CUQT nghị định thư

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

I. CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ ĐỂ THỐNG NHẤT MỘT SỐ QUY TẮC VỀ VẬN ĐƠN ĐƯỜNG BIỂN, KÝ TẠI BRUSSELS NGÀY 25/8/1924.

Điều 1:

Trong Công ước này, những từ sau được dùng theo nghĩa trình bày dưới đây:

a. "Người chuyên chở" gồm người chủ tàu hoặc người thuê tàu ký kết một hợp đồng vận tải với người gửi hàng.

b. "Hợp đồng vận tải" chỉ áp dụng cho những hợp đồng vận tải được thể hiện bằng một vận đơn hoặc một chứng từ sở hữu tương tự trong chừng mực chứng từ đó liên quan đến chuyên chở hàng hóa bằng đường biển; nó cũng dùng cho vận đơn này hay chứng từ tương tự như đã nói ở trên được phát hành theo một hợp đồng thuê tàu kể từ khi vận đơn ấy điều chỉnh quan hệ giữa người chuyên chở và người cầm vận đơn.

c. "Hàng hóa" gồm của cải, đồ vật, hàng hóa, vật phẩm bất kỳ loại nào, trừ súc vật sống và hàng hóa theo hợp đồng vận tải được khai là chở trên boong và thực tế được chuyên chở trên boong.

d. "Tàu" dùng để chỉ bất kỳ loại tàu nào dùng vào việc chuyên chở hàng hóa bằng đường biển.

e. " Chuyên chở hàng hóa" bao gồm khoảng thời gian từ lúc xếp hàng xuống tàu đến lúc dỡ hàng ấy khỏi tàu.

Điều 2:

Trừ những quy định của Điều 6, theo mỗi một hợp đồng vận tải hàng hóa bằng đường biển, người chuyên chở chịu trách nhiệm như quy định dưới đây liên quan đến việc xếp, chuyển dịch, lưu kho, sắp xếp, chuyên chở, coi giữ, chăm sóc và dỡ hàng.

Điều 3:

1. Trước và lúc bắt đầu hành trình, người chuyên chở phải có sự cần mẫn thích đáng để:

a. Làm cho tàu có đủ khả năng đi biển;

b. Biên chế, trang bị và cung ứng thích hợp cho tàu;

c. Làm cho các hầm, phòng lạnh và phòng phát lạnh và tất cả các bộ phận khác của con tàu dùng vào chuyên chở hàng hóa, thích ứng và an toàn cho việc tiếp nhận, chuyên chở và bảo quản hàng hóa.

2. Trừ những quy định của Điều 4, người chuyên chở phải tiến hành một cách thích hợp và cẩn thận việc xếp chuyển dịch, sắp xếp, chuyên chở, coi giữ, chăm sóc và dỡ những hàng hóa được chuyên chở.

3. Sau khi nhận trách nhiệm về hàng hóa, người chuyên chở hoặc thuyền trưởng hoặc đại lý của người chuyên chở sẽ, theo yêu cầu của người gửi hàng, cấp cho họ một vận đơn đường biển, trong đó, ngoài những chi tiết khác, có ghi:

a. Những ký mã hiệu chính cần thiết để nhận biết hàng hóa như tài liệu bằng văn bản do người gửi hàng cung cấp trước lúc bắt đầu xếp hàng, với điều kiện là những ký mã hiệu này phải được in hoặc thể hiện rõ ràng bằng một cách nào khác lên trên hàng hóa không đóng bao bì hoặc lên trên những hòm kiện chứa hàng hóa đó để cho những ký mã hiệu đó trong điều kiện bình thường vẫn đọc được cho đến khi kết thúc hành trình;

b. Số kiện, số chiếc hoăc số lượng hay trọng lượng tùy từng trường hợp, như người gửi hàng đã cung cấp bằng văn bản;

c. Trạng thái và điều kiện bên ngoài của hàng hóa.

Tuy nhiên người chuyên chở, thuyền trưởng hay đại lý của người chuyên chở không buộc phải kê hay ghi trên vận đơn những ký mã hiệu, số hiệu, số lượng hay trọng lượng mà họ có cơ sở hợp lý để nghi ngờ là không thể hiện đúng hàng hóa thực tế được tiếp nhận hoặc họ đã không có phương pháp hợp lý để kiểm tra.

4. Một vận đơn như vậy là bằng chứng hiển nhiên về việc người chuyên chở đã nhận những hàng hóa mô tả trong vận đơn phù hợp với đoạn 3, điểm a, b, c.

5. Người gửi hàng được coi như đã đảm bảo cho người chuyên chở, vào lúc xếp hàng, sự chính xác của mã hiệu, số hiệu, số lượng và trọng lượng do họ cung cấp và người gửi hàng sẽ bồi thường cho người chuyên chở mọi mất mát, hư hỏng và chi phí phát sinh từ sự không chính xác của các chi tiết đó. Quyền của người chuyên chở đối với những khoản bồi thường như vậy tuyệt nhiên không hạn chế trách nhiệm của anh ta theo hợp đồng vận tải đối với bất kỳ người nào khác ngoài người gửi hàng.

6. Trừ khi có thông báo bằng văn bản về những mất mát hay hư hỏng và tính chất chung của những mất mát hay hư hỏng ấy gửi cho người chuyên chở hay đại lý người chuyên chở tại cảng dỡ hàng trước hoặc vào lúc trao hàng cho người có quyền nhận hàng theo hợp đồng vận tải, việc trao hàng như vậy là bằng chứng hiển nhiên của việc giao hàng của người chuyên chở như mô tả trên vận đơn đường biển.

Nếu mất mát và hư hỏng là không rõ rệt thì thông báo phải gửi trong vòng 3 ngày kể từ ngày giao hàng.

Thông báo bằng văn bản không cần gửi nữa nếu tình trạng hàng hóa, trong lúc nhận hàng, đã được giám định và kiểm tra đối tịch.

Trong mọi trường hợp, người chuyên chở và tàu sẽ không chịu trách nhiệm về mất mát hay hư hỏng nếu việc kiện cáo không được đưa ra trong vòng một năm kể từ ngày giao hàng hoặc kể từ ngày đáng lẽ hàng phải giao.

Trường hợp có mất mát, hư hại thực sự hay cảm thấy có mất mát hư hại, người chuyên chở và người nhận hàng sẽ tạo mọi điều kiện cho nhau để kiểm tra và kiểm điếm hàng hóa.

7. Sau khi hàng đã được xếp xuống tàu, vận đơn do người chuyên chở, thuyền trưởng hay đại lý của người chuyên chở cấp phát cho người gửi hàng, nếu người gửi hàng yêu cầu, sẽ là " vận đơn đã xếp hàng", với điều kiện là trước đó, nếu người gửi hàng đã nhận một chứng từ có giá trị sở hữu về hàng hóa thì họ phải hoàn lại chứng từ đó để đổi lấy "vận đơn đã xếp hàng". Tùy sự lựa chọn của người chuyển chở, trên vận đơn đó, người chuyên chở, thuyền trưởng hoặc đại lý của người chuyên chở có thể ghi tên tàu hoặc những tàu đã xếp những hàng hóa đó và ngày hoặc những ngày đã xếp hàng tại cảng xếp hàng và khi đã ghi như thế, nếu có đủ nội dung ghi trong mục 3. Điều 3 thì nhằm mục đích của Điều này, vận đơn đó sẽ được coi như "Vận đơn đã xếp hàng".

8. Bất cứ điều khoản giao ước hay thỏa thuận nào trong một hợp đồng vận tải làm giảm nhẹ trách nhiệm của người chuyên chở hay tàu về mất mát, hư hỏng của hàng hóa hoặc liên quan đến hàng hóa do sơ suất, lỗi lầm hay không làm tròn nghĩa vụ quy định trong Điều này hoặc giảm bớt trách nhiệm so với quy định của Công ước này đều vô giá trị và không có hiệu lực. Việc dành lợi ích về bảo hiểm cho người chuyên chở hoặc một điều khoản tương tự sẽ được coi như một điều khoản giảm nhẹ trách nhiệm cho người chuyên chở.

Điều 4:

1. Người chuyên chở và tàu không chịu trách nhiệm về mất mát hay hư hỏng do tàu không đủ khả năng đi biển gây nên trừ khi tình trạng đó là do thiếu sự cần mẫn thích đáng của người chuyên chở trong việc làm cho tàu có đủ khả năng đi biển và đảm bảo cho tàu được biên chế, trang bị và cung ứng thích hợp và làm cho các hầm tàu, phòng lạnh và phát lạnh và tất cả những bộ phận khác của tàu dùng để chở hàng, thích hợp và an toàn cho việc tiếp nhận, chuyên chở và bảo quản hàng hóa phù hợp với quy định của Điều 3 đoạn 1. Một khi có mất mát hay hư hỏng hàng hóa do tàu không đủ khả năng đi biển thì người chuyên chở hay bất cứ người nào khác muốn được miễn trách nhiệm theo quy định của điều này có nhiệm vụ chứng minh đã có sự cần mẫn thích đáng.

2. Cả người chuyên chở và tàu không chịu trách nhiệm về những mất mát hư hỏng hàng hóa phát sinh và gây ra bởi:

a. Hành vi, sơ suất hay khuyết điểm của thuyền trưởng, thủy thủ, hoa tiêu hay người giúp việc cho người chuyên chở trong việc điều khiển hay quản trị tàu.

b. Cháy, trừ khi do lỗi lầm thực sự hay hành động cố ý của người chuyên chở gây ra.

c. Những tai họa, nguy hiểm hoặc tai nạn trên biển hay sông nước.

d. Thiên tai.

e. Hành động chiến tranh.

f. Hành động thù địch

g. Bắt giữ hay kiềm chế của vua chúa, chính quyền hay nhân dân hoặc bị tịch thu theo pháp luật.

h. Hạn chế vì kiểm dịch.

i. Hành vi hay thiếu sót của người gửi hàng hay chủ hàng, của đại lý hay đại diện của họ.

j. Đình công hay bế xưởng, đình chỉ hay cản trở lao động bộ phận hay toàn bộ không kể vì lý do gì.

k. Bạo động và nổi loạn.

l. Cứu hay mưu toan cứu sinh mệnh và tài sản trên biển.

m. Hao hụt thể tích hay trọng lượng hoặc bất kỳ mất mát hư hỏng nào khác xảy ra do nội tỳ, phẩm chất hay khuyết tật của hàng hóa.

n. Bao bì không đầy đủ.

o. Thiếu sót hay sự không chính xác về ký mã hiệu.

p. Những ẩn tỳ không phát hiện được dù đã có sự cần mẫn thích đáng.

q. Mọi nguyên nhân khác không phải do lỗi lầm thực sự hay cố ý của người chuyên chở cũng như không phải do sơ suất hay lỗi lầm của đại lý hay người làm công của người chuyên chở, những người muốn được hưởng quyền miễn trách này phải chứng minh không phải lỗi lầm thực sự hay cố ý của người chuyên chở hoặc sở suất, lỗi lầm của đại lý hay người làm công của người chuyên chở đã góp phần vào mất mát hay hư hỏng đó.

3. Người gửi hàng sẽ không chịu trách nhiệm về những mất mát hay thiệt hại gây ra cho người chuyên chở hay tàu do bất kỳ nguyên nhân nào nếu không phải do hành vi, lỗi lầm hay sơ suất của người gửi hàng, của đại lý hay người làm công của họ gây nên.

4. Bất kỳ sự đi chệch đường nào để cứu trợ hay mưu toan cứu trợ sinh mệnh hoặc tài sản trên biển hoặc bất kỳ một sự đi chệch đường hợp lý nào khác sẽ không coi là vi phạm Công ước này hay hợp đồng vận và người chuyên chở sẽ không chịu trách nhiệm về bất kỳ mất mát hay hư hỏng nào xảy ra từ việc đó.

5. Trong bất kỳ trường hợp nào, người chuyên chở và tàu cũng không chịu trách nhiệm về những mất mát hay hư hỏng của hảng hóa vượt quá số tiền 100 bảng Anh một kiện hay một đơn vị hoặc một số tiền tương đương bằng ngoại tệ khác, trừ khi người gửi hàng đã khai tính chất và trị giá hàng hóa trước khi xếp hàng xuống tàu và lời khai đó có ghi vào vận đơn.

Lời khai, nếu có ghi vào vận đơn sẽ là bằng chứng hiển nhiên nhưng không có tính chất ràng buộc và quyết định đối với người chuyên chở.

Người chuyên chở, thuyền trưởng hay đại lý của người chuyên chở và người gửi hàng có thể thỏa thuận với nhau một số tiền tối đa, khác với số tiền ghi trong đoạn này miễn là số tiền tối đa đã thỏa thuận này không được thấp hơn con số nói trên.

Trong bất kỳ trường hợp nào người chuyên chở và tàu cũng không phải chịu trách nhiệm về mất mát hay hư hỏng hàng hóa nếu người gửi hàng đã cố tình khai sai tính chất và giá trị hàng hóa đó trên vận đơn.

6. Hàng hóa có tính chất dễ cháy, dễ nổ hay nguy hiểm mà nếu biết tính chất và đặc điểm của nó, người chuyên chở, thuyền trưởng hay đại lý của người chuyên chở sẽ không nhận chở, có thể được người chuyên chở đưa lên bờ, vào bất kỳ lúc nào, trước khi đến cảng dỡ hàng, ở bất kỳ nơi nào hoặc tiêu hủy hay để làm mất tác hại mà không phải bồi thường gì cả và người gửi hàng sẽ chịu trách nhiệm về mọi tổn hại và chi phí do hậu quả trực tiếp hay gián tiếp của việc gửi hàng hóa ấy. Nếu người chuyên chở đã biết tính chất của những hàng hóa ấy và đã đồng ý cho xếp xuống tàu và sau đó những hàng hóa ấy trở thành mối nguy hiểm cho tàu hay cho hàng hóa chở trên tàu, thì cũng tương tự như trên, hàng hóa đó có thể được người chuyên chở đưa lên bờ hoặc tiêu hủy hoặc làm mất tác hại, và người chuyên chở không chịu trách nhiệm gì trừ trường hợp tổn thất chung, nếu có.

Điều 5:

Người chuyên chở được tự do từ bỏ hoàn toàn hay một phần những quyền hạn và miễn trách hoặc tăng thêm trách nhiệm và nghĩa vụ của mình như Công ước này đã quy định miễn là việc từ bỏ hay tăng thêm đó có ghi trên vận đơn cấp cho người gửi hàng.

Những quy định trong Công ước này không áp dụng cho các hợp đồng thuê tàu nhưng nếu những vận đơn được cấp phát trong trường hợp một chiếc tàu chở hàng theo một hợp đồng thuê tàu thì những vận đơn nay vẫn phải theo những điều khoản của Công ước này. Trong những Quy tắc này, không có quy định nào được coi là cấm đưa vào vận đơn bất kỳ một điều khoản hợp pháp nào về tổn thất chung.

Điều 6:

Mặc dù có những quy định như trên, nhưng người chuyên chở, thuyền trưởng hay đại lý của người chuyên chở và người gửi hàng, sẽ, đối với những hàng hóa riêng biệt, vẫn có quyền tự do cùng nhau ký kết bất kỳ hợp đồng nào với bất kỳ điều kiện nào về trách nhiệm của người chuyên chở đối với hàng hóa đó và về quyền hạn và miễn trách của người chuyên chở về những hàng hóa đó hoặc liên quan đến nghĩa vụ cung cấp tàu có khả năng đi biển miễn là quy định đó không trái với trật tự công cộng hoặc liên quan đến sự chăm sóc hoặc cần mẫn của đại lý hay những người làm công của người chuyên chở trong việc xếp, chuyển dịch, sắp xếp, chuyên chở, coi giữ, chăm sóc và dỡ những hàng hóa chuyên chở bằng đường biển miễn là trong trường hợp này không được cấp phát một vận đơn nào và những điều kiện đã thỏa thuận phải được ghi vào một biên lai và biên lai này là một chứng từ không lưu thông được và có ghi rõ như thế.

Một hợp đồng ký kết như thế sẽ có đầy đủ hiệu lực pháp lý.

Tuy nhiên phải hiểu rằng điều khoản này không được áp dụng đối với những lô hàng hóa mua bán thông thường mà chỉ áp dụng đối với những lô hàng khác mà tính chất và điều kiện của tài sản cũng như hoàn cảnh và điều kiện, điều khoản chuyên chở chứng tỏ sự cần thiết phải có một sự thỏa thuận đặc biệt.

Điều 7:

Không có quy định nào trong Công ước này ngăn cản người chuyên chở hoặc người gửi hàng đưa vào hợp đồng các quy định, điều kiện, điều khoản bảo lưu hoặc miễn trách có liên quan đến trách nhiệm của người chuyên chở hay tàu đối với mất mát hay hư hỏng của hàng hóa hoặc có liên quan tới việc coi giữ chăm sóc và chuyển dịch hàng hóa trước khi xếp lên tàu và sau khi dõ hàng hóa khỏi tàu.

Điều 8:

Những quy định trong Công ước này không ảnh hưởng đến quyền hạn, nghĩa vụ của người chuyên chở theo bất kỳ luật lệ hiện hành nào có liên quan đến giới hạn trách nhiệm của các chủ tàu biển.

Điều 9:

Đơn vị tiền tệ nói trong Công ước này là tính theo giá trị vàng. Những nước thành viên của Công ước không dùng đồng bảng Anh làm đơn vị tiền tệ dành cho mình quyền quy đổi những số tiền bằng bảng Anh nói trên sang thứ tiền nước mình theo số tròn.

Những luật lệ quốc gia có thể dành cho người mắc nợ quyền trả nợ bằng tiền tệ nước mình theo tỷ giá hối đoái vào ngày tàu đến cảng dỡ hàng đó.

Điều 10:

Những quy định trong Công ước này sẽ áp dụng cho mọi vận đơn phát hành tại bất kỳ nước nào là thành viên của Công ước.

Điều 11:

Sau một thời gian không quá 2 năm kể từ ngày ký kết Công ước, Chính phủ nước Bỉ sẽ liên hệ với các chính phủ các bên ký kết đã tự tuyên bố sẵn sàng phê chuẩn Công ước nhằm quyết định là Công ước có hiệu lực hay không. Các văn bản phê chuẩn sẽ được lưu giữ tại Brussels vào ngày do các Chính phủ nói trên thỏa thuận ấn định. Văn bản gửi lưu giữ đầu tiên được ghi vào một biên bản có chữ ký của các đại diện các quốc gia tham gia và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nước Bỉ.

Việc gửi các văn bản phê chuẩn tiếp sau được thực hiện bằng cách gửi văn bản thông báo tới Chính phủ nước Bỉ, kèm theo văn bản phê chuẩn.

Bản sao có chứng nhận hợp thức các biên bản về việc gửi lưu giữ văn bản phê chuẩn đầu tiên, của văn bản thông báo nói trong đoạn trên cũng như của văn bản phê chuẩn gửi kèm, sẽ được Chính phủ nước Bỉ gửi ngay qua đường ngoại giao tới các quốc gia đã ký Công ước này hoặc đã tham gia công ước này. Trong các trường hợp nêu ở đoạn trên. Chính phủ Bỉ cũng đồng thời sẽ báo cho các nước đó biết ngày đã nhận được văn bản thông báo.

Điều 12:

Các quốc gia không ký kết Công ước có thể tham gia Công ước dù có cử đại diện dự Hội nghị quốc tế Brussels hay không.

Một quốc gia muốn tham gia Công ước sẽ gửi thông báo bằng văn bản về ý định của mình cho Chính phủ Bỉ, gửi cho Chính phủ này chứng từ xin tham gia, chứng từ này sẽ được lưu giữ trong văn khố lưu trữ của Chính phủ nước Bỉ.

Chính phủ Bỉ sẽ gửi ngay đến tất cả các quốc gia đã ký hoặc tham gia Công ước một bản sao có chứng nhận hợp thức của văn bản thông báo và biên bản tham gia, ghi rõ ngày Chính phủ nước Bỉ công nhận văn bản thông báo.

Điều 13:

Các bên ký kết Công ước, vào lúc ký kết, phê chuẩn hay tham gia có thể tuyên bố rằng việc họ chấp nhận Công ước này không bao gồm một số hoặc tất cả các lãnh địa tự trị, hay thuộc địa, sở hữu địa hải ngoại, đất bảo hộ của họ hoặc lãnh thổ thuộc chủ quyền và kiểm soát của họ và sau đó họ có thể thay mặt bất cứ lãnh địa tự trị, thuộc địa...hay lãnh thổ của họ xin tham gia riêng vào Công ước. Họ cũng có thể tuyên bố bãi ước riêng rẽ theo những quy định của Công ước đối với các lãnh địa tự trị, thuộc địa...nói trên.

Điều 14:

Công ước sẽ có hiệu lực, trong trường hợp các quốc gia đã tham gia vào đợt đầu gửi lưu giữ văn bản phê chuẩn, sau một năm sau ngày ký biên bản ghi nhớ việc gửi lưu giữ này. Đối với các quốc gia phê chuẩn tiếp sau hoặc tuyên bố tham gia và cả trong những trường hợp Công ước có hiệu lực sau đó theo Điều 13 thì Công ước sẽ có hiệu lực sau 6 tháng kể từ khi các văn bản thông báo quy định ở đoạn 2 Điều 11 và đoạn 2 điều 12 được Chính phủ nước Bỉ tiếp nhận.

Điều 15:

Trường hợp một trong các quốc gia ký kết muốn bãi miễn Công ước này, việc bãi ước sẽ được thông báo bằng văn bản cho Chính phủ nước Bỉ. Chính phủ này sẽ gửi ngay một bản sao của thông báo đó có chứng nhận hợp thức cho các quốc gia khác báo cả ngày đã nhận được thông báo.

Việc tuyên bố bãi ước chỉ thực hiện đối với quốc gia đưa ra thông báo và chỉ có hiệu lực sau thời hạn một năm kể từ khi thông báo gửi tới Chính phủ nước Bỉ.

Điều 16:

Bất cứ một quốc gia ký kết nào cũng có quyền yêu cầu triệu tập một hội nghị mới nhằm xem xét việc bổ sung cho Công ước.

Một quốc gia muốn thực thi quyền hạn đó phải thông báo ý định cho các quốc gia khác thông qua Chính phủ nước Bỉ, Chính phủ này sẽ thu xếp việc triệu tập hội nghị.

Làm tại Brussels, một bản duy nhất vào ngày 25 tháng 8 năm 1924.

Quy tắc hague - visby 1968

Ðiều I

Trong Qui tắc này, các từ sau đây được sử dụng với nghĩa như được nêu dưới đây:

a. "Người chuyên chở" bao gồm chủ sở hữu hoặc người thuê tàu giao kết một hợp đồng vận chuyển với người gửi hàng.

b. "Hợp đồng vận chuyển" chỉ áp dụng cho các hợp đồng vận chuyển được thể hiện bằng vận đơn hoặc một chứng từ sở hữu tương tự trong chừng mực chứng từ đó liên quan đến việc vận chuyển hàng hoá bằng đường biển, bao gồm bất kỳ vận đơn hoặc chứng từ tương tự nào như đã nêu ở trên được phát hành trên cơ sở hoặc theo một hợp đồng thuê tàu kể từ thời điểm vận đơn hoặc chứng từ sở hữu tương tự đó điều chỉnh các mối quan hệ giữa một người chuyên chở với một người cầm vận đơn.

c. "Hàng hoá" bao gồm hàng hoá, đồ vật, thương phẩm, vật phẩm thuộc mọi thể loại trừ động vật sống và hàng hoá được khai trong hợp đồng vận chuyển là chở trên boong và thực tế được chở trên boong.

d. "Tàu" là bất kỳ loại tàu nào được sử dụng để vận chuyển hàng hoá bằng đường biển.

e. "Vận chuyển hàng hóa" bao trùm khoảng thời gian từ lúc xếp hàng hoá lên tàu cho đến lúc dỡ hàng hoá đó khỏi tàu.

Ðiều II

Tuân thủ các quy định tại Ðiều VI, theo mọi hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển, người chuyên chở phải chịu trách nhiệm và được hưởng các quyền và miễn trách như được nêu dưới đây liên quan đến việc xếp, chuyển dịch, lưu kho, sắp xếp, chuyên chở, coi giữ, chăm sóc và dỡ hàng.

Ðiều III

1. Trước và lúc bắt đầu hành trình, người chuyên chở phải có sự cần mẫn thích đáng để:

a. Làm cho tầu có đủ khả năng đi biển;

b. Biên chế, trang bị và cung ứng thích ứng cho tàu;

c. Làm cho các hầm, phòng lạnh và phòng phát lạnh, và tất cả các bộ phận khác của con tàu dùng vào việc chuyển chở hàng hoá thích ứng và an toàn cho việc tiếp nhận, chuyên chở và bảo quản hàng hoá.

2. Tuân thủ các quy định tại Ðiều IV, người chuyên chở phải thực hiện một cách thích ứng và cẩn thận việc xếp, chuyển dịch, sắp xếp, chuyên chở, coi giữ, chăm sóc và dỡ hàng hoá được chuyên chở.

3. Sau khi nhận trách nhiệm về hàng hoá, người chuyên chở hoặc thuyền trưởng hoặc đại lý của người chuyên chở sẽ, theo yêu cầu của người gửi hàng, cấp cho họ một vận đơn trong đó, ngoài các chi tiết khác, có ghi:

a. Những mã ký hiệu chính cần thiết để nhận biết hàng hoá giống như tài liệu bằng văn bản do người gửi hàng cung cấp trước lúc bắt đầu xếp hàng, với đều kiện là các mã ký hiệu đó phải được in hoặc được thể hiện rõ ràng bằng một cách thức khác lên trên hàng hoá nếu hàng hoá không được đóng bao bì, hoặc lên trên những hòm kiện chứa hàng hoá đó theo một cách thức mà những mã ký hiệu đó trong điều kiện bình thường vẫn đọc được cho đến khi kết thúc hành trình.

b. Số kiện, số chiếc hoặc số lượng hoặc trọng lượng tuỳ từng trường hợp như người gửi hàng đã cung cấp bằng văn bản.

c. Trật tự và tình trạng bên ngoài của hàng hoá.

Với điều kiện là người chuyên chở, thuyền trưởng hoặc đại lý của người chuyên chở không buộc phải kê hoặc ghi trong vận đơn những mã ký hiệu, số hiệu, số lượng hay trọng lượng mà họ có cơ sở hợp lý để nghi ngờ là không thể hiện đúng hàng hoá thực tế được tiếp nhận hoặc họ đã không có phương tiện hợp lý để kiểm tra.

4. Một vận đơn như vậy là bằng chứng hiển nhiên về việc người chuyên chở đã nhận những hàng hoá mô tả trong vận đơn quy định tại đoạn 3 (a), (b) và (c). Tuy nhiên, bằng chứng ngược lại sẽ không được chấp nhận khi vận đơn được chuyển giao cho một người thứ ba ngay tình.

5. Người gửi hàng được coi như đã đảm bảo cho người chuyên chở, vào lúc xếp hàng, sự chính xác của mã ký hiệu, số hiệu, số lượng và trọng lượng do họ cung cấp và người gửi hàng phải bồi thường cho người chuyên chở về mọi mất mát, hư hỏng và chi phí phát sinh từ hoặc là hệ quả của sự không chính xác của các chi tiết đó. Quyền của người chuyên chở đối với những khoản bồi thường như vậy tuyệt nhiên không hạn chế trách nhiệm của người này theo hợp đồng vận chuyển đối với bất kỳ người nào khác ngoài người gửi hàng.

6. Trừ khi thông báo bằng văn bản về mất mát hoặc thiệt hại và tính chất chung của các mất mát, hư hỏng đó được gửi cho người chuyên chở hay đại lý của người chuyên chở tại cảng dỡ hàng trước hoặc vào lúc trao hàng cho người có quyền nhận hàng theo hợp đồng vận chuyển coi giữ, hoặc, nếu mất mát hoặc hư hỏng không thể hiện rõ bên ngoài, trong vòng ba ngày, việc trao hàng như vậy sẽ là bằng chứng hiển nhiên của việc giao hàng của người chuyên chở như mô tả trong vận đơn.

Không cần gửi thông báo bằng văn bản nếu vào thời điểm nhận hàng, tình trạng của hàng hoá đã được kiểm duyệt hoặc kiểm tra đối tịch.

Tuân thủ đoạn 6 bis, người chuyên chở và tàu, trong bất kỳ trường hợp nào, được giải phóng khỏi mọi trách nhiệm đối với hàng hoá, trừ khi một vụ kiện được đưa ra trong vòng một năm kể từ khi giao hàng hoặc kể từ ngày hàng hoá đáng lẽ phải được giao. Tuy nhiên, thời hạn này có thể được gia hạn nếu các bên thoả thuận như vậy sau khi nguyên nhân của vụ kiện đã phát sinh.

Trong trường hợp có bất kỳ mất mát hoặc hư hại thực tế hay có thể cảm thấy rõ, người chuyên chở và người nhận hàng phải tạo cho nhau mọi điều kiện thuận lợi để kiểm tra và kiểm đếm hàng hoá.

Một vụ kiện đòi bồi thường thiệt hại chống lại một người thứ ba có thể được tiến hành thậm chí khi đã hết thời hạn một năm theo quy định tại đoạn trên nếu vụ kiện này được đưa ra trong thời gian được luật của Toà án nơi đưa ra vụ kiện cho phép. Tuy nhiên, thời gian cho phép không thể ít hơn ba tháng, bắt đầu từ ngày mà người đưa ra vụ khiếu nại đòi bồi thường đó đã giải quyết khiếu kiện đó hoặc đã được thông báo về thủ tục tố tụng chống lại chính người này.

7. Sau khi hàng hoá đã được xếp xuống tàu, vận đơn do người chuyên chở, thuyền trưởng hay đại lý của người chuyên chở cấp cho người gửi hàng, nếu người gửi hàng có yêu cầu, sẽ là "vận đơn đã xếp hàng", với điều kiện là nếu người gửi hàng trước đó đã nhận được một chứng từ sở hữu đối với các hàng hoá đó thì họ phải hoàn lại những chứng từ sở hữu đó để đổi lấy "vận đơn đã xếp hàng", nhưng tuỳ sự lựa chọn của người chuyên chở, trên vận đơn đó, người chuyên chở, thuyền trưởng hoặc đại lý của người chuyên chở có thể ghi tên tàu hoặc những tàu đã xếp những hàng hoá đó tại cảng xếp hàng, và ngày hoặc những ngày xếp hàng, và khi đã ghi như thế, nếu có đủ các chi tiết nêu trong đoạn 3 của Ðiều III thì nhằm mục đích của Ðiều này, vận đơn như vậy sẽ được coi là vận đơn "đã xếp hàng".

8. Mọi điều khoản, giao ước hay thoả thuận trong một hợp đồng vận chuyển hàng hoá làm giảm nhẹ trách nhiệm của người chuyên chở hay của tàu đối với mất mát hay thiệt hại liên quan đến hàng hoá phát sinh từ sự bất cẩn, lỗi hay không thực hiện các nhiệm vụ và nghĩa vụ như quy định tại Ðiều này hoặc giảm bớt trách nhiệm hơn so với quy định tại Qui tắc này sẽ là vô giá trị và không có hiệu lực. Việc dành lợi ích về bảo hiểm cho người chuyên chở hoặc một điều khoản tương tự sẽ được coi như một điều khoản giảm nhẹ trách nhiệm của người chuyên chở.

Ðiều IV

1. Cả người chuyên chở lẫn tàu đều không phải chịu trách nhiệm đối với những mất mát hoặc thiệt hại phát sinh hoặc là hệ quả của việc tàu không có đủ khả năng đi biển trừ khi tình trạng này là do người chuyên chở thiếu sự cần mẫn thích đáng trong việc làm cho tàu có đủ khả năng đi biển và đảm bảo cho tàu được biên chế, trang bị và cung ứng thích hợp và làm cho các hầm tàu, phòng lạnh và phát lạnh và tất cả các bộ phận khác của tàu dùng để chở hàng thích hợp và an toàn cho việc tiếp nhận, chuyên chở và bảo quản hàng hoá phù hợp với những qui định của Ðiều III đoạn 1. Khi có mất mát hoặc hư hỏng hàng hoá do tàu không đủ khả năng đi biển, người chuyên chở hoặc bất kỳ người nào khác muốn được miễn trách nhiệm theo quy định tại Ðiều này có nghĩa vụ chứng minh rằng đã thực hiện sự cần mẫn thích đáng.

2. Cả người chuyên chở lẫn tàu không chịu trách nhiệm về mất mát hay hư hỏng phát sinh hoặc là hệ quả của:

a. Hành vi, sơ suất hoặc không thực hiện của thuyền trưởng, thuỷ thủ, hoa tiêu hay người giúp việc của người chuyên chở trong việc điều khiển hay quản trị tàu.

b. Cháy, trừ khi do lỗi thực tế của người chuyên chở hay do hành động cố ý của người chuyên chở.

c. Những tai hoạ, mối nguy hiểm hay tai nạn trên biển hay sông nước.

d. Thiên tai.

e. Hành động chiến tranh.

f. Hành động thù địch.

g. Bắt giữ hay hạn chế của chính quyền, người thống trị hay nhân dân hoặc bị tịch biên trong một thủ tục tố tụng tư pháp.

h. Các hạn chế do kiểm dịch.

i. Hành động hoặc không hành động của người gửi hàng hoặc chủ hàng, đại lý hoặc đại diện của họ.

k. Ðình công hoặc bế xưởng hoặc ngừng hay hạn chế lao động vì bất kỳ lý do gì, dù là bộ phận hay toàn phần.

m. Bạo động hoặc nổi loạn.

n. Cứu hoặc cố gắng cứu tính mạng hoặc tài sản trên biển.

o. Hao hụt thể tích hay trọng lượng hoặc bất kỳ mất mát hay hư hỏng nào khác xảy ra do nội tỳ, phẩm chất hay khuyết tật vốn có của hàng hoá.

p. Bao bì không đầy đủ.

q. Mã ký hiệu không đầy đủ hoặc không chính xác.

s. Những ẩn tỳ không thể phát hiện được dù đã có sự cần mẫn thích đáng.

t. Bất kỳ nguyên nhân nào khác phát sinh không do lỗi thực tế hay hành vi cố ý của người chuyên chở, cũng không do lỗi hoặc sự sơ suất của các đại lý hoặc người phục vụ của người chuyên chở, nhưng người muốn được hưởng quyền miễn trách này có nghĩa vụ chứng minh rằng mất mát hay hư hỏng đó không phải lỗi thực tế hay hành vi cố ý của người chuyên chở cũng như lỗi hoặc sơ suất của các đại lý hoặc người phục vụ của người chuyên chở.

3. Người gửi hàng không chịu trách nhiệm đối với những mất mát hay hư hỏng gây ra cho người chuyên chở hoặc tàu xuất phát từ hoặc là hệ quả của bất kỳ nguyên nhân nào không có hành vi, lỗi hoặc sơ suất của người gửi hàng, các đại lý hoặc người phục vụ của người gửi hàng.

4. Bất kỳ sự đi trệch hướng nào nhằm mục đích cứu hoặc cố gắng cứu tính mạng hoặc tài sản trên biển hoặc bất kỳ sự đi trệch hướng hợp lý nào khác sẽ không bị coi là một xâm hại hay vi phạm Qui tắc này hoặc hợp đồng vận chuyển, và người chuyên chở không phải chịu trách nhiệm đối với mọi mất mát hoặc hư hỏng là hệ quả của việc này.

5. (a) Trừ khi tính chất và giá trị của hàng hoá này đã được người gửi hàng kê khai trước khi xếp hàng và được ghi vào vận đơn, cả người chuyên chở lẫn tàu trong mọi trường hợp đều không phải chịu trách nhiệm cho các mất mát hoặc hư hỏng đối với hoặc có liên quan đến hàng hoá trong một khoản tiền vượt quá 10. 000 frăng mỗi kiện hàng hoặc đơn vị hàng hoá hoặc 30 frăng mỗi kilo trong tổng trọng lượng tính cả bì của hàng hoá mất mát hoặc hư hỏng, hoặc bất kỳ khoản tiền nào cao hơn.

(b) Tổng số tiền có thể được bồi hoàn sẽ được tính toán dựa trên giá trị của hàng hoá đó tại địa điểm và vào thời điểm hàng được dỡ khỏi tàu phù hợp với hợp đồng hoặc tại địa điểm và vào thời điểm mà đáng lẽ hàng hoá phải được dỡ khỏi tàu.

Giá trị của hàng hoá sẽ được ấn định theo giá tại thị trường trao đổi hàng hoá, hoặc, nếu không tồn tại giá như vậy, theo giá thị trường hiện hành, hoặc, nếu không có cả giá tại thị trường trao đổi hàng hoá và giá thị trường hiện hành, theo giá trị thông thường của hàng hoá cùng loại và có chất lượng tương tự.

(c) Trường hợp một công-ten-nơ, pa-lét hoặc một vật dụng vận chuyển tương tự được sử dụng để tập hợp hàng hoá, số lượng các kiện hoặc đơn vị hàng được liệt kê trong vận đơn như được tập hợp trong vật dụng vận chuyển đó sẽ được coi là số các kiện hoặc đơn vị vì mục đích của đoạn này trong chừng mực mà các kiện hoặc đơn vị đó có liên quan. Trừ trường hợp nêu trên, vật dụng vận chuyển sẽ được coi là kiện hoặc đơn vị.

(d) Một frăng là một đơn vị bao gồm 65,5 miligam vàng với độ tinh khiết 900/1000. Ngày qui đổi sang đồng nội tệ khoản tiền được ấn định trong phán quyết sẽ được điều chỉnh bởi luật của Toà án giải quyết vụ việc.

(e) Cả người chuyên chở lẫn tàu đều không được quyền hưởng giới hạn trách nhiệm quy định tại đoạn này nếu thiệt hại được chứng minh là xuất phát từ hành vi, hành động hoặc không hành động của người chuyên chở được thực hiện với ý định gây ra thiệt hại, hoặc được thực hiện một cách liều lĩnh và ý thức được rằng thiệt hại như vậy có thể xảy ra.

(f) Kê khai nêu tại tiểu đoạn (a) của đoạn này, nếu đã được nêu trong vận đơn, sẽ là chứng cứ đương nhiên, nhưng không có giá trị ràng buộc hay có tính quyết định người chuyên chở.

(g) Bằng thỏa thuận giữa người chuyên chở, thuyền trưởng hoặc đại lý của người chuyên chở và người gửi hàng, các khoản tiền tối đa khác với các khoản tiền nêu tại tiểu đoạn (a) của đoạn này có thể được ấn định, với điều kiện là không một khoản tiền tối đa nào được ấn định được thấp hơn mức tối đa hợp lý nêu trong tiểu đoạn đó.

(h) Trong mọi trường hợp, cả người chuyên chở lẫn tàu đều không phải chịu trách nhiệm cho các mất mát hoặc hư hỏng đối với, hoặc có liên quan đến hàng hoá nếu tính chất hoặc giá trị của hàng hoá đã bị người gửi hàng cố tình khai sai trong vận đơn.

6. Hàng hoá có tính dễ cháy, dễ nổ hay nguy hiểm đối với việc xếp hàng mà người chuyên chở, thuyền trưởng hoặc đại lý của người chuyên chở sẽ không chấp nhận chuyên chở nếu biết về tính chất hay đặc điểm của chúng, có thể bị người chuyên chở dỡ xuống bất kỳ lúc nào tại bất kỳ địa điểm nào, hoặc tiêu huỷ hoặc vô hại hoá mà không có bồi hoàn và người gửi những hàng hoá đó sẽ phải chịu trách nhiệm đối với tất cả các thiệt hại và các chi phí trực tiếp hay gián tiếp phát sinh từ hoặc là hệ quả của việc xếp hàng đó.

Nếu người chuyên chở biết về tính chất của hàng hoá và chấp nhận xếp hàng hoá lên tàu và sau đó những hàng hoá này trở thành mối nguy hiểm cho tàu hoặc hàng hoá, theo cách thức tương tự chúng có thể bị người chuyên chở dỡ lên bờ tại bất kỳ địa điểm nào, hoặc tiêu huỷ hoặc vô hại hoá mà người này không phải chịu trách nhiệm trừ trường hợp tổn thất chung, nếu có.

Ðiều IV

1. Mọi sự bào chữa hay giới hạn trách nhiệm quy định tại Qui tắc này sẽ áp dụng cho bất kỳ một vụ kiện nào chống lại người chuyên chở liên quan đến các mất mát hoặc thiệt hại đối với hàng hoá ghi nhận trong một hợp đồng vận chuyển dù vụ kiện đó được dựa trên hợp đồng hay ngoài hợp đồng.

2. Nếu một vụ kiện được tiến hành chống lại một người phục vụ hoặc đại lý của người chuyên chở (người phục vụ hoặc đại lý đó không phải là một bên ký hợp đồng độc lập), người phục vụ hoặc đại lý đó có thể tự bào chữa hoặc hưởng các giới hạn trách nhiệm mà người chuyên chở có quyền được viện dẫn theo Qui tắc này.

3. Tổng số các khoản tiền có thể được bồi hoàn từ phía người chuyên chở và những người phục vụ và đại lý đó, trong bất kỳ trường hợp nào cũng không thể vượt quá giới hạn được quy định trong Qui tắc này.

4. Mặc dù vậy, một người phục vụ hoặc đại lý của người chuyên chở sẽ không được hưởng các quy định tại Ðiều này nếu thiệt hại được chứng minh là xuất phát từ một hành vi, hành động hoặc không hành động của người phục vụ hoặc đại lý, được thực hiện với ý định gây ra thiệt hại, hoặc được thực hiện một cách liều lĩnh và ý thức được rằng thiệt hại như vậy có thể xảy ra.

Ðiều V

Một người chuyên chở được tự do từ bỏ toàn bộ hay một phần những quyền hạn và miễn trách hoặc tăng thêm các trách nhiệm và nghĩa vụ của mình theo Qui tắc này, với điều kiện là việc từ bỏ hoặc tăng thêm đó phải được ghi vào vận đơn phát hành cho người gửi hàng. Các quy định của Qui tắc này không áp dụng cho các hợp đồng thuê tàu, nhưng nếu các vận đơn được phát hành trong trường hợp một tàu chở hàng theo một hợp đồng thuê tàu thì phải tuân thủ các điều khoản của Qui tắc này. Không một quy định nào trong Qui tắc này được xem là cấm đưa vào vận đơn bất kỳ điều khoản hợp pháp nào về tổn thất chung.

Ðiều VI

Mặc dù có các quy định như trên, một người chuyên chở, thuyền trưởng hoặc đại lý của người chuyên chở và người gửi hàng, liên quan đến những hàng hoá cụ thể, được tự do giao kết bất kỳ thoả thuận nào với bất kỳ điều khoản nào về trách nhiệm của người chuyên chở đối với các hàng hoá đó và về các quyền và miễn trách của người chuyên chở đối với các hàng hoá đó, hoặc nghĩa vụ của người này trong việc cung cấp tàu có khả năng đi biển, miễn là quy định này không trái với trật tự công cộng, hoặc về sự quan tâm hoặc cần mẫn của những người phục vụ hoặc đại lý của người này trong việc xếp, chuyển dịch, sắp xếp, chuyên chở, coi giữ, chăm sóc và dỡ hàng hoá chuyên chở bằng đường biển, với điều kiện là trong trường hợp này chưa một vận đơn nào được phát hành hoặc sẽ được phát hành và các điều khoản thoả thuận được ghi nhận trong một biên lai mà biên lai này là một chứng từ có ghi rõ là không lưu thông được.

Bất kỳ thoả thuận nào được giao kết như vậy sẽ có đầy đủ hiệu lực pháp lý.

Với điều kiện là Ðiều này không áp dụng cho việc xếp hàng thương mại thông thường thực hiện trong quá trình mậu dịch thông thường, mà chỉ áp dụng cho những việc xếp hàng khác mà đặc tính hoặc tình trạng của tài sản được vận chuyển hoặc các hoàn cảnh cụ thể, các điều khoản và điều kiện trong đó việc vận chuyển được thực hiện chứng tỏ sự cần thiết phải có một thoả thuận đặc biệt.

Ðiều VII

Không một quy định nào tại đây ngăn cản người chuyên chở hoặc người gửi hàng được đưa vào một thoả thuận bất kỳ quy định, điều kiện, bảo lưu hoặc miễn trừ liên quan đến trách nhiệm của người chuyên chở hoặc của tàu đối với những mất mát hay hư hỏng của hàng hoá, hoặc có liên quan đến việc coi giữ, chăm sóc và chuyển dịch hàng hoá trước khi xếp xuống tàu và sau khi dỡ hàng hoá khỏi tàu đã chuyên chở hàng hoá đó bằng đường biển.

Ðiều VIII

Các quy định trong Qui tắc này không ảnh hưởng đến các quyền và nghĩa vụ của người chuyên chở theo bất kỳ luật lệ hiện hành nào liên quan đến giới hạn trách nhiệm của các chủ tàu biển.

Ðiều IX

Qui tắc này không ảnh hưởng đến các quy định tại các Công ước quốc tế hoặc luật quốc gia điều chỉnh trách nhiệm đối với các thiệt hại hạt nhân.

Ðiều X

Các quy định tại Qui tắc này áp dụng cho tất cả các vận đơn liên quan đến việc vận chuyển hàng hoá giữa cảng của hai quốc gia khác nhau nếu:

a. Vận đơn đó được phát hành tại một Quốc gia thành viên hoặc

b. Việc vận chuyển là từ một cảng của một Quốc gia thành viên hoặc

c. Hợp đồng được nêu trong vận đơn hoặc được chứng minh bằng vận đơn quy định rằng Qui tắc này hoặc luật của một Quốc gia bất kỳ nhằm thi hành Qui tắc này được sử dụng để điều chỉnh hợp đồng đó, không phụ thuộc vào quốc tịch của tàu, người chuyên chở, người gửi hàng, người nhận hàng, hoặc bất kỳ người nào khác có lợi ích liên quan.

(Hai đoạn cuối của Ðiều này không được nhắc lại nữa. Các đoạn này yêu cầu các Quốc gia thành viên áp dụng Qui tắc này cho các vận đơn được nêu trong Ðiều này và cho phép họ áp dụng Qui tắc này cho các vận đơn khác

Nghị định thư visby

Các bên ký kết.

Xét thấy cần phải sửa đổi bổ sung cho Công ước quốc tế để thồng nhất một số quy tắc luật pháp liên quan đến vận đơn, ký tại Brussels ngày 25-8-1924.

Ðã thoả thuận như sau:

Ðiều 1:

1. Trong Ðiều 3, Mục 4, thêm:

"Tuy nhiên, khi vận đơn đã được chuyển sang bên thứ ba hành động với thiện ý thì chứng minh ngược lại sẽ không được thừa nhận".

2. Trong Ðiều 3, mục 6, Tiều mục 4 xoá bỏ và được thay bằng:

"Trừ quy định tại mục 6 bis, người chuyên chở và tàu, trong bất cứ trường hợp nào cũng được giải thoát khỏi trách nhiệm đối với hàng hóa, trừ khi việc kiện cáo được đưa ra trong vòng một năm kể từ ngày giao hàng hoặc từ ngày đáng lẽ hàng được giao. Tuy nhiên, các bên có thể thoả thuận kéo dài thời hạn này sau khi kiện cáo phát sinh"

3. Trong Ðiều 3, mục 6, thêm mục 6 bis như sau: "Việc kiện tụng đòi một người thứ ba bồi thường có thể đưa ra ngay cả khi hết thời hạn một năm quy định trong mục trên, nếu điều đó được đưa ra trong thời gian được luật của Toà án thụ lý vụ việc cho phép không ít hơn ba tháng kể từ ngày người đứng ra kiện tụng đòi bồi thường đã thanh toán khiếu nại hoặc đã nhận được đơn kiện mình".

Ðiều 2:

Ðiều 4, Mục 5, nay xoá bỏ và thay thế bằng đoạn sau:

a. Trừ phi tính chất và giá trị của hàng hoá đã được người gửi hàng khai trước khi xếp hàng và được ghi vào vận đơn, cả người chuyên chở và tàu trong bất cứ trường hợp nào đều không chịu trách nhiệm về bất cứ mất mát , hư hỏng nào của hàng hoá hay liên quan đến hàng hoá vượt quá số tiền tương đương với 10.000 francs một kiện hay đơn vị hoặc 30 francs một kilô trọng lượng hàng hoá cả bì bị mất mát hoặc hư hỏng, tuỳ theo cách tính nào cao hơn.

b. Tổng số tiền bồi thường được tính toán có tham khảo giá trị hàng hoá đó ở địa điểm và vào thời gian hàng được dỡ khỏi tàu phù hợp với hợp đồng hoặc đáng lẽ phải dỡ như vậy.

Trị giá hàng hoá được ấn định theo giá trị của sở giao dịch hàng hoá, hoặc nếu không có giá đó, thì theo giá thị trường hiện hành hoặc nếu không có giá của sở giao dịch hay gía thị trường hiện hành thì tham khảo giá trị bình thường của hàng hoá cùng loại và chất lượng.

c. Khi container, palet hay công cụ vận tải tương tự dùng để gom hàng, số kiện hay đơn vị liệt kê trong vận đơn và đóng gói trong các công cụ vận tải đó được coi là số kiện hoặc đơn vị để thực hiện quy định của đoạn này trong chừng mực mà những kiện, những đơn vị đó có liên quan. Ngoại trừ như đã nói trên, đơn vị vận tải đó được coi là kiện hay đơn vị.

d. Một Francs có nghĩa là một đơn vị gồm 65,5 miligam vàng có độ nguyên chất 900/1000. Ngày quy đổi số tiền bồi hoàn ra tiền quốc gia do luật của Toà án thụ lý vụ việc điều chỉnh.

e. Cả người chuyên chở và tàu sẽ không có quyền hưởng lợi ích của giới hạn trách nhiệm quy định trong đoạn này nếu có chứng minh được rằng tổn thất xảy ra là do hành vi hoặc thiều sót của người chuyên chở nhằm gây ra thiệt hại hay đã cẩu thả khi biết rằng tổn thất có thể xảy ra.

f. Lời khai nói trong tiểu mục (a) của mục này, nếu thể hiện trong vận đơn, sẽ là bằng chứng hiển nhiên nhưng không ràng buộc và quyết định đối với người chuyên chở.

g. Người chuyên chở, thuyền trưởng hay đại lý của người chuyên chở và người gửi hàng có thể thoả thuận các mức tiền tối đa khác với mức nêu trong tiểu mục (a) của mục này nhưng không được thấp hơn mức đã nêu trong tiểu mục (a).

h. Người chuyên chở và tàu trong bất cứ trường hợp nào đều không chịu trách nhiệm về mất mát, hư hỏng của hàng hoá hay liên quan đến hàng hoá nếu người gửi hàng đã cố tình khai sai tính chất hoặc trị giá hàng trong vận đơn".

Ðiều 3:

Giữa Ðiều 4 và Ðiều 5 của Công ước, nay đưa thêm Ðiều 4bis, như sau:

1. Các miễn trách và giơí hạn trách nhiệm quy định trong Công ước này áp dụng trong mọi vụ kiện đòi người chuyên chở bồi thường về mất mát, hư hỏng của hàng hoá được chuyên chở theo một hợp đồng vận tải dù việc kiện cáo dựa trên cơ sở hợp đồng hay ngoài hợp đồng.

2. Nếu việc kiện cáo đó nhằm vào một người làm công hay đại lý của người chuyên chở (người đó không phải là người ký hợp đồng độc lập), thì người làm công hay đại lý đó có quyền lợi dụng cho mình những miễn trách và giới hạn trách nhiệm mà người chuyên chở có quyền viện dẫn theo Công ước này.

3. Tổng số tiền bồi thường của người chuyên chở và những người làm công và đại lý đó trong mọi trường hợp không vượt quá mức giơí hạn quy định trong Công ước này.

4. Tuy nhiên, một người làm công hay đại lý của người chuyên chở sẽ không được hưởng những quy định của điều khoản này nếu chứng minh được thiệt hại xảy ra là do hành vi hay lỗi lầm của người làm công hay đại lý đó với ý đồ gây ra thiệt hại hoặc cẩu thả mặc dù biết rằng thiệt hại có thể xảy ra".

Ðiều 4:

Bỏ Ðiều 9 của Công ước và thay bằng đoạn sau:

"Công ước này không ảnh hưởng tới những quy định của bất cứ Công ước quốc tế hay luật quốc gia nào điều chỉnh trách nhiệm về tổn thất hạt nhân".

Ðiều 5:

Bỏ Ðiều 10 của Công ước và thay bằng đoạn: "Những quy định của Công ước này áp dụng cho mọi vận đơn liên quan đến việc chuyên chở hàng hoá giữa các cảng ở hai nước khác nhau, nếu:

a. Vận đơn được cấp ở một nước tham gia Công ước, hoặc

b. Hàng chuyên chở từ một cảng của nước tham gia Công ước, hoặc

c. Hợp đồng ghi trong vận đơn hay được chứng minh trong vận đơn quy định rằng các quy tắc của Công ước này hay luật pháp của bất cứ quốc gia nào quy định hiệu lực đối với các quy tắc đó là những quy tắc điều chỉnh hợp đồng, bất kể quốc tịch tàu, người chuyên chở, người gửi hàng, người nhận hàng hay bất cứ người hữu quan nào khác.

Mỗi quốc gia ký Công ước sẽ áp dụng các quy định của Công ước này cho các vận đơn nêu trên.

Ðiều này không ngăn cản một nước thành viên của Công ước áp dụng các quy tắc của Công ước này vào những vận đơn không nói trong các đoạn trước".

Ðiều 6:

Giữa các bên ký Nghị định thư này, Công ước và Nghị định thư được đọc và giải thích cùng nhau như một văn bản đơn nhất.

Một bên ký Nghị định thư không có nghĩa vụ áp dụng các quy định của Nghị định thư này vào các vận đơn được cấp ở một nước là thành viên của Công ước nhưng không phải là Nghị định thư của Công ước này.

Ðiều 7:

Giữa các bên của Nghị định thư, việc bãi bỏ công ước theo Ðiều 15 sẽ không được coi là bãi bỏ Công ước đã được sửa đổi bởi Nghị định thư này.

Ðiều 8:

Mọi tranh chấp giữa hai hay nhiều bên liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước, mà không giải quyết được bằng con đường thương lượng, sẽ, theo yêu cầu của một trong các bên, được đưa ra trọng tài. Nếu trong vòng 6 tháng kể từ ngày có yêu cầu về trọng tài mà các bên không thoả thuận được vấn đề tổ chức trọng tài thì một trong các bên nói trên có thể đưa tranh chấp ra Toà án Công lý quốc tế bằng yêu cầu phù hợp với thủ tục của Toà án này.

(Từ Ðiều 9 đến Ðiều 17 là các quy định về thủ tục ký kết, phê chuẩn, lưu trữ, hiệu lực, bãi ước của Nghị định thư v.v...xin xem bản tiếng Anh).

Nghị định thư này làm tại Brussels, ngày 23 tháng 02 năm 1968, bằng tiếng Pháp và tiếng Anh. Hai bản gốc có gía trị như nhau và sẽ được lưu giữ tại Cục lưu trữ của Chính phủ Bỉ, nơi sẽ phát hành các bản sao.

(Nghị định thư SDR 197Nghị định thư năm 1979 sửa đổi, bổ sung cho công ước quốc tế để thống nhất một số quy tắc về vận đơn đường biển 1924, đã được Nghị định thư 1968 bổ sung9)

Các bên ký kết Nghị định thư này, là các bên tham gia Công ước quốc tế để thống nhất một số quy tắc luật pháp liên quan đến vận đơn đường biển, ký tại Brussels ngày 25 tháng 08 năm 1924, đã được Nghị định thư sửa đổi Công ước này, ký tại Brussels ngày 23 tháng 02 năm 1968, bổ sung, sửa đổi.

Ðã thỏa thuận như sau:

Ðiều 1:

Nhằm mục đích của Nghị định thư này, "Công ước" có nghĩa là Công ước quốc tế để thống nhất một số quy tắc luật pháp về vận đơn đường biển và Nghị định thư ký kết Công ước này, ký tại Brussels ngày 25 tháng 08 năm 1924, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định thư làm tại Brussels ngày 23 tháng 02 năm 1968.

Ðiều 2:

(1) Ðiều 4, mục 5 (a) của Công ước được thay như sau:

"(a) Trừ phi tính chất và trị giá hàng hóa đó đã được người gửi hàng khai trước khi xếp hàng và có ghi vào vận đơn, cả người chuyên chở và tầu trong bất cứ trường hợp nào đều không chịu trách nhiệm về mất mát, hư hỏng của hàng hóa hoặc liên quan đến hàng hóa với một số tiền vượt qúa 666,67 đơn vị tính toán cho một kiện hay đơn vị hoặc 2 đơn vị tính toán cho một kilô trọng lượng hàng hóa cả bì bị mất mát, hư hỏng, tùy theo cách tính nào cao hơn".

(2) Ðiều 4, mục 5, của Công ước được thay như sau:

"(d) Ðơn vị tính toán nói trong Ðiều này là Quyền Rút vốn Ðặc biệt (Special Drawing Right) do Qũy Tiền Tệ Quốc tế định nghĩa. Những số nói ở tiểu mục (a) của đoạn này sẽ được quy đổi ra tiền quốc gia trên cơ sở giá trị đồng tiền đó vào ngày do luật của Tòa án thụ lý vụ việc quyết định.

Giá trị đồng tiền của một nước là thành viên Quỹ Tiền tệ Quốc tế, tính theo đồng SDR, sẽ được tính toán theo cách tính giá trị của Qũy Tiền tệ Quốc tế có hiệu lực vào ngày thực hiện việc chuyển đổi thứ tiền đó. Giá trị đồng tiền của một nước không phải là thành viên Qũy Tiền tệ Quốc tế, tính bằng đồng SDR, sẽ được tính theo cách của nước đó quyết định.

Tuy nhiên, một nước không phải là thành viên Qũy Tiền tệ Quốc tế và luật pháp của nước đó không cho phép áp dụng những quy định của đoạn nêu trên, có thể, vào lúc phê chuẩn hay tham gia Nghị định thư 1979 hay vào bất cứ lúc nào sau đó, tuyên bố là các giới hạn trach nhiệm quy định trong Công ước này được áp dụng trên lãnh thổ của mình như sau:

(i) Ðối với số tiền 666,67 đơn vị tính toán nói ở tiểu mục (a) của mục 5, Ðiều này là 10.000 đơn vị tiền tệ.

(ii) Ðối với số tiền 2 đơn vị tính toán nói ở tiểu mục (a) mục 5 Ðiều này, là 30 đơn vị tiền tệ.

Ðơn vị tiền tệ nói trong câu trên tương đương với 65,5 miligram vàng có độ nguyên chất 900/1000. Việc quy đổi các số tiền nói trong câu này ra tiền quốc gia được thực hiện theo pháp luật của quốc gia liên quan.

Việc tính toán và quy đổi trong các câu trên được thực hiện theo phương cách nào đó để thể hiện bằng đồng tiền quốc gia càng gần càng tốt với giá trị thực tế của các số tiền bằng đơn vị tính toán nói ở tiểu mục (a) mục 5 Ðiều này.

Các quốc gia sẽ liên hệ với người lưu giữ về cách thức tính toán và kết qủa quy đổi, tùy từng trường hợp, khi gửi văn bản phê chuẩn Nghị định thư 1979 hay văn bản tham gia Nghị định thư và cả khi có thay đổi trong việc phê chuẩn hay tham gia.

Ðiều 3:

Bất cứ tranh chấp nào giữa hai hay nhiều bên ký kết liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Nghị định thư này, mà không giải quyết được bằng thương lượng, sẽ được đưa ra trọng tài theo yêu cầu của một bên đương sự. Nếu trong vòng 6 tháng kể từ ngày yêu cầu trọng tài xét xử mà các bên không thể thỏa thuận được việc tổ chức trọng tài, thì bất cứ bên nào cũng có thể đưa tranh chấp ra Tòa án quốc tế theo đúng quy chế của Tòa.

Ðiều 4:

(1) Mỗi bên ký kết có thể, vào lúc ký kết hay phê chuẩn Nghị định thư này hoặc gia nhập Nghị định thư, tuyên bố rằng bên đó không bị ràng buộc bởi Ðiều 3.

(2) Bất cứ bên nào đã thực hiện việc bảo lưu phù hợp với đoạn (1) Có thể, vào bất cứ lúc nào, rút lui việc bảo lưu bằng cách thông báo cho Chính phủ Bỉ.

Ðiều 5:

Nghị định thư này sẽ để ngỏ cho các nước đã ký Công ước ngày 25/08/1924 hoặc Nghị định thư ngày 23/02/1968 hoặc các nước là thành viên của Công ước, ký kết.

Ðiều 6:

(1) Nghị định thư này sẽ được phê chuẩn.

(2) Việc phê chuẩn Nghị định thư bởi các nước không phải là thành viên Công ước sẽ có hiệu lực như phê chuẩn Công ước.

(3) Văn bản phê chuẩn sẽ được lưu giữ tại Chính phủ Bỉ.

Ðiều 7:

(1) Các nước không đề cập ở Ðiều 5 có thể gia nhập Nghị định thư này.

(2) Việc gia nhập Nghị định thư này cũng có hiệu lực như gia nhập Công ước.

(3) Văn bản gia nhập sẽ được lưu giữ tại Chính phủ Bỉ.

Ðiều 8:

(1) Nghị đinh thư này sẽ có hiệu lực sau 3 tháng kể từ ngày có 5 văn bản phê chuẩn hoặc gia nhập.

(2) Ðối với mỗi nước đã phê chuẩn hoặc gia nhập Nghị định thư sau khi đã có bản lưu giữ thứ 5, Nghị định thư này sẽ có hiệu lực sau 3 tháng kể từ ngày có 5 văn bản phê chuẩn hoặc gia nhập.

Ðiều 9:

(1) Bất kỳ nước thành viên nào cũng có thể bãi miễn Công ước này bằng cách thông báo cho Chính phủ Bỉ.

(2) Việc bãi miễn Công ước sẽ có hiệu lực sau một năm kể từ ngày Chính phủ Bỉ nhận được thông báo miễn ước.

(Ðiều 10, 11 nói về thủ tục gia nhập, lưu giữ xin xem bản tiếng Anh).

Nghị định thư này làm tại Brussels ngày hôm nay 21 tháng 12 năm 1979, bằng tiếng Anh và tiếng Pháp, có giá trị như nhau, thành một bản duy nhất, được lưu giữ tại văn phòng lưu trữ của Chính phủ Bỉ, nơi sẽ phát hành các bản sao

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro