ga-ra. Cộng thêm là một trăm bảng nữa do bố mẹ cho, để buôn bán các loại ô tô cũ...

- Tại sao anh xuất ngũ khỏi hải quân. Người ta không thải hồi anh đấy chứ?

Bobby đỏ mặt.

- Tôi rời khỏi vì kém mắt.

- Mắt anh hiện nay vẫn còn phải điều trị phải không?

- Khi khám tuyển quân, mắt tôi đủ tiêu chuẩn... Nhưng vì sau tôi chẳng chịu nổi mặt trời thuộc địa. Tuy nhiên, các bác sĩ chuyên khoa khám cho tôi đều nói rằng chắc chắn mắt tôi sẽ khá hơn. Tôi sẽ lại có thể tiếp tục…

- Trên thực tế, mắt anh hoàn toàn trong sáng - Frankie nhận định sau khi cô nhìn vào đôi mắt nâu hiền từ của Bobby.

Một nhân viên hoả xa xuất hiện ớ cửa ngoài hành lang báo cho hành khách biết:

- Chúng tôi khiếm soát vé tầu!

- Xin mời ông - Frankie nói.

Sau đó hai người cùng đi xuống toa bán hàng trên tầu. Bobby đã thực hiện cuộc rút lui chiến lược trước lúc người kiểm vé đến.

Khoảng gần năm giờ thì tầu đến sân ga Silaham. Tàu dừng lại để hành khách xuống làng Marchbolt.

- Thật là may cho tôi đi chuyến tầu này nên mới được gặp lại anh.

- Cảm ơn. Như vậy tránh cho tôi phải một mình vác cái va-li chết tiệt này suốt ba cây số.

- Năm cây chứ.

- Không, ba cây thôi, nếu ta đi theo con đường nhỏ chạy ven sân chơi bóng gôn.

- Con đường mà…

- Đúng, con đường mà có người ngã xuống vực hôm vừa rồi.

- Anh có cho rằng có ai đã đẩy anh ta?

- Đẩy anh ta? Lạy chúa, không! Tại sao?

Bằng một giọng nói vô tư, Frankie nói:

- Cũng có thể lắm chứ và điều đó sẽ làm cho vụ án trở thành li kỳ.

Chương 4: Mở cuộc điều tra

oà án cho mời các nhân chứng và những người có liên quan ngày mai có mặt để làm rõ cái chết của Alex Pritchard. Bác sĩ Thomas được mời đến với tư cách nhân chứng.

Người bác sĩ của toà hỏi ông:

- Có phải khi rơi xuống vực nạn nhân vẫn còn sống?

- Đúng vậy, anh ta vẫn còn thở. Tuy nhiên ở lúc đó anh ta chẳng còn hy vọng sống.

Bác sĩ Thomas trình bày với toà bằng từ ngữ chuyên môn. Người thẩm phán ngành tư pháp diễn giải cho rõ hơn:

- Bằng ngôn ngữ ta thường nói thì cột sống của nạn nhân bị gẫy?

- Đúng vậy, nếu muốn nói như vậy thì cũng được.

- Theo nhận định của ngài, thưa bác sĩ Thomas, tai nạn đã xảy ra như thế nào?

- Nạn nhân lúc đó bất tỉnh chẳng hỏi được anh ta điều gì cả. Tôi cho rằng anh ta bước hụt rồi rơi từ mép vách đá thẳng đứng xuống vực. Lúc đó sương mù từ phía biển bốc lên làm cho anh ta nhìn không rõ con đường nhỏ men theo miệng vực có một chỗ ngoặt đột ngột.

- Bác sỹ đã khám cho anh ta vào lúc đó vậy có thừa nhận là không có dấu hiệu thương tích nào làm cho ta nghĩ đến anh ta có đánh nhau với ai?

- Mọi thương tích trên người anh ta lúc đó chỉ là do bị va chạm vào đá khi rơi từ độ cao từ mười lăm đến hai mươi mét.

- Còn một giả thiết nữa là anh ta tự tử?

- Điều ấy cũng có thể xẩy ra.

Robert Jones Bobby, cũng với tư cách là nhân chứng, trình bày tiếp với Toà về những điều mà anh đã chứng kiến. Anh khai rõ từ lúc chơi bóng gôn ra sao, đánh mạnh văng quả bóng như thế nào. Rồi chợt nghe thấy tiếng ai kêu khiến anh tự hỏi liệu quả bóng có chạm vào ai đó. Tuy nhiên anh không tin là quả bóng có thể lăn tới con đường nhỏ.

- Anh có tìm thấy quả bóng không?

- Có tìm thấy ở một bụi cây cách con đường nhỏ hàng trăm mét.

Anh định kể tiếp thì một nhân viên Cảnh sát tư pháp cho rằng không cần kể thêm về những điều mà bác sĩ Thomas vừa rồi đã khai rõ. Tuy nhiên ông ta hỏi lại anh về tiếng kêu là chính tai anh nghe thấy hay tưởng chừng như nghe thấy, rồi ông ta hỏi:

- Có phải tiếng kêu cứu không?

- Chi là tiếng kêu bình thường.

- Giống như tiếng kêu khi gặp điều gì bất ngờ?

- Vâng giống như vậy.

Sau đó anh khai rõ thêm là người bị nạn đã chết khoảng năm phút sau khi bác sỹ Thomas đi khỏi.

Toà gọi đến bà Léo Cayman.

Nhìn thấy bà ta, Bobby cảm thấy thất vọng. Gương mặt bà ta chẳng hề giống gương mặt kiều diễm trong tấm ảnh văng ra từ túi áo người chết. Chuyện này chắc là có điều gì đó không được minh bạch. Cũng giả thiết tấm ảnh đó là chụp bà ta thực và chụp đã từ nhiều năm thì giờ đây khuôn mặt đã đổi khác đi nhiều, nhưng thật khó mà hình dung nổi, một khuôn mặt với vẻ quyến rũ và đôi mắt đôn hậu mà nay biến đổi thành phu nhân thái độ kiêu căng, phấn son quá mức, mái tóc nhuộm kiểu cách. Thời gian quả là có sức phá hoại tàn bạo. Anh chợt rùng mình khi mường tượng đến sự biến đổi của Frankie trong hai mươi năm tới liệu có diễn ra tương tự?

Thế rồi sau đó Mélia Cayman ở số nhà 17 khu công viên St. Leonard Paddington, tiếp tục khai trước toà.

Người chết, Alexandre Prichard, là người em trai duy nhất của bà. Bà gặp em mình lần cuối cùng vào tối hôm trước ngày xẩy ra tai nạn bi thảm. Người em mới từ Viễn Đông trở về và có nói cho bà biết là có ý định về thăm quê cũ, xứ Galles, đi dạo thăm lại khắp vùng núi non này.

- Bà cho rằng anh ta ở trạng thái bình thường?

- Hoàn toàn bình thường. Em tôi lấy làm thích thú về ý định đi dạo chơi này.

- Bà có thấy anh ta có những khó khăn gì không, chẳng hạn lúng túng về tiền bạc, sự buồn bực?

- Tôi chẳng thể khẳng định được gì về những vấn đề đó. Em tôi xuất ngoại khỏi nước Anh. Đã hơn chục năm tôi không gặp và tính cậu ấy vốn không thích viết thư từ nhiều. Cậu ấy mời tôi đi ăn, đi xem hát nhiều lần và cũng tặng tôi quà nữa cho nên tôi cho rằng cậu ấy chẳng thiếu tiền, cậu ấy tỏ vẻ vô tư, hồn nhiên dường như chẳng có điều gì lo lắng phiền muộn cả.

- Anh ta làm nghề gì bà có biết không, bà Cayman?

Người phụ nữ đang được chất vấn tỏ ra lúng túng trước câu hỏi:

- Tôi chẳng được rõ lắm. Em tôi có nói đến công việc thăm dò khai thác gì đó.

- Bà có nghĩ đến một nguyên nhân nào đó có thể dẫn anh ta đi đến tự sát?

- Tôi cho rằng: không! Tôi không tin là em tôi tự sát. Đó là do tai nạn - tôi nghĩ như vậy.

- Bà có thể giải thích thế nào khi em trai bà không đem theo một thứ hành lý nào... ngay cả đến một cái ba lô cũng không?

- Em tôi chẳng thích mang theo thứ gì cồng kềnh. Cậu ấy nói với chúng tôi là đã gửi trước một gói bưu kiện tới nơi định đi tới. Gói bưu kiện gửi trước hôm ra đi gồm có quần áo ngủ, một đôi tất nhưng có lẽ địa chỉ ghi chẳng được rõ nên đến chậm có thể là đến vào ngày hôm nay cũng nên.

- À! Điều đó hé lộ một điều gì đó chẳng được bình thường - Vị Cảnh sát tư pháp nói sau một lát suy nghĩ.

Bà Cayman kể tiếp: nhờ tấm ảnh có ghi tên văng ra từ thi hài người em tử nạn mà Cảnh sát báo tin được cho bà. Được tin, hai vợ chồng bà đã tới ngay Marchbolt và nhận dạng được thi hài Alexandre. Nhắc đến tên người em của mình bà ta sụt sịt rồi nấc lên vì xúc động.

Người Cảnh sát tư pháp nói vài lời an ủi rồi mời bà về chỗ ngồi.

Quay về phía các vị bồi thẩm ông bày tỏ ý kiến riêng của mình, bước đầu chỉ xác nhận cái chết của nạn nhân mà thôi chứ chưa có kết luận về nguyên nhân cái chết.

Các vị bồi thẩm khác thì có những nhận định đơn giản hơn. Chẳng có ý kiến nào cho rằng Mr Pritchard vì phải đương đầu với những lo lắng hoặc tuyệt vọng bởi những ý nghĩ đen tối mà đi tới tự tử.

Tai nạn dường như được quy cho sương mù buổi chiều hôm đã làm cho con đường nhỏ ven theo vách đá trở nên cực kỳ nguy hiểm.

Kết luận của Hội đồng bồi thẩm được thông qua mau chóng như sau:

"Hội đồng bồi thẩm nhận định rằng nạn nhân bị chết vì tai nạn và mong muốn Hội đồng thành phố có ngay những biện pháp cần thiết để phòng ngừa tai nạn xẩy ra tiếp, đồng thời cho lập ngay một hàng rào chắn bên mép vách đá nơi có vực sâu nguy hiểm".

Ông bồi thẩm Cảnh sát tư pháp đồng ý phê chuẩn. Buổi họp của Hội đồng kết thúc.

Chương 5 : Ông bà Cayman

Trở về nơi ở và làm việc của cha mình, Bobby nhận ra rằng chính mục sư cũng bị người ta làm phiền nhiễu quanh cái chết của Alex Pritchard. Ông bà Cayman đang chờ anh tại văn phòng của cha mình.

Bobby bước vào phòng thấy mục sư, cha mình, đang tiếp họ với một thái độ chẳng mấy nhiệt tình.

- A! - Mục sư Thomas thở phào nhẹ nhõm - Cuối cùng thì Bobby cũng đã về.

Ông Cayman đứng dậy đi nhanh tới đón anh và chìa tay ra bắt. Đó là một người tầm vóc khoẻ mạnh, cách tiếp đón niềm nở chẳng hợp với cặp mắt hay nhìn trộm và toát ra vẻ lạnh lùng. Còn bà Cayman thì vừa rồi anh đã biết ở toà án.

- Tôi đi cùng với vợ tôi - Cayman giải thích - trong lúc người đàn bà bất hạnh này đang bối rối. Amélia quá xúc động!

Bà Cayman lại bắt đầu sụt sùi.

- Chúng tôi đến đây để gặp anh - người chồng nói - Em của người đàn bà này đã tắt thở trong vòng tay của anh. Amélia muốn được nghe anh kể về những giây phút cuối cùng của người xấu số.

- Điều đó là thường tình, tôi sẵn lòng - Bobby cảm động nói với giọng nói sốt sắng nhiệt tình.

- Alex em ơi! Khốn khổ cho em, Alex ơi! - bà Cayman rên rỉ lấy khăn tay thấm nước mắt.

- Vâng! Thật là đáng thương! - Bobby tỏ vẻ thương cảm, ngả người trên chiếc ghế dựa.

- Anh làm ơn cho chúng tôi biết trước khi em tôi trút hơi thở cuối cùng có nói lại điều gì hoặc có nhắn lại cho chúng tôi điều gì? Chúng tôi rất muốn biết.

- Tôi rất thông cảm, thưa bà, nhưng người bị nạn chẳng nói điều gì cả.

- Như thế có khi lại tốt - Cayman nói chậm rãi vẻ trịnh trọng - Em chúng tôi đã ra đi không đau đớn và chẳng có điều gì bận lòng...

- Anh có cho rằng em tôi không có điều gì đau khổ? - Bà Cayman gặng hỏi Bobby.

- Ồ! Điều ấy tôi có thể khẳng định được với bà.

- Nếu quả là như vậy thì tôi cảm thấy một niềm an ủi lớn. Ôi, Alex bất hạnh của tôi, em tôi đã sớm qua đời khi đầu còn xanh, tuổi còn trẻ. Em tôi rất yêu thích những cuộc du ngoạn ngoài trời...

- Vậy ư?

Bobby hồi tưởng lại gương mặt với mầu đỏ rám nắng và cặp mắt màu xanh da trời của người bị nạn. Alex Pritchard một con người có diện mạo dễ thương. Anh ta là em trai của phu nhân Cayman ư? Của người anh rể lạnh lùng này ư? Bobby thầm nghĩ hai con người ngồi trước mặt anh đây mà qua nhận thức cảm tính của anh chẳng phải là những người đôn hậu đáng tin cậy, thật chắng xứng với Alex.

- Chúng tôi cảm ơn anh vô cùng, anh Jones ạ - Bà Cayman nói với anh.

- Chẳng có gì đâu ạ - Bobby trả lời.

- Chúng tôi sẽ không quên nghĩa cử này - ông Cayman nói thêm.

Bà Cayman đưa bàn tay mềm mại của mình bắt tay Bobby. Hai người khách chào tạm biệt mực sư cha của Bobby. Anh tiễn họ ra cửa.

- À, chàng trai, anh làm nghề gì? Chắc là anh đang nghỉ việc? - Cayman hỏi anh.

- Tôi đang tìm việc làm - Bobby trả lời. Sau một lát im lặng anh nói thêm - trước đây tôi là thủy thủ.

- Thời buổi khó khăn - Cayman gật gật đầu buông lời nhận xét như muốn an ủi Bobby - Chúc chàng trai may mắn!

- Cảm ơn ông.

Bobby nhìn theo những người khách rời đi theo lối mòn rậm rạp và anh đứng lặng nghĩ ngợi: tấm ảnh ấy… tấm ảnh một cô gái mắt to, gương mặt đẹp lồng lộng, tóc mịn màng... rồi mười tám năm sau: Cayman phu nhân hiện nay phấn son lố bịch, tóc nhuộm ôm lấy khuôn mặt phì nộn.. . Thật là ớn! Sự biến đối này chắc đã tiến triển trong suốt quá trình chung sống với Cayman. Có lẽ sống với người chồng khác thì dù cho có già đi chăng nữa, bà ta vẫn còn giữ được những nét cơ bản duyên dáng xưa...

Bobby lắc đầu ngán ngẩm:-

- Đó là mặt xấu của hôn nhân!

- Anh nói gì vậy Bobby?

Bobby chợt ngừng suy nghĩ và nhận ra là Frankie đã đến từ phía sau mà anh không nhìn thấy.

- Chào Frankie!

- Chào Bobby! Anh đáng nói đến cuộc hôn nhân nào vậy?

- Tôi buột miệng than thở về cái qui luật nghiệt ngã cuộc sống trở nên vất vả khi người ta xây dựng gia đình.

- Ai là nạn nhân của cái tai hoạ ấy vậy?

Bobby liền kể chuyện về vợ chồng người chị của Alex, người chết trong tai nạn vừa rồi, nhưng Frankie tỏ ý hoài nghi.

- Chớ có ngây thơ! Người chị của Alex giống hệt như người trong ảnh.

- Cô thấy chị của Alex ở đâu? Vừa rồi cô chẳng cũng đến dự cuộc thẩm vấn ở toà án đó sao?

- Chính vì tôi có đến dự nên mới nhận ra được những điều đáng ngờ trong cái chết của Alex. Tôi chẳng hề đãng trí chút nào trước tấn trò giả dối xảo quyệt mà họ diễn khá tinh vi. Tất nhiên muốn vạch ra được sự xảo quyệt đó phải có đủ chứng cứ và không thể nóng vội. Tôi sẽ không tha những kẻ ác: sẽ điều tra và tố cáo với pháp luật. Thực chất cái tai nạn chết người này là một vụ án hình sự.

- Ôi Frankie, cô quả là một người có năng khiếu thám tử!

- Bạn thân mến của tôi! Anh phát biểu như một giáo sư tâm lý học.

- Nhưng cho dù thế nào, tôi cũng chẳng đồng ý với cô khi cho rằng người phụ nữ trong tấm ảnh là người ác độc.

- Ồ, nhưng nếu có kẻ nào đó giả mạo người trong ảnh thì sao? Hoặc giả kẻ đó hoá trang để giống như người trong ảnh? Anh thử nghĩ về giả thiết của tôi xem sao.

- Nhưng ta chẳng thể đưa ra những nhận định thiếu căn cứ thực tế. Cô đã nhìn thấy tấm ảnh chụp con người giả mạo ấy ở đâu vậy?

- Trong báo "Tiếng vang buổi chiều”.

- Có thể do kỹ thuật in ấn tồi?

- Anh bảo vệ cho con mụ Cayman cứ y như bảo vệ cho người tình của mình vậy. Một con mụ phấn son, bôi vẽ thật ghê tởm! - Frankie giận dữ thốt kêu lên - Anh thật buồn cười!

Họ cùng im lặng một lúc. Rồi thái độ giận dữ của Frankie chợt tan biến:

- Nhưng chúng ta thật kỳ cục. Hãy ngừng tranh cãi về con mụ ghê tởm đó khi mà chưa điều tra được cụ thể. Chúng ta cùng chơi bóng gôn nhé?

- Tuyệt lắm!

Họ cùng ra sân bóng và chỉ một lát sau họ đã chẳng còn nhớ đến chuyện bực mình vừa xảy ra. Vào lúc sắp phát bóng nhằm vào hốc thứ mười một, Bobby bỗng nhiên thốt lên một điều gì đó mà Frankie không nghe rõ.

- Có chuyện gì vậy Bobby?

- Tôi chợt nhớ ra một điều.

- Điều gì?

- Hôm vợ chồng Cayman đến gặp tôi có hỏi là trước khi tắt thở Alex có nói lại điều gì không... Và tôi trả lời họ là anh ta không nói gì cả.

- Vậy thì sao?

- Giờ đây thì tôi nhớ lại là Alex có nói.

- Anh ta đã nói gì?

- Nói rằng: Tại sao không là Evans?

- Câu nói nghe mới lạ lùng làm sao! Chẳng nói lên được điều gì cả.

- Đúng là một câu nói khó hiểu. Anh ta lúc đó chợt mơ mắt rồi dường như cố gắng nói cho tôi nghe rõ câu nói này rồi sau đó tắt thở. Thật là đáng thương!

- Có một điều - Frankie nói - tôi chẳng hiểu nổi tại sao anh lại bận lòng vì một câu nói chẳng làm cho ta hiểu thêm được điều gì cả.

- Đúng là như thế. Tuy nhiên lương tâm tôi sẽ được thanh thản hơn nếu như tôi nói cho họ biết câu nói trên. Cô biết không: tôi đã khẳng định với họ là Alex chẳng nói lời nào trước khi chết.

- Nhưng giờ đây cho dù anh có nói với họ, câu nói trên liệu có mang lại cho họ lợi ích gì? Giả sử là câu nói khác chẳng hạn như: “Hãy nói với Gladys rằng chị chính là chị em ruột của chúng ta" hoặc "Tờ chúc thư để trong tủ văn phòng...” hoặc vài lời trăng trối nào khác tương tự.

- Cô có cho rằng tôi nên viết thư cho họ?

- Tôi thấy chẳng cần thiết.

- Cô nói cũng có lý - Bobbt tán thành lời góp ý của Frankie và anh tập trung vào chơi bóng.

hưng khi về nhà anh vẫn tiếp tục băn khoăn suy nghĩ. Đúng là lời nói của người chết có thể là không có gì quan trọng. Tuy nhiên trong lòng anh vẫn cảm thấy như có lỗi đối với vong linh người đã chết nếu như chẳng nói cho chị anh ta biết câu nói này. Thế rồi tối hôm đó, giống như người bị người khác thôi thúc nhắc nhở, Bobby ngồi xuống bàn làm việc và viết một bức thư cho Cayman như sau:

"Thân gửi ông Cayman,

Tôi vừa nhớ lại rằng em rể ông chỉ nói vài lời trước khi chết. Vài lời đó là. "Tại sao không là Evans?". Xin ông thứ lỗi cho tôi đã không nói với ông ngay sáng nay. Là bởi vì câu nói này tôi cho rằng chẳng có gì là quan trọng nên chẳng nhớ tới nó.

Người đồng hương thành thực của ông.

Robert Jones"

Ngày hôm sau Bobby nhận được thư trả lời của ông Cavman.

“Anh Jones quí mến.

Tôi báo tin đã nhận được thư đề ngày 6 của anh và cảm ơn anh đã nhắc lại một cách thận trọng - cho dù chẳng có gì là hệ trọng - những lời nói cuối cùng của em vợ tôi. Điều mà vợ tôi mong mỏi hơn là Alexandre để lại những tin tức hoặc lời ủy thác. Tuy nhiên chúng tôi xin gửi tới anh sự biết ơn chân thành của chúng tôi.

Người biết ơn anh.

Leo Cayman"

Bobby đánh giả lá thư phúc đáp của Cayman là có ngụ ý mỉa mai và điều ấy làm cho anh mếch lòng.

Chương 6 : Kết thúc chuyến du ngoạn

gày hôm sau, Bobby nhận được một lá thư viết với những lời lẽ chân tình của một người bạn cũ.

"Này anh bạn, mọi việc đã sắp đặt đâu vào đấy. (Badger viết cho Bobby với lời lẽ thân mật giống như ngày nào còn là bạn học của nhau cùng học một trường nơi mà cậu ta đã trau dồi được một trình độ học vấn khá xuất sắc). Hôm qua tớ đã mua được năm cái xe cũ với giá tất cả là mười lăm bảng. Hiện giờ, những cái xe tồi này chưa chạy được, nhưng chúng ta có thể mông má nó để đưa vào sử dụng. Đồ xe chết tiệt ấy mà! Nhưng ôtô là ôtô! Cải tử hoàn sinh cho nó để khách mua về sử dụng không còn những hỏng hóc lớn là chuyện mua bán coi như xong. Tớ tính mở xưởng vào thứ hai ngày tám tới và tớ trông cậy vào cậu. Đừng có để tớ bị "pan" nghe!

Chắc chắn chúng ta sẽ thành công! Ôtô vẫn là ôtô mà, nghề của chúng mình là như thế! Mua vào chẳng bao nhiêu, “mông” lại, “phất' một lượt sơn bóng... rồi “phẩy” đĩ là xong. Mọi việc sẽ thông đồng bén giọt Bob ạ. Chú ý nhé! Thứ hai ngày tám. Tớ trông vào cậu.

Bạn cũ của cậu

Badger"

Bobby báo trước cho cha mình biết ngày thứ hai tới anh đi làm ăn ở Londres. Công việc làm ăn của anh chẳng làm cho mục sư được hài lòng cho lắm. Ông đã nói với Bobby khá nhiều lời, dặn dò cặn kẽ, cảnh báo nhiều điều nào là đừng có ký hợp đồng hoặc cam kết, đừng có nhận trách nhiệm điều hành công việc làm ăn...

Vào ngày thứ sáu cũng trong tuần lễ ấy, Bobby nhận được một lá thư làm cho chính anh cũng phải ngạc nhiên. Nội dung lá thư liên quan đến công việc làm ăn: Một công ty khai thác ở Buenos - Ayres có tên là Henriquez&Dallo muốn tuyển Robert Jones vào làm với mức lương một ngàn bảng Anh một năm. Anh sững sờ tới vài phút trước một sự thực trong như mơ. Một ngàn bảng một năm! Anh đọc lại lá thư một cách chăm chú. Người ta muốn tuyển một cựu thủy thủ (Thư không nói tên người giới thiệu). Trong trường hợp anh nhận làm phải viết thư gửi tới thương điếm của Công ty và chuẩn bị sẵn sàng để sau tám ngày có thể sẵn sàng lên đường đi Buenos - Ayres.

Bobby biểu lộ tình cảm của mình bằng một lời rủa tục tằn.

- Gì thế Bobby?

- Con xin lỗi cha. Con quên mất là đang có cha ở đây. Chả là người ta gọi con đến làm việc ở một công ty với tiền lương một ngàn bảng một năm.

Nghe tin, chính mục sư cũng sững sờ mất một lúc.

- Thật ư con, có phải ta nghe không lầm đấy chứ? Người ta tuyển con đi làm với mức lương một ngàn bảng một năm? Một ngàn bảng?

- Con nói có thực tế, cha ạ.

- Ta chẳng tin! - Mục sư thốt lên.

Bobby không hề mếch lòng về sự hoài nghi của cha mình chẳng cho sự tuyển dụng là thực. Nhưng anh cũng giống như cha mình, luôn có một niềm tự tin vào năng lực của mình. Anh lại đưa cho mục sư lá thư. Ông xem đi, xem lại.

- Thật là đáng kể! Thật là lớn lao! Người Anh chúng ta được người ta coi trọng cũng là xứng đáng. Đó là niềm tự hào chính đáng của chúng ta! Qua việc này chúng ta mới đo được sự đánh giá của các dân tộc khác đối với dân tộc ta. Chẳng phải là ngẫu nhiên mà một công ty ở Nam Mỹ chọn một chàng trai người Anh đã từng qua nhiều thử thách trong Hải quân! Còn ta thì cũng phải giữ gìn đừng phụ tấm lòng của người ta tin cậy vào lòng trung thực của mình.

- Còn hiểu điều đó thưa cha. Nhưng con thắc mắc là có nhiều người Anh có năng lực xin việc mà tại sao họ lại chọn con?

- Có thể là vị thiếu tá chỉ huy đơn vị cũ của con giới thiệu chăng?

- Vâng, có thể là như vậy. Nhưng cho dù ai giới thiệu đi nữa, con lấy làm tiếc là chẳng thể nhận lời...

- Con không thể nhận lời ư? Con từ chối sao, con của ta?

- Con đã nhận lời cộng tác mở xưởng với Badger!

- Badger! Badger Beadon! Con thật là ngu ngốc Bobby ạ! Cái tổ hợp kỳ cục này đã ám ảnh chẳng buông rời con lấy một lúc.

- Với con công việc ấy được coi trọng.

- Beadon là một chàng trai trẻ gàn dở. Anh ta đã làm hao tổn nhiều tiền bạc và gây nên nhiều chuyện buồn cho gia đình. Cái dự định mở xưởng ôtô của các con chăng mở ra một triển vọng nào tốt. Dù chỉ là sự tính toán điên rồ. Đừng nghĩ đến nữa!

- Chẳng sao thay đổi được nữa. Con đã hứa lời.

Sự tranh cãi giữa hai cha con vẫn còn tiếp tục. Mực sư chẳng thể chấp nhận khi thấy con trai mình nhận lời cộng tác với một người mà ông đánh giá là còn khờ dại, Về phía Bobby thì anh không ngừng nói với cha là anh "Chẳng thể để mặc anh bạn Badger bị suy sụp”

Kết thúc lại, mục sự giận dỗi, rời khỏi phòng, còn Bobby thì không còn do dự gì nữa, ngồi vào bàn, viết thư phức đáp cho công ty Henriquez&Dallo khước từ sự tuyển dụng của họ.

Trong lúc ngồi viết thư, anh thỉnh thoảng lại thở dài. Đúng là anh đã bỏ lỡ một cơ hội hiếm có.

* * *

Hôm sau, trên sân chơi bóng gôn, anh kể lại cho cô bạn Frankie nghe mọi tình tiết. Cô chăm chú nghe anh kể.

- Nếu anh nhận lời công ty ấy thì anh sẽ phải đĩ Nam Mỹ?

- Chứ sao?

- Và anh lấy làm thích thú?

- Đi nơi này nơi khác thì cũng thích.

Frankie thở dài:

- Nhưng tôi cho rằng anh đã hành động đúng khi từ chối họ.

- Vì tôi chẳng thể bỏ mặc một người bạn cũ một khi tôi đã nhận lời cộng tác với anh ta.

- Nhưng anh phải hết sức thận trọng, kẻo người bạn của anh lại đẩy anh vào tình cảnh lúng túng.

- Ôi! Trong sự hợp tác này tôi không có vốn để góp vào mà chỉ có tay nghề bởi vậy tôi chẳng lâm phải mối nguy cơ nào cả.

- Như vậy cũng khá là kỳ cục!

- Sao vậy?

- Là bởi vì trong sự lập nghiệp khi mà người ta chẳng đầu tư vốn liếng của mình vào thì người ta được hoàn toàn tự do và vô tư trước sự thành bại. Chứng tỏ bạn anh đã tin tưởng ở anh nhiều lắm, coi anh như người ruột thịt. Như tôi chẳng hạn, được cha tôi tin cậy giao cho điều hành, quản lý mọi thứ. Tôi được giữ tiền bạc, nhà ở, gia nhân, đầy tớ, đồ trang sức quí giá và cả các tài khoản kinh doanh trong các cửa hàng... Được tin cậy giao phó, tôi đã coi mọi tài sản của cha tôi như tài sản của chính tôi vậy.

- Trường hợp của tôi gần giống như thế...

Họ cùng im lặng.

- Ngày mai tôi đi Londres - Frankie báo cho Bobby biết tin khi tính chuẩn bị vụt quả bóng.

- Ngày mai ư? Ồ, tôi có ý định mời cô đến dự bữa tiệc quê mùa ở nhà tôi vào ngày mai.

- Anh mời thì tôi vui vẻ nhận lời ngay nhưng lần này tôi bận việc. Cha tôi cần tôi trong việc quản lý kinh doanh.

- Và cô luôn phải ở gần ông để trông nom giúp đỡ ông sao?

- Tôi quản lý mọi việc nhưng chẳng ở cùng một chỗ với cha tôi. Sự có mặt tôi bên cạnh làm cha tôi bực mình. Cha tôi thích có ở bên cạnh mình những người giúp việc bảo sao nghe vậy và không được cãi lại, cho dù bị mắng mỏ tàn tệ.

Bobby đánh quả bóng văng vào trong một bụi cây.

- Đánh trệch rồi! - Frankie nói - Dịp này cùng ở Londres, chúng ta sẽ cùng đi thăm thành phố. Anh sắp đi Londres chứ?

- Thứ hai tới… nhưng suốt ngày tôi bận sữa chữa máy móc… vậy thì…

- Vậy thì ai ngăn cấm anh đến tôi chơi vào những lúc nghỉ ngơi để cùng với các bạn tôi uống rượu cốc tây và trò chuyện?

Bobby gật đầu đồng ý.

- Frankie này… cô cứ tự nhiên tiếp đón bạn bè của cô. Giới thượng lưu thường khác với tầng lớp lao động chúng tôi!

- Nếu anh muốn, mong anh dẫn cả anh Badger tới, mọi người sẽ lấy làm hân hạnh đón tiếp các anh.

- Badger không hợp với bạn bè của cô đâu.

- Anh ấy có tật nói lắp... tất nhiên cũng trở ngại trong giao tiếp.

- Hãy nghe tôi Frankie, cứ cho tự nhiên đi. Tôi còn ở đây, quan hệ còn lâu dài. Có một số trò vui chơi giải trí tôi chưa quen, thà vắng mặt còn hay hơn là có mặt. Đối với tôi, cô đã luôn tỏ ra rất tử tế, rất đáng yêu. Cảm ơn Frankie. Nhưg tôi thì luôn tự biết mình chẳng sánh được với cô...

- Chừng nào mà anh xoá bỏ được mọi mặc cảm thì anh sẽ chơi bóng hay hơn Bobby ạ. Tôi đã thắng cuộc.

- Ta chơi nữa đi Frankie.

- Thôi cảm ơn. Tôi có nhiều việc phải làm.

Họ im lặng đi bên nhau tới chỗ lều vải nơi mà có đông thành viên của câu lạc bộ đang ngồi nghỉ.

- Chào tạm biệt tất cả các bạn nhé - Frankie cất tiếng chào và bắt tay mọi người - Thời gian về sống ở quê tôi rất hân hạnh được giao tiếp và chơi bóng với mọi người. Chúng ta sẽ có nhiều dịp gặp lại nhau.

- Chào Frankie...

- Xin có lời mời tất cả bà con dành thời gian đến thành phố dự một trong các buổi dạ hội của chúng tôi tổ chức vào tuần tới. Ở đó các bạn sẽ mua được các sản phẩm mỹ nghệ chế biến từ xà cừ với giá khuyến mại.

- Frankie…

Tiếng động cơ của chiếc ôtô Bentley mà Frankie khởi động đã làm cho mọi người chẳng còn nghe rõ những lời cô vừa nói.

Với điệu bộ vẫy tay tạm biệt kiêu hãnh của con nhà quyền quí, cô lái xe rời khỏi sân bóng.

- Chà! - Bobby thốt lên.

Cuộc truyện trò trao đổi tâm tình với Frankie vừa rồi đã làm cho Bobby cảm thấy lòng tự trọng của mình bị xúc phạm. Anh vốn là một thanh niên thật thà: vụng về trong giao tiếp, không hề biết nói những lời dối trá.

* * *

Ba ngày tiếp theo đối với anh sao mà dài thế.

Mục sư bị viêm phế quản và tiếng nói của ông khàn khàn nhỏ nhẹ. Bất lực chẳng khuyên bảo nổi người con trai thứ tư của mình khăng khăng chọn nghề theo ý riêng, mục sư đành giữ thái độ chịu đựng giống như một con chiên ngoan đạo vâng theo ý Chúa.

Thứ bẩy đó, không chịu đựng nổi không khí nặng nề của gia đình, Bobby khẩn khoản đề nghị với bà Robert cùng với chồng chăm lo công việc trong nhà xứ và chuẩn bị giúp cho anh đồ hành lý, bánh săng uých để anh kịp lên đường đi Londres. Vào làng Marchbolt anh mua một chai bia rồi đi bộ ra bến xe.

Trong lúc chờ xe, anh nằm dài trên một sườn dốc dưới bóng những cây dương xỉ và tự hỏi có nên ăn trước rồi nằm nghỉ hoặc ngược lại. Đang phân vân thì mắt anh đã díu lại vì buồn ngủ và anh đã chợp đi lúc nào không biết.

Khi tỉnh tỉnh dậy thì đã ba rưỡi chiều! Anh lấy bánh săng uých ra và ăn ngon lành. Thở mạnh khoan khoái, anh mở nút chai bia để uống. Bia có vị đắng khác thường nhưng mát lạnh vì ướp đá...

Ném mạnh vỏ chai vào bụi rậm, anh lại ngả lưng lên nệm cỏ.

Anh cảm thấy hạnh phúc, lòng đầy tin tưởng, tự hào vì đã vượt qua được mọi thử thách. Những dự định tươi đẹp hiện ra rực rỡ trong óc anh.

Rồi một cơn buồn ngủ tràn tới, anh chẳng sao cưỡng nổi... Anh ngủ lịm đi...

Anh ngủ như chết...

Chương 7 : Bobby thoát chết

ự lái lấy chiếc xe Limuzin lộng lẫy, Frankie dừng xe lại trước một ngôi nhà cổ, mặt nhà rộng, cửa ra vào cao, phần trên có một khoảng trám tường mang biển ghi hai chữ “Saint Asaph" .

Frankie nhảy ra khỏi ghế, quay lại phía sau xe, cầm lấy một bó hoa huệ rồi đi tới trước cửa ra vào bấm chuông. Một nữ y tá mặt đồng phục ra mở cửa.

- Tôi có thể vào thăm anh Jones?

- Cô cho biết tên để tôi báo cho bệnh nhân.

- Cô Frances Derwent.

Nghe đến tên dòng họ quí tộc giầu có trong vùng, người y tá có thái độ tiếp đón lễ độ. Bệnh nhân cũng được ảnh hưởng lây. Frankie được cô ta dẫn đến một phòng trên tầng hai.

- Ông có người nhà đến thăm, ông Jones.

- Ai vậy? - Bobby nhìn ra - Thì ra là Frankie!

- Chào anh Bobby! Tôi mang đến tặng anh một bó hoa...

Người hộ lý xen vào:

- Ôi! Cô nương Frances, bó hoa mới đẹp làm sao! Toàn những bông tươi đẹp! Tôi sẽ cắm ngay vào bình nước.

Người hộ lý ra khỏi phòng.

Frankie ngồi vào chiếc ghế phô - tơi đặt gần đầu giường bệnh nhân.

- Thế nào, Bobby. Chuyện gì đã xảy ra vậy?

- Một hiện tượng không bình thường. Có lẽ trường hợp của tôi là có một không hai. Tám "grain" moóc phin, một lượng thuốc độc quá lớn để giết tôi! Người ta đã nói đến trường hợp bị đầu độc của tôi trong tạp chí y học Mũi trích (La Lancette) và tờ báo J.M.B.

- Báo J. M. B. là gì vậy? - Frankie hỏi.

- J.M.B là viết tắt của Journal Médical Britannique nghĩa là tờ báo Y học Anh quốc.

- Vậy anh cứ tiếp tục kể đi và dùng cụm chữ viết tắt cho ngắn.

- Cô có biết chỉ nửa “grain" moóc phin cũng đã đủ là một lượng thuốc chết người. Lượng thuốc họ đầu độc tôi đủ để làm cho tôi chết nhiều lần. Bị hấp thụ tới tám "grains” moóc phin mà được cứu thoát, quả là một thành tích phi thường. Ở địa phương, đây là lần đầu tiên y tế của mình làm được việc này...

Cô y tá trở lại phòng, đem theo bình cắm hoa mà Frankie đem vào tặng vừa rồi.

- Trường hợp lạ lùng này đã xảy ra đúng như thế phải không cô y tá? - Bobby hỏi lại - Cô chưa từng gặp ca nào giống như ca của tôi chứ?

- Thật là kỳ diệu khi anh còn sống sót - Cô y tá nói.

Bobby ghi nhận công ơn cứu sống của bệnh viện, lòng đầy cảm phục. Ngài mai cả nước Anh nói đến trường hợp bị ngộ độc moóc phin nặng được cứu sống rất kịp thời, chậm trễ thì chẳng sao cứu nổi…

Bobby định kể lại những chi tiết của sự cấp cứu thì Frankie góp ý:

- Thế là đủ... những chuyện rửa ruột để tống chất độc ra khỏi cơ thể anh chẳng làm cho tôi thích thú. Tôi muốn hỏi có phải trước ca bị đầu độc của anh chưa từng có ai bị như thế? Móóc phin đã được hoà vào chai bia anh uống phải không?

- Đúng vậy. Những người qua đường nhìn thấy tôi ngủ rũ ra, mê mệt trên sườn dốc. Họ đã lay tỉnh tôi; nhưng không được. Tìm mọi cách mà chẳng thấy tôi hồi tỉnh, họ liền khênh tôi đến một trang trại gần nhất và gọi bác sĩ... Thoạt đầu người ta cho rằng tôi uống moóc phin để tự sát. Nhưng khi nghe tôi kể lại mọi việc xảy ra, họ liền tìm cái vỏ chai bia vở đã tìm thấy ở bụi cây nơi tôi bị đầu độc. Phân tích lớp cặn dưới đáy chai, đội xét nghiệm kết luận là có moóc phin hoà bên trong.

- Đã khám phá ra moóc phin được bỏ vào chai như thế nào chưa?

- Điều này chưa khám phá ra được. Các thanh tra đã hỏi người chủ quán, nơi tôi mua chai bia, đồng thời cũng đã xét nghiệm một số chai khác nhưng không có gì khả nghi.

- Có thể là kẻ nào đó đã tranh thủ lúc anh ngủ.

- Vâng! Tôi nhớ lại là nhãn hiệu của chai bia đó đã bị bong ra rơi đâu mất.

Frankie gật đầu rồi nói:

- Việc xảy ra này đã chứng tỏ nhận định của tôi về cái chết của người rớt xuống vách đá hôm nào là đúng.

- Cô nói gì?

- Hôm đó tôi nhận định rằng chàng trai tên là Pritchard ấy đã bị đẩy từ mép vách đá xuống vực.

- Căn cứ vào đâu mà cô nhận định như vậy?

- Ồ, anh bạn, những điều xảy ra sờ sờ ngay trước mắt. Tại sao lại có kẻ nào đó âm mưu giết anh? Anh chẳng phải là người được thừa hưởng tài sản gì lớn, cũng chẳng phải là đối tượng tranh chấp của ai.

- Có ai đó đã biết là trong tương lai, người cô của tôi sẽ cho tôi hưởng quyền thừa tự chăng? Nhưng điều đó tôi chưa từng nói với ai bao giờ.

- Điều anh vừa nói chỉ là sự suy diễn chẳng liên quan gì tới cái chết của người gặp nạn mà anh đã chứng kiến... Còn người ta giết anh vì thù oán ư? Hoặc giả anh đã từng hứa hôn với con gái của người bán thuốc chăng?

- Tôi chưa từng hứa hôn với ai cả. Nhưng tại sao cô lại nhắc đến con gái người bán thuốc?

- Vì chỉ một hiệu bán thuốc tây mới có thể có nổi một lượng moóc phin như thế! Anh cũng chẳng có thù oán cá nhân với ai chứ?

Bobby lắc đầu thay cho câu trả lời phủ định.

- Đấy, anh suy ra chưa? - Frankie khẳng định với Bobby một lần nữa ý kiến suy xét của mình - Không rõ cảnh sát đã điều tra ra điều gì mới. Cái tai nạn chết người vừa rồi chính là một vụ án hình sự.

- Cảnh sát vừa có một giả thiết nghi ngờ đó là hành động của một kẻ điên rồ đã đẩy người khách qua đường xuống vực.

- Chẳng có người điên nào mang sẵn moóc phin đi sau anh, chờ dịp anh ngủ; hoà vào chai bia anh uống để thủ tiêu anh. Tôi cho rằng đã có kẻ nào đẩy Pritchard từ mép vách đá xuống vực sâu. Anh xuất hiện một phút sau đó, chứng kiến việc xảy ra. Kẻ giết người lo ngại là anh biết được đều gì đó có thể phanh phui tội ác của nó, nên nó tìm cách thủ tiêu anh.

- Lý lẽ của cô không đứng vững chút nào, Frankie ạ. Vì rằng tôi đã chẳng có chứng cớ nào để ghép tội nó.

- Tất nhiên là thế, nhưng nó nghĩ rằng anh biết.

- Làm gì mà nó chẳng suy ra được là nếu tôi biết thì tôi đã khai ra trong buổi họp thẩm vấn lần đầu ở toà án vừa rồi.

Trước lý lẽ phản bác của Bobby, Frankie suy nghĩ một lát sau đó lại tiếp:

- Có thể nó ngờ vực là anh đã nhìn thấy hoặc biết một điều gì đó mà dưới mắt anh thì chẳng có lợi ích gì cho cuộc điều tra nhưng với nó thì là chìa khóa để mở ra điều bí ẩn. Cách suy luận của tôi có thể là còn mơ hồ, rối rắm nhưng chắc anh rằng hiểu được điều tôi muốn nói?

- Vâng, tôi hiểu được ý cô nhưng chưa đủ chứng cớ buộc nó phải nhận tội.

- Dù thế nào, tôi cũng vẫn kiên định cho rằng có một mối liên quan giữa vụ đầu độc anh và chuyện xảy ra ở vách đá trước đây. Anh luôn phải nhớ rằng anh là nhân chứng thứ nhất.

- Thomas cũng đã chứng kiến với tôi - Bobby nhắc lại - Và chẳng ai có ý định đầu độc ông ta.

- Cứ chờ rồi sẽ thấy! Điều đó cũng sẽ tới một lúc nào đó. Và còn một việc liên quan nữa cũng đã tới mà anh chẳng nhận ra sao?

- Việc gì nữa vậy?

- Việc người ta tuyển anh đi làm vừa rồi. Hãy thật thà thừa nhận với tôi là việc tuyển dụng đó khá là lạ lùng. Cho tới nay tôi chưa từng nghe nói các hãng buôn hoặc công ty khai thác mà lại tuyển dụng người trong số các cựu thuỷ thủ hải quân chẳng có công trạng gì và lại hứa hẹn trả lương cao nữa?

- Đúng là chẳng có công trạng gì!

- À, tôi quên, vừa rồi anh được nêu trong J.M.B để cả nước biết tên tuổi - Frankie nói giọng mỉa mai, và sau đó cô nghiêm túc tiếp - Tôi có thể nói ngắn gọn về ý đồ của tên giết người. Nó cho rằng anh đã nhìn thấy một số điều mà đáng lẽ anh không được nhìn. Tên hoặc những tên tội phạm đã tìm cách loại trừ anh bằng miếng mồi đi làm ở nước ngoài. Nhưng anh đã từ chối, bởi vậy chúng nghĩ đến mọi cách để thủ tiêu anh.

- Bọn chúng đã cực kỳ liều lĩnh. Cô nghĩ sao?

- Ồ! Bọn tội phạm xưa nay chẳng bao giờ chịu giới hạn tội ác của chúng.

- Nhưng này Frankie! Cô muốn tôi với tư cách nhân chứng phải làm gì thêm nữa?

- Đấy, cái khó nằm ở đấy. Nếu anh nhìn thấy ai đó đẩy Pitchard thì anh đã khai trước hội đồng bồi thẩm rồi phải không. Nhưng nếu anh chẳng nhìn thấy quả tang thì anh có thể nhận xét những vết thương tích hoặc những biến dạng trên cơ thể nạn nhân, sự biến dạng của các ngón tay chẳng hạn hoặc một số những dấu hiệu đặc trưng khác?

- Ôi, đầu óc của cô chẳng lúc nào ngừng phán đoán, Frankie ạ! Cảnh sát đã khám nghiệm thi hài người chết, cả tôi cũng vậy và đều xác nhận rằng…

- Tất nhiên! Vậy sự xét đoán của tôi chẳng hoá ra chỉ là những điều phi lý ư? Đây là một vụ án phức tạp!... Nhưng lúc này, tạm thời, tôi chia tay anh nhé. Anh có muốn ngày mai tôi lại đến thăm anh không?

- Ồ! Đó là điều tôi mong mỏi. Chuyện trò với các cô y tá thường là tẻ nhạt. Cô từ Londres trở về đã lâu chưa?

- Nghe tin anh bị nạn, tôi vội về ngay. Có một người bạn là nạn nhân của một vụ đầu độc… Nghe mới ly kỳ làm sao, cứ như tiểu thuyết vậy. Thôi nhé, nhất trí, ngày mai tôi lại tới. Có thể hôn trán anh được chứ?

- Tôi đâu có bệnh truyền nhiễm, Frankie!

- Tôi sẽ đến chăm sóc cho anh, Bobby ạ!

Frankie hôn nhẹ vào trán anh.

- Mai nhé!

Frankie rời đi, lúc người hộ lý đem trà uống vào phòng cho Bobby.

Vừa uống, Bobby vừa nghĩ tới những xét đoán tinh tế và sắc sảo của Frankie. Dù chẳng bằng lòng với những lời nói thẳng nói thật của cô ta, nhưng cuối cùng anh cũng phải thầm phục những giả thiết có căn cứ của bạn mình.

Mắt anh ngắm nhìn bình hoa tươi đẹp. Frankie rời đi, đã để lại cho anh một vài cuốn truyện vụ án trên bàn! Nhưng trước mắt, anh đọc tạp chí "Thời báo hàng tuần” vùng Marchbolt trước.

Chương 8 : Điều bí ẩn về tấm ảnh

-Ồ ! Chào anh bạn! Hôm nay anh có khoẻ không? - Frankie, hôm sau y hẹn, lại đến thăm Bobby.

Bobby biểu lộ một thái độ nôn nóng cao độ:

- Đây là tấm ảnh mà hôm vừa rồi cô nhắc tới. Cô nói với tôi là họ đã sửa lại, nhưng tôi thấy nó hoàn toàn giống bà Cayman.

Anh chỉ vào tấm ảnh khá rõ in trên tờ tạp chí "Thời báo hàng tuần” vùng Marchbolt với đoạn tin vắn: Tấm ảnh tìm thấy trong túi người bị nạn thảm khốc ở vách đã và nhờ có tấm ảnh đó mà người ta tìm được bà Amélia Cayman, chị gái của nạn nhân.

- Đúng thế! Và tôi vẫn giữ ý kiến của tôi là người đàn bà trong tấm ảnh chẳng có gì là hấp dẫn như anh đã chẳng ngớt lời ca ngợi.

- Tôi cũng thấy là như vậy.

- Thế thì tại sao hôm ở toà án về anh nói là...?

- Vì đấy chính là điều chẳng được rõ ràng. Hãy nghe tôi nói, Frankie - và anh nói với giọng nghiêm túc - đó chẳng phải là tấm ảnh mà tôi thấy và để lại trong túi người chết...

Hai người nhìn nhau im lặng chẳng nói điều gì.

Một lát sau Frankie nói:

- Trong trường hợp này thì...

- Hay là có hai tấm ảnh?

- Điều này... cũng chưa chắc lắm...

- Hay là…

Ngừng một lát, Frankie chợt kêu lên:

- Còn người đàn ông ấy! Tên ông ta là gì nhỉ?

- Bassington-ffrench - Bobby trả lời .

Cả hai, người nọ nhìn người kia, cố suy đoán để gỡ rối mớ bòng bong.

- Có thể là Bassington-ffrench không nhỉ - Bobby nói - ngoài tôi là nhân chứng, còn có người đàn ông này có cơ hội nhìn thấy tấm ảnh.

- Hoặc giả, như vừa rồi chúng ta nói, có hai tấm ảnh chăng?

- Giả thiết này cũng khó đứng vững. Giả sử là có hai tấm ảnh đi nữa thì muốn tìm lai lịch nạn nhân, cảnh sát phải căn cứ vào cả hai tấm ảnh đó... chứ chẳng phải là một.

- Xác định xem là mấy tấm ảnh thì cũng dễ thôi, cứ hỏi cảnh sát là biết. Nhưng lúc này tôi muốn nói đến trường hợp chỉ có một tấm ảnh thôi, tấm ảnh mà anh để lại vào túi nạn nhân. Khi anh rời khỏi vực sâu thì tấm ảnh vẫn còn, nhưng khi cảnh sát tới nơi thì nó đã biến mất: người duy nhất có thể thừa cơ đánh tráo tấm ảnh khác, chỉ có thể là Bassington-ffrench. Người đàn ông ấy ra sao Bobby?

Bobbu chau mày cố gợi nhớ lại hình dáng người đàn ông mà anh đã gặp.

- Cũng khó mà tả nổi về con người mà tôi gặp trong thời gian ít ỏi đó. Tiếng nói dễ nghe. Cách cư xử xem ra lịch thiệp. Hình dáng không có nét gì đặc biệt. Ông ta nói với tôi là mới từ nước ngoài về, muốn tìm thuê một ngôi nhà ở vùng này.

- Xác minh việc người ấy tìm nhà để thuê thì chẳng khó chút nào. Hai cơ sở địa chính ở địa phương Wecler và Owen quản lý công việc này ở Marchbolt, ta đến hỏi là biết ngay. Nhưng Bobby này... - Frankie nói với người bạn trai sự xét đoán của mình - Anh có cho rằng trong trường hợp Pritchard bị đẩy từ trên vách đá xuống thì... chính Bassington-ffrench là kẻ phạm tội...

- Không thể như thế được! Một người đáng yêu như thế. Thử xem lại đi Frankie! Căn cứ vào đâu mà cô cho rằng Pritchard đã bị ai đó giết hại?

- Tôi chắc chắn là như thế!

- Thì ngay từ lúc đầu cô đã xét đoán như thế, nhưng đó mới chỉ là giả thiết...

- Còn giờ đây hành động giết người của tên sát nhân đã lộ ra những bằng chứng bắt hắn phải nhận tội: Sự có mặt của anh ở nơi xảy ra tai nạn đã làm cho mưu toan của chúng bị đảo lộn, nếu anh biết cả tấm ảnh trong túi nạn nhân nữa thì mưu gian của chúng càng bị lộ tẩy bởi vậy chúng cần phải loại trừ anh.

- Tôi thấy cách lập luận của cô vẫn còn kẽ hở.

- Kẽ hở nào? Anh là người duy nhất đã nhìn thấy tấm ảnh. Và khi Bassington-ffrench ở lại trông thi hài người chết thay anh thì hắn đã tráo tấm ảnh mà ta thấy trên báo đây.

Nhưng Bobby lắc đầu:

- Tôi nói có kẽ hở tức là không chặt chẽ. Không chặt chẽ ở chỗ: nếu vì sợ lộ tấm ảnh đánh tráo mà phải loại trừ tôi, thì chúng phải làm ngay trước hôm có phiên họp bồi thẩm ở toà. Vì rằng khi nhìn thấy tấm hình in trên tuần báo Marchbolt (cũng là tình cờ tôi bận việc phải đi Londres nên không đọc báo) tất nhiên tôi sẽ kêu lên: Không phải tấm ảnh tôi nhìn thấy! Nhưng tại sao sau khi hội đồng bồi thẩm không hề nhắc tới tấm ảnh và kết luận của phiên toà cũng không có gì là nguy hại đến chúng mà chúng vẫn tiến hành mưu sát tôi?

- Những lời anh nói thật có lí!

- Một điều khác nữa tôi chẳng thể khẳng định hoàn toàn nhưng tôi cho rằng Bassington không hề nghi ngờ gì tôi biết chuyện hắn đánh tráo tấm ảnh. Tôi nhớ lại là chỉ khoảng mười phút sau lúc xảy ra tai nạn, anh ta đã xuất hiện.

- Hắn đã dõi theo anh suốt chăng?

- Chẳng thể như thế được! Nơi vách đá tai nạn chỉ có một chỗ có thể nhìn xuống vực được mà thôi. Vả lại vách đá lởm chởm và ở dưới sâu thì nghiêng dần. Khi Bassington đến tôi nghe thấy tiếng chân anh ta dội từ trên xuống. Cũng có thể lúc đó hắn ta đi dạo quanh gần đấy nhưng chẳng thể nhìn thấy tôi... Điều ấy tôi có thể cam đoan là đúng.

- Vậy thì anh cho rằng hắn không nghĩ là anh biết tấm ảnh.

- Làm sao mà hắn biết được.

- Anh có cho rằng hắn sợ anh chứng kiến hành động giết người của hắn? - Nói đến đây Frankie như chợt nghĩ ra điều phi lí của mình nên cô tự giải đáp tiếp - À, mà không! Nếu anh chứng kiến thì anh đã chẳng để yên… Chúng ta phải suy nghĩ thêm...

- Sự việc diễn biến ra sao nhỉ…?

- Vậy còn có điều gì làm "chúng" lo ngại sau buổi họp hội đồng bồi thẩm.

- Cố nói "chúng" chứ chẳng phải chỉ là "hắn".

- “Chúng" lo là cái chắc. Vợ chồng Cayman là đồng bọn bởi vậy "chúng" lo sợ người ta phát hiện ra sự gian trá của chúng. Chắc chắn là chúng hoạt động theo băng nhóm.

- Lập luận của cô nghe có lý.

Nhưng Bobbv này! Còn một điều nữa…

- Điều gì?

- Pritchard đã nói gì… trước lúc chết? Câu hỏi cuối cùng của anh ta thật là lạ lùng có phải không?

- Tại sao không là Evans? Câu hỏi đã chẳng làm cho ta hiểu được điều gì cả.

- Với anh thì đúng là câu nói chẳng có ý nghĩa gì, nhưng với bọn tội phạm thì có thể tiết lộ một điều gì đó rất là quan trọng đối với chúng. Anh không nói gì với vợ chồng Cayman đấy chứ?

- Có, ngay buổi tối hôm đó tôi viết thư cho họ và nói thêm là câu nói đó thật vô nghĩa.

- Rồi sau đó…?

- Cayman trả lời thư rằng: cũng như tôi nhận định, câu nói chẳng có một ý nghĩa gì đặc biệt nhưng dù sao họ cũng cám ơn tôi đã có lòng tốt viết thư báo cho họ biết. Lời lẽ lá thư ngụ ý chế diễu tôi.

- Và rồi hai ngày sau anh nhận được giấy báo của một công ty nước ngoài mời anh nhận một việc làm ở Nam Mỹ với đống tiền lương hậu hĩnh? Thế rồi việc gì lại xảy ra tiếp? Anh đã từ chối lời đề nghị đó khiến bọn chúng bố trí người theo dõi anh, tranh thủ cơ hội thuận lợi để đầu độc anh.

- Cô cho rằng vợ chồng Cayman cũng nhúng tay vào vụ này?

- Tất nhiên!

- Có thể sơ bộ tóm tắt các việc đã xảy ra như sau: X… nạn nhân đã bị đẩy từ mép vách đá xuống vực bởi B... F… (tôi nói tắt cho tiện). Điều đó chẳng còn nghi ngờ gì nữa. Để đánh lạc cuộc điều tra của cảnh sát, chúng đã tráo tấm ảnh của bà C. thay cho tấm ảnh một người phụ nữ xinh đẹp có trong túi áo người chết. Người phụ nữ ấy là ai?

- Anh chớ có lan man xa đề! - Frankie nghiêm nghị trách bạn.

- Bà C... chờ cho đến lúc cảnh sát phát hiện ra tấm ảnh của mình, liền ra mắt đóng vai người chị khóc sướt mướt của X… người em của bà ta vừa ở các nước thuộc địa về.

- Anh cũng không tin nạn nhân là em bà ta sao?

- Tôi chẳng tin một chút nào. Quan hệ ruột thịt mà họ khai ở toà làm tôi khó chịu và hoài nghi ngay từ lúc đầu. Người đàn bà nhận là chị và có chồng tên là Cayman đó thuộc về một tầng lớp xã hội khác biệt với người chết. Tôi có ấn tượng là người chết thuộc tầng lớp trên...

- Và vợ chồng Cayman thì chỉ là bọn vô lại tầm thường. Mưu toan của chúng nhằm làm lẫn lộn thật giả: người chết là em của bà Cayman, được toà án xác nhận là chết vì tai nạn. Sự gian trá của chúng đã làm rối tung mọi việc.

- “Tại sao không là Evans?” nói lên điều gì nhỉ. Tôi chịu chẳng sao hiểu nổi điều bí ẩn của câu nói đó - Bobby thú nhận với bạn.

- Bởi vì anh chẳng nắm hết mọi diễn biến của những việc xảy ra từ trước nên tất nhiên anh không hiểu được. Nhưng với những tên tội phạm thì câu nói này có một ý nghĩa xác định có nguy cơ phanh phui hành động phạm pháp của chúng. Chúng thừa hiểu là anh không nắm được gì qua câu nói.

- Hai tên khốn kiếp...!

- Có thể như thế… và cũng có thể chúng lo rằng Pritchard còn kịp tiết lộ điều gì khác nữa với anh và rồi tới một lúc nào đó anh suy đoán ra, bởi vậy chúng thấy cần thiết phải loại trừ anh bằng mọi giá.

- Tại sao chúng không đạo biển thêm một "tai nạn” nữa nhỉ?

- Chúng làm sao mà thực hiện nổi hai "tai nạn” trong cùng một tuần lễ. Cảnh sát rất dễ suy đoán mối liên quan giữa hai vụ và sẽ lục lại vụ đầu tiên. Càng đi sâu vào vụ án càng thấy bọn tội phạm cực kỳ liều lĩnh và nham hiểm.

- Cô có cho rằng chẳng phải là dễ dàng gì để có một lượng moóc phin như lượng thuốc chúng đã sử dụng?

- Đúng thế, để có một lượng moóc phin như vậy, phải có đơn của bác sỹ, và phải ký vào sổ sách của một cửa hàng thuốc. Rõ ràng đây cũng là một dấu hiệu phạm thêm một tội khác, không chừng tên tội phạm đã có thể tự cấp chất ma túy.

- Một thầy thuốc, một y tá bệnh viện hay là một chủ hiệu thuốc tây?

- Theo nhận xét của riêng tôi, chúng có thể cấu kết hoặc chính chúng là những tên buôn bán chất ma túy. Cứ xem như việc chúng mưu sát anh mới thấy thủ đoạn giết người của chúng tin vi biết chừng nào. Chẳng ai khám phá ra nổi động cơ nào khiến chúng giết anh, có lẽ cả cảnh sát cũng khó mà điều tra ra.

- Có lẽ cảnh sát sẽ qui cho một thằng điên nào đó định giết tôi. Và việc mưu sát tôi không thành thì...

Bobby cười ròn rã.

- Anh cười gì vậy?

- Tôi cho rằng bọn chúng tức đến chết mất. Cô thử nghĩ xem: lãng phí một lượng moóc phin đủ để giết năm, sáu người... để giết mình tôi cho nhanh, vậy mà tôi cứ sống tốt, lại mạnh khoẻ là khác!... Giờ đây chúng ta phải làm gì nhỉ?

- Trước hết phải xác minh thật chính xác xem là một hay hai tấm ảnh. Mặt khác tìm hỏi kĩ lai lịch của Bassington-ffrench. Việc hắn tìm mua nhà có chính xác hay không?

- Nếu B... F... không có điều gì đáng ngờ, không có quan hệ gì với người bị nạn và có lý do rõ ràng khi về cư trú ở vùng này thì cũng phải xem kỹ cái lý do đó có phải là cái cớ giả tạo mà hắn viện ra để che đậy những mục đích khác của hắn. Nhưng chưa điều tra kỹ, ta chẳng nên sớm quy cho sự xuất hiện của "một người nước ngoài đáng nghi có mặt ở trong vùng gần nơi xảy ra tai nạn". Tôi cho rằng Bassington-ffrench là tên thật của hắn và có lẽ anh ta chẳng dính dáng gì đến vụ án.

- Anh nói có lý, ta chẳng nên sớm giả thiết về mối quan hệ giữa Bassington-ffrench và Alex Pritchard… chừng nào mà ta chưa rõ về lai lịch người chết…

- À nếu chúng ta biết rõ lai lịch người chết thì lại khác.

- Và điều mắc mứu khó khăn nhất là làm sao biết được lai lịch người chết... từ đó mới có thể hiểu rõ vợ chồng Cayman mạo nhận là người thân của nạn nhân nhằm mục đích gì. Cho in ảnh giả mạo lên báo chí, bọn chúng quả thật là liều lĩnh.

- Chắc bọn chúng nắm vững là ngoài người chết ra chẳng có ai phát hiện nổi sự mạo nhậ này.

- Bởi vậy ta suy ra một điều nữa là nạn nhân phải là một người mà cho dù có chết hay mất tích cũng chẳng ai quan tâm đến. Chắc chắn là anh ta chẳng có gia đình, nếu không thì vợ anh ta hoặc người thân phải đến trình báo với cảnh sát về sự mất tích của anh ta.

- Giỏi lắm Frankie! Người đàn ông đó sống ở nước ngoài, trong một xứ thuộc địa. Lớp da sạm nắng của anh ta làm tôi nghĩ tới các nhà khai khẩn ở các vùng đất mới. Hình như anh ta chẳng có họ hàng thân thích ở trong nước.

- Sự suy đoán của chúng ta cứ sáng rõ dần. Tôi hy vọng là mọi giả thiết của chúng ta về cơ bản chẳng đến nỗi có sai lầm gì lớn... Giờ đây tôi nghĩ rằng chúng ta cần tiến hành làm ba việc cần thiết.

- Tôi nghe đây!

- Thứ nhất anh phải tự đề phòng. Chúng mưu giết anh chưa được, chắc chắn chúng còn tiếp diễn, anh là miếng mồi ngon của chúng

- Cảm ơn Frankie! Lần này tôi đã gặp may mắn thoát chết, còn tiếp theo... Không, tôi chẳng chịu phơi mình cho chúng giết tôi đâu.

- Tôi cũng tin như vậy. Thời đại chúng ta, bọn tội phạm chẳng còn tính người!

- Cô cứ tiếp tục đi, công việc thứ hai?

- Là tìm lời đáp cho câu nói bí ẩn của người chết: Tại sao không là Evans? Chúng ta phải tìm hiểu cho bằng được ai là Evans. Vì rằng có thể là nạn nhận chỉ đến vùng này để tìm gặp người có tên Evans. Anh có cho rằng có một Evans nào đó ở vùng ta?

- Hàng trăm... có vô số Evans… và đó chính là khó khăn.

- Khi chúng ta đi sâu vào cuộc điều tra, chúng ta sẽ tìm ra phương án thích hợp. Tôi nói luôn công việc thứ ba: đó là phải biết rõ về Bassington-ffrench. Muốn biết, ta phải căn cứ vào danh bạ các dòng họ. Tôi sẽ hỏi thêm cha tôi về việc này. Cha tôi biết hết về những gia đình bề thế trong vùng.

- Tôi tán thành các ý kiến của cô, và ta sẽ tiến hành làm không chậm trễ. Tôi chẳng muốn để yên những kẻ đã đầu độc tôi một cách cực kỳ dã man, bắt tôi phải trải qua những phút chịu đựng như khổ hình khi bệnh viện bơm nước vào để tẩy rửa ruột cho tôi.

- Thôi khỏi phải nói, Bobby. Việc đã qua rồi, nhắc lại chỉ thêm rầu lòng.

Chương 9: Mr.Bassington-French

hông để mất thời gian, Frankie bắt tay vào việc. Ngay buổi tối hôm đó, cô gái hỏi cha mình:

- Ba này, ba có biết dòng họ Bassington-ffrench?

Huân tước Marchington đang chăm chú đọc một tờ báo chính trị nên nghe lầm câu hỏi:

- Washington? A, bọn quỉ Mỹ ấy ư. Lũ khỉ đột bày ra lắm hội nghị… lãng phí thời gian và tiền bạc.

- Gia đình Bassington-ffrench - Frankie cải chính lại - có phải từ Yorkshire đến lập nghiệp ở vùng này phải không ba?

- Không phải từ Yorkshire mà từ Hampshire. Có một dòng họ gốc Anh và một dòng họ gốc Ailen.

- Dòng họ nào là bạn của ba?

- Cũng gọi là quen biết thôi.

- Họ có giầu không ba?

- Bassington-ffrench ư? Ba cũng không rõ lắm. Dòng họ từ Shropshire thì sa sút. Một người trong họ ấy cưới một người vợ gốc Mỹ khá giàu có.

- Một trong hai người ấy ba có gặp gần đây?... Họ tìm kiếm một ngôi nhà ở vùng này?

- Ý kiến khá ngộ nghĩnh! Mua một ngôi nhà trong xó núi này ư?

“Điều này có thực" - Frankie nghĩ thầm.

Ngày hôm sau, Frankie đấn văn phòng ty địa chính. Các ông Wecler và Owen là hai viên chức hiểu rõ mọi diễn biến về việc mua bán nhà đất ở trong vùng.

Ông Owen đích thân đứng lên ra đón Frankie.

- Có có việc gì đến đây vậy cô nương? Cô không có ý định bán lâu đài đấy chứ? Hà! Hà!

Sau câu nói khôi hài, ông Owen bật lên cười ròn rã.

- Tôi có một người bạn tên là Bassington-ffrench, ông ta muốn tìm một ngôi nhà?

- À vâng! Tôi nhớ rồi, tên ông ta viết với hai chứ ff liền nhau chứ gì?

- Đúng thế.

- Ông ta có đề nghị tôi cung cấp một số điều chỉ dẫn về thủ tục mua những mảnh đất nhỏ. Ông ta trở lại Londres vào sáng mai. Tôi mới hướng dẫn cặn kẽ cho ông ta không lâu, nhưng dường như việc mua đất của ông ta chẳng cần kíp lắm. Các lần ông ta đến tôi đều cung cấp cho những chi tiết về từng ngôi nhà, nhưng chưa thấy ông ta trả lời.

- Ông viết thư cho ông ta về Londres... hay ngay ở vùng quê này?

- Cô chờ tôi một lát… Frank! - ông gọi một viên chức cùng phòng lên và hỏi địa chỉ của Bassington-ffrench.

- Ngài Roger Bassington-ffrench, ở Merroway Court, Staverley Hants - viên thư ký đọc chậm rãi.

- À! Chẳng phải Bassington-ffrench mà tôi quen, có lẽ là người anh họ của ông ta chăng. Tôi lấy làm lạ là ông ta đến đây mà chẳng tới thăm tôi. Ông ta mới đến văn phòng hôm thứ tư vừa rồi phải không?

- Vâng, đúng vào lúc sáu rưỡi tối, giờ đóng cửa văn phòng. Tôi nhớ lại là đúng vào cái hôm mà ở vùng ta xảy ra tai nạn ngã chết người ở vách đá. Một người đàn ông ngã lăn xuống vực và sau đó chính là ông Bassington-ffrench qua đó, đã sẵn lòng trông xác nạn nhân cho đến lúc cảnh sát đến. Tôi nhớ là khi vào văn phòng, ông ta có dáng vẻ bối rối...

- Chắc là có điều gì đó xảy đến với ông ta…!

Frankie ra khỏi văn phòng địa chính, đầu óc như đang mải nghĩ điều gì. Cô nghĩ đến những lời của Bobby nói với mình về Bassington-ffrench, về những hành động của ông ta, về địa chỉ, mục đích ông ta từ Londres về để thuê nhà, cả mấy điều đó đều là sự thực cả, vậy phải chăng sự có mặt của anh ta sau lúc xảy ra tai nạn cũng chỉ là tình cờ… và như vậy liệu Bassington-ffrench có vó tội không?

Frankie tiếp tục suy nghĩ mãi... Nhưng... một người đi mua nhà thông thường phải đến vào giờ làm việc, vậy mà đến sở địa chính vào lúc chập tối, vào giờ đóng cửa, anh ta thật chẳng bình thường chút nào; đã vậy ngay sáng hôm sau anh ta lại về Londres ngay. Tại sao phải gấp gáp thế nhỉ? Đã đủ kết luận chưa nhỉ... ?

Chẳng còn nghi ngờ gì nữa: Bassington-ffrench là tội phạm.

Sau đó Frankie đi thẳng tới sở cảnh sát. Thanh tra Williams vốn là chỗ quen biết cũ với cô. Người thanh tra cảnh sát này đã từng phá vụ án một cô hầu phòng mang căn cước giả lấy cắp một số nữ trang của Frankie rồi trốn khỏi lâu đài. Thanh tra Williams đã điều tra ra, bắt lại được người đầy tớ gái lưu manh, thu hồi lại tài sản cho lâu đài.

- Chào thanh tra.

- Chào tiểu thư. Tôi hi vọng chẳng xảy ra chuyện gì xấu trong lâu đài?

- Chưa xảy ra chuyện gì cả, thưa thanh tra. Nhưng tôi muốn hỏi thành tra một vài câu hỏi cũng chỉ do tò mò mà thôi.

- Tôi sẵn lòng, cô Frances ạ.

- Người đàn ông ngã ở vách đá tên là... Pritchard... có phải không thanh tra?

- Pritchard, đúng đấy!

- Anh ta mang theo trong người một tấm ảnh có phải không? Có người nói với tôi là anh ta có tới ba tấm ảnh?

- Chỉ có một tấm thôi - thanh tra trả lời - Đó là tấm ảnh của người chị gái. Bà ta đã đến tận nơi nhận dạng người em.

- Thật là ngoa ngoắt khi nói anh ta có tới ba tấm ảnh.

- Điều đó thường luôn xảy ra. Cô chẳng lạ gì các nhà báo thường hay phóng đại và do đó họ làm rối tung mọi việc.

- Tôi còn nghe dư luận đồn đại nhiều điều không thật - Frankie ngừng một lát rồi bịa ra theo trí tưởng tượng của mình - Một số nói rằng trong túi anh ta đầy những truyền đơn, một số khác thì nói đầy chất ma túy, rồi còn có người thuật lại là có nhiều tập tiền gửi…

Thanh tra Williams bật cười.

- Chẳng có gì nhiều lắm trong túi anh ta. Một khăn tay, một bao thuốc, hai tờ giấy bạc, không có ví tiền, chẳng có thư từ. Cũng còn may nhờ có một tấm ảnh ở trong túi anh ta mà cảnh sát chúng tôi tìm ra được người thân anh ấy.

Frankie lái câu chuyện sang hướng khác.

- Hôm qua tôi có gặp anh Jones, con trai mục sư. Anh ta vừa bị đầu độc. Chuyện cũng lạ đấy chứ, thanh tra?

- Kể cũng lạ. Chưa từng nghe chuyện như thế. Cứ như đùa vậy. Một chàng trai hiền lành chẳng gây thù chuốc oán với ai bao giờ.

- Hiện tượng này khiến tôi nghĩ tới có ai đó đã mưu toan giết anh ta… vì anh ta là bạn tôi, tôi rất quan tâm đến chuyện này - Frankie trình bày với thanh tra, mắt cô long lanh đầy vẻ hiếu kì.

Thanh tra Williams cảm thấy hoan hỉ. Anh rất lấy làm hãnh diện gặp gỡ, chuyện trò thân mật với con gái một vị hầu tước trong vùng.

- Vào cái hôm mà Jones bị đầu độc, cảnh sát chúng tôi được báo có một chiếc ôtô Tallbot màu xanh sẫm đỗ ở gần chỗ nạn nhân rất khả nghi. Một khách hàng ăn ở quán ăn còn ghi được số xe GG 8282 khi nó chạy về hướng Saint - Botolph.

- Và thanh tra cho rằng…

- Đó là số xe ôtô của Đức Giám mục Saint-Botolph.

Frankie chẳng nhịn được cười:

- Và thanh tra cũng nghi ngờ cả Đức giám mục?

- Sau khi tiến hành điều tra thì suốt cả buổi chiều hôm đó xe của Đức giám mục chẳng rời khỏi ga-ra.

- Vậy chắc là số giả?

- Đúng như thế, điều này là chắc chắn.

Frankie chia tay với thanh tra Williams ra về. Trên xe cô tự nghĩ: "Xe Tallbots màu xanh sẫm thì đầy rẫy trên các đường phố nước Anh".

Về tới nhà cô đến thẳng thư viện, mượn một số cuốn niên bạ vùng Marchbolt rồi mang vào phòng của mình, mở ra tra cứu hàng tiếng liền. Kết quả của sự tra cứu đã làm cho cô chưng hửng. Có tới bốn trăm tám mươi hai Evans ở trong quận!

- Chà!

Cô ngồi yên lặng sắp đặt những dự định sắp tới.

Chương 10: Sự chuẩn bị cho một tai nạn

ột tuần sau, Bobby đến Londres hợp tác với Badger mở xưởng sửa chữa ôtô. Anh nhận được nhiều thư của Frankie viết bằng thứ chữ khó đọc như đánh đố, nhiều chỗ phải đoán mãi mới hiểu nổi. Nói chung, trên những nét lớn ở thư của cô bạn gái là vẫn tiếp tục điều tra bọn tội phạm theo như kế hoạch mà hai người đã nhất trí. Anh luôn luôn sẵn lòng làm theo mọi sự điều khiển của cô và như vậy là hợp với hoàn cảnh của anh, vì hàng ngày anh bận bịu sửa chữa máy móc chẳng có nổi lấy vài phút rỗi rãi. Từ ngày mở xưởng, Badger đã làm rối tung công việc khiến cho xưởng lâm vào tình cảnh lúng túng và bê bối khó mà tưởng tượng nổi. Bằng cái đầu tháo vát và đôi tay khéo léo của mình, Bobby đã giúp bạn đưa mọi việc trở lại ổn định.

Từ sau lần bị chết hụt, Bobby đã hết sức cảnh giác. Được cứu sống khỏi sự đầu độc bằng 8 grains moóc phin, anh đã trở nên thận trọng trước khi ăn uống bất kỳ loại thực phẩm nào. Cũng từ ngày đó anh luôn mang theo trong mình một khẩu súng lục tùy thân mặc dù anh bị vướng víu nhiều vì nó.

Anh đang miên man hồi tưởng, coi cuộc phiêu lưu mà anh vừa trải qua như một cơn ác mộng kỳ quặc thì chợt chiếc xe Bentley của Frankie xuống khỏi dốc Mews, rú ga đi tới trước xưởng của anh rồi dừng lại. Bobby, trong bộ quần áo dính đầy dầu mỡ, chạy ra đón người bạn gái của mình. Frankie cầm lái và một người đàn ông có bộ mặt đưa đám ngồi cạnh cô.

- Chào Bobbv! Tôi giới thiệu với anh đây là bác sĩ George Arbuthnot. Chúng ta cần bác sĩ giúp một số việc.

Bobby thoáng một chút ngạc nhiên, đến chào bác sĩ Arbuthnot.

- Cô cho rằng chúng ta cần đến sự có mặt của một thầy thuốc sao? - Anh quay sang hỏi Frankie - Cô lo lắng cho sức khoẻ của tôi sao?

- Chẳng phải là tôi đưa bác sĩ đến để khám bệnh cho anh đâu. Bác sự giúp chúng ta thực hiện một kế hoạch nhỏ do tôi dựng nên. Anh có thể bố trí một chỗ nào riêng biệt để chúng ta bàn bạc một chút?

Bobby nhìn quanh xưởng với con mắt cảnh giác.

- Có lẽ chỉ vào trong phòng tôi là kín đáo.

- Được lắm!

Cô gái nhảy ra khỏi xe, theo sau là George Arbuthnot đi theo Bobby. Họ leo theo một cầu thang và bước vào một căn phòng nhỏ.

- Tôi chẳng biết nên mời các vị ngồi đâu cho tiện - Bobby nói, khi nhìn vào chiếc ghế nhựa duy nhất đang xếp mấy thứ đồ đạc lổng chổng bên cạnh tủ quần áo của anh.

- Chúng ta ngồi xuống giường - Frankie nói. Cô ngồi xuống trước và Arbuthnot ngồi theo.

- Kế hoạch điều tra của tôi ở quê đã xong - Frankie báo tin - Tôi tiếp tục điều tra vùng lân cận. Nhưng trước hết phải có một xe ôtô. Một trong những chiếc xe của anh sẽ được dùng đến.

- Cô có ý định mua một chiếc xe ôtô ở đây sao?

- Vâng.

- Còn chiếc Bentley của cô?

- Nó sẽ được dùng vào một việc mà tôi muốn làm.

- Việc gì vậy?

- Làm nó rời ra thành nhiều mảnh.

Bobby sửng sốt lầu bầu.

Lần đầu tiên, George Arbuthnot cất tiếng nói, giọng nói sâu sắc, có vẻ không được vui:

- Nói một cách khác, cô ta sắp có một tai nạn.

- Làm sao mà biết trước được?

Bực tức, Frankie thở dài:

- Xin lỗi Bobby, tôi không trình bày thẳng vào vấn đề nên có sự hiểu lầm. Tôi hiểu là anh vốn thật thà trung thực không ưa nghe lối nói bóng bẩy vòng vo, vậy anh chú ý nghe kế hoạch của tôi nhé.

Frankie ngừng một lát rồi tiếp tục:

- Tôi sẽ lái xe trên con đường nhỏ dẫn tới biệt thự của Bassington-ffrench…

- Rồi sao?

- Bassigton-ffrench... Bassington-ffrench ở Merroway Court, làng Staverley vùng Hampshire. Họ có hai anh em. Merroway Court là đất của vợ chồng người anh. Roger Bassington-ffrench là em, tạm trú ở nhà người anh và đang tìm mua nhà riêng...

Muốn điều tra Roger Bassington-ffrench, người mà ta nghi là tội phạm, thì tôi hoặc anh phải tìm cách nào lọt vào được bên trong lâu đài. Tôi đã đến tận nơi ngắm nhà ở của họ Staverley, là một làng nhỏ. Những người lạ mặt đến hoặc ở lại lâu trong làng sẽ bị người địa phương chú ý đến ngay, và bọn tội phạm cũng lập tức đề phòng và đối phó. Bởii vậy ta phải tìm cách tránh bằng mọi giá. Tôi trình bày thẳng vào phương án của tôi: Tiểu thư Frances Derwent tự lái chiếc xe của mình với sự táo bạo chưa từng thấy và xe của cô sẽ húc vào tường trên có lưới sắt của lâu đài Merroway Court. Xe hỏng nặng và tiểu thư Frances bị thương sẽ được khiêng vào lâu đài. Không thấy cô bị thương bên ngoài như dập gẫy xương hoặc chảy máu mà chỉ thấy kêu đau đớn bên trong và chẳng thể khiêng chuyển cô về ngay lâu đài của cô được.

- Ai sẽ khẳng định điều này?

- George. Bởi giờ thì anh đã hiểu ra vai trò của bác sỹ George trong màn kịch này. Chúng ta chẳng thể sơ hở gọi bất kỳ một thầy thuốc nào khác vì như thế sẽ có nguy cơ, chẳng hạn ông ta phán là bị thương nhẹ không sao cả, hoặc một người bình thường nào đó nhiệt tình cứ đòi đưa tôi đến bệnh viện gần nhất... như vậy thì hỏng việc. Không! Phải trình tự làm theo đúng như đã dàn dựng: George tình cờ lái xe qua, tất nhiên là xe ôtô (chính là chiếc xe mà chúng tôi mua của các anh). Chứng kiến tai nạn, George ra khỏi xe ôtô và khẩn trương: "Tôi là thầy thuốc. Mọi người hãy lùi lại sau để tôi khám cho nạn nhân!" (Giả định tình huống có đông người ở xung quanh). Thế rồi nạn nhân được chuyển gấp vào trong lâu đài có tên gọi là gì nhỉ? Merroway Court! Tốt! “Tôi phải khám ngay những chấn thương bên trong cơ thể của tiểu thư…” Họ có thể đưa tôi vào một căn phòng có đủ tiện nghi. Gia đình Bassington-ffrench có thể biểu thị thái độ nhiệt tình, nhưng cũng có thể thờ ơ lạnh nhạt. George sẽ tùy theo thái độ của họ mà ứng xử thuyết phục. Trước hết thầy thuốc khám và tất nhiên phải nói là may mà không gãy xương và chảy máu nhưng... nạn nhân có những chấn thương bên trong rất nguy hiểm. Bác sĩ George phải viện dẫn ra một lý do chuyên môn nào đó buộc tôi phải nằm yên bất động khoảng hai hay ba ngày (để tôi có đủ thời gian làm quen và tranh thủ thiện cảm của những người trong gia đình Bassington) và khi George khám xong, sơ cứu, và cho đơn mua thuốc. Trước khi cáo từ ra về, George căn dặn lại một lần nữa thời gian kiêng cữ để tôi sẽ có cách thu xếp bù đắp lòng tốt của gia chủ.

- Thế còn tôi? Tôi sẽ đóng vai trò gì?

- Anh chẳng thể có mặt được ở màn kịch đó.

- Lẽ nào tôi lại đứng ngoài cuộc?

- Ồ, anh bạn quí mến! Đừng có quên là Bassington-ffrench biết anh. Còn tôi họ chưa gặp bao giờ, và khi biết tôi là con gái hầu tước có danh giá trong vùng thì chắc là họ chẳng nghi ngờ và có thể còn đối xử tốt là khác. George lại là một bác sỹ thực thụ trong vùng, đích thân khám cho tôi, bởi vậy cái tai nạn này cũng sẽ chẳng thể không tin là thực.

- Ồ, cô nói nghe có lý lắm - Bobby nhận xét.

- Còn tôi thì rất hài lòng về sự bàn bạc của chúng ta đã thông qua được phương án điều tra tội phạm một cách thấu đáo.

- Vậy còn tôi chẳng đóng một vai trò nào ư?

- Có chứ anh bạn. Muốn tham gia. anh phải để cho râu của anh mọc lên. Mất bao lâu thì râu anh mọc tốt?

- Hai hoặc ba tuần, hình như thế.

- Trời! Tôi chẳng thể ngờ là phải đợi lâu như thế!

- Tại sao chẳng để tôi đeo một bộ râu giả vào?

- Họ sẽ nhận ra ngay sự giả mạo. Nhưng hãy thử xem... hình như có một cách cấy râu giả từng sợi một vào ria có thể che nổi những cặp mắt tinh đời nhất. Ta sẽ tìm đến một thợ làm râu tóc giả của nhà hát kịch.

- Anh ta sẽ nghĩ là tôi trốn tránh cảnh sát mất?

- Mặc cho anh ta nghĩ gì thì nghĩ...!

- Làm được râu rồi tôi sẽ làm gì tiếp?

- Anh sẽ khoác bộ quần áo của tài xế và lái chiếc Bentley đến Staverley.

- Ồ! Được lắm!

Gương mặt của Bobby tươi hẳn lên.

- Bây giờ anh nắm được rồi chứ? - Frankie nói - Chẳng ai chú ý nhiều đến anh tài xế làm gì. Bassington-ffrench có nhìn thấy anh thì cũng chỉ một loáng thôi, chú ỷ ngắm nghía anh làm gì, vả lại hắn đang bận đầu óc về tấm ảnh mà. Tôi còn cho rằng kể cả khi hắn gặp anh trong bộ quần áo tài xế, không đeo râu nữa, hắn cũng chưa chắc đã nhận ra. Tuy nhiên, với bộ râu ngụy trang, anh sẽ an toàn tuyệt đối. Anh nghĩ sao về ý kiến của tôi?

- Ôi Frankie, tôi chẳng còn nhận ra một kẽ hở nào trong kế hoạch của cô!

- Vậy thì! Chúng ta hãy ra chọn xe đi. Bobby, xin lỗi George, cái giường ọp ẹp của anh xiêu rồi đây này!

- Kệ nó!

Họ cùng xuống ga ra, nơi mà một người đàn ông trẻ mừng đón họ rối rít. Nét mặt anh ta trông cũng khả ái chỉ có điều là đôi mắt luôn có xu thế nhìn chếch đi những hướng khác chứ chẳng nhìn thẳng vào mắt những người mà anh ta đang giao tiếp.

- Badger này! - Bobby nói - anh còn nhớ Frankie không?

Tất nhiên, Badger chẳng còn nhớ gì nhiều những kỷ niệm đã xa nhưng anh reo lên bằng giọng nói lắp đáng yêu của mình:

- À! À! À! Vâng…

- Lần cuối tôi gặp anh hồi ấy - Frankie gợi nhớ lại - anh ngã dúi đầu vào bùn và chúng tôi phải cầm chân anh để kéo anh lên.

- A!... A!... Không thể như vậy… Nếu có thì ở Galles kia...

- Đúng rồi.

- Frankie muốn mua một chiếc xe tồi - Bobby báo tin.

- Anh George đây cũng cần một chiếc nữa - Frankie đính chính ngay, không muốn Bobby tiết lộ với Badger cái kế hoạch mà họ cần giữ bí mật.

- Vâng... xin mời... mọi người đến... đến xem xe của... của chúng tôi.

- Chúng rất đẹp! - Frankie kêu lên trước những chiếc xe màu đỏ chói và màu xanh lá cây.

- Đây là... chiếc Chrysler... mới được... sửa lại - Badger nói.

Bobby nói ngay:

- Không. Frankie chỉ cần một chiếc xe đi khoảng sáu mươi ki lô mét một giờ trở lại thôi.

Badget nhìn người cộng tác với vẻ trách móc.

- Chiếc Standard này chữa xong nhưng chưa đi thử - Badger giải thích - Còn chiếc Essex này cũng rất tốt, nó có thể đi một lèo ba trăm kilômét.

- Được, tôi lấy chiếc Standard.

Badger kéo người cộng tác ra chỗ vắng.

- Giá... giá bao nhiêu? Tớ... tớ không thể lấy... lấy đắt bạn của cậu được. Mười... mười li-vrơ được không?

- Đồng ý mười li-vrơ - Frankie can thiệp vào cuộc thảo luận - Tôi sẽ trả tiền ngay.

- Bằng gì? - Badger thì thào.

Bobby giải thích cho bạn rõ.

- Lần... lần đầu tiên tớ… tớ thấy một vị khách có... có nhã ý trả... trả bằng tiền mặt.

Đến lượt George Arbuthnot chọn xe.

Đợi Frankie thanh toán tiền xong, Bobby đưa hai người ra chiếc xe Bentley và hỏi:

- Bao giờ thì vụ tai nạn ấy xảy ra?

- Càng sớm càng tốt. Chiều mai.

- Nếu tôi mang râu giả thì tôi tham gia được chứ.

Frankie nhún vai.

- Không được đâu! Để cho bộ râu giả ấy tụt xuống đúng lúc... làm hỏng hết mọi việc sao? Nếu anh muốn tới thì phải cải trang thành một người đi xe môtô... với một cái mũ bảo hộ kính to chụp vào đầu... Anh nghĩ sao George?

Lần thứ hai George Arbuthnot nói, cũng vẫn với cái giọng buồn buồn ấy:

- Tuyệt lắm! Mưu mẹo của cô thì hết chê, chỉ phải một nỗi là lúc nào cũng tếu được!

Chương 11: Tai nạn

uộc gặp gỡ của họ đã được hẹn trước ở nơi con đường lớn rẽ đôi và có một nhánh rẽ vào làng Staverley.

Cả ba đến đúng giờ mặc dù chiếc Standard của Frankie, mỗi khi leo dốc, có những dấu hiệu trục trặc do máy móc đã bước sang thời kỳ suy tàn.

Giờ hẹn cũng đã được chọn trước là đúng một giờ.

- Chúng ta chọn giờ này vì đó là giờ ăn trưa, con đường thường vắng vẻ và chúng ta sẽ khỏi bị ai quấy rầy - Frankie nhắc nhở các bạn của mình.

Họ rời con đường lớn và tới chỗ rẽ sang nhánh đường dẫn tới lâu đài Merroway. Khi đã chạy được năm trăm mét, Frankie chỉ cho họ địa điểm mà cô chọn làm nơi mà tai nạn sẽ diễn ra.

- Theo ý kiến tôi chỗ này là hơn cả. Dốc chạy thẳng và như mọi người thấy, con đường quặt đột ngột đúng ngay chỗ mà bức tường chặn ngang. Bức tường đó thuộc về lâu đài Merroway. Nếu chúng ta để xe trổ dốc từ đây, nó sẽ va vào tường và cho ta một pha tai nạn tuyệt đẹp!

- Tôi tán thành ý kiến của cô - Bobby nói - nhưng cần phải có người xuống tận chỗ quặt để đảm bảo là không có một chiếc xe nào khác đang chạy theo hướng ngược lại chiếc xe đang trổ dốc.

- Đúng lắm. George sẽ lái xe vào gần tới làng rồi quành lại. Khi nào anh ta vẫy khăn tay ra hiệu, chúng ta hiểu là đường thông suốt.

- Sao trông cô tái mặt đi như thế Frankie - Bobby lo lắng hỏi .

- Yên tâm đi, tôi đánh nhiều phấn trắng một chút chuẩn bị cho một màu da lợt lạt hợp với tai nạn mà. Tôi sẽ tới đứng trước ở chỗ rào khuất của lâu đài. Rất may là chẳng có cái chòi gác nào ở phía đó. Khi George và tôi vẫy khăn ra hiệu thì Bobby cho chiếc xe Standard chuyển bánh.

- Nhất trí. Tôi đứng bên ngoài bậc cửa xe để giữ tay lái cho đến lúc xe gần tới chỗ húc thì nhảy ra khỏi.

- Phải bình tĩnh diễn cho thật chuẩn nghe!

- Phải hết sức thận trọng! Việc sẽ rối tung nếu như cái tai nạn giả vờ đó biến thành tai nạn thật!

- Còn bây giờ... Hãy xuất phát, George! - Frankie ra lệnh.

George nhảy lên xe, khởi động để lái xuống đồi... Rồi mọi việc diễn ra đúng với sự tính toán của họ.

Trước khi chia tay Bobby dặn dò Frankie:

- Cẩn thận khi ở trong lâu đài nhé. Chớ có sơ hở!

- Cứ yên tâm đi, Bobby! Tôi sẽ tuỳ tình hình mà đối phó bằng cái đầu tỉnh táo nhất. Liên lạc với tôi qua George hoặc qua người hầu phòng của tôi nhé.

- Tạm biệt.

- Tôi đi nhé! Tôi sẽ tin cho anh biết lúc nào anh cần lái chiếc Bentley đến đón tôi ở lâu đài.

- Trong thời giản chờ đợi, tôi sẽ chăm lo cho bộ râu của tôi. Chào Frankie.

Họ nhìn nhau một lát, và cô gái tre khẽ vẫy tay chào tạm biệt rồi họ chia tay nhau.

Khi thấy Frankie tiến ra giữa một nhánh đường vẫy khăn làm hiệu và ở nhánh đường bên cạnh cũng vẫy trả lời thì Bobby cho xe chạy đến đỉnh dốc. Anh cài số ba, mở cửa, nhả phanh rồi đứng hẳn ra ngoài bậc, xe lăn bánh xuống dốc, động cơ vẫn nổ rền, ở giây cuốci cùng, Bobby buông tay vịn, nhảy xuống lề đường.

Chiếc ôtô lao vào tường với một lực va đáng kể. Pha tai nạn của họ diễn ra như thật…

Bobby nhìn thấy Frankie chạy đến nhảy vào giữa đống xe đổ. Cô thấy George đang lái chiếc xe tới và dừng lại ngay chỗ xảy ra tai nạn.

Phía xa, Bobby cưỡi lên chiếc mô tô của mình chạy về phía Londres.

- Tôi sẽ lăn trên đất để quần áo dính bẩn? - Frankie khẽ hỏi George Arbuthnot.

- Nên làm như thế cho hợp với bối cảnh. Đưa cho tôi cái mũ!

George cầm lấy chiếc mũ, móc vào mảnh sắt kéo toác rách ra. Frankie kêu lên sửng sốt.

- Ngã văng ra chỉ toạc mũ, chứ không toạc đầu là may rồi - George giải thích - Bây giờ, hãy nằm yên không được động đậy. Nằm thẳng dang ra. Hình như có tiếng một chiếc xe đạp sắp tới.

Vào lúc này, một chàng trai khoảng mười bảy tuổi đang đạp xe tới, miệng huýt sáo. Nhìn thấy cảnh ôtô đâm vào tường, cậu ta trố mắt nhìn.

- Cchà! Một tai nạn?

- Không đâu - George nói giọng mỉa mai - Cô nương chỉ đùa một tí thôi, húc xe vào để xem tường có chắc không đấy mà...!

Bằng cách nói khôi hài và cũng để cho chàng trai nọ chú ý đến Frankie đang nằm bất động ở cạnh chiếc xe bẹp và vỡ toác.

- Cô gái có vẻ nguy kịch. Liệu có chết được không?

- Chưa chết. Phải cấp cứu ngay người bị nạn. Tôi là thầy thuốc. Chúng ta đang ở đâu đây?

- Lâu đài Merroway, chủ nhân là ngài Bassington-ffrench.

- Chúng ta cần phải đưa cô gái vào ngay trong lâu đài. Hãy dựng xe giúp tôi một tay.

Theo lời yêu cầu, chàng thanh niên dựng xe vào tường rồi cùng với người thầy thuốc trẻ tuổi khênh Frankie vào bên trong lâu đài.

Người trong lâu đài cũng đã nhận ra có một tai nạn xảy ra bên ngoài. Một người hầu đang đi về phía họ.

- Một tai nạn đâm xe xảy ra ngay gần cổng lâu đài. Hãy cho chúng tôi khênh cô tiểu thư này vào một phòng nào đó? Tiểu thư cần được cấp cứu.

Đầy vẻ bối rối, người hầu chạy vội vào báo để chủ của mình biết. George và chàng thanh niên khênh Frankie theo vào. Người đầy tớ đi vào một căn phòng bên trái nơi có một phu nhân bước ra. Đôi mắt to và xanh biếc, tóc hung đỏ, bà ta khoảng ba mươi tuổi.

Bà chủ nhà đã mau chóng hiểu được tình hình.

- Có một căn phòng ngay phía bên tầng dưới này. Hãy khênh cô gái tới đó. Để tôi gọi dây nói báo cho thầy thuốc tới?

- Chính tôi là thầy thuốc đây, thưa phu nhân - George Arbuthnot nói - xe tôi vừa chợt đi qua thì chứng kiến tai nạn.

- Một sự trùng hợp may mắn cho nạn nhân! Xin mời bác sĩ vào lối này.

Bà ta dẫn mọi người vào một phòng ngủ lịch sự có cửa sổ nhìn ra vườn.

- Cô gái này bị thương có nặng không?

- Chưa kịp khám cho cô ấy, tôi chưa rõ.

Phu nhân Bassington-ffrench lui ra ngoài, theo sau là chàng thanh niên, vừa đi vừa kể cho bà tá nghe chi tiết về cái tai nạn mà cậu ta được chứng kiến.

- Xe ôtô chạy tốc độ cao đã lao vào bức tường. Xe vỡ ra và tiểu thư này thì nằm sóng soài trên mặt đất, một bác sĩ chợt lái xe đi qua đấy…

Bà chủ lâu đài đã sai người hầu để riêng cho họ một căn phòng lịch sự.

Tranh thủ lúc họ ra ngoài, Frankie và người thầy thuốc trẻ tuổi thì thào trao đổi:

- George, tôi hy vọng cái trò hề bất đắc dĩ này không gây tai tiếng cho nghề nghiệp của anh? Anh sẽ không bị gạch tên khỏi nghiệp đoàn của những người thầy thuốc.

- Chẳng có điều gì xảy ra cả nếu như mọi việc được giữ kín không để lộ cho ai biết.

- Điều ấy thì khỏi lo, George. Chẳng có ai hé nửa lời. Anh thật tuyệt... thường ngày chỉ thấy lầm lì ít nói, vậy mà...

George thở dài, rồi nhìn đồng hồ.

- Tôi ở lại ba phút nữa thôi.

- Thế còn cái xe?

Tôi đã thuê một gara cho người đến chuyển các mảnh vỡ đi.

George tiếp tục nhìn đồng hồ. Rồi anh chia tay với Frankie với giọng nói nhẹ nhõm.

- Tôi rời đi đây.

- George, anh thật cừ... Tôi chẳng hiểu tại sao anh lại chịu làm theo ý tôi.

- Tôi cũng chẳng hiểu tại sao... Đôi khi cũng cần rồ dại như vậy...! Tạm biệt nhé! Chúc cô cảm thấy thú vị với cái trò chơi này.

- Rồi anh sẽ hiểu việc tôi làm…

Bất chợt, Frankie nghĩ tới giọng nói dịu dàng, thản nhiên với âm nhấn kiểu Mỹ mà cô nghe thấy lúc mới vào lâu đài.

George cũng đang đi tìm gặp bà chủ nhà ấy, phu nhân Bassington-ffrench đang chờ bác sĩ ở phòng khách.

- Tôi rất mừng đưa tin để phu nhân biết là sau khi khám cho cô tiểu thư trẻ bị tai nạn đó, tôi nhận thấy chẳng đến nỗi quá trầm trọng như tôi tưởng lúc thoạt đầu - bác sĩ George Arbuthnot nói - Nạn nhân chỉ bị đau đớn ở những chỗ bị đụng rập bên trong. Tuy nhiên nạn nhân buộc phải nằm bất động một hoặc hai ngày - George im lặng một lát - Hình như đó là tiểu thư Frances Derwent.

- Nếu vậy thì chúng tôi cũng là bạn bè của những người anh em họ của cô ta..., gia đình Draycoot.

- Điều đó có gây phiền hà gì cho phu nhân khi nạn nhân nằm nhờ ở đây?

- Chẳng có gì phiền hà cả. Cứ để cho cô ta nằm ở đây, bác sĩ...

- Arbuthnot. Tôi đã giúp tiểu thư thuê một xưởng sửa chữa, đêm xe đến chở chiếc xe tai nạn đi.

- Cảm ơn bác sĩ. Thật là may cho nạn nhân, tình cờ gặp được thầy thuốc ở ngay chỗ xảy ra tai nạn. Ngày mai tôi có cần mời một thầy thuốc khác?

- Tôi cho rằng điều ấy không cần thiết. Điều cần thiết đối với nạn nhân là sự yên ổn và nằm bất động.

- Vậy thì tôi yên tâm. Nhưng có lẽ phải báo tin cho bố mẹ cô ta biết.

- Việc đó cũng xin phu nhân để tôi lo. Còn về việc điều trị thì cô gái cũng đã bày tỏ ý kiến của mình. Vốn là môn đồ của học thuyết thiên chúa giáo, cô tiểu thư ấy muốn tự điều trị bằng tinh thần là chính, tin tưởng, trông cậy vào ơn cứu giúp của chúa. Với tư cách bác sĩ, nhận thấy vết thương bên trong của cô cũng không có gì hệ trọng, tôi cũng đồng ý phương pháp tự chữa trị của cô.

- Nếu bác sĩ đã nói vậy thì...

- Vâng, vâng, mọi việc sẽ ổn chỉ trong vòng một hai ngày nữa. À! Tôi còn quên một dụng cụ khám bệnh của tôi ở chỗ bệnh nhân.

Nhanh nhẹn, George đến gần Frankie nói nhỏ:

- Hãy nói cô được tôi đồng ý cho tự đều trị theo học thuyết "Thiên chúa giáo", nhớ lấy!

- Sao thế?

- Cách duy nhất để tách khỏi tôi.

- Nhất trí!

Chương 12: Tại hang ổ của tên tội phạm

hế là ta đang nằm ngay tại hang ổ của tên giết người. Phải hết sức cảnh giác!”. Frankie tự nhủ. Có tiếng gõ nhẹ ngoài cửa và bà Bassington-ffrench bước vào.

Frankie nhổm dậy khỏi gối một cách khó nhọc.

- Xin phu nhân thứ lỗi cho tôi - Frankie nói bằng giọng yếu ớt - tôi lấy làm quấy quả phu nhân nhiều quá.

- Tiểu thư chẳng hề quấy quả gì cả.

Frankie, lại một lần nữa nghe giọng nói dịu dàng thản nhiên với những âm nhấn kiểu Mỹ, chợt nhớ là huân tước Marchington đã kể với cô là Bassington-ffrench ở Hampshire đã cưới một cô gái Mỹ được thừa hưởng một gia tài lớn.

- Bác sỹ Arbuthnot có nói cho tôi biết là tiểu thư sẽ bình phục mau chóng nếu như chịu nằm bất động và tĩnh tại.

Trong lúc truyện trò, đã vài lần Frankie định nói đến những "sai lầm" hoặc "sự chết" để gây ấn tượng về “cái tai nạn thực” nhưng rồi sau đó lại thôi vì e rằng lỡ mồm thốt ra những lời dại dột.

- Hình như có một thầy thuốc nào đó đã cứu chữa cho tôi?

- Đúng vậy - phu nhân Bassington-ffrench trả lời - tiểu thư đã gặp may. Có một bác sĩ tình cờ đã lái xe qua và đã kịp thời sơ cứu, khám thương tích và giúp đỡ hết lòng. Nhưng... tiểu thư chẳng nên nói nhiều kẻo mệt. Tôi sẽ cho một người hầu phòng của tôi đến đây ở bên cạnh giúp đỡ tiểu thư.

- Phu nhân đã tốt với tôi quá!

Còn lại một mình, Frankie chợt thấy lương tâm cắn rứt. Đây có lẽ là lần đầu cô cảm thấy mình đã có những hành động và lời nói giả dối đối với người chủ nhà, một phụ nữ hiền lành tử tế, khó mà có thể nghĩ rằng bà ta có thể lừa dối ai.

Cho đến lúc này vẫn còn bị ám ảnh bởi ý nghĩ Bassington-ffrench là kẻ giết người, Frankie không thể mau chóng gạt bỏ cảnh giác đối với những người thân ông ta.

"Chẳng cần suy nghĩ gì nhiều - cô thầm nghĩ - ta sẽ điều tra đến cùng. Nhưng giờ đây có lẽ ta cũng không cần tỏ ra quá vồn vã với bà ta".

Cả một buổi chiều hôm đó dài như bất tận, Frankie nằm dài trong căn phòng mà người ta cố ýlàm dịu ánh sáng. Bà Bassington-ffrench có hai lần đến thăm hỏi, nhưng lại đi ngay.

Ngày hôm sau, Frankie chẳng thể chịu thêm thứ ánh sáng mờ tối nên đề nghị đừng để cô nằm một mình. Bà chủ liền đến ngồi bên chuyện trò với cô khá lâu. Hai người đàn bà làm quen với nhau và trở nên thân thiện dần trong quá trình chuyện trò và cuối cùng Frankie, cho dù tình cảm có đôi lúc giả tạo, nhưng thấy giữa mình và bà ta đã nảy sinh một mối thiện cảm bạn bè.

Bà Bassington-ffrench nói nhiều về chồng và đứa con trai của bà tên là Tommy. Frankie nhận xét và thấy bộc lộ ở người đàn bà này những tình cảm gắn bó với gia đình, nhưng cũng nhận ra là hạnh phúc gia đình của bà ta dường như có điều gì đó bất hạnh mà Frankie chưa thể biết ngay được ở lúc này.

Ngày thứ ba, Frankie đã có thể đi lại nhẹ nhàng được và cô đã đến chào ông Bassington-ffrench. Đó là một người đàn ông khoẻ mạnh, mặt to vẻ duyên dáng nhưng lại có vẻ đãng trí. Suốt ngày ông ta giam mình trong phòng làm việc. Frankie nhận xét là ông ta rất yêu vợ, nhưng lại ít dành thời gian chăm sóc đến vợ mình để cho bà ta làm đẹp một mình chẳng được chồng khích lệ.

Tommy, cậu con trai lên chín tuổi của họ, là một cậu bé khoẻ mạnh, nghịch ngợm. Sylvia Bassington-ffrench rất yêu quí con.

- Ở đây thật là tuyệt! - Frankie nằm dài trên một ghế dựa dài ở trong vườn, nói lên cảm tưởng của mình với phu nhân Bassington-ffrench.

- Nếu tiểu thư cảm thấy dễ chịu - Sylvia trả lời giọng đều đều - mời tiểu thư ở lại thêm một thời gian. Chẳng có gì phiền hà đối với chúng tôi cả. Chắc tiểu thư cũng không có việc gì gấp phải trở lại Londres ngay. Cô thật vui tính và đáng yêu! Sự có mặt của cô làm cho tôi vui thêm nhiều. Tôi tin rằng chúng ta trở thành bạn bè của nhau.

Những đối với Frankie, thì trong thâm tâm lại cảm thấy ngượng ngùng. Cô đang có mặt ở đây để dò xét điều tra họ... thật chẳng thiện ý chút nào! Cô nghĩ đến chuyện trở lại Londres.

Bà chủ nhà nói tiếp:

- Những ngày sống ở Merroway với chúng tôi, đối với tiểu thư có lẽ là tẻ nhạt. Ngày mai người em chồng tôi sẽ trở về đây: Roger là một con người thiệp đời biết cư xử, chắc chắn sẽ làm cho cô hài lòng.

- Ông ta cùng ở đây sao?

- Chỉ thảng hoặc thôi. Chú ấy chẳng ở một nơi nào lâu bao giờ. Chú ấy thường nói thích sống nay đây mai đó; nói như vậy thì cũng chẳng phải là hoàn toàn vô lí, nhưng tôi nghĩ rằng có lẽ chú ấy chẳng làm được việc gì có ích cho đời. Sự giao du của chú ấy cũng khác người, thường là chơi bời thân với những người giàu có ở tầng lớp trên. Thường là những người cừ khôi, cả Roger cũng vậy... Thời gian thằng bé Tommy nhà tôi bị ốm, nếu không có chú ấy thì tôi cũng chẳng biết xoay sở ra sao nữa.

- Cháu bị ốm ra sao?

- Nó bị ngã khi chơi đu. Cọc đu bị ải mục nên bị gẫy. Roger đã rất bối rối trong vụ này vì chính chú ấy đẩy đu và đã đẩy quá cao để làm cho đứa bé thích. Lúc đầu chúng tôi lo lắm vì đứa bé bị chấn thương nặng ở cột sống; may làm sao, không đến nỗi bị trầm trọng và bây giờ Tommy đã bình phục và khoẻ mạnh.

- Đúng vậy, chú bé thật khoẻ mạnh và đáng yêu - Frankie nhận xét khi nghe thấy tiếng cậu bé chơi đùa từ xa.

- Chúng tôi rất vui sướng thấy cháu vẫn khoẻ mạnh sau hai lần bị tai nạn. Mùa đông năm ngoái nó suýt bị chết đuối.

- Thật vậy sao? - Frankie hỏi.

Frankie nghe qua đã đánh giá được ngay những hành động giết người nham hiểm của Roger Bassington-ffrench. Hắn quả là một "chuyên gia" gây nên các vụ tai nạn? Cô thấy bất bình và chẳng nghĩ tới việc trở về Londres ngay nữa.

- Nếu sự có mặt của tôi chẳng làm cho phu nhân khó chịu thì tôi có thể ở lui lại ít ngày nữa... nhưng chẳng rõ ông nhà ta có coi điều ấy là bất tiện?

Bà Bassington-ffrench thoáng lộ vẻ buồn bã khá lạ lùng.

- Henry ư? Không đâu! Anh ta chẳng quan tâm đến những việc như thế! Anh ta thờ ơ với mọi thứ.

Frankie cảm thấy lạ lùng khi nghe bà ta nói. Cô nhận ra thái độ chân thành của người chủ nhà. Cô nghĩ thầm: "Người phụ nữ này đã thật thà tâm sự với ta cả những chuyện kín đáo trong gia đình”.

Henry Bassington-ffrench đến gặp hai người đàn bà trẻ vào giờ uống trà. Frankie có dịp quan sát ông ta ở nơi gần nhất. Ông thuộc tầng lớp quí tộc cũ vùng quê hâm mộ thể thao và ưa chuộng cuộc sống lành mạnh. Nhưng dường như con người này chẳng còn giữ được nguyên cái phong cách của giai cấp mình, đôi khi biểu lộ ra nét mặt những trạng thái bị kích thích, có lúc cau mày giận dữ, có lúc trả lời người hỏi mình bằng những câu trả lời nhát gừng đầy vẻ cay đắng; có lúc thì lại thần ra như người đang mơ mộng.

Tuy nhiên chẳng phải là ông ta đã hoàn toàn mất gốc. Buổi tối hôm đó trong bữa ăn, thái độ của ông ta hoàn toàn khác. Ông vui vẻ, hoạt bát kể những câu chuyện dí dỏm, nét mặt đầy vẻ cởi mở. Nhưng thật là la lùng đối với Frankie khi cô nhận ra vẻ sầu não lo lắng trong ánh mắt của phu nhân Sylvia.

Với sự xét đoán nhạy bén của mình, Frankie cho rằng chẳng phải con người này, Henry Bassington-ffrench đã nhúng tay vào tội ác mà chính là người em ông ta. Roger Bassington-ffrench đã có mặt ở Marchbolt và đẩy người lạ mặt xuống vực sâu.

Frankie đang nóng lòng mong đợi để gặp mặt người em của chủ nhân toà lâu đài. Cứ mỗi khi nghĩ đến hắn, cô lại cảm thấy khó chịu vì linh tính cũng như mọi xét đoán đã mách bảo cô rằng hắn chính là tên giết người.

Để chuẩn bị cho cuộc đối mặt khỏi rơi vào những sai lầm quá khích, cô đã phải tự xác định cho mình thái độ kiềm chế.

* * *

Roger Bassington-ffrench đến lâu đài vào chiều hôm sau.

Frankie chỉ gặp ông ta vào lúc uống trà, vì tiểu thư vẫn còn phải "nghỉ ngơi" tĩnh tại ở phòng riêng.

Khi nhìn thấy cô trên nền cỏ nơi có các bàn trà, Sylvia tươi cười giới thiệu:

- Đây là người bị tai nạn, tiểu thư Frances Derwent, xin giới thiệu đây là Roger, em rể tôi.

Frankie nhìn thấy một người đàn ông còn trẻ khoảng ba mươi tuổi, to con, hoàn toàn khớp với mô tả của Bobby trước đây. Cô cũng nhận ra anh ta có đôi mắt xanh khá đẹp.

Họ bắt tay nhau rất tình cảm.

- Rất hân hạnh... dường như tiểu thư muốn san bằng tường lũy của trang viên? - Người đàn ông mới đến tươi cười hỏi.

- Tôi lái xe thật là tồi... nhưng cũng phải nói là tôi đã gặp phải một cái "xe già nua", hôm đó xe của tôi đang sửa chữa.

- May mắn làm sao, một thầy thuốc tình cờ lái xe qua đó, đã tới cứu và điều bị cho tiểu thư Frances - Sylvia nói.

- Vâng, ông ta thật là tốt - Frankie tán thưởng lời của Sylvia.

Cậu bé Tommy đến vào lúc mọi người đang uống trà, reo lên rồi nhảy đu lên cổ chú Roger.

- Chú đã đem đến cho cháu đòan tầu Hornby chưa? Chú đã hứa với cháu rồi mà!

- Ngoan nào, Tommy, thật là xấu khi lúc nào cũng xin xỏ! - Sylvia mắng yêu con.

- Điều đã hứa là điều phải làm. Chú đã mang đoàn tầu về cho cháu rồi... Henry sao không tới uống trà với chúng ta?

Sylvia trả lời với giọng nói buồn rầu:

- Tôi cũng chẳng rõ. Có thể là hôm nay anh Henry không được khoẻ... Ồ! Roger, tôi rất vui khi thấy chú về thăm nhà!

Roger đặt tay lên cánh tay người chị dâu:

- Chị cứ lo lắng nhiều làm gì, chị Sylvia. Mọi chuyện rồi sẽ ổn cả!

Sau lúc uống trà, Roger chơi đùa với đứa cháu.

Frankie quan sát họ, tư tưởng cô nảy sinh nhiều ý nghĩ mâu thuẫn với nhau.

Một con người hiền lành, dễ mến như vậy thì có thể là một tên giết người được không nhỉ?

Qua cuộc tiếp xúc này, dường như cô cũng thấy phải xem lại sự xét đoán của mình. Chưa chắc Roger Bassington-ffrench đã đẩy Pritchard xuống vực. Vậy thì ai nhỉ?

Chẳng còn ai khác nữa... nhưng cuối cùng cô gái vẫn không chịu từ bỏ giả thiết người chết đã bị ai đó giết chết. Nhưng kẻ nào đã gây ra tội ác ban đầu và sau đó kẻ nào đã bỏ moóc phin vào chai bia của Bobby?

Vì có liên quan đến moóc phin, ý nghĩ của Frankie chợt lại loé lên điều nghi hoặc về đôi mắt đờ dại khác thường của Henry Bassington-ffrench, chồng của Sylvia. Liệu người đàn ông này có mắc nghiện ma túy không?

Chương 13: Alan Carstairs

ột việc khá lạ lùng, mà Frankie, trong quá trình điều tra những điều bí ẩn trong vụ án, đã nghe được do chính mồm của Roger nói ra vào ngày hôm sau.

Hai người vừa chơi xong một hiệp tennis. Họ nghỉ giải lao và cùng uống đồ ướp lạnh.

Họ chuyện trò với nhau về nhiều vấn đề và Frankie bị cuốn hút bởi sự từng trải của một con người đã từng đi nhiều, hiểu rộng, hầu như gần khắp cả thế giới. Cô gái thừa nhận rằng cái người mà Sylvia cho là 'vô tích sự' cho lợi ích gia đình ấy đã đối lập và hơn hẳn người anh trên nhiều mặt.

Một phút yên lặng giữa hai người. Roger lại tiếp tục nói và lần này giọng nói của anh có vẻ trang nghiêm:

- Tiểu thư Frances này, có thể là cô sẽ cười tôi. Tôi vừa quen biết cô chưa đầy bốn mười tám tiếng đồng hồ mà cô đã là người duy nhất mà tôi muốn xin một lời khuyên về một chuyện bối rối trong gia đình chúng tôi.

- Một lời khuyên?

- Đúng vậy. Tôi chẳng biết nên giải quyết thế nào.

Roger ngừng lời một lát. Người hơi cúi xuống phía trước, lắc lư chiếc rakét giữa hai đầu gối của mình, trán nhăn lại, anh ta có vẻ như đang suy nghĩ điều gì khiến cho anh ta xúc động lắm.

- Đó là chuyện người anh của tôi...

- Chuyện ra sao?

- Anh tôi đã nghiện ma túy. Tôi không nói sai...

- Căn cứ vào đâu mà anh khẳng định như vậy?

- Nhiều biểu hiện của cơn nghiện đã bộc lộ ra ngoài. Dáng vẻ phờ phạc, ánh mắt đờ dại, sự thay đổi tính khí. Tiểu thư cứ quan sát đôi mắt của anh ta sẽ thấy. Đồng tử thu nhỏ chẳng còn thần.

- Tôi công nhận ở con người anh ta có những biểu hiện như anh vừa nói. Theo anh thì anh ta nghiện loại ma túy gì?

- Moóc phin, hoặc cũng có thể là thuốc phiện.

- Nghiện ngập đã lâu chưa?

- Khoảng sáu tháng rồi. Tôi nhớ lại là có một dạo anh ấy kêu mất ngủ. Tôi cho rằng anh ấy mắc nghiện từ ngày ấy.

- Anh ta mua chất ma tuý ở đâu?

- Tôi cho rằng qua đường bưu điện. Cô có nhận thấy thái độ nôn nóng chờ đợi của anh ấy vào những lúc uống trà?

- Đúng như thế.

- Tình trạng thẫn thờ như người mất hồn chắc chắn là do hết thuốc. Khi buổi phát thư lúc sáu giờ qua đi, anh ấy vào phòng riêng đóng cửa lại và ở đo cho đến bữa ăn tối mới ló mặt ra.

Frankie gật đầu công nhận đều Roger nói là đúng.

- Những những gói ma tuý đó đã từ đâu gửi đến cho anh ta nhỉ?

- Tôi cũng chẳng rõ. Có điều chắc chắn là những người thầy thuốc thận trọng chẳng dám cung cấp cho anh ta kiểu ấy. Có thể là từ các cửa hàng thuốc làm ăn phi pháp hoặc những kẻ buôn bán chất ma tuý gửi đến cho anh ta sau khi đã nhận được tiền đặt mua trả trước.

Frankie trở nên nghĩ ngợi. Như vậy rõ ràng là ngay từ lúc khởi đầu cuộc điều tra, mang tính cách cá nhân, cô đã đặt chân lên lối mòn của bọn buôn bán chất ma tuý. Chính là người mà cô và Bobby nghi là tội phạm giết người đã cuốn hút sự chú ý của cô vào hành động phạm pháp khác ít liên quan đến mục đích điều tra của cô. Vậy Roger Bassington-ffrench là kẻ phạm tội hay vô tội?

Tuy nhiên việc đánh tráo tấm ảnh vẫn chưa thể giải thích. Một mặt Roger bộc lộ những dấu hiệu phạm tội, mặt khác hắn cũng có một nhân cách chững chạc...

Tạm gác những điều suy nghĩ, Frankie ngước mắt nhìn Roger rồi hỏi:

- Tại sao anh lại cần đến lời khuyên của tôi?

- Để tìm ra cách khuyên bảo Sylvia thế nào cho hợp.

- Nhưng giả thử Sylvia không biết gì cả về chồng mình mắc nghiện?

- Tất nhiên là chị dâu tôi chưa biết gì về chuyện đó. Vậy tôi có nên cho chị ấy biết không?

- Phải rất tế nhị trong chuyện này!

- Chính bởi vậy mà tôi muốn nhờ cô giúp đỡ. Sylvia đã coi cô như một người tâm tình. Chẳng phải là ai cũng có thể kết bạn được với chị dâu tôi một cách dễ dàng. Nhưng cô thì lại được chị ấy rất quí mến. Vậy theo ý cô, tôi có nên nói sự thực để Sylvia biết?

- Cũng nên cho chị ấy biết sự thực để chị ấy khuyên bảo chồng.

- Tôi chẳng tin là chị Sylvia có thể làm nổi việc ấy. Một người đã sa vào nghiện ngập thường chẳng còn chịu nghe ai... Đành là thế, nhưng nếu Henry bằng lòng cai nghiện thì ở vùng này có một trung tâm cai nghiện...

- Nhưng liệu anh ta có chịu đến đó?

- Cũng có thể. Nhưng tôi nghĩ rằng ta sẽ dễ dàng thuyết phục anh ta hơn nếu như anh ta cho rằng Sylvia không biết là anh ta mắc nghiện. Trung tâm cai nghiện ở cách đây khoảng năm cây số, phía bên kia làng. Cơ sở cai nghiện này được điều hành bởi một bác sỹ người Canađa tên là Nicholson. Ông ta là một người có năng lực. Và điều may mắn là giữa Henry và ông ta có tình bè bạn từ lâu… Suỵt! Sylvia tới...

Phu nhân Bassington-ffrench đi tới chỗ họ.

- Hai người chơi tennis tốt chứ? - Bà ta hỏi

- Ba séc - Frankie trả lời - tôi thua bốn quả.

- Còn tôi thì lại rất lười chơi tennis. Có lẽ hôm nào phải mời gia đình Nicholson. Moira rất yêu thích môn thể thao này. Thế nào? Có chuyện gì vậy?

Sylvia chợt thấy hai người đưa mắt nhìn nhau.

- Có gì đâu... tôi vừa nói chuyện với tiểu thư Frances về Nicholson.

- Hãy gọi cô ấy bằng cái tên Frankie thân mật như tôi thường gọi. Thật là buồn cười mỗi khi ta vừa nói đến ai xong mà lại có người nào khác tình cờ lại nhắc đến chính người ấy.

- Họ ở Canađa tới đúng không? - Frankie hỏi.

- Người chồng là dân Canada, nhưng vợ là người Anh. Bà ta nhan sắc khá xinh đẹp, với đôi mắt to quyến rũ. Nhưng tôi nghi là họ sống với nhau chẳng được hạnh phúc. Cuộc sống của bà ta chẳng được vui lắm.

- Người chồng điều khiển một trung tâm điều dưỡng phải không?

- Đúng vậy... ông ta điều trị cho những người bị căng thẳng thần kinh, những con nghiện ma túy, và có tiếng là một bác sỹ điều trị giỏi. Đó là một giám đốc nhà điều dưỡng oai nghiêm. Nhưng tính nết chẳng phải là dễ chịu.

Lát sau, tại phòng khách, Sylvia chỉ cho họ một tấm ảnh đặt trên cây đàn dương cầm; đó là ảnh một phụ nữ trẻ.

- Đây là Moira Nicholson. Bà ta đẹp đấy chứ? Có một người khách của gia đình chúng tôi đến đây hết sức ngưỡng mộ nhan sắc của bà ta, cứ đòi được gặp. Ngày mai chúng tôi sẽ mời ông bà Nicholson tới ăn tối và chúng ta sẽ cùng gặp họ ở đây. Các vị sẽ cho tôi những lời nhận xét về ông ta... Như tôi đã nói... chẳng có cảm tình chút nào, nhưng ông ta khá đẹp.

Frankie nghe Sylvia nói về Nicholson, thoáng nhận ra có một điều gì đó không được bình thường. Cô ngẩng lên nhìn vào gương mặt bà ta, thì Sylvia Bassington-ffrench đã ra ngoài phòng lấy hoa cắm vào bình.

* * *

Ta phải xác định lại cho mình các mục tiêu cần tiến tới - Frankie tự nhắc nhở trong lúc cô chải chuốt mái tóc sẫm màu của mình trước khi xuống ăn tối.

Roger Bassington-ffrench có phải là tội phạm hay không?

Một kẻ lạ mặt nào đó định thủ tiêu Bobby bằng moóc phin, tất phải có điều kiện dễ dàng tìm ra moóc phin. Roger Bassington-ffrench có đầy đủ điều kiện đó. Nếu người anh hắn dễ dàng mua moóc phin qua đường dây bưu điện, thì hắn có thể dễ dàng bớt lại một gói.

Frankie lấy lại một mảnh giấy và ghi:

1. Phải dò hỏi xem ngày 16 - tức là ngày Bobby bị đầu độc thì Roger ở đâu?

2 . Đưa cho hắn xem tấm ảnh người bị chết ở vách đá để thăm dò phản ứng của hắn. Liệu hắn có dám nhận là đã có mặt ở Marchbolt đúng vào ngày xảy ra "tai nạn"?

Cô lường trước mọi tình huống khó khăn khi đối thoại điều tra. Về điểm thứ nhất thì đơn giản thôi, nhưng ở điểm thứ hai thì điều khó khăn là tìm cách nào dẫn hắn vào được câu chuyện cho thật tự nhiên.

Sau đó cô nghĩ ra là "tai nạn" xảy ra ngay ở làng mình, có nhắc đến trong dịp này cũng chẳng làm cho ai ngạc nhiên.

Ngay ở đầu bữa ăn Frankie mở đầu trận đánh, xông thẳng “giáp lá cà" với Roger:

- Hình như chúng ta đã gặp nhau một lần... cách đây không lâu. Có phải chúng ta đã cùng ăn trưa ở nhà tiểu thư Shane ở Claridge... ngày 16 tháng này?

- Nếu vậy thì tiểu thư nhớ lầm rồi - Sylvia vội trả lời thay cho Roger - ngày 16 Roger ở đây cả ngày. Tôi nhớ được chính xác vì hôm đó gia đình tổ chức một bữa tiệc chiêu đãi cho các cháu. Nếu chẳng có chú Roger giúp đỡ thì ngày vui của các cháu hôm đó chẳng thể tổ chức nổi.

Sylvia nhìn người em rể bằng cặp mắt biết ơn và người em mỉm cười đáp lại.

- Tôi chẳng tin là chúng ta gặp nhau trước đây, nhưng chắc chắn là từ nay tôi chẳng thể quên cô được nữa - Roger vừa nói vừa đưa mắt nhìn Frankie một cách tình tứ.

"Thế là điểm một đã được xác minh - Frankie tự nhủ - Roger Bassington-ffrench đã không đến xứ Galles vào hôm mà Bobby bị đầu độc".

Điểm thứ hai, như đã chuẩn bị từ trước, Frankie cũng lái được câu chuyện sang một cách tự nhiên. Cô nói về phong cảnh xứ Galles, trong đó nhắc đến cái vách đá và vực sâu, nơi mà bình thường ra chẳng mấy ai chú ý: nhưng từ khi xảy ra cái tai nạn chết người, sự tò mò của mọi người khách đến tham quan đã được kích thích cao độ.

- Tháng trước - Frankie kể chi tiết vụ tai nạn - có một người đàn ông bị ngã từ trên cao vách đá rớt xuống vực. Cả một vùng xôn xao dư luận. Tôi có đến dự phiên họp đầu Hội đồng bồi thẩm của toà án nhưng đó chỉ là do tai nạn trong sương mù.

- Hội đồng bồi thẩm của toà án họp ở Marchbolt có phải không? - Sylvia hỏi.

- Đúng vậy. Lâu đài của chúng tôi chỉ cách Marchbolt mười cây số - Frankie nói.

- Roger! Đúng là vụ tai nạn mà chú đã chứng kiến! - Sylvia góp vào câu chuyện.

- Hôm đó tôi vừa đi qua tới đó - Roger xác nhận - tôi đã trông nom người bị nạn cho đến lúc cảnh sát tới.

- Này! Tôi tưởng là con trai mục sư trông nom xác chết chứ? - Frankie hỏi.

- Vì bận công việc nên anh ta phải rời đi, tôi đã trông nom thay cho anh ta.

- Đúng rồi, anh ta có kể với tôi là có một người đi dạo qua đã giúp đỡ. Vậy ra là anh?

- Có thể là cô đã trông thấy tôi ở Marchbolt? - Roger hỏi.

- Hôm có tai nạn xảy ra tôi đang ở Londres, hai ngày sau tôi mới về Marchbolt. Vậy anh có mặt ở buổi thẩm vấn không?

- Không, tôi về Londres ngày hôm sau vụ tai nạn.

- Roger cũng đang muốn mua một ngôi nhà ở xứ Galles! - Sylvia nói.

- Một ý định nghe thật chối tai! - Henry Bassington-ffrench lầu bầu.

- Chẳng hề vô lý chút nào! - Roger bác lại ý kiến của anh mình với một thái độ tươi cười.

- Ai mà chẳng biết tính nết của chú. Chú mua nhà xong rồi đến một lúc nào đó cái tính thích đi đó đi đây lại nổi dậy và chú lại rời đi với cuộc sống phiêu bạt.

- Không đâu chị Sylvia, cuối cùng thì tôi cũng sẽ an cư như mọi người thôi mà. -

- Chú nên mua nhà ở gần chỗ chúng tôi ở thì hơn là tìm mua ở xứ Galles.

Roger cười. Rồi quay sang nói với Frankie:

- Thế rồi cái tai nạn ấy ra sao, tiểu thư? Nó chẳng biến thành vụ tự sát cũng chẳng thành vụ án hình sự đấy chứ?

- Hoàn toàn không. Kết luận của phiên toà hết sức bình thường. Người thân của nạn nhân đến nhận diện. Hình như anh ta đến vùng này để du lịch và đã bước hụt vì không trông rõ đường trong sương mù, nên đã lăn xuống vực. Thật là buồn thảm khi được biết anh ta còn trẻ và diện mạo cũng dễ thương. Các vị có trông thấy ảnh của anh ta đăng trên báo?

- Hình như có - Sylvia nói - nhưng tôi chẳng nhớ rõ. Tôi có hình của anh ta cắt từ tờ báo địa phương.

Rồi Frankie rảo bước về phòng mình lấy mảnh báo cắt đó. Cô chìa ra cho Sylvia xem. Roger đứng sau người chị dâu nhìn tấm ảnh qua vai người chị.

- Ồ thật là lạ! Tấm ảnh này trông giống Alan Carstairs phải không Roger? Tôi nhớ là đã nói nhận xét này của tôi với chú.

- Tấm ảnh này đúng là cũng có những nét hao hao giống anh ta - Roger không phản đối ý kiến của Sylvia - nhưng rõ ràng là hai người có những nét khác nhau.

- Chẳng thể căn cứ vào những tấm ảnh trên báo chí - Sylvia kết luận và đưa lại mảnh báo cắt cho Frankie.

Frankie dừng lại không nói gì thêm về chuyện tấm ảnh và mọi người nói sang chuyện khác.

Sau lần gặp gỡ hôm đó Frankie cảm thấy bối rối. Những người chủ nhà dường như đã chuyện trò tự nhiên chẳng hề có sự sắp đặt hoặc dối trá gì cả. Roger đã tới vùng Marchbolt đúng là có ý định mua nhà thật và khi chuyện trò chẳng hề dấu giếm điều gì.

Chỉ có một đều mới mẻ mà Frankie thu lượm được ở tối hôm ấy. Đó là một cái tên: Alan Carstairs.

Chương 14 : Bác sĩ Nicholson

Vào buổi sáng hôm sau, Frankie “hướng nòng pháo” của mình vào Sylvia.

Bằng một giọng cởi mở, cô đặt một số câu hỏi để điều tra một số điều cần biết.

- Hôm qua bà có nói đến một người đàn ông có tên là Alan Carstairs có phải không? Cái tên đó tôi nghe quen quen.

- Đúng là Alan Carstairs, một người khách quí của gia đình chúng tôi... Một người gốc Canada, một nhà tự nhiên học, nhà thám hiểm, người thợ săn ác thú nổi tiếng. Tôi cũng mới quen biết ông ta không lâu. Gần đây, những người bạn Rivington của chúng tôi có dẫn ông ta đến thăm và dùng cơm trưa tại lâu đài. Một người đàn ông to con, khoẻ mạnh, mặt sạm nắng, đôi mắt thông minh.

- Tôi đã từng nghe nói về ông ta.

- Ông ta sống ở nước ngoài. Năm vừa qua ông sang Châu Phi đi cùng với một người bạn tên là John Savage nguyên là một triệu phú. Khi về nước người triệu phú này tuyệt vọng vì mắc phải bệnh ung thư đã tự sát một cách thảm khốc. Carstairs đi gần khắp thế giới: Đông Phi, Nam Mỹ và nhiều nơi khác nữa.

- Đó là một người yêu thích cuộc sống phiêu lưu.

- Chắc là như vậy. Con người ấy rất bình dị, dễ mến!

Frankie, tuy không nói ra nhưng đang rất quan tâm tìm hiểu về Carstairs từ khi cô được nghe Sylvia nói là người đàn ông này trông rất giống với ảnh người bị nạn ở Marchbolt.

- Và anh ta làm cho chúng ta chú ý đến vì đã giống hệt người chết ở vách đá?

Nhưng đã đến lúc phải dừng lại không nói thêm về Alan Carstairs. Nếu nài nỉ nhiều sẽ làm cho những người trong lâu đài nghi ngờ. Tuy nhiên trong thâm tâm cô gái, người bị nạn ở Marchbolt chẳng phải là ai khác mà chính là Alan Carstairs. Có đầy đủ thực tế để khẳng định điều này: anh ta không có bạn bè và người thân thích ở trong nước nên chẳng cỏ ai quan tâm, tìm hiểu sâu về cái chết của anh ta, một người từ lâu đã sống phiêu bạt ở Châu Phi và ở Nam Mỹ... Nhưng cho dù có đúng là Alan Carstairs đi nữa thì cái chính vẫn cần phải biết tại sao chúng giết anh. Và bởi vậy, cuộc điều tra vẫn cần phải tiếp diễn... Ai đã dẫn Carstairs đến lâu đài Merroway nhỉ?... À! Đúng rồi… Sylvia nói là gia đình Rivington!

Bí mật và khôn khéo, Frankie quyết định tiếp tục điều tra về Alan Carstairs theo lối mòn vừa được phát hiện.

Sự suy xét của cô bất chợt lại vòng lại với câu nói đầy bí ẩn ở ngay thời điểm đầu của vụ án: Evans! Evans là ai? Con người này đóng vai trò gì trong vụ án?

Còn kẻ giết người có phải là Roger Bassington-ffrench? Qua quá trình tìm hiểu điều tra, Frankie buộc phải xem lại. Cayman là ai? Kẻ mạo nhận là người thân của nạn nhân có liên quan gì đến bọn buôn bán chất ma túy?

Tuy nhiên... còn chuyện liên quan đến tấm ảnh thì chẳng thể loại trừ Roger Bassington-ffrench ra ngoài cuộc?

Buổi chiều hôm đó, bác sĩ Nicholson và vợ ông ta đến lâu đài dự bữa ăn tối. Frankie vừa tắm xong, thì nghe tiếng ôtô đỗ ở cửa ra vào. Qua cửa sổ, cô nhìn ra phía ngoài sân, lối dẫn lên phòng khách.

Một người tầm vóc cao lớn đang bước ra khỏi chiếc xe Talbot màu xanh.

Một ý nghĩ liên hệ thoáng qua: Carstairs quốc tịch Canada, bác sỹ Nicholson cũng vậy và ông ta đi chiếc xe Talbot màu xanh sẫm.. . Một sự trùng hợp hiếm thấy.

Frankie xuống ăn tối.

Bác sĩ Nicholson người cao to, dáng lực sĩ, hơi ba hoa trong cách nói năng, giọng nói chậm rãi dường như muốn quan trọng hoá những lời nói của mình. Sau cặp kính dầy, đôi mắt ông ta sáng lên màu xanh lợt.

Vợ ông ta, một người đàn bà duyên dáng, dong dỏng cao khoảng hai mươi bảy tuổi. Người đàn bà này dường như đầu óc không có sự thanh thản, nói nhiều như để che đi điều gì đó vướng mắc trong tư tưởng...

Đó là những nhận xét ban đầu của Frankie về hai người khách.

- Hình như tiểu thư vừa gặp một tai nạn - bác sĩ Nicholson hỏi Frankie khi ông ta ngồi xuống bên cạnh cô gái.

Frankie rơi vào sự lúng túng khi kể lại những chi tiết của tai nạn. Có thể nói là chẳng khác gì một người đang trình bày để thanh minh trước những lời buộc tội của người khác, chỉ khác là sự buộc tội đó không diễn ra theo đúng thể thức thông thường mà thôi.

- Cô đã thoát nạn một cách tuyệt vời - bác sĩ Nicholson reo lên khi cô gái kể xong câu chuyện - Cô đã kể lể quá kỹ, có nhiều chi tiết không cần thiết. Cô hồi phục nhanh chóng đấy chứ!

- Ồ, tiểu thư cũng chưa được hoàn toàn bình phục - Sylvia nói chen vào - chúng tôi vẫn còn giữ tiểu thư ở lại đây.

Một nụ cười nham hiểm thoáng hiện trên môi người thầy thuốc:

- Tôi mong các vị giữ tiểu thư ở lại càng lâu càng tốt.

Frankie ngồi giữa chủ nhân toà lâu đài và bác sỹ Nicholson. Henry Bassington-ffrench có một thái độ nhạt nhẽo trong buổi tối hôm đó. Ông ít lấy các món ăn và không tham gis vào các câu chuyện trong bữa ăn.

Bà Nicholson ngồi ngay cạnh bên chủ nhà, chẳng làm cho ông ta tươi lên được chút nào. Người đàn bà xinh đẹp này cũng đôi lúc chuyện trò nhát gừng với Roger. Frankie nhận xét thấy bà ta thỉnh thoảng lại nhìn chồng mình. Bác sỹ Nicholson thì đang nói về cuộc sống ở vùng quê.

- Tiểu thư hiểu thế nào về một sự cấy mầm tinh thần?

- Bác sĩ muốn nói đến sự nghiên cứu sách vở? - Frankie bất thình lình hỏi lại.

- Không, không! Tôi muốn nói đến việc cấy mầm tảo huyết thanh để ám chỉ đến việc cấy mầm những yếu tố tốt đẹp cho tinh thần khi điều trị cho bệnh nhân. Ở các vùng quê điều kiện sống, thời gian, không gian, sự rỗi rãi đều tạo thuận lợi cho sự phát triển các yếu tố về tinh thần.

- Bao gồm cả thói hư tật xấu? - Frankie nói chen vào.

- Điều ấy thì còn tuỳ thuộc vào mầm giống mà ta cấy vào.

|Tại sao ông ta lại đưa cái mẩu chuyện lạ lừng này để nói với ta và những ý nghĩ kỳ cực đó có ý hăm doạ ta điều gì nhỉ?"

Frankie nói bằng giọng nói thư thái:

- Tôi cũng đang muốn cấy mọi thứ mầm sống của những khuynh hướng đồi bại đây.

Nicholson quan sát cô gái, rồi bình tĩnh trả lời:

- Ồ! Không đâu, tôi chẳng tin điều ấy, tiểu thư ạ! Tôi cho rằng cô luôn luôn đứng về phía trật tự và pháp luật.

Bất chợt bà Nicholson nói:

- Chồng tôi thường tự hào về khả năng đoán ra những bản chữ viết khó, và khám phá ra những điều giả dối.

Bác sĩ Nicholson gật gù tán thưởng điều nhận xét của vợ:

- Moira đã nói rất đúng. Tôi thường quan tâm đến từng chi tiết nhỏ của mỗi việc xảy ra - ông ta quay sang Frankie - trong cái tai nạn xảy ra với tiểu thư có một điều lạ kích thích sự tò mò của tôi.

- Điều gì vậy?

Trống ngực Frankie đập mạnh.

- Người thầy thuốc lái xe qua... người ta đã đưa cô vào lâu đài này... ông ta có quay xe vòng lại trước khi cấp cứu cô không nhỉ?

- Tôi cũng chẳng rõ…

- Cô chẳng rõ vì lúc đó cô đang bất tỉnh chứ gì! Nhưng chú bé giao liên mang tin nhanh ở trong vùng cho biết là khi chú bé xuống dốc ở vùng Staverley bằng xe đạp thì không có một chiếc ôtô nào vượt qua. Vậy mà khi đến chỗ rẽ thì... lại đã thấy xe của bác sĩ cấp cứu mũi quay cùng chiều với hướng đi của cậu ta... tức là về hướng Londres. Cô vẫn nghe lý lẽ của tôi đấy chứ? Người bác sỹ cấp cứu đó đã chẳng từ Staverley tới mà từ hướng đôi diện tới… Vậy thì chiếc xe đó đã xuống dốc và đang trên đường đi tới Staverley... Chấm hết. Vậy thì kết luận lại chiếc xe đó đã phải tự xoay một vòng trên con đường hẹp!?

- Hay là ông ta đã từ Staverley đến đó trước một lúc?

- Nếu vậy thì trước khi cô lái xe từ đỉnh dốc xuống thì cô phải nhìn thấy xe ông ta rồi chứ?

Cặp mắt xanh soi mói nhìn chòng chọc vào Frankie qua cặp kính dày.

- Tôi chẳng nhớ gì đến những chi tiết đó - Frankie trả lời.

- Anh phân tích cứ như lời lẽ của một thám tử vậy - phu nhân Nicholson nói với chồng - những chi tiết đó chẳng đem lại lợi ích gì cả.

- Ồ, tôi nhắc lại là những chi tiết ấy làm tôi chú ý đến.

Rồi Nicholson quay sang Sylvia trò chuyện về đứa con trai bà ta.

Frankle cảm thấy nhẹ nhõm khi câu chuyện về tai nạn đã ngừng lại. Tại sao Nicholson đã cố tình hỏi cô giống như là điều tra vậy? Ai đã cung cấp cho hắn mọi diễn biến của cái tai nạn giả mạo đó? “Những chi tiết làm cho tôi quan tâm", hai lần hắn nói điều đó. Hắn muốn gì qua thái độ soi mói nài nỉ này? Bỗng nhiên cô cảm thấy có một ác cảm gay gắt đối với con người khó hiểu này.

Sau bữa ăn tối, Frankie tránh không tiếp xúc với Nicholson nữa. Cô đã tìm đến truyện trò với người vợ xinh đẹp và tinh tế của ông ta. Trong lúc hai người truyện trò với nhau, Frankie nhận thấy người đàn bà này luôn đưa mắt nhìn chồng.

Nicholson đã dành cả buổi tối cho Sylvia và tới khoảng mười rưỡi tối thì ông ta ngẩng lên nhìn vợ. Nhận được dấu hiệu của nhau, họ đứng dậy và cáo từ xin ra về.

- Thế nào tiểu thư? - Roger hỏi Frankie sau khi khách đã đi khỏi - cô thấy bác sĩ Nicholson ra sao?

- Tôi cùng chung cảm tưởng với Sylvia. Tôi chẳng ưa ông ta. Tôi có cảm tình với vợ ông ta.

- Bà ta thật xinh đẹp nhưng có vẻ ngu ngốc. Cũng chẳng hiểu nổi là bà ta yêu quí chồng hay là sợ chồng quá mức.

- Đúng là điều thắc mắc mà tôi muốn hỏi.

- Tôi đã có ác cảm với ông ta - Sylvia nói - nhưng tôi thừa nhận ông ta là một thầy thuốc có năng lực. Ông ta đã đều trị có hiệu quả cho những người nghiện moóc phin mà sự nghiện ngập của họ đã tới mức tuyệt vọng.

- Chớ có ca ngợi con người đó quá lời - Henry Bassington-ffrench chợt kêu lên - các người có biết điều gì đã xảy ra ở cái nơi đều dưỡng quái quỷ đó không? Các người đâu có biết những nỗi đau khổ khủng khiếp đè nặng lên đầu những bệnh nhân xấu số ấy. Một ngày nào đó, họ sẽ cắt hẳn sự cung cấp chất ma tuý cho họ. Và những bệnh nhân khốn khổ đó sẽ phát điên! Đấy là tất cả cách điều trị của người thầy thuốc nổi tiếng của các người đã mặc sức hành hạ những người bệnh chẳng còn quyền tự vệ...

Henry đứng bật dậy và rời khỏi phòng khách. Sylvia Bassington-ffrench mở to đôi mắt sợ hãi nhìn theo chồng.

- Henrylàm sao vậy?

Anh đã phát khùng. Frankie và Roger chẳng dám nhìn nhau.

- Henry đã có vẻ lo lắng, bực bội suốt buổi chiều - Frankie mạnh dạn nhận xét.

- Đúng thế! Tôi cũng đã nhận xét thái độ của anh ấy. Từ ít lâu nay anh luôn tỏ ra rầu rĩ, bực bội. Tôi chẳng còn thấy anh cưỡi ngựa nữa... Bác sỹ Nicholson có mời Tommy ngày mai. Tôi chẳng bằng lòng chút nào khi nhìn thấy Tommy lui tới cái nơi mà... đầy những kẻ nghiện ngập và mắc bệnh thần kinh...

- Tôi hy vọng rằng ông ta sẽ cấm nó quan hệ với các bệnh nhân - Roger nói xen vào - Ông ta xưa nay rất yêu quý trẻ con.

- Vâng, ông ta sẽ đau buồn nếu vắng chúng. Cả bà ta có lẽ cũng vậy...

- Nếu bác sỹ Nicholson yêu trẻ con đến như vậy thì chắc là đã có mặt trong dịp tết trẻ em vừa qua? - Frankie hỏi một cách tự nhiên.

- Tiếc thật, ông đã chẳng đến dự vì hôm đó có một cuộc hội thảo ở Londres đã mời ông.

Họ chia tay về phòng ngủ, nhưng trước khi ngủ Frankie đã viết thư cho Bobby.

Chương 15 : Một điều khám phá

obby buồn đến chết được, chán nản vì sự rỗi rãi bất động.

Georges Arbuthnot có trao đổi với anh vài câu ngắn gọn qua điện thoại là mọi việc đã diễn ra suôn sẻ. Hai ngày sau người hầu phòng của Frankie có đưa cho anh một lá thư của cô gái.

Rồi từ đó bặt tin.

- Một lá thư của anh này! - Badger gọi anh.

Bobby chạy đến. Nhưng trên phong bì anh nhận ra chữ viết của cha và con tem đống dấu bưu điện vùng Marchbolt.

Tuy nhiên cũng ngay lúc đó, anh nhìn thấy người hầu gái của Frankie đi tới ga ra. Và anh nhận lấy lá thư thứ hai của cô gái.

“Bobby thân - Frankie viết - tôi cho rằng đã tới lúc anh có thể đến được rồi đấy. Tôi đã viết thư về nhà để anh có thể được giao cho chiếc Bentley khi anh đến nhận. Anh phải sắm lấy một bộ quần áo tài xế. Những người giúp việc ở nhà chúng tôi luôn mặc quần áo màu xanh sẫm. Hãy để cha tôi biết mọi chuyện và tốt nhất là nói hết với cụ. Phải luôn chăm sóc bộ râu của anh đấy nhé; siêng năng vào, nó sẽ giúp anh hoàn toàn biến đổi được diện mạo.

Đến đây và xin gặp tôi. Anh có thể công khai cầm một lá thư của cha tôi ở tay. Báo cho tôi biết là xe đã được sửa và chạy tốt. Gara ở đây chỉ để được hai xe, chiếc Limousine của gia đình và chiếc xe nhỏ của Roger Bassington-ffrench, bởi vậy anh phải tìm chỗ trọ và chỗ để xe luôn ở Staverley.

Ở đấy, anh phải dò hỏi để biết kỹ về bác sỹ Nicholson hiện đang cai quản một trung tâm điều dưỡng chữa trị cho những người nghiện moóc phin. Tôi khám phá ra được nhiều điều nghi vấn về người bác sỹ này: ông ta đi chiếc xe Talbot màu xanh sẫm và vắng mặt ở trại điều dưỡng vào ngày 16 là ngày mà chai bia của anh đã bị hoà moóc phin; hơn nữa đối tượng nghi vấn này hiểu quá rõ về các chi tiết tai nạn của tôi.

Và tôi đã tìm ra manh mối về người chết!!!

Tạm biệt, người cộng tác yêu quý!

Hãy nhận lấy tình bạn của cô tiểu thư bị tai nạn, nay rất khoẻ.

Frankie.

"Tái bút - Tôi gửi thư này theo đường bưu điện qua tay người hầu phòng đem tới cho anh."

Nội dung lá thư làm cho Bobby rất vui.

Chẳng hề chậm trễ, anh trút bỏ bộ quần áo dầu mỡ và nói cho Badger biết ngày lên đường. Trong lúc vội vàng, anh quên chưa đọc lá thư của cha mình. Chợt nhớ tới anh vội bóc phong bì. Lá thư của mục sư nhắc nhở người con trai gìn giữ đức tin vào Thiên Chúa, không được suy sút tinh thần.

Mục sư cho biết những tin tức về cuộc sống hàng ngày ở Marchbolt, phàn nàn về người chơi đàn oóc gan và sự trễ nải việc thờ phụng Chúa của những người trông giữ nhà thờ. Ông ước ao con trai của ông yêu cuộc sống làm ăn lương thiện, biết cư xử như một người ngoan đạo và luôn giữ được lòng yêu kính cha.

Dưới thư có thêm vài dòng tái bút:

“Có một người đến hỏi địa chỉ của con ở Londres. Cha đi vắng không gặp ông ta, và ông ta cũng không để lại địa chỉ. Chị Robert có kể lại đó là một người đàn ông to lớn, lưng hơi còng, đeo kính cặp mũi. Ông ta có vẻ thất vọng vì không gặp được con và mong được gặp con càng sớm càng tốt."

Một người to lớn, còng, mang kính cặp mũi!

Bobby điểm lại trong óc tất cả những người quen cũ của mình nhưng chẳng thấy người quen nào có những đặc điểm như thế. Những kẻ thù lén lút cũ của anh lại đang muốn tìm lại anh chăng?

Trong trường hợp này nếu như chị Roberts đã cho chúng biết địa chỉ của anh, thì có thể chúng đã bố trí rình rập anh quanh xưởng. Anh đi đâu, chúng sẽ bám theo... và như vậy sẽ cực kỳ nguy hiểm.

- Badger! - Bobby gọi bạn.

- Chuyện gì thế, anh bạn?

- Lại gần đây!

Bobby dành tới năm phút nhắc nhở bạn mình các phương án cảnh giác, cho tới lúc Badger thuộc lòng những điều căn dặn.

Tiếp sau đó, Bobby trèo lên chiếc Fiat 1902 hai chỗ ngồi, phóng với tốc độ cao trên đại lộ.

Anh đỗ chiếc Fiat trên quảng trường Saint James và từ đó đi bộ tới câu lạc bộ của mình, nơi mà anh gọi điện thoại tới một vài chỗ khác. Hai tiếng sau có nhiều bọc hành lý được mang tới. Bọc nào cũng ghi tên anh là người nhận. Khoảng ba rưỡi có một tài xế mặc quần áo màu xanh sẫm, từ câu lạc bộ đi thẳng đến chiếc xe Bentley đậu trên quảng trường Saint James từ lúc một rưỡi. Người giữ xe chào người tài xế, và giao chiếc xe cho anh sau khi đã kiểm tra giấy tờ mà anh đã được người gửi xe có giọng nói lắp dặn trước.

Bobby lái chiếc Bentley rời khỏi quảng trường còn chiếc Fiat thì do Badger lái về xưởng. Mặc dù môi trên của anh bị bộ râu giả làm cho vướng víu một chút nhưng trong lòng anh tràn ngập niềm vui. Anh không lái xe đi thẳng theo hướng nam ngay, mà lái theo hướng ngược lại. Sau khi đã thận trọng kiểm tra lại và chắc chắn là không bị chiếc xe nào bám đuôi, anh rẽ trái và lái theo đường đi Hampshire.

Tại lâu đài Merroway, vào lúc mà mọi người vừa uống trà xong thì một chiếc Bentley lớn lao vào con đường nhỏ trong khuôn viên. Một tài xế ăn mặc nghiêm chỉnh và lái xe thành thạo đúng cách.

- Kìa! - Frankie nói - Xe của tôi!

Tiểu thư ra đón xe ở cổng vào.

- Chào Hawkins, khoẻ chứ?

Người tài xế đưa tay lên mũ lưỡi trai chào:

- Thưa tiểu thư. Xe đã được tu sửa lại nghiêm chỉnh!

- Tốt lắm!

Người tài xế đưa một phong thư cho Frankie.

- Đấy là thư của ngài Hầu tước, thưa tiểu thư.

Frankie cầm lấy lá thư:

- Anh hãy thuê một phòng trọ... Ở nhà trọ Pêcheurs à la Ligne ở Staverley. Ngày mai nếu cần xe, tôi sẽ gọi điện thoại cho anh.

- Xin vâng, thưa tiểu thư!

Bobby chào, quay sau và đi tới chỗ đỗ xe.

- Rất tiếc là ga-ra của chúng tôi thiếu chỗ đỗ - Sylvia nói - Chiếc xe mới đẹp làm sao!

- Loại xe này chạy với tốc độ cao - Roger nhận xét.

Rõ ràng Roger không hề nhận ra Bobby. Chính Frankie cũng vậy. Nếu tình cờ gặp anh thì cô cũng chẳng nhận ra. Bộ râu của anh trông rất tự nhiên, lại thêm cái dáng vẻ cứng đờ, khác với bình thường, làm cho sự cải dạng của anh thêm phần hoàn hảo. Hơn nữa Bobby còn thay đổi tiếng nói và lần đầu tiên, Frankie nhận ra là anh đã nhiều tài hơn là cô vẫn tưởng.

Bobby đã tới trọ ở nhà trọ Pêcheurs de la Ligne và anh đã ung dung trong vỏ bọc Edouard Hawkins tài xế của tiểu thư Frances Derwent.

Thực ra Bobby cũng không hiểu lắm về cách cư xử, lời ăn tiếng nói của tài xế cho lắm. Tuy vậy anh cũng nhạy bén ứng xử cho hợp với bối cảnh giao tiếp. Chẳng hạn cũng hiểu được là một tài xế của một gia đình quí tộc thì cũng phải có một thái độ kiêu căng nhất định. Những ánh mắt đầy vẻ khâm phục của các cô hầu gái trong nhà trọ đã làm cho anh tự tin hơn vào thái độ cư xử của mình. Anh mau chóng khám phá ra rằng vào lúc này, tai nạn ôtô do tiểu thư Frankie gây nên đã trở thành chủ đề hấp dẫn trong các câu chuyện hàng ngày.

Đối với người chủ nhà trọ thì Bobby lại có thái độ thân mật gần gũi chứ không kiêu căng để anh ta giúp đỡ cung cấp cho những thông tin cần thiết ở địa phương.

- Anh chàng đưa thư có tên là Beaves đã có mặt trong khi xảy ra tai nạn - ông chủ nhà trọ Askew kể với Bobby.

Bobby chăm chú lắng nghe thậm chí khuyến khích chàng trẻ tuổi nọ tô vẽ thêm những chi tiết ly kì về cái tai nạn làm xôn xao dư luận ấy. Một nhân chứng mục kích kể lại thì ai mà chẳng tin.

- Cậu bé đưa thư lúc đó tưởng chết đến nơi. Chiếc ôtô lao xuống dốc nhằm thẳng vào hắn ta nhưng thật may là đã húc vào tường vỡ ra từng mảnh chứ không cán chết cậu bé. Cô tiểu thư cũng đã rất may không bị chết tại chỗ.

- Ồ! Chẳng phải là lần đầu tiểu thư thoát chết.

- Có lẽ nào lại thế? Vậy thì tiểu thư đã nhiều lần bị tai nạn rồi sao?

- Lần nào xảy ra, tiểu thư cũng thoát chết! Anh Askew này! Anh có biết tôi sợ hãi như thế nào mỗi khi tiểu thư cầm tay lái? Ngồi trên chiếc xe do tiểu thư lái tôi cứ cầm chắc là mình đang đi sang thế giới bên kia.

Những người ngồi nghe chuyện gật đầu tán thưởng và có vẻ thích thú lắm.

- Anh Askew này! Nhà trọ của anh thật là tuyệt! - Bobby ca ngợi lòng mến khách của chủ trọ - Phòng trọ vừa đẹp vừa sạch sẽ!

Askew hài lòng, cười rạng rỡ:

- Có phải trong vùng ta, lâu đài Merroway là lớn nhất? - Bobby hỏi.

- Còn một nơi nữa là “La Grauge" cũng lớn. Nhưng “La Grauge" hiện nay chẳng phải là một nhà riêng. Trước đây nó đã từng bỏ không, chẳng ai ở, cho tới khi có một thầy thuốc Mỹ đến...

- Một thầy thuốc Mỹ?

- Vâng... Ngài Nicholson, Ông Hawkins này, tôi chẳng hề bịa đặt... có rất nhiều chuyện lạ trong ngôi nhà này. Một người đầy tớ gái kể rằng ông bác sỹ này đã làm cô ta sợ đến nổi gai ốc…

- Anh Askew! Anh nói là ngôi nhà “La Grauge" có nhiều chuyện lạ lắm sao? Hãy kể cho tôi nghe...

Askew hạ thấp giọng:

- Có nhiều bệnh nhân bị cưỡng ép vào đấy và bị giam giữ như tù... Những người bị gia đình họ ruồng bỏ. Tôi không hề bịa đặt chút nào... chính tai tôi nghe thấy những tiếng than khóc rên rỉ của những người sống nội trú trong cái trung tâm điều dưỡng ấy.

- Tại sao cảnh sát không can thiệp?

- Hình như nhà đều dưỡng được phép mở hợp pháp. Ông bác sĩ người Mỹ này điều trị các căn bệnh thần kinh, những người điên không còn khả năng tự vệ...

- Ồ! Nếu như công luận biết được sự thật đang diễn ra trong cái cơ sở y tế mờ ám đó! - Bobby thốt lên giọng nói đầy vẻ bất bình.

Một người hầu gái mang lên cho anh một vại bia cũng góp ý kiến riêng của mình.

- Đó cũng là ý kiến của tôi, thưa ông Hawkins. Có khá nhiều phụ nữ xinh đẹp bị giam giữ ở trong khu nhà đó! Một đêm, một trong những người đàn bà khốn khổ đó mặc quần áo ngủ bỏ trốn ra ngoài... Người thầy thuốc và hai người nữ y tá lùng tìm. "Hãy cứu tôi! Đừng để họ bắt lại tôi!" người đàn bà đó gào khóc. Gia đình chị ta đã gửi nhốt chị ta ở trong đó nhằm tướt đoạt của cải của chị . Khi người ta dẫn chị trở lại nhà điều dưỡng, bác sĩ Nicholson đã nói với mọi người là chị ta đang mắc bệnh hoang tưởng bị truy hại...

- Chà! - ông Askew kêu lên - thật là một thủ đoạn vô lương tâm khi gán sai bệnh cho người ta. Dư luận còn lên án phương pháp triều trị ác độc của người thầy thuốc ở đây, coi đó là một sự hổ thẹn của ngành y tế.

Bobby có ý định đi dạo một vòng trước khi đi ngủ. “La Grauge" ở cuối làng, bên sườn đồi đối diện với lâu đài Merroway. Anh lững thững đi về hướng đó. Những mẩu chuyện mà anh nghe được đáng để cho anh mở một cuộc điều tra. Mọi lời đồn đại về cái trạm điều dưỡng này cần được xem xét thực hư. Nếu Nicholson cai quản một cơ sở cai nghiện bên trong có những người tiêm chích ma túy thì chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi người ta nghe thấy những tiếng rên rỉ than khóc, tuy nhiên câu chuyện về một người phụ nữ xinh đẹp bỏ trốn đã thực sự gây ra một ấn tượng mạnh mẽ cho Bobby.

"La Giauge” có thực là một nơi người ta cưỡng bức, giam giữ những người hiền lành không có bệnh tật? Và sự có mặt của một số những bệnh nhân đích thực thì chỉ là để che mắt.

Đang mải miết vừa đi vừa nghĩ ngợi thì đã thấy một bức tường rất cao bên trên có gắn cọc và lưới sắt. Có thể trèo qua được không nhỉ? Tường cao lại trát phẳng lỳ, chẳng có chỗ nào rạn nứt để bấu víu, cũng khó mà leo qua nổi. Anh tới cổng chính thấy cửa đóng im ỉm lại khoá y hệt như cửa nhà tù.

Đi vòng quanh bất chợt anh nhận ra một cái cửa nhỏ. Anh thử đẩy xem sao thì chợt hai cánh cửa mở ra. "Có lẽ họ quên đóng", Bobby thầm nghĩ như vậy.

Anh lẻn vào bên trong khu nhà và nhẹ nhàng khép hai cánh cửa lại .

Anh đi dọc theo một con đường nhỏ khúc khuỷu băng qua một lùm cây và bỗng thấy mở ra một khoảng đất trống ở đầu dãy nhà. Đó là một đêm trăng đẹp và dưới ánh trăng tỏ, Bobby đi sâu vào bên trong khu nhà.

Có bóng một người phụ nữ xuất hiện ở góc một ngôi nhà. Người đàn bà bước đi với điệu bộ rụt rè, nhìn quanh mãi rồi mới lại bước tiếp chẳng khác gì một con vật vừa xổng khỏi bẫy. Bất chợt người đàn bà đó lảo đảo đứng không vững như muốn ngã xuống.

Bobby nhảy vội tới đỡ chị ta trong vòng tay của anh. Chị ta mặt nhợt ra, dáng vẻ rất sợ hãi.

Bobby nhẹ nhàng an ủi:

- Đừng sợ gì cả. Tôi đỡ chị...

Người phụ nữ trẻ thở dài rồi thì thào:

- Tôi sợ.

- Chị sợ gì vậy? - Bobby hỏi.

- Tôi sợ…. tôi sợ... - Chị ta cứ nói đi nói lại câu nói hoảng hốt.

Bất chợt, như nghe thấy tiếng chân, chị rời xa Bobby.

- Hãy đi ngay! Đi nhanh lên!

- Tôi muốn cứu giúp chị.

- Thật không?

Rồi chị ta lắc đầu.

- Chẳng ai có thể cứu nổi tôi đâu!

- Tôi thực lòng mà. Hãy cho tôi biết phải làm gì. Tại sao chị lại sợ hãi đến như thế?

- Tôi không thể trả lời anh được vào lúc này. Hãy đi mau! Họ đến kìa! Nếu anh muốn giúp tôi, hãy cứ khỏi đây ngay!

Bobby đành phải làm theo lời của người phụ nữ đang quá sợ hãi.

- Tôi ở nhà trọ "Pêcheurs da la Ligne” - Bobby nói địa chỉ của mình trước khi anh rời đi theo con đường nhỏ.

Anh nghe thấy tiếng chân phía trước anh. Có ai đó đang đi từ phía cổng phụ đi vào. Bobby ẩn mình sau lùm cây. Một người đàn ông đi lướt qua chỗ anh núp, nhưng lối đi bị bóng cây che tối sẫm lại; anh chẳng nhận rõ được hình dạng người vừa đi qua.

Thấy đã yên ổn Bobby liền theo con đường nhỏ đi ra khỏi khu nhà. Trong phạm vi một buổi tối, anh chẳng thể làm thêm được việc gì khác nữa.

Tư tưởng anh như bị sửng sốt đến quay cuồng.

Anh đã nhận ra người đàn bà... và chẳng còn hoài nghi gì nữa...

Đó chính là người đàn bà mà anh đã nhìn thấy ảnh trong túi người bị nạn ở vách đá!

Chương 16 : Bobby trở thành luật sư

hưa ông Hawkins?

- Vâng! - Bobby trả lời.

- Ông có điện thoại.

Bobby uống nết ngụm cà phê, lau miệng và đứng dậy. Điện thoại đặt ngoài hành lang tối. Anh nhấc ống nghe.

- Alô! - Giọng nói của Frankie.

- Alô, Frankie, tôi nghe đây! - Bobby trả lời.

- Tiểu thư Frances Derwent đây! Anh đấy, Hawkins? - Giọng nói của Frankie nghiêm nghị.

- Thưa tiểu thư, vâng!

- Tôi cần xe vào lúc mười giờ đi Londres.

- Có ngay, thưa tiểu thư.

Bobby gác máy.

Ở đầu giây bên kia, Frankie cũng cắt máy rồi quay sang Roger Bassington-ffrench.

- Phiền quá, tôi phải đi Londres ngày hôm nay. Ba tôi mà đã quyết thì chẳng thể thay đổi được.

- Tiểu thư trở lại vào chiều nay chứ?

- Vâng.

- Tôi định hỏi tiểu thư xem có thể cùng về Londres trên chiếc xe này? - Roger hỏi.

Frankie đắn đo giây lát trước khi trả lời với một thái độ hết sức tự nhiên:

- Xin mời, chẳng có gì trở ngại cả.

Roger nghĩ một lát.

- Tôi chợt nhớ ra là tôi chẳng đi được vào ngày hôm nay. Henry tính khí đột nhiên trở nên thất thường tôi chẳng muốn để Sylvia ở nhà một mình với anh ta.

- Tôi rất thông cảm - Frankie nói.

- Cô tự lái chiếc Bentley chứ? - Roger hỏi khi họ cùng đi vào trong nhà.

- Vâng, nhưng tôi cho cả tài xế cùng đi để khi vào các cửa hàng mua sắm có người trông xe. Chẳng thể để xe ở bất kỳ chỗ nào.

- Tất nhiên.

Vào lúc lên đường, Frankie đưa tay ra bắt tay Roger. Anh ta nắm lấy tay cô gái, giữ lại một lúc trong tay mình.

- Chiều nay cô về nhé, đúng không? - Roger nài nỉ với Frankie.

Frankie tươi cười .

- Chắc chắn là như thế!

- Nhưng đừng để xảy ra tai nạn nữa nhé!

- Nếu anh muốn, tôi để cho Hawkins lái.

Cô đi tới chỗ Bobby đang khi chàng trai giơ tay lên vành mũ để chào.

Chiếc Bentley đã chạy một quãng xa trên đường vẫn còn thấy Roger đứng trên bậc nhìn theo.

- Bobby! - Frankie hỏi - Anh có cho rằng Roger mê tôi?

- Mê cô ư? - Bobby lơ đễnh trả lời.

Frankie liếc mắt quan sát thái độ của Bobby.

- Anh có điều tra được điều gì mới?

- Tôi tìm ra người phụ nữ trong tấm ảnh tìm thấy ở túi nạn nhân...

- Anh muốn nói là người phụ nữ xinh đẹp mà ảnh cô ta tìm thấy ở túi người chết?

- Đúng vậy.

- Bobby! Tôi cũng có những tin mới kể cho anh nghe, nhưng chẳng có tin nào gây được ấn tượng mạnh như thế. Vậy bà ta hiện nay ở đâu?

- Trong nhà điều dưỡng của bác sĩ Nicholson.

- Làm sao mà anh biết được?

Bobby thuật lại những việc xảy ra tử tối hôm trước cho tới chiều hôm sau. Frankie lắng nghe, đánh giá cao những manh mối mà Bobby đã lần tìm ra được.

- Chúng ta đã lần tìm ra được những đầu mối quan trọng để khám phá ra những điều bí ẩn của vụ án - Frankie nói - Giờ đây thêm một Nicholson, người thầy thuốc dính líu đến vụ này. Bobby này, phải cảnh giác với ông ta!

- Con người này ra sao?

- Ồ, con người có dáng vóc oai nghiêm với đôi mắt soi mói, dò xét sau cặp kính dầy, gặp ai cũng làm cho người ta có cảm giác là ông ta đã biết hết về cuộc đời riêng của mình.

- Cô đã gặp ông ta ở đâu?

- Trong một bữa ăn tối ở lâu đài Merroway.

Frakie kể lại cho Bobby nghe những diễn biến xảy ra trong bữa ăn đó, đặc biệt là Nicholson cố tình hỏi xoáy vào những chi tiết đáng ngờ của vụ tai nạn ôtô giả mạo.

- Tôi cho rằng ông ta nghi ngờ về cái tai nạn trên.

- Tôi đồng ý với nhận định của cô. Việc xoáy hỏi vào các chi tiết tai nạn thế là không bình thường chút nào. Nhưng theo ý cô ai là thủ phạm chính trong vụ án?

- Một băng buôn bán chất ma tuý...

- Và Nicholson là tên đầu sỏ?

- Đúng vậy! Nhà điều dưỡng của chúng chỉ là một cách che mắt tinh vi: cho phép chúng tàng trữ và buôn bán hợp pháp một lượng đáng kế chất ma túy. Danh nghĩa là cai nghiện nhưng thực chất lại là dung túng lôi cuốn những kẻ nghiện hút ma túy.

- Nhận định của cô chẳng phải là không có thực tế…

- Tôi còn chưa nói với anh về Henry Bassington-ffrench.

Bobby lắng nghe một cách chăm chú những điều mà Frankie kể về người chủ lâu đài Merroway, nhất là sự thay đổi tính khí đột ngột mỗi khi thiếu moóc phin.

- Vợ ông ta không biết gì sao?

- Tôi chắc là như vậy.

- Người đàn bà này ra sao? Có thông minh không?

- Chẳng nhạy bén chút nào... Tuy nhiên, ở một số lĩnh vực, bà ta lại tỏ ra rất tinh tế. Nhận xét ngắn gọn đó là một phụ nữ bình dị và thẳng thắn.

- Còn Roger Bassington-ffrench?

- Con người này thì... tôi còn phải suy nghĩ và xem lại. Bobby này, liệu trước đây chúng ta có xét đoán lầm về anh ta?

- Không! Tôi nhắc lại. Ngay từ lúc đầu chúng ta đã phát hiện dấu hiệu phạm tội của anh ta.

- Về tấm ảnh chứ gì?

- Đúng vậy! Ngoài hắn ra còn ai có thể đánh tráo tấm ảnh bà Cayman vào tấm ảnh người phụ nữ xinh đẹp.

- Tôi biết điều ấy - Frankie nói - nhưng ngoài điều ấy ra... chẳng có điều gì khác đáng ghép tội hắn…

- Chỉ điều ấy mà cũng chưa đủ ghép tội sao?

- Tất nhiên. Nhưng… hãy nghe tôi nói Bobby, tôi có trực cảm rằng anh ta vô tội… rằng anh ta chẳng can dự gì vào vụ án.

Bobby lạnh lùng dằn dỗi:

- Hay là vì hắn ta mê cô, và chính cô cũng bị hắn ta làm cho say đắm?

Frankie đỏ mặt lên vì giận:

- Anh thật vô lý, Bobby. Nhưng thử hỏi chúng ta đã tìm ra được lời giải đáp nào cho cái hành động thay thế tấm ảnh đó chưa? Ít ra thì cũng phải nói lên được hắn thay tấm ảnh nhằm mục đích gì chứ?

- Tôi cũng chưa tìm ra được lời giải… kể từ khi phát hiện ra anh ta và chỉ có anh ta tráo tấm ảnh. Nhưng nếu… chúng ta khám phá ra được người chết là ai…

- Tôi đã khám phá ra được người chết là Alan Carstairs như trong thư tôi viết cho anh.

Frankie nhắc lại với Bobby về một người ở nước ngoài về nước có tên là Alan Carstairs, do miệng của Sylvia, bà chủ lâu đài nói ra.

- Chúng ta đã thực sự tìm ra được một số manh mối - Bobby nói - Giờ đây chúng ta cần hệ thống lại tất cả khái quát tình hình và định ra mục tiêu mới.

Bobby yên lặng một lát, nhấn ga cho xe chạy nhanh hơn rồi lại nói tiếp:

- Trước hết, giả sử đúng người chết là Alan Carstairs. Anh ta có một cuộc sống phiêu lưu nay đây mai đó ở nước ngoài, không có người thân thích bạn bè ở trong nước, thì sự mất tích của anh trôi qua đi chẳng ai quan tâm đến. Đến đấy không có vấn đề gì cần tìm hiểu... Nhưng từ khi Alan Carstairs về nước, đến Staverley thì đi với những ai… họ tên là gì nhỉ…

- Rivington. Đấy chính là đầu mối để chúng ta lần tìm tiếp...

- Vậy Carstairs có cùng với Rivington đến Staverley làm gì? Cô đã biết gì về điều này chưa?

- Giả sử anh ta nhờ bạn bè dẫn tới Staverley hoặc cùng đi?

- Có thể là như vậy. Hoặc giả gia đình Rivington mời anh ta đến chơi và anh ta tình cờ gặp người đàn bà có tấm ảnh như chính tôi cũng đã gặp cô ta vừa rồi. Có điều là anh ta phải biết cô ta từ trước, nếu không thì chẳng mang theo tấm ảnh làm gì.

- Hay cũng có thể anh ta cùng đường dây của Nicholson và băng buôn bán ma tuý của hắn - Frankie nói…

- Và nhờ Rivington để đi sâu vào địa phương.

- Các tình huống trên đều có thể xảy ra - Frankie thừa nhận - Anh ta có mối liên quan gì đó với băng nhóm này.

- Hoặc đơn giản hơn là với người đàn bà trẻ ấy. Và Carstairs có thể từ nước ngoài trở về Anh để tìm người đàn bà này chăng?

- Nhưng Bobby này! Anh ta đã gặp người ấy ở Staverley rồi thì còn đến xứ Galles làm gì?

- Còn rất nhiều điều khúc mắc chúng ta chưa biết được.

- Evans... - Frankie nhắc đến cái tên này với dáng vẻ suy nghĩ - Chúng ta vẫn chưa biết một điều gì về Evans cả...

Cả hai yên lặng trong ít phút. Bắt chợt Frankie nhận ra nơi mà họ định đi tới:

- Chúng ta đã đến Putney Hill.

- Định đi đâu và làm gì là do cô sắp đặt đi! Chính tôi cũng chưa biết chúng ta hôm nay đến Londres làm gì.

- Thực ra là chuyến đi này chỉ là một cái cớ để tôicó thể bàn bạc với anh. Chúng ta chẳng thể tìm đến những con đường vắng vẻ ở Staverley để chuyện trò với nhau được. Một tiểu thư với người tài xế của mình làm như vậy sẽ bị chứng nghi ngờ ngay. Roger Bassington-ffrench chẳng phải là kẻ khờ khạo, khó mà che nổi mắt hắn.

- Băng nhóm của chúng chẳng để chúng ta yên!

- Tốt nhất là chúng ta tới phố Brook để bàn bạc. Vì nếu đi về xưởng của anh thì cũng có thể nơi đó cũng đang bị tay chân của chúng theo dõi.

Bobby cũng nói cho Frankie biết là có một kẻ lạ mặt đến Marchbolt dò hỏi địa chỉ của anh ở Londres.

- Bởi vậy đến nhà tôi là tốt nhất - Frankie nói - Chẳng có ai ngoài người hầu phòng gái và nhóm bảo vệ.

Hai người tới khách sạn riêng của Hầu tước ở phố Brook. Frankie bấm chuông. Có người ra mở cửa. Cô vào nhà, còn Bobby ngồi lại ngoài ôtô. Một lát sau Frankie trở lại, lấy tay ra hiệu cho Bobby vào bên trong nhà. Họ lên phòng khách nơi mà các cửa sổ nhỏ trên cao đã được mở cho thông thoáng và các khăn phủ ghế sô pha đã được nhấc lên để đón khách.

- Tôi quên chưa nói với anh một vài chi tiết liên quan đến việc chúng muư sát anh vừa qua. Ngày 16 là ngày anh bị đầu độc, Bassington-ffrench ở Staverley nhưng Nicholson thì không ở nhà. Hắn nói là đi Londres dự một hội nghị khoa học. Chiếc xe ôtô của hắn là chiếc xe Talbot mầu xanh sẫm trùng hợp với chiếc xe mà một người dân đã báo cho cảnh sát trong vùng biết là đã đỗ ở gần chỗ anh bị đầu độc...

- Và Nicholson thì lúc nào cũng sẵn moóc phin.

- Đó chưa phải là những bằng chứng tuyệt đối để cho hắn không còn đường chối cãi, nhưng rõ ràng đó là những sự trùng hợp gây ấn tượng mạnh.

Frankie đi tới một cái bàn nhỏ lấy cuốn danh bạ điện thoại lại.

- Cô tìm gì đấy? - Bobby hỏi.

- Tôi tìm tên của Rivington...

Cô lật nhanh các trang danh bạn:

- A. Rivington và các con, những nhà thầu khoán; B.A.G. Rivington phẫu thuật - nha khoa; D. Rivington có thể là ông này... địa chỉ Phố Tite, Chelsea...

Cô tìm tiếp:

- Đây lại M .R. Rwington quảng trường Onslow... và một William Rivington ở Hampstead. Tôi cho rằng chỉ có hai Rivington một ở phố Tite và một ở quảng trường Onslow. Ta sẽ đến tìm một trong hai người này.

- Được lắm. Nhưng nói gì với họ? Frankie! Hãy bịa ra một vài câu nói dối cho thật hay vào! Cái trò này thì tôi dốt đặc.

Frankie nghĩ một lát.

- Phải nghĩ ra một cái cớ nào đó để đến thăm họ. Có thể lấy tư cách là một người được uỷ nhiệm đến để điều tra hoặc hỏi tin tức về ai đó chẳng hạn.

- Ý đó xem ra được, nhưng phải diễn cho thật đúng vai trò. Tôi ngại là đóng vai vụng về làm hỏng việc. Tuy nhiên, bình thường ra thì những người đại diện cho pháp luật không đích thân đến quấy rầy ai kiểu ấy. Họ thường viết giấy gọi, hoặc hẹn khách hàng đến phòng làm việc...

- Cũng vẫn có những cuộc điều tra ngoại lệ chứ. Chờ tôi một phút.

Frankie đi sang phòng bên cạnh và khi trở lại đem theo một tấm thiếp.

- Ông Frédéric Spragge... - Frankie đưa tấm thiếp cho Bobby - Anh sẽ lấy tư cách là đại diện cho Hãng Spragge, Jenkinson & Spragge ở Quảng trường Bloomsbury đến thanh tra.

- Cô bịa ra một hãng ma à Frankie?

- Ma gì, một hãng thực hẳn hoi, những người được ba tôi ủy nhiệm mà...

- Nhưng lỡ họ phát hiện ra sự giả mạo, dùng giấy tờ giả mạo?

- Chẳng có gì nguy hiểm cả. Trước hết chẳng có một Spragge trẻ. Chỉ có một ông Spragge năm nay phải tới bảy mươi tuổi rồi, ông ta rất quý tôi. Nếu có chuyện gì, tôi thu xếp xong ngay.

- Thế còn quần áo? Có phải điện cho Badger đem tới cho tôi?

Frankie lưỡng lự một lát.

- Tôi đang tính trong tình huống này có lẽ tìm mượn trong tủ quần áo của ba tôi? Tầm vóc của anh cũng bằng cỡ với cụ.

Mười lăm phút sau, Bobby chững chạc trong một bộ gồm veston đen, quần có đường kẻ, mặc vừa vặn trông rất lịch sự. Soi ngắm vào tấm gương đứng của Hầu tước Marchington, Bobby thấy hài lòng với cái vỏ của một thanh tra.

- Cha cô ăn mặc lịch sự thật, toàn đồ xịn - Bobby nói - núp dưới cái bóng của Hãng liên doanh của Hầu tước đóng vai người đại diện đi thanh tra, tôi cảm thấy vững vàng tinh thần.

- Anh vẫn giữ bộ râu đấy chứ?

- Dường như nó chẳng muốn rời tôi nữa rồi! Vả lại cái "công trình nghệ thuật này" chẳng thể làm lại một cách vội vàng bởi vậy...

- Vậy thì anh cứ giữ nó... mặc dù một gương mặt nhẵn nhụi thì hợp với người làm luật pháp hơn.

- Để hợp với bộ râu này, Frankie, cô hãy cho tôi mượn cái mũ của ba cô.

Chương 17 : Bà Rivington kể lại

rước khi rời khỏi phòng khách, Bobby hỏi thêm:

- Thế nếu M.R. Rivington ở quảng trường Onslow, trước đây cung là một thanh tra của Hãng thì sao? Coi chừng, ta có hớ hênh gì không?

- Điều ấy thì anh cứ yên tâm, đại tá Rivington ở phố Tite - Frankie nói rõ cho Bobby biết - không hề biết gì về công việc thanh tra đâu.

Bobby thuê một xe taxi đến phố Tite. Đại tá đi vắng, nhưng có vợ ông ta ở nhà. Bobby đưa cho người hầu gái tấm thiếp trong đó có dòng chữ “Thanh tra của Hãng đến trao đổi công việc với ông Spragge, Công ty Jenkinson và Spragge. Khẩn".

Tấm danh thiếp và bộ quần áo cửa hầu tước Marchington đã gây ấn tượng mạnh cho người hầu gái. Bobby được mời vào phòng khách sang trọng với các đồ gỗ lộng lẫy và một lát sau bà Rivington, ăn mặc cầu kỳ, trang điểm phấn son ra tiếp anh.

- Thưa bà, xin bà thứ lỗi cho tôi đã đến làm phiền bà, nhưng vì công việc thanh tra của hãng chúng tôi rất cần kíp, chẳng thể trễ nải kỳ hạn trao đổi về thư tín giao dịch...

Một thanh tra của hãng mà lại muốn tránh mọi chậm trễ trong tiến độ công việc giao dịch... cái mục đích anh nói ra chẳng được hợp lý lắm, nhưng dù sao thì cũng trót nói rồi và anh tự hỏi chẳng rõ bà Rivington có để ý đến khía cạnh đó không.

May thay, bà Rivington cũng chỉ là người đàn bà trí tuệ nông cạn chẳng chú ý xét nét gì lắm, nên bằng lòng tiếp anh.

- Xin mời ông ngồi. Tôi cũng vừa nhận được một cú điện thoại báo cho biết cuộc đến thăm của ông.

Trong thâm tâm, Bobby tham khen ngợi cách ứng xử khôn khéo tuyệt vời của người bạn gái...

Anh ngồi ngay ngắn, diễn xuất cho đúng với thái độ của một thanh tra pháp lý.

- Tôi muốn có một số thông tin về khách hàng của chứng tôi, ông Alan Carstairs.

- À! À!

- Có thể ông ta đã nói với ông bà biết chúng tôi luôn quan tâm đến điều mà ông ta nhờ cậy?

- À! Đúng thế - bà Rivington nói và đôi mắt xanh của bà mở to biểu lộ sự ngạc nhiên - Tôi đã biết danh tiếng của ông. Có phải chính ông đã đứng ra bảo vệ cho Dolly Maltravers khi cô ta ngộ sát người thợ may ghê tởm đó? Chắc ông đã biết rõ mọi chi hết về vụ án này.

Bà ta chuyện trò với Bobby với sự hiếu kỳ chân thành không có vẻ gì là giả tạo. Bobby hiểu bà ta là một phụ nữ thật thà, mẫn cảm, có thể dễ dàng dò hỏi bà ta về Alan Carstairs.

- Chúng tôi đã nắm được khá nhiều điều mà chính toà án cũng chưa chắc đã biết - Bobby tươi cười trả lời bà ta.

- Ồ tôi hiểu! Vậy có phải đứng là cô ta vẫn mặc quần áo như một nhân chứng đã khai?

- Nhưng toà án đã bác lời làm chứng gian dối đó...

- Tôi hiểu...

Bà Rivington có vẻ thích thú với câu chuyện vụ án làm xôn xao dư luận ấy...

Nhận ra là mình đang làm chủ được tình thế, Bobby tranh thủ hỏi thêm những điều mà anh muốn biết.

- Ông bà có biết ông Alan Carstairs đã đột ngột rời khỏi nước Anh?

Bà Rivington lắc đầu:

- Ồ! Quái nhỉ! Tôi không hề biết điều ấy! Đã lâu chúng tôi chẳng gặp ông ta.

- Ông ta có nói với ông bà thời gian ông ta định ở lại bao lâu không?

- Ông ta nói định ở lại một hoặc hai tuần, nhưng nếu vì nhu cầu công việc thì có thể ở lại lâu hơn sáu tháng hoặc một năm.

- Thời gian đến thăm ông bà, Alan Carstairs ở khách sạn nào?

- Khách sạn Savoy.

- Ông bà gặp ông ta lần cuối cùng vào khi nào?

- Cách đây khoảng ba tuần hoặc một tháng gì đó, tôi nhớ chẳng được chính xác.

- Có một lần ông bà đưa ông ta về Staverley phải không?

- Có. Và hình như đó là lần cuối cùng mà chúng tôi gặp ông ta. Có thêm một lần nữa ông ta gọi điện cho chúng tôi hỏi bao giờ thì có thể gặp lại. Cú điện ấy ông ta gọi ở Staverley trước khi về Londres. Chồng tôi rất lấy làm tiếc vì ngay sáng hôm sau chúíng tôi đi Ecosse. Hôm về Staverley, chúng tôi đi ăn trưa tại gia đình Bassington-ffrench. Và tối hôm đó ăn tối tại nhà một người bạn mà chúng tôi chẳng thể từ chối. Hubert muốn, bằng mọi giá, gặp bằng được Carstairs vốn là một trong những người bạn cũ thân thiết của chúng tôi. Đó là những việc chúng tôi đã làm và mọi người đều lấy làm hân hạnh gặp ông ta.

- Ông ta có nói với ông bà về lý do khiến ông ta về nước?

- Không... À! Có đấy! Đó là vì chuyện một người bạn thân của ông ta, một nhà triệu phú đã chết một cách thảm khốc. Một thầy thuốc đã chẩn đoán nhầm cho ông ta nói là ông ta bị ung thư và ông ta đã tự sát. Thà rằng cứ để cho bệnh nhân chẳng biết gì về bệnh của mình, còn hơn là chẩn đoán sai lầm giết người ta về tinh thần. Giống như thầy thuốc của gia đình chúng tôi, chẩn đoán cho cháu gái là bệnh sởi trong khi nó chỉ phát mụn nhọt vì nóng. Tôi đã nói với Hubert là sẽ thay người thầy thuốc này.

Chẳng quan tâm gì lắm đến những lời nhận xét của bà Rivington về những người thầy thuốc, Bobby hướng câu chuyện về chủ đề cũ.

- Ông Carstairs có thân lắm với gia đình Bassington-ffrench?

- Không thân lắm nhưng tôi thấy gia đình Bassington-ffrench có cảm tình với ông ta. Tuy nhiên Carstairs khi rời khỏi gia đình Bassington-ffrench ra về đã tỏ ra trầm mặc... Chắc là có điều gì đó làm cho ông ta nghĩ ngợi. Đó là một người Canada, và người Canada thường rất nhạy cảm.

- Carstairs có đi dạo trong vùng?

- Không.

- Gia đình Bassington-ffrench có mời thêm ông ta lần nào nữa không? Carstairs có gặp những người nào khác trong vùng?

- Không, chỉ có chúng tôi và họ thôi. Nhưng... hình như... để tôi nhớ lại xem...

- Sao?

- Carstairs có hỏi chúng tôi về một số người trong vùng.

- Những người nào, tên là gì, thưa bà Rivington?

- Tôi chẳng nhớ rõ lắm. Hình như một người nào đó là thầy thuốc, đại loại là như vậy.

- Bác sỹ Nicholson?

- Vâng... đúng là người có cái tên đó. Carstairs nói khá nhiều chi tiết về vợ của người thầy thuốc đó và muốn biết họ về sống ở vùng này từ bao giờ. Việc Carstairs hỏi làm tôi cứ buồn cười mãi vì ông ta đi bao nhiêu năm mới về vùng này thì làm sao mà biết được ai, sự tò mò đó thật chẳng mang lại lợi ích gì. Nhưng có lẽ chỉ là cách nhằm duy trì cuộc trao đổi chuyện trò mà thôi.

Bobby chẳng nghĩ đến chuyện gì khác là khai thác thêm những điều bà ta biết về Carstairs và giờ đây anh muốn hỏi thêm về bác sỹ Nicholson. Nhưng bà Rivington đã không biết gì nhiều về người thầy thuốc. Hôm đó vào lúc mà bà ra thăm vườn tược cùng với Roger Bassington-ffrench trở vào thì cũng có nghe những người khác nói một đôi điều về người thầy thuốc nhưng bà chẳng để ý tới.

- Ông còn cần những thông tin gì thêm về Alan Carstairs? - Bà Rivington hỏi Bobby.

- Tôi muốn biết địa chỉ của ông ta vì chúng tôi luôn quan tâm đến quyền lợi của khách hàng. Chúng tôi muốn thông tin và hỏi ý kiến về cách xử trí trước những biến động lên xuống quá mạnh của đồng đô la gây nhiều thiệt thòi đến tài sản của ông Carstairs... Ông ta đã quên không để lại địa chỉ với chúng tôi. Được biết, ông bà là chỗ bạn bè thân thiết của ông, chúng tôi muốn được ông bà vui lòng cho chúng tôi biết...

- Tôi hiểu. Nhưng Carstairs không viết thư từ cho chúng tôi, và cũng chẳng để lại địa chỉ.

- Thưa bà, tôi xin bà hãy thứ lỗi cho tôi vì đã đến làm mất thời giờ của bà nhiều - Bobby đứng dậy cúi chào tạm biệt.

- Không có gì! Không có gì!...

"Tất cả đã diễn ra tốt đẹp". Chàng trai trẻ vừa đi vừa nghĩ và lấy làm hài lòng về cuộc gặp gỡ ở phố Tite. Bà Rivington xinh đẹp và tốt bụng đã cung cấp cho anh những thông tin mà chẳng nghi ngờ gì về cuộc đến thăm của anh cả: cho rằng anh đến chỉ là hỏi địa chỉ của Carstairs.

* **

Trở về phố Brook, Bobby và Frankie cùng xem xét lại tình hình trên mọi phương diện.

- Có lẽ chỉ là do ngẫu nhiên mà Carstairs đã gặp gia đình Bassington-ffrench - Frankie nói với dáng vẻ suy tư.

- Tôi cũng nghĩ vậy. Nhưng khi tới đây thì cũng lại là sự tình cờ mà anh ta đã chú ý đến Nicholson.

- Và nếu vậy thì Nicholson mới là thủ phạm gây ra mọi chuyện chứ chẳng phải là Bassington-ffrench?

Bobby nhìn cô bạn gái.

- Cô đã luôn luôn có ý tìm cách gỡ tội cho Roger Bassington-ffrench - Bobby nói bằng giọng nói lạnh lùng.

- Anh bạn thân mến, tôi chỉ tóm gọn những điều anh thâu lượm được mà thôi. Có thể là sau khi nghe về Nicholson và cái nhà điều dưỡng trá hình đó, Carstairs đã động lòng trắc ẩn rồi sau đó cũng là sự tình cờ mà Rivington dẫn anh ta đến thăm gia đình Bassington-ffrench...

- Đấy chỉ là "sự giả định”.

- Sao lại gọi là "giả định"?

- Vì rằng tôi cũng có nhận định riêng của tôi, khác với sự giả định trên. Tôi cho rằng Carstairs đã biết điều gì đó khá hệ trọng về người thầy thuốc Nicholson và vợ ông ta nên muốn về vùng Merroway gặp gia đình Bassington-ffrench. Carstairs không biết rằng Roger Basington-ffrench và Nicholson là cùng một băng nhóm, bởi vậy anh ta đã vô tình tiết lộ với Roger những điều anh biết về Nicholson. Bọn chúng lừa anh ta tới vách đá thủ tiêu anh để bịt đầu mối.

- Hành động của chúng nếu vậy thì quá ư táo bạo.

- Chúng chẳng táo bạo hơn được hành động gây ra cái tai nạn ôtô giả mạo của cô.

- Hành động táo bạo của tôi khác hẳn hành động của chúng về mục đính và tính cách.

Bobby cởi trả bộ quần áo mượn của hầu tước Marchington vào chỗ cũ. Anh mặc lại bộ quần áo tài xế của mình rồi lại trở về Staverley.

- Nếu Roger say mê tôi - Frankie nói bằng giọng nghiêm túc - hắn sẽ vui sướng khi thấy tôi quay về sớm. Hắn cho rằng tôi chẳng chịu nổi khi xa cách hắn.

- Đó chính là sự thật. Đừng bao giờ cho rằng bọn tội phạm ghê tởm nhất không thể có được những nét quyến rũ.

- Tôi chẳng tin là hắn đã nhúng tay vào vụ giết người.

- Nhưng cô cũng không quên vụ đánh tráo tấm ảnh đấy chứ?

Frankie nhún vai.

Bobby lái xe lên con đường dốc dẫn tới lâu đài Merroway, môi mím chặt chẳng nói chẳng rằng. Xe ghé sát vào bậc thềm. Frankie nhảy ra khỏi xe đi thẳng vào trong nhà chẳng thèm nhìn lại phía sau.

Bobby phóng xe đi thẳng.

Không gian trong trang viên chìm trong yên tĩnh. Liếc mắt nhìn lên chiếc đồng hồ quả lắc treo trên tường, Frankie nhận ra là mới hai giờ ba mươi.

“Những người trong lâu đài chẳng cho là mình quay trở về sớm như vậy. Họ vẫn còn kéo dài giờ nghỉ trưa".

Frankie mở cửa thư viện và bước vào, nhưng chợt cô vội dừng lại trước ngưỡng cửa.

Bác sỹ Nicholson, ngồi trên ghế sô pha, đang nắm lấy hai tay của Sylvia trong hai tay mình.

Sylvia thấy có người liền giật mình đứng dậy đi nhanh sang một phòng khác:

- Thật khủng khiếp! Có người nhìn thấy! - Bà chủ lâu đài nghẹn ngào thốt lên. Bà ta vừa chạy vừa che mặt.

Bác sỹ Nicholson đã đứng dậy. Frankie bước tới phía ông ta, hai người nhìn nhau.

- Sylvia đáng thương! - Người thầy thuốc thở dài - Việc xảy ra thật đáng tiếc.

Mép ông ta nhếch lên và sau giây lát Frankie cảm thấy dường như ông ta cười gượng với dáng vẻ bối rối khác thường.

Người thầy thuốc nham hiểm này kìm nén sự giận dữ qua bộ mặt lạnh lùng nhưng cố gắng tỏ ra lịch sự, một thứ lịch sự giả tạo.

- Tôi cho rằng tốt hơn là để cho Sylvia biết về sự nghiện ngập của chồng. Tôi muốn bà ta thuyết phục chồng tin tưởng ở tôi.

- Có lẽ tôi đã quấy rầy các vị - Frankie nói với Nicholson.

Rồi sau một lát yên lặng, tiểu thư Frankie tiếp:

- Tôi đã về sớm hơn dự định.

Chương 18 : Tìm ra người trong ảnh

ề tới nhà trọ, Bobby được báo cho biết có một người muốn gặp anh.

- Đó là một thiếu phụ. Bà ta đang chờ ông ở phòng khách của ông Askew - người hầu gái báo tin.

Bobby liền đi ngay xuống đó, trong lòng hơi bối rối. Frankie đến ngay đây sao? Có mà mọc cánh cũng chẳng thể tới nhà trọ "Pêcheurs à La Ligne" trước anh được. Nhưng còn người đàn bà nào khác nếu chẳng phải cô bạn lúc thiếu thời?

Anh mở cửa gian phòng nhỏ mà Askew thường sử dụng. Ngồi thẳng trên chiếc ghế phô tơi là một thiếu phụ người thon thả, mặc quần áo màu đen: chính là người trong ảnh!

Bobby đứng sững, mồm há hốc ra vì ngạc nhiên. Rồi anh nhận ra vẻ hoảng hốt của người đàn bà trẻ sợ hãi đến nỗi chẳng nói nổi lấy một lời. Đôi tay chị ta run rẩy hết nắm chặt lại rồi lại xoè ra trên thành ghế phô tơi.

- À! Thì ra là chị! - Bobby nói với người thiếu phụ.

Anh khép hai cánh cửa lại rồi tiến lại gần bàn.

Người thiếu phụ vẫn câm lặng và giương đôi mắt to sợ hãi nhìn Bobby chằm chằm.

Rồi chợt chị cất tiếng nói, giọng nhỏ nhẹ:

- Anh đã hứa giúp đỡ tôi… hôm vừa qua? Nhưng có lẽ tốt hơn là... tôi chẳng nên làm phiền...

Bobby vội ngắt lời, nói để cho người thiếu phụ yên tâm:

- Chẳng có gì phiền hà cả, mà ngược lại, tôi thấy chị tới đây là tốt và tôi sẵn lòng làm mọi việc để giúp đỡ chị. Chị cứ yên tâm. Ở đây chị được an toàn.

Đôi má người thiếu phụ hồng lên, dường như chị đã bớt sợ.

- Anh là ai? Anh... anh chẳng có vẻ tài xế chút nào. Hoặc lái xe chẳng phải là nghề chính của anh.

- Ở thời đại ngày nay người ta làm đủ mọi nghề. Trước đây tôi là lính thuỷ. Chị nói đúng: tôi chẳng phải là tài xế chuyên nghiệp như những người khác... nhưng điều ấy có gì là quan trọng. Nhưng dù thế nào, chị cứ tin tưởng ở tôi đi... Và hãy kể cho tôi nghe nỗi buồn khổ của chị.

Người đàn bà mặt cứ đỏ dần lên:

- Có lẽ anh cho tôi là người điên?

- Không, không đâu!

- Có đấy, là bởi vì tôi thường hốt hoảng như người mất hồn. Nhưng cũng chỉ vì tôi quá sợ hãi.

Giọng nói của người đàn bà như lạc đi. mắt mở to nhìn về phía trước như đang trông thấy một ảo ảnh khủng khiếp.

Bobby nắm lấy tay người đàn bà:

- Hãy yên tâm đi. Mọi việc sẽ ổn thôi. Hiện nay chị đã có sự che chở của một... một người bạn. Chẳng thể có điều gì xấu với chị nữa

Người đàn bà xinh đẹp cũng nắm chặt lấy tay anh biểu lộ tình cảm của mình.

- Tối hôm vừa rồi, khi nhìn thấy anh đi dưới ánh trăng tôi cứ ngỡ là trong mơ... một giấc mơ được cứu vớt. Tôi chẳng biết anh ở đâu, và anh từ đâu tới, nhưng cặp mắt của anh đã đem lại cho tôi niềm hy vọng và tôi quyết định tìm đến anh để... để được biết về anh.

- Thật là may cho chị! Hãy kể đi! Kể cho tôi nghe tất cả!

Bất chợt người đàn bà rụt tay lại.

- Rồi anh sẽ bảo tôi nói những điều hoang tưởng và giống như những người bị bệnh tâm thần cho mà xem...

- Không đâu, tôi bảo đảm với chị như vậy.

- Những điều tôi nói nghe cứ như bịa đặt phải không?

- Tôi tin là chị sẽ nói sự thật. Cứ nói đi tôi nghe, đưng ngại.

Người đàn bà chợt lùi về phía sau, hai mắt hốt hoảng nhìn thẳng về phía trước, hai tay run lên.

- Tôi sợ... sợ người ta giết tôi.

- Ai muốn giết chị?

- Vâng, điều ấy dường như khó tin, có phải không? Như tôi vừa nói, có thể anh sẽ cho là tôi bị ám ảnh bởi những điều hoang tưởng.

- Không đâu... ai muốn giết chị... và vì lý do gì?

Người đàn bà im lặng một lát rồi thì thào:

- Chồng tôi.

- Chồng chị? Ai là chồng chị?

- Anh không biết ư?

- Tôi chẳng hề biết.

- Tôi là Moira Nicholson, vợ bác sĩ Nicholson.

Bobby cố kìm nén để không biểu lộ sự ngạc nhiên.

- Và ông ta muốn giết chị sao? Chị có chắc là như thế không?

- Tôi bảo đảm điều ấy là thực. Tôi đọc thấy điều ấy trong ánh mắt chồng tôi mỗi khi anh ta nhìn tôi. Hơn nữa đã từng nhiều lần hình như anh ấy đã cố ý gây ra... những tai nạn cho tôi.

- Những tai nạn?

- Đúng vậy. Đừng coi tôi là người điên cũng đừng cho là tôi bịa đặt… Một lần anh ta đột ngột lùi xe trong khi tôi đang đứng ngay sau xe. Một lần khác anh ta đưa cho tôi nhầm chai thuốc... Ồ! Nếu tôi chết trong những trường hợp ấy thì người ta sẽ chỉ cho là vô tình hay sơ ý, nhưng chỉ có tôi biết là họ cố ý. Lúc nào tôi cũng phải cảnh giác đề phòng, thần kinh căng thẳng để dò xét xung quanh mình nhằm cứu lấy đời mình.

- Tại sao chồng chị lại muốn loại trừ chị?

Bobby chẳng phải trông chờ lâu câu trả lời, Moira Nicholson đáp ngay chẳng ngần ngại.

- Để lấy Sylvia Bassington-ffrench.

- Nhưng Sylvia có chồng rồi mà?

- Tôi biết. Nhưng anh ta sẽ có cách.

- Anh ta sẽ làm thế nào nhỉ?

- Tôi cũng chẳng rõ. Anh ta đang tìm cách đưa Bassington-ffrench vào trại điều dưỡng để điều trị cai nghiện cho con người này.

- Rồi thì...

- Ai mà biết được rồi sau sự việc sẽ diễn ra như thế nào?... Nicholson đang tác động mạnh vào tâm lý của Bassington-ffrench...

- Bassington-ffrench nghiện moóc phin nặng?

- Chắc chắn là như thế. Chính chồng tôi đã cung cấp moóc phin cho anh ta.

- Moóc phin thường được gửi tới qua đường bưu điện cơ mà?

- Tất nhiên chồng tôi chẳng cung cấp trực tiếp... Anh ta vốn là người nhiều mưu kế, Bassington-ffrench sẽ chẳng thể biết được là chính Nicholson là người cung cấp chứ chẳng phải ai khác. Sớm muộn Bassington-ffrench sẽ vào điều dưỡng ở trại cai nghiện “La Grauge" nơi mà đã xảy ra bao chuyện lạ lùng mà anh đã biết. Người nghiện đến đó, bề ngoài là để từ bỏ ma túy, nhưng... trên thực tế là họ càng ngày càng nghiện ngập tồi tệ hơn.

Trong khi người thiếu phụ khốn khổ kể lể thì Bobby cũng đang nghĩ đến cái thực trạng đáng nguyền rủa của cái xã hội này. Dường như anh cũng đang chia sẻ nỗi kinh hoàng của Moira Nicholson đối với nơi mà chị đang sống.

- Chị nói là chồng chị muốn lấy Sylvia Bassington-ffrench?

- Vâng. Anh ta rất say mê người đàn bà này.

- Thế còn Sylvia?

- Tôi chẳng biết rõ. Đó là con người khó hiểu luôn tỏ ra yêu chồng, yêu đứa con trai của mình và hài lòng về cuộc sống thanh thản, nhưng cũng có đôi khi tôi thấy chị ta có những biểu hiện không đơn giản như chị ta thường nói và tôi tự hỏi liệu chị ta có phải là người giỏi đóng kịch hay không. Đó là sự nhận xét của tôi và cũng lẫn cả sự tưởng tượng của tôi nữa... Ai đã từng sống ở một nơi như "La Grauge” thường chẳng còn giữ được năng lực xét đoán.

- Chị có biết gì về Roger, người em?

- Tôi biết về anh ta không nhiều lắm. Anh ta có vẻ tử tế nhưng dễ bị người khác lừa. Roger sa vào lưới của Jasper, đã xúi giục người anh của mình là Bassington-ffrench tức là chồng của Sylvia đến điều dưỡng ở “La Grauge"... Nếu Bassington-ffrench mà đến "La Grauge" thì cuộc đời của anh ta sẽ lâm vào nguy hiểm.

Bobby im lặng vài giây, nghĩ tới những chuyện lạ về cái nhà điều dưỡng mà anh đã được nghe.

- Chị kết hôn với Nicholson đã lâu chưa?

- Đúng một năm.

- Có lúc nào chị có ý định bỏ anh ta không?

- Tiền không có, tôi biết làm sao được? Nếu tôi trốn tránh ở nhà các bạn bè của tôi thì tôi sẽ kể với họ những gì? Kể rằng chồng tôi muốn giết chết tôi ư? Dễ dàng gì mà họ tin vào một câu chuyện nghe thật kinh sợ như vậy?

- Nhưng tôi tin chị!

Sau một thoáng ngần ngại, Bobby hỏi thẳng Moira:

- Tôi hỏi chị một câu: Chị có biết một người có tên Alans Carstairs?

Và anh nhìn thấy mặt bà ta đỏ ửng lên:

- Tại sao anh lại hỏi tôi câu hỏi này?

- Vì tôi muốn biết một sự thật rất quan trọng. Theo tôi đoán thì chị có quen biết Alan Carstairs trước kia và đã tặng anh ta một tấm ảnh.

Moira nhìn đi chỗ khác để tránh cái nhìn dò xét của Bobby. Ngần ngại một lát trước khi trả lời, rồi chị ngẩng đầu nhìn thẳng vào Bobby .

- Đúng là tôi có biết Alan Carstairs.

- Biết anh ta trước khi chị đi lấy chồng?

- Vâng.

- Anh ta có hay đến thăm chị không?

- Chỉ một lần thôi.

- Cách đây khoảng một tháng phải không?

- Vâng, đúng vậy.

- Anh ta biết chị sống ở địa phương này sao?

- Tôi cũng chẳng rõ làm sao anh ta lại biết được mà tìm đến. Kể từ ngày tôi lập gia đình, tôi chẳng gặp anh ta mà cũng chẳng viết thư.

- Chồng chị có biết anh ta đến thăm chị không?

- Không.

- Chị tưởng vậy thôi chứ Nicholson chắc đã biết quá rõ

- Nicholson chẳng nói gì với tôi cả.

- Chị có nói gì về Carstairs với chồng chị không? Chị có nói với Carstairs những nỗi sợ hãi của chị không?

- Tôi chưa tiện nói trong lần gặp gỡ ấy.

- Chị đã rất khổ sở... ?

- Vâng.

- Và chị có kể với Carstairs điều ấy không?

- Không. Tôi chẳng muốn kể lể với anh ấy về chuyện lấy chồng của tôi chẳng ra gì.

- Nhưng có thể là anh ta đã nhận ra.

- Cũng có thể.

- Chị cho rằng... tôi cũng chẳng biết diễn đạt thế nào cho phải... anh ta biết đến những hành động của chồng chị… và nghi ngờ, chẳng hạn cái trạm cai nghiện ấy còn lâu mới đạt được những mục tiêu mà công chúng chờ đợi ở nó?

Moira cau mày có vẻ nghĩ ngợi lắm.

- Điều ấy cũng có thể. Alan Carstairs có hỏi tôi vài điều về chuyện đó… và tôi cho rằng anh ta đã đoán ra điều gì đó.

Bobby yên lặng một lát rồi hỏi:

- Chồng chị có hay ghen không?

Moira trả lời làm cho Bobby ngạc nhiên:

- Có, rất hay ghen.

- Ghen vì sợ mất chị?

- Vâng, mặc dù anh ấy chẳng yêu gì tôi. Anh ta chỉ coi tôi là của riêng thế thôi... Ồ! Con người ấy thật lạ lùng... rất lạ lùng.

Moira chợt rùng mình sợ hãi và hỏi đột ngột:

- Anh chẳng thuộc trong lực lượng cảnh sát đấy chứ?

- Tôi ư? Không đâu.

- Tôi rất sợ điều này. Tôi muốn nói là... anh là người lái xe của tiểu thư Frances Derwent, đúng không? Người chủ nhà trọ này có cho tôi biết. Hôm qua tôi có gặp tiểu thư trong bữa ăn tối.

- Tôi biết điều này. Tôi chỉ có thể nói chuyện với tiểu thư qua điện thoại nhưng chị thì có thể hẹn gặp tiểu thư ở đâu đó ngoài nhà trọ này?

- Được thôi.

- Tôi hiểu sự gợi ý của tôi có thể làm cho chị thấy lạ lùng, nhưng chị sẽ thay đổi ý kiến khi chị gặp tiểu thư. Trước mắt cuộc gặp gỡ ấy có ích cho chị, cho nên hãy thu xếp để gặp tiểu thư Frankie càng sớm càng tốt.

Moira đứng dậy.

- Tốt lắm.

Đặt tay lên nắm cửa, Moira còn hỏi thêm Bobby, giọng ngập ngừng.

- Alan... Alan Carstairs. Anh có biết anh ta?

- Vâng. Nhưng đã lâu lắm rồi.

- Anh hãy điện cho tiểu thư Derwent đi. Khi gặp tôi sẽ kể tiếp tất cả.

Chương 19: Cuộc gặp gỡ tay ba

ột vài phút sau Moira quay lại.

- Tôi đã hẹn gặp tiểu thư Frances ở dưới vòm cây bên bờ sông. Lời thỉnh cầu của tôi có vẻ khác thường nhưng cuối cùng thì cô ấy cũng chấp nhận.

- Tốt. Bây giờ chị chỉ cho tôi vòm cây ấy ở đâu.

Moira mô tả nơi ấy một cách chính xác và nói rõ con đường phải đi tới.

- Được rồi. Chị đi trước, tôi sẽ tới đó sau.

Moira ra đi. Bobby ở lại quán trọ để trao đổi một vài câu với ông Askew.

- Ông xem, trên đời sao lại có những chuyện kỳ lạ như vậy. Trước đây tôi đã làm việc với một người Canada, hỏi ra đây là ông chú của bác sĩ Nicholson.

Anh sợ cuộc gặp gỡ của bà Nicholson với một người tài xế của tiểu thư Frances sẽ trở thành lời đàm tiếu của dân làng rồi cái đó sẽ đến tai ông bác sĩ.

- Bà ấy gặp tôi khi đang lái xe và muốn hỏi chuyện tôi. Một phụ nữ xinh đẹp và đáng mến.

- Bà ta có vẻ như vậy. Nhưng cuộc sống của bà ta trong lâu đài “La Grauge” thì không mấy vui vẻ.

- Có lẽ tôi phải đi dạo một lúc.

Biết chắc là đã ngăn chặn được những chuyện ngồi lê đôi mách, anh đến nơi Moira đã chỉ dẫn.

Tới nơi, anh đã thấy chị ta ngồi chờ. Frankie chưa tới.

Trước cặp mắt dò hỏi của Moira, anh thấy đã đến lúc phải giải thích mọi chuyện.

- Tôi có nhiều chuyện có thể cho chị biết.

- Tôi xin nghe đây.

- Trước hết tôi không phải là tài xế mà tôi làm việc tại một xưởng sửa chữa xe hơi ở Londres. Tôi không phải là Hawkins mà là Jones… Bobby Jones. Tôi từ làng Marchbolt tới đây.

Moira chăm chú nghe nhưng cái tên làng Marchbolt hình như không làm cho bà ta ngạc nhiên.chiobby đi thẳng vào câu chuyện.

- Tôi có một tin xấu... Bạn chị... ông Alan Calstairs... Chị cần biết là ông ấy... đã chết rồi.

Người thiếu phụ giật mình rồi quay mặt đi. Quan hệ giữa chị ta và ông Carstairs là quan hệ gì?

Sau một lúc yên lặng, chị ta nói bằng một giọng nghe rất xa xôi:

- Cái đó giải thích tại sao ông ấy không trở lại... Tôi hình dung...

Bobby nhìn trộm người thiếu phụ. Anh yên tâm. Chị ta có vẻ buồn rầu và suy nghĩ, nhưng chỉ có vậy thôi.

- Xin anh cho tôi biết một vài chi tiết.

- Ông ta rơi từ vách núi xuống vực, ở làng Marchbolt, làng tôi. Chính tôi và một ông bác sĩ phát hiện ra ông ta. Ông ta có tấm ảnh của chị ở trong túi.

- Đúng thế ư? Alan thân mến! Sự thuỷ chung của ông ấy làm tôi cảm động.

Sau đó một lúc chị ta hỏi tiếp:

- Vụ tai nạn xảy ra vào ngày nào?

- Cách đây một tháng. Ngày mùng ba, tháng mười, đúng thế.

- Sau ngày ông ta tới đây.

- Khi gặp chị, ông ta có nói mình sẽ đi Galles không?

Người phụ nữ lắc đầu

- Bà có biết người có tên là Evans không?

- Evans ư? - Moirs suy nghĩ rồi trả lời tiếp - Không, tôi không biết người có tên như vậy. Đó là ai?

- Đó là điều chúng ta đang muốn biết... A! Frankie đây rồi.

Cô gái đang vội vàng đi trên con đường nhỏ. Cô ngạc nhiên khi thấy ngoài Moira Nicholson còn có cả Bobby nữa.

- A, Frankie! Xin cảm ơn cô đã tới đây. Chúng ta cần gặp nhau để bàn bạc một cách nghiêm túc. Trước hết tôi xin giới thiệu với cô đây là bà Nicholson, người trong tấm ảnh bị đánh tráo.

- Ô! - Frankie kêu lên.

Cô nhìn Moira rồi bật cười.

- Anh bạn - Cô nói với Bobby - Bây giờ thì tôi hiểu tại sao anh lại thất vọng đến như vậy khi nhìn thấy bà Cayman ở toà án.

Moira tỏ ra không hiểu gì cả.

- Tôi đã nói với cô nhiều lần rằng tôi không biết tiến hành bắt đầu từ đâu việc này rồi.

Anh mô tả vợ chồng nhà Cayman sau khi đến nhận diện người chết.

- Nhưng tôi không hiểu - Moira kêu lên - Ai là người bị giết hại, người anh ruột của bà ta hay là ông Alan Carstairs?

- Đây là lúc những kẻ phạm tội vào cuộc.

Sau đó Frankie nói thêm việc Bobby bị đầu độc.

- Phải, bằng tám grain moóc-phin.

- Thôi không trở lại chuyện này nữa. Để tôi nói. Vợ chồng nhà Cayman đến tìm Bobby sau phiên toà để hỏi xem người anh ruột của họ (ít nhất đây là theo họ nói) có trăng trối gì trước khi qua đời không. Bobby trả lời không. Nhưng sau đó anh ta nhớ lại ông Carstairs trước nhắm mắt đã nói đến một người có tên là Evans. Anh viết thư cho Cayman về chuyện này và một ngày sau anh nhận được thư mời anh đến một nước nào đó ở Nam Mỹ làm việc. Sau khi từ chối việc này thì anh bị đầu độc. Một kẻ nào đó đã cho moóc-phin vào chai bia...

- Tám grain - Bobby nói thêm.

- Vì có sức khoẻ nên anh đã thoát nạn. Và cuối cùng chúng tôi đi đến kết luận: ông Alexandre Pritchard hoặc Alan Carstairs chết vì bị đẩy từ vách núi xuống vực.

- Tại sao? - Moira hỏi.

- Chị không đoán ra lý do ư? Đối với chúng tôi thì vấn đề đã rõ ràng: ông Cayman chết vì bị hãm hại và thủ phạm chính là Roger Bassington-ffrench.

- Roger Bassington-ffrench ư? - Ngạc nhiên Moira hỏi lại.

- Vì chính anh ta có mặt tại đấy và sau đó tấm ảnh của chị bị biến mất và chỉ có anh ta mới có thể làm được việc này.

- Tôi hiểu.

- Sau đó tôi bị tai nạn xe hơi khi đi qua Staverley; một sự trùng hợp kỳ lạ, đúng không? (Frankie nháy mắt cho Bobby). Tôi đã gọi Bobby tới sắm vai tài xế cho tôi để chúng tôi có thể phanh phui chuyện này ra trước ánh sáng.

- Bây giờ thì chị hiểu rồi chứ? - Bobby nói - Và rất ngẫu nhiên tôi đã gặp chị ở lâu đài La Grauge tối bữa nọ; tôi đã nhận ngay ra chị là người trong ảnh.

- Anh nhận ra ngay ư?

- Tôi có thể nhận ra người ấy ở bất cứ đâu.

Moira đỏ mặt. Nhưng rồi cô ta lần lượt nhìn Frankie và Bobby.

- Các vị nói đúng sự thật đấy chứ? Có đúng là ngẫu nhiên mà hai người tới đây không? Hay các người đến vì... (Giọng nói của cô ta run lên) vì nghi ngờ chồng tôi?

- Xin lấy danh dự mà nói: Chúng tôi không quen biết chồng chị - Frankie tuyên bố.

- Xin lỗi tiểu thư Frances. Nhưng tôi nhớ trong bữa ăn ở nhà Bassington-ffrench chồng tôi đã căn vặn cô về vụ tai nạn. Tôi không hiểu tại sao. Bây giờ tôi đang tự hỏi có phải Nicholson cho đây là một vụ tai nạn giả không?

- Nếu chị muốn biết sự thật thì đúng là chúng tôi đã đóng kịch. Và vở kịch đã thành công. Hãy nhớ rằng tôi không nghi ngờ gì ông bác sĩ cả, kẻ mà chúng tôi cần vạch mặt là Roger Bassington-ffrench.

- Roger ư? - Moira lại ngạc nhiên hỏi lại.

- Đối với chị cái đó hẳn là vô lý.

- Vấn đề là ở chỗ này đây! - Bobby khẳng định.

- Roger... Ồ! Không - Moira lắc đầu - Người ta có thể chê trách về tư cách của Roger, nhưng anh ta không thể dính líu vào vụ này được. Tôi không thể hình dung việc anh ta đẩy một người xuống vực...

- Cả tôi cũng vậy - Frankie xác nhận.

- Anh ta đã đánh cắp bức ảnh - Bobby căn vặn - Nghe đây, Moira Nicholson, tôi sẽ chứng minh cho chị thấy.

Anh nói một cách chậm chạp, không bỏ sót một chi tiết nào. Khi anh nói xong, mắt của Moira sáng lên.

- Bây giờ thì tôi hiểu - Chị ta nói - Về mặt hiện tượng thì vấn đề đã rõ ràng.

Moira ngừng một lát rồi nói tiếp:

- Nhưng tại sao các vị không trực tiếp hỏi anh ta?

Chương 20 : Tay đôi

obby và Frankie sững sờ trước câu hỏi bất ngờ ấy. Cả hai đều kêu lên một lúc:

- Không thể như vậy được!

- Tuỳ hai người thôi - Moira kết luận - Theo tôi thì Roger có thể đã lấy tấm ảnh, nhưng anh ta không thể giết người. Vì lý do gì mà anh ta làm như vậy. Anh ta không quen biết ông này mà mới chỉ gặp một lần trong một bữa ăn thôi.

- Vậy thì ai đã đẩy ông ấy từ vách núi xuống vực?

Mặt của Moira sa sầm lại.

- Tôi không biết.

- Liệu chị có cho phép tôi nói những gì chị đã thổ lộ với tôi cho Frankie nghe không?

Moira quay mặt đi.

- Tuỳ anh. Nhưng cái đó là một bi kịch rất vô lý...

Rồi chị ta bỗng nhiên đứng lên.

- Tôi đã nói như một con điên. Ông Jones, xin ông đừng chú ý đến những chuyện ngu dại ấy... trong lúc tâm thần tôi bị hoảng loạn. Bây giờ tôi phải về thôi. Tạm biệt!

Chị ta bước đi rất nhanh. Bobby muốn giữ Moira lại, nhưng Frankie nói:

- Đứng lại, đồ ngốc. Để mặc tôi.

Cô gái chạy đến bên Moira. Sau đó một vài phút cô trở lại vòm cây.

- Tốt chứ? - Bobby hỏi.

- Tốt. Tôi đã làm cô ta yên tâm. Tôi đã làm cho cô ta hứa là sẽ gặp lại chúng ta. Bây giờ anh kể lại cho tôi nghe tất cả những gì anh đã nắm được.

Bobby thuật lại câu chuyện và Frankie đã chăm chú nghe. Sau đó cô gái bảo anh:

- Tôi vừa khám phá ra hai sự kiện phù hợp với câu chuyện anh vừa kể. Trước hết khi trở về lâu đài Merroway tôi rất ngạc nhiên khi thấy bác sĩ Nicholson đang nắm tay bà Sylvia Bassington-ffrench... và ông ta đã nhìn tôi như sét đánh khiến tôi sợ run lên.

- Sự kiện thứ hai là gì?

- Một sự kiện nhỏ. Bà Sylvia đã kể lại khi nhìn thấy tấm ảnh của Moira Nicholson trên mặt lò sưởi, ông Alan Carstairs đã có vẻ rất cảm động và hỏi người trong ảnh là ai. Bà Sylvia nói đây là Moira, vợ của bác sĩ Nicholson và như vậy ông này biết rõ chỗ ở của cô ta. Bobby, tôi không hiểu rõ vai trò của Nicholson trong vụ này. Tại sao ông ta muốn loại bỏ Alan Carstairs? Có phải tại ông Carstairs muốn tố cáo Nicholson là kẻ đứng đầu một nhóm buôn ma tuý không? Hay cô bạn gái xinh đẹp của anh là nguyên nhân của vụ án mạng?

- Có thể là cả hai. Có thể Nicholson đã biết hai người có cuộc hẹn và ông ta đã nghi ngờ người vợ.

- Có thể. Trước hết chúng ta hãy xét tư cách của Roger Bassington-ffrench. Điều duy nhất chống lại anh ta là tấm ảnh. Nếu anh ta có thể giải thích một cách hợp lý...

- Cô cho rằng có thể hỏi anh ta về chuyện này ư, Frankie? Như vậy có khinh xuất không? Nếu là thủ phạm, anh ta sẽ thấy rõ công việc của cô và tôi.

- Khoan đã. Tôi sẽ quan sát kỹ khi anh ta nói. Cho đến lúc này anh ta vẫn có vẻ thật thà. Nếu chứng minh được mình là người vô tội thì anh ta sẽ là đồng minh của chúng ta.

- Cô nói gì, Frankie?

- Bạn thân mến, cô bạn xinh đẹp của anh là người mắc chứng thần kinh, lẫn lộn thật giả... Nhưng giả định sự sợ hãi của cô ta có cơ sở... người chồng thực sự muốn loại trừ vợ... Henry Bassington-ffrench đang gặp nguy hiểm chết người. Bằng mọi giá chúng ta phải ngăn cản, không để ông ấy vào lâu đài “La Grauge”. Lúc này Roger là người giám sát bác sĩ Nỉcllolson dễ dàng hơn cả.

- Cô nói đúng. Chúng ta bàn kế hoạch thực hiện thôi.

Cô gái đứng lên, trước khi ra về tuyên bố:

- Nghe đây, Bobby, tất cả những chuyện này thật là khác thường. Tôi có cảm giác như mình đang sống trong một cuốn tiểu thuyết...

- Còn tôi, tôi có cảm giác như mình đang tham gia một vở diễn trong đó chúng ta đang ở hồi hai. Cái khó khăn là ta không hiểu gì về hồi một.

Frankie xác nhận:

- Không phải đang ở hồi hai mà theo tôi đây là hồi ba. Bobby, đây là hồi kết thúc vở kịch.

- Một hồi có rất nhiều xác chết - Bobby kết luận - và phải nói rằng đây là hồi mà năm tiếng thần chú “Tại sao không là Evans?” Giải quyết tất cả mớ bòng bong này… Frankie. tôi tin rằng người có cái tên Evans ấy là điểm xuất phát của cuộc điều tra của chúng ta và là người ít quan trọng trong vở bi kịch này.

- Anh làm như là người có tên Evans không tồn tại ấy.

Nói xong Frankie trở về lâu đài Merroway.

Chương 21 : Roger trả lời câu hỏi

ay mắn là khi đi về đến nửa đường thì Frankie gặp Roger.

- Này! Cô ở Londres ít thời gian thế thôi ư?

- Tôi không còn việc gì ở Londers nữa.

- Cô đã về nhà chưa? Bác sĩ Nicholson vừa đến báo tin cho chị Sylvia về tình trạng nghiện ngập của anh Henry.

- Tôi biết… Khi trở về tôi đã gặp hai người trong phòng đọc sách... Bà ấy tỏ ra quá ngao ngán.

- Bằng mọi giá phải cai nghiện cho anh Henry... đó là lợi ích cửa chị Sylvia, cháu Tommy và cả gia đình. Nicholson là bác sĩ có khả năng làm việc này. Chỉ cần anh Henry đồng ý đến lâu đài La Grauge...

Frankie ngắt lời anh ta:

- Anh có muốn trả lời một câu hỏi mà tôi sẽ nêu ra không? Tôi hy vọng rằng anh không cho tôi là người tò mò.

- Xin cô cứ nói?

- Anh có lấy tấm ảnh trong túi của người… người ngã từ vách núi xuống vực ở làng Marchbolt không?

Cô nhìn anh ta một cách chăm chú làm cho Roger có đôi chút lo ngại, một tình cảm khó chịu chứ không phải là sợ hãi.

- Cô nghĩ như thế nào mà lại hỏi tôi như vậy? Bà Moira đã nói với cô? Nhưng không, bà ta không biết gì cả...

- Còn anh thì sao?

- Tôi thừa nhận mình đã làm việc này.

- Tại sao?

Một lần nữa, Roger lại tỏ ra khó chịu.

- Vâng, như thế này. Tôi đang ngồi bên cạnh xác người, tôi thấy một mảnh giấy rơi từ trong túi của ông ta ra. Tôi cầm lên xem và tôi rất ngạc nhiên vì đây là một phụ nữ tôi quen biết... một người đã có chồng... sống không hạnh phúc lắm. Sẽ có chuyện gì xảy ra? Một cuộc điều tra và rồi tên người phụ nữ ấy được đăng lên báo... Một vụ om sòm... Và tôi đã xé nát tấm ảnh đó thành trăm mảnh. Có thể làm như vậy là sai, nhưng Moira ăn ở tốt với mọi người, tôi không muốn bà ta bị rắc rối.

Frankie thở dài.

- Đó là tất cả! Nhưng nếu anh biết được...

- Sao?

- Tôi sẽ nói với anh sau. Đó là vấn đề rất phức tạp? Anh thừa nhận mình là người đã huỷ tấm ảnh nhưng tại sao anh không nói người chết là ai?

- Tôi biết người chết là ai? Làm thế nào mà tôi biết được? Tôi chưa nhìn thấy người ấy bao giờ.

- Nhưng anh đã gặp ông ta tại đây... vài tuần lễ trước.

- Cô gái, cô không tỉnh táo rồi.

- Đó là ông Alan Carstairs... Anh chưa bao giờ gặp ông Alan Carstairs ư?

- Ô! Có chứ! Vợ chồng nhà Rivington đã dẫn ông ấy đến lâu đài Merroway. Nhưng người qua đời không phải là Alan Carstairs.

- Tôi cam đoan chính là ông ta. Chắc chắn là ông đã biết.

Hai người nhìn nhau, rồi Frankie cảm thấy nghi ngờ.

- Tôi không nhìn mặt người chết. Một chiếc khăn tay phủ lên mặt ông ta…

Frakie mở to mắt. Thật vậy, lần đầu tiên kể lại chuyện này. Bobby nói mình đã lấy chiếc khăn trong túi người bị nạn để che mặt cho ông ta.

- Anh không có ý định nhấc chiếc khăn đó ra để nhìn mặt người chết?

- Không. Nhìn làm gì kia chứ?

- Đúng thế.

Nói vậy, nhưng trong thâm tâm, Frankie vẫn nghĩ, nếu là mình thì sau khi thấy tấm ảnh, mình nhất định phải nhìn mặt người chết.

- Người đàn bà đau khổ! - Cô thở dài - Bà ta thật đáng thương!

- Ai? Bà Moira Nicholson ư?

- Phải. Người chồng đã hành hạ vợ.

- Xin thú nhận, tôi cũng không ưa bác sĩ Nicholson.

- Bà ấy nói ông ta muốn giết mình.

Roger cười với vẻ hoài nghi:

- Không đến nỗi như vậy đâu.

- Tuỳ anh xem xét vấn đề. Mời anh ngồi xuống. Tôi sẽ chứng minh rằng bác sĩ Nicholson là một tên tội phạm nguy hiểm.

Frankie thuật lại một cách chi tiết câu chuyện kể từ ngày Bobby và bác sĩ Thomas thấy xác người dưới vực sâu. Cô nói bóng gió rằng mình tới lâu đài Merroway để khám phá vụ án bí mật này.

Roger nghe như bị mê đi.

- Câu chuyện là đúng chứ?

- Tôi không bịa thêm điều gì cả.

Trong một phút, Roger cau mày yên lặng. Cuối cùng anh ta tuyên bố:

- Thật là quái đản, tôi cho rằng lập luận đầu tiên của cô là đúng. Người ấy, Alexandre Pritchard hay Alan Carstairs, đã bị giết hại. Nếu không việc đầu độc cậu Jones Bobby không thể giải thích được. Câu nói "Tại sao không là Evans?” không làm sáng tỏ tình hình vì chúng ta không biết Evans là ai và người ấy có vai trò gì trong vụ nà y. Tôi cho rằng hoặc những kẻ giết người nghĩ rằng cậu Jones có một chứng cứ gì rất nguy hiểm đối với chúng. Do đó chúng đã muốn loại trừ cậu ta, sau này cũng vậy thôi. Tới đây thì tất cả đều hợp lý, nhưng tôi không hiểu vì lý do gì mà cô tố cáo bác sĩ Nicholson.

- Ông ta có một chiếc xe hơi hiệu Talbot màu xanh sẫm và nó đã vắng mặt vào cái ngày mà Bobby bị đầu độc.

- Ư… Chứng cứ rất mong manh.

- Cộng thêm những điều bà Nicholson nói với Bobby nữa.

Cô thuật lại vẻ sợ hãi của Moira trong cuộc họp tay ba.

Roger nhún vai.

- Nói rằng chồng bà cung cấp moóc-phin cho anh Henry nhưng ta có chứng cứ gì không? Ông ta muốn anh Henry đến trại cai nghiện của mình thì đó là điều chính đáng đối với một thầy thuốc muốn chữa cho người bệnh. Còn về mối tình của ông Nicholson với chị Sylvia thì tôi không thể nói gì được.

- Moira có lý. Nói chung, người vợ hiểu người chồng của mình hơn ai hết.

- Nếu lời tố cáo này là đúng thì nó cũng không thể biến một người thầy thuốc thành kẻ giết người được.

- Không nên quên việc ông ta muốn loại bỏ người vợ.

- Cô cho đây là câu chuyện nghiêm túc ư?

- Tôi tin là như thế.

Roger châm một điếu thuốc.

- Có cần nói thêm những lo sợ của bà ta nữa không? Lâu đài La Grauge có rất nhiều con nghiện, nhiều người mắc bệnh tâm thần. Cái đó ảnh hưởng xấu đến tinh thần của một phụ nữ không vững vàng và nhạy cảm.

Frankie nhớ lại lời của Moira: "... đừng chú ý đến những chuyện ngu dại... trong lúc tâm thần tôi bị hoảng loạn". Cô không cho đây chỉ là sự nhạy cảm của người vợ ông thầy thuốc. Cái đó rất khó giải thích nên cô không tranh luận với Roger nữa.

Anh ta nói tiếp:

- Cho rằng ông Nicholson có mặt ở làng Marchbolt vào cái ngày xảy ra tấn thảm kịch ấy... hoặc nói với ông ta có lý do để giết hại ông Alan Carstais thì đây là hai việc khác nhau. Cho phép tôi có nhận xét rằng: Cô đã quên mất những người thực sự đáng khả nghi, đó là vợ chồng nhà Cayman!

- Vợ chồng nhà Cayman ư?

- Theo tôi đó là những kẻ phải chú ý trước tiên. Trước hết tại sao họ làm chứng gian về căn cước người chết, sau đó họ cố muốn biết những lời trăng trối của người khốn khổ ấy; ý kiến của cô về việc người ta mời cậu Jones sang Buenos-Ayres làm việc là đúng.

- Ô! Như vậy tôi lại có thêm một ý kiến nữa: có phải tấm ảnh của bà Moira bị đánh tráo bằng ảnh của bà Cayman không?

- Xin thề với cô là tôi không có ảnh của bà Cayman. Cô thấy bà ta là một nhân vật đáng kinh tởm.

- Có thể trước kia bà ta rất xinh đẹp... cái đẹp của phụ nữ có tướng đàn ông. Nhưng đây là điều tôi muốn nói: chắc hẳn trong người của ông Alan Calstairs có hai tấm ảnh: của bà Cayman và của bà Moira.

Roger gật đầu.

- Và cô nghĩ sao?

- Tôi cho rằng ông ta có một mối tình khác, một mối tình tầm thường hơn. Chắc rằng ông ta đang đi tìm căn cước một người nào đó. Và câu chuyện đã xảy ra như thế này: ông Cayman, người chồng, theo dõi Cartairs. Đi tới vách núi, ông ta cho rằng đây là lúc loại bỏ ông Carstairs tốt nhất: Lợi dụng sương mù, ông ta đã đẩy người này xuống vực. Ông Calstairs kêu lên một tiếng hãi hùng. Cayman chuồn mất; ông ta không biết ở gần đó có người và trong túi của người bị hại có tấm ảnh của Cayman. Tấm ảnh được đưa lên báo...

- Một sự rụng rời trong gia đình Cayman...

- Đúng thế. Ai mà biết được vợ chồng nhà Cayman đang ở Galles? Mụ Cayman tới nhỏ những giọt nước mắt cá sấu và công nhận đây là xác của anh ruột mình. Họ còn gửi hành lý tới để đánh lừa mọi người là họ đang đi du lịch.

- Frankie, xin có lời khen về tài điều tra của cô.

- Đúng không? Giả thuyết của tôi không đến nỗi tồi chứ? Mặt khác, về vấn đề Cayman thì anh có lý và chúng tôi sẽ theo dõi những đối tượng này. Tôi tự hỏi tại sao chúng tôi không nghĩ đến vợ chồng nhà này ngay từ đầu.

Frankie có ý đồ rõ ràng: Cô giăng lưới ngay cả đối với Roger. Dù sao cũng không thể cho anh ta biết mọi sự thật.

- Bây giờ chúng ta phải làm gì với ông Nicholson?

- Ý cô thì thế nào?

- Người đàn bà khốn khổ luôn sống trong sự sợ hãi. Tôi thấy anh có vẻ dửng dưng với nỗi đau của người khác.

- Tôi không phải là người như vậy, nhưng tôi thất vọng khi nhìn thấy bà ta không tự giải quyết được những vấn đề của mình.

- Nào, anh Roger, hãy công bằng một chút. Bà ta có thể làm gì khi không có tiền, không có nơi cư trú?

- Nếu là bà ta thì cô có một quyết định?

- Tôi ư?

- Cô được thừa kế. Nếu cô nghi ngờ người chồng muốn ám hại mình, cô sẽ có những biện pháp ngăn chặn anh ta. Cô sẽ bỏ đi và cô sẽ có một cuộc sống bảo đảm nếu cần thì cô có thể giết anh ta trước. Cô can đảm còn bà Moira hoàn toàn thiếu cái đó.

Frankie chấp nhận lời khen. Cô không thích loại phụ nữ như vậy và sự khâm phục cô ta của Bobby làm Frankie khó chịu.

Roger thì khinh ghét những phụ nữ yếu đuối. Moira không làm cho anh ta quan tâm. Cô ta tố cáo chồng chỉ vì tinh thần của cô ta bị suy sụp mà thôi, đúng không? Anh ta thiếu ý chí, nhưng Frankie thấy anh ta rất đáng mến.

Roger nói thêm:

- Frankie, cô là người dễ dàng dắt mũi một người đàn ông.

Cô gái rất hài lòng… nhưng đồng thời cũng rất bối rối. Và ngay lập tức cô thay đổi đề tài câu chuyện:

- Thế còn anh trai anh thì sao? Anh còn muốn thuyết phục ông ta đến La Grauge chữa bệnh nữa không?

Chương 22 : Một nạn nhân nữa

hông. Còn nhiều trại cai nghiện chữa bệnh cho anh ấy. Điều quan trọng là anh ấy có chịu đi chữa bệnh hay không.

- Anh thấy cái đó là không thể?

- Tôi sợ là như vậy. Hôm nọ cô đã nghe anh ấy nói rồi đấy. Chúng ta có thể làm cho anh ấy ân hận... Này, chị Sylvia đây rồi.

Bà Bassington-ffrench từ trong nhà đi ra và nhìn xung quanh. Nhận ra Roger và Frankie bà ta vượt qua bãi cỏ để tới bên họ.

Bà có vẻ lo lắng.

- Roger, tôi tìm chú khắp nơi - Bà ta nói và khi thấy Frankie định lảng đi, bà nói tiếp - Đừng bỏ đi, cô thân mến. Làm ra vẻ bí mật để làm gì? Cô chẳng đã biết rõ mọi chuyện rồi đó sao?

Frankie xác nhận điều đó bằng cách gật đầu.

- Tôi thật là mù quáng, cả hai người đã biết rõ, còn tôi thì không chút nghi ngờ. Khi nghe bác sĩ Nicholson nói xong, tôi đã đến ngay bên anh Henry. Tôi không rời khỏi anh ấy một phút nào.

Bà ta thổn thức.

- Chú Roger... chúng ta hãy chữa bệnh cho anh ấy. Anh ấy đã đồng ý sáng mai đến lâu đài La Grauge để bác sĩ Nicholson chữa bệnh.

- Ô! Không...

Hai tiếng kêu bật khỏi miệng Roger và Frankie cùng một lúc. Sylvia ngạc nhiên nhìn họ.

Roger giải thích tất cả theo khả năng của mình.

- Chị Sylvia. Sau khi suy nghĩ, tôi thấy đây không phải là nơi chữa trị thích hợp với anh Henry.

- Chú cho rằng anh chú có thể tự chữa bệnh cho mình?

- Không. Chúng ta cần tìm một cơ sở chữa bệnh khác không xa lắm. Thật là sai lầm nếu tới gần hơn.

- Tôi cũng thấy như vậy - Frankie nói thêm.

- Tôi không đồng ý. Tôi không muốn ở xa anh ấy và không muốn ai ngoài ông Nicholson chữa bệnh cho chồng tôi. Ông bác sĩ này tỏ ra tận tâm và đáng mến! Tôi sẽ yên tâm nếu anh Henry được ông ta chăm sóc.

- Chị Sylvia! Chị vẫn không ưa bác sĩ Nicholson kia mà! - Roger kêu lên.

- Tôi đã thay đổi ý kiến. Trưa nay ông bác sĩ tỏ ra rất hiền dịu và đáng mến. Những ác cảm đối với ông ta của tôi trước kia không còn nữa.

Một khoảnh khắc nặng nề trôi qua. Cả Roger và Frankie không biết trả lời ra sao.

- Henly khốn khổ! - Bà ta nói tiếp - Anh ấy suy sụp khi biết tôi đã hiểu rõ mọi chuyện. Anh ấy quyết tâm cai nghiện vì tôi và vì Tommy, nhưng… anh ấy bảo tôi anh ấy không thể hy sinh bản thân mình để tới nơi đó được. Lúc ấy ông Nicholson đã giải thích mọi chi tiết. Cai nghiện là một sự bắt buộc. Người mắc nghiện đã rũ sạch mọi trách nhiệm về những hành động đối với bản thân. Ô! Chú Roger, nếu chú biết được tôi đã đau đớn như thế nào. Nhưng tôi tin rằng bác sĩ Nicholson sẽ chữa lành bệnh cho chồng tôi.

- Tôi bảo đảm với chị, tốt nhất là...

Bà Sylvia lập tức quay sang Roger.

- Roger, tôi không hiểu chú ra sao nữa. Tại sao chú thay đổi ý kiến nhanh thế? Trước đây chú vẫn nói là phải đưa anh Henry đến lâu đài La Grauge kia mà?

- Vâng... tôi đã nghĩ lại…

Một lần nữa, bà Sylvia ngắt lời anh ta:

- Dù sao thì cũng đã quyết định thế. Henry sẽ tới La Grauge.

Lại yên lặng.

Cuối cùng thì Roger lên tiếng:

- Tôi sẽ gọi điện thoại cho bác sĩ Nicholson. Có thể lúc này ông ta có mặt ở nhà. Tôi cần bàn bạc... cụ thể với ông ta một số vấn đề.

Không đợi người chị dâu trả lời, anh ta đi vào trong nhà để lại hai người phụ nữ nhìn theo.

- Tôi không tài nào hiểu được Roger - Bà Sylvia sốt ruột nói.

- Tôi thì tôi hiểu. Tôi đọc sách thấy nói cách chữa bệnh tốt nhất là ở xa nhà.

- Lập luận ấy không đứng vững được đâu.

Frankie không biết mình phải đứng về phía nào. Tình cảm đối với ông Nicholson của bà Sylvia đã đột ngột thay đổi. Frankie muốn nói mọi sự thật với bà ta. Nhưng liệu bà ta có tin không? Roger cũng không tin vào sự phạm tội của Nicholson kia mà. Một khi đã có cảm tình với người bác sĩ, thì chắc chắn bà ta cũng không tin. Có khi bà ta kể lại chuyện này với ông ta nữa. Thật là phức tạp!

Có tiếng máy bay gầm rú trên bầu trời xẩm tối. Khi tiếng gầm rú đó tắt dần thì bà Sylvia lên tiếng:

- Cái tin ấy thật là khủng khiếp. .. Thế mà hai người lại muốn để anh Henry ở xa tôi.

- Không! Không! Bà không biết ý định của chúng tôi - Frankie tìm lời giải thích - Chúng tôi chỉ muốn cho ông Henry có những điều kiện chữa bệnh tốt nhất vì theo bà thì bác sĩ Nicholson là một tên lang băm kia mà.

- Tôi thấy ông ta có thể làm việc này được... ông ta có đủ phương tiện để cứu anh Henry.

Bà Sylvia nhìn Frankie một cách nghi ngờ. Không biết phải làm gì, cô gái đành phải yên lặng. Lúc đó Roger từ trong nhà đi ra.

- Ông Nicholson đi vắng - Anh ta báo tin - Tôi đã nhắn ông ta gọi lại.

- Tôi thấy không cần phải gọi ông ta nữa. Mọi việc đã sẵn sàng, anh Henry cũng đã chấp nhận.

- Tôi xin nhấn mạnh: Henrylà anh trai tôi.

- Chú cũng đồng ý đưa anh ấy tới lâu đài La Grauge chứ?

- Đồng ý, nhưng phải thảo luận một vài vấn đề với bác sĩ Nicholson đã.

- Những vấn đề gì? Tôi thấy chẳng có vấn đề gì cả.

Bà Sylvia quay đi và vào trong nhà.

Roger nhìn Frankie.

- Vai trò của chúng ta quá khó khăn.

- Đúng thế.

- Khi chị Sylvia đã có ý kiến thì rất khó thay đổi.

Hai người ngồi xuống chiếc ghế dài để bàn bạc xem họ phải làm gì trước tình thế này. Roger đồng ý với Frankie là không nên nói thật với bà Sylvia. Theo anh ta thì phải thăm dò người bác sĩ đã.

- Nhưng anh sẽ nói trực tiếp với ông ta? - Frankie hỏi.

- Không phải, tôi sẽ làm cho ông ta phải nói ra. Dù sao thì anh Hemy cũng không nên đến La Grauge. Phải ngăn chặn việc này bằng mọi giá, có thể là chúng ta sẽ vạch mặt nạ của họ ra... Nhưng có tiếnggì vậy?

Cả hai đều giật bắn người lên.

- Trong nhà có tiếng nổ.

Qua một cửa sổ lớn, họ cùng chạy vào phòng khách và đi ra hành lang. Bà Sylvia mặt tái nhợt đang đứng ở đấy.

- Hai người có nghe thấy gì không? - Bà hỏi họ - Một tiếng súng… trong văn phòng của Henry.

Bà ta lảo đảo và Roger phải đỡ lấy cánh tay bà.

Frankie đến trước cửa văn phòng và vặn nắm đấm.

- Cửa đã bị khoá trái.

- Vào bằng lối cửa sổ! - Roger kêu to.

Anh đặt bà Sylvia xuống ghế tràng kỷ và chạy ra. Frankie đi theo. Sau khi đi vòng quanh ngôi nhà, họ đến trước cửa sổ văn phòng. Cửa sổ đã bị gài từ bên trong. Qua ô cửa kính, họ nhìn vào trong phòng. Mặt trời đã lặn, căn phòng mờ tối... Tuy nhiên họ đã nhìn thấy rõ ông Henry Bassington-ffrench đang nằm gục trước bàn giấy, một vết thủng trên thái dương và khẩu súng lục đã từ tay rơi xuống sàn nhà!

- Ông ta đã tự sát! - Frankie nói - Thật kinh khủng!

- Cô đứng lùi lại. Tôi sẽ đập vỡ cửa kính.

Roger lấy áo khoác bọc nắm tay mình lại và đấm mạnh vào tấm kính. Anh ta cẩn thận gạt những mảnh kính vụn và chui vào trong phòng theo sau là Flankie.

Cùng lúc ấy bà Bassington-ffrench và ông Nicholson vừa chạy tới nơi.

- Có chuyện bất hạnh gì xảy ra với... Henry? - Bà Sylvia kêu lên.

Nhìn thấy chồng nằm gục xuống bàn, bà thét lên.

Roger chui ra và bác sĩ Nicholson giao bà Sylvia đã ngất xỉu cho anh ta.

- Đưa bà ấy đi- ông ta nói - Và trông nom bà ấy cẩn thận. Không cho bà ấy nhìn thấy cái cảnh khủng khiếp này.

Nói xong, ông bác sĩ chui qua cửa sổ để vào trong phòng và đến bên Frankie.

Ông chậm chạp cúi đầu.

- Một sự kết thúc bi thảm! Con người khốn khổ thiếu can đảm để chữa bệnh.

Ông ta cúi xuống xác chết sau đó đứng thẳng lên.

- Cái chết tức thời. Tôi không biết ông ta có viết gì trước khi tự sát không?

Frankie đến gần hơn và nhìn bên khuỷu tay ông Bassington-ffrench thấy một mảnh giấy có mấy dòng chữ:

“Tôi chọn cách tốt nhât để kết thúc cuộc đời mình. Cái tật xấu tai hại đã đến với tôi và bây giờ thì tôi không thể thoát ra được. Tôi làm việc này vì Sylvia... Sylvia và Tommy. Vĩnh biệt. Hãy tha thứ cho tôi...".

Frankie thấy khô cổ họng.

- Không được sờ mó vào vật gì cả - ông bác sĩ căn dặn - Sẽ có một cuộc điều tra. Chúng ta phải báo ngay cho cảnh sát.

Frankie đi ra cửa nhưng cô bỗng đứng lại.

- Không có chìa khoá trong ổ - Cô báo tin.

- Không có ư? Chắc chắn nó còn ở trong túi ông ta.

Ông ta thận trọng lục trong túi người chết và lấy ra một chìa khoá.

Ông cắm vào ổ khoá và cánh cửa văn phòng bật mở. Bác sĩ Nicholson đi thẳng tới nơi đặt máy điện thoại.

Frankie thấy đầu gối run lên, đầu óc choáng váng.

Chương 23 : Moira mất tích

ột tiếng đồng hồ sau, Frankie gọi diện cho Bobby.

- Anh đấy ư, Hawkins? Chào Bobby. Anh đã biết chuyện gì chưa? Biết rồi ư? Được rồi. Chúng ta sẽ gặp nhau vào sáng mai. Tôi sẽ đi bộ đến... qui ước là tám giờ... vẫn ở chỗ cũ.

Cô gác máy đúng lúc Bobby nói đến lần thứ ba câu: "Vâng, thưa tiểu thư” để những người trong quán trọ khỏi nghi ngờ.

Anh là người đến chỗ hẹn trước, nhưng Frankie không để anh phải đợi lâu, mặt cô gái xanh xao và nhợt nhạt.

- Chào Bobby. Một cái chết kinh khủng! Đêm hôm qua tôi không tài nào chợp mắt được.

- Tôi không biết gì thêm ngoài việc ông Henry Bassington-ffrench đã tự sát. Có đúng như vậy không?

- Đúng. Bà Sylvia gặp chồng để bàn bạc về việc cai nghiện. Chắc chắn là phải đến phút cuối cùng ông ta thiếu can đảm. Ông ta ngồi trong văn phòng, viết một vài dòng lên mảnh giấy... và tự sát. Bobby, thật khủng khiếp!.

- Đúng thế.

Cả hai cùng ngồi yên lặng một lúc.

- Tôi cần rời khỏi đây ngay lập tức - Frankie nói.

- Thật vậy! Nhưng bà ta ra sao? Tôi muốn nói bà Bassington-ffrench ấy.

- Bà Sylvia đã ngất đi. Tôi chưa gặp lại bà ta từ sau khi nhìn thấy xác chết. Đây là một đòn nặng đối với bà vợ. Bobby, anh đưa xe đến đón tôi lúc mười một giờ.

Bobby không nói gì. Frankie sốt ruột nhìn bạn.

- Có chuyện gì vậy? Anh như đang ở trên mây ấy.

- Xin lỗi. Sự việc...

- Việc gì?

- Tôi đang tự hỏi... có đúng là?

- Sao?

- Câu chuyện tự sát ấy?

- Đúng là tự sát rồi.

- Cô tin chắc chứ? Moira đã báo trước cho chúng ta Nicholson muốn loại bỏ hai người. Lúc này đã có một người rồi.

Frankie suy nghĩ rồi lắc đầu.

- Đây là một vụ tự sát. Tôi đang cùng Roger ở trong vườn thì nghe thấy tiếng nổ. Chúng tôi vào hành lang bằng cửa sổ lớn. Cánh cửa văn phòng đã bị khoá trái. Chúng tôi đến cửa sổ văn phòng. Cửa sổ cũng bị gài chặt. Roger phải đập vỡ ô kính. Chỉ đến lúc đó ông Nicholson mới xuất hiện.

Bobby suy nghĩ một lúc.

- Tuy nhiên tôi thấy ông ta xuất hiện hơi đột ngột.

- Ông ta quay lại tìm chiếc can bỏ quên sau cuộc thăm viếng buổi trưa.

Bobby cau mày.

- Nghe cho kỹ lời tôi, Frankie. Giả thiết là bác sĩ Nicholson đã giết ông Bassington-ffrench...

- Sau khi ông Henry viết thư để lại cho gia đình ư?

- Lập luận ấy không đứng vững. Lá thư ấy có thể là giả mạo. Nét chữ ra vẻ run rẩy theo tình cảm lúc ấy của người sắp tự sát.

- Rồi sao nữa?

- Nicholson giết ông Bassington-ffrench rồi để lại một lá thư vĩnh biệt. Sau đó ông ta biến mất sau khi khoá cửa phòng... để sau này xuất hiện trở lại.

Frankie lắc đầu.

- Ý kiến của anh có vẻ thông minh, nhưng không đúng với thực tế. Trước hết chìa khoá vẫn ở trong túi ông Henry Bassington-ffrench.

- Ai tìm ra chìa khoá?

- Bác sĩ Nicholson.

- Đúng rồi. Lấy gì bảo đảm chìa khoá vẫn ở trong túi người chết?

- Chính mắt tôi nhìn thấy. Tôi cam đoan là chìa khoá nằm trong túi người chết...

- - Đúng với sự việc đã diễn ra khi người ta xem trò ảo thuật. Chỉ cần nhanh tay thì cái đó dễ như trò trẻ con.

- Về điểm này thì anh có lý. Nhưng thật thà mà nói thì Nicholson không thể giết ông Henry Bassington-ffrench được. Bà Sylvia ở trong nhà khi có tiếng nổ. Nghe thấy bà ta chạy ra hành lang. Nếu Nicholson là người bắn súng thì ông ta phải chuồn ra bằng cửa văn phòng, nhưng bà ta đã không gặp ông này. Bà ấy nói là mình thấy bác sĩ từ ngoài cổng di vào bà đã dẫn ông ta tới của sổ của văn phòng. Đây là chứng cứ ngoại phạm không thể bác bỏ được.

- Tôi có nguyên tắc là phải nghi ngờ những người có chứng cứ ngoại phạm.

- Tôi cũng vậy, nhưng tôi không hiểu tại sao anh nghi ngờ ông bác sĩ.

- Không. Lời bà Sylvia Bassington-ffrench cũng đã rõ ràng rồi.

- Đúng thế.

Bobby thở dài.

- Thôi được. Chúng ta cứ coi đây là một vụ tự sát! Bây giờ chúng ta tiến hành công việc điều tra theo hướng nào đây?

- Về vợ chồng nhà Cayman. Đã lâu lắm rồi chúng ta không động đến bọn họ. Anh còn nhớ địa chỉ của bà Cayman trong lá thư bà ta gửi cho anh không?

- Có. Số nhà mười bảy, phố Saint-Leonard's Gardens, quận Paddington. Đây cũng là địa chỉ bà ta khai trước toà án.

- Chúng ta đã xao lãng mục tiêu này, đúng không?

- Đúng thế. Nhưng tôi cho rằng những con chim của chúng ta đã bay mất rồi. Vợ chồng nhà họ không phải vừa được sinh ra hôm qua.

- Nếu chúng đã bỏ trốn thì tôi cũng có cách lần ra chúng.

- Tại sao cô lại loại tôi?

- Vì một lần nữa, cũng như trong việc điều tra về Roger Bassington-ffrench. Roger đã biết mặt anh, ở đây vợ chồng nhà Cayman cũng vậy. Họ biết anh nhưng không biết tôi là ai cả.

- Cô đến gặp họ bằng cách nào?

- Tôi đến nhà họ với lý do là tuyên truyền cho Đảng bảo thủ. Tôi cầm một nắm truyền đơn trong tay.

- Tốt. Nhưng tôi nói trước là cô sẽ thấy một cái lồng trống không thôi. Lúc này chúng ta phải suy nghĩ đến... Moria.

- Tôi đã quên chuyện này.

- Chúng ta phải có quyết định về chị ta.

Bobby nhớ lại vẻ mặt xinh đẹp đang hoảng sợ... Anh có dự cảm về số phận bi thảm của người thiếu phụ ấy ngay từ khi anh ngắm tấm ảnh trong túi ông Alan Carstairs.

- Ô! Frankie, nếu cô nhìn thấy bộ mặt của Moria trong cái đêm ở lâu đài La Grauge! Đừng cho cô ta là điên dại… Cô taá sợ hãi là có lý do. Trước khi có được Sylvia Bassington-ffrench thì Nicholson phải gạt bỏ hai trở ngại: người thứ nhất đã loại trừ xong, bây giờ đến lượt người thứ hai, Moria. Tính mạng của cô ta mỏng manh như sợi chỉ.

Frankie phải thừa nhận sự đúng đắn của lập luận.

- Bạn thân mến, phải giải quyết ngay. Nhưng giải quyết thế nào đây?

- Cô ta phải rời khỏi La Grauge ngay lập tức.

- Để đến lâu đài của tôi ở Galles... Ở đấy là an toàn nhất

- Tôi sẽ thuyết phục cô ta chấp nhận giải pháp này.

- Đơn giản thôi. Cha tôi ít chú ý những người ra vào trong nhà. Hơn nữa, chắc chắn bà Moria sẽ làm vui lòng ông cụ… đàn ông sẽ rất mến bà ta. Thật là khó hiểu khi người ta yêu quý những người phụ nữ mảnh dẻ, yếu đuối.

- Tôi không thấy cô ta yếu đuối và mảnh dẻ chút nào.

- Anh bạn, anh mở mắt ra mà nhìn. Cô ta giống như một con chim đang bị thôi miên khi đứng trước một con rắn.

- Cô ta có thể làm gì được kia chứ?

- Có nhiều việc có thể làm được.

- Cô ta không có tiền, không có bạn bè...

- Tôi xin anh, hãy thôi thương hại số phận của cô ta và nếu cần thì anh gửi cô ta vào Trung tâm nuôi dưỡng các cô gái đi.

Một sự khó chịu dè nặng lên hai người.

Cuối cùng thì Frankie vượt qua được khó khăn ấy.

- Nào! - Cô nói - Chúng ta bắt tay vào làm việc! Hãy đi cứu Moira.

- Frankie, cô rất tốt!

- Được rồi! Chúng ta không nói đến chuyện này nữa. Nếu muốn làm thì không được chậm trễ. Cho xe đón tôi vào lúc mười giờ rưỡi.. Tôi sẽ đến La Grauge để gặp cô ta. Nếu có bác sĩ Nicholson ngồi đấy thì tôi sẽ nói rằng vợ ông ta đã hứa là sẽ về lâu đài ở làng Marchobolt cùng tôi nghỉ ít ngày và tôi mang cô ta đi ngay lập tức.

- Như vậy là xong. Nhưng tôi rất sợ một tại nạn mới nữa.

- Được rồi. Mười giờ rưỡi.

Frankie trở về lâu đài lúc chín giờ rưỡi.

Người ta mang bữa sáng đến và Roger rót cho cô mọt tách cà phê. Anh ta có vẻ quá mệt mỏi.

- Xin chào! - Frankie nói - Đêm qua tôi mất ngủ.

- Tôi lấy làm tiếc là đã để cô chứng kiến những chuyện đau buồn của chúng tôi.

- Bà Sylvia ra sao rồi?

- Tối hôm qua người ta đã phải tiêm thuốc gây ngủ cho chị ấy. Bây giờ chị ấy hãy còn ngủ. Người đàn bà khốn khổ! Cuộc đời của chị ấy tan nát. Chị ấy rất yêu anh Henry.

- Tôi biết.

Frankie yên lặng một lúc rồi nói ý định ra đi của mình.

- Đúng, cô nghĩ đến chuyện bỏ chúng tôi mà đi - Roger bực mình xác nhận - Phiên toà sẽ được tổ chức vào thứ sáu. Tôi xin báo để cô có sự sắp xếp công việc. Tất cả phụ thuộc vào ông chánh án.

* * *

Anh ta uống nốt tách cà phê và đi giải quyết những công việc đang đợi anh. Frankie cho rằng sẽ có nhiều lời bàn tán, tò mò về vụ tự sát. Tommy bước vào phòng, cô tìm mọi cách cho thằng bé được khuây khoả.

Bobby đánh xe đến đúng mười giờ rưỡi. Người ta mang đồ đạc của Frankie xuống để xếp vào xe. Cô gái chào tạm biệt Tommy và để lại một vài chữ cho Sylvia. Chiếc Bentley rời khỏi lâu đài Merroway.

Bobby và Frankie nhanh chóng đến La Grauge.

Frankie xúc động khi nhìn thấy hàng rào sắt và những bụi cây rậm rạp.

- Nơi này cho người ta cái cảm giác sợ hãi. Không ngạc nhiên lắm khi bà Moira có những ý nghĩ đen tối.

Chiếc xe đậu trước cổng, Bobby xuống xe và bấm chuông. Anh đợi trong một vài phút. Cuối cùng, một phụ nữ ăn vận như một người vú em đi ra.

- Tôi cần gặp bà Nicholson - Anh nói.

Người phụ nữ ngập ngừng, sau đó lùi lại để mở to cánh cổng. Frankie xuống xe và đi vào trong nhà. Cánh cổng đóng sập sau lưng cô, phát ra một tiếng động bi thảm. Frankie hoảng hốt nhìn những ổ khóa nặng nề, những thanh gài lớn bằng sắt như mình đang là một tù nhân trong một trại giam độc địa. "Ta thật là kỳ cục - cuối cùng Frankie tự nhủ - Bobby đang đợi ta ở ngoài xe. Ta tới đây vì thiện chí và sẽ không có chuyện gì xấu xảy đến với ta cả”.

Qua cầu thang, cô đi dọc hành lang và người vú em mở một cánh cửa đưa cô vào một phòng khách nhỏ đầy đủ tiện nghi. Frankie cảm thấy yên tâm. Người vú em đi ra.

Năm phút sau, bác sĩ Nicholson xuất hiện.

Tuy ngạc nhiên nhưng Frankie cũng giả bộ niềm nở mỉm cười và bắt tay ông ta.

- Xin chào bác sĩ.

- Xin chào tiểu thư Frances. Cô không mang những tin tức xấu của bà Bassington-ffrench đến đây chứ?

- Khi tôi rời lâu đài thì bà ta hãy còn ngủ. Bà Bassington-ffrench khốn khổ! Phải có một bác sĩ ở bên cạnh bà ấy!

- Đúng thế!

Sau một thoáng ngập ngùng Frankie nói tiếp:

- Bác sĩ, chắc chắn là ông đang rất bận, tôi không muốn ông mất thì giờ. Tôi đến để gặp vợ ông.

- Để gặp Moira ư? Cô thật đáng mến.

Cặp mắt xanh kia có đúng là tàn ác không, hay chỉ là một ảo tưởng?

- Nếu bà ấy chưa sẵn sàng thì tôi xin đợi - Frankie mỉm cười nói - Tôi muốn cùng bà ấy tới Galles nghỉ vài ngày. Bà ấy đã hứa như vậy.

- Xin cảm ơn cô, tiểu thu Frances. Cô thật đáng mến và Moira đã chót hứa đi cùng cô.

- Tại sao ông lại nói chót hứa?

Bác sĩ Nicholson cười để lộ hàm răng trắng bóng.

- Vâng. Không may là cô ấy đã đi sáng hôm nay rồi.

- Đi rồi? Đi đâu? - Frankie hỏi.

- Ồ! Đơn giản chỉ để thay đổi không khí thôi. Ngôi nhà này thật đáng buồn đối với một người đàn bà trẻ, tiểu thư Frances. Đôi lúc muốn vui chơi, giải trí, Moira bỏ đi.

- Ông không biết bà ấy đi đâu?

- Chắc chắn là đi Londres. Cô ấy đến các cửa hiệu, các rạp hát.

Frankie thấy ông ta cười... một nụ cười cay độc, có thể là đáng ghét nữa.

- Hôm nay tôi về Londres. Ông có thể cho tôi địa chỉ của bà ấy không?

- Cô ấy thường nghỉ ở khác sạn Savoy. Một hoặc hai ngày nữa tôi mới có tin chính xác. Vợ chồng chúng tôi sống tự do. Tôi không ngạc nhiên lắm nếu cô không thấy cô ấy trong khác sạn Savoy.

Ông bác sĩ mở cửa và Frankie bắt tay ông ta.

Người vú em tiễn Frankie ra tận cổng và cô còn nghe thấy tiếng ông ta nói theo:

- Cô thật đáng mến khi mời vợ tôi tới nhà, tiểu thư Frances.

Chương 24 : Vợ chồng nhà Cayman

obby đang khó chịu khi thủ vai tài xế thì thấy một mình Frankie xuất hiện.

- Hawkins! - Frankie nói to - Chúng ta quay về Staverley thôi.

Đến một đoạn đường ngắn, Bobby cho dừng xe lại.

- Thế nào, Frankie?

- Bobby, tình hình phức tạp rồi. Moira đã đi rồi.

- Đi rồi ư? Ngay sáng hôm nay ư?

- Phải. Từ sáng sớm.

- Không để lại cho chúng ta một chữ ư?

- Tôi không tin là có chuyện này. Ông chồng nói dối... tôi tin chắc là như vậy.

Bobby tái mặt lẩm bẩm:

- Muộn mất rồi! Chúng ta ngốc quá. Đáng lẽ hôm qua chúng ta không nên để cô ta trở về ngôi nhà ấy. Không… - Bobby nói to như để trấn an mình.

Cả hai cùng yên lặng một lúc, sau đó Bobby bình tĩnh phán đoán:

- Chắc chắn cô ấy còn sống vì người ta chưa phát hiện ra xác chết. Người chồng sẽ tạo ra một cái chết hoặc tự nhiên hoặc do tại nạn. Theo tôi, cô ấy hoặc đang bị săn đuổi, việc này là có khả năng, hoặc vẫn còn trong lâu đài La Grauge. Bây giờ chúng ta phải làm gì?

Bobby suy nghĩ một lúc.

- Tôi cho rằng sự có mặt của cô ở đây không ích lợi gì nữa. Cô sẽ trở về Londers chứ? Cô đã nói cần tìm những dấu vết của nhà Cayman. Cô nên bắt tay vào việc này.

- Ô! Bo bby?

- Bạn thân mến, cô không nên ở lại đây. Mọi người đã biết cô, biết rất rõ nữa là khác. Có đã nói mình sẽ về Londres, cô không thể ở lâu đài Merroway mãi được cũng không thể đến trọ ở quán " Pêcheur à la Ligne” được. Trong làng sẽ có những lời đàm tiếu. Không, hãy tin tôi, cô nên đi khỏi nơi này. Chắc chắn là Nicholson đã ngờ vực, nhưng hẳn là ông ta tin rằng cô chưa biết gì nhiều. Cô về Londres còn tôi thì ở lại đây.

- Vẫn ở quán "Pêcheur à la Ligne" ư?

- Không, người lái xe cho cô đã biến mất rồi. Tôi sẽ tới Ambledever cách đây mười lăm ki-lô-mét và nếu Morita vẫn còn ở trong ngôi nhà khủng khiếp ấy thì thể nào tôi cũng có dịp gặp cô ta.

- Bobby, anh hãy thận trọng.

- Tôi sẽ thận trọng như một con rắn ấy.

Frankie đành phải đồng ý với anh. Lập luận của Bobby khá khôn ngoan. Cô hiểu vai trò của mình ở lâu đài Merroway đã kết thúc. Bobby đưa cô về Londres và Frankie trở về ngôi nhà của gia đình ở phố Brook Street. Cô cảm thấy mình quá đơn độc.

* * *

Nhưng vào ba giờ chiều hôm ấy, một cô gái ăn vận sang trọng, mang kính kẹp mũi, tay cặp sách đi vào phố Saint Leonard's Gardens thuộc quận Paddington.

Frankie, vì chính cô gái ấy là Frankie, đi dọc trước những ngôi nhà tồi tàn trên phố Saint Leonard's Gardens, hầu hết đã đổ nát sau những ngày tươi đẹp trước kia.

Tới nhà số mười bảy, cô thất vọng khi nhìn thấy tấm bảng “Nhà bán hoặc cho thuê” treo trước cửa.

Ngay lập tức Frankie nhấc kính kẹp mũi ra rồi đi thẳng. Người tuyên truyền cho Đảng bảo thủ không có lý do gì ở lại đây nữa.

Cô đã kịp nhìn trên tấm bảng tên hai nhà môi giới về nhà cửa và ghi vào sổ tay. Cô đã lập xong kế hoạch tác chiến là bắt tay vào công việc thực hiện.

Trước hết Frankie đến Công ty Gordon và Porter ở phố Praed Sreet.

- Chào ông, ông có thể cho chúng tôi địa chỉ mới của ông Cayman trước kia ở số nhà mười bảy, phố Saint-Leonard's Gradens, quận Paddington không ạ?

- Xin sẵn sàng. thưa cô - Người nhân viên trẻ tuổi trả lời - Nhưng ông ấy chỉ ở đây trong một thời gian ngắn thôi, cô hiểu cho. Ông Cayman chỉ ký một hợp đồng thuê nhà trong ba tháng, hết thời hạn, ông ấy đã ra nước ngoài rồi.

- Vậy ông có địa chỉ mới của ông ta không?

- Không, thưa cô.

- Nhưng trước khi thuê ngôi nhà ấy, ông ta sống ở đâu?

- Ở khách sạn... hình như đó là khách sạn Great Western Railway ở gần ga Paddington thì phải.

- Ông còn giữ lại những giấy tờ gì của ông ta không?

- Ông ấy đã thanh toán đủ tiền nhà cùng tiền điện nước một lần cho ba tháng rồi, không có giấy tờ gì khác.

- Ô! - Frankie thở dài thất vọng.

Chàng trai nhìn cô với vẻ ái ngại.

- Ông ấy nợ tôi một số tiền lớn - Cô giải thích.

Ngay lập tức anh ta tỏ vẻ bất bình. Anh bèn lục thêm trong các tập hồ sơ nhưng vẫn không thấy địa chỉ mới của Cayman.

Công ty cho Cayman thuê nhà chưa nghĩ đến việc tìm người thuê mới. Frankie yêu cầu được thăm ngôi nhà vì cô muốn có một ngôi nhà nhỏ để tiếp tục việc học hành. Cô ra khỏi văn phòng Công ty với chiếc chìa khoá trong tay và đến thẳng số nhà mười bảy, phố Saint-Leonard's Gardens, quận Paddington.

Đó là một ngôi nhà ít được giữ gìn, tường dán loại giấy rẻ tiền, những lớp sơn bị tróc vảy, bẩn thỉu. Đầu tiên Frankie xuống xem tầng trệt. Căn phòng không được quét dọn từ ngày chủ cũ dọn đi; những đoạn giây thừng, những tập báo cũ, những mẩu gỗ vụn, những chiếc đinh... nằm rải rác trên mặt đất... nhưng không có lấy một tài liệu, một lá thư cá nhân nào.

Chỉ có một thứ có thể có giá trị đó là tấm bản đồ đường sắt A.B.C để mở trước cửa sổ. Trên tấm bản đồ có ghi một số tên người. Frankie chép những tên đó vào một cuốn sổ tay nhỏ tuy chưa biết ý nghĩa của chúng ra sao.

Cô tự nhủ nếu chưa tìm ra vợ chồng nhà Cayman thì chưa thể làm một việc gì khác được. Nếu phạm pháp thì họ đã có những sự đề phòng cần thiết để không bị tóm cổ. Sự vắng mặt của họ cũng có thể nói là một chứng cứ phạm tội.

Cô trả lại chìa khoá cho người nhân viên và hứa sẽ gọi điện để trả lời sau đó đi ra công viên mà chưa biết mình phải làm tiếp việc gì nữa. Sự suy nghĩ của cô bị cắt đứt bởi một trận mưa rào. Xung quanh không có một chiếc tắc-xi nào. Gần đó có một ga xe lửa ngầm, cô tới và mua một vé để đi Piccadilly Circus và lấy thêm hai tờ báo.

Vào giờ này xe lửa vắng khách, trong toa chỉ có một mình Frankie. Cô có điều kiện suy nghĩ và đọc báo.

Cô đọc được những tin vặt: những tai nạn xe hơi, những học sinh gái mất tích... dư luận xã hội, buổi tiếp khách của phu nhân Petehampton ở Claridge, việc ngài John Milkington đã bình phục sau tai nạn trên sông khi đang đi trên chiếc du thuyền nổi tiếng của ông John Savage, một nhà tỉ phú quá cố. Chiếc thuyền đó đã mang tai hoạ đến cho ông này ư? Người đóng thuyền đã bị giết một cách bi thảm; ông Savage đã tự sát; bây giờ chủ nhân hiện tại của nó là ngài John Milkington suýt bị chết đuối.

Frankie đặt tờ báo xuống và cau mày nghĩ ngợi. Đã hai lần cô nghe nói đến cái tên Savage: lần thứ nhất do bà Sylvia Bassington-ffrench khi nói về ông Alan Carstairs và lần thứ hai trong cuộc nói chuyện giữa bà Rivington với Bobby.

Ông Alan Carstairs là bạn thân của ông John Savage. Bà Rivington cũng nói đến sự có mặt ở nước Anh của ông Alan Carstairs có quan hệ đến cái chết của ông John Savage. Nhà tỷ phú đã tự sát vì cho rằng mình đã mắc bệnh ung thư. Nhưng nếu không tin vào lời giải thích ấy, ông Carstairs trở về nước Anh để điều tra về cái chết của bạn mình thì sao?... Tấn thảm kịch mà Frankie và Bobby chứng kiến có phải là khúc dạo đầu trong câu chuyện về cái chết bí ẩn của ông Savage không?

Không có điều gì bác bỏ giả thiết này. Frankie tự hỏi phải làm gì để có những chứng cứ. Cô không có thông tin gì về người bạn của ông Savage cả. Bất chợt một tia sáng loé lên trong óc cô: bản di chúc! Nếu cái chết của ông Savage có nghi vấn thì trước hết phải nghiên cứu những mong muốn cuối cùng của nhà tỷ phú ấy.

Frankie đã nghe nói đến một văn phòng ở Londres phục vụ cho việc nghiên cứu các bản di chúc miễn là người đọc trả cho văn phòng một đồng xi-linh (tiền Anh) một lần đọc. Nhưng cô không nhớ địa chỉ của văn phòng này.

Xe lửa đỗ lại và Frankie thấy mình đang đứng trước nhà Bảo tàng của nước Anh. Cô xuống xe và sau năm phút đi bộ cô đến văn phòng luật sư Jenkin và Spragge.

Cô được ông Spragge, người cổ đông chính của văn phòng, đón tiếp một cách niềm nở.

Ông Spragge là một người đáng mến, có giọng nói dịu dàng khuyến khích khách hàng nói rõ những điều tế nhị. Ông biết rất nhiều chuyện bí mật của Londres và nhất là những chuyện trong các gia đình quí phái.

- Tiểu thư Frances, tôi rất lấy làm hân hạnh được đón tiếp cô. Xin mời cô ngồi xuống. Ngài quận công Marchington có được mạnh khoẻ không?

Frankie trả lời và ông Spragge bỏ chiếc kính kẹp mũi ra, từ lúc này ông là cố vấn pháp lý cho thân chủ của mình.

- Thế nào, tiểu thư Frances, cô có việc gì mà tới văn phòng nghèo nàn của chúng tôi?

- Tôi muốn xem qua một bản di chúc - Frankie nói - Nhưng không biết hỏi ai. Tôi nghe nói có một văn phòng mà khách hàng chỉ cần mất một đồng xi-ling thì có thể đọc được mọi tài liệu.

- Phải, ở Somerset House - ông Spragge trả lời - Bản di chúc nào vậy? Tôi có thể cho cô biết nội dung mọi bản di chúc của gia đình cô.

- Đây không phải là di chúc của gia đình.

- A! - ông Spragge nói.

Nhưng con người này rất mánh khoé trong việc moi các bí mật của người khác khiến Frankie đã quyết định phải giữ bí mật việc này cũng phải nói:

- Tôi muốn xem bản di chúc của ông Savage… John Savage.

- Thế ư? - Vẻ tò mò thể hiện trên mặt ông Spragge trước khi ông nói tiếp - Thật là lạ lùng... rất lạ lùng.

Frankie ngạc nhiên nhìn ông.

- Tôi không biết nói sao nữa - ông Spragge nói - Tiểu thư Frances, cô có thể cho tôi biết lý do của việc này không?

- Xin lỗi, thưa ông Spragge, cái đó là không thể được.

Ông Spragge nhìn Frankie một cách khác thường.

- Tôi thấy - ông Spragge nói tiếp - Cô phải đề phòng cẩn thận.

- Tôi phải đề phòng ư?

- Phải. Tôi có nhiều tin tức chưa rõ ràng... tôi không muốn cô dính líu vào một công việc đang có nhiều nghi vấn.

Cô rất muốn trả lời rằng mình đã chìm sâu, ngập tới cổ vào việc này rồi, nhưng cô chỉ nhìn ông một cách dò hỏi.

- Theo tôi, đây là một sự trùng hợp khác thường, ông Spragge. Tuy nhiên tôi thấy có một cái gì đó gian dối ở trong bản di chúc đó. Lúc này thì tôi không thể nói gì hơn.

Frankie vẫn đưa mắt thăm dò ông.

- Tôi có trong tay một tài liệu rất quan trọng - ông Spragge nói tiếp với vẻ bất bình - Người ta đã đội tên tôi, thưa tiểu thư Frances. Cô nghĩ thế nào về hành động bỉ ổi ấy?

Ngạc nhiên, Frankie đứng lặng một lúc, không trả lời.

Chương 25 : Ông Spragge

uối cùng cô lắp bắp:

- Làm thế nào mà ông biết được?

Ngay lập tức Frankie thấy hỏi như vậy là ngu ngốc. Ông Spragge sẽ là một nhà pháp luật tồi nếu không hiểu lời thú nhận ấy.

- Cô đã biết rõ việc này ư, tiểu thư Frances?

- Vâng.

Cô thở dài rồi nói thêm:

- Xin thú nhận thêm, tôi là kẻ xúi giục, thưa ông Spragge.

- Tôi ngạc nhiên về cô đấy.

Trong giọng nói của ông Spragge có sự đấu tranh giữa người bảo vệ pháp luật với người cha chú của cô gái.

- Câu chuyện đã xảy ra như thế nào?

- Đó là một trò đùa - Frankie nói - Chỉ là để giết thời gian thôi.

- Nhưng ai là người đội tên tôi?

Frankie nhìn ông, rồi từ một cảm hứng ngẫu nhiên, cô trả lời:

- Đó là ngài quận công trẻ... Không, thưa ông Spragge, tôi không thể nói tên ông ấy ra đây. Đối với tôi đó là một hành động không trung thành.

Ngay lập tức Frankie hiểu gió đã xoay sang hướng có lợi cho cô. Chắc chắn ông Spragge sẽ kiên quyết đối với người con trai của một ông mục sư, nhưng ông lại mềm yếu trước ông quận công trẻ tuổi. Trở lại vẻ hiền lành, ông giơ một ngón tay lên:

- Ô! tuổi trẻ tươi đẹp và đáng khen. Cô chui đầu vào tổ ong vò vẽ nào vậy? Cô sẽ thấy nhiều chuyện phức tạp về mặt luật pháp đối với sự tinh nghịch vô tư như vậy. Cô có biết mình có thể phải ra trước toà án không... nếu cô mang tên người khác chứ không phải là tên tôi?

- Ông rất đáng mến, ông Spragge. Chỉ có một trong một ngàn người có hành động như ông. Thú thật tôi lấy làm ngượng vì đã gây ra chuyện này.

- Không, không, tiểu thư Frances.

- Ô! Đúng thế, tôi xin cam đoan với ông là như vậy. Chắc chắn là bà Rivington đã kể lại với ông. Bà ấy đã nói như thế nào?

- Tôi vừa nhận được một bức thư.

Frankie giơ tay ra và ông Spragge đưa lá thư cho cô với vẻ muốn nói: Để cô thấy rõ mình đã dại dột như thế nào!

"Ông Spragge thân mến - Bà Rivington viết - Xin lỗi về sự quên lãng của tôi, nhưng lúc này tôi nhớ lại một chi tiết để ông có thể xem xét sử dụng theo yêu cầu của ông khi đến gặp tôi bữa nọ. Ông Alan Carstairs có cho chúng tôi biết ông ấy sẽ tới một nơi có tên là Chipping Somerton. Tôi hy vọng tin mới này sẽ giúp ông tìm ra địa chỉ của ông ấy hiện nay.

Những việc mà ông đã làm trong vụ án Maltravers đối với tôi là rất thú vị.

Xin ông nhận ở đây những tình cảm trân trọng của tôi.

Edith Rivington"

- Cô có thể tự nhận xét. Rất nghiêm trọng - ông Spragge nói nghiêm khắc tuy có đôi chút mềm dịu - Tôi có thể hiểu đây là ý đồ gây ra một vụ om xòm liên quan đến vụ Maltravers hoặc thân chủ của tôi là ông Caistairs…

Frankie ngắt lời ông.

- Ông Carstairs là một trong những khách hàng của ông?

- Đúng. Ông ấy vừa đến hỏi ý kiến tôi trong khi trở về Anh vào tháng trước. Cô cũng quen ông Carstairs ư, tiểu thư Frankie?

- Có quen đôi chút.

- Một con người đáng mến. Khi ông ấy tới văn phòng này, một bầu không khí tự do cùng vào với ông ấy.

- Ông ta tới hỏi về chuyện bản di chúc của ông Savage, đúng không?

- A! Đây là chuyện cô muốn hỏi tôi. Tiếc rằng tôi không thể giúp gì cho ông ấy cả.

- Ông ta đã hỏi ông những gì? Có phải vì bí mật nghề nghiệp mà ông không thể trả lời tôi không?

- Trong trường hợp này thì không phải như vậy. Theo tôi thì không thể làm gì trong vụ này được... trừ phi gia đình ông Savage bỏ ra một số tiền rất lớn để theo đuổi kiện tụng. Tiểu thư Frances, tôi khuyên bất cứ ai cũng không nên ra trước cửa công cả. Luật pháp sẽ tung ra rất nhiều suy diễn làm hoang mang những người tinh thần không vững. Một sự dàn xếp tồi còn hơn là một bản án tốt, đó là khẩu hiệu của tôi.

Frankie như đang ngồi trên đống lửa. Cô rất sợ để lộ công việc mình đang làm.

- Đây là trường hợp hiếm thấy - ông Spragge nói tiếp.

- Trường hợp tự sát ư?

- Không, không, tôi muốn nói đến những chuyện bất chính. Ông Savage là một nhà kinh doanh có tài, nhưng ông ta để mình bị mê hoặc bởi một người đẹp mới gặp lần đầu. Đây là một người đàn bà giảo quyệt.

- Ồ! Tôi rất muốn ông kể về người phụ nử ấy. Ông Carstairs thường nổi giận mỗi khi nói với tôi về người này mà không cho tôi biết đầu đuôi câu chuyện ra sao.

- Cũng đơn giản thôi. Tôi có thể nói được nếu cô quan tâm.

- Ồ, vâng.

- Ông Savage từ Hoa Kỳ trở về nước Anh tháng một năm ngoái. Như cô đã biết ông ấy là người rất giàu. Trong chuyến đi ông ta làm quen với bà Templeton. Người ta không biết gì về người phụ nữ này ngoài việc bà ta rất đẹp và người chồng đang ở nơi nào đó trên nước Anh.

"Vợ chồng nhà Cayman" - Frankie nghĩ.

- Những chuyến đi biển thường nguy hiểm - ông Spragge nói tiếp - Bị mê hoặc bởi con người nghiêng nước nghiêng thành ấy, ông Savage nhận lời sẽ đến thăm bà trong một ngôi nhà ở Chipping Somerton. Ông ấy đã tới đây bao nhiêu lần thì tôi không rõ, nhưng rõ ràng là ông ấy đã bị bà Templeton thống trị rồi. Và sau đó thì tấn thảm kịch xảy ra. Ông Savage lúc này kêu ca về tình trạng sức khoẻ của mình. Ông sợ rằng mình đã mắc một chứng bệnh nghiêm trọng...

- Ung thư ư?

- Vâng; ông ấy rất sợ chứng ung thư. Sự sợ hãi ấy trở thành nỗi ám ảnh. Thời kỳ ấy ông Savage sống với vợ chồng nhà Templeton. Họ khuyên ông nên mời một nhà chuyên môn ở Londres về khám bệnh. Ông ấy làm theo. Tiểu thư Frances, đến đây thì tôi xin phép được tự do tưởng tượng. Nhà chuyên môn ấy rất đặc biệt, trước toà án ông ta đã thề mà nói rằng ông Savage không hề mắc chứng ung thư. Ông ta đã nói với người bệnh như vậy, nhưng ông này lại khẳng định điều ngược lại, không tin lời chuyên môn là sai sự thật. Không được chứng kiến, tiểu thư Frances, nhưng theo sự hiểu biết về cách chữa bệnh của mình, tôi hiểu sự việc xảy ra có khác đi đôi chút. Nghe những triệu chứng bệnh tật do ông Savage kể, nhà chuyên môn tỏ vẻ nghiêm trang nói một cách mạnh mẽ, vừa an ủi người bệnh vừa ám chỉ bệnh tật của ông này là nghiêm trọng. Ông Savage cho rằng nhà chuyên môn đã nói dối với mục đích làm ông yên tâm... Nhưng ông thì ông hiểu ràng mình đã mắc chứng ung thư.

Dù sao đi nữa thì ông Savage đã tới Chipping Somerton trong tình trạng tinh thần suy sụp. Ông ấy hình dung ra một cơn hấp hối đau đớn và kéo dài. Hình như đã có nhiều người trong gia đình ông chết vì chứng ung thư và ông quyết định không để tái diễn những cảnh đau đớn mà ông đã chứng kiến. Ông Savage cho gọi người chưởng khế tới lập cho mình một bản di chúc và ông đã ký vào đó và giao cho người đó giữ. Tới hôm ấy, ông đã uống một liều lớn thuốc ngủ sau khi viết một bức thư giải thích về cái chết nhanh chóng và không đau đớn của mình.

Theo bản di chúc thì ông Savage đã để lại hầu hết gia sản của mình cho bà Templeton và phần nhỏ còn lại cho công tác từ thiện.

Hài lòng về chuyện kể của mình, ông Spragge ngả lưng trên ghế bành rồi nói tiếp:

- Ông chánh án đã có bản kết luận thường thấy: tự sát trong lúc tinh thần không cân bằng; nhưng chúng tôi không thể căn cứ vào đó để xác định tính chất hợp pháp của các chữ ký xác nhận trong bản di chúc. Bản di chúc nói là đã được viết và được ký trước mặt một viên công chứng trong lúc người qua đời trí óc minh mẫn. Chúng tôi không thể chứng minh lúc ấy ông Savage đang bị một áp lực bên ngoài. Ông Savage không để lại cho những người thân của mình chút gì... Cha mẹ, anh chị em thì ông ấy phải nhớ chứ. Tôi cho rằng họ đang ở Châu úc.

- Và không ai lên tiếng bác bỏ bản di chúc ấy sao'?

- Như đã nói với cô, những người thân của ông Savage không có mặt ở xứ sở này nên không biết gì về bản di chúc. Chính ông Alan Carstairs khơi vấn đề này ra. Sau một cuộc khai thác ở Trung Phi, sau khi biết mọi chi tiết của bản di chúc, ông Carstairs tới đây hỏi tôi cách bác bỏ bản di chúc ấy. Tôi đã nói với ông ấy không có một giải pháp nào cả. Với khả năng thành công chín phần mười theo pháp luật, bà Templeton sẽ hưởng gia tài ấy. Hơn thế, bà này đã bỏ đi để sống ở miền bắc nước Pháp và từ chối quan hệ với chúng tôi. Ông Carstairs hiểu rằng mình đã về quá chậm.

- Người ta không biết gì về bà Templeton ấy ư?

Ông Spragge lắc đầu.

- Một người từng trải như ông Savage đáng lẽ không nên để mình bị quyết rũ như vậy... nhưng...

Frankie đứng lên.

- Đàn ông thật lạ lùng - Cô nói.

Cô đưa lay ra cho ông luật sư.

- Tạm biệt ông Spragge. Ông rất đáng mến, tôi lấy làm tiếc...

- Tạm biệt, tiểu thư Frances. Lần sau nên cẩn thận hơn.

Cô bắt tay ông rồi rời khỏi văn phòng của ông luật sư.

Ông Spragge ngồi trước bàn giấy và nghĩ: "Vị quận công trẻ tuổi...". Ông thấy không có ai quận công ở nước Anh lại tinh nghịch đến như vậy.

Chương 26 : Trong đêm tối

ự vắng mặt không thể giải Moira làm cho Bobby bối rối. Anh nhắc lại thật là kỳ cục khi tưởng tượng ra việc loại bỏ cô trong một khu nhà đầy người như vậy. Chắc chắn là cô đang bị giam ở một nơi nào đó trong lâu đài La Grauge thôi.

Bobby không nghĩ đến việc Moira tự nguyện rời khỏi Staveryley. Anh cũng không tin chắc rằng cô đi mà không để lại cho anh mấy chữ. Hơn nữa cô đã chẳng nói là mình không có nơi ẩn nấp là gì? Giữa những bức tường thê thảm của La Grauge, Moira đang là tù nhân, sống cách biệt với thế giới bên ngoài.

Bobby khẳng định: Nicholson muốn thủ tiêu người vợ bằng mọi giá. Mọi kế hoạch của hắn đã thất bại. Cho người khác biết bộ mặt thật của hắn, Moira đã nhanh chóng mang lại sự kết liễu đời mình. Nicholson đã có một quyết định tức thời. Liệu hắn có dám giết cô không?

Phải, Nicholson đang chuẩn bị để sát hại vợ. Bobby tin chắc là như vậy. Người ta sẽ thấy xác của Moira ở một nơi nào đó, có thể là dưới vực nếu không bị sóng biển cuốn trôi. Một lần nữa giết người lại trở thành tai nạn. Nicholson là chuyên gia về loại việc này.

Bobby cho rằng đạo diễn một cảnh như vậy phải có thời gian, ít nhất là bốn mươi tám tiếng đồng hồ. Trước cái thời hạn ấy, anh sẽ tìm thấy Moira nếu cô còn ở trong lâu đài La Grauge.

Để lại Frankie ở Brook Street, anh suy nghĩ về kế hoạch hành động. Anh thấy tốt nhất là không đến xưởng sửa chữa ô-tô nữa... Chắc chắn bọn chúng đang canh chừng anh ở đây. Khi là Hawkins thì không gây nghi ngờ cho ai. Nhưng lúc này Hawkins cũng phải biến mất.

Chiều hôm ấy, một chàng trai có bộ ria, mặc bộ đồ xanh may đo tới Ambleveder, một thị trấn nhỏ. Người hành khách ấy đến trọ trong một khách sạn ở gần nhà ga và ghi đăng ký dưới cái tên Goerge Paker. Sau khi sắp xếp hành lý, anh ta đi ra phố và vào một cửa hiệu thuê một chiếc xe gắn máy.

Mười giờ đêm hôm ấy, một người đi xe gắn máy đội mũ da, đeo cặp kính to tới làng Staverley và đỗ vào một nơi kín đáo gần lâu đài La Grauge.

Anh giấu chiếc xe trong bụi cây, nhìn lại hai bên đường rồi đi dọc theo bức tường và đến trước một cánh cửa nhỏ.

Cũng như lần trước, cửa không khoá. Sau khi dò xét xung quanh, Bobby bước vào. Anh cho tay vào túi có khẩu súng lục và cảm thấy yên tâm.

Bên trong vẫn yên tĩnh.

Bobby mỉm cười khi nghĩ đến những câu chuyện cổ tích trong đó bọn cướp cho hổ báo canh gác nơi ở của chúng.

Bác sĩ Nicholson thích khoá và then cài và có thể có những sơ xuất về mặt này...

Bobby muốn có sự tin chắc. Mỗi khi nghĩ tới Moira, tim anh thắt lại. Anh như nhìn thấy hình bóng của cô, đôi mắt mở to, đôi môi run rẩy. Đây là nơi anh gặp cô lần đầu tiên.

Lúc này Moira đang ở đâu? Nicholson đã làm gì cô ta? Chỉ cần cô còn sống...

Bobby đi xung quanh trại giam. Trên lầu một nhiều phòng có ánh sáng đèn; dưới tầng trệt thì chỉ có một phòng.

Bobby bò tới dưới cửa sổ của căn phòng ấy. Màn gió đã được che kín chỉ còn một khe hở nhỏ. Bobby bám lấy gờ cửa sổ nhảy lên để nhìn vào bên trong. Anh nhìn thấy bả vai và một cánh tay của một người đàn ông đang viết trên giấy. Cùng lúc ấy người đàn ông xoay người, thay đổi lại cách ngồi và Bobby nhìn ra mặt người ấy theo chiều nghiêng: bác sĩ Nicholson.

Bobby có thời gian để quan sát kỹ ông ta. Anh chú ý đến chiếc mũ to, cái cằm nhọn, cái tai nhỏ, dái tai dính vào má. Anh nghe nói những người có kiểu tai như vậy thường là những người có tài đặc biệt.

Người bác sĩ vẫn viết… Đôi lúc ông ta ngừng lại như để suy nghĩ tìm một từ nào đó... rồi ngòi bút lại tiếp tục lướt trên giấy. Có lúc ông ta nhấc và lau mắt kính rồi lại kẹp lên mũi.

Cuối cùng Bobby nhảy xuống đất không một tiếng động. Hình như Nicholson còn viết nữa. Cần tranh thủ thời gian ấy để đi quan sát các nơi khác.

Một lần nữa. anh đi xung quanh ngôi nhà và nhìn lên một ô cửa sổ để ngỏ trên lầu một. Phòng này không có ánh sáng đèn; anh kết luận không có ai ở trong phòng này. Một cây lớn có cành vươn ra trước cửa sổ ấy.

Một lát sau, Bobby trèo lên cây, tất cả đều tốt đẹp, anh giơ tay bám lấy gờ cửa sổ. Cành cây mà Bobby đang ngồi bỗng nhiên gãy gục làm anh rơi xuống một cái hố. Hố có nhiều lá cây nên anh không bị thương. Cành cây này đã bị sâu ăn ruỗng từ lâu.

Bobby nghe thấy tiếng kêu của người bác sĩ và nhìn thấy cánh cửa phòng của hắn bật mở. Bobby đứng lên và chạy đến chỗ tối gần cánh cửa nhà mà anh vừa đột nhập rồi nấp sau một lùm cây.

Anh nghe thấy tiếng người nói, tiếng chân chạy đến bên cành cây gãy. Bobby bất động, nín thở. Nếu chạy dọc theo con đường để ra ngoài cổng, thấy cổng bị mở toang thì chắc chắn họ cho rằng tên kẻ trộm đã cao chạy xa bay và không đi tìm kiếm nữa.

Lúc này thời gian trôi rất chậm và không ai đến bên anh cả. Cuối cùng Bobby nghe thấy tiếng nói của Nicholson. Anh không nghe rõ nên không biết hắn nói gì nhưng có tiếng trả lời:

- Tất cả không có gì suy xuyển, thưa ngài. Tôi đã cho người đi tuần tiễu.

Dần dần tiếng động giảm bớt, ánh sáng tắt dần và mọi người trở vào trong nhà.

Bobby thận trọng rời khỏi chỗ ẩn nấp. Anh vừa đi vừa lắng tai nghe. Tất cả đều yên lặng. Anh đi về phía ngôi nhà.

Và trong đêm tối, một vật nặng đập vào gáy anh.

Anh bất tỉnh và ngã xuống.

Chương 27 : « Anh tôi bị sát hại »

áng thứ sáu, chiếc xe Bentley màu xanh đậu trước khách sạn nhà ga ở Ambleveder.

Frankie đã gọi điện thoại cho Bobby dưới một cái tên giả, George Parker, báo tin cô đến dự phiên toà với tư cách là nhân chứng về cái chết của ông Henry Bassington-ffrench và đi qua Ambleveder.

Không được trả lời, cô tới ngay khách sạn.

- Ông Parker ư, thưa cô? - Người phục vụ khách sạn nhắc lại - ở đây không có ai có tên như vậy. Xin đợi một chút để tôi đi hỏi thêm.

Anh ta trở lại sau đó một vài phút.

- Ông Parker đến đây tối thứ tư. Ông ấy để chiếc xắc lại và đi ngay. Đồ đạc hãy còn ở đây nhưng không thấy ông ấy quay lại.

Gần như bị ngất đi, Frankie phải chống tay lên bàn. Người phục vụ nhìn cô với vẻ lo ngại.

- Cô bị mệt ư?

Frankie lắc đầu:

- Không. Ông ấy có nhắn lại điều gì không?

Người ấy lại bỏ đi để sau đó trở lại và lắc đầu.

- Có một bức điện gửi cho ông ta. Đó là tất cả.

Thấy vẻ mặt khác thường của Frankie người ấy hỏi.

- Cô có cần tôi giúp gì không?

- Ô! Không. Cảm ơn.

Cô chỉ muốn ra đi ngay. Cô lên xe và cho xe chạy về làng Staverley, đầu óc đầy những ý nghĩ trái ngược nhau.

Tại sao Bobby không quay lại khách sạn? Có hai lý do: hoặc là anh đang bám sát mục tiêu... và mục tiêu ấy đã khiến anh phải đi xa Ambleveder... hoặc là đã có một chuyện bất hạnh gì đó xảy đến với anh.

Chiếc Bentley bị xóc mạnh. Ngay lúc ấy, Frankie lấy lại sự can đảm.

Thật là ngốc nghếch khi nghĩ tới điều đó, Bobby vẫn bình yên. Anh đang theo đuổi một mục tiêu. Đó là tất cả!

Trong thâm tâm cô lại xuất hiện một câu hỏi khác. Tại sao anh không để lại cho cô một vài chữ để cô yên tâm?

Câu trả lời không khó lắm, nhưng có thể chấp nhận được. Anh thiếu thời gian và điều kiện. Bobby không hình dung được Frankie lại lo lắng đến như vậy. Tất cả sẽ tốt đẹp... tại sao lại có những lo ngại vô ích kia chứ?

Phiên toà diễn ra suôn sẻ. Roger có mặt với tư cách là nhân chứng trước toà. Bà Sylvia xinh đẹp trong chiếc khăn choàng màu đen cũng vậy.

Thủ tục được diễn ra đúng luật và nhanh chóng. Mọi người đều biết và mến phục ông Henry Bassington-ffrench và người ta cố gắng không làm tổn thương tình cảm của người vợ goá và em trai của người quá cố.

Frankie và Roger lên khai báo. Cả bác sĩ Nicholson cũng vậy... Người ta đọc lá thư vĩnh biệt của ông Henry và toà nhanh chóng kết luận: Tự sát trong khi tinh thần mất cân bằng.

Bản án vô tư và thường thấy như Spragge đã nói về cái chết của nhà tỷ phú John Savage.

Hai vụ tự sát trong một lúc điên rồ... Hai cái chết này có liên quan gì với nhau không nhỉ?

Tuy nhiên cái chết của ông Henry không có gì phải nghi vấn trước mắt Frankie. Cô đã là một nhân chứng. Bobby hẳn phải từ bỏ ý nghĩ cho đây là một vụ giết người. Chứng cứ vô can của bác sĩ Nicholson được củng cố bằng lời khai của người vợ goá.

Frankie và Roger là những người sau cùng rời khỏi phòng xử án. Ông chánh án đã bắt tay và an ủi bà Sylvia Bassington-ffrench.

- Frankie - bà Sylvia nói - cô có thư tới sáng hôm nay. Xin lỗi, tôi về trước để nghỉ ngơi đôi chút, tôi vừa trải quá những giờ phút ghê rợn.

Bà rùng mình và rời khỏi toà án. Bác sĩ Nicholson đi theo và khuyên bà nên dùng một viên thuốc an thần.

Frankie quay lại nhìn Roger đang đi sau mình.

- Bobby đã biến mất - Cô báo tin.

- Biến mất?

- Phải.

- Tại sao?

Cô giải thích vắn tắt.

- Và từ sau đó người ta không thấy anh ta nữa ư?

- Không. Anh nghĩ về chuyện này như thế nào?

- Không có gì là tốt cả.

Tim của Frankie đập rộn lên.

- Anh cho rằng...

- Ô! Không có gì là quan trọng đâu... A! Ông bác sĩ đây rồi.

Nicholson nhẹ nhàng bước tới. Ông ta tươi cười xoa tay.

- Cái đó diễn ra rất tốt... Bác sĩ Davidson thật tuyệt vời. May mắn là chúng ta có một ông chánh án như vậy.

- Đúng thế - Frankie đáp lại một cách máy móc.

- Cái đó rất quan trọng, tiểu thư Frances. Cách làm việc của toà án phụ thuộc vào ông chánh án. Ông ta có quyền lực rộng và có thể tạo ra mọi khó khăn. Lần này thì mọi việc đều trôi chảy.

- Một vở hài kịch được trình diễn tốt.

Ông Nicholson ngạc nhiên nhìn cô.

- Tôi hiểu tình cảm của tiểu thư Frances và tôi xin được chia sẻ với ý nghĩ ấy - Roger nhấn mạnh - Bác sĩ Nicholson, anh tôi bị sát hại.

Anh ta đứng sau ông bác sĩ nên không thấy được phản ứng của ông này. Chỉ một mình Frankie là thấy rõ.

- Tôi biết rõ điều tôi muốn nói - Roger nói tiếp - Luật pháp có thể có ý kiến khác về cái chết, mặc dù đây là một vụ giết người. Những kẻ gây tội ác đê tiện làm cho anh tôi trở thành nghiện ngập tức là đã giết anh tôi chẳng khác gì việc cắm dao vào gáy anh ấy.

Anh ta tiến lên một vài bước, nhìn thẳng vào mắt người bác sĩ.

- Sẽ đến lượt chúng.

Bác sĩ Nicholson lắc đầu.

- Đến đây thì chúng ta đồng ý với nhau - ông ta nói - Tôi biết rõ hơn ông về tình trạng nghiện ma tuý của ông Henry Bassington-ffrench và kẻ đẩy ông ấy vào vòng nghiện ngập đã phạm vào một tội các ghê tởm.

Những ý kiến lộn xộn quay cuồng trong óc Frankie. "Có thể không phải là ông ta - Cô tự nhủ - Chứng cứ vô can của ông ta không chỉ căn cứ vào lời của bà Sylvia. Trong trường hợp ấy..."

Khi cô ngẩng mặt lên thì ông Nicholson hỏi cô:

- Cô về đây bằng xe hơi chứ, tiểu thư Frances? Lần này thì không gặp tai nạn, đúng không?

- Không. Lái xe là một nghề chuyên môn mà tôi không ham lắm. Còn ông?

Đôi mi mắt của ông Nicholson rung lên.

- Chắc rằng lần này người tài xế của cô cầm lái?

- Người lái xe của tôi mất tích rồi - Frankie nói và nhìn thẳng vào mắt người bác sĩ.

- Thế ư?

- Lần cuối cùng người ta nhìn thấy anh ấy là ở trên đường tới lâu đài La Grauge.

Nicholson nhướn mắt lên.

- Thật là lạ lùng... ai lôi kéo anh ta tới đây?

- Tôi chỉ biết lần cuối cùng người ta thấy anh ta ở đấy.

- Cô coi đây là một tấn thảm kịch và cô đã quá chú ý đến những lời ngồi lê đôi mách trong làng. Ở đây người ta đặt ra nhiều chuyện giật gân. Tôi còn được nghe nói người tài xế của cô đứng nói chuyện với vợ tôi ngoài bờ sông nữa kia... Đấy là một người được giáo dục tốt, đúng không?

"Thế đấy - Frankie nghĩ - Bây giờ ông ta muốn nói vợ ông đã đi với người tài xế rồi. Mình thấy rõ mánh khoé của ông ta".

Cô nói:

- Hawkins ít được giáo dục so với những người lái xe khác.

Nicholson quay sang Roger.

- Bây giờ thì tôi phải đi. Chúc ông và bà Sylvia mạnh khoẻ.

Roger đưa ông ta vào phòng xép. Frankie đi theo. Cô thấy trên bàn có hai phong thư đề tên mình. Một bì có một hoá đơn. Bì kia...

Tim cô đập rộn lên. Cô nhận ra nét chữ của Bobby.

Nicholson và Roger đã ra khỏi cửa.

Cô mở phong bì và đọc:

Frankie thân mến.

Cuối cùng thì tôi đã có được mục liêu. Hãy đến gặp tôi càng nhanh càng tốt ở Cllipping Somerton. Hãy tới đây bằng xe lửa. Chiếc Bentley của cô dễ bị chú ý. Xe lửa thì không thuận tiện lắm, nhưng cố gắng tới nơi không chậm trễ. Tới một ngôi nhà có tên là Tudor Cottaga. Tôi sẽ giải thích sau. Không hỏi ai về đường xá. Cô rõ chưa? Không được nói chuyện này với ai. Với bất cứ ai!

Người bạn thân thiết của cô.

Bobby.

Frankie vò nát bức thư trên tay.

Mọi việc đều tốt đẹp. Bobby bình an vô sự. Anh đang bám sát mục tiêu. Một sự trùng hợp kỳ lạ. Đây cũng là mục tiêu của Frankie. Cô đã tới Somerset House để hỏi về bản di chúc của ông John Savage. Rose Emily Templeton được coi là vợ của Edgar Templeton cũng ở ngôi nhà có tên là Tudor Cottage ở Chipping Somerton. Hơn nữa cái tên Chipping Somerton được ghi trên tấm bản đồ đường sắt trong ngôi nhà vắng của vợ chồng Cayman ở Saint-Leonard's Gardens. Vợ chồng nhà Cayman đã tới Chipping Somerton.

Tất cả đều ăn khớp với nhau. Hai người sắp tới đích.

Roger Bassington-ffrench đến bên Frankie.

- Thư của cô có tin gì mới không?

Cô ngập ngừng. Chắc chắn là Bobby không nghĩ đến Roger khi anh nhấn mạnh không nói chuyện này với ai.

Cô nhớ lại những chữ gạch chân... cô cũng nhớ lại những nghi vấn của Bobby... Nếu đúng thì Roger sẽ phản bội lại họ. Cô không dám nói với Roger chuyện này.

Frankie trả lời:

- Không, không có gì quan trọng.

Hai mươi bốn tiếng đồng hồ sau đó cô lấy làm tiếc về quyết định ấy.

Cô cũng đã tiếc là mình làm đúng lời dặn của Bobby là để chiếc Betley ở lâu đài Merroway để đi bằng xe lửa. Theo đương chim bay thì Chipping Somerton không xa lắm, nhưng đi xe lửa thì ba lần chuyển tàu, mỗi lần phải đợi rất lâu trong những ga xép ở nông thôn. Kiểu giao thông này không thích hợp với cô gái, nhưng phải công nhận là Bobby có lý khi nói chiếc Bentley của cô rất dễ bị chú ý.

Trời đã tối khi xe lửa của Frankie đến ga Chipping Somerton. Mưa rơi, cô phải kéo cổ áo khoác lên và lên đường.

Đường dễ nhận ra. Cô gái đã nhìn thấy ánh sáng trong làng khi rẽ trái và lên dốc. Tới đầu dốc, rẽ phải, cô thấy lơ thơ dưới chân đồi mấy nóc nhà trong đó có một ngôi có hàng rào bằng gỗ rào xung quanh. Cô bật diêm lên soi thấy có hàng chữ: Tudor Cottage.

Không có ai ở gần đấy. Frankie kéo then cửa và bước vào. Đi qua rặng thông, cô lờ mờ thấy ngôi nhà nấp sau một thân cây, cô nhìn thấy cửa ra vào. Tim đập mạnh, cô làm giả tiếng cú kêu. Một vài phút trôi qua, vẫn không thấy có chuyện gì xảy ra. Cô kêu một lần nữa.

Cánh cửa ngôi nhà bật mở và cô thấy một bóng người trong bộ đồng phục tài xế thận trọng nhìn ra. Người ấy ra hiệu cho cô vào trong nhà rồi biến mất, để ngỏ cửa đằng sau.

Frankie rời chỗ ẩn nấp, chạy vào trong nhà. Bước qua ngưỡng cửa, tới một phòng xép tối om, nhìn xung quanh rồi cô gọi to:

- Bobby!

Cô ngồi thấy một mùi lạ vừa nặng vừa hắc. Đúng lúc cô tự nhủ "Clô-rô-phoóc" thì hai bàn tay rắn chắc túm lấy vai cô. Cô định kêu lên thì một mảnh vải ướt bịt lấy miệng cô.

Cô chống cự một cách vô vọng... thất bại... cô yếu dần đi, tiếng o o bên tai và cô có cảm giác như mình bị ngạt thở. Cuối cùng cô ngất đi.

Chương 28 : Giờ thứ mười một

hi tỉnh lại, Frankie thấy trong người nôn nao vì phản ứng của Clô-rô-phoóc. Cô đang nằm trên một tấm gỗ, tay chân bị trói chặt. Cô cựa mình và ngã xuống bên một xô than. Cô đang ở đâu? Cô nhanh chóng nhận ra đây là một nhà kho, ánh sáng lờ mờ chiếu qua một cửa sổ nhỏ. Trong phòng có những bức tranh cũ dựa vào tường, một chiếc giường sắt đã han rỉ, hai hoặc ba chiếc ghế gãy cùng những thứ khác và một xô than.

Cô nghe thấy tiếng người rên trong góc phòng. Dây trói không chặt lắm, Frankie có thể lê người trên sàn nhà đầy bụi.

- Bobby?

Đúng là Bobby tay chân cũng bị trói chặt, hơn nữa, miệng bị nhét giẻ. Tuy bị trói nhưng Frankie cũng có thể giúp anh được việc gì đó.

Cuối cùng thì Bobby cũng đã gọi được tên Frankie.

- Tôi rất sung sướng khi nhìn thấy chúng ta cùng bị nhốt ở một nơi - Frankie nói nhỏ - Nhưng mọi người sẽ cho chúng ta là đồ ngốc, tôi tin là như vậy.

- Tôi cũng tin là như vậy - Bobby buồn bã nói theo.

- Chúng bắt anh như thế nào? Trước hay sau khi viết thư cho tôi?

- Tôi viết cho cô ư, tôi ấy? Tin mới đấy.

- Ô! Tôi ngu dại quá! Đáng lẽ tôi phải nghi ngờ... cả việc dặn là không cho ai biết chuyện này!

- Nghe đây, Frankie. Tôi sẽ kể chuyện mình cho cô nghe, sau đó đến lượt cô.

Anh nói về việc mình thâm nhập vào lâu đài La Grange mà đoạn cuối buồn thảm của câu chuyện là anh bị nhốt vào gác đựng đồ cũ này.

- Tỉnh lại tôi thấy mình đang nằm ở đây. Có một ít thức ăn, đồ uống đặt trên một chiếc khay. Đói quá tôi đành phải dùng. Có lẽ trong thức ăn có thuốc ngủ nên ăn xong tôi lại thiếp đi. Hôm nay là thứ mấy?

- Thứ sáu.

- Tôi bị đánh vào gáy đêm thứ tư. Từ bấy đến nay lúc nào tôi cũng ngây ngất. Nói xem, đã có chuyện gì xảy ra với cô?

Frankie kể lại chuyện mình từ khi cô gặp ông Spragge đến lúc cô nhìn thấy bóng của Bobby trước cửa ra vào.

- Chúng bắt tôi ngửi clô-rô-phoóc và tôi thấy tim mình đau nhói.

- Bây giờ chúng ta phải làm gì, Frankie?

- Nếu tôi nói về bức thư của anh cho Roger thì hay quá! Tôi cũng đã nghĩ đến chuyện này nhưng sau đó thấy cần làm đúng điều anh căn dặn.

- Và lúc này không một ai biết chúng ta đang ở đâu nữa. Bạn thân mến, hoàn cảnh không phải là kỳ cục đâu.

- Chúng ta đã quá tự tin.

- Có một điều làm tôi băn khoăn. Tại sao họ không giết chúng ta? Nicholson sẽ không run tay trước bất cứ tội ác nào.

- Chắc rằng hắn đã có một kế hoạch nào đó.

- Đúng thế. Chúng ta cũng có kế hoạch. Chúng ta phải ra khỏi đây. Làm thế nào nhỉ?

- Chúng ta kêu cứu thì sao?

- Một người nào đó có thể nghe thấy. Nhưng sự việc Nicholson không nhét giẻ vào miệng cô chứng tỏ chúng ta có kêu cũng vô ích. Hắn trói tay cô lỏng hơn. Tôi cởi trói bằng răng có được không?

- Trong tiểu thuyết thì những việc như thế này rất dễ dàng - Bobby thở dài nói tiếp - Nhưng tôi có cảm giác mọi cố gắng của mình đều không có tác dụng gì.

- Có chứ - Frankie cãi lại - Nút buộc đã lỏng ra rồi. Coi chừng! Có người đang đi lên!

Cô lăn ra xa. Những bước chân nặng nề trên cầu thang. Một ánh sáng chui qua khe cửa. Tiếng chìa khoá lạch xạch trong ổ và cánh cửa từ từ mở ra.

- Hai con chim gáy non của tôi ra sao rồi? - Bác sĩ Nicholson hỏi.

Hắn cầm trên tay một ngọn nến. Tuy vành mũ cụp xuống tận mắt, cổ áo khoác kéo cao lên che khuất nửa mặt, nhưng giọng nói của hắn không thể đánh lừa ai được.

Hắn ngấc đầu rồi nói bằng giọng đùa cợt:

- Tiểu thư thân mến, thật là không thể tha thứ được khi làm cho cô sa bẫy một cách dễ dàng như vậy.

Frankie và Bobby không nói một lời. Lúc này ưu thế ngả về Nicholson và họ cũng không biết trả lời ra sao.

Nicholson gắn cây nến lên một chiếc ghế. Hắn xem lại nút trói Bobhy và gật đầu. Tiếp đó hắn quay sang Frankie.

- Thời thơ ấu tôi thường nghe người ta nói những ngón tay có trước cái đã và người ta dùng răng trước khi dùng các ngón tay. Tôi phải xác nhận răng của bạn cô đã phải làm việc rất nhiều.

Một chiếc ghế lớn bằng gỗ sồi lưng gãy ở góc phòng.

Nicholson nhấc Frankie đặt lên chiếc ghế đó sau khi xem lại các nút dây trói tay chân cô.

- Tôi hy vọng là cô không khó chịu. Cô không phải đợi hình phạt lâu đâu.

Frankie lên tiếng.

- Ông định làm gì chúng tôi?

Nicholson cầm lấy ngọn nến và đi ra cửa.

- Tiểu thư Frances, cô đã chê trách tôi thích gây ra các vụ tai nạn. Có thể là đúng. Tôi đang chuẩn bị cho một vụ nữa.

- Ông muốn nói gì?

- Cô muốn biết trước ư? Vậy thì, thế này! Tiểu thư Frances Derwent đang lái xe có người tài xế ngồi bên. Cô gái cho xe đi vào con đường dẫn tới một mỏ đá cũ, chiếc xe lăn xuống vực. Tiểu thư Frances và người tài xế của cô chết ngay lập tức.

- Không nhất thiết như vậy - Bobby nhận xét - Phải tính đến việc có người nhìn thấy. Kế hoạch ở Galles của ông đã chẳng thất bại rồi sao?

- Sự thích ứng với moóc-phin của anh thật là kỳ diệu. Nhưng lần này thì anh với tiểu thư Frances sẽ chết, mãi sau đó người ta mới tìm thấy xác.

Bobby rùng mình. Giọng nói của Nicholson có vẻ hài lòng... Người ta nói đây là một nghệ sĩ đang ngắm nghía tác phẩm của mình.

- Ông nhầm rồi - Bobby quả quyết nói - Nhất là đối với Frankie.

- Đúng thế - Frankie nhấn mạnh - Trong bức thư giả mạo ấy, ông dặn tôi không cho ai biết mình đi đâu. Nhưng tôi đã nói việc này với Roger Bassington-ffrench. Anh ta biết cả rồi. Nếu có chuyện gì xảy ra với chúng tôi, anh ta sẽ tố cáo trước pháp luật. Tốt nhất là ông thả chúng tôi ra và rời khỏi nước Anh ngay lập tức.

Nicholson yên lặng một lúc.

- Tôi coi đây là một sự loè bịp - Hắn nói và đi ra cửa.

- Thế còn vợ ông thì sao? Ông đã giết bà ta ư? - Bobby hỏi.

- Moira hãy còn sống. Bao lâu nữa thì tôi không biết. Còn tuỳ thuộc vào hoàn cảnh.

Hắn chào hai người với vẻ giễu cợt.

- Tạm biệt! Tôi còn hai tiếng đồng hồ nữa để chuẩn bị mọi việc. Trong khi chờ đợi tôi cho phép hai người than thở về số phận của mình. Nhưng nếu các người kêu cứu, tôi sẽ đến để thanh toán các người.

Hắn đi ra và khoá cửa lại.

- Không đúng - Bobby nói - Sự việc không diễn ra như vậy.

- Trong các cuốn tiểu thuyết, bao giờ cũng có người cứu giúp xuất hiện vào giờ thứ mười một - Frankie nói để nhen nhóm lại lòng can đảm của họ.

- Đây là một tình huống khác thường. Tôi can đảm thấy Nicholson cũng là một người trong tưởng tượng. Tôi mong người cứu giúp đến vào giờ thứ mười một. Nhưng tôi không hiểu bằng cách nào người ấy có thể tới đây được?

- Nếu tôi nói chuyện với Roger thì hay quá.

- Có thể Nicholson đã nghĩ như vậy.

- Không. Hắn không nghĩ như vậy đâu. Con người ấy rất ranh ma.

- Ranh ma hơn chúng ta. Frankie, cô có biết cái làm tôi khổ tâm nhất không?

- Không.

- Đó là trong lúc chúng ta đang vội vã sang thế giới bên kia, chúng ta vẫn chưa biết ai là Evans.

- Tôi sẽ hỏi tên đao phủ của chúng ta... như là một đặc ân. Có thể hắn sẽ từ chối. Tôi cũng muốn biết như anh, Bobby. Tôi không muốn chết mà vẫn không biết Evans là ai.

Cả hai đều yên lặng, sau đó Bobby lên tiếng:

- Cô có nghĩ chúng ta nên kêu cứu không? Đây là may mắn cuối cùng...

- Chưa đâu. Vì trước hết không ai có thể nghe thấy... nếu không, tại sao hắn không nhét giẻ vào miệng chúng ta. Chỉ đến phút cuối cùng chúng ta mới nên kêu thôi. Tôi cảm thấy mình được an ủi là có anh ở bên và được nói chuyện với anh, Bobby.

Giọng nói của cô vỡ ra trong những tiếng cuối cùng.

- Frankie, tôi là người đưa cô vào câu chuyện tồi tệ này.

- Anh không nên tiếc nuối như vậy. Chính tôi muốn như thế. Anh có tin là hắn đang lập kế hoạch hành hình chúng ta không?

- Tôi rất sợ. Hắn có gan làm mọi chuyện.

- Cho đến lúc này anh có cho rằng hắn là người đã giết ông Henry Bassington-ffrench không?

- Nếu cái đó có thể...

- Có thể ư - với điều kiện: Bà Sylvia là kẻ tòng phạm.

- Frankie!

- Đúng thế. Ý nghĩ ấy làm tôi kinh tởm ngay từ đầu. Nhưng nghĩ lại, tại sao bà ta tỏ ra đui mù trước việc người chồng nghiện ngập như vậy?... Tại sao bà ta lại phản đối mạnh mẽ khi người ta không muốn đưa ông Henry đến lâu đài La Grauge? Hơn nữa bà ta đang ở trong nhà khi có tiếng súng nổ...

- Có thể bà ta là người bắn súng.

- Ô! Không!

- Tại sao lại không? Rồi bà ta đưa chìa khoá cho Nicholson để hắn nhét vào túi ông Henry sau đó.

- Cần phải có những dấu hiệu đặc biệt để nhận ra những kẻ giết người. Mắt, tai...

- Trời.

- Gì vậy?

- Frankie, đây là một Nicholson khác vừa đến gặp chúng ta.

- Anh điên rồi ư? Kẻ ấy là ai?

- Tôi không biết, nhưng đây không phải là Nicholson. Tôi có cảm giác rằng đây không phải là con người ấy nhưng không thể giải thích được tại sao. Cô vừa nói đến danh từ "tai" thì một chi tiết chợt nảy ra trong óc tôi. Tối hôm nọ, trong khi nhìn thấy Nicholson qua cửa sổ, tôi chú ý tai của ông ta thấy dái tai dính liền với má. Còn tai của kẻ vừa tới gặp chúng ta thì không như vậy.

- Cái đó có nghĩa là gì?

- Một diễn viên có tài đóng vai Nicholson.

- Để làm gì? Hắn là ai?

- Bassington-ffrench - Bobby trả lời - Roger Bassington-ffrench! Ngay từ đầu chúng ta đã coi hắn là thủ phạm rồi, sau đó, như những kẻ ngu ngốc, chúng ta đã thả mồi bắt bóng.

Frankie suy nghĩ một lúc.

- Roger Bassington-ffrench. Bobby, tôi cho rằng anh có lý. Chỉ có thể là hắn. Hắn đã có mặt trong lúc tôi nói ám chỉ về những vụ tai nạn với ông Nicholson. Vậy thì chẳng còn gì để hy vọng nữa... Không ai biết chúng ta đang ở đâu. Chúng ta thất bại rồi, Frankie!

Khi Bobby vừa nói xong câu đó thì có một tiếng động ngay trên đầu họ. Một lát sau một người từ cửa sổ con trên trần nhà rơi xuống.

- B-b-b-bobby!

- Trời ơi! Badger ư?

Chương 29 : Câu chuyện của Badger

hông thể để lỡ một giây. Đã nghe thấy tiếng chân người lên thang gác.

- Nhanh lên, Badger! Cởi giày ra! Ném giày qua cửa sổ con trên trần nhà! Làm theo và cấm không được hỏi lại! Chui vào gầm giường! Nhanh lên, tôi bảo anh!

Có tiếng chìa khoá trong ổ.

Nicholson - Nicholson giả - Đứng trước cửa, tay cầm cây nến.

Hắn thấy Bobby và Frankie vẫn ở chỗ lúc nãy và những mảnh kính vụn trên sàn nhà. Ngạc nhiên hắn nhìn chân Bobby.

- Có lời khen anh, anh bạn - Hắn nói bằng giọng khô khan - Đây là một tiết mục nhào lộn hấp dẫn.

Hắn nhìn những nút giây và buộc thêm một vài nút nữa cho chặt.

- Tôi rất muốn biết làm thế nào anh có thể ném giày lên cửa sổ được. Thật là kỳ diệu.

Hắn nhìn hai tù nhân, nhìn lên cửa sổ rồi nhún vai và đi ra.

- Nhanh lên Badger!

Anh này từ gầm giường chui ra. Với một con dao nhíp anh cắt giây trói cho Bobby và Frankie.

- Ô - Bobby kêu lên- Tay chân tôi tê dại cả. Thế nào, Frankie, cô nghĩ thế nào về người bạn Nicholson của chúng ta?

- Anh có lý, đây đúng là Roger Bassington-ffrench. Bây giờ tôi đã nhận ra hắn. Hắn sắm vai bác sĩ Nicholson rất đạt, ít nhất là giọng nói và cặp kính.

- Tôi biết ở Oxford có một người tên là Roger Bassington-ffrench. Một diễn viên có t-t-tài, nhưng tư cách thì rất k-k-kém. Anh ta đã làm một tờ xéc g-g-giả mạo chữ ký của người c-c-cha. Ông già tống...tống anh ta ra khỏi nhà.

Frankie và Bobby cũng nghĩ như vậy. Hai người không mấy tin tưởng Badger nên không giải thích cho anh ta nhiều.

- Giả mạo chữ ký - Frankie nói - Lá thư đó cũng bắt chước chữ của Bobby. Bobby, làm thế nào mà hắn biết nét chữ của anh được?

- Có quan hệ với nhà Cayman thì chắc chắn hắn đã đọc bức thư của tôi gởi cho họ về Evans - Bobby lên tiếng than vãn.

- Bây... bây giờ c-c-chúng... chúng ta phải l-l-làm gì?

- Chúng ta nấp sau cánh cửa này - Bobby nói - Khi anh bạn của chúng ta trở lại (chắc chắn là hắn chưa trở lại ngay đâu), chúng ta sẽ quật ngã và trói hắn lại để hắn không kịp kêu. Anh nghĩ sao về việc này?

- Tôi tán thành.

- Còn cô, Frankie, khi nghe thấy tiếng chân bước lên, cô ngồi lên chiếc ghế cũ. Khi mở cửa, nhìn thấy cô hắn sẽ không nghi ngờ gì.

- Rất tốt. Khi các anh quật ngã hắn, tôi sẽ đến tiếp tay và bóp cổ hắn.

- Cô là một phụ nữ can đảm. Bây giờ, Badger, anh hãy kể lại làm sao mà anh tới đây được?

Tuy nói lắp nhưng Badger cũng cố gắng kể lại đầy đủ câu chuyện cho các bạn nghe. Làm ăn thất bại, nợ nần chồng chất, bị vướng vất với các chủ nợ và các mõ toà... Bobby lại bỏ đi mà không để lại địa chỉ mà chỉ nói mình lái chiếc Bentley đi Staverley. Thế là Badger đến Staverley.

- Tớ hy vọng cậu cho tớ vay n-n-năm... năm li-vrơ.

Bobby ân hận là đã bỏ mặc bạn để chơi trò thám tử cùng Frankie trong khi Badger làm việc còn nhiều lúng túng.

Câu chuyện của Badger như sau: Badger không tò mò về việc làm của bạn; anh tưởng sẽ dễ dàng gặp được Bobby nếu về làng Staverley và tìm ra chiếc Bentley màu xanh của Frankie. Và trước khi đến làng Staverley anh đã gặp chiếc xe ấy đậu ở trước một nhà trọ.

"Mình phải làm cậu ta ngạc nhiên" Badger nghĩ như vậy. Trên ghế sau của xe có chiếc chăn, xung quanh không có ai, chui vào xe, nằm đắp chăn chờ bạn...

Nhưng sự việc lại xảy ra khác hẳn. Một người đàn ông trong bộ đồng phục tài xế từ trong quán đi ra, lên xe và cho xe chạy. Badger hé mắt nhìn ra thấy đấy không phải là Bobby.

Trong lúc bối rối, Badger không biết phải giải quyết ra sao. Giải thích và xin lỗi rất không dễ dàng đối với người cho xe chạy tám chục ki-lô-mét-giờ. Badger quyết định mình sẽ lẻn ra khỏi xe khi xe đỗ lại.

Đến nơi - tức là Tudor Cottage - người lái xe cho xe vào nhà xe và vào trong nhà sau khi khoá xe cẩn thận. Badger bị cầm tù. Nửa tiếng đồng hồ sau. ,ua ô cửa sổ nhỏ của nhà để xe nhận ra, Badger thấy Frankie đi vào trong nhà.

Cảm thấy trong việc này có điều gì mờ ám, anh quyết định phải ra ngoài để thăm thú ngôi nhà.

Với vài dụng cụ trong xe, anh mở cửa xe, vào nhà để xe rồi vào trong nhà. Mọi cánh cửa tầng trệt đều gài chặt. Badger trèo lên mái nhà dự định vào trong nhà bằng một ô cửa sổ nào đó trên lầu một.

Việc trèo lên mái nhà không có gì là khó khăn vì đã có một ống máng. Trên mái nhà có một ô cửa sổ nhỏ lắp kính. Badger đã vô ý bước vào trong đó và rơi xuống kho chứa đồ cũ...

Bobby thở dài sau khi Badger kể xong câu chuyện.

- Badger thân mến, anh đã cứu mạng chúng tôi. Không có anh, tôi và Frankie sẽ là xác chết sau đây một tiếng đồng hồ nữa.

Anh cho Badger biết công việc mình và Frankie đang làm. Vừa nói xong anh giật mình:

- Có người tới. Frankie về vị trí. Đây là lúc chúng ta cho diễn viên Roger Bassington-ffrench một bài học.

Frankie ngồi trên chiếc ghế không có lưng tựa, làm ra vẻ lo ngại. Bobby và Badger nấp sau cánh cửa chuẩn bị chiến đấu.

Tiếng chân người nghe rõ dần, một tia sáng rọi qua khe cửa. Tiếng chìa khoá vặn trong ổ và cánh cửa mở rộng. Thấy Frankie đang ngồi trên ghế, tên coi ngục tiến đến bên cô.

Badger và Bobby nhảy bổ vào hắn.

Bị cú đòn bất ngờ. người ấy ngã xuống sàn nhà; cây nến văng ra xa và Frankie nhặt nó lên. Một phút sau, ba người bạn hài lòng đứng nhìn kẻ thù của họ bị trói chặt bằng chính những sợi giây hắn đã dùng để trói họ.

- Xin chào ông Roger Bassington-ffrench - Bobby nói - Đêm nay rất đẹp cho một đám tang!

Chương 30: Chạy trốn

gười nằm trên sàn trân trân nhìn họ. Mũ và kính của hắn đã rơi đâu mất trong cuộc vật lộn. Hắn không thể cải trang lâu hơn nữa. Những nét vẽ trên lông mày bật ra để lộ rõ đây là Roger Bassington-ffrench. Lúc này hắn nói bằng giọng nam cao rất đẹp:

- Trời! Tôi biết! Một người bị trói như anh không thể ném chiếc giày lên cửa sổ được. Nhưng vì chiếc giày của anh nằm trên những mảnh kính vỡ nên tôi không chú ý nữa.

Vì không ai trả lời nên hắn nói tiếp:

- Các người đã thắng cuộc. Việc kết thúc bất ngờ và dễ chịu. Tôi đã làm cho các người hiểu lầm.

- Không phải là anh thất bại hoàn toàn. Chính anh là người viết bức thư mạo danh Bobby, đúng không?

- Tôi có tài bắt chước.

- Anh đã bắt cóc Bobby như thế nào?

Roger có vẻ thích chí khi kể lại câu chuyện.

- Khi anh ta vào lâu đài La Grauge thì tôi nấp trong một bụi cây bên đường. Khi anh ta bị rơi từ cành cây xuống và chạy thoát ra ngoài, đợi cho yên tĩnh trở lại tôi đập vào gáy anh ta bằng chiếc dùi cui cao su. Tôi mang anh ta vào xe của tôi và cho xe chạy tới đây. Sáng sớm hôm sau tôi trở lại lâu đài Merroway.

- Còn Moira? - Bobby hỏi - Anh đã bắt và mang cô ta đi đâu?

Roger lại cười.

- Anh Bobby, giả mạo là một nghệ thuật có ích.

- Đồ thú vật!

Frankie vội can thiệp. Sự tò mò của cô chưa được thoả mãn và người bị cầm tù có vẻ chưa nói hết.

- Tại sao anh lại cải trang thành bác sĩ Nicholson?

- Tại sao ư? (có vẻ như Roger đang hỏi lại chính mình). Để xem tôi có thể đánh lừa được hai người không. Các người cho Nicholson là kẻ có tội. Đơn giản chỉ vì ông ta đã hỏi một cách nghiêm chỉnh về vụ tai nạn của các người. Đó là cái tật kỳ cục của ông ta: làm sáng tỏ mọi chi tiết.

- Như vậy bác sĩ Nicholsoll vô tội ư? - Frankie hỏi.

- Vô tội như đứa trẻ mới sinh ra. Nhưng ông ta đã giúp đỡ tôi rất nhiều khi hỏi về vụ tại nạn của cô. Một buổi sáng, cô gọi điện thoại, tôi đứng gần đấy, tôi nghe thấy người tài xế gọi cô là "Frankie". Tai tôi rất thính. Tôi hỏi đi nhờ xe. cô đã nhận lời, nhưng sau khi tôi nói mình không đi nữa thì cô lại có vẻ như được an ủi. Tại sao cô không thích ông ta nói về những nhầm lẫn của mình? Người ta không thể thấy trước được mọi vấn đề. Những kế hoạch lập ra đôi khi cũng bị đổ vỡ ví dụ như thất bại của tôi lúc này.

- Tôi muốn biết thêm một chi tiết nữa - Frankie hỏi- Ai là Evans?

- Không. Cô không biết ư? - Roger Bassington-ffrench phá lên cười rồi hỏi lại - Thật là kỳ cục! Đó là điểm có thể chứng tỏ người ta còn quá ngu ngốc.

- Anh muốn ám chỉ điều gì?

- Không... tôi nói tôi đấy thôi. Nếu các người không biết ai là Evans, thì tại sao tôi lại phải giải thích cho các người! Tôi giữ lại cho mình một điều bí mật nhỏ.

Tình huống thật khác thường. Roger Bassington-ffrench là tù nhân của họ, bị trói chặt, nằm trên sàn nhà lại có vẻ là người thắng cuộc.

- Tôi có thể biết dự kiến của các người không? - Hắn hỏi họ.

Chưa ai nghĩ đến chuyện này. Bobby lẩm bẩm mấy câu trong đó có danh từ cảnh sát.

- Đó là cách giải quyết đúng nhất - Roger công nhận - Hãy gọi điện thoại cho đồn cảnh sát gần nhất và nộp tôi cho họ. Người ta sẽ ghép tôi vào tội bắt cóc. Thật là khó chối cãi, nhưng tôi sẽ nói tôi đang theo đuổi một mối tình không thể cưỡng lại được.

Nói xong Roger nhìn Frankie làm cô đỏ mặt lên.

- Anh phải trả lời về vụ giết người!

- Chứng cứ đâu, các vị? Các vị không thể cung cấp một chứng cứ nào cả.

- Badger! - Bobby bảo bạn - Cậu ở lại đây để canh chừng kẻ ranh mãnh này trong khi tôi đi gọi điện thoại cho cảnh sát.

- Hãy cẩn thận - Frankie góp ý kiến - Có thể có bọn tay chân trong nhà này.

- Ở đây chỉ có một mình tôi thôi - Roger khẳng định.

- Tôi không tin anh - Bất chợt Bobby nói. Anh cúi xuống để kiểm tra các nút dây trói.

- Hắn không thể cựa quậy được nữa rồi. Chúng ta cùng đi và khoá cửa lại.

- Anh đa nghi quá, anh bạn - Roger nói - Nếu muốn thì anh cầm lấy khẩu súng trong túi tôi.

Coi khinh giọng điệu chế giễu của tù nhân, Bobby cúi xuống lấy khẩu súng.

- Coi chừng! Súng đã nạp đạn rồi đấy.

Bobby cầm lấy cây nến và cả ba cùng ra khỏi phòng để lại Roger một mình trong đó. Bobby khoá cửa cẩn thận rồi cho chìa khoá vào túi, tay vẫn lăm lăm khẩu súng.

- Tôi đi trước.

- Một con c-c-chim kỳ... kỳ cục - Badger nói về người đang bị nhốt trong kho đồ cũ.

- Dù sao hắn cũng là kẻ biết chơi - Frankie nói.

Ngay lúc này cô vẫn còn một chút cảm tình với con người kỳ lạ ấy.

Một cầu thang nhỏ dẫn lên lầu một. Trên đây hoàn toàn yên lặng. Bobby nhìn thấy một chiếc máy điện thoại trong phòng xép.

- Chúng ta hãy kiểm tra những căn phòng trước khi đi xa hơn. Coi chừng có kẻ đánh đằng sau chúng ta.

Badger mở cửa từ căn phòng này đến căn phòng khác. Ba căn phòng đều trống không, vào căn phòng thứ tư họ thấy một người nằm trên giường.

- Đây là Moira! - Frankie kêu lên.

Hai chàng trai tiến lại. Moira hãy còn thở, có lẽ cô ta mới chỉ ngất đi thôi.

- Cô ta ngủ ư? - Bobby lo ngại hỏi.

- Tôi cho rằng người ta đã cho cô ấy uống thuốc ngủ - Frankie nói.

Cô quan sát căn phòng và thấy một ống tiêm đặt trên chiếc điã để trên gờ cửa sổ, bên cạnh là chiếc đèn cồn và một hộp kim tiêm.

- Cô ta sẽ tỉnh lại thôi nhưng dù sao chúng ta cũng phải gọi một bác sĩ.

Cả ba người cùng đi xuống gác xép. Bobby gọi điện thoại cho cảnh sát địa phương tuy anh rất khó giải thích sự việc. Cảnh sát cho đây là một chuyện bông đùa.

Bobby gác máy và thở dài. Anh cũng yêu cầu một bác sĩ, cảnh sát hứa sẽ mời giúp anh.

Mười phút sau, một chiếc xe hơi đậu trước ngôi nhà Tudor Cottage. Một viên thanh tra, một viên công tố đứng tuổi xuống xe.

Sau khi giải thích mọi chi tiết của sự việc, Bobby và Frankie dẫn họ lên kho đồ cũ. Bobby mở cửa... và đứng sững lại: giữa nhà chỉ có một đống giây thừng và trên giường có một chiếc ghế.

Roger Bassington-ffrench không còn ở trong phòng nữa. Hắn đã trốn thoát theo ô cửa sổ nhỏ trên trần nhà

- Làm thế nào mà hắn có thể cởi giây trói được - Bobby kêu lên.

- Có thể trong túi hắn có dao nhíp - Frankie nhận định.

- Nhưng hai tay bị trói ở đằng sau kia mà?

Viên thanh tra húng hắng ho. Những nghi ngờ đầu tiên của ông xuất hiện. Ông cho rằng cảnh sát đã bị mang ra để bông đùa.

Bobby và Frankie phải giải thích một lúc lâu nhưng chưa thuyết phục nổi ông thanh tra. Ông bác sĩ bắt tay vào việc.

Sau khi xét nghiệm, ông tuyên bố người phụ nữ bị đầu độc bằng moóc-phin hoặc một chất gì đó lấy ra từ thuốc phiện. Ông cho rằng cô ta sẽ tỉnh lại vào sau bốn hoặc năm giờ tới. Ông yêu cầu đưa người bệnh vào một trạm cấp cứu gần đấy.

Bobby và Frankie không có ý kiến gì. Họ nói tên tuổi của mình cho viên cảnh sát ghi lại và rời khỏi Tudor Cottage. Theo mệnh lệnh của viên thanh tra, họ tới trọ tại khách sạn Bảy Ngôi Sao.

Bị mọi người coi là kẻ gian, ba người trở về phòng của mình; một phòng hai giường cho Bobby, Badger và một phòng nhỏ hơn cho Frankie.

Một vài phút sau Bobby nghe thấy tiếng gõ cửa. Frankie bước vào.

- Tôi nghĩ đến việc - cô báo tin - Nếu viên thanh tra cảnh sát cứ khăng khăng cho rằng chúng ta bịa chuyện thì tôi có thể chứng minh là tôi đã bị đánh thuốc mê bằng clô-rô-phoóc.

- Tại sao?

- Tôi vẫn như đang bị say sóng.

Chương 31 : Câu chuyện của Frankie

uốt ngày mệt nhọc, sáng hôm sau Frankie dậy muộn. Mười giờ ba mươi thì cô xuống nhà để ăn sáng. Bobby đang đợi cô.

- Cuối cùng thì cô đây rồi, Frankie - Bobby nói.

- Xin chào, anh bạn - Frankie nói và đi lấy một chiếc ghế - Sáng nay anh gọi món ăn đấy.

- Cô dùng gì? Trứng hay là thịt nguội?

- Tôi muốn có trà và vịt quay… Nhưng anh làm sao vậy?

- Đó là hậu quả của cú đánh vào gáy... chắc chắn nó ảnh hưởng đến não. Tôi cảm thấy như mình là một con người mới, suy nghĩ nhanh chóng, sáng suốt mọi vấn đề.

- Chúng tôi muốn biết kết quả suy nghĩ của anh.

- Có đây. Tôi vừa làm việc trong nửa tiếng đồng hồ với thanh tra Hammond. Lúc này, Frankie, đến lượt cô đùa rỡn đấy.

- Bobby, anh không nên nghĩ...

- Tôi nói lúc này kia mà. Chúng ta phải tìm ra cái bí mật căn bản của vụ này. Chúng ta không tóm cổ Roger Bassington-ffrench về tội bắt cóc… Tôi muốn người ta bắt hắn về tội giết người.

- Chúng ta sẽ không đạt được cái đó đâu - Frankie tuyên bố.

- Đây là điều tôi nói - Bobby xác nhận - Cô dùng trà nữa đi.

- Moira ra sao rồi?

- Tình hình xấu. Cô ta sợ chết khiếp khi tới trạm cấp cứu. Người ta đã gửi cô đi Londres để vào một trại điều dưỡng ở Queen's Gate. Ở đấy cô ta sẽ được an toàn.

- Chị ta vốn thiếu can đảm.

- Ai cũng phải sợ kẻ giết người như loại Roger Bassington-ffrench.

- Hắn không tìm cách giết chị ta đâu. Hắn muốn sát hại chúng ta kia.

- Bây giờ, Frankie, chúng ta bắt tay vào việc. Việc trước tiên là điều tra về cái chết và bản di chúc của ông John Savage…

- Nếu thủ phạm là Roger Bassington-ffrench thì đó là một bản di chúc giả... vì hắn có tài bắt chước nét chữ.

- Hắn vừa phạm tội giả mạo, vừa phạm tôi giết người.

Frankie gật đầu.

- Tôi đã được xem bản di chúc. Những người làm chứng là Rose Cludleigh - người nấu bếp và Albert Mere - người làm vườn. Chúng ta dễ dàng tìm ra những người này. Cũng có cả các ông Elford và Leigh là các công chứng viên xác nhận bản di chúc. Ông Spragge nói hai ông này là những người đứng đắn.

- Tốt. Chúng ta bắt đầu từ đây. Frankie, cô đi gặp các ông ấy. Cô biết rõ loại việc này hơn tôi; tôi, tôi sẽ đi tìm bà Rose Cludleigh và ông Albert Mere.

- Badger ra sao rồi?

- Anh chàng không dậy trước buổi trưa được đâu.

- Chúng ta phải giúp anh ấy về mặt công ăn việc làm - Frankie nói - Anh ấy đã cứu chúng ta thoát chết.

- Khốn thay, anh chàng không giỏi về tính toán kinh doanh, sẽ lại lúng túng thôi... Bây giờ, Frankie, cô nghĩ thế nào về cái này?

Anh đưa cho bạn một mẩu giấy dày hơi nhem nhuốc - một tấm ảnh.

- Lão Cayman - Frankie nói ngay - Anh thấy nó ở đâu?

- Tôi nhặt được nó dưới máy điện thoại đêm hôm qua.

- Rõ ràng là vợ chồng nhà Cayman còn có tên là Templeton nữa.

Cùng lúc ấy người hầu gái mang thức ăn tới. Frankie cho cô ta xem tấm ảnh.

- Cô có biết ai đây không? - Cô hỏi.

Cái đầu nhỏ bé cúi xuống, cô người hầu nhìn tấm ảnh.

- Tôi đã nhìn thấy người này, nhưng tôi không nhớ đây là ai… A! đúng rồi, đây là người sống ở Tudor Cottage... ông Templeton, ông ta và vợ đã ra nước ngoài rồi.

- Cô biết những gì về ông này?

- Không nhiều lắm - ít khi họ tới đây... chỉ một vài lần vào dịp cuối tuần thôi. Bà Templeton là một phụ nữ xinh đẹp. Họ ở Tudor Conage khoảng sáu tháng... cho đến khi một ông giàu có chết đi để lại toàn bộ gia tài cho bà Templeton. Sau đó họ rời khỏi làng. Nhưng họ chưa bán nhà. Hình như họ cho bạn bè mượn lại để nghỉ cuối tuần. Có bạc triệu thì không ai sống ở đây.

- Gia đình họ có một bà nấu bếp tên là Rose Cludleigh, đúng không?

Nhưng cô hầu bàn không biết. Cô bỏ đi sau khi trả lời mình không biết ai là người nấu bếp trong ngôi nhà ấy.

Điều đó rõ ràng là vợ chồng nhà Cayman đã rời khỏi đây nhưng chúng còn để lại chỗ ở cho bè lũ.

Theo sự phân công của Bobby, Frankie đi mua bán một vài thứ về tắm giặt sau đó lên chiếc Bentley và phóng đi còn Bobby thì đi tìm ông Albert Mere, người làm vườn.

Hai người trở về khách sạn vào giữa trưa.

- Thế nào? - Bobby hỏi.

Frankie lắc đầu.

- Có lẽ đây không phải là di chúc giả. Tôi đã nói chuyện với ông Elford, một ông già đáng mến. Ông ấy đã hỏi thăm chúng ta sau sự việc đêm hôm qua. Sau đó tôi hỏi ông về ông Savage. Tôi nói rằng mình đã gặp thân nhân của ông này, họ cho rằng đây là di chúc giả. Ngay lập tức, ông già nổi giận, ông nói không thể như vậy được. Chính ông đã ngồi nói chuyện với ông Savage... ông Elford còn yêu cầu ông Savage đến văn phòng của mình để hoàn chỉnh lại bản di chúc nữa. Anh biết rõ, đây là công việc phải viết nhiều trang giấy chứ không nói đến việc...

- Tôi không biết. Tôi chưa bao giờ viết di chúc.

- Còn tôi thì đã hai lần rồi. Lần cuối cùng là sáng hôm nay. Tôi phải kiếm cớ để gặp một ông chưởng khế.

- Cô để lại gia tài của mình cho ai?

- Cho anh...

- Thật là dại dột! Nếu Roger Bassington-ffrench cho cô về chầu với tiên tổ thì tôi cũng bị hắn treo cổ.

- Tôi không nghĩ như vậy. Như đã nói, sốt ruột muốn cho chóng xong việc này, ông Savage đã gọi người nấu bếp và người làm vườn đến làm chứng. Sau đó ông Elford mang bản di chúc về bảo quản cẩn thận trong két sắt của mình.

- Tố cáo việc làm di chúc giả không đứng vững nữa.

- Không thể tố cáo làm giả khi chính mắt thấy người ta ký tên vào văn bản. Cũng rất khó tố cáo tội giết người vì ông bác sĩ chứng kiến giây phút cuối cùng của ông Savage cũng đã qua đời. Những người mà chúng ta quen biết thì mới đây chừng hai tháng thôi.

- Danh sách những người chết ngày càng dài thêm - Bobby nhận xét.

- Còn ai nữa?

- Ông Albert Mere.

- Và anh nghĩ rằng bọn chúng đã giết những người này ư?

- Đúng thế. Riêng về ông Albert Mere thì không dám khẳng định. Đó là ông già bảy mươi hai tuổi rồi.

- Có thể đây là cái chết tự nhiên. Thế còn bà Rose Cludleigh thì sao?

- Phải, sau khi thôi việc ở nhà Templeton, bà ta đã lên phía bắc nước Anh để lấy chồng, người chồng chưa cưới sau bảy năm chờ đợi. Nhưng bà đã bị mọi người quên lãng. Có lẽ cô thử tìm cách hỏi chuyện bà ta xem sao.

- Tôi sẽ cố gắng... Badger đâu nhỉ?

- Trời! Tôi hoàn toàn quên mất anh ấy.

Bobby đứng lên và chạy ra khỏi phòng. Một vài phút sau, anh trở lại.

- Anh chàng vẫn còn ngủ nhưng sắp dậy bây giờ.

- Nào chúng ta đi thăm bà nấu bếp.

Bà Rose Cludleigh nay tên là bà Pratt sống trong một ngôi nhà nhỏ có đồ gỗ chắp vá và những con chó bằng sứ. Bà Pratt là một phụ nữ to béo.

- Bà thấy không, tôi đã trở lại - Bobby báo tin.

Bà Pratt thở mạnh, nhìn hai người mà không nói gì.

- Chúng tôi quan tâm đến việc bà đã giúp việc gia đình bà Templeton một thời gian - Frankie giải thích.

- Đúng thế, thưa cô.

- Bây giờ họ đang sống ở nước ngoài - Frankie nói tiếp cố gắng tỏ ra mình là người bạn của gia đình.

- Người ta nói như vậy.

- Bà đã làm việc với gia đình này lâu chưa?

- Gia đình nào, thưa cô?

- Gia đình bà Templeton.

- Ồ! Không... chỉ có hai tháng thôi.

- Tôi tưởng rằng bà ở đấy lâu hơn.

- Có lẽ cô nói về Gladys, bà hầu phòng. Bà ta đã làm việc ở đấy sáu tháng.

- Hai người cùng chung sống với nhau ư?

- Vâng. Bà ấy làm hầu phòng, tôi nấu bếp.

- Bà ấy ở đâu khi ông Savage qua đời?

- Cô nói gì?

- Bà có ở Tudor Cottage khi ông Savage qua đời không?

- Ông Templeton không chết... đó là điều tôi biết. Ông ấy đi ra nước ngoài.

- Không phải là ông Templeton mà là ông Savage kia.

Bà Pratt ngơ ngác nhìn họ.

- Người để lại toàn bộ tài sản cho bà Templeton ấy.

Một tia chớp thoáng qua óc bà Pratt.

- A! Vâng thưa cô... Cái ông mà người ta đến làm biên bản sau khi chết ấy ư?

- Đúng là ông ấy. Ông ta thường đến Tudor Cottage, đúng không?

- Tôi không biết. Tôi mới tới đây làm việc. Bà Gladys thì biết đấy.

- Nhưng bà đã ký làm chứng vào bản di chúc kia mà?

Bà Pratt có vẻ không hiểu gì.

- Bà có nhìn thấy ông Savage ký vào một tờ giấy và sau đó thì bà ký tiếp không?

Lại một tia chớp nữa.

- Vâng, thưa cô. Tôi và ông Albert. Chưa bao giờ tôi làm việc này nên tôi không muốn, nhưng bà Gladys đã bảo tôi không sao cả khi ông Elfort có mặt ở đấy. Đó là ông chưởng khế đúng đắn.

- Ai yêu cầu bà ký tên? - Bobby hỏi.

- Bà chủ, thưa ông. Bà chủ vào bếp bảo tôi đi tìm ông Albert lên một căn phòng rất đẹp trên lầu với bà ấy (bà ta dã nhường phòng này cho khách). Ông khách đang nằm... ông ta từ Londres đến và đến nơi thì ông ta nằm ngay. Đây là lần đầu tiên tôi thấy ông ta. Ông Elfort cũng đứng trong phòng, ông chưởng khế bảo tôi không nên sợ hãi gì, chỉ việc ký tên vào dưới chữ ký của ông khách... Ký xong tôi còn ghi thêm địa chỉ nữa, ông Abert cũng là như vậy. Trở về tôi nói với bà Gladys là trông ông ta quá ốm yếu. Bà Gladys bảo trước kia ông ta rất mạnh khoẻ, sau bị một tai nạn gì đó ở Londres.

- Và ông Savage, cái ông ký vào tờ giấy như bà nói, chết khi nào?

- Ngay sáng hôm sau, thưa cô. Đêm trước ngày chết ông ta vào phòng và yêu cầu không ai làm phiền ông. Sáng hôm sau, bà Gladys vào trong phòng để quét dọn thì ông ta đã tắt thở, trên giường có bì thư đề: "Kính gởi ông Chánh án". Ô! Bà Gladys bị một phen hú vía. Sau đó thì điều tra, biên bản và mọi việc khác. Hai tháng sau, bà Templeton bảo tôi bà ấy đi ra nước ngoài và đã sắp xếp cho tôi một việc ở miền bắc nước Anh. Trước khi đi bà ta còn tặng tôi một kỷ niệm rất đẹp.

Đến đây bà Pratt tỏ ra thích nói chuyện.

Frankie đứng lên.

- Tôi xin cảm ơn bà về những tin tức ấy. Xin phép bà... (Frankie nhét vào tay bà một tờ giấy bạc). Chúng tôi đã làm mất thì giờ của bà.

- Cảm ơn cô. Chúc cô và chồng cô may mắn.

Flankie đỏ mặt và vội vàng đi ra. Bobby ở lại hỏi thêm bà nấu bếp một vài câu gì đó rồi đi theo Frankie.

- Tôi tin rằng cô đã làm cho bà Pratt nói tất cả những gì bà ta biết.

- Phải, tất cả đều đã rõ ràng. Không nghi ngờ gì nữa. Ông Savage đã tự tay ký vào bản di chúc và nỗi lo sợ mắc chứng ung thư là thực tế. Người bác sĩ giỏi ở Harley Street có thể bị mua chuộc. Vì ông Savage đã ký bản di chúc rồi nên chúng đã nhanh chóng loại bỏ ông ta, sợ rằng ông thay đổi ý kiến.

- Nhưng làm thế nào chứng minh được điều này?

- Chúng ta có thể giả thiết mụ Templeton đã cho ông Savage "uống một cái gì đó", nhưng chúng ta không có chứng cứ. Có thể Roger Bassington-ffrench là người đã viết bức thư gửi ông chánh án. Một lần nữa, làm thế nào để chứng minh được? Đã lâu như vậy thì bức thư ấy có thể bị huỷ đi sau khi đã đưa ra trước toà.

- Và chúng ta cùng đi đến một câu hỏi hóc búa: Roger Bassington-ffrench quỉ quyệt cùng bè lũ đang giấu giếm chúng ta điều gì?

- Cái đó làm cô đặc biệt quan tâm ư, Frankie?

- Không... Nhưng dù sao có một chi tiết làm tôi băn khoăn mãi. Vì lý do nào mà mụ Templeton lại đi tìm người làm vườn để ký vào bản di chúc trong khi bà hầu phòng vẫn ở trên nhà? Tại sao không là bà hầu phòng?

- Không ai cho cô câu trả lời ư, Frankie?

Bobby hỏi câu đó bằng một giọng rất lạ lùng khiến Frankie quá đỗi ngạc nhiên.

- Khi cô ra khỏi nhà tôi ở lại hỏi bà Pratt về tên họ của bà Gladys.

- Rồi sao nữa?

- Bà hầu phòng tên là Evans!

Chương 32 : Evans

rankie sững sờ.

- Bây giờ thì cô hiểu chứ! - Bobby như bị kích động kêu lên - Câu hỏi của cô rất giống câu hỏi của ông Alan Carstairs. Tại sao không là bà hầu phòng? Tại sao không là Evans?

- Ô! Bobby, chúng ta thành công rồi!

- Cái điều nghịch thường ấy cũng đã xuất hiện trong tâm trí của ông Alan Carstairs và thế là ông ấy đi tìm những chuyện khác thường trong bản di chúc. Theo tôi, ông ấy đến Galles cũng vì lý do ấy.

Gladys Evans là cái tên thường thấy ở Galles và chắc hẳn bà Evans là người vùng này. Ông Carstairs về Marchbolt tìm bà Evans nhưng bị một kẻ nào đó theo dõi… và ông ta không gặp được bà này.

- Nhưng tại sao người ta không gọi bà Evans đến ký vào bản di chúc? - Frankie nhắc lại - chắc chắn có lý do, mà là lý do quan trọng. Đã có hai bà giúp việc trong nhà, tại sao lại đi gọi ông làm vườn?

- Thế này: Rose Cludleigh và Albert Mere là những kẻ ngốc nghếch, còn Evans là một phụ nữ thông minh.

- Còn vấn đề nữa. Ông Elford lúc ấy cũng có mặt tại đấy, chắc chắn ông ấy sẽ nhận ra những chuyện gian dối nếu có. Bobby, đây là cái nút phải gỡ cho ra: Tại sao người ta dùng bà Cludleigh và ông Mere làm nhân chứng chứ không dùng bà Evans? Mọi điều bí mật là ở đấy... Khoan đã! Có phải do...

Frankie đứng yên, nhìn thẳng phía trước nhưng hình như không trông thấy gì cả, sau đó lại nhìn Bobby, mắt sáng lên một cách khác thường.

- Bobby, khi anh được mời đến nghỉ tại một ngôi nhà có hai bà hầu thì anh cho ai tiền thưởng trước?

- Cho bà hầu phòng. Người ta không thưởng bà nấu bếp vì đơn giản là người ta không nhìn thấy bà này bao giờ.

- Không thường xuyên nhìn thấy thôi. Nếu anh ở lâu ở nhà bạn và hay đi lại thì đôi khi anh cũng nhìn thấy bà nấu bếp. Còn bà hầu phòng thì hàng ngày mang bữa ăn sáng vào phòng cho anh, phục vụ bàn ăn cho anh...

- Cô muốn dẫn tôi đi đâu đây, Frankie?

- Người ta không gọi bà Evans đến ký tên vào bản di chúc vì bà ta sẽ nhận ra người để lại di chúc không phải là ông Savage.

- Frankie, vậy người đó là ai?

- Roger Bassington-ffrench! Hắn đóng giả và thế chân ông Savage. Tôi cũng khẳng định là chính Roger đã đi khám bác sĩ và đã sáng tác ra câu chuyện ung thư. Sau đó hắn cho người đi mời ông chưởng khế, người chưa bào giờ biết mặt ông Savage nhưng lại sẵn sàng thề đã chứng kiến ông này ký tên vào bản di chúc trước hai nhân chứng mà một người lần đầu tiên nhìn thấy "ông Savaga" còn người kia thì mắt kém và chưa chắc gặp người ký di chúc lần nào. Anh hiểu chứ?...

- Nhưng lúc ấy ông Savage thật ở đâu?

- Ông ta ở Londres. Nhưng tôi giả thiết rằng ông ta đã bị nhốt ở kho đồ cũ trước đó để Roger Bassington-ffrench có đủ thời gian làm trò lừa đảo của mình. Sau đó hắn giết ông bằng clô-rô-phoóc và đặt ông lên giường để bà Evans thấy ông đã chết vào sáng hôm sau.

- Frankie, tôi công nhận ý kiến cô là đúng, nhưng làm thế nào để chứng minh được?

- Tôi không biết...ít nhất là đưa cho bà Rose Cludleigh, tức là bà Pratt, xem một bức ảnh của ông Savage. Có thể bà này sẽ nói: "Đây không phải là người ký bản di chúc!"

- Tôi không tin vì bà ta quá ngu dại.

- Chính vì thế nên người ta mới chọn bà ấy. Nhưng nếu có một nhà chuyên môn có thể biết chữ ký giả thì sao?

- Nhưng toà án đã không làm được việc này.

- Vì không ai nêu vấn đề này lên. Cho đến lúc này không ai nghĩ đây là một bản di chúc giả. Bây giờ thì khác rồi.

- Trước hết - Bobby nói - Chúng ta phải tìm cho ra Gladys Evans. Chắc chắn bà này biết nhiều chuyện. Xin nhớ là bà ấy đã làm việc cho nhà Templeton trong sáu tháng.

- Tìm bà ta ở đâu?

- Chúng ta thử hỏi trạm bưu điện xem - Bobby gợi ý.

Hai người cùng tới trạm bưu điện.

Frankie bước vào và bắt chuyện.

Trong trạm chỉ có một nhân viên nhận và phát thư. một cô gái mũi dài một cách kỳ cục.

Frankie mua vài con tem, nói chuyện thời tiết rồi cuối cùng nói thêm:

- Ở đây thời tiết dễ chịu hơn địa phương chúng tôi. Tôi ở Galles… tại làng Marchbolt. Cô không biết ở vùng chúng tôi trời mưa như thế nào đâu.

Cô gái mũi dài nói ở đây cũng đang trong mùa mưa và chủ nhật trước trời mưa tầm tã suốt ngày.

Frankie nói:

- Ở làng Marchbolt tôi đã có dịp gặp một người sinh trưởng tại đây. Bà ta tên là Evans... Gladys Evans. Có thể cô biết bà này, đúng không?

Người thu phát thư trả lời không chút nghi ngờ:

- Đúng thế. Tôi biết bà này. Bà ấy làm việc ở Tudor Cottage. Bà ấy không phải là người ở đây mà từ Galles tới. Bà ấy đã trở lại đấy để lấy chồng. Bây giờ bà ấy là bà Roberts.

- Cô có biết chính xác bà ta đang ở đâu không? Tôi mượn của bà ta chiếc áo đi mưa nhưng quên chưa trả lại. Nếu biết địa chỉ tôi sẽ gìn trả theo đường bưu điện.

- Dễ thôi. Thỉnh thoảng bà ấy có gửi cho tôi một tấm bưu ảnh. Vợ chồng bà ấy làm việc cùng một nơi. Xin đợi một phút.

Cô gái lục trong đống giấy tờ. Sau đó cô đặt một tờ giấy lên quầy.

- Đây!

Bobby và Frankie cùng cúi xuống đọc. Họ không đợi một sự bất ngờ như vậy: "Bà Roberts, nhà xứ làng Marchbolt, Galles".

Chương 33: Quán cà phê phương đông

hi còn ở trong trạm bưu điện, Bobby và Frankie chưa dám nói gì với nhau. Ra đến ngoài, họ nhìn nhau và cười phá lên.

- Ở nhà xứ - Bobby kêu lên.

- Thế mà tôi đã mất công đọc bốn trăm tám mươi địa chỉ của những người có tên là Evans trong danh bạ điện thoại - Frankie than thở.

- Bây giờ thì tôi hiểu tại sao Roberts Bassington-ffrench thách thức chúng ta tìm ra người có tên là Evans liên quan đến vụ này.

- Chúng ta phải trở về làng Marchbolt ngay.

- Nhưng chúng ta phải làm cái gì đó cho anh chàng Badger khốn khổ đã. Cô có tiền đấy không, Frankie?

Cô gái lấy trong túi xách tay ra một nắm giấy bạc.

- Đưa cho anh ấy để về trả nợ. Cha tôi sẽ mua lại xưởng sửa chữa ôtô ấy và cử anh ấy làm người quản lý. Chúng ta đi thôi!

- Tốt - Bobby xác nhận - Tôi đi gặp Badger còn cô thì ra xe cho nổ máy đi.

Năm phút sau, hai bạn nhanh chóng rời khỏi làng Chipping Somerton.

Bất chợt Frankie kêu to:

- Không cho xe chạy nhanh thế, Bobby!

Kim đồng hồ chỉ một trăm hai mươi kilômét/giờ.

- Nhưng biết làm thế nào được?

- Chúng ta sẽ đi bằng máy bay. Chỉ còn cách phi trường Medeshot mười kilômét nữa thôi. Chúng ta sẽ tới đó trước hai giờ.

- Được! Đi máy bay!

Tới Medeshot. Frankie yêu cầu được gặp ông Donald King. Một người trẻ tuổi, áo quần nhàu nát hiện ra. Anh ta ngạc nhiên khi trông thấy Frankie.

- Chào Frankie. Đã một thế kỷ nay chúng ta không gặp nhau. Cô muốn gì?

- Một chiếc máy bay. Hình như anh phụ trách loại phương tiện vận chuyển này, đúng không?

- Phải. Cô đi đâu?

- Tôi muốn về nhà càng nhanh càng tốt.

Donald King cau mày:

- Có vậy thôi ư?

- Phải. Lúc này thì như vậy.

- Chúng tôi sẽ thoả mãn yêu cầu của cô ngay lập tức.

- Tôi gửi anh tấm séc.

Năm phút sau thì họ đã ở trên không trung.

- Tại sao lại phải đi bằng máy bay, Frankie?

- Tôi có dự cảm rằng chúng ta không được để mất một giây đồng hồ nào. Anh thì sao?

- Thật kỳ lạ. Tôi cũng thấy như vậy nhưng không thể giải thích được tại sao. Bà Roberts của chúng ta có thể bay đi mất...

- Ai mà biết được? Chúng ta không thể đoán trước được ý đồ của Roger Bassington-ffrench.

- Đúng thế.

Máy bay hạ cánh xuống bãi cỏ bên cạnh lâu đài, và một vài phút sau, Bobby và Frankie tới làng Marchbolt bằng chiếc xe của ngài quận công Marchington.

Họ cho xe dừng lại bên hàng rào của nhà xứ.

Bobby và Frankie xuống xe và chạy vào trong nhà.

Khi tới cổng họ bắt gặp một phụ nữ dong dỏng cao. Bobby và Frankie nhận ra người ấy ngay.

- Moira! - Frankie kêu lên.

Moira bước lại. dáng điệu ung dung.

- Ôi! Tôi rất sung sướng được gặp lại hai bạn! Tôi không biết vị thánh nào đã phù hộ mình.

- Nhưng tại sao chị lại ở đây?

- Chắc chắn là vì cùng lý do như hai bạn!

- Chị đã biết ai là Evans rồi ư? - Bobby hỏi.

- Vâng. Nhưng chuyện dài lắm...

- Chúng ta vào trong nhà - Bobby đề nghị.

- Không - Moira phản đối ngay lập tức - Có quán cà phê nào để chúng ta yên ổn nói chuyện không. Tôi cần nói cho các bạn biết một vài việc.

- Có đấy - Bobby bực mình nói - Nhưng tại sao không nói ở đây?

Moira giậm chân.

- Anh sẽ hiểu khi nghe tôi nói xong. Ồ! Xin đừng để mất một giây nào.

Hai người đành nhượng bộ cô ta. Giữa phố có quán cà phê Phương Đông, một cái tên rất đẹp nhưng không mấy phù hợp với trang bị trong quán.

Cả ba người trong quán. Lúc này đã sáu giờ rưỡi. Họ ngồi bên một chiếc bàn trong góc quán hàng. Bobby gọi ba tách cà phê.

- Thế nào?

- Đợi nhà hàng mang đồ uống đến đã.

Cô hầu bàn xuất hiện và đặt ba tách cà phê xuống bàn.

- Moira, chúng tôi nghe chị nói đây - Frankie nói bằng giọng khô khan.

- Tôi không biết nên bắt đầu từ đâu. Tôi về Londres bằng xe lửa, và khi tôi đang đi trong hành lang của xe thì một sự ngẫu nhiên lạ lùng...

Bỗng cô ta im bặt. Từ chỗ ngồi cô ta nhìn ra cửa. Cô ta hơi cúi mình xuống, mở to mắt.

- Hắn đang theo dõi tôi - Moira nói.

- Ai? - Hai bạn cùng hỏi.

- Roger Bassington-ffrench!

- Cô đã nhìn thấy hắn ư?

- Hắn ở ngoài kia. Hắn đi với một người phụ nữ tóc đỏ.

- Mụ Cayman! - Frankie kêu lên.

Một cú nhảy, hai bạn chạy ra ngoài cửa. Họ nhìn xuôi nhìn ngược nhưng không thấy Bassington- ffrench đâu cả.

Moira đến bên họ.

- Hắn đi rồi ư? - Cô ta run rẩy hỏi - Hãy coi chừng. Đây là con người nguy hiểm... rất nguy hiểm.

- Nào, Moira. Chị can đảm lên một chút! - Frankie khuyên - Không nên sợ hãi như vậy.

- Bây giờ có đuổi theo cũng vô ích - Bobby nói và trở về bàn - Nào, Moira, chị kể chuyện của chị đi.

Anh cầm lấy tách cà phê. Khi ngồi xuống Frankie vô ý vấp vào bàn, ngã vào Bobby làm cà phê đổ tung toé.

- Xin lỗi.

Cô đưa tay sang bàn bên không có khách lấy chiếc bình đựng dấm. Cô đổ dấm đi và rót cà phê trong tách của mình vào.

Hành động khác thường ấy làm Bobby hoảng hốt.

- Cô điên rồi ư, Frankie?

- Tôi cần một mẫu cà phê này để nhờ bác sĩ George Afbuthnot phân tích.

Cô quay sang Moira.

- Thế là hết, Moira! Đây là ý nghĩ đến với tôi như một tia chớp. Khi đánh đổ tách cà phê, tôi đã quan sát nét mặt của chị. Chị đã đổ một cái gì đó vào hai tách cà phê của chúng tôi trong khi chúng tôi ra ngoài cửa để tìm một Roger Bassington-ffrench do chị bịa ra. Tôi đã biết rõ âm mưu của chị, bà Moria Nicholson hoặc bà Templeton hoặc bất cứ cái tên gì mà chị muốn.

- Templeton ư? - Bobby kêu lên.

- Phải, anh hãy nhìn bộ mặt chị ta, Bobby. Nếu chị ta chối cãi, chúng ta hãy điệu chị ta đến nhà xứ để bà Roberts nhận mặt.

Bobby nhìn Moira, đúng là vẻ dịu dàng của mụ đã biến thành vẻ giận dữ. Cái miệng xinh xắn đang thốt ra hàng tràng chửi rủa. Moira lục tìm cái gì đó trong túi xách tay của mình.

Rất kịp thời, Bobby hất bàn tay cầm khẩu súng lục của mụ lên.

Cùng với tiếng nổ chát chúa, viên đạn vọt qua đầu Frankie và cắm vào tường của quán cà phê Phương Đông.

Lần đầu tiên trong quán cà phê, cô hầu bạn chạy lại.

Chạy ra ngoài phố, cô gái kêu thét lên:

- Cứu tôi với! Có kẻ giết người! Cảnh sát! Nhanh lên!

Chương 34: Bức thư từ Nam Mỹ

hiều tuần lễ qua đi.

Một buổi sáng Frankie nhận được một phong thư có tem của một nước Cộng hoà ở Nam Mỹ.

Đọc xong, cô mang đến cho Bobby đang ở trong nhà xứ xem.

Dưới đây là nội dung của bức thư.

“Frankie thân mến, cho phép tôi gửi cô những lời khen ngợi chân thành nhất. Cô và người bạn lính thuỷ cũ của cô đã phá huỷ những tham vọng của đời tôi. Tôi đã chuẩn bị những kế hoạch vững chắc.

Cô có muốn biết những chi tiết của chúng không. Một phụ nữ đã cố tình chống lại tôi có lẽ không coi thường những điều tôi muốn nói. Hơn nữa tôi đã có một cuộc sống mới. Roger Bassington-ffrench đã chết rồi.

Xin thú nhận từ lâu tôi đã là một kẻ bỏ đi. Thời kỳ ở Oxford tôi đã can tội giả mạo chữ ký của cha tôi. Ông già đã từ bỏ tôi và gửi tôi sang thuộc địa.

Ở đây tôi đã gặp Moira và băng nhóm của cô ta. Cô ta có thể làm mọi việc từ năm mười lăm tuổi. Khi gặp tôi, cô ta đang có ý định trở về nước Anh vì cô đang bị cảnh sát truy lùng.

Sau khi sống chung với nhau, chúng tôi đã lập một số kế hoạch hành động. Trước hết cô ta lấy bác sĩ Nicholson. Qua cuộc hôn nhân ấy, cô ta đi vào tầng lớp thượng lưu của xã hội. Cảnh sát đã mất dấu vết của cô ta. Nicholson tới nước Anh với ý định lập một trại cai nghiện ma tuý. Ông ta muốn tìm một ngôi nhà không nhiều tiền lắm. Moira gợi ý cho chồng mua lại lâu đài La Grauge.

Cô ta vẫn làm việc với băng nhóm trong việc buôn bán chất ma tuý. Không biết gì, ông Nicholson trở thành người có ích cho vợ.

Tôi vẫn ấp ủ hai tham vọng: trở thành giàu có và là chủ nhân lâu đài Merroway. Thời vua Charles đệ nhị, dòng họ Bassington-ffrench vốn được trọng vọng. Sau đó gia đình bị phá sản. Tôi cảm thấy mình cần có một vai trò lớn trong xã hội. Muốn vậy, tôi phải có rất nhiều tiền.

Moira tới Canada rất nhiều lần để "thăm gia đình". Yêu quý vợ, ông Nicholson tin vào tất cả những gì cô ta nói. Để buôn lậu, cô ta mang một cái tên giả: Bà Templeton. Dưới cái tên này cô ta gặp ông Savage. Cô ta biết rõ công cuộc kinh doanh và tài sản kếch xù của ông này. Moira quyến rũ ông nhưng không để ông quá đỗi mê muội.

Chúng tôi lập một kế hoạch chi tiết như cô đã rõ. Người đàn ông có tên là Cayman đóng vai người chồng. Moira mời ông Savage đến Tudor Cottage. Lần thứ ba tới đây, ông ta bị chúng tôi sát hại... Xong việc, có tiền, trước mắt mọi người, cô ta ra nước ngoài... Thực tế là cô ta về làng Staveley và sống trong lâu đài La Grange.

Trong lúc ấy tôi thực hiện kế hoạch của mình. Trước hết tôi muốn loại trừ Henry và đứa con trai của anh ta. Tôi không gặp may, hai vụ tai nạn giả để làm chết thằng bé Tommy không thành công. Tôi quay lại Henry. Sau vụ ngã ngựa trong một cuộc đi săn, anh ta đau đớn vì chứng thấp khớp. Tôi khuyên anh ta dùng moóc-phin và anh ta đã mắc nghiện. Anh ta không nghi ngờ gì cả... Đây là con người có tâm hồn trong sáng. Mục đích của tôi là đưa anh ta tới lâu đài La Grauge để chữa bệnh. Moira sẽ tạo ra một "vụ tự sát” mới. Còn tôi, tôi ở ngoài mọi sự nghi ngờ.

Nhưng rồi cái lão Carstairs mất dạy xuất hiện. Hình như Savage đã viết thư cho Carstairs, bạn mình, ở trên tàu: ông ta nói về bà Templeton và kèm theo một tấm ảnh của người này. Lúc đó ông Carstairs đang tham gia một cuộc săn bắn lớn. Khi trở về châu Phi, ông ta nhận được tin về cái chết và những ý định cuối cùng của ông Savage. Ông Carstairs không tin rằng bạn mình mắc chứng ung thư và nội dung bản di chúc không phù hợp với tính cách của bạn mình. Ông Savage là một nhà kinh doanh, tinh thần vững vàng. Nếu mê một người phụ nữ thì ông ta cũng không coi thường gia sản của mình, tặng hết cho người phụ nữ ấy và phần nhỏ làm công tác từ thiện. Ý kiến tặng tài sản cho hội từ thiện là của tôi, cái đó để tránh mọi nghi ngờ.

Carstairs trở về nước Anh để làm sáng tỏ vụ này. Từ đầu chúng tôi ít quan tâm đến lão. Bạn bè đưa lão tới lâu đài Merroway. Thấy trên chiếc đàn dương cầm có tấm ảnh của Moira, lão nhận ra đây là người phụ nữ mà Savage đã gửi cho lão. Hắn lới Chipping Somerton để bắt đầu điều tra.

Moira và tôi bắt đầu lo ngại... Tôi hy vọng mọi chuyện dần lắng dịu đi, nhưng Carstairs rất bướng bỉnh và rất khôn khéo.

Tôi theo dõi lão ở Chipping Somerton. Lão không chỉ tìm được bà nấu bếp Rose Cludleigh, mà còn biết bà hầu phòng Evans đang ở phía bắc nước Anh đã kết hôn và sống ở làng Marchabolt.

Tình huống đối với tôi thật là gay cấn. Nếu lão Castairs biết được Templeton và Moria Nicholson chỉ là một người thì vấn đề càng phức tạp hơn nhiều.

Tôi quyết định thủ tiêu Carstairs; lần này sự may mắn thuộc về tôi. Tôi đi sau lão khi sương mù từ dưới biển đang bốc lên. Tôi tiến đến gần lão và bằng một cú đẩy tôi ném lão vào không trung…

Nhưng lại có một vấn đề khác đặt ra: Tôi muốn biết trong người lão có giấy tờ gì nguy hiểm cho chúng tôi không. May mắn là anh bạn của cô đã tạo thuận lợi cho ý định của tôi; anh ta đã để mình tôi ngồi bên xác chết trong một thời gian ngắn. Carstairs có một tấm ảnh của Moira trong túi. Tôi lấy tấm ảnh ấy và thay vào đó tâm ảnh của một phụ nữ đồng bọn của cô ta.

Tất cả diễn ra tốt đẹp. Người em gái giả và người em rể tới nhận xác người anh. Lần này thì Bobby, bạn cô đã làm hỏng kế hoạch của chúng tôi. Hình như trước khi tắt thở Carstairs đã nói vài tời gì đó. Lão đã nói đến cái tên Evans... và Evans lại đang làm việc ở nhà xứ.

Chúng tôi bắt đầu lúng túng. Moira muốn rằng con trai ông mục sư không thể gây khó khăn cho chúng tôi được nữa; chúng tôi đã để quá xa. Kế hoạch của chúng tôi thất bại. Thế là Moira chịu trách nhiệm loại bỏ anh ta.

Cô ta đã làng Marchbolt bằng xe hơi và đợi dịp để hành sự. Cô ta cho một lượng lớn moóc-phin vào chai bia trong khi anh ta đang ngủ. Nhưng anh chàng trâu ngốc ấy không chết. Đúng là vận đen bám riết lấy chúng tôi.

Như đã nói, câu chuyện giữa cô với bác sĩ Nicholson đã gây ra cho tôi một vài nghi ngờ. Cô cũng có thể hình dung ra sự nghi ngờ của Moira trong cái đêm giáp mặt với Bobby! Cô ta nhận ra ngay đây là ai vì cô đã nhìn thấy anh ta lúc đang ngủ. Không lạ lùng gì khi biết cô ta đã run sợ đến phát điên lên, nhưng lấy lại lòng can đảm cô ta chơi vở hài kịch.

Moira tới quán trọ thú nhận với Bobby rằng ông Carstairs đã yêu cô và chồng cô, một người ghen ghê gớm đang đe doạ cô. Cô ta cố gắng chứng minh tôi là người vô tội. Về phần mình tôi mô tả cô ta là con người yếu đuối, không có khả năng tư vệ, và Moira có thể tự kết liễu đời mình nếu ai đó đe doạ tính mạng.

Tình huống thật là nghiêm trọng. Chúng tôi đã có tiền. Với thằng bé Tommy thì không có gì phải vội vàng. Nhưng cô và Bobby là mối đe doạ thực sự với chúng tôi vì những nghi ngờ của cô quay về lâu đài La Grauge.

Có thể cô cho rằng anh Henry đã tự sát. Không, chính tôi đã giết anh ta! Khi nói chuyện với cô ở ngoài vườn, tôi biết là không thể để lỡ thời gian... tôi vội vã hoàn thành kế hoạch của mình.

Chiếc phi cơ bay ngang trời lúc ấy đã tạo thuận lợi cho tôi. Tôi vào văn phòng, ngồi bên Henry đang viết. Tôi nói: "Anh nghe đây...! " và bắn thẳng vào người anh ta. Tiếng máy bay đã át tiếng súng. Sau đó tôi viết bức thư tuyệt mệnh, lau dấu vân tay trên khẩu súng lúc rồi nhét súng vào tay Henry. Tôi nhét chìa khoá vào túi anh ta và ra khỏi cửa sau khi đã khoá cửa bằng chìa khoá phòng ăn. Hai chiếc chìa khoá này có thể dùng chung được.

Tôi đặt một quả pháo trong lò sưởi, ngòi pháo dài, chỉ nổ bốn phút đồng hồ sau đó.

Mọi việc diễn ra theo đúng ý đồ của tôi. Tôi đang ở trong vườn với cô thì có tiếng nổ. Một “vụ tự sát” không bàn cãi được nữa. Bác sĩ Nicholson khốn khổ bị nghi ngờ. Có thật là ông ta tới để lấy chiếc can để quên không? Sự hăng hái theo tinh thần hiệp sĩ của Bobby đã làm phiền Moira và cô ta đã bỏ đi nơi khác. Những lời giải thích về sự vắng mặt của vợ mình của Nicholson làm cho cô nghi ngờ ông ta hơn.

Nơi Moira tỏ ra kiệt xuất là ở Tudor Cottage. Theo động tĩnh, cô ta biết là tôi đang bị trói chặt. Cô ta uống một liều moóc-phin và nằm lên giường. Khi cô và Bobby xuống nhà gọi điện thoại thì cô ta lên kho đồ cũ cắt dây trói cho tôi rồi lại trở về giường nằm. Thuốc ngấm và cô ta mê đi.

Khi tỉnh lại, sợ rằng cô và Bobby đã biết chỗ ở của bà Evans. Gặp bà ta cô sẽ biết đây là vụ tự sát và bản di chúc là giả. Hơn nữa cô ta cũng nghi ngờ lão Carstairs đã viết thứ cho bà Evans trước khi tới làm Marchbolt. Moira nói mình sẽ tới một bệnh viện ở Londres nhưng thực tế là trở về làng Marchbolt và cô với Bobby đã gặp cô ta ở cổng nhà xứ.

Kế hoạch của Moira có giản đơn phần nào mà cô ta cho rằng mình sẽ thoát lội. Cô người hầu không thể mô tả rõ người đã ngồi cùng bàn với cô và Bobby được trong khi đó cô ta vẫn nằm trong một bệnh viện ở Londres. Nhưng cô và Bobby đã lột mặt nạ của Moira...

Tôi bắt đầu mệt mỏi về cô ta, tôi không hiểu là cô ta có nghi ngờ gì về điều đó không...

Bây giờ tôi đã có tiền... tiền của tôi!

Sau đám cưới của chúng tôi, tôi sẽ tìm cách xa lánh cô ta.

Tôi đã sẵn sàng sống một cuộc sống khác... nhờ vào cô và anh chàng Bobby Jones ngốc nghếch của cô.

Tôi có thành công không? Tôi hy vọng là như vậy… Dù sao thì cô cũng nên tin rằng tôi sẽ làm lại từ đầu cho đến khi thành công mới thôi.

Vĩnh việt Frankie, cũng có thể là tạm biệt. Biết đâu đấy?

Kẻ thù của cô, tên phản trắc và con người bỉ ổi.

Roger Bassington-ffrench.”

Chương 35: Tin mới ở nhà xứ

obby trả lại bức thư cho Frankie.

- Đây là con người đáng chú ý - Frankie nói.

- Anh ta có cái năng khiếu làm hài lòng cô - Bobby lạnh lùng nói.

- Anh ta có vẻ đáng mến cũng như Moira làm cho ai đó...

Bobby đỏ mặt.

- Điều kỳ cục nhất là suốt thời gian ấy, bà Evans vẫn ở trong nhà xứ... Theo cô thì chắc chắn ông Carstairs đã viết thư cho bà Evans tức là bà Roberts, đúng không?

- Đúng, ông ấy báo tin về sự đến thăm của mình để hỏi về mụ Templeton mà ông cho rằng là người trong băng nhóm lừa đảo quốc tế đang bị cảnh sát truy nã. Bà ta không nghi ngờ gì về người rơi từ vách núi xuống dưới vực có cái tên là Pritchard. Cái căn cước giả ấy thật khôn ngoan. Bà ta làm thế nào biết được đây lại là ông Alan Carstairs. Đây là sự lập luận của một tâm hồn trong trắng.

- Bà Evans cũng đã nhận ra đây là ông Cayman - Bobby nói - Xem báo xong bà ta nói với chồng: "Thật là lạ lùng - Bà ta nói - Người này rất giống với cái ông đã gặp chúng ta".

- Thật phức tạp. Roger Bassington-ffrench cũng bị lột mặt nạ một đôi lần, nhưng vì ngốc nghếch nên tôi đã không chú ý đến.

- Thế nào?

- Khi bà Sylvia nói người trong tấm ảnh trên báo rất giống với ông Carstairs đã tới nhà chơi nhưng Roger lại nói thiếu gì người giống nhau.

- Frankie, làm thế nào mà cô nhận ra bộ mặt thật của Moira?

- Nhờ vào ý kiến người ta nói về mụ Templeton. Ai cũng bảo: "Bà ta rất đẹp, rất khêu gợi..." Khi gặp mụ ở nhà xứ, tôi đã có ý nghĩ: nếu Moira là Templeton thì sao?

- Xin có lời khen ngợi, Frankie!

- Bà Syliva khốn khổ vì báo chí nhưng bác sĩ Nicholson vẫn trung thành với bà. Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu việc này kết thúc bằng một đám cưới.

- Tất cả đã kết thúc tốt đẹp - Bobby nói - Nhờ vào cha cô, xưởng sửa chữa ôtô của Badger đã được phục hồi và tôi có một tương lai rạng rỡ ở thuộc địa... Cô nghĩ xem: giám đốc một đồn điền trồng cà phê ở Trung Phi? Tôi vẫn mơ cái địa vị đó.

Anh nghỉ một lát rồi nói tiếp:

- Khách du lịch sẽ đến thăm Kenya.

- Cũng còn những người thích tới đó lập nghiệp nữa - Frankie nói thêm với vẻ chất phác.

Bobby đỏ mặt. Anh ngập ngừng và hỏi lại:

- Đúng như vậy chứ, Frankie?... Cô không sợ chuyến đi ấy sao?

- Không sợ chút nào. Tôi đã quyết định không để anh đi một mình.

- Frankie, anh yêu em, nhưng anh đau đớn trong câm lặng vì đây là mối tình không thể có!

- Vì vậy mà anh khó chịu trong khi chúng ta chơi gôn ư?

- Anh đã thất vọng.

- Hừ! Thế còn chuyện anh với Moira thì sao?

Bobby tỏ vẻ bối rối:

- Bộ mặt của mụ ta đã mê hoặc anh…

- Mụ ta đẹp hơn em.

- Không đúng... Bộ mặt mụ ta quyến rũ anh một cách nào đấy. Nhưng khi chúng ta bị nhốt trong nhà kho, anh đã thấy rõ sự can đảm của em. Anh chỉ nghĩ đến em. Lúc ấy em thật rực rỡ!

- Xin thú nhận là em đã biết cái đó... nhưng em không muốn làm tăng sự say mê của anh.

- Anh say mê em, em yêu. Anh say mê em và không bao giờ hết say mê. Em tin chắc rằng em không buồn khi tới Kenya chứ?

- Em rất hài lòng khi được sống bên anh, Bobby. Em sẽ sống khắc khoải khi không có anh.

- Frankie!

- Bobby!

Ông mục sư mở cửa để các nữ tín đồ vào làm lễ.

- Xin mời bà con trong giáo xứ!

Nhưng rồi cha lại đóng sập ngay cửa lại rồi lẩm bẩm:

- Không... một trong những đứa con trai của tôi. Nó là... chồng chưa cưới.

Một người trong số nữ tín đồ cười ranh mãnh.

- Một chàng trai tốt - Cha xứ nói tiếp - Và rất đứng đắn. Nó sẽ quản lý một đồn điền trồng cà phê ở Kenya bên Trung Phi.

Một nữ tín đồ nói với một bà khác:

- Bà thấy không? Anh chàng đang hôn tiểu thư Frances Derwent, đúng không?

Một tiếng đồng hồ sau, tin về lễ đính hôn của Bobby và Frankie đã bay khắp làng Marchbolt.

HẾT

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro