Cuộc chiến bí mật (part 1) haley

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

CUỘC CHIẾN BÍ MẬT

HỒ SƠ LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT VNCH

Giaó sư Vũ Đình Hiếu lược dịch

(Vì đây là tác phẩm nước ngoài và dịch giả lại từng là 1 lính biệt kích của VNCH nên chắc chắn sẽ có một số  ý,tư tưởng.... không phù hợp.)

LỜI NÓI ĐẦU

Sau cuộc chiến ở Việt Nam, nhiều chính khách cũng như sĩ quan cao cấp của Quân đội Mỹ và VNCH đã dành khá nhiều giấy mực để lý giải, thanh minh cho những việc làm, những tháng ngày quay lưng lại với chính dân tộc mình, cũng như trách nhiệm của họ trong cuộc chiến tranh phi nghĩa, tàn khốc, tương tàn do Chính phủ Mỹ gây ra.

Khác với những chính khách hay các tướng tá khác, Giáo sư Vũ Đình Hiếu-dịch giả cuốn “Cuộc chiến bí mật”- là một cựu biệt kích quân đội VNCH, đã nhìn lại cuộc chiến với tâm tư của người lính một thời ngồi chung thuyền với những biệt kích “Mũ nồi xanh” của Mỹ. Vốn là người cùng chung chiến tuyến, họ từng là lực lượng chuyên trách đánh phá hậu phương lớn miền Bắc và tiền tuyến lớn miền Nam. Họ trở thành lực lượng xung kích chuyên đánh phá tuyến đường mòn Hồ Chí Minh lịch sử bằng những thủ đoạn vô cùng thâm hiểm, tinh vi hòng ngăn chặn sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc cho đồng bào miền Nam.

Phải sau cuộc chiến đến một phần tư thế kỷ, với cương vị là Giáo sư chuyên ngành Công nghệ thông tin, từng giảng dạy  ở các trường Đại học ở bang Texas (Mỹ) và hiện ông đang giảng dạy tại Trường ĐH RMIT-một trường ĐH Quốc tế ở Tp. HCM. Trong cuốn sách này Gs Vũ Đình Hiếu dựa vào những tài liệu đã giải mã của Lầu năm góc như: “ SOG The Secret Wars Of American’s Commandos in Vietnam” của John L. Plaster; “How American Lost the secret War in VietNam” và “Why American Lost the secret War in North VietNam” của Kenneth Conboy Dale Andrale, United Press, 2000; Cuốn sách kể lại những tháng ngày mà không ít các cựu biệt kích quân đội VNCH vẫn tưởng là một thời vinh quang ấy.

Thật ra nguyên nhân chủ yếu thôi thúc Gs Vũ Đình Hiếu dịch cuốn sách này chính là thái độ thờ ơ, vô cảm, lạnh lung, lãng quên, bỏ rơi của chính phủ Mỹ đối với những cựu biệt kích quân đội VNCH ngay trên đất Mỹ, mà một thời CIA từng gọi họ là “Người hùng thời đại”.

Mặc dù cái nhìn của các tác giả trong nguồn tư liệu còn nhiều sai lệch do cách nhìn nhận, cách nghĩ xuất phát từ lập trường chống Cộng thâm căn, song dù sao những trang dịch của Gs Vũ Đình Hiếu đã miêu tả khá sinh động bản chất chống Cộng thâm căn, thủ đoạn nham hiểm của lực lượng biệt kích Lôi Hổ, quân đội VNCH và biệt kích “Mũ nồi xanh” của Mỹ, đặt dưới bàn tay điều khiển của CIA, nhằm bớt xương máu của binh sĩ Mỹ trong cuộc chiến Việt Nam. Đó là chính sách thực hiện âm mưu “Dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” của Mỹ.

Qua cuốn sách này, bạn đọc sẽ có thêm một tài liệu tham khảo về một sắc lính - Biệt kích - trong cuộc chiến tranh Việt Nam và Đông Dương.

Tiến sĩ sử học Đinh Thu Xuân   Trong cuộc chiến Việt Nam có một lực lượng bí mật, ít người biết đến, với mật danh Nha Kỹ thuật, thuộc Bộ Tổng Tham mưu, quân lực VNCH.

Những quân nhân trong sắc lính bí mật này thường được gọi là Lôi Hổ, họ được xếp vào hàng lính Biệt kích, thuộc lực lượng đăc biệt (gọi tắt là biệt kích). Người Mỹ cho rằng: “Nha Kỹ thuật là một huyền thoại trong cuộc chiến tranh Đông Dương”. Cả Nha Kỹ thuật và lực lượng đặc biệt đều được Hoa Kỳ yểm trợ mạnh mẽ. Nha Kỹ thuật có tổ chức riêng biệt dựa theo cơ cấu tổ chức của Lực lượng đặc biệt (từ đây trở đi gọi là biệt kích).

 Các “Bộ” hoặc “Sở” chỉ huy (CCN, CCC, CCS-Command & Control North, Central, South) tương đương với các Bộ chỉ huy “C” (C1, C2, C3, C4) của biệt kích. Các “Căn cứ hành quân tiền phương” (FOB-O Forward Operation Base) tương đương với các Ban chỉ huy “B” (B50, B52, B57…) Các toán Lôi Hổ tương đương với các phân đội “A” biên phòng.

Tháng 2 năm 1961, một chiếc thuyền đóng theo kiểu thuyền đánh cá ở Bắc Việt Nam trôi bồng bềnh ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ, lặng lẽ hướng về Cẩm Phả, một thị xã nhỏ ven biển. Hai đêm trước, chiếc thuyền đã lướt qua Cảng Hải Phòng một cách trót lọt. Chiều ấy, lúc hoàng hôn, chủ nhân của chiếc thuyền có thể thấy lờ mờ những rặng núi cao thuộc tỉnh Quảng Đông của Trung Quốc ở vị trí khoảng 40 dặm về phía bắc. Trường hợp không may xảy ra, nếu bị bao vây, sẽ không có một chiếc tàu nào của Mỹ hay của quân đội Sài Gòn đến giải cứu anh ta. Chiếc thuyền con này không phải được đóng ngoài Bắc mà là ở Vũng Tàu, cách xa Cẩm Phả khoảng 800 dặm. Những người lái tàu đã được cơ quan tình báo CIA Mỹ bí mật tuyển chọn và huấn luyện để đưa một người Việt Nam đứng tuổi, đem theo máy truyền tin, tìm cách xâm nhập vào miền Bắc. Điệp viên mang bí danh Ares đã đặt chân lên đất Bắc một cách suôn sẻ.

Dưới thời tổng thống Kennedy, tại điều khoản số 52 của Hội đồng an ninh Quốc gia cho phép cơ quan CIA sử dụng quân biệt kích “Mũ nồi xanh” (Special Forces) và Người nhái Hải quân (Navy Seals) để huấn luyện, làm cố vấn cho quân nhân Việt Nam thực hiện những phi vụ bí mật, do ông trùm CIA là W. Colby tổ chức.

Tại thành phố biển Nha Trang, biệt kích Mỹ huấn luyện cho biệt kích quân Việt Nam thuộc Liên đoàn biệt kích số 1, chuyên do thám đường mòn Hồ Chí Minh. Trong hai năm (1961-1962), Liên đoàn này đã tổ chức 41 cuộc hành quân truy tìm dấu vết hành lang vận chuyển của Quân đội nhân dân Việt Nam qua lãnh thổ Lào.

Trong khi đó tại Đà Nẵng, toán người nhái Mỹ lo huấn luyện cho thủy thủ quân đội Sài Gòn chuyên chở người xâm nhập miền Bắc bằng đường biển. Ngoài ra, họ tổ chức thêm những toán biệt kích biển mở những cuộc tập kích bất ngờ vào các mục tiêu dọc theo bờ biển miền Bắc. Nhưng chỉ sau vài chuyến  trót lọt, Hải quân Bắc Việt Nam đã đề phòng, ngăn chặn và đánh chìm một số thuyền chiến của quân đội Sài Gòn. Sau khi nhận định lại tình hình, cơ quan CIA đã quyết định thay đổi hướng xâm nhập miền Bắc bằng đường không, với sự tiếp ứng của không quân Sài Gòn.

Những nhân viên (thời điểm này họ vẫn là dân sự) chuẩn bị xâm nhập miền Bắc đều được huấn luyện tại căn cứ Long Thành (Biên Hòa), cách Sài Gòn khoảng 20 dặm về hướng Đông. Quân Mũ nồi xanh và nhân viên CIA huấn luyện cho họ về nghiệp vụ tình báo, kỹ thuật phá hoại, sử dụng vũ khí, nhảy dù, đánh morse và kiếm sống. Nói chung là những kỹ năng để họ có thể tồn tại và hoạt động lâu dài trên đất Bắc.

Đến cuối mùa xuân 1961, điệp viên Ares vẫn thường gửi những bức điện morse đến  Trung tâm truyền tin viễn thông của CIA ở Philippin để báo cáo tình hình. Qua những báo cáo  của điệp viên Ares, CIA cho rằng thời kỳ tung gián điệp đơn tuyến đã kết thúc, bắt đầu thời kỳ thả những toán biệt kích xâm nhập miền Bắc từ 3 đến 8 người. Thế nhưng họ đã không được may mắn như điệp viên Ares.

Chuyến đầu tiên thả toán biệt kích Atlas, họ đã không có cơ hội để gửi mật điện báo cáo là đã đến nơi, vì chiếc máy bay chở họ cũng biến mất luôn. Sau vụ này, tướng Nguyễn Cao Kỳ đích thân lái máy bay, thả toán biệt kích thứ hai có tên là Castor, hy vọng xâm nhập sâu vào nội địa miền Bắc Việt Nam. Thế nhưng chỉ ba tháng sau, Hà Nội đưa ra xét xử công khai vụ ba biệt kích của toán Atlas còn sống sót. Ít lâu sau toán Castor cũng mất liên lạc. Rồi đến toán Dido và Echo cũng nằm trong tay lực lượng an ninh Bắc Việt. Toán cuối cùng thả xuống miền Bắc trong năm 1961 là toán biệt kích mang tên Tarzan cũng bặt vô âm tín.

Sau những sự kiện trên, mùa hè 1962 CIA quyết định bàn giao các hoạt động xâm nhập ở vùng Đông Nam Á cho quân đội Mỹ và triển khai trong vòng 18 tháng. Chương trình bàn giao có tên gọi là “Kế hoạch trở lại” (Operation Switchback). Thế rồi nổ ra cuộc đảo chính lật đổ anh em Ngô Đình Diệm ngày 1/11/1963 dẫn đến nhiều biến đổi trong chính thể Sài Gòn, khiến cho kế hoạch bàn giao thêm chậm trễ. Mặt khác quân đội Mỹ vẫn chưa có một đơn vị đặc biệt nào để đảm nhận chương trình của CIA bàn giao. Trong lúc đó, Quân đội nhân dân Việt Nam gia tăng mức độ chi viện cho chiến trường miền Nam. Để đối phó, Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Mc. Namara ra lệnh thả nhiều toán biệt kích ra miền Bắc để phá hoại, với lời đe dọa: “Giới lãnh đạo miền Bắc nên biết rằng họ sẽ phải trả giá đắt nếu còn tiếp tục dung dưỡng, cho quân xâm nhập vào miền Nam”

Kế hoạch 34A được phê duyệt ngày 15/12/1963 giới hạn một sốt mục tiêu phá hoại ở Bắc Việt Nam. Mặc dù Mc Namara ra sức thúc đẩy, kế hoạch 34A mãi cho đến ngày 1/2/1964 mới được triển khai. MACV mới lập xong 1 đơn vị, đảm nhiệm những hoạt động bí mật của CIA. Đơn vị này do 1 Đại tá chỉ huy, bao gồm nhiều sắc lính từ biệt kích, người nhái cho đến Không đoàn cảm tử (Air Commando). Đơn vị tổng hợp này lấy tên là Liên đoàn hành quân đặc biệt, gọi tắt là SOG (Special Operation Group). Sau đó đổi tên để giữ bí mật, mặc dù vẫn viết tắt là SOG (Study and Observation Group). Đoàn Nghiên cứu, quan sát, tên mới nghe có vẻ như một trung tâm nghiên cứu, chỉ toàn những chuyên gia hoặc các giáo sư, tiến sĩ.

SOG không trực thuộc cơ quan MACV hoặc cấp chỉ huy của MACV là tướng W. Westmoreland, mà nhận lệnh trực tiếp từ Bộ Tổng Tham mưu quân đội Mỹ (JCS) ở Lầu năm góc và thường nhận lệnh từ Nhà Trắng. Chỉ có 5 sĩ quan cao cấp Mỹ ở Sài Gòn được báo cáo về những hoạt động bí mật của SOG. Đó là tướng Westmoreland, Tham mưu trưởng của ông ta, Trưởng phòng Nhì, Tư lệnh Không quân và Tư lệnh Hải quân Mỹ tại Việt Nam.

SOG được phép mở những cuộc hành quân xuất phát từ miền Nam Việt Nam và Thái Lan vào lãnh thổ Lào, Campuchia, Bắc Việt Nam và có thể ở cả phía bắc Miến Điện, Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Nam và đảo Hải Nam của Trung Quốc. Ngân sách chi cho SOG được giấu trong tài khoản dành cho Hải Quân Mỹ.

Chỉ huy SOG là Đại tá Clyde Russell, thuộc binh chủng dù, từng tham gia Chiến tranh Thế giới lần 2, sau đó chuyển sang lực lượng biệt kích trong những năm 50 của thế kỷ XX. Đại tá Clyde Russell đã từng có mặt trong Sư đoàn dù 82 đổ bộ xuống Pháp, Hà Lan. Rồi chỉ huy Liên đoàn Biệt kích số 10 ở Châu Âu; Chỉ huy trưởng Liên đoàn biệt kích số 7 đóng căn cứ tại Fort Bragg, bắc Carolina.

Theo kế hoạch 34A, Đại tá Russell và Ban Tham mưu sẽ thay đổi cơ cấu tổ chức của Lien đoàn Nghiên cứu quan sát theo khung tổ chức lực lượng biệt kích xâm nhập OSS, với thế mạnh là có sự yểm trợ của các binh chủng Không quân, Hải quân và Tâm lý chiến. Cơ quan CIA cho SOG sử dụng hệ thống tiếp liệu đặc biệt với những thiết bị đặc biệt như vũ khí tối tân, dụng cụ câu dây điện thoại để nghe trộm. Đồ tiếp liệu đặc biệt này có trong căn cứ Chinen ở Okinawa. Ngoài ra còn có thêm văn phòng chuyên lo việc tiếp tế cho SOG và lực lượng Biệt kích.

CIA bàn giao thêm cho SOG một phi đội máy bay C123 từ Đài Loan đến, do các phi công Đài Loan lái để thay thế loại máy bay C47 của Không quân Quân đội Sài Gòn. Phi đội này có tên là “Thứ Nhất”, gồm 4 chiếc C123. Mỗi chiếc có 1 phi hành đoàn phụ để thực hiện những chuyến bay trên lãnh thổ miền Nam. Còn các phi công Đài Loan bay những phi vụ xâm nhập miền Bắc hoặc lãnh thổ Campuchia. Những phi công Đài Loan này không biết tiếng Việt, tuy họ đều có thẻ căn cước Việt Nam. Chỉ một số rất ít viên chức Việt Nam mới biết họ là ai. CIA cũng bàn giao lại kết quả 3 năm hoạt động của họ từ 1961-1964.

Trong số 22 toán biệt kích được thả ra miền Bắc, CIA chỉ còn liên lạc được 4 toán:  Bell, Remus, Easy, Tourbillon; và 1 điệp viên đơn tuyến Ares. Tại căn cứ Long Thành, SOG nhận được khoảng hơn 20 nhân viên đang huấn luyện. Nhưng sĩ quan SOG lại không tin tưởng họ và đòi phải loại trừ những quân nhân đó. SOG cũng không thể trả họ về cho Quân đội Sài Gòn, vì họ đã biết quá nhiều những hoạt động bí mật cũng như số phận các toán biệt kích ở ngoài Bắc. Người Mỹ cho rằng cách giải quyết dễ nhất là cứ thả họ ra ngoài Bắc, rồi bỏ rơi họ trong tay lực lượng an ninh Bắc Việt.

Trong 3 tháng 5, 6, 7 năm 1964, tất cả những toán biệt kích: Boone, Buffalo, LotusScopion nhảy dù cuống miền bắc đều bị bắt. Chưa kể số nhân viên khác được gửi ra ngoài Bắc để tăng cường cho hai toán biệt kích RemusTourbillon. Sau khi thanh toán xong các toán biệt kích do CIA để lại, SOG bắt đầu tuyển mộ nhân viên mới cho một chương trình huấn luyện dài 21 tuần. Tên gọi “Lôi Hổ” được đặt cho số nhân viên mới tuyển chọn để yểm trợ kế hoạch 34A tấn công bất ngờ vào ven biển Bắc Việt.

Đêm 16/2/1964, ba thủy thủ người Na Uy lái chiếc tàu Nasty - 1 loại tàu chạy rất nhanh, hỏa lực mạnh do Na Uy chế tạo - chở theo người nhái Việt Nam, dự tính phá hủy một chiếc cầu, nhưng bị lực lượng an ninh Bắc Việt phát giác, phải quay trở lại. Mấy đêm sau, một toán người nhái khác xâm nhập miền Bắc lại thất bại, mất đi 8 quân nhân thuộc lực lượng Người nhái của Quân đội Sài Gòn. Bước sang mùa mưa năm 1964, các tốc đỉnh Nasty và biệt kích biển dùng chiến thuật tấn công bất ngờ rồi rút nhanh phá hủy được 5 mục tiêu ngoài Bắc trong 2 ngày 9 & 25 tháng 7. Ngày 30/7, SOG sử dụng 5 chiếc tốc đỉnh Nasty tấn công những dàn ra đa gần Hải Phòng, gây nhiều tiếng nổ phụ.

Từ tháng 6/1964, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mc Namara đã ra lệnh thám thính lãnh thổ Lào, theo chương trình “Leaping Lena”. Từ ngày 24/6 đến ngày 1/7, SOG bắt đầu thả những toán biệt kích đầu tiên xuống lãnh thổ Lào. Việc 5 toán biệt kích Việt Nam nhảy dù xuống đất Lào để do thám các hoạt động của Quân đội Bắc Việt Nam theo chương trình “Leaping Lena” tới tai cố vấn của Tổng thống Mỹ là ông William Bundy, qua bản báo cáo “Tất cả các toán biệt kích đều bị lực lượng an ninh Bắc Việt phát hiện, chỉ còn 4 người sống sót chạy thoát trở về”.

Đầu năm 1965, phi công Jim Ryan của Air America (CIA) chụp được một số hình ảnh về những con đường mới làm từ đèo Mụ Giạ sang lãnh thổ Lào. Theo đó, hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh nối dài, vươn xa. Ngày 8/3/1965, SOG có một chỉ huy mới là Đại tá Donal Blackburn, một người có máu mặt trong lực lượng đặc biệt, sẽ trở thành nhà đạo diễn cho “cuộc chiến tranh ngoại lệ” ở Việt Nam và Đông Dương.

Năm 1957, chính quyền Eisenhower tài trợ cho một chương trình bí mật, phối hợp giữa cơ quan Trung ương tình báo CIA và Bộ Quốc phòng Mỹ để thành lập một đơn vị biệt kích cho Quân đội Sài Gòn. Đơn vị này  lấy tên là Liên đoàn quan sát số 1, với nhiệm vụ bí mật xâm nhập vào hàng ngũ quân đối phương ở khắp nông thôn miền Nam. Để giữ bí mật, Liên đoàn quan sát số 1 do Ban Nghiên cứu điều hành (thuộc ngành tình báo của Bộ Quốc phòng quản lý). Ban Nghiên cứu điều hành về sau đổi tên là Phòng Liên lạc Phủ Tổng thống, đặt dưới sự theo dõi trực tiếp của Tổng thống Ngô Đình Diệm, do trung tá đặc vụ Lê Quang Tung làm trưởng phòng.

Năm 1958, cơ quan CIA tại Sài Gòn thành lập Ban Ngoại vụ để làm việc với Phòng Liên lạc Phủ Tổng thống. Trưởng Ban ngoại vụ là Russell Miller, núp dưới bóng một nhà ngoại giao. Russell lệnh cho trung tá Tung chọn 12 thành viên cho đơn vị mới. 12 sĩ quan trẻ cấp bậc từ thiếu úy đến trung úy  được tuyển chọn, đặt dưới quyền chỉ huy của Đại úy Ngô Thế Linh, người đã từng phục vụ 5 năm ở Trung tâm huấn luyện Đà Nẵng. Tháng 11/1958, cả 12 sĩ quan trẻ đều được đưa sang Saipan. Họ được cơ quan CIA huấn luyện hai tháng về nghiệp vụ tình báo, tác chiến, phương thức phá hoại và chỉ huy đường dây tình báo. Cuối 1958, Đại úy Ngô Thế Linh trở về Sài Gòn và được chính thức bổ nhiệm làm trưởng phòng Bắc Việt (với mật danh là Phòng 45), trực thuộc Phòng Liên lạc Phủ Tổng thống, quân số chỉ có hơn chục người. Trong những tháng còn lại của năm 1958, Phòng 45 chuyên lo việc huấn luyện cho nhân viên mới.

Đến giữa năm 1959, một nhóm 5 sĩ quan khác được đưa sang Saipan huấn luyện một khóa ngắn 6 tuần. Sau đó ít lâu, CIA cử nhân viên đến Sài Gòn huấn luyện hai khóa trong năm, mỗi khóa huấn luyện kéo dài 12 tuần. Lần này, chương trình huấn luyện nhắm vào những sĩ quan trẻ sinh quán tại miền Bắc, có gốc là dân tộc thiểu số. Khóa huấn luyện kéo dài đến cuối năm 1959.

Phòng 45 lập kế hoạch 5 năm để xâm nhập vào vùng hậu phương mà đối phương kiểm soát rất chặt chẽ. CIA cũng thừa biết những trở ngại của Phòng 45. Trước đó, vào những năm 1951-1953 chính CIA đã sử dụng 212 điệp viên người Hoa xâm nhập vào Trung Quốc. Rốt cuộc một nửa số điệp viên bị tiêu diệt, nửa khác bị bắt. Trên đất Triều Tiên kết quả cũng tương tự. Lần này Phòng Liên lạc Phủ Tổng thống giao trách nhiệm cho Trung úy Đỗ Văn Tiên (mật danh Francois) phái một điệp viên đơn tuyến xâm nhập miền Bắc. Francois tìm được một người thích hợp là Phạm Chuyên, nguyên là một Đảng viên biến chất, quê ở tỉnh Quảng Ninh. Chuyên bị vợ bỏ nên anh ta di cư vào Nam. Thoạt đầu Phạm Chuyên từ chối, mặc dù Trung tá Lê Quang Tung đã cho đàn em theo dõi, dụ dỗ suốt nửa năm trời. Trung úy Tiên (Francois) buộc phải cộng tác với 1 nhân viên CIA là Edward Reagan tìm cách thuyết phục Chuyên. Sau hơn 6 tháng CIA trổ tài, Phạm Chuyên nhận lời. Anh ta được đưa ra Nha Trang để làm kỳ trắc nghiệm tâm lý. Chuyên đạt được điểm xuất sắc trong kỳ trắc nghiệm. Sau đó Chuyên còn phải trải qua hai kỳ khảo nghiệm nữa, một ở Sài Gòn và một ở Nha Trang. Tiếp theo CIA huấn luyện cho Chuyên 6 tháng về kỹ năng truyền tin.

Trong lúc Chuyên được huấn luyện các kỹ năng thì Trung úy Tiên và Reagan bận rộn phác thảo kế hoạch đưa điệp viên xâm nhập miền Bắc. Theo kế hoạch, Chuyên sẽ nằm vùng dài hạn ở tỉnh Quảng Ninh, một tỉnh ven biển Bắc Bộ, nơi Chuyên rất quen thuộc. CIA cho rằng việc phái Chuyên xâm nhập miền Bắc bằng đường biển là rất hợp lý. Với niềm hứng khởi ấy, hai chuyên viên tình báo bay ra Đà Nẵng tìm địa điểm xuất phát. Họ thuê một biệt thự kín đáo, có tường bao quanh làm mật cứ.

Tất cả mọi động thái cũng như đường đi, nước bước của họ từ đó về sau có mật hiệu là Pacific. Trước khi Chuyên được gửi đi, Phòng 45 quyết định triển khai kế hoạch ngắn hạn: thả điệp viên đến khu phi quân sự, dọc theo vĩ tuyến 17 để thăm dò. Nhân vật được tuyển chọn cho kế hoạch này là một người theo đạo Công giáo, quê ở Hà Tĩnh, tên là Vũ Công Hồng. Anh ta được huấn luyện cấp tốc và đưa ra sống ở Huế trong một căn nhà được bảo vệ rất nghiêm mật. Trong căn nhà đó còn có hai sĩ quan trẻ thuộc Phòng Liên lạc Phủ Tổng thống là Phạm Văn Minh và Trần Bá Tuấn, cả hai đều được huấn luyện ở Saipan. Hai người có bí danh là Micheal và Brad. Họ làm việc với nhân viên CIA David Zogbaum. Cũng như Francois (Đỗ Văn Tiên) làm việc với Reagan ở Đà Nẵng. Vũ Công Hồng (mang mật danh là Hirondelle) đã sẵn sàng lên đường. Thiếu tá Trần Khắc Kính nhân vật thứ hai của Phòng Liên lạc Phủ Tổng Thống chỉ đạo mọi hoạt động xuất phát từ Huế, với mật danh là Atlantic.

Điệp viên Vũ Công Hồng đã sẵn sàng ra đi. Thiếu tá Trần Khắc Kính, đại diện cho Phòng Liên lạc Phủ Tổng thống, có mặt trong lúc thả Vũ Công Hồng qua sông Bến Hải. Sang đến bờ bắc, anh ta biến vào màn đêm. Vài tuần sau, Vũ Công Hồng trở về căn cứ an toàn. Mặc dù Hồng chỉ cung cấp một ít thông tin về đường đi, nước bước của hệ thống an ninh Bắc Việt, nhưng cũng đủ làm cho những nhân viên của Phòng 45 hứng khởi. Sau chuyến đi của Hồng hai tháng, Chuyên đã sẵn sàng lên đường, với hành trang là kiến thức của một năm được huấn luyện. Sứ mệnh của Chuyên khác với Hồng. Chuyên sẽ thu thập tin tức tình báo, tuyển mộ thêm điệp viên, chuẩn bị tinh thần lót ổ nằm vùng dài hạn. Theo kế hoạch tạo vỏ bọc ngụy trang, Chuyên sẽ đóng vai một người đánh cá ở một làng nhỏ ở Cẩm Phả, ngay gần vịnh Hạ Long. Đó cũng chính là quê hương của Chuyên trước năm 1958. Sự trở về của Chuyên có thể không an toàn, nhưng bù lại Chuyên còn có gia đình, người thân, hy vọng sẽ được che chở. Trước lúc lên đường thực thi phi vụ xâm nhập, Phạm Chuyên được mang mật danh Ares, một cái tên rất Mỹ.

Đầu tháng 4/1961, Chuyên lên tàu Nautilus 1, rời Đà Nẵng, theo hành trình hai ngày về phía bắc. Không may cho Chuyên do gặp phải thời tiết xấu, chiếc Nautilus 1 đành quay trở vể nơi xuất phát. Vài hôm sau thời tiết đẹp trở lại. Chuyên lại lên đường. Cả hai viên sĩ quan Tiên và Reagan đều ra bến tàu tiễn đưa Chuyên. Sau này Tiên nhớ lại là khi chia tay với Chuyên, anh ta đã chúc Chuyên may mắn nhưng Chuyên không nói nửa lời.

Phù hiệu Nha Kỹ Thuật

Thời tiết lúc đó chưa là mùa mưa. Trời trong, biển lặng, chiếc Nautilus 1 lặng lẽ xâm nhập vào vùng biển Quảng Ninh. Rời chiếc Nautilus, Chuyên một mình chèo chiếc thuyền nhỏ, rồi đổ bộ lên một địa điểm gần Cẩm Phả. Chuyên đem đồ đạc, trang bị lên bờ rồi giấu ngay hai máy truyền tin. Việc đầu tiên là anh ta phải tuyển mộ thêm một người để phụ giúp khi sử dụng máy truyền tin. Phòng 45 biết rõ điều đó, nên sẽ chờ tín hiệu của Chuyên trong vòng nhiều tuần, và biết đâu phải chờ trong vài tháng.

 Tuy chưa bị phát giác, nhưng đã có người thấy Chuyên lẻn về làng cũ, đi thẳng vào căn nhà xưa của mình. Khi sum họp với gia đình, Chuyên cố thuyết phục người em trai là Phạm Độ. Với vẻ miễn cưỡng, Độ theo anh trai ra bờ biển, đào hai chiếc máy truyền tin lên, đem về nhà đào hố chôn ngay trong buồng. Đến đây chuyến xâm nhập đầu tiên của Chuyên cũng như SOG coi như thành công. Thế nhưng ngày 19/4, có vài ngư dân phát hiện ra chiếc thuyền nhỏ của Chuyên. Tiếp theo sau là những cuộc khám xét của lực lượng an ninh ngay tại làng chài nhỏ quê Chuyên. Sau khi xác định không ai là chủ nhân của chiếc thuyền thì cuộc khám xét được mở rộng ra cả bãi biển.

Rồi công an Quảng Ninh cũng phát hiện ra hố chôn giấu hai máy truyền tin. Nghi ngờ có gián điệp xâm nhập địa bàn, Trưởng Ty công an Quảng Ninh thảo ngay kế hoạch khám xét khu vực làng chài, đặc biệt đối với những nhà có người di cư vào Nam hoặc những gia đình từng có than nhân làm việc cho chính quyền thực dân Pháp. Do không nắm được thông tin, Chuyên vẫn trốn trong một cánh rừng gần đó. Anh ta đem theo một máy truyền tin, nhờ người em trai quay máy truyền tin để gửi đi bức mật điện đầu tiên. Nhằm tránh cho làn sóng bị giao thoa, Phạm Chuyên đánh tín hiệu từ bờ biển miền Bắc Việt Nam, vượt đại dương đến trạm Bugs, với mật mã do CIA đặt cho trạm viễn thông tại căn cứ quân sự ở cảng Subic, Philippin. Từ đó, bức mật điện sẽ được chuyển tiếp đến cơ quan CIA tại Sài Gòn. (nằm ở góc Đồng Khởi - Lý Tự Trọng đối diện công viên Chi Lăng ngày nay, khi đó người ta chỉ biết đó là trụ sở của hãng IBM; ct N.C.).

Một toán Lôi Hổ tại căn cứ huấn luyện

Nhận được bức mật điện, Robert Kennedy – một nhân viên CIA – tay huơ huơ bức mật điện bước vào Phòng 45, không giấu nổi nỗi mừng khôn xiết, anh ta nói lớn: “Thành công rồi!”. Một bản sao bức mật điện của Phạm Chuyên đã được trình lên Tổng thống Ngô Đình Diệm. Sau này, Chuyên còn gửi thêm 22 bản báo cáo nữa trong một thời gian rất ngắn.

 Trong khi đó, tại Quảng Ninh, nhân viên phản gián Bắc Việt đã dò theo làn sóng điện, thu đầy đủ nội dung những bức mật điện do Phạm Chuyên đánh đi. Và một cụ già cũng báo cho công an biết rằng có một người lạ tìm cách giấu mặt đang sống trong một căn lều gần bãi biển. Cụ già còn cung cấp thêm: có người trong làng chài khoe một cây viết bic, vật ít thấy ở miền Bắc.

Với những thông tin thu thập được, công an theo dõi căn nhà của gia đình Phạm Chuyên. Ngày 11/6, công an Quảng Ninh bắt giữ Phạm Độ trong khi anh ta đem đồ tiếp tế vào rừng cho Phạm Chuyên. Sáu ngày sau, họ khám phá ra máy truyền tin thứ hai chôn giấu trong nhà cùng với bản mật mã. Từ đây số phận của Phạm Chuyên – Ares đã được định đoạt. Hà Nội có hai lựa chọn. Một là công bố vụ án điệp viên Phạm Chuyên, rồi đưa ra tòa như vụ án Đại Việt trước đây. Hai là khống chế, sử dụng Phạm Chuyên làm gián điệp hai mang, buộc Chuyên phải thường xuyên liên lạc với Sài Gòn. Thế rồi đúng 9h sáng ngày 8/8/1961, sau hai tháng mất liên lạc, Sài Gòn lại nhận được mật điện của Phạm Chuyên. Với sự hiện diện của sĩ quan an ninh Bắc Việt bên cạnh, Phạm Chuyên cắt nghĩa về sự im lặng của mình. Rằng mẹ và em gái anh ta không đủ tiền nộp thuế nông nghiệp, do đó anh ta phải tạm thời lánh mặt lên Hà Nội.

Đương nhiên Sài Gòn chẳng có cách gì hơn đành phải tạm tin vào những gì Chuyên báo cáo và chấp thuận gửi đồ tiếp tế theo lời yêu cầu của anh ta. Chiếc Nautilus 1 lại rời Đà Nẵng  ngày 12/1/1962, mang theo đồ tiếp tế cho Phạm Chuyên. Chiếc Nautilus 1 đến vịnh Hạ Long mà chẳng hề gặp bất cứ trở ngại nào. Sau đó chẳng hiểu sao tự nhiên Sài Gòn mất liên lạc bằng vô tuyến điện với Phạm Chuyên lẫn Nautilus một cách bí ẩn.

 Phòng 45 bắt đầu lo lắng cho số phận chiếc Nautilus 1 cùng với thủy thủ đoàn, trong đó có cả sự nghi hoặc về điệp viên Ares (Phạm Chuyên). Có lẽ nào tàu Nautilus 1 bị tàu tuần tiễu của Bắc Việt tiêu diệt khi đến gần bờ biển Quảng Ninh? Sau nhiều ngày bặt tin về Nautilus 1 cùng điệp viên Phạm Chuyên, Phòng 45 cho đóng chiếc tàu khác, lấy tên là Nautilus 2. Khi chiếc tàu Nautilus 2 đã sẵn sàng cùng với thủy thủ đoàn, được tuyển mộ từ những người Bắc di cư và huấn luyện tại Đà Nẵng, lên đường.

Ngày 11/4/1962, chiếc Nautilus 2 rời cảng Đà Nẵng, hướng về vịnh Hạ Long. Hai ngày sau, Nautilus 2 đã đến ngoài khơi biển Quảng Ninh. Sáu người trong số 14 thuỷ thủ đoàn xuống thuyền cao su, chở theo đồ tiếp tế cho Phạm Chuyên gồm 7 hòm sắt và 14 thùng carton được bọc kín bằng nilon. Sáu thủy thủ chèo thuyền đến một đảo nhỏ trong vịnh Hạ Long, chất hàng lên đảo rồi chặt cây che lại. Khi chiếc Nautilus 2 về đến Đà Nẵng an toàn, Phòng 45 mở tiệc ăn mừng sự thành công của chuyến tiếp tế đầu tiên cho điệp viên Ares. Ngày 2/5/1962 họ gửi tín hiệu chỉ điểm nơi giấu hang cho Phạm Chuyên. Ít lâu sau, Phạm Chuyên điện báo đã nhận được đồ tiếp tế, kể cả máy truyền tin cùng với máy chụp ảnh 35mm.

Cho dù thành công với điệp viên Phạm Chuyên (Ares), nhưng chuyện tiếp tế tiếp theo ra sao vẫn chưa ai biết được. Hồ sơ về những điệp viên đơn tuyến (singleton) không lấy gì làm sáng sủa cho lắm.

Trước đó, vào tháng 9/1961, điệp viên thứ 3 của Phòng 45 mang mật danh Hero đã xâm nhập bằng đường biển, về liên lạc với gia đình bị thất bại. Phòng 45 buộc phải hủy kế hoạch ngay tức khắc. Cũng trong tháng 9, điệp viên Hirondelle (Vũ Công Hồng) xâm nhập trở lại vùng Hà Tĩnh bằng đường biển. Nhưng anh ta ra đi mà không thấy không trở về.

Đại đội xung kích Hatchet Force đi giải cứu Trong năm 1962, danh sách các điệp viên đơn tuyến bị mất tích ngày càng dài thêm. Một điệp viên mang mật danh Triton, xâm nhập vào Hà Tĩnh bằng tàu biển trong tháng 5 cũng biến mất không tìm ra manh mối. Cuối tháng 5/1962, một điệp viên khác, mang mật danh Athena xâm nhập vùng biển Hà Tĩnh. Điệp viên đó chính là Đặng Chí Bình, rất nổi tiếng trong số những Việt kiều ở nước ngoài qua bộ hồi ký “Thép Đen”. Bình bị bắt sau khi thi hành một phi vụ ở Hà Nội.

Từ năm 1963, việc gửi điệp viên nằm vùng dài hạn trong một xã hội kiểm soát quá chặt chẽ như ở Bắc Việt ngày càng trở nên rất khó khăn. Ngoại trừ Ares, bốn điệp viên khác xâm nhập bằng đường biển đều bị mất tích, và được xem như đã chết. Ngay cả chuyện bơi qua sông Bến Hải Hirondelle đã làm trước đây cũng trở nên cam go, mạo hiểm. Điệp viên mang mật danh Wolf xâm nhập vào vùng phi quân sự, bị mất tích vào tháng 2/1963.

Mùa hè 1963, Phòng 45 chuẩn bị tiếp tế lại cho điệp viên Phạm Chuyên. Họ hy vọng việc tiếp tế sẽ suôn sẻ như năm trước. Ngày 11/8/1963, tàu tiếp tế rời cảng Đà Nẵng. Hai hôm sau, tàu đến vịnh Hạ Long. Sáu người trên tàu xuống thuyền cao su bơi vào bờ. Thế nhưng họ cũng biến mất, không một ai quay trở lại. Số còn lại trên tàu hốt hoảng khi trông thấy chiếc tàu tuần tiễu của Bắc Việt xuất hiện nên họ dông một mạch về Đà Nẵng. Một lần nữa Phạm Chuyên (Ares) bị nghi ngờ.

CIA và Phòng 45 buộc phải vạch kế hoạch xâm nhập miền Bắc bằng đường không. Thiếu úy Lò Ngân Dung, một sĩ quan gốc người dân tộc Thái, ở vùng Lào Cai, có mật danh là Jacques, được phép tuyển mộ lính biệt kích từ Liên đoàn Quan sát số 1. Đơn vị này có phần lớn quân nhân quê gốc miền Bắc. Những quân nhân tình nguyện là người dân tộc Mường, Tày, Nùng đều đến từ những đơn vị binh chủng của Quân đội Sài Gòn.

Jacques lập toán đầu tiên gồm ba quân nhân người Mường và một quân nhân người Nùng. Bốn quân nhân trên được bí mật đưa về sống ẩn dật tại một mật cứ ở Sài Gòn. Họ được huấn luyện sử dụng máy truyền tin và đều đã tốt nghiệp các khóa nhảy dù, tác chiến trong rừng từ khi còn ở Liên đoàn Quan sát số 1.

Không như điệp viên Ares, phải đơn độc xâm nhập vào Bắc Việt, bốn biệt kích trên được huấn luyện sống biệt lập ở vùng rừng núi.

Sau ba tháng huấn luyện, toán biệt kích đầu tiên đã sẵn sàng. CIA quyết định tìm phương tiện hang không để thả toán biệt kích trên xuống đất Bắc. Phương thức này  đòi hỏi công tác bảo đảm cao. Trước đây CIA đã sử dụng nhiều loại máy bay thả dù xuống lãnh thổ Trung Quốc. Hãng hàng không Air America của CIA được nhiều người  biết đến qua những hoạt động xâm nhập vào đất Lào, nghĩa là đối phương đã biết, nên không thể sử dụng được. Chỉ có những phi công Nam Việt Nam của Không quân Quân đội Sài Gòn có đủ khả năng để bay. Tuy nhiên, phi hành đoàn này cũng phải được cải trang, để nếu bị bắt có thể chối phăng đi.

Với ý đồ trên, CIA lập ra hãng hàng không liên doanh Delaware Corporation với VNCH, lấy tên là “Hãng hàng không Việt Nam” (VIAT), với phương tiện duy nhất của họ chỉ có một chiếc máy bay vận tải C47 không số, không cả phù hiệu đơn vị. Còn phi công thì CIA tìm đến Thiếu tá Nguyễn Cao Kỳ, đương kim Chỉ huy trưởng căn cứ không quân Tân Sơn Nhất. Nguyễn Cao Kỳ cho tuyển chọn những phi công tình nguyện từ hai phi đoàn vận tải để thành lập phi đoàn mới do chính Kỳ chỉ huy, với mật danh Haylift. Những phi công trong phi đoàn mới này đòi hỏi phải có kinh nghiệm thực thi những phi vụ thả dù đêm, bay với cao độ thấp đến địa điểm thả dù.

Sau thời gian huấn luyện, phi hành đoàn chỉ còn lại 5 người do Nguyễn Cao Kỳ chỉ huy. Riêng phi hành đoàn thứ 2, phi đoàn dự bị, do Trung úy Phan Thanh Vân chỉ huy. Toán biệt kích chuẩn bị thả được mang mật danh Castor, tên của một vị thần trong thần thoại Hy Lạp, vốn là vị thần đã giúp đỡ Hercules. Thêm một sự trùng hợp nữa, Castor là tên cuộc hành quân trong năm 1953, khi Pháp cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ. Toán Castor được dự định sẽ phải hoạt động trong hoàn cảnh hết sức khó khăn.

Nhóm biệt kích người dân tộc tại căn cứ huấn luyện

Lại nói, sau khi khám phá ra chiếc thuyền của điệp viên Ares trong tháng 2, Hà Nội đã để ý. Ngày 1/3, Đảng cộng sản Việt Nam ra nghị quyết về tăng cường cho lực lượng an ninh chống đối phương xâm nhập. Toán Castor dự kiến sẽ lên đường ngày 27/5, đúng thời điểm trăng tròn, thời tiết lý tưởng. Không như các đơn vị biệt kích đường biển, chuyên xâm nhập vào các đêm không trăng, các phi công cần ánh sáng mặt trăng để bay, thường mỗi tháng chỉ có bốn đêm trăng sáng nhất. Vả lại, những biệt kích quân cũng cần ánh sáng để điều khiển dù xuống bãi đáp.

Theo đúng kế hoạch, bốn biệt kích quân trong toán Castor sẽ được chiếc C47 không phù hiệu đậu sẵn trong sân bay Tân Sơn Nhất đón. Cơ trưởng không ai xa lạ, mà chính là Thiếu tá Nguyễn Cao Kỳ. Cả phi hành đoàn đều không đeo phù hiệu, không đem theo bất cứ một thứ giấy tờ nào để đề phòng trường hợp bị bắn rơi trên không phận miền Bắc thì vỏ bọc bên ngoài của họ chỉ là thường dân đi buôn lậu. Mỗi người được mang theo 100 USD, để phòng khi cần tẩu thoát sẽ dùng đến. Chiếc C47 chở toán Castor ghé qua Đà Nẵng tiếp thêm nhiên liệu. Đúng 10h đêm, Nguyễn Cao Kỳ cất cánh, bay ra vịnh Bắc Bộ, hướng về phía Ninh Bình. Sau đó theo hướng tây bắc bay qua không phận các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, rồi băng qua sông Đà. Đến cao điểm 828, Nguyễn Cao Kỳ bật đèn xanh, cho đẩy những thùng đồ tiếp tế ra phía cửa sau, và toán Castor cũng nhảy theo. Chiếc C47 vòng lại, bay về hướng miền Nam.

Tại cao điểm 885, trung sĩ Hà Văn Chấp, trưởng toán Castor ra lệnh tháo dù và tập hợp lại. Họ xuôi xuống chân đồi, cách 1 bản gần đó chừng 1 km. Đi về hướng Nam 9 km là sông Đà; thêm 10 km nữa là quốc lộ số 6. Đó là con đường chính, xuyên qua các tỉnh Tây Bắc để đến tây nam tỉnh lỵ Sầm Nưa của Lào. Chính quyền Kennedy cho rằng Sầm Nưa là đất dụng võ của phía Cộng sản. Do đó, nhiệm vụ của toán biệt kích Castor là cung cấp tin tức về hoạt động chuyển quân của đối phương trên quốc lộ 6.

Khi toán Castor nhảy dù xuống cao điểm 885, dân bản gần đó nghe tiếng động cơ máy bay đã báo cho lực lượng CAND vũ trang Bắc Việt. Nên ngay sáng 28/5 họ đã đoán được địa điểm nhảy dù của toán biệt kích đêm qua và sử dụng lực lượng bao vây xung quanh cao điểm 885. Ba hôm sau, họ bắt được cả bốn biệt kích quân của toán Castor. Thế nhưng Phòng 45 vẫn chưa hề biết chuyện gì đã xảy ra với toán Castor, nên vẫn tiếp tục chương trình thả thêm những toán biệt kích khác.

Nguyễn Cao Kỳ - Đặng Tuyết Mai

...và nay

Ngày 2/6, toán biệt kích thứ hai gồm ba người, mang mật danh Echo, xuất phát từ Đà Nẵng, do chiếc C47 của VIAT chở, bay ra Bắc Việt. Chiếc máy bay bay vòng qua vĩ tuyến 17, đến không phận tỉnh Quảng Bình, toán biệt kích Echo được lệnh nhảy dù xuống vùng rừng núi phía bắc làng Trúc khoảng 5 km.

Không gì xui xẻo hơn, khi toán biệt kích Echo mới ra khỏi máy bay cũng là lúc ở dưới mặt đất dân chúng hai làng đang họp. Nghe tiếng máy bay, họ ùa ra xem, nhìn rõ mồn một chiếc C47 trên bầu trời sáng rực đầy trăng sao. Chỉ một giờ đồng hồ sau, lực lượng vũ trang Bắc Việt đã tổ chức xong cuộc truy tìm toán biệt kích, bao gồm công an vũ trang, bộ đội địa phương và cả chó nghiệp vụ.

Chuyện rủi ro đến với toán biệt kích Echo diễn ra ngay từ lúc đầu. Một biệt kích quân bị dạt đi khoảng 3 km, vướng trên một ngọn cây, anh ta cắt dây dù, rơi xuống đất và bị gãy chân. Hai người còn lại biết bị lộ bèn báo cáo tình hình nguy cấp về Sài Gòn và định chạy về hướng biên giới Việt – Lào hòng thoát thân. Thế nhưng trước lúc họ bắt đầu thực hiện ý định, quân đội Bắc Việt đã bao vây chặt khu rừng nên cả ba biệt kích quân đều bị bắt vào ngày hôm sau.

 Kết cục bi thảm trên cũng không ngăn được CIA tiếp tục kế hoạch thả biệt kích thâm nhập Bắc Việt. 12 ngày sau, toán biệt kích thứ ba, mang mật danh Dido, gồm bốn quân nhân gốc người dân tộc Thái đen đã rời sân bay Đà Nẵng. Mục tiêu hoạt động của toán biệt kích Dido là vùng dân tộc Thái đen là Lai Châu, thuộc khu tự trị Thái – Mèo, sau đổi lại là khu tự trị Tây Bắc.

Toán biệt kích Dido nhảy dù xuống gần quốc lộ số 6, khoảng giữa tỉnh lộ và con đường dẫn đến huyện lỵ Tuần Giáo. Toán Dido sẽ do thám lượng xe cộ của Bắc Việt đến Tuần Giáo, nhất là lưu lượng xe cộ qua lại trên tuyến đường đi về lòng chảo Điện Biên Phủ, qua Tây Trang để sang Lào. Đây là địa bàn đóng quân của Sư đoàn chủ lực 316 Bắc Việt, nên việc do thám, thu thập thông tin càng trở nên vô cùng cần kíp.

Trước một mục tiêu quan trọng như vậy, để an toàn, Thiếu tá Nguyễn Cao Kỳ chọn đường bay từ vùng vịnh Bắc Bộ, lái vòng sang các tỉnh thuộc không phận Việt Bắc, thả truyền đơn xuống địa bàn tỉnh Cao Bằng ngay sát biên giới Việt – Trung. Khi đến địa điểm thả dù thuộc tỉnh Lai Châu, bốn biệt kích quân của toán Dido nhảy ra và chiếc C47 sẽ theo lộ trình thả toán biệt kích Castor trước đây để tức tốc quay về Miền Nam.

Trang phục, vũ khí thường thấy Tại bãi đáp đất, cả bốn biệt kích quân nhanh chóng tháo dù đem giấu rồi tập hợp lại. Thùng đồ của họ đã có đủ cả quần áo, lương thực, vũ khí. Còn máy truyền tin thì bị trôi dù lạc mất, tìm không ra. Sau ba tuần lễ bị đói, trên đường di chuyển sang Lào, toán biệt kích Dido chạm trán với lực lượng công an nhân dân vũ trang và bị bắt ngay biên giới Việt – Lào.

Như vậy, tính đến tuần lễ thứ hai của tháng 7, ít nhất Hà Nội đã nắm trong tay ba toán biệt kích. Họ biết rõ, sau khi không thể không đem ra xét xử vụ biệt kích xâm nhập Bắc Việt. Ít ra viên phi công hoặc cả 7 biệt kích quân biết rằng phi vụ của họ là tái tiếp tế cho toán biệt kích Castor. Nếu họ khai trước tòa án, Bắc Việt sẽ biết rằng đã có toán biệt kích hoạt động trên địa bàn tỉnh Sơn La. Đồng thời Sài Gòn cũng biết toán biệt kích Castor đã bị bắt. Thế nhưng Hà Nội đã dàn dựng một câu chuyện khác.

Chỉ có ba người bị đưa ra tòa trong tháng 11, bốn biệt kích quân khác đã chết do trọng thương. Trước tòa, cả ba biệt kích quân đều nhận tội có liên quan đến vụ xâm nhập của biệt kích và đang trên đường đến tỉnh Hòa Bình chứ không phải Sơn La. Đến cuối 1962, CIA và Sài Gòn vẫn tin rằng toán biệt kích Castor đang hoạt động hữu hiệu. Tại Sài Gòn, trung tá Tung cũng cảm thấy hài lòng về việc chuẩn bị thả thêm nhiều toán biệt kích khác ra miền Bắc.

Và rồi CIA phải tìm kiếm phương tiện khác để chuyên chở vì chiếc C47 duy nhất đã bị bắn rơi. Họ giờ đã chán loại máy bay C47 với hai lý do. Một là, tầm hoạt động của C47 ngắn, do đó máy bay phải bay thẳng đến mục tiêu. Thứ hai, máy bay phải tiếp thêm nhiên liệu tại Đà Nẵng, và biết đâu điệp viên Bắc Việt đã chẳng xâm nhập vào sân bay Đà Nẵng? Cuối cùng họ chọn loại máy bay C54 và huấn luyện hoa tiêu Việt Nam. Còn các phi công tình nguyện sẽ phải hoàn tất khóa huấn luyện vào đầu năm 1963.

Phòng 45 chuẩn bị cho toán biệt kích Europa gồm 5 biệt kích quân người Mường lên đường. Ngày 20/2, họ xuất phát từ sân bay Tân Sơn Nhất, do Trung tá Nguyễn Cao Kỳ lái và không cần ghé lại Đà Nẵng như các phi vụ trước đây. Đến địa điểm thả dù thuộc không phận tỉnh Hòa Bình, địa bàn cư trú tập trung chủ yếu của dân tộc Mường, Nguyễn Cao Kỳ bật đèn xanh, cả năm biệt kích quân người Mường đều biến mất vào màn đêm.

Theo kế hoạch, việc chọn địa điểm thả toán biệt kích Europa thuộc địa bàn huyện Tân Lạc là bất lợi, bởi quốc lộ số 6 chạy xuyên qua giữa huyện, có nhiều đường liên tỉnh, liên huyện thông thương và bản mường đông đúc. Vì thế toán biệt kích Europa đã bị lộ ngay khi dù của các biệt kích quân chưa thả. Ít lâu sau, CIA sẽ phải thả dù tiếp tế cho các biệt kích quân. Vì vậy Hà Nội buộc hoặc thuyết phục các hiệu thính viên các toán biệt kích hợp tác, báo cáo về Sài Gòn là họ vẫn an toàn. Kết quả là Bắc Việt đã lấy được lượng đồ tiếp tế của CIA cho các toán biệt kích đã bị bắt và tóm luôn những toán sẽ được thả sau đó.

Đúng 12h trưa ngày 29/6, nghĩa là khoảng một tháng sau khi xâm nhập, toán Castor gửi đi bức điện văn đầu tiên. Họ được Sài Gòn khích lệ và hứa sẽ thả dù tiếp tế trong vòng bốn ngày sau. Chiều 1/7, đồ tiếp tế được bí mật chất lên chiếc C47 đậu sẵn ở sân bay Tân Sơn Nhất.

Đúng ra, Thiếu tá Nguyễn Cao Kỳ trực tiếp thực hiện phi vụ này, nhưng đến giờ chót, chẳng hiểu vì sao Nguyễn Cao Kỳ lại giao trách nhiệm cho Trung úy Phan Thanh Vân. Phi hành đoàn có thêm 3 hạ sĩ quan thuộc Liên đoàn Quan sát số 1 để phụ giúp thả những thùng đồ tiếp tế xuống các mục tiêu đã được xác định. Chiều 1/7, sau khi nạp thêm nhiên liệu tại phi trường Đà Nẵng, chiếc C47 bay theo lộ trình đã thả 2 toán biệt kích Castor và Dido. CIA đâu có biết tại bãi thả, công an vũ trang Bắc Việt đã bao vây, đợi đón đầu chuyến thả tiếp tế cho toán biệt kích Castor.

Trong lúc đó, tại Hòn Ne, cách bờ biển Ninh Bình khoảng 5 km, công an, bộ đội Bắc Việt đã phát hiện ra tiếng động cơ máy bay. Chiếc C47, như thường lệ, bay thấp để tránh rađa và súng phòng không ở Hòn Ne phát hiện. Nhưng đã quá muộn, chiếc C47 đã bị trúng đạn, rơi xuống một cánh đồng rộng khoảng 20 ha.

Sau vụ bắn rơi chiếc C47, bắt sống 7 biệt kích quân, trong đó có phi công Phan Thanh Vân (1971 ra tù, được chị ruột bảo lãnh sang Pháp một thời gian rồi sang Mỹ định cư, chết tại Virginia; ct N.C.), Hà Nội đã công bố trên đài phát thanh, báo chí. Sáng hôm sau, công an vũ trang phối hợp với quân dân tự vệ, học viên của trường sĩ quan biên phòng… truy lùng ráo riết toán biệt kích. Tất cả các biệt kích trong toán đều bị bắt vào ngày hôm sau.

Một bóng hồng của Nha Kỹ Thuật Hiệu thính viên toán Europa buộc phải gửi báo cáo về Sài Gòn, rằng toán đã đến mục tiêu an toàn. Phòng 45 khấp khởi, chuẩn bị tái tiếp tế cho toán Castor, tính đến thời điểm đó đã nằm vùng gần 10 tháng. Họ hy vọng rằng với loại máy bay C54 mới, lần này sẽ gặp may. Chuyến đi này do Đại úy Hội lái. Chiếc C54 bí mật chở đồ tiếp tế cất cánh từ sân bay Tân Sơn Nhất bay đi Sơn La. Trước khi đến mục tiêu, chuyện xui xẻo lại xảy ra: chiếc C54 gặp một cơn giông lớn. Trong lúc đó tại Sài Gòn, mấy tay CIA thuộc Ban kế hoạch hết sức mất mặt vì trong vòng 7 tháng đã bị mất hai chiếc máy bay. Điều an ủi duy nhất là theo bức điện văn bắt của Hà Nội cho biết chiếc máy bay rơi, trước hết là do lỗi của viên phi công gây nên tai nạn và họ không để ý đến vụ mất mát đó (?). Cũng vì lẽ đó nên cơ quan tham mưu ở Sài Gòn đinh ninh rằng toán biệt kích Castor vẫn đang hoạt động.

CIA lại phải tìm kiếm loại máy bay khác. Lần này họ liên lạc với Đài Loan, vì cho rằng không lực xứ này có kinh nghiệm thả điệp viên xâm nhập Trung Hoa lục địa từ năm 1952. Vả lại, đã có nhiều hoa tiêu Đài Loan tình nguyện bay những phi vụ bí mật xâm nhập Bắc Việt Nam. Mặt khác CIA cũng từng bố trí cho phi công của mình từ Air America (CIA) sang Đài Loan huấn luyện cho những phi công tình nguyện về kỹ thuật bay ở cao độ thấp.

Trong thời gian huấn luyện cho phi công Đài Loan, CIA và Phòng 45 đã chuẩn bị cho nhóm biệt kích kế tiếp xâm nhập miền Bắc. Toán mới này mang mật danh là Atlas, gồm bốn người quê ở Nghệ An. Cả bốn người được đưa về sống ở những mật cứ tại Sài Gòn để huấn luyện. Toán biệt kích Atlas có nhiệm vụ xâm nhập địa bàn tỉnh Nghệ An, đặc biệt là khu vực gần đường số 7. Cũng như toán Echo trước đây, Atlas sẽ do thám mức độ di chuyển của quân đội Bắc Việt qua đất Lào, đồng thời bắt liên lạc với hai linh mục công giáo nhờ giúp đỡ, che chở.

Trong tuần lễ đầu tiên của tháng 3/1962, toán Atlas được đưa sang Thái Lan. Thế nhưng những phi công Đài Loan vẫn chưa được huấn luyện xong, buộc CIA phải sử dụng trực thăng của Air America đưa toán biệt kích đến biên giới Việt – Lào, thuộc địa bàn tỉnh Nghệ An. Sau đó toán Atlas sẽ di chuyển bộ đến mục tiêu. Chiều ngày 12/3, toán Atlas lên đường cùng với phương tiện, vật chất bảo đảm, do hai chiếc trực thăng H34 đảm nhận, cộng với một chiếc hộ tống. Theo máy bay hướng dẫn, trực thăng thả toán biệt kích lúc trời nhập nhoạng tối xuống một ngọn núi sát biên giới Việt – Lào. Toán Atlas mặc bà ba đen, vũ trang tiểu liên Stern (theo quy định của CIA, không dùng vũ khí Mỹ).

Sau ba ngày di chuyển về hướng đông Nghệ An một cách suôn sẻ, đến ngày thứ tư, toán biệt kích Atlas gặp một đứa trẻ. Theo lời một thành viên trong toán kể lại: “Đứa trẻ biến vào rừng nhanh như chớp!” Sau đó, lập tức lực lượng an ninh đến bao vây toán Atlas, một biệt kích quân trúng đạn, bỏ mạng tại trận. Trên đường chạy trở lại đất Lào, thêm một biệt kích quân nữa giẫm phải mìn, chết. Hai người còn lại không liên lạc được với Sài Gòn vì thời tiết xấu, cuối cùng đều bị bắt.

Rút bài học kinh nghiệm xương máu này, CIA tiếp tục lên kế hoạch cho những chuyến thả biệt kích tiếp theo xuống lãnh thổ Bắc Việt Nam. Lần này CIA quyết định sử dụng loại máy bay C46, xuất phát từ căn cứ không quân Takhli của Thái Lan. Họ sẽ được hai Đại úy Ron Sutphine và M. D. Doc Johnson bay trước hướng dẫn vào bãi thả dù. Toán kế tiếp mang mật danh Remus, gồm 6 biệt kích người dân tộc Thái đen. Cũng như toán Dido trước đây, gồm những biệt kích người dân tộc Thái đen, toán Remus sẽ nhảy dù xuống lòng chảo Điện Biên Phủ, thuộc địa bàn tỉnh Lai Châu.

 Điện Biên Phủ không chỉ là căn cứ quân sự lớn nhất ở vùng Tây Bắc, cùng với sự hiện diện của Sư đoàn 316; hơn thế nữa, Sư đoàn này thường xuyên có những hoạt động trên đất Lào. Để tránh bị lộ, toán Remus sẽ nhảy dù xuống khu vực gần biên giới Việt – Lào, rồi xâm nhập bằng đường bộ đến mục tiêu. Ngày 16/4/1962, sáu biệt kích quân nhảy dù xuống cách Điện Biên Phủ 15 km về hướng Tây Bắc an toàn. Toán Remus tập hợp lại và năm hôm sau báo cáo về Sài Gòn rằng họ bắt đầu vượt biên giới, xâm nhập vào Bắc Việt.

Sau khi thả toán Remus thành công, Phòng 45 quay trở lại làm việc với toán đầu tiên là Castor. Cuối tháng 4, toán Castor được lệnh di chuyển từ sông Đà về phía nam, đến huyện Mộc Châu, Sơn La. Tại đây, Castor sẽ nhận đồ tiếp tế cùng với toán Tourbillon xuống tăng cường. Không như những toán trước đây, toán Tourbillon gồm 4 dân tộc khác nhau; trong đó ít nhất có hai thành viên là người Kinh. Nhiệm vụ CIA giao cho toán Tourbillon cũng khác, không phải thu thập tin tức tình báo mà là tập kích, tấn công, phá hoại chớp nhoáng. Vì trước đó vào tháng 5, Tổng thống Mỹ Kennedy đã nhiều lần lệnh cho các giới chức lãnh đạo Hoa Kỳ chỉ đạo các toán biệt kích tăng cường hoạt động phá hoại đối với miền Bắc Việt Nam, nhằm cải thiện tình hình bên Lào đang trở nên căng thẳng; tỉnh lỵ Nậm Thà bị Quân giải phóng Pathét Lào chiếm, với sự yểm trợ của vài tiểu đoàn quân tình nguyện Bắc Việt.

Một biệt kích bị bắt giữ khi dù vừa chạm đất Toán Tourbillon sẽ nhảy dù xuống những ngọn đồi ở phía bắc huyện Mộc Châu, rồi di chuyển khoảng 6 km về hướng nam, đến quốc lộ 6, dự định sẽ phá sập những chiếc cầu trên quốc lộ 6 để ngăn chặn đường tiếp tế của Bắc Việt từ Điện Biên Phủ cho Quân giải phóng Pathét Lào, để phần nào giảm áp lực bên Lào. Trước đây trùm CIA Lansdale đã từng xác nhận: “Nằm vùng trong một xã hội quản chế nghiêm khắc đã khó thì việc phá hoại kể như quá khó khăn đối với những biệt kích quân trẻ tuổi”.

Trùm CIA Lansdale, chuyên gia đảo chính, gây rối. Được tiểu thuyết hóa qua tác phẩm "Một người Mỹ trầm lặng"

Để đảm bảo kế hoạch, Phòng 45 tiếp tục tuyển chọn tình nguyện quân từ Liên đoàn Quan sát số 1, thời điểm đó đã đổi tên thành Liên đoàn 77. Có 7 người được chọn học lớp huấn luyện nhảy dù và chiến thuật biệt động. Riêng người hiệu thính viên từng vượt biên xâm nhập đất Lào 2 lần nên ít nhiều đã có kinh nghiệm. Từ tháng 5/1962, quân đội Hoàng gia Lào liên tục bại trận, trước khi Quân giải phóng Pathet Lào làm chủ Nậm Thà.

Toán biệt kích Tourbillon khởi hành bốn lần đều phải quay lại vì lý do thời tiết và nằm chờ tại sân bay Tân Sơn Nhất. Ngày 9/5/1962, Quân giải phóng Pathet Lào làm chủ Nậm Thà. Một tuần sau đó, toán biệt kích Tourbillon xuất phát bằng phương tiện máy bay, do những phi công Đài Loan lái. Họ bắt buộc phải để lại mọi giấy tờ tùy thân trước khi lên máy bay.

Đến điểm hẹn với toán Castor, những biệt kích quân toán Tourbillon nhảy dù xuống đất mà không hề biết, ở dưới mặt đất, ngoài toán biệt kích Castor còn có ít nhất một đại đội công an vũ trang và cả chó nghiệp vụ đang chờ họ. Vào thời điểm đó, lại có gió thổi mạnh. Các thành viên biệt kích quân Tourbillon bị trôi dạt đi xa bãi đáp khiến cho đơn vị công an vũ trang phải đuổi theo. Chiếc dù của viên toán phó bị vướng trên ngọn cây và anh ta bị bắn chết. Những biệt kích quân khác đều mạnh ai nấy chạy, cố tìm lối thoát thân khi đáp đất. Nhưng chỉ hai hôm sau tất cả đều bị bắt. Nhân viên truyền tin lập tức bị cô lập và buộc phải báo cáo về Sài Gòn rằng toán đã đáp xuống mục tiêu an toàn. Phòng 45 tin tưởng rằng bãi đáp đã được toán Castor chuẩn bị và bảo vệ cẩn mật. Sau 11 ngày đấu tranh, suy nghĩ, tay nhân viên truyền tin đã gửi đi bản báo cáo đầu tiên rằng toán đã đáp xuống mục tiêu an toàn.

Bốn ngày sau khi toán Tourbillon nhảy dù xuống Mộc Châu, toán biệt kích kế tiếp mang mật danh Eros lên chiếc máy bay C54, xuất phát từ sân bay Tân Sơn Nhất. Chuyến đi này phi công bay theo đường vòng qua đất Lào, xâm nhập không phận tỉnh Thanh Hóa, thả toán biệt kích chớp nhoáng rồi bay về. Phi vụ này diễn ra quá nhanh đến nỗi quân Bắc Việt chưa kịp đề phòng, chuyến xâm nhập coi như thành công.

Xuống tới đất, toán Eros gom lại an toàn. Họ gồm 5 người thuộc sắc tộc Mường và Thái đỏ ( Dao đỏ?), cả hai sắc dân thiểu số trên đều sống ở phía tây tỉnh Thanh Hóa. Có điều đặc biệt là trong số các thành viên của toán có 3 người Mường, thì hai người là anh em, người thứ ba là anh em họ. Hai người Thái là chú cháu. Phòng 45 hy vọng sợi dây liên hệ dòng tộc này sẽ làm cho toán gắn bó hơn và họ dễ dàng móc nối những người cùng sắc tộc khác.

Sau ba tuần lễ trong rừng, vài người Thái trông thấy toán biệt kích. Hốt hoảng, toán Eros chạy lên hướng bắc. Mấy người Thái quay trở lại tìm thấy những vỏ lon đồ hộp lạ, không phải sản xuất ở miền Bắc. Họ bèn báo cáo sự việc cho công an địa phương. Trong khi đó toán Eros trên đường chạy đã gần cạn lương thực, mà Sài Gòn lại đáp rằng do thời tiết xấu, chưa thể tiếp tế được. Những biệt kích quân phải tự tìm thức ăn cho mình.

Dân quân xã Phú Hải, Hà Cối, Quảng Ninh tham gia truy bắt nhóm biệt kích xâm nhập bãi biển Hà Cối 28/7/1963

« Trả lời #15 vào lúc: 30 Tháng Một, 2011, 01:37:23 PM »   Ngày 2/8/1962, một lần nữa họ bị dân làng phát giác và cuộc truy lùng lại tiếp diễn. Lần này Phòng 45 nhận được công điện khẩn của toán Eros rằng họ đang bị truy lùng.

Ngày 29/9, sau khoảng 2 tháng bị truy đuổi, toán biệt kích bị bao vây. Một biệt kích quân bị trúng đạn bỏ mạng, một người bị bắt. Ba người kia chạy thoát, rồi nhập vào toán dân Lào đi săn. Tưởng thoát, ai dè họ lại bị phát giác và bắt sống, giao nộp cho Quân đội Bắc Việt.

Khi mặt trời chưa kịp nhô lên ngoài khơi vịnh Bắc Bộ, từng đoàn đánh cá của ngư dân đã giăng như mắc cửi trên cửa sông Gianh, cách Đồng Hới, một tỉnh cực nam của miền Bắc Việt Nam, khoảng 40 km. Từ biển theo sông Gianh vào khoảng 40 km, có căn cứ hải quân Quảng Khê. Đây là bàn đạp xuất phát của lực lượng Phòng vệ Duyên Hải của Bắc Việt.

Ngày 16/2/1962, quang cảnh căn cứ Quảng Khê có vẻ bình yên. Không ai biết rằng dưới đáy biển có một chiếc tàu ngầm Catfish của Hải quân Mỹ đang do thám vùng biển Bắc Bộ. Chiếc tàu ngầm này từng hoạt động nhiều năm tại hải phận của Trung Quốc và Việt Nam. Lần này chiếc Catfish quan sát  những chiếc tốc đỉnh vũ trang Swatow của Hải quân  QĐND Việt Nam. Chiếc Swatow dài 83 bộ (25,3 m), được trang bị radar để phát hiện những chiếc tàu lạ xâm nhập hải phận, với hỏa lực gồm 3 khẩu súng máy phòng không 37mm, cộng với hai khẩu 14.5mm hai nòng và thủy thủ đoàn 30 người. Tàu có thể chạy với tốc độ 28 hải lý mỗi giờ.

Sau khi dò biết trong căn cứ Quảng Khê có ba chiếc Swatow đang bỏ neo, chiếc tàu ngầm Catfish kiểm tra lại tin tức tình báo và báo cáo về trung tâm tại thủ đô Manila, Philippin và văn phòng CIA tại Sài Gòn. CIA lập tức phác thảo kế hoạch sử dụng người nhái phá hủy những chiếc tốc đỉnh của Hải quân Bắc Việt.

Tàu Swatow 154 tại Quảng Ninh

Cùng thời điểm tháng 4/1962, Phòng 45 quyết định thành lập toán cảm tử quân người nhái do Đài Loan huấn luyện, mang mật danh Vulcan. Họ được đưa đến Đà Nẵng huấn luyện cách đặt mìn phá tàu. Sau khi xác định được mục tiêu, theo thông tin của tàu ngầm Catfish cung cấp, toán người nhái Vulcan cùng với 10 thủy thủ lên chiếc tàu Nautilus 2, hướng ra hải phận Bắc Bộ. Chiếc Nautilus 2 thả neo ngoài khơi trước của sông Gianh, để cho 4 cảm tử quân chèo thuyền vào căn cứ thám thính. Sau khi xâm nhập, bốn người này quay ra, báo cáo rất yên tĩnh.

Chiếc Nautilus 1 bị bắt giữ trước đó

Đại úy Hà Ngọc Oanh, với mật danh Antoine, từng phục vụ 2 năm tại phòng 45, đã nhận lệnh tấn công những chiếc tốc đỉnh Swatow vào ngày 28/6/1962. Trong buổi thuyết trình kế hoạch hành quân, với sự hiện diện của hai nhân viên CIA và ảnh chụp căn cứ hải quân Quảng Khê, Đại úy Hà Ngọc Oanh đã trình bày kế hoạch tấn công và đường rút lui trước các cảm tử quân người nhái được chỉ định tham gia phi vụ.

Theo kế hoạch, các cảm tử quân từ chiếc Nautilus 2 xuống thuyền gỗ, chèo vào bờ theo hướng cửa sông Gianh. Vì chỉ có ba chiếc Swatow trong căn cứ Quảng Khê nên người nhái thứ 4 là Nguyễn Chuyên sẽ ở lại giữ xuồng và làm dự bị. Ba cảm tử quân trong bộ đồ người nhái sẽ bơi vào căn cứ, gắn mìn vào ba chiếc Swatow, rồi rút êm. Sau buổi thuyết trình, mọi người chúc rượu, tiễn đưa đến tận khuya. Những người nhái thực thi phi vụ được đưa vào mật cứ riêng biệt để đảm bảo bí mật hoàn toàn.

Đúng 20h 30’ tối 29/6/1962, toán người nhái lên tàu xuất phát. Đêm hôm sau, họ đã nằm ngoài khơi hải phận Bắc Việt và tiến dần tiếp cận mục tiêu. Trước nửa đêm ngày 30, chiếc Nautilus 2 tắt cả hai máy, hạ thủy chiếc thuyền gỗ có gắn động cơ. Các cảm tử quân lặng lẽ xuống thuyền, chạy thẳng vào bờ. 15 phút sau, Lê Văn Kính đã có thể nhìn thấy cửa sông Gianh. Toán người nhái dự tính sẽ thực thi xong phi vụ trong vòng hai giờ đồng hồ, đủ thời gian bơi vào mục tiêu đặt mình, rồi bơi trở lại thuyền. Hợp đồng với đồng sự xong, Lê Văn Kính kéo kính che mắt lại rồi trườn xuống nước, theo sau là Nguyễn Hữu Thao.

Chiếc Swatow 108 bị máy bay đánh chìm

Trên boong chiếc Swatow mang số hiệu 185, người lính canh gác nghe tiếng chân vịt quạt vào nước. Lập tức thuyền trưởng Hồ Ngọc Minh dẫn mấy thủy thủ chạy xuống cuối tàu quan sát. Trong lúc đó, ở dưới nước, Nguyễn Hữu Thao đang gắn quả mìn vào lườn tàu. Nghe tiếng chân người chạy rầm rập trên boong, anh ta hốt hoảng, trật tay và quả mìn phát nổ, Thao chết ngay tức khắc.

Kính đã đặt xong quả mìn, bơi ra xa chiếc Swatow chừng 20 m, trồi lên khỏi mặt nước đúng lúc quả mìn của Thao phát nổ. Sức ép của quả mìn khiến anh ta tức ngực, chân tê dại, trôi vật vờ trên mặt nước. Kính trông thấy chiếc Swatow 185 bị hư hại nặng và biết chắc chắn lính Hải quân Bắc Việt sẽ tràn ra đầy căn cứ trong giây lát. Vì thế Kính gắng bơi vào bờ sông, rồi lủi vào bãi sậy trốn. Anh ta hy vọng khi sự việc lắng xuống sẽ tìm cách trở về căn cứ. Nhưng chuyện đó đã không bao giờ xảy ra, lính Bắc Việt đã tìm thấy và lôi anh ta ra từ bãi sậy.

Ngồi đợi ngoài thuyền, Nguyễn Chuyên cùng 2 thợ máy hoảng hốt khi trông thấy quả mìn phát nổ. Hải quân Bắc Việt phát hiện thấy chiếc thuyền nhỏ đợi ở ngoài xa, họ liền cho tàu đuổi theo. Chiếc thuyền cuống cuồng chạy ra khơi trong làn đạn truy đuổi, hướng về chiếc Nautilus 2. Khi đến được chiếc Nautilus 2, Chuyên trúng đạn bị thương.

Người nhái thứ ba là Nguyễn Văn Tâm cũng kém may mắn. Sau khi đặt mìn xong, anh ta bơi trở lại thuyền, rồi quả mìn thứ nhất phát nổ, chiếc thuyền vọt mất và Tâm bị bỏ rơi. Anh ta lấy một chiếc thuyền của một ngư dân, định chạy ra biển. Nhưng mới leo lên thuyền, anh ta đã rơi vào tay lực lượng tự vệ địa phương, vì quân đội Bắc Việt đã báo động khắp nơi.

Căn cứ hải quân Quảng Khê lại phát nổ, chiếc Swatow 185 chìm ngay. Trong lúc hỗn loạn, chiếc Swatow 161 chạy ra biển đuổi theo chiếc thuyền gỗ và phát hiện ra chiếc Nautilus 2. Trên tàu Nautilus 2, các thủy thủ cố cầm cự với đại liên, rồi tháo chạy về hướng nam. Đến 6h sáng hôm sau, chiếc Nautilus 2 bị trúng đạn, hỏng máy, đành nằm chờ chết. Không bỏ lỡ cơ hội, chiếc Swatow 161 bắn chiếc Nautilus 2 tan tành. Người nhái Nguyễn Chuyên thoát chết đợt đầu, nay cùng chung số phận với các thủy thủ còn lại. Sau khi chiếc Nautilus 2 bị bắn chìm, 10 người nhái sống sót được chiếc Swatow 161 vớt lên, bắt làm tù binh. Tuy nhiên vẫn sót một người nhái là Nguyễn Văn Ngọc trốn trong chiếc tàu đang chìm, không ai hay biết. Sau khi chiếc Swatow 161 đi khỏi, anh ta trôi vật vờ qua vĩ tuyến 17, được phi cơ tuần tiễu phát hiện và cứu sống.

Ngày 21/7/1962, Hà Nội đưa toán biệt kích hải quân Sài Gòn ra xét xử công khai. Đây là lần thứ hai Bắc Việt xét xử những tội phạm là biệt kích và có kẻ đã bị phạt tù chung thân. Thất bại này khiến cho CIA mất mặt. Phải một năm sau, họ mới toan tính tổ chức tiếp những đợt tập kích phá hoại ở vịnh Bắc Bộ.

Hồ sơ mật của CIA về các toán biệt kích xâm nhập bằng đường biển giai đoạn 1961-1963

Đến cuối mùa hè 1962, toán người nhái SEAL chuyên huấn luyện của Hải quân Mỹ đã huấn luyện xong cho 4 toán biệt kích hải quân Sài Gòn. Mỗi toán đều được phép tuyển mộ cả dân sự và hạ sĩ quan của lục quân Quân đội Sài Gòn.

Trong bốn toán thì Neptune là toán người nhái, toán Cancer gồm toàn biệt kích quân là người dân tộc Nùng, được tuyển chọn từ Sư đoàn bộ binh 5. Người tổ chức ra các toán biệt kích biển là Gougleman. Ông ta đòi hỏi được cung cấp loại tàu tốt nhất, với tốc độ cao, hỏa lực mạnh hơn để tránh lặp lại thảm họa của chiếc Nautilus 2, vốn là tàu gỗ đóng giả tàu đánh cá, mới xảy ra cách đó không lâu.

Theo yêu cầu của Gougleman, Hải quân Mỹ bàn giao 2 chiếc tàu tuần tiễu phóng thủy lôi mác PT-810, PT-811 cho Trung tâm hành quân biển (Marops, Maritime Operation). Hai chiếc tàu này khi đến Đà Nẵng được đổi tên thành PTF-1 và PTF-2. Trong lúc đó, CIA chẳng cần được phép hay không, đã đặt mua hai chiếc tàu Nasty của Na Uy, đem về đặt tên là PTF-3 và PTF-4.

Tàu Nasty của Na Uy

Thêm vào đó, về vấn đề nhân lực, CIA thuê hẳn người Na Uy lái tàu, vì người Mỹ không được phép đến hải phận Bắc Việt. Theo đó, ba thủy thủ Na Uy đã đến Đà Nẵng với thời hạn hợp đồng 6 tháng. Họ có biệt danh là “Viking”. Theo Đại úy Trương Duy Tài, một sĩ quan trong đơn vị biệt kích biển, thì người “Viking” sống hòa hợp với thủy thủ Việt Nam và rất rành đi biển. Ngày 15/12/1962, một chiếc PTF hướng ra biển Bắc Bộ, đem theo toán người nhái Neptune. Trước khi đến mục tiêu, chiếc tàu … bị lạc hướng, phải quay về Đà Nẵng, hủy bỏ phi vụ xâm nhập. CIA đợi đến ngày 14/1/1963 mới thực thi 2 phi vụ cùng một lúc. Hai chiếc Swift rời bến, chạy song song cho đến vĩ tuyến 17 mới tách ra. Một chiếc hướng về những nhà máy, công xưởng dọc theo bãi biển gần thị xã Đồng Hới. Chiếc thứ hai tiếp tục chạy thêm 18 km nữa đến cửa Ròn thuộc huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.

Toán biệt kích biển tấn công Đồng Hới có biệt danh Zeus không gặp trở ngại nào. Họ đến đúng lúc mặt trời lặn, toán biệt kích chèo xuồng cao su vào bờ, đặt dàn hỏa tiễn nhỏ, lắp kíp nổ hẹn giờ do CIA chế tạo, hướng vào nhà máy rồi rút êm trở lại chiếc Swift. Trước khi quay về, họ còn thả xuống biển thêm mấy thùng truyền đơn tuyên truyền chống phá chế độ Bắc Việt, để sóng đánh trôi dạt vào bờ.

Toán biệt kích thứ 2, với mật danh Charon không được may mắn như đồng sự của họ. Chiếc Swift còn cách mục tiêu chừng 19 km, viên thyền trưởng người Na Uy trông thấy có chiếc tàu từ hướng bắc chạy ngược chiều bèn chạy vòng vo để tránh. Cho đến khi mất bóng chiếc tàu lạ họ mới tiếp tục tiến đến mục tiêu nên chậm mất mấy giờ đồng hồ.

Sau khi thảo luận sẽ tiếp tục phi vụ, toán trưởng ra lệnh cho toán Charon xuống thuyền cao su hướng về cửa Ròn. Khi gần đến cửa Ròn, toán người nhái lắp chân nhái rồi bơi vào bờ theo từng cặp hai người. Một cặp sẽ bơi vào bờ phía bắc, cặp khác đến bờ phía nam cửa sông Gianh. Run rủi thế nào, một cặp bất ngờ gặp phải một chiếc tàu đi ra. Do lòng sông cạn, nhiều bùn, hai người nhái sợ người trên chiếc tàu nọ trông thấy, vội vã bơi trở lại chiếc thuyền cao su đang đợi ở cửa biển. Cặp người nhái thứ hai biến mất, không thấy trở lại. Viên thuyền trưởng người Na Uy vẫn gắng đợi cho đến khi mặt trời lặn. Lúc nổ máy, bỗng ông ta phát hiện có đèn hiệu chiếu ra từ bờ. Viên thuyền trưởng liều mạng lái chiếc Swift chạy vào bờ, vớt hai người nhái bị cho là mất tích từ lúc chiều. Coi như nhiệm vụ đã xong, họ hướng tàu về căn cứ xuất phát ở Đà Nẵng.

Cố vấn Mỹ huấn luyện biệt kích sử dụng thuyền cao su đổ bộ tại bãi biển Mỹ Khê, Đà NẵngHiệp định Geneve về vấn đề trung lập hóa Vương quốc Lào có hiệu lực kể từ ngày 6/10/1963. Tình thế đó buộc tổng thống Kennedy phải ra lệnh ngưng tất cả các hoạt động bí mật trên lãnh thổ Bắc Việt Nam.

Sau sự việc chiếc máy bay C123 của hãng hàng không Air America (CIA) bị bắn rơi vào ngày 22/11/1963, mà Mỹ biện minh “chỉ chở đồ tiếp tế nhân đạo cho dân Lào, chứ không có mục đích quân sự nào”, làm cái cớ cho chính quyền Kennedy “nổi giận”. Vịn vào đó, CIA và Phòng 45 được lệnh tiếp tục các hoạt động bí mật tại Bắc Việt Nam. Toán biệt kích Tourbillon được lệnh “làm cú nữa”, nhắm vào một cây cầu khác, cách cây cầu bị đánh trước đó khoảng 12 km về hướng tây. Ngày 8/12, Tourbillon báo cáo đã hoàn thành phi vụ thứ hai.

Thấy toán Tourbillon thành công, CIA và Phòng 45 tiếp tục chuẩn bị cho những toán biệt kích kế tiếp vào cuộc. Toán Lyre có nhiệm vụ phá hoại và thu thập tin tức nên đã tuyển những người theo đạo Thiên Chúa, như hai toán trước đây là Echo và Atlas đã làm, nhưng đều thất bại. Toán Lyre được thả xuống khu vực gần đèo Ngang. Khu vực này gần biển, CIA sẽ sử dụng tàu đổ bộ từ biển vào thay vì thả dù như những toán biệt kích trước đó.

Ngày 29/12, ngay lúc đổ bộ, toán biệt kích Lyre đã bị một trạm kiểm soát của Bắc Việt ở bãi biển phát hiện. Năm người trong toán Lyre bị bắt ngay ngày hôm sau. Hai biệt kích quân còn lại định trốn về hướng nam cũng bị bắt vào cuối tuần.

Toán biệt kích phá hoại đầu tiên trong năm 1963 là toán Tarzan gồm 5 người, địa bàn hoạt động tại khu vực huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình. Trước đó hai năm, toán biệt kích Echo từng nhảy dù xuống vùng này. Đêm 6/1, các biệt kích quân lên chiếc máy bay C54, do phi công Đài Loan lái, cất cánh từ phi trường Tân Sơn Nhất. Chuyến thả biệt kích thành công, ít hôm sau, Tarzan báo cáo về Sài Gòn đã đến mục tiêu an toàn.

Ngày 12/4/1963, sáu biệt kích của nhóm Pegasus, gồm toàn người dân tộc Thổ đã nhảy dù xuống tỉnh Lạng Sơn. Nhiệm vụ của họ là phá hoại một trong hai tuyến đường sắt chính chạy từ biên giới Trung – Việt đến Hà Nội. Ở Sài Gòn, CIA nóng lòng ngồi đợi báo cáo của toán Pegasus, nhưng kết quả vẫn biệt tăm. Bước sang tháng 5, một toán biệt kích khác cũng nhảy dù xuống miền Bắc cũng mất tích luôn.

Toán Alabama tại Phú Bài Chẳng đếm xỉa gì đến những toán biệt kích đã bặt vô âm tín, ngày 4/6/1963, CIA quyết định cùng lúc thả ba toán biệt kích. Chiếc C54 không đủ sức chở ba toán biệt kích cùng lúc, CIA phải mượn thêm một chiếc C54 khác của Đài Loan để sử dụng trong vòng một tháng. Sáng sớm ngày 5/6, cả hai chiếc C54 trở về an toàn sau khi thả ba toán biệt kích xuống lãnh thổ Bắc Việt. Thế nhưng chỉ có toán Bell báo cáo về Sài Gòn, hai toán kia biệt tăm luôn.

Ba ngày sau, CIA tiếp tục kịch bản cũ, chở hai toán biệt kích trên một chiếc máy bay C54, thả dù xuống hai tỉnh Ninh Bình và Thanh Hóa. Cả hai đều không liên lạc. Hai hôm sau, hai toán khác lên đường trên một chuyến C54 nhảy dù xuống vùng Hà Tĩnh, Nghệ An rồi cũng biến mất luôn. CIA hầu như chẳng quan tâm gì đến kết cục trên, chỉ lo tìm loại máy bay khác để thay thế chiếc C54 đến hạn phải trả lại cho Đài Loan.

Họ chọn loại máy bay C123 có đuôi rộng hơn, toán biệt kích và thùng tiếp tế có thể thả ra khỏi máy bay trong vòng vài giây, như vậy đỡ phân tán, thất lạc. Những chiếc C123 không phù hiệu này sẽ do phi công Đài Loan lái đến Tân Sơn Nhất ngày 15/6/1963.

Máy bay C123 tại An Khê Toán biệt kích tiếp theo gồm 8 người, mang mật danh Giant. Vào một buổi tối, chiếc máy bay C123 chở cả toán cất cánh bay ra biển, hướng về vịnh Bắc bộ, cắt ngang qua thành phố Vinh, Nghệ An, về vùng rừng núi phía tây. Đến mục tiêu, cả toán Giant nhảy ra khỏi máy bay và chiếc C123 quay đầu xuôi về hướng nam. Tại Sài Gòn, các nhân viên CIA cố dò tìm làn sóng để nhận điện báo cáo của toán Giant, nhưng chỉ hoài công. Tất cả đều im lặng.

Hai hôm sau, hai toán biệt kích khác đã sẵn sàng lên đường. Toán thứ nhất mang mật danh Packer, gồm những biệt kích quân là người dân tộc thiểu số, sẽ xâm nhập vùng Yên Bái. Hy vọng toán Packer sẽ thành công như toán Bell, toán duy nhất gửi điện báo về trong suốt mùa hè 1963. Cũng như toán Bell, Packer gồm 5 biệt kích quân, có nhiệm vụ phá hoại tuyến xe lửa Hà Nội – Lào Cai, chạy xuyên qua tỉnh Yên Bái. Trưởng toán Packer là Ngô Quốc Chung, người dân tộc Tày. Toán thứ hai gồm ba người, sẽ nhảy dù xuống tăng cường cho toán Europa. Toán này từng nhảy dù xuống địa bàn tỉnh Hòa Bình 17 tháng trước đó.

Khi đó chiếc phi cơ C54 đã hết hạn hoạt động. Thế nhưng chủ nhân của nó vẫn muốn bay chuyến chót, với dự định chở cả hai toán biệt kích cùng lúc. Đầu tiên, chiếc C54 bay đến không phận tỉnh Yên Bái. Đến bãi đáp, những biệt kích quân trong toán Packer nhảy khỏi máy bay. Chiếc C54 lượn vòng bay về hướng Hòa Bình. Viên phi công Đài Loan cố tình bay thấp để tránh mây. Nhưng đột nhiên nó biến mất trong không trung cùng toán biệt kích thứ hai. Trong lúc đó toán Packer đáp đất xong cũng mất liên lạc với Sài Gòn.

Lần lượt từng toán biệt kích ra đi để rồi ... biệt tích  Số lượng những toán biệt kích mất tích tăng lên. CIA và Phòng 45 chẳng biết làm gì hơn là vét quân chuẩn bị cho toán biệt kích cuối cùng xâm nhập miền Bắc. Toán biệt kích mang mật danh Dragon gồm toàn lính người dân tộc Nùng sẽ được đổ bộ bằng thuyền vào địa bàn tỉnh Quảng Ninh, gần biên giới Trung – Việt. Xui xẻo làm sao, CIA lên kế hoạch cho sự khởi sự đúng vào lúc thời tiết xấu. Cả 5 lần xuất phát đều phải quay trở lại. Cuối cùng, vào ngày 15/7/1963, bảy người trong toán Dragon cũng xuất phát bằng thuyền cao su, xâm nhập hải phận Bắc Việt. Chẳng hiểu sao, từ đó họ cũng biệt tăm, biệt tích.

Như vậy, cộng cả toán Dragon, CIA đã thả xuống lãnh thổ Bắc Việt 13 toán biệt kích chỉ trong vòng 7 tháng. Tính đến tháng 7/1963, chỉ có một trong số 13 toán biệt kích điện báo về Sài Gòn rằng đã đến mục tiêu. 12 toán khác coi như “mất tích”. Ngày 9/7/1963, Hà Nội đưa tin xét xử toán biệt kích Pegasus. Sau đó trong vòng ba tháng có thêm 5 phiên tòa xử những toán biệt kích khác.

Không còn gì để chối cãi rằng CIA đã thất bại hoàn toàn trong âm mưu thả các toán biệt kích xâm nhập lãnh thổ miền Bắc. Trong muôn vàn lý do thất bại, có thể vì lý do chọn bãi đáp không chính xác. Nhiều toán biệt kích phải nhảy xuống những nơi gần làng mạc và lập tức bị phát giác. Như toán Tellus xâm nhập tỉnh Ninh Bình ngày 8/6, bị phát hiện ngay khi dù đang lơ lửng trên không, cả 4 biệt kích quân trong toán Tellus đều bị bắt trong vòng 25 phút. Toán Packer xui xẻo hơn, nhảy dù ... đúng giữa một làng dân cư đông đúc, còn nhân viên truyền tin rơi đúng ngay nóc nhà dân.

Tháng 12/1963, Hà Nội sử dụng toán Europa làm mồi nhử trong lúc bố trí 4 khẩu đội pháo phòng không 14,7 mm tại khu vực đồi núi tỉnh Hòa Bình. Không chút mảy may nghi ngờ, đêm 10/8, viên phi công Đài Loan lái chiếc C123 chở đồ tiếp tế cho toán biệt kích Europa.

Từ xa, viên phi công Đài Loan đã trông thấy đèn hiệu thắp sáng theo hình chữ “T” đúng như kế hoạch. Nhưng bỗng nhiên đạn phòng không từ dưới mặt đất bắn lên trúng nhiều chỗ trên thân máy bay, viên phi công cố lái chiếc C123 lết về căn cứ trong nỗi kinh hoàng tột độ! Đến Sài Gòn rồi mà viên phi công người Đài Loan vẫn chưa hoàn hồn nên xin nghỉ luôn, chẳng màng đến đô la Mỹ và ... dông thẳng một mạch về Đài Loan. Những phi công Đài Loan khác cũng rất sợ, họ từ chối bay tiếp tế cho toán biệt kích Europa, vẫn đang đâu đó dưới kia, ở tỉnh Hòa Bình.

Ngày 20/11/1963, những yếu nhân ở chính quyền Mỹ, cũng là những người có tiếng nói quyết định trong phương thức tiến hành chiến tranh đặc biệt trên chiến trường Việt Nam, đã ngồi lại bàn định sau cái chết của anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm và chính trường Sài Gòn đã trở nên hỗn loạn. CIA thấy rằng phải xem xét lại mọi kế hoạch.

Người ngồi ghế chủ tọa là Bộ trưởng quốc phòng Robert S. Mc Namara, bên phải là đô đốc Felt, Tư lệnh quân viễn chinh Mỹ tại Thái Bình Dương (CINCPAC). Ngồi đối diện với Mc Namara là ngoại trưởng Mỹ Dean Rusk, viên phụ tá là George Ball, cố vấn an ninh quốc gia Mc. Geoge Bundy, trùm CIA John Mc Cane. Thêm hai người đến từ Sài Gòn là Đại sứ Henry Cabot Lodge và tướng Paul Harkins – Tư lệnh Quân đội Mỹ tại miền Nam Việt Nam (MACV).

Họ quyết định chuyển giao những hoạt động của cơ quan CIA cho Quân đội với một mật danh “Trở lại” (Switch Back).

Từ năm 1957, cơ quan CIA và Lầu Năm Góc (Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Mỹ) đã phối hợp làm việc. Những quân nhân “Mũ nồi xanh” hay lực lượng đặc biệt Mỹ đều làm cố vấn cho Liên đoàn Quan sát số 1. Từ năm 1961, lực lượng đặc biệt Mỹ tăng cường cộng tác với cơ quan CIA. Cũng trong năm 1961, CIA thành lập Trung tâm huấn luyện ở Thủ Đức và Hòa Cầm, Đà Nẵng.

Trung tâm Thủ Đức có lưu lượng huấn luyện mỗi khóa khoảng bốn đại đội biệt kích dù, phục vụ cho những kế hoạch xâm nhập lãnh thổ Lào. Trung tâm Hòa Cầm chuyên huấn luyện biệt kích do thám khu vực biên giới, hệ thống các đường hành lang vận chuyển tiếp tế của Bắc Việt. Cơ quan CIA cấp kinh phí cho quân Mũ Nồi Xanh tổ chức những khóa huấn luyện cho cả hai trung tâm Thủ Đức và Hòa Cầm

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro