cuu uoc

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Phần Thứ Nhất: Sáng Thế

Chương 1. Dựng Nên Trời Đất

Chương 2. Tổ Phụ Áp Ram

Chương 3. I Sác Và Gia Cóp

Chương 4. Tổ Phụ Giu Se

Dựng Nên Trời Đất

Sáu Ngày Tạo Dựng

1. Từ ban đầu, Thiên Chúa đã dựng nên trời đất. Đất bấy giờ chưa thành hình và tối tăm còn phủ trên vực thẳm, Thần Thiên Chúa bay là là khắp mặt nước.

Thiên Chúa bèn phán: "Hãy có sự sáng". Sự sáng liền có. Thiên Chúa thấy sự sáng tốt lành nên phân ánh sáng ra khỏi mờ tối, rồi đặt tên cho phần sáng là ngày, mờ tối là đêm. Thành ra có buổi chiều và ban mai, tức ngày thứ nhất.

Thiên Chúa lại phán: "Hãy có bầu trời ở giữa nước để phân cách nước ra với nước". Và Thiên Chúa đã dựng nên bầu trời và phân nước ở dưới bầu trời ra khỏi nước ở trên bầu trời. Liền có như vậy. Rồi Thiên Chúa đặt tên khoảng không đó là trời. Nên có buổi chiều và ban mai, tức ngày thứ nhì.

Thiên Chúa lại phán: "Nước dưới bầu trời hãy thu gọn vào một nơi cho đất phơi ra". Xảy đúng như vậy. Rồi Thiên Chúa đặt tên cho chỗ cạn là đất còn nơi nước tụ gọi là biển. Thiên Chúa thấy việc đó khéo, nên Ngài phán: "Trái đất hãy sinh ra hoa màu xanh tươi, tiềm tàng hạt giống, cây ăn trái cũng sinh hoa quả tùy từng loại và hạt giống nó tự sinh tồn trên mặt đất". Liền có như vậy. Trái đất trổ sinh rau cỏ tươi tốt, chứa đựng hạt giống riêng từng thứ, thảo mộc phát sinh hoa quả, mỗi loại đều có hạt giống riêng tùy thứ. Thiên Chúa nhìn thấy chúng đều tốt đẹp. Vậy có buổi chiều và ban mai, tức ngày thứ ba.

Thiên Chúa lại phán: "Hãy có tinh tú trên bầu trời: để phân chia ngày đêm, dùng làm mức định thời tiết, ngày, năm: để vừa lấp lánh trên nền trời vừa soi sáng địa cầu". Liền có như vậy. Thiên Chúa cũng dựng nên hai vì tinh lớn: tinh lớn hơn chủ trị ngày, còn tinh nhỏ hơn chủ trị đêm với các ngôi sao. Thiên Chúa xếp đặt chúng trên bầu trời, để soi sáng địa cầu, để hướng dẫn ngày đêm, để phân cách sáng tối. Thiên Chúa nhìn thấy việc đó tốt lành. Vậy có buổi chiều và ban mai, tức ngày thứ tư.

Thiên Chúa lại phán: "Dưới bầu trời, nước phải sinh sản các vật sống như chim chóc trên mặt đất". Thiên Chúa cũng dựng nên những cá lớn, mọi vật sống đều nhờ nước sản xuất ra tùy loại, cùng các loại chim chóc từng thứ một. Thiên Chúa nhìn thấy công việc đó đẹp, thì chúc lành cho chúng: "Hãy sinh sản trường tồn tăng gia cho đầy biển, các loài chim hãy sinh sản nhiều trên trái đất". Vậy có buổi chiều và ban mai, tức ngày thứ năm.

Thiên Chúa lại phán: "Đất hãy sinh sản mọi vật sống tùy theo loại: súc vật, côn trùng, thú rừng tùy từng loại". Liền có như vậy. Thiên Chúa còn dựng nên thú rừng tùy loại, cả súc vật, côn trùng trên mặt đất tùy từng thứ nữa. Thiên Chúa nhìn thấy chúng đều tốt lành.

Dựng Nên Loài Người

Kế đó, Ngài tự phán: "Ta hãy dựng nên loài người giống hình ảnh ta, để họ làm chủ cả biển, chim trời, muôn thú vật trên trái đất và mọi côn trùng sống động trên địa cầu"

Đoạn Thiên Chúa dựng loài người như hình Ngài: Ngài tạo họ giống hình tượng Thiên Chúa, dựng nên người nam cùng người nữ.

Kế, Thiên Chúa chúc phước cho họ vừa phán: "Các ngươi hãy tăng gia, sinh sản đầy mặt đất, hãy bắt đầu phục tùng, hãy chủ trị cá biển, chim trời và muôn vật sống động trên quả đất".

Thiên Chúa lại phán: "Đây Ta ban các ngươi mọi thứ cỏ, lúa giống kết hạt trên mặt đất, các loại cây cối tự nó nảy sinh riêng, đó là của nuôi các ngươi.

Ta cũng cho hết thảy loài vật trên đất, chim chóc trên trời, muôn vật sống động trên mặt đất để chúng có cái mà ăn", Thiên Chúa nhìn thấy vạn vật Ngài đã tạo thành đều rất tốt đẹp. Có buổi chiều và ban mai, tức ngày thứ sáu.

Tổ Phụ Áp Ram

Từ Bỏ Quê Hương

12. Chúa phán bảo Áp ram:

"Ngươi hãy ra khỏi quê hương, họ hàng và gia đình thân phụ ngươi mà đi đến đất Ta sẽ chỉ cho.

Ta sẽ khiến ngươi nên một dân tộc phi thường, sẽ chúc phước, sẽ cho danh người hiển đạt, ngươi sẽ trở nên vị thánh nhân.

Ta ban phước cho những ai chúc lành cho ngươi.

Ta ghét bỏ những kẻ nguyền rủa ngươi.

Nhân dân thiên hạ nhờ người mà được phước".

Vậy Áp ram ra đi như Chúa đã truyền dạy, có Lót cùng theo. Áp ram được bảy mươi lăm tuổi thì xa lìa Ha ran. Người đem vợ là Sa ra, cháu kêu bằng bác là Lót, tất cả tài sản hiện có và các đầy tớ của mình ở Ha ran mà đi đến Ca nan.

Họ vừa tới đó, Áp ram đi qua xứ, đến vùng Si kem tận một thung lũng thời danh. Dân Ca nan thời ấy cư ngụ tại xứ đó; nhưng Chúa xuất hiện phán bảo Áp ram rằng: "Ta sẽ ban đất cho con cháu ngươi". Người dựng bàn thờ dâng kính Chúa chính nơi Ngài hiện đến cùng mình.

Từ đó, người lại qua núi ở mạn sống Bê ten mà dựng trại nơi ấy: phía đông giáp Bê ten, phía tây giáp Hai; nơi đây người cũng lập bàn thờ Chúa và cầu khẩn danh ngài. Rồi người cứ thế mà tiến dần về miền nam.

Triều Yết Vua Ai Cập

Xảy ra trong miền đó kém đói nên Áp ram phải xuống ngụ cư tại Ai Cập, vì trong xứ đói kém hoành hành. Lúc gần vào nước Ai Cập, người bảo Sa ra vợ mình rằng: "Anh biết mình là thiếu phụ xinh đẹp, nên khi dân Ai Cập nhìn thấy mình họ sẽ nói: Vợ hắn đó! Rồi họ thủ tiêu anh mà chiếm lấy mình. Vậy xin mình cứ nói, mình là em gái của anh, hầu cho vì em anh được trọng đãi, nhờ duyên em tánh mạng anh được bảo toàn". Áp ram thoạt tới Ai Cập, dân xứ đó thấy người đàn bà quá đẹp, thì các triều thần tường trình lên vua Pha rôn lại ca tụng nàng trước tôn nhan vua, tức thì đàn bà đó được triệu vào cung điện. Quả thật nhờ người mà Áp ram được hậu đãi, lại được nhiều chiên bò lừa ngựa đực cái cùng nhiều tôi tớ nam nữ. Trái lại, cũng vì Sa ra vợ Áp ram mà Chúa hành hạ Pha rôn và cung điện mắc nhiều tai nạn kinh khủng. Nên Pha rôn vời Áp ram đến bảo: "Sao ngươi xử với trẫm như thế? Sao chẳng nói rõ đó là vợ người. Vì lẽ gì ngươi lại bảo là em gái mình để đến nỗi trẫm lấy nàng làm vợ? Vậy bây giờ, vợ ngươi đó hãy lãnh lấy mà đi đi!" Rồi Pha rôn hạ lệnh cho quần thần tiễn vợ chồng Áp ram cùng mọi sản vật của người ra đi.

I Sác Và Gia Cóp

Áp Ram Tục Huyền

25. Áp ram lại cưới vợ tên là Xê tuy; nàng sinh ra Dam ran, Dét san, Ma đan, Ma diên, Đét bốc và Su ê. Đét san sinh Sa ba và Đa đan. Con trai Đa đan là Ma diên sinh ra Ê pha, Ô phê, Hê nóc, A bi, và En đa. Đó là hết thảy con trai nàng Xê tuy.

Áp ram trao mọi tài sản mình cho I sác, con trai các vợ thứ thì người cho tiền của. Khi người còn sống đã phân tán họ sang ở về mạn đồng cách xa I sác con trai chính thất.

Áp Ram Qua Đời

Sinh thời Áp ram thọ được một trăm bảy mươi lăm tuổi: tuổi cao tác quý, một đời sống vui thỏa, tắt nghỉ, qui nơi dân tổ. Con trai là I sác và Ít ma en khâm liệm táng người nơi hang đôi tại ruộng Hếp rôn con trai Sê ô, người Hét thuộc hạt Mem rê do người tậu lại của Hét. Chính Áp ram và vợ là Sa ra được an táng trong ngôi mộ ấy.

Dòng Dõi Ít Ma En

Đây là dòng tộc Ít ma en con trai Áp ram do A ga người Ai Cập nữ tỳ Sa ra đã sinh ra. Và đây là danh sách các con trai Áp ram theo danh tánh và dòng học như sau: Con trưởng Ít ma en là Náp ri, thứ đến Xê đa, Áp đen và Máp sam. Đây là con cái Ít ma en Ho đa, Thê ma, đó là danh sách họ theo các trại các làng, cũng là mười hai Tù trưởng bộ lạc của họ.

Ít ma en thọ được một trăm hai mươi bảy tuổi rồi trút hơi qua đời, an nghỉ với dân Tổ trước mặt anh em mình. Người định cư ăn từ Hê vinh tới Suya chạy qua A sy đối diện với Ai Cập.

Dòng Dõi I Sác

Đây dòng dõi I sác con trai Áp ram; Áp ram sinh I sác, I sác được bốn chục tuổi thì cưới vợ là Rê bách con gái Ba thuyên người Sy ri miền Mê sô phô, là em gái La ban. Vì nàng son sẻ nên I sác khẩn cầu Chúa thương đến vợ mình. Chúa nhậm lời người mà cho Rê bách thụ thai. Nhưng thai nhi đụng nhau trong bụng nên nàng nói: "Nếu xảy ra như thế này thì cần gì tôi phải mang thai". Rồi nàng đi cầu xin Chúa. Ngài phán bảo:

"Lòng ngươi hiện có những hai dân,

Hai tộc một bầu phải tán phân,

Tộc nọ dân kia tranh đại thắng,

Riết rồi em sẽ chế ngự anh!"

Đến ngày sinh đẻ, quả nhiên thấy hai đứa sinh đôi. Đứa ra trước đỏ hoe, toàn thân da lốt đầy lông: nên đặt tên là E sau. Kế tiếp con thứ ra đời lại nắm bàn chân anh, vì thế đặt tên là Gia cóp. Hai người con nầy sinh ra lúc I sác vừa lục tuần.

Tranh Quyền Trưởng Nam

Hai trẻ khôn lớn: E sau trở nên kẻ săn giỏi, làm nghề canh nông; còn Gia cóp, con người chất phác thường hay ở trại. I sác thương mến E sau, vì người ưa ăn thịt E sau săn được; còn Rê bách yêu dấu Gia cóp. Vậy Gia cóp đang nấu cháo, E sau ở ngoài đồng về nhà mỏi mệt bảo em rằng: "Cho anh ăn cháo đo đỏ với, đi về mệt dữ hè!" Vì thế mới gọi tên chàng là Ê đôm. Gia cóp đáp: "Cứ bán quyền trưởng nam cho tôi đã". E sau bảo: "Anh sắp chết đây nè, quyền trưởng nam đối với anh làm cái quái gì!" Gia cóp nói: "Anh thề đi". E sau liền thề bán quyền trưởng nam cho Gia cóp. Rồi, Gia cóp lấy bánh và cháo đậu cho anh ăn. Ăn uống xong lại đi, coi thường quyền trưởng nam mình đã bán.

Tổ Phụ Giu Se

Giu Se Và Anh Em

37. Gia cóp cư ngụ tại đất Ca nan, nơi thân sinh mình đã kiều ngụ xưa. Dòng dõi người như sau: Giu se lên mười bảy tuổi, còn trẻ lắm đã theo anh em mình đi chăn chiên; người ở với con cái Ba lam và Xênh pha vợ của cha mình. Người mách cho cha hay một tội xấu nhất nơi anh em mình. Vì thế, Ít ran yêu thương Giu se hơn hết các anh em, đàng khác mãi lúc về già mới sinh ra người nên may cho con một chiếc áo gián sắc. Các anh em thấy người được cha yêu quý như vậy, đâm ra thù ghét không thèm nói với em một lời hòa nhã.

Giu Se Chiêm Bao

Vả, cũng tại người thuật lại chiêm mộng đã thấy cho các anh nghe; thành ra cái mầm thù hận lại càng gia tăng. Người thuật với anh em như vầy: "Anh em hãy nghe chiêm bao tôi đã thấy: chúng ta đương bó lúa ngoài đồng, thình lình bó lúa của tôi đứng dựng lên, còn những bó lúa của anh em vây quanh lạy bó lúa tôi". Anh em người đáp: "Phải chi mày làm vua chúng ta hả? Hoặc chúng ta sẽ thầnm phục quyền hành mày sao?" Vì điềm chiêm bao và lời chàng nói sự ghen tương đố kị càng đâm mầm sâu hơn nữa.

Người cũng thấy chiêm bao thứ hai, thuật lại cho các anh em: "Qua giấc mộng tôi thấy, dường như mặt trời mặt trăng và mười một vì sao lạy tôi". Vừa thuật lại cho thân phụ và anh em nghe xong, cha người bèn quở mắng: chiêm bao con thấy có ý nghĩa gì chớ? Có lý nào cha mẹ và anh em con lại phải rạp đất mà lạy con sao?" Anh em càng căm hờn người, nhưng cha lại thầm nghĩ xem công chuyện sẽ ra sao đây!

Bị Anh Em Bán

Các anh em người chăn đoàn vật của cha và trú tạm ở Si kem; Ít ran bảo con: "Các anh con đương chăn chiên tại Si kem đó; này! Ba sai con lại thăm chúng nó". Thưa: "Con xin sẵn sàng đi". Cha người bảo: "Hãy đi coi các anh con và các súc vật có được an lành cả chăng, rồi về thuật lại cho ba xem thế nào!" Vậy, từ thung lũng Hếp rôn cha sai người đến Si kem; bấy giờ, có người gặp Giu se đi lạc trong ruộng thì hỏi rằng: "Tìm chi đó?" Thưa, tôi kiếm các anh tôi, xin mách dùm các anh ấy, họ đang chăn chiên ở đâu?" Họ trả lời: "Các anh chú vừa ở đây đi rồi, tôi nghe họ nói: "Ta hãy đến Đô thanh". Nên Giu se đi tìm anh em mình và gặp họ tại Đô thanh.

Họ nhìn thấy người từ xa chưa tới gần anh em họ đã nghĩ đến chuyện mưu sát em. Bèn nói cùng nhau rằng: "Kia, thằng mơ mộng đã tới! Hè, ta hãy hạ sát nó đi, vứt xác xuống giếng cạn, rồi phao rằng: muông dữ đã ăn thịt nó. Để coi những chiêm bao nó có ăn nhằm chi chăng!"

Ru ben nghe vậy, định tâm cứu em mình thoát tay anh nên nói: ta chớ hại sinh mạng nó, chớ đổ máu em: thà vất nó xuống giếng cạn nơi đồng vắng kia cho chúng mình được xong tay!" Nói như vậy dụng ý cứu em thoát khỏi tay các anh em và trả lại cho cha mình. Giu se vừa tới gần anh em, lập tức họ lột quần áo gián sắc của em ra, bắt em vứt xuống giếng cũ không có nước. Đương khi họ ngồi ăn cơm, thấy bọn lữ hành người Ít man từ Ga lát đến, trên lưng lạc đà họ chở nhiều thuốc thơm, nhũ hương và một dược sang Ai Cập. Bấy giờ Giu đa nói cùng anh em mình rằng: "Giết em trai mình giấu máu đi há ích lợi chi cho ta chăng?

Tốt hơn hết ta hãy bán nó cho tụi Ít man, để ta được sạch tay. Vả, em nó cũng là cốt nhục ta". Anh em đều ưng theo lời đó. Khi các thương gia Ma diên đi ngang qua, các anh kéo em lên khỏi giếng mà bán cho người Ít man hai chục đồng bạc. Họ đem Giu se sang Ai Cập.

Gia Cóp Khóc Con

Rồi, Ru ben trở lại giếng không gặp em nữa, bèn xé áo mình ra đến bảo các em mình rằng: "Thằng nhỏ đâu mất rồi, tôi sẽ đi đâu đây?" Họ liền lấy áo Giu se đem thấm máu dê đực vừa làm thịt, sai người đem về cho cha mà trình rằng: "Chúng con đã gặp được áo này, xin cha coi thử có phải áo con trai cha chăng?"

Vừa nhận biết áo ấy, cha bèn nói: "Đúng áo con trai ta rồi, thú dữ đã cấu xé nó, mãnh thú đã nuốt sống Giê su rồi!" Liền xé áo mình ra, mặc áonhặm, than khóc con trai mình lâu ngày. Các con cháu tề tựu lại an ủi người, nhưng người không chịu, nói rằng: "Ta ước xuống âm phủ than khóc con trai ta!"

Ít ran còn cứ than khóc hoài; đằng này, bọn Ma diên đem Giu se sang Ai Cập bán cho Phu ti pha, vừa là hoạn quan vừa là tổng binh vua Pha rôn.

2. Phần Thứ Hai: Xuất Ai Cập

Chương 5. Lưu Đày Bên Ai Cập

Chương 6. Lề Luật Và Giao Ước

Chương 7. Luật Lệ Nhà Tạm

Chương 8. Canh Tân Giao Ước

Chương 9. Thiết Lập Nhà Tạm

Lưu Đày Bên Ai Cập

Đi Sang Ai Cập

1. Đây là danh sách các con trai Ít ran (mỗi người đều dẫn gia đình mình) cùng Gia cóp tới nước Ai Cập: Ru ben, Si mong, Lê vi, Giu đa. I sa ka, Xa bu long và Ben gia minh, Đan, Nép tan, Gát và A sê. Hết thảy những người đó sinh bởi Gia cóp là bảy chục. Gia cóp qua đời rồi hết thảy anh em họ hàng cũng đều chết cả. Con cháu Ít ran gia tăng nảy nở lên nhiều lắm; họ rất dũng mãnh lan tràn khắp xứ.

Ít Ran Bị Bức

Bấy giờ có vua mới lên ngôi trị nước Ai Cập không biết đến Giu se, bèn truyền cho dân chúng. "Này, dân con Ít ran nhiều lại dũng mãnh hơn ta: Hè! Ta hãy thận trọng áp bức chúng đi e chúng càng tăng gia lên nhiều, một mai có xảy ra chiến tranh thình lình nơi chúng ta họ sẽ tiếp tay với đối thủ phản ta, rồi rút lui khỏi xứ mình chăng". Nên vua lệnh cho các trưởng dịch bắt người Do Thái chịu sai dịch nặng nề: xây thành Phi thom và Ram sê làm công khố cho vua Pha rôn. Họ càng đàn áp dân chừng nào, Ít ran lại càng thêm nhiều và thịnh vượng chừng nấy.

Người Ai Cập lại thêm lòng giận ghét khinh để hà hiếp dân con Ít ran: Gây cho đời họ phải cay cực bằng nỗi khổ sở nhào đất làm gạch, ức bách họ đủ điều cực nhọc trong nước.

Phương Cách Diệt Chủng

Vả, quốc vương Ai Cập cũng cho triệu những nữ hộ sinh người Do Thái một bà là Sê phô bà kia tên Phua đến, ra lệnh cho họ: "Khi nào các ngươi đi đỡ đẻ cho đàn bà Do Thái nếu nó là con trai phải giết đi, còn con gái hãy để lại". Nhưng các nữ hộ sinh kính sợ Thiên Chúa không dám tuân theo như lệnh Vua Ai Cập, cứ để con trai sống, vua lại cho vời các bà ấy đến phán bảo: "Cớ sao các người xử sự như vậy - cứ cứu sống trẻ nam mãi?" Họ tâu: "Đàn bà Do Thái không giống các bà Ai Cập vì họ thạo nghề đỡ đẻ, nên họ cữ rồi chúng tôi mới đến". Vì Thiên Chúa ban ơn cho các nữ hộ sinh, cho dân càng tăng gia khang kiện bội phần. Bởi vì các nữ hộ sinh kính sợ Thiên Chúa, nên Ngài làm cho gia đình họ được thịnh vượng.

Pha rôn bèn truyền lệnh cho toàn thể dân chúng: "Bất cứ trẻ nam nào mới sinh đều phải quăng xuống sông, nếu là gái cho giữ lại".

Lề Luật Và Giao Ước

Trên Núi Si Nai

19. Tháng thứ ba sau khi dân Ít ran ra khỏi Ai Cập, trong ngày đó họ tới nơi hiu quạnh Si nai: từ Ra phi ra đi đến rừng Si nai họ cắm trại nơi ấy, cũng nơi đó họ dựng nhà xếp lại miền núi.

Lúc ấy, Moi sê đến cầu khẩn Thiên Chúa. Từ trên núi Chúa gọi người và truyền dạy: "Ngươi hãy nói với nhà Gia cóp và thông báo cho dân con Ít ran như sau: các người chứng kiến những điều Ta đã làm cho người Ai Cập: Ta chở các ngươi trên cánh phượng hoàng làm sao; Ta đem các ngươi về với Ta thế nào? Vậy, nếu các ngươi vâng giữ lời Ta, lại tuân hành giao ước Ta, các ngươi được đặc biệt thuộc về Ta giữa muôn dân thiên hạ; vì toàn thể hoàn cầu đều là của Ta. Và các ngươi sẽ trở thành một quốc gia tử tế, sẽ nên dân thánh của Ta. Ngươi hãy tuyên ngôn cùng dân con Ít ran như vậy"

Moi sê bèn tập hợp các trưởng lão trong dân đến giải thích mọi lời Chúa truyền dạy. Toàn dân đồng thanh trả lời: "Chúng tôi xin tuân hành mọi điều Chúa đã phán truyền". Moi sê liền thuật lại lời dân cho Chúa, Ngài phán bảo: "Ngay bây giờ Ta sẽ đi trong đám mây mờ mịt đến nói với ngươi ngõ hầu dân chúng luôn luôn nghe lời và tín nhiệm ngươi".

Hiện Xuống Trên Núi

Bấy giờ Moi sê thân thương cùng Chúa những lời dân, Ngài liền phán dạy: "Ngươi hãy đến cùng dân chúng, hôm nay và ngày mai, hãy thánh hóa chúng, lại phải giặt áo xống mình; qua ngày thứ ba dân phải sửa soạn chỉnh tề. Vì trong ngày thứ ba Chúa sẽ hiện xuống với toàn dân trên núi Si nai. Ngươi hãy phân định ranh giới cho dân chúng xung quanh và loan báo cho họ: Phải thận trọng chớ lên núi, đừng đụng vào rang giới. Bất cứ ai nếu đụng vào núi phải chết liền. Và tay nào sờ vào đó phải ném đá chết hoặc bị bắn tên: đầu mục súc đầu nhân loại thảy đều hết sống! Khi kèn vừa dứt, dân chúng phải đến gần núi. Moi sê từ trên núi xuống với dân chúng mà thánh hóa họ. Đang lúc họ giặt xống áo, người lại căn dặn họ: "Hãy sửa soạn cho tới ngày thứ ba, vả chớ gần gũi đàn bà"

Ngự Xuống Giữ Lữa

Ngày thứ ba tới, buổi sáng trời đang thanh quang: bỗng nhiên có sấm vang chớp nhoáng, một đám mây đen nghịt bao phủ núi và tiếng kèn thổi càng vang động khiến dân chúng đứng ở trong dinh trại hãi hùng. Bấy giờ Moi sê dẫn dân chúng ra ngoài trại nghênh đón Thiên Chúa: Dân chúng dừng lại nơi chân núi. Toàn diện núi Si nai bốc khói, vì Chúa ngự xuống trên núi giữa lửa, khói bốc lên như từ trong lò ra, cả núi khi ấy coi rất kinh khủng. Dần dần tiếng kèn thổi mạnh thêm, vanh đi thật xa: Moi sê kêu van, Chúa đáp lời lại.

Chúa ngự xuống đỉnh núi Si nai và gọi Moi sê lên chóp núi. Khi người lên tới nơi, Chúa phán truyền: "Ngươi phải xuống cấm dân chúng chớ có liều lĩnh tràn qua ranh giới mà nhìn Chúa e nhiều người trong dân phải chết chăng dầu những tư tế được gần Chúa cũng phải thánh hóa kẻo bị trừng phạt!" Moi sê lại thân thưa Chúa: "Thần dân chẳng dám lên núi Si nai đâu vì Chúa đã quyết định và truyền dạy rằng: Phải cắm giới hạn chung quanh núi và thánh hóa nữa". Chúa bèn phán dạy: "Ngươi xuống đi! Rồi cùng với A rôn lại lên đây còn các tư tế và dân chúng chớ tràn qua ranh giới, cũng chớ nên gần Chúa kẻo Người sát hại họ". Moi sê xuống và thuật lại mọi điều cho dân chúng.

Luật Lệ Nhà Tạm

Bia Đá Giới Răn

25. Chúa lại phán truyền cho Moi sê: "Ngươi hãy lên núi ở lại đó với Ta, Ta sẽ ban cho ngươi bảng đá, luật pháp và giới răn Ta đã chép để ngươi giáo huấn dân chúng. Moi sê cùng phụ tá người là Gio suê chỗi dậy. Moi sê lên núi Thiên Chúa, căn dặn các trưởng lão: "Anh em chờ đợi lại đây cho tới lúc chúng tôi trở xuống với anh em. Đã có A rôn và Hu rê ở cùng anh em, nếu có chuyện chi xảy ra anh em hãy trình bày với hai ông".

Lúc Moi sê lên thì mây bao phủ núi; sự vinh quang Thiên Chúa giải tỏa trên núi Si nai. Mây che núi trong sáu ngày, sang ngày thứ bảy Chúa ngự trong đám mây gọi người. Bấy giờ, cảnh vinh quang Chúa hiện ra như đám lửa sáng rực tỏa ra trên đỉnh núi trước mặt dân con Ít ran. Moi sê bèn tiến vào giữa đám mây mà lên núi, ở đó suốt bốn mươi đêm ngày.

Sắm Sửa Vật Liệu

Rồi, Chúa phán truyền, cho Moi sê: "Ngươi hãy loan báo dân con Ít ran dâng lễ đầu mùa cho Ta. Các ngươi hãy nhận những lễ vật của người có hảo tâm dâng tiến. Đây, những lễ vật các ngươi sẽ tiếp nhận kẻ như sau: vàng, bạc, đồng; chỉ tím, đỏ điều, đỏ sậm, vải gai mịn, lông dê, da chiên đực màu đỏ, da cá tím và gỗ dạ hợp, dầu thắp, hương liệu dùng để xức và xông, bích ngọc, đá ngọc dùng điểm trang áo lễ. Chúng sẽ làm cho Ta một đền Thánh và Ta sẽ ngự giữa chúng. Làm giống kiểm nhà tạm và các đồ dùng trong việc phụng sự như ta sẽ chỉ bảo cho phải làm thế nào.

Kích Thước Hòm Bia

Hãy đóng hòm bằng gỗ dạ hợp: dài hai thước rưỡi, ngang một thước rưỡi, cao một thước rưỡi, lấy vàng ròng nạm khắp trong ngoài và chạm vàng hoa chung quanh cũng bằng vàng; lại đúc bốn khoen vàng cẩn vào bốn góc hòm: đặt bên trái hai và bên mặt hai vòng; cũng làm hai đòn gảy bằng gỗ dạ hợp bọc vàng rồi luồn đòn vào khoen hai bên hông hòm để khiêng; đòn gảy để luôn trong vòng tròn đừng có rút ra. Ngươi sẽ đặt bia chứng Ta sắp trao cho trong hòm.

Làm Nắp Thi Ân

Ngươi cũng làm cái nắp thi ân bằng vàng thập thành: bề dọc hai thước rưỡi. Lại làm hai tượng Kê ru bim bằng vàng giát mỏng đặt trên hai đầu nắp thi ân: Một tượng Kê ru bim ở đầu nầy, một tượng ở đầu kia. Hai tượng xòe cánh ra hai bên hông che trên nắp thi ân, đối diện nhau, cùng xây mặt vào nắp và bao vòng lấy hòm: Trong hòm ngươi đặt bia chứng ta sẽ ban cho. Ở đó, Ta sẽ truyền cho ngươi các mệnh lệnh về dân con Ít ran giữa hai kê ru bim trên hòm chứng.

Bàn Dâng Bánh Tiến

Ngươi lại làm cái bàn bằng gỗ dạ hợp chiều dài hai thước, rộng một thước rưỡi, bọc vàng ròng và chạy đường viền chung quanh, lên be tứ vi bàn cao độ bốn ngón tay, trên mặt bàn lại chạy một đường viền vàng nữa. Rồi đúc bốn khoen vàng nhận vào bốn góc nơi chân bàn, khoen ở gần be để xỏ đòn gảy khiêng bàn. Hãy dùng gỗ dạ hợp chốt đòn bọc vàng cho dễ khiêng bàn. Lại lấy vàng y làm dĩa, chén, chậu và ly dùng làm lễ tiến. Luôn luôn ngươi phải đặt bánh tiến trên bàn trước nhan Ta".

Chân Đèn

Ngươi hãy dùng vàng giát thập thành làm chân đèn: chân, thân, đài, bầu và hoa đèn đều bằng vàng y hết, sáu cánh giảnh ra hai bên thân đèn, mỗi bên ba cánh. Trong sáu cánh giảnh ra trên chân đèn mỗi cái đều có ba bù đài giống hột hạnh nhân có bầu với hoa. Trên thân chân đèn cũng phải có bốn bù đài như hột hạnh nhân cả bầu lẫn hoa nữa. Trong sáu cánh từ thân chân đèn bảnh ra cứ hai cánh thì dưới có một cái bầu. Cả bầu cả chân đèn đều làm bằng bảy chụp đèn treo trên chân đèn để khi thắp lên tỏa ánh sáng ra chung quanh. Kéo bứt tim đèn và đồ đựng cũng làm bằng vàng ròng; chân đèn cùng các đồ phụ tùng sẽ phí chừng một khối vàng y. Ngươi hãy xem xét theo đúng kiểu mẫu đã chỉ bảo trên núi.

Canh Tân Giao Ước

Con Bò Vàng

32. Dân chúng thấy Moi sê ở trên núi lâu xuống quá, bèn qui tụ chung quanh A rôn rồi nói: "Nào! Ngươi hãy làm các thần để đi tiên phong chúng ta đi! Vì Moi sê chính đấng đã dẫn chúng tôi ra khỏi nước Ai Cập chẳng rõ người đã bị rủi chi đây". A rôn bèn bảo chúng: "Hãy lột các xuyến vàng đeo tai phụ nữ, con trai con gái các ngươi rồi góp tất cả lại đây cho ta. Dân chúng tuân lệnh đem các vòng khuyên lại cho A rôn. Nhận rồi người cho đắp khuôn mà đúc cho chúng một con bê đực. Chúng liền hoan hô: "Hỡi dân Ít ran, đây là các thần đã đem ngươi ra khỏi nước Ai Cập!" A rôn thấy vậy bèn lập một bàn thờ trước vật đó, rồi xướng to lên: "Sáng mai sẽ có đại lễ kính Chúa!" Sớm mai họ chỗi dậy dâng lễ thiêu và xin lễ cầu an. Dân chúng ngồi mà ăn uống rồi đứng dậy vui chơi.

Phán Bảo Moi Sê

Bấy giờ Chúa phán bảo Moi sê: "Xuống đi, vì dân ngươi đem ra khỏi nước Ai Cập phạm lỗi rồi. Chúng đã sớm sai trệch con đường ngươi đã chỉ dẫn cho, đã tự đúc con bê đực mà lễ bái, chúng dám dâng của lễ cho nó và hoan hô: Hỡi Ít ran, đây là các thần đã đem ngươi ra khỏi nước Ai Cập!" Chúa lại truyền dạy Moi sê: "Ta biết mà, dân này cứng đầu ghê! Thôi để mặc Ta, cho cơn nghĩa nộ Ta hành phạt tàn phá chúng. Phần ngươi, Ta sẽ cho trở thành dân đông đúc".

Moi sê kêu cầu than van cùng Chúa là Thiên Chúa mình: "Lạy Chúa, vì sao Ngài thịnh nộ dân Ngài đã dùng quyền lực mạnh mẽ đem ra khỏi xứ Ai Cập? Chớ! Van lạy Chúa, kẻo dân Ai Cập nói: "Ngài có ác ý dẫn chúng đi rồi tàn sát chúng trên núi, hủy diệt chúng khỏi mặt đất! Xin Chúa hãy nguôi giận, hãy tha thứ tội lỗi dân của Chúa. Xin Chúa nhớ lại Áp ram, I sác và Ít ran tôi tớ Chúa, vì Chúa đã tự thề nguyền với họ như sau: "Ta đã khiến dòng dõi các ngươi tăng gia nhiều như sao trên trời, Ta sẽ ban cho miêu duệ các ngươi toàn diện đất đai nơi Ta đang ngự phán đây. Đời đời các ngươi sẽ chiếm hữu đất đó". Nên Chúa vui lòng, bỏ quá tai họa Ngài đã đe giáng cho dân.

Liệng Vỡ Bia Luật

Từ núi trở xuống, Moi sê mang hai bia đá trong tay mình: hai bảng đều có thích chữ do công trình Thiên Chúa tạo tác vì chính Thiên Chúa đã thích chữ vào hai bảng đó. Bấy giờ, Gio suê nghe tiếng dân chúng la lối om sòm bèn thưa Moi sê: "Trong trại nghe tiếng kêu la lớn lắm!" Người đáp: "Không phải tiếng kêu vì giao chiến, cũng chẳng phải la lối vì thất trận, nhưng ta nghe rõ là tiếng người hát". Lúc tới sát trại nhìn thấy con bê đực và ca đoàn, Moi sê giận quá, liệng hai bảng khỏi tay rớt xuống chân núi bể nát; lấy con bê chúng đã đúc mà đốt rồi tán mạc ra pha với nước bắt dân con Ít ran uống cho hết.

Moi sê bảo A rôn: "Dân này làm gì anh mà anh đã xúi nó phạm tội nặng nề thế? " Đáp: "Chúa tôi! Xin người chớ giận giỗi, há người chẳng rõ dân này chuyên làm bậy sao? Chúng bảo tôi: hãy làm các thần đi tiên phong chúng tôi đi, vì chính Moi sê đấng đã dẫn chúng tôi ra khỏi nước Ai Cập chẳng hay người đã bị rủi chi chăng. Tôi bèn hỏi họ: các ngươi ai có vàng? Rồi họ thu lại đem cho tôi, tôi bèn quẳng vàng đó vào lửa; nó trở thành con bê đực đây!"

Moi Sê Phạt Dân

Khi ấy, Moi sê thấy dân chúng phóng túng (vì A rôn đã thả cương cho chúng, làm trò cười cho cừu địch), nên người đứng nơi cửa trại mà bảo: "Ai thuộc về Chúa hãy hợp cùng ta". Các con trai Lê vi bèn tụ họp lại với người. Moi sê bảo họ: "Thiên Chúa là Chúa Ít ran phán truyền như sau: "Đàn ông phải đeo gươm bên hông mình, hãy đi tới đi lui qua giữa trại từ cửa này đến cửa kia: mỗi người cứ việc giết anh em bạn hữu và thân nhân mình". Các con trai Lê vi tuân hành đúng như lệnh Moi sê; nên hôm đó có chừng hai mươi ba ngàn người nam bị ngã ngục. Rồi, Moi sê truyền dạy: "Hôm nay mỗi người trong anh em đã dâng tay mình cho Chúa vì chẳng sá chi con cái anh em mình hầu cho các ngươi được ơn phước.

Cầu Khẩn Cho Dân

Hôm sau, Moi sê lại nói cùng dân chúng: "Anh em đã phạm tội quá nặng; ta lại lên cùng Chúa may ra ta sẽ cầu bầu Chúa tha tội cho anh em được chăng". Vậy, người trở lên với Chúa, mà kêu van: "Dân này đã phạm một trọng tội tức là chúng đã đúc thần bằng vàng. Nên xin Chúa: hoặc Chúa tha tội cho họ, hoặc nếu Chúa không ưng xin hãy hủy bỏ danh tôi trong sách Ngài đã chép đi". Chúa phán cùng Moi sê: "Ai đã lỗi phạm đến Ta, Ta sẽ bôi tên nó trong sách Ta. Còn ngươi, hãy đi, dẫn dân này tới nơi Ta đã chỉ cho: sứ thần Ta sẽ đi tiên phong ngươi. Phần Ta, đến ngày báo oán Ta sẽ phạt tội chúng".

Vì tội A rôn đã đúc con bê đực mà Chúa sửa phạt dân chúng như vậy đó

Thiết Lập Nhà Tạm

Nghỉ Ngày Thứ Bảy

35. Vậy sau khi nhóm họp toàn thể dân con Ít ran lại, người truyền bảo họ: "Đây là những điều Chúa dạy bảo phải làm: Anh em hãy lam lũ trong sáu ngày, còn ngày thứ bảy đối với anh em là ngày thánh, Chúa nhật dành riêng cho Thiên Chúa. Ai làm việc trong ngày đó sẽ bị xử tử. Ngày thứ bảy anh em chớ nhóm lửa trong nhà mình".

Sắm Các Nguyên Liệu

Moi sê lại bảo cả cộng đồng dân con Ít ran như sau: "Đây là lời Chúa truyền dạy: Anh em hãy tự liệu dành của đầu mùa cho Chúa. Mọi người phải tự ý thành tâm dâng lễ cho Chúa là vàng, bạc, đồng: chỉ tím, đỏ điều, đỏ sậm, vải gai mịn, lông dê, da chiên đực nhuộm đỏ, da cá, gỗ dạ hương, dầu thắp, các thứ hương liệu để chế dầu xức và hương thơm; bích ngọc, và các ngọc khác để trang trí khăn vai và bảng ngực.

Truyền Kỷ Thuật Gia

Các kẻ thành thạo trong anh em hãy đến phục vụ như lệnh Chúa truyền: tức là làm nhà tạm, mái và nóc, khuyên, ván với xà ngang, trụ và lỗ trũ; hòm bia chứng với đòn gảy, nắp thi ân và màn che trước cung thánh: bàn với đòn gẫy, các đồ phụ tùng và bánh tiến; chân đèn, các đồ phụ tùng và dầu thắp đèn lửa; bàn thờ của lễ thêu với cá đồng, đòn khiêng các đồ phụ tùng, cái thùng và đế thùng; bố vi che hành lang, trụ và lỗ trụ, bức màn nơi cửa hành lang; nọc của nhà tạm và dây nọc hành lang; bộ áo lễ dùng nơi thánh, bộ áo lễ thượng đế A rôn và các con trai người để họ thi hành chức tư tế của Ta".

Xây Cất Nhà Tạm

Toàn dân Ít ran vừa lui khỏi mặt Moi sê, ai nấy đều thành tâm tự ý dâng của đầu mùa cho Chúa hầu làm công việc hội trường và các đồ cần thiết cho việc phụng sự với áo thánh; các người nam và đàn bà đều đem đến những nhẫn, hoa tai, vòng và xuyến; các thứ đồ dùng bằng vàng đềudành riêng cống hién Chúa. Những ai có chỉ tím, đỏ điều, đỏ sậm, vải gai mịn, lông dê, da chiên nhuộm đỏ và da cá, các kim khí vàng, đồng và gỗ dạ hợp để làm các đồ dùng đều dâng cho Chúa. Còn các phụ nữ tài hoa tự kéo láy chỉ mà tặng: chỉ tím, đỏ điều, đỏ sậm và chỉ gai mịn, mấy bà có tài đặc biệt kéo chỉ lông dê.

Các tôn trưởng hiến bích ngọc và các thứ ngọc để chế khăn vai và bảng ngực; các hương liệu, dầu thắp đèn, các hương liệu, dùng để xức và thuốc thơm. Mọi người nam nữ đều thành tâm dâng kính lễ vật để hoàn tất công việc như Chúa đã truyền dạy Moi sê. Hết thảy dân con Ít ran đều tình nguyện cung hiến Chúa.

Kỹ Thuật Đích Danh

Bấy giờ Moi sê tuyên bố với dân con Ít ran: "Đây, Thiên Chúa đã gọi đích danh Bê sơ lê, con trai U rô cháu Huy rê thuộc chi tộc Giu đa. Đã phú cho người đầy dẫy tâm linh Thiên Chúa: thông minh duệ trí, hiểu biết mọi thứ nghệ thuật hầu sáng kiến và chế tạo các đồ vàng bạc đồng, điêu khắc các thứ đá ngọc một cách tinh xảo. Lại phú thác cho người một bạn đồng nghiệp tâm giao là Ô li áp, con trai A chi sam thuộc chi tộc Đan nữa. Chúa cho cả hai được khôn khéo để sáng chế các công nghệ về đồ thêu, đồ dệt gián sắc: màu tím, màu đỏ, màu sậm và vải gai mịn, thêu dệt đủ thứ chế biến tân kỳ".

3. Phần Thứ Ba: Lê Vi

Chương 10. Phụng Vụ Nghi Thức

Chương 11. A Rôn Tựu Chức

Chương 12. Luật Lệ Thanh Khiết

Chương 13. Luật Lệ Cao Đức

Chương 14. Các Ngày Lễ Trọng

Phụng Vụ Nghi Thức

Dâng Lễ Toàn Thiêu

1. Trong nhà tạm chứng Chúa gọi Moi sê mà phán dạy: "Ngươi hãy loan truyền, nhắn nhủ cho dân con Ít ran: Trong dân chúng hễ ai dâng của lễ cho Chúa, phải hiến sinh lễ bằng súc vật: bò hoặc chiên.

Nếu lễ vật của người ta là lễ toàn thiêu bằng bò thì phải dâng con đực vẹn tuyền nơi cửa nhà tạm chứng cho Chúa được vui lòng: ngươi sẽ đặt tay trên đầu con vật, nó sẽ nhận được hầu tha tội lỗi cho họ. Rồi, ngươi sẽ giết bò tơ đó để các tư tế con cái A rôn rưới máu vật quanh bàn thờ đặt trước cửa nhà tạm hiến tế trước mặt Chúa. Rồi lột da sinh vật, sả thịt ra từng miếng; họ sẽ châm lửa trên bàn thờ, chất củi chụm lại, sắp các miếng thịt đầu và mạng mỡ dính sát gan, lấy nước rửa bộ lòng và chân giò, rồi vị tư tế đốt tuốt trước mặt bàn thờ làm lễ toàn thiêu nực mùi thơm tho trước nhan Chúa.

Nếu lễ vật là của lễ thiêu bằng chiên: phải dâng con đực chớ không phải dâng con cái, giết nó nơi hông bàn thờ về hướng nam trước nhan Chúa, các con trai A rôn sẽ rưới máu nó chung quanh trên bàn thờ; phân thịt từng miếng, đầu và mạng mỡ gần gan nó và đặt cả trên đống củi đã chụm lửa sẵn; lấy nước rửa bộ lòng và giò rồi vị tư tế thiêu đốt, hết thảy làm của lễ toàn thiêu xông mùi ngọt dịu trước nhan Chúa.

Chim Cu, Bồ Câu

Còn như lễ vật kính dâng Chúa bằng chim chóc như chim cu và bồ câu non, vị tư tế dâng lễ đó đến bàn thờ: vặn rứt đầu ra, rưới máu nó trên bệ bàn thờ; gỡ lấy diều và nhổ lông ném gần bàn thờ về phía đông, nơi người ta quen đổ tro; vặn hai cánh nhưng đừng xé cũng chớ dùng dao mà chặt, đặt trêu cùi đã chụm lửa mà xông lên bàn thờ. Đó là của lễ toàn thiêu nực mùi thơm phức kính dâng Chúa.

A Rôn Tựu Chức

Lễ Thụ Phong

8. Kế đó, Chúa phán truyền Moi sê: "Hãy đem A rôn và các con trai người, áo xống, dầu xức, con bê đền tội, hai chiên đực với giỏ bánh không men; rồi tập hợp toàn dân nơi cửa nhà tạm". Moi sê tuân hành như lệnh Chúa truyền. Sau khi toàn dân đã tề tựu trước cửa nhà tạm, người tuyên bố: "Đây là lệnh Chúa truyền phải thi hành".

Rồi Moi sê liền tấn phong A rôn và các con trai ông; người rửa cho họ xong, liền mặc áo lót bằng vải gai cho thượng tế, thắt đai lưng, mặc áo dài tím và truyền khăn vai lên cho; cột dây lưng, đeo bảng ngực có gắn chữ " Chính đạo" và " Chân lý", đội mũ trên đầu, đàng trước mão buộc thẻ vàng ngang trán tức là thẻ thánh hóa đúng như Chúa đã truyền cho người.

Sau đó Moi sê lấy dầu mà xức nhà tạm và mọi vật dụng nơi đền, thánh hóa bằng việc rảy dầu bàn thờ bảy lần, lại xức dầu bàn thờ với hết các dụng cụ bàn thờ, cái thùng và đế thùng đều được thánh hóa bằng dầu. Người cũng đổ dầu trên đầu A rôn, vừa xức vừa thánh hóa người, và cũng cho các con trai người sau khi đã cống hiến được mặc áo lá trong, thắt đai và đội mũ như lệnh Chúa đã truyền.

Của Lễ Thụ Phong

Moi sê bèn cung hiến con dê đền tội và sau khi A rôn, các con trai ông đặt tay mình lên đầu con vật rồi, liền hiến tế con vật, lấy ngón tay nhấn vào huyết nó bôi chung quanh sừng bàn thờ; thánh hóa, tẩy uế bàn thờ xong, người đổ huyết còn dư xuống bệ; lại lấy mỡ mạng, tấm da mỏng bọc gan, hai trái cật và mỡ nơi thận đem xông trên bàn thờ. Còn con bê, da, thịt và phân thì đốt ngoài trại như lệnh Chúa truyền.

Người lại dâng chiên đực làm lễ toàn thiêu: A rôn và các con trai người đặt tay mình trên đầu nó, rồi người hiến tế, đổ máu nó chung quanh bàn thờ. Đoạn sả con chiên ra từng mảnh, xông đốt cái sọ, mấy miếng đó và mỡ; rửa sạch ruột, chân giò trước đã, rồi xông một lượt với con chiên trên bàn thờ, vì là của toàn thiêu nực mùi ngào ngạt kính Chúa như lệnh đã truyền cho người.

Kế đó, người dâng chiên đực thứ nhì để làm lễ phong chức tư tế: A rôn và các con trai người đều đặt tay mình trên đầu con vật. Sau khi hiến tế, Moi sê lấy máu chiên đực bôi trên trái tai hữu, ngón cái tay và chân mặt từng người một, huyết còn dư đổ chung quanh trên bàn thờ. Rồi người lấy mỡ, đuôi, hết thảy mỡ mạng, da mỏng bọc gan, hai trái cật với mỡ nơi cậtvà chân giò bên phải mà để riêng; lại lấy trong giỏ bánh không men đặt trước nhan Chúa một chiếc bánh không men, một bánh nhỏ pha dầu, một tấm bánh tráng, đặt mấy thứ đó trên mỡ và giò hữu, rồi trao hết các món trong tay A rôn và con trai người. Sau khi họ nâng lên trước mặt Chúa, Moi sê lại nhận lấy lễ vật nơi tay họ mà xông lên trên bàn thờ lễ thiêu, vì là của lễ tấn phong nực mùi thơm tho kính Chúa. Moi sê cũng cầm cái ức chiên đực về lễ phong chức dành phần cho mình mà dâng kính trước nhan Chúa như lệnh Ngài truyền.

Tấn Phong A Rôn

Bấy giờ Moi sê lấy dầu xức và huyết để trên bàn thờ rảy cho A rôn và áo xống người, trên con trai người và quần áo họ. Thánh hóa họ trong y phục xong, người truyền dạy: "Anh em hãy nấu thịt trước cửa nhà tạm và ăn liền ở đó, ăn cả bánh lễ tấn phong để trong giỏ nữa như Chúa đã phán dạy tôi, rằng A rôn và con trai người sẽ ăn thịt và bánh đó; và bánh thịt còn thừa lại hãy đốt đi. Trong bảy ngày các ngươi chớ ra khỏi nhà tạm cho tới ngày hoàn tất thời kỳ phong chức: vì việc tấn phong các ngươi phải bảy hôm mới xong. Để chu toàn nghi lễ tấn phong, phải tuân hành đúng như đã làm hôm nay. Muốn tuân giữ lệnh Chúa cho khỏi thiệt mạng, các ngươi phải ở luôn trong nhà tạm tối ngày sáng đêm. Đó là nghiêm lệnh Chúa truyền cho ta vậy".

A rôn và các con trai người tuân cứ mọi điều Chúa phán dạy qua Moi sê.

Luật Lệ Thanh Khiết

Súc Vật Ăn Được

11. Chúa lại truyền dạy Moi sê và A rôn: "Các ngươi hãy căn dặn dân con Ít ran: trong các loài vật trên thế gian thì đây là những vật các ngươi được ăn: Phàm những loài vật có móng tách ra và loài nhai lại các ngươi mới được ăn. Còn những loài tuy dẫu nhai lại, có móng không rẽ như lạc đà vân vân phải kể như vật dơ các người chớ ăn; chuột đồng có nhai lại, nhưng móng nó không có rẽ kể là loại dơ; thỏ rừng đành rằng có nhai mà không có móng rẽ; heo tuy co móng rẽ nhưng không nhai. Các loại đó chớ có ăn thịt cũng đừng đụng và thây nó. Đối với các ngươi nó là những vật dơ.

Những Cá Nên Ăn

Nên ăn các loại sau đây vốn sinh trưởng dưới nước: những vật có vây và vảy hoặc dưới biển dưới sông hoặc trong ao hồ. Phàm những vật sinh trưởng dưới nước mà không vây không vảy các ngươi đều phải ghê tởm, tối kỵ, chớ ăn thịt đến thây nó cũng phải tránh xa. Vì các giống không vây không vảy sống dưới nước đều dơ hết.

Chim Chóc Cấm Ăn

Những loại chim các ngươi phải kỵ không được ăn, là: chim ưng, chim diêu, chim ó lão ưng và diều hâu các loại chim quạ và đồng loại, đà điểu, cú mèo, thủy kê, chim cắt, và đồng loại, chim mèo, chim mộc, chim vẹt, con hạc, chim bè, chim cốc, cò, hiệc và các giống cùng loại, rẻ quạt và con dơi.

Các ngươi cũng hãy kinh tởm những côn trùng đi bằng bốn chân; còn thứ nào dầu đi bốn chân nhưng thứ có hai cẳng dài đằng sau, như cào cào, ve ve châu chấu hơn kém các loại đó thì được ăn. Vả, phải tối kỵ những loại côn trùng chỉ có bốn cẳng thôi: Hễ ai đụng tới xác chúng thôi cũng bị dơ, dơ bẩn mãi tới chiều: nếu cần kíp lắm phải giặt áo đi và bị dơ cho tới khi mặt trời lặn.

Vật Không Nên Ăn

Những súc vật có móng mà không rẽ, không nhai đều dơ bẩn hết, ai đụng tới chúng cũng sẽ bị dơ. Những giống đi bốn cẳng lúc đi, lại đi cẳng tiền đều dơ nhớp hết: ai đụng tới xác chúng bị dơ mãi tới chiều, hoặc cấp bách phải mang xác chúng đi thì phải giặt áo đó và bị dơ cho tới chiều tà. Các thứ đó thảy đều ô uế.

Các loại sinh sông trên đất sau đây đều kể là dơ, như: chuột chù, chuột lắt, thằn lằn các thứ; cắc kè, kỳ đà, thạch sùng, kỳ nhông, chuột chũi.

Đụng Đồ Nhơ Bẩn

Hết thảy các thứ đó đều dơ; nên hễ ai đụng vào xác chúng sẽ bị dơ nhớp cho đến ban chiều. Vậy bất luận vật nào rớt trên những xác đó hoặc đồ gỗ, áo xống, da, bao tức các vật dụng đều bị dơ, phải lấy nước tẩy uế, dầu tẩy rửa rồi cũng còn bị dơ cho tới chiều; thứ đó rớt vào bình sành cũng bị dơ, phải đập bể bình ra; những của các ngươi ăn hễ bị nước đó thấm vào thôi cũng ra dơ, lại nước uống đựng trong bình đều cũng dơ hết; hoặc vật nào bị xác nó rớt vào cũng ra dơ, nên dầu lò dầu bếp đều bị dơ phải phá hủy đi; mạch suối, hồ nước thường chứa nước sạch, một chút xác chúng rơi vào cũng ra dơ, nếu xác chết đó rớt nhằm hạt giống thì hạt giống không ra dơ, trái lại nếu người ta đổ nước đó trên hạt giống và xác chết đó rớt nhằm hạt giống thì hạt giống ra dơ bẩn.

Khi con vật nào các ngươi được ăn mà bị toi hễ ai đụng vào thây nó sẽ bị dơ cho tới chiều, hoặc ai ăn vào chút xíu hay mang đi, dầu đã tẩy uế áo xống cũng bị dơ nhớp cho tới chiều ta.

Quan Niệm Giáo Lý

Phàm các loại bò trên đất tối kỵ chớ dùng làm thực phẩm: như những loài bò sát hoặc có bốn hoặc nhiều cẳng hoặc chũi dưới đất thảy đều dơ hết, chớ có ăn; chớ liều mạng lân la hoặc đụng tới chúng kẻo bị dơ. Vì Ta là Thiên Chúa, Chúa các ngươi: Ta là thánh nên các ngươi cũng phải thánh, chớ vì các côn trùng sống động trên mặt đất mà làm dơ linh hồn mình. Chính Ta là Chúa đã cứu các ngươi ra khỏi xứ Ai Cập, Ta phải là Thiên Chúa của các ngươi: Ta là thánh nên các ngươi cũng phải nên thánh.

Đó là luật lệ về thú vật, chim trời và các sinh vật sống động dưới nước hoặc bò trên đất, ngõ hầu các ngươi được phân biệt vật dơ vật sạch và nhận thức nên ăn thứ nào kỵ thứ nào.

Luật Lệ Cao Đức

Dâng Kính Của Lễ

17. Kế đó, Chúa phán dạy Moi sê: "Ngươi hãy loan truyền cho A rôn, con trai người và toàn thể dân con Ít ran: Bất luận người nào trong nhà Ít ran khi giết bò, chiên, dê trong hoặc ngoài trại mà chẳng dâng kính Chúa nơi cửa nhà tạm thì phạm tội đổ máu. Vì mình đã đổ huyết nên sẽ bị khai trừ khỏi dân chúng. Do đó, các dân con Ít ran phải tặng cho tư tế những sinh tế mình đãgiết ngoài đồng để vật đó được thánh hóa trước nhan Chúa nơi cửa nhà tạm chứng và kính hiến cho Chúa làm lễ cầu an. Rồi tư tế đổ huyết trên bàn thờ Chúa gần cửa nhà tạm, lại đốt mỡ xông mùi thơm tho kính Chúa. Dân chúng chẳng được cúng tế ma quỷ nữa kẻo lại thông gian với nó. Đó là định lệ cho dân chúng và con cháu họ muôn đời.

Lại căn dặn chúng: người nào thuộc gia tộc Ít ran hoặc những khách kiều ngụ nơi anh em dâng lễ thiêu hay sinh lễ mà chẳng đem đến dâng kính Chúa nơi cửa nhà tạm chứng, người đó sẽ bị truất khỏi dân chúng.

Chớ Ăn Huyết

Chẳng kỳ ai kỳ thuộc gia tộc Ít ran hoặc những kiều dân cư ngụ trong dân chúng nếu mà ăn huyết Ta sẽ kiêng mặt người đó và trục xuất nó ra khỏi dân gian. Vì sinh mạng của cơ thể ở tại huyết Ta đã cho các ngươi lấy huyết, để rưới trên bàn thờ mà đền tội cho sinh mạng các ngươi và nhờ huyết mới chuộc tội được. Vì thế Ta đã truyền cho dân con Ít ran không mạng nào nơi các ngươi được ăn huyết, cả những khách kiều ngụ nơi nhà các ngươi cũng vậy.

Người nào thuộc dân con Ít ran hoặc kẻ kiều ngụ cư trú nơi anh em đi săn bắn được thú rừng hay chim chóc là vật ăn thịt được phải tháo huyết nó ra, lấy đất lấp đi. Vì sinh mạng của mọi cơ thể đều do tại huyết, như Ta đã phán bảo dân con Ít ran: "Chớ ăn huyết các vật có cơ thể vì sinh mạng của cơ thể do tại máu; nên ai ăn huyết sẽ bị diệt trừ!"

Chẳng kỳ người bản xứ hay kiều ngụ hễ ăn thịt vật chết toi hoặc bị thú dữ cắn xé đều phải giặt quần áo và tắm gội nhưng cũng còn bị dơ cho tới chiều mới tinh sạch. Nếu họ không chịu giặt áo và tắm gội sẽ mang tội vào mình.

Các Ngày Lễ Trọng

Ngày Thứ Bảy

23. Chúa lại phán bảo Moi sê: "Ngươi hãy loan truyền cho dân con Ít ran, căn dặn chúng: đây là những ngày lễ kính Chúa các ngươi phải gọi là ngày thánh: Sáu ngày được làm việc; ngày thứ bảy vì là ngày lễ nghỉ ngơi, nên phải gọi là ngày thánh. Trong ngày lễ nghỉ kính Chúa đó, khắp mọi nơi các người cư ngụ không được làm một công việc gì. Đó là những ngày lễ nghỉ kính Chúa, các ngươi phải mừng lễ trong thời kỳ nhất định.

Lễ Vượt Qua Bánh Không Men

Tháng giêng ngày mười bốn trong tháng vào buổi chiều là lễ Chúa vượt qua. Và cũng mười tư tháng này nhằm lễ bánh không men kính Chúa: các ngươi phải ăn bánh không men bảy ngày. Ngày đầu các ngươi phải cho là ngày thánh và long trọng nhất nên chớ làm việc xác trong ngày đó. Trong bảy ngày các ngươi phải dùng lửa mà dâng của lễ kính Chúa, còn ngày cuối cùng long trọng hơn, chí thánh hơn nên chớ làm việc cực nhọc ngày đó.

Lúa Đầu Mùa

Chúa lại truyền dạy Moi sê: "Ngươi hãy loan truyền cho dân con Ít ran rằng, sau khi các ngươi vào xứ sở Ta sẽ ban cho, gặt lúa xong các ngươi phải đem bó lúa đầu mùa đến cho tư tế, người sẽ dâng một bó lúa kính Chúa, hôm sau ngày thứ bảy ngươi lại thánh hóa cho bó lúa đó được chấp nhận. Chính ngày dâng lúa, các ngươi cũng giết chiên con một tuổi làm lễ thiêu kính Chúa; dâng cùng với lễ chay, là hai phần mười bột lọc pha dầu xông lên nực mùi dịu ngọt kính Chúa với một phần tư hin rượu nho. Chớ có ăn hoặc bánh hoặc hạt lúa rang hoặc hạt trong gié lúa cho tới chín ngày mà anh em đem dâng lúa cho Thiên Chúa. Đó là định luật truyền cho con cháu các ngươi.

Lễ Ngũ Tuần

Vậy, các ngươi hãy tính từ hôm sau ngày thứ bảy dâng bó lúa đầu mùa qua chẵn bảy tuần cho tới hôm sau chót tuần lễ thứ bảy tức là đủ năm chục ngày thì phải dâng của lễ mới kính Chúa: Hãy từ nhà mình đem tới hai ổ bánh làm bằng hai phần mười bột lọc pha men là của lễ đầu mùa kính Chúa: lại dâng bảy chiên con tuyền sắc một tuổi cùng với bánh, một con bê trong bầy và hai chiên đực với của lễ chay làm lễ toàn thiêu kính Chúa; cũng hãy dâng một dê đực làm lễ chuộc tội với hai chiên con giáp năm làm lễ cầu an. Vậy tư tế sẽ dâng lên trước nhan Chúa các lễ vật trên cùng với bánh đầu mùa: người sẽ được xử dụng các của đó. Nên các ngươi hãy kể ngày này là ngày long trọng nhất, ngày chí thánh; không nên làm các việc nặng nhọc trong ngày này. Đó là định luật tồn cửu cho dân chúng và dòng họ các ngươi.

Khi gặt lúa các ngươi chớ xén sát đất cũng đừng mót lúa sót, hãy dành lại cho người nghèo và cho kiều dân. Ta là Chúa, Thiên Chúa các ngươi.

Lễ Đầu Năm

Chúa lại phán dạy Moi sê: "Ngươi hãy loan báo cho dân con Ít ran: đến tháng bảy nhằm mồng một trong tháng, các ngươi sẽ có một ngày lễ: thổi kèn báo hiệu kỷ niệm và gọi là ngày thánh. Trong ngày đó các ngươi chớ làm việc xác, phải dâng lễ toàn thiêu kính Chúa".

Lễ Đền Tội

Chúa lại phán dạy Moi sê: "Mồng mười tháng bảy này là ngày lễ đền tội rất long trọng, gọi là ngày thánh: trong ngày đó các ngươi hãy hãm dẹp tâm hồn mình và dâng lễ toàn thiêu kính Chúa. Cả ngày đó vì là ngày đền tội nên các ngươi chớ làm việc xác ngõ hầu Chúa là Thiên Chúa thương đoái đến các ngươi: trong ngày đó nếu ai không hãm dẹp tâm hồn sẽ bị diệt trừ khỏi dân chúng: hoặc ai làm việc xác sẽ bị loại khỏi dân gian. Vậy trong ngày đó các ngươi chớ làm công việc nào hết: đó là định lệ trường cửu cho các ngươi, cho dòng tộc, cho dân cư. Ngày nghỉ ngơi hôm thứ bảy đó, các ngươi phải hãm dẹp tâm hồn mình; mồng chín trong tháng sẽ mừng lễ thứ bảy từ chiều nay đến chiều mai".

Lễ Nhà Tạm

Chúa cũng truyền dạy Moi sê: "Ngươi hãy loan truyền cho dân con Ít ran: ngày rằm tháng bảy này là lễ lều bạc kính Chúa trong vòng bảy hôm. Ngày đầu kể là long trọng nhất, ngày chí thánh: không được làm việc xác trong ngày đó; cả bảy hôm đó đều phải dâng lễ toàn thiêu kính Chúa. Tới ngày thứ tám cũng long trọng nhất và chí thánh, phải dâng lễ toàn thiêu kính Chúa: vì là ngày công hội tập thể, nên các ngươi không nên làm các việc nặng nhọc.

Đó là những ngày lễ kính Chúa phải kể là long trọng nhất và chí thánh, các ngươi hãy dâng của lễ toàn thiêu và lễ chay theo nghi lễ tùy từng ngày mà dâng kính Chúa. Ngoài những ngày thứ bảy kính Chúa, các ngươi cứ dâng cho Chúa các lễ vật của mình, hoặc do lời khấn hoặc tự ý dâng kính Ngài.

Lễ Mừa Lều Tạm

Đến ngày rằm tháng bảy sau khi thu hoạch hoa màu nơi đồng áng các ngươi hãy mừng lễ kính Chúa trong bảy hôm: ngày đầu và ngày thứ tám là ngày lễ nghỉ ngơi. Hôm đầu các ngươi phải lấy trái cây hảo hạng, tàu chà là, ngành cây rám và cây dương liễu; các người hãy hoan hỉ trước nhan Chúa là Thiên Chúa mình. Hằng năm các ngươi sẽ mừng lễ này đủ bảy ngày. Đó là định luật vĩnh viễn cho dòng dõi các ngươi. Tháng bảy khi các ngươi mừng lễ, phải ở trong trại mình đủ bảy ngày: hết thảy các người thuộc dòng họ Ít ran đều phải ở lều tạm, cốt cho con cháu các ngươi nhận thức hồi Ta đem con cái Ít ran ra khỏi nước Ai Cập Ta đã cho chúng ở trong lều tạm. Vì Ta là Chúa Thiên Chúa các ngươi".

Ngài đã truyền cho Moi sê dạy bảo dân con Ít ran các ngày lễ kính Chúa.

4. Phần Thứ Tư: Dân Số

Chương 15. Danh Sách Mười Hai Chi Tộc

Chương 16. Luật Lệ Biến Chế

Chương 17. Lễ Vượt Qua Đầu Tiên Trên Rừng

Chương 18. Lưu Lạc Trên Rừng Bốn Mươi Năm

Chương 19. Con Lừa Ba Lam

Chương 20. Chuẩn Bị Nghi Lễ, Sản Nghiệp

Danh Sách Mười Hai Chi Tộc

Danh Bộ Ít Ran

1. Mồng một tháng mười ahi năm thứ hai, sau khi dân rời khỏi xứ Ai Cập, Chúa lại phán dạy Moi sê nơi nhà tạm trên rừng núi Si nai: "Hãy tính sổ toàn thể xã hội dân con Ít ran theo họ hàng, gia tộc của họ và danh sách từng nam đinh một, từ hai mươi tuổi sấp lên, tức là hết thảy nhân đinh tráng kiện trong dân Ít ran. Ngươi và A rôn hãy điểm danh toàn thể dân chúng theo binh ngũ: Phải có trường chi, trường tộc từng dòng họ phụ tá các ngươi.

Chỉ Huy Trưng Binh

Danh sách chúng như sau: Chi Ru ben, e li su con trai Sê đêu, Chi Si mon, Sa la miên con trai Su ri sát; Chi Giu đa, Na ha sa con trai A mi nát; chi I sa ca, Na tan con trai Sua; Chi Sa bu lon, E liap con trai Hê long; Chi Ép rem, E li sam con trai Am miu và chi Ma na sê, Ga ma liên con trai Pha đa, đó là các cháu Giu se. Chi Ben gia minh, A bi đan con trai Giê đeo; chi Đan, A hi sê con trai Am mi sát; Chi A sê, Phê diên con trai Óc ran; Chi Gát, E lia sáp con trai Du yên; Chi Nép tan, A hia con trai E nan.

Đó là những chỉ huy trưởng cao cấp trong dân chúng tùy theo chi tộc họ hàng củ họ và là tướng lãnh quân đội Ít ran.

Sau khi Moi sê và A rôn thâu nhận các vị đó nơi toàn thể dân chúng, ngày mồng một tháng hai tập hợp họ lại, điểm danh nhập ngũ từng người một từ hai mươi tuổi sấp lên theo họ hàng tông tộc và gia đình của họ. Vậy Moi ê kê số dân chúng tại rừng vắng núi Si nai như Chúa truyền dạy.

Tuyển Binh

Thuộc chi Ru ben trưởng tử của Ít ran theo dõi gia đình tông tộc mình và danh bộ từng người trong nam giới từ hai mươi tuổi sấp lên có thể ra trận được là bốn mươi sáu ngàn năm trăm.

Thuộc chi Si mon theo dòng dõi gia đình tông tộc mình tuyển theo danh bộ, từng người trong nam giới có thể ra trận được là năm mươi chín ngàn ba trăm.

Thuộc con cháu chi Gát theo dòng dõi gia đình tộc thuộc họ lập danh bộ từng người từ hai chục tuổi sấp lên hết thảy đều phải ra trận, tính được bốn mươi lăm ngàn sáu trăm năm chục.

Con cháu thuộc chi I sa ca theo dòng dõi gia đình tộc thuộc họ điểm danh từng người từ hai chục tuổi trở lên thảy đều phải ra trận, tuyển được năm mươi bốn ngàn bốn trăm.

Con cái thuộc chi Sa bu lôn theo dòng dõi gia đình tộc thuộc điểm danh bộ từng người từ hai chục tuổi trở lên thảy đều ra trận được, tuyển được năm muươi bảy ngàn bốn trăm.

Con cháu thuộc chi Giu se: con cái Ép rem điểm danh từng người từ hai mươi tuổi trở lên theo dòng dõi gia đình họ hàng mình hết thảy có khả năng xuất trận được bốn chục ngàn năm trăm. Con cháu Ma na sê điểm danh bộ từng người từ hai mươi tuổi sấp lên theo dòng dõi gia đình thân tộc hết thảy những người ra trận được, là ba mươi hai ngàn hai trăm.

Con cháu chi Ben gia minh điểm danh từng người từ hai chục tuổi sấp lên theo dòng dõi gia tông mình thảy đều có thể xuất trận, được ba mươi lăm ngàn bốn trăm.

Con cái thuộc chi Đan theo dòng tộc gia đình thân quyến điểm danh từng người từ hai mươi tuổi trở lên thảy đều ra trận được, là sáu mươi hai ngàn bảy trăm.

Con cái chi A sê điểm danh từng người từ hai chục tuổi trở lên theo dòng tộc thân quyết hết thảy có khả năng xuất hiện, được bốn mươi mốt ngàn năm trăm.

Con cái chi Nép tan lên sổ đinh mỗi người theo dòng dõi tộc thuộc từ hai mươi tuổi sấp lên hết thảy ra trận được, là năm mươi ba ngàn bốn trăm.

Đó là những người do Moi sê, A rôn và mười hai chỉ huy trưởng dân Ít ran đã theo tộc thuộc từng đinh mà lập sổ. Như vậy, kết sổ con cái Ít ran hai mươi tuổi trở lên tính theo dòng dõi thân tộc của họ, có khả năng xuất trận được tổng cộng: sáu trăm ba ngàn năm trăm năm chục người nam.

Được Miễn Trưng Binh

Còn những người Lê vi theo chi bộ gia tộc mình được miễn đăng số với quần chúng. Chúa lại phán dạy Moi sê: "Ngươi đừng kể danh sách chi Lê vi, cũng đừng lập danh bộ của họ chung với dân con Ít ran. Chỉ phải liệt chúng phụ trách nhà tạm chứng, đồ thờ và các công việc thuộc lễ nghi. Họ phải chuyên vận nhà tạm và các dụng cụ nơi nhà tạm, phải phục vụ và đóng trại chung quanh nhà tạm. Khi nào phải dời bỏ các Lê vi phải tháo rỡ nhà tạm; lúc nào dừng lại họ phải dựng lên. Người ngoại cuộc mà dám xớ rớ đến sẽ bị tử hình. Còn dân con Ít ran phải đóng trong trại quân: ai nấy phải theo đội ngũ và quân cơ của mình. Các Lê vi sẽđóng trại chung quanh nhà tạm chứng, chớ sinh sự xích mích với xã hội dân con Ít ran, lại phải phục dịch săn sóc nhà tạm chứng".

Dân con Ít ran thi hành mọi sự kiện như Chúa đã truyền dạy Moi sê.

Luật Lệ Biến Chế

Trục Xuất Người Cùi

5. Chúa lại phán truyền Moi sê: "Ngươi hãy lệnh cho dân con Ít ran phải trục xuất khỏi trại tất cả những người bị bệnh cùi, di tinh, và ô uế vì đụng vào xác chết: bất luận nam hay nữ đều tống ra ngoài trại, e chúng làm dơ bẩn nơi Ta đang ngự giữa các ngươi. Dân con Ít ran thực hành như lệnh Chúa truyền cho Moi sê và đuổi họ ra ngoài trại.

Lệ Bồi Hoàn

Chúa cũng truyền dạy Moi sê: "Hãy loan báo cho dân con Ít ran: khi nào đàn ông hoặc đàn bà phạm một trong những tội người ta thường phạm, hoặc vì bất cẩn lỗi cả luật pháp Chúa nên phải mang tội, chúng phải thú tội mình ra và trả tang vật cho đủ, lại bồi hoàn thêm một phần năm cho chính người mình phạm tới. Nếu không còn ai thừa lãnh, phải dâng kính Chúa và vật đó sẽ thuộc quyền tư tế; ngoại trừ chiên đực dùng làm lễ đền tội hãy cứ để nguyên làm của lễ chuộc tội.

Các của đầu mùa dân con Ít ran cống hiến đều thuộc về tư tế, lại bất luận của gì cá nhân dâng nơi cung thánh và trao qua tay tư tế đều cũng là của người".

Lệ Ghen Tương

Chúa truyền dạy Moi sê: "Ngươi hãy truyền dạy cho dân con Ít ran rằng: Nếu đàn ông nào bị vợ phỉnh gạt bất chấp chồng đi ăn nằm với một người đàn ông khác mà người chồng không hay biết việc đó; vả việc ngoại tình đó không phát giác, cũng chẳng có nhân chứng biện hộ vì nàng không bị bắt quả tang; nếu sau tính ghen tương thúc đẩy chồng phản đối với vợ mình, mặc dầu nàng hoặc có bị ô trọc hay chỉ bị tình nghi uế tạp, người chồng cũng phải dẫn trình nàng trước tư tế, phải vì nàng dâng một phần mười đấu bột mạch nha: chớ đổ dầu lên trên bột cũng đừng rắc hương, vì là của lễ sự ghen tương, lễ chay để thăm dò tội thông gian.

Tư tế sẽ biểu nàng đứng trước nhan Chúa, rồi người lấy nước thánh đổ vào chậu đất, hớt một chút bụi đất trên nền nhà tạm pha vào nước mà rảy trên nàng. Đang khi thị đứng trước nhan Chúa, phải lột trần đầu nàng, đặt của lễ chay về sự ghen tương trên bàn tay nàng; đoạn tư tế dùng nước thiệt đắng ếm lời nguyền rủa lên nước đó, bắt nàng phải thề rồi bảo nàng: "Giả tỷ chẳng có đàn ông nào khác đồng cư cùng ngươi, lại nếu ngươi không bĩ ô uế, cũng không lỗi đạo vợ chồng thì chính nước cực đắng có ếm lời nguyền rủa này chẳng sinh thiệt hại chi cho ngươi. Trái lại, nếu ngươi đã phản bội chồng, thân mình đã dơ bẩn vì đã thông gian với đàn ông khác, ngươi phải cam chịu lời thề rủa như sau: "Cầu Chúa hãy khiến ngươi bị rủa sả để nêu gương cho công chúng trước mặt dân gian, khiến bị ốm lòi hông và phình bụng lên! Nước vô phước này sẽ bơm vào bụng ngươi, tử cung ngươi phềnh, hông bị thối tha! Rồi thị đáp: Thực có như vậy!"

Kế đó, tư tế sẽ viết các lời rủa sả này trên một tấm ván ăn, lại lấy nước đắng bôi đi, hòa với nước rồi bắt nàng uống. Uống xong, tư tế lại cầm lấy của lễ ghen tương nơi tay nàng dâng lên trước nhan chúa, rồi đặt trên bàn thờ y như trước; người lấy một chút của lễ mà dâng, lại xông cưa đó trên bàn thờ đoạn cho nàng uống nước đắng. Uống xong, nếu quả thực nàng bị ô uế vì phản bội chàng mà phạm tội ngoại tình, nước đắng sẽ thục vào ruột làm cho nàng thối bụng phình hông; thị sẽ bị rủa sả và nêu gương cho dân chúng, còn như phụ nữ đó không bị ô uế thì vô hại và sẽ có con.

Đó là luật lệ về chuyện ghen tương: nếu người vợ phản bội chồng và bị dơ nhớp, người chồng vì tính ghen tương hối thúc dẫn độ nàng đến trước nhan chúa: kế đến tư tế chiếu theo luật lệ mà đối xủ, người chồng sẽ vô can còn người vợ lãnh đủ tội ác mình".

Lễ Vượt Qua Đầu Tiên Trên Rừng

Chưng Đèn

8. Chúa lại phán bảo Moi sê: "Ngươi hãy loan báo cho A rôn: khi ngươi đặt bảy ngọn đèn, hãy dựng chân đèn ở phía nam. Ra chỉ thị đó, cốt sao cho các ngọn đèn chiếu sáng về hướng bàn bày bánh tiến đặt đối diện với chân đèn". A rôn tuân hành đúng như Chúa đã truyền dạy Moi sê là đặt các đèn trên giữa chân đèn. Và, chân đèn đã được chế tạo như sau: Làm bằng vàng giát, cả đế những cánh hoa loe ra hai bên cũng đều giát. Người ta chế tạo chân đèn đúng với kiểu mẫu Chúa đã lệnh cho Moi sê.

Phong Chức Lê Vi

Chúa lại truyền bảo Moi sê: "Ngươi hãy chọn lựa người Lê vi ngay giữa đám dân con Ít ran và tẩy uế cho họ, theo nghi lễ sau đây: Hãy dùng nước thánh tẩy sái cho họ, phải cạo nhẵn lông khắp mình; giặt quần áo, tẩy rửa sạch sẽ. Rồi sẽ bắt một bò đực trong bầy với của lễ chay bằng bột lọc nhồi dầu; còn ngươi cũng bắt con bò khác trong bầy làm lễ chuộc tội, rồi kêu hàng Lê vi đến cửa nhà tạm chứng và hội họp toàn thể dân chúng Ít ran lại. Trong khi hàng Lê vi tề tựu trước nhan Chúa, dân con Ít ran đặt tay mình trên đầu họ, rồi A rôn dâng Lê vi làm của lễ thế vì con cái Ít ran trước nhan Chúa, ngõ hầu họ được phục vụ trong chức phân mình.

Kế đó, Lê vi đặt tay mình trên thân hai bò đực: ngươi sẽ hiến một con làm lễ đền tội, con kia làm lễ thiêu kính Chúa mà cầu khẩn cho họ. Ngươi bảo các Lê vi đứng trước mặt A rôn và các con trai người, rồi thánh hóa họ dâng kính Chúa. Như thế ngươi sẽ biệt Lê vi riêng khỏi dân chúng Ít ran để họ thuộc về Ta. Sau đó, hàng Lê vi sẽ tiến vào nhà tạm chứng mà phụng sự cho Ta.

Vậy, ngươi hãy tẩy uế, hiến tế họ dâng kính Ta. Vì dân con Ít ran đã tặng kính họ cho Ta: hầu hết các con đầu lòng trong dân Ít ran mà Ta đã chấp nhận. Lý do tại hết thảy các con đầu lòng trong dân Ít ran cả người lẫn vật đều thuộc về Ta. Và Ta đã thánh hóa chúng ngay từ buổi sát hại các con trưởng trong xứ Ai Cập. Bởi vậy, Ta nhận các Lê vi thế vì con đầu lòng của dân Ít ran; Ta lại trao tặng họ cho A rôn và các con trai người trước mặt dân chúng, để họ phụng sự Ta thay cho dân Ít ran nơi nhà tạm và cầu nguyện cho dân chúng: phòng khi dân chúng táo bạo lân la tới gần cung thánh khỏi mang họa!"

Moi sê, A rôn và toàn thể xã hội dân Ít ran đối xử với hàng Lê vi như Chúa đã lệnh cho Moi sê. Sau khi tẩy uế và giặt quần áo mình rồi, A rôn nâng họ lên dâng kính trước nhan Chúa và cầu nguyện cho họ, ngõ hầu họ được tinh sạch mà vào nhà tạm phục vụ cùng A rôn và các con trai người, đối với hàng Lê vi người ta đã thi hành theo như Chúa đã lệnh cho Moi sê.

Thời Gian Phục Vụ

Chúa lại phán dạy Moi sê: "Đây là luật lệ cho hàng Lê vi: từ hai chục tuổi sắp lên Lê vi phải nhập ban phục vụ nơi nhà tạm chứng; đến năm chục tuổi mới mãn hạn. Họ sẽ giúp đỡ anh em mình nơi nhà hội coi sóc những việc anh em ủy thác, nhưng trongkhi hết trách nhiệm phục vụ ngươi hãy đối xử với Lê vi như thế cho đúng nguyên tắc".

Lưu Lạc Trên Rừng Bốn Mươi Năm

Dân Chúng Lẩm Bẩm

11. Khi ấy dân chúng chừng như não lòng vì khổ sở thành ra bất bình cả với Chúa. Ngài nghe thấu điều đó nên thịnh nộ, khiến lửa của Chúa bừng cháy giữa dân chúng và thiêu rụi một phần chót trại quân. Dân liền gào thét Moi sê; Moi sê cầu khẩn Chúa, lửa bèn ngừng cháy. Người ta đặt tên cho nơi đó là "Hỏa tai", vì lửa Chúa bốc cháy giữa dân.

Bọn dân nhược tiểu trà trộn cùng đi theo dân chúng, đâm ra thèm khát ngồi than phiền, toa rập với dân con Ít ran phách lối: "Ai sẽ ban thịt cho chúng mình ăn? Thèm nhớ cá mú chúng mình được ăn không trong xứ Ai Cập, nhớ đến dưa, hành, tỏi , kiệu và các thứ linh tinh. Đời sống chúng mình lạt lẽo: quay đi ngó lại duy cũng chỉ có man na!"

Đây, man na giống như hạt mùi, màu trân châu: dân chúng tản bộ hốt lấy, rồi nghiền bằng cối xay hoặc tán bằng cối giã, bỏ nồi nấu lên và làm bánh cuốn, hương vị như bánh pha dầu. Ban đêm, lúc sương sa trên trại, đồng thời man na cũng rơi xuống theo.

Xin Thịt Cho Dân

Từng nhà một, từng cửa trại một nghe tiếng khóc của dân vọng đến Moi sê, khiến Chúa nổi cơn thịnh nộ; Moi sê cũng không cầm lòng được trước sự kiện mình chứng kiến, nên người thưa Chúa: "Cớ sao Chúa lại cực tôi tá Ngài? Há tôi không được ơn nghĩa trước nhan Ngài sao? Vì cớ gì Ngài lại đặt gánh nặng toàn dân trên mình tôi? Phải chi tôi đã cưu mang dân này sao, tôi đã sinh ra chúng khiến Chúa phán bảo tôi ngươi hãy ẵm nó vào lòng mình như người vú nuôi đứa trẻ thơ và đem vào xứ Ngài hứa ban cho tổ phụ chúng sao? Kiếm đâu ra thịt cho từng ấy dân chúng bây giờ? Chúng than khóc bảo tôi rằng: hãy cho chúng tôi thịt ăn. Một mình tôi làm sao đương đầu với cả dân này được. Nặng nề cho tôi quá! Nếu Ngài không toan cách nào khác, xin cứ giết tôi đi miễn tôi vẫn được ơn huệ trước mặt Ngài cho tôi khỏi bị cơ cực quá đỗi!"

Bảy Chục Trưởng Lão

Chúa truyền dạy Moi sê: "Hãy nhóm họp cho ta bảy chục người trong những lão thành dân Ít ran, như người đã biết họ là những bậc lão bậc thầy trong dân. Rồi ngươi dẫn họ đến cửa nhà tạm chứng bảo họ đừng gần ngươi để Ta ngự đến phán bảo ngươi, Ta sẽ lấy tinh thần ngươi trao cho họ hầu cùng ngươi nâng đỡ gánh nặng dân chúng cho ngươi khỏi vất vả một mình.

Ngươi cũng loan truyền cho dân chúng: phải thánh hóa đi, mai các ngươi sẽ được ăn thịt, vì Ta nghe các ngươi nói: "Ai sẽ cho chúng tôi ăn thịt? Trước ở Ai Cập chúng tôi đàng hoàng lắm. Vậy Thiên Chúa sẽ cho các ngươi ăn thịt: chẳng phải một hai ngày, năm mười ngày hoặc hai chục bữa đâu, nhưng hằng tháng trời cho tới lúc thịt lòi ra lỗ mũi đến phải nôn oẹ, vì các ngươi đã bỏ Chúa, Đấng ngự ở giữa anh em lại dám than vãn trước nhan Ngài, rằng sao chúng tôi phải rời bỏ Ai Cập?"

Moi sê thưa: "Dân này có tới sáu trăm ngàn binh sĩ mà Chúa bảo: Ta sẽ cho chúng ăn thịt cả tháng? Chiên bò đâu giết đủ mà ăn được? Đến cá dưới biển gom lại há họ có no nê được chăng? Chúa đáp lại Moi sê: "Tay Thiên Chúa há lại vô hiệu sao? Đây ngươi cứ thử xem lời Ta phán có hiệu nghiệm không!"

Thần Linh Chan Chứa

Moi sê ra thuật lại lời Chúa cho dân, rồi triệu tập bảy chục vị bô lão trong dân Ít ran để họ đứng chung quanh nhà tạm. Chúa liền ngự xuống trên đám mây phán dạy Moi sê, rồi lấy thần linh của Moi sê tràn sang bảy mươi bô lão. Họ bèn được linh cảm và nói tiên tri, nhưng sau họ lại ngừng: Có hai ông ở lại nơi trại quân: một người tên En dát người kia gọi là Mê dát, cả hai đều được thần linh cảm hóa, hai người được ghi tên nhưng không đến ở nhà tạm, bỗng một thiếu niên chạy đến mách Moi sê rằng: "En dát và Mê dát đương nói tiên tri trong trại". Tức thời Giô suê con trai Nun được tuyển lựa trong hàng thanh niên thưa: "Moi sê, ông ơi! Xin hãy cấm đoán họ đi!". Người đáp lại: "Ngươi cạnh tranh dùm Ta sao? Ước cho cả dân đều nói tiên tri được! Cầu Chúa ban thần linh ngài cho họ! Rồi Moi sê và mấy trưởng lão rút lui vào trại.

Chim Cút

Chúa khiến một luồng gió nổi lên từ biển dẫn các chim cút tràn vào khắp trại quân và chung quanh: bay cao trên mặt đất hai thước, rải rác xuống trại và bay liệng bốn bên trại xa chừng một ngày đường. Cả ngày đêm đó và cả hôm sau nữa dân chúng đứng lên thâu lượm chim cút, ai ít cũng được mười lượng, họ phơi khô căng khắp trại. Thịt còn ngậm nơi răng, họ chưa kịp nhai thình lình cơn nghĩa nộ Chúa bừng lên trị dân chúng hành phạt dân sự bằng một tai họa quá nặng; nên người ta gọi nơi đó là " Mồ tham"; nơi đã chôn dân chúng vì tham lam.

Dân chúng rời bỏ Mồ tham đến trại Ha sê rốt.

Con Lừa Ba Lam

Ba Lách Ba Lam

22. Kế đó, Ít ran lại tiến tới, đóng trại nơi cánh đồng Mô áp, bên kia sông Gióc đan đối diện Giê rích.

Ba lách con trai Sê phô vừa mục kích mọi sự việc Ít ran đối sử với A mô rê, việc dân Mô áp thất đảm không dám cản trở Ít ran đột kích. Nên, Mô áp nói với các trưởng lão Ma diên: dân này sẽ tàn phá hết thảy dân chúng định cư trong lãnh thổ chúng ta khác nào con bò gặm cỏ và rễ cây ngoài đồng vậy". Hồi ấy chính Ba lách làm vua dân Mô áp.

Hiệu Triệu Ba Lam

Người sai sứ đến cùng Ba lam con trai Bê ô nhạc sĩ cư ngụ trên triền sông dân Am môn để triệu y lại và bảo: "Đây, dân kia rời khỏi Ai Cập lan tràn khắp mặt đất đóng trại đối diện với ta. Vậy, ngươi hãy đến nguyền rủa dân đó dùm vì nó mạnh hơn ta; biết đâu ta sẽ đánh đuổi được chúng, trục xuất ra khỏi lãnh thổ ta. Và, ta thấy ai được ngươi chúc phước cho nấy sẽ được phước, ai bị ngươi rủa sả nấy sẽ bị rủa".

Rồi các trưởng lão Mô áp và các trưởng lão Ma diên cùng đi, đem cả lễ vật cho thầy bói. Họ đến cùng Ba lam tường thuật cho y các lời lẽ của Ba lách; y đáp: "Đêm nay xin các ông ở lại đây tôi sẽ trả lời theo như Chúa sẽ truyền bảo tôi". Họ trú tại nhà Ba lam; Thiên Chúa hiện đến phán bảo cùng y: "Những người trọ nơi nhà y muốn chi?" Thưa: "Ba lách con trai Sê phô là vua Mô áp sai họ đến cùng tôi, nói: đây một dân xuất hành từ Ai Cập bao tràn khắp mặt đất; ngươi hãy đến rủa sả nó, cầu mong ta sẽ giao chiến và đuổi nó ra được chăng". Thiên Chúa liền phán bảo Ba lam: "Chớ theo chúng cũng đừng nguyền rủa dân, vì dân đã được chúc phước rồi". Ban sáng, Ba lam chỗi dậy trả lời cho các trưởng lão rằng: "Xin các ngươi trở lại xứ mình, vì Chúa cấm tôi đi cùng các người". Các trưởng lão trở về thưa cùng Ba lách: "Ba lam không chịu đi theo chúng tôi."

Bị Triệu Lần Nhì

Ba lách lại sai nhiều sứ giả tôn quý hơn lần trước. Họ đến cùng Ba lam nói: "Ba lách căn dặn như sau: con trai Sê phô ơi! Xin đừng chậm trễ đến cùng ta. Ta đã sẵn sàng trọng đãi ngươi, muốn chi ta cũng tặng cho. Hãy đến nguyền rủa dân đó đi". Ba lam đáp: "Dầu Ba lách có tặng tôi một nhà đầy vàng bạc đi nữa tôi cũng không dám thay đổi mệnh lệnh Chúa là Thiên Chúa tôi mà nói thêm nói bớt. Xem các người cứ trạm trú đây đêm nay cho biết Chúa lại truyền bảo tôi thế nào". Ban đêm Thiên Chúa lại hiện đến phán bảo Ba lam: "Nếu mấy người đó có đến kêu ngươi thì cứ đi với chúng. Ta truyền cho ngươi sao cứ thi hành như vậy". Ba lam thức sớm thắng lừa rồi đi theo họ.

Lừa Nói Với Chủ

Thiên Chúa thịnh nộ: bấy giờ Thiên Chúa đứng cản đường Ba lam đang ngồi trên lừa cái có hai người đầy tớ đi theo. Con lừa thoạt nhìn thấy sứ thần đứng trên đường tuốt gươm trần, nó liền quay trẽ xuống ruộng mà đi. Lúc ấy Ba lam rút roi bắt nó trở lên đường, còn sứ thần đứng sẵn trong vườn nho giữa hẻm hai hàng rào. Con lừa nhìn thấy thiên sứ liền nép vào vách kẹp lấy chân Ba lam. Chàng lại quất roi miết, nhưng thiên sứ lại nhích xa hơn để chặn đường không còn chỗ nhúc nhích bên hữu bên tả được nữa; lừa trông thấy thiên sứ sừng sững liền quỵ xuống chân người cỡi, chàng bực mình lại quất tới tấp bên hông lừa.

Bấy giờ Chúa mở miệng lừa cái, nó nói: "Chi dữ vậy? Đánh người ta ba lần rồi!" Ba lam đáp: "Tại mi khi dễ nhạo báng ta. Giả tỷ có gươm sẵn ta sẽ phất cổ mi đi!" Lừa trả đũa: "Há tôi chẳng phải con vật mà người thường cỡi hoài cho tới nay sao? Há tôi có xử sự như thế với người bao giờ chăng?" Ba lam đáp: "Chẳng hề có".

Nói Cùng Ba Lam

Thình lình, Chúa mở mắt cho Ba lam nhìn thấy sứ thần đứng giữa đường tuốt gươm thần y liền sấp mình sát đất thờ lạy sứ thần. Thiên sứ hỏi: "Cớ sao lại đánh lừa cái ngươi ba lần? Ta đến cản ngươi vì con đường ngươi đi hiểm ác và tương phản với ta. Nếu con lừa không trẽ ngang khi nhìn Thấy Ta, âu Ta đã giết ngươi chết mà cho nó sống". Ba lam thưa: "Tôi có lỗi vì không dè Ngài đứng cản đường tôi. Bây giờ, nếu ngài không bằng lòng cho tôi đi thì tôi xin về". Thiên sứ dạy: "Cứ việc đi với chúng, nhưng phải coi chừng chớ nói điều chi ngoài việc Ta đã lệnh cho". Rồi Ba lam lên đường cùng các trưởng lão.

Yến Kiến Ba Lách

Ba lách nghe tin, liền ra đón Ba lam tận thị xã Mô áp ở cuối lãnh vực Ác non và nói với Ba lam: "Ta đã sai sứ giả đi triệu ngươi sao không chịu đến liền? Phải chăng Ta không dành trọng thưởng cuộc hành trình của ngươi sao chớ?" Ba lam đáp: "Có tôi đây! Há tôi nói được điều nào khác ngoài điều Thiên Chúa đã đặt trong miệng tôi chăng?" Rồi cả hai cùng đi đến thành kia ở giáp biên cương nước Ba lách. Vua liền giết chiên bò làm quà tặng Ba lam và các quý khách đi theo người. Đến sáng, Ba lách dẫn Ba lam lên cao nguyên Ba an, nơi đây nhìn rõ hậu trại dân Ít ran.

Chuẩn Bị Nghi Lễ, Sản Nghiệp

Đinh Tịch Tông Tộc

26. Sau cuộc tai vạ đẫm máu Chúa phán dạy Moi sê và Ê lê sa con tư tế A rôn rằng: các ngươi hãy dựng sổ đinh toàn bộ các con trai Ít ran từ hai mươi tuổi sắp lên theo gia tộc thân quyến của họ: tất cả những ai có thể ra trận được. Vậy Moi sê và tư tế Ê lê sa loan báo tại cánh đồng Mô áp gần sông Gióc đan đối diện Giê rich cho các ngươi đúng từ hai chục tuổi sắp lên, như lệnh Chúa truyền. Đinh số như sau:

Chi Tộc Ru Ben

Ru ben trưởng nam Ít ran. Hê nóc là con trai người nên gọi là tộc Hê nóc và Pha luy tức tộc Pha luy, Hê rơn là tộc Hê rơn, Ca mi tức tộc Ca mi. Đó là những gia tộc thuộc dòng dõi Ru ben, định số được bốn mươi ba ngàn bảy trăm ba chục. Ê li áp là con trai Pha luy, con cháu người là Na muen, Đa than và A bi rôn. Trong vụ Cô rê phiến loạn đứng phản nghịch cùng Chúa do Đa than và A bi rôn làm đầu trong dân để chống đối Moi sê và A rôn: bởi đó đất đã há miệng ra nuốt sống Cô rê chết với bè lũ, cơ hội đó lửa cũng đốt cháy hai trăm năm chục người nữa; nhưng lạ lùng thay, tuy Cô rê bị tiêu diệt mà các con trai của y vẫn sống sót!

Chi Si Mong

Con trai Si mong theo tông tộc là Na muen tức tộc Na muen; Gia minh là tộc Gia minh; Gia hinh tộc Gia hinh; Gia rê tộc Gia rê; Sao lê tộc Sao lê. Đó là những gia tộc thuộc chi Si mong, tổng số đinh là hai mươi hai ngàn hai trăm.

Tông Môn Gát

Con cháu Gát chiếu tông môn là Sê phôn, tức tộc Sê phôn; Ác gi gọi là tộc Ác gi; Su ni tộc Su ni; Ốt ni tộc Ốt ni; Hê rê tộc Hê rê; A rốt tộc A rốt; A riên tộc A riên. Đó là đại gia đình Gát: dân số cả thảy bốn mươi ngàn năm trăm.

Tộc Giu Đa

Con cháu Giu đa là Hê và Ô nan cả hai đều thất lộc trong xứ Ca nan. Cháu chắt trai Giu đa theo tộc thuộc có Sê la thành tộc Sê la; Pha rê là tộc Pha rê; Gia rê là tộc Gia rê. Con cháu Pha ê là Hết rơn tức tộc Hết rơn; Ha mun tức tộc Ha mun. Đó là dòng họ Giu đa: đinh số hết thảy bảy mươi sáu ngàn năm trăm.

Chi I Sa Ca

Con cháu I sa ca theo dòng tộc có Tô la là tộc Tô la; Phua tộc Phua; Gia súp, tộc Gia súp; Sem ran là tộc Sem ran. Dòng họ I sa ca đây tất cả đinh tịch là sáu mươi bốn ngàn ba trăm.

Họ Sa Bu Lôn

Con cháu Sa bu lôn theo tông thuộc là Sa rét thuộc tộc Sa rét, Ê long tộc Ê long; Gia len tộc Gia len. Dòng dõi Sa bu lôn tổng số đinh là sáu mươi ngàn năm trăm.

Con Cháu Giu Se

Con cháu Giu se qua các gia tộc là Ma na sê và Ép rem. Ma na sê sinh ra Ma chi gọi là tộc Ma chi; Ma chi sinh Ga lát tức tộc là Ga lát. Ga lát sinh ra các con trai: Giê sê lấy tên tộc là Giê sê; Hê lách tộc Hê lách; At riên tộc At riên và Sê chem tộc Sê chem; Sem đa tộc Sem đa; Hê phê tộc Hê phê. Hê phê thân sinh của San phát, vì San phát vô nam tử phải thế nữ tử vào, danh sách các nàng là: Ma la, Noa, Hét la, Men ca và Thế sa. Đó là dòng tộc Ma na sê đinh số của các thị là: năm mươi hai ngàn bảy trăm. Còn con cháu Ép rem qua các thân tộc là Su tha la tức tộc Su tha la; Bét hê tộc Béc hê; Thê hên là tộc Thê hên; con trai Su tha la là Hê ran, tức con trai Hê ran. Đó là tông gia các con cháu Ép rem, đinh số ba mươi hai ngàn năm trăm. Cũng là con cháu Giu se theo từng gia tông.

Chi Ben Gia Minh

Con cháu Ben gia minh qua các tông thuộc là Bê la tức tộc Bê la; Át ben gọi là tộc Át ben; A hia tức là tộc A hia; Su pham tộc Su pham; Hu pham tộc Hu pham. Con trai Bê la là Hê rết và Nô man tức là hai tộc Hê rết và Nô man. Đó là con cháu Ben gia minh theo dòng tộc, đinh số được bốn mươi lăm ngàn sáu trăm.

Dòng Họ Đan

Con cháu Đan qua các dòng họ là Su ham gọi là tộc Su ham: tông tộc Đan chỉ có vậy đinh số được sáu mươi bốn ngàn bốn trăm.

Đinh Tịch A Sê

Con cháu A sê theo dòng họ là Giem na tức là tộc Giem na; Giê suy tộc Giê suy; Bơ ry tức tộc Bơ ry. Con trai Bơ ry là Hê bê tức tộc Hê bê; Men kiên là tộc Men kiên. Tên người con gái A sê là Sa ra. Dòng dõi của A sê số dân đinh là bốn mươi ba ngàn bốn trăm.

Tông Nép Tan

Con cháu Nép tan qua các tông gia là Giê siên tức là tộc Giê siên; Gu ny tộc Gu ny; Giê sê tộc Giê sê, Se lem tộc Se lem. Đó là dòng tộc con cháu Nép tan, đinh mục năm mươi lăm ngàn bốn trăm.

Tổng số con trai Ít ran trưng được: sáu trăm lẻ một ngàn bảy trăm ba chục đinh.

Kế đó Chúa phán bảo Moi sê: "Hãy tùy theo số đinh tịch mà phân chia đất đai cho họ làm sản nghiệp: chi đông hơn cho nhiều hơn, chi ít người hơn cho ít đi. Tức là đinh điền phải quân phân tương tế. Phải bắt thăm mà chia đất đai cho mỗi chi tộc. May hay rủi, chi nhiều chi ít ai nấy phải nhận lãnh thổ mình tùy thăm xổ"

Đinh Số Lê Vi

Đây số mục con cháu Lê vi qua các tông gia: Giê sơn là tộc Giê sơn; Ca át là tộc Ca át; Mê ra là tộc Mê ra. Sau đây là các tộc Lê vi: gia đình Láp ni, gia đình Hếp rôn, gia đình Mô hôn, gia đình Mu si, gia đình Cô rê. Vậy Ca át sinh Am ram; Vợ y là Giô ca bét con gái Lê vi sinh trưởng bên Ai Cập. Nàng sinh con cho chồng mình là Am ram mấy con trai: A rôn, Moi sê với chị hai người này là Maria. A rôn sinh được Na đáp, A biu, Ê lê sa và I tha ma. Nhưng Na đáp và A biu chịu chết trong lúc dâng một thứ lửa ngoại lai trước mắt Chúa.

Tổng số dân về nam giới tính từ một tháng sấp lên được hai mươi ba ngàn; vì họ không phải trưng bình như con cái Ít ran và cũng không được phần sản nghiệp như những người khác.

Đó là việc tu bộ dân con Ít ran do Moi sê và Ê lê sa tư tế đã làm tại cánh đồng Mô áp trên bờ sông Gióc đan đối diện Giê rich. Trong đinh bộ này chẳng có người nào do Moi sê và A rôn trưng tại rừng Si nai trước vì Chúa đã phán dạy trước rằng ngoài Ca lép con trai Giê phôn và Gio suê con trai Nun mọi người đều phải chết hết trên rừng hoang không một ai sống sót.

5. Phần Thứ Năm: Đệ Nhị Luật

Chương 21. Moi Sê Thuyết Pháp (Bài I)

Chương 22. Moi Sê Thuyết Pháp (Bài II)

Chương 23. Đệ Nhị Luật

Chương 24. Moi Sê Thuyết Pháp

Chương 25. Moi Sê Chúc Phước Cho Dân

Chương 26. Ca Vịnh Moi Sê

Moi Sê Thuyết Pháp (Bài I)

Tiểu Dẫn

1. Đây những lời Moi sê tuyên ngôn cùng toàn thể dân Ít ran bên này sông Gióc đan nơi đồng vắng giáp biển Đỏ khoảng giữa Pha ran, Thô phen, La ban, và Ha sê, nơi có rất nhiều vàng, cách xa Hô rép qua núi Sây tới Ca đê ba bằng mười một ngày đường. Nhằm năm bốn mươi, mồng một tháng mười một, Moi sê tỏ lộ các điều Chúa đã truyền căn dặn dân con Ít ran, sau khi Ngài đánh bại Sê hơn vua dân A mô rê định cư tại Hê sê bôn và Ốc vua dân Ba san ở At ta rốt cùng Ết rai, bên này sông Gióc đan xứ Mô áp.

Khởi Đầu Hô Rép

Moi sê bắt đầu giải thích luật pháp: "Kính lạy Chúa là Thiên Chúa đã căn dặn chúng ta tại Hô rép như sau: Các ngươi ngụ tại núi này lâu rồi, hãy quay trở lại núi dân A mô rê, đến những miền gần núi có nhiều đồng bằng, hạ sơn là những miền ẩm thấp hơn về phía nam dọc theo bờ biển, vào xứ Ca nan và Li bang cho tới sông cả Eu phát. Đây, Ngài phán, Ta phó thác cho các ngươi đó: Hãy vào mà chiếm cứ lấy vì Chúa đã thề hứa cùng Áp ram, I sác và Gia cóp tổ phụ các ngươi ban đất này cho tổ phụ và con cháu họ về sau.

Triệu Tập Truởng Chi

Hồi đó, Ngài cũng nói cùng các ngươi: Một mình ta không đủ sức cai trị các ngươi, vì Chúa, Thiên Chúa đã khiến các ngươi được tăng gia, ngày nay các ngươi đông như sao trên trời vậy. Mong Chúa và Thiên Chúa tổ phụ các ngươi khiến đồng bào được gia tăng gấp ngàn lần và chúc phước cho như chính Ngài đã phán dạy. Mình ta không tài nào cáng đáng được trách nhiệm, gánh nặng và việc tố tụng nơi các ngươi; hãy cử ra mấy người đàn ông khôn ngoan thông thạo nơi anh em mà tư cách họ anh em đã am tường để đặt họ làm tướng lãnh. Lúc đó, anh em đã thưa cùng ta: "Công việc người khu xử như vậy hay lắm".

Rồi ta đã lựa chọn ngay trong các chi tộc anh em những người nam khôn ngoan lịch lãm đặt họ làm tướng tá, úy, hạ sĩ quan để huấn luyện anh em theo từng nhóm. Ta lại lệnh cho dân chúng, dầu là chính đinh đầu kẻ kiều ngụ cũng phải tuân lệnh họ. Hãy xét mọi việc cho công bình. Chớ thiên vị ai: hãy nghe người hèn cũng như người sang, chớ nể ai hết vì quyền xét đoán trực thuộc Thiên Chúa. Gặp những trường hợp khó khăn hơn không rõ phải xử trí làm sao hãy trình lên ta cho ta xét xử. Các điều phải xử sự ta đã căn dặn các ngươi rồi.

Mười Hai Thám Tử

Từ Hô rép ra đi, chúng ta đã vượt qua sa mạc ghê gớm mênh mông như anh em đều chứng kiến: hướng về núi A mô rê như lệnh Thiên Chúa truyền dạy ta. Hồi tới Ca đê ba, ta đã báo cho anh em; anh em đã đến núi A mô rê do Chúa, Thiên Chúa chúng ta sắp ban cho anh em. Coi kìa! Lãnh thổ Chúa là Thiên Chúa ban cho ngươi đó. Tiến lên mà chiếm hữu đất đai như lời Chúa, Thiên Chúa phán với tổ phụ các người. chớ ái ngại, đừng sợ sệt !

Bấygiờ hết thảy đến gần ta thưa rằng :Hãy cử mấy người đi thám thính lãnh thổ, dò xét đường nào ta phải lên , những thành thị ta sẽ tới . Ta liền chấp thuận lời yêu cầu, cử mười hai người thuộc mỗi chi tộc anh em đi. Họ đi lên miền sơn cước đến tận thung Bô tri. Sau khi quan sát lãnh thổ rồi, đã chứng minh đất đó phì nhiêu họ hái hoa quả đem về cho ta và trình bày: lãnh thổ Chúa là Thiên Chúa sắp ban cho ta tốt lành lắm.

Nổi Loạn

Nhưng các ngươi không thích lên đó, lại phản bộâi mệnh lệnh Chúa là Thiên Chúa ta, anh em ở trong trại lẩm bẩm với nhau: Chúa ghét chúng mình nên dẫn ra khỏi xứ Ai Cập trao phó vào tay dân A mô rê cho chúng tiêu diệt chúng mình đi. Chúng mình đi đâu bây giờ? Các thám tử làm chúng mình càng lên ruột, họ bảo: Dân chúng đông đúc lắm, tầm vóc cao lớn bằng mấy chúng mình; thành thị kiên cố ngất trời; thấy cả con cháu Ê nách ở đó nữa.

Rồi ta hiển thị anh em: Sợ gì chúng, đừng ái ngại: Chính Thiên Chúa là Đấng hướng dẫn anh em, Ngài sẽ kháng chiến thế cho anh em như Ngài đã xử trí bên Ai Cập, muôn người đều thấy cả. Kế đó, trên sa mạc (chính anh em đã chứng kiến) từ các ngả đường anh em tiến cho tới khi đến chốn này đây, Ngài đã dẫn dắt anh em như người ta quen bồng con trẻ vậy. Dẫu thế anh em cũng chưa tin kính Chúa, Thiên Chúa mình, chính Ngài đi tiên phong anh em, dò dẫm nơi cho anh em đóng trại; ban đêm dùng lửa soi sáng, ban ngày thì dùng cột mây.

Không Thấy Đất Hứa

Bấy giờ Chúa nghe thấu lời các ngươi nói. Ngài thịnh nộ, phán bảo: Không một ai trong những người thuộc dòng dõi gian ác này được thấy đất tốt lành Ta đã hứa ban cho tổ phụ các ngươi, ngoại trừ Ca lép con trai Giê phôn, vì chính y sẽ được nhìn và Ta sẽ ban đất ấy cho y mà y đã dẫm lên, lại tặng cho con cháu y vì y đã trung tín với Chúa. Vả lại vì giận dân chúng quá đỗi, nên ta cũng vì anh em mà bị Chúa ghét lây, Ngài phán: "Cả ngươi nữa! Cũng không đượcvào đó; nhưng đã có Gio suê con trai Nun, sẽ được vào thế cho ngươi. Nên, hãy úy lạo và khích lệ hắn, chính y sẽ bắt thăm phân chia lãnh thổ cho dân Ít ran vậy. Còn những trẻ nhỏ thuộc lứa tuổi này các ngươi bảo rằng chúng sẽ bị đem đi làm mọi với những con nít chưa biết phân biệt phải quấy cũng được vào: Ta sẽ ban lãnh thổ cho chúng, chúng sẽ chiếm hữu đất đai. Còn anh em thì quay trở lại, lên rừng hoang theo đường biển Đỏ."

Xâm Lang Vô Hiệu

Lúc đó, các ngươi thưa cùng Ta: "Chúng tôi đã lỗi phạm đến Chúa; chúng tôi xin đi mà chiến đấu như lệnh Chúa là Thiên Chúa truyền cho chúng tôi". Nhưng sau khi anh em võ trang rồi lên núi, Chúa phán bảo ta: ngươi hãy bảo chúng: chớ tiến lên, đừng ra trận, Ta không phò các ngươi đâu, e lại bị bại hoại trước mặt địch thù mình. Ta đã nói rồi, đâu anh em có chịu nghe lại phản lệnh Chúa, cứ vênh vang tự đắc lên núi. Thình lình dân A mô rê cư ngụ trên núi xuất hiện đuổi anh em như một đàn ong tán loạn, đánh bại từ Sây đến Hốt ma. Kịp khi hồi quân, anh em than khóc trước nhan Chúa: Ngài không nghe anh em, cũng chẳng thèm để ý đến lời van. Vì vậy, anh em lưu ngụ tại Ca đê ba một thời gian khá lâu.

Moi Sê Thuyết Pháp (Bài II)

Rao Truyền Luật Pháp

5. Đây là lề luật Moi sê ban bố cho dân con Ít ran. Đây là chứng cớ, nghi lễ và luật lệ người truyền dạy con cái Ít ran sau khi rời khỏi Ai Cập, bên này sông Gióc đan nơi thung đối diện miền Phô gô trong lãnh thổ Sê hơn vua dân A mô rê cư ngụ tại Hê sê mà Moi sê và dân con Ít ran đã đánh bại khi rời bỏ Ai Cập. Ít ran đã chiếm cứ xứ này và lãnh thổ vua Ốc ở Ba san là hai quốc vương dân A mô rê ở bên này Gióc đan về hướng mặt trời mọc, từ A rô tọa lạc tại triền thác Át non cho đến núi Si on (tức là Hết môn) gồm cả cánh đồng bằng bên này Gióc đan về mạn đông mãi tới biển sa mạc về chân núi Phát ra.

Tái Họp Hô Rếp

Khi ấy, Moi sê hội họp toàn thể Ít ran lại mà tuyên bố cho dân: "Hỡi Ít ran hãy nghe những nghi lễ và luật lệ mà ta rao truyền tận tai anh em hôm nay. Hãy học hỏi, thực hiện chu đáo bằng việc làm.

Thiên Chúa là Chúa chúng ta đã kết ước cùng ta tại Hô rếp: Ngài không giao kết với tổ phụ ta nhưng với chính chúng ta hiện đương còn sống đây. Ngài phán cùng ta diện đối diện trên núi giữa đám lửa hồng: lúc đó có ta làm môi giới đứng giữa Chúa và các ngươi để thông báo lệnh của Ngài cho đồng bào; vì anh em sợ lửa không dám trèo lên núi. Ngài phán:

Mười Điều Răn

Ta là Chúa, Thiên Chúa ngươi, Đấng đã dẫn dắt ngươi rời Ai Cập tức khỏi nhà nô lệ.

Ngoài Ta ra ngươi chớ thờ thần nào khác.

Chớ chế tạo tượng chạm cho mình cũng đừng làm hình tượng nào giống như các vật trên trời dưới đất và trong nước nơi địa cầu. Chớ thờ phượng kính bái các vật đó; vì Ta là Chúa, Thiên Chúa ngươi. Thiên Chúa toàn thắng: ai mà ghét Ta, Ta sẽ nhân tội cha ông hành con cháu tới ba bốn đời, nhưng Ta lại thương xót những ai kính mến và tuân cứ các mệnh lệnh Ta gấp muôn ngàn phần.

Chớ lấy danh Chúa, Thiên Chúa ngươi mà diễu cợt, vì Ngài sẽ nghiêm trị kẻ lạm dụng danh Ngài để làm bậy.

Phải giữ ngày thứ bảy và thánh hóa ngày đó như Chúa là Thiên Chúa ngươi đã truyền. Trong sáu ngày làm việc hãy làm hết mọi việc của mình đi; ngày thứ bảy sẽ là ngày lễ, tức là ngày nghỉ ngơi của Thiên Chúa là Chúa ngươi. Trong ngày đó, chớ làm lụng chi hết, cả ngươi lẫn con trai con gái, cả đầy tớ nam nữ lẫn bò lừa và các súc vật, cả lũ khách trú ngụ nơi cửa nhà ngươi. Đừng quên rằng chính mình đã làm tôi mọi bên Ai Cập, nhờ Thiên Chúa là Chúa ngươi dã dùng quyền năng mạnh mẽ thẳng cánh lắm mới dẫn được ngươi ra khỏi đó. Vì thế, Ngài lệnh cho ngươi phải giữ ngày lễ nghỉ. Hãy thảo hiếu cha mẹ mình như lời Chúa phán ngõ hầu ngươi được trường thọ, được hạnh phúc trong lãnh thổ Chúa ban cho.

Chớ giết người.

Chớ ngoại tình.

Chớ trộm cắp.

Chớ làm chứng dối cho thân nhân mình.

Chớ ước muốn vợ đồng bào mình. Chớ tham nhà cửa ruộng đất, tôi nam tớ nữ, bò lừa và mọi tài sản người ta.

Moi Sê Trung Gian

Lề luật này Chúa tuyên bố trước mặt mọi người anh em trên núi, giữa đám lửa hồng, mây ám sương mờ, to tiếng; rồi Ngài không phán thêm chi hết. Ngài khắc luật đó vào hai bia đá trao tận tay ta.

Ngay sau lúc đồng bào nghe thấy tiếng phán ra từ nơi âm u, thấy núi phát lửa thì các trưởng chi những bậc lão thành liền đến gần ta mà thưa: "Kìa, Chúa là Thiên Chúa ta đã giãi tỏ uy quyền vinh hiển cho chúng tôi. Chúng tôi nghe được tiếng Ngài phát ra giữa đám lửa hồng. Hôm nay chúng tôi quyết chắc rằng Thiên Chúa đã phán cùng loài người mà người ta vẫn còn sống. Vậy cớ sao chúng tôi phải chết, đám lửa ghê rợn này có nuốt sống chúng tôi chăng? Nếu chúng tôi còn nghe được tiếng Thiên Chúa là Chúa ta phán nữa e chúng tôi chết mất! Há có loài xác thịt nào nghe tiếng Thiên Chúa hằng sống từ đám lửa hồng phán ra như chúng tôi đã nghe mà sống được chăng? Xin người tiến gần lên mà nghe các điều luật Chúa phán truyền cho người. Rồi người chuyển lệnh lại cho chúng tôi, chúng tôi xin tuân theo và thực hành mọi điều."

Rao Truyền Luật Pháp

Chúa thấu tỏ việc đó nên Ngài phán dạy ta: "Ta vừa nghe những lời dân này bàn cùng ngươi: chúng nói như vậy phải lắm. Ước chi ai cho chúng ý chí mạnh mẽ, ngõ hầu chúng kính sợ Ta và luôn luôn tuân giữ các luật lệnh Ta, cốt cho chúng và con cháu chúng được may phước muôn đời. Ngươi hãy đi loan báo cho chúng: Hãy trở về trại mình. Còn ngươi cứ ở lại đây với Ta, Ta sẽ truyền cho ngươi mọi luật pháp, lễ nghi, mệnh lệnh rồi ngươi sẽ dạy chúng thực hành các điều đó trong chính lãnh thổ Ta sắp ban cho chúng nhận làm sản nghiệp". Vậy anh em hãy tuân cứ, thực hành mọi điều Chúa là Thiên Chúa truyền dạy anh em: chớ lắt léo bên phải bên trái, hãy thẳng tiến trên con đường Chúa chúng ta là Thiên Chúa đã vạch cho, hầu anh em được sống được may phước được thọ trường trong lãnh thổ mình chiếm hữu.

Đệ Nhị Luật

12. Đây là những luật pháp và mệnh lệnh anh em phải tuân theo trong lãnh địa Thiên Chúa là Chúa các tổ phụ mình sẽ ban cho, hầu anh em được chiếm làm sản nghiệp và suốt đời định cư tại đó.

Nơi Thánh Duy Nhất

Chiếm hữu rồi, các ngươi hãy phá tuyệt những địa điểm do các dân ngoại thờ thần của chúng, bất kỳ trên núi cao trên đồi hoặc dưới lùm cây rậm: Phải phá bàn thờ đập pho tượng thiêu đốt bài vị, phá hủy các thần tượng, phải xóa bỏ danh sách các thần khỏi nơi thờ tự.

Chớ theo đòi cách thói của chúng mà phụng sự Thiên Chúa là Chúa ngươi; nhưng phải tìm đến nơi chính Chúa Trời là Chúa ngươi đã lựa chọn các chi tộc mình do Chúa thiết lập và danh Ngài ngự ở đó. Vả cũng tại nơi đó các ngươi sẽ dâng kính Chúa lễ toàn thiêu, sinh lễ, thuế phần mười, của đầu mùa thủ công, lễ khấn, lễ tạ ơn và các vật đầu lòng bò chiên. Tại đó các ngươi sẽ ăn trước tôn nhan Thiên Chúa là Chúa mình, hoan hỉ với gia quyến mình vì mọi việc tay mình làm ra đều được Chúa Trời là Chúa mình chúc phước cho.

Ở đó, anh em cũng chớ xử sự như mình quen làm ở đây, tức là ai nấy tùy mình nghĩ thế nào phải thì cứ làm, vì cho tới ngày nay chúng ta vẫn chưa tới nơi an nghỉ, chưa chiếm hữu được lãnh thổ Thiên Chúa là Chúa mình sắp ban cho. Nhưng anh em sẽ sang qua sông Gióc đan sẽ định cư tại lãnh thổ Thiên Chúa là Chúa mình sắp ban cho anh em, để anh em được an nghỉ xa cách thù địch hãm hại chung quanh, được cư ngụ bình an trong chính địa điểm mà Chúa Trời là Chúa anh em đã chọn lựa cho danh Ngài ngự. Nơi đây, các ngươi phải cung hiến các lễ vật ta đã căn dặn, như lễ toàn thiêu, sinh lễ, thuế phần mười, của đầu mùa thủ công và những gì hảo hạng làm lễ vật kính dâng Chúa. Nơi đây, các ngươi con trai con gái, tôi nam tớ nữ cả hàng Lê vi cư trú trong những thành thị thuộc về các ngươi vì họ không được phần sản, đều yến ẩm trước tôn nhan Chúa.

Nơi Được Ăn Thịt

Hãy coi chừng chớ bạ nơi nào cũng dâng của lễ toàn thiêu, nhưng phải dâng tại nơi Chúa đã chọn, tức là một nơi nào trong các chi tộc mình do ta truyền dạy những việc ngươi phải làm. Nếu ngươi thèm ăn thịt cứ việc giết mà ăn trong các thành thị thuộc về ngươi tùy theo phước lành Chúa ban cho: bất luận nó dơ vì nó bớt hay suy yếu, hoặc nó tinh sạch toàn thân không vết ngươi cũng cứ ăn thịt nó như con dê cái hay nai đực vậy. Ngoại trừ tiết chớ có ăn, phải đổ xuống đất như nước vậy.

Trong các thành mình ở, ngươi chẳng nên ăn của phần mười về lúa miến, rượu, dầu, con đầu lòng của mục súc và những lễ vật ngươi khấn nguyện, tự ý dâng với của đầu mùa thủ công; nhưng ngươi với con trai con gái mình, tôi nam tớ nữ và các Lê vi ngụ trong một thị xã phải ăn những thứ ấy trước nhan Chúa là Chúa ngươi. Ngươi hãy vui mừng và khoai khoái trước mặt Chúa là Thiên Chúa về mọi việc tay ngươi đã làm. Hãy cẩn thận trọn đời chớ bỏ rơi các Lê vi ở trong khu vực mình.

Của Ăn Thánh Và Thường

Khi nào Chúa ngươi là Thiên Chúa đã mở mang bờ cõi ngươi rộng thêm như Ngài đã phán cùng ngươi, mà ngươi cảm thấy mình thèm khát muốn ăn thịt. Vậy, nếu địa điểm Chúa đã lựa cho danh Ngài ngự ở cách xa thì cứ việc giết mục súc ngươi sẵn có trong bầy như ta truyền dạy, nhưng phải ăn dùng trong các thành thị mình ngụ mặc sở thích. Người ta ăn dê cái nai đực thế nào ngươi cũng ăn thịt kia như thế: bất luận sạch dơ đều phải ăn hết, chỉ phải lưu ý điều này chớ ăn tiết. Vì huyết chúng thế cho hồn, bởi vậy chẳng nên ăn cả huyết lẫn hồn, phải tưới huyết xuống đất như đổ nước, hầu cho ngươi và con cháu mai ngày được sung sướng vì mình đã làm điều thiện trước tôn nhan Chúa. Còn những vật ngươi đã thánh hóa đã khấn nguyện kính Chúa phải đem đến nơi Chúa tuyển lựa, mà dâng làm của lễ thịt và máu trên bàn thờ Thiên Chúa là Chúa mình: máu các sinh lễ đổ trên bàn thờ, còn thịt đó ngươi được ăn dùng.

Hãy nghe và tuân hành những điều ta truyền thụ cho ngươi đây, cố cho ngươi và con cháu ngươi được muôn đời vinh phước, vì ngươi đã làm điều thiện việc ngay thẳng trước nhan Chúa là Thiên Chúa mình.

Nghi Lễ Dân Ngoại

Đến khi Chúa Trời là Chúa ngươi đã hủy diệt trước mắt ngươi các dân tộc mà ngươi toan vào chiếm cứ, nhận làm sản nghiệp và định cư, ngay trong lãnh thổ của chúng, phải thận trọng đừng bắt chước họ, kẻo sau khi nhập nội xua đuổi chúng rồi, ngươi lại tìm hiểu những lễ bái của họ, tự hỏi: " Các dân tộc này sùng bái thần mình làm sao ta cũng nên thờ như vậy chớ?" Đừng, ngươi chớ đối xử với Thiên Chúa là Chúa mình như thế, vì họ dâng con trai con gái, đốt sống chúng mà kính các thần của mình, việc đó Chúa gớm ghét lắm. Đồng bào hãy cẩn thận thực hành mọi điều ta răn dạy: Đừng thêm bớt chi hết!

Moi Sê Thuyết Pháp

Khắc Chữ Dựng Bia

27. Moi sê và các trưởng lão lại truyền lệnh cho dân Ít ran rằng: "Hãy tuân cứ mọi điều răn ta truyền thụ cho anh em hôm nay: Sau khi anh em sang sông Gióc đan tiến vào lãnh thổ do Thiên Chúa là Chúa đã ban cho, ngươi phải dựng những bia đá lớn và phết vôi, để lúc qua sông Gióc đan đột nhập lãnh thổ đượm sữa và mật Chúa ban cho như Ngài đã thề nguyền cùng các tổ phụ ta rồi, ngươi hãy khắc những lời của luật pháp này vào bia đó. Vậy lúc sang qua Gióc đan xong, anh em phải dụng cái bia đá và sơn vôi trên nú Hê ban như ta căn dặn anh em hôm nay. Ở đó, ngươi cũng sẽ lập bàn thờ kính Chúa là Thiên Chúa ngươi: chớ dùng đồ bằng sắt đụng tới, vả bàn thờ phải kiến tạo bằng một tảng đá nguyên khối không đục giũa, rồi ngươi dâng lễ toàn thiêu kính Chúa trên đó. Kế, ngươi hiến lễ cầu an, ăn dùng, lại liên hoan trước tôn nhan Thiên Chúa ở đó nữa. Phải khắc rõ rằng mình bạch hết mọi điều trong luật pháp này vào bia đó".

Bấy giờ, Moi sê và các tư tế thuộc dòng Lê vi hiểu thị cho toàn thể Ít ran: "Hỡi dân Ít ran hãy lắng nghe: Hôm nay ngươi đã trở nên dân tộc của Thiên Chúa là Chúa mình. Hãy nghe lời Ngài, tuân theo các giới răn và luật pháp Ngài do chính ta truyền thụ cho"

Chúc Phước Nguyền Rủa

Hôm đó Moi sê cũng răn dạy dân chúng: San qua sông Gióc đan rồi, Si mon, Lê vi Giu đa, I sa ca, Giu se và Ben gia minh hãy đứng trên núi Ga xim mà chúc lành cho dân chúng; bên kia, Ru ben Gát, A sê, Xa bu lôn, Đan, và Nép tan cũng sẽ đứng trên núi Hê ban mà nguyền rủa. Kế đó, các Lê vi sẽ cất cao giọng nói cùng những người nam trong dân Ít ran:

Khốn thay kẻ nào đúc tượng, là điều Chúa gớm ghét, công việc do tay người thợ, dựng nó lên nơi kín đáo! Toàn dân đáp lại: Thực như vậy. Đáng nguyền rủa thay cho kẻ nào không thảo kính cha mẹ! Toàn dân đáp lại: Thực vậy. Khốn thân kẻ xê dịch mốc giới của đồng bào mình Cả dân thưa: Đúng. Đáng nguyền rủa thay kẻ làm cho người mù lạc đường! Toàn dân đáp: Phải lắm. Khốn thay kẻ uốn cong việc xử đoán ngoại kiều mồ côi, góa bụa! Toàn dân thưa: Chí lý. Vô phước cho đứa đồng cư với vợ kế của thân phụ mình và dở mền nơi giường người! Toàn dân thưa: Đồng ý. Đáng kiếp cho kẻ ngủ với mục súc! Toàn dân rằng: Đúng lắm. Vô phước cho ai ăn nằm cùng chị em mình, cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha! Toàn dân thưa: Thực vậy. Khốn cho đứa đồng cư với mẹ vợ mình! Toàn dân nói: Phải. Khốn thay kẻ nào đánh lén đồng bào mình! Toàn dân đáp: Thực thế. Đáng chúc dữ cho người ăn hối lộ mà giết người vô tội! Toàn dân đáp: Đáng. Chúc dữ cho kẻ nào không noi theo và thực thi mọi điều trong luật pháp này! Toàn dân thưa: "A men"

Moi Sê Chúc Phước Cho Dân

Chỉ Định Gio Suê

31. Moi sê liền đến giảng thuyết cho toàn thể dân Ít ran những lời như sau, người căn dặn họ: "Hôm nay tôi vừa một trăm hai chục tuổi, không thể tới lui được nữa, vả nhất là Chúa phán bảo tôi: "Ngươi sẽ chẳng được sống qua sông Gióc đan này". Vậy, Chúa là Chúa Trời ngươi sẽ đi tiên phhong ngươi, Ngài sẽ diệt các dân nó trước mặt ngươi cho ngươi được chiếm làm sản nghiệp. Chính Gio suê đây sẽ đi trước người như Chúa đã phán truyền. Bấy giờ, Chúa sẽ đối phó với các dân ấy như Ngài đã xử với Sê hơn và Ốc quốc vương A mô rê mà hủy diệt xứ sở chúng.

Nên sau khi Chúa đã giao phó chúng cho, anh em cũng thực hành đúng như tôi căn dặn vậy. Hãy kiên tâm bền chí, can đảm lên đừng run sợ trước mặt chúng vì chính Thiên Chúa là Chúa ta sẽ hướng dẫn ngươi, Ngài không xa ngươi, cũng chẳng bỏ ngươi đâu."

Ủy Lạo Gio Suê

Kế, Moi sê gọi Gio suê căn dặn người trước mặt toàn thể dân Ít ran: "Hãy bền chí can đảm lên. Vì người phải dẫn dân chúng vào lãnh thổ mà Chúa đã thề nguyền ban cho các tổ phụ chúng, hãy bắt thăm mà phân chia xứ sở. Chúa là chính Đấng dìu dắt ngươi, cho bàng hoàng run sợ!"

Phải Đọc Pháp Luật

Rồi, Moi sê ghi chép luật này mà trao cho các tư tế con trai Lê vi khiêng hòm giao ước Chúa cùng các trưởng lão dân Ít ran. Người ra lệnh cho họ: "Sau bảy năm nhằm năm toàn xá trong đại lễ lều tạm, phải hội họp toàn thể dân chúng Ít ran lại trước tôn nhan Thiên Chúa là Chúa mình trong chính nơi Ngài chỉ định, đọc cho dân chúng nghe chỉ thị luật pháp này. Phải tập họp dân lại một nơi: đàn ông, đàn bà, thanh niên, ngoại ngụ trong nhà ngươi để họ nghe biết học tập kính sợ Thiên Chúa là Chúa mình, tuân cứ và thi hành chu đáo mọi điều trong pháp luật này cả các con cái họ hiện chưa am tường cũng phải đến nghe cho biết kính sợ Chúa là Chúa Trời mình trong suốt đời ký cư nơi lãnh thổ mà anh em vượt qua Gióc đan để chiếm cứ".

Huấn Thị

Chúa lại phán bảo Moi sê: "Kìa, ngày lâm chung của ngươi đã kề rồi! Hãy gọi Gio suê cả hai cùng đứng trong nhà tạm chứng, cho ta căn dặn" Đoạn, Chúa hiện ra trong trại nơi cột mây đứng sững ngy trước cửa nhà tạm

Chúa phán dạy Moi sê: "Đây, ngươi về an giấc cùng các tổ phụ mình; còn dân này sẽ dấy lên gian thông cùng thần ngoại quốc trong lãnh thổ chúng vào định cư: ở đó chúng sẽ lìa bỏ Ta, sẽ phản bội hòa ước chính Ta đã cam kết với chúng: Nên, ngày đó, cơn nghĩa nộ Ta sẽ phừng lên phản lại chúng: Ta sẽ từ chúng, giấu mặt đi, khiến chúng bị tiêu hao: mọi tai nạn đau khổ sẽ tràn đến cho dân đến nỗi ngày đó dân phải than: Quả thực, vì Chúa không ở cùng tôi, nên các tai họa mới để trên mình thế này!" Phần ta, hôm đó sẽ ẩn đi, lánh mặt chúng vì dân làm nhiều tội ác, tại chúng theo các thần ngoại lai.

Bài Ca Bảo Chứng

"Ngay bây giờ hai ngươi hãy ghi chép bài ca này mà dạy cho dân Ít ran để chúng nhớ làm lòng, ca ngợi ngoài miệng, hầu bài ca này minh chứng cho Ta với dân con Ít ran. Ta sẽ đem dân vào đất đượm sữa và mật do chính Ta đã thề nguyền cùng tổ phụ chúng; sau khi chúng đã ăn no béo, chúng sẽ quay sang các thần ngoại quốc, phụng sự nó, rồi chúng khinh dễ Ta, chúng phản bội hòa ước ta. Khi nào các tai họa và gian chuân hãm hại chúng rồi, bài ca này mới ran lên đáp lại chúng hầu minh chứng cho Ta vì miệng của miêu duệ chúng hẳn không quên được. Vả, trước khi đem chúng vào đất hứa, Ta đã biết tư tưởng chúng từ hôm nay rồi". Vậy , Moi sê ghi chép bài ca và dạy cho con Ít ran.

Sứ Mệnh Gio Suê

Chúa cũng truyền lệnh cho Gio suê con trai Nun, Ngài phán: "Hãy can trường dũng cảm! Vì ngươi phải đem dân con Ít ran vào đất Ta đã hứa. Ta sẽ phù hộ ngươi".

Sách Luật Hòm Bia

Moi sê chép những lời trong luật pháp này vào một cuốn xong xuôi, ngươi bèn lệnh cho các Lê vi khiêng hòm giao ước Chúa căn dặn: "Hãy lấy sách này xếp vào bên cạnh trong hòm giao ước của Thiên Chúa là Chúa mình, sách đó được chứng minh cho ngươi. Vì ta đã thừa biết lòng bội bạc và tính bướng bỉnh của ngươi. Lúc bình sinh còn lui tới với anh em, luôn luôn anh em đã làm cho Chúa bất mãn, huống hồ sau khi ta đã qua đời?"

Lòng Dân Bướng Bỉnh

"Hãy tập họp các trưởng lão từng chi tộc, các pháp sư lại gần ta, ta sẽ giảng giải những lời này cho họ nghe ta sẽ nại đến trời đất làm chứng với họ. Biết rằng sau khi ta mệnh một anh em sẽ làm sẽ sớm đường lối chính ta truyền thụ cho: Trong thời kỳ sau rốt các tai nạn sẽ dồn dập trên mình, bởi các ngươi làm gian ác trước nhan Chúa, lấy những công việc tay mình làm mà trêu chọc Ngài".

Moi sê đọc hết các lời trong bài ca này cho toàn dân Ít ran nghe:

Ca Vịnh Moi Sê

32. Trời ơi! hãy lắng nghe tôi nói,

Đất hỡi! xin nghe lời miệng tôi.

Đạo lý tôi như mưa tuôn rơi,

Văn tự tôi dường bằng sương phủ.

Tựa mưa phùn trên đám cỏ,

Ví mưa rào xuống vườn rau.

Thánh danh Chúa tôi khẩn cầu,

Tận hiến vinh quang Thượng Đế,

Việc Thiên Chúa hoàn toàn tử tế,

Mọi nẻo Ngài hết sức công bình;

Ngài chung thủy vẹn sạch khiết tinh.

Vừa công minh lại vừa chính trực.

Lũ con dơ vô nhân thất đức,

Dòng gian ác xúc phạm tới Ngài!

Đền ơn vậy dân ngu ơi!

Ngài há chẳng trọng hơn thân phụ!

Tạo thành ta vừa là cứu độ?

Hồi quá khứ hãy nhớ cho,

Tưởng niệm thế hệ xa xưa;

Hỏi cha ông thì sẽ biết,

Bậc lão thành đáp lại hết.

Đấng chí tôn phân muôn dân,

Tách riêng con cái A đam,

Định bờ cõi các dân tộc

Dân Ít ran tùy số mục,

Kỷ phần Chúa là dân Ngài,

Gia cóp đặc hưởng gia tài.

Người gặp Ít ran nơi rừng rú,

Chốn tịch mạc rùng rợn thâm u:

Vừa bao bọc lại săn sóc cho:

Nâng niu tựa con ngươi trong mắt,

Như chim phượng giỡn con cao tắp,

Liệng chung quanh giữa lũ con mình;

Xòe cánh ủ nựng đám trẻ xinh,

Trên chéo cánh bồng con êm ái.

Một mình Chúa dìu dắt người mãi,

Ngoài Chúa ra chẳng thờ thần ngào.

Đặt người trên lãnh thổ cao siêu,

Được hưởng dùng hoa màu ruộng đất,

Nơi hòn đá Ngài cho hút mật,

Dầu trong đá cứng rắn chảy ra,

Bơ sữa bò, chiên cái nõn nà,

Mỡ chiên con, Ba san chiên đực,

Dê đực với bột mạch thơm phức,

Uống rượu mạnh ép bởi trái nho.

Ít ran mập ú rồi bướng bỉnh:

Mập mạp, béo búc và tròn trĩnh,

Lìa bỏ Thiên Chúa Đấng tạo thành,

Rời khỏi Đấng đã dựng nên mình!

Trêu chọc Ngài, phượng thờ thần ngoại,

Khiêu cơn giận trong việc dị quái,

Cùng quỷ ma đâu phải Chúa Trời.

Thờ tà thần chính mình chẳng hay

Tức là thần từ đâu mới đến,

Tổ phụ mình xưa nào có kính.

Ngươi nỡ bỏ Thiên Chúa sinh thành,

Quên bẵng Chúa tạo dựng nên mình.

Ngài thấu tỏ nên mới thịnh nộ,

Vì trai gái kiêu mạn quá lố.

Ngài phán: Giấu mặt khuất chúng đi,

Xem hậu vận chúng ra thứ gì?

Tụi bất lương con cháu gian ác,

Chúng khinh Ta, đi thờ thần khác,

Trêu Thiên Chúa trong chuyện lăng nhăng,

Ta trả đũa cũng dùng tha dân,

Dân ngu này cho chúng là ngốc.

Cơn nghĩa nộ nảy lửa phừng phực.

Thiêu đốt sạch từ đáy cửa âm,

Tiêu hoa màu phá tan lãnh thổ,

Hủy núi non diệt băng phá rú.

Chất trên mình đủ mọi tai ương,

Bắn sả bằng tên độc với cung.

Mặc cho chúng chết đói,

Chim chóc mổ đau nhói,

Nát bởi răng thú rừng,

Nọc rắn tiêm nhức nhối,

Ngoài đao kiếm, trong sợ sệt,

Tàn phá nữ tú, nam thanh,

Trẻ lẫn già đều bị chết,

Ta phán: Chúng đã tan tành!

Kỷ niệm chúng nay xóa khỏi nhân loại!

Kẻ thù hờn giận, ta đành rùn tay,

E thù địch chúng sinh sự kiêu kỳ,

Rằng: do tay mình cao cường mạnh mẽ,

Đâu phải Hóa công đối xử như thế.

Dân chúng ngu si.

Như phường mất trí!

Phải chi chúng khôn ngoan lưu ý

Rằng vạn mạng đương chờ mình đây!

Cớ sao một dám chọi với ngàn,

Hai ngươi đuổi nổi một vạn chăng?

Phải chi Thiên Chúa bán đứng chúng,

Ngài há nỡ để chúng tù túng?

Thần nào sánh kịp Chúa chúng ta,

Thù của ta đều nghĩ thế mà.

Bọn Sô đôm vườn nho Do Thái,

Đất Gô mô là ruộng dân ấy,

Chùm nho đắng, trái độc vừa chua;

Rượu của chúng như mật hổ phù,

Dương nọc rắn gớm ghê quá cỡ,

Ta đâu quen hưởng dùng thứ đó!

Phải bưng kín vít kỹ trong kho.

Chân của chúng cà nhắc xiêu xo,

Do quyền Ta báo oán kịp thời,

Ngày tiêu diệt chúng đã kề rồi,

Tai vạ chúng sẽ xảy ra gấp!

Thiên Chúa xét đoán dân mình,

Ngài thương tôi tớ tận tình,

Thấy tay chúng ra mềm yếu.

Thân thất thểu, lực tiêu tan,

Ai sống sót thì bị diệt.

Nên Chúa phán: thần chúng đâu,

Chúng tin cậy những kẻ nào?

Lũ ăn mỡ lễ sinh tế.

Hay mê rượu, của cúng bái?

Chỗi dậy bang hộ chúng đi,

Cơn cơ cực bảo trợ ngươi.

Coi chừng! Có mình Ta là Chúa.

Ngoài Ta ra không thần nào nữa!

Mình Ta, nắm quyền tử quyền sinh,

Sửa phạt xong rồi lại tha thứ,

Chẳng một ai mong thoát tay Ta.

Giơ tay chỉ trời,

Ta phán:

Ta sống muôn đời.

Ta mài kiếm sáng như chớp,

Tay Ta nắm quyền đoán xét.

Ta báo oán mọi địch thù,

Kẻ nào ghét, trả miếng cho.

Mũi tên Ta tẩm bằng huyết,

Lưỡi kiếm Ta róc hết thịt.

Máu người chết với bọn tù quân.

Thịt nơi đầu của các địch nhân!

Khen dân Chúa đi kìa vạn quốc!

Máu bày tôi nay Ngài báo đáp,

Cừu địch họ trả bằng oán thù.

Đại xá cho toàn dân trong nước!

Hiệu Triệu Lần Chót

Vậy Moi sê và Gio suê con trai Nun đến đọc hết bài ca vịnh cho dân chúng nghe để kết thúc các bài thuyết pháp, người nói cùng toàn thể dân Ít ran căn dặn họ: "Hãy lưu tâm đến hết thảy những điều ta đã nhắn nhủ anh em hôm nay rồi lưu truyền cho con cháu tuân cứ thực hành và hoàn tất mọi điều trong luật pháp này. Chẳng phải chỉ nhắn nhủ suông thôi, nhưng cốt cho mọi người sống theo pháp luật: nhờ thi hành những điều này anh em sẽ được sống trường cửu tại lãnh thổ, nơi đây sau khi sang qua Gióc đan anh em sẽ vào chiếm hữu".

Nhìn Đất Ca Nan

Hôm đó, Chúa cũng phán dặn Moi sê: "Hãy lên núi A ba rim trên đỉnh được nhìn nhưng không được vào đất do chính Ta sắp ban cho dân con Ít ran.

6. Phần Thứ Sáu: Gio Suê

Chương 27. Dân Ít Ran Vào Đất Hứa

Chương 28. Trao Các Thành Cho Ít Ran

Chương 29. Phân Chia Đất Ca Nan

Chương 30. Chúc Ngôn Gio Suê

Dân Ít Ran Vào Đất Hứa

Phù Hộ Gio Suê

1. Sau khi Moi sê tôi tớ Chúa qua đời, Chúa liền phán bảo Gio suê con trai Nun cán sự của Moi sê và căn dặn người: "Đầy tớ Ta là Moi sê thác rồi; bây giờ ngươi cùng toàn dân hãy chỗi dậy sang qua sông Gióc đan vào lãnh thổ do Ta sẽ ban cho dân con Ít ran. Hễ chân các ngươi bước đến đâu Ta cho tới đó như Ta đã phán cùng Moi sê: Ranh giới các ngươi ăn từ rừng và dẫy Li ban cho tới sông cái Eu phát luôn đất Hê thê cho đến biển cả. Trót đời sống ngươi chẳng ai chống cự lại nổi các ngươi. Xưa Ta phù hộ Moi sê sao nay Ta cũng bảo trợ ngươi vậy, Ta chẳng hề lìa bỏ các ngươi".

Điều Kiện Bảo Trợ

"Hãy kiên tâm bền chí vì ngươi phải phân chia lãnh thổ cho dân chúng, chính Ta đã thề nguyền cùng tổ phụ họ rằng: Ta sẽ trao đất này cho họ. Nên ngươi phải kiên tâm và can trường hầu tuân theo và thực hiện mọi luật lệ Moi sê đầy tớ Ta đã truyền cho ngươi. Sách luật này chớ bao giờ lìa khỏi miệng ngươi, phải luôn suy niệm đêm ngày mới mong tuân hành các điều đã ghi trong đó được. Như thế ngươi sẽ đi đúng đường lối sẽ am hiểu lề luật. Vậy, Ta căn dặn đây: Hãy kiên tâm dũng cảm! Chớ lo lắng đừng sợ sệt vì ta là Chúa, Chúa Trời ngươi vẫn phù hộ ngươi tiến hành trong mọi việc".

Họp Nơi Bờ Sông

Vậy, Gio suê ra lệnh cho các thủ lãnh trong dân như sau: "Anh em phải rảo qua khắp các trại ra lệnh cho dân chúng và căn dặn: phải dự bị lương thực sẵn sàng vì sau ba hôm nữa, đồng bào sẽ sang qua sang sông Gióc đan, đột nhập chiếm cứ lãnh thổ do Chúa là Thiên Chúa sắp ban cho anh em".

Người lại dặn họ Ru ben, họ Gát và phần nữa chi Ma na sê rằng: "Các ngươi hãy nhớ lời Moi sê tôi tớ Chúa chúng ta đã truyền dạy: Thiên Chúa là Chúa chúng ta đã cho các ngươi an vui và ban xứ này cho mình. Vậy, vợ con và mục súc của các ngươi cứ ở lại đất do Moi sê đã chia cho bên này sông Gióc đan; còn các ngươi hết thảy những tay dũng cảm phải võ trang đi tiên phong và chiến đấu thay cho toàn dân, mãi tới lúc Chúa ban bằng an cho anh em cũng như Ngài đã ban cho đồng bào, cốt để họ cũng chiếm hữu được lãnh thổ mà Thiên Chúa là Chúa mình sắp trao cho họ vậy. Sau đó, anh em sẽ về với địa sản của mình mà định cư ở đó, chính nơi đầy tớ Chúa là Moi sê chia cho anh em bên này sông Gióc đan về mạn đông."

Xin Tuân Thượng Lệnh

Họ thưa cùng Gio suê: "Người truyền dạy sao chúng tôi thi hành vậy; người sai đi đâu chúng tôi sẽ tới đó. Trước chúng tôi vâng lời Moi sê sao nay chúng tôi cũng tuân lệnh ông vậy. Cầu mong Thiên Chúa phù hộ ông cũng như Ngài đã bang trợ Moi sê xưa. Ai chống đối lệnh ông, ai bất tuân các chỉ thị ông truyền dạy nấy phải xử tử. Xin ông hãy can đảm, xử trí anh dũng!"

Trao Các Thành Cho Ít Ran

Thiên Chúa Hiện Hình

6. Đang khi Gio suê ở ngoài cánh đồng Giê rích ngước mặt nhìn thấy một người cầm gươm trần đứng đối diện cùng mình liền đến gần mà hỏi: "Người là bạn hay thù?". Đáp: "Đâu có! Ta là tướng quân đội Thiên Chúa, ta vừa tới đây". Gio suê sắp mình xuống đất lạy rồi thưa: "Chúa truyền dạy tôi tớ Người điều gì?". Đáp: "Ngươi hãy trút giầy khỏi chân mình: vì chỗ ngươi đứng đây là nơi thánh". Gio suê tuân lệnh.

Vây Thành Giê Rích

Vì sợ con cháu Ít ran, thành Giê rích đóng cửa niêm phong chẳng ai dám ra vào.

Vậy, Chúa phán biểu Gio suê: "Đây, Ta trao Giê rích quốc vương và quân sĩ hùng tráng trong tay ngươi. Các ngươi, hết thảy chiến sĩ hãy đi chung quanh thành mỗi ngày một lần. Hãy làm như thế đủ sáu ngày; sang ngày thứ bảy các tư tế cầm bảy cái kèn dùng trong lễ toàn xá đi trước hòm giao ước: các tư tế vừa thổi kèn vừa rước chung quanh thành bảy lần. Tới khi tiếng kèn rúc lên dài vang rót vào tai các ngươi, toàn thể dân chúng sẽ hô một tiếng cực lớn: các tường thành liền đổ xuống bình địa, mọi người theo chỗ mình đương đứng mà ùa vào".

Gio suê con trai Nun triệu tập các tư tế căn dặn họ: "Hãy khiêng hòm giao ước, bảy tư tế khác cầm bảy kèn toàn xá đi trước hòm Chúa". Người cũng lệnh cho dân chúng: "Anh em hãy võ trang đi chung quanh thành, phải đi trước hòm Chúa".

Gio suê vừa dứt lời, bảy tư tế liền thổi bảy kèn vang trước hòm giao ước Chúa; kế, toàn thể quân đội võ trang đi tiên phong, còn dân chúng theo đàng sau hòm, kèn vang khắp nơi. Gio suê lại lệnh cho dân chúng: "Đồng bào chớ la, đừng xì xèo, phải nín thinh chớ nói một tiếng nào hết cho tới một hôm ta loan báo cho đồng bào: "Hãy la lên, reo vang lên!". Mỗi ngày hòm Chúa đi chung quanh thành một lần rồi rút về trại mà nghỉ.

Đương đêm Gio suê chỗi dậy, các tư tế khiêng hòm Chúa, bảy thầy mang bảy kèn dùng trong lễ toàn xá vừa đi vừa thổi trước hòm Chúa, dân quân võ trang đi trước tư tế, quần chúng theo sau hòm theo nhịp kèn. Ngày thứ hai cũng đi chung quanh thành một bận rồi rút về trại: trong sáu hòm đều làm như vậy.

Đến ngày thứ bảy, tinh sương, họ đã dậy rước vòng quanh thành bảy lượt như đã dự trù. Qua vòng thứ bảy, các tư tế rúc kèn xong, Gio suê lệnh cho toàn dân Ít ran: "Reo lên! Đây Chúa đã trao thành cho đồng bào rồi!". Thành đó và mọi vật trong thành đều bị Chúa diệt; trừ một mình kỹ nữ Ra háp và các người trong gia đình ở với nàng được nhiêu sinh thôi vì nàng đã giấu sứ giả ta sai đến. Hãy coi chừng chớ đụng độ đến những điều cấm e mình sẽ mang tội phạm pháp, gây tội cho các trại dân Ít ran và làm xáo trộn cả trại. Bất luận những vật bằng bạc, các đồ bằng đồng sắt phải cung hiến cho Chúa, tàng trữ vào kho của người.

Thủ Đô Bị Triệt

Bấy giờ dân chúng reo lên, các tư tế thổi kèn. Vừa khi tiếng kèn ầm ỹ vang dội vào tai dân chúng, tức tốc các thành lũy sụp đổ: mọi người từ chỗ mình đương đứng vùng dậy chiếm cứ châu thành, diệt hết mọi vật trong thị trấn, bất luận đàn ông đàn bà, con nít, người già, cả các chiên, bò, lừa đều bị lưỡi gươm tận sát.

Kỹ Nữ Thoát Nạn

Lúc đó Gio suê bảo hai người thám thính được cử đi trước rằng: "Hai người hãy vào nhà kỹ nữ mà đem nàng và cả gia đình nàng ra như đã thề nguyền với nàng". Hai thanh niên đó liền vào dẫn nàng, cha mẹ anh em mang mọi đồ vật cùng thân nhân nàng ra, rồi cho họ tạm trú bên ngoài trại dân Ít ran.

Họ thiêu hủy đô thị với hết mọi vật trong thành, chỉ trừ vàng bạc và các đồ đồng sắt sung vào kho tàng nhà Chúa thôi. Và Gio suê cũng nhiêu sinh cho kỹ nữ Ra háp và gia đình thân phụ nàng với các tài sản của nàng: tới ngày nay họ vẫn còn định cư giữa dân Ít ran vì nàng đã giấu hai sứ giả do Gio suê cử đi do thám Giê rích.

Giê Rích Tiêu Ma

Ngay lúc đó, Gio suê trù rủa: "Vô phước người nào dám cổ động kiến thiết lại đô thị Giê rích trước nhan Chúa! Nền móng thành sẽ đổ xô trên con đường nó, các cửa thành sẽ đè lên con út nó!".

Thiên Chúa phù hộ Gio suê, khiến người vang danh khắp thiên hạ.

Phân Chia Đất Ca Nan

Lệnh Chia Đất Đai

13. Bấy giờ, Gio suê thân già tuổi lớn, Chúa phán biểu người: "Ngươi đã già nua trường thọ rồi, mà phần đất chưa chia còn mênh mông lắm. Thì đây cả xứ Ga li a của dân Phin tinh, cả miền dân Giét suy, từ sông hồng hà qua Ai Cập tới cương giới Ách ca về phía bắc; đất Ca nan thuộc năm tiểu vương Phin tinh, là Ga xê, A xốt, At can, Giê thê và A ca rôn. Còn ở mạn nam có dân Hê vê, toàn xứ Ca nan, Ma ra và Si đôn tới A phách, cương giới dân A mô rê cùng các miền phụ cận, cả miền Li ban mạn đông từ Ban gát dưới chân núi Hết môn vào đến Ê mát, với các dân ở trên núi từ Li ban đến thác Ma sê ráp tức là dân Si đôn. Chính Ta sẽ hủy diệt chúng trước mặt dân con Ít ran. Vậy, hãy chia đất đai cho Ít ran nhận làm sản nghiệp như Ta đã ra lệnh cho ngươi".

Chi Tộc Miền Đông

Theo lệnh, phải chia xứ này cho chín chi tộc và một nửa chi nữa đã cùng chiếm hữu với Ru ben và Gát phần đất do tôi tá Chúa là Moi sê đã trao bên kia triền sông Gióc đan về mạn đông rồi, tức là A rê ở triền thác Át non giữa thung, cả đồng bằng Mê đa tới Đi bông, luôn các thành thị Sê hơn vua A mô rê trị vì tại Hê sê bôn cho tới cương thổ con cháu Am môn, Ga lát và lãnh địa Giét suy, Ma ra cả núi Hết môn toàn diện Ba san cho tới Sa lách, cả nước vua Ốc tại Ba san trị vì ở A sa rốt và Ết rai (vua này sống sót trong dân Ra phanh) do Moi sê đã đánh đuổi chúng đi. Dân con Ma ka và Giét suy nên chúng cư ngụ giữa dân Ít ran mãi tới ngày nay.

Vả, Moi sê sẽ không chia phần sản cho Lê vi như Chúa đã phán dạy người, vì chính những của lễ và sinh tế kính Chúa là phần sản nghiệp của họ.

Chi Tộc Ru Ben

Kế đó, Moi sê sẽ chia phần sản cho con cháu thuộc chi tộc Ru ben. Cương giới của họ ăn từ A rô tọa lạc tại triền thác Át non, chính giữa thung thác này, toàn diện trung châu Mê đa; Hết bôn và các thôn trang nơi đồng ruộng tức là Đi bôn, Ba mốt với trại Ban mao, Gia sa, Xê đim, Mô phát, Ca ri át Sa bam, Sa rát trên núi thuộc thung lũng, Bét phô, A sết, Phát ga, và Bết mốt, các thị xã trung châu, toàn diện quốc thổ Sê hơn vua dân A mô sê trị vì tại Hết bôn chính Moi sê đã diệt vua này cùng các tướng lãnh Ma diên, Hê vê, Re xem, Su, Hu và Rê bê tức các tướng vừa làm chư hầu Sê hơn, vừa cư ngụ trong xứ. Trong những người bị lưỡi kiếm dân con Ít ran hủy diệt đó, có Ba lam thuật sỹ con trai Bê ô. Sông Gióc đan làm thành ranh giới cho con cháu Ru ben. Đó là sản nghiệp của chi Ru ben tùy theo tộc thuộc, thị xã và thôn trang của mình vậy.

Chi Tộc Gát

Moi sê cũng chia sản nghiệp cho con cháu chi Gát tùy theo thân tộc của họ như sau: Lãnh địa của họ là Gia sê cùng các thị xã Ga lát, một nửa phần đất con cháu Am môn cho tới A rô đối diện với Rap ba, từ Hết bôn tới Ra mốt: Mát phê, Bê tôn, từ Ma nanh tới cương thổ Đa bia. Còn trong bưng thì có Bết tha, Bết nam, Sô cốt, Sa phôn, phần nửa nước của Sê hơn vua Hết bôn; luôn sông Gióc đan tới sát miền duyên hải Xê nết bên kia Gióc đan về mạn đông. Đó là sản nghiệp con cháu Gát tùy theo gia đình, thành thị và làng mạc của họ.

Nửa Chi Ma Na Sê

Người cũng phân chia sản nghiệp cho nửa chi thuộc con cháu chi Ma na sê tùy theo tông tộc mình. Địa bạ của họ ăn từ Ma nanh cả Ba san, hết thảy quốc thổ Ốc vua Ba san, các thôn trang Giai rê thuộc Ba san và sáu chục thành; phần nửa xứ Ga lát, A ta rốt và Ết rai, các thị trấn quốc vương Ốc ở Ba san đã phân chia cho con cái Ma chi, chắt Ma na sê một phần nửa tùy theo tông tộc của họ.

Đó là sản nghiệp Moi sê đã chia nơi đồng bằng Mô áp bên kia sông Gióc đan ngang Giê rích về mạn đông. Còn chi Lê vi vì chính Chúa là Thiên Chúa dân Ít ran làm sản nghiệp riêng họ; nên người không chia phần cho họ như lời Chúa phán.

Chúc Ngôn Gio Suê

Về Bên Kia Sông

22. Bấy giờ, Gio suê mời dân Ru ben, Gát và nửa chi Ma na sê đến, nói với họ: "Anh em đã thực hành mọi việc do Moi sê tôi tớ Chúa truyền dạy, lại cũng tuân theo lời tôi trong mọi việc, vả vì vâng theo mệnh lệnh Thiên Chúa là Chúa mình nên từ lâu lắm anh em không rời bỏ đồng bào mình mãi tới ngày nay. Đây, Thiên Chúa là Chúa chúng ta đã ban cho đồng bào được an hưởng thái bình như Ngài hứa; nên anh em hãy trở về trang trại địa sản mình do Moi sê tôi tớ Chúa đã cấp bên kia Gióc đan. Anh em phải cẩn thận thực hiện, tuân theo mệnh lệnh và luật pháp do chính Moi sê đầy tớ Chúa đã truyền, ngõ hầu anh em kính mến Thiên Chúa là Chúa mình, tiến theo đường lối Ngài, thi hành luật lệ của Ngài, trìu mến Ngài và phụng sự Ngài hết tâm thần và sinh mạng mình". Gio suê chúc phước rồi cho họ về. Họ đều trở về trại của mình.

Chia Bớt Lợi Phẩm

Một nửa chi Ma nê sê được Moi sê chia sản nghiệp cho trước kia tại Ba san rồi; nay còn sót nửa chi sau Gio suê cũng bỏ thăm cấp phát bên này sông Gióc đan về mạn tây như các anh em khác. Lúc cho trở về trang trại mình, Gio suê cũng chúc phước cho và căn dặn rằng: "Anh em trở lại gia đình với vô số sản vật của cải, nào là bạc vàng đồng sắt, nào là áo xống vô kể. Hãy chia bớt cho đồng bào mình những chiến lợi phẩm đã lấy của quân thù".

Kế đó, con cháu Ru ben, con cháu Gát và một nửa chi Ma na sê rời bỏ con cháu Ít ran tại Si lô trong đất Ca nan mà trở về Ga lát là địa sản riêng, họ đã nhận dưới quyền Moi sê như lệnh Chúa.

Lập Bàn Thờ Riêng

Khi họ về tới triền sông Gióc đan liền lập bàn thờ trong đất Ca nan. Bàn thờ đó cao lắm. Dân con Ít ran vừa nghe biết điều đó, vì có mấy thông tín viên chắc chắn đem tin cho họ, rằng con cháu Ru ben, Gát và phần nửa chi Ma na sê đã thiết lập bàn thờ trong xứ Ca nan trên triền sông Gióc đan, đối diện với con cháu Ít ran; nên hết thảy tập họp tại Si lô để kéo lên giao chiến với họ.

Bị Ít Ran Cự

Rồi, lập tức dân cử Phi nê con trai tư tế Ê lê sa sang gặp họ bên kia địa phận Ga lát cùng với mười trưởng tộc do mỗi chi một vị, đến cùng con cháu Ru ben, Gát và nửa chi Ma na sê tại xứ Ga lát, họ nói: "Đây toàn thể dân Chúa chất vấn: Cớ sao lại có việc phạm pháp thế này? Hà tất anh em lìa bỏ Chúa là Thiên Chúa Ít ran, mà xây dựng bàn thờ bất kính, phế trễ việc phụng sự Ngài? Tội ác anh em đã phạm ở Ben phê gô cho tới hôm nay vết nhơ tội ác đó vẫn tồn tại nơi chúng ta, gây cho biết bao người trong dân phải vong mạng, há anh em cho là việc nhỏ mọn sao? Ngày nay anh em phản bội Chúa thì hôm sau cơn nghĩa nộ sẽ bách hại cả dân Ít ran! Thảng hoặc, anh em cảm thấy sản nghiệp mình nhận lãnh bị ô uế hãy sang qua địa điểm nơi có nhà tạm Chúa mà định cư với chúng tôi; miễn sao anh em đừng chia rẽ chúng ta với Chúa bằng cách lập bàn thờ cạnh tranh với bàn thờ Thiên Chúa là Chúa ta. A can con trai Xa rê há chẳng phạm cấm lệnh khiến cơn nghĩa nộ Chúa tràn xuống khắp xã hội Ít ran đấy ư? Hắn chỉ là một người, phải chi một mình y chết vì tội ác nó cho xong!".

Đính Chính Lý Sự

Bấy giờ, con cháu Ru ben, Gát và nửa chi Ma na sê đáp lại cùng các sứ trưởng dân Ít ran: "Đức Chúa Trời toàn năng! Thiên Chúa chính là Chúa toàn năng đã thấu tỏ, cả dân Ít ran đều cũng hiểu cho: Nếu chúng tôi quyết tâm phản bội mà xây dựng bàn thờ đây, xin đừng phù hộ chúng tôi, xin Chúa phạt chúng tôi lập tức! Trái lại, nếu chúng tôi dụng tâm kiến thiết cốt để dâng lễ toàn thiêu, của lễ, sinh tế cầu an trên bàn thờ này xin chính Chúa hãy chất vấn và phán đoán cho. Vả, tư tưởng và hành động đó không ngoài việc chúng tôi đề phòng trả lời, nếu mai sau con cháu anh em hỏi con cháu chúng tôi: "Giữa anh em và Đức Chúa Trời dân Ít ran có liên quan gì chăng?". Hỡi con cháu Ru ben, con cháu Gát! Chúa đã đặt sông Gióc đan làm giới hạn giữa chúng tôi và anh em; vì thế, các người đâu có dự phần cùng Chúa! Lại nhân cơ hội này, con cháu anh em sẽ khiến con cháu chúng tôi sờn lòng kính sợ Chúa.

Nên chúng tôi thiết tưởng phải nói như vầy thì hay hơn: chúng ta hãy lập một bàn thờ, cốt ý không dùng để dâng của hy sinh hoặc hiến sinh tế; nhưng để làm kỷ niệm giữa chúng tôi và anh em, giữa dòng dõi chúng tôi và miêu duệ anh em hầu phượng thờ Chúa theo luật pháp của chúng ta mà dâng của toàn thiêu, lễ cầu an và của sinh tế, như vậy mai sau con cháu anh em sẽ chẳng còn nói với con cháu chúng tôi thế này: "Anh em đâu có dự phần cùng Chúa!". Giả tỷ, sau chúng muốn hỏi thì phải trả lời: "Đây nè! Tổ phụ chúng tôi dựng bàn thờ đó không để dâng của toàn thiêu và lễ bái nhưng cốt làm kỳ đài cho chúng tôi và anh em thôi". Tuyệt nhiên chúng tôi không làm điều ác ôn đó, để phải xa lìa Chúa và phản bội giới răn Ngài bằng cách dựng bàn thờ mà dâng của toàn thiêu, lễ bái và sinh tế đâu. Duy chỉ có một bàn thờ kính Thiên Chúa là Chúa chúng ta đã được tạo lập trước nhà tạm của Ngài thôi".

Đôi Bên Giải Hòa

Nghe bấy nhiêu, tư tế Phi nê sứ trưởng và các người Ít ran cùng đi với họ đều an tâm, chấp thuận cuộc đàm thoại của con cháu Ru ben, Gát và nửa chi Ma na sê cách rất hài lòng. Nên Phi nê con trai Ê lê sa tư tế nói với họ: "Bây giờ chúng tôi mới rõ quả thực Thiên Chúa phù hộ anh em vì anh em được sạch tội ác đó, lại cứu con cháu Ít ran thoát khỏi tay Chúa nữa".

Người cùng các sứ trưởng từ giã con cháu Ru ben và Gát rời đất Ga lát trở về bờ cõi xứ Ca nan thuật lại cho dân chúng. Mọi người đều nghe, họ bằng lòng về chuyện này, rồi dân con Ít ran ca tụng Thiên Chúa. Về sau chẳng bao giờ hô nhau tiến lên kinh địch giao chiến và hủy diệt sản nghiệp của nhau nữa. Phần con cháu Ru ben, con cháu Gát đặt tên cho bàn thờ họ vừa kiến thiết đó là "Kỳ đài chúng ta chứng minh Chúa chính là Thiên Chúa" vậy.

7. Phần Thứ Bảy: Quan Án

Chương 31. Sau Gio Suê Từ Trần

Chương 32. Các Quan Án Giải Phóng

Chương 33. Chiến Đấu Giữa Hai Chi Đan Và Ben Gia Minh

Sau Gio Suê Từ Trần

Giu Đa Chỉ Huy

1. Gio suê ly trần rồi, dân con Ít ran cầu xin cùng Chúa: "Ai sẽ đứng lên lãnh đạo chúng tôi chống đối dân Ca nan và chỉ huy trận mạc?". Chúa phán: "Giu đa phải tiến lên. Đây Ta trao lãnh thổ trong tay y". Thế nên Giu đa nói cùng anh mình là Si mon: "Anh hãy cùng em tiến vào phần thăm của em mà giao chiến với dân Ca nan, rồi sẽ cùng anh vào phần thăm của anh". Si mon liền đi theo em mình. Giu đa tiến quân, Chúa trao dân Ca nan và Phê rê trong tay họ: Tại Bê xách họ đánh bại được một vạn người. Gặp A đô ni Bê xách nên giao chiến với chúng, tàn sát dân Ca nan và Phê rê. Lúc vua A đô ni Bê xách trốn chạy, họ rượt theo bắt được liền chặt các ngón tay ngón chân. A đô ni Bê xách nói: "Bảy chục vua lượm cơm rơi dưới gầm bàn ta, đã bị ta chặt các đầu ngón tay ngón chân. Ta hành động sao Thiên Chúa lại báo ứng lại như vậy". Kế, con cháu Giu đa vây đánh, hạ Giêru salem, dùng kiếm tận sát và phóng hỏa thiêu hủy thành.

Sau đó, họ kéo xuống xung kích dân Ca nan cư ngụ tại trung châu và miền núi mạn nam.

Giu đa lại tiến quân đánh dân Ca nan hiện cư ngụ tại Hếp ron (tên cũ thành này là Ca ria át bê), trước kia gọi là Ca ria sê phê tức đô thị văn khoa.

Hứa Gả A Xam

Ca lép tuyên bố: "Hễ ai đánh phá được Ca ria sê phê ta sẽ gả A xam con gái ta cho làm vợ". Bấy giờ Ô thô niên con trai Xê nét em thứ Ca lép hạ được thành đó nên Xê nét gả A xam con gái mình cho y. Lúc còn đi đường chồng nàng xúi biểu nên xin nhạc phụ một thửa ruộng. Nàng ngồi trên lưng lừa liền thở dài, Ca lép bèn hỏi: "Chi vậy con?", nàng đáp: "Xin cha ban phước cho con. Cha đã cho con đất cằn cỗi xin cũng xin cho con thêm nước mà tưới". Ca lép liền cho nàng luôn cả nguồn trên suối dưới.

Hồi ấy, con cháu Xi nết bà con bên ngoại với Moi sê từ thành Chà là cũng lên cư ngụ với con cháu Giu đa ở nơi rừng già thuộc phần cấp Giu đa về mạn nam A rát.

Sau đó, Giu đa với anh là Si mon cùng nhau tiến lên tàn sát và diệt dân Ca nan định cư tại Sa phát; vì thế người ta còn gọi tên thành ấy là Hốt ma nghĩa là trục xuất. Giu đa lại hạ thành Ga xam chiếm hết bờ cõi, Át can và At ca rôn cùng ruộng đất phụ thuộc. Vì Chúa phù trì nên Giu đa chiếm hết miền núi nhưng không diệt nổi dân ở dưới thung vì chúng có nhiều thiết xa.

Họ theo lệnh Moi sê, tặng thành Hếp rôn cho Ca lép, rồi người đuổi ba con trai Ê nách ra khỏi thành.

Con Cháu Giu Se

Con cháu Ben gia minh không trục xuất nổi dân Giê bu cư ngụ tại Giêru salem, nên người Giê bu vẫn sống chung với con cháu Ben gia minh tới ngày nay.

Gia đình Giu se cũng tiến lên Bê then và được Chúa luôn phù hộ. Đương lúc họ vây thành này trước kia gọi là Lu xa, thấy có người trong thành đi ra liền hỏi y: "Lối vào thành đâu xin chỉ giùm rồi chúng tôi sẽ hậu tạ". Nhờ y chỉ điểm nên họ dùng kiếm đánh phá thành, tha cho y và thân quyến y được sống.

Thoát chết, người đó đến xứ Hê thim kiến thiết thị xã nơi đây và đặt tên là Lu xa, cho tới nay người ta vẫn còn gọi tên đó.

Những Chi Lừng Khừng

Ma na sê cũng không hủy diệt nổi dân Bê then, Tha nách và các thôn trang với cả dân cư Đô rê, Giét lam, Ma giét cùng xóm làng nữa, đàng khác lại để dân Ca nan vẫn tiếp tục chung sống với mình. Sau dân Ít ran trở nên cường thịnh rồi, không thèm tiêu diệt chúng nữa, chỉ bắt chúng chịu sưu thôi. Cả chi Ếp ranh cũng chẳng tàn sát dân Ca nan cư ngụ tại Ga xa mà lại sống chung với chúng.

Chi Xa bu lon cũng không thủ tiêu dân cư, Xết ron và Na lôn mà còn cho dân Ca nan cư ngụ lẫn với mình nhưng chúng phải nạp thuế.

A sê cũng vậy, không diệt dân ở At cô, Si đôn, Át láp, A ca, Hen ba, A phách và Rô hóp; sống chung cả với dân Ca nan trong cùng một xứ mà chẳng giết quách chúng đi.

Chi Nép tan cũng chẳng hủy hoại dân Bét san, Bê than, sống đại giữa dân Ca nan nhưng người Bết sam và Bê than phải nạp thuế cho họ.

Dân A mô rê dồn con cháu Đan lên núi, không cho họ xuống đồng bằng: họ phải định cư trên núi Ha rê (tức vùng đất hến) tại Gia lon và Sa lép; trái lại gia đình Giu se thẳng tay với chúng, bắt chúng nạp sưu dịch. Còn ranh giới dân A mô rê ăn từ dốc Bọ cạp và hầm đá trở lên.

Các Quan Án Giải Phóng

Cứu Tinh Ô Thô Niên

4. Dân Ít ran làm điều gian ác trước nhan Chúa, quên bẵng Thiên Chúa mình, thờ phượng Ba lim và Át ta rốt. Chúa giận lắm nên trao dân Ít ran trong tay Chu can, Ru sát là vua dân Mê sô phô. Dân chúng bị làm nô lệ cho vua đó đủ tám năm.

Chúng van lơn Chúa, Ngài liền cử vị cứu tinh Ô thô niên con trai Xê nét, em thứ Ca lép vùng lên giải phóng cho dân chúng. Thần linh Chúa bang hộ cho người xét đoán dân Ít ran và xuất trận: Chúa trao phó Chu san Ra sát vua Sy ria trong tay người nên người đại thắng. Lãnh thổ được thanh bình bốn chục năm, rồi Ô thô niên từ trần.

Cứu Tinh A Ốt

Vì con cháu Ít ran lại làm điều ác trước mặt Chúa, nên Ngài cho Ết long vua dân Mô áp trở nên hùng cường và chống lại chúng. Kế, Ết long liên kết với các dân Am môn và Am lách diệt dân Ít ran hầu thôn tính thị trấn cây Dừa.

Con cháu Ít ran phải phục vụ Ết long quốc vương Mô áp mười tám năm.

Đến sau dân chúng cầu xin Chúa, Ngài liền khiến vị cứu tinh qui danh A ốt, con trai Giê ra cháu Giê minh, con người khởi nghĩa này sử dụng kiếm khéo léo được cả hai tay. Con cháu Ít ran cử người đi sứ công lễ Ết long vua dân Mô áp. Người bèn tự chế một đoản kiếm hai lưỡi, cán dài một gang tay đeo trong áo bên hông mặt, rồi đi cống, Ết long vua dân Mô áp là một người mập ú. Cống lễ nhà vua rồi, người bảo các bạn đồng hành rút lui, còn mình đến Gan gan nơi có nhiều tượng thần, bèn quay trở lại thưa cùng vua: "Tâu hoàng thượng, thần xin có điều mật tấu". Vua liền ra lệnh: Im! Mọi người rút lui ra ngoài. Vua ngồi lại một mình trên lầu mát, lúc ấy A ốt tiến lại gần nói: "Thần xin thưa cùng hoàng đế một lời của Thiên Chúa". Vua tức khắc đứng dậy rời khỏi ngai, A ốt liền dùng tay trái rút đoản kiếm phía hông hữu thọc mạnh vào bụng vua, đốc kiếm lút theo, mỡ líp lại chung quanh lưỡi kiếm. Người không rút kiếm ra để mặc cho lưỡi kiếm thấu qua lưng: phân trong bụng vãi ra ở hậu môn. Rồi, A ốt đóng chặt các cửa lầu, khóa lại cẩn thận, rút lui qua lối hành lang êm ru! Cận thần vào xem, thấy các cửa lầu đóng kín thì nói: "Có lẽ ngài đại tiện trong lầu mát chăng!". Chúng đợi lâu đến phát thẹn thùng mà chẳng thấy mở ra, bèn lấy chìa khóa mở cửa vào, bỗng thấy chúa thượng mình nằm chết trên đất.

Ít Ran Phục Thù

Trong lúc chúng đương bấn loạn A ốt tẩu thoát lẻn qua chỗ nhiều tượng thần khi nãy mà đến Sây rát. Tức khắc người rúc kèn trên núi Ếp ranh: dân con Ít ran cũng theo người kéo xuống và chính người đi tiền phong. A ốt hô dân chúng: "Hãy theo ta vì Chúa đã trao dân thù Mô áp trong tay ta". Họ liền kéo theo người chiếm cứ ghềnh sông Gióc đan dẫn đến Mô áp và cấm chỉ không cho ai sang sông, lúc đó họ tàn sát hàng vạn người toàn là những dân quân hùng mạnh, không một ai thoát được. Từ đó, dân Mô áp phải luồn cúi dưới quyền dân Ít ran. Lãnh thổ hưởng thanh bình tám chục năm tròn.

Sau người, có Sam ga con trai A mát dùng một lưỡi cày giết chết sáu trăm dũng sỹ Phin tinh. Rồi cũng chính người bảo vệ nhân dân Ít ran.

Cứu Tinh Đê Bô Ra

Sau khi A ốt lìa trần, con cháu Ít ran lại thêm gian ác mất lòng Chúa; nên Ngài để chúng lọt vào tay Gia bin quốc vương dân Ca nan đóng đô tại A sô: Tướng Si sa chỉ huy quân đội hoàng gia là dân ngoại đóng tại Ha rô. Vua có chín trăm thiết xa ức hiếp con cháu Ít ran trong hai mươi năm trời; rồi họ mới van lơn Chúa.

Hồi đó có nữ tiên tri Đê bô ra là vợ La phi đốt, bà đương thời xét đoán trong dân: Bà ở trên núi Ếp ranh giữa Ra ma và Bê then, con cháu Ít ran lên đó xin bà xử đoán mọi việc. Bấy giờ bà sai đi mời Ba rách con trai A bi nam ở Ca đê thuộc chi Nép tan đến, căn dặn: "Chúa là Thiên Chúa dân Ít ran ra lệnh cho ngươi: hãy lựa chọn mười ngàn chiến sĩ trong đám con cháu Nép tan và Xa bu lôn, rồi dẫn quân đội đó lên núi Tha bô, Ta sẽ dụ tướng Si sa với quân đội của Gia bin lẫn xe cộ và dân chúng đến cho ngươi tại thác Xi sơn".

Ba rách đáp: "Nếu bà cùng đi tôi mới đi; bà mà không đi, tôi đâu dám". Bà trả lời: "Ừ thì tôi cùng đi; nhưng phen này vinh dự khải hoàn không qui về ngươi đâu vì Si sa sẽ bị trao vào tay một người đàn bà. Kế, Đê bô ra đứng dậy đi với Ba rách đến Ca đê. Chàng tập họp hai chi Xa bu lôn và Nép tan lại, lựa một muôn chiến sĩ tiến lên đi cùng Đê bô ra.

Hê Bê Xê Nét

Hê bê là người Xê nét trước đã rời khỏi dân Xê nét lại là con cháu Hô báp bà con bên ngoại của Moi sê, đi lập trại trong thung kia gọi là Sen nim gần Ca đê.

Si Sa Thất Bại

Họ tin cho Si sa: "Ba rách con trai A bi nan đã lên tới núi Tha bô". Si sa liền ra thâu góp tất cả được chín trăm thiết xa và toàn thể quân đội từ Ha rô gần thác Xi xơn. Đê bô ra bảo Ba rách: "Hãy đứng lên! Vì hôm nay chính là ngày Chúa trao Si sa trong tay ngươi. Phải, chính Ngài là tướng lãnh ngươi". Ba rách từ núi Tha bô xuống cùng với mười ngàn chiến sỹ. Bấy giờ Chúa khiến Si sa cũng như tất cả xa mã và dân chúng hoảng sợ trước lưỡi kiếm của Ba rách, cực chẳng đã Si sa phải tụt khỏi xe chạy bộ mà trốn. Ba rách bèn rượt theo ngựa xe và đội quân đương tẩu thoát cho tới Ha rô khu của lương dân. Hết thảy quân thù đều bị giết.

Si Sa Toi Mạng

Còn Si sa chạy trốn tới trại của Gia hên vợ Ha bê người Xê nét. Hồi ấy, Gia bin vua A xô và gia đình Ha bê người Xê nét hòa hảo cùng nhau. Nên Gia hên ra đón Si sa bảo y: "Xin mời ông quá bộ vào đừng e ngại". Y liền vào trại và nàng lấy áo choàng đắp cho y, y nói: "Khát quá! Xin cho tôi miếng nước". Nàng mở bình sữa cho y uống lại đắp mền giùm nữa. Si sa căn dặn nàng: "Xin bà cảm phiền đứng ngoài cửa trại nếu có ai đến hỏi bà: có ai ở trong chăng?, bà hãy đáp giùm: Chẳng có ai hết". Rồi thiếp đi, ngủ lăn như chết. Gia hên vợ Ha bê vào nhà lựa một cái đanh, tay cầm búa lớn rón rén bước tới nín hơi đóng đanh vào thái dương y thấu sọ cắm xuống đất đương lúc y ngủ mê như chết. Y tắt thở liền. Đúng lúc, Ba rách đuổi theo Si sa vừa tới nơi, Gia hên ra đón người và nói: "Mời ông vô, tôi xin chỉ giùm người ông đương tìm kiếm". Vừa vào nhà, người nhìn thấy Si sa nằm chết đó, chiếc đanh còn cắm thấu màng tang.

Được Dân Giải Phóng

Ngày đó, Chúa làm cho Gia bin quốc vương Ca nan bị nhục trước mặt dân con Ít ran, ngày ngày họ càng tiến phát uy thế hùng cường, khống chế nổi Gia biên vua dân Ca nan cho tới khi họ diệt hẳn được hắn

Chiến Đấu Giữa Hai Chi Đan Và Ben Gia Minh

Bạc Đã Thánh Hóa

17. Hồi đó, trong núi Ép ranh có người đàn ông tên là Mi ca, chàng nói với mẹ: "Chính con nghe thấy mẹ đã thề nguyền, mẹ dành riêng cho con một ngàn mốt đồng bạc hiện con đang giữ đây". Mẹ y đáp: "Cầu Chúa ban phước cho con!". Y liền trả lại bạc cho mẹ mình, bà nói: "Mẹ đã thánh hóa và khấn nguyện bạc đó kính Chúa hầu cho con trai mẹ nhận lấy nơi tay mẹ mà chế một tượng chạm. Nay mẹ trao nó lại cho con". Nhưng chàng lại trả bạc đó cho mẹ mình: bà lấy hai trăm đồng trao cho người thợ bạc nhờ hắn chế một tượng chạm trổ để trong gia đình Mi ca. Chàng lại lập riêng một đền nhỏ trong nhà để kính thờ Thiên Chúa; chàng cũng chế một khăn vai, áo lễ tức là áo tư tế và các tượng thần, rồi đặt một con trai mình làm thầy tế lễ.

Hồi đó trong dân Ít ran chưa có vua nên mọi người cứ làm theo điều mình cho là phải.

Trai Làm Tư Tế

Lại có một chàng thanh niên nữa ở Bét lem xứ Giu đa cũng thuộc chi này, y là người Lê vi, ngụ cư ở đó. Y rời Bét lem chủ tâm đi tìm một nơi thuận tiện cư ngụ. Chàng lên đường đi tới núi Ép ranh ở đậu tại nhà Mi ca ít lâu. Mi ca hỏi: "Anh từ đâu tới?". Chàng đáp: "Tôi người Lê vi ở Bét lem chi Giu đa đi quan sát kiếm nơi nào thuận tiện có thể định cư được". Mi ca biểu chàng: "Hãy ở lại đây với tôi vừa làm cha vừa làm tư tế; hằng năm tôi sẽ cung cấp cho mười đồng bạc, một bộ quần áo với thực phẩm cần dùng". Chàng ưng ý ở lại như một người con trai vậy. Mi ca tôn vinh chàng nhận thanh niên đó như tư tế trong nhà mình. Người nói: "Nay ta mới nhận biết: Thiên Chúa ban phước cho ta vì được một tư tế dòng dõi Lê vi".

8. Phần Thứ Tám: Rút

Chương 34. Bà Rút

Bà Rút

Gia Đình Di Cư

1. Đời các quan án lãnh đạo trong xứ xảy ra nạn đói kém: có người từ Bét lem xứ Giu đê cùng với vợ và hai con trai đến ngụ cư trong miền Mô áp. Quí danh Ê li men vợ là Noe mi cùng hai con trai, một gọi là Ma ha lon, người kia là Kê liên. Họ là dân Ép rát ở Bét lem xứ Giu đa tới ngụ tại miền Mô áp. Kế, Ê li men chồng Noe mi qua đời để nàng lại với hai con trai. Hai chàng cưới vợ người Mô áp: một nàng gọi là Ô pha nàng kia tên Rút. Họ chung chung sống với nhau được mười năm. Rồi Ma ha lon và Kê liên cả hai cũng ly trần để hai người đàn bà không chồng không con lại.

Bấy giờ, bà sửa soạn cùng hai nàng dâu rời xứ Mô áp trở về quê vì nghe rằng Chúa đã đoái thương và ban lương thực cho dân chúng. Người rời bỏ nơi trú ngụ cùng hai con dâu sửa soạn lên đường về xứ Giu đê, nên biểu hai nàng: "Các con hãy trở lại gia đình thân mẫu mình. Cầu Chúa thương xót các con cũng như các con cảm thương người đã chết và chính mẹ vậy. Cầu Chúa ban cho hai con được thuận hòa nơi nhà chồng mới". Bà hôn hai nàng, cả hai đều cất tiếng khóc nói: "Chúng con xin đi với mẹ về quê hương mẹ". Bà đáp: "Hai con gái mẹ ơi, cứ về, đi với mẹ làm chi? Há mẹ còn con trai trong lòng để hai con nhận làm chồng được nữa sao? Hai con gái mẹ cứ về, đi đi! Mẹ già quá rồi mong chi chồng con nữa! Vả, cho dầu đêm nay mẹ có mang và sinh trai đi nữa, há hai con đành đợi chúng khôn lớn thành nhân mà không đi lấy chồng hay sao? Mẹ xin: Đừng! Hai con ơi. Vì thảm cảnh của các con khiến mẹ rầu lắm hơn là tay Chúa hành mẹ!". Hai nàng lại cất tiếng nỉ non; rồi Ô pha hôn mẹ chồng mà đi, còn Rút cứ quấn quít bên mẹ chồng mình.

Không Rời Mẹ Chồng

Bà Noe mi biểu nàng: "Kìa, chị con đã về quê hương với các thần của nó rồi, con cũng theo chị con chớ!". Đáp: "Má đừng bắt con bỏ má mà đi, má đi đâu con cũng theo, má ngụ đâu con ở đó; quê hương má là của con, Thiên Chúa má cũng là Chúa Trời con. Má thác nơi nào con cũng chết và chôn ở đó. Ngoài cái chết ra không có chi phân cách mẹ con ta được: Cầu Chúa chứng giám và gia ân cho con". Noe mi thấy Rút quyết chí theo mình nên không bắt nàng lui về bên ngoại nữa.

Mẹ con lên đường trở về Bét lem. Vừa vào thành người ta đã loan truyền mau lẹ; phụ nữ bảo nhau: "Bà này là Noe mi đây mà!". Đáp: "Xin chị em chớ gọi tôi là Noe mi (nghĩa là duyên dáng), cứ kêu bằng Ma ra (tức sầu muộn), vì Đấng toàn năng đã để tôi chịu nhiều cơ cực. Khi ra đi tôi đầy đủ lúc Chúa đem về lại tay không; người phụ nữ: Chúa đã hạ bệ, Đấng toàn năng đã giáng họa, cớ sao chị em còn kêu tôi bằng Noe mi chớ?".

Đó, Noe mi với nàng dâu Rút người Mô áp từ nơi di cư đã trở về Bét lem. Hồi đó nhằm mùa gặt lúa mạch.

9. Phần Thứ Chín: Sa Muên

Chương 35. Sa Muê Tiên Tri và Quan Án

Chương 36. Sa Muên Với Sao Lê

Chương 37. Sao Lê Với Đa Vít

Chương 38. Triều Đại Sa Lô Mon

Chương 39. Đa Vít Làm Vua Ít Ran

Chương 40. Tội Lỗi Đa Vít

Chương 41. Đa Vít Và Áp Sa Lon

Chương 42. Đa Vít Là Thi Sĩ

Sa Muên Tiên Tri và Quan Án

En Can Với Vợ

1. Tại Ra ma Sô phim có một người danh hiệu En can quê ở núi Ép ranh, là con trai Giê rô bam, cháu Ê liu, chắt Thô hu, chút Súp thuộc dân Ép ranh. En can có hai vợ: nàng cả tên An na, nàng thứ là Phê nen; nàng Phê nen sinh nhiều con trai, còn An na không con. Theo nhật kỳ, người chồng từ quê mình lên Si lô nơi thờ phụng dâng của lễ kính Chúa các quân cơ. Ở đó, hai con trai Hê ly là Ốp ni và Phi nê đều làm tư tế Thiên Chúa.

Ngày En can đi hiến lễ, người chia phần cho vợ là Phê nen cùng các con trai con gái; còn An na sầu muộn nên được chi phần cho gấp đôi bởi vì Chúa đã khiến nàng son sẻ. Vả, nữ đối thủ nàng hay khiêu khích nhục mạ nàng thái quá chỉ vì Chúa đã khéo kín cửa lòng nàng. Hằng năm, tới nhật kỳ phải lên đền Chúa, En can đều xử sự như vậy, Phê nen vẫn trêu chọc nàng. Nên nàng khóc lóc bỏ ăn, chồng nàng hỏi: "An na, sao mình khóc lóc bỏ cả ăn uống, sao mình buồn lòng như thế? Đối với mình há anh chẳng quý hơn mười đứa con trai sao?".

An Na Cầu Nguyện

Tại Si lô, lúc ăn uống xong, khi tư tế Hê ly đương ngồi trên ghế trước cửa đền Chúa, An na đứng dậy.

Trong lòng sầu khổ nàng cầu nguyện trước nhan Chúa, mặt dầm dìa giọt lệ, nàng khấn nguyện: "Lạy Chúa quân lực thiên binh! Nếu Chúa đoái thương tới sự đau khổ của nữ tỳ này, tất Chúa nhớ đến chẳng quên tôi là đầy tớ gái Chúa. Nếu Chúa ban cho nữ tỳ Chúa một mụn con trai tôi sẽ dâng nó trọn đời cho Chúa, dao cạo sẽ không hề đụng tới đầu nó".

Đương lúc nàng mải mê cầu nguyện trước nhan Chúa, Hê ly chú ý nhìn miệng nàng. Vì An na thầm cầu khẩn, miệng nàng chỉ mấp máy không phát ra thành tiếng, nên Hê ly ngờ nàng say, liền hỏi: "Chừng nào người mới hết say? Đi giã rượu đi!". An na đáp: "Thưa cụ, đâu có vậy! Tôi là con đàn bà bạc phước; suốt đời đâu dám bê tha trà rượu tôi chỉ bày giãi đoạn trường trước nhan Chúa thôi. Vì sự tình đời đoạn đắng cay tới nay không tả, xin chớ tưởng nô tỳ cụ là đứa đồi bại, tội nghiệp!". Hê ly biểu nàng: "Con về bình an, cầu mong Thiên Chúa dân Ít ran sẽ cho con như sở nguyện". Nàng thưa: "Ước cho tôi tớ này được ơn trước mặt người". Kế, thiếu phụ lui ra ngoài ăn uống với diện mạo vui tươi.

Sa Muên Sinh Ra

Mai sáng, vợ chồng thức dậy làm lễ Chúa rồi lên đường về nhà mình tại Ra mát. En can ở cùng vợ là An na: Chúa liền nhớ đến nàng. Ít ngày sau An na có thai, sinh hạ một trai đặt tên là Sa muên vì nàng đã xin được nó nơi Chúa.

En can chồng nàng và cả gia đình cùng lên đền Chúa long trọng hiến của lễ theo với lễ khấn kính Chúa. Riêng An na không đi dự lễ, nàng biểu chồng: "Em không đi, đợi khi con thôi bú em sẽ dẫn nó lên trình diện trước nhan Chúa và rồi cho nó ở lại đó luôn". En can chồng nàng đáp: "Tùy mình xét điều nào cho nên thì cứ làm. Vậy mình ở nhà chờ lúc con thôi bú. Cầu Chúa thực hành như lời Ngài hứa!". Nàng ở lại và cho con bú tới nó dứt sữa.

Dâng Con Cho Chúa

Sau ngày con thôi bú nàng liền cùng con đến đền Chúa ở Si lô, đem theo ba con bê đực, ba đấu bột và một bình rượu; bấy giờ con nàng hãy còn thơ ấu. Họ hiến tế con bò đực và dâng con trẻ cho Hê ly. An na thưa: "Bẩm cụ, xin kính chúc cụ hồn xác an khang! Chính tôi là người đàn bà hồi trước đứng nơi đây trước mặt cụ mà cầu khẩn cùng Chúa. Cầu xin được đứa nhỏ này, Chúa đã nhận lời nài xin ban cho như sở nguyện. Vậy, tôi xin dâng cháu đây cho Chúa trọn dời".

Mẹ con thờ lạy Chúa tại đó rồi An na cầu kinh, ứng khẩu như sau:

Sa Muên Với Sao Lê

Dân Xin Lập Vua

8. Hồi đó, Sa muên đã cao niên, người lập các con trai mình lên làm quan án cho dân Ít ran. Con trai trưởng tên Gio ên, con thứ là A bia đều làm quan án tại Bét sa bê, nhưng con trai người không theo đường lối của người, trái lại họ sinh lòng tham ăn hối lộ lỗi đức công bằng.

Nên toàn thể trưởng lão trong dân Ít ran tập họp thưa cùng Sa muên tại Ra mát như sau: "Thưa, ông cao niên mà con trai ông không theo đường lối của ông. Bây giờ xin đặt quốc vương lên xét đoán cho chúng tôi như các dân tộc khác hiện có". Sa muên bất mãn vì lời thỉnh cầu: "Xin đặt cho một vua để xét đoán chúng tôi"; Sa muên liền cầu nguyện cùng Chúa. Ngài phán biểu Sa muên: "Hãy cứ ưng thuận các điều dân yêu cầu; không phải chúng muốn phế ngươi đâu nhưng chính chúng từ bỏ Ta hầu Ta không cai trị chúng nữa. Theo mọi hành động của chúng đối xử với ngươi, từ ngày Ta cứu chúng khỏi nước Ai Cập cho tới ngày nay y như chúng đã từ bỏ Ta mà thờ các thần ngoại lai vậy. Thôi ngươi cứ nghe lời chúng; nhưng hãy lưu ý chúng, hãy nói cho chúng biết trước pháp chế của vua cai trị chúng như thế nào".

Pháp Chế Quân Chủ

Sa muên thuật lại các lời Chúa cho dân xin lập vua, người tuyên bố: "Pháp chế của quốc vương chủ trị như sau: người sẽ bắt con trai các ngươi sung vào đội chiến xa kỵ mã đi tiền phong xa giá người; sẽ lập chúng làm tướng tá quân sỹ, cày ruộng gặt lúa, chế tạo quân cụ chiến xa. Bắt thiếu nữ con các ngươi làm thợ chế dầu thơm, tiếp vận lương thực, sẽ thâu thổ sản ruộng đất, vườn nho, ô liu của các ngươi mà cấp cho quần thần; sẽ đánh thuế vào mùa màng vườn đất của các ngươi để cấp phát cho hoạn quan lính tráng; sẽ bắt tôi tớ gái trai dân đinh cường tráng và cả lừa của các ngươi mà sung vào quân vụ, sẽ đánh thuế mười phần trăm vào đoàn vật của các ngươi; lại chính các ngươi cũng sẽ làm tôi mọi cho vua nữa. Có ngày các ngươi phải ca thán việc hiện diện của quốc vương do chính các ngươi đã tuyển lấy, nhưng lúc đó Chúa sẽ chẳng nhậm lời đâu vì các ngươi đã tự ý xin lập vua".

Dầu vậy dân chúng không thèm nghe lời Sa muên, họ nói: "Không! Phải có một quốc vương cho chúng tôi. Chúng tôi phải giống như các quốc gia khác, vua của chúng tôi xét đoán chúng tôi, người sẽ đi tiền phong, sẽ chiến đấu cho chúng tôi".

Sa muên nghe lời dân chúng và thưa lại những điều đó cùng Chúa. Ngài truyền dạy Sa muên: "Ngươi cứ y lời xin mà lập vua cho chúng". Kế, Sa muên ra lệnh cho dân chúng Ít ran: "Ai lui về thành nấy".

Sao Lê Với Đa Vít

Con Trai Y Sai

16. Bấy giờ Chúa phán truyền Sa muên: "Ta đã truất phế Sao lê không cho cai trị Ít ran nữa, ngươi còn thương khóc nó đến bao giờ chớ? Hãy đổ dầu đầy sừng của ngươi đi. Ta sẽ sai ngươi đến với Y sai người Bét lem vì Ta đã trù liệu cho một đứa trong bọn con trai y lên làm vua". Sa muên thưa: "Làm sao mà đi được? Nếu Sao lê hay biết giết tôi liền". Chúa phán: "Ngươi phải tự tay dắt một con mê trong đàn đi rồi nói: Tôi đến dâng lễ kính Chúa. Ngươi gọi Y sai đến dự sính lễ, Ta tỏ cho ngươi biết việc mình phải làm, Ta sẽ chỉ cho ngươi biết người nào ngươi phải xức dầu".

Sa muên tới Bét lem thi hành đúng mệnh lệnh Chúa. Lúc đó các trưởng lão trong thành bỡ ngỡ ra đón người, hỏi rằng: "Phải chăng ông đem bình an đến?" Đáp: "Bình an! Tôi đến dâng của lễ kính Chúa. Hãy thánh hóa đi rồi hiệp cùng tôi dâng của lễ". Người cũng thánh hóa Y sai và các con trai người và mời họ cùng dự lễ.

Họ vừa tới, thấy Ê li áp, Sa muên thì thầm: "Phải chi đấng Kitô của Chúa ở trước nhan Ngài!" Chúa liền phán biểu Sa muên: "Chớ nhìn diện mạo và tầm vóc cao lớn của nó. Ta bỏ đứa này; đâu Ta có xét theo tầm mắt của nhân loại: vì loài người xem bề ngoài nhưng Thiên Chúa thấy tận đáy lòng. Kế, Y sai kêu A bi nát tới dẫn lại gần Sa muên. Người biểu: "Chúa cũng không chọn đứa này". Y sai lại dẫn trình Sam ma đến, người nói: "Chúa cũng chẳng lựa tên này". Y sai dẫn cả bảy con trai mình đến trước mặt Sa muên nhưng Sa muên bảo Y sai: "Chúa đâu có chọn lựa mấy đứa này!".

Xức Dầu Đa Vít

Sau, Sa muên hỏi Y sai: "Các con trai người đã tới đầy đủ chưa?" Thưa: "Còn một thằng nhỏ nữa đi chăn chiên". Sa muên nói với Y sai: "Hãy cho kêu nó về; chúng ta không ngồi ăn trước khi nó về đây". Người sai đi dẫn chàng về: Mặt chàng hồng hào xinh lịch dĩnh ngộ! Chúa liền phán: "Đứng dậy xức dầu cho hắn, chính y đó". Sa muên cầm sừng dầu xức cho chàng ở giữa anh em. Từ đó về sau Thần linh Chúa hướng dẫn Đa vít. Còn Sa muên đứng dậy trở về Ra mát.

Ca Nhạc Giải Sầu

Thần linh Chúa lìa khỏi Sao lê và Chúa khiến một ác thần quấy phá. Các cận thần Sao lê tâu: "Kìa, ác thần Thiên Chúa khủng bố! Xin chúa thượng lệnh cho triều thần tìm một người thạo nghề nhạc ca, hầu mỗi khi ác thần Chúa quấy nhiễu bệ hạ, người đó gẩy đờn để bệ hạ được thư thái". Nên, Sao lê đáp lời các cận vệ: "Các ngươi hãy tìm cho ta một người đờn giỏi rồi dẫn y lại đây". Một cận vệ trong bọn tâu: "Đây, tôi thấy con trai Y sai người Bét lem thạo đờn, một chiến sĩ dũng cảm hiếu chiến ăn nói bặt thiệp lại đẹp trai nữa. Quả có Chúa phù hộ y". Sao lê sai sứ giả đến nhà Y sai ra lệnh: "Hãy sai Đa vít con trai người đương chăn chiên đến cùng trẫm". Y sai liền lấy một thúng đầy bánh, bầu rượu, một dê con đương bú chất trên lừa rồi sai Đa vít con trai mang đến tặng Sao lê. Đa vít vào ra mắt Sao lê. Sao lê thương Đa vít lắm nhận làm cận vệ. Lại sai sứ thuyết với Y sai: "Xin cho Đa vít đứng hầu cận ta vì y hợp ý ta lắm". Rồi mỗi lúc ác thần Chúa hành hạ Sao lê, Đa vít ôm đờn mà nảy, Sao lê liền được an ủi dễ chịu: vì ác thần phải lìa xa

Triều Đại Sa Lô Mon

Đa Vít Về Già

1. Vua Đa vít niên cao tác cả mặc bao nhiêu áo cũng không ấm. Quần thần tấu vua: "Lũ bầy tôi xin tìm cho chúa thượng một trinh nữ thanh xuân, nàng sẽ hầu cận săn sóc hoàng thượng, nằm ngủ trong lòng hoàng thượng và sưởi ấm cho hoàng thượng". Rồi, họ tìm kiếm khắp lãnh thổ Ít ran thiếu nữa xinh đẹp: gặp A bi sác người Su nam liền đem cống vua, thiếu nữa này xinh lịch tuyệt vời, nàng săn sóc và ngủ chung cùng vua; nhưng vua không ăn ở với nàng.

Âm Mưu A Đo Nia

Hồi đó, A đô nia con trai Ác gít tự tôn và tuyên bố: "Ta sẽ làm vua". Y sắm chiến xa, quân kỵ với năm chục quân sĩ đi tiền phong. Phụ vương chàng cũng chẳng rầy la hoặc xét hỏi: "Sao mà làm như vậy?" Vả, chàng đẹp trai lắm, là em thứ Áp sa lon, chàng luận bàn với Gio áp con trai Sát via và tư tế A bia tha vì hai người theo phe A đô nia; còn Sa đóc tư tế, Ba nai con trai Giô gia đa, tiên tri Na than, Se mây, Rây cùng lực lượng quân đội của Đa vít không a túng với A đô nia, người đem về nạp cho chúa thượng đây.

Thương Khóc Sao Lê

Đa vít liền xẻ áo mình ra, các quân sĩ tùy tùng cũng làm theo: Họ để tang than khóc, ăn chay cho tới chiều ngõ hầu phúng điếu Sao lê, Gio na than con trai người, dân Chúa và nhà Ít ran đã bị lưỡi gươm hạ sát.

Đa vít lại hỏi thanh niên: "Ngươi ở đâu tới?" Đáp: "Tôi là con trai người Am lách ngoại bang". Đa vít nói: "Cớ sao ngươi không sợ để tay mình dính vào việc giết đấng Kitô Thiên Chúa?" Rồi kêu một người trong bọn vệ sĩ mình, ra lệnh: "Mi hãy xông vào giết nó đi!" Tên vệ sĩ bèn đánh chết nó. Đa vít lại nói: "Máu mi đổ trên đầu mi: chính miệng mi cáo mi: "Tôi hạ sát đấng Kitô Chúa".

Điếu Văn Đa Vít

Đa vít khóc than thành điếu văn để phúng Sao lê và Gio na than con trai người; lại truyền dạy các nhi đồng chi Giu đa bài ca đã ghi chép trong sách "Thiện nhân" sau đây:

Ít ran hỡi! Nhìn người bị thương,

Chết nơi đồi cao, bao vấn vương!

Nhân tài Ít ran thác trên núi:

Tại sao anh hùng bị hất hủi?

Thôi đừng báo cho Giét hay tin,

Chớ rêu rao trong phố Át lin;

E thiếu nữ Phin tinh hoan hỷ,

Gái không cắt bì lại phi chí.

Nguyện núi Giên bô;

Không sương mù cũng chẳng mưa sa;

Đồng ruộng tịch không lễ đầu mùa,

Tại đây khiến người hùng mang nhục.

Thuẫn Sao lê không được xức dầu!

Mũi tên Gio na than dính đầy máu,

Mỡ tử Thiên Chúa và kẻ chiến đấu,

Gươm Sao lê vô dụng não nề!

Sao lê, Gion tình thâm bất diệt,

Lúc sinh thời hoàn toàn tốt đẹp,

Sau khi thác vẫn chẳng chia phôi,

Lẹ hơn ưng, mạnh dường sư tử.

Thiếu nữ Ít ran khóc Sao lê đi!

Nhờ ngươi các cô áo điều sặc sỡ,

Chưng diện xiêm y dát vàng rực rỡ.

Người dõng sĩ sao ngã nơi trận tiền?

Gion tha thác tận đồi cao?

Gio tha nghĩa huynh tôi hỡi!

Nhớ thương anh!

Đẹp thay tình bạn!

Quí hơn phụ nữ!

Tôi yêu anh với lòng chân thật,

Như bà mẹ yêu dấu con một!

Các anh hùng lại ngã gục sao?

Binh khí họ há đành tiêu diệt?

Đa Vít Làm Vua Ít Ran

Ít Ran Tôn Vương

5. Bấy giờ toàn thể các chi tộc Ít ran họp tại Hếp rôn thưa cùng Đa vít: "Chúng tôi đều là cốt nhục của ngài. Mặc dầu từ trước tới nay tuy Sao lê làm vua nhưng ngài vẫn dẫn dắt nhân dân Ít ran. Vì Thiên Chúa đã phán biểu ngài: "Ngươi hãy chăn dắt Ít ran dân Ta, hãy làm thủ lãnh dân Ít ran!" Hết thảy các trưởng lão dân Ít ran đều đến yết kiến đức vua tại Hếp rôn. Vua Đa vít đoàn kết với họ trước nhan Chúa tại Hếp rôn. Rồi họ xức dầu tôn Đa vít làm quốc vương Ít ran. Hồi đó Đa vít còn thanh niên, lên làm vua năm ba mươi tuổi và cầm quyền được bốn mươi năm: Tại Hếp rôn người cai trị chi Giu đa bảy năm sáu tháng, tại Giêru salem Đa vít làm vua toàn thể dân Ít ran và Giu đa ba mươi ba năm.

Hạ Đồn Si On

Nhà vua đem quân sĩ đến Giêru salem đánh dân Giê bu sê. Chúng nói với Đa vít: Chớ vào đây, nhưng người đui kẻ què sẽ đánh đuổi người! Chúng có ý nói: Không khi nào Đa vít vào đây được! Nhưng Đa vít hạ đồn Si on tức là thị trấn Đa vít từ đây. Hôm đó, Đa vít treo giải thưởng cho ai giết được Giê bu sê, phá được cống nước của địch, diệt được kẻ mù què ghen ghét sinh mạng Đa vít; vì thế thành câu ngạn: "Kẻ mù người què đều không được vào đền". Đa vít ở trong đồn, đặt tên là thị trấn Đa vít. Người xây tường tứ vi từ Mê lô trở vào. Đa vít vào đồn rồi, càng ngày càng cường thịnh, có Thiên Chúa là Chúa quân đội phù hộ người.

Quốc vương Hi ram ở Ty rô cũng sai sứ đến yết kiến Đa vít: đem theo gỗ bách hương, thợ mộc, thợ đá, thợ hồ xây đền cho Đa vít, Đa vít hiểu biết rằng Chúa đã xác nhận mình làm quốc vương Ít ran và tôn vinh vương quyền mình vì dân Ngài.

Hoàng Gia Đa Vít

Sau ngày Đa vít tới Hếp rôn không những tuyển nhiều cung phi, lại còn nhiều thứ thiếp ở Giêru salem nữa; Người sinh nhiều hoàng nam và công chúa. Đây, danh sách các hoàng nam sinh tại Giêru salem như sau: Sa mua, Sô bát, Na than và Sa lô môn, Giê ba, En sua và Nê phách, Gia phia, En sam, E lin đa và Ê li phan.

Đại Thắng Phin Tinh

Dân Phin tinh nghe tin Đa vít được phong vương toàn thể liền kéo nhau lên lùng Đa vít. Đa vít được tin đó bèn xuống dưới đồn. Lúc đó quân Phin tinh kéo đến đứng la liệt trong thung Ra phanh. Đa vít cầu vấn cùng Chúa: "Tôi có nên tiếp đánh Phin tinh chăng? Chúa có trao phó chúng trong tay tôi chăng?" Chúa đáp: "Cứ tiến! Ta sẽ trao quân Phin tinh vào tay ngươi". Đa vít liền cấp tốc kéo đến Ba an Pha rát, người vừa phản công chúng ở đó vừa nói: "Chúa phân rẽ quân thù trước mặt tôi như rẽ nước ra vậy!" Nên người ta đặt tên nơi đó là "Ba an Pha rát". Chúng bỏ các thần của chúng lại, nên Đa vít và quân sĩ lấy đem đi.

Quân Phin tinh còn trở lại lần nữa rải rắc khắp thung Ra phanh. Bấy giờ Đa vít cầu vấn Chúa: "Tôi có cần tiến lên đánh quân Phin tinh và Chúa có trao chúng vào tay tôi chăng?" Chúa phán: "Chớ lên thắng trước mặt, phải đi vòng sau lưng chúng về phía tràm Giấy; khi nào nghe tiếng chân động trên ngọn tràm Giấy, lập tức phải giao tranh: Lúc đó Chúa sẽ xuất hiện trước mặt ngươi mà đột kích cơ ngũ Phin tinh. Đa vít thi hành đúng lệnh Chúa, đánh đuổi quân Phin tinh từ Ga ba cho đến Giê xê.

Tội Lỗi Đa Vít

Đa Vít Ngoại Tình

11. Qua năm mới, các vua thường ra giao tranh. Đa vít cử Giô áp, cận vệ cùng toàn thể Ít ran đi tiễu trừ dân Am môn và vây thành Ráp ba; Đa vít ở lại Giêru salem.

Đương khi các việc trên tiến hành, xảy ra một buổi trưa. Đa vít vừa trong trướng thức dậy đi bách bộ trên sân thượng hoàng cung, Đa vít nhìn thấy trước mặt một đàn bà đương tắm trên sân thượng nhà mình. Nàng rất xinh lịch. Rồi, vua sai đi dọ hỏi thiếu phụ ấy là ai. Họ thưa đó chính Bết sa bê ái nữ Ê liêm vợ U ria người Hê thê. Đa vít sai sứ mời nàng tới. Nàng vừa vào tới Đa vít liền ngủ cùng nàng. Vả nàng mới sạch tháng (hết kinh). Nàng trở về nhà mình thì có thai, nên nàng sai người báo cáo cùng Đa vít: "Tôi đã mang thai".

Đa vít sai sứ đến cùng Giô áp, căn dặn: "Hãy biểu U ria đến cùng Đa vít. Đa vít hỏi thăm về Giô áp và dân quân có bình an chăng, trận mạc ra thế nào, rồi Đa vít nói với U ria: "Hãy trở về nhà ngươi rửa chân đi". U ria vừa rời khỏi hoàng cung, có kẻ đem theo người món ăn nhà vua. Nhưng, U ria ngủ ngay trước cửa đền vua cùng các cận vệ của vua chớ không về nhà mình.

Mưu Toan Giấu Tội

Họ báo cáo với Đa vít, rằng: "U ria không về tư thất". Đa vít hỏi U ria: "Há chẳng phải ngươi đi xa mới về sao? Cớ sao không về thăm nhà?" U ria tâu Đa vít: "Hòm Thiên Chúa dân Ít ran và dân Giu đa vẫn ở dưới trại, vả Giô áp chủ tướng tôi, các quân sĩ của chúa thượng đều hạ trại trên mặt đất; mà tôi dám về nhà mình ăn uống ngủ nghỉ với vợ tôi sao? Vì hạnh phúc và tính mạng ngài tôi không nỡ làm việc đó". Đa vít lại dạy U ria: "Thôi, nay cứ ở lại đây, ngày mai ta sẽ cho đi". U ria ở lại Giêru salem hôm ấy và ngày sau nữa. Rồi, Đa vít với người ăn uống trước mặt mình lại làm cho người say. Nhưng đến tối, U ria ra ngủ trên giường mình với các vệ sĩ của vua chứ không về tư thất.

Trù Tính Sát Nhân

Sáng mai, Đa vít viết thơ gởi tay U ria cho Giô áp, trong thơ căn dặn: "Hãy đặt U ria ở hàng đầu mặt trận giao chiến mạnh nhất, để mặc thây y bị đánh cho chết". Vì vậy, khi Giô áp vây thị trấn liền cử U ria đến địa điểm mà người đã biết nơi đó có những quân sĩ dũng cảm nhất: quân trong thành kéo ra tấn công Giô áp: mấy quân nhân Đa vít bị gục ngã, cả U ria người Hê thê cũng tử trận.

Giô áp liền sai đem tin cho Đa vít mọi công chuyện ở trận địa, người căn dặn thông tín viên: "Sau khi tường thuật mọi việc nơi trận mạc trước nhan vua, nếu ngài bất mãn và hỏi: Cớ sao các ngươi tới sát tường thành mà giao chiến? Há không hiểu rằng người ta bắn tên sát từ trên mặt tường xuống sao? Xưa ai giết A bim lách con trai Giê rô bam? Há không phải một phụ nữ đã vần một thớt cối từ trên mặt tường xuống trúng hắn và giết chết hắn tại Thê bê sao? Thế sao các ngươi còn đến sát tường? Ngươi phải tâu: Cả U ria tôi tớ chúa thượng người Hê thê cũng tử trận nốt".

Lấy Vợ U Ria

Thông tín viên liền đi tường thuật mọi điều với Đa vít theo đúng lệnh Giô áp, và tâu bày cùng Đa vít: "Quân của họ trội hơn quân ta, chúng kéo ra ngoài đồng; nhưng chúng tôi thình lình đánh đuổi chúng đến sát cửa thị xã. Quân thiện xạ từ trên tường thành bắn tên xuống trúng các quân sĩ của bệ hạ nên một mớ quân bị chết, cả U ria người Hê thê tôi tớ của ngài cũng bị chết". Bấy giờ Đa vít nói cùng thông tín viên: "Ngươi phải thưa cùng Giô áp: "Chớ khổ tâm về việc đó. Biến cố chiến tranh phức tạp lắm: gươm! Khi giết kẻ này lúc diệt người kia. Hãy can đảm áp đảo đô thị và hủy diệt thành đi, hãy úy lạo quân sĩ".

Vợ U ria nghe tin U ria chồng mình đã chết thì than van khóc thương người. Tang chế xong. Đa vít sai người đón nàng vào hoàng cung, nàng nghiễm nhiên làm vợ Đa vít, sinh hạ một hoàng nam. Những hành động này của Đa vít không tốt đẹp trước tôn nhan Chúa.

Đa Vít Và Áp Sa Lon

Mưu Mô Ma Quái

13. Sau đó xảy ra một chuyện Áp sa lon con trai Đa vít có em gái rất xinh, mỹ danh Tha ma mà Am non cũng là con trai Đa vít lại yêu nàng, chàng say mê quá đỗi nên ngã bệnh; vì nàng còn đồng trinh nên khó lòng cho chàng làm điều bất chánh. Am non có người bạn thân tên Gio na đáp con trai Sem ma anh Đa vít, một thanh niên rất tinh quái. Hắn hỏi chàng: "Hoàng tử ơi! Cớ sao mỗi ngày cứ hao mòn dần đi vậy? Sao không nói trắng ra với tôi?" Am non đáp: "Tôi yêu Tha ma em gái Áp sa lon anh của tôi". Gio na đáp bàn như sau: "Anh cứ giả vờ đau nằm lỳ trên giường; lúc nào thân phụ lại thăm, anh thưa với người: Xin cha cho Tha ma em con đến dọn thức ăn cho con, em con nó tự tay nấu cháo cho ăn". Thế rồi Am non làm bộ nằm liệt giường. Khi vua tới thăm, chàng tâu: "Xin cha cho Tha ma em con đến làm giùm hai bánh nhỏ trước mặt con, con mới chịu ăn do tay em dọn".

Hiếp Dâm Em Ruột

Đa vít liền sai người vào cung biểu Tha ma: "Con hãy tới điện của Am non anh con nấu cho nó". Tha ma lại nhà Am non anh mình: chàng đương nằm. Nàng lấy bột mì nhồi làm bánh nhỏ và hấp trước mặt anh. Nàng nhắc chảo xuống trút bánh đặt trước mặt anh nhưng chàng không chịu ăn. Am non biểu nàng: "Em hãy đuổi mọi người ra hết đi!" Lúc hết thảy rút lui rồi, Am non nói cùng Tha ma: "Em hãy tự tay bưng đồ ăn vào phòng dọn cho anh ăn". Tha ma liền bưng mấy bánh mình mới làm vào phòng cho anh. Nàng vừa dâng bánh, chàng ôm đại lấy nàng thủ thỉ: "Này em của anh ơi, nằm với anh đi!" Nàng đáp: "Đừng, anh ơi! Chớ hiếp em! Trong dân Ít ran không hề có chuyện đồi bại như vậy: Chớ làm ô nhục như thế. Em sẽ không mang nhục nổi đâu, và anh sẽ thành kẻ đê tiện trong dân Ít ran! Thà rằng anh cứ tâu với vua cha có hơn không, ngài chẳng cấm anh lấy em đâu". Nhưng chàng không thèm nghe vẫn dùng sức mạnh mà hãm hiếp nàng.

Yêu Lắm Ghét Nhiều

Thỏa mãn xong, Am non ghét nàng đến đỗi sự ghen ghét của chàng đối với nàng lúc đó lại sâu rộng hơn tình yêu khi trước; Am non biểu nàng: "Thôi cút đi!" Nàng đáp: "Đuổi tôi đi thế này là việc quấy, còn xấu xa hơn việc ác anh vừa làm cho tôi!"; nhưng chàng không thèm nghe, chàng gọi đứa đầy tớ hầu mình, biểu nó: "Mi hãy tống cô này ra ngoài khuất mặt tao, rồi đóng cửa lại cho tao!" Nàng mặc áo trắng dài như các công chúa còn trinh quen mặc. Tôi tớ của chàng đuổi nàng ra mà đóng cửa lại.

Nàng bỏ tro trên đầu, xé áo dài, lấy hai tay bưng đầu vừa đi vừa la. Áp sa lon anh trai hỏi nàng: "Há Am non anh của em đã ngủ với em phải chăng? Thôi im mồm đi! Vì mình là em gái, nó lại là anh mình! Chớ cực lòng quá về chuyện đã rồi!" Tha ma vì kiệt sức nên nghỉ lại điện Áp sa lon anh mình.

Vua Đa vít nghe biết chuyện này buồn rầu lắm, nhưng không nỡ làm phiền lòng Am non con trai mình, phần vì yêu con phần vì chàng là con trưởng. Trái lại, Áp sa lon không nói năng gì dầu lành dầu dữ với Am non: Áp sa lon ghét Am non vì hắn đã hãm hiếp em gái mình.

Am Non Bị Giết

Cách hai năm sau đương mùa Áp sa lon xén lông chiên ở Ban ha sô gần Ép ranh: Áp sa lon mời hết các hoàng tử đến. Người cũng vào tâu xin vua: "Hiện tôi tớ bệ hạ đương xén lông chiên, kính xin phụ hoàng và quần thần đến thăm kẻ hạ thần". Vua phán biểu Áp sa lon: "Chớ, con ơi, đừng mời ta đến đông đảo e làm phiền cho con". Nhưng Áp sa lon cứ nài nẵng không chịu lui nên vua chúc lành cho. Áp sa lon lại tâu: "Nếu cha không muốn đi ít là xin cho Am non anh con cùng đi với chúng con". Vua đáp: "Cần gì nó phải đi với con". Áp sa lon cố nài ép mãi nên vua đành cho phép Am non và các hoàng tử cùng đi với người.

Áp sa lon đã dọn tiệc như một ngự yến. Áp sa lon ra lệnh và căn dặn các đầy tớ: "Hãy quan sát, lúc nào Am non rượu đã chếnh choáng, khi ta biểu các ngươi: Hãy đánh Am non! Cứ giết hắn đi. Đừng sợ vì chính ta ra lệnh cho tụi ngươi. Can đảm lên cho ra người dũng mãnh!" Vậy, các đầy tớ Áp sa lon bạo hành với Am non đúng như lệnh Áp sa lon. Bấy giờ các hoàng tử ai nấy đều đứng dậy cỡi lừa chuồn hết.

Tin Đồn Thất Thiệt

Đương đi dọc đường, tin đồn đã vọng đến Đa vít: "Áp sa lon tận sát các vương tử rồi không sót một mống". Vua đứng dậy xé áo mình phục xuống đất; quần thần hầu cận cũng xé áo mình ra. Nhưng Gio na đáp con trai Sem ma anh ruột Đa vít tâu: "Kính tâu chúa thượng xin chớ tưởng rằng các hoàng tử đều bị giết hết, duy có một mình Am non thất lộc, vì Áp sa lon đã chủ tâm ngay từ hồi Am non hãm hiếp Tha ma em gái mình rồi. Vì vậy, tâu chúa thượng, xin đừng bận tâm về lời người ta đồn: "Hết thảy hoàng tử đều bị giết, chỉ có mình Am non chết thôi. Còn Áp sa lon trốn thoát".

Cha Để Tang Con

Bấy giờ, một thanh niên canh gác ngước mắt nhìn, bỗng thấy nhiều người đi tới theo con đường vòng nơi sườn núi. Gio na đáp liền tâu vua: "Kìa các hoàng tử lộ diện rồi, đúng như lời hạ thần vậy!" Vừa dứt lời, các vương tử đến. Họ bước vào liền cất tiếng khóc, khiến vua và các cận thần đều nức nở châu sa lệ nhỏ!

Bấy giờ, Áp sa lon trốn sang ẩn tại nhà Thô lô mai con trai Am miu quốc vương Giê suy. Đa vít để tang con trai mình luôn luôn. Còn Áp sa lon trốn chạy sang đất Giê suy ở đó ba năm.

Rốt cục, Đa vít bỏ không theo dõi Áp sa lon nữa vì cái tang của Am non đã được nguôi đi.

Đa Vít Là Thi Sĩ

Thánh Vịnh

22. Sau thời gian Chúa đã cứu Đa vít khỏi tay các thù địch, khỏi tay Sao lê, người hát lên lời thi thiên ca tụng Chúa như sau:

Chúa là thạch đầu, là sức mạnh

Cùng là vị cứu Chúa tôi,

Chúa quyền năng, tôi trông cậy Người:

Là khiên mộc là sừng cứu rỗi,

Nơi náu ẩn, tháp cao vòi vọi,

Đấng cứu chuộc thứ mọi tội khiên.

Tôi cầu khẩn Thiên Chúa tôn vinh,

Mong thoát tay mọi quân thù địch,

Vì tử thần bốn bể vây khít,

Tôi kính sợ nơi thác Bê liên;

Dây âm phủ quấn chặt thâu thân,

Lưới tử thần cuốn lôi rình rập.

Cơn hoạn nạn tôi cầu xin Chúa,

Tôi thiết tha nguyện cầu Cha Cả

Chốn thiên cung Ngài sẽ nhậm lời,

Tiếng tôi kêu thấu đến tai Người.

Trái đất rung kinh động lay chuyển,

Ngài thịnh nộ, núi non xao xuyến!

Khói bốc lên từ lỗ mũi Người,

Lửa nơi miệng than hừng đỏ tươi.

Nghiêng tầng trời rồi Ngài ngự tới.

Dưới chân Ngài mây mù u tối.

Cỡi Kê ru Ngài xuống như bay,

Ngự cánh gió đến mau lẹ thay.

Chung quanh Ngài như một cái trại:

Nước cùng mây tuôn như sàng sẩy.

Trước nhan Ngài sấm chớp chói lòa.

Ngọn lửa hồng bốc cháy sáng lòe.

Chúa khiến sét từ trời tỏa xuống,

Đấng chí tôn uy nghi lên tiếng.

Ngài bắn tên tàn phá quân thù,

Khiến sấm sét thiêu hóa diệt trừ.

Kìa sóng biển nổi lên cuồn cuộn,

Nền địa cầu phơi ra sừng sững,

Ngài khiển trách, phát cơn lôi đình.

Bằng hơi thở khiếp đởm thất kinh!

Từ trên cao tay Ngài nắm lấy,

Kéo tôi ra khỏi nước đầy rẫy,

Cứu sống tôi khỏi tay bạo tàn,

Oán ghét tôi, hùng dũng muôn phần;

Bị tấn công trong thời hoạn nạn,

Nhưng Thiên Chúa đã thương ngăn cản,

Dẫn dắt tôi tới chốn thênh thang.

Cứu vớt vì tôi mến tôi ngoan,

Ngài thưởng tôi tùy theo công phúc,

Ngài hoàn lại bằng tay thanh sạch;

Tôi tiến bước theo đường nẻo Ngài,

Không bạo động bất kính Chúa Trời.

Mệnh lệnh Ngài luôn luôn trước mắt:

Giới răn Ngài không hề bỏ mất!

Cố tiến lên theo Chúa đến cùng,

Cầu Chúa thưởng thể theo phước đức,

Tay thanh sạch Ngài thấy trước mắt.

Với người nhân, Ngài cũng xử nhân,

Ai hoàn hảo, Ngài xử vẹn toàn.

Ai được tuyển, Ngài đã lựa chọn,

Nhưng vỏ quít dầy, móng tay nhọn!

Ngài cứu độ đám dân bần hàn,

Và hạ bệ những mắt kiêu căng.

Chúa tôi ơi, Ngài như đèn sáng.

Cầu Chúa cho tối tăm tỏ rạng.

Nhờ vào Chúa, tôi chạy hiên ngang,

Chúa phù hộ tôi vượt qua tường.

Đường lối Chúa vốn là trong sạch,

Giọng như lửa, kiên hùng như thuẫn,

Muôn người chỉ mong vào náu ẩn.

Ngoài Chúa ra còn biết có ai?

Trừ Thiên Chúa mạnh đâu sánh tày?

Đối với tôi, như lũy kiên cố,

Dắt tôi đi tiến mau trên lộ.

Khiến chân tôi bước lẹ như nai,

Đặt tôi lên cao tít tầng mây:

Ngài thao luyện tay tôi giao chiến,

Cung đồng chính tay tôi điều khiển;

Khiên cứu chuộc Chúa khừng ban riêng,

Từ bi Chúa khuyến khích tôi liên:

Đường lối tôi Chúa càng mở rộng,

Gót chân tôi luôn luôn xao động:

Đuổi kẻ thù mạt sát địch quân.

Giết cho sạch, mới về bình an,

Giết ngã quay, chúng không dậy được,

Dưới chân tôi chúng đều ngã gục.

Chúa giúp tôi xuất trận oai hùng,

Khiến quân thù đều phải cúc cung!

Chúng xây lưng cừu địch ghen ghét,

Chúng bị tôi phá tan tận diệt.

Chúng hô hào nhưng chẳng ai thương,

Kêu van Chúa Ngài nào có dung!

Tôi diệt chúng dường như bụi đất.

Giay dưới chân tựa như bùn nát!

Chúa cứu cho, phản kháng nơi đâu?

Chốn trần gian đặt tôi làm đầu.

Kìa dân tộc mình đâu quen biết.

Phục vụ tôi rất là đặc biệt,

Dân ngoại quốc đối địch cùng tôi.

Vừa nghe tiếng, thần phục tức thời.

Người ngoại quốc đều bị tiêu tan.

Kéo nhau đi rời nơi chán nản.

Chúa hằng sống, Ngài đáng ngợi khen!

Cứu Chúa tôi thật đáng tôn vinh!

Chỉ vì tôi Chúa đành trả oán,

Bất thần phục một cách ngoan ngoãn.

Chúa cứu tôi khỏi mọi kẻ thù,

Quân phản bội, kính trọng tôn thờ,

Cứu tôi khỏi con người tội lỗi!

Chúa ôi! Mừng Ngài giữa dân ngoại,

Mong Thiên Chúa được hiển thanh danh!

Mừng Cứu Chúa ca tụng quốc quân,

Ngài ban thưởng hồng ân Đa vít,

10. Phần Thứ Mười: Vua

Chương 43. Đa Vít Lên Ngôi Tại Hếp Rôn

Chương 44. Giê Rô Bam Phản Loạn

Chương 45. Tiên Tri Ê Lia

Chương 46. Vua

Chương 47. Tiên Tri Ê Li Sê

Chương 48. Các Vua Cuối Sa Ma Ria Bị Triệt Hạï Kitô và dòng họ muôn kiếp!

Đa Vít Lên Ngôi Tại Hếp Rôn

Nghe Sao Lê Chết

1. Được tin Sao lê ly trần, Đa vít cũng vừa thắng xong quân Am lách, trở về Si xen nghỉ tạm hai hôm. Qua ngày thứ ba, bỗng có người từ dinh trại Sao lê trở về, áo quần rách nát đầu tóc bơ phờ đến trước mặt Đa vít sấp mình xuống lạy. Đa vít hỏi: "Ngươi ở đâu tới?" Hắn thưa: "Tôi từ trại quân Ít ran trở về". Đa vít lại hỏi: "Chuyện chi xảy ra hãy kể ta nghe". Thưa: "Nhân dân trốn khỏi chiến trường, nhiều người bị ngã bị chết; Sao lê và con trai người là Gio na than cũng đều tử trận".

Đa vít lại hỏi thanh niên thông tin: "Làm sao ngươi biết Sao lê và con trai người thất lộc?" Thanh niên thưa: "Tình cờ tôi qua núi Giên bô, thấy Sao lê nằm úp lên giáo mình, xe và quân kỵ đuổi theo gần kịp, người quay lại sau lưng nhìn thấy tôi bèn gọi. Tôi đáp: "Có tôi". Người hỏi: "Người là ai?" Đáp: "Tôi là dân Am lách". Người biểu tôi: "Hãy đứng trên mình ta và giết ta đi, tuy ta bị đau khổ thâm bầm nhưng hãy còn sống". Nên, tôi đứng lên trên mà giết người đi vì biết rằng sau tai nạn người cũng không thể sống được nữa; rồi tôi lấy triều thiên trên đầu người và vòng vàng nơi cánh tay A đô nia hiến tế chiên đực, bò mộng với các vật mập bên phiến đá Xô hê lét gần giếng Rô giên, chàng cũng triệu tập các anh em hoàng tử cùng hết thảy quân nhân Giu đa hầu cận hoàng thượng; nhưng không mời tiên tri Na than, Ba nai cùng các dõng sĩ và Sa lô mon em chàng.

Kế Hoạch Na Than

Kế, Na than hỏi Bét sa bê thân mẫu Sa lô mon: "Bà há không nghe nói A đô nia con trai Ác gít lên trị vì mà chúa thượng Đa vít chẳng hay biết chi hết sao? Giờ đây bà hãy nghe tôi hiến kế để bà tự cứu mạng sống của bà và Sa lô mon con trai bà: Hãy vào chầu vua Đa vít và tâu cùng ngài như sau: "Kính tâu chúa thượng, chúa thượng há chẳng thể cùng nữ tỳ ngài rằng: Sa lô mon con trai người sẽ làm vua kế vị ta sao? Cớ sao A đô nia lại làm vua? Trong lúc bà tâu vua như vậy tôi sẽ vào để bổ túc lời bà".

Van Lơn Khéo Léo

Đoạn Bét sa bê vào tận phòng riêng chầu vua: người đã già lắm rồi, có A bi sác người Su nam săn sóc ngài. Bét sa bê khom mình xuống lạy vua, ngài hỏi: "Người muốn gì?" Bà tâu: "Kính bẩm chúa thượng, chúa thượng đã thề cùng nữ tỳ của ngài trước mặt Chúa là Chúa Trời như sau: "Sa lô mon con trai người sẽ kế vị, sẽ ngự trị trên ngai ta. Nhưng, muôn tâu chúa thượng, ngài không rõ, chớ A đô nia hiện đương nắm chính quyền. Người giết bò giết bê và nhiều chiên đực béo tốt, cho mời các hoàng tử, tư tế A bia tha và tổng chỉ huy quân đội Gio áp, nhưng không mời Sa lô mon tôi tớ ngài đến dự. Thực sự, muôn tâu chúa thượng, toàn dân Ít ran đương dán mắt vào ngài, chúa thượng ôi! Họ mong được biết ngay sẽ chỉ định ai lên ngôi báu kế nghiệp ngài. Mai đây khi chúa thượng an giấc cùng tổ phụ rồi, tôi và Sa lô mon con trai tôi sẽ phải tội".

Tiên Tri Can Thiệp

Đương lúc bà khởi tâu cùng vua, tiên tri Na than đến. Người ta tâu vua: "Có tiên tri Na than vào chầu". Na than vào xấp mình xuống đất lạy, tâu: "Muôn tâu chúa thượng, chúa thượng có phán A đô nia sẽ kế vị ta trị vì, sẽ ngự trên ngai ta chăng? Sao hôm nay người lại giết bò và chiên nhiều lắm, mời các vương tử tướng lãnh trong quân đội, cả tư tế A bia tha nữa, họ đương ăn uống trước mặt người và hô to: "Vạn tuế quốc vương A đô nia!", họ không mời hạ thần, tư tế Sa đóc, Ba nai con trai Giô gia đa và Sa la mon nô bộc của chúa thượng. Việc này há phải do chúa thượng ra lệnh chăng? Hạ thần cũng không được nghe chúa thượng chỉ định ai sẽ kế vị chúa thượng hầu trị vì trên ngôi báu.

Lòng Mẹ Toại Nguyện

Vua phán: "Hãy gọi Bét sa bê!" Bà liền vào chầu đức vua. Vua thề và phán: "Có Thiên Chúa chứng giám, Đấng đã giải thoát sinh mạng ta khỏi mọi hoạn nạn. Ta cũng nhân danh Chúa là Thiên Chúa Ít ran mà thề cùng ngươi: "Sa lô mon con trai ta sẽ làm vua kế vị ta, chính nó sẽ thế ta ngự trên ngôi báu của ta, hôm nay ta thi hành đúng vậy". Bét sa bê sấp mặt xuống đất lạy vua mà tung hô: "Đa vít! Hoàng phu tôi, vạn tuế!"

Tôn Vương Sa Lô Mon

Đa vít phán tiếp: "Hãy kêu tư tế Sa đóc, tiên tri Na than và Ba nai con trai Giô gia đa cho ta". Họ vừa tới trước long nhan, vua phán: "Hãy đem vệ sĩ của các ngươi theo, hãy đỡ Sa lô mon con trai ta ngồi trên lừa cái của ta và tháp tùng người đến tận Gi hơn; tư tế Sa đóc và tiên tri Na than hãy xức dầu cho người làm quốc vương Ít ran rồi các người thổi kèn và tung hô: "Vua Sa lô mon vạn tuế!" Các ngươi tiến lên theo tân vương người sẽ ngồi trên ngai ta và trị nước thay ta đó chính là người, ta truyền ngôi cho làm thủ lãnh toàn cõi Ít ran và Giu đa vậy".

Kế, Ba nai con trai Giô gia đa thưa cùng đức vua: "Tuân lệnh! Chúa là Thiên Chúa của hoàng thượng cũng phán định như vậy và khiến cho ngai của tân vương còn cao trọng hơn ngai của Đa vít chúa thượng tôi". Rồi tư tế Sa đóc, tiên tri Na than, Ba nai con trai Giô gia đa các người Xê rét và Phê lét đều tiến xuống công kênh Sa lô mon cỡi lên con la của Đa vít rồi cung nghinh đến Gi hơn. Tư tế Sa đóc lấy sừng dầu nơi nhà tạm xức cho Sa lô mon. kèn vang lên, toàn dân hoan hô: "Sa lô mon vạn tuế!" Nhân dân theo tân vương tiến lên, sáo thổi tiếng reo vang dội đến đất cũng rung chuyển.

Báo Tin Giật Gân

A đô nia và hết thảy những thực khách tới dự tiệc đều nghe rõ. Thế là tan tiệc, Giô át nghe tiếng kèn chợt hỏi: "Sao trong thị trấn nghe xôn xao vậy?" Đương nói, bỗng Gio na than con trai tư tế A đia tha đi tới, A đô nia nói: "Mời người hùng vào, chắc có tin mừng". Gio na than thưa cùng A đô nia: "Đâu có, Đa vít chúa thượng chúng ta đã đưa Sa lô mon lên ngôi báu, đức vua sai tư tế Sa đóc, tiên tri Na than, Ba nai con trai Giô gia đa phó quân Xê rét và Phê lét đi hộ giá; họ đỡ tân vương ngồi lên lừa cái của thái thượng hoàng; tư tế Sa đóc và tiên tri Na than xức dầu cho tân nam vương ở Gi hơn. Xong họ rất hoan hỉ trở về, cả thành đều tưng bừng, đó chính là tiếng các ông vừa nghe thấy.

Vả Sa lô mon ngồi trên ngai cửu ngũ, quần thần đến chúc phước Đa vít chúa ta và tung hô: "Cầu Thiên Chúa làm cho danh Sa lô mon được tôn vinh hơn Đa vít khiến ngôi tân vương cao trọng hơn ngôi vua cha. Rồi thái thượng hoàng thờ lạy Chúa ngay nơi long sàng, ngài cầu xin: "Tán tạ Thiên Chúa Ít ran vì hôm nay Ngài không cho một vị ngồi trên ngai tôi trước mắt tôi chứng kiến!"

Lúc đó hết thảy các vị được A đô nia mời dự tiệc đều hoảng hồn, họ vùng chạy mỗi người một ngả. A đô nia cũng sợ Sa lô mon, đứng dậy vừa đi vừa nắm các sừng ở bàn thờ!

Vỡ Mộng Hoàng Đế

Có người tin cho Sa lô mon: A đô nia sợ vua Sa lô mon lắm, đương vừa nắm sừng ở bàn thờ vừa nói: "Hôm nay vua Sa lô mon hãy thề với tôi đi, người chớ dùng gươm mà giết tôi tớ người". Sa lô mon đáp: "Nếu ngươi cư xử tử tế dầu một sợi tóc của người cũng không rụng xuống đất; bằng thấy người làm điều ác sẽ bị xử tử". Rồi vua Sa lô mon sai đưa A đô nia xuống khỏi bàn thờ. Vào bệ kiến vua Sa lô mon, người nói: "Người hãy trở về nhà đi".

Giê Rô Bam Phản Loạn

Rô Bam Tức Vị

12. Rô bam đến Si kem: toàn thể Ít ran tề tựu lại đón người lên làm vua. Mặt khác, Giê rô bam đương náu ẩn tránh mặt vua Sa lô mon bên Ai Cập vừa nghe tin vua băng hà liền từ Ai Cập trở về. Dân chúng sai đi mời người, rồi Giê rô bam cùng toàn thể công hội Ít ran đến tâu cùng Rô bam: "Thân phụ ngài đã mắc ách cho chúng tôi nặng quá, nên bây giờ xin ngài nới sự áp bức và ách nặng của phụ vương ngài giảm đi một chút thì chúng tôi xin phục vụ ngài". Rô bam đáp: "Đồng bào cứ lui đi, qua ngày thứ ba hãy trở lại yết kiến ta".

Bỏ Già Nghe Trẻ

Dân liền lui ra. Vua Rô bam hội nghị cùng các vị lão thành trước đây vốn hầu cận Sa lô mon buổi sinh thời, vua hỏi: "Các khanh hãy hiến kế cho trẫm trả lời nhân dân ra sao?" Quần thần tâu: "Giờ đây, nếu bệ hạ nghe theo và ủng hộ dân chúng, đáp ứng lời họ thỉnh cầu và trò chuyện thân mật với họ, trọn đời họ sẽ làm thần dân bệ hạ".

Nhưng Rô bam không theo kế hoạch của các trưởng lão đã bàn với mình, lại chiều ý bọn thanh niên đồng trang hiện đương hầu cận và hỏi họ: "Dân chúng thỉnh cầu ta: "Xin giảm nhẹ ách do phụ hoàng đã đặt trên cổ chúng tôi". Vậy các anh hãy bàn luận xem ta phải trả lời cho dân thế nào?"

Bọn thanh niên đồng trang cùng vua đáp: "Xin ngài trả lời cho dân chúng yêu sách ngài đó, vì họ tâu: "Thân phụ ngài làm nặng ách chúng tôi, xin ngài rút nhẹ đi cho chúng tôi", bệ hạ cứ đáp lại chúng như vầy: "Ngón tay út của trẫm còn to hơn cả lưng phụ vương trẫm! Cha trẫm đã chất ách nặng trên các ngươi, còn trẫm sẽ làm cho ách các ngươi càng nặng thêm; thân phụ ta đã dùng roi da đánh các ngươi, ta ư? Ta sẽ lấy roi sắt mà trừng trị các ngươi!"

Chia Rẽ Trầm Trọng

Ngày thứ ba Giê rô bam và toàn dân yết kiến Rô bam y như vua đã dặn trước: "Ngày thứ ba hãy trở lại gặp ta". Song, vua bỏ lơ lời các vị lão thành đã bàn, lại đối đáp với dân bằng những lời cứng cỏi; vua theo kế hoạch các thanh niên mà nói với họ như sau: "Phụ vương ta làm nặng ách các ngươi, phần ta càng làm cho ách đó thêm nặng; phụ vương ta dùng roi da đánh các ngươi, phần ta sẽ lấy roi sắt mà quất!" Vua không chiều ý dân chúng, âu Chúa khiến như vậy hầu cho lời Ngài dùng uy A hia người Si lô nói cùng Giê rô bam con trai Na bát được ứng nghiệm.

Dân Ít ran thấy vua không chịu nghe lời, họ liền thưa: "Dân chúng tôi có ăn nhằm chi với Đa vít, đâu có sản nghiệp nào là của con trai I sai? Hỡi dân Ít ran! Hãy trở về nhà! Bớ Đa vít! Nay đi hãy coi chừng gia đình ngươi!" Rồi, dân Ít ran rút lui ai về nhà nấy. Dẫu vậy, Rô bam vẫn làm vua con cháu Ít ran đương cư ngụ tại các thành thuộc xứ Giu đa; nên vua Rô bam cử A đu ram đốc suất thuế khóa, nhưng cả dân Ít ran ném đá cho người chết. Vua Rô bam cấp tốc lên xe trốn về Giêru salem. Thế là dân Ít ran lìa bỏ nhà Đa vít cho tới ngày nay.

Làm Vua Mười Chi

Khi ấy toàn thể Ít ran vừa nghe Giê rô bam trở về, họ tề tựu sai mời người lại rồi lập lên làm vua cả dân Ít ran; ngoài chi Giu đa ra chẳng còn ai theo gia đình Đa vít nữa.

Kế, Rô bam về Giêru salem tập hợp toàn thể gia đình Giu đa và chi Ben gia minh lựa chọn một trăm tám chục ngàn chiến sĩ toan đi giao chiến với cả dân Ít ran để giành nước lại cho Rô bam con trai Sa lô mon. Xảy có lời Chúa phán cùng người của Thiên Chúa là Se mê gia thế này: "Người hãy thông báo cho Rô bam con trai Sa lô mon vua Giu đa cùng đại gia đình Giu đa, Ben gia minh và phần dân còn lại, Chúa phán như sau: "Các người chớ tiến lên và cũng đừng giao chiến với con cháu Ít ran là đồng bào mình. Các chiến sĩ hãy trở về đi, vì việc này do Ta mà ra!" Họ tuân theo lời Chúa mà rút lui như lệnh Chúa truyền.

Giê rô bam kiến thiết Si kem trên núi Ép ranh mà ở lại đó; kế lại xây dựng Pha nuen.

Dân Thờ Bò Vàng

Bấy giờ, Giê rô bam thầm nghĩ: "Rồi ra triều đại này lại trở về với gia đình Đa vít chăng. Nếu dân mình cứ lên hành lễ tại đền thờ Chúa ở Giêru salem thì lòng dân chúng sẽ qui thuận với chủ mình là Rô bam vua Giu đa mất, rồi chúng sẽ giết mình mà trở về với Rô bam chăng".

Nên vua bàn định rồi đúc hai con bò vàng, tuyên bố với dân chúng: "Hỡi Ít ran, đây là thần của đồng bào đã dẫn đồng bào ra khỏi xứ Ai Cập. Thôi đừng lên Giêru salem nữa". Người đặt một con bò ở Bê then, một con ở Đan. Công việc đó thành ra tội lỗi vì dân chúng đến tận Đan mà thờ bò. Vua cũng cất chùa miếu trên các nơi cao không thuộc hàng Lê vi làm tư tế. Lại ấn định ngày rằm tháng tám là đại lễ giống như lễ trọng quen kính ở Giu đa.

Tại Bê then vua cũng cử hành như vậy: lên bàn thờ tế lễ hai bò vừa mới đúc: lại lập các tư tế trên các nơi cho vua vừa xây cất nữa. Mười rằm tháng tám tức là định kỳ mình tự chọn lấy, vua lên bàn thờ lập tại Bê then để mừng đại lễ với con cháu Ít ran, vua tự dâng hương trên bàn thờ.

Tiên Tri Ê Lia

Quạ Nuôi Tiên Tri

17. Do đó, Ê lia người Thê bít cư ngụ ở Ga lát thưa cùng A cáp: "Tôi đứng trước nhan Thiên Chúa là Chúa Ít ran hằng sống mà tuyên bố: Mấy năm tới đây, nếu tôi không nói, chắc sẽ chẳng có sương sa và mưa móc!"

Lại có lời Chúa phán cùng người như sau: "Ngươi hãy rời khỏi đây qua phía đông mà ẩn náu ở thác Ca rít đối diện Gióc đan: Ở đó ngươi sẽ uống nước khe, Ta truyền cho chim quạ nuôi ngươi". Người liền đi, thi hành theo đúng lời Chúa mà đến ngồi ở thác Ca rít đối diện với Gióc đan. Sớm mai cũng như ban chiều qua đều đem bánh và thịt đến cho người, người uống nước khe. Qua mấy bữa thác cũng cạn vì trong xứ không mưa.

Bà Góa Nuôi Dưỡng

Kế, lại có lời Chúa phán biểu người: "Hãy đứng dậy đến Sa rép thuộc dân Si đôn mà trú ngụ ở đó, vì Ta đã truyền cho một quả phụ nơi ấy nuôi dưỡng ngươi". Người liền đi đến Sa rép: vừa tới cổng thị xã thấy một bà góa kiếm củi liền kêu bà ta mà nói: "Xin cho tôi uống chút nước trong bình". Đương lúc bà ta đi lấy người gọi giựt lại mà biểu: "Xin cho tôi cả miếng bánh trong tay chị nữa". Bà đáp: "Có Chúa hằng sống! Tôi đâu có bánh, duy chỉ có một chút bột trong hũ với chút dầu ô liu trong bình, tôi đi lượm vài que củi đem về làm bánh cho tôi và con trai tôi ăn rồi chết thôi".

Ê lia nói với bà: "Đừng sợ cứ về mà làm như thế đi, nhưng hãy lấy bột đó làm cho tôi một cái bánh lùi nhỏ đem ra đây trước, rồi làm cho mẹ con bà sau. Vì Đức Chúa Trời là Chúa Ít ran phán dạy như vầy: "Hũ sẽ không hết bột bình sẽ không cạn dầu cho đến ngày Chúa khiến mưa xuống trên mặt đất". Bà đi làm theo lời Ê lia, rồi chính Ê lia cùng bà ta và cả nhà cũng ăn. Kể từ hôm đó, hũ chẳng thiếu bột, bình không cạn dầu đúng như lời Chúa đã dùng Ê lia mà phán trước.

Cứu Sống Con Trai

Sau đó, chẳng may con trai bà chủ nhà bị đau: bệnh nguy kịch lắm nên nó hết thở. Bà thưa Ê lia: "Hỡi người Thiên Chúa, người với tôi có liên can chi? Há ông đến nhà tôi để khơi lại các tội lỗi tôi và giết chết con trai tôi sao?" Ê lia đáp: "Hãy trao con chị cho tôi?" Rồi người bồng đứa trẻ nơi lòng mẹ nó đem lên phòng người trọ, đặt nó nằm trên giường mình.

Người cầu xin van lơn cùng Chúa: "Lạy Chúa là Chúa Trời tôi, cớ sao Chúa giáng họa cho bà góa mà tôi được nuôi dưỡng nơi nhà thị? Chúa đành giết con thị sao?" Người nằm ấp trên mình con trẻ ba lần lại khẩn cầu cùng Chúa như sau: "Ôi, lạy Chúa Trời tôi, xin cho hồn trẻ này hoàn lại trong can trường nó".

Chúa liền nhận lời Ê lia cho hồn con trẻ lại nhập vào nó, nó sống lại tức khắc. Ê lia bồng đứa trẻ xuống lầu trao trả mẹ nó, căn dặn: "Đây này, con trai chị sống lại rồi đó!" Bà ta thưa Ê lia: "Bây giờ tôi mới rõ quả thực ông là người Thiên Chúa; vả lời Chúa nơi miệng ông thiệt đúng".

Vua

Ô Cô Xia Lâm Bệnh

1. A cáp băng hà, Mô áp lại nghịch với dân Ít ran.

Vua Ô cô xia bị té qua song lầu ở Sa ma ria nên mang bệnh. Vua kêu sứ giả và căn dặn: "Hãy đi cầu vấn Ben xê búp thần của Ac ca rôn xem bệnh ta khỏi được chăng?".

Thế nên, thiên sứ truyền biểu Ê lia người Thê bít: "Hãy đứng lên đi đón các sứ giả của vua Sa ma ria, hỏi họ: Trong dân Ít ran há chẳng có Thiên Chúa ư, sao các ngươi lại đi cầu vấn Ben xê búp thần của Ac ca rôn? Vì thế Chúa phán: Ngươi sẽ rời khỏi giường mà ngươi đã leo lên. Thế nào ngươi cũng chết". Ê lia đi liền.

Sứ giả trở về, vua Ô cô xia hỏi chúng: "Sao tụi bay lại lộn về?" Họ tâu vua: "Có một người đón chúng tôi biểu: "Anh em hãy về cùng vua đã sai mình đi mà tâu với Ngài: Chúa phán, trong dân Ít ran há không có Thiên Chúa ư, sao lại cho đi cầu vấn Ben xê búp thần của Ac ca rôn? Do đó, ngươi sẽ rời khỏi giường mà ngươi đã leo lên. Thế nào ngươi cũng chết". Vua lại hỏi chúng: Người ra đón tụi bay nói những tụi đó hình dạng ăn mặc ra sao? Chúng thưa: "Ông đó rậm lông, thắt lưng da". Vua tiếp: "Đó là Ê lia người Thê bít".

Lửa Trời Thiêu Lính

Lúc Ê lia đương ngồi trên đỉnh núi, vua sai một trung đội trưởng mang theo năm chục binh sĩ lên nói với người: "Hỡi người Thiên Chúa, đức vua cho lệnh mời ông xuống". Ê lia đáp: "Nếu quả ta là người Thiên Chúa, nguyện lửa bởi trời xuống tiêu diệt ngươi và năm chục quân của ngươi đi!" Dứt lời, lửa trời xuống đốt hắn cùng với năm mươi người đi theo hắn".

Kế, vua lại sai một trung đội trưởng thứ nhì cùng năm chục binh sĩ khác lên thưa với tiên tri: "Hỡi người Thiên Chúa, có lệnh vua truyền: ngươi hãy xuống ngay lập tức!" Ê lia đáp: "Quả thật ta là người của Thiên Chúa, cầu cho lửa trên trời xuống tiêu diệt ngươi và năm chục quân của ngươi!" Lửa bởi trời xuống đốt hắn với năm chục quân hắn. Vua liền sai trung đội trưởng thứ ba cùng năm chục quân nhân khác theo.

Hắn tới nơi, quỳ gối trước mặt Ê lia van lơn người: "Hỡi người Thiên Chúa, xin chớ coi thường sinh mạng tôi cùng mạng sống các đầy tớ ông hiện đi cùng tôi. Kìa lửa trên trời đã xuống thiêu hủy hai trung đội trưởng và một trăm quân sĩ theo họ mới đây; thôi, giờ đây, xin ông hãy thương mạng tôi".

Vua Sẽ Bị Chết

Thiên sứ Chúa nói cùng Ê lia: "Ngươi cứ xuống với y, đừng sợ". Người bèn đứng dậy theo y xuống bệ kiến nhà vua, tâu bày: "Chúa phán: Vì ngươi dã sai sứ giả đi cầu vấn Ben xê búp thần Ac ca rôn, coi như trong dân Ít ran không có Thiên Chúa hầu cho ngươi được cầu ý nên ngươi sẽ rời khỏi giường ngươi đã leo lên. Thế nào ngươi cũng chết".

Quả nhiên, vua qua đời đúng như lời Chúa đã dùng Ê lia phán trước. Giô ram là em vua lên kế vị nhằm năm thứ hai triều đại Giô ran con trai Giô sa phát quốc vương Giu đa: vì vua tuyệt tự. Các công việc khác Ô cô xia đã hành động há chẳng ghi chép trong sách nhật ký các vua Ít ran

Tiên Tri Ê Li Sê

Kế Nghiệp Ê Lia

3. Ê li sê trông thấy liền la lên: "Cha tôi, cha ôi! Xe và quân kỵ Ít ran!" Ê li sê không nhìn thấy người nữa, người nắm áo mình xé đôi ra. Người nhặt áo choàng của Ê lia vừa rơi xuống trở về đứng ở mé sông Gióc đan. Người dùng áo choàng của Ê lia bỏ lại đập trên nước, nhưng nước không chịu rẽ ra; nên người hỏi: "Thiên Chúa của Ê lia hiện giờ ở đâu rồi?" Người đập nước, nước rẽ ra hai bên, Ê li sê liền sang qua.

Con cháu các tiên tri ở Giê rích đối diện Gióc đan thấy vậy nói: "Thần của Ê lia an nghỉ trên Ê li sê!" Họ liền đến đón, sấp mình xuống đất chào kính người và thưa với người: "Thưa ông, có năm chục người cường tráng trong bọn tôi tớ ông ở sẵn đây, họ có thể đi tìm thầy ông được, e thần Chúa đem người đi; bỏ người trên núi hoặc dưới thung lũng nào chăng". Ê li sê đáp: "Chớ sai họ đi". Nhưng chúng cứ nài ép, không cản được, người biểu: "Ừ, cứ đi!" Họ liền cử năm chục người đi. Ba hôm rồi, họ lục xét mà không gặp nên trở về với người. Lúc đó, Ê li sê ngụ ở Giê rích bảo họ: "Há ta chẳng căn dặn các ngươi chớ đi sao?"

Nước Mặn Hóa Ngọt

Dân cư trong thành thưa với Ê li sê: "Thành này chỗ ở tuyệt đẹp như chính ông mục kích đó, nhưng nước độc lắm, đất đai cằn cỗi". Người biểu: "Trao cho tôi cái bình mới và bỏ muối vào". Họ trao liền, người mamg ra giếng đổ muối xuống đó và nói: Chúa phán: "Ta đã chữa nước này thành nước ngon rồi, tự nó sẽ không còn chát và mặn nữa". Cho tới ngày nay nước trở nên lành đúng như Ê li sê đã nói.

Gấu Cắn Con Nít

Từ đó người lên Bê then: Khi đi dọc đường, các con nít từ trong thị xã kéo ra nhạo báng người, chúng la: "Lão trọc lên đây, lão trọc tiến lên coi!" Người quay lại ngó chúng và nhân danh Chúa nguyền rủa chúng: liền có hai con gấu từ trong rừng xổ ra cắn xé bốn chục trẻ ranh đó.

Từ đây người lên núi Các men, rồi lại trở về Sa ma ria.

Tuyên Chiến Với Mô Áp

Năm mười tám đời Gio sa phát quốc vương Giu đa, Giô ram con trai A cáp cai trị Ít ran tại Sa ma ria được mười hai năm. Vua ăn ở gian ác trước tôn nhan Chúa, nhưng không giống như cha mẹ mình, vì vua phá hủy các tượng Ba an do phụ vương mình đã tạo. Tuy thế vua cũng gắn bó với tội lỗi Giê rô bam con trai Na bát; tức là gây cho Ít ran can phạm mà không chịu tránh xa.

Hồi đó, Mê sa vua dân Mô áp nuôi nhiều đoàn vật: hàng năm vua tiến cống cho vua Ít ran một trăm ngàn chiên con và trăm ngàn chiên đực chưa xén lông. Sau khi A cáp băng hà, vua vi phạm hòa ước ký kết với vua Ít ran. Vì thế vua Giô ram rời khỏi Sa ma ria điểm binh toàn cõi Ít ran; lại sai sứ đến gặp Gio sa phát quốc vương Giu đa, báo cáo: "Vua dân Mô áp phản bội, xin vương huynh cùng đi tấn công giùm tôi". Người đáp: "Đệ sẽ lên: đệ với huynh cũng là một, dân đệ cũng là dân huynh, quân kỵ đệ cũng như kỵ binh của huynh". Người hỏi tiếp: "Chúng ta sẽ tiến theo ngả nào?" Đáp: "Qua rừng I đum".

Ba Vua Lên Đường

Rồi, vua Ít ran, vua Giu đa, vua I đum đều xuất hành, đi dòng dã bảy ngày đường: không còn nước uống cho quân đội và súc vật đi theo. Nên vua Ít ran ta thán: "Rủi thay, khổ quá, xui chưa? Chúa đã qui tụ cả ba vua chúng ta lại để nạp trong tay Mô áp!" Gio sa phát hỏi: "Ở đây có tiên tri Chúa ta nhờ cầu vấn Chúa được chăng?" Một người trong quân vua Ít ran thưa: "Đây có Ê li sê con trai Sa phát trước là đồ đệ Ê lia. Gio sa phát lại nói: "Lời Chúa phán vốn ở nơi người. Ê li sê thưa với vua Ít ran: "Nhà vua và tôi có liên can chi đâu? Cứ đi tới các tiên tri của song thân bệ hạ". Vua Ít ran đáp: "Tại sao Chúa quy tụ cả ba vua này lại để trao họ trong tay Mô áp?"

Bỗng Dưng Có Nước

Ê li sê tâu vua: "Có Chúa quân lực hằng sống, tôi đứng trước tôn nhan Ngài: quả thực nếu tôi không kính nể Gio sa phát quốc vương Giu đa thì tôi đâu có lưu ý cũng chẳng đếm xỉa tới bệ hạ. Nhưng thôi, hãy dẫn đến cho tôi một nhạc sĩ ca, tay Chúa đặt trên tiên tri thì người nói: "Chúa phán như sau: Hãy đào cho nhiều hầm hố khắp trong thung này. Chúa lại phán: Các ngươi không thấy gió cũng chẳng thấy mưa, thế mà thung này sẽ đầy nước cho các ngươi, gia đình và đoàn vật các ngươi được uống. Đối với Chúa, việc này quả là nhỏ mọn, Ngài còn trao phó dân Mô áp vào tay các ngươi nữa. Các ngươi sẽ hủy diệt những thành kiên cố, các thị trấn sầm uất, đốn phá vườn cây ăn trái, bít các suối nước và dùng đá lấp đồng ruộng màu mỡ!" Buổi sáng vào giờ dâng của lễ, bỗng dưng nước từ nẻo Ê đôm chảy tuôn đến, khắp xứ đầy tràn những nước!

Mô Áp Bại Trận

Toàn thể dân Mô áp thoạt nghe tin các vua tiến lên tấn công mình, liền triệu tập hết thảy các dân quân nai nịt khí giới ra ứng chiến ngoài biên thùy. Mới tảng sáng chúng đã dậy, lúc mặt trời mọc phản chiếu xuống nước khiến dân Mô áp ở đàng xa nhìn thấy nước đỏ như máu, nên chúng la ó: Máu của gươm đao đó! Các vua đã tranh chiến nhau, giết chóc nhau. Giờ đây, hỡi Mô áp tiến lên chiếm chiến lợi phẩm. Chúng liền tiến lại gần trại Ít ran; nhưng Ít ran dậy xông đánh Mô áp khiến tụi này phải tẩu thoát trước mặt quân Ít ran. Những quân chiến thắng đánh được Mô áp liền sấn vào: tàn phá thành thị, ai nấy liệng đá lấp các đồn điền phì nhiêu, bít các giếng nước, đốn phá vườn cây ăn trái, đến nỗi chỉ còn thấy những vách thành trơ trọi, rồi sau thành cũng bị các quân quăng đá bao vây, phá hoại tơi bời.

Vua Mô áp thấy mình không tài nào thắng được bên địch nên đem bảy trăm quân sĩ mang kiếm đâm bổ vào vua I đum, nhưng cũng không cự nổi. Rồi vua lại bắt con trai trưởng, người sẽ kế vị mình làm của toàn thiêu trên mặt thành, khiến cho dân Ít ran phẫn uất quá phải rút lui về xứ sở.

Các Vua Cuối Sa Ma Ria Bị Triệt Hạï

A Ma Sia Làm Vua

14. Năm thứ hai đời Giô át con trai Giô cát quốc vương Ít ran, A ma sia con trai Giô át vua Giu đa lên ngôi. Hai mươi tuổi người lên chấp chánh, làm vua ở Giêru salem được hai mươi chín năm; thân mẫu quý danh Giô đan quê Giêru salem. Vua cư xử trung trực trước tôn nhan Chúa, nhưng không được như Đa vít tổ phụ mình: vua thi hành mọi điều như Giô át phụ vương đã làm trước; duy có một điều là vua không chịu hủy bỏ các nơi cao, nên dân chúng vẫn còn hiến tế và đốt nhang trên những nơi đó. Khi lên chấp chánh vua thủ tiêu những đầy tớ đã giết phụ vương mình; người không giết các con trai những kẻ sát nhân đó đúng như đã chép trong sách luật Moi sê theo lệnh Chúa truyền: "Không được giết cha thế con cũng chẳng được giết con thế cha; mỗi người sẽ chết vì tội lỗi mình làm".

Vua tàn sát mười ngàn người Ê đôm tại thung lũng Muối, thôn tính thành Đá và cải tên là Giéc then cho đến nay.

A Ma Sia Bại Trận

Hồi đó, A ma sia sai sứ giả đến cùng Giô át con trai Giô cát cháu Giê hu quốc vương Ít ran thưa: "Hãy đến ta coi thử!" Giô át vua Ít ran cũng sai sứ đến đáp lời A ma sia vua Giu đa như sau: "Cây gai ở Li ban sang đến nói cùng cây hương nam cũng ở Li ban: "Xin cho phép con trai tôi cưới con gái người làm vợ, nhưng mấy thú rừng đi ngang qua chà nát mất cây gai. Ngươi đã chiến thắng dân Ê đôm và lòng ngươi sinh kiêu hãnh. Cứ hưởng vinh quang đi, cứ yên vị nơi nhà mình đi, can chi muốn gây hấn cho chính ngươi và Giu đa phải khổ theo?"

Nhưng A ma sia không ưng thuận, thành ra Giô át quốc vương Ít ran tiến lên: Người và A ma sia vua Giu đa giao tranh với nhau tại làng Bét sam xứ Giu đa. Quân Giu đa bị Ít ran đánh bại phải trốn chạy, ai nấy đều rút về nhà mình. Tại Bét sam Giô át vua Ít ran bắt A ma sia vua Giu đa cầm tù dẫn độ về Giêru salem, phá hổng tường thành Giêru salem một khúc dài bốn trăm thước ăn từ cửa Ép ranh đến cửa Góc; tịch thu vàng bạc và các đồ vật tàng trữ trong đền Chúa, trong ngân khố hoàng gia rồi bắt con tin trở về Sa ma ria.

Giô Át Ít Ran Băng Hà

Các việc khác đời Giô át đã thực hiện, sức mạnh và cuộc chiến thắng A ma sia vua Giu đa há chẳng ghi trong sách nhật ký các vua Ít ran chăng? Giô át an giấc cùng tổ tiên mai táng với các vua Ít ran tại Sa ma ria. Giê rô bam con trai người lên trị vì thay cha.

Cuối Triều A Ma Sia

Sau khi Giô át con trai Giô cát vua Ít ran băng, A ma sia con trai Giô át quốc vương Giu đa còn sống mười lăm năm nữa. Các chuyện khác đời A ma sia há chẳng ghi trong sách nhật ký các vua Ít ran sao? Duyên cớ vì ở Giêru salem có việc phản loạn chống đối vua nên vua phải trốn đi La chi, chúng sai quân rượt theo vua và thủ tiêu người tại La chi. Rồi họ dùng ngựa chở thi hài vua về mai táng cùng tổ phụ trong thành Đa vít ở Giêru salem. Toàn dân Giu đa tôn A xa ria mới mười sáu tuổi lên làm vua thay A ma sia phụ vương người. Sau khi vua cha an giấc cùng tổ tiên, người kiến thiết Ê lát, khôi phục thành nầy cho nước Giu đa.

Giê Rô Bam II Lên Ngôi

Năm mười lăm đời A ma sia con trai Giô át vua Giu đa, Giê rô bam con trai Giô át quốc vương Ít ran lên làm vua tại Sa ma ria được bốn mươi mốt năm. Người cũng cư xử gian ác trước tôn nhan Chúa, không chịu xa lánh tội lỗi Giê rô bam con trai Na bát đã gây cho dân Ít ran phạm lỗi.

Chính người khôi phục lại ranh giới Ít ran từ giáp Ê mát tới biển hiu quạnh đúng như lời Chúa dùng tôi tớ mình là tiên tri Giô na con A mát ở Giét thuộc Ô phê mà phán. Vả, Chúa thấy rõ dân Ít ran bị hà hiếp cay cực, chẳng còn ai ngoài tù ngục, chẳng còn ai tiếp cứu Ít ran nữa; lại nữa, đâu Chúa có phán dạy phải bôi danh sách Ít ran dưới gầm trời nên Ngài dùng tay Giê rô bam con trai Giô át mà giải phóng cho dân chúng.

Các chuyện khác đời Giê rô bam, mọi hành động, lực lượng chiến đấu, cách thức khôi phục Đa mát và Ê mát cho Ít ran trước kia lệ thuộc Giu đa há chẳng chép trong nhật ký các vua Ít ran sao? Giê rô bam an giấc cùng các vua Ít ran tổ tiên mình; Xa ca ria con trai người lên trị vì thay cha.

11. Phần Thứ Mười Một: Sử Ký

Chương 49. Các Thời Đại Từ A Đam Đến Đa Vít

Chương 50. Triều Đại Sa Lô Mon, Đền Thờ

Chương 51. Các Vua Nước Giu Đa

Chương 52. Ê Xách Và Giô Sia

Các Thời Đại Từ A Đam Đến Đa Vít

A Đam Đến Áp Ram

1. A đam, Sét, Ê nót, Cai nan, Ma la, Gia rét, Ê nóc, Ma thu san, La mách, Nô e, Sem, Cam và Gia phét.

Con trai Gia phét: Gô mê, Ma gốc, Ma đai, Gia van, Thu ban, Mô sóc, Thi ra. Con trai Gô mê : Át xen, Ri phát và Thô gô. Con trai Gia van : Ê li sa, Tha sít, Xê thim và Đô đan.

Con trai Cam : Chút, Mê ranh, Phút và Ca nan. Con trai Chút : Sa ba, Hê vin, Sa bát, Réc ma và Sa ba tha. Con trai Réc ma : Sa ba và Đa đan. Chút sinh ra Nem rốt : người hùng đầu tiên trên địa cầu. Mê ranh sinh ra Lu đim, A na mim, La bim và Nép tui. Phê tru với Cát lui : dân Phin tinh và Cáp tô đều do họ này mà ra. Ca nan sinh con trưởng Si đôn và Hê thê. Giê bu, A mô Si nê, A mô rê, Giét giê, Hê vê, A rác và Si nê. A rát, Sa ma với Ha mát.

Con trai Sem: A lam, A su, Át phát, Lút, A ram, Hút, Hun, Giê thê và Mô sóc. Át phát sinh Sa lê là thân sinh Hê bê. Hê bê sinh hai con trai: Một tên là Pha lách vì đất đã phân chia trong đời người, còn em tên Giéc tan. Giéc tan sinh En mốt, Sa lép, A sa và Gia rê A đô, Hu san và Đéc la, Hê ban, A bim, Sa ba với Ô phi, Hê vin, Giô báp: hết thảy... đều là con trai Giéc tan.

Sem, Át phác, Sa lê, Hê bê, Pha lách, Ra gan, Sê rúc, Na cô, Tha rê, Áp ram cũng gọi là Áp ra ham vậy.

Áp Ram Đến Ít Ran

Con trai Áp ra ham là: I sác và Ít man; dòng dõi họ như sau: Con trưởng Ít man là Na bai, thứ đến Xê đa, Át ben, Máp sam, Mát ma, Đu ma, Ma sa, Ha đát và Thê ma, Giê thu, Na phích và Kết ma: hết thảy đều là con trai Ít man.

Con trai của nàng Xê tuy vợ lẽ của Áp ram sinh ra Xam ran, Giéc san, Ma đan, Ma diên, Giét bốc và Suê. Đây, con trai Giéc san: Sa ba, Đa đan. Con trai Đa đan là A su, La tu và Lao mim. Con trai Ma diên: Ê pha, Ê phê, Hê nóc, A bít, En đa: thảy đều là con nàng Xê tuy.

Áp ram lại sinh I sác, con trai của người E sau và Ít ran.

Con trai E sau: E li phát, Ra huên, Giê hu, Giê lom và Cô rê. Con trai E li phát: Thê man, Ô ma, Sê phi, Ga than, Xê nét, Tham na, Am lách. Con trai Ra huên: Na hát, Xa ra, Sam ma, Mê xa. Con trai Xây: Lô tan, Sô ban, Sê bôn, A na, Đi sơn, E sê, Đi san. Con trai Lô Tan: Hô ri, Hô mam. Tha ma là em gái Lô tan. Con trai Sô ban: A liên, Ma na, Ê ban, Sê phi, Ô nam. Con trai Sê bôn: A gia, A na. Con trai A na: Đi sơn. Con trai Đi sơn: Ham ram, Ê sép, Giét ran và Cha ran. Con trai E sê: Ba lan, Xa van và Gia can. Con trai Đi san: Hút và A ran.

Các Vua Ê Đôm

Đây là những vị vua trong xứ Ê đôm khi con cháu Ít ran chưa có vua: Ba lê con trai Bê ô, tên thủ đô nước người là Đê náp. Ba lê băng hà, Giô báp con trai Xa rê ở Bốt ra lên kế vị. Sau khi Giô báp ly trần thì Hu sam thuộc xứ Thê man trị vì. Hu sam qua đời, A đát con trai Ba đát hạ sát Ma diên xứ Mô áp; rồi lên trị vì thủ đô của người gọi là A vít. A đát từ trần, Sem la ở Mát rách kế vị. Sem la băng hà thì Sau lê ở Rô hốp gần Am nem kế vị. Sau lê tịch, Ba lan con trai A kô lên chấp chánh. Vua này băng, A đát lên thế vị, thủ đô người gọi là Phau; hoàng hậu tên Mê táp ái nữ Mát rét, cháu gái Mê xáp.

Át đát qua đời, các tướng lên trị dân thay vì vua, là: Tướng Tham na, tướng An va, tướng Giê thét, tướng Ô li, tướng Ô la, tướng Ê la, tướng Phi nôn, tướng Giê nét, tướng Thê man, tướng Máp sa, tướng Mạc diên, tướng Hi ram: đó là các tướng Ê đôm.

Triều Đại Sa Lô Mon, Đền Thờ

Vua Tôi Lên Núi

1. Sa lô mon con trai Đa vít đã yên vị có Thiên Chúa phù hộ nên tôn vinh người tột bậc. Sa lô mon triệu tập toàn thể Ít ran, các tướng lãnh, sĩ quan, quan án trong dân Ít ran và các trưởng tộc, rồi người cùng quần chúng lên nơi cao ở Ga bao, vì tại nơi đây có nhà tạm giao ước của Thiên Chúa do đầy tớ Thiên Chúa là Moi sê đã tạo trên rừng. Vả, Đa vít đã nghênh hòm Thiên Chúa từ Ca ria thia về nơi người đã dọn sẵn và quyết định dựng nhà tạm ở đó tức là đất Giêru salem, có cả bàn thờ bằng đồng do Bê sê len con trai U ri cháu Hu rơ đã chế cũng đặt trước nhà tạm của Chúa nữa. Sa lô mon và cả cộng đồng đều đến đó: "Sa lô mon lên tận bàn thờ bằng đồng đặt trước nhà tạm chứng của Chúa mà dâng một ngàn sinh tế".

Xin Ơn Đặc Biệt

Rồi chính đêm ấy, Thiên Chúa hiện đến cùng Sa lô mon, phán hỏi: "Ngươi muốn Ta ban cho điều gì hãy xin đi". Sa lô mon tâu Thiên Chúa: "Ngài đã xử khoan hồng rộng rãi cùng Đa vít thân phụ tôi, lại đã lập tôi lên kế vị. Nên giờ đây, lạy Chúa là Đấng Chúa Trời, xin hãy hoàn tất lời hứa của Ngài cùng Đa vít thân sinh tôi, vì Ngài đã đặt tôi làm quốc vương dân tộc Ngài đông đúc vô kể như cát bụi. Xin Ngài ban cho tôi được khôn ngoan trí tuệ mỗi khi đứng trước thần dân, vì ai dám tự hào xử đoán công minh dân tộc đông thế kia?"

Thiên Chúa liền phán với Sa lô mon: "Điều đó vừa ý Ta hơn hết, vì ngươi không xin của cải, tài sản, vinh quang, hoặc sinh mạng những kẻ thù ghét ngươi lại cũng chẳng xin sống lâu mà chỉ cầu xin sự khôn ngoan thông thái để chăn dắt thần dân của Ta, ngôi quốc vương cũng tự Ta lập cho ngươi; nên Ta ban cho ngươi không những khôn ngoan duệ trí mà cả của cải tài sản danh vọng nhiều đến đỗi cả trước ngươi sau ngươi không một vua nào sánh kịp". Kế, Sa lô mon rời ngọn Ga bao, trên đó có lập nhà tạm chứng trở về Giêru salem cai trị dân Ít ran.

Giàu Có Muôn Vàn

Vua tập họp xe cộ kỵ binh lại được một ngàn bốn trăm cỗ và mười hai ngàn kỵ binh, người xếp vào trong các trại quân nhu bên cạnh hoàng thành ở Giêru salem. Vua trù liệu vàng bạc ở Giêru salem nhiều như đá trên đường, cho cây hương nam mọc nhiều tựa sung ngoài đồng vậy; còn ngựa do các lái buôn hoàng gia nhập cảng từ Ai Cập và Cô a đến, mua với giá nhất định, tức sáu trăm đồng mỗi cỗ xe ngựa; mỗi con ngựa giá một trăm năm chục đồng bạc: cả các quốc gia Hê thê và vua Sy ria đều tán dương việc mua bán đó.

Các Vua Nước Giu Đa

Đảng Phái Chia Rẽ

10. Rô bam đến Si kem vì toàn thể Ít ran về tụ tại đây để tôn người lên làm vua. Giê rô bam con trai Na bát đương ở bên Ai Cập (vì y tránh mặt Sa lô mon sang ẩn thân ở đó) vừa nghe tin cấp tốc hồi hương; vì dân chúng cho mời về, y và toàn dân Ít ran đến trước Rô bam tâu bày: "Phụ vương bệ hạ đã tròng ách nặng vào chúng tôi, bây giờ xin bệ hạ nới hơn thân phụ, cho dân chúng giảm sự phục dịch nặng nề ngõ hầu chúng tôiđược nhẹ nhàng đôi chút mà phục vụ bệ hạ.

Rô bam đáp: "Qua ba hôm, đồng bào hãy trở lại đây". Dân liền rút lui. Vua họp bàn các bậc lão thành đã hầu cận Sa lô mon thân phụ mình lúc sinh tiền hỏi rằng: "Các khanh hãy hiến kế gì hầu trả lời dân chúng đi!". Họ tâu: "Nếu bệ hạ muốn làm hài lòng dân xin đối xử nhẹ nhàng, nói năng dịu dàng thì dân chúng sẽ thần phục bệ hạ suốt đời". Nhưng, vua khinh thường kế của bậc nguyên lão, lại đi thảo luận với bọn thanh niên cùng lứa tuổi mình, vua hỏi chúng: "Chúng mình tính sao? Ta phải trả lời với dân chúng đến yêu sách: Xin người giảm nhẹ ách mà phụ vương người chất lên chúng tôi! Thế nào đây?"

Bọn thanh niên đồng lứa nó thưa: "Xin cứ phúc đáp lại dân chúng đến yêu sách: "Thân phụ người đặt ách lên nặng cho chúng tôi, xin người hãy giảm nhẹ đi", hãy bảo chúng như sau: Ngón tay út của ta còn to hơn cả lưng cha ta, cha ta chất ách nặng trên đầu đồng bào, ta ư! Ta càng đè cho nặng thêm; cha ta lấy roi vọt sửa phạt đồng bào, ta sẽ dùng roi sắt mà diệt bằng hết!"

Lời Nói Mất Nước

Ngày thứ ba Giê rô bam và toàn dân lại tề tựu yết kiến Rô bam như vua đã căn dặn. Bỏ ý kiến những vị lão thành, vua đáp lời cứng cỏi theo ý các bọn thanh niên, tuyên bố: "Thân phụ ta đã tròng ách nặng vào đồng bào, ta đây sẽ ấn mạnh thêm; cha ta lấy roi vọt sửa trị đồng bào, ta đây sẽ dùng roi sắt diệt anh em!" Dân sự bất mãn về lời nói đó. Vả, tôn ý Thiên Chúa làm ứng nghiệm lời Ngài đặt ở cửa miệng tiên tri A hia người Si lon cho Giê rô bam con trai Na bát.

Trong lúc vua thốt ra những lời bất nhân toàn thể dân chúng ứng đáp như vầy: "Chúng ta đâu có ăn nhằm gì với Đa vít, chẳng hưởng nghiệp gì cùng I sai. Hỡi Ít ran! Rút lui, về nhà đi! Bớ Đa vít, hãy coi chừng nhà ngươi!" Rồi dân Ít ran trở về trại mình; còn Rô bam coi trị các con cháu Ít ran cư ngụ trong mấy thị trấn Giu đa. Bấy giờ Rô bam cử A đu giám đốc thuế vụ đi thu thuế, nhưng dân con Ít ran ném đá người chết; nên vua Rô bam phải hấp tấp lên xe tẩu thoát về Giêru salem.

Từ đó, dân Ít ran xa cách gia đình Đa vít cho tới ngày nay

Ê Xách Và Giô Sia

Triều Đại Ê Xách

29. Hai mươi lăm xuân xanh Ê xách lên trị vì, làm vua ở Giêru salem được hai mươi chín năm: thân mẫu quý danh A bia ái nữ Xa ca ria. Vua làm điều phước thiện trước tôn nhan Chúa đúng đường lối Đa vít tổ phụ mình thực thi xưa.

Chỉnh Lý Tư Tế

Tháng giêng năm đầu triều đại của mình, chính vua mở các cửa đền thờ Chúa và tu chỉnh lại; triệu các tư tế và Lê vi, tập trung cả lại nơi phố phía đông, truyền lệnh như sau: "Hỡi hàng Lê vi, hãy nghe đây: các thầy phải thánh hóa đi, phải dọn dẹp đền Thiên Chúa là Chúa tổ tiên ta cho thanh tĩnh, phải tẩy uế nơi đền thánh đi. Cha ông ta vì lìa bỏ Thiên Chúa nên đã phạm pháp đã làm điều ác trước tôn nhan Chúa chúng ta, ngoảnh mặt quay lưng vào tòa Chúa ngự. Họ lại đóng cửa nơi tiền đường, tắt các đèn nến, không xông hương, không dâng lễ thiêu trong cung thánh kính Thiên Chúa Ít ran. Vì vậy cơn nghĩa nộ Chúa giáng lên Giu đa và Giêru salem, chúng bị hỗn loạn, bị chết chóc bị chê bai như chính đồng bào đã mục kích đây. Đó, cha ông ta đã bị giết chết, con trai con gái cả vợ chúng ta đều bị tù đày cũng chỉ vì tội ác đó thôi. Bây giờ ta sẵn lòng lập giao ước cùng Chúa là Thiên Chúa Ít ran mong cơn nghĩa nộ Ngài lìa xa chúng ta. Hỡi các con chớ trì hoãn: vì Chúa đã chọn lựa anh em để ứng trực trước Thiên nhan để phục vụ để phụng sự để xông hương kính bái Ngài".

Giáo Chức Sửa Đền

Các Lê vi vùng dậy: Ma hát con trai A ma, Giô en con trai A xa thuộc tông đường Ca át; về tông giống Mê ra có Xít con trai Áp đi, A xa ria con trai Gia lan; con cháu Giét sơn có Giô át con trai Xem ma; Ê đen con trai Giô a; con cháu Ê li sáp có Sam ri và Gia hiên; con cháu A sáp có Xa ca ria, Ma than; con cháu Hê man có Gia hiên và Sê mây; con cháu I đít có Sê mê và Ô xiên. Họ tập họp anh em mình lại, thánh hóa rồi theo lệnh vua phép Chúa mà vào tẩy sạch đền Thiên Chúa. Các tư tế cũng vào đền Chúa mà thánh hóa đền: hễ gặp bất kỳ vật dơ nào bên trong đều liệng ra ngoài hành lang đền Chúa, rồi các Lê vi đem đi quăng ra ngoài thác Xết rôn. Mồng một tháng giêng họ khởi sự dọn dẹp, qua ngày mùng tám cùng tháng họ tới nơi tiền đường đền thờ Chúa; trong tám hôm họ dọn dẹp sach sẽ đền thờ và ngày mười sáu trong tháng họ hoàn thành công việc tu lý.

Trình Bày Triển Lãm

Tư tế vào chầu vua Ê xách, tâu bày: "Chúng tôi đã thánh hóa xong hoàn toàn đền Chúa, bàn thờ lễ thiêu cùng các đồ lễ cả bàn đặt bánh lẫn các vật dụng, cả những khí dụng trong đền mà vua A cát sau khi phạm pháp đã làm ô uế. Kìa, hết thảy mọi vật đều được trần thiết trước bàn thờ Chúa".

Vua Dâng Lễ Thiêu

Vua Ê xách dậy sớm tập họp các chức sắc trong thành rồi lên đền thờ Chúa: đem theo bảy bò đực, bảy chiên đực, bảy chiên con, bảy dê đực dâng làm lễ đền tội cho quốc gia, cho cung thánh, cho Giu đa; kế, vua ra lệnh cho các tư tế con cháu A rôn dâng trên bàn thờ Chúa. Họ giết bò đực và tư tế hứng máu đổ trên bàn thờ, giết chiên con hứng máu đổ tràn lên bàn thờ. Họ dẫn các dê đực đền tội lại trước mặt vua và chúng dân rồi đặt tay mình trên các con dê đó, đoạn họ giết dê hứng lấy huyết rảy lên bàn thờ làm lễ chuộc tội cho toàn dân Ít ran: theo lời vua truyền phải dâng lễ toàn thiêu vừa cầu cho cả dân Ít ran vừa đền tội. Vua cũng xếp đặt các Lê vi trong đền thờ Chúa, mang não bạt, đờn cầm đờn sắt theo đúng tổ chức của vua Đa vít, tiên tri Gát và tiên tri Na than. Đó là định lệ của Chúa do các tiên tri Ngài chỉ dẫn: Các Lê vi đứng cầm nhạc khí Đa vít, tư tế cầm kèn.

Nghi Tiết Hành Lễ

Bấy giờ Ê xách ra hiệu dâng của lễ toàn thiêu trên bàn thờ. Đương lúc dâng lễ thiêu họ bắt đầu ca tụng Chúa: thổi kèn, các nhạc khí Đa vít nổi vang lên. Toàn thể cộng đồng thờ lạy, ca sĩ và kẻ thổi kèn đều thi hành phận sự cho đến lúc lễ toàn thiêu hoàn tất. Vừa dâng lễ thiêu xong vua và đoàn tháp tùng cúi mình xuống thờ lạy. Ê xách và quan trưởng lại biểu Lê vi ca những bài của Đa vít và A sáp tiên tri: Họ ngợi khen Chúa vang lừng hoan hỉ, cúc cung thờ lạy.

Thành Công Mỹ Mãn

Ê xách lại tiếp theo: "Anh em đã dâng đầy tay cho Chúa rồi, nên hãy tiến lại đem các sinh tế và lễ tạ ơn vào đền Chúa". Toàn thể dân chúng liền thành tâm dâng các sinh tế, lễ tạ ơn của toàn thiêu. Số lễ thiêu dân chúng dâng tiến là bảy chục bò đực, một trăm chiên đực, hai trăm chiên con, lại biệt kính sáu trăm bò và ba ngàn chiên. Nhưng lúc đó có ít tư tế, không đủ người lột da các vật lễ thiêu, nên các Lê vi cũng là anh em liền tiếp tay phụ việc cho xong hầu các tư tế được thánh hóa: vì theo nghi lễ các Lê vi được thánh hóa dễ dàng hơn bậc tư tế. Vả, bấy giờ của lễ thiêu, mỡ cầu an và lễ quán theo lễ thiêu có nhiều lắm.

Vậy, cuộc lễ bái trong đền thờ hoàn tất. Ê xách và toàn dân hoan hỉ vì việc phụng sự Chúa được mỹ mãn: Việc này tuy đột ngột lại hóa ra đẹp đẽ.

12. Phần Thứ Mười Hai: Ết Ra

Chương 53. Tu Chỉnh Ít Ran

Chương 54. Sứ Ủy Ết Ra

Tu Chỉnh Ít Ran

Sắc Chỉ Hồi Hương

1. Năm thứ nhất đời Xy rô quốc vương Ba tư, Chúa dùng miệng Giê rem phán dạy và Chúa muốn cho lời được ứng nghiệm nên Ngài soi lòng Xy rô vua Ba tư hạ chiếu chỉ tuyên bố trong khắp nước, như sau: "Đây, Xy rô quốc vương Ba tư ban lệnh: Thiên Chúa là Chúa Trời đã ban cho trẫm các nước thiên hạ, chính Ngài truyền cho trẫm phải xây dựng đền thờ kính danh Ngài ở Giêru salem trong xứ Giu đê. Trong các ngươi, ai thuộc dân Ngài hãy trở về Giêru salem xứ Giu đê hết mà kiến thiết đền thờ Chúa, Thiên Chúa Ít ran: vì chính Thiên Chúa ngự ở Giêru salem. Nguyện Thiên Chúa bang hộ cho họ. Còn những người khác ở lại bất cứ cư ngụ nơi nào thì những dân bản xứ phải ủng hộ bạc vàng của cải súc vật, không kể của lạc quyên cho đền Thiên Chúa ở Giêru salem".

Giải Phóng Thiên Chúa

Bấy giờ, các trưởng tộc Giu đa Ben gia minh, các tư tế hàng Lê vi và hết thảy những ai được Thiên Chúa kích động tâm thần đều trở về Giêru salem xứ Giu đê hầu xây dựng đền Chúa tại Giêru salem. Các người lân cận khắp chốn cũng tiếp tay giúp đỡ họ nào các đồ bạc bình vàng, nào súc vật tài sản đồ đạc, chưa kể các của lạc quyên dâng cúng.

Vua Xy rô cũng hoàn lại các vật dụng trong đền Chúa do Na bu cô đã chuyển từ Giêru salem về chứa trong chùa thần nhà vua. Xy rô quốc vương Ba tư truyền cho Mi tri đát con trai Ga xáp đem các dụng cụ đó ra đếm trao cho Sa sa ba bang trưởng Giu đa. Số đó kể như sau: ba mươi chén vàng, một ngàn chén bạc, hai mươi chín con dao dưa, bốn trăm mười chén bạc hạng nhì với các vật dụng khác; hết thảy các đồ vàng bạc cộng năm ngàn bốn trăm món. Sa sa ba chuyên chở các đồ kể trên cùng đồng bào từ nơi cư trú Ba by lon tiến về Giêru salem.

Sứ Uỷ Ết Ra

Sứ Mạng Ết Ra

7. Sau đó, nhằm triều Át ta xê quốc vương Ba tư, Ết ra con trai Sa rai, con A xa ria, con Hen xin, con Sê lum, con Sa đốc, con A chi tốp, con A ma ria, con Ma rai, con Xa ha ria, con Ô xi, con Bóc xi, con A bi suê, con Phi nê, con Ê lê xa, con A rôn tư tế tiên khởi. Đây, Ết ra từ Ba by lon khởi lên; đây, một văn sĩ thông thạo luật Moi sê do Chúa là Thiên Chúa đã ban cho dân Ít ran. Vì nhờ quyền năng Thiên Chúa là Chúa phụ hộ người, nên vua đã phê mọi điều người thỉnh nguyện. Rồi, năm thứ bảy đời vua Át ta xê, các con cháu Ít ran nào tư tế, Lê vi, nào ca sĩ canh cửa và Na thi niên đều tiến lên Giêru salem. Tháng năm, năm thứ bảy cùng triều đại Ết ra tới Giêru salem.

Ngày mồng một tháng giêng người khởi hành từ Ba by lon nhờ tay nhân lành Chúa dìu dắt đến mồng một tháng năm tới Giêru salem. Ết ra đã lập chí học hỏi lề luật Chúa, thực thi và giáo huấn dân Ít ran mọi luật pháp và giáo điều.

Sắc Chỉ Át Ta Xê

Đây, một bổn sao chiếu chỉ vua Át ta xê đã ban cho Ết ra tư tế, văn sĩ thông thạo điều răn luật pháp Chúa và lễ nghi của Ngài trong dân Ít ran.

Tái Lập Giu Đa

Át ta xê vua trên các vua gởi tư tế Ết ra là người rất thông thạo luật pháp Chúa Trời được an khang. Trẫm giáng tự sắc, dụ rằng: Bất luận là ai cư ngụ trong nước trẫm thuộc về dân Ít ran, dù hàng tư tế hay Lê vi nếu muốn về Giêru salem cứ tự ý theo khanh. Hoàng thượng và bảy cố vấn nhà vua cử khanh đi kinh lý Giu đê và Giêru salem. Chiếu luật pháp Thiên Chúa khanh có sẵn trong tay. Khanh hãy mang theo vàng bạc do hoàng thượng cùng các cố vấn tự ý dâng kính Thiên Chúa dân Ít ran trong đền ngài hiện ở Giêru salem; luôn các số bạc vàng do khanh có trong khắp các tỉnh Ba by lon, hoặc dân sự có mỹ ý dâng cúng, hoặc do các tư tế hảo tâm cống hiến cho đền thờ Thiên Chúa mình ở Giêru salem, khanh cũng cứ việc nhận. Khanh hãy cẩn thận dùng số tiền đó mua bò, chiên đực, chiên con vừa lễ chay lễ quán mà dâng các lễ vật đó trên bàn thờ trong đền Thiên Chúa tại Giêru salem. Vàng bạc còn dư, tùy khanh và đồng bào của khanh muốn dùng làm việc gì cứ thi hành theo đúng với tôn ý Thiên Chúa.

Sử Dụng Tài Chánh

Còn các khí dụng đã trao cho khanh dùng về việc phụng vụ nơi đền Thiên Chúa, hãy sắp dọn trước nhan Chúa ở Giêru salem. Các công việc cần khác trong đền thờ Thiên Chúa tùy trường hợp cần phải chi phí bao nhiêu hãy trích vào ngân khố hoặc công quỹ nhà vua, hoặc của riêng trẫm. Trẫm là quốc vương Át ta xê đã quyết định và chỉ thị cho các giám đốc công khố ở bên kia sông rằng bất luận lúc nào tư tế Ết ra luật sư của Đức Chúa Trời yêu cầu các khanh sự gì, phải cấp cho liền; dầu có xin hàng trăm khối bạc, hoặc hàng trăm thùng miến, hằng trăm thùng rượu hàng trăm lon dầu cũng vậy; muối thì không phải kể.

Phàm đều nào cần thiết cho lễ tiết của Chúa Trời đều phải ân cần cung cấp cho đền thờ Đức Chúa Trời, e Ngài thịnh nộ với nhà nước và các hoàng tử của trẫm chăng. Trẫm cũng truyền lệnh cho các khanh rằng chớ có dùng quyền mà thâu thuế khóa của tư tế, Lê vi, ca sĩ và gác cửa.

Toàn Quyền Quản Trị

Còn khanh, hỡi Ết ra, hãy tùy theo sự khôn ngoan Thiên Chúa đã ban sẵn trong tay mình, đặt các quan án, đốc phủ để họ xét xử toàn dân ở bên kia sông, tức những người thông thạo luật pháp Thiên Chúa của khanh; vả các khanh cũng phải nhiệt thành giáo hóa những kẻ thiển học. Vậy, hễ ai không tuân hành luật Thiên Chúa và phép nhà vua hẳn hoi các khanh cứ ra lý đoán cho nó: hoặc tử hình, phát lưu, tịch biên tài sản, hoặc ngồi tù chẳng hạn.

Cảm Tạ Hồng Ân

Cảm tạ Thiên Chúa là Chúa tổ phụ tôi, Đấng đã mở lòng hoàng thượng làm vinh danh đền thờ Chúa ở Giêru salem; lại khiến tôi được hồng ân trước mặt các cố vấn, trước mặt các công thần uy thế của triều đình! Tôi, nay được phấn khởi nhờ quyền năng Chúa là Thiên Chúa tôi phù trợ, tôi xin chiêu tập các trưởng tộc dân Ít ran để cùng tiến lên một lượt với tôi".

13. Phần Thứ Mười ba: Nê Hem

Chương 55. Sứ Mạng Thứ Nhất Nê Hem

Chương 56. Khánh Thành Tường Giêru Salem

Chương 57. Sứ Mạng Thứ Hai Nê Hem

Sứ Mạng Thứ Nhất Nê Hem

Tình Hình Đất Tổ

1. Lời của Nê hem con trai Hen xia: Nhằm tháng cát lêu năm thứ hai mươi lúc tôi đang ở Su sê, xảy có Ha nan một người trong bà con em tôi, y và mấy người Giu đa đến thăm, tôi có hỏi họ về những người Do Thái còn sót lại, về những người đã được hồi lưu, về Giêru salem nữa. Họ trả lời tôi: "Những kẻ sót lại, những người đã bị bắt đi đày còn lại khổ và nhục nhã lắm; tường thành Giêru salem thì hư nát, các cửa thành bị lửa thiêu rụi". Vừa nghe các lời đó, tôi ngồi mà khóc, cư tang mấy ngày. Tôi ăn chay cầu nguyện trước tôn nhan Thiên Chúa.

Khẩn Thiết Nguyện Cầu

Tôi thốt lời than van: "Ôi, lạy Chúa là Chúa Trời! Ngài quyền cao rất đáng kính sợ, hãy giữ lời đoan ước và khoan dung với những kẻ kính mến tuân hành giới răn Ngài. Xin mắt Chúa đoái xem, tai Ngài thương nghe và nhận lời tôi tớ Ngài cầu xin. Vì hiện nay đêm ngày tôi khẩn nguyện trước tôn nhan Ngài cho dân con Ít ran tôi tớ Ngài, mà xưng các tội lỗi con cháu Ít ran đã vi phạm đến Chúa. Tôi và gia đình thân phụ tôi nữa đều phạm tội mất lòng Ngài: Chúng tôi bị mê hoặc hão huyền, không tuân giữ giới điều luật lệ và nghi lễ do chính Chúa phán truyền cho Moi sê đầy tớ Ngài. Xin Chúa hãy nhớ lại lời Chúa đã truyền dạy Moi sê tôi tớ Chúa xưa: "Nếu các ngươi phạm tội Ta sẽ phán tán các ngươi đi khắp các dân; nhưng nếu các ngươi trở lại cùng Ta mà thực thi các luật pháp của Ta mặc dầu các ngươi có bị cuốn đi tận chân trời, Ta cũng sẽ tập hợp các ngươi lại, dẫn về nơi Ta đã chọn lựa cho danh Ta ngự tại đó". Vả, chúng tôi thực là tôi con Chúa, dân Chúa; Chúa đã dùng quyền lực bao la dùng tay mạnh mẽ Chúa mà chuộc lại.

Lạy Chúa, xin tai Chúa hãy lắng nghe đến lời tôi tớ Ngài cầu nguyện, cả lời van lơn của các tôi tớ vốn kính sợ danh Ngài nữa; hôm nay xin Ngài hướng dẫn tôi tớ Ngài, lại cho nó được đặc ân trước mặt nhân vật này. Vì tôi là quan chước tửu nhà vua!"

Khánh Thành Tường Giêru Salem

Đọc Luật Giải Thích

8. Tới tháng bảy, đương lúc dân con Ít ran yên ổn trong quê nhà: Toàn dân muôn người như một đều tập hợp cả phố phía trước cửa Nước rồi yêu cầu luật sĩ Ết ra cầm sách luật Moi sê do Chúa đã truyền dạy dân Ít ran. Ngày mồng một tháng bảy, tư tế Ết ra đọc lề luật trước mặt công chúng cả đàn ông đàn bà và hết mọi người am tường. Người công bố ngoài phố ngay trước cửa Nước từ sáng đến trưa, trước mặt mọi người nam nữ cũng như trí thức: Toàn dân bấy giờ đều lắng tai nghe đọc.

Luật sĩ Ết ra đứng trên bục gỗ kê để diễn thuyết, có Ma tha thia, Se mây, A ni đứng gần người, còn U ria, Hen xia, Ma xia đứng bên phải, bên trái người là Pha đai, Mi sen, Men chia, Ha sum, Hát ba, Xa ca và Mô sơn. Ết ra mở sách trước mắt dân chúng (vì người đứng cao hơn cả dân) : lúc người giở sách cả dân đều đứng dậy. Kế đến Ết ra chúc tụng Thiên Chúa là Chúa cao cả. Toàn dân đều giơ tay lên đáp ứng: "A men, A men!" Rồi họ cúc cung sấp mình sát đất thờ lạy Thiên Chúa. Bấy giờ, Gio suê, Ba ni, Sê rép, Ga min, Ác cúp, Sép thai, Ô đia, Ma sia, Xê lít, A xa ria, Giô sáp, Ha nan, Pha lai là những thầy Lê vi đều giữ cho dân im lặng nghe lề luật; còn dân chúng đứng yên tại chỗ. Họ đọc sách luật Thiên Chúa khoan thai minh bạch cho dân nghe rõ: nghe đâu hiểu đó.

Ăn Mừng Ngày Thánh

Bấy giờ Nê hem (chính người làm tổng trấn), Ết ra vừa là tư tế vừa là luật sĩ và hàng Lê vi giải thích cho toàn dân như sau: "Ngày thánh hóa kính Thiên Chúa là Chúa chúng ta, đồng bào đừng tang chế, đừng khóc lóc nữa!" Vì khi nghe các lời luật pháp cả dân đều khóc. Nê hem lại úy lạo dân chúng: "Đồng bào hãy ăn ngon uống đã đi, lấy phần cho cả những người không chuẩn bị; nay ngày thánh của Chúa, anh em chớ buồn rầu nữa, vì là cuộc hồng lạc của Chúa vạn năng chúng ta. Vả, các Lê vi cũng chân tình khuyên bảo dân chúng: Đồng bào nín đi, chớ lo buồn nữa; ngày thánh cơ mà!" Cả dân đều đi ăn uống và lấy phần: vô cùng hoan lạc vì họ hiểu các điều vừa căn dặn mình.

Mừng Lễ Lều Tạm

Qua thứ hai, các trưởng tộc toàn dân, tư tế, Lê vi đều tề tựu đến cùng Ết ra luật sĩ để người cắt nghĩa lời lẽ trong luật pháp. Họ nhận thấy trong luật pháp có chép rằng Chúa dùng tay Moi sê mà truyền cho dân con Ít ran phải cư trú trong lều tạm ngày đại lễ tháng bảy; họ cổ vũ và hô hào khắp các thị trấn cũng như ở Giêru salem rằng: "Hãy lên núi hái nhánh ô liu, nhánh trúc đào, nhánh sim, tầu dừa và nhánh cây râm mà làm lều tạm y như luật định".

Dân chúng đi hái các thứ đó đem về tự kết lấy nhà tạm: mỗi người đều ở trong lều nơi sân của mình, trong tiền đường đền thờ Thiên Chúa, ở phố cửa Nước và phố cửa Ép ranh. Cả hội chúng hồi lưu cất các lều và ở trong nhà tạm, vì từ đời Gio suê con trai Nun cho tới ngày đó dân con Ít ran chẳng có lần nào làm như vậy. Quả là một cuộc vui khôn tả. Mỗi ngày từ hôm khai mạc cho đến ngày chót Nê hem đọc sách luật. Họ mừng đại lễ đủ bảy ngày, hôm thứ tám bế mạc long trọng theo đúng nghi lễ.

Sứ Mạng Thứ Hai Nê Hem

Giáo Lương Phân Biệt

13. Hôm ấy người ta cũng đọc sách Moi sê cho dân chúng nghe; gặp khoản chép trong đó rằng: Đời đời bọn Am môn và Mô áp không được vào giáo đường Thiên Chúa; bởi chúng không đem bánh với nước ta đón dân con Ít ran, lại mướn Ba lam đến rủa sả họ, nhưng Thiên Chúa chúng ta đổi lời trù rủa ra sự may phước. Vừa nghe đọc lề luật như vậy dân chúng liền phân tách các ngoại kiều ra khỏi dân Ít ran.

Lạm Dụng Tước Vị

Trước đây tư tế Ê lia síp bà con với Tô bia được cử làm quản đốc kho tàng đền Thiên Chúa chúng ta: đã tự sắm dọn một phòng lớn, nơi đây trước kia dùng để chứa lễ vật, hương liệu, đồ dùng, của phần mười về rượu dầu, khẩu phần các Lê vi và gác cửa với của đầu mùa của các tư tế. Nhưng trong trường hợp này tôi không có mặt ở Giêru salem, vì năm ba mươi hai đời Át ta xê quốc vương Ba by lon tôi phải trở về với hoàng thượng. Sau một thời gian tôi lại xin phép vua cho trở qua Giêru salem tôi mới rỏ Ê lia síp đã làm điều quái ác vì Tô bia, tức là đã dành cho Tô bia một phòng ngay trong tiền đường đền thờ Thiên Chúa. Tôi thấy điều đó tệ hại quá nên quăng các đồ vật của Tô bia ra khỏi phòng; lại ra lệnh thanh tẩy nhà kho rồi xếp các khí dụng nhà Chúa, của lễ và hương liệu nào đó.

Chăm Lo Chức Vụ

Tôi cũng am hiểu rằng người ta không cấp khẩu phần cho Lê vi, nên các Lê vi, ca sĩ và những kẻ phục dịch, mạnh ai trốn về quê nấy. Tôi bèn chất vấn các quan trưởng: "Sao lại bỏ đền Thiên Chúa như vậy?" Rồi tôi tập hợp lại mà giữ họ nguyên vị: Bấy giờ, toàn thể Giu đa lại đem nạp thuế phần mười về lúa mì rượu và dấu vào kho. Tôi cũng đặt Sê lem làm tư tế, Sa đốc làm luật sĩ và Pha đai trong hàng Lê vi quản đốc kho lẫm; còn Ha nan con trai Xa chu cháu Ma than làm phó; vì họ được xác nhận là người trung thành nên trao phần của anh em cho họ.

Chúa Trời tôi hỡi! Về khoản này, xin Chúa nhớ đến tôi, chớ xoá bỏ những nỗ lực tôi đã thực hiện nơi đền Thiên Chúa và về của Ngài!

Vi Phạm Ngày Nghỉ

Hồi đó, tôi cũng thấy trong nước Giu đa người ta chà nho ép rượu ngày thứ bảy, dùng lừa chở lúa, rượu, trái nho, trái vả, chuyển các vật nặng về Giêru salem trong ngày thứ bảy nữa. Tôi đã bài bác, cốt cho họ chỉ bán những ngày nên bán.

Vả, dân Ty rô định cư ở đó đem cá với hàng hóa bán cho nhân dân Giu đa tại Giêru salem trong các ngày thứ bảy; nên tôi chỉ trích chức sắc Giu đa, cật vấn họ: "Đồng bào cư xử tệ ác như vậy, há làm ô uế ngày thứ bảy sao? Tổ tiên ta há chẳng làm như vậy khiến Thiên Chúa chúng ta giáng tai họa dường này trên chính thân ta, trên chính đô thị ta sao? Còn đồng bào vi phạm ngày thứ bảy lại khiêu khích cơn nghĩa nộ tăng trên Ít ran nữa!"

Đóng Cửa Ngày Lễ

Vì vậy, tôi ra chỉ thị: "Ngày thứ bảy, khi nào các cửa Giêru salem rợp bóng thì phải đóng cửa lại, căn dặn chúng sau ngày thứ bảy mới được mở cổng. Tôi cũng đặt mấy đầy tớ riêng gác cửa, không cho ai chở đồ vào thành ngày thứ bảy. Lái buôn và người bán rong phải ngủ ngoài thành Giêru salem. Đoạn tôi quở trách và các cật vấn chúng: Cớ sao các ngươi ngủ sát tường như thế? Bận sau còn vậy ta sẽ trị thẳng tay! Từ đó mà đi, ngày thứ bảy chúng không dám đến nữa. Tôi cũng truyền bảo các Lê vi phải thanh tẩy đi, đến mà gác cửa hầu thánh hóa ngày thứ bảy.

Ôi Chúa Trời tôi! Xin Ngài nhớ đến tôi về điểm này, xin thương xót tôi tùy độ lượng khoan hồng Chúa!

Tẩy Chay Vợ Lương

Cũng giai đoạn đó, tôi thấy người Do Thái cưới vợ A xốt, Am môn và Mô áp: con cái chúng phần nửa nói tiếng A xốt, không biết nói tiếng Do Thái, lại nói tiếng dân nọ xứ kia. Tôi khiển trách mắng nhiếc chúng, đánh đòn mấy người trong bọn và giựt tóc chúng; tôi cũng thề trước Thiên Chúa không cho chúng gả con gái mình cho con trai họ, lại không được cưới con gái họ cho con trai hoặc cho chính mình nữa, nhưng sau: há Sa lô mon quốc vương Ít ran chẳng vì chuyện này mà lỗi phạm sao? Vả, trong các dân tộc không có vua nào sánh ví với người được, vì nào là được Thiên Chúa yêu thương, nào là được Thiên Chúa đặt làm vua trên cả Ít ran; dẫu vậy, người cũng bị phụ nữ ngoại bang xui giục phạm tội. Phần chúng tôi há cũng không phục tùng, dám làm điều ác ôn thái quá này tức là cưới vợ ngoại để xúc phạm đến Thiên Chúa chúng ta sao?

Trong các con trai Giô gia đa cháu Ê lia síp thượng tế, có một chàng rể là Sa na ban người Hô rôn bị tôi tống hắn đi cho khuất mặt. Chúa Trời tôi ôi! Xin nhớ chúng giùm, ví chúng đã làm ô uế chức bậc tư tế, luật lệ hàng giáo sĩ và Lê vi. Vì vậy, tôi thanh tẩy chúng sạch khỏi ngoại bang, xếp đặt ban thứ của hàng tư tế và Lê vi mỗi người trong chức vụ mình, cả việc cung đốn củi đóm theo kỳ hạn với thổ sản đầu mùa nữa.

Chúa Trời tôi ôi! Xin hãy nhớ đến mà ban ơn cho tôi! Ước được như vậy".

14. Phần Thứ Mười Bốn: Tôbia

Chương 58. Tôbia

Tô Bia

Đạo Tâm Đứng Đắn

1. Tô bia thuộc chi tộc và thị xã Nép tan vùng Ga lin thượng, gần Na sơn sau đường lên miền tây, phía trái có thị xã Sê phét. Đời San man quốc vương A sy ria mặc dầu bị bắt đi đày nhưng người cố giữ chân lý không hề suy suyển, thành ra có nhiều sản vật, hằng ngày người dùng để giúp đỡ anh em đồng cảnh lưu đồ.

Tuy còn trẻ hơn hết trong chi Nép tan, nhưng trong hàng vi không làm việc gì ấu trĩ. Vả, khi mọi người tuốn cả lại bò vàng Giê rô bam vua Ít ran chế tạo, duy có mình người không hưởng ứng với thiên hạ. Tô bia vẫn trung thành lui tới đền thờ Chúa ở Giêru salem mà thờ kính Chúa là Thiên Chúa Ít ran, dâng của đầu mùa và nạp thuế phần mười ở đó, dĩ chí năm thứ ba người đài thọ hết cả thuế thập phân cho tân tòng và ngoại ngụ. Đó là đại khái những công trạng thiếu niên đã thực thi theo luật Thiên Chúa.

Dạy Con Mến Chúa

Đến lúc thành nhân, Tô bia cưới An na người cùng chi, sinh với nàng một mụn con trai và đặt tên mình cho con. Người giáo dục con kính sợ Thiên Chúa từ lúc thiếu thời và tránh mọi tội lỗi.

Lúc bị bắt làm tù binh, Tô bia cùng với vợ con sang thành Nin ve với toàn thể chi tộc mình; mọi người đều ăn dùng thực phẩm của lương dân, còn Tô bia quyết tâm giữ hồn mình không hề bị nhơ nhớp vì của ăn dân ngoại.

Lại, vì người thật lòng nhớ đến Chúa nên Thiên Chúa ban ơn cho người trước nhan San man: Vua cho phép muốn đi đâu hoặc muốn làm gì tùy nghi. Bởi đó Tô bia đi thăm hết thảy những người lưu đồ và dùng lời lành an ủi họ.

Cho Ga Bên Nợ

Một hôm Tô bia đến Ra giê thị trấn của dân Mê đô, nhân cơ hội đó vua thưởng cho được mười nén bạc. Người thấy Ga bên thuộc cùng chi với mình đương bị túng bấn cùng cực liền làm văn khế cho y vay số bạc đó.

Qua một thời khá lâu, vua San man băng hà, Sen na kê con trai lên trị vì thay cha lại ghét dân con Ít ran, hằng ngày Tô bia vẫn đi thăm bà con mình; an ủi họ, dùng tài sản mình mà cấp phát cho mọi người tùy cảnh: nuôi dưỡng kẻ đói khát, cấp áo xống cho người trần truồng, lo mai táng kẻ chết và người bị hạ sát.

Lúc quốc vương Sen na kê vì tội phạm thượng phải trốn khỏi Giu đa mà trở về, bị Chúa giáng đại họa, nên vua giận dữ giết vô số nhân dân Ít ran, Tô bia chôn táng những tử thi đó. Khi vua được tin liền truyền xử tử và tịch thu tài sản người. Tô bia cùng vợ con khỏa thân lẩn trốn; nhờ được nhiều người quý mến, nên qua bốn mươi lăm hôm chính các hoàng tử ám sát vua, Tô bia lại trở về nhà, được người ta hoàn lại các tài sản.

15. Phần Thứ Mười Lăm: Giu Đích

Chương 59. Giu Đích

Giu Đích

Thành Éc Ba Tan

1. Sau khi Át pha xát quốc vương dân Mê đô khuất phục nhiều quốc gia, liền kiến thiết thủ đô cực hùng vĩ đặt tên là Éc ba tan, xây bằng đá bốn mặt sáu góc. Xây tường thành rộng bảy chục thước, cao ba chục thước, các tháp canh xây hằng trăm thước chiều cao; cửa tháp vuông, mỗi cửa rộng chừng hai chục thước rồi ráp cánh cửa vào bề cao tháp. Vua tự hào mình quyền hành nhất về lực lượng quân đội và hãnh diện về chiến xa.

Mộng Làm Bá Chủ

Năm mười hai triều đại vua Na bu cô quốc vương A sy ria trị vì ở đại thủ đô Nin ve chiến thắng được Át pha xát tại Ra gao một cánh đồng mênh mông nơi triền sông Eu phát, tại Hổ giang tại Gia đa trong cánh đồng của Ê riu vua dân Ê lích.

Càng lúc nước Na bu cô càng mở rộng theo lòng kiêu hãnh nhà vua, vua bèn sai xứ đến các dân cư ở Xi lích, Đa mát và Li ban, các dân ở Các men, Xê đa và dân chúng định cư ở Ga liu trong đại địa Ét xê lôn, các dân ở Sa ma ria, ở bên kia sông Gióc đan mãi đến Giêru salem, toàn cõi xứ Giê sê cho tới giáp ranh Ê thi ốp, Na bu cô vua A sy ria sai sứ đến cùng các dân kể trên; nhưng hết thảy đều một lòng phản đối, ngược đãi và đuổi họ về không. Vì thế, vua Na bu cô bực với các xứ trên lắm, liền nhận ngai vàng và triều đại mình mà thề sẽ trả thù cho các dân đó.

16. Phần Thứ Mười Sáu: Ét Tê

Chương 60. Ét Tê

Chương 61. Phụ Bản

Ét Tê

Yến Tiệc Quan Khách

1. Đời vua A suê thống trị từ Ấn Độ tới Ê thi ốp một trăm hai mươi bảy tỉnh. Thủ đô Su san mới thành lập hồi vua lên chấp chánh.

Năm thứ ba triều đại A suê, vua tổ chức đại tiệc đãi hết thảy các công thần hiệp sĩ dân Ba tư, dân Mê đô, danh nhân, tỉnh trưởng trong nước. Để biểu dương sự phong phú vinh quang quốc gia và quyền hành vĩ đại của mình, ngự yến kéo dài lâu lắm, tới một trăm tám mươi ngày.

Những ngày yến ẩm bế mạc rồi, vua cho mời toàn thể dân chúng ở Su san từ nhỏ chí lớn vào dự: tiệc được dọn ra đủ bảy ngày nơi hành lang vườn thượng uyển và công viên do nhà vua thiết lập.

Linh Đình Rực Rỡ

Tư tế treo màn trướng, màu trắng màu xanh lợt và đậm, treo dây lan can trắng tím cột vào các vòng bạc và trụ cẩm thạch; các giường, ghế đều bằng vàng bạc đặt trên nền lát cẩm thạch đỏ trắng tô màu sặc sỡ. Thực khách uống bằng chén vàng, đủ thứ đĩa chén khác nhau đựng thức ăn; ngự tửu dư dật dọn bày la liệt xứng với hoàng triều phong phú. Đúng câu tửu bất khả áp nên nhà vua đã ra lệnh dọn riêng mỗi vị quan khách một bàn cho mỗi người được tự do ăn uống.

Hoàng hậu Vát thi cũng thiết tiệc đãi nữ khách trong cung cấm nơi vua A suê quen ngự.

Mời Đón Hoàng Hậu

Ngày thứ bảy, vua vui mừng nhất lại vì men rượu nồng ấm quá mức nên truyền cho Mau mam, Ba xát, Hác bôn, Ba gát, Áp gát, Xê tha và Các ca tức bảy thái giám đương hầu cận trước long nhan đi cung nghinh hoàng hậu Vát thi, đầu đội mão triều thiên, ngọc niệm ra mắt hoàng thượng, ngõ hầu công thần và muôn dân được chiêm ngưỡng dung nhan kiều diễm: một bậc tuyệt thế giai nhân.

Ngồi Cao Ngã Đau

Nhưng bà từ khước, coi thường không màng chi đến lệnh vua vời cho các hoạn quan vào thỉnh; nhân đấy, hoàng thượng phát cơn lôi đình cực độ, liền vấn kế các quân sư là những vị theo hoàng tục vốn hay chiều ý vua: ngài ngự chiếu luật pháp và tục lệ các tiên đế mà hiệp nghị với các cố vấn về vụ này, (những quan nhất phẩm triều đình là Các sên, Sê tha, Át man, Thác sê, Ma rê, Mác san và Ma múc, tức bảy vị lãnh tụ Ba tư Mê đô, nhất phẩm ngự tiền phò vua trị nước) xét về vụ án hoàng hậu Vát thi bất tuân thánh chỉ do vua A suê cử hoạn quan triệu thỉnh.

Nghe vua hỏi triều thần xong, Ma múc tâu: "Hoàng hậu Vát thi không những xúc phạm đến chúa thượng thôi lại cũng mất lòng dân tộc chức phẩm trong toàn thể các tỉnh của hoàng đế A suê nữa. Lời của hoàng hậu thốt ra sẽ lọt tới các phụ nữ khiến họ khinh mạn chồng mình, viện cớ nói: "Đến quốc vương A suê phát lệnh với hoàng hậu Vát thi mà bà còn chả thèm đến nữa là!" Rồi noi gương đó, các mệnh phụ công thần Ba tư, Mê đô cũng khinh thường mệnh lệnh lang quân mình; nên chúa thượng thịnh nộ rất chí lý vậy.

Truất Phế Hoàng Hậu

"Nếu đẹp ý chúa thượng, kính xin ngài ngự lập tức giáng chỉ, ghi chép vào sách luật dân Ba tư Mê đô bất khả kháng kể từ nay Vát thi không được vào chầu vua nữa. Chúa thượng sẽ ban chức mẫu nghi cho một vị khác xuất sắc hơn bà. Sắc chỉ này cấp tốc thông tri cho các tỉnh trong toàn quốc (rất mênh mông) cốt cho hết thảy mệnh phụ công khanh cũng như vợ công dân đều phải kính nể chồng mình".

Kế hoạch này được hoàng thượng và triều thần ưng theo nên nhà vua thi hành đúng như kiến nghị của Ma múc. Vua liền giáng chỉ soạn thảo bằng nhiều thứ sinh ngữ tống đạt cho khắp các tỉnh trong toàn quốc hầu khi thông tri cho mọi cấp công môn quan chức thường dân bất luận dân tộc nào đều cũng nghe và đọc được.

Phụ Bản

Chiêm Mộng Thứ Nhất

11. Kế, Ma đô kê tuyên bố: Mọi việc đó đều do Thiên Chúa khiến định. Tôi cũng nhớ lại: trong một giấc mộng thấy mọi điều có ý nghĩa như vậy không sai chút nào: Một suối nhỏ chảy ra sông thành ánh sáng và mặt trời rồi tràn ra vô số nước, tức Ét tê do vua đã kết hôn với, lại đặt nàng làm hoàng hậu; còn hai con rồng là tôi và A man; các dân tụ tập lại đó là những kẻ cố tâm tiêu diệt danh bộ người Do Thái; dân tộc của tôi tức Ít ran cầu khẩn cùng Chúa; Ngài liền giải phóng cho dân và cứu chúng tôi khỏi mọi nguy biến lại làm những dấu kỳ phép lạ trước mặt thiên hạ: Ngài đã phát lệnh hai số phận một là dân Thiên Chúa, hai là các lương dân; cả hai đại sự đều xảy ra cho thiên hạ cùng một ngày, ấn định trước nhan Thiên Chúa cùng một cơ hội; Chúa vừa nhớ đến dân Ngài vừa thương xót sản nghiệp của Ngài nữa. Họ sẽ kỷ niệm hai ngày đó trong thành A đa, tức ngày mười tư mười rằm tháng đó: không những dân nhóm họp thành một đại hội linh đình hoan hỉ, vả từ đó về sau trải qua các thế hệ dân Ít ran đều mừng lễ này.

Chiêm Mộng Thứ Hai

Năm thứ bốn vua Tô lê meo và Leo phát trị vì, Dô si thêu tự xưng mình là tư tế thuộc tông giống Lê vi, lại con trai người là Tô lê meo đem thông điệp Phu rim này và quả quyết rằng Ly si mách con trai Tô lê meo đã giải thích ở Giêru salem.

Vả, bản đầu trong bản phổ thông không có trong Do Thái ngữ cũng không thấy nói có ai giải thích hết.

Năm thứ hai triều Át ta xê đại đế, mồng một tháng Ni san Ma đô kê con trai Gia rê cháu Sê mây chắt Xít thuộc chi tộc Ben gia minh chiêm mộng thấy, có người Do Thái định cư ở thị trấn Su sê là nhân vật cao cấp nhất phẩm triều đình. Người đó cũng vào số các tù binh do Na bu cô quốc vương Ba by lon từ Giêru salem dẫn độ về với Giê sơn vua Giu đa.

Chiêm mộng đó như sau: Trên mặt đất nổi dậy nào là thanh âm náo động, nào là sấm vang đất rung hỗn loạn. Rồi, bỗng có hai con giảo long sẵn sàng ra giao chiến với nhau: tiếng chúng gầm lên chấn động các quốc gia hầu giao tranh với dân lành; ngày hôm đó tối tăm, phân ly, ảo não, sầu khổ và khủng khiếp khắp hoàn cầu; cả dân lành cũng bị rối loạn sợ tai họa chết chóc. Họ cầu khẩn Thiên Chúa; đương lúc họ kêu cứu bỗng có một nmạch nhỏ xíu vọt lên thành sông rộng lớn tràn ra rất nhiều nước: ánh sáng và mặt trời hiện ra khiến những kẻ nhu mì được tôn vinh và tiêu diệt những người quyền quý. Vừa thấy vậy Ma đô kê liền bừng dậy khỏi giường, ngẫm suy việc Thiên Chúa toan làm; định thần lại rồi, người muốn tìm hiểu chiêm mộng đó ngụ ý sao đây

17. Phần Thứ Mười Bảy: Ma Ca Bê Chương 62. Ma Ca Bê

Chương 63. Ma Thát Với Các Con

Chương 64. Giu Đa Làm Thủ Lãnh (Đời Vua An Tiu Cô IV)

Chương 65. Đê Mét Làm Vua

Chương 66. Chiến Tranh Dưới Đời Thượng Tế Lãnh Tụ Gion Tha

Chương 67. Chiến Cuộc Dưới Đời Si Mon

Chương 68. Thông Điệp Gởi Cho Do Thái Tại Ai Cập

Chương 69. Sự Tích Hê Liu Đô

Chương 70. An Tiu Cô Bách Đạo

Chương 71. Thanh Tẩy Đền Thờ

Chương 72. Giu Đa Ma Ca Bê

Chương 73. Công Phá Ni Can, Giải Phóng Dân

Ma Ca Bê

Lý Lịch A Lê San

1. Sau khi A lê san con Phi líp người Ma xê quê Xê thim làm vua nước Hy Lạp, toàn thắng Đa riu quốc vương Ba tư và Mê đô, ông mở nhiều cuộc chiến, chiếm vô số thành lũy, hạ sát các vua chúa địa phương, vượt qua bờ cõi thế giới, đoạt chiếm lợi phẩm của bao dân quốc, cả hoàn cầu đều im hơi trước oai nhan. Ông tổ chức một đạo quân vô cùng dũng mãnh nên ông hãnh diện kiêu căng; chinh phụ các thành thị khuất đoạt nhiều bạo quân bắt chúng phải triều cống cho mình.

Sau đó, ông bị liệt giường tự biết mình sắp lìa đời, liền vời mấy thượng tướng lên nắm chính quyền mỗi vị một vùng; sau khi A lê san băng, họ xưng vương và truyền ngôi lại cho con cháu mình lâu đời, lại gia tăng nhiều tai họa cho toàn thế giới.

An Tiu Cô Tội Ác

Trong hàng tân vương đó, có một mầm rễ tội ác tức là An tiu cô trứ danh, hoàng tử An tiu cô, trước bị bắt làm con tin tại Rô ma sau lên ngôi vua vào năm một trăm ba mươi bảy đời vương quốc Hy Lạp. Cùng thời đó, ở Ít ran cũng phát xuất những đứa con vô lại lừa dối nhiều người, chúng nói: "Nào ta hãy kết ước với các quốc gia lân cận đi, vì từ hồi ta tách biệt họ đã gặp biết bao tai họa". Xem ra dân chúng hài lòng về câu nói đó; họ đề cử một ít đại diện đến yết kiến nhà vua và được vua cho phép thi hành theo tục lệ lương dân.

Bỏ Chúa Làm Càn

Họ bèn xây một sân vận động tại Giêru salem theo tục lệ các nước; họ tự tạo lấy dương bì, phản bội giao ước thánh, hòa mình với lương dân lại bán luôn bản thân để làm điều gian ác.

Thôn Tính Ai Cập

Sau khi An tiu cô ổn định triều chánh đàng hoàng, vua toan tính mở mang vương quyền sang tận xứ Ai Cập hầu thống trị luôn cả hai nước: với một đạo quân hùng dũng gồm chiến xa, chiến tượng, chiến thuyền cùng vô số kỵ binh tiến vào Ai Cập khai chiến với Tô liêm quốc vương Ai Cập. Tô liêm thất trận bỏ trốn thục mạng để lại cơ man tử thương. An tiu cô thôn tính các thị xã Ai Cập và tịch thu chiến lợi phẩm xứ Ai.

Bóc Lột Đền Thờ

Toàn thắng Ai Cập vào năm một trăm bốn mươi ba, trên đường về An tiu cô lại quẹo sang Ít ran: oai hùng tiến lên Giêru salem, kiêu mạn vào thánh cung chiếm đoạt nào bàn thờ vàng, đài nến, các khí dụng, bản bánh tiến, chén hiến tửu, ly tách, nào bình hương vàng, màn, vòng hoa cùng các đồ trang trí bằng vàng bày trước điện thờ, tháo lấy cho hết. Lại tịch thu vàng bạc và các đồ quý giá, cướp luôn kho tàng bí mật vua khám phá được; cuỗm tất cả rồi trở về xứ mình. Vua sát hại cơ man là người và lộng ngôn cao ngạo cực độ! Ít ran sầu thảm tang tóc mọi nơi:

Tướng lãnh, lão thành đều rên rỉ,

nữ tú nam thanh phải ưu sầu,

đàn bà ủ dột sắc đổi màu,

Tân lang buồn bả ngâm tháng khúc,

giai nhân cảm động ngồi phòng khóc;

Địa cầu rung chuyển bởi dân cư,

gia đình Gia cóp phủ thẹn thò!

Cướp Phá Đô Thị

Qua hai năm, vua lại phái một ủy viên thuế vụ đến các thị trấn Giu đa với đoàn quân hùng hậu tiến vào Giêru salem. Vị sứ ủy này lưu manh dùng lời ôn hòa thuyết phục dân chúng, họ tin liền; rồi bất ngờ tấn công thị trấn, gây tai họa lớn, giết nhiều người trong dân Ít ran. Tịch thu của cải thành phố, đốt thủ đô, triệt hạ nhà cửa, phá hủy tường lũy chung quanh thành; dẫn độ phụ nữ con thơ đi làm tù binh, cướp đoạt súc vật. Sau đó, chúng xây cất thị trấn Đa vít có tường lũy cao rộng kiên cố với vọng canh vững chắc, biến thành pháo đài riêng.

Thảm Cảnh Tang Thương

Ở đó, họ đặt những người vô lại những kẻ hung hãn lo việc canh phòng; chất chứa võ khí lương thực và thu vén của cải thành Giêru salem, những trữ vật đó trở thành cạm bẫy hùng dũng, tức là ổ phục kích nguy hại cho thánh đường, là tai biến ghê sợ cho dân Ít ran. Vả, chúng lưu huyết vô tội chung quanh đền thánh khiến đền thờ ra nhơ nhớp. Vì chúng mà dân cư Giêru salem phải lẩn trốn, thủ đô trở nên trụ sở ngoại kiều, nên chốn xa lạ cho nòi giống chính tông, con cháu đành phải lìa bỏ quê hương. Thánh đường hoang tịch tựa rừng vắng, ngày đại lễ hóa ra tang tóc, ngày thứ bảy bị sỉ nhục, tôn vinh ra hư vị. Thành xưa vinh quang nay biến ra nhục nhã, trước kia cao sang rầy nên tiều tụy.

Cấm Đạo Công Khai

Kế đó, vua A tiu cô ban sắc chỉ cho toàn quốc phải hợp thành một quốc dân duy nhất, buộc mọi người phải bỏ tục lệ riêng của mình. Các sắc dân đều phăm phắp tuân lệnh vua A tiu cô; Ít ran thiếu gì người phế bỏ ngày thứ bảy mà thuần phục vua và hiến tế tượng thần. Vua cũng phái sứ giả đến Giêru salem cùng các thị trấn Giu đa tuyên sắc lệnh cho dân chúng thuận theo tục lệ các dân ngoại trong nước, lại cấm dâng lễ toàn thiêu, lễ tiến, lễ quán trong đền thờ Thiên Chúa, cấm luôn giữ ngày thứ bảy, mừng đại lễ. Vua cũng ra lệnh phải tục hóa cả của thánh lẫn dân thánh Ít ran; lại truyền kiến tạo bàn thờ, chùa đền, tượng thần và cúng lễ bằng thịt heo với mọi thứ súc vật, nghiêm cấm con nít chịu phép cắt bì, phải ô nhục hóa bản ngã bằng đủ thứ uế tạp ghê tởm khiến cho dân chúng sao lãng luật pháp bỏ quên mọi nghi lễ Thiên Chúa. Ai bất tuân sắc lệnh quốc vương An tiu cô sẽ bị tử hình.

Dân Làm Hại Dân

Vua lục tống sắc chỉ trên cho toàn quốc, đặt quan giám sát trong dân bắt buộc thi hành đúng mức; lệnh cho các thị xã Giu đa phải cúng tế. Biết bao người dân từ bỏ luật pháp Chúa mà gây tai họa cho khắp đất nước; khiến dân Ít ran phải đào tẩu lẩn lút trong những nơi kín đáo.

Thờ Thần Đốt Sách

Ngày rằm tháng Cát lêu năm một trăm bốn mươi lăm, vua An tiu cô dựng một ngẫu tượng quái gở ngay trên bàn thờ Thiên Chúa; rồi trong khắp các thị trấn Giu đa người ta lập bàn thờ lung tung mọi nơi; họ lại dâng hương lễ bái trước cửa tư gia cả ngoài phố xá; xé và đốt cháy sách luật Thiên Chúa, hễ bắt gặp sách giao ước Chúa tại nhà ai, hoặc bất cứ ai tuân giữ luật Thiên Chúa, lập tức theo đúng sắc nhà vua phải xử tử liến. Tháng này qua tháng khác họ dùng võ lực lùng khắp các thành thị Giu đa bắt những người phạm pháp mà trị tội.

Diệt Sao Nổi Tín Ngưỡng?

Mỗi tháng cứ ngày hai mươi lăm, họ cúng tế trên bàn thờ mới xây đè lên bàn thờ cũ; phụ nữ nào cắt bì cho con trai mình lập tức bị xử tử theo chiếu chỉ vua An tiu cô: chúng treo cổ con nít ngay trong gia chủ cả những ai đã cắt bì cho con trẻ cũng bị tử hình. Trái lại trong dân Ít ran thiếu chi kẻ quyết tâm không ăn dùng của dơ, thà họ chết, quyết không chịu nhơ nhớp bằng những thực phẩm ô trọc; vì không dám vi phạm luật thánh Thiên Chúa, họ đành chịu chết. Quả thực cơn thịnh nộ cực kỳ vĩ đại bao trùm lên dân chúng.

Ma Thát Với Các Con

Cha Con Ma Thát

2. Thời kỳ đó, Ma thát con trai Giô an cháu Si mon, tư tế thuộc dòng dõi Giô ríp bỏ Giêru salem định cư trên núi Mô đin. Người sinh được năm con trai: Giô an tục là Gát đi, Si mon biệt hiệu Tha si, Giu đa đặt hiệu là Ma ca bê, Ê lê xa danh tánh A ba, và Gion than xưng là A phút.

Trước Cảnh Đau Lòng

Thoạt xem thấy tai họa xảy ra trong dân Giu đa tại Giêru salem, Ma thát thở than: "Khốn thân tôi! Tôi đâu có sinh ra để chứng kiến dân tôi đổ nát, thành thánh bại hoại, đâu cứ ngồi yên nhìn mặc cho tay cừu địch lũng đoạn? Của thánh lọt vào tay ngoại kiều, thánh đường nên như người phàm phu, bảo vật quang vinh trong đền bị cướp đoạt như tù binh, bô lão bị chém bỏ ngoài phố xá, thanh niên ngã gục dưới gươm thù. Há dân nào chẳng thừa kế quốc gia mình sao, chẳng dự phần chiến lợi phẩm nước mình chăng? Quyền tự quyết bị lũng đoạn, dân trước kia tự do nay thành nô lệ. Kìa, nơi chí thánh, cảnh mỹ lệ, sắc thái khang trang đã biến thành hoang dã, lương dân đã chà đạp chúng tôi! Như vậy, sống mà chi nữa? Rồi, Ma thát và các con trai xé áo mình ra, mặc bao bố khóc than thảm thiết.

Dụ Dỗ Tham Vọng

Khi ấy, những tay sai của vua An tiu cô kéo đến Mô đin bắt buộc dân chúng trong thành phải cúng tế dâng hương và lìa bỏ lề luật Thiên Chúa. Có nhiều người trong dân Ít ran hoan nghênh đón tiếp họ; còn Ma thát và các con trai người cương quyết vững lập trường. Bấy giờ sứ ủy An tiu cô khuyến cáo Ma thát như sau: "Ông là thủ lãnh chức cao quyền trọng trong thành này, được cả dân con lẫn đồng bào kính tôn; nên hãy thi hành sắc lệnh nhà vua trước tiên đi như các quốc dân các chức sắc Giu đa cùng những kẻ còn sót lại ở Giêru salem đã làm, tất nhiên ông và các con sẽ được nên thân hữu nhà vua lại được ngài ngự ân tứ nhiều bạc vàng tặng phẩm!"

Cương Quyết Giữ Đạo

Ma thát lớn tiếng đáp từ: "Mặc dầu các dân tộc tuân lệnh vua An tiu cô, cho dù mọi người từ bỏ đạo cha ông mình mà vâng cứ lệnh nhà vua, tôi đây, con cái và anh em tôi tuân lệnh theo luật lệ tổ phụ chúng tôi. Mong Thiên Chúa bảo vệ cho chúng tôi khỏi lỗi phạm pháp lật và giới răn Ngài: chúng tôi bất tuân sắc lệnh vua An tiu cô, không ngả nghiêng vi phạm luật lệ chúng tôi mà cúng tế".

Giết Tên Phản Giáo

Ma thát vừa dứt lời, bất ngờ một tên Do Thái ngang nhiên theo lệnh nhà vua cúng thần trên bàn thờ trong thị xã Mô đin. Chứng kiến cảnh đó, Ma thát đau đớn, ruột gan bừng nóng, nhiệt độ lòng mộ luật pháp bừng lên sấn lại chém tên đó trên bàn thờ; giết luôn ủy viên vua An tiu cô phái đến đốc tế và lật đổ bàn thờ: lòng nhiệt thành với luật pháp của Ma thát giống như hành động Phi nê xưa đối với Xam ri con trai Sa lôm.

Lên Rừng Giữ Đạo

Rồi, Ma thát rao lớn tiếng khắp thị xã như sau: "Những ai còn nhiệt tâm giữ đạo, quyết chí vâng lời giao ước hãy đi theo ta!" Kế, chính ông và các con trai mình bỏ lại hết mọi tài sản trong thành phố mà trốn lên núi. Số đông còn giữ chánh đạo và luật pháp cũng tìm vào nơi hoang dã; họ cũng mang theo nào vợ con nào đoàn vật vì tai họa bao phủ quanh họ.

Chết Vì Ngày Lễ

Người ta thông báo cho quân nhân, bộ đội nhà vua đóng tại Giêru salem thị trấn Đa vít rằng có mấy người vi phạm sắc lệnh nhà vua đã rời đi trú ẩn nơi tịch mạc trên rừng, lại một số đông cùng trốn theo họ nữa. Cấp tốc chúng tuốn đến giao tranh với họ vào ngày thứ bảy, khiêu khích: "Thôi, đủ rồi chớ! Ra cả đây, hãy tuân theo đúng mệnh lệnh vua An ti cô thì tụi bây sẽ được sống!" Họ đáp: "Ta không ra, không tuân lệnh vua kẻo vi phạm ngày thứ bảy". Lập tức chúng tấn công. Nhưng họ không đáp, không ném đá lại cũng không lấp cửa hầm mật, họ cương quyết: "Thà chết hết với lòng chân thành còn hơn. Trời đất sẽ chứng giám việc các người hạ sát chúng ta bất công!" Vì chúng giao chiến vào các thứ bảy nên chính họ với vợ con hàng ngàn mạng tử trận, cả đoàn súc vật cũng toi.

Thứ Bảy Cũng Đánh

Vừa được tin, Ma thát và các bạn hữu khóc thương thê thảm; mọi người nói với nhau: "Nếu ta đều xử sự như đồng bào mình, nếu không chống lại lương dân mà cứu sinh mạng và bênh chánh nghĩa, sớm muộn chúng cũng sẽ tiêu diệt ta khỏi địa cầu!" Vì thế, từ bữa ấy, họ nhất quyết: "Bất cứ ai khiêu chiến với ta ngày thứ bảy, phải phản kháng lại, chớ không đành chịu chết như huynh đệ mình mới chết trong hang mật nữa!"

Hợp Quần Quật Khởi

Hồi đó, giáo hội A si đê là những dũng sĩ trong dân Ít ran có nhiều người nhiệt thành với luật pháp cũng nhập ngũ; các người trốn cơn khủng bố cũng về với họ nên họ được tăng cường. Nhờ vậy, họ lập thành quân lực: căm giận đả kích tội nhân, phẫn nộ sửa trị người bất chính. Còn các người khác trốn sang tỵ nạn trong các quốc gia.

Bấy giờ Ma thát cùng với đồng hữu đi kinh lý một vòng: phá hủy các bàn thờ, gặp các trẻ nam nơi biên giới Ít ran chưa chịu cắt bì liền cắt cho; họ đả phá bọn kiêu binh khiến mọi hành động do tay họ tạo nên đều thịnh đạt; họ giữ vững luật pháp thoát khỏi tay ngoại bang cũng như thoát tay đế vương lại khiến tội nhân không ngóc sừng lên được nữa.

Khuyên Nhủ Con Trai

Khi gần ngày mệnh chung, Ma thát khuyến cáo các con trai mình, căn dặn: "Giờ đây, kiêu mạn phỉ báng, hỗn loạn và căm hờn dồn dập! Nên, hỡi các con, hãy nhiệt thành với luật pháp, phải hiến sinh mạng vì giao ước tổ phụ mình. Hãy mặc niệm công trạng cha ông đã gây dựng xưa, ắt các con sẽ được hiển vinh và lưu danh vạn cổ. Áp ram há chẳng vì cơn thử thách nên mới đáng xưng tụng là trung nghĩa sao? Giu se trong trường hợp gặp nạn vẫn giữ lề luật mới được làm tể tướng Ai Cập; Phi nê tổ phụ ta tận tâm sùng mộ Thiên Chúa mới đáng được giao ước chức vụ tế lễ muôn đời; Giê su (Gio sê) hoàn tất sứ mạng mới trở thành tướng lãnh dân Ít ran; Ca lép chứng minh giữa công hội nên được phần gia sản; Đa vít vì nhân hậu đã được ngôi đế vương muôn đời; Ê lia vì nhiệt tâm với luật đã được đem lên trời; A na nia, A xa ria Mi sen vì tin cậy nên được thoát ngọn lửa; Đa niên đơn sơ được cứu khỏi miệng sư tử. Do đó, các con hãy suy niệm đời nào cũng như thế hệ ấy, hết thảy những ai tin kính Ngài đều không bao giờ nhu nhược. Vả, các con chớ sợ sệt lời kẻ tội lỗi, vì danh vọng nó giống như phân bón sâu bọ vậy. Vì hôm nay được tôn vinh ngày mai đã mất hút. Họ trở về với đất, mưu kế chúng cũng tiêu tan!

Giu Đa Thủ Lãnh

"Hỡi các con hãy kiên trì bảo vệ luật pháp cho đến cùng, vì nhờ đó các con sẽ được vinh quang! Đây, Si mon là anh trưởng các con, cha đã rõ con người đa mưu túc kế: sẽ lên thay thế cha, các con phải luôn luôn vâng theo người. Còn Giu đa Ma ca bê từ thiếu thời đã dũng cảm sẽ làm thượng tướng quân đội, chỉ huy trận mạc trong dân. Các con hãy tuyển mộ những người hành đạo bênh vực nạn vong quốc; hãy trả thù lương dân, phải lưu tâm đến luật pháp!"

Kế, người chúc lành cho các con rồi về cùng tổ phụ. Ma thát ly trần năm một trăm bốn mươi sáu, con cháu an táng trong phần mộ với tổ tiên tại Mô đin; toàn dân Ít ran than khóc và cử hành đại tang.

Giu Đa Làm Thủ Lãnh

(Đời Vua An Tiu Cô IV)

Khí Thế Giu Đa

3. Bấy giờ, Giu đa biệt hiệu Ma ca bê là con trai đang kế nghiệp phụ thân. Toàn thể anh em và các đồng chí của thân phụ đều ủng hộ, hăng hái tiếp tục cuộc tranh đấu Ít ran. Người làm vinh danh dân mình: mặc áo giám như một kiện tướng mang vỏ khí quanh mình, xông pha mặc trận, tuốt gươm bảo vệ đồn trại; ngang nhiên trong mọi hành động như sư tử, giống sư tử con gầm thét vồ mồi: lùng tung tích kẻ gian ác mà truy kích, hỏa thiêu những ai quấy nhiễu dân mình. Bọn thù địch kinh sợ thất thiên bát đảo, kẻ gian ngoa phải bại hoại: cuộc giải phóng dân tộc người nắm chắc trong tay. Khiến nhiều đế vương sửng sốt; chiến công của ông làm cho Gia cốp phấn khởi: muôn đời lưu niệm ca tụng công ơn. Ông kinh lý các thị trấn Giu đa, diệt trừ bọn ác đức và cứu Ít ran thoát cơn đại nộ. Danh vang khắp địa cầu vì ông cứu vãn được những người sắp bị diệt vong!

Giết A Phô Lôn

Lúc ấy A phô lôn triệu tập các dân tộc thành một quân lực hùng mạnh từ Sa ma ria kéo đến phản công dân Ít ran. Vừa được tin, Giu đa kéo quân ra nghênh chiến: đánh bại và hạ sát thượng tướng, địch quân bị thương rất nhiều, còn ai sống sót thì đào tẩu. Sau khi Giu đa đoạt nhiều chiến lợi phẩm của chúng, thanh kiếm A phô lôn cũng lọt vào tay người: ông dùng gươm đó suốt đời trong mọi cuộc giao tranh.

Đến Lượt Sê Rôn

Sê rôn tổng chỉ huy quân đội Sy ria nghe biết Giu đa đã quy tụ các đạo hữu và giáo hội theo mình, tự nhủ: "Ta phải gây thanh thế cho ta trong nước phải giao chiến với Giu đa và binh sĩ y mới được, sẽ diệt những ai vi phạm lệnh hoàng thượng!" Trù bị xong chúng kéo đại quân hung hãn tiến lên trả thù con cháu Ít ran. Chúng vừa tới gần Bê thô, Giu đa liền dẫn một tiểu đội ra nghênh địch.

Ít Sẽ Thắng Nhiều

Vừa xem thấy quân đội tiến lại ứng chiến người ta liền hỏi Giu đa: "Ta ít người, vả hôm nay chúng ta ăn chay nên đuối sức làm sao địch nổi quân sĩ đông đúc và hùng hậu thế kia được?" Giu đa đáp: "Thiểu số thắng đa số dễ ợt! Vì tôn nhan Thiên Chúa việc giải phóng bằng nhiều hoặc ít quân đâu có thành vấn đề; chiến thắng đâu có lệ thuộc số quân đông, nhưng sức lực sẽ từ trời ban xuống. Kìa, chúng cậy đông người: toàn là bọn cao ngạo ngoan cố đến tấn công chúng ta hầu tiêu diệt ta, bóc lột ta; phần ta sẽ chiến đấu vì sinh mạng vì luật lệ mình, nhưng chính Thiên Chúa sẽ tiêu hủy chúng".

Danh Tiếng Lừng Lẫy

Vừa nói xong Giu đa tiến đánh bất ngờ: Sê rôn và quân đội bị tan rã nhãn tiền. Người truy kích Sê rôn từ Bê thô cho tới đồng bằng: tám trăm dũng binh bị hạ sát, quân còn sống sót đều trốn sang đất Phin tinh. Oai danh và kinh khiếp của Giu đa cũng như anh em người vang dội trong các quốc gia lân cận, thanh danh người vọng cả đến nhà vua. Lúc đó, các dân thiên hạ thường nhắc tới chiến công của Giu đa.

Lệnh Tổng Động Viên

Thoạt nhận được hung tin trên, vua An tiu cô tức giận tím ruột liền truyền triệu tập đại quân trong toàn quốc, binh trại hùng vĩ. Vừa mở ngân khố phát lương thực cho quân đội ăn đủ một năm, lại lệnh cho quân sĩ phải sẵn sàng ứng chiến. Nhưng thấy tiền trong ngân khố bị thiếu hụt, thuế khoán địa phương thâu được ít vì những xích mích và tai họa vua đã gây ra trong nước khi bãi bỏ luật lệ vốn có từ ngàn xưa; e sợ nào không đủ chi tiêu, nào không rộng tay ân thưởng được như các tiên đế trước quen trọng đãi.

Toan Diệt Dân Chúa

Lòng vua rối tựa tơ vò, toan tính sang Ba tư thu thuế ở các tỉnh, lại gom góp được nhiều tiền. Vua ủy cho Ly sia một vị công thần thuộc hoàng tộc lo việc triều chánh ăn từ sông Eu phát đến sông Ai Cập, và việc bảo trợ hoàng tử An tiu cô cho tới lúc nhà vua hồi loan; lại ủy cho ông một nửa quân lực và voi trận, cho biết rõ mọi ý định cả về việc nhân dân ở Giu đê và Giêru salem nữa. Tức là vua sẽ phái quân đội đến phản công họ, ngõ hầu phá hủy và tiêu diệt lực lượng Ít ran luôn cả quân sĩ sống sót tại Giêru salem để phế bỏ lưu niệm họ khỏi xứ mình. Vả, vua dụng ý cho các dân ngoại đến định cư trong khắp bờ cõi Ít ran và bắt thăm phân chia lãnh thổ Do Thái với nhau.

Còn vua, năm một trăm bốn bảy dẫn phân nửa quân còn lại từ thủ đô An tiu kia kéo lướt đi qua sông Eu phát tiến lên miền thượng du.

Rầm Rộ Tiến Quân

Bấy giờ, Ly sia chọn Tô lom con trai Đô rim, Ni can và Gióc gia những bậc hoàng thân thế lực ủng hộ ông; rồi phái bốn chục ngàn bộ binh với bảy ngàn kỵ binh cùng theo họ đến đất Giu đa hầu theo lệnh vua tiêu diệt dân này. Với lực lượng hùng hậu chúng kéo đến đóng gần đồng bằng Em mau. Các thương gia trong vùng nghe tin đó đem rất nhiều vàng bạc và đầy tớ đến thẳng đồn trại để mua trai tráng Ít ran làm nô lệ, có cả quân đội Sy ria và xứ lân bang đi theo họ.

Tiêu Thổ Kháng Chiến

Giu đa cùng các anh em nhận rõ tai họa dồn dập, quân địch đóng trại ngay trên bờ cõi nước nhà; lại nghe biết vua ra lệnh làm cỏ và hủy diệt dân cư. Nên họ bảo nhau: "Ta hãy chấn chỉnh quốc dân khỏi suy vong, hãy chiến đấu cho tổ quốc cho thánh địa!" Họ liền triệu tập hội đồng dân quân trù bị kháng chiến, cầu xin khẩn nguyện Chúa khoan nhân thương đoái. Giêru salem lúc ấy không dân cư, bỏ hoang như rừng; chẳng còn ai ra vô, chốn chôn nhau cắt rốn, nơi thánh bị dầy xéo, con cái ngoại kiều ở trong đồn bót: thành quán trọ cho lữ khách. Hoan lạc đã lìa xa Gia cóp, nơi đây tiếng tiêu cung đờn đều im bặt.

Do Thái Cầu Khẩn

Họ tụ tập tiến lên Mát pha đối diện Giêru salem vì nơi đây xưa kia là chỗ dân Ít ran cầu nguyện; hôm đó họ ăn chay, mặc xô bố, rắc tro trên đầu và xé áo mình ra; họ mở sách luật để sưu tầm những điều dân ngoại quen nài xin tà thần; họ đem theo sẵn các áo lễ, trái đầu mùa phần mười huê lợi và triệu các Na xa rê mãn hạn khấn đến, rồi than van lớn tiếng vọng thấu trời: "Chúng tôi phải đối xử thế nào với những người này, đem họ đi đâu? Nơi thánh Chúa bị chà đạp tục hóa, các tư tế Ngài phải tang chế xỉ nhục! Kìa, các quốc dân tụ lại quyết tiêu diệt chúng tôi. Ngài quá rõ, họ lập mưu phản công chúng tôi; Chúa ôi, nếu Ngài không độ trì cho, chúng tôi chống cự họ sao nổi?"

Chuẩn Bị Giao Chiến

Họ dịch loa ầm ĩ. Kế đó, Giu đa bầu các tướng lãnh trong dân: tức tướng, tá, úy và hạ sát các cấp. Đối với đồng bào mới cất nhà, cưới vợ trồng nho và nhút nhát Giu đa ra lệnh cho họ cứ chiếu luật rút lui về nhà mình. Xong họ tiến quân đóng trại ở mạn nam Em mau. Bấy giờ, Giu đa hạ lệnh: "Hãy sẵn sàng! Hỡi quân dân cương dũng, hãy chuẩn bị đi! Sáng mai đồng bào sẽ xung phong công phá các quốc dân đã tụ tập tiêu diệt chúng ta và các nơi thánh! Chúng ta thà chết trong chiến trường còn hơn mục kích dân tộc ta, thánh địa ta lâm nạn! Trời muốn việc phải thành!"

Đê Mét Làm Vua

Lên Ngôi Cửu Ngũ

7. Năm một trăm năm mươi mốt, Đê mét hoàng tử Se lêu thoát khỏi thủ đô Rô ma ra đi cùng mấy người thân tới một thị trấn duyên hải rồi tự xưng vương. Trong lúc Đê mét vào hoàng cung các tiên đế mình xưa, thì quân đội bắt An tui cô và Ly sia đem nạp cho vua. Nghe biết chuyện đó vua phán: "Trẫm không thèm gặp mặt chúng!" Quân sĩ hiểu ý liền hạ sát cả hai: Đê mét lên ngôi cửu ngũ.

Tố Cáo Man Trá

Bấy giờ, những người Ít ran bất nhân phản giáo đến chầu vua, do An xim ham chức tư tế hướng dẫn, họ tố cáo dân chúng trước tôn nhan như sau: "Giu đa và anh em y đã tàn sát các thân nhân của bệ hạ lại trục xuất chúng thần ra khỏi quê hương. Giờ đây, xin bệ hạ cử vị nào tín cẩn đi thanh tra những việc đồi bại y đã gây ra cho chúng thần và khắp địa sở bệ hạ, để trừng phạt hết thảy bọn y và đồng đảng".

Mắc Mưu Phản Gián

Vua liền cử Bác chi một cận thần nhà vua làm tổng trấn miền bên kia sông, một bậc vọng tộc và trung thành của hoàng thượng; vua sai ông quan sát hành động ám muội của Giu đa; lại đặt tên phản giáo An xim lên chức thượng tế, ban toàn quyền truy diệt con cháu Ít ran.

Mật Ngọt Chết Ruồi

Cùng một đạo hùng binh họ kéo đến xứ Giu đa. Họ sai phái viên đến thương lượng cùng Giu đa và anh em ông, nói toàn lời hòa nhã nhưng giả dối. Giu đa không mấy tin lời chúng nói, vì thấy rằng sao họ lại đến với một quân lực hùng mạnh như thế. Dẫu vậy, cũng có một phái đoàn thông giáo cùng An xim và Bác chi để tìm những giải pháp hợp lý; còn phái A si đê là những người Ít ran muốn cầu hòa trước tiên. Họ lý luận rằng: "Người dẫn đầu là một tư tế thuộc dòng dõi A rôn, có lý nào lại lừa dối ta chớ!" Vả A xim ăn nói dịu dàng với dân chúng lại thề thốt với họ như sau: "Chúng tôi không ngược đãi, cũng không gây thiệt hại chi cho anh em đồng bào". Họ tin, nhưng liền đó y bắt sáu chục người trong dân chúng đem hạ sát luôn trong nội ngày, nghiệm đúng lời đã chép: "Họ để thịt máu thánh nhân lai láng khắp Giêru salem chẳng có ai chôn!"

Vi Phạm Lời Thề

Toàn dân kinh khiếp sợ sệt la lên: "Chúng láo khoét, vô lý! Chúng vi phạm lời cam kết đã tuyên thệ!" Kế đó, Bác chi rời trại Giêru salem sang Bét sách bắt nhiều người Do Thái a dua với mình, hành sát một số nhân dân quẳng xác xuống giếng lớn: trao miền đó cho An xim, để lại một sư đoàn ủng hộ y, rồi Bác chi trở về chầu vua.

Lủi Về Cáo Gian

An xim hết sức củng cố chức thượng tế của mình; đồng thời bọn phiến loạn trong dân a tùng với y: chúng nắm chính quyền trong xứ Giu đê gây đại họa cho dân Ít ran. Giu đa chứng kiến các hành động ác hại do An xim và đồng lõa gây ra cho con cháu Ít ran còn tệ bằng mấy lương dân; nên người đi khắp xứ Giu đê trừng phạt những bọn đào ngũ và cấm chúng ra khỏi xứ sở. An xim nhận thấy Giu đa và nghĩa quân thắng thế chẳng ai kháng cự nổi thì trở về chầu vua mà tố cáo Giu đa và nghĩa quân nhiều tội dã man.

Lại Cử Ni Can

Vua tuyển Ni can một thượng tướng lỗi lạc nhất cũng là kẻ thù hận dân Ít ran thâm độc đi tiêu diệt họ. Với một đạo quân hùng mạnh tới Giêru salem, Ni can gởi thông điệp cho Giu đa và anh em ông, lời lẽ ôn hòa nhưng xảo quyệt, rằng: "Đấu tranh mà chi giữa ta với các ông! Cùng một ít quân sĩ ta thân hành tới để diện đàm trong tình ôn hòa với chư ông thôi". Họ tới nhà Giu đa, đôi bên chào hỏi nhau thân mật; nhưng bên địch sẵn sàng bắt cóc Giu đa.

Vừa Đánh Đã Thua

Đoán rõ cớ sự Ni can giả vờ đến thăm mình nên Giu đa sợ không muốn ra mặt diện kiến. Lúc ấy, Ni can nhận thấy âm mưu mình bại lộ bèn tấn công Giu đa tại Ca pha sam; trái lại quân sĩ bên Ni can ngã chết lối năm ngàn người, còn lại phải lẩn trốn trong thị xã Đa vít!

Chỉ Còn Cầu Khẩn

Sau đó, Ni can lên núi Si on: các tư tế trong dân ra nghênh tiếp niềm nở hiền hòa; họ giới thiệu cho thượng quan rõ những lễ toàn thiêu quen dâng tiến để cầu nguyện cho hoàng thượng. Nhưng ông ta khinh chê phỉ báng họ, thốt những lời cap ngạo; ông bực tức và thề: "Nếu không nạp Giu đa và nghĩa quân vào tay ta, lúc lại đây sẽ đốt đền thờ này lập tức!" Rồi Ni can hầm hầm giận dữ ra đi. Các tư tế vào đền sấp mặt trước bàn thờ khóc lóc than van: "Chúa ôi, Ngài đã chọn đền này làm nơi cầu nguyện cho dân riêng; xin Chúa trừng phạt viên tướng này cùng quân đội của y, nguyện cho chúng chết vì gươm đao: xin Chúa nhớ lời chúng phạm thượng, chớ để cho chúng yên thân!"

Giu Đa Cầu Nguyện

Ni can bỏ Giêru salem ra đóng trại ở Bê thô; quân đội Sy ria kéo đến ủng hộ. Còn Giu đa cắm trại với ba ngàn nghĩa quân ở A đa; người cầu nguyện như sau: "Chúa ôi, xưa vua Sen na kê sai quân sĩ đến, vì chúng lộng ngôn phạm đến Chúa, tức thời thiên sứ xuất hiện quật chết một trăm bốn mươi lăm ngàn người. Xin Ngài cũng diệt quân đội này ngay trước mắt chúng tôi như vậy, cho thiên hạ nhận thức rằng chúng đã nói càn phạm đến đền thánh Ngài; xin Chúa xét xử chúng theo việc gian tà của chúng!"

Ni Can Tử Trận

Quân đội đôi bên giao chiến vào ngày mười ba tháng A đa. Quân Ni can bị tan rã: người thiệt mạng trước tiên trong trận này chính là Ni can. Mất tướng, tàn quân quăng vũ khí tẩu thoát. Nghĩa quân đuổi theo binh địch một ngày đường từ A đa xê cho đến Ga xa: họ vừa rượt theo sau địch vừa thổi kèn hòa nhịp. Từ các làng Giu đê dân chúng kéo ra tựa sóng cồn bao quanh, địch lộn xộn cuống quít; hết thảy đều bị hạ sát bằng gươm không sót một mống.

Kỷ Niệm Chiến Thắng

Nhân dân tịch thu chiến lợi phẩm, chém đầu Ni can, chặt cánh tay phải kẻ đã giơ lên mà lộng ngôn và đem về treo bên trước thủ đô Giêru salem. Toàn dân reo vui tưng bừng như ngày đại hỷ; ấn định mừng kỷ niệm ngày đại thắng này vào mười ba tháng A đa. Xứ Giu đê được an hòa một thời gian.

Chiến Tranh Dưới Đời Thượng Tế

Lãnh Tụ Gion Tha

Gà Mọc Đuôi Tôm

10. Giu đa qua đời bọn ác đức nổi dậy khắp bờ cõi Ít ran, phe phản giáo mọc ra nhan nhản. Thời ấy có nạn cơ cận lớn, nên cả xứ rầm rập theo chúng tùng phục Bác chi. Ông này tuyển lựa những gã bất lương lên nắm quyền trị dân: chúng đua nhau lùng bắt các bạn thân Giu đa đem nạp cho Bác chi sỉ nhục trừng trị. Vì thế trong dân Ít ran sinh ra đại loạn kể từ ngày trong dân không còn tiên tri nào xuất hiện.

Nhận Quyền Chỉ Huy

Hồi ấy, các thân hữu Giu đa tề tựu lại thưa cùng Gion tha như sau: "Kể từ ngày Giu đa bào huynh ông mệnh chung, chưa thấy ai giống như người vùng dậy chống thù địch kháng Bác chi, phản bọn nghịch dân ta. Vậy nay chúng tôi bầu ông lên làm nguyên thủ thế anh ông, làm thủ lãnh cuộc kháng chiến đương bộc khởi giữa chúng ta". Từ đó, Gion tha đứng đầu chỉ huy thay thế Giu đa bào huynh mình.

Kháng Chiến Mở Màn

Bác chi nghe biết liền lập mưu hạ sát tân thủ lãnh. Gion tha biết trước, nên cùng với Si mon bào huynh và các đồng chí trốn lên rừng Thê quê, đóng trại gần bờ giếng Át pha. Ngày thứ bảy, Bác chi được tin, kéo quân đội đích thân sang bên kia Gióc đan. Gion tha nhờ anh mình phụ trách quân vụ ra yêu cầu dân Na bút thân hữu cho họ mượn để giấu hành lý trong làng vì đồ nhiều quá: nhưng con cháu Giam ri thuộc nhóm Ma đa ra phục kích, bắt cóc Gio an lấy hết hành lý rồi đi.

Vu Quy Thành Tang Chế

Sau khi câu chuyện vừa xảy ra, họ mách cho Gion tha và Si mon anh người rằng, con cháu Giam ri có đám cưới to linh đình lắm, họ đương rước dâu từ Ma đa đến, cô gái của một thân hào Ca nan. Nhớ lại cuộc đổ máu của Gio an bào huynh, họ liền ra phục ở hầm đá trong núi; ngước mắt nhìn, họ thấy một xe hoa lộng lẫy giữa tiếng ồn ào, kìa chàng rể, bà con, bạn bè ra đón tưng bừng trong tiếng đờn giọng ca với nhiều khí giới nữa. Từ ổ phục kích, nghĩa quân ào ạt nhảy ra tàn sát chúng, vô số người tử thương, đồng thời nghĩa quân tịch thu chiến phẩm, những kẻ còn sống sót trốn chạy lên núi. Thế là đám cưới lại biến thành đám tang, tiếng hát trở nên tiếng khóc. Sau cuộc báo oán cho máu anh mình rồi, họ trở về ẩn nơi triền sông Gióc đan.

Uỷ Lạo Nghĩa Quân

Vừa nghe tin, đúng vào ngày thứ bảy Bác chi cùng với lực lượng dũng mãnh tiến lại bờ sông Gióc đan. Gion tha khuyến cáo nghĩa quân: "Hãy vùng lên, hãy đả kích thù địch ta đi! Vì ngày nay đâu có như hôm qua hôm kia. Đây, cuộc chiến phải diễn tiến khắp bốn phía: cả bên này bên kia triền sông Gióc đan, cả nơi bờ bụi rừng rú, bãi lầy không chừa chỗ nào hết. Vậy, hãy cầu Trời cứu ta thoát tay cừu địch.

Ngàn Địch Thiệt Mạng

Kế đó, hai bên giao chiến: Gion tha thẳng tay đả kích Bác chi nhưng ông giật lùi lẩn trốn. Lúc đó Gion tha cùng nghĩa quân nhảy xuống sông bơi qua nên kia Gióc đan: hôm ấy bên Bác chi có hàng ngàn quân sĩ tử trận. Rút về Giêru salem, địch quân xây cất nhiều thị xã kiên cố trong xứ Giu đa, dựng pháo đài ở Giê rích, Am man, Bê thô, Bê then, Tham nát Pha ra và Thô phô với tường cao cửa chắc; mỗi pháo đài có một tiểu đoàn phòng thủ và gây rối cho dân Ít ran; lại tăng cường thành Bét su, Ga xam với pháo đài; cắt quân canh phòng, tích trữ thực phẩm. Bắt con trai hào mục trong vùng làm con tin và giam cầm cẩn mật tại Giêru salem.

Bọ Phạt Bất Ngờ

Tháng hai năm một trăm năm mươi ba, An xim truyền phá hủy bức tường ở sân trong thánh đường triệt hạ công trình của các tiên tri và bắt đầu phá hoại lung tung. Đúng lúc, An xim bị phạt: miệng lưỡi y líu lại, thân thể bần thần tê liệt, không sao nói được lời nào truyền khiến gia nhân nữa, nên mọi công việc của y đều đình trệ. Ngay lúc đó An xim quá thống khổ tắt thở liền! Thấy An xim chết tươi, Bác chi cũng chuồn về triều. Do vậy, xứ Giu đê tạm yên được hai năm.

Bác Chi Lại Thua

Phe bất lương họp bàn: "Kìa Gion tha và đồng đảng sống phây phây đắc ý lắm. Giờ đây ta hãy mời Bác chi đến để bắt chúng trọn ổ trong một đêm". Họ đi bàn bạc chuyện đó với ông. Tức thì Bác chi kéo một đại đoàn theo, mật gởi thông điệp cho bè bạn ở Giu đê nhờ họ bắt cóc Gion tha và các đồng chí; nhưng không thành vì người đã rõ âm mưu chúng. Trái lại Gion tha bắt và hạ sát năm chục người chủ mưu. Kế đó, Gion tha, Si mon và các đồng chí rút lên rừng Bét bê, kiến thiết lại tường thành bị phá, củng cố thị xã. Bác chi được tin liền cho tụ tập quân ngũ và các đồng đảng trong xứ Giu đê lại, rồi đóng trại gần Bét bê, vây thành lâu ngày và chế tạo võ khí. Gion tha để Si mon ở lại trong thị trấn đích thân kéo một số nghĩa quân ra ngoài đồng phục kích, đả phá Ô đa, anh em hắn, các con trai Pha sê ngay trong trại chúng, cuộc chiến bùng lên mãnh liệt. Còn Si mon cùng nghĩa quân ra ngoài thành thiêu đốt chiến cụ; họ xông vào đả kích Bác chi đánh cho bại hoại tơi bời: vì chiến thuật y bất thành, tấn công y vô giá trị.

Tan Giặc Nước Yên

Phẫn uất với bọn vô lại đã xúi giục mình sang quê chúng, bèn chém giết nhiều người bất lương, rồi Bác chi rút quân đội lủi thủi trở về xứ sở. Được tin Gion tha sai một phái đoàn đến nghị hòa và trao đổi tù binh với nhau, Bác chi chấp thuận, theo đúng lời cam kết, ông thề suốt đời mình không bao giờ gây tai họa cho Do Thái nữa; lại thả các tù binh đã bắt trong xứ Giu đê từ trước rồi mới trở về nước và không hề bén mảng tới bờ cõi Giu đê nữa. Chiến tranh dứt, Ít ran yên, Gion tha định cư tại Mách ma, chăm lo việc xử đoán an dân và diệt trừ bọn bội giáo cho khỏi Ít ran.

Giảng Hòa Cầu An

Năm một trăm sáu mươi, A lê xan hoàng tử An tiu cô biệt hiệu Cao nhã chiếm thành Tô lem. Nhân dân ở đó hoan nghênh tân vương. Được tin, vua Đê mét triệu tập đại quân lực ra giao chiến với tân vương. Mặt khác, Đê mét gởi thông điệp đầy lời hòa nhã cho Gion tha cốt ý tán thưởng ông. Vua thầm nghĩ mình cần phải giao hảo với Gion tha trước kẻo y về hùa với A lê xan mà phản công mình; vì biết đâu ông nhớ lại bao nhiêu tai họa mình đã gây cho chính ông, anh em và quốc dân ông chăng; lại cho phép ông được triệu tập quân đội, chế tạo võ khí, nhận làm đồng minh nhà vua và phóng thích tù binh hiện bị nhốt trong đồn.

Tái Thiết Si On

Nhận được thơ, Gion tha lên Giêru salem đọc thông điệp cho toàn dân và những người ở trong đồn nghe; họ lo sợ lắm vì nghe rằng vua ban phép chiêu tập quân đội; họ trao cả con tin còn nhốt nơi pháo đài cho Gion tha để người trả chúng về gia quyến. Kế, Gion tha định cư ở Giêru salem, người khởi công xây cất tu bổ lại thủ đô. Ông ra lệnh cho các đốc công phải kiến thiết tường lũy chung quanh núi Si on bằng đá khối cho kiên cố: mọi việc đều hoàn tất. Các dân ngoại canh gác trong đồn bót do Bác chi đã xây cất trốn chạy hết, mạnh ai nấy bỏ đồn chuồn về quê hương mình: duy ở Bét su còn một số người đã bỏ luật pháp và giới răn Thiên Chúa sót lại, vì đó là nơi trú ẩn của chúng.

Xứng Danh Người Hùng

Vua A lê xan cũng nghe biết những lời Đê mét hứa ước với Gion tha, cũng nghe thuật lại mọi chiến thắng vẻ vang, công trình vĩ đại, chính ông và các anh em mình được vinh danh, cả những lao khổ mà họ phải trải qua nữa.Vua thầm nhủ: "Tìm đâu ra một nhân vật như vậy? Nay ta phải kết nghĩa và đồng minh với ông mới được!" Vua viết một thông điệp cho Gion tha, lời chiếu như sau: "Hoàng đế A lê xan kính gởi lời chào bạn Gion tha. Ta nghe biết ông là vị anh hùng dũng cảm, quả xứng với bậc vương hữu.

Kiêm Chức Thượng Tế

Nay ta tuyên đặt ông làm thượng tế quốc dân ông, tôn hiệu ông lên tước hiệu hoàng hữu (vua gởi kèm theo tặng ông một áo hồng ngự, một kim miện); mong ông kết thân với ta. Khâm thử". Gion tha mặc y phục thượng tế từ tháng bảy năm một trăm sáu mươi, nhân ngày đại lễ lều tạm: động viên quân nhân, chế tạo nhiều chiến cụ.

Cũng Thích Làm Thân

Nghe biết những hành động trên, Đê mét buồn rầu tự nhủ: "Làm sao lại để cho A lê xan kết thân với Do Thái hầu củng cố địa vị mình thế này? Ta cũng phải gởi thông điệp hấp dẫn, ban tước, tặng lộc cho họ để họ ủng hộ ta",

Chiếu Chỉ Cầu Hòa

Đây thông điệp nhà vua như sau: "Hoàng đế Đê mét thân mến chào mừng quý dân Do Thái. Vì quý quốc đã triệt để giữ đúng lời cam kết với chúng tôi, cương quyết không phò phe địch chống đối chúng tôi: được tin đó chúng tôi rất đỗi hỷ hoan. Từ nay xin quý bản cứ luôn luôn giữ vẹn chân tình với nhau, chúng tôi xin tặng bảo vật ngõ hầu thông cảm trong việc đại nghĩa mà quý quốc đã có nhã ý dành cho tệ quốc; xin giảm thuế khoán và tặng nhiều đặc ân cho quý quốc. Kể từ nay chúng tôi tuyên bố tự do cho đồng bào, miễn nạp cống vật xóa thuế muối, giảm gián thu và phần ba hoa màu; còn phần nửa lâm sản vốn thuộc kỷ phần ta từ nay và mãi mãi về sau ta xin nhường lại cho quý hữu, tức từ hôm nay đến mãn đời miễn thu thuế cho xứ Giu đê và ba thị trấn tách ra bởi Sa ma ria và Ga lin mới sát nhập. Vả, cho Giêru salem được thánh hóa thì trong khắp ranh giới đều được miễn thập phân cùng mọi thuế khóa khác.

Nhiều Đặc Ân Khác

Ta cũng trao toàn quyền pháo đài ở Giêru salem, tặng luôn cho vị thượng tế cắt quân sĩ canh gác tùy ý người lựa chọn. Những người Do Thái ở xứ Giu đê bị bắt làm nô lệ trong toàn cõi vương quốc được trả tự do vô điều kiện, cho hết thảy đều được miễn thuế súc sinh. Các ngày đại lễ, thứ bảy, đầu mùa, phụng vụ, ba ngày trước sau đại lễ các người Do Thái trong vương quốc ta đều được miễn thuế; không ai được kiện cáo hoặc phiền nhiễu họ bất cứ công việc gì. Lại, ba chục ngàn dân quân Do Thái sẽ được sung vào quân chính quy hoàng gia, đồng hưởng lương bổng như quân đội triều đình được nhập hàng quân ngũ canh gác đồn bót như tinh binh của đại vương, cũng sẽ được sung vào hàng nhân vật trọng trách trong quốc gia, tướng lính cũng chính là đồng bào mình, được giữ luật pháp riêng của mình đúng như hoàng thượng đã tuyên bố trong xứ Giu đê. Cả ba thị trấn tách khỏi Sa ma ria được sát nhập thành một giới Giu đê trực thuộc chánh quyền thượng tế, ngoài ra tuyệt nhiên chẳng phải phục quyền ai hết. Thành Tô lê mai và miền phụ cận xin tặng riêng cho thánh đường Giêru salem để lo các sở phí việc phụng tự.

Hoàn Lại Tài Sản

Hằng năm, xin tặng mười lăm ngàn bạc trích trong những nguồn lợi triều đình; phần tiền dư các công bộc trước đây quen nạp cho ngân khố thì từ nay sẽ tặng để lo việc tu bổ đền thờ. Lại nữa, số năm ngàn bạc trước đây hằng năm trích trên phần huê lợi nơi đền thánh, từ nay cũng sẽ nhường cho hàng tư tế lo việc phụng tự. Những người mắc nợ triều đình mà ẩn náu trong đền thờ thành Giêru salem hoặc trong những nơi phụ cận thành đường đều được thoát nợ và được giữ y nguyên tài sản của mình trong toàn cõi vương quốc. Sở phí việc xây cất các nơi thánh sẽ trích vào phần huê lợi riêng của hoàng gia; công cuộc tái thiết tường thành Giêru salem, phí tổn tăng cường thành lũy chung quanh cũng thanh toán trên sổ chi thu nhà vua kể cả việc tu chỉnh thành quách xứ Giu đê nữa!

Rồi Đời Ác Vương

Vừa nghe đọc các điều trên Gion tha và toàn dân không dám tin cũng chẳng thèm nhận lãnh ân huệ, vì hồi tưởng lại những tai họa khủng khiếp do Đê mét đã gây nhục nhã cho họ trước đó trong dân Ít ran. Trái lại, nhân dân rất khoái A lê xan, cảm những ân chính hoàng đế biệt đãi nên luôn ủng hộ vua. Sau đó, vua A lê xan tổng động viên quân đội, dàn trận phản công Đê mét. Hai vua giao chiến: quân bên Đê mét bại phải trốn chạy, A lê xan đuổi theo và đại thắng, cuộc chiến khốc liệt kéo dài cho tới lúc hoàng hôn, rốt cuộc hôm đó Đê mét tử trận.

Sai Sứ Cầu Hôn

A lê xan cử phái đoàn sang chầu Tô lem quốc vương Ai Cập xuất trình văn điệp như sau: "Quả nhân đã trở về cố quốc, hiện ngồi trên ngai cửu ngũ các tiên đế, nắm chánh quyền, chinh phạt Đê mét, khôi phục giang san, giao chiến và đại thắng: chính Đê mét và quân lực y đều tan rã, nay quả nhân ngự trên ngai vàng Đê mét. Vậy, giờ đây chúng ta hãy kết thân cùng nhau, xin cho quả nhân được cầu hôn cùng công chúa của bệ hạ, được làm phò mã, dĩ nhiên quả nhân sẽ hiến sính lễ xứng bậc quân vương bệ hạ".

Hôn Lễ Huy Hoàng

Vua Tô lem phúc đáp: "Hạnh phúc thay ngày bệ hạ hồi loan đất tổ ngự trên ngai vàng các tiên đế! Nay xin chấp thuận đề nghị của bệ hạ, nhưng bệ hạ đích thân tới Tô lê mai để chúng ta cùng tâm sự với nhau cho tôi được hân hạnh làm nhạc vương". Tô lem cùng công chúa Cơ leo phát rời Ai Cập hạ giá tới Tô lê mai năm một trăm sáu mươi hai. Vua A lê xan ra nghênh tiếp: Tô lem gả công chúa Cơ leo phát cho, hôn lễ cử hành cực kỳ huy hoàng long trọng tại Tô lê mai.

Hai Vua Trọng Đãi

Vua A lê xan cũng gởi thông điệp mời Gion tha sang hội kiến. Người cùng phái đoàn oai vệ tới Tô lê mai yết kiến hai vị đế vương, tặng hai vị nhiều lễ vật vàng bạc, nên hai vua rất hài lòng. Hồi đó, có những tay bất lương mắc dịch trong dân Ít ran đồng mưu cáo gian Gion tha, nhưng vua không thèm để ý: lại xin Gion tha thay thường phục mà đóng bộ trào cho thực bảnh; vua đặt người ngồi bên cạnh mình, rồi truyền lệnh cho quần thần như sau: "Hãy rước người đi khắp thủ đô và tuyên bố: cấm không ai được khiếu nại tướng công bất kể về khoản gì, chẳng ai được phiền hà người vì lý do nào hết!" Thoạt nhìn thấy Gion tha được tôn vinh, nghe tiếng truyền lệnh của chúa thượng, trông rõ triều phục rực rỡ, bọn lưu thảy đều tẩu thoát. Gion tha được vua xưng vương, ghi tên ngay hàng đầu các vương hữu, đặt làm thủ lãnh tham chánh. Kế, Gion tha hoan hỷ an vui trở lại Giêru salem.

Khinh Địch Phách Lối

Năm một trăm sáu mươi lăm, Đê mét, tức là hoàng tử Đê mét từ đảo Cơ rét trở về đất tổ. Được tin, vua A lê xan vô cùng buồn rầu, lập tức hồi loan An tiu kia, Vua Đê mét đặt A phô lô làm tổng trấn Xê lê Sy ria. Tân thống tướng triệu tập một quân đoàn cực lớn, kéo đến Giam nia, đồng thời tin cho Gion tha thượng tế, như sau: "Ông là người duy nhất đã chống đối chúng tôi. Vì ông mà tôi bị chê cười sỉ nhục, nhưng ông chỉ thị uy với chúng tôi trên núi mà thôi. Giờ đây, nếu ông tin cậy ở lực lượng mình, xin cứ xuống đồng bằng để chúng ta cùng nhau đấu tranh, vì mọi lực lượng chiến tranh đều quy phục tôi. Ông cứ tìm hiểu sẽ rõ tôi là ai, sẽ biết ai là những người ủng hộ tôi nữa. Họ vẫn nói: "Sức mấy mà các ông qua mặt tôi được! Vì đã hai lần tổ phụ ông bị đánh đuổi ngay trên quê hương mình; giờ đây, làm sao ông chống cự nổi đoàn quân kỵ, binh sĩ lớn lao trên đồng bằng, nơi đây không một viên đá, một tảng núi một chỗ ẩn, chớ?"

Chiến Tranh Bùng Nổ

Nghe A phô lô phách lối như vậy, Gion tha cảm xúc tâm thần lắm, bèn tuyển lựa mười ngàn nghĩa quân kéo ra khỏi Giêru salem, Si mon bào huynh cũng đem phụ lực quân đi trợ chiến, đóng trại ngang Gióp phê: dân thành đóng chặt cổng lại vì bên trong đã có quân A phô lô canh gác, Gion tha lập tức tấn công. Dân thành sợ hãi mở cửa đầu hàng, Gion tha chiếm đóng luôn Gióp phê.

Mảnh Giáp Không Còn

A phô lô được tin, tức thời huy động ba ngàn quân kỵ cùng nhiều bộ đội: giả vờ sang A xốt rồi tiến thẳng ra đồng bằng vì có đông kỵ binh đáng tín nhiệm. Gion tha đuổi theo phía A xốt, hai bên kịch chiến; nhưng A phô lô ngầm để lại một ngàn quân kỵ dụng ý đánh tập hậu; Gion tha tinh ý đến ổ phục kích đàng sau mình; chúng bao vây trại Do Thái bắn tên vào dân quân từ sáng chí tối. Được lệnh Gion tha quân dân kháng cự hùng dũng, còn kỵ binh bên địch mệt lữ. Si mon dẫn đạo binh mình lâm trận phản công; quân kỵ phải kiệt lực, tan rã, trốn chạy rải rác khắp cánh đồng rồi tẩu thoát về A xốt, vào lánh nạn ở chùa Bết đa. Gion tha thiêu hủy A xốt cùng các thị xã phụ cận, tịch thu chiến lợi phẩm; cả chùa Đa gôn cùng những người trốn ẩn bên trong đều bị thiêu hết. Tổng cộng số người bị chém giết bị thiêu đốt lối tám ngàn người đàn ông.

Toàn Thắng Khải Hoàn

Bỏ nơi đó, Gion tha nhổ trại đến đóng quân tại Át can, dân thành ra nghênh tiếp người rất long trọng rồi trở về Giêru salem cùng nghĩa quân đem theo vô số của cải. Vua A lê xan được tin những thành quả nêu trên liền gởi lời nồng nhiệt chúc tụng Gion tha; lại thân tặng ông huy chương vàng vương hữu, cúng luôn thị trấn Át ca ron với các vùng phụ cận làm sở hữu chủ.

Chiến Cuộc Dưới Đời Si Mon

Khuyến Cáo Quân Nhân

13. Si mon được tin Tri phôn triệu tập đại quân xâm nhập và tiêu diệt xứ Giu đê, thấy dân chúng lo lắng sợ sệt lắm, liền lên Giêru salem tập hợp dân lại, khuyến cáo như sau: "Đồng bào am hiểu biết bao công lao mà chúng tôi, anh em tôi, gia đình thân phụ tôi đã gánh vác vì luật pháp và nơi thánh, chúng tôi đã chứng kiến biết bao gian lao thống khổ. Chính vì thế mà hết thảy anh em tôi đã xả thân vì dân Ít ran, duy mình tôi còn xót lại, giờ đây tôi cũng chẳng tiếc sinh mạng mình trong cơn tao loạn: vì đâu tôi có giỏi hơn gì các bảo vệ mình! Vậy, tôi phải rửa hận cho dân tộc, cho thánh đường, cho vợ con tôi, kìa toàn thể ngoại bang vì thù hằn đương tề tựu lại mà tiêu diệt chúng ta!"

Vị Tân Lãnh Đạo

Vừa nghe những lời trên, tinh thần nhân dân được phấn khởi, đồng thanh hô lớn: "Ông là tướng chúng tôi, thay thế Giu đa và Gion tha bảo vệ ông! Xin hãy chỉ huy chiến cuộc của chúng tôi, ông bảo làm gì, chúng tôi tuân lệnh liền!" Si mon thu thập các nghĩa quân thiện chiến, cấp tốc hoàn tất việc tu bổ hết các tường thành Giêru salem, tăng cường phòng thủ chung quanh đô thị. Rồi phái Gion tha con trai Áp sa lôm kéo một quân đoàn quan trọng sang Gióp phê: trục xuất dân thành và đóng quân ở đó.

Mưu Kế Xảo Quyệt

Tri phôn rời Tô lê mai đem đại quân đi xâm chiếm nước Giu đa lại điệu cả Gion tha đương bị cầm theo. Si mon cũng tiến lên đóng trại ở Át đu ngang đồng bằng. Tri phôn biết tin Si mon thế liền bảo đệ Gion tha khởi binh phản công mình thì cử phái đoàn đến, trình bày: "Vì Gion tha em ông không nạp tiền thuế vụ cho công quỹ nhà vua nên mới bị bắt giam. Bây giờ, xin nạp một trăm nén bạc với hai đứa con trai của đương sự làm con tin, phòng hờ kẻo khi được tha lại trốn mất chăng rồi chúng tôi sẽ phóng thích cho".

Hạ Sát Gion Tha

Tuy Si mon dư biết chúng chỉ nói dóc với mình thôi, nhưng cũng truyền trao bạc và con trẻ cho chúng, e dân Ít ran nổi giận phản đối mình rằng: "Tại ông không nạp tiền và con trẻ cho dân hắn, nên mới chết chớ!" Vậy ông đành nạp hai trẻ và một trăm nén bạc; nhưng đúng, Tri phôn đánh lừa không thả Gion tha về. Sau đó, Tri phôn đánh chiếm và tiêu diệt cả vùng, rồi đi vòng quanh cho tới A đô; Si mon và nghĩa quân rượt theo chúng mọi ngả đường. Lúc ấy lính gác pháo đài sai người đến xin Tri phôn phải theo nẻo sa mạc mà đi để cấp tốc tiếp lương thực cho họ. Tri phôn cùng các kỵ binh sửa soạn lên đường ngay đêm đó; chẳng may tuyết sa nhiều quá không sao đi tới Ga la đít được. Khi gần đến Bát cam Tri phôn hạ sát cả Gion tha lẫn hai con trai người tại đó, rồi trở về nước.

Xây Mộ Lưu Niệm

Si mon đem thi hài Gion tha bào đệ về táng ở Mo đin thị xã của tổ phụ mình. Toàn thể Ít ran để tang than khóc thảm thiết lâu dài. Si mon xây cất trên ngôi mộ thân phụ và các anh em mình một đài kỷ niệm bằng đá phía trước, mặt sau vừa nhẵn vừa cao từ xa có thể nhìn thấy; lại cất bảy bảo tháp đối diện nhau để kỷ niệm thân phụ thân mẫu và bốn em; mỗi tháp đều xây cột lớn vây chung quanh, trên mỗi cột có biển võ khí lưu niệm thiên thu, mỗi võ khí lại khắc hình chiến thuyền ở trên cho những người vượt biển nhìn được. Đó phần mộ vĩ đại ở Mo đin còn tới ngày nay.

Giết Vua Tiếm Vị

Lúc lên đường cùng với thiếu vương An tiu cô, Tri phôn dùng mưu kế giết vua, rồi tiếm ngôi, tự đội vương miệng A sia, gây đủ mọi tai họa trong nước. Còn Si mon xây cất các đồn bót xứ Giu đê, dựng nhiều tháp cao tường lớn có cánh cửa then cài và dự trữ lương thực khắp các doanh trại.

Sắc Chỉ Hòa Bình

Si mon cử phái đoàn sang yết kiến Đê mét, xin vua xá thuế cho dân Do Thái, vì Tri phôn đã bóc lột tàn phá dân. Vua Đê mét chấp thuận điều thỉnh nguyện, phúc đáp bằng thông điệp sau đây: "Hoàng đế Đê mét phúc thăm Si mon thượng tế thân hữu các đế vương, thăm các trưởng lão cùng toàn dân Do Thái. Trẫm đã nhận triều thiên vàng với ngành vạn tuế quý bạn gởi tặng; trẫm vốn sẵn sàng theo đúng hòa ước trọng đại với quý vị, sẽ lệnh cho các công thần hoàng triều xá thuế khoán cho quý bạn. Những công lệ trẫm ban bố về quý bạn vốn có hiệu lực; các thành lũy mà quý bạn xây cất đều thuộc sở hữu quý bạn. Trẫm đại xá mọi lầm lỗi, mọi tội phạm từ trước tới nay, cả thuế cống còn khiếm khuyết, hoặc bất cứ sắc thuế nào trước phải nạp ở Giêru salem trẫm cũng toàn xá. Ai tình nguyện gia nhập thị vệ đoàn đều được ghi tên. Mong chúng ta an hòa với nhau".

Giải Phóng Tự Do

Năm một trăm bảy mươi, dân Ít ran được thoát ách nô lệ các ngoại bang; kể từ đó, nơi các đầu công văn chánh thức đều ghi: "Năm đệ nhất thời Si mon thượng tế kiêm đại tướng và thủ lãnh dân Do Thái".

Chỉnh Đốn Cơ Cấu

Thời kỳ ấy, Si mon tiến lên Ga xa bao vây doanh trại, tấn công pháo đài và chiếm thành. Binh lính chiếm trong pháo đài ùa vào thành khiến trong thành náo động xôn xao. Quân đội cùng các vợ con ở trong thị xã leo lên mặt tường lớn tiếng kêu van Si mon cho đình chiến, họ nài nẵng: "Xin ông đừng đối xử với chúng tôi theo tội ác chúng tôi, nhưng xin theo lòng khoan nhân của ông". Si mon mủi lòng bãi chiến; dầu vậy người cũng trục xuất chúng ta khỏi thị trấn; truyền tẩy uế những nơi thờ thần, rồi mới vào thành đờn ca cảm tạ Chúa. Sau khi bài trừ hết mọi nhơ nhớp, Si mon cử các người trung thành đạo đức lên cai trị dân, tăng cường thành phố và đặt đại bản doanh ở đó. Nghiêm cấm quân sĩ trong pháo đài Giêru salem không được đi lại mua bán ngoài vùng, nên họ đói lắm, nhiều người trong bọn chết đói!

Đặt Con Làm Tướng

Vì vậy, họ nài xin cầu hòa. Si mon chấp thuận, nhưng đuổi hết ra khỏi đồn, và tẩy rửa pháo đài cho sạch mọi vết dơ. Ngày hai mươi ba tháng hai năm một trăm bảy mươi mốt, dân tiến vào thành, lớn tiếng hoan hô, cầm lá dừa, hòa đờn sáo não bạt thanh la, ca hát vui vẻ vì đại thù đã bị diệt vong khỏi dân Ít ran; lại truyền hằng năm phải hân hoan kỷ niệm ngày ấy; Si mon tăng cường núi thánh, đường dọc theo pháo đài và lưu ngụ tại đó với quyến thuộc. Thấy con trai mình danh hiệu Gio an đã thành một thanh niên tài ba thiện chiến, Si mon đặt làm thượng tướng chỉ huy toàn diện quân lực, rồi sang định cư tại Ga xa.

Thông Điệp Gởi Cho Do Thái Tại Ai Cập

Cầu Cho Đồng Bào

1. Anh em Do Thái ở Giêru salem, thuộc vùng Giu đê gởi lời kính thăm đồng bào Do Thái kiều ngụ tại Ai Cập bình an mạnh giỏi. Nguyện xin Thiên Chúa ban phước cho anh em, xin Ngài tưởng nhớ cuộc giao ước chính Ngài đã giao ước cùng tôi tớ trung thành là Áp ram, I sác và Gia cóp; xin Ngài phát huy đồng bào lòng thờ kính tuân theo tôn ý một cách chân tình dõng cảm. Xin mở lòng anh em được đón nhận luật pháp giới răn và tái tạo hòa bình; xin thẩm nhận lời anh em nguyện cầu, dung hòa với anh em, không bỏ bê anh em trong cơn hoạn nạn. Giờ này chúng tôi đương cầu xin cho đồng bào đây.

Báo Tin Loạn Ly

Đời vua Đê mét, nhằm năm một trăm sáu mươi chín, dân Do Thái chúng tôi đã viết thơ cho đồng bào trong cơn tao loạn khủng hoảng dồn dập đổ lên chúng tôi mấy năm gần đây kể từ Gia sơn thoát ly đất thánh và quốc gia. Họ thiêu đốt cửa lớn và đổ máu vô tội. Vì vậy, chúng tôi đã cầu nguyện và được Chúa nhậm lời, chúng tôi dâng lễ vật, bột lọc, đốt đèn, dâng bánh. Từ nay xin đồng bào mừng lễ lều tạm vào tháng Cát lêu năm một trăm tám mươi tám.

Đồng bào tại Giêru salem, ở xứ Giu đê, nguyên lão viện là Giu đa kính gởi A ríp tốp quốc sư hoàng đế Tô lem, thuộc vọng tộc thượng tế và nhân dân Do Thái hiện ngụ tại Ai Cập được an mạnh.

Tham Của Mất Đầu

Chúng ta phải cảm tạ Thiên Chúa đã cứu ta thoát mọi tai biến lớn lao một cách oai hùng, đan cử việc chúng tôi tranh đấu phản kháng ác vương kia; vì Chúa đã tiễu trừ những kẻ xuất phát từ Ba tư đến tấn công ta và thành thánh. Đúng vậy, vị thủ lãnh của họ dẫn một đạo quân vô địch sang Ba tư đã bị chết gục trong chùa Na nê bởi mắc mưu tăng ni thần Na nê. Vịn cớ đẹp duyên cùng nữ thần, An tiu cô và quần thần vào đền để nhận lãnh những bảo vật hồi môn. Sau khi tăng ni thần Na nê bày biện lễ vậy rồi, An tiu cô và mấy công thần vào nội điện, cửa chùa liền đóng ập lại: An tiu cô vừa vào bỗng cửa đền bí mật bật ra; đá ném xuống đè chết vua cùng đoàn tháp tùng. Tăng ni xả thân chúng ra từng mảnh, chặt đầu quẳng ra ngoài. Tán tạ Thiên Chúa trong mọi sự kiện vì chính Ngài đã trừng trị những bọn bất lương.

Kỷ Niệm Lửa Thánh

Chúng tôi sắp mừng lễ tẩy uế đền thờ vào ngày hai mươi lăm tháng Cát lêu, cũng cần báo tin để đồng bào cùng làm lễ lều tạm và lễ lửa thánh vốn được tổ chức từ hồi Nê hem dâng của lễ sau khi tái thiết đền thánh và bàn thờ. Vì hồi trước, tổ phụ chúng ta bị áp giải sang Ba tư, các thầy tư tế kính mến Thiên Chúa đã lấy lửa trên bàn thờ đem giấu kín dưới thung lũng nơi có giếng sâu nhưng khô cạn: họ vùi kỹ lắm chẳng ai biết lừa giấu chỗ nào. Qua nhiều năm sau do thánh ý Chúa, Nê hem được vua Ba tư cử về, người mới sai các cháu chắt những vị tư tế xưa đã giấu kín lửa đi tìm lửa.

Vả, như họ thuật lại cho chúng tôi hay không thấy lửa đâu hết, chỉ có nước đặc sệt thôi. Nhưng người dạy cứ múc đem về cho mình: sau khi của sinh tế đã dọn sẵn, tư tế Nê hem truyền lấy nước đó mà rảy lên trên cả củi đóm kê ở dưới. Họ thi hành tức khắc: lúc mặt trời bị khuất trong đám mây vừa lộ diện tỏa sáng ra, lửa liền bừng cháy to lắm khiến mọi người phải ngạc nhiên! Trong khi của lễ bốc cháy nghi ngút, các thầy tư tế cầu nguyện: Gion tha xướng, mọi người cùng họa theo.

Nê Hem Cầu Nguyện

Lời Nê hem cầu nguyện như sau: "Lạy Chúa, Đấng tạo thành muôn vật, Đấng khả úy, dũng mãnh, công bình, nhân hậu, duy có mình Ngài là vua nhân lành, quảng đại vô song, công minh độc nhất, toàn năng vĩnh cửu; Ngài giải cứu Ít ran khỏi gian nguy, Ngài tuyển lựa thánh hóa tổ phụ chúng tôi, xin vui nhận lễ vật của toàn thể Ít ran dân chúng thượng tiến, xin Chúa duy trì thánh hóa sản nghiệp Ngài. Xin quy tụ dân ly tán lại, giải phóng anh em còn đương nô lệ tha dân vì họ bị khinh thường bạc đãi, ngõ hầu thiên hạ ý thức rằng Ngài thực là Thiên Chúa chúng tôi. Xin hạ bệ những kẻ hà hiếp khinh mạng chúng tôi xin thiết định dân riêng vào thánh địa như Moi sê kêu cầu!"

Nhà Vua Khen Tặng

Sau đó, các tư tế hát thánh ca cho tới khi cuộc thánh lễ hoàn tất. Cuộc lễ bế mạc, Nê hem truyền để nước còn dư trên những phiến đá lớn; sau khi đổ nước, một ngọn lửa bốc cháy nhưng bị lu mờ vì lửa nơi bàn thờ cháy sáng rực hơn. Sự việc hiển nhiên, đồn đến tai vua Ba tư rằng ngay ở chỗ các tư tế tản cư trước giấu lửa, có nước chảy ra; Nê hem và đoàn tùy tùng đã dùng nước đó mà tẩy uế lễ vật. Vua quan sát sự kiện cẩn thận và cho dựng một đền ở đó để lưu niệm. Sau khi phê chuẩn vua tặng các tư tế vô vàn vô số của cải lễ vật, vả do chính tay nhà vua trao cho. Nê hem đặt tên nơi ấy là Nép tha, nhưng nhiều người quen gọi là Nê phi.

Sự Tích Hê Liu Đô

Trước Cảnh Thanh Bình

3. Đương lúc thành thánh an khang thanh bình thịnh đạt, nhờ đạo tâm thượng tế Ô nia luật pháp được mọi người nhiệt liệt tuân cứ, vì ai ai cũng gớm ghét gian ác; vả giữa khi các đế vương công thần hay cúng vào nơi thánh, dâng nhiều bảo vật làm tăng vẻ huy hoàng thánh điện; cả đến Sê lêu quốc vương A sia cũng dâng lợi tức riêng để đài thọ sở phí việc phụng vụ lễ bái.

Si Mon Nội Gián

Thì Si mon thuộc tộc Ben gia minh được bầu làm quản đốc đền thờ, bất đồng ý kiến với vị thượng tế về việc kiểm soát, mua bán trái phép trong thị trấn; vì không thắng nổi Ô nia nên y mò đến yết kiến A phô lon người Thác sê, hiện làm tổng trấn miền Xê lê sy và Phê ních, nịnh hót với ông rằng trong ngân khố Giêru salem có hằng hà sa số bạc tiền bảo vật không liên quan gì đến việc lễ bái; nên đem các của đó đặt dưới quyền chúa thượng là phải lắm.

Sai Sứ Thu Của

Về triều yết vua, A phô lon tâu bày việc mình đã nghe trình về các bảo vật trên; vua liền cử Hê liu đô đặc sứ ngoại vụ mang lệnh đi chuyên chở số của nói trên. Lập tức Hê liu đô khởi: mặt ngoài viện lý do đi kinh lý thị trấn Xê li sy và Phê ních, tựu trung là tuân thượng lệnh đi lấy của. Vừa tới Giêru salem đã được thượng đế nghênh tiếp nồng hậu trong thị trấn, đặc sứ thuật lại việc người ta chỉ điểm về tiền của và vì duyên cớ đó mà mình hiện diện ở đây; lại hỏi cho biết hư thực thế nào.

Bất Khả Xâm Phạm

Vị thượng tế trình rằng, của cải trong ngân khố đều là những của các quả phụ và cô nhi gởi; với một số nữa của Hít can con Tô bia nhân vật danh tiếng đấy thôi; tên bất lương Si mon chỉ hớt bậy, trong đó duy có bốn trăm khối bạc và hai trăm nén vàng. Vả chăng, tuyệt đối không nên lừa bịp những người đã tín nhiệm vào đền thánh, một nơi uy linh hiển liệt cả hoàn cầu kính trọng.

Tư Tế Buồn Rầu

Nhưng Hê liu đô chiếu lệnh nhà vua cương quyết tịch thu tất cả những của đó cho triều đình. Tới ngày ấn định, Hê liu đô bắt tay hành sự: tin này xôn xao khắp cả thị trấn. Hàng tư tế mặc áo lễ phủ phục trước bàn thờ, cầu khẩn Thiên Chúa Đấng đã lập luật ký thác xin Ngài bảo vệ nguyên vẹn của người ta gởi. Nhìn dung nhan vị thượng tế biết ngay người đau lòng xót dạ: mặt mày biến sắc, tâm can rối bời! Vóc người kinh dị, toàn thân lẩy bẩy, biểu lộ hồn phiêu phách lạc, buồn rầu cực độ.

Nhân Dân Cầu Khẩn

Còn nhân dân lũ lượt chạy ra khỏi nhà, công khai cầu nguyện, vì đền thờ bị sỉ nhục lâm nguy! Phụ nữ đều thắt bao bố che ngực tuôn ra khắp đường phố; các thiếu nữ đáng lẽ bị cấm cung, nhưng kẻ chạy tuôn đến cùng Ô nia, người leo lên từng bọn ngó qua cửa sổ: hết thảy đều giơ tay lên trời cầu nguyện. Thảm thay, đại chúng thương tâm, thượng tế lo âu mòn mỏi! Đương lúc mọi người khẩn cầu Thiên Chúa toàn năng giữ gìn nguyên tuyền của cải người ta đã tín nhiệm ký thác, mà Hê liu đô cứ nhất quyết thực thi sứ mệnh, lệnh cho quân sĩ bao vây công khố.

Đại Sứ Ăn Đòn

Tức thời, thần linh Thiên Chúa vạn năng biểu dương quyền oai tối thượng, khiến những ai liều thân đương đầu lại, đều sẽ bị khủng khiếp rã rời tan nát trước quyền lực Thượng đế. Kìa, một vị cỡi con tuấn mã đằng đằng sát khí nghiêm dũng xuất hiện ngay trước mặt chúng: tuấn mã chồm hai vó trước đâm bổ vào Hê liu đô; còn kỵ sĩ cỡi ngựa coi như mang võ khí vàng. Đồng thời, có hai thanh niên khác nhan sắc tuyệt đẹp, phục sức lộng lẫy cùng xuất hiện vây quanh Hê liu đô, thi nhau giáng xuống thân những trận đòn sấm sét vũ bão. Bỗng Hê liu đô ngã vật xuống đất, bị mây mù bao phủ đen ngòm, phải đặt y trên băng ca mà khiêng: thế là kẻ tự tiện cùng với kỵ binh quân đội đột nhập công khố do quyền lực hiển nhiên Thiên Chúa đã phải nằm bất động không đủ sức bảo vệ lấy thân nữa.

Phạt Rồi Lại Thương

Quả thực, nhờ quyền năng Thượng đế, đặc sứ thì nằm liệt cấm khẩu thất vọng, chẳng ai cấp cứu; còn nhân dân Do Thái lại tán tụng Chúa đã làm vẻ vang đền thánh Ngài, nơi mà mới đây đầy vẻ lo âu lộn xộn, bỗng dưng nhờ Chúa toàn năng xuất hiện lại tràn lan vui thỏa hân hoan! Bấy giờ, mấy người thân hữu Hê liu đô khẩn cấp van lơn Ô nia cầu nguyện cùng Đấng tối cao cứu sinh mạng y đương lúc thập tử nhất sinh. Thượng tế e ngại hoàng thượng ngờ dân Do Thái âm mưu sát hại Hê liu đô chăng, nên mới dâng lễ cầu cho Hê liu đô được hoàn sinh.

Đương khi thượng tế cầu kinh bỗng hai thanh niên đó trang phục huy hoàng đứng nghiêm khuyến cáo Hê liu đô: "Phải cám ơn tư tế Ô nia vì nhờ thầy mà Chúa cho ngươi hồi sinh: phần ngươi đã bị Trời đánh, hãy tuyên truyền quyền phép uy linh Thiên Chúa cho hết mọi người!" Nói xong hai vị biến đi.

Ca Tụng Oai Chúa

Hê liu đô dâng sinh tế kính tạ Thiên Chúa, khấn hứa nhiều điều cùng Đấng đã cứu mạng mình, cảm ơn Ô nia rồi dẫn binh trở về bái yết vua: lại tán dương mọi việc lạ lùng Thiên Chúa đã thực thi do chính mình mục kích. Kế, hoàng thượng hỏi Hê liu đô xem có nên phái ai đi Giêru salem nữa chăng? Hê liu đô tâu: "Nếu chúa thượng biết tên nào thù địch hoặc phản bội vương quốc xin cứ sai hắn tới đó; cho dầu y có thoát ít ra cũng mềm đòn rồi mới trở về được, vì nơi thánh đường có quyền lực Thượng đế yểm trợ Đấng ngự chốn cao thiên luôn luôn canh phòng bảo vệ nơi ấy. Kẻ lưu manh vừa tới sẽ bị Ngài đánh đòn và tiêu diệt liền!" Sự tích Hê liu đô với việc phòng thủ ngân khố đã xảy ra như vậy.

An Tiu Cô Bách Đạo

Đích Thân Cầu An

4. Si mon kẻ tố giác ngân khố và phản quốc gia kia vu khống Ô nia đã gây ra tai nạn cho Hê liu đô và chủ mưu mọi biến cố: Ôi! Một vị ân nhân đô thị, bảo vệ dân tộc, nhiệt thành luật Thiên Chúa nay bị vu cáo là kẻ phản quốc! Mối thù cứ sôi nổi thêm đến nỗi khiến mấy đồng chí Si mon trở thành bọn sát nhân. Ô nia xét thấy mối tương tranh này rất nguy hại, và A phô lon tổng trấn miền Xê lê sy và Phê ních thì khích lệ Si mon tăng phần hung ác, nên ông thân hành đến triều yết nhà vua: cốt mong bề ích quốc lợi dân chớ không phải để tố cáo đồng bào. Vì Ô nia biết rằng nếu nhà vua không can thiệp vào việc này không tài nào yên ổn được, cả vụ ngu ngốc của Si mon cũng chẳng bao giờ chấm dứt.

Hối Lộ Nhà Vua

Nhưng, Sê lêu tạ thế, An tiu cô biệt hiệu cao nhã kế vị, Gia sơn em Ô nia âm mưu tiếm chức thượng tế: vào chầu vua, y hứa tiến vua ba trăm sáu chục nén bạc và tám chục nén nữa trích ở những khoản linh tinh, lại hứa nếu nhà vua cho phép lập một sân vận động một võ trường và kiểm các kiều dân An tiu kia ngụ tại Giêru salem, y xin tặng thêm một trăm năm chục nén nữa. Nhà vua chấp thuận liền.

Muốn Hy Lạp Hóa

Nắm được quyền bính rồi, tức tốc Gia sơn biến đổi đồng bào theo nếp sống Hy Lạp. Y bãi bỏ định lệ miễn thuế do Gio an thân sinh Eu phôn đã xin các vua tha cho dân Do Thái, Eu phôn trước đây được đặc cử sang Rô ma ký hòa ước và nối tình thân thiện giữa hai dân. Tóm lại, không những y phế bỏ mọi tổ chức hợp pháp, lại tạo ra bao nhiêu định luật phi pháp nữa. Y hân hoan lập sân vận động ngay bên dưới pháo đài, dẫn các thanh niên ưu tú vào hí trường.

Phá Giới, Cải Lương

Nền văn hóa lương dân được đề cao mạnh mẽ, các mốt mới của ngoại quốc được phát triển mau lẹ. Đầu mối tội đều do Gia sơn bất lương chẳng xứng một vị tư tế mà ra hết! Đến như hàng tư tế cũng đâm ra lơ đãng với chức vụ bàn thờ: họ coi thường thánh đường, biến nhác việc phụng vụ; thoạt nghe hiệu báo bất chấp luật cấm đã vội vã chạy ra hí trường tham gia các môn thể dục: không đếm xỉa gì đến danh dự quốc gia, chỉ đề cao văn minh Hy Lạp thôi. Bởi duyên cớ nguy hiểm trên sinh ra nhiều cuộc cạnh tranh, biện luận ganh tỵ; những thèm khát đó là tổ thù hằn hư hỏng. Ai phạm luật thánh, ắt bị trừng phạt, điều đó hạ hồi sẽ được chứng minh!

Hoan Hô An Tiu Cô

Hồi ấy, ở Ty rô người ta mừng lễ đệ ngũ chu niên môn thể dục dưới quyền chủ tọa nhà vua. Gia sơn quỷ quyệt cử một nhóm tội nhân tại Giêru salem đi tham dự, đem ba trăm thoi bạc ủng hộ cuộc lễ Hét cun; nhưng mấy người mang tiền tự nghĩ không nên đóng góp trong cuộc lễ này, phải dùng vào công chuyện khác. Vì vậy, số tiền chủ nhân gởi đi giúp đám hội Hét cun được phái đoàn sử dụng đóng những chiến thuyền ba đội chèo. A phô lon con trai Mê nét được cử sang Ai Cập dự lễ đăng quang Phi lô mét: An tiu cô nghe đồn Phi lô mét bất hợp tác với mình; nên vua lo tự vệ trước, qua Giáp phê rồi thẳng tới Giêru salem, được Gia sơn và dân đô thị nghênh tiếp linh đình lắm, vua diễu hành giữa những đuốc sáng rực cùng những tiếng hoan hô. Sau đó, vua dẫn quân sang đóng tại Phê ních.

Truất Chức Thượng Tế

Ba năm qua, Gia sơn cử Mê nê lau em Si mon nói trên đem tiền cống và tâu vua mấy việc khẩn cấp. Nhưng, sau khi được giới thiệu cho hoàng thượng, Mê nê lau ra bái yết thiên nhan như một bậc thượng khách, xin hứa tiến ba trăm khối bạc nhiều hơn số Gia sơn cống để xin vua chấp thuận cho mình làm thượng tế. Nhận lãnh ủy nhiệm thư, y trở về xứ trong khi tuyệt nhiên không được một nết nào xứng chức thượng tế, chỉ toàn là tàn bạo hung ác dường thú dữ trên rừng! Trước kia Gia sơn chiếm đoạt địa vị anh mình, bây giờ lại bị tước mất chức vụ, lánh nạn sang miền Am man. Còn Mê nê lau tuy được làm thượng tế cũng không chịu nạp số tiền đã hứa cống cua; đàng khác Sốt trát vẫn nằng nặc thúc bách vì ông là tổng giám thuế vụ (có trách nhiệm đốc thúc nạp thuế). Vì thế, cả hai đều bị nhà vua triệu hồi: Mê nê lau bị cách chức thượng tế bèn cử em là Ly sim thế vị; còn Sốt trát được làm thống đốc xứ Xýp rô.

Hạ Sát Ô Nia

Thời kỳ này, xảy có dân Thác sê và Ma lô dấy loạn vì thành thị của họ bị cống hiến cho An tiu chi, cung phi nhà vua; nên vua gấp rút đi dẹp loạn, cử An rô ních một vị đại thần lên chấp chánh. Nhân cơ hội thuận tiện, Mê nê lau đánh cắp một số đồ bằng vàng trong đền thờ đem tặng An rô ních, lại đem bán ở Ty rô và khắp các thị xã lân cận. Biết đích xác việc trên, Ô nia khiển trách y, rồi rút về nơi an toàn ở An tiu kia gần Đáp nê. Nên, Mê nê lau đến tiếp kiến An rô ních, xin ông hạ sát Ô nia. Y liền đi thăm Ô nia giơ tay mặt lên thề (mặc dầu coi bộ y khả nghi lắm) khẩn khoản xin ông ra ngoài nơi náu ẩn, nhưng rồi chẳng quản chi luật pháp, y hạ sát Ô nia lập tức! Vì thế, không những dân Do Thái cả đến lương dân cũng bực tức bất mãn về vụ ám sát bất lương này.

Sát Nhân Đền Tội

Nghe hoàng thượng từ Xi xin hồi loan nhân dân Do Thái cũng như Hy Lạp ngụ tại An tiu kia vào bái yết khiếu nại vụ Ô nia chết oan. An tiu cô đau lòng thương cảm Ô nia đến ứa lệ, vì nhớ lại đức độ của người quá cố! Hết sức phẫn nộ, vua truyền lột áo điều An rô ních ra, phát lệnh điệu y đi chung quanh kinh thành và xử tử hắn ngay ở chỗ hắn đã ám sát Ô nia. Như vậy Chúa đã nghiêm trị y cho xứng tội phạm thánh do y đã gây ra.

Giết Tên Phạm Thượng

Nơi đền thờ, Ly sim đồng lõa với Mê nê lau ăn trộm rất nhiều đồ thánh: công việc tiết lộ, dân chúng biểu tình phản đối Ly sim vì bao nhiêu đồ vàng đã chuyển đi: toàn dân phẫn nộ căm hờn vùng lên, Ly sim bèn cấp khí giới cho chừng ba ngàn tay bất hảo dưới quyền chỉ huy một người cao niên nhưng đãng trí đi dẹp loạn. Dân chúng biết thủ đoạn của Ly sim, cấp thời kẻ nhặt đá, người cầm gậy hoặc bốc bụi cát tấn công túi bụi bọn Ly sim. Nhiều người trong bọn bị thương, một số ngã gục, dân chúng hạ sát chính tên phạm thượng ngay trong ngân khố.

Mê Nê Lau Bị Kiện

Vì việc này, Mê nê lau bị tố cáo. Khi vua hạ giá tới Ty rô, hội trưởng các bô lão phái ba vị đến thân thưa hành động trên cùng hoàng thượng. Bị thất kiện, Mê nê lau hứa tặng nhiều tiền bạc cho Tô lem xin nâng đỡ trước thiên nhan, bấy giờ Tô lem lấy cớ hóng gió thỉnh ngài ra hành lang, nhưng cốt để lung lạc nhà vua đổi ý. Thế là vua xá lỗi cho Mê nê lau, một tên đầu lậu thủ xướng mọi tội ác; trái lại biết bao người khác vô tội dầu có đem ra tòa đại hình Sy thát chắc chắn được trắng án, thế mà bị nhà vua lên án tử hình! Do vậy, trong chốc lát những người can đảm bảo vệ cho thị trấn, quốc dân và đồ thánh phải lên đoạn đầu đài một cách bất công! Cả đến dân Ty rô cũng bất mãn nên họ đảm nhận mai táng kẻ xấu số rất nồng hậu. Còn Mê nê lau cùng với bọn tham quyền ngày càng tàn ác đức hóa thành kẻ thù số một của nhân dân.

Thanh Tẩy Đền Thờ

Trước Cảnh Não Lòng

8. Giu đa Ma ca bê và các đồng chí âm thầm đột nhập các làng mạc: kêu gọi bà con thân thuộc còn trìu mến đạo Do Thái theo mình, họ chiêu mộ được sáu ngàn người. Họ cầu xin Chúa đoái thương đến dân nước bị mọi người dày xéo, xin thương xót đền thờ bị kẻ vô đạo tục hóa; xin tưởng nhớ đô thị hư nát sắp phải san bằng, xin nghe tiếng máu kêu nài Chúa; xin cảm nghĩ cái chết độc địa của con nít vô tội và báo ứng những lời mỉa mai xúc phạm tôn danh Ngài.

Chiến Thắng Vẻ Vang

Bấy giờ Ma ca bê thu thập nghĩa quân, không dân nào đọ lại kịp: vì cơn nghĩa nộ Chúa đổi thành lòng khoan nhân rồi. Ông tấn công ào ạt các làng mạc thị xã, thiêu đốt hết thảy; chiếm đóng những địa điểm thuận tiện, chiến thắng các cừu địch nhiều trận. Những cuộc xung kích này thường diễn ra ban đêm, nên ông nổi tiếng quật cường khắp nơi.

Nước Tràn Tới Chân

Phi líp thấy ông tiến triển ngày càng thêm rộng, công cuộc chiến sự càng được mỹ mãn, bèn báo cáo lên Tô lem tổng trấn xứ Xê lê sy và Phê ních, xin tiếp viện để bảo toàn quyền lợi nhà vua. Cấp tốc tướng quân cử Ni can con Pha tróc người bạn thân nhất ủy cho một lữ đoàn, hai chục ngàn tinh binh thuộc đủ mọi quốc dân đi tận diệt nòi giống Do Thái, lại cử thêm tướng Gióc gia một tướng thiện chiến và mưu lược làm phụ tá.

Nghe Dân Cầu Khẩn

Ni can quyết định dùng hai ngàn nén bạc trong việc bán tù binh Do Thái để giúp nhà vua trang trải số thuế phải nạp cho Rô ma; lập tức thông cáo cho các thành thị miền duyên hải, mời họ đến mua các nô lệ Do Thái, giá hứa bán mỗi nén là chín chục người. Đâu có hay cơn báo oán Chúa sắp trùm lên mình Ni can. Giu đa vừa phát giác chuyện đó liền báo tin cho các đồng chí Do Thái rõ Ni can đang tiến tới: những người nhát đảm hoặc ít lòng tin cậy phép công bình Thiên Chúa đều sợ trốn đi; còn một số vừa lo bán hết gia tài vừa cầu khẩn Chúa cứu mình thoát tay Ni can độc ác chưa giáp mặt dân đã đòi bán: nếu họ không đáng thì ít ra vì lời giao ước Chúa đã cam kết cùng tổ tiên họ, hoặc vì lời cầu xin cùng thánh danh uy linh cao cả mà cứu lấy họ.

Khuyên Bảo Nghĩa Quân

Ma ca bê tập họp bảy ngàn nghĩa quân lại, khuyến cáo họ đừng liên lạc với địch, đừng sợ vì thấy chúng đông vô tổ chức ùa vào tấn công mình, hãy anh dũng chiến đấu, phải luôn nhìn thẳng vào đền thánh bị tục hóa, đô thị bị tàn phá dơ bẩn, phong tục tổ tiên suy đồi. Ông nói tiếp: "Bên địch chuyên ỷ lại vào khí giới và gan dạ; nhưng chúng ta thì nương nhờ Chúa vạn năng, Đấng quyền phép chỉ trong nháy mắt dư lực tiêu diệt quân xâm lăng, cũng như cả hoàn cầu!"

Dẫn Chứng Cổ Tích

Ông thuật lại những cuộc thiên trợ đời cha ông xưa, như đời Xê na kê một trăm tám chục ngàn binh sĩ thiệt mạng; hoặc như trận giao chiến với dân Ga lát tại Ba by lon, một biến cố xảy ra khiến duy có sáu ngàn dân quân Do Thái chống cự với người Ma xê đô nhờ ơn trên phù hộ hạ sát được một trăm hai chục ngàn mạng, lại chiếm được nhiều chiến lợi phẩm quan trọng.

Chiến Thắng Địch Thù

Những lời khuyên bảo trên thúc đẩy quân dân thêm can trường sẵn sàng hy sinh vì luật thánh, vì tổ quốc. Ông đặt anh em mình là Si mon, Giu se và Gion tha làm tướng chỉ huy trung đoàn, cấp cho mỗi vị một ngàn rưỡi quân sĩ. Kế, Ét ra đọc kinh thánh cho mọi người nghe; rồi với cờ hiệu: "Thiên Chúa phù trợ" ông dẫn đầu đạo quân thứ nhất đi giao chiến cùng Ni can. Nhờ ơn Đấng vạn năng độ trì họ giết được trên chín ngàn quân; đa số binh sĩ nên Ni can bị thương phải trốn lủi. Họ tịch thu số tiền bạc của chính những kẻ đem đến để mua họ; sau khi đuổi theo quân địch, họ phải trở về gấp cho kịp giờ trước ngày thứ bảy: bởi vậy họ ngừng đuổi theo.

Cảm Tạ Lòng Nhân

Sau khi thu dọn khí giới và các chiến lợi phẩm họ mừng lễ thứ bảy, cảm tạ Chúa đã cứu vớt họ trong chín ngày đó như hạt sương đầu mùa lân tuất sa xuống thân mình vậy. Thứ bảy qua, họ chia chiến lợi phẩm cho cô nhi quả phụ và người tật nguyền, phần dư họ giữ lại cho mình. Kế đó, họ tổ chức một buổi cầu nguyện công cộng xin Chúa khoan nhân ban hòa bình vĩnh viễn cho các tôi tớ Ngài.

Đánh Đâu Thắng Đó

Họ lại đương đầu giao tranh với quân binh Ti mốt và Bác chi: chém giết trên hai chục ngàn, chiếm nhiều đồn bót; rồi chia đều các chiến lợi phẩm, một phần dành cho họ, còn nửa kia tặng những kẻ đau yếu mồ côi góa bụa và các người già lão nữa. Họ cẩn thận thu khí giới lượm được cất vào nơi thuận tiện và chuyển chiến lợi phẩm còn lại về Giêru salem. Họ hạ sát Phi la mốt, một tên đại ác gây ra biết bao tai họa cho dân Do Thái. Trong khi mừng lễ chiến thắng tại Giêru salem, họ thiêu sinh những tên đã đốt các cửa thánh, tức là Ca lít then đương trốn ẩn trong căn nhà nhỏ: thế mới xứng với tội bất kính vô đạo của y!

Bất Khả Xâm Phạm

Còn Ni can độc ác nhất đời kia đã hướng dẫn hàng ngàn lái buôn đến mua người Do Thái, nhưng nhờ ơn Chúa phù trì hắn cởi bỏ quần áo lộng lẫy, một mình xuýt chết lủi thủi trốn qua miền trung hải đến An tiu kia trong lúc quân đội y bại hoại. Kẻ đã hứa với Rô ma sẽ trả nợ thuế bằng giá tù binh dân Giêru salem, giờ đây phải tuyên xưng rằng: "Dân Do Thái có Thiên Chúa bảo hộ, nhờ Ngài mà họ được hùng cường bất khả xâm phạm vì họ tuân theo luật pháp chính Vị đó ban hành".

Giu Đa Ma Ca Bê

Người Hiền Tử Tuẫn

11. Đó là cái chết của An tiu cô biệt hiệu Cao nhã. Dưới đây xin thuật lại những biến cố xảy ra đời Eu phát con trai ác vương An tiu cô, tức là lược thuật các tai họa trong chiến cuộc. Lên ngôi cửu ngũ xong, thái tử ủy nhiệm quốc sự cho Ly sia tổng chỉ huy quân đội xứ Phê ních và Sy ria. Hồi đó Tô lem biệt hiệu Ma xê là người hiền, xử đối minh chính nhất với dân Do Thái; vì dân bị bạc đãi thái quá, nên ông thương tình, cai trị họ một cách hòa nhã. Do đó, ông bị bạn bè tố cáo trước nhan Eu phát, lại ông hay bị gọi là kẻ phản bội vì đã bỏ Xíp rô một miền Phi lo mét ủy thác cho mà đi nhập phe với An tiu cô Cao nhã rồi sau ông lại bỏ mà rút lui nên đành uống độc dược tử tuẫn.

Chiến Thắng I Đum

Gióc gia được cử làm tổng trấn miền ấy, ông kết nạp ngoại kiều thường gây hấn người Do Thái. Bấy giờ Do Thái đã làm chủ được mấy pháo đài trọng yếu, tiếp đón những người bị trục xuất khỏi Giêru salem và tìm đường gây chiến. Phần Ma ca bê và các đồng chí cầu nguyện kêu xin Chúa bang hộ mình, rồi kéo quân đột kích đồn bót của người I đum: họ chiến đấu anh dũng, chiếm được nhiều địa điểm, đẩy lui quân địch và hạ sát tới hai chục ngàn mạng. Một số tẩu thoát ẩn trong pháo đài kiên cố, có đủ nhu cầu đề phòng phản công.

Ăn Tiền Tha Địch

Ma ca bê để Si mon, Giu se và Xa keo với khá đông quân sĩ lại ứng chiến, còn ông đích thân tiến đánh những trận khẩn yếu. Nhưng quân của Si mon tham tiền bị một số quân trong pháo đài mua chuộc: ăn hối lộ bảy chục ngàn thoi bạc rồi mần ngơ cho chúng tẩu thoát. Thoạt nghe tin trên, Ma ca bê liền tập họp tướng tá trong dân lại, tố cáo họ bán đồng bào, ăn hối lộ mà thả thù địch ra. Ông xử tử họ như tên phản quốc rồi lập tức chiếm hai pháo đài nhờ tay thiện chiến, đánh đâu được đó, nguyên trong hai đồn thôi ông hạ sát trên hai chục ngàn quân.

Toan Thôn Tính Lại

Còn Ti mốt trước đây đã thua dân Do Thái, nay chiêu tập được nhiều binh sĩ ngoại quốc, thu thập một số chiến mã từ miền A sia rầm rộ kéo đến toan dùng võ lực thôn tính xứ Giu đê. Địch gần tới, Ma ca bê và nghĩa quân khẩn thiết cầu xin Chúa: đầu rắc tro, mình quấn xô bố, sấp mặt trước phản bàn thờ xin Chúa đoái thương chứng tỏ Ngài là thù của quân địch, chiếu theo luật pháp mà phản công lại các cừu địch cùng họ. Nguyện xong, họ cầm khí giới tiến xa khỏi thị trấn, lúc gần tới địch thì ngừng lại.

Địch Quân Thua Lớn

Trời vừa hừng đông, hai bên giao chiến: một đàng phát huy tin tưởng nhờ vào quyền năng Chúa, cầu xin toàn thắng, một bên cậy vào dũng tướng ngoài mặt trận. Đương giao tranh kịch liệt, bỗng trên trời trước mặt địch xuất hiện năm hiệp sĩ oai phong cỡi ngựa yên cương bằng vàng đi tiền phong quân đội Do Thái: trong số trên có hai vị đi kèm giữa Ma ca bê dùng võ khí che chở ông khỏi bị thương, phóng tên và sấm sét vào địch, khiến quân thù quáng mắt rối loạn té xỉu; hai mươi ngàn năm trăm bộ binh với sáu trăm quân kỵ tử thương.

Hạ Sát Chủ Tướng

Còn Ti mốt chạy vào ẩn trong đồn kiên cố tại Ga xa do Chê rê chỉ huy. Liền trong bốn ngày Ma ca bê và các nghĩa quân bủa vây đồn, lòng đầy hỉ hoan; sáng ngày thứ năm, hai chục tráng binh trong quân đoàn Ma ca bê căm phẫn vì những lời ngạo mạn, sấn sổ nhảy lên mặt tường, hùng dũng nổi nóng tiến lên: mấy người khác cũng nhảy ùa lên tiếp viện, đốt cháy pháo đài và các cửa, lại đốt sống bọn lộng ngôn kia. Sau khi tàn phá đồn bót hai ngày tròn, gặp Ti mốt đương náu ẩn nơi kia họ hạ sát ngay, giết luôn em hắn là Chê rê lẫn A phô lon. Hoàn tất chiến cuộc, họ hát tán khúc thánh ca cảm tạ Chúa vì Ngài đã thực hiện các việc vĩ đại cho dân Ít ran được toàn thắng.

Địch Cậy Nhân Lực

Qua thời gian vắn, Ly sia viên pháp đình biện lý, hoàng thân kiêm thượng thư ngoại giao bất mãn vì những biến cố mới xảy ra, ông huy động tám chục ngàn bộ binh và toàn thể kỵ binh đến tấn công Do Thái, vì ông đinh ninh sẽ biến thủ đô làm nơi cư trú cho dân ngoại, đền thờ phải đóng thuế như các chùa miếu lương dân và mội năm sẽ bán đấu giá chức tư tế. Hắn đâu đếm xỉa gì đến quyền năng Thiên Chúa chỉ tự hào về vô số bộ binh, hàng ngàn vạn quân kỵ, lại ỷ vào tám chục chiến tượng. Vừa tới Giu đê, gần Bét su một nơi chật hẹp cách Giêru salem năm dặm, hắn liền tấn công đồn bót.

Quân Tướng Đại Bại

Thoạt khi Ma ca bê và đồng đội được tin các thành trì sắp bị bao vây, liền cùng toàn thể dân chúng lệ nhỏ châu sa thảm thiết khẩn nguyện Chúa, xin Ngài sai thần lành đến cứu Ít ran. Chính Ma ca bê cầm khí giới xung phong, khuyến khích nghĩa quân theo mình dấn thân trong cơn nguy biến bảo vệ đồng bào. Trong lúc họ hăng hái tiến ra, chợt thấy một kỵ sĩ mình mặc áo trắng tinh, mang võ khí bằng vàng, múa thương xuất hiện gần thành Giêru salem; mọi người đều cảm tạ Chúa nhân từ, tâm hồn mạnh bạo: ai ai cũng sẵn sàng xông pha, không những sấn vào quân nhân mà cả các thú hung tàn lẫn tường đồng vách sắt cũng chấp luôn. Nhờ có vị bảo trợ từ trời đến, có Chúa khoan nhân độ trì họ tiến mau lẹ: lăn xả vào địch quân khác nào sư tử, hạ sát mười một ngàn bộ binh với một ngàn sáu trăm quân kỵ, tàn quân sống sót đều tẩu thoát hết, đa số bị thương, lủi thủi khỏa thân chạy. Chính Ly sia cũng phải nhục nhã tẩu thoát.

Bại Trận Cầu Hòa

Dầu vậy, Ly sia rất tinh anh cảm nghĩ biến cố thảm bại vừa diễn tiến nơi mình, cũng đủ nhận thức rằng, vì có Thiên Chúa vạn năng ủng hộ thì Do Thái mới thành vô địch, nên Ly sia sai người đến gặp họ, xin hứa điều đình với nhau theo biện pháp minh chính và khuyến cáo nhà vua trở thành thân hữu dân Do Thái. Ma ca bê chấp thuận mọi đề nghị của Ly sia, vì ông chỉ lo bề công ích thôi. Hết các điều Ma ca bê yêu sách về dân Do Thái bằng điệp văn với Ly sia đều được nhà vua chuẩn y.

Nguyên Văn Hiệp Định

Đây, điệp văn Ly sia viết cho dân Do Thái: "Ly sia thân ái kính chào nhân dân Do Thái, Gion tha và Áp sa lom sứ giả của quý bạn đã trao cho tôi bức thư hoạch định mọi thỉnh nguyện và yêu cầu tôi chấp thuận; tôi đã lên tâu hoàng thượng những nố thuộc vương quyền. Nếu quý bạn giữ tín nghĩa trong các giao tế vụ, từ nay về sau tôi xin cố gắng gây lợi ích cho quý bạn. Về chi tiết trong hiệp ước tôi đã trình bày với sứ giả quý bạn và các ủy viên của tôi, họ sẽ thảo luận với quý bạn. Cầu chúc quý bạn an khang. Ngày hai mươi bốn tháng Diu cô năm một trăm bốn mươi tám".

Sắc Lệnh An Tiu Cô

Thông điệp nhà vua đại khái như sau: "Hoàng đế An tiu cô gởi lời chào hoàng thân Ly sia. Phụ hoàng ta đã an nghỉ cùng các thần. Ta ước mong cho nhân dân trong nước an cư lạc nghiệp, chuyên lo bề gia thất. Nay trẫm nghe tin dân Do Thái không đồng ý với phụ vương trẫm về nghi lễ dân Hy Lạp, họ chỉ muốn theo luật lệ riêng lại yêu cầu trẫm cho phép họ sống theo tục lệ của mình. Vậy trẫm cũng muốn cho dân tộc đó sống an hòa nên quyết định trả đền thờ lại cho để họ được sinh sống theo tục lệ tổ tiên mình. Nay khanh hãy sai ủy viên đến giơ tay tuyên bố sắc lệnh này, ngõ hầu họ xác nhận chính sách của trẫm và an tâm lo bề quốc lợi. Khâm thử".

Thông Điệp Hòa Bình

Sau đây là bức thông điệp vua gởi cho dân Do Thái: "Hoàng đế An tiu cô thân ái chào thượng nghị đoàn Do Thái và toàn dân. Đồng bào được an khang là điều trẫm thỏa nguyện nhất. Phần trẫm vẫn bình an. Mê nê lau có tâu với trẫm rằng các khanh muốn trở về cố hương. Vậy, những ai đã trở về quê hương trước ngày ba mươi tháng Xan thích trẫm cho hưởng ơn an toàn, cốt cho người Do Thái được thích ứng thực phẩm và luật lệ riêng như xưa kia; không một ai trong dân sẽ bị rắc rối về những sự kiện vô tình vô lý do mình gây ra hết. Trẫm sẽ cử Mê nê lau đến hội đàm với các khanh. Khâm thử. Ngày mười lăm tháng Xan thích năm một trăm bốn mươi tám".

Hòa Ước Rô Ma

Dân Rô ma cũng gởi thông điệp cho Do Thái đại ý như sau: "Quyn tô Mem miu và Ti tô Ma nin sứ thần Rô ma gởi lời kính thăm dân Do Thái. Chúng tôi xin chấp nhận mọi khoản mà hoàng thân Ly sia đã chuẩn nhượng cùng quý bạn. Những điều cần phải đệ lên hoàng thượng giải quyết, sau khi đã thảo luận thật kỹ vấn đề, xin quý bạn cử ngay sứ giả đến với chúng tôi để chúng tôi đề nghị lên một cách hữu hiệu cho quý bạn; vì chúng tôi sắp tới An tiu kia. Vậy, xin quý bạn hãy gởi phái đoàn sang gấp để chúng tôi được am hiểu ý nguyện của quý bạn. Kính chúc vinh an. Ngày mười lăm tháng Xan thích năm một trăm bốn mươi tám".

Công Phá Ni Can, Giải Phóng Dân

An Xim Lộ Diện

14. Sau thời gian ba năm, Giu đa và nghĩa quân được tin Đê mét con Sê lêu kéo đại quân với chiến thuyền lên xâm nhập hải cảng Tri phôn: đánh chiếm cả vùng, chống đối An tiu cô cùng thượng tướng Ly sia. Người kia tên An xim trước làm thượng tế nhưng trong thời loạn đã tự ý phá giới, nay thấy không còn cách nào cứu vãn được, không sao lui tới bàn thờ được nữa; nên năm một trăm năm mươi, y đến bệ kiến Đê mét dâng kính vua một triều thiên vàng, một ngành lá dừa theo nghi lễ đền thờ. Hôm đó y im hơi lặng tiếng. Nhưng gặp cơ hội may mắn thỏa mãn lòng gian xảo, số là được Đê mét triệu vào chầu, hỏi ý kiến và tình hình dân Do Thái.

Nịnh Thần Khai Man

Hắn tâu: "Chính những người cuồng tín Do Thái do Giu đa Ma ca bê cầm đầu leo thang chiến tranh, gây rối loạn, không chịu để cho vương quốc yên ổn. Nên thần không nề quản địa vị cha ông (tức là chức thượng tế) mà tới đây: một vị thần lo lắng đến quyền lợi bệ hạ, hai vì thần chú trọng vào đồng bào, bởi tại chúng dại dột mà toàn thể nòi giống thần phải khổ sở. Dầu vậy, muôn tâu chúa thượng, sau khi điều tra cẩn thận những vụ này, tâu xin bệ hạ lấy lượng khoan dung vốn thi thố cho muôn dân thiên hạ, mà đại xá thương đoái dân tộc nòi giống này. Bao lâu Giu đa còn sống không tài nào có hòa bình được".

Tưởng Ăn Gỏi Được

Vừa nghe lời hắn báo cáo, quần thần ác cảm Giu đa lắm, sôi nổi hối thúc Đê mét. Tức tốc nhà vua chọn Ni can chỉ huy chiến tượng, cử sang xứ Giu đê với sứ mệnh: lùng bắt đích thân Giu đa, giải tán nghĩa quân và tôn An xim làm thượng tế của thánh điện uy linh. Hồi ấy, những tha dân ở Giu đê trước phải trốn tránh Giu đa, nay tụ tập từng đoàn lại ủng hộ Ni can, vì chúng tưởng rằng tai ương hoạn nạn của Do Thái là cơ hội mình được phát tài.

Đành Phải Nghị Hòa

Nghe tin Ni can tiến đến, lương dân hùa theo Do Thái rắc tro trên đầu cầu khẩn Đấng đã tuyển lựa dân riêng, gìn giữ cho muôn đời bền vững, lại dùng nhiều dấu lạ hiển nhiên bang hộ gia nghiệp của Ngài. Vị lãnh đạo vừa ban lệnh, quân đoàn lập tức di chuyển, tề tựu gần trại Đê sau. Si mon bào huynh Giu đa giao chiến với Ni can; nhưng bên địch xung phong bất ngờ nên người bị nao núng.

Ni can vì thừa hiểu lực lượng Giu đa và nghĩa quân với tinh thần kiên dũng chiến đấu cho quê hương, lại sợ phải gây hấn lưu huyết nữa; nên cử Phô si đôn, Theo đô và Mát thia đến bắt tay thân thiện. Sau khi suy luận mọi sự kiện chính vị lãnh đạo thông báo cho đại chúng rõ: mọi người đều đồng ý chấp thuận nghị hòa.

Hòa Đàm Cởi Mở

Rồi, hai bên ấn định ngày giờ hội đàm riêng với nhau, mỗi bên đều sắp đặt ghế danh dự. Giu đa cử một số binh sĩ võ trang túc trực những nơi trọng yếu, vì e bên địch thình lình phản trắc chăng, rồi đôi bên mới thương thuyết đàng hoàng. Ni can lưu lại Giêru salem, không dám hành động chi bất nhã, trái lại ông giải tán cho đoàn lũ tha dân theo mình rút về. Ông luôn luôn ngưỡng mộ coi Giu đa như bạn tâm giao; khuyên người cưới vợ sinh con cái: Giu đa kết hôn, hưởng an lạc, sống bình dân.

Mắc Mưu Nịnh Thần

An xim thấy tình thân ái giữa hai người ý hiệp tâm đồng, liền đến yết kiến Đê mét, tố cáo Ni can có những thái độ nghịch đường lối ngoại giao, mưu đồ cho Giu đa một tên phản quốc lên thay thế mình. Vua thịnh nộ, lại bị khích thích bởi những lời vu khống đại ác kia, bèn giáng chỉ cho Ni can tỏ ý bất mãn về hòa ước trên, hạ lệnh phải xiềng xích Ma ca bê dẫn độ về An tiu kia lập tức. Tiếp được mệnh lệnh, Ni can cả kinh, buồn lắm, vì không muốn cắt đứt hòa ước bang giao giữa mình với Giu đa một người vô tội; đàng khác, không thể trái lệnh vua được, nên Ni can tìm cơ hội thuận tiện để thi hành thượng lệnh.

Đổi Thân Ra Thù

Ma ca bê thấy Ni can tỏ vẻ cứng cỏi với mình hai bên giao thiệp với nhau lãnh đạm hơn trước, ông phỏng đoán đó là điềm chẳng lành, liền tập họp mấy người rồi tránh mặt Ni can. Khi biết mưu kế mình vì Giu đa mà tiết lộ, Ni can tiến vào đền thờ vĩ đại chí thánh trong lúc các tư tế dâng lễ thường xuyên, ra lệnh cho họ phải nạp Giu đa. Các thầy thề chẳng biết người ở đâu mà tìm kiếm; Ni can giơ tay mặt hướng về đền thờ mà thề: "Nếu các thầy không xích Giu đa nạp cho ta thì ta sẽ san bằng đền Thiên Chúa này đi, sẽ lật đổ bàn thờ, sẽ kiến thiết tại chỗ một miếu khác kính thần Tự do!" Nói xong, ông lui về. Bấy giờ các tư tế giơ tay lên trời khẩn nguyện Đấng luôn luôn chiến đấu cho dân mình như sau: "Ôi lạy Chúa muôn loài, tuy Chúa chẳng cần ai hết nhưng lại muốn cho đền thờ nơi Ngài ngự trị xây giữa chúng tôi. Giờ đây, ôi Đấng chí thánh, lạy Chúa muôn vật! Xin hãy gìn giữ đền vừa tẩy uế này được vĩnh viễn khỏi hoen ố!"

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro