Đái Tháo Đường

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Đái tháo đường là tên chung của một nhóm bệnh có biểu hiện là cơ thể không thể điều hòa được lượng đường (đặc biệt là glucose) có trong máu.

Glucose trong máu cung cấp năng lượng cho các hoạt động hằng ngày chẳng hạn như đi bộ, đạp xe, tập thể thao, và làm việc nhà.

* Glucose được gan sản xuất từ thức ăn hằng ngày (gan là cơ quan nằm bên trái bụng, gần dạ dày).

* Ở người khỏe mạnh, nồng độ glucose trong máu được điều hòa bởi một số loại hormon, trong đó có insulin. Insulin được sản xuất từ tụy, một cơ quan nhỏ nằm giữa dạ dày và gan. Tụy tiết ra những enzyme quan trọng giúp tiêu hóa thức ăn.

* Insulin giúp glucose đi từ gan vào máu, cơ và những tế bào mỡ, những nơi cần nó để làm nhiên liệu.

* Những người bị đái tháo đường là do cơ thể không sản xuất đủ insulin (đái tháo đường type I) hoặc không sử dụng được insulin một cách hiệu quả (đái tháo đường type II), hoặc có thể gặp cả hai trường hợp nêu trên.

* Ở bệnh đái tháo đường, glucose trong máu không di chuyển vào trong tế bào được nên nó vẫn nằm lại ở đó. Điều này không chỉ gây hủy hoại các tế bào vốn cần glucose để làm nhiên liệu hoạt động mà còn gây hủy hoại một số cơ quan hoặc mô của cơ thể do bị tiếp xúc với glucose nồng độ cao

Đái tháo đường type 1.. Cơ thể ngừng sản xuất insuline hoặc lượng insulin được sản xuất quá ít không đủ để điều hòa lượng glucose có trong máu.

* Đái tháo đường type 1 chiếm khoảng 10% các trường hợp bị đái tháo đường ở Mỹ.

* Đái tháo đường type 1 thường gặp ở trẻ em hoặc thiếu niên. Còn được biết đến với cái tên "Đái tháo đường tuổi vị thành niên" hoặc "Đái tháo đường phụ thuộc insulin"

* Đái tháo đường type 1 cũng có thể gặp ở những người lớn tuổi hơn do tụy bị hủy hoại bởi rượu, bệnh tật hoặc bị phẫu thuật cắt bỏ. Nó cũng có thể là kết quả của bệnh suy tế bào beta tuyến tụy tiến triển, vốn là những tế bào sản xuất insulin.

* Những bệnh nhân bị đái tháo đường type 1 cần phải được điều trị bằng insulin mỗi ngày để duy trì cuộc sống.

Đái tháo đường type 2. Tụy có khả năng sản xuất insulin được nhưng cơ thể mất khả năng sử dụng được lượng insulin này (một phần hay hoàn toàn). Hiện tượng này đôi khi được gọi là đề kháng insulin. Cơ thể cố gắng chống lại sự đề kháng này bằng cách chế tiết insulin nhiều hơn. Những người bị đề kháng insulin sẽ phát triển thành bệnh đái tháo đường type 2 khi cơ thể của họ không thể tiếp tục chế tiết đủ insulin để đáp ứng với nhu cầu cao hơn.

* Có ít nhất 90% bệnh nhân đái tháo đường bị đái tháo đường type 2.

* Đái tháo đường type 2 thường gặp ở tuổi trưởng thành, thường là sau 45 tuổi. Nó cũng thường được gọi là "đái tháo đường tuổi trưởng thành" hoặc "đái tháo đường không phụ thuộc insulin". Những tên gọi này đã không còn được dùng nữa vì đái tháo đường type 2 cũng có thể xảy ra ở người trẻ và một số bệnh nhân cũng cần phải sử dụng insulin để điều trị.

* Đái tháo đường type 2 thông thường có thể kiểm soát được bằng chế độ ăn, giảm cân, thể thao, và thuốc uống. Hơn 50% bệnh nhân đái tháo đường type 2 cần sử dụng insulin để kiểm soát đường huyết ở một số giai đoạn tiến triển của bệnh.

Đái tháo đường thai kỳlà một thể đái tháo đường xảy ra trong nửa cuối thai kỳ

* Mặc dù đái tháo đường thai kỳ thường sẽ khỏi sau khi sinh tuy nhiên những phụ nữ bị bệnh này sẽ dễ bị đái tháo đường type 2 hơn những phụ nữ khác sau này.

* Những phụ nữ bị đái tháo đường thai kỳ dễ sinh con to.

Hội chứng chuyển hóa (còn được gọi là hội chứng X)là một nhóm những biểu hiện bất thường trong đó đái tháo đường type 2 hầu như luôn hiện diện cùng với tăng huyết áp, mỡ máu cao (tăng lipid máu, nổi bật là tăng LDL, giảm HDL và tăng triglyceride), béo phì trung tâm, và bất thường đông máu và phản ứng viêm. Một tỷ lệ lớn bệnh tim mạch cũng có liên quan đến hội chứng chuyển hóa.

Tiền đái tháo đường là tình trạng đường huyết cao hơn mức bình thường nhưng không đủ cao để được chẩn đoán là đái tháo đường.

* Tiền đái tháo đường làm gia tăng nguy cơ bị đái tháo đường type 2 và bệnh tim mạch hay đột quỵ.

* Thông thường tiền đái tháo đường có thể khỏi mà không cần sử dụng insulin hoặc thuốc bằng cách giảm cân vừa phải và gia tăng các hoạt động thể lực. Cách giảm cân này có thể phòng ngừa, hay ít nhất là làm chậm lại, sự khởi phát của đái tháo đường type 2.

* Ủy ban quốc tế của hiệp hội đái tháo đường Hoa Kỳ đã định nghĩa lại tiêu chuẩn chẩn đoán của tiền đái tháo đường, hạ thấp mức đường huyết giới hạn của tiền đái tháo đường, do đó có thêm khoảng 20% người trưởng thành được xem là bị tiền đái tháo đường và có thể phát triển thành đái tháo đường trong vòng 10 năm tới nếu không tập thể dục hoặc giảm cân thích hợp.

Tỷ lệ người bị đái tháo đường gia tăng nhanh chóng do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân quan trọng nhất là sự gia tăng tỷ lệ những người bị béo phì và thường xuyên ngồi một chỗ nhiều.

Các biến chứng của đái tháo đường

Những biến chứng chính của đái tháo đường

Cả hai thể đái tháo đường đều dẫn đến sự gia tăng lượng đường trong máu. Nếu kéo dài, có thể sẽ gây tổn thương võng mạc, thận, thần kinh, và mạch máu.

* Tổn thương võng mạc có thể dẫn đến mù.

* Tổn thương thận có thể gây suy thận.

* Tổn thương thần kinh có thể gây ra những vết thương và loét ở bàn chân, thường phải cắt cụt bàn và cẳng chân.

* Tổn thương các dây thần kinh thuộc hệ thần kinh tự chủ có thể dẫn đến liệt dạ dày, tiêu chảy mạn, và không kiểm soát được tần số tim và huyết áp khi thay đổi tư thế.

* Đái tháo đường cũng thúc đẩy xơ vữa động mạch (hình thành những mảng chất béo bên trong động mạch) có thể dẫn đến hẹp hoặc tắc nghẽn. Những thay đổi này có thể dẫn đến cơn suy tim cấp, đột quỵ và giảm lưu lượng tuần hoàn đến tay và chân (bệnh lý mạch máu ngoại biên).

* Đái tháo đường có thể dẫn đến tăng huyết áp và tăng cholesterol, triglycerid. Những bệnh này tiến triển độc lập kết hợp với đái tháo đường để gia tăng nguy cơ bị bệnh tim mạch, bệnh thận, và những biến chứng về mạch máu khác.

Trong giai đoạn ngắn, đái tháo đường có thể gây ra những tình trạng cấp tính sau:

Nhiều bệnh nhiễm trùngcó thể liên quan đến đái tháo đường, và ở những người bị đái tháo đường, nhiễm trùng trở nên nguy hiểm hơn vì khả năng chống đỡ của cơ thể đối với các tác nhân nhiễm trùng đã bị bệnh đái tháo đường làm cho suy yếu đi. Nhiễm trùng cũng có thể làm khả năng kiểm soát đường huyết của cơ thể trở nên tồi tệ hơn dẫn đến làm chậm trễ tiến trình phục hồi của cơ thể sau nhiễm trùng.

Hạ đường huyếtcó thể xảy ra từ từ ở hầu hết bệnh nhân đái tháo đường do sử dụng quá nhiều thuốc đái tháo đường hoặc insulin (còn được gọi là phản ứng insulin), bỏ bữa ăn, tập thể dục nhiều quá mức bình thường, uống quá nhiều rượu, hoặc uống thuốc để điều trị một bệnh khác. Việc nhận biết các dấu hiệu hạ đường huyết và chuẩn bị sẵn sàng điều trị nó là rất quan trọng. Những triệu chứng thường gặp là nhức đầu, hoa mắt, kém tập trung, run tay và vã mồ hôi. Bệnh nhân có thể sẽ bị ngất nếu như đường huyết xuống quá thấp.

Nhiễm ceton acid do đái tháo đường:đây là một tình trạng nguy kịch được gây ra do đường huyết trong máu cao không được kiểm soát kéo dài (thường là do thiếu insulin hoàn toàn hoặc một phần) dẫn đến sự tích tụ những sản phẩm thừa có tính acid trong máu có tên là ceton. Nồng độ ceton cao trong máu rất nguy hiểm. Tình trạng này thường gặp ở những người bị đái tháo đường type 1 không kiểm soát tốt đường huyết. Nhiễm ceton acid có thể bị thúc đẩy bởi nhiễm trùng, stress, chấn thương, không sử dụng thuốc, hoặc những tình trạng cấp cứu như trụy tim mạch và đột quỵ.

Hội chứng tăng áp lực thẩm thấu không do ceton: * đây là một tình trạng nguy kịch gây ra do đường huyết trong máu rất cao. Cơ thể cố gắng chống cự lại bằng cách thải lượng đường dư ra ngoài nước tiểu. Điều này là gia tăng lượng nước tiểu đáng kể và thường dẫn đến thiếu nước nặng, có thể gây tai biến, hôn mê, và thậm chí là tử vong. Hội chứng này thường gặp ở những bệnh nhân bị đái tháo đường type 2 không kiểm soát mức đường huyết, hoặc những người bị thiếu nước, bị stress, tổn thương, đột quỵ hoặc đang sử dụng một số loại thuốc, chẳng hạn như steroid.

NGUYÊN NHÂN

Đái tháo đường type 1:đái tháo đường type 1 được cho là do bệnh tự miễn. Hệ thống miễn dịch của cơ thể tấn công những tế bào tuyến tụy sản xuất insulin.

* Có tính chất gia đình ở một số trường hợp, tuy nhiên nguyên nhân do di truyền thường gặp hơn ở đái tháo đường type 2.

* Yếu tố môi trường, bao gồm nhiễm siêu vi không tránh được, cũng có thể là một tác nhân đóng góp.

* Đái tháo đường type 1 thường gặp nhất ở những người không có nguồn gốc La tinh, Bắc Âu (đặc biệt là ở Phần Lan và Sardinia), sau đó là dân Mỹ gốc Phi, dân Mỹ có nguồn gốc Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha. Ít gặp ở Châu Á.

* Đái tháo đường type 1 ở nam nhiều hơn một ít so với nữ.

Đái tháo đường type 2:

có tính di truyền mạnh, có nghĩa là đái tháo đường type 2 có khuynh hướng phát triển theo gia đình. Một số loại gen đã được xác định và một số khác đang trong giai đoạn nghiên cứu được nghi ngờ là nguyên nhân gây ra đái tháo đường type 2. Yếu tố nguy cơ của đái tháo đường type 2 bao gồm:

* Tăng huyết áp

* Tăng triglyceride (mỡ) máu.

* Đái tháo đường thai kỳ hoặc sinh con nặng hơn 4kg

* Chế độ ăn nhiều chất béo.

* Uống nhiều rượu

* Ngồi nhiều

* Béo phì hoặc thừa cân.

* Chủng tộc, đặc biệt khi có những người thân bị đái tháo đường type 2 hoặc bị đái tháo đường thai kỳ.

* Tuổi tác: sự gia tăng tuổi tác là yếu tố nguy cơ rõ rệt của đái tháo đường type 2. Nguy cơ bắt đầu tăng rõ rệt ở tuổi 45 và tăng đáng kể sau 65 tuổi.

TRIỆU CHỨNG

Triệu chứng của đái tháo đường type 1thường xuất hiện đột ngột.

* Đái tháo đường type một thường gặp ở trẻ em hoặc giai đoạn sớm của tuổi trưởng thành, thường đi kèm với những bệnh khác như bị nhiễm virus hoặc nhiễm trùng đường niệu hoặc bị tổn thương.

* Gia tăng thêm stress có thể gây ra nhiễm ceton acid.

* Triệu chứng của nhiễm ceton acid bao gồm nôn và buồn nôn. Thiếu nước và thường gặp rối loạn nghiêm trọng nồng độ kali trong máu.

* Nếu không được điều trị, nhiễm ceton acid có thể dẫn đến hôn mê và tử vong.

Triệu chứng của đái tháo đường type 2 thường khó phát hiện và có thể bị cho là nguyên nhân do tuổi già và béo phì gây nên.

* Bệnh nhân có thể đã bị đái tháo đường type 2 trong nhiều năm mà không phát hiện ra.

* Bệnh nhân đái tháo đường type 2 có thể tiến triển thành hội chứng tăng áp lực thẩm thấu không liên quan đến cetone.

* Diễn tiến của đái tháo đường type 2 có thể bị thúc đẩy nhanh hơn bởi thuốc có chứa steroid và stress.

* Nếu không được điều trị đúng cách, đái tháo đường type 2 có thể gây ra các biến chứng như mù, suy thận, bệnh tim mạch và tổn thương thần kinh.

Những triệu chứng chung của cả 2 type đái tháo đường thường gặp:

Mệt mỏi:khi bị đái tháo đường, cơ thể giảm hay đôi khi không còn khả năng sử dụng glucose để tạo năng lượng nữa. Do đó, cơ thể phải chuyển sang dùng mỡ, một phần hay hoàn toàn, để tạo ra năng lượng. Quá trình này đòi hỏi cơ thể phải sử dụng năng lượng nhiều hơn và kết quả cuối cùng là người bệnh sẽ cảm thấy mệt mỏi thường xuyên.

Giảm cân không rõ nguyên nhân:bệnh nhân bị đái tháo đường không thể xử lý được calori trong thức ăn dẫn đến giảm cân ngay cả khi ăn đủ hay thậm chí là ăn nhiều. Mất đường và nước qua nước tiểu cũng là một tác nhân góp phần vào triệu chứng giảm cân này.

Khát nước nhiều:Bệnh nhân bị đái tháo đường có mức đường huyết cao làm lấn át khả năng giữ lại đường của thận khi lọc máu để tạo thành nước tiểu. Một lượng nước tiểu lớn được hình thành khi thận bị đầy tràn đường. Cơ thể cố gắng chống lại hiện tượng này bằng cách gửi một tín hiệu lên não để làm máu loãng ra bằng cách tạo cảm giác khát, đòi hỏi phải đưa vào cơ thể thêm nhiều nước để làm loãng nồng độ đường trong máu đang cao trở về mức bình thường và để bù vào lượng nước bị mất do tiểu nhiều.

Tiểu nhiều:một cách khác giúp cơ thể thoát khỏi tình trạng dư thừa đường là thải đường ra ngoài qua nước tiểu. Hiện tượng này sẽ làm cơ thể bị thiếu nước do khi thải đường ra ngoài cơ thể sẽ mang theo một lượng lớn nước cũng đi ra theo chung với nó.

Ăn nhiều:nếu cơ thể vẫn còn đủ khả năng, nó sẽ tiết ra nhiều insulin hơn để đối phó với tình trạng nồng độ đường cao trong máu. Hơn nữa, cơ thể trở nên đề kháng với hoạt động của insulin trong đái tháo đường type 2. Một trong những chức năng của insulin là kích thích cảm giác đói. Do đó, nồng độ insulin cao trong cơ thể sẽ dẫn đến tăng cảm giác đói và muốn ăn. Bất chấp sự gia tăng lượng calori nhập vào cơ thể, người bệnh có thể chỉ tăng cân rất ít hay thậm chí là giảm cân.

Chậm lành vết thương:nồng độ đường cao trong máu ngăn chặn bạch cầu hoạt động bình thường (bạch cầu là những tế bào đóng vai trò quan trọng trong chức năng tự bảo vệ của cơ thể chống lại vi trùng và nó cũng dọn dẹp những mô và tế bào chết). Khi bạch cầu hoạt động không bình thường, các vết thương trở nên lâu lành hơn và bị nhiễm trùng thường xuyên hơn. Ngoài ra, đái tháo đường kéo dài còn dễn đến dày thành của các mạch máu gây cản trở các tế bào máu có chứa oxy và chất dinh dưỡng đến nuôi các mô của cơ thể.

Nhiễm trùng: một số hội chứng nhiễm trùng, như nhiễm nấm sinh dục, nhiễm trùng da, nhiễm trùng đường niệu do hệ thống miễn dịch đã bị ức chế bởi bệnh đái tháo đường và bởi sự hiện diện của glucose trong mô (giúp vi khuẩn phát triển tốt). Nó cũng là dấu hiệu chỉ điểm cho biết có sự kiểm soát đường huyết kém ở những bệnh nhân đái tháo đường.

Thay đổi về trạng thái tâm thần:những biểu hiện như lo âu, cáu gắt vô cớ, mất tập trung, ngủ mê, hoặc lẫn lộn cũng đều có thể là dấu hiệu của tình trạng đường huyết rất cao, nhiễm ceton acid, hội chứng tăng áp lực thẩm thấu, hoặc hạ đường huyết. Do đó, khi thấy bất kỳ một biểu hiện nào kể trên ở những bệnh nhân đái tháo đường, cần phải gọi điện thoại cấp cứu để có được sự can thiệp của bác sĩ.

Nhìn mờ:triệu chứng này không đặc hiệu cho đái tháo đường nhưng cũng thường hay xuất hiện khi mức đường huyết lên cao.

KHI NÀO CẦN ĐẾN SỰ CAN THIỆP CỦA BÁC SĨ

Nếu bạn hoặc người quen tuy chưa biết mình có bị đái tháo đường hay không nhưng lại có bất kỳ một triệu chứng nghi ngờ nào của đái tháo đường, hãy đến gặp bác sĩ ngay khi có thể. Khi đến khám, bạn nên nói cho bác sĩ biết mối lo lắng của bạn về đái tháo đường để ông/cô ta có thể cho bạn đi làm những xét nghiệm cần thiết về đường huyết.

Nếu một bệnh nhân đã biết mình đang bị đái tháo đường, hãy đến khám ngay lập tức nếu như có những triệu chứng sau:

* Xuất hiện những triệu chứng của đái tháo đường. Điều này có nghĩa là mức đường huyết của bạn đang không được kiểm soát dù đang điều trị.

* Nồng độ đường huyết cao hơn 200 mg/dL. Nồng độ đường huyết cao kéo dài là nguồn gốc của tất cả những biến chứng do đái tháo đường.

* Nồng độ đường huyết của bệnh nhân thấp (dưới 60 mg/dL). Điều này có nghĩa là bệnh nhân đã được điều trị quá mức cần thiết. Nó cũng có thể là dấu hiệu của nhiễm trùng hoặc những stress khác của hệ thống như suy thận, suy gan, suy tuyến thượng thận, hoặc do tác dụng của những loại thuốc khác đang được sử dụng cùng lúc.

* Bệnh nhân bị vết thương ở bàn hay cẳng chân, dù nhỏ. Ngay cả một vết cắt nhỏ nhất hay một vết bỏng cũng có thể trở nên rất nghiêm trọng ở những bệnh nhân đái tháo đường. Chẩn đoán và điều trị sớm cùng với chăm sóc chân tốt là yêu cầu cần thiết để bảo tồn chức năng của chân và tránh cho bệnh nhân khỏi phải bị cắt cụt chân.

* Bệnh nhân bị sốt nhẹ (thấp hơn 38.5°C). Sốt là dấu hiệu của nhiễm trùng. Ở những bệnh nhân đái tháo đường, những nhiễm trùng thông thường có thể sẽ trở nên nguy hiểm hơn so với những người bình thường. Lưu ý đến bất kỳ triệu chứng nào, chẳng hạn như tiểu rát, đỏ hay sưng phồng da, đau bụng, đau ngực, hay ho, đó có thể là những dấu hiệu chỉ điểm vị trí của nhiễm trùng.

* Bệnh nhân bị nôn, hoặc buồn nôn nhưng cố gượng lại được. Nôn ói kéo dài có thể là dấu hiệu của nhiễm ceton acid, một tình trạng đe dọa đến tính mạng, cũng có thể là triệu chứng của một số bệnh nặng nề khác.

* Bệnh nhân có một vết loét ở bàn hay cẳng chân. Bất kỳ một vết loét nào ở bàn hay cẳng chân của người bị đái tháo đường cũng cần phải được đưa đến khám ngay lập tức. Một vết loét ngắn hơn 2.5 cm, không chảy mủ và không để lộ những mô bên dưới hoặc xương ra ngoài có thể được đánh giá một cách an toàn bởi bác sĩ nếu bệnh nhân không bị sốt và đường huyết vẫn được kiểm soát tốt.

Khi đến khám bệnh, hãy nói với bác sĩ rằng bạn đang bị đái tháo đường hoặc đang nghi ngờ về điều đó.

* Có thể bạn sẽ được đưa đến chỗ một y tá và người này sẽ hỏi bạn một số câu hỏi và cho bạn một số lời khuyên về những việc nên làm.

* Hãy chuẩn bị tốt cho cuộc trao đổi này. Lập ra một danh sách những loại thuốc bạn đang uống, những vấn đề về sức khỏe mà bạn gặp phải, những loại thuốc bạn bị dị ứng, và nồng độ đường huyết bạn đo được hằng ngày.

* Y tá có thể sẽ cần một số hoặc tất cả những thông tin trên để quyết định xem mức độ nguy cấp của bệnh và cách giải quyết tốt nhất cho vấn đề của bạn.

Những tình trạng cấp cứu

* Bệnh nhân bị biến chứng nặng do đái tháo đường cần phải được đưa đến phòng cấp cứu ngay lập tức.

* Nên để một người đi theo để trao đổi với bác sĩ nếu bệnh nhân không thể nói được.

* Mang kèm một danh sách những loại thuốc đang uống, những vấn đề về sức khỏe gặp phải, những loại thuốc bị dị ứng, và nồng độ đường huyết đo được hằng ngày của người bệnh theo đến phòng cấp cứu. Những thông tin này sẽ giúp các bác sĩ chẩn đoán được bệnh và điều trị đúng.

Dưới đây là những tình trạng cần phải đến phòng cấp cứu ngay lập tức:

Thay đổi trạng thái tâm thần:ngủ mê, lo âu, hay quên, hoặc là những hành động lạ cũng có thể là biểu hiện của mức đường huyết xuống quá thấp hay lên quá cao.

* Nếu đã biết người bệnh bị đái tháo đường, thử cho người bệnh ăn trái cây (khoảng 170 gr) hoặc bánh nếu bệnh nhân đủ tính táo để nuốt thức ăn bình thường mà không bị nghẹn. Tránh cho bệnh nhân ăn những thức ăn cứng như kẹo do nó có thể nằm lại bên trong cổ họng. Bác sĩ có thể sẽ cho ăn những loại bánh đường có thể tan được dưới lưỡi.

* Nếu bệnh nhân không thể tỉnh dậy và có ý thức bình thường được trong vòng 15 phút, hãy gọi cấp cứu.

* Nếu không biết người bệnh có bị đái tháo đường hay không, những triệu chứng trên có thể là dấu hiệu của đột quỵ, ngộ độc thuốc, ngộ độc rượu, thiếu oxy và một số tình trạng nguy hiểm khác, hãy gọi cấp cứu ngay lập tức.

Buồn nôn hoặc nôn:nếu bệnh nhân không thể nuốt thức ăn, thuốc, các chất lỏng xuống dạ dày, có thể đây là dấu hiệu của nhiễm ceton acid, hội chứng tăng áp lực thẩm thấu, hoặc những biến chứng khác của đái tháo đường.

* Nếu bệnh nhân đã được dùng liều insulin hoặc thuốc điều trị đái tháo đường đủ, không nên cho thêm mà không có ý kiến của bác sĩ.

* Nếu bệnh nhân bị hạ đường huyết, cho thêm liều insulin hoặc thuốc đái tháo đường sẽ chỉ làm cho mức đường huyết hạ xuống thấp hơn nữa, có thể là xuống đến mức nguy hiểm

Sốt cao hơn 38.5°C:đưa bệnh nhân đái tháo đường đến phòng cấp cứu nếu bị sốt cao. Lưu ý bất kỳ một triệu chứng nào khác, chẳng hạn như ho, tiểu rát, đau bụng hoặc đau ngực.

Mức đường huyết tăng cao:khi mức đường huyết tăng lên cao quá 400 mg/dL. Mức đường huyết tăng quá cao có thể là dấu hiệu của nhiễm ceton acid do đái tháo đường hoặc hội chứng tăng áp lực thẩm thấu, tùy thuộc vào type đái tháo đường nào mà bạn bị. Cả hai tình trạng trên đều có thể gây tử vong nếu không được điều trị đúng cách.

Vết loét lớn ở bàn chân hay cẳng chân:nếu bệnh nhân bị đái tháo đường có vết loét với đường kính lớn hơn 2.5 cm có thể là dấu hiệu của nhiễm trùng chi dưới.

* Những dấu hiệu và triệu chứng khác cần phải được cấp cứu là những vết thương lộ xương và mô bên dưới, một khu vực lớn xung quanh bị đỏ tấy, nóng, sưng và đau nhiều ở bàn hay cẳng chân.

* Nếu không điều trị thì có thể sẽ buộc phải cắt cụt chi dưới.

Vết cắt hay vết đứt: bất kỳ một vết cắt nào làm xuyên thủng tất cả các lớp da, đặc biệt là ở cẳng chân đều có khả năng gây nguy hiểm cho bệnh nhân đái tháo đường. Chăm sóc vết thương tốt đặc biệt quan trọng đối với bệnh nhân bị đái tháo đường để bảo đảm vết thương có thể lành tốt.

Đau ngực: nếu bệnh nhân đái tháo đường bị đau ngực nặng nề, đặc biệt là ở giữa hoặc ở ngực trái, hãy đến khám bệnh ngay lập tức.

* Bệnh nhân bị đái tháo đường dễ bị cơn suy tim cấp hơn là những người bình thường, có thể có đau ngực hoặc không.

* Nhịp tim bất thường hoặc nhịp thở ngắn không rõ nguyên nhân cũng có thể là dấu hiệu của cơn suy tim cấp.

Đau bụng nặng nề: tùy thuộc vào vị trí đau, đây có thể là dấu hiệu của cơn suy tim cấp, phình động mạch chủ bụng, nhiễm ceton acid, máu không đến được ruột.

* Tất cả những tình trạng trên thường gặp ở bệnh nhân đái tháo đường hơn ở người bình thường và có khả năng đe dọa mạng sống.

* Những người bị đái tháo đường cũng có thể bị đau bụng do những nguyên nhân hay gặp khác như viêm ruột thừa, loét thủng, viêm và nhiễm trùng túi mật, sỏi niệu, tắc ruột.

* Đau nặng ở bất kỳ nơi nào trên cơ thể cũng đều là dấu hiệu báo động cần phải đi khám bệnh.

LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG

Bác sĩ có thể cho những xét nghiệm đặc hiệu trong chẩn đoán đái tháo đường và cũng có thể kiểm tra mức độ kiểm soát đường huyết ở những bệnh nhân đái tháo đường.

Nếu bệnh nhân có triệu chứng nghi ngờ nhưng chưa được chẩn đoán là đái tháo đường lần nào thì luôn cần phải đánh giá một cách đầy đủ bằng cách hỏi bệnh sử và thăm khám lâm sàng. Bác sĩ sẽ đánh giá bệnh nhân về những triệu chứng, yếu tố nguy cơ đối với đái tháo đường, những bệnh đã bị trước đây, những loại thuốc hiện đang dùng, các thuốc bị dị ứng, gia đình có ai bị đái tháo đường hay không và những vấn đề về sức khỏe khác chẳng hạn như cholesterol cao hoặc bệnh tim mạch, và thói quen cá nhân cùng với lối sống.

Một số xét nghiệm có thể được sử dụng để xác định chẩn đoán.

Thử đường huyết trên ngón tay:đây là một xét nghiệm dùng để tầm soát nhanh và có thể thực hiện được ở bất kỳ đâu.

* Xét nghiệm này không cho kết quả chính xác bằng cách thử máu bệnh nhân ở phòng xét nghiệm nhưng dễ thực hiện và cho kết quả ngay lập tức.

* Xét nghiệm được thực hiện bằng cách đâm vào ngón tay của bệnh nhân để lấy mẫu máu, sau đó đặt vào một que thử, đưa que thử vào máy để đọc kết quả đường huyết. Máy thử chỉ cho kết quả chính xác trong khoảng 10% so với giá trị thực được đo ở phòng xét nghiệm.

* Xét nghiệm này có thể cho kết quả thiếu chính xác hoặc quá cao hoặc quá thấp, do đó nó chỉ được dùng trong những nghiên cứu tầm soát sơ bộ. Đây là cách mà hầu hết những bệnh nhân bị đái tháo đường dùng để theo dõi đường huyết tại nhà.

Thử đường huyết lúc đói:bệnh nhân được yêu cầu không được ăn uống bất kỳ thứ gì trong vòng 8 giờ trước khi lấy máu (thường là vào đầu buổi sáng). Nếu nồng độ đường huyết bằng hoặc cao hơn 126 mg/dL mà không ăn uống gì, có thể bệnh nhân đã bị đái tháo đường.

* Nếu kết quả bất thường, xét nghiệm này sẽ được thực hiện lại vào một ngày khác để khẳng định lại kết quả, hoặc bệnh nhân sẽ được cho thử test dung nạp glucose qua đường uống hoặc cho đo glycosylated hemoglobin (còn được gọi là hemoglobin A1c) để xác định chẩn đoán.

* Nếu kết quả đường huyết cao hơn 100 nhưng thấp hơn 126 mg/dL, bệnh nhân được chẩn đoán là rối loạn đường huyết lúc đói (IFG - impaired fasting glucose). Đây được xem là giai đoạn tiền đái tháo đường. Bệnh nhân không bị đái tháo đường nhưng có nguy cơ cao tiến triển thành đái tháo đường trong một tương lai gần.

Test dung nạp glucose qua đường uống:cách thực hiện bao gồm: lấy máu để thử đường huyết lúc đói, sau đó lấy máu lần thứ hai 2 giờ sau khi uống nước có chứa 75 gr đường.

* Nếu đường huyết sau khi uống nước đường cao hơn hoặc bằng 200 mg/dL thì có thể kết luận bệnh nhân bị đái tháo đường.

* Nếu đường huyết nằm trong khoảng 140 - 199, thì bệnh nhân được chẩn đoán là giảm dung nạp glucose (IGT - Impaired glucose tolerance), đây cũng được xem là giai đoạn tiền đái tháo đường.

Glycosylated hemoglobin hoặc hemoglobin A1c:đây là xét nghiệm đo nồng độ đường trong máu trong vòng 120 ngày trước đó (dựa vào đời sống trung bình của hồng cầu).

* Glucose thừa trong máu bị gắn vào hemoglobin trong hồng cầu và nằm ở đó trong suốt giai đoạn sống của hồng cầu.

* Người ta có thể đo được tỷ lệ hemoglobin có gắn glucose thừa trong máu. Xét nghiệm này cũng cần phải lấy một ít máu làm mẫu thử.

* Xét nghiệm hemoglobin A1c (HbA1c) là phương pháp tốt nhất để kiểm tra mức độ kiểm soát đường huyết ở bệnh nhân bị đái tháo đường. HbA1c cho kết quả bằng hoặc thấp hơn 7% có nghĩa là đường huyết được kiểm soát tốt. Nếu kết quả bằng hoặc cao hơn 8% cho biết đường huyết đã tăng quá cao trong thời gian dài.

* HbA1c có ích trong theo dõi bệnh hơn là trong chẩn đoán bệnh. Mặc dù vậy, HbA1c cho kết quả cao hơn 6.1% gợi ý nhiều đến đái tháo đường. Thông thường thì trong trường hợp đó cần phải thực hiện một xét nghiệm khác có tính xác nhận trước khi có thể chẩn đoán là bệnh nhân đã bị đái tháo đường.

* Thường xét nghiệm này sẽ được thực hiện mỗi 3 đến 6 tháng ở những bệnh nhân đái tháo đường và nó được thực hiện thường xuyên hơn đối với những người gặp khó khăn trong kiểm soát đường huyết.

* Xét nghiệm này không được dùng cho những người không bị đái tháo đường hoặc không bị gia tăng nguy cơ đái tháo đường.

* Giá trị bình thường của xét nghiệm này thay đổi tùy theo các phòng xét nghiệm mặc dù đã có sự nỗ lực để chuẩn hóa các phương thức thực hiện.

Chẩn đoán các biến chứng của đái tháo đường

Bệnh nhân bị đái tháo đường cần phải được kiểm tra thường xuyên để phát hiện ra những dấu hiệu sớm của biến chứng và đôi khi cũng cần phải có sự tham gia của các bác sĩ chuyên khoa.

* Bệnh nhân nên được khám mắt định kỳ ít nhất 1 lần mỗi năm bởi bác sĩ nhãn khoa để tầm soát bệnh lý võng mạc do đái tháo đường có thể dẫn đến mù.

* Cần phải thử nước tiểu để tìm protein (microalbumin) ít nhất một hoặc 2 lần mỗi năm. Sự xuất hiện của protein trong nước tiểu là dấu hiệu sớm của bệnh lý về thận của đái tháo đường, có thể gây ra suy thận.

* Cũng cần nên kiểm tra cảm giác chân thường xuyên bằng âm thoa hoặc bằng một dây đơn. Bệnh lý thần kinh do đái tháo đường có thể gây loét ở chi dưới và thường dẫn đến việc phải cắt cụt bàn hoặc cẳng chân.

* Bác sĩ cũng sẽ kiểm tra bàn chân, phần dưới cẳng chân để phát hiện ra những vết đứt, vết xước, vết phỏng hoặc những tổn thương khác có thể bị nhiễm trùng.

* Bệnh nhân cũng sẽ được tầm soát thường xuyên những tình trạng có thể dẫn đến bệnh lý tim mạch như cao huyết áp, tăng cholesterol.

ĐIỀU TRỊ

Tại nhà

Nếu bạn bị đái tháo đường, cần phải chọn một lối sống có lợi cho sức khỏe ở chế độ ăn, luyện tập thể dục và những thói quen sức khỏe khác. Chúng sẽ giúp bạn cải thiện khả năng kiểm soát đường huyết và ngăn ngừa hoặc làm giảm thiểu các biến chứng do đái tháo đường.

Chế độ ăn: một chế độ ăn lành mạnh là bí quyết để kiểm soát đường huyết và ngăn ngừa biến chứng.

* Nếu bệnh nhân bị béo phì và gặp khó khăn trong chuyện tự giảm cân, hãy nói chuyện với bác sĩ để được giới thiệu đến một chuyên gia về dinh dưỡng hoặc một chế độ giảm cân có thể giúp bệnh nhân đạt được mục đích.

* Ăn một bữa ăn cân bằng, thường xuyên và giàu chất xơ, ít chất béo bão hõa, ít đường.

* Chế độ ăn đều đặn có cùng một lượng calori, cùng một thời điểm trong ngày vào mỗi ngày giúp cho bác sĩ có thể kê toa thuốc điều trị đái tháo đường hoặc insulin với một liều lượng chính xác.

* Nó cũng giúp giữ đường huyết ở mức bình thường và tránh làm đường huyết hạ xuống quá thấp hoặc tăng quá cao có thể gây nguy hiểm hoặc thậm chí là đe dọa tính mạng.

Tập thể dục: luyện tập thể dục thường xuyên, bất kỳ hình thức nào đều có thể làm giảm nguy cơ bị đái tháo đường. Các hoạt động thể lực cũng giúp là giảm nguy cơ bị các biến chứng của đái tháo đường như bệnh tim mạch, đột quỵ, suy thận, mù hoặc loét chân.

* Đi bộ ít nhất 20 phút, 3 lần mỗi tuần đã được chứng minh là có hiệu quả tốt. Bất kỳ một bài tập luyện nào cũng có ích, không cần thiết là phải kéo dài hay nặng nề.

* Nếu bệnh nhân bị những biến chứng của đái tháo đường (mắt, thận hoặc thần kinh), họ có thể sẽ bị giới hạn về thể loại cũng như số lượng các bài tập để bảo đảm an toàn, tránh làm tình trạng trở nên nặng nề hơn. Nên đến gặp bác sĩ nhờ tư vấn trước khi bắt đầu chương trình luyện tập.

Uống rượu: hạn chế uống rượu. Cố gắng uống ít hơn 7 ly mỗi tuần và không bao giờ uống nhiều hơn 2 hay 3 ly mỗi tối với 1 ly theo tiêu chuẩn quy định là bằng 45ml rượu, 170ml rượu vang, hoặc 340ml bia. Uống rượu quá nhiều được xem là yếu tố nguy cơ của đái tháo đường type 2. Uống rượu có thể gây tăng hay hạ đường huyết, đau dây thần kinh (còn được gọi là viêm dây thần kinh), tăng triglyceride vốn là một loại chất béo có trong máu.

Hút thuốc:nếu bệnh nhân đái tháo đường có hút thuốc hoặc dùng bất kỳ dạng nào của thuốc lá đều có thể tăng nguy cơ của hầu hết các biến chứng của đái tháo đường. Thuốc lá có thể làm tổn thương các mạch máu và dẫn đến bệnh tim, đột quỵ, kém tưới máu đến các chi.

Tự theo dõi đường huyết:kiểm tra đường huyết thường xuyên, ít nhất là trước một bữa ăn và vào lúc đi ngủ sau đó ghi lại vào sổ.

* Cũng có thể ghi thêm vào sổ những thông tin như: liều lượng insulin và thuốc điều trị đái tháo đường mà bạn sử dụng, bạn đã ăn cái gì, vào lúc nào, bạn tập luyện lúc nào, trong bao lâu, những sự kiện quan trọng diễn ra trong ngày chẳng hạn như tăng hay giảm đường huyết và cách điều trị như thế nào.

* Hiện nay đã có những thiết bị giúp thử đường huyết ít đau hơn và ít phức tạp hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, cuốn nhật ký theo dõi đường huyết mỗi ngày là không có ích đối với bác sĩ để kiểm tra xem bệnh nhân có đáp ứng với thuốc, chế độ ăn hay chế độ tập luyện hay không.

Tại cơ sở y tế

Phương thức điều trị thay đổi theo từng bệnh nhân, tùy thuộc vào type đái tháo đường mà bệnh nhân đó mắc phải, những bệnh khác mà bệnh nhân đó đang bị, có bị biến chứng của đái tháo đường hay chưa, tuổi tác, tình trạng sức khỏe chung của bệnh nhân ở thời điểm được chẩn đoán.

* Có thể bác sĩ sẽ đặt cho bạn những mục tiêu để thay đổi lối sống, kiểm soát đường huyết và điều trị.

* Bệnh nhân và bác sĩ sẽ phải làm việc chung với nhau để cho ra một kế hoạch có thể giúp đạt được những mục tiêu đó.

Đái tháo đường type 1

Điều trị đái tháo đường luôn bao gồm tiêm insulin mỗi ngày, thường là kết hợp giữa insulin tác dụng ngắn [chẳng hạn như lispro (Humalog) hay aspart (NovoLog)] với insulin tác dụng dài [chawngr hạn như NPH, Lente, Glargine (Lantus), detemir, hoặc ultralente].

* Insulin phải được đưa vào cơ thể qua đường tiêm vì nếu đưa vào bằng đường miệng nó sẽ bị hủy bởi dạ dày trước khi vào máu.

* Hầu hết những người bị đái tháo đường type 1 đều có thể tự tiêm insulin cho mình. Ngay cả khi thường được người khác tiêm insulin thì họ cũng cần phải biết cách tự tiêm cho mình trong những trường hợp không nhờ người giúp được,

* Có thể bạn sẽ được huấn luyện cách bảo quản và tiêm insulin thường là bởi các y tá.

* Insulin thường được tiêm 2 hoặc 3 mũi mỗi ngày, thường là trong khoảng thời gian xung quanh bữa ăn. Liều lượng thay đổi tùy theo nhu cầu của bệnh nhân được đánh giá bởi bác sĩ. Insulin tác dụng kéo dài thường được tiêm 1 hay 2 lần mỗi ngày.

* Một số người được tiêm insulin qua một máy bơm liên tục để kiểm soát được đường huyết tốt nhất. Máy bơm sẽ được lập trình để thêm liều insulin phụ vào thời gian ăn bởi bệnh nhân dưới sự hướng dẫn của bác sĩ.

* Điều quan trọng cần phải nhớ là phải ăn nếu đang sử dụng insulin vì insulin sẽ làm giảm lượng đường huyết bất kể là bệnh nhân có ăn hay không. Nếu tiêm insulin mà không ăn sẽ dẫn đến hạ đường huyết. Hiện tượng này được gọi là phản ứng insulin.

* Ghi lại chỉ số đường huyết và liều insulin là điều cốt yếu trong việc điều trị bệnh đái tháo đường.

* Ăn với một chế độ ăn đều đặn, khỏe mạnh và phù hợp với kích cỡ và cân nặng của bệnh nhân là điều kiện cơ bản để kiểm soát đường huyết.

Đái tháo đường type 2

Tùy thuộc vào mức độ tăng của đường huyết và HbA1c tại thời điểm chẩn đoán, bệnh nhân có thể có cơ hội hạ thấp mức đường huyết mà không cần dùng thuốc.

* Cách tốt nhất để làm điều này là giảm cân nếu bạn bị béo phì và bắt đầu tập thể dục.

* Thường sẽ được thử trong vòng 3 đến 6 tháng, sau đó bệnh nhân sẽ được đo đường huyết và HbA1c lại. Nếu các trị số trên vẫn còn cao, bệnh nhân sẽ phải bắt đầu dùng thuốc uống, thường là sulfonylurea hay biguanide [metformin (Glucophage)].

* Ngay cả khi đang được sử dụng thuốc thì chế độ ăn cũng rất quan trọng để giảm cân nếu như bạn đang bị thừa cân, ngoài ra cũng nên thực hiện các hoạt động thể lực càng thường xuyên càng tốt.

* Bác sĩ sẽ theo dõi bệnh nhân một cách cẩn thận trong giai đoạn đầu sử dụng thuốc do việc cho vừa đúng liều lượng và đúng loại thuốc là rất quan trọng để đưa đường huyết về giới hạn bình thường mà có ít tác dụng phụ nhất.

* Bác sĩ cũng có thể quyết định phối hợp 2 loại thuốc lại với nhau để kiểm soát tốt đường huyết.

* Dần dần thì ngay cả bệnh nhân bị đái tháo đường type 2 cũng cần phải tiêm insulin để giữ đường huyết ở mức bình thường.

* Những trường hợp bệnh nhân bị đái tháo đường type 2 phải sử dụng phối hợp thuốc uống với tiêm insulin để kiểm soát tốt đường huyết đang ngày càng trở nên phổ biến hơn.

Các loại thuốc

Nhiều loại thuốc khác nhau được sử dụng để làm giảm lượng đường trong máu ở bệnh nhân đái tháo đường type 2. Mỗi loại có các cơ chế tác dụng khác nhau. Thường thì các bác sĩ sẽ phối hợp 2 hay nhiều loại thuốc để cho hiệu quả tốt nhất với tác dụng phụ ít nhất.

* Sulfonylureas: có tác dụng kích thích tụy sản xuất nhiều insulin hơn.

* Biguanide: có tác dụng làm gan giảm sản xuất glucose.

* Ức chế Alpha-glucosidase: giúp làm giảm hấp thu tinh bột khi ăn do đó làm cho quá trình sản xuất glucose bị chậm lại.

* Thiazolidinedione: giảm độ nhạy cảm đối với insulin.

* Meglitinide: kích thích tụy sản xuất nhiều insulin hơn.

* Dẫn xuất D - phenylalanine: kích thích tụy sản xuất insulin nhiều hơn và nhanh hơn.

* Dẫn xuất Amylin nhân tạo: amylin là một loại hormon tự nhiên được tụy tiết ra cùng với insulin. Dẫn xuất của amylin, chẳng hạn như pramlintide (Symlin), được chỉ định khi đường huyết không được kiểm soát mặc dù đã được điều trị bằng insulin một cách tốt nhất. Pramlintide được tiêm dưới da cùng lúc với insulin để giúp đạt được mức đường huyết thấp sau bữa ăn, giảm sự dao động của đường huyết trong cả ngày và cải thiện tình trạng hemoglobin A1c.

* Những loại thuốc mô phỏng chất nội tiết: có khả năng tăng cường hoạt động tiết insulin của tụy và mô phỏng một số cơ chế tự nhiên làm giảm lượng đường có trong máu của cơ thể. Exenatide (Byetta) là thuốc mô phỏng chất nội tiết đầu tiên được chấp nhận tại Hoa Kỳ. Nó được chỉ định cho những bệnh nhân đái tháo đường type 2, được cho kèm với metformin hoặc sulfonylurea khi 2 loại thuốc này không đủ khả năng kiểm soát đường huyết một mình.

* Insulin: tại Hoa Kỳ thì chỉ có Human insulin (insulin người) là loại insuline duy nhất được chấp nhận vì nó ít gây ra những phải ứng dị ứng hơn những loại insulin có người gốc động vật. Loại insulin được chọn lựa để điều trị cho từng người dựa vào mục tiêu kiểm soát được mức đường huyết ở giá trị tối ưu. Các loại insulin được phân loại dựa trên thời gian bắt đầu có tác dụng và thời gian tác dụng kéo dài của nó. Có những chế phẩm thương mại kết hợp một vài loại insulin chung với nhau cũng có thể được dùng để kiểm soát được mức đường huyết cơ bản hoặc có thể cho tác dụng kiểm soát ngay lập tức.

o Insulin tác dụng nhanh:

o

+ Regular insulin (Humulin R, Novolin R)

+ Insulin lispro (Humalog)

+ Insulin aspart (Novolog)

+ Insulin glulisine (Apidra)

+ Prompt insulin zinc (tác dụng bán chậm)

o Insulin tác dụng tức thời:

+ Isophane insulin, neutral protamine Hagedorn (NPH) (Humulin N, Novolin N)

+ Insulin zinc (Lente)

o

Insulin tác dụng kéo dài:

+ Extended insulin zinc insulin (Ultralente)

+ Insulin glargine (Lantus)

+ Insulin detemir (Levemir)

NHỮNG BƯỚC TIẾP THEO

Tuân thủ điều trị

* Tuân thủ theo những hướng dẫn điều trị của bác sĩ. Lưu lại chỉ số đường huyết theo hướng dẫn bao gồm: thời điểm kiểm tra, đã sử dụng bao nhiêu thuốc và bao nhiều insulin rồi, ăn khi nào và ăn cái gì, đã tập thể dụng lúc nào và trong bao lâu. Gọi cho bác sĩ nếu như bệnh nhân gặp bất kỳ vấn đề nào về điều trị hoặc có những triệu chứng gợi ý về kiểm soát đường huyết không tốt.

* Thường xuyên đi khám bệnh.

* Nếu bệnh nhân đang sử dụng insulin thì nên đến khám sau mỗi 3 tháng hoặc sớm hơn. Đối với những trường hợp khác, nên đến khám sau mỗi 3 đến 6 tháng là đủ trừ khi xuất hiện một triệu chứng nào đó

* Nhận biết được các triệu chứng hạ đường huyết và biết cách điều trị.

* Bệnh nhân và gia đình nên được hướng dẫn cách nhận biết những dấu hiệu và triệu chứng của hạ đường huyết. Bệnh nhân nên có một bảng hướng dẫn rõ ràng về cách điều trị hạ đường huyết và biết cách gọi cấp cứu. Có những triệu chứng nhẹ như lú lẫn, vã mồ hôi cũng có thể tiến triển thành hôn mê, hoặc thâm chí là tai biến.

Phòng ngừa

Hiện thời chúng ta vẫn chưa biết các phòng đái tháo đường type 1, tuy nhiên đái tháo đường type 2 có thể phòng ngừa được trong một số trường hợp.

* Kiểm soát cân nặng ở mức bình thường hoặc gần bình thường bằng cách ăn ít mỡ, giàu chất xơ.

* Thường xuyên tập luyện thể dục là cách cốt yếu để phòng đái tháo đường type 2.

* Uống ít rượu.

* Bỏ hút thuốc.

* Uống thuốc nếu như bạn có những chỉ số mỡ trong máu cao (chẳng hạn như cholesterol cao).

* Thay đổi lối sống và/hoặc một số loại thuốc có thể được sử dụng ở những bệnh nhân tiền đái tháo đường có thể ngăn chặn tiến triển thành đái tháo đường. Có thể chẩn đoán được tiền đái tháo đường bằng cách thử đường huyết lúc đói và 2 giờ sau khi uống 75 gr glucose.

Nếu bạn đã bị đái tháo đường, nên tập trung vào việc phòng ngừa những biến chứng, có thể gây ra những tàn phế nghiêm trọng như mù, suy thận cần phải lọc thận, đoạn chi, hoặc thậm chí là tử vong.

* Kiểm soát chặt đường huyết: cách tốt nhất mà bệnh nhân có thể làm là kiểm soát mức đường huyết ở mức được các bác sĩ đề nghị mỗi ngày. Cách duy nhất để làm được điều đó là kết hợp giữa kiểm soát đường huyết thường xuyên, chế độ ăn cân bằng ít đường đơn và chất béo và nhiều carbohydrate và chất xơ cùng với những biện pháp điều trị y khoa thích hợp. Hãy nhờ những chuyên gia dinh dưỡng tham vấn hoặc hỏi các bác sĩ nếu như bạn có thắc mắc gì đó về chế độ ăn.

* Bỏ hút thuốc.

* Giữ cân nặng ở mức tốt nhất.

* Gia tăng các hoạt động thể lực, hướng đến mục tiêu thực hiện những hoạt động thể lực trong ít nhất 30 phút mỗi ngày.

* Uống đủ nước và tránh ăn quá nhiều muối.

* Cũng cần nên chú ý đến da, giữ cho nó được sạch sẽ để tránh loét và tổn thương có thể dẫn đến nhiễm trùng nặng.

* Đánh răng mỗi ngày. Đi khám nha thường xuyên để phòng ngừa những bệnh về lợi.

* Rửa chân và kiểm tra mỗi ngày, tìm những vết đứt nhỏ hoặc những vết loét, chúng có thể gây rắc rối cho bạn sau này. Nên giũa móng tay tay vì cắt để tránh tổn thương vùng da xung quanh.

Tiên lượng

Đái tháo đường là nguyên nhân dẫn đến tử vong nhiều nhất ở những nước đã được công nghiệp hóa. Nhìn chung, những bệnh nhân bị đái tháo đường có nguy cơ chết sớm cao gấp 2 lần so với người không bị. Tiên lượng tùy thuộc vào type đái tháo đường, mức độ kiểm soát đường huyết và tiến triển của các biến chứng.

Đái tháo đường type 1

Khoảng 15% bệnh nhân bị đái tháo đường type 1 chết trước 40 tuổi, cao gấp khoảng 20 lần tỷ lệ ở những người bình thường cùng độ tuổi.

* Nguyên nhân gây tử vong thường gặp nhất là nhiễm ceton acid, suy thận và bệnh tim mạch.

* Tuy nhiên điều may mắn là những người này có thể cải thiện được tiên lượng cho chính mình bằng cách kiểm soát tốt đường huyết. Kiểm soát chặt đường huyết đã được chứng mình là có thể ngăn ngừa và làm chậm lại diễn tiến của các biến chứng, hoặc thậm chí là cải thiện được những biến chứng đã có của đái tháo đường type 1.

Đái tháo đường type 2

Khả năng sống còn của những bệnh nhân được chẩn đoán là đái tháo đường type 2 giảm xuống khoảng 5 - 10 năm khi họ ở độ tuổi 40 bởi bệnh tật.

* Bệnh tim mạch là nguyên nhân gây tử vong thường gặp nhất ở bệnh nhân đái tháo đường type 2.

* Kiểm soát tốt đường huyết và giữ nồng độ cholesterol "xấu" (LDL) ở dưới mức 100 mg/dL (hoặc thấp hơn, đặc biệt trong trường hợp có những yếu tố nguy cơ khác của bệnh tim mạch), và nồng độ cholesterol "tốt" cao nhất có thể. Sử dụng aspirin khi được chỉ định có thể ngăn ngừa, làm chậm lại hoặc cải thiện được những biến chứng ở những bệnh nhân đái tháo đường.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro