Dai duong song long truyen 1-9

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Đại Đường Song Long Truyện

Hồi 1 : Nương tựa lẫn nhau

Vũ Văn Hóa Cập đứng trên đài chỉ huy của chiến thuyền, phóng mắt nhìn sang hai bờ của Đại Vận Hà.
Lúc này trời còn chưa sáng, dưới ánh sáng của những chiếc đèn trên năm chiến thuyền lớn, tinh nguyệt trên trời ảm đạm thất sắc tựa hồ như đang biểu thị thế lực của Vũ Văn phiệt của y đang ngày càng hưng vượng, khiến cho các sĩ tộc ở phương Nam cũng mất đi cả sự huy hoàng trong quá khứ.
Vũ Văn Hóa Cập niên kỷ ước chừng ba mươi, thân hình cao gầy, tay chân đều dài, diện dung khắc khổ, thần sắc lạnh lùng, đôi nhãn thần thâm sâu mạt trắc, đem lại cho người ta ấn tượng y là kẻ lãnh tâm vô tình, song cũng có một thứ bá khí trấn nhiếp lòng người.
Năm chiếc chiến thuyền này là do đích thân khai quốc công thần đã quá cố của Đại Tùy Dương Tố tự tay thiết kế, giám sát thi công, được mệnh danh là Ngũ Nha Đại Hạm, trên sàn thuyền có năm tầng lầu, cao tới mười hai trượng, mỗi chiếc có thể chứa được tám trăm quân sĩ.
Năm cánh buồm đều được căng hết cỡ, đoàn thuyền lướt xuống hạ lưu Đại Vận Hà với tốc độ còn nhanh hơn cả khoái mã bôn hành.
Mục quang của Vũ Văn Hóa Cập dừng lại trên đỉnh tòa cung điện ló ra sau những rặng cây hai bên bờ sông, đó là một trong hơn bốn mươi tòa hành cung mà Tùy Dạng Đế Dương Quảng đã cho xây dựng dọc hai bên bờ Vận Hà năm ngoái.
Tùy Dạng Đế Dương Quảng sau khi kế vị đã hạ lệnh thiên hạ khai thông Đại Vận Hà, nối liền giao thông hai miền nam bắc, đáp ứng được nhu cầu cấp thiết về quân sự và kinh tế của thời đại. Nhưng việc xây dựng hành cung và trồng dương liễu dọc hai bên bờ sông thì quả thật là một chuyện hết sức vô bổ, hao tài tốn của, tổn hại sức dân.
Thủ hạ tâm phúc của Vũ Văn Hóa Cập, Trương Sĩ Hòa đứng sau lưng y cung kính nói:
– Trước khi trời sáng chúng ta có thể đến được Giang Đô, tổng quản đại nhân chuyến này có thể đoạt được Trường Sinh Quyết hiến cho hoàng thượng, quả là công đức vô lượng!
Vũ Văn Hóa Cập nhếch mép nở một nụ cười khó hiểu, nhạt giọng nói:
– Thánh thượng say đắm thuật trường sinh bất tử của đạo gia, quả thực khiến người ta thấy buồn cười. Nếu như thực sự có thuật này, vậy thì sớm đã có người trường sinh bất tử rồi, thế nhưng bao nhiêu bậc tiên hiền của đạo gia có ai thoát khỏi được cái chết đâu?

Hồi 2 : Đại Họa Lâm Đầu

Dương Châu thành bắt đầu nhiệt náo.
Thành môn bắt đầu mở từ giờ mão, thương nhân, lữ khách, nông dân ra vào thành môn như mắc cửi.
Hàng hóa những chiếc thuyền tối qua cập bến chở tới đều xếp trên bến tàu, nhân lúc này cũng được chuyển vào trong thành, nhất thời tiếng xe ngựa ồn ào, huyên náo cả một góc thành.
Từ Dương Châu đông hạ trường gia có thể ra biển đến Oa Quốc, Lưu Cầu và Nam Dương, vì vậy mà Dương Châu trở thành một trong những trạm trung chuyển hàng hóa giữa trong nước với nước ngoài quan trọng nhất cả nước, so với cuộc sống ở bất kỳ thành thị nào cũng phồn hoa đô hộ và khẩn trương hơn nhiều.
Bất quá hôm nay không khí có chút dị dạng, trong thành ngoài thành đều có thêm rất nhiều quan binh, việc kiểm tra khi xuất nhập thành cũng hết sức kỹ càng, nghiêm cẩn chứ không qua loa đại khái như trước, vì vậy nên những người ra vào thành đã xếp thành một hàng dài. Có điều tuy ai ai cũng nôn nóng quá quan, nhưng không ai dám mở miệng oán thán nửa lời, bởi những người thường qua lại trên giang hồ đều có thể nhận ra trong đám quan binh địa phương kia có không ít đại hán vận y phục của cấm vệ quân.
Trừ phi không cần mạng nữa, bằng không thì chẳng ai dám đắc tội với lũ ngự lâm quân bá đạo nhất chốn kinh thành này cả.
Trong thành tổng cộng có năm thị tập, trong đó thì thị tập cửa Nam nằm đối diện với bờ nam sông Trường Giang là hưng vượng nhất, những sạp hàng cung cấp đủ loại thức ăn ít ra cũng phải đến mấy chục, có lớn có nhỏ, đây là địa điểm dừng chân lý tưởng cho những lữ khách muốn đi thuyền nghỉ ngơi ăn uống.
Dương Châu ngoại trừ là đầu mối giao thông quan trọng, còn là chốn yên hoa nổi tiếng thiên hạ từ xưa tới nay. Bất luận là phú gia công tử vung tiền như rác hay văn nhân Oa quốc:
Nhật Bản Lưu Cầu:
là phiên âm Hán Việt của Ryukyu (tiếng Nhật). Đây là tên vương quốc mà hiện giờ chính là vùng Okinawa của Nhật Bản.
Nam Dương:
Indonesia danh sĩ phong lưu tài tử, hoặc những lãng tử mang kiếm tự xưng hiệp khách, nếu như không đến đây một lần, thì đều không thể coi là hảo hán chốn phong nguyệt đường.

Hồi 4 : Rời Khỏi Dương Châu.

Khấu Trọng ghé sát tai Từ Tử Lăng thấp giọng nói:
– Bà nương này còn đẹp hơn cả các cô nương ở Xuân Phong Lầu nữa.
Từ Tử Lăng ngây ngất nhìn khuôn mặt trang nghiêm mà đẹp tựa tiên nữ của bạch y nữ, gật đầu đồng ý thì bạch y nữ tử đang ngồi đả tọa chợt trợn trừng hai mắt, tức giận nhìn hai gã một cái.
Cả hai kinh hãi, vội thu mình vào một góc.
Thân hình thon thả của bạch y nữ run rẩy, sau lại nhắm nghiền hai mắt, một hồi lâu sau mới mở mắt ra, lừ mắt nhìn hai gã một cái rồi thở hắt ra một hơi hỏi:
– Đây là nơi nào?
Hai gã cùng lúc ngó nghiêng sang hai bờ, sau đó cùng lúc lắc đầu.
Bạch y nữ ngẩng đầu lên nhìn trời, thấy vầng thái dương đã hạ sơn, cảnh vật hai bên bờ sông đắm chìm trong những tia nắng cuối ngày, biết mình đã đả tọa hơn hai canh giờ, trầm ngâm giây lát rồi nhẹ giọng nói:
– Tại sao Vũ Văn Hóa Cập lại truy đuổi các ngươi?
Khấu Trọng trao đổi ánh mắt với Từ Tử Lăng rồi lắc đầu trả lời:
– Không biết!
Bạch y nữ mắt lộ hàn quang, nghiêm khắc nhìn hai gã một hồi lâu, đột nhiên cười khúc khích nói:
– Hai tên tiểu tử các ngươi lập tức nhảy xuống sông cho ta!
Hai gã sớm đã đói đến mềm nhũn người, nghe nàng nói vậy thì cả kinh thất sắc, không biết làm sao mới phải.
Bạch y nữ lại thở dài một tiếng, nhạt nhẽo nói:
– Ta phải nghỉ ngơi ba canh giờ, hai tên tiểu tử các ngươi lái thuyền cho ta, nếu để thuyền lật thì coi chừng cái mạng đấy!
Sao sáng đầy trời, ánh trăng chiếu rọi xuống dòng sông tĩnh lặng.
Dưới ánh trăng ảm đạm, hai gã bằng hữu nương tựa lẫn nhau từ khi ở Dương Châu, đứng sát bên nhau, cố nhịn đói khát và cánh lạnh về đêm cẩn thận điều khiển chiếc thuyền nhỏ.
Bạch y nữ ngồi quay lưng về phía chúng, mặt hướng về mũi thuyền, tĩnh tọa liệu thương, trông giống như một bức tượng nữ thần được tạc bằng ngọc thạch.
Lọn tóc mai của nàng bị gió thổi tung bay phấp phới tựa như những áng mây tự do thoải mái bay lượn trên bầu trời.
Khấu Trọng hạ giọng đến mức không thể thấp hơn, ghét sát miệng vào tai Từ Tử Lăng nói:
– Ngươi đoán xem cô ta có nghe thấy chúng ta nói gì không?
Từ Tử Lăng đang ngơ ngẩn tâm thần, nhất thời không nghe rõ, giật mình nói:
– Ngươi nói gì thế?
Khấu Trọng tức đến nỗi cấu vào đùi hắn một cái, than rằng:
– Tên Vũ Văn Hóa Cập đó không biết là loại gì, xem ra còn ... còn lợi hại hơn cả ác bà nương này nữa.
Từ Tử Lăng kinh hãi nhìn tấm lưng thon nhỏ bạch y nữ, hồi lâu sau mới thở phào một hơi.

Hồi 5 : Sấm Động Giữa Trời Hoang

Khấu Trọng tỉnh lại lúc trời còn chưa sáng.
Nghĩ lại chuyện hôm qua, hắn mồm miệng liền thoắng, lừa ăn lừa uống, đến cả huyện lão gia cũng phải coi hai gã là quý khách, cảm thấy đắc ý vô cùng.
Khi hắn mở mắt ra, mới phát hiện Từ Tử Lăng đã dậy từ lúc nào, đang nửa nằm nửa ngồi, đặt hai tay lên trán, hai mắt nhìn chằm chằm lên trần nhà, không biết nghĩ gì mà đến xuất thần.
Khấu Trọng đang rầu vì không có ai chia sẻ sự đắc ý với mình, cả mừng ngồi dậy nói:
– Tiểu Lăng, ngươi nhìn xem! Ở Dương Châu chúng ta là ăn mày, lưu manh, nhưng vừa rời khỏi Dương Châu, chúng ta liền trở thành đại thiếu gia, từ khi sinh ra đến giờ đây là lần đầu tiên hai huynh đệ chúng ta được ngủ trên cái giường thoải mái thế này, lại đắp chăn bông thơm nức mà nằm mộng nữa, thay áo mặc áo đều có tiểu mỹ nhân thị hầu. A! Lúc cánh tay nhỏ xinh của tiểu Quyên tỷ đó sờ lên người ta, quả thật ta đã cảm thấy như mình đã làm đến thừa tướng rồi.
Từ Tử Lăng không chút hứng thú nói:
– Nếu ngươi không nghĩ được cách thoát thân, để người ta đưa về Dương Châu thì mới hay đấy!
Khấu Trọng cười hì hì nói:
– Ngươi cứ yên một trăm hai mươi cái tâm đi, đợi lát nữa ăn uống no say, chúng ta về đây lấy vài thứ tinh phẩm, sau đó tùy tiện tìm một lý do nào đó, chẳng hạn như là muốn đi xem phong cảnh chẳng hạn, ra khỏi trấn rồi thì không phải dễ dàng hơn sao?
Từ Tử Lăng biết hắn ngụy kế đa đoan, đối với chuyện này hoàn toàn không hề lo lắng, nên chỉ thở dài một tiếng, không nói gì nữa.
Khấu Trọng ngạc nhiên nói:
– Tối qua ngươi ngủ không ngon à? Tại sao lại dậy sớm vậy?
Từ Tử Lăng càu nhàu nói:
– Chúng ta ăn xong bữa tối liền lên giường, ngủ như thế là đủ lắm rồi!
Khấu Trọng liền tiến thêm một bước:
– Vậy ngươi đang nghĩ gì thế? Hắc! Không phải đang nhớ ác bà nương kia đấy chứ?
Từ Tử Lăng bị gã nhìn ra tâm sự, không nói tiếng nào.
Khấu Trọng dịch người đến sát bên cạnh Từ Tử Lăng, vỗ vai hắn nói:
– Cả đời này chỉ có hai huynh đệ, tiểu Lăng ngươi mau nói xem có phải ngươi đã yêu bà nương kia rồi không?
Từ Tử Lăng xẵng giọng nói:
– Yêu mẹ ngươi thì có! Tuổi cô ta ít nhất cũng đủ làm một nửa mẹ ta rồi, hơn nữa ngươi không nghe cô ta nói à? Ngay cả tư cách kết bạn với cô ta chúng ta còn không có nữa. Chỉ là ta cảm thấy hơi kỳ quái, tên tiểu tử hư đốn như ngươi trước giờ không phải rất thích các cô em xinh đẹp hay sao, bà nương này đẹp hơn tất cả những cô nương mà chúng ta đã gặp, vậy mà tại sao ngươi cứ nghĩ cách tránh xa cô ta thế nhỉ? Bề ngoài thì cô ta có vẻ hung dữ, nhưng đối với chúng ta cũng không đến nỗi tồi, bằng không cũng không đưa chúng ta đến tiểu trấn này.
Khấu Trọng thở dài nói:
– Ta chỉ là nghĩ cho tiền đồ của chúng ta mà thôi, chính vì ác bà nương đó đẹp quá, chúng ta lại đã từng va chạm tiếp xúc thân thể với cô ta, chính vì vậy mới phải đặc biệt đề phòng. Đại trượng phu lấy sự nghiệp làm trọng, đặc biệt là chúng ta công danh chưa thành, nên càng phải tránh xa mỹ sắc, bằng không để tráng chí tiêu tan ... Hắc! Ta giống như là ... cái gì ... ha ha ...
Hai người cười nói một hồi thì trời đã tảng sáng, bên ngoài âm ỉ truyền lại tiếng nữ tỳ, gia nhân quét dọn sân vườn.
Khấu Trọng duỗi duỗi cặp chân vẫn còn mỏi nhừ nói:
– Đợi lát nữa ta lừa tên quan họ Trầm đó lấy ngựa đi chơi, chạy trốn cũng nhanh hơn một chút, lại không mệt đến chân quý của thừa tướng và đại tướng quân này.
Từ Tử Lăng cười khổ nói:
– Ngươi biết cưỡi ngựa à?
Khấu Trọng ngạo mạn nói:
– Có gì khó đâu, chỉ cần trèo lên yên cương, điều khiển đầu ngựa, vỗ vào mông nó hai cái là được chứ gì?
Từ Tử Lăng đang định nói hắn thì ngoài cửa vang lên tiếng cốc cốc cốc.
Khấu Trọng ngỡ rằng đó là nữ tỳ tiểu Quyên nhan sắc bất tục liền đằng hắng một tiếng nói:
– Vào đi!
Cửa phòng bật mở, lão huyện thừa họ Trầm vừa béo vừa lùn, lướt vào như một cơn gió đến trước giường của hai gã, tay chân luống cuống, hành lễ:
– Hai vị đại thiếu gia tỉnh lại rồi thì thật tốt quá, đêm qua hạ quan nghe được tin tức, thì ra quý thúc Vũ Văn đại nhân đang huy động nhân thủ đi khắp nơi tìm hai vị đại thiếu gia. Hạ quan đã phái người đi thông báo, lệnh thúc bất cứ lúc nào cũng có thể đến đây. Khi hai vị thiếu gia gặp lại lệnh thúc, mong hai vị có thể nói tốt cho hạ quan vài lời.
Khấu Trọng và Từ Tử lăng như bị rơi từ tiên cảnh xuống mười tám tầng địa ngục, tay chân lạnh toát, hồn phi phách tán.
Trầm huyện thừa tưởng rằng hai gã vui mừng quá đỗi đến ngẩn cả người, liền cúi đầu thi lễ nói:
– Hạ quan đã phân phó hạ nhân thị hầu hai vị công tử mục dục canh y, hạ quan sẽ ở đại sảnh đợi hai vị cùng dùng bữa sáng. Bây giờ xin được cáo lui.
Trầm huyện thừa vừa ra khỏi, thì bốn tỳ nữ xinh đẹp, trong đó có cả tiểu Quyên tiến vào, cẩn thận thị hầu hai gã tắm rửa thay đồ, so với hôm qua còn long trọng chu đáo hơn nhiều.
Điểm trí mạng là Châu Bình và Trần Vọng cũng đến, niềm nở đứng hầu một bên, khiến hai gã không thể nào thoát thân được.
Đến lúc cùng dùng cơm với Trầm huyện thừa, khí thế còn càng thêm long trọng, hơn mười tên sai dịch đứng hai bên thị hầu, khiến cho hai gã tâm kinh đảm khiếp, khổ không nói được nên lời.
Khấu Trọng đá nhẹ vào chân Từ Tử Lăng một cái, cười ha hả nói:
– Không biết gần huyện thành này có danh thắng cổ tích gì không, nhân lúc gia thúc phụ còn chưa đến, huynh đệ chúng tôi đi du lãm ngoạn cảnh một chuyến cũng rất hay.
Ngũ quan Trầm huyện thừa co lại một chỗ, để lộ ra một nụ cười hết sức khó coi:
– Gầy đây thổ phỉ cướp bóc nổi lên khắp nơi, hai vị đại thiếu gia tốt nhất không nên ra khỏi trấn, bằng không nếu xảy ra chuyện, bản huyện làm sao gánh vác nổi.
Khấu Trọng chỉ hận không thể nhảy lên bóp chết lão, nhưng bên ngoài vẫn tỏ ra vui vẻ nói:
– Huyện đại nhân nghĩ thật chu đáo! Hắc! Điểm tốt của huyện đại nhân, hai huynh đệ chúng tôi nhất định sẽ nói lại với thúc phụ, để người luận công ban thưởng.
Bất quá, huynh đệ chúng tôi đây sợ nhất là buồn bực trong phòng. Hay là thế này đi, trong huyện có thanh lâu kỹ viện hay chỗ tầm lạc gì không, ai da ... từ khi rời khỏi Đại Đô, thì chưa được ... Hắc! Huyện đại nhân cũng biết không đựơc cái gì rồi, chúng tôi vốn định đến Dương Châu khoái hoạt một phen, bây giờ ngủ đến tinh thần sảng khoái rồi, thế nào cũng phải đi ... ha ... chuyện nhỏ này, tự nhiên không làm khó nổi huyện đại nhân rồi.
Châu Bình đứng phía sau nói:
– Nhưng giờ này các cô nương còn chưa ngủ dậy.
Trầm huyện thừa quát lớn:
– Chưa ngủ dậy cũng bắt chúng phải dậy.
Đoạn quay mặt lại nở một nụ cười với hai gã:
– Chỉ là một chuyện nhỏ, hạ quan sẽ lập tức an bài.
Lão lại quay sang phía Châu Bình gắt:
– Còn không đi sắp xếp.
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đưa mắt nhìn nhau, thầm nhủ nếu như không thể lợi dụng lúc ở thanh lâu trốn thoát, vậy thì tiền đồ vĩ đại và sinh mạng bảo bối của cả hai coi như chấm dứt từ đây.
Hai gã ngồi trong xe ngựa, do đích thân Trầm huyện thừa dẫn đường, hướng về phía thanh lâu lớn nhất trong huyện thành.
Bắc Pha huyện là một huyện thuộc loại lớn nhất ở vùng phụ cận Dương Châu, so với Dương Châu thì cũng không kém nhiệt náo là bao, bởi vì trực thuộc Giang Đô quận nên có đường lớn dẫn thẳng ra ngoài, thủ công nghiệp đặc biệt hưng vượng.
Đáng tiếc cả hai đang lo lắng cho tiểu mệnh, cho dù Trầm huyện thừa có mồm năm miệng mười khoe khoang công đức của mình đối với nhân dân trong huyện, dọc đường cứ chỉ chỉ trỏ trỏ không ngừng, hai gã cũng chỉ tùy tiện ậm ừ mấy câu mà thôi.
Đặc biệt là hơn mười tên sai dịch đi theo bảo vệ trước sau, cảm giác so với bị nhốt trong tù xa giải về Dương Châu thật chẳng khác là bao.
Kỳ thực Khấu Trọng đã nghĩ rất kỹ, định sau khi cùng các cô nương ở thanh lâu vào trong phòng, tránh khỏi thị tuyến của người khác, thì mới từ từ chạy trốn. Nhưng có thể chạy thoát thành công hay không vẫn còn là chuyện chưa biết, vì vậy nên trong lòng cứ thầm sốt ruột.
Uy hiếp lớn nhất là Vũ Văn Hóa Cập bất cứ lúc nào cũng có thể đến đây, bóc trần nguyên hình của hai gã, chẳng những bị mất mặt lại còn mất cả mạng, cảm giác bất lực ấy không cần nói cũng biết rồi.
Mỗi lần Trầm huyện thừa quay mặt ra ngoài, hai gã lại thầm ra dấu tay, dùng phương thức quen thuộc thương lượng đại kế thoát thân.
Xe ngựa oai phong tiến vào trong kỹ viện.
Khi hai gã cùng với Trầm huyện thừa xuống xe, chỉ có vài ả kỹ nữ nhan sắc tầm thường, mắt nhắm mắt mở đi theo một mụ tú bà ra hành lễ với hai vị thiếu gia giả mạo.
Hai gã đang nhìn nhau cười khổ, thì từ phía đằng xa có tiếng vó ngựa dồn dập truyền lại.
Khấu Trọng, Từ Tử Lăng lập tức biết chuyện chẳng lành, đang định liều mạng trốn chạy thì kình phong cuồng khởi, từ trên ép thẳng xuống.
Trầm huyện thừa và đám nha dịch còn chưa biết chuyện gì xảy ra thì đã ngã xuống như rạ, trong hỗn loạn cơ hồ như thấy một đạo bạch ảnh từ trên không giáng hạ.
Đến lúc chúng bò dậy thì Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đã không cánh mà bay, chỉ có bụi đất bị gió lốc cuốn bay mù mịt.
Bạch y nữ chộp lấy eo lưng hai gã, vượt qua mái nhà, trong nháy mắt đã rời khỏi Bắc Pha huyện, lướt đi trên đường núi mà như chẳng tốn mảy may sức lực.
Hai gã tuyệt cảnh phùng sinh, chút nữa thì nhịn không được hét lên sung sướng, nhưng lại sợ chọc giận bạch y nữ nên đành phải dồn nén lại.
Chưa đến nửa khắc, hai gã đã đến bờ sông, chỉ thấy chỗ bến sông có vài chiếc ngư thuyền nhỏ đang đậu, hai bên bờ có vài ngư phu đang sửa sang lưới và dây câu.
Bạch y nữ không hề nghĩ ngợi, tung mình nhảy lên một chiếc thuyền, ném bịch hai gã vào bên trong, vung kiếm chặt đứt dây buộc thuyền, nắm lấy mái chèo, vận kình chèo mạnh. Hoa nước bắn tung toé, chiếc thuyền như một mũi tên lướt ngược dòng mà đi, để lại lão ngư phu tức giận hò hét ở đằng sau.
Hai gã tiểu tử bị nàng ném đến toàn thân đau nhức, lẩm bẩm ngồi dậy, bốn mắt nhìn nhau, thấy mặt bạch y nữ như phủ một lớp sương lạnh, không dám lên tiếng, không khí nặng nề vô cùng.
Chiếc ngư thuyền nhỏ đi được ít nhất hai ba chục dặm thủy lộ, bạch y nữ mới hừ lạnh một tiếng, chầm chậm giảm tốc độ.
Khấu Trọng lấy hết dũng khí, lên tiếng rụt rè hỏi:
– Đại sĩ có phải luôn theo dõi chúng tôi hay không, bằng không tại sao lại xảo hợp như vậy?
Bạch y nữ không thèm nhìn hai gã, khẽ động nộ nói:
– Ai thèm đi theo hai tên tiểu quỷ trộm gà bắt chó như các ngươi chứ, chỉ là ta thấy Vũ Văn Hóa Cập phái người đi lục soát các huyện thành gần đây nên mới quay lại tìm các ngươi mà thôi.
Từ Tử Lăng cung kính nói:
– Đa tạ ân cứu mạng của đại sĩ, sau này có cơ hội huynh đệ chúng tôi nhất định báo đáp!
Bạch y nữ lạnh lùng nói:
– Ta không hề muốn làm chuyện tốt, chỉ là bất kỳ chuyện gì làm Vũ Văn Hóa Cập không vui thì ta đều phải làm, vì thế các ngươi không cần cảm kích ta. Khi nào đến Đơn Dương, thì ai đi đường nấy, sau này không cho phép các ngươi nhắc đến ta nữa, bằng không ta sẽ lấy mạng chó của các ngươi đấy!
Khấu Trọng cười ha hả nói:
– Ai đi đường nấy thì ai đi đường nấy, sau này nếu chúng tôi học thành thần công cái thế, xem có dám gọi ta là chó này chó kia nữa không?
Bạch y nữ song mục lộ ánh hàn quang, nhưng lập tức thu lại, nhạt giọng nói:
– Cho dù ngươi có bái làm môn hạ của Võ Tôn Đột Quyết tộc Tất Huyền đi nữa cũng chẳng thể học được được bản lĩnh gì cả, vì thế theo ta thì tốt nhất hãy bỏ ý định đó đi, tìm một nghề gì đó có thể kiếm tiền mà học, lấy vợ sinh con, sống một cuộc đời an an lạc lạc mới là bình thường.
Hai gã nghe vậy thì cảm thấy bị xúc phạm rất lớn, trợn mắt nhìn nàng một hồi lâu, cuối cùng Từ Tử Lăng nhịn không được liền lên tiếng hỏi:
– Lẽ nào tư chất của chúng tôi lại tệ đến thế?
Bạch y nữ thở dài, nhìn hai người một hồi lâu, đột nhiên cất giọng ôn hòa nói:
– Các ngươi nên biết các ngươi không đủ tư cách để ta phải nói dối các ngươi. Tư chất của các ngươi đích thực tốt hơn bất cứ người nào mà ta đã từng gặp trước đây, bị dày vò như vậy mà cũng không hề sinh bệnh, đích thực là hiếm gặp trên đời, chỉ là các ngươi thiếu một phần duyên số.
Hai gã được nàng tán thưởng, một chút tự tin và tự tôn được hồi phục trở lại, đồng thanh nói:
– Duyên số gì?
Bạch y nữ lắc đầu nói:
– Duyên số luyện võ, phàm là những người muốn trở thành cao thủ xuất quần bạt tụy đều phải luyện tập từ khi còn nhỏ. Theo sư phụ ta nói, một người muốn học bất kỳ thứ gì đến mức đắc tâm ứng thủ thì đoạn thời gian quan trọng nhất chính là từ lúc năm đến mười tuổi. Cũng giống như là học nói vậy, qua khỏi đoạn thời gian này mới học thì học ra sao ngữ âm cũng không chuẩn, võ công cũng như vậy. Nếu như bây giờ các ngươi mới bắt đầu học, vô luận là cần cù chịu khó thế nào, cũng chỉ là tốn công vô ích mà thôi.
Nếu như chỉ làm một tên tiểu tốt thì sớm muộn cũng bị người ta giết đi mà thôi, như vậy chi bằng không học thì hơn. Đã hiểu chưa?
Hai gã ngây người, cảm thấy chân tay lạnh cóng, cuộc sống như mất đi ý nghĩa và mục tiêu.
Khấu Trọng tâm tính quật cường, đưa tay sờ vào cuốn bảo thư sau lưng, gào lớn:
– Lỡ chúng tôi là ngoại lệ thì sao? Hơn nữa chúng tôi còn có bảo thư trong tay, tại sao không có điểm khác mọi người chứ?
Bạch y nữ lộ ra vẻ thương hại, lắc đầu nói:
– Lời thực thường khiến người ta khó chịu, ta đã xem qua cuốn sách của các ngươi rồi, nó tên là Trường Sinh Quyết, là bảo điển của đạo gia, nhưng không hề có một chút liên quan gì đến võ học. Tốt nhất các ngươi nên tìm một chỗ nào đó mà ném nó đi, bằng không nói không chừng sẽ vì nó mà mang họa vào thân đó ... Theo ta thì đó chỉ là trò lừa bịp mà thôi, con người làm sao mà trường sinh bất tử chứ?
Gương mặt hai gã lập tức trắng bệch, không còn chút huyết sắc, nói không nên lời.
Không khí trầm mặc bao trùm cả con thuyền.
Đơn Dương thành là thành thị lớn nhất ở thượng du Dương Châu thành, là nơi buộc phải đi qua nếu muốn từ trong lục địa đến Dương Châu thành để ra biển, tính quan trọng về mặt kinh tế, chính trị chỉ kém sau Dương Châu mà thôi.
Cảnh sắc trong thành hết sức thú vị, thành thị được xây dựng bên Đại Vận Hà, với hơn trăm chiếc cầu lớn nhỏ làm đường, nhà xây sát nước, những căn nhà san sát nối tiếp nhau không ngớt. Phố trên mặt nước, đường trên mặt nước, chợ trên mặt nước, nước, đường, cầu hợp thành một thể, tạo nên một vẻ nhu tình tự thủy, xúc động lòng người.Sáng sớm ngày hôm sau, khi thành môn mở cửa, bạch y nữ và Khấu, Từ ba người trà trộn với những người nông dân vào thành.
Hai tên tiểu tử vì giấc mộng không thành mà con tim tan nát, thất tha thất thểu lê bước theo bạch y nữ vào trong thành.
Sau khi nhập thành, ba người dọc theo con phố chính tiến sâu vào thành nội, hai bên đường đều là cửa hàng cửa tiệm, bày bán đủ thứ hàng hóa thủ công, sanh ý vô cùng hưng vượng, khách khứa ra vào cũng không ít.
Bạch y nữ đến đâu thì nam nam nữ nữ ở đó đều trố mắt ra nhìn, nhưng nàng không hề để ý, tựa như không lấy gì làm lạ, coi như nhìn mà không thấy.
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đã nửa ngày không ăn uống gì. Tâm tình xấu cũng không thể thắng được cảm giác cái bụng trống không. Nhưng bạch y nữ dường như không hề nhìn thấy các phạn điếm tửu quán, mà cứ đi thẳng một mạch, Khấu Trọng nhịn không nổi, đằng hắng một tiếng nói:
– Chúng ta có phải nên dừng lại ăn chút gì đó không?
Bạch y nữ dừng lại trước một ngôi nhà lớn tường đỏ, ngói xanh, lạnh lùng nói:
– Ngươi có tiền à?
Từ Tử Lăng đứng bên cạnh liền cười cầu tài nói:
– Chúng tôi đương nhiên không có tiền, bất quá nếu đại sĩ có tiền thì không phải cũng vậy sao?
Bạch y nữ cười lạnh nói:
– Ta có tiền thì cũng như ngươi có tiền à? Thật không biết xấu hổ. Hơn nữa tiền của ta sớm đã bị hai tên tiểu tử các ngươi cúng hết cho hà bá lúc lật thuyền rồi. Ngày hôm qua các ngươi còn được người ta cung phụng ăn uống, cơm no áo ấm, còn ta đây đến nửa cái bánh bao cũng không có mà ăn, bây giờ lại còn đòi ta dẫn đi ăn đi uống nữa hả?
Khấu Trọng phẫn nộ nói:
– Đại sĩ chỉ biết mắng người hay sao? Nếu không phải chúng ta chìm thuyền thì sớm đã bị Vũ Văn Hóa Cốt đuổi kịp rồi, chúng tôi thì bị hắn hóa cốt, còn đại sĩ hoa nhường nguỵêt thẹn thế kia, ắt hẳn sẽ bị hắn lấy làm tiểu thiếp đấy.
Bạch y nữ đột nhiên sững người lại.
Hai gã ngỡ rằng nàng sắp phát tác, lập tức phân làm hai hướng bỏ chạy. Bạch y nữ thoáng cảm thấy ngạc nhiên, thấy biểu tình lo lắng của hai gã, nhịn không nổi hé nở một nụ cười, khiến hai gã nhìn đến ngẩn ngơ.
– Hai tên tiểu quỷ các ngươi ở đây đợi ta đi kiếm một ít ngân lượng về, mời các ngươi ăn uống một bữa rồi từ nay ân đoạn nghĩa tuyệt, không liên can gì đến nhau nữa.
Nói đến đây nàng lại tủm tỉm cười rồi chuyển hướng bước vào một căn tiệm ở phía bên trái.
Khấu Trọng thấy đó là một tiệm cầm đồ, liền bước lên chặn nàng lại, nghiêm mặt nói:
– Cầm đồ hả? Chuyện này tôi là rành nhất đấy!
Bạch y nữ lạnh lùng nói:
– Ta làm sao biết ngươi không tư lợi chứ?
Khấu Trọng bị nàng nói trúng tim đen, thở dài một tiếng, lủi thủi lùi lại đứng bên cạnh Từ Tử Lăng.
Hai gã dùng ánh mắt tiễn nàng vào tiệm cầm đồ, Từ Tử Lăng thở dài than:
– Giấc mộng làm thiên hạ đệ nhất cao thủ của chúng ta đã vỡ rồi, xem ra đành phải chuyên tâm đọc sách thôi, ta làm tả thừa tướng, ngươi làm hữu thừa tướng vậy.
Khấu Trọng cười khẩy nói:
– Trong thời loạn thế này thì thư sinh là đồ vô tích sự nhất, bất quá ta vẫn không tin là Trường Sinh Quyết khỉ gió này hoàn toàn không liên quan gì đến võ công, tuy không có đạo sĩ nào trường sinh bất tử, nhưng đạo sĩ võ công cao thì nhiều không kể xiết, từ đây có thể suy ra luyện không thành trường sinh bất tử cũng có thể luyện thành võ công tuyệt thế.
Từ Tử Lăng thoáng hưng phấn, nhưng sau lại lập tức thở dài nói:
– Thế nhưng bà nương đó không phải đã nói chúng ta đã mất đi thời gian luyện công quý giá nhất rồi hay sao?
Khấu Trọng nói:
– Có thể bà nương đó thấy căn cốt của chúng ta tốt hơn mình, sợ chúng ta sau này sẽ vượt qua cô ta, nên mới cố ý nói những lời đó khiến chúng ta nản lòng, lãnh ý ... ôi ...
Hiển nhiên gã cũng cảm thấy cách nghĩ này chỉ là tự mình an ủi mình, nên không nói tiếp nữa.
Bạch y nữ thần sắc phấn khởi bước ra khỏi tiệm cầm đồ, hai gã vội vàng chạy đến cạnh nàng.
Bạch y nữ thấp giọng nói:
– Hai tên tiểu quỷ ngươi nghe đây, nếu để ta nghe các ngươi ở sau lưng ta nói bà nương này, bà nương nọ lần nữa thì đừng trách ta thủ đoạn độc ác đấy!
Hai gã cảm thấy ngượng ngùng vô kể, vội vã vâng vâng dạ dạ rối rít.
Ba người lên lầu hai của một gian tửu lầu lớn, ngồi xuống một chiếc bàn cạnh cửa sổ, gọi thức ăn lên.
Mười chiếc bàn đã kín khách quá nửa, trong đó một bàn có một vị y phục hoa lệ, xem ra có vẻ là một công tử thế gia có thân phận địa vị, cứ không ngừng nhìn về phía bạch y nữ, dường như đã bị nhan sắc của nàng nhiếp hồn đoạt phách.
Từ Tử Lăng đằng hắng một tiếng nói:
– Dám hỏi đại sĩ cao danh quý tánh, để sau này chúng tôi tiện bề xưng hô.
Bạch y nữ tay nâng chiếc cằm nhỏ nhắn, làm vẻ ngạc nhiên nói:
– Hai tên tiểu quỷ các ngươi bất quá chỉ là hai tên lưu manh ở Dương Châu mà thôi, cớ gì phải cố làm ra vẻ văn nhã như mấy tên hủ nho, thật chẳng hợp chút nào.
Khấu Trọng ngạo mạn nói:
– Đây gọi là người nghèo nhưng chí không đoản, sau này nhất định chúng tôi sẽ có ngày danh lừng thiên hạ, xem lúc đó đại sĩ có còn dám coi chúng tôi là hai tên tiểu lưu manh nữa không?
Bạch y nữ bất thần lộ vẻ quan tâm, nghĩ ngợi giây lát rồi hỏi:
– Sau khi ta đi rồi, các ngươi định làm gì? Lừa ăn lừa uống cũng không phải là một biện pháp ...
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng lần đầu tiên cảm nhận được sự quan hoài của bạch y nữ, bất quá lúc này đồ ăn đã được mang lên, hai gã chẳng nghĩ ngợi nhiều nữa, phục người xuống bàn mà ăn lấy ăn để, dáng vẻ khó coi vô cùng.
Bạch y nữ ăn hai chiếc bánh bao rồi quay mặt ra ngoài cửa sổ trầm ngâm không nói tiếng nào.
Đến lúc hai gã ăn không nổi nữa thì cả bàn thức ăn đã sạch bách, cả hai xoa xoa bụng, ngẩng đầu lên nhìn về phía bạch y nữ.
Bạch y nữ thở dài một tiếng, lấy ra hơn mười đĩnh bạc, đặt lên trước mặt hai gã, nhẹ giọng nói:
– Niệm tình đã cùng chung hoạn nạn, số tiền này ta tặng cho hai ngươi. Lúc này thiên hạ bốn bề loạn lạc, chiến hỏa liên miên, nhưng phương nam vẫn thái bình hơn một chút, nơi này vẫn là hiểm địa, không thể ở lâu, các ngươi tự lo lấy thân đi!
Nói đoạn không để ý đến ánh mắt của hai gã đang chằm chằm nhìn vào đống bạc trên bà, vẫy tay gọi tiểu nhị đến thanh toán. Tên tiểu nhị liền cung kính nói:
– Tiền bàn ăn của cô nương đã được vị công tử ngồi ở bàn kia trả rồi, bọn họ vừa mới đi xong.
– Cạch!
Bạch y nữ ném năm thù tiền lên bàn, lạnh lùng nói:
– Ta không cần kẻ khác trả tiền hộ, mau cầm lấy!
Nói đoạn dài người phóng qua lan can xuống lầu.
Hai gã thấy nàng bỏ đi đầu không ngoái lại, liền đưa mắt nhìn nhau một cái như hội ý. Khấu Trọng vơ đống bạc trên bàn vào túi, chán nản nói:
– Chúng ta cũng đi thôi!
Từ Tử Lăng cũng muốn sớm rời khỏi nơi thương tâm này, liền bước theo Khấu Trọng xuống dưới lầu. Bước ra ngoài phố, chỉ thấy mặt trời rực rỡ, ngoài đường kẻ đi người lại náo nhiệât vô cùng, nhưng lòng hai gã lại chẳng cảm thấy một chút ấm áp.
Trước đây ở Dương Châu, cuộc sống tuy có khó khăn, lại thường xuyên bị người ta đánh chửi, nhưng tương lai đối với hai gã vẫn tràn đầy hy vọng.
Còn bây giờ tuy tự do tự tại, trong túi lại có một món tiền, nhưng lại hư hư đãng đãng, trời đất rộng lớn, nhưng không chỗ nào có thể đi.
Hai gã định tìm bóng hình của bạch y nữ, nhìn thêm một chút cũng tốt, nhưng người đã đi khuất, chỉ làm tăng thêm nỗi thương cảm bồi hồi.
Đầu vai hai gã khẽ chạm vào nhau, tiu nghỉu cất bước đi về phía cổng thành.
Thù:
đơn vị đo lường thời cổ đại, một thù bằng / lạng.
Đột nhiên cảm thấy sự lạ, một làn gió thơm ngát thổi tới, bạch y nữ từ phía sau chen lên, đi song song với hai gã.
Cả hai mừng thầm, nhưng lại không dám biểu lộ ra ngoài, càng không dám lên tiếng hỏi han.
Khi nhìn thấy cổng thành, bạch y nữ mới lạnh lùng nói:
– Hai ngươi đừng có nghĩ ngợi lung tung, ta chỉ là sợ Vũ Văn Hóa Cập đuổi đến, cướp lấy Trường Sinh Quyết của các ngươi hiến cho bạo quân để tâng công, nên mới quay lại đưa các ngươi một đoạn đường mà thôi. Đây là để đối phó Vũ Văn Hóa Cập chứ không phải là ta có hảo cảm gì với hai tên tiểu quỷ các ngươi cả.
Từ Tử Lăng dường như rất khó chịu với kiểu nói này của bạch y nữ, lập tức dừng bước, phẫn nộ nói:
– Nếu đã như vậy, chúng tôi cũng không cần đại sĩ nhọc công nữa. Chúng tôi có chân có tay, cũng tự biết đi biết đứng. Tiền của đại sĩ chúng tôi cũng không cần đâu!
Khấu Trọng, trả lại tiền cho người ta!
Khấu Trọng định nói gì xong lại thôi, thở dài một tiếng, cho tay vào trong bọc.
Bạch y nữ cười khúc khích, đưa tay thộp cổ hai gã, kéo chạy thẳng một mạch ra khỏi thành môn, đến tận bờ sông mới bỏ ra.
– Tại sao phải tức giận như vậy, ta trước giờ không biết làm người khác vui vẻ, tính tình cô độc, lần này coi như là đã đắc tội với hai ngươi vậy.
Từ Tử Lăng lần đầu tiên thấy nàng hạ giọng như vậy, gã thiên tính vốn độ lượng nên trong lòng ngược lại cảm thấy ngại ngùng, thoáng đỏ mặt nói:
– Tôi cũng không phải chưa từng bị người khác coi thường, chỉ là khi bị đại sĩ coi thường không hiểu vì sao lại cảm thấy rất bất bình và phẫn nộ mà thôi.
Khấu Trọng ghé sát miệng vào tai bạch y nữ thấp giọng nói:
– Đại sĩ của tôi à! Tên tiểu tử này đã yêu người mất rồi!
Bạch y nữ thúc mạch cùi trỏ vào be sườn Khấu Trọng khiến gã ngã lăn ra đất, đau đớn rên rỉ một hồi.
– Nếu ngươi còn dám nói với bản cô nương những lời như vậy nữa, ta sẽ ... ta sẽ vả miệng ngươi ...
Nàng vốn định nói sẽ giết Khấu Trọng, nhưng tự biết mình không nỡ làm vậy, nên đành đổi thành một thứ hình phạt nhẹ hơn rất nhiều là vả miệng.
Từ Tử Lăng mơ mơ hồ hồ hỏi:
– Hắn nói cái gì vậy?
Bạch y nữ trừng mắt nhìn gã, không nói tiếng nào.
Nhất thời cả ba đều không biết nói gì mới phải, không khí im lặng bao trùm.
Mục quang của bạch y nữ hướng về phía những chiếc thuyền đậu ở bến tàu ngoài thành, lẩm bẩm nói một mình:
– Tại sao có nhiều thuyền từ phía tây về đây mà không thấy chiếc nào đi về phía tây nhỉ?
Hai gã Khấu, Từ cũng định thần quan sát, cảm thấy có chút kỳ lạ.
Những người đợi thuyền đứng trên bến tàu cũng đang bàn luận rôm rả.
Chợt một thanh âm ôn hòa nhã nhặn vang lên bên cạnh ba người:
– Dám hỏi cô nương và hai vị tiểu huynh đệ đây có phải đang đợi thuyền hay không?
Khấu Trọng lúc này đã bò dậy, cùng Tử Tử Lăng quay sang nhìn về phía người vừa lên tiếng, thì ra chính là vị công tử lúc nãy ở trên lầu đã nhìn chăm chăm vào bạch y nữ, lại còn thanh toán tiền bữa ăn cho họ nữa.
Người này dáng vẻ thập phần anh tuấn tiêu sái, phong độ phi phàm, so với Từ Tử Lăng còn cao hơn nửa cái đầu, nhưng không hề có vẻ văn nhược yếu đuối, lưng thẳng vai rộng, tuy rằng y ăn mặc như một văn sĩ, nhưng lại gây cho người ta ấn tượng là một người thông hiểu võ công.
Bạch y nữ không quay đầu lại, lạnh lùng nói:
– Chuyện của chúng ta không cần ngươi quan tâm!
Vị công tử kia không hề lấy đó làm giận, cúi người vái dài nói:
– Đường đột giai nhân, Tống Sư Đạo xin được tạ tội ở đây! Tại hạ vốn cũng không dám mạo muội làm phiền, chỉ là thấy cô nương dường như có vẻ không hiểu vì sao các thuyền lớn thuyền nhỏ đều lần lượt quay lại, nên mới lấy hết dũng khí mà qua đây xin được giải thích, tuyệt không có ý gì khác.
Bạch y nữ quay người lại như một cơn gió, quan sát đánh giá ý một hồi, rồi cất giọng lạnh lùng:
– Nói đi!
Tống Sư Đạo thấy mỹ nhân chịu khai khẩu, cả mừng nói:
– Đó là bởi vì nghĩa quân của Lý Tử Thông ở Đông Hải vừa vượt qua sông Hoài, kết minh với Đỗ Phục Uy, đại phá quân Tùy, đồng thời phái quân đến tấn công Lịch Dương.
Nếu Lịch Dương bị phá, thủy lộ Trường Giang sẽ bị cắt đứt, vì vậy bây giờ mọi người đều giữ thái độ chờ đợi, xem xem tình hình thế nào rồi mới dám đi về phía Tây.
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng thấy bạch y nữ lưu tâm lắng nghe, còn Tống Sư Đạo thì bất cứ mặt nào cũng hơn hai gã, trong lòng đều cảm thấy khó chịu vô cùng, nhưng cũng chẳng có cách gì.
Bạch y nữ trầm ngâm không nói gì, Tống Sư Đạo lại nói:
– Nếu cô nương không ngại, có thể ngồi thuyền của tại hạ, bảo đảm dù có gặp phải tặc binh, cũng sẽ không xảy ra chuyện gì.
Bạch y nữ lạnh lùng nhìn Tống Sư Đạo, hờ hững nói:
– Khẩu khí lớn thật, xem ra cũng có chút bản lãnh!
Tống Sư Đạo ung dung nói:
– Tại hạ đâu dám múa búa qua cửa Lỗ Ban, chỉ là hàn gia đích thực có chút thanh danh, chỉ cần treo gia kỳ lên thì bằng hữu trên đường đều nể mặt mà cho đi qua.
Nghe đến đây, cả hai gã Khấu, Từ cũng không thể không thầm tán thưởng tên tiểu tử này nói năng đúng mực, không kiêu ngạo cũng không tự ti, toàn phô ra chỗ tốt.
Bạch y nữ quét mắt nhìn hai người, trầm ngâm không nói, hiển nhiên là đã có chút động tâm.
Nếu như dẫn theo hai tên tiểu tử này đi đường bộ, tất sẽ tốn rất nhiều thời gian, nhưng nếu đi đường thủy, chỉ cần qua khỏi Lịch Dương thì sẽ không sợ Vũ Văn Hóa Cập đuổi kịp nữa.
Khấu Trọng không nhịn đựơc nói:
– Tôi tình nguyện đi đường bộ.
Bạch y nữ còn chưa trả lời thì Tống Sư Đạo đã lên tiếng trước:
– Xin hỏi cô nương, hai vị tiểu huynh đệ này là ...
Bạch y nữ bực mình ngắt lời:
– Chẳng là gì cả, không cần hỏi nữa. Thuyền của các người ở đâu?
Lúc Tống Sư Đạo cả mừng chỉ tay thì Từ Tử Lăng giật giật áo Khấu Trọng nói:
– Đã đến lúc ai đi đường nấy rồi, đại sĩ ngồi thuyền của cô ta, chúng ta đi đường bộ của chúng ta!
Khấu Trọng cũng hiển lộ khí khái, cười ha hả, vỗ vai Từ Tử Lăng tán thưởng:
– Được lắm!
Đoạn dắt tay gã cùng đi về hướng Tây.
Bạch y nữ tức giận quát vang:
– Hai ngươi đứng lại cho ta!
Khấu trọng quay đầu lại vẫy tay nói:
– Tạm biệt!
Bạch y nữ dẫm mạnh chân xuống đất, quay đầu lại nói với Tống Sư Đạo:
– Mời Tống huynh về thuyền trước, ta lập tức sẽ đến ngay!
Đoạn tung người lên phía trước, nháy mắt đã đến sau lưng hai gã Khấu, Từ, nhấc bổng lên như nhấc hai con gà con.
Tống Sư Đạo cảm thấy hết sức mơ hồ, có điều nghĩ đến chuyện giai nhân chịu lên thuyền của mình tự nhiên sẽ không thiếu cơ hội để niềm nở, nên không hề để ý đến chuyện khác, hớn hở quay trở về thuyền.

Hồi 6 : Cửu Huyền Đại Pháp

Bốn chiếc chiến thuyền lớn nhổ neo xuất phát, ngược dòng Trường Giang tiến về phía Tây.
Khẩu khí của Tống Sư Đạo lớn vậy, tự nhiên y cũng không phải hạng đơn giản.
Thì ra trên giang hồ, tứ đại môn phiệt đều danh động thiên hạ, nhưng được lòng người nhất chính là môn phiệt họ Tống.
Tống tộc là sĩ tộc thế lực lớn nhất ở phương Nam, phiệt chủ Thiên Đao Tống Khuyết là cao thủ dụng đao đệ nhất thiên hạ.
Năm xưa Dương Kiên thống nhất thiên hạ, kiến lập nên đại Tùy, bởi cố kỵ thế lực của Tống tộc, nên đã dùng chính sách vỗ về, chiêu an, phong Tống Khuyết làm Trấn Nam Công, còn Tống Khuyết thì cũng biết thế lực Nam Triều đã mất, nên cũng giả cúi đầu xưng thần để bảo toàn gia tộc.
Trong tứ đại môn phiệt, ba nhà khác đều có hỗn tạp huyết thống của người Hồ, còn gia tộc thanh uy lớn nhất phương Nam này lại kiên trì bảo vệ truyền thống, nghiêm cấm người trong tộc thông hôn với người dị tộc không phải người Hán, vì vậy nên trên giang hồ được gọi là Hán tộc chính thống.
Khi Văn Đế Dương Kiên còn tại vị, Tống Khuyết tuy hùng tài đại lược, nhưng cũng không dám khinh cử vọng động, còn giấu tài giấu nghệ, tiềm tâm tu ẩn để tránh khỏi đại họa lâm đầu.
Đến lúc Dương Quảng kế vị, nội loạn ngoại ưu, triều chính hủ bại, phiến loạn nổi lên khắp nơi, Tống phiệt mới thực sự sống lại lần nữa.
Đệ đệ của Tống Khuyết Địa Kiếm Tống Trí cũng là cao thủ dụng kiếm hàng đầu trong thiên hạ, lại là tay cơ trí nổi danh trên giang hồ, biết được khí thế nhà Tùy vẫn còn đang thịnh, nếu cử binh quá sớm tất sẽ trở thành mục tiêu bị công kích đầu tiên, nên đã khuyên huynh trưởng tạm hoãn phản Tùy, mà chuyên làm những vụ mua bán với lời lãi khổng lồ.
Một trong những lãnh vực kiếm nhiều tiền nhất chính là vận chuyển muối lậu từ các quận huyện ven biển dọc theo Trường Giang vào nội địa, lời lãi cực lớn.
Bốn chiếc chiến thuyền lớn này của Tống Sư Đạo chính là thuyền vận chuyển muối lậu về lục địa.
Lúc này triều chính hủ bại, Tống gia dựa vào thế lực lớn của mình ở phương Nam, dễ dàng thông qua mọi quan tiết, công nhiên vận chuyển muối biển.
Nếu như có quan lại địa phương nào dám tra xét bắt bớ, thì liền dùng các thủ đoạn doạ dẫm, uy hiếp để đối phó, nếu không được thì cho người bí mật ám sát.
Các lộ nghĩa quân thấy kỳ hiệu của Tống gia cũng không ai dám mạo phạm để khỏi chuốc thêm một cường địch. Vì vậy mấy năm gần đây thế lực của Tống gia không ngừng âm thầm phát triển, thậm chí còn dùng cả tài lực hỗ trợ cho một số đạo nghĩa quân, làm tiêu hao lực lượng của nhà Tuỳ.
Tống Khuyết có bốn con trai, hai con gái. Tống Sư Đạo là con trai út, chuyên phụ trách kinh doanh vận chuyển muối biển, được phụ thân vô cùng sủng ái. Hai người con gái là Ngọc Hoa và Ngọc Trí, đều là mỹ nhân bế nguyệt tu hoa, đứng hàng thứ năm và thứ sáu.
Tống Ngọc Hoa ba năm trước đã gả cho Giải Văn Long, con trai của Tứ Xuyên Đại Hào Giải Huy ở Thành Đô.
Giải Huy có ngoại hiệu là Võ Lâm Phán Quan, là cao thủ tuyệt đỉnh tề danh cùng với Tống Khuyết, Tống Trí, ngoài tứ đại môn phiệt gia thì Độc Tôn Bảo của y cũng là một trong những thế lực mới nổi lên gần đây.
Hôn nhân giữa hai nhà Tống, Giải tràn đầy mùi vị chính trị, biểu thị hai đại thế lực kết minh, khiến Dương Quảng càng không dám khinh cử vọng động với họ.
Điểm đến lần này của Tống Sư Đạo chính là Tứ Xuyên, muối sẽ do Độc Tôn Bảo phân phát lại cho bọn diêm thương.
Lúc này trong một gian phòng rộng rãi trên tầng hai của một chiếc thuyền trong đoàn, Khấu Trọng để cả giày nằm bò ra giường, vùi đầu vào nghiên cứu một bức đồ hình trong Trường Sinh Quyết.
Từ Tử Lăng thì có ghế chẳng ngồi mà ngồi dưới đất, hai tay bó gối, dựa lưng vào vách thuyền, trong lòng mờ mịt, ngỡ ngàng.
Tại sao khi gã nhìn thấy Tống Sư Đạo và bạch y nữ nói chuyện lại sinh ra cảm giác ghen tỵ?
Gã đối với chuyện nam nữ tuy có chút hiếu kỳ, nhưng trước giờ chưa từng có cuồng vọng mà mơ ước hão huyền.
Ở mọi phương diện, bạch y nữ và gã đều chênh lệch quá xa, niên kỷ ít nhất cũng phải hơn gã bảy tám tuổi, lẽ nào đúng như Khấu Trọng nói, gã đã thầm yêu nàng ta rồi?
Nhưng khi nghĩ kỹ thì lại không giống.
Mỗi khi gã nhìn trộm các cô nương trong Xuân Phong Lầu, toàn thân đều cảm thấy như nóng bừng, chỉ muốn chạy lại ôm lấy họ, nhưng đối với bạch y nữ thì gã chưa bao giờ có cách nghĩ như vậy. Thậm chí là lúc tiếp xúc khá thân mật với nàng, trong lòng gã vẫn chỉ là kính ý, chỉ có sự ấm áp thân thiết, tuyệt không có chút dục vọng quan hệ nam nữ nào.
Cuối cùng gã không nhịn được lên tiếng gọi:
– Trọng thiếu gia, ngươi nói xem có phải ta đã yêu ... nữ nhân đó rồi không?
Khấu Trọng làu bàu nói:
– Đừng làm ồn, ta đang nghiên cứu thứ võ công không phải võ công lợi hại nhất thiên hạ đây!
Không khí trong phòng trở nên yên tịnh và trầm mặc.
Qua một hồi lâu, Khấu Trọng bỏ Trường Sinh Quyết xuống, ngóc đầu dậy đến ngồi xuống bên cạnh Từ Tử Lăng, đặt tay lên vai gã nói:
– Xin lỗi, tâm tình ta không được tốt, cuốn sách quỷ đó chỉ sợ Quỷ Cốc Tử sống lại cũng đọc không hiểu! Hê ... vừa nãy ngươi nói cái gì nhỉ?
Thấy Từ Tử Lăng vẫn không lên tiếng, gã vội nói:
– Đúng rồi, ta nhớ ra rồi. Ha, đại trượng phu nào sợ không có vợ, bà ... hà, nữ nhân đó thế nào cũng không đến lượt huynh đệ chúng ta đâu. Cái tên Tống Thí Đạo đó trói nửa người lại cũng đủ thắng hai chúng ta rồi, chi bằng giữ chút tinh thần khí lực mà nghiên cứu bảo thư, ăn cơm, đi ngoài, ngủ nghê, ha ...
Từ Tử Lăng khổ não hỏi:
– Vậy có phải ta đã yêu nữ nhân đó rồi không?
Khấu Trọng vỗ vỗ trán, thản nhiên nói:
– Trên thực tế, ta cũng giống như ngươi thấy ganh tỵ bỏ mẹ, nhưng ta không hề cho rằng mình đã yêu nàng ta. Hắc! Đối với nàng ta, ta có chút giống như đối với Trinh Tẩu vậy, giống như là chuyện Trinh Tẩu phải làm thiếp cho lão Phùng vậy, rất không đáng nhưng chẳng thể nào khác được! A! Ta hiểu rồi. Tiểu Lăng ngươi đã coi nàng ta là mẹ của ngươi, chẳng ai hy vọng mẹ của mình đi cải giá của đúng không? Đặc biệt là là lại gả cho cái tên miệng còn hôi sữa mà khẩu khí lớn bằng trời Xú Thí Đạo đó. Ha! Xú Thí Đạo, cái tên này đổi lại còn hay hơn cả Vũ Văn Hóa Cốt nữa.
Từ Tử Lăng vẫn nhăn mặt, nhưng chỉ giây lát sau thì đã há miệng cười, cười đến chảy cả nước mắt.
Cửa phòng đột nhiên bật mở.
Cả hai kinh hãi nhìn ra, thấy bạch y nữ mặt phủ một lớp sương mỏng bước vào, sau khi đóng cửa thì nghiêm khắc nhìn hai gã một hồi lâu, rồi mới đến trước mặt hai gã, gõ lên vách tường sau lưng hai gã nói:
– Đừng quên ta ở phòng bên cạnh các ngươi, trừ phi vách tường này được làm bằng thiết bản, bằng không mỗi câu nói xấu xa của các ngươi ta đều nghe rất rõ ràng.
Khấu Trọng ương ngạnh cãi lại:
– Chúng tôi đâu có gọi đại sĩ là bà nương, tại sao lại tìm chúng tôi trút giận nữa?
Bạch y nữ quỳ một chân xuống, nghiêm giọng nói:
– Cái gì mà nữ nhân này, nữ nhân kia? Hai tên tiểu quỷ chết, tiểu quỷ thối các ngươi!
Nói đến cuối cùng, khoé miệng của nàng khẽ hé nở một nụ cười.
Hai gã lúc đó vẫn chưa nhìn ra là nàng kỳ thực không hề phát nộ, Từ Tử Lăng liền lên tiếng trước:
– Nhưng chúng tôi thật sự không biết đại sĩ tên gọi là gì mà!
Bạch y nữ trầm giọng:
– Vậy các ngươi đã nói tên họ của mình cho ta chưa?
Khấu Trọng gật gù như muốn nói "thì ra là vậy", đưa tay tự giới thiệu:
– Tiểu đệ thượng Khấu, hạ Trọng, hắn tên Từ Tử Lăng, ngoại hiệu của chúng tôi là Dương Châu Song Long, dám hỏi đại sĩ cao danh quý tánh? Ngoại hiệu là gì? Là thần thánh phương nào? Đã gả cho người ta hay chưa?
Bạch y nữ khúc khích cười, thấp giọng mắng một tiếng:
– Tiểu quỷ chết bằm!
Thần thái kiều mị diễm lệ tuyệt luân đó, khiến hai gã nhìn như muốn rơi cả tròng mắt ra ngoài.
Bạch y nữ lập tức khôi phục vẻ lạnh lùng nghiêm khắc:
– Gả hay chưa gả liên quan gì đến tên tiểu tử thối nhà ngươi, nếu còn nói xấu sau lưng ta nữa, ta sẽ ... ta sẽ ...
Khấu Trọng quan tâm nói:
– Lần này lại là hình phạt gì nữa đây, tốt nhất là đứng vả miệng rạch mặt, để người khác nhìn thấy thì thật không hay, tiểu quỷ thì cũng phải có thể diện của tiểu quỷ chứ!
Bạch y nữ hết cách, tức giận nói:
– Đến lúc đó ta tự có cách khiến các ngươi phải hối hận, lát nữa ăn cơm không cho phép các ngươi được hồ ngôn loạn ngữ, có biết chưa?
Khấu Trọng cười hì hì nói:
– Chi bằng từ rày chúng tôi không gọi là đại sĩ nữa mà gọi là mẹ, sau này tiêu tiền của mẹ cũng không cảm thấy ngại ngùng nữa!
Bạch y nữ thoáng đỏ mặt, khiến cho khuôn mặt nàng càng thêm diễm lệ thoát tục, đặc biệt là đôi mắt long lanh kia có thể thâu hồn nhiếp phách bất cứ nam nhân nào trên thế gian này.
Khấu Trọng nháy mắt với Từ Tử Lăng một cái, hai gã lập tức đồng thanh gọi:
– Mẹ!
Bạch y nữ cuối cùng cũng không nhịn nổi, bật cười khúc khích rồi ngồi xuống thở gấp nói:
– Nếu ta thật có hai tên bất hiếu tử hư đốn như các ngươi, đảm bảo sẽ mắc chứng đau đầu kinh niên mất.
Khấu Trọng thấy nàng không cương quyết cự tuyệt, lại cười vui vẻ như vậy, trước giờ chưa từng thấy, liền tiến thêm một bước nói:
– Mẹ của con à! Con thấy võ công của mẹ cũng không phải tầm thường, bị Vũ Văn Hóa Cập đánh trọng thương mà chỉ vài canh giờ đã hồi phục lại, chi bằng truyền cho hai con vài chiêu võ công, để sau này chúng con dùng tuyệt học gia truyền quang môn diệu tổ, ít nhất cũng không làm mất mặt của mẹ!
Sức mạnh của tiếng cười quả thật không gì bì nổi, bạch y nữ rõ ràng biết Khấu Trọng đang trêu trọc làm cho mình cười, nhưng vẫn không nhịn được, cuối cùng phải lấy tay che miệng, thở hổn hển mắng:
– Ngươi là tên đại đầu quỷ, Từ tiểu quỷ xem ra thật thà hơn người nhiều, thật đúng là miệng chó không thể mọc ngà voi mà!
Khấu Trọng như bị oan uổng gì to lớn lắm, thất thanh nói:
– Tiểu Lăng thật thà? Trời ơi! Hắn giảo hoạt hơn con nhiều, chỉ là hắn đã yêu mẹ nên mới biến thành ngây ngây dại dại thế thôi!
Từ Tử Lăng tức giận nói:
– Ta giảo hoạt thế nào? Tất cả chủ ý đều do ngươi đưa ra, còn tên ngốc như ta chỉ phụ trách đi làm, còn muốn đổ hết tội danh lên đầu của ta nữa ư?
Bạch y nữ cố nhịn cười, đưa mắt nhìn mặt trời đang ngả về tây bên ngoài cửa sổ, thở dài nói:
– Chắc kiếp trước ta đã tạo nghiệt nên kiếp này mới gặp phải hai tên tiểu tử các ngươi. Thôi được, tuy biết rằng không có chỗ dùng, nhưng ta vẫn truyền cho các ngươi một pháp môn luyện công, nếu thật sự có thành tích, ta sẽ nghĩ xem có nên truyền kiếm thuật cho các ngươi hay không. Bất quá các ngươi không phải là con ta, càng không phải là đồ đệ của ta.
Cả hai phấn chấn tinh thần, đồng thanh hỏi:
– Vậy rốt cục người là gì của chúng tôi?
Bạch y nữ ngẫm nghĩ giây lát, khổ não nói:
– Đừng hỏi ta!
Tâm hồn thiếu nữ bất chợt tràn dâng cảm giác ấm áp.
Chính nàng cũng không hiểu nổi bản thân tại sao lại nảy sinh tình cảm với hai tên tiểu quỷ này, thậm chí lúc chúng gọi nàng là mẹ, nàng cũng không nỡ trách mắng.
Nàng vốn là một cô nhi sinh ra trong thời chiến loạn, được đại tông sư võ học Cao Lệ là Phó Dịch Lâm thu dưỡng, từ nhỏ đã bồi dưỡng thành một sát thủ bậc nhất, còn dạy nàng cả văn hóa và ngôn ngữ của người Hán. Chuyến Nam hành lần này, chính là một phần trong quá trình tu luyện.
Khấu Trọng cười cợt nhả nói:
– Gọi là mẹ vẫn hợp nhất nhỉ! Rèn sắt phải khi còn nóng, mẹ của con à! Có tuyệt kỹ gì mau truyền hết cho chúng con đi!
Bạch y nữ trừng mắt nhìn gã một cái, đột nhiên thấp giọng nói:
– Ta tên Phó Quân Sước, các ngươi thích thì cứ gọi là Sước tỷ cũng được! Thật không ngờ chuyến này lại gặp phải hai tên tiểu quỷ nghịch ngợm các ngươi!
Khấu Trọng thấy thái độ nàng thay đổi, cười tít mắt nói:
– Gọi bằng mẹ vẫn thích hơn, phải không Tiểu Lăng?
Phó Quân Sước nhẹ nhàng nói:
– Miệng mọc ở trên miệng ngươi, ngươi thích gọi là gì thì gọi.
Từ Tử Lăng như muốn khóc, hai mắt đỏ lựng, cúi đầu gọi lớn:
– Mẹ ơi!
Phó Quân Sước vẫn thoáng kích động, một hồi lâu sau mới dồn nén được thứ cảm xúc chưa từng có bao giờ này xuống, lạnh lùng nói:
– Ngươi gọi gì thì gọi, nhưng chớ mộng tưởng rằng ta chịu nhận các ngươi làm con của ta, càng đừng mơ rằng ta sẽ dẫn các ngươi theo. Được rồi, bây giờ ta sẽ dạy các ngươi các đả tọa luyện khí cơ bản, đây là bí quyết thượng thừa do gia sư truyền lại, nếu không được ta cho phép, không được truyền cho kẻ khác, bằng không dù ta có không nỡ, cũng sẽ phải theo môn quy mà giết các ngươi đi!
Hai gã không ngừng gật đầu.
Phó Quân Sước nghiêm mặt nói:
– Gia sư là Phó Dịch Lâm, võ công tập trung tinh hoa của Trung Thổ, Tây Vực, Cao Lệ, cùng với Võ Tôn của Tây Vực là Tất Huyền, đệ nhất cao thủ đạo gia Trung Thổ là Tán Chân Nhân Ninh Đạo Kỳ được xưng là đương thế tam đại tông sư. Người thường nói:
“Tất cả biến hóa đều từ thân mình mà ra”. Có nghĩa là trong mỗi người đều có một bảo tàng ẩn giấu, tiềm lực vô cùng, chỉ là bị các loại chấp nê che mất đi mà thôi.
– Chẳng trách mẹ nói luyện công phải bắt đầu từ lúc nhỏ, bởi vì lúc nhỏ là ít chấp nê nhất, vì vậy dễ phá mê tỉnh ngộ nhất.
Phó Quân Sước ngây người nói:
– Ta chưa từng nghĩ đến chuyện này! Ô! Tên tiểu tử này thật có chút ngộ tính đấy!
Khấu Trọng đắc ý nói:
– Tên tiểu tử Tiểu Lăng này được con đây không ngừng chỉ điểm, tự nhiên không kém đến mức đó rồi!
Phó Quân Sước nghiêm khắc nhìn gã nói:
– Tên tiểu tử ngươi thích nhất là cố làm ra vẻ thông minh. Chớ vội đắc ý, người thông minh thường có nhiều tạp niệm, mà tạp niệm chính là chướng ngại lớn nhất để luyện nội công cơ bản, chỉ có thủ tâm như nhất, mới có thể phá bỏ chấp nê. Linh cảm thiên cơ sẽ từ từ mà đến, sau đó dụng công pháp thông kỳ kinh bát mạch, điều động khí huyết, nghịch thuận xuất nhập. Vì vậy pháp môn này thiên biến vạn hóa, nhưng tóm lại chỉ có một chữ "nhất" mà thôi.
Khấu Trọng gãi đầu nói:
– Nói như mẹ lẽ nào người võ công cao nhất lại là người ngu ngốc nhất hay sao?
Vậy thì sư phụ của mẹ phải vừa ngốc vừa ngu rồi?
Phó Quân Sước tức đến ngẹn lời, rõ ràng biết sự thật không phải như vậy, nhưng lại không biết chửi mắng gã thế nào, nếu đổi là trước đây, nàng đã vung tay đánh cho gã một trận rồi, nhưng bây giờ đối diện với tên tiểu tử gọi nàng bằng mẹ này, nàng lại có chút không nỡ, đang phiền não không biết giải thích thế nào thì Từ Tử Lăng đã trượng nghĩa lên tiếng:
– Đương nhiên không phải như vậy rồi, người có võ công có thể khai tông lập phái tất phải là bậc đại trí, tính sáng tạo rất cao vậy mới có thể vượt qua những trở ngại tầm thường khác để vươn lên, tạo ra cái mới. Vì vậy, những kẻ mà mẹ nói là những kẻ thông minh vặt chứ không phải bậc đại trí đại huệ, cái này gọi là tẩm ngẩm tầm ngầm mà đấm chết voi. Sư phụ của mẹ chính là loại nhân tài đại trí giả ngu này.
Khấu Trọng và Phó Quân Sước nhìn từ đầu đến chân Từ Tử Lăng một lượt, như là mới biết hắn vậy, cùng lúc động dung.
Phó Quân Sước gật đầu nói:
– Từ tiểu quỷ quả nhiên có chút đạo hạnh.
Khấu Trọng vui vẻ nói:
– Huynh đệ của con sao chỉ có chút đạo hành được, con thấy bình thường hắn ngẩn ngẩn ngơ ngơ, thì ra chỉ là đại trí giả ngu, thâm tàng bất lộ, làm cho lão tử này phải biểu thị trí năng đáng lẽ phải ẩn tàng đi, biến thành kẻ thông minh vặt rồi.
Phó Quân Sước không nhịn nổi gõ nhẹ lên trán Khấu Trọng một cái, quở mắng:
– Nếu ngươi còn chọc phá, ta sẽ không truyền võ công cho ngươi nữa.
Khấu Trọng xoa đầu le lưỡi nói:
– Mẹ của con à, lần sau đánh vào mông có được không, gõ như vậy nhỡ hỏng đầu của con thì làm sao luyện được võ công thượng thừa đây?
Phó Quân Sước lườm gã một cái, tiếp tục nói:
– Môn võ ta dạy các ngươi gọi là Cửu Huyền Đại Pháp, bắt đầu từ tầng thứ nhất đến tầng thứ chín. Ngoại trừ sư phụ ta ra, trên đời chưa có ai luyện được đệ cửu tầng cả, mẹ cũng ... à, ta cũng chỉ luyện đến tầng thứ sáu.
Phó Quân Sước lỡ miệng tự xưng là mẹ, xấu hổ đến mặt đỏ hồng lên, vẻ kiều diễm càng thêm mê người, thấy hai tên tiểu tử đang cười trộm, liền gắt giọng nói:
– Không được cười, đều là tại các ngươi cả. Bây giờ có muốn học hay không nào?
Hay gã vội gật đầu nói muốn học.
Một hồi sau Phó Quân Sước mới khôi phục được trạng thái bình thường, hắng giọng nói:
– Hạ giả thủ hình, thượng giả thủ thần, thần hồ thần, cơ triệu hồ động. Cơ chi động, bất ly kỳ không, thử không phi thường không, nãi bất không chi không. Thanh tĩnh nhi vi, kỳ lai bất khả phùng, kỳ vãng bất khả truy. Nghênh chi thuỳ chi, dĩ vô ý chi ý hòa chi, huyền đạo sơ thành thị đệ nhất trùng cảnh giới.* Nàng ngừng lại giây lát rồi lại nói tiếp:
– Chớ coi thường tầng đầu tiên này, rất nhiều người tốn cả đời cũng không thể cơ khí giao cảm, được hình thì lại mất thần, nửa đường bỏ lỡ, chẳng được tích sự gì cả.
Phó Quân Sước thấy hai gã rung đùi đắc ý, cơ hồ như rất có sở đắc, liền kinh ngạc hỏi:
– Các ngươi hiểu ta nói gì không?
Khấu Trọng ngạc nhiên nói:
– Đơn giản như vậy có gì mà không hiểu?
Phó Quân Sước thầm nhủ:
"Sư phụ từng khen mình là kỳ tài luyện võ, nhưng đến giờ luyện tới đệ lục tầng cảnh giới, mới có thể nắm được pháp quyết một cách chân chính. Hai tên tiểu tử này làm sao mà vừa nghe đã hiểu được!", nghĩ đoạn liền chỉ tay vào Khấu Trọng nói:
– Ngươi thử nói cho ta nghe xem nào!
Ánh nắng bên ngoài cửa sổ nhạt dần, căn phòng dung hòa với thứ ánh sáng nhàn nhạt ấy, mang một vẻ hoang vu, nhạt nhòa của thời gian.
Khấu Trọng ngạc nhiên nói:
– Đoạn này nói rất hay, rất khó tìm từ ngữ khác để thay thế. Miễn cưỡng mà nói, cần phải có hữu hình chi pháp nhập vô hình chi pháp, vọng khứ thần động, tùy cơ duyên mà tiếp xúc với cái mà mẹ gọi là kho tàng vô hình trong bản thể, thần cơ phát động, sau đó dùng vô tâm chi ý mà điều khiển, luyện ra cái khỉ mốc ... à ... không, chỉ là luyện ra chân khí. Trời, con có thể lập tức luyện không?
Phó Quân Sước nghe mà trợn mắt há mồm, lời giải thích này so với sư phụ Phó Dịch Lâm của nàng còn rõ ràng minh bạch hơn, tên tiểu tử này thiên tư cao đến mức khó thể tưởng tượng, nhất thời không nói nên lời.
Từ Tử Lăng nói:
– Trọng thiếu gia ngươi nếu nóng nảy luyện công, nói không chừng lại có hại. Cái gọi là vô ý chi ý, chính là chỉ cảnh giới giữa vô ý và hữu ý, như không mà lại có, như có mà lại không, thanh tịnh vô vi, đến không thể gặp, đi không thể đuổi.
Phó Quân Sước càng nghe càng thấy rởn cả gai gốc, hai tên tiểu tử này quả là hai viên ngọc đẹp chưa mài dũa, vừa được nàng dẫn dắt sơ sơ, đã hiển lộ ra muôn vạn đạo hào quang rồi.
Khấu Trọng lưỡng lự nói:
– Ta chỉ nói vậy thôi! Có điều xin mẹ mau truyền thụ cho hữu hình chi pháp, sau này dù là lúc ăn cơm, đi ỉa con cũng có thể bất thần luyện công đựơc ...
Phó Quân Sước tức giận quát:
– Không được nói nói những lời bẩn thỉu như vậy nữa. Bây giờ ta sẽ truyền cho các ngươi pháp môn vận khí đả tọa, chỉ nói một lần, sau này sẽ không nhắc lại nữa.
Hai gã phấn chấn tinh thần, chuẩn bị lắng nghe thì chợt có tiếng gõ cửa từ bên căn phòng của Phó Quân Sước truyền lại.
Phó Quân Sước thở dài nói:
– Để sau bữa cơm tiếp tục vậy!
Thấy thần sắc thất vọng của hai gã, chút nữa thì nàng bỏ qua luôn cả lời hẹn với Tống Sư Đạo.
Tự dưng, nàng thật sự có cảm giác ấm áp khi có thêm hai gã con trai nghịch ngợm.

Hồi 7 : Hòa Thị Chi Bích

Tống Sư Đạo thiết yến trong phòng lớn của chiếc chiến thuyền, giản đơn mà long trọng, chủ tọa là một đôi nam nữ.
Nam tuổi ước chừng bốn mươi, nhưng đầu tóc bạc trắng, trên mặt để một bộ râu dài màu ngân bạch, nhưng không hề có vẻ già cỗi, mà thập phần anh tuấn, có hào khí của nhất phái đại gia, hơn nữa thần thái cũng khiêm cung khách khí phi thường.
Nữ nhân tuổi chừng hai lăm hai sáu, dáng vẻ yêu mị phi thường, thái độ với nam nhân thập phần thân thiết, hơn nữa thần tình dáng điệu vô cùng khiêu khích, gây cho người ta một cảm giác không chính phái. Còn Khấu Trọng và Từ Tử Lăng thì lại liên tưởng đến các cô nương trong Xuân Phong lầu, bất quá nhan sắc của nữ nhân này vượt xa bất kỳ hồng cô nào trong kỹ viện đó mà thôi.
Sau khi Tống Sư Đạo giới thiệu, mới biết nam nhân chính là cao thủ trứ danh của Tống phiệt, Ngân Tu Tống Lỗ, nổi tiếng khắp vùng Giang Nam với một bộ Ngân Long quải pháp tự sáng tạo. Tống Lỗ là tộc thúc của Tống Sư Đạo, cũng là một trong các nhân vật chủ chốt của Tống phiệt.
Nữ nhân tên gọi Liễu Thanh, là tiểu thiếp Tỗng Lỗ mới thu nạp, còn về lai lịch thế nào thì cũng không nói kỹ càng.
Lúc Tống Sư Đạo định giới thiệu ba người mới chợt nhớ ra là y không biết danh tính, đang ngần ngừ không biết phải làm sao thì Phó Quân Sước đã lên tiếng nói tên ba người ra, không hề giấu diếm.
Tống Lỗ mỉm cười nói :
- Cô nương tinh hoa nội liễm, hẳn là người có võ công thượng thừa, bội kiếm cũng khắc biểu tượng của dị quốc, không biết lệnh sư là cao nhân phương nào mà có thể đào tạo ra được một nhân vật cao minh như cô nương đây?
Hai gã Khấu, Từ nhìn nhau le lưỡi, đúng là thành danh không phải may mắn, hai gã tuy chưa từng nghe qua danh tiếng của của Tống Lỗ, nhưng cũng biết y là nhân vật nổi danh, bởi vậy nên nhãn lực mới cao minh như vậy, nói chuyện mới đắc thể như vậy, từ đó không khỏi sinh lòng ngưỡng mộ.
Ánh mắt của hai gã còn có hiệu lực hơn tất cả mọi lời nịnh hót, Tống Lỗ cũng vì vậy mà nảy sinh hảo cảm với hai gã.
Phó Quân Sước chậm rãi đáp lời :
- Xin Tống tiên sinh thứ lỗi, Quân Sước có nghiêm lệnh của gia sư, không thể tiết lộ thân phận lai lịch.
Liễu Thanh lúng liếng liếc mắt nhìn hai gã tiểu tử một cái, mỉm cười nói :
- Hai vị tiểu huynh đệ này thật anh tuấn hiên ngang, tại sao lại không cùng Phó cô nương tham luyện võ công, không biết là người thế nào với Phó cô nương?
Khấu Trọng ưỡn ngực đằng hằng nói :
- Hai huynh đệ chúng tôi đang chuẩn bị theo mẹ của chúng tôi học võ công thượng thừa, đa tạ Tống phu nhân đã tán thưởng!
Tống Sư Đạo nghe thấy gã nói “mẹ của chúng tôi” thì giật thót mình, liếc mắt nhìn thân hình diễm lệ vô song của Phó Quân Sước, biến sắc nói :
- Mẹ của hai người?
Phó Quân Sước thoáng đỏ mặt, nghiêm khắc trừng mắt nhìn Khấu Trọng một cái rồi lên tiếng chữa lời :
- Đừng nghe hai tên tiểu quỷ này hồ ngôn loạn ngữ, tại chúng cứ đòi nhận ta làm mẹ...
Từ Tử Lăng cố ý xoa bụng rầy rà nói :
- Mẹ! Con đói rồi!
Liễu Thanh không nén nổi, khúc khích che miệng cười.
Hai chú cháu Tống Sư Đạo và Tống Lỗ cảm thấy đầu óc mơ hồ, không thể nào hiểu nổi quan hệ giữa mỹ nữ tuyệt sắc với hai tên tiểu quỷ này.
Phó Quân Sước thấy hai tên tiểu quỷ nhìn Liễu Thanh si si dại dại, bất giác sinh ra một cảm giác đố kỵ quái lạ, hừ lạnh một tiếng nói :
- Còn dám hồ ngôn loạn ngữ, ta sẽ... ta sẽ...
Tống Sư Đạo vui vẻ nói :
- Xin mời Phó cô nương và hai vị tiểu huynh đệ nhập tiệc, chúng ta vừa ăn vừa nói chuyện.
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng tâm tính thiếu niên, thấy Tống Sư Đạo tôn trọng mình, bao nhiêu ghen tuông lúc nãy đã giảm đi quá nửa, lại thấy trên bàn toàn là sơn trân hải vị, nên lập tức ngồi xuống, chẳng hề để ý đến lễ giáo giang hồ.
Bọn Tống Sư Đạo cũng đã phần nào đoán được gốc gác của hai gã nên cũng chẳng để vào lòng, chỉ khẩn khoản mời Phó Quân Sước ngồi xuống, Tống Sư Đạo và Tống Lỗ ngồi hai bên tả hữu, Liễu Thanh thì ngồi xuống bên cạnh Tống Lỗ, bồi tiếp Khấu Trọng và Từ Tử Lăng ăn uống.
Hai đại hán đứng hầu lập tức bước lên rót rượu cho mọi người.
Phó Quân Sước nói :
- Trước giờ tôi không uống rượu, hai tên tiểu tử này cũng không tiện uống, ba vị xin cứ tự tiện.
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đang muốn thử mùi vị của mỹ tửu xem thế nào, nghe thấy nàng nói vậy lập tức lộ vẻ thất vọng ra mặt.
Phó Quân Sước thầm cảm thấy vui vẻ, cuối cùng thì nàng đã trị được hai tên tiểu quỷ này một mẻ.
Tống Lỗ mỉm cười nói :
- Vậy mọi người không ai uống rượu nữa? Tiểu Thanh có vấn đề gì không?
Liễu Thanh nhoẻn cười nói :
- Thiếp thân làm sao có vấn đề chứ? Chỉ sợ là hai vị tiểu huynh đệ đây có vấn đề thôi!
Khấu Trọng ưỡn ngực nói :
- Đại trượng phu có thể co có thể duỗi, có thể uống cũng có thể không uống, làm sao có vấn đề được chứ?
Ba người Tống gia đều đã lăn lộn giang hồ không ít, biết đủ mọi hạng người, hiểu rõ gã đang nói cứng, nhưng cũng không lên tiếng chọc phá mà chuyển sang nói chủ đề khác.
Tống Lỗ hiển nhiên là người rất sành sỏi ẩm thực, thuận miệng giới thiệu các mỹ thực trên bàn, lại nói cả cách nấu nướng, chọn nguyên liệu, khiến hai gã Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đã đói đến mềm người nghe mà tròn mắt há miệng, hai tay liên tục càn quét thức ăn trên bàn.
Phó Quân Sước lại không hề hứng thú với thức ăn trên bàn, chỉ ăn hai ba miếng rau xanh rồi dừng đũa, ngọc dung tịnh như nước hồ thu, đẹp tựa Quan Âm Đại Sĩ giáng thế vậy.
Tống Sư Đạo càng nhìn nàng càng ái mộ, nhưng bởi Tống Lỗ vừa rồi đã chỉ ra là nàng đến từ dị quốc, thật chẳng khác gì một tảng đá đè lên tim y, bởi vì họ Tống nhà y nghiêm cấm việc thông hôn với dị tộc, nếu chẳng may mỹ nữ tuyệt sắc này là người dị tộc, thì trừ phi y ra khỏi gia môn, bằng không chỉ có thể hữu duyên vô phận mà thôi.
Liễu Thanh lại rất có hứng thú với hai tên tiểu tử không biết trời đất là gì này, mỉm cười nhìn hai gã ăn uống như phong quyển tàn vân, thỉnh thoảng còn giúp đỡ hai gã gắp thức ăn, tiếp đãi rất chu đáo.
Đợi cho hạ nhân dọn dẹp hết bát đĩa, Tống Lỗ liền tự tay đun trà đãi khách.
Y thấy Phó Quân Sước không có hứng thú với chuyện ăn uống liền chuyển chủ đề :
- Phó cô nương đến Trung thổ của chúng tôi không biết có quen thuộc hay không?
Tống Sư Đạo lập tức để lộ thần sắc khẩn trương, biết rõ Tống Lỗ đã nhìn ra tấm lòng ái mộ của y với Phó Quân Sước, cố ý dò hỏi để chứng minh thân phận dị tộc của nàng, dập tắt hy vọng của y.
Phó Quân Sước nhạt giọng hỏi lại :
- Tống tiên sinh làm sao chỉ dựa vào bội kiếm của tiểu nữ mà đã đoán định Quân Sước là người đến từ ngoại vực?
Hai mắt Tống Sư Đạo lập tức sáng rực lên.
Tống Lỗ ra vẻ áy náy nói :
- Xin thứ cho Tống mỗ mạo muội, không biết cô nương đã nghe qua câu chuyện về Hòa Thị Bích hay chưa?
Khấu Trọng giơ tay lên như học sinh trả lời thầy giáo :
- Ta đã nghe qua rồi. Tần Chiêu Tương Vương lấy mười lăm tòa thành trì để đổi lấy trấn quốc chi bảo của Thang Huệ Văn Vương là Hòa Thị Bích. Triệu Vương phái Lạn Tương Như hộ tống Hòa Thị Bích đến bái kiến Tần Vương, Lão Lạn này ngu đần mang ngọc bỏ trốn, cũng may là Tần Vương càng ngu hơn, để cho lão và Hòa Thị Bích trở về nước, câu chuyện này gọi là “hoàn bích quy Triệu” hay cái con khỉ mốc gì đó.
Chúng nhân đều bật cười phát lên, Liễu Thanh cười dữ dội nhất, chỉ tay hỏi Khấu Trọng :
- Vậy Hòa Thị Bích đó sau này thế nào?
Phó Quân Sước cũng thầm cảm kích, biết Khấu Trọng sợ nàng không trả lời nổi câu hỏi của Tống Lỗ mà tiết lộ thân phận nên mới tranh trả lời trước, đồng thời nàng cũng thầm kinh ngạc trước sự cơ trí của “đứa con” này.
Khấu Trọng chỉ vì đã nghe qua Bạch lão phu tử kể chuyện hoàn bích quy Triệu nên mới có lời mà nói, còn về chuyện sau khi “quy Triệu” thì làm sao mà gã biết được, đành phải gượng cười nói :
- Chuyện này e chỉ có trời mới biết.
Liễu Thanh cười tươi như hoa nở, dựa cả người vào Tống Lỗ, dáng vẻ yêu kiều khôn tả.
Tống Lỗ thấy tên tiểu tử này làm ái thiếp vui vẻ như vậy, trong lòng cũng rất vui thích, nhất thời quên cả chuyện thăm dò Phó Quân Sước, chậm rãi giải thích :
- Hòa Thị Bích về sau rơi vào tay Tần Thủy Hoàng, Tần Thủy Hoàng đã lệnh cho Lý Tư khắc lên trên ngọc tám chữ triện: “thọ mệnh ư thiên, ký thọ vĩnh xương”, từ đó Hòa Thị Bích liền trở thành ngọc tỷ của Hoàng đế.
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng liền gật gù, biểu tình như kiểu “thì ra là thế”.
Tống Sư Đạo sợ rằng Tống Lỗ sẽ tiếp trục truy vấn Phó Quân Sước liền tiếp lời :
- Sau khi Hán Cao Tổ Lưu Bang lật đổ đại Tần, Tần Vương Tử Anh liền đem Hòa Thị Bích hiến cho Lưu Bang, Lưu Bang liền gọi là “truyền quốc tỷ”, kể từ đó Hòa Thị Bích trở thành tượng trưng cho chuyện được mất thiên hạ. Về sau Vương Mãng có ý đồ soán vị nên đã sai đệ đệ là Vương Vũ vào Trường Lạc cung đánh cắp Hòa Thị Bích trong tay Lý Nguyên thái hậu, không ngờ bị Lý Nguyên thái hậu ném xuống đất làm vỡ mất một mảnh. Vương Mãng liền sai người dùng hoàng kim vá vào, khiến Hòa Thị Bích lại có thêm nhã danh Ngọc Thể Kim Giác.
Khấu Trọng cười hì hì nói :
- Câu chuyện này nhất định là giả rồi, ném mạnh như vậy Hòa Thị Bích chẳng lẽ không vỡ vụn thành bao nhiêu mảnh rồi.
Tống Lỗ động dung nói :
- Khấu tiểu huynh đệ quả là cơ trí tinh minh, nhưng chuyện này đích thực là chính xác vô cùng, bởi vì ngọc này chẳng phải ngọc thường. Năm xưa người Sở là Biện Hòa đi chặt củi trong rừng, thấy một con phượng hoàng vô cùng xinh đẹp đậu trên một tảng đá xanh, nghĩ đến câu nói: “Phượng Hoàng bất lạc vô bảo địa” [1], đoán định bên trong tảng đá nhất định có bảo vật, liền đem về hiến tặng cho Sở Lịch Vương, chẳng ngờ bọn thợ ngọc trong cung đều bảo tảng đá Biện Hòa hiến tặng chỉ là một tảng đá thường, Sở Vương tức giận liền chặt đi chân trái của y rồi đuổi đi. Biện Hòa không hề ôm hận, đợi cho Vũ Vương đoạn vị, lại đem hiến bảo lần nữa, kết quả là bị chặt nốt chân phải. Đến khi con trai của Vũ Vương là Văn Vương lên ngôi, biết được chuyện này mới cho người mang tảng đá đó vào cung, ra lệnh cho công tượng cẩn thận mài dũa, cuối cùng từ bên trong tảng đá lấy ra được một viên kỳ thế bảo ngọc long lanh tinh khiết, để tưởng niệm Biện Hòa nên đã đặt tên là Hòa Thị Bích.
Tống Sư Đạo tiếp lời :
- Nếu là bảo thạch bình thường, bọn công tượng trong cung của Sở Vương không thể không hiểu được, đâu đến nỗi hiểu lầm là một tảng đá bình thường. Nội một việc phải mài vỡ lớp vỏ đá mới lộ ra bảo thạch cũng biết Hòa Thị Bích không giống với những bảo thạch bình thường khác rồi, đập mạnh xuống đất như vậy mà chỉ sứt một góc nhỏ, đủ thấy chỗ không tầm thường của Hòa Thị Bích rồi.
Lần này thì đến Phó Quân Sước cũng cảm thấy hứng thú :
- Vậy rốt cuộc Hòa Thị Bích là thứ đồ gì vậy?
Tống Sư Đạo lần đầu tiên được giai nhân hỏi đến, trong lòng thầm vui sướng, hưng phấn nói tiếp :
- Theo cổ thư của Tống gia thì ngọc này là kỳ thạch của tiên giới, bên trong ẩn tàng một bí mật kinh thiên động địa, còn chuyện đó là bí mật gì thì không ai biết được.
Từ Tử Lăng hiếu kỳ hỏi :
- Sau khi Vương Mãng chết, Hòa Thị Bích lại rơi vào tay ai nữa?
Liễu Thanh cười cười nói :
1 Phượng hoàng không đậu xuống những nơi không có bảo vật.
- Truyền đến đời Hán Thiếu Đế, Hòa Thị Bích lại thất tung lần nữa. Đến thời Tam Quốc, Trường Hà thái thú Tôn Kiên khi tấn công vào Lạc Dương chợt thấy một miệng giếng hào quang tứ phía liền sai người xuống xem. Kết quả tìm được một thi thể cung tần, tay ôm chặt một cái hộp đỏ. Tôn Kiên liền thử mở ra xem, thì ra bên trong chính là Hòa Thị Bích. Về sau Tôn Kiên chết trận, Hòa Thị Bích lại rơi vào tay Tào Tháo, truyền đến đời sau. Đến khi nhà Tùy diệt Nam Trần, Dương Kiên cho người tìm khắp hoàng cung nhà Trần nhưng cũng không tìm được nơi Trần chủ giấu Hòa Thị Bích, đây chính là chuyện mà bình sinh Dương Kiên cảm thấy đáng tiếc nhất.
Phó Quân Sước không cầm được liền hỏi :
- Tại sao đột nhiên chư vị lại nhắc đến chuyện Hòa Thị Bích này?
Tống Sư Đạo biến sắc :
- Xem ra cô nương thân tại giang hồ mà không biết giang hồ đang phát sinh chuyện lớn.
Tống Lỗ vuốt râu cười nói :
- Hòa Thị Ngọc Bích, Dương Công Bảo Khố, chỉ cần có một có thể an định thiên hạ. Giờ đây chiến hỏa liên miên, thiên hạ đại loạn, những ai có khả năng đều muốn làm Hoàng đế. Vì vậy hai thứ này trở thành thứ mà cả thiên hạ đều muốn tranh giành. Gần đây nghe giang hồ truyền ngôn, Hòa Thị Bích đã xuất hiện ở Lạc Dương, những kẻ tự cho mình có chút bản lĩnh đều đến Lạc Dương để tìm chút vận khí, chuyến này chúng ta đưa hàng đến Tứ Xuyên xong cũng đến Lạc Dương một chuyến, xem xem khí số Tống gia thế nào?
Tống Lỗ quả thực phong độ bất phàm, không hổ là xuất thân sĩ tộc, bất luận là khẩu khí lớn thế nào nhưng cũng làm người nghe cảm thấy thoải mái.
Khấu Trọng hai mắt sáng lên nói :
- Nếu có được Hòa Thị Bích thì có thể đoạt được thiên hạ, hà, tôi và Tiểu Lăng nhất định phải đi thử một phen mới được.
Phó Quân Sước lạnh lùng nhìn gã nói :
- Dựa vào bản lĩnh của tên tiểu quỷ ngươi liệu có xứng không? Ta tuyệt không để cho các ngươi đi Lạc Dương, nếu còn nghĩ lung tung nữa, sau này ta quyết không... không để ý đến ngươi nữa.
Nàng vốn định nói không truyền pháp quyết, song lời ra đến miệng lại chữa lại, uy lực tự nhiên giảm đi rất nhiều.
Bọn Tống Lỗ ba người tuy vẫn không rõ ràng quan hệ của ba người thế nào, nhưng cũng có thể cảm nhận được Phó Quân Sước bề ngoài lạnh lùng, lời nói khắc bạc nhưng kỳ thực lại vô cùng quan tâm đến hai tên tiểu tử đáng yêu này.
Tống Sư đạo ôn hòa nói :
- Phó cô nương nói rất đúng, loại nhiệt náo này tốt nhất không nên tham gia thì hơn, đặc biệt là Hòa Thị Bích lại liên can đến một môn phái thần bí nhất trong võ lâm. Môn phái này cứ cách một thời gian lại phái người nhập thế tu hành, võ công cao thâm khó dò.
Phó Quân Sước tò mò hỏi :
- Đó là môn phái gì vậy?
Tống Lỗ nói :
- Phó cô nương hỏi đúng người rồi, nếu như là người khác, có thể ngay cả tên môn phái ấy cũng chưa từng nghe qua nữa.
Hai gã Khấu, Từ cũng vô cùng hiếu kỳ, lưu tâm lắng nghe.
Tống Sư Đạo nói :
- Môn phái này tên là Từ Hàng tĩnh trai, hơn trăm năm nay đã chiếm vị trí tối cao vô thượng ở trong huyền môn, nhưng những người biết về Tĩnh trai đều không chịu tiết lộ bất cứ chuyện gì liên quan đến môn phái này. Vì vậy chúng tôi đã phái đi rất nhiều người để điều tra về Hòa Thị Bích và Từ Hàng tĩnh trai nhưng cũng hiểu biết không nhiều, chỉ biết là trong trai toàn những nữ tử tu luyện thiên đạo. Nghe đồn đạo gia đệ nhất cao thủ Tán chân nhân Ninh Đạo Kỳ đã từng đến Tĩnh trai, tìm trụ trì luận võ, chẳng ngờ Trai chủ lại cho ông ta xem trấn trai chi bảo là Từ Hàng Kiếm Điển, Ninh Đạo Kỳ còn chưa xem hết đã hộc máu thọ thương, biết khó mà lui, những người biết chuyện này cũng không nhiều, vì vậy mà không hề lưu truyền trên giang hồ.
Khấu Trọng vỗ vai Từ Tử Lăng, thở dài nói :
- Đây mới đúng là bí kíp chân chính.
Trong chúng nhân, đương nhiên chỉ có hai người mới hiểu được ý tứ của gã.
Tống Lỗ thở dài than :
- Nhân ngoại hữu nhân, thiên ngoại hữu thiên, càng hiểu biết nhiều càng thấy mình nhỏ bé, không dám tự kiêu nữa.
Từ Tử Lăng khâm phục nói :
- Tống đại gia mới là nhân vật chân chính.
Gã ở Dương Châu quen gọi người khác là đại gia, nên tự nhiên cũng gọi Tống Lỗ như vậy.
Tống Lỗ cười cười nói :
- Hai vị huynh đệ gân cốt cực tốt, nếu Tống mỗ gặp hai người sớm vài năm, e rằng quyết chẳng thể bỏ qua.
Hai gã Khấu, Từ cùng lúc biến sắc, lòng như chùn hẳn xuống.
Mẹ đã nói như vậy, Tống Lỗ cũng nói như vậy, xem ra cả đời này hai gã cũng đừng hòng trở thành cao thủ được.
Phó Quân Sước cũng cảm thấy khó chịu, lòng thầm hạ quyết tâm: “Thế nào cũng phải thử bồi dưỡng hai gã”.
Trong lòng đã quyết, liền nói :
- Muộn rồi, tiểu nữ muốn đi ngủ sớm một chút.
Tống Sư Đạo tuy rằng không muốn, song vẫn đành phải theo lời nàng, kết thúc buổi yến tiệc.
Khấu Trọng vốn muốn tìm hiểu xem Hòa Thị Bích và Từ Hàng tịnh trai rốt cuộc có quan hệ gì, nhưng lại sợ làm Phó Quân Sước không vui, lại muốn học Cửu Huyền đại pháp nên cố nén lại không hỏi, cùng Từ Tử Lăng theo Phó Quân Sước về phòng.
Trong phòng của Phó Quân Sước, ba người ngồi xếp bằng tròn ở ba góc, ánh trăng xuyên qua cửa sổ vừa hay chiếu đúng vào người của Phó Quân Sước, khiến nàng càng giống như Quan Âm Đại Sĩ hạ phàm.
Phó Quân Sước thần tình nghiêm túc, nhẹ giọng hỏi :
- Các ngươi có biết tại sao ta đi rồi lại quay lại cứu các ngươi khỏi tay tên huyện lệnh béo đó không? Sau đó ở bến thuyền tại sao lại không nỡ để các ngươi rời khỏi không?
Khấu Trọng thấy thần tình nàng nghiêm túc như vậy, không dám đùa cợt, nghiêm giọng trả lời :
- Có phải là vì mẹ yêu quý chúng con không?
Phó Quân Sước thở dài nói :
- Cũng có thể nói như vậy, trong số tuỳ tùng của Vũ Văn Hóa Cập có một người là do Cao Lệ Vương phái đến, vì vậy sau khi đưa các ngươi đến Bắc Pha huyện, ta liền dùng ám hiệu đặc biệt liên lạc với y, thăm dò thương thế của Vũ Văn Hóa Cập.
Từ Tử Lăng cả mừng nói :
- Thì ra Vũ Văn Hóa Cập cũng bị thương?
Phó Quân Sước đắc ý nói :
- Đương nhiên rồi. Cửu Huyền đại pháp của ta đâu phải tầm thường, không trả giá thì làm sao đả thương nổi ta, có điều hắn cũng không phải hạng vừa, chỉ ngồi hai canh giờ đã hồi phục hoàn toàn, chỉ nội một điểm này cũng có thể thấy hắn cao hơn ta một bậc. Đồng thời ta cũng biết được hắn vì Trường Sinh quyết mà bất chấp tất cả truy bắt hai ngươi, vì thế nên ta mới quay lại cứu hai tên tiểu quỷ các ngươi, ta làm sao để tên bạo quân vạn ác đó diên niên ích thọ được chứ?
Khấu Trọng khó khăn nói :
- Mẹ hoàn toàn có thể đoạt Trường Sinh quyết của chúng con, tùy tiện tìm một chỗ nào đó chôn xuống là có thể sạch sẽ tay chân, đỡ phải vướng víu hai tên tiểu tử như chúng con nữa rồi.
Phó Quân Sước ngắt lời gã nói :
- Ta không thích làm những chuyện vô nghĩa như thế.
Từ Tử Lăng kích động hỏi :
- Vậy tại sao mẹ lại bỏ chúng con lại ở Đan Dương?
Phó Quân Sước thở dài nói :
- Cuối cùng không phải là ta cũng không bỏ các ngươi được sao? Ta cũng không biết tại sao lại đối tốt với hai tên tiểu quỷ các ngươi như vậy. Vốn ta chỉ muốn đưa các ngươi đến Đan Dương sau đó để các ngươi có chân tự đi, tự sinh tự diệt là xong, nhưng nghĩ lại thấy Vũ Văn Hóa Cập có thể động dụng quan phủ toàn thiên hạ, các ngươi có mọc cánh cũng khó thoát khỏi ma trảo của hắn nên mới không cầm lòng được mà quay lại tìm hai ngươi. Ngươi tưởng rằng ta đã nhìn trúng Tống Sư Đạo rồi à? Đương nhiên không phải vậy, ta sớm đã quyết chết vì đất nước, làm sao còn để ý nam nữ tư tình nữa, chỉ là muốn mượn thuyền của y đưa hai người các ngươi đi xa hiểm cảnh một chút mà thôi. Khi thuyền đậu lại lần nữa, hai ngươi phải lập tức lên bờ, chạy đến phạm vi thế lực của nghĩa quân, như vậy Vũ Văn Hóa Cập mới không có cách bắt các ngươi được nữa.
Khấu Trọng ngắt lời nàng :
- Chúng con tính đem Trường Sinh quyết hủy đi, như vậy thì dù Vũ Văn Hóa Cốt kia có đuổi kịp cũng không lấy được bảo thư nữa.
Phó Quân Sước và Từ Tử Lăng cảm thấy vô cùng ngạc nhiên, không ngờ tên tiểu tử luôn tham tài tham lợi này lại chịu hy sinh như vậy.
Phó Quân Sước gật đầu nói :
- Nghe tiểu Trọng nói vậy, ta thật sự rất vui, nhưng tạm thời vẫn chưa đến bước đó. Bây giờ ta sẽ truyền cho các ngươi công phu đả tọa. Chỉ là hai ngươi phải lập thệ, nếu chưa đạt được đệ nhất trùng cảnh giới khí cơ triêu động thì không được ra giang hồ, chỉ có thể tìm một tiểu trấn yên tĩnh, tránh đi chiến hỏa, sống một cách an an lạc lạc.
Từ Tử Lăng hai mắt đỏ lựng :
- Mẹ! Mẹ đối với chúng con thật là tốt.
Khấu Trọng cũng cảm động nói :
- Dù là mẹ ruột của chúng con còn sống cũng quyết chẳng thể tốt hơn mẹ được!
Hai gã liền lập tức lập thệ.
Phó Quân Sước dạy hai người hợp chưởng trước ngực, nghiêm mặt nói :
- Trước khi luyện công phải luyện tính đã, đầu tiên phải tiêu trừ tất cả tạp niệm, sau đó ngồi xếp bằng tròn tĩnh tọa, chân trái hướng ra ngoài, trân phải hướng vào trong, lấy dương bao âm, ngón cái bàn tay trái niết ngón giữa, ngón cái bàn tay phải ấn vào lòng bàn tay trái bắt quyết, tay phải bên ngoài, lấy âm bao dương. Đây gọi là Liên Hoàn quyết trong Cửu Huyền đại pháp, còn gọi là Thủ cước hòa hợp khấu liên hoàn, tứ môn khẩn bế thủ chính trung.
Từ Tử Lăng không hiểu hỏi :
- Mẹ không phải đã nói Cửu Huyền đại pháp trọng thần khinh hình hay sao?
Tại sao giờ lại để ý đến hình thức như vậy?
Phó Quân Sước trầm mặc giây lát, thở dài than :
- Nếu như các ngươi thật sự luyện thành thần công, tất sẽ là nhân vật tuyệt thế có thể khai tông lập phái, tạo dựng thế cục. Ta trước giờ chưa từng suy nghĩ đến điểm này, có điều ta chỉ có thể y pháp mà dạy cho các ngươi, các ngươi nếu có thể nghĩ ra phương pháp khác thì cứ tùy tiện mà thử, nhưng tâm pháp nhất quyết phải tôn trọng pháp quyết, bằng không sẽ dễn đến họa hoạn bất ngờ.
Khấu Trọng tán thưởng nói :
- Mẹ thật là sáng suốt, các sư phó ở trong võ trường dạy đồ đệ chẳng bao giờ nói như vậy.
Tiếp đó Phó Quân Sước lại giảng giải cặn kẽ về kỳ kinh bát mạch và vị trí các yếu huyệt cho hai gã, đến lúc hai gã nhớ hết được thì đã quá canh ba rồi.
Lúc này thuyền lớn đột nhiên chậm lại, bên bờ truyền lại tiếng bước chân dồn dập.
Ba người cùng lúc biến sắc.

Hồi 8 : Thống Bất Dục Sinh( 1)

Thanh âm hùng hồn của Vũ Văn Hóa Cập vang lên ở bên hữu ngạn:
- Không biết là vị cao nhân nào của Tống Phiệt chủ trì hạm đội, xin hãy lại gần bờ cho Vũ Văn Hóa Cập lên thuyền hỏi thăm.
Phó Quân Sước và hai tên tiểu tử ngồi trong thuyền đưa mắt nhìn nhau, chẳng ai ngờ Vũ Văn Hóa Cốt lại đuổi đến nhanh như vậy.
Lúc này, bốn chiếc thuyền lớn đều chuyển hướng lại gần tả ngạn, hiển nhiên là e sợ Vũ Văn Hóa Cập sẽ phi thân lên thuyền, hoặc giả dùng cung tiễn tấn công từ xa.
Tiếng cười của Tống Lỗ vút cao đáp lại:
- Đã lâu không gặp, Vũ Văn đại nhân vẫn khoẻ chứ? Tống Lỗ này xin được thỉnh an đại nhân!
Vũ Văn Hóa Cập thúc ngựa chạy dọc theo bờ sông, cười lớn ứng đáp:
- Thì ra là Ngân Tu Thiết Long Quải Tống huynh, như vậy thì sự việc dễ làm rồi, xin Tống huynh cho thuyền cập bờ, để huynh đệ được nói rõ sự tình.
Tống Lỗ cười cười nói:
- Vũ Văn huynh quá đề cao tiểu đệ rồi. Nếu đổi lại Vũ Văn đại nhân là tiểu đệ, đột nhiên thấy cao thủ kinh sư nửa đêm đuổi tới, chạy dọc theo bờ sông kêu dừng thuyền, mà trên thuyền lại có tài sản hàng hoá, vì sự an toàn của mình, liệu đại nhân có thấy cần phải hỏi ý đồ của đối phương cho rõ ràng rồi mới tính không?
Vũ Văn Hóa Cập tính nết thâm trầm, nghe họ Tống nói vậy mà không hề tức giận, chỉ vui vẻ nói:
- Việc này chẳng khó khăn gì, bản quan lần này phụng mệnh Thánh Thượng đi bắt ba tên khâm phạm, nghe nói tứ công tử đã từng thanh toán tiền cho ba tên khâm phạm này trên Đơn Dương Tửu Lầu, về sau còn mời chúng lên thuyền, không biết chuyện này có thực hay không?
Tống Lỗ chẳng cần nghĩ ngợi mà đáp ngay:
- Chuyện này đương nhiên là có kẻ đặt điều vu hãm, xin Vũ Văn đại nhân trở về báo với Thánh Thượng rằng nếu Tống Lỗ ta nhìn thấy lũ khâm phạm này, sẽ lập tức bắt về quy án, giải tới kinh sư. Đêm đã khuya! Tống mỗ xin phép về thuyền đi ngủ!
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng không ngờ Tống Lỗ lại nghĩa khí như vậy, biểu thị thái độ không chịu giao người mà chẳng hề do dự, chỉ nghe y ngay cả khâm phạm là nam hay là nữ cũng chẳng thèm hỏi mà đã mời Vũ Văn Hóa Cập hồi kinh là biết họ Tống này hoàn toàn không có ý bán đứng ba người bọn gã. Nhân vật thế này, đích thực xứng đáng với cái danh anh hùng hảo hán.
Vũ Văn Hóa Cập ngửa mặt cười một tràng dài:
- Tống huynh thật là mau mắn, đã vậy thì tiểu đệ cũng chẳng giấu giếm gì nữa. Tống huynh tuy nhất thời thống khoái, nhưng sau này lại họa hoạn vô cùng, huống hồ bản quan có thể đem tất cả mọi chuyện đổ lên đầu Tống Gia các vị, Thánh Thượng long tâm chấn nộ, chỉ sợ lúc ấy Tống Gia các vị cũng chẳng dễ chịu gì đâu.
Tống Lỗ đáp:
- Vũ Văn đại nhân cứ hay khoa trương mà quên mất trên mặt người khác cũng có miệng. Nghe đại nhân vu oan giá họa như vậy cho Tống Gia, giang hồ tự nhiên sẽ có cách nói khác, hình như Vũ Văn đại nhân đã suy nghĩ thiếu phần chu mật thì phải?
Vũ Văn Hóa Cập nghe vậy thì cười ha hả nói:
- Nếu đã như vậy, bản quan cũng không cần gấp gáp về kinh làm gì. Ta sẽ đến Quỷ Đề Hiệp ở phía trước cung hầu đại giá của Tống huynh. Nơi đó hà đạo nhỏ hẹp, nói chuyện cũng tiện hơn ở đây, hai huynh đệ chúng ta không cần phải tốn sức hét to như vậy nữa.
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng biến sắc, đưa mắt nhìn Phó Quân Sước. Nàng lập tức đứng dậy nói:
- Phó Quân Sước này đã nhận đủ ân huệ của người Hán rồi, không thể liên lụy đến người khác nữa. Đứng dậy! Chúng ta đi!
Chưa kịp nghe Tống Lỗ đáp trả Vũ Văn Hóa Cập thế nào, hai gã đã bị Phó Quân Sước tóm lấy thắt lưng, bay ra ngoài cửa sổ như một con đại bàng vượt qua khoảng cách bốn trượng hơn, hạ thân xuống dải đất ven sông.
Khi tiếng kêu kinh ngạc của Tống Lỗ và tiếng gầm tức giận của Vũ Văn Hóa Cập cùng lúc vang lên, ba người đã ẩn thân vào trong cánh rừng ven bờ.
Hai gã Khấu, Từ nghe thấy tiếng gió rít bên tai, thân mình bị Phó Quân Sước xách lao đi như đằng vân giá vũ.
Chưa đầy nửa khắc, ba người đã chạy được hơn chục dặm đường, cảm thấy địa thế càng lúc càng dốc, gió lướt qua mặt càng lúc càng lạnh, đến lúc được Phó Quân Sước đặt xuống thì hai gã mới biết mình đã lên một đỉnh núi cao, sơn phong thổi tới làm hai gã lạnh run, hàm răng va vào nhau kêu lập cập.
Phó Quân Sước chuyển mình, dẫn hai gã đến một động huyệt được che khuất bởi sơn thạch và cây cỏ, ẩn mình vào trong tránh gió lạnh.
Khấu Trọng thở phào một hơi:
- Nguy hiểm quá! Cũng may là cách một con sông, Vũ Văn Hóa Cập không thể đuổi theo.
Phó Quân Sước thở dài một hơi than:
- Người khác có thể không làm được, nhưng Vũ Văn Hóa Cập thì chỉ cần một cành cây khô cũng có thể vượt được sông lớn, tên tiểu tử ngươi thật không hiểu chuyện gì cả.
Thiết Thủ kinh hãi nói:
- Vậy tại sao chúng ta còn không mau chạy?
Phó Quân Sước ngồi xếp bằng xuống, cười khổ nói:
- Nếu ta luyện tới đệ cửu tầng cảnh giới thì nhất định có thể mang theo các ngươi chạy tiếp, nhưng năng lực của ta giờ chỉ có thể đưa các ngươi tới đây mà thôi.
Khấu Trọng thử dò hỏi:
- Dù là tên Vũ Văn Hóa Cốt đó có thể qua sông, nhưng chắc y cũng không biết chúng ta chạy tới đâu chứ?
Phó Quân Sước nhạt giọng nói:
- Người có võ công cao như Vũ Văn Hóa Cập, cảm giác nhạy bén phi thường, chỉ dựa vào mùi hơi và vết tích chúng ta lưu lại dọc đường là y có thể truy theo được rồi. Thôi không nói nhiều nữa, ta phải vận công hành khí, trước khi y đến may ra có thể khôi phục công lực, quyết tử chiến một phen.
Nói đoạn nhắm nghiền hai mắt, ngồi xếp bằng tròn, không nói gì nữa.
Hai gã cũng thất vọng ngồi xuống cạnh nhau, nhưng đều không dám lên tiếng nói chuyện, sợ làm kinh động đến Phó Quân Sước.
Thời gian cứ dần dần trôi đi.
Đột nhiên Phó Quân Sước đứng dậy, thấp giọng nói:
- Đến rồi! Chỉ có mình hắn!
Hai tên tiểu tử cũng đứng dậy cùng với nàng.
Khấu Trọng run giọng nói:
- Chi bằng đem bảo thư giao cho hắn là xong!
Phó Quân Sước quay người lại, nghiêm giọng mắng:
- Lời như vậy mà ngươi cũng nói ra được sao?
Từ Tử Lăng mềm mỏng nói:
- Hắn cũng chỉ nghĩ cho mẹ thôi!
Dưới ánh trăng sáng, Phó Quân Sước thở dài một hơi, bật cười nói:
- Tiểu Trọng đứng trách mẹ, ta đã quen mắng ngươi như vậy rồi!
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng toàn thân chấn động, nếu phải lúc bình thường Phó Quân Sước mà chịu nhận hai gã làm con, hai gã tất sẽ hoan thiên hỉ địa, nhưng lúc này cả hai lại cảm thấy vô cùng không thỏa đáng.
Phó Quân Sước lại thấp giọng nói:
- Vô luận là xảy ra chuyện gì, hai ngươi đều không được ra khỏi đây, mẹ nhất định sẽ dẫn hai ngươi đi khỏi đây được.
Tiếng cười của Vũ Văn Hóa Cập đã từ xa truyền lại:
- Cô nương vì hai tên tiểu tử này mà đã bại lộ hình tích, đích thực là một hành động bất trí vô cùng. Mấy năm nay, cô nương đã hai lần giả dạng cung nga nhập cung hành thích Thánh Thượng, vậy mà ngay cả cái bóng của cô nương chúng ta cũng không bắt được. Thật không ngờ lần này vì một cuốn quỷ thư, lại có thể khiến cô nương bại lộ hành tung. Nói ra cũng phải cảm ơn hai tên tiểu tử này, nếu không phải vì chúng, Vũ Văn Hóa Cập ta làm sao đấu lại khinh công của cô nương chứ.
Hai gã Khấu Từ đưa mắt nhìn nhau, mặt cúi gằm, thì ra mẹ của hai gã đã từng nhập cung hành thích Dương Quảng, càng không ngờ hơn là mẹ đã vì hai gã mà hy sinh lớn như vậy.
Bằng không dựa vào khinh công mà ngay cả Vũ Văn Hóa Cập cũng tự thẹn không bằng của mẹ, làm sao Vũ Văn Hóa Cập có thể đuổi kịp được?
Phó Quân Sước đặt tay lên đốc kiếm, dưới ánh trăng mênh mang, sắc mặt nàng trở nên nghiêm nghị lạnh lùng:
- Vũ Văn Hóa Cập ngươi một đơn thân độc mã đến đây, không sợ địch không lại thanh kiếm trong tay ta hay sao?
Vũ Văn Hóa Cập cười khẩy nói:
- Kiếm trong tay cô nương tuy lợi hại, nhưng liệu có bao nhiên cân lượng?
Chỉ sợ trong lòng cô nương đã biết thắng phụ thế nào rồi. Nếu muốn hạ Vũ Văn Hóa Cập này, thì hãy lập tức động thủ, bằng không để thủ hạ của bản nhân đuổi tới thì cô nương sẽ mất đi thời cơ tốt này đó!
Phó Quân Sước cười nhạt nói:
- Vũ Văn Hóa Cập đã thiết tha muốn chết như vậy thì ta đây cũng chẳng tiếc gì mà không thành toàn cho ngươi!
Nhân ảnh chuyển động, Phó Quân Sước tung người bay tới, tiếp đó là tiếng khí công giao kích vang lên liên miên bất tuyệt.
Hai gã lo lắng đến suýt nữa thì tự tận, thò đầu ra ngoài, chỉ thấy dưới ánh trăng sáng, Vũ Văn Hóa Cập đang đứng trên một tảng đá lớn, còn Phó Quân Sước thì lại hóa thành một làn khói mỏng như loài quỷ mị, từ bát phương tám hướng tấn công như chớp giật, bảo kiếm trong tay hóa thành muôn vạn đạo hàn quang, từng đợt công kích nối tiếp nhau như triều dâng, đây hoàn toàn là cách đánh liều mạng.
Khuôn mặt dài của Vũ Văn Hóa Cập thần tình nghiêm túc, song thủ hoặc quyền hoặc trảo hoặc chưởng, thi thoảng còn tung chân cấp thoái, tựa như đang thi triển ma pháp ứng phó thế công cường mãnh vô song của Phó Quân Sước.
Hai gã Khấu Từ nhìn như say như mê, thầm phát thệ cả đời sẽ không bao giờ quên hình tượng tướng mạo của y. Tuy đã cách một khoảng xa tới bảy tám trượng, nhưng kình phong của trận kịch chiến vẫn khiến hai gã rát hết cả mặt, hai mắt không mở ra được. Hai gã cùng chịu không nổi, rụt đầu trở lại vào trong hang đá. Đợi đến lúc hai gã thò đầu ra trở lại, tình thế đã lại biến đổi.
Phó Quân Sước bay lên khoảng không phía trên Vũ Văn Hóa Cập, kiếm pháp ngày càng hung ác hiểm độc, chỉ công không thủ, còn Vũ Văn Hóa Cập lại chỉ thủ không công, rõ ràng đã rơi vào thế hạ phong.
Lần này hai gã càng không thể chịu đựng nổi áp lực của cuộc chiến, chỉ trong nháy mắt đã phải rụt đầu trở lại, hai mắt đỏ lựng, đau nhức khôn tả, nước mắt chảy ràng rụa.
Đúng vào lúc này, bên ngoài vang lên tiếng gầm vang tức giận của Vũ Văn Hóa Cập và tiếng "hự" nhẹ của Phó Quân Sước.
Hai gã liền bất chấp tất cả, thò đầu ra xem diễn biến thế nào, mơ hồ chỉ thấy bạch ảnh bay tới, chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra thì đã bị Phó Quân Sước nhấc bổng lên, thân hình lại một lần nữa lao đi như đằng vân giá vũ.
Hai gã vui mừng như điên, thì ra Vũ Văn Hóa Cập lại bị bà mẹ vô cùng lợi hại của mình đánh lui một lần nữa.
Lần này Phó Quân Sước mang theo hai gã chạy như điên vào trong rừng sâu, dọc đường không nói một lời, cho đến tận khi trời sáng, mới đặt hai gã xuống bên trong một sơn cốc.
Lúc hai gã lồm cồm bò dậy, Phó Quân Sước đã lảo đảo ngồi phệt xuống đất, sắc mặt xanh nhợt như người chết, mặt chẳng còn chút huyết sắc. Hai gã hồn phi phách tán, vội bổ người đến bên cạnh nàng, đau xót kêu lên:
- Mẹ, người bị thương rồi!
Phó Quân Sước nở một nụ cười ấm áp, đưa tay ra kéo hai gã lại, chẳng chút tị hiềm nam nữ, ôm hai gã vào lòng, để đầu hai gã gục lên ngực mình, nhẹ nhàng nói:
- Hai con ngoan của ta hãy nghe đây, Vũ Văn Hóa Cập đã thụ trọng thương, y tất phải tìm chỗ nào đó để liệu thương, cũng phải mất đến nửa năm hay một năm mới hồi phục được nguyên khí, vì vậy coi như là mẹ đã cứu được các con rồi!
Hai gã vội đồng thanh kêu lên:
- Mẹ còn không mau liệu thương đi!
Phó Quân Sước lắc đầu nói:
- Mẹ chỉ hận không có thêm chút thời gian để bồi dưỡng hai con thành tài, thấy các con lấy vợ sinh con, thật không ngờ mẹ đây trước giờ luôn hận người Hán, vậy mà khi nhìn thấy hai con lại quên hết cả quốc cừu gia hận, còn cam tâm tình nguyện nhận các con làm con nuôi. Mẹ vừa liều chết đâm Vũ Văn Hóa Cập một kiếm, nhưng cũng bị hắn toàn lực phản kích một quyền. Huyền Băng Kình Khí của hắn đích thực danh bất hư truyền, mà Vũ Văn Hóa Cập lại là cao thủ kiệt xuất nhất sau Vũ Văn Thương trong gia tộc Vũ Văn. Mẹ đây sinh cơ đã tuyệt, cho dù sư phụ của ta đến đây cũng không cứu nổi đâu. Sau khi ta chết, các con hãy chôn ta ở đây cũng được. Mẹ của các con thiên tính cô độc, sau này hai con cũng không cần bái tế làm gì.
Hai gã không nén nổi xúc động, khóc oà lên, ôm chặt lấy Phó Quân Sước không chịu buông, nước mắt làm ướt cả vạt áo phía trước của nàng.
Phó Quân Sước bình tĩnh, nhu hòa nói:
- Lần này mẹ vượt đường xa từ Cao Lệ tới đây, thực ra cũng chẳng có ý tốt đẹp gì. Mẹ tới Trung Thổ là để hành thích Dương Quảng, làm cho hắn không thể dụng binh với Cao Lệ lần nữa. Nào ngờ nội cung của hắn cao thủ như mây, hai lần hành thích đều chỉ có thể dựa vào chút công phu khinh công mà thoát thân.
Thế nên mẹ mới làm cho chuyện có người lấy được Dương Công Bảo Khố đồn đại khắp trong giang hồ, để cho người Hán tàn sát lẫn nhau, không ngờ lại xảo hợp gặp được hai con.
Hai gã lúc này chỉ quan tâm đến sinh tử của Phó Quân Sước, đối với chuyện Dương Công Bảo Khố, chẳng hề hứng thú chút nào!
Phó Quân Sước nhẹ nhàng xoa đầu hai gã, tiếp tục nói:
- Mẹ đến Dương Châu tìm Thạch Long, chính là vì người của chúng ta bố trí bên cạnh Vũ Văn Hóa Cập cho biết Dương Quảng đã phái hắn đi tìm Thạch Long.
Vì vậy mẹ mới đi tìm y để thăm dò kỹ hơn, bởi thế nên mới gặp được hai bảo bối ngoan này của mẹ. Được rồi, mẹ không thể chịu đựng được nữa đâu. Mẹ còn rất nhiều điều muốn nói, nhưng nghĩ lại tạo hóa trêu ngươi, nói ra cũng bằng như không nói mà thôi. Không biết có phải người sắp chết thì linh cảm đặc biệt chính xác hay không... mẹ đột nhiên cảm thấy hai con nhất định sẽ trở thành bậc phi phàm trong nhân thế, hai con chớ làm mẹ thất vọng đó!
Hai gã buồn bã ngẩng đầu, lòng đau như cắt:
- Mẹ à! Mẹ làm sao bỏ rơi chúng con như vậy được!
Phó Quân Sước đột nhiên thốt lên:
- À, bảo khố đó ở Dược Mã Kiều trong Kinh Đô...
Thanh âm đột nhiên đứt đoạn, Phó Quân Sước đã ngọc nát hương tan, nhắm mắt ra đi trong thời kỳ thanh xuân tươi trẻ nhất của cuộc đời.
Hai gã ôm chặt người thân duy nhất trên đời của mình, khóc lóc thảm thiết vô cùng. Sau khi khóc lóc một hồi, hai gã liền dùng di kiếm của Phó Quân Sước đẽo cây làm thành một chiếc quan tài đơn giản, đặt thi thể của nàng và thanh kiếm vào trong sau đó chôn ở ven rừng.
Hai gã kính ái Phó Quân Sước vô cùng, nhưng cũng biết mối thâm thù này không thể báo nổi, trong lòng đau thương đến cực độ, không chịu đi đâu mà cứ ở lại bên mộ của nàng. Đối với công danh lợi lộc của thế giới bên ngoài chẳng còn chút hứng thú, ngay cả Khấu Trọng thường ngày thích nói chuyện là thế, giờ đây cũng biến thành trầm mặc ít nói. Hai gã chế tạo ra cung tên và xiên cá, để bắt cá và bắn chim, săn thú sống qua ngày, đồng thời còn cất hết y phục ngân lượng đi, chỉ mặc quần đùi ngắn, sống một cuộc sống nguyên thủy hoang dã.
Cũng may lúc đó đang là lúc hai mùa xuân hạ giao nhau, khí hậu phương nam nóng bức, thể chất hai gã lại tốt, nên không phải lo lắng vấn đề bị cảm nhiễm phong hàn. Đêm đến hai gã lại nằm ngủ bên mộ, cuốn "Trường Sinh Quyết" được chèn chặt dưới tảng đá gối đầu, cả hai gã chẳng ai còn hứng thú động đến nó nữa.
Cái đêm Phó Quân Sước dạy "Cửu Huyền Đại Pháp" cho hai gã, nàng còn chưa nói hết phương pháp hành công thì Vũ Văn Hóa Cập đã đuổi tới, vì vậy hai gã chỉ hiểu tâm pháp, vị trí huyệt đạo và cách thức đả tọa, còn luyện công thế nào thì chẳng hề hay biết, thêm vào tâm trạng buồn chán nên cả hai cũng chẳng còn tha thiết luyện công, mỗi ngày đều sống một cách tạm bợ, nắng chiếu mưa sa cũng chẳng hề cảm giác.
Đêm nay, trời đột nhiên đổ cơn mưa rào, gió lạnh thấu xương. Hai gã nằm rúc vào một góc, trong lòng tràn đầy vẻ thê lương, nghĩ đến Phó Quân Sước ở bên cạnh, bốn con mắt lại long lanh ngấn lệ.
Đến lúc lạnh không thể chịu nổi được nữa, Khấu Trọng liền đẩy Từ Tử Lăng ngồi dậy, hai hàm răng va vào nhau kêu lập cập:
- Cứ thế này chúng ta sớm muộn gì cũng sinh bệnh mất thôi, làm sao xứng đáng với kỳ vọng mà mẹ dành cho chúng ta được?
Hơn mười ngày qua, đây là lần đầu tiên gã mở miệng nói chuyện.
Từ Tử Lăng cũng không chịu được cái lạnh đang xâm nhập vào người, run run nói:
- Ngươi lại có ý nghĩ quỉ quái gì nữa?
Khấu Trọng cười khổ:
- Nếu như không chôn thanh kiếm của mẹ theo, có phải bây giờ ít nhất cũng có một mái nhà gỗ che thân rồi không?
Từ Tử Lăng nói:
- Cho dù có chết cóng, cũng không thể làm phiền sự yên tĩnh của mẹ được.
Khấu Trọng gật đầu đồng tình:
- Đương nhiên là như vậy, chi bằng chúng ta thử luyện công theo phương pháp của mẹ xem sao, nghe nói cao thủ trên giang hồ ai ai cũng hàn nhiệt bất xâm cả đó.
Từ Tử Lăng thất vọng nói:
- Làm sao luyện được đây?
Khấu Trọng cũng á khẩu không nói gì, đưa tay ôm chặt lấy Từ Tử Lăng, cứ thế chịu đựng cho tới tận lúc trời sáng.
Tới lúc mặt trời lên cao, hai gã mới khôi phục sinh cơ, chẳng ngờ họa bất đơn hành, những con cá lớn trong khe suối đã bị hai gã bắt sạch chẳng còn một con, chim chóc dã thú dường như cũng biết hai gã là nhân vật nguy hiểm, nên không còn lưu lại trong cốc nữa, không còn cách nào khác, hai gã đành phải ra khỏi cốc để kiếm thức ăn.
Hai gã mang theo cung tiễn, đi ra khỏi sơn cốc, chỉ thấy cỏ mọc um tùm, cây cối tốt tươi, gò thấp bình nguyên đều hoang dã tịch mịch, phóng mắt nhìn khắp nơi cũng không thấy dấu tích gì của con người, bốn bề đều có những rặng núi cao màu thúy ngọc bao quanh, trong lòng cũng không khỏi phấn chấn, bao nhiêu bi thương dồn nén trong lồng ngực cũng bớt đi ít nhiều.
Hai gã đi dọc theo chân núi tìm chim, thú, chẳng mấy chốc đã săn được một con thỏ rừng, vui vẻ quay trở về cốc.
Bởi khí trời nóng bức, nên Từ Tử Lăng bỏ ra suối ngâm mình một lát, khi trở về đã thấy Khấu Trọng lôi "Trường Sinh Quyết" ra, vùi đầu đọc ngấu nghiến, trong lòng không khỏi tức giận.
Nói cho cùng, nếu không phải vì "Trường Sinh Quyết" này, Phó Quân Sước chưa chắc đã thảm tử trong thay Vũ Văn Hóa Cập.
Khấu Trọng vẫy tay gọi gã:
- Đừng trách ta, ta chỉ là nghe theo di mệnh của mẹ, tiếp tục sống cho tốt mà thôi. Những đồ hình này tuy chẳng phải là phương pháp luyện thần công gì, nhưng ít nhất cũng có thể giúp chúng ta kéo dài sinh mạng. Hai chúng ta tuy chẳng hiểu những văn tự giống như quỷ họa này. Nhưng ít nhất cũng có thể thử vận khí theo các đường chỉ dẫn trong đồ hình, sau đó lại luyện công theo tâm pháp của mẹ, có thể sẽ có được thu hoạch gì đó, ít nhất thì cũng không bị chết cóng.
Từ Tử Lăng đang định phản đối thì Khấu Trọng đã vung tay ném vèo quyển sách tới, Từ Tử Lăng theo phản xạ tự nhiên giơ tay bắt lấy, vừa hay mở ra đúng một trang có đồ hình người đang nằm. Lúc trước, vì không biết kỳ kinh bát mạch là gì, nhìn những đồ hình này thật chẳng khác nhìn vào mê cung, nhưng lần này xem lại, gã lập tức đã hiểu ra nhiều điều, liền dần dần bị cuốn hút vào trong đồ hình.
Khấu Trọng gật đầu nói:
- Bức thứ sáu là hữu dụng nhất, tốt nhất đừng nên xem các bức kia vội.
Từ Tử Lăng lật ra xem thử, mới biết mình đang xem trang cuối cùng của "Trường Sinh Quyết", lại lật trang thứ sáu ra xem thử, cảm thấy không dễ hiểu như là tấm đồ hình thứ bảy mà mình đang xem, liền không để ý đến Khấu Trọng nữa, ngồi xuống tiếp tục nghiên cứu bức đồ hình cuối cùng.
Từ ngày hôm đó, ngoại trừ săn bắn và ngủ nghỉ ra, hai gã Khấu – Từ đều y theo các đồ hình mà luyện công, sống một cuộc sống vô lo vô nghĩ, triệt để trở về thời nguyên thủy trong sơn cốc.
Nỗi đau trong lòng không biết có phải vì chuyên tâm luyện công mà cũng dần dần nhạt bớt.
Chẳng mấy chốc, hai gã đã tiến nhập cảnh giới vạn niệm cụ giảm mà "Cửu Huyền Đại Pháp" yêu cầu.

Hồi 9 : Tiếp Tục Lên Đường

Tám ngày sau đó, hai gã mỗi người luyện theo đồ hình mà mình đã chọn, có lúc quên cả đi săn bắn mà chỉ tuỳ tiện hái quả rừng ăn cho qua bữa.
Khấu Trọng luyện theo bức đồ hình người đang đi, kinh mạch huyệt vị dựa vào các điểm đỏ để làm tiêu điểm, mặt này không khác với đồ hình của Từ Tử Lăng là mấy, nhưng phương pháp hành công lại hoàn toàn ngược nhau. Theo đồ hình của Khấu Trọng, mũi tên màu đen biểu thị hành khí bắt đầu từ huyệt Thiên Linh trên đỉnh đầu, sau đó dùng các mũi tên bảy màu đỏ, vàng, cam, lục, lam, chàm, tím để biểu thị con đường vận khí, mỗi màu lại như một bộ công pháp hoàn toàn khác nhau, chẳng những lộ trình vận khí dị biệt, mà các huyệt vị kinh mạch đi qua cũng chẳng tương đồng. Trong đó có rất nhiều huyệt mạnh mà Phó
Quân Sước chưa từng nhắc đến, hoặc giả có nhắc đến nhưng cũng nói rõ là không hề liên quan tới tâm pháp võ công.
Bức đồ hình mà Từ Tử Lăng đang luyện là bức đồ hình người đang nằm, mũi tên đen lại bắt đầu từ huyệt Dũng Tuyền dưới lòng bàn chân phải, còn điểm cuối cùng của các mũi tên bảy sắc lại là huyệt Dũng Tuyền dưới lòng bàn chân trái, không giống như Khấu Trọng, các mũi tên đều quay về Thiên Linh huyệt trên đỉnh đầu, nhưng độ phức tạp của các mũi tên thì cũng chẳng khác nhau là mấy.
Hai gã chẳng mong cầu điều gì, đằng nào cũng chẳng có việc gì làm, nên cứ theo tâm pháp mà Phó Quân Sước truyền lại, bảo tâm thủ nhất, ý niệm tự nhiên mà hành công theo các bộ vị huyệt đạo trong cơ thể,cứ thế mà dần dần tiến vào cảnh giới cao hơn của "Cửu Huyền Đại Pháp". Có lúc hai gã lại luyện công theo đồ hình trong "Trường Sinh Quyết", lúc thì vận khí theo mũi tên màu đỏ, lúc thì theo mũi tên màu lam hoặc vàng... tuy rằng chưa có công hiệu gì đặc biệt, song hai gã cũng chẳng để ý nhiều đến vậy.
Về sau, Khấu Trọng đột nhiên ngộ ra, bắt đầu theo tư thế trong đồ hình, nhắm mắt đi lại khắp nơi trong sơn cốc, còn Từ Tử Lăng thì lại nằm xuống mới có sáng ý luyện công. Hai gã cứ một động một tĩnh, ai làm việc nấy.
Đến đêm hôm thứ chín, đột nhiên trời đổ mưa to, sầm chớp đùng đùng, hai gã không ngủ được, đành thức luyện công cho qua một đêm dài.
Khấu Trọng chầm chậm bước đi trong sơn cốc như thường ngày, còn Từ Tử Lăng lại đến bên bờ suối ngâm mình, chỉ để lộ khuôn mặt lên khỏi mặt nước, mỗi người luyện công theo một đường lối mà bản thân đã chọn.
Không bao lâu sau, hai gã dần dần quên đi bản thân, tiến nhập vào một cảnh giới như ngủ mà không ngủ, như tỉnh mà cũng không tỉnh.
Trong đầu hai gã ẩn ẩn hiện hiện các đồ hình quen thuộc trong "Trường Sinh Quyết", nhưng cũng chẳng thèm để ý xem là mũi tên màu gì, chỉ theo hướng nào, mà chỉ hư hư ảo ảo, tinh thần cố định trong một cảnh giới chẳng thể hình dung.
Chuyện kỳ diệu bắt đầu xảy ra.
Đầu tiên là hai lòng bàn chân của Từ Tử Lăng bắt đầu nóng lên, tựa hồ như có lửa đốt bên dưới, tiếp đó là khí nóng tràn khắp toàn thân, như muôn ngàn sợi tơ nhỏ li ti tràn ngập khắp kỳ kinh bát mạnh, cảm giác này quả thực khó chịu đến cùng cực, Từ Tử Lăng chút nữa thì tự tận để khỏi phải đau đớn, cũng may là nước suối và nước mưa mát dịu đã làm giảm bớt phần nào nỗi đau của gã.
Từ Tử Lăng cũng là kẻ cơ trí thông minh, biết rằng đây là giờ phút quan trọng, nên gã cố không để ý đến nỗi đau của nhục thể, cũng mặc kệ chân khí đang loạn động trong cơ thể mà tịnh tâm vận công, bảo nguyên thủ nhất.
Cũng may Phó Quân Sước còn chưa kịp nói cho gã biết về tình hình khi khí cơ phát động. Nếu đổi lại là "Cửu Huyền Đại Pháp", khi gặp phải tình hình xương sống phát nhiệt, khí lưu nghịch chuyển từ Đốc mạch thì phải xung phá Ngọc Chẩm quan, thông qua Nê Cửu, sau đó trở lại Nhâm mạch, cứ thế vận hành không ngừng nghỉ, khi nào đủ ba mươi sáu vòng chu thiên là đã đạt thành công pháp cơ bản.
Đối với người luyện võ bình thường, đây đã là cảnh giới mơ ước, bởi từ đây có thể bước lên con đường của một nội gia cao thủ rồi. Còn Từ Tử Lăng lúc này căn bản không biết phải làm sao, bởi đây là chuyện gã chưa từng nghe nói hay gặp qua bao giờ, nếu phải người bình thường, chắc chắn sẽ cho rằng mình sắp tẩu hỏa nhập ma, nhẹ thì bại liệt, nặng thì kinh mạch vỡ nát mà chết.
Thạch Long ngày ấy luyện công theo đồ hình cũng vậy, bởi lão sớm đã có thành kiến, nên khi cảm thấy không thỏa đáng, liền không dám luyện tiếp nữa.
Từ Tử Lăng chẳng biết trời cao đất dày, cứ một mực tâm niệm rằng chỉ cần tâm vô tạp niệm thì ngựa chết cũng có thể chữa thành ngựa sống, vì vậy không ngờ lại đạt được những điều mà đồ hình muốn hướng người luyện tới.
Cảnh ngộ của Khấu Trọng lại hoàn toàn khác biệt, một cỗ chân khí chí âm chí hàn xuyên qua đỉnh đầu, chạy khắp các đại mạch tiểu mạch, làm cho gã chút nữa thì đông cứng người lại, cuối cùng không tự chủ được mà gia tăng tốc độ chạy như điên cuồng để khí huyết được lưu thông, không bị ngưng trệ.
Hai gã cứ chịu đựng như vậy hai canh giờ, đến lúc trời sáng thì Khấu Trọng không trụ nổi nữa, mềm nhũn người ngã lăn ra đất.
Chính vào thời khắc trí mạng này, kinh mạch toàn thân gã như muốn nổ tung, con người mất dần tri giác, chìm vào trạng thái hôn mê sâu.
Từ Tử Lăng lại phát giác cỗ khí nóng như đang thiêu đốt kinh mạch toàn thân mình đột nhiên triệt thoái, nhất thời không kịp phản ứng, cũng mất đi tri giác.
Đến chính ngọ, mưa cũng ngớt dần, bầu trời trong xanh trở lại, mặt trời lộ ra sau những đám mây, Khấu Trọng tỉnh lại đầu tiên, chỉ cảm thấy thân thể mát rượi, chẳng hề cảm thấy mặt trời nóng bức, tinh thần sảng khoái, thoải mái vô cùng.
Khấu Trọng vẫn còn chưa hiểu rõ là chuyện gì đã xảy ra, nghĩ lại tình hình tối qua mà vẫn chưa hết sợ, hoang mang ngồi dậy.
Thế giới dường như biến đổi hoàn toàn trong mắt gã.
Chỉ thấy cả trời đất như rõ ràng hơn rất nhiều, không chỉ màu sắc phong phú hơn, mà cả những tình tiết lúc bình thường gã không lưu ý, giờ cũng vẫn cảm nhận được, thậm chí đến cả sự biến đổi của tiếng gió cũng không lọt ra khỏi tri giác linh mẫn của gã.
Kỳ quái nhất là vô luận trời hay đất, một tảng đá hay một ngọn cỏ... tất cả điều như hòa nhập vào cùng sống với gã vậy, còn gã lại như biến thành một phần tử trong đó, chứ không phải là những sự vật không liên quan gì tới nhau như trước nữa.
Khấu Trọng vô cùng ngạc nhiên, thầm nhủ thì ra sau khi khí cơ phát động, thế giới quan của ta lại biến đổi mới hoàn toàn như vậy. Lúc này, một niềm vui không tên trào dâng trong lồng ngực gã, khiến gã không cầm được mà nhảy dựng lên reo vang.
Chợt gã nghĩ đến Từ Tử Lăng, liền lớn tiếng gọi:
- Tiểu Lăng, ta luyện thành đệ nhất trùng rồi, xem này, thân thể ta giờ nhẹ như bông, có thể nhào lộn được rồi này.
Gã nói đoạn nhào lộn liền hai cái rồi mới chạy như bay đi tìm hảo huynh đệ của mình.
Trên thực tế, cho dù có mời vị đại tông sư võ học kiến văn quảng bác nhất đương đại đến đây, e rằng cũng không biết hai gã rốt cuộc đã luyện thành thứ gì, thậm chí là người trước tác ra "Trường Sinh Quyết", chỉ sợ cũng phải trợn mắt há miệng khi thấy tình hình hiện tại của hai gã.
Bất quá, đích thực là hai gã đã vì vậy mà biến đổi thể chất, nhưng nếu phải động thủ động cước, chỉ cần gặp phải một người bình thường biết chút võ công là đã có thể đánh cho hai gã phải quỳ xuống khóc lóc xin tha rồi. Nhưng cứ tiếp tục thế này, nội công của hai gã sẽ đạt tới cảnh giới nào, chỉ sợ rằng không ai nói ra được.
Từ Tử Lăng nghe Khấu Trọng gọi tên mình vang động cả sơn cốc cũng dần dần tỉnh lại, người vẫn ngâm mình dưới dòng suối, toàn thân ướt nhẹp, nhưng gã lại chẳng hề cảm thấy lạnh giá, chỉ vội vã đứng dậy bò lên bờ.
Từ ngày hôm đó trở đi, hai gã cứ tưởng rằng mình đã luyện thành đệ nhất trùng cảnh giới của "Cửu Huyền Đại Pháp", đồng thời ký ức về sự đau đớn của buổi đêm hôm trước cũng in sâu vào trong não, nên tạm thời cũng không dám tiếp tục luyện công. Nhưng tính tình hiếu động hoạt bát không thể nào kềm nén nổi lâu hơn, cứ sáng sớm là hai gã thức dậy ra ngoài cốc săn bắn, cho tới khi mặt trời khuất núi thì mới trở về sơn cốc, vô luận là mệt mỏi thế nào, nhưng chỉ cần thức dậy là hai gã lập tức vác cung vác tên đi săn.
Ngày hôm nay, vừa mới tỉnh dậy, Khấu Trọng đã dẫn Từ Tử Lăng đi tới trước mộ Phó Quân Sước nói:
- Nếu chúng ta tiếp tục thế này mẹ nhất định sẽ không vui, huống hồ mẹ còn mong chúng ta lấy vợ sinh con, kiến công lập nghiệp, trở thành nhân vật bất phàm.
Từ Tử Lăng trầm mặc giây lát, gật đầy nói:
- Ta cũng muốn ra ngoài tìm hiểu một phen, có điều tuy rằng chúng ta luyện công đã có chút ít thành tích, nhưng so với cao thủ chân chính e rằng vẫn còn kém tới một vạn tám ngàn dặm, nếu chỉ làm một tên tiểu tốt chạy cờ thì lại không cam tâm, mẹ của chúng ta lợi hại như vậy, chúng ta làm sao để cho người mất mặt được.
Khấu Trọng cười hì hì nói:
- Chuyện này đương nhiên rồi, đúng như mẹ nói, Vũ Văn Hóa Cập đã quyết ý lấy cho bằng được "Trường Sinh Quyết", hắn nhất định sẽ không bỏ qua cho chúng ta. Nói không chừng đã cho người họa hình, truy nã toàn quốc rồi chứ chẳng chơi, vì vậy hai chúng ta tốt nhất vẫn nên tránh mặt thì hơn. Nơi ẩn tránh tốt nhất vẫn là nơi này nhưng có điều nếu cứ tiếp tục sống như vậy, ta chỉ sợ chẳng bao lâu nữa thì chúng ta trở thành dã nhân mất.
Từ Tử Lăng nói:
- Vậy ngươi có kế hoạch gì không?
Khấu Trọng vỗ ngực nói:
- Đầu tiên chúng ta tìm một nơi chôn giấu "Trường Sinh Quyết" đã, sau đó sẽ đi về hướng Nam, gặp phải huyện thành nào thì nghĩ cách ở lại đó, xem xem có thể tìm được công việc gì đó hay không, đợi sau khi tìm hiểu rõ tình thế rồi thì mới tiếp tục tiến hành đại kế đi theo nghĩa quân của chúng ta.
Từ Tử Lăng không biết thế nào nhưng cũng rất muốn ra ngoài một chuyến.
Hai gã liền bái tế Phó Quân Sước, chôn giấu "Trường Sinh Quyết" trong sơn cốc rồi lấy y phục mặc vào, gói ghém tiền bạc, rời khỏi tiểu sơn cốc mỹ lệ đã khiến hai gã đau lòng đứt ruột, suốt đời không quên.
Lúc này trời đã vào thu, thời tiết mát mẻ.
Hai gã rốt cục vẫn là thiếu niên, dần dần cũng khôi phục lại sau sự đả kích của cái chết của Phó Quân Sước, bắt đầu cười cười nói nói, đồng thời sau khi sơ ngộ được một chút "Trường Sinh Quyết", lòng tin đối với bản thân cũng tăng lên rất nhiều.
Đi về hướng Nam được bảy ngày, hai gã gặp phải một thôn làng nhỏ, chỉ có hơn mười hộ dân, trong đó còn ánh đèn lại chỉ có hai ba nhà mà thôi, có lẽ tại nơi này chiến loạn liên miên nên đời sống nhân dân thập phần khó khăn, ai ai cũng phải sống tằn tiện.
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng cảm thấy như vừa từ cõi khác trở lại nhân gian, sãi bước chạy như bay về phía thôn trang, chợt có tiếng chó sủa húng hoắng vang lên, tiếp đó là quần khuyển tương ứng, mấy con chó lớn gầm gừ, hầm hè dần dần tiến lại gần hai gã.
Hai gã thầm kinh hãi đề phòng, may sao lúc này có người chạy ra, quát đuổi bầy chó, còn nhiệt tình mời hai gã vào nghỉ qua đêm.
Sáng sớm hôm sau, hai gã để lại tiền phòng, hỏi rõ ràng đường đến trấn huyện lớn nhất ở vùng phụ cận, sau đó lại tiếp tục lên đường.
Đi thêm hơn chục ngày nữa, hai gã đến được một trấn lớn tên gọi Thúy Sơn ở phía Quận Tân An, phía Tây sông Chiết, ước chừng có khoảng hai ba ngàn hộ.
Thúy Sơn Trấn nằm phía đông Phàn Dương Hồ, nơi đây cuộc sống tương đối hưng vượng, nhà ngói cầu đá nhiều vô số kể, là một thị trấn phồn thịnh của vùng Giang Nam, quy mô tuy chỉ bằng một phần tư của Đơn Dương, cũng chẳng có thành cao hào sâu hay cửa thành gì cả, nhưng hai gã vừa nhìn thấy nơi đây đã lập tức nảy ra ý định muốn lưu lại rồi.
Điều hấp dẫn hai gã nhất là phụ nữ trong trấn rất coi trọng việc ăn mặc, vô luận là kiểu dáng cắt may hay chất vải đều biểu hiện ra vẻ đẹp lung linh, yêu kiều của nữ nhi vùng sông nước.
Đặc biệt là giờ đây trong đầu hai gã đã có thêm vài chữ, không còn vẻ du đãng như ngày xưa nữa, tâm tính cũng biến đổi gần hết, ngực cũng ưỡn lên thẳng hơn trước rất nhiều.
Hai gã tìm một khách điếm nhỏ trông có vẻ không sang trọng lắm, thuê một căn phòng nghỉ ngơi, sau đó mới lấy hết can đảm lần mò đến trấn công sở, nếu chẳng may gặp phải tôn dung của mình ở trên bảng treo thưởng thì đành phải lập tức cao bay xa chạy đến một nơi khác vậy.
Các thương điếm trong trấn đa phần là tiền điếm hậu phường, người thì ở trên lầu, tác phường và kho hàng đều nằm gần bên sông, triệt để lợi dụng sự thuận tiện của con đường sông nước để vận chuyển hàng hoá.
Đến trấn công sở, hai gã chỉ thấy trên bảng dán đầy thông cáo trưng binh mộ tốt chứ chẳng có bảng văn truy nã nào cả.
Khấu, Từ lòng như hoa nở, ôm nhau hoan hô, tung tăng dạo khắp nơi trên phố.
Một đám nữ tử trẻ tuổi cười nói vui vẻ đang đi về phía này, nhìn thấy hai gã mỗi người một vẻ, tướng mạo hiên ngang liền đưa mày đánh mắt, khiến cho hai tên tiểu tử sướng như lên tiên.
Từ cha sinh mẹ đẻ đến nay, lần đầu tiên hai gã được người khác, đặc biệt là người khác giới thưởng thức như vậy, tự nhiên lòng tin cũng tăng thêm rất nhiều.
Trên thực tế, sau một mùa hè ẩn cư trong sơn cốc, bởi vận động nhiều và tham luyện tâm pháp thượng thừa nên hai gã gần như đã thay da đổi cốt, biến thành hai thiếu niên thân hình tráng kiện, hiển lộ thần khí ra ngoài, tạo nên một thứ mị lực thiếu niên khó mà miêu tả được bằng lời.
Chẳng mấy chốc hai gã đã bị phong tục tập quán, tình quê nồng hậu nơi đây chinh phục, thầm nhủ cho dù lưu lại nơi này, lấy vợ sinh con cũng không phải là chuyện tồi lắm.
Ngày ấy ở Dương Châu hai gã suốt ngày mơ mộng cũng bởi vì bất mãn mới hiện tại, lại thường bị người ta ức hiếp, bây giờ đến nơi thế ngoại đào viên này, dân tình nồng hậu, cảm giác hoàn toàn mới mẻ, thế nên lập tức thay tâm đổi ý, không muốn đầu nhập nghĩa quân làm gì nữa.
Khấu Trọng liếc nhìn thấy một tấm bảng lớn viết "Lưu Xuân Viện", kéo tay Từ Tử Lăng, nháy nhó nói:
- Tiểu Lăng, còn chút nữa là ngươi mười sáu tuổi rồi, còn ta cũng sắp mười bảy, người ta mười bốn mười lăm đã lấy vợ nạp thiếp, vậy mà hai người chúng ta đến giờ vẫn còn là thân đồng tử...
Từ Tử Lăng mất kiên nhẫn ngắt lời:
- Ta hiểu ý của ngươi rồi, có ngân lượng rồi, tên tiểu tử ngươi lại ngứa ngáy đúng không? Ta không phản đối bỏ ra một phần làm phí mở mắt, nhưng ít nhất cũng phải đợi chúng ta tìm được việc làm, bố trí thu xếp nơi ăn chốn ở cho ổn thỏa xong đã, lúc ấy mới nghiên cứu việc tầm hoan tác lạc cũng chưa muộn, hơn nữa đây là vốn mà mẹ để lại cho chúng ta, chúng ta có thể xây một căn nhà tương đối, còn có thể kinh doanh một cửa hàng nho nhỏ, nhưng tuyệt đối không thể tiêu xài hoang phí được.
Khấu Trọng thấy gã cũng không phản đối, cười hì hì nói:
- Đương nhiên, đương nhiên, giờ chúng ta đi ăn một bữa no đã, sau đó đi thăm dò xem có công việc gì đang thiếu người làm hay không?
Hai gã đi đến trước cửa một tiệm ăn, đang định bước vào thì một hán tử cao lớn tráng kiện eo kẹp gói đồ xông ra như một cơn gió, y ra khỏi tiệm ăn, liền rẽ luôn sang bên phải, cứ thế mà đi. Một lão hán vừa gầy vừa lùn đuổi theo, lớn tiếng gọi tên hán tử kia, nhưng y chẳng thèm quay đầu, cứ tiếp tục lầm lủi bỏ đi.
Lão hán vừa lùn vừa gầy kia ngồi phệt xuống đất, dựa vào cửa, miệng không ngớt trù úm chửi rủa.
Hai gã chẳng hiểu gì cả, đang định bước vào trong thì lão hán đã gắt lên:
- Hôm nay không mở cửa, từ nay cũng không mở cửa nữa!
Giờ hai gã mới biết đây là ông chủ của tiệm ăn, người ông ta toàn mùi dầu mỡ, hiển nhiên cũng kiêm luôn cả chức hỏa đầu quân.
Khấu Trọng trời sinh đã hiếu kỳ, liền lên tiếng hỏi:
- Tại sao sau này không buôn bán nữa?
Lão hán liếc nhìn hai gã một cái, "hừ" nhẹ rồi nói:
- Tên phá gia chi tử đó bỏ đi rồi, nữ nhân của ta cũng bỏ đi từ tháng trước, ta chỉ có một mình làm sao liệu lí được cả căn tiệm to thế này?
Nói đoạn lại cúi đầu thở dài:
- Nói về tài nghệ trong bếp, nếu lão Trương ta nhận mình là đệ nhị, thử hỏi có ai dám nhận là đệ nhất không? Nào là cơm chiên dầu, cơm thanh phong, cơm ngọc cảnh, có thứ nào mà lão Trương ta không làm được? Chẳng ngờ tên phá gia chi tử kia lại không muốn kế thừa tuyệt kỹ, cả ngày chỉ đòi tham gia nghĩa quân kiến công lập nghiệp, ngươi xem, ngày sau nó mà mang bộ dạng ăn mày trở về đây, ta quyết không nuôi nó nữa! Hừ, ta sẽ bỏ về quê, để nó muốn tìm ta cũng tìm không được.
Hai gã đưa mắt nhìn nhau, cùng lúc ngồi xổm xuống. Khấu Trọng nói:
- Vậy thì thật đáng tiếc, căn tiệm lớn như vậy phải đóng cửa thì phí quá, chi bằng hãy nhận chúng tôi vào làm việc cho lão, đồng thời cũng làm đồ đệ luôn, như vậy thì tuyệt kỹ của Trương công sẽ không bị thất truyền. Cùng lắm thì chúng tôi nhận lương ít một chút, mỗi tháng cứ đưa chúng tôi hai trăm tiền là được.
Lão Trương ngạc nhiên đưa mắt quan sát hai gã một hồi lâu rồi tò mò hỏi:
- Hai ngươi là người ở đâu?
Nghe Khấu Trọng huyên thuyên một hồi, lão lại hỏi tiếp:
- Có phải cả hai người là hai mươi quán tiền không?
Mỗi quán mười tiền, hai mươi quán tức là hai trăm tiền, đối với một người thì đây đã là số tiền công vô cùng rẻ mạt rồi, vậy mà ở đây những hai người, lão cũng chỉ trả có hai trăm tiền, quả thật lại càng rẻ mạt hơn, chẳng trách ngay cả con lão cũng chịu không nổi mà bỏ đi.
Khấu Trọng chỉ muốn học nghề nấu ăn của lão, để sau này mở tiệm kinh doanh, có điều gã cũng là tay tính toán lợi hại, không nghĩ ngợi gì nói luôn:
- Vậy phải bao ăn, bao ở!
Lão Trương nheo mắt nhìn hai gã, nói giọng hết sức khó nghe:
- Bao ăn bao ở cũng được, nhưng tất cả công việc quét dọn tạp vụ hai người đều phải làm hết!
Khấu Trọng cười cười nói:
- Xong rồi! Bây giờ chúng tôi đang đói gần chết, bữa cơm này đương nhiên phải tính cho sổ của Trương lão bản rồi!
Hai gã liền dọn đến ở trên căn phòng mà nhi tử của lão Trương bỏ lại, hàng ngày trời chưa sáng đã phải thức dậy làm việc, sau bữa trưa lão Trương đi ngủ một giấc thì hai gã phải đi mua bán vật thực, đến tối dọn cửa hàng, lão Trương đi tắm rửa nghỉ ngơi thì hai gã lại phải rửa bát quét nhà, mệt đến thở không ra hơi, đừng nói đến thanh lâu mở mắt, ngay cả ngủ một giấc hai gã cũng chẳng còn thời gian.
Có điều, quả thực lão Trương có bản lĩnh, danh tiếng như cồn, những thương khách qua đường đều ghé vào đây thưởng thức.
Tiệm ăn này chỉ bán có ba loại cơm, đó là "cơm chiên dầu", "cơm Thanh Phong" và "cơm Ngọc Cảnh", nhưng tài nghệ của lão Trương không chỉ dừng lại ở đó.
Từ khi có Khấu Trọng và Từ Tử Lăng, lão cũng bất thời làm thêm những món mà thực khách yêu cầu.
Hai gã có tâm học nghệ, lão Trương lại tuổi già sức yếu nên cũng ngày càng tín nhiệm hai gã, dần dần truyền hết tuyệt kỹ của mình.
Ba tháng sau, hai gã đã tràn đầy lòng tin có thể tự mở động quyền động cước rồi, nhưng mặt khác, cả hai cũng bắt đầu cảm thấy mệt mỏi cái nghề nấu nướng này. Đồng thời hai gã cũng sợ sẽ nếu mình bỏ đi, lão Trương sẽ chịu đựng không nổi.
Tối hôm ấy, sau khi đóng cửa, nhân lúc lão Trương đã lên lầu, hai gã liền ngồi xuống thương nghị.
Khấu Trọng nói:
- Chúng ta đã quyết định không gia nhập nghĩa quân hay là làm võ lâm cao thủ gì đó rồi đúng không?
Từ Tử Lăng dựa lưng vào ghế, thở dài nói:
- Bận đến tối mắt tối mũi, chẳng còn chút thời gian rỗi thế này xem ra cũng chẳng hứng thú gì!
Khấu Trọng nói:
- Nếu khổ như vậy, chi bằng chúng ta ở đây thêm ba tháng nữa đến hết năm, mùa xuân tiết trời ấm lại, chúng ta sẽ rời khỏi chỗ này.
Từ Tử Lăng khổ não nói:
- Nhưng ta có chút không nỡ!
Khấu Trọng cười khổ nói:
- Ta cũng có chút không nỡ, nhưng ta nghĩ thế này, đã gọi là nam nhi chí tại bốn phương, chúng ta tại sao không đến phương Nam đầu nhập Tống Gia, cái người Tống Lỗ kia đối với chúng ta cũng không tồi, nếu có thể bái ông ta làm thầy, nói không chừng chúng ta lại có thể đạt thành ước nguyện chứ chẳng chơi.
Nói đoạn nghiến răng kèn kẹt:
- Nếu luyện thành võ công, ta nhất định sẽ giết chết tên gian tặc Vũ Văn Hóa Cập đó!
Từ Tử Lăng thê lương nói:
- Đêm qua ta nằm mơ thấy mẹ, mẹ mắng ta không có chí khí, không dám báo cừu rửa hận cho mẹ!
Khấu Trọng thở dài, buồn bã nói:
- Quả thật là chúng ta đã quá nhát gan, không đáng là nam tử hán đại trượng phu, đánh không xong thì chết là cùng chứ gì. Những ngày này chúng ta hết sợ luyện công gian khổ thì lại sợ tẩu hỏa nhập ma, không dám tiếp tục vậy thì làm sao xứng đáng với mẹ được, ta quyết định sẽ thay đổi, kể từ ngày mai sẽ tiếp tục luyện công, luyện đến khi nào giết được tên Vũ Văn Hóa Cập đó mới thôi.
Trong mắt Từ Tử Lăng lóe lên một vẻ tinh anh trước giờ chưa từng thấy, nắm chặt tay gã nói:
- Ngươi nói như vậy ta thật là mừng quá, trước đây chúng ta ở Dương Châu chí còn cao hơn cả trời, bây giờ làm sao có thể biến thành loài rùa rút đầu được?
Chi bằng ngày mai lập tức lên đường đi!
Khấu Trọng ngạc nhiên nói:
- Tại sao lúc nãy nhãn thần của ngươi lại đột nhiên sáng rực lên giống như mẹ ngày trước vậy?
Từ Tử Lăng ngần ngừ giây lát rồi trầm ngâm nói:
- Nói thật, tuy ta không có ý luyện công, nhưng mỗi đêm nằm xuống thì trong đầu lại hiện lên đồ hình trong sách, chân khí cứ thế mà tự động chuyển lưu đi khắp cơ thể.
Khấu Trọng hối hận nói:
- Sớm biết thế này ta cũng cần cù luyện công như ngươi có phải hay không, sau này tuyệt đối không thể lười biếng thế này nữa. Được rồi! Sáng mai chúng ta lập tức lên đường!
Từ Tử Lăng trầm ngâm:
- Vậy ai sẽ lên nói với lão Trương đây?
Khấu Trọng cười khổ:
- Cùng lên đi, lão quỷ keo kiệt này cũng cần phải được giáo huấn một chút!

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro