ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN(Văn Tiến Dũng)c1-c5

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Văn Tiến Dũng

ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN

LỜI NÓI ĐẦU

Một năm đã qua kể từ ngày cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975 giành toàn thắng, đánh bại hoàn toàn chiến tranh xâm lược và ách thống trị thực dân mới của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam. Thời gian không làm phai nhạt mà chỉ càng làm rõ nét hơn chiến công vĩ đại của qaân và dân ta. Đại thắng Mùa Xuân đã được khắc sâu vào lịch sử bằng những chữ vàng chói lọi.

Chỉ trong 55 ngày đêm, với quyết tâm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với tốc độ "một ngày bằng 20 năm" với sức mạnh áp đảo cả về quân sự và chính trị tích luỹ từ nhiều năm, quân và dân ta đã giành toàn thắng bằng ba chiến dịch lớn: Chiến dịch giải phóng toàn bộ Tây Nguyên mở đầu bằng trận đánh Buôn Ma Thuột;

Chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng, quét sạch địch ở ven biển miền Trung và kết thúc là Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn - Gia Định để dẫn tới giải phóng các tỉnh còn lại của Nam Bộ. Hơn một triệu quân nguỵ và tất cả bộ máy nguỵ quyền bị đập tan, chế độ thực dân mới được Mỹ dốc sức xây dựng trong hai chục năm sụp đổ hoàn toàn.

Tôi có may mắn được là một trong nhiều đồng chí nhận chỉ thị của Bộ Chính trị Trung ương Đảng cử đi tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1915 với cương vị Đại diện Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh chỉ đạo trực tiếp trong Chiến dịch Tây Nguyên và Tư lệnh Bộ chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh.

Nhân dịp kỷ niệm lần thứ nhất ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, báo Nhân dân đề nghị tôi kể lại một số chuyện trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975 do đồng chí Hồng Hà ghi. Sau khi báo Nhân dân đăng loạt bài kể chuyện nói trên, nhiều bạn đọc và nhiều nhà xuất bản đề nghị cho in lại thành sách.

Mặc dù gặp khó khăn về thời gian, nhưng do yêu cầu cấp thiết của bạn đọc, tôi viết lại và bổ sung thêm tài liệu để thành cuốn Đại thắng Mùa Xuân này.

Một sự kiện lịch sử vĩ đại như Đại thắng Mùa Xuân không một cuốn sách riêng rẽ nào, không một đơn vị hoặc cá nhân nào có thể diễn tả lại được đầy đủ. Việc sưu tầm, nghiên cứu tài liệu, việc tổng kết kinh nghiệm đòi hỏi nhiều năm, có khi hàng chục năm. Vì thế cuốn Đại thắng Mùa Xuân chỉ là những nét phác thảo nhằm kịp thời giới thiệu với bạn đọc một số mẩu chuyện về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975 để thấy rõ sự chỉ đạo với tài thao lược, tính kiên quyết, tư tưởng cách mạng tiến công, tính độc lập tự chủ của tập thể Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, những cố gắng phi thường, những hy sinh to lớn của quân và dân ta trong cả nước.

Cuốn sách chủ yếu nhằm giới thiệu với bạn đọc những vấn đề thuộc về sự lãnh đạo sáng suốt của Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Quân uỷ Trung ương, sự đấu lực và đấu trí rất thông minh của Đảng ta, nhân dân ta, quân đội ta trong phạm vi chiến lược và chiến dịch để dẫn đến toàn thắng, không đi sâu vào các hoạt động, thành tích và trận chiến đấu cụ thể của các quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng, đơn vị, các địa phương và các tầng lớp nhân dân.

Cuốn sách không sao nói hết được những ý nghĩ, sự phân tích của tập thể Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương và tập thể cơ quan Bộ Tổng tư lệnh khi hạ quyết tâm chiến lược ở thời kỳ "nút" giải quyết cuộc chiến tranh theo nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Không sao nhớ hết, nói hết được những tính toán chiến lược của Đảng ta để đi đến tổ chức thực hiện trên các chiến trường một cách sáng tạo, táo bạo, khẩn trương quyết tâm của Bộ Chính trị để giành toàn thắng. Không sao nhớ hết, nói hết được những hành động anh hùng của hàng trăm nghìn chiến sĩ và cán bộ trong quân đội, của triệu triệu nhân dân ta từ Nam chí Bắc, sự đóng góp hết lòng, hết sức của các cơ quan Đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân dân đê làm nên thắng lợi tuyệt vời này. Đây là công việc của nhiều đồng chí, đồng bào, của nhiều đơn vị, địa phương, của nhiều cuốn sách, bài báo, tác phẩm nghệ thuật trong nhiều tháng tới và nhiều năm tới, tiếp tục cung cấp thêm nhiều tài liệu để giới thiệu Đại thắng Mùa Xuân, cuốn sách này còn nhằm kịp thời bác bỏ những luận điểm sai trái, phản động do những kẻ xuyên tạc lịch sử, những bọn cướp nước và bán nước thua trận đang dựng lên hòng bào chữa cho thất bại thảm hại của chúng và hạ thấp chiến thắng của dân tộc ta.

Do tầm cỡ vĩ đại của chiến thắng, một người không thể nhìn bao quát và do thời gian gấp rút, cuốn sách này không tránh khỏi có những thiếu sót, mong bạn đọc thân mến bổ sung và góp ý kiến.

Tháng 5 năm 1976

Đại tướng Văn Tiến Dũng

Chương 1

Bạo lực cách mạng

Mùa xuân năm 1974, sau Tết Giáp Dần, Hội nghị cán bộ quân sự cao cấp họp tại số nhà 33 phố Phạm Ngũ Lão - Hà Nội. Hội nghị có đủ đại biểu các chiến trường, các quân chủng, binh chủng, các quân đoàn, sư đoàn và đại biểu các cơ quan Bộ Tổng tư lệnh để thảo luận quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Đảng họp tháng 10 năm 1973 và phổ biến Nghị quyết tháng 3 năm 1974 của Quân uỷ Trung ương đã được Bộ Chính trị thông qua.

Đồng chí Lê Duẩn và đồng chí Lê Đức Thọ đến Hội nghị phổ biến Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21. Cũng trong dịp này, Quốc hội quyết định thăng quân hàm cấp tướng cho một số cán bộ cao cấp trong quân đội. Chủ tịch Tôn Đức Thắng đã đến thăm, động viên và chỉ thị nhiệm vụ cho các cán bộ cao cấp và cho toàn quân.

Mỗi cán bộ và chiến sĩ quân đội hết sức phấn khởi được Trung ương Đảng chỉ cho thấy đường đi và triển vọng tươi sáng của cách mạng. Những lời căn dặn của đồng chí Bí thư thứ nhất Trung ương Đảng, của Chủ tịch Tôn Đức Thắng tại Hội nghị là mệnh lệnh của Đảng và Nhà nước cho toàn quân tiến lên phía trước.

Hồi đó, Hiệp định Paris về Việt Nam ký đã được hơn một năm.

Theo Hiệp định, đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam, rút hết quân đội Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam, cam kết tôn trnng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, cam kết tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam, chấm dứt dính líu quân sự và can thỉệp vào nội bộ miền Nam Việt Nam, thừa nhận thực tế ở miền Nam Việt Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và ba lực lượng chính trị.

Đó là thắng lợi lớn của nhân dân ta, là thất bại lớn của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, là kết quả 18 năm đấu tranh kiên cường và bền bỉ của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta. Hiệp định Paris về Việt Nam đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta, mở ra cho cách mạng miền Nam Việt Nam một giai đoạn mới: giai đoạn hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất nước nhà. Đó là thời kỳ cuối của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nói chung và của chiến tranh cách mạng ở miền Nam nói riêng.

Đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai ra sức phá hoại Hiệp định Paris về Việt Nam một cách có kế hoạch và có hệ thống.

Tuy buộc phải ký Hiệp định, đế quốc Mỹ vẫn chưa chịu từ bỏ chính sách cơ bản của chúng ở Việt Nam là thực hiện "học thuyết Níchxơn", áp đặt chủ nghĩa thực dân mới kiểu Mỹ ở miền Nam, âm mưu chia cắt lâu dài nước ta. Để thực hiện ý đồ nham hiểm đó, ngay từ đầu, Mỹ chủ trương vừa ký Hiệp định, vừa giúp nguỵ quyền Sài Gòn tiếp tục chiến tranh điên cuồng phá hoại Hiệp định. Đế quốc Mỹ đã tiến hành ở miền Nam nước ta một cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới bằng nhiều biện pháp thâm độc.

Chúng tiếp tục viện trợ quân sự và kinh tế cho bọn nguỵ. Trước khi rút quân ra, Mỹ đã đưa vào miền Nam gần 700 máy bay các loại, 500 khẩu pháo, 400 xe tăng, xe bọc thép và rất nhiều tàu chiến, dự kiến đưa thêm một số lớn binh khí kỹ thuật, tăng dự trữ vật tư chiến tranh của quân nguỵ lên mức tương đối cao, gần 2 triệu tấn.

Hiệp định ký chưa ráo mực, Nguyễn Văn Thiệu đã hò hét "tràn ngập lãnh thổ", tập trung lực lượng thực hiện "Kế hoạch bình định ba năm 1973-1975", "Kế hoạch bình định sáu tháng từ tháng 3-1973 đến tháng 8-1973", "Kế hoạch quân sự Lý Thường Kiệt", "Kế hoạch xây dựng quân đội từ 1974 đến 1979" nhằm tiêu diệt lực lượng vũ trang và tổ chức cách mạng của ta ở miền Nam.

Địch khẩn trương củng cố và tăng cường xây dựng quân nguỵ, nhất là các quân chủng, binh chủng nhằm bảo đảm cho quân nguỵ đủ sức đối phó với quân chủ lực của ta trong mọi tình huống. Trong năm 1973, địch đã bắt khoảng 24 vạn lính, thu thập lại trên 13 vạn quân đào ngũ, rã ngũ và bị thương, đưa tổng quân số của chúng lên tranh cách mạng để giành thắng lợi hoàn toàn". Và "Cách mạng miền Nam phải nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công. Ta phải kiên quyết phản công và tiến công địch, giữ vững và phát huy thế chủ động về mọi mặt của ta".

Tinh thần của Nghị quyết 21 là: Địch không thi hành Hiệp định, tiếp tục chiến tranh Việt Nam hoá, thực chất là chiến tranh thực dân kiểu mới hòng chiếm lấy cả miền Nam, thì ta không có con đường nào khác là phải tiên hành chiến tranh cách mạng, tiêu diệt chúng, giải phóng miền Nam.

Hội nghị Quân uỷ Trung ương không những vạch rõ phương châm chung là "phản công và tiến công" mà còn nêu lên phương hướng vận dụng phương châm đó trong từng vùng và những phương thức hoạt động trên từng chiến trường. Hội nghị còn đề ra nhiệm vụ cho toàn quân: tích cực tiến hành công tác chính trị nhằm không ngừng nâng cao chất lượng chính trị toàn diện của các lực lượng vũ trang, tạo nên một sự chuyển biến mới mạnh mẽ, cả về tư tưởng, tổ chức, năng lực, tác phong trong mọi đơn vị, mọi cán bộ, chiến sĩ, nhất là nâng cao ý chí chiến đấu, tăng cường tổ chức kỷ luật, bảo đảm cho ba thứ quân hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ trong giai đoạn mới.

Nghị quyết của Quân uỷ Trung ương được Bộ Chính trị thông qua.

Sau khi có Nghị quyết của Quân uỷ Trung ương, Bộ Tổng Tham mưu cùng với Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần, bắt tay ngay vào việc nghiên cứu, lập những kế hoạch tác chiến chiến lược chung và kế hoạch tác chiến từng chiến trường; khẩn trương tổ chức và huấn luyện các binh đoàn chủ lực, các binh chủng kỹ thuật; vạch kế hoạch về các mặt công tác chuẩn bị và công tác bảo đảm; đồng thời chỉ đạo các chiến trường đẩy mạnh hoạt động thực hiện các đợt tiến công và nổi dậy, giữ vững và phát triển thế chủ động chiến lược, làm chuyển biến cục diện chiến trường, tạo điều kiện cho tiến công lớn, rộng khắp trong năm 1975.

Các địa phương và các đơn vị, từ Trị Thiên đến Tây Nam Bộ và vùng ven Sài Gòn - Gia Định, từ tháng 4 năm 1974 đến tháng 10 năm 1974 đều hoạt động mạnh lên, phản công và tiến công địch liên tục, giành thắng lợi ngày càng lớn, với nhịp độ nhanh. Nơi nào quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 21 và Nghị quyết Quân uỷ Trung ương, nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng và tư tưởng tiến công, thì nơi đó chẳng những phá được kế hoạch "bình định" của địch, giữ vững được vùng giải phóng của ta và các căn cứ trong vùng địch kiểm soát, mà còn mở rộng thêm được nhiều vùng giải phóng, dồn địch vào thế lúng túng, bị động đối phó.

Chúng tôi đặc biệt chú ý đến kết quả trận tiêu diệt quận lỵ Thượng Đức ở Khu 5. Đây là trận thử sức với lực lượng gọi là tinh nhuệ nhất của địch. Ta tiêu diệt địch ở chi khu quận lỵ Thượng Đức, địch đưa cả sư đoàn lính nhảy dù đến phản kích liên tục, dài ngày hòng chiếm lại, nhưng ta đã đánh cho chúng thiệt hại nặng, giữ vững Thượng Đức, buộc địch phải "bỏ cuộc".

Từ trận Thượng Đức này và các trận tiêu diệt quân chủ lực địch ở Chư Nghé, Đắc Pét trên Tây Nguyên, Bộ Tổng Tham mưu đi đến nhận định và báo cáo với Quân uỷ Trung ương: khả năng chiến đấu của bộ đội chủ lực cơ động của ta đã hơn hẳn quân chủ lực cơ động của địch. Chiến tranh đã bước vào giai đoạn cuối, so sánh lực lượng đã thay đổi, ta mạnh lên, địch yếu đi. Do đó ta có thể và cần phải chuyển từ đánh nhằm tiêu diệt sinh lực địch là chính, sang đánh chẳng những tiêu diệt địch mà còn nhằm giải phóng nhân dân và giữ đất, từ chỗ quân chủ lực ta lấy tiêu diệt quân chủ lực địch trên chiến trường rừng núi là chủ yếu, sang tiêu diệt địch và giải phóng nhân dân, giải phóng đất cả ở vùng giáp ranh, đồng bằng và thành phố. Muốn đánh tiêu diệt lớn và giữ vững các vùng mới giải phóng thì việc chỉ sử dụng các sư đoàn độc lập hoặc phối hợp không còn thích hợp nữa, mà cần có những binh đoàn cơ động, binh chủng hợp thành lớn hơn, làm quả đấm mạnh, được sử dụng vào những thời cơ quan trọng nhất, hoạt động trên những hướng chủ yếu, giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu nhằm tiêu diệt lớn quân chủ lực địch.

Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương nhất trí với nhận định này và chỉ thị cần xúc tiến tổ chức ngay các binh đoàn cơ động trực thuộc Bộ Tổng tư lệnh. Từ tháng 10 năm 1973 trở đi, lần lượt các quân đoàn được thành lập tập trung huấn luyện tác chiến hợp đồng binh chủng và bố trí trên các địa bàn chiến lược cơ động nhất. Việc xây dựng các quân đoàn có đủ các thành phần binh chủng kỹ thuật là một bước trưởng thành mới của quân đội ta, làm cho ta có khả năng tiến hành các chiến dịch hợp đồng binh chủng quy mô lớn gồm nhiều quân đoàn, sư đoàn, có sức đột kích lớn, cơ động cao, sức chiến đấu liên tục, có khả năng đánh tiêu diệt quân địch trong các chiến dịch có ý nghĩa chiến lược: Đi đôi với tổ chức lực lượng còn một việc cấp bách khác là biên chế và thay đổi trang bị cho quân đội được tốt và hiện đại hơn. Một khối lượng lớn hàng quân sự của ta như xe tăng, xe bọc thép, tên lửa, pháo tầm xa, pháo cao xạ mà đế quốc Mỹ định phá huỷ trong đợt 12 ngày đêm ném bom miền Bắc bằng máy bay B.52 không được, nay lần lượt được chuyển tới các chiến trường. Và lần đầu tiên pháo cơ giới tầm xa và những xe tăng tốt của ta đã vào tận những rừng cao su Nam Bộ. Đây là một bước trưởng thành lớn của quân đội ta, đồng thời cũng là bước chuẩn bị lực lượng tích cực nhất cho cuộc tổng tiến công sau này.

Có lực lượng lớn, có trang bị hiện đại chưa đủ, còn phải tổ chức chiến trường để có thể phát huy được hết sức mạnh của lực lượng lớn và trang bị hiện đại đó. Quy luật chiến tranh cách mạng là từ những đơn vị nhỏ ban đầu phát triển thành những binh đoàn lớn tác chiến hợp đồng binh chủng để tiêu diệt lớn lực lượng địch và cuối cùng phải đánh vào thành phố, đánh vào đầu não chính quyền địch, mới đánh gục được địch, giải phóng Tổ quốc. Và như vậy phải có đủ đường giao thông, phương tiện vận chuyển cơ giới mới có đủ lương thực, thực phẩm, đạn dược, vũ khí cho tiền tuyến.

Một vấn đề then chốt là phải có hệ thống đường cơ động tốt. Công trình xây dựng con đường chiến lược phía Đông Trường Sơn bắt đầu từ năm 1973, hoàn thành đầu năm 1975 được xúc tiến với nhịp độ hết sức khẩn trương nối hền từ đường số 9 (Quảng Trị) vào đến miền Đông Nam Bộ là công trình lao động của hơn 30.000 bộ đội và thanh niên xung phong, đưa tổng số chiều dài đường chiến lược và chiến dịch, cả cũ và mới, làm trong suốt cuộc chiến tranh lên hơn 20.000km. Nhà nước và nhân dân ta đã dồn sức dồn của rất lớn vào công trình này. Hàng nghìn xe máy các loại, hàng chục nghìn bộ đội, công nhân, kỹ sư, thanh niên xung phong và dân công vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ do khí hậu, thời tiết và bom đạn địch gây ra, ngày đêm phá núi san đèo, chuyển đá đắp đường, xây cống, dựng cầu, tạo ra một kỳ công rất tự hào ở phía Tây Tổ quốc. Đúng là "Đường ta rộng thênh thang tám thước", các xe vận tải cỡ lớn, các xe chiến đấu loại nặng chạy được hai chiều với tốc độ cao cả bốn mùa, đã ngày đêm hàm hở chuyển hàng trăm nghìn tấn vật chất các loại vào hệ thống kho tàng cho các chiến trường để bảo đảm đánh lớn.

Dọc theo đường chiến lược Đông Trường Sơn là hệ thống 5.000km đường ống dẫn dầu kéo dài từ Quảng Trị qua Tây Nguyên tới Lộc Ninh, vượt sông cả, suối sâu, núì cao, có ngọn hơn 1.000 mét, đủ sức tiếp dầu cho hàng chục nghìn xe các loại vào, ra trên đường.

Có thể nêu một hình ảnh đáng tự hào là trên vùng núi chót vót ở phía tây Tổ quốc, hơn 20.000km đường chiến lược từ Bắc chí Nam và đường chiến dịch từ Tây sang Đông như những chiếc thừng rất chắc đang từng ngày từng giờ luồn dần vào cổ, vào chân tay con quái vật, chờ khi có lệnh là siết chặt, kết liễu đời nó.

Đường dây thông tin hữu tuyến cũng đã kéo dài tới Lộc Ninh. Từ Hà Nội đã nói chuyện thẳng được với nhiều chiến trường.

Giữa lúc nhân dân miền Nam đẩy lùi địch hầu khắp mọi nơi để giành quyền làm chủ thì ở miền Bắc, từ các bản làng, khu phố, cơ quan, trường học, xí nghiệp, hàng chục nghìn thanh niên nô nức vào bộ đội, lên đường ra mặt trận theo tiếng gọi của Đảng và Tổ quốc.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Đảng và Nghị quyết Quân uỷ Trung ương cùng sự chỉ đạo đúng đắn, kịp thời của Bộ Chính trị đã làm chuyển biến cục, diện chiến trường có lợi cho ta và động viên được sức mạnh cả nước hướng ra tiền tuyến.

Chương 2

Thời cơ

Trong các tháng 7, 8, 9, 10 năm 1974, các cơ quan Bộ Tổng Tham mưu làm việc nhộn nhịp và căng thẳng. Các đồng chí trong Quân uỷ Trung ương và Bộ Chính trị hàng ngày theo dõi tình hình và chỉ đạo việc nghiên cứu dự thảo kế hoạch tác chiến chiến lược.

Lúc này, một luồng gió mát phấn chấn thổi qua toàn Đảng và toàn dân ta: Cách mạng miền Nam đang trỗi dậy sau Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Đảng và Nghị quyết của Quân uỷ Trung ương tháng 3 năm 1974.

Cục diện chiến trường đang chuyển biến có lợi cho ta. Quân và dân ta đã chủ động đưa thế và lực cách mạng tiến lên từng bước vững chắc, đã phản công và tiến công địch liên tục giành thắng lợi ngày càng lớn với nhịp độ nhanh.

Khu 9 nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, đánh bại các cuộc hành quân lấn chiếm của địch, xoá hẳn hơn 2.000 đồn bốt địch, giải phóng hơn 400 ấp với gần 800.000 dân. Khu 8 xoá hẳn hơn 800 đồn bốt địch, giải phóng thêm hơn 200 ấp với hơn 130.000 dân. Khu 7 duy trì thế tiến công địch, đánh bại cuộc hành quân giải toả của địch, giữ vững bàn đạp phía bắc Sài Gòn. Vùng ven Sài Gòn đẩy mạnh các mặt đấu tranh giữ vững các lõm giải phóng, đánh thiệt hại nặng quân địch phản kích. Khu 5 đã chuyển lên thế tiến công ngày càng mạnh, mở rộng bàn đạp vùng giáp ranh (Nông Sơn, Thượng Đức, Tuy Phước, Minh Long, Giá Vụt), đẩy mạnh đánh phá địch ở đồng bằng, xoá hẳn gần 800 đồn bốt, giải phóng 250 ấp với 200.000 dân. Ở Tây Nguyên, ta tiến công tiêu diệt và bức rút Đắc Pét, Chư Nghé, Măng Bút, Măng Đen, I-a-súp, mở rộng vùng giải phóng và hành lang chiến lược. Ở Trị Thiên, tiếp tục giam chân sư đoàn thuỷ quân lục chiến, sư đoàn cơ động chiến lược của nguỵ, áp sát vùng giáp ranh và đẩy mạnh chống "bình định" ở đồng bằng ngày càng có kết quả hơn.

Địch thì bị động, sa sút toàn diện. Kế hoạch "bình định" lấn chiếm của chúng bị đánh bại một bước quan trọng trên nhiều khu vực ở đồng bằng, nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long. Tinh thần và sức chiến đấu của quân nguỵ giảm sút rõ rệt: 170.000 tên đào ngũ, rã ngũ kể từ đầu năm. Tổng số quân của chúng giảm 20.000 tên so với năm 1973; số quân chiến đấu giảm xuống nhiều. Lực lượng cơ động chiến lược địch bị sa lầy (sư đoàn thuỷ quân lục chiến ở Trị Thiên, sư đoàn dù ở Thượng Đức). Mỹ giảm viện trợ làm cho kế hoạch tác chiến và xây dựng lực lượng của quân nguỵ không thực hiện được theo ý muốn của chúng. Trong tài khoá 1972-1973, Mỹ viện trợ cho nguỵ 1.614 triệu đôla về quân sự. Tài khoá 1973-1974 chỉ còn 1.026 triệu đôla và tài khoá 1974-1975 giảm xuống còn 700 triệu. Nguyễn Văn Thiệu phải kêu gọi quân của hắn chuyển sang tác chiến "kiểu con nhà nghèo": theo tài liệu của chúng thì chi viện hoả lực giảm sút gần 60% vì thiếu bom, đạn; sức cơ động cũng giảm 50% vì thiếu máy bay, thiếu xe, thiếu cả nhiên liệu. Tình trạng đó buộc chúng phải chuyển từ hành quân lớn, tiến công nhảy sâu bằng máy bay lên thẳng, xe tăng sang phòng ngự chốt, lấn dũi, lùng sục nhỏ.

Tóm lại, đặc điểm chủ yếu của tình hình miền Nam sau gần hai năm ta đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Paris là: mặc dầu quân Mỹ và quân chư hầu đã buộc phải rút khỏi miền Nam Việt Nam, nhưng ở đây vẫn đang diễn ra một cuộc chiến tranh cách mạng của ta chống chiến tranh thực dân mới của địch, kết hợp tiến công quân sự và đấu tranh chính trị. Nổi bật là cuộc đấu tranh đó diễn ra với quy mô ngày càng lớn mà ta thì ngày càng chủ động và mạnh lên, địch ngày càng bị động và yếu đi, tạo thêm một bước phát triển mới về so sánh lực lượng có lợi cho cách mạng.

Đi đôi với việc phát triển thế và lực trên chiến trường miền Nam, ta còn ra sức xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa vững mạnh về mọi mặt, từng bước khắc phục những hậu quả nghiêm trọng của hai cuộc chiến tranh phá hoại.

Về sản xuất đạt xấp xỉ mức năm 1965, đời sống nhân dân được ổn định. Trong hai năm 1973-1974, hàng chục vạn chiến sĩ đã được động viên ra tiền tuyến, công tác chuẩn bị, sẵn sàng chiến đấu, chủ yếu là từ Khu 4 cũ trở vào và trong quân chủng Phòng không - Không quân được tiến hành rất tích cực.

Tháng 10-1974, trời cuối thu bắt đầu lạnh, gợi cho các cán bộ quân sự chúng tôi nhớ đến mùa chiến dịch sắp đến. Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương họp nghe Bộ Tổng Tham mưu trình bày kế hoạch tác chiến chiến lược.

Cục tác chiến Bộ Tổng Tham mưu chuẩn bị khá đầy đủ mọi mặt tình hình địch và ta, diễn biến trên các chiến trường từ sau khi ký Hiệp định Paris bằng những bản đồ, biểu đồ, bảng so sánh các số liệu, treo khắp bốn bức tường trong phòng họp. Qua nghe báo cáo và thảo luận, hội nghị nhất trí đánh giá tình hình miền Nam gọn trong năm điểm:

Một là, quân nguỵ ngày càng suy yếu cả về quân sự chính trị, kinh tế. Lực lượng ta đã mạnh hơn địch ở miền Nam.

Hai là, Mỹ ngày càng gặp nhiều khó khăn trong nước và trên thế giới, khả năng viện trợ cho nguỵ ngày càng giảm bớt, cả về chính trị và kinh tế. Do đó, Mỹ chẳng những phải giảm bớt viện trợ cho nguỵ mà còn khó có khả năng nhảy vào lại miền Nam và dù chúng có can thiệp thế nào đi nữa cũng không thể cứu vãn được nguy cơ sụp đổ của nguỵ quyền Sài Gòn.

Ba là, ta đã tạo được một thế chiến lược liên hoàn từ Bắc vào Nam, đã tăng cường được lực lượng và dự trữ vật chất, đã hoàn chỉnh được hệ thống đường giao thông chiến lược và chiến dịch.

Bốn là, ở đô thị đã có phong trào đòi hoà bình, dân sinh, dân chủ, độc lập dân tộc, đòi lật đổ Thiệu.

Năm là, nhân dân thế giới đồng tình và ủng hộ mạnh mẽ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta.

Hội nghị lần này có một vấn đề được đặt ra và thảo luận sôi nổi: liệu Mỹ có khả năng đưa quân trở lại miền Nam khi ta đánh lớn dẫn đến nguy cơ sụp đổ của quân nguỵ không? Mọi người đều thấy rõ và rất chú ý là sau khi ký Hiệp định Paris về Việt Nam, buộc phải rút ra khỏi miền Nam Việt Nam, Mỹ lại càng khó khăn và bối rối hơn trước. Mâu thuẫn trong nội bộ chính quyền Mỹ và giữa các đảng phái ở Mỹ lại càng gay gắt thêm. Vụ bê bối Oatơghết giày vò cả nước Mỹ kéo theo sự từ chức của một tổng thống cực kỳ phản động: Níchxơn. Kinh tế Mỹ suy thoái, lạm phát tăng, nạn thất nghiệp trở nên trầm trọng, khủng hoảng nhiên liệu đang tiếp diễn. Những đồng minh của Mỹ cũng kèn cựa với Mỹ và các nước phụ thuộc vào Mỹ cũng tìm cánh quẫy ra khỏi sự khống chế của Mỹ. Viện trợ của Mỹ cho nguỵ quyền Sài Gòn theo hướng ngày càng giảm.

Đồng chí Lê Duẩn kết luận một nhận định quan trọng thành nghị quyết: "Mỹ đã rút ra khỏi miền Nam thì khó có khả năng nhảy vào lại miền Nam và dù chúng can thiệp đến thế nào đi nữa thì cũng không thể cứu vãn được nguy cơ sụp đổ của chính quyền Sài Gòn".

Khi thảo luận kế hoạch tác chiến chiến lược năm 1975, một vấn đề rất quan trọng nữa cũng được đặt ra là chọn chiến trường chủ yếu ở đâu? Trên toàn chiến trường miền Nam, địch bố trí lực lượng theo thế "mạnh ở hai đầu". Cụ thể là ở Quân khu 1 tiếp giáp với miền Bắc xã hội chủ nghĩa, địch có 5 sư đoàn chủ lực; ở Quân khu 3, trong đó có tuyến phòng thủ vòng ngoài bảo vệ Sài Gòn, địch có 3 sư đoàn chủ lực, nhưng chúng còn có thể sẵn sàng cơ động 1 đến 2 sư đoàn chủ lực trong số 3 sư đoàn ở Quân khu 4 về. Còn ở Quân khu 2, trong đó có Tây Nguyên, địch chỉ có 2 sư đoàn chủ lực, lại phải rải ra vừa giữ các tỉnh Tây Nguyên, vừa phải bảo vệ các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ từ Bình Định đến Bình Thuận. Nhưng Tây Nguyên là một chiến trường hết sức cơ động, có nhiều lợi thế để phát triển về phía nam theo đường số 14 hoặc xuống phía đông theo các đường số 19, 7, 21. Địa hình ở đây là cao nguyên, độ cao chênh lệch không đáng kể, tiện việc làm đường, các binh khí kỹ thuật cơ động thuận tiện, phát huy được hết sức mạnh. Tóm lại, đứng về mặt chiến lược, đây là một địa bàn hết sức quan trọng.

Hội nghị nhất trí thông qua phương án của Bộ Tổng Tham mưu, chọn chiến trường Tây Nguyên làm hướng chiến trường chủ yếu trong cuộc tiến công lớn và rộng khắp năm 1975.

Nhưng Bộ Chính trị thấy rằng, để đi đến quyết định cuối cùng về quyết tâm chiến lược, còn phải nghiên cứu tình hình kỹ hơn nữa, bổ sung cho kế hoạch tác chiến chiến lược đầy đủ hơn nữa. Đồng thời quyết định phải gấp rút đẩy mạnh nhiều mặt công tác để thực hiện quyết tâm.

Bộ Chính trị triệu tập các đồng chí lãnh đạo và chỉ huy các chiến trường ở miền Nam ra Hà Nội báo cáo tình hình và bàn kỹ để có sự nhất trí về quyết tâm chiến lược.

Đầu tháng 12 năm 1974, các đồng chí Phạm Hùng, uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Cục miền Nam, Thượng tướng Trần Văn Trà, Phan Văn Đáng, uỷ viên Trung ương Đảng ở Nam Bộ và các đồng chí Võ Chí Công, uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư khu uỷ Khu 5, Thượng tướng Chu Huy Mân ở Khu 5 lần lượt đến Hà Nội.

Bộ Chính trị làm việc riêng với các đồng chí phụ trách từng chiến trường, nghe báo cáo tình hình mọi mặt. Trong các ngày từ 3 đến 5-12-1974, Thường trực Quân uỷ Trung ương lần lượt nghe các đồng chí ở Nam Bộ và Khu 5 báo cáo về ý định và kế hoạch tác chiến".

Đây là những cuộc họp chuẩn bị cho Hội nghị hết sức quan trọng của Bộ Chính trị kéo dài từ ngày 18-12-1974 đến ngày 8-1-1975.

Dự Hội nghị, ngoài các đồng chí trong Bộ Chính trị, còn có các đồng chí lãnh đạo và chỉ huy các chiến trường, các đồng chí trong Quân uỷ Trung ương và các đồng chí Phó Tổng Tham mưu trưởng phụ trách tác chiến.

Tất cả các đồng chí trong Bộ Chính trị đều lần lượt phát biểu ý kiến và thảo luận rất kỹ. Cần nói rằng trong thời gian 20 ngày của Hội nghị, việc nhận định tình hình cũng như những ý kiến của Bộ Chính trị có sự phát triển từng tuẩn, ngày càng rõ nét những ý định chiến lược lớn lao và ngày càng thể hiện một quyết tâm sắt đá.

Giữa lúc Bộ Chính trị đang họp thì một tin vui lớn từ miền Nam đưa tới: bộ đội chủ lực của miền Đông Nam Bộ phối hợp với lực lượng của địa phương mở chiến dịch đường số 14-Phước Long giành thắng lợi lớn. Trong hơn 20 ngày ta đã diệt và bắt trên 3.000 tên địch, thu 3.000 súng các loại, giải phóng thị xã Phước Long và toàn tỉnh Phước Long. Đây là tỉnh đầu tiên ở miền Nam được hoàn toàn giải phóng.

Chiến dịch đường số 14-Phước Long thắng lớn có ý nghĩa hết sức quan trọng. Chiến thắng này đánh dấu một bước suy sụp mới của quân nguỵ. Quân chủ lực của chúng không còn đủ sức hành quân giải toả quy mô lớn để lấy lại các vùng, các căn cứ và thị xã quan trọng mà ta đã chiếm trên các địa bàn rừng núi và giáp ranh. Chiến thắng này còn cho thấy rõ hơn về đế quốc Mỹ trong ý đồ và khả năng can thiệp của chúng vào miền Nam Việt Nam. Điều quan trọng hơn cả là chiến dịch đường số 14-Phước Long thắng to đã nói lên những khả năng mới rất lớn của quân và dân ta. Chiến thắng đó củng cố thêm quyết tâm chiến lược được xác định trong Hội nghị Bộ Chính trị và bổ sung cho phương án giành thắng lợi lớn khi có thời cơ.

Lúc đầu Mỹ hùng hổ cho tàu chở máy bay chạy bằng năng lượng nguyên tử Intơpraidơ dẫn một lực lượng đặc biệt của hạm đội 7 từ Philíppin tiến về phía bờ biển Việt Nam; ra lệnh đặt sư đoàn 3 thuỷ quân lục chiến Mỹ ở Okinawa trong tình trạng báo động khẩn cấp. Bọn hiếu chiến ở Lầu năm góc doạ ném bom trở lại miền Bắc.

Nhưng rồi cuối cùng Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Slesinhgiơ buộc phải bỏ qua "sự kiện Phước Long" và tuyên bố: "Đây, chưa phải là một cuộc tiến công ồ ạt của miền Bắc Việt Nam". Hắn phớt lờ lời kêu gọi thảm thiết của Thiệu. Đại sứ, Mỹ Matin ở Sài Gòn nói với Thiệu: "Việc yểm hộ của Mỹ lúc này chưa được phép". Ngày nay Mỹ đã yếu thế đến mức không thể muốn làm gì thì làm.

Hội nghị Bộ Chính trị phân tích sự suy yếu củạ địch báo hiệu một thời cơ mới đang đến. Nhưng muốn tạo được thời cơ lớn phải có những trận đánh tiêu diệt lớn, rung động lớn, làm cho địch bị tiêu diệt và tan rã lớn.

Tình hình lúc này đối với ta vô cùng thuận lợi. Ở miền Nam có thể sẽ diễn ra một cuộc khủng hoảng đưa đến một thời cơ lớn cho ta. Nếu ta đánh mạnh nhất, gọn nhất, nhanh nhất, thì nhất định sẽ dẫn đến sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn sớm hơn ta dự kiến.

Ngày 8-1-1975, hai ngày sau chiến thắng Phước Long, đồng chí Lê Duẩn kết luận Hội nghị. Đồng chí nói:

"Hội nghị chúng ta rất phấn khởi, nhất trí cao. Lần này có các đồng chí ở Nam Bộ và Khu 5 ra dự. Tình hình đã sáng rõ. Chúng ta quyết tâm hoàn thành kế hoạch hai năm.

Hai năm là ngắn và cũng là dài. Cuộc chiến đấu ở miền Nam được thực lực mạnh ở miền Bắc dấy lên thành sức mạnh cả nước. Bây giờ quân Mỹ đã rút ra rồi, quân đội ta đã có sẵn ở trong Nam, quần chúng lại có khí thế. Đây là nội dung của thời cơ. Ta phải nắm vững và đẩy mạnh đấu tranh trên ba mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao, đó là đặc điểm Việt Nam.

Ở miền Nam ta có sức mạnh mới: giành thế chủ động trên chiến trường, tạo được thế liên hoàn từ Trị Thiên vào đến đồng bằng sông Cừu Long. Ta đã tạo được quả đấm mạnh. Ở Khu 8, Khu 9, quả đấm cũng đang hình thành và phát triển. Ta tạo được bàn đạp quanh đô thị; đô thị có phong trào quần chúng của ta, thế giới ủng hộ ta".

Sau khi phân tích tình thế suy yếu của địch, đồng chí

Lê Duẩn nói tiếp: "Ta phải giáng đòn chiến lược trong năm 1975. Ở Nam Bộ ta phải tạo thế liên hoàn trong toàn miền, áp sát vào Sài Gòn hơn nữa, tiêu diệt quân chủ lực địch nhiều hơn nữa, làm cho các địa phương có sức bung ra khi có thời cơ. Còn ở đồng bằng sông Cửu Long, ta phải áp sát vào Mỹ Tho hơn nữa. Chúng ta đồng ý năm nay mở đầu bằng đánh Tây Nguyên".

Đồng chí chỉ tấm bản đồ treo phía sau lưng nói:

"Cần đánh mở ra ở Buôn Ma Thuột và Tuy Hoà. Ở Khu 5 ta phải giải phóng từ Bình Định trở ra. Ở Trị Thiên, ta phải làm chủ từ Huế đến Đà Nẵng. Thắng lợi lớn như vậy thì làm cho so sánh lực lượng thay đổi lớn. Phải đánh liên tục đến mùa mưa, tạo ra những thắng lợi dồn dập. Ta đánh mạnh, địch có nguy cơ tan rã nhanh hơn. Đánh ở vòng ngoài đô thị thì ta phải đập tan quân chủ lực địch. Khi vào đô thị, ta phải đập nát đầu não của địch. Miền Bắc phải bảo đảm đầy đủ về vật chất và kỹ thuật cho bộ đội. Đây là nhân tố cơ bản để giành thắng lợi.

Bất cứ thời cơ nào ta cũng thắng. Phải xem có cách gì đánh nhanh hơn nữa. Bộ Tổng Tham mưu cần suy nghĩ nhiều hơn về vấn đề đó".

Hội nghị Bộ Chính trị (18-12-1974-8-1-1975) có ý nghĩa lịch sử, đánh giá đúng thực chất tình hình, nắm vững quy luật chiến tranh cách mạng, kịp thời phát hiện những nhân tố mới để hạ quyết tâm chiến lược chính xác.

Rõ ràng về cuối Hội nghị, Bộ Chính trị nhấn mạnh nhiều hơn đến việc cần phải đánh nhanh hơn. Đấy là một mong muốn có căn cứ khoa học sau khi đã phát hiện thời cơ và nắm lấy thời cơ, nếu bỏ lỡ thời cơ thì có tội đối với dân tộc.

Kết luận của đồng chí Lê Duẩn được Hội nghị nhất trí hoàn toàn và biến thành nghị quyết: Chưa bao giờ ta có điều kiện đẩy đủ về quân sự, chính trị như hiện nay, có thời cơ chiến lược to lớn thuận lợi như hiện nay để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc giữa lúc phong trào ba nước Đông Dương đang trên đà tiến công mạnh, giành thắng lợi ngày càng to lớn.

Bộ Chính trị nêu quyết tâm: Động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, trong thời gian 1975-1976 đẩy mạnh đấu tranh quân sự, chính trị, kết hợp với đấu tranh ngoại giao làm thay đổi nhanh chóng và toàn diện so sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam theo hướng có lợi cho ta, tiến hành rất khẩn trương và hoàn thành mọi mặt công tác chuẩn bị, tạo điều kiện chín muồi tiến hành Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa, tiêu diệt và làm tan rã nguỵ quân, đánh đổ nguỵ quyền từ trung ương đến địa phương, giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng miền Nam.

Bộ Chính trị còn nhấn mạnh: Ta vẫn đề phòng khả năng Mỹ có thể can thiệp bằng không quân, hải quân, trong trường hợp quân nguỵ có nguy cơ sụp đổ lớn và với điều kiện chúng có khả năng kéo dài sự chống đỡ. Nhưng dù Mỹ có can thiệp như thế nào ta cũng có đầy đủ quyết tâm và điều kiện để đánh thắng chúng và chúng không thể cứu vãn được nguy cơ sụp đổ của chính quyền Sài Gòn.

Quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị được thể hiện trong kế hoạch chiến lược hai năm 1975-1976: năm 1975, tranh thủ bất ngờ, tiến công lớn và rộng khắp, tạo điều kiện để năm 1976 tiến hành Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa, giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Ngoài kế hoạch chiến lược cơ bản hai năm, trong kế hoạch năm 1975, Bộ Chính trị còn dự kiến một phương án khác và một phương hướng hành động cực kỳ quan trọng là: nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975, thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975.

Chương 3

Chiến trường quan trọng

Hội nghị Bộ Chính trị vừa bế mạc thì hôm sau, ngày 9-1-1975, Thường trực Quân uỷ Trung ương họp, có mời thêm các đồng chí Võ Chí Công, Chu Huy Mân, Hoàng Minh Thảo, Lê Trọng Tấn để quán triệt và thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị.

Chúng tôi nghe báo cáo của Bộ Tổng Tham mưu về mục đích, yêu cầu của Chiến dịch Tây Nguyên. Đang họp thì được tin địch vẫn tiếp tục điều chỉnh sư đoàn dù để phòng thủ khu vực Đà Nẵng. Như thế là địch chưa phát hiện được lực lượng và chuẩn bị của ta ở Tây Nguyên.

Đến cuộc họp của Thường trực Quân uỷ, ý định đánh Buôn Ma Thuột mới thật sự rõ nét. Mọi người đều thấy ý nghĩa quan trọng của trận đánh vào thị xã này, nhưng cách đánh để thắng cho nhanh thì còn phải nghiên cứu thực tế tại chỗ mới đi tới quyết định được.

Cuộc họp vừa bắt đầu thì đồng chí Lê Đức Thọ bất ngờ mở cửa vào và ngồi họp với chúng tôi. Sau chúng tôi hiểu rằng Bộ Chính trị chưa thật yên tâm vì thấy ý định đánh Buôn Ma Thuột chưa được thể hiện rõ ràng trong kế hoạch tác chiến, cho nên đã cử đồng chí Lê Đức Thọ đến tham gia góp ý kiến với chúng tôi là nhất quyết phải đánh Buôn Ma Thuột. Đồng chí Lê Đức Thọ nói sôi nổi: "Phải đặt vấn đề dứt khoát là giải phóng Buôn Ma Thuột. Ta có gần 5 sư đoàn ở Tây Nguyên mà không đánh được Buôn Ma Thuột là thế nào?".

Đồng chí Võ Nguyên Giáp, Bí thư Quân uỷ Trung ương, kết luận xác định khu vực và mục tiêu tiến công, nhiệm vụ chiến dịch, hướng phát triển, sử dụng lực lượng, gợi ý về cách đánh, nhấn mạnh đến phương châm mạnh bạo, bí mật, bất ngờ, phải nghi binh rất nhiều để làm cho địch tập trung sự chú ý vào việc bảo vệ phía bắc Tây Nguyên.

Chiến dịch Tây Nguyên được mang mật danh "Chiến dịch 275".

Lúc này tại Mặt trận Tây Nguyên, đồng chí Thiếu tướng Vũ Lăng, Tư lệnh Mặt trận, cùng một số cán bộ bắt đầu lên đường đến vùng Buôn Ma Thuột nghiên cứu tình hình.

Theo đề nghị của đồng chí Lê Duẩn và đồng chí Lê Đức Thọ, Bộ Chính trị cử tôi vào chiến trường Tây Nguyên, thay mặt Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh để chỉ huy trực tiếp tại chỗ.

Cuộc họp lịch sử kết thúc, các đồng chí trong Bộ Chính trị lần lượt ôm hôn, bắt tay tôi và chúc lên đường mạnh khỏe giành thắng lợi lớn. Đối vôi một quân nhân cách mạng, được ra trận chiến đấu là một niềm vui lớn. Được đi thực hiện một nghị quyết quan trọng của Đảng mà mình đã hiểu rõ là một hạnh phúc và là một sự yên tâm lớn đối với tôi, giống như những lần đi Chiến dịch Đường số 9 mùa Xuân năm 1971 và Chiến dịch Xuân - Hè Quảng Trị năm 1972. Sau cuộc họp Bộ Chính trị với đại diện các chiến trường, tôi nói với đồng chí Trần Văn Trà: "Kỳ này vào đánh Tây Nguyên cho đến trước mùa mưa, đánh xong tôi sẽ vào Nam Bộ cùng với các đồng chí nghiên cứu chiến trường và chuẩn bị để đánh lớn trong mùa khô 1975-1976".

Toàn quân náo nức chuẩn bị ra trận. Ngày 26-1-1975, tôi cùng đồng chí Thiếu tướng Phùng Thế Tài, Phó Tổng Tham mưu trưởng, đến thăm Quân đoàn 1 đóng ở Ninh Bình để giao nhiệm vụ cụ thể năm 1975. Quân đoàn được thành lập đầu tiên gồm những đơn vị có nhiều truyền thống oanh liệt và chiến công vẻ vang trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ngày nay đã trở thành một lực lượng có sức chiến đấu cao, sức cơ động lớn, sức đột kích mạnh. Tôi nói chuyện động viên bộ đội: "Hoạt động của Quân đoàn phải theo sát, phải ăn khớp với hoạt động của chiến trường. Nhịp đập của Quân đoàn phải hoà với nhịp đập của miền Nam. Quả đấm mà Quân đoàn tung ra mạnh, ăn khớp, kịp thời với những quả đấm mạnh khác và nhằm đúng chỗ để làm cho địch phải "đo ván". Mong rằng tiếng trống xung trận của Quân đoàn phải rộn lên và tiếng kèn chiến thắng của Quân đoàn phải vang lên đĩnh đạc hoà đúng nhịp với bản hoà tấu của toàn quân và toàn dân. Vậy xin hỏi: "Các nhạc công có mặt ở đây có làm được không? Nếu các nhạc công đồng ý thì nhạc trưởng là Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh sẵn sàng nâng chiếc gậy của mình lên đúng lúc, đúng thời cơ".

Toàn thể hàng quân hô vang: "Làm được, làm được! Quyết thắng, quyết thắng!".

Lúc này tại Tây Nguyên ta đã có các sư đoàn 320, 10 và 968 là những sư đoàn có rất nhiều kinh nghiệm chiến đấu ở chiến trường rừng núi và Tây Nguyên. Cuối tháng 12 năm 1974, Bộ Tổng tư lệnh quyết định điều thêm Sư đoàn 316 vào Tây Nguyên. Đây là sư đoàn có truyền thống vẻ vang, chiến đấu từ 20 năm nay, từng đi nhiều và đi xa, đánh thắng trong kháng chiến chơng Pháp. Trong kháng chiến chống Mỹ và tay sai, sư đoàn đi làm nhiệm vụ quốc tế trong một thời gian dài. Trước ngày sư đoàn lên đường vào Tây Nguyên, tôi và đồng chí Thiếu tướng Đàm Quang Trung, Tư lệnh Quân khu 4 đến thăm và nói chuyện với sư đoàn lúc đó đang trú quân ở tây Nghệ An.

Tôi nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ sư đoàn sau khi phổ biến tình hình và quyết tâm của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương: "Có hai câu thơ luôn luôn nung nấu trong lòng mà trước đây tôi không nhớ tên tác giả, đã nói lên mối hận chung và chua xótmà mọi người Việt Nam cần phải thanh toán: "Đất nước 30 năm cầm súng mà vầng trăng còn xẻ làm đôi". Chiến trường, thời cơ, nhiệm vụ, lúc này chính là lúc chúng ta lên đường để cùng toàn dân đưa vầng trăng trở lại ngày rằm trọn vẹn. Kẻ địch mà chúng ta đã gặp có nhiều cái khác hơn kẻ địch các đồng chí đã gặp trước đây: ngoan cố, tinh ma, có nhiều kinh nghiệm hơn, vũ khí, trang bị nhiều hơn, thủ đoạn tác chiến xảo quyệt hơn. Nhưng vẫn là kẻ địch phi nghĩa có truyền thống bại trận, đang gặp khó khăn về mọi mặt, đang nghèo dần cả về tinh thần và vật chất, đang suy yếu cả về thế và lực. Không có lý gì mà Sư đoàn 316 không đánh thắng được bọn nguỵ đang trong cái thế suy yếu chung của chúng và giữa cái thế đang lên của cách mạng miền Nam".

Cán bộ, chiến sĩ sư đoàn giơ cao tay hô căng lồng ngực: "Quyết thắng, quyết thắng" và hứa: "Đi xa, đi cho đến, đánh cho thắng".

Theo quyết định của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, bộ phận đại diện của Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh tại Mặt trận Tây Nguyên được thành lập gồm có: tôi và các đồng chí Trung tướng Đinh Đức Thiện, chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền, Phó Tổng Tham mưu trưởng, cùng một số cán bộ có nhiều kinh nghiệm của cơ quan Bộ Tổng Tham mưu và các quân chủng, binh chủng.

Trong kháng chiến chống Pháp, đồng chí Đinh Đức Thiện đã có nhiều kinh nghiệm về tổ chức vận tải bảo đảm cho tiền tuyến, đặc biệt là trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Trong kháng chiến chống Mỹ, đồng chí đã chỉ đạo ngành hậu cần vượt mọi khó khăn, ác liệt, bảo đảm vận chuyển, đáp ứng mọi nhu cầu cho bộ đội đánh thắng chiến tranh phá hoại của địch ở miền Bắc và chi viện cho các chiến trường miền Nam, đặc biệt là bảo đảm thắng lợi cho Chiến dịch Đường 9 mùa Xuân năm 1971 và Chiến dịch giải phóng Quảng Trị năm 1972. Đồng chí là một cán bộ tích cực cách mạng, không bao giờ bàn lùi, vui tính, xông xáo, dám làm và biết làm ăn lớn, nhưng do tuổi đã ngoài "lục tuần" dễ xúc động, cho nên việc gì không hài lòng thường hay nổi nóng. Chúng tôi biết nhau và hiểu nhau từ ngày ở trong tù của thực dân Pháp, trước Cách mạng Tháng Tám. Tôi vỗ vai đồng chí Đinh Đức Thiện: "Thời cơ tới rồi, Bộ Chính trị đã phân công, làm trận này thắng lợi thì cái thân già này sau có nhắm mắt cũng yên tâm".

Đồng chí Lê Ngọc Hiền đã cùng chiến đấu với chúng tôi từ hồi mới Tổng khởi nghĩa ở Chiến khu 2 năm 1945 và ở Đại đoàn 320 (Đại đoàn Đồng bằng) đến cuối năm 1953. Đồng chí đã đi nhiều chiến trường đánh Mỹ rồi lại về Bộ Tổng Tham mưu.

Sau khi đã được hướng dẫn và nhận nhiệm vụ, đồng chí Lê Ngọc Hiền lên đường vào Tây Nguyên trước để nghiên cứu chiến trường và chuẩn bị kế hoạch tác chiến.

Các đồng chí cán bộ cơ quan Bộ Tổng Tham mưu và các quân chủng, binh chủng là những đồng chí đã cùng đi với tôi trong các chiến dịch năm 1971, năm 1972, là những cán bộ có kinh nghiệm công tác tham mưu binh chủng hợp thành, năng nổ, tháo vát. Được đi chiến dịch lần này, đồng chí nào cũng hớn hở, phấn chấn.

Đánh giặc, các cán bộ chỉ huy của ta đều theo những nguyên tắc chung. Nhưng mỗi người thường có một cách đánh riêng của mình. Tôi được Đảng cho đi học một lớp quân sự 15 ngày trước Cách mạng Tháng Tám và chỉ sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, tôi mới được đi học tại một học viện quân sự nước ngoài. Nhưng do được Đảng rèn luyện và được trưởng thành trong đấu tranh từ một đảng viên trong chi bộ độc lập thời bí mật, và đã từng chủ động hoạt động cách mạng suốt thời gian đứt liên lạc với Đảng, cho nên quá trình ấy tạo cho tôi tính độc lập và tính táo bạo.

Đầu năm 1952, làm Tư lệnh Đại đoàn 320, tôi cùng các đồng chí trong Bộ Tư lệnh tổ chức và thực hiện trận tập kích vào Phát Diệm, đưa bộ đội luồn qua các vị trí địch ở vòng ngoài trên một chặng đường dài 20km, bất ngờ đánh thẳng vào thị trấn, tiêu diệt đầu não chỉ huy địch, chiếm giữ thị trấn một ngày rồi mới đưa bộ đội trở ra tiêu diệt các vị trí địch ở vòng ngoài. Anh em gọi đấy là lối đánh "Nhảy dù" hoặc "Hoa sen nở".

Chúng tôi suy nghĩ nhiều về chiến trường sắp đến: Tây Nguyên, vùng đất nên thơ và kiên cường, bất khuất của tổ quốc trung thành đi theo Đảng, Bác Hồ và cách mạng từ những ngày chống Pháp, chống Mỹ đầu tiên, cống hiến tất cả cho sự thắng lợi của cách mạng. Tây Nguyên, quê hương của những trường ca bất hủ và của những anh hùng N Trang Lơng, Núp, liệt sỹ Vưu. Phải giải phóng Tây Nguyên và trước mắt là Buôn Ma Thuột, thị xã lớn nhất Tây Nguyên. Nhưng đánh Buôn Ma Thuột như thế nào để thắng nhanh nhất, gọn nhất, bất ngờ nhất. Chiến thắng Phước Long cho thấy năm 1975 ta có nhiều khả năng giải phóng thị xã và thành phố. Chắc chắn là các thị xã ở Tây Nguyên khó đánh hơn so với thị xã Phước Long.

Tây Nguyên hồi đó gồm 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Phú Bổn, Đắk Lắk và Quảng Đức, là một chiến trường rừng núi nối liền với vùng ven hiểm trở. Khi ta chuẩn bị đánh Tây Nguyên thì địch ở đây có một sư đoàn chủ lực, 7 liên đoàn biệt động quân (tương đương 10 trung đoàn) và 4 thiết đoàn xe tăng, thiết giáp. Chúng đã bố trí trong thế phòng ngự hoàn chỉnh. Nhưng do phán đoán sai ý định của ta, cho rằng nếu đánh Tây Nguyên ta sẽ đánh phía bắc, nên chúng tập trung lực lượng giữ lấy Pleiku, Kon Tum; ở nam Tây Nguyên, cụ thể là ở Đắk Lắk, chúng để lực lượng ít hơn. Thị xã Buôn Ma Thuột, tỉnh lỵ Đắk Lắk, với 150.000 dân là một trung tâm chính trị và kinh tế của địch, là nơi đóng sở chỉ huy của Sư đoàn 23. Ở đây địch cũng có sai lầm trong việc đánh giá ta. Chúng cho rằng, năm 1975 ta chưa đủ sức đánh thị xã lớn và thành phố, dù có đánh cũng không giữ được khi chúng phản kích lại. Vì vậy, tuy Buôn Ma Thuột là một vị trí xung yếu, nhưng trước khi ta đánh, địch bố trí lực lượng không mạnh lắm, có nhiều sơ hở, càng vào bên trong thị xã, lực lượng càng mỏng.

Giải phóng được Buôn Ma Thuột thì đập vỡ được hệ thống phòng ngự của địch ở Tây Nguyên, tạo ra một thế trận hiểm và cơ động có thể làm thay đổi nhanh cục diện chiến trường.

Khi quyết định về đánh Buôn Ma Thuột đã dứt khoát, tôi vội điện vào Tây Nguyên dặn đồng chí Lê Ngọc Hiền không cần ra Hà Nội để báo cáo nữa mà ở lại nghiên cứu thêm tình hình thị xã Buôn Ma Thuột rồi trở ra, đến Sở chỉ huy của đồng chí Đồng Sĩ Nguyên, Bộ Tư lệnh 559, tức là bộ đội Trường Sơn, gặp tôi trên đường vào Tây Nguyên.

Tôi đến chào đồng chí Trường Chinh trước khi lên đường. Đồng chí hỏi thăm tình hình bộ đội, công việc chuẩn bị và chúc ra đi mang thắng lợi về.

Những lời dặn dò công việc chỉ đạo chiến dịch của đồng chí lúc chia tay nhắc tôi quán triệt đầy đủ nội dung những ý kiến sâu sắc mà đồng chí đã phát biểu trong cuộc họp của Bộ Chính trị. Tôi nhớ lại lời khẳng định và dự kiến sáng suốt của đồng chí về chiều hướng phát triển tất yếu của cuộc chiến tranh cách mạng. Đồng chí Trường Chinh nói: "Phải có những đòn tiêu diệt chiến lược lớn như Điện Biên Phủ, và cũng chỉ cần vài ba đòn như vậy, kẻ địch sẽ sụp đổ ngay. Phải nắm chắc quyền chủ động, đánh vào những chỗ buộc địch phải đỡ, khi đỡ thì chúng sẽ rơi vào cạm bẫy của ta".

Đồng chí Lê Đức Thọ gặp tôi, bắt tay và nói: "Trận đánh lớn này mà ta thắng thì nhất định sẽ tạo ra một thế mới rất lợi cho ta. Cậu chú ý giữ sức khỏe".

Một ngày cuối tháng 1-1975, tôi đến chào đồng chí Lê Duẩn. Đồng chí nhắc lại tầm quan trọng của trận đánh Buôn Ma Thuột và của cả Tây Nguyên là để tạo ra thời cơ mới, rồi hỏi tôi:

- Lực lượng đã đủ chưa?

Tôi đáp:

- Quân của ta như vậy là được, biết dùng thì tạo ra được ưu thế.

Đồng chí hỏi lại:

- Có cần đưa thêm lực lượng vào nữa không?

Những lần tôi đi chiến dịch mấy năm trước cũng thế, đồng chí Lê Duẩn thường chú ý hỏi việc chuẩn bị lực lượng còn thiếu những gì, cần Trung ương giúp những gì.

Đồng chí Lê Duẩn dặn thêm:

- Nên suy nghĩ nhiều và có cách đánh đúng. Chiến trường Tây Nguyên có thể làm ăn to được, đánh thắng có thể dẫn đến khả năng ta dự kiến là trong năm nay giải phóng miền Nam.

Tôi lần lượt đi thăm và bắt tay tạm biệt các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Song Hào, Hoàng Văn Thái, Lê Quang Đạo trong Quân uỷ Trung ương. Ý đã đồng, tâm đã nhất, chúng tôi không nói nhiều với nhau lúc chia tay, nhưng người đi chiến trường và người ở nhà đều tâm đắc một điều là lần này nhất định phải tạo nên một biến chuyển khác hẳn những chiến dịch trước.

Chương 4

Đường ra trận

Chúng tôi vào Mặt trận Tây Nguyên, mang bí danh: "Đoàn A.75".

Theo quy định, khi giao dịch, thông tin liên lạc và thảo luận với nhau trong chiến dịch này, đồng chí Võ Nguyên Giáp mang bí danh Chiến, còn tôi mang bí danh Tuấn.

Năm nào cũng vậy, cứ vào những ngày giáp Tết, tôi lại chuẩn bị một ít quà nhỏ và thư chúc mừng năm mới gửi đến các gia đình cơ sở cách mạng đã giúp đỡ tôi trong những năm hoạt động bí mật trước đây. Lần này tôi cũng chuẩn bị sẵn quà và thư chúc Tết như thế để khi tôi lên đường rồi, người nhà gửi đi như thường lệ.

Tôi ký sẵn các bức điện mừng nhân ngày kỷ niệm thành lập Quân đội Liên Xô và Cộng hoà dân chủ Đức tháng 2, và Quân đội Mông Cổ tháng 3 năm 1975 để đúng ngày gửi đi.

Sáng ngày 5-2-1975, tức là ngày 25 Tết âm lịch, chúng tôi sang sân bay Gia Lâm để đáp máy bay vào Đồng Hới. Ra tiễn chúng tôi chỉ có các đồng chí Thiếu tướng Phùng Thế Tài, Phó Tổng Tham mưu trưởng và Thiếu tướng Lê Văn Tri, Tư lệnh bộ đội Phòng không - Không quân.

Đúng 10 giờ rưỡi sáng, chiếc máy bay AN 24 cất cánh.

Hà Nội rợp hoa chuẩn bị đón xuân. Hà Nội, trái tim của cả nước, nơi phát ra quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị, Hà Nội anh hùng và mến yêu hôm nay đẹp vô cùng. Trên máy bay chúng tôi nhớ đến lời dặn của các đồng chí trong Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, nghĩ đến trách nhiệm lớn lao của Đảng giao phó và đến cách đánh sắp tới của ta ở Tây Nguyên như đồng chí Lê Duẩn đã dặn: "Nên suy nghĩ nhiều và có cách đánh đúng".

Đi vào chiến dịch này, ở đâu cũng thế, từ cán bộ lãnh đạo đến từng chiến sĩ, ai cũng lạc quan và sôi nổi khí thế lập công. Chúng tôi nóng ruột muốn tới chiến trường ngay trong ngày để hoàn chỉnh cách đánh đang ấp ủ và chăm chú theo dõi từng hành động của địch.

Theo tin tình báo của ta, trong hai ngày 9 và 10-12-1974, trong "Dinh Độc lập", Thiệu họp với bọn tư lệnh các quân đoàn, quân khu nguỵ để phán đoán hoạt động của ta trong năm 1975. Bọn chúng nhận định:

- Trong năm 1975, ta có thể đánh với quy mô lớn hơn năm 1974 nhưng không như năm 1968 và không bằng năm 1972. Ta chưa có khả năng đánh thị xã lớn hoặc thành phố, dù có đánh cũng không giữ được. Ta chỉ có thể đánh loại thị xã nhỏ và cô lập như Phước Long, Gia Nghĩa.

Yêu cầu chủ yếu của ta năm 1975 là giành 2 triệu dân ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và mở rộng vùng giải phóng ở miền núi. Mục đích của ta là giành thắng lợi để thúc ép chúng thi hành Hiệp định Paris về Việt Nam.

Chúng cho rằng đầu năm 1975, phương hướng tiến công của ta là đánh Quân khu 3, chủ yếu là Tây Ninh, nhằm lấy Tây Ninh làm thủ đô của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam. Về thời gian tiến công, địch phán đoán ta sẽ đánh trước hoặc sau Tết cho đến tháng 6-1975, tới lúc đó là mùa mưa thì dừng lại nghỉ. Do nhận định về ta như thế, Thiệu ra lệnh cho bọn tướng nguỵ ráo riết đánh ta trước để phá vỡ kế hoạch chuẩn bị của ta. Trần Thiện Khiêm, thủ tướng nguỵ, họp với các trưởng quân khu, trưởng tiểu khu để mở chiến dịch "bình định cấp tốc lập tức", trong 3 tháng, kể từ ngày 1-1-1975, để "ngăn chặn Chiến dịch Đông Xuân của Việt cộng". Do nhận định như vậy, chúng không thay đổi thế bố trí chiến lược mạnh hai đầu (Quân khu 1 và Quân khu 3) và chúng cũng chưa có sự tăng cường lực lượng gì lớn ở Quân khu 2, trong đó có Tây Nguyên.

Đầu năm 1975, chúng có 1.351.000 quân, trong đó có 495.000 quân chủ lực, 475.000 quân địa phương, 381.000 quân "phòng vệ dân sự" có vũ trang, gồm 13 sư đoàn chủ lực, 18 liên đoàn biệt động quân. Chúng bố trí lực lượng như sau:

Ở Quân khu 1, chúng để 5 sư đoàn chủ lực (trong đó có 2 sư đoàn tổng dự bị) và 4 liên đoàn biệt động quân, 21 tiểu đoàn và một số đại đội, trung đội pháo gồm 418 khẩu, 5 thiết đoàn và 6 chi đội xe tăng, thiết giáp gồm 449 xe, 1 sư đoàn không quân trong đó có 96 máy bay chiến đấu. Phần lớn lực lượng quân chủ lực địch giữ Huế và Đà Nẵng.

Ở Quân khu 2, chúng để 2 sư đoàn chủ lực và 7 liên đoàn biệt động quân, 14 tiểu đoàn và một số đại đội, trung đội pháo gồm 382 khẩu, 5 thiết đoàn và 13 chi đội xe tăng, thiết giáp gồm 477 xe, 2 sư đoàn không quân, trong đó có 138 máy bay chiến đấu. Phần lớn quân chủ lực địch rải ra giữ Tây Nguyên, đồng bằng và ven biển.

Ở Quân khu 3, chúng để 3 sư đoàn chủ lực và 7 liên đoàn biệt động quân, 14 tiểu đoàn và một số đại đội, trung đội pháo gồm 376 khẩu, 7 thiết đoàn và 15 chi đội xe tăng, thiết giáp gồm 655 xe, 2 sư đoàn không quân, trong đó có hơn 250 máy bay chiến đấu. Toàn bộ quân chủ lực địch triển khai theo hình vòng cung từ tây bắc, bắc và đông bắc bảo vệ thành phố Sài Gòn từ xa trên dưới 50km.

Ở Quân khu 4, chúng để 3 sư đoàn chủ lực, 18 liên đoàn bảo an, 15 tiểu đoàn và 55 đại đội pháo gồm 380 khẩu, 5 thiết đoàn và 17 chi đữi thiết giáp gồm 493 xe, 1 sư đoàn không quân, trong đó có 72 máy bay chiến đấu, 580 tàu, xuồng các loại. Quân chủ lực địch giữ khu vực Cẩn Thơ, Chương Thiện, đường số 4 và tuyến biên giới.

Thế địch đã suy yếu, chúng lại phạm sai lầm lớn về chiến lược trong việc đánh giá ta, dẫn tới những kế hoạch bố trí lực lượng sai và chủ trương tác chiến sai, báo hiệu một thất bại lớn đang đến với chúng.

Máy bay đỗ xuống Đồng Hới, đồng chí Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên cùng một đoàn xe của Bộ Tư lệnh 559 từ Quảng Trị ra, đã chờ đón chúng tôi ở sân bay.

Chúng tôi lên xe vào Quảng Trị. Đường qua Lệ Thuỷ, Hồ Xá gồ ghề do nhiều năm địch đánh phá dữ dội cho nên xe chạy xóc nhiều, nhưng đây cũng là một trong những đoạn đường kiên cường, anh hùng trên đất nước ta góp phần vào việc chi viện cho miền Nam đánh thắng.

Tới sông Bến Hải, chúng tôi xuống thuyền gắn máy chạy ngược sông. Trời nắng nhưng mát một cách lạ lùng.

Xế chiều, chúng tôi đổ bộ lên một bến phía nam sông để đi vào Sở chỉ huy Bộ Tư lệnh 559, ở phía tây Gio Linh.

Bộ đội 559, như tên gọi của nó, ra đời tháng 5-1959, thuộc Tổng cục Hậu cần. Bộ đội 559 cũng như ngành Hậu cần của quân đội ta là lịch sử của một quá trình xây dựng, chiến đấu và phát triển, là sự thể hiện tư tưởng cách mạng tiến công, quan điểm bạo lực cách mạng, sự nhìn xa thấy trước để phục vụ chiến đấu. Tất cả những gì mà bộ đội 559 đã làm đều là những kỳ công.

Đồng chí Trần Đăng Ninh, uỷ viên Trung ương Đảng, một chiến sĩ cách mạng kiên cường đã hai lần vượt khỏi nhà tù của thực dân Pháp, là người có công lớn xây dựng ngành Hậu cần của quân đội ta từ những năm 1950 trở đi trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Nếu đồng chí còn sống thì sẽ rất mừng được thấy lực lượng hậu cần hùng mạnh của quân đội ta hôm nay mà ngày trước đồng chí từng mong ước.

Lúc này hơn 10.000 xe tải lên mặt đường, bao gồm một số xe của các quân khu, các địa phương và của Bộ Giao thông vận tải điều tới tăng cường. Như một người nội trợ đảm đang, ngành Hậu cần vừa phục vụ kế hoạch hàng năm của quân đội, vừa tần tảo, chắt chiu dự trữ lực lượng từng ngày, từng tháng trên toàn chiến trường miền Nam để chờ thời cơ lớn đến, vừa làm nhiệm vụ đối với bộ đội trong nước, vừa làm nghĩa vụ quốc tế đối với các nước anh em. Và một điều hết sức phấn khởi là thấy các chiến sĩ ta đi vào chiến dịch bằng cơ giới, ngoài mặt trận ăn uống no đủ, ngay đến lương khô của ta như loại A72 cũng khá là ngon.

Cũng từ chiến dịch này, các chiến sĩ ngoài mặt trận đã nhận được một số súng lớn và đạn lớn do công nhân quốc phòng của ta sản xuất trong nước bắt đầu từ năm 1973.

Đây cũng là bước đầu của cuộc cách mạng kỹ thuật trong ngành công nghiệp quốc phòng.

Càng đi ra mặt trận, càng thấy sức mạnh to lớn của hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Hậu phương là một trong những nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của chiến tranh. Nhân dân anh hùng của hậu phương anh hùng, chịu đựng hy sinh và gian khổ làm tất cả mọi việc, gửi ra mọi thứ cần thiết để phục vụ tiền tuyến, kể cả những người chồng, những người con yêu quý nhất của mình.

Khi đến Sở chỉ huy của Bộ Tư lệnh 559, chúng tôi đã thấy đồng chí Lê Ngọc Hiền vừa từ Tây Nguyên đi xe hơi ra theo như đã hẹn.

Trong căn nhà mái tranh, đêm xuống từ lâu, nhưng chúng tôi chưa ngủ được vì những suy nghĩ về chiến dịch sắp đến. Làm thế nào để thực hiện bằng được quyết tâm của Bộ Chính trị về giải phồng miền Nam. Giành thắng lợi ở Tây Nguyên, đặc biệt đánh Buôn Ma Thuột bằng cách nào? đánh như thế nào để địch phải sụp đổ nhanh chóng?

Tôi nhớ đến kiểu đánh truyền thống của dân tộc ta, kiểu đánh độc đáo của quân đội ta hơn 30 năm qua. Kiểu đánh quen thuộc của tôi cũng lại trở lại trong óc. Bất ngờ và bất ngờ đối với địch, đánh như sét giáng, đập nát ngay đầu não chỉ huy của chúng. Nhưng thực tế có cho phép không?

Sáng hôm sau, chúng tôi dậy sớm làm việc. Đồng chí Lê Ngọc Hiền báo cáo tình hình Mặt trận Tây Nguyên và dự kiến kế hoạch tác chiến. Các đồng chí Đinh Đức Thiện và Đồng Sĩ Nguyên báo cáo tình hình chuẩn bị của Hậu cẩn, cho biết đã đưa vào mặt trận đầy đủ mọi thứ phục vụ chiến đấu, đề nghị đã đánh là đánh lớn, cần bao nhiêu gạo, đạn, xăng và xe để chở quân, cũng có đủ. Điều đó làm chúng tôi rất yên tâm. Đối với Hậu cần, đánh to, đánh thắng lớn, thắng nhanh thì càng giảm bớt mức tiếp tế mà lại còn lấy được những phương tiện vật chất, kỹ thuật của địch để bổ sung cho ta.

Ngay hôm sau, đồng chí Đinh Đức Thiện quay lại Quảng Bình đôn đốc việc dồn kho đạn ở đây ra mặt trận bổ sung cho Tây Nguyên, chỉ đạo việc lấy loại đạn nào trước, loại đạn nào sau, còn chúng tôi tiếp tục đi vào phía trong. Biển số xe chúng tôi được sơn lại, thêm chữ TS và con số 50, có nghĩa là xe được quyền ưu tiên số 1 của bộ đội Trường Sơn. Đồng chí Đại tá Phan Khắc Hy, Phó Tư lệnh 559, được phân công đi cùng với đoàn, phòng những trắc trở dọc đường để bảo đảm cho chúng tôi sớm vào tới Sở chỉ huy Mặt trận Tây Nguyên.

Trên đường chiến lược, các chiến sĩ ta tấp nập làm đường, chữa đường. Các cô thanh niên xung phong vừa lao động vừa hát, vừa cười nói ríu rít, vẫy theo xe:

- Thủ trưởng ơi, gần Tết rồi mà chúng em chưa nhận được thư nhà.

Chúng tôi tặng các cô mấy trăm chiếc cặp tóc để chia nhau làm quà.

Từng đoàn xe lớn sau khi chở đạn vào mặt trận quay ra Bắc, chạy rầm rập trên đường. Anh em lái xe với tay ra ngoài buồng lái:

- Thủ trưởng ơi, 30 Tết rồi mà anh em không còn một điếu thuốc hút.

Chúng tôi tặng anh em lái xe một số thuốc lá để làm quà Tết.

Giữa đường, chúng tôi gặp Sư đoàn 316 đang hành quân. Lần đầu tiên toàn Sư đoàn hành quân bằng cơ giới ra mặt trận trên 500 chiếc xe lớn. Sư đoàn được lệnh từ khi lên đường đến lúc nổ súng, tuyệt đối không được mở máy thông tin liên lạc để giữ bí mật. Ta bắt được điện của địch đang gọi nhau kêu mất hút Sư đoàn 316, không biết Sư đoàn này đang di chuyển đi đâu. Chiến sĩ ta ngồi trên xe sung sức, khỏe mạnh, tươi vui, vẫy mũ, vẫy tay, reo hát trong tiếng gầm của xe tăng, xe bọc thép, xe kéo pháo tầm xa, kéo pháo cao xạ, xe tải các loại nối đuôi nhau thành dãy dài vô tận như một dòng thác lớn chảy ra tiền tuyến.

Chương 5

Cài thế

Tối 30 Tết, chúng tôi nghỉ lại ở Sở chỉ huy Sư đoàn Công binh 470 đóng tại I-a Đrăng. Vài ngày trước, máy bay A.37 của địch ném bom gần chỗ này làm cháy hai xe của ta. Cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn bộ vẫn đón Tết đàng hoàng. Khắp nơi trong cơ quan dùng đèn điện có chụp phòng không. Sáng Mồng một Tết, chúng tôi vui Tết và chúc nhau Năm mới lập chiến công mới. Vào tới Tây Nguyên, chúng tôi lập Sở chỉ huy ở phía tây Buôn Ma Thuột, gần Sở chỉ huy của Bộ Tư lệnh Mặt trận. Chỗ chúng tôi ở là rừng xanh, cạnh một rừng khoọc, lá khô rụng, phủ mặt đất như một thảm vàng. Mỗi lần có người đi giẫm lên, lá dưới chân như tấm bánh đa giòn vỡ làm cả một khoảng rừng xào xạc. Ở đây chỉ một tàn lửa nhỏ có thể gây cháy rừng. Vất vả nhất là các chiến sĩ thông tin.

Mỗi lần cháy, dây thông tin đứt, anh em đi chữa về người đen nhẻm như vừa ở hầm than ra. Lại còn nạn voi đi từng đàn 40-50 con kéo đứt các mạng dây thông tin mắc đã khá cao vắt qua các cây.

Trong cuộc họp với các đồng chí phụ trách Mặt trận, thay mặt Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, theo quyết định, tôi tuyên bố việc thành lập Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên gồm các đồng chí:

Trung tướng Hoàng Minh Thảo, Tư lệnh.

Đại tá Nguyễn Hiệp (Đặng Vũ Hiệp), Chính uỷ.

Thiếu tướng Vũ Lăng và các đại tá Phan Hàm, Nguyễn Lang, Nguyễn Năng, Phó tư lệnh.

Đại tá Phí Triệu Hàm, Phó Chính uỷ.

Chúng tôi điểm lại tình hình mặt trận. Cho đến lúc này, quân chủ lực địch ở Tây Nguyên vẫn gồm có 1 sư đoàn và 7 liên đoàn biệt động quân (tương đương 10 trung đoàn), 4 thiết đoàn, 8 tiểu đoàn pháo và 1 sư đoàn không quân, tập trung giữ bắc Tây Nguyên là chính. Ở bắc Tây Nguyên, chúng để 8 trung đoàn bộ binh, 4 thiết đoàn, còn ở nam Tây Nguyên chúng chỉ để có 2 trung đoàn bộ binh.

Chúng bố trí như thế vì tên Thiếu tướng nguỵ Phạm Văn Phú, chỉ huy Quân khu 2 và Quân đoàn 2, nhận định như sau: nhất định Pleiku sẽ bị đánh vì nó là địa đầu quan trọng nhất của Tây Nguyên, ở đó có Sở chỉ huy Quân đoàn, là bàn đạp thuận tiện để đánh xuống Bình Định, hơn nữa lại gần đường hành lang tiếp tế, gần các căn cứ phía sau của Quân giải phóng. Tên Phú thường bị ám ảnh bởi câu: "Ai làm chủ Tây Nguyên sẽ làm chủ cả miền Nam" và hắn cho rằng đòn quyết định của Quân giải phóng ở Tây Nguyên phải là Pleiku - Kon Tum. Mất Pleiku - Kon Tum thì Buôn Ma Thuột cũng mất.

Tuy địch ở Tây Nguyên phải căng ra phòng giữ nhiều mục tiêu, lực lượng cơ động của chúng trong quân khu có hạn, nhưng chúng vẫn có thể huy động một lực lượng nhất định để đối phó với ta bằng cách điều thêm ở Quân khu 1 và Quân khu 3 đến, nếu ở những chiến trường đó ta không thực hiện được đánh phối hợp chặt chẽ với Tây Nguyên hoặc những điều kiện tăng viện của địch để giữ Tây Nguyên vẫn còn. Chúng rất tin vào khả năng cơ động bằng đường không.

Lực lượng ta tham gia chiến dịch gồm các đơn vị chủ lực của Tây Nguyên, của Bộ Tổng tư lệnh, và của Quân khu 5, được chuẩn bị tương đối tốt, có quyết tâm cao và khí thế sôi nổi, được bổ sung quân số tương đối đầy đủ: Nhiều đơn vị quen thuộc chiến trường và có nhiều kinh nghiệm chiến đấu. Hệ thống đường sá phục vụ việc cơ động trong chiến dịch đã làm xong, bộ đội được tiếp tế về vật chất tương đối tốt, sở chỉ huy các cấp đã lập xong và ổn định. So sánh với địch trên toàn bộ khu vực chiến dịch thì về bộ binh ta không hơn địch nhiều, nhưng, do ta tập trung phần lớn lực lượng trên khu vực chủ yếu của chiến dịch, cho nên trên khu vực này ta đã có được ưu thế so với địch. Về bộ binh, ta 5,5, địch chỉ có l; về xe tăng, xe bọc thép, ta 1,2, địch có 1; về pháo lớn, ta 2,1, địch 1. Tuy nhiên, bộ đội ta vẫn còn một số nhược điểm như trình độ tác chiến tập trung chưa đều, còn ít kinh nghiệm đánh thành phố và tác chiến hợp đồng binh chủng quy mô lớn cũng còn mới đối với một vài binh đoàn.

Khi chúng tôi bàn ở Bộ Tư lệnh Mặt trận, mọi người nhanh chóng thống nhất ý kiến về nhiệm vụ và mục tiêu chủ yéu của chiến dịch, nhưng về cách đánh thì mất nhiều thời giờ thảo luận hơn, cuối cùng nhất trí và có những sự phát triển mới. Trong cuộc Tổng công kích Tết Mậu Thân năm 1968, ta chủ yếu sử dụng lực lượng tinh nhuệ đánh vào tất cả các thành phố và thị xã trong điều kiện so sánh lực lượng quân sự chúng ta còn kém hơn địch, do đó ta không giữ trọn được thành phố, thị xã nào. Năm 1972, ta tiến công trong một tháng tiêụ diệt Sư đoàn 3 nguỵ, giải phóng toàn bộ tỉnh Quảng Trị đúng vào ngày 1 tháng 5.

Sau đó, vào mùa mưa, các chiến trường của ta trên toàn miền Nam giảm hoạt động, địch tập trung các sư đoàn dù, thuỷ quân lục chiến và một số đơn vị khác phản kích với sự chi viện của không quân và hải quân Mỹ để chiếm lại Quảng Trị.

Sau những đợt đánh bại liên tiếp các cuộc phản kích của địch và qua 86 ngày đêm chiến đấu bảo vệ Thành cổ và thị xã, cuối cùng ta chỉ giữ được phía bắc sông Thạch Hãn. Địch chiếm lại quận Hải Lăng, một phần quận Triệu Phong, Thành cổ và thị xã đổ nát: Lần này ta có rút kinh nghiệm những chiến dịch trước, nhưng chủ yếu là xuất phát từ nhiệm vụ, yêu cầu chiến lược, đặc điểm tình hình ta và điều kiện chiến trường cụ thể. Do đó, cách đánh trong Chiến dịch Tây Nguyên là:

Một mặt, phải sử dụng lực lượng tương đối lớn, cỡ trung đoàn và sư đoàn để cắt các đường giao thông số 19, số 14, số 21, tạo ra thế chia cắt địch, về chiến lược tách rời Tây Nguyên với đồng bằng ven biển và về chiến dịch cô lập Buôn Ma Thuột với Pleiku và Pleiku với Kon Tum. Đồng thời tích cực hoạt động nghi binh giam chân địch, thu hút sự chú ý và lực lượng của chúng về phía bắc Tây Nguyên, tạo điều kiện cho ta có thể giữ bí mật bất ngờ ở phía nam cho đến khi nổ súng đánh chiếm thị xã Buôn Ma Thuột.

Mặt khác và là mặt chủ yếu, thực hiện trận then chốt mở đầu chiến dịch đánh chiếm Buôn Ma Thuột, bằng cách tổ chức lực lượng đột kích binh chủng hợp thành tương đối mạnh cỡ trung đoàn, không để sẵn ở vị trí xuất phát tiến công mà tập kết từ xa vận động đến, bỏ qua các mục tiêu của địch bảo vệ vòng ngoài, bất ngờ thọc sâu vào bên trong thị xã, phối hợp với các đơn vị đặc công và bộ binh đã bí mật bố trí sẵn từ trước, nhanh chóng tiêu diệt ngay các mục tiêu chỉ huy đầu não và vị trí xung yếu, đánh chiếm vững chắc các bàn đạp bên trong xong, mới từ trong thị xã đánh ra ngoài tiêu diệt những cứ điểm cô lập đã mất chỉ huy, đang hoảng hốt. Trong quá trình đó, nhanh chóng hình thành ngay một lực lượng dự bị binh chủng hợp thành rất mạnh sẵn sàng đánh bại các cuộc phản kích của địch hòng chiếm lại Buôn Ma Thuột.

Riêng kế hoạch đánh thẳng vào thị xã Buôn Ma Thuột, ngay từ đầu chiến dịch không thực hiện được vì khi chúng tôi vào đến mặt trận, các đồng chí tại chỗ đã bố trí lực lượng mạnh từ trước ở quanh Đức Lập tới Đắc Soong rồi, nhằm tiêu diệt địch và giải phóng đoạn đường số 14, mở thông hành lang chỉến lược vào Nam Bộ. Điều động quân trở lại vừa mất thời giờ vừa gây thêm nhiều khó khăn, nhất là về giữ bí mật. Cho nên phải quyết định cứ đánh Đức Lập trước rồi đánh tiếp Buôn Ma Thuột ngay ngày hôm sau, khi đã cô lập Buôn Ma Thuột và triển khai lực lượng cài thế bao vây chặt quanh thị xã này.

Chúng tôi tiếp tục nghiên cứu kỹ hơn tình hình thị xã Buôn Ma Thuột. Một cán bộ dẫn đoàn trinh sát đột nhập thị xã Buôn Ma Thuột về báo cáo: "Thị xã này to lắm, to gần như thành phố Hải Phòng". Chúng tôi biết Buôn Ma Thuột không to như Hải Phòng, nhưng là thị xã lớn, bao gồm cả ngoại vi rộng, có nhiều nhà cao, ban đêm đèn nê-ông sáng trưng cho nên anh em đi trinh sát lại càng thấy nó lớn. Một số cơ sở cách mạng trong thị xã được mời ra báo cáo tình hình. Đồng chí Bùi San (Đặng Trần Thi), uỷ viên thường vụ Khu uỷ Khu 5, và đồng chí Huỳnh Văn Mẫn (Cần), Bí thư tỉnh uỷ Đắk Lắk, cũng đến Sở chỉ huy chúng tôi cho, biết tình hình chính trị và phong trào của địa phương, tình hình các cơ sở của ta trong thị xã. Khi gặp đồng chí Võ Chí Công ở Hội nghị Quân uỷ Trung ương ngoài Hà Nội, chúng tôi đã đề nghị Khu 5 cho người đi chuẩn bị trước nắm tình hình để vào Tây Nguyên cùng gặp nhau làm việc cho nhanh. Ta lại vừa bắt được một thám báo của Trung đoàn nguỵ 45, qua khai thác cũng biết thêm được một số tình hình. Trong suốt thời gian chuẩn bị, ta bám sát, nắm vững tình hình đóng quân và chuyển quân của địch từng giờ một. Theo dõi điện đài của địch, chúng tôi bìết bọn chỉ huy của chúng ra lệnh cho trinh sát phải tìm bằng được Sư đoàn 10 của ta. Bộ Tư lệnh chiến dịch ra lệnh phải giữ kín hơn nữa lực lượng của ta; cán bộ, trinh sát viên có lệnh mới được đi và tiếp tục nghi binh để địch cho rằng Sư đoàn 10 vẫn còn đóng ở phía bắc Tây Nguyên.

Suốt mấy ngày liền, địch bắn đại bác quanh khu vực Buôn Ma Thuột yểm trợ cho các toán thám báo, biệt kích hoạt động sâu về phía ta. Máy bay địch ném bom xuống các chốt phòng thủ của ta ở bắc Kon Tum. Máy bay trinh sát địch hàng ngày bay trên Đức Cơ và đông bắc Kon Tum. Chúng lại điều thêm quân tới Pleiku.

Tối ngày 25-2-1975, trong một cánh rừng của Đắk Lắk, giữa tiếng đại bác địch bắn cầm canh, chúng tôi và Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên họp thông qua phương án đánh chiếm Buôn Ma Thuột gồm phương án đánh địch có tăng cường thêm lực lượng phòng ngự và phương án đánh địch như hiện nay. Tôi thay mặt Bộ Tổng tư lệnh phê chuẩn và ký tên lên bản đồ quyết tâm ghi nhiệm vụ, lực lượng tham gia và các đường tiến quân của ta vào Buôn Ma Thuột, đồng chí Hoàng Minh Thảo, Tư lệnh, và đồng chí Nguyễn Hiệp, Chính uỷ, ký bên cạnh.

Chúng tôi bắt tay nhau, chúc thắng lợi. Tôi phát biểu ý kiến sau khi ký:

- Đánh địch bằng cách và vào lúc mà địch không thể nào nghĩ tới, hết sức bất ngờ là nguy hiểm vô cùng cho chúng. Ta phải bằng mọi biện pháp, mọi hình thức, tập trung suy nghĩ ra sức giữ bí mật, bất ngờ để tranh thủ đánh theo phương án địch chưa có tăng cường thêm lực lượng. Nếu địch đã tăng thêm được lực lượng và đề phòng rồi thì ta sẽ đánh theo phương án thứ hai. Như vậy, có thể có khó khăn hơn nhưng nhất định cũng phải thắng.

Cho đến nay, địch vẫn chưa nghĩ đến việc ta có thể tổ chức tiến công bằng lực lượng quy mô lớn và cũng chưa biết vào thời gian nào. Phía Buôn Ma Thuột này địch chưa biết rõ lực lượng ta, trừ trường hợp ta di chuyển bị lộ. Trong những ngày tới phải tiếp tục làm cho địch vẫn yên trí hướng tiến công chính của ta là Kon Tum, Pleiku. Vấn đề thời cơ là ở chỗ này. Phải đẩy mạnh hoạt động sắp tới ở Kon Tum và Pleiku để củng cố thêm sai lầm của địch.

Bây giờ có mấy vấn đề đặt ra:

- Một là, các hình thức đánh vào thị xã lớn và thành phố thế nào? Thời kỳ cuối của chiến tranh cách mạng, trong điều kiện ta đã mạnh hơn địch, nhất định phải thực hiện đánh tiêu diệt lớn và giải phóng thị xã, thành phố, không có con đường nào khác. Vì vậy, cách đánh vào Buôn Ma Thuột, nói về ưu thế thì ta cũng mạnh hơn địch. Ta có gần 3 sư đoàn, địch chỉ có một trung đoàn chủ lực của Sư đoàn 23 và 3 liên đoàn bảo an, cho nên địch yếu, cô lập. Nhưng địch ở trong thị xã rộng, kiến trúc rất phức tạp, có tổ chức phòng ngự sẵn. Đánh vào thị xã lớn, dùng lực lượng lớn hiệp đồng binh chủng cũng lại là mới đối với ta.

Đó là những điều cần chú ý.

Tiến công vào thị xã Buôn Ma Thuột, ta lấy lực lượng mạnh gấp nhiều lần hơn địch, tổ chức các đội đột kích binh chủng hợp thành mạnh kết hợp với các tiểu đoàn đặc công và bộ binh bí mật triển khai trước, đánh thẳng ngay vào trung tâm thị xã, chiếm hai sân bay, nhanh chóng diệt đầu não chỉ huy của địch rồi mới phát triển trở ra tiêu diệt địch bên ngoài thị xã. Cách đánh này có hai vấn đề khó: một là tổ chức chiến đấu hợp đồng và chỉ huy các cánh thống nhất thời gian và hành động theo kế hoạch, vượt sông, vượt qua được các chốt phòng ngự của địch từ xa đến sát thị xã. Có một điểm nữa là phải giữ được bí mật, làm cho địch bị bất ngờ đến lúc ta nổ súng. Thực hiện được tốt hai vấn đề trên thì địch sẽ bị đánh ngã rất nhanh, không phải từ 7 đến 10 ngày như các đồng chí dự kiến lúc đầu.

So sánh lực lượng ở đây cho phép ta không những tiêu diệt được địch, chiếm giữ được thị xã mà còn có lực lượng dự bị mạnh tiêu diệt các đơn vị quân địch tới phản kích, giữ vững thắng lợi và phát triển tiến công, vì cả Tây Nguyên đã bị cô lập với toàn chiến trường miền Nam, chứ không nêng ở Buôn Ma Thuột. Đấy là chưa nói sự phối hợp hoạt động trên các chiến trường khác của ta với Tây Nguyên càng hạn chế khả năng của địch điều động lực lượng lớn tăng viện cho chiến trường Tây Nguyên.

Cần nói thêm là, trong các trận chiến đấu, tốt nhất là phá được cơ quan chỉ huy, bắt được chỉ huy đầu sỏ của địch thì giải quyết trận đánh nhanh hơn. Dĩ nhiên, việc đó là khó, vì chỉ huy đầu não của địch bao giờ cũng ở trong sâu và được bảo vệ chắc chắn. Chúng ta đã thảo luận kỹ và nhất trí cách đánh mới, táo bạo, bất ngờ trên cơ sở phân tích tình hình một cách khoa học này. Cũng cần phải thấy trận Buôn Ma Thuột là trận then chốt mở đầu chiến dịch, nhanh chóng đánh ngã địch, tiêu diệt nó, giải phóng và giữ vững thị xã, đánh bại quân địch phản kích và phát triển là những mặt rất gắn bó với nhau không phải riêng cho Buôn Ma Thuột mà là cho cả Chiến dịch Tây Nguyên. Giữ được bất ngờ về mục tiêu, về thời gian, về lực lượng, về cách đánh, cô lập được thị xã rồi lại có sức mạnh hơn hẳn địch mà địch không phát hiện được thì càng bảo đảm cho trận đánh ta tổn thất ít hơn, thắng lợi lại nhanh hơn. Thời gian mùa khô của ta rất quan trọng, không được để phí một ngày, một giờ, phải tranh thủ thời gian để liên tục tiến công, liên tục giành thắng lợi. Tóm lại, đây là cách đánh của ta nhằm tiết kiệm thời gian, nhanh chóng tiêu diệt địch và giải phóng thị xã lớn như Buôn Ma Thuột, tạo ra một biến động trên chiến trường, một cách đánh rất sáng tạo, thể hiện tư tưởng và tình thần tích cực tiến công của quân đội cách mạng. Nó lâ kết quả của quá trình điều tra, nghiên cứu kỹ lưỡng, xem xét mọi vấn đề một cách công phu và khoa học để đi đến một quyết tâm chính xác và thể hiện một nghệ thuật chiến dịch phát triển cao. Thực hiện được quyết tâm nói trên thì ta càng có thêm kinh nghiệm để tiếp tục giải phóng các thị xã khác ở Tây Nguyên như Phú Bổn, Gia Nghĩa, Pleiku, Kon Tum.

Hai là, có cách đánh đúng rồi bây giờ phải tổ chức các trận chiến đấu: phải tổ chức cụ thể, chặt chẽ từ trung đoàn, tiểu đoàn đến đơn vị thấp nhất, tổ chức cụ thể cho từng cánh, từng mũi, từng binh chủng, nhất là tổ chức các đơn vị cơ giới đột kích thọc sâu và tổ chức hiệp đồng đánh trong thị xã. Có quyết tâm cao, có tư tưởng mạnh dạn nhưng tổ chức hiệp đồng chiến đấu kém, không chặt chẽ, phân công không rõ ràng thì khi đánh có thể không thắng, dây dưa, bị tiêu hao.

Ba là, thực hiện các chính sách: thị xã Buôn Ma Thuột là trung tâm chính trị, kinh tế, dân tộc, tôn giáo ở Tây Nguyên, có đồng bào người Thượng, đồng bào Thiên chúa giáo, Tin lành, Phật giáo, lại có những nhà tư sản, các chủ đồn điền, các ngoại kiều sống dưới chủ nghĩa thực dân mới mấy chục năm, cho nên rất phức tạp. Bộ đội vào thị xã phải có thái độ, tác phong đúng, phải chấp hành nghiêm các chính sách và kỷ luật đề ra, giúp đơ cấp uỷ địa phương xây dựng chính quyền cách mạng ở cơ sở, tranh thủ lòng dân và mau chóng ổn định đời sống nhân dân sau khi giải phóng.

Bôn là, phải tổ chức quân quản sau khi giải phóng. Có công việc, có cơ quan phải có người đứng đầu, công việc quân quản sẽ rất nhiều, lại mới mẻ, sẽ bàn chuyên vấn đề này với đồng chí Bùi San và Tỉnh uỷ Đắk Lắk, nhưng vấn đề chủ yếu là có tổ chức, có người phụ trách, có quân đội tham gia thì sẽ làm được. Ở đây đồng chí Thượng tá Y Blốc là người dân tộc, vốn có uy tín trong nhân dân, được bà con địa phương yêu mến, kính trọng. Chúng tôi trao đổi ý kiến với Bộ Tư lệnh Khu 5 đề nghị với Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, nếu giải phóng xong thị xã sẽ xin thăng cấp đồng chí Y Blốc lên đại tá và cử làm Chủ tịch Uỷ ban quân quản Buôn Ma Thuột.

Năm là, thị xã Buôn Ma Thuột là hậu cứ của Sư đoàn 23, có đủ hậu cứ các trung đoàn, có hệ thống kho lớn, ngoài ra có nhiều xí nghiệp, nhiều cơ sở công nghiệp của tư sản. Phải bảo vệ tốt và đưa các cơ sở hoạt động trở lại.

Tổ chức việc này rất phức tạp. Cái gì là tài sản của công phải thu, tài sản của nhân dân không được đụng tới, tài sản của tư sản phải làm theo đúng chính sách. Đồng chí Nguyễn Năng, Phó Tư lệnh, phụ trách về hậu cần, phải giúp địa phương làm việc này. Xe cộ, phương tiện, trang bị vũ khí, phải thu thập. Lương thực, thực phẩm cái gì dùng được cho quân đội, phải giữ và bảo quản tốt.

Sáu là cần phải vận dụng kinh nghiệm của Phước Long, sau khi giải phóng có thể sử dụng ngay tù binh bắt được nhất là lính các binh chủng như lái xe hơi, xe tăng, xe bọc thép, pháo binh, xe công trình sửa đường. Thế ta mạnh, ta thắng, ta làm được. Tóm lại, chiến lợi phẩm, tù binh phải hết sức chú ý sử dụng ngay cho chiến đấu, tất nhiên phải cảnh giác, có giám sát.

Vấn đề cuối cùng tôi muốn nói với các đồng chí là thời gian để chúng ta bắt đầu đánh Buôn Ma Thuột không còn nhiều: nếu kéo dài công việc chuẩn bị có thể sẽ bị lộ. Phải đánh cho kịp thời gian đã dự kiến, bởi vì các chiến trường khác đều lấy thời gian của ta làm chuẩn để hiệp đồng.

Cần thấy rằng nếu địch phải đối phó trên toàn mặt trận miền Nam là điều sẽ rất khó cho chúng. Buôn Ma Thuột là thị xã quan trọng nhất ở Tây Nguyên, nhưng các nơi khác cũng quan trọng đối với địch vì gần Sài Gòn, gần Đà Nắng hơn. Cho nên, một khi đã bị đánh đồng loạt ở nhiều chiến trường, địch bắt buộc phải nhìn chung, phải xem xét hướng tiến công chiến lược chính của ta là ở đâu. Do đó, chúng chưa tung ngay lực lượng tổng dự bị ra. Trước mắt, đìch sẽ đối phó bằng lực lượng của quân đoàn, mà lực lượng của Quân đoàn 2 thì không nhiều: các đường bộ đến Tây Nguyên và Buôn Ma Thuột đã bị cắt, có đổ bộ bằng đường không cũng hạn chế và càng dễ bị tiêu diệt.

Vì vậy, công việc của chúng ta rất khẩn trương và phải hết sức giữ cho được bí mật. Các đồng chí trên mặt trận phải xuống tận nơi giúp các đơn vị, nhất là Sư đoàn 316, anh em mới vào, chiến trường chưa quen, đánh sớm quá không được, nhưng nếu không khẩn trương chuẩn bị, thời gian kéo dài thì không được.

Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh nhận định rằng đánh Buôn Ma Thuột thì sẽ làm rung động mạnh toàn bộ thế địch. Thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên cùng với thắng lợi toàn chiến trường có thể tạo nên một chuyển biến lớn đẩy địch vào thế có đột biến khá lớn. Không có con đường nào khác, địch dùng chiến tranh phản cách mạng, ta phải dùng chiến tranh cách mạng. Địch tiếp tục chiến tranh thì càng suy yếu đi, ta tiến hành chiến tranh cách mạng như thế này thì sẽ càng đánh càng mạnh.

Tôi nghĩ rằng các đồng chí còn rất nhiều công việc. Những ý kiến bàn với nhau như thế này nhất trí rồi, kết luận rồi, trở thành nghị quyết rồi thì hết sức cộng tác với nhau để thực hiện nhiệm vụ cho tốt. Tức là làm sao tiêu diệt được địch, giải phóng được thị xã Buôn Ma Thuột, phát triển tiến công để giải phóng Tây Nguyên, giải phóng toàn miền Nam yêu quý của chúng ta.

Trong Bộ Tư lệnh Mặt trận cần phân công có đồng chí chuyên lo việc chuẩn bị đánh Buôn Ma Thuột, có đồng chí chuyên lo đôn đốc, giúp đỡ chỉ đạo các đơn vị triển khai lực lượng gài thế chia cắt, bao vây chiến dịch theo đúng kế hoạch.

Hôm nay, họp tương đối đông đủ, có đại diện các sư đoàn, các binh chủng, các cơ quan, tôi xin thay mặt Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh phê chuẩn quyết tâm và Phương án tác chiến của Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên. Bằng mọi nỗ lực và mưu trí của mình, chúng ta phải làm nhiều việc cho đến khi những quả đạn đại bác tầm xa của ta nổ trên đầu địch ở thị xã Buôn Ma Thuột mà ta vẫn giữ được bất ngờ, đánh nhanh, giải quyết nhanh. Bằng mọi biện pháp và hình thức cần làm cho các cấp uỷ Đảng, tất cả cán bộ và chiến sĩ thấy hết ý nghĩa quan trọng của trận đánh này, nêu cao tinh thần dũng cảm, mưu trí, sáng tạo trong chiến đấu, hiểu và làm đúng cách đánh ta đã bàn, thì nhất định sẽ giành được thắng lợi giòn giã".

Địch vẫn chú ý phòng thủ bắc Tây Nguyên nhiều hơn.

Ta lại tăng cường hoạt động nghi binh: huy động nhân dân vùng giải phóng ở Kon Tum và Pleiku rầm rập kéo đi làm đường, chữa đường, vận tải, bộ đội kết hợp với địa phương tổ chức nhiều cuộc míttình hoan nghênh bộ đội về giải phóng Pleiku, Kon Tum.

Ngày 1 tháng 3, Sư đoàn 968 diệt hai đồn trên đường số 19, phía tây Pleiku, áp sát vào quận Thanh An. Địch lại càng khẳng định ta chuẩn bị địa bàn để đánh Pleiku.

Chúng vội điều Trung đoàn 45 từ Thuần Mẫn (ngã ba đường số 14 đi Phú Bổn) lên Thanh An ngày 3 tháng 3.

Thấy địch đã "mắc câu", tôi nhắc đồng chí Hoàng Minh Thảo chỉ thị cho Sư đoàn 968 đánh mạnh hơn nữa, tăng thêm đạn lớn cho sư đoàn bắn vào sân bay Cù Hanh và dặn đồng chí Thanh Sơn, Sư đoàn trưởng, là phải thực hiện "đánh một, la mười".

Ngày 4 tháng 3, Trung đoàn 95 và Sư đoàn 3 của Quân khu 5 tiêu diệt một loạt vị trí và cắt đứt đường số 19 trên hai đoạn ở phía đông và ở phía tây An Khê. Địch điều 2 trung đoàn của Sư đoàn 22 từ Bình Định lên giải toả đông An Khê và lữ kỵ binh 2 từ Pleiku xuống giải toả tây An Khê. Phạm Văn Phú càng cố sống cố chết tăng cường phòng thủ bắc Tây Nguyên, chủ yếu là Pleiku. Hắn tung các liên đoàn biệt động quân 4 và 6 thọc ra phía tây bắc Kon Tum và tây bắc Pleiku để tìm Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 là hai sư đoàn đã từng giáng cho địch những đòn đau trong những năm từ 1972 đến 1974. Pháo binh và máy bay địch tập trung đánh vào bất cứ chỗ nào chúng nghi ta trú quân hoặc đặt trận địa pháo.

Trong khi đó Sư đoàn 320 vẫn nằm im ở phía tây đường số 14 chỉ cách đường 5 km, đoạn từ cầu I-a Leo đến Chư Xê và ngay ngày 3 tháng 3, sư đoàn đã cho Tiểu đoàn 9 vượt đường số 14 vòng sang phía đông quận ly Thuần Mẫn, sẵn sàng khi có lệnh sẽ ra chốt trên đường từ Thuần Mẫn đi Cheo Reo, không cho địch từ Phú Bổn lên tăng cường cho đường số 14 hoặc từ Thuần Mẫn tháo chạy về Cheo Reo. Phải nói rằng hành động của Tiểu đoàn này rất tích cực, khôn khéo và kín đáo, tách ra hoạt động độc lập xa trung đoàn nhưng vẫn kéo dây điện thoại bí mật chui qua đường số 14 để giữ vững liên lạc với trung đoàn ở cách xa hơn 20 km. Và chính Tiểu đoàn 9 sau này đã là đơn vị đầu tiên của Sư đoàn 320 ra chặn đội hình địch ở phía đông Phú Bổn khi chúng tháo chạy từ Pleiku về Phú Yên theo đường số 7.

Còn Sư đoàn 10 thì đang bí mật dồn binh lực, hoả lực vào sát Đức Lập và Đắc Soong ở phía tây nam Buôn Ma Thuột, khẩn trương chuẩn bị mọi mặt để nổ súng đúng ngày giờ theo kế hoạch.

Ngày 5 tháng 3, Trung đoàn 25 ra cắt đứt đường số 21 trên đoạn phía đông Chư Cúc, diệt một đoàn xe hơn 80 chiếc.

Thế là đến ngày 5 tháng 3, địch ở Tây Nguyên đã bị cô lập với đồng bằng. Nhưng giữa nam Tây Nguyên và bắc Tây Nguyên địch vẫn đi lại được với nhau, vì ta chưa chủ trương cắt đường số 14.

Hàng ngày khoảng 60-80 xe quân sự và dân sự của địch vẫn đi lại bình thường.

Ở đây cần nói rõ một điều: Vì sao ta không cắt đường số 14 cùng một lúc với cắt các đường số 19 và số 21? Trong kế hoạch cài thế, ngoài việc chia cắt chiến lược thì chia cắt chiến dịch có nhiệm vụ chốt chặn đường số 14 để cắt rời Buôn Ma Thuột với Pleiku. Nhưng nên thực hiện vào lúc nào? Nếu cắt đường số 14 sớm thì sẽ có thể bị lộ ý định đánh Buôn Ma Thuột. Và muốn cắt đường số 14 trên hai đoạn phía bắc và phía nam quận ly Thuần Mẫn thì phải đánh chiếm quận lỵ này. Mà đã đánh chiếm thì địch sẽ biết ta có một sư đoàn đứng ở bắc Buôn Ma Thuột. Trong trường hợp đó, địch sẽ tìm cách đưa thêm lực lượng về tăng cường Buôn Ma Thuột và giải toả đường bằng dùng máy bay lên thẳng đổ bộ hoặc đánh thông đường số 14.

Cuộc chiến đấu ở đây có thể sẽ sớm "cộm lên", yếu tố bí mật trước khi đánh Buôn Ma Thuột sẽ không còn.

Ta chủ trương bắt đầu đánh Buôn Ma Thuột thì đồng thời đánh quận lỵ Thuần Mẫn và cắt đường số 14. Nhưng mặt khác lại phải sẵn sàng một lực lượng lớn để trong khi ta chưa cắt đường mà địch đã phát hiện ý định ta đánh Buôn Ma Thuột, tăng cường lực lượng cỡ trung đoàn trở lên từ Pleiku theo đường số 14 xuống, thì lập tức thực hành một trận vận động phục kích tiêu diệt lực lượng này, đồng thời chốt luôn đường số 14. Do có ý định đó, ta đã bố trí ở khu vực này Sư đoàn 320, một sư đoàn quen đánh vận động và có nhiều kinh nghiệm cắt và chốt giữ đường.

Nhưng thực hiện được đúng ý định này không đơn giản, luôn luôn phải theo dõi tình hình, suy nghĩ căng thẳng, nhất là người chỉ huy trực tiếp ở đây là Sư đoàn trưởng Sư đoàn 320. Lúc này trên đường xe cộ của địch vẫn lên xuống bình thường. Trong chiến đấu không phải lúc nào ta cũng nắm chắc được ý định và hành động của địch. Hơn nữa, kẻ địch cũng xảo quyệt và mạnh, chúng còn sử dụng được sức mạnh không quân của chúng. Cho nên thời cơ nào hạ lệnh cho Sư đoàn 320 ra đánh địch và cắt đường là phải cân nhắc và tính toán kỹ lưỡng, nhạy bén lắm.

Một tình huống xảy ra: trưa ngày 5 tháng 3, Sư đoàn 320 dùng một tiểu đoàn diệt một đoàn xe quân sự 14 chiếc và thu 2 khẩu pháo 105 milimét trên đường số 14, đoạn bắc Thuần Mẫn đi Buôn Ma Thuột, thu toàn bộ vũ khí, bắt tù binh, trong đó có vợ chồng viên trung uý pháo binh, và báo cáo lên Mặt trận: hai hôm nay địch tăng thêm một tiểu đoàn của Trung đoàn 45 về Thuần Mẫn, thường xuyên lùng sục phía tây đường số 14 để phát hiện ta. Ta vẫn tránh không nổ súng và vẫn giữ được bí mật. Hàng ngày cường độ vận chuyển trên đường số 14 của địch tăng lên. Chủ trương đánh trận hôm nay là vì phán đoán địch đưa dần Trung đoàn 45 về tăng cường cho Buôn Ma Thuột. Đề nghị cho Sư đoàn ra chiếm lĩnh trận địa chốt chặn trên đường số 14 đánh Thuần Mẫn và diệt luôn cả một tiểu đoàn của Trung đoàn 45 hiện đang tăng cừờng ở đó.

Đồng chí Vũ Lăng báo cáo với tôi tình hình đó và xin chỉ thị. Tôi thông cảm sự lo lắng về trách nhiệm của Sư đoàn 320 và cũng thông cảm sự căng thẳng của một đơn vị lớn buộc phải im lặng để chờ thời cơ phục vụ cho lợi ích chung của toàn Mặt trận, giấu mình tránh những loạt pháo địch bắn thăm dò, những tên thám báo và những đơn vị nhỏ của địch đổ xuống gần khu vực bố trí của bộ đội bằng máy bay lên thẳng hoặc đi bộ. Chúng vừa lùng sục vừa lo sợ.

Nhưng điểm lại tình hình hoạt động mấy ngày gần đây của địch thì thấy chúng đối phó dè dặt, chưa có ý đồ rõ ràng. Chúng vẫn tập trung sự chú ý vào bắc Tây Nguyên và lo giải toả đường số 19, chưa thay đổi nhận định cũ. Ta vẫn giữ được bí mật, cần tiếp tục giữ bí mật nữa, đánh lừa địch thêm để tranh thủ, khẩn trương chuẩn bị cho trận then chốt mở đầu.

Sau khi trao đổi ý kiến thêm với đồng chí Lê Ngọc Hiền, tôi chỉ thị cho Mặt trận: "Sư đoàn 320 tiếp tục im lặng, tránh nổ súng với bọn thám báo lùng sục, không có lệnh không được đánh trên đường số 14, giữ vững quyết tâm đã xác định". Đồng thời tôi lệnh cho Mặt trận cử cán bộ xuống hỏi cung ngay tên Trung uý pháo binh nguỵ vừa bị bắt.

Nửa đêm, đồng chí thư ký của tôi lên báo cáo: tên tù binh khai đoàn xe của chúng chở một đại đội của Trung đoàn 45 và một số nhân viên về hậu cứ ở Buôn Ma Thuột nghỉ và hôm sau sẽ chở tân binh lên bổ sung cho các đơn vị của trung đoàn ở Pleiku. Như vậy là 14 xe từ Pleiku về Buôn Ma Thuột là vận chuyển thường xuyên, chưa phải địch tăng cường lực lượng về Buôn Ma Thuột. Nhưng dù sao, địch đã bị đánh và đã biết ta có lực lượng trên đường số 14, cách Pleiku khoảng 30km về phía nam. Tiếp đó, đồng chí báo cáo thêm: Mặt trận vừa cho biết đoàn cán bộ của trung đoàn pháo binh đi trinh sát địa hình ngày 5 tháng 3 chạm địch ở bắc Buôn Ma Thuột, một chiến sĩ ta bị thương và bị địch bắt, có mang theo người một sổ nhật ký.

Tôi suy nghĩ: Còn bốn ngày nữa nổ súng đánh Buôn Ma Thuột, địch sẽ còn làm gì trong những ngày sắp tới?

Đến nay địch vẫn nhận định sai về hướng tiến công chủ yếu của ta. Nhưng nếu còn xảy ra những hiện tượng lộ bí mật như vừa qua, thì nhất định ta sẽ phải xem xét lại.

Lúc này địch đang cố tìm hiểu ý định và hành động của ta.

Tôi gọi điện thoại cho đồng chí Vũ Lăng nhắc phải kiểm tra từng chiến sĩ để chấp hành thật nghiêm những quy định về giữ bí mật.

Sáng ngày 6 tháng 3, đồng chí cán bộ tham mưu quân báo báo cáo: theo tin của địch mà ta thu được, chúng đã cho Tiểu đoàn 3 của Trung đoàn 53 cùng một chi đội thiết giáp một tiểu đoàn bảo an nống lên Quảng Nhiêu, cách đông bắc Buôn Ma Thuột 11km. Ngay sau đó đồng chí trưởng phòng tác chiến của Mặt trận báo cáo bằng điện thoại cụ thể từng mũi của địch đang lùng sục như thế nào ở khu vực này, những bộ phận lực lượng pháo binh, xe tăng, công binh của ta đang chuẩn bị đường cơ động, khu tập kết, v.v. Ở đây phải lui về phía sau tránh địch để khỏi bị lộ. Nhưng nếu chúng lùng sục kéo dài đến ngày 8 tháng a, thì sẽ ảnh hưởng đến việc chuẩn bị theo cách đánh của ta từ phía bắc vào thị xã.

Có thể do bắt được chiến sĩ của ta có mang theo tài liệu cho nên địch bắt đầu nghi ngờ ở hướng này. Nhưng dù biết là có đơn vị pháo binh ta ở bắc Buôn Ma Thuột cũng chưa chắc địch đã khẳng định được ta chuẩn bị đánh thị xã này. Cũng có thể chúng cho là ta chuẩn bị để pháo kích vào thị xã như ta vẫn làm trước đây, nếu ở đây chúng không phát hiện được gì thêm.

Tôi bàn với các đồng chí trong bộ phận tham mưu tác chiến của đại diện Bộ Tổng tư lệnh, rồi cử đồng chí Lê Ngọc Hiền xuống Bộ chỉ huy Mặt trận cùng anh em triển khai ngay mấy việc sau đây:

- Hướng Quảng Nhiêu tiếp tục tránh địch, không để chúng phát hiện ta, chuẩn bị sẵn lực lượng nếu chúng vào sâu hơn nữa đến vị trí tập kết của ta thì bao vây tiêu diệt gọn từng mũi của địch.

Theo dõi thật chặt hành động của địch ở hướng này để xử lý cụ thể từng tình huống.

Nếu chiều ngày 6 tháng 3 địch không lui về Buôn Ma Thuột (quy luật của địch ở đây thường là khi có nghi ngờ chúng lùng sục một ngày, không phát hiện gì sẽ lui về), thì lệnh cho Sư đoàn 320 chuẩn bị sáng 7 tháng 3 diệt cứ điểm Chư Xê (trên đường số 14, phía bắc Buôn Hồ) để kéo địch về hướng này, tạo điều kiện cho các đơn vị của ta ở hướng Quảng Nhiêu tiếp tục công tác chuẩn bị.

Nếu ngày 7 tháng 3, địch vẫn tiếp tục lùng sục thì ngày 8 tháng 3, Sư đoàn 320 đánh chiếm quận lỵ, chi khu Thuần Mẫn, thực hiện cắt hẳn đường số 14, "hút" địch từ Buôn Ma Thuột lên, đồng thời sẵn sàng đánh địch từ Pleiku xuống.

Đúng như ta đã phán đoán, trưa ngày 6 tháng 3 ta bắt được tin của địch: đồng chí chiến sĩ của ta bị thương nặng, bọn nguỵ đưa đi bệnh viện cưa chân và cứu chữa để đích thân tên Sư đoàn trưởng Sư đoàn 23 xuống khai thác. Nhưng đồng chí chiến sĩ của ta đang mê man chưa tỉnh.

(Sau này được biết chúng chưa kịp khai thác gì thì ta đã giải phóng Buôn Ma Thuột. Và đồng chí này lại được anh em ta đưa từ bệnh viện của địch về đơn vị).

Ngày 7 tháng 3, ta diệt Chư Xê trong 30 phút, tạo thêm điều kiện chốt giữ chắc chắn hơn trên đường số 14, nhưng địch vẫn chưa rút khỏi Quảng Nhiêu.

Sáng 8 tháng 3, Sư đoàn 320 đánh chiếm quận ly Thuần Mẫn, cắt hẳn đường số 14. Đến trưa, lực lượng địch ở Quảng Nhiêu vội vã bỏ cuộc, hành quân rút về Buôn Ma Thuột.

Ngày 9 tháng 3, theo đúng kế hoạch, ta đánh chiếm quận lỵ Đức Lập, Đắc Soong, Núi Lửa, mở thông hoàn toàn đường hành lang chiến lược Bắc Nam, phía đông Trường Sơn. Trên hướng bắc tiêu diệt quận lỵ Thanh An, trên đường số 19, ta đã áp sát vào phía tây thị xã Pleiku.

Thế là đến ngày 9 tháng 3, ta đã triển khai lực lượng cài xong thế chiến lược và chiến dịch, đã chia cắt Tây Nguyên với vùng đồng bằng, chia cắt phía nam với phía bắc Tây Nguyên, đã hoàn toàn bao vây và cô lập thị xã Buôn Ma Thuột.

Cuộc đấu trí giữa ta với địch kết thúc một bước, phần thắng đã về ta.

Nhưng địch vẫn chủ quan và những hành động của ta càng củng cố thêm nhận định sai lầm của địch. Cho đến khi ta tiêu diệt quận lỵ Đức Lập, chúng vẫn cho là ta đánh để mở thông đường số 14 vào Nam Bộ, và chúng vẫn lo đối phó ở phía tây Pleiku.

Đến lúc này, dù cho địch có biết chắc ta sẽ đánh Buôn Ma Thuột thì cũng đã quá muộn rồi, khó cựa quậy được nữa, thế trận ta đã bày ra không gì phá vỡ nổi.

Chiều ngày 9 tháng 3, tôi gửi một bức điện về Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, báo cáo kết quả chiến đấu từ ngày 1 tháng 3 đến sau khi giải phóng Đức Lập và những nét chính về kế hoạch toàn chiến dịch (Điểm này bây giờ mới báo cáo là để giữ bí mật). Phần cuối bức điện viết:

"Ngày 10 tháng 3, ta sẽ đánh Buôn Ma Thuột, tình hình diễn biến thế nào, có nhận xét gì lớn tôi sẽ điện tiếp.

Chúng tôi vẫn khỏe. Anh Thiện và 559 trợ lực rất tích cực cho chiến dịch này. Mọi yêu cầu đều cố gắng bảo đảm được Quân no, lực lượng lớn, vũ khí, trang bị đầy đủ, tinh thần phấn chấn, khí thế cao, chưa bao giờ mạnh và đánk tập trung lớn ở đây như năm nay.

Chúc các anh trong Bộ Chính trị và Quân uỷ mạnh khỏe.

TUẤN"

Đồng chí Đinh Đức Thiện, sau khi đi đôn đốc xong các kho dự trữ đạn ở hậu phương, kế hoạch tiếp tục vận chuyển đón thời cơ, đã đi dọc phía tây Trường Sơn vào đến Sở chỉ huy và mấy hôm nay đồng chí kiểm tra lại lần cuối cùng các mặt chuẩn bị của hậu cần.

19 giờ ngày 9 tháng 3, chúng tôi lần lượt gọi điện thoại cho các đơn vị. Các nơi báo cáo mọi công tác chuẩn bị đã xong và đã đến đúng vị trí quy định. Phức tạp và khó khăn nhất là đơn vị phải vượt đường số 14, vượt sông Sê-rêpốc bằng bè nứa chở pháo qua. Các đơn vị vào đánh tử phía nam thị xã lên cũng đã vào đủ ở vị trí xuất phát tiến công. Những đơn vị đột kích binh chủng hợp thành phải chờ khi bắt đầu nổ súng mới hành quân bằng cơ giới chọc qua các đồn bốt của địch, cũng đã bố trí xong đội hình. Các đồng chí chỉ huy đều hứa kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ Tôi chúc anh em thắng giòn giã, tổn thất ít, đánh nhanh, hoàn thành nhiệm vụ và chuyển lời hỏi thăm đến các chiến sĩ trước khi ra trận.

Đêm mùng 9 tháng 3, chúng tôi ngồi ở Sở chỉ huy, tiếp tục theo dõi tình hình và chờ giờ "G". Các cán bộ tham mưu ngồi quanh đều không giấu nổi niềm vui và niềm xúc động lớn khi giờ phút trọng đại đang đến gần. Đối với người lính chiến đấu, đêm chờ giờ "G" là đêm giao thừa.

Từ cấp trên đến cấp dưới chúng ta chờ đón đêm giao thừa này từ mấy năm nay. Đêm Trường Sơn lúc này tuy yên lặng nhưng hàng chục nghìn con người đang chuyển động về các mục tiêu. Các đồng chí chỉ huy có người trên đầu đã hai thứ tóc đang chụm lại trên những tấm bản đồ, kiểm tra lần cuối kế hoạch của mình. Và cũng đêm nay, chắc bọn nguỵ từ Sài Gòn đến Tây Nguyên chưa phán đoán được ta sẽ hành động thế nào, chưa hình dung được sức mạnh của ta, bị chúng ta dắt dẫn đi từ sai lầm này đến sai lầm khác. Tin tưởng rằng giờ "G" bắt đầu sẽ có nhiều tbuận lợi. Vào giờ này, hậu phương lớn của chúng ta bận rộn lắm và chắc các đồng chí trong Bộ Chính trị, trong Quân uỷ Trung ương cũng đang thao thức theo dõi tình hình ở Mặt trận này. Hậu phương lớn đã bảo đảm đáp ứng mọi yêu cầu và nhu cầu của tiền tuyến để đánh lớn và thắng lớn. Hậu phương anh hùng, hậu phương vĩ đại. Tôi nói chuyện với đồng chí Trung tướng Hoàng Minh Thảo, Tư lệnh Mặt trận, qua dây nói:

"Ta tiếp tục làm theo dự kiến, không có gì thay đổi. Cần bảo đảm thông tin chỉ huy cho tốt để nắm chắc tình hình. Đồng chí liên lạc chặt với tôi bằng cả ba phương tiện để kịp thời trao đổi ý kiến và xử lý mọi tình huống. Nắm được tình hình và đã quyết định là phải ra lệnh cho cấp dưới làm nhanh, dứt khoát, không bàn dây dưa.

Chúc thắng lợi".

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#doi