dai tranh chi the 3

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Sở Vương vừa nghe thấy vội nói: "Không sai, Khánh Kỵ vương tử, Dĩnh Đô, quả nhân nhất định phải đánh trở về, không rửa sạch nỗi nhục này, quả nhân sẽ thẹn với thiên hạ. Về phần kết minh song phương giữa chúng ta, vương tử có thể thương nghị tỉ mỉ với Phí thiếu phó, rồi nói lại với quả nhân để quân thần nghị luận."

"Khánh Kỵ tuân mệnh!" Khánh Kỵ vái chào thật sâu, chuyển mắt nhìn sang Phí Vô Cực...

Trên sườn núi, Khánh Kỵ sóng vai đứng cạnh Phí Vô Cực, trong sơn cốc ẩn hiện có lá cờ phiêu động, đó chính là địa phương mà quân Sở đóng quân.

"Phí thiếu phó, đã ở trước mặt rồi thì không nói lời giả, nơi này cũng chỉ có ta và ngài, Khánh Kỵ muốn thẳng thắn thành thật, có vài lời muốn nói cho thiếu phó biết."

"Điện hạ mời nói." Phí Vô Cực sắc mặt âm trầm, vui buồn không hiện lên trên mặt, nhìn không ra tâm ý đích thực của hắn.

"Phí thiếu phó, chúng ta có cùng địch nhân, trong tay Khánh Kỵ hiện tại có ba vạn tinh binh, hơn nữa nếu đối địch với quân Ngô, dựa vào thân phận của Khánh Kỵ cùng uy vọng trong quân Ngô lúc xưa, thiếu phó nên biết Khánh Kỵ sẽ có tác dụng lớn đến thế nào. Nước Sở hiện giờ thật sự không cần hợp tác với Khánh Kỵ sao?

Phí thiếu phó, Nang Ngõa nắm giữ quân sự và chính trị nước Sở hơn mười năm, gây ra rất nhiều thù oán, hiện giờ quân Ngô đánh vào Dĩnh Đô, quân Sở đại bại, ngay cả Sở Vương cũng phải chạy sang nước Tùy tị nạn. Nhìn khắp các nước lớn trong thiên hạ, còn chưa từng có quốc gia nào xảy ra chuyện thủ đô bị đánh phá, quốc quân phải bỏ chạy thảm hại như vậy. Chưa nói tới việc nước Sở sau này làm sao tìm được chỗ đứng trong thiên hạ chư hầu, bây giờ ngay cả những quần thần bên trong nước Sở phải làm sao để ổn định được sự phẫn nộ của quần chúng còn chưa biết. Hết thảy những điều này, hiện giờ còn chưa có thời gian để phân tích kĩ, sau khi Cơ Quang lui binh, đương nhiên sẽ phải tính toán rành mạch.

Nang Ngõa đã chết, thiếu phó nghĩ rằng có thể đổ hết mọi tội lỗi lên đầu Nang Ngõa sao? Đừng quên, thiếu phó cùng Yên Tương Sư, ngày xưa qua lại thân mật với Nang Ngõa, cùng tiến cùng lui, trên dưới nước Sở ai mà chẳng biết? Nếu như thiếu phó không lập được công trong trận chiến đuổi Ngô này, thiếu phó nghĩ rằng sau khi trở về Dĩnh Đô, địa vị của ngài sẽ còn vững chắc như thế này sao? Nhưng mà thiếu phó nếu trong trận chiến này lập công lớn, khi đó mọi người sẽ đều trọng vọng ngài, cũng thay thế vị trí Nang Ngõa, trở thành Sở quốc Lệnh Duẫn, đó là chuyện rất hợp lí lẽ. Khánh Kỵ muốn kết minh với Sở Vương, tất nhiên là cũng có tư tâm, với Sở quốc, với thiếu phó ngài, không phải cũng là một cơ hội hay sao?"

Phí Vô Cực ánh mắt chợt lóe, hồi lâu mới nói: "Nếu muốn kết minh, không phải không thể. Lão phu có năm vấn đề, nếu điện hạ có thể khiến cho lão phu hài lòng, lão phu liền sẽ dốc sức thúc đẩy nước Sở kết minh với điện hạ, cùng chiến đấu với quân Ngô!"

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 186: Thiên hạ náo nhiệt (Thượng Trung Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Phí Vô Cực nói: "Cơ Quang ở Dĩnh Đô ta gây nhiều việc ác, phàm là người nước Sở, ai cũng nghiến răng thống hận, các đội quân cần vương từ các nơi đang lần lượt tới rồi, chờ đại quân tập hợp, tất sẽ thề sống chết một trận chiến, đuổi bọn giặc Ngô. Điện hạ cùng người Sở ta cùng chung mối thù, cũng có đại cừu hận với Hạp Lư, có một số việc, ta cũng không cần phải giấu diếm ngài. Thái hậu của quốc vương nước Sở ta là trưởng công chúa của nước Tần, trước khi lão phu bảo hộ Đại vương tới tránh ở Cửu Phượng cốc, đã điều đại phu Thân Bao Tư sang nước Tần cầu viện, nếu nước Tần chịu xuất binh tương trợ, hợp với lực lượng quân Sở, cũng đủ để đuổi đi quân Ngô. Nay lại kết minh với công tử, lại càng thêm nhiều viện trợ, chỉ có điều không biết đại quân của công tử khi nào thì có thể tới Sở quốc?"

Khánh Kỵ thầm nghĩ, Phí Vô Cực nói tin tức hắn sai sứ sang Tần cầu viện binh, là muốn tăng thêm cân lượng, tranh thủ thêm được nhiều lợi ích, chỉ có điều không biết hắn muốn nhiều ít bao nhiêu. Nang Ngõa, Phí Vô Cực, Yên Tương Sư ba người, đều nổi danh lòng tham không đáy, nếu là đòi ưu đãi cho cá nhân thì chẳng sao cả, chỉ sợ là có thêm yêu cầu về đất đai lãnh thổ, thì đó là vô cùng khó xử.

Khánh Kỵ đề khởi tinh thần, cẩn thận nói: "Không dối gạt Phí thiếu phó, Khánh Kỵ trước khi tới đây, cũng đã có chuẩn bị, sớm ấn định cho dù có tương trợ cho nước Sở hay không, đều phải tháng ba năm sau xuất binh phạt Ngô. Nay đã kết minh với nước Sở, ngày xuất binh đương nhiên càng sớm càng tốt, chỉ cần chính thức kí kết minh ước với Sở vương, có được ấn tỷ (đóng dấu) của Sở vương, Khánh Kỵ lập tức sẽ sai người điều binh, trong vòng hai mươi ngày, đại quân tiên phong của ta sẽ tới trước mặt thiếu phó."

" Tốt!" Phí Vô Cực ánh mắt sáng ngời, người Tần có chịu xuất binh hay không, trong lòng hắn thực không nắm chắc, hiện giờ đã có Khánh Kỵ tự mình đưa đến cửa, hắn cũng sẽ không nguyện ý cự tuyệt sự giúp đỡ cường đại này ngoài cửa, hai người đều có mưu mô, hắn lại hỏi: "Hai quân kết minh, kề vai chiến đấu, cũng cần phải có một vài hiệu lệnh thống nhất, cùng tiến cùng lui, thống nhất quản lí. Nếu không có sự chi phối, sẽ không khác gì năm bè bảy mảng. Tới khi... đại quân song phương hội hợp, ai sẽ là chủ soái thống lãnh toàn quân?"

Khánh Kỵ mỉm cười, thong dong đáp: "Khánh Kỵ mang danh vũ dũng, có điều do thân là vương tử Ngô quốc, nên những thủ hạ cứ cố tình thổi phồng ra mà thôi. Còn nữa, một kẻ vũ dũng cũng không nhất định có thể làm Thống soái ba quân, đã tác chiến ở nước Sở, đương nhiên phải lấy quân Sở làm chính. Về phần chọn người nào làm Thống soái ba quân, Khánh Kỵ nghe theo an bài của Sở Vương điện hạ."

Phí Vô Cực âm thầm thở phào nhẹ nhõm, danh vũ dũng của Khánh Kỵ truyền khắp thiên hạ, chính mình xưa nay cũng không sở trường về chính trị, nếu để Khánh Kỵ đảm nhận Thống soái toàn quân, đó cũng là điều mọi người hướng tới, có điều công lao của mình lại vơi đi phân nửa. Hắn muốn nghe theo an bài của Sở Vương, he he... Về phía Sở Vương còn không phải do tự ta định đoạt hay sao.

Nghĩ đến đó, trên khuôn mặt Phí Vô Cực lộ ra vẻ vui vẻ, trước tiên giải quyết ích lợi cá nhân, sau đó hắn mới bắt đầu suy nghĩ chỗ tốt cho nước Sở, trầm ngâm một lát rồi nói: "Đã kết minh, đương nhiên phải cùng tiến cùng lui, trợ giúp lẫn nhau. Chỉ có điều... Một khi đuổi quân Ngô ra khỏi biên giới, quân Sở ta có còn phải nhận nghĩa vụ trợ giúp điện hạ phục quốc không?"

Khánh Kỵ xúc động nói: "Điều này cũng không nhất định, có thể đánh bại quân Ngô, khiến cho danh vọng của Cơ Quang bị đè xuống, mất đi quân uy, đối với Khánh Kỵ mà nói, đã là một sự trợ giúp rất lớn. Nếu có một đội quân nhân nghĩa của nước Sở tương trợ phục quốc, đương nhiên là chuyện tốt cầu còn không được. Có điều trong lòng Khánh Kỵ cũng hiểu được, Ngô Sở bởi vì những năm qua tranh giành đất đai, lẫn nhau có nhiều khúc mắc, trên chiến trường chém giết giữa các sĩ tốt khó tránh khỏi kết thù kết oán, nếu cưỡng ép quân Sở giúp ta phạt Ngô, chỉ sợ các tướng sĩ cũng sẽ không hết mình. Còn nữa, phía Sở nếu chịu cắt quân trợ giúp, chỉ sợ các tiểu quốc phụ thuộc cũng sẽ rục rịch, lại cần đại quân trấn áp, mượn quân Sở mà phục nước Ngô... Khánh Kỵ sẽ không đề ra yêu cầu quá mức này."

"Ồ..." Một khi đuổi được Cơ Quang khỏi biên giới, điều Phí Vô Cực để ý chỉ là giúp Sở Vương về Dĩnh Đô, mượn danh Sở Vương phong thưởng bốn phương, khiến cho những thân tín của mình đều thay thế cho người của Nang Ngõa, từ lão Nhị nhảy lên thành lão Đại, nếm thử hương vị nở mày nở mặt. Giúp Khánh Kỵ phạt Ngô, cũng không có chỗ tốt nào, hắn cũng không muốn bị chuyện này ước thúc, nhỡ đâu chiến trận phạt Ngô kéo dài, chẳng phải cũng sẽ kéo theo mình mắc cùng một chỗ sao. Nếu Khánh Kỵ chỉ cần hắn ở trong biên giới Sở quốc mạnh mẽ đả kích lực lượng của Cơ Quang, vậy thì dễ dàng đồng ý rồi.

Khóe miệng Phí Vô Cực lộ ra một tia cười giả dối, nói: "Bốn đáp án này của điện hạ, rất hợp ý Phí mỗ, vẫn còn một chuyện cuối cùng muốn nói với điện hạ. Ngô Sở hai nước, mỗi bên chiếm cứ một phương, vốn bình an vô sự, chỉ có điều dân cư gia tăng, thành quách mở rộng, đồng ruộng rừng dâu cũng phải theo đó mà mở rộng, vốn ở giữa hai nước có những vùng hoang dã mênh mông không người ở, hiện giờ lại trở thành nơi bị tranh đoạt, thường xuyên xảy ra khiêu khích tranh chấp, chiến sự Ngô Sở hai nước, vốn là từ đó mà ra. Điện hạ nếu phục Ngô quốc, làm quân chủ Ngô quốc, sau này khi thứ dân hai nước lại nổi lên tranh chấp, thân là Ngô quốc Đại vương, điện hạ đương nhiên sẽ vì người nước Ngô mà phân xử, không thể để giữa Ngô và Sở lại nổi lên phân tranh. Hiện giờ điện hạ đã muốn kết minh với Sở quốc ta, chúng ta có nên nhân cơ hội này, phân chia rõ ràng vùng biên giới đang vướng mắc giữa hai nước hay không? Từ nay về sau hai nước hữu hảo, bình an vô sự, chẳng phải tốt sao?"

Khánh Kỵ hơi hơi trầm ngâm, hỏi: "Lời của thiếu phó rất đúng, chỉ có điều... Phân tranh biên giới hai nước đã tồn tại rất lâu, đúng đúng sai sai khó phân biệt, không biết theo thiếu phó thấy, những rừng núi ruộng đất vốn không rõ sở hữu bên nào, phải phân chia như thế nào đây?"

Phí Vô Cực cười nói: "Đang muốn thương lượng với điện hạ."

Hắn rút kiếm ra, lưỡi kiếm chống xuống đất, hơi hơi suy tư một lát, liền nhanh chóng vẽ ra trên mặt đất một bản đồ xen kẽ, Khánh Kỵ thấy bản đồ đó, không khỏi thầm cả kinh, trong ấn tượng của hắn vẫn nghĩ rằng Phí Vô Cực đại gian thần này hoàn toàn là vuốt mông ngựa của Sở Vương và Lệnh Duẫn Nang Ngõa mới có thể có được quyền vị hôm nay, không thể tưởng được người này hóa ra cũng không phải chỉ là một thần tử a dua, hắn nếu không có chí lớn, quyết không thể nhớ được rõ ràng tỉ mỉ địa hình phức tạp của biên giới Ngô Sở như vậy ở trong đầu, Phí Vô Cực này, hóa ra cũng có chút bản lĩnh.

"Điện hạ mời xem, Hà Điền, Đào Hoa Trùng, Vụ Nguyên, Bình Hương..., những khu này, từ trước khi Vũ Vương điện hạ Sở quốc ta xưng vương, vào thời điểm tổ tiên họ Hùng vẫn còn là tử tước, đã có những người dân nước Sở đầu tiên của chúng ta khai hoang làm ruộng nơi đây, thành lập thành trấn, cách nay đã gần năm trăm năm lịch sử. Những địa phương đó, từ xưa đã có người Sở ta sinh sống, cư trú, là một bộ phận không thể phân tách khỏi ranh giới nước Sở, có điều nước Sở ta đối với khu vực này lại không thể tranh cãi được chủ quyền, hy vọng điện hạ sau khi phục quốc, có thể trả những lãnh thổ mà nước Ngô đang giữ lại cho quốc gia của ta, giải quyết những phân tranh nọ kia, Ngô Sở hai nước mới có thể thành hai nước huynh đệ, thiên thu muôn đời, vĩnh viễn kết tình hữu hảo."

Chuyện khác đều có thể đáp ứng, chỉ có chuyện cắt đất chia đất, mặc kệ là lí do đường hoàng đến đâu, cũng tuyệt đối là một kẻ bại gia tử trong mắt tổ tông, kẻ bất lực trong mắt người đương thời. Khánh Kỵ nếu vừa mới phục quốc đã đem những vùng đất phì nhiêu này cho nước Sở, ở trong mắt người Ngô mình chẳng phải là một kẻ tiểu nhân vô sỉ bán đứng giang sơn tổ tông để đổi lấy vinh hoa bản thân hay sao, hắn sao có thể đáp ứng yêu cầu của Phí Vô Cực.

Khánh Kỵ khi đến Sở tranh thủ kết minh, cũng không tránh khỏi có nghĩ qua phải làm một chút hi sinh nhượng bộ, bởi vì có vài nơi, vốn quả thật không thể nói rõ là ranh giới của ai, mặc kệ là khảo chứng kĩ càng đến đâu, cùng lắm cũng chỉ chiếm được một chút thanh danh đạo nghĩa, còn thực tế nắm quyền những nơi đó, vĩnh viễn đều phải dựa vào thực lực quân sự để nói chuyện.

Những khu này trong những năm gần đây song phương tranh đoạt, ngươi tới ta đi, ta tiến ngươi lui, dần dần hình thành một thế lực phân bố kiểu cài răng lược, rất nhiều khu vốn dĩ là do người Sở nắm giữ. Khánh Kỵ hiện giờ không có tấc đất nào thuộc về mình, thực lực hữu hạn, càng thêm lo lắng tình huống thực tế. Muốn trở thành một chính trị gia thành thục, phải suy xét đánh giá về thực lực chân chính của địch thủ, cân nhắc về lâu dài giữa hai bên, toàn bộ ích lợi được mất, mà sẽ không bởi vì một vài câu khẩu hiệu hay hô hào của dân chúng mà đưa ra quyết định trên chính trị. Những tiểu dân này đứng trên góc độ của bọn họ, cũng không biết chân tướng đứng sau màn, chỉ biết dựa vào một bụng khí phách mà nói ba hoa chích choè thôi, cũng chẳng có khả năng làm nên cái gì thực tế. Nhưng mà hiện giờ Sở quốc Dĩnh Đô đã bị quân Ngô chiếm lĩnh, hành động của Cơ Quang gây nên ở Dĩnh Đô, đã kết một mối thù khó giải với người nước Sở, người Sở nhất định phải có một trận chiến với Cơ Quang, dưới tình hình như vậy, Khánh Kỵ đương nhiên sẽ không nhượng bộ quá mức.

Khánh Kỵ lập tức chỉ vào những mảnh đất trên bản đồ mà hai bên vẫn đang đan xen nhau, nói: "Lời ấy của Phí thiếu phó sai rồi, từ cuối triều nhà Thương, Tây Kỳ Chu Thái Vương có con trai cả là Thái Bá, con thứ là Trọng Ung cùng con thứ ba Quý Lịch. Con của Quý Lịch là Cơ Xương, cũng chính là Chu Văn Vương sau này, sớm thông minh trí tuệ, rất được Thái Vương sủng ái. Chu Thái Vương muốn truyền ngôi cho Xương, nhưng mà theo lễ pháp phải truyền ngôi cho con cả, Thái Vương bởi vậy mà buồn bực không vui. Thái Bá sau khi hiểu được ý tứ của phụ thân, liền cùng nhị đệ Trọng Ung lấy cớ đi hái thuốc cho cha cùng nhau đi vào Ngô quốc hiện nay, tự lập cơ nghiệp, thành lập nước cổ Câu Ngô. Sau khi nhà Thương diệt vong, Chu triều thành lập, Vũ Vương phong cháu thứ ba của Thái Bá là Chu Chương làm hầu, sửa quốc hiệu lại thành Ngô.

Mà Sở quốc tiên quân Hùng Dịch, lại là sau khi Chu triều thiên hạ thành lập, sau khi con của Vũ Vương lên kế vị, mới lấy thân phận tử tước tới Kinh Sở lập quốc. Lúc ban đầu lãnh thổ Sở có được không quá trăm dặm, cho đến sau này, mới dần dần lớn mạnh, có được quốc thổ rộng lớn hiện giờ. Ngô quốc ta thời gian thành lập còn sớm hơn Chu triều, dấu chân của người Ngô đã sớm bước qua những khu vực theo như lời Phí thiếu phó vừa nói, nếu truy theo nguồn gốc, những địa phương này toàn bộ đều vốn là của Ngô quốc ta."

Phí Vô Cực không vui nói: "Lời đó của điện hạ không khỏi cưỡng từ đoạt lý, Ngô quốc lập quốc mặc dù sớm, nhưng lúc đó người nước Ngô còn thưa thớt, không có lấy một tòa thành lớn, cái gọi là quốc gia, vào lúc đó cũng chỉ là một vài bộ lạc lớn quần cư trên bình nguyên mà thôi."

"Phí thiếu phó nói thế là sai rồi, nếu đã không được lấy thời gian làm chuẩn, vậy vì vùng đất cổ Tam Miêu này cũng là một vùng hoang dã chưa được khai phá, có phải là nếu Khánh Kỵ mang binh tới đó làm vài cái ruộng núi, chặt mấy cây đại thụ, là có thể cho rằng nó thuộc về Ngô quốc được luôn không?"

Hai người giương thương múa kiếm, tranh tới tranh đi, đều tự rút kiếm chỉ chỉ vẽ vẽ trên bản đồ, đến khi bản đồ đó bị vẽ đến mức bị phá thành mảnh nhỏ khó mà phân biệt, hai người liền đổi sang địa phương khác, Phí Vô Cực lại vẽ ra một bản đồ, hai người liền tiến hành tranh luận kịch liệt về mỗi một khoảng rừng dâu, mỗi một mảnh ruộng tốt, mỗi một tòa thành trấn.

Mặt trời chiều ngả về Tây, những đám mây đỏ hồng lơ lửng nơi chân trời, ánh tịch dương nhàn nhạt chiếu lên hai người trên sườn núi, vẽ ra hai cái bóng trên mặt đất, hai người còn đang bận tranh luận kịch liệt từng tấc đất, chỉ có điều thanh âm cả hai đã có chút khàn khàn.

Hôm sau, thời điểm mặt trời mới mọc, tiếng chim hót chào bình minh mới cất lên, Sở Vương lại tiếp kiến Khánh Kỵ, chính thức ký kết văn kiện kết minh với hắn. Văn kiện này một kiểu hai bản, viết lên lụa trắng, được hai người tự tay kí tên, đóng ấn tỉ của Sở Vương lên. Trong văn kiện viết vô cùng tường tận, những chữ nhỏ chi chít chẳng những viết rõ những quyền lợi, nghĩa vụ, lệ thuộc của song phương khi hợp binh phạt Ngô, cuối cùng còn tỉ mỉ viết rõ Khánh Kỵ một khi phục quốc, sẽ phải phân chia rõ ràng lãnh thổ với nước Sở.

Hôm qua, hai người Khánh Kỵ cùng Phí Vô Cực đối với từng khu đất mà hai nước đang tranh giành, biện luận phản bác về nguồn gốc sâu xa, văn hóa địa phương, kết cấu dân cư, bối cảnh lịch sử, hoàn cảnh địa lý cùng nhiều phương diện khác, nói đến mức yết hầu khô cong, cuối cùng đạt được ý kiến nhất trí. Đối với những khu này phải tiến hành rõ ràng, theo sự phân chia của hai nước thì khu vực mà hai bên nhận được trên cơ bản là chia đều. Có điều thực tế nước Sở đoạt được nhiều rừng dâu và đồng ruộng hơn, xem như là bồi thường, Phí Vô Cực cũng cắt một vùng lãnh thổ ở phía Tây Nam ráp gianh nước Việt cắt nhường cho nước Ngô.

Khu vực này còn chưa được khai phá, là một vùng rừng rậm nguyên thủy, mà những khu vực rừng dâu, ruộng tốt, theo cách phân chia thì phần lớn đều đem cho nước Sở. Bởi vậy mặc dù diện tích mà hai bên đoạt được là ngang nhau, nhưng mà bên phía Khánh Kỵ đoạt được không phải núi cao thì cũng là hồ nước, những mảnh núi rừng trùng trùng điệp điệp trải dài phía Tây Nam chưa được khai phá, hiển nhiên là rất thiệt thòi, cho nên Phí Vô Cực đắc ý dào dạt, đã liệt việc này vào một đại công trạng sau khi đuổi Cơ Quang đi sẽ xin Sở Vương ban thưởng.

Sau khi song phương kí kết minh ước, Khánh Kỵ lập tức phái người phi ngựa chạy về Vệ quốc điều binh, đồng thời lập ra kế hoạch quân sự tỉ mỉ với Sở Vương, sau đó trở về biên giới nước Sở tiếp ứng cho nhân mã của mình, Sở Vương cũng lập tức ban hạ hơn mười chiếu thư, phái bí sứ phân phó các nơi điều binh.

Khánh Kỵ cũng không vì có được liên hệ với thượng tầng nước Sở mà lạnh nhạt với Phạm Lãi, thậm chí hai ngày này cứ rảnh rỗi là đều ở một chỗ với hắn. Sau yến hội đơn sơ mừng minh ước song phương, Khánh Kỵ quay trở về doanh của Phạm Lãi, nói với hắn về chuyện kết minh với nước Sở hôm nay. Dẫn binh tới cần vương, cho tới nay cũng chưa được Sở Vương tuyên chiếu tiếp kiến nên Phạm Lãi cũng không có tư cách tham gia những hội nghị trọng yếu như vậy, mãi tới khi Khánh Kỵ nói ra, Phạm Lãi mới biết được Sở Vương đã kết minh với Khánh Kỵ, không khỏi vui mừng khôn xiết. Nhưng mà khi nghe Khánh Kỵ nói đến chi tiết minh ước, Phạm Lãi lại trầm xuống trong lòng, có một chút suy nghĩ nổi lên.

Đối với minh ước hợp binh ở phần trước, Phạm Lãi cũng không có ý kiến, nhưng mà đối với một đoạn cuối cùng, song phương phân chia rõ ràng biên giới, lại khiến cho Phạm Lãi âm thầm cảnh tỉnh. Những khu vực Ngô quốc tiếp nhận, đều là những cửa ải hiểm yếu thủy bộ, lại chẳng chiếm một chút tiện nghi nào về canh nông, nhưng mà trên mặt quân sự, một khi hai nước phát sinh xung đột, cũng là những khu vực hiểm yếu mà một ngàn binh có thể ngăn cản cả vạn binh.

Và mảnh đất cằn cỗi sỏi đá mà Sở quốc cắt ra cho Ngô quốc nhìn thì như hẻo lánh, cũng không có nhiều giá trị trồng trọt khai phá, nhưng đó lại là một thông đạo trọng yếu nối liền Sở Việt, về mặt quân sự có ý nghĩa trọng đại, thế lực Ngô quốc một khi mở rộng đến tận đây, sẽ có thể nắm gần như một nửa Việt quốc trong lòng bàn tay, mặc dù vẫn lưu lại cho Sở Việt một con đường eo hẹp, nhưng lúc nào cũng có thể phái binh phong kín.

Khánh Kỵ chính là bị Phí Vô Cực uy hiếp bức bách mới phải nhận, hay là còn có dụng ý gì khác? Dụng ý khác đó, là tính cho Ngô quốc hay Sở quốc? Hiện giờ hắn vẫn còn là một công tử lưu vong, Ngô quốc còn chưa nắm giữ trong tay, hắn đã tính toán lâu dài như vậy sao?

Phạm Lãi càng nghĩ càng cảm thấy kinh hãi, đến lúc Khánh Kỵ nói xong cảm giác không chịu nổi chếnh choáng, ngã luôn vào cái giường được làm bằng gỗ tùng của hắn, hơi hơi phát ra tiếng ngáy, Phạm Lãi mới khiếp hãi thanh tỉnh, bàn tay hơi nắm chặt lại, chạy ra ngoài hướng chỗ núi cao đi tới.

Tiếng ngáy của Khánh Kỵ hơi hơi ngưng lại, con mắt nhẹ nhàng mở ra, hơi hơi lóe sáng, sau đó tiếng ngáy lại càng trở nên vang dội.

"Là Khánh Kỵ chính mồm nói cho ngươi nghe?"

"Vâng!"

"Lão phu nghe nói, Khánh Kỵ sau khi gặp được Văn Chủng, bàn về tình thế nước Sở ta hiện giờ, từng đề nghị các ngươi sang các nước khác mượn binh, Văn Chủng đã đi nước Tống mượn binh rồi à?"

"Vâng!"

"Hắc, Phạm Lãi à, Khánh Kỵ mặc dù là vương tử tôn quý, lão phu lại thấy hắn đối đãi đặc biệt với ngươi, không bởi vì chức vị ngươi thấp kém mà khinh mạn, ngươi và hắn ở một chỗ rất hòa hợp a."

"Vâng, nhưng thần dù sao cũng là thần tử nước Sở, mặc dù quan hệ cá nhân có chút thân cận, nhưng đề cập đến đại sự nước Sở, hạ quan cũng có chút suy nghĩ, không dám không nói."

"Ha ha ha ha..." Phí Vô Cực ngửa mặt lên trời cười to: "Phạm Lãi à Phạm Lãi, Văn Chủng lần này đi nước Tống, nếu có thể cầu được cứu binh, đó là một công lao to lớn. Ngươi vốn gặp Khánh Kỵ trước, là oán hận hắn đưa công lớn này cho Văn Chủng, không cho ngươi thu hoạch được gì sao?"

Phạm Lãi ngẩn ra, lập tức vẻ giận dữ đầy mặt: "Thiếu phó đại nhân sao lại nói thế, Phạm Lãi một mảnh công tâm, Khánh Kỵ dù rằng chưa có ý gây bất lợi cho nước Sở, nhưng vẫn phải có đề phòng."

Phí Vô Cực cười lạnh một tiếng, tay vuốt chòm râu trách mắng: "Như vậy theo ý của ngươi, lão phu nên đem rừng dâu ruộng tốt cắt cho Khánh Kỵ, lưu lại cho nước Sở ta một mảnh đất hoang núi vắng phải không? Thật sự là vớ vẩn! Ngô Việt ngay cả khi có phát sinh chiến sự thì đã làm sao? Hắc, bọn họ chinh chiến lẫn nhau, tiêu hao thực lực lẫn nhau, có lợi vô cùng lớn với nước Sở ta, những nơi hiểm yếu này cắt đi, nước Ngô ngay cả có muốn dựa vào, cũng chỉ có thể dùng để phòng thủ, chứ sao gây được trở ngại cho nước Sở ta? Quân tử lòng dạ rộng rãi, người trẻ tuổi, ngươi giỏi tâm kế như vậy, sợ rằng cũng không phải là chuyện tốt."

Phạm Lãi bị hắn nói một hồi đến mức tức giận sắc mặt tái mét đi, hắn chắp tay còn muốn nói nữa, Phí Vô Cực đã phất tay áo nói: "Tốt lắm, ngươi lui ra đi, việc này lão phu đương nhiên đã biết rồi, lão phu trong lòng đều đã lập kế hoạch, chớ nói nhiều lời nữa."

Phạm Lãi một câu lại bị nghẹn trở lại, hắn nhẫn nại đáp ứng, chắp tay rời khỏi trướng đi ra, ở ngoài trướng ngây ngốc đứng một lúc lâu, yếu ớt thở dài, lúc này mới bước rời đi.

Lúc này, ở trong thành Dĩnh Đô tình hình của Ngô Vương Hạp Lư cũng không có dễ chịu. Cơ Quang đối với nước Sở từ đáy lòng cũng không có sinh ra dã tâm, hắn chỉ nghĩ ở Dĩnh Đô làm mưa làm gió một phen, làm cho các thiên hạ chư hầu phải kinh sợ, đặt ra nền móng vững chắc cho hắn. Nhưng mà hai đại trọng thần Ngũ Tử Tư và Bá bên cạnh hắn, đều có mối thù diệt môn diệt gia với Sở Vương, Ngũ Tử Tư một lòng báo thù, cơ hồ vì báo thù mà phát cuồng, bình thường là một người rất khôn khéo, một khi nói đến báo thù, liền mất đi lí trí, như điên như cuồng. Bá lí trí hơn hắn một chút, nhưng Bá lại quá lí trí, tất cả hành vi đều lấy động cơ từ ích lợi cá nhân, chỉ biết lấy lòng, thuận theo Hạp Lư, lại càng không dám làm điều gì trái với quan điểm của hắn, cho nên ba người quân thần, những chuyện gây ra ở Dĩnh Đô có chút không hợp lòng người.

Lúc trước khi bọn họ đánh vào Dĩnh Đô, một đường thế như chẻ tre, quân đội nước Sở buông lỏng, dân chúng khoanh tay đứng nhìn, nhưng khi bọn hắn ở Dĩnh Đô gần nửa tháng, bất tri bất giác đã gây ra cho chính mình vô số địch nhân. Toàn bộ dân chúng Dĩnh Đô đều trở thành binh lính, quân Ngô rơi vào một trận chiến cuồn cuộn của nhân dân nước Sở.

Quân Ngô hành vi tàn bạo, sự phản kháng của người Sở lại càng mãnh liệt. Thậm chí có dũng sĩ nước Sở lợi dụng quen thuộc địa hình, tìm kiếm chỗ ở của Hạp Lư, muốn ám sát Hạp Lư, đến nỗi có một buổi chiều Hạp Lư tới mấy lần bị thích khách quấy rối, một đêm phải thay đổi chỗ ở an toàn tới năm lần. Sáng sớm hôm sau, Hạp Lư phái người đem tất cả những người Sở hắn cho rằng khả nghi ra xử tử cả đám, cuộc hành quyết đầy máu tanh khiến cho người nước Sở càng thêm mãnh liệt trả thù.

Người nước Sở nổi lên tranh đấu với quân Ngô, không có tướng lĩnh chỉ huy, liền tự đưa một người phụ trách thao luyện lên làm chỉ huy, ở chung quanh Dĩnh Đô thành lập một nhóm dân binh vũ trang quy mô nhỏ, công bố "Liều chết đánh lùi quân Ngô, khôi phục nước Sở." Đến nỗi người Ngô từ lớn nhỏ đến cả con ngựa cũng không dám ra ngoài đi lại.

Đúng vào lúc này, quân Ngô bố phòng ở chỗ hiểm yếu ngoài Dĩnh Đô lại bắt được một bí sứ được Sở Vương phái đi để triệu tập đội quân cần vương, biết được hành động triệu tập đội quân cần vương của Sở Vương, cùng với việc người Sở kết minh với Khánh Kỵ, lại thêm tin tức Sở Vương phái người sang nước Tần, nước Tống mượn binh, Ngũ Tử Tư lập tức ý thức được nguy cơ trong đó, lập tức vội vàng vào cung gặp Hạp Lư.

Hạp Lư đang ở trong Sở Vương cung ôm eo nhỏ của Sở nữ thưởng thức ca múa, Sở Vương cung vốn nguy nga tráng lệ giờ thành một đống bừa bãi, trong Sở Vương cung từ vàng bạc đồng cho đến tơ lụa tinh mỹ, ngay cả tài vật của công khanh đại phu, phú thương cường hào, thậm chí cả cành gai để làm tên, có thể cướp đều cướp, có thể chặt đều chặt, đóng gói cho vào trong xe chở về nước Ngô.

Những xe vận chuyển tài phú của nước Sở nối liền không dứt, hơn mười mấy ngày gần đây không ngày nào dừng, thậm chí trưng dụng cả xa mã của những người trong Dĩnh Đô mà cho đến giờ vẫn vận chuyển chưa xong. Những thứ chưa được vận chuyển, đều được gỡ ra đóng gói lại, tất cả chất đống một chỗ cho người trông giữ, chờ đợi áp tải về Ngô.

Vừa thấy Ngũ Tử Tư vào cung, Hạp Lư cười to nói: "Tướng quốc tới thật đúng lúc, mỹ nữ nước Sở xinh đẹp muôn vẻ, cũng không xinh đẹp hơn trong Sở Vương cung. Vài mỹ nữ này kỹ thuật nhảy quá duyên dáng, quả nhân ban thưởng các nàng cho tướng quốc, lát nữa mang theo hồi phủ mà tận tình hưởng dụng.

Ngũ Tử Tư nghiêm nghị nói: "Thần có chuyện quan trọng muốn bẩm tấu, xin Đại vương cho lui tả hữu."

Hạp Lư nao nao, thấy thần sắc của hắn nghiêm túc, liền theo lời khoát tay, cho lui cung nữ, nhạc công, trên đại điện nhất thời trở nên yên tĩnh, trong cung điện Sở Vương đã bị cướp chẳng còn gì lập tức có một vẻ trống trải.

Ngũ Tử Tư mang những tin tức tình báo hắn nhận được vội nói cho Hạp Lư, Hạp Lư nghe thấy vậy thì cũng không khỏi biến sắc, cả kinh nói: "Không thể tưởng được người Sở phản ứng nhanh chóng như vậy, Khánh Kỵ lại thừa dịp này nhảy vào, kẻ này, đúng là họa lớn trong lòng quả nhân, Ngũ tướng quốc, theo như ngươi thấy, quả nhân hiện giờ nên làm thế nào?"

Ngũ Tử Tư nghiêm nghị nói: "Trên đường đến đây, Ngũ Viên đã cẩn thận suy xét qua, theo như thần thấy, có hai lựa chọn."

"Mau nói."

"Một, quân Ngô ta lập tức lui về nước, thì Tần chắc chắn sẽ không phát binh, mà kết minh của nước Sở với Khánh Kỵ tám chín phần mười sẽ thất bại. Nước Sở bại trận, tuy hận nước Ngô ta đến tận xương tủy, nhưng cũng sẽ không tùy tiện phát binh phạt Ngô. Hai, nước Ngô ta cũng phái đi tín sứ, liên lạc với những quốc gia hữu hảo có cùng lợi ích, khắc chế viện binh của người Sở."

Hạp Lư trầm ngâm nói: "Biện pháp thứ nhất tuy rằng ổn thỏa, tuy nhiên vừa nghe thấy người Sở cầu cứu binh, quân Ngô ta đã lập tức lui về nước, như thế sao có thể gây uy danh với các nước khác, ngày sau sao có thể tranh hùng với các chư hầu? Theo biện pháp thứ hai của ngươi... nếu người Tần, người Tống, hơn nữa còn có cả Khánh Kỵ ký kết liên minh với người Sở, làm gì còn quốc gia nào có năng lực mà chống lại nữa?"

Ngũ Tử Tư thản nhiên cười, nói: "Việc này cũng không khó, người Tần muốn xuất quan tranh đoạt thiên hạ, lại bị người Tấn cản trở lối đi, người Tấn muốn Đông tiến tranh đoạt Trung Nguyên, lại vì sợ bị người Tần đâm vào lưng mà không dám vọng động. Hiện giờ người Tần muốn giúp người Sở, một khi thành công, thì sẽ mở ra một con đường thứ hai ven lưu vực Trường Giang, nếu kết minh với Sở, ký kết hữu hảo, hành động này sẽ gây ra bất lợi to lớn cho nước Tấn. Nếu cho một người có khả năng ăn nói tốt sang nước Tấn giải thích lợi hại, người Tấn đương nhiên sẽ đáp ứng xuất binh trợ chiến. Nước Tấn là nước lớn ở phương Tây, những tiểu quốc phụ thuộc có vô số, một khi tham chiến, trợ lực này không phải là nhỏ.

Ngoài ra, còn có đại quốc Tề quốc ở phương Đông, người nước Tề dã tâm bừng bừng, cũng có tâm muốn khuếch trương, tuy nhiên tiến về phía Bắc là vùng biên cương hoang vu, về phía Tây là một nước Vệ nho nhỏ làm trung gian, sau đó là nước Tấn, hai bên kiêng kị lẫn nhau, lấy nước Vệ làm hòa hoãn, cũng không có phát sinh xung đột. Nếu muốn tiến về phương Nam thì lại có cơ hội, phía Nam nước Tề ngoại trừ nước Ngô ta, thì còn có một bộ lạc Đông Di. Bộ lạc này vẫn chưa lập quốc, khu vực rộng lớn, vẫn là một khối thịt béo trong mắt người Tề, chỉ có điều người Tề sợ khi quân Tề đi xuống phía Nam, thì nước Lỗ, Từ, cùng nước Ngô ta sẽ kết minh phản kháng, cho nên chậm trễ không đưa ra hành động. Nếu chúng ta đáp ứng trợ giúp nước Tề thu hoạch vùng đất của Đông Di, người Tề tham lợi, cũng sẽ xuất binh. Nước Tề là nước lớn ở phương Đông, nếu như vậy, sẽ có Tề Tấn hai nước tương trợ, đủ để triệt tiêu lực lượng liên bang của người nước Sở."

Hạp Lư hai hàng lông mày nhíu lại, nói: "Tề Tấn đều là nước lớn, đều có vô số nước nhỏ phụ thuộc, bọn họ một khi tham chiến, toàn bộ thiên hạ sợ rằng đều sẽ chiến hỏa hừng hực."

Ngũ Tử Tư mỉm cười nói: "Vậy thì có sao? Nước Ngô ta chếch về Đông Nam, thiên hạ chư hầu đều là tranh đoạt vùng đất phì nhiêu ở Trung Nguyên, sẽ không đem nước Ngô ta làm mục tiêu. Nước Ngô ta hiện giờ cũng chưa có đủ thực lực để lên tới đỉnh thiên hạ, Trung Nguyên không loạn, Đại vương muốn mưu đồ trở thành bá chủ thiên hạ, vậy thì phải mất hơn mười năm khôi phục nguyên khí. Có điều, nếu chư hầu Trung Nguyên hỗn chiến không ngớt, đó chính là lúc cơ hội của nước Ngô ta tới."

Hạp Lư nhướng hai hàng lông mày, lập tức giãn mặt ra cười to: "Tướng quốc quả có diệu kế, thiên hạ chiến hỏa hừng hực, chính là cơ hội cho nước Ngô ta, ha ha... Tốt! Cứ theo lời tướng quốc nói, lập tức sai sứ, kết minh với Tề Tấn, mời phát binh trợ chiến."

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 187: Trống trận liên hồi (Thượng Trung Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Ngũ Tử Tư mỉm cười nói: "Vậy thì có sao? Nước Ngô ta chếch về Đông Nam, thiên hạ chư hầu đều là tranh đoạt vùng đất phì nhiêu ở Trung Nguyên, sẽ không đem nước Ngô ta làm mục tiêu. Nước Ngô ta hiện giờ cũng chưa có đủ thực lực để lên tới đỉnh thiên hạ, Trung Nguyên không loạn, Đại vương muốn mưu đồ trở thành bá chủ thiên hạ, vậy thì phải mất hơn mười năm khôi phục nguyên khí. Có điều, nếu chư hầu Trung Nguyên hỗn chiến không ngớt, đó chính là lúc cơ hội của nước Ngô ta tới."

Hạp Lư nhướng hai hàng lông mày, lập tức giãn mặt ra cười to: "Tướng quốc quả có diệu kế, thiên hạ chiến hỏa hừng hực, chính là cơ hội cho nước Ngô ta, ha ha... Tốt! Cứ theo lời tướng quốc nói, lập tức sai sứ, kết minh với Tề Tấn, mời phát binh trợ chiến."

Ở trên vọng gác Bách Thành, Khánh Kỵ đứng hiên ngang một chỗ, nheo mắt nhìn về phía xa. Gió từ hướng Bắc tới, cuốn theo những bông tuyết bay đầy trời, cơn gió mạnh thổi chiếc áo khoác tung bay phần phật. Theo đúng như lộ trình đã dự tính thì nhân mã của hắn sẽ tới đây sau mấy ngày nữa.

- Chắc Tần quốc sẽ xuất binh...

Dù cho gió bên ngoài thổi lạnh thấu xương, nhưng Khánh Kỵ cũng không một chút bận tâm tới, hắn đứng ở trên thành, mang theo những suy nghĩ đang trôi bồng bềnh trên không. Đứng từ chỗ cao nhất quan sát sự biến động chính cục của toàn bộ Xuân Thu đại địa, đã đưa ra phán đoán này.

Từ khi Khuyển Nhung công phá Hạo Kinh, Chu U Vương Cơ Cung Tinh bị giết, Chu Bình Vương Cơ Nghi Cữu dời đô tới Lạc Ấp đến nay, cục diện thiên hạ trước đây nằm trong sự kiểm soát của Chu thiên tử đã dần dần được thay đổi, dẫn đến ngày này hai trăm năm sau - tức là hôm nay, từ từ hình thành nên hai tập đoàn thế lực: Tập đoàn Trường Giang và tập đoàn Hoàng Hà.

Tập đoàn Trường Giang do Sở Quốc đứng đầu, tập đoàn Hoàng Hà do Tấn quốc đứng đầu. Sở quốc tự lập vương hiệu, khinh rẻ sự thống trị của Chu thiên tử, Sở Trang Vương từng hỏi qua Chu thiên tử về Cửu Đỉnh*, thực sự dã tâm đã rõ rành rành. Còn Tấn quốc tuy có ý đồ tranh bá, là một chư hầu dòng giống họ Cơ, ngoài mặt thì vẫn duy trì Chu triều chính thống, đồng thời, do sự kỳ thị giữa các địa vực và xung đột về lợi ích với nhau, bọn họ đã nâng cao ngọn cờ bảo vệ Vương quyền, tự coi mình là những người hộ vệ cho Chu thiên tử.

(Chú thích: Cửu Đỉnh: tượng trưng cho quyền lực bá chủ)

Kỳ thực từ khi Tề Hoàn Công tạo khối liên minh chư hầu, tôn vương nhương di (tôn sùng giai cấp thống trị, bài xích ngoại bang), các nước ở phương Nam do nước Sở cầm đầu đã cùng với các nước bảo vệ thiên hạ Chu thị ở phương Bắc bắt đầu tiến hành liên tiếp các cuộc chinh phạt lẫn nhau, đến nay chỉ là Tấn thay thế Tề mà thôi.

Khi thiên hạ đang dồn hết sự chú ý vào cuộc chiến tranh tàn khốc giữa hai tập đoàn thế lực đó, thì Tần quốc ở Quan Trung đang lớn mạnh từng ngày. Thời gian từ khi thành lập Tần quốc rất ngắn, vị quốc quân đương nhiệm đầu tiên của họ vốn chỉ là một thủ lĩnh của bộ lạc nhỏ, do có công trong việc hộ tống Chu Bình Vương dời đô, được thụ phong làm chư hầu, cai trị một dải đất màu mỡ ở Quan Trung mà trước đây Vương đô của Chu thất đã tọa lạc, tính cho đến nay thì thời gian lập quốc vẫn chưa vượt quá hai trăm năm.

Thế nhưng trong suốt hai trăm năm nay, Tần quốc với lợi thế đất đai phì nhiêu màu mỡ vốn có của mình, chiến tranh ở Trung Nguyên hầu như không hề gây tổn hại tới thực lực của Tần quốc, dần dần họ trở thành một lực lượng lớn mạnh không dễ coi thường. Chỉ có điều, lực lượng hiện tại của họ vẫn chưa đủ lớn mạnh để có thể khiêu chiến với một nước lớn như Tấn quốc, cho nên họ cần phải duy trì sự cân bằng về thế lực giữa hai miền Nam Bắc, có như vậy thì Tần quốc mới có thể thu được lợi từ tình hình như vậy, tiếp tục trau dồi tích lũy lực lượng.

Trong những kiến thức lịch sử có hạn của Khánh Kỵ, hắn không nhớ được rằng khi Ngô quốc phạt Sở thì Tần quốc có phát binh đi tương trợ hay không. Hắn chỉ là kết hợp kiến thức hiểu biết của hai con người trong hắn, dựa theo tình hình thiên hạ hiện tại để đưa ra phán đoán như vậy. Hắn tin rằng, những lợi hại được mất trong đó, người Tần không thể nào không có một kẻ sĩ có tri thức không nhận ra được điều đó. Cho nên cuối cùng người Tần xuất binh cũng là điều tất nhiên.

Tần quốc Ung thành, cửa chính cung thành, các đại phu đang nối gót nhau đi vào trong.

Khi bọn họ bước qua cửa cung, đôi mắt đều không tự chủ được mà nhìn về bức tường cung phía bên cạnh, sát bức tường là một người tầm tuổi trung niên tóc tai rối bù, quần áo rách nát, trên đầu của hắn vẫn còn đeo một chiếc mũ quan của đại biểu sĩ đại phu, thế nhưng chiếc mũ đó cũng chẳng còn nguyên vẹn.

Thân hình hắn lảo đảo như muốn ngã, sắc mặt tiều tụy, mặt mũi tím tái, đôi môi nứt nẻ, hơi rơm rớm vết máu. Cặp mắt kia của hắn tăm tối vô cùng, không chút linh hoạt, thế nhưng hắn vẫn đang dùng âm điệu khàn khàn lẩm bẩm gì đó, không ai nghe thấy rõ điều hắn nói là gì.

Trông thấy hắn như vậy, ai ai cũng không khỏi động lòng trắc ẩn, dưới bức tường cung thành của Tần quân đương nhiên không cho phép ăn mày đứng, thế nhưng tên ăn mày này có đôi chút khác biệt, thứ hắn cầu xin không phải là lúa gạo, mà là viện trợ quân sự, điều đó đương nhiên là không giống với ăn mày bình thường. Người này chính là Thân Bao Tư, người được phụng lệnh đến Tần quốc cầu xin viện binh.

Lúc đầu khi mới đến Tần quốc, hắn cứ nghĩ rằng chắc chắn sẽ xin được viện binh từ Tần quốc, lúc bước lên Tần cung đại điện, trước mặt đông đảo công khanh triều đình vội vã nói rõ lý do đến Tần lần này của hắn cho Tần quân nghe, hắn nói:

- Ngô quốc Hạp Lư công phá Dĩnh đô, Sở vương tị nạn ở Tùy quốc. Hai nước Tần Sở vốn có quan hệ tốt đẹp với nhau, đương kim Sở thái hậu là bào muội (em ruột) của Tần quân, đương kim Sở vương là cháu ngoại của Tần quân, Tần Sở vốn là người cùng một nhà, bây giờ Sở quốc gặp nạn, vội đến Tần quốc cầu xin viện binh, khấn thỉnh Tần quân cứu Sở trong lúc nguy nan.

Nào ngờ Tần quân có dã tâm của hắn, thầm nghĩ rằng với sức mạnh của Ngô quốc, cho dù diệt được Sở quốc, cũng không thể đủ binh lực chiếm lĩnh lãnh thổ Sở quốc rộng lớn, đến lúc đó phát binh báo thù cho bào muội, vừa hay có thể thừa cơ bành trướng về Đông, chiếm lĩnh vùng đất Sở quốc núi cao sông dài. Một nữ tử nhỏ bé, dù là bào muội, nhưng hy sinh cho lợi ích của cả một quốc gia là Tần quốc thì cũng đáng, cho nên Tần quân không vội ra quyết định, lấy lệ bảo Thân Bao Tư tạm thời nghỉ ngơi ở dịch quán, để cho quân thần Tần quốc thương nghị một phen.

Thân Bao Tư luôn miệng khẩn cầu, Tần quốc quân chỉ đáp cho có lệ, Thân Bao Tư bất đắc dĩ, không muốn về dịch quán nghỉ ngơi, mà đứng bên ngoài dựa vào bức tường cung điện Tần quốc, không ăn không uống, tuyệt thực để tỏ rõ ý chí, từ sáng đến tối than khóc cầu xin, thời đó cung điện để cho chư hầu nghị triều không lớn lắm, Thân Bao Tư ở bên ngoài cung vừa khóc vừa la hét, ở trong đại điện nghe rõ mồn một, rên la van nài đến nỗi chẳng ai được yên ổn.

Thân Bao Tư và Ngũ Tử Tư đều là những người bạn tri giao hồi còn là thần Sở, hai người đều có một loại tính cách cứng cỏi, đó là không đạt được mục đích thì quyết không bỏ cuộc. Cứ như vậy suốt ba ngày, Thân Bao Tư không ăn không uống, đã khàn cả giọng, nhưng vẫn đứng trước bức tường cung điện Tần quốc, dường như có ý muốn tuyệt thực mà chết, động thái này của hắn khiến cho rất nhiều đại phu Tần quốc động lòng trắc ẩn, thầm đồng tình với hắn.

Tần quân thấy hắn không biết điều như vậy, trong lòng cảm thấy rất bực bội, gần như đã mất hết kiên nhẫn. Vào thời đó công khanh cứ mười ngày thì được miễn thượng triều một ngày, Tần quân vì muốn tránh mặt Thân Bao Tư, cho công khanh đại thần nghỉ một mạch ba ngày liền, mong chờ đến khi Thân Bao Tư chết bên ngoài cung mới thôi. Không ngờ được rằng tính mạng của Thân Bao Tư lại dai dẳng thần kỳ như thế, hôm nay, ba ngày nghỉ phép đã qua, quần thần thượng triều, đến lúc này Thân Bao Tư đã đứng bên ngoài cung ròng rã bảy ngày bảy đêm, không ăn không uống, không ngủ không nghỉ, thế mà vẫn chưa chết. Toàn bộ thần tử Tần quốc ai cũng phải cảm động, rất nhiều đại thần đã quyết định trong buổi thượng triều hôm nay sẽ nói đỡ cho Thân Bao Tư, khấn thỉnh Tần quốc xuất binh giúp Sở.

Không ngờ, chúng thần vào điện, Tần quân ngồi xuống đã mở miệng nói luôn:

- Ngô vương phạt Sở, vốn không phải là chiến tranh chính nghĩa. Tần Sở vốn là anh em, đương nhiên cần phải tương trợ lẫn nhau. Quả nhân thấy Thân Bao Tư trung nghĩa mà cảm động, quyết định phát binh cứu Sở, điều động chiến xa năm trăm chiếc, tinh binh bốn vạn người, do Tử Bồ, Tử Hổ làm tướng dẫn đầu, ra khỏi Vũ Quan, tới Sở quốc, thảo phạt quân Ngô.

Quần thần nghe vậy thì bàn tán xôn xao, sau đó nhất tề tiến lên lạy dài, cao giọng tán thán:

- Quốc quân nhân đức, chúng thần ủng hộ!

Tần quân và đại tướng Tử Bồ liếc nhìn nhau, vuốt râu mỉm cười không thôi. Tần quân cuối cùng đưa ra quyết định xuất binh, tuyệt đối không phải là do cảm động với những hành động trung nghĩa của Thân Bao Tư, mà đó là kết quả của việc cân nhắc lợi hại trong buổi thương nghị suốt mấy ngày của mấy vị quần thần tâm phúc với Tần quân.

Hơn ba mươi năm trước, hai nước Tấn Sở và một số nước chư hầu khác tiến hành "Chấm dứt binh đao, tụ hội kết minh" tại Tống quốc. Tấn Sở đại diện cho tập đoàn thế lực của hai miền Nam Bắc ký kết hiệp ước thành lập liên minh, đưa ra quyết định rằng ngoại trừ hai nước lớn là Tề, Tần ra thì toàn bộ các nước khác đều phải đồng thời triều cống cho hai nước Tấn Sở.

Từ đó đã nâng hai nước Tấn Sở lên vị trí đỉnh cao trong các chư hầu thiên hạ, trở thành bá chủ thiên hạ. Thực lực của Tần quốc và Tề quốc chỉ kém hơn đôi chút so với Tấn Sở, không bị hệ lụy bởi những hư danh kia, suốt ba mươi năm nay bế quan phát triển, quốc gia thái bình, sức mạnh đất nước ngày càng mạnh mẽ. Quân thần Tần quốc đã được nếm trải những mùi vị ngọt ngào như vậy.

Trải qua nhiều lần cân nhắc kỹ lưỡng, các vị trọng thần trong Tần triều cho rằng, quân Ngô tuy mạnh, nhưng sức mạnh tổng hợp của quốc gia suy cho cùng thì vẫn chưa đủ hùng hậu. Ngô Sở cùng tồn tại so với Ngô tồn Sở vong sẽ có lợi hơn trong việc tiết chế trục hoành ngăn không cho thế lực Tấn quốc ở phương Bắc Nam hạ (đi về phía Nam). Nếu như Sở quốc bị diệt vong mà dẫn đến việc lực lượng Bắc Nam mất hoành, như vậy thì Tấn quốc sẽ mạnh lên rất nhiều. Điều này đối với một quốc gia mong muốn lực lượng Nam Bắc cân bằng để có thêm thời gian và cơ hội tích lũy phát triển như Tần quốc mà nói thì cực kỳ bất lợi.

Hiện tại nếu như chiếm lĩnh một phần lãnh thổ của người Sở, thì kết quả sẽ là việc đơn độc phải gánh chịu sự bức bách của cường quốc tới từ phương Bắc là Tấn quốc, như vậy đối với lợi ích lâu dài của Tần mà nói, còn lâu mới bằng việc đưa Sở quốc lên trước làm lá chắn, còn bản thân Tần quốc thì bế quan tự thủ, nghỉ ngơi lấy sức, tích lũy quốc lực. Tần quân biết nghe lời phải, nghe mấy vị đại thần phân tích một hồi thì rất hài lòng, thế là cuối cùng đã đưa ra mệnh lệnh xuất binh cứu Sở.

Thân Bao Tư lúc này còn thoi thóp chút hơi tàn được đưa vào Tần cung, nghe được tin tức đó thì vô cùng mừng rỡ, liền dùng lễ trọng, khấu đầu ba lượt, Thân Bao Tư như quên hết tất cả, vùng vẫy lăn lộn quỳ mọp xuống dưới đất, khấu đầu tiếp chín lần để tạ ơn Tần quân, sau đó cơ thể rã rời, chìm vào hôn mê, được cấp tốc đưa vào dịch quán nghỉ ngơi tĩnh dưỡng lấy lại sức.

Tần quốc Ung Thành, hai vị đại tướng quân Tử Bồ, Từ Hổ bắt đầu điều phối lương thực, chiêu mộ quân sĩ, chuẩn bị xuất binh cứu Sở. Động tĩnh lớn như vậy đương nhiên khó có thể che được tai mắt của người khác, vùng Ung Thành đang gõ trống khua chiêng để chuẩn bị, những gian tế của Tấn quốc được cài cắm ở kinh đô nước Tần đều đã nhận được thông tin, thám báo không quản ngày đêm chạy về Dực Thành Tấn quốc báo tin, mặc cho ngoài trời đầy mưa giông bão tuyết cũng phải đem tin tức giao tới tận tay Tấn hầu Cơ Khí Tật...

Thiên hạ, lại sắp rơi vào cuộc đại loạn...

Cơn gió lạnh cuốn theo những bông hoa tuyết, thổi mạnh đến nỗi những chiếc đại kỳ trong thành đều không ngừng tung bay. Khánh Kỵ nhìn về phía Tây Bắc, từ đây nhìn về nơi đó trải dài cả vạn dặm, đang có hơn mười vạn đại quân Sở quốc đóng quân, đạo quân này dùng để phòng bị Tấn quốc xâm lược, thế nhưng người Tấn Nam hạ, chưa hẳn đã chỉ có duy nhất con đường này, chỉ có điều nếu chọn việc đi đường lớn, bắt buộc sẽ phải đi xuyên qua rất nhiều nước chư hầu, nếu vậy thì đám nước chư hầu kia sẽ đương nhiên phải đưa ra quyết định, lập trường, cuối cùng đem càng ngày càng nhiều các quốc gia bị cuốn vào trong vòng chiến loạn.

Nghĩ tới đây, khóe miệng Khánh Kỵ bỗng nở nụ cười.

Để cổ vũ sĩ khí quân tâm, Phí Vô Cực đã công bố ra bên ngoài chuyện sứ giả đi tới Tần quốc xin viện binh, còn có cả việc Văn Chủng đi Tống quốc cầu viện, chỉ có điều là hắn trơ trẽn nói rằng những việc đó đều xuất phát từ chủ ý của hắn mà ra, lấy đó để cho thấy sự sáng suốt biết rõ tiên cơ của hắn.

Điều này đem lại cơ hội cho Khánh Kỵ, một thủ hạ tâm phúc của hắn theo đuôi một vị tín sứ nước Sở, rồi giả mạo làm một tiều phu mật báo lĩnh thưởng, tố giác vị tín sứ kia, khiến hắn bị người nước Ngô bắt được, từ đó Ngũ Tử Tư đã nắm được tin tức này, làm cho Cơ Quang cũng có sự phòng bị từ trước.

Khánh Kỵ hiểu rõ tính khí của vị vương thúc đó của mình, càng hiểu rõ rằng Ngũ Tử Tư quyết không chấp nhận tỏ ra yếu thế trước mặt người Sở, lựa chọn của Cơ Quang và Ngũ Tử Tư chỉ còn là lấy "gậy ông đập lưng ông", cũng mượn binh của các nước chư hầu khác, chỉ có như vậy thì mới có thể đạt được mục đích của hắn.

Nếu không, đợi đến khi quân đội Sở quốc cần vương tụ hội, xông thẳng tới Dĩnh Đô, Cơ Quang nghe được tin bất ngờ, lại hai ba vạn tinh binh của hắn cũng tham gia vào quân Sở, thêm cả việc Tần quốc cũng phát binh tương trợ, trong lúc cấp bách không có cách nào kháng cự, chỉ còn cách lui về Ngô quốc, nếu như vậy, người Sở đương nhiên đạt được mục đích, đối với hắn mà nói thì sẽ vô cùng bất lợi. Hắn buộc phải ngăn chặn Cơ Quang và quân Ngô lại, cố sống cố chết mà ngăn chặn tại Sở quốc, như vậy, đám kỳ binh mà hắn giữ ở Tề quốc mới phát huy tác dụng được.

Ngũ Tử Tư...

Khánh Kỵ cười lạnh:

- Vị thiên cổ danh nhân này, chẳng phải cũng bị ta đùa giỡn trong lòng bàn tay đó sao.

"Xuân Thu không có chiến tranh chính nghĩa", từ lúc Khánh Kỵ từ một linh hồn xuyên Việt với gốc gác là một thành viên trong đoàn làm phim phổ thông, dần dần trở thành một vị lãnh tụ của một đoàn thể chính trị, càng ngày hắn càng thấm hiểu sâu sắc ý nghĩa của câu nói này. Đâu chỉ có Xuân Thu không chiến tranh chính nghĩa, tự cổ chí kim, có cuộc chiến tranh nào với cờ hiệu đẹp đẽ, đường đường chính chính mà không phải là hướng về lợi ích của một vài cá nhân?

Mặc kệ là dùng loại cờ hiệu nào, mục tiêu cuối cùng cũng là một chữ "lợi". Giữa các nước với nhau chẳng bao giờ có tình hữu nghị mãi mãi, chỉ có quyền lợi mãi mãi mà thôi. Một lợi ích của giai cấp, đoàn thể, đương nhiên sẽ phải tổn hại đến lợi ích của một đoàn thể, một giai cấp khác để làm tiền đề. Cho dù là sử dụng thủ đoạn nào, chỉ cần khiến cho người của mình giảm thiểu những hy sinh đổ máu, giảm thiểu những cái giá phải trả là được, Khánh Kỵ bây giờ cũng đã bình chân như vại rồi. Hắn đã không còn nói những lời ba hoa bốc phét như ước mộng tuổi thiếu niên nữa.

Gió đã yếu bớt, tuyết lại càng thêm dày đặc. Khánh Kỵ một ngày mấy lần đi lên trên thành quan sát, chờ đợi đại quân của hắn mau đến. Lúc này đã là lần thứ ba trong buổi chiều hắn đi lên thành rồi, tuy nhiên phía xa vẫn là một màu trắng ảm đạm và lặng lẽ. Hắn vung vẫy những bông hoa tuyết trên vai, chà xát hai tay đã đông cứng vào nhau, đang định trở xuống dưới chân thành, ánh mắt bỗng tập trung vào một chỗ, nhìn về phía xa trong đám tuyết trắng xóa xuất hiện một đường đen uốn lượn.

Thần sắc Khánh Kỵ khẽ động, vội vàng nheo mắt che tay nhìn về phương xa, đường đen đang di động kia rõ ràng là một đoàn quân. Bọn họ đang tiến tới đây với vận tốc chậm rãi, làn gió tuyết khiến ngọn cờ tung cao phần phật, trên ngọn cờ xuất hiện hai chữ. Nhìn từ xa, lại thêm việc tuyết phủ trắng xóa che kín tầm mắt, chưa thể nhìn rõ chữ trên cờ hiệu là gì. Nhưng trông thấy cờ xí quen thuộc kia, Khánh Kỵ đã nhận ra đó là quân đội của mình.

Hắn mừng rỡ kêu lên một tiếng, rồi chạy một mạch xuống dưới cổng thành. Chỉ trong thoáng chốc, sĩ tốt người Sở đã đẩy cửa thành ra, Khánh Kỵ ngồi trên một chiếc chiến xa lao nhanh ra bên ngoài, bánh xe đi trên con đường đầy tuyết tạo nên hai hàng dấu vết thẳng tắp.

- Công tử!

Khi Khánh Kỵ thúc xe tới gần, thì đoàn quân kia bỗng đột nhiên dừng lại, đợi đến khi Khánh Kỵ đi tới trước mặt, trên chiếc chiến xa ở hàng trên nhất lập tức bước xuống một người, vẻ mặt vui mừng tiến tới.

Trên chiếc nón trụ của hắn tích đầy bông tuyết, thân hình cao lớn, râu ria xồm xoàm. Tà áo tung bay trong cơn bão tuyết, đúng là tả hữu luôn theo gót trung thành với hắn Lương Hổ Tử.

- Bái kiến công tử!

Đám sĩ tốt ở tiền phương đồng loạt thi hành quân lễ với Khánh Kỵ, tin tức nhanh chóng được truyền tới trận tuyến phía sau, toàn bộ đội ngũ xôn xao rầm rĩ.

- Các tướng sĩ suốt dọc hành trình đều phải đối mặt với mưa gió bão tuyết, vất vả rồi!

Khánh Kỵ chắp tay vái chào về mọi người xung quanh, sau đó ôm một cái thân mật với Lương Hổ Tử:

- Lương tướng quân, ta đoán được tính nóng vội của tướng quân, nhất định sẽ cầm đầu đoàn quân đi tiên phong, ha ha... Tọa chấn trung quân hẳn là Kinh tướng quân rồi.

Khắp mặt Lương Hổ Tử đầy vẻ phong sương, nhưng lại lộ rõ vẻ vui mừng trông thấy. Nghe Khánh Kỵ nói như vậy, không khỏi ha hả cười nói:

- Lần này thì công tử đoán sai rồi, tọa chấn trung quân là Yểm Dư công tử, Kinh Lâm tiểu tử lần này áp hậu trận phía sau.

Khánh Kỵ nghe vậy thì sững sờ:

- Yểm Dư vương thúc? Chẳng phải ta đã bảo vương thúc tọa chấn Ngải Thành sao? Tại sao người lại tới đây?

Lương Hổ Tử gượng cười nói:

- Yểm Dư công tử là vương thúc của công tử, ngài nhất định đòi đến đây, thuộc hạ cũng chẳng biết làm sao. Thuộc hạ cũng theo quân lệnh của công tử ngăn cản Yểm Dư công tử, thế nhưng ngài đã quát mắng té tát vào mặt thuộc hạ, ngài nói: "Cái gì mà tọa chấn Ngải Thành, ba quân đều đã xuất phát đi thảo phạt Cơ Quang rồi, để ta canh giữ một tòa thành trống để làm gì? Tên tiểu tử mất nết Khánh Kỵ, chẳng qua là muốn phòng khi hắn chẳng may thất bại, thậm chí chết nơi sa trường, để ta lại phải báo thù cho hắn mà thôi. Lúc này đây hắn đã gây dựng được cơ đồ như vậy, nếu như hắn đánh không lại Cơ Quang, thì cho dù ta có dốc hết chút hơi tàn của cái mạng này cũng chẳng thể nào mà đi báo thù cho hắn được. Chi bằng đi cùng nhau, cùng lắm là chú cháu ta kề vai sát cánh chiến đấu, chết trận oanh liệt nơi sa trường thôi."

Khánh Kỵ nghe xong dậm chân nói:

- Ài, nếu nói như vậy, Chúc Dung vương thúc lần này đi Phí Thành Phi Hồ cốc chắc cũng theo đoàn quân xuất chinh rồi.

Lương Hổ Tử cười hắc hắc:

- Công tử đoán đúng rồi, Chúc Dung công tử trước khi đi tới Lỗ quốc quả đã nói như vậy. Công tử nói, thắng bại vinh nhục đều được quyết định trong trận chiến này, đại quân của công tử là hy vọng phục quốc cuối cùng, nếu như lại bại nữa, chỉ còn con đường chết theo mà thôi. Ngài đường đường là Ngô quốc công tử, nam nhi chí lớn, làm sao chịu để cho người khác ở nơi trận tiền liều mạng, còn mình tọa thủ ở một tòa thành bỏ trống như một kẻ ham sống sợ chết.

Khánh Kỵ nghe hắn nói vậy cũng không khỏi gượng cười, Lương Hổ Tử quay lại đưa mắt nhìn những sĩ binh lặn lội suốt một hành trình dai dẳng, nhưng tinh thần ai nấy đều tươi tỉnh, ý chí chiến đấu sục sôi, liền trầm giọng nói với Khánh Kỵ:

- Công tử cũng không cần hối tiếc, hai vị công tử nghĩ vậy, đám binh lính sĩ tốt trong ba quân của chúng ta cũng nghĩ vậy, Cơ Quang đã chiếm đoạt ngôi vị Ngô quốc đại vương hơn một năm nay, nếu cứ để tiếp diễn như vậy nữa thì chúng ta sẽ không còn cơ hội hạ bệ hắn, thắng bại vinh nhục, thật sự được quyết định trong trận đánh này. Ngay cả những người đầu bếp cũng nghĩ vậy, chịu đi theo công tử, ai nấy đều mang theo vũ khí tòng quân, Ngải Thành đã trở thành một tòa thành trống, tất cả chúng thuộc hạ đều tình nguyện vào sinh ra tử cùng công tử! Công tử chính là linh hồn của anh em tướng sĩ, bất luận là nguy hiểm thế nào, bất luận là kẻ địch thế nào, anh em ba quân tướng sĩ đều sẽ kề vai sát cánh, cùng sống cùng chết với công tử, quyết không nhụt chí!

Lời nói này thật có khí phách, được phát ra một cách dõng dạc giữa cơn gió tuyết rít gào, Khánh Kỵ nghe vậy mà cảm động trong lòng, nhịn không được cầm lấy bàn tay của hắn, nam chi ý chí kiên cường, lòng dạ bất khuất, hai bên cùng nhìn nhau rồi cười, tất cả đều không bộc lộ ra được trong lời nói.

Hắn thở một hơi thật dài, đón nhận những bông tuyết đang lao tới trước mặt, nhìn về phía đội ngũ đang xếp thành hàng nghiêm chỉnh trước mắt mình. Đôi mắt quét qua những khuôn mặt thanh niên, quen thuộc có, không quen thuộc có, có vài nét mặt còn thể hiện sự rầu rĩ tang thương khi phải xa nhà, bỗng nhiên, ánh mắt của hắn dừng lại trên người một chiến sĩ thân hình thấp bé.

Hắn khoác áo giáp nửa người, bên trong giáp là một bộ võ phục, một thanh trường kiếm vác trên vai, dải tua trên thanh kiếm bị gió thổi lên, quét qua mặt của hắn, nhưng dù bị che bởi những tua kiếm kia, thì khuôn mặt thanh tú, mỹ lệ như đào hoa kia vẫn không thể che giấu được, đích thị là Quý Tôn Tiểu Man. Nàng đứng bên cạnh một chiếc chiến xa, đang mỉm cười nhìn về phía mình.

Khánh Kỵ bất giác đi về phía nàng, Lương Hổ Tử đứng phía sau bỗng gọi:

- Công tử, thuộc hạ có chuyện này.... công tử...

Khánh Kỵ bỏ mặc không để ý, đi thẳng tới chỗ Quý Tôn Tiểu Man, kinh ngạc nói:

- Nàng... chiến trường là nơi nguy hiểm, nàng đến đây làm gì, chẳng phải ta đã nói nàng phải ở lại Ngải Thành sao?

Quý Tôn Tiểu Man liếc nhìn hắn, sẵng giọng nói:

- Ngải Thành đã là một tòa thành trống, ta ở lại đó làm gì? Đã không có nơi nào đi, vậy thì chỉ còn biết theo đến đây thôi.

Khánh Kỵ biết đó chỉ là lời nói biện cớ, thiên hạ lớn như vậy, nàng đi đâu chả được? Lúc trước bảo nàng ở lại bên cạnh chăm sóc thì nàng còn không chịu cơ mà. Bây giờ lại chịu kham chịu khổ theo tới Sở quốc, tấm lòng thiếu nữ lẽ nào hắn lại không biết?

Trong lúc xúc động, Khánh Kỵ vụt chốc nắm chặt lấy đôi tay nàng, đôi bàn tay nhỏ bé được ấp chặt trong bàn tay to lớn của hắn, cảm giác lành lạnh, Khánh Kỵ trông thấy khuôn mặt của nàng hơi tím tái, đôi bàn tay đông lạnh đến đỏ bừng, không khỏi có chút tức giận:

- Ngải Thành một năm nay tích lũy rất nhiều lương thực quân nhu, lẽ nào lại không thể chuẩn bị được cho nàng vài bộ quần áo dày dặn ấm áp ư? Nàng ăn mặc phong phanh như vậy, cơ thể thì lạnh cứng, nếu chẳng may sinh bệnh thì biết làm sao đây? Lương Hổ Tử!

Trong ánh mắt của Quý Tôn Tiểu Man hiện lên một ý cười ôn nhu, thanh âm cũng trở nên dịu dàng:

- Đừng trách Lương tướng quân, là do người ta không chịu mặc, những bộ quân phục đó mặc lên trông phì nộn cả người ra, khó coi chết đi được.

Khánh Kỵ nghe xong không biết nên khóc hay nên cười:

- Điều này quả đúng như câu xinh đẹp đến run người, muốn đẹp không muốn sống hay sao?

Quý Tôn Tiểu Man câng mặt lên:

- Vậy thì đã làm sao, dù sao thì càng đi về Nam càng ấm áp, đợi khi qua được sông thì đến cả bông tuyết cũng chẳng nhìn thấy nữa đâu.

Khánh Kỵ lắc lắc đầu, cởi áo khoác của mình xuống, chẳng nói chẳng rằng khoác lên trên vai nàng, buộc dây áo cho nàng, rồi nói:

- Thật chẳng thể hiểu được nàng nữa, được rồi, cứ mặc tạm áo khoác của ta đã, đợi đến Bách Thành...

Lương Hổ Tử chạy tới, vội nói:

- Công tử, thuộc hạ có...

Khánh Kỵ quay đầu sang, hừ một tiếng nói:

- Chuyện ta căn dặn ngươi, chẳng có chuyện nào là làm cho tốt cả, còn muốn... hả?

Hắn nhìn thấy Lương Hổ Tử hướng về phía mình nháy mắt ra hiệu vài cái, thần tình có chút quỷ dị, không khỏi khẽ chút giật mình, thuận theo ánh nhìn của Lương Hổ Tử nghiêng mắt ra xem, dùng khóe mắt kín đáo liếc về phía đó. Lúc này mới bị khiếp vía hồn bay phách lạc, nhìn lại lần nữa, quả nhiên là thật, người kia tuy rằng mặc một bộ giáp, chiều cao cũng chỉ tương đương với sĩ tốt bình thường, nhưng khuôn mặt rõ ràng là Thúc Tôn Diêu Quang.

Trong khoảnh khắc Khánh Kỵ dường như đang mơ hồ trong giấc mộng: "Diêu Quang... tại sao nàng ấy lại ở đây được chứ?"

Sau đó, ánh mắt của hắn khẽ chùng xuống, tâm tình cũng cụt ngủn không còn hứng thú. Hỏng rồi, hai tay của hắn vẫn đang dừng trước ngực của Quý Tôn Tiểu Man, ngón tay khẽ chạm vào chiếc cằm mỹ lệ lành lạnh của nàng, chiếc dây trên cổ áo khoác mới chỉ cài được một nửa, động tác này, nhìn thế nào cũng có chút ám muội.

Dường như gió tuyết có chút lạnh, vì Khánh Kỵ phát hiện da mặt của mình cũng hơi đanh lại. Khóe miệng của hắn hơi co lại, khẽ mấp máy, đón lấy cái nhìn từ cặp mắt trong trẻo của Quý Tôn Tiểu Man, cặp mắt to đẹp đó vẫn đang mang một sự vui vẻ hiền dịu, thế nhưng.... Khánh Kỵ bất giác cảm thấy trong đôi mắt đó hiện lên một chút gì đó của sự đắc ý.

Khánh Kỵ bỗng nhiên tự hận mình, tiểu cô nương đóng giả tiểu tử kia đã bao giờ có mùi vị nữ nhân đâu, lúc nãy làm sao nàng ta có thể vì sự quan tâm hỏi han của mình mà bộc lộ ra tình cảm như vậy? Động tác này của mình, lúc thường thì phản ứng của nàng ta phải là ngượng nghịu bất an, cảm giác không thoải mái mới phải. Nàng ta... rõ ràng là cố ý châm chọc ta.

Khánh Kỵ hung hăng trừng mắt nhìn nàng, Quý Tôn Tiểu Man đáp lại bằng ánh mắt thờ ơ, nụ cười trên vẻ mặt đóng kịch lại càng dương dương đắc ý hơn.

- Nàng đã đến đây rồi, ta cũng không thể đuổi nàng về được!

Ánh mắt của Khánh Kỵ không liếc nhìn về phía Thúc Tôn Diêu Quang nữa, cứ như thể hắn chưa từng nhìn thấy Thúc Tôn Diêu Quang vậy, giọng nói bỗng nhiên sang sảng vang vọng, thần thái nghiêm nghị, đường hoàng nghiêm trang nói với Quý Tôn Tiểu Man:

- Ta cùng Tam Hoàn thế gia quan hệ sâu sắc, Thúc Tôn Thị, Mạnh Tôn Thị, đều có cội nguồn chặt chẽ với ta, nàng là người của Quý Thị thế gia, một thân nữ tử lưu lạc bên ngoài, ta làm sao có thể nhìn mà không để ý chứ? Nên mới thu giữ nàng ở lại, nếu như nàng sinh bệnh ở chỗ của ta, há chẳng phải là do ta chăm sóc không chu đáo sao? Đợi khi vào Bách Thành, lập tức sẽ thay bằng quần áo dày ấm. Hừ, cái gì mà quân phục dày cộm phì nộn bất kham chứ, căn bản thì vẫn là một tiểu hài tử chưa trưởng thành, ai thèm để ý tới dung nhan đẹp xấu của nàng?

Quý Tôn Tiểu Man quay lưng về phía Thúc Tôn Diêu Quang, làm động tác dí dỏm thè lưỡi với hắn, mũi hơi nhăn nhăn trêu tức, đắc ý nói:

- Lêu lêu lêu, phản ứng của công tử Khánh Kỵ nhanh đấy nhỉ, lại lừa được ngay cô nương người ta rồi đấy nhỉ? Hi hi...

Khánh Kỵ toát mồ hôi, ngoài trời rất lạnh, gió thổi rất lớn, thế nhưng hắn lại cảm thấy trong người có cảm giác rất nóng rất nóng. Bản thân phải làm sao vừa tự nhiên vừa ngạc nhiên mà phát hiện ra Thúc Tôn Diêu Quang đang ở trong đội ngũ kia đây, còn phải làm ra một bộ mặt kinh ngạc, vui mừng, nếu không thì màn kịch lúc nãy chỉ phí công vô ích thôi...

Ánh mắt sát nhân đáng sợ của nàng... chết tiệt thật, Lương Hổ Tử đâu? Lúc nãy nhìn thấy ta, tại sao hắn không nói luôn là Diêu Quang cũng có ở đây...

Khánh Kỵ quay đầu lại tìm Lương Hổ Tử với ánh mắt cầu cứu, bỗng thấy nơi lúc nãy Lương Hổ Tử đứng đã không còn thấy ai. Ở phía xa truyền đến một tiếng nói như sấm sét ngang trời, cứ như thể sợ hắn không nghe thấy vậy. Khánh Kỵ nhìn về nơi phát ra tiếng nói, chỉ thấy tên Lương Hổ Tử lúc nãy còn đang nói vì hắn mà vào sinh ra tử, đổ máu nơi sa trường, bất luận thế nào cũng không chịu thoái bước kia đang dùng cánh tay còn lại vung vẩy, tay áo bồng bềnh, gân cuống họng lên cao hứng bừng bừng nói:

- Các huynh đệ, công tử đến đón chúng ta rồi, các huynh đệ, đã gặp được công tử nhà ta rồi!

Chỉ là, bước chân của hắn rất nhanh, dường như phía sau đít có con chó đang đuổi theo vậy, tình hình đó nhất định không phải là đang cổ vũ sĩ khí toàn quân, mà giống như là... bỏ chạy mất dạng vậy.

Bên tai vang đến tiếng cười khúc khích khe khẽ của Thúc Tôn Diêu Quang, Khánh Kỵ hung dữ trừng mắt nhìn về phía tên Lương Hổ Tử không biết nói lời nghĩa khí kia, đã tức đến nỗi không nói được gì...

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 188: Khói lửa chiến tranh (Thượng Trung Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Khánh Kỵ quay đầu lại tìm Lương Hổ Tử với ánh mắt cầu cứu, bỗng thấy nơi lúc nãy Lương Hổ Tử đứng đã không còn thấy ai. Ở phía xa truyền đến một tiếng nói như sấm sét ngang trời, cứ như thể sợ hắn không nghe thấy vậy. Khánh Kỵ nhìn về nơi phát ra tiếng nói, chỉ thấy tên Lương Hổ Tử lúc nãy còn đang nói vì hắn mà vào sinh ra tử, đổ máu nơi sa trường, bất luận thế nào cũng không chịu thoái bước kia đang dùng cánh tay còn lại vung vẩy, tay áo bồng bềnh, gân cuống họng lên cao hứng bừng bừng nói:

- Các huynh đệ, công tử đến đón chúng ta rồi, các huynh đệ, đã gặp được công tử nhà ta rồi!

Chỉ là, bước chân của hắn rất nhanh, dường như phía sau đít có con chó đang đuổi theo vậy, tình hình đó nhất định không phải là đang cổ vũ sĩ khí toàn quân, mà giống như là... bỏ chạy mất dạng vậy.

Bên tai vang đến tiếng cười khúc khích khe khẽ của Thúc Tôn Diêu Quang, Khánh Kỵ hung dữ trừng mắt nhìn về phía tên Lương Hổ Tử không biết nói lời nghĩa khí kia, đã tức đến nỗi không nói được gì...

Hán Thủy, cứ điểm quan trọng bến sông Ngư Phản , tiếng chém giết rung trời.

Quân Ngô đang tấn công mạnh mẽ vào bến sông Ngư Phản, nơi đây, hiện tại vẫn là quân Sở chiếm giữ.

Đại tướng quân Ngô Vương Tôn Hùng chống mâu đứng trước trận tiền, hờ hững nhìn về phía doanh trại trước mặt, binh lính của hắn giống như một bầy kiến liều mạng, đang công kích về phía tòa doanh trại kia. Chòi quan sát, thành lũy trên doanh trại đều hướng ra phía ngoài để chống địch đến từ trước mặt, bây giờ kẻ địch lại đánh xốc ở phía sau lưng, thế địa lợi đã bị hạn chế. Lại thêm cả việc thành lũy doanh trại đều chủ yếu được xây dựng bằng gỗ, dưới những làn mưa tên xối xả công kích liên hồi, hiện tại đã có mấy khu vực lửa cháy phừng phừng, chuyện thất thủ đã không còn phải bàn cãi.

Cung nỏ của người Sở sắc bén lợi hại, tuy nhiên hiện tại tên đã bắn gần hết, hai bên đành phải bắt đầu áp vào nhau dùng vũ khí ngắn đánh giáp lá cà, kiếm thuẫn của người Ngô bắt đầu phát huy uy lực của mình. Kiếm quang lấp lánh, vung vẫy còn khiến người ta phải ớn rét thấu xương, vô số những thanh đoản kiếm chạm vào những chiếc thuẫn thủ, phát ra những tiếng "keng keng" ầm trời, chiến xa của người Ngô giống như một đám mây đen mù mịt, nuốt chửng trận địa của người Sở, những tiếng gầm rú háo hức rít lên đinh tai nhức óc.

Sở đại phu Khuất Vô Trần cầm kiếm đứng ở trên thành trại, lửa bốc cháy ngùn ngụt, bóng dáng cao gầy tựa cành cây khô đứng lẻ loi trong gió. Toàn thân ông khoác trên mình một bộ đồ trắng toát, đeo dây lưng bên hông, đầu quấn khăn trắng, cách ăn mặc như đang để tang vậy.

Ông mặc như vậy, chính là để tang cho mình, để tang cho thân nhân trong gia đình mình, để tang cho hàng nghìn hàng vạn binh sĩ trong doanh trại của mình. Khi quân Ngô phát binh đánh úp Ngư Phản, ông đã biết rằng tòa thành này nhất định sẽ không thể cầm cự được bao lâu. Khi ông đánh lui đợt tấn công lần thứ tư của quân địch, tận dụng thời gian quân sĩ đôi bên chỉnh đốn lại chiến trận, liền quay trở về nhà, cưỡng ép ra lệnh cho thê thiếp già trẻ lớn bé trong nhà, tổng cộng là mười bảy người, tất cả đều phải thắt cổ tự tử để tỏ lòng hy sinh vì tổ quốc. Sau đó mặc bộ đồ tang trở lại trận địa, ông đã quyết tâm chiến đấu tới người lính cuối cùng, cùng sống cùng chết với cứ điểm Ngư Phản.

Một dải hàng rào lay động vài cái, rồi sụp đổ ầm ầm. Doanh trại này tuy làm bằng gỗ, nhưng hàng rào đều được xây dựng bằng những khối gỗ to lớn chôn sâu xuống đất. Người Ngô khi công trại đã dùng dây thừng ngựa kéo nhưng cũng không làm cách nào đổ hàng rào cho được. Thế nhưng dưới những làn hỏa công mạnh mẽ, chẳng bao lâu sau chúng đã bị cháy rụi điêu tàn, cuối cùng những hàng rào kia cũng đã hoàn thành sứ mệnh của mình.

Khóe miệng Vương Tôn Hùng lộ ra một tia cười thỏa mãn, bàn tay của hắn nắm chặt dần thanh trường mâu, chậm rãi giơ nó lên không trung. Đầu mâu sắc bén lấp lánh phát ánh sáng chói lòa khi được ánh mặt trời chiếu sáng. Thanh trường mâu huơ trong không trung trong chốc lát, rồi sau đó dưới sự điều khiển của cánh tay vâm đô của Vương Tôn Hùng dũng mãnh lao lên phía trước.

- Giết!

Đội quân dự bị sau lưng Vương Tôn Hùng đồng loạt giơ trường mâu lên, giống như một rừng binh khí sắt thép, nhất tề chĩa về phía trước. Cả rừng trường mâu giống như dòng thủy triều ào ạt lao lên phía trước, toàn bộ đội ngũ xếp thành hình thế, thần tốc lao vào lỗ hổng vừa được tạo ra, tiến thẳng vào doanh trại.

Đôi mắt Khuất Vô Trần đỏ ngầu, giơ trường kiếm lên, khàn giọng hét lớn:

- Toàn quân xông lên, cùng chết với địch!

- Toàn quân xông lên, cùng chết với địch!

Những binh sĩ Sở đôi mắt cũng ngầu máu rời khỏi những lỗ châu mai phía trên doanh trại, lao xuống phía dưới vật lộn với đoàn quân Ngô. Kiếm thuẫn, trường mâu kết hợp , tạo thành một tiểu đội hoàn mỹ hợp tác tác chiến với nhau. Quân Sở còn lâu mới là đối thủ của đội quân Ngô quen dùng vũ khí ngắn này, máu tươi, chết chóc cứ không ngừng tăng lên...

Khuất Vô Trần thề sống mái với quân thù giống như kẻ điên, tay cầm trường kiếm của người Sở lao thẳng vào trong trận địa của quân Ngô, không màng sống chết đâm chém lung tung. Lưỡi kiếm gạt bỏ hết được những thanh trường mâu tạt tới, vận hết sức bình sinh, nhưng chỉ là phí công vô ích, đâm bổ mãi cũng chỉ chạm được vào những trận địa thuẫn được bố trí nghiêm mật.

- A!

Khuất Vô Trần ngửa mặt lên trời thét dài một tiếng, rồi khuỵu gối xuống vung kiếm quét một vòng, trong khoảnh khắc hàng thuẫn của quân Ngô có chút lơi lỏng, đã chặt đứt một chân của một viên binh sĩ, sau đó ông dùng chân đá bay tấm thuẫn kia, đạp ngã tên lính đã cụt một chân đang kêu rú thảm thiết ngã sóng xoài, lợi dụng lỗ hổng lao lên phía trước.

"Keng" một tiếng, một thanh trường mâu đột nhiên xuất hiện trước mặt, mũi mâu giao kích với trường kiếm, thanh kiếm vốn đã sứt mẻ nhiều chỗ giờ đây lại xuất hiện một vết nứt rỗ lớn, Khuất Vô Trần loạng choạng lùi lại, trước mặt là một vị tướng quân đang đứng ngạo nghễ.

Giáp nhẹ, trường mâu, đứng sừng sững hiên ngang, sát khí hầm hầm ngưng tụ trên đôi mắt của hắn.

- Sở nhân Khuất Vô Trần ở đây, ngươi là kẻ nào?

Người kia nhẹ nhàng nhấc trường mâu lên, đạo mạo nói:

- Ngô nhân Vương Tôn Hùng.

"Được!" Khuất Vô Trần cười khó khăn, trường kiếm dựng thẳng, đôi mắt đỏ ngầu chằm chằm nhìn đối phương.

Vương Tôn Hùng đứng nghiêng người, một tay cầm mâu, tay kia khẽ phẩy, sĩ tốt quân Ngô bốn bề lập tức dạt về phía sau, hình thành một bức tường vòng tròn, trong vòng tròn là Khuất Vô Trần và Vương Tôn Hùng người cầm kiếm kẻ cầm mâu, ngoài vòng tròn, là những binh sĩ Sở quốc và những tướng sĩ Ngô quốc giống như bầy hổ lang đang ngã xuống, số lượng càng ngày càng ít dần.

- Tướng quân xin hãy xuất chiêu đi!

Vương Tôn Hùng một tay cầm mâu, hướng mũi mâu về phía trước, quát giọng lanh lảnh.

- Ya!

Khuất Vô Trần xoay người lao tới, mượn tốc độ di chuyển nhanh chóng của bước chân và sức lực của cơ vai, liên tiếp bổ xuống mười mấy kiếm, giống như cuồng phong đâm bổ về phía Vương Tôn Hùng.

Vương Tôn Hùng cầm trường mâu, vung vẫy khiêu khích, lui dần về phía sau, binh khí hai bên va đụng vào nhau, tiếng va đập vang lên không ngớt, liên tiếp mười mấy kích, "Keng" một tiếng, thanh kiếm của Khuất Vô Trần không chịu nổi những đợt phản kích dữ dội uy lực, đã bị gãy ra thành hai đoạn, trường mâu của Vương Tôn Hùng chĩa về ngực ông, mũi mâu sắc bén đã tiếp giáp với áo bào, áp sát vào trước ngực, Vương Tôn Hùng cười nhạt, quát lớn:

- Hàng hay chết?

Sau tiếng "keng", một nửa thanh trường kiếm rơi xuống bãi cát, Khuất Vô Trần cười bi phẫn, cầm lấy nửa thanh kiếm còn lại trong tay, gọt một đường thẳng tắp trên cổ mình, máu tươi phun ra liên hồi, ứa ra chảy tràn khắp áo bào như hoa mai nở. Vương Tôn Hùng khẽ thở dài:

- Biết rõ là không địch lại được, tại sao còn cố chấp như vậy?

Hắn lắc tay, thu trường mâu lại, thân hình Khuất Vô Trần khẽ lảo đảo, thần thái trong mắt tiêu tan dần, khóe môi khẽ động đậy, dường như còn muốn nói điều gì, nhưng sau một hơi thở hắt ra, ông đã đổ người xuống đất.

Binh sĩ bốn bề quan sát trông thấy vậy thì giương cao binh khí trong tay, hoan hô hưởng ứng, có người đã cao giọng nói to:

- Tướng thủ thành Ngư Phản Khuất Vô Trần đã chết! Tướng thủ thành Ngư Phản Khuất Vô Trần đã chết!

Tiếng kêu truyền ra khắp doanh trại, lúc này đã là biển lửa, những tốp binh sĩ Sở tụm lại thành nhóm ba, năm người bị quân Ngô chia cách, từng hàng trường mâu và kiếm thuẫn bao bọc lấy những tướng sĩ Sở quốc còn lại, bọn họ giống như những chiếc lá héo tàn giữa phong ba bão tố, bị gió bão giày xéo, bảy nổi ba chìm. Cho dù bọn họ đã ôm lòng quyết tử cho tổ quốc quyết sinh, nhưng nghe được thông tin này, quyết tâm thề chết đã bị dao động, những chiếc "lá rụng" kia đã bị cuồng phong dập nát.

Vương Tôn Hùng bước qua những tử thi và máu tươi lênh láng trên đường, trong tiếng chém giết sang sảng quát lớn:

- Kẻ nào không chịu đầu hàng thì giết chết không tha, nhanh chóng thu dọn chiến trường, thu nạp toàn bộ chiến thuyền lớn nhỏ, giữ lại ba mươi chiếc dự trữ, số còn lại gom lại rồi đốt hết!

Dĩnh Đô, một đội kéo dài nhìn mãi không thấy điểm tận. Những đội xe ngựa của các công khanh, thân sĩ từ Sở quốc lập thành một đội, được binh sĩ tinh nhuệ hộ tống, hành trình thẳng tới Ngô quốc. Một đội nhân mã tạm thời được điều về Ngư Phản, đem những vật trang tư dụng cướp bóc được theo đường thủy trở về nước.

Hạp Lư dường như muốn mang theo cả toàn bộ Sở quốc vậy, tất cả vật tư quân nhu, công cụ sinh hoạt, vàng bạc châu báu, binh khí sắt thép, bất kể là dùng được hay là không đều được vận chuyển cho bằng hết. Bây giờ hắn không lo là không có xe ngựa, mà hắn lo là không đủ người đi theo hộ tống hết chỗ xe ngựa chở đồ này. Tất cả những của cải vật chất của Sở quốc tích lũy suốt hơn năm trăm năm nay sắp bị Hạp Lư vơ vét thu vào túi riêng sạch sẽ.

- Tránh ra! Tránh ra!

Hơn mười viên đại hán cưỡi khoái mã, trên vai cắm lá cờ nhỏ, hẳn là tín sứ trong quân, một tay quất roi thúc ngựa, một tay soải ra đuổi tránh những đoàn quân đang chở của cải sang hai bên, khiến cho đoàn quân ngũ xiêu vẹo méo mó phải nhường ra một con đường, đoàn người tức tốc vọt lên thoát khỏi đám đông.

Bọn họ chính là những tín sứ được Cơ Quang phái đi, Cơ Quang có ý muốn cầm cự thêm ở Dĩnh Đô một thời gian nữa, chống đỡ những đợt tấn công của liên quân Khánh Kỵ với người Sở. Đợi đến khi Tề Tấn có phản ứng, đại cục thiên hạ xoay vần, nhưng thực sự thì hắn vẫn chưa thể yên tâm với Ngô quốc, liền phái người cưỡi khoái mã quay về, bàn mưu tính kế hợp mưu hành động với bào đệ Phu Khái và thái tử Phù Sai.

Cơ Quang lệnh cho bào đệ Phu Khái đề phòng nghiêm ngặt Việt quốc, nước trước nay luôn câu kết với Sở quốc làm điều gian "nhân lúc cháy nhà mà đi hôi của", lệnh cho thái tử Phù Sai phái thám mã, cùng với những trinh sát được mình phái đi giám sát nghiêm ngặt mọi con đường yếu đạo đi tới Ngô quốc, để đề phòng Khánh Kỵ chỉ Nam đánh Bắc, giả ý liên minh với Sở quốc, kỳ thực ngấm ngầm tập kích Ngô quốc.

Cùng lúc đó, hắn phái vài lộ đại quân chia ra cát cứ chiếm đóng ở những cửa ải hiểm yếu xung quanh Dĩnh Đô, định bụng thừa lúc quân đội cần vương của người Sở chưa kịp hội quân chiếm cứ toàn bộ những vùng yếu địa chiến lược, chiếm lấy ưu thế về địa lý.

Xung quanh Dĩnh Đô, tất cả những cửa ải hiểm yếu, nơi nào cũng có quân Ngô canh giữ, chiến hỏa phừng phừng...

- Nằm giữa hai ngọn núi, tòa thành lũy kia là nơi nào vậy?

Khánh Kỵ ẩn mình trong rừng rậm, phóng mắt quan sát trận địa, hỏi một binh sĩ Sở dẫn đường.

- À, tướng quân, tòa thành nhỏ kia chính là Na Xứ (dịch sang tiếng Việt là "chỗ đó")

- Đúng vậy, chính là tòa thành đó, nó tên là gì vậy?

- Ách... tướng quân, tòa thành nhỏ đó, tên gọi của nó chính là "Na Xứ"

- Gì cơ?

Khánh Kỵ khẽ ngẩn người ra, sau đó cười khẩy nói:

- Cái tên này thật khiến người ta cảm thấy kỳ lạ.

Hắn ngẩng đầu nhìn tiết trời, bóng tịch dương đã buông xuống, bầu trời còn hơi chút ửng đỏ, nhưng khí lạnh đã bắt đầu lan tỏa. Tuy rằng đây là vùng Giang Nam, mùa đông cũng chả được coi là lạnh lẽo cắt da cắt thịt, nhưng màu sắc của bầu trời lẫn mặt đất, vẫn khiến cho người ta cảm nhận được một sự ảm đạm thê lương, sầu não đến vô cùng.

- Căn dặn ba quân tướng sĩ tất cả ẩn vào trong rừng nghỉ ngơi, không được nhóm lửa, không được gây ra tiếng động lớn, coi chừng lũ ngựa thật tốt.

- Rõ.

A Cừu chắp tay vâng lệnh, vội vã lui ra.

- Diêu Quang...

Nhìn thấy viên lính dẫn đường cũng theo đó lui ra ngoài, Khánh Kỵ liền cười ôn hòa nói với Thúc Tôn Diêu Quang đang đứng kế bên:

- Đêm nay khi phát động cuộc tập kích với tòa thành đó, nàng chỉ được ở trận địa phía sau, tuyệt đối không được xung phung lên trước, khiến ta bị phân tâm.

- Dạ! Biết rồi, đánh trận, là chuyện của đàn ông mà...

Thúc Tôn Diêu Quang cười ngọt ngào, thái độ rất hòa nhã:

- Nhưng... chàng... chàng phải cẩn thận, nếu như chàng gặp phải một chút thương tổn nào, thì lần sau thiếp nhất định phải được sát cánh chiến đấu bên cạnh chàng.

- Được!

Khánh Kỵ mỉm cười.

Hôm đó khi phát hiện ra Thúc Tôn Diêu Quang ở trong đoàn quân, cho dù hắn cảm giác được rằng hành động "mừng rỡ bất ngờ ngoài ý muốn" của mình có chút vụng về, nhưng dường như Thúc Tôn Diêu Quang vẫn cho là thật, nàng trước sau chẳng thèm dò hỏi nghi ngờ lấy một câu, cũng không có một lời than vãn trách móc, điều này khiến cho Quý Tôn Tiểu Man vốn đang nghĩ sẽ được xem kịch hay có đôi chút thất vọng.

Còn Khánh Kỵ thì như đi guốc trong bụng với những biểu hiện của Thúc Tôn Diêu Quang, nàng không phải là không nhận ra điều gì, mà là bởi vì lúc này là lúc Khánh Kỵ đang lĩnh binh phạt Ngô phục quốc, là một thời khắc vô cùng vô cùng quan trọng, cho dù nàng chất chứa một bụng nghi ngờ, nhưng cũng không thể hiện ra ngoài, đề cập đến khiến Khánh Kỵ phân tâm trong thời khắc như vậy.

Việc khéo hiểu lòng người cùng phong độ biết rõ thời cuộc, công tư phân minh của Thúc Tôn Diêu Quang khiến cho Khánh Kỵ đã kính giờ còn càng thêm yêu nàng. Những ngày qua hai người sát cánh hành quân, bàn bạc việc quân, mặc dù đã không còn nhiều thời gian bàn chuyện phong hoa tuyết nguyệt như hồi ở Phí thành, nhưng tình cảm của hai người ngược lại càng thêm bền chặt keo sơn.

Chỉ là... sau trận đại chiến thì sao? Khánh Kỵ không hề quên, có một đêm hắn đưa Diêu Quang về trướng, muốn thừa cơ vui đùa với nàng một tí, không ngờ nàng nha đầu này đột nhiên nổi cơn ghen tuông nói:

- Đi đi đi, người ta bây giờ đang giúp chàng đánh trận vẫn chưa đủ sao? Muốn tìm nữ nhân à, đi mà tìm Ngải tướng quân của chàng ấy. Hứ, còn định già mồm cãi chối ư? Chàng dám nói việc cởi bào tặng áo hôm bão tuyết đó không có chút tình cảm nam nữ nào, chỉ là quân tâm thuộc hạ mà thôi sao? Hừ! Đợi khi chàng làm xong đại sự, thiếp sẽ lại tính sổ với chàng!

Đừng tưởng nàng ôn nhu hiền hòa như nước, sự đanh đá chua ngoa của nàng so với sự điêu toa giả dối của Tiểu Ngải còn trên một bậc, bây giờ nàng giấu đi nanh vuốt sắc bén, đợi khi đại cục đã định sẽ bắt đầu phát tác trở lại. E rằng sẽ khiến người ta phải kinh hãi muôn phần. "Đi một bước nhìn một bước, trước mắt hai a đầu này đang thầm tranh đấu gầm ghè lẫn nhau, toàn bộ công phu cao thấp đều dồn vào trong chiến sự, chưa hẳn đã là chuyện không tốt." Khánh Kỵ khẽ nhìn trộm dung nhan giảo mỹ của nàng, thầm nghĩ như vậy trong lòng.

Bóng tịch dương vàng vọt, nhuốm lên trên dung mạo đẹp đẽ của Thúc Tôn Diêu Quang một đường viền vàng vọt, tựa hồ như cảm thấy Khánh Kỵ đang nhìn mình, nàng liền liếc nhìn sang phía Khánh Kỵ. Khánh Kỵ vội thu lại ánh nhìn, nhìn thẳng về phía trước, hai người chầm chậm bước xuống bãi cỏ dưới sườn núi, đang muốn vượt qua một con suối, một chân Khánh Kỵ choạng vạng, suýt tí nữa thì chạm nước.

- Địa hình của tòa thành này thật hiểm trở.

Khánh Kỵ nén giọng nói xuống rất thấp.

Yểm Dư, Lương Hổ Tử, Kinh Lâm, còn cả A Cừu Tái Cừu, các tướng lĩnh thân thuộc chúm chụm lại thành vòng tròn, không có đống lửa nổi lên ở giữa. Màn đêm tối tăm, ánh trăng ảm đạm, nhìn không rõ mặt mũi mọi người, chỉ có thể nhờ vào ánh trăng sao lấp lánh chiếu lờ mờ, trong giọng nói và thân hình của mỗi người để nhận ra thân phận của họ.

Trong bóng tối, ngũ quan Khánh Kỵ khó nhìn rõ được, chỉ có đôi mắt sáng lóe phát ra ánh sáng rạng rỡ.

- Theo tình hình suốt chặng đường chúng ta dò la xem xét, vị trí địa lý của tòa thành này cực kỳ có lợi cho những hành động tiếp theo của chúng ta, vì vậy, ta muốn chiếm cho bằng được tòa thành này, biến nó thành đại bản doanh của chúng ta.

Yểm Dư công tử lên tiếng nói:

- Tòa Na Xử thành này không lớn lắm, là nơi trú chân cho ba vạn đại quân của ta e rằng hơi chật chội, bức bối, còn về ưu thế địa lý..., Khánh Kỵ, cháu hãy nói cho mọi người biết lý do và dự định tại sao lại chọn tòa thành này, cho mọi người thương nghị xem sao.

- Dự định của ta, mọi người đều biết rõ. Cơ Quang phạt Sở, điều động đại bộ phận quân tinh nhuệ Ngô quốc, mục đích của chúng ta chính là dẫn dụ hắn vướng vào trong cuộc chiến tranh với Sở quốc, nhân lúc trong nước không có vua quân coi giữ, chiếm lại quyền kiểm soát Ngô quốc. Hiện tại, những tuyến đường giao thông huyết mạch từ Ngô quốc sang Sở quốc đều nằm trong tay của Cơ Quang. Hàng vạn đại quân của ta hành quân, tuyệt đối không thể lọt qua được tai mắt của hắn, vì vậy, những con đường yếu đạo cả trên thủy lẫn trên bộ từ hướng Đông sang Ngô quốc chắc mẩm đã được bố phòng dày đặc mật thám của Cơ Quang, nếu chúng ta vứt bỏ Cơ Quang sang một bên, trực tiếp tập kích thẳng tới Ngô quốc, như vậy thì Cơ Quang có thể quay về nước nhanh hơn chúng ta một bước, đó là điều chắc chắn.

Cho dù chúng ta có thể tiến tới Ngô quốc đồng thời với hắn, hoặc thậm chí đi trước một bước, cũng chắc chắn phải đối mặt với sự chống cự quyết liệt từ phía quân thủ thành mà Cơ Quang để lại trong nước, bất kể chúng ta có công thành phá trại thế nào, đại quân chủ lực của Cơ Quang cũng sẽ trở về kịp, như vậy thì đại kế sách của chúng ta sẽ tan thành mây khói. Vì vậy, chúng ta phải dàn dựng như thể sẽ tạo ra một trận quyết tử với Cơ Quang tại Sở quốc, khiến hắn mơ hồ, đưa ra cái nhìn sai lầm về bố cục. Lợi dụng cơ hội đang kết minh với Sở quốc mà vây chặt hắn tại đây, nếu chuyện không thành, thì cũng phải tận lực tiêu hao binh lực của hắn, tạo điều kiện tiền đề thuận lợi cho chúng ta trong các cuộc đại chiến sau này trên lãnh thổ đất Ngô. Lực lượng mà ta dùng để tấn công thực sự vào Ngô quốc nằm ở Lỗ quốc, đó là đội quân hiện tại do Chúc Dung vương thúc, Tôn Vũ, cùng Anh Đào thống lĩnh, đó chính là đội kì binh phạt Ngô phục quốc của chúng ta.

Địa thế của tòa thành Na Xử kia rất hiểm yếu, là một trong ba tuyến đường bộ mà Cơ Quang lựa chọn để rút quân, hơn nữa lại là con đường ngắn, nhanh và tiện lợi nhất, là vùng đất mà trong binh gia buộc phải có được, đây chính là lý do quan trọng thứ nhất mà ta chọn nó. Thứ hai, nơi này nếu tiến về Nam, có thể công phá Dĩnh Đô, một khi đội quân cần vương của Sở quốc tề tụ đông đủ, chúng ta có thể mượn nơi này làm bàn đạp để tạo thành thế gọng kìm với Sở quân kẹp Cơ Quang lại; Nơi này nếu tiến về Bắc, chỉ hai mươi dặm xa đã đi tới Hán Thủy, chúng ta thủ tại nơi này, dựa vào địa lợi, khi thời cơ thích hợp, có thể rút lui quân đội bất cứ lúc nào, men theo dòng Hán Thủy Đông tiến, từ vùng nước Trường Giang giết trở lại Ngô quốc, rồi lại đi đường bộ, đây cũng là đoạn đường ngắn nhất.

- À...,

Yểm Dư trầm ngâm trong chốc lát, rồi vuốt cằm nói:

- Không sai, suy nghĩ của cháu thật thấu đáo, ta đồng ý với quyết định của cháu, có điều ta còn có một vài ý kiến nữa. Gần ba vạn đại quân của ta, tất cả dồn tụ đồn trú tại nơi này là không hợp lý, huống hồ tuy bảo nơi này là hiểm địa, nhưng nó cũng là tuyệt địa, đội quân cần vương của người Sở hiện tại đang lục tục đi về Tùy quốc, nhất thời không thể tới đây, nếu như chúng ta chiếm đóng tòa thành đó vào thời điểm này, Cơ Quang nhất định sẽ phái trọng binh đánh ngược trở lại, chẳng may để chúng bao vây trong tòa thành đó, đội quân cô độc của chúng ta sẽ trở nên "khéo quá hóa vụng" mất thôi.

Ta chinh chiến ở Sở quốc suốt một năm, có hiểu biết nhất định về địa hình địa lý ở nơi này. Ta còn nhớ từ nơi này hướng về phía Tây Bắc, khoảng chừng ba mươi dặm, có một chiếc hồ lớn dựa vào núi, hồ tên gọi là Bách Tân. Hồ Bách Tân thông sông Hán, nối sông Chương, chu vi vài trăm dặm, dựa núi tựa hồ, dễ thủ khó công. Theo ý kiến của ta, sau khi chúng ta hạ xong tòa thành này sẽ chia binh đồn trú ở hồ Bách Tân, tạo thành thế ỷ giốc với tòa thành này, tương trợ lẫn nhau. Như vậy sẽ tránh bị rơi vào tình thế hiểm nghèo cô lập.

Kinh Lâm khen ngợi:

- Lời công tử Yểm Dư nói quả là chí lý. Chuyện binh không thể khinh suất, nên dùng kế sách vẹn toàn này. Hơn nữa, chúng ta phạt Ngô sẽ có khả năng phải dùng tới đường thủy. Con đường đó đến từ Vệ quốc, chúng ta lại không có lấy nổi một còn thuyền. Hồ Bách Tân khuôn viên mấy trăm dặm, lại thông tới Hán Thủy, nhân mã của chúng ta đồn trú tại hồ Bách Tân có thể nhân tiện thu gom thuyền bè lại phòng khi sử dụng tới, một khi đến lúc sử dụng là có thể tùy ý huy động được ngay.

Mọi người bàn tán sôi nổi, ai nấy đều phát biểu bổ sung ý kiến, cho đến khi ánh trăng đã lên cao vời vợi, chiếu sáng mọi nơi, khiến cho bóng dáng của họ in trên nền đất che lấp khuôn mặt người đối diện, đám đông mới thôi bàn tán. Mọi người thống nhất, trước tiên đoạt lấy tòa thành này, chiếm đóng con đường bộ chính yếu để lui binh của Cơ Quang. Sau đó chia binh ra hồ Bách Tân, kết hợp với nhau chặt chẽ, đồng thời thu gom thuyền bè để sử dụng lúc về Ngô tác chiến. Trong màn đêm, tòa thành kia bốn bề yên ắng, đại đội nhân mã nấp sau cánh rừng rậm rạp, Khánh Kỵ chỉ cầm ba ngàn binh sĩ già dặn có kinh nghiệm tác chiến lâu năm, trườn sấp đi về phía trước, từ từ tiếp cận tòa thành. Tại một nơi trên sườn núi, Khánh Kỵ ra lệnh quân sĩ dừng lại, ngẩng đầu xem xét tỉ mỉ động tĩnh trong thành, tòa thành kia trong bóng đêm giống như một con quái thú cô hồn dạ quỷ, lẳng lặng thủ phục ở đằng kia.

Ghé tai nghe ngóng động tĩnh trong thành, Khánh Kỵ lặng lẽ đứng lên, nắm chặt thanh trường mâu trong tay:

- Xung trận đoạt thành! Ai lên thành trước được tấn thêm một bậc, giết tên đầu sỏ được tấn hai bậc, xuất phát!

Trong màn đêm yên tĩnh, phát ra một tiếng động, đó chính là âm thanh phát ra do ma sát từ những bộ giáp trụ của binh sĩ khi nhất tề đứng dậy. Sườn núi bỗng nhiên cao thêm một đoạn, kiếm kích sắc bén dưới ánh trăng tỏa sáng phát ra những ánh quang mang ớn lạnh. Những công cụ công thành thô sơ được các võ sĩ nhấc lên, bọn họ giống như dòng thủy triều đổ xuống sườn núi, tiếng bước chân rầm rập từ từ phát lớn, như voi dữ dậm chân, đất đai rung chuyển.

- Giết!

Khi bọn họ tiến tới dưới chân thành, có người phát ra một tiếng thét gầm giận dữ, giống như thể dòng đại hồng thủy tìm được lỗ hổng để xối xả, ba nghìn sĩ binh cùng lúc hô gào, một tiếng gầm đáng sợ phát ra trong đêm đen, quây lấy tòa thành trì nhỏ bé kia.

Chiến kiếm huy vũ, những công cụ đầu nhọn thô kệch công thành va đập vào chiếc cổng thành mỏng manh, một làn hỏa tiễn trong đêm như cơn mưa sao băng rót xuống tòa thành, ánh lửa và sắc máu tóe ra không ngừng.

Dưới sự công kích không ngừng, chiếc cổng thành không được dày dặn cho lắm đã bị đánh phá cho bầm dập gãy nát, trong ngoài thành ánh lửa bốn bề, quân trên thành và quân thủ thành của Ngô quốc bắt đầu triển khai chiến trận, hơn trăm chiếc thang gỗ thô sơ được gác lên tòa thành thấp nhỏ, binh sĩ trườn bò lên như bầy kiến, không ngừng có người kêu thảm rớt xuống dưới, không ngừng có người tiếp tục leo lên, quan binh thủ thành vội vã ứng chiến rất nhanh chóng bước vào giai đoạn giao chiến bằng binh khí ngắn.

- Quân địch không phải người Sở!

Có người nhìn thấy qua ánh lửa lập lòe, phát ra câu nói kinh hãi.

- Ngô quốc Khánh Kỵ, thảo phạt nghịch tặc Cơ Quang, kẻ nào hàng thì sống, chống cự thì chết!

Nhân mã của Khánh Kỵ thuận đà la lớn.

Khánh Kỵ rời nước mới được hơn một năm, trong đám sĩ binh người Ngô vẫn còn uy danh là "kẻ không thể đánh bại", vừa nghe tới đây là nhân mã của Khánh Kỵ, những quan binh Ngô quốc vốn đã trở tay không kịp nay lại càng thêm hoảng loạn.

Khánh Kỵ ngạo nghễ đứng trên trận tiền, có chút nhíu mày, Yểm Dư cầm mâu đứng kế bên, bèn hỏi:

- Đang nghĩ gì vậy?

Khánh Kỵ khẽ lắc đầu, hạ giọng nói:

- Sự phản kháng của quân Ngô mạnh mẽ hơn là ta tưởng.

Yểm Dư cũng thoáng gật đầu:

- Đúng vậy, hơn một năm nay, quân Ngô với ta đã nhiều lần đại chiến ở Sở quốc, ngu thúc (chỉ Yểm Dư) bất tài, nhiều lần bại trận, sự sợ hãi trong lòng của quân Ngô đã rất nhỏ nhoi.

Khánh Kỵ lắc đầu nói:

- Vương thúc cố nhiên binh bại tại Sở quốc, Khánh Kỵ lần trước phạt Ngô không thành, bại trận trở về, cũng khiến cho sự lo sợ của đám sĩ tốt giảm đi nhiều. Huống hồ, nguyên nhân quan trọng nhất chính là, trong thời gian hơn một năm qua, e là Cơ Quang đã thay thế toàn bộ tướng lĩnh trong quân đội rồi.

Hắn im lặng trong chốc lát, rồi bỗng nhiên cười nói:

- Cơ Quang thay thế tướng lĩnh quân đội, nhưng mới chỉ được có một năm có lẻ, trẻ con của Ngô quốc vẫn chưa trưởng thành, hắn không thể nào thay thế toàn bộ binh sĩ tướng lĩnh trong quân được. Binh lính Ngô quốc đã quên mất võ dũng của hai ta, vậy chúng ta hãy dùng sự thực, khiến bọn chúng lại lần nữa phải sợ hãi e dè!

Câu nói của Khánh Kỵ nhen nhóm ý chí chiến đấu trong lòng Yểm Dư, hắn nắm chặt trường mâu, cao giọng cười lớn:

- Chính xác, chúng ta hãy dùng sự thực bằng máu nóng, khiến cho chúng sợ hãi lần nữa.

Hai chú cháu nhìn nhau cười ha hả, tiếng trống trận kinh động lòng người vang lên dồn dập, xóa sạch tàn vết của những âm thanh khác trên chiến trường.

- Theo bản công tử công thành, trong thời gian ba nén hương phải chiếm cho được tòa thành này!

Khánh Kỵ và Yểm Dư cầm mâu xung phong, tám trăm binh sĩ tay cầm kiếm mâu theo sát phía sau, bọn họ đạp mạnh từng bước về phía trước, mỗi lần đi một bước, liền dùng sống kiếm đập lên bì thuẫn thật mạnh, phát ra tiếng "Coong" thật mạnh. Tám trăm người đồng thời dùng kiếm gõ thuẫn, tiếng động này giống như tiếng rít gào, còn đáng sợ hơn cả tiếng trống trận.

- Coong! Coong! Coong!

Khánh Kỵ và Yểm Dư soái lĩnh binh lính, đích thân xông lên phía trước.

Đôi bên đã bước vào giáp chiến, điều Khánh Kỵ không ngờ tới là, binh sĩ Ngô quốc cố sống cố chết kháng cự, thề chết không lui. Hắn điên tiết lên, sát ý nảy sinh. Binh sĩ Ngô quốc chết trong trường mâu của hắn đã đếm không xuể, toàn thân chiến bào đều nhuốm đỏ sắc máu. Toàn bộ tòa thành đã không còn những tiếng chỉ huy (đúng hơn là thét gào chỉ huy thế nào cũng chả ai nghe thấy), ai ai cũng chỉ lo chiến đấu vì bản thân mình. Đám hộ binh quây kín xung quanh Khánh Kỵ chuyển vào một hẻm nhỏ, trong căn hẻm tối tăm đột nhiên vang lên một hồi thanh âm.

- Cẩn thận đề phòng!

Khánh Kỵ hét lớn, đồng thời vứt bỏ thanh trường mâu lúc này đã không còn thích hợp khi chiến đấu trong ngõ hẹp, rút ra Thừa Ảnh kiếm của hắn. Hắn đã ý thức được rằng mình đang lâm vào một trận địa phục kích của địch. Một bóng đen trước mặt mang theo một luồng sát khí lao tới, Khánh Kỵ nghiêng người xoay chuyển, Thừa Ảnh kiếm linh hoạt quét một đường nửa hình tròn, chém đứt ngọt xớt đầu lâu của đối thủ, cùng lúc mũi kiếm chỉ về phía trước, khi tên địch thứ hai còn chưa kịp phản ứng, thì lưỡi kiếm đã xuyên thẳng qua ngực hắn.

"Cạch cạch cạch", tiếng bước chân phía sau vang lên dị thường, Khánh Kỵ không chút nghĩ ngợi, vặn người lại, kiếm quang bổ xuống, "keng" một tiếng, song kiếm giao thoa, đoản kiếm của người kia bị hắn một kiếm chém đứt, lưỡi kiếm của Khánh Kỵ bổ xuống chính giữa mặt hắn, từ mũi xuống cổ, rạch một đường máu thẳng tắp, găm lại tại vùng xương đòn trước ngực, Khánh Kỵ thu kiếm, phía sau vang lên một tiếng bình bịch của thân thể đổ xuống, toán quân Ngô đó đã bị tiêu diệt hoàn toàn.

"Phừng!" Một cây đuốc được thắp lên, Khánh Kỵ một tay cầm đuốc, một tay cầm Thừa Ảnh kiếm, đằng đằng sát khí soi rõ khuôn mặt tên quân Ngô vừa đánh lén hắn, tuy rằng tên đó nằm trong vũng máu, nhưng hắn vẫn chưa chết.

Ánh lửa lờ mờ, dường như có chút thân thuộc, có điều máu me khắp mặt, không dám khẳng định chính xác, Khánh Kỵ nguôi ngoai sát khí, quát rằng:

- Ta là vương tử Khánh Kỵ, ngươi là kẻ nào?

Người kia sửng sốt, sau đó cười buồn bã nói:

- Khánh Kỵ? Thì ra là ngươi...

Khánh Kỵ nghe thấy giọng nói đó, thân thể không khỏi chấn động, nghẹn ngào kêu lên:

- Sư phó?

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 189: Cuộc chiến thầm lặng (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

- Cát Hoa sư phó!

Khánh Kỵ vội vàng quăng kiếm, ngồi xổm xuống đỡ ông vào trong lòng. Đám lính đứng vây quanh cầm đuốc soi sáng, để bọn họ ở chính giữa, cây đuốc vang lên tiếng rít gào trong gió lạnh, nghe mà sởn hết gai ốc.

- Vương tử...

Cát Hoa muốn cười lắm, nhưng hắn bị một kiếm của Khánh Kỵ bổ từ trên trán xuống dưới hàm, đôi môi đều nứt cả ra, nụ cười trông vô cùng kỳ dị, lại thêm khuôn mặt máu me be bét, trông giống như quỷ dạ xoa hiển linh vậy.

- Hồi vương tử còn nhỏ, Cát Hoa luôn đau đầu nghĩ cách để thua vương tử, đến khi công tử trưởng thành, Cát Hoa muốn không thua cũng chẳng được nữa. Vương tử từ nhỏ chí lớn, Cát Hoa thua giả thua thật với người, trước sau đã có cả vài nghìn lần rồi, lần này... lần này có lẽ là lần cuối cùng rồi.

- Sư phó!

Khánh Kỵ không cầm được lòng bật khóc, nước mắt chảy ròng ròng, hai người động thủ trong bóng đêm, Cát Hoa không biết rằng người mà mình đợi sẵn ở đây mai phục chính là Khánh Kỵ, Khánh Kỵ cũng không hề biết rằng người mà hắn phản kích lại là ân sư dạy võ, võ công của Cát Hoa hiện tại đã không bằng hắn, nhưng cũng không thể một chiêu hạ thủ như vậy được, trừ phi kiếm của Khánh Kỵ quá sắc bén, nếu không thì Cát Hoa đã không dễ dàng táng mạng như vậy.

Từ thuở nhỏ, Khánh Kỵ đã được cha là Ngô Vương Liêu chọn lựa cho hắn bốn vị sư phó võ nghệ cao cường truyền dạy võ công, trong bốn người đó Cát Hoa là người truyền thụ kiếm thuật cho hắn, tính tình của ông là hiền hòa nhất, cũng bởi Khánh Kỵ là con cưng của Ngô Vương, nên Cát Hoa không khỏi có phần nuông chiều hắn. Khánh Kỵ hoặc là ham chơi, hoặc là lười biếng, Cát Hoa đều cố tình che giấu hộ hắn. Ông không phải là người thầy nghiêm khắc, nhưng trong lòng Khánh Kỵ thuở còn ấu thơ, luôn cảm thấy rằng ông là người sư phó tuyệt vời nhất. Giờ đây ông chết thảm dưới lưỡi kiếm vô tình của Khánh Kỵ, khiến hắn không cầm được lòng mình, kêu khóc thống thiết.

Cát Hoa thở dốc liên hồi, giọng nói yếu ớt:

- Vương tử, xin dung thứ... xin dung thứ cho tội kháng cự tập kích của Cát Hoa. Cát Hoa... Cát Hoa cũng là do bất đắc dĩ...

- Con không trách thầy, không trách thầy, sư phó, người đừng nói gì nữa, con lập tức đi tìm y sĩ...

Đôi mắt của Cát Hoa đã được che phủ bởi một tầng máu tươi, những gì ông trông thấy chỉ là một dải dài sắc máu, không còn nhìn thấy hình hài của Khánh Kỵ nữa. Cơ thể ông khẽ run rẩy, cảm giác càng lúc càng lạnh lẽo. Biết rằng mình đã không thể qua khỏi, liền nắm chặt lấy tay của Khánh Kỵ, gắng hết sức nói:

- Vương tử, Cát Hoa... đã không trụ nổi thêm được nữa rồi. Xin đừng oán hận Cát Hoa, cũng xin đừng... oán hận những sĩ tốt kia...

Thanh âm của ông ngày càng yếu ớt, cố gắng cầm hơi nói nhỏ:

- Đại vương... đại vương nghe nói vương tử đến Sở quốc, đã... đã hạ lệnh xuống ba quân tướng sĩ: Phàm là Ngô quân, chỉ cần đụng độ Khánh Kỵ, kẻ nào không đánh, tự ý rút lui... Giết! Vứt bỏ binh khí đầu hàng, giết... giết hết cả nhà. Cát Hoa... Cát Hoa bất đắc dĩ...

Khánh Kỵ phải hơi nghiêng tai mới có thể nghe rõ những tiếng thì thào yếu ớt của ông, Cát Hoa nói tới đây bỗng nhiên ngừng lại, Khánh Kỵ từ từ nâng đầu lên, chỉ thấy đầu của ông đã rủ xuống khuỷu tay của mình, bàn tay kia vẫn nắm chặt lấy cánh tay mình, chặt tới mức mảnh giáp che tay hơi lõm xuống.

Khánh Kỵ ngồi quỳ trên mặt đất rất lâu, cho đến khi thân thể đã cứng đờ, mới dùng tay gạt từng ngón tay của ông ra, từ từ đặt ông nằm ngay ngắn trên đất, cơ thể của hắn đã nhuốm đầy những giọt máu đã khô lại của Cát Hoa, từng cơn gió thổi qua, khiến cho da thịt trên cơ thể hắn khẽ rùng mình.

Tiếng chém giết bốn bề đã ngừng lại, nhiều đội sĩ tốt thắp đuốc tuần tra lùng sục khắp thành. Có người nhìn thấy Khánh Kỵ đang ở nơi này, Lương Hổ Tử cụt tay cầm theo thanh trường kiếm đang rỏ máu ròng ròng rảo bước về phía hắn.

- Thu liễm thi thể của ông, rồi chôn cất ông cho tử tế, để ông được yên nghỉ.

Khánh Kỵ khe khẽ căn dặn cho sĩ tốt đứng bên.

- Công tử!

Lương Hổ Tử chạy tới gần, chắp tay nói:

- Tòa thành đã hoàn toàn nằm trong quyền kiểm soát của chúng ta, thật kỳ lạ, lần này quân Ngô chống cự quyết liệt khác thường, biết rõ không địch nổi vậy mà có rất ít kẻ đào tẩu, gây tổn thất không ít cho các huynh đệ của chúng ta. Không biết trong thành có nhân vật quan trọng gì không, A Cừu và Tái Cừu đang thẩm vấn một số tù binh ít ỏi bắt được.

- Chẳng có nhân vật quan trọng nào ở đây hết.

Khóe môi Khánh Kỵ khẽ nhếch lên:

- Phân phó xuống dưới, thu dọn chiến trường, tiếp quản thành trì, đón đại quân vào thành. Phái hai nghìn người đêm nay phòng thủ thành trì, thám mã tỏa ra cách ngoài thành hai mươi dặm. Bố trí ổn thỏa cho những người thương vong, những người khác an bài nơi nghỉ ngơi, sáng sớm ngày mai tu sửa thành trì, dựa vào địa thế hiểm yếu nằm kẹp giữa hai dãy núi, biến nó thành một cứ điểm trọng yếu phong tỏa Dĩnh Đô.

- Rõ!

Lương Hổ Tử trông thấy Khánh Kỵ vẻ mặt đau thương, không khỏi nhìn xuống dưới lòng đất xem thi thể, rồi sau đó mới chắp tay bỏ đi.

- Cơ Quang..., thật là tên cáo già! Ngươi cứ cẩn thận... chơi với lửa có ngày chết cháy!

Trong mắt Khánh Kỵ ánh lên một tia nhìn dữ dằn, hai bàn tay dính máu nắm thật chặt, các khớp xương phát ra tiếng kêu răng rắc.

Trời sáng, trong thành ai nấy cũng đều tất bật, những cổng thành, tường thành bị hủy hoại đều được sửa chữa, gia cố lại. Trên thành chất đầy gỗ đá, hai đội nhân mã do A Cừu, Tái Cừu thống lĩnh, chia nhau ra đồn trú tại hai bên núi, giống như hai cái gọng kìm, hô ứng cho tòa thành Na Xử ở chính giữa.

Yểm Dư và Kinh Lâm lãnh một nửa quân, đi về vùng hồ Bách Tân ở phía Tây Bắc, đồng thời thu gom thuyền bè, rồi tận dụng các khu rừng nguyên sơ được hình thành từ hồi thượng cổ đến bây giờ để lấy gỗ xây dựng các chiến hạm to lớn.

Lương Hổ Tử ở lại cùng Khánh Kỵ coi giữ thành Na Xử, đôn đốc tu sửa thành trì, gia cố phòng ngự. Khánh Kỵ một mặt phái thám mã đi dò la tin tức Dĩnh Đô, một mặt sai người đi liên lạc với Sở vương và Phí Vô Cực, để xác định kế hoạch hành động, đồng thời nghe ngóng tin tức từ phía Lỗ quốc. Theo tính toán về lộ trình và thời gian, tín sứ của hắn chắc đã đến Lỗ quốc Phi Hồ cốc, Chúc Dung và Tôn Vũ chắc đã có động thái tiếp theo rồi.

Đồng thời, hắn còn điều động thêm vài đội nhân mã đi bố cáo từ trong thành Na Xử cho đến vùng dân dã xung quanh rằng "Na Xử thành" hiện đã nằm trong tay hắn, hơn nữa Khánh Kỵ đã ký kết hiệp ước đồng minh với người Sở, vì vậy nên người dân Sở quốc hãy ở nguyên tại nhà, không cần phải bôn ba tứ phía chạy nạn, đồng thời khuyên nhủ những cư dân trong thành Na Xử chui lủi trốn tránh trong rừng rậm trở lại thành trì.

Các đội quân nhận được chiếu thư cần vương của Sở vương đang lũ lượt hành quân tới Tùy quốc để hội quân cùng Sở vương, còn phía Dĩnh Đô không hề có bất cứ phản ứng nào trước việc Khánh Kỵ chiếm lĩnh được "Na Xử thành", khiến người ta bàn tán về những tính toán của Cơ Quang và Ngũ Tử Tư. Thám mã báo tin về, chỉ biết được rằng quân Ngô đã đẩy nhanh tốc độ vận chuyển của cải từ Sở quốc về, điều đáng chú ý là, đại tướng số hai thủ hạ của Cơ Quang là Bá không có động tĩnh gì trong thời gian này, không hề thấy bất cứ hành động nào của hắn ở Dĩnh Đô, Khánh Kỵ rất để tâm tới hành tung của hắn, chỉ tiếc là đã tìm đủ mọi cách nhưng vẫn không thể tìm ra được tăm hơi nào của hắn. Đại chiến sắp nổi lên, thành Na Xử tạm thời khôi phục lại vẻ yên bình. Rất nhiều người Sở trong thành Na Xử trở về gia viên, trong đó có một vài thương nhân, còn nhận được tiền đặt cọc của Khánh Kỵ, giúp hắn thu mua lương thảo. Những người bình dân dễ thỏa mãn chỉ biết được rằng mình đang có người bảo vệ, giống như một người bạn đáng tin cậy vậy. Ngô quốc Khánh Kỵ một năm trước là nỗi khiếp sợ của họ, giờ đây trở thành vị thần hộ mệnh trong mắt họ.

Tòa thành Na Xử sau khi đã dọn dẹp vết máu và lửa xém giờ đây như được hồi sinh trở lại, mang một sức sống hoàn toàn mới, bước chân của mọi người không còn thất thểu vội vã, phụ nữ và trẻ em cũng bắt đầu xuất hiện trên phố, rảo bước trên đường. Thỉnh thoảng còn nghe thấy từng trận cười rộ lên.

Chậm bước trên con phố trong thành, trong lòng Khánh Kỵ có một cảm giác rất kỳ lạ. Gian khổ từ việc sát phạt mà ra, hạnh phúc cũng từ việc sát phạt mà ra. Trường mâu và lợi kiếm của hắn đã giết hại không biết bao nhiêu người, khiến cho rất nhiều gia đình bị tan nát trong chiến tranh, người vợ thành góa phụ, người con mất đi người cha, gia đình vốn đang hạnh phúc trở thành tang thương. Ngược lại, cũng là trường mâu và lợi kiếm của hắn, lại có thể bảo vệ che chở cho một số phu quân của những người khác, gia đình hạnh phúc ngập tràn, tiếng khóc xưa kia nay đã thành tiếng cười rạng rỡ.

Giữa thị với phi, đúng với sai, vốn dĩ không hề có một ranh giới rõ ràng, càng không thể đúng với tất cả mọi người.

Khánh Kỵ đưa mắt nhìn về phía Đông, tuy là Giang Nam, nhưng trên đồng ruộng lại không thấy ai làm việc đồng áng, các chị em phụ nữ ngồi dưới mái hiên đan sọt, dệt vải, phía sau lưng là căn nhà được đắp bùn vừa mới xây xong còn tanh mùi bùn, mái hiên làm bằng cỏ tranh vẫn còn chút màu xanh tươi mới, bọn họ cười đùa trò chuyện, thản nhiên đón nhận những ánh mắt của nam nhân cầm giáo mác đi qua, nếu nhìn thấy một vài sĩ binh tướng mạo anh tuấn trẻ trung, họ còn mạnh bạo ngẩng đầu lên nhìn rồi cùng chị em bàn tán một phen suốt từ đầu đến chân anh chàng đó.

Trông thấy những cô nương dễ thương mạnh bạo kia, khóe môi Khánh Kỵ không giấu nổi một nụ cười vui vẻ.

- Mấy cô nương người Sở kia ngoại trừ eo ót cũng tạm được ra, còn có cái gì hấp dẫn nữa?

Quý Tôn Tiểu Man đứng ở cách đó không xa bất bình nói, nàng õng ẹo cái eo nhỏ của mình, khôi phục lại vài phần tự tin:

- Nếu không phải là mặc bộ áo giáp này, thì eo của ta cũng thon nhỏ như họ.

Thúc Tôn Diêu Quang đứng bên cạnh cũng mặc một bộ giáp y như nàng khẽ gườm nàng một cái, rồi hừ giọng:

- Nhìn cái gì mà nhìn? Ta còn chưa nổi cơn ghen đây, ngươi ngoa ngoắt như thế làm cái gì? Đợi khi chàng trở thành Ngô vương, khắp cung đều là nữ nhân, lúc đó ngươi sẽ phải ghen tức đến xịt máu mà chết mất.

- Xấc, ngươi không ghen, thế sao lông mày lại vểnh hết lên thế kia? Chẳng lẽ là vui quá hóa cuồng à?

- Ngươi...

Thúc Tôn Diêu Quang nắm lấy bảo kiếm bên hông:

- Quý Tôn Tiểu Man, ngươi đừng có quên ước định giữa hai chúng ta, khi nói chuyện với ta không được sấc láo.

- Hừ! Là ngươi lên mặt với ta đấy chứ.

Quý Tôn Tiểu Man cười chế giễu:

- Chàng còn chưa được làm đại vương Ngô quốc, vậy mà ngươi lại nói chuyện ngôi vị vương hậu rồi đấy.

Thúc Tôn Diêu Quang khẽ nhảy dựng lông mày lên, cố ý chọc giận nàng nói:

- Ngươi đừng có mơ hão, ta à, chắc chắn là sẽ được ngồi vào chiếc ghế Ngô quốc vương hậu, nếu ngươi còn biết khôn, thì từ bây giờ hãy bớt chọc giận ta đi, nếu không thì sau này sẽ không có tương lai tốt đẹp đâu.

Lương Hổ Tử đứng một bên mồ hôi vã ra như tắm, cười cười khuyên nhủ:

- Hai vị cô nương, đại cục làm trọng, đại cục làm trọng.

Quý Tôn Tiểu Man hừ lạnh một tiếng, vỗ bảo kiếm bên hông:

- Đừng có uy hiếp ta, bản cô nương ăn mềm không ăn cứng, nếu ngươi còn không phục, thì chúng ta dùng kiếm giải quyết, tìm cơ hội để múa máy tay chân. A.... đúng rồi, nói cho nhà ngươi biết, thanh Hàn Quang bảo kiếm của ta là do chàng đích thân tặng cho đấy.

Quý Tôn Tiểu Man cố ý cười e thẹn, quay người bỏ đi, cố ý bước đi như kiểu nam nhân, ưỡn ngực ưỡn bụng giống như một chú gà trống cao ngạo.

- Ngươi quay lại!

Quý Tôn Tiểu Man giả vờ không nghe thấy, Thúc Tôn Diêu Quang giận lắm, thân thể điên tiết đến phát run, Lương Hổ Từ mồ hôi mồ kê nhễ nhại khuyên bảo:

- Diêu Quang cô nương không nên tức giận, đại nghiệp của công tử quan trọng hơn, lúc này không thể để cho công tử phân tâm, đại cục làm trọng, đại cục làm trọng, a... nếu như cô nương thích, mạt tướng sẽ đi nói với công tử một tiếng, đem Thừa Ảnh kiếm đến dâng tặng cho cô nương...

- Bỏ đi!

Thúc Tôn Diêu Quang giận dỗi dậm chân:

- Chàng đang chinh chiến quyết liệt ngoài sa trường, đang vào lúc cần đến vũ khí sắc bén phòng thân...

- Đúng quá đúng quá, Diêu Quang cô nương nói thật chí lý, đại cục làm trọng, đại cục làm trọng.

- Hừ...

Thúc Tôn Diêu Quang khẽ hừ một tiếng từ trong lỗ mũi, cố nguýt dài giọng ra:

- Đúng vậy, đại cục làm trọng. Đợi khi đại cục hoàn thành, ta sẽ lại đi tính nợ với chàng!

Thúc Tôn Diêu Quang nói xong, hất mạnh tay áo, nhấc cằm lên, như chú chim khổng tước kiêu ngạo đi theo hướng ngược lại với Quý Tôn Tiểu Man...

Tấn quốc Dực Thành, quốc vương Cơ Khí Tật nhìn sáu mỹ nữ Ngô Việt đang đứng trước mặt, mặt mày hớn hở cười nói với Ngô quốc sứ tiết Úc Bình Nhiên Úc đại phu, khen rằng:

- Ngô oa Việt diễm, thanh thủy phù dung, quả nhiên không phải nói ngoa, ha ha, được, được, được.

Úc Bình Nhiên mỉm cười, khom người nói:

- Đây là tấm tâm ý của quốc quân tệ quốc đối với đại vương, chỉ cần đại vương yêu thích là được rồi.

Nói đến đây, hắn khẽ thở dài rồi nói:

- Tấn quốc là bá chủ trong thiên hạ, Ngô quốc chúng tôi hàng năm đi sứ, đời đời tấn cống, kính sợ Tấn quốc, coi như huynh đệ. Vậy mà, người Sở lại muốn mưu đồ chiếm đoạt Ngô quốc, cấu kết với bọn phản tặc trong nước Yểm Dư, Chúc Dung chờ thời phạt Ngô. Quân thượng chúng tôi bất đắc dĩ, đành phải xuất binh truy bắt đám phản nghịch Yểm Dư, Chúc Dung, thế nhưng bây giờ người Sở lại cầu cạnh sự giúp đỡ từ phía người Tần, Ngô quốc chúng tôi đang có nguy cơ bại vong, ài... lần này e sẽ là lần cuối cùng triều cống đại vương, ngày này năm sau... quân thần Ngô quốc chúng tôi không biết thân xác đã trôi dạt về nơi nào rồi.

Tấn hầu Cơ Khí Tật nghe xong ha hả cười nói:

- Úc đại phu không cần lo lắng như thế, Tấn quốc ta chính là Bá trưởng của chư hầu trong thiên hạ, theo lý phải chủ trì chuyện bất bình trong thiên hạ. Ừ... ngươi cứ tạm về dịch quán nghỉ ngơi, đợi quả nhân... quả nhân triệu tập quần thần, bàn bạc chuyện xuất binh tương trợ quý quốc.

Úc Bình Nhiên nghe xong, mặt mày rạng rỡ, vội vàng cung kính lễ độ quỳ rạp xuống, dập trán xuống đất, dùng đại lễ yết kiến:

- Ngoại thần Úc Bình Nhiên, tạ ơn đại vương.

Tấn quốc là nước hùng mạnh nhất trong các nước chư hầu, thế nhưng vị quốc quân của quốc gia lớn mạnh nhất trong thiên hạ này lại chỉ là một vị nguyên thủ trên danh nghĩa, cũng giống như Lỗ quốc quốc quân, khanh sĩ phân quyền, quốc quân không có quyền hành thực sự. Cơ Khí Tật vốn cũng muốn làm nên điều gì đó, hai năm trước, trước khi Sở quốc Thái Tử Kiến chạy trốn khỏi Trịnh quốc lập mưu làm phản với quyền thần Trịnh quốc, đã từng đến bái phỏng Tấn quốc, thăm dò thái độ của quốc quân Tấn hầu nước láng giềng, lúc đó hắn cũng thầm bày tỏ sự ủng hộ đối với hành động của Thái Tử Kiến, hy vọng Trịnh quốc đại loạn, thừa cơ xuất binh, mượn quân công gia tăng quân quyền của mình. Nào ngờ, hiền tướng Trịnh quốc Tử Sản quả thực là vô cùng lợi hại, đám Ngũ Tử Tư, Thái Tử Kiến còn chưa kịp hình thành kế sách tạo phản hoàn thiện, đã bị Tử Sản nắm được một vài tin tức hạ thủ trước, giải trừ mối họa, âm mưu tạo phản bị phá sản nhanh chóng, khiến quốc quân Tấn quốc buồn bực vô cùng.

Bây giờ lục khanh đã lớn mạnh, năm nay Triệu Giản Tử cấu kết với Tri thị, Hàn thị, Ngụy thị, Phạm thị, Trung Hành thị tiêu diệt lão công tộc Kỳ thị và Dương Thiệt thị. Thế lực của lục khanh lại càng lớn mạnh hơn nữa. Triệu Giản Tử càng được thể khí thế ngút trời, Cơ Khí Tật tự biết việc đã không thể thành được nữa, hùng tâm tráng chí thời niên thiếu đều triệt để hóa thành ảo mộng, sa đọa hoàn toàn vào tửu sắc. Người Ngô biết ý, dâng tặng những mỹ nhân Ngô oa, Bách Việt. Tấn hầu nhìn thấy mà không khỏi khấp khởi hưng phấn trong lòng.

Nơi người Tấn sinh sống nằm ở vùng đất Sơn Tây ngày nay, sát nách với Nhung Địch, dân tộc Nhung Địch nổi tiếng với việc sản sinh ra mỹ nữ, mỹ nhân trong thiên hạ nếu luận về sự gợi cảm yêu kiều, thì mỹ nhân Nhung Địch xếp hạng nhất. Những mỹ nhân vong quốc trong lịch sử, như Đát Kỷ, Bao Tự, Ly Cơ đều mang dòng máu Nhung Địch.

Tấn hầu là quân chủ của Tấn quốc, trong cung tuyệt đối không thiếu tuyệt sắc giai nhân, lại càng có nhiều mỹ nhân Nhung Địch, nhưng lòng tham của người này không biết bao nhiêu là đủ, mỹ nhân Ngô Việt có vẻ đẹp duyên dáng thùy mị của vùng đất quê hương mình, phong tình lại khác biệt với nữ tử Nhung Địch, hôm nay người Ngô biết ý dâng tặng, trong lòng Cơ Khí Tật mừng rỡ lắm lắm, quyết định triệu tập lục khanh, hắn lấy danh nghĩa là quân chủ một nước mà điều phái lục khanh phát binh tương trợ người Ngô.

Ban đêm, trong phủ thủ lĩnh lục khanh Tấn quốc, không miện chi vương (vị vua không đeo vương miện), Triệu Giản Tử.

Dưới ánh đèn, Triệu Giản Tử đang nâng niu thanh bảo kiếm trong tay.

Thanh kiếm có chuôi đen hoàn toàn, không một chút sứt sát, làm cho người ta cảm nhận được sự sắc bén của nó, tuy nhiên, thanh kiếm cầm trong tay, uy nghiêm tự sản sinh, nó giống như một vị trưởng giả hiền từ nhưng không mất đi vẻ uy nghiêm, khiến người ta không dám khinh thường. Ngón tay của Triệu Giản Tử khẽ mân mê thanh kiếm, một luồng lãnh ý từ đầu ngón tay xâm nhập vào trong lòng, thanh kiếm ẩn chứa thần vận mê người, giống như một đôi mắt thâm thúy, tinh thông quảng đại đang chăm chú quan sát vạn vật chúng sinh.

- Thần vật ắt có điều dạy bảo a...

Triệu Giản Tử nâng niu vuốt ve thanh bảo kiếm từng tí một, lẩm bẩm nói:

- Lấy ngũ kim chi anh, thái dương chi tinh để rèn đúc nên thanh kiếm này. Xuất ra có thần, thu vào có uy, sức mạnh vô địch, thần vận tiềm tàng, chính là Trạm Lư... Nhân đạo chi kiếm, nhân giả vô địch...

Hắn hơi nhắm hờ đôi mắt, ngón tay đặt lên trên thân kiếm, nghĩ tới lời nói của Úc Bình Nhiên khi tới gặp hắn.

- Đại phu lấy danh nghĩa sứ tiết đến Tấn quốc chúng ta, theo lý phải bái kiến quốc quân của chúng ta trước, tại sao lại đến gặp ta?

- Bởi vì người có thể cứu giúp được Ngô quốc chúng tôi, không phải Tấn hầu, dưới gầm trời này chỉ có đại phu.

- Hử? Nghe nói ngài mang đến sáu mỹ nữ Ngô Việt, muốn kính tặng cho quốc quân của chúng ta, tại sao lại tặng ta một thanh bảo kiếm?

- Bảo kiếm tặng anh hùng!

Triệu Giản Tử khục khặc cười, đôi mắt hắn đanh lại, tra kiếm lại vào vỏ, lẩm bẩm:

- Tần Sở kết minh, người Tần sẽ không còn phải lo lắng về sau, sau này xuất binh ra Hàm Cốc quan, Đông tiến mà giành thiên hạ, Tấn quốc ta chỉ còn biết đứng mũi chịu sào. Giúp đỡ Ngô quốc cũng chính là giúp đỡ chúng ta. Sáng mai, ta sẽ xin quốc quân xuất chỉ, mời thêm các nước Tào, Đài, Chu, Đằng, Tiết, Kỷ, Huân, Trịnh cùng xuất binh, cứu trợ Ngô quốc, phạt Tần Sở!

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 190: Loạn thế thiên hạ (Thượng Trung Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

- Hử? Nghe nói ngài mang đến sáu mỹ nữ Ngô Việt, muốn kính tặng cho quốc quân của chúng ta, tại sao lại tặng ta một thanh bảo kiếm?

- Bảo kiếm tặng anh hùng!

Triệu Giản Tử khục khặc cười, đôi mắt hắn đanh lại, tra kiếm lại vào vỏ, lẩm bẩm:

- Tần Sở kết minh, người Tần sẽ không còn phải lo lắng về sau, sau này xuất binh ra Hàm Cốc quan, Đông tiến mà giành thiên hạ, Tấn quốc ta chỉ còn biết đứng mũi chịu sào. Giúp đỡ Ngô quốc cũng chính là giúp đỡ chúng ta. Sáng mai, ta sẽ xin quốc quân xuất chỉ, mời thêm các nước Tào, Đài, Chu, Đằng, Tiết, Kỷ, Huân, Trịnh cùng xuất binh, cứu trợ Ngô quốc, phạt Tần Sở!

Yểm Dư và Kinh Lâm đóng quân tại hồ Bách Tân, đốn phạt cây rừng, tìm kiếm thợ thuyền, một mặt tích lũy quân lương, một mặt gia cố thành trì, đề phòng quân Ngô tấn công, đồng thời điều phái thám mã, liên tục giữ liên hệ với Sở vương, Phí Vô Cực, nghe ngóng tin tức quân Ngô, truyền đạt động thái các nước, thám mã đi đông như trảy hội, bên ngoài thì tòa thành giống như một vùng đất bình lặng, nhưng nhìn những chiến mã suốt cả ngày qua qua lại lại, đến cả người dân bình thường cũng có thể cảm thấy được một không khí vô cùng khẩn trương.

Mấy ngày này, vài vị khách thương mệt mỏi tới đây sau một hành trình mệt nhọc, sau khi quân thủ thành tra hỏi xong thì được cấp tốc đưa vào thành ở nhờ trong phủ đệ của Khánh Kỵ.

Khánh Kỵ nghe nói người đến là Văn Chủng, vội vàng hạ giá nghênh đón, đón hắn vào trong phủ, mừng rỡ ra mặt gọi người lập tức đi chuẩn bị tiệc. Khánh Kỵ đối đãi với những người có địa vị thấp hèn hơn mình một cách trọng đãi như vậy khiến cho Văn Chủng vô cùng cảm kích, chỉ có điều bản tính của hắn vốn là người thâm trầm kỹ tính, trước mắt tuy Sở quốc và Khánh Kỵ hòa hợp như người một nhà, sau này là bạn là thù còn khó đoán định, là một vị đại phu Sở quốc, hắn không dám tỏ ra quá thành thật.

An tọa trên chiếc ghế dưới sảnh, Khánh Kỵ liền hỏi:

- Tử Cầm huynh, huynh vừa từ Tống quốc trở về có phải không?

Văn Chủng chắp tay nói:

- Dạ, được điện hạ nhắc nhở, Văn Chủng ngày đêm gấp rút đi tới Tống quốc, diện kiến Vệ quốc quân phu nhân Nam Tử, có thư tín của điện hạ trong tay, Nam Tử phu nhân tiếp kiến tại hạ, nghe tại hạ phân tích Sở quốc một khi bị diệt vong, thế lực Tấn quốc sẽ chắc chắn xuôi xuống miền Nam, vậy thì Vệ, Tống sẽ phải đứng mũi chịu sào, gánh chịu hậu quả khôn lường, Nam Tử phu nhân biết thế nên lập tức dẫn tại hạ đi gặp Tống công.

Tống quốc tuy nhỏ, nhưng lại là công tước nhất đẳng được Chu thiên tử lệnh phong, xưng công cho Tống quốc quốc quân. Văn Chủng uống một ngụm nước, cười rồi nói:

- Kỳ thực suốt mấy năm nay Tấn quốc luôn cố gắng xâm nhập sang miền Nam, lấn chiếm Vệ Tống, Tống quốc quốc quân đương nhiên đi guốc trong bụng. Sau khi tại hạ phân tích lợi hại, Tống công liền đồng ý tương trợ cho Sở quốc. Tống Vệ máu chảy ruột mềm, như môi với răng, xưa nay cùng tiến cùng thoái, Vệ quốc chịu áp bức của Tấn quốc sâu sắc hơn, một khi Tống quốc đã đứng về bên Sở quốc chúng ta, Vệ quốc đương nhiên không còn cần bàn cãi gì thêm nữa. Khi ta trở về, Tống công liền viết một lá thư, sai người cưỡi khoái mã mang sang Vệ quốc.

Văn Chủng nói đến đây, có chút tự mãn cười nói:

- Có được sự trợ giúp của hai nước Vệ Tống, Trịnh quốc nằm giữa Vệ, Tống, Tấn, Sở ắt hẳn sẽ không nằm ngoài cuộc. Vì vậy khi Văn Chủng quay về liền thuận đường bái phỏng Trịnh quốc quốc quân và thừa tướng Tử Sản đại nhân. Hai năm trước Công Tử Kiến, Ngũ Tử Tư âm mưu sát hại Trịnh quân và Tử Sản, hai bên vốn đã có mối thù không đội trời chung, bây giờ Ngũ Tử Tư được phong làm Ngô quốc tướng quốc, lại cộng thêm dã tâm nham hiểm của Tấn quốc cũng là không nhỏ. Trịnh quân và Tử Sản đại nhân xem xét thời cục, cũng đã đồng ý liên minh với Sở, Bắc chống Tấn quốc, Nam phạt Ngô quân. Trong mấy hôm nay chắc hẳn sứ thần của ba nước đã tới nơi rồi.

Khánh Kỵ nghe xong không khỏi lộ vẻ kinh ngạc, hắn vốn có ý định đưa Văn Chủng sang tấn kiến Tống quốc, là bởi vì giữa hắn và Nam Tử đã từng có một cuộc mật đàm, hắn từng đồng ý rằng nếu như có cơ hội, dưới tiền đề hai bên giúp đỡ nhau cùng có lợi, sẽ giúp đỡ Nam Tử phu nhân củng cố địa vị, khuếch trương thế lực của nàng, để nàng tự tay giết chết Công Tử Triều, xóa giải nỗi hận trong lòng.

Trong bức mật tín kia, hắn đã trình bày tỉ mỉ những điều lợi khi tận dụng thời cục đại loạn, tận dụng liên hệ với Nam Tử liên minh hai nước Vệ Tống tạo sự ràng buộc để hóa giải tình thế. Liệu đoán rằng sau khi Nam Tử gặp sẽ cố hết khả năng để giúp đỡ Văn Chủng, dựa vào trí thông minh cùng thân phận và ảnh hưởng đặc thù của nàng tại hai nước Vệ Tống thì đại sự gần như chắc chắn thành công. Chỉ không ngờ được rằng Văn Chủng, một viên tiểu tướng quân nhỏ bé, lại dám bạo gan đi tới Trịnh quốc diện kiến Trịnh quân và hiền tướng Tử Sản, cầu cạnh Trịnh quốc xuất binh.

Khánh Kỵ nghe được tin tức tốt lành như vậy không khỏi mừng ra mặt, khen tấm tắc:

- Tử Cầm huynh trong chuyến đi này đã nhìn rõ được đại cục thiên hạ, đạp gió cưỡi mây, cầu viện ba nước xuất binh cứu giúp, lập nên công lao to lớn không kể xiết, khi gặp Sở vương chắc chắn sẽ được trọng dụng, tấn phong làm thượng khanh, cấp phong thế hầu, chỉ còn là chuyện dễ như trở bàn tay thôi, chúc mừng, chúc mừng.

Văn Chủng như mở cờ trong bụng, lại khiêm tốn chắp tay nói:

- Văn Chủng có được công lao này, đều là được điện hạ ban tặng, Văn Chủng phải tạ ơn điện hạ mới đúng.

Hai người nói xong nhìn nhau cười khoái trá.

Vệ quốc Đế Khâu, Vệ hầu Cơ Nguyên đang cầm thư tín do nhạc phụ Tống quốc quốc quân gửi tới, cùng các cận thần thân tín Cừ Bá Ngọc, Công Thúc Bạt, Công Mạnh, Công Tử Kinh, Công Thúc Phát đang mật bàn với nhau. Bắc Cung Hỉ cũng ngồi đó, từ sau khi hắn được Vệ hầu đưa lên địa vị cao quý, giành lấy đại quyền của Tề Báo, Tề Báo với hắn đã nảy sinh hiềm khích với nhau. Bắc Cung Hỉ cô độc đơn côi, đành phải dần dựa dẫm vào Vệ hầu.

Tuy rằng hiện tại hắn không thể hoàn toàn tin tưởng vào Cơ Nguyên, và Cơ Nguyên cũng không thể nào tin tưởng hắn giống như tin tưởng Cừ Bá Ngọc, Công Thúc Bạt, Công Mạnh được, thế nhưng quan hệ qua lại giữa đôi bên vẫn êm dịu hơn rất nhiều, hôm nay hắn có thể được ngồi ở đây đã đủ thấy rằng sự coi trọng hắn như người một nhà của Cơ Nguyên. Đương nhiên, trong đó ẩn giấu những dụng ý thử lòng tin đối với hắn, dù sao thì hắn cũng đang nắm giữ lực lượng quân đội chủ lực của Vệ quốc, chỉ là mục đích này không đủ để nói cho người ngoài biết.

- Các ái khanh, bức thư của Tống công các ngươi đều đã xem qua rồi, chư vị cảm thấy thế nào?

Cừ Bá Ngọc nghiêm nghị nói:

- Quốc quân, Vệ quốc ta tiếp giáp với Tấn quốc, vị "láng giềng" khổng lồ này luôn có dã tâm chiếm đoạt thôn tính Vệ quốc chúng ta, bây giờ Ngô Sở tranh hùng, người Tần tham chiến, Tấn quốc dấy binh xuống miền Nam tiếp viện Ngô quốc, không kể đến chuyện hắn liệu có ý định giữa đường dẫn quân tấn công ngược trở lại, thừa cơ diệt Vệ quốc chúng ta, cho dù hiện tại mục tiêu của chúng là Sở quốc, đến khi Sở quốc bại vong, người Tần mất đi lá chắn, ắt phải lui quân quay lại Quan Trung, lúc đó Vệ quốc chúng ta khó lòng bàn tay xâm lược của người Tấn. Cho nên, thần nghĩ rằng trước mắt liên thủ với Tống, liên minh với Sở, ngăn cản người Tống tiến xuống phía Nam, chỉ cần Sở quốc ổn định, Tấn Sở tạo thế cân bằng, bên nào cũng không dám tự tiện manh động, thì Vệ quốc chúng ta sẽ được an toàn.

Công Tử Kinh nhíu mày nói: "Nói là vậy, nhưng... Vệ quốc ta cận kề với Tấn quốc, Tống quốc lại nằm sau lưng chúng ta, nếu như tuyên chiến với người Tấn, Vệ quốc chúng ta sẽ rơi vào cảnh đứng mũi chịu sào. Đạo lý môi hở răng lạnh đương nhiên ai ai cũng hiểu, thế nhưng một khi giao chiến với Tấn, người Tống sẽ chịu xuất ra bao nhiêu binh mã, chi ra bao nhiêu lương thực tiền bạc giúp đỡ còn chưa nói chắc được, ngộ nhỡ chiến cục Ngô Sở nảy sinh biến động, Tống quốc tính toán thế nào cũng rất khó dự liệu cho chính xác được. Chư hầu với nhau, lợi ích mới là điều kiện hợp tác duy nhất, một tờ minh ước, nói lập thì lập được, nói hủy thì cũng hủy được, chúng ta làm sao có thể dám chắc Tống quốc sẽ đồng tâm đồng lòng với Vệ quốc chứ.

Công Tôn Bạt trầm ngâm trong chốc lát rồi nói:

- Quân thượng, thần cho rằng, theo thế của Vệ quốc, việc dấy binh kháng Tấn là điều bắt buộc phải làm. Về liên minh Vệ Tống, mấy trăm năm nay hai nước luôn giao hỏa với nhau, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, đến thời khắc nguy hiểm này, người Tống chưa chắc đã có lòng ích kỷ, chỉ lo cho bản thân mình. Đương nhiên, đưa cả giang sơn xã tắc, nghìn vạn lê dân chỉ để trông chờ vào một lời cam kết của một kẻ quân tử quả thật là quá mạo hiểm. Thần nghĩ, tại sao quân thượng không thúc gọi quân phu nhân hồi quốc? Quân phu nhân là ái nữ của Tống công, giờ đây lại là phu nhân của Vệ quốc chúng ta, thân phận khác thường. Nếu như quân phu nhân trở về, có người bên cạnh, thì có thể đẩy mạnh mối liên hệ giữa hai nước Vệ Tống. Hơn nữa, quân thượng có thể bí mật gửi thư cho quân phu nhân, mời phu nhân quay về, rồi xin Tống công điều một đội đại quân hộ tống theo nàng trở về, tin chắc rằng với mối ràng buộc từ quân phu nhân, Tống công sẽ không dễ dàng ruồng rẫy Vệ quốc đâu.

Công Mạnh tán thưởng:

- Công Tôn đại phu nói chí phải, quân phu nhân là phu nhân của Vệ quốc chúng ta, vinh nhục sống còn của Vệ quốc có mối liên hệ mật thiết với quân phu nhân, Vệ Tống liên thủ cự địch, nếu như có quân phu nhân liên kết ở giữa, thì sẽ không còn gì phải lo lắng nữa.

Vệ hầu trầm ngâm nửa ngày, rồi khẽ gật đầu.

Đợi đến khi mọi người tản đi, con của Công Tôn Bạt là Công Tôn Mậu hộ tống Vệ hầu về cung, đi tới bên hồ Thanh Thủy, Vệ hầu dừng lại, nhìn xuống mặt hồ. Mặt hồ đóng băng, phía trên phủ một lớp tuyết trắng, phát ra ánh sáng chói lòa dưới ánh mặt trời. Những cành cây bên hồ đã héo khô, khẽ đong đưa trong gió, bốn bề tiêu điều u ám.

Vệ hầu bùi ngùi thở dài, từ từ khép đôi mắt lại, thầm nghĩ:

- Chẳng lẽ quả nhân lại phải cúi đầu trước ả tiện nhân đó sao?

Hắn suy tư thật lâu, nói khe khẽ:

- Chuyện nghị sự trong triều lúc nãy, ngươi đều đã nghe thấy cả, vậy ngươi có quan điểm thế nào?

Công Tôn Mậu khẽ phập phồng chiếc mũi, rồi nói:

- Quân thượng, người coi thần như kẻ tâm phúc, thần sẽ nói những lời của một kẻ tâm phúc cho người, nếu như có chỗ nào mạo phạm, dám mong quân thượng thứ tội. Thần cho rằng, lời của gia phụ là có lý. Tuy rằng quân phu nhân không được hòa hợp với quân thượng cho lắm, nhưng đây dù sao cũng là việc trong nhà, quân phu nhân lưu lạc tại Tống quốc, cũng không quá để ý tới chuyện tại Vệ quốc. Quân phu nhân trẻ đẹp mỹ miều, thân phận cao quý, lại không có tình ý gì với quân thượng, nếu như Vệ quốc đại bại thậm chí là vong quốc, đối với Tống quốc mà nói thì bất cứ lúc nào cũng có thể bám lấy Tề quốc hoặc Sở, Tần quốc. Đối với Nam Tử phu nhân, thì nàng có thể tái giá tùy ý, vẫn mang thân phận cao quý tôn nghiêm như cũ. Nếu như gả cho quân hầu trẻ tuổi, nói không chừng lại càng hợp ý của nàng hơn.

Vệ hầu Cơ Nguyên hừ lạnh một tiếng trong lòng, nhưng hắn biết rằng Công Tôn Mậu nói lời khó nghe như vậy thì quả đúng là một tâm phúc thành thực với hắn. Hơn nữa, tiểu tiện nhân kia chẳng có chút cảm tình nào với hắn, nếu thật sự muốn ả tái giá, nói không chừng ả lại thích quá ấy chứ.

Công Tôn Mậu thấy Vệ hầu không mở miệng trách mắng, tiếp tục nói:

- Tuy nhiên, quân phu nhân nếu như ở tại Vệ quốc, thì vinh nhục được mất của nàng lại hòa chung vào với Vệ quốc, với quân thượng. Tống công có ái nữ ở đây, cũng tuyệt đối không dám dễ dàng vứt bỏ đồng minh. Quân thượng vì giang sơn xã tắc, vì lê dân trăm họ tại Vệ quốc, cung thỉnh quân phu nhân trở về, điều đó thì đã làm sao? Huống chi nội tình bên trong, có mấy ai biết rõ thực hư đâu?

Vệ hầu khẽ thở dài, nói:

- Thôi được rồi, để quả nhân viết một bức thư, ngươi phái một kẻ thân tín đi làm tín sứ, mau chóng đi tới Tống quốc, giao cho phu nhân.

Tống quốc đô thành Thương Khâu, Nam Tử đứng dưới một gốc mai, khoác trên mình tấm áo lông chồn, đẹp đẽ kiêu sa, hoa nhường nguyệt thẹn.

Vị tín sứ kia vốn là gia tướng trong phủ Công Tôn Bạt, sau khi Công Tôn Bạt dẫn người vào Đế Khâu, được tuyển chọn vào cung làm thị vệ, là thân tín của con Công Tôn Bạt Công Tôn Mậu, đây là lần đầu tiên hắn được gặp quân phu nhân Nam Tử, tuy từ lâu đã biết tiếng mỹ miều của nàng, hôm nay được gặp tận mắt, không khỏi hơi hoa mắt choáng váng trước vẻ đẹp kiêu sa kia.

Hắn sợ thất lễ nên không dám nhìn nhiều, vội vã cúi thấp đầu, hai tay nâng cao bức thư tín của Vệ hầu gửi sang, đôi mắt chỉ dán xuống đất, nhưng trông thấy đôi giầy da hươu của Nam Tử thôi cũng đã thấy đẹp đẽ lạ thường, hít hà hương vị mê ly lạ thường của phụ nữ, không biết mùi vị của cặp giò kia tuyệt với tới mức độ nào, không khỏi khô rát cổ họng, nuốt nước bọt ừng ực không thôi.

Tuy rằng Nam Tử phải đi tới Tống quốc, trong khoảng thời gian này nàng không còn được ở bên cạnh cha mẹ, nhưng dù sao không còn phải nhìn thấy mấy bộ mặt đáng ghét của Vệ hầu và Công Tử Triều, những kẻ luôn khiến nàng phát ngán, cuộc sống trở nên tươi vui vô cùng. Dung mạo trước kia có chút tiều tụy, giờ đây đã khôi phục lại vẻ lung linh kiều diễm.

Nàng nhận lấy bức thư, bóc ra xem dưới ánh hoa mai, không khỏi bật nụ cười khanh khách.

Tiếng cười kinh động lũ chim khách trên cây, lũ chim vội bay tán loạn, khiến một vài bọt tuyết rơi xuống, những đám bọt tuyết phiêu bồng dưới ánh mắt trời, khẽ thoảng qua khuôn mặt với nụ cười hơi có phần thô lỗ của nàng, vị tín sứ kia nghe vậy ngẩng đầu nhìn cũng không khỏi sững sờ, tham lam cố níu kéo nhìn thêm chút nữa, rồi mới chịu cúi đầu xuống tiếp.

Nam Tử dứt nụ cười, rồi sau đó lại trầm ngâm trở lại:

- Cha ta mong được kết minh với Vệ, đây là chuyện quốc gia đại sự, đâu phải trò đùa trẻ con, đường đường là Tống công, nói xuất binh thì nhất định sẽ xuất binh, quốc quân lại không chịu tin, còn lén lút phái ngươi tới gặp ta? Nếu để cha ta biết được sẽ nổi trận lôi đình.

Vị tín sứ thấp thỏm không yên chắp tay nói:

- Quân phu nhân, việc này có mối liên hệ trọng đại, quốc quân không thể không cẩn thận cho được, kính mong quân phu nhân thông cảm cho.

Nam Tử hừ một tiếng, những bọt tuyết trắng xóa bám lên trên mặt lúc này đã hóa thành mấy giọt nước nho nhỏ, nàng lấy từ trong tay áo ra một chiếc khăn lụa, khẽ lau những bọt nước trên mặt, chậm rãi nói:

- Muốn xuất binh cần phải điều binh trước, điều binh phải có khiển tướng, rất nhiều chuyện cần phải chuẩn bị tới. Trong thời gian ngắn ngủi, lẽ nào người Vệ nhất định phải muốn binh mã của người Tống đến tận nơi thì mới chịu có gan đi đối địch với quân Tấn? Muốn ta trở về nước cũng không phải chuyện khó, chỉ có điều, không phải là vào lúc này, ngươi quay về đi, cứ nói với quốc quân rằng Nam Tử ở cung thành Vệ quốc toàn phải gặp mặt những kẻ đáng ghét, trong lòng không thấy thoải mái, hơn nữa, ta hiếm khi có dịp được quay về nước, bây giờ tiết trời đang rất lạnh, tuyết rơi đầy trời, làm sao có thể quay về đây? Ta phải ở Tống quốc thêm một thời gian nữa, đợi đến tháng ba năm sau, tết đến xuân về, trăm hoa đua nở, băng tuyết tan hẳn thì ta mới trở về.

Vị tín sứ cung kính nói:

- Quân phu nhân, tiểu nhân phụng mệnh đến đây, quốc quân có lời này muốn tiểu nhân bẩm báo cho phu nhân.

- Ồ? - Đôi mắt long lanh của Nam Tử khẽ xoay chuyển, khóe môi nhếch lên lộ ra hàm răng trắng tinh:

- Chuyện gì vậy?

- Quốc quân nói, đại địch trước mắt, lòng người lo lắng, phu nhân về nước có thể ổn định nhân tâm, dám mong phu nhân không ngại cực khổ, mau chóng về nước. Còn về điều mà phu nhân nói... quốc quân đã dặn rằng: nếu như phu nhân quay lại, quả nhân nhất định sẽ đáp ứng mọi yêu cầu của nàng, để nàng vui lòng quay về.

- Vui lòng quay về?

Đôi mắt to tròn như đào hoa của Nam Tử khẽ hấp háy, ẩn chứa trong đó sát khí uy vũ:

- Rất tốt, vậy ngươi cứ về trước đi, nói với quốc quân rằng, hai ngày nữa Nam Tử sẽ dẫn binh khởi hành, quốc quân để ta vui lòng quay về, ta cũng sẽ để quốc quân vui lòng nghênh đón.

Vệ quốc, Đế Khâu, phủ đệ Tề Báo.

Bên ngoài căn phòng tuyết rơi lạnh lẽo, trong căn phòng ấm áp sắc xuân.

Tề Báo, Trử Sư Phố, Bắc Cung Hỉ, Công Tử Triều cùng một số đại thần trong triều theo phe cánh của họ đang tề tựu đông đủ trong phòng.

Ghế trên có bốn người ngồi, rất nhiều vũ kỹ mặc y phục rực rỡ hoa lệ, bộ ngực trắng trẻo nõn nà, đang ấp vào trong lòng họ, gắp thức ăn rót rượu mời, tiếng cười rộn giã.

Tuy Bắc Cung Hỉ không hợp với Tề Báo, nhưng dù sao cũng là đồng phạm tru sát Công Mạnh Trập, tuy rằng hai người họ tranh đấu quyền lực rất gay gắt, nhưng Bắc cũng lo là một khi Tề Báo bị đổ, Vệ hầu sớm muộn gì cũng sờ gáy khai đao với hắn, vì vậy cho nên tuy Vệ hầu liên tục bày thiện ý, dụ dỗ lấy lòng, nhưng đại sự lớn đến như vậy, hắn vẫn phải thương nghị cùng Tề Báo.

Công Tử Triều chẳng hề quan tâm tới mỹ nhân đang khiêu khích nghịch ngợm trong lòng, nói nhanh với Tề Báo:

- Tề đại phu, cơ hội trời ban đó, đại phu cần phải nắm chặt lấy cơ hội này, xin quốc quân được dẫn binh xuất chinh, tóm lấy binh mã của bọn Công Tôn Bạt, Cừ Bá Ngọc trong tay, bất luận kết quả liên minh với Sở, chống hoành với Tấn thế nào đi chăng nữa, có đại quân trong tay thì chúng ta cũng được bảo đảm.

Hắn lại chắp tay về phía Bắc Cung Hỉ nói:

- Bắc Cung đại phu, chúng ta đều là những kẻ ngồi chung thuyền, được cùng được, mất cùng mất. Ngài nắm giữ quân đội trong triều, quân đội ngoài triều do Tề đại phu nắm giữ, như vậy thì chúng ta có thể nói là vững như bàn thạch rồi. Tề đại phu, Bắc Cung đại phu hết đời này sang đời khác đều là đại tướng của Vệ quốc, giờ đây Công Mạnh Trập đã chết, phóng tầm mắt về Vệ quốc, ngoại trừ hai vị ra thì còn có kẻ nào đủ tư cách dẫn binh xuất chinh đây? Chuyện này Bắc Cung đại phu cũng nên nói một tiếng tốt trước mặt quốc quân. Còn bản công tử cũng sẽ nói tốt cho Tề đại phu trước mặt quốc quân.

Mỹ nhân trong lòng nâng chén rượu, hồn nhiên đưa tới trước môi của hắn, bị Công Tử Triều bất nhẫn đẩy ra, tuy hắn có danh vị, nhưng rất nhiều chuyện đại sự Vệ hầu Cơ Nguyên đều không khiến hắn tham dự, sự tin tưởng còn lâu mới bằng Công Tôn Mậu. Tiềm lực của Tề Báo to lớn khủng khiếp, Bắc Cung Hỉ đang nắm giữ đại quyền, Trử Sư Phố tuy lực lượng thua kém hơn một chút, nhưng hắn lại là công khanh thế gia suốt mấy trăm năm nay của Vệ quốc, có những mối quan hệ dây mơ rễ má nhằng nhịt với rất nhiều thế tộc, lại thêm cả việc hắn đối với ai cũng vui vẻ hòa nhã, không đắc tội với bất kỳ ai cả, nhân duyên cũng khá tốt, tính ra thì căn cơ của hắn là yếu nhất, làm sao mà hắn không căng thẳng lo lắng vạn phần cho được.

Tề Báo có chút dao động trước chủ trương của hắn, hắn khẽ đưa mắt liếc nhìn Công Tử Triều, mỹ nhân ngồi trong lòng Công Tử Triều tuy rằng bị hắn lạnh nhạt thờ ơ, nhưng những vị đại nhân trên đại đường kia duy chỉ có mình Công Tử Triều là anh dũng đạo mạo, những vũ kỹ trong phủ Tề Báo lấy sắc đẹp để dâng tặng cho khách nhân, khi tiếp đãi khách nhân vốn không quan trọng chuyện già xấu ra sao, có điều nhìn thấy mỹ nam tử thì cũng nhiệt tình hơn một chút, lúc đó thấy Công Tử Triều không muốn uống rượu, liền nắm lấy cổ hắn, hôn nhẹ lên những chỗ nhạy cảm, đến cả áo bào cũng được nới lỏng ra, Tề Báo thoáng nhìn qua, thấy lấp ló qua cổ áo của hắn là một chiếc áo lót của nữ tử, nghĩ lại tin đồn về mối quan hệ của hắn với Vệ hầu Cơ Nguyên, Tề Báo không khỏi cảm thấy hậm hực, ngoảnh đầu nhìn về phía Bắc Cung Hỉ.

Bắc Cung Hỉ cầm lấy chén rượu, đang cúi đầu trầm ngâm. Tuy rằng bản thân hắn hiện tại đang nắm giữ quyền lực lớn nhất, thế nhưng căn cơ của tên Tề Báo với chức danh hiếm có là cả thái sư và thái phó còn thâm hậu hơn cả hắn, tiềm lực cũng vô cùng khủng khiếp, nếu thật sự phải đấu một trận, thì cũng chưa biết ai thắng ai thua đâu, đó chính là nguyên nhân vì sao Tề Báo dám tranh quyền cùng hắn. Hơn nữa, cho dù thế lực của hắn mạnh hơn Tề Báo, cũng không thể tru sát Tề Báo được, tự chặt tay của mình, tạo điều kiện cho Vệ hầu trừ khử hắn.

Nếu để cho Tề Báo nắm giữ bên ngoài, thế lực của hắn sẽ càng thêm lớn mạnh, thế nhưng quyền lực đó đã phải trải qua tay của đám Công Tôn Bạt, Cừ Bá Ngọc, Công Mạnh, giống như một thanh kiếm sắc bén treo lơ lửng trên đầu, khiến người ta cứ suốt ngày phải nơm nớp lo sợ. Vả lại, Tề Báo có được thực quyền chính trị của mình, những mâu thuẫn giữa hai người cũng sẽ không kịch liệt đến như vậy.

Nghĩ tới điều này, Bắc Cung Hỉ khẽ gật đầu nói:

- Tử Triều nói phải lắm, lão phu nắm nội quân, Tề đại phu nắm ngoại quân, Trử đại phu nắm quốc khố, sẽ không có ai chống lại chúng ta nữa. Chỉ có điều việc này cần phải thương thảo cho kỹ, quốc quân chưa chắc đã giao đại quân cho Tề đại phu, nhưng bất luận thế nào thì chúng ta cũng phải giúp đỡ Tề đại phu có một phần quyền lực trong đó. Đúng rồi, Tử Triều có kế hoạch gì chưa?

- Ta?

Công Tử Triều lúc này mới phát hiện ra mỹ nữ nằm trong lòng đã nới lỏng áo choàng của hắn, hắn vội nắm chặt vạt áo, che đi nội y của mình, thuận tay vỗ mông mỹ nhân kia một cái, bảo nàng tránh ra xa một chút, lúc này mới cười nói:

- Ta ở trong cung đấu pháp với Công Tôn Mậu, nhất thời chưa thể bỏ đi được. Vả lại, ta còn phụ trách việc điều phối quân nhu cho Khánh Kỵ, đến nay Vệ quốc chúng ta cũng muốn chiến tranh, việc này có chút rắc rối, ta cũng cần phải cân nhắc thật kỹ mới được.

Trử Sư Phố không đồng tình nói:

- Bây giờ là lúc nào rồi mà còn để ý đến tên Khánh Kỵ làm chi?

Công Tử Triều mỉm cười nói:

- Chuyện đã chấp thuận với người ta, thì phải làm cho xong. Hơn nữa Khánh Kỵ giờ đây cũng là quân đồng minh của chúng ta, hắn đánh bại được Cơ Quang, thì Tấn quốc mới từ bỏ dã tâm tiến xuống phía Nam của hắn. Một khi Khánh Kỵ phục quốc thành công, nhận được sự giúp đỡ của chúng ta từ trước, chẳng phải lúc đó sẽ trở thành một trợ lực to lớn cho chúng ta sao?

Trử Sư Phố lộ ra một nụ cười khinh khỉnh châm biếm trên khuôn mặt mập mạp, hắn đang định nói gì đó, bất chợt nhìn thấy trong ánh mắt Công Tử Triều có thần sắc kỳ lạ nào đó xuất hiện rồi vụt biến mất, trong lòng không khỏi chột dạ: "Tên Tử Triều này khuôn mặt chất chứa dã tâm, không biết hắn đang suy nghĩ gì vậy nhỉ?

Trử Sư Phố là người cẩn trọng chu đáo, trước nay không dễ dàng để đắc tội với người khác, hắn vô tình nhìn thấy thần tình quỷ dị của Công Tử Triều, lời nói giễu cợt đang định thốt ra bỗng không dám nói ra nữa, trong lòng dâng lên vài phần phòng bị.

Khánh Kỵ giữ Văn Chủng ở lại nghỉ ngơi một ngày, Văn Chủng vội vàng đem tin tức bẩm báo cho Sở vương. Ngày hôm sau liền cáo từ lên đường, Khánh Kỵ đích thân tiễn hắn ra khỏi thành, đến tận con đường mòn qua núi để tới Tùy quốc mới chịu thúc ngựa trở về thành.

Khi hắn vừa vào trong phủ, Quý Tôn Tiểu Man liền luống cuống chạy đến, vẻ mặt rạng rỡ nói:

- Mau lại đây mau lại đây, Lỗ quốc gửi thư tới rồi.

Khánh Kỵ mừng rỡ, vội vàng bước lên bậc, Quý Tôn Tiểu Man kéo một tay hắn dắt đi trong đại sảnh, Khánh Kỵ ngượng cười nói:

- Này này, bình tĩnh nào, không cần phải sốt sắng đến như vậy chứ.

Vào trong sảnh, Thúc Tôn Diêu Quang nhìn thấy Quý Tôn Tiểu Man nắm tay Khánh Kỵ, không khỏi đưa ánh mắt hình dao găm phóng về phía nàng, nếu như đôi mắt là con dao, e rằng con dao này đã cắt cụt cánh tay kia của họ. Khánh Kỵ khi bước vào phòng chỉ để ý tới vị tín sứ Lỗ quốc, không chú ý tới thần sắc của nàng. Quý Tôn Tiểu Man cứ như là oan gia mà ông trời sinh ra để đối nghịch với nàng, đôi mắt nhỏ nhắn nhìn thấy rõ biểu lộ của nàng. Quý Tôn Tiểu Man cười khúc khích đắc chí, lòe mặt quỷ dọa trước mặt nàng, dường như vô cùng vui vẻ.

Vị tín sứ kia chính là một thân binh Khánh Kỵ để lại tại Lỗ quốc Phí Thành Phi Hồ cốc, vừa thấy Khánh Kỵ hắn vội vàng bước lên trước quỳ gối nói:

- Nô tài bái kiến công tử.

- Mau đứng dậy đi, mau đứng dậy đi, tình hình Lỗ quốc thế nào rồi?

- Bẩm công tử, sau khi công tử đi, Phi Hồ cốc không thu nạp thêm tân binh nữa, Tôn Vũ tướng quân, Anh Đào tướng quân ngày đêm thao luyện, tổng cộng đã đào tạo được tám nghìn tinh binh. Khi Chúc Dung công tử đến, lại mang theo một nghìn nhân mã, vài ngày trước nghe tin công tử phát binh Sở quốc, Tôn tướng quân và Anh tướng quân lập tức chuẩn bị tập kích Ngô, khi nô tài khởi hành, bọn họ cũng đang nhổ trại, xé nhỏ ra từng tốp đi tới biên giới Ngô quốc rồi tập hợp tại nơi đã định, lúc này chắc là đã đến nơi rồi. Đây là thư của Tôn tướng quân, xin công tử xem qua.

Khánh Kỵ nhận lấy bức thư, khoát tay nói:

- Ngươi ngồi xuống đi.

Dứt lời đi tới ngồi xuống trước ghế thượng tọa giở thư ra xem, căn phòng trở nên yên tĩnh, lặng lẽ dõi theo những thay đổi trên nét mặt của Khánh Kỵ, Quý Tôn Tiểu Man không có việc gì, cũng không chịu ngồi im một chỗ, liền đứng đằng sau lưng Khánh Kỵ, kiễng người lên nhìn bức thư trong tay Khánh Kỵ.

- Hm...!

Thúc Tôn Diêu Quang đằng hắng một tiếng, hung hăng trừng mắt nhìn Quý Tôn Tiểu Man.

Quý Tôn Tiểu Man đưa lại cái nhìn tinh nghịch, ngượng ngùng chắp tay đi ra, gằn giọng lầm bầm nói:

- Ta xem thì đã làm sao? Có phải là thư tình ngươi viết cho chàng đâu, nếu là mấy thứ vớ vẩn ngươi viết cho chàng, thì cầu xin ta ta cũng không thèm xem.

Khánh Kỵ đọc xong, không nhịn được cười lớn.

Lương Hổ Tử, Thúc Tôn Diêu Quang mắt nghếch như chuông đồng, đồng thanh hỏi:

- Thế nào rồi, có tin tức gì chưa?

Quý Tôn Tiểu Man lúc nãy bị Thúc Tôn Diêu Quang hục hặc, bây giờ giả bộ ngẩng mặt nhìn trời, ra vẻ ta đây không thèm nghe, nhưng đôi tai thì lại dỏng lên, nghe ngóng thanh âm của Khánh Kỵ.

Khánh Kỵ vỗ bàn rầm một cái, cười khoái trá nói:

- Hay, hay lắm. Ha ha ha..., Tề quốc xuất binh rồi, ha ha ha...

- Thật ư?

Quý Tôn Tiểu Man đang giả ngơ không biết gì là người đầu tiên nhảy cẫng lên, chạy tới bên cạnh hắn, cầm lấy tay đưa đẩy, phấn khích đến nỗi khuôn mặt đỏ gay:

- Tề quốc xuất binh rồi? Hay quá là hay, nước lớn nhất ở phía Đông xuất binh tương trợ, Cơ Quang bị kẹp ở giữa, khó bề chống đỡ, hy vọng phục quốc của ngài đã thành công rồi.

Khánh Kỵ cười nói:

- Chưa hẳn, chưa hẳn, Tề quốc xuất binh là xuất binh, nhưng chưa hẳn đã là giúp ta, mà là nhận lời mời của Cơ Quang mà xuất binh, định xuống phía Nam tham chiến.

- Ách!

Quý Tôn Tiểu Man đẩy mạnh bả vai hắn, tức tối nói:

- Ngài bị ấm đầu sao? Người ta đến đánh ngài mà ngài còn vui mừng được?

Khánh Kỵ cười nói:

- Sao mà không vui cho được, hắn muốn tham chiến, cũng cần phải đến đó mới được. Tôn Vũ có mối quan hệ với Tôn thị gia tộc bên Tề quốc, thu được một số thông tin tình báo quan trọng, Cơ Quang muốn mua chuộc các tộc Đông Di cho Tề quốc hòng đổi lấy việc Tề quốc xuất binh, hai phe trong triều đình Tề quốc tranh luận kịch liệt, Điền Khất chủ trương xuất binh, Yến Anh phản đối xuất binh, hai bên tranh cãi loạn xị ngậu, cuối cùng phe xuất binh chiếm thế thượng phong, phe phản chiến uất ức lắm lắm, liền có người đem tin tức về điều kiện trao đổi để kết minh giữa Cơ Quang với Tề quốc rêu rao ra bên ngoài.

Trần quốc, Tào quốc, Lỗ quốc sát vách Đông Di lo lắng thế lực Tề quốc xâm phạm phía Nam, sẽ gây bất lợi cho họ, đã kết thành liên minh, cùng nhau chống lại Tề binh. Cả người Đông Di cũng tham chiến, quân Tề dù có mạnh cũng nhất thời không thể chiếm thế thượng phong dễ dàng được, hơn nữa những nước đó phát binh chính là sự che chắn tốt nhất cho những hành động của đám người Tôn Vũ. Thủy quân Ngô cho dù biết được, cũng nhất thời không thể đoán ra hướng đi và mục đích của họ, làm sao mà ta không vui được? Ha ha ha...

Giữa Tề và Ngô còn có một vùng đất rộng lớn, không có chính quyền nhà nước, lại có rất nhiều bộ lạc sinh sống, dân cư chủ yếu là do hai bộ lạc Hoài Di và Di Hổ . Người Đông Di vốn là chủ nhân của Tề quốc hiện tại, nhưng bọn họ giống như người Anh-điêng ở khu vực Bắc Mĩ, vùng đất này bị người Chu phong hầu xua đuổi ra khỏi vùng đất cố xưa, mấy trăm năm nay đã lui ra khỏi toàn bộ khu vực Sơn Đông, sau đó cùng với sự mở rộng của ranh giới Tề quốc, tiếp tục lui về hướng Đông Nam, cuối cùng bị đẩy về dưới hạ du sông Hoài, trở thành khu vực đệm giữa ba nước Tề Lỗ Ngô.

Nếu như tiếp tục bị Tề quốc lấn chiếm xuống phía dưới nữa thì vùng đất của con cháu người Đông Di sau này đến cả một khoảnh nhỏ cũng chẳng còn, bọn họ chỉ có thể đi xuôi theo thượng nguồn sông Hoài, chạy đến biển Hoàng Hải, chiếm cứ vài ngôi đảo nhỏ để sinh sống mà thôi.

Giờ đây ý đồ bành trướng xuống phía Nam của người Tề bại lộ, các nước xung quanh vô cùng bất an, đã ký kết đồng minh cùng nhau kháng Tề, đồng thời, các bộ lạc trong vùng Đông Di như Doanh, Tần, Từ, Hoàng, Giang, Lý cũng triệu tập cuộc họp liên minh các bộ lạc, uống máu ăn thề, tạo thành liên quân, quyết một trận sinh tử với Tề quốc vì vùng đất sinh tồn cuối cùng của họ. Binh mã Tề quốc đã bắt đầu điều động, vốn muốn phò Ngô phạt Sở, lấy lý do đường đường chính chính xuôi xuống phía Nam, nhân lúc họ không phòng bị mà khuếch trương xuống lưu vực Hoàng giang, lúc đó mới chính thức trở thành trợ Ngô phạt Sở, lúc đó sẽ ký kết liên minh với Ngô, vùng duyên hải nối thành một dải, các nước xung quanh nếu muốn phản kháng sẽ phải mạo hiểm giáp công Nam Bắc, nhưng bây giờ tin tức đã sớm bị tiết lộ, các nước phản ứng mãnh liệt, Tề quốc há miệng mắc quai, đành phải cắn răng tiếp tục tiến tới.

Nghe Khánh Kỵ nói nhân quả bên trong, Quý Tôn Tiểu Man và Thúc Tôn Diêu Quang mới hiểu rõ sự tình, không giấu nổi vẻ vui mừng. Sau đó Khánh Kỵ tiết lộ một phần về kế hoạch tập kích Ngô của Tôn Vũ, mọi người đang vui vẻ, bỗng tiếng bước chân rầm rập của một người bước vào điện, chắp tay nói:

- Báo! Công tử, nhận được tin tức từ Sở quốc, Sở vương bị ám sát tại Cửu Phượng cốc.

Khánh Kỵ nghe xong, sắc mặt bỗng trắng bệch, hắn muốn đứng dậy, nhưng tâm trí khiếp đảm nhất thời không thể nhấc nổi thân mình. Tình hình Sở quốc bây giờ, nếu như Sở vương bị ám sát, lập tức sẽ trở thành đống cát vụn, các công tử tranh đoạt vương vị, chưa biết liệu có ai toàn tâm toàn ý quyết chiến với Ngô không, và liệu có ai đủ năng lực hiệu triệu quân đội Sở quốc? Tất cả khổ tâm của mình đều tan theo dòng nước mất.

- Sở vương thế nào rồi, ngươi nói mau đi!

Trông thấy vẻ mặt Khánh Kỵ kinh hãi thất thần, Lương Hổ Tử vội bước tới dò hỏi thám tử.

- Sở vương không sao, tên thích khách đó đơn thương độc mã thâm nhập vào trong núi, lúc ra tay hành thích bị tướng quân Tử Kỳ của Sở quốc lao lên đỡ thay một kiếm cho Sở vương, Tử Kỳ tướng quân chết ngay tại chỗ, tên thích khách kia cũng tự vẫn mà chết.

Khánh Kỵ nghe được thì sững sờ, hắn chậm rãi hắt ra một hơi nhẹ nhõm, cơ thể đang đứng khom lưng dần dần ngồi xuống trở lại. Cảm giác vào lúc này... hắn rất muốn một tay bóp chết cái tên thám tử chết tiệt kia.

Lương Hổ Tử nghe xong cũng bốc giận trong người, hắn tung chân lên đá một cước vào đít của tên thám tử, quát lớn:

- Cút! Lần sau khi báo tin phải nói cho rành mạch rõ ràng, con bà nhà ngươi chứ.

Thám tử kia chẳng hiểu làm sao, lủi thủi lui ra ngoài.

Khánh Kỵ và Lương Hổ Tử nhìn nhau, trong mắt đối phương đều là sự phấn khởi đến cuồng nộ:

- Cơ Quang hành thích, Sở vương gặp nạn mà không chết, lần này mối thù càng lúc càng lớn thêm.

Đáng tiếc, bọn họ đoán đúng kết quả, nhưng lại không đoán đúng quá trình. Kẻ hành thích Sở vương không phải Cơ Quang, mà là một kẻ đã rơi vào quên lãng từ lâu trong con mắt bàn dân thiên hạ. Chỉ là, Ngô Vương Hạp Lư nổi tiếng với thủ đoạn sử dụng thích khách, trong thiên hạ không ai không biết, vụ này không đổ vào đầu hắn thì vào đầu ai?

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 191: Sở đô Ngô doanh (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Trên đại điện trơ trọi tại hoàng cung Sở vương ở Dĩnh Đô, phát ra tiếng gào thét giận dữ của Ngô vương Cơ Quang: "Bá vô dụng! Dùng thích khách không thể thiếu một trong ba yếu tố thời cơ, địa điểm, cơ hội, thế mà hắn lại hành động sơ suất, quả nhân đem trọng trách này giao phó cho hắn, hắn lại chỉ phái có một tử sĩ lén vào núi động thủ, thật là ngu ngốc hết sức, Sở vương giờ đây chắc là cẩn thận đề phòng hơn, sau này có còn xuất hiện cơ hội nữa không?"

Các tướng đứng dưới điện sắc mặt nghiêm nghị, đều im lặng không thốt lời nào. Tướng quốc Ngũ Tử Tư quét mắt khắp một lượt quần thần đứng đó, bước ra khải tấu: "Đại vương nguôi giận, Bá hành sự xưa nay luôn cẩn trọng kĩ càng, nếu không có kế sách vẹn toàn, tuyệt đối không ra tay bừa bãi. Cái thủ đoạn dùng thích khách này, xem ra không giống hành vi của Bá, hay là đợi tín sứ của Bá về báo tin rồi tính sau."

Cơ Quang tím tái mặt mày, phất tay áo mạnh một cái, gằn giọng: "Không phải hắn thì còn ai vào đây nữa, nôn nóng muốn giết Sở vương như vậy, ngoại trừ chúng ta, chỉ còn Tề và Tấn, mà hai nước Tề, Tấn không thể nào hành động nhanh chóng như thế được. Hơn nữa, Tề, Tấn mưu đồ thôn tính thiên hạ, nếu chiến sự ở Sở quốc sớm chấm dứt, bọn họ lấy đâu ra cớ để xuất binh? Họ còn mong ở đây càng loạn lên càng tốt ấy, ngoại trừ họ ra, thiên hạ còn ai muốn giết Sở vương?"

Ngũ Tử Tư lắc đầu nhè nhẹ, mái tóc bạc phất phơ, nói: "Thần cũng nghĩ không ra, chỉ là cảm thấy với tính cách của Bá, đây không giống hành vi của hắn."

Đúng vào lúc này, có người chạy vội vào điện bẩm báo: "Bẩm đại vương, tín sứ của Bá tướng quân đến."

Ngũ Tử Tư mừng rỡ: "Mau mau đưa hắn vào điện!"

Cơ Quang đang tức tối đi qua đi lại trên đại điện hứ một tiếng rõ to, quay về chiếc ghế vương vị giữa điện ngồi xuống. Một tên tín sứ vội vàng bước vào, dập đầu hành lễ: "Tiểu nhân phụng lệnh Bá tướng quân, bái kiến đại vương."

Cơ Quang lại gằn giọng, lạnh lùng chất vấn: "Quả nhân giao ba ngàn quân tinh nhuệ cho hắn, bảo hắn đi Tùy quốc thưởng thức phong cảnh đó hả? Bá sao lại chỉ phái có một thích khách vào Cửu Phụng cốc ở Tùy quốc hành thích, hắn phái ngươi về đây là để thỉnh tội với quả nhân đúng không?"

Tên tín sứ sợ hãi quỳ đó, lên tiếng phân bua: "Hồi bẩm đại vương, tên thích khách đó không phải do Bá tướng quân phái đi. Bá tướng quân phái người lén trà trộn vào Tùy quốc dò thám động tĩnh, mới phát hiện có người hành thích Sở vương."

Cơ Quang ngớ người ngạc nhiên: "Quả nhiên không phải là hắn động thủ ư?"

Ánh mắt Cơ Quang hướng về Ngũ Tử Tư như muốn hỏi gì. Ngũ Tử Tư bước tới hỏi tên tín sứ: "Bá hiện giờ đang ở đâu?"

Tên tín sứ trả lời: "Hồi bẩm tướng quốc, Bá tướng quân nghe được tin Sở vương bị hành thích, biết là Sở vương sẽ đề cao cảnh giác, kế hoạch trước đây khó mà tiến hành được nữa, hơn nữa các lộ binh mã cần vương của quân Sở mỗi ngày đi sang Tùy quốc vô số. Bá tướng quân sợ bị người Sở phát hiện hành tung, đã tránh khỏi đường lớn, dẫn quân mai phục tại các cánh rừng dọc đường từ Tùy quốc đến Dĩnh Đô, ngoài ra còn phái binh sĩ giả làm tiều phu đi dò thám tin tức liên tục."

Ngũ Tử Tư nghe xong khen ngợi: "Bá quả nhiên hành sự cẩn trọng, suy nghĩ thấu đáo, biết tùy cơ ứng biến, quả là tài giỏi, hắn phái ngươi về đây gặp đại vương, còn có gì dặn dò không?"

Cơ Quang nghe Ngũ Tử Tư nói vậy, thử nghĩ nếu quả thật thích khách không phải do Bá phái đi, Bá xử lí như thế đương nhiên đáng được khen ngợi, cơn giận trong lòng tiêu tan, cất tiếng hỏi lớn: "Nói mau, Bá phái ngươi về đây còn gì nữa không?"

Tên tín sứ khúm núm: "Đại vương, Bá tướng quân nói các lộ binh mã cần vương không ngừng tập kết về Tùy quốc, chắc không lâu nữa quân Sở sẽ rời khỏi Tùy quốc đánh về Dĩnh Đô. Tướng quân vốn nhận lệnh chờ Sở vương tiến về Dĩnh Đô, tập kích vào trung quân chém vua Sở, nhưng giờ Sở vương bị hành thích, đánh rắn động cỏ, bên mình chắc chắn tăng thêm nhiều thị vệ hộ tống, nếu theo kế hoạch cũ, e khó đạt hiệu quả, nên tướng quân phái tiểu nhân về đây, nghe lệnh tiếp theo của đại vương có gì thay đổi không ạ."

Ngũ Tử Tư lại hỏi han một hồi về tình hình của Bá như thế nào, xong quay qua chắp tay bẩm báo: "Đại vương, nếu như đại vương không định về nước Ngô ngay, như vậy theo ý kiến của thần, cánh quân của Bá không cần triệu tập về đây gấp, kế hoạch thích sát Sở vương tuy là thất bại, nhưng chúng ta phái đi một cánh quân mai phục, sau này ắt vô cùng hữu dụng. Theo ý thần đại vương không vội triệu Bá về, cứ ra lệnh cho Bá phục quân ở xung quanh, lúc cần thiết nói không chừng ta có thể tập kích bất ngờ quân Sở."

Cơ Quang xưa nay luôn nghe theo Ngũ Tử Tư răm rắp, thấy tướng quốc đã có ý vậy, bèn ra lệnh: "Tướng quốc nói phải lắm. Ngươi tức tốc quay về, lệnh cho Bá mai phục quanh đó, giữ liên lạc với quả nhân, chờ mệnh lệnh tiếp hẵng tính sau."

Tên tín sứ dập đầu nhận lệnh xong lui ra. Cơ Quang vuốt râu suy ngẫm: "Kì lạ nhỉ, là ai muốn giết Sở vương chứ? Chẳng lẽ...trong số các hoàng thân quốc thích của Sở có kẻ thấy Sở vương gặp nạn, muốn thừa nước đục thả câu, nhân cơ hội giết hắn hòng cướp ngôi? Thật là khốn kiếp, làm hỏng cả chuyện lớn của quả nhân."

Ngũ tử tư lên tiếng: "Đại vương, kẻ đứng sau lưng vụ này e nhất thời không dễ gì lộ diện đâu ạ. Quân Sở mấy ngày tới chắc xua quân đánh trả, mà...Khánh Kỵ lại sớm chiếm giữ thành trì bên kia, chặn đường rút lui của đại quân ta, dụng tâm của hắn không nói ra thì ai cũng biết, bây giờ chúng ta kéo dài thêm ít ngày tháng, một là có thời gian vận chuyển của cải từ Sở về nước để Ngô quốc ta sử dụng sau này, hai là tạo cơ hội xuất quân tham chiến cho hai nước Tề, Tấn, nhưng quân Ngô ta tiến sâu vào đất địch, cố thủ Dĩnh Đô không phải là cách hay, chúng ta cần bàn bạc kĩ kế hoạch hành động tiếp theo, cứ ngồi đây cố thủ chi bằng chủ động xuất kích, gây cho quân Sở chút thương vong, ngăn cản chúng bao vây phản kích chúng ta, đồng thời việc bố phòng ở Dĩnh Đô cũng phải tăng cường..."

Cơ Quang ngạo mạn cười mỉm: "Về phía Khánh Kỵ, phái thêm nhiều thám mã, chỉ cần hắn có ý đồ bỏ đi quay về tập kích Ngô quốc, chúng ta lập tức men theo con đường như kế hoạch đề ra về Ngô chặn đánh hắn, còn nếu hắn cứ giao chiến với quân ta ở Sở... Hừ! Đợi khi các chư hầu xuất quân, thiên hạ đại loạn, chúng ta mới quay về Ngô quốc, cứ cho đội quân ô hợp của hắn ở lại đây thu xếp tàn cục này đi, ha ha...

Còn về quân đội của người Sở, giống như là trăm vạn con cừu non, tuy đông mà vô dụng, đâu phải là đối thủ quân Ngô hùng mạnh của ta. Hơn nữa số quân người Sở triệu tập được sẽ không quá mười vạn, nếu nhiều hơn thì không cần chúng ta ra tay, trong có các nước phụ thuộc nổi lên làm phản, ngoài có các nước chư hầu thừa cơ xâm lấn, Sở quốc lập tức sẽ tiêu đời. Mười vạn quân Sở, cộng thêm hơn hai vạn quân của Khánh Kỵ, cùng lắm là mười ba vạn quân, còn binh mã của ta có bốn vạn, giờ có thêm tù nhân được thả ra của Sở, quân mới chiêu nạp từ đám nô lệ, cộng lại cũng hơn hai vạn. Sáu vạn quân Ngô chống với mười ba vạn liên quân, nếu đối khánh trước mặt thì chúng chiếm ưu thế, nhưng nếu ta cố thủ thì chúng muốn bao vây, với số quân đó cũng không làm được, ta còn sợ gì bọn chúng nào?"

Ngũ Tử Tư khẽ nhíu mày, khuyên can: "Đại vương, kiêu binh tất bại! Quân Sở bị chúng ta đánh cho một trận tơi bời, nhưng người Sở tuyệt đối không phải là hoàn toàn vô dụng, số quân Sở dũng cảm tử chiến không thiếu, hơn nữa lần này Khánh Kỵ lại dấy binh khởi sự, càng không thể xem thường, ở đây dù sao cũng là Sở quốc, là thiên hạ của người Sở, đại vương sao lại khinh suất như thế này?"

Ngũ Tử Tư nặng lời chỉ trích, Cơ Quang ngược lại mỉm cười không trách phạt, trong số các đại thần cũng chỉ có Ngũ Tử Tư dám lên tiếng can gián Ngô vương Hạp Lư hung bạo này, mà Cơ Quang lại thích tính cách này của hắn. Cơ Quang vuốt râu: "Tướng quốc dạy phải lắm, quả nhân biết sai rồi. Giờ các tướng đều ở đây, tướng quốc sẽ nói kế hoạch chúng ta đã nghị định ra cho các tướng nghe xem sao, nếu có gì không ổn, mọi người có thể bàn bạc cho thỏa đáng ngay tại đây."

"Dạ, xin tuân ý chỉ của đại vương." Ngũ Tử Tư chắp tay cúi chào, ung dung đứng thẳng người, vẫy tay một cái, bên ngoài đại điện lập tức có hai võ sĩ bước vào, một tên cầm theo một cuộn tranh to, khi đứng yên trong điện, hai tên võ sĩ mỗi người cầm một đầu cuộn tranh, từ từ kéo cuộn tranh ra hai hướng, Cơ Quang chăm chú nhìn vào, thấy đó là một tấm bản đồ chi tiết.

Ngũ Tử Tư nói: "Tấm bản đồ này là do thần tìm được trong hoàng cung, thần căn cứ theo tình hình điều động binh mã của đôi bên gần đây thêm vào chú thích, vẽ ra tấm bản đồ như mọi người đã thấy. Trên bản đồ có vẽ những điểm và đường màu đỏ, là lực lượng quân ta đang chiếm giữ, còn điểm và đường màu xanh là binh mã của Sở, còn cái tam giác màu xanh lá chính là binh mã của Khánh Kỵ."

Tấm bản đồ khá lớn, núi non sông ngòi nhìn vào rất rõ ràng, chỉ là trên đó giờ có thêm ba màu đỏ, xanh, xanh lá khiến các tướng nhìn chả hiểu gì cả, lúc này nghe Ngũ Tử Tử giải thích, mọi người so sánh với tình hình phân bố binh lực của các bên trong kí ức của mình, thấy quả nhiên chính xác như trong bản đồ.

Theo như bản đồ có thể nhận ra, khu vực xung quanh Dĩnh Đô tập trung nhiều màu đỏ và xanh nhất, trung tâm của màu xanh chính là Cửu Phụng cốc ở Tùy quốc, các tuyến đường hành quân của quân Sở đều đổ về hướng ấy, sau đó hợp lại thành một màu xanh đậm, từ từ di chuyển về hướng Dĩnh Đô. Tòa thành trì phía Đông Nam của Dĩnh Đô, có một tam giác màu xanh lá, chính là nơi quân Khánh Kỵ trú đóng. Cứ điểm của Khánh Kỵ rất nhỏ, vị trí này chính là yếu đạo hai ngả thủy lục từ Ngô quốc đi sang, Khánh Kỵ đóng quân ở đấy rõ ràng có ý tạo thế gọng kiềm cùng quân Sở bao vây Dĩnh Đô, còn muốn rút quân không tham gia trận chiến, xua quân lui sang phía Đông vòng lại tiến đánh thẳng vào Ngô quốc cũng rất thuận tiện.

Trên bản đồ một màu đỏ tụ tập lại tại vị trí Dĩnh Đô, mấy con đường trọng yếu xung quanh và một số thành trì nhỏ gần Dĩnh Đô cũng có vài chấm đỏ, như các ngôi sao bao bọc xung quanh mặt trăng ở giữa là Dĩnh Đô vậy. Các tướng có mặt trên đại điện đều là tướng lĩnh thân thuộc của Cơ Quang, họ vừa nhìn thấy tuyến đường đỏ chót vẽ từ Dĩnh Đô ra ngoài thì đã hiểu đó chính là đường rút quân về Ngô mà Ngô vương Hạp Lư quyết định.

Ngũ Tử Tử cất cao giọng: "Các tướng xem cho rõ, đám quân cần vương của Sở vương một khi tập hợp lại, chắc chắn từ Tùy quốc tiến thẳng sang phía Đông, chủ soái mười phần có tám chín là Phí Vô Cực, cách đánh của hắn chẳng qua chỉ có hai cách là tấn công thành hoặc bao vây, theo tình hình trước mắt, quân số người Sở huy động được có hạn, hơn nữa quân Sở mới bại trận, lòng quân hoang mang, Phí Vô Cực chưa chắc dám chia quân ra bao vây, sợ bị chúng ta tiêu diệt từng cánh quân, vì thế cho dù gặp trường hợp xấu nhất, chúng ta muốn phá vòng vây về nước cũng dễ như trở bàn tay, đấy chính là lí do đại vương muốn mạo hiểm ở lại Dĩnh Đô, Ngũ Viên không ra sức ngăn cản.

Điều duy nhất đáng lo là tâm ý của Khánh Kỵ, hắn định phối hợp với quân Sở giao tranh với quân ta ở đây hay là thừa lúc quân ta chiến đấu với quân Sở lén xua quân về Ngô đánh chiếm Cô Tô thành? Ta phải cẩn trọng chú ý động thái bên Khánh Kỵ, nhưng...mấy vạn binh mã của hắn, muốn điều động cũng không phải chuyện dễ, cho dù muốn xua quân Đông tiến, dọc đường núi non hiểm trở, sông ngòi chằng chịt, chúng chỉ có hai con đường để chọn lựa, trèo đèo vượt suối, san rừng lấp biển, tốc độ hành quân không quá nhanh, nếu như hắn chọn cách đi thuyền men theo Trường Giang, tuy là thuận theo con nước, nhưng Trường Giang quanh co uốn khúc, tính theo tốc độ của thuyền, hắn không thể đi nhanh hơn chúng ta quay về Ngô quốc, hơn nữa ở Ngô có hai vị công tử Phù Khái và Phù Sai chặn địch, chỉ cần chúng ta cẩn thận hành sự, không có gì đáng phải lo ngại.

Trong thành Dĩnh Đô, quân ta đang đóng chủ lực một vạn năm ngàn quân ở đây, ngoài ra tăng cường thêm ba ngàn quân được trang bị nỏ Sở, khoảng tám ngàn quân tù nhân và nô lệ, họ chủ yếu phụ trách việc gia cố thành trì, đào hào sâu và chế tạo cơ giới phòng thủ. Quân số chia ra trấn giữ các con đường trọng yếu là hai vạn quân, các thành trì nhỏ xung quanh Dĩnh Đô có một vạn bốn ngàn quân trấn giữ, Bá dẫn theo ba ngàn quân, tuy quân số ít nhưng đều là quân tinh nhuệ chinh chiến lâu năm trên sa trường, vũ khí sắc bén, giáp trụ đầy đủ, ai cũng được trang bị nỏ mạnh của người Sở, cánh quân mai phục này có tác dụng gây bất ngờ, đợi quân Sở tiến về phía Đông, cánh quân này chính là nhát dao nhọn đâm thẳng vào trái tim người Sở.

Bố phòng như thế, đảm bảo cho quân ta an tâm ở lại đất Sở, trừ khi có gì sơ suất, bằng không quân ta không gì phải lo ngại. Nhưng đại vương thân phận cao quý, liên hệ đến an nguy xã tắc toàn Ngô quốc, giờ đại vương thân tại Sở quốc, tuy mang bên mình mấy vạn hùng sư, cũng nên đề phòng bất trắc. Nhỡ Khánh Kỵ và quân Sở có mưu kế thâm sâu nào ta không đoán ra được, công phá phòng tuyến vững chắc của quân ta, cũng giống như ta thừa lúc người Sở không để ý tiến đánh Dĩnh Đô vậy, lúc đó quân ta phải quyết đoán lập tức rút chạy về nước..."

Nói đến đây, Ngũ Tử Tư ngập ngừng giây lát, Cơ Quang ngắt lời hắn: "Chưa tính đường chiến thắng đã tính đường thất bại, đấy chính là tính thận trọng của tướng quốc. Các tướng đừng nghĩ Khánh Kỵ và quân Sở liên minh hung hăng tiến đánh mà e sợ, số quân địch gấp đôi này không vây khốn quả nhân được đâu. Ngộ nhỡ bọn chúng tấn công bất ngờ, đột kích vào thành, quân ta chưa kịp rút đi, lúc đó cứ làm theo kế của tướng quốc, tập hợp quân tinh nhuệ chạy ra thành Đông, đốt lửa khắp thành ngăn cản quân địch, sau khi ra thành ta lấy chiến xa mở đường, bộ binh theo sau, ở giữa áp giải mười vạn dân đen hiện giờ bị quả nhân bắt chuyển sang ở thành Đông, làm vậy dù là Khánh Kỵ hay quân Sở cũng không dám bỏ mặc đám dân đen này phát động tấn công vào quân ta, phía trước chắc chắn không còn vật cản..."

Các tướng lĩnh thân tại Sở quốc, quả thật có hơi chút lo lắng con đường rút quân, giờ nghe mưu kế độc ác này của Cơ Quang và Ngũ Tử Tư xong, ai nấy vui mừng hớn hở, trong lòng yên tâm phần nào. Ngũ Tử Tư lại chỉ tay lên tấm bản đồ, dừng lại ngay vị trí phía Nam Vân Mộng Trạch, nghiêm nghị: "Tất nhiên, đây chỉ là đề phòng bất trắc thôi, quân Sở và Khánh Kỵ chưa chắc làm gì được quân ta."

Hắn xua tay cho lính thu tấm bản đồ lại, quay người lại nói tiếp: "Bây giờ lại nói đến trường hợp quân ta đánh bại liên quân Khánh Kỵ và quân Sở, bước tiếp theo nên làm thế nào. Giờ này Tề quốc và Tấn quốc đều đã xuất quân, còn lệnh cho các nước phụ thuộc tham chiến, phía ta có Tề, Tấn, Thái, Đường, Đài, Chu, Đằng, Tiết, Kỷ, Huân mười nước giúp sức, còn phía Sở có Tần, Tào, Lỗ, Trần, Vệ, Tống, Trịnh, Thuấn, Hồ, Thẩm, Trần, Hứa và Khánh Kỵ mười ba lộ binh mã tương trợ, các nước như Lữ, Lưu, Phí, Cam, Đơn, Thiệu, Dương, Việt chưa rõ thái độ ngả về phe nào, vẫn đang nghe ngóng chờ thời.

Tề, Tấn là hai nước lớn, quân đội hùng mạnh, nếu hai nước thuận lợi xua quân nam hạ, lúc đó thiên hạ nghe theo, tình thế lập tức thay đổi, các nước chư hầu phe ta chắc chắn làm chủ trung nguyên, chúng ta ở nước Ngô chớp lấy thời cơ mở rộng bờ cõi ra gấp mấy lần, nếu tình hình quả thật phát triển theo hướng ấy, cách bố trí của ta cũng cần kịp thời điều chỉnh..."

Ngũ Tử Tư huyên thuyên không ngớt, chốc chốc Cơ Quang và các tướng lại hỏi hắn vài vấn đề, mọi người bàn luận hết cả buổi sáng, các tướng mới ra khỏi đại điện rời đi, Ngũ Tử Tư theo sau Cơ Quang đi vào hậu cung, lại bàn chi tiết thêm về kế hoạch vạch ra hôm nay hồi lâu, hai người cùng dùng ngự thiện xong, Ngũ Tử Tư cáo lui về phủ.

Một lão thái giám hầu hạ bên cạnh Ngô vương Hạp Lư đi theo hắn định cất tiếng nói gì đó nhưng lại thôi, không ngừng đưa mắt liếc nhìn Ngũ Tử Tư.

Ngũ Tử Tư tuy là mái đầu bạc râm, nhìn có vẻ già hơn tên thái giám kia nhiều, nhưng thật ra hắn chỉ ngoài ba mươi tuổi, tai thính mắt tinh, hành vi của tên thái giám lập tức bị hắn phát hiện, Ngũ Tử Tư giả đò không nhận thấy, cứ bước đến trước tiền điện, lúc này phía trước đã có thị vệ quân Ngô canh giữ, theo quy định thái giám cung nữ trong hoàng cung không được bước vào đó, Ngũ Tử Tư dừng bước, quay đầu lại nhìn tên thái giám già mặt đầy nết nhăn hỏi: "Nhạn, ngươi có gì muốn nói với ta ư?"

Thì ra tên thái giám này vốn là chỗ quen biết với Ngũ Tử Tư, khi xưa Ngũ Tử Tư còn làm quan ở Sở, Ngũ gia là trọng thần Sở quốc, phụ thân hắn hay ra vào hoàng cung, dẫn theo Ngũ Tử Tư nên hắn và tên thái giám hầu hạ Sở vương này đã quen biết nhau từ đó.

"Tướng quốc đại nhân..." Tên thái giám già này khom lưng nói giọng ồ ồ: "Nhạn có mấy câu muốn nói với đại nhân."

"Chuyện gì thế?"

"Đại nhân vốn là người Sở, tổ tiên của đại nhân mấy đời ra sức vì nước Sở, trong thành Dĩnh Đô có bao nhiêu gia đình từng là bằng hữu của Ngũ gia. Đại nhân...đại nhân sao lại có thể nghĩ ra mưu kế độc ác này, lấy thường dân vô tội của Sở quốc làm lá chắn thoát thân, bắt họ làm vật thế mạng trên chiến trường chứ?"

Ngũ Tử Tư trừng mắt, bước lên một bước, tức giận hét lên: "To gan, ngươi dám nghe lén kế hoạch của ta và đại vương hả?"

Tên thái giám già tên Nhạn cười khổ, lọm khọm nói nhỏ: "Nhạn...không dám, Nhạn ở trong cung chỉ là tên thái giám nhỏ hầu hạ người khác, có ai xem Nhạn là con người đâu? Đại nhân và Ngô vương uống rượu nói chuyện to tiếng với nhau, Nhạn đứng bên dưới hầu hạ, không hề nghe Ngô vương và đại nhân bảo lui ra. Nếu đại nhân sợ Nhạn để lộ tin tức, bây giờ xin cứ giết Nhạn đi là xong."

Ngũ Tử Tử nắm chặt bảo kiếm, lạnh lùng: "Giết ngươi thì có ích gì? Ngươi ra khỏi hoàng cung được sao? Nếu có ngày cần dùng đến kế sách ấy, Ngũ Tử Tư ta sợ gì người khắp thiên hạ biết đó là mưu kế do ta bày ra."

Nhạn lắc đầu nguầy nguậy: "Đại nhân vì muốn trả mối thù gia tộc, dẫn quân đánh về Sở quốc, đuổi Sở vương, hãm hiếp Sở nữ, cướp bóc của cải Sở quốc, giết tướng sĩ của Sở, quất roi vào xác tiên vương, làm bao nhiêu chuyện, cho dù là có thù sâu tựa biển cũng phải nguôi giận rồi chứ... Đốt trụi Dĩnh Đô, đem mười vạn dân thường vô tội ra làm lá chắn, đại nhân có biết...đó đều là người già trẻ nhỏ? Hành động tàn ác như thế, đại nhân quả thật nhẫn tâm thế này sao?"

Ngũ Tử Tư im lặng giây lát, ngửa mặt lên trời cười to ba tiếng, hai mắt rực lửa, lạnh lùng trừng mắt nhìn vào thái giám Nhạn: "Ngũ Viên lúc làm người Sở, nhà tan cửa nát, người Sở có ơn gì với ta nào? Bây giờ Ngũ Viên chỉ còn một thân một mình, đều do Sở quốc mang đến cho ta! Ta ra sức giúp Ngô vương, chinh chiến thảo phạt Sở quốc sao lại cho phép có tình riêng ở đây? Ta không có gì phải day dứt trong lòng cả!"

"Ông..." Thái giám Nhạn tức giận sôi gan, Ngũ Tử Tư phất tay một cái, quay lưng bỏ đi.

Thái giám Nhạn đuổi theo hai bước, dõi theo bóng dáng Ngũ Tử Tư từ từ đi khỏi, dậm chân mấy cái, rầu rĩ: "Ta đã sớm biết có nói ra cũng không ích gì, Ngũ tướng quốc giờ đây đã khác xa nhị công tử nhiệt tình đôn hậu ngày trước. Ngươi nếu hãy còn nhân tính, sao lại giết chết gã ngư phu chở ngươi qua sông và cô gái tiếp tế cơm nước cho ngươi để diệt khẩu, còn nói họ là tự vẫn mà chết, ngươi giấu được cả thiên hạ, không qua mắt được người Sở, không qua mắt được lão già này đâu, khi xưa ngươi chỉ là một tiểu tử ở Ngũ gia, một công tử chỉ biết ăn chơi, có ân đức gì mà bắt gã ngư phu và cô thôn nữ phải hy sinh vì ngươi..."

Hắn quay đầu bước chầm chậm, nhủ thầm: "Làm nhiều điều ác, Ngũ Viên ơi là Ngũ Viên, trời cao có mắt, ngươi sẽ không có kết cục tốt đẹp gì đâu!"

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 192: Giao chiến (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Tàn dương như máu, soi rọi xuống mặt đất bao la, một màu nắng đỏ rực ảm đạm.

Một thiếu niên mặc áo lông trắng, đứng trên bức tường thành cũ kĩ, ánh mắt dõi về phương Nam, im lặng như một bức tượng, hồi lâu không thốt lên lời nào.

Những bậc thang cao cao trải dài từ trên tường thành xuống tận mặt đất, khắp nơi phủ một lớp tuyết dày cộm không bị ai quét dọn, hai viên quan dẫn theo mấy tên cung bộc mặc áo ấm đứng hầu ở đó dưới cơn gió lạnh cắt da cắt thịt.

Một viên quan già mặc lễ phục cũ xưa chốc chốc lại dậm chân hít hà phà hơi ấm vào hai lòng bàn tay, quay qua nói nhỏ với viên quan kia xem ra tuổi tác còn già hơn hắn: "Thiếu Doãn đại nhân, mặt trời xuống núi rồi, thời tiết càng ngày càng lạnh, hay là...khuyên thiên tử về cung thôi, nếu ngài vì cái lạnh ngã bệnh thì nguy, chúng ta sao gánh vác trách nhiệm?"

Lão quan già nua kế bên thở dài một tiếng, hắn đúng là quá già rồi, đến nỗi phải nhờ một cung bộc dìu lấy mới đứng cho vững được, khi hắn thở dài, những nết nhăn trên mặt trơ ra như đá, không hề động đậy.

"Bá Tư đại nhân, cứ để thiên tử yên tĩnh thêm chút nữa. Tin tức hôm nay khiến ngài vô cùng thất vọng, trong lòng ngài khó chịu lắm đây. Hừ, những ngày này thiên tử cứ trông ngóng phía bên Sở quốc có tin tốt truyền về, không ngờ lại đợi được tin này, thiên tử còn nhỏ tuổi, sao chịu được cú sốc lớn này chứ?"

Hai lão quan già lại thở dài chán nản, ngẩng đầu lên trông theo Chu thiên tử Cơ đang đứng cô đơn một mình trên tường thành cao chót vót, phía sau lưng họ là hoàng cung xưa cũ lâu ngày không được chỉnh trang, nay đã u ám tàn tạ. Lâu lâu mới có một vài cung nữ và thái giám đi lại trên con đường vắng vẻ trong cung, cứ như hai lão già đang đứng dưới chân tường, khắp nơi đây nhuốm một màu vắng lặng buồn tẻ.

Chu thiên tử Cơ đứng trên tường thành hoàng cung Lạc Ấp, nhìn xuống tòa thành Lạc Ấp không còn chút sinh khí này, sau đó ánh mắt từ từ dõi xuống phương Nam, nhìn vào phía chân trời xa xa, cũng thở dài ngao ngán. Những ngày này hắn cứ mong chờ được một tin tốt gì đó, chờ đợi tin báo thích sát Sở vương thành công truyền về, kết quả lại là tướng quân Sở quốc Tử Kỳ thế mạng, Cơ cảm thấy vô cùng thất vọng.

Sở vương khinh thường quyền uy của Chu thiên tử, tự lập lấy vương hiệu, làm tấm gương xấu cho những nước Ngô, Việt noi theo, đồng thời liên kết các nước chư hầu phía nam Trường Giang, thế lực không ngừng mở rộng sang phương Bắc, nanh vuốt của Sở quốc nay đã giương tới những địa phương cách Lạc Ấp không quá hai trăm dặm, thành mối họa lớn đe dọa thiên tử. Ngô quốc tiến đánh vào Dĩnh Đô, đánh cho Sở quốc ngạo mạn một trận tơi bời hoa lá, nếu bây giờ Sở vương mà chết, Sở quốc quần long vô thủ, chư hầu phương nam tranh đoạt lãnh thổ của Sở, cứ thế chinh chiến tiêu hao lực lượng lẫn nhau, sẽ không còn quan tâm việc xâm lấn về phương Bắc nữa. Các nước chư hầu Chu thất phương Bắc lại còn thừa dịp đánh trả về phương Nam, diệt trừ mối họa lớn này triệt để, thế mà giờ đây tất cả tan theo mây khói rồi.

Chu thiên tử lại thở dài, ánh mắt quay sang hướng Tây Bắc, hai bàn tay lạnh cóng xoa xoa vào nhau tìm chút hơi ấm. Hướng Tây Bắc, là lãnh thổ Tấn quốc, giờ chỉ còn đặt hết hy vọng vào Tấn quốc thôi, mong sao Tấn quốc nhân cơ hội này xuất quân chinh phạt, bình định tên chư hầu man di Sở quốc không chịu thần phục hoàng thất họ Chu này.

Lúc này, đại quân của Tấn quốc đã xua quân nam hạ, nhưng vừa mới đi được một ngày đường, liền bị Triệu Giản Tử phái tín sứ đuổi kịp, thay đổi mệnh lệnh. Từ nam hạ đổi thành đông chinh, vì đại quân hai nước Vệ và Tống đã áp sát biên giới Tấn, Vệ. Phía biên giới Tấn, Trịnh cũng thấy quân Trịnh không ngừng điều động gia tăng quân số, hình như đang mưu toan xâm lược. Lúc này Triệu Giản Tử không dám mạo hiểm xua quân nam hạ, đề phòng Vệ, Tống thừa cơ đánh lén, chỉ còn cách phái người ngăn cản cánh quân nam hạ, quyết định chuyển qua đánh bại liên quân Vệ, Tống trước, đồng thời trấn áp Trịnh quốc rồi tính sau.

Mạnh môn. Liên quân Tống, Vệ đang gấp rút xây chiến hào, đặt doanh trại. Liên quân hai nước chia làm thế gọng kiềm hạ trại hai bên, cách nhau chỉ có vài dặm, chiến kì hai nước phấp phới dưới cơn gió lạnh, các đội binh sĩ hấp tấp qua lại không ngớt, một bầu không khí khẩn trương khi chiến sự sắp nổ ra.

Cách đó một con sông nhỏ, đội quân tiên phong của Tấn và quân đội của Vệ Tống nhìn rõ mặt nhau, doanh trại của quân Tấn cũng đang vội vàng dựng lên, ba đạo quân chỉ cách nhau có mấy dặm. Đại quân của Vệ do Tề Báo làm chủ soái, Công Tôn Bạt làm phó soái, Công Tử Triều làm tiên phong, ba người gấp gáp thị sát quân doanh, đứng ở nơi cao quan sát doanh trại quân Tấn đằng xa.

Cánh quân Tấn tiên phong này doanh trại chen chúc, nhìn vào không thấy giới hạn, ước chừng ít nhất cũng có một vạn năm ngàn quân, ba người chỉ tay về hướng đại doanh quân Tấn, thảo luận phương án tấn công, quyết định được một phương án rồi, sau đó Tề Báo dẫn theo hai người đi về phía doanh trại quân Tống, cùng đại soái thống quân Tống quốc Hiên Viên Hành bàn bạc kế hoạch ứng chiến.

Hiên Viên Hành cũng vừa mới đi thị sát xong doanh trại về, còn chưa kịp cởi áo giáp, nghe báo là chủ soái của quân Vệ đến đây, vội vàng ra đón tiếp ba người vào trong lều bàn chuyện.

Tề Báo giữ chức chủ soái quân Vệ, Công Tôn Bạt làm phó soái, Công Tử Triều làm tiên phong, việc này cũng từng xảy ra tranh chấp kịch liệt trên đại điện Vệ quốc. Mới đầu tuy đám đại thần có quyền lực như Bắc Cung Hỉ hô hào ủng hộ Tề Báo làm chủ soái, nhưng Vệ hầu Cơ Nguyên rốt cuộc không chịu giao binh quyền cho Tề Báo, vì chuyện này các phe cánh cãi nhau nảy lửa, việc xuất quân sém chút tan thành bọt nước.

Lúc này đại quân Tống quốc đã đến, Vệ phu nhân Nam Tử đích thân dẫn đại quân về Đế Khâu, Vệ hầu Cơ Nguyên nghe tin vội dẫn theo văn võ bá quan ra nghênh đón phu nhân, đưa nàng và đại quân Tống quốc đón vào Đế Khâu, lần này dẫn quân về giúp đỡ, Vệ phu nhân Nam Tử có công to lớn, vì thân phận đặc thù của nàng, và địa vị đặc thù trong mối liên minh Tống, Vệ, nên tiếng nói của nàng có ý nghĩa quyết định.

Vệ hầu Cơ Nguyên và Nam Tử bàn bạc riêng một hồi, lại truyền lệnh thượng triều, đồng ý kiến nghị cho Tề Báo làm chủ soái thống lĩnh quân Vệ, nhưng lại kèm theo một điều kiện: đưa Công Tử Triều lên giữ chức tiên phong, tất cả cấm quân thuộc hữu quân dưới trướng Công Tử Triều toàn bộ được đưa cả vào cánh quân tiên phong, điều sang chiến đấu ở biên giới Vệ, Tấn.

Tề Báo quá đỗi vui mừng vì được nắm giữ binh quyền, mà Bắc Cung Hỉ có nghĩ đến tuy làm vậy họ sẽ mất đi lực lượng cấm vệ có thể trực tiếp khống chế Vệ hầu, nhưng giờ đây toàn bộ binh quyền đã nằm trong tay, đối với họ mà nói mức độ an toàn cao hơn việc nắm giữ một nửa lực lượng cung vệ, cho nên mặc kệ Công Tử Triều ra sức phản đối, cứ nhận lời thay hắn luôn. Không ngờ Vệ hầu lại ra lệnh cho Công Tôn Bạt làm phó soái, cánh quân chủ lực của đại quân Vệ quốc lại được xây dựng bằng người ngựa của Công Tôn Bạt, Cừ Bá Ngọc dẫn vào Đế Khâu hồi trước, làm vậy chẳng khác nào giám sát chặt bọn Tề Báo, sợ hắn chiếm dụng quân đội mưu đồ phản loạn.

Giờ đây chủ soái, phó soái, tướng quân tiên phong của quân Vệ bề ngoài ra vẻ đoàn kết một lòng, sau lưng lại không tránh khỏi mưu tính quyền lợi riêng, chỉ là kẻ địch trước mắt, họ đều là người thông minh, chưa ngốc đến nỗi tàn sát lẫn nhau trước sự đe dọa của quân Tấn mà thôi.

Tề Báo nói: "Nguyên soái Hiên Viên, chúng ta vừa quan sát xong tình hình quân Tấn, nghĩ ra một cách phối hợp tấn công quân địch, nay định bàn bạc với nguyên soái coi sao."

"Hô hô, thế thì tốt quá, Hành cũng định qua mời ba vị tướng quân đến đây cùng bàn đại sự, nào nào, thời tiết lạnh lẽo, chúng ta vào lều ngồi cho ấm rồi hãy từ từ bàn bạc."

Hiên Viên Hành nói xong liếc mắt về phía Công Tử Triều, hai người là chỗ quen biết khi Tử Triều còn ở Tống, tuy quan hệ giữa họ không được thân thiết lắm, nhưng cũng không phải kẻ thù của nhau, nhưng giờ đây Công Tử Triều đang tối sầm mặt, ánh mắt láo liên không biết đang suy tính việc gì, không thèm chào hỏi người quen cũ một câu.

Hiên Viên Hành chớp chớp mắt, trong đầu vang lên những lời dặn dò bí mật của Nam Tử trước lúc hắn dẫn đại quân lên đường: "Lần này đi sang biên giới Vệ, Tấn, tướng soái quân Vệ bất hòa, đây chính là kết quả tranh đoạt quyền lợi giữa hai phe cánh trong triều đình Vệ quốc, biết chắc là bất lợi cho chiến sự, nhưng cũng không thể không sắp xếp thế này, trận đầu tiên có thể quân ta sẽ gặp bất lợi, nhưng nội loạn đáng lo hơn kẻ địch bên ngoài, một khi thua trận, Vệ hầu có thể nhân cơ hội trị tội Tề Báo, diệt trừ mối đe dọa này, cái này là mượn tay kẻ địch bình định nội loạn, lúc đó Vệ hầu sẽ hạ lệnh cho ngươi thống lĩnh hết liên quân hai nước tái chiến với quân Tấn, ngươi hành sự phải cẩn thận, giữ gìn lực lượng sau này dùng đến."

"Mạc tướng tuân lệnh."

"Còn việc này..."

"Mời công chúa cứ nói."

"Hiên Viên tướng quân, Tử Triều mang nặng dã tâm, lúc ở Tống quốc của ta đã lôi kéo phe cánh, lập mưu nắm giữ triều cương, sau đó trốn sang Vệ quốc, lại nói ngon nói ngọt lấy lòng thương hại của bổn công chúa, lừa lấy lòng tin của ta, giờ có chốn dung thân ở Vệ, hắn cấu kết với bọn gian thần Tề Báo, Bắc Cung Hỉ, mưu đồ khống chế chính sự Vệ quốc, có người này ở đây, hai nước Vệ, Tống không có tháng ngày yên ổn, hắn lấy thân phận là công tử Tống quốc, nếu gây ra chuyện gì bất lợi cho Vệ hầu, không chỉ hại đến uy tín của bổn công chúa, còn gây bất lợi cho mối liên minh mấy trăm năm của hai nước Vệ, Tống. Ý của quốc quân Vệ hầu và ta là..., tìm cơ hội nào đó, ngươi diệt tên Tử Triều này đi, khi Tề Báo, Tử Triều chết đi, Công Tôn Bạt không còn bị hai tên này chế ngự, sẽ thống lĩnh đại quân Vệ quốc, sát cánh cùng tướng quân chống lại kẻ địch quân Tấn."

"Công chúa yên tâm, mạc tướng đã ghi nhớ rồi ạ."

Nghĩ đến đây, Hiên Viên Hành khoái chí mỉm cười, lại đưa mắt liếc nhìn Công Tử Triều một cái.

Công Tử Triều lòng đầy tâm sự, từ khi hắn bị điều ra tiền tuyến, hắn đã biết ý Nam Tử muốn ra tay với hắn rồi. Hồi trước đắc tội với Nam Tử, hắn không thể nào không chịu nhục đưa thân ra mua vui cho Vệ hầu, hy vọng được Vệ hầu giữ cho tính mạng, củng cố địa vị ở Vệ quốc. Không ngờ Vệ hầu Cơ Nguyên hận hắn bắn chết huynh trưởng Công Mạnh Trập, giờ lại nghe theo lời Nam Tử, đem hắn ra làm vật hy sinh nơi trận tiền.

Suốt dọc đường hành quân Công Tử Triều ray rứt không yên, hắn không biết Nam Tử đã nhờ cậy Hiên Viên Hành hay là Công Tôn Bạt, cũng có thể là một tên lính nào đó trong quân đội làm thích khách, càng không biết bọn Tề Báo, Bắc Cung Hỉ có bán đứng hắn hùa theo Nam Tử và Vệ hầu âm mưu hại hắn không? Giờ đây Công Tử Triều ăn không ngon ngủ không yên, ngay cả gió rít chim kêu cũng giật mình sợ hãi, tâm thần hoảng loạn.

Công Tử Triều cúi đầu rầu rĩ theo sau mọi người bước vào trong lều, ngồi xuống mơ mơ màng màng trầm tư một mình, đột nhiên nghe tiếng đập bàn cái rầm, hắn giật mình hoảng hốt, chỉ nghe Viên Hiên Hành nói lớn: "Tốt! Quân ta chia làm hai cánh trái phải, thừa lúc quân chủ lực của Tấn chưa đến đánh phủ đầu cho chúng mất hết nhuệ khí. Tử Triều tướng quân, ngài có ý kiến gì?"

"Hả? À được đấy, rất hay! Tử Triều đồng ý...cứ nghe theo ý kiến của các tướng quân." Công Tử Triều như bừng tỉnh sau giấc mộng, lắp bắp trả lời.

Hiên Viên Hành vuốt râu, nhướng mày: "Tốt, nếu tất cả mọi người đều đồng ý làm vậy, chúng ta cứ tiến hành thôi. Người đâu, mang bản đồ lại đây, chúng ta bàn chi tiết hơn về kế hoạch tác chiến sắp tới nào!"

Lều chỉ huy của Hiên Viên Hành vừa mới dựng xong, bản đồ chưa được treo lên, hai tên lính cung kính bước vào trải tấm bản đồ rộng ra, các tướng đều bước về phía tấm bản đồ bàn bạc, Công Tử Triều cũng ngơ ngác theo sau, tâm trí hắn lại nhớ về quá khứ trong hoàng cung Đế Khâu...

Hắn mặc một chiếc áo bào trắng, khí khái ung dung, tay cầm cây tiêu bằng tre, đi qua đi lại ở khu vườn thượng uyển, Nam Tử mặt mày tươi tắn, mỉm cười quyến rũ xuất hiện, ánh mắt nàng là tình yêu say đắm và niềm vui kinh ngạc, đó chính là cảnh hắn vừa chạy từ Tống quốc sang Vệ. Bên tai Tử Triều ong ong, các tướng lĩnh đang luận bàn kế hoạch tấn công quân Tấn, âm thanh hỗn tạp lao xao, bọn họ đang nói gì Tử Triều không nghe thấy câu nào cả.

"Ta...rốt cuộc muốn có được gì chứ?" Công Tử Triều tự hỏi trong lòng, nhớ về quá khứ sâu thẳm trong tim, nhớ về Nam Tử, trong lòng trống trải...

"Thùng thùng thùng......" một hồi trống vang lên lanh lảnh, mây lửng lờ trôi, gió rít mạnh từng cơn. Phía trận địa của Khánh Kỵ bày ra năm mươi chiến xa, một ngàn cung thủ, hai ngàn kiếm thủ, hai ngàn trường mâu thủ, sau lưng là núi cao và sơn cốc hiểm trở, dàn trận chuẩn bị nghênh chiến.

Phía bên kia trên một chiếc chiến xa, cắm cây cờ ghi chữ "Hùng" to tướng, Vương Tôn Hùng râu ria khắp mặt đang uy nghi cầm kích đeo kiếm đứng trên đó.

Khánh Kỵ khẽ nhíu mày, tự nhủ: "Lạ nhỉ? Vương Tôn Hùng dẫn quân đến đây lại không tấn công thành trì, chỉ bày trận ra ngoài sơn cốc, ý hắn muốn thế nào đây?"

A Cừu ngồi trên xe, chỉ mặc áo giáp thân trên, bên dưới chỉ là tấm áo vải thô, đeo kiếm ngang hông, trong tay không cầm vũ khí, đang nắm lấy dây cương của bốn con chiến mã phía trước, cười ha hả: "Công tử, còn phải hỏi sao? Tên cẩu tặc Cơ Quang khiếp sợ uy danh của công tử, đâu dám bén mảng tới thành trì của ta chuốc lấy thất bại."

A Cừu là người điều khiển chiến xa, đừng xem thường hắn chỉ lái chiến xa, thật ra hắn mới là người quan trọng nhất trên đó, một khi đại chiến bắt đầu, hắn phải điều khiển cho tốt cùng lúc mấy con chiến mã, tai phải nghe rõ hiệu lệnh tiến quân rút quân, mắt luôn quan sát diễn biến tình hình trên chiến trường, tránh việc chiến xa đi sâu vào trận địa quân địch không trở ra được, hơn nữa lại không cầm được vũ khí dài hộ thân, vừa vất vả vừa nguy hiểm vô cùng.

Hai phía trái phải Khánh Kỵ đang đứng hai người, bên trái là một thần tiễn thủ, toàn thân mặc giáp, chỉ chừa vai phải ra, tay cầm cung, vai đeo một túi đựng đầy tên, bên phải là Tái Cừu, mặc giáp cầm song kích, phía sau chiến xa không chở theo trống bự, chiếc chiến xa này là để xông pha giết giặc chứ không phải dùng chỉ huy toàn quân.

Khánh Kỵ lắc đầu nguầy nguậy: "Đừng nói bậy, Vương Tôn Hùng trung thành tuyệt đối với Cơ Quang, hơn nữa phiêu dũng thiện chiến, nếu chỉ xét vũ lực cá nhân, hắn không là đối thủ của ta, nhưng chỉ huy quân đội tác chiến, hắn chưa chắc kém ta phần nào đâu. Vương Tôn Hùng dẫn quân đến đây chắc có dụng ý nào đó."

Tái Cừu kế bên ngạo mạn lên tiếng: "Mặc kệ hắn có dụng ý gì, hắn không tấn công thì chúng ta đánh qua đó, đánh cho hắn tan tác, lúc đó dụng ý gì cũng tiêu tùng."

Khánh Kỵ cười ha hả, nhíu mày nói: "Tái Cừu à, con người ngươi suy nghĩ đơn giản, nhưng lại là một ý kiến hay. Nếu đã không đoán ra hắn đang có dụng ý gì, chúng ta không đoán nữa, cứ đánh bại hắn rồi tính. Cơ Quang đã ban lệnh xuống, ai giao chiến với Khánh Kỵ ta mà rút lui bỏ chạy, chém! Buông vũ khí đầu hàng, giết cả nhà, nên trận chiến này sẽ ác liệt lắm đây, các ngươi hãy cẩn thận."

A Cừu nắm chặt dây cương trong tay, lớn tiếng: "Công tử yên tâm, ra lệnh tấn công đi!"

Khánh Kỵ phất tấm áo khoác ra sau lưng, hét lớn: "Tấn công!"

Trên một ngọn núi, Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man đang đứng sát vai nhau theo dõi trận chiến dưới kia, sau lưng hai nàng là hai tì nữ mới tuyển lựa trong tòa thành chiếm được, hai tì nữ cùng ôm một chiếc đàn, cũng dõi mắt về phía dưới núi. Tuy gió lạnh rít mạnh bên người, Thúc Tôn Diêu Quang lại nắm chặt bàn tay đang không ngừng tuôn chảy mồ hôi, miệng lải nhải oán trách: "Thân là chủ tướng, lại đích thân ra trận, bắt chúng ta gảy đàn thổi sáo ở đây, nhìn chàng giết giặc. Thật là tức chết đi được, người ta đang lo lắng, tâm trí nào mà gảy đàn chứ?"

Quý Tôn Tiểu Man đang xoay xoay một cây tiêu bằng ngọc xanh trên tay, lại đang háo hức theo dõi trận chiến, xem ra có vẻ thích thú lắm. Động tác Khánh Kỵ phất áo choàng về phía sau bị nàng nhìn thấy, cất tiếng khen ngợi: "Oa! Động tác này oai phong lẫm liệt, thật là mê người."

Thúc Tôn Diêu Quang trừng mắt nhìn Tiểu Man, hét lên: "Đừng làm ồn, sắp tấn công rồi đó, chàng thân làm chủ soái lại đích thân dẫn quân ra trận, thật khiến người ta lo lắng."

Quý Tôn Tiểu Man liếc Diêu Quang một cái, châm chọc: "Chuyện này cũng không biết sao? Đây là trận đầu tiên Khánh Kỵ giao chiến chính diện với quân Ngô, năm ngoái Khánh Kỵ bại trận ở Đại Giang, uy danh bị tổn hại, một năm trôi qua, tướng sĩ quân Ngô càng lúc càng ít sợ hắn hơn, người Ngô không còn e sợ, sau này hắn xua quân phạt Ngô không biết phải phí bao nhiêu sức lực, chết thêm bao nhiêu tướng sĩ, trận chiến này hắn đích thân dẫn quân ra trận, nếu đánh cho quân địch thua chạy tan tác, có thể gầy dựng lại uy danh bất khả chiến bại của hắn trong mắt người Ngô, rất có lợi cho chiến sự sau này."

"Hứ, công nhận là cô cũng có chút hiểu biết đó."

Quý Tôn Tiểu Man cười đắc ý, chắp tay: "Quá khen, quá khen, không dám nhận, không dám nhận, ta cũng chỉ nghe Kinh tướng quân nói lại thế thôi."

Thúc Tôn Diêu Quang nghe xong cảm thấy tức tối, nàng hứ một tiếng rõ to: "Cũng không tệ, cô không chiếm lấy công lao về phía mình."

Lúc này dưới núi tiếng hò hét vang lên, đại quân của Khánh Kỵ bắt đầu lao lên phía trước, chiếc xa lướt đi băng băng, bụi bay mịt mù, đứng trên núi nhìn xa xa xuống dưới, cứ như một đội thiên binh đang cưỡi mây lướt gió tiến lên.

Thúc Tôn Diêu Quang hồi hộp bấu chặt cánh tay của Quý Tôn Tiểu Man, toàn thân run lên, la lên liên hồi: "Giao chiến rồi, giao chiến rồi, ối, cẩn thận chứ! Sao lại phải lao ra tận phía trước, nguy hiểm quá, sợ quá, cái tên A Cừu đáng chết này, sao lại lao nhanh thế không biết, chiến xa hai bên không theo kịp rồi kìa."

Quý Tôn Tiểu Man bị bấu vào tay đau điếng, hét lên: "Này, cô bấu ta đau quá, có gì mà phải lo lắng, cô lần đầu thấy người ta đánh trận à, sao sợ đến nỗi trắng bệch ra rồi?"

Thúc Tôn Diêu Quang giờ mới phát hiện ra mình đang bấu chặt tay Tiểu Man, vội hất tay Tiểu Man ra trách cứ: "Cô không có tình cảm gì cả, lúc ở Ngải thành chúng ta đã nói gì nào? Đuổi cô đi thì không chịu đi, còn tưởng là cô thích chàng lắm, bây giờ chàng xông pha trận mạc, sao không thấy cô có chút lo lắng nào hết vậy? Hứ, ta hiểu rồi, dù sao cô và chàng cũng đâu có hôn ước, nếu chàng có mệnh hệ nào, cô mặc kệ cứ đi lấy người khác đúng vậy không?"

Quý Tôn Tiểu Man thương hại nhìn vào Diêu Quang, lắc đầu nguầy nguậy: "Thật không hiểu cô lo lắng cái gì, hắn là ai kia chứ? Đệ nhất dũng sĩ Ngô quốc đấy! Hắn là Khánh Kỵ chạy nhanh hơn ngựa, nhảy lên túm được chim bay, sức mạnh quật ngã bò tót, hắn ra chiến trường giết giặc có gì mà phải lo lắng, ai chết cũng không đến lượt hắn đâu, hứ bậy quá, không nói đến chết chóc ở đây. Cô đó, làm ta rối cả lên, ta có...lòng tin với hắn."

Thúc Tôn Diêu Quang trợn tròn đôi mắt, nhìn vào cô bé Tiểu Man đang ngưỡng mộ sùng bái Khánh Kỵ, sau đó lại dõi mắt theo dõi trận chiến dưới kia, tiếng thét vang trời, bụi bay mù mịt, tên bắn như mưa.

Tiểu Man hét lên: "Hứ, điên thật, tên Vương Tôn Hùng đó dám chạy xe lên đơn đả độc đấu với Khánh Kỵ à?"

Ánh mắt của Thúc Tôn Diêu Quang không hề muốn rời khỏi bóng dáng Khánh Kỵ, nhưng nàng quay đầu nhìn theo hướng của Quý Tôn Tiểu Man, chỉ thấy Vương Tôn Hùng đang cầm mâu xông thẳng về phía Khánh Kỵ...

Khánh Kỵ và Vương Tôn Hùng uy nghi đứng trên chiến xa, trừng mắt nhìn nhau, hai người đều mặc giáp da, trên đầu đội mũ giáp bằng đồng, tay cầm trường mâu sắc nhọn, sau lưng hai người bụi bay mịt mù, từng hàng chiến xa điên tiết lao vào nhau.

Chiến xa hai bên tuy lao nhanh về trước, nhưng cũng lấy chiến xa của chủ soái làm trung tâm, tạo thành một đội hình tấn công hình chóp, khoảng cách được thu ngắn lại, khi hai bên chỉ còn cách nhau không quá mười trượng, một trận mưa tên vù vù xé gió bắn vào nhau.

Quân của Khánh Kỵ chiếm giữ vị trí phía Bắc, giờ đang thuận gió, thêm vào đó giữa khe núi sức gió thổi mạnh, tất cả tên bắn ra đều bay xa hơn mạnh hơn phía quân Ngô, sau một trận mưa tên, rất nhiều binh sĩ ngã xuống tử trận.

"Đỡ khiên!" Khánh Kỵ hét lớn ra lệnh, sau chiến xa của hắn các kiếm thủ đồng loạt giơ khiên lên, các tấm khiên được bọc bằng da, tạo thành tấm chắn vững chắc đỡ lấy tên từ phía quân Ngô bắn qua, phía trước đội chiến xa dàn hàng ngang tăng tốc lao nhanh, đồng thời các binh sĩ trên đó dùng binh khí trên tay gạt tên bắn tới.

Chiến xa càng lúc càng gần, chiến mã hí vang, hai bên ập vào nhau...

"Đỡ!" Khánh Kỵ và Vương Tôn Hùng hét lên gần như cùng lúc, tay lăm lăm trường mâu.

A Cừu vận sức vào hai vai, cầm cương quất mạnh vào mông bốn con ngựa chiến, ngựa chiến lồng lên lướt qua chiến xa phe địch, Tái Cừu nhổ lấy một cây trường mâu cắm trên xe, quét thành một vòng tròn lấy thế, chém về phía tên lính Ngô đang điều khiển chiến xa bên kia. Khi hai chiếc chiến xa lướt qua nhau, Khánh Kỵ và Vương Tôn Hùng cùng lúc giơ trường mâu lên, hét to một tiếng, đâm một nhát mạnh về phía đối phương...

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 193: Huyết chiến sa trường (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

"Keng! Chát!" Hai tiếng khô khốc vang dội, hai thanh trường mâu chạm nhau tóe lửa, hai chiếc chiến xa đã xẹt qua, tuy mới giao chiến có một hiệp, Vương Tôn Hùng hai chân run rẩy, lảo đảo đứng không vững trên xe, vội đưa tay bấu chặt thanh gỗ thế mới đứng thẳng được, cánh tay tê tái đau nhói từng chập.

"Lao nhọn!"

Khánh Kỵ và Vương Tôn Hùng lại cùng lúc hét lớn, Tái Cừu cắm lại thanh trường mâu trên tay lên xe, nhổ ra một cây lao dài gần sáu thước, cán tròn như trứng, chĩa từ phía sau hướng về trước, đầu mũi lao sắc nhọn chỉ thẳng vào hàng binh sĩ cầm đoản kiếm đang đỡ khiên theo sau sát chiến xa quân Ngô.

Từ trên đồi cao nhìn xuống, chiến xa hai bên cuốn tung một lớp bụi mù mịt, nhìn như một cơn sóng khổng lồ, gầm thét dữ tợn ập vào phía đối phương, khi chiến xa hai bên từng chiếc từng chiếc lướt qua nhau, cứ như hai luồng sóng lớn đập mạnh vào nhau, bọt sóng bật tung tóe lên cao, trong con sóng mờ mờ ảo ảo ẩn hiện từng lớp chiến xa, từng hàng chiến sĩ, như một dãy đá ngầm nhô lên giữa sóng biển mênh mông.

Hai con sóng va mạnh vào nhau, máu tươi bắn ra nhuộm đỏ cả mặt đất, các binh sĩ đứng trên chiến xa không đâm trúng đối phương bị dính đòn rú lên đau đớn ngã lăn ra, bị chiến xa kéo lê, bị bánh xe nghiền nát, hóa thành mớ thịt bầy nhầy máu me hòa chung với đất đỏ...

Tiếp theo hàng kiếm thủ đụng phải lao nhọn từ chiến xa của đối phương đâm tới, liền bị bật lùi lại mấy mét, dù cho tấm khiên kiên cố thế nào đi nữa, dưới sức công phá từ tốc độ lao nhanh của chiến xa cộng với độ sắc nhọn của cây lao dài, hàng chiến xa va vào hàng kiếm thủ che khiên như cây kim đâm thủng mảnh giấy, các binh sĩ che khiên không phải bị chiến xa hất tung lên trời, thì cả thân người bị lao nhọn đâm xuyên qua ngực lôi theo, rồi sau đó là tên thứ hai, tên thứ ba..., cứ như xiên kẹo hồ lô vậy.

Khi lao nhọn bị chém gãy hoặc chiến xa hết thế lao nhanh không còn tiếp tục đâm tới được nữa, lúc này chiến xa đã lọt vào giữa vòng vây quân địch, bánh xe vẽ theo một vệt máu dài từ từ chạy chậm lại, binh lính trên xe vứt bỏ lao dài, rút kiếm, kích, mâu ra chiến đấu, Khánh Kỵ và Tái Cừu đứng trên xe đâm chém quyết liệt với đám quân Ngô cầm kiếm và trường mâu vây lấy chiến xa. Hàng kiếm thủ và trường mâu thủ bên quân Ngô xông lên huyết chiến với quân chủng cùng loại bên quân của Khánh Kỵ. Khắp chiến trường đều là vang vọng tiếng hò hét xung trận, tiếng giẫm đạp lên nhau, tiếng binh khí va chạm chan chát, tiếng rú lên đau đớn...

A Cừu tập trung điều khiển chiến xa, không ngừng thúc ngựa thay đổi vị trí, chiến xa vừa di chuyển vừa chiến đấu, tránh cho bị bộ binh kẻ địch vây khốn không thoát ra được, đồng thời dáo dác nhìn xung quanh trong thiên binh vạn mã, truy tìm chiến xa của chủ tướng phe địch. Các chiến xa khác bên quân Khánh Kỵ cũng đang cố gắng tiếp cận chủ soái, một mặt chiến đấu với quân địch, một mặt thu ngắn khoảng cách từ từ, tiếp ứng lẫn nhau, tránh bị quân địch tấn công cả trước mặt sau lưng.

Mặc dù là vậy, tấm giáp da dày bốn lớp trên người Khánh Kỵ đã có vài chỗ bị đâm thủng, nhiều vết trầy xướt, may mà có chiến xa hai bên trợ chiến, cung thủ trên xe và Tái Cừu đang điên tiết bắn giết, Khánh Kỵ mới không bị thụ thương. Còn A Cừu điều khiển chiến xa lúc này đã đổi tư thế từ ngồi thành đứng thẳng, một tay giữ chặt dây cương buộc bốn con chiến mã, một tay cầm đoản kiếm, không ngừng "leng keng leng keng" đỡ gạt binh khí của quân địch đâm tới, hai mắt trợn tròn giận dữ, hơi thở phập phù tung cả lọn râu dưới cằm, nhìn bộ dạng còn đáng sợ hơn cả Khánh Kỵ. (Nói thêm: Khi giáp chiến, muốn vô hiệu hóa chiến xa phe địch cách tốt nhất là tiêu diệt người điều khiển xe, vì người điều khiển xe bận đốc thúc ngựa chiến kéo xe, lại không cầm binh khí dài để chiến đấu được, chỉ còn cách cầm đoản kiếm chống đỡ, do đó quân Ngô chủ yếu tập trung tấn công A Cừu, chỉ cần người điều khiển xe bị tiêu diệt, chiến xa không thể chạy tiếp, lúc đó mới bao vây tiêu diệt binh lính trên xe cũng chưa muộn.)

"Phục binh của Lương Hổ Tử đâu rồi, sao giờ này còn chưa xuất hiện?" Thúc Tôn Diêu Quang đứng trên đồi theo dõi trận chiến, dậm chân liên hồi: "Ta phải xuống dưới kia!"

Quý Tôn Tiểu Man điệu đà xoay xoay cây ngọc tiêu trong tay, quay qua hỏi: "Khánh Kỵ dặn chúng ta đứng ở đây xem náo nhiệt, cô xuống núi chẳng lẽ nhìn rõ hơn khi đứng ở đây à?"

Thúc Tôn Diêu Quang nguýt dài: "Đứng xem ở đây, có bằng trực tiếp xuống đó tham chiến rõ hơn không?" Nói xong không chờ Tiểu Man trả lời quay phắt người bỏ đi.

Quý Tôn Tiểu Man chìa môi nhủ thầm: "Hình như cũng có lí, cô cũng không sợ nguy hiểm, chẳng lẽ ta lại sợ?"

Nghĩ vậy Tiểu Man cũng sải bước đuổi theo, hai tì nữ vội ôm đàn bám theo sau.

Khánh Kỵ đứng trên chiến xa, một mặt cầm trường mâu chiến đấu, một mặt đưa mắt quan sát tình hình chiến sự xung quanh. Lúc này binh sĩ hai bên đã lao vào hỗn chiến loạn xạ, tiếng thét của tướng lĩnh không còn nghe rõ được nữa, chỉ dựa vào tiếng trống tiếng chiêng truyền quân lệnh chỉ huy chiến đấu, đám quân Ngô dám liều chết xông vào Khánh Kỵ ít đi thấy rõ, dù sao Khánh Kỵ cũng từng là tướng quân trẻ tuổi oai danh nhất trong quân đội Ngô quốc, với lại hắn có biệt danh "Muôn người khó địch", binh lính của Ngô vừa kính nể vừa sợ hãi trước Khánh Kỵ, giờ không có tướng lĩnh đốc chiến, đều cố tránh chiến xa của Khánh Kỵ ra càng xa càng tốt, chỉ quay sang chém giết với đám binh lính bình thường, nhờ thế Khánh Kỵ được lơi tay quan sát tình hình trên chiến trường.

Binh sĩ đôi bên hỗn chiến loạn xạ, bộ binh còn giữ được đội hình, chiến xa một khi lao thẳng về phía quân địch đều xông vào trận địa bộ binh đối phương, dàn chiến xa trước quân địch đông đúc không thể quay đầu lại, cứ thế mà tiến lên giết địch, lúc này Vương Tôn Hùng đã dẫn đội chiến xa và bộ binh quân Ngô xông vào đến tận hậu trận của Khánh Kỵ, tương tự Khánh Kỵ và chiến xa của mình cũng đang ở hậu trận quân Ngô, ở giữa là bộ binh của hai bên đang giao chiến ác liệt.

"Thời cơ này tốt lắm. Lương Hổ Tử từ trên cao đánh ập xuống, chắc sẽ chiếm trọn ưu thế."

Khánh Kỵ vừa nghĩ đến đấy, phía ngang hông chiến trường vang lên tiếng hò hét xung trận. Hai cánh quân đang giao chiến y như hai con sóng mạnh đập vào nhau, bọt sóng tung tóe, ngay bên bìa rừng bên hông đột nhiên có một cánh quân xông thẳng ra lao vào chỗ tiếp giáp giữa hai ngọn sóng, người đi đầu là độc thủ tướng quân Lương Hổ Tử, tay vung thanh kiếm sáng loáng, hai bên trái phải có hai dũng sĩ cầm mâu theo sát, sau lưng Lương Hổ Tử tiếng gào như sấm, đã có mấy trăm người điên cuồng lao ra từ trong rừng, phía sau còn nhiều người liên tiếp ùa ra không ngớt, chẳng biết được hắn có bao nhiêu binh sĩ mai phục tại đây.

Những binh sĩ này đều dùng binh khí thô sơ, xem giống như một thanh gỗ bự, một đầu được bọc bằng đồng, nhưng binh khí này lạ ở chỗ đầu thanh gỗ bự còn tua tủa những chiếc gai nhọn, không dài lắm, chỉ độ nửa thước, những chiếc gai cũng không sắc lắm, vì quá sắc chạm phải áo giáp sẽ bị gãy, những chiếc gai to bè như ngón tay cái, nếu đập vào người thì chắc lủng một lỗ to, sức sát thương không cần nói cũng hiểu.

Đấy chính là lí do Khánh Kỵ trang bị vũ khí do hắn phát minh riêng này cho đám lính mới tuyển mộ, vì sử dụng vũ khí này không cần tập luyện nhiều, chỉ cần có sức khỏe là được, đại đội lang nha bổng được phát huy tối đa sức chiến đấu nhờ vũ khí, đám tân binh mới tuyển lựa là bọn nông dân khỏe mạnh, nếu không thì là bọn lưu manh vô lại hung hăng, tính kỉ luật, tinh thần hợp tác, kĩ năng chiến đấu đều yếu kém, nhưng nếu lựa chọn binh khí phù hợp, thêm vào tính bất ngờ xông ra khi hai bên đang hỗn chiến, trên tay lại cầm binh khí quái lạ có tác dụng uy hiếp tinh thần địch, mỗi khi lang nha bổng to bự được giơ lên đập xuống, những chiếc gai đồng khoan từng lỗ to trên tấm thân tội nghiệp của quân Ngô, máu thịt văng tung tóe, quân Ngô lập tức hoảng loạn.

Cánh quân này phóng chạy như bay, không ngừng phang lang nha bổng túi bụi vào quân Ngô chắn trước mặt, theo chân Lương Hổ Tử điên cuồng lao lên, chỉ một lúc đã chia tách được người ngựa hai bên đang hỗn chiến ra, sau đó quay sang đám quân Ngô bị sót lại không kịp rút lui, phang tới tấp vào đầu vào cổ của chúng, có cánh quân này nhảy vào tham chiến, quân Ngô bị chia cắt ra làm hai, một trăm chiếc chiến xa và số ít bộ binh theo sau của Vương Tôn Hùng bị kẹt lại ở phía hậu quân của Khánh Kỵ, lúc này bị quân Khánh Kỵ bao vây mấy lớp không thoát ra được, cung tên bắn ào ạt về phía ấy, lính Ngô dính tên lăn ra chết như rạ, xong quân Khánh Kỵ lại đồng loạt đâm trường mâu, hoặc đâm người, hoặc nhằm vào ngựa, ngựa chết chiến xa không di chuyển được thành ra vật cản trở, cục diện trận chiến thay đổi rõ rệt, ưu thế lúc này hoàn toàn thuộc về quân của Khánh Kỵ.

Còn bên kia chiến tuyến, mấy chục chiến xa của Khánh Kỵ vẫn giữ được đội hình phối hợp, xông pha vào hậu quân của Vương Tôn Hùng, theo sau là kiếm thủ bám sát chiến xa, tiếp cận đại đội trường mâu của quân Ngô, khi giao chiến gần ưu thế về vũ khí lập tức hiện rõ, nhất là đám lính cầm lang nha bổng do Lương Hổ Tử chỉ huy, cứ giơ lên phang vào đầu lính Ngô, dù cho có đội mũ sắt cũng trào óc ra, đám lính thường đâu được đội mũ sắt bảo vệ, bị đập trúng đầu nát cả sọ, bị đánh trúng thân thì rú lên thảm thiết, trong một lúc tiếng kêu la làm binh sĩ quân Ngô hoảng loạn cả lên, không còn ý chí chiến đấu. Đúng lúc này người bên Khánh Kỵ lại la to danh hiệu của hắn, khơi lại kí ức bị lãng quên về chàng trai đệ nhất dũng sĩ Ngô quốc của binh lính Ngô.

Quân Ngô bại trận như núi đổ!

Thời hiện đại đã không còn cảnh tác chiến tập hợp mấy vạn người chen chúc chém giết nhau trên chiến trường chật hẹp, trong điện ảnh cũng hiếm khi lột tả được cảnh chân thật của chiến trận, nên khó mà tưởng tượng được cảnh bại trận như núi đổ của quân Ngô lúc này là như thế nào? (Câu này tác giả tự phân bua chăng?)

Binh sĩ là lá gan của tướng, tướng là linh hồn của binh sĩ, một khi chia cắt binh sĩ và tướng chỉ huy ra, binh sĩ có đông cũng như một nhúm cát rời rạc, nếu thống soái phe địch vốn là người mà binh sĩ e sợ tận đáy lòng, bị tấn công mạnh mẽ sẽ khiếp sợ hơn gấp bội, trong trận chiến hôm nay, không biết là ai dẫn đầu bỏ chạy, chỉ thấy quân Ngô như gặp cơn đại dịch lan tỏa, rất nhanh, binh sĩ phía Ngô mất hết ý chí chiến đấu quay đầu cắm cổ chạy như điên.

Khánh Kỵ cầm mâu oai vệ đứng trên xe, ra lệnh nổi hồi chiêng dừng truy đuổi, cho dù là vậy, đám lính mới của Lương Hổ Tử xưa nay quen thói hung hăng, lại không có ý thức gì về kỉ luật quân đội vẫn điên cuồng truy sát quân Ngô, phải mất hồi lâu mới chịu dừng lại. Khánh Kỵ quay đầu lại nhìn về hậu quân của mình, một trăm chiếc chiến xa của Vương Tôn Hùng bị bao vây túm tụm lại một chỗ, ra sức chống đỡ một cách tuyệt vọng từng lớp từng lớp binh sĩ không ngừng lao lên của Khánh Kỵ. Nhìn cảnh tượng ấy, như một tảng đá ngầm nhô lên giữa biển khơi, bị từng đợt sóng trắng xóa vỗ ập vào, lúc ẩn lúc hiện.

Khánh Kỵ không nhịn được nỗi vui mừng, trên môi nở một nụ cười mãn nguyện.

Vào thời này, muốn phân biệt thành phần trong quân đội là rất dễ. Lúc đầu, những người có tư cách mặc áo giáp lên chiến trường chiến đấu, chỉ có quốc dân và quý tộc, quốc dân chính là người ở trong thành thị, còn bọn nông dân chân đất quê mùa, gọi là dã nhân, họ không có tư cách đi đánh trận. Sau này, quy mô chiến tranh ngày càng mở rộng, dân nông thôn cũng bị triệu tập vào quân đội trở thành binh sĩ, nhưng quý tộc, quốc dân, dã nhân có sự phân chia giai cấp rõ ràng, binh lính có tư cách cưỡi chiến xa ra trận, đều xuất thân từ tầng lớp quý tộc, binh lính theo sau chiến xa hỗ trợ tác chiến thì là quốc dân có khả năng chiến đấu cao, có nghĩa là bây giờ quân Ngô bị cắt làm đôi, đám quân Ngô đang bị vây khốn ở hậu quân Khánh Kỵ mới chính là cánh quân chủ lực tinh nhuệ thật sự.

Đám lính mới cầm lang nha bổng đang truy đuổi quân Ngô bỏ chạy không nghe theo hiệu lệnh lui quân, nhưng cũng không dám chống lại đội chiến xa của Khánh Kỵ, đợi khi mấy chục chiếc chiến xa của Khánh Kỵ chạy tới trước mặt quát tháo, đám lưu manh vô lại đang hăng máu này mới chịu dừng lại, kéo lê lang nha bổng dính bê bết máu thịt quay về, trên đường đi tiện thể cúi xuống thu lụm của cải trên xác chết nằm la liệt trên chiến trường.

Đám lính chịu rời bỏ quê hương tòng quân này, cho dù là nông dân chân đất, hay là dũng sĩ các nước chư hầu đến đầu quân, tất cả đều là bọn hung hăng, nếu ở thành thị thì trong mắt dân lành họ chẳng qua chỉ là một đám lưu manh vô lại, nhưng trên chiến trường khốc liệt, họ lại trở thành những chiến sĩ trời sinh, thắng lợi trong trận chiến hôm nay, phần lớn được quyết định bởi tính hung bạo của đại đội lang nha bổng này.

Đại đội lang nha bổng từ từ tập hợp lại, dán mắt vào chiến xa quân Ngô đang vất vả chống trả giữa vòng vây, hai mắt chúng lộ rõ tia sáng tham lam. Họ biết những binh lính Ngô đang cưỡi chiến xa kia xuất thân tầng lớp quý tộc, đó mới là người giàu thật sự, tuy khi ra trận không ai mang theo của cải bên mình, nhưng bao nhiêu binh khí, áo giáp, ngọc bội, tất cả đều rất có giá trị, đám lính hung hăng này thèm thuồng nắm chặt lang nha bổng trong tay, ánh mắt háo hức trông theo thống soái của họ - Độc thủ tướng quân Lương Hổ Tử.

Khánh Kỵ đã đánh xe quay về, lúc này Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man vừa từ trên núi đi xuống. Nhìn thấy hai người, Khánh Kỵ chau mày nói: "Hai nàng sao lại xuống đây? Cứ đứng phía sau chờ đợi, đừng lại gần."

Dứt lời Khánh Kỵ quay đầu trở lại chiến trường, đứng trên xe hắn nhìn rất rõ, phía không xa đằng kia là chiến xa của Vương Tôn Hùng. Chiến xa đó sắp xông qua hậu quân quay đầu lại, nhưng nay bị đại đội lang nha bổng của Lương Hổ Tử chặn mất đường lui, không nhận được tiếp viện bị bao vây ở giữa, tiến không được lùi cũng không xong, hình như bánh xe của hắn đã bị phá hỏng, lọt thỏm vào hố cát không nhúc nhích được.

Vương Tôn Hùng xem ra cũng có tài chỉ huy, trong lúc lòng quân hoang mang vẫn ra lệnh cho mười mấy chiến xa lại gần, sau đó liên kết đống chiến xa lại với nhau, tạo thành một lá chắn, tất cả binh sĩ đều nhảy xuống xe, trong cùng là cung thủ, bên ngoài là kiếm thủ trường mâu phối hợp với nhau, tạo thành một đội hình phòng thủ liên hoàn chặt chẽ, bọn chúng không ai hò hét, chỉ cắn rắn im lặng tập trung chống trả.

"La to lên, bảo chúng đầu hàng, sẽ được tha mạng!" Khánh Kỵ chăm chú nhìn trong giây lát, hạ giọng ra lệnh.

Tái Cừu lập tức dẫn theo mấy mươi binh sĩ la to mệnh lệnh của Khánh Kỵ, nhưng câu trả lời chỉ là tiếng binh khí leng keng chống cự, một vòng tròn lớn đang vây lấy một vòng tròn nhỏ bên trong, xen giữ hai vòng tròn là một khoảng không hẹp cho binh khí chạm nhau, binh sĩ hai bên đột nhiên im bặt chăm chú chiến đấu, giờ chỉ còn nghe thấy tiếng binh khí va nhau, máu văng tung tóe, người bị đâm trúng nhanh chóng đổ rạp xuống, trở thành miếng giẻ bị xung quanh xông vào giẫm đạp lên để lấp vị trí, ngoại trừ tiếng binh khí, hơi thở hổn hển như trâu của các binh sĩ vang tận bên tai Khánh Kỵ.

Khánh Kỵ nhắm nghiền mắt, thở dài một hơi.

"Công tử, bọn chúng đã quyết tâm chống cự đến cùng, hơn nữa, lão tặc Cơ Quang đã có lệnh, họ cũng không thoát được đâu, tuyệt đối không dám buông vũ khí đầu hàng. Xin công tử đừng mềm lòng."

Tái Cừu sợ Khánh Kỵ thương hại quân Ngô, sẽ mở một con đường sống cho đám quân địch hung hăng này. Nghe Khánh Kỵ thở dài, vội lên tiếng nhắc nhở.

"Ta biết."

Khánh Kỵ nhảy phóc xuống xe, đến bên Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man, âu yếm hỏi: "Chiến trường máu me thế này, không sợ à?"

Thúc Tôn Diêu Quang mỉm cười dịu dàng, nhẹ giọng nói: "Không sợ, còn nhớ thiếp từng nói gì với chàng không?"

"Gì vậy?"

"Chàng nếu đi giết người, thiếp sẽ theo chàng đi giết người!"

Khánh Kỵ ngớ người, sau đó nở một nụ cười mãn nguyện. Hắn đương nhiên còn nhớ, lúc đó hắn thắng được Thúc Tôn Diêu Quang làm tì nữ của hắn, sau đó sứ giả của Ngô quốc đến Lỗ, Quý Tôn Ý Như có ý e dè, muốn đuổi hắn ra khỏi Lỗ quốc, trong hoàn cảnh nguy nan, nàng đã bày tỏ tấm lòng với một vương tử lưu vong như hắn.

Tiếng binh khí va nhau văng vẳng không ngớt, gió lạnh rít vào trong khe núi, mang theo hơi lạnh từ phương Bắc, tà áo nhuốm máu đỏ của Khánh Kỵ bị gió thổi phất phơ. Khánh Kỵ nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn của Thúc Tôn Diêu Quang, quay qua ra lệnh: "Không chịu đầu hàng thì giết sạch, chỉ để lại một mình Vương Tôn Hùng."

Hai huynh đệ A Cừu, Tái Cừu mở to mắt ra đợi lệnh, khi Khánh Kỵ vừa dứt lời, hai người vội mở miệng hô tuân lệnh rồi chạy đi sắp xếp.

"Ta từng nghe nàng đánh đàn chưa nhỉ?"

"Chàng nói thử xem?"

"Ừm...Hình như là chưa, ta chỉ mới nghe nàng hát."

Thúc Tôn Diêu Quang cảm thấy lạ: "Có chuyện này ư? Thiếp từng hát cho chàng nghe rồi à?"

Khánh Kỵ nhướn người về phía trước, đặt cằm vào bờ vai thon thả của Diêu Quang, nói nhỏ bên chiếc tai nhỏ nhắn xinh xinh của nàng: "Tất nhiên là có, lúc ở Phí thành, trong tẩm thất của nàng, nàng ứ a ứ a..."

"Bốp!" Lưng Khánh Kỵ bị Diêu Quang vỗ mạnh, nàng đỏ mặt nhìn hắn, đôi mắt e thẹn, chớp chớp liên hồi.

Khánh Kỵ cười ha hả khoái trá, đứng thẳng người ung dung nói: "Ra đại sảnh, vào tẩm thất, lên chiến trường, nữ nhân thế này biết tìm đâu ra? Ha ha, còn nhớ khúc nhạc Bạch thủy thao thao không? Đàn cho ta nghe, thế nào?"

"Được!" Thúc Tôn Diêu Quang nở một nụ cười dịu dàng với Khánh Kỵ.

Tiếng đàn thánh thót vang lên trên chiến trường tràn ngập sát khí, len lỏi giữa ngàn vạn binh sĩ đang hăng say chiến đấu, trong một lúc như át đi mùi tanh của máu, át cả tiếng leng keng khô khốc khi binh khí va nhau.

"Thao thao bạch thủy, bạch thủy thao thao, nam nhi chí khí, vút cao trời xanh, tráng chí chưa thành, khó mà tiêu diêu. Thao thao bạch thủy, bạch thủy thao thao, nam nhi chí khí, vút cao trời xanh, tráng chí chưa thành, khó mà tiêu diêu..."

Khánh Kỵ ngẩng đầu lên nhìn vào bầu trời bao la trên chiến trường, khúc nhạc như một dòng sông nhỏ róc rách len lỏi trong tim hắn, tâm trí vượt qua thiên sơn vạn thủy, giờ đã bay cao bay xa tận bầu trời Ngô quốc: Tôn Vũ, Anh Đào, các ngươi hiện giờ...đã tấn công vào Ngô hay chưa?

Quý Tôn Tiểu Man hai mắt ngấn lệ lầm lủi bước sang một bên, nàng không chịu thừa nhận thấy cảnh Diêu Quang và Khánh Kỵ âu yếm, trong lòng cảm thấy không vui. "Vì gió ở đây thổi mạnh, nên cát bay vào mắt, nhất định là vì lí do này." Tiểu Man đang tự an ủi trong lòng.

Nàng đưa tay vuốt ve cây tiêu ngọc giắt ở dây lưng , tuy nàng muốn lập tức chứng minh cho Khánh Kỵ thấy, thật ra tài thổi sáo của nàng hay hơn gấp vạn lần tài đánh đàn của Thúc Tôn Diêu Quang, nhưng hiện giờ Tiểu Man lại không muốn cùng hòa tấu với tiếng đàn của Diêu Quang chút nào.

Đưa mắt dáo dác nhìn xung quanh, Tiểu Man phát hiện trên một chiếc chiến xa ngã chổng bánh có treo mớ bùi nhùi gì đó, thì ra là một tấm lưới. Nàng lại gần thu tấm lưới trong tay, nhón gót nhìn Vương Tôn Hùng thọ thương ở vai, đang điên cuồng chống cự như một con hổ bị dồn vào đường cùng, nắm chặt Hàm Quang kiếm trong tay, Tiểu Man đột nhiên nhảy vút lên không trung, nhẹ tựa chim én, lao về phía ấy...

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 194: Tiết lộ bí mật (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

"Vương Tôn Hùng."

"Tam vương tử."

"Hô hô, ngươi còn nhận ra ta là vương tử à?"

"Thân phận vương tử khắp thiên hạ đều biết, thần sao dám không nhận?"

Sắc mặt Khánh Kỵ trầm xuống, hét hỏi: "Nếu ngươi đã nhận ta là vương tử, sao còn giúp tên nghịch tặc Cơ Quang?"

Vương Tôn Hùng tuy áo giáp rách bươm, trên người vẫn còn bị tấm lưới chụp lấy, dáng vẻ thảm hại, nhưng lại hiên ngang ngẩng cao đầu, lạnh nhạt: "Tiên vương Thọ Mộng có bốn vương tử, Chư Phàn, Dư Tế, Di, Quý Trát. Tiên vương có ý truyền ngôi cho Quý Trát, vì Quý Trát từ chối nên ba vị vương tử lần lượt nối ngôi, cho đến khi tổ phụ của ngài lên ngôi, Quý Tử vẫn chưa chịu kế thừa vương vị, ngôi vị theo thứ tự trưởng thứ, phải nên do đương kim đại vương con trai của Chư Phàn kế thừa, nhưng tổ phụ ngài lại truyền ngôi cho phụ vương ngài, chủ ta chỉ lấy lại ngôi vị vốn thuộc về mình, sao có thể gọi là nghịch tặc?"

"To gan!" A Cừu đá vào sau gối Vương Tôn Hùng, hắn vừa bị đá quỳ xuống lập tức đứng bật dậy, ngạo mạn nhìn vào Khánh Kỵ, không hề sợ sệt.

Khánh Kỵ cười khẩy, phản bác: "Thứ tự trưởng thứ ư? Ngươi cũng đã nói tiên vương Thọ Mộng có bốn vương tử lại có ý truyền ngôi cho tứ vương tử Quý Trát, thế thì đâu có thứ tự trưởng thứ gì ở đây, lúc đó ngôi báu có phải là chắc chắn thuộc về con trưởng đâu? Quý Tử không chịu lên ngôi, ba vương tử còn lại lần lượt kế thừa vương vị, đó đều là ý của tiên vương, phù hợp lễ pháp. Phụ vương ta kế vị, là nghe theo di mệnh của tiên vương, giao phó quốc gia vào tay người nào, đó phải là di mệnh của tiên vương hợp pháp đời trước, không phải là món hàng tùy ý chuyển nhượng, sao lại nói vốn thuộc về Cơ Quang hả? Tiên vương đã lập thái tử, danh phận quân thần đã định, Cơ Quang sai thích khách giết vua, ngươi có nói cho trời đổ ập xuống, cũng không che đậy được sự thật giết vua đoạt ngôi này."

Vương Tôn Hùng hứ một tiếng rõ to, ngẩng cao đầu nói: "Vương vị Ngô quốc, vốn là chuyện của Cơ thị Ngô quốc, ai đúng ai sai không liên quan đến Vương Tôn Hùng. Vương Tôn Hùng là tướng lĩnh dưới trướng Ngô vương Hạp Lư, bổn phận phải ra sức vì đại vương, đến chết mới thôi."

Khánh Kỵ cười to: "Ha ha, ngươi đuối lí rồi phải không? Nên mới nói ra những lời đứng về phía thân thuộc chứ không đứng về phía lí lẽ. Vương Tôn Hùng, hôm nay ngươi dẫn quân tiến về thành Na Xứ của ta, Cơ Quang phái ngươi đến là có ý gì? Chỉ với số binh mã của ngươi, nếu ta thủ thành, ngươi khó tiến thêm bước nào, giờ ta chủ động ra thành ứng chiến, vẫn cứ đánh cho ngươi bại trận tan tác. Ta cứ cho rằng ngươi có quân mai phục, để đề phòng bất trắc, còn sai Kinh Lâm dẫn quân phòng bị, không ngờ quân của ngươi chạy mất dạng, không hề thấy một binh một tốt tới cứu viện, Cơ Quang bảo ngươi tới nộp mạng đó hả?"

Vương Tôn Hùng lại hứ một tiếng, uất hận mà nói: "Vương Tôn Hùng tưởng điện hạ không biết thực hư quân ta, trong một lúc không dám ra thành ứng chiến, nên mới không hề chuẩn bị, nếu không sao để ngài dễ dàng chiến thắng? Thôi vậy, việc đã đến nước này, nói nhiều vô ích, điện hạ muốn giết thì cứ giết, Vương Tôn Hùng mà chau mày thì không là hảo hán."

Khánh Kỵ cười khoái trá: "Ta giết ngươi có ích gì? Cơ Quang tàn bạo, dùng quân luật hà khắc trị quân còn sợ chưa đủ, còn dùng cả nhà lớn bé thân thuộc vô tội của quân sĩ ra làm con tin, đấy không phải là chủ nhân tốt. Nếu đã phạt Sở chiếm cứ Dĩnh Đô thành công, có được kỳ công này lại không biết xuôi theo thời thế, chiêu dụ người Sở, tầm nhìn hạn hẹp, chỉ biết làm cường đạo giết người cướp của, hãm hiếp nữ nhân, đấy không phải là đấng minh quân. Tướng quân thần dũng, Khánh Kỵ xưa nay kính phục, sao cứ phải theo hầu hôn quân tàn bạo này chứ? Tướng quân nếu chịu quy thuận Khánh Kỵ, không những giữ được tính mạng, sau này vinh hoa phú quý, phong hầu bái tước, dễ như trở bàn tay, tướng quân có đồng ý không?"

Vương Tôn Hùng hít một hơi dài, mái tóc rối tung phấp phơ trong gió, hai mắt bắn ra tia nhìn kiên quyết, hiên ngang nói: "Đa tạ ý tốt của điện hạ, Vương Tôn Hùng đã bái đại vương làm chủ nhân, sao lại có thể tham sống sợ chết đầu hàng người khác? Nếu giờ ta làm vậy, điện hạ không sợ sau này ta lại vì muốn được tính mạng đầu hàng kẻ khác ư? Điện hạ không cần nhiều lời, xin hãy cho Vương Tôn Hùng được toại nguyện."

Khánh Kỵ trừng mắt nghiêm nghị: "Ngươi không chịu đầu hàng thật ư?"

"Xoạt, xoạt!" Hai tiếng gỏn lọn vang lên, hai thanh đao sáng choang lập tức được kề vào cổ Vương Tôn Hùng, hắn không hề tỏ ra sợ hãi, ngước cổ lên nhắm nghiền mắt, ảm đạm cất tiếng: "Không cần nhiều lời, muốn giết cứ giết!"

"Ha ha, quả nhiên là một trang hảo hán!" Khánh Kỵ khen xong, lắc đầu than thở: "Ta có thể không giết Yêu Ly, sao lại nỡ giết ngươi chứ? Hây! Chỉ là tiếc cho một trang nam tử hán nhà ngươi, lại ra sức cho tên nghịch tặc Cơ Quang tàn bạo, tiếc thay, tiếc thay..."

Vương Tôn Hùng nổi giận đùng đùng: "Điện hạ muốn giết ta thì cứ việc ra lệnh, hà tất sỉ nhục đại vương."

Khánh Kỵ nhìn chăm chú vào hắn hồi lâu, Vương Tôn Hùng không hề né tránh tia nhìn của Khánh Kỵ, Khánh Kỵ lại mỉm cười, xua tay: "Khá lắm, quả nhiên là anh hùng, thả hắn ra!"

"Cái gì?" Tướng lĩnh xung quanh đồng loạt kêu lên.

Khánh Kỵ không hề chớp mắt, nói giọng đều đều: "Ta nói, thả hắn ra, đây là quân lệnh!"

"...Tuân lệnh!" A Cừu, Tái Cừu cố chế ngự cơn giận, xua tay cho hai tên lính kề đao vào cổ Vương Tôn Hùng lui xuống, Vương Tôn Hùng ngớ người ra giây lát, vẻ mặt nghi ngờ hỏi: "Điện hạ...muốn thả ta đi?"

Khánh Kỵ hứ một tiếng: "Ngươi không chịu đầu hàng, giữ lại trong quân ta để tốn cơm gạo à? Biến, mau biến cho ta!"

Vương Tôn Hùng bước lùi hai bước, ánh mắt dò xét một lượt, sau đó đứng thẳng người, chắp tay vái lạy Khánh Kỵ một cái, quay sang phía Quý Tôn Tiểu Man đang đứng gần đó, lên tiếng hỏi: "Xin hỏi cao danh quý tánh của cô nương là gì?"

Vừa nãy giao chiến, hắn tuy bị Quý Tôn Tiểu Man chụp lưới bắt giữ, nhưng cũng đâm một mâu hất tung mũ sắt của Tiểu Man, nhìn thấy búi tóc của nàng đã biết đây không phải là một thiếu niên, mà là một cô nương chưa được hứa gả cho ai.

Quý Tôn Tiểu Man vênh mặt khoái chí, đáp lời: "Lỗ nhân Quý Tôn Tiểu Man, thế nào, ngươi không phục kiếm pháp của ta hử?"

Vương Tôn Hùng mỉm cười: "Kiếm thuật của cô nương kỳ lạ, Vương Tôn Hùng mới gặp lần đầu, trong lòng rất là khâm phục, hôm nay bị cô nương bắt giữ, hy vọng sau này trên sa trường, Vương Tôn Hùng lại có cơ hội tiếp chiến cô nương. Xin phép cáo từ!"

Dứt lời, Vương Tôn Hùng quay phắt người bước đi, cũng không nói thêm lời nào với Khánh Kỵ. Khánh Kỵ quả nhiên không sai người ngăn cản, nhìn trừng trừng dõi theo Vương Tôn Hùng đi xuyên qua từng lớp từng lớp binh sĩ đội ngũ chỉnh tề, hiên ngang bỏ đi.

"Này!" Quý Tôn Tiểu Man quay sang Khánh Kỵ, mở to đôi mắt đen láy, vẻ hậm hực: "Ngài hay nhỉ, người ta phí bao nhiêu công sức, còn sém bị hắn đâm chết mới bắt được hắn, ngài sao lại thả cho hắn đi? Người này cứng đầu như trâu, sau này chắc chắn sẽ lại đối địch với ngài đó."

Khánh Kỵ dõi theo bóng dáng Vương Tôn Hùng giờ đã đi xa, ánh mắt sáng lên, nói: "Ta biết, nhưng giết một mình hắn có ích gì? Chi bằng thả cho hắn về, lại làm nguôi ngoai cơn giận của người Ngô, đập tan sĩ khí chiến đấu của chúng. Cơ Quang đã có lệnh, ai rút lui bỏ chạy, giết! Ai buông vũ khí đầu hàng, giết cả nhà! Vừa nãy các binh sĩ bỏ chạy, không biết hắn có giết hay không? Vương Tôn Hùng là ái tướng của Cơ Quang, lần này đại bại, tổn thất nghiêm trọng, không biết hắn có giết hay không?

Lần này thảm bại, không phải tướng sĩ của Vương Tôn Hùng không nghe lệnh liều chết, nếu giết cả sẽ làm tướng sĩ quân Ngô sợ hãi, một khi nắm bắt thời cơ không đúng, còn có thể ép quân Ngô tạo phản, còn nếu không giết, quân lệnh của hắn nói ra không thực hiện, sau này quân Ngô giao chiến với ta, chắc sẽ không ngoan cường chống cự như hôm nay nữa."

"Ơ..." Quý Tôn Tiểu Man kể ra cũng hiểu chuyện, nghe lời Khánh Kỵ giải thích, lập tức hóa giận thành vui: "Không ngờ chỉ một tên tù binh mà có tác dụng lớn thế này, ngài lợi hại quá!"

Khánh Kỵ mỉm cười khoái trá: "Ha ha, điều đó đương nhiên, cho dù là một hòn đá, ta cũng bắt nó chảy dầu ra... (1) À phải rồi, nàng đừng lái sang chuyện khác!"

Khánh Kỵ làm mặt giận, hỏi: "Ai cho nàng ra tay hả? Nếu không may nàng bị thương thì ta sao ăn nói với Quý thị Lỗ quốc? Còn nữa, Vương Tôn Hùng hỏi tên nàng, sao nàng lại nói cho hắn biết?"

Quý Tôn Tiểu Man bị Khánh Kỵ trách mắng giữa chốn đông người, khuôn mặt đỏ chít vì xấu hổ, phụng phịu: "Lại là ta không đúng ư? Tên của bổn cô nương đây xấu lắm hay sao mà không nói cho người khác biết được chứ?"

"Đương nhiên là không nói ra được rồi! Hừ, bây giờ khắp thiên hạ không ai không chú ý chiến sự ở Sở quốc, Vương Tôn Hùng quay về nói ra, lúc đó khắp thiên hạ đều biết Lỗ nhân Quý Tôn Tiểu Man đang ở trong quân Khánh Kỵ ta, Lỗ quân và Quý Tôn Ý Như mà nghe nói thì..."

"Chết rồi!" Quý Tôn Tiểu Man nhảy dựng lên hốt hoảng, sau đó xoạt một cái rút kiếm ra, nhón chân nhìn dáo dác xung quanh, Khánh Kỵ thấy bộ dạng của nàng ta, cảm thấy kỳ lạ hỏi: "Nàng làm gì vậy?"

"Mau tìm cho ta một chiếc chiến xa."

"Nàng muốn bỏ trốn? Trốn đi đâu chứ?"

"Hứ! Đã trốn đến tận Sở quốc rồi, còn trốn được đi đâu nữa? Chẳng lẽ trốn vào bộ lạc của người Tây Địch à? Ta phải đuổi theo tên Vương Tôn Hùng mới được ngài thả ra, giết người diệt khẩu."

----------------------------

(1) Vắt dầu từ đá: Đây không phải là một lời nói bâng quơ của Khánh Kỵ mà là một câu nói lịch sử của nhà hóa học F. Bergius (1884 - 1949) người Đức. Khi còn bé Bergius tuy chỉ chơi bời lêu lổng nhưng lại hay tỏ ra hiểu biết và lừa cô bạn gái của mình rằng "Anh có thể ép dầu ra từ đá", về sau khi cô gái lớn lên nhận ra bản chất của Bergius thì cô quay lưng lại với ông. Bergius đau khổ và lao đầu vào học, cuối cùng ông chứng minh được rằng: Đúng là có thể ép dầu ra từ đá! Từ trong than luyện chế thành nhiên liệu lỏng!

Ông nhận được giải Nobel hóa học, khi đứng trên bục nhận giải, Bergius lại hồi tưởng tới người bạn gái thuở nào.

Chỉ tiếc rằng nàng đã qua đời, không kịp nhìn thấy thành công của ông.

"Thì ra Cơ Quang muốn nhân lúc các cánh quân cần vương của Sở chưa ổn định, tấn công Quyền Ấp, lại lo lắng chúng ta và người Sở đưa tin lẫn nhau, sợ ta xuất binh cứu viện, nên mới phái Vương Tôn Hùng dẫn quân từ Ngư Phản đến đây, khống chế quân ta hành động. Chỉ là hắn không ngờ tới ta đang định mượn trận chiến này lập uy, lại chủ động xuất kích, đánh cho Vương Tôn Hùng không kịp trở tay. Thế nhưng...Quyền Ấp bị quân Ngô chiếm giữ, sẽ gây bất lợi lớn cho quân ta đấy."

Khánh Kỵ nhíu chặt mày nghiêm nghị: "Từ mục đích này mà nói, quân Ngô tuy bại trận, thật ra chúng vẫn chiếm phần thắng." Khánh Kỵ bước đến bức bản đồ chỉ lên đó, nói: "Các ngươi xem, phía trước mặt chúng ta là Dĩnh Đô, mặt phải là Quyền Ấp, mặt trái là Ngư Phản. Hai cánh quân từ Quyền Ấp và Ngư Phản của Cơ Quang kẹp chặt chúng ta ở giữa, chúng ta muốn tấn công Dĩnh Đô, lúc nào cũng phải phòng bị hai bên hông, sợ quân Ngô tập kích, còn nếu chúng ta tấn công một phía, cánh quân khác của chúng sẽ chặn hướng rút lui của ta, nếu ta chia quân hai ngả cùng lúc tấn công quân địch hai cánh, binh lực có đủ hay không còn chưa biết, với lại quân Ngô ở Dĩnh Đô lúc nào cũng có thể tăng viện, khó lắm đây."

Yểm Dư công tử gật gù: "Đúng vậy, quân địch ở Quyền Ấp, đóng gần con sông Bá Tân của chúng ta, sau này chúng ta phải cẩn thận đề phòng bọn chúng. Theo tình hình này ta không khinh suất hành động được rồi, tiên phong của quân Sở bị xơi mất một nửa, tàn quân của họ hiện đang đóng tại sông Dư La, đợi đại quân của tướng quân Tử Tây đến phối hợp, chúng ta cũng phải chờ đợi, chỉ cần đợi đại quân của người Sở đánh đến chiếm giữ nơi trọng yếu, đánh lủng một chỗ trong lá chắn phòng ngự của Cơ Quang, chúng ta mới có thể hành động."

Khánh Kỵ gật đầu đồng ý: "Ừ, giờ thứ quan trọng nhất chính là tin tức, nhưng giờ đây nước Sở hỗn loạn khắp nơi, tin tức truyền đưa khó khăn, quân đội của phe địch và phe ta lại phân bố đan xen lẫn nhau, trong lúc này khó thiết lập một nơi đưa nhận tin cố định, chỉ có thể phái ra thám mã ước lượng vị trí và quân số của kẻ địch, khó nắm được thông tin tình báo có giá trị hơn thế."

Lương Hổ Tử ngao ngán góp lời: "Thế cũng hết cách, quan lại cai quản của người Sở xung quanh đây người thì bỏ trốn, người thì chết mất tiêu, cơ sở cai trị của người Sở ở khu vực này đã bị tê liệt, muốn kịp lúc thu nhặt thông tin tình báo, e là ngay cả quân Sở cũng không làm được, nói gì đến đám người ngoài như chúng ta đây."

Khánh Kỵ khẽ gật đầu: "Đúng vậy, muốn kịp thời truyền tin và thu nhặt thông tin tình báo cần đặt một địa điểm thỏa thuận cố định, hiện nay chúng ta không làm được chuyện này, nhưng người của Cơ Quang cũng không làm được giống ta, thế mới nói, về mặt này, ta và địch không ai chiếm ưu thế."

Khánh Kỵ bước về chỗ ngồi xuống, nói tiếp: "Nếu đã là vậy, đối địch với Cơ Quang, ta vẫn có lòng tin, giờ điều ta lo lắng chính là phía bên Ngô quốc kìa."

Hắn ngẩng đầu lên, tầm mắt như nhìn xuyên qua bức vách, hướng về nơi xa xăm ngoài kia: "Truyền đưa tin tức là một vấn đề khó khăn, không thể kịp thời biết được tình hình bên Chúc Dung hoàng thúc và Tôn Vũ, Anh Đào thế nào, chúng ta không phối hợp nhịp nhàng tác chiến với họ được. Bây giờ quân trấn giữ ở Ngô quốc tuy không nhiều, nhưng dù sao chúng cũng chiếm trọn ưu thế địa lợi nhân hòa, cũng may có Chúc Dung hoàng thúc ở trong quân, ít nhiều cũng vớt vát được chút giúp sức trong quân Ngô, điều chúng ta có thể làm bây giờ là chế ngự đại quân của Cơ Quang, một khi phía Chúc Dung hoàng thúc tập kích thành công, đoạt lấy Cô Tô thành, lúc đó tín sứ của ta và của Phù Sai sẽ cùng lúc chạy sang Sở đưa tin, thắng thua là vào lúc ấy, chính là lúc quân đội của ta chạy đua với quân đội của Cơ Quang, xem ai sớm quay về Ngô quốc trước tiên."

Nói đến đây, Khánh Kỵ ngập ngừng giây lát, cười chua chát: "Cho nên dù cho Chúc Dung hoàng thúc có thuận lợi chiếm giữ Cô Tô thành, cũng không chắc chắn chúng ta giành được thắng lợi, mà phải xem tín sứ của phe nào tới trước, ai quay về Ngô quốc trước tiên. Trong tình cảnh tin tức truyền đi chậm chạp khó khăn thế này, phải phối hợp tác chiến từ xa đúng là xưa nay mới xuất hiện lần đầu. Có nhiều khi, thắng bại lại được quyết định bởi ý trời..."

Cô Tô thành mới được xây dựng không lâu, bá tánh và các hộ giàu có trong thành đều di cư từ khắp mọi miền đến đây. Nằm ở vị trí trung tâm Cô Tô thành, hoàng cung Ngô quốc giống một tòa thành nhỏ nằm trong tòa thành lớn, tuy không nguy nga tráng lệ như hoàng cung của các nước chư hầu trung nguyên, nhưng nhìn vào cũng khá là hùng vĩ.

Một con tuấn mã phi từ trong hoàng cung ra ngoài, phía trước là đội xe ngựa được cấm quân và thái giám hộ tống đang đi vào trong cung, trên xe chất đầy ngọc ngà châu báu, gấm vóc lụa là, vàng bạc vũ khí lấy từ Dĩnh Đô Sở quốc, giờ đã được vận chuyển từ Sở về, số của cải này nhiều gấp ba lần số của cải chứa trong hoàng cung Ngô quốc, phía xa đội xe, tàu chuyên chở của cải từ Sở quốc quay về vẫn còn xếp hàng dài không ngớt.

Nhìn thấy chàng thanh niên đang ngồi trên ngựa, đám cấm quân và thái giám vội vàng dừng lại hành lễ với hắn, chàng thanh niên kia không thèm để ý đến chúng, quất roi vào mông ngựa, lướt nhanh ra ngoài cổng hoàng cung. Hắn mặc chiếc áo xanh lá đậm, trên có thêu họa tiết núi non long phụng, búi tóc bằng một cây trâm ngọc phỉ thúy, mặt mày sáng sủa, thần khí cao ngạo, là một nam tử khôi ngô tuấn tú.

Người này chính là con trai của Ngô vương Hạp Lư, đương kim thái tử Phù Sai của Ngô quốc.

Phía bên ngoài hoàng cung được phân chia ra các khu vực khác nhau, càng về phía ngoài, tuy cũng có đình đài lầu các, nhưng phần lớn là vùng đất cây cối um tùm, đan xen còn có nhiều mảnh vườn trồng rau quả xanh tươi. Vào thời này trong hoàng cung cũng có khu vực trồng rau trái tự cung tự cấp, bên ngoài cũng không ngoại lệ, trong Cô Tô thành bố trí rất nhiều đất trồng, một khi xảy ra chiến tranh, chỉ cần trong thành có nguồn nước, bị vây khốn ba đến năm năm không lo về lương thực.

Phía ruộng lúa trước mặt xuất hiện một cây cầu, trên cầu đang có hai mươi mấy tên lính đứng đó, thấy Phù Sai đi đến, mọi người vội thi nhau hành lễ, Phù Sai giơ roi ngựa lên chỉ nhẹ về phía trước, sau đó phóng ngựa lướt qua mặt mấy tên lính, đám lính liền chạy bám theo sau.

Ngựa chiến từ từ chạy chậm lại, đi dọc con đường chính dẫn ra tận cổng hoàng cung, đám binh sĩ hợp sức đẩy cánh cửa dầy cộm nặng nề ra, Phù Sai phóng ngựa ra ngoài, theo sau là hai mươi mấy tên vệ sĩ, khi hắn ra ngoài rồi cánh cổng đóng sầm lại. Trước mặt trái phải có hai tòa lầu cao ngất, Phù Sai nắm chặt cương ngựa, ngẩng đầu nhìn vào bầu trời trong xanh, một cơn gió thoảng qua, cơn gió mang đến giọng ca ngọt ngào của một nữ nhân.

"Một năm mới bắt đầu rồi, mà thiên hạ cũng bắt đầu đại loạn." Phù Sai nghĩ: "Tề Tấn liên thủ nam chinh, Sở Tần liên minh chống cự, chư hầu khắp thiên hạ đều ngả vào hai bên chiến tuyến, một trận đại loạn sắp bắt đầu diễn ra. Mà Ngô quốc, có điều kiện địa lí được ông trời ưu đãi, Ngô quốc nằm ngay gốc Đông Nam, phía Bắc có Trường Giang hiểm trở, phía Nam chỉ là một Việt quốc nhỏ bé, phía Đông là biển cả, còn về phía Tây, chính là Sở quốc.

Sở quốc nhìn bề ngoài có vẻ rộng lớn, giờ bị phụ vương tấn công vào tận Dĩnh Đô, Tề Tấn một khi xua quân nam hạ, liên quân Sở Tần tự lo thân mình còn chưa xong, vốn không lo nổi chuyện của Ngô quốc, ngọn lửa chiến tranh đang thiêu rụi khắp thiên hạ này khó mà cháy lan tới Ngô quốc. Ngô quốc có uy danh đánh thắng Sở quốc, lại chiếm lấy số của cải tích trữ mấy trăm năm của Sở làm vốn, thừa lúc thiên hạ đại loạn, nỗ lực xây dựng quân đội, đợi khi nguyên khí các nước đại thương, Ngô quốc đã thành bá chủ Đông Nam, muốn tranh đoạt ngôi bá chủ thiên hạ, cũng không phải là không có cơ hội."

Nghĩ đến đây, Phù Sai không khỏi máu nóng sôi sục trong tim.

"Thái tử, chúng ta đi đâu ạ?" Thị vệ trưởng bước lên cung kính hỏi chuyện.

Phù Sai quất nhẹ roi ngựa, cười khoái trá: "Cứ đi thong dong vài nơi, bây giờ người Đông Di làm loạn, cùng Lỗ quốc kháng Tề, đại đạo Triển Chích thừa cơ dấy binh tạo phản, cùng nước Tề trong ứng ngoại hợp. Hí, cách nhau con sông Trường Giang, chúng ta cứ xem vở tuồng hay coi sao, nghe nói các bộ lạc Đông Di cũng có lúc vượt sông nam hạ, cướp bóc dân chúng nơi biên giới, trong kinh thành có nổi lên lời đồn tin liên minh của Khánh Kỵ và quân Sở, càng làm người ta lo lắng, thân là thái tử, ta phụng mệnh phụ vương trấn giữ Cô Tô thành, bây giờ đi lại trong thành cũng có tác dụng làm an lòng dân chúng."

"Dạ, thuộc hạ xin hộ tống thái tử đi tuần tra."

Cấm quân hộ tống Phù Sai ở giữa, men theo con đường chính trong Cô Tô thành thong dong bước đi, hàng vệ sĩ đi trước cầm trường mâu gạt đám đông ra mở đường. Phù Sai đi tới bên một cây cầu, vừa định thúc ngựa qua cầu, bên đường đột nhiên có một người nhảy ra chặn trước đầu ngựa, đám thị vệ hốt hoàng hét lên, lo đó là thích khách, lập tức có hai tên thị vệ giơ trường mâu đâm thẳng vào người đó, người này thân pháp lanh lẹ, chỉ xoay người nhẹ sang một bên đã tránh được hai đầu nhọn sắc bén đâm tới, đoạn dang tay ra, nắm chặt hai thanh trường mâu trong tay, hét to tiếng: "Khoan ra tay vội, tiểu nhân xin gặp thái tử có đại sự cần bẩm báo!"

"Dừng tay!" Phù Sai nghe vậy hét vào đám thị vệ, thần thái ung dung nhìn vào người đó.

Người này mặc áo vải thô, đầu đội mũ rơm che hết cả khuôn mặt, nhìn thế đứng vững vàng, thân thủ bất phàm, chắc là một võ sĩ. Hai chân Phù Sai thúc nhẹ vào bụng ngựa, tiến ngựa lại gần, không hề có ý cảnh giác, hỏi: "Ngươi là ai, muốn gặp bổn thái tử bẩm báo việc gì?"

Người này ngẩng đầu lên nhìn lên lưng ngựa, thấy người ngồi trên đó dung mạo tuấn tú, khí khái cao ngạo, nhất là đôi mắt sáng choang, tia nhìn sắc lẹm.

Hắn buông trường mâu ra, bước lùi ba bước, hạ gối quỳ xuống, nói: "Tiểu nhân có việc quan trọng, chỉ mong được gặp mặt thái tử một lần, bẩm báo riêng với thái tử. Vừa rồi mừng rỡ khi thấy thái tử đi tuần, trong lúc vội vàng nhảy ra kinh động thái tử, xin thái tử tha tội."

Phù Sai lên tiếng: "Nói ý định tới đây của ngươi ta nghe."

"Dạ!" Người kia cung kính trả lời, sau đó tháo mũ rơm xuống, cúi đầu: "Tiểu nhân vốn là người Lỗ, từ Khúc Phụ đến đây, có việc liên quan đến cơ mật Ngô quốc muốn bẩm báo thái tử, chỉ là...sự việc hệ trọng, nói ở đây không được thuận tiện."

"Người Lỗ? Từ Khúc Phụ đến ư?" Phù Sai lộ vẻ nghi ngờ, hắn ngước đầu nhìn vào một mái đình nhỏ bên kia cầu, dặn dò: "Nào, ta qua kia nói cho rõ." Dứt lời nhảy phóc xuống ngựa, sải bước đi về phía mái đình, mấy tên thị vệ lập tức ùa qua phía ấy, la hét đuổi người đi đường xung quanh đó dạt ra xa.

Người kia nói: "Dạ, tiểu nhân là người Lỗ, vốn là thực khách môn hạ của Thúc Tôn Ngọc đại phu Lỗ quốc, họ Lý tên Hàn. Lý Hàn ngưỡng mộ uy danh của Ngô vương và thái tử đã lâu, lần này đến đây đầu quân, còn mang theo một công lớn."

Phù Sai tuy trẻ tuổi, nghe hắn kể rõ thân phận, nghĩ chắc có chuyện gì cơ mật quan trọng lắm cần bẩm báo đây, nhưng hắn năm lần bảy lượt muốn nói rồi lại thôi, trong lòng cảm thấy không vui, liền nhăn mặt: "Nếu đã là chuyện cơ mật, cứ nói ra với bổn thái tử, chỉ cần là đại sự có lợi cho Ngô quốc, ta sẽ thay mặt phụ vương làm chủ, cho ngươi làm quan to, ban thưởng hậu hĩ."

Lý Hàn mừng rơn, vội dập đầu cảm tạ: "Lý Hàn xin đa tạ thái tử. Thái tử có biết, đại quân của Khánh Kỵ hiện đang ở đâu không?"

Phù Sai nói: "Đương nhiên là đang ở Sở..."

Phù Sai chợt im bặt, trong lòng ngờ ngợ, ánh mắt toát ra tia sáng nghi hoặc: "Ngươi nói...hắn đang ở đâu?"

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 195: Loạn thế giai nhân (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Lý Hàn vốn định lấy lòng Thúc Tôn Diêu Quang, từ đó một bước lên trời, bước vào hàng ngũ quý tộc. Khi biết được hôn ước bí mật của Khánh Kỵ và Thúc Tôn Diêu Quang, hắn vừa hận vừa đố kỵ, lại thất vọng tràn trề, nhưng khi đó hắn vẫn ôm hy vọng được Thúc Tôn Ngọc coi trọng, bắt chước Dương Hổ dấn thân chốn quan trường bằng con đường tiến cử.

Khi quân Tề nam chinh, Triển Chích tạo phản, Tam hoàn Lỗ quân cùng khởi binh bình nội loạn chống ngoại xâm, Lý Hàn cảm thấy vào thời loạn thế này, chính là cơ hội tốt cho kẻ anh hùng kiến công lập nghiệp, do đó hắn ra sức tranh thủ cơ hội dẫn quân xuất chinh, nhưng dù hắn phí bao công sức, chỉ vì xuất thân thường dân, thời gian ở tại phủ Thúc Tôn Ngọc quá ngắn, căn cơ thiển cận, không thể kiếm được một chức tướng lĩnh nào đó trong quân Lỗ.

Lý Hàn thất vọng cuối cùng nảy ra ý định bỏ đi nơi khác, suy nghĩ kĩ lưỡng, hắn thấy đầu quân về phía Đông Nam là tốt nhất, hơn nữa còn mang theo một món quà người Ngô không bao giờ từ chối: Tin về cánh quân mai phục ở Phi Hồ cốc tại Phí thành Lỗ quốc của Khánh Kỵ.

Phù Sai không ngờ hắn lại mang đến tin động trời này, nghe xong thất kinh hồn vía. Hắn sai người đưa Lý Hàn đi dịch quán ở tạm trước, sau này sẽ luận công ban thưởng, sau đó phóng ngựa quay về hoàng cung, lấy thân phận thái tử giám quốc lấy quốc ấn ra, hạ một đạo quân lệnh cho quan binh trấn giữ ven sông, lệnh cho họ đặt trạng thái chiến tranh bố phòng nghiêm ngặt bất kể ngày đêm, lại thảo một bức thư sai người tức tốc mang đến Dĩnh Đô ở Sở báo tin cho Ngô vương Hạp Lư, mặt khác còn sai tín sứ đi Ngự Nhi thành triệu hồi hoàng đệ của Hạp Lư là Phù Khái. Phù Khái lúc này đang trấn giữ Ngự Nhi thành, mục đích là phòng hờ Việt quốc thừa cơ hội giở thói lưu manh chạy sang Ngô quốc cướp bóc, Phù Khái nghe tin xong cũng thất kinh hồn vía, lập tức sắp xếp việc bố phòng Ngự Nhi thành thỏa đáng, xong xuôi phi ngựa trong đêm quay về Cô Tô thành. Sau khi hỏi rõ chi tiết từ Lý Hàn, theo tình báo từ Lý Hàn cho biết thời gian xây dựng Phi Hồ thành, quy mô thành trì, suy luận ra phục binh trong Phi Hồ thành nhiều nhất chỉ khoảng một vạn, với binh lực thế này chỉ có thể tập kích bất ngờ mới mang lại hiệu quả, giờ đây Ngô quốc đã sớm phòng bị trước, liệu rằng tên Tôn Vũ và Anh Đào nhóc con ấy khó làm nên đại sự, Phù Khái mới yên lòng đôi chút.

Nhưng dù cho là vậy, hiện nay Hạp Lư đang chinh chiến tại Sở, dẫn theo đại bộ phận binh lực của Ngô quốc. Quân bố phòng trong nước chỉ còn lại rất ít, Phù Khái không dám sơ suất, bèn bàn bạc với Phù Sai, vẫn để Phù Sai trấn thủ Cô Tô thành, Phù Khái tức tốc lên đường đến Hàn Ấp, đặt quân bố phòng nghiêm ngặt ven sông.

Đến Hàn Ấp rồi, Phù Khái thu thập tin tức từ nhiều phía. Nghe nói những ngày này liên tục có từng nhóm nhỏ người ngựa lén qua sông cướp bóc, tướng lĩnh trấn giữ ven sông cứ tưởng là người Đông Di vì muốn chuốc giận nên tập hợp lại vượt sông cướp bóc, Phù Khái nghe xong nghi ngờ đó là phục binh của Tôn Vũ và Anh Đào chia nhỏ ra qua sông, do đó một mặt tăng cường phòng ngự dọc đường sông, một mặt sai quan lại địa phương dán cáo thị khắp nơi, hứa trọng thưởng cho ai cáo mật, đồng thời đưa quân lục soát núi non, sông ngòi, làng quê hoang dã, muốn tìm ra địa điểm tập kết của đội phục binh của Khánh Kỵ.

Nhưng Phù Khái tốn nhiều công sức, cũng không có được tin gì của cánh quân này. Sau khi hắn tăng cường bố phòng đúng là đã bắt được vài nhóm người, đều ăn mặc như thợ săn của Đông Di, tra hỏi chúng cũng không lần ra mối liên hệ gì với phục binh của Khánh Kỵ, Phù Khái đem tất cả bọn người này ra chém đầu, treo thủ cấp vào cột tre đặt ngay đường lớn trong thành để thị chúng, hành động này dấy lên thù hận từ người Đông Di, số người Đông Di lén vượt sông vào ban đêm trả thù cho người thân liên tục không ngớt, làm náo loạn cả nhánh sông Trường Giang, ban ngày thì quân Ngô chiếm ưu thế, ban đêm thì bị người Đông Di đánh lén, cứ thế đánh qua đánh lại, Phù Khái không sao bình định được biên giới.

Lúc này đã bước sang tháng hai đầu xuân, khắp mặt đất vùng Giang Nam một màu xanh biếc, cỏ cây um tùm. Chỉ là mùa xuân năm nay đã được dự báo không trôi qua êm ả, ngọn lửa chiến tranh đang nổi lên khắp thiên hạ, khắp nơi đều là tin chiến sự truyền về, chư hầu thiên hạ hoặc vì tự bảo vệ, hoặc vì muốn kiếm chác lợi lộc gì đó trong thời loạn thế, đều ngả về hai phe liên quân Tần Sở và liên quân Tề Tấn, người giữ vị trí trung lập ngoại trừ cô gia quả nhân Chu thiên tử mang danh là chủ thên hạ, cũng chả có mấy nước nhỏ đứng ngoài cuộc.

Tấn quốc lúc này vừa mới đánh bại liên quân Vệ Tống, liên quân Vệ Tống lui giữ vùng đất Tu Trạch, chỉnh đốn quân đội. Vì quân Vệ ra trận thất bại, ba quân tan tác, thống soái Tề Báo khó tránh trách nhiệm, bị Vệ hầu hạ chỉ bắt giữ hỏi tội. Tề Báo lần này vốn định mượn cơ hội đoạt lấy binh quyền, không ngờ trước bị phó soái Công Tôn Bạt chế ngự, sau lại do bại trận khó thoái thác tránh nhiệm, bị Vệ hầu trả thù, ngay cả Bắc Cung Hỉ cũng không cách nào cứu được hắn.

Vệ quốc bại trận xong không ngoài dự đoán do Công Tôn Bạt tiếp tay, thăng chức nguyên soái. Tiên phong tướng quân Công Tử Triều vì chém chết đại tướng Kỵ Tễ của quân Tấn ngay trận tiền, lập được đại công, Nam Tử tuy hận hắn thấu xương, cũng không tiện ra tay xử trí với hắn vào lúc này, cứ cho hắn sống thêm ít ngày vậy. Công Tử Triều lập được công lại không thấy Vệ hầu ban thưởng, trong lòng đã biết chắc Vệ hầu và Nam Tử đã đạt được thỏa thuận trừ khử hắn, bắt đầu suy tính đường riêng cho mình.

Quân Tần với năm trăm chiến xa, bốn vạn hùng binh tiến ra Vũ Quan, qua Thân huyện, hướng về Sở quốc. Vì liên quân Vệ Tống đang chỉnh đốn nội bộ, bổ sung binh lính, nhất thời chưa tái chiến với Tấn quốc được, quân Tấn sĩ khí ngút trời tiến về phương Nam, giáp mặt với quân Tần vừa mới đi ra Vũ Quan.

Hai bên binh lực ngang ngửa, nhưng phía bên kia quân Sở đóng ở biên giới nghe tin quân Tần tới nơi đã chủ động ra ứng chiến, cùng với quân Tần giáp chiến trước mặt sau lưng quân Tấn, quân Tấn trận đầu bại trận, cố thủ nơi hiểm yếu, đợi binh mã các nước nhỏ đồng minh kéo đến tập hợp lại mới đánh tiếp, quân Tần bị kẻ địch hùng mạnh này chắn ngang, không dám sơ suất tiến sâu, chỉ còn cách phối hợp với quân Sở phía kia, bắt đầu giao chiến với quân Tấn.

Quân Tần tung hoành ở Phương thành, quân Sở hoạt động khu Nam Bắc Hán Thủy, trải qua mấy trận đánh lớn với quân Tấn, đôi bên có thắng có thua, trong một lúc rơi vào thế dằng do, bất phân thắng bại, thành quả duy nhất mà liên quân Tần Sở đạt được chính là tiêu diệt Đường quốc từng giúp Ngô đánh Sở nay lại giúp Tấn quấy nhiễu liên quân Tần Sở.

Ở mặt trận phía Đông, Tề chiếm thế thượng phong khi giao chiến với liên quân Trần, Lỗ, Tào và các bộ lạc Đông Di. Vì trong liên quân ba nước Trần, Lỗ, Tào cộng thêm các bộ lạc Đông Di, thực lực mạnh nhất chỉ là Lỗ quốc, mà Lỗ quốc hiện nay có Triển Chích tạo phản, đồng thời Triển Chích còn thuyết phục được Trọng Lương Hoài, Công Sơn Bất Nữu bị dồn ép bởi Dương Hổ, nổi dậy chiếm hai tòa thành quan trọng của Quý thị, liên kết với hắn củng dấy binh tạo phản. Ba mối họa này cộng lại với nhau, trở thành mối họa lớn bên trong Lỗ quốc.

Lỗ quốc bổ nhiệm Dương Hổ vừa thăng chức đại phu làm thống soái ba quân, thống lĩnh quân đội của Tam hoàn bao vây tiêu diệt quân phản loạn của Triển Chích, Trọng Lương Hoài, Công Sơn Bất Nữu. Như vậy Lỗ quốc phải lo cùng lúc cả hai chiến trường, lực bất tòng tâm, quân Lỗ đóng vai trò quân chủ lực giao chiến với Tề, nay quân Lỗ tự lo còn không xong, liên quân tự nhiên không đánh lại quân Tề, nhưng họ liều chết bám lấy quân Tề, khiến tốc độ tiến quân nam chinh của đại quân Tề quốc chậm như rùa bò.

Phí thành, lúc này đã trở thành một thành trì quan trọng về mặt quân sự, trong ngoài thành từng đội quân qua lại không ngớt, đám dân đen hấp tấp đi chạy nạn. Trong đại sảnh nhà cũ của Quý thị, ánh mặt trời rọi vào, khắp nơi vắng lặng, so với cảnh ồn áo huyên náo bên ngoài, nơi đây nghe rõ cả tiếng ruồi bay.

Ngoài sân đang dừng đậu mấy chiếc xe ngựa, mấy chục tên võ sĩ trang bị áo giáp vũ khí đầy đủ đứng yên bất động dưới ánh nắng, bóng của chúng in dài ra mặt đất. Trong sảnh hai nam nhân đang đứng đó, một người mặc áo bào xanh đeo kiếm, người kia thân hình thấp bé, đôi mắt lờ đờ như vừa mới ngủ dậy.

Tiếng bước chân vội vả vang lên, hai người ngước mắt nhìn về phía tấm bình phong, một mỹ nhân bước ra từ phía sau, tà áo xanh mướt, thân hình yểu điệu, dung mạo thanh nhã, mỗi bước đi đều làm say đắm lòng người.

Tên nam nhân già đứng đó thấy nhói một cái trong tim, vội cúi đầu né tránh tia nhìn của nàng ta. Đã mười mấy năm trôi qua, cô nương này vẫn mê hoặc như năm xưa, nàng như một vò rượu để càng lâu càng thơm, mùi thơm mang hơi ấm nồng nàn. Cũng chính vì vẻ đẹp ấy, vẻ đẹp khó bắt người ta xuống tay hủy diệt, lão già này năm xưa phạm phải lỗi lầm lớn, giờ hắn tuyệt đối không nhìn vào đôi mắt làm điên đảo lòng người của Thành Bích phu nhân nữa.

"Tỉ tỉ." Thành Tú thấy Thành Bích phu nhân bước ra, lập tức bước lên phía trước: "Tỉ tỉ, xe ngựa đã chuẩn bị xong."

"Ừ!" Thành Bích phu nhân đáp khẽ, nhét một cuộn tranh đang cầm trên tay vào tay Thành Tú, dặn dò: "Thành Tú, cuộn tranh này được vẽ theo cách bí mật mà tỉ đã dạy đệ, đệ có thể xem hiểu, cầm theo nó, đi với tốc độ nhanh nhất sang Sở quốc, làm theo dặn dò của tỉ."

"Tỉ tỉ, chúng ta...có thật phải từ bỏ tất cả ở đây, bây giờ cũng không nên đến đó, tỉ..."

"Im miệng!" Thành Bích chau mày, đôi mắt long lanh như nước hồ mùa thu quét sang ông chủ Lỗ Quái Cư đang bất an đứng bên cạnh, người từng là đệ nhất kiếm khách Lỗ quốc Viên Tố, nhỏ nhẹ: "Ngươi lui xuống trước đã!"

"Dạ!" Viên Tố như trút được gánh nặng, vội quay đầu bước ra ngoài.

Thành Bích lúc này mới nói với Thành Tú: "Đệ đệ, bây giờ thiên hạ đại loạn, còn có nơi nào là an toàn tuyệt đối chứ? Đệ đó, cũng không phải là suốt đời nhờ vào tỉ được đâu, cũng phải có sự nghiệp riêng cho mình chứ. Cầm theo cuộn tranh này đi tìm Khánh Kỵ, một khi Khánh Kỵ phục quốc thành công, đệ lúc đó là khai quốc công thần, chắc chắn được phong hầu bái tước, còn nếu Khánh Kỵ thất bại...những gì ghi trên bức tranh này, cũng đủ giúp đệ giữ được tính mạng."

Thành Tú hoang mang hỏi: "Tỉ tỉ, còn tỉ thì sao?"

"Đệ yên tâm, tỉ là một nữ nhân, trong lúc chiến loạn không tiện ra ngoài, tốc độ đi đường lại chậm, đệ cứ đi trước, tỉ sẽ theo sau đi tìm đệ."

Thành Tú nghe vậy mới hơi yên tâm, nhưng nghĩ kĩ hắn lại thấy anh ách: "Tỉ tỉ, đệ không ở bên cạnh tỉ, quả là không an tâm chút nào. Tỉ cũng biết hiện nay thiên hạ đại loạn, chúng ta quay về Khúc Phụ, chẳng phải an toàn hơn sao? Người Tề lợi hại đến đâu, chắc không đánh đến kinh đô Lỗ quốc được đâu nhỉ? Đệ cứ đi Sở quốc đưa tin, còn tỉ chi bằng quay về Khúc Phụ, đợi khi sóng yên gió lặng, đệ lại đón tỉ qua Sở."

Thành Bích phu nhân thở dài: "Đệ đệ ngốc của ta, đệ tưởng tỉ vội qua đó...qua đó gặp Khánh Kỵ à?" Nói đến đây, Thành Bích hơi đỏ mặt, tiếp: "Tỉ không đi cũng không được, Công Sơn Bất Nữu lợi dục công tâm, hùa theo đại đạo Triển Chích tạo phản, lợi dụng bí mật của tỉ khi xưa, hắn không ngừng sai người bắt tỉ cung cấp lương thảo binh khí, càng lúc càng tham lam, đây là cái động không đáy, trám không đầy được. Nhưng kêu tỉ sao từ chối đây? Tỉ không đồng ý nghe theo hắn sẽ nói ra bí mật của tỉ, đến lúc đó là tỉ tiêu đời, Sinh nhi cũng không giữ được tính mạng, nếu không đến bước đường cùng rồi tỉ sao lại rời khỏi vào lúc này chứ?"

Thành Bích thần sắc sầu não: "Sinh nhi hãy còn nhỏ, nó tuy không phải là máu mủ ruột thịt của tỉ, nhưng bao nhiêu năm qua tỉ đã xem nó như con ruột của mình, nếu không vì sự thể nghiêm trọng, tỉ sao nỡ bỏ mặc nó? Ài! May là gia chủ Quý Tôn rất thương yêu nó, có gia chủ Quý Tôn chăm sóc, lại có số của cải khổng lồ trong phủ, suốt đời này nó không phải lo rồi."

"Vậy...đệ và tỉ tỉ cùng lên đường."

"Tuyệt đối không thể nào!" Thành Bích nghiêm nghị: "Những gì ghi chép trên cuộn tranh này rất quan trọng, tỉ tin Khánh Kỵ giờ đang rất cần nó, nếu thời cơ qua đi, nó đối với Khánh Kỵ chỉ còn là một đống rác không có giá trị, đệ phải lập tức lên đường, phải đi với tốc độ nhanh nhất đưa đến cho Khánh Kỵ."

"Dạ!" Thành Tú cúi đầu vâng lời.

"Được rồi, đệ ra ngoài chuẩn bị đi, kêu Viên Tố vào gặp tỉ."

"Dạ!" Thành Tố bước ra ngoài sảnh, một lát sau, Viên Tố lê bước chầm chậm đi vào, bộ dạng e dè, không hề mang chút khí khái oai phong của đệ nhất kiếm khách Lỗ quốc năm nào.

Thành Bích hứ một tiếng, nói giọng không vui: "Thôi được rồi, trước mặt ta ngươi không cần làm ra bộ dạng đó nữa, ngươi có biết ta gọi ngươi từ Khúc Phụ đến đây là có ý gì không?"

Viên Tố giả lả: "Tiểu nhân không biết."

"Ta muốn ngươi bảo vệ Thành Tú đi Sở quốc."

"Cái gì?" Viên Tố ngớ người, vội làm ra vẻ khó xử từ chối: "Đi Sở quốc? Môn hạ của phu nhân đâu thiếu người tài, cao thủ như mây, đâu cần dùng đến Viên Tố này? Viên Tố già rồi, gân cốt toàn thân rã rời, không múa kiếm được nữa đâu, hơn nữa lão Viên còn phải trông coi Lỗ Quái Cư, lão mà đi khỏi..."

"Trông cái gì mà trông? Tưởng ta không biết dụng ý của ngươi khi mở Lỗ Quái Cư hả?" Thành Bích phu nhân tức giận ngắt lời, lạnh lùng nói: "Lỗ Quái Cư từ giờ đóng cửa, tiểu Ngải hiện đang ở Sở quốc, ngươi còn nán ở Khúc Phụ chờ đợi gì chứ?"

"Tiểu Ngải đã đến Sở quốc?" Viên Tố kinh ngạc kêu lên, nghĩ đến tình hình Sở quốc giờ đang hỗn loạn, tiểu Ngải một thân nữ nhi..., Viên Tố chợt biến sắc.

Thành Bích phu nhân vênh mặt, cặp lông mày quyến rũ như hồ ly, cất giọng đều đều: "Không sai, nàng ấy đang ở Sở, với lại đang trong đại quân của Khánh Kỵ, ngươi bảo vệ Thành Tú qua đó, tiện thể gặp tiểu Ngải luôn không tốt sao?"

Viên Tố ngơ ngẩn giây lát, tấm lưng còng từ từ đứng thẳng, chỉ trong khoảnh khắc một lão già lọm khọm bỗng hóa thân thành một kiếm khách oai phong, trở lại bộ dạng khí khái bất phàm năm xưa, Thành Bích phu nhân tuyệt đẹp đứng ngay trước mặt, nhưng khí chất của hắn như lấn át cả tuyệt sắc giai nhân Thành Bích.

Viên Tố ngẩng đầu lên, bắt gặp ánh nhìn xuyên thấu vào tim của hắn: "Không cần nhiều lời nữa, thời gian cấp bách, ngươi đi với Thành Tú ngay lập tức, còn về tổn thất của Lỗ Quái Cư, bổn phu nhân sẽ bồi thường cho ngươi."

Viên Tố vội cụp mắt xuống, tuy chỉ là một khắc tia nhìn chạm nhau, nhưng vẻ thu hút phát ra từ đôi mắt Thành Bích thật khiến người ta khó lòng kiềm chế. Viên Tố hạ giọng đáp ứng: "Dạ! Phu nhân nếu đã nói thế, Viên Tố còn có gì không bỏ lại được chứ? Viên Tố bằng lòng đi cùng Thành Tú đến Sở một chuyến."

"Rất tốt, mọi người khởi hành ngay đi, bổn phu nhân còn có chuyện cần làm, không tiễn."

"Phu nhân, tại hạ cáo từ!" Viên Tố chắp tay cúi lạy xong lui ra ngoài, thần thái ung dung, bước đi vững vàng, hoàn toàn khác với bộ dạng lom khom khập khiểng khi nãy.

"Hư..., đợi Thành Tú đi khỏi, chúng ta mới đi."

"Dạ..." Tiểu Hà hơi chút do dự: "Phu nhân...nhất định phải làm như vậy ư?"

Thành Bích liếc mắt vào Tiểu Hà, hỏi: "Ngươi lo gì à?"

Tiểu Hà cắn môi không trả lời, Thành Bích phu nhân mỉm cười, từ từ xoay lưng lại, thở một hơi dài: "Đi triệu tập đầy đủ người ngựa, chúng ta lập tức lên đường."

"Dạ!" Tiểu Hà quay đầu bước ra ngoài. Thành Bích lại thở dài, tự nói với mình: "Chàng vốn chỉ là một công tử lưu vong, còn ta lại có gia nghiệp khổng lồ và thân phận đặc thù để lợi dụng, ta thật không biết...chàng đến với ta, rốt cuộc có bao nhiêu phần thật lòng, rốt cuộc còn vì mục đích nào khác không? Trên thế gian này, thứ khó đọc hiểu nhất chính là lòng người..., không biết trong lòng chàng có thật tồn tại Thành Bích, ta không yên tâm, không cam tâm chút nào."

Thành Bích ngây dại nhìn khắp đại sảnh trống trơn, lại nói tiếp: "Tiểu Man hận ta thấu xương, mà giờ nàng ta đang ở cùng chàng, còn tên Công Sơn Bất Nữu cứ bám riết lấy ta, uy hiếp ta cung ứng quân trang cho hắn. Tất cả đều là nút thắt khó gỡ, nhưng lại buộc phải đi gỡ..."

Thành Bích đứng đó ưu sầu hồi lâu.

Hoàng hôn buông xuống, ánh nắng vàng dịu, vì chiến sự đang diễn ra khốc liệt, Phí thành lập tức phải đóng cửa. Lúc này, giữa đám đông chen chúc ùa vào thành, xuất hiện thêm một đoàn người ngựa áo giáp chỉnh tề, vũ khí sáng choang, trang bị còn tốt hơn cả đại quân của Tam hoàn. Ba trăm võ sĩ hộ tống chiếc xe ngựa xa hoa của Thành Bích phu nhân đi ra cửa thành Nam, hòa cùng ánh chiều tà lay lắt.

Dưới ánh nắng hoàng hôn, in bóng một đoàn người từ từ đi xa...

Đại Tranh Chi ThếTác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 196: Bách Tân hồ (Thượng)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Bách Tân hồ. Khánh Kỵ cùng Yểm Dư, Thúc Tôn Diêu Quang, Quý Tôn Tiểu Man đang thong dong đi dạo ven hồ, nước hồ xanh biếc, lăn tăn gợn sóng, trên mặt hồ đang có mấy con thuyền nhỏ thả lưới đánh cá, đó đều là binh sĩ của Khánh Kỵ, trong hồ có nhiều cá béo ngậy, bắt lên bổ sung cho bữa ăn cũng khá hay, lại có thể để đám binh sĩ trước đây chưa từng đi thuyền rèn luyện thêm, một công đôi việc.

Bên hồ có một khu vực rộng lớn bị dọn trống, làm xưởng đóng thuyền "Chu thất", những binh sĩ biết đóng thuyền trong quân Khánh Kỵ giờ bị điều động hết tập trung ở đây, ngoài ra còn tuyển lựa nhiều thợ mộc vào đội đóng thuyền, còn những thợ cưa gỗ thì không cần phí công chọn lựa, đám binh sĩ khỏe mạnh chặt cây khiêng đá còn nhanh hơn cả dân làm lao dịch.

Những thủy binh phụ trách chèo thuyền gọi là "Thuyền tốt", với "Thuyền quan" chỉ huy đội chèo đều được tuyển lựa kĩ lưỡng từ trong quân Khánh Kỵ, còn các binh sĩ còn lại, chỉ cần thích ứng việc đánh trận trên thuyền là được. Lúc này đám binh sĩ đang lái những chiếc thuyền màu sắc hỗn tạp mới mua về, tập luyện thủy chiến trên lòng hồ xa xa, cả trăm mái chèo cùng lúc rẽ bọt sóng, hai thuyền giáp mặt thu ngắn khoảng cách, các binh sĩ phóng móc câu qua đó níu chặt thuyền của đối phương, phi thân bay qua tiếp chiến, thỉnh thoảng có người tuột tay rơi tỏm xuống nước, tuy chỉ là diễn tập nhưng tất cả binh sĩ đều tập luyện hăng say như thật.

Yểm Dư nói: "Ta từng đi tìm một số thuyền về đây, đáng tiếc đó đều là thuyền đánh cá loại nhỏ và thuyền chở khách, không thích hợp đi lại đường dài trên sông lớn, chỉ còn cách tự đóng thuyền lấy vậy. Lần này chúng ta chủ yếu chờ đợi sau khi phía Chúc Dung thành công chiếm giữ Cô Tô thành, tiến quân thần tốc quay về chặn trước đại quân của Cơ Quang, chiếm lĩnh thành trì chờ hắn tới nộp mạng. Ta đã tính toán, với khoảng cách đường bộ Ngô Sở, dọc đường phải chèo đèo vượt suối, đường đi vô cùng khó khăn, chúng ta không có đủ số xe ngựa chuyên chở binh sĩ, dù có đủ xe cũng khó đi trên con đường hiểm trở, tốc độ không nhanh bằng đi đường thủy. Với lại hành quân thế này lương thảo khó theo kịp đại quân, chúng ta không thể không tính đến trường hợp bại trận, nếu lương thảo theo không kịp, đánh nhau lại bại trận thì lòng quân hoang mang, sợ lúc đó có nhiều binh sĩ bỏ trốn."

Khánh Kỵ gật gù. Yểm Dư lại nói: "Vì thế với số thuyền này, ta không dám mảy may sơ suất, chúng ta đang đóng nhiều tàu thuyền, có thuyền lớn dùng cho việc vận chuyển binh lính, vì muốn đối phó với thủy binh quân Ngô, ta còn chuẩn bị đóng lâu thuyền, thuyền đụng, thuyền cánh én, thuyền nhỏ để truyền đưa tin tức và dò thám nữa..."

Khánh Kỵ khẽ gật đầu hài lòng: "Hoàng thúc suy nghĩ chu đáo, nếu chúng ta đi đường thủy về Ngô, tuy là xuôi theo dòng nước, để tăng tốc cũng nên ra sức huấn luyện thêm cho binh sĩ, lần này về Ngô quốc, đường sá xa xôi, số thuyền tốt này không đủ dùng đâu, để ta đi chọn thêm số người biết lái thuyền đưa tới, tổ chức làm đội dự bị, hai đội thuyền tốt thay phiên nhau chèo..."

Khánh Kỵ chợt ngưng bặt, toàn thân tưng lên một cái rồi cứng đơ ra, một cánh tay còn giơ lên không trung, miệng mở to bất động, không nói tiếng nào. Mọi người hoảng sợ cả lên, vội nhìn cả vào hắn, chỉ thấy hắn trợn mắt đáng sợ, gân xanh nổi lên trên trán, thân trên run lập cập như đánh đu.

Thúc Tôn Diêu Quang lo lắng, vội bước tới vịn lấy vai Khánh Kỵ, hốt hoảng kêu lên: "Chàng sao rồi? Mau nói gì đi chứ? Chàng sao rồi?"

Khánh Kỵ nhìn trừng trừng vào đống tàu thuyền đang được đóng dang dở bên "Chu thất" được dựng lên sơ sài. Hai mắt trợn tròn, vẫn không phát ra tiếng nào. Thúc Tôn Diêu Quang quay đầu lại nhìn theo hướng đó, các binh sĩ bên kia vẫn bận rộn làm việc, không có gì khác lạ, Thúc Tôn Diêu Quang càng thêm sợ hãi, sắp bật khóc đến nơi. Nàng ra sức lay lay Khánh Kỵ, quay qua cầu cứu Yểm Dư: "Mau, mau đi mời một thuật sĩ về đây, chàng...chàng nhất định bị trúng tà rồi."

Phía bên kia, Quý Tôn Tiểu Man gần như cùng một lúc với Diêu Quang lao đến bên cạnh Khánh Kỵ, bấu chặt chiếc vai còn lại của hắn, nàng không lay Khánh Kỵ, chỉ là mở to đôi mắt đen láy như hạt ngọc, kinh hãi nhìn vào hắn. Thúc Tôn Diêu Quang ra sức lay mạnh Khánh Kỵ cho hắn tỉnh lại, Quý Tôn Tiểu Man cũng bị lay cho chóng mặt, hét lên: "Đừng lay hắn nữa! Tên này giết người vô số, đôi tay nhuốm đầy máu tanh, có con ma nào dám ám hắn chứ?"

Khánh Kỵ chợt xoay đầu lại, nhe răng phát ra tiếng âm u: "Ta là ma nữ đây!"

Quý Tôn Tiểu Man "Oái!" một tiếng nhảy dựng, bật về phía sau, đoạn "Xoạt!" rút Hàm Quang kiếm cầm trong tay, hung dữ chĩa vào trước ngực Khánh Kỵ, nghiêm giọng: "Ngươi đi ra cho ta!"

Khánh Kỵ không còn nhịn được nữa, bật cười khanh khách: "Nàng chui vào ta đi!"

Quý Tôn Tiểu Man ngờ ngợ: "Ta không phải là ma nữ, sao mà vào được?"

Khánh Kỵ cười ha hả khoái trá, cười đến nỗi ôm bụng lăn lộn: "Tiểu Ngải à Tiểu Ngải, nha đầu này ngốc nghếch đáng yêu thật. Ha ha ha..., ai nói ta bị ma nữ ám chứ? Giết người vô số, tay nhuộm đầy máu tanh, nàng nói ta thành "Hỗn thế ma vương" mất rồi, ta còn bị ma ám được ư? Ha ha ha..."

Quý Tôn Tiểu Man nóng ran hai má, xấu hổ vì biết bị lừa, hậm hực nói: "Ngươi đó, không đàng hoàng gì cả, sao lại hù dọa người ta?"

Thúc Tôn Diêu Quang đẩy mạnh Khánh Kỵ một cái, phụng phịu: "Chàng đó, lần sau đừng hòng người ta lo lắng cho chàng nữa."

Khánh Kỵ tươi cười hớn hở, cứ như lượm được kho báu, cười đến nỗi không ngậm miệng lại được, hắn cũng không giải thích với hai cô nương, chỉ là đưa tay nắm lấy Yểm Dư, vội lên tiếng: "Không cần lo, chỉ là ta vừa mới nhớ ra một chuyện lớn. Mau, chúng ta đi "Chu thất", lập tức triệu tập tất cả thợ đóng thuyền, ta có chuyện dặn dò bọn họ."

Kéo theo Yểm Dư đang nghệch mặt ra không hiểu gì cả đi được vài bước, Khánh Kỵ quay đầu lại nói: "Hai nàng tự đi đâu đó chơi đi, không cần theo ta."

Quý Tôn Tiểu Man hậm hực tra kiếm vào bao, đôi mắt long lanh tức tối, nguýt to: "Đúng là một tên vô lại!"

Thúc Tôn Diêu Quang hùa theo: "Là tên vô lại hư hỏng hết chỗ nói!"

Hai người nhìn vào nhau, bỗng chốc nảy sinh cảm giác đồng hội đồng thuyền, hai người mỉm cười với nhau, lại thoáng thấy ngại ngùng, Thúc Tôn Diêu Quang nắm lấy tay Quý Tôn Tiểu Man: "Muội muội, chúng ta tìm một chiếc thuyền nhỏ đi chèo thuyền chơi, mặc kệ tên hỗn đản đó."

"Ờ...hay đó!" Quý Tôn Tiểu Man còn chưa quen Diêu Quang tỏ thái độ thân thiết với nàng như vậy, ậm ự nói: "Nhưng ta không biết chèo..."

Thúc Tôn Diêu Quang mỉm cười: "Ta biết đôi chút, không sao...chúng ta kêu người khác chèo hộ."

Quý Tôn Tiểu Man mừng rỡ: "Hay quá! À hay là chúng ta đợi ở đây một lát, tên khốn đó hù dọa chúng ta thế này, phải bắt hắn chèo thuyền cho chúng ta, mệt chết hắn mới thôi!"

"Được!" Hai cô nương cười khúc khích khoái trí với nhau.

Các thợ đóng thuyền đang làm việc trong "Chu thất" đều bị đuổi hết ra ngoài, ngoại trừ Khánh Kỵ, Yểm Dư, chỉ vài đội trưởng giữ chức vụ cao được ở lại, họ đều là thợ đóng thuyền lão luyện, mọi người đứng thành một vòng tròn, Khánh Kỵ đứng giữa, trên tay cầm một mô hình thuyền gỗ, tỉ mỉ giảng giải cho mọi người nghe, chốc chốc có người giơ tay thắc mắc, Khánh Kỵ dừng lại giải thích kĩ hơn.

Đợi Khánh Kỵ nói xong, một tên đội trưởng lên tiếng khâm phục: "Tiểu nhân tuy ở Sở quốc, nhưng đã sớm nghe danh công tử Khánh Kỵ mới là thiên hạ đệ nhất về chế tạo, hôm nay được thấy tận mắt, đúng là danh bất hư truyền, máy xay gạo, bánh xe tưới tiêu, đã là tác phẩm tuyệt diệu, còn thuyền này..., Ây! Tiểu nhân từ nhỏ đã theo phụ thân học đóng thuyền, cả đời này các loại thuyền do chính tay tiểu nhân đóng nhiều vô số, nhưng chưa từng nghĩ ra ý tưởng khác lạ như thế. Tuy cái vật này tiểu nhân chưa từng thấy qua, trước mắt còn chưa làm thử, nhưng với kinh nghiệm đóng thuyền cả đời của tiểu nhân, biết chắc các thiết kế này rất khả dụng, mọi người thấy thế nào?"

Các đội trưởng xung quanh ai nấy gật đầu lia lịa, vui mừng ra mặt. Bọn họ đều là thợ đóng thuyền tài ba,đối với họ có thể đóng ra một chiếc thuyền chất lượng ưu việt là chuyện vui sướng nhất trên đời. Còn nếu đóng được một chiếc thuyền xưa nay chưa từng có, càng là thành tựu vĩ đại, lúc này đây trong lòng họ phấn khích vô cùng, không hề thua kém cảm giác lâng lâng vừa nãy khi mới nảy ra ý tưởng của Khánh Kỵ.

Đại Tranh Chi ThếTác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 196: Bách Tân hồ (Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Khánh Kỵ mừng rơn: "Đương nhiên là khả dụng rồi, thuyền này dùng cánh buồm mà bổn công tử vừa nói, mượn sức gió đi trên sông, trong lúc thuận gió, không những tiết kiệm rất nhiều sức, mà tốc độ di chuyển còn nhanh gấp mấy lần, cho dù là ngược gió hay gió thổi chệch hướng, chỉ cần mặt nước đủ rộng, điều chỉnh góc độ cánh buồm chạy theo đội hình chữ "Chi" (chữ Chi trong tiếng Hán viết giống chữ Z trong tiếng Anh.), vẫn cứ tiến nhanh như cũ. Tất nhiên, đội lái thuyền phải từ từ tập luyện mới nắm bắt được cách điều khiển, trước mắt chúng ta chưa cần nghĩ tới. Hoàng thúc, nơi này cần tăng cường canh gác, phải đảm bảo trước khi chúng ta dùng đến, tin tức không tiết lộ ra ngoài, còn sau này thì, sợ gì không cho khắp thiên hạ được biết, ha ha..."

Câu cuối cùng hắn nói là để cho đám thợ đóng tàu này nghe. Hồi xưa hễ mà có vật gì quý báu hay chuyện cơ mật, quân vương vì muốn độc chiếm, giết người diệt khẩu chuyện gì cũng dám làm. Khánh Kỵ sợ đám thợ này sau khi cơn phấn khích qua đi, lo lắng Khánh Kỵ vì muốn giữ bí mật, sau này sẽ giết chết bọn chúng, lúc đó chắc không ra sức làm việc, nên mới nói ra câu này, ý là hiện giờ thì cần phải giữ bí mật, một khi dùng xong đống tàu thuyền mới này, thì không sợ khắp thiên hạ biết đến, lúc đó không phải giữ bí mật gì nữa, bọn họ sẽ không bị đe dọa tính mạng, còn nắm bắt được một số kỹ thuật đóng thuyền mới mẻ. Khánh Kỵ dùng chiêu này để trấn an lòng người.

Yểm Dư hiểu ý Khánh Kỵ, hắn cũng mỉm cười góp tiếng nói: "Yên tâm đi, xung quanh Bách Tân hồ có đại quân canh giữ, không cho phép người lạ tiếp cận, đợi khi chúng ta dùng đến đống thuyền này, lúc đó Cơ Quang có biết thì đã muộn, hắn không kịp đóng thuyền bắt chước theo chúng ta, đại sự có cơ hội thành công rồi, ha ha..."

"Ừm, giờ nghĩ ra cách này, ta quyết tâm quay về Ngô quốc bằng đường thủy." Khánh Kỵ lại quay sang đám thợ, nói: "Còn về bánh lái, bổn công tử chỉ nghĩ ra phương thức, còn cụ thể chế tạo, lắp đặt, vận hành thế nào cần các ngươi ra sức nghiên cứu, dù là làm ra xong cũng phải có thời gian đủ cho đội thuyền tốt thao tác sử dụng thành thạo, nên các vị phải nhanh chóng thiết kế làm ra để các thuyền tốt tập luyện. Còn về cái khoang tàu đóng kín kia, tin chắc bổn công tử nói ra là mọi người hiểu ngay, cái đó không cần nói nhiều nữa."

Đám thợ cùng chắp tay: "Xin hai vị công tử yên tâm, ở đây vật liệu nhân công đều đầy đủ, tàu thuyền còn chưa đóng xong, muốn chỉnh sửa đôi chút không gì khó, bọn tiểu nhân lập tức làm việc, làm ra chiếc chiến thuyền kiểu mới tận dụng sức gió và khống chế dòng chảy này."

Khánh Kỵ gật đầu mỉm cười: "Tốt, đợi khi nào hoàn thành, ngoài tiền công đã hứa, các vị đều được nhận thêm gấp năm, à không! Gấp mười lần tiền thưởng, Ngô quốc Khánh Kỵ, đã nói là làm, các vị có thể yên tâm, bắt đầu bắt tay vào làm việc đi."

Khánh Kỵ phất tay, cùng Yểm Dư lui ra ngoài "Chu thất", mấy đội trưởng đóng thuyền lập tức túm tụm lại với nhau, léo nhéo bàn bạc một hồi, số khoang thuyền kín, bánh lái, buồm gió Khánh Kỵ nói với họ trước đây chưa từng thấy qua, họ là những tay đóng thuyền lão luyện lúc này cũng cần bàn bạc điều chỉnh cho phù hợp, tất nhiên cần trao đổi kinh nghiệm với nhau trước đã.

Vừa ra khỏi "Chu thất", Yểm Dư phấn khích khen lấy khen để: "Khánh Kỵ này, thúc phụ bây giờ đối với cháu đúng là tâm phục khẩu phục, cháu có thể trong một thời gian ngắn nảy ra ý tưởng táo bạo này, không phải có thần thánh giúp đỡ không thể làm được. Thiên hạ của Ngô quốc, thuộc về cháu chắc rồi! Có các chiến thuyền kiểu mới này, chúng ta muốn quay về Ngô quốc trước lão tặc Cơ Quang dễ như trở bàn tay, chỉ cần thuyền được đóng xong, ta lập tức cho binh sĩ tập luyện sử dụng thành thạo, ..."

Khánh Kỵ mỉm cười, vừa định lên tiếng, phía bìa rừng xa xa Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man đang xì xào to nhỏ đã nhìn thấy hắn bước ra ngoài, Quý Tôn Tiểu Man sải bước dài lao nhanh tới trước mặt Khánh Kỵ, làm mặt giận dỗi: "Này! Muội muốn chèo thuyền trên hồ."

Khánh Kỵ còn đang bận suy tư gì đó chưa kịp định thần, hờ hững buông một câu: "Thế thì đi đi."

"Nhưng muội không biết chèo thuyền."

"Đơn giản thôi mà, kiếm ai đó chèo giúp."

Quý Tôn Tiểu Man cười tinh nghịch: "Vậy người ta tìm ai để chèo nè?" Thúc Tôn Diêu Quang lúc này đã đến đứng kế bên cũng đang tủm tỉm.

Khánh Kỵ vừa định trả lời, Kinh Lâm từ phía xa đang chạy nhanh tới, vừa chạy vừa hét lớn: "Công tử, công tử, có tin đưa đến."

Khánh Kỵ vội bước tới, hỏi: "Có chuyện gì?"

Kinh Lâm vừa thở hổn hển vừa bẩm báo: "Hai cánh quân Ngô ở Ngư Phản, Quyền Ấp tấn công tàn quân trấn thủ La Giang của quân Sở, quân chủ lực của Sở phải ba ngày sau mới đến được, bây giờ quân Sở ở La Giang nguy ngập, phái người đột phá vòng vây chạy đến xin công tử cứu viện."

"Hử?" Khánh Kỵ đanh mặt, vội gọi theo Yểm Dư, nói: "Đi, chúng ta đến chỗ ở của hoàng thúc rồi bàn bạc rõ ràng hơn."

Hắn xua tay về hướng cô nương Tiểu Man có tính khí trẻ con: "Tiểu nha đầu, muốn đi chơi trên hồ thì cứ tìm mấy tên lính biết chèo thuyền chở theo là được mà."

Quý Tô Tiểu Man phụng phịu: "Hứ, lại để hắn chuồn đi mất rồi."

"Thôi đi, nam nhân ấy à, cứ bàn đến đánh trận là trong lòng chỉ có quân địch, còn chứa được gì khác đâu chứ? Chàng có việc lớn cần làm, chúng ta không giúp ích được gì cũng không nên gây cản trở, đi chơi trên hồ chúng ta tự đi vậy." Thúc Tôn Diên Quang thông cảm lên tiếng.

Quý Tôn Tiểu Man quay đầu lại, nhìn một lượt từ đầu đến chân Diêu Quang. Thúc Tôn Diêu Quang hai má ửng hồng, thắc mắc: "Bị gì vậy?"

Quý Tôn Tiểu Man thở nhè nhẹ, hạ giọng: "Không có gì. Ta bây giờ đã hiểu vì sao hắn cứ gọi mình là tiểu nha đầu. Ây! Ta đúng là tính khí trẻ con, rất nhiều chuyện...cứ thích là làm, không hề suy nghĩ cho người khác..."

Thúc Tôn Diêu Quang nhìn vào khuôn mặt Tiểu Man, ánh nắng êm dịu rọi lên khuôn mặt búp sen của nàng ta, xung quanh lỗ tai có ít tóc tơ, toát ra vẻ ngây ngô của con trẻ, nhưng cũng có nét xinh xắn quyến rũ.

Thúc Tôn Diêu Quang thở dài: "Muội đó, biết nói ra những lời này, nghĩa là đã trưởng thành rồi."

Diêu Quang ngẩng đầu, nhìn bóng lưng Khánh Kỵ đã đi sang bên kia bìa rừng, đan các ngón tay vào nhau, tâm sự: "Lúc mới gặp chàng, ta cũng chỉ là một thiếu nữ điêu ngoa không hiểu chuyện, cái tính khí bây giờ là được chàng dạy dỗ đó, ta cũng vừa mới chín chắn lên thôi."

"Hừ! Quân Sở hành quân với tốc độ quá chậm, hậu quân xuất phát chậm, lại vội phái quân tiên phong tiến đánh Quyền Ấp, kết quả đơn độc tác chiến, bị Cơ Quang đánh bật ra La Giang, quân Sở rốt cuộc đang tính toán gì chứ?" Yểm Dư nghe Kinh Lâm bẩm báo chi tiết về tình hình bên quân Sở xong nổi cơn tanh bành.

Khánh Kỵ cười khổ: "Ai cũng biết hiện giờ người cầm quyền ở Sở chỉ là một tiểu Sở vương nhỏ tuổi, người kia là Phí Vô Cực. Phí Vô Cực thật ra rất thông minh, chỉ đáng tiếc con người hắn quá ích kỉ, một người ích kỉ chỉ biết lo nghĩ cho riêng mình, khó tránh khỏi làm ra những chuyện ngu ngốc. Hắn phái quân xâm nhập riêng lẻ, khó nói không phải vì muốn chúng ta gánh chịu sức tấn công của Cơ Quang giùm hắn."

Kinh Lâm nổi đóa: "Chúng ta cũng đang bị Cơ Quang tấn công mà, đại quân của Vương Tôn Hùng không phải do công tử đánh cho tan tác ư? Cho dù Phí Vô Cực có đến đây hắn cũng không có gì để trách, chẳng qua hắn cứ nhỏ nhen, chấp nhận thiệt mất một cánh quân Sở. Hừ! Sở quốc giờ đã ra nông nỗi thế này, thứ gian thần như hắn còn toan tính chủ ý gây tổn hại lên nhau, khó trách đệ nhất cường quốc lãnh thổ rộng lớn, binh mã đông đúc phương Nam lại thảm hại đến bước đường này."

Khánh Kỵ nói: "Lạc đà ốm đói vẫn to hơn con ngựa, hơn nữa Sở quốc không phải không mạnh, chỉ là thiếu gắn kết mà thôi, như một con sư tử khỏe mạnh có một bộ óc heo, nên mới bị người ngoài xà xẻo. Nay chúng ta vẫn cần hợp tác với người Sở, nên đối với quân Sở đang bị vây khốn ở La Giang, biết chắc là dụng tâm của Phí Vô Cực, cũng không thể bỏ mặc không cứu."

Yểm Dư uất ức: "Binh mã của ta chính là bị đám khốn kiếp Nang Ngõa, Phí Vô Cực hại cho mất hết. Khánh Kỵ, ý cháu là...chúng ta vẫn phải xuất binh đi cứu viện đám quân Sở bị vây ở La Giang ư?"

Khánh Kỵ lắc đầu nguầy nguậy: "Phí Vô Cực đã gây ra chuyện này, người Sở sẽ tự đi cứu viện, chỉ vì biết chắc chúng ta không thể không cứu, người Sở nghĩ ra, bọn gian tặc Cơ Quang, Ngũ Tử Tư sao lại không nghĩ ra? Chúng vây đánh quân Sở tại La Giang là giả, mai phục quân cứu viện của ta mới là thật, nên...chúng ta không thể đi!"

Yểm Dư và Kinh Lâm cùng ngớ người không hiểu: "Vừa phải đi cứu, lại không thể đi cứu, vậy theo ý của chủ soái là...?"

Đại Tranh Chi ThếTác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 197: Đánh úp sau lưng (Thượng)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

"Mọi người xem." Khánh Kỵ chỉ lên tấm bản đồ nói: "Phía Tây chỗ này là Ngư Phản, phía Đông chỗ này là Quyền Ấp, ở giữa là con sông La Giang, tàn quân của Sở đều tập trung cả ở đây. Mặt nam là Dĩnh Đô, mặt bắc khe núi này là thành Na Xứ chúng ta đang chiếm giữ. Nếu chúng ta xuất binh đi cứu quân Sở tại La Giang, Dĩnh Đô cũng xuất quân chặn đường chúng ta, sau đó quân Ngô tại Ngư Phản và Quyền Ấp sẽ tấn công hậu quân của ta, chúng ta cùng lúc bị đánh cả trước mặt sau lưng, làm không tốt thì cũng rơi vào tình cảnh của đám quân Sở này, mất đi thành trì hiểm yếu, lưu lạc tới vùng La Giang, đợi Tử Tây đến cứu, lúc đó cứu người không được, lại tự hại thân mình, sao có thể xuất binh đi cứu chứ?"

Đôi mắt Yểm Dư chớp chớp, đã hiểu ra vấn đề, nói: "Nếu quân Ngô lấy tàn quân của Sở tại La Giang làm mồi nhử, mục đích thật sự là nhằm vào chúng ta, vậy chúng ta hãy làm ra vẻ như muốn đưa quân đi cứu quân Sở, đánh trống khua chiêng tiến về La Giang, giữa đường ta thay đổi đột ngột, chỉ để lại ít người dẫn dụ quân địch, còn đại đội binh mã bất ngờ tấn công Ngư Phản hoặc Quyền Ấp, tương kế tựu kế cướp thành trì của chúng, có phải vậy không?"

Khánh Kỵ cười ha hả: "Hoàng thúc đoán đúng lắm, nhưng phải để lại ít quân thủ thành, quân chủ lực đi tấn công Quyền Ấp hoặc Ngư Phản, kết quả cuối cùng có thể là chiếm được một thành, mất một thành. Thành Nã Thứ nằm giữa Quyền Ấp và Ngư Phản, hồ Bách Tân từ khi biến thành xưởng đóng thuyền của quân ta, đã trở thành cứ điểm quan trọng quyết định đại nghiệp phạt Ngô sau này của ta có thành công hay không, nên cũng không thể khinh suất điều quân rời đi tiến đánh Quyền Ấp hoặc Ngư Phản. Ý của ta là...giả bộ xuất quân đến cứu viện La Giang, giữa đường chuyển sang tấn công Ngư Phản, sau đó..."

Ngón tay của Khánh Kỵ chỉ ngay vị trí của thành Na Xứ trên bản đồ, gằn từng tiếng một: "Một là hư chiêu, hai cũng là hư chiêu, ba mới là đánh thật. Chúng ta tương kế tựu kế, đợi khi quân Ngô tập kích thành Nã Thứ, đại quân quay về sau lưng chúng, đâm cho chúng một nhát hồi mã thương."

Kinh Lâm không hiểu thế nào là "Hồi mã thương", nhưng ý của Khánh Kỵ thì hắn đã hiểu ra, phấn khích khen ngợi: "Công tử quả nhiên diệu kế! Chúng muốn dụ chúng ta rơi vào bẫy mai phục, ngược lại rơi vào bẫy mai phục của chúng ta. Công tử thần cơ diệu toán như thế, lần này phạt Ngô phục quốc, đại sự tất thành."

Khánh Kỵ khẽ lắc đầu, nghiêm nghị: "Binh sĩ có suy nghĩ như vậy, có thể nâng cao sĩ khí chiến đấu, nhưng thân làm tướng lĩnh, tuyệt đối không được tự tin thái quá, nên biết kiêu binh tất bại, trong binh pháp tuy có đề cập dùng binh tập kích bất ngờ giành thắng lợi, nhưng thắng lợi cuối cùng phần lớn thuộc về kẻ nào dùng binh lực hùng mạnh giao chiến chính diện. Cái gì mà lấy ít thắng nhiều, lấy yếu thắng mạnh trong binh gia không phải là không có, chỉ là có quá ít, chính vì vậy mới được người ta xem như kinh điển, ngoài ra đó chỉ quyết định thành bại trong một trận chiến, cực ít trường hợp xoay chuyển được cục diện cả chiến dịch."

Ánh mắt Khánh Kỵ dõi theo phương xa, tự nói với mình: "Cho dù có là Binh thánh, binh lực cũng là tiêu chuẩn duy nhất quyết định tất cả. Cầm ba vạn quân trong tay, thiên hạ không ai địch lại, chỉ là một câu tâng bốc không đúng với thực tế, cũng như Khánh Kỵ ta bị người ta nói thành vạn người khó chống lại, cứ cho một trăm binh sĩ vây kín ta, ta có mọc cánh cũng khó mà chạy thoát thân."

Kinh Lâm thấy chủ soái nói có vẻ nghiêm trọng, liền luôn miệng nhận lỗi. Yểm Dư không biết hắn đang lo về cánh quân mấy ngàn người do Tôn Vũ thống lĩnh có nhiệm vụ tập kích bất ngờ vào Ngô quốc, những lời vừa nãy nghe hắn nhắc đến xưởng đóng thuyền, trong lòng chợt nổi lên một khúc mắc, liền lên tiếng hỏi: "Khánh Kỵ, cháu bản lĩnh đầy mình, điều đó ta biết. Luận về kiếm pháp, cháu không bằng ta. Luận về mâu pháp, ta không bằng cháu. Cháu trời sinh đã có thần lực, trên chiến trường ít có địch thủ, được xưng tụng là Đệ nhất dũng sĩ Ngô quốc, điều đó cũng xác đáng thôi. Nhưng nói về dẫn quân đánh trận, cháu luôn quen việc dẫn quân đường đường chính chính giáp chiến chính diện với quân địch, không giỏi về việc dùng mưu mẹo, bây giờ thói quen dụng binh của cháu so với hồi năm ngoái lúc rời khỏi Sở khác nhau một trời một vực. Còn nữa, cháu đường đường là vương tử Ngô quốc, sao lại biết nghiên cứu ra máy xay, bánh xe gió, rồi mấy thứ thuyền buồm, bánh lái gì đó? Ta nghe nói, bàn chải đánh răng mà hiện nay các công khanh quý tộc khắp các nước chư hầu đều thích dùng cũng do cháu thiết kế làm ra, cháu làm ra tất cả bao nhiêu thứ, khiến ta khó mà tin đó là sự thật."

Nghe những lời này, Khánh Kỵ không khỏi giật mình, người thời đó phần lớn chỉ nghe oai danh Khánh Kỵ, chứ không hiểu rõ về hắn, nên hắn có phát minh quái lạ nào người ngoài cũng không thắc mắc. Nhưng Yểm Dư thì khác, Yểm Dư là hoàng thúc của hắn, hai người tuổi tác không mấy chênh lệch, lại từ nhỏ chơi chung với nhau, cùng nhau trưởng thành nên hiểu rõ hắn hơn ai hết. Phong cách cầm quân đánh trận của hắn giờ đúng là hoàn toàn khác trước, số phát minh quái lạ ngay cả số thợ lão luyện lành nghề nhất lúc bấy giờ cũng không nghĩ ra của hắn không giống như chủ ý mà một vương tử quý tộc có thể nghĩ ra, Yểm Dư nổi lòng nghi ngờ là lẽ đương nhiên. Sau này gặp mặt Chúc Dung, hoặc sau khi phục quốc quay về Ngô, số người hiểu rõ quá khứ của hắn chắc chắn nhiều hơn, số điểm khác biệt xuất hiện trên người hắn vào lúc này phải tìm lí do giải thích nghe sao cho hợp lí mới được, nếu không thì rắc rối đây.

Nghĩ đến đây, Khánh Kỵ đột nhiên nhớ đến chuyện hồi nãy Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man tưởng lầm hắn trúng tà bị ma ám, bèn nảy ra một ý, vừa suy tính câu chuyện bịa đặt trong đầu, vừa nói giọng đều đều kéo dài thời gian: "Chuyện này nói ra thì..., thật ra đó là bí mật lớn nhất của ta, ta chưa từng nói cho người khác nghe, nhưng hai người một người là hoàng thúc, một người là tướng lĩnh vào sinh ra tử với ta, ta sẽ nói cho hai người nghe vậy."

Yểm Dư và Kinh Lâm nghe Khánh Kỵ nói vẻ nghiêm trọng, đều hồi hợp nín thở nghe hắn kể tiếp câu chuyện.

Khánh Kỵ ra vẻ bí hiểm: "Không giấu gì hai người, ta ở trên sông bị Yêu Ly đâm cho một nhát xuyên thấu phủ tạng, với thương tích nặng thế thật ra khó mà sống sót. Lúc đó, ta thấy mình như đang trôi bồng bềnh trên bầu trời, ta còn nhìn thấy Kinh Lâm và Lương Hổ Tử ôm xác ta than khóc, định phóng hỏa đốt thuyền. Sau đó, trước mặt ta xuất hiện một tia sáng chói lòa, tia sáng xẹt ngang, toàn thân ta bị hút vào trong đó, thấy một thế giới hoàn toàn khác với thế giới hiện nay trong thiên hạ..."

Những gì tiếp theo, đối với Yểm Dư và Kinh Lâm mà nói, đều là chưa từng nghe qua, còn với người hiện đại như chúng ta thì đều đó cũng dễ hiểu. Khánh Kỵ đem chuyện thần thoại cổ tích và sự vật trong xã hội hiện đại kết hợp lại với nhau, thêu dệt cho họ nghe về một thế giới thiên đường. Thời đại Xuân Thu, truyện thần thoại Trung Quốc chưa có hệ thống hoàn thiện, người ta chỉ biết trên có thượng đế cai quản chúng sinh, còn chi tiết thế nào không một ai đủ sức tưởng tượng ra.

Khánh Kỵ nói đến nào là Nam Thiên môn, Kim Lăng điện, Tứ đại thiên vương, Bát đại kim cang, ba mươi ba tầng trời, sứ giả đi phong hỏa luân, rồi thiên lí nhãn, thuận phong nhĩ, thậm chí còn bịa ra các mỹ nhân mắt xanh môi đỏ mặc váy ngắn lái xe hơi, kết hợp cả cổ kim Đông Tây. Yểm Dư và Kinh Lâm nghe đến nỗi há hốc mồm không ngậm lại được.

Tóm lại, ý của câu chuyện này là: Khánh Kỵ vốn đã bỏ mạng, nhưng lên được thiên đình, được thần tiên thương hại, nên cho phép hắn tiếp tục sống để báo thù phục quốc, còn về những phát minh kì lạ của hắn, thật ra chỉ là lúc ở trên thiên đường hắn nhìn thấy mà thôi.

Câu chuyện thần tiên của Khánh Kỵ đem nói ra vào thời hiện đại còn hù dọa được đám dân đen quê mùa, nói gì đến thời đại Xuân Thu hơn hai ngàn năm trước, hắn kể xong câu chuyện bịa đặt, quay qua nhìn Yểm Dư và Kinh Lâm, thấy trong ánh mắt của hai người toát ra vẻ kính nể sợ sệt, cứ như trước mặt là một pho tượng thần.

Hội Kê, kinh đô Việt quốc, quần thần đang tranh luận nhau kịch liệt trên đại điện.

Đại phu Duệ Dong của Việt quốc khẳng khái mở lời phân tích: "Đại vương, hiện giờ Ngô vương Hạp Lư đang sa lầy ở Sở quốc, chính là cơ hội tốt cho chúng ta lợi dụng, năm trước Việt quốc ta lại bại trận lần nữa cho Ngô quốc, buộc phải nhục nhã xưng thần với Ngô, hai năm nay triều cống cho Ngô chịu nhiều sỉ nhục của người Ngô rồi, lúc này đây là lúc trả món nợ này."

Đại phu Nhược Thành cũng đồng ý: "Duệ Dong đại phu nói có lí lắm, giờ ta nhận được tin Phù Khái bên Ngô vì người Đông Di làm loạn, đã quay về Hàn Ấp, binh lực ở Ngự Nhi thành không có bao nhiêu, nếu lúc này đại vương xua quân phạt Ngô, chiếm thành trì của chúng, thế như chẻ tre."

Cao Như đại phu nói: "Đại vương, thực lực của Việt quốc ta không bằng Ngô quốc, thừa lúc Ngô đang trống rỗng xua quân thảo phạt chính là lúc này, hơn nữa chúng ta có thể lấy danh nghĩa giúp đỡ Sở quốc, nước Sở bao la rộng lớn, người Ngô tuy chiếm cứ Dĩnh Đô nhưng không đủ sức xâm lấn cả nước Sở đâu, bây giờ Tần, Vệ, Tống, Trần, Lỗ các nước đều xuất binh cứu Sở, Sở vương chắc sẽ quay về Dĩnh Đô, lúc đó chúng ta và Sở trở thành liên minh, người Ngô có hận cũng e dè chúng ta mấy phần."

Đại Tranh Chi ThếTác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 197: Đánh úp sau lưng (Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Việt vương Duẫn Thường ngồi trên đại điện, nghe xong phân tích của quần thần ra vẻ gật gù. Hạo Tiến đại phu lại căn ngăn: "Đại vương, theo ý tiểu thần, Việt quốc ta không nên tiến đánh Ngô quốc vào lúc này. Chư hầu khắp thiên hạ chỉ có Việt quốc ta là gần Ngô nhất, binh lực lại kém xa Ngô, lần này thừa cơ xuất binh tập kích, người Ngô chắc ôm hận trong lòng. Đợi khi thiên hạ ổn định, Việt quốc ta sẽ bị Ngô tính sổ, người Sở quen thói bỏ mặc người khác, Yểm Dư, Chúc Dung chính là tấm gương còn đó, Việt quốc ta nên thừa lúc thiên hạ đại loạn, nghỉ dưỡng quân sĩ, gia tăng sản xuất tăng cường sức mạnh quốc gia, không thể đi theo vết xe đổ của Yểm Dư, Chúc Dung được ạ."

Duẫn Thường chau mày đăm chiêu, quay đầu nhìn sang kế bên, một thanh niên đang đứng bên cạnh hắn, người này thân hình cao ốm, nước da ngăm đen, cổ dài như cổ rắn, hai mắt sắc lẹm như chim ưng, mũi cao, mặc một chiếc áo bào trắng toát, đang chăm chú lắng nghe ý kiến của các đại thần.

Việt vương Duẫn Thường mỉm cười hỏi: "Hoàng nhi, hiện nay Ngô quốc trong ngoài đều khó khăn, Việt quốc ta có nên thừa cơ hội xuất binh thảo phạt, các đại thần ai cũng có ý kiến riêng, quả nhân muốn nghe thử ý kiến của con."

Chàng thanh niên đó nhe răng, để lộ một hàm răng hô trắng hếu, lúc ngậm miệng như chiếc mỏ chim nhọn hoắc, người này chính là con trai duy nhất của Việt vương Duẫn Thường, đương kim thái tử Việt quốc Câu Tiễn.

Câu Tiễn nghe phụ vương hỏi vậy vội bước lên một bước, bẩm: "Phụ vương, các đại thần ai cũng có ý kiến riêng, người chủ công cũng có lí, người muốn thủ cũng không sai. Nhi thần nghe xong ý kiến các vị đại thần, phân tích đắn đo lợi hại trong đó, cảm thấy hiện nay thiên hạ đại loạn, Việt quốc ta khoanh tay không làm gì chưa chắc đã là chuyện tốt. Phía nam Việt quốc là rừng rậm hoang vu, là nơi tụ tập của các bộ lạc man di, phía Tây là lãnh thổ của Sở, Sở muốn mở rộng bờ cõi buộc phải tiến đánh Ngô phía Bắc, mở ra con đường thông ra trung nguyên. Ngô quốc bây giờ gây thù chuốc oán khắp nơi, cùng với các nước xung quanh là Sở, Lỗ, Đông Di nhóm lên ngọn lửa chiến tranh, đây chính là cơ hội cho Việt quốc ta tận dụng, nhân lúc hắn đang suy yếu lấy mạng hắn luôn, lúc này mà đóng cửa lại cố thủ, đợi khi Ngô quốc nghỉ ngơi dưỡng sức xong lại chà đạp lên đầu lên cổ người Việt ta à?"

Việt vương Duẫn Thường cười ha hả, vỗ đùi một cái, quét mắt về phía quần thần: "Những lời của hoàng nhi hợp với ý của quả nhân..."

Câu Tiễn lại nhe răng: "Phụ vương hãy khoan!"

"Hoàng nhi còn có gì muốn nói?" Việt vương Duẫn Thường thật ra đã có ý xuất binh, lại cố ý quay qua hỏi con trai, chỉ là hy vọng con trai hiểu được tâm ý của mình, nhờ vào miệng của Câu Tiễn nói ra quyết định xuất binh, từ đó tạo lập uy tín của thái tử trước mặt quần thần, đó cũng là tâm ý của người làm cha. Câu Tiễn quả nhiên tán thành xuất binh, trong lòng Duẫn Thường mừng rơn, vừa định hạ lệnh triệu tập binh mã thảo phạt Ngô quốc, vừa nghe con trai định nói tiếp, bèn cười tủm tỉm quay đầu lại hỏi.

"Dạ, phụ vương, nhi thần cho rằng phạt Ngô là chuyện chắc chắn phải làm, nhưng trước mắt thời cơ chưa đến."

"Trước mắt thời cơ chưa đến? Hoàng nhi cứ từ từ nói ra ý kiến của mình cho quả nhân và các vị đại thần nghe coi sao."

"Dạ, phụ vương. Việt quốc ta phạt Ngô, có ba điều kiện thuận lợi: một là Ngô vương Hạp Lư đang dẫn quân bên ngoài, dằng co với quân Sở và binh mã của Khánh Kỵ; hai là Phù Khái rời khỏi Ngự Nhi thành, trấn thủ Hàn Ấp đề phòng người Đông Di xâm lấn, tạo điều kiện cho Việt quốc ta Bắc tiến; ba là Ngô Sở kết oán, chư hầu khắp thiên hạ ngả về hai phe, nếu Việt quốc ta khai chiến với Ngô sẽ trở thành liên minh của Sở, kết giao được với một Sở quốc hùng mạnh.

Nhi thần nói lúc này chưa phải là thời cơ ra tay, nguyên nhân cũng có ba: một là tình hình khắp thiên hạ chưa rõ, nếu liên quân Tề Tấn nam tiến, quân Tần lùi về Quan Nội, tình hình thiên hạ xoay chuyển, Việt quốc ta giơ cao ngọn cờ giúp Sở không phải là hành động khôn ngoan; hai là lúc này khởi binh, Hạp Lư nghe tin trong nước xảy ra chiến loạn, lập tức rút quân về Ngô, đại quân của hắn vẫn chưa đại chiến nhiều trận với quân Sở, nguyên khí chưa bị tổn thương nặng, nếu hắn rút về nước là ta mất cơ hội; ba là Ngô quốc Khánh Kỵ, quyết chí giết chết Hạp Lư đoạt ngôi vị Ngô vương, cho dù hắn vây khốn Hạp Lư ở Sở, thậm chí giết chết Hạp Lư, Phù Sai ở Ngô cũng sẽ lập tức đăng cơ, Khánh Kỵ muốn đoạt vương vị, buộc phải đánh về Ngô mới được. Với thực lực của Việt quốc ta hiện giờ, vẫn chưa đủ sức chiếm cả nước Ngô, lúc này đánh Ngô chẳng qua chỉ là thừa cơ cướp bóc chút của cải. Thế tại sao chúng ta không chịu khó nhẫn nhịn chờ đợi thêm, đợi một thời cơ thích hợp hơn nào?"

Nhược Thành đại phu nghi hoặc hỏi: "Thời cơ thích hợp hơn? Ý của điện hạ là...?"

Câu Tiễn cười lạnh lùng, ánh mắt sắc lẻm: "Khánh Kỵ sẽ không chịu ở lại Sở quốc ra sức giúp Sở vương đánh về Dĩnh Đô đâu, hắn cuối cùng cũng phải đánh về Ngô quốc, đến lúc đó hắn bỏ hết tất cả vốn liếng ra đánh một trận, không còn đường lui nữa. Còn Hạp Lư, chắc sẽ dồn toàn lực ra quyết tử chiến với Khánh Kỵ một phen. Hai bên bước vào cục diện một mất một còn, đến lúc đó chúng ta mới khởi binh đánh Ngô, bọn họ là kẻ thù bất cộng đái thiên, Hạp Lư có chịu rời bỏ vương vị giao nộp thủ cấp? Hay là Khánh Kỵ chấp nhận từ bỏ vương vị và thù cha? Hai thứ đều không, họ sẽ không vì giữ vẹn toàn cho Ngô quốc mà hy sinh bản thân, khi đó chúng ta hạ có thể đạt được mục đích cướp bóc của cải của Ngô quốc, trung có thể ép một trong bọn họ xưng thần với Việt quốc ta để đổi lấy trợ giúp, thượng, chính là...ta thừa lúc họ lưỡng bại câu thương, binh lực hao tổn gần hết, chiếm trọn cả Ngô quốc."

Quần thần chăm chú lắng nghe, khắp đại điện im phăng phắc. Câu Tiễn mỉm cười đắc ý, lại nói: "Mà ba điều kiện thuận lợi cho chúng ta phạt Ngô, đến lúc đó không những không biến mất, ngược lại còn được chúng ta vận dụng linh hoạt, chủ động nắm bắt hơn."

Duẫn Thường nghe xong, nhắm mắt trầm tư giây lát, đột nhiên bật cười to tiếng.

Đại phu Kế Nghiên bước lên hai bước, vái lạy Duẫn Thường, vẻ thần phục lên tiếng: "Đại vương, điện hạ thông minh, nhìn xa trông rộng, chúng thần thán phục. Đại vương ta có con trai tài giỏi, Việt quốc ta có thái tử thế này, là phúc của ngàn vạn dân chúng Việt quốc, chúc mừng bệ hạ."

Các đại phu Cao Như, Hạo Tiến đều bước cả ra, cung kính: "Kế này của điện hạ, tiến thoái đều ổn thỏa, chúng thần tán đồng."

Duẫn Thường hí hửng nhìn vào con trai, đập bàn cái rầm, phán: "Tốt, cứ theo kế hoạch của con ta. Đợi khi thời cơ đến, quả nhân sẽ phong chức đại tướng quân cho thái tử, con hãy đi mang giang sơn Ngô quốc về cho quả nhân."

Câu Tiễn chắp tay hành lễ, dõng dạc: "Nhi thần tuân lệnh!"

Chính vào lúc này, một vị tướng quân bước vào đại điện, vì hắn đang mặc áo giáp, nên hành quân lễ: "Chư Kê Dĩnh tham kiến đại vương."

Duẫn Thường kinh ngạc: "Chư Kê Dĩnh, lúc này chẳng phải ngươi nên ở Ô Thú sao? Sao lại quay về Hội Kê làm gì?"

Chư Kê Dĩnh nói: "Thần phụng mệnh Tử Minh tướng quân quay về Hội Kê, bẩm báo quân tình quan trọng với đại vương."

Duẫn Thường lập tức nhổm lên, hai tay chống vào mặt bàn, vẻ mặt khẩn trương: "Nói mau, đã xảy ra chuyện gì?"

Chư Kê Dĩnh chắp tay trả lời: "Đại vương, quân ta đóng tại Vọng Hải Quan phát hiện có mấy trăm chiến thuyền lớn nhỏ, cứ tưởng là quân Ngô đến đánh lén, Tử Minh tướng quân nhận được tin báo, một mặt tăng cường phòng bị, một mặt phái ra vài đội quân do thám theo dõi động tĩnh của chúng, thấy chúng đã chỉnh đốn đội ngũ xong xuôi, lại lén đi về phía Ngô quốc, sáng nghỉ tối đi, hành tung bí hiểm, hình như có ý đồ gì với Ngô, lực lượng này chưa rõ là bạn hay thù, Tử Minh tướng quân không dám manh động nên sai tiểu tướng về đây báo cáo với đại vương."

"Hử? Mấy trăm chiến thuyền vận chuyển binh lính trên biển..., chúng có khoảng bao nhiêu người?"

"Chắc cũng phải sáu bảy ngàn người trở lên, dưới một vạn."

Duẫn Thường dõi mắt vào quần thần, các đại thần đều kinh ngạc, quay qua bàn luận với nhau. Hai nước Ngô Việt, xưa nay lấy Ô Ấp làm ranh giới, sau khi Việt quốc bại trận phải xưng thần với Ngô, để tránh ở quá gần quân biên phòng của Ngô xảy ra xung đột, các điểm đóng quân của Việt đều lui cả về sau, tạo thành vùng đất không người ở rộng mười mấy dặm ở giữa hai nước, vùng đất này có nhánh sông thông ra biển lớn, nên gọi là Vọng Hải Quan.

Lúc bấy giờ thuyền bè đi lại hoàn toàn dựa vào sức người chèo, vận chuyển số quân lớn này theo đường thủy, hao tốn tiền của khá nhiều, trước giờ chưa ai làm vậy, nhưng bọn chúng lên bờ phía Vọng Hải Quan, có nghĩa là đó không phải quân Ngô đi tập kích Việt quốc, vì nếu đánh Việt cứ tiến quân theo đường bộ là được rồi, đâu cần phí bao nhiêu sức người sức của đi đường vòng ngoài biển vào cho tốn công tốn sức. Hơn nữa sau khi lên bờ chúng lại lén vào lãnh thổ Ngô quốc, chúng là ai mới được chứ?

Duẫn Thường và Câu Tiễn nhìn nhau, đều không hẹn trước mà nghĩ tới một người.

Câu Tiễn lộ vẻ phấn khích, buộc miệng kêu lên: "Phụ vương, thời cơ của chúng ta đã đến!"

Đại Tranh Chi ThếTác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 198: Tôn Vũ trổ tài (Thượng)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Vọng Hải Loan, chính là gần khu vực Hàng Châu thời hậu thế, nhưng khi đó vùng Hàng Châu vẫn còn ngập trong biển nước, địa hình địa lí khác xa so với hiện nay. Tôn Vũ sau khi cho đại quân lên bờ, lệnh cho một bộ phận binh lính quen thuộc thủy tính cưỡi thuyền nhẹ dọc theo bờ biển tiến lên Bắc, còn quân chủ lực đi đường bộ, chia làm hai ngả đánh tan hai đồn biên phòng của quân Ngô đóng tại biên giới.

Đang đại chiến ở nước Sở, quan hệ giữa nước Ngô với Lỗ quốc và các bộ lạc Đông Di ở phương Bắc ngày một căng thẳng, tuy nhiên Việt quốc trong mắt người Ngô có thực lực kém xa, không phải là mối đe dọa chí mạng, đóng quân ngay đây chỉ là phòng hờ Việt quốc thừa lúc chủ nhà đi vắng, như con chó điên xộc vào chuồng ngoặm một miếng thịt rồi bỏ đi, tận đáy lòng người Ngô đã tồn tại ý nghĩ khinh thường người Việt, nên mới tạo cơ hội thuận lợi cho Tôn Vũ dễ dàng dẹp yên đồn biên phòng của Ngô.

Khi đội thuyền của Tôn Vũ áp sát doanh trại thủy quân của Ngô quốc, đang vào lúc tờ mờ sáng, tinh thần cảnh giác của con người vào lúc kém nhất. Mấy chục chiếc thuyền cánh én nhỏ lặng lẽ tiến về phía Ngô doanh, hai chiếc thuyền đi trước dùng nỏ Sở bắn rụng số binh lính gác đêm trên chòi canh giữa sông, mở đập ngăn ra, đội thuyền nhanh chóng ùa vào.

Loại thuyền cánh én nhỏ này dài không quá mười thước, chỉ đủ chở mười người, nhưng lại xoay chuyển linh hoạt, dùng trong tấn công phòng thủ đều thần tốc. Trên thuyền chỉ có hai tay chèo, tám người còn lại có bốn người cầm nỏ, dưới chân đặt sẵn rìu bự, bốn người kia ngồi xen kẽ với nỏ binh, giơ khiên yểm trợ cho đồng đội, họ được trang bị trường mâu, chuẩn bị khi hai thuyền giáp chiến sẽ đưa qua móc lấy thuyền địch, nhảy vào trợ chiến. Ngoài ra, trên thuyền còn để nhiều vật dụng dễ bắt lửa đã được tẩm dầu và rất nhiều chai lọ sành sứ.

"Trên sông có người, trên sông có người, tập kích...Á!" Một tên lính Ngô đang đứng bên mạn thuyền tè xuống sông thấy trong sương đêm đột nhiên xuất hiện mấy chiếc thuyền địch, sợ đến nỗi lập tức hét toáng lên.

Hắn mới kêu được ba tiếng, ba mũi tên đã cắm phập vào người hắn, tên lính gục đầu chết tươi, rơi tỏm xuống mặt nước, một chiếc thuyền cánh én nhanh chóng áp sát, ném mồi lửa lên chiến thuyền quân Ngô, có mấy tên lính Ngô nghe tiếng hét báo động còn chưa kịp mặc áo hấp tấp ùa ra ngoài, lập tức bị nỏ Sở tiêu diệt, số binh lính còn lại cúi rạp người trong khoang thuyền không dám động đậy lên tiếng.

Chiến thuyền thời đó đều làm bằng gỗ, một khi bắt lửa, lại ném lên đó mấy cái lọ sành, trong lọ đều chứa đầy dầu, lọ sành vỡ tan khi đập vào thân tàu, lửa cháy lan theo vệt dầu loang, cả con thuyền lập tức cháy bừng bừng như một ngọn núi lửa. Chiếc thuyền cánh én vòng nhanh qua chiếc thuyền đang cháy, tiếp cận tiêu diệt chiến thuyền tiếp theo.

"Phóng tiễn, phóng tiễn!" Một số binh sĩ quân Ngô giờ đã phát giác bị tấn công lóp ngóp bò dậy cầm cung tên chạy ra, bắn lung tung vào làn sương mờ ảo trước mặt, thuyền cánh én giơ khiên chắn tên bắn tới, đồng thời dùng nỏ Sở bắn trả, số binh sĩ phụ trách che khiên một tay cầm khiên, tì vào vai mượn sức, tay còn lại cầm lấy mồi lửa đợi khi thuyền cánh én tiến vào phạm vi tầm ném thì ném sang chiến thuyền phe địch, sau đó còn bồi thêm vài lọ dầu qua kia.

Khi số thuyền cánh én luồn lách như cá trê vào đội chiến thuyền đang dừng đậu ven sông của quân Ngô, sau lưng họ các thuyền lớn đang cháy to bừng bừng. "Người Việt đánh lén, thuyền lớn không di chuyển được, mau lên thuyền nhỏ cản quân địch lại!"

Cuối cùng cũng có mấy viên tướng lĩnh chạy ra, hốt hoảng hạ mệnh lệnh chỉ huy chiến đấu, lập tức có mấy chiếc thuyền con chở theo lính Ngô còn chưa kịp trang bị đầy đủ áo giáp vũ khí tiến lên chặn đầu số thuyền cánh én, binh sĩ trên thuyền cánh én bắn nỏ, không cần đứng lên giương cung lắp tên, chỉ cần đặt tên vào, núp sau tấm khiên bắn ra, đợi khi hai thuyền áp sát, binh sĩ hai bên phóng móc câu vào thuyền đối phương, binh sĩ trên thuyền cánh én cũng lập tức buông nỏ xuống, nhặt rìu bự lên phối hợp với lính cầm trường mâu nhảy vào chém giết.

Số binh lính này đều trước sau trải qua huấn luyện nghiêm ngặt bởi Khánh Kỵ và Tôn Vũ, giỏi về sử dụng binh khí ngắn khi giáp chiến cự ly gần, mà quân Ngô hấp tấp lên thuyền ra trận, chưa kịp mang theo binh khí dài, với lại chúng không phải là đội quân kiếm thủ vang danh thiên hạ của Ngô quốc, chiến đấu trên thuyền con chật hẹp, quân địch sử dụng rìu to có sức, bên cạnh còn có trường mâu phối hợp, còn quân Ngô dùng kiếm ngắn bị thua thiệt, chúng không dám dùng kiếm tiếp chiêu với rìu bự của đối phương, vì chiến đấu trong khu vực chật hẹp lại không tận dụng được ưu điểm linh hoạt của kiếm ngắn, dưới thế chém mạnh của rìu bự hết tên này đến tên khác rơi tỏm xuống nước, máu loang đỏ cả mặt sông.

May là đám thuyền cánh én này không muốn đánh lâu, một khi đốt cháy một chiến thuyền, lập tức quay sang một chiến thuyền khác, số thuyền này vốn đang dừng đậu san sát nhau trên bến, thuyền cánh én lợi dụng khe hẹp len lỏi đi lại, còn thuyền to của Ngô lại không nhúc nhích được. Lúc này trời tờ mờ sáng, thủy triều dâng cao, gió thổi mạnh vào bờ, số thuyền chiến cháy rực như ngọn đuốc bị gió thổi cuốn vào bên trong, bắt lửa cả vào các thuyền khác, hàng chiến thuyền sau cùng chưa bị cháy, nhưng khói bay mù mịt làm cho quân Ngô tối tăm mặt mũi, không còn quan sát gì được nữa.

Số thuyền cánh én thấy đã hoàn thành xong nhiệm vụ tập kích, lập tức chia ra hai cánh đột phá vòng vây, số binh lính quen thuộc thủy tính châm lửa lên cả thuyền cánh én, đâm sầm vào chiến thuyền quân Ngô, sau đó nhảy xuống nước bỏ trốn.

Doanh trại quân Ngô đóng trên bờ là trận địa phía trước Ngự Nhi thành, trong doanh trại có hai ngàn binh sĩ, quân chủ lực của Tôn Vũ tiến đánh chỗ này không cần đánh lén, mà là phái một cánh quân tiên phong bày binh bố trận, lấy kiếm gõ vào khiên, khiêu chiến với quân Ngô trong doanh trại.

Sương đêm mịt mờ, mờ mờ ảo ảo không nhìn rõ đối phương có bao nhiêu binh mã, người Ngô nghe thấy bên ngoài huyên náo, trong đó còn xen lẫn tiếng địa phương của Việt quốc, cứ tưởng là quân Việt đến tập kích, Việt quốc có binh lực ít ỏi, giao chiến với Ngô quốc chuốc lấy thất bại như cơm bữa, tướng sĩ quân Ngô vốn đã kiêu căng không xem quân Việt ra gì, đại tướng Tây Môn Thắng nghe báo có người Việt khiêu chiến, lập tức tập hợp binh mã ra trận, quay lưng về phía doanh trại bày trận tiếp chiến.

Theo thông lệ, đối phương đã ngang nhiên khiêu chiến, hai bên sẽ bày binh bố trận, sau đó binh sĩ hai bên mới xông vào nhau chém giết, chưa đến lúc phân thắng bại thì đội quân do chủ tướng thống lĩnh ít khi phát động tấn công. Nhưng không ngờ binh mã của Tây Môn Thắng vừa bước ra khỏi doanh trại, đội hình còn chưa bày xong, "Quân Việt" bên kia lập tức ùa sang tấn công, mưa tên vù vù bắn về phía quân Ngô.

Muốn cất giữ cung tên trong miền sông nước phương Nam không hề dễ, nên cung tên không phải là vũ khí chủ lực trong các cuộc giao tranh Ngô Việt, Tây Môn Thắng nằm mơ cũng không ngờ kẻ địch lại trang bị nỏ mạnh, binh chủng hoàn toàn khác với quân Việt trước đây, binh mã của hắn vang lên tiếng rú thảm thiết trong đêm.

"Bắn tiếp!" Tôn Vũ đứng ở trận tiền, dõng tai lắng nghe tiếng kêu gào đau đớn phía bên kia chiến tuyến, lạnh lùng ra lệnh. Đội cung nỏ thứ hai đã chuẩn bị sẵn lập tức bắn tiếp một chập tên, "Vù, vù!" tiếng tên bay xé gió lao đi, ào ạt trút xuống đầu quân Ngô tội nghiệp. Tiếng lích kích kéo căng dây cung lại vang lên, đội cung nỏ đầu tiên bắn tên đi nay lại lắp tên xong giơ nỏ lên.

Tên là một loại binh khí hao phí nặng, muốn cất giữ cung nỏ, cán tên, lông vũ, mũi nhọn đều hao phí không hề ít, vả lại phần lớn là chỉ bắn tên vào đợt đầu trước khi tấn công, tên bắn ra khó có cơ hội thu hồi lại, hai nước Ngô Việt không giàu bằng Sở quốc rộng lớn và các nước chư hầu trung nguyên, nên cung tên có rất ít, về vấn đề tiền của là một lí do lớn ảnh hưởng.

Hai lượt tên bắn ra, đó là một món hao phí lớn, Chúc Dung công tử đứng xem bên cạnh có hơi tiếc đứt ruột, Tôn Vũ không hề biến sắc, lạnh lùng ra lệnh: "Tiếp tục bắn! Nổi trống lên, tấn công hai cánh!" Cùng với giọng nói của Tôn Vũ, trận mưa tên thứ ba được bắn ra, hai cánh quân trái phải được sương mù che chắn nghe hồi trống xông trận, dũng mãnh lao lên như hổ dữ xuống núi...

Đại Tranh Chi ThếTác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 198: Tôn Vũ trổ tài (Trung)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Doanh trại quân Ngô khắp nơi hoang tàn, Tôn Vũ đứng trên một gò đất bị cháy đen còn bốc khói dõi mắt về phương xa, lúc này sương mù đã tan, số quân Ngô bị bắt làm tù binh đang bị áp giải cúi đầu lủi thủi đi ngang sau lưng Tôn Vũ.

"Tôn tướng quân quả nhiên tài giỏi, dẫn dụ Phù Khái đi Hàn Ấp, xách động người Đông Di chế ngự binh lực của hắn, sau đó vận chuyển cả vạn đại quân theo đường biển vòng về sau lưng địch lên bờ, chủ ý này bổn công tử ngay cả nghĩ còn không dám nghĩ đến, chúng ta chỉnh đốn binh mã, còn phải chiếm lấy Ngự Nhi thành, sau đó mới đánh thẳng vào Cô Tô được, trận chiến sắp tới không dễ đánh đâu, nhưng có Tôn tướng quân ở đây, bổn công tử tràn trề lòng tin."

Chúc Dung tuy là thân phận công tử, nhưng đội quân này là do Tôn Vũ thống lĩnh, trong đội quân này uy danh của hắn kém xa Tôn Vũ và Anh Đào, chính vì vậy với tính khí cao ngạo nóng nảy của hắn, ngược lại phải cung kính nể trọng Tôn Vũ.

Tôn Vũ mỉm cười nói: "Công tử quá khen rồi, Anh Đào đang tập kích thủy trại quân Ngô, đợi huynh ấy về, chúng ta lập tức rời khỏi đây, Ngự Nhi thành không thể đánh, đó là cứ điểm quan trọng Phù Khái đề phòng người Việt, tuy thành trì không to lớn hiểm trở, nhưng Phù Khái dụng tâm xây dựng, bố phòng nghiêm ngặt, chúng ta dễ dàng đánh thắng ở đây chứ không dễ chiếm giữ Ngự Nhi thành đâu, chúng ta cũng không thể tốn quá nhiều thời gian ở đây, đánh trận ở đây vẫn phải dùng cách khi chúng ta xuất binh tại Phi Hồ cốc, chia nhỏ binh lực, hẹn trước thời gian, địa điểm, phái tướng lĩnh trung thành đáng tin cậy, thông thạo địa hình Ngô quốc dẫn đường, chia ra đến địa điểm tập kết."

Chúc Dung nghe xong giật mình kinh ngạc: "Chia nhỏ binh lực, muốn vòng qua Ngự Nhi thành theo đường rừng không phải là không làm được, nhưng làm như vậy chẳng phải là cho phép quân thủ thành ở Ngự Nhi chặn mất đường lui của ta?"

Tôn Vũ nói vẻ nghiêm nghị: "Công tử, từ khi chúng ta đặt bước lên lãnh thổ Ngô quốc, chúng ta đã không còn đường lui rồi. Chúng ta không thể cứ mải miết công thành đoạt trại, đánh về phía Cô Tô thành, bằng không khi chúng ta tới được Cô Tô, binh mã đã bị hao tổn gần hết, đến lúc đó đâu còn sức mà công thành? Thừa lúc Phù Khái bị thu hút về phía Hàn Ấp, chúng ta phải nhanh chóng tiến vào Cô Tô, còn về việc quân Ngô ở Ngự Nhi thành chặn đánh sau lưng ta thì..., cho dù không có cánh quân này, một khi chúng ta xuất hiện tại Cô Tô, các lộ binh mã thủ thành khắp nơi đều sẽ ùa vào chúng ta thôi."

Chúc Dung hứ một tiếng, nhíu mày nói: "Được, bổn công tử cũng phải đích thân dẫn một đội quân, quân trấn thủ Vũ Nguyên là bộ hạ cũ của ta, Cơ Quang tuy thay hết tướng lĩnh của ta, nhưng không thể nào đuổi hết quân của ta về nhà, hắn dẫn quân giao chiến với ta ở Sở, thế nào cũng không dám dùng đội quân ta từng làm chủ soái này, mà điều họ đi trấn giữ duyên hải phía Đông Nam. Ta dẫn quân theo, nói không chừng có thể lôi kéo đội quân này, lúc đó binh lực của chúng ta sẽ mạnh lên đôi chút."

Tôn Vũ trầm ngâm: "Thế thì được, chỉ là công tử nên cẩn thận giữ gìn an toàn cho bản thân, chúng ta bàn bạc quyết định xong thời gian, địa điểm tập hợp, công tử mới xuất phát cũng chưa muộn. Từ khi tiếp tay quản lí Phi Hồ cốc, Tôn Vũ đã phái người không ngừng đến Cô Tô thành dò thăm tin tức..."

Nói đến đây, Tôn Vũ thở dài ngao ngán: "Cô Tô thành do Ngũ Tử Tư xây dựng, ở phương Bắc có lẽ còn chưa được xem là tòa thành hiểm trở không thể leo lên, nhưng ở Ngô quốc đã là đại thành trước đây chưa từng có. Lúc Ngũ Viên xây thành cũng đã nghĩ đến trường hợp kinh đô bị vây đánh, trong thiết kế vận dụng khéo léo ưu thế địa hình, tòa thành này dễ thủ khó công, hơn nữa đương kim thái tử Phù Sai cũng không phải thứ bất tài vô tướng, sắp xếp việc bố phòng đâu ra đó, muốn dựa vào hơn vạn quân tập kích vào thành, khó đấy! Còn nếu bao vây tấn công mạnh mẽ, chỉ dựa vào số lính thủ thành, chúng chiếm ưu thế địa hình, chúng ta cũng chưa chắc giành phần thắng, ngoài ra còn phải đề phòng quân địch quay về cứu viện, vì thế ta mới ra sức giữ gìn binh lực, đi vòng theo đường biển đến sau lưng địch, đâm nhát mạnh vào tim chúng, khiến chúng trong ngoài không thể tiếp ứng lẫn nhau. Cái chúng ta làm được chỉ có bấy nhiêu, nếu vọng tưởng chiếm trọn Cô Tô, dựa vào chút binh lực của chúng ta, đợi khi Khánh Kỵ công tử về Ngô quốc, lúc đó chỉ kịp dọn xác giùm ta mà thôi."

Chúc Dung ngớ người, vội hỏi: "Mục đích của chúng ta không phải là chiếm giữ Cô Tô thành, thủ thành đợi viện binh sao? Thế chúng ta xua quân vào sâu, chẳng lẽ không nguy hiểm?"

Tôn Vũ lắc đầu: "Chưa chắc, nếu chúng ta đặt mục tiêu tấn công thành Cô Tô, vậy phải hứng chịu sức tấn công của quân Ngô cả trong và ngoài thành, với binh lực của chúng ta chẳng khác nào tự sát. Việc dùng binh, gấp mười bao vây, gấp năm tấn công, binh lực chúng ta thua xa đối phương, chỉ còn cách cơ động tác chiến, dắt mũi quân địch chạy theo chúng ta. Binh lực trong Ngô quốc hiện giờ không đủ tạo thế bao vây ta, nên quân ta ở đây vẫn còn nhiều đất dụng võ. Thứ chúng ta phải làm là tạo cơ hội, trái chín ắt sẽ rụng, đợi Khánh Kỵ công tử về nước, chỉ cần chúng ta tạo ra thanh thế và cơ hội đủ cho công tử lợi dụng, vậy trái đào chín mọng trên cây này, tự nhiên sẽ được công tử hái xuống."

Nói đến đây, ánh mắt Tôn Vũ sáng lên, gằn giọng: "Đương nhiên, đánh trận quyết liệt cuối cùng cũng phải đánh, nếu không sao tạo dựng thanh thế?"

Chúc Dung nghe vậy cho rằng Tôn Vũ muốn nhường công lao chiếm giữ Cô Tô thành cho Khánh Kỵ, tạo điều kiện thuận lợi cho Khánh Kỵ bước lên vương vị sau này, trong lòng cảm thấy không vui, hỏi: "Khánh Kỵ đang thu hút quân chủ lực của Cơ Quang ở Sở, bảo chúng ta đoạt lấy Cô Tô thành, đó không phải là kế hoạch đã vạch sẵn ư? Giờ sao Tôn tướng quân lại nói thế?"

Tôn Vũ trả lời: "Tôn Vũ cho rằng, thượng binh phạt mưu, kì thứ phạt giao, kì thứ phạt binh, kì hạ công thành. Với binh lực kém xa đối phương, xét vị trí địch là chủ ta là khách, với tài trí của Phà Sai, Phù Khái và tình hình Ngô quốc hiện tại phán đoán, tấn công đoạt thành không phải là hành động khôn ngoan vào lúc này. Kế hoạch định sẵn chỉ là dựa theo tình hình nắm bắt được lúc đó đưa ra quyết định, nay chúng ta đang có tình báo thiết thực hơn, thì nên xuôi theo thời thế thay đổi kế hoạch trước đây, tướng tại ngoại, quân lệnh có thể không nghe theo."

(Giải thích: "Thượng binh phạt mưu, kì thứ phạt giao, kì thứ phạt binh, kì hạ công thành." Câu này được trích trong Tôn Tử binh pháp, nghĩa là việc dụng binh hay nhất là sử dụng mưu mẹo, tiếp đến là ngoại giao, sau đó mới dùng đến binh sĩ chiến đấu, tấn công thành trì xếp cuối cùng.)

Chúc Dung tự biết mình tuy là thân phận công tử, nhưng Tôn Vũ là người của Khánh Kỵ, công tử như hắn trên thực tế không thể chỉ huy được binh mã của Khánh Kỵ, bèn nhẫn nhịn nói: "Chủ ý này của tướng quân đã báo với Khánh Kỵ chưa? Bây giờ đột nhiên thay đổi kế hoạch, tướng quân muốn phối hợp với Khánh Kỵ thế nào?"

Tôn Vũ nói: "Lát nữa đợi Anh Đào quay về, Tôn Vũ cùng công tử, Anh Đào tướng quân bàn định kế hoạch hành động chi tiết bước tiếp theo xong, lập tức phái tín sứ đưa tin đến công tử Khánh Kỵ ở Sở quốc."

Chúc Dung thất kinh hỏi: "Chúng ta đã xuất hiện tại Ngô quốc, tin này rất nhanh sẽ truyền đến tai Phù Sai và Phù Khái, tin của chúng ta đưa đi có kịp không? Khánh Kỵ có kịp ứng biến phối hợp không?"

"Việc này...Xin công tử cứ yên tâm, trước lúc tới Ngô, ta từng được một người giúp đỡ." Tôn Vũ cười một cách bí hiểm: "Theo cách của nàng ta, tin tức chắc chắn kịp thời nhanh chóng đưa tới cho Khánh Kỵ công tử."

Chúc Dung nghe Tôn Vũ nói chuyện gì cũng đưa Khánh Kỵ lên trước tiên, trong lòng đã không vui, giờ lại nghe hắn nói có người giúp đỡ vẻ bí hiểm, cứ tưởng Khánh Kỵ có cách thức đưa tin bí mật gì không nói cho mình biết, trong lòng càng thấy tức tối, hứ mạnh một tiếng: "Được rồi, ta đi bắt vài tên tù binh, coi có tra hỏi được tình hình Ngô quốc hiện nay không?" Dứt lời phất tay áo quay lưng hậm hực bỏ đi.

Tôn Vũ nhìn theo bóng lưng Chúc Dung, mỉm cười chua chát, hắn nhìn thấu suy nghĩ trong tim Chúc Dung, đó chính là lí do hắn phòng bị đối với Chúc Dung. Nhưng tên Chúc Dung này hãy còn có ích nhiều, bây giờ Khánh Kỵ ở xa tận Sở quốc, hắn lấy danh nghĩa thay Khánh Kỵ phạt Ngô phục quốc giết vào Ngô, chỉ dựa vào lí do này là không đủ, có Chúc Dung trong quân, chí ít giảm được chút khó khăn trở ngại, đối với đại nghiệp của chúa công Khánh Kỵ có tác dụng to lớn.

Biển thu nhận cả trăm con sông đổ vào, người làm việc lớn phải biết bao dung, tấm lòng bao dung gồm bao dung sở đoản của người khác, bao dung lòng riêng của người khác. Trong mắt không cho phép có một hạt cát, nếu không phải kẻ có mười hai phần tận trung thành khẩn thì không sử dụng, chúa công thế này chỉ thích hợp dẫn theo ba đến năm trăm hán tử không cầu sinh cùng ngày cùng tháng cùng năm, chỉ mong chết cùng năm cùng tháng cùng ngày làm sơn tặc đại vương. Khánh Kỵ không để bụng khi xưa Yểm Dư, Chúc Dung mang lòng riêng ở lại Sở quốc, không những đón họ về mà còn giao phó hai cánh quân Ngải thành và Phí thành vất vả tạo dựng vào tay họ, tấm lòng bao dung đó mới giống người làm việc lớn, Tôn Vũ đối với Khánh Kỵ ngày càng kính phục là vậy.

Đại Tranh Chi ThếTác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 198: Tôn Vũ trổ tài (Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Tôn Vũ quay đầu về phía biên giới Việt quốc, một khoảng trống mọc đầy cỏ dại trải dài, không hề thấy bóng dáng doanh trại của quân Việt, nhưng Tôn Vũ biết ở phía bên kia, không biết có bao nhiêu đôi mắt đang theo dõi nhất cử nhất động của hắn, Tôn Vũ tủm tỉm cười đầy ẩn ý.

Dẫn theo hơn một vạn binh mã, bất ngờ tập kích vào Ngô, đoạt lấy kinh đô, kế hoạch này rất chủ động nhưng khả năng thành công lại khá thấp. Hồi đó Khánh Kỵ vốn định mượn thành đóng quân tại Lỗ quốc, từ đó quấy nhiễu quân Ngô, bảo đảm ảnh hưởng của mình trong người Ngô không mất đi, tấn công Ngô quốc vẫn phải theo hướng chính diện.

Người Lỗ không chịu vì Khánh Kỵ mà xung đột trực tiếp với Ngô, hắn bèn tính kế thứ hai, bí mật xây dựng một đạo quân ngay tại Lỗ quốc, lúc chinh phạt Ngô quốc, lấy đạo quân bên Vệ làm chủ lực, tân quân bên Lỗ tiếp ứng, giáp chiến hai mặt, chia cắt binh lực của Ngô vương Hạp Lư, tận dụng tất cả khả năng tạo điều kiện có lợi cho đại nghiệp phạt Ngô phục quốc.

Hồi sau Ngô quốc phạt Sở, tình hình thay đổi, Khánh Kỵ mới căn cứ theo tình hình mới, quyết định đem quân đội đóng ở Vệ của mình đến liên minh với người Sở, thu hút quân chủ lực của Ngô tại Sở, cánh quân mới xây dựng tại Lỗ vốn định chỉ để quấy nhiễu đánh tuyến thứ hai nay phải gánh vác trọng trách trở thành đạo quân chủ lực đánh chiếm kinh đô của Ngô quốc, kế hoạch tác chiến vẫn còn đang không ngừng điều chỉnh hoàn thiện theo tình hình Ngô quốc hiện nay.

Trên thực tế, dù cho quân chủ lực của Ngô đang đánh trận ở Sở, chỉ dựa vào một cánh quân mới thành lập, ý đồ công phá kinh đô Ngô quốc là một nhiệm vụ bất khả thi. Khánh Kỵ dám mạo hiểm quyết định làm vậy, dù bản thân hắn không phát hiện ra, nhưng trong tiềm thức của hắn chịu một lí do quan trọng ảnh hưởng: Tôn Vũ.

Vì Khánh Kỵ biết rõ tài năng quân sự của Tôn Vũ trong lịch sử Trung Quốc, tuy hắn ba lần bảy lượt tự nói với bản thân, muốn giành thắng lợi trong chiến tranh tuyệt đối phải dựa vào sức mạnh, hắn nói với Yểm Dư và Kinh Lâm tại Bách Tân hồ cũng là vậy, nhưng hắn vẫn còn chút mê tín về khả năng của Binh thánh Tôn Vũ.

Tôn Vũ tiếp quản đội quân Phi Hồ cốc, với lại sau khi xác định rõ mục tiêu phạt Ngô, từng lần lượt phái đi nhiều mật thám lẻn vào Ngô quốc thu nhặt tình báo, biết người biết ta, trăm trận trăm thắng, binh lực của hắn thua kém Ngô quốc, lại gánh vác trọng trách thế này, tuyệt đối không thể nhắm mắt làm liều khi chưa hoàn toàn hiểu rõ tình hình phía Ngô được.

Khi nắm rõ được tình báo, thêm vào phán đoán lực lượng đôi bên, Tôn Vũ cảm thấy chỉ dựa vào hành động quân sự khó có thể đạt được mục đích, do đó hắn thay đổi kế hoạch tác chiến của Khánh Kỵ, nhanh chóng đưa kế hoạch mới của mình đến nước Sở, Tôn Vũ tin chắc Khánh Kỵ sẽ ủng hộ quyết định táo bạo này của hắn.

Đội ngũ tập hợp chỉnh tề, vừa mới trải qua trận chiến, trên mặt các binh sĩ hãy còn mang sát khí đằng đằng, gươm giáo tua tủa, quân sĩ đứng im phăng phắc, trong rừng đám chim chóc bị tiếng chém giết kinh động bay trở về, lại không tìm được cái tổ quen thuộc, chúng bay tán loạn trên đầu các binh sĩ, có con đậu xuống dưới vai, cảm nhận được luồng sát khí đáng sợ đám người đứng đó đang toát ra, vội vỗ cánh xuyên qua rừng gươm giáo bay đi mất dạng.

Chúc Dung không khỏi nổi lòng thán phục, hắn cũng là người dẫn quân lâu năm, binh sĩ dưới trướng không thể nói là không anh dũng thiện chiến, nhưng so về kỉ luật nghiêm khắc, tuyệt đối không sánh bằng đội quân này của Tôn Vũ, cánh quân này mới được huấn luyện có mấy tháng thôi. Tên Tôn Vũ này đúng là một tướng tài, tiếc là dướng trướng hắn không có người tài như thế, bằng không cũng không thua thê thảm ở Sở quốc rồi...Chúc Dung rầu rĩ nhớ lại.

"Các tướng sĩ nghe lệnh!" Tôn Vũ hét to một tiếng, toàn quân im phăng phắc lắng nghe.

Tôn Vũ sải bước đi lên đài điểm tướng, quay mặt về phía đội ngũ đen sì sì, chỉ tay về phía xa, cất cao giọng: "Trận chiến hôm nay chỉ là tập dượt thôi, mục tiêu cuối cùng của quân ta chính là Cô Tô thành, ngoài ra đều không thèm nói tới. Nhưng...Cô Tô thành không dễ tấn công như chỗ này, Phù Sai và Phù Khái cũng không dễ chế ngự như Tây Môn Thắng."

Cột cờ kế bên đài điểm tướng đã hạ lá cờ của quân Ngô xuống, trên đó giờ treo lơ lửng một cái thủ cấp, chính là thủ cấp của Tây Môn Thắng, hắn chết dưới kiếm của Chúc Dung.

"Trong thiên hạ sẽ không xuất hiện một đạo quân giống như chúng ta, với binh lực không quá một vạn người, dám phát động tấn công vào kinh đô một nước, chỉ dựa vào việc này thôi là đủ cho thiên hạ lác mắt, đủ cho đám nam nhi nhiệt huyết chúng ta cảm thấy kiêu ngạo. Kể từ chỗ này, cho đến dưới chân thành Cô Tô, chúng ta phải đi xuyên qua chốt chặn quan trọng Ngự Nhi thành, còn phải đi xuyên các tòa thành Túy Lý, Lạp Trạch, Hình Ấp, Hoành Thượng..., phải vượt qua mấy chục phòng tuyến của địch, giao chiến với quân Ngô không rõ số lượng đang bố phòng khắp nơi.

Thủ đoạn của quân Ngô các ngươi thấy rõ, cho dù là người Đông Di bị bắt hoặc đầu hàng, tất cả đều bị Phù Khái bêu đầu, lần này tiến quân, chúng ta có tiến không lui, nếu muốn sinh tồn, chỉ còn cách tiêu diệt kẻ địch, nếu muốn kiến công lập nghiệp, sau này bái tước phong hầu, chỉ còn cách giẫm lên máu của quân địch mà đi tới. Cơ Quang có thể dùng năm vạn quân đánh chiếm Dĩnh Đô, chúng ta chỉ dùng dưới một vạn đoạt lấy Cô Tô. Cơ Quang nếu thua trận còn có Ngô quốc làm chỗ dựa, các ngươi không có chỗ dựa, Ngô quốc cũng chính là lối thoát hiểm duy nhất, chiếm lấy Cô Tô, các ngươi mới được sống, mới có căn cứ dung thân, mới được hưởng vinh hoa phú quý!"

Xung quanh doanh trại đã bị san thành bình địa, hơi thở của gió xuân hòa nhịp, đưa tiếng nói của Tôn Vũ vang cao vang xa.

"Các ngươi không phải đơn độc chiến đấu, bổn tướng đã phái người phi ngựa đem tin đánh xộc vào Ngô quốc của chúng ta đến báo cho công tử Khánh Kỵ, rất nhanh, công tử sẽ đưa đại quân quay về Ngô quốc, sát cánh chiến đấu cùng quân ta. Theo như sắp xếp, mỗi năm trăm người chia làm một đội, chia ra chọn đường mà tiến tới, đến địa điểm chọn trước tập hợp, nếu bị quân Ngô đánh tan thì dùng chiến thuật du kích, mạnh ai nấy ẩn náu, chờ đợi thời cơ đánh lén, hoàn thành sứ mệnh của các ngươi, có nghe rõ không?"

Ba quân đồng thanh hét lớn: "Dạ!"

Tôn Vũ phất tay một cái: "Xuất phát!"

Từng đội binh sĩ theo sắp xếp định sẵn phân ra nhiều nhóm, do một lữ soái thống lĩnh, chia nhau các hướng tiến sâu vào Ngô quốc, đại quân hành động nhanh chóng bài bản, theo quy chế trong quân của Khánh Kỵ, quân đội được chia theo quy cách lúc bấy giờ, năm người là một "Ngũ", có một ngũ trưởng; năm ngũ là một "Lượng", có một lượng tư mã; bốn lượng thành một "Tốt", có một tốt trưởng; năm tốt thành một "Lữ", do một lữ soái chỉ huy...Vậy một lữ vừa đúng có năm trăm người.

Khánh Kỵ chưa bao giờ cảm thấy chia quân ra như thế có thể nâng cao sức chiến đấu của quân đội lên, hơn nữa lúc đó mỗi một quân sĩ còn phải phân chia đẳng cấp và vũ khí sử dụng, khá là rắc rối, nên trong lúc huấn luyện quân đội Khánh Kỵ không mấy quan tâm chuyện chia quân này, chỉ khi Tôn Vũ tiếp quản mới ra sức huấn luyện, lúc này phải hành quân nhóm nhỏ mới thấy rõ tác dụng của việc chia quân.

Lữ này gồm năm trăm người, Tôn Vũ chỉ định một viên tốt trưởng thông thạo địa lí Ngô quốc làm Lữ soái, phụ trách thọt vào sau lưng địch, có quyền độc lập chỉ huy tác chiến trước khi đến được địa điểm tập kết. Nhìn toàn quân tập hợp, chia tách, tiến quân nhanh chóng mà không rối, Tôn Vũ mỉm cười hài lòng, chỉ trong một thời gian ngắn có thể huấn luyện một đội quân hỗn tạp gồm nông dân, thương lái, nô dịch, tù nhân và cả đám lưu manh vô lại thành ra thế này, tất nhiên đủ khiến chàng tướng quân trẻ tuổi cảm thấy tự hào.

Hơn nữa trong công tác huấn luyện, Tôn Vũ có ý đồ đặt nặng việc huấn luyện kỉ luật và ý thức của quân sĩ, theo tiêu chuẩn quan quân mà huấn luyện, làm vậy là chuẩn bị cho đại nghiệp phục quốc của Khánh Kỵ một khi thành công, giúp Khánh Kỵ nhanh chóng dựa vào đám người này khống chế tiếp quản quân đội Ngô quốc. Với lại vào thời này tin tức đi lại khó khăn, trong lúc không thống nhất chỉ huy được, cần mạnh ai nấy tác chiến độc lập, chất lượng chỉ huy trong quân cũng nâng cao rõ rệt, một khi tướng chỉ huy tử trận, có thể theo thứ tự cử người thay thế, không rơi vào cảnh như rắn mất đầu, chỉ huy chết là toàn quân tan rã.

Anh Đào và Chúc Dung cũng tự dẫn theo một đội quân, leo lên lưng ngựa, chắp tay chào Tôn Vũ, xong mạnh ai nấy dẫn quân rời khỏi. Tôn Vũ từ từ buông tay xuống, hít một hơi dài, hướng về phía Việt quốc, khóe môi nở một nụ cười bí hiểm.

"Đại trượng phu kiến công lập nghiệp, chính là lúc này!" Tôn Vũ phấn chấn tinh thần, sải bước đi xuống đài điểm tướng, leo lên lưng ngựa, dẫn theo số binh mã còn lại, đi về phía thảo nguyên mênh mông, sau lưng Tôn Vũ, doanh trại quân Ngô nay chỉ còn là một đống hoang tàn, một cột khói bốc thẳng lên trời cao...

Đại Tranh Chi ThếTác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 199: Phá nhuệ khí địch (Thượng)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Vương Tôn Hùng suất lĩnh một đội nhân mã, kìm ngựa cắn đũa (thời xưa khi hành quân bí mật, binh sĩ phải ngậm trong miệng mỗi người một chiếc đũa để không nói), bí mật tiến vào trong núi rừng . Trải qua một lần bại trận được thả về, bởi vì Ngô Vương vốn yêu thích hắn, chúng tướng cũng biết vậy mà hết lời cầu khẩn cho hắn, rốt cục hắn cũng được ân xá, cuộc đánh úp Na Xứ thành lần này, Vương Tôn Hùng chủ động xin đi giết giặc, lấy công chuộc tội rửa sạch nỗi nhục khi trước.

Thám mã của hắn đã điều tra tin tức chuẩn xác của Khánh Kỵ, chủ lực của Khánh Kỵ đã rời khỏi Na Xứ thành, tới sông La cứu viện quân Sở. Quân Ngô công kích quân Sở ở sông La, đã định liệu rằng chắc chắn Khánh Kỵ sẽ đi cứu, Quyền Ấp cùng Ngư Phản hai lộ đại quân ở ngoài sáng, đại quân Dĩnh Đô ở trong tối, đã bày ra thiên la địa võng ở sông La, nếu Khánh Kỵ tới sông La cứu viện, tất sẽ rơi vào bao vây trùng trùng điệp điệp, nếu hắn nhân cơ hội này đánh chiếm Ngư Phản hoặc Quyền Ấp, thì Vương Tôn Hùng đã nắm được đại bản doanh của hắn rồi. Quân coi giữ Ngư Phản và Quyền Ấp sớm đã có phòng bị chỉ cần đứng vững trước tiến công của hắn, ba đường quân Ngô ở sông La nuốt sạch quân Sở, sẽ hội quân tiến quân thần tốc về hướng đó. Khánh Kỵ đã mất đi căn cơ nếu như không muốn bị ăn tươi nuốt sống, chỉ có thể chạy trối chết, Na Xứ thành mà hắn đã khổ tâm gây dựng chẳng những rơi vào tay địch thủ, hơn nữa cả một con đường quan trọng cuối cùng để liên lạc cũng bị rơi vào tay quân Ngô. Hắn khó đối kháng lại quân Ngô, quân Sở lại bị tầng tầng vây quanh, chiến lược 'từng bước ép vào' cũng hoàn toàn bị phá sản.

Trong rừng rậm tối om om, binh lính dẫn đường phía trước dùng một cái đèn lồng được phủ vải đen, chỉ chiếu ra một chút ánh sáng ở phía dưới, chiếu sáng một khoảng không lớn ở dưới chân, trong rừng ngoại trừ âm thanh cỏ cây sột soạt vì ma sát, còn lại không có âm thanh gì khác. Nhưng mà Vương Tôn Hùng biết, ở tại sơn cốc phía bên kia rừng núi, cũng có một nhánh quân đội đang cùng hắn tiến lên. Sơn cốc ở hai bên sườn núi vốn có hai nhánh quân đội của Khánh Kỵ đóng quân, nhưng hiện tại chủ lực của Khánh Kỵ xuất chinh, quân trông giữ đỉnh núi đại bộ phận cũng bị điều động đi rồi. Nhưng mà Vương Tôn Hùng biết rằng nơi đó vẫn có binh sĩ đóng quân, vì sợ bị nhân mã lưu thủ ở Na Xứ thành phát hiện ra sớm sự tiến công của hắn, hắn chia binh ra làm hai đường, từ cánh trái phải lặn lội đi đường núi, tránh quân phòng thủ ở cốc khẩu.

Phía trước là một ngọn đồi nhỏ, đi qua ngọn đồi này, Na Xứ thành ở ngay tại một bình nguyên phía ngoài cốc khẩu. Một đường bình an vô sự, Vương Tôn Hùng trèo đèo lội suối đến mức toàn thân toàn mồ hôi thối âm thầm thở phào nhẹ nhõm.

"Mau, sắc trời sắp sáng rồi, phải nắm chắc thời gian. Ôn Thành, mang vài người sang mặt Đông liên hệ, mệnh cho bọn họ nhanh chóng tập kết chỗ này; Hà Lý tướng quân, ngươi phụ trách cản đường, mang nhân mã bản bộ của ngươi đi sang hướng Tây Bắc, hủy diệt Linh Tú Kiều, đóng quân ở chỗ đó, bảo hộ cánh quân thủ thành của ta, ngăn cản nhân mã của Khánh Kỵ đóng ở bến Bách Tân tới cứu viện; Công Sư, lập tức chặt cây cối chỗ này, chế tạo công cụ công thành thô sơ, cần phải hoàn thành trước hừng đông.

Mọi người nhất nhất lĩnh mệnh mà đi. Vương Tôn Hùng hai tay chống kiếm, đứng ở trước ngọn núi nhắm mắt không nói gì. Bên trong đầu hắn, đang hiện lên tình cảnh một lần giao chiến với Khánh Kỵ. Khánh Kỵ đột nhiên dẫn quân xuất hiện, chủ động xuất kích, ở trong hỗn chiến sử dụng phục binh chặt đứt sự phối hợp của xa trận và bộ binh của hắn, đánh đuổi bộ binh, vây lấy tinh nhuệ, đấu pháp xảo quyệt, khác rất nhiều với thủ pháp mà hắn quen dùng.

"Đã trải qua hơn một năm lang bạt kỳ hồ, trải qua nguy hiểm suýt nữa bỏ mạng, xem ra đã khiến cho Khánh Kỵ thay đổi rất lớn, hắn đã không còn là Khánh Kỵ trước kia. Chỉ có điều... mặc cho hắn có giả dối như cáo, lúc này cũng không còn cơ hội nữa. Đại vương đánh chiếm Sở đô, danh vọng nhất thời tăng cao, lại mang tài phú của nước Sở vận chuyển về nước Ngô, thực lực của nước Ngô tất nhiên cũng sẽ tăng lên nhiều. Chỉ cần vua của ta đánh bại liên quân, thành công trở về Ngô quốc, là sẽ có thể lập uy thu nạp nhân tâm của mọi người. Khánh Kỵ cho dù không chết, thì lúc đó cũng không thể làm gì với nước Ngô ta nữa."

Vương Tôn Hùng từ từ nhắm hai mắt, khóe miệng hơi hơi mỉm cười.

" Vương Tôn tướng quân, quân của mạt tướng đã tập kết xong, đang ở phía trước chờ mệnh."

Vương Tôn Hùng mở mắt ra, đã thấy Y Thu tướng quân từ sơn cốc phía bên kia sườn núi vội vàng chạy tới trước mặt, cách đó không xa phía sau nhân mã như rồng, đang uốn lượn mà tới.

"Ừm, bên ngươi có phát hiện gì không?"

" Không có, các huynh đệ đều vô cùng cẩn thận." Y Thu thở hổn hển lau mồ hôi trên trán: "Chỉ có điều vừa mới vượt núi tới đây, tất cả mọi người đều có hơi mỏi mệt."

Vương Tôn Hùng ngẩng đầu nhìn sắc trời tối như mực, nói: "Truyền lệnh, toàn quân nghỉ ngơi tại chỗ, ăn chút lương khô, uống nước, sau thời gian hai nén hương, công thành!"

Thời cơ đã tới, mặc dù không đốt hương, nhưng mà Vương Tôn Hùng với kinh nghiệm nhiều năm chinh chiến, đã có thể nắm giữ thời gian chính xác. Hắn lại lần nữa ngẩng đầu lên, ở chân trời đã ẩn ẩn hiện lên một vệt sáng.

" Công Sư, tạo ra bao nhiêu dụng cụ công thành rồi."

Công Sư vội vàng tiến lên bẩm: "Hồi bẩm tướng quân, bởi vì thời gian cấp bách, lại thêm sắc trời tối tăm, không thể thắp đèn, trong lúc vội vàng chỉ làm được hai chiếc xe, hơn mười cây gỗ, hơn hai mươi cái thang gỗ."

Vương Tôn Hùng thản nhiên cười: "Na Xứ thành không cao, hào không sâu, cổng không dày, quân trông giữ bên trong lại ít, như thế là đủ rồi, chúng ta chỉ cần tấn công một chút là có thể lấy được thành. Khánh Kỵ dù đi rồi, nhưng một khi phát hiện trúng kế, rất có thể sẽ phớt lờ quân Sở mà phá vây quay về, thời gian cấp bách, lập tức công thành!"

Vương Tôn Hùng lần này đi cấp bách, lại là đánh lén ban đêm, cho nên còn không kịp chế tạo những dụng cụ như trục bắn cung, là một chiếc xe có thể từ trên cao bắn tên thẳng vào trong thành, hay như trùng xa là loại xe để công phá cửa thành, còn có máy bắn đá cũng không kịp chế tạo. Có điều Na Xứ thành ở rất gần Dĩnh Đô, vốn là có đóng quân, nhưng bởi vì ở sâu bên trong nước Sở, không tính tới việc sẽ có kẻ thù vây bên ngoài thành, cho nên xây dựng thành cực kỳ đơn sơ, căn bản là không cần những công cụ công thành nặng nề, chỉ cần mấy thứ như vậy là đủ rồi.

Vương Tôn Hùng vọt tới dưới thành, quân coi giữ trên tường thành cũng đã phát hiện ra bọn họ, lập tức khoa chiêng báo nguy. Nương theo chút tia nắng ban mai, Vương Tôn Hùng thấy được trên tường thành đã có chút cải tạo, mặc dù tường vẫn không cao, nhưng lại có thêm những mái chắn để che cho quân phòng thủ thành, ở góc thành có chòi canh, chỉ có điều cổng thành vẫn cũ nát như cũ, không được trang bị cầu treo như những thành trì vốn được dùng vào quân sự.

Na Xứ thành trì thấp bé, vật tư phòng ngự chuẩn bị trong thành cũng không được đầy đủ, nếu hai bên nổi lên chiến trận, Vương Tôn Hùng nhìn số quân coi giữ trên tường thành, cùng với những khí giới phòng thủ của bọn họ, liền biết chắc chắn hôm nay có thể phá thành. Vương Tôn Hùng không khỏi mừng rỡ, lập tức cho cả đội dự bị cũng cùng đi vào. Hắn lo rằng Khánh Kỵ một khi phát hiện ra trúng kế, lập tức sẽ bỏ rơi quân Sở mà quay về sào huyệt, nếu trước khi hắn quay về mà không thể công được Na Xứ thành, vậy sẽ lâm vào tình huống hai mặt đều có địch cực kì nguy hiểm, cho nên lúc này bất kể hy sinh, mệnh lệnh tấn công mạnh mẽ.

Thang gỗ công thành quá ít, đã bị những lực sĩ trên tường thành dùng dây xích sắt và thiết chùy đánh hư rất nhiều. Hai chiếc xe đã được đưa đến hai bên cổng thành, Vương Tôn Hùng vẫn chưa sử dụng phương pháp đào địa đạo hoặc phá hỏng tường thành, Na Xứ thành tuy rằng tường thành sơ sài, nhưng muốn đào lên cũng không phải trong phút chốc là có thể, hắn cũng không an bài nhiều sĩ tốt bên cạnh hai chiếc xe, chỉ chất lên đó rất nhiều cỏ tươi, bên trên giội dầu hỏa, tới dưới thành thì châm cả xe cháy lên, khói đặc cuồn cuộn bay lên, khiến cho những quân coi giữ trên tường thành bị chảy nước mắt đầy mặt, mắt không thể thấy rõ gì nữa.

Lập tức liền có binh lính ôm thân cây to cứng rắn mạnh mẽ đánh vào cánh cửa, quân trên thành đỏ cả hai mắt, ném những thân cây, đá tảng xuống bên dưới, lại không ngừng bắn tên, mặc dù bắn được không ít binh lính công thành, nhưng mà binh lính Ngô quân dưới sự chỉ huy của Vương Tôn Hùng không ham sống sợ chết, một khi có người ngã xuống, lập tức có người lấp vào, liên tiếp vài cú va đập, cánh cổng thành mỏng mảnh kia đã lung lay muốn đổ.

Quân trong thành lớn tiếng kêu lên sợ hãi, lập tức có người lao lên chống đỡ cổng thành, chỉ có điều cánh cổng thành chỉ được gia cố một tầng ván gỗ kia không chịu nổi va chạm, liên tiếp vài cú va đập, chỉ nghe "ầm" một tiếng, cổng thành đã bị vỡ làm bốn, những binh lính trong thành đang chống cổng bị đâm bay ra sau, ngã xuống đất.

Vương Tôn Hùng mừng rỡ, lập tức quát: "Nổi trống, đoạt thành!"

Tiếng trống trận "bình bình" vang lên, quân Ngô rời khỏi hai bên tường thành chen chúc từ cổng chính mà vào. Vương Tôn Hùng xông ngựa lên đầu, cầm mâu tiến nhanh về phía trước, một đường đánh ngã hơn mười sĩ binh, suất lĩnh hơn năm trăm quân tiên phong vọt vào trong thành. Trong thành ào ra rất nhiều sĩ tốt, song phương nhất thời hỗn chiến ở một chỗ.

Đại Tranh Chi ThếTác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 199: Phá nhuệ khí địch (Trung)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Tiếng la hét rung trời, chỉ nghe thấy quân Ngô ở phía sau kêu lên sợ hãi không thôi. Vương Tôn Hùng rút mâu ra khỏi ngực một tên lính, quay đầu nhìn lại, không khỏi chấn động, Khánh Kỵ không tu bổ gia cố gì nhiều cho tường thành của Na Xứ thành, nhưng mà phía trên cổng thành lại tạo ra một cơ quan, khó trách trên cổng thành được xây thêm một tòa thành lâu, hóa ra là để treo một cánh cổng nữa. Lúc này mới có chưa tới hai ngàn người vọt vào cổng thành, từ cái cổng tò vò chính giữa đã có một cánh cổng rất nặng hạ xuống, uỳnh một tiếng rơi xuống đất, ngăn cách quân Ngô trong ngoài.

Lập tức chung quanh có rất nhiều tiếng hò hét vang lên, không biết nhảy ra biết bao nhiêu phục binh đứng ở trên tường thành, mỗi người trong tay đều cầm nỏ của người Sở, từ trên cao nhìn xuống, nhắm vào quân Ngô dưới mặt đất. Những binh lính vốn đang giao chiến với quân Ngô nhanh chóng lui về sau, tạo ra một khoảng cách với bọn chúng, cầm giáo dài đại kích ngăn trở bọn chúng đi về phía trước. Một gã thiên tướng thủ hạ của Vương Tôn Hùng thấy tình cảnh như vậy liền hét lớn một tiếng chĩa mâu xông lên, vừa mới chạy được hai bước, liền nghe thấy một trận tiếng mưa tên "sưu sưu" xé gió, tên thiên tướng kia đã bị bắn thành giống như con nhím, không kịp kêu lên lấy một tiếng, liền gục đầu ngã xuống đất.

Bên người Vương Tôn Hùng còn có người muốn lao lên, lại bị hắn nắm chặt lại, lúc này chợt nghe thấy từ cái lầu trên cổng thành có tiếng mõ vang lên, Vương Tôn Hùng quay đầu nhìn lại, chỉ thấy một người đội mũ công tử, thân khoác áo choàng trắng mỉm cười hiện ra trên bờ tường, vịn tường hô lên với hắn: "Vương Tôn Hùng, lần này có chịu quy hàng không?"

Vương Tôn Hùng nhìn thấy người này là công tử Yểm Dư vốn phải đóng ở bến Bách Tân, không khỏi thở dài một tiếng, biết rằng đã trúng độc kế của Khánh Kỵ.

Khi cánh cổng treo hạ xuống, trong ngoài bị ngăn cách, tiếng trống trận bên ngoài thành thình thình vang lên, từ xa chỉ thấy bụi đất mù mịt, từ phía ánh sáng mặt trời lao tới, tựa như nổi lên một trận bão cát hung dữ.

Quân Ngô ngoài thành trợn mắt há hốc mồm, tới tấp dừng chân trố mắt nhìn lại, chỉ thấy khoảng một trăm năm mươi cỗ xe xếp thành hình nón tam giác đang điên cuồng lao về phía tường thành. Na Xứ thành có khoảng năm mươi binh xa, hơn nữa lần trước thu được hơn một trăm binh xa, những chiến xa này lúc đó trên chiến trường tương đương với xe tăng hạng nặng hậu thế.

Na Xứ thành nằm trong cốc khẩu, nhưng mà bên ngoài cốc khẩu là một vùng đất bằng phẳng, chính là thích hợp cho chiến xa hành động. Lần này đại quân Khánh Kỵ cũng không chỉ như lần trước xua tan quân Ngô là xong việc, một trăm năm mươi cỗ chiến xa giống như máy ủi đất đang từ vùng bình nguyên trước cổng thành cày tới, bánh xe chạy tới đâu, cả vùng đầy máu tới đó.

Quân Ngô là vượt núi đánh lén, cũng không mang theo vũ khí nặng, một tiếng nổ lớn như tiếng sấm, hơn một trăm cỗ chiến xa đã đánh sâu vào trong đội quân công thành của quân Ngô, một Lữ soái quân Ngô hoảng sợ né tránh một cỗ chiến xa, lấy tay rút kiếm, đang muốn hét lên ra lệnh trường mâu thủ tạo thành trận pháp ngăn chặn chiến xa, lại có một cỗ chiến xa chui ra từ trong bụi đất mù mịt, vó ngựa hất cao, đá bay cả thân mình hắn lên. Lữ soái này chỉ cảm thấy mình giống như là đang đằng vân giá vũ, "Bịch" một tiếng rơi xuống đất, lại lăn người đứng lên, cảm giác rằng trên người dường như chưa bị thương tới một cọng tóc.

Lữ soái này giật mình, phát giác ra kiếm sắc trong tay đã bị đá bay, liền đoạt lấy một cây binh khí từ tử thi nằm trên mặt đất phía trước, hắn vừa mới lao đi hai bước, liền cảm thấy thiên địa rung chuyển, cổ họng hơi ngọt, một vòi máu tươi phun ra, trước mắt tối sầm rồi mềm nhũn ngã xuống đất. Mặt đất chấn động, lại một cỗ chiến xa lao tới, bánh xe không chút lưu tình cán qua cơ thể hắn. Ý thức của hắn vẫn còn, hai mắt mở thật to, dùng sức trừng mắt nhìn phía trước, nhưng chẳng nhìn thấy nổi cái gì, bánh xe nặng nề cán qua eo hắn, hình như là cắt đứt eo hắn, nhưng mà hắn cũng không cảm thấy đau đớn, máu đen trào ra ở tai mắt mũi miệng hắn...

Rất nhiều bộ binh hò hét vọt lên theo chiến xa, hơn trăm cỗ chiến xa chạy qua trận doanh của quân Ngô đang gào thét, sau đó rẽ sang hai cánh rồi lại quay về, giống như muốn phát động đợt xung phong thứ hai. Ở những vùng mà chiến xa lăn qua, có rất nhiều bộ binh đi theo, đánh cho bộ binh quân Ngô tơi bời hoa lá, bỏ chạy về phía sơn cốc. Cờ xí chiêng trống đều bị bọn họ vứt bỏ, một vài tướng lãnh may mắn còn sống khàn cả giọng truyền lệnh cho quân đội, kết quả là cũng thân bất do kỷ bị binh lính kéo bỏ chạy theo.

Ở hai bên đỉnh núi cũng có quân Ngô đóng giữ, nhưng mà nhân số quá ít, một vài mũi tên lẻ tẻ lực sát thương không lớn, chiến xa mang theo truy binh đuổi theo, nhưng đường trong sơn cốc khó đi, chiến xa khó có thể phát huy uy lực. Những quân Ngô này quăng mũ cởi giáp, mồ hôi ướt đẫm chạy ra khỏi sơn cốc, còn chưa kịp thở một hơi, đã sợ đến ngây người, mấy ngàn nhân mã đứng ngây ra như phỗng ở cốc khẩu, đột nhiên lặng ngắt như tờ.

Ra khỏi cốc khẩu là một cái dốc nhấp nhô thoai thoải, đi qua dốc này là tới ngã ba đường đi Dĩnh Đô, Ngư Phản, Quyền Ấp. Chỉ có điều ở trên cái dốc đó có một đạo nhân mã đang lẳng lặng đứng trang nghiêm, cờ bay phấp phới kéo dài, liếc mắt nhìn không thấy bờ bến, cũng không biết rốt cuộc là bao nhiêu nhân mã.

Ở giữa là một gã võ tướng, cưỡi ngựa cầm mâu, phía sau bên trái là một cây cờ hiệu, bên phải là một cây cờ chủ soái, ở trên viết hai chữ Khánh Kỵ, không ngờ rằng Khánh Kỵ đã dẫn quân trở lại.

Hai gã võ tướng giống như cột sắt thúc ngựa tiến lên vài bước, cao giọng quát: "Điện hạ có lệnh, ai hàng miễn chết, các ngươi nhanh chóng quyết định đi!"

Quân Ngô chạy tới cốc khẩu còn đang kinh hoàng chưa bình tĩnh kịp, nghe thấy lời đó không khỏi hai mặt nhìn nhau, dần dần, những sĩ tốt đều tập trung ánh mắt về những tướng lãnh có chức vị hơi cao trong quân. Vài tên tướng lĩnh đó còn đang do dự không quyết, uy phong cùng ngạo khí bọn họ có từ khi phạt Sở đến giờ đã bị hai trận chiến của Khánh Kỵ quét cho sạch trơn, uy danh Ngô quốc đệ nhất dũng sĩ từ ngày xưa một lần nữa lại nổi lên trong lòng bọn họ. Lúc này chủ tướng Vương Tôn Hùng bị nhốt ở trong thành sống chết không biết thế nào, bọn họ cũng đã hoàn toàn đánh mất dũng khí đối đầu với Khánh Kỵ, nhưng mà...

Hàng? Gia quyến của mình ở nước Ngô làm sao bây giờ? Hạp Lư có lẽ sẽ không mất trí đến mức giết hại gia nhân của tất cả sĩ tốt, nhưng mà với một vài vị tướng thì hắn sẽ bỏ qua sao?

Hai gã võ quan đang chiêu hàng phía trước là A Cừu và Tái Cừu. Mắt thấy bọn họ còn đang chần chừ, A Cừu cười to nói: "Tái Cừu, ta thấy những người này chưa từ bỏ ý định, còn muốn khiêu chiến với trường mâu của điện hạ đó. Chỉ là không biết, dưới tay của Ngô quốc đệ nhất dũng sĩ ai xứng đáng làm địch thủ, dù sao thì ta cũng không làm được, ha ha..."

Tái Cừu 'phì' cười một tiếng, tay cầm song kích nói: "Ta thấy cũng chưa chắc, bọn họ chỉ lo rằng một khi đầu hàng, gia quyến ở nước Ngô sẽ bị Cơ Quang tàn bạo giết hại, cho nên mới đành chịu cảnh toàn quân bị diệt, chứ không chịu đầu hàng."

A Cừu cười ha hả, nói: "Cái đó thì có gì phải lo? Cơ Quang mặc dù muốn đại sính dâm uy, cũng phải chờ cho sau khi hắn về tới nước Ngô, nhưng hắn có còn quay về nước được sao? Hiện giờ Sở, Vệ, Tống, Tào, Lỗ mấy nước chư hầu gần Ngô quốc đều đã kết minh với điện hạ, Tề Tấn hai nước tuy rằng cường đại, nhưng lại nước xa không cứu được lửa gần. Cơ Quang bị nhốt ở Dĩnh Đô thành, điện hạ mấy ngày nữa phạt Ngô phục quốc, trở thành quân chủ Ngô quốc, hôm nay là người quy phục điện hạ, ngày sau đều là thần tử có công, vợ con hưởng đặc quyền đều có thể, khi đó Cơ Quang muốn không chết còn khó, còn làm sao mà giết cả nhà họ?"

Những binh lính Ngô bị vây khốn trong cốc khẩu nghe thấy vậy thì nhất thời xôn xao lên, trong lòng bọn họ sợ quân pháp tàn nhẫn của Hạp Lư, nhưng mà một cuộc đối đáp của A Cừu Tái Cừu lại khiến cho trong lòng bọn họ sinh ra dị tâm. Người trong lúc khốn cảnh ai chẳng ham sống, nếu có thể có cách vẹn toàn, trong lòng người tự nhiên sẽ suy nghĩ về phía tốt hơn, nếu Khánh Kỵ thành quân chủ Ngô quốc, như vậy còn e sợ quân pháp khổ hình của Cơ Quang sao?

Khánh Kỵ ngồi thẳng bất động, nhìn thấy binh lính nước Ngô đã tâm động, Khánh Kỵ đúng lúc bọn họ còn chưa kịp đưa ra quyết định liền bỏ thêm một quả cân lên cái cân, hắn cầm trường mâu trong tay hướng về phía trước, lưỡi mâu thẳng tắp hướng lên không trung. Có hiệu lệnh của chủ soái, trong quân lập tức vang lên tiếng trống trận vang dội.

"Thình! Thình! Thình thình thình thình..." Mỗi chuỗi tiếng trống với tiết tấu và tốc độ như nhau vang lên, Khánh Kỵ dùng trống hiệu của quân Ngô, khiến cho sĩ binh quân Ngô đều nghe và hiểu được, đây là tiếng trống khi sắp phát động xung phong. Tiếng trống ngày càng dồn dập, tim bọn họ cũng đập càng lúc càng nhanh, nhất thời khẩn trương tới mức miệng lưỡi đều khô, mồ hôi bất tri bất giác chảy đầy trên trán.

"Có đầu hàng hay không? Có đầu hàng hay không?" Tay cầm mác thì dùng mác đập, tay cầm kiếm thuẫn thì dùng kiếm đánh lên mặt thuẫn, lớn tiếng hét lớn về phía những quân Ngô bị vây bên trong cốc khẩu. Quân Ngô trong cốc khẩu lại càng bối rối, một vài tên tướng lãnh trong đó cũng vô cùng lo lắng trao đổi ánh mắt cho nhau.

Đại Tranh Chi ThếTác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 199: Phá nhuệ khí địch (Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Mâu của Khánh Kỵ dừng lại ở không trung trong nháy mắt, chậm rãi chỉ thẳng về phía trước, cờ soái tung bay, cờ hiệu theo đó phất lên, cờ xí sặc sỡ trong quân cũng đồng thời phất lên, cái này gọi là "Ứng kỳ", ý là các quân cùng nhận được mệnh lệnh của chủ soái tướng lãnh, kế tiếp chỉ cần ngọn cờ hiệu của Khánh Kỵ chỉ về phía trước, các quân sẽ như hổ lang lao về phía trước, phát động một trận đại chiến.

Mắt nhìn thấy cờ hiệu của Khánh Kỵ, binh sĩ quân Ngô đều thầm nuốt nước bọt, cờ hiệu của Khánh Kỵ được lực sĩ đưa lên, ngay lúc lá cờ sắp chỉ về phía trước, đột nhiên có một tiếng hét lớn, từ trong đội ngũ quân Ngô có một gã tướng lãnh đi ra, một mình tiến về phía trước, hai tay giơ lên cao, rồi từ từ giương ra hai bên.

Trường mâu trong tay Khánh Kỵ hơi hơi ngưng lại, chăm chú nhìn vào hắn. Dung mạo người này có chút quen thuộc, hơi hơi suy nghĩ một chút, Khánh Kỵ cũng đã nhớ ra người này, chính là Ngô quốc trung đại phu Xích Trung, ấn theo cấp độ, lần này trong quân là Sư soái, địa vị của hắn gần với Vương Tôn Hùng, liền hít một hơi giương giọng, lạnh lùng quát hỏi: "Xích Trung, ngươi có gì để nói?"

Sư soái quân Ngô Xích Trung giơ rộng hai tay, ngăn Khánh Kỵ hạ lệnh tiến công, sau đó chậm rãi xoay người nhìn về đống hỗn loạn phía sau mình, quân Ngô phía sau hắn đang tán loạn, chen chúc trong cốc khẩu. Sau cốc cũng đã bị quân Khánh Kỵ chặn đường, toàn quân đã không còn đội hình, trong ánh mắt mỗi binh lính đều có sự bối rối và khát vọng sinh tồn, đôi mắt trông mong nhìn vào hắn. Ánh mắt của hắn lướt qua, vài tên Lữ soái thuộc hạ xấu hổ cúi đầu, giống như sợ sẽ bị hắn nhìn thấy suy nghĩ của mình.

Xích Trung bùi ngùi thở dài, lại xoay người trở lại, mặt hướng về Khánh Kỵ, sau đó 'keng' một tiếng rút kiếm ra khỏi vỏ. Mũi kiếm của hắn dưới ánh mặt trời bắn ra hàn quang, phát ra ánh sáng chói mắt. Khánh Kỵ ngồi trên lưng ngựa, mắt lạnh lùng nhìn hắn, không nói không cử động.

Xích Trung lớn mật bước về phía trước, ở trước mắt bao người hướng về Khánh Kỵ, cách Khánh Kỵ khoảng mười bước, một loạt trường mâu thủ tiến lên phía trước ba bước, mũi mâu sáng như tuyết đồng loạt giương lên, ngăn chặn trước người hắn.

Xích Trung dừng lại, ngẩng đầu nhìn Khánh Kỵ, đột nhiên cúi người, 'Phập' một tiếng cắm kiếm thật sâu vào trong bùn đất, tay cầm chuôi kiếm, quỳ một gối xuống, trầm giọng nói: "Xích Trung nguyện dẫn quân đội trong tay, trung thành dưới trướng công tử!"

Khánh Kỵ thản nhiên nói: "Ngươi là người nước Ngô, đáng ra phải gọi ta là điện hạ!"

Xích Trung cúi đầu nói: "Đúng, quân đội trong tay Xích Trung, nguyện... nguyện trung thành với Khánh Kỵ điện hạ!"

Đã có người đi đầu, các tướng lĩnh quân Ngô đều thở phào nhẹ nhõm, những quân sĩ quân Ngô vốn bàng hoàng bất lực hiện giờ như đã tìm ra được lựa chọn, tới tấp theo Xích Trung quỳ rạp xuống đất về phía Khánh Kỵ, tuyên thệ nguyện trung thành, Khánh Kỵ không khỏi ngửa mặt lên trời cười to.

Đội quân này một khi đã tuyên thệ nguyện trung thành với hắn, từ nay về sau, vì tính mạng của hắn, vì tính mạng của gia nhân, vì tiền đồ của bọn họ, liền chỉ có thể sống chết cống hiến cho hắn. Trọng yếu hơn đúng là, có đội quân này gia nhập, sẽ làm dao động quân tâm của Cơ Quang, tâm lý người theo số đông rất nghiêm trọng, một cấm địa mà ban đầu ai cũng cho rằng không thể vượt qua, một khi đã có người bước ra đầu tiên, những người bước theo sẽ nối liền không dứt. Từ nay khi giao phong với quân đội Cơ Quang, hắn đã có một thứ để ỷ vào, không chỉ có lợi trong một trận chiến này, mà dần dần sẽ mài mòn sĩ khí quân Ngô, tranh thủ nhân tâm, mở tâm phòng (sự phòng bị trong thâm tâm) của người nước Ngô.

"Người đâu, giải Vương Tôn Hùng!"

Khánh Kỵ hét lớn một tiếng, Vương Tôn Hùng bị trói gô dẫn đi lên.

"Quỳ xuống!" Hai gã binh lính lớn tiếng quát, đồng thời hung hăng đá một cước lên đầu gối Vương Tôn Hùng. Hai chân Vương Tôn Hùng vừa cong, lập tức lại thẳng lên. Hắn quay đầu lại hung hăng trừng mắt nhìn hai gã sĩ tốt kia, sau đó ngang nhiên nhìn về phía Khánh Kỵ và Yểm Dư. Khánh Kỵ cùng Yểm Dư sóng vai đứng ở trước trướng, phía sau Khánh Kỵ không xa còn có hai võ sĩ thân mặc giáp nửa người, đầu vai lộ ra một đoạn chuôi kiếm, dung nhan tuấn tú, tôn nhau lên rất thú vị.

Hai người cũng không cần che dấu thân phận, Vương Tôn Hùng chỉ cần liếc mắt một cái, liền nhận ra thiếu nữ Quý Tôn Tiểu Man lần trước bắt hắn, mặc dù hắn nhìn không ra thân phận, nhưng cũng là một cô gái cực kỳ thanh tú.

Vương Tôn Hùng cũng không nhìn nhiều, ánh mắt chỉ thoáng chuyển qua hai người bọn họ, liền quay về trên người Khánh Kỵ, lớn tiếng nói: "Nếu y theo thân phận, Vương Tôn Hùng vốn nên dập đầu hành lễ với công tử, tuy nhiên hiện giờ công tử phản loạn Đại vương, là nghịch tặc Ngô quốc ta, Vương Tôn Hùng thân là chủ tướng Ngô quân, thụ mệnh của Ngô Vương, thứ cho không thể tham bái công tử."

Yểm Dư giận dữ, hai hàng lông mày hơi nhướng lên, Khánh Kỵ đưa tay ngăn lại, ha hả cười nói: "Vương Tôn Hùng, ngươi cũng là hậu duệ vương tộc của Ngô quốc ta, sao lại ăn nói hồ đồ như vậy? Cơ Quang nếu không hành thích vua tự lập, nếu không làm kẻ trộm phản quốc, làm gì có cái danh hiệu Đại vương hôm nay? Khánh Kỵ ta mới đúng là người kế thừa thực sự của tiên vương, hiện giờ tiêu diệt phản nghịch, khôi phục Ngô quốc, như thế nào lại trở thành phản tặc? Bảo ta không chống lại Cơ Quang, ta đây phải làm cái gì bây giờ? Tự trói tới gặp Cơ Quang, rồi bảo hắn chém đầu ta đi mới được gọi là trung thần liệt sĩ sao?"

Vương Tôn Hùng ngang nhiên nói: "Đại vương của ta là đương kim quân chủ Ngô quốc, ngay cả Chu thiên tử cũng đã ban cáo thừa nhận, làm sao có thể nói là giành quyền bất chính? Công tử, vẫn nên thừa nhận sự thực đi, chỉ cần ngài lấy binh quy thuận, với lòng dạ như biển của Đại vương ta, tất nhiên sẽ xá cho ngài tội mưu phản, ban thưởng cho ngài vinh hoa phú quý, làm một công tử thái bình, chẳng phải tốt hơn sao? Làm sao phải đồng tộc tương tàn, cho ngoại nhân lợi dụng?"

Khánh Kỵ mỉm cười nhìn hắn, nét cười trên mặt dần dần đanh lại.

Hắn nhẹ nhàng thở dài một tiếng, nói: "Vương Tôn Hùng, theo cái quy luật hỗn trướng của ngươi, thì đó chính là 'kẻ thắng làm vua kẻ thua làm giặc'. Ta tiếc cho ngươi một thân hảo hán, bảo Vương thúc lưu lại mạng sống cho ngươi, vốn định giữ lại một kẻ mạnh mẽ như ngươi để dốc sức cho Ngô quốc, đáng tiếc..., Ai! Tốt lắm, nếu đã bảo nắm tay ai cứng, kẻ đó chính là kẻ có lí, chính là chánh chủ thiên mệnh, như vậy, chúng ta cứ dùng kiếm mà chứng thực đi."

"Người đâu, mang rượu tới."

Kinh Lâm nao nao, lập tức xua tay cho người đi lấy, một lát sau, một gã tiểu tốt cầm một vò rượu ngon, cùng với hai cái bát lớn chạy trở lại. Khánh Kỵ đưa tay đoạt lấy vò rượu, xé đi giấy phủ, rót rượu tràn đầy hai bát lớn, sau đó đưa đến trước mặt Vương Tôn Hùng, quát: "Cởi trói cho hắn."

"Xoẹt!" Khóe mắt Khánh Kỵ chỉ liếc thấy một đạo nhân ảnh khéo léo như vượn chợt lóe lên, sau đó một đạo kiếm quang như điện chợt hiện, những sợi dây thừng đang trói Vương Tôn Hùng đồng loạt đứt ra. Người nọ lộn người nhảy trở lại, chúng tướng trong sảnh đều là người trong nghề, trông thấy kiếm pháp tinh diệu như vậy, không khỏi ầm ầm trầm trồ khen ngợi, Yểm Dư công tử hô lên một tiếng: "Hảo kiếm pháp, tuyệt diệu đến đỉnh điểm."

Chiêu thức kiếm pháp đó quả thực rất cao, dây thừng trên người Vương Tôn Hùng buộc rất rắn chắc, dường như lằn sâu cả vào da thịt, mà một kiếm này cắt đứt được tầng tầng dây thừng, tuy rằng kiếm này bản thân đã là bảo kiếm cực sắc, nhưng mà lực tay, lực đạo, xuất kiếm đều phải chuẩn mực, chỉ cần một khắc không cẩn thận, Vương Tôn Hùng sẽ khó tránh khỏi bị thương trên người, chỉ có điều một kiếm này, ngay cả quần áo của hắn còn không bị cắt rách.

Vương Tôn Hùng vẫn không phục chính mình khi trước bị thiếu nữ kia bắt sống, lúc này nhìn thấy kiếm thuật của nàng không khỏi kinh tâm, liếc mắt chăm chú nhìn nàng một cái thật sâu. Quý Tôn Tiểu Man nhảy về bên cạnh Thúc Tôn Diêu Quang, tai nghe thanh âm mọi người ủng hộ không dứt, trên mặt tuy rằng là một bộ dáng không hề để ý chút nào, nhưng trong mắt lại lộ ra thần sắc khoe khoang.

Thúc Tôn Diêu Quang liếc xéo sang nhìn nàng, dùng thanh âm chỉ hai người mới có thể nghe được nói: "Khoe khoang như thế, nhìn thế nào cũng giống như một tiểu hài tử chưa lớn hết!"

Quý Tôn Tiểu Man nhướng đôi mày nhọn, tưởng rằng giận dữ, nhưng nàng bỗng nở nụ cười, nhún nhún vai, nhỏ giọng trả lời: "Kiếm pháp vốn quá tốt, thật sự là không có biện pháp."

Thúc Tôn Diêu Quang chanh chua nói: "Hừ! Một nữ hài tử, đánh đánh giết giết là rất giỏi sao? Nữ nhân à, phải học cầm kỳ thi họa, nếu không sau này làm Ngô Vương phi, thực mất mặt."

"Này, cô chỉ biết đánh đàn thôi, không cần phải thổi phồng lên chứ, ta còn biết thổi sáo đó."

"Ta còn biết quản lí gia sản."

"Ta biết nấu cơm."

"Vậy để cho cô nấu cơm..."

Hai cô gái ở phía sau líu ríu tranh cãi, Khánh Kỵ đã cùng Vương Tôn Hùng đối ẩm một chén rượu lớn, nâng bát lên ném xuống mặt đất, nghiêm nghị quát: "Khánh Kỵ kính ngươi là một hảo hán, không đành lòng nhìn ngươi chết dưới hình binh. Ngươi trở về đi, bảo với Cơ Quang, hắn cướp của cha ta, ta sẽ tự tay đoạt lại! Dĩnh Đô thành, chính là mồ chôn xương của hắn!"

Vương Tôn Hùng mắt hổ chợt lóe quang mang, lui lại ba bước, rốt cục quỳ một gối xuống, nặng nề chắp tay với hắn, không nói được lời nào, xoay người liền đi.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển IV: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 200: Đang đêm tập kích (Thượng)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Yểm Dư thong thả bước tới bên người Khánh Kỵ, nghiêng đầu nhìn hai hàng tùy tùng y giáp sáng ngời bước nhanh ra phía ngoài cùng Vương Tôn Hùng, hơi hơi cau mày: "Sao lại vẫn để cho hắn đi? Ta bảo cháu này, cháu chẳng lẽ có niềm tin rằng hắn sớm muộn gì cũng sẽ đầu nhập làm môn hạ hay sao? Ta thấy cái kẻ cơ bắp này chắc là sẽ không phản bội Cơ Quang đâu."

Khánh Kỵ gật đầu nói: "Ta biết, ta còn biết, hắn liên tục bại hai lần, lần này trở về, nhất định sẽ tự sát để tạ tội với Cơ Quang. Chính bởi vì hắn đã quyết ý sẽ chết, cho nên lúc đi mới bái với ta một cái, nếu không, hắn sẽ không chịu cúi đầu với ta đâu. Ai, đáng tiếc cho một hán tử..."

Khánh Kỵ lắc đầu, bước chầm chậm đi ra. Yểm Dư công tử chớp chớp mắt, vân vê chòm râu buồn bực nói thầm: "Trở về thì cũng chết, vậy thì còn thả hắn về làm gì? Cứ muốn hào phóng sao?... Ai dà! Khánh Kỵ tiểu tử này, quá âm hiểm rồi, ngay cả người chắc chắn phải chết mà cũng lợi dụng."

" Khánh Kỵ công tử âm hiểm như thế nào?" Yểm Dư công tử nói xong, liền kinh ngạc phát hiện ra trái phải đã có hai người đứng đó, vây hắn ở giữa. Hai cô gái thân mặc giáp trụ, tư thế oai hùng hiên ngang, vẻ mặt không vui trừng mắt nhìn hắn, tua kiếm màu hạnh hoàng (màu vàng hơi hơi đo đỏ như quả hạnh) không gió mà động, ẩn ẩn mang theo sát khí.

Yểm Dư công tử rùng mình một cái, cười gượng nói: "Việc này nói ra thì rất dài, mới trước kia còn ở trong vườn cây Vương thành trộm đào..., ách, đó là chuyện cũ năm xưa, các ngươi hay là đi hỏi Khánh Kỵ cho thỏa đáng."

Yểm Dư nói xong, định chuồn mất, Quý Tôn Tiểu Man xoay người một cái, liền chắn trước mặt hắn, kỳ quái hỏi han: "Cái việc trộm đào này thì có quan hệ gì? Cây đào nhà mình, vì cớ gì phải trộm."

"Ách..." Hai mắt Yểm Dư loạn chuyển, còn chưa nghĩ ra một đáp án hợp lí, một gã sĩ tốt đã vào phòng bẩm báo: "Công tử, có một lão giả cùng một người trẻ tuổi tự nói là từ Lỗ quốc tới, có việc quan trọng muốn yết kiến Khánh Kỵ điện hạ."

"Từ Lỗ quốc tới? Ta trốn trước đã..." Quý Tôn Tiểu Man chột dạ xoay người định đi, lại bị Thúc Tôn Diêu Quang giữ chặt lại, tựa cười lại như không cười nói: "Từ lần trước cô bắt giữ Vương Tôn Hùng, danh hào Hàm Quang kiếm khách đã lan truyền nhanh chóng, thiên hạ sớm đã đều biết, cô có tránh né, cũng có ai không biết cô ở trong quân của Khánh Kỵ? Đi thôi, cùng đi xem rốt cục là nhân vật đến từ phương nào."

Quý Tôn Tiểu Man vừa tức vừa vội, lại không muốn yếu thế trước mặt Thúc Tôn Diêu Quang, Yểm Dư công tử thật vất vả mới tìm được một lí do thoát thân, vội vàng nói: "Đúng đúng đó, chúng ta cùng nhau xem, dẫn bọn họ lên đi."

Sĩ tốt kia đáp lại xoay người đi ra ngoài, một lúc sau mang theo hai người lên, Yểm Dư tiến lên hai bước, chậm rãi hỏi han: "Khụ, các vị là ai, là người nào sai phái các vị tới gặp Khánh Kỵ..."

Hắn còn chưa nói hết, Quý Tôn Tiểu Man đã hoan hô một tiếng, nhảy nhót lao về trước, ôm lấy cổ lão giả. Yểm Dư công tử một đôi mắt trừng đến sắp muốn lồi ra: "Này... này không phải quá kì cục sao, tốt xấu gì ngươi cũng cháu dâu trong nhà ta, sao có thể không kiêng nể gì mà thân thiết với nam nhân khác như thế?"

Yểm Dư đang bận nghĩ ngợi lung tung, Quý Tôn Tiểu Man đã kêu lên: "Viên thúc, sao thúc lại tới đây, là cố ý tới tìm cháu à?"

Thúc Tôn Diêu Quang cũng cả kinh kêu lên: "Lão Viên!"

Viên Tố vỗ vỗ bả vai Tiểu Man, ý bảo nàng buông mình ra, thân thiết cười nói: "Còn không phải vì đứa trẻ tinh ranh nhà ngươi à, cháu đó, như thế nào lại một mình chạy tới Sở quốc, lúc vừa mới nghe nói, thật sự là khiến ta giật mình."

Nói xong lại xoay sang thi lễ với Thúc Tôn Diêu Quang, nói: "Viên Tố ra mắt Diêu Quang công tử."

"Chớ đa lễ." Thúc Tôn Diêu Quang vốn định chê cười một chút, nhìn kĩ lại mới thấy hóa ra là bề tôi trung thành của Quý Tôn Tiểu Man, nàng không khỏi thất vọng, ánh mắt liền chuyển tới vị thiếu niên mi thanh mục tú kia. Nàng mặc dù ở Quý Thị lão trạch lâu ngày, cũng chưa từng nhìn thấy Thành Tú, lão Viên liền giới thiệu: "Vị này... là đệ đệ của Thành Bích phu nhân, có một thứ rất trọng yếu cần giao cho Khánh Kỵ công tử. Viên Tố lần này đi, là vì Tiểu Man tiểu thư, cũng là vì hộ tống Thành Tú đến đây."

Quý Tôn Tiểu Man mặc dù cũng không thống hận Thành Bích như trước, nhưng nàng vẫn không tránh khỏi có chút khúc mắc, vừa nghe nói là đệ đệ của nàng ta, sắc mặt nhất thời trầm xuống: "Thành Bích? Nàng ta có thứ gì trọng yếu muốn giao cho Khánh Kỵ? Lấy ra cho ta xem!"

"Tiểu Man!" Viên Tố nhẹ nhàng kéo kéo ống tay áo của nàng, liếc mắt nhìn nàng một cái, nói: "Việc của Thành Tú, quả thực rất trọng yếu, có trợ giúp lớn với chiến sự của Khánh Kỵ công tử, còn phải mời Khánh Kỵ ra xem nữa."

Tiểu Man nghe nói có liên quan đến đại sự chiến cuộc của Khánh Kỵ, liền không nhiều lời nữa. Yểm Dư con mắt xoay xoay hơi chuyển, nói: "Đã là cố nhân của hai vị nữ tướng quân, vậy xin mời nghỉ ngơi một chút, bản công tử đi gọi hắn ra đây."

Khánh Kỵ cầm tập tranh mà Thành Tú đưa lên liền mừng rỡ như điên, nghe Thành Tú giải thích, hắn mới biết rằng tập tranh này là những ghi chép của Thành Bích tại Ngô, Việt, Sở ba nước, những cửa hàng và những người liên lạc mà nàng đã khổ công bố trí sau nhiều năm kinh doanh.

Sinh ý của Thành Bích trải rộng nhiều quốc gia, những sinh ý này là tiền vốn mà Thành Bích dự tính sau khi thoát ly khỏi Quý Tôn Thị tự lập hộ riêng, đương nhiên cần phải chặt chẽ nắm trong tay. Tin tức truyền đi cần cực kì kịp thời, ổn định, để nàng có thể biết được nhất cử nhất động của các cửa hàng ở các quốc gia, đồng thời mỗi quốc gia có các nhu cầu về hàng hóa và chênh lệch giá cả khác nhau, cho nên cần có sự hiểu biết về động thái chính trị, kinh tế, quân sự của quốc gia đó.

Trải qua sự bồi dưỡng nhiều năm của Thành Bích phu nhân, nàng ở một vài quốc gia có mạng lưới tin tức khổng lồ, đương nhiên vào thời chiến loạn, một ít điểm truyền tin sẽ mất đi liên hệ, nhưng mà chiến tranh ảnh hưởng không nhiều đến những gia đình bình dân, mạng lưới tin tức của nàng vẫn có thể vận hành bình thường.

(Ở đây xin nói thêm, vì sao chiến hỏa liên miên mà không ảnh hưởng nhiều đến gia đình bình dân. Bởi vì chiến tranh chủ yếu là giữa quân đội, cho dù một đội quân khác công chiếm thành trì thì thông thường cũng sẽ không đụng tới nhân dân mà trong nhiều trường hợp còn muốn lấy lòng dân trong thành, nhất là khi nhân dân có điều bất mãn với quan lại sở tại. Việc Cơ Quang và Ngũ Viên phá hoại Dĩnh Đô phần nhiều là vì thù hận của Ngũ Viên và Bá, hành động này cũng đã được Úc đại phu Úc Bình Nhiên cảnh tỉnh, tuy nhiên quân thần Ngô quốc vì cừu hận mà mờ mắt, đã không còn phân định được phải trái.)

Điều này đối với Khánh Kỵ mà nói, có ý nghĩa không phải là nhỏ. Hiện tại hắn liên lạc tin tức Ngô quốc, Sở quốc vô cùng chậm chạp, năng suất rất thấp, đây là một nhược điểm trí mạng trong sự liên lạc phối hợp chặt chẽ giữa hai đội quân. Rất nhiều thời điểm, thời cơ chiến đấu trước mắt mà hắn lại chỉ đứng xem, hoặc là tới khi hắn biết được tin tức của đối phương, thì bên đối phương đã xảy ra biến hóa long trời lở đất, mà hắn lại hoàn toàn không hay biết.

Hắn dù phái đi nhiều thám mã trinh sát, thì những tin tức đoạt được sao có thể so được với Thành Bích nhiều năm tổ chức, lợi dụng dân bản xứ xây dựng một mạng lưới tin tức khổng lồ, mà hiệu suất truyền tin cũng còn xa mới bằng được.

" Vương thúc, chúng ta có những cơ sở ngầm này, tác dụng không thua gì tăng thêm năm vạn đại quân đó!" Khánh Kỵ mừng rỡ như điên nói với Yểm Dư, Yểm Dư đương nhiên biết tầm quan trọng của tin tức quân tình đối với bọn họ, không khỏi liên tục gật đầu.

" Thành Tú, đệ trước hết ở chỗ này đã, tác dụng của vật này đối với ta quá lớn, đại ân không lời nào cảm tạ hết được. Khánh Kỵ hứa với đệ, ta nếu có thể phục quốc đoạt vị, Thành Tú đệ sẽ được bái làm Ngô quốc công khanh, nếu đệ không muốn làm quan, Ngô quốc ta cũng sẽ dốc hết sức có thể cho đệ thuận tiện, trở thành thương nhân phú khả địch quốc một phương."

Thành Tú nghe thấy những lời xúc động của Khánh Kỵ, bất giác cũng cảm động, vội vàng gập người bái tạ. Khánh Kỵ nâng hắn dậy, hơi chần chừ, rồi hỏi hắn: "Ách... Đệ cùng Viên Tố cưỡi ngựa tới đây, trên đường có an tĩnh không? Lệnh tỷ vừa rời khỏi Lỗ quốc, dọc đi trên đường các nước đều có đại chiến, nàng có thể bình an tới đây không?"

Thành Tú chắp tay nói: "Làm phiền công tử quan tâm rồi, gia tỷ tính tình xưa nay luôn tỉnh táo cẩn thận, bên người luôn có mấy trăm võ sĩ trung thành theo bảo vệ, lần này bí mật đi về phương Nam, cũng không có gì đáng ngại. Chỉ có điều gia tỷ là một nữ tử yếu đuối, đi đường từ tốn, còn phải chậm một chút mới tới nơi, đệ nghĩ không quá nửa tháng là gia tỷ có thể tới đây."

" Tốt! Tốt!" Khánh Kỵ mặt mày hớn hở, xa cách lâu như vậy, hắn đúng thật là vô cùng nhớ Thành Bích, hiện giờ bên người tuy có Thúc Tôn Diêu Quang cùng Quý Tôn Tiểu Man một đôi tiểu vưu vật, nhưng mà hai người này lại giám thị lẫn nhau, ai cũng không cho đối phương có nhiều cơ hội tiếp xúc riêng tư với hắn. Khánh Kỵ trơ mắt nhìn hai quả tươi trong veo như nước treo ở trước miệng mà không được ăn, hiện giờ rốt cục có một quả còn ngon miệng kiều diễm ướt át hơn đưa đến miệng.

Mùa xuân, đang lặng yên tới.

Ngày mai sẽ là chiến trường tràn ngập khói lửa, cũng là một mảnh sắc xuân...

Khánh Kỵ vui vẻ thầm nghĩ.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 200: Đang đêm tập kích (Trung)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Khánh Kỵ thành công đánh bại âm mưu của Ngũ Tử Tư, chẳng những đoạt lại Na Xứ thành, hơn nữa còn chiêu hàng được toàn bộ binh sĩ quân Ngô đã hết đường lui. Ngô Vương Hạp Lư ở trong thành Dĩnh Đô nghe được tin thì vô cùng giận dữ, lập tức muốn lãnh binh thân chinh, lại bị Ngũ Tử Tư tận lực can ngăn.

Quân Sở ở sông La vốn là đối tượng mà quân Ngô đánh nghi binh, bởi vậy tổn thất cũng không quá nghiêm trọng. Quân Sở thoát khỏi đại nạn, như chim sợ cành cong không dám lưu lại ở gần Dĩnh Đô, bọn họ dời đi về phía Tây Nam, cuối cùng ở Tân Ấp gặp được đại quân cần vương, hai quân hội hợp, cho nên mới đóng quân ở Tân Ấp.

Tử Tây dẫn đại quân ba đường từ Tùy quốc mà tới, chiếm cứ Tân Ấp, Tuyển thành, Chương Vu ba chỗ trọng yếu, bao vây một nửa Dĩnh Đô, liên tiếp giao thủ vài lần với tiên phong quân Ngô có thắng có bại, nhất thời quân tâm dần dần ổn định. Nhưng mà ba địa phương này đều ở phía Bắc Dĩnh Đô, cũng không có tác dụng nếu Cơ Quang chạy về phía Nam.

Khánh Kỵ biết đây là do người Sở sợ hắn muốn ngăn cản Cơ Quang ở lại Sở quốc, lợi dụng người Sở làm hao hết lực lượng của Cơ Quang, cho nên trái lại lại lợi dụng hắn để cản đường Cơ Quang, khiến cho hắn phải gánh chịu áp lực cường đại đến từ quân Ngô.

Lúc này hắn đã có chiến thuyền với cánh buồm và bánh lái, chắc chắn sẽ trở về nước sớm hơn Cơ Quang. Chỉ có điều cần có thời gian để đóng thêm chiến thuyền và để binh lính quen thuộc với việc điều khiển, thứ hai là nội tình Ngô quốc như thế nào hiện nay hắn hoàn toàn không biết gì cả, vẫn chờ đợi tin tức của Chúc Dung, Tôn Vũ. Vì không để chủ soái song phương Ngô Sở là Phí Vô Cực và Ngũ Tử Tư sinh nghi, hắn liền tương kế tựu kế, không ngừng phát binh tấn công Ngư Phản, làm ra vẻ muốn chiếm cứ Ngư Phản, lát sau lại dẫn quân xuống phía Nam, làm bộ ngăn trở con đường duy nhất mà ba cánh quân Ngô ở Dã Phụ, Chử Cung, Chương Hoa Thai có thể đi xuống phía Nam.

Người Ngô ở Dĩnh Đô cũng không kinh hoảng, một là Dĩnh Đô lương thảo sung túc, chỉ cần thành không bị phá, không thì thủ thành tới ba năm cũng không thành vấn đề. Thứ hai, từ đường sông Trường Giang quay về nước Ngô nhất định phải đi qua hai con đường là Na Xứ thành và cửa ngõ Ngư Phản, từ đường bộ đi về Ngô có ba con đường, một là đi qua Chương Hoa Thai hoặc Dã Phụ, xuyên qua Vân Mộng trạch (trạch: đầm), một đường khác là đi từ Chử Cung theo hướng Đông Nam, đi qua con đường Hoa Dung nổi danh hậu thế, từ chỗ giao giới Ngô Việt mà về.

Na Xứ thành đã rơi vào tay Khánh Kỵ, từ Ngư Cô muốn quay về bằng đường thủy cũng phải suy xét tới việc mấy vạn đại quân từ Sở về Ngô sẽ có rất nhiều con thuyền trên sông Trường Giang, trong quá trình đi thuyền việc Khánh Kỵ có dẫn binh tập kích hay không lại là vấn đề, nhưng mà đi đường bộ về nước thì lại không có vấn đề mấy, bởi vậy quân Ngô cứ tử thủ ở Ngư Cô. Khánh Kỵ mỗi lần xuất binh tấn công Ngư Phản, Quyền Ấp quân Ngô lại tập kích quấy rối ở đằng sau, quân ở Dĩnh Đô cũng sẽ xuất binh viện trợ, Khánh Kỵ nhân đó mà làm ra vẻ không biết làm thế nào đành lui về Na Xứ thành, cuộc chiến song phương cứ diễn ra dai dẳng không xong.

Trong lúc đó, quân Sở cũng xuất binh tập kích phía sau quân Ngô, nhưng quân Ngô thủ thành Dĩnh Đô rất kiên cố, lại do Ngô Vương Hạp Lư cùng tướng quốc Ngũ Viên tự mình tọa trấn, cho nên quân Ngô trên dưới đều phục vụ quên mình, bọn họ căn bản là không có cơ hội đắc thủ. Khánh Kỵ nhiều lần gửi thư sai sứ sang khiển trách Tử Tây, bảo là làm hỏng việc quân cơ, một cây làm chẳng nên non, Tử Tây tướng quân cũng là cực chẳng nói lên được, hắn tuy là chủ tướng tiền quân, nhưng mà quyền hành trong quân lại là do Phí Vô Cực điều khiển. Hắn mặc dù muốn thay đổi chiến lược, phối hợp với Khánh Kỵ để làm một trận chiến toàn lực, nhưng mà vấn đề là không làm chủ được.

Khánh Kỵ làm ra hành động như vậy chẳng qua là để sau này khi mình thoát ly khỏi chiến trường Sở mà quay về Ngô thì cũng có chút đạo nghĩa mà thôi. Tuy nói rằng mình làm ra vẻ khổ tâm thù địch, nhưng căn bản là không mong muốn hắn mang quân đến phối hợp, Phí Vô Cực bành trướng tư tâm, chính là lại hợp với ý hắn.

Chiến sự địch ta song phương cứ giằng co như vậy, Cơ Quang cũng thúc đẩy nhanh hơn tiến độ vận chuyển tài phú nước Sở, đồng thời bắt đầu thu xếp cuộc đại rút lui phản hồi Ngô quốc. Đúng lúc này, Bá dẫn dắt một nhánh quân đơn độc xâm nhập vào Tùy quốc áp sát Cửu Phượng cốc, ba ngàn tinh binh tiến vào vùng trống phía sau trận doanh của người Sở, đánh cho quân Sở đại bại.

Các thượng khanh, trung khanh, quan lớn địa phương Sở quốc đều tập hợp trong Cửu Phượng cốc. Văn Chủng, Phạm Lãi một là hạ tướng quân, một là huyện tư mã, chức quan chỉ như hạt vừng hạt đậu, ở trong Cửu Phượng cốc lại trở thành hai gã sai vặt. Vậy mà thời khắc mấu chốt lại chính là họ mang theo thân binh của mình xông vào sơn động của Sở Vương, cõng tiểu Sở Vương đào tẩu vào trong rừng sâu rậm rạp.

Bá đến chậm một bước chỉ biết nhìn biển rừng mênh mông mà dậm chân thở dài, cuối cùng đành bắt một đống lớn các thượng khanh, trung khanh bụng to não nhỏ, cùng với những quan viên mục thủ địa phương tới cần vương hộ giá cấp tốc lui khỏi Cửu Phượng cốc, theo đường cũ về Dĩnh Đô. Phí Vô Cực đang khoan thai suất lĩnh trung quân tới Dĩnh Đô nghe nói Cửu Phượng cốc bị tập kích, Sở Vương sống chết ra sao không biết, không khỏi cực kì sợ hãi, lập tức tản nhân mã ra chặn đường lui của Bá, tự dẫn quân chạy về Cửu Phượng cốc, cho nên chuyện Phí Vô Cực tiếp viện Dĩnh Đô đành phải trì hoãn lại. Tử Tây đợi không thấy Phí Vô Cực, đối với mấy lộ quân đã hành quân tới phụ cận Dĩnh Đô lại không có quyền điều động để bố trí một cuộc tiến công đại quy mô, áp lực lên phía Khánh Kỵ lại càng lớn hơn nữa.

Bá chạy về Dĩnh Đô, Cơ Quang đối với chiến quả của hắn rất là tán thưởng. Ngũ Tử Tư đưa ra phán đoán, người Sở nóng lòng vì an nguy của Sở Vương, tạm thời sẽ không phát động tiến công với Dĩnh Đô, vì thế thừa dịp này tự mình lãnh binh tấn công Na Xứ thành. Lộ tuyến quay về Ngô quốc của bọn họ đã được xác định là đi qua Chương Hoa Thai hoặc đi về Chử Cung phía Nam, cũng không cần phải cướp cửa ải hiểm yếu Na Xứ thành, đây chỉ là muốn trước khi về nước tận lực đả kích lực lượng của Khánh Kỵ mà thôi.

Ngũ Tử Tư tập trung quân phòng thủ Ngư Phản, Quyền Ấp, ba đường đại quân hợp công Na Xứ thành, đồng thời bên trong thành Dĩnh Đô cũng đã làm xong chuẩn bị cuối cùng cho việc rút lui. Khánh Kỵ biết Na Xứ thành căn bản không chịu nổi sự công phạt của đại quân, cho nên chủ động tấn công trước, triệu tập trọng binh bảo vệ hai sườn sơn cốc bên ngoài Na Xứ thành, dựa vào địa lợi mà dựng doanh trại quân đội, quyết chiến với quân Ngô, song phương đại chiến ba ngày, tổn thương lẫn nhau đều cực kỳ nghiêm trọng.

Nhá nhem ngày hôm đó, lại chấm dứt một hồi đại chiến, ánh tà dương đỏ tươi chiếu lên mảnh đất, chiến xa vỡ nát, chiến kỳ trơ trọi, thi thể nằm ngang dọc, cùng với kiếm kích trường mâu dựng đứng trong trận giống như cỏ dại, cấu thành một hình ảnh yên lặng thảm thiết. Ngẫu nhiên, ở trong hình ảnh đó sẽ có một vài sĩ tốt tỉnh lại, trong vũng máu bò đi vài bước, run rẩy phát ra tiếng kêu gọi, ở trong gió đêm tựa như tiếng nghẹn ngào của chó hoang.

Đại quân của Ngũ Tử Tư đã lui về phía sau, quay về doanh trại. Đại doanh của Ngũ Viên hình tam giác chia làm ba tòa, trung quân của hắn là lều lớn ở phía sau, bên trái bên phải là hai đạo nhân mã của Quyền Ấp và Ngư Phản, như một đôi sừng thú chỉa ra ngoài, kìm chặt ngọn núi của Khánh Kỵ.

Bố trí như vậy, nếu Khánh Kỵ điều động đại quân tiến công, có thể tránh được hai mặt thụ địch, cũng có thể đồng thời phát động lệnh tiến công tới hai tòa đại doanh, mà trung quân của Ngũ Tử Tư vẫn có thể chiếm thế chủ động, lúc nào cũng có thể cứu viện cho hai tòa quân doanh. Hoặc là hậu doanh trực tiếp tiến lên trước, còn hai tòa quân doanh trái phải từ quân tiên phong biến thành phối hợp tác chiến, từ đó biến thành chủ công.

Trong chủ doanh quân Ngô, dưới lá cờ lớn có chữ Ngũ, Ngũ Tử Tư đang ngắm nhìn ngọn núi xa xa. Mặt trời chiều ngả về Tây, trên mặt đất cũng có những cái bóng kéo dài, nhưng mà phía trên sườn núi vẫn rất sáng rõ, phía bên phải sườn núi, là cờ hiệu và cờ soái của Khánh Kỵ đứng sừng sững.

Nhưng mà Ngũ Tử Tư cũng không nghĩ rằng Khánh Kỵ nhất định sẽ ở sườn núi bên phải. Trải qua một thời gian đánh giá, hắn đã phát hiện ra phương pháp tác chiến của Ngô quốc đệ nhất dũng sĩ Khánh Kỵ hiện giờ so với Khánh Kỵ hắn vốn hiểu rõ là hoàn toàn khác nhau. Trước kia Khánh Kỵ dụng binh, phong cách chính là 'đại khai đại hợp' (mở là mở hợp là hợp), xưa nay thích lấy quân đường đường chính chính quyết chiến. Hắn khi chỉnh đốn binh mã xuất binh đánh về Ngô quốc, cũng là một đường phất cờ phấp phới, trống trận rền vang, chỉ sợ người khác không biết quân đội của hắn đang ở chỗ nào, người Ngô có thể dễ dàng nắm giữ được lộ tuyến hành quân của hắn.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 200: Đang đêm tập kích (Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Chiến pháp của hắn cũng giống như chiến mâu của hắn, cũng không dựa vào chiêu thuật quỷ quái gì mà người ta khó phỏng đoán, mà lấy chiến lực vô cùng dũng mãnh của hắn, dùng thế không thể đỡ, trực tiếp đánh tới đối thủ. Nhưng mà từ khi gặp chuyện trên sông Trường Giang, hắn tựa như thay đổi thành một người khác, hắn lại có thể nén chịu nhục bị sứ giả nước Ngô đuổi đi, ở Lỗ quốc âm thầm sắp xếp một nhánh phục binh; hắn lại có thể sử dụng ba tấc lưỡi mà thỏa hiệp được với chính khách hai nước Lỗ Vệ, đổi được sự viện trợ của bọn họ; hắn một kẻ xưa nay luôn tâm cao khí ngạo, vậy mà lại giống như hai kẻ không tiền đồ Yểm Dư và Chúc Dung, kết minh với kẻ thù truyền kiếp của Ngô quốc là Sở quốc, hơn nữa thời cơ lại rất vừa đúng; từ khi vào Sở đến nay đánh mấy trận với quân Ngô, hắn cũng chưa lần nào không ngại trả giá, quyết chiến đối mặt với quân Ngô. Thiên thời, địa lợi, nhân hòa, mưu kế, phàm là có thể sử dụng, hắn đều có thể dùng tới.

Khánh Kỵ hôm nay, đã không còn là Khánh Kỵ khi xưa, một con mãnh hổ, nếu có được mưu kế của hồ ly, vậy lại càng thêm khó chơi. Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, từ đội quân chính quy ban đầu của hắn mà thành lập một đội phản quân, vô luận là quân giới lương bổng, hay là quân kỹ chiến lực, so với đội quân tinh nhuệ của Ngô quốc cũng không thua kém tí nào, về mặt sĩ khí thậm chí còn hơn vài phần, điều này khiến cho Ngũ Viên càng thêm kiêng kị với Khánh Kỵ. Điều may chính là, Đại vương chôn vùi Dĩnh Đô, đã lập ra đại công khiến cho thiên hạ phải kiêng nể, chỉ cần ngài có thể bình yên trở về Ngô quốc, tuyên truyền chiến công này ra tứ phía, chắc chắn tầm ảnh hưởng sẽ được mở rộng thêm một bước ra toàn Ngô quốc thậm chí toàn bộ thiên hạ, đến lúc đó, vốn là kế thừa không hợp pháp, cũng sẽ dưới quân công chói lọi mà lên ngôi đường đường chính chính, Khánh Kỵ khó có thể làm gì được nữa.

Sắc trời còn lưu lại một ánh nắng chiều như tia máu, ánh sáng trên ngọn núi đối diện cũng đã biến mất, đứng ở đây cũng không còn nhìn thấy động tĩnh trên núi nữa. Gió thổi lên mái đầu bạc, những sợi tóc vuốt qua những đường cong khuôn mặt như đao khắc của hắn. Không biết tại vì sao, Ngũ Viên có một loại cảm giác, Khánh Kỵ hiện tại nhất định cũng đang đứng trên đỉnh núi, giống như hắn giờ phút này, nhìn chăm chú vào động tĩnh trong quân của hắn.

Ngũ Tử Tư bỗng nhiên mỉm cười, lại phóng tầm mắt nhìn ra dãy núi xa xa, tựa hồ như thăm hỏi với Khánh Kỵ đang đứng sóng đôi với hắn trên đỉnh núi xa xa kia.

"Khánh Kỵ thủ ở chỗ hiểm trở, đã liên tục hai ngày đại chiến cứng đối cứng với ta, cũng không chiếm được lợi thế gì. Nhìn sắc trời thì đêm nay có lẽ có mưa, truyền lệnh xuống quân, ba quân đề phòng, cảnh giới canh gác giãn ra, để phòng ngừa Khánh Kỵ đánh lén."

"Rõ!" Quan thư kí phía sau vội vàng ghi nhớ mệnh lệnh của Ngũ Tử Tư.

Ngũ Tử Tư quay người lại, ấn kiếm đi xuống khỏi đài quan sát.

Hoàng hôn dần dần buông xuống, giấu những thi thở nằm ngang dọc khắp nơi trên mặt cỏ vào trong bóng đêm. Mây đen che trăng, bắt đầu nổi lên mưa phùn. Trong quân doanh của Ngũ Viên treo cao đèn, một đội binh lính tuần tra mặc áo tơi đi tới đi lui tuần tra khắp nơi.

Ban đêm, Khánh Kỵ quả nhiên thừa dịp trời mưa đột kích, Ngũ Tử Tư vốn mặc nguyên quần áo mà ngủ, nghe thấy tiếng la giết, liền mặc giáp ra khỏi trướng xem, thấy bên tay trái ở chỗ doanh trại quân đội Quyền Ấp tiếng 'sát' rung trời, cả trại rực lửa, lát sau, có người vội vàng chạy tới bẩm báo, Ngũ Tử Tư nghe được chiến báo, không khỏi nhíu đôi lông mày trắng, nói: "Chỉ tập kích phía bên trái, mà nhân số lại hữu hạn? Sao lại thế được..., lệnh cho hữu quân (quân bên phải) phòng thủ, án binh bất động, canh phòng nghiêm ngặt đánh lén, cánh trái tổ chức phản công, cần phải đánh đuổi đợt tiến công của Khánh Kỵ."

Chiến đấu giằng co nửa canh giờ, tiếng chém giết bên phía cánh trái dần dần yếu đi, không lâu sau, lại tới doanh trại bên phải bị đánh lén, địch tới cũng không nhiều lắm, tiến công cũng không mãnh liệt, chỉ đánh trống quấy rầy bên ngoài doanh trại, làm như thế hai ba lượt, trong lòng Ngũ Tử Tư đã hiểu rõ, không khỏi cười lạnh: "Đến đi! Phân phó xuống, tối nay ba quân cứ gối mác mà đợi, cẩn thận đề phòng. Khánh Kỵ làm thế này, vừa là kế nghi binh, còn là kế làm binh mỏi mệt, cái gọi là đột kích, thực chất chỉ là giả bộ, chờ tới khi hắn thực sự tiến công, chắc cũng phải sau nửa đêm thậm chí là rạng sáng không thể nghi ngờ!"

Tướng lãnh trong quân Ngũ Tử Tư phần lớn đều có nhiều năm kinh nghiệm chiến trận, đối với phán đoán của Ngũ Tử Tư thì rất đồng tình, vì thế tới tấp lĩnh mệnh, vội vàng an bài xuống dưới. Tới nửa đêm, mưa dần dần ngừng rơi, bên phía Khánh Kỵ đã hoàn toàn đình chỉ quấy rầy đánh lén, ba quân Ngũ Tử Tư đề phòng, cho tới rạng sáng, bên phía Khánh Kỵ vẫn không hề có động tĩnh.

Cho tới khi trời sáng rõ, Ngũ Tử Tư lên cao quan sát, chỉ thấy đại kỳ của Khánh Kỵ ở trên núi tung bay theo gió, từ xa nhìn lại, lờ mờ có thể thấy được binh lính của Khánh Kỵ đứng ở sườn núi, cảnh giới những chỗ hiểm yếu. Ngũ Tử Tư nhíu mày trầm tư, cân nhắc một hồi, không hiểu đêm qua Khánh Kỵ quấy rầy doanh trại là có dụng ý gì, "Chẳng lẽ... mục đích của hắn chỉ đơn giản như vậy, làm cho binh của ta mệt mỏi?"

Lúc này, phó tướng vội vàng đi tới báo cáo: "Tướng quốc đại nhân, quân Khánh Kỵ đã không còn đột kích, hay là chúng ta bỏ phòng bị, để cho ba quân đào bếp nấu cơm, rồi lại tập kết đánh một trận với địch?"

Ngũ Tử Tư đang ở trên đài quan sát bước đi thong thả, cúi đầu nhìn một giọt nước dưới đài, hình ảnh trong giọt nước chính là mây trắng trên không trung, rõ ràng như gương. Phó tướng đứng ở trước đài lẳng lặng chờ, Ngũ Tử Tư cúi đầu trầm tư trong chốc lát, đột nhiên ngẩng đầu, lông mi trắng nhướng lên nói: "Không! Lệnh cho hai cánh quân tả hữu, lập tức tổ chức nhân mã tấn công lên núi! Ta muốn xem, thằng nhóc Khánh Kỵ này rốt cuộc là đang làm cái trò quỷ gì!"

"Rõ!" Phó tướng lĩnh mệnh đi xuống, một lát sau, cờ hiệu được huy động, hai cánh quân tiên phong tả hữu theo hiệu lệnh cờ, lập tức người hô ngựa hý. Hai đạo nhân mã rời khỏi doanh trại, thăm dò tiến công hai sườn trái phải ngọn núi mà Khánh Kỵ đang chiếm cứ.

Không ngờ lần này tiến công, hai đạo nhân mã công dưới chân núi, lại không có ai ngăn cản. Bọn họ sợ trúng kế, lập tức đình chỉ tiến công, vội vàng quan sát một hồi, rồi cho người hồi báo lại Ngũ Tử Tư. Ngũ Tử Tư nghe vậy cũng thấy kinh ngạc, tình huống kì quái như vậy thật khiến cho người ta khó có thể phán đoán, hắn vội vàng lệnh cho thám mã trinh sát mạo hiểm lên núi thám thính động tĩnh, tới khi một thám mã làm vật hi sinh tự thổi phồng lá gan nơm nớp lo sợ đi lên đỉnh núi, chỉ thấy hai tòa trại lớn của Khánh Kỵ đã không còn ai cả, đại kỳ vẫn đứng sừng sững trên đỉnh núi, những binh lính canh gác đều là dùng cỏ tết lại rồi khoác quân phục lên, trên núi không một bóng người, nhưng mà trên mặt đất xốp sau cơn mưa, lưu lại rất nhiều dấu chân hỗn độn, xem xét những dấu chân đó, đều là dọc theo đường núi lui về phía sau.

Ngũ Tử Tư và các tướng lĩnh thủ hạ nghe được tin tức này không khỏi hai mặt nhìn nhau, hóa ra Khánh Kỵ đêm qua tập kích doanh trại không phải là kế làm binh mỏi mệt, cũng không phải là kế nghi binh, mà là hắn lui quân ra khỏi vùng khói lửa. Khánh Kỵ thừa dịp ban đêm dời đi, chơi kế thành trống, mục đích của hắn là gì, người của hắn đang ở nơi nào?

Ngũ Tử Tư thấy quân địch ở trên ngọn núi thừa dịp ban đêm bỏ trốn, liền cảm thấy tình hình không ổn, nhưng để cẩn thận, hắn vẫn cho người khống chế hai bên trái phải ngọn núi, sau đó mới dẫn đại quân ra khỏi cốc mà đánh tới Na Xứ thành. Cư dân Na Xứ thành không tấn công mà chỉ mở cửa nghênh đón, có một người tuổi cao vọng trọng bên trong thành khi thấy Ngũ Tử Tư thì run rẩy, trình lên một phong thư đình chiến của Khánh Kỵ.

Ngũ Tử Tư đọc xong bức thư vội cho người chạy nhanh tới Bách Tân hồ để thám thính động tĩnh, nơi đó chỉ còn lại một doanh trại rỗng, đại quân Khánh Kỵ quả nhiên chẳng biết đi đâu rồi. Ngũ Tử Tư không dám chần chừ, lập tức dùng tốc độ cao nhất quay về Dĩnh Đô báo cho Cơ Quang, Cơ Quang nghe thấy tin tức thì kinh hãi. Ngũ Tử Tư cùng Bá cẩn thận tính toán một hồi, bởi vì Trường Giang ngoằn ngoèo, lộ trình có nhiều khó khăn, cho nên Khánh Kỵ mặc dù đi đường thủy cũng không để nhanh hơn được bọn họ hành quân đường bộ. Tuy rằng Khánh Kỵ đi sớm hơn một ngày, nhưng mà đi đường thủy về nước Ngô, so với bọn họ đi đường bộ thì hẳn phải chậm hơn dăm ba ngày.

Cho ra được kết luận này, Cơ Quang mới hơi an tâm, hắn lập tức hạ lệnh điều động hết thảy xe lừa trâu ngựa của người nước Sở, đại quân hướng phía Đông đi về nước, trước khi đi còn hỏa thiêu hoàng cung Dĩnh Đô vốn đã bị hắn cướp bóc phá hủy chẳng còn gì. Đợi khi Phí Vô Cực tìm thấy Sở Vương, che chở Sở vương trở về, khi đại quân Sở về tới Dĩnh Đô, thì quân Khánh Kỵ và quân Ngô cũng đã sớm theo hai đường thủy bộ tới Ngô quốc rồi. Hoàng cung vốn ở trong thành Dĩnh Đô bây giờ chỉ còn sót lại một mảnh phế tích đổ nát thê lương.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 201: Tường đồng vách sắt (Thượng)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Quân biên giới Tây Bắc của người Sở đang phối hợp với quân Tần, dốc sức chiến đấu với đại quân Tấn quốc đang đi xuống phía Nam. Mà một vài bộ lạc Tam Miêu ở phía Nam người Sở, thậm chí ngay cả một vài tiểu bá quốc vốn thần phục Sở quốc cũng đã bắt đầu rục rịch ổn định quốc nội. Tình hình như vậy, cho nên không thể tác chiến nhiều mặt, vì thể tiểu Sở vương và các quần thần vừa mới trở về Dĩnh Đô liền gặp phải một sự lựa chọn: triệu tập đội quân cần vương đánh theo quân Ngô ở phía Nam, lợi dụng cuộc tranh đoạt vương vị của Khánh Kỵ cùng Cơ Quang mà nhân cơ hội tiêu diệt quân đội của Cơ Quang; hay là lưu lại bảo vệ xung quanh đô thành, sau đó phân nhân mã ra làm hai, một bộ phân đi đàn áp bộ lạc Tam Miêu cùng với những tiểu bá quốc đang có phản tâm, một bộ phận khác phái đi tiếp viện cho quân biên giới Tây Bắc, đánh cho người Tấn về chầu ông bà ông vải.

Cuộc thảo luận rút ra được một nhất trí lạ thường, gần như tất cả công khanh đại thần đều lựa chọn con đường thứ hai. Lý do là bởi sự cường đại của Tấn quốc, người nước Ngô chỉ như một con sói dưới chân một con voi. Con sói có thể tha đi một miếng thịt, còn con voi lại có thể san bằng cả giang sơn Sở quốc. Nếu người Tấn đả bại người Tần, Tề Tấn liên quân đánh xuống phía Nam, thì thế cục toàn bộ thiên hạ sẽ thay đổi, Sở quốc mất nước cũng không có gì là lạ.

Về phần Ngô quốc thì họ lại không dám mạo hiểm, chi bằng cứ để mặc cho Khánh Kỵ cùng Cơ Quang tự giết lẫn nhau, cho dù là ai thắng thì cũng là thắng thảm, khi đó tuyệt đối sẽ không có lực lượng nào lại một lần nữa xâm nhập vào Sở quốc. Sở quốc nếu kết minh với Tần đả bại liên quân Tề Tấn, thì chính là bá chủ thiên hạ, khi đó quay lại đối phó với Ngô quốc chỉ dễ như trở bàn tay, huống chi, Sở quốc gặp phải đại nạn, cũng cần phải ổn định lại bên trong. Một hồi thương nghị xong xuôi, tiểu Sở Vương nghe thấy ai nói cũng có đạo lý, cuối cùng đành nhờ Phí Vô Cực làm chủ, lựa chọn quyết định thứ hai.

Những công khanh đại phu đưa ra lựa chọn như vậy, chân chính là có người sợ sự hung mãnh của người Ngô; có người quả thật là tính toán lâu dài, cảm thấy rằng nếu chưa giết đi người Tấn thì cảnh nội nước Sở vẫn còn bị uy hiếp; có người lại bởi vì gia chủ bị Bá bắt đi, bắt làm tù binh, ước gì gia chủ vĩnh viễn không cần trở về, gia tộc lại phân phối lại quyền lực, chính mình là tinh anh trong gia tộc có thể được phân một chén canh, đủ loại lý do các loại, phần lớn là không nói ra với người ngoài.

Phí Vô Cực chờ các công khanh thống nhất ý kiến, lập tức lấy danh nghĩa Sở vương, sai Tử Tây dẫn một lộ quân đi Tây Bắc tiếp viện, đối kháng quân Tấn, sai Yên tướng soái dẫn quân đi phía Nam đàn áp những bộ lạc Tam Miêu đang rục rịch cùng với những bá quốc dã tâm bừng bừng, rồi lập tức lấy cớ thắng lợi đuổi đi được người nước Ngô, xếp các thân tín và người của mình vào khắp các vị trí, chính mình lại vất vả lao tâm khổ tứ, chẳng những tiếp nhận chức lệnh doãn của Nang Ngõa, hơn nữa còn một thân mà kiêm cả tam công, quyền hành khuynh đảo đương triều, uy phong không ai bì kịp.

Đại quân Khánh Kỵ từ Bách Tân hồ nhập vào Trường Giang, đi xuống hơn mười dặm mới giương buồm đi nhanh. Trên dòng Trường Giang, mấy trăm chiến hạm giương cờ, đón gió đi về phía Đông. Ngẫu nhiên có một vài chiếc thuyền đánh cá trên bờ sông, thấy một đại đội chiến hạm không cần mái chèo trước kia chưa từng thấy, một đám không khỏi trợn mắt há hốc mồm. Gió thổi phần phật, kích động cánh buồm, hơn nữa dòng chảy của sông vốn là về hướng Đông, cho nên tốc độ cũng rất mau.

Ban đầu Yểm Dư công tử còn muốn cho người chèo thuyền, để cho thuyền đi nhanh hơn một ít, chỉ có điều chiến thuyền kiểu mới này, những người chèo thuyền vẫn còn chưa quen sử dụng, cho người chèo thuyền tuy rằng tốc độ có nhanh hơn, nhưng nắm giữ bánh lái còn chưa tốt, một con thuyền phía trước thẳng tắp nhắm ngay vào đá ngầm mà đâm vào. Cũng may là đã được Khánh Kỵ gợi ý, chiến hạm nào cũng được thiết kế một khoang thuyền kín, cho nên chiến thuyền đó cũng không đến mức chìm nghỉm, nhưng Khánh Kỵ không có thời gian sửa thuyền, liền để cho những sĩ tốt trên thuyền đó ở lại phía sau sửa tàu, đại quân lại chậm rãi đi tới Giang Đông, Yểm Dư cũng không dám đưa ra chủ trương lung tung nào đó nữa.

Ngô Vương Hạp Lư sớm đã làm đủ loại bố trí cho đường lui, một đường đi không gặp chút trở ngại nào. Tới khi hắn đi qua Sào thành, sắp vượt Giang Đông để tiến vào đất Ngô quốc, thì những thủ vệ mới được bố trí bên bờ sông cho biết đội thuyền Khánh Kỵ không ngờ đã đi qua đây từ ba ngày trước rồi. Ngô Vương Hạp Lư nghe thấy thế thì tim như muốn nhảy ra, hắn vô luận thế nào cũng không nghĩ ra, thuyền của Khánh Kỵ sao lại có thể chạy nhanh hơn hắn. Tới khi nghe binh lính phòng thủ kia kể rõ việc chứng kiến đoàn thuyền Khánh Kỵ, thấy có chỗ khác thường, Hạp Lư cùng Ngũ Tử Tư, Bá các tướng hai mặt nhìn nhau, bọn họ mặc dù còn chưa biết Khánh Kỵ đụng tay đụng chân gì vào thuyền, nhưng cũng mơ hồ đoán ra được hắn dựng trên thuyền một cái cột cao, chắc là trên đó treo một tấm ván gỗ thật lớn.

"Sức gió, đây là mượn sức gió mà đi..., hắn... sao lại có thể nghĩ ra chủ ý như vậy, từ khi gặp chuyện trên Trường Giang, Khánh Kỵ giống như thay đổi thành con người khác, hay là có thần trợ giúp?"

Một ý niệm xuất hiện, trong lòng Ngũ Tử Tư chấn động, nhưng hắn lập tức phủ định đi ý nghĩ của chính mình: "Không có khả năng, nếu thần linh thực có mắt, sao có thể trơ mắt ngồi xem Ngũ gia ta một nhà trung liệt lại bị đồ sát, Khánh Kỵ... hẳn là có một cao nhân ẩn dật tương trợ, mới có thể có biến hóa như thoát thai hoán cốt như vậy."

Ngũ Tử Tư nghĩ đến đây, vội nói: "Đại vương không nên kinh hoảng, từ khi biết Khánh Kỵ ở Lỗ quốc có một đội phục binh, thái tử điện hạ đã tăng cường đề phòng Cô Tô thành. Thái tử điện hạ túc trí đa mưu, Phu Khái công tử anh dũng thiện chiến, Cô Tô thành mà thần mới xây, lại chính là hùng thành đệ nhất Giang Đông, Khánh Kỵ cho dù chạy về Ngô quốc sớm hơn chúng ta mấy ngày, cũng không thể công được Cô Tô thành."

Nói tới đây, hắn vừa kiêu ngạo vừa tự phụ nói: "Với sự hùng vĩ hiểm trở của Cô Tô thành, chỉ cần phòng thủ thỏa đáng, không có mười vạn đại quân vây khốn ba năm, thì không thể đoạt thành mà vào. Chúng ta hiện tại trở về, lại có thể ngăn đường lui của Khánh Kỵ, khiến cho hắn hai mặt thụ địch, chắc chắn sẽ bị giết dưới thành Cô Tô."

Mặc dù được Ngũ Tử Tư xoa dịu, nhưng trong lòng Hạp Lư vẫn không yên, hắn lập tức phân phó qua sông, đẩy nhanh hành trình tiến về Cô Tô thành. Lúc này, đại quân Khánh Kỵ cũng đã đổ bộ lên bờ, ngày đêm chạy tới Cô Tô, cách Cô Tô thành chỉ còn hai ngày lộ trình.

Lúc này Tôn Vũ đang dẫn quân tới Thái Hồ nghỉ ngơi và chỉnh đốn, cũng phái nhân mã đi ngóng chờ hắn đến. Sau khi Chúc Dung bí mật chạy tới Vũ Nguyên để xúi giục quân trông giữ nơi đó tạo phản, Tôn Vũ cùng với vài vị lữ soái của hắn chia nhau suất lĩnh vài đội nhân mã xen kẽ phía sau, hội hợp ở bờ sông, biết Phu Khái vẫn tọa trấn ở Hàn Ấp chưa trở về, nghĩ rằng đây là một cơ hội khó có được, liền phái một đội nhân mã ra vẻ là một đội bán dạo đi vào Cô Tô thành, trong ngoài phối hợp cướp lấy Cô Tô.

Cho đến khi tới được Cô Tô thành, liên hệ với mật thám, biết được bố trí tường tận của Cô Tô thành, Tôn Vũ mới biết Cô Tô thành dễ phòng thủ khó tấn công, giống hệt như tường đồng vách sắt, sự hùng vĩ hiểm trở còn hơn xa khả năng dùng ngôn ngữ để miêu tả của mật thám. Đô thành này là do Ngũ Tử Tư tự mình đốc thúc xây dựng, thập phần chú trọng vào thiết kế phòng ngự quân sự, Phù Sai cũng có bản lĩnh thủ thành, Tôn Vũ vừa tới Cô Tô thành biết được những tư liệu này, liền biết phỏng đoán ban đầu của mình có khi là chính xác, tòa thành này căn bản là không thể dùng binh mã của hắn mà mạnh mẽ công phá được.

Phù Sai là một người trẻ tuổi chưa tới nhược quán lấy thân phận thái tử giám quốc, tọa trấn Cô Tô thành. Trong việc phòng ngự Cô Tô thành, đã biểu hiện ra khả năng quân sự trác tuyệt của hắn. Phù Sai đã nhận được tin tức của những binh lính trốn về từ biên cảnh Ngô Việt, Tôn Vũ còn chưa tới, Cô Tô thành đã tiến vào trạng thái toàn diện chuẩn bị cho chiến tranh.

Sự cảnh giới mở rộng ra cả ba mươi dặm xung quanh Cô Tô ngoài thành, Phù Sai di chuyển toàn bộ người nước Ngô trong vòng ba mươi dặm vào trong thành, tất cả nhà cửa trong vòng ba mươi dặm toàn bộ san bằng, đốt hết toàn bộ cây cối, hạ độc dược vào nước giếng, thực hiện vườn không nhà trống.

Cách mười dặm xung quanh Cô Tô thành bắt đầu dựng lầu quan sát, cứ cách trăm bước lại dựng một lầu quan sát, trên là ba gã Ngô quân, phụ trách trinh sát cảnh giới, ban ngày phát hiện quân địch thì phất cờ cảnh báo, ban đêm phát hiện quân địch thì đốt lửa cảnh báo. Muốn phái vào một đội nhân mã, dùng vũ lực cướp lấy cửa thành, sau đó phục binh bên ngoài thành mạnh mẽ đoạt thành là không có khả năng. Đại quân nếu tới, từ lúc ở ngoài mười dặm đã bị phát hiện, quân Ngô lập tức sẽ đứng đầy tường, một đội phục binh cho dù có vào được Cô Tô thành, thì cũng làm gì có cơ hội tiếp cận cổng thành?

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 201: Tường đồng vách sắt (Trung)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Ở dưới lầu quan sát, Phù Sai còn thiết lập các con đường chính cùng trạm kiểm soát, phụ trách kiểm tra những dân chúng, thương lữ, tín sứ các nơi hàng ngày ra vào Cô Tô thành, đồng thời còn phái Ngũ Trường mang theo nhiều tiểu đội năm người, trinh sát tất cả mọi thứ xung quanh Cô Tô thành kể cả gió thổi cỏ lay. Nghiêm mật phòng ngự như thế, cho dù ngươi có bản lĩnh thông thiên, cũng đừng mơ tưởng có thể thần không biết quỷ không hay mà tiến tới gần Cô Tô thành nửa bước.

Cô Tô thành chu vi bốn mươi bảy dặm, mười sáu cổng thành thủy bộ, ở các nước chư hầu phương bắc cũng được coi là một thành lớn. Thành trì chắc chắn nguy nga, trong ngoài hai lớp tường dày, thành hào (sông đào bảo vệ ngoài thành) lợi dụng nguồn nước dư thừa của Giang Nam cùng với những hồ nước phụ cận, chỗ hẹp nhất tới mười bảy trượng, chỗ rộng nhất căn bản là lấy luôn hồ nước làm thành hào, rộng tới hơn 50 trường, trở thành một cái rào chắn, khiến cho không dễ mà đánh tới được dưới thành.

Thành hào cách tường thành ba trượng, dưới nước cắm những cây trúc nhọn ngắn dài không đồng nhất. Ở giữa thành hào và tường thành có thêm một dãy tường thấp, vào thời chiến có thể giấu quân sĩ, phối hợp với quân trên thành bắn giết địch nhân, lại có thể gây trở ngại cho quân địch dùng thang. Ở dưới chân tường, còn sắp xếp một dãy cọc gỗ, vừa có thể cản trở địch nhân bấu vào tường thành vừa dùng để đâm chết khi địch nhân rơi xuống.

Tiếp đó mới là tường thành Cô Tô, đây là lá chắn thành trì cuối cùng. Tường thành Cô Tô so với tường thành Khúc Phụ Lỗ quốc còn cao hơn vài phần, cao tới năm trượng, rộng ba trượng, hai sườn có chỗ giấu binh, có lỗ châu mai để bắn tên. Trên tường thành mỗi hai mươi trượng lại xây một tòa lầu các, dùng để tiêu diệt những kẻ địch đứng ở góc chết và mang tác dụng giáp công từ nhiều phía. Chân tường sâu hơn mười trượng, cho dù có bị đào rỗng, cũng không mất trọng tâm sụp xuống mà chỉ lún xuống.

Về phần cổng thành, Cô Tô thành có mười sáu cổng thành thủy bộ, đều là những cổng thành kép trong ngoài, ngoài ra còn bố trí cánh cổng treo, cầu treo, cơ quan điều khiển đóng mở cầu cổng. Ở trên cổng thành chắc chắn rất nặng còn được bố trí những lỗ bắn, vì để phòng cháy, cổng thành được bọc đồng đen, cùng một hàng dài đinh tán gia cố.

Tôn Vũ nghe thấy những tin tình báo như vậy thì không khỏi thầm cả kinh, hắn vốn tưởng rằng Cơ Quang dẫn dắt rất nhiều quân Ngô đi tới nước Sở xa xôi, quân binh chủ lực ở trong nước hẳn là phải lưu thủ ở biên giới Ngô Việt, lại thêm người Đông Di làm loạn, trước mắt thu hút rất đông nhân mã tới phòng ngự ở ven bờ Trường Giang. Quân phòng thủ bên trong thành Cô Tô vốn đã cực hữu hạn rồi, chỉ cần nhanh chóng trà trộn vào trong Cô Tô thành, là mình có khả năng thừa cơ hội. Nhưng mà Ngũ Tử Tư không tiếc nguồn vốn xây dựng ra tòa đại thành Hạp Lư này, thực đúng là đã phát huy những phương diện phòng thủ thành trì lên tới cực hạn.

Tôn Vũ tính toán sơ qua một chút, nếu cho hắn đến thủ thành, với sự hùng vĩ hiểm yếu của Cô Tô thành, cho dù có mười vạn đại quân vây thành, hắn cũng chỉ cần 4000 lính, là có thể phong tỏa được nhuệ khí của cường địch. Mà bên trong thành Cô Tô hiện tại quân phòng thủ có tới 9000, mà ngay cả nam tử bình dân, phụ nữ khỏe mạnh, thậm chí người già trẻ em cũng có thể lên tường thành. Cư dân được sung làm phụ binh, hậu cần, tạp dịch có thể lên tới sáu vạn, cho nên hạ được Phù Sai là việc không đơn giản.

Mà Tôn Vũ thì sao, trong tay của hắn chỉ có không tới tám ngàn binh mã, còn phải đề phòng quân Ngô ở Hàn Ấp phía Bắc, Ngự Nhi thành phương Nam đánh về cứu viện cho Cô Tô. Hai mặt thụ địch, binh lực hữu hạn, làm sao có thể đánh hạ được Cô Tô?

Một khi đã biết được tình huống, trong lòng Tôn Vũ đã bắt đầu mưu tính sách lược mới. Hắn một mặt lợi dụng mạng lưới tình báo mà Thành Bích phu nhân giao cho hắn để nắm được mọi tình hình, nghe ngóng tin tức từ Khánh Kỵ, một mặt hủy bỏ kế hoạch thử tấn công Cô Tô, trực tiếp dẫn quân lách qua Cô Tô, bắt đầu gạt bỏ những đạo quân Ngô đóng ở bên ngoài Cô Tô.

Hoằng Thượng, Một thành, núi Cô Tô... Tôn Vũ đánh vòng quanh Cô Tô thành, đánh cho những quan binh vệ thành* đóng quân xung quanh Cô Tô hoa rơi nước chảy. Nhưng mà Phù Sai ở bên trong Cô Tô lại rất trầm tĩnh, căn bản không để ý tới khiêu khích của hắn, không điều người nào ra ứng chiến, mà chỉ liên tiếp phái ra ba đội tín sức, điều Vương thúc Phu Khái từ Hàn Ấp trở về thành giải vây.

(Vệ thành: Các thành phòng vệ, thường đóng xung quanh một thành lớn trung tâm)

Trải qua vài trận đại chiến, quân đội trong tay Tôn Vũ cũng đã chịu tổn hại, binh lính giảm bớt, thương binh gia tăng, cần phải nghỉ ngơi và hồi phục. Một ngày này, Tôn Vũ dẫn binh vào Thái Hồ tạm nghỉ chỉnh đốn lại, liền có tai mắt đưa tới tin tức, đại quân Khánh Kỵ đã đổ bộ lên bờ Trường Giang, một đường đi nhanh, chỉ còn cách nơi này hai ngày lộ trình.

Tôn Vũ nghe thấy tin báo như vậy thì vui mừng giãn đôi chân mày, hắn lập tức ở trong trướng mở tấm bản đồ da dê ra xem lộ tuyến hành quân của Khánh Kỵ, hoan hỉ nói: "Công tử có thể đi nhanh hơn Hạp Lư, cơ hội là rất lớn."

Hắn bỗng nhiên ngẩng đầu nói: "Cơ Quang hiện ở nơi nào?"

Thám tử kia nói: "Chưa có được tin tức của Cơ Quang."

Tôn Vũ nhướng hai hàng lông mày, phân phó xuống: "Nhanh chóng tìm hiểu động thái các lộ quân Ngô của Cơ Quang, Phu Khái, Ngự Nhi thành, một khi có tin tức, phải lập tức hồi báo."

"Tuân mệnh!" Trinh sát kia vội vàng lui ra.

Tôn Vũ lại cúi đầu nhìn kỹ lên bản đồ nước Ngô, trầm ngâm một lát, lấy tay chỉ trỏ lên bản đồ, cũng không ngẩng đầu lên nói: "Anh tướng quân, ngươi tạm lĩnh toàn quân nghỉ ngơi phục hồi, bản tướng dẫn một đội nhân mã đi nghênh đón công tử, sau khi vào Ngô phải dựa vào trận đánh đầu tiên, sắp đánh rồi, trận chiến này quan hệ rất trọng đại, ngươi phải cẩn thận chuẩn bị."

"Mạt tướng tuân mệnh!"

Trải qua một thời gian tiếp xúc, Anh Đào vốn luôn tâm cao khí ngạo, đối với vị Tề quốc võ sĩ xấp xỉ tuổi của mình đã hoàn toàn phục tùng. Hai người bọn hắn vốn là tương đương, luận về lai lịch thì Anh Đào còn trên Tôn Vũ, khi Khánh Kỵ bổ nhiệm Tôn Vũ làm chủ soái toàn quân, Anh Đào vốn cũng có chút không phục, nhưng bây giờ cũng đã cam tâm tình nguyện kính hắn làm chủ tướng, vừa nhận được quân lệnh, lập tức chắp tay lĩnh mệnh.

Bên trong thành Cô Tô, Ngô thái tử Phù Sai lúc này đang tiếp kiến sứ thần của Việt quốc. Việt quốc đại phu Linh Cô Phù ăn mặc long trọng, quan mão chỉnh tề, hành lễ với Phù Sai nói: "Đông hải thần quốc Việt Vương Duẫn Thường hạ thần Linh Cô Phù, tham kiến đại Ngô thái tử điện hạ."

Phù Sai toàn thân hoa phục, ấn kiếm ngồi bên cạnh vương vị đại vương, cười lạnh nói: "Linh Cô Phù, Việt quốc là nước phụ thuộc Ngô quốc ta, vốn một năm phải yết kiến hai lần, tiến cống gạo thóc tiền tài, cho tận thần lễ. Lần đầu yết kiến trong năm nay lại mãi tới tận bây giờ, ta nghe nói ngươi vào thành chỉ mang theo năm cỗ xe ngựa, hay là đã cho rằng Ngô quốc ta trong ngoài đều khốn đốn, cho nên tới để rình động tĩnh sao? Ha hả, ngươi xem thành Cô Tô của ta sừng sững như ngọn núi, Khánh Kỵ một thân một mình có thể công được sao?"

Linh Cô Phù hoảng sợ cả kinh, vội vàng phất tay áo hành lễ nói: "Thái tử điện hạ thứ tội, thần quốc Đại vương trung thành và tận tâm với Ngô quốc, luôn thủ thần lễ, không dám có chút dị tâm."

Hắn nói tới đây, thần tình lại trở nên u sầu nói: "Hạ thần không dám giấu diếm điện hạ, Việt là nước nhỏ ít dân, thực lực một nước hữu hạn, năm trước lại gặp nạn sâu bệnh, thu hoạch không nhiều, năm nay lễ vật yết kiến không cách nào kiếm được, cho nên mới kéo dài tới tận bây giờ. Phải tới khi bọn chúng thần đề nghị với vua, Ngô quốc là nước lớn Giang Đông, gạo cá sung túc, thực lực hùng mạnh, là thần tử chỉ cần dành hết tâm ý, thì ngay cả lễ vật có thiếu một chút, Đại vương thượng quốc cũng sẽ không trách tội. Vua của chúng thần nghe thấy vậy, mới thuận theo đề nghị của hạ thần, từ trên dưới Việt quốc, tuyển năm mươi nữ tử tuyệt sắc làm lễ vật."

"Hả?" Phù Sai là người có tính mưu lợi, nghe thấy lời này không giật mình, vội hỏi: "Các ngươi năm nay tiến cống cho phụ vương ta năm mươi nữ tử?"

Linh Cô Phù chỉnh lý lại nói: "Việt quốc tiến cống năm mươi mỹ nữ, ba mươi người tiến dâng cho Ngô quốc Đại vương, hai mươi người tiến dâng cho thái tử điện hạ."

Sắc mặt của Phù Sai lúc này mới nhất thời dịu lại, ha hả cười nói: "Duẫn Thường lão thất phu, thật còn biết thức thời. Ha ha, mang lễ vật của ngươi vào điện, để cho bản thái tử xem, nước Việt nghèo nàn ngu dốt các ngươi, có được mỹ nữ như thế nào."

"Dạ! Hạ thần tuân mệnh!" Linh Cô Phù không thèm để ý đến lời nói vũ nhục của hắn, chỉ mỉm cười chắp tay đáp lại.

Cửa Nam Cô Tô thành mở ra, một hàng hơn một trăm người giương cờ nước Việt ra khỏi Cô Tô thành, phía sau cánh cửa nặng trịch đóng lại ầm ầm, Linh Cô Phù buông lỏng đầu vai, thầm thở ra một hơi lạnh. Phó tướng bên cạnh hắn quay đầu lại nhìn thoáng qua Cô Tô đại thành sâm nghiêm, thấp giọng nói: "Phù Sai tiểu tử này, trong lúc nguy cấp còn có lòng thanh thản đùa bỡn nữ sắc."

Linh Cô Phù nói: "Anh hùng nan quá mỹ nhân quan - anh hùng cũng khó qua được ải mỹ nhân, son phấn làm giáp trụ, giường chiếu làm chiến trường, đối phó với một nam tử tự cho là anh hùng như vậy, mỹ nhân chỉ cần nhăn mặt cười, cũng như là kiếm kích. Huống chi Cô Tô đại thành này đúng thực là phòng thủ kiên cố, theo như ta thấy, Khánh Kỵ tuyệt đối khó mà công thành được."

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 201: Tường đồng vách sắt (Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Phó tướng bên cạnh Linh Cô Phù động sắc mặt nói: "Tướng quân nói, chúng ta có còn cơ hội ở Ngô quốc không?"

Ánh mắt Linh Cô Phù chợt lóe, từ từ nói: "Khánh Kỵ thế yếu, tự mình không làm nên chuyện. Việt quốc ta nếu muốn chờ hai hổ tranh đấu, từ giữa thủ lợi, thì nhất định phải giúp yếu kháng mạnh, khiến cho bọn họ lưỡng bại câu thương. Chờ quay về gặp Đại vương, trước tiên bình tĩnh chờ xem biến, Khánh Kỵ nếu có thể có triển vọng, chúng ta sẽ phát binh tương trợ, đâm một cây châm vào trong tâm lý quân Ngô."

Phó tướng của Linh Cô Phù nghe vậy liên tiếp gật đầu, đoàn xe của hai người càng lúc càng đi xa, ngẫu nhiên quay đầu lại, nhìn thấy tòa Hạp Lư đại thành đứng sừng sững ở đằng kia, khóe miệng hai người không khỏi lộ ra một nụ cười giống như lang sói.

Khánh Kỵ suốt đường hành quân gấp gáp, không tới mấy ngày đã tới Yểm thành, cách nơi này không xa là Diên Lăng. Diên Lăng Quý Tử, chính là Vương thúc Quý Trát của đương kim Ngô Vương Hạp Lư, nổi danh trong các nước là quân tử lương thiện, uy vọng to lớn, ở Ngô quốc không có ai cao hơn. Để bày tỏ kính ý với Quý Tử, Ngô Hạp Lư không dám trú binh ở Yểm thành, sợ khiến cho người ta nghi ngờ hắn có lòng muốn giám thị Quý Tử, cho nên đây là một tòa thành không có binh lính, chỉ có một vài quan lại địa phương cùng với một ít tiểu tốt trị an, Khánh Kỵ có thể không đánh mà giành được thành.

Khánh Kỵ đại quân dọc đường đi thuyền, sĩ tốt cũng không mỏi mệt, nhưng mà sau khi lên bờ hành quân mấy ngày, toàn bộ đều đi bằng hai chân, đến đây phải nghỉ tạm một đêm, nếu không khi tới Cô Tô thành cũng không còn lực mà chiến đấu tiếp. Khánh Kỵ dàn xếp đại quân hạ trại, nhớ tới lúc trước Nhâm Nhược Tích đã từng đề nghị hắn mượn dùng sự tương trợ của Diên Lăng Quý Tử, chần chừ một lúc, liền triệu đến các vị tướng Yểm Dư, Kinh Lâm, Lương Hổ Tử, thương nghị có nên hay không nên nhờ sự giúp đỡ của Quý Tử - người đã đóng cổng thành tự thủ, quyết ý cả đời không qua lại với triều đình Ngô quốc. Khánh Kỵ vừa mới nói ra tâm ý, đã có quân tốt vội vàng tới bẩm báo: "Khởi bẩm điện hạ, ngoài thành có một đạo nhân mã, người cầm đầu tự xưng là Tôn Vũ, xin được cầu kiến!"

Khánh Kỵ nghe nói Tôn Vũ đã tới, không khỏi quá đỗi vui mừng, vội vàng tự mình ra ngoài, mở cổng thành nghênh đón một hàng hơn một trăm người của Tôn Vũ vào thành. Tôn Vũ so với lần chia tay trước thì gầy đi một chút, nhưng mà hai mắt sáng ngời hữu thần, nhìn vào đó có một loại khí chất khác với năm xưa, đó là một loại khí chất quân nhân được tôi luyện qua sát phạt chiến trường.

Trước kia, hắn mặc dù chất đầy chiến lược binh thư trong bụng, nhưng lại chưa từng có cơ hội được mang binh đi thực tiễn. Hiện giờ mấy tháng này từ luyện binh đến mang binh, tự mình sắp xếp và chỉ huy mấy trận chiến đấu, hắn rốt cuộc đã dần dần thành thục.

Khánh Kỵ nhìn thấy bộ dáng của hắn như vậy thì vô cùng sung sướng, thế gian này chẳng có một ai không phải trải qua tôi luyện, từ khi sinh ra đã là kỳ tài, con người hoàn hảo, thánh nhân. Nếu Khổng Khâu chu du các nước được một vị quân chủ nào đó trọng dụng, như vậy trên thế gian sẽ không còn có Khổng thánh nhân. Những cuốn sách Xuân Thu sẽ chỉ chú thích một chút: Ở một nước nào đó có một vị hiền đại phu, họ Khổng tên Khâu tự Trọng Ni, một vài nét bút văn tự mà thôi. Tôn Vũ cũng là như vậy, từ khi Khánh Kỵ chết đi sống lại, nhân sinh của Tôn Vũ cũng xảy ra biến hóa. Khánh Kỵ vốn còn có chút lo lắng liệu có phải nếu mình cải biến nhân sinh của hắn, thì trên đời từ nay về sau sẽ thiếu đi một quyển "Binh pháp Tôn Tử", lịch sử thiếu đi một vị binh thánh Tôn Vũ. Hiện giờ xem ra, lo lắng này tựa hồ như là dư thừa rồi.

Khánh Kỵ nắm tay Tôn Vũ tiến vào lều lớn, Tôn Vũ mời Khánh Kỵ ngồi lên ghế trên, còn chính mình thì đứng nghiêm nghị trong trướng, sau đó quỳ một gối xuống đất, chắp tay thi hành quân lễ với Khánh Kỵ, nói: "Tôn Vũ vi phạm quân lệnh của công tử, không theo kế lúc trước mà tiến công Cô Tô, thỉnh công tử trị tội."

Khánh Kỵ vội vàng hai tay nâng hắn lên, nói: "Trường Khanh không nên như thế, làm ngoài quân mệnh không phải không được, ta tin rằng ngươi làm thế tất phải có nguyên do. Đến đến đến, ngồi xuống nói chuyện."

Ánh mắt Tôn Vũ lộ ra thần sắc cảm động, Khánh Kỵ kéo hắn ngồi cùng chiếu, nói sơ qua về tình hình ở nước Sở, sau đó hỏi về thế cục Ngô quốc. Nghe Tôn Vũ nói hắn đã dụ được Phu Khái tới Hàn Ấp, sau đó mượn dùng mấy con thuyền lớn chở muối của Tề quốc để vận chuyển binh, gián tiếp ra phía sau địch, tránh gặp địch chính diện, rồi phân tán đột kích tới dưới thành Cô Tô, nơi nơi đều nguy hiểm, khiến các tướng nghe thấy không khỏi khát khao.

Tới khi nói về tình hình phòng thủ thành kiên cố của Cô Tô thành, sắc mặt của đám người Khánh Kỵ, Yểm Dư, Kinh Lâm, Lương Hổ Tử đều trở nên ngưng trọng. Yểm Dư công tử giật mình nói: "Khó trách Cơ Quang luôn đối với Ngũ Tử Tư nói gì nghe nấy, người này thật sự là nhân tài, chỉ trong vòng một năm, đã kiến tạo được một tòa đại thành như vậy, thực là một chuyện vĩ đại chưa từng có ở Ngô quốc ta trước nay. Chỉ có điều... đến lúc này tất phải hao hết tài lực Ngô quốc ta, khó trách Cơ Quang giống như phát điên, hận không thể vác cả Dĩnh Đô trở về Ngô quốc."

Khánh Kỵ liếc mắt nhìn hắn, thầm nghĩ: "Đâu chỉ có Ngũ Tử Tư là nhân tài, nhân tài ở Sở quốc cũng đâu có hiếm. Chỉ tiếc là, Sở Vương ngu ngốc, gian thần cầm quyền, kẻ sĩ trung lương có tài hoặc là bị áp chế không ngóc đầu lên nổi, hoặc là bị khiến cho nhà tan cửa nát."

A Cừu sờ sờ sau gáy, oán hận mắng: "Ngũ Tử Tư này thật là thần cơ diệu toán, liệu định rằng một năm sau Ngô quốc sẽ có ngày này. Nếu không cứ để tòa thành cũ kia, chỉ cần chống một cây gậy trúc là có thể nhảy lên được tường thành, mụ nội nó, sao phải phí phạm nhiều tiền của như vậy?"

Tôn Vũ nói: "Ngũ Viên kia chưa chắc là tính toán cái gì, hắn vội vã xây dựng đại thành này, chỉ là vì củng cố quyền lực của Cơ Quang thôi. Xây dựng đại thành hùng tráng, tuyên dương uy phong Ngô Vương, đó là thứ nhất; xây dựng đại thành, tập trung những gia tộc quyền thế giàu có cả nước, ở gần giám thị, phòng ngừa dị tâm, đó là thứ hai; xây dựng đại thành, cần tập trung lao động thanh niên cả nước, khiến những người này tập trung toàn bộ ở đô thành để tham gia xây dựng công sự, có thể tránh cho bọn họ đi theo công tử, thảo phạt kẻ cướp ngôi vị, đó là thứ ba; xây một lần mà hiệu quả muôn đời, xây dựng một tòa thành kiên cố làm căn bản cho Ngô quốc, đó là thứ tư. Chính là xuất phát từ đủ các loại nguyên nhân, nên Ngũ Tử Tư mới không tiếc quốc lực mà xây nên tòa đại thành này, lần này bọn họ cướp được tài phú như núi từ Sở quốc, chẳng những bù lại được những tiêu hao của việc xây công sự, lại càng làm tăng thêm tài phú của Ngô quốc, cái cách lấy chiến tranh nuôi dưỡng chiến tranh này, thực hợp với cá tính của Ngũ Viên."

Khánh Kỵ lo lắng nói: "Vì sao Ngũ Tử Tư xây thành ta không muốn quản, chỉ có điều Cô Tô thành dễ thủ khó công, hiểm yếu như vậy, chúng ta vội vàng chạy tới Ngô quốc, phía sau lại có đại quân Cơ Quang đuổi theo, thành không thể phá, mấy vạn đại quân này ngay cả một chỗ để đặt chân cũng không có, càng không nói tới lương thảo cấp dưỡng có thể chống đỡ được bao nhiêu thời gian. Chẳng nhẽ chúng ta hao tổn tâm cơ, cuối cùng lại chỉ có thể bại trận mà quay về Vệ quốc sao?"

Tôn Vũ nói: "Công tử, khi Tôn Vũ đổ bộ vào biên cảnh Ngô Việt, căn cứ vào những tư liệu nắm được, liền phỏng đoán Cô Tô khó có thể mạnh mẽ đánh hạ, cho nên mới lệnh cho tín sứ ngày đêm chạy tới nước Sở, thỉnh công tử cần phải về Ngô quốc trước Cơ Quang, để chuẩn bị phương án. Một, đó là trong ngoài phối hợp, bất ngờ đánh chiếm Cô Tô. Hiện giờ xem ra, Cô Tô hiểm trở, Phù Sai có cách phòng thủ, kế này khó thành. Ta có biện pháp thứ hai, tuy rằng nguy hiểm, nhưng mà nếu vận dụng thích đáng, thì muốn đoạt nước Ngô, cũng không phải không có khả năng."

Khánh Kỵ ánh mắt sáng ngời, vội nói: "Trường Khanh có diệu kế gì, mau nói đi."

Tôn Vũ nói: "Một kế này, còn cần bẩm báo công tử, cùng với các vị tướng quân thương nghị."

Hắn lấy từ trong tay áo ra một quyển bản đồ, mở ra ngay tại trên chiếu, chúng tướng xung quanh ngồi bao quanh lại, Tôn Vũ chỉ vào bản đồ nói: "Mọi người mời xem, Cô Tô thành ở chỗ này, thành trì hiểm yếu, dễ thủ khó công, quân phòng thủ trong thành dù không nhiều, nhưng cũng là một tòa hùng thành mà một người có thể chắn một trăm, khó có thể dùng lực. Mục đích của chúng ta, là thiên hạ Ngô quốc. Muốn lấy thiên hạ Ngô quốc, liệu có phải chỉ có một con đường là cướp thành Cô Tô không? Không phải, Ngô quốc có hai cột mốc, một cái bất động, chính là Cô Tô vương thành ở đây, một cái lại di động, chính là đương kim Ngô Vương Hạp Lư!"

Khánh Kỵ ánh mắt chợt lóe, hỏi: "Trường Khanh, ngươi là nói... vây thành đả viện binh?"

Ánh mắt Tôn Vũ ngạc nhiên, vui vẻ khen: "Vây thành đả viện binh? Những chữ này của công tử rất hay, Tôn Vũ chính là có ý này."

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 202: Dương Đông kích Tây (Thượng)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Khánh Kỵ ánh mắt chợt lóe, hỏi: "Trường Khanh, ngươi là nói... vây thành đả viện binh?"

Ánh mắt Tôn Vũ ngạc nhiên, vui vẻ khen: "Vây thành đả viện binh? Những chữ này của công tử rất hay, Tôn Vũ chính là có ý này."

------------------------------------

Khánh Kỵ hơi hơi trầm ngâm, lắc đầu nói: " Khó! Với nhân mã của chúng ta, nếu muốn vây thành còn sợ binh lực không đủ, đồng thời lại còn muốn đánh viện binh, không khác gì lấy trứng chọi với đá. Trong tay Cơ Quang còn gần sáu vạn nhân mã, chúng ta hợp binh ở một chỗ còn không đủ bốn vạn, làm sao có thể hai mặt tác chiến, mà còn đánh bại thậm chí bắt được Cơ Quang?"

Tôn Vũ sắc mặt ngưng trọng nói: " Đây đúng là một nan đề, trận này nhất định là một trận đánh ác liệt, chỉ có điều với điều kiện của chúng ta, muốn đạt được mục đích, thì đây là cơ hội duy nhất. Tôn Vũ đi nước cờ hiểm này, cũng đã từng cẩn thận cân nhắc, Tôn Vũ nghĩ rằng, Cơ Quang biết được công tử chạy về Ngô quốc trước, lo lắng mất sào huyệt, cho nên suốt đường hành quân gấp gáp, tất nhiên không thể phái thám mã cẩn thận do thám tình hình tiền phương. Hơn nữa hắn nhận định công tử vượt lên về nước trước, chắc hẳn sẽ tập trung vào Cô Tô thành, chứ khó nghĩ rằng công tử lại tập kích hắn. Chúng ta lấy hữu bị tính vô bị, đó là điều kiện thuận lợi thứ nhất của chúng ta.

Hắn chính là đi đường bộ, không dám dừng lại giây lát, thể lực của sĩ tốt sẽ bị hao tổn rất lớn, theo Tôn Vũ phỏng đoán, lặn lội đường xa như vậy, sĩ tốt không được nghĩ ngơi, chiến lực ít nhất cũng sẽ mất đi bốn thành. Chúng ta lấy quân khỏe ứng với quân địch mệt mỏi, bất ngờ hành động, đó là điều kiện thuận lợi thứ hai của chúng ta.

Cơ Quang đi đường bộ sang Sở, rồi lại quay về địa bàn của hắn, lương thảo tất nhiên sẽ không mang nhiều, hơn nữa hắn dọc đường đã ăn cướp thành tánh, ta thấy đại quân của hắn có lẽ còn không mang theo lương thực đủ cho ba ngày. Toàn bộ Ngô quốc hiện giờ mặc dù là của hắn, nhưng mà hắn một khi bị nguy cấp, lại không có được cung cấp, quân tâm sĩ khí thậm chí cả chiến lực cũng sẽ tan rã, đó là điều kiện thuận lợi thứ ba của chúng ta."

Khánh Kỵ hơi có chút suy nghĩ trầm ngâm, chậm rãi nói: " Ừm... còn gì nữa không ? "

"Còn, Cơ Quang giành được nước đã hơn một năm, mượn cớ xây dựng thành mới, hắn tập trung tất cả thân hào cự phú vào Cô Tô, lại mời các thanh niên trai tráng đầu nhập vào trong quân, lần này đánh hạ Dĩnh Đô, trở thành chư hầu đầu tiên từ khi Chu thiên hạ khai quốc tới giờ công chiếm được đại thủ đô của kẻ khác, uy danh hiển hách, náo động thiên hạ, nếu lần này chúng ta không thể áp chế được hắn, từ nay về sau sẽ không còn cơ hội, bởi vậy, một nước cờ hiểm này, là bất đắc dĩ phải đi, bất đắc dĩ phải lâm vào.

Huống chi, phục kích Cơ Quang mặc dù rất khó khăn, nhưng mà khó khăn này so với việc tấn công vào thành Cô Tô có chín ngàn sĩ tốt canh gác thì còn dễ dàng hơn, chúng ta chỉ cần một trận chiến là có thể đánh bại được Cơ Quang, phá hủy sức chiến đấu của hắn, như vậy là có thể nắm được quyền chủ động trên toàn bộ chiến trường Ngô quốc. Công tử mời xem, nếu chúng ta có thể giết chết Cơ Quang ở địa điểm phục kích, vậy thì uy vọng của Phù Sai sẽ không đủ để toàn Ngô quốc khiếp sợ, hơn nữa Cô Tô thành lúc đó sẽ chỉ còn là một tòa thành cô độc bị chúng ta vây khốn, nếu chúng ta cứ vây khốn bọn họ, không cần phải công thành, thì bọn họ muốn ra khỏi thành cũng không phải dễ dàng. Khi đó công tử cứ lên làm vua trước, đoạt được sự ủng hộ của người Ngô.

Nếu Cơ Quang không chết, mà chỉ bị chúng ta vây khốn, Phù Sai sốt ruột cứu cha, thì có thể sẽ dẫn binh mã đi cứu, chúng ta có thể dẫn dụ được binh mã của Phù Sai ra khỏi Cô Tô thành, nhân cơ hội mà khoét được hang ổ của hắn."

Yểm Dư nghe thấy kế hoạch của hắn như vậy, lo lắng nói: " Đó chính là phương pháp tốt nhất, nhưng mà một khi thất bại, chỉ sợ là chúng ta sẽ lâm vào thế vạn kiếp bất phục."

Khánh Kỵ nhắm mắt lại, rồi lại mở mắt ra, hỏi: " Chư vị, có biện pháp nào khác không? "

Từ Yểm Dư xuống, chúng tướng đều im lặng không nói gì. Khánh Kỵ nắm chặt tay, đấm mạnh một cái lên bản đồ, nói: " Nếu như thế, chúng ta chỉ có lựa chọn này mà thôi."

Tôn Vũ xúc động nói: " Binh quý thần tốc, nếu công tử đồng ý với kế hoạch của Tôn Vũ, chúng ta sẽ lập tức bắt đầu chuẩn bị. Nếu muốn phục kích, vậy thì phải không tiếc nuối hết thảy, chẳng những phải đánh bại quân Ngô, mà còn phải tốc chiến tốc thắng, vì cho dù quân thủ thành của Phù Sai có không ra, thì khi Phù Khái dẫn quân quay về từ Hàn Ấp, chúng ta cũng sẽ lâm vào cục diện hai mặt đều thụ

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#qqq