c4-11

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

← Hồi thứ tư: DÂM QUỶ NHẬP TRÀNG

Hồi thứ sáu: SÀO HUYỆT PHÙ THỦY →

November 6, 2013 • 9:59 am

↓ Jump to Comments

Hồi thứ năm: HÃM THI BÙA

Lại nói chuyện gã béo lùn và Cao Tiến bàn bạc với nhau ở hồi trước. Lúc này, Cao Tiến mới hỏi:

– Đặng Mậu Lân xem ra càng ngày càng hoành hành ngang ngược, chẳng lẽ chúa thượng không biết hay sao mà lại để như thế?

Gã béo lùn đáp:

– Từ sau vụ án năm Canh tý, thì bè đảng của Thị Huệ và Huy quận công[1] ngày càng lớn mạnh hơn bao giờ hết, chẳng những không coi triều thần quan lại ra gì, mà ngay cả đến chúa cũng có ý xem nhẹ. Bây giờ chúa bị bệnh nặng, e chừng cũng không kéo dài được bao lâu, thế tử thì đang bị giam hãm, cũng coi như đã phế mất thế lực này rồi, những người theo phò cũng phải tính mưu lâu dài mà tìm chúa mới chứ.

Tiến lại hỏi:

– Chẳng hay dạo này thế tử ra sao rồi?

Gã béo lùn đáp:

– Bị giam ở một căn nhà nhỏ trong phủ liêu, cơm bưng nước rót tận nơi, một bước cũng không được ra ngoài, thực chẳng khác gì đi tù. Mà theo như ta thấy thì sau này cũng khó có khả năng làm nên việc lớn nữa.

– Không được gặp bất cứ một ai sao?

– Chính phải, ngoài ta lo chuyện hầu hạ ngài ra, chẳng có ai được đến bên hắn nữa.

Tiến lại hỏi:

– Ta hỏi câu này, ông có thì trả lời, không thì để trong bụng thì ta mới dám nói. Cao Tiến thận trọng nói.

Gã béo lùn đáp:

– Ông bạn à, tôi với ông chơi với nhau từ nhỏ, lẽ nào còn có gì giấu diếm nhau nữa hay sao?

Cao Tiến nhìn quanh một lúc, thấy chừng không có ai bên cạnh ngoài Quyết đang nhìn ngắm con gà nhạn bên cạnh, bèn hỏi khẽ:

– Ông có biết ông đang có một cơ may trời cho hay chăng?

Gã béo lùn dường như không hiểu. Tiến bèn nói thêm.

– Ông thực là nhìn thế thời gần quá. Không phải ai cũng đều theo phe Hoàng Đình Bảo cả đâu, ta nói ông nghe nhé, trong triều, ai mà chẳng phải dùng cái miệng không thực lòng mình? Số người ủng hộ Trịnh Cán lên chúa chưa chắc đã được một nửa đâu, nhưng mà thế tử bây giờ bị giam nơi đầm rồng hang cọp, tính mạng như ngọn đèn leo lắt, thì ắt là họ phải tính kế để bảo toàn lấy thân đã.

Gã béo lùn lại đáp:

– Những chuyện quan trường ta cũng không rành rọt lắm, cũng chỉ là một tay đầu bếp trong phủ thôi, thành ra có hiêu những chuyện đó cũng đâu có tác dụng gì đâu?

Tiến cười vang, một lát sau mới nói:

– Ông bạn của ta thực thà quá đi mất thôi. Anh hùng đâu cứ phải là con nhà danh gia, một đầu bếp như ông cũng có thể làm nên nghiệp mà. Trời cho ông cơ hội mà không biết nắm lấy, há chẳng phải lãng phí quá hay sao?

– Ta có cơ hội gì cơ? Gã béo lùn hỏi.

– Ông chẳng phải là người duy nhất được tiếp xúc với vương tử Khải hay sao?

– Đúng thế!

Tiến lại nói:

– Chỉ cần ông làm theo lời ta, thì chắc chắn sẽ có thể làm nên việc lớn. Chỉ là ông có muốn hay không mà thôi.

– Làm nên việc lớn, tất nhiên là tốt chứ. Gã béo lùn lại đáp.

– Nếu vậy ông cùng ta, giúp vương tử Khải lên được ngôi chúa, thì chẳng phải là vinh hoa phú quý tha hồ mà thụ hưởng hay sao? Tiến đáp.

Gã béo lùn giật mình nói:

– Ấy ông chớ có đùa, chuyện này là chuyện chém đấu đấy. Ông là người của Huy quận công, lại nói với ta những chuyện này, chẳng phải là muốn thử lòng ta sao?

Tiến đáp:

– Nếu ông không tin ta, vậy đành phải chứng minh cho ông thấy thôi.

Nói đoạn, Tiến rút trong túi ra một con dao, đặt ngón tay trỏ xuống đất, rồi giơ dao chặt phăng ngón tay lão, máu từ ngón thay vọt ra tung tóe, chỉ trong chốc lát, máu đã đẫm cả một vạt cỏ. Gã béo lùn và Quyết thấy Tiến làm thế đều cả kinh. Lúc này Tiến mới lấy một cái khăn bịt vết thương lại.

Gã béo lùn một lúc lâu sau mới nói được thành tiếng:

– Ông bạn ơi, hà tất ông phải làm như thế, chúng ta từ bé lớn lên với nhau, cùng đam mê chọi gà, ông nói thì ta tất tin mà thôi, chỉ là ta thuận miêng nói như thế, ông làm thế này, ta thực tổn thọ đến vài năm mất thôi.

Tiến đáp:

– Chỉ cần ông tin ta, thì không việc gì là ta không làm được.

Gã béo lùn áy náy đáp:

– Ông không cần chặt ngón tay ta cũng tin ông. Từ bé ông đã thông minh hơn người, sau lại được theo học thầy hay, những chuyện bùa ngải, niệm chú, điều khiển âm binh thiên tướng, có gì là ông không làm được?

Tiến lại đáp:

– Ông đã tin ta như thế thì có phải đã nhất trí cùng ta dựng chúa được chăng?

Gã béo lùn đáp:

– Xin nghe theo ông, xin nghe theo ông.

Tiến cười ha hả, lại đưa bàn tay cho gã béo lùn xem. Gã béo lùn thấy bàn tay Tiến vẫn còn nguyên cả năm ngón tay, dù máu vẫn còn dính đấy trên tay Tiến và mặt đất, thì ngạc nhiên lắm. Tiến biết vậy bèn đáp:

– Ông thực thà quá, ta chỉ cần gập ngón tay lại, khi dao chặt xuống thì hất một đoạn ngón tay giả ra rồi bóp cái túi đựng sẵn tiết lợn này thì ông đã bị lừa rồi.

Gã béo lùn tức giận:

– Ông thực tinh ranh quỷ quyệt.

Tiến đáp:

– Ta không muốn lừa ông, chỉ muốn ông biết là nếu ta muốn lừa ai, thì chỉ là việc dễ dàng như lấy vật trong túi mà thôi. Cho nên, ông nghe theo ta thì mười phần chắc đến chín. Mà ta có muốn thử ông thì thiếu gì cách để lừa mà phải nói thẳng với ông như thế. Ông thực là phụ tấm lòng tốt của ta. Dự Vũ à, người bạn tốt như ông, ta thực không có phúc được hưởng.

Gã béo lùn thấy Tiến nói có lý quá, mà lại có ý giận mình, bèn nói:

– Được đươc, ta nghe ông, ta nghe ông.

Thế là tối hôm đấy, Tiến và Vũ (tức gã béo lùn) về nhà Tiến đánh chén một trận no say. Tiến trước sau vẫn mang theo Quyết bên mình, rất để ý đến Quyết, dường như Quyết đóng vai trò rất quan trọng trong dự định của gã.

Đầu đuôi câu chuyện về vương tử Trịnh Khải kể ra cũng thực dài dòng, ở đây cũng chỉ xin thuật lại vắn tắt. Nguyên là Tĩnh đô vương Trịnh Sâm có người con cả tên là Trịnh Khải. Mẹ của Trịnh Khải vốn là một cung tần tên là Dương Thị Ngọc Hoan. Một đêm nọ, Ngọc Hoan mơ thấy có thần cho tấm vải có vẽ hình đầu rồng, bèn nói với hoạn quan Khê Trung Hầu, hai người đều cho rằng đấy là điềm báo sinh ra con thánh. Trịnh Sâm sai Khê Trung Hầu gọi cung tần Ngọc Khoan, nhưng Khê Trung hầu vờ nghe nhãng tai, sắp xếp đưa Hoan vào thay cho Khoan hầu hạ chúa. Chúa biết mà không nỡ đuổi ra. Sau đó, Ngọc Hoan đã có mang, sinh ra Khải. Khải lớn lên khôi ngô, tuấn tú nhưng chúa không hề yêu quý do chúa cũng không yêu Ngọc Hoan. Hơn nữa, Trịnh Sâm cho rằng, giấc mơ rồng là điềm làm vua chúa, nhưng rồng vẽ không phải là rồng thật, lại không có đuôi, ắt là cơ nghiệp không bền. Trịnh Sâm không muốn phong cho Khải làm thế tử, việc học tập được giao cả cho các quan; đến khi Khải đủ tuổi ra ở riêng, chúa cũng lờ luôn.

Tuyên phi Đặng Thị Huệ là người được chúa yêu chiều, sinh được con trai Trịnh Cán năm. Vì thế lực của Tuyên phi, nhiều triều thần ngả theo, thế lực rất lớn. Tuyên phi muốn giành ngôi Thế tử cho con trai, khiến nội bộ triều đình chia rẽ, một bên là phe Trịnh Cán, bên kia là phe Trịnh Khải.

Khải biết được âm mưu của Đặng Thị Huệ, lại nghe tin Trịnh Sâm có bệnh, sợ cha chết mà Tuyên phi ở gần thì mình sẽ bị gạt ra ngoài, bèn chiêu binh làm binh biến Năm đó, Khải mới có mười bảy tuổi. Mọi việc bị bại lộ, Khải bị Sâm truất làm con út, cho là đứa con bất hiếu, một loạt triều thần ủng hộ Khải bị xử tử. Đó chính là Vụ án năm Canh Tý. Chuyện hai người Tiến và Vũ bàn bạc chính là sau khi Khải đã bị giam lỏng trong phủ.

Những ngày này, Quyết ở lại Thăng Long cùng với Tiến. Mặc dù gã rất để mắt đến Quyết nhưng một là bận việc với Vũ, hai là hắn cũng biết Quyết cũng chẳng dại gì bỏ đi để bị chết đói thêm lần nữa, nên cũng không quản hắn gắt gao. Mà Quyết thì cả ngày không có việc gì làm, nên cũng rất buồn chán, hắn thường lang thang xung quanh nhà Tiến để chơi. Khi đó Thăng Long vốn là nơi nhộn nhịp nên cũng có rất nhiều trò vui tiêu khiển. Khi thì Quyết ngồi xem đánh cờ, khi thì xem chọi gà, có khi hắn đi bộ ra tận bến sông ngắm nhìn những người buôn bán trên đó. Cuộc sống rất là ung dung tự tại.

Có một hôm, khi hắn đang đi bộ trên phố thì thấy có một ông già. Đi bên cạnh ông còn có một người trẻ tuổi áng chừng là tiểu đồng hoặc học trò của ông, nhìn dáng bộ rất mực kính cẩn.

Ông lão tay cầm một cái gói lớn rất cẩn thận. Chắc là món đồ trong đó quý giá lắm nên ông phải tự mình mang trong khi tên học trò thì đi người không. Đột nhiên từ xa có tiếng vó ngựa, chỉ một chốc lát tới gần ông già và tên học trò. Quyết nhận ra đám người ngựa này chính là Đặng Mậu Lân và đám thuộc hạ, hắn vội quay người lại để không bị nhận ra. Hình như gã Lân này đang bận công việc gì đó rất gấp nên cũng không nhận ra hắn. Nhưng khi đi ngang qua ông già tóc bạc kia, do ngựa phi quá nhanh mà ông lão thì thì chậm chạp nên ông già bị loạng choạng, may mắn mà không bị ngã. Có điều, cái bọc ông cầm cẩn thận trên tay đã bị văng xuống đất mất rồi. Một tên tay chân của Mậu Lân quay đầu lại chửi ông cụ một câu thực tục tĩu, rồi nhổ một bãi nước bọt. Trong thành ai cũng biết đấy là Lân nên cũng không lạ khi hắn và thuộc hạ cư xử vô phép tắc thế. Chỉ có ông cụ ngoảnh đầu lại:

– Ai mà ngang ngược thế không biết.

Mọi người nghe ông nói thế, đều biết ông cụ là người ở xa đến. Lại nói, lúc này lớp giấy bọc bị rách nên mọi người đều nhìn thấy vật ông già kia cầm là một cỗ áo quan. Cỗ áo quan này thực là rất tinh xảo, được may bằng lụa tốt, rất công phu, mà những hình thêu cũng thực cầu kỳ, hiếm có.

Lúc này Quyết nhìn thấy cỗ áo quan đó, theo thói quen, hắn nhìn rất kỹ bộ áo quan, thấy đúng là một loại áo quan thượng hạng. Nhưng có một điều rất lạ đó là tất cả chỉ thêu đều dùng loại chỉ có hai màu đỏ và vàng, màu sắc rất sặc sỡ, dường như là phát ra ánh sáng.

Ông cụ tội nghiệp lật đật nhặt gói đồ lên, định đi tiếp. Đột nhiên Quyết gọi ông cụ lại:

– Ông ơi!

Ông cụ đáp:

– Cháu gọi gì ta thế?

– Cháu có thể xem cỗ áo một chút được không ạ?

Ông cụ ngần ngừ chưa quyết, gã học trò nói:

– Không phải đồ chơi đâu cậu bé.

Quyết lại nói:

– Cháu không chơi, xin cho cháu xem một chút được không?

Quyết nói với thái độ rất quả quyết. Gã học trò định bỏ đi mặc kệ Quyết thì ông cụ quay lại nói:

– Cháu à, đây là áo mặc cho người chết, cháu không sợ hay sao?

– Cháu không sợ, nhà cháu làm nghề khâm liệm. Cháu được bố tập cho khâm liệm từ năm lên sáu tuổi. Ông có thể cho cháu xem cỗ áo được không? Cháu có chuyện quan trọng.

Ông già thấy ngạc nhiên quá, vì Quyết nói xuất thân từ nhà khâm liệm, là vì hiếm có nhà nào làm nghề khâm liệm, thứ nữa là cho con đi khâm liệm từ khi còn rất bé như thế. Ông cụ bèn nói:

– Được, ta cho cháu xem.

Rồi ông cụ chìa cỗ áo ra cho Quyết xem. Quyết lần theo lưng áo, quả nhiên thấy đường chỉ màu đỏ hồng may vắt chéo hai đường rất tinh tế đằng sau áo tạo thành một hình loằng ngoằng nhìn rất đẹp mắt. Quyết thấy thế liền thốt lên:

– Cái áo này....

Ông cụ thấy thái độ Quyết như thế bèn hỏi:

– Làm sao, làm sao?

Quyết đáp:

– Cháu nói, nếu không đúng ông đừng đánh cháu nhé?

Ông cụ lấy làm lạ lắm, bèn hỏi tiếp:

– Được, ông không đánh cháu đâu.

Quyết nói:

– Cái áo này, đã bị yểm bùa rồi.

Ông cụ cả kinh, tay nắm chặt lấy tay Quyết mà hỏi:

– Sao lại có chuyện lạ đời như thế?

Quyết nói tiếp:

– Ông nhìn xem, đây là loại chỉ được ngâm tẩm nhựa cây thị, mà nhựa thị làm đen quần áo thì ai cũng biết, vì thế, để giấu cái màu thâm quầng của nhựa đấy đi, người ta phải nhuộm thứ thuốc nhuộm thượng hạng này. Cái này cháu đã được bố cháu dạy rất kỹ. Chỉ cần nhìn thấy loại chỉ này trên cỗ áo quan, thì phải khuyên người nhà thay ngay loại áo khác.

Cụ già lại hỏi:

– Tại sao lại như thế?

Quyết đáp:

– Có nhiều người muốn yểm bùa xác người mới mất để thâu nạp những vong hồn của người đã khuất đấy về làm việc cho mình, gọi là âm binh. Nhưng những thầy phù thủy mà dùng thủ đoạn này thường không phải là giỏi lắm vì họ chẳng có tài đi thu nạp vong mạnh ngoài thế gian, chỉ là nhân lúc hồn chưa rời khỏi xác, làm một ma thuật nhỏ để khống chế hồn người vừa mất thôi. Thế nên người làm khâm liệm rất quan trọng, phải có kiến thức về những chuyện như thế này thì mới giúp gia chủ tránh khỏi những chuyện gian trá như thế.

Gã học trò xen vào:

– Thưa thầy, thằng quỷ con này chỉ nói lung tung để gạt người thôi, làm sao tin được. Cỗ áo này, thầy cất công mua tại quê nhà, thì làm sao mà có chuyện như thế được. Thằng nhóc kia, ngươi định lừa gạt tiền của thầy ta phải không?

Thì ra gã học trò này thấy tướng mạo của Quyết gầy gò như chết đói, mặc dù quần áo hắn mặc không còn rách rưới như khi ở quê nữa nhưng vẫn nghi ngờ. Quyết thấy gã học trò nói thế, tức quá, đứng dậy ra về. Ông cụ cũng chưa tin hẳn, nhưng thấy Quyết nói quả quyết thế thì cũng không yên tâm, bèn gọi cậu lại. Nhưng bóng Quyết đã khuất sau con phố mất rồi.

Chợt nghe trên phố có tiếng nói:

– Thực là trung ngôn thì nghịch nhĩ, những lời thực thì chẳng ai coi ra gì, chỉ chăm chăm nhìn vào cái vẻ ngoài của người ta, đúng là phàm phu tục tử.

Hai thầy trò nghe nói thế thì quay lại, thấy một cụ già khác đang ngồi đánh cờ gần đó đang vừa cầm hai quân cờ vừa ăn được gõ vào nhau, ông cụ này nhìn vẻ ngoài thì tóc râu bạc phơ, nhưng ánh mắt đen láy, sáng lạ thường, lại thêm da dẻ căng mịn, không một chút đồi mồi nào, rất là kỳ lạ. Ông cụ lại nói tiếp:

– Trên đời có người nhận ra được cái thứ bùa ngải hại người trên áo quan không nhiều, lại dám nói ra chuyện bao đồng như thế lại càng khó kiếm. Thắng nhỏ kia thực là có lòng tốt, nhưng xem chừng đặt nhầm chỗ rồi.

Lúc này cả đám đông đánh cờ đang vây quanh bàn cờ đều nhìn chằm chằm vào hai thầy trò người cầm áo quan. Lúc này ông già cầm cỗ áo quan tiến lại gần ông già đánh cờ mà nói:

– Tôi tên là Lê Hữu Trác, từ xa đến kinh thành, lại mang theo cỗ áo quan này để làm một việc rất là hệ trọng. Trong lòng tâm đắc mua được món đồ tốt, nên cậu bé nói như thế, lại bỏ đi nhanh quá, tôi cũng chưa biết tính sao, cũng không dám không tin, nhưng nhất thời cũng hơi phân vân, mong cụ chỉ bảo cho.

Lúc này mọi người đều ồ lên một tiếng. Thì ra đây là Hải thượng lãn ông Lê Hữu Trác, danh y nổi danh khắp Đại Nam khi bấy giờ. Người ta đồn rằng hễ người bệnh nặng đến đâu, chỉ cần còn thở là vị danh y này có thể cứu được. Lại có người nói rằng Cụ Trác ngày còn trẻ đã phải lặn lội ra những chiến trường ác liệt, mổ những tử thi đã chết để nghiên cứu cách chữa bệnh cho người. Lại có người cho rằng cụ không phải là thấy thuốc, mà là vị tiên trên trời bị đày xuống thế gian vì mắc một tội lỗi nào đó. Ngoài ra còn nhiều tin đồn khác nữa. Nguyên là lúc này, danh y Lê Hữu Trác được triệu về kinh để chữa bệnh cho vương tử Cán đang bị bệnh, đến kinh thành đã được mấy tháng mà mới chỉ được vào phủ chúa có một lần, nhưng cụ lại chữa được bệnh cho rất nhiều người trong kinh, chẳng những quan lại cũng như thường dân, ai nhờ cụ cũng giúp cho. Có một lần có một nhà quan đang nhờ cụ xem thai giúp người cháu dâu, cùng lúc đấy lại có một người dân thường đến xin xem giúp cho người bệnh nặng sắp chết. Cụ đã gác việc đến xem thai cho cháu dâu quan mà đến nhà người dân nghèo kia trước, và nói là phép trị bệnh không tính trước sau, mà tính nặng nhẹ. Từ ấy, tiếng tăm và tấm lòng nhân nghĩa của cụ vang khắp kinh thành và cả tứ trấn xung quanh.

Vì thế nên, nghe cụ già nói thế, thì tất thảy mọi người đều ồ lên một lượt. Ông cụ đánh cờ cũng bỏ dở ván cờ, đứng dậy rất là cung kính mà nói với cụ Trác:

– Chết thật, tôi không biết cụ là Hải Thượng lãn ông, lại ăn nói hàm hồ, cạnh khóe móc máy, thực là không phải rồi.

Cụ Trác dường như không để bụng chuyện ông già kia vừa mắng nhiếc mình xong mà chỉ quan tâm tới chuyện cái áo quan, bèn nói:

– Không dám, không dám, tôi thực là cũng không phải, cậu bé có lòng tốt thế, mà lại phụ lòng người ta mất rồi. Nhưng tôi chưa hiểu rõ đầu đuôi câu chuyện ra sao, nên mong cụ chỉ bảo cho.

Ông cụ đánh cờ thấy thế, bèn mời cụ Trác vào một quán nước ven đường để trò chuyện. Ông vừa nhâm nhi chén trà mạn vừa nói:

– Những điều cậu bé vừa rồi nói, quả thực là đều đúng cả. Cái áo quan cụ đang cầm đã bị yểm "hãm hồn bùa" mất rồi, không thể dùng được nữa đâu. Loại bùa này vốn được người Miên chế ra, không hiểu làm sao lại xuất hiện ở đây. "Hãm thi bùa" là dùng một loại chỉ đặc biệt để may áo quan, loại chỉ này hãm không cho hồn người chết được siêu thoát mà phải đầu nhập vào đám âm binh của người yểm bùa. Loại bùa này mặc dù mức độ độc ác còn kém xa các loại bùa khác, nhưng ít khi thấy ai dùng, vì chỉ có thầy phù thủy kém cỏi mới phải làm chuyện như thế, điều này cậu bé đã nói cho cụ hay rồi đó.

Cụ Trác than:

– Than ôi, sao lại có người độc ác đến vậy! Tôi thực lòng không thể nào ngờ được trên thế gian lại có chuyện kỳ lạ như vậy.

Cụ già đánh cờ nói:

– Tôi còn thấy một chuyện kỳ lạ khác nữa cơ.

Cụ Trác hỏi:

– Chẳng hay đấy là chuyện gì?

Đáp:

– Tôi xin lỗi vì suy nghĩ vô phép thế này, cụ là danh y bậc nhất cả nước, tài năng cải tử hoàn sinh của cụ không ai không biết, thế mà cụ mang một cỗ áo quan đi lại như thế, mà áo quan là thứ chuẩn bị như thế, thực là có chút tiếu lâm.

Cụ Trác cười nhẹ đáp:

– Con người ai mà không chết, chỉ là sớm hay muộn thôi. Mấy từ "cải tử hoàn sinh" thực là không dám nhận lấy. Có điều tôi mang tấm áo này đi là vì có tâm sự riêng. Cụ đã hỏi thì tôi xin kể thực.

Thì ra đâu đuôi câu chuyện như sau[2]: Nguyên là thời còn trẻ, danh y Lê Hữu Trác đã có hôn ước với quan thừa tư tham chính ở trấn Sơn Nam, hai bên đã làm lễ vấn danh và ăn hỏi rồi, nhưng vì có việc trở ngại mà vị danh y này đã phải về Hương Sơn rồi ở luôn tại đó đến năm sáu năm. Khi trở lại tìm gặp thì quan tham chánh đã mất mà không tìm được người con gái kia đâu, tìm mãi không gặp được, ngài đành trở về quê.

Đến năm ngoái, khi được lệnh lên kinh chữa bệnh cho vương tử Cán, thì nhân một dịp tình cờ có hai bà sư già đến để khuyến hóa đúc một quả chuông lớn. Thực là trùng hợp, một trong hai bà sư già đó lại là người con gái quan tham tụng năm xưa, bây giờ là bà sư già chùa Huê Cầu. Chuyện này quả đúng là ngẫu nhiên khó ngờ. Thì ra người con gái kia vì đã coi mình là người của cụ Trác, lại không có tin tức gì, nghĩ là mình bị ruồng bỏ, bèn cắt tóc đi tu. Giả như hai người được gặp nhau sớm hơn thì đã không có chuyện lỡ làng này, nhưng hai người gặp lại nhau muộn quá, thành ra cả đời con gái của quan tham tụng năm xưa coi như bị bỏ phí. Vì chuyện này mà cụ Trác rất lấy làm ân hận. Nhưng vị sư già kia thì cũng chẳng oán trách gì. Từ đó hai người vẫn liên lạc với nhau. Một lần bà sư kia nói rằng ở trong Nghệ áo quan làm tốt lắm, mà lại sợ sau này khuất đi không có ai lo cho, nên nhờ cụ Trác kiếm giúp một cỗ, để đề phòng sau này chuyện đến bất ngờ.

Cụ Trác nghe đến mà xót xa quá, bèn đặt năm quan tiền, nhờ người về nhà mua giúp. Đến hôm qua, có thuyền từ trong Nam ra, cỗ áo quan cụ đặt được đưa tới, thì hôm nay cụ đang định mang đến chỗ bà sư kia đề hoàn thành tâm niệm cho bà. Không ngờ lại xảy ra chuyện đồng cốt phù thủy kia.

Cụ Trác kể một hồi rất lâu mới dứt câu chuyện. Ông cụ đánh cờ lúc nãy chăm chú lắng nghe, đến khi kết thúc, cũng không nói gì. Cả hai người trầm ngâm một lúc lâu, cụ Trác lại mở lời:

– Đầu đuôi câu chuyện là như thế, chuyện này đúng là nỗi ân hận của tôi. Đến bây giờ cũng không biết làm thế nào nữa, chỉ còn cách cố gắng thực hiện tâm nguyện cuối cùng của người ta mà thôi. Nếu lần này mà lại đem biếu cỗ áo quan này, thì thực là kiếp này chẳng phải đã nợ lại càng thêm nợ người ta hay sao? Ngẫm lại cũng là may mắn, rất là may mắn. Không có cậu bé kia, thì e rằng...

Ông cụ đánh cờ lại nói:

– Tôi quả cũng rất thích thằng bé kia, tính tình thẳng thắn trung hậu, thực thà nghĩa khí, thời buổi bây giờ, kiếm được người như thế, thật khó, thật là khó...

Cụ Trác lại nói:

– Vừa nãy trong lúc nhất thời bối rối, cũng là không phải với người ta. Tài con, lần này con cũng quá hồ đồ rồi.

Người học trò tên là Tài, từ khi thấy ông cụ đánh cờ mắng mình cũng có ý tức bụng, nhưng khi thấy ông cụ giải thích cặn kẽ thế, lại nghe câu chuyện của thầy mình, thì thấy là mình quả đã làm việc hồ đồ mất rồi, không biết làm thế nào, cũng rất lấy làm xấu hổ, bèn đáp:

– Thưa cụ, thưa thầy, con tính tình quá là nóng nảy, thật là xấu hổ lắm. Giá mà được gặp lại cậu bé kia dể tạ lỗi thì xin thành tâm làm ngay.

Cụ Trác lại nói:

– Người ta đi mất rồi, còn biết làm thế nào?

Ông cụ đánh cờ bèn nói:

– Việc tìm thằng bé kia, xin cụ khỏi lo, tôi sẽ tìm được cho cụ.

Cụ Trác nói:

– Kinh thành rộng lớn như thế này, người ngợm đông đúc, đến mấy chục hoặc có thể đến cả trăm vạn người, làm sao mà cụ tìm được cậu bé?

Ông cụ đánh cờ đáp:

Việc đó cụ cứ để tôi lo. Khi nào tôi tìm được nó rồi, sẽ báo lại cho cụ.

Cụ Trác thấy người này nói chắc như đinh đóng cột thế cũng không tiện hỏi lại vì chắc trong lòng đã có dự định riêng, bèn nói:

– Nếu được vậy thì tôi xin cụ giúp cho, tôi gặp được nói một lời cảm ơn và xin lỗi cho phải đạo với ân nhân. Xin cụ cho tôi biết quý danh, và nơi sinh sống, để dăm ba hôm tôi cử học trò sang hỏi thăm, chứ để cụ phải đi lại thực không tiện.

Ông già kia đáp:

– Tôi tên là Vũ Đức Huyền, chỗ ở đơn sơ không dám làm phiền. Cụ là người có danh vọng ở kinh thành, chỗ ở của cụ tôi tự sẽ tìm được dễ dàng mà thôi. Cụ khỏi lo, chuyện này tôi làm được chỉ là cần đợi một thời gian mà thôi. Thú thực với cụ, tôi cũng là người làm nghề thuốc, nhưng mà thực đáng tiếc...

Cụ Trác thấy thế bèn hỏi:

– Không biết cụ có điều gì tiếc nuối?

Đáp rằng:

– Ngày còn trẻ tôi bỏ ra mười năm theo học một ông thày người Tàu, tưởng rằng có thể cứu nhân độ thế, ai ngờ, người làm thuốc mà tâm chẳng từ bi, vẫn có ý giấu diếm nghề, mà lại chỉ cho tôi sai cách thức, đảo lộn cả quy tắc, may mà do một dịp tình cờ, tôi mới biết được thâm ý của người ta, đành phải lẳng lặng bỏ đi, cũng may vẫn chưa chữa trị cho nhiều người, cũng chưa gây ra tai họa gì lớn đến người khác.

Cụ Huyền xoay người, lấy một vật trong tay nải ra, vật này được bọc đến ba bốn lần bằng một thứ giấy dầu để tránh nước, đủ thấy người này rất trân trọng vật ở trong. Thì ra, đó là bộ sách. Cụ Trác nhìn thấy trên cuốn sách viết mấy chữ "Đệ bát tập: Đạo lưu dư vận" liền nhận ra, đây là cuốn sách thứ tám trong bộ "Hải Thượng tông tâm lĩnh", là tác phẩm tâm huyết cả đời của mình. Cụ Huyền nói:

Cách đây mấy năm, tôi có được bộ "Hải thượng tông tâm lĩnh" của cụ. Thực là sung sướng vô cùng. Tôi vốn đã định bỏ nghiệp thuốc từ lâu, nhưng càng đọc càng ham. Thực là những điều cụ viết dễ hiểu mà đạo lý sâu sắc, không giống như những điều tôi được học năm xưa. Xin cụ đừng cười chê, là một ông lão già nua như tôi vẫn còn ham đọc sách, vì chẳng phải vài ba năm nữa là về với các cụ rồi hay sao, đọc nữa phỏng có ích gì.

Cụ Trác xua tay nói:

– Cụ đừng nói vậy, tấm gương hiếu học của cụ thực là xưa nay hiếm thấy ở trên đời. Tôi kính phục còn chưa hết, lấy lý đâu lại có ý chê bai? Nam y nước ta có điều khác biệt rất lớn với y thuật phương bắc.

Cụ Huyền cười nói:

– Bởi vậy cụ mới dạy :"Nam dược trị nam nhân". Cả đời tôi day dứt với nghiệp thuốc, mà không thành công, nhưng cái lòng kính trọng và ham muốn hiểu biết nghề vẫn còn nhiều lắm. Nếu cụ không chê, tôi xin cụ chỉ cho tôi mấy điều không hiểu trong sách, thì tôi xin đội ơn lắm.

Cụ Trác nói:

– Tôi xin cùng cụ đàm đạo, chứ không dám có ý chỉ bảo.

Rồi đột nhiên cụ Huyền nói:

– Cậu bé lúc nãy dường như có bệnh, không biết có phải thế hay không?

Cụ Trác đáp:

– Cơ thể suy nhược vừa hồi phục, nhịp thở dài và nhẹ quá, dương khí còn yếu, nhưng bồi bổ một thời gian thì sẽ khỏe mạnh lại thôi. Cụ nhắc tôi mới nhớ, có một chuyện rất kỳ lạ.

Cụ Huyền hỏi:

– Là chuyện gì vậy?

Cụ Trác đáp:

– Khi nãy tôi có cầm tay cậu bé, trong lúc tâm thần kinh hãi không để ý, bây giờ nghĩ lại, thì hình như, hình như...

– Có chuyện gì lạ lùng chăng?

– Hình như cậu bé có đến hai mạch chứ không phải một! Một đường mạch yếu ớt nhẹ nhàng, nhưng có một luồng mạch khác cương cường, dũng mãnh thực không giống như của đứa trẻ mười ba mười bốn. Tôi thực bây nghĩ lại giờ mới mà nhận ra.

Nói đến đây, cả hai người đều ngẩn người một hồi lâu, không hiểu tại sao lại có chuyện như thế.

Không biết mọi chuyện diễn biến ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.

________________________________________

[1] Hoàng Đình Bảo

[2] Chuyện này được chép trong Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác

vember 6, 2013 • 10:36 am

↓ Jump to Comments

Hồi thứ sáu: SÀO HUYỆT PHÙ THỦY

Lại nói đến chuyện Quyết ở trong nhà của Tiến. Hàng ngày, Tiến cho Quyết ăn uống rất đầy đủ, mà thức ăn toàn là thứ ngon vật lạ trên đời. Đêm đến Quyết có hẳn một phòng riêng với chăn êm nệm ấm để ngủ, ngày ngày có một bà cụ vào dọn dẹp phòng cho hắn. Suốt ngày hắn chẳng phải làm gì cả. Mặc dù đối xử với Quyết tốt như thế nhưng Tiến ít khi nói chuyện với hắn, thái độ thờ ơ lạnh lùng. Điều này Quyết cũng không mấy để tâm, đôi lúc còn mừng vì chuyện một tên phù thủy tàn ác như Tiến để ý quá đến mình phỏng có gì là hay ho?

Nhà của Tiến nằm tách biệt trong một mé rừng phía bắc Nhị Hà???, đây cũng là việc rất lạ lùng vì thông thường thì phàm là tay chân của quan Chánh đường[1] được cấp dinh thự riêng ở ngay trong thành Thăng Long, chỉ riêng mình Tiến ở trong một dinh thự được xây dựng to lớn, bề thế rộng rãi và tách biệt như thế.

Ngày ấy, giặc giã nổi lên khắp nơi, ngay cả gần kinh thành, mà trộm cướp vẫn xảy ra thường xuyên, thế nên vào năm... chúa Trịnh Sâm đã phải cho đắp lại thành Đại La, là lớp tường bao bọc bên ngoài của Thăng Long, những phương buôn bán mặc dù ở ngoài bức tường ấy cũng được lựa thế sông ngòi che chở để tránh bớt sự cướp bóc. Vì vậy, phía bên kia sông Nhị Hà mặc dù cách thành không bao xa nhưng dân cư thưa thớt, rừng rậm um tùm, đến nỗi sử sách còn ghi lại những lần cọp đen, voi trắng xuất hiện trong thành.

Đương nhiên, Quyết là một đứa trẻ quê mùa, không thể nào hiểu được những điều này. Hắn chỉ biết rằng việc ở một nơi hoang vu tĩnh mịch như thế thực là buồn chán. Chẳng những thế, trong nhà Tiến hình như không có mấy người hầu hạ. Quyết chỉ thấy một bà già thường hay quét dọn nấu nướng trong bếp, bà cụ này cũng không thích nói chuyện, cả ngày chỉ chuyên tâm làm công việc của mình, thế nên hắn cũng rất ít khi nói chuyện.

Trong dinh thự của Tiến, có một khoảng sân rất rộng... có một ngôi ở chính giữa dinh thự bao giờ cũng đóng cửa. Ngôi nhà này đươc xây dựng rất kỳ công tỷ mỷ, rường cột, vì kèo đều làm từ loại gỗ tốt, sơn son, tòa nhà này cao có đến năm trượng. Có mấy lần Tiến muốn vào đó xem thử nhưng Tiến nạt hắn, cấm không cho vào. Quyết thấy thế cho là Tiến cất giấu của cải quý báu gì trong đó, cũng không hỏi thêm gì nữa, từ bấy về sau cũng không bao giờ đả động đến chuyện vào căn phòng.

Có một đêm, khi hắn đang nằm ngủ thì chợt tỉnh giấc. Không gian tối đen như mực, hắn dậy thắp một ngọn nến. Bấy giờ là một đêm đầu tháng tám, hắn chợt nghe thấy có tiếng động phát ra từ phía căn nhà lớn. Căn nhà lớn cách phòng hắn khá xa, vì thế hắn cũng không chắc đấy là tiếng động từ căn nhà lớn hay là tiếng từ phía rừng vọng lại. Hắn ghé mắt ngó qua cửa sổ, thấy căn nhà lớn không có ánh đèn, rõ ràng là không có ai. Hắn đoán chắc có lẽ là mình nghe nhầm, vì thế hắn đi ra nhà tiêu đi tiểu rồi lại lên giường định ngủ tiếp. Nhưng rồi hắn lại nghe thấy âm thanh ban nãy.

Đó là một tiếng khóc.

Tiếng khóc này dường như là của một người đàn bà. Hắn cố nghe thật kỹ, hình như là người đàn bà này đang nói một từ:

-Không!

Hắn cảm thấy lạnh cả sống lưng. Vì hắn đang sống trong nhà một tên phù thủy mà lại nghe tiếng khóc như ma như quỷ thế kia, thì khác nào được nghe những câu chuyện nhát ma trong dân gian vẫn kể lại?

Rồi tiếng động ngưng hẳn. Chỉ còn lại bóng đêm, tuyệt nhiên không nghe thấy bất cứ một tiếng động nào nữa. Không gian tự nhiên im ắng thế này, thực là có điều gì đó không ổn, vì nơi này xung quanh là rừng, ít nhất thì cũng có tiếng những loài động vật ăn đêm, hoặc tiếng gió thổi cành cây đưa. Nhưng bây giờ, tuyệt không có một tiếng động nào nữa. Dần dần, hắn thiếp đi.

***

Qua đêm hôm sau, Quyết có ý chờ xem sự việc kia có lặp lại nữa không nên nằm lắng nghe suốt cả buổi tối. Tuyệt nhiên không có gì khác thường xảy ra. Hắn vẫn nghe thấy tiếng động của những con chim, kêu cúc cù, cúc cù, những tiếng lá xào xạc va vào nhau do nhưng cơn gió mùa thu. Đó là tiếng của rừng núi. Không hề có tiếng khóc than.

Đến chừng nửa đêm, mọi tiếng động lại im bặt hắn cảm thấy đúng cái cảm giác của đêm hôm trước. Mọi thứ vẫn im lặng như thế, im lặng đến mức hắn tưởng như tai mình bị ù sau khi ăn một cú đấm trí mạng. Mặc dù hắn không phải là kẻ sợ ma nhát quỷ, nhưng trong cái không khí như thế này, cũng không khỏi kéo tấm chăn đắp lên người, nằm lùi về phía góc tường. Được một lúc sau, thấy mệt quá, Quyết lại thiếp đi.

Không biết bao lâu sau, hắn giật mình tỉnh dậy vì nghe tiếng khóc ngày hôm qua, lần này hắn chờ tiếng không của người đàn bà kia. Nhưng chờ hồi lâu mà chỉ thấy tiếng khóc, thỉnh thoảng lại nghe một tiếng ậm ừ như của một người bị một vật gì chẹn trong họng không nói được thành tiếng. Cuối cùng, không có từ "không" như hắn chờ đợi. Rồi mọi tiếng động lại tắt hẳn.

Qua đêm thứ ba, mọi việc lại diễn biến y như những ngày trước. Chỉ có điều lúc này tiếng khóc không còn rõ ràng nữa, mà dường như chuyển sang tiếng gầm gừ nhiều hơn. Rồi mọi chuyện lại trở lại bình thường.

Trong lòng Quyết lúc này có rất nhiều nghi vấn, không hiểu tại sao lại có những âm thanh lạ lùng như thế. Rồi hắn tự nhủ:

"Cái gã xấu xa Cao Tiến này, chuyện gì cũng có thể làm được, chẳng biết hắn đang định làm gì nữa đây, ta cũng cứ mặc kệ, hắn cũng chưa hại gì đến ta".

Rồi hắn mặc kệ mọi chuyện, đắp chăn đi ngủ tiếp.

Qua ngày thứ tư, Quyết đã định trong lòng, cũng không quan tâm chờ đón tiếng động kia nữa, yên tâm định ngủ một mạch.

Đột nhiên, có một tiếng động lớn vang động cả núi rừng. Tiếng động này vừa dứt, tiếng chim vượn trong rừng xao xác như chạy trốn. Rõ ràng, đây là thứ âm thanh đặc trưng của một loài mà ai cũng kinh hãi.

"Mãnh thú ư?" – Hắn nghĩ thầm, "chẳng lẽ nơi này có ác thú?"

Hắn lại dỏng tai nghe ngóng lần nữa. Nhưng lạ thay, chỉ có một tiếng gầm duy nhất rồi im bặt, mọi việc lại trở lại yên tĩnh như trước.

Chợt một luồng gió mạnh thổi tung cửa sổ cạnh hắn. Ánh trăng sáng lùa vào phòng. Hắn thấy rất rõ, trên mặt đất, một bóng hình quái gở lay động. Quyết giật bắn mình, lùi về sau quá mạnh, hắn thấy như từ phía sau lưng có ai nện mạnh vào mình một cú trời giáng. Hắn thấy hoa cả mắt mũi, đóm đóm mắt nổi lên, trong phút chốc hắn không nhận ra vật gì trước mắt cả. Theo phản xạ, hắn giơ tay khua khắng phía trước.

Phải một lúc sau hắn mới định hình lại và nhìn rõ mọi vật. Phía trước hắn, cái vật trên mặt đất vẫn lắc lư không ngừng trên nền trăng sáng.

Đó là một cái bóng cây.

Quyết thở phào sau khi nhìn kỹ vật trên đất. Thì ra khi nãy hắn hoảng hốt quá, nên vọt về phía sau, lại đụng trúng bức tường, thành ra mới tưởng có ai vừa đánh mình. Cuối cùng thì vẫn chỉ có một mình hắn trong căn phòng kia, chẳng có điều gì bất thường cả. Hắn thở phào tự chửi mình nhát gan.

Sau khi định thần lại, hắn đứng dậy, thắp đèn lần nữa rồi đi ra đóng cửa sổ lại. Trước khi cánh cửa khép lại với nhau, tạo nên một khe hở chỉ độ một ngón tay, đột nhiên trước mặt hắn có một bộ mặt đầy máu, rũ rượi, tóc chờm cả lên mắt. Bộ mặt này nhìn hắn hồi lâu. Lúc này Quyết cũng sững cả lại, không kịp phản ứng gì.

Qua một lúc, mắt hắn và đôi mắt của bộ mặt kia nhìn nhau chằm chằm không chớp. Quyết thấy mắt mình hoa cả lên, từ ánh nhìn lạnh lẽo kia, hắn cảm thấy có một luồng khí lạnh làm cả người lạnh toát đến tê buốt như là lõa thể giữa trời đông, bụng hắn nhộn nhạo như muốn nôn, nhưng cả cơ thể cứng đơ như khúc gỗ, không thể làm gì được.

Rồi hắn thấy trong ruột nóng ran, từ bụng hắn, một luồng khí nóng bốc ra cuồn cuộn làm hắn cảm thấy dễ chịu hơn. Dường như luồng nóng này phát ra xung đột với luồng khí lạnh khi nãy. Từ đây, hắn cảm thấy như lúc nóng lúc lạnh. Khi thì như phát sốt, khi thì run lên cầm cập thật khó chịu khổ sở vô cùng.

Phải đến một tuần hương, Quyết cứ đứng chăm chăm nhìn vào bộ mặt kia như thế mà nóng mà lạnh. Rồi chợt ánh mắt kia biến mất. Khi ánh mắt kia vừa rời khỏi mắt Quyết, hắn lập tức bủn rủn tay chân, ngã vật ra sàn. Nhưng đầu óc hắn vẫn rất tỉnh táo, hắn biết rõ ánh mắt kia ở đâu ra.

Ánh mắt sau cửa sổ, là ánh mắt của Cao Tiến.

***

Sáng hôm sau, Quyết tỉnh dậy thì thấy mình đang nằm trên mặt đất. Thì ra vì hắn mệt quá nên ngủ luôn mà không kịp vào giường. Lúc này nghĩ lại, hắn thấy kinh hãi vì chuyện tối qua. Nhưng cũng chưa biết nên làm thế nào.

Hắn bước ra khỏi phòng, lại nhìn thấy Tiến đang ở ngoài sân tập hít thở. Tiến nhìn thấy hắn, thoáng cười. Dường như hắn giả vờ như không có chuyện gì xảy ra tối qua. Quyết thấy thế, cũng gượng cười lại. Rồi cả hai cùng vào nhà ăn ăn sáng. Hôm nay bà cụ làm món bún riêu cua mà Quyết rất thích, hắn toan quay sang cảm ơn bà thì thấy tay bà cụ băng bó rất kỹ, hỏi ra thì bà bị thương khi thái hành.

Chẳng ngờ Tiến đùng đùng nổi giận, mắng bà cụ làm không cẩn thận. Rồi hắn nói:

– Bà nhanh làm cho xong cơm trưa rồi vào phòng. Cấm bà ra khỏi phòng hôm nay.

Bà già cun cút vâng lệnh, đi làm ngay. Quyết trong lòng có chút áy náy cho bà cụ, lại tức tên Tiến gian ác đối xử không có tình người.

Ngày hôm đó, Quyết lại ra bến sông ngồi. Bến sông này, rất là nhộn nhịp những tàu buôn từ Phố Hiến đổ về. Các thuyền này đa số là của người Đại Việt, ít khi thấy thuyền của người Tàu, những thuyền bè của người phương Tây càng khó gặp hơn. Nguyên là chúa Trịnh khi đó cấm không cho người nước ngoài buôn bán ở kinh thành, thế nên hàng hóa phải tập trung ở phố Hiến rồi mới chở bằng các thuyền nhỏ về kinh. Nhưng vì nhu cầu giao dịch rất lớn nên bến thuyền này vẫn rất tấp nập.

Quyết ngồi trên đê hồi lâu và suy nghĩ lại chuyện xảy ra tối qua. Hắn không hiểu tại sao Tiến lại nhìn mình với cái ánh mắt như thế, mà trên mặt hắn lại có rất nhiều máu, rồi tiếng khóc trong đêm khuya. Tất cả mọi chi tiết hắn đều rất tò mò muốn giải thích cho tường tận mà không thể.

Quyết đang suy nghĩ miên man như thế thì bỗng có tiếng gọi hắn. Hắn quay lại thì thấy ông già cầm cỗ áo quan hôm nọ đi cùng là một ông cụ khác.

Cụ Trác đến gần Quyết mà nói rằng:

– Cậu bé ơi, ta đi tìm cậu mấy hôm nay mới gặp.

– Ông tìm cháu có việc gì thế? Quyết hỏi lại. Ông đừng dùng tấm áo kia để liệm nhé!

Cụ Huyền đi bên cạnh thấy thằng bé không hề để bụng chuyện hôm nọ mà vẫn lo lắng cho người ta, trong lòng thấy rất là quý mến. Cụ Trác cũng thật cảm kích mà nói rằng:

– Ta muốn tìm để cảm ơn cậu bé thôi.

Quyết thưa:

– Cháu không cần ông cảm ơn đâu. Cháu biết thì cháu nói cho cụ thôi.

Hai người gặp được Quyết thì mừng lắm. Nguyên là sáng sớm hôm đó đã đến tìm cụ Trác, nói là biết chỗ Quyết đang ở đâu, nhưng không biết nhà, vì thế giục cụ đi Trác đi gấp về hướng Bắc, đến giờ thìn thì gặp được Quyết đang ngồi thơ thẩn trên bến sông này. Ba người vào một quán nước nhỏ mà trò chuyện. Ông cụ Trác lấy cho Quyết mấy cái kẹo lạc giục cậu ăn. Quyết ăn một cái, còn mấy cái cất vào túi định để dành. Cụ Trác hỏi han một hồi về bố mẹ Quyết. Quyết lần lượt đem chuyện gia đình mình kể một lượt. Nghe xong cụ Huyền nói:

– Tôi nghe từ lâu họ Phạm có tiếng tăm trong nghề này. Không những thế, đời trước tích đức truyền đến đời sau, nổi tiếng khắp kinh thành cùng các trấn xung quanh. Hôm nọ thấy cậu bé còn nhỏ mà đã có kiến thức nhưng vẫn chưa nghĩ ra. Thực đúng là con nhà tông, thật đáng khen ngợi. Có điều bây giờ cậu bé này bơ vơ chẳng có ai nương tựa, ông biết làm thế nào mà duy trì được cuộc sống đây.

Cụ Trác cũng không biết phải trả lời thế nào, rồi chợt như nhớ ra chuyện gì, ông cụ nói:

– Cậu cho ta xem mạch cậu một chút được chăng.

Quyết cũng chưa hiểu chuyện gì nhưng cũng đưa tay ra. Cụ Trác xem mạch hồi lâu rồi lại đưa tay Quyết cho cụ Huyền xem. Cụ Huyền cũng cẩn thận kỹ lưỡng xem xét hồi lâu rồi nói:

– Quả tôi cũng thấy như cụ.

Trong lúc Quyết còn chưa hiểu chuyện gì thì hai cụ già đưa mắt nhìn nhau hồi lâu. Trong lòng hai người đều thấy khó hiểu. Qua một lúc, Cụ Huyền nói:

– Cậu bé, không hiểu cậu vì sao mà từ trấn Sơn Tây lưu lạc đến đây.

Quyết từ khi bố mất đến giờ, chẳng còn người nào thân thích, cũng chẳng có ai để nói chuyện cùng. Từ khi đi cùng Cao Tiến thì lại càng lặng lẽ, hai người hiếm khi nói với nhau một câu nào. Hôm nay gặp được hai ông già này, đều là những người ăn nói nhã nhặn, tỏ rõ lòng quan tâm tới mình. Trong phút chốc, Quyết cảm thấy thật gần gũi và tin tưởng. Thế là Quyết kể lại đầu đuôi câu chuyện từ khi nạn đói.

Khi đến đoạn hắn muốn ăn thịt người chết để sống, hắn hơi ngập ngừng, sợ hai ông cụ trước mắt coi mình là giống man di mọi rợ, khinh rẻ mình, nên giọng hắn hơi trầm lại và ngập ngừng đôi chút. Cụ Trác nghe thấy thế thì hiểu ngay tâm ý của Quyết bèn nói xen vào:

– Cháu đã làm đúng, không thể để mình chết trừ khi không còn cách nào khác. Chẳng ai có thể đánh giá một người có phải là người tốt hay không chỉ dựa vào chuyện đó cả.

Quyết nghe thế cảm động lắm. Vì thực ra trong thâm tâm hắn cũng rất day dứt vì chuyện này, mặc dù chuyện đó chưa xảy ra, nhưng hắn cũng nhiều lần tự thấy ghê tởm. Thế là hắn không ngại ngùng nữa, kể hết một lượt từ chuyện đêm rằm tháng trước gặp Cao Tiến ra sao, hắn lập "thu vong trận" thế nào, rồi chuyện gặp Nguyễn Danh Phương, chuyện nuốt viên tễ... Ngay cả đến chuyện tối qua nghe tiếng gầm thế nào, thấy đôi mắt bên cửa ra sao, tất cả đem ra kể hết một lượt, rất cặn kẽ tỷ mỷ. Riêng cuộc nói chuyện của Vũ và Tiến, vì Quyết ở xa mà hai người lại nói nhỏ, thêm nữa hắn cũng không chú tâm lắng nghe nên cũng không rõ câu chuyện. Chỉ có ba từ vương tử Cán là hắn nghe rất rành rọt, bèn đem kể lại.

Đến khi xế trưa, câu chuyện mới kết thúc. Lúc này, Quyết thấy hai ông cụ vẫn chăm chú lắng nghe rất chăm chú. Hắn thở dài một cái rồi ngừng nói.

Cụ Trác nghe xong câu chuyện của Quyết thực là kinh hãi vô cùng, vì cả đời cụ không tin có ma quỷ. Nhưng thấy Quyết kể tường tận và tỉ mỉ từng chi tiết như thế thì thật là khó có thể bịa đặt ra được. Chợt cụ Huyền lên tiếng:

– Thì ra là thế, giờ ta mới hiểu vì sao trong người cháu có đến hai loại mạch.

Cả Quyết và cụ Trác đều rất ngạc nhiên, không hiểu, nhất thời cùng thốt lên:

– Vậy mong cụ nói rõ cho.

Cụ Huyền chậm rãi:

– Cũng không có gì là khó hiểu cả, vì cái viên tễ cháu nuốt trong bụng có lẽ là một loại pháp vật có tên là "cộng sinh hoàn". Loại pháp vật này có chỗ rất là độc đáo, khi nuốt vào nó sẽ mọc rễ trong ruột, không tài nào tiêu hóa được, thành ra rốt cục thì nó sẽ trở thành một vật mang vong trong người của phù thủy rất thuận tiện. Không những thế, nếu cháu biết pháp niệm của nó thì hoàn toàn có thể sai khiến được vong đó. Chẳng những thế, nó cũng sẽ giống như một vật hộ thân cho phù thủy đó, bất cứ khi nào có huyền thuật hãm hại cháu thì vong trong người cháu sẽ tự động cảm ứng mà chống lại.

Quyết rất bất ngờ vì không thể tin là mình đã nuốt cả một hồn ma vào trong bụng. Lúc này cụ Trác ở bên cạnh lại nói:

– Nếu như vậy, thì chuyện hôm qua khi cậu bé thấy bụng nóng ran có phải là do viên tễ đó không?

Cụ Huyền đáp:

– Chính phải, ta đoán có lẽ cháu bị tên Cao Tiến dùng "nhiếp tâm thuật" tìm cách thôi miên, nhưng "soái vong" trong người cháu phản ứng lại, thành ra cháu vẫn tỉnh táo đến khi Tiến bỏ đi.

Quyết lại hỏi:

– Nhưng hắn thôi miên cháu làm gì? Cháu ở cùng chỗ với hắn, ngày ngày nhìn thấy nhau, sao hắn không tìm lúc khác mà lại phải chờ đến đêm mới làm trò nhát ma dọa quỷ cháu như thế?

Cụ Huyền lại nói:

– Điều này ta cũng chưa rõ.

Cụ Trác nói:

– Nếu cháu muốn loại viên tễ ra khỏi cơ thể, ta có một bài thuốc có thể giúp làm điều đó.

Cụ Huyền ngăn:

– Ấy, không nên, tạm thời không nên làm thế. Bây giờ vật đó khác gì bùa hộ thân cho thằng bé này. Nếu trục được viên thuốc đó ra khỏi cơ thể, không những thằng bé gặp nguy hiểm, mà vong hồn kia phải đi theo đường xú uế mà thoát ra, thì hồn siêu phách tán, còn gì cơ hội đầu thai.

Cụ Trác đáp:

– Nếu không thì cũng không sao, cháu về sống với ta, ta sẽ nuôi cháu, cháu không sợ bị đói đâu.

Cụ Huyền từ tốn nói:

– Thưa cụ, tôi nghĩ thế này, Tôi thấy tên Cao Tiến này phép thuật cao thâm khó lường, độc ác như thế, hẳn là có âm mưu gì không hay, e rằng có hại đến vương tử Cán hay chăng. Nếu không nhờ cậu bé quay lại nơi đó để tìm hiểu xem thế nào, thì khó mà biết được ngọn ngành, tránh được hậu họa xảy ra.

Rồi cụ quay sang hỏi Quyết:

– Cậu bé, cậu có sợ không? Bây giờ ta muốn cậu quay lại theo dõi Tiến để cứu người. Không những cứu được một người mà không chừng cậu cứu cho Thăng Long tránh được một cuộc binh đao lớn đây.

Quyết đáp:

– Quả thực cháu cũng hơi sợ, nhưng cháu vẫn dám về nhà hắn.

Lúc này bụng cụ Trác không muốn để Quyết ở lại vì e ở lâu sinh biến không hay cho Quyết chăng. Nhưng một là cụ là nhà nho, lấy trung quân làm đầu, cũng biết chuyện của thế tử là hệ trọng, không thể xem nghe được. Hai là tiếp xúc ít lâu với Trịnh Cán, dù không được gặp mặt nhiều nhưng cũng có cảm tình.

Cụ Huyền biết tâm ý cụ Trác bèn nói:

– Cậu bé có biết vì sao cậu nhìn thấy vong nhưng không bị vong vật hay không?

Cả hai người, Quyết và cụ Trác đều rất bất ngờ khi cụ Huyền hỏi thế. Quyết mặc dù trước đó đã biết rằng nhìn thấy âm binh khi âm binh đang bị điều khiển thì sẽ bị âm bị diệt khẩu, đấy là lẽ thường. Nhưng từ khi đó đến nay, hắn không hề hấn gì cả, cũng thấy rất lạ.

Quyết bèn nói:

– Cháu thực cũng không biết, không hiểu tại sao lại như vậy nữa.

Cụ Huyền quả quyết:

– Vì bản thân cháu cũng có căn phù thủy!

Nghe cụ Huyền nói, cả Quyết và cụ Trác đều kinh hãi. Nguyên là rất hiếm có người có được căn đồng cốt phù thủy. Những phường đồng cốt bói toán yểm bùa trưng ra cho thiên hạ biết đều là phường lừa bịp, gạt tiền người ta mà sống, chỉ có lá gan to bằng trời mới không sợ những chuyện mạo danh như thế.

Cụ Huyền lại nói tiếp:

– Trên thế gian này, vốn có hai loại người, loại người thứ nhất là loại người không thể nhìn thấy ma quỷ hiện hữu trên nhân gian, loại người thứ hai có thể nhìn thấy được. Người nhìn thấy được ma quỷ lại phân làm hai hạng thứ nhất là nhẹ vía, là những người dễ bị vong hồn ám ảnh, trấn áp, nhập vào, những người như thế ngửi thấy mùi hương đã thấy mắt hoa đầu váng, chỉ chực lên đồng, giống như một cơ thể trống rỗng sẵn sàng mời gọi ma quỷ nhập vào mình vậy, xét cho cùng thì đây cũng là những người dễ dàng bị sai khiến bởi linh hồn người đã chết. Hạng người thứ hai là hạng tâm thần linh mẫn, tinh linh tráng kiện, nhìn thấy ma quỷ coi như chuyện bình thường, giống như người ta thấy người đồng loại mà thôi. Nếu những người thuộc hạng này mà chẳng những không sợ hãi mà còn có khả năng trấn áp, dọa nạt, thì thực đó là người có căn phù thủy rồi, bởi phù thủy thì xét cho cùng cũng chỉ đơn giản là những người có quyền năng điều khiển những vong hồn nơi âm giới. Thế gian này, phàm là điều gì cũng vậy, cũng phân ra có người tài giỏi, có người tầm thường, bởi vậy nên, phù thủy cũng được phân thành năm ba loại. Loại nhất phẩm là loại không cần phải cúng bái, cầu khấn, không cần lập trận pháp vẫn có thể sai khiến ma quỷ, với người có căn nhất phẩm phù thủy thì phàm là "quan vong" hay "soái vong" đều có thể thu nạp được trong tích tắc, có thể nói đây là tuyệt nhân trong huyền giới, thực là không biết mấy trăm năm mới có được một người, thế nên loại nhất phẩm này không thể tu luyện mà thành được, chỉ có thể nhờ trời cho khi sinh ra đã có tố chất như thế. Loại nhị phẩm là loại vẫn phải lập trận để có thể thu nạp được những vong hồn mạnh mẽ bậc nhất, thậm chí cả đến "quan vong" và "soái vong" cũng có thể bị áp chế. Có điều đối với hạng nhị phẩm này nếu không áp được vong thì vong cũng không có cách nào hại được mình. Người đạt được đến hạng nhị phẩm thì ngoài tố chất trời cho phải qua rèn luyện cực kỳ hà khắc không thể nào xao lãng một ngày một đêm nào. Hạng tam phẩm là thấp hơn hạng nhị phẩm một cấp bởi khi gặp vong mạnh quá thì không đủ khả năng áp chế được mà ngược trở lại, bị hồn ma nhập vào, bị hồn đó khống chế hành vi, ý thức, không tài nào cưỡng lại được. Tôi đoán rằng tên Cao Tiến chỉ thuộc loại tam phẩm này thôi. Cứ tuần tự như vậy người ta phân ra đến nhị thập phẩm phù thủy, tùy vào tố chất của bản thân và công phu luyện tập mà có được bản lĩnh cao hay thấp. Loại thập nhị phẩm là những người nhẹ vía hoặc người không thấy được ma quỷ nhưng quyết tâm tu tập để có thể thâu nạp được một số ma đói khát, làm những việc bình thường. Thực chẳng giấu gì hai người, tôi đây cũng chỉ là phù thủy hạng thập phẩm, tuy có chút tố chất nhưng chỉ có thể "dụ" các vong hồn làm ma xó đi thám thính tin tức cho mình mà thôi, tuyệt nhiên không thể làm nên việc lớn.

Cụ Huyền lại nói:

– Theo như tôi thấy, cậu bé này chí ít ra cũng thuộc hàng ngũ phẩm, mà tùy theo mức độ tập luyện, có thể đạt được mức độ cao hơn.

Dường như thấy hai người bán tín bán nghi, cụ Huyền nói tiếp:

– Thưa cụ, tôi cũng xin cụ thứ lỗi vì đã không nói sớm cho cụ biết, nhưng vì tôi thân đang chuẩn bị một việc lớn, nếu để lộ ra nhiều người biết thân thế thì việc có thể không thành. Thực ra tôi hành nghề địa lý, mọi người thường gọi tôi là Tả Ao. Cho nên những chuyện huyền thuật, bùa phép cũng có đôi chút kiến thức.

Hai người nghe xong câu này, còn kinh ngạc hơn nữa, vì nguyên là thời bấy giờ, trong dân gian khắp cả đàng Trong lẫn đàng Ngoài đều bàn tán nhau về một nhà địa lý phong thủy tên là Tả Ao, có biệt tài xem thế đất mà táng huyệt mộ. Ai cũng tin rằng, chỉ cần được cụ Tả Ao an táng cho thì con cháu người được táng sẽ hưởng phúc. Không những thế, cụ Tả Ao còn có thể nói đúng được ngày tháng phát vượng của cả nhà, thực là điều hiếm có.

Tả Ao chỉ là hiệu của người đó, tên thực của cụ là Vũ Đức Huyền như cụ đã nói thật với cụ Trác. Người ta đồn rằng thuở nhỏ, cụ mồ côi cha, nhà nghèo, mẹ mắt lòa, ông theo một khách buôn ở phố Phù Thạch về Tàu để lấy thuốc chữa bệnh cho thân mẫu. Thầy thuốc khen Tả Ao có hiếu nên hết lòng dạy cho. Khi có thày địa lý bị mù loà mời ông thày đến chữa, do già yếu nên ông thày sai Tả Ao đi chữa thay. Khi Tả Ao chữa khỏi mù loà, ông thày địa lý nhìn thấy Tả Ao nghĩ bụng: Người này có thể truyền nghề cho được đây. Tả Ao cũng có ý muốn học, vả lại thấy Tả Ao thông minh, hiếu học, để trả ơn chữa bệnh nên thày địa lý nọ đã truyền hết nghề, hơn một năm đã giỏi. Để thử tay nghề của học trò, ông thày bèn đổ cát thành hình núi sông và vùi một trăm đồng tiền ở các huyệt đạo, rồi bảo Tả Ao tìm thấy huyệt thì xuyên kim xuống. Tả Ao đã cắm được chín chín kim đúng lỗ đồng tiền (chính huyệt), chỉ sai có một. Tả Ao về nước Nam chữa khỏi bệnh cho thân mẫu. Rồi người ta còn thêu dệt rất nhiều câu chuyện xung quanh cụ.

Trong cuộc đời cụ Tả Ao, ai cũng tưởng có hai lần bái người ta làm thầy, một người là thầy dạy thuốc, người thứ hai là thày dạy phong thủy, cả hai người đều là người Tàu. Nhưng cả hai lần cụ đều bái nhầm sư. Người thày thứ nhất thì dạy cụ không đến hết nghệ, chỉ dạy nửa chừng, làm cho khi chữa bệnh thì chỉ có thể thuyên giảm, mà không cách gì dứt hẳn bệnh. Thành ra mặc dù cụ Tả Ao rất mực đam mê y nghệ nhưng cũng không dám hành nghề thuốc lâu dài, sợ ảnh hưởng đến sinh mạng người khác.

Người thứ hai thì dạy cụ nghề phong thủy địa lý nhưng thực ra tính tình người giỏi nghề ngày xưa vẫn luôn vẫn có ý giữ riêng tuyệt nghệ cho bản thân, thành ra chỉ điểm không hết. Nào ngờ cụ học một mà biết mười cho nên chỉ được bày vẽ sơ sài cũng đã tinh thấm được nguyên lý trời đất. Đến khi người thày kia hối cũng không kịp, đành phải thốt lên "Nghề của ta đã sang nước Nam mất rồi".

Có điều, câu nói trên không những cho thấy cái nhỏ mọn của người thầy, mà còn lộ ra cái thiếu thốn về học thức. Nhiều người chỉ biết cụ Ao có người thầy trên mà không biết được, đó là những điều cụ Tả Ao học được, cụ không dùng đến bao nhiêu, vì cuốn thánh kinh trong nghề phong thủy phải kể đến là cuốn "Táng thư" do Quách Phác khởi thảo, sau được rất nhiều nhà học giả Tàu biên soạn bổ sung chủ yếu dựa vào thuyết âm dương ngũ hành. Mà lật lại thuyết âm dương ngũ hành thì phải kể đến "Kinh dịch", đó là nguyên lý vạn vật trời đất của người Tàu.

Khi lần đến khởi thủy của cuốn "kinh dịch", lại phải nói đến hai bức Hà đồ và Lạc thư. Tương truyền vào thời Phục Hy trong Tam Hoàng thời thượng cổ, trên sông Hoàng Hà xuất hiện một con Long Mã[2], trên lưng có những điểm đen trắng cấu thành một bức đồ; Phục Hy theo đó mà diễn ra Bát quái, bức đồ này gọi là "Hà Đồ". Còn về bức "Lạc Thư" trên sông Lạc Thủy xuất hiện con thần quy, trên lưng có thư gọi là Lạc thư. Do đó mà người ta đặt ra bát quái và cửu chương. Thực ra ngay cả người Tàu cũng không thể rõ chắc chắn được nguồn gốc Hà Đồ và Lạc Thư từ đâu mà có. Chỉ có điều người ta thêm ngang bớt dọc, suy luận từ đó mà thành được "kinh dịch". Không phải ai cũng biết được Hà Đồ hay Lạc Thư, vốn là của người Đại Việt cổ. Việc này sẽ bàn luận thêm ở sau. Chỉ có điều, cụ Tả Ao khi đó có được cơ duyên được truyền nghệ từ người thầy thứ ba, là một người Đại Việt am hiểu về hai bức họa đồ và nguyên lý dịch chuyển của trời đất truyền thụ cho, chẳng thế mà có được bản lĩnh cái thế thiên hạ, nổi danh khắp trong ngoài nước. Người thầy này lại có ý muốn mai danh ẩn tích nên suốt đời cụ Tả Ao chưa bao giờ nhắc đến với ai, chứ xét như thói quen giữ kín bí mật nghề của người Tàu, đến nghề dệt lụa nuôi tằm hoặc như giống cây vừng đen???? cũng cố ý giữ riêng cho dân tộc mình, thì lý nào lại có thể mang cẩm nang của vụ trụ đi truyền thụ cho người khác?

Lại nói đoạn cụ Tả Ao nói tiếp:

– Vì tôi quen thuộc với chuyện an táng như thế, nên ngay khi cậu bé nói về cỗ áo quan tôi đã biết đúng là cậu bé có học thức rồi. Còn những chuyện về bùa ngải, điều khiển âm binh tôi cũng đề được biết qua. Mà nghe cậu bé kể chuyện tối hôm qua, tôi chợt nhớ đến một điển tích, bây giờ chưa sáng tỏ mọi nhẽ, cũng không dám nói bừa, nhưng nếu quả đúng như vậy, thì thực là việc này nghiêm trọng khó lường, cần phải xem xét cẩn thận. Nếu không có thì thôi, còn nếu có, thì hậu quả cũng không thể xem thường.

Cụ Trác nói:

– Nếu cụ đã nói như vậy, thì lại phải vất vả cho cháu một phen rồi.

Ba người ngồi bàn bạc với nhau một lúc, trời đã đến trưa. Cụ Huyền giảng giải cho Quyết nghe những điều cơ bản về huyền thuật để hắn có thêm hiểu biết khi ở trong nhà của Tiến. Phải biết rằng huyền thuật lúc bấy giờ là một nghệ cực kỳ khó hiếm người có hiểu biết sâu xa. Mặc dù cụ Tả Ao là thầy địa lý nhưng kiến thức uyên thâm, hiển nhiên đã có người tận tình chỉ điểm trước đó. Những tay phù thủy hay những người có kiến thức về huyền thuật rất hiếm khi tiết lộ cho người ngoài, còn như chuyện nhận làm học trò thì có khi cả đời thầy mới có được một học trò. Nếu không phải Quyết có cơ duyên được gặp cụ Tả Ao thì chắc cả đời hắn cũng không bao giờ biết được những phép tắc cơ bản ngoài nhận biết mấy loại trầm hương hoặc mấy lá bùa yểm áo quan. Hôm nay một là mặc dù Quyết đã có "soái vong" hộ thân nhưng tình thế vẫn rất nguy hiểm, có thể nguy đến tính mạng. Hai là cụ Huyền cũng rất quý mến anh chàng nhà quê thật thà dũng cảm này, nên mới phá lệ mà truyền lại những hiểu biết cơ bản. Tất nhiên, bể học vô biên, không thể một sớm một chiều mà nói hết được.

Thấm thoắt đã gần đến trưa, cụ Trác mời hai người về nhà mình ăn cơm, nhưng Quyết từ chối, sợ mình đi lâu quá thì Tiến sinh nghi. Hai ông cụ nghĩ cũng phải, đành để cậu về nhà Tiến, trước khi về còn hết sức dặn dò cậu rằng phải cẩn thận, rằng khi cần thì gặp cụ Tả Ao ở đâu. Cụ Huyền đưa cho cậu một viên pháo thăng thiên. Viên pháo này đúng bằng ngón tay trỏ, rồi cụ nói chỉ cần đốt viên pháo này thì cụ Huyền sẽ đến. Quyết cất viên pháo vào người, nghĩ rằng đằng sau mình còn có người giúp đỡ thì lập tức thấy phấn chấn hơn. Hắn chào hai cụ rồi thẳng hướng bắc Nhị Hà ra về.

Quyết ra bến sông chờ đò để quá giang nhưng hôm nay phiên chợ, thuyền buôn tấp nập nên không có đủ chỗ cho hắn ngồi, hắn phải chờ rất lâu mới có thuyền cho đi nhờ. Thế nên đến quá ngọ Quyết mới về đến nhà Tiến. Hắn hơi lo lắng vì sợ Tiến nghi ngờ. Nhưng bước vào nhà ăn, hắn chỉ thấy cơm canh đã dọn sẵn. Bà cụ dọn dẹp dường như đã ăn cơm rồi đi nghỉ trưa. Hắn tuyệt không thấy Tiến đâu. Cả căn nhà lớn như vậy dường như chỉ còn mình hắn.

Quyết mở lồng bàn??? ăn cơm ngon lành. Từ khi hắn về với Tiến đến nay, cũng đã gần một tháng, mà bữa nào cũng cơm canh đầy đủ, thịt cá ê hề, thành ra cơ thể còm cõi ngày nào của hắn giờ đã dần có da có thịt, mặc dù vẻ hốc hác vẫn chưa nhòa hẳn. Vì vừa qua cơn chết đói, nên Quyết quý trọng mọi bữa cơm, bữa nào hắn cũng đánh chén no nê đến không ăn nổi nữa mới thôi. Cũng may, Tiến không hẹp hòi những chuyện đó.

Quyết tự xới tự ăn được chừng lưng bát thứ hai thì hắn lại nghe thấy tiếng khóc.

Kỳ lạ, đang giữa trưa mà vẫn có tiếng khóc. Mấy hôm nay hắn để ý thì thấy chỉ có tiếng khóc lúc buổi đêm, ban ngày tuyệt đối không nghe thấy.

Tiếng khóc phát ra từ căn nhà lớn. Quyết nghĩ, nếu không phải lúc này tranh thủ nhòm xem có gì kỳ lạ trong đó thì còn chờ khi nào nữa?

Nghĩ sao làm vậy, hắn bỏ đũa đi thẳng tới hướng có tiếng khóc. Nhưng căn nhà được xây bằng gỗ tốt, cửa dày bọc đồng mà khóa thì thực chắc chắn, thế nên Quyết không làm sao mà vào được. Hắn đi quanh một vòng để xem có sơ hở gì không nhưng vô ích. Hắn tìm kiếm kỹ càng hồi lâu thì thấy một khe cửa sổ nhỏ có thể nhòm được vào bên trong.

Phía trong căn nhà tối đen như mực, dường như chẳng có một tia sáng nào có thể lọt được vào bên trong. Hắn thấy vậy bèn hỏi khẽ:

– Có ai trong đó không?

Không có tiếng trả lời. Quyết gọi luôn mấy lần như thế nhưng không dám gọi to vì sợ bà lão đang ngủ trưa thức dậy. Qua một hồi lâu không thấy ai đáp lại. Hắn bèn nghĩ ra một cách, hắn tìm một cành cây, gõ vào cột nhà. Cách này vừa không tạo tiếng động lớn mà người trong nhà lại có thể nghe rất rõ.

Nhưng tuyệt nhiên vẫn không có tiếng đáp lại. Quyết lại rướn người, ngó nghiêng nhìn vào bên trong. Nhưng hắn chẳng thấy gì. Chỉ thấy phía bên kia, có một cửa sổ phía đối diện được ánh nắng chiếu vào, ánh nắng tạo thành một vệt sáng trên mặt đất, nhờ thế mà hắn có thể nhìn thấy rõ là cánh cửa đó được chẹn ngang bởi một thanh gỗ, thanh gỗ này được đặt trên hai cái móc gắn chặt với cửa, mỗi cái móc gắn mở một cánh, thế nên khi đặt thanh gỗ lên đó thì tạo thành thế khóa cứng cánh cửa, không thể mở ra, từ đó khóa lấy cánh của từ bên trong.

Hắn nghĩ bụng "có lẽ tất cả các cửa sổ đều được khóa bên trong như thế". Thực ra, cái kiểu chốt ngang cửa bằng thanh gỗ như vậy rất phổ biến thời đó, có điều, đây cũng là loại cửa rất dễ mở, vì chỉ cần lấy một vật mỏng, luồn vào khe, hất ngược từ dưới lên thì thanh gỗ kia bị hất lên theo, cuối cùng lại rơi xuống đất. Hắn nghĩ đến đây, bèn chạy xuống bếp, tìm một con dao nhỏ rồi đến bên cửa sổ, luồn dao vào phía trong rồi thận trọng đẩy lưỡi dao lên trên.

Quả đúng như hắn dự đoán, thanh gỗ chèn ngang cửa dễ dàng bị con dao hất ra khỏi cái móc, thanh gỗ liền rơi xuống đất. Chẳng chờ Quyết đẩy ra, cánh cửa sổ lúc này đã mở toang trước mặt hắn. Nguyên là vì khi nãy lúc đưa con dao lên, hắn đã tỳ người vào cánh cửa, nên lúc thanh gỗ rơi xuống đất, mà cánh cửa tuy to nhưng rất linh hoạt, bị lực tì của Quyết đẩy ra.

Quyết do dự đôi chút, vì trong căn phòng rộng lớn lúc này, có một bàn thờ rất lớn, trên có đặt một bức tượng Quan công, sau lưng tường dán rất nhiều loại bùa vẽ chằng chịt những hình thù quái gở mà hắn không hiểu rõ công dụng. Mặc dù vậy nhưng Quyết cũng hiểu đây chính là bàn thờ âm binh của Tiến. Nguyên là người luyện âm binh thường thờ một vị tướng dũng mãnh khi sinh thời hoặc các vị thiên tướng trên trời để trợ thêm oai lực cho mình.

Lại có một tiếng động phát ra từ trong phòng, Quyết rất lấy làm lạ vì rõ ràng căn phòng trống không, không hề có người. Hắn quyết định nhảy hẳn vào trong phòng để xem cho rõ.

Trên bàn thờ có rất nhiều nến, trong người Quyết lại có sẵn bùi nhùi giữ lửa, hắn bèn thắp lên một cây, đi xung quanh phòng một lượt.

Nhưng Quyết tuyệt nhiên chẳng thấy gì khác lạ. Trong căn phòng chỉ có bàn thờ lớn đó, và một cái bàn nhỏ đặt bên cạnh để đặt các thứ đồ lễ cúng linh tinh.

Khi hắn đang tiến đến góc phía đông của căn phòng, bởi hắn đi nhanh quá nên ngọn nến bị tắt mất, thành ra Quyết lại phải loay hoay tìm cách thắp lại. Phải một lúc sau ngọn nến mới sáng được trở lại. Quyết vừa ngẩng đầu lên thì lập tức hắn thấy trước mặt mình một thân hình cao lớn đang đứng sừng sững nhìn chằm chằm vào hắn. Trong lúc hoảng hốt, theo phản xạ, hắn giơ chân đạp mạnh vào người đó.

Có điều chân Quyết vừa chạm vào đó thì đau buốt đến thấu xương, Quyết than thầm, nghĩ có lẽ mình đã bị gãy xương hoặc trật khớp mất rồi. Trong lúc đau đớn, hắn làm rơi mất ngọn nến, lại một lần nữa, ngọn lửa tắt ngấm, mọi vật lại chìm trong bóng tối.

Thật kỳ lạ, người trước mặt hắn chịu hết một cú đá vẫn đứng trơ trơ như không có chuyện gì xảy ra. Gã đứng trước mắt hắn, dường như nhìn hắn chằm chằm nhưng hoàn toàn bất động. Quyết vừa ôm chân vừa nhìn lại người đó. Thành ra trong bóng tối, hai người đứng trân trân nhìn nhau không dứt.

Qua một lúc, khi mắt Quyết đã quen với bóng tối hơn, hắn thấy nghi ngờ, bèn bạo gan đánh lửa châm nến một lần nữa. Người trước mặt hắn vẫn chỉ đứng im

Ánh lửa làm Quyết nhìn thấy rõ người đứng trước mặt hắn. Hắn gần như phá lên cười. Đó là vì trước mặt hắn chỉ có một bức tượng màu đen, làm gì có kẻ ác nào? Nguyên là bức tượng này được đúc đúng bằng hình dạng người bình thường, lại có màu đen, khiến cho trong đêm tối, Quyết không nhận ra được, nhất thời thần hồn nhát thần tính. Bức tượng này đường nét rất tinh xảo, tạc hình người, nhưng mặt mũi người này rất hung giữ, mũi khoằm mắt dài, mày mỏng, gò má cao, miệng nhe ra dữ tợn làm lộ rõ hai răng nanh dài đến nửa ngón tay, đây không biết có phải là tạc người không nữa.

Quyết nghĩ thầm "mặc kệ ngươi được tạc hình gì, miễn là ngươi không động đậy được là tốt rồi". Lúc này hắn thấy chân đã đỡ đau nhiều, lúc nãy đau dữ dội như vậy có lẽ chỉ là do hắn đá vào vật cứng quá mà thôi. Có lẽ công phu quyền cước của tiểu tử chết đói chưa đủ sức làm hắn tự gây thương tích cho mình. Đang lúc nghĩ như thế, hắn lại nghe thấy tiếng động lúc nãy, rõ ràng là tiếng người. Chẳng những thế, tiếng động này, phát ra từ ngay dưới chân hắn. Quyết soi đèn nhìn xuống chân mình. Chưa kịp nhìn kỹ thì hắn lại nghe thấy tiếng động phát ra từ đó. Quyết cúi hẳn đầu xuống cách mặt đất khoảng hai gang tay để nhìn cho rõ. Hắn thấy trên sàn có một vệt đen. Vệt đen này kéo dài đến nửa thước, rồi lại có một vệt đen khác vuông góc với nó, chúng giao lấy nhau, rồi lại cách nửa thước có một vệt đen nữa, cứ thế tổng cộng có bốn vệt đen tạo thành hình vuông. Trong hình vuông này còn có gắn một cái vòng bằng đồng, cái vòng này có độ lớn vừa vặn đặt một bàn tay vào. Bức tượng đen kia đặt lên trên hình vuông đó. Quyết lấy chân dậm dậm lên cái hình vuông này, qua âm thanh, hắn biết là phía dưới rỗng, hiển nhiên hắn đang đứng trên một địa phòng.

Muốn biết mọi chuyện diễn biến ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.

________________________________________

[1] Hoàng Đình Bảo

[2] Con vật đầu rồng mình ngựa

ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN

Lại nói chuyện Quyết phát hiện ra một cánh cửa trên mặt sàn của căn nhà lớn, trên đó có đặt một bức tượng. Lúc này Quyết quyết định sẽ xuống thử xem sao. Hắn liền đứng dậy, ôm lấy bức tượng đen mà đẩy ra, nhưng bức tượng rất nặng, không thể dễ dàng bị kéo lê đi như hắn tưởng. Quyết đẩy, nó chỉ nghiêng một chút rồi lại trở lại vị trí cũ. Hắn chợt nhớ ở trong làng hắn, có một phú hộ rất thích trồng cây cảnh, trong nhà gã có rất nhiều chậu cây cảnh rất to, mỗi lần muốn di chuyển những chậu cây ấy, hắn phải gọi đến bốn gia đinh khỏe mạnh. Cái cách họ di chuyển chậu cây cũng rất khéo léo. Họ không đẩy rê như hắn bây giờ, mà chỉ đẩy nghiêng chậu kênh lên vừa đủ một khoảng bé chưa đến một nửa gang tay rồi lấy điểm chậu tỳ lên mặt đất làm tâm, xoay chậu đó đi nửa vòng, rồi họ lại lấy điểm đối diện làm tâm xoay, xoay tiếp nửa vòng nữa, cứ như thế, họ không cần nhấc chậu cây lên khỏi mặt đất cũng có thể di chuyển chậu.

Bấy giờ Quyết cũng làm theo cách như thế, quả nhiên hắn chỉ cần ba lần xoay bức tượng đã di chuyển được bức tượng ra khỏi hình vuông. Xong rồi, hắn cầm lấy tay nắm đồng, kéo mạnh lên, lập tức trên mặt đất lộ ra một địa đạo. Địa đạo này còn có cả một cái thang bằng gỗ dẫn xuống phía dưới.

Quyết đã nghe nói đến nhiều chuyện những tay trộm mộ bị chết ngạt trong mộ do thiếu không khí hoặc là do có khí độc bốc ra. Những kẻ đó thường phải dùng nến hoặc chim để thử xem có không khí trong đó không, hắn bèn đưa tay cầm ngọn nến, với xuống thật sâu phía dưới địa đạo để dò xét.

Phía dưới địa đạo sâu hun hút, không rõ khi nào kết thúc, ngọn lửa từ ánh nến yếu quá nên hắn không nhìn rõ mọi thứ bên trong, chỉ biết đó là một đường hầm sâu thăm thẳm. Lúc này, cánh cửa đã được mở ra, tiếng động từ phía trong căn hầm này lại càng rõ ràng hơn. Nó giống như tiếng động của một đám đông, của tiếng xích sắt, của tiếng than khóc lẫn vào với nhau, thêm vào đó nhưng âm thanh này được không gian bao kín phản hồi, thành ra nghe rất mờ nhạt nhưng lại ồn ào, nghe vừa hỗn độn, vừa thê lương.

Quyết vọng xuống nói:

– Có ai ở đây không?

Lập tức, tiếng động nghe còn ồn ào hơn cả ban nãy, rõ ràng đó là tiếng phản hồi.

Quyết thầm nghĩ "chẳng lẽ tên Tiến này có khả năng mở cả một con đường xuống địa ngục?". Trong lòng hắn có chút trù trừ chưa muốn xuống ngay. Nhưng hắn lại nghĩ "có thể có người trong đó cần giúp". Thế là hắn hít một hơi thật sâu, bước xuống.

Quyết cứ đi sâu xuống lòng đất mà trong lòng hắn, cứ mỗi bước, hắn lại cảm thẩy cái chết đang đến rất gần. Hắn đi đến độ nửa tuần hương thì mới thấy phía trước là tận cùng của cái thang, cũng không thể thấy rõ vật gì khác nữa. Những âm thanh hỗn độn thì ngày càng dữ dội, làm hắn cảm thấy buồn nôn.

Khi đứng ở bậc cuối cùng của thang, Quyết giật mình, thấy phía trước mình là cả một không gian rộng lớn. Ánh sáng leo lét của ngọn nến không thể chiếu sáng hết không gian rộng lớn này.

Dưới ánh sáng lờ mờ ấy, hắn nhìn thấy không gian này thực ra là một căn hầm được xây rất rộng. Hắn đi sâu thêm mấy bước nữa, thì thấy ngay phía bên tay trái của mình có một hàng dài những chấn song sắt chạy đến hết tầm ánh sáng. Hắn giật mình kinh hãi khi nhận ra bao quanh mình là những đốm sáng. Những đốm sáng này dường như ở phía sau những chấn song sắt kia.

Thì ra, nhìn thật kỹ thì đó là những cặp mắt, không hiểu của người hay thú hay là ma quỷ. Trong phút chốc đầu óc hắn như mụ mị, không rõ mình đang ở nơi nào trên thế gian. Hắn nhắm mắt, định thần lại một lúc rồi nghĩ "ma mình cũng đã gặp rồi, mà vẫn không chết, vậy còn sợ nỗi gì nữa?" Nghĩ thế, hắn bèn tiến đến gần một chấn song sắt.

Phía sau song sắt, một người đầu tóc bù xù, tóc mọc dài rũ xuống đến cằm che kín khuôn mặt, chỉ có cặp mắt vẫn lấp ló sau làn tóc đó, đôi mắt thoáng đỏ như máu này gặp phải ánh sáng của hắn lập tức nhắm lại rồi lùi về phía sau như sợ sệt lắm, đến lúc tựa sát vào bức tường phía sau mới chịu dừng lại. Người này có vẻ rất sợ hãi, hai tay đưa lên che trước mặt như sợ bị người ta đánh đập

Người trước mắt hắn bấy giờ gầy gò đến dơ cả xương sườn, hoàn toàn trần truồng, đang ngồi xổm trên nền. Tay hắn đen đúa mà móng tay mọc rất dài, lại nham nhở, rõ ràng là tự mình xé móng tay đi khi nó mọc dài quá để cho đỡ vướng.

Quyết thấy tình cảnh như thế thì kinh khủng quá, hắn bèn cất tiếng hỏi:

– Ông là ai? Tại sao lại ở đây?

Người sau song sắt không trả lời, chỉ run lên cầm cập giống như người bị động kinh. Quyết thấy thế, nghĩ có lẽ mình càng gặng hỏi càng làm người này bấn loạn, nên đành thôi không hỏi nữa.

Quyết đang nghĩ thế thì có một cánh tay phía bên phải túm lấy áo hắn mà giật về, Quyết cả kinh vội lao về phía trái để thoát ra. Roạt một tiếng, áo của hắn đã bị rách một mảng mất rồi. Quyết quay sang phải thì thấy một bóng người khác. Người này bị nhốt ngăn cách với người hắn vừa thấy bởi một song sắt. Thì ra mỗi người bị nhốt trong một lồng sắt riêng biệt.

Cái hình hài này cũng trần truồng giống như người hắn vừa thấy, nhưng đây rõ ràng là một người phụ nữ, vì bộ ngực bà ta đã chảy xệ ra, dài đến một gang tay, mà lại xẹp lép. Người phụ nữ này tay đang với về phía hắn nhưng không tới, bộ dạng thực là giống người ăn xin.

Quyết cũng vốn là kẻ ăn xin nên nhìn thấy tình trạng như thế cũng không thấy sợ nữa, mà hắn lại động lòng thương cảm, hắn lại hỏi lại câu hỏi khi nãy:

– Bà là ai? Tại sao lại ở đây?

Người phụ nữ kia đáp một cách rời rạc, rõ ràng là có cùng tâm trạng hoảng hốt như người đàn ông bên cạnh:

– Hắn bắt... Hắn bắt... làm mồi... làm mồi...

Nói rồi, bà khóc rống lên, người đàn ông trước mặt hắn cũng khóc, rồi từ "chuồng" bên cạnh lại có một tiếng khóc, rồi tiếp đến lại một tiếng khóc ở xa hơn, cứ như thế, dần dần tiếng khóc hình như của rất nhiều người, cùng hòa lên một lúc, làm cho không gian rộng lớn nhưng kín đáo thế này ẩn chứa một thứ âm thanh phẫn nộ và kinh hoảng. Tiếp đó, lại có cả tiếng va đập vào lồng sắt, rõ ràng có ai đó đang lồng lộn trong lồng của mình. Phải chăng trong những lồng sắt thế này, có người đã hóa điên?

Đột nhiên có một tiếng gầm át hết tất cả các âm thanh hỗn tạp đó. Tiếng gầm này phát ra từ phía đối diện dãy lồng sắt này. Tiếng gầm này dứt, không gian lại trở nên im lặng một cách ngột ngạt. Thực khó có thể tưởng tượng được sự hỗn loạn trước đó chỉ vài khắc. Âm thanh của tiếng gầm Quyết nghe được hôm nọ chính là từ đây phát ra.

Khi không gian trở nên yên ắng, Quyết chợt thấy có một mùi hôi thối bốc lên, thì ra người đàn ông trước mặt hắn trong lúc hoảng sợ, đã đại tiện từ lúc nào.

Bây giờ chỉ còn tiếng gầm gừ kia. Quyết cố nhìn thật kỹ thì thấy một bóng đen to lớn ở cách hắn khoảng mười trượng. Bên cạnh bóng đen ấy có một bóng đen nhỏ hơn, bóng đen nhỏ này chính là một bóng người. Bóng người nằm phục trên mặt đất.

Đột nhiên, bóng đen nhỏ vùng bật ngửa về phía sau, dường như muốn trốn chạy nhưng chỉ được hai bước, bóng đen nhỏ bị giật ngược đâu trở lại. Thì ra trên cổ người này có một sợi dây xích. Quyết đoán người này đang bị ngất thì tỉnh lại, thấy bóng đen trước mặt thì thu hết lực mà vùng chạy, nào ngờ có sợi xích kia. Thành ra không những không chạy được mà còn bị giật ngược lại, ngã ngửa ra đất, chắc chắn là đã bị thương.

Bóng đen lớn nhìn thấy như thế nhưng không hề có phản ứng gì. Đến bóng nhỏ kia ngã xuống thì nó vẫn ngồi đó gầm gừ.

Đột nhiên nó vọt lên một cái, đã vồ lấy cái bóng nhỏ kia, đớp một miếng ở phần đầu. Bóng nhỏ la lên một tiếng rồi tắt hẳn. Hiển nhiên cái bóng nhỏ đã tắt thở. Bấy giờ Quyết mới nhìn rõ bóng đen lớn có thân hình thực giống một con thú. Con thú này đang ngốn ngấu ăn cái bóng đen nhỏ kia.

Quyết đứng nhìn thấy cảnh tượng kinh hãi này, nghe thấy từng tiếng rốp roáp khi con vật ăn uống, vừa kinh dị, vừa tởm lợm, trong đầu tự nhiên không nghĩ ngợi được gì, đành đứng trân trân ở đó mà nhìn.

Một lúc sau hắn định thần lại và nghĩ: "chẳng lẽ thằng cha phù thủy kia nuôi con vật này bằng người sống? Nếu đúng như vậy, tất cả những ngừoi bị nhốt ở đây có lẽ đang chờ đến ngày bị nó ăn thịt. Mà cái cảnh này ngày ngày hiện ra ngay trước mắt họ, thì họ không sớm thì muộn, cũng phát điên mà thôi."

Quyết đang nghĩ như thế thì bấy giờ con vật chỉ một loáng đã ăn xong. Đột nhiên quay đầu lại phía Quyết, nhìn chằm chằm. Hai con mắt của nó sáng rực trong màn tối mờ ảo làm cho Quyết dựng hết cả tóc gáy.

Bóng đen này đột ngột vùng dậy lao về phía Quyết. Chớp một cái nó đã nhảy đến, chỉ cách Quyết có vài trượng nữa mà thôi. Lúc này Quyết chợt thấy một khuôn mặt lông lá và tóc tai rũ rượi, trên khuôn mặt này, một từ mũi trở lên bị lấp bởi mớ tóc dài nhưng vẫn nhận ra một đôi mắt người, đôi mắt này còn có một cái nốt ruồi rất lớn ở đuôi mắt. Nó thật man dại, giống như của một người bị điên mà Quyết đã nhìn thấy một lần trong làng hắn.

Nhưng điều đáng ghê sợ hơn là từ phần mũi trở xuống không phải là của con người, mà thay vào đó là một cái mũi giống như mũi mèo mà to hơn nhiều lần, phía dưới là một cái miệng to lớn đỏ lòm như máu, cái miệng này há to làm hắn có thể thẩy được trên lưỡi của sinh vật này có thực nhiều chiếc gai nhỏ li ti. Hai chiếc răng nanh sắc lẻm mà dài đến chừng một ngón tay người. Mấy chiếc râu trên miệng cứng dài mà cong vút. Phần mặt phía dưới này đầy lông lá mà lại có nhiều vằn đen.

Đó quả thực là của một con hổ.

Nào ngờ nó chỉ cách Quyết chừng hai trượng thì đột ngột dừng lại trên không trung, rồi tự nhiên rơi thẳng xuống đất. Thì ra con vật này cũng bị xích lại như bóng đen kia.

Con hổ từ từ đứng lên, rồi lại điên cuống muốn lao tới phía Quyết nhưng vẫn còn cách một đoạn, không tài nào với tới được. Nhưng khoảng cách giữa Quyết và con vật vẫn rất gần, Quyết có thể ngửi thấy mùi tanh hôi từ miệng con vật phả về phía mình.

Quyết kinh hãi quá liền quay đầu bỏ chạy. Nào ngờ đúng lúc ấy, một tiếng động nghe đánh "phực" một cái, rồi có tiếng sắt leng keng trên nền nhà. Thì ra con hổ vùng vẫy mạnh quá, làm đứt cả sợi dây xích. Bây giờ chẳng có gì giữ được nó lao vào Quyết nữa cả.

Quyết hoảng hốt dùng hết sức bình sinh chạy thẳng lên cầu thang gỗ. Phía sau lưng con hổ đuổi ngay sát sau lưng hắn. Quyết dùng cả hai tay hai chân mà leo lên cầu thang, cuối cùng thì cũng đến được cánh cửa vuông. Lúc hắn vừa nhô lên được nửa người thì chân con hổ tát sượt một cái. Con hổ đang kịp lao đến rất gần. Quyết lấy hết sức đạp mạnh một cái. May mắn thay, cú đạp này ngay trúng đầu con vật, lại ngay lúc con vật không quen leo cầu thang nên bước hụt một bước làm nó đang lao nhanh nên mất đà, bị hất trượt xuống phía dưới, theo đà ngã, lăn xuống đến tận dưới hầm.

Quyết vội vã đóng chặt cửa hầm lại, rồi lại lăn pho tượng đen kia ra để bịt đường. Đoạn hắn lao qua của sổ. Ra đến nơi thì trời đã sẩm tối. Quyết kinh hãi tự hỏi không biết Tiến đã về đến nhà chưa.

Đúng lúc ấy, hắn chợt nghe tiếng vó ngựa từ cổng lớn. Hắn biết Tiến đã về, hắn bèn vòng qua phía sau nhà đi về phòng để Tiến không thể nhìn thấy.

Tiến quay vào nhà, ngay lúc đó trong căn nhà lớn có tiếng động. Tiến nghe thấy liền đi thẳng về phía đó. Quyết trong phòng vốn vẫn nghe ngóng mọi chuyện bên ngoài, thấy thế thì hồi hộp quá, sớm hay muộn gì con quỷ này cũng biết chuyện. Quyết chỉ mong hắn mở cửa ra sẽ bị con hổ ăn thịt, đến khi đó hắn có thể tìm cách vào mà cứu những người kia ra. Tim đập thình thịch, hắn ngó qua khe cửa, thấy Tiến đang đứng trước cửa ngôi nhà lớn.

Khi Tiến vừa mở cửa, Quyết thấy ngay lập tức Tiến bị hất ngược ra đằng sau, ngã bệt trên sân gạch, cùng lúc có một cái bóng vọt ra ngoài. Cái bóng này rất nhanh nhẹn, nhảy được ba bốn bước đã vọt qua tường rào biến mất. Quyết đoán rằng con hổ kia đã đẩy được cả cánh cửa lẫn bức tượng phía trên, cùng lúc Tiến mở cửa ra, thế là nó tháo chạy luôn.

Tiến lúc này cũng cực kỳ kinh ngạc. Qua một lúc sau, dường như hiểu ra mọi chuyện, hắn rất tức giận, dậm chân hét lên rồi quay vào trong ngôi nhà lớn. Quyết rất lo lắng vì sợ hắn sẽ tìm thấy vệt máu trên cửa sổ từ ngón tay hắn.

Khi Tiến đi vào trong ngôi nhà lớn, hắn tìm tòi sục sạo một lúc lâu, quả nhiên đúng là tìm thấy vết máu trên cửa sổ. Hắn càng tức giận hơn, vớ lấy một con dao trong phòng, tiến về phía phòng Quyết.

Quyết lúc này vẫn nhìn chăm chăm vào căn nhà lớn, thấy đột nhiên Tiến vác dao về phía phòng mình thì nhủ thầm:

"Lần này thế là mình chết rồi"

Nhưng hắn cũng không thể khoanh tay mà chờ người ta muốn chém muốn giết thế nào tùy ý được. Lòng ham sống trong Quyết vẫn còn mãnh liệt. Thế là hắn tìm trong phòng có vật gì có thể tự vệ được không. Trong lúc gấp rút, cũng đành cầm tạm một cái ghế nhỏ. Hắn cầm sẵn cái ghế trong tay, chỉ đợi Tiến xông vào thì lập tức "tiên hạ thủ vi cường" bổ ngay ghế vào đầu Tiến để chiếm thượng phong.

Nào ngờ qua một lúc hắn không thấy Tiến đi vào. Chỉ nghe phía cuối hành lang có tiếng thét khe khẽ. Tiếng động này phát ra từ phòng bà già quét dọn. Quyết ghé mắt trông sang thì thấy ngay ở cửa phòng bên, bà cụ đang cố gắng bò ra khỏi cửa. Bỗng nhiên từ phía sau, Tiến bước tới gần, tay hắn cầm một con dao, từ từ kề vào cổ bà cụ, một tay hắn bịt mồm bà. Lưỡi dao đưa lên, Quyết thấy rõ máu phun ra thành vòi, chỉ trong chốc lát, bà cụ gục xuống. Việc Tiến giết bà cụ này, thực giống như người ta làm thịt một con gà vậy.

Quyết cả kinh không hiểu tại sao Tiến lại giết bà già này? Hắn ghé mắt qua cửa sổ thì thấy Tiến đang niệm phép gọi hai tên âm binh đến mang xác bà già đi chôn mất rồi.

Tim Quyết đập thình thịch, vừa kinh sợ vừa xót thương. Kinh sợ vì nếu Tiến bước vào phòng hắn thì mười phần chắc đến chín là sức trói gà không chặt của hắn không thể hạ được Tiến, người bị âm binh mang đi chôn chắc là hắn rồi. Xót thương là vì dù sao bà cụ này cũng là người nấu cho hắn ăn trong bấy lâu nay, lại dọn dẹp phòng cho hắn nữa, mặc dù hai người chẳng bao giờ nói chuyện với nhau nhưng hắn vẫn có cảm tình với bà cụ. Chẳng biết bây giờ con cái bà cụ ở đâu mà báo cho họ biết hung tin này nữa.

Sau khi xong việc, Tiến về giường đi ngủ, khi đi qua phòng Quyết, hắn ghé mắt vào trong phòng hắn. Quyết sớm đã đoán ra hắn sẽ kiểm tra xem mình có biết những chuyện vừa rồi hay không, liền lên giường đắp chăn giả vờ ngủ. Tiến nhìn một lúc rồi bỏ đi. Không ngờ tên phù thủy cáo già này lại bị một thằng nhóc ăn mày lừa phỉnh mà không hay biết.

Đêm hôm đó Quyết trằn trọc không ngủ được, tâm trạng tiếc thương buồn bã, ngạc nhiên xen lẫn căm phẫn dấy lên trong hắn. Hắn trằn trọc cho đến lúc gà gáy canh ba hắn mới thức dậy.

***

Sáng hôm sau, Tiến bỏ đi từ sớm, vì chẳng có ai nấu cơm cho Quyết ăn nên hắn để bụng đói mà đi vào thành tìm gặp cụ Huyền.

Quyết dễ dàng tìm được nhà trọ nơi cụ Huyền đang thuê trên một con phố nhỏ. Khi hắn đến đã thấy cụ Huyền và cụ Trác đánh cờ với nhau. Thì ra từ khi hai người quen biết, nói chuyện cảm thấy rất tâm đầu ý hợp, đúng là đôi tri kỷ về già nên sớm tối gặp gỡ, đàm đạo y thuật, cuộc đời, thời thế. Lúc này cụ Trác ở Kinh thành đã dâng đơn thuốc lên cho thế tử Trịnh Cán nhưng chưa được ngự dụng, Chúa lại có lệnh cho cụ không được rời khỏi kinh thành để đề phòng khi có việc cần dùng đến thuốc cụ. Cho nên cụ Trác sớm tối rất nhàn hạ, cũng chẳng có việc gì làm ngoài việc xem mạch cho mọi người, thành ra lúc rảnh lại đến chơi với cụ Tả Ao.

Hai người đang ngồi đánh cờ, thấy Quyết đến, mặt mày hắn rất khó coi thì biết là đêm qua đã xảy ra chuyện, giục Quyết kể ngay.

Quyết mang chuyện hôm qua ra kể một lượt từ đầu đến cuối, không sót một chi tiết nào. Hai cụ già trầm ngâm ngồi nghe một đứa nhỏ nói có đến cả canh giờ. Khi Quyết kể đến chuyện bà cụ bị giết, không tránh khỏi thương tâm, nhỏ ra hai dòng lệ.

Khi hắn kể xong, cụ Huyền nói:

– Quả đúng như ta dự đoán, hắn đang làm chuyện đó.

Rồi dường như thấy ánh mắt tò mò của hai người đối diện, cụ nói tiếp:

– Người làm nghề huyền thuật không ai không biết đến một loại ngải rất đặc biệt. Nguyên là loại ngải này có tính năng giúp người ta đi rừng được thuận lợi, bình an, rắn độc, thú dữ không thấy mà thân thể khỏe mạnh, trèo đèo lội suối mãnh mẽ vô cùng. Cái thứ ngải này được làm từ một loại cây đặc dị chưa thấy có tên trong sách vở. Người ta lấy rễ của nó, rồi ngâm với rượu và tiết hổ trong bốn mươi chín ngày mới thành được. Loại ngải này thường được những người đi tìm trầm hương sử dụng để đi rừng được thuận lợi và an toàn hơn. Nguyên do là trầm hương từ cây bầu gió chỉ có ở sâu trong những nơi rừng thiêng nước độc. Càng vào sâu trong rừng, trầm hương càng quý giá. Nhưng loại ngải này chỉ có công dụng trong bốn mươi chín ngày, qua ngày thứ năm mươi, nếu không được giải bằng chính loại trầm hương cực phẩm kia thì cơ thể biến đổi, chẳng bao lâu biến thành hổ.

Cụ Tả Ao lại nói tiếp:

– Tôi xin kể một câu chuyện thế này, đời nhà Lý, có đức vua Lý Thần Tông, vị vua này, đến năm hai mươi ba tuổi, đột nhiên thấy ngứa ngáy khắp cả mình mẩy, càng gãi bao nhiêu thì lông càng mọc bấy nhiêu, ngồi xổm chụp người, cuồng loạn, gầm gừ đáng sợ. Triều đình phải làm cũi vàng nhốt Vua trong đó. Khi ấy có đứa bé ở Chân Định hát rằng:

Nước có Lý Thần Tông,

Triều đình muôn việc thông.

Muốn chữa bệnh thiên hạ,

Cần được Nguyễn Minh Không.

Triều đình sai quan chỉ huy đi đón sư Nguyễn Minh Không. Đến am, sư cười bảo: "Đâu không phải là việc cứu cọp đó ư?" Quan chỉ huy hỏi: "Sao thầy sớm biết trước?" Sư bảo: "Ta đã biết việc này trước ba mươi năm". Sư đến triều vào trong điện ngồi, lên tiếng bảo: "Bá quan đem cái đảnh dầu lại mau, trong đó để một trăm cây kim, và nấu cho sôi, đem cũi vua lại gần đó." Sư lấy tay mò trong đảnh lấy một trăm cây kim găm vào thân vua, nói: "Quí là trời". Tự nhiên lông, móng, răng đều rụng hết, thân vua hoàn phục như cũ. Vua tạ ơn sư một ngàn cân vàng và một ngàn khoảnh ruộng để hương hỏa cho chùa, ruộng này không có lấy thuế.

Cụ Tả Ao nhấp một ngụm trà rồi tiếp:

– Câu chuyện trên, dân gian đồn đại là như thế, sử sách cũng có ghi chép lại. Nhưng e rằng cái cốt lõi bên trong người ta chưa nắm được. Nguyên là không phải vua Lý Thần Tông tự nhiên mà hóa hổ, đó chính là do ngài trúng phải loại "hóa hổ ngải" kia. Qua thời gian, người ta dùng loại ngải này không còn vì mục đích vào rừng nữa mà nhiều khi là để triệt hạ một con người nào đó, biến người đó là súc vật. Cách chế luyện ngải này cũng tinh vi hơn, vì thời gian hóa hổ không còn là bốn mươi chín ngày nữa mà rút xuống có khi chỉ có vài ngày. Hôm qua khi cậu bé có nói đến tiếng gầm thì tôi đã sinh nghi rồi, nhưng cũng chưa dám chắc chắn.

Cụ Trác nói:

– Những chuyện kỳ lạ trong dân gian, đúng là không chuyện gì mà không có.

Cụ Huyền quay sang hỏi Quyết:

– Bà cụ làm bếp hôm qua phải chăng là có bị đứt tay chảy máu hay chăng?

Quyết đáp:

– Khi sáng hôm qua lúc cháu ăn sáng có thấy bà cụ đúng là cắt nhầm tay khi thái hành, máu chảy nhiều lắm.

Cụ Tả Ao nói:

– Thế thì đúng rồi. Người trong giai đoạn đang hóa hổ sẽ bị kích động bởi mùi máu. Máu tươi làm họ điên loạn hơn, việc biến hóa cũng nhanh hơn. Người này ngửi thấy máu của cháu trên bệ cửa sổ nên mới cuồng loạn như vậy. Có lẽ tên Tiến đã tưởng nhầm là bà cụ kia dòm ngó căn nhà lớn chứ không phải là cháu, thế nên hắn giết bà cụ để diệt khẩu. Còn cái bóng nhỏ kia, có lẽ bị hắn đánh ngất đi rồi xích lại trước mặt con hổ, đáng lẽ cũng không bị ăn thịt, nhưng vì khi chạy bị ngã nên có thể bị chảy máu ở đâu đó trên thân thể, vì thế thú tính trong con người đang hóa hổ này mới trỗi dậy.

Thực ra cụ Tả Ao đoán đúng chỉ được có sáu phần. Nguyên đầu đuôi câu chuyện là khi Quyết đột nhiên tiến đến gần lồng sắt của người đàn ông đầu tiên, người này sợ hãi tưởng là Tiến đến bắt mình cho hổ ăn, nên mới trốn như thế, người đàn bà ở chuồng bên cạnh thì nhìn rõ hơn nên định cầu cứu hắn. Nào ngờ sự sợ hãi của người đàn ông như căn bệnh lan ra tất cả những người bị nhốt khác, thành ra không khí sau đó mới hỗn loạn như vậy. Những người bị nhốt lâu ngày mà chịu tra tấn về tinh thần như thế, mười phần thì có đến năm sáu đã trở nên điên loạn.

Lúc này nghe cụ Tả Ao nói thế thì Quyết lại càng thấy áy náy vì vì mình mà bà cụ kia thiệt mạng. Hắn ngậm ngùi không nói được lời nào.

Cụ Huyền nói tiếp:

– Có điều muốn hóa hổ ai đó thì cũng đâu cần phải giam người ta lại như thế? Điều này thực khó hiểu.

Cụ Trác nói:

– Để cho cậu bé một mình trong sào huyệt ma quỷ như thế thực là tàn nhẫn. Có lẽ chúng ta nên mang cậu bé về mà nuôi thôi.

Quyết quả quyết:

– Cháu cũng muốn ở lại tìm cách tiêu diệt tên ác ôn này trả thù cho cụ bà, hơn nữa, ở dưới hầm còn rất nhiều người cần phải cứu ra.

Cụ Trác đáp:

– Con ơi, "giữ thân là tận hiếu" dòng họ Phạm nhà con chỉ còn mình con thôi, con nên suy nghĩ cho kỹ.

Cụ Tả Ao nói:

– Thực ra chúng ta có mang cậu đi thì hắn sẽ tìm được chỗ cậu bé thôi mà. Cũng giống như tôi, tôi tìm được cậu bé giúp cậu là nhờ đến đám âm binh ma xó. Hắn xem ra còn cao tay hơn tôi nhiều, e rằng tôi không bảo vệ được cậu bé. Tình thế này có lẽ phải nương theo cái chết mà tìm sự sống thôi. Bây giờ cháu cần giấu vết thương ở tay cho kỹ, nếu hắn nhìn thấy tay cháu, thì thực nguy.

Cụ Trác thấy cụ Tả Ao nói thế cũng đành thôi. Liền lấy trong hộp thuốc ra một lọ thuốc mà nói:

– Cái này thì tôi giúp được.

Nói đoạn cụ mở lọ thuốc này ra. Đây là một lọ thuốc dạng mỡ, cụ thoa một ít lên tay Quyết. Chỉ qua vài tuần hương, vết thương đã khỏi được tám chín phần, vết thâm đen trên móng cũng tan mất hết, người ngoài nhìn vào không phát hiện ra nữa. Thực là không hổ danh là đệ nhất y sư đương thời.

***

Từ lúc chia tay hai cụ già đến giờ, đã độ vài canh giờ, trời đã bắt đầu xẩm tối. Trưa nay Quyết không về chỗ Tiến, hắn không muốn về. Nhưng rồi thì hắn cũng phải quay về nơi đó. Quyết hôm nay thấy trong lòng tâm trạng rất nặng nề. Mặc dù từ trước đến giờ, hắn tiếp xúc rất nhiều với cái chết, nhưng những cái chết đó, đều rất tự nhiên. Đó là những cái chết của những người tận số, những cái chết của những người bệnh tật, nghèo đói, hoặc những cái chết mà khi hắn đến thì đã xảy ra. Những cái chết như thế, ngoài sự tiếc thương của những người thân trên trần thế, có thể là một sự giải thoát, là một điều mong mỏi để thoát khỏi cơn đau đớn, đói khát, hoặc là một sự chấm dứt của một hành trình tích thiện dài đến mấy chục năm trời, hoặc giả, đó là quả báo của một nghiệp ác. Nhưng hắn chưa bao giờ thấy một người khác chết là do hắn. Rõ ràng như thế, người đàn bà già nua kia chết là do hắn, không phải là vì điều gì khác. Bà cụ vẫn muốn sống, hắn chắc chắn như thế. Khi hắn nghe thấy tiếng kêu nhẹ nhưng kinh hoàng của bà cụ, hắn biết cụ muốn sống.

Hắn vừa đi vừa nghĩ ngợi như thế, mà vào đến sân lớn nhà Tiến lúc nào không hay. Hắn ngạc nhiên thấy Tiến đang đứng giữa sân cùng với một cô bé trạc tuổi hắn. Thì ra hắn cũng chỉ vừa về trước hắn có vài khắc. Cô bé này không phải là quá xinh đẹp nhưng mặt mũi sáng sủa, nhìn rất thông minh. Tiến nhìn hắn với con mắt dò hỏi, rồi nói:

– Sao trưa nay mày không về?

Quyết đáp:

– Tôi mải chơi quá, thành ra quên cả giờ về, mà về cũng đâu có cơm ăn. Tối nay tôi làm cơm nhé?

Tiến đáp:

– Không cần, từ nay con bé này làm việc đó.

Tiến chỉ cho cô bé về phía căn phòng của bà cụ ngày hôm qua, nói cô sẽ ở đó. Hắn cũng dặn dò cô bé không được vào trong căn nhà lớn và những việc cô cần làm trong ngày. Ngoài ra, những chuyện lặt vặt như bếp núc ở đâu rồi hắn bỏ vào phòng.

Quyết lại nhìn vào căn phòng của bà cụ, nghĩ thầm mới hôm qua bà cụ còn nằm đó, bây giờ có lẽ đã được bọn âm binh lau dọn sạch sẽ từ hôm qua. Quyết thầm nghĩ cô bé kia nêu được biết những chuyện xảy ra tối qua chắc chẳng dám ở lại trong căn nhà đó. Hắn lại trở về phòng nằm chờ đến bữa cơm. Trong lòng hắn lại dấy lên mối hoài nghi, không biết Tiến có tìm bắt lại thứ nửa người nửa thú tối qua không, rồi hắn lại nghĩ, nếu đó là người, thì không biết là ai, vì sao mà rơi vào tay Tiến. Qua một lúc, hắn lại xoay qua ý nghĩ, không biết có phải Tiến không tìm được người thú kia, nên bắt cô bé này về để thay thế hay không? Nghĩ đến đây, hắn thoáng giật mình, mặc dù hắn với cô bé kia không thân không thích nhưng nếu Tiến biến cô bé thành hổ thì hắn phải hết sức ngăn chặn lại, nếu không thì trong lòng thực áy náy.

Quyết nằm thầm dự tính, không biết nên làm thế nào nếu đúng là Tiến muốn dùng cô bé kia để luyện ngải hổ lần nữa. Hắn tự nhủ nếu muốn ngăn chặn thì cách hay nhất là báo với cô bé kia để cô bé trốn đi, chứ để đến tối thì e răng sẽ bị Tiến hãm hại mất. Nhưng hắn lại nghĩ, Tiến quả thực cũng cần một người chăm lo quét dọn nhà cửa cho hắn, chỉ là hắn tưởng bà cụ hôm qua biết được bí mật của hắn nên mới ra tay hãm hại. Nếu mình báo cho cô bé, sợ rằng mọi chuyện bị lộ, lại chẳng hóa ra làm hại cô bé này sao?

Quyết suy đi tính lại như thế một hồi lâu mà vẫn chưa biết nên làm thế nào. Hắn rất muốn hỏi ý cụ Tả Ao và cụ Trác nhưng bây giờ không thể làm thế được, hắn phải tự mình quyết định mà thôi.

Quyết cứ nằm nghĩ như thế chẳng mấy chốc mà đã ngủ thiếp đi. Nguyên là Quyết bị suy nhược cơ thể trong thời gian dài, bây giờ đang là giai đoạn hồi phục, phản ứng tự nhiên là ăn ngủ rất nhiều, có lẽ cũng nhờ thế mà béo tốt lên trông thấy.

Quyết thức dậy bởi tiếng cô bé gọi cửa, báo là đã nấu nướng xong xuôi. Quyết ra nhà ăn thì thấy cơm canh đã dọn sẵn, rất là ngon lành.

Tiến cũng rất ngạc nhiên vì chỉ trong thời ngắn như thế mà cô bé có thể làm được một mâm cơm tươm tất, đến như vậy. Nhất là khi vừa vào một bếp lạ, người nâu chưa thể quen ngay với vị trí gia vị mắm muối chỗ nào, rửa chỗ nào, nấu ở đâu. Thường thì những việc nhỏ nhặt ít được chú ý này làm mất rất nhiều thời gian của các cô con dâu mới về nhà chồng hoặc các con ở cho nhà người ta, thế mà chỉ loáng một cái cô bé đã xong việc. Cô bé này quả thực nhanh nhẹn, tháo vát, đảm đang. Tiến rất lấy làm vừa lòng, bèn nói:

– Hay lắm, ngươi đúng là người ta đang cần.

Quyết nghe nói thế thì dựng cả tóc gáy. Thực ra câu nói của Tiến rất bình thường, nhưng đầu óc Quyết bây giờ đang lo lắng cho sự an nguy của cô bé kia, bây giờ lại nghe câu đó, thì nghi là hắn sẽ biến cô bé thành hổ. Thế là lòng hắn đã quyết, phải nói ngay để cho cô bé này biết được sự tình mà trốn đi, không lại uổng thêm một mạng người nữa.

Lúc ăn xong, Quyết định đợi lúc cô bé đi rửa bát để nói cho cô biết, nhưng ngặt nỗi, hôm nay Tiến lại pha một ấm trà ngồi uống trong sân, từ chỗ hắn có thể nhìn thấy nơi cô bé rửa bát, thế nên Quyết chưa thể nói chuyện được. Hắn ở trong phòng mà ruột nóng như lửa đốt, chỉ sợ Tiến ra tay thì mình cũng phải liều mình ngăn cản.

Cô bé dọn rửa xong thì Tiến đứng dậy, tiến lại gần, Quyết lúc này mắt vẫn không rời khỏi hai người, hoảng hốt, nghĩ đã đến lúc phải ra tay. Nhưng nghĩ là một chuyện, làm là một chuyện khác, thế nên hắn vẫn trù trừ đứng nguyên một chỗ. Bấy giờ hắn nghe Tiến hỏi:

– Mày tên gì?

Cô bé đáp:

– Ở nhà mọi người gọi tôi là Na.

Tiến lại nói:

– Mày xong việc rồi thì vào căn nhà lớn bên kia tao sai mấy việc.

Nói rồi, hắn đưa dặn dò cô bé mấy việc, xong xuôi hắn lại quay vào căn nhà lớn. Na dọn dẹp bát đũa xong xuôi cũng vào theo. Quyết không biết chuyện gì xảy ra bên trong, rất lo lắng. Hắn tiến đến chỗ khe cửa hôm trước, ghé mắt vào nhìn trộm thì thấy Na khệ nệ bưng nào hoa quả nào đồ ăn lên bàn thờ lớn có tượng quan công. Rồi thì nào rượu nào thịt, nào hoa quả, bỏng, chè, cháo hoa được bày một lượt lên bàn. Thì ra, Tiến muốn chuẩn bị một bàn lễ, rõ ràng là muốn cúng bái gì bọn âm binh kia. Quyết thấy thế thở phào vì đoán là Tiến sẽ chưa làm gì hại Na ngay, bèn chú tâm theo dõi tiếp.

Bàn lễ đã chuẩn bị xong xuôi, Tiến bảo cô bé về phòng ngủ, cấm không được ra ngoài. Cô bé ngoan ngoãn làm theo. Quyết thấy một lúc ngoài sân không còn có ai cả, chỉ còn lại không gian tĩnh mịch, mà đèn hương Tiến cũng chưa lên, hiển nhiên hắn đang chờ đến giờ mới làm lễ. Quyết nghĩ cũng cần báo sớm cho cô bé để đề phòng bất trắc. Nhưng Quyết sợ Tiến nhìn thấy hắn vào phòng Na sẽ sinh nghi, bèn về phòng mình, chốt cửa bên trong, nhảy ra khỏi phòng bằng cửa sổ phía sau. Lúc này hắn đã đứng ở dải đất nhỏ ngăn cách giữa tường rào và phòng hắn. Từ đây, Quyết biết lối đi dẫn được ra tới chỗ phòng cô bé. Hắn rón rén đi về phía đó, nhưng rất cẩn thận, chỉ sợ gây ra tiếng động khiến Tiến có thể biết được.

Chỉ một lúc sau, hắn đã đứng trước cửa sổ phòng Na. Hắn liền cạy cửa leo vào. Nào ngờ, hắn vừa mới thò đầu vào trong thì một vật nặng đánh mạnh vào gáy hắn làm hắn ngã nhào vào trong, bất tỉnh tức khắc.

***

Không biết bao lâu sau, Quyết lờ mờ tỉnh lại. Hắn thấy đầu đau như búa bổ. Hắn cố gắng mở mắt ra nhưng nhưng nhất thời chưa thể nhìn rõ được vật gì, chỉ thấy một màu đen bao trùm. Bấy giờ cách giác quan của hắn mới dần dần thức tỉnh. Hắn thấy tay chân mình không tài nào nhúc nhích được. Hắn càng cố cựa quậy càng thấy một vật gì đó siết chặt trên cơ thể. Hiển nhiên hắn đã bị trói. Miệng hắn có đang ngậm một vật gì như là một cuộn vải. Thì ra đã có ai đó dùng vải nhét vào mồm hắn để làm hắn không thể kêu la được. Hắn chỉ ư ư được mấy tiếng.

Quyết thầm than thế là hết, không hiểu vì lý do gì mà Tiến biết được việc hắn đang làm, chắc chắn hắn bày ra cạm bẫy này để thử lòng hắn, xem hắn có biết gì về chuyện tối qua không. Chắc chắn hắn còn tiếc vì trong người hắn còn có soái vong nên phải thật chắc chắn là Quyết biết chuyện tối qua, gã mới ra tay. Chắc chắn là mọi kế hoạch đã được Tiến chuẩn bị chu đáo, chỉ chờ hắn chui vào là gã có thể vung tay tóm gọn.

Mắt Quyết dần quen với bóng tối, hắn đưa mắt nhìn quanh tìm Tiến. Nhưng hắn vẫn đang ở trong căn phòng của bà cụ, phía gần cửa có một bóng người đang đứng. Cái bóng này dường như không quan tâm đến Quyết mà nhòm qua khe cửa nghe ngóng. Đó chính là cô bé tên Na.

Lúc này Na tiến về gần phía hắn. Quyết muốn nói mình đến để cứu cô bé, nhưng miệng bị nhét giẻ, thành ra nhất thời không thể nói năng gì. Na kéo lấy ghế ngồi bên cạnh hắn, đoạn, cô nói:

– Người đang đêm lẻn vào đây là có ý gì? Muốn giở trò đồi bại chăng?

Rồi cô bé rút trong người ra một con dao nhỏ, sáng quắc trong đêm, đúng là loại dao quý, huơ huơ trước mặt Quyết như muốn lấy mạng.

Quyết trong bụng than thầm kêu khổ. Rõ ràng mình đang đêm lẻn vào phòng con gái nhà người ta, không phải là có ý đồ muốn làm chuyện lén lút đồi bại thì còn là lý do gì nữa, trong hoàn cảnh này, có nói ra chuyện người hóa hổ, thử hỏi có mấy ai trên đời tin được? Hắn tự trách mình ngu, tự đẩy mình vào hoàn cảnh tình ngay lý gian này.

Lúc này Na nói tiếp:

– Ta lấy giẻ ra khỏi miệng ngươi, cho ngươi một cơ hội nói, nếu la lên, ta lập tức giết chết.

Nói đoạn, Na lấy miếng giẻ nhét trong miệng Quyết ra. Quyết thấy miệng mình khô rát, hắn nói:

– Tôi... Không có ý xấu... Muốn báo tin...

Na nói:

– Nói láo, ta mới tới đây chưa được một ngày, làm gì có quen biết gì mà báo tin với ngươi.

Quyết đáp:

– Cô nên trốn đi thì hơn, kẻo mất mạng.

Na đáp:

– Ở đây ăn uống đầy đủ, không tốt hay sao?

Quyết nói:

– Tay chủ nhà là phù thủy, hắn không phải người tốt.

Nói rồi, hắn lần lượt kể lại câu chuyện tối qua cho Na nghe. Na nghe một hồi, trên khuôn mặt lộ rõ vẻ xúc động. Đến khi Quyết kể xong, chợt thấy Na vung con dao kề ngang vào cổ Quyết. Lúc này Quyết cảm nhận được khí lạnh của con dao trong tay Na, lại thấy lưỡi dao sắc lẹm kề vào cổ mình. Na hỏi:

– Ngươi nói ngoa ta lập tức lấy mạng ngươi.

Quyết tự nhủ lần này sẽ chết, bèn nói một câu quả quyết:

– Tôi nói thật. Nếu không tin thì thôi, đừng dọa giết nữa, xuống tay đi.

Rồi hắn không nói gì nữa.

Nào ngờ, hắn thấy cô bé cực kỳ xúc động, hỏi lại hắn, giọng thực nhẹ nhàng:

– Ngươi có nhìn thấy rõ người đó tướng mạo thế nào không?

Quyết đáp:

– Trong phòng tối đen như mực, tôi chỉ nhìn thấy bóng người, không nhìn thấy rõ ai. Mà thực ra, mặt mũi người đó hóa hổ đến phân nửa rồi, thì làm sao còn nhận ra được thế nào.

Lúc này, nghe đến câu nói đó, Quyết chợt thấy Na ngân ngấn nước mắt như muốn khóc Hắn ngạc nhiên hỏi:

– Tại sao cô lại khóc.

Na đáp:

– Xem ra ngươi thực không phải là cùng một giuộc với lão già kia. Được, ta nói cho ngươi biết.

Na lần lượt mang chuyện của mình ra kể cho Quyết biết. Thì ra Na tên thật là Nguyễn Tố Ngọc, nhà ở trấn Sơn Nam, thì ra bố của Ngọc là Nguyễn Cảnh Trung, là võ sư lò võ Nhất Nam tại trấn ấy. Cách đây hai năm, có phường giặc cướp là Hoàng Đình Tạo tụ tập được gần năm trăm người, kéo đi cướp bóc khắp trấn. Quân của Tạo phần là những tay giang hồ lão luyện, phần là những tàn quân của đảng cướp khác mà Tạo thu nạp được, thành ra rất thiện chiến, đánh nhanh, cướp nhanh rồi lại lui vào trong núi lẩn trốn, mỗi lần đánh cướp thành công, đều tăng cường được quân số, tiền bạc, thành ra ngày một mạnh mẽ hơn. Bấy giờ, quân binh triều mỗi khi được tin báo thì quân của Tạo cũng đã rút đi rồi, thành ra Tạo cứ hoành hành đến tận mấy năm.

Khi ấy, Nguyễn Cảnh Trung vốn là người có tiếng tăm trong trấn đành tự đứng lên thu thập nhân mã trong huyện, được hơn ba trăm người, cùng với hơn một trăm học trò trong võ đường, do thám, phục kích mấy tháng trời, lừa được khi quân Tạo vừa đánh cướp về, đang đi ngang qua một con đường nhỏ thì mai phục sẵn mà diệt được quá nửa quân Tạo. Hoàng Đình Tạo bị giết tại trận. Sau chiến công ấy, tiếng tăm của Nguyễn Cảnh Trung vang dội khắp cả trấn. Người người không ai không tấm tắc khen khi nhắc đến tên.

Có điều, khi nhà chúa nghe được thì không được vui, cho rằng những việc tự thâu binh mãi mã như thế, thực cũng chẳng khác nào việc làm phản. Lại có người khải với Trịnh Sâm rằng Sơn Nam là phên dậu của nước nhà, mà những sự phản nghịch như thế xảy ra, thì thực quá bất an. Giả mà Trung có ý làm phản, thì chỉ cần hô một tiếng, sẵn đã có tiếng tăm, khí thế quân sĩ đang lên, mà từ Sơn Nam kéo vào kinh thành chưa mất đến hai ngày, thì thế sự chẳng phải hiểm nguy lắm ư? Chúa cho là phải, liền triệu Trung vào kinh, quy tội, kết án, tịch thu gia sản. Cuối cùng Trung bị tội phanh thây trước chợ Báo Thiên???

Bây giờ, vợ Trung nghe tin này tuẫn tiết theo chồng, để lại hai đứa con, một trai, một gái. Con gái lớn của Trung chính là Ngọc như đã nói ở trên, cái tên Na chỉ là thuận miệng nói ra để lừa gạt Tiến mà thôi.

Nguyên là sau khi bố mẹ chết đi, gia cảnh tiêu điều, tuy không bị tội tru di nhưng họ hàng bà con cũng không ai dám nhận vì sợ liên lụy. Thế là hai chị em trở nên bơ vơ không có ai nương tựa, đành dắt díu nhau lên kinh, tính kế làm đứa ở cho nhà người ta.

Nhà chủ của Ngọc là một nhà bán gạo ở Kinh kỳ, cũng có tiếng tăm, gia sản rất lớn, cũng cần người vú em chăm lo cho mấy đứa con mới sinh của ông chủ. Ngọc xin mãi, họ mới nhận nuôi cơm hai chị em hàng ngày Có điều, nhà chủ cũng chỉ nhận người chị mà thôi, còn đứa em thì đành sống ăn bám chị. Hai chị em thương nhau lắm, suốt ngày quấn quít bên nhau, chị làm việc thì em giúp đỡ, khi rảnh rỗi thì chị dạy em học chữ.

Hai chị em cứ tựa vào nhau mà lay lắt sống như thế, chẳng mấy chốc mà cũng được một năm, Ngọc cũng đã mười bốn, còn cậu em được chín tuổi. Cách đây khoảng chục ngày, khi đó Ngọc đang cho cậu chủ ngủ ở trong nhà, Hiếu đang chơi ở ngoài sân với một cậu bé cửa hàng bán muối nhà bên cạnh thì có một sự lạ xảy ra. Trên trời xuất hiện một vật đen, vì lúc đấy gần rằm nên trăng sáng lắm, làm cho vật đen ấy càng thấy rõ trong đêm. Cái bóng đen này cứ bay lơ lửng trên đầu hai đứa trẻ.

Hai đứa thấy vậy thì thích lắm, cả hai cùng chỉ lên trời bàn tán rôm rả. Nào ngờ, đang lúc nói chuyện như thế thì bóng đen kia vụt liệng một cái thành một hình vòng cung rồi đột ngột lao xuống mặt đất. Bóng đen đó không lao thẳng xuống mặt đất mà đến cách mặt đất thì bay là là nhưng cực kỳ nhanh. Bóng đen bay thẳng đến chỗ hai đứa đang đứng, chúng sợ quá, vì lúc này, bóng đen biết bay đó hiện rõ một hình người đang ngồi trên một vật giống như cái chiếu to cứ thế lao đến. Nhìn thấy cảnh tượng một người cưỡi trên một cái chiếu biết bay, chuyện kỳ dị như vậy đâu phải ngày nào cũng có, thành ra hai đứa trẻ sợ đến không chạy nổi.

Chỉ thoáng một chốc, cái bóng đen đó đã lướt đến cạnh Hiếu, chợt người ngồi trên chiếu giang tay túm lấy hắn. Khi đi qua chỗ cậu bé ở cửa hàng bán muối, hắn cũng giang tay toan chụp lấy. Nhưng cậu bé này đứng phía sau Hiếu khoảng một trượng, nhìn thấy như thế, đã có đề phòng từ trước, thành ra trong lúc hiểm nguy ấy đã ngã người ra, tránh được cú chụp. Cậu còn nhìn thấy rất rõ người ngồi trên chiếu có dáng người cao mà gầy đến kỳ dị, đôi mắt như phát sáng trong đêm.

Lúc đấy cậu bé nhà bán muối hét to lên gọi người đến giúp, người cao gầy ngồi trên chiếu bay chụp hụt cậu bé nhà bán muối liền bay đi thẳng, cũng không quay lại bắt nữa, cậu bé thấy rõ, cái chiếu kia, rõ ràng là một con diều lớn.

Chỉ một lúc sau có rất nhiều người chạy ra, đa phần tưởng có cướp nên tay lăm lăm gậy gộc. Họ ra đến nơi chỉ thấy một cậu bé đang ngồi phệt dưới đất, hoảng hốt, kinh hoàng, miệng lắp bắp nói về điều đã xảy ra. Lúc ấy Ngọc mới kinh hãi biết rằng em mình đã bị bắt cóc.

Mọi việc xảy ra quá nhanh mà lại hoang đường vì đa số chẳng ai tin có người có thể ngồi trên diều mà đi lại, rồi lại còn có thể bắt cóc trẻ con như thế. Nhưng chuyện Hiếu mất tích là có thật, thành ra cũng chưa biết giải thích thế nào, mà báo quan thì cũng không được vì nếu báo đến quan thì thực lôi thôi phiền phức đến tính mạng Ngọc, hơn nữa, đứa trẻ bị bắt xét cho cùng cũng chỉ em của một đứa ở, thành ra cũng chẳng mấy quan trọng, cho nên mọi người cũng chỉ bảo nhau cảnh giác hơn, đêm tối cấm bặt trẻ con ra ngoài, người lớn cũng phải hạn chế mà đi thành nhóm nhiều người.

Duy chỉ có Ngọc là khổ tâm hơn cả. Vì lúc này người thân duy nhân của cô đột nhiên mất tích mà không rõ nguyên nhân, chỉ được một manh mối là một người cưỡi diều thì thực là quá hoang đường. Cô cố gắng hỏi đi hỏi lại cực kỳ cặn kẽ cậu bé nhà bán muối về từng chi tiết một thì cũng chỉ nhận được những câu trả lời như lúc đầu. Ngoài cái ngoại hình cao gầy đến kỳ dị với ánh mắt sáng quắc như dao kia thì tuyệt nhiên không có thêm manh mối gì. Mặc dù thế nhưng cũng không thể yên tâm mà làm ngơ được, vậy nên Ngọc bỏ rất nhiều công sức ra để tìm kiếm, hỏi han, nhưng cũng chẳng có ai biết được cái gã cao gầy mắt sáng quắc kia ở đâu ra.

Đương lúc cực kỳ thất vọng thì một hôm nghe thấy trong thành có người kể lại chuyện Đặng Mậu Lân bị một cậu bé đấm một quyền mà cũng không dám làm gì, đột nhiên bỏ đi. Điều này thực không giống với tính cách của Mậu Lân, thế nên nhiều người đồn đại xung quanh chuyện này rất nhiều. Trong những người chứng kiến hôm ấy, có người cũng đề cập đến một người cao gầy ngồi trong cái kiệu thứ hai. Ngọc nghe đến mấy chữ "cao gầy, mắt sáng" thì lập tức hỏi han rất cặn kẽ. Vừa may, trong số đó có một người quen với tay phu kiệu nên nói lại cho Ngọc biết, thành ra Ngọc tìm được nhà của Tiến.

Lại nói đến việc Ngọc theo dõi Tiến được một buổi thì thấy hắn ra chợ tìm một người hầu trong nhà, Ngọc mừng lắm bèn xin về làm. Khi Quyết thấy Ngọc lần đầu tiên trên sân chính là vào cái buổi chiều ngày hôm ấy.

Thực ra Ngọc tìm hiểu nghe ngóng cũng có chút cảm tình với Quyết, vì hiếm có người nào có đủ dũng khí để nhìn thẳng vào mắt Lân, chứ đừng nói cho hắn một cú trời giáng thì đúng là chuyện hiếm có trên đời. Thế nhưng, vì thân đang ở trong đầm rồng, lại chưa biết ý đồ đối phương ra sao, nên đành phải ra tay trước tranh ưu.

Muốn biết mọi chuyện ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.

Rate this:

Hồi thứ tám: HỔ THIỆT NHÂN BÌ

Lại nói đên Quyêt và Ngọc đang ở trong phòng. Lúc này, Ngọc đưa lia dao một đường, cắt đứt dây thừng trên người Quyết. Đoạn, Quyết nói:

– Nếu cô nói như vậy thì nhiều khả năng là người hóa hổ trong căn phòng kia là em cô rồi. Tên phù thủy này thực là ác độc.

Ngọc nghẹn ngào nói:

– Nếu chuyện đó có thực thì tôi không biết phải làm thế nào đây.

Quyết đáp:

– Bây giờ em cô đã trốn được rồi, nhưng không biết lưu lạc ở nơi nào, điều này có lẽ tôi phải hỏi một người xem nên ra sao.

Nói đoạn, cả hai trầm ngâm một lúc lâu, Quyết cũng không biết nói gì nữa. Chợt bên ngoài có tiếng hú dài. Hai người giật mình, e rằng có biến. Ngọc suỵt Quyết một tiếng rồi bước ra khe cửa nghe ngóng. Nhưng ở trong phòng của Ngọc không nhìn được toàn bộ khoảng sân lớn trước nhà. Quyết bèn bàn với Ngọc đến chỗ khe cửa lúc nãy mà nhìn trộm vào. Ngọc khen là phải lắm.

Nói đoạn, Quyết ghé mắt ra sân quan sát, nào ngờ, thấy Tiến bê ghế ra sân ngồi uống trà. Cả hai sợ lẻn ra sẽ bị hắn phát hiện, vậy nên nhất thời cùng nhìn Tiến, chờ hắn đi vào.

Đột nhiên đằng sau hai người có tiếng động rất khẽ. Ban đầu, hai người xem Tiến điều binh nên không để ý. Nhưng dần già, tiếng động này làm Quyết chú ý. Hắn quay lại phía sau, nhìn một lượt. Hắn chẳng thấy điều gì bất thường, bèn tiếp tục nhìn về phía Tiến.

Nhưng rõ ràng có những tiếng động rất khẽ khàng. Đó như là một tiếng trở mình của một người đang ngủ. Trong căn phòng tối đen ánh trăng bên ngoài rọi vào phòng tạo nên một không khí tĩnh mịch.

Lại một tiếng động.

Đột nhiên, cánh cửa hé mở. Ngay ở cửa tủ, có một vật đen sì ló ra. Dưới ánh trăng với một màu trắng nhợt nhạt, vật đó càng trở nên đen đúa hơn.

Khi cánh tủ mở ra, có thể nghe rõ được tiếng thở nhẹ nhàng nhưng gấp gáp, như thế vật đó đang cố gắng thở không ra tiếng, nhưng càng có gắng thở nhẹ thì càng thiếu không khí vậy nên nhịp thở gấp gáp dần. Mặc dù tiếng thở rõ hơn nhưng lúc này cả hai người đều đang chăm chú xem xét hành động của Tiến nên nhất thời không nhận ra.

Chỉ trong chốc lát, vật trong tủ xuất hiện trong căn phòng, bóng đen này cao đến mười thước. Cái bóng đó đứng sững ở giữa nhà một vài khắc. Rồi nó chậm rãi tiến về phía hai người, từng bước, từng bước một, cực kỳ rón rén, cẩn trọng.

Lại nói đến cái bóng đen kia cứ từ từ tiến đến sát gần hai người. Nó di chuyển cực kỳ êm ái, như thể con mèo rình mồi trong đêm, tuyệt nhiên bước chân không phát ra tiếng động nào.

Khi ấy, bóng đen chỉ cánh hai người một tầm với tay, đột nhiên nó đưa hai tay ra, chụp lấy miệng của Quyết và Ngọc, cùng một lúc kéo về bên mình.

Đang tập trung tinh thần cao độ, đột nhiên Quyết thấy miệng mình bị bịt chặt bởi một vật ấp áp mà mạnh mẽ, một luồng kình lực kéo mạnh hắn về phía sau. Hắn giật mình kinh hãi. Nhưng trong khoảnh khắc, hắn nhận ra cái mùi của bóng đen. Đó là một mùi hôi thối đến lợm tởm.

Đó chính là mùi của bóng đen nửa người nửa thú hắn thấy trong căn nhà lớn.

Vì bóng đen chộp cả hai người cùng lúc nên Ngọc cũng ở vào tình thế như vậy, nhưng vốn là con nhà võ, Ngọc không thể quay đầu lại được vì đã bị cánh tay to lớn kia bịt chặt, nhưng trong khoảnh khắc nguy nan, theo phản xạ, cô đã cùng lúc phóng con dao vốn lúc nãy đã dùng để đe dọa Quyết ra. Một đường dao này, vừa nhanh vừa chuẩn, hướng đến yết hầu đối phương. Nếu bóng đen trúng phải dao này, thì thực là không khác gì con lợn con chó bị chọc tiết, lập tức chảy máu đến chết.

Quyết lập tức dang tay ra, đẩy mạnh vào bàn tay Ngọc, thành ra nhát đâm của Ngọc bị chệch ra mấy tấc, đường dao chỉ cách cổ bóng đen mấy ly.

Ngọc chưa hiểu được rằng bóng đen kia có thể chính là em trai mình, vì thế, dao vừa đâm hụt đã tấn công một lần nữa, lần này, cô gập chỏ lại, mũi chỏ như một mũi tên, cắm thẳng vào sườn bóng đen. Bởi đây là lúc sinh tử nên đòn Ngọc ra cực kỳ hiểm ác, dùng đến toàn lực của cơ thể. Quyết đứng ngay bên cạnh, nhưng không ngờ Ngọc chuyển đòn nhanh đến thế, thì một gã ăn mày làm sao ngăn cản được con gái nhà danh gia võ học?

Bóng đen trúng ngay đòn này, hai tay lỏng ra một chút. Ngọc thuận thế, ngay lập tức xoay người, tống thêm một đòn đá vào bụng làm bóng đen kia lảo đảo lùi về sau. Nguyên là lúc đầu khi bị địch không chế từ phía sau, mà lại trong tình thế ở trong nhà kẻ thù, Ngọc đành phải xuất một dao hiểm độc để nhằm giữ mạng mình trước hết. Đòn trỏ thứ hai là thuận thế mà đánh theo. Nhưng cú đá cuối cùng thì rất tỉnh táo minh mẫn, vì một là đối phương đã mất sự không chế mình, hai là việc dùng hung khí với người biết võ phải hết sức cẩn thận không thì giết oan người.

Lúc này, Ngọc đứng đối diện với bóng đen. Ngọc thấy bóng đen to lớn trước mặt mình có hình hài của một con hổ, so với hôm qua Quyết thấy, con vật hôm nay khó mà nhận ra là người. Nó có một lớp lông vằn mà dày, mặt mũi lông lá đã phủ kín, hai khóm râu ở hai bên so với hôm qua đã thấy dài hơn ra. Phía đỉnh đầu của con vật, lông hổ và tóc người đan lẫn nhau, khi đen mượt, khi thì vàng vện nhìn thực kinh tởm. Hai tai của nó vẫn còn nằm ngang với mắt, giống như con người, chưa xuất hiện ở phía đỉnh đầu như hổ. Bấy giờ, duy chỉ có đôi mắt của nó là còn nhận ra của con người, nhưng lông mày đã rụng hết, bao quanh là lông lá dày đặc, thành ra nhìn ánh mắt thật đáng sợ

Con vật lúc này vẫn còn đứng thẳng, hai chân sau đã hóa hổ gần hết thế nên nó có thể đi lại thực nhẹ nhàng, chỉ có đôi chân trước vẫn còn những ngón dài nhưng lông lá đã mọc trên từng ngón, mà vuốt thì đã dài lắm rồi, hiển nhiên, mười phần con người, nay đã mất đến tám chín. Con vật lúc này chỉ đứng im. Quyết thì thầm với Ngọc:

– Có thể là em cô đấy, nó không có ý tấn công chúng ta, nó chỉ muốn chúng ta không hoảng hồn mà la lớn lên, bởi vậy nó mới bịt miệng, nếu không thì chỉ một cú tát của nó, có lẽ chúng ra đã thành "hổ trành"[1] rồi.

Nói đoạn Quyết thấy hơi hối hận vì đã coi em Ngọc như một con hổ thực sự.

Ngọc lúc nãy xuất đến ba chiêu liền mà cũng chưa nhìn rõ được đối thủ. Bây giờ cô nhìn thấy cái vật nửa người nửa thú thế này, thì đã hiểu được ngay câu chuyện, lại thêm Quyết nói như thế nữa thì lại càng nắm rõ tình hình.Có điều, cách đây chưa đến nửa tháng, hai chị em Ngọc vẫn còn quấn quít chơi đùa với nhau, mà giờ đây, thấy cái hình hài gớm ghiếc to lớn này, Ngọc không thể tin được đó là em mình, đứng chết trân trong một giây lát rồi ôm miệng khóc nức nở.

Con vật dường như hiểu chị mình đau đớn lắm, trên mặt đất dưới chân nó, nhờ có ánh trăng mà Quyết nhận thấy rõ hai giọt nước nhỏ xuống nền nhà. Con vật cũng đang khóc.

Ngọc khóc một hồi rất lâu, con vật cũng đứng lặng đi một hồi rất lâu. Quyết đứng bên cạnh cũng không biết làm thế nào, mà nói gì với hai chị em cũng không được, hắn đành quay ra theo dõi tên Tiến.

Bấy giờ, con vật tiến đến bên Ngọc. Ngọc thương em quá, gục đầu vào lòng em mà khóc. Con vật cũng khóc. Hai chị em lại nức nở một hồi lâu.

Bấy giờ con thú cất tiếng nói, giọng của nó tuy vẫn có thể nghe được tiếng người, nhưng trong thanh âm đã có đến sáu phần gầm gừ của thú, thành ra nói được cũng rất là khó khăn, câu chuyện cũng bị đứt đoạn nhiều chỗ vì giọng khó nghe quá.

Thì ra sau khi Hiếu (hay là con hổ trước mặt Ngọc bây giờ) sau khi bị Tiến bắt đi thì được hắn đưa lên rất cao trong không trung, là để tránh bị phát hiện. Lúc đó gió rất to, nên Hiếu cũng không thể mở mắt ra nhìn được, đành phải nhắm mắt lại.

Được chừng một tuần hương thì thấy gió thổi nhỏ dần, rồi dường như hết hẳn, Hiếu mở được mắt ra thì thấy mình đang được đáp xuống một dinh thự rất lớn, đó chính nơi mà hai chị em đang sống đây. Lúc này Tiến đưa một cây nhang đang cháy lên mặt Hiếu, Hiếu ngửi thấy mùi hương này, lập tức mê man bất tỉnh, không biết gì nữa.

Chẳng biết bao lâu sau thì Hiếu tỉnh dậy. Cậu bé thấy mình đang ở trong một nơi tối tăm ẩm thấp, không nhìn thấy rõ mọi vật xung quanh. Trong lòng cực kỳ sợ hãi, cậu bé vùng dậy định bỏ chạy thì bị không thể cử động được. Thì ra cậu bé đã bị xích rất kỹ.

Hiếu hoảng hốt định kêu lên thì lại phát hiện thấy miệng mình không sao mở ra được. Khi đưa tay lên sờ, cậu mới biết hai hàm răng mình bị người ta dùng một chất gì đó dính chặt lại với nhau, thành ra không thể kêu cứu được. Trong miệng Hiếu lúc này còn có hai cái túi bằng vải nhỏ, hình như cũng được gắn chặt với răng. Một túi đựng một củ sâm còn một túi đựng một thứ rễ cây gì đó. Cậu bé kinh hoàng, cào cấu mãi nơi miệng cho đến rách cả môi, lợi mà không thể nào cạy ra được. Tình trạng lúc đó, quả thực tuyệt vọng.

Một thời gian rất lâu sau, Hiếu lại thấy cái bóng đen cao gầy mắt sáng hôm nọ bắt về thêm một người. Người này lúc đó hoàn toàn bất tỉnh. Nhưng hắn không bị xích mà bị Tiến nhốt vào một cái chuồng. Ngay cả miệng của hắn cũng không bị gắn keo, thành ra khi tỉnh dậy, hắn kêu gào rất thảm thiết.

Qua một thời gian rất lâu nữa, Tiến lại mang về thêm một người. Rồi sau đó lại thêm một người nữa. Đến khi hai ba chục cái lồng sắt đều đầy người thì hắn mới dừng lại.

Những ngày này Tiến không phải cho Hiếu ăn. Vì có củ sâm trong miệng nên Hiếu tỉnh táo suốt cả ngày lẫn đêm, không lúc nào ngủ được, lại bị nhốt trong một không gian đông đúc những người bị nhốt như thế nên dần dần cảm thấy điên loạn.

Hiếu thấy mình nhiều lúc đầu óc không được minh mẫn nữa, nhiều lúc bồn chồn, nhiều lúc thẫn thờ, nhiều lúc tim đập rất nhanh, trong lòng nóng như lửa đốt, nhiều lúc lại chỉ muốn đập phá điên cuồng. Những trạng thái tâm lý này đan xen nhau, không theo một thứ tự quy luật nào cả. Vốn dĩ, trời sinh cho con người giấc ngủ để giải tỏa những ưu phiền, lo lắng của cả một ngày dài vất vả, thế mà giờ đây, Hiếu không có ngày nào đươc thoát khỏi những tâm trạng thất thường ấy, lại bị xích trong âm thanh như thế, lại không được ngủ chút nào. Thực là khổ sở không biết kể thế nào cho hết.

Dần dần, tình trạng này trở nên cực kỳ nghiêm trọng, có rất nhiều lúc Hiếu không thể làm chủ được bản thân mình, cào cấu xuống nền đất hoặc vào cơ thể mình.

Hiếu có đôi lúc thấy trên đốt xương cụt dưới mông mình cực kỳ ngứa ngáy, phải gãi điên cuồng mà vẫn không hết ngứa. Dường như có một cục u lồi lên ngay ở đó.

Hai vật trong túi vải trong miệng Hiếu ngày càng nhỏ dần, rồi tan mất hẳn. Đến đúng khoảng thời gian đó, Tiến cầm đèn xuống xem xét. Thì ra gã đã điều chế để miếng sâm cũng như miếng ngải vừa đủ tan biến đi. Sau nhiều ngày ở trong tối tăm, đấy là lần đầu tiên Hiếu nhận ra, cơ thể mình đã được phủ một lớp lông mỏng. Lớp lông này tuy là mỏng nhưng đã mờ mờ hiện lên các vằn vện.

Hiếu hoảng hồn sờ lại cái xương cụt của mình, thì hắn thấy rõ, chẳng phải là cục u nào cả. Hắn thực sự đang mọc đuôi. Hiếu lại sờ lên mặt mình, thì thấy mặt mình cũng đã biến đổi rất nhiều. Hiển nhiên hình hài con người đã không còn nữa. Hắn kinh hãi la lên một tiếng.

Nào ngờ, bấy giờ bộ hàm của Hiếu đã là bộ hàm của một con hổ dũng mãnh, thứ keo kia không đủ sức dính chúng lại với nhau nữa, thành ra lúc này Hiếu há hẳn được mồm ra, đi cùng với việc ấy là một tiếng gầm cất lên ghê rợn.

Bấy giờ, Hiếu đã ngậm ngải được năm mươi ngày.

Tiến lúc bấy giờ đang đang cách Hiếu một khoảng. Hiếu điên cuồng tuyệt vọng vì nghe thấy tiếng gầm của mình, kinh hãi nhận ra mình đã là một con thú. Trong lúc tuyệt vọng, trút hết giận giữ vào Tiến. Hiếu bèn lao vào hắn, táp một cú.

Tiến lúc đó hơi bất cẩn vì không ngờ là cơ thể bé con của Hiếu bấy giờ lại to lớn như vậy, thành ra đứng quá gần. Hiếu táp sượt qua cánh tay hắn một chút, ngay lập tức máu chảy xối xả. Tiến cả kinh, lùi lại mấy bước rồi quay lưng bỏ đi.

Quyết nghe đến đây nghĩ thầm, tiếng gầm mà Hiếu kể chính là tiếng gầm hắn nghe thấy tối hôm đó. Điều này cũng giải thích vì sao Tiến máu me đầy ngừoi đứng ở cửa phòng Quyết để thôi miên hắn. Có lẽ hắn sợ Tiến nghe thấy thì lộ ra chuyện. Quyết nghĩ chắc nhờ có "soái vong" nên hắn không bị thôi miên chút nào. Còn việc hai cái túi vải cho vào miệng Hiếu, chắc chắn một túi là thứ "hóa hổ ngải", còn một thứ khác là túi sâm chẳng qua là để người ngậm ngải không bị chết trong bốn mươi chín ngày kia mà thôi.

Lại nói chuyện mấy ngày sau khi bị Hiếu táp một cái, Tiến lại xuống căn hầm ấy, hắn phun thứ thuốc gì đó vào một cái chuồng làm người trong đó bất tình rồi lôi người trong lồng ra, lấy dao rạch một đường rất sâu trên cơ thể người đó, rồi vứt??? về phía Hiếu. Bấy giờ Hiếu đang biến thành hổ, hễ thấy mùi máu thì lồng lộn cấu xé, chỉ trong chốc lát, đã ăn sạch người này.

Thế là cứ từ ấy, cứ khoảng tầm một ngày, Tiến lại cho Hiếu ăn thịt một người. Rõ ràng là ngừoi được hắn mang xuống đây, chẳng có mục đích gì khác là "chăm" hổ.

Dần dần, Hiếu càng trở nên hung tợn, nhiều khi không cần phải dùng máu để dẫn dụ nữa, mà chỉ cần thấy người là đã muốn cắn xé. Tiến biết vậy, hắn bèn xích những con mồi lại, cũng chẳng cần bẩn tay, vấy máu nữa.

Hiếu những lúc tỉnh táo lại thấy thế, liền cố gắng tìm cách chống lại cơn thú tính, một mặt, cậu nhận thấy trước khi trở nên điên loạn, thường có một vài khắc vẫn tỉnh táo nhưng cơ thể thì mạnh mẽ vô cùng, thành ra, Hiếu tận dụng những lúc đó mà giằng mạnh về một phía, làm cho một sợi xích yếu dần. Đến hôm Quyết xuống Hiếu đang cố gắng ngăn việc ăn sống người bị xích kia. Nào ngờ người này sợ hãi quá, thành ra cắm đầu bỏ chạy, bị dây xích kéo lại nên ngã chảy máu ở đâu đó, đến đây, Hiếu không kìm được, ăn thịt luôn người đó. Ăn xong, Hiếu quay sang lại thấy Quyết bị chảy máu tay, thành ra lại lao vào. Vừa vặn lúc đó, sợi xích bị bung ra, thành ra mới có cuộc rượt đuổi trong hầm tối.

Nghe em kể một lượt từ đầu đến cuối những chuyện kinh hoàng khó tưởng tượng như thế, Ngọc không kìm được nước mắt, nấc lên một tiếng thực lớn, khó nức nở. Quyết quay mặt đi, không nỡ nhìn cảnh tượng thương tâm như thế.

Bỗng Quyết nghe một tiếng "Á" của Ngọc. Hắn quay người lại thì thấy trên lưng Ngọc, áo đã rách một mảng, trên lưng hộ rõ một mảng xước lớn trên da thịt, như thể vừa bị kéo lê trên mặt đường.

Thì ra hai chị em khóc lóc một hồi thì con vật kia theo thói quen nhà hổ mà âu yếm liếm vào lưng chị một cái. Nào ngờ lưỡi hổ có rất nhiều gai nhọn tua tủa, những cái gai này chính là vật giúp hổ có thể uống nước, khi con hổ liếm nước thì trên lớp gai này có một lớp nước vương trên đó nên con hổ hay con mèo lấy đó mà uống vào người. Những cái gai này còn giống như chiếc lược chải lông cho mượt mà. Những con mèo hay con hổ thường liếm láp cho nhau để bày tỏ tình yêu thương, em của Ngọc cũng thế, nào ngờ lớp gai mới hình thành này quá sắc nhọn nên đã gây thương tích cho Ngọc.

Con vật dường như không ngờ mình vừa gây thương tích cho chị mình, xem ra ân hận lắm. Trong cái hình hài của thú ấy, cái dáng vẻ của một người hối lỗi ẩn hiện đâu đó, mặc dù Quyết không thể nhìn thấy rõ ràng nhưng cảm nhận rất mạnh mẽ. Đột nhiên, Quyết biết một điều:

Khi có máu, người hóa hổ trở nên cực kỳ hung hãn!

Lúc này, máu trên lưng Ngọc càng lúc càng nhiều, chẳng mấy chốc đã thấm ướt tấm áo. Con vật to lớn bên cạnh Ngọc lúc này đột nhiên rung lên bần bật. Từ trong miệng con thú, tiếng gầm gừ phát ra, tiếng động này, nhỏ nhưng dài mà lại liên tục, nó giống như tiếng của một con chó gầm gừ lúc sắp sửa cắn ai đó. Ánh mắt con thú thật đáng sợ, đó chính là ánh mắt mà Quyết đã nhìn thấy khi chỉ cách nó có một cánh tay ngày hôm qua.

Rõ ràng rằng tính mạng của cả hai người đều đang bị nguy hiểm. Ngọc cũng có cảm giác như thế nhưng trong lòng vẫn có một niềm tin rằng em mình sẽ không làm hại đến mình. Nhưng Quyết thì khác, hôm qua hắn đã được thấy cái hung tợn của con vật này, thành ra ý thức đề phòng rất cao. Hắn biết, chỉ trong chốc lát con thú kia sẽ chồm lên mà cắn xé cho thỏa thú tính.

Muốn biết mọi chuyện diễn biến ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.

[1] Một loại ma bị hổ ăn thịt, hồn không siêu thoát được cho đến khi tìm được người khác cho hổ ăn thịt thế mạng cho mình.

← Hồi thứ tám: HỔ THIỆT NHÂN BÌ

Hồi thứ mười: DI QUAN →

March 26, 2014 • 3:49 am

↓ Jump to Comments

Hồi thứ chín: ĐẠO MỘ

Lại nói chuyện Quyết và Ngọc đang ở trong căn phòng với người đang hóa thú. Mùi máu tanh làm thú tính trong người em trai Ngọc trỗi dậy. Lúc này, Quyết thấy sự tính nguy cấp lắm, mà vẫn chưa thấy Ngọc có phản ứng gì, hắn bèn liều mình lao tới, đẩy mạnh con thú ra xa. Mặc dù thân thể còn yếu ớt nhưng cú đẩy này là cú đẩy sinh tử nên Quyết dùng toàn lực đẩy mạnh ra, lại thêm cả đà lao vào nên con thú bị bật văng ra xa, va vào giường nghe rầm một tiếng. Nhân cơ hội lúc con thú chưa kịp chồm dậy, Quyết nắm lấy tay Ngọc, kéo cô ra khỏi cửa sổ. Ngọc lúc này tuy chưa hiểu chuyện gì xảy ra, nhưng thấy con vật gầm gừ như thế, mà thấy Quyết hành động quyết liệt như vậy, đoán là có sự chẳng hay nên cũng nương theo lực kéo của Quyết rồi nhún mình phi qua của sổ.

Hai người vừa phi ra ngoài thì Quyết không chủ động được, ngã nhào xuống đất, Ngọc nhanh nhẹn hơn đáp xuống đất được an toàn, nhưng vừa lúc đó, con thú chồm đến phía sau, nó bị vướng vào bậu cửa sổ nên cú vồ của nó chỉ sượt qua tấm lưng đẫm máu của Ngọc có một tấc.

Cả hai người cả kinh nhổm dậy chạy thẳng về phía trước. Nguyên là có một bức tường rào trước mặt nhưng một là xây không cao lắm, hai là trong lúc lâm nguy, cả hai đều dùng hết khả năng mà nhảy vọt lên nên vượt qua được một cách dễ dàng. Ở phía sau, con hổ cũng phóng mình đuổi theo.

Quyết và Ngọc lao thẳng vào trong rừng, cứ nhắm trước mặt mà chạy, cũng chưa có kế hoạch gì, trước mắt chỉ mong sao không bị va vào cây mà ngất đi. Con hổ đuổi sát theo phía sau.

Thường thì loài hổ có khả năng chạy rất nhanh, hơn hẳn con người, vậy nên nếu đã bị hổ đuổi thì hầu như nạn nhân nắm chắc cái chết. Nhưng con hổ ở đây vẫn còn chạy bằng hai chân vì chưa biến hóa hết nên khả năng chạy vẫn còn chậm chạp, vì thế mà không đuổi kịp hai người.

Hai bên cứ như thế, một bên đuổi một bên chạy một hồi lâu, mặc dù hổ không đuổi kịp người nhưng chạy được một quãng dài như vậy cơ thể mới suy nhược dậy của Quyết cũng không thể tránh khỏi sớm xuống sức. Ban đầu, khoảng cách còn xa, sau thì khoảng cách này ngắn dần lại, cuối cùng, chỉ còn cách nhau hơn một tầm với.

Đang lúc hiểm nguy như thế, cả hai người đột nhiên thấy phía trước leo lét một đốm lửa. Khu rừng này vốn dĩ hoang vắng, sao tự nhiên trong đêm lại có ánh lửa đơn độc như thế được? Tuy nhiên, lúc bấy giờ cũng không thể suy nghĩ được nhiều hơn, cả Quyết và Ngọc cùng không hẹn mà chạy về phía hướng đó.

Bấy giờ Quyết sức vẫn còn yếu, chạy thêm được mấy bước nữa thì vấp phải mô đất, ngã nhào. Con hổ thấy thế chực lao vào Quyết. Bấy giờ Ngọc chạy bên cạnh liền đạp chân sang ngang, hụp người xuống đất, lăn ngang một vòng, cùng lúc ôm lấy Quyết. Hai người cùng nhau lộn được mấy vòng trên mặt đất. Con hổ vì thế cũng vồ hụt mất.

Hai người lồm cồm bò dậy thì con hổ đã lấy lại thế, lao vào cả hai một lần nữa. Quyết và Ngọc lại chồm dậy, mỗi người tách về một hướng, nhảy ra một bước, con hổ lại vồ hụt.

Có điều, lúc này con hổ đã gần hai người lắm rồi, chỉ trong sớm muộn, cả hai sẽ bị nó xơi tái. Trong lúc hoảng hốt, Quyết vẫn kịp nhìn thấy một ngọn đèn nhỏ. Ngọn đèn này chính là ánh lửa mà hai người nhìn thấy khi ở xa. Bên cạnh ngọn đèn có một bóng người quần áo lấm lem đang ngồi xổm, dường như người này ngạc nhiên pha cả kinh hãi lắm bởi đang khi không lại có hổ dữ đuổi người ở đâu hiện ra.

Nhưng Quyết và Ngọc còn kinh hãi hơn. Bởi lúc này, cạnh cái đèn dầu nhỏ bé kia là một cái hố, cái hố này sâu khoảng một ngũ[1], chiều rộng chiều dài vừa đúng một chiếc quan tài, vì quả thực, đúng là có một chiếc quan tài đang nằm vừa vặn trong cái hố đó.

Cái quan tài này không có nắp, chỉ thấy bên trên miệng hố có một miếng ván, do tối không nhìn thấy rõ nhưng có thể đoán chắc mười phần là nắp quan.

Trong lúc hoảng hốt, cả Quyết và Ngọc đều không thể không giật mình kinh hãi. Thì ra dưới ánh đèn leo lét của ngọn đèn, trong quan tài lộ rõ thân hình của tử thi đã được khâm liệm rất chu đáo, cẩn thận. Khuôn mặt người chết xám đen mà quắt queo lại một cách dị thường, ánh đèn vàng vọt càng làm cho khuôn mặt này càng thêm kinh dị.

Trên tay người ngồi bên ngọn đèn vẫn còn cầm một vật đen đúa.

"Đào trộm mộ" Quyết thầm nghĩ.

Nguyên là từ xưa đã có chuyện đào trộm mộ người chết để ăn cắp đồ tùy táng, những chuyện này dân gian ai cũng biết, cũng khinh bỉ những người làm nghề này, coi nó như một nghề thất đức. Nhà Quyết làm nghề khâm liệm, hiển nhiên những chuyện liên quan đến cái chết mà lại ly kỳ như thế thì thường được mang ra bàn bạc chuyên môn nghề nghiệp một cách sâu sắc.

Nhưng lúc này, Quyết và Ngọc không có thời gian để xem xét sự kinh dị kia, mà phải lo thoát khỏi nanh vuốt con hổ này đã. Thế là hai người cứ lăn lộn mà tránh, hổ cứ mặc sức mà vờn. Xem thế cuộc thế này, đủ biết chỉ trong chốc lát nữa thôi, hai người sẽ nằm gọn trong bụng hổ.

Bấy giờ Ngọc tránh hổ, lăn một vòng đến chân người kia. Người kia nhanh tay nằm lấy tay Ngọc. Bấy giờ Ngọc ngảnh mặt lại mới thất kinh, giật mình ra thực mạnh. Nhưng người kia ta vẫn nắm chặt lấy tay Ngọc, ra hiệu cho Ngọc đừng gây tiếng động.

Lúc đó, Ngọc chỉ cách con hổ chưa đến một trượng. Tưởng chừng sẽ chết đến nơi, nhất thời cũng không dám cử động nữa được mà chỉ đứng im.

Nào ngờ con hổ dường như không thấy Ngọc nữa, nó khịt khịt mũi tìm kiếm, rồi dường như không thấy con mồi đâu, nó lại quay ra nhìn Quyết.

Lúc này Quyết nhìn thấy sự lạ lùng như vậy, liền cũng thử đứng im. Con hổ bèn quay cả người lại, tiến về phía Quyết. Quyết tự nhủ, Ngọc đứng im cũng không thấy bị con hổ ăn thịt, có lẽ hắn đứng im cũng sẽ qua được kiếp nạn này chăng? Thành ra đã quyết ý, đứng im không nhúc nhích.

Con hổ lúc này không ham vồ mà từ từ tiến lại phía Quyết. Quyết vẫn đứng im lặng lẽ, từng giọt mồ hôi trên trán chảy xuống mắt cay xè. Đột nhiên có tiếng nói:

– Bắt lấy.

Tiếng nói này là tiếng nói của người bên cạnh mộ. Hắn vừa nói vừa vung tay vứt cho Quyết một vật đen đúa, Quyết theo phản xạ đưa tay cầm lấy vật đó. Quyết vừa chạm tay vào vật đen đúa ấy thì nhận ra ngay, đó là bàn tay người chết.

Thì ra Quyết dù ít tuổi nhưng cũng có rất nhiều kinh nghiệm khâm liệm, những người làm việc này nhiều, mỗi ngày đều chạm vào cơ thể người chết, thành ra có cảm giác rất rõ với tử thi, chỉ cần chạm qua thì cảm nhận được ngay.

Quyết vừa cả kinh vội thả tay ra thì người kia quát khẽ:

– Nắm lấy, muốn chết à?

Quyết thấy vậy cũng không còn cách nào khác mà phải nghe theo. Tình hình bấy giờ, cả ba người cùng kinh hãi nắm lấy tay nhau, con hổ ngay bên cạnh họ. Cả Quyết và Ngọc đều đinh ninh lần này chắc chết, nhưng một là cũng không còn sức mà chạy, hai là như người chết đuối, đang lúc chạy vô vọng như thế, mà có người chỉ cho phải làm thế nào, bèn răm rắp làm theo.

Con hổ lúc này cứ từ từ tiến dần đến trước mặt ba người. Người ở bên mộ khẽ thì thầm:

– Im lặng.

Bấy giờ con hổ chỉ còn cách Ngọc có vài tấc, nó đưa mũi lên ngửi ngửi trong không khí. Ngọc đoán nó sẽ đớp một cú rất nhanh nên tập trung cao độ, chờ nó cắn thì lập tức lách người sang một bên.

Nào ngờ con hổ đánh hơi một lúc thì lại đi gần về phía người bên cạnh mộ, nó cũng đánh hơi một lúc rồi quay sang hướng khác như tìm kiếm. Nó tìm kiếm hồi lâu, như thể rất tiếc nuối vì đang nhiên đánh mất con mồi ngon.

Con hổ xem xét một hồi thì lại quay ra đánh hơi cỗ quan tài, Quyết cả kinh, chỉ sợ con hổ ăn luôn cái xác này thì chẳng khác nào cái cảnh tượng nó ăn tươi nuốt sống người trong hầm hôm nọ, chỉ khác là hôm nay cảnh tượng này sẽ diễn ra ngay cách hắn không đầy một thước, có lẽ trời đã sắp đặt để hắn phải thấy những cảnh dã man này chăng?

Đang lúc hắn nghĩ ngợi như thế, thì có một tiếng sột soạt trong bụi rậm, con hổ lập tức quay phắt người, nhảy về hướng đó, tiếng động kia cũng gấp gáp hơn mà xa dần. Nghe tiếng động có lẽ là một con thú nhỏ nào đó, hiển nhiên, một cuộc đuổi bắt khác lại bắt đầu.

Bấy giờ ba người cứ đứng nắm tay nhau một hồi thật lâu như thế, tưởng như vẫn chưa hoàn hồn, hoặc đang cùng nhau tận hưởng cái cảm giác được cải tử hoàn sinh vậy.

Qua một hồi rất lâu, Ngọc thấy chừng để cho một gã không biết từ đâu tới nắm lấy tay mình thế này thực cũng khó coi, bèn giằng mạnh tay gã ra. Đột nhiên Ngọc giương mắt nhìn chằm chằm hồi lâu.

Rõ ràng lúc này chỉ có một mình Ngọc bên cạnh cái mộ đang bị đào nham nhở, không biết từ lúc nào, Quyết và người kia đã biến mất. Hoàn cảnh của cô bây giờ cũng ghê rợn chẳng kém gì hoàn cảnh khi nãy, đột nhiên một mình mình đứng giữa rừng thiêng nước độc, lại ngay cạnh một cỗ quan tài được bật nắp, dù là người can đảm đến đâu, cũng không tránh khỏi việc sợ ma nhát quỷ.

Ngọc vừa qua một lần thập tử nhất sinh, nhất thời nghĩ mình bị hoa mắt chăng, bèn nhắm mắt lại, dụi một hồi rồi mới mở ra. Kỳ lạ thay, lúc này cả Quyết và người kia đều xuất hiện trước mặt nàng???.

Bây giờ cả Quyết và Ngọc mới nhìn rõ người đứng bên cạnh ngôi mộ. Đó là một thanh niên trạc mười sáu mười bảy, người thấp nhưng rất béo, hắn có khuôn mặt tròn xoe, nhìn khuôn mặt lúc nào cũng như muốn cười. Bấy giờ hắn đang mân mê cái vật mà Quyết nắm phải lúc nãy, chính là bàn tay người chết. Vừa ngắm nghía, hắn vừa lẩm bẩm:

– Công hiệu thật, công hiệu thật!

Ngọc đang không hiểu gì cả thì Quyết hỏi:

– Ngươi đi ăn trộm mộ của người ta phải không?

Tên béo đáp:

– Nhìn cũng thấy mà, có gì mà phải hỏi?

Quyết lại hỏi:

– Nhưng ngôi mộ này xem ra không có nhiều đồ tùy táng cho lắm, ngươi đào nhầm mộ rồi.

Tên béo lại nói:

– Ta không cần đồ tùy táng. Nếu chỉ vì đi ăn cắp mấy thứ vớ vẩn đó thì ban nãy chẳng phải đã mất mạng rồi sao? Lần này đi thật đáng công, hà hà...

Quyết hiểu ra liền nói:

– Người trong mộ có phải bị sét đánh phải không?

Tên béo đáp:

– Đoán đúng rồi, nếu không nhờ cái bàn tay người bị sét đánh này khiến cho chúng ta trở thành vô hình trước con hổ, thì chúng ta đã sớm làm mồi cho nó rồi.

Nguyên là, dân gian truyền miệng nhau rằng nếu lấy được bàn tay của những người bị sét đánh mà chế làm bùa hộ thân thì sẽ gặp rất nhiều may mắn, thậm chí đối với người bị sét đánh cháy rụi từ đầu đến chân thành than thì bàn tay đó càng quý hơn nữa, có thể khiến cho người ta tàng hình. Đó là lý do vì sao gia đình nào có người nhà chết do sét đánh thường phải rất cẩn thận canh chừng nếu không sẽ bị trộm đào mất xác hoặc chặt mất cánh tay người chết để làm bùa. Ban nãy, khi tên béo cầm bàn tay sét đánh thì chỉ có Quyết nhìn thấy, còn thực ra Ngọc chỉ thấy được tên béo khi hắn nắm lấy tay mình. Lúc nàng vừa buông tay tên béo này ra thì thấy hai người Quyết và tên béo biến mất là vì như thế, đến sau đó thì tên béo bỏ bàn tay xuống thì Ngọc mới thấy được cả hai. Kể lại thì dài dòng nhưng diễn biễn thì chỉ trong chốc lát mà thôi.

Những chuyện đồn đại về uy lực của những bàn tay sét đánh này rất phổ biến trong dân gian nhưng cả hai người Quyết và Ngọc đều chưa gặp bao giờ, đến hôm nay mới được thấy tận mắt người ta đào trộm mộ để lấy xác.

Tên béo lúc này nói:

– Cái lão già bị cháy thành than nằm kia vốn là xã trưởng, gia đình cũng giàu có lắm, bị sét đánh chết ngay gần sân đình. Mà cứ khi nào có người chết vì sét đánh thì y như rằng con cái phải canh giữ, trông nom đến trăm ngày mới thôi. Cái nhà này thực cũng gian manh quỷ quyệt, nghĩ ra cái trò chôn một cái quan tài giả, lại còn cử người trông coi, cái xác thực sự thì được lén chôn trong rừng thế này. Ta mới đầu cũng tưởng là chôn ở gần làng, nên ngày đêm theo dõi. Có điều, lại để tin lọt ra ngoài, ta biết được mới theo dõi thằng con cả, thành ra mới biết được chỗ này.

Quyết và Ngọc nghe thì biết ngay tên này không phải người lương thiện, có điều cũng vừa nhờ hắn mà thoát chết, chứ nếu cứ theo tình thế lúc nãy thì cũng đã chết mất rồi.

Quyết nói:

– Dù sao, cũng phải cám ơn người đã cứu chúng ta.

Tên béo nói:

– Cái gì mà dù sao với không dù sao? Chắc ngươi coi thường ta vì ta đào trộm mộ nhà người ta chứ gì?

Quyết lại nói:

– Đào trộm mộ là việc không nên. Chúng ta chôn cất người đã khuất lại cho phải lẽ.

Tên béo nói:

– Ta thích thì ăn trộm, có gì mà phải với không phải. Ngươi xem ra không phải học trò mà nói như mấy tên nho sinh hủ lậu. Nhưng mà cũng phải chôn cái thằng cha này lại, không thì cũng thất đức thật.

Thế là ba người cùng nhau chôn cái xác kia lại đàng hoàng tử tế. Lại nhờ Quyết là người có tay nghề nên làm đâu đó cẩn thận sạch sẽ, tên béo thì khỏe mạnh nhanh nhẹn nên chỉ một chốc lát đã xong việc.

Bấy giờ, tên béo mới nói:

– Ta tên Đàn, người làng Đông Hồ. Nhà mấy đời liền làm nghề mổ lợn, đến đời ta thì nảy nòi ra cái việc đi ăn trộm mộ người ta. Ngươi tên gì vậy? Thấy ngươi có vẻ rất thạo việc chôn cất người chết đấy.

Quyết đáp:

– Tôi tên Quyết, người trấn Sơn Tây. Nhà tôi làm nghề khâm liệm nên mới biết sơ qua việc chôn cất người.

Tên béo lùn đáp:

– Thì ra là thế. Có điều ngươi thì giúp chôn người, ta thì giúp đào người ta lên, thật là một sự hội ngộ nực cười.

Nói đoạn hắn quay sang Ngọc:

– Còn cô em, cô em tên gì?

Ngọc đáp:

– Ngọc.

Tên béo cười hi hi nói:

– Á à, con cháu hai bà Trưng, thứ dữ đây.

Quyết nói:

– Cô ấy có chuyện buồn, đừng trêu cô ấy.

Tên béo hua hua cái túi có cất bàn tay trước mặt Quyết mà hỏi:

– Có chuyện gì mà buồn bực vậy? Ta đây lòng trượng nghĩa có thừa mà đánh nhau thì chưa hề thua ai, bây giờ trong tay có bảo bối này thì có việc gì không thể giúp các ngươi?

Ngọc bấy giờ nói với Quyết:

– Kệ hắn ba hoa, chúng ta đi thôi!

Tên béo lại nói:

– Các ngươi không sợ con vật kia quay lại à?

Ngọc nghe thấy Đàn nói em mình là "con vật" thì trong lòng rất bực tức:

– Ngươi nói ngươi đánh nhau chưa thua ai phải không?

Đàn đáp:

– Đương nhiên.

Ngọc nói:

– Chúng ta đánh cuộc được không?

Đàn hỏi:

– Đánh cuộc gì?

Ngọc lại nói:

– Ta vật được ngươi xuống đất, ngươi đưa ta hai bàn tay kia.

Đàn khổ sở mất bao nhiêu công sức mới đào trộm được đôi bàn tay này, hắn những mơ có được tấm bùa này để tiện bề trộm cắp nên mới bỏ công khổ sở như vậy. Hôm nay đạt được ước nguyện rồi, cầm được hai bàn tay trong túi rồi, làm sao chịu để mất được? Có điều bản tính háo thắng trong người hắn trỗi dậy, bị một đứa con gái loắt choắt thách thức như thế thực là còn đâu thể diện của "bậc trượng phu" nữa?

Đàn đáp:

– Thế nếu ngươi thua thì sao?

Ngọc đáp:

– Tùy ngươi.

Đàn lại nói:

– Trông ngươi cũng xin xắn đấy, vậy nếu ngươi thua thì ngươi làm vợ ta, chịu không?

Đàn tưởng nói thế thì Ngọc sẽ không dám nhận lời, nào ngờ Ngọc chỉ nói:

– Được. Ngươi thủ thế đi.

Đàn thấy Ngọc nói quả quyết như thế thì không đánh cũng không được, đành phải giơ hai nắm đấm ra, nói:

– Chuyện cưới vợ hệ trọng, ta không nhường đâu đấy.

Bấy giờ Ngọc đã lao đến phía Đàn rồi. Đàn còn chưa kịp định thần thì Ngọc đã hụp người, đưa tay ôm ngang bụng Đàn, xoay người một cái, cả hai đã không còn đối đầu mà cùng đứng về một phía, nhưng tư thế thật như người ta chơi trò trẻ con, Ngọc thì ôm lấy bụng Đàn mà Đàn thì vẫn lóng ngóng chưa biết phải làm gì.

Ngọc thuận theo đà vừa quay vừa uốn mình lộn ngược ra sau, bốc cả người Đàn lên, giống như cây tre được buộc một vật nặng vậy. Đàn bị nhấc bổng lên cao rồi đầu hướng xuống đất, dộng mạnh xuống. Nhìn ở ngoài thì thấy giống như cả hai cùng ngã nhưng vì Ngọc ôm ngang người Đàn nên phần đầu Đàn cắm chạm xuống đất trước, mà đầu Ngọc vẫn còn cách đất một khoảng, hiển nhiên nếu đòn này ra hết sức thì Đàn đã gãy cổ lâu rồi, có điều, Ngọc cũng nương tay nên chỉ có phần vai của Đàn va mạnh xuống đất, nghe đánh "ắc" một tiếng, hắn kêu lên đau đớn. Bấy giờ Đàn đã bị đánh trật khớp mất rồi.

Đàn đau quá, không còn giữ nổi thể diện của bậc trượng phu nữa mà kêu la oai oái. Ngọc nhìn Đàn la hét một hồi cũng không nói gì, chỉ với tay lấy cái túi đen chứa hai bàn tay người mà thôi. Quyết đến bên Ngọc nói:

– Tôi biết cô đang đau lòng về chuyện em trai, nhưng cô làm vậy cũng là không nên, dù sao hắn cũng vừa giúp chúng ta thoát chết xong, bây giờ làm người ta đau đớn như thế.

Ngọc lặng yên một chốc rồi tiến đến gần Đàn, đưa hai tay ra, một tay giữ lấy vai, một tay cầm vào cánh tay phải, kẹp chặt nó vào thân mình, đoạn lại giơ một chân ra, đặt lên ngực Đàn. Nàng kéo mạnh một cái, lại một tiếng "Ắc" nữa, Đàn lại lăn ra trên đất đau đớn. Được một lúc, hắn nhận ra khớp xương của mình dã trở lại bình thường. Ngọc nói:

– Vậy bây giờ đôi tay này là của ta rồi hả?

Vẻ mặt Đàn vẫn còn đau đớn, nhưng cũng không dám nói gì. Quyết đến bên Ngọc nói:

– Giờ chúng ta về đến nhà rất khó có cơ hội bàn bạc với nhau, rất dễ bị lộ, chi bằng nói chuyện ngay ở đây.

Ngọc nghĩ phải, thế là hai người đến bên một gốc cây thì thầm. Quyết nói:

– Không biết làm sao mới có thể gặp lại em cô nữa, tôi nghe người ta nói, muốn thoát được loại ngải này cần phải có trầm hương loại tốt. Mà lão phù thủy kia có một loại trầm tuyệt phẩm thiên hạ gọi là "tử khí trầm". Nếu chúng ta lấy được nó thì biết đâu có thể cứu được em cô chăng?

Ngọc than:

– Chẳng biết có được gặp nó nữa không, nói gì đến chuyện cứu.

Rồi đôi mắt nàng lại rưng rưng lệ. Quyết thấy thế thì trong lòng cũng không yên, suy nghĩ một lúc rồi lại nói:

– Tôi đoán chừng, lão ta đêm nay lập bàn lễ là để xua âm binh đi bắt em cô về. Nào ngờ em cô vẫn lẩn khuất gần chỗ cô. Chắc từ chiều đã thấy cô tới nên có ý chờ đến tối mới gặp mặt. Thằng giặc kia chắc chắn đang thực hiện một âm mưu gì đây, nên mới biến em cô ra nông nỗi này. Chỉ có điều chưa biết được hắn định làm gì. Ngoài việc tìm trầm cho em cô, có lẽ phải xuống căn hầm kia một lần nữa, dưới đó còn có nhiều người bị giam.

Ngọc đáp:

– Tôi đâm hắn một nhát, lấy mạng hắn, có phải nhanh gọn hơn chăng, sao phải phức tạp như thế.

Quyết nói:

– Ấy đừng, trên mình hắn có loại bùa rất lợi hại, đến "soái vong" còn phải sợ, chỉ e cô chưa đâm được hắn thì mạng đã không còn, thì làm sao mà cứu em?

Ngọc nói:

– Vậy ta cứ về xem tình hình ra sao rồi tính. Ta thu được của thằng vô lại kia đôi bàn tay này cũng thực hay, có dịp dùng đến rồi.

Quyết đáp:

– Lấy đi một phần thi thể của người khác, thực là không được hay lắm. Nhưng có lẽ cũng phải dùng đến thôi.

Bấy giờ có tiếng nói:

– Các người nói chuyện gì mà ma với quỷ, vong với hổ thế? Xem chừng có chuyện ly kỳ rồi đây. Ta phải tham gia cùng các ngươi mới được.

Cả hai quay ra thì đó chính là Đàn. Hắn sau khi được Ngọc trị cho thì nhanh chóng hết đau, lại ăn nói hoạt bát như thường. Đàn tuy là vừa bị Ngọc đánh trật khớp tay, lại phải dâng bảo vật ao ước bấy lâu cho Ngọc, tuy trong lòng cũng tiếc nuối lắm, nhưng cũng không để bụng lâu, tính hắn vốn cũng phóng khoáng, lại hiếu kỳ, thích sự kỳ dị, nên nghe thấy những chuyện phù thủy với hồn ma, liền muốn tham dự ngay để mở rộng tầm mắt.

Ngọc nhếch mép:

– Thứ như ngươi, bọn ta không cần giúp.

Đàn ba hoa:

– Cô em cậy có chút võ công mà coi thường người khác ư. Phải biết rằng chí khí anh hùng còn quan trọng hơn tài nghệ nhiều. Như ta đây, thà chết chứ không thể thấy chết mà không cứu.

Quyết nói thầm với Ngọc:

– Tôi xem ra, hắn cũng không phải người xấu, chỉ là nói hơi nhiều. Hơn nữa chúng ta hai người hành động, nếu có gì bất trắc thì cũng cần có người ở bên ngoài ứng cứu.

Ngọc không nói gì, nàng thầm nghĩ, nếu chỉ có một người hành động thì thực không ổn thỏa, vì bản thân nàng tuy có đôi chút võ công nhưng không có chút kiến thức nào về huyền thuật, chỉ sợ chết mà không hiểu vì sao mình bỏ mạng. Quyết thì thân thể gầy gò ốm yếu, không có cách gì tự vệ, nếu đi ăn trộm một mình cũng không ổn. Hay nhất là cả hai cùng đi, phối hợp, hỗ trợ nhau thì khả năng sống sót cao hơn cả. Nếu để tên Đàn này ở ngoài cảnh giới rõ ràng là có lợi hơn một chút. Nếu cùng hắn ăn trộm thì cũng là thêm một phần cơ hội thoát thân nếu gặp hiểm nguy. Chỉ có điều là có tin được con người này hay không mà thôi.

Đang lúc Ngọc lưỡng lự như thế, đột nhiên đằng sau ba người một tiếng động vang lên, nghe đánh "sột" một tiếng.

Cả ba cùng không hẹn mà nhìn nhau sợ hãi, không biết tiếng động kia vì sao mà phát ra, nhưng xem như tình thế bây giờ thì rất có khả năng con hổ lại quay lại một lần nữa, vì vừa rồi hai người Ngọc và Đàn đấu với nhau, rồi lại lại bàn bạc kế hoạch sắp tới nên nhất thời lơ đãng, mất cảnh giác.

Ngọc hốt hoảng thò tay vào trong cái túi đen lôi ra hai bàn tay, mỗi tay nàng cầm lấy một cái, Quyết và Đàn cũng ăn ý, mỗi người cầm một bên tay nàng, cả ba cùng đứng rất gần nhau, trong lòng cực kỳ kinh hãi, chỉ sợ lần này bùa không hiệu nghiệm thì uổng mạng, lại tự trách mình thật bất cẩn, trong lúc hiểm nguy như thế mà vẫn làm những chuyện không đâu.

Bấy giờ đã qua trung thu, trời bắt đầu trở nên khô hanh. Từng cơn gió thổi nhẹ trong đêm làm đung đưa những cành lá, dưới ánh đèn dầu của Đàn vẫn để bên mộ, những bóng lá cứ lắc lư làm người ta không khỏi sởn gai ốc. Cả ba người nín thở quan sát một lượt, vẫn không thấy có tiếng động gì khác lạ nữa. Nhưng phải biết là loài hổ là loại động vật rình bắt, săn mồi rất tài tình, bây giờ mà nhúc nhích, không khéo con hổ thấy không khí động, không cần phải nhìn mà chỉ ngửi thôi cũng thấy hơi người. Giả mà nói nhắm mắt vồ một cái, thì chắc không được toàn thây.

Nguyên là cả ba người đều không biết tính chất của loại bùa làm từ tay người bị sét đánh rất linh diệu. Nguyên sét là hiện tượng kỳ dị trong thế gian, mà đánh vào một người, thì cơ thể đó, sau khi bị chết đi, có tính chất hộ vệ thân thể rất mạnh mẽ, gặp mãnh thú thì không phải chỉ không nhìn thấy, mà ngay cả đánh hơi, chúng cũng không làm được điều đó. Việc sét đánh vào người cũng có mấy loại, có người bị sét đánh mà không chết, lại có người bị đánh chết nhưng chỉ cháy một phần, có người bị sét đánh đến toàn bộ thân thể cháy thành than. Chính loại thi thể cháy thành than này mới có tác dụng cực quý trong việc chế làm bùa hộ thân. Bởi vậy nên về cơ bản, ba người nắm chặt tay nhau, trong người có bùa hộ thân, thì hoàn toàn an toàn.

Có điều chính vì cả ba đều không hiểu nên cảm thấy trong lòng cực kỳ căng thẳng lo sợ, lặng lẽ quan sát xung quanh. Tuy là họ không thấy gì, nhưnh nhất thời cũng chưa dám nhất loạt bỏ tay ra khỏi bùa.

Âm thanh phát ra thực ma quái, đó là tiếng lục đục giống như tiếng va chạm của gỗ với vật gì khác. Một lúc sau, tiếng động lại thay đổi, nó giống như tiếng móng tay cạo vào cửa gỗ.

Rạo rạo... Rạo rạo... Rạo rạo...

Chợt Đàn thốt lên:

– Trời... trời... ơi!

Cả Ngọc và Quyết cùng gắt lên:

– Chuyện gì vậy? Nói khẽ thôi!

Đàn lại lắp bắp:

– Tiếng động... phát ra... từ đó...

Cả hai lại hướng mắt về phía ngôi mộ. Ở phía đó, dưới ánh đèn dầu, cả ba đều nhìn rất rõ, ngôi mộ ba người vừa mới đắp cao đến hai xích[2] vẫn nằm im lìm nơi đó. Nhưng đúng là những tiếng động cứ tuần tự phát ra từ phía ấy, thanh âm đục ngàu, từng tiếng, từng tiếng chắc nịch. Không gian bấy giờ tĩnh mịch, ngoài tiếng động kỳ quái kia, chỉ nghe tiếng gió thổi khẽ khẽ bên tai, một ngọn đèn dầu từ phía ngôi mộ không đủ chiếu sáng đến chỗ mấy người đang đứng, chỉ có một thứ ánh sáng mờ ảo với tới được ba người. Lúc này, cả ba người đứng trân trân ở đó, trong đầu đều chắc chắn một điều.

Đó là, tiếng động, phát ra từ phía trong ngôi mộ.

Muốn biết chuyện gì xảy ra, xin xem hồi sau sẽ rõ.

[1] Khoảng 2 mét

[2] 1 xích = 40cm

↓ Jump to Comments

Hồi thứ mười: DI QUAN

Lại nói chuyện cả ba người Quyết, Ngọc và Đàn đang lúc bàn bạc đột nhiên thấy tiếng động lạ, khi họ quay lại nhìn thì thấy có tiếng động phát ra từ phía ngôi mộ.

Rồi đột nhiên, tiếng động ngưng bặt

Bấy giờ cả ba người cùng kinh ngạc, không hiểu điều gì đã xảy ra vì để làm được việc như thế thực không phải chỉ làm trong một hai khắc, mà rõ ràng trước đó không lâu mọi người đứng bên cạnh mộ, tất thảy đều không thấy điều gì bất thường.

Bất giác, cả ba đều nhìn một lượt xung quanh xem có điều gì khả nghi hay không. Xem một hồi, họ đều tuyệt nhiên không thấy gì bấy thường.

Ngay lúc đó, một cơn gió mạnh thổi tới, ngọn đèn dầu vụt tắt. Cả ba người chìm trong bóng tối. Trong ba người, Quyết làm nghề khâm liệm, Đàn thì cả gan đào trộm mộ, hiển nhiên đều gan to mật lớn, nhưng trong tình huống thế này thì không khỏi có chút ghê rợn, chỉ có Ngọc là người ngoại đạo, đến xác chết cũng chưa từng nhìn qua, đừng nói đến chuyện đột nhiên quan tài biến mất như thế. Thành ra, trong khoảnh khắc đèn vụt tắt, bất giác nàng giật mình, đến khi bình tĩnh hơn thì tay đã nắm chặt lấy tay Quyết tự lúc nào.

Ngọc nhận ra mình đang cầm tay Quyết, thấy tay Quyết cũng đẫm mồ hôi, đích xác là cũng đang căng thẳng cao độ. Nàng thấy mình nắm lấy tay Quyết như thế, lập tức thẹn đỏ mặt, rụt tay lại ngay, màn đêm che mất khuôn mặt đỏ hồng thẹn thùng của thiếu nữ.

Lúc đó Đàn nói:

– Có lẽ nào chúng ta nghe nhầm? Phải thắp lửa lại thôi, đi trộm mộ mà đèn tắt thế này, thực là...

Hắn nói đến đây thì không nói nữa. Ra là khi đi trộm mộ, việc làm tắt đèn là đại kỵ, không thể xem thường, nếu tuân thủ đúng lề lối thì phải lập tức trả lại các đồ tùy táng rồi khấn vái để ra về. Nhưng Đàn cũng không rõ tình huống sau khi trộm xong xuôi mà đèn tắt thì tính thế nào, hơn nữa, vật trộm được bây giờ cũng không phải là của hắn nữa rồi.

Lúc này hai người đứng cách cây đèn chừng ba trượng, Đàn rút trong túi bùi nhùi, định bước tới thắp lại đèn. Quyết bèn nói:

– Chúng ta cùng thắp lại, đừng tách nhau ra.

Cả Đàn và Ngọc đều cho là phải, bây giờ ở trong rừng u tối thế này, cũng nên cẩn thận, ở bên cạnh nhau, có điều gì bất trắc cũng dễ xử lý hơn.

Đèn vừa mới sáng lại, ba người đứng bên ngôi mộ mới đắp, cũng không thấy có điều gì bất thường. Tiếng động kia không rõ là quỷ hay ma gây ra, nhưng bây giờ đã im bặt, như thể chưa bao giờ có điều đó. Nhưng nếu chỉ có một người thì có thể nói là nghe nhầm, nhưng đến ba người đều nghe thấy thế, rõ mồn một thì làm sao nhầm lẫn được?

Đột nhiên, tiếng động lại vang lên, tiếng động này khác lúc trước đôi chút, như thể có hai vật nào đó cọ sát lên nhau. Mà dường như tiếng động lần này phát ran gay dưới chân cả ba người. Cả bọn hoảng hồn nhìn xuống phía dưới chân, thấy mặt đất vẫn không có gì khác lạ.

Đột nhiên, cả ba thấy hẫng hụt dưới chân, họ không thể đứng vững trên mặt đất nữa, như thể có ai lôi tuột họ xuống. Ba người không hẹn mà kêu lên một tiếng.

Phịch!

Quyết và Đàn thụt chân xuống một cái hố, cái hố này sâu và rộng chừng nửa ngũ[1] hiển nhiên hai người đã lọt thỏm trong hố. Cái hố này vừa thụt xuống, hai người đã nhìn thấy ngay một vật hình chữ nhật, bằng gỗ lộ ra. Cái vật bằng gỗ này, không phải là thứ gì khác, chính là quan tài của người bị sét đánh.

Lúc Quyết và Đàn bị sụt hố, Ngọc đứng sau hai người, vậy nên nàng không bị trôi xuống hố theo, mà chị trượt chân xuống thành hố, đúng ngay chỗ quan tài, thế nên bây giờ, Ngọc đang ở trên phần quan tài mà hai người kia nhìn thấy. Ngọc vừa nhìn xuống chân mình, nhận ran gay quan tài khi nãy, nàng la hoảng một tiếng, nhảy về phía hai người kia, cả ba dúi dụi trong một góc.

Cả ba chưa kịp hoàn hồn lại thì chợt thấy chiếc quan tài như nhúc nhích, dường như nó chui sâu vào trong đất. Từng chút từng chút một, cái quan tài như con giun, trườn sâu vào trong đất ngay trước mắt cả sáu con mắt của ba người. Chỉ một chốc sau, nó đã biến mất, để lại một cái hang sâu hoắm.

Đàn khẽ thốt lên:

– Con mẹ nó, quan tài biết chạy sao?

Đang nói đến đây, chợt có một tiếng gầm lớn ở phía trên mặt đất. Ba người kinh hãi nhìn nhau. Cái tiếng gầm này, chẳng phải là xa lạ gì với ba người, nó chính là con hổ mà em Ngọc hóa thành. Bây giờ hiển nhiên nó đang ở trên miệng hố, mà lại ở rất gần ba người.

Lúc nãy, khi bị con hổ rượt đuổi, Ngọc và Quyết còn rảnh tay rảnh chân mà trốn chạy, mà lăn lộn, bây giờ ở dưới cái hố này rồi, thì khác gì vật trong túi con hổ, nó muốn cắn muốn xé thế nào mà không được?

Quả nhiên con hổ nhắm Ngọc mà đưa chân trước tát một cái, Ngọc nghiêng người né được, móng vuốt có nó phạt trúng cái túi đen đựng bàn tay sét đánh Ngọc mang theo bên mình, vướng vào chân nó, theo đà, văng lên khỏi miệng hố. Cả ba than khổ trong lòng, vì vốn dĩ đó là vật phòng thân duy nhất của cả ba.

Con hổ lại nhắm tới Ngọc mà tát một cái nữa. Tuy con hổ hướng tới Ngọc mà tấn công nên tầm với đến Đàn thì gần hết, mà kình lực thì cũng được giảm đi nhiều, vì thế Đàn cũng bị rách da nhẹ chứ không sâu lắm, hắn kêu la oai oái, máu từ vết thương bắt đầu chảy ra.

Quyết sợ rằng càng có nhiều máu thì con hổ càng hung hãn, thế nhưng nếu cứ nằm như thế này thì muốn nhảy lên khỏi miệng hố cũng không được, nói gì chạy thoát. Trong giây phút cấp bách ấy, hắn nghĩ ra một kế, hắn hô lên:

– Chui vào hang!

Quyết nói rồi chui ngay vào cái lỗ mà quan tài vừa mới tạo ra. Cái lỗ này tương đối rộng rãi, vì thế hắn có thể chui lọt người vào mà không bị làm sao. Hai người kia mới đầu chưa hiểu ra sao, nhìn thấy thế thì hiểu ngay từ "hang". Việc chui vào cái lỗ này thực chẳng thú vị gì, chưa nói đến chuyện không hiểu có chuyện gì kỳ quái ở đâu mà rất nguy hiểm, nếu chẳng may đất bị sụt xuống như khi nãy thì đúng là cả ba đứa đã tự chôn sống mình ư?

Có điều lúc này hai người kia cũng không thể có biện pháp hay hơn, đành chia nhau lần lượt chui vào trong đó.

Bấy giờ Quyết đã vào hẳn bên trong lỗ, phía trong này tuy đủ chui vừa nhưng rất ngột ngạt. Chẳng mấy chốc sau, Ngọc chui vào trước, Đàn chui vào sau. Cái lỗ không sâu lắm, thành ra cũng chỉ vừa chui lọt ba người.

Bấy giờ con hổ đã nhảy hẳn xuống hố, nó lại thò chân vào muốn lôi Đàn ra, Đàn không có cách nào khác, co chân đạp loạn về phía nó.

Quyết ở trên thấy vậy liền ép chặt người về phía quan tài. Đột nhiên hắn bị ép hụt một cái. Thì ta cái quan tài không ngừng di động tiến lên phía trước, thực kỳ dị. Quyết bèn bò theo cái quan tài. Ngọc thấy có chỗ trống, cũng bò theo. Lúc này Đàn ở ngoài đang ở thế nằm ngửa mà đạp ra, hễ thấy có chỗ hở thì lập tức dùng tay đẩy mình vào trong.

Cái quan tài cứ nhích từng đợt một, mỗi lúc nó lại đi sâu hơn một chút, Quyết chỉ chờ nó tiến một chút, liền trườn vào sâu một chút. Chẳng mấy chốc cái hang đã đủ sâu để ba người trốn con hổ. Con thú kia thấy miếng mồi đã đến miệng mà là thoát mất thì lồng lộn xung quanh miệng hang. Thế nhưng Đàn đã chui vào trong hang đủ sâu để tránh tầm với của nó. Tạm thời, tên béo này không còn lo làm mồi cho hổ dữ nữa.

Thế nhưng, tình thế của ba người lúc này vẫn rất nguy hiểm, vì nếu như đất sập xuống thì khó lòng sống sót được. Nhưng con hổ vẫn ở ngoài miệng hang phía bên kia, không có cách nào khác, đành phải nằm chờ nó bỏ đi.

Cái quan tài cứ từng bước từng bước mất hút vào trong cái hang sâu hoắm này.

***

Cả ba người nằm thấp thỏm hồi lâu trong bóng tối. Con hổ dường như không còn điên cuồng như lúc nãy nữa, nhưng nghe như tiếng gầm gừ của nó thì rõ ràng nó không hề bỏ cuộc mà chỉ đơn giản là bình tĩnh hơn đôi chút để chờ đợi con mồi.

Đàn thì thầm:

– Ta có nghe nhiều chuyện về việc có những người bị hổ trốn, phải trèo lên cây để trốn. Nhưng cái giống hổ này, có khi ngồi đến mấy ngày mà không chịu bỏ cuộc, chẳng chịu bỏ đi. Dù sao, được ngồi trên cây vẫn sung sướng hơn ngồi ở cái hốc tối tăm ẩm thấp này.

Quyết và Ngọc bấy giờ cũng đang nhễ nhại mồ hôi, bởi trong cái hang tối tăm này, việc thở thật khó khăn. Dường như dưỡng khí không đủ cho cả ba người. Chẳng những thế, đôi lúc, cả ba người đều ngửi thấy mùi tanh hôi từ miệng con hổ phả vào, ý nghĩ xương thịt mình bị nghiền nát bởi bộ hàm sắc lẻm và tanh tưởi đó khiến cả hai lợm giọng. Đàn nói như thế, quả đã đánh đúng vào điều cả hai đang lo lắng. Vốn là ở trong hang, dưỡng khí dường như dần dần mất đi.

Thêm độ vài tuần hương, dường như việc hô hấp ngày càng khó khăn, mà con hổ không biết đến khi nào mới bỏ đi. Ngọc mới nói:

– Hay là bò sâu vào trong hang?

Đàn nói:

– Biết dưới đấy có thứ quỷ gì, con mẹ nó, cái sự quan tài tự chui vào lòng đất thực ma quái.

Quyết bấy giờ mới nói:

– Để tôi thử bò vào, có gì sẽ gọi hai người vậy.

Nói rồi chẳng đợi hai người trả lời, liền rướn người bò sâu vào bên trong.

Vốn dĩ cái hang này không đào ngang, mà nó có hướng dốc xuống phía dưới, thành ra càng tiến vào bên trong thì khả năng thấy lại được mặt đất càng nhỏ dần. Nhưng nếu không thử thì chẳng sớm thì muộn, cả bọn cũng làm mồi cho hổ.

Thực ra, nếu còn ở trên mặt đất, nếu cả ba người bị hổ đuổi theo, nếu như liều lĩnh chống trả lại, thì cũng có một vài phần cơ may sống, như khi nãy, Ngọc và Quyết bị nó đuổi kịp, nhưng nhất thời trong một khoảnh khắc vẫn chưa bị hổ ăn thịt ngay. Thế nhưng, một khi vừa chui từ hang ra, thì việc di chuyển, vận động cũng không được thuận lợi, mà hổ dữ đã chờ sẵn ở ngoài, khác gì đưa cổ cho nó ngoặm? Chẳng những thế, Đàn ờ ngoài cùng, chân ở phía ngoài, việc lao ra không thể nhanh nhẹn được, mà quay đầu lại thì hang hẹp quá, không đủ chỗ. Thành ra, cả ba cũng phải thử cách chui sâu vào xem sao.

Nào ngờ, Quyết vừa bò chưa được một trượng thì rầm một tiếng, thì ra ở phía cửa hang, đất cát bị sạt xuống, lấp lấy miệng hầm. Bấy giờ Ngọc cả kinh, la khẽ:

– Bò vào trong mau.

Ngay lập tức, cả hai người bò sâu vào trong. Đất cát bấy giờ vẫn chưa dừng ngập xuống, một đoạn hang bị sập xuống ngang người Đàn, may mà sập cũng không hoàn toàn, đất lại khá tơi nên Đàn quẫy mình mấy cái đã thoát qua phần hang đó, có điều cả hai không dám chần chừ, bò hết sức về phía hang sâu.

Ngọc và Đàn đều có sức khỏe hơn Quyết nên bò được một lúc thì đã đuổi kịp hắn. Phía sau hai người đất đá vẫn sạt xuống dù ít hơn. Nếu như tiếp tục sạt nữa thì tính mạng cả ba người hiển nhiên gặp nguy hiểm, đường ra đã bị lấp kín như thế, tình thế của ba người lúc này, thực là khó mà thoát khỏi cái chết.

Thì ra, khi chiếc quan tài khi chui sâu vào lòng đất tạo thành một cái hang, nhưng chất đất ở đây không tốt, nên chỉ sau một khoảng thời gian thì sập xuống. Cả ba người lúc này đều nhận ra điều đó, nghĩ bụng tình hình thế này thì sớm hoặc muộn sẽ chết mà thôi, bởi cái quan tài chỉ nhích từng chút một, hiển nhiên quá chậm so với tốc độ sạt lở đất. Có lẽ, chỉ trong chốc lát, cả ba sẽ bị chôn sống mà thôi.

Nào ngờ đang lúc nghĩ như thế, đột nhiên Quyết la lên:

– Bám vào chân nhau, mau!

Trong hang tối tăm, âm thanh vang lên to mà thực rõ ràng, hai người kia thấy thế, chưa hiểu ra sao cũng vội vàng làm theo.

Ngay lập tức, cả Ngọc và Đàn đều cảm thấy có một lực rất mạnh mẽ kéo mình vào sâu thêm trong hang. Nguyên là Quyết ép mình vào chiếc quan tài kia, chợt thấy tốc độ "bò" của nó không ngừng tăng lên, liền nghĩ ra một kế, hắn bám thật chặt vào quan tài, rồi nói hai người kia bám vào chân nhau, thành ra ba người tạo thành một sợi "xích thịt", nhờ vào lực của quan tài mà được kéo sâu thêm vào trong hang.

Bấy giờ cả ba người càng ngày càng trôi rất nhanh vào trong hang sâu, cũng may mà chất đất ở đây mềm mà êm, đây chính là lớp đất phù sa có màu đỏ đặc trưng của con sông Nhị Hà.

Sợi "xích thịt" cứ như vậy trôi được một quãng, chợt thấy đất cát xung quanh thấm đẫm nước. Rồi dần dần nước bắt đầu đầy dần trong hang. Càng ngày nước vào trong hang càng nhiều.

Bấy giờ Quyết và Ngọc đang kinh hãi thì Đàn ở phía sau la lớn:

-Con mẹ nó, Cái quan tài này đang lao về hướng nam.

Dù Đàn không nói rõ ý, nhưng Quyết và Ngọc đều hiểu, ý hắn muốn nói chiếc quan tài đang tiến về phía sông Nhị Hà. Nếu quả đúng vậy thì tính mạng của mấy người khó mà tránh khỏi việc biến thành "giang trành"[2].

Đàn vừa nói đến đấy, liền bị nước vào đầy miệng, hắn ho dữ dội một hồi. Quả nhiên bâu giờ trong hang có rất ít khoảng không khí, nước đã ngập lên gần đầy. Ngọc bấy giờ thấy thế liền hét lớn:

– Mau nín thở!

Bấy giờ chiếc quan tài lao vùn vụt như một mũi tên bắn, không còn chậm chạp như lúc trước nữa. Dường như đất bây giờ nhão và mềm nên cỗ quan tài tiến lên phía trước cũng dễ dàng hơn. Nước đã ngập hết hang. Tình thế như vậy, cả ba đều hiểu rằng cỗ quan tài chính là đang ở dưới lòng sông!

Cả ba người đều thấy tay chân mỏi rã rời vì phải cầm nắm lâu quá. Chẳng những thế, Quyết là người yếu nhất, lại là người ở đầu, nếu Quyết không chịu nổi mà buông tay ra thì cả ba cùng chết ngạt mà thôi. Con sông Nhị Hà này chiều rộng có đến vài dặm, mặc dù cỗ quan tài đi nhanh như thế, nhưng không biết liệu cả ba có chịu được trước khi sang đến bờ bên kia hay không.

Qua một hồi lâu, mọi người đều thấy mệt mỏi và tuyệt vọng, mấy lần muốn thả tay ra. Tình hình lúc đó đang ngàn cân treo sợi tóc thì đột nhiên xuất hiện một vài bọt khí trong nước, những bọt khí nhiều dần, rồi hình thành một lớp không khí phía trên nóc hang. Bấy giờ cả ba người mới reo thầm trong bụng. Chỉ một lúc sau, không khí đã chiếm đầy lòng hang, chỉ thấy thành hang ẩm ướt mà thôi, không còn có nước tràn vào nữa.

Bấy giờ không ai bảo ai, mọi người đều hít lấy hít để không khí, như thể ăn mừng mình vẫn còn chưa thành ma nước.

Chiếc quan tài vẫn giữ nguyên tốc độ như thế mà lao đi vùn vụt trong lòng đất. Bấy giờ mọi người mặc dù đã có thể hít thở bình thường nhưng vẫn chưa hết hiểm nguy, bởi, nếu cỗ quan tài này cứ chạy lòng vòng trong đất không chịu "ngoi" lên thì kết cục thảm cảnh bị chôn sống của họ vẫn không thay đổi.

Đột nhiên, chiếc quan tài chuyển hướng, rõ ràng nó đang hướng lên phía trên mặt đất, dường như nó muốn trồi lên mặt đất. Quả thực, chỉ trong một đêm mà ba người suýt biến thành các loại ma khác nhau, từ "hổ trành", "giang trành" đến kiếp bị chôn sống. Bây giờ thấy tình hình khả quan như thế, ai nấy đều cả mừng.

Có điều, bấy giờ, đất ngày càng khô và cứng lại, nên chiếc quan tài cũng không thể tiến nhanh như trước được mà dần dần tốc độ của nó giảm đi. Nghĩ đến cái thời điểm đầu tiên khi cỗ quan tài nhích từng bước một làm mọi người rất sốt ruột, lo lắng. Có điều nếu muốn nhanh cũng không tài nào làm được. Tính mạng của mấy người đều phụ thuộc cả vào việc bò của cái quan tài này từ khi nào mất rồi.

Đang đoạn lo lắng như thế, đột nhiên chiếc quan tài băng qua một hòn đá nhỏ. Hòn đá này làm nó nẩy lên một chút, rồi lại băng qua dễ dàng. Nhưng với tên chết đói Quyết thì không thể, hòn đá ở ngay phía dưới hắn, khi chạy qua cơ thể, hòn đá cọ vào hắn thành một đường, từ khớp vai, qua xương sườn dến đầu gối, mà xương hắn vẫn còn lồi ra ngoài nhiều, thành ra đau đớn thấu xương. Quyết vốn đã cắn răng chịu đựng, nhưng khi hòn đá va vào mắt cá chân hắn, thì hắn đau đến tê cả cơ thể, nhất thời không thể làm chủ được bản thân nữa, hai tai cứng đờ, tuột ra khỏi quan tài. Kể ra, việc hắn đến bây giờ mà vẫn còn bám được vào quan tài, để rồi hai người bám vào hắn, lại vượt qua được một quãng đường dài như thế, kể cũng là một kỳ tích rồi.

Cả ba người theo đà, lao thêm được một đoạn nữa rồi dừng lại hẳn, chiếc quan tài dù không còn di chuyển nhanh nữa nhưng Quyết cũng không còn đủ sức bò, mà nằm thở hổn hển, hiển nhiên không đuổi theo được chiếc quan tài. Cái hang chỉ đủ chỗ cho một người, mà Quyết lại đang ở đầu, vì thế, nếu hắn không di chuyển thì hai người kia cũng không cách nào di chuyển được. Ba người bây giờ nằm lặng trong hang tối. Trải qua một đêm đầy biến động, vừa đói, vừa mệt, mọi người đều không hẹn mà thiếp đi.

Muốn biết mọi việc diễn biến ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.

[1] 1 ngũ = 2m

[2] Giống như hổ trành, giang trành là loại hồn ma vốn chết đuối, phải dẫn dụ được người khác chết đuối thay mình mới được siêu thoát.

Rate this:

↓ Jump to Comments

Hồi thứ mười một: LẠC VU

Lại nói chuyện cả ba người Quyết, Ngọc và Đàn bị kẹt dưới hang sâu trong lòng đất trong hang do chiếc quan tài tạo ra. Không biết bao lâu sau, Quyết chợt tỉnh dậy, hắn nghe từ xa vọng lại tiếng rì rầm, như thể tiếng nói chuyện. Hắn nghe thấy loáng thoáng có giọng nói:

– Kỳ lạ!

Một giọng thứ hai hỏi lại:

– Sao lại kỳ lạ?

Giọng nói này, so với giọng nói trước thì trong hơn giọng nói trước một chút, rõ ràng là của một người trẻ hơn.

Giọng già đáp:

– Ngươi xem, cái cách quấn bọc thế này, hai lớp vải lót đan chéo nhau, quấn lấy toàn bộ thi thể, lớp nọ chồng lên lớp kia đúng một phần ba chiều rộng của băng cuốn rồi mới đến áo quan. Mặc dù dường như thiếu vải cuốn nên việc cuốn không được trọn vẹn nhưng cách khâm liệm thế này làm ta nhớ đến một người.

Giọng trẻ nói:

– Phải chăng ông muốn nói đến ngài?

Giọng già đáp:

– Chính phải.

Giọng kia lại nói:

Ta nghe mọi người nói, ngài gần đây gặp phải sự không hay, đã bỏ mạng mất rồi, chỉ còn lại thiếu chủ nhưng từ khi có trận đói tháng sáu thì không còn tin tức gì nữa. Cái xác này mới chôn được có vài ngày, làm sao có thể do nhà họ Phạm khâm liệm được?

Một lúc sau, chợt có tiếng la khẽ:

– Đâu mất hai bàn tay rồi?

Rồi có tiếng lục đục, dường như cả hai người đang tìm kiếm gì đó, được độ nửa tuần hương, lại có giọng nói cất lên:

– Mất rồi, mất rồi! Lần này biết làm thế nào?

– Lẽ nào do bọn trộm mộ làm?

– Ta đã làm rất kín đáo, không ai biết được chỗ chôn cất thật sự cả.

Bấy giờ Quyết hiểu ra, rằng ba người đã ở rất gần đoạn cuối của cái hang kia. Chắc hẳn những tiếng nói kia là của những người có liên quan đến việc chiếc quan tài tự chui vào lòng đất, xuyên qua cả sông Nhị Hà để đến đây. Không rõ ý đồ của bọn chúng ra sao, nhưng những kẻ làm việc khuất tất với người đã mất như thế, hiển nhiên không thể là người tốt được. Lại nghe thấy chúng nhắc đến nhà mình, điều này chứng tỏ bọn chúng rất có hiểu biết trong chuyện này, vì hắn được bố dạy rằng riêng trong giai đoạn bó xác thì phải đuổi hết tất cả thân nhân ra, quây màn kín mà hành sự, bởi phần việc này có thể được coi như bí mật gia truyền nhà hắn. Tối hôm trước, ngay lúc quấn xác, hắn cũng bắt Đàn và Ngọc quay đi, không cho xem.

Bấy giờ cơ thể hắn rất mệt mỏi, cơ hồ không thể động đậy được tay chân, mỗi lẫn thử cố gắng đều thấy đau nhức khắp nơi, tình hình như thế không cách nào thoát ra được. Nếu hắn kêu lên thì ắt những người ngoài kia sẽ biết hắn ở đó, nhưng không biết có cứu hay là đem thủ tiêu luôn.

Đang nghĩ ngợi như thế, đột nhiên hắn thấy có tiếng kêu từ sâu trong hang:

– Cứu, cứu!

Thì ra lúc này, Đàn đã tỉnh dậy, thấy có tiếng người nói chuyện như thế, lại không nghe rõ câu chuyện đầu đuôi thế nào, liền mở miệng kêu cứu. Quyết cả kinh, không biết có nên chặn Đàn lại hay không. Mà thực ra, có chặn lại cũng không được nữa, tên to béo này, miệng hắn cũng to không kém thân thể, mở mồm kêu cứu, hiển nhiên vận hết sức lực, lại đang trong hang sâu, thanh âm vọng ra hết sức rõ ràng, không lẫn đi đâu được.

Đàn kêu cứu được một lúc thì Quyết nghe thấy có tiếng lạo xạo, dường như có người đang bò vào hang tối. Rồi hắn thấy một bàn tay lớn chụp lấy bả vai mình, lôi ra. Bấy giờ hắn toàn thân không thể tự chủ được, đành để cho người ta muốn làm gì thì làm.

Bàn tay kia lôi hắn một lúc thì Quyết thấy thân thể mình như rơi trong không khí, rồi chạm vào một mặt sàn nghe "bịch" một tiếng, hắn vốn đã đau đớn sẵn, chịu thêm cú rơi này, hồn phách lên mây, lập tức ngất đi.

***

Không biết bao lâu sau, Quyết tỉnh dậy. Hắn thấy chân tay không tài nào cử động được. Đầu tiên hắn thấy việc mở mắt thật khó khăn, phải cố gắng lắm hắn mới có thể mở to mắt, nhất thời cũng chưa nhận biết được ngay, phải một hồi lâu hắn mới nhận ra hắn đang nằm trong không gian tối tăm, chỉ có ánh sáng vàng vọt có lẽ phát ra từ ngọn đèn dầu nào đó. Nhìn xung quanh thì thấy có hai bóng đen nằm trên đất, đó chính là Ngọc và Đàn. Cả ba người đã bị trói nghiến lại, bây giờ đang nằm trên nền đất lạnh.

Lúc này cả Ngọc và Đàn đã tỉnh dậy, nhưng miệng cả ba bị nhét giẻ, thành ra không thể nói chuyện được với nhau.

Đột nhiên có tiếng bước chân người xa xa, đây rõ ràng là của nhiều người, họ đang nói chuyện với nhau. Một người nói:

– Thưa cụ, việc cụ dặn chúng tôi e là đã làm hỏng mất rồi. Không hiểu ở đâu ra mấy tên trộm đào trộm mộ người ta, cắt lấy đi đôi bàn tay. Cái xác đưa về còn dẫn theo ba tên không rõ lai lịch thế nào, có lẽ là lũ trộm kia đang hành sự thì bị kéo theo. Chúng tôi tạm trói lại, đang giam ở phòng bên. Chúng tôi xin cụ thứ lỗi cho, không biết liệu có thời gian nữa không, để chúng tôi thử cố gắng lại.

Lại có tiếng đáp lại:

– Việc này cũng cần nhưng thời gian không quá gấp, nhanh được ngày nào thì hay ngày đấy mà thôi. Có điều các vị có nói đến việc cách khâm liệm giống nhà họ Phạm là sao?

Có một tiếng nói khác đáp:

– Quả đúng như vậy, nếu cứ nhìn vào cách bó xác thì đó chính là của nhà họ Phạm, có điều làm hơi cẩu thả.

Giọng nói kia nói:

– Nhà họ Phạm có liên quan rất hệ trọng đến "trấn quốc hội", chuyện này ta cũng vừa mới biết, nhưng khẳng định là nhà họ Phạm chưa hề bị tuyệt diệt, cách đây mấy ngày ta còn có hân hạnh được diện kiến một người.

Bấy giờ Quyết giật mình nghĩ:

"Nghe chuyện người này nói thì không phải là nhà mình rồi, chẳng lẽ có một nhà họ Phạm nào nữa cũng làm nghề khâm liệm hay sao? Chẳng nhẽ nhà mình làm nghề này bấy nhiêu năm mà không biết điều đó".

Đang nghĩ đến đấy, chợt có tiếng động, Quyết thấy cánh cửa lớn cách hắn không xa mở ra. Trước mắt hắn bấy giờ có ba người, một người cao lớn, vạm vỡ, tay cầm đèn dầu, một người khác chắc đã khá già vì mái tóc hoa râm mà râu cũng bạc một phần rồi. Người còn lại, là một cụ già râu tóc bạc trắng, nhưng ánh mắt đen lay láy như người còn thanh niên, da dẻ người này căng mà mịn màng, nếu không có bộ râu bạc trắng thì không ai nghĩ người này đã lớn tuổi. Người này, chính là cụ Tả Ao.

Người thanh niên vạm vỡ quay qua cụ Tả Ao nói:

– Thưa cụ, đây là mấy tên chúng tôi tìm được trong hầm, còn quan tài ở đằng kia, mời cụ qua xem.

Quyết bấy giờ nhìn kỹ đúng là cụ Tả Ao bèn lên:

– Cụ Tả Ao!

Người thanh niên vạm vỡ nhìn thấy hắn gọi cụ Tả Ao như thế, xông đến đạp vào ngực hắn một cái, đau đến ngưng thở, làm hắn phải ho mạnh một hồi. Gã vạm vỡ nói:

– Mày dám vô lễ gọi tên cụ thế à?

Cụ Tả Ao thấy thế kéo gã thanh niên vạm vỡ sang một bên rồi hướng về phía Quyết mà hỏi:

– Khoan đã, sao người biết ta?

Quyết đáp:

– Cháu đây, cháu đây, cụ không nhận ra cháu à? Cháu là Quyết đây.

Cụ Tả Ao giật mình, giơ đèn soi cho rõ, rồi sai gã vạm vỡ lấy lại một xô nước lớn. Gã vạm vỡ đối với cụ Tả Ao thái độ rất cung kính, lập tức lật đật đi lấy ngay. Một lúc sau, hắn đã chạy về, mang theo một xô lớn đầy nước. Cụ Tả Ao bèn hắt một ít nước lên mặt Quyết để nhìn hắn cho rõ. Thì ra vì cả ba người trôi trong hang lâu như vậy, lại qua vùng đất đầy bùn nên bấy giờ đã không còn nhận ra mặt mũi nữa rồi, cả ba người thân đều phủ đầy bùn đất, đến khi bị bắt trói, cũng không ai quan tâm đến, thành ra không thể nhận rõ mặt, chỉ đến khi dội nước vào mới thẩy rõ mặt mà thôi.

Cụ Tả Ao thấy rõ đấy là Quyết thì giật mình, kêu gã vạm vỡ lập tức cởi trói cho cả ba người. Nắm lấy tay cậu mà nói:

– Làm sao mà cậu lại ở đây? Mà khoan, khoan hẵng kể, mau thay quần áo tắm rửa, ăn cơm đã. Ta xem cậu mệt mỏi lắm rồi.

Nói đoạn, gã thanh niên vạm vỡ hiểu ý cụ Tả Ao, lập tức đưa ba người đi ngay. Tắm rửa xong xuôi, cả ba được ăn một bữa no nê. Lúc này Quyết lòng rất nhiều câu hỏi, hoài nghi, thành ra ăn không được ngon, nhưng hắn vẫn theo thói quen, được ăn là phải ăn cho no rồi mới tính đến những chuyện khác.

Ăn xong gã vạm vỡ đưa ba người đến ba căn phòng khác nhau. Quyết nói với gã:

– Tôi chưa muốn ngủ, tôi muốn gặp cụ Tả Ao.

Lần này gã vạm vỡ không đánh hắn nữa, mà thái độ rất cung kính nói:

– Được, để tôi dẫn cậu đi.

Ngọc và Đàn thấy thế cũng muốn đi theo, nhưng gã vạm vỡ gạt đi, chỉ đưa Quyết theo, khiến hai người đành hậm hực quay về phòng.

Gã vạm vỡ đưa Quyết qua một hành lang dài rồi mới đến phòng cụ Tả Ao. Bấy giờ, khi Quyết bước vào thì thấy cụ đang ngồi viết gì đó, Quyết vốn cũng biết chữ, thấy trên bàn có một cuốn sách gọi là "Tả Ao chân truyền tập". Hiển nhiên cụ đang viết sách.

Cụ Tả Ao thấy hắn thì mừng lắm, vì trong lòng cũng chưa hết hoài nghi vì sao hắn lại ở trong hang của cỗ quan tài. Cụ nói:

– Đây rồi, cậu bé, lại đây, lại đây.

Giọng điệu cụ Tả Ao thực nhẹ nhàng, khiến Quyết cảm thấy rất gần gũi, thân thuộc. Hắn mặc dù vẫn nghĩ những người liên quan đến chuyện cỗ quan tài biết đào đất kia đều không thể là người tốt được, có điều cụ Tả Ao đích thực là có liên quan đến chúng, nhưng cũng đích thực cụ là người tốt, thành ra nhất thời không hiểu rõ mọi chuyện thế nào.

– Cụ ơi, cụ kể cho cháu nghe vì sao có chuyện cỗ quan tài kia.

Cụ Tả Ao nói:

– Ta cũng đang rất muốn biết chuyện về cháu đây. Có điều ta muốn cháu kể cho ta nghe trước được không?

Quyết trong lòng rất kính phục và tin tưởng cụ Tả Ao, thành ra nghĩ rằng nghi vấn trong lòng mình chẳng sớm thì muộn cũng được cụ giải tỏa. Nghĩ thế, hắn bèn đem mọi chuyện từ tối qua đến giờ kể cho cụ nghe một lượt, không sót chi tiết nào.

Cụ Tả Ao ngồi lắng nghe rất cẩn thận, chỗ nào chưa rõ cụ lại hỏi lại cho cặn kẽ, thành ra Quyết phải kể đến ba tuần hương mới xong. Bấy giờ cụ nói:

– Tên Cao Tiến này, thực là nguy hiểm. Cháu muốn biết chuyện cỗ quan tài phải không? Được, ta sẽ kể cho cháu nghe, có điều ta muốn cháu biết còn nhiều hơn thế, nên chuyện sẽ hơi dài dòng đấy.

Quyết đáp:

– Vâng, thưa cụ, cháu xin nghe.

Cụ Tả Ao nói:

– Cháu có biết ai là thủy tổ của dân tộc Việt không?

Quyết đáp:

– Thưa cụ, là Kinh Dương Vương ạ.

Cụ Tả Ao nói[1]:

– Hay lắm, hay lắm, Kinh Dương Vương, ngài húy là Lộc Tục, làm vua cả một vùng đất rộng lớn, phía bắc tới sông Dương Tử đến cả vùng hồ Động Đình, phía nam tới nước Hồ Tôn, phía đông là Đông Hải, phía tây là Ba Thục. Kinh Dương Vương ngài sinh hạ được một người con, đó chính là Lạc Long Quân. Theo truyền thuyết thì Lạc Long Quân lấy Âu Cơ, sinh ra bọc trăm trứng, nở ra trăm người con, năm mươi người theo cha lên núi, năm mươi người theo mẹ xuống biển. Lạc Long Quân xưng là Hùng Hiền Vương, nối ngôi cha, cai trị vùng đất đai đó. Sau trải qua mười tám đời, lấy Phong Châu làm trọng yếu của nước nhà, hùng cứ một phương rộng lớn, gọi tên nước là Văn Lang.

Quyết tuy không biết rằng Lộc Tục chính là Kinh Dương Vương, nhưng hắn biết chuyện về Lạc Long Quân và Âu Cơ, bởi truyền thuyết đó quá nổi tiểng, đến đứa trẻ bốn năm tuổi cũng được nghe mẹ hoặc bà kể lại. Có điều hắn chưa hiểu vì sao lại liên quan đến cỗ quan tài kia.

Nhìn sắc mặt của hắn, cụ Tả Ao hiểu ý mà cười lớn, nói:

– Chuyện cỗ quan tài hãy cứ từ từ, chúng ta nói chuyện này cái đã.

Rồi cụ nói tiếp:

– Thời kỳ đó gọi là thời kỳ Hồng Bàng. Lúc đó, nước Văn Lang của chúng ta là một quốc gia hùng mạnh, vốn dân Việt ta lấy nghề sông nước làm gốc, nên việc đánh cá, đi thuyền, đi biển đều giỏi giang cả. Chẳng những thế mà văn hóa cũng phát triển, chúng ta có chữ viết gọi là "Văn Lang tự", việc có chữ viết như thế rất quan trọng vì ta có thể tự ghi chép lại lịch sử nước nhà, có thể lưu lại những kinh nghiệm về sản xuất, chiến đấu...

Về triết học chúng ta có "vạn vật thuyết", thuyết này dựa trên tấm đồ hình gọi là "vạn vật đồ" mà người Tàu khi lấy mang về nước thêu dệt nên thành Hà Đồ và Lạc Thư.

Chẳng những thế mà quân đội của nước Văn Lang là quân đội mạnh nhất trong số các nước xung quanh thời bấy giờ. Quân đội chúng ta tuy không đông nhưng thiện chiến, lại được trang bị vũ khí tốt làm từ đồng. Chẳng những thế, chúng ta chế được loại nỏ liên hoàn có thể bắn được nhiều phát một lúc, tạo nên mối kinh hoàng cho giặc phương bắc mỗi khi xâm lấn. Về sau, nước Tần hùng mạnh cũng không thể tiêu diệt được nước Văn Lang chúng ta, mà chỉ cho đến khi Thục Phán An Dương Vương dùng mưu cướp được ngôi của Hùng thứ mười tám, mới chiếm được nước ta mà thôi.

Cụ Tả Ao dừng một lúc, uống một hớp trà, rồi chẹp một tiếng thật to như thể muốn thưởng cho hết cái đậm đà của chén trà mạn rồi mới tiếp:

– Chuyện xa xưa, đại loại là như vậy. Cậu bé có biết, sử Tàu ghi thế nào về việc nước ta hình thành hay không?

Quyết biết cụ hỏi vậy chỉ để nói tiếp nhưng vẫn trả lời:

– Cháu không biết ạ.

Cụ Tả Ao gật gật đầu rồi nói:

– Sử Tàu chép nguyên văn là: "ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang". Cậu bé có biết "dùng ảo thuật" có nghĩa là gì không?

Quyết lắc đầu. Cụ Tả Ao bèn đáp:

– Đó chính là huyền thuật. Dù sử Tàu chỉ nói đến các vua Hùng nhưng thực ra, từ đời Kinh Dương Vương, nước ta đã có trình độ huyền thuật cực kỳ cao siêu.

Tổ tiên ta, khai thiên lập địa trên vùng đất địa linh, nhưng đất linh cũng sản sinh ra lắm yêu ma quỷ quái, lại thêm nhiều cuộc chiến tranh giữa các bộ lạc, hoặc các tộc người phương Bắc, hoặc người Ai Lao, người chết nhiều không kể xiết. Ma quỷ vốn nhiều, sông ngòi lại cuồn cuộn, thành ra thiên nhiên khắc nghiệt. May mắn thay, đất địa linh sinh nhân kiệt, chẳng những dân tộc ta có nhiều tướng tài, mà có những người sinh ra đã có khả năng áp chế ma quỷ, phép thuật dời núi lấp sông. Những vu nhân, tức là các thầy phù thủy theo cách gọi xưa, nước ta từ thời đó đã có pháp thuật cao thâm khó lường, thủa ấy ta đã biết dùng phép luyện âm binh, những chuyện đi mây về gió, điều thủy khiển sơn, hô mưa gọi gió, chế bùa luyện ngải đều có thể làm được.

Chuyện này về sau được truyền lại trong rất nhiều truyền thuyết như chuyện Kinh Dương Vương đánh đuổi thần Xương Cuồng[2], Lạc Long Quân bản thân cũng là một thầy phù thủy đệ nhất phẩm, thậm chí có thể điều khiển, sai khiến được quỷ Dạ Xoa, sai Dạ Xoa ở Thủy Phủ cấm hải thần nổi sóng, nhờ đó mà tiêu diệt được Ngư tinh tại Biển Đông[3].

Vào thời ấy, trong triều đình có các quan văn là Lạc Hầu, có các võ tướng là Lạc Tướng, ngoài ra còn có Lạc Vu, chính là những phù thủy cao tay ấn được Hùng Vương thu nạp, cùng nhau dùng pháp thuật để bảo vệ đất nước. Những Lạc Vu này rất quan trọng trong việc vệ quốc, bởi thời bấy giờ, sự chiến tranh, nếu chỉ có binh hùng tướng mạnh mà không có người vu nhân hỗ trợ thì khó lòng mà đánh bại được kẻ thù. Số lượng vu nhân dưới thời Hùng Vương có đến vài trăm người. Thế nhưng, các Lạc vu hoạt động cực kỳ bí mật, bởi vậy nên dù đắc lực trợ giúp vua, nhưng tên tuôi của họ không bao giờ được ghi vào sử sách, âu đó cũng là những thiệt thòi của các Lạc Vu vậy.

Pháp thuật của những Lạc Vu nước ta bấy giờ cao hơn hẳn pháp thuật của cá thầy phù thủy bên Tàu, vì thế mà người Hán người đông thế mạnh, nhưng mỗi khi có ý muốn đánh chiếm Văn Lang thì bộ tướng của Hùng Vương đều được hậu giúp của các Lạc Vu mà chiến đấu, họ điều khiển được lửa, nước, muôn thú, thậm chí hô mưa hoán vũ đều có thể làm được, thành ra phần bất lợi nghiêng về người Hán, cuối cùng họ cũng không thể vượt qua Sông Dương Tử mà chiếm được Văn Lang cũng như các nước Bách Việt khác.

Quyết hỏi:

– Tại sao những người Lạc Vu nước ta lại giỏi đến như thế ạ?

Cụ Tả Ao nói:

– Vốn dĩ tố chất là một phần quan trọng của huyền thuật. Nhiều người sinh ra đã là một phù thủy cao tay rồi, thứ tự này, từ khi sinh ra, mười phần đã định được tám, hai phần còn lại, là do phấn đấu tu luyện mà thành. Như cháu cũng vậy thôi, cháu sinh ra đã là phù thủy, phẩm hạng cao hơn hẳn ta rồi, thành ra không cần luyện tập hay hiểu biết gì cũng có thể làm ma quỷ không dám lại gần, cũng không dám ám hại, nếu không, sau bao nhiêu việc cháu thấy như thế, liệu cái mạng cháu có còn được hay không?

Cụ Tả Ao nói tiếp:

– Lại nói, tố chất này, tùy vào thời điểm nơi mình sinh ra tức là "thiên", sinh khí trong đất tức là "địa" và dòng dõi nhà người đó, tức là "nhân" mà có được. Vùng đất của dân tộc Việt chính nằm ngay trong địa thế "Long vĩ" cực thịnh. Từ đỉnh Hy Mã Lạp Sơn, nơi hội tụ linh khí từ trời xuống, xuất ra đường đường long mạch giống hình con Rồng lớn, đi từ cao nguyên Tây Tạng dọc theo biên giới Ấn Độ, đến cao nguyên Vân Nam. Sau đó, đường long mạch này chạy đến dãy Hoàng Liên Sơn rồi toả ra trên Đồng bằng Bắc Bộ nước ta và hạ thủy ở Vịnh Hạ Long.

Khu vực đồng bằng này chính là thế núi chầu sông tụ[4], bao gồm tám dãy núi vòng cung xoáy theo hình rẻ quạt đi lần lượt từ dãy Đông Triều, Bắc Sơn, Ngân Sơn, Sông Gâm theo hướng Đông Bắc Tây Nam, đến dãy Sông Đà và Ninh Bình từ phía Tây Nam hất ngược lên, cuối cùng là dãy Hoàng Liên Sơn và dãy Tam Đảo đi từ chính Bắc xuống. Kèm theo hướng núi là hướng các con sông cũng đồng quy về trung tâm đông bằng, đúng là:

"Thiên sơn vạn Thuỷ triều lai

Can Chi bát quái trong ngoài tôn nghinh"[5]

Vùng đất sinh sống của dân Đại Nam ta bây giờ và Văn lang hồi xưa chính là nằm ở phần đuôi của long mạch này. Huyệt kết nhiều nơi, lại toàn là loại huyệt trân quý, thành ra sản sinh ra nhiều người tài năng, có khả năng bình thiên hạ.

Sinh trưởng trong hình thế phong thủy đẹp như thế, người Đại Việt ta chẳng những có thể xây dựng đất nước phồn thịnh mà tài năng uy chấn thiên hạ. Khả năng huyền thuật của chúng ta thuộc hạng thượng thừa. Cái từ "dùng ảo thuật" trong sử Tàu kia chẳng qua là do e sợ nên phải nói tránh đi mà thôi.

Người Việt cổ vốn có chữ viết, vì thế đã ghi lại lịch sử từ rất sớm, bộ sử đó gọi là "Văn Lang sử ký", tiếc thay khi Mã Viện đánh nước ta, chẳng những đã tịch thu hết sản vật, đồi mồi, chim trĩ, bào ngư, tổ yến, ngoài ra hắn còn vơ vét trống đồng mà đem về nước đúc tượng dâng vua, học được cách đóng tàu của người Việt ta, mà tất cả những sử sách của ta đều bị đốt cả, sau đó lại cấm không cho dùng "Văn Lang tự", khiến cho chúng ta cũng mất luôn loại chữ viết này, có chăng chỉ còn lưu lại trên con bài tổ tôm là chúng không thể xóa được mà thôi.

Quyết lại hỏi:

– Chúng ta giỏi giang như thế, tại sao lại mất nước hả cụ?

Cụ Tả Ao nghiêm sắc mặt lại, nói:

– Chúng ta mất nước có mấy nguyên nhân, thứ nhất là chúng ta trúng kế phản gián của Thục Phán, chúa Tây Vu[6], thứ hai chúng ta bị phản bội bởi một người, con người này sử sách chưa bao giờ nói tới, thứ ba là hồi ấy, học thuật của chúng ta về phong thủy chưa đầy đủ, vậy nên kinh đô đặt ở Phong Châu, phải như chúng ta biết được, đặt đô ở Thăng Long bây giờ thì chính là đã đặt đúng được đại huyệt, đời đời bền vững cơ nghiệp.

Người phản bội này, cực kỳ quan trọng đối với Văn Lang. Nguyên là người thống lãnh các Lạc Vu, gọi là "đại Vu nhân". Là người đứng đầu, quyền phép đương nhiên vượt trội so với các Lạc Vu khác. Thời kỳ ban đầu, người ta thi tuyển "đại Vu nhân", tuyển chọn từ hàng ngàn người trong nước mới chọn ra được một người tài phép nhất. Vị "đại Vu nhân" này giống như vị nguyên soái, chỉ huy các Lạc Vu tại các châu, huyện trong cả nước, hỗ trợ nhau lập tuyến phòng thủ nghiêm ngặt, chống lại kẻ thù một khi có xâm lược. Ngoài ra, khi có mất mùa hạn hán hay thiên tai lụt lội thì chính là người chủ lễ, lập đàn tế trời đất, cầu mưa, chế lụt.

Đến thời Hùng Duệ Vương, đại Vu nhân là Đào Lạp, người này và một Lạc Vu khác là Phạm Tôn đều xin Hùng Vương gả con gái cho. Bấy giờ Đào Lạp đã sáu mươi tuổi, mà Mỵ Châu mới mười sáu. Phạm Tôn là một vu nhân trẻ nhất trong nước được phong Lạc Vu, người này chẳng những pháp thuật cao cường mà văn tài võ lược đều xuất chúng, tương lai thực là sáng lạn, nếu so với công chúa Mỵ Châu thì thực là trai tài gái sắc.

Cuối cùng, vua Hùng chọn Phạm Tôn làm rể. Đào Lạp nghe tin ấy bèn tức giận liền cậy mình phép thuật cao cường nên làm phản, vậy là Phạm Tôn phải đấu một trận sống mái với Đào lạp, mà rốt cục là Phạm Tôn chiến thắng. Đào Lạp trước khi bị áp chế, giải vào ngục còn lập một lời nguyền, rằng "Nam nhân bất thọ bán ngàn niên, Việt tộc phi trị nhất dòng thủy", nghĩa là người nước Việt từ giờ về sau, nếu không có ai sống được năm trăm năm, các pháp thuật trị thủy không còn linh nghiệm nữa.

Đây là lời nguyền cực kỳ độc địa bởi thuật trị thủy là một thuật pháp cực kỳ quan trọng đến sự tồn vong của nước nhà. Thành ra từ bấy về sau, trên lãnh thổ nước ta, đê điều phải được đắp thủ công khắp nơi, mỗi năm tiêu tốn bao nhiêu tiền bạc, sức người mà lũ lụt vẫn còn là vấn nạn thực lớn lao. Sau này, trong truyền thuyết, Đào Lạp được gọi là Thủy Tinh, còn Phạm Tôn là Sơn Tinh, chính là câu chuyện Sơn Tinh Thủy Tinh mà ai cũng biết đó.

Quyết kinh hãi:

– Thì ra chuyện Sơn Tinh Thủy Tinh là có thật!

Cụ Tả Ao nói:

– Truyền thuyết, chính là sử đó con à...

Rồi cụ lại từ tốn nói:

– Lại nói đến Hùng Vương Duệ Vương là người hiền lành, thật thà, thấy Đào Lạp đã thua rồi, chỉ bắt giam lại mà thôi, rồi phong cho Phạm Tôn làm "đại Vu nhân". Nào ngờ An Dương Vương nước Ba Thục biết được chuyện này, bèn mua chuộc người, lén thả Đào Lạp ra. Vốn Đào Lạp làm đại Vu nhân được mấy chục năm, trong lòng từ lâu đã có ý cướp ngôi Hùng Vương, vậy nên thường xuyên dùng tiền bạc mua chuộc các Lạc Vu, Lạc Hầu, Lạc Tướng, nên thế lực của hắn vốn rất hùng mạnh, chỉ là chưa thấy cơ hội nên chưa tạo phản mà thôi. Khi Đào Lạp thoát ra liền liên lạc với các thuộc hạ cũ, dùng mưu, giết hại Phạm Tôn.

Phạm Tôn chết đi rồi, Thục Phán bấy giờ mới ngoài thì cùng với tù trưởng Nam Cương, Mường Một, Na Hang, Đại Man, Bản Ti[7] hội binh, trong thì Đào Lạp cùng một số lạc tướng, lạc hầu, lạc vu làm phản, khống chế được hơn nửa số Lạc Vu, trong ngoài hô ứng, chỉ trong chốc lát đã chiếm được Phong Châu.

Thục Phán chiếm được Văn Lang rồi, lấy hiệu là An Dương Vương, bèn đem các Lạc Vu theo Phạm Tôn chém cả, chỉ có một số ít người trốn được ra ngoài mà thôi. Những người này sợ bị trả thù bèn giấu kín thân phận Lạc Vu của mình, mai danh ẩn tích, sống như những người bình dị.

Lại nói An Dương Vương nhờ vào huyền thuật Văn Lang, chống lại được nước Tần hùng mạnh. Mãi đến nửa thế kỷ sau, cho đến khi Triệu Đà dùng mưu chiếm được Âu Lạc mới dứt thời đại của An Dương Vương. Triệu Đà đem giết tất cả những người Lạc Vu theo An Dương Vương, chấm dứt một thời đại huy hoàng của các Lạc Vu như là những người vệ quốc. Sau đó đất nước ta bị đặt dưới ách đô hộ của người phương Bắc.

Từ bấy trở đi, các vu nhân trốn được từ thời Phạm Tôn vẫn âm thầm tồn tại, những người này họp nhau lại, lập nên "trấn quốc hội".

Muốn biết mọi chuyện diễn biến ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.

[1] Cổ sử Việt Nam có nhiều điều chưa được rõ ràng, dưới đây chỉ xin nêu những điều đọc được, từ đó bịa đặt, thêu dệt nhằm mua vui, xin chớ xem đó là tài liệu tham khảo.

[2] Xin xem Lĩnh Nam chích quái – truyện mộc tinh

[3] Sách đã dẫn

[4] Xin trích ý nhà nghiên cứu phong thuỷ Ngô Nguyên Phi, ngoài ra có sửa đổi đôi chút – nguồn: Internet

[5] Thơ cụ Tả Ao

[6]Vùng Hà Bắc, Đông Anh ngày nay, theo "Cột đá thề" của Vũ Kim Biên.

[7]Các vùng thuộc Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, theo sđd.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro