Cuộc chiến bí mật (part 3) haley

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT MỸ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG VIỆTNAM

1.  Lời giới thiệu

Từ năm 1957, đã có quân của Lực lượng đặc biệt (biệt kích) Mỹ hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Vào thời điểm đó, họ mới chỉ đảm nhiệm việc huấn luyện trên cương vị cố vấn, mang tính chất nâng đỡ cho Quân đội Sài Gòn.

Thông thường những biệt kích quân Mũ Nồi Xanh của Mỹ phải tình nguyện tới hai lần. Lần đầu học nhảy dù và sau đó học về chiến, kỹ thuật của Lực lượng đặc biệt (từ đây gọi là biệt kích).Ngày 24/6/1957, Liên đoàn biệt kích 1 được thành lập tại Okinawa và lập tức cử một bộ phận sang Nam Việt Nam huấn luyện cho 58 biệt kích quân của Quân đội Sài Gòn tại Trung tâm huấn luyện Biệt động đội ở Nha Trang. Những sĩ quan Sài Gòn tham dự khóa huấn luyện này về sau đều trở thành huấn luyện viên hoặc chỉ huy nòng cốt cho các đơn vị biệt kích đầu tiên của Quân đội Sài Gòn. Mười năm sau (1967), lực lượng biệt kích Mỹ với vai trò cố vấn đã yểm trợ cho trên 40.000 dân sự chiến đấu, hoạt động trên khắp lãnh thổ miền Nam Việt Nam.

2. Bước phát triển

Trong những năm từ 1959-1960, với sự gia tăng cả về quân số cũng như hoạt động hiệu quả của Việt cộng trên chiến trường miền Nam, làm tăng thêm sự bất ổn đối với chính quyền Sài Gòn, đặc biệt là ở vùng nông thôn. Để cải thiện tình hình, Quân đội Mỹ buộc phải gửi thêm 30 huấn luyện viên biệt kích Mũ Nồi Xanh từ căn cứ Fort Bragg sang Nam Việt Nam để xây dựng một chương trình huấn luyện cho Quân đội Sài Gòn.

Ngày 21/9/1961, Tổng thống thứ 35 của nước Mỹ là John F. Kenedy tuyên bố sẽ tăng thêm ngân sách viện trợ quân sự, kinh tế cho chính quyền Sài Gòn. Vì Chính phủ Mỹ lo ngại về sự gia tăng chi viện người và vũ khí của Cộng sản vào miền Nam, do đó phải tìm cách ngăn chặn sự xâm nhập này. Các toán biệt kích Mũ Nồi Xanh được giao trách nhiệm tổ chức và huấn luyện những đơn vị chiến đấu là người dân tộc thiểu số để phá hoại, ngăn chặn đường xâm nhập của qâun đội Bắc Việt từ Bắc vào Nam. Về sau những đơn vị chiến đấu này được gọi là “Lực lượng Dân sự chiến đấu” (CIDG - Civilian Irregular Defense Group).Bước vào những năm 60 của thế kỷ XX, dường như cộng sản miền Nam có sự trỗi dậy mạnh mẽ. Chính phủ Mỹ quy hết nguyên nhân đều do sự gia tăng chi viện của Bắc Việt. Do đó càng quyết tâm ngăn chặn và phá hoại bằng được con đường tiếp tế chiến lược - đường mòn Hồ Chí Minh.

 Trước hết, Chính phủ Mỹ gửi Liên đoàn biệt kích số 5 sang Nam Việt Nam, chuyên trách đảm nhiệm các hoạt động, các cuộc hành quân đặc biệt trên chiến trường miền Nam. Để thích ứng với vai trò mới này, Bộ Tham mưu liên quân Mỹ quyết định tổ chức lực lượng biệt kích Mũ Nồi Xanh sao cho thích ứng với các cuộc hành quân ngoại lệ, mà giới khoa học quân sự Mỹ đưa ra khái niệm mới là “ba khía cạnh liên hệ mật thiết trong du kích chiến tranh gồm trốn tránh, đào tẩu và gậy ông lại đập lưng ông, chống lại đối phương”. Còn chiến tranh ngoại lệ được định nghĩa là:“Hoạt động ngay trong lòng đối phương hoặc những nơi đối phương kiểm soát”.Theo đó, cơ cấu tổ chức cơ bản của Liên đoàn biệt kích số 5 gồm: Bộ chỉ huy trung tâm, Ban chỉ huy các đại đội gồm 3 đại đội hoặc nhiều hơn, một đại đội truyền tin và một phi đoàn không quân yểm trợ. Từ Bộ chỉ huy trung tâm cho đến Ban chỉ huy các đại đội đều có đủ các Ban tham mưu để chỉ huy và theo dõi tình hình hai bên. Ngoài ra còn có các đơn vị bảo đảm như quân y, tiếp tế thả dù. Mỗi đại đội biệt kích thường do một sỹ quan cấp bậc trung tá chỉ huy. Thông thường gồm có một Ban Tham mưu và một Bộ chỉ huy hành quân (C), Bộ chỉ huy này sẽ chỉ huy ba ban chỉ huy hành quân (B), mỗi ban chỉ huy hành quân sẽ chỉ huy bốn toán biệt kích (A). Toán biệt kích hay phân đội được biên chế 12 biệt kích quân.

3. Lực lượng dân sự chiến đấu

Có hai lý do thúc đẩy việc tổ chức lực lượng “Dân sự chiến đấu”. Một là Chính phủ Mỹ cho rằng nên vũ trang nhóm người dân tộc thiểu số để chống lại sự xâm nhập của cộng sản. Lý do thứ 2 là người Thượng và các dân tộc thiểu số nói chung là đối tượng chính cho việc tuyên truyền của cộng sản, họ bất bình với chính quyền Sài Gòn, lại dễ bị cộng sản lợi dụng, lôi kéo, tuyển mộ.

Với quan điểm trên, tháng 9/1962, Bộ chỉ huy lực lượng đặc biệt (biệt kích Mỹ tại Việt Nam) được thành lập, trực thuộc bộ Tư lệnh phái bộ viện trợ quân sự Mỹ cho chính quyền Sài Gòn (MACV). Tính đến tháng 10/1962 có tất cả 24 toán biệt kích Mỹ hoạt động trên lãnh thổ miền Nam Việt Nam. Tháng 11/1963, lực lượng biệt kích Mỹ tại Việt Nam được tổ chức gồm Bộ chỉ huy (C), ba Ban chỉ huy (C) và 26 toán (A). Ngoài ra còn có Bộ chỉ huy Trung tâm đặt tại Sài Gòn. Bộ chỉ huy không đơn thuần chỉ huy, điều hành mà làm chức năng như là Bộ tư lệnh binh chủng của lực lượng đặc biệt ở chiến trường Việt Nam.

Từ tháng 12/1962 đến 2/1963, Bộ chỉ huy lực lượng biệt kích Mỹ đảm đương hoàn toàn việc chỉ huy mọi hoạt động của các toán biệt kích tại Việt Nam. Vào thời điểm đó các toán biệt kích Mỹ đã thiết lập những trại Dân sự chiến đấu trên khắp bốn vùng chiến thuật của Quân đội Sài Gòn. Những Ban chỉ huy khu vực (B) được thành lập tại mỗi vùng chiến thuật để phối hợp với hệ thống chỉ huy của Quân đội Sài Gòn và trực tiếp chỉ huy các toán biệt kích. Các toán biệt kích được lâm thời tổ chức trên cơ sở tạm thời điều động quân của Liên đoàn 1 từ Okinawa và 2 Liên đoàn 5, 7 biệt kích từ Fort Bragg, Bắc Carolina. 

Đến tháng 12/1963, các toán biệt kích Mỹ phối hợp với lực lượng biệt kích của quân đội Sài Gòn đã được huấn luyện và trang bị, gồm 18.000 quân thuộc lực lượng xung kích; 43.000 quân thuộc lực lượng “Phòng vệ dân sự”. Tháng 2/1963, Bộ chỉ huy lực lượng đặc biệt Mỹ từ Sài Gòn rời đi Nha Trang, với 2 lý do: thứ nhất, Nha Trang nằm ở khoảng giữa từ vĩ tuyến 17 đến Nam bộ, rất thuận tiện cho việc điều hành các toán biệt kích nằm rải rác khắp miền Nam Việt Nam. Thứ 2, Nha Trang nằm bên bờ biển, thuận lợi cho việc tiếp nhận vũ khí, trang thiết bị viện trợ đến từ Okinawa, lại có sân bay và hệ thống đường bộ rất tiện cho việc vận chuyển, tiếp tế hậu cần.

Cuối năm 1964, lực lượng Dân sự chiến đấu không còn là vấn đề phát triển số lượng nữa. Vì mục đích và nhiệm vụ của nó cũng thay đổi. Ngoài chức năng phòng vệ tại chỗ là giữ địa bàn nông thôn, miền núi thì các trại Dân sự chiến đấu đều được sử dụng làm bàn đạp cho các cuộc hành quân tấn công vào căn cứ của Việt Cộng. Với sự điều chỉnh chức năng trên, sẽ làm tăng phần hiệu quả cho việc kiểm soát khu vực biên giới, thông qua việc lực lượng biệt kích Mỹ triển khai thêm một số đồn, trạm biên phòng.Cuộc hành quân Switchback từ 11/1962 đến 7/1963 gồm các hoạt động tấn công của lực lượng xung kích Dân sự chiến đấu như phục kích, tuần tiễu, thám sát tại địa bàn phụ trách của mỗi trại. Ngoài ra còn có những cuộc hành quân phối hợp với các đơn vị của Quân đội Sài Gòn, bao gồm lực lượng Dân sự chiến đấu của các trại. Chỉ tính riêng tháng 6/1963 đã có 4 đại đội xung kích Dân sự chiến đấu được tuyển từ các trại Dakto, Plei M’rong và Plei K’rong phối hợp hành quân lùng sục quân đội Cộng sản.Lực lượng vũ trang Cộng sản phản ứng lại bằng pháo kích, quấy rối các đồn trại biên phòng. Trong lúc các lực lượng biệt kích Mỹ mở cuộc hành quân Switchback thì các hoạt động của cộng sản ngày càng gia tăng, hầu hết các trại biệt kích đều bị tập kích hoặc uy hiếp, quấy rối.

 Ngày 3/1/1963, lực lượng Đặc công cùng 2 đại đội Quân Giải phóng tấn công và tràn ngập trại Plei M’rong. Sau vụ tấn công của cộng sản Bắc Việt, vấn đề phòng thủ của các đồn trại biên phòng được xem xét lại. Bộ Tư lệnh Phái bộ viện trợ quân sự Mỹ cho chính quyền Sài Gòn đã ra lệnh cho các toán biệt kích thiết lập thêm tuyến phòng thủ thứ hai cho tất cả các đồn trạm của lực lượng biệt kích Mỹ, đồng thời tăng cường thêm 2 tiểu đoàn công binh hải quân Seebee để hỗ trợ trong việc xây cất các công trình quân sự.Việc sử dụng Lực lượng dân dự chiến đấu trong các hoạt động tuần tiễu, lục soát những địa bàn ngoài phạm vi trách nhiệm của đồn trại thường cần có những căn cứ tiền phương và lực lượng ứng cứu.

Sau đó lực lượng xung kích với 20.000 quân được thành lập vào tháng 11/1963, đến tháng 7/1964 được biên chế, tổ chức hoàn chỉnh. Mỗi đại đội dân dự chiến đấu có quân số 150 người, bao gồm Bộ chỉ huy 10 người, ba trung đội thực binh 35 người, trung đội hỏa lực 35 người. Mỗi trại được biên chế đủ 4 đại đội. Hai đại đội hoạt động bên ngoài trại tại các căn cứ tiền phương, thường tung các trung đội cùng các toán trinh sát 5 người ra hoạt động trên địa bàn được phân công.

Đến tháng 1/19695, trước khi chính phủ Mỹ đem quân vào trực tiếp tham chiến trên chiến trường miền Nam Việt Nam, Bộ Tư lệnh binh chủng biệt kích Mỹ đã hoạch định “Kế hoạch chống xâm nhập”, gửi đến Bộ chỉ huy Liên đoàn biệt kích số 5 và các Ban chỉ huy vùng cùng các toán biệt kích, trong đó xác định rõ: “Kế hoạch chống xâm nhập của lực lượng biệt kích là một chương trình hỗn hợp, phối hợp giữa quân sự với dân sự nhằm thực hiện 3 mục tiêu cơ bản sau: một là loại trừ Việt cộng, thiết lập an ninh trên địa bàn được giao. Hai là bảo đảm sự kiểm soát của chính quyền Sài Gòn đối với dân chúng trong vùng. Ba là huy động được dân chúng tham gia vào các chương trình của chính quyền Sài Gòn”.

Những mục tiêu trên chỉ có thể đạt được khi thực thi một trong ba nhiệm vụ sau: Một, kiểm soát và quản lý chặt khu vực biên giới. Hai, hoạt động ngăn chặn hiệu quả tại các tuyến đường Bắc Việt thường xâm nhập. Ba, tổ chức tốt các cuộc hành quân đánh phá các chiến khu, căn cứ của Việt cộng.

Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 1965, Bắc Việt cũng thay đổi chiến thuật từ “Chiến tranh du kích” sang “Chiến tranh nhân dân”. Trước thực tế trên, mọi hoạt động của lực lượng biệt kích Mỹ được phân làm 3 loại. Một, thiết lập thêm trại dân sự chiến đấu nhằm ngăn chặn mức độ chuyển quân, tiếp tế của Bắc Việt; đồng thời bỏ một số trại do áp lực quá nặng của cộng sản. Mặt khác tổ chức phòng thủ tốt các trại dọc theo biên giới như A Sầu, Làng Vây, Cồn Thiên, Lộc Ninh, Bù Đốp...Hai là thành lập các sở chỉ huy hành quân ngoại biên như: Sở chỉ huy hành quân Delta ở Vùng I chiến thuật; Sở chỉ huy hành quân Black Jack 33 ở vùng III chiến thuật. Cả 2 sở chỉ huy hành quan đều nằm trong “Kế hoạch hành quân Sigma”. Đây là cuộc hành quân đầu tiên phối hợp giữa đơn vị xung kích cơ động và đơn vị xung kích tiếp ứng. Trong cuộc hành quân Black Jack 41, có 2 đại đội xung kích cơ động nhảy dù xuống tấn công căn cứ của Việt cộng tại vùng núi Thất Sơn, thuộc vùng IV chiến thuật. Cuộc hành quân Attleboro do một đơn vị xung kích đánh phá căn cứ Suối Đá, Tây Ninh của Việt cộng ở vùng III chiến thuật, loại khỏi vòng chiến đấu 1 tiểu đoàn chủ lực quân Giải Phóng.

Cuối cùng là những cuộc hành quân phối hợp giữa các đơn vị dân sự chiến đấu với các đơn vị của Liên quân Mỹ như cuộc hành quân Nathan Hale, phối hợp giữa lực lượng dân sự chiến đấu với Sư đoàn 1 kỵ binh bay và Sư đoàn dù 101 của Mỹ. Cuộc hành quân Henry Clay và Thayer, hay cuộc hành quân Rio Blanco ở vùng I chiến thuật, bao gồm các đơn vị dân sự chiến đấu, địa phương quân, biệt động quân của quân đội Sài Gòn với thủy quân lục chiến Hàn Quốc và thủy quân lục chiến Mỹ. Cuộc hành quân Sam Houston ở vùng II, có sự phối hợp giữa Sư đoàn bộ binh 4 của Mỹ với lực lượng dân sự chiến đấu.4. Hành quân ngoại biên

Đồng thời với việc thành lập các đơn vị xung kích cơ động và các sở chỉ huy hành quân Sigma, Omega (được thành lập từ 8-10/1966), trình độ tác chiến trong chiến tranh ngoại biên của biệt kích Mỹ theo giới quân sự đánh giá được nâng lên. Một trong những khả năng của lực lượng biệt kích là mở các cuộc hành quân càn quét ngắn hoặc dài ngày ở những vùng do Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam kiểm soát.

Lực lượng xung kích cơ động được thành lập vào mùa khô 1966-1967, trên cơ sở các đơn vị xung kích cơ động, được tổ chức, huấn luyện và trang bị để chuyên hoạt động ở những vùng xa xôi hẻo lánh, vùng căn cứ được xem là“đất thánh” của Mặt trận Dân tộc Giải phóng và quân Bắc Việt. Với chức năng trên, lực lượng xung kích cơ động thực chất là lực lượng “thám báo”, được trang bị gọn nhẹ, làm nhiệm vụ thâm nhập vào các vùng căn cứ, vùng giải phóng để tiến hành do thám các tuyến đường hành lang vận chuyển, tìm kiếm dấu vết căn cứ, thu thập tin tức tình báo về những cuộc chuyển quân của đối phương. Khi phát hiện được vị trí đóng quân của đối phương, các toán thám báo sẽ theo dõi mọi hoạt động của đối phương để tổ chức các trận phục kích nhỏ lẻ, hoặc quấy rối, gài mìn, mật phục... Trường hợp phát hiện được kho hậu cần, sẽ tìm mọi cách phá hủy hoặc chỉ điểm cho máy bay oanh tạc.Mỗi đơn vị thám báo thường được cơ động đến địa bàn hoạt động bằng tất cả các loại phương tiện có sẵn. Khi đã đến địa bàn hoạt động, các đơn vị thám báo thực hiện vai trò của các toán biệt kích quân. Đồ tiếp tế được chuyển đến bằng máy bay. Những đơn vị biệt kích, thám báo này thường hoạt động trong lòng đối phương từ 30-60 ngày. Họ trở thành những “chủ nhân ông” trên địa bàn hoạt động; được toàn quyền hành động, kể cả yêu cầu yểm trợ bằng không quân để đạt được mục tiêu đánh phá. Nhằm tránh để lộ hành tung, đôi khi phải giấu đồ tiếp tế vào những quả bom Napalm giả, do máy bay khu trục A1E Skyraider thả xuống trong những phi vụ oanh tạc giả.

Ngoài việc phát triển đơn vị thám báo cho các vùng chiến thuật, Liên đoàn biệt kích số 5 của Mỹ còn tổ chức thêm những sở chỉ huy hành quân ngoại biên như Sở chỉ huy hành quân Omega và Sigma. Hai sở chỉ huy hành quân trên có vẻ như làm tăng thêm khả năng trinh sát, thu lượm tin tức tình báo cho liên đoàn, ngoài Sở chỉ huy hành quân Delta đã có sẵn. Mỗi Sở chỉ huy có quân số khoảng 600 quân, gồm 1 đơn vị trinh sát, 1 đơn vị xung kích ứng cứu và một đoàn cố vấn, được tổ chức tương đương với Ban chỉ huy vùng của lực lượng biệt kích.Sở chỉ huy hành quân Delta được đặt dưới quyền chỉ huy của Liên quân biệt kích Việt – Mỹ; nhận lệnh trực tiếp của Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn và Bộ Tư lệnh phái bộ viện trợ quân sự Mỹ (MACV). Các toán thám báo thuộc Sở chỉ huy hành quân Delta được Tiểu đoàn 9, Biệt kích dù sẵn sàng làm lực lượng tiếp ứng, yểm trợ. Những toán thuộc Sở chỉ huy hành quân Omega và Sigma được lực lượng biệt kích dù trực tiếp chỉ huy và chỉ chịu trách nhiệm hoạt động ngoài vùng I và vùng II chiến thuật. Những toán thám báo được các đơn vị biệt kích cơ động thuộc lực lượng dân sự chiến đấu yểm trợ.5. Huấn luyện về không trợ

Chương trình huấn luyện cho các sở chỉ huy hành quân thám báo, trước hết là phần huấn luyện về bộ binh, kỹ thuật tác chiến tại địa hình khu vực Đông Nam Á. Những quân nhân được tuyển chọn về sở chỉ huy hành quân thám báo, thường đã trải qua thời gian phục vụ trong lực lượng dân sự chiến đấu. Phần huấn luyện kỹ thuật hành quân thám báo bắt đầu từ giai đoạn huấn luyện bộ binh. Trước tiên phải trải qua huấn luyện nhảy dù. Sau đó là các môn học đặc biệt về hành quân như: di chuyển lặng lẽ, bí mật; phương pháp tìm dấu vết; theo dõi; cách sử dụng bản đồ, la bàn, dụng cụ làm dấu; những kỹ thuật xâm nhập, rút lui khỏi khu vực do thám, địa bàn hoạt động; sử dụng các loại vũ khí đặc biệt; cứu thương; kỹ thuật tập kích, phục kích.Chương trình huấn luyện kéo dài khoảng 5 hoặc 6 tuần, với 6 ngày 1 tuần và khoảng 10h mỗi ngày. Các buổi huấn luyện được tiến hành trong căn cứ và thực tập ngoài thực địa.

Hoạt động của lực lượng thám báo rất cần sự yểm trợ của không quân. Phi đoàn không quân yểm trợ của Liên quân Mỹ biệt phái cho Liên đoàn biệt kích số 5 đã yểm trợ trực tiếp bằng những phi đội trực thăng vũ trang và trực thăng vận tải. Ngoài ra, không quân Mỹ còn cung cấp phương tiện vận chuyển, cơ động quân và tiếp tế. Không quân Mỹ và Quân đội Sài Gòn còn yểm trợ thêm bằng các cuộc oanh tạc hoặc chuyển tiếp công điện qua hệ thống truyền tin. Tại vùng I chiến thuật, máy bay của Thủy quân lục chiến Mỹ cũng cung cấp những phương tiện yểm trợ tương tự như trên.

6. Soạn thảo kế hoạch hành quân

Chiến tranh ngoại biên giữ một vai trò rất quan trọng của lực lượng biệt kích Mỹ trên chiến trường miền Nam Việt Nam. Ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt, mỗi cuộc hành quân đều được soạn thảo, điều nghiên rất kỹ lưỡng trước khi thực hiện và lực lượng tham chiến được cơ động đến căn cứ tiền phương trước khi mở các cuộc hành quân. Thời gian dành cho soạn thảo kế hoạch, chuyển quân tùy theo tính chất mỗi cuộc hành quân và mức độ khẩn thiết của cuộc hành quân.Lệnh hành quân được soạn thảo với đầy đủ chi tiết tin tức tình báo về khu vực hành quân. Mọi dữ kiện về địa thế, thời tiết và những nơi tình nghi có đối phương đều được thu thập và phân tích tỉ mỉ. Tất cả những chi tiết, động thái đó đều được ghi trên bản đồ; cùng những lộ trình chính và phụ cho nhiệm vụ trinh sát đều được lựa chọn và đánh dấu. Nguồn tin tức thường được lấy từ các bản báo cáo về tình báo, không ảnh, thẩm vấn tù binh và những bản báo cáo của các đơn vị bạn từng hành quân qua trước đó. Nếu cần, Ban tham mưu soạn thảo lệnh hành quân hay những phi vụ thám thính trước khu vực sẽ hoạt động. Những chuyến không thám này rất quan trọng cho quyết định cuối cùng chọn địa điểm xâm nhập, lui quân chính và phụ.

Khi việc soạn thảo, điều nghiên đã hoàn tất, lệnh hành quân sẽ được ban ra. Kế tiếp là việc chuẩn bị hành quân. Trường hợp cần thiết phải chuyển quân, vật liệu đến một căn cứ tiền phương, đã có máy bay yểm trợ. Nếu chỉ là một toán nhỏ, ít trang bị hậu cần thì máy bay trực thăng của Lục quân và Thủy quân lục chiến Mỹ hay phi cơ nhỏ được sử dụng. Nếu cuộc hành quân với quân số cấp đại đội trở lên, sẽ được Không quân Mỹ cung cấp loại máy bay C7A hoặc C130.

Khi đến căn cứ hành quân tiền phương, người ta sẽ tiến hành kiểm tra khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị. Những sĩ quan thuộc quyền Sở chỉ huy hành quân sẽ được nghe thuyết trình về mục tiêu, nhiệm vụ của cuộc hành quân, cùng với mệnh lệnh chi tiết cho từng trung đội, tiểu đội hoặc phân đội (toán).

Trong số những nhiệm vụ trinh sát, các phương pháp, thủ đoạn cho từng hoạt động sẽ được trình bày chi tiết tùy theo mỗi cuộc hành quân. Khi xâm nhập vùng đối phương kiểm soát, hay lúc ra khỏi máy bay; hoặc di chuyển trong khu vực hành quân; trường hợp chạm trán đối phương, cũng như giờ giấc cho việc lui quân.

Sự thành công trong chiến tranh ngoại lệ tùy thuộc rất nhiều vào yếu tố bất ngờ. Thêm vào phần an ninh của toán biệt kích, nhiều lúc cần phải tìm cách đánh lừa đối phương. Việc đánh lừa đối phương cũng là một phần quan trọng trong kế hoạch hành quân. Tùy theo tình hình thời tiết, địa hình và quân số trong cuộc hành quân mà thực hiện các chuyến xâm nhập bằng đường bộ, đường không hoặc đường thủy. Tuy nhiên, trên chiến trường Việt Nam, hầu hết các cuộc xâm nhập, rút lui đều thực hiện bằng phương tiện trực thăng.Qua các cuộc hành quân, kinh nghiệm cho thấy, thời gian tốt nhất để các toán xâm nhập là vào lúc trời sắp tối, đủ thời gian cho các toán thám báo lẫn vào bóng tối và trực thăng được bảo vệ bởi bầu trời đêm. Tuy nhiên, đối phương vẫn khám phá ra các cách thức thả những toán thám báo và tìm cách đối phó. Do đó rất cần phải tìm cách đánh lừa đối phương về địa điểm thả quân. Cụ thể trực thăng sẽ đáp xuống ba hoặc 4 chỗ, hoặc nhiều hơn nữa, trước khi trực thăng thả các toán thám báo. Điều đó sẽ làm cho đối phương phân vân không biết chính xác đâu là điểm thả quân. Một thủ đoạn khác là đoàn trực thăng 3 chiếc bay thấp nối đuôi nhau. Chiếc bay đầu bất ngờ đáp xuống thả toán biệt kích trong chớp nhoáng, rồi bốc lên thật nhanh nối đuôi 2 chiếc kia, kết thành hình phi đội 3 chiếc như ban đầu.Trong trường hợp cơ động các toán thám báo bằng đường bộ, hay các toán “Chạy đường mòn” (Roadrunner), nhằm trinh sát, xâm nhập vùng đối phương kiểm soát một cách dễ dàng, tốt nhất chọn lúc trời tối hoặc giữa ban ngày. Đối với trường hợp địa bàn, vẫn thường tung các toán thám báo ra tuần tiễu, lục soát mà không theo một quy luật nhất định. Trong trường hợp khác, toán thám báo đi lẫn vào trong đội hình một đơn vị lớn. Khi thấy an toàn, toán sẽ lặng lẽ di chuyển đến địa bàn đã được phân công.

Tất cả mọi sự di chuyển trong chiến tranh ngoại lệ đều được soạn thảo cẩn thận. Sự sống còn của một toán thám báo nhỏ tùy thuộc vào mỗi cá nhân trong toán, sự hiểu biết về nhiệm vụ của từng người, đề cao cảnh giác, theo đúng thời gian biểu lúc di chuyển. Trong kế hoạch hành quân, đôi khi phải  lưu ý thêm trường hợp các toán thám báo phải phân tán tạm thời trước áp lực của đối phương, phải tuân thủ thời gian, vị trí và điểm hẹn tập hợp.

Bí mật là đòi hỏi cơ bản trong vấn đề di chuyển của các đơn vị thám báo trong các cuộc hành quân ngoại biên. Mặc dù đối phương có đề phòng về sự xâm nhập của lực lượng biệt kích, thám báo nhưng đối phương không thể biết rõ vị trí xâm nhập một cách chính xác của các toán. Do đó đòi hỏi mỗi động thái khi di chuyển phải giữ được im lặng, thủ ngữ và thủ hiệu được sử dụng để truyền tin và ra lệnh thay cho lời nói; kết hợp với việc ít sử dụng máy truyền tin và để độ âm thanh tối thiểu; vũ khí, trang bị gọn gàng không để phát ra tiếng động khi chạm vào cây lá hoặc đá, và tuyệt đối phải giữ im lặng khi di chuyển.

Vấn đề tái tiếp tế cũng được đặt ra nghiêm ngặt. Có một thực tế là các quân nhân biệt kích, thám báo trong chiến tranh ngoại biên không thể mang theo lương thực, đạn dược và trang bị quá 5 ngày. Tùy theo mỗi cuộc hành quân, kế hoạch hành quân đều đề cập đến vấn đề tái tiếp tế trong vòng từ 3-5 ngày tại một địa điểm định trước. Yêu cầu đặt ra là sự an toàn, không để lộ vị trí của các toán biệt kích, thám báo. Nếu thả dù tiếp tế giữa ban ngày sẽ khiến cho đối phương báo động, đề phòng. Còn thả ban đêm, ở vùng rừng núi thì cơ hội thu hồi kiện hàng rất ít.

Rút lui theo đúng kỳ hạn hoặc trong trường hợp khẩn cấp phải đem về một người bị tai nạn bất tử hay cả toán cũng phải tính trước. Lực lượng thám báo có vẻ thành công trong vấn đề rút lui vào thời điểm bắt đầu thành lập lực lượng cho đến giữa năm 1967. Phần lớn các toán biệt kích, thám báo đều thực thi phi vụ đúng theo kế hoạch, hết thời gian là ra điểm hẹn để trực thăng bốc đem về. Những toán “xâm nhập đường mòn”, trinh sát rất dễ bị đối phương phát hiện và tiêu diệt. Do đó các nhân viên trong Sở chỉ huy hành quân có nhiệm vụ theo dõi hoạt động của các toán biệt kích, thám báo; phải chuẩn bị sẵn sàng tư thế lập tức rút quân ra khỏi vùng đối phương kiểm soát ngay khi nhận được báo các khẩn cấp.7. Bộ chỉ huy lực lượng đặc biệt

+ Sở chỉ huy hành quân Omega:

Trên cơ sở kết quả hoạt động thực tiễn và yêu cầu của chiến trường, Bộ tư lệnh lực lượng đặc biệt đã thành lập các sở chỉ huy hành quân. Trước tiên là Sở chỉ huy hành quân Omega (viết tắt là B50) của lực lượng biệt kích Mỹ, được thành lập vào tháng 7/1966, đặt trụ sở tại Nha Trang. Sở chỉ huy hành quân Omega trực tiếp đảm nhận những cuộc hành quân thăm dò, thu thập tin tức tình báo tác chiến. Tuy nhiên, Sở chỉ huy hành quân Omega không giống như sở chỉ huy hành quân Delta (thành lập ngày 1/9/1967), trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu và Bộ Tư lệnh quân đội Mỹ tại Việt Nam (thành lập ngày 8/2/1962, với tên gọi ban đầu là Phái bộ viện trợ quân sự Mỹ cho Việt Nam, viết tắt là MACV. Đến tháng 6/1964, đổi tên thành Cơ quan tùy viên quân sự Mỹ tại Việt Nam, viết tắt DAO).

B50 tuyển mộ thanh niên là dân tộc người thiểu số như Jah, Rhade, Sedang, Chăm, Khmer, Hoa. Lúc đầu biên chế thành 8 toán do thám và 4 toán “xâm nhập đường mòn”, sau đó tăng lên 16 toán viễn thám và 8 toán “xâm nhập đường mòn”. Đến năm 1968, những toán “xâm nhập đường mòn” chuyển về trực thuộc Sở chỉ huy B57, lực lượng chuyên về các hoạt động tuần tiễu, thu thập tin tức.

Sở chỉ huy hành quân Omega có 3 đại đội xung kích, làm thành phần tiếp ứng, dự bị. B50 kết thúc vai trò tại Nam Việt Nam vào tháng 6/1972.

+ Sở chỉ huy Trung tâm huấn luyện Động Ba Thìn (gọi tắt là B51):

Động Ba Thìn là căn cứ huấn luyện của Quân đội Sài Gòn. Năm 1964, Sở chỉ huy Trung tâm huấn luyện cho Quân đội Mỹ tại Việt Nam bắt đầu đảm nhiệm vai trò cố vấn cho căn cứ huấn luyện Động Ba Thìn. Theo đó, nhiều chương trình huấn luyện dần được cải tiến, với các khóa huấn luyện cơ bản, nhảy dù cho lực lượng biệt kích Sài Gòn; huấn luyện cho lực lượng dân sự chiến đấu, huấn luyện võ Teakwondo Hàn Quốc, huấn luyện truyền tin cùng nhiều khóa huấn luyện khác.Năm 1968, B51 chuyển các khóa huấn luyện đến căn cứ An Khê, nhưng đến 10/1969 thì chuyển trở lại Động Ba Thìn, và căn cứ được đổi tên là Trung tâm huấn luyện Quốc gia. Sau đó B51 được Bộ Tư lệnh Quân đội Mỹ tại Việt Nam giao cho nhiệm vụ huấn luyện cho Quân đội Hoàng gia Campuchia. Sở chỉ huy B51 rời Việt Nam vào tháng 3/1971.

+ Sở chỉ huy hành quân Delta (B52):

Tháng 5/1964, cơ quan tình báo Trung ương Mỹ (CIA) triển khai chương trình Leaping Lena, sử dụng lực lượng biệt kích Mỹ huấn luyện cho biệt kích Sài Gòn và lực lượng dân sự chiến đấu về những kỹ năng trinh sát, thu thập tin tức. Khi chương trình phát triển, nhu cầu về nhân lực của lực lượng biệt kích Mỹ không ngừng tăng lên. Đến tháng 6/1965, Liên đoàn biệt kích số 5 của Mỹ được giao phó thêm trách nhiệm và Sở chỉ huy hành quân Delta (B52) được thành lập để chỉ huy và theo dõi các hoạt động do thám. Sở chỉ huy hành quân Delta tổ chức mỗi toán thường có 2 biệt kích quân Mỹ, trừ các toán “xâm nhập đường mòn”, có từ 4-6 biệt kích quân Sài Gòn và thường ăn mặc, trang bị giống quân Giải phóng để dễ trà trộn, hoạt động trong vùng giải phóng, hay các căn cứ địa.Sở chỉ huy B52 vẫn thường thay đổi cách thức làm việc, tổ chức lực lượng tùy theo nhu cầu chiến trường đòi hỏi. Khi mới thành lập, chỉ có 12 toán trinh sát biệt kích Việt - Mỹ và 12 toán thám báo “xâm nhập đường mòn”, 1 đại đội phòng thủ người Nùng và Tiểu đoàn 81 biệt kích dù, gồm 5 đại đội là lực lượng xung kích ứng cứu.Sở chỉ huy hành quân Delta có chức năng: xác định vị trí đóng quân của các đơn vị đối phương; thu thập tin tức tình báo chiến lược; giám sát kết quả các trận oanh kích của không quân Mỹ nhằm triệt phá các căn cứ, vùng giải phóng của đối phương; tổ chức các cuộc tập kích, phá hoại các cơ sở hậu cần của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Sở chỉ huy hành quân Delta rất nổi tiếng trong các phi vụ phá hoại.Từ 1966, Sở chỉ huy hành quân Delta trực tiếp đặt dưới quyền của Bộ Tư lệnh quân đội Mỹ tại Nam Việt Nam (MACV), chịu trách nhiệm về mọi hoạt động quân sự Mỹ trên khắp miền Nam Việt Nam. Cùng thời điểm năm 1966, hai sở chỉ huy hành quân Sigma và Omega được thành lập với nhiệm vụ tương tự Sở chỉ huy hành quân Delta, hoạt động trên lãnh thổ vùng I và vùng II. Ngoài ra, Sở chỉ huy hành quân Delta còn được Bộ Tư lệnh Quân đội Mỹ tại miền Nam Việt Nam giao nhiệm vụ huấn luyện cho biệt kích Mỹ về kỹ thuật trinh sát.

52 đóng căn cứ tại Nha Trang cho đến tháng 6/1970, khi chương trình Delta chấm dứt.

+ Sở chỉ huy Đoàn cố vấn hành quân đặc biệt (B53):

Sở chỉ huy Đoàn cố vấn hành quân đặc biệt (B53) được chính thức thành lập tại Việt Nam vào tháng 2/1964. Lúc đầu đặt sở chỉ huy đoàn tại căn cứ huấn luyện lực lượng đặc biệt ở Trung tâm huấn luyện Long Thành, Biên Hòa, đặt dưới sự điều hành của Cơ quan nghiên cứu, quan sát thuộc Bộ Tư lệnh Quân đội Mỹ tại miền Nam Việt Nam (MACV-SOG).

Khi Liên đoàn biệt kích số 5 của Mỹ rời khỏi Việt Nam vào năm 1971, vấn đề huấn luyện cho quân đội Sài Gòn về chiến tranh ngoại lệ vẫn rất cần thiết thì Sở chỉ huy đoàn cố vấn hành quân đặc biệt trở thành hạt nhân cho chương trình huấn luyện. Tháng 1/1971, Sở chỉ huy hành quân đặc biệt đổi tên là “Đoàn cố vấn sứ mạng đặc biệt”(SMAG). Sau khi thành lập đoàn, căn cứ được đặt tại Trường huấn luyện trinh sát (MACV RECONDO). Đến tháng 3/1971, đoàn lấy căn cứ Bộ chỉ huy Liên đoàn biệt kích số 5 làm căn cứ Sở chỉ huy.

Đoàn cố vấn sứ mạng đặc biệt (SMAG) có nhiệm vụ huấn luyến, cố vấn và cung cấp cho Liên đoàn biệt kích số 5 những dịch vụ chuyên môn đặc biệt (Special Mission Service – SMS). Đơn vị được Đoàn cố vấn sứ mạng đặc biệt huấn luyện sau này trở thành tiền thân của lực lượng biệt kích Sài Gòn trong chiến tranh ngoại lệ. Tháng 9/1971, SMS được lệnh phối hợp với một đơn vị thuộc Sở thông tin liên lạc của Quân đội Sài Gòn, đóng căn cứ tại Đà Nẵng. Sau này đổi thành Bộ chỉ huy Bắc (Sở Bắc) của Đoàn Nghiên cứu, Quan sát của Bộ Tư lệnh Quân đội Mỹ tại Việt Nam (MACV-SOG). Tính đến tháng 3/1972, trong vòng 11 tháng, Đoàn cố vấn sứ mạng đặc biệt (SMAG) đã huấn luyện cho 27 toán biệt kích và 15 toán trinh sát. SMAG chấm dứt hoạt động vào tháng 4/1972, Sở chỉ huy Đoàn cố vấn (B53) cũng rời Việt Nam.+ Ban liên lạc B55 hay Trung tâm hành quân chiến thuật (TOC):

Với sự có mặt của lực lượng biệt kích Mỹ từ năm 1962, đã đặt ra nhu cầu phải có một ban liên lạc gần Bộ Tư lệnh Quân đội Mỹ tại Sài Gòn của Nam Việt Nam để thuận lợi trong việc soạn thảo kế hoạch, huấn luyện và chuyển những tin tức tình báo. Đó là nhiệm vụ của Ban liên lạc B55, hay Trung tâm hành quân chiến thuật (TOC), nhưng trên thực tế, cơ quan này làm nhiệm vụ giải mã những tin tình báo. TOC được Ban cố vấn kỹ thuật hỗ hợp (JTAD) huấn luyện, kết hợp với Ban nghiên cứu hỗn hợp (CDS) hướng dẫn. Sau khi Sở nghiên cứu, quan sát (MACV-SOG) đi vào hoạt động, B55 làm nhiệm vụ phối hợp giữa hai tổ chức Ban cố vấn kỹ thuật và Ban nghiên cứu hỗn hợp tại Việt Nam.

Với chức năng là cơ quan liên lạc tại Sài Gòn, B55 phải lo thủ tục giấy tờ cho các quân nhân biệt kích Mỹ tại Việt Nam; tham dự các buổi họp, thuyết trình giữa các bộ chỉ huy; thuyển mộ lính đánh thuê. Ngày 23/5/1968, Trung tâm hành quân chiến thuật đảm nhận thêm nhiệm vụ chỉ huy lực lượng 5 xung kích cơ động (Mike Force). B55 thực thi nhiệm vụ này cho đến ngày lên đường về Mỹ vào năm 1970.+ Sở chỉ huy hành quân Sigma (B56):

Khi nhịp độ chiến trường ngày càng leo thang thì nhu cầu tình báo tác chiến đòi hỏi ngày càng cao, đặt trách nhiệm nặng nề cho chương trình Delta. Tháng 8/1966, Liên đoàn biệt kích số 5 của Mỹ thành lập bộ chỉ huy 56, phụ trách chương trình hành quân Sigma, đặt căn cứ trong trại Hồ Ngọc Tảo. Sở chỉ huy hành quân Sigma được tổ chức tương tự như những sở chỉ huy do thám trinh sát khác, bao gồm có 8 toán viễn thám và 3 đại đội xung kích ứng cứu. B56 hiếm khi tuyển mộ người Thượng mà dùng lính đánh thuê người Nùng hoặc Khmer. Những toán biệt kích “đột nhập đường mòn” của Sở chỉ huy hành quân Sigma được chuyển về sáp nhập với Bộ chỉ huy hành quân B57 vào năm 1967.

Sở chỉ huy hành quân Sigma tham gia vào nhiều cuộc hành quân Blackjack trên địa bàn được phân công. B56 thường làm nhiệm vụ do thám cho các cuộc hành quân, đôi khi sử dụng lực lượng cơ động của Sigma phối hợp với lực lượng ứng cứu Mike Force.

Đến tháng 11/1967, vấn đề chỉ huy hành quân của B56 được đặt dưới sự kiểm soát của Bộ Tư lệnh quân đội Mỹ tại Việt Nam, trực tiếp thuộc quyền chỉ huy qua viên Tư lệnh Quân đoàn II.

Đến năm 1969, B56 chuyển đến Buôn Mê Thuột và rút quân về Mỹ vào tháng 5/1971.+ Sở chỉ huy hành quân Gamma (B57):

Từ khi hiện diện nhiều đơn vị trinh sát, do thám hoạt động trên chiến trường Việt Nam, nhu cầu giải mã những nguồn tin tình báo thu thập được và cung cấp tin tức, hướng dẫn về các mục tiêu trở nên cấp bách. Vào tháng 6/1967, Sở chỉ huy hành quân Gamma (B57) được thành lập. Sở chỉ huy B57 đặt tại Sài Gòn nhưng có nhân viên làm việc rải rác khắp các vùng chiến thuật II, III và IV. Sở chỉ huy hành quân Gamma đặc biệt tuyển mộ, điều hành những điệp viên (người lấy tin tức) hoạt động trong vùng đối phương kiểm soát. Nhằm hỗ trợ cho nhân viên tình báo của lực lượng biệt kích, Bộ Tư lệnh quân đội Mỹ tại Sài Gòn biệt phái một số chuyên viên tình báo, ngụy trang dưới tên“Nhóm cố vấn kỹ thuật hỗn hợp”. Khi tổ chức này hoạt động được hơn 1 năm thì đã thiết lập được một hệ thống gián điệp nằm vùng, có sẵn những nguồn tin tình báo. B57 thiết lập được mối quan hệ mật thiết với các cơ quan, đơn vị khác của chính quyền Sài Gòn nhằm trao đổi, thẩm định tin tức và phối hợp các hoạt động tình báo. 

Sở chỉ huy hành quân Gamma chấm dứt hoạt động, rời Việt Nam về Mỹ vào tháng 3/1970.

+ Trường huấn luyện do thám (Recondo School):

Khi Sở chỉ huy hành quân Delta tăng nhanh quân số thì nhu cầu về huấn luyện về kỹ thuật tuần tiễu thám sát được đặt ra. Vào tháng 5/1964, Sở chỉ huy hành quân Delta bắt đầu huấn luyện trong phạm vi căn cứ ở Nha Trang. Một thời gian ngắn sau, các đơn vị được thông báo về khóa huấn luyện do thám và được phép gửi quân nhân về học. Khi Bộ Tư lệnh quân đội Mỹ tại Việt Nam được báo cáo kết quả huấn luyện của Sở chỉ huy hành quân Delta, đã chỉ thị cho Liên đoàn biệt kích số 5 đảm trách về khóa huấn luyện.

Ngày 15/9/1966, Trường huấn luyện biệt kích thám thính kết hợp với Trung tâm huấn luyện thuộc Sở chỉ huy hành quân Delta (B52) chính thức khai giảng khóa học đầu tiên. Khóa học kéo dài 3 tuần về kỹ thuật tác chiến, tuần tiễu, trinh sát. Học viên đòi hỏi phải có đầy đủ sức khỏe, đã ở Việt Nam tối thiểu 1 tháng và còn 6 tháng phục vụ. Delta ưu tiên tuyển chọn những quân nhân từng là thành viên của toán biệt kích, các đại đội biệt động quân, các toán thám thính và những đơn vị trinh sát khác. Về sau, trường huấn luyện thêm khóa hướng dẫn về chiến đấu cho các biệt kích quân Mỹ mới đến Việt Nam. Trường chính thức đóng cửa vào tháng 11/1970.+ Lực lượng xung kích cơ động (Mobile Strike Force):

Ý tưởng về tổ chức lực lượng xung kích cơ động dựa trên quan niệm cắm những đơn vị sâu vào vùng đối phương kểm soát trong một khoảng thời gian nhất định, nhằm đánh phá các căn cứ, vừa ngăn chặn mọi hoạt động của cộng sản. Bắt đầu từ năm 1966, các đơn vị xung kích cơ động thường bao gồm có một toán biệt kích, cộng với 1 đại đội dân sự chiến đấu, có quân số khoảng 150 người, đã được huấn luyện về kỹ thuật tuần tiễu dài ngày và 1 trung đội trinh sát, khoảng 34 người. 

Dưới danh nghĩa Blackjack, những đơn vị xung kích cơ động này được đưa sâu vào vùng căn cứ, vùng giải phóng của đối phương. Công việc tiếp tế cho các toán xung kích cơ động này được thực hiện bằng phương tiện thả dù. Trong cuộc hành quân Blackjack 21, SOG đã sử dụng đơn vị đặc nhiệm 777, gồm 15 biệt kích quân Mỹ và 249 quân nhân Thượng. Hành quân Blackjack 22 gồm có một đại đội xung kích Mike Force và 1 đại đội xung kích cơ động. Hành quân Blackjack 33 gồm đại đội 3 xung kích Mike Force và đại đội xung kích 957.

Có nhiều cuộc hành quân Blackjack được tổ chức trong mùa mưa 1966-1967, trong đó các đại đội xung kích cơ động kết hợp với các đại đội xung kích Mike Force thành tiểu đoàn xung kích cơ động.

Mặc dù các trại biệt kích đều có lực lượng xung kích cơ động để đáp trả tức thì những hoạt động của đối phương, nhưng vẫn cần phải có thêm lực lượng ứng cứu, đặt dưới quyền điều động trực tiếp của các lực lượng đặc biệt Mỹ trong những trường hợp khẩn cấp, để giải vây cho các trại biệt kích trước áp lực nặng nề của đối phương. Năm 1966, thành lập đơn vị dự bị cho mỗi quân khu và đặt trực thuộc Bộ Tư lệnh quân khu (Quân đoàn). Các tiểu đoàn ứng cứu được huấn luyện và bắt đầu hoạt động từ mùa khô 1966-1967. Lúc đầu gọi là lực lượng dự bị cơ động, sau trở thành Mike Force (Mobile Reaction Forves-MRF). Đến 1967, tên gọi chính thức của các đơn vị trên là Lực lượng xung kích cơ động (Mobile Strike Force-MSF). Mỗi quân khu đều tổ chức 1 đơn vị xung kích cơ động. Đơn vị thứ 5 được thành lập, làm nhiệm vụ cơ động trên địa bàn của 4 quân khu.Mặc dù theo quy chế tổ chức thì các đơn vị xung kích cơ động là lực lượng dự bị đa dụng, nhưng thực tế những đơn vị này ngay khi thành lập đã được sử dụng như là lực lượng chuyên trách bảo vệ căn cứ. Mỗi đại đội xung kích cơ động được biên chế 184 người và tổ chức như đơn vị quân chính quy, được trang bị vũ khí cơ bản. Mỗi tiểu đoàn được biên chế 522 quân. Tiểu đoàn xung kích thường có thêm đại đội trinh sát, biên chế 153 quân và Ban chỉ huy. Riêng đại đội công vụ được biên chế 227 người. Nhiệm vụ chính của các đơn vị xung kích là giải vây cho các trại biệt kích. 

Trong năm 1966, lực lượng xung kích cơ động phối hợp với lực lượng dân sự chiến đấu trong nhiều cuộc hành quân. Về sau lực lượng xung kích cơ động thường được sử dụng ứng cứu cho các toán biệt kích của Đoàn nghiên cứu quan sát (MACV-SOG) trong trường hợp khẩn cấp. Đến năm 1967, lực lượng dân sự chiến đấu sáp nhập vào lực lượng xung kích cơ động, hoạt động cho đến khi lực lượng Mũ Nồi Xanh bàn giao lại cho Quân đội Sài Gòn.

Tháng 2/1966, Chiến đoàn 1 xung kích được thành lập, trực thuộc B16 lực lượng biệt kích, đặt dưới quyền chỉ huy của Bộ Chỉ huy lực lượng biệt kích Vùng I chiến thuật tại Đà Nẵng. Trong 5 năm hoạt động trên chiến trường vùng I, Chiến đoàn 1 xung kích được tổ chức thành 2 tiểu đoàn, một đại đội trinh sát, Bộ Chỉ huy Chiến đoàn và đại đội bảo đảm.

Chiến đoàn 2 xung kích trực thuộc B20 lực lượng biệt kích ở Pleiku; B23 ở Buôn Mê Thuột và B24 ở Kontum. Tất cả đặt dưới quyền chỉ huy của Bộ chỉ huy lực lượng biệt kích Vùng II, đảm nhiệm địa bàn thuộc vùng lãnh thổ Quân khu II. Trong 5 năm hoạt động, chiến đoàn 2 xung kích được tổ chức thành 5 tiểu đoàn, 1 đại đội trinh sát, Bộ chỉ huy vùng và đại đội bảo đảm.

Chiến đoàn 3 xung kích thành lập vào tháng 11/1967, đặt dưới quyền điều động của Bộ chỉ huy lực lượng biệt kích Vùng III, chịu trách nhiệm trên lãnh thổ Quân khu III. Bộ chỉ huy B36 lực lượng biệt kích trực tiếp chỉ huy Chiến đoàn 3 xung kích; được tổ chức gồm 3 tiểu đoàn, đại đội trinh sát, Bộ chỉ huy vùng và đại đội bảo đảm. Đến cuối 1970, Chiến đoàn 3 được chuyển giao cho Quân đội Sài Gòn. Tháng 2/1971, B36 được lệnh gọi về Mỹ.

Chiến đoàn xung kích 4 trực thuộc B40, Bộ chỉ huy lực lượng biệt kích vùng IV chiến thuật; được tổ chức gồm 3 tiểu đoàn, 1 đại đội trinh sát, 1 đại đội xuồng bay (Air boat) 184 người, Bộ chỉ huy vùng và đại đội bảo đảm. Khi mới thành lập, chiến đoàn chịu trách nhiệm trên địa bàn Vùng IV (Quân khu IV). Đến tháng 8/1969, Chiến đoàn đặt dưới quyền điều động của Biệt khu 44. Từ tháng 5/1970, chiến đoàn được bàn giao cho Quân đội Sài Gòn. Tháng 12/1970, B40 của lực lượng biệt kích Mỹ được lệnh triệu hồi về nước.+ Liên đoàn nghiên cứu, quan sát (MACV-SOG):

Liên đoàn nghiên cứu, quan sát trực thuộc Bộ Tư lệnh Quân đội Mỹ (MACV-SOG) là cơ quan chỉ huy cao nhất đối với các cuộc hành quân đặc biệt. Ngay từ khi thành lập, chức danh Nghiên cứu, quan sát (đôi khi gọi là Hành quân đặc biệt) được triệt để sử dụng để che mắt đối phương trong các cuộc hành quân tối mật về lĩnh vực tình báo. Từ lâu, Cơ quan Trung ương tình báo CIA của Mỹ luôn yểm trợ cho các hoạt động bí mật của chính quyền Sài Gòn. Cho đến năm 1963 thì CIA chính thức trở thành Bộ chỉ huy lực lượng biệt kích ở Việt Nam và thực hiện các cuộc hành quân đặc biệt. Khi cường độ cuộc chiến tranh gia tăng, nhu cầu cho các hoạt động đều tăng lên, thì lực lượng biệt kích Sài Gòn càng phát triển, trở thành Sở khai thác đặc biệt. Ngày 16/1/1964, Bộ chỉ huy Liên đoàn nghiên cứu, quan sát được thành lập ở Chợ Lớn, để chỉ huy các cuộc hành quân đặc biệt.

Năm 1966, Bộ chỉ huy MACV-SOG dời từ Chợ Lớn ra Sài Gòn, bao gồm 1 bộ phận đóng tại phi trường Tân Sơn Nhất. Riêng bộ phận yểm trợ không quân dời ra Nha Trang và bộ phận yểm trợ hải quân dời ra Đà Nẵng.

Mục tiêu hoạt động của MACV- SOG không chỉ trực tiếp nhắm vào những khu vực do đối phương kiểm soát trên lãnh thổ miền Nam Việt Nam mà cả sang lãnh thổ Lào, Campuchia, Bắc Việt và nam Trung Hoa. Những phi vụ đặc biệt của MACV-SOG bao gồm việc thu thập tin tức tình báo chiến lược, phá hoại đường giao liên, tiếp vận của đối phương; tiến hành chiến tranh tâm lý; giải cứu tù binh và phát triển chiến tranh phá hoại chống lại chính quyền đối phương... Những phi vụ thám sát của MACV-SOG được lựa chọn kỹ càng và những bản báo cáo sau mỗi chuyến xâm nhập thường được gửi về Lầu Năm Góc để đánh giá, phân tích và gửi tới những địa chỉ cần thiết.

Năm 1967, cơ quan MACV-SOG được tổ chức lại thành 3 bộ chỉ huy: Bộ chỉ huy Bắc (CCN) ở Đà Nẵng; Trung (CCC) ở Kontum và Nam (CCS) ở Buôn Mê Thuột. Mỗi Bộ chỉ huy được tổ chức lại bằng cách gom một số căn cứ hành quân tiền phương (FOB), mà trước đây được thiết lập để yểm trợ, tiếp cận cho những cuộc hành quân xâm nhập. Các căn cứ này đóng ở Phú Bài, Huế; Kontum; Khe Sanh; Non Nước; Buôn Mê Thuột và trại Hồ Ngọc Tảo. Các Bộ chỉ huy hành quân gồm trên 1.600 quân biệt kích Mỹ, chia ra hơn 70 toán thám báo và 8.000 biệt kích quân Sài Gòn.

Cách thức tổ chức của Liên đoàn Nghiên cứu, quan sát cũng gần như song song với tổ chức của lực lượng biệt kích Mỹ, với các toán xâm nhập tương đương với các toán biệt kích Mỹ; Bộ chỉ huy hành quân tiền phương tương đương với Bộ chỉ huy Vùng; các Bộ chỉ huy Bắc, Trung, Nam tương đương với các Bộ chỉ huy Trung tâm lực lượng biệt kích Mũ Nồi Xanh.

Bộ chỉ huy Không Yểm bao gồm Phi đoàn 90 thuộc Trung tâm hành quân đặc biệt (SOS) của Không quân Mỹ, đóng tại Nha Trang, chuyên cung cấp máy bay C130 cho lực lượng biệt kích. Bộ chỉ huy Phi đoàn 20 (SOS) đóng ở vịnh Cam Ranh. Các đơn vị trực thuộc khác đóng tại Buôn Mê Thuột, Đức Lập và Tiêu Atar, chuyên cung cấp cho lực lượng biệt kích loại trực thăng yểm trợ. Ngoài ra, MACV-SOG còn có một đơn vị trực thuộc là Phi đoàn Đệ nhất, đóng căn cứ rải rác khắp miền Nam Việt Nam và cả Thái Lan.Bộ phận yểm trợ Hải quân đóng căn cứ tại Đà Nẵng, gồm các đơn vị biệt kích (SEAL) của Hải quân Mỹ, các siêu tốc đỉnh cùng các toán người nhái, chuyên phá hoại trên biển, trực thuộc Hải quân Sài Gòn.

MACV-SOG còn có một trung tâm huấn luyện và đơn vị xâm nhập bằng dù ở Long Thành, Biên Hòa. Đơn vị này gồm các biệt kích quân người Việt Nam, được thả vào vùng đối phương bằng phương tiện nhảy dù.

Ngày 30/4/1971, cơ quan MACV-SOG ngưng hoạt động và chương trình được giao cho Trung tâm Yểm trợ, thuộc Nha Kỹ thuật 158 (STDAT). Một số biệt kích quân bộ đã chuyển sang nhóm cố vấn hành quân đặc biệt từ tháng 3/1971. Ngày 12/3/1972, STDAT cũng kết thúc sứ mệnh một trong những “huyền thoại” của lực lượng biệt kích Mũ Nồi Xanh của Mỹ.+ Sở chỉ huy Bắc (CCN):

Sở chỉ huy Bắc được thành lập vào ngày 1/11/1967 tại Đà Nẵng, với 3 bộ chỉ huy tiền phương: một, tại Phú Bài; hai, Bộ chỉ huy tiền phương số 3 tại Khe Sanh; ba là Bộ chỉ huy tiền phương số 4 tại Non Nước, cùng Liên đoàn biệt kích số 5 và Ban cố vấn hải quân Mỹ.

Các phi vụ hành quân vượt biên do Sở chỉ huy Bắc tổ chức đều nhằm vào lãnh thổ miền Bắc Việt Nam và Lào. Những cuộc hành quân trong vùng Nam Lào được biết đến với mật danh Shining Brass, bắt đầu triển khai từ năm 1965, nhằm phá hoại con đường tiếp tế, vận chuyển của Bắc Việt cho chiến trường miền Nam Việt Nam. Sau đó, Sở chỉ huy Bắc đổi tên là Prairie Fire. Khi chuyển về trực thuộc Nha Kỹ thuật thì lấy tên là Phù Dung.Trong các cuộc hành quân của lực lượng thám báo, Sở chỉ huy Bắc còn có đơn vị tiếp ứng, gọi là đơn vị “Cảm tử đặc biệt”. Ngoài ra, CCN còn thiết lập những căn cứ hành quân bí mật trên lãnh thổ Thái Lan. Tuy nhiên nhiệm vụ chính của CCN vẫn là trinh sát, thu thập tin tức tình báo chiến lược.

+ Sở chỉ huy Trung (CCC):

Sở chỉ huy này đóng tại Kontum, gồm quân của Liên đoàn biệt kích số 5 Mỹ, có lúc được xem như là bộ phận mở rộng của Bộ chỉ huy liên đoàn biệt kích số 5. Địa bàn Bộ chỉ huy được phân công đảm trách là tam giác biên giới Việt-Lào-Campuchia. Các cuộc hành quân lúc đầu lấy tên là Daniel Boone, sau đổi thành Salem House nhằm phá hoại các căn cứ, kho dự trữ vật chất của cộng sản Bắc Việt; đặc biệt đối với những kho hậu cần ở vùng đông bắc Campuchia. 

Dưới quyền điều hành của Bộ chỉ huy trung tâm, có tất cả 30 toán thám báo, mỗi toán gồm 3 biệt kích Mỹ và 9 biệt kích quân Sài Gòn. Ngoài ra còn có 4 đại đội khai thác, sử dụng tin tức do những toán thám báo cung cấp trong các cuộc hành quân tìm và diệt.

+ Sở chỉ huy Nam (CCS):

Sở chỉ huy Nam được thành lập vào tháng 11/1967, đóng căn cứ tại Buôn Mê Thuột. Đây là Sở chỉ huy nhỏ nhất trong các bộ chỉ huy của Liên đoàn nghiên cứu, quan sát (MACV-SOG). Địa bàn hoạt động chính là đồng bằng sông Cửu Long và Campuchia. Tổ chức của Sở chỉ huy gồm có 1 số toán thám báo, cộng với 4 đại đội khai thác. Do địa thế vùng đồng bằng sông Cửu Long là sông nước, nên các đại đội khai thác thường sử dụng xuồng bay trong các cuộc hành quân tiếp ứng. Sự tham chiến của các biệt kích quân Mỹ tại Sở chỉ huy này chấm dứt vào tháng 1/1973, khi tất cả các đơn vị của quân đội viễn chinh Mỹ phải rút quân trở về nước.Đoạn kết:

Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, phải có tới hàng núi tài liệu liên quan đến lực lượng biệt kích. Nhưng ít người được biết đến một cách tường tận, kể cả đến những biệt kích quân. Điều đó không có gì lạ, vì bí mật chính là nguyên tắc căn bản, sống còn của sắc lính biệt kích. Nhiều đơn vị có tên nghe rất lạ như: Lôi Hổ, Thám Báo, Sở Công Tác, Sở Liên Lạc, Biệt Kích... Đối với lực lượng biệt kích Mũ Nồi Xanh được quân đội Mỹ coi như “những chiến binh can trường”, vì họ được tuyển chọn và huấn luyện đầy đủ nhất. Ngay trong quân đội Sài Gòn, biệt kích quân cũng được xem là “những chiến binh can đảm, gan lì và bí hiểm”.

Ai đó đã coi họ là “những bóng ma biên giới”. Tiếc thay, họ đã quay lưng lại với chính dân tộc của mình, trở thành công cụ chiến tranh trong tay người Mỹ. Để rồi rút cuộc họ đã bị chính ông chủ của mình bỏ rơi ngay khi họ đang thực thi những phi vụ phá hoại Bắc Việt Nam theo lệnh CIA.

Theo tài liệu:

-   Harry Pugh, US Special, C&D Enterprises, Arlington, VA> 1993.

-   Francis J. Kelly, The Green Berets, Brassey Inc., New York, 1991.

-   Special Forces and Missions, Time-Life books, Alexandria, VA.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro