dai hoi

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam I

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

''Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam I'' hay ''Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng Cộng Sản Đông Dương '' diễn ra từ ngày 27 đến ngày 31-3-1935 ở Ma Cao. Tham dự đại hội có tất cả là 13 đại biểu chính thức thay mặt cho 500 đảng viên trong nước và các đảng bộ ở nước ngòai.Mục lục [ẩn]

1 Hoàn cảnh lịch sử

2 Nội dung

3 Ý nghĩa

4 Chú thích

5 Xem Thêm

6 Tham khảo

7 Liên kết ngòai

[sửa]

Hoàn cảnh lịch sử

Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng Cộng Sản Đông Dương diễn ra khi lực lượng cộng sản trong nước gần như hòan tòan bị triệt tiêu sau đợt khủng bố trắng của Pháp sau Xô viết Nghệ Tĩnh nay đã dần dần phục hồi trở lại. Ban chấp hành trung ương Đảng chỉ thị triệu tập đại hội Đảng

[sửa]

Nội dung

Đại hội đánh giá cao những thắng lợi của Đảng trong việc khôi phục hệ thống tổ chức Đảng.

Đại hội thừa nhận:

1.Luận cương chính trị tháng 10/1930

2. Chương trình hoạt động Tháng 6/1932

3.Kiểm điểm phong trào cách mạng ,tổ chức lánh đạo cách mạng (1932-1935)

Đại hội đề ra 3 nhiệm vụ cụ thể:

1. Xây dựng và phát triển Đảng

Phát triển cơ sở Đảng tại các xí nghiệp, nhà máy, hầm mỏ, tại các thành thị...

Kết nạp thêm đảng viên ưu tú trong hàng ngũ giai cấp công nhân

Đẩy mạnh việc phê và tự phê trong Đảng

2. Thâu phục quảng đại quần chúng

Phát triển hội phụ nữ, các dân tộc thiểu số...

Thành lập mặt trận dân tộc thống nhất

3. Đẩy mạnh chống chiến tranh đế quốc

Đại hội cũng đã thông qua Nghị quyết Chính trị, Điều lệ Đảng và[1]:

Các nghị quyết về vận động công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, phụ nữ.

Các nghị quyết về công tác trong các dân tộc thiểu số.

Các nghị quyết về đội tự vệ đỏ và đội cứu tế đỏ

Bầu Ban chấp hành Trung ương mới gồm 13 người. Nguyễn Ái Quốc được cử làm đại diện của Đảng Cộng Sản Đông Dương tại Quốc tế thứ 3, Lê Hồng Phong là Tổng Bí thư[2]

[sửa]

Ý nghĩa

Đại hội đánh dấu sự khôi phục và phát triển của tổ chức Đảng

Là sự chuẩn bị cho thắng lợi của các phong trào tiếp theo

Đại hội đại biểu lần I của Đảng được xem như là mốc đánh dấu bước phát triển quan trọng của Đảng, Đảng đã phục hồi được hệ thống tổ chức từ Trung ương đến địa phương, các Xứ ủy Bắc kì, Trung kì và Nam kì được lập lại, các tổ chức quần chúng của Đảng cũng dần được khôi phục và phát triển. [3] Đại hội chính là mốc đánh dấu sự sống còn của Đảng Cộng Sản Việt Nam vì trước đó tất cả các tổ chức, đảng phái khác như Việt Nam Quang phuc hội, Việt Nam quốc dân đảng,... sau khi bị thực dân Pháp đàn áp đều không còn hoạt động hoặc hoạt động rất hạn chế, cơ sở trong nước bị khủng bố hòan tòan, chỉ còn các cơ sở hoạt động ở hải ngoại.

Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam II

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam II hay Đại hội đại biểu lần II của Đảng diễn ra từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951 ở Tuyên Quang. Tham dự đại hội có tất cả là 158 đại biểu chính thức và 53 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho 766.349 đảng viên cả nước.Mục lục [ẩn]

1 Bối cảnh lịch sử

2 Hoạt động

2.1 Báo cáo chính trị

2.2 Bàn về cách mạng Việt Nam

2.3 Báo Nhân Dân

2.4 Hoạt động khác

3 Ý nghĩa

4 Chú thích

5 Xem Thêm

6 Tham khảo

7 Liên kết ngòai

[sửa]

Bối cảnh lịch sử

Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam II diễn ra trong bối cảnh thự dân Pháp vừa tiến hành Kế họach Đơ Lát đơ Tátxinhi, đưa cuộc chiến tranh của Pháp ở Đông Dương lên quy mô lớn, làm cho cuộc kháng chiến của Việt Minh, nhất là ở vùng sau lưng địch trở nên khó khăn.

[sửa]

Hoạt động

Đại hội đã quyết định tách Đảng Cộng Sản Đông Dương để thành lập ở mỗi nước Đông Dương Đảng Mác-Lênin riêng. Ở Việt Nam Đại hội thành lập Đảng Lao động Việt Nam và đưa Đảng ra hoạt động công khai [1].

[sửa]

Báo cáo chính trị

Đại hội thông qua Báo cáo chính trị do Hồ Chí Minh soạn thảo "[2] trong đó tổng kết kinh nghiệm của Đảng qua các thời kì từ khi ra ra đời và khẳng định đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng[3].

[sửa]

Bàn về cách mạng Việt Nam

Bản báo cáo Bàn về cách mạng Việt Nam do Trường Chinh soạn thảo. Báo cáo nêu lên nhiệm vụ cơ bản của cách mạng nước ta là đánh đuổi đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất hòan tòan cho dân tộc, xóa bỏ tàn tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

[sửa]

Báo Nhân Dân

Xúât bản báo Nhân Dân[4] làm cơ quan ngôn luận của Trung Ương Đảng[5]

[sửa]

Hoạt động khác

Thông qua Tuyên ngôn, Chính cương, Điều lệ mới. Bầu Ban chấp hành Trung ương mới và Bộ Chính trị. Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Đảng, Trường Chinh là Tổng Bí thư.

[sửa]

Ý nghĩa

Đại hội đại biểu lần II của Đảng được xem như là mốc đánh dấu bước phát triển mới trong quá trình lãnh đạo và trưởng thành của Đảng Cộng Sản Việt Nam. [6] Đại hội đã đưa Đảng Cộng Sản Việt Nam từ việc hoạt động bí mật dưới tên gọi Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương ra hoạt động công khai trở lại dưới tên gọi mới là Đảng Lao động Việt Nam.

Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam III

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

''Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam III'' hay ''Đại hội đại biểu toàn quốc lần III Đảng Lao động Việt Nam'' diễn ra từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960 ở Hà Nội. Tham dự đại hội có tất cả là 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho 500000 đảng viên của cả hai miền đất nước, cùng với sự có mặt của hơn 16 Đảng Cộng sản và các tổ chức quốc tế khác[1].Mục lục [ẩn]

1 Bối cảnh lịch sử

2 Hoạt động

2.1 Nhiệm vụ cách mạng miền Bắc

2.2 Nhiệm vụ cách mạng miền Nam

2.3 Quan hệ cách mạng hai miền

2.4 Kế họach 5 năm lần thứ nhất 1960-1965

2.5 Hoạt động khác

3 Ý nghĩa

4 Hạn chế và khó khăn

5 Chú thích

6 Xem Thêm

7 Tham khảo

8 Liên kết ngòai

[sửa]

Bối cảnh lịch sử

Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam III diễn ra trong bối cảnh miền Bắc Việt Nam vừa hòan thành khôi phục kinh tế sau Kháng chiến chống Pháp và Cải cách ruộng đất cùng với Cải tạo công thương nghiệp; trong khi ở miền Nam một phong trào chống chính quyền Ngô Đình Diệm và Mỹ đang diễn ra từ cuối năm 1959 và trở thành Đồng khởi từ đầu năm 1960.

[sửa]

Hoạt động

Đại hội đã thảo luận và đánh giá cách mạng hai miền đang có những bước tiến quan trọng. Từ nhận định đó, Đại hội đề ra nhiệm vụ chiến lược của cách mạng cả nước và nhiệm vụ của từng miền; chỉ rõ vị trí, vai trò của cách mạng từng miền và mối quan hệ giữa cách mạng hai miền[2].

[sửa]

Nhiệm vụ cách mạng miền Bắc

Sau khi hòan thành việc khắc phục hậu quả do cuộcKháng chiến chống Pháp để lại và thực hiện những nhiệm vụ bước đầu của chính quyền dân chủ nhân dân theo kinh nghiệm của Liên Xô và Đông Âu sau Chiến tranh thế giới lần thứ 2, Đại hội quyết định sẽ đưa miền Bắc đi lên cách mạng xã hội chủ nghĩa đồng thời đưa ra nhận định công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc sẽ có vai trò quyết định nhất với sự phát triển của cách mạng hai miền[3]. Đại hội khẳng định đứa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.

[sửa]

Nhiệm vụ cách mạng miền Nam

Do Pháp không thực hiện Tổng tuyển cử theo Hiệp định Geneva 1954 và việc vận động thực hiện hiệp định bị chính quyền Diệm đàn áp do sợ thất bại nên Việt Nam chưa thống nhất được[4]. Đại hội do đó đã quyết định sẽ tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và nhận định cuộc cách mạng này có vai trò quyết định trực tiếp với sự nghiệp giái phóng miền Nam.

[sửa]

Quan hệ cách mạng hai miền

Đại hội nhận định cách mạng hai miền có quan hệ mật thiết, gắn bó và tác động lẫn nhau nhằm hòan thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện hòa bình thống nhất đất nước.

[sửa]

Kế họach 5 năm lần thứ nhất 1960-1965

Nhằm thực hiện mục tiêu tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội đề ra Kế họach 5 năm lần thứ nhất 1960-1965, nhiệm vủ chủ yếu của Kế hoạch này là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, lấy phát triển công nghiệp nặng làm nền tảng, đồng thời ra sức phát triển công nghiệp nhẹ và nông nghiệp.

[sửa]

Hoạt động khác

Thông qua Báo cáo chính trị, Báo cáo sửa đổi điều lệ Đảng. Bầu Ban chấp hành Trung ương mới do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Đảng, Lê Duẩn là Bí thư thứ nhất.

[sửa]

Ý nghĩa

Được xem như là "nguồn ánh sáng mới, lực lượng mới cho tòan Đảng và tòan dân ta xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà"[5] Thắng lợi của Hội nghị còn được nhận xét là đưa "miền Bắc nước ta tiến những bước dài chưa từng thấy (...) đất nước xã hội con người đều đổi mới"[6].

[sửa]

Hạn chế và khó khăn

Đại hội vấp phải một số sai lầm khuyết điểm chủ yếu do tư tưởng chủ quan nóng vội, giáo điều thể hiện rõ nhất qua việc đề ra phương châm tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, đề ra các mục tiêu, chỉ tiêu quá cao, không tính đến khá năng thực hiện và điều kiện cụ thể của đất nước. Trong khi thực hiện những nhiệm vụ của Đại hội thì [5 tháng 8] năm [1964] Mĩ mở chiến dịch Mũi tên xuyên bắn phá miền Bắc sau khi dựng lên Sự kiện Vịnh Bắc bộ[7], từ đây miền Bắc phải chuyển hướng xây dựng và phát triển và không thể tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ từ Đại hội III.

Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam IV

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam IV hay Đại hội đại biểu toàn quốc lần IV Đảng cộng sản Việt Nam diễn ra từ ngày 14 đến ngày 20-12-1976 ở Hà Nội. Tham dự đại hội có tất cả là 1008 đại biểu chính thức 4 thay mặt cho 1.550.000 đảng viên của cả hai miền đất nước, cùng với sự có mặt của nhiều Đảng Cộng sản và các tổ chức quốc tế khác.Mục lục [ẩn]

1 Bối cảnh lịch sử

2 Hoạt động

2.1 Nhiệm vụ cách mạng miền Bắc

2.2 Nhiệm vụ cách mạng miền Nam

2.3 Kế họach 5 năm 1976-1980

2.4 Hoạt động khác

3 Ý nghĩa

4 Hạn chế và khó khăn

5 Chú thích

6 Xem Thêm

7 Tham khảo

8 Liên kết ngoài

[sửa]

Bối cảnh lịch sử

Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam IV diễn ra trong bối cảnh cuộc Kháng chiến chống Mỹ đã đạt được thắng lợi[1]. Hai miền Nam Bắc thống nhất sau hơn 20 năm chia cắt từ Hiệp định Geneve 1954 bằng việc hiệp thương của hai nhà nước tồn tại trên lãnh thổ Việt Nam từ sau 30 tháng 4 năm 1975 là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Miền nam Việt Nam.

[sửa]

Hoạt động

Đại hội đã thảo luận, đánh giá quyết định chuyển cách mạng Việt Nam từ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam sang thực hiện cách mạng xã hội trên toàn đất nước. Từ nhận định đó, Đại hội đề ra đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước, gồm:

Đường lối chung cách mạng xã hội chủ nghĩa

Đường lối xây dựng kinh tếtrong thời kì quá độ

Những đường lối này được Đại hội đề ra dựa trên cơ sở kinh nghiệm của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc trong 21 năm (1954-1975), nhất lả xúât phát từ đặc điểm tình hình đất nước và thế giới trong giai đọan cách mạng mới. [2]. Đại hội nêu 3 đặc điểm lớn cảu cách mạng Việt Nam, mà đặc điểm lớn nhất là: "Nước ta vẫn đang trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xúât nhỏ tiến thẳng lên Chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đọan phát triển Tư bản chủ nghĩa." Đặc điểm này quy định cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một quá trình biến đổi cách mạng tòan diện, sâu sắc và triệt để, đồng thời cũng quy định tính chất lâu dài, khó khăn và phức tạp trong quá trình đó.

[sửa]

Nhiệm vụ cách mạng miền Bắc

Miền Bắc do đã có 21 năm đi lên Chủ nghĩa xã hội từ 1954, nên trong giai đọan này phải tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội và hòan thiện quan hệ sản xúât xã hội chủ nghĩa. Góp phần cùng cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.

[sửa]

Nhiệm vụ cách mạng miền Nam

Do mới giải phóng, và trong suốt thời kì Việt Nam Cộng Hòa và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam nền kinh tế miền nam trong chừng mực phát triển theo hướng tư bản chú nghĩa, nhưng về cơ bản vẫn mang tính chất của kinh tế nông nghiệp, sản xúât nhỏ và phân tán, phát triển không cân đối, lệ thuộc vào viện trợ bên ngòai. Đại hội quyết định miền Nam phải đồng thời tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng Chủ nghĩa xã hội, góp phần cùng cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội[3].

[sửa]

Kế họach 5 năm 1976-1980

Nhằm thực hiện mục tiêu đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội đề ra Kế họach 5 năm 1976-1980 và quyết định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu của Kế họach, là xây dựng Chủ nghĩa xã hội và cải tạo quan hệ sản xúât xã hội chủ nghĩa, nhằm hai mục tiêu cơ bản:

Xây dựng một bước cơ sở vật chất - kĩ thuật của Chủ nghĩa xã hội

Bước đầu hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước mà bộ phận chủ yếu là cơ cấu công - nông nghiệp và cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động.

[sửa]

Hoạt động khác

Thông qua Báo cáo chính trị. Bầu Ban chấp hành Trung ương mới gồm 101 ủy viên chính thức và 32 ủy viên dự khuyết do Lê Duẩn làm Tổng Bí thư .

[sửa]

Ý nghĩa

Đây là Đại hội đầu tiên của nước Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam sau khi được thống nhất từ Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa và Cộng Hòa miền Nam Việt Nam[4]. Kế họach 5 năm 1976-1980 do Đại hội đề ra đã đạt nhiều thành tựu trong khôi phục kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế. Tầng lớp tư sản mại bản ở miền Nam bị xóa bỏ.

[sửa]

Hạn chế và khó khăn

Đại hội vấp phải một số sai lầm khuyết điểm chủ yếu do tư tưởng chủ quan nóng vội, giáo điều thể hiện rõ nhất qua việc đề ra phương châm tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, đề ra các mục tiêu, chỉ tiêu quá cao, không tính đến khá năng thực hiện và điều kiện cụ thể của đất nước sau thống nhất. Sai lầm trong cả chủ trương cải tạo, quản lí kinh tế, thể hiện tư tưởng bảo thủ, trì trệ. Kinh tế Việt Nam mất cân đối lớn, kinh tế quốc doanh và tập thể luôn thua lỗ nặng, không phát huy tác dụng. Kinh tế tư nhân và cá thể bị ngăm cấm triệt để. Sản xúât chậm phát triển, thu nhập quốc dân, năng súât thấp, đời sống nhân dân khó khăn, xã hội nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực.

Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam V

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

''Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam V'' hay ''Đại hội đại biểu lần thứ năm của Đảng Cộng Sản Việt Nam'' diễn ra từ ngày 27 đến ngày 31-3-1982 ở Hà nội. Tham dự đại hội có tất cả là 1033 đại biểu chính thức thay mặt cho 1.727.000 đảng viên trong nước.Mục lục [ẩn]

1 Bối cảnh lịch sử

2 Hoạt động

2.1 Kế họach 5 năm 1976-1980

2.2 Hoạt động khác

3 Ý nghĩa

4 Hạn chế và khó khăn

5 Chú thích

6 Xem Thêm

7 Tham khảo

8 Liên kết ngòai

[sửa]

Bối cảnh lịch sử

Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam V diễn ra trong bối cảnh kinh tế đất nước sau 5 năm Kháng chiến chống Mỹ đang gặp những trì trê nghiêm trọng[1]. Bên cạnh đó Việt Nam đang đóng quân ở Campuchia sau Chiến tranh biên giới Tây Nam từ năm 1979 và quan hệ Việt Nam - Trung Quốc bị đổ vỡ sau Chiến tranh biên giới phía Bắc 1979. Trung Quốc tiến hành hoạt động phá hoại biên giới trên bộ và trên biển thừơng xuyên.

[sửa]

Hoạt động

Đại hội đã thảo luận, đánh giá tình hình trong nước và quốc tế và đề ra nhiệm vụ cách mạng trong thời kì kế tiếp là xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, hai nhiệm vụ chiến lược này quan hệ mật thiết với nhau. Đại hội khẳng định tiếp tục đừơng lối chung tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và đừơng lối xây dựng knih tế trong thời kì quá độ do Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam IV đề ra. Tuy nhên đế Đại hội V, đường lối xây dựng Chủ nghĩa xã hội trong thời kì quá độ bắt đầu có sự điều chỉnh, bổ sung, phát triển, cụ thể hóa theo từng chặng đường, từng giai đọan cho phù hợp với những điều kiện lịch sử phù hợp. Cụ thể là xác định thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta trải qua nhiều chặng đường: chặng đường đầu gồm 5 năm 1981-1985 và những năm còn lại của thập kỉ 80, và những chặn tiếp theo.

[sửa]

Kế họach 5 năm 1976-1980

Nhằm thực hiện nhiệm vụ,mục tiêu kinh tế xã hội của chặng đường đầu đilên chủ nghĩa xã hội, Đại hội đề ra Kế họach 5 năm 1981-1985 và quyết định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu của Kế họach, là phát triển thêm một bước, sắp xếp lại cơ cấu và đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh tế quốc dân nhằm cơ bản ổn định tình hình kinh tế xã hội, đáp ứng những yêu cầu cấp bách và bứt thiết nhất của nhândân, giảm nhẹ sự mất cân đối nghiêm trọng của nền kinh tế.

[sửa]

Hoạt động khác

Thông qua Báo cáo chính trị. Bầu Ban chấp hành Trung ương mới gồm 116 ủy viên chính thức và 36 ủy viên dự khuyết do Lê Duẩn làm Tổng Bí thư .

[sửa]

Ý nghĩa

Kế họach 5 năm 1981-1985 do Đại hội đề ra đã đạt nhiều thành tựu nhưng chủ yếu là trong nông nghiệp. khoa học kĩ thuật được triển khai, bắt đầu khia thác dầu mỏ và cây dựng nhiều công trình thủy điện như Thủy điện Hòa Bình, Thủy điện Trị An. [2]

[sửa]

Hạn chế và khó khăn

Đại hội vấp phải một số sai lầm khuyết điểm chủ yếu do tư tưởng chủ quan nóng vội, giáo điều sai lầm trong cả chủ trương cải tạo, quản lí kinh tế khi đưa ồ ạt nông dân miền Nam, Tây Nguyên vào làm ăn tập thể, thể hiện tư tưởng bảo thủ, trì trệ trong quản lí của Đảng và Nhà nước. Kinh tế Việt Nam mất cân đối lớn, kinh tế quốc doanh và tập thể luôn thua lỗ nặng, không phát huy tác dụng. Kinh tế tư nhân và cá thể vẫn bị ngăm cấm triệt để. Sản xúât chậm phát triển, thu nhập quốc dân, năng súât thấp, đời sống nhân dân khó khăn, xã hội nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực.

[sửa]

Chú thích

Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VI

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VI họp từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 12 năm 1986 tại Hà Nội (họp nội bộ từ ngày 5 đến ngày 14 tháng 12 năm 1986). Dự đại hội có 1.129 đại biểu thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng viên cả nước, 32 đoàn đại biểu của các Đảng và các tổ chức quốc tế.Mục lục [ẩn]

1 Bối cảnh lịch sử

2 Hoạt động của Đại hội

2.1 Báo cáo chính trị

2.1.1 Mục tiêu kinh tế - xã hội

2.1.2 Đổi mới

3 Ý nghĩa

4 Hạn chế

5 Xem thêm

6 Tham khảo

7 Liên kết ngoài

[sửa]

Bối cảnh lịch sử

Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VI diễn ra trong bối cảnh sai lầm của đợt tổng cải cách giá - lương - tiền cuối năm 1985 làm cho kinh tế Việt Nam càng trở nên khó khăn (tháng 12 năm 1986, giá bán lẻ hàng hóa tăng 845,3%). Việt Nam đã không thực hiện được mục tiêu đề ra là cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Số người bị thiếu đói tăng, bội chi lớn. Nền kinh tế Việt Nam lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Tình hình này làm cho trong Đảng Cộng Sản Việt Nam và ngoài xã hội có nhiều ý kiến tranh luận xoay quanh ba vấn đề lớn:

Cơ cấu sản xuất

Cải tạo xã hội chủ nghĩa

Cơ chế quản lý kinh tế

Các nguyên nhân chính của khủng hoảng:

Chủ quan, nóng vội trong con đường đi lên chủ nghĩa xã hội

Áp dụng mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội bao cấp

Công nghiệp hoá theo lối giản đơn - tập trung vào công nghiệp nặng

[sửa]

Hoạt động của Đại hội

Đại hội đã thảo luận và thông qua các nghị quyết về các văn kiện như :báo cáo chính trị; phương hướng; mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm năm 1986-1990; báo cáo về bổ sung điều lệ Đảng.

Đại hội đã đánh giá những thành tựu những khó khăn của Việt Nam do cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội tạo ra. Những sai lầm kéo dài của Đảng về chủ trương, chính sách lớn về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của nhũng sai lầm đó, đặc biệt sai lầm về kinh tế là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ về hành động đơn giản, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan là khuynh hướng trong buông lỏng quản lý kinh tế, xã hội, không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối nguyên tắc của Đảng đó là tư tưởng vừa tả khuynh vừa hữu khuynh.

Đại hội đã thông qua bản Điều lệ Đảng đã sửa đổi và bầu Ban Chấp hành trung ương khóa VI gồm 124 ủy viên chính thức và 49 ủy viên dự khuyết. Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên chính thức, 1 ủy viên dự khuyết. Ông Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.

[sửa]

Báo cáo chính trị

Báo cáo chính trị nêu ra bốn bài học kinh nghiệm lớn. Báo cáo xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong 5 năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo.

Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc".

Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo qui luật khách quan.

Phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.

Chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.

[sửa]

Mục tiêu kinh tế - xã hội

Mục tiêu cự thể cho những năm còn lại của chặng đường đầu tiên:

Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy.

Bước đầu tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất

Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

Tạo chuyển biến tốt về mặt xã hội

Bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh.

[sửa]

Đổi mới

Đổi mới ở đây không phải là thay đổi mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà được hiểu là thay đổi cách thức để đạt được mục tiêu chủ nghĩa xã hội.

Đổi mới về kinh tế

Xóa bỏ kinh tế bao cấp, thực hiện cơ cấu kinh tế nhiều thành phần

Đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế: cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đổi mới về nội dung và cách thức công nghiệp hóa, thực hiện 3 chủ trương kinh tế:

Sản xuất lương thực, thực phẩm

Sản xuất hàng tiêu dùng

Sản xuất hàng xuất khẩu

Đổi mới về chính trị

Đổi mới vai trò lãnh đạo của Đảng, đổi mới quản lý và điều hành của nhà nước cho phù hợp với cô cấu và cơ chế kinh tế mới.

Đổi mới về quan hệ hợp tác quốc tế theo hướng mở, kêu gọi hợp tác và đầu tư nước ngoài.

[sửa]

Ý nghĩa

Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VI đã tìm ra lối thoát cho cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội, thể hiện quan điểm đổi mới toàn diện đất nước, đặt nền tảng cho việc tìm ra con đường thích hợp đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Những chủ trương, chính sách mới đã gợi mở, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, giải phóng năng lực sản xuất của xã hội để mở đường cho phát triển sản xuất.

Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VII

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

''Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VII'' hay ''Đại hội đại biểu lần VII của Đảng'' diễn ra từ ngày 24 đến ngày 27-6-1991 ở Hà Nội. Tham dự đại hội có tất cả là 1176 đại biểu chính thức thay mặt cho 2.155.022 đảng viên cả nước.Mục lục [ẩn]

1 Bối cảnh lịch sử

2 Hoạt động

2.1 Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội

2.2 Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000

2.3 Kế họach 5 năm 1991-1995

2.4 Hoạt động khác

3 Ý nghĩa

4 Hạn chế và khó khăn

5 Chú thích

6 Xem Thêm

7 Tham khảo

8 Liên kết ngòai

[sửa]

Bối cảnh lịch sử

Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VII diễn ra trong bối cảnh đất nước đang thực hiện công cuộcĐổi mới được đề ra từ Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam VI và đạt được những thắng lợi bước đầu, được nhân dân và quốc tế ủng hộ. tình hình quốc tế và trong nước lúc bấy giờ có nhiều biến chuyển, nhất là sự sụp đổ của khối Đông Âu và cuộc khủng hỏang trầm trọng của Liên Xô[1] .

[sửa]

Hoạt động

Đại hội đã tổng kết đánh giá việc thực hiện đừơng lối đổi mới của đại hội VI, đề ra chủ trương, nhiệm vụ nhằm kế thừa, phát huy những thành tựu, ưu điểm đã đạt được: khắc phục khó khăn, yếu kém mắc phải trong bước đầu đổi mới; ngăn ngừa những lệch lạc phát sinh trong quá trình đó; điều chỉnh bổ sung, phát triển đường lối đổi mới để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới của đất nước tiến lên[2].

[sửa]

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội

Bản cương lĩnh này được thông qua tại Đại hội VII. Đây chính là tổng thể những điểm chủ yếu về mục đích, đường lối, nhiệm vụ cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kì tiếp tục đi lên đổi mới và xây dựng nền kinh tế thị trường[3].

[sửa]

Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000

Do đổi mới đang bước đầu thực hiện dù đã đạt nhiều thành tựu nhưng làn sóng đổi mới thái quá trên một số lĩnh vực gây ra nguy cơ chệch hướng đi lên xã hội chủ nghĩa và sự cầm quyền của Đảng. Trước làn sóng bất ổn kinh tế chính trị tại Đông Âu và Liên Xô, sự sụp đổ của Hệ thống Xã hội chủ nghĩa và những bất ổn mới phát sinh trong quá trình đổi mới, Đại hội VII đã thông qua Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 nhằm bình ổn xã hội, phát triển đất nước đưa đất nước thóat ra khỏi khó khăn.

[sửa]

Kế họach 5 năm 1991-1995

Xúât phát từ đặc điểm tình hình, căn cứ vào mục tiêu của chặng đừơng đầu htời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, Đại hội VII đề ra Kế họach 5 năm 1991-1995 và quyết định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế xã hội của Kế họach là:

Đẩy lùi và kiểm sóat lạm phát

ổn định phát triển và nâng cao hiệu quả nền sản xúât xã hội

Bước đầu ổn định và từng bước cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động.

Bắt đầu có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế

[sửa]

Hoạt động khác

Thông qua Báo cáo chính trị. Bầu Ban chấp hành Trung ương mới gồm 146 ủy viên chính thức và không có ủy viên dự khuyết, bầu Đỗ Mười làm Tổng Bí thư [4].

[sửa]

Ý nghĩa

Đây là Đại hội đầu tiên sau khi đất nước đã tiến hành đổi mới[5]. Kế họach 5 năm 1991-1995 do Đại hội đề ra đã đạt nhiều thành tựu trên các lĩnh vực của sự nghiệp đổi mới:

Nhịp độ phát triển kinh tế cao, những mục tiêu chủ yếu của kế họach hòan thành vượt mức. Tổng sản phẩm trong nước tăng 8,2% /năm. Công nghiệp tăng 13,3% /năm. Sản lượng lương thực tăng 26%. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Dịch vụ tăng 80%. Vận tải tăng 62%. Lạm phát từ 67.1% 1991 giảm còn 12.7% 1995.

Kinh tế đối ngọai phát triển. xuất khẩu đạt 17 tỉ USD. Nhập khẩu 21 tỉ USD. Có quan hệ buôn bán với hơn 100 nước. nhà nước mở rộng quyền xúât nhập khẩu cho tư nhân. Vốn đầu tư nước ngòai tăng 50% đạy trên 19 tỉ USD.

Khoa học công nghệ, văn hóa xã hội phát triển. thu nhập quốc dân tăng và giải quyết được nạn đói.

Chính trị xã hội, quốc phòng an ninh được củng cố

Mở rộng quan hệ đối ngoại, không còn bị bao vây do đã rút quân khỏi Campuchia từ năm 1988. Bình thừơng quan hệ với Mỹ và gia nhập ASEAN năm 1995

[sửa]

Hạn chế và khó khăn

Việt Nam vẫn là nước nghèo. Kinh tế Việt Nam còn mất cân đối, lạc hậu, trình độ kém, thu nhập quốc dân, năng súât còn thấp, đời sống nhân dân khó khăn.

Xã hội nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực tham nhũng, lãng phí, buôn lậu và nhiều tiêu cực còn tồn tại trong nhà nước.

Bắt đầu phân hóa giàu nghèo giữa các vùng và các tầng lớp dân cư.

Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VIII

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

''Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VIII'' hay ''Đại hội đại biểu toàn quốc lần VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam '' diễn ra từ ngày 28-6 đến ngày 1-7-1996 ở Hà Nội. Tham dự đại hội có tất cả là 1198 đại biểu chính thức thay mặt cho 2.130.000 đảng viên cả nước.Mục lục [ẩn]

1 Bối cảnh lịch sử

2 Hoạt động

2.1 Kế họach 5 năm 1996-2000

2.2 Hoạt động khác

3 Ý nghĩa

4 Hạn chế và khó khăn

5 Chú thích

6 Xem Thêm

7 Tham khảo

8 Liên kết ngòai

[sửa]

Bối cảnh lịch sử

Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VIII diễn ra trong bối cảnh đất nước đã trải qua việc thực hiện công cuộc Đổi mới được đề ra từ Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam VI hơn 10 năm và đạt được những thắng lợi to lớn, được nhân dân và quốc tế ủng hộ[1] .

[sửa]

Hoạt động

Đại hội đã tổng kết đánh giá, kiểm điểm 10 năm thực hiện đừơng lối đổi mới của đại hội VI và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội 7, đề ra chủ trương, nhiệm vụ nhằm kế thừa, phát huy những thành tựu, ưu điểm đã đạt được; điều chỉnh bổ sung, phát triển đường lối đổi mới để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới của đất nước tiến lên[2]. Xúât phát từ đặc điểm tình hình đất nước và từ nhận định Việt Nam đã thóat ra khỏi khủng hỏang kinh tế xã hội cũng như căn cứ vào Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, Đại hội khẳng định tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, nhấn mạnh nước ta đã chuyển sang thời kì phát triển mới, thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

[sửa]

Kế họach 5 năm 1996-2000

Xúât phát từ đặc điểm tình hình, căn cứ vào mục tiêu của chặng đừơng đầu thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, Đại hội VIII đề ra Kế họach 5 năm 1996-2000 và quyết định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế xã hội của Kế họach là:

Đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách tòan diện và đồng bộ.

Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.

Phấn đấu đạt và vượt mục tiêu tăng trưởng knih tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội.

Cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao tích lũy từ nội bộ nền kinh tế

[sửa]

Hoạt động khác

Thông qua Báo cáo chính trị. Bầu Ban chấp hành Trung ương mới gồm 170 ủy viên chính thức và không có ủy viên dự khuyết, bầu Lê Khả Phiêu làm Tổng Bí thư [3].

[sửa]

Ý nghĩa

Kế họach 5 năm 1995-2000 do Đại hội đề ra đã đạt nhiều thành tựu trên các lĩnh vực của sự nghiệp đổi mới:

Phát triển kinh tế vẫn giữ được nhịp độ cao, những mục tiêu chủ yếu của kế họach hòan thành vượt mức. Tổng sản phẩm trong nước tăng 7% /năm. Công nghiệp tăng 13,5% /năm. Cơ cấu kinh tế thay đổi, tỉ trọng công nghiệp tăng lên 36.6% và tỉ trọng nông nghiệp giảm còn 24.3%

Kinh tế đối ngọai phát triển. xuất khẩu đạt 51.6 tỉ USD. Nhập khẩu 61 tỉ USD. Có quan hệ buôn bán với hơn 140 nước. nhà nước mở rộng quyền xúât nhập khẩu cho tư nhân. Vốn đầu tư nước ngòai tăng, đạt trên 40 tỉ USD. Bắt đầu đầu tư sang các nước khác.

Khoa học công nghệ, văn hóa xã hội phát triển. 100% tỉnh thành đạt tiêu chuẩn phổ cập giáo dục, xóa xong nạn mù chữ.thu nhập quốc dân tăng và giải quyết được nạn đói.

Chính trị xã hội, quốc phòng an ninh được củng cố, quan hệ đối ngoại được mở rộng.

[sửa]

Hạn chế và khó khăn

Kinh tế Việt Nam còn phát triển chưa vững chắc, lạc hậu, trình độ kém, thu nhập quốc dân, năng súât còn thấp, đời sống nhân dân khó khăn, tỉ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm cao.

Xã hội nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực tham nhũng, lãng phí, buôn lậu và nhiều tiêu cực còn tồn tại trong nhà nước.

Trình độ khoa học kĩ thuật kém không đáp ứng nhu cầu đất nước. Tình trạng chảy máu chất xám xúât hiện.

Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam IX

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

''Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam IX'' hay ''Đại hội đại biểu toàn quốc lần IX của Đảng Cộng sản Việt Nam '' diễn ra từ ngày 19 đến ngày 22-4-2001 ở Hà Nội. Tham dự đại hội có tất cả là 1168 đại biểu chính thức thay mặt cho 2.479.719 đảng viên cả nước[1].Mục lục [ẩn]

1 Bối cảnh lịch sử

2 Hoạt động

2.1 Kế họach 5 năm 2001-2005

2.2 Hoạt động khác

3 Ý nghĩa

4 Hạn chế và khó khăn

5 Chú thích

6 Xem Thêm

7 Tham khảo

8 Liên kết ngòai

[sửa]

Bối cảnh lịch sử

Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam IX là đại hội đầu tiên trong thế kỉ XXI của Đảng, diễn ra trong bối cảnh đất nước đã trải qua việc thực hiện công cuộc Đổi mới được đề ra từ Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam VI hơn 15 năm và đạt được những thắng lợi to lớn, được nhân dân và quốc tế ủng hộ.

[sửa]

Hoạt động

Đại hội đã tổng kết đánh giá, kiểm điểm 15 năm thực hiện đừơng lối đổi mới của đại hội VI và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội 8, đề ra chủ trương, nhiệm vụ nhằm kế thừa, phát huy những thành tựu, ưu điểm đã đạt được; điều chỉnh bổ sung, phát triển đường lối đổi mới để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới của đất nước tiến lên trong thời đại mới[2]. Xúât phát từ đặc điểm tình hình đất nước và quốc tế, Đại hội khẳng định tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội cũng đã đề ra chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm (2001-2010).

[sửa]

Kế họach 5 năm 2001-2005

Xúât phát từ đặc điểm tình hình trong và ngòai nước Đại hội IX đề ra Kế họach 5 năm 2001-2010 và quyết định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế xã hội của Kế họach là:

Đưa đất nước thóat khỏi tình trạng kém phát triển.

Nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần nhân dân

Tạo nền tảng để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

[sửa]

Hoạt động khác

Thông qua Báo cáo chính trị. Bầu Ban chấp hành Trung ương (BCH TW) mới gồm 150 ủy viên chính thức và không có ủy viên dự khuyết, bầu Nông Đức Mạnh làm Tổng Bí thư . Bầu Bộ chính trị gồm 15 thành viên và hủy bỏ chức danh Cố vấn BCH TW [3].

[sửa]

Ý nghĩa

Kế họach 5 năm 2001-2005 do Đại hội đề ra đã đạt nhiều thành tựu trên các lĩnh vực của sự nghiệp đổi mới:

Phát triển kinh tế vẫn giữ được nhịp độ cao, những mục tiêu chủ yếu của kế họach hòan thành vượt mức. Tổng sản phẩm trong nước tăng 8% /năm. Công nghiệp tăng nhanh. Cơ cấu kinh tế thay đổi tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng lên và tỉ trọng nông nghiệp giảm.

Kinh tế đối ngọai phát triển. Bắt đầu đầu tư sang các nước khác nhất là Lào và Campuchia cũng như một số nước Châu Phi.

Khoa học công nghệ, văn hóa xã hội phát triển.

Chính trị xã hội, quốc phòng an ninh được củng cố, quan hệ đối ngoại được mở rộng.

[sửa]

Hạn chế và khó khăn

Kinh tế Việt Nam còn phát triển chưa vững chắc, lạc hậu, trình độ kém, thu nhập quốc dân, năng súât còn thấp, đời sống nhân dân khó khăn, tỉ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm cao.

Xã hội nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực tham nhũng, lãng phí, buôn lậu và nhiều tiêu cực còn tồn tại trong nhà nước.

Trình độ khoa học kĩ thuật kém không đáp ứng nhu cầu đất nước. Tình trạng chảy máu chất xám gia tăng.

Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam X

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Một pano kêu gọi thực hiện nghị quyết của Đại hội X

Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam X, được gọi chính thức là Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X là đại hội lần thứ mười của Đảng Cộng sản Việt Nam, được tổ chức từ ngày 18 đến 25 tháng 4 năm 2006 tại Hà Nội. 1.176 đại biểu, đại diện cho 3,1 triệu đảng viên đã tham dự lễ khai mạc.

Chủ đề của Đại hội là: "Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển".

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 160 ủy viên chính thức và 21 ủy viên dự khuyết, với Bộ Chính trị gồm 14 thành viên.Mục lục [ẩn]

1 Diễn biến trước Đại hội

2 Diễn biến trong đại hội

3 Quan điểm mới

4 Danh sách Bộ Chính trị và Ban Bí thư Ban Chấp hành Trung ương khóa X

5 Tham khảo

6 Liên kết ngoài

[sửa]

Diễn biến trước Đại hội

Ngày 3 tháng 2, 2006, lãnh đạo Đảng Cộng sản đã phát động phong trào xin ý kiến nhân dân về Dự thảo Báo cáo của Đảng. Trong thời hạn một tháng Văn phòng trung ương Đảng đã nhận trên 1.400 lá thư góp ý về đường lối đảng. Ngoài ra người dân cũng gửi ý kiến của mình (thư viết tay, thư điện tử) đăng trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Nhiều báo chí Việt Nam đã mở các diễn đàn, đưa ý kiến của các trí thức về định hướng của Đảng. Những ý kiến đề nghị chỉnh sửa đáng chú ý nhất gồm có: việc đảng viên làm kinh tế tư nhân, địa vị của Đảng Cộng sản trong Điều 4 của Hiến pháp, và việc bầu ủy viên Trung ương dự khuyết.

Vụ PMU 18 đã gây xôn xao dư luận tại Việt Nam. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết thư gửi Đảng Cộng sản yêu cầu chính thức đưa vụ PMU18 vào nghị trình họp của Đại hội Đảng. Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Đào Đình Bình xin từ chức, Thứ trưởng Nguyễn Việt Tiến bị bắt tạm giam. Cùng với hai quan chức này, Phó Tổng Cục trưởng Tổng Cục Cảnh sát Cao Ngọc Oánh đã rút tên ra khỏi danh sách dự đại hội vì có liên quan đến vụ này.

[sửa]

Diễn biến trong đại hội

Trừ lễ khai mạc và bế mạc, diễn biến trong đại hội không công khai cho báo chí. Lần đầu tiên, các đại biểu được quyền đề cử Tổng Bí thư. Các nhà quan sát dự đoán Thủ tướng Phan Văn Khải và Chủ tịch nước Trần Đức Lương sẽ về hưu.

Đại hội đã bầu một Ban Chấp hành trung ương với 160 thành viên chính thức và 21 thành viên dự khuyết. Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh được bầu lại nhiệm kỳ thứ nhì. Bộ Chính trị mới gồm có 14 thành viên và Ban Bí thư có 8 thành viên.

[sửa]

Quan điểm mới

Đảng viên làm kinh tế tư nhân không giới hạn về quy mô - Việc Đại hội ra Nghị quyết cho phép Đảng viên của Đảng được làm kinh tế tư nhân, kể cả kinh tế tư bản tư nhân là bước tiến quan trọng trong nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam sau 20 năm đổi mới, thể hiện bước đột phá trong thay đổi tư duy của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro