Phần 1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng


Cuốn sổ màu xanh

Tôi được nghỉ ngơi. Bà Mamaki Briila rất hài lòng. Tôi đã làm việc cật lực suốt buổi sáng nên khi tôi nói với bà là tôi mệt quá, bà mỉm cười: "Nghỉ ngơi đi, bé con Batuk. Hôm nay sẽ là một ngày phát đạt". Thật ra, tôi không mệt mỏi gì lắm.

Tôi tên là Batuk. Năm nay 15 tuổi, tôi có một cái ổ tại Đường Chung ở Mumbai. Tôi đã ở đây 6 năm và được ban tặng một nhan sắc xinh đẹp cùng một cây bút chì. Nhan sắc của tôi là do trời cho, còn cây bút chì thì trước kia bà Mamaki Briila, bà chủ của tôi, thường giắt trên tai.

Hai đêm trước, tôi thấy cây bút chì của bà Mamaki bị rơi xuống đất. Lúc đó tôi vừa mới "làm bánh" xong và bà ta lăng xăng đến cái ổ của tôi với một nụ cười rộng hoác. Bà cúi xuống, véo má tôi và hôn lên đầu tôi. Khi bà nghiêng người xuống, bộ ngực đồ sộ của bà như muốn đập vào mặt tôi và tôi có thể nhìn thấy những giọt mồ hôi lấp loáng trên đó. Bà cũng có mùi như chúng tôi, nhưng tệ hơn.

Bà phải đưa tay chống lưng và lảo đảo một chút thì mới đứng dậy được. Bộ ngực của bà đung đưa như những con thú con đang bám vào cổ bà nhảy múa. Bà rút cây bút chì sau tai và kéo ra một cuốn sổ tay nhỏ màu vàng từ nếp áo trong của bộ áo sari (hoặc có thể từ nếp da của bà không chừng). Khi mở cuốn sổ ra, bà nhìn xuống tôi và nở một nụ cười làm giãn rộng gương mặt đỏ như một cục gạch khô nhúng nước. Bà ghi chép gì đó vào cuốn sổ với những cái vẫy bay bướm của bàn tay múp míp. Bà ngọt ngào nói: "Bé con Batuk, ta rất mến con. Ta tưởng tối nay con sẽ làm cho ta thất vọng nhưng con đã khiến ta yêu mến con chỉ trong một giờ". Tôi nghĩ hẳn bà sắp sửa nhắc nhở tôi về sự tử tế ngàn lần của bà, nhưng bà bị cắt ngang bởi một tiếng thét của Puneet.

Puneet là bạn thân nhất của tôi và có một cái ổ nằm cách tôi hai gian. Puneet hiếm khi kêu la, không như Công chúa Meera, cô nàng than khóc liên tục mỗi lần "làm bánh". Puneet chỉ rên khi buộc phải rên và tiếng thét mà anh thốt ra vào lúc đó có thể khiến đá vỡ đôi. Đó là một tiếng thét chói tai và duy nhất, không phải của sự đau đớn thể xác, vì Puneet không cảm thấy đau đớn, mà là sự kinh hoàng. Bà Mamaki cũng biết điều đó. Puneet có giá trị hơn tất cả chúng tôi vì anh là con trai.

Tiếng thét của Puneet xé toang màn đêm yên tĩnh của con đường và nụ cười biến mất khỏi gương mặt bà Mamaki như một đồng xu rơi xuống đất. Bà quay đôi mông to như mông bò vào mặt tôi và chạy vụt ra khỏi cái ổ của tôi. Thật ấn tượng khi một sinh vật như bà có thể di chuyển với tốc độ nhanh đến thế. Khi bà chạy đi, chiếc đuôi áo sari bay phần phật khiến tôi nhớ đến những tấm nhựa mà người ta dùng để che chắn cây trồng dưới ánh nắng mặt trời mùa hè. Đó là lúc cây bút chì rớt khỏi tai bà Mamaki, vành tai bóng nhẫy bởi một nhãn hiệu kem xoa người đặc biệt.

Bà Mamaki không biết cây bút chì đã rớt xuống sàn cái ổ của tôi, nảy lên vài lần rồi nằm im. Tôi búng người khỏi giường và gieo mình lên nó. Cây bút chì là của tôi, trời ban cho tôi.

Tôi ngồi trên vật thể nhỏ bé đó, im lặng và bất động. Đầu óc tôi lan man nhớ về những ngày xưa khi còn là một cô bé nhỏ ở Dreepah-Jil, ngôi làng quê hương tôi. Tôi có thể ngồi trên một hòn đá hàng giờ dưới ánh mặt trời, giữa cái nóng ban trưa, và tưởng tượng mình đang tan chảy vào đá. Cuối cùng thì giữa những hòn đá hoặc qua những ngọn cỏ sẽ có một con thằn lằn nhỏ xuất hiện. Với những cử động nhanh thận trọng, nó sẽ nhìn quanh. Khi thấy không có gì động đậy, nó sẽ cảm thấy an toàn. Khi đó nó sẽ thoải mái nằm phơi nắng dưới hòn đá của tôi hoặc có khi ngay trên hòn đá mà tôi đang ngồi. Tôi cũng sẽ không cử động, ngay cả khi nó nằm sát bên tôi. Tôi sẽ kiểm soát hơi thở của mình và tan chảy sâu thẳm vào hòn đá cho đến khi tôi cũng trở thành một hòn đá. Tôi dùng suy nghĩ của mình để kiểm soát suy nghĩ của con thằn lằn. Tôi sẽ dịu dàng nói với con thằn lằn từ không trung: "Thoải mái nào, thằn lằn bé nhỏ, rồi mi sẽ là của ta".

Bạn có thể nhìn lên trời và thấy một hạt mưa đang nhắm thẳng vào bạn. Bạn nhìn nó, bạn biết nó đang rơi nhanh hơn, và bạn biết nó sẽ trúng vào bạn, nhưng bạn không thể thoát khỏi nó. Con thằn lằn cũng vậy. Khi tôi búng người đến con thằn lằn, chúng tôi có thể nhìn vào mắt nhau trong một thoáng. Sau đó tôi sẽ ngồi lên nó, đôi khi mạnh đến mức có thể giết chết nó; nhưng nếu thế thì đó là số phận của con thằn lằn. Và bây giờ, khi ngồi trên sàn đá trong cái ổ của mình, tôi biết cây bút chì sẽ là của tôi, bởi vì đó là số phận của nó.

Tôi bò dậy, leo lên chiếc ngai vàng của mình, nằm sấp với cây bút chì dưới bụng, và chìm vào giấc ngủ. Sáng hôm sau khi tôi tỉnh dậy, cây bút chì vẫn còn đó nhưng nó đã ấm lên bởi những giấc mơ của tôi. Nhìn ra lối vào cái ổ của mình, đôi mắt tôi nhấp nháy trước ánh nắng đầu ngày. Tôi biết mẩu bút chì nhỏ này không đủ để viết lại cuộc đời mình, nhưng nó đủ để bắt đầu.

Khoảng thời gian nghỉ ngơi và cơn mệt giả tạo gần như đã trôi qua. Một lát nữa tôi sẽ giấu cây bút chì vào vết rách mà tôi đã xé trên cái nệm. Hôm nay khi tôi nằm "làm bánh", tôi sẽ cảm nhận được nó hằn dưới lưng mình và biết rằng nó vẫn còn ở đó.

***

Hẳn bạn cũng nghe được tiếng thét của bà Mamaki đêm đó khi bà chạy đến chỗ Puneet với tốc độ của một viên đạn. Tiếng thét của bà gần như to bằng tiếng thét của Puneet. Tiếng thét của Puneet là do sự kinh hoàng, còn tiếng thét của bà Mamaki thì gây ra kinh hoàng. Có hai người hầu đang thể hiện lòng tôn kính với Hoàng tử Puneet khi cuộc bạo động nổ ra, một thông lệ hoàn toàn chấp nhận được đối với bà Mamaki, miễn là món quà cho hoàng tử phải tương xứng. Trong trường hợp này, món quà ít quan trọng hơn, bởi vì hai "người hầu" này là hai quan chức cảnh sát cấp cao. Mặc dù họ còn đang mới dạo đầu (tôi nghe bà Mamaki chúc phúc hai người khách khi họ đến), nhưng mọi việc đã vượt quá giới hạn. Puneet bị xé toạc bởi một cây gậy cảnh sát.

Bà Mamaki xô hai vị cảnh sát ra ngoài đường một cách thô bạo khiến họ té ngồi xuống đường. Từ cái ổ của mình nhìn ra, tôi thấy họ đứng dậy, phủi bụi trên bộ đồng phục nâu, cười to như những người anh em rồi thong thả đi vào màn đêm. Một trong hai người có một cây gậy cảnh sát đu đưa trên cổ tay. Puneet té nằm dưới đất, máu liên tục chảy nhỏ giọt - như thể mặt đất cũng muốn hút máu của anh.

Hãy tha lỗi cho tôi nếu bạn cảm thấy tôi quá kịch tính hóa sự việc. Đó không chỉ vì tôi rất yêu mến Puneet mà vì tôi còn có một thiên hướng kịch nghệ. Mẹ luôn la mắng tôi chuyện này, có lẽ vì những trò đóng kịch của tôi khiến cha thích thú. Mỗi khi gia đình quây quần là tôi bắt đầu diễn trò. Tôi bắt chước Navrang, một người điên trong làng, hay bắt chước chú Vishal (mà tôi thường gọi là "Chú V"), một ông chú mập ú hay ngủ gục vào chén súp. Mẹ thường lắc đầu cằn nhằn trong khi cha cười ngặt nghẽo đến chảy nước mắt. Tôi luôn có tài trong những trò đó.

Như một phần thưởng cho trò diễn của tôi, cha ôm tôi vào lòng, và nếu tôi năn nỉ thì cha sẽ kể cho tôi nghe câu chuyện về con báo có đôi mắt bạc. Mỗi lần kể là mỗi lần cha thêm thắt những chi tiết khác nhau và câu chuyện có thể kéo dài hàng giờ, tùy theo cha có mệt không hay tôi có buồn ngủ chưa.

Tôi thích câu chuyện đó. Mỗi buổi tối, tôi thường giả vờ ngủ khi mẹ bước qua căn phòng ngủ mà tôi và các anh em đang nằm chen chúc. Nếu tôi vẫn còn thức khi cha trở về từ cánh đồng hay từ người đàn bà có mùi oải hương, tôi chạy ra, lao vào lòng cha và năn nỉ cha kể chuyện. "Tối nay không được, Batuk", cha nói thế khi tôi cuộn tròn trong lòng cha, cảm nhận sự rung động của bờ ngực khi cha cất tiếng. Nhưng khoảng hai mươi phút sau, khi đánh răng xong, chắc chắn cha sẽ nhượng bộ và bắt đầu kể chuyện trong tiếng reo hớn hở của tôi. Bạn thấy không, tôi luôn luôn là con báo có đôi mắt bạc của cha.

Puneet bị ốm nhưng bà Mamaki nói anh đang bình phục. Giữa hai lượt "làm bánh", tôi gọi với sang cái ổ của anh và anh gọi lại trả lời. Ban đầu, bà Hà Mã (cái tên mà chúng tôi bí mật đặt cho bà Mamaki) cấm chúng tôi gọi qua gọi lại như thế trong giờ làm việc, nhưng sau đó bà nhận ra điều đó giúp Puneet lên tinh thần rất nhiều và giờ thì bà cho phép.

Puneet vẫn chưa sẵn sàng làm bánh với chúng tôi. Nếu Puneet bị thương nặng đến mức không thể làm việc, hoặc nếu anh chết, ai sẽ ở đó nói chuyện với tôi? Có lẽ đó là một suy nghĩ ích kỷ, nhưng chỉ là một ý nghĩ bất chợt của một tâm hồn kịch nghệ mà thôi.

***

Tôi chỉ được nghỉ một chút. Ông Tai Mềm chỉ làm một cái bánh nhỏ nhất với tôi. Tôi khó có thể nói mình đã mệt được.

Tôi viết bằng bút chì. Bạn sẽ hỏi tôi chuốt bút chì như thế nào? Tôi sẽ mỉm cười. Không phải một nụ cười tự hào kiêu hãnh mà là một nụ cười ranh mãnh. Tôi chuốt bút chì bằng những mưu kế của mình.

Cách cái ổ của tôi hai con đường là Đường Kẻ Trộm. Ở đây bạn có thể mua mọi thứ từ một chiếc máy bay cho đến một chiếc áo khoác tàng hình - đó là những gì người ta thường nói. Tôi biết một anh bạn đẩy xe cút kít vận chuyển hàng cho Đường Kẻ Trộm tên là Bandu. Bandu, anh bạn đẩy xe cút kít, đi qua cái ổ của tôi ít nhất hai lần một ngày. Tôi biết khi nào anh đến bởi vì bánh xe cút kít làm bằng thép và nó phát ra những tiếng động kinh khủng đến mức tôi có thể nghe được từ rất xa. Vào sáng sớm, khi anh đi qua, chiếc xe đầy ắp những thứ đồ linh tinh, và buổi chiều khi anh quay về, chiếc thùng gỗ gần như trống rỗng. Cũng có những lúc anh phải đi thêm vài chuyến hàng, có lẽ cho những lần giao hàng đặc biệt.

Bandu khoảng cùng độ tuổi với tôi và bề ngoài cũng khá điển trai. Càng ngày trông anh càng cao to và nam tính hơn. Đôi mắt to tròn của anh nhìn chằm chặp vào tôi mỗi ngày và trăm lần như một, ngó lơ chỗ khác khi tôi nhìn lại. Tôi nghĩ có lẽ anh muốn ngủ với tôi trong mỗi giấc mơ.

Khi cây bút chì bị cùn, tôi, một cô gái ranh mãnh, bắt đầu mỉm cười lả lơi với anh. Tôi nghiêng đầu và chu môi. Khi tôi gài bẫy anh - như với con thằn lằn - cái nhìn của anh nán lại lâu hơn và có khi anh còn dám nhìn vào mắt tôi vài giây. Thỉnh thoảng, tia nhìn của anh thập thò như chiếc lưỡi con thằn lằn, rơi xuống đùi hay xuống bộ ngực nhỏ của tôi. Tôi ngồi trong cái ổ của mình như tôi đã ngồi trên hòn đá nhiều năm về trước, chờ đợi anh bạn đẩy xe cút kít đến nằm dưới cái bóng của mình. Anh bắt đầu chậm lại khi đến gần cái ổ của tôi, và vài ngày sau, anh lí nhí với tôi điều gì đó theo một cách mà những người đàn ông nhút nhát thường làm.

Sau ba ngày thậm thụt và với sự bối rối giả tạo, tôi vẫy tay ra hiệu anh đến gần. Cửa phòng tôi bị khóa cho đến khi bà Hà Mã ăn sáng xong nên tôi chỉ có thể cúi xuống nhìn anh qua cánh cửa khóa và nói: "Tôi tên là Batuk. Tôi rất cần anh giúp đỡ". Tôi ngừng lại một chút và mỉm cười: "Anh có thể cho tôi một cái chuốt bút chì được không?"

Tôi hơi bực bội vì mãi hai ngày sau anh mới đem cái chuốt bút chì đến. Khi anh quay lại đã khá trễ, sau bữa trà thứ ba của bà Hà Mã, với cái chuốt bút chì trong bàn tay chai sạn, tôi mỉm cười sung sướng như thể vừa được tặng một viên hồng ngọc. Sau đó tôi hôn anh. Lúc đó giữa chúng tôi không có cái cửa nào cả. Tôi chỉ định hôn nhẹ lên má anh vì tôi nghĩ anh xứng đáng như vậy thôi, nhưng thay vì thế, tôi hôn thẳng lên môi anh. Tôi đưa lưỡi tìm kiếm cái lưỡi của anh, nhưng nó rụt lại như một con chó co rúm sợ bị đánh. Khi anh bắt đầu rụt rè chạm lưỡi vào lưỡi tôi, tôi xô anh ra bằng cả hai tay. Khoảng thời gian trao đổi lời cảm ơn chỉ diễn ra vài giây, nhưng tôi biết anh sẽ nhớ cái hôn của tôi suốt cả ngày. Tôi biết nỗi khao khát sẽ ám ảnh anh còn lâu hơn thế nữa.

Tôi không biết tại sao mình cư xử một cách đáng hổ thẹn như thế, nhưng tôi đã có cái chuốt bút chì, và tôi không bao giờ nói chuyện hay nhìn đến Bandu, anh bạn đẩy xe cút kít, một lần nào nữa.

***

Hôm qua bác sĩ lại đến thăm Puneet rồi ra về chỉ sau 10 phút. Có lẽ đó là do mùi hôi của bà Mamaki và cũng có thể vì bà Mamaki chỉ trả cho ông 25 xu tiền khám. Dù vậy, vị bác sĩ này rất thường đến đây, Công chúa Meera là lựa chọn đầu tiên của ông mỗi khi bà Mamaki cần thanh toán hóa đơn.

Bác sĩ mang đến một tin tốt. Chỉ mới 4 ngày sau chuyến viếng thăm của hai viên cảnh sát và giờ thì anh đã không còn nguy hiểm nữa. Vào giờ nghỉ, tôi đứng tựa cửa gọi với qua Puneet như tôi vẫn thường làm, vì biết rằng anh không phải làm việc. Anh gọi lại, trả lời rằng mình đang hồi phục. Anh không nói là mình rất khỏe, vì tôi biết anh sợ bà Hà Mã nghe được trong khi anh đang muốn kéo dài thời gian nghỉ ngơi càng lâu càng tốt.

Không lâu nữa Puneet sẽ trưởng thành và tôi có thể nhìn thấy điều đó qua cơ thể anh. Đôi vai anh bắt đầu rộng ra với các cơ bắp hiện rõ hơn. Bắp đùi anh cũng lớn hơn và bờ ngực bắt đầu có vài sợi lông. Thỉnh thoảng giọng anh cũng vỡ khàn hơn. Dù chúng tôi hay đùa giỡn với nhau về chuyện này nhưng cả hai đều biết điều đó có nghĩa là gì. Không lâu nữa sẽ có quyết định về Puneet, mà anh không phải là người quyết định.

Nếu quyết định cắt cái đó của Puneet, họ sẽ tiến hành sớm thôi. (Tôi nghĩ khi nào có bác sĩ ở đây, họ sẽ làm rất nhanh). Nếu anh được phép trở thành đàn ông, họ sẽ cần phải huấn luyện anh theo một phong cách mới. Có thể khi trở thành đàn ông, anh sẽ trở nên đẹp trai hơn, nhưng cũng có khả năng anh sẽ trở nên xấu đi và khi đó anh sẽ bị đuổi. Tôi thích họ cắt cái đó của Puneet bây giờ hơn, như thế lúc nào anh cũng xinh trai và anh sẽ luôn ở đây với tôi. Không ai có thể khiến tôi cười ngặt nghẽo như Puneet.

Bất chấp những gì xảy ra, đôi mắt của Puneet vẫn không thay đổi. Nhìn vào mắt anh, tôi thấy một nụ cười ngạo nghễ và sự nhạo báng với cái ổ của chính mình, với bà Hà Mã và với cả Đường Chung. Nhìn sâu hơn, tôi thấy sự khinh bỉ với những người ngưỡng mộ anh và một thoáng tia lửa của quỷ dữ. Nhìn sâu hơn nữa, tôi thấy một giếng nước mát lạnh không đáy - tình yêu.

***

Cái ổ của tôi là một ổ vàng.

Hãy tưởng tượng tôi rạng rỡ trong một ánh sáng trắng. Ánh sáng này, nếu có thể nhặt bỏ vào chai đem phân tích, bạn sẽ thấy nó bao gồm một hỗn hợp tất cả màu sắc cùng với tiếng cười và niềm vui. Khi cầm cái chai, nhìn vào nó, bạn sẽ thấy tay mình ấm lên và bạn sẽ cảm nhận được sự dịu dàng của tôi. Nếu bạn mở nút chai đổ nhanh vào miệng, bạn sẽ không bao giờ đói bụng nữa mà thay vì thế, bạn sẽ thấy mình bốc lửa và tỏa sáng. Gương mặt tôi hội tụ những tia sáng rực rỡ xua đuổi mọi bóng tối, đó là cách tôi thắp sáng cái ổ của mình. Cái ổ của tôi rực rỡ vì ánh sáng của tôi, và cũng bởi vì không có một ánh sáng nào khác cả.

Cái ổ của tôi, như tôi vẫn gọi, là căn phòng nơi tôi đặt ngai vàng. Với tất cả những kẽ nứt và những vết lồi lõm bên trong, hình dáng bên ngoài của nó rất đơn giản - một hình chữ nhật. Đá và một cánh cổng xanh, thế là hết.

Khi nhìn những tạo vật xung quanh mình, tôi không bao giờ có thể hiểu được vì sao cha lại cho phép tôi đến đây. Với tất cả những câu chuyện của cha, với tất cả những tràng cười hoang dại của cha (có khi tôi nghĩ cha cười đến mức té xuống đất), và với tất cả những sự bảo đảm của cha rằng một định mệnh tốt đẹp sẽ chào đón tôi, sao cha lại để con báo có đôi mắt bạc của cha hạ cánh xuống đây, nằm trên bệ đá hy sinh này?

Nhưng lúc này điều đó không còn quan trọng nữa. Hãy nhìn những bức tường trong căn phòng đặt ngai vàng của tôi, bạn sẽ thấy những lá vàng dát trên từng viên gạch. Ở mỗi viên gạch xám, lớp gạch nền của Đường Chung, bạn sẽ thấy những tia vàng lấp lánh trong ánh sáng của tôi. Nếu nhìn kỹ những lá vàng trên tường, bạn sẽ thấy những đường chạm trổ phức tạp nhất. Những người thợ thủ công đã mô tả cuộc đời tôi với từng chi tiết. Nhìn kìa! Bên phải tôi là bức chạm trổ hình những người anh em khỏe mạnh của tôi (ngoại trừ Navaj, người em kế lớn hơn tôi 1 tuổi, bị khuyết tật từ khi mới sinh). Bên trái tôi, phía gần trần nhà, bạn có thể nhìn thấy gia đình tôi đang ngồi, khoác những chiếc áo choàng trong Lễ hội Mùa xuân. Nhìn lên mái - chỗ này này, tôi đang bơi ở gần bờ sông khi còn là một đứa bé 6 tuổi chưa biết mắc cỡ. Còn đây là ông tôi - tôi không nhớ nhiều về ông, ngoại trừ ông khá ốm. Xung quanh tôi, những hình ảnh chạm khắc trên những lá vàng trên tường, là những bức chân dung. Những hình ảnh phức tạp ấy khắc họa trọn vẹn cuộc đời phức tạp của tôi, ngoại trừ sự nô lệ.

Ngai vàng của tôi được đặt phía trong cùng sát tường. Những kẻ ngớ ngẩn bảo rằng lẽ ra tôi nên có một chiếc ngai bằng vàng khảm ngọc trai với những chân giường bằng ngà, và họ hỏi tại sao tôi lại chọn một khúc gỗ Daruka đơn giản. Khúc gỗ này đã một ngàn năm tuổi, từng chứng kiến nhiều thành phố được xây dựng nguy nga rồi tàn lụi. Khúc gỗ này có thể thì thầm kể lại câu chuyện của những chiến binh, những bậc thầy vĩ đại và các hoàng tử khi bạn hỏi nó. Gỗ Daruka chắc và nặng, nhưng hãy nhớ rằng nó vẫn có thể bị hủy hoại chỉ trong một trận đấu, cũng như cuộc đời của hàng ngàn con người và hàng triệu ký ức có thể biến mất trong một giây.

Phía sau ngai vàng của tôi là một con báo có đôi mắt bạc, chạm khắc bằng ngà nguyên chất. Bộ lông trắng của nó lấp lánh bụi kim cương. Đôi mắt con báo long lanh như những đồng bạc sáng bóng.

Đàn ông từ khắp mọi vương quốc đến đây tôn thờ tôi, và từ ngai vàng của mình, tôi ban phát quyền lực cho họ. Bạn đi qua ngưỡng cửa, tôi chào đón bạn, nhưng cuối cùng thì chính ngai vàng của tôi mới là thứ mà bạn muốn leo lên.

Ngai vàng của tôi đơn giản nhưng được trang hoàng tráng lệ. Cái nệm dài được nhồi lông của một trăm con phượng hoàng, nâng cao đôi cánh trong trắng của tuổi trẻ. Những chiếc lông được gom về từ một vùng đất xa xôi mà thậm chí tôi không biết tên. Cái bao nệm được dệt tay bởi những em bé Kashmir nhỏ nhất, vừa dệt vừa vui cười, vì chúng biết rằng sản phẩm của chúng sẽ được tôi nằm lên. Khi dệt nệm dưới ánh sáng mặt trời, các em đã nhốt những tia nắng vào giữa các sợi vải khiến cái nệm rực rỡ màu cam vàng của ánh nắng cuối ngày. Trên nệm có những hoa văn được thêu bằng chỉ nhuộm màu máu xanh dương của một loài sinh vật bí ẩn dưới biển sâu; những hình họa cổ xưa mang những thông điệp toán học với những ý nghĩa bí mật dành cho những người am hiểu. Tôi không hiểu bởi vì đơn giản tôi chỉ là một người làm bánh.

Bạn thấy đó, tôi nằm trên giường với tuổi trẻ bất diệt, và những người nằm với tôi cũng sẽ được thưởng thức tuổi trẻ. Đó không phải là cái giường của cuộc sống vĩnh hằng, vì cuộc sống của tôi chỉ vĩnh hằng sau khi tôi chết.

Thỉnh thoảng tôi giả vờ loạn trí, nó đơn giản như một bản năng. Khi tôi còn bé, mẹ thường mắng tôi gay gắt vì những lỗi lầm nhỏ nhất: "Con lấy sữa của em phải không?", "Tại sao con không lau sạch như mẹ bảo?", "Cái khăn quàng mà con mượn của chị đâu rồi?". Tôi chỉ nhìn chằm chằm vào mẹ mỗi khi bị mắng. Tôi nhìn vào mắt mẹ, nhìn xoáy vào mắt mẹ, và nhìn vào một khoảng trống mà tôi biết đã khiến cha cảm thấy cô đơn. Sự im lặng với đôi mắt chằm chằm của tôi khiến mẹ trở nên điên tiết. Khi đó mẹ sẽ hét to hơn, hơi thở gấp rút hơn, vã mồ hôi nhiều hơn, và trước mặt tôi, mẹ trở nên tồi tệ hơn. Tất cả là vì tôi đã nhìn mẹ với chính con người mẹ.

Thường thì mẹ sẽ đánh tôi vì tôi quá lì lợm. Bàn tay đỏ của mẹ tát vào mặt tôi với một sức mạnh gãy cổ. Trước khi rú lên vì đau, tôi sẽ cố gắng kìm lại tiếng khóc vì tôi muốn rèn luyện khả năng chịu đựng bên trong bản thân. Giờ thì những cú đánh không còn xuất phát từ bàn tay nhuộm đỏ lá móng của mẹ nữa, mà từ sức nặng của những chiếc hông đàn ông đập vào hông tôi. Mẹ đã huấn luyện tôi rất tốt, nên bây giờ tôi thực sự có thể sống với chính mình.

Không, tôi không bị loạn trí. Trong một giây, tôi thực sự tin rằng mình nằm mỗi ngày trên một ổ vàng với những người hầu và thức ăn béo kem. Căn phòng của tôi, với những chấn song bằng thép, có kích thước của một phòng vệ sinh. Đó cũng là ngôi nhà của tôi. Bê-tông xám ngày và đêm, những bức tường không bao giờ thay đổi. Bụi từ từ dày lên ở mỗi khe nứt. Khi đàn ông "làm bánh" trên người tôi, cái đệm mỏng đến mức tôi có thể cảm thấy những chiếc kẹp giấy của cuốn sổ cấn vào lưng mình. Lý do duy nhất tôi được cho ăn là để ngực tôi nở ra, mông tròn hơn và gây nhiều ham muốn hơn với những người đem đến cái ăn cho tôi.

Tôi không bị loạn trí, vì tôi biết đàn ông sẽ bỏ ra 100 rupee để cho cái của họ lên mặt hoặc lên chân tôi, hay 200 rupee để cho vào cái miệng thỏ của tôi.

Tôi không bị loạn trí. Tôi không thực sự thấy vàng trên trần nhà khi nhìn lên và cũng không ngửi thấy mùi nước hoa trong không khí. Tôi cũng không ngửi thấy mùi mỡ ôi trong căn phòng hay trên giường mình vì tôi đã quen với nó rồi. Tuy nhiên, tôi thực sự ngửi thấy mùi đàn ông. Không ai đến với tôi mà hoàn toàn sạch sẽ. Ở một số người, tôi ngửi thấy mùi nấu nướng của vợ họ, và ở một số người khác là mùi nước hoa. Ở một số người, tôi còn có thể nếm được vị son môi của ai đó đã đặt lên môi họ vài giờ hoặc vài phút trước tôi.

Tôi thường hay thắc mắc. Tôi không hiểu tại sao ngày luôn tiếp nối đêm trong khi mọi thứ khác có nhiều thay đổi, và cũng không hiểu tại sao vẻ đẹp lại rất đa dạng chứ không giống nhau. Tôi nghĩ hẳn phải có những quyền năng nào đó vượt quá sự hiểu biết của tôi. Nhưng đó không phải là ảo tưởng mà cũng không phải sự điên rồ.

Tôi không bị loạn trí, nhưng có rất nhiều ngày tháng mà tôi ước gì có thể quay trở lại.

***

Tôi đến Mumbai với cha. Một tuần trước khi chúng tôi đi, trong nhà có một sự im lặng đáng sợ và tôi biết có điều gì đó xảy ra. Cha mẹ tôi không cãi nhau bao giờ, và không có mùi nước hoa trên bộ đồ làm việc đẫm mồ hôi của cha. Tôi cũng biết rằng mình có liên quan gì đó tới sự yên lặng này, vì mẹ tỏ ra ân cần với tôi hơn bình thường. Cha thì khác, có một cảm giác buồn lạ lùng giữa hai cha con mà sau này tôi mới nhận ra đó là nỗi ân hận.

Giờ thì tôi là một chuyên gia về nỗi ân hận của đàn ông. Sự ân hận không tuân theo quy luật của tiền bạc. Những người chồng, cha, con trai, linh mục, thầy giáo, bác sĩ, thương nhân, nhân viên ngân hàng, kẻ trộm, chính khách... tất cả đều có những nỗi ân hận. Kể từ ngày cha bộc lộ cho tôi thấy nỗi ân hận của ông, tôi có thể nhận ra nó ở tất cả những người đàn ông tôi gặp. Khi một nông dân trồng đậu cần bảo vệ mùa màng khỏi ánh nắng mặt trời gay gắt, họ che chắn chúng bằng những tấm vải nhựa trắng; mặc dù hứng nắng gió và gần như trong suốt nhưng nó có độ bền rất cao. Toàn bộ cánh đồng được che phủ bằng loại vật liệu này, trông như những cánh buồm khổng lồ. Những cánh buồm trắng lất phất không ngăn cản ánh nắng chiếu vào cho cây trồng lớn lên nhưng có thể giảm bớt cường độ ánh sáng mặt trời. Điều đó cũng đúng đối với nỗi ân hận. Nó là một tấm màn làm giảm nhẹ những cảm giác ray rứt của con người trong thực tế. Chúng ta không thể hoàn toàn tránh được cái nóng của ánh sáng, nhưng chúng ta có thể giấu mình dưới tấm màn để cảm thấy được xoa dịu hơn.

Chúng ta khoác lên người hết lớp áo này đến lớp áo khác, nỗi ân hận, sự giả dối, sự độc ác, sự kiêu hãnh. Cha tôi, một tuần trước khi đưa tôi đến Mumbai, cha đã ẩn mình trong nỗi ân hận.

Tôi chỉ biết mình sẽ đến Mumbai khi tham dự bữa tiệc chia tay của chính mình. Không giống như một bữa tiệc sinh nhật, nó giống một buổi họp mặt của những người đầy ưu tư. Không ai biết phải làm gì hay nói gì, và tôi cũng không được tặng món quà nào. Mọi người ở đó, ngoại trừ tôi, đều biết rằng tôi sắp ra đi. Khi những chiếc bánh ngọt được chuyền tay và những chén súp đậu được húp cạn, chúng tôi không hề bị đốt cháy dưới ánh nắng buổi chiều, vì tất cả mọi người đều được che chắn bởi một lớp màn ân hận rất dày.

Mọi người đều nói tạm biệt với tôi. Các anh, các chị tôi đều khóc, và cậu em trai nhỏ Avijit bật lên nức nở. Khi cố gắng tìm hiểu chuyện gì xảy ra, tôi nghĩ có lẽ mình bị bệnh. Tôi tưởng mình sẽ chết vì một căn bệnh gì đó mà không ai dám nói với tôi.

Khi mẹ giải thích rằng cha sẽ đưa tôi đến Mumbai, tôi nghĩ có lẽ mình cần đến đó khám bệnh, dù bình thường chúng tôi hay đến Bhopal khi có vấn đề sức khỏe nghiêm trọng. Tôi kết luận rằng mình đang bị bệnh gì đó vào giai đoạn cuối. Khi đó thì mọi việc đều có lý: bữa tiệc, nước mắt, sự tử tế của mẹ và sự ảm đạm của cha. Tôi bắt đầu sợ, đó là một điều bất thường với tôi bởi vì tôi là con báo có đôi mắt bạc và chưa biết sợ bao giờ.

Chuyến đi đến Mumbai đòi hỏi một chặng đi bộ khá dài và sau đó là lần đầu tiên tôi được đi xe buýt - chỉ có hai cha con. Tôi nắm tay cha, tán gẫu với cha về bữa tiệc và cười khúc khích về Chú V lại một lần nữa ngủ gục khi đang ăn. Khi đi đến con đường chính, tóc tôi ướt đẫm mồ hôi và đầy bụi, tay tôi không còn nắm tay cha nữa. Trong khi chờ xe buýt, hai cha con chỉ nói với nhau vài câu. Chúng tôi ngồi dưới bóng mát của một cái cây lớn mà có lẽ cả đời nó đã bỏ ra để chờ xe buýt.

Cha ngồi tựa lưng vào gốc cây, hai bàn chân to xù xì choãi xuống lớp cát màu đỏ nâu. Cha nhìn xa xăm nơi những cánh đồng trải rộng với những chiếc áo khoác trắng bay phấp phới. Những cánh đồng điểm xuyết vài rặng cây, có khi chỉ là một cây to đứng lẻ loi và có khi là hai, ba cây nhỏ chụm lại thành một bụi. Trời nóng hừng hực và bầu trời màu xanh xám. Sau mười giây nhìn cha ngồi gập người im lặng, tôi bắt đầu mở bọc đồ ăn mà mẹ cho đem theo. Bên trong cái bọc được gói bằng vải màu xanh đỏ là những món đồ ăn đầy hấp dẫn. Mắt tôi mở to; trong bọc có bánh mì ngọt, bánh mì tròn, tương ớt và nước sốt (tất cả là những thứ còn thừa sau bữa tiệc). Ngon nhất là những cái bánh bột rắc đường, bánh ngọt trắng với những xoáy kem màu xanh lá bên trong, và những viên kẹo đỏ với lớp tinh thể đường lấp lánh bên ngoài. Mỗi món đều được gói cẩn thận và có thể dễ dàng mở ra.

"Batuk", cha tôi lầm bầm, "nếu con ăn hết mọi thứ bây giờ thì con sẽ không còn gì cho cả chuyến đi nữa".

"Mmm...", tôi bắt đầu nhai. Chiếc bánh ngọt trắng với những xoáy kem màu xanh lá quả là ngon tuyệt. "Cha, tại sao mình phải đi Mumbai... con bị bệnh hay sao?"

"Không, Batuk", cha nói bằng một giọng bực bội, "Tại sao con nghĩ vậy? Con không bị bệnh".

Tôi thở phào nhẹ nhõm. Chúng tôi ngồi im lặng vài phút nữa rồi tôi lại hỏi tiếp.

"Vậy tại sao mình phải đi đến đó? Mình sẽ ở đâu?"

"Batuk, rồi con sẽ biết", cha trả lời cộc lốc và tỏ vẻ cáu kỉnh hơn, "Giờ thì im lặng đi và đừng ăn nữa. Xe buýt sắp tới rồi".

Tôi im lặng không hỏi cha nữa.

Tôi quyết định đứng dậy nói chuyện với cái cây. Tôi hỏi cái cây:

"Cây ơi, tại sao cây lại ở đây chờ xe buýt suốt cả cuộc đời mà khi xe đến thì lại không lên xe?"

Ban đầu cái cây im lặng, sau đó nó thô lỗ đáp: "Cô không nghe cha cô nói à? Im lặng chờ xe buýt đi". Ngừng một lúc, sau đó cái cây nhận ra tôi rút lui và để nó lại một mình. Nó hắng giọng: "Batuk, tôi có thể kể cho cô nghe cảm giác như thế nào khi chờ đợi xe buýt suốt đời... nhưng cô bé ạ, tôi khát nước lắm và không thể nói được".

Tôi suy nghĩ một lúc rồi reo lên: "Đợi đã!". Tôi chạy đến gói đồ, chụp bịch nước, quay lại cái cây và tưới nước vào gốc cây.

"Batuk!", cha tôi hét lên, "Con đang làm cái quái gì vậy! Dừng lại! Dừng lại!".

"Nhưng cha ơi, cái cây khát nước lắm, giọng nó khàn cả rồi", tôi trả lời.

Cha nhìn tôi trừng trừng và gương mặt ông bắt đầu đỏ lên. Dường như ông sắp mắng tôi một trận nhưng lại dằn xuống.

"Đến đây nào, con quỷ nhỏ!", cha gọi tôi, giang rộng hai cánh tay. Tôi chạy ào đến nhảy vào lòng cha. Bộ quần áo đi làm của cha đã mỏng tanh sau hàng triệu lần giặt và tôi có thể ngửi thấy mùi nấu nướng của mẹ trên đó. Trong vòng tay cha, tôi cảm thấy mình tan ra và hòa vào người cha, vì tôi chính là của cha. Cha là cha tôi, cha đang đưa tôi, con báo có đôi mắt bạc của cha, trên đường đến Mumbai. Giữa không trung, dưới bóng cây, tôi nhắm mắt lại. Tôi nhận ra nỗi ưu tư của mọi người khi tôi ra đi chỉ vì họ muốn được như tôi lúc này, nằm trong vòng tay cha khi chờ xe buýt.

Cái cây nhìn cha con tôi ngồi ôm nhau. Cái cây nói: "Batuk, sao cô không đến đây với tôi? Tôi có thể dạy cô tất cả những điều bí ẩn trên thế giới. Những chiếc lá của tôi có thể nghe được những tiếng nói, tiếng cười, tiếng khóc của mọi sinh vật sống. Rễ cây của tôi uống nước trên cả trái đất này. Lớp vỏ cây của tôi vẽ bản đồ mở cửa tất cả mọi bí mật kiến thức. Hạt giống của tôi được gieo từ một cây mẹ trên Thiên đường và tôi biết cả tình yêu hoàn hảo. Đến đây, Batuk, hãy rời cha cô, đến đây và tan chảy vào tôi".

"Nhưng cây ơi", tôi nói với cái cây, "cây biết tất cả mọi thứ cần biết, thế nhưng cây vẫn đứng đây chờ xe buýt mà không bao giờ lên xe. Sứ mệnh của cây là gì?"

"Sứ mệnh của tôi", cái cây đáp, "là đem lại bóng mát cho cô".

Tôi suy nghĩ về câu trả lời này mãi một lúc lâu, đến khi cha ngủ gục. Tôi ngọ ngoậy rời khỏi vòng tay cha, chạy đến cái cây và mân mê lớp vỏ sần sùi của nó. Tất cả những gì tôi thấy được chỉ là những con côn trùng bé nhỏ đang bò trên những kẽ nứt. Một số con dường như đang bò có mục đích hẳn hoi, còn những con khác có vẻ chỉ lang thang đây đó, nhưng tất cả chỉ là những con côn trùng nhốn nháo quanh một cái cây lớn.

Tôi nói với cái cây: "Tôi không thể ở lại với cây được. Tôi phải theo cha lên xe buýt đi Mumbai".

Tôi thấy một đám mây bụi từ chiếc xe buýt đang đến. "Cha ơi, cha ơi, xe buýt kìa!". Cha tôi choàng dậy, vội vã thu dọn đồ đạc khi chiếc xe buýt đang từ từ đến gần.

"Tôi còn một điều nữa muốn nói với cô, Batuk", cái cây bảo tôi, giọng không có gì ác ý.

"Điều gì thế?", tôi hỏi.

Cái cây trả lời bằng một giọng nhẹ nhàng đến mức bạn phải tập trung cao độ mới có thể nghe được tiếng nói qua những tán lá: "Tất cả thế giới này, Batuk, được tạo ra để dành cho cô, không một ai khác".

Khi quay lại cha, tôi thấy những giọt nước mà tôi tưới lên rễ cây nay đã bốc hơi lên mặt cha tôi, và đọng lại trên mi mắt của ông.

***

Trước đó tôi chưa từng được đi xe buýt. Tài xế là một người đàn ông mập nhất thế giới, mập hơn cả Chú V. Ông mặc một chiếc áo sơmi xanh nhạt phanh ngực. Ngực ông lớn hơn cả ngực mẹ và có những mảng tàn nhang lốm đốm. Ông như bị chèn vào chiếc ghế tài xế và bạn có thể thấy những cái lò xo bị nén chặt đến mức không bật lên nổi. Chiếc ghế từng được bọc bằng nhựa vinyl đỏ nhưng giờ thì nó mòn vẹt vá víu đến mức những thứ nhồi bên trong lòi hẳn ra ngoài như mủ ứa ra từ một vết thương. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy người tài xế có thể xoay cái bánh lái, vì cái bụng bự của ông đè lên cái bánh lái nhựa trắng chặt đến mức hằn cả da thịt.

Khi chúng tôi leo lên những bậc thang xe buýt, người tài xế quay cái đầu khổng lồ lại và quát lên: "Hai người đang làm cái gì thế hả? Nếu muốn lên thì lên nhanh, còn nếu muốn chết giẫm ở đó thì cút khỏi chiếc xe của tôi". Khi ông nói, hai má ông rung lên, phập phồng như thể có hai cái bánh mì tròn dán dưới mi mắt. "À chúng ta có gì đây hả?", ông hỏi khi nhìn thấy tôi đang líu ríu chạy theo cha. Tôi để ý thấy chỉ có mắt trái ông động đậy. Ông gầm gừ: "Nhóc chuột, mày tên gì?". Ông đã không cạo râu nhiều ngày và tôi dám chắc có thể nhìn thấy nước sốt dính trên cái cằm lởm chởm của ông.

Tôi đáp: "Cháu tên là Batuk".

"Batuk nhóc chuột, cái tên gì ngố thế hả? Cái đuôi của mày đâu?", ông ta cười ha hả với câu đùa vô duyên. Ông quay sang cha tôi: "Mày trông như một kẻ bần tiện - Tao chắc mày muốn ngồi trên mui... nếu con nhóc chuột này té xuống khi xe quẹo thì sẽ đổ máu đấy, nhưng đừng có đến khóc với tao nhé".

Cha đếm tiền trong khi người tài xế nhìn tôi từ trên xuống dưới. Sau đó ông ta cong đôi môi xám ngoét và hỏi: "Mày nghĩ mày có bám chặt được không, nhóc chuột Patook?". Tôi nhìn xuống sàn và nói: "Chắc chắn ông không thể quăng cháu xuống đất nếu ông muốn. Cái xe nát này không chạy nhanh lắm đâu". (Nếu mẹ ở đây hẳn bà đã tát tôi một cái). Người tài xế xoay ghế lại, đó hẳn là một kỳ công vì ông bị chèn rất chặt vào ghế. Thoáng qua đầu tôi một suy nghĩ lạ lùng, người tài xế hẳn không thể rời khỏi chiếc ghế này suốt một thời gian dài vì ông ta thực sự là một phần của chiếc xe buýt, cũng giống như cái ống khói cũ nát. Suy nghĩ đó bị cắt ngang khi ông ta gầm lên: "Mày nói cái quái gì thế hả?".

Khi ông ta gầm lên, toàn bộ chiếc xe run lên bần bật. Ông nhìn quanh các hành khách đang ngồi rải rác, hầu hết mọi người đều tảng lờ nhìn nơi khác. "Thưa các quý bà và quý ông, những hành khách danh dự nhất của IBC, hôm nay, các ngài đang chứng kiến một tình huống thú vị. Nhóc chuột Patook không tin là tôi có thể đánh văng cô ta khỏi xe... Tất cả những gì tôi có thể nói là cô ta nên chuẩn bị tinh thần đi bộ đến Mumbai. Khi có một con chuột trong xe thì chắc chắn tôi sẽ tống nó ra ngoài". Ông ta cười to, tôi có thể ngửi thấy mùi cà-ri mà ông ta đã ăn từ lâu lắm. Một vài hành khách nông dân huýt sáo và vỗ tay. Nhưng cha tôi lên tiếng, một người đàn ông thấp nhỏ, ốm yếu đứng trước một con trâu mộng khổng lồ. Cha nói bằng một giọng vừa đủ nghe với một tốc độ chậm rãi. "Thưa ông", cha bắt đầu, và bạn có thể cảm thấy những cái cây cũng đang lắng nghe ngoài cửa sổ. Sau mỗi từ rời khỏi môi cha, tôi cảm thấy càng nghi ngờ hơn. Cha nói: "Ông hoàn toàn có thể lái chiếc xe buýt này một cách liều lĩnh đến mức gây nguy hiểm cho cuộc sống của một cô bé chín tuổi. Nhưng nếu ông gọi con gái tôi là nhóc chuột một lần nữa, tôi sẽ cắt lưỡi ông và bỏ nó vào hộp cơm trưa của ông".

Nếu có ai báo trước với tôi những gì xảy ra tiếp theo, tôi sẽ không bao giờ tin được. Gần như ngay lập tức, cha rút ra một con dao khukri từ sau lưng, thậm chí tôi còn không biết cha có con dao đó. Đó là một con dao quắm mà cha dùng trên cánh đồng để cắt cây con, đào đất và chém rắn. Điều khiến tôi ngạc nhiên nhất là sự kiên định của cha khi cha kê lưỡi dao dài hơn hai tấc vào cái cổ lún của người tài xế với vẻ sẵn sàng dùng đến nó. Tay ông không hề run và mắt ông không biểu lộ cảm xúc gì ngoại trừ sự bình thản lạnh lùng. Người tài xế xe buýt gần như nín thở cùng với sự im lặng tuyệt đối trên xe, ngay cả lá cây bên ngoài cũng ngưng xào xạc.

"Đến Mumbai đi", cha nói nhỏ với người tài xế, và khi ông hạ dao xuống, người tài xế gục gặc đầu. Cha mua hai vé hạng ba, loại vé tốt nhất. Bạn có thể ngồi phía trước xe buýt và nhìn ngắm mọi thứ. Khi chiếc xe lăn bánh, tôi vẫy tay tạm biệt cái cây.

Chuyến đi dài đến Mumbai là một phép màu. Cha con tôi cùng ngắm Madhya Pradesh từ từ biến mất. Chúng tôi chỉ trỏ mọi thứ cho nhau xem: một con kền kền, một con ngựa chết, những con bò còm cõi, và những người trông rất ngộ nghĩnh. Chúng tôi uống nước quả ở các trạm nghỉ, thỉnh thoảng ngủ lơ mơ, và ăn hết tất cả những thứ mang theo. Cha cười nhiều. Tôi nghĩ mình đã không thực sự hiểu cha như một người đàn ông mà chỉ biết cha là một người cha mà thôi. Cha là một người bốc đồng và đam mê; rất nhiều cá tính của ông mà tôi không biết đến. Tình yêu vô biên, vô hình, vô điều kiện của ông dành cho tôi đã bộc phát thành một hành động bạo lực nhất thời. "Cảm ơn cha", tôi nói khi cha cho tôi một miếng xoài mà ông đã cắt bằng con dao khukri.

***

Cha e rằng báo cáo của người tài xế bị đe dọa về con dao sẽ đến Mumbai trước chúng tôi. Khi chiếc xe dừng ở trạm xe buýt cuối cùng ở ngoại ô Mumbai, chúng tôi xuống xe và hòa vào dòng người.

Chúng tôi bước vào một khu vực đầy những túp lều tạm. Những túp lều này trông giống ở quê tôi đến mức tôi dám chắc nhiều người sống ở đây cũng đến từ những ngôi làng như làng tôi. Có những dòng suối và những con lạch nhỏ uốn quanh những túp lều này. Tại sao người ta lại rời bỏ cánh đồng đến đây? Chó, mèo và những con chuột xơ xác đào bới thức ăn cũng giống như những người chủ hai chân của chúng. Không khí nóng ẩm, đầy mùi rác thối và phân người. Một dàn hợp xướng tiếng chó sủa, tiếng gỗ mục răng rắc, tiếng nghiến bánh xe những chiếc xe bò, cùng với tiếng nói chuyện rì rầm của mọi người.

Không có chỗ ngủ, cha tìm một khoảng trống nhỏ giữa hai túp lều của hai gia đình và mở tấm chăn màu hạt dẻ mà cha mang theo. Cả hai gia đình im lặng ngồi nhìn và không ai phản đối sự chiếm đóng của chúng tôi. Cha bảo tôi đợi cha đi tìm thức ăn. Tôi đã ngồi trên xe buýt suốt ngày và tôi rất mệt. Tôi nằm trên tấm chăn, nhìn những hoa văn chữ chi màu trắng đâm ngang bầu trời màu hạt dẻ. Tôi không suy nghĩ gì cả. Mũi tôi đã quen với mùi hôi, và bầu trời tối dần.

Đột nhiên, trước mắt tôi xuất hiện hai cái mắt cá chân mảnh khảnh và tôi ngước lên. Một cậu bé trạc tuổi tôi đứng nhìn tôi chằm chằm như thể cậu ta vừa phát hiện một miếng kim loại lạ trên sàn. Tôi cảm thấy cậu ta đang suy nghĩ xem có thể sử dụng tôi vào việc gì. Quần áo của cậu ta là những mảnh giẻ rách, trong khi quần áo của tôi vương chút bụi đường nhưng vẫn sạch sẽ. Cậu ta nghiêng đầu qua phải, nhíu mày, lấy hơi định nói gì đó nhưng lại thôi. Sau đó cậu ta quay lưng biến mất vào biển lều mà không nhìn lại. Tôi ngồi dậy nhìn cậu ta chạy đi. Tôi có cảm giác hành động của cậu ta cũng giống như một con chó đánh hơi một đống rác, nhận ra không có gì để ăn nên bỏ đi chỗ khác. Đó là hành động của một người đói chứ không phải sắp chết đói. Người sắp chết đói sẽ nằm gục và chuẩn bị chết. Còn người đói thì lùng sục tìm kiếm thức ăn.

***

Anh ấy đây rồi, Puneet. Lần đầu tiên sau nhiều ngày, Puneet rời cái ổ của anh ở Đường Chung. Trong khi chờ làm bánh, chúng tôi được phép qua thăm ổ của nhau dưới cái nhìn vàng vọt của bà Hà Mã. Puneet đi dường như hơi khập khễnh. Anh không trang điểm và khi nhìn thấy tôi, anh nhoẻn miệng cười. "Batuk, Batuk!", anh chạy về phía tôi bất chấp sự khó khăn mà tôi có thể nhìn thấy trong mắt anh. Tôi quăng cuốn sổ và cây bút chì cụt ngủn xuống đất (tôi sẽ phải giải quyết vấn đề này) rồi chạy băng đến anh. Tôi ôm anh thật chặt và, ồ, anh bắt đầu hơi có mùi đàn ông. Chúng tôi cùng mở miệng nói một lúc và cùng bật cười.

Tôi thì thầm vào tai anh: "Nè, cẩn thận, đừng tỏ ra mạnh khỏe lắm, hoàng tử của em, nếu không thì hôm nay anh sẽ phải làm bánh đó".

Puneet tỏ ra hạnh phúc khi ôm và lắc lư tôi trong tay anh. "Bà Hà Mã nói đằng nào tối nay anh cũng phải làm việc, vậy việc gì phải lo chứ", anh nói, "Anh cũng cảm thấy khá hơn nhiều rồi". Nụ cười của anh dãn rộng gương mặt khôi ngô, đôi má hồng hồng của một cậu con trai đã không còn nữa.

Tôi vẫn ôm chặt anh: "Em nhớ anh nhiều lắm". Tôi cười nhẹ và nhìn vào mắt anh.

"Không nhiều bằng mấy ông khách hàng của anh đâu", anh trả lời.

"Puneet!", tôi la lên, giả vờ giận dữ, "Sao anh lại có thể nói như vậy, hoàng tử của em... Anh... anh...", tôi không biết nói thế nào nhưng anh hiểu.

Anh ôm tôi trong vòng tay và cười với tôi: "Anh biết em muốn hỏi gì mà. Em muốn biết anh có thể tiếp tục lắc mông kiếm tiền không chứ gì?", anh nhe răng cười, "Bác sĩ nói anh khỏe rồi... Em thấy bà Mamaki cười sung sướng không?"

Chúng tôi không nói nữa, anh buông tôi ra. Chúng tôi nắm hai tay nhau thành một vòng tròn và nhìn nhau. Anh hất đầu về cuốn sổ và hỏi: "Em làm gì với cuốn sổ và cây bút chì đó... Em đang ghi sổ cho anh à?"

"Không", tôi nói với một chút kỹ xảo làm đỏ hồng đôi má, "Em đang viết".

"Ồ, anh không biết là em biết viết chữ, con cáo nhỏ à. Em đang viết gì đó?", anh hỏi.

"Em đang viết về việc em đã đến Mumbai và rơi vào cạm bẫy tình yêu của anh như thế nào, Hoàng tử Puneet trong giấc mơ của em".

Puneet ngẩng đầu cười to, tiếng cười trong vắt. Anh nói: "Batuk, em là bộ óc của anh, trái tim của anh, bàn tay của anh. Em biết em là tình yêu duy nhất của anh. Cuốn sổ đó không bao giờ có thể chứa đựng hết dù chỉ một phần tình yêu anh dành cho em".

Tôi lảng đi: "Không lâu nữa đâu, anh yêu, anh sẽ có thể yêu em như một vị vua chứ không còn là một hoàng tử nữa". Ánh mắt tôi hạ từ ngực anh xuống phía dưới.

Anh không hề ngượng ngùng và trả lời bằng một tiếng cười to. "Cái này", anh chỉ tay vào hạ bộ của mình, "chỉ dành cho em thôi, em yêu à".

Puneet chộp cuốn sổ của tôi rồi chạy về cái ổ của anh. Anh ngồi xuống, mở cuốn sổ ra và lật từng trang một, nhíu mày và gục gặc đầu. Rồi anh ngẩng lên nhìn tôi: "Em nói là anh rất tuyệt diệu và đẹp trai".

"Ồ, chưa hết đâu", tôi đáp, "Anh lật sang trang kế bên đi... Anh thấy không? Em viết là anh đã soạn nhạc cho thần Shiva và ông ấy cũng đem lòng yêu anh rồi".

Anh lật sang trang kế bên, nhìn chằm chằm rồi gật đầu. Tôi cười to: "Em biết là anh không biết đọc, anh ngốc xinh đẹp ạ". Anh gấp cuốn sổ lại, nhảy dựng lên và tìm cách phát cuốn sổ vào mông tôi.

"Ngốc hả - em dám gọi anh thế hả... Em sẽ phải trả giá đấy!".

Anh chộp lấy tôi và đôi mắt tôi nhảy múa cùng anh.

Đó là cách mà chúng tôi thường nói chuyện với nhau, hai người cùng làm đĩ trên Đường Chung ở Mumbai.

***

Tôi ngủ quên trên tấm chăn hạt dẻ khi cha quay lại với một tô cơm, thịt mỡ và bánh mì. "Quả là một thành phố tuyệt vời", cha nói kèm theo một nụ cười mãn nguyện, "Tất cả những thứ này và một ly bia chỉ 5 rupee". Cha không mang bia về. Sau khi chúng tôi cùng ăn, hai cha con nằm xuống tấm chăn. Cha ôm tôi nằm cuộn tròn, lưng tôi áp vào bụng cha. Tôi ngủ ngon, mơ màng trên một biển người bới rác tìm thức ăn.

Tôi tỉnh dậy khi ánh nắng mặt trời gay gắt chiếu vào mắt. Sau khi dụi mắt, tôi thấy cha đang lo lắng dọn đồ chuẩn bị đi. Chúng tôi có một cuộc hẹn quan trọng và rõ ràng không được phép đi trễ. "Cuộc hẹn quan trọng", cha đã nói thế. Khi cha dắt tay tôi đi vào thành phố, trông cha thật bé nhỏ. Ngược lại, tôi như bị mê hoặc. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy những chiếc xe hơi xếp hàng với những con người ngồi trong. Họ nhấn còi inh ỏi. Không hiểu sao trẻ con lại mặc đồng phục? Chúng bị bỏ tù ư? Cha con tôi lạc đường mấy lần. Mỗi lần đi lạc, chúng tôi lại có nhiều thứ để xem. Có lúc, tôi như bị hút hồn với những hoa văn trên lề đường lát đá; tôi nhìn thấy những hình ảnh ẩn hiện đây đó và cố gắng tìm hiểu những bí mật của chúng. Màu sắc rực rỡ khắp nơi - những chiếc áo khoác đủ màu khi mọi người chen chúc trên những chiếc xe buýt bé xíu, những bộ quần áo và khăn quàng sặc sỡ phơi trên sân các hiệu giặt ủi, hàng hóa đa dạng trong các cửa hàng, và ngay cả những đống rác cũng có nhiều màu sắc. Không khí thành phố không chỉ tràn ngập đủ thứ mùi, khói, bụi, mà còn tràn ngập màu sắc.

Cha đi rất nhanh khi chúng tôi đi giữa thành phố và nhiều lần tôi suýt lạc mất cha, không phải vì ông đi nhanh quá, mà bởi vì tôi muốn dừng lại để nhìn ngắm mọi thứ. Có lúc, tôi đứng sững ngước nhìn một đoàn tàu đầy hành khách băng qua thành phố trên những đường ray bắc ngang không trung. Tôi có cảm giác đoàn tàu đang bay qua bầu trời. Tôi đứng nhìn, tưởng tượng ai đó sẽ rớt xuống, nhưng không ai rớt cả. Cha phá vỡ giây phút tưởng tượng này bằng cách kéo mạnh tay tôi, và một lần nữa, chúng tôi lại bị lạc đường.

Sau khi bị lạc gần mười lần và cha bắt đầu bực bội, chúng tôi mới đến nơi cần đến. Tôi quên cả mệt mỏi, theo cha leo lên những bậc thang bằng đá màu nâu nhạt. Những bậc thang cao đến mức tôi gần như phải nhảy lên mới tới. Cha nắm chặt một mẩu giấy nhỏ nhàu nát ghi địa chỉ như một con chim ngậm chặt con châu chấu.

Leo hết cầu thang, tôi thấy một cánh cửa cao màu nâu sẫm có cái nắm tay bằng kim loại hình tròn to gần bằng đầu tôi, móc vào miệng một con sư tử màu sẫm cũng bằng kim loại. Cha nhấn chuông và một phụ nữ trẻ mở cửa, rõ ràng cô phải dùng hết sức mới có thể kéo được cánh cửa ra. Khi chúng tôi bước vào, tôi quay lại nhìn người phụ nữ tì vai vào cánh cửa để đẩy nó đóng lại. Chúng tôi đứng trong một hành lang dài và tối, được soi sáng bởi một ngọn đèn thủy tinh duy nhất leo lét trên trần. Sàn đá được phủ một tấm thảm màu vàng và đỏ. Bên trái có hai cái ghế dựa vào tường, chính giữa là một cái bàn dài và hẹp. Trên bàn có một hộp gỗ, chạm khắc một thứ kim loại lấp lánh như vàng.

Đầu hành lang bên kia có một tấm màn dài phủ từ trần nhà xuống sàn. Chúng tôi đứng giữa hành lang, sau lưng là một cánh cửa đóng và trước mặt là một tấm màn.

Một giọng nói trầm trầm vang lên từ phía sau tấm màn, sâu bên trong tòa nhà: "Anh đến trễ, anh Ramasdeen. Chúng tôi đợi anh từ trước bữa trưa". Cha tôi nói to lời xin lỗi với người đàn ông phía sau tấm màn, tuy còn chưa xuất hiện nhưng rõ ràng ông ta đang vội vã tiến lại. Tôi có thể nghe tiếng thở và tiếng bước chân nặng nhọc của ông ta đến gần.

Ông chủ Gahil, như sau này tôi được biết đó là tên ông, vạch tấm màn đỏ ở cuối hành lang. Trên tấm màn treo những chiếc chuông và những chiếc gương bạc nhỏ nên khi bước vào, sự xuất hiện của ông tạo ra những tia sáng lấp loáng và tiếng kêu leng keng. "Cô bé đây rồi", ông nói như reo lên. Nhìn tôi từ trên xuống dưới, gương mặt ông tỏ vẻ hài lòng. Tôi có cảm giác như ông sắp sửa ăn thịt mình.

Ông chủ Gahil quay đầu lại kêu lên với tấm màn: "Kumud, đến đây ngay. Cháu gái bé nhỏ của ta đã đến từ cánh đồng và cô bé rất bẩn". Ông chú mà tôi chưa từng biết trông rất đẫy đà và bệ vệ, ra vẻ người quan trọng. Ông mặc một loại quần áo mà tôi chỉ nghe đọc trong truyện kể, bộ quần áo nhiều lớp và có viền vàng. Áo trong của ông màu trắng và lớp áo giữa bằng nhung đỏ. Kế đến là một chiếc áo ngắn dệt tay và một chiếc áo choàng nhẹ màu trắng với những hoa văn khó hiểu thêu chỉ vàng lấp lánh. Nhìn tổng thể, ông là một trái banh sặc sỡ được thêu hoa cẩn thận.

Một phụ nữ già gù lưng lê bước vào phòng, chân bà như trượt trên tấm thảm với những âm thanh như người ta miết tay vào vải len. Bà cắm đầu xuống đất và ngay cả khi tiến về phía Ông chủ Gahil, bà vẫn di chuyển với sự chậm chạp của tuổi già. Chiếc áo sari xanh cũ kỹ dường như được may bởi một phụ nữ hiểu rõ vị trí đơn giản của bà trong thế giới này.

Vẻ ngoài của người phụ nữ khiến tôi liên tưởng đến một con chó già đang van xin chủ một cục xương. Ông chủ Gahil ra lệnh cho bà như thể ra lệnh cho một con chó: "Kumud, đưa bé Batuk đi tắm rửa sạch sẽ. Và bảo bác sĩ Dasdaheer sáng mai đến đây". Ông nhìn tôi từ trên xuống và mỉm cười một lần nữa. Ông quay lại quát lên: "Đi đi!" và xua bà già đi bằng một cái vẫy tay. Bà từ từ quay lại và chậm chạp bước về phía tôi. Với một động tác thuần thục, bà chộp cổ áo tôi và kéo tôi đi theo bà về phía tấm màn. So với bề ngoài của một bà già, sức khỏe của bà thật đáng ngạc nhiên.

Đột nhiên cha tôi thét lên: "Batuk, lỗi của cha; cha đã mất hết... con ơi, đợi đã..." và lao về phía tôi. Ông chủ Gahil gầm lên: "Anh cần phải nghĩ trước về chuyện này, anh Ramasdeen. Anh quyết định trễ rồi. Chúng tôi còn công việc cần làm và tôi phải ra ngoài tối nay". Quay sang người hầu đang lê bước, ông nói to: "Bà già, đem cô bé đi ngay. Tôi không có thời gian cho chuyện vớ vẩn này".

Khi Ông chủ Gahil nhét cái bì thư dày cộm vào bàn tay căng cứng của cha, tôi bắt gặp một biểu hiện quen thuộc trên gương mặt cha. Tôi nhận ra nó ngay lập tức từ sau chuyến đi đến vị bác sĩ mà cha đã ngụy tạo ra để giấu mẹ đến thăm "cô em họ" xức nước hoa mùi oải hương: sự ghê tởm chính mình bị lấn át bởi lòng tham. Khi tôi quan sát sự yếu đuối của cha mình, ánh mắt chúng tôi chạm nhau và từ ông, tôi như cảm thấy một nụ hôn của thần chết. Tôi sợ chết khiếp khi cảm thấy ông đang kéo tôi lại trong tuyệt vọng.

Nhưng mối nối tâm linh của chúng tôi đã bị đứt. Trong cơn hoảng loạn bất ngờ, tôi bị áp đảo bởi sức mạnh đáng ngạc nhiên của bà già và bị kéo xềnh xệch về phía tấm màn. Những lời cuối cùng tôi nghe được từ cha tôi là: "Batuk... con gái ơi... con báo có đôi mắt bạc của cha...". Và những lời cuối cùng mà cha nghe tôi nói là: "Cha ơi, cứu con... Con xin cha..."

***

Khi Puneet chưa khỏe hẳn, tôi đoán trước mình sẽ được bà Mamaki chú ý nhiều hơn bình thường. Tôi đã đoán đúng, nhưng tôi không tính toán được hết những ảnh hưởng của nó. "Con gái ơi, giờ thì ta có nhiều thời gian để quan tâm đến con hơn", đó là cách bà Mamaki diễn tả tình trạng này. Tôi nghe lỏm được vài cuộc nói chuyện của bà Mamaki với Ông chủ Gahil và nhận ra bà Mamaki muốn mức thu nhập của bà không bị cắt giảm, mặc dù Puneet còn đang bị ốm. Một buổi chiều, tôi nghe Gahil nói với bà Hà Mã: "Con biết, mẹ Briila yêu dấu, con biết rất khó khăn khi cậu bé không làm việc được, và con rất cảm ơn mẹ đã dành nhiều thời gian cho các em. Nhưng mẹ phải hiểu là con điều hành công việc, con có nhiều trách nhiệm và nghĩa vụ. Ngay cả thu nhập của con cũng bị cắt giảm khi cậu bé không làm việc... Và vì vậy nên mẹ Briila, mẹ cũng phải bị cắt giảm". Trong mười phút sau khi Ông chủ Gahil bỏ đi, bà Mamaki ra đường phỉnh phờ những người đàn ông về những hứa hẹn lạc thú bất ngờ. Bà tăng gấp đôi số tiền thưởng cho các tài xế taxi đưa khách đến chỗ chúng tôi, thường là với một hoặc hai chuyến du ngoạn trên giường của chúng tôi. Chúng tôi vô cùng bận rộn. Cảm ơn trời Puneet đã trở lại làm việc.

Ban đầu, làm bánh không phải là công việc mà tôi muốn trở nên xuất sắc. Tôi chỉ xem đó như một phương tiện sống. Đàn ông leo lên giường tôi, tôi cởi áo anh ta ra và bùm, thế là xong. Người kế tiếp. Tuy nhiên, khi ngày càng chín chắn hơn, tôi nhận ra sai lầm của cách làm việc này.

Hãy suy nghĩ theo cách này. Giả sử mẹ bạn bảo bạn giặt đồ cho các anh em và cho chính mình. Bạn muốn hoàn thành công việc càng nhanh càng tốt để có thể đi chơi. Vì vậy nên bạn ôm đống đồ và chạy xuống sông với một thanh xà phòng. Bạn quẳng đồ xuống nước và giặt chúng càng nhanh càng tốt. Sau đó bạn vắt đồ, phơi chúng lên một hòn đá nóng cho khô, và khoảng một hay hai giờ sau, bạn gom đồ mang về nhà và quăng một đống giữa phòng. Quần áo đã được giặt! Xong! Thế nhưng mẹ bạn sẽ mắng bạn: "Tối nay con không được đi chơi vì con giặt quần áo dơ lắm". Cái tát trên má bạn vẫn còn hằn rất lâu ngay cả sau cơn đói vì bị phạt nhịn thêm một bữa tối.

Bây giờ, hãy nhìn theo một cách khác. Mục đích vẫn vậy: "Batuk, đi giặt đồ đi". Nhưng lần này tôi quyết định làm mọi việc một cách xuất sắc. (Tại sao? Bạn có thể hỏi. Hãy chờ xem). Tôi mang đồ ra bờ sông và chia thành hai phần. Những món đồ nào có những vết bẩn quá dơ sẽ được để riêng một bên, còn những món đồ tương đối sạch thì được để qua bên kia. Sau đó tôi giặt tất cả quần áo và đặc biệt cố gắng với đống đồ dơ, cũng như cẩn thận hơn với những món đồ bằng vải mỏng để chúng không bị rách. Sau khi xả thêm vài lần và vắt khô, tôi phơi chúng trên đá rồi nằm ngủ một giấc. Khi ngủ dậy, tôi cẩn thận phân loại và xếp đồ, quần một xấp, áo một xấp, rồi mang chúng về nhà. "Mẹ ơi, xem này", tôi sẽ reo lên, "Con đã giặt sạch vết bẩn khỏi chiếc áo của mẹ..." Mẹ sẽ nhìn đống đồ được xếp gọn gàng và mỉm cười, nựng má tôi và hôn lên đầu tôi. Buổi tối hôm đó, bạn sẽ thấy đĩa mình có một miếng thịt to và không khí trong bữa ăn tối rất vui vẻ. Và mẹ sẽ nói: "Con gái, ngày mai con đi chơi đi. Em con sẽ giặt đồ".

Giờ thì bạn hiểu rồi đó. Trong cả hai trường hợp, tôi đều hoàn thành công việc. Nhưng trong trường hợp thứ nhất, tôi phải giặt đồ đến hai lần, bị đánh và phải nhịn đói đi ngủ. Trong trường hợp thứ hai, tôi có thể đánh một giấc nguyên cả buổi chiều, được một bữa no vào buổi tối và lên giường với một nụ hôn trên trán. Tôi rất ghét giặt đồ, nhưng giữa hai lựa chọn thì lựa chọn thứ hai vẫn dễ chịu hơn.

Với đàn ông cũng vậy. Một mặt, bạn có thể nhìn họ như một mục tiêu thuần túy, nhiệm vụ duy nhất của bạn là làm bánh mà không cần quan tâm dáng vẻ hay mùi vị của nó. Bánh đây - 100 rupee. Mặt khác, bạn cẩn thận chuẩn bị các thành phần, khiến chúng trở nên hấp dẫn, đa dạng và bắt mắt. Sau đó, hãy để người làm bánh nếm thử từng hạt đường cho đến khi họ trở nên thèm khát vị ngọt của nó. Giả sử bạn dạy họ cách nhào bột, và từ từ hướng dẫn họ cách đập trứng, thêm đường, thêm màu... từng chút một... Khi đó họ sẽ biết là bột nhào càng kỹ thì bánh sẽ càng ngon. Ít lâu sau, họ biết kiên nhẫn hơn, mua nhiều loại gia vị hơn và bỏ công chuẩn bị lâu hơn. Khi đó giữa họ và bạn sẽ có cảm giác đồng điệu hơn. Với tất cả thời gian chuẩn bị này, họ sung sướng nhìn bột dậy lên và sẵn sàng bỏ thời gian lâu hơn cho giai đoạn nấu nướng. Thậm chí đôi khi họ không cần đợi nướng bánh xong vì họ đã thỏa mãn. Với những người kiên nhẫn chờ đợi, khi bánh ra lò, họ sẽ cảm thấy thật khoan khoái và dễ chịu. Họ ra về với nụ cười. Sau này, họ sẽ trở lại để làm những cái bánh thú vị hơn và cũng chuẩn bị trả tiền nhiều hơn để có thể làm được những cái bánh ngon nhất trong đời. Bằng cách nâng cao kinh nghiệm làm bánh của mình, tôi khiến bà Mamaki vui vẻ đến mức bà thường xuyên cười và hôn tôi, cho tôi quần áo đẹp hơn, đồ trang điểm tốt hơn và thức ăn ngon hơn. Quan trọng nhất, khi thời gian làm một cái bánh kéo dài hơn thì tôi sẽ phải làm ít bánh hơn - bởi vì tôi ghét làm bánh với đàn ông, rất ghét.

Hôm nay, tôi viết bằng bút bi. Một trong những người làm bánh yêu mến của tôi luôn đến đây vào cùng một ngày mỗi tuần, đều đặn như một cái đồng hồ. Như nhiều khách hàng khác, ông ta đối xử với tôi như thể tôi là một đứa cháu gái đáng yêu hay thậm chí là con gái của ông. Vì biết bà Mamaki đang gặp khó khăn về vấn đề thu nhập nên tôi cố gắng làm một chiếc bánh lâu nhất, ngon nhất mà bạn có thể tưởng tượng được. Sau đó, tôi chải tóc cho ông, mái tóc chỉ lơ thơ vài cọng, và rồi ông chuồi vào chiếc áo khoác chuẩn bị đi.

Bỗng tôi nhìn thấy một cây bút bi xanh trong túi áo ông. Tôi thở gấp. Ông hỏi: "Chuyện gì thế cưng?". Tôi giải thích mong ước của mình.

Ông rất bất ngờ: "Chỉ một cây bút Biro đơn giản ư? Cưng muốn nó sao?".

"Dạ vâng, vâng".

"Được thôi, cưng lấy đi".

Một cái hôn. Ông ra về. Tôi giấu cây bút dưới tấm thảm. Nó là của tôi. Bà Mamaki lao vào. Ngừng một chút. Một nụ cười toác miệng. "Batuk - con gái yêu - con là đứa mà ta yêu mến nhất". Một cái hôn. Một cái ngửi vào cơ thể mùi mỡ ôi của bà. Bà đi ra. Cây viết đã được an toàn.

***

Thật sự khó có thể nói rằng tôi đã kiệt sức trong thời gian Puneet nghỉ ốm. Nhưng dĩ nhiên là tôi có giả vờ như thế. Khi Puneet quay lại làm việc, tất cả chúng tôi đều hài lòng. Hơn nữa, anh cũng có vẻ hạnh phúc khi lấy lại được vị trí số một của mình. Là người con trai duy nhất trong sáu chúng tôi - mà cũng là người con trai trụ lâu nhất trên cả con đường này, Puneet có giá trị gấp hai hoặc ba lần chúng tôi. Những người muốn làm bánh đôi khi phải xếp hàng đợi anh; anh là một thỏi nam châm có sức hút mãnh liệt. Nhưng anh cũng rất khờ khạo.

Lý lịch của Puneet đơn giản hơn tôi. Gia đình anh từ cánh đồng dọn đến Mumbai khi anh còn rất nhỏ; anh là con út trong gia đình. (Còn tôi là con thứ hai, nhưng là con gái lớn nhất). Anh kể với tôi rằng lúc còn nhỏ, anh là một cậu bé rất xinh xắn, điều này tôi có thể dễ dàng tin được. Gia đình tan vỡ khi cha anh bị bắt vì tội ăn trộm ở một công trường xây dựng. Cha anh trộm gỗ (trộm đến 47 tấm ván, di chuyển chúng bằng tay không) và bán lại cho một nhà thầu xây dựng khác. Ông bị bắt bỏ tù. Mẹ Puneet không còn gì khác để nuôi 3 đứa con nhỏ ngoại trừ nhan sắc của bà; thậm chí bà không có đủ tiền để mua vé xe buýt quay về làng. Vì vậy nên bà kết bạn với những người đàn ông cô đơn để kiếm tiền nuôi con. Một buổi tối, bà ra ngoài với một người bạn thân giàu có và không bao giờ quay lại nữa. Puneet còn nhớ người bạn của mẹ anh mặc áo vest trắng, đeo dây nịt bạc và cho bọn trẻ rất nhiều kẹo mỗi khi đến nhà. Kể từ hôm đó, Puneet trở thành trẻ mồ côi.

Có lẽ vì cha mẹ anh khờ khạo nên Puneet cũng rất khờ khạo. Trong năm làm việc đầu tiên, Puneet thường xin thêm hoặc thậm chí trộm tiền của khách hàng. Anh kể với tôi rằng thỉnh thoảng anh hỏi thẳng họ: "Thưa ông, cho tôi thêm chút đỉnh!". Đôi lúc, khi họ đang ngủ, anh móc bóp họ lấy trộm vài trăm rupee rồi trả cái bóp về chỗ cũ. Dĩ nhiên anh luôn kể cho tôi nghe; anh nói khi nào để dành được một ngàn rupee, anh sẽ chạy trốn đến Anh hoặc Mỹ. Tôi cười to trêu chọc anh: "Chắc anh sẽ mua được một chiếc máy bay ở Đường Kẻ Trộm đấy". "Chà, công chúa ơi", anh trả lời, "những người có tài như anh kiếm được rất nhiều tiền ở Mỹ. Như em thì chỉ có thể ngồi nhìn thôi". Nhiều lần anh kể với tôi về giấc mơ nước Mỹ, nhưng tôi biết đó chỉ là giấc mơ.

Và kết cục lúc nào cũng giống nhau: bà Mamaki luôn tìm ra kho tàng bí mật của anh. Thật khờ khạo, anh sẽ giấu một đống tiền ở đâu trong cái ổ bằng hạt đậu này? Anh có thể giấu một cuộn giấy bạc ở đâu trong người anh? Sao anh không hiểu rằng chỉ cần một người khách "méc" với bà Mamaki là bà ta sẽ tiến hành khám xét anh? Puneet dễ đoán đến mức bà Mamaki có thể đợi vài tuần sau mới kiểm tra phòng anh. Dù sao thì cuối cùng anh cũng không còn gì cả.

Điều tôi cảm thấy khó hiểu là sự ở lại của Puneet - vì anh không nhất thiết phải ở lại. Puneet, một cậu bé mười bốn tuổi với những cơ bắp đang định hình và một con đường trước mặt. Anh có thể trốn khỏi bà Hà Mã lẫn các quản lý khác cũng như Ranjit, người canh gác tàn bạo. Một khi đã thoát ra ngoài, không ai có thể nhận ra Puneet giữa hàng ngàn cậu bé trong thành phố. Và nếu rời khỏi Mumbai thì anh sẽ biến mất.

Lần duy nhất Puneet có vẻ buồn là sau khi anh bị khám xét và bị lấy hết tiền. Khi đó, tôi hỏi anh: "Sao anh không trốn đi? Anh làm được mà". Anh luôn luôn trả lời: "Công chúa của anh, làm sao anh sống nổi nếu không có em bên cạnh?"

Anh khờ khạo và hèn nhát. Anh sợ đối mặt với tự do và cũng sợ phải kết thúc cái vòng tròn mà anh và bà Mamaki đã dựng nên. Anh biết bà sẽ tìm ra khoản tiền mà anh đã giấu, cũng như bà Mamaki biết anh sẽ giấu tiền. Anh biết bà ta cần anh và có lẽ đó cũng là phần nào lý do.

Sau khi hai người cảnh sát lạm dụng anh, tôi đoán khi bình phục, chắc hẳn Puneet sẽ nghĩ đến việc chạy trốn. Thế nhưng mọi chuyện hoàn toàn ngược lại. Anh tỏ ra vui vẻ hơn bao giờ hết. Anh tươi tắn hơn, yêu đời hơn trong bộ sari màu đỏ tươi viền vàng, đôi mắt trang điểm màu xanh nhạt và đôi môi hồng đào. Tôi nhìn anh đứng vén rèm đón khách, thân ái như một người bạn cũ. Tôi nín thở đợi nghe tiếng Puneet hét lên, nhưng không, không có âm thanh gì cả. Cơ thể con trai cường tráng của Puneet như đã chìm vào cái ổ của mình. Như một món đồ quá thân quen, anh thuộc về nơi này, nhưng anh quên rằng những món đồ cũ có thể bị quẳng đi trong một giây để thay thế bằng một món đồ mới.

Đó là buổi tối hôm qua. Thế giới vẫn có thể thay đổi trong một ngày, hay thậm chí một giây.

***

Trong thời gian Puneet nghỉ ốm sau khi bị hai cảnh sát hành hung, Ông chủ Gahil và bà Mamaki nói chuyện với nhau rất nhiều lần, đa số các cuộc nói chuyện của họ, tôi đều tình cờ nghe được, vì cả hai người này đều không có khả năng nói chuyện nhỏ nhẹ. Hầu hết các cuộc thảo luận xoay quanh vấn đề thu nhập giảm sút do Puneet bị ốm. Nhưng một buổi tối nọ, sau một ngày làm việc dài, ông Gahil nói chuyện khá lâu với bà Mamaki về Puneet. Rõ ràng việc Puneet sắp dậy thì khiến ông Gahil lo ngại, trong khi bà Mamaki tỏ ra ít quan tâm hơn.

Kết quả của những cuộc nói chuyện này được sáng tỏ vào đêm hôm qua. Trước lúc bình minh, tôi bị thức giấc vì những ánh đèn chiếu vào cái ổ của mình. Puneet hét lên khi anh bị quẳng vào một chiếc xe tải nhỏ. Mọi chuyện xảy ra trong vài giây. Tôi hiểu rằng việc thiến anh cũng sẽ chỉ trong chốc lát.

Năm ngày sau, Puneet quay lại một cái xác không hồn. Sự hủy diệt treo lơ lửng trên đầu anh như con dao khukri của cha tôi cắt ngang cái đầu ngo ngoe của con rắn đang bị ông đạp dưới chân; cái chết treo lơ lửng trên đầu nó. Anh có một cái băng quấn ngang vùng dưới. Tôi biết, giờ thì anh sẽ không bao giờ chạy trốn nữa.

***

Puneet luôn trêu chọc khi tôi gọi công việc của chúng tôi là "làm bánh". Anh cười to và hỏi: "Thế có gì trong lò hở công chúa?"

Tôi nghĩ ra tên gọi này chỉ hai ngày sau khi cha bỏ tôi lại nhà Ông chủ Gahil. Giây phút tôi đến nơi đó là giây phút tôi rời cha tôi. Bà già Kumud dắt tôi vào một căn phòng mà bà gọi là "phòng của tôi". Bà nghiêng người nói thật nhỏ đến mức tôi phải nín khóc mới nghe được bà nói gì: "Khi mày bình tĩnh lại, tao sẽ cho mày ăn". Sau đó bà bỏ ra ngoài đóng cửa lại. Tôi biết giây phút đó chính là điểm kết thúc quá khứ và bắt đầu tương lai. Tiếng than khóc nức nở của tôi như dấu chấm hết một câu để bắt đầu một câu khác. Khi rời ngôi làng cũ, tôi đã bắt đầu làm quen với việc bị bỏ rơi, và khi bước vào căn phòng này, dường như tôi đã phần nào chuẩn bị tinh thần rằng mình sẽ ở lại đây. Ngay cả lúc này, tôi phải thừa nhận rằng những người trẻ tuổi có thể thích nghi rất nhanh. Sự thiếu trải nghiệm là một điều may mắn, giống như một tờ giấy trắng chưa bao giờ bị tô vẽ. Vẽ lên một tờ giấy trắng sẽ đơn giản hơn nhiều so với vẽ lên một tờ giấy bị bôi xóa.

Tôi bắt đầu biến đổi khi nằm trên chiếc giường đó, chiếc giường sang trọng nhất mà tôi từng biết. Khi đất sét được nung trong lò, nó thay đổi từ một dạng vật chất mềm, dễ nắn, thành một dạng vật chất cứng rắn hơn và được định hình; một khi đã được nung xong, đất sét cứng không bao giờ có thể được nắn lại, nó chỉ bị vỡ mà thôi. Vài giờ trước đây, tôi bước vào ngôi nhà của ông Gahil như một bình đất sét mềm ấm. Tôi sẽ rời nơi này như một bình đất cứng rắn và hữu ích.

Sau khi bỏ ra khá nhiều năng lượng để khóc lóc và gào thét, tôi cảm thấy đói bụng và không khóc nữa. Tôi im lặng nhìn quanh phòng; chiếc giường rộng đến mức đủ cho tất cả anh em tôi nằm ngủ, và nó cao đến mức nếu muốn chạm đất, tôi phải nhảy xuống. Chiếc giường được trải một chiếc khăn rộng có thêu hoa. Trời bên ngoài vẫn còn sáng, nhưng hai ngọn đèn điện trong phòng đã được bật lên, cả hai đều có những cái chụp đèn màu hồng nhạt được trang trí hoa văn, vì vậy nên ánh sáng trong phòng hơi nhuộm vẻ mờ ảo. Gắn chặt vào trần nhà là một cái quạt màu trắng năm cánh quay chầm chậm, và tôi có thể cảm thấy gió nhẹ thoảng trên má mình. Nếu bạn nhìn lâu, cái quạt có thể thôi miên bạn. Trong phòng còn có vài đồ vật bằng gỗ: hai cái ghế, một tủ nằm và hai chiếc bàn cạnh giường. Tất cả mọi vật đều được đánh bóng đến mức có thể phản chiếu những tia sáng. Cửa sổ mở và tôi có thể nghe được những âm thanh ngoài đường: tiếng xe, tiếng người, tiếng chó sủa. Đó là lần đầu tiên tôi thấy một cái cửa sổ có chấn song.

Tôi nghe tiếng khóa lách cách và cánh cửa từ từ mở ra. Bà già chậm chạp lê bước vào. Nếu không phải là bà di chuyển về phía trước với một sự chậm rãi kỳ quặc (pshhh, pshhh, pshhh), hẳn tôi nghĩ bà đã chết. Bà không chớp mắt, không nói, và gương mặt cứng đờ như bề mặt một chiếc yên ngựa cũ. Cuối cùng, khi bà cất tiếng, tôi thề rằng đôi môi bà không hề mấp máy và giọng nói bà nghe xa xăm như từ cõi chết vọng về. Dù chết hay không, bà mang theo một khay thức ăn.

Bà đặt khay thức ăn lên đầu chiếc tủ nằm, tôi giả vờ không quan tâm nhưng không thể kiềm chế mình liếc nhìn xem có gì trong đó. Trong khay có trái cây, một đĩa cà-ri, một chén súp đậu và những cái bánh ngọt mà bạn chưa bao giờ thấy. Những cái bánh sặc sỡ đủ màu và đủ hình dạng, màu đỏ, xanh lá, xanh dương, hình bầu dục, hình phẳng, hình nón. Tôi chén sạch đĩa bánh và nếu không kìm lại kịp chắc hẳn tôi đã ăn luôn cái đĩa. Sau khi ăn hết đĩa bánh ngọt, tôi mới chuyển qua món súp và cà-ri. Trong khi tôi thỏa mãn cơn đói của mình, bà già biến mất (hay tôi đã ăn cả bà ta luôn rồi?).

Pshhh, pshhh, pshhh - bà quay lại sau vài phút với một chiếc khăn trắng. "Đi theo tao", bà nói như rít trong kẽ răng. Nếu như những đứa trẻ chín tuổi khác, hẳn tôi sẽ lủi thủi đi theo bà và không còn dáng điệu thách thức nữa. Thế nhưng không, tôi ngồi bệt xuống sàn, co chân bó gối và nhìn bà già một cách kiên quyết. "Không", tôi nói, "Cháu sẽ không đi theo bà trừ phi bà đem thêm bánh ngọt cho cháu". Bà già không thèm quan tâm đến cái nhìn của tôi và dường như cũng không nghe tôi nói gì. Phản ứng duy nhất của bà là đá vào mông tôi.

Khi bạn già đi, điều đó có nghĩa là bạn sẽ trở nên xương xẩu hơn chứ không săn chắc như lúc còn trẻ nữa, có lẽ đó là lý do tại sao ăn thịt một con dê già sẽ thấy giống như nhai gỗ vậy. Cái chân bà già dường như không có chút thịt nào. Tôi có cảm giác như bị đánh bằng một cây gỗ cứng, đau thấu xương.

Bà lầm bầm kêu tôi đi theo bà một lần nữa, và lần này thì tôi tuân lệnh. Chúng tôi đi dọc hành lang rồi bước vào một căn phòng, giữa phòng là một bồn nước màu trắng bốc hơi nghi ngút. Khi bà bảo tôi leo vào, tôi tưởng mình sắp sửa bị luộc. Từ nhỏ đến lớn vẫn tắm trên sông, tôi chưa bao giờ nhúng mình vào nước nóng. Nước nóng chưa đủ để làm bỏng da, nó là một cái nóng khác với khi nằm trên những hòn đá gần bờ sông. Tôi càng hoảng sợ hơn khi bà già đổ một thứ dầu thơm vào nước - tôi nghĩ bà sắp bỏ thêm gạo vào để nấu cháo. Bà tuột chiếc sari khỏi cánh tay, chộp một miếng xà phòng khổng lồ bằng bàn tay khẳng khiu như móng vuốt một con chim vồ mồi. Bà nghiêng người xuống bồn nước nóng và bắt đầu kỳ cọ cho tôi.

Dĩ nhiên trước đây tôi đã từng được mẹ hoặc dì tắm cho, nhưng chưa bao giờ có cảm giác như thế này. Bàn tay xương xẩu của bà già có một sức mạnh khác thường. Với miếng xà phòng và một mẩu vải xơ màu vàng, bà như muốn cào rách da toàn thân tôi. Mỗi lần tôi hét lên vì đau, bà lại chà mạnh hơn, cho đến khi tôi nhận ra càng la hét càng bất lợi cho mình. Tôi nghĩ hẳn bà rất thất vọng khi không tìm thấy con chí nào trên đầu tôi cả, vì bà sục sạo đầu tóc tôi đến hai lần. Khi đã xong, bà bảo tôi leo khỏi bồn nước. Tôi đứng trần truồng trước mặt bà, hy vọng bà sẽ đưa tôi chiếc khăn bà đang cầm trong tay. Nhưng bà không làm thế mà để tôi đứng một lúc cho nước trên người tôi chảy nhỏ giọt xuống đất. Dưới đôi mi xếp lớp của bà, tôi thấy đôi mắt bà chuyển động. Bà có đôi mắt nhỏ màu xanh sẫm; tròng trắng ngả vàng như màu phó mát. Bà nhìn tôi từ đầu xuống tay, từ ngực xuống đầu gối, và từ bẹn xuống chân. Đôi mắt bà săm soi từng cen-ti-mét trên người tôi. Vào lúc đó, không hiểu vì sao, tôi cảm thấy gần gũi với bà già lụ khụ này. Chúng tôi đều giống nhau, bị kẹt trong vai trò của mình; tôi là một nạn nhân còn bà là kẻ áp bức. Không ai trong hai chúng tôi được lựa chọn con đường của mình; và rất có thể ở kiếp trước hoặc kiếp sau, vai trò của chúng tôi sẽ đảo ngược. Tuy nhiên, vào lúc này đây, chúng tôi đang bị dính với nhau.

Bà già quấn tôi vào chiếc khăn và tôi đi về phòng mình. Khi tôi bước vào phòng, cánh cửa sau lưng tôi được khóa lại. Tôi leo lên giường nằm trần truồng, tóc tôi chỉ mới khô một nửa. Tôi đã được tắm rửa sạch sẽ.

***

Đêm qua tôi lại mơ thấy giấc mơ đó. Tôi hiếm khi nằm mơ, nhưng khi mơ, tôi đều mơ thấy một giấc mơ giống nhau. Giấc mơ về một người bán nón. Tôi không hiểu tại sao có những đêm tôi nằm mơ còn những đêm khác lại không. Tôi ăn cùng một món, làm cùng một việc, sống cùng một nơi, nhưng chỉ thỉnh thoảng mới nằm mơ.

Trong giấc mơ, tôi thấy mình đi ngang một ngôi chợ có mái che, dọc theo một hành lang dài lát đá vàng. Hai bên hành lang là những gian hàng bán đủ mọi thứ thông thường: rau củ, quần áo, đồ chơi, gia vị, và những pho tượng tôn giáo. Tuy nhiên, có những gian hàng bán những thứ lạ lùng, chẳng hạn như những mẩu cơ thể người sấy khô, xác con bò nhà tôi được thu nhỏ và bảo quản (không có gì khác ở gian hàng đó), những bàn tay và bàn chân bị cắt lìa nhưng vẫn còn cử động, và những quần áo biết nói. Chợ rất đông người với đủ mọi kích cỡ, chen chúc nhau. Mái tóc tôi trải dọc theo toàn bộ chiều dài mái nhà, xõa dài xuống đất.

Tôi bước vào ngôi chợ này từ phía trên và đi bộ xuống dưới. Tôi đi đến đâu, tóc tôi rơi từ trần nhà xuống đến đó, cuộn lên đầu tôi như một chiếc khăn xếp màu đen lấp lánh. Người ta dạt ra nhường đường cho tôi, họ cố gắng chạm vào tôi khi tôi đi ngang qua họ. Một số người vuốt tay lên người tôi, một số người khác chỉ chạm bằng đầu ngón tay, còn một số khác nữa thì mò mẫm ngực, bụng và chân tôi. Không ai chạm vào mặt tôi. Tôi cảm thấy khi tôi thở ra, họ vội vã hít vào. Hơi thở của tôi trở thành một làn mưa mỏng, và khi hít hơi thở của tôi, họ như muốn tôi thấm đẫm vào người họ.

Đi dọc theo hành lang chợ, ban đầu tôi có cảm giác rất tuyệt vời. Nhưng càng đi xa, tôi càng thấy mình yếu dần và khát nước hơn. Có lúc tôi khát đến mức không nhấc chân nổi. Rồi tôi thấy bên phải có một gian hàng bán nón. Gian hàng này chỉ bán những cái nón rơm mà người ta đội đi làm đồng. Chúng được chất chồng lên nhau một cách gọn gàng, tạo thành một bức tường cao từ sàn lên đến trần nhà. Người bán đứng sau những chồng nón, tôi không thể thấy rõ mặt ông ta.

Dù đang rất khát nước, tôi vẫn kêu to: "Tôi có thể mua một cái nón được không?".

Ông trả lời từ sau bức tường nón: "Nhưng những cái nón này không phải dành cho các quý cô tôn kính". Tôi nài nỉ: "Làm ơn bán cho tôi một cái nón đi mà..."

Bỗng nhiên, bức tường nón đổ sụp lên đầu tôi. Tôi hét lên: "Cứu tôi với!". Những cái nón rơi vãi khắp nơi. Chúng lăn lông lốc trên hành lang chợ. Những người khác vẫn tiếp tục đi xuống dẫm đạp lên chúng. Tôi hét lên kinh hoàng, tuyệt vọng chạy đuổi theo những cái nón, cố gắng nhặt chúng lên. Người bán nón bắt đầu cười to một cách vui vẻ: "Chạy đi, Batuk, nhặt chúng lên. Kìa, một cái nữa kìa - nhặt lấy nó". Hai cánh tay tôi chất đầy những cái nón, khi tôi cúi xuống nhặt một cái nữa lên thì hai cái trên tay tôi rớt xuống đất. Khi tôi cúi nhặt thì những cái khác lại rớt. Tôi sợ người bán nón nổi giận, nhưng ông ta vẫn cười sằng sặc. Hơn nữa, giọng cười của ông bắt đầu có âm điệu du dương như âm nhạc. Cuối cùng, tôi gom được tất cả các nón lên hai cánh tay và cẩn thận mang chúng đến gian hàng để chúng không bị rớt nữa. Ngay khi đến trước mặt người bán nón, tôi tỉnh giấc.

***

Sáng nay tôi dậy sớm, khi mặt trời chỉ vừa chiếu những ánh sáng đầu tiên qua bức rèm cửa. Bầu trời đầy mây u ám với ánh sáng khuếch tán màu cam nhẹ và không khí mát mẻ. Tôi nằm ườn trên ngai vàng, lắng nghe tiếng bánh xe cút kít đến chợ, tiếng xe hơi, xe lửa, tiếng người lao xao bắt đầu một ngày mới. Tôi nghĩ về những người bạn mà tôi cùng chia sẻ cuộc đời mình ở đây. Tôi cảm thấy mình đã đối xử bất công với Meera, vì cô bé mới vào và còn rất nhỏ. Tôi nghĩ nhiều về Puneet và biết rằng anh sẽ mãi mãi thuộc về con đường này, bởi vì niềm hy vọng đã bị cắt đứt khỏi cơ thể anh. Tôi suy nghĩ lan man về mơ ước tương lai của mình, khi có một người muốn tôi nướng bánh với anh, riêng mình anh, và mãi mãi. Tôi cầu trời ai đó sẽ mang một sợi dây đến cột vào cổ tôi và dắt tôi khỏi chốn này, để phục vụ cho một mình anh. Tôi cầu trời anh sẽ cho phép tôi mang theo cây bút và cuốn sổ. Tôi không biết tại sao tôi muốn viết nhưng trong thâm tâm, tôi tin rằng một ngày nào đó, tôi có thể đọc lại để xem tôi đã tan vào những dòng chữ này và trở thành sở hữu của anh như thế nào. Khi một miếng kim loại đã bị cong, bạn không thể bẻ nó thẳng hoàn toàn trở lại; bạn chỉ có thể làm cho nó bớt cong mà thôi.

***

Tất cả chúng tôi trên Đường Chung đều không bao giờ quên được buổi "ra mắt" của mình. Khi tỉnh dậy buổi sáng đầu tiên sau khi bị bỏ lại nhà Ông chủ Gahil, tôi bị mất phương hướng một chút, nhưng chỉ vài giây sau là tôi nhớ ra mình đang ở đâu. Bà già đã chà xát tôi mạnh đến nỗi tôi cảm thấy đau rát dù đang nằm trần truồng trên một tấm nệm mềm mại. Đến giờ tôi vẫn còn nhớ sự êm ái của nó.

Tôi có thể nghe được hoạt động của con đường bên dưới. Tôi nhảy xuống giường, trần truồng, kéo một chiếc ghế đến bên cửa sổ, leo lên ghế và nhìn ra ngoài. Hãy còn sớm lắm, ánh sáng mặt trời đang cố gắng xua tan màu xám của bầu trời đêm. Những chiếc xe hơi chạy rất nhanh và các cửa hàng đang lục tục dọn hàng ra. Tôi thấy lò bánh mì đã mở cửa. Tay tôi nắm chặt thanh chấn song bằng sắt lạnh lẽo của cửa sổ mở, tôi không nghĩ đến chuyện kêu la nữa. Tôi nhìn quanh tìm cha nhưng ông không có ở đó.

Nhiều giờ trôi qua và tôi bắt đầu chơi trò nhún nhảy trên giường. Đó là một cái giường đàn hồi tốt nhất mà tôi từng biết. Tôi nhảy lên nhảy xuống, có khi bật cao đến mức chạm trần nhà rồi rơi xuống đập bụng hoặc lưng xuống giường rồi lại nảy lên. Trò chơi sẽ kéo dài mãi nếu không có tiếng lách cách nơi ổ khóa cửa. Bà già bước vào cùng một người đàn ông, mang theo một cái thùng nhỏ màu nâu nhạt.

"Bác sĩ Dasdaheer tới thăm mày đây", bà già lầm bầm.

Bác sĩ là một người đàn ông gầy ốm tóc bạc nhưng không già như bà Kumud. Ông mặc một chiếc áo sơmi nhàu nát, quần dài nâu và một sợi dây nịt da xơ xác. Đôi giày của ông dính đầy bùn đất. Ông có giọng nói ồm ồm, gợi cho người ta cảm giác ông sẵn sàng nói bất cứ điều gì để được thanh toán hóa đơn.

"Chào cô bé", ông nói, "Tôi là bác sĩ Dasdaheer. Tôi đến khám cho cháu vì bác của cháu muốn cháu được mạnh khỏe".

Tôi vẫn đứng trần truồng trên giường, thở dốc sau màn nhún nhảy. Bác sĩ yêu cầu tôi ngồi xuống giường. Ông hỏi những câu hỏi mà tôi không biết trả lời như thế nào. Ông không hề tỏ ra quan tâm hay giận dữ khi tôi không biết trả lời những câu hỏi như tôi đã từng bị bệnh này chưa hay đã từng bị đau cái kia chưa. Tôi bảo ông rằng tôi vừa làm sinh nhật ba tuần trước. Ông bắt đầu sờ nắn tôi cẩn thận hơn, chọt vào chỗ này chỗ nọ, và nghe ngực tôi bằng một cái ống nghe. Tôi có cảm giác ông hơi thất vọng vì tôi rất khỏe.

Tôi được cho ăn bánh ngọt nhiều hơn - hai đĩa đầy - và được uống sữa nóng pha mật ong. Tôi cũng được dẫn đi tắm nước nóng lần thứ hai, nhưng lần này bà già không chà xát tôi nữa.

Đến gần trưa, bà mang cho tôi bút màu và giấy. Tôi vẽ một ngôi nhà và một con mèo. Tôi hỏi bà: "Giờ cháu có được về nhà không?"

Bà ngồi như ngủ gục trên chiếc ghế gỗ, mở hé đôi mắt nặng nề nhìn tôi và nói: "Không, không thể". Tôi vẽ thêm một lúc nữa rồi lại hỏi: "Cháu có được gặp cha không?"

Bà nói: "Không".

Tôi muốn hỏi khi nào cha tôi mới quay lại, nhưng tôi không hỏi. Bữa trưa gồm súp đậu và bánh ngọt, nhưng giờ thì tôi bắt đầu ngán bánh ngọt rồi. Thời gian chầm chậm trôi qua, bà già lại ngồi trên ghế ngủ gục.

Rất lâu sau, bà tỉnh dậy và đi ra ngoài. Một lúc, bà quay lại mang theo một gói quần áo. Tôi đã trần truồng suốt cả ngày. Khi tôi muốn đi vệ sinh, bà bảo tôi đi vào một chậu sứ nhỏ màu trắng, rồi bà mang đi đổ và đem cái chậu không về.

Sau đó bà bắt đầu mặc quần áo cho tôi. Bộ quần áo lót trắng đến mức tôi chưa từng thấy một bộ đồ nào trắng như thế mặc dù trước đây tôi vẫn phụ trách việc giặt quần áo trong nhà. Bà bắt tôi ngồi trước chiếc gương trên cái bàn gỗ và bắt đầu trang điểm cho tôi. Bà vẽ mắt, tô son môi, thoa má hồng, sơn màu đỏ lên bàn tay tôi như một cô dâu. Bàn tay xương xẩu của bà làm công việc này một cách thuần thục không hề run rẩy. Khi bà vẽ một đường xoáy, nó hoàn hảo ngay lần đầu tiên. Những ngón tay của bà chuyển động một cách chuyên nghiệp. Cảm giác về những thứ trang điểm còn ướt trên mặt mình thật lạ lùng. Khi bà làm xong, tôi nhìn vào gương và suýt không nhận ra mình. Đôi má hồng như ánh bình minh ló dạng, đôi mắt lấp lánh huyền ảo, đôi môi đầy đặn gợi cảm. Tôi không ngờ mình lại đẹp như thế.

Chải đầu và thoa dầu vào tóc tôi, bà già nhìn tôi với một ánh mắt trống rỗng tự hào, như thể bà vừa trang trí xong một chiếc bình sứ kiểng. Khi ánh mắt tôi chạm vào mắt bà, bà không nhìn đi chỗ khác. Hai chúng tôi nhìn thẳng vào mắt nhau. Sâu thẳm bên trong ánh mắt bà, tất cả những gì tôi nhìn thấy chỉ toàn là gạch đá vỡ vụn.

Sau khi bà chải tóc cho tôi xong, lần đầu tiên trong đời, tôi được mặc một chiếc sari. Chiếc sari màu cam và đỏ với những đường chỉ trắng bạc. Chiếc áo nhẹ như mây, thoang thoảng mùi hương dầu trong bồn tắm đêm qua. Tôi đã được "tút" xong, cảm thấy mình như một món hàng quý giá được gói gém cẩn thận.

Bà già bước ra khỏi phòng khóa cửa lại. Tôi nhìn vào gương soi và không thể tin được đó lại là mình. Tôi nghiêng đầu, giơ bàn tay lên, ngọ ngoạy ngón tay và mỉm cười. Hình ảnh trong gương cũng làm y như thế. Tôi hát nho nhỏ, lắng nghe giọng hát quen thuộc của mình phát ra từ một gương mặt xa lạ. Tôi bắt đầu chu mỏ, trợn mắt như một con ếch trước gương, đôi môi đỏ trong gương cũng uốn éo phụ họa. Màn trình diễn kết thúc khi con dê già quay lại. Bà chỉ mở hé cánh cửa, ló đầu vào nói cụt lủn: "Đi nào!". Giọng nói của bà khác những lần ra lệnh trước. Nó nhẹ nhàng hơn như thể bà muốn mời tôi đi chứ không phải ra lệnh cho tôi phải đi. Tôi đứng lên, tạm biệt con ếch trong gương và đi theo bà.

***

Bà già dẫn tôi qua vài hành lang rồi đến trước một cánh cửa gỗ lớn. Bà đẩy cửa, hất đầu ra hiệu cho tôi bước vào.

Căn phòng rộng và tối, tràn ngập mùi hương trầm khiến tôi cảm thấy phát ốm. Giữa phòng là năm người đàn ông đang ngồi quanh một cái bàn chữ nhật phủ khăn trắng. Trên bàn có những khay thức ăn bằng bạc, ly thủy tinh, dao nĩa bạc và những cái đĩa trắng viền vàng. Khói bốc lên từ những khay thức ăn như hơi nước bốc trên mặt sông vào những ngày nắng nóng. Năm người đàn ông đang nói chuyện ồn ào nhưng khi thấy tôi bước vào, họ lập tức im lặng. Tôi chỉ nhận ra một người, Ông chủ Gahil, đang bập một điếu thuốc trên môi.

Ông Gahil nói to: "Thánh thần phù hộ, cháu quả là một nàng công chúa xinh đẹp".

Ông mỉm cười vẫy bàn tay đeo nặng trang sức ra hiệu cho tôi lại gần: "Đến đây nào, công chúa, sao cháu không múa một bài cho chúng ta xem nhỉ?".

Tôi rất bất ngờ. Tôi không chuẩn bị gì cả và cũng không biết múa. Những người đàn ông xoay ghế lại và tất cả mọi người đều nhìn tôi. Tim tôi đập loạn xạ. Không ai nói gì cả. Tôi bắt đầu nhảy chân này qua chân kia và khua tay. Khi tôi nhảy, những chiếc chuông nhỏ trên hai vòng bạc đeo chân kêu leng keng. Bà già lê bước về phía cuối phòng. Khi tôi kết thúc màn trình diễn của mình, những người đàn ông cười phá lên và vỗ tay tán thưởng. Tôi cười bẽn lẽn.

Một người nói: "Gahil, ít nhất anh cũng không nói với chúng tôi rằng cô bé là một vũ công; tôi hy vọng anh sẽ không bảo cô bé hát...".

Tôi cảm thấy câu nói đó như một lời sỉ nhục - dù sao tôi cũng là một nghệ sĩ - tôi nói một cách cứng cỏi: "Cháu có thể hát, thưa ông".

Người vừa nói quay lại nhìn tôi: "Cháu bé xinh đẹp, được rồi, hát cho chúng ta nghe một bài nào".

Tôi ngừng một lúc rồi cất tiếng hát nho nhỏ. Tiếng hát của tôi nhỏ đến mức gần như bị át bởi tiếng ồn ngoài đường qua khung cửa sổ mở. Tôi hát bài hát mà ngày xưa bà thường hát ru chúng tôi:

Mẹ sông ơi, hãy mang cá con đến mùa xuân vĩnh hằng

Chiếc đuôi nhỏ của con đã mệt rồi nhưng con biết biển đang chờ đợi

Con thấy con sâu ngọ nguậy trên lưỡi câu nhưng con biết mình không được để bị cám dỗ

Gió thổi mạnh vào con nhưng con biết mình phải cố gắng bơi

Cơ thể bé nhỏ của con đã mệt đừ, chiếc đuôi đã đuối lả

Và con chỉ muốn nhìn thấy đại dương trước khi con chết.

Khi tôi hát xong, những người đàn ông cười to và vỗ tay nhiệt liệt. Rõ ràng tôi đã thành công. Ông chủ Gahil nói: "Công chúa nhỏ, thật tuyệt vời. Cháu hãy đến đây ôm các chú đi nào. Tất cả mọi người đều yêu mến cháu".

Tôi mỉm cười, nụ cười của một đứa trẻ, và chạy đến ôm những ông chú mới quen. Đầu tiên là người đã yêu cầu tôi hát. Ông đứng lên, tôi thấy ông rất cao. Ông cúi xuống, mở rộng vòng tay và ôm tôi thật chặt. Ông có mùi thuốc lá. Mặt tôi áp vào bụng ông. Ông xoa lưng tôi, hôn lên đầu tôi, thì thầm điều gì đó mà tôi nghe không rõ.

"Đến đây nào", ông chú thứ hai nói. Ông này mập ú, có mùi rất khó chịu. Ông không đứng lên mà kéo tôi về phía ông và ôm lấy tôi. Ông tựa đầu lên vai tôi, hơi thở của ông phà vào tai tôi một cách nặng nề. Một tay ôm lưng tôi, một tay ông xoa ngực tôi thành những chuyển động tròn. Khi tay ông bắt đầu di chuyển xuống bụng tôi, Ông chủ Gahil hắng giọng và ông chú buông tôi ra.

Ông chú thứ ba ốm và thấp. Ông đi vòng quanh chiếc bàn đến trước mặt tôi. Dù có vẻ ngoài xấu xí nhưng ông mỉm cười rất dịu dàng: "Công chúa nhỏ, bài hát thật hay. Cháu sẽ hát cho chú nghe một lần nữa chứ?". Tôi ngần ngừ một chút rồi gật đầu.

"Đến đây với chú Nir nào", ông nói.

Tôi bước đến gần, ông nhẹ nhàng ôm lấy tôi. Tôi áp má vào bụng ông và cảm thấy bụng ông chuyển động lên xuống đều đặn theo nhịp thở. Ông mặc quần trắng, áo sơmi màu nâu nhạt với đôi giày láng bóng. Sau đó Chú-Nir-hay-cười buông tôi ra và nói: "Đi chào các chú tiếp đi nào".

Những ông chú trước khá lớn tuổi (khoảng bằng Ông chủ Gahil hay cha tôi), còn ông chú cuối cùng khá trẻ. Khi ông bước đến gần, tôi có thể thấy mặt ông đang đổ mồ hôi. Ông khá nhỏ con, mặc một bộ vest màu xám. Ông không ôm tôi mà chỉ đưa tay về phía tôi. Tôi không biết ông định làm gì. Ông chủ Gahil nhắc: "Nắm tay ông ấy đi, công chúa bé". Tôi đưa hai tay nắm lấy tay ông. Tay tôi run rẩy và tay ông chú cũng run rẩy. Hai tay tôi nắm lấy bàn tay ông, bàn tay tôi trông thật bé nhỏ so với bàn tay to lớn của ông. Ông nói bằng một giọng trầm run run: "Chú cũng rất thích bài hát của cháu... Cháu hôn chú một cái chứ?". Ông chỉ vào má mình. Tôi hôn nhẹ lên má ông và ông cũng hôn lên má tôi. Tôi cảm thấy đôi môi ông hơi ươn ướt trên má mình.

Giọng nói ồm ồm của Ông chủ Gahil cắt ngang: "Được rồi, các vị, mời mọi người ngồi xuống nào".

Sau khi các ông chú yên vị, ông Gahil ra lệnh cho tôi: "Công chúa, đến đây đứng kế bên ta". Tôi tuân lệnh; có điều gì đó trong giọng nói của ông khiến mọi người đều phải phục tùng. Khi tôi đứng kế bên ông, ông vòng tay ôm eo tôi và nói tiếp: "Các vị, hiển nhiên đây là một viên ngọc quý giá. Nhiều năm rồi tôi chưa bao giờ gặp một nàng công chúa bé duyên dáng xinh đẹp như thế này".

Ông chú mập ngắt lời ông Gahil, quay sang bà già: "Cô bé có sạch sẽ không? Bác sĩ kiểm tra cô bé chưa?".

Bà già trả lời từ trong bóng tối ở góc phòng: "Sáng sớm nay bác sĩ Dasdaheer đã kiểm tra toàn bộ cô bé. Tôi có báo cáo của ông ấy đây. Ông ấy nói cô bé rất mạnh khỏe và...", bà hắng giọng, "... trong trắng". Cả Chú-mập và Chú-trẻ-tay-to đều gầm gừ trong miệng như những con lợn đói.

Ông chủ Gahil, vẫn vòng tay ôm eo tôi, tiếp tục: "Các vị, đến lúc bàn chuyện làm ăn rồi. Ai sẽ là người đầu tiên thưởng thức công chúa nhỏ miền quê này?". Ông nhìn quanh, nhìn vào mắt từng người rồi nói: "Bắt đầu, giả sử, năm mươi ngàn rupee?".

Im lặng một chút, Chú-mập và Chú-trẻ-tay-to bật lên: "Tôi theo"; và những ông chú khác cùng gật đầu đồng ý.

Ông chủ Gahil mỉm cười nhìn quanh bàn: "Bảy mươi lăm ngàn?".

Chú-cao, Chú-Nir-hay-cười và Chú-mập cùng gật đầu tán thành.

Ông chủ Gahil tiếp tục xướng: "Một trăm ngàn rupee".

Tôi đã từng theo cha đến một cuộc bán đấu giá thú nuôi nên tôi hiểu rằng đây cũng là một cuộc đấu giá. Các ông chú vẫn gật gù đồng ý.

Bỗng Chú-Nir-hay-cười cắt ngang và hỏi tôi: "Cô bé, có anh em hay chú bác nào từng cho cái gì vào giữa hai chân cháu không?". Tôi không hiểu ông nói gì và chỉ lắc đầu. Chú-Nir-hay-cười nhìn Ông chủ Gahil nói bình thản, vẫn với nụ cười trên môi: "Gahil, giải quyết nhanh đi vì công chúa nhỏ của chúng ta sẽ chóng mệt. Có ai ở đây theo giá năm trăm ngàn rupee không, tiền mặt?". Không một tiếng thở. Trong không khí im lặng, tôi nghe tiếng quần áo bà già kêu sột soạt.

Ông chủ Gahil nói: "Các vị, có ai nữa không?"

Ông chờ đợi, nhưng tiếng gầm gừ của những con lợn đói đã không còn. Ông Gahil tỏ vẻ hài lòng, tuyên bố: "Lần thứ nhất, lần thứ hai, lần thứ ba... Xong". Ông toét miệng cười đến tận mang tai: "Nir, cô bé là của anh".

Chú-Nir-hay-cười quay sang tôi và nói: "Cô bé, chú rất muốn nghe cháu hát nữa. Cháu về phòng đi, chú sẽ đến ngay".

Bà già xuất hiện đột ngột từ trong bóng tối, nắm bàn tay run rẩy của tôi dắt tôi về phòng. Trước khi đi, tôi quay lại nhìn thấy Chú-Nir-hay-cười đang đếm tiền đưa cho Ông chủ Gahil.

***

Mọi người đều biết là cái cần bắt cá không bao giờ động đậy. Tôi thường ngồi nhìn cái cần với ông tôi hàng giờ. Ông cháu tôi ngồi kế nhau bên bờ sông, không bao giờ chạm vào cái cần và cũng không bao giờ nói chuyện. Không có những chuyện tán gẫu giữa hai ông cháu. Chúng tôi chỉ ngồi chia sẻ sự im lặng với nhau. Ông dạy tôi rằng cái cần có thể cảm nhận được khi con cá đến gần bởi những chuyển động của dòng nước dưới chân nó. Ông đã nói sai, nhưng tôi không có dịp để nói với ông điều đó.

Cái cần không bao giờ biết được khi nào con cá đang đến; nó chỉ đơn giản luôn luôn sẵn sàng. Cái cần cúi người xuống dòng sông và đôi mắt của nó nhìn chăm chăm xuống nước, bất động. Khi cái cần nhìn thấy một con cá nằm trong tầm với của nó, bùm, nó quăng cái ngàm xuống nước. Cái ngàm mở rộng, băng xuyên qua mặt nước chộp lấy con cá. Khi cái ngàm đã chộp được con cá, cái cần thả lỏng nhẹ một chút cho phép con cá quằn quại. Cái cần sử dụng sức mạnh của con cá để kéo nó khỏi hốc ngàm và bỏ vào giỏ. Đó là một điệu vũ chỉ trong một giây, nhưng nếu được xem thật nhiều lần, bạn sẽ nhận ra những chuyển động đó. Cái cần luôn luôn bắt con cá theo cùng một cách, dù trời nắng hay trời mưa.

Những cô gái nhỏ không phải cái cần bắt cá. Họ không bao giờ đứng yên; họ chạy vào nhà khi trời tối hay trời bắt đầu mưa. Phòng tôi cửa sổ có chấn song còn cửa vào thì có khóa. Ngoài trời đã tối sẫm. Tôi có thể cảm thấy dòng nước thay đổi dưới chân mình, nhưng tôi không có khả năng luôn luôn làm cùng một việc, theo cùng một cách khi dòng nước thay đổi.

***

Bà già dẫn tôi về phòng. Tôi vẫn còn cảm giác ngộp bởi mùi hương trầm trong phòng ăn và bởi cuộc gặp với những ông chú mới. Tôi cảm thấy nhiều cảm xúc lẫn lộn, như một túp lều được sơn nhiều màu, sự mệt mỏi, sự cô đơn, sự hoảng loạn. Tôi không khóc vì sợ nước mắt sẽ làm nhòe lớp trang điểm của mình.

Một lần nữa tôi bị khóa một mình trong phòng. Những ngọn nến lập lòe trên hai ngọn chúc đài cao bằng kim loại đen ở hai bên giường. Tôi nhảy lên giường như thể nó là một hòn đảo có thể cho phép tôi trốn tránh những xoáy nước bên trong mình. Chiếc giường được phủ một tấm trải màu trắng lấp loáng dưới ánh nến, khiến tôi có cảm giác nó là một nơi trú ẩn không an toàn.

Vài phút sau, bà già quay lại với một khay bánh ngọt, nhưng tôi không còn thèm muốn chúng nữa. Tôi vẫn đói, nhưng tôi thèm món thịt hầm của mẹ hơn. Trên chiếc khay còn có những que trầm và bà già đốt chúng lên. Chúng không ngột ngạt như trong phòng ăn nhưng tôi vẫn ngửi thấy mùi trầm thoang thoảng. Bà tôi vốn không bao giờ quẳng đi thứ gì, nếu có một miếng thịt đã bị hư thối một phần, bà thường tẩm thật nhiều gia vị cho át mùi. Nhưng gia vị của bà không thể giấu được mùi thịt thối và những que trầm cũng không che giấu được sự ảm đạm lảng vảng trong không khí.

Bà già ngồi xuống chiếc ghế cạnh giường. Tôi nhìn bà nhưng bà không nhìn lại. Tôi thấy bà có vẻ căng thẳng. Bà tiếp tục nhìn chằm chằm xuống đất. Tôi phá tan sự im lặng: "Cháu xin mấy cây bút màu được không?". Bà liếc nhìn tôi, chỉ cử động đôi mắt. Câu trả lời duy nhất của bà là một nụ cười mỏng như sợi chỉ vắt nhẹ trên môi.

Có tiếng gõ cửa nhẹ. Không vội vã, bà già từ từ đứng lên mở của và Chú-Nir-hay-cười bước vào.

"Xin chào", ông mỉm cười. Ông nhìn tôi đang ngồi trên giường như thể tôi là một cái bình quý giá: "Cháu là Batuk phải không? Nhớ chú không? Chú là chú Nir".

Tôi nhìn xuống sàn gật đầu.

"Batuk", ông nhẹ nhàng nói, "Chúng ta sẽ có một khoản thời gian vui vẻ với nhau. Nhưng trước hết, cô bé đáng yêu, chú muốn nghe cháu hát".

Tôi gật đầu: "Dạ vâng".

Tôi nhìn xuống sàn, phát hiện ra một con rết đang bò từ từ về phía chiếc giường, tìm kiếm một chỗ ẩn thân. Bà già đứng lên lê chân về phía đầu bên kia căn phòng, kế bên cánh cửa (đề phòng tôi chạy trốn chăng?). Chú Nir ngồi xuống chiếc ghế gỗ cạnh giường, đặt tay lên đầu gối và mỉm cười với tôi.

Sau đó ông đứng dậy, xích qua ngồi lên cạnh giường. "Bây giờ hãy hát cho chú nghe lần nữa nào", ông nói. Giọng ông không còn nhẹ nhàng nữa. Tôi không thể nhớ nổi bài hát nào. Tôi cảm thấy nước mắt ứa ra, nhưng tôi vẫn không khóc. Bà già hắng giọng một tiếng, tôi biết mình sắp sửa bị khiển trách. Tôi bỗng sực nhớ bài hát "Con dê" mà tôi thường hát ngoài đồng.

Tôi bắt đầu hát nho nhỏ với một chút nhiệt tình khi thấy chú Nir có vẻ thích thú. Ông vẫn giữ nụ cười mím chi trên đôi môi khép chặt, tỏ vẻ hài lòng và gật gù khuyến khích. Như tôi đã viết ở trên, chú Nir khá xấu trai; không phải vì ông có ba mắt hai mũi, mà là vì đôi mắt và cái mũi không hòa hợp chút nào với gương mặt to bè so với cái cổ. Ông vừa mỉm cười vừa cởi đôi giày bóng loáng ra. Tôi tiếp tục hát:

Dê ơi - dê ơi - hãy chạy thật nhanh

Qua những ngọn đồi, hãy chạy thật xa

Có đàn chim bay trong không trung

Hỏi dê chạy đi đâu đó

Dê ơi - dê ơi - hãy chạy thật nhanh

Qua những ngọn đồi, hãy chạy thật xa

Có đàn cá bơi dưới khe suối

Biết rõ khi nào dê uống nước

Dê ơi - dê ơi - hãy chạy thật nhanh

Qua những ngọn đồi, hãy chạy thật xa

Có những lá cỏ xanh non

Biết rõ khi nào dê muốn ăn

Dê ơi - dê ơi - hãy chạy thật nhanh

Qua những ngọn đồi, hãy chạy thật xa

Sau khi tôi hát xong, ông vỗ tay mỉm cười: "Batuk, bài hát thật dễ thương. Giờ cháu đứng lên hát một lần nữa nhé?". Tôi ngồi im không động đậy, những âm thanh buổi tối ngoài đường nghe như rõ hơn trong im lặng. Nụ cười biến mất và ông lặp lại: "Đứng lên hát đi, Batuk". Giọng của ông nghe nhẹ nhàng, nhưng trong thâm tâm tôi run rẩy. Không tuân lời không phải là lựa chọn.

Tôi đứng lên giường hát một lần nữa. Đến đoạn điệp khúc cuối cùng, tôi hơi lúng túng. Khi tôi hát xong, ông nhìn lên mỉm cười: "Nào, không có gì phải sợ cả. Đến đây ngồi vào lòng chú nào". Tôi hy vọng những gì ông nói sẽ biến mất nếu tôi không làm theo (tôi thường giải quyết những yêu cầu của mẹ theo cách đó). Nhưng mệnh lệnh ấy như lơ lửng trong không trung... Tôi bước ba bước khó khăn ngang giường và hạ mình ngồi vào lòng chú Nir. Chân tôi để trên chân ông, đu đưa xuống thành giường. Ông vòng tay ôm lấy tôi, kéo lưng tôi sát vào ngực ông. Ông thở mạnh vào tóc tôi. Nước mắt tôi bắt đầu rơi xuống chiếc áo sari xinh đẹp. Vòng tay ông lỏng ra, ông bắt đầu xoa bóp ngực tôi bằng hai bàn tay. Ông thì thầm vào tai tôi: "Cháu thấy không, không có gì phải khóc cả, chú nhẹ nhàng như một con mèo". Tôi có thể cảm thấy hơi thở ấm của ông phả vào tai. "Cháu hát rất hay". Ông trượt hai bàn tay xuống trước ngực tôi tiếp tục chà xát. Ông bắt đầu sờ xuống hai đùi tôi. Tôi bị tê liệt. Khi ông chà xát hai đùi tôi, tôi cảm thấy một sự kinh hoàng lan tỏa khắp người.

Ông sờ đến đâu, tôi cảm thấy mình nhơ bẩn đến đó, như thể một lọ mực đổ lên tờ giấy. Vết nhơ từ từ loang ra và thấm vào bên trong tôi. Hãy chạm vào tôi xem, tay bạn sẽ dính đen. Hãy thử tắm rửa cho tôi đi, bạn sẽ không có đủ nước để rửa sạch vết nhơ trên người tôi.

Tôi vùng hét lên, cào cấu và đá vào người ông. Bà già chạy ra để giữ tôi lại. Bà chụp hai cổ tay tôi ghìm chặt; bà ta quả là một con dê già mạnh mẽ. Chú Nir thì nắm hai cổ chân tôi (tôi đã đá vài cú trúng ngực ông). Ông xoạc hai chân tôi ra và đè tôi xuống giường. Tôi không thể đá ông ra được. Bà già rút trong túi ra một sợi dây vải trắng, cột hai cổ tay tôi vào nhau, trói tay tôi vào đầu giường. Một miếng vải nút vào miệng tôi để tôi không la và không cắn được. Tôi cố gắng cắn tay bà ta khi bà nhét miếng vải vào miệng tôi. Nó suýt làm tôi ngộp thở và tôi gần như mắc nghẹn. Bà già tát tôi rất mạnh hai cú lên mặt khiến tôi choáng váng. Chú Nir cười: "Chà, cháu mạnh đấy. Quả là vui hơn chú tưởng". Tôi tiếp tục lắc đầu, đó là cách duy nhất tôi có thể làm để phản đối ông. Bà già không ngừng tát vào mặt tôi bằng bàn tay xương xẩu của bà cho đến khi ông chú nói: "Thôi được rồi... Tôi có cô ta rồi... Để xem cô ta làm gì nào".

Một phút im lặng trôi qua. Nhìn xuống tôi, đôi mắt ông lấp lánh. Vài giây sau, tôi cảm thấy chất mực đen dơ bẩn của ông trào ra chảy tràn vào người tôi. Nó quét xuyên qua tôi - tôi có thể cảm thấy nó, dòng chảy nhơ nhớp của ông ta.

Tôi nhắm mắt nhìn vào bên trong mình. Như có một ngọn sóng trào đập vào bờ. Dòng chảy nhơ bẩn loang khắp người tôi và tôi nhìn thấy sự trong trắng của mình đen dần. Tôi đã tốn quá nhiều năng lượng cho cuộc chiến và không còn sức kháng cự nữa. Tôi có thể nhìn thấy làn sóng đen tràn khắp người mình như những con suối. Tôi có thể nhìn thấy những hố nước đen hình thành. Tôi nhìn quanh tìm chỗ trốn nhưng không có chỗ nào cả. Tôi nhìn vào hai quả thận, đen bẩn. Tôi nhìn vào bụng, cũng đen bẩn. Đầu tôi cũng đen bẩn. Tôi nhìn xuống hai chân - những cái chân vô dụng tê liệt - chúng cũng đen bẩn. Tôi nhìn lên hai tay bị trói - chúng co quắp lại - nhưng chúng cũng một màu đen. Trái tim tôi đẩy dòng nước đen đi khắp nơi trong tôi, thấm vào từng giọt máu. Tôi không còn chỗ nào để đi cả. Khắp mọi ngóc ngách đều ngập màu đen. Và rồi tôi nhìn thấy linh hồn của mình.

Tất cả mọi từ ngữ đều xuất phát từ màu đen. Khi bạn gom tất cả mọi từ ngữ trên thế giới và đặt chúng vào một cái tách, bạn sẽ có gì? Một cái tách đen, trong đó những từ ngữ đang nằm lẫn lộn. Chúng ta có thể nghĩ rằng một từ là của mình khi chúng ta nghe hoặc viết ra nó, nhưng không, từ ngữ là vay mượn. Từ ngữ có thể trẻ trung, nhảy nhót như những đứa trẻ và cũng có thể già đi như con người. Giống như người chết, từ ngữ cuối cùng sẽ trở về màu đen nơi chúng sinh ra.

Và cứ như thế, tôi nhìn vào chính mình, sắp xếp mình thành từ ngữ. Tôi chọn những từ thể hiện những suy nghĩ và giấc mơ của mình, giấu chúng đằng sau bóng đen của quả thận. Tôi nén nhu cầu tình cảm của mình thành từ ngữ, nhét nó kế bên lá gan (nó sẽ ở đó an toàn cho đến khi tôi cần nó). Tôi sao chép bài thơ cuộc sống thành từ ngữ, cẩn thận trượt nó vào giữa hai sợi gân, nơi mà ông ta không thể tìm ra. Tôi khắc những từ ngữ của niềm vui và nỗi buồn thành một hình chóp, đặt chúng dưới da để tôi có thể chạm vào chúng mỗi khi cần biết những cảm xúc của mình đang ở đâu. Tôi gom những ký ức vào một hồ sơ đầy từ ngữ, lùa nó vào một khe hở trong đầu. Còn rất nhiều chỗ cho tất cả những từ ngữ trên thế giới sống trong người tôi; tất cả đều được chào đón. Ông ta có thể lấy đi ánh sáng của tôi và hủy diệt nó, nhưng lúc này, bên trong tôi là một đội quân từ ngữ, âm tiết, vần điệu. Tất cả những gì bạn có thể nhìn thấy là một lỗ đen lấp đầy một cô gái nhỏ, nhưng hãy tin tôi, từ ngữ đang ở đó, sống động và an toàn.

Thời gian của những nụ cười ngọt ngào và những lời xoa dịu đã trôi qua. Ông ta phủi tôi ra. Có một vệt màu xám trên da ông, không còn dấu hiệu gì của nụ cười. Tôi đã cào lên mặt và lưng ông. Ông có một vết máu trên đùi (máu của ông hay máu của tôi?). Không khí lạnh ngoài đường vuốt ve cơ thể tôi, hong khô những giọt mồ hôi ông nhỏ lên người tôi. Tôi nhắm mắt lại, hai tay vẫn bị trói bằng sợi dây vải, và bảo sức mạnh của mình hãy giết chết linh hồn ông.

Ông đứng lên, cầm chiếc khăn bà già đưa, quấn nó quanh hông và bước ra khỏi phòng. Dù cả ông lẫn bà già đều không nhìn thấy, nhưng tôi nhìn thấy ông vẫn mang một lớp áo choàng dày nặng màu hạt dẻ trên vai. Khi còn là một đứa trẻ, ông mang chiếc áo choàng này, do ba mẹ ông cho, một cách nhẹ nhàng. Giờ đây, khi đã là một người đàn ông thất bại, ông chỉ có thể bước đi nặng nề dưới sức nặng của nó. Sự sáng chói của tất cả mọi ánh sáng đã bị ngăn cản và ông sẽ sống trong bóng tối mãi mãi.

***

Tôi nằm hoàn toàn bất động. Tôi không thể cử động, cũng không suy nghĩ gì. Tôi không cảm thấy đau đớn hay buồn khổ, tôi chỉ kiệt sức.

Bà già quay lại sau vài phút nói: "Mày chưa tắm được vì chú của mày đang ở trong đó. Nhưng khi ông ấy tắm xong mày có thể đi tắm và ngủ". Bà lôi miếng vải khỏi miệng tôi, mở dây trói cổ tay tôi. Có một vết hằn đỏ nhưng tôi không cảm thấy gì cả. Bà ngồi xuống trên chiếc ghế gỗ cạnh giường.

Tôi không nói gì. Tôi cũng không cử động vì không muốn hai cái chân lười biếng của mình phải làm gì cả. Bỗng bà già vuốt tóc tôi. Tôi rụt lại vì ngạc nhiên. Tôi lắng nghe tiếng động ngoài đường như thể tiếng nhạc. Tôi không có cảm giác về thời gian, nước mắt tôi cũng không rơi nữa. Tôi không nghĩ về cha mẹ, cũng không nghĩ về gia đình mình. Tôi không thật sự nghĩ gì cả. Một lúc sau, tôi ngước mắt nhìn bà già. Tôi chăm chú nhìn bà, và trong một thoáng, bà có vẻ thật xinh đẹp, chỉ một thoáng thôi. Đôi mắt bà trống rỗng nhìn ra ngoài cửa sổ, không biết tôi đang nhìn. Nước mắt chảy xuống hai má bà, từng giọt một. Bà không thể hiện cảm xúc gì, cũng không buông ra một tiếng động nào. Bà nhìn chăm chăm ra ngoài cửa sổ, im lặng khóc. Bà không cố gắng chạm vào tôi lần nữa.

Thời gian trôi qua, những âm thanh đêm khuya cuối cùng bị cắt ngang bởi giọng nói lặng lẽ của bà già: "Dậy đi, mày phải đi tắm". Tôi gắng gượng đứng dậy trên hai chân. Chiếc sari và bộ áo lót đã bị xé toạc khỏi người tôi từ lâu, tôi đứng trần truồng trên sàn. Bà già đưa tôi một chiếc khăn trắng. Tôi đứng dạng chân, không tin tưởng đôi chân của mình nữa. Tôi cảm thấy rất đau. Tôi chầm chậm lảo đảo theo bà già đi đến phòng tắm. Tôi không để ý máu chảy từ cửa mình nhỏ giọt thành một vệt dài sau lưng.

Phòng tắm vẫn còn vương hơi nước, sàn nhà ướt đẫm. Tôi leo vào cái bồn tắm trống, cảm nhận nó vẫn còn ấm sau người sử dụng trước. Tôi nhìn xuống thấy một vũng máu nhỏ đọng giữa hai chân mình. Cả tôi và bà già đều nhìn nó chằm chằm nhưng không ai phản ứng gì; chúng tôi chỉ ngồi nhìn vũng máu nhỏ lớn dần. Bà già mở nước, vũng máu trôi đi, chỉ để lại một chút màu hồng nhạt trên sàn bồn tắm khi nước xả vào.

Tôi ngâm mình trong nước nóng một lúc. Bà già không vội vàng, không kỳ cọ, không nói chuyện với tôi, và lần này cũng không có dầu thơm. Tôi leo khỏi bồn tắm một cách khó khăn vì toàn bộ sức lực đã cạn kiệt. Bà già quấn khăn vào người tôi, chúng tôi trở về phòng ngủ. Tôi thấy những giọt máu đã khô trên sàn đá.

Tôi ngã xuống giường, bò lên gối. Bà già đi ra khóa cửa lại. Tôi không bao giờ gặp lại bà nữa.

Cửa sổ vẫn mở và tôi có thể cảm nhận được làn gió lạnh từ bên ngoài. Thật may là ông ta không chạm vào cái gối của tôi. Đầu tôi lún vào cái gối. Tất cả những gì tôi có thể ngửi thấy trước khi chìm vào giấc ngủ là mùi chất tẩy được dùng để tẩy trắng cái gối.

***

Một ngày không bận rộn. Puneet với miếng băng quấn quanh eo xuống đến đùi, vẫn buồn rầu. Tôi đã quen với việc Puneet khoe khoang vẻ đẹp điểm trang, ăn mặc khêu gợi trước cửa cái ổ của anh. Tôi nhớ nó. Đó là sân khấu hàng ngày của tôi. Anh phô trương chính mình trong chiếc quần bé xíu, mặc áo ngực và một tấm mạng the mỏng; tôi nhìn anh nghiêng phần thân trên để làm nổi bật phần dưới - như một người đánh cá quăng lưới trên sông. Việc anh là một cậu bé chỉ để làm bộc lộ nữ tính của anh nhiều hơn mà thôi. Nhiều lần tôi chắc chắn rằng nụ cười lơi lả của tôi đã thu hút những người làm bánh tập sự (loại người giá trị nhất) về phía tôi, chỉ để họ bị rơi vào lưới tình của Puneet. Nói đơn giản, nhiều người đàn ông chưa bao giờ nghĩ đến chuyện nằm trên ngai vàng của một cậu bé, nhưng lại bị Puneet thuyết phục. Anh thường kể cho tôi nghe với một nụ cười dâm tục, rằng khi họ cảm thấy đôi môi anh trên môi họ, là lúc anh bắt đầu dệt mộng cho họ. Anh kể cái lưỡi của họ ban đầu rất ngần ngại khi chạm vào lưỡi anh, nhưng sau đó chúng sẽ nhảy múa và sẽ cùng đan vào nhau. Lý thuyết của anh là tất cả mọi người đàn ông đều có một phần của anh bên trong họ; nó chỉ đang chờ được giải thoát. Dòng khách hàng lũ lượt của anh chứng tỏ điều đó.

Bất chấp sự ảm đạm của Puneet, đàn ông vẫn đứng chờ bên ngoài Đường Chung cho đến khi tấm màn của anh mở ra. Thông thường, ngay sau khi một người hâm mộ vừa rời anh thì lại một người khác lấn vào hoặc thậm chí nhào lên từ giữa đường để có thể đến cửa phòng Hoàng tử Puneet trước mọi người khác. Ngay cả khi Puneet chỉ đứng trước cửa mà không hề có ý quảng cáo bản thân, đàn ông vẫn bị anh cuốn hút. Có lẽ chính vẻ đẹp nhục cảm của anh đã tạo nên sức quyến rũ đó. Sự khoái lạc bị cấm đoán có lẽ là điều ngọt ngào nhất.

Tôi nghĩ về ngôi làng của mình. Thường thì mọi cậu bé đều muốn có thứ đồ chơi của những người khác. Những thứ đồ chơi càng nguy hiểm lại càng có sức cám dỗ lạ lùng. Jitendra là một cậu bé trạc tuổi tôi, đứa yếu nhất và nhỏ con nhất trong bọn. Cậu không chỉ nhỏ con bề ngoài mà còn ít được mọi người chú ý. Cậu như một hạt cát nhỏ trong đôi giày của bạn. Tất cả bọn con trai và thỉnh thoảng vài đứa con gái trêu chọc cậu; bạn có thể thổi một cái và cậu ta sẽ bay mất. Cậu không có bạn bè. Tuy nhiên, tất cả đều thay đổi vào ngày sinh nhật của cậu, khi cậu nhận được một con dao bấm, món quà sinh nhật từ một ông chú ở Delhi. Khi bạn bấm vào một cái nút trên cán dao, lưỡi dao sẽ bắn ra. Lưỡi dao nhọn và sắc đến mức nó có thể cắt gọn ngang cổ một con chuột. Con dao nhanh chóng trở thành món đồ chơi ưa thích của Jitendra.

Một ngày nọ, một cậu bé mười tuổi, lớn hơn Jitendra khoảng một tuổi, tìm cách lấy con dao của cậu. Trong lúc đánh nhau, Jitendra bấm nút, lưỡi dao bắn ra đâm vào sườn cậu bé kia; máu phun ra, nạn nhân hét lên đau đớn. Buổi tối hôm đó, một trận cãi vã kịch liệt nổ ra giữa các bậc cha mẹ, cả hai đứa trẻ đều bị phạt nặng. Sau sự kiện này, Jitendra không bao giờ bị chọc ghẹo nữa, mặc dù cậu vẫn không có bạn. Bọn trẻ trong làng sợ và tránh né cậu. Có những món "đồ chơi" đòi hỏi sự can đảm mới sở hữu được, vì vậy chúng được chú ý đặc biệt. Con dao của Jitendra là một món đồ chơi như thế, và Puneet cũng vậy.

Puneet trở thành một "đứa trẻ lạc loài" sau khi mẹ anh biến mất. Việc anh tồn tại được quả là một phép màu. Anh kể cho tôi nghe về sự hung bạo của đường phố trước khi Ông chủ Gahil đem anh về: giết người, tra tấn, cướp bóc bằng bạo lực... Anh kể với tôi rằng cha anh đã vượt ngục tìm kiếm anh, nhưng bị bắt lại sau một trận chiến đường phố náo động. Anh giải thích mẹ anh đã kết hôn với một người đàn ông giàu có và ông này đã bán anh đi. Những câu chuyện về cha mẹ anh toàn là tưởng tượng. Từ lâu trong ký ức Puneet đã không có gì về cha mẹ mình cả. Làm thế nào họ có thể tìm lại được vị thế của mình trên trái đất này, khi biết rằng con trai họ sống cách tôi hai cái ổ và hàng ngày mua vui cho những người đàn ông nhơ bẩn cả trong lẫn ngoài? Puneet không có gì khác ngoại trừ cái lồng của anh và con đường này. Đó là lý do tại sao anh không bao giờ tìm cách trốn thoát.

***

Puneet chuồi vào cái ổ của anh, theo sau là một người đàn ông trong bộ vest xám. Cơ thể của Puneet thể hiện rõ nét sự thảm hại, mặc dù mắt và môi anh vẫn được trang điểm tỉ mỉ. Anh ốm hơn, cái băng quanh eo anh tuột xuống ngay cả khi anh không cúi nghiêng người. Tôi có một ý tưởng tuyệt vời để khích lệ tinh thần anh; tôi sẽ viết cho anh một câu chuyện. Anh không biết đọc cũng không sao; tôi sẽ đọc cho anh nghe. Trên thực tế, tôi không biết ai khác ngoài tôi có thể đọc được.

Puneet yêu dấu, dưới đây là một câu chuyện dành cho anh. Em hy vọng anh sẽ thích nó.

Hạt gạo

Thầy giáo dạy: "Thế giới cân bằng trên một hạt gạo".

Học trò hỏi thầy: "Thưa thầy, làm thế nào cả thế giới này, bao gồm những con voi, nhà cửa, thành phố, dinh thự, cánh đồng và bầu trời, có thể cân bằng trên một hạt gạo?"

Thầy giáo mỉm cười bình thản, nhìn đám học trò trước mặt, và bắt đầu kể câu chuyện này.

Ở một vương quốc xa xôi có một ngôi làng nhỏ, trong ngôi làng nhỏ có một gia đình, hai vợ chồng nông dân và năm đứa con, ba trai, hai gái. Cậu con trai út rất mạnh mẽ, nhanh nhẹn và thông minh. Cậu có một mối liên hệ đặc biệt với dòng chảy của trái đất. Trong những tiền kiếp, cậu là chiến mã của vị vua vĩ đại nhất, là một con hổ đã dâng lớp da mình cho hoàng hậu, và là một hoàng tử với sứ mệnh sẽ cai trị vương quốc lớn nhất trên thế giới nhưng bị sát hại do lòng ghen tị của những kẻ xấu xa. Giờ đây, trong kiếp này, cậu sinh ra là con trai út của một nông dân nghèo, nhưng vẻ đẹp nội tâm của cậu vẫn tỏa sáng. Ngay khi còn là một đứa bé, hào quang của cậu đã thu hút sự chú ý của những nhà tiên tri mù. Tin đồn lan truyền rằng cậu bé có sức mạnh và quyền năng chữa được bách bệnh.

Nhìn vào cậu con trai mười bốn tuổi này, bạn sẽ bị thu hút bởi vẻ khôi ngô của cậu. Cậu sắp bước vào tuổi dậy thì, cơ thể cường tráng của cậu có thể làm đổi hướng làn gió xoáy. Đôi mắt long lanh và gương mặt tuấn tú khiến ai cũng muốn đặt lên đó một nụ hôn. Nhưng nếu có thể nhìn sâu hơn bên dưới diện mạo bên ngoài, bạn sẽ thấy một cái gì đó huy hoàng hơn nữa. Cậu bé tỏa sáng với sự khôn ngoan vĩnh hằng, vì cậu có thể nhìn thấy kiếp trước, kiếp này và cả kiếp sau của mỗi người. Cậu có thể nhìn thấy sự tự hào giả dối của những người giàu, sự oán than vô nghĩa của những người nghèo. Cậu có thể phân biệt tình yêu với lòng ham muốn, có thể ngửi thấy mùa xuân trong không khí trời đông. Cậu tên là Puneet.

Trong làng, mùa màng liên tục thất bát suốt ba năm liền, đất đai trở nên cằn cỗi. Dòng suối cung cấp nước cho làng không còn chảy nữa, các giếng nước gần như cạn khô. Làng đã sử dụng hết số lương thực dự trữ từ lâu, những người dân bắt đầu chết đói trên đường. Một buổi sáng sớm, người nông dân nói với cậu con trai út của mình: "Con trai Puneet, tất cả chúng ta đều sẽ chết đói. Con là một cậu bé đặc biệt với những quyền năng vô hạn. Con phải rời ngôi làng này để tìm cách cứu giúp chúng ta. Hãy đem lại cho ta sự giàu có để có thể mua thức ăn và nước uống". Chỉ trong một giờ, trước khi những ánh nắng đầu tiên của mặt trời xuất hiện, Puneet tạm biệt cha mẹ và các anh chị lên đường. Cậu gói vài viên sỏi vào một miếng giẻ rồi đeo lên vai, rời khỏi làng trên đôi chân trần.

Cậu đi bộ nhiều ngày dưới cái nắng khốc liệt, vượt qua nhiều hiểm nguy. Cậu tìm nước bằng cách đi theo dấu chân các con vật, ăn rễ hoặc cây cỏ dại mọc ven đường để sống. Cậu đến một thị trấn lớn; tuy gầy ốm và bụi bặm, nhưng cậu vẫn mang trên vai những viên sỏi từ ngôi làng của mình. Đây là một thị trấn giàu có nhưng đầy lòng tham và sự giả dối. Cậu đến một quán trọ trong thị trấn, vục đầu uống nước trong máng ngựa cho đến khi cơn khát được thỏa mãn. Cậu sục sạo đống rác trong quán trọ để tìm thức ăn. Cậu ăn cho đến khi sức khỏe hồi phục hoàn toàn. Lang thang trong thị trấn, cậu thấy những người giàu và người nghèo sống cộng sinh, lòng tham và sự giả dối hiện diện khắp nơi, không hề có dấu hiệu nào của sự tử tế. Cậu ói hết thức ăn ra vì không muốn sự nhơ bẩn của thị trấn này nhiễm vào con người mình.

Đến quảng trường, cậu nhìn thấy một đám đông. Vì khá mảnh khảnh, cậu dễ dàng chen lên phía trước. Đám đông bu quanh một võ đài làm bằng một bục gỗ vuông, quây dây thừng xung quanh. Đứng giữa võ đài là một gã khổng lồ cao to gần bằng một con voi. Cái bóng của hắn gần như che phủ cả võ đài. Trước mặt gã khổng lồ là một chiến binh máu me đầy mình đang quỳ mọp van xin tha mạng, bộ giáp của ông gần như đứt đôi. Gã khổng lồ đưa mắt nhìn một phụ nữ xinh đẹp đang ngồi trên chiếc ngai ở một góc võ đài, đám đông đang ồn ào bỗng trở nên im lặng. Đó là nữ hoàng của vương quốc hùng mạnh này; bà đội một chiếc vương miện vàng khảm đầy ngọc trai và kim cương, trên vai khoác một chiếc áo choàng vàng lấp lánh. Hai bên ngai vàng của bà là hai con sư tử với những sợi xích quấn quanh cổ dày hơn cánh tay một người đàn ông. Dưới chân bà là một rương vàng.

Bà nói to: "Để cho hắn sống, nhưng vì hắn đã thua cuộc nên cả gia đình hắn, vợ con hắn phải trở thành nô lệ của ta. Kẻ thua cuộc kia, ngươi có chấp thuận không?".

Người chiến binh nằm phủ phục, máu khô trên mặt ông và máu tươi rỉ ra từ những vết thương. Ông trả lời: "Thưa Nữ hoàng vĩ đại, tôi và gia đình tôi rất vinh dự được hầu hạ bà mãi mãi".

Nữ hoàng vẫy tay ra dấu cho đám đông im lặng. "Giết hắn đi, người khổng lồ", bà ra lệnh, "Chôn sống gia đình hắn. Một gia đình có thể dễ dàng mua được như vậy thì không đáng làm nô lệ cho ta. Một chiến binh không có danh dự thì không đáng được uống nước trong vương quốc của ta. Chúng ta phải thanh lọc vương quốc, loại bỏ những kẻ yếu đuối như vậy. Giết hắn đi! Đó là mệnh lệnh của ta".

Gã khổng lồ, với một nhát kiếm ngọt xớt, cắt lìa đầu kẻ thua cuộc. Máu phụt ra từ cổ người chiến binh, bắn vào mặt một người phụ nữ đứng kế võ đài. Nữ hoàng hét lên với đám đông đang sững sờ: "Còn anh hùng nào muốn chiến đấu với người khổng lồ của ta để giành rương vàng này không?". Tất cả đều im lặng.

Trong lúc đó, gã khổng lồ rút một con dao bên hông, quỳ xuống bên cạnh xác chết. Hắn cắt rời cái đầu khỏi thân hình bất động, xát cái đầu đang nhỏ máu vào ngực mình để máu của người chiến binh hòa lẫn vào máu khô của kẻ thách đấu trước đó. Rồi hắn đứng dậy, gầm lên và giơ cao cái đầu như một dấu hiệu chiến thắng. Đám đông ồ lên cổ vũ. Và Puneet bình thản bước lên võ đài.

Ngay lập tức mọi người lại im lặng. Người khổng lồ cười ầm: "Cái gì? Nhóc con, mày là con cừu hiến tế à?".

Nữ hoàng vẫy tay và hỏi Puneet: "Cậu bé, ngươi làm gì trong võ đài này? Cái xác đẫm máu này là cha ngươi ư? Ngươi sẽ trả thù cho ông ta ư?".

Puneet trả lời: "Không, thưa Nữ hoàng tôn kính. Tôi không phải con trai ông ấy. Tôi đến để giành chiếc rương vàng".

Nữ hoàng cười to: "Ngươi có biết là để giành được chiếc rương vàng này, ngươi phải giết chết người khổng lồ của ta không? Anh ta đã từng lấy đầu hơn một trăm người to khỏe gấp đôi ngươi".

Puneet trả lời: "Thưa Nữ hoàng, tôi chấp nhận thử thách, nhưng tôi muốn xin một đặc ân vì tôi không có vũ khí".

Nữ hoàng đáp: "Ngươi nói đi".

Hai con chó lang thang chui vào võ đài và gặm nhấm cái xác không đầu của người chiến binh.

Puneet nói: "Tôi có thể mượn Nữ hoàng một đồng vàng được không? Nếu tôi thắng, nó sẽ là của tôi; còn nếu tôi thua, Nữ hoàng vẫn có thể lấy lại nó từ xác chết của tôi".

Nữ hoàng hỏi: "Ngươi có gì để làm vật thế chấp không?". Bà tỏ vẻ thích thú trêu đùa cậu bé khôi ngô tuấn tú này.

"Đây", Puneet trả lời, giơ cao túi sỏi, "Đây là những viên sỏi từ ngôi làng của tôi".

Nữ hoàng bật cười và đám đông cũng cười ồ. Nữ hoàng nói: "Vì tinh thần thể thao, ta chấp nhận điều kiện của ngươi. Người đâu, đem cho cậu bé mượn một đồng vàng".

Puneet cẩn thận đặt túi sỏi lên sàn gỗ trước mặt nữ hoàng và một người hầu mang đến cho cậu một đồng vàng. Phần xác còn lại của người chiến binh thất trận được kéo ra và võ đài được dọn sạch. Có một sự im lặng tuyệt đối khi cậu bé đứng đối mặt với gã khổng lồ.

Gã khổng lồ gầm lên như sấm: "Ngươi không đáng là một miếng bánh cho ta".

Puneet đáp: "Chiến binh vĩ đại, tôi không thể đánh nhau với ông được".

Đám đông ồ lên chế nhạo. Nữ hoàng vẫy tay cho đám đông im lặng. Bà tỏ vẻ bực bội: "Cậu bé, ngươi đã đồng ý sẽ chiến đấu. Ngươi không có lựa chọn".

Puneet trả lời: "Không phải tôi sợ chiến đấu với anh ta, thưa Nữ hoàng. Bởi vì nhan sắc của bà quá lộng lẫy nên tôi không thể chiến đấu khi đang ngắm bà được".

Nữ hoàng hài lòng trước sự tâng bốc này. Bà mỉm cười: "Nhưng ta không thể khiến mình ít lộng lẫy hơn được".

Puneet trả lời: "Thưa Nữ hoàng, ngay cả nếu bà chỉ đẹp bằng phân nửa thế này thôi, nhan sắc của bà cũng vẫn làm lóa mắt mọi người".

Nữ hoàng thích thú hỏi: "Vậy ngươi muốn sao?". Gã khổng lồ tỏ ra nóng nảy, sốt ruột muốn ăn tươi nuốt sống cậu bé.

Puneet tiếp tục: "Tôi có thể yêu cầu người khổng lồ đứng giữa Nữ hoàng và tôi, để tôi có thể can đảm chiến đấu mà không bị nhan sắc của bà làm tôi lóa mắt được không?".

Nữ hoàng cười to và cảm thấy một nỗi ham muốn phụ nữ với chàng thanh niên trẻ đẹp này: "Được rồi, cứ làm thế đi".

Cậu bé và gã khổng lồ đổi chỗ. Đám đông lại trở nên im lặng đến mức có thể nghe được tiếng vo ve của một con ruồi.

"Chiến đấu đi!", gã khổng lồ gầm lên, lao về phía Puneet. Puneet bình thản nhìn từng bước chân của gã khổng lồ dẫm trên sàn gỗ tiến lại gần mình. Cậu đứng yên không động đậy trong khi gã khổng lồ đang từ từ đến gần. Ngay khi có thể ngửi thấy hơi thở hôi thối của gã khổng lồ, Puneet tung đồng tiền vàng lên không trung. Gã khổng lồ bị phân tâm, ngẩng người nhìn đồng tiền vàng lấp lánh xoay tròn. Khi nhìn lên, hắn bị lóa mắt trong một thoáng bởi ánh mặt trời phản chiếu vào đồng vàng, và đó là lý do tại sao Puneet muốn thay đổi vị trí chiến đấu. Puneet, người hiểu rõ chu kỳ của sự sống, hiểu rằng nếu cả thế giới cân bằng trên một hạt gạo, thì một người khổng lồ cũng vậy. Khi gã khổng lồ bị lóa mắt bởi đồng vàng, hắn đã bị mất cân bằng. Puneet bật lên phía trước, dùng hết sức bình sinh đấm vào đầu gối phải của gã khổng lồ. Hắn lảo đảo té về phía sau, hai cánh tay chới với trong không trung. Hắn ngã ngửa trên sàn gỗ với một sức mạnh làm rung chuyển toàn bộ mặt đất. Cái đầu là phần cuối cùng của cơ thể hắn bị đập xuống sàn, nó đập ngay lên trên túi sỏi nhỏ của Puneet. Cái đầu hắn bị vỡ đôi như một trái dưa hấu, người ta có thể thấy não cùng máu chảy tràn ra ngoài. Hắn chết trước khi đồng tiền vàng kịp rơi xuống sàn võ đài.

Đám đông im lặng sững sờ, rồi cả thị trấn bùng lên những tiếng reo hò.

"Thế đấy, các học trò của ta, thế giới này cân bằng trên một hạt gạo".

Sau đó thầy giáo im lặng.

Các học trò ngồi im suy ngẫm trước câu chuyện lạ lùng. Một lúc sau, một em giơ tay hỏi: "Thưa thầy, thế Puneet có đem rương vàng về làng không? Cậu bé có cưới nữ hoàng và trở thành vị vua vĩ đại nhất thế giới như định mệnh của cậu không?".

Thầy giáo mỉm cười: "Không, câu chuyện không kết thúc như thế". Thầy im lặng một chút rồi kể tiếp: "Ngay khi gã khổng lồ vừa ngã xuống, Puneet chộp thanh kiếm trong bàn tay hắn đâm xuyên qua cổ nữ hoàng.

"Các con ạ, một nữ hoàng bán rẻ sinh mạng thần dân để mua vui thì không phải là nữ hoàng. Cái chết của bà ta sẽ là niềm vui cho những người đã chết".

Một em khác hỏi: "Nhưng còn gia đình Puneet... còn ngôi làng đang chết đói thì sao, thưa thầy?".

Người thầy vĩ đại nhìn vào khoảng không và trả lời: "Sau khi nữ hoàng chết, Puneet nhắm mắt lại lắng nghe tiếng cha mẹ, anh chị cậu và cả làng đang gào khóc đòi thức ăn. Cậu có thể nghe tiếng khóc than đau đớn, nhất là của những người đang chết đói. Puneet nhắm mắt, tĩnh tâm, cầu mong họ chết đi".

Đám học trò thở gấp. Một em hỏi: "Nhưng tại sao lại có thể như thế được, thưa thầy?".

Thầy giáo im lặng một chút, chờ cho các học trò bình tĩnh lại để có thể lắng nghe. Cuối cùng thầy nói: "Ngôi làng nào lại để mất ba năm mùa màng mà không buồn đi tìm nguồn nước mới hay tìm cách chuyển đi nơi khác? Người cha nào lại sai con đi tìm cách cứu mình? Puneet nhìn lên không trung và mong họ chết đi, bởi vì chính họ cũng mong cho mình được chết".

Người học trò lớn nhất ngồi ở hàng đầu. Anh là người học trò yêu thầy nhất và được thầy yêu nhất. Anh hỏi: "Thưa thầy, thầy sẽ mong gì cho chúng con?".

Thầy giáo, người thầy vĩ đại nhất trong những người thầy, người khi còn trẻ đã đánh bại gã khổng lồ bằng duy nhất một đồng vàng, trả lời: "Ta mong các con không mong gì cả".

Hết. Yêu anh, Batuk.

***

Tôi học đọc viết ở một bệnh xá truyền giáo năm lên bảy tuổi. Tôi phải nhập viện vì bị ốm, do lỗi của mẹ, ít nhất đó là theo lời bà tôi.

Lúc còn nhỏ, tôi thường tìm mọi lý do để ra sông, khi thì đi câu cá với ông, khi thì đi chơi, thậm chí có khi tôi lấy lý do giặt quần áo để được ra sông. Bạn có thể luôn luôn tìm thấy tôi ngoài bờ sông. Thật lạ lùng vì tôi ghét bị ướt nhưng lại thích ngồi bên dòng sông. Tôi thích nghe tiếng nước chảy, thích nhìn vũ điệu của những tia nắng trên mặt nước. Tôi thích cảm giác cô đơn nhưng không ở một mình, vì nước luôn ở bên tôi suốt cả cuộc đời. Nhiều năm sau này, tôi vẫn hài lòng vì Đường Chung cũng là một dòng sông với những dòng người qua lại, những dòng xe hơi, xe buýt và những hạt nắng lấp lánh trên đường. Những dòng chảy không ngừng kết nối với tôi và cuốn tôi theo nó.

Vào một ngày nọ - không khí ẩm ướt nhưng trời xanh không một gợn mây - tôi từ dòng sông về nhà khi trời sẩm tối. Khi bước vào nhà, tôi bỗng ho khan. Bà bảo mẹ: "Tao đã bảo mày không được để nó ngồi ngoài bờ sông cả ngày mà. Giờ thì thấy chưa, nó bệnh rồi đó".

Bà tôi có khả năng thiên phú trong việc biến những thứ đơn giản nhất thành một bài diễn văn đả kích mẹ tôi. Ví dụ như khi bà nói: "Quẳng cái bánh đi", mẹ tôi sẽ lập tức hỏi: "Nó bị gì à?". Ngay cả nếu bà trả lời "Không có gì" thì giọng điệu của bà cũng hàm ý rằng cái bánh của mẹ không hơn một quả trứng ung. Vì thế nên khi bà trực tiếp buộc tội mẹ đã cố ý làm cho tôi bị ốm, mẹ tôi phản ứng ngay (mẹ vẫn luôn làm thế).

Mẹ quay ngoắt lại và ngắt lời bà: "Con đã nói Batuk không được ngồi ngoài bờ sông suốt ngày, nhưng mẹ biết tính nó mà, nó thích ngồi nhìn thằn lằn và nói chuyện với cây cỏ như một đứa khùng".

Tôi ho lần nữa nhưng lần này cố ý ho mạnh hơn (tôi rất có năng khiếu diễn kịch).

"Thấy chưa, tao bảo rồi", bà nói, "Nó không có khùng, nó chỉ ngớ ngẩn thôi. Nếu là tao thì tao sẽ cột nó vào một sợi dây thừng". Tôi suýt buột miệng nhưng bà vẫn tiếp tục nói và tôi biết sắp có chuyện vui để xem. Đúng như vậy, bà tôi cao giọng: "Mày là một đứa ngốc!". Bà nói như rít lên với mẹ tôi: "Mày để nó ngồi ngoài trời cả ngày - giờ hãy nhìn nó xem. Nói tao nghe thử, có bao giờ tao cố ý giết con chưa? Nếu tao đối xử với mày như mày đối xử với bé Batukee," - là tên ở nhà mà bà đặt cho tôi và tôi rất ghét cái tên đó - "hẳn bà ngoại sẽ cho tao một trận tơi tả".

Quả là một vở kịch tuyệt vời. Thế là tôi phun ra một tràng ho kéo dài cả phút (nghệ thuật bị ốm). Bà liếc nhìn tôi một cách thương hại (hay tán thưởng?) và cong môi chuẩn bị cho cú đánh cuối cùng: "Nếu con bé chết, mày sẽ mục xương trong tù. Ai sẽ chăm sóc những đứa trẻ tội nghiệp còn lại và bé Navaj tàn tật đáng thương?".

Bà thường đổ lỗi rằng Navaj bị khuyết tật là do mẹ không chịu uống loại trà đặc biệt của bà lúc mang thai. Tôi nghĩ có lẽ mình nên ho thêm chút nữa (vở kịch tiếp tục màn hai). Bà vẫn cong cớn với cái lưỡi như rắn độc: "Tao đã nuôi lớn cả đàn con tao. Mày tưởng tao sống đời để nuôi con giùm mày luôn à?... Coi chừng đấy... Ít nhất bọn trẻ phải tồn tại được qua trung học".

Tôi rặn thêm một tràng ho dữ dội mà một đứa bé bảy tuổi có thể tạo ra được. Bà quay sang tôi với ánh mắt tội nghiệp pha chút đắc thắng; tôi nghĩ chắc hẳn bà sẽ vui hơn nếu tôi lăn đùng ra chết tại chỗ. Tôi nhìn vẻ tội nghiệp trong mắt bà bốc hơi như bơ tan chảy giữa trời nắng nóng. Bà quét tia nhìn dữ tợn về phía mẹ tôi và tuyên bố: "Con bé cần đi bác sĩ" (ho), "NGAY BÂY GIỜ!" (ho, ho, ho). Điều lạ lùng là, tôi bị ốm thật.

Mẹ tôi đã học cách xử lý cơn giận của bà nhiều năm rồi. Mẹ chỉ đơn giản chuyển chúng qua cha tôi. Cho đến lúc đó, cha vẫn ngồi im lặng thưởng thức màn kịch. Mẹ quát lên với cha: "Anh nghe chưa, đồ say xỉn, cho con bé đi bác sĩ đi!".

***

Có ba cách để được trị bệnh. Cách thứ nhất là gọi điện sang thị trấn lân cận để mời bác sĩ đến, nhưng chúng tôi không bao giờ có đủ tiền để làm thế. Cách thứ hai là cha sẽ gom góp tất cả tiền bạc hiện có, quẳng tôi lên chiếc xe bò của gia đình và chở đến thị trấn nơi bác sĩ đang ở, cách làng vài giờ đi xe. Khi đến nhà bác sĩ, chúng tôi sẽ ngồi chờ hàng thế kỷ trước khi tôi được khám bệnh. Bác sĩ sẽ hỏi thăm tôi vài giây trước khi đẩy gọng kiếng lên, hí hoáy viết vào một mẩu giấy. Sau đó ông đưa mẩu giấy cho y tá và cô y tá sẽ đưa cha tôi một ít bột gói trong một bao giấy nhỏ màu nâu bóng. Chuyến viếng thăm kết thúc bằng một trận cãi vã khi cha tôi cố gắng giải thích rằng cha chỉ có "chừng này thôi" còn cô y tá khăng khăng là cha phải trả thêm tiền.

Cách chữa bệnh thứ ba cũng là đến thị trấn giống như cách thứ hai, nhưng không đến bác sĩ. Cha sẽ mua cho tôi một ly nước ngọt và để tôi ngồi đợi trên chiếc xe bò ở quảng trường khoảng một giờ trong khi ông đi thăm cô em họ. Khi ông quay lại với mùi nước hoa oải hương của cô em họ trên áo, chúng tôi sẽ quay về nhà, cả hai đều vui vẻ. Có lẽ nước ngọt có một thành phần đặc biệt gì đó bởi vì sau đó tôi thường cảm thấy khá hơn.

Lần này chúng tôi đi theo cách thứ ba. Tôi được một ly nước ngọt còn cha uống trà. Sau đó ông cột con bò và chiếc xe vào quảng trường, để tôi ngồi đợi trong khi ông đi thăm cô em họ. Một giờ sau đó, chúng tôi quay về nhà, nhưng giờ thì tôi thật sự bị ho nặng và khi về đến nhà thì tôi lên cơn sốt. Mẹ hỏi bác sĩ nói gì, cha nói dối rằng bác sĩ bảo tôi sẽ sớm khỏe lại, chỉ cần hạ sốt bằng khăn nhúng nước. Mẹ hỏi cha bác sĩ có cho thuốc không, cha trả lời rằng bác sĩ có cho thuốc và tôi đã uống rồi. Sau đó cha thêm thắt chi tiết vào để lời nói dối có tính thuyết phục hơn, cha nói chất bột là một hỗn hợp màu nâu trắng có mùi rất khó uống. Lúc đó tôi ốm nặng đến mức không đủ sức xác nhận hay phản đối câu chuyện bịa của cha.

Tôi tiếp tục bị sốt cao trong vài ngày, ho ra rất nhiều đàm nhớt màu vàng nâu, đôi khi lẫn cả máu. Tôi không ăn được và cơn ho vẫn không dứt. Nhiều người trong làng đến thăm và chúc tôi mau khỏe, thậm chí có người còn thử chẩn đoán, chữa trị. Điều duy nhất mọi người đều đồng ý là vị bác sĩ khám bệnh cho tôi là đồ lang băm bịp bợm. Tôi nghe ít nhất ba người nói rằng ông ta thậm chí không phải là một bác sĩ. Mặt cha tôi trông tái mét.

Sau năm ngày tôi bị sốt cao và ho nặng, mọi người quyết định đưa tôi đến một bệnh xá truyền giáo ở Bhopal, mất đến một ngày đi đường. Tôi được trùm kín, hai cha con khởi hành từ tờ mờ sáng. Chúng tôi vẫn đi trên chiếc xe bò và tôi ho khan suốt đường. Khi chúng tôi đến bệnh xá nằm ở ngoại ô thành phố, cô y tá lắng nghe câu chuyện của cha, nhìn tôi ho ra một chất nhớt vệt hồng. Trước sự ngạc nhiên của tôi, cô y tá cẩn thận lấy một mẫu chất nhớt này vào lọ như thể một cái gì rất quý giá. Vài giờ sau, cô quay lại bảo cha rằng tôi bị bệnh lao, cần phải nhập viện. Khu bệnh xá thật ra là một chuồng gà rộng được sửa lại cho người bệnh nằm. Nó có mùi của những người đã nằm trước đó, át cả mùi i-ốt và mùi bệnh. Dọc tường là những chiếc giường kê song song dành cho phụ nữ, phía bức tường đối diện là giường dành cho đàn ông. Tôi được cấp một cái giường thép và một tấm nệm xám vào khoảng giữa dãy giường phụ nữ. Khi cha ra về, tôi ốm nặng đến mức không khóc nổi.

Dù hơi sợ nhưng tôi cảm thấy thoải mái hơn khi nằm trên tấm nệm. Tôi là bệnh nhân nhỏ tuổi nhất ở đây. Ban ngày rất ồn ào: tiếng bánh xe lăn, tiếng người rên rỉ, ói mửa, hấp hối, tiếng vù vù của ruồi nhặng. Vào ban đêm, sự tĩnh lặng như một cái mền trùm lên tiếng ngáy, tiếng sột soạt của bốn mươi ba bệnh nhân và một cô y tá. Có lẽ tôi đã quen với cái mùi ở đây vì tôi thường thấy những người khách đến thăm vừa bước vào đã vội bịt mũi chạy ra trước khi bị nghẹt thở, đôi lúc còn nôn ói.

Kế bên giường tôi là một bà già nằm gần như trần truồng. Trông bà già hơn bà tôi nhiều và gầy trơ xương. Một tay bà buông thõng xuống cạnh giường. Khi những ngón tay của bà động đậy, tôi có thể thấy những đường gân quằn quại dưới lớp da mỏng như một tờ giấy gói thuốc lá. Thỉnh thoảng khi bà ngủ, tôi nhìn chuyển động chập chờn của mạch đập ở cổ tay bà chỉ để xem khi nào nó ngừng đập. Một vài ngày sau, nó thật sự không đập nữa. Trong vòng một giờ, xác bà được cuộn vào một tấm vải nhựa và biến mất.

Giường bên kia là một phụ nữ khoảng bằng tuổi mẹ tôi nhưng mập gấp đôi mẹ. Chân trái cô bị quấn băng dày cộm và y tá đến thay băng mỗi ngày. Cô bị cưa chân vì nó bị nhiễm trùng do bệnh tiểu đường. Lạ lùng là cô không hề có vẻ muốn nổi điên vì cái chân mình đang nằm trong một cái thùng rác nào đó. Trái lại, cô có vẻ thích thú với sự chú ý của mọi người, vì gần như ai đi ngang cũng dừng lại một chút với vẻ cảm thông: "Tội nghiệp quá", "Thật là một căn bệnh kinh khủng", "Trông cô tuyệt lắm" (mặc dù không có chân), và mang cho cô rất nhiều đồ ăn ngon. Thỉnh thoảng người phụ nữ cũng tỏ ra rộng rãi, chia sẻ với tôi một chút thức ăn thừa mà cô ăn không hết, nhưng hành động hào phóng này hiếm khi diễn ra, vì cô gần như luôn luôn liếm sạch các hộp đồ ăn. Hai tuần sau khi mổ, cô rời bệnh xá trên một chiếc hộp gỗ có bánh xe do chồng cô đẩy ra với điếu thuốc phì phèo trên môi. Tôi dám chắc người phụ nữ này sẵn sàng hy sinh luôn cái chân còn lại để đổi lấy vài tuần được mọi người thương hại và được ăn những món ăn ngon.

Vào ban ngày, bệnh xá có một bác sĩ, ba y tá và hai người tạp vụ lớn tuổi, chịu trách nhiệm khiêng vác, lau chùi và dọn xác chết khi cần. Bệnh xá còn có một linh mục mà mọi người gọi là Cha Matthew, một người da trắng mảnh khảnh trẻ tuổi. Mỗi ngày ông đến nói chuyện với chúng tôi khoảng nửa giờ, cho chúng tôi một miếng bánh mì với nước quả. Ông có một giọng nói mềm mại, một tác phong nhẹ nhàng. Khi giảng đạo, ông đứng trên một chiếc bàn gỗ đặt trước lối vào giữa bệnh xá, hoa tay múa chân như một người mất trí. Những nỗ lực này không cần thiết vì không ai trong chúng tôi hiểu ông nói gì nhưng cũng không ai có thể bỏ đi. Dù vậy, xem ông nói cũng vui, chủ yếu nhằm mục đích giải trí cũng như được nhận bánh mì và nước quả. Bốn mươi ba người chúng tôi là một đội quân mộ đạo, dù rằng tất cả chúng tôi rồi sẽ rời bỏ ông, bằng cách này hay cách khác. Một hay hai lần mỗi ngày, ông đi dọc hai dãy giường, luôn luôn dừng lại ở giường tôi vì tôi nhỏ tuổi nhất. Ông mỉm cười với tôi, tôi cười lại. Ông luôn mang theo một cuốn sách và một cây thánh giá, những đồ vật mà tôi biết rất quan trọng với ông. Tôi biết ông thường nói chuyện với các y tá về tôi vì tôi thường nhìn vào mắt ông.

Không ai đến thăm tôi và tôi hài lòng với điều đó vì tôi đang học đọc.

Sau một tuần ở bệnh xá, tôi cảm thấy khá hơn nhưng vẫn không được phép rời khỏi giường. Mỗi ngày, bác sĩ và các y tá đi thăm từng giường bệnh. Ngày nào cũng vậy, khi đến giường tôi, bác sĩ áp ống nghe vào lưng tôi, gật gù rồi thì thầm với cô y tá trưởng và viết gì đó lên cái bảng ở chân giường - không bao giờ ông nói với tôi lời nào. Cô y tá trẻ nhất tên là Hita. Chị Hita chính là người đã dạy tôi đọc sách.

Chị Hita trông giống như mọi cô gái bình thường ở làng tôi: mạnh khỏe, tròn trịa và có một nụ cười hồn nhiên (dù chị có vài chiếc răng gãy). Chị thường ngồi trên giường nói chuyện với tôi trong bộ đồng phục trắng. Một hôm, tôi hỏi chị bác sĩ viết gì lên cái bảng ở chân giường. Chị cầm cái bảng lên đọc to: "Ngày 7 tháng 8, có tiến triển, cần nghỉ ngơi trên giường. Đáy phổi xẹp; đông đặc ở vùng giữa bên phải. Cho phép ăn. Không tập thể dục". Tôi ngạc nhiên hỏi: "Ông ấy viết tất cả những điều đó trong một dòng sao?". Những ký tự ngoằn ngoèo khiến tôi cảm thấy thú vị. Hita gật đầu. Chị chạy đi rồi quay lại với một cuốn sách, bìa sách có một con thỏ và một chiếc xe cút kít có mắt mũi, cả hai đều đang cười. Tôi mở cuốn sách nhìn những ký tự trên trang giấy. Những hình dạng chữ và khoảng trống giữa các từ khiến trang sách trông như một bức vẽ. Y tá Hita chỉ tôi chữ đầu tiên, tôi lặp lại: "Thỏ". Vài giây sau chị bỏ đi vì một người đàn ông ở góc phòng bên kia làm rơi cái ống tiểu và nước tiểu của ông ta chảy tràn ra ngoài. Tôi ôm cuốn sách, nhìn chằm chằm vào từ "thỏ", đọc tới đọc lui như một câu thần chú.

Mỗi ngày, chị Hita đến dạy tôi một vài từ. Tôi bỏ ra cả ngày để học từ mới và ôn lại từ cũ. Sau một tuần, tôi có thể đọc được một đoạn văn ngắn và chị Hita rất vui. Tôi nói với chị rằng tôi muốn đọc cuốn sách cho vị linh mục da trắng nghe, vì ông luôn mang theo một cuốn sách bên mình nên tôi nghĩ ông cũng sẽ thích việc đọc.

Mùa hè ngày càng nắng gắt, Cha Matthew ngày càng tỏ ra diễn cảm hơn trong bài thuyết giáo trên bàn. Ông cố gắng đến mức khi ông kết thúc bài giảng, dù không ai hiểu gì nhưng mọi người đều vỗ tay, còn những người không có tay thì reo hò. Một buổi chiều nọ, khi Cha Matthew đi diễu hành và ngừng lại bên giường tôi như thường lệ, chị Hita nói gì đó với ông bằng tiếng Anh. Cha Matthew quay lại nhìn tôi, mỉm cười và gật đầu cổ vũ. Tôi đã tập đọc hai trang sách đầu tiên thật nhuần nhuyễn từ mấy ngày qua. Dù không thể hoa tay múa chân được, nhưng tôi vẫn cố gắng đọc thật diễn cảm câu chuyện về một chú thỏ đã khích lệ anh bạn xe cút kít bằng cách giúp anh ta trở nên hữu ích hơn. Khi tôi đọc xong, cha Matthew tươi cười vỗ tay, nói gì đó với chị Hita bằng tiếng Anh. Chiều hôm sau, một người đàn ông xuất hiện: Chophra, thầy giáo của tôi.

Trong suốt mười hai tuần tôi nằm ở bệnh xá, thầy Chophra đến dạy tôi (và thăm chị Hita) ba lần một tuần. Tôi là một học trò sáng dạ. Sống ở sa mạc một thời gian dài, tôi rất khát nên khi có người mang nước đến, tôi uống như chưa bao giờ được uống. Trong vòng ba tuần đầu tiên, tôi đã nắm được kỹ năng đọc cơ bản. Sau đó, thầy Chophra mang đến cho tôi những cuốn sách phức tạp hơn. Cơn khát của tôi vẫn không được thỏa mãn vì tôi đọc rất nhanh ngay khi thầy vừa mang sách đến, những tập thơ, những câu chuyện, và ngay cả các bản dịch từ những cuốn sách tiếng Anh. Mỗi ngày, Cha Matthew đều đến nghe tôi đọc sách. Tôi biết ông không hiểu tôi nói gì, nhưng dường như điều đó không quan trọng. Ông có thể nghe được những mẫu âm mà không cần hiểu chúng. Khi tôi đọc xong, ông tươi cười vỗ tay, sau đó đến lượt ông đọc lại cho tôi nghe cuốn sách bìa đen đặc biệt của ông. Ông đọc trong khoảng năm hay mười phút, tôi ngồi lắng nghe âm điệu du dương cùng giọng nói dịu dàng của ông. Sau khi đọc xong, ông đánh dấu trang sách bằng một sợi chỉ vàng đính vào bìa sách. Và cứ như thế, chúng tôi đọc sách cho nhau nghe mỗi ngày. Tôi bắt đầu có thói quen đi ngủ sau khi đọc sách và tỉnh dậy với cuốn sách bên cạnh.

Tôi học viết song song với học đọc bằng cách tập viết chữ từ những cuốn sách mà thầy Chophra cho tôi. Rõ ràng thầy Chophra rất thích đến thăm tôi bất cứ khi nào có thể (ngay cả khi tôi sắp đến giờ ngủ). Tuy nhiên, không phải sự ham học của tôi lôi cuốn thầy đến đây mà lý do chính là vì chị Hita. Thỉnh thoảng tôi tỉnh dậy sau giấc ngủ trưa, thấy thầy Chophra đang vui vẻ cười nói với chị Hita. Nhìn họ nói chuyện thật vui; thầy lúng túng nói lắp còn chị Hita thì đỏ mặt e thẹn. Sau khi thầy ra về, chị thường nói chuyện về thầy với các y tá khác, họ cười khúc khích với nhau như các cô gái thường làm. Có lần tôi hỏi chị Hita rằng chị có thích thầy Chophra không. Chị mắng tôi và tôi hiểu câu trả lời là có. Thậm chí một lần, khi bệnh xá yên tĩnh, chị Hita ngồi bên tôi suốt bài học của thầy Chophra, như một con thỏ bị thôi miên chằm chằm nhìn vào xe-cút-kít-Chophra.

Sự dạy dỗ ngày càng sao lãng của thầy Chophra không hề khiến tôi phiền lòng, vì mỗi lần đến, thầy đều mang nhiều sách cho tôi đọc. Vấn đề là tôi trở nên mê mải với việc đọc sách đến mức quên giả vờ ốm, và trước khi tôi nhận ra điều đó, vị bác sĩ im lặng với cái ống nghe đã viết vào tấm bảng ở chân giường: "Cho về".

Vào ngày xuất viện, tôi thay đồ từ sáng sớm. Tôi chào tạm biệt tất cả những cô chú bạn cùng phòng và các y tá bác sĩ. Ngay cả vị bác sĩ im lặng cũng mở miệng: "Tạm biệt, chúc cháu mạnh khỏe". Buổi tối hôm trước, thầy Chophra đã đến tặng tôi một thùng giấy đựng đầy sách. Khoảng gần trưa, cha tôi bước vào. Tôi rất vui khi gặp lại cha. Không thể kiềm chế được, tôi chạy băng ra, nhảy vào lòng cha, ôm cha thật chặt. Cha cười toét miệng: "Con gái, trông con khỏe lắm. Họ cho con ăn gì thế?". Sau vài câu pha trò, hai cha con tôi gần như không biết nói gì với nhau nữa. Tôi nắm tay dắt cha đi một vòng quanh bệnh xá. Cha Matthew xuất hiện với chiếc đuôi áo dài màu đen phấp phới sau lưng. Ông bắt tay cha tôi; hai người khổng lồ có vẻ hơi thận trọng với nhau nhưng khi tôi chen vào giữa, cảm giác đó biến mất. Cha Matthew tặng tôi một cuốn Kinh thánh (sau này mẹ đã quẳng nó đâu mất) và ôm tôi rất lâu. Tôi tặng lại ông một bài thơ mà mấy hôm trước tôi đã viết, tỉ mẩn trang trí tờ giấy bằng những cành cây, những con báo và những tia nắng mặt trời.

Gởi Cha Matthew:

Mỗi ngày cha đến và đọc sách cho con

Mặc bộ áo đen, mang sách trong tay với nụ cười vui vẻ

Con đọc lại cho cha và cha không hiểu gì cả

Nhưng cha vẫn lắng nghe, mỉm cười và nắm lấy tay con

Cha luôn vỗ về con và nói những điều hạnh phúc

Con vẫn cảm thấy bàn tay cha, dù chúng ta đã rời xa

Thương cha nhiều, Batuk.

Sau khi tôi đọc bài thơ, chị Hita dịch lại, Cha Matthew ôm tôi một lần nữa, tôi thấy ông nghẹn ngào. Chị Hita đứng khóc thổn thức. Tôi nhìn dòng nước mắt chảy loang trên gương mặt tròn xinh đẹp, hy vọng chị sẽ gặp lại thầy Chophra.

***

Trên đường về nhà, tôi nói chuyện phiếm với cha. Cha vui vẻ nghe tôi nói, với một nụ cười lặng lẽ trên môi. Đôi khi ông rướn người qua chiếc xe, vuốt tóc hoặc ôm tôi. Mặc dù ông hỏi nhưng tôi không cho ông biết có gì trong cái thùng giấy.

Buổi tối, chúng tôi dừng lại nghỉ ngơi ở một quán trà. Tôi bảo cha lấy cái nón che mắt lại. Tôi lấy một cuốn sách trong thùng giấy ra, hỏi cha sẵn sàng chưa, rồi bắt đầu đọc sách cho cha nghe. Câu chuyện kể về một cô gái yêu một chàng trai nhưng bị gia đình bắt buộc cưới người khác. Người chồng mới cư xử với cô rất tàn tệ vì anh ta chỉ cưới cô vì tiền bạc danh vọng và anh ta biết vợ mình yêu một người khác. Cô gái có trái tim tan vỡ tìm cách trốn thoát, cố gắng quay về với người yêu của mình. Trên chặng đường về, cô phải đi qua một dòng sông, một cơn bão nổi lên đánh chìm thuyền, ném cô lên một hòn đảo nhỏ xíu. Khi nước dâng cao, hòn đảo từ từ chìm xuống, cô gái chỉ còn biết gởi lời than khóc theo gió. Chàng trai người yêu nghe tiếng khóc của cô, dong thuyền vượt qua cơn bão để đến hòn đảo. Dù con thuyền của anh cũng bị bão đánh tan nhưng anh đã xoay sở lên được hòn đảo và lao vào vòng tay cô. Cặp tình nhân chết trong tay nhau khi hòn đảo từ từ bị nhấn chìm trong nước.

Cha không nói lời nào cho đến khi tôi đọc xong. Khi đọc hết truyện, tôi lén nhìn cha dưới chiếc nón, mắt cha ngấn lệ, nước mắt lấp lánh thành dòng trên má. Cha chỉ nhìn tôi chăm chăm.

Tôi luống cuống nói: "Cha ơi, còn có những truyện khác vui hơn, để con..."

"Batuk, cha không khóc vì câu chuyện. Cha không bao giờ tưởng tượng được mình sẽ có một đứa con biết đọc... Đó sẽ là tấm vé cho con rời khỏi Dreepah-Jil", ông tỏ vẻ hào hứng hẳn lên, "Chúng ta sẽ tìm cho con một thầy giáo... Một ngày nào đó con sẽ trở thành... bác sĩ, luật sư".

Tôi ngắt lời: "Hay là một cô giáo".

"Đúng vậy, con gái, hay là một cô giáo tuyệt vời. Batuk, đến với cha nào".

Tôi nhảy vào lòng cha với một cuốn sách khác trong tay, những bài thơ của Namdev. Trong khi tôi đọc những từ ngữ mà tôi không hiểu rõ, cha ôm tôi vào lòng. Đêm hôm đó, chúng tôi cùng thêu dệt những giấc mơ cho tương lai của tôi. Cả cha và tôi đều không hề nghĩ rằng tôi sẽ trở thành một con điếm.

***

Bất chấp câu chuyện mà tôi viết cho anh, Puneet vẫn tiếp tục âu sầu. Hôm nay, một lần nữa, anh ngồi gục đầu ũ rũ trước cửa. Chiếc băng đã được tháo ra. Tôi vẫy tay chào anh nhưng thật sự, tôi muốn bước qua tát vào mặt anh. Phải thừa nhận rằng càng ngày tôi càng ít nghĩ đến anh hơn. Anh vẫy tay lại với tôi một cách rầu rĩ. Một điều tốt là hôm nay anh có nhiều người thăm viếng hơn.

Dường như không ai để ý rằng giữa những lượt làm bánh, tôi ngồi trước cửa, đặt tập giấy lên đầu gối, hí hoáy viết. Ban đầu tôi sợ tập giấy của mình sẽ bị phát hiện, nhưng sau đó tôi không sợ nữa khi nhận ra bà Mamaki không biết đọc, mặc dù bà có thể đánh dấu vào tên chúng tôi trong cuốn sổ nhỏ. Thậm chí bà còn tỏ vẻ hài lòng khi tôi ngồi viết trước cửa, vì như thế sẽ thu hút nhiều khách hơn. Những khách hàng mới thường dừng lại hỏi tôi đang viết gì. Câu trả lời của tôi luôn là: "Em chỉ viết linh tinh thôi" (đàn ông không thích cảm thấy mình ngu ngốc). Việc viết lách của tôi là một cách dễ dàng để thu hút những người đàn ông nhút nhát, và khi họ đến gần, bà Mamaki sẽ tấn công. Bà sẽ mở rộng cánh tay lôi họ vào cái ổ của tôi; thế là xong! Ngoài ra, khi tôi đang ngồi viết, bà có thể chỉ vào tôi khi nói chuyện với những người đàn ông đi ngang. Tôi nhanh chóng lấy lòng bà, thậm chí hôm qua, bà Mamaki còn bảo tôi: "Có lẽ ta nên bảo những đứa khác cũng ngồi viết trước cửa".

Đối với tôi, một người khách nghĩa là một đoạn văn kết thúc hoặc một chương dang dở. Buổi chiều thường là lúc yên tĩnh nhất, khi đó tôi dành thời gian cho cuốn sổ của mình. Chiều nay trời rất nóng. Tôi gọi Puneet: "Puneet ơi, em có một chuyện vui cho anh đây!"

Meera thò đầu ra khỏi cái ổ giữa hai chúng tôi với một nụ cười toe toét: "Em cũng thích chuyện vui". Puneet không cử động mà chỉ gầm gừ trong miệng.

Tôi tiếp tục: "Anh sẽ gọi một con chó hai đầu thế nào?"

Meera hét lên: "Gâu gâu, câu khác đi".

"Đúng rồi", tôi nói, "Thế em sẽ gọi một con voi dựa vào một cái cây là gì?".

Meera nhíu mày; trông cô bé thật dễ thương. Tôi trả lời: "Bầm tím!".

Meera ngẩn người: "Em không hiểu".

Puneet lên tiếng một cách ảm đạm: "Bởi vì cái cây sẽ đổ lên người con voi và làm cho nó bị thương".

Meera bật cười khanh khách, tôi cũng cười to. Cô bé thật sự là một đứa trẻ (đó là điểm hấp dẫn chính của cô). Bà Mamaki lợi dụng điều đó bằng cách nói với khách hàng rằng Meera mới mười tuổi trong khi thật ra cô bé đã mười hai tuổi.

"Câu khác đi chị", Meera gọi to.

Tôi suy nghĩ một lúc và nói khẽ: "Em sẽ gọi một phụ nữ có ba vú là gì?"

Meera lắc đầu nhún vai.

"Bà Hà Mã", tôi trả lời nhỏ, "Hai cái trên ngực, một cái dưới cằm bà ta".

Meera bật cười như điên. Puneet ngẩng đầu lên: "Thế em gọi một phụ nữ có râu là gì?". Anh ngồi thẳng lên.

Meera đáp: "Bà Hà Mã luôn".

"Đúng thế", Puneet nói to và mỉm cười lần đầu tiên sau hàng thế kỷ.

Tôi tiếp tục: "Puneet, chuyện gì xảy ra cho cô bé thứ sáu trong nhóm chúng ta?"

"Puneet trả lời: "Cô bé ở giữa hai mông bà Mamaki". Meera lăn ra cười ngặt nghẽo. "Tới phiên em, tới phiên em", Meera nói, "Chồng bà Mamaki đâu?".

Tôi đáp: "Giữa hai vú bà ấy".

Không ai trả lời. Meera và Puneet im lặng nhìn qua vai tôi.

"Ông ấy chết rồi", tiếng bà Mamaki vang lên sau lưng tôi, bà lạch bạch đi xuống phố. Ba chúng tôi im lặng một lúc lâu và Puneet bắt đầu mỉm cười. Nụ cười của anh trở thành tiếng khúc khích của tôi, rồi cả ba chúng tôi đều cười to. Puneet ôm bụng cười sằng sặc: "Ông ta bị ngộp thở... họ đang làm tình, ông ta bị trượt té vào bên trong bà ta... Đó là lý do tại sao bà ta có dáng đi như thế".

Đó là trận cười đau bụng cuối cùng mà chúng tôi chia sẻ với nhau.

***

Tôi gặp Puneet lần đầu ở một nơi được gọi là Trại mồ côi. Đó là một khu vực rộng khoảng bằng nửa khu chợ bán thịt, có những cột tre giằng những miếng vải cũ chắp vá. Khi một miếng vải mòn xơ xác đến mức không thể chắp vá được nữa, nó sẽ được thay bằng một miếng vải khác ít mòn hơn.

Trại mồ côi được cai quản bởi nhóm Yazak, những người đàn ông và phụ nữ vô nhân tính. Các Yazak chỉ xem bọn trẻ như một phương tiện kiếm tiền. Họ sống trong một ngôi nhà gạch ở đầu trại trẻ, trong đó tiếng nhạc và tiếng tivi không ngừng phát ra. Ngoại trừ mối quan tâm tiền bạc, việc kiểm soát khá lỏng lẻo vì không thể phân biệt được những đứa trẻ với nhau. Trại mồ côi bao gồm một đàn trẻ sống lê lết cho đến khi được gọi đi làm một vài công việc gì đó để đổi lấy thức ăn, quần áo hoặc đôi khi (rất ít), chúng được cho vài xu tiền công. Không làm việc sẽ không có thức ăn. Không đứa trẻ nào dám ăn trộm hay lừa gạt nhóm Yazak, bởi vì không ai quan tâm đến sự hiện diện của chúng và cũng không ai quan tâm đến sự biến mất của chúng. Có rất nhiều tin đồn đáng sợ; ví dụ như, có một đứa trẻ trong trại mồ côi đã ăn trộm một chiếc xe đạp của nhà hàng xóm và bỏ túi 20 rupee mà không nói với người Yazak của mình. Người hàng xóm nói với nhóm Yazak, vì cậu bé có một dấu xăm trên cổ tay như một dấu hiệu phân biệt cậu trong trại trẻ này. Công lý được thực thi lập tức. Người Yazak nắm tóc đứa trẻ mười một tuổi bằng tay phải, nhấc bổng cậu bé lên, dùng tay trái cắt cổ họng cậu bằng một con dao Damascus. Trước khi máu phọt ra, người Yazak quăng cậu bé xuống đất. Một phút trước khi hồn lìa khỏi xác, đôi giày và bộ quần áo rách rưới của cậu bị những đứa bé khác lao vào giành giật. Buổi tối hôm đó, một đứa trẻ khác được thưởng một chén cơm vì đã khiêng cái xác quẳng vào bãi rác công cộng, nghĩa trang của những người nghèo.

Những đứa con gái cũng không thoát khỏi sự bạo tàn của nhóm Yazak. Có một câu chuyện kể về một cô bé bị khâu âm đạo vì dám tự ý giao hoan với người khác. Một phụ nữ Yazak ngồi đè lên cô bé, cho những đứa trẻ lớn hơn giữ chặt tay chân cô, bà ta khâu âm đạo cô bé lại bằng kim và chỉ khâu, chỉ chừa lại một cái lỗ nhỏ xíu cho việc tiểu tiện. Nếu cô bé tìm cách tự cắt chỉ bằng dao hay kiếng vỡ chắc chắn sẽ bị nhiễm trùng và cái đích cuối cùng vẫn là bãi rác. Với những người vi phạm lần thứ hai, âm đạo của họ sẽ bị khâu kín hoàn toàn. Rất ít người vi phạm lần thứ hai có thể lớn lên đến tuổi trưởng thành. Bạn có thể nghĩ rằng điều này không hợp lý, bởi vì đằng nào các cô bé này cũng sẽ rơi vào các ổ gái điếm. Nhưng không, sự trừng phạt dã man đó khiến các cô bé khác e sợ và không bao giờ dám lừa dối nhóm Yazak. Hơn nữa, việc "đóng cửa" một cô bé, như cách gọi của họ, có thể xem là một cách đầu tư, bởi vì những cô bé bị "đóng cửa" sẽ trở nên chuyên nghiệp trong việc phục vụ khách bằng những cách thức khác và như thế họ sẽ được khách thưởng tiền nhiều hơn.

Việc chạy trốn rất hiếm hoi. Khi một đứa trẻ chạy trốn, việc bị bắt lại là không tránh khỏi vì giữa các Trại mồ côi có một quy luật tuyệt đối trong việc trả lại những kẻ lang thang. Hình phạt cho việc chạy trốn là ném đá. Đứa trẻ chạy trốn sẽ bị quấn trong một cái bao tải, vứt nằm trên sàn, bị mọi người xung quanh ném đá cho đến chết. Khi trò vui kết thúc, cái bao sẽ được bịt kín lại và quẳng ra bãi rác, không ai buồn kiểm tra xem đứa bé tội nghiệp còn sống hay đã chết. Tiếng la khóc đau đớn của nạn nhân trong lúc bị ném đá làm nhụt chí những đứa trẻ khác, nhất là khi hình phạt được thi hành bởi những đứa trẻ đang manh nha tìm cách trốn đi.

Với hệ thống công lý tàn nhẫn này, Trại mồ côi trở thành một ngôi nhà yên bình, trật tự cho những đứa trẻ mà sau này lớn lên sẽ trở thành những u nhọt của xã hội.

Không có trẻ sơ sinh ở Trại mồ côi, vì chúng được đưa đi một nơi khác. Trẻ sơ sinh có giá trị cao hơn. Các cô gái điếm được khuyến khích từ bỏ những "của nợ" mà khách hàng của họ để lại. Trẻ sơ sinh được đưa đến một túp lều màu nâu nhạt đối diện khu chợ bán thịt, ngôi nhà chứa khoảng năm mươi trẻ nhỏ cùng các vú nuôi. Những đứa bé này được một mạng lưới ăn xin có tổ chức đến thuê mỗi ngày, vì một kẻ ăn xin với một đứa bé sẽ kiếm được số tiền gấp năm lần một người ăn xin không có đứa bé nào (quy luật này cũng đúng với những đứa trẻ dị dạng hoặc cụt chi). Những đứa bé này được cho ăn đầy đủ để sinh tồn, nhưng không được để quá mập. Một đứa bé mập sẽ không khóc vì đói ngay cả khi chúng bị chọc một cây kim dưới mông, mà bất cứ đứa bé nào cũng phải gào lên. Trẻ sơ sinh cũng bị xăm người làm dấu và người thuê phải trả chúng về khi mặt trời lặn để chúng được cho ăn. Nếu một trẻ sơ sinh sống sót qua giai đoạn đầu, nó sẽ được đưa vào Trại mồ côi, còn nếu không, nó sẽ ra bãi rác.

Người dạy tôi những điều đó là chồng tôi, Shahalad.

***

Buổi sáng sau khi tôi được "khai sáng" ở nhà Ông chủ Gahil bởi ông chú hay cười, bác sĩ Dasdaheer lại đến thăm tôi. Dường như ông vẫn mặc chiếc áo nhàu nát ngày hôm qua. Bác sĩ khám cho tôi nhưng lần này ông chỉ khám xung quanh cửa mình. Ông tuyên bố, và tôi cảm thấy nhẹ nhõm: "Tốt. Không thương tổn gì". Ông để một chiếc sơmi trắng tay dài lên giường cho tôi mặc. Sau khi ông bước ra, tôi mặc áo vào, vì mãi đến lúc đó tôi vẫn còn trần truồng.

Tôi nằm bất động trên giường khoảng một hoặc hai giờ nữa. Cuối cùng khóa cửa kêu lách cách và Ông chủ Gahil bước vào. Ông mặc chiếc áo choàng dài màu trắng viền vàng và tươi cười với tôi: "Batuk, tối qua cháu thật tuyệt vời; chúc mừng cháu, công chúa nhỏ".

Tôi nhìn vào khoảng không trước mặt và ông tiếp tục: "Cháu thích những cái bánh ngọt của bà Kumud như thế nào thì chú Nir cũng yêu thích cháu như thế". Tôi nhớ đến gương mặt hay cười của ông chú và đôi giày bóng loáng của ông.

Ông chủ Gahil tiếp tục bằng giọng trầm trầm: "Khi một người đàn ông trở thành một ông chú, ông ta bắt đầu thích một loại bánh mới, và cháu, công chúa, cháu là cái bánh ngon nhất mà ông ấy từng ăn".

Ông nhe răng cười như thể ông muốn tôi cùng cười với câu chuyện đùa của ông. Nhưng tôi vẫn nhìn chăm chăm vào khoảng không. Ông hít hơi vào và tiếp tục: "Batuk, cháu rất đặc biệt vì cháu có thể khiến các ông chú cảm thấy vô cùng hứng khởi. Điều đó khiến cháu rất tuyệt vời, như một công chúa trong lâu đài".

Ông đến gần tôi và ngồi lên giường kế bên tôi. Tôi vẫn nằm yên, không nhìn lên, cũng không động đậy. "Thật ra, công chúa nhỏ", ông nói tiếp, "Ta có một sắp xếp đặc biệt cho cháu - chỉ cho cháu thôi - để cháu có thể làm thêm thật nhiều bánh với các ông chú khác. Tất cả bọn họ đều sẽ yêu mến cháu. Họ sẽ cho cháu nhiều quà, quần áo, đồ chơi và thức ăn ngon. Cháu sẽ thấy rất vui; cháu làm bánh với họ và họ sẽ cho cháu rất nhiều quà. Như thế có tuyệt không nào?". Tôi lật mình nằm úp mặt xuống giường.

Ông nói với cái lưng của tôi: "Nào, cháu sẽ nói gì với chú Gahil?". Tôi không nói gì cả. Ông chủ Gahil lặp lại: "Cháu sẽ nói gì với ta?". Lần này ông không chờ câu trả lời nữa. Ông dùng tay trái nắm tóc tôi và kéo tôi khỏi giường. Với bàn tay phải, ông tát thật mạnh vào mặt tôi. Tôi nghĩ tôi sẽ ngất đi. Ông tát tôi lần nữa bằng mu bàn tay (ông biết không nên tát tôi bằng bàn tay đeo nhẫn). Vẫn nắm tóc tôi, ông kéo mặt tôi sát vào mặt ông đến mức tôi có thể ngửi thấy mùi da của ông và cảm thấy nước bọt văng vào mặt: "Cháu sẽ nói gì nào?". Tôi đau đớn và mệt lả đến mức không còn chút kháng cự nào. Tôi thì thào: "Cảm ơn chú". Ông thả tóc tôi ra, kết thúc cuộc nói chuyện: "Phải thế chứ! Cháu sẽ có một thời gian vui vẻ, cô bé may mắn". Rồi ông bước ra ngoài. Da đầu tôi tê tái còn mặt thì bỏng rát. Tôi nằm úp mặt xuống giường một lần nữa. Tôi nhớ câu chuyện cổ tích cũ mà tôi từng đọc khi còn nhỏ, tưởng tượng mình là nàng công chúa bị kẹt trên hòn đảo nhỏ xíu giữa cơn bão. Nước đang dâng trào xung quanh, tôi kêu khóc gọi người yêu mình, nhưng ngay cả khi tôi sắp bị nước nhấn chìm, anh ta vẫn không đến.

***

Khi đang nằm trên giường mơ màng, tôi cảm thấy không phải chỉ một mình tôi trong phòng. Từ phía sau phòng có một người tiến lại gần. Hai tay tôi bị quặt ra sau lưng, hai cổ tay bị trói lại. Ai đó kéo hai cánh tay tôi từ phía sau và tôi gượng dậy quỳ trên giường. Tôi không còn là cô bé Batuk của hai ngày trước, khi mới bước chân vào ngôi nhà này nữa. Đôi khi cuộc sống của bạn thay đổi chỉ trong vài giây nhưng đôi khi mất cả đời. Với tôi, sự thay đổi đó mất hai ngày.

Một bàn tay đẩy giữa lưng tôi buộc tôi đi về phía cánh cửa không khóa, ra khỏi phòng ngủ. Tôi bị đẩy dọc hành lang, đi ngang căn phòng ăn mà tôi đã vào tối qua, đến căn phòng nơi cha để tôi lại, và ra khỏi cánh cửa gỗ sồi lớn. Một cú hích khác đẩy tôi đi xuống cầu thang bằng gạch, bước ra con đường nắng nóng của Mumbai. Chưa đầy một tuần trước, tôi đã rời ngôi làng của mình, giờ thì tôi đang ở trên một con tàu khác. Tôi đã bước lên cầu thang trong sự bảo bọc của cha, giờ thì tôi bước xuống cầu thang, hai tay bị trói và phải tự lo thân mình.

Một người đàn ông mà tôi chưa gặp bao giờ vừa đẩy vừa dắt tôi đi trên đường. Tôi quay lại vài lần, chỉ thoáng thấy hắn có một bộ râu xồm trông như một con chó bulldog. Tôi bị đẩy đi trên đường khoảng hơn một giờ, nhưng dường như không ai quan tâm đến một cô bé bị trói dắt đi với một sợi thừng. Cuối cùng, sau khi đi qua một ma trận đường phố và những con hẻm nhỏ, chúng tôi đến một khu đất rộng với những cột tre chống một mái lều làm bằng những mẩu vải vá víu: Trại mồ côi. Tôi bị đẩy qua đám trẻ con đến một ngôi nhà gạch ở cuối khu đất. Khi chúng tôi bước vào căn phòng chính, người hộ tống tôi có bề ngoài như con chó bulldog nói to: "Một con bé của Gahil đây". Giọng hắn to và rõ: "Gahil nói nó khá dễ dãi. Ông ấy bảo làm việc với nó vài tuần, sau đó Mamaki Briila sẽ đến đón nó đi. Ông ấy nói không được làm hại nó".

Hắn để tôi đứng trước cửa một căn phòng tối ngộp khói thuốc lá, lập lòe ánh sáng từ chiếc tivi. Trong phòng có những chiếc ghế cũ kỹ chắp vá, một cái bàn sứt sẹo. Căn phòng được trải một tấm thảm mòn vẹt, cũng được vá víu y như tấm mái của Trại mồ côi. Bức tường loang lổ những mảng vôi vàng đính lỏng lẻo vào lớp gạch. Kiến trúc ngôi nhà cũ gợi cảm giác về sự trường tồn, trong khi những chuyển động cuồng loạn của các Yazak gợi cho tôi về sự hiện diện tạm thời của họ trên mặt đất này.

"Cô!", một giọng nói sắc lạnh vang lên từ bên trái căn phòng, "Tôi là chồng cô". Dù tỏ ra cứng rắn nhưng bề ngoài Shahalad lại khá nhỏ con. Hắn đứng khòm nửa người nên cái đầu lúc nào cũng muốn ngẩng lên; điều đó không chỉ làm hắn lùn xủn mà còn khiến hắn trông có vẻ như luôn ngửi tìm gì đó trong không khí. Cái đầu cúi cùng tia mắt láo liêng khiến hắn trông như một con chuột cống. Shahalad không phải là một Yazak có cấp bậc cao nhất nhưng cũng không phải thấp nhất. Địa vị của hắn trong nhóm Yazak giúp tôi có một vị thế giữa những người trong giới của tôi. Khi hắn tuyên bố tôi là cô dâu của hắn, các Yazak xung quanh rộ lên một tràng cười chế nhạo, nhưng hắn chỉ đáp lại bằng một nụ cười khinh khỉnh.

Nếu hy vọng một lễ kết hôn kéo dài, hẳn tôi sẽ thất vọng nặng nề. Ngay khi tràng cười kết thúc, Shahalad nói bằng một giọng mạnh mẽ chậm rãi, hoàn toàn trái ngược với bề ngoài nhỏ con của hắn, rằng đã đến lúc động phòng. Hắn nắm tay tôi kéo về phía cuối phòng trong những tiếng cười nhạo báng: "Cô ta có biết mày có món quà gì tặng cho cô ta không?", "Đừng trăng mật lâu quá nhé", và một giọng cao chế giễu: "Em yêu, anh yêu em".

***

ỞTrại mồ côi, mọi thứ đều vội vã. Shahalad dẫn tôi ra căn phòng phía sau tòa nhà, chỉ được chiếu sáng từ căn phòng chính. Hắn ấn tôi úp mặt vào tường và lật chiếc áo khoác của tôi lên. Tôi cảm thấy hắn cố gắng nhét nó vào người tôi một cách vụng về từ phía sau với một tay đè lên gáy tôi. Hắn sờ soạng và thở hổn hển. Hắn chửi thề. Hắn nhanh chóng nhận ra không thể lèo lái tôi theo cách hắn muốn được. Hắn quẳng tôi lên một tấm nệm phủ một lớp vải xơ xác giữa phòng. Hắn xoạc chân tôi ra, nằm đè lên người tôi. Hắn nặng hơn tôi tưởng, dù tôi không cố gắng chống cự - có lẽ đó là kết quả của sự đổi mới trong tôi. Hắn không nói lời nào kể từ khi chúng tôi bước vào phòng. Hắn đẩy một vài lần trước khi tôi cảm thấy sự rung động kết thúc. Khi xong việc, hắn lăn khỏi người tôi nằm ngửa ra thở dốc. Tôi cảm thấy hắn muốn nói gì đó nhưng hắn không nói gì. Hai chúng tôi nằm ngửa, im lặng nhìn trần nhà tối đen.

Vào lúc đó, bóng tối bị ngắt quãng bởi tiếng hò reo của các Yazak và tiếng tivi trong căn phòng chính. Tôi cảm thấy linh hồn mình đang từ từ rời khỏi xác. Khi vẽ một bức tranh, bạn quệt màu vào tấm vải; đó là một quy trình cơ học khi cây cọ được nhúng vào thuốc màu và quét lên tấm vải. Tuy nhiên, khi một kiệt tác được hình thành, bức tranh không chỉ đơn thuần là sự thể hiện màu sắc mà nó còn sở hữu tinh hoa của người nghệ sĩ. Vào lúc đó, một phần tử không thể xác định sẽ hòa lẫn vào tấm vải; bạn không thể cân đong và cũng không thể nhìn thấy nó, nhưng nó vẫn ở đó! Nó là linh hồn.

Trong ô phòng nhỏ tối tăm, tôi thả linh hồn khỏi thể xác mình. Linh hồn tôi nhảy lên không trung, ở đó nó được tự do. Tôi gầm lên trong không khí, hôn Navaj chúc cậu bé ngủ ngon, giấu cái vòng của mẹ để sáng mai mẹ không tìm thấy, và canh chừng giấc ngủ cho cha vì cha cần tôi làm thế. Tôi cuộn mình dưới chân những nhà thơ vĩ đại, lướt qua bờm những chú ngựa chạy nhanh nhất. Tôi lấp đầy những hang động tĩnh lặng của các ngọn núi, luồn qua móng vuốt của một con chim ưng khi nó sà xuống quắp một con chuột đồng. Tôi phớt lờ những người đang hấp hối, vì không lâu nữa họ sẽ lên đây với tôi, nhưng tôi giúp những người bệnh nếm trải cơn đau. Tôi cười trước sự mù quáng mà cả người nghèo lẫn người giàu cùng chia sẻ. Tất cả những điều đó diễn ra khi tôi đang nằm kế bên người chồng im lặng của mình.

Sự yên lặng trong căn phòng bị phá vỡ khi Shahalad đột ngột vùng dậy. Tôi tưởng hắn đã ngủ. Hắn đi ra cửa rồi khựng lại, quay vào đứng kế bên tôi. Hắn nhìn xuống tôi đang nằm, nở một nụ cười nhăn nhở. Sau đó hắn quay lưng ra ngoài.

Khi Shahalad bước vào căn phòng chính, tôi có thể nghe thấy tiếng vỗ tay hoan hô của các Yazak. Một lát sau, chổng tôi quay lại, tôi nghĩ chắc sẽ có một vòng làm bánh nữa nhưng không, hắn bảo tôi theo hắn vào phòng chính. Khi đứng lên, tôi không thấy đau nhưng tôi cảm thấy một chất lỏng chảy dọc xuống đùi mình. Khi bước vào phòng sau lưng Shahalad, tôi bị một tràng tấn công: "Mày may mắn lắm, có một anh chàng với cái dương vật nhỏ xíu, và "Đó mới là khai vị thôi, mày sẵn sàng cho món chính chưa?". Tôi nhìn xuống sàn và thấy sàn đá nhẵn thín vì những bước chân qua hàng thế kỷ.

Rõ ràng nhan sắc của tôi khiến Shahalad ưa thích vì thỉnh thoảng hắn liếc nhìn tôi khi hòa vào đám người trong phòng. Tôi thấy những đứa trẻ ra vào căn phòng chính, tìm kiếm người chăn dắt của mình, có lẽ để nhận lệnh hay nhận phần thưởng. Tôi nhanh chóng nhận ra mọi người ở Trại mồ côi đều rất cẩn thận lời nói. Người Yazak không bao giờ công nhận một việc đã hoàn thành, họ chỉ trao phần thưởng bằng một mệnh lệnh: "Bảo đầu bếp cho mày một chén cơm với thịt" (một phần thưởng hiếm hoi). Vì việc không vâng lời Yazak sẽ bị trừng phạt nặng nề nên chỉ có những kẻ ngu ngốc mới dám thử canh bạc đầy rủi ro đó. Đôi khi sự tàn bạo không chỉ để duy trì công lý mà đơn giản vì thú vui. Tôi từng chứng kiến một đứa trẻ (có lẽ khoảng tám tuổi) bị xử tử, vì dám đe dọa một đứa trẻ khác bằng một con dao. Người Yazak bắt đứa trẻ có tội quỳ xuống, sau đó hắn quỳ sau lưng cậu bé và ôm cậu thật chặt. Người Yazak cho một đứa trẻ khác rạch họng đứa trẻ đang bị giữ chặt trong khi đám đông im lặng đứng nhìn. Hãm hiếp cũng là chuyện bình thường. Một cô điếm già hay một em gái nhỏ đều có thể bị lôi vào phòng chính, bị trói lên bàn, lột quần áo cho bất cứ người đàn ông nào hứng thú. Tôi biết không nên can thiệp. Tôi học được rằng tuân lệnh là lý tưởng và giá trị cuộc sống chỉ là một giây; đó là tín điều của Yazak.

Ngày thứ hai tôi ở đây, Wolf, kẻ cầm đầu Yazak, nói to qua căn phòng: "Shah, tôi sẽ mời vợ anh một tách trà để trấn an là cô bé được anh chăm sóc tốt". Wolf không như các Yazak khác. Những người khác, kể cả Shahalad, ăn mặc rách rưới dơ bẩn, còn Wolf thì rất chỉnh tề. Hôm nay, hắn mặc áo sơmi trắng, quần jean, mang giày da màu nâu, cạo râu sạch sẽ, tóc chải gọn gàng. Hắn không xấu mà cũng không đẹp. Điểm đáng chú ý nhất là trông hắn như một cậu bé mười bốn tuổi mặc dù thực sự hắn già hơn nhiều. Hắn tạo cho người khác một cảm giác ngây thơ vô hại.

Những người Yazak rất sợ Wolf. Họ không bao giờ nói chuyện về hắn khi hắn không có mặt vì sợ một Yazak khác sẽ tọc mạch. Khi Wolf bước vào phòng chính, tất cả đều im lặng, và khi hắn ra lệnh, có một sự vâng lời tuyệt đối. Tôi chưa bao giờ thấy ai dám thắc mắc về mệnh lệnh của hắn. Một điều thú vị nữa về Wolf là hắn không sống ở Trại mồ côi như các Yazak khác mà sống ở đâu đó trong thành phố. Thỉnh thoảng hắn xuất hiện trong phòng chính để nói chuyện với những Yazak cấp cao nhất hoặc đôi khi chỉ để xem tivi, nhưng sau đó hắn sẽ bỏ đi. Ít nhất một tuần một lần, hắn mang theo một cái vali nhẹ, bên trong đựng những gói bột màu trắng và nâu được gói ghém gọn gàng, những viên thuốc nhiều màu và những miếng gỗ nhỏ màu nâu nhạt. Bọn trẻ, dưới sự điều động của các Yazak, mang những gói nhỏ này đi khắp thành phố. Những lần tôi gặp Wolf, hắn không bao giờ cao giọng, luôn luôn mỉm cười. Bọn trẻ thích gặp hắn vì hắn luôn có kẹo bánh, những đồng xu hay những lời dịu dàng dành cho chúng. Vẻ ngoài tử tế của hắn thật sự là một chiếc mặt nạ dối trá.

Wolf vẫy tay với tôi, tôi tiến lại gần; hắn có một quyền năng thực sự. Hắn hỏi: "Cô bé tên gì?".

Tôi nhìn xuống đất: "Batuk".

"Batuk, cái tên thật dễ thương. Tôi chỉ muốn uống một tách trà với cô và bảo đảm rằng gã Shahalad tồi tệ sẽ đối xử tốt với cô. Ông chủ Gahil muốn cô phải có những thời gian vui vẻ ở đây vì ông ta có những kế hoạch tốt cho cô. Chúng ta hãy đi đâu đó riêng tư một chút."

Wolf dắt tôi đi về phía sau nhà, đám Yazak và bọn trẻ dạt ra hai bên nhường đường. Khi chúng tôi đến một trong những căn phòng lớn phía sau, một Yazak theo sau trải một tấm vải sạch lên tấm nệm rồi đi ra ngoài. Wolf nói rất nhẹ nhàng: "Batuk, quỳ xuống". Tôi quỳ xuống trước mặt hắn, hắn tiếp tục dịu dàng nói với tôi: "Tôi tên là Wolf, công việc của tôi là chăm sóc cho tất cả mọi người...". Vừa nói hắn vừa kéo dây kéo quần, lôi nó ra, ấn đầu tôi vào đó. Tôi biết mình cần phải làm gì. Hắn tiếp tục nói: "Tôi phải bảo đảm rằng tất cả mọi người... cô, Shahalad, Gahil... được sắp xếp tốt... mọi người đều vui vẻ. Ví dụ như Ông chủ Gahil cần phải chắc chắn rằng cô sẽ làm việc tốt cho ông ấy để ông ấy có thể chăm sóc cho cô". Hắn tiếp tục: "Cô cần phải làm việc chăm chỉ cho Gahil nếu cô muốn có quần áo đẹp và đồ chơi". Hắn kéo đầu tôi ra. Hắn lấy một gói nhỏ trong túi, rắc một thứ bột trắng lên nó. "Batuk", hắn tiếp tục, "Đây là một ít phần thưởng cho cô. Hãy làm một cô bé ngoan". Loại đường đó không ngọt chút nào mà có vị hơi đắng. Khi hắn nắm đầu tôi dọc theo lớp da căng cứng đắng nghét, một ánh sáng chói lòa lóe lên trong đầu tôi... Tôi gần như muốn nổ tung nhưng tôi phó thác thân mình cho Wolf.

Tôi thức dậy trên tấm nệm lúc trời tối. Tấm trải đã được lấy đi. Tôi đau đớn và hoàn toàn trần truồng. Toàn bộ phần cổ tôi đau như dần. Tóc tôi ướt lạnh, căn phòng có một cái mùi tồi tệ. Tôi nhìn quanh. Shahalad đang ngồi nhìn tôi từ một góc phòng. Khi thấy tôi đã tỉnh, hắn bặm môi như đang mút một cây kẹo. Dù rất đau đớn nhưng tôi có thể thấy hắn cũng đang buồn - có thể cho tôi hoặc có thể cho chính hắn.

Shahalad đứng dậy, bước lại gần, dạng chân đứng ngang người tôi. Tôi không thể nhìn được vào mắt hắn vì căn phòng rất tối. Hắn tuột quần xuống (hắn không mang giày) và leo lên người tôi. Hắn ấn mạnh vào người tôi với một cơn giận điên cuồng đến mức tôi nghĩ hắn có thể giết chết mình. Khi hắn thả tôi ra, tôi nhận ra mùi hôi trên tóc mình là mùi nước tiểu.

***

Shahalad không phải là một người chồng đòi hỏi, và tôi chỉ là một vật trang trí cho hắn. Đó là một vai trò mà tôi vui vẻ đảm nhận. Tôi càng tỏ ra chứng thực khả năng đàn ông của hắn thì hắn càng có vẻ ít nhu cầu. Trên thực tế, trong vòng một tuần, hắn kéo tôi vào căn phòng phía sau vài lần (tôi đã học cách giả vờ sợ hãi kêu khóc). Khi vào đến đó, chúng tôi chỉ ngồi nhìn nhau, đôi khi hàng giờ. Trong khi chúng tôi ngồi trên tấm nệm, tôi giả vờ rên rỉ đau đớn hoặc đôi khi nài nỉ "nữa đi". Đó hoàn toàn là ý kiến của tôi và hắn hài lòng với điều đó.

Thỉnh thoảng Shahalad cũng leo lên người tôi làm bánh nhưng hắn luôn luôn chỉ cầm cự được một thời gian rất ngắn, tôi cũng ít đau đớn hơn vì đã quen dần với điều đó. Khi đã quen, tôi cũng luyện tập tốt hơn khả năng thả lỏng mình vào không trung. Đôi khi hắn nói chuyện với tôi. Hắn thường nói về những việc xảy ra ở Trại mồ côi. Khi hắn kể về những vụ đánh đập và trừng phạt, tôi nghĩ đó là một cách xua tan nỗi đau của chính hắn. Hắn kể về những thành tích của Wolf, một phần ngưỡng mộ, một phần căm ghét. Có lần hắn kể hắn có một người em trai đã chết, nhưng hắn không nói gì khác về bản thân hay gia đình. Một lần, hắn bảo hắn thích tôi. Dường như hắn không mong đợi tôi nói gì, và tôi cũng không có gì để nói. Nhiều lúc chúng tôi chỉ ngồi bên nhau, im lặng hoàn toàn. Hắn ngồi hút thuốc, chúng tôi chia sẻ sự yên tĩnh với nhau. Tôi ước những giây phút đó sẽ không bao giờ kết thúc và tôi nghĩ hắn cũng mong ước như thế.

Ngoài những lúc ở phòng sau với Shahalad, tôi gần như không có việc gì làm, chỉ ngồi không trong căn phòng chính. Tôi thích cái băng ghế gỗ ở cuối phòng, nơi tôi có thể ngồi hoặc nằm nhìn mọi thứ xung quanh. Tôi hài lòng vì hầu hết thời gian tôi được ở một mình. Trái lại, những đứa con gái khác thích đi vòng vòng trong phòng. Cũng như hệ thống cấp bậc giữa các Yazak, có một thứ tự tương tự giữa các cô vợ. Họ thích khoe đùi hoặc khoe ngực. Đôi khi họ tán tỉnh những Yazak khác không phải chồng mình, kết quả thường là một trận chiến nảy lửa giữa các cô vợ ghen tuông. Đôi khi các cô vợ cũng tham gia việc trừng phạt một con điếm đường phố, bị mang vào phòng chính để "dạy dỗ" vì tội lười biếng hay không kiếm được nhiều tiền. Họ sẽ giúp trói cô gái lại hoặc thậm chí cổ vũ một Yazak "chẻ cô ta ra". Có lần tôi thấy một cô vợ Yazak vừa nhét đáy chai bia vào một cô gái đứng đường xấu xí vừa nói: "Thế này nó sẽ biết điều hơn". Ở các cô vợ, một số người chỉ hơi lớn hơn tôi một chút, cũng có sự tàn bạo dã man. Động lực của điều đó, theo tôi, đơn giản là sự tồn tại. Tôi sung sướng tan chảy vào cái ghế của mình ở cuối phòng tìm kiếm sự vô hình.

Hầu hết thời gian, các Yazak khác, ngoại trừ Shahalad, đều để tôi một mình. Có một quy luật nghiêm ngặt là một Yazak không được dắt vợ người khác vào phòng sau và tôi chưa bao giờ thấy quy luật này bị vi phạm. Wolf dĩ nhiên là ngoại lệ. Tôi không phải típ phụ nữ của Wolf, hắn không bao giờ dắt tôi ra phòng sau lần nữa, mặc dù mỗi lần bắt gặp tia nhìn của hắn hay cảm thấy hắn đang nhìn mình, tôi đều cảm thấy cơn đau dội lên và những sợi lông tóc của tôi như đông cứng lại. Những vết bầm mà hắn gây ra cho tôi đã lành. Một cô vợ Yazak khác là lựa chọn của Wolf, cô ta cao ráo xinh đẹp, tỏ ra hào hứng với sự chú ý của Wolf và thường xuyên chế giễu chồng mình trước đám đông, biết rằng không ai dám làm gì mình. Cho đến một ngày kia, cô ta đột nhiên biến mất. Tôi nhanh chóng nhận thấy Wolf luôn tự mình chào đón tất cả những cô vợ mới và hắn thích gây ra sự sợ hãi cũng như căm ghét ở họ. Sự thống trị của hắn lên các cô vợ cũng tương tự như lên những ông chồng. Vài năm sau này, khi ở Đường Chung, tôi nghe nói cuối cùng các Yazak cũng đã lật đổ Wolf, băm vằm hắn thành từng mảnh bằng dao và miểng chai vỡ. Cuộc phanh thây hoàn hảo đến mức hắn được mang đến bãi rác trong hai mươi bao giấy nhỏ. Đó là điều tất yếu cho những thủ lĩnh vĩ đại, có thành công và cũng có thất bại.

***

Tuần thứ hai ở Trại mồ côi, tôi gặp Puneet lần đầu tiên. Giữa cái nắng nóng ban trưa, Shahalad dắt tôi vào phòng sau. Hắn làm một cái bánh nhẹ với tôi và cả hai chúng tôi đều lăn ra ngủ. Chúng tôi tỉnh dậy bởi tiếng ồn ào trong phòng chính. Shahalad nhảy dựng lên chạy ra ngoài. Vài phút sau, tôi thơ thẩn ra phòng chính, tìm đến cái ghế của mình ở cuối phòng. Trên cái ghế của tôi, Puneet đang ngồi; lúc đó anh khoảng tám tuổi, một cậu bé còm nhom với gương mặt thanh tú ngồi co rúm, nước mắt dàn dụa, mái tóc đen bám đầy bụi đất. Cậu bé vừa bị bắt ngoài đường.

Như nhiều đứa trẻ đường phố đói khổ khác, Puneet bị bắt lúc đang ăn cắp thức ăn ngoài chợ và được gởi đến Trại mồ côi. Đó là cách thông thường bọn trẻ đến đây; chúng bị bắt khi đang phạm một tội nhỏ nào đó, hoặc bởi người bán hàng, hoặc bởi một thành viên khác của Trại mồ côi, hoặc thậm chí bởi cảnh sát. Khi đó sẽ có một Yazak được gọi đến đưa chúng về Trại mồ côi. Khi người Yazak đến nhận Puneet từ người bán trái cây, anh đang bị trói vào cột đèn. Người Yazak lập tức nhìn thấy tiềm năng của Puneet là một cậu bé xinh đẹp. Những cậu bé như thế sẽ trở nên có giá khi trở thành đàn ông hoặc thành những cậu-bé-con-gái - những cậu bé được mặc đồ như con gái. Puneet chắc chắn trở thành một cậu-bé-con-gái vì những nét nữ tính của anh. Anh được người Yazak mang về ngôi nhà gạch trong khi tôi và Shahalad đang ngủ. Wolf lập tức chiếm lĩnh anh trước khi giao anh cho một Yazak khác; những cậu-bé-con-gái mới luôn là sở thích lớn nhất của Wolf. Thật sự tôi có nghe thấy tiếng thét của Puneet vài giờ trước nhưng tôi không nghĩ gì cả, vì những âm thanh như vậy vang lên rất thường xuyên ở đây. Wolf hành hạ anh vài giờ trước khi có một sự cố trong Trại mồ côi khiến hắn buộc phải thả Puneet ra.

Khi Wolf chìm giữa những tiếng la hét, tôi ngồi kế Puneet và chúng tôi im lặng ngồi nhìn những Yazak vây quanh Wolf giữa phòng. Vấn đề là một Trại mồ côi khác bắt đầu vận chuyển hàng ăn cắp qua địa phận của chúng tôi. Sự phân chia ranh giới giữa ba Trại mồ côi chính được xác định rõ ràng và rất hiếm khi bị xâm phạm. Tuy nhiên, hôm nay là một ngoại lệ. Wolf, luôn nói chuyện nhẹ nhàng, yêu cầu mọi người phải thận trọng. Lần đầu tiên tôi thấy, một trong các Yazak cấp cao không đồng ý với hắn, quả quyết rằng cần phải đánh nhau để bảo vệ lãnh thổ. Tôi không biết chính xác chuyện gì xảy ra vì đám đông rất ồn ào, và người Yazak này chạy bung ra ngoài hét lên đau đớn, máu phun ra từ má anh ta. Mọi người khác đều tỏ ra đồng ý với cách tiếp cận của Wolf.

Cuộc khủng hoảng này khiến các Yazak thức trắng đêm. Kết quả là tôi trải qua vài giờ liên tục một mình với Puneet. Tôi vẫn ngồi kế bên anh nhìn mọi chuyện diễn ra nhưng dường như anh không quan tâm gì cả. Vì đã quen ngồi im lặng một mình hàng giờ nên sự im lặng của Puneet không hề khiến tôi khó chịu. Chúng tôi ngồi bên nhau trong im lặng.

Thông thường, khi màn đêm buông xuống, các Yazak đưa vợ về những căn phòng phía sau. Nhiều cặp cùng ở chung một phòng vì có nhiều Yazak nhưng ít phòng, thậm chí một vài cặp ngủ ngay tại phòng chính. Tối nay thì khác, một nhóm Yazak đi theo Wolf để điều tra chuyện gì xảy ra, còn một nhóm khác ở lại, im lặng và căng thẳng. Tivi có một trận đấu cricket nhưng căn phòng hoàn toàn im lặng. Cuối cùng, tôi thấy Puneet nhắm mắt và gục đầu xuống ngủ. Tôi rời cái ghế để anh nằm xuống. Khi anh nằm xuống, tôi thấy một vũng máu dưới chỗ anh đã ngồi; vũng máu đã khô và đen sẫm. Tôi ngủ trên sàn dưới chân anh.

Wolf đã đúng. Chuyện đã xảy ra, như sau này tôi nghe kể lại, là một nhóm trộm cắp nhỏ đã đi lạc vào lãnh địa của chúng tôi. Vấn đề nhanh chóng được giải quyết tối hôm đó, khi Wolf và một số Yazak của chúng tôi gặp các lãnh đạo của một Trại mồ côi khác. Có thể có một số bồi thường thiệt hại nào đó; Shahalad không biết chính xác những bồi thường đó là gì nhưng cả hai chúng tôi đều đoán là nhóm trộm vặt kia hẳn đã trở thành một phần bãi rác khổng lồ của Mumbai.

Buổi tối hôm sau, lần đầu tiên tôi nằm mơ về người bán nón. Dù không biết sau này mình sẽ mơ lại giấc mơ đó nhiều lần nữa nhưng ngay lúc đó nó đã khiến tôi thắc mắc. Dường như điều đó đã thực sự xảy ra khi tôi bừng tỉnh lúc nửa đêm, hai tay quơ quào những cái nón bị rơi. Tôi cảm thấy như mình đang đi xuống khu chợ giống như một điềm báo trước. Thực tế chứng minh điều đó khi ba ngày sau, bà Mamaki Briila đến dẫn tôi đi.

Khi bà Mamaki Briila bước vào phòng chính, các Yazak gọi to "bà Hà Mã". Bà không tỏ ra khó chịu mà chỉ mỉm cười một cách dễ dãi. Bà Hà Mã dắt tôi đến Đường Chung - tôi được giải thoát. Tôi không hề biết rằng định mệnh của Puneet đã gắn chặt với mình, nhưng một vài tuần sau, anh xuất hiện, chiếm cái ổ cách tôi hai gian. Tôi không bao giờ có cơ hội nói lời tạm biệt Shahalad.

***

Có lẽ hôm qua Puneet đã cười rất nhiều với câu chuyện đùa về chồng bà Hà Mã, nhưng hôm nay anh vẫn ngồi một mình ủ rũ. Khi ngồi cúi gằm như thế suốt ngày, anh không có giá trị gì với tôi cả.

Nhìn xuống đường, tôi thấy một ông già. Ông già tóc bạc lưng gù đang đi bộ trên Đường Chung tiến về phía tôi. Ông mặc một bộ vest quá khổ màu nâu, tay phải cầm một cây gậy chống sáng bóng. Phía chân cây gậy tẽ làm ba, mỗi chân nhỏ được bọc một miếng cao su đen. Ngoại trừ cây gậy trông khá chắc chắn, mọi thứ khác của ông ta đều có vẻ mong manh. Những cố gắng bám víu của ông với cuộc sống này, mỏng manh như một từ được viết bằng viết chì bên dưới một cục tẩy.

Mỗi lần chống gậy tiến lên một bước, ông giống như một người thợ sửa đồng hồ cẩn thận đặt một bánh răng vào bộ máy đồng hồ. Khi cây gậy được đặt xuống trước mặt ông khoảng hai tấc, chân trái ông lê bước lên một chút: suỵt, suỵt, suỵt. Khi chân trái đã vào vị trí thì ông nghỉ một chút rồi tiếp tục lê chân phải lên: suỵt, suỵt, suỵt. Có thể ông có quyền tận hưởng sự chậm rãi này vì ông có khả năng trường sinh bất tử, khi đó thời gian không còn quan trọng nữa. Nhưng hợp lý hơn, có lẽ ông đang lê bước bên miệng hố tử thần và ông sợ rằng nếu bị trượt chân, ông sẽ rơi xuống hố sâu vĩnh hằng ấy.

Tuy nhiên, điều buồn cười nhất là trong khi lê bước chậm rãi như thế, tay trái ông bụm chặt hạ bộ của mình, như thể nó sắp rơi ra. Ông bụm chặt đến mức tôi có thể thấy khớp đốt tay ông hằn trắng trên lớp da nhăn nheo. Tôi nhìn ông chăm chăm nhưng ông vẫn nhìn về phía trước, hoàn toàn không thể hiện một cảm xúc gì. Tôi nhìn ông cả giờ đồng hồ nhưng ông chỉ đi được khoảng năm mươi bước. Tôi dám chắc ông sẽ không làm bánh với tôi. Nếu ông muốn làm, chắc tôi mất cả ngày trời. Tôi sẽ chỉ ông sang Puneet, nhưng tại sao phải quan tâm?

Thật là tai họa! Từ phía đầu Đường Chung, ông Mũi Khoằm xuất hiện cho chuyến viếng thăm tôi hàng tuần. Lần đầu tiên ông làm bánh với tôi, mồ hôi trên lưng ông đổ ra như tắm, và ông nói "cảm ơn" một cách lắp bắp như dáng đi của một ông già. Nhưng giờ thì ông Mũi Khoằm tự tin hơn nhiều, vui vẻ chân sáo trên đường như thể đang đi dự một bữa tiệc sinh nhật.

***

Khi ông Mũi Khoằm sửa sang quần áo chuẩn bị ra về, ông hôn nhẹ lên má tôi như thể tạm biệt một cô cháu gái. Ông nói: "Tôi vừa tặng em một đặc ân đấy, cưng ạ". Thật lòng mà nói, đúng là ông đã cho tôi một đặc ân khi chỉ làm một cái bánh nhỏ trong năm phút dù ở với tôi đến hơn một giờ. Ông tiếp tục: "Một quản lý cấp cao trong công ty tôi" (tôi không biết ông làm gì, mặc dù tôi dám chắc ông không phải là một nhân viên giỏi) "hỏi mọi người xem có ai biết một cô gái xinh đẹp để đi dự tiệc không. Tôi bảo ông ấy xuống đây gặp cô gái trong căn... phòng có màn cửa màu xanh lá cây".

"Ồ", tôi nói (tôi không biết tên ông và chắc chắn không thể gọi ông là ông Mũi Khoằm), "ông tốt với em quá. Lần tới em sẽ chuẩn bị một cái gì đó thật đặc biệt cho ông". Tôi kéo ông lại gần ôm ông thật chặt. Dù tôi bày tỏ lòng biết ơn của mình một cách sâu sắc, vì tôi biết điều đó sẽ khiến ông vui lòng, nhưng ngay sau đó tôi quên bẵng mất.

Gần khuya hôm đó, một chiếc taxi chạy đến Đường Chung, ngừng lại gần cái ổ của tôi. Một người đàn ông bước ra khỏi chiếc xe hơi trắng. Trong bóng đêm, có vẻ như ông khá điển trai. Ông to con và tỏa ra một quyền lực mạnh mẽ như hương trà buổi sớm. Dưới ánh đèn taxi, tôi thấy ông mặc một bộ vest màu xanh nhạt. Tôi kinh ngạc nhìn bà Mamaki bay vụt ra khi ngửi thấy hơi tiền; bà nhảy xổ đến người đàn ông với sự nhanh nhẹn của một con dê núi. Người đàn ông nhìn chằm chằm vào cái ổ của tôi. Tấm màn màu xanh lá được vén lên một phần với ánh điện nhỏ chiếu sáng từ sau lưng tôi. Tôi không chắc ông có thấy mặt tôi không, nhưng ông nhìn tôi lâu hơn bình thường. Tôi bỗng sực nhớ những gì ông Mũi Khoằm nói với mình. Người đàn ông nói chuyện với bà Mamaki vài phút rồi quay lại nhìn tôi lần nữa. Ông leo lên taxi và chiếc taxi biến mất vào bóng đêm. Bà Mamaki vẫn đứng vẫy tay tạm biệt với một nụ cười toe toét.

Ngày hôm sau, tôi cảm thấy có điều gì đó bất thường xảy ra. Khay ăn sáng của tôi có cơm, thịt, trái cây. Khi tôi bắt đầu ăn, bà Mamaki lạch bạch bước vào cái ổ của tôi, ngồi xuống cạnh giường. Bà tỏ vẻ hào hứng đến mức không kiềm chế nổi. Bà nói như một người điên cố gắng lắp bắp diễn đạt ý tưởng của mình: "Batuk, con yêu, người đàn ông tối qua... (phù, phù), người ở trên taxi... (phù, phù)... ông ấy sẽ cho xe hơi đến đây đón con và đưa con đến khách sạn... dự một bữa tiệc. Một khách sạn!". Bà lặp lại chữ "khách sạn" như thể nó là một thiên đường. "Con gái", bà nói, một nụ cười giả dối xuất hiện, "con đã ở đây một thời gian, con đã làm việc rất tốt... Ta hứa với con, Batuk, con sẽ được ăn như thế này trong nhiều tuần". Bà nói văng nước bọt lên người tôi, tôi cảm thấy thật ghê tởm. Tuy nhiên, tôi có thể thấy đây là một điều đáng mừng và tôi mỉm cười.

Giờ thì tôi lại một mình. Tôi chưa từng có cảm giác sợ hãi từ sau khi gặp những ông chú mới, nhưng giờ thì cảm giác đó lại trở về.

Cuốn sổ màu xanh đến đây là hết.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro