CVM, CM mo hinh hoa

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Câu 9: Mô tả phương pháp định giá ngẫu nhiên (CVM) và mô hình hoá lựa chọn (CM)?

(1) Định giá ngẫu nhiên (CVM - Contingent Valuation Method)

CVM mô phỏng một thị trường giả định, trong đó hành vi của con người được mô hình hoá trong một bảng phỏng vấn. CVM có thể áp dụng cho cả giá trị sử dụng (ví dụ: đánh giá chất lượng nước, ngắm động vật hoang dã), hoặc giá trị phi sử dụng (giá trị tồn tại).

CVM được sử dụng để tính toán các lợi ích (giá trị) môi trường, mà lợi ích môi trường này được đo lường bằng mức sẵn lòng trả (WTP) hoặc giá sẵn lòng chấp nhận (WTP) của các cá nhân cho một hàng hoá dịch vụ. Trong phương pháp này, ta trực tiếp hỏi cá nhân để biết được WTP hoặc WTA của họ.

Ví dụ: Chúng ta đánh giá giá trị của một di sản thông qua mức sẵn lòng trả của cá nhân cho việc bảo tồn di sản này. Để xác định mức sẵn lòng trả (WTP) của cá nhân, chúng ta có thể trực tiếp hỏi ý kiến cá nhân: "Ông (Bà) sẵn lòng trả bao nhiêu cho hoạt động này?".

1. Đối tượng

Đối tượng của CVM chính là giá trị sử dụng và giá trị phi sử dụng trong tổng giá trị kinh tế.

2. Bản chất của phương pháp CVM

Giả sử chúng ta muốn đánh giá lợi ích của một hoạt động bảo tồn di sản thiên nhiên, chúng ta đo lường lợi ích của hoạt động này bằng thước đo WTP. Để biết được mức sẵn lòng trả của đối tượng phỏng vấn, có hai cách:

(1) Quan sát hành vi của người ta xem người ta xử sự thế nào đối với hoạt động bảo tồn này. Từ đó suy ra mức sẵn lòng trả của họ .

(2) Trực tiếp hỏi đối tượng (đối tượng được hỏi ở đây được chọn một cách ngẫu nhiên) xem họ sẵn lòng trả bao nhiêu cho hoạt động bảo tồn di sản thiên nhiên này.

Trường hợp (2) được gọi là đánh giá ngẫu nhiên (CVM). Tại sao gọi là đánh giá ngẫu nhiên, nói cách khác, yếu tố "ngẫu nhiên" ở đây là gì: 

+ "Ngẫu nhiên" vì chúng ta gặp đối tượng phỏng vấn một cách ngẫu nhiên (không chỉ định trước).

+ "Ngẫu nhiên" vì câu trả lời sẽ tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh của người trả lời (chứ chúng ta không chọn trước những người có hoàn cảnh điều kiện như thế nào mới được chọn để trả lời phỏng vấn).

CVM là phương pháp định giá trực tiếp, do đó, muốn thực hiện phương pháp này, ta phải thiết lập một thị trường giả định (hay một tình huống giả định) mà theo đó các câu hỏi sẽ được hỏi. Vậy thị trường giả định là gì? Thị trường giả định ở đây mang ý nghĩa là hoạt động mà chúng ta đang muốn đánh giá, trên thực tế nó chưa xảy ra, nhưng chúng ta giả sử nó đã xảy ra rồi để hỏi ý kiến của các cá nhân.

Vậy đánh giá ngẫu nhiên là gì?

Đánh giá ngẫu nhiên là phương pháp được dùng để xác định giá trị bằng tiền của những thay đổi (được giả định trước) về hàng hoá dịch vụ môi trường (hay chất lượng môi trường) thông qua việc sử dụng thước đo mức sẵn lòng trả (hoặc mức sẵn lòng chấp nhận) của mọi người đối với hàng hoá dịch vụ đó. Để xác định mức sẵn lòng trả (hoặc mức sẵn lòng chấp nhận) của cá nhân, CVM mô phỏng một thị trường (thị trường giả định) và trực tiếp hỏi ý kiến cá nhân để biết được mức sẵn lòng trả và mức sẵn lòng chấp nhận của họ thông qua một bảng hỏi.

CVM đặc biệt hữu dụng trong trường hợp môi trường một vùng hay một khu vực đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Phương pháp này sẽ cho kết quả chính xác khá cao khi người được phỏng vấn hiểu đầy đủ về tính nghiêm trọng của những biến đổi môi trường như nó phải được hiểu trong giả định. Hiện nay CVM là phương pháp rất đáng tin cậy để tính toán các giá trị phi sử dụng của tài nguyên môi trường.

Điều cần lưu ý đối với CVM là: khác với TCM, kết quả thu được từ CVM phụ thuộc vào điều mà người được phỏng vấn nói rằng họ mong muốn hoặc có thể làm, chứ không nhất thiết là những gì họ làm hoặc sẽ làm. Vì vậy, vấn đề đặt ra là liệu những gì người được phỏng vấn nói có thực sự trùng với điều mà họ làm hay không. Sự cách biệt giữa nói và làm cần được các nhà nghiên cứu đặc biệt chú ý trong khi thiết kế bảng hỏi để có được các giải pháp tốt nhất nhằm giảm thiểu đến mức tối đa khoảng cách đó.

 (2) Mô hình hoá lựa chọn (CM - Choice Modelling)

CM tính toán các lợi ích môi trường bằng cách thiết lập một thị trường giả định, và lợi ích môi trường này được đo lường bằng mức sẵn lòng trả của mọi người. Cách thức thực hiện: để xác định mức sẵn lòng trả, người ta đưa ra các thuộc tính khác nhau của vấn đề đang nghiên cứu, mỗi thuộc tính sẽ được chia thành nhiều mức, từ đó chúng ta tiến hành hỏi ý kiến cá nhân để biết được lựa chọn của họ.

Ví dụ: Giá trị bảo tồn của Thánh địa Mỹ Sơn được thể hiện thông qua mức sẵn lòng trả biên của mọi người cho việc bảo tồn Thánh địa này, để xác định mức sẵn lòng trả của cá nhân, nhà nghiên cứu có thể đưa ra một số thuộc tính: giá (phí vào cổng dành cho người nước ngoài, và phí bảo tồn dành cho người dân trong nước thông qua sự gia tăng trong thuế), kế hoạch bảo tồn, nâng cấp cơ sở hạ tầng, và sự tăng thêm các dịch vụ khác. Trong đó, thuộc tính giá có thể có các mức khác nhau như: 5$, 10$, 15$, 19$ (các mức giá này ta thu được qua khảo sát phỏng vấn thử), sau đó yêu cầu đối tượng phỏng vấn lựa chọn.

CM gồm có hai dạng thường được sử dụng là: Lựa chọn thực nghiệm (CE - Choice Experiment) và Xếp hạng ngẫu nhiên (CR - Contingent Ranking).

1. Đối tượng của phương pháp

Phương pháp mô hình hoá lựa chọn là một trong những kỹ thuật được sử dụng để đánh giá các lợi ích và chi phí môi trường không có giá thị trường.

2. Phạm vi của phương pháp

Phạm vi ứng dụng: CM là phương pháp định giá trực tiếp, do đó nó có ưu điểm chung của phương pháp định giá trực tiếp là định giá được cả giá trị sử dụng và giá trị phi sử dụng.

CM cũng dựa trên kỹ thuật phát biểu sở thích - hỏi cá nhân để đánh giá hàng hoá dưới một số tình huống giả thiết, hơn là quan sát hành vi thực tế của họ trên thị trường.

Phạm vi về thời gian và dạng điều tra lựa chọn:

Thời gian liên quan đến việc ứng dụng CM phụ thuộc vào dạng của điều tra. Đối với các quốc gia phát triển, có thể sử dụng dạng điều tra qua thư điện tử, thời gian điều tra có thể là hai tới ba tháng. Đối với các quốc gia đang phát triển, phỏng vấn trực tiếp cá nhân là phương pháp được chọn lựa phổ biến, thời gian thực hiện phỏng vấn có thể là một hay hai tháng.

Sự lựa chọn của dạng điều tra còn phụ thuộc vào phạm vi của nghiên cứu. Đối với nghiên cứu phạm vi quốc gia, sử dụng mẫu ngẫu nhiên, thì điều tra qua thư sẽ được coi là dạng khả thi nhất (Tuy nhiên, hình thức điều tra qua thư điện tử mới chỉ phổ biến ở các nước phát triển). Các vấn đề chi tiết hơn có thể giải quyết bằng cách sử dụng hình thức phỏng vấn trực tiếp cá nhân.

3. Bản chất của phương pháp           

CM đánh giá các lợi ích và chi phí môi trường thông qua việc thiết lập một thị trường giả định và đánh giá mức sẵn lòng trả của cá nhân đối với các lợi ích môi trường này. Tương tự như ở phương pháp đánh giá ngẫu nhiên (CVM), CM đo lường giá sẵn lòng trả bằng cách trực tiếp hỏi ý kiến cá nhân về mức sẵn lòng trả (WTP) hay mức sẵn lòng chấp nhận (WTA).

CM khác CVM ở cách thức đặt câu hỏi, các câu hỏi của CM thường buộc người trả lời phải có sự lựa chọn, đánh đổi trong các phương án trả lời, thông tin thu được từ phương pháp CM thường nhiều hơn. Trong một nghiên cứu, hai phương pháp này có thể được tiến hành đồng thời để kiểm chứng kết quả.

Tiếp cận về CM dựa trên việc: bất cứ hàng hoá nào cũng có thể được mô tả bằng các thuộc tính (attributes) của nó, trong một thuộc tính của hàng hoá sẽ có các cấp độ (levels) khác nhau của thuộc tính.

Ví dụ 1:

Một khu rừng có các thuộc tính: sự đa dạng sinh học, tuổi của cây rừng, và các tiện nghi giải trí.

Một dòng sông có thể có các thuộc tính: chất lượng nước, chất lượng hệ sinh thái thuỷ sinh, diện mạo của dòng sông.

Hay một chiếc xe buýt được mô tả bởi các thuộc tính: chi phí vé đi xe, thời gian đi/ 1km, sự tiện nghi của dịch vụ này.

Hay một ví dụ cụ thể hơn, CM đưa ra các bộ lựa chọn với các mức thuộc tính, mỗi thuộc tính được chia thành các mức khác nhau.

Ví dụ 2: Để tiến hành đánh giá giá trị của dịch vụ cải thiện chất lượng nước, người ta xác định các thuộc tính của hoạt động cải thiện chất lượng nước và một số biến có liên quan. Từ đó, người ta thiết kế và đưa ra các bộ lựa chọn như sau:

Thuộc tính

Các lựa chọn

Lựa chọn A (Sử dụng dịch vụ cải thiện chất lượng nước)

Lựa chọn B (giữ nguyên hiện trạng)

1. Chất lượng nước

Có thể uống trực tiếp từ vòi - chất lượng cao

Cần phải đun sôi và lọc nước trước khi uống - chất lượng thấp

2. Áp lực nước

Áp lực nước mạnh

Áp lực nước yếu

3. Tổng chi phí hoá đơn nước hàng tháng của hộ gia đình

140.000 đồng

40.000 đồng

Chọn một lựa chọn:    A                        B

CM có thể cho chúng ta biết về 4 vấn đề giá trị của hàng hoá không có giá thị trường, mà các vấn đề này có thể được sử dụng để đưa ra các quyết định, chính sách:

+ Cho biết thuộc tính nào được mọi người đánh giá là quan trọng nhất của hàng hoá không có giá thị trường.

+ Nắm được ngụ ý xếp hạng các thuộc tính trong dân cư.

+ Các giá trị có thể không thay đổi theo cùng chiều hướng.

Ví dụ: Kết quả của một dự án là làm gia tăng việc bảo vệ đời sống của động vật hoang dã, nhưng giảm đi các tiếp cận về dịch vụ giải trí.

+ Góp phần cho biết tổng giá trị kinh tế của môi trường.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#dinhgia