Dai tranh chi the q3185=>........

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 185: Thuyết phục (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Nước Tùy vốn là nước chư hầu mang họ Cơ, từ ban đầu khi Chu Vũ Vương (Cơ Phát) lật đổ vua Trụ diệt nhà Thương lập ra triều Tây Chu, vương triều Tây Chu vì muốn trấn thủ và mở mang ranh giới, khống chế hậu duệ của nhà Ân Thương, liền phong thân tộc đi khắp thiên hạ, lúc đó từ thượng du sông Hoài đến trung du sông Hán những nước chư hầu được phong đất mang họ Cơ có tới hơn mười nước, tạo thành một tập đoàn phong quốc khổng lồ họ Cơ, tạo thành hình tam giác, phụ trách giám thị và ngăn chặn liên minh của Kinh Sở, Hoài Di và Bách Việt.

Nước Tùy vốn đất phong rộng lớn, quốc lực cường thịnh, từng nhiều lần tranh phong với Sở quốc mà không chịu thua kém. Nhưng mà nhiều năm qua đi, những nước họ Cơ năm đó thụ phong nhận trách nhiệm giám thị Kinh Sở càng ngày càng yếu đi, những chư hầu vốn là có quyền giám thị giờ lại trở thành nước phụ thuộc vào Sở. Nước Tùy cũng không phải ngoại lệ, hiện giờ đã hoàn toàn bị Sở khống chế.

Tiểu Sở Vương chạy trốn sang nước Tùy, đang lúc hoảng sợ, bên người lại chỉ mang theo hơn hai ngàn giáp sĩ, nhưng mà nước Tùy cũng không dám có chút bất kính với hắn. Ở trong mắt người nước Tùy, quân Ngô mặc dù đánh vào Dĩnh Đô, cũng không thể chiếm lĩnh được cả lãnh thổ Sở quốc rộng lớn, không bao lâu sau, bọn họ chắc chắn phải lui về Ngô quốc. Dĩnh Đô mặc dù bị phá, nhưng mà thực lực nước Sở lại căn bản chẳng bị hao tổn gì cả, đến lúc đó khống chế cả một vùng rộng lớn vẫn là Sở Vương.

Cho nên mặc kệ là trong lòng suy nghĩ thế nào, ở mặt ngoài bọn họ vẫn y theo lễ bề tôi mà đối đãi Sở Vương. Vì sự an toàn của Sở Vương, còn giúp bọn hắn trốn trong một khe cốc bí ẩn gần sông sâu núi cao. Nếu không phải Văn Chủng là một vị hạ tướng quân đóng ở Dĩnh Đô, Sở Vương cùng Phí Vô Cực lại bỏ chạy từ cổng thành nơi hắn đóng chạy về phía Tùy quốc, thì hắn cũng không thể nào biết được vị trí trú ẩn chuẩn xác của Sở Vương.

Sơn cốc ở đây tên là Cửu Phượng cốc, ở bên bờ một dòng sông lớn, núi chập trùng vây quanh, hiểm trở hùng vĩ. Nước sông xanh biếc uốn lượn theo chân núi, cây rừng trùng điệp quanh chân núi phản chiếu xuống lòng sông, phong cảnh tuyệt đẹp, hoàn toàn không nhìn thấy một chút không khí khẩn cấp nào của chiến tranh.

Khánh Kỵ cùng Phạm Lãi mang theo mấy trăm binh sĩ, tránh đi đạo nhân mã cảnh giới của quân Ngô quanh Dĩnh Đô, đi đường vòng chạy tới Tùy quốc, sau đó dưới sự dẫn đường của người Tùy đi vào Cửu Phượng cốc. Ở chân núi còn có thể nhìn thấy ba thiếu nữ Miêu ngồi dưới dòng sông trong vắt cười nói, các nàng cả đời ở đây, tựa hồ từ bé tới giờ chưa từng nhìn thấy đội quân hơn trăm người như vậy, khi thấy bọn họ đi qua, đều dùng ánh mắt kinh ngạc nhìn bọn họ.

Ánh mắt của các nàng vô cùng ngây thơ chất phác, không hề có tâm cơ, nhìn thấy một đội quân xa lạ, nhìn thấy nhiều nam nhân như vậy, lại hoàn toàn không có ý tứ đề phòng cùng sợ hãi, giống như những chú chim sống trong rừng lâu năm chưa từng nhìn thấy nhân loại, cũng không hề có tâm sợ con người, khiến cho Khánh Kỵ nhìn thấy mà dâng lên cảm xúc trong lòng, hắn không hy vọng chiến hỏa sẽ lan đến nơi này, thương tổn đến bầu không khí tinh thuần cùng những con người trong vắt như nước suối nơi đây.

Mọi người đi tới bên ngoài một khe núi sâu cỏ cây xanh ngắt, cửa khe núi liền xuất hiện những sĩ tốt thần sắc khẩn trương cảnh giác ngăn lại dò hỏi. Tuy rằng nhìn thấy đạo nhân mã này đều mặc quân phục nước Sở, nhưng mà bọn họ bây giờ như chim sợ cành cong không dám sơ suất, tới khi Phạm Lãi xuất ra ấn tín chứng minh thân phận của mình, những binh lính này mới buông lỏng cảnh giác, nhưng vẫn cưỡng chế mấy trăm sĩ tốt Phạm Lãi mang đến cần vương đứng chờ ở ngoài sơn khẩu, chỉ cho phép mấy người Phạm Lãi đi vào.

Khánh Kỵ vẫn chưa biểu lộ thân phận của mình, chỉ đi theo sau Phạm Lãi vào trong núi, trước sau bọn họ có hơn mười thị vệ Sở Vương áp giải. Tiến vào sơn khẩu, Khánh Kỵ liền phát hiện ra địa hình bên trong cốc còn hiểm trở hơn cả bên ngoài, mọi người chỉ có thể xếp thành hình rắn, dọc theo đường núi gập ghềnh mà leo lên phía trước. Ở phía sau sơn cốc lại là những dãy núi um tùm, trốn ở đây đúng là rất an toàn. Cho dù quân Ngô có nghe được tin tức phái đại quân tới công, cũng chắc gì đã công tới được, mà cho dù có công tới được, Sở Vương cũng có thể trốn vào trong rừng cây, không thể nào tìm ra được.

Thế núi dốc đứng, vách đá cao ngất, đỉnh núi trùng điệp, vách núi như gọt, ở hai bên núi đá có nhiều cây dây leo rối rắm vô cùng khó gỡ. Chim chóc hót vang, trong bụi cỏ thi thoảng có thỏ hoang, gà lôi kinh hoảng chạy xẹt qua, thỉnh thoảng còn có mấy con rắn độc quấn lấy thân cây, lè lè lưỡi ra với bọn họ.

Mọi người vô cùng cẩn thận, qua hơn nửa canh giờ mới đi qua được sơn cốc, đi tới một vùng bằng phẳng ở lưng chừng núi, phía trước có người tới chào đón, hỏi rõ thân phận lập tức chạy về báo tin. Chỉ một lát sau, một vị đại phu hông đeo trường kiếm, tuổi chừng năm mươi dẫn theo vài tên binh lính chạy tới, nhìn thấy Phạm Lãi, liền kiêu căng đứng lại, hỏi: "Bốc doãn Quan Tòng ở đây, là ai tới cần vương?"

Bốc doãn, là chức quan quản lí việc bói toán cát hung, chức vị trên Phạm Lãi, Phạm Lãi vội vàng tiến nhanh tới bái kiến: "Huyện tư mã Phạm Lãi, bái kiến Bốc doãn đại nhân. Hạ quan nghe nói quân Ngô công phá Dĩnh Đô, Đại vương phải di chuyển đi, cho nên dẫn theo ba trăm binh sĩ bản bộ tới cần vương hộ giá."

"Chỉ có ba trăm người thôi sao?" Nghe nói chỉ là một vị Huyện tư mã, so với Huyện doãn còn kém hơn một bậc, hơn nữa chỉ dẫn theo có ba trăm người, không khỏi thất vọng, xua tay nói: "Biết rồi, Đại vương dọc đường kinh hoảng, thân thể không khỏe, không gặp ngươi được, mang theo nhân mã bản bộ của ngươi đóng cùng trong sơn khẩu, chốc nữa Tử Tây tướng quân sẽ tới tiếp kiến ngươi, an bài nhiệm vụ cho ngươi. Chúng ta đi vội, lương thực người Tùy cho lại có hạn, quân nhu của quân ngươi, nên tự mình tìm biện pháp, cũng may núi này có rau rừng quả dại, chim bay cá nhảy..."

Vẻ mặt Phạm Lãi hơi ngây ra có chút bất đắc dĩ: "Bốc Doãn đại phu không cần lo lắng, việc cấp dưỡng hạ quan sẽ tự lo liệu. Hạ quan đến lần này, còn mang theo một nhân vật trọng yếu, cần phải Đại vương tự mình tiếp kiến."

"Ồ? Là nhân vật trọng yếu nào, còn cần Đại vương tự mình tiếp kiến nữa?" Vị quan đại phu kia kì quái hỏi, giống như lúc này hắn không phải là kẻ hoảng sợ chạy nạn tới vùng thâm sơn hoang dã này, mà dưới chân vẫn còn đang dẫm lên bậc thềm của Sở Vương cung vậy.

"Hồi bẩm Bốc doãn đại nhân, người đó là... Ngô quốc vương tử... Khánh Kỵ."

"Cái gì?" Quan Tòng chấn động, thần sắc kiêu căng trên khuôn mặt liền trở thành hư không: "Ngô quốc Khánh Kỵ, hắn đến đây làm gì? Ách... hắn đang ở đâu?"

Khánh Kỵ thầm than trong lòng, cận thần bên người Sở Vương dù đang trong lúc chạy nạn, thế mà đối với quân đội cần vương vẫn còn kiêu căng như vậy, chẳng biết mời chào chút nào, bề tôi nước Sở há có thể không sinh oán thán? Hắn từ phía sau Phạm Lãi bước lên một bước, hơi chắp tay nói: "Quan đại phu, Khánh Kỵ ở đây."

"A..., Khánh... Khánh Kỵ..., Quan mỗ không biết điện hạ giá lâm, thất lễ, thất lễ, điện hạ mau mau xin mời." Quan Tòng nói năng lộn xộn, đồng thời bên dưới tay áo dùng tay ra hiệu, thị vệ thủ hạ của hắn nhanh trí thấy vậy thì quay người, vội vàng chạy về báo tin. Quan Tòng đối với vị vương tử từng là địch nhân, địch quốc, giờ lại trở thành cùng chung kẻ thù cũng không biết nên dùng thái độ nào đối đãi, cho nên khách khí vài câu, liền dẫn hắn đi tới một hang động bên trên sườn núi. Phạm Lãi chức vị thấp kém, chưa nhận mệnh lệnh cũng không tiện đi theo, đành phải đứng tại chỗ chờ. Khánh Kỵ đi theo Quan Tòng một đoạn về phía trước, còn chưa kịp tới cửa động giống như hình con dơi kia, bên trong đã có hai vị tướng quân ra nghênh đón. Hai người này đều trên dưới bốn mươi, dáng người cao gầy, khuôn mặt hẹp dài, lông mi thô ngắn, thân không mặc bì giáp, dưới sườn đeo kiếm, bộ dáng nghiêm túc vẻ mặt trang trọng.

Quan Tòng vừa thấy, vội vàng nghênh đón, nói: "Tử Tây tướng quân, Tử Kỳ tướng quân, vị này chính là Ngô quốc Khánh Kỵ vương tử."

Hai người kia nhướng mi lên, hai mắt sáng ngời hữu thần đồng thời chú ý lên người Khánh Kỵ, hơi hơi chắp tay với hắn.

Hai vị này đều là con cháu trong Vương thất Sở quốc, vốn là tướng lãnh đảm nhiệm hai đội binh mã cung, thành. Phí Vô Cực thấy Nang Ngõa binh bại, liền về thành ép Sở Vương đi, hai vị tướng quân trung thành tận tâm này cũng dẫn thân binh theo hộ tống bọn họ một đường tới nơi này.

Khánh Kỵ đã nghe nói qua về danh tự của hai vị tướng quân này, song phương hàn huyên đôi câu, khi biết được mục đích đến của Khánh Kỵ, trên khuôn mặt hai người liền hiện lên vài phần ý cười, vẻ mặt cũng nhu hòa đi một chút. Khánh Kỵ theo hai vị tướng quân vào trong sơn động, chỉ thấy bốn vách tường cắm mấy ngọn đuốc, một phía trong động có một tảng đá nhô ra, bên trên lót vải lụa mỏng, một vị thiếu niên đầu đội vương miện ngồi ngay ngắn trên đó, đang mở to đôi mắt tò mò nhìn hắn. Đứng ở trái phải bên cạnh thiếu niên đó là hai người, người bên trái là một vị đại phu áng chừng năm mươi tuổi, đội mũ quan cao, thân hình cao lớn, sắc mặt âm trầm, bên môi là hai chòm ria ngắn, đang dùng một ánh mắt âm lãnh đánh giá hắn.

Khánh Kỵ nhìn hắn một cái, thầm nghĩ: "Người Sở xem trọng bên trái, hiện giờ Nang Ngõa đã chết, vị đứng ở bên trái Sở vương đích thị là đệ nhị đại gian thần nước Sở Phí Vô Cực. Về phần vị bên phải... chắc chắn là đệ tam đại gian thần nước Sở Yên Tương Sư không thể nghi ngờ." Ánh mắt Khánh Kỵ đảo qua, thấy người bên phải mặc giáp trụ sáng choang, khoảng gần bốn mươi, làn da hơi tái nhợt, khuôn mặt tuấn lãng, chỉ có điều hai mắt dài nhỏ nửa đóng nửa mở, tựa hồ như một khe mắt chuyên dùng để nhìn trộm động tĩnh người khác, khiến cho người ta có chút không được thoải mái.

"Ngô quốc Khánh Kỵ tham kiến Đại vương!" Khánh Kỵ chỉ nhìn lướt qua, liền thu hồi ánh mắt, thi lễ với thiếu niên kia.

Tiểu Sở Vương tò mò nhìn hắn, trên khuôn mặt trắng hơi hơi hiện lên một chút kích động đỏ ửng: "Ngươi chính là vị lực nắm bò tót, tay bắt phi điểu Ngô quốc đệ nhất dũng sĩ Khánh Kỵ vương tử sao?"

"Khụ...!" Phí Vô Cực bên cạnh hơi hơi ho lên một tiếng, Sở Vương thần sắc sợ hãi, vội hỏi: "Khánh Kỵ vương tử mời bình thân." Tuổi tác hắn dù còn nhỏ, nhưng mà cũng đã thành thục lễ pháp, có điều nhìn khí chất trên khuôn mặt, rõ ràng chỉ là bộ dáng của một hài đồng chưa rõ thế sự.

"Điện hạ từ xa tới gặp quả nhân, không biết là có dụng ý gì?" Sở Vương hỏi, không cầm lòng nổi lại liếc nhìn sang Phí Vô Cực bên cạnh vẻ mặt có vẻ thờ ơ không quan tâm, Phí Vô Cực khóe miệng nhếch lên, giống như có ý khen ngợi khẽ gật đầu.

Khánh Kỵ nói: "Ngô quốc Cơ Quang, hành thích vua rồi tự lập, đi ngược lại đạo quân thần. Khánh Kỵ ở Vệ quốc chiêu binh mãi mã, quyết chí thề giết Cơ Quang báo thù cho cha. Nay Cơ Quang phát binh đánh Sở, phá Dĩnh Đô, hủy xã tắc, bốn phía đốt giết đánh cướp, khiến cho Sở Vương điện hạ phải bỏ cung mà tị nạn đến tận đây. Đại vương cùng Khánh Kỵ chính là cùng chung mối thù, Khánh Kỵ lần này đến, là muốn cùng Sở vương điện hạ thương lượng đại kế chống Cơ Quang."

"Ồ, Khánh Kỵ vương tử muốn cùng quả nhân chống lại quân Ngô?"

"Ồ, Khánh Kỵ vương tử muốn cùng quả nhân chống lại quân Ngô?"

Tiểu hài tử đối với nhân vật anh hùng đều có một loại sùng bái cùng tín nhiệm không giải thích được, Sở Vương nghe nói Khánh Kỵ tới là để giúp hắn đối kháng với Cơ Quang, dường như thoáng cái có người tâm phúc, không khỏi hơi quá mừng rỡ. Hắn lập tức ngẩng đầu nhìn sang Phí Vô Cực, môi mấp máy, nếu không nhìn thấy sắc mặt hắn có gì bất thường, thì sẽ lập tức đáp ứng luôn.

Ánh mắt Phí Vô Cực ép xuống, làm ngừng động tác của Sở Vương, ngoài cười nhưng trong không cười, nói: "Sở quốc ta hùng binh hơn mười vạn, đất đai mấy ngàn dặm, một Ngô quốc nho nhỏ, mặc dù dùng quỷ kế đánh vào Dĩnh Đô, lại há có thể lâu dài, sớm muộn gì cũng sẽ bị chúng ta đánh trở về Ngô quốc, vốn không cần phải mượn dùng ngoại lực. Khánh Kỵ vương tử năm trước còn từng lãnh binh phạt Sở ta, Cơ Quang hiện giờ là đại địch của nước Sở ta, điện hạ chẳng phải cũng là như thế sao? Điện hạ hiện giờ có mối thù tranh vương vị với Cơ Quang, muốn mượn lực Lỗ quốc ta để phạt Ngô phục quốc, chỉ có điều điện hạ dũng mãnh phi thường còn hơn cả Cơ Quang, ngày sau một khi phục quốc, Sở Quốc ta không phải còn tự tay tạo ra địch nhân cường đại hơn sao?

Hang động rộng rãi lạnh lẽo, thanh âm Phí Vô Cực to khác thường, hắn vừa nói, trong hang động âm thanh vang vọng khắp nơi, nghe âm vang hữu lực. Tử Tây, Tử Kỳ, Quan Tòng mấy vị đại phu bên cạnh nhe thấy vậy không khỏi hướng ánh mắt về phía Khánh Kỵ.

Khánh Kỵ ung dung cười, hỏi: "Vị này, chắc hẳn chính là thái tử thiếu phó Phí Vô Cực Phí đại phu. Nước Sở thực lực hùng hậu, kiêu ngạo đóng ở Kinh Sở, các nước đều run sợ, Khánh Kỵ cũng tin rằng, với thực lực của Cơ Quang, không nuốt nổi giang sơn nước Sở, hắn sớm muộn gì cũng sẽ phải lui về Ngô quốc. Nhưng mà, bằng lực lượng của chính Sở quốc, tới khi nào mới có thể bức cho Cơ Quang lui binh?

Không sai, Sở quốc có hùng binh hơn mười vạn, nhưng mà các vị có thể đem toàn bộ binh lực này vào trong chiến trận được sao? Mấy vạn đại quân giáp mặt đối chiến với quân Ngô đã thương vong thảm hại, tổn thất quá lớn. Hiện giờ không thể hợp thành quân, cần bổ sung quân số, chỉnh biên lại, muốn cho quân đầu nhập vào chiến trận sợ rằng cũng phải mất mấy tháng.

Phía Nam, có gần bảy vạn đại quân, trấn thủ các nước nhỏ Man Di phía Nam. Các quốc gia này trước nay nhanh nhẹn dũng mãnh, không cam lòng chịu phục tùng. Sở Vương tuổi nhỏ, bọn họ đã sớm rục rịch, gần đây lại nghe nói nước Sở đại bại, làm sao có thể không nảy sinh dã tâm? Nếu quân Sở rút lui để đánh đuổi quân Ngô, chỉ sợ sẽ là 'cửa trước hổ đến, cửa sau sói vào', các dân tộc Man Di phía nam sẽ đều dựng cờ tạo phản, ngày sau không biết phải tốn bao nhiêu binh mã, tiêu phí bao nhiêu thời gian mới có thể bình ổn lại.

Hơn nữa về phía Bắc, biên giới Tây Bắc nước Sở có mười vạn đại quân, lại càng không thể điều động. Man Di phía Nam, muốn tự lập, bằng lực lượng hùng hậu của Sở quốc sớm muộn gì cũng có thể chinh phục; Ngô quốc Cơ Quang, hành động này cũng chỉ là cường đạo muốn đốt giết đánh cướp, sớm muộn gì cũng phải lui về Ngô, cũng không có họa lớn như ở phương Bắc... đó là Tấn quốc dã tâm bừng bừng, thèm khát thiên hạ. Mưu đồ của Tấn quốc, chính là giang sơn ngàn dặm, thống trị thiên hạ. Hơn nữa, một khi cho nó cơ hội, Tấn quốc hoàn toàn có năng lực có thể chiếm giữ Sở quốc, quân biên phòng một khi lui đi, Tấn quốc thừa dịp thành trống mà vào, thì ngay cả giang sơn cũng không bảo toàn nổi. Về phần Khánh Kỵ, lúc trước chỉ là phụng mệnh mà hành sự, nay nếu kết minh cùng với nước Sở, là minh hữu với nhau, chuyện biên giới cũng không phải buông binh đao, cùng nhau bàn bạc giải quyết..."

Phí Vô Cực cười lạnh một tiếng, chặn lời hắn lại, nói: "Khánh Kỵ vương tử sao phải nói giật gân như vậy? Ngài cũng bảo Cơ Quang không phải là họa lớn với Sở quốc ta, Cơ Quang thân là quốc vương Ngô quốc, há có thể xa trung tâm lâu ngày? Cho dù chúng ta không phát đi người nào, Cơ Quang đương nhiên cũng sẽ phải thối lui..."

"Ha ha ha ha..." Khánh Kỵ bất ngờ cười ra tiếng, thanh âm của hắn còn vang dội hơn cả Phí Vô Cực, âm vang thật lâu trong hang động, lại bởi vì hang động khá sâu, tiếng cười của hắn như kéo dài liên tục, như tiếng sấm rền vang, Phí Vô Cực biến sắc quát to: "Ngươi cười cái gì?"

Khánh Kỵ khinh thường nói: "Ta cười các vị, co đầu rụt cổ như thế, hóa ra là có chủ ý như vậy. Không sai, Cơ Quang sớm muộn gì cũng sẽ đi, chờ cho hắn cướp sạch của cải Dĩnh Đô, chơi hết nữ nhân Dĩnh Đô, sẽ rời khỏi nơi đó, để lại một vùng phế tích cho các vị. Các vị lúc đó có thể vẻ vang trở về, tiếp tục quang vinh làm Đại vương các vị, làm công khanh đại phu các vị, thật sự là vô cùng vẻ vang!"

"Lớn mật!" Tử Tây, Tử Kỳ nghe vậy thì giận dữ, nắm lấy chuôi kiếm, trừng mắt căm tức. "Ngươi lại dám làm nhục quân thần ta như vậy!" Yên Tương Sư đôi mắt nghiêm nghị, cũng đã nổi lên sát khí.

Khánh Kỵ cười to nói: "Ta cũng chỉ là kể lại sự thực mà thôi, tại sao lại bảo là ô nhục? Ngay cả khi Khánh Kỵ có không nói, thì chẳng lẽ những nỗi nhục nhã mà Cơ Quang ném lên đầu các vị, có thể không bị người trong thiên hạ biết được sao?"

Tử Tây kinh nghi hỏi: "Ngươi rốt cuộc đang nói cái gì?"

Khánh Kỵ hừ lạnh một tiếng, lớn tiếng nói: "Các vị có biết, Cơ Quang tiến vào Dĩnh Đô, lệnh cho các tướng lãnh đại phu thủ hạ, theo đúng chức vị tôn ti, vào ở các công khanh phủ đệ Sở quốc, đem các kiều thê mỹ thiếp của chư vị công khanh đại phu làm đồ chơi cho mình? Các vị có biết, Cơ Quang đang đem tài phú tích lũy mấy trăm năm của Dĩnh Đô vận chuyển về nước Ngô? Các vị có biết, Sở quốc tông miếu, xã tắc đều đã bị hắn phá hủy, khiến cho thần linh của người Sở, tổ tông của Sở Vương không thể được hưởng cúng tế? Các vị có biết, Ngũ Tử Tư đã cho đào phần mộ của Sở quốc tiên vương, quất ba trăm roi vào xác của Bình Vương, đánh cho nát vụn, rải dưới ánh mặt trời? Các vị có biết những tướng sĩ Sở quốc chết trận, tất cả đều bị ném ra đồng hoang không được chôn cất, đều bị chó hoang cắn chim ưng mổ?

Nếu Sở Vương điện hạ dừng chân ở đây, lề mà lề mề kêu gọi các lộ binh lính trong nước cần vương để phạt Cơ Quang, thì khi nào mới có thể thành công? Thân là quân vương của một quốc gia, cũng là người che chở cho con dân của một quốc gia, chẳng lẽ Đại vương lúc này vẫn có thể nhàn nhã ở Cửu Phượng cốc, không để ý tới Cơ Quang đang hung ác bạo tàn ở Dĩnh Đô? Nếu không phát binh đánh đuổi Cơ Quang, uy phong của Sở quốc từ nay về sau sẽ bị quét sạch, ở trong thiên hạ, sẽ còn có chư hầu nào để các vị vào trong mắt? Hơn mười chư hầu phụ thuộc Sở quốc, sợ rằng đều sẽ đầu nhập vào Cơ Quang đó."

Khánh Kỵ nói một phen, khiến cho những người nghe trong động ngây ra như phỗng, ngay cả sắc mặt Phí Vô Cực cũng đã tái nhợt, khóe mắt Tử Kỳ như muốn nứt ra, nói: "Ngươi... ngươi nói cái gì? Những điều ngươi nói, là... là thật sự?"

Những điều này, có một vài là Khánh Kỵ nghe từ Văn Chủng nói cho khi ẩn thân ở trong sơn cốc kia, một vài là nghe nói trên đường tới nước Tùy tìm Sở Vương, lại kết hợp với hiểu biết về lịch sử của hắn, đương nhiên biết những lời đồn này là thật. Khánh Kỵ nặng nề gật đầu một cái, cất cao giọng, nói: "Đương nhiên, theo ta đi cùng đến đây, có một vị Huyện tư mã đại phu Phạm Lãi, hắn cũng có thể chứng thực lời đó của Khánh Kỵ."

Tử Kỳ hai mắt đỏ sậm, run giọng kêu lên: "Hạp Lư... Hạp Lư hủy tông miếu ta, hủy xã tắc ta, nhục tiên vương ta, ức hiếp gia thất ta, thù này không báo, bất cộng đái thiên! Đại vương, Đại vương, chúng ta muốn đánh về Dĩnh Đô, báo thù nỗi nhục này, nếu không ta còn mặt mũi nào mà sống ở đây nữa?"

Tử Kỳ 'bịch' một tiếng quỳ rạp xuống trước mặt Sở Vương, Tử Tây, Quan Tòng mấy tướng lãnh tất cả cũng đều quỳ xuống, thần sắc bi phẫn dâng trào. Sở Vương mặc dù tuổi nhỏ, cũng biết chính mình đã bị nhục nhã đến như thế nào, mắt hắn rưng rưng, khóc lóc hỏi: "Khánh Kỵ vương tử, mẫu hậu của quả nhân... Mẫu hậu vẫn khỏe chứ?"

Khánh Kỵ chắp tay vái hắn, cung kính nói: "Mạnh Doanh vương hậu tự thủ trinh tiết, cầm kiếm đóng cửa cung lấy cái chết đe dọa, Cơ Quang ngại gây thù kết oán với Tần quốc, không ám vào cung ép buộc, cho nên vương hậu vẫn bình yên vô sự."

Khóe mắt hắn hơi hơi nhìn thoáng qua những quần thần nước Sở đang quỳ xuống, nhẹ nhàng thở dài nói: "Trên dưới Dĩnh Đô, cũng chỉ còn một mình vương hậu là bảo vệ được trong sạch..."

Mọi người nghe thấy vậy, tim như bị đao cắt. Văn hóa nước Sở, hết lòng tin rằng người chết vì quỷ, thi hài xuống đất là bình an. Nhục nhã thi thể, chính là tội đại bất kính. Mà Cơ Quang đám người còn y theo chức vị vương hầu công khanh, vào ở trong phủ đệ Sở quốc quân thần, vào trong tận nhà, ngủ với thê thiếp. Những vị công khanh đại phu hoảng loạn bỏ trốn chưa kịp mang theo gia quyến giờ nhớ tới tình hình trong nhà ở Dĩnh Đô, đều tức giận chỉ muốn xông lên.

"Đại vương, nhanh chóng triệu đội quân cần vương, đánh về Dĩnh Đô đi, nếu cứ chờ cho quân Ngô tự thối lui, thì quân thần chúng ta còn mặt mũi nào mà trở về Dĩnh Đô?"

Sở Vương bị quần thần kêu gọi, nhất thời không có chủ ý gì, đôi mắt trông mong nhìn về phía Phí Vô Cực, Yên Tương Sư bên cạnh ho nhẹ một tiếng, chắp tay nói: "Đại vương, người nước Ngô hủy hoại xã tắc tông miếu của ta, thù này bất cộng đái thiên. Đại vương nên phái đi tín sức, triệu tập các lộ quân đội cần vương đến cùng bàn đại kế. Về phần kết minh với Khánh Kỵ vương tử, thần nghĩ Đại vương nên mệnh cho thái tử thiếu phó Phí đại phu bàn bạc chi tiết thêm với Khánh Kỵ vương tử, rồi bẩm tấu cho Đại vương định đoạt."

Sở Vương vừa nghe thấy vội nói: "Không sai, Khánh Kỵ vương tử, Dĩnh Đô, quả nhân nhất định phải đánh trở về, không rửa sạch nỗi nhục này, quả nhân sẽ thẹn với thiên hạ. Về phần kết minh song phương giữa chúng ta, vương tử có thể thương nghị tỉ mỉ với Phí thiếu phó, rồi nói lại với quả nhân để quân thần nghị luận."

"Khánh Kỵ tuân mệnh!" Khánh Kỵ vái chào thật sâu, chuyển mắt nhìn sang Phí Vô Cực...

Trên sườn núi, Khánh Kỵ sóng vai đứng cạnh Phí Vô Cực, trong sơn cốc ẩn hiện có lá cờ phiêu động, đó chính là địa phương mà quân Sở đóng quân.

"Phí thiếu phó, đã ở trước mặt rồi thì không nói lời giả, nơi này cũng chỉ có ta và ngài, Khánh Kỵ muốn thẳng thắn thành thật, có vài lời muốn nói cho thiếu phó biết."

"Điện hạ mời nói." Phí Vô Cực sắc mặt âm trầm, vui buồn không hiện lên trên mặt, nhìn không ra tâm ý đích thực của hắn.

"Phí thiếu phó, chúng ta có cùng địch nhân, trong tay Khánh Kỵ hiện tại có ba vạn tinh binh, hơn nữa nếu đối địch với quân Ngô, dựa vào thân phận của Khánh Kỵ cùng uy vọng trong quân Ngô lúc xưa, thiếu phó nên biết Khánh Kỵ sẽ có tác dụng lớn đến thế nào. Nước Sở hiện giờ thật sự không cần hợp tác với Khánh Kỵ sao?

Phí thiếu phó, Nang Ngõa nắm giữ quân sự và chính trị nước Sở hơn mười năm, gây ra rất nhiều thù oán, hiện giờ quân Ngô đánh vào Dĩnh Đô, quân Sở đại bại, ngay cả Sở Vương cũng phải chạy sang nước Tùy tị nạn. Nhìn khắp các nước lớn trong thiên hạ, còn chưa từng có quốc gia nào xảy ra chuyện thủ đô bị đánh phá, quốc quân phải bỏ chạy thảm hại như vậy. Chưa nói tới việc nước Sở sau này làm sao tìm được chỗ đứng trong thiên hạ chư hầu, bây giờ ngay cả những quần thần bên trong nước Sở phải làm sao để ổn định được sự phẫn nộ của quần chúng còn chưa biết. Hết thảy những điều này, hiện giờ còn chưa có thời gian để phân tích kĩ, sau khi Cơ Quang lui binh, đương nhiên sẽ phải tính toán rành mạch.

Nang Ngõa đã chết, thiếu phó nghĩ rằng có thể đổ hết mọi tội lỗi lên đầu Nang Ngõa sao? Đừng quên, thiếu phó cùng Yên Tương Sư, ngày xưa qua lại thân mật với Nang Ngõa, cùng tiến cùng lui, trên dưới nước Sở ai mà chẳng biết? Nếu như thiếu phó không lập được công trong trận chiến đuổi Ngô này, thiếu phó nghĩ rằng sau khi trở về Dĩnh Đô, địa vị của ngài sẽ còn vững chắc như thế này sao? Nhưng mà thiếu phó nếu trong trận chiến này lập công lớn, khi đó mọi người sẽ đều trọng vọng ngài, cũng thay thế vị trí Nang Ngõa, trở thành Sở quốc Lệnh Duẫn, đó là chuyện rất hợp lí lẽ. Khánh Kỵ muốn kết minh với Sở Vương, tất nhiên là cũng có tư tâm, với Sở quốc, với thiếu phó ngài, không phải cũng là một cơ hội hay sao?"

Phí Vô Cực ánh mắt chợt lóe, hồi lâu mới nói: "Nếu muốn kết minh, không phải không thể. Lão phu có năm vấn đề, nếu điện hạ có thể khiến cho lão phu hài lòng, lão phu liền sẽ dốc sức thúc đẩy nước Sở kết minh với điện hạ, cùng chiến đấu với quân Ngô!"

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 186: Thiên hạ náo nhiệt (Thượng Trung Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Phí Vô Cực nói: "Cơ Quang ở Dĩnh Đô ta gây nhiều việc ác, phàm là người nước Sở, ai cũng nghiến răng thống hận, các đội quân cần vương từ các nơi đang lần lượt tới rồi, chờ đại quân tập hợp, tất sẽ thề sống chết một trận chiến, đuổi bọn giặc Ngô. Điện hạ cùng người Sở ta cùng chung mối thù, cũng có đại cừu hận với Hạp Lư, có một số việc, ta cũng không cần phải giấu diếm ngài. Thái hậu của quốc vương nước Sở ta là trưởng công chúa của nước Tần, trước khi lão phu bảo hộ Đại vương tới tránh ở Cửu Phượng cốc, đã điều đại phu Thân Bao Tư sang nước Tần cầu viện, nếu nước Tần chịu xuất binh tương trợ, hợp với lực lượng quân Sở, cũng đủ để đuổi đi quân Ngô. Nay lại kết minh với công tử, lại càng thêm nhiều viện trợ, chỉ có điều không biết đại quân của công tử khi nào thì có thể tới Sở quốc?"

Khánh Kỵ thầm nghĩ, Phí Vô Cực nói tin tức hắn sai sứ sang Tần cầu viện binh, là muốn tăng thêm cân lượng, tranh thủ thêm được nhiều lợi ích, chỉ có điều không biết hắn muốn nhiều ít bao nhiêu. Nang Ngõa, Phí Vô Cực, Yên Tương Sư ba người, đều nổi danh lòng tham không đáy, nếu là đòi ưu đãi cho cá nhân thì chẳng sao cả, chỉ sợ là có thêm yêu cầu về đất đai lãnh thổ, thì đó là vô cùng khó xử.

Khánh Kỵ đề khởi tinh thần, cẩn thận nói: "Không dối gạt Phí thiếu phó, Khánh Kỵ trước khi tới đây, cũng đã có chuẩn bị, sớm ấn định cho dù có tương trợ cho nước Sở hay không, đều phải tháng ba năm sau xuất binh phạt Ngô. Nay đã kết minh với nước Sở, ngày xuất binh đương nhiên càng sớm càng tốt, chỉ cần chính thức kí kết minh ước với Sở vương, có được ấn tỷ (đóng dấu) của Sở vương, Khánh Kỵ lập tức sẽ sai người điều binh, trong vòng hai mươi ngày, đại quân tiên phong của ta sẽ tới trước mặt thiếu phó."

" Tốt!" Phí Vô Cực ánh mắt sáng ngời, người Tần có chịu xuất binh hay không, trong lòng hắn thực không nắm chắc, hiện giờ đã có Khánh Kỵ tự mình đưa đến cửa, hắn cũng sẽ không nguyện ý cự tuyệt sự giúp đỡ cường đại này ngoài cửa, hai người đều có mưu mô, hắn lại hỏi: "Hai quân kết minh, kề vai chiến đấu, cũng cần phải có một vài hiệu lệnh thống nhất, cùng tiến cùng lui, thống nhất quản lí. Nếu không có sự chi phối, sẽ không khác gì năm bè bảy mảng. Tới khi... đại quân song phương hội hợp, ai sẽ là chủ soái thống lãnh toàn quân?"

Khánh Kỵ mỉm cười, thong dong đáp: "Khánh Kỵ mang danh vũ dũng, có điều do thân là vương tử Ngô quốc, nên những thủ hạ cứ cố tình thổi phồng ra mà thôi. Còn nữa, một kẻ vũ dũng cũng không nhất định có thể làm Thống soái ba quân, đã tác chiến ở nước Sở, đương nhiên phải lấy quân Sở làm chính. Về phần chọn người nào làm Thống soái ba quân, Khánh Kỵ nghe theo an bài của Sở Vương điện hạ."

Phí Vô Cực âm thầm thở phào nhẹ nhõm, danh vũ dũng của Khánh Kỵ truyền khắp thiên hạ, chính mình xưa nay cũng không sở trường về chính trị, nếu để Khánh Kỵ đảm nhận Thống soái toàn quân, đó cũng là điều mọi người hướng tới, có điều công lao của mình lại vơi đi phân nửa. Hắn muốn nghe theo an bài của Sở Vương, he he... Về phía Sở Vương còn không phải do tự ta định đoạt hay sao.

Nghĩ đến đó, trên khuôn mặt Phí Vô Cực lộ ra vẻ vui vẻ, trước tiên giải quyết ích lợi cá nhân, sau đó hắn mới bắt đầu suy nghĩ chỗ tốt cho nước Sở, trầm ngâm một lát rồi nói: "Đã kết minh, đương nhiên phải cùng tiến cùng lui, trợ giúp lẫn nhau. Chỉ có điều... Một khi đuổi quân Ngô ra khỏi biên giới, quân Sở ta có còn phải nhận nghĩa vụ trợ giúp điện hạ phục quốc không?"

Khánh Kỵ xúc động nói: "Điều này cũng không nhất định, có thể đánh bại quân Ngô, khiến cho danh vọng của Cơ Quang bị đè xuống, mất đi quân uy, đối với Khánh Kỵ mà nói, đã là một sự trợ giúp rất lớn. Nếu có một đội quân nhân nghĩa của nước Sở tương trợ phục quốc, đương nhiên là chuyện tốt cầu còn không được. Có điều trong lòng Khánh Kỵ cũng hiểu được, Ngô Sở bởi vì những năm qua tranh giành đất đai, lẫn nhau có nhiều khúc mắc, trên chiến trường chém giết giữa các sĩ tốt khó tránh khỏi kết thù kết oán, nếu cưỡng ép quân Sở giúp ta phạt Ngô, chỉ sợ các tướng sĩ cũng sẽ không hết mình. Còn nữa, phía Sở nếu chịu cắt quân trợ giúp, chỉ sợ các tiểu quốc phụ thuộc cũng sẽ rục rịch, lại cần đại quân trấn áp, mượn quân Sở mà phục nước Ngô... Khánh Kỵ sẽ không đề ra yêu cầu quá mức này."

"Ồ..." Một khi đuổi được Cơ Quang khỏi biên giới, điều Phí Vô Cực để ý chỉ là giúp Sở Vương về Dĩnh Đô, mượn danh Sở Vương phong thưởng bốn phương, khiến cho những thân tín của mình đều thay thế cho người của Nang Ngõa, từ lão Nhị nhảy lên thành lão Đại, nếm thử hương vị nở mày nở mặt. Giúp Khánh Kỵ phạt Ngô, cũng không có chỗ tốt nào, hắn cũng không muốn bị chuyện này ước thúc, nhỡ đâu chiến trận phạt Ngô kéo dài, chẳng phải cũng sẽ kéo theo mình mắc cùng một chỗ sao. Nếu Khánh Kỵ chỉ cần hắn ở trong biên giới Sở quốc mạnh mẽ đả kích lực lượng của Cơ Quang, vậy thì dễ dàng đồng ý rồi.

Khóe miệng Phí Vô Cực lộ ra một tia cười giả dối, nói: "Bốn đáp án này của điện hạ, rất hợp ý Phí mỗ, vẫn còn một chuyện cuối cùng muốn nói với điện hạ. Ngô Sở hai nước, mỗi bên chiếm cứ một phương, vốn bình an vô sự, chỉ có điều dân cư gia tăng, thành quách mở rộng, đồng ruộng rừng dâu cũng phải theo đó mà mở rộng, vốn ở giữa hai nước có những vùng hoang dã mênh mông không người ở, hiện giờ lại trở thành nơi bị tranh đoạt, thường xuyên xảy ra khiêu khích tranh chấp, chiến sự Ngô Sở hai nước, vốn là từ đó mà ra. Điện hạ nếu phục Ngô quốc, làm quân chủ Ngô quốc, sau này khi thứ dân hai nước lại nổi lên tranh chấp, thân là Ngô quốc Đại vương, điện hạ đương nhiên sẽ vì người nước Ngô mà phân xử, không thể để giữa Ngô và Sở lại nổi lên phân tranh. Hiện giờ điện hạ đã muốn kết minh với Sở quốc ta, chúng ta có nên nhân cơ hội này, phân chia rõ ràng vùng biên giới đang vướng mắc giữa hai nước hay không? Từ nay về sau hai nước hữu hảo, bình an vô sự, chẳng phải tốt sao?"

Khánh Kỵ hơi hơi trầm ngâm, hỏi: "Lời của thiếu phó rất đúng, chỉ có điều... Phân tranh biên giới hai nước đã tồn tại rất lâu, đúng đúng sai sai khó phân biệt, không biết theo thiếu phó thấy, những rừng núi ruộng đất vốn không rõ sở hữu bên nào, phải phân chia như thế nào đây?"

Phí Vô Cực cười nói: "Đang muốn thương lượng với điện hạ."

Hắn rút kiếm ra, lưỡi kiếm chống xuống đất, hơi hơi suy tư một lát, liền nhanh chóng vẽ ra trên mặt đất một bản đồ xen kẽ, Khánh Kỵ thấy bản đồ đó, không khỏi thầm cả kinh, trong ấn tượng của hắn vẫn nghĩ rằng Phí Vô Cực đại gian thần này hoàn toàn là vuốt mông ngựa của Sở Vương và Lệnh Duẫn Nang Ngõa mới có thể có được quyền vị hôm nay, không thể tưởng được người này hóa ra cũng không phải chỉ là một thần tử a dua, hắn nếu không có chí lớn, quyết không thể nhớ được rõ ràng tỉ mỉ địa hình phức tạp của biên giới Ngô Sở như vậy ở trong đầu, Phí Vô Cực này, hóa ra cũng có chút bản lĩnh.

"Điện hạ mời xem, Hà Điền, Đào Hoa Trùng, Vụ Nguyên, Bình Hương..., những khu này, từ trước khi Vũ Vương điện hạ Sở quốc ta xưng vương, vào thời điểm tổ tiên họ Hùng vẫn còn là tử tước, đã có những người dân nước Sở đầu tiên của chúng ta khai hoang làm ruộng nơi đây, thành lập thành trấn, cách nay đã gần năm trăm năm lịch sử. Những địa phương đó, từ xưa đã có người Sở ta sinh sống, cư trú, là một bộ phận không thể phân tách khỏi ranh giới nước Sở, có điều nước Sở ta đối với khu vực này lại không thể tranh cãi được chủ quyền, hy vọng điện hạ sau khi phục quốc, có thể trả những lãnh thổ mà nước Ngô đang giữ lại cho quốc gia của ta, giải quyết những phân tranh nọ kia, Ngô Sở hai nước mới có thể thành hai nước huynh đệ, thiên thu muôn đời, vĩnh viễn kết tình hữu hảo."

Chuyện khác đều có thể đáp ứng, chỉ có chuyện cắt đất chia đất, mặc kệ là lí do đường hoàng đến đâu, cũng tuyệt đối là một kẻ bại gia tử trong mắt tổ tông, kẻ bất lực trong mắt người đương thời. Khánh Kỵ nếu vừa mới phục quốc đã đem những vùng đất phì nhiêu này cho nước Sở, ở trong mắt người Ngô mình chẳng phải là một kẻ tiểu nhân vô sỉ bán đứng giang sơn tổ tông để đổi lấy vinh hoa bản thân hay sao, hắn sao có thể đáp ứng yêu cầu của Phí Vô Cực.

Khánh Kỵ khi đến Sở tranh thủ kết minh, cũng không tránh khỏi có nghĩ qua phải làm một chút hi sinh nhượng bộ, bởi vì có vài nơi, vốn quả thật không thể nói rõ là ranh giới của ai, mặc kệ là khảo chứng kĩ càng đến đâu, cùng lắm cũng chỉ chiếm được một chút thanh danh đạo nghĩa, còn thực tế nắm quyền những nơi đó, vĩnh viễn đều phải dựa vào thực lực quân sự để nói chuyện.

Những khu này trong những năm gần đây song phương tranh đoạt, ngươi tới ta đi, ta tiến ngươi lui, dần dần hình thành một thế lực phân bố kiểu cài răng lược, rất nhiều khu vốn dĩ là do người Sở nắm giữ. Khánh Kỵ hiện giờ không có tấc đất nào thuộc về mình, thực lực hữu hạn, càng thêm lo lắng tình huống thực tế. Muốn trở thành một chính trị gia thành thục, phải suy xét đánh giá về thực lực chân chính của địch thủ, cân nhắc về lâu dài giữa hai bên, toàn bộ ích lợi được mất, mà sẽ không bởi vì một vài câu khẩu hiệu hay hô hào của dân chúng mà đưa ra quyết định trên chính trị. Những tiểu dân này đứng trên góc độ của bọn họ, cũng không biết chân tướng đứng sau màn, chỉ biết dựa vào một bụng khí phách mà nói ba hoa chích choè thôi, cũng chẳng có khả năng làm nên cái gì thực tế. Nhưng mà hiện giờ Sở quốc Dĩnh Đô đã bị quân Ngô chiếm lĩnh, hành động của Cơ Quang gây nên ở Dĩnh Đô, đã kết một mối thù khó giải với người nước Sở, người Sở nhất định phải có một trận chiến với Cơ Quang, dưới tình hình như vậy, Khánh Kỵ đương nhiên sẽ không nhượng bộ quá mức.

Khánh Kỵ lập tức chỉ vào những mảnh đất trên bản đồ mà hai bên vẫn đang đan xen nhau, nói: "Lời ấy của Phí thiếu phó sai rồi, từ cuối triều nhà Thương, Tây Kỳ Chu Thái Vương có con trai cả là Thái Bá, con thứ là Trọng Ung cùng con thứ ba Quý Lịch. Con của Quý Lịch là Cơ Xương, cũng chính là Chu Văn Vương sau này, sớm thông minh trí tuệ, rất được Thái Vương sủng ái. Chu Thái Vương muốn truyền ngôi cho Xương, nhưng mà theo lễ pháp phải truyền ngôi cho con cả, Thái Vương bởi vậy mà buồn bực không vui. Thái Bá sau khi hiểu được ý tứ của phụ thân, liền cùng nhị đệ Trọng Ung lấy cớ đi hái thuốc cho cha cùng nhau đi vào Ngô quốc hiện nay, tự lập cơ nghiệp, thành lập nước cổ Câu Ngô. Sau khi nhà Thương diệt vong, Chu triều thành lập, Vũ Vương phong cháu thứ ba của Thái Bá là Chu Chương làm hầu, sửa quốc hiệu lại thành Ngô.

Mà Sở quốc tiên quân Hùng Dịch, lại là sau khi Chu triều thiên hạ thành lập, sau khi con của Vũ Vương lên kế vị, mới lấy thân phận tử tước tới Kinh Sở lập quốc. Lúc ban đầu lãnh thổ Sở có được không quá trăm dặm, cho đến sau này, mới dần dần lớn mạnh, có được quốc thổ rộng lớn hiện giờ. Ngô quốc ta thời gian thành lập còn sớm hơn Chu triều, dấu chân của người Ngô đã sớm bước qua những khu vực theo như lời Phí thiếu phó vừa nói, nếu truy theo nguồn gốc, những địa phương này toàn bộ đều vốn là của Ngô quốc ta."

Phí Vô Cực không vui nói: "Lời đó của điện hạ không khỏi cưỡng từ đoạt lý, Ngô quốc lập quốc mặc dù sớm, nhưng lúc đó người nước Ngô còn thưa thớt, không có lấy một tòa thành lớn, cái gọi là quốc gia, vào lúc đó cũng chỉ là một vài bộ lạc lớn quần cư trên bình nguyên mà thôi."

"Phí thiếu phó nói thế là sai rồi, nếu đã không được lấy thời gian làm chuẩn, vậy vì vùng đất cổ Tam Miêu này cũng là một vùng hoang dã chưa được khai phá, có phải là nếu Khánh Kỵ mang binh tới đó làm vài cái ruộng núi, chặt mấy cây đại thụ, là có thể cho rằng nó thuộc về Ngô quốc được luôn không?"

Hai người giương thương múa kiếm, tranh tới tranh đi, đều tự rút kiếm chỉ chỉ vẽ vẽ trên bản đồ, đến khi bản đồ đó bị vẽ đến mức bị phá thành mảnh nhỏ khó mà phân biệt, hai người liền đổi sang địa phương khác, Phí Vô Cực lại vẽ ra một bản đồ, hai người liền tiến hành tranh luận kịch liệt về mỗi một khoảng rừng dâu, mỗi một mảnh ruộng tốt, mỗi một tòa thành trấn.

Mặt trời chiều ngả về Tây, những đám mây đỏ hồng lơ lửng nơi chân trời, ánh tịch dương nhàn nhạt chiếu lên hai người trên sườn núi, vẽ ra hai cái bóng trên mặt đất, hai người còn đang bận tranh luận kịch liệt từng tấc đất, chỉ có điều thanh âm cả hai đã có chút khàn khàn.

Hôm sau, thời điểm mặt trời mới mọc, tiếng chim hót chào bình minh mới cất lên, Sở Vương lại tiếp kiến Khánh Kỵ, chính thức ký kết văn kiện kết minh với hắn. Văn kiện này một kiểu hai bản, viết lên lụa trắng, được hai người tự tay kí tên, đóng ấn tỉ của Sở Vương lên. Trong văn kiện viết vô cùng tường tận, những chữ nhỏ chi chít chẳng những viết rõ những quyền lợi, nghĩa vụ, lệ thuộc của song phương khi hợp binh phạt Ngô, cuối cùng còn tỉ mỉ viết rõ Khánh Kỵ một khi phục quốc, sẽ phải phân chia rõ ràng lãnh thổ với nước Sở.

Hôm qua, hai người Khánh Kỵ cùng Phí Vô Cực đối với từng khu đất mà hai nước đang tranh giành, biện luận phản bác về nguồn gốc sâu xa, văn hóa địa phương, kết cấu dân cư, bối cảnh lịch sử, hoàn cảnh địa lý cùng nhiều phương diện khác, nói đến mức yết hầu khô cong, cuối cùng đạt được ý kiến nhất trí. Đối với những khu này phải tiến hành rõ ràng, theo sự phân chia của hai nước thì khu vực mà hai bên nhận được trên cơ bản là chia đều. Có điều thực tế nước Sở đoạt được nhiều rừng dâu và đồng ruộng hơn, xem như là bồi thường, Phí Vô Cực cũng cắt một vùng lãnh thổ ở phía Tây Nam ráp gianh nước Việt cắt nhường cho nước Ngô.

Khu vực này còn chưa được khai phá, là một vùng rừng rậm nguyên thủy, mà những khu vực rừng dâu, ruộng tốt, theo cách phân chia thì phần lớn đều đem cho nước Sở. Bởi vậy mặc dù diện tích mà hai bên đoạt được là ngang nhau, nhưng mà bên phía Khánh Kỵ đoạt được không phải núi cao thì cũng là hồ nước, những mảnh núi rừng trùng trùng điệp điệp trải dài phía Tây Nam chưa được khai phá, hiển nhiên là rất thiệt thòi, cho nên Phí Vô Cực đắc ý dào dạt, đã liệt việc này vào một đại công trạng sau khi đuổi Cơ Quang đi sẽ xin Sở Vương ban thưởng.

Sau khi song phương kí kết minh ước, Khánh Kỵ lập tức phái người phi ngựa chạy về Vệ quốc điều binh, đồng thời lập ra kế hoạch quân sự tỉ mỉ với Sở Vương, sau đó trở về biên giới nước Sở tiếp ứng cho nhân mã của mình, Sở Vương cũng lập tức ban hạ hơn mười chiếu thư, phái bí sứ phân phó các nơi điều binh.

Khánh Kỵ cũng không vì có được liên hệ với thượng tầng nước Sở mà lạnh nhạt với Phạm Lãi, thậm chí hai ngày này cứ rảnh rỗi là đều ở một chỗ với hắn. Sau yến hội đơn sơ mừng minh ước song phương, Khánh Kỵ quay trở về doanh của Phạm Lãi, nói với hắn về chuyện kết minh với nước Sở hôm nay. Dẫn binh tới cần vương, cho tới nay cũng chưa được Sở Vương tuyên chiếu tiếp kiến nên Phạm Lãi cũng không có tư cách tham gia những hội nghị trọng yếu như vậy, mãi tới khi Khánh Kỵ nói ra, Phạm Lãi mới biết được Sở Vương đã kết minh với Khánh Kỵ, không khỏi vui mừng khôn xiết. Nhưng mà khi nghe Khánh Kỵ nói đến chi tiết minh ước, Phạm Lãi lại trầm xuống trong lòng, có một chút suy nghĩ nổi lên.

Đối với minh ước hợp binh ở phần trước, Phạm Lãi cũng không có ý kiến, nhưng mà đối với một đoạn cuối cùng, song phương phân chia rõ ràng biên giới, lại khiến cho Phạm Lãi âm thầm cảnh tỉnh. Những khu vực Ngô quốc tiếp nhận, đều là những cửa ải hiểm yếu thủy bộ, lại chẳng chiếm một chút tiện nghi nào về canh nông, nhưng mà trên mặt quân sự, một khi hai nước phát sinh xung đột, cũng là những khu vực hiểm yếu mà một ngàn binh có thể ngăn cản cả vạn binh.

Và mảnh đất cằn cỗi sỏi đá mà Sở quốc cắt ra cho Ngô quốc nhìn thì như hẻo lánh, cũng không có nhiều giá trị trồng trọt khai phá, nhưng đó lại là một thông đạo trọng yếu nối liền Sở Việt, về mặt quân sự có ý nghĩa trọng đại, thế lực Ngô quốc một khi mở rộng đến tận đây, sẽ có thể nắm gần như một nửa Việt quốc trong lòng bàn tay, mặc dù vẫn lưu lại cho Sở Việt một con đường eo hẹp, nhưng lúc nào cũng có thể phái binh phong kín.

Khánh Kỵ chính là bị Phí Vô Cực uy hiếp bức bách mới phải nhận, hay là còn có dụng ý gì khác? Dụng ý khác đó, là tính cho Ngô quốc hay Sở quốc? Hiện giờ hắn vẫn còn là một công tử lưu vong, Ngô quốc còn chưa nắm giữ trong tay, hắn đã tính toán lâu dài như vậy sao?

Phạm Lãi càng nghĩ càng cảm thấy kinh hãi, đến lúc Khánh Kỵ nói xong cảm giác không chịu nổi chếnh choáng, ngã luôn vào cái giường được làm bằng gỗ tùng của hắn, hơi hơi phát ra tiếng ngáy, Phạm Lãi mới khiếp hãi thanh tỉnh, bàn tay hơi nắm chặt lại, chạy ra ngoài hướng chỗ núi cao đi tới.

Tiếng ngáy của Khánh Kỵ hơi hơi ngưng lại, con mắt nhẹ nhàng mở ra, hơi hơi lóe sáng, sau đó tiếng ngáy lại càng trở nên vang dội.

"Là Khánh Kỵ chính mồm nói cho ngươi nghe?"

"Vâng!"

"Lão phu nghe nói, Khánh Kỵ sau khi gặp được Văn Chủng, bàn về tình thế nước Sở ta hiện giờ, từng đề nghị các ngươi sang các nước khác mượn binh, Văn Chủng đã đi nước Tống mượn binh rồi à?"

"Vâng!"

"Hắc, Phạm Lãi à, Khánh Kỵ mặc dù là vương tử tôn quý, lão phu lại thấy hắn đối đãi đặc biệt với ngươi, không bởi vì chức vị ngươi thấp kém mà khinh mạn, ngươi và hắn ở một chỗ rất hòa hợp a."

"Vâng, nhưng thần dù sao cũng là thần tử nước Sở, mặc dù quan hệ cá nhân có chút thân cận, nhưng đề cập đến đại sự nước Sở, hạ quan cũng có chút suy nghĩ, không dám không nói."

"Ha ha ha ha..." Phí Vô Cực ngửa mặt lên trời cười to: "Phạm Lãi à Phạm Lãi, Văn Chủng lần này đi nước Tống, nếu có thể cầu được cứu binh, đó là một công lao to lớn. Ngươi vốn gặp Khánh Kỵ trước, là oán hận hắn đưa công lớn này cho Văn Chủng, không cho ngươi thu hoạch được gì sao?"

Phạm Lãi ngẩn ra, lập tức vẻ giận dữ đầy mặt: "Thiếu phó đại nhân sao lại nói thế, Phạm Lãi một mảnh công tâm, Khánh Kỵ dù rằng chưa có ý gây bất lợi cho nước Sở, nhưng vẫn phải có đề phòng."

Phí Vô Cực cười lạnh một tiếng, tay vuốt chòm râu trách mắng: "Như vậy theo ý của ngươi, lão phu nên đem rừng dâu ruộng tốt cắt cho Khánh Kỵ, lưu lại cho nước Sở ta một mảnh đất hoang núi vắng phải không? Thật sự là vớ vẩn! Ngô Việt ngay cả khi có phát sinh chiến sự thì đã làm sao? Hắc, bọn họ chinh chiến lẫn nhau, tiêu hao thực lực lẫn nhau, có lợi vô cùng lớn với nước Sở ta, những nơi hiểm yếu này cắt đi, nước Ngô ngay cả có muốn dựa vào, cũng chỉ có thể dùng để phòng thủ, chứ sao gây được trở ngại cho nước Sở ta? Quân tử lòng dạ rộng rãi, người trẻ tuổi, ngươi giỏi tâm kế như vậy, sợ rằng cũng không phải là chuyện tốt."

Phạm Lãi bị hắn nói một hồi đến mức tức giận sắc mặt tái mét đi, hắn chắp tay còn muốn nói nữa, Phí Vô Cực đã phất tay áo nói: "Tốt lắm, ngươi lui ra đi, việc này lão phu đương nhiên đã biết rồi, lão phu trong lòng đều đã lập kế hoạch, chớ nói nhiều lời nữa."

Phạm Lãi một câu lại bị nghẹn trở lại, hắn nhẫn nại đáp ứng, chắp tay rời khỏi trướng đi ra, ở ngoài trướng ngây ngốc đứng một lúc lâu, yếu ớt thở dài, lúc này mới bước rời đi.

Lúc này, ở trong thành Dĩnh Đô tình hình của Ngô Vương Hạp Lư cũng không có dễ chịu. Cơ Quang đối với nước Sở từ đáy lòng cũng không có sinh ra dã tâm, hắn chỉ nghĩ ở Dĩnh Đô làm mưa làm gió một phen, làm cho các thiên hạ chư hầu phải kinh sợ, đặt ra nền móng vững chắc cho hắn. Nhưng mà hai đại trọng thần Ngũ Tử Tư và Bá bên cạnh hắn, đều có mối thù diệt môn diệt gia với Sở Vương, Ngũ Tử Tư một lòng báo thù, cơ hồ vì báo thù mà phát cuồng, bình thường là một người rất khôn khéo, một khi nói đến báo thù, liền mất đi lí trí, như điên như cuồng. Bá lí trí hơn hắn một chút, nhưng Bá lại quá lí trí, tất cả hành vi đều lấy động cơ từ ích lợi cá nhân, chỉ biết lấy lòng, thuận theo Hạp Lư, lại càng không dám làm điều gì trái với quan điểm của hắn, cho nên ba người quân thần, những chuyện gây ra ở Dĩnh Đô có chút không hợp lòng người.

Lúc trước khi bọn họ đánh vào Dĩnh Đô, một đường thế như chẻ tre, quân đội nước Sở buông lỏng, dân chúng khoanh tay đứng nhìn, nhưng khi bọn hắn ở Dĩnh Đô gần nửa tháng, bất tri bất giác đã gây ra cho chính mình vô số địch nhân. Toàn bộ dân chúng Dĩnh Đô đều trở thành binh lính, quân Ngô rơi vào một trận chiến cuồn cuộn của nhân dân nước Sở.

Quân Ngô hành vi tàn bạo, sự phản kháng của người Sở lại càng mãnh liệt. Thậm chí có dũng sĩ nước Sở lợi dụng quen thuộc địa hình, tìm kiếm chỗ ở của Hạp Lư, muốn ám sát Hạp Lư, đến nỗi có một buổi chiều Hạp Lư tới mấy lần bị thích khách quấy rối, một đêm phải thay đổi chỗ ở an toàn tới năm lần. Sáng sớm hôm sau, Hạp Lư phái người đem tất cả những người Sở hắn cho rằng khả nghi ra xử tử cả đám, cuộc hành quyết đầy máu tanh khiến cho người nước Sở càng thêm mãnh liệt trả thù.

Người nước Sở nổi lên tranh đấu với quân Ngô, không có tướng lĩnh chỉ huy, liền tự đưa một người phụ trách thao luyện lên làm chỉ huy, ở chung quanh Dĩnh Đô thành lập một nhóm dân binh vũ trang quy mô nhỏ, công bố "Liều chết đánh lùi quân Ngô, khôi phục nước Sở." Đến nỗi người Ngô từ lớn nhỏ đến cả con ngựa cũng không dám ra ngoài đi lại.

Đúng vào lúc này, quân Ngô bố phòng ở chỗ hiểm yếu ngoài Dĩnh Đô lại bắt được một bí sứ được Sở Vương phái đi để triệu tập đội quân cần vương, biết được hành động triệu tập đội quân cần vương của Sở Vương, cùng với việc người Sở kết minh với Khánh Kỵ, lại thêm tin tức Sở Vương phái người sang nước Tần, nước Tống mượn binh, Ngũ Tử Tư lập tức ý thức được nguy cơ trong đó, lập tức vội vàng vào cung gặp Hạp Lư.

Hạp Lư đang ở trong Sở Vương cung ôm eo nhỏ của Sở nữ thưởng thức ca múa, Sở Vương cung vốn nguy nga tráng lệ giờ thành một đống bừa bãi, trong Sở Vương cung từ vàng bạc đồng cho đến tơ lụa tinh mỹ, ngay cả tài vật của công khanh đại phu, phú thương cường hào, thậm chí cả cành gai để làm tên, có thể cướp đều cướp, có thể chặt đều chặt, đóng gói cho vào trong xe chở về nước Ngô.

Những xe vận chuyển tài phú của nước Sở nối liền không dứt, hơn mười mấy ngày gần đây không ngày nào dừng, thậm chí trưng dụng cả xa mã của những người trong Dĩnh Đô mà cho đến giờ vẫn vận chuyển chưa xong. Những thứ chưa được vận chuyển, đều được gỡ ra đóng gói lại, tất cả chất đống một chỗ cho người trông giữ, chờ đợi áp tải về Ngô.

Vừa thấy Ngũ Tử Tư vào cung, Hạp Lư cười to nói: "Tướng quốc tới thật đúng lúc, mỹ nữ nước Sở xinh đẹp muôn vẻ, cũng không xinh đẹp hơn trong Sở Vương cung. Vài mỹ nữ này kỹ thuật nhảy quá duyên dáng, quả nhân ban thưởng các nàng cho tướng quốc, lát nữa mang theo hồi phủ mà tận tình hưởng dụng.

Ngũ Tử Tư nghiêm nghị nói: "Thần có chuyện quan trọng muốn bẩm tấu, xin Đại vương cho lui tả hữu."

Hạp Lư nao nao, thấy thần sắc của hắn nghiêm túc, liền theo lời khoát tay, cho lui cung nữ, nhạc công, trên đại điện nhất thời trở nên yên tĩnh, trong cung điện Sở Vương đã bị cướp chẳng còn gì lập tức có một vẻ trống trải.

Ngũ Tử Tư mang những tin tức tình báo hắn nhận được vội nói cho Hạp Lư, Hạp Lư nghe thấy vậy thì cũng không khỏi biến sắc, cả kinh nói: "Không thể tưởng được người Sở phản ứng nhanh chóng như vậy, Khánh Kỵ lại thừa dịp này nhảy vào, kẻ này, đúng là họa lớn trong lòng quả nhân, Ngũ tướng quốc, theo như ngươi thấy, quả nhân hiện giờ nên làm thế nào?"

Ngũ Tử Tư nghiêm nghị nói: "Trên đường đến đây, Ngũ Viên đã cẩn thận suy xét qua, theo như thần thấy, có hai lựa chọn."

"Mau nói."

"Một, quân Ngô ta lập tức lui về nước, thì Tần chắc chắn sẽ không phát binh, mà kết minh của nước Sở với Khánh Kỵ tám chín phần mười sẽ thất bại. Nước Sở bại trận, tuy hận nước Ngô ta đến tận xương tủy, nhưng cũng sẽ không tùy tiện phát binh phạt Ngô. Hai, nước Ngô ta cũng phái đi tín sứ, liên lạc với những quốc gia hữu hảo có cùng lợi ích, khắc chế viện binh của người Sở."

Hạp Lư trầm ngâm nói: "Biện pháp thứ nhất tuy rằng ổn thỏa, tuy nhiên vừa nghe thấy người Sở cầu cứu binh, quân Ngô ta đã lập tức lui về nước, như thế sao có thể gây uy danh với các nước khác, ngày sau sao có thể tranh hùng với các chư hầu? Theo biện pháp thứ hai của ngươi... nếu người Tần, người Tống, hơn nữa còn có cả Khánh Kỵ ký kết liên minh với người Sở, làm gì còn quốc gia nào có năng lực mà chống lại nữa?"

Ngũ Tử Tư thản nhiên cười, nói: "Việc này cũng không khó, người Tần muốn xuất quan tranh đoạt thiên hạ, lại bị người Tấn cản trở lối đi, người Tấn muốn Đông tiến tranh đoạt Trung Nguyên, lại vì sợ bị người Tần đâm vào lưng mà không dám vọng động. Hiện giờ người Tần muốn giúp người Sở, một khi thành công, thì sẽ mở ra một con đường thứ hai ven lưu vực Trường Giang, nếu kết minh với Sở, ký kết hữu hảo, hành động này sẽ gây ra bất lợi to lớn cho nước Tấn. Nếu cho một người có khả năng ăn nói tốt sang nước Tấn giải thích lợi hại, người Tấn đương nhiên sẽ đáp ứng xuất binh trợ chiến. Nước Tấn là nước lớn ở phương Tây, những tiểu quốc phụ thuộc có vô số, một khi tham chiến, trợ lực này không phải là nhỏ.

Ngoài ra, còn có đại quốc Tề quốc ở phương Đông, người nước Tề dã tâm bừng bừng, cũng có tâm muốn khuếch trương, tuy nhiên tiến về phía Bắc là vùng biên cương hoang vu, về phía Tây là một nước Vệ nho nhỏ làm trung gian, sau đó là nước Tấn, hai bên kiêng kị lẫn nhau, lấy nước Vệ làm hòa hoãn, cũng không có phát sinh xung đột. Nếu muốn tiến về phương Nam thì lại có cơ hội, phía Nam nước Tề ngoại trừ nước Ngô ta, thì còn có một bộ lạc Đông Di. Bộ lạc này vẫn chưa lập quốc, khu vực rộng lớn, vẫn là một khối thịt béo trong mắt người Tề, chỉ có điều người Tề sợ khi quân Tề đi xuống phía Nam, thì nước Lỗ, Từ, cùng nước Ngô ta sẽ kết minh phản kháng, cho nên chậm trễ không đưa ra hành động. Nếu chúng ta đáp ứng trợ giúp nước Tề thu hoạch vùng đất của Đông Di, người Tề tham lợi, cũng sẽ xuất binh. Nước Tề là nước lớn ở phương Đông, nếu như vậy, sẽ có Tề Tấn hai nước tương trợ, đủ để triệt tiêu lực lượng liên bang của người nước Sở."

Hạp Lư hai hàng lông mày nhíu lại, nói: "Tề Tấn đều là nước lớn, đều có vô số nước nhỏ phụ thuộc, bọn họ một khi tham chiến, toàn bộ thiên hạ sợ rằng đều sẽ chiến hỏa hừng hực."

Ngũ Tử Tư mỉm cười nói: "Vậy thì có sao? Nước Ngô ta chếch về Đông Nam, thiên hạ chư hầu đều là tranh đoạt vùng đất phì nhiêu ở Trung Nguyên, sẽ không đem nước Ngô ta làm mục tiêu. Nước Ngô ta hiện giờ cũng chưa có đủ thực lực để lên tới đỉnh thiên hạ, Trung Nguyên không loạn, Đại vương muốn mưu đồ trở thành bá chủ thiên hạ, vậy thì phải mất hơn mười năm khôi phục nguyên khí. Có điều, nếu chư hầu Trung Nguyên hỗn chiến không ngớt, đó chính là lúc cơ hội của nước Ngô ta tới."

Hạp Lư nhướng hai hàng lông mày, lập tức giãn mặt ra cười to: "Tướng quốc quả có diệu kế, thiên hạ chiến hỏa hừng hực, chính là cơ hội cho nước Ngô ta, ha ha... Tốt! Cứ theo lời tướng quốc nói, lập tức sai sứ, kết minh với Tề Tấn, mời phát binh trợ chiến."

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 187: Trống trận liên hồi (Thượng Trung Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Ngũ Tử Tư mỉm cười nói: "Vậy thì có sao? Nước Ngô ta chếch về Đông Nam, thiên hạ chư hầu đều là tranh đoạt vùng đất phì nhiêu ở Trung Nguyên, sẽ không đem nước Ngô ta làm mục tiêu. Nước Ngô ta hiện giờ cũng chưa có đủ thực lực để lên tới đỉnh thiên hạ, Trung Nguyên không loạn, Đại vương muốn mưu đồ trở thành bá chủ thiên hạ, vậy thì phải mất hơn mười năm khôi phục nguyên khí. Có điều, nếu chư hầu Trung Nguyên hỗn chiến không ngớt, đó chính là lúc cơ hội của nước Ngô ta tới."

Hạp Lư nhướng hai hàng lông mày, lập tức giãn mặt ra cười to: "Tướng quốc quả có diệu kế, thiên hạ chiến hỏa hừng hực, chính là cơ hội cho nước Ngô ta, ha ha... Tốt! Cứ theo lời tướng quốc nói, lập tức sai sứ, kết minh với Tề Tấn, mời phát binh trợ chiến."

Ở trên vọng gác Bách Thành, Khánh Kỵ đứng hiên ngang một chỗ, nheo mắt nhìn về phía xa. Gió từ hướng Bắc tới, cuốn theo những bông tuyết bay đầy trời, cơn gió mạnh thổi chiếc áo khoác tung bay phần phật. Theo đúng như lộ trình đã dự tính thì nhân mã của hắn sẽ tới đây sau mấy ngày nữa.

- Chắc Tần quốc sẽ xuất binh...

Dù cho gió bên ngoài thổi lạnh thấu xương, nhưng Khánh Kỵ cũng không một chút bận tâm tới, hắn đứng ở trên thành, mang theo những suy nghĩ đang trôi bồng bềnh trên không. Đứng từ chỗ cao nhất quan sát sự biến động chính cục của toàn bộ Xuân Thu đại địa, đã đưa ra phán đoán này.

Từ khi Khuyển Nhung công phá Hạo Kinh, Chu U Vương Cơ Cung Tinh bị giết, Chu Bình Vương Cơ Nghi Cữu dời đô tới Lạc Ấp đến nay, cục diện thiên hạ trước đây nằm trong sự kiểm soát của Chu thiên tử đã dần dần được thay đổi, dẫn đến ngày này hai trăm năm sau - tức là hôm nay, từ từ hình thành nên hai tập đoàn thế lực: Tập đoàn Trường Giang và tập đoàn Hoàng Hà.

Tập đoàn Trường Giang do Sở Quốc đứng đầu, tập đoàn Hoàng Hà do Tấn quốc đứng đầu. Sở quốc tự lập vương hiệu, khinh rẻ sự thống trị của Chu thiên tử, Sở Trang Vương từng hỏi qua Chu thiên tử về Cửu Đỉnh*, thực sự dã tâm đã rõ rành rành. Còn Tấn quốc tuy có ý đồ tranh bá, là một chư hầu dòng giống họ Cơ, ngoài mặt thì vẫn duy trì Chu triều chính thống, đồng thời, do sự kỳ thị giữa các địa vực và xung đột về lợi ích với nhau, bọn họ đã nâng cao ngọn cờ bảo vệ Vương quyền, tự coi mình là những người hộ vệ cho Chu thiên tử.

(Chú thích: Cửu Đỉnh: tượng trưng cho quyền lực bá chủ)

Kỳ thực từ khi Tề Hoàn Công tạo khối liên minh chư hầu, tôn vương nhương di (tôn sùng giai cấp thống trị, bài xích ngoại bang), các nước ở phương Nam do nước Sở cầm đầu đã cùng với các nước bảo vệ thiên hạ Chu thị ở phương Bắc bắt đầu tiến hành liên tiếp các cuộc chinh phạt lẫn nhau, đến nay chỉ là Tấn thay thế Tề mà thôi.

Khi thiên hạ đang dồn hết sự chú ý vào cuộc chiến tranh tàn khốc giữa hai tập đoàn thế lực đó, thì Tần quốc ở Quan Trung đang lớn mạnh từng ngày. Thời gian từ khi thành lập Tần quốc rất ngắn, vị quốc quân đương nhiệm đầu tiên của họ vốn chỉ là một thủ lĩnh của bộ lạc nhỏ, do có công trong việc hộ tống Chu Bình Vương dời đô, được thụ phong làm chư hầu, cai trị một dải đất màu mỡ ở Quan Trung mà trước đây Vương đô của Chu thất đã tọa lạc, tính cho đến nay thì thời gian lập quốc vẫn chưa vượt quá hai trăm năm.

Thế nhưng trong suốt hai trăm năm nay, Tần quốc với lợi thế đất đai phì nhiêu màu mỡ vốn có của mình, chiến tranh ở Trung Nguyên hầu như không hề gây tổn hại tới thực lực của Tần quốc, dần dần họ trở thành một lực lượng lớn mạnh không dễ coi thường. Chỉ có điều, lực lượng hiện tại của họ vẫn chưa đủ lớn mạnh để có thể khiêu chiến với một nước lớn như Tấn quốc, cho nên họ cần phải duy trì sự cân bằng về thế lực giữa hai miền Nam Bắc, có như vậy thì Tần quốc mới có thể thu được lợi từ tình hình như vậy, tiếp tục trau dồi tích lũy lực lượng.

Trong những kiến thức lịch sử có hạn của Khánh Kỵ, hắn không nhớ được rằng khi Ngô quốc phạt Sở thì Tần quốc có phát binh đi tương trợ hay không. Hắn chỉ là kết hợp kiến thức hiểu biết của hai con người trong hắn, dựa theo tình hình thiên hạ hiện tại để đưa ra phán đoán như vậy. Hắn tin rằng, những lợi hại được mất trong đó, người Tần không thể nào không có một kẻ sĩ có tri thức không nhận ra được điều đó. Cho nên cuối cùng người Tần xuất binh cũng là điều tất nhiên.

Tần quốc Ung thành, cửa chính cung thành, các đại phu đang nối gót nhau đi vào trong.

Khi bọn họ bước qua cửa cung, đôi mắt đều không tự chủ được mà nhìn về bức tường cung phía bên cạnh, sát bức tường là một người tầm tuổi trung niên tóc tai rối bù, quần áo rách nát, trên đầu của hắn vẫn còn đeo một chiếc mũ quan của đại biểu sĩ đại phu, thế nhưng chiếc mũ đó cũng chẳng còn nguyên vẹn.

Thân hình hắn lảo đảo như muốn ngã, sắc mặt tiều tụy, mặt mũi tím tái, đôi môi nứt nẻ, hơi rơm rớm vết máu. Cặp mắt kia của hắn tăm tối vô cùng, không chút linh hoạt, thế nhưng hắn vẫn đang dùng âm điệu khàn khàn lẩm bẩm gì đó, không ai nghe thấy rõ điều hắn nói là gì.

Trông thấy hắn như vậy, ai ai cũng không khỏi động lòng trắc ẩn, dưới bức tường cung thành của Tần quân đương nhiên không cho phép ăn mày đứng, thế nhưng tên ăn mày này có đôi chút khác biệt, thứ hắn cầu xin không phải là lúa gạo, mà là viện trợ quân sự, điều đó đương nhiên là không giống với ăn mày bình thường. Người này chính là Thân Bao Tư, người được phụng lệnh đến Tần quốc cầu xin viện binh.

Lúc đầu khi mới đến Tần quốc, hắn cứ nghĩ rằng chắc chắn sẽ xin được viện binh từ Tần quốc, lúc bước lên Tần cung đại điện, trước mặt đông đảo công khanh triều đình vội vã nói rõ lý do đến Tần lần này của hắn cho Tần quân nghe, hắn nói:

- Ngô quốc Hạp Lư công phá Dĩnh đô, Sở vương tị nạn ở Tùy quốc. Hai nước Tần Sở vốn có quan hệ tốt đẹp với nhau, đương kim Sở thái hậu là bào muội (em ruột) của Tần quân, đương kim Sở vương là cháu ngoại của Tần quân, Tần Sở vốn là người cùng một nhà, bây giờ Sở quốc gặp nạn, vội đến Tần quốc cầu xin viện binh, khấn thỉnh Tần quân cứu Sở trong lúc nguy nan.

Nào ngờ Tần quân có dã tâm của hắn, thầm nghĩ rằng với sức mạnh của Ngô quốc, cho dù diệt được Sở quốc, cũng không thể đủ binh lực chiếm lĩnh lãnh thổ Sở quốc rộng lớn, đến lúc đó phát binh báo thù cho bào muội, vừa hay có thể thừa cơ bành trướng về Đông, chiếm lĩnh vùng đất Sở quốc núi cao sông dài. Một nữ tử nhỏ bé, dù là bào muội, nhưng hy sinh cho lợi ích của cả một quốc gia là Tần quốc thì cũng đáng, cho nên Tần quân không vội ra quyết định, lấy lệ bảo Thân Bao Tư tạm thời nghỉ ngơi ở dịch quán, để cho quân thần Tần quốc thương nghị một phen.

Thân Bao Tư luôn miệng khẩn cầu, Tần quốc quân chỉ đáp cho có lệ, Thân Bao Tư bất đắc dĩ, không muốn về dịch quán nghỉ ngơi, mà đứng bên ngoài dựa vào bức tường cung điện Tần quốc, không ăn không uống, tuyệt thực để tỏ rõ ý chí, từ sáng đến tối than khóc cầu xin, thời đó cung điện để cho chư hầu nghị triều không lớn lắm, Thân Bao Tư ở bên ngoài cung vừa khóc vừa la hét, ở trong đại điện nghe rõ mồn một, rên la van nài đến nỗi chẳng ai được yên ổn.

Thân Bao Tư và Ngũ Tử Tư đều là những người bạn tri giao hồi còn là thần Sở, hai người đều có một loại tính cách cứng cỏi, đó là không đạt được mục đích thì quyết không bỏ cuộc. Cứ như vậy suốt ba ngày, Thân Bao Tư không ăn không uống, đã khàn cả giọng, nhưng vẫn đứng trước bức tường cung điện Tần quốc, dường như có ý muốn tuyệt thực mà chết, động thái này của hắn khiến cho rất nhiều đại phu Tần quốc động lòng trắc ẩn, thầm đồng tình với hắn.

Tần quân thấy hắn không biết điều như vậy, trong lòng cảm thấy rất bực bội, gần như đã mất hết kiên nhẫn. Vào thời đó công khanh cứ mười ngày thì được miễn thượng triều một ngày, Tần quân vì muốn tránh mặt Thân Bao Tư, cho công khanh đại thần nghỉ một mạch ba ngày liền, mong chờ đến khi Thân Bao Tư chết bên ngoài cung mới thôi. Không ngờ được rằng tính mạng của Thân Bao Tư lại dai dẳng thần kỳ như thế, hôm nay, ba ngày nghỉ phép đã qua, quần thần thượng triều, đến lúc này Thân Bao Tư đã đứng bên ngoài cung ròng rã bảy ngày bảy đêm, không ăn không uống, không ngủ không nghỉ, thế mà vẫn chưa chết. Toàn bộ thần tử Tần quốc ai cũng phải cảm động, rất nhiều đại thần đã quyết định trong buổi thượng triều hôm nay sẽ nói đỡ cho Thân Bao Tư, khấn thỉnh Tần quốc xuất binh giúp Sở.

Không ngờ, chúng thần vào điện, Tần quân ngồi xuống đã mở miệng nói luôn:

- Ngô vương phạt Sở, vốn không phải là chiến tranh chính nghĩa. Tần Sở vốn là anh em, đương nhiên cần phải tương trợ lẫn nhau. Quả nhân thấy Thân Bao Tư trung nghĩa mà cảm động, quyết định phát binh cứu Sở, điều động chiến xa năm trăm chiếc, tinh binh bốn vạn người, do Tử Bồ, Tử Hổ làm tướng dẫn đầu, ra khỏi Vũ Quan, tới Sở quốc, thảo phạt quân Ngô.

Quần thần nghe vậy thì bàn tán xôn xao, sau đó nhất tề tiến lên lạy dài, cao giọng tán thán:

- Quốc quân nhân đức, chúng thần ủng hộ!

Tần quân và đại tướng Tử Bồ liếc nhìn nhau, vuốt râu mỉm cười không thôi. Tần quân cuối cùng đưa ra quyết định xuất binh, tuyệt đối không phải là do cảm động với những hành động trung nghĩa của Thân Bao Tư, mà đó là kết quả của việc cân nhắc lợi hại trong buổi thương nghị suốt mấy ngày của mấy vị quần thần tâm phúc với Tần quân.

Hơn ba mươi năm trước, hai nước Tấn Sở và một số nước chư hầu khác tiến hành "Chấm dứt binh đao, tụ hội kết minh" tại Tống quốc. Tấn Sở đại diện cho tập đoàn thế lực của hai miền Nam Bắc ký kết hiệp ước thành lập liên minh, đưa ra quyết định rằng ngoại trừ hai nước lớn là Tề, Tần ra thì toàn bộ các nước khác đều phải đồng thời triều cống cho hai nước Tấn Sở.

Từ đó đã nâng hai nước Tấn Sở lên vị trí đỉnh cao trong các chư hầu thiên hạ, trở thành bá chủ thiên hạ. Thực lực của Tần quốc và Tề quốc chỉ kém hơn đôi chút so với Tấn Sở, không bị hệ lụy bởi những hư danh kia, suốt ba mươi năm nay bế quan phát triển, quốc gia thái bình, sức mạnh đất nước ngày càng mạnh mẽ. Quân thần Tần quốc đã được nếm trải những mùi vị ngọt ngào như vậy.

Trải qua nhiều lần cân nhắc kỹ lưỡng, các vị trọng thần trong Tần triều cho rằng, quân Ngô tuy mạnh, nhưng sức mạnh tổng hợp của quốc gia suy cho cùng thì vẫn chưa đủ hùng hậu. Ngô Sở cùng tồn tại so với Ngô tồn Sở vong sẽ có lợi hơn trong việc tiết chế trục hoành ngăn không cho thế lực Tấn quốc ở phương Bắc Nam hạ (đi về phía Nam). Nếu như Sở quốc bị diệt vong mà dẫn đến việc lực lượng Bắc Nam mất hoành, như vậy thì Tấn quốc sẽ mạnh lên rất nhiều. Điều này đối với một quốc gia mong muốn lực lượng Nam Bắc cân bằng để có thêm thời gian và cơ hội tích lũy phát triển như Tần quốc mà nói thì cực kỳ bất lợi.

Hiện tại nếu như chiếm lĩnh một phần lãnh thổ của người Sở, thì kết quả sẽ là việc đơn độc phải gánh chịu sự bức bách của cường quốc tới từ phương Bắc là Tấn quốc, như vậy đối với lợi ích lâu dài của Tần mà nói, còn lâu mới bằng việc đưa Sở quốc lên trước làm lá chắn, còn bản thân Tần quốc thì bế quan tự thủ, nghỉ ngơi lấy sức, tích lũy quốc lực. Tần quân biết nghe lời phải, nghe mấy vị đại thần phân tích một hồi thì rất hài lòng, thế là cuối cùng đã đưa ra mệnh lệnh xuất binh cứu Sở.

Thân Bao Tư lúc này còn thoi thóp chút hơi tàn được đưa vào Tần cung, nghe được tin tức đó thì vô cùng mừng rỡ, liền dùng lễ trọng, khấu đầu ba lượt, Thân Bao Tư như quên hết tất cả, vùng vẫy lăn lộn quỳ mọp xuống dưới đất, khấu đầu tiếp chín lần để tạ ơn Tần quân, sau đó cơ thể rã rời, chìm vào hôn mê, được cấp tốc đưa vào dịch quán nghỉ ngơi tĩnh dưỡng lấy lại sức.

Tần quốc Ung Thành, hai vị đại tướng quân Tử Bồ, Từ Hổ bắt đầu điều phối lương thực, chiêu mộ quân sĩ, chuẩn bị xuất binh cứu Sở. Động tĩnh lớn như vậy đương nhiên khó có thể che được tai mắt của người khác, vùng Ung Thành đang gõ trống khua chiêng để chuẩn bị, những gian tế của Tấn quốc được cài cắm ở kinh đô nước Tần đều đã nhận được thông tin, thám báo không quản ngày đêm chạy về Dực Thành Tấn quốc báo tin, mặc cho ngoài trời đầy mưa giông bão tuyết cũng phải đem tin tức giao tới tận tay Tấn hầu Cơ Khí Tật...

Thiên hạ, lại sắp rơi vào cuộc đại loạn...

Cơn gió lạnh cuốn theo những bông hoa tuyết, thổi mạnh đến nỗi những chiếc đại kỳ trong thành đều không ngừng tung bay. Khánh Kỵ nhìn về phía Tây Bắc, từ đây nhìn về nơi đó trải dài cả vạn dặm, đang có hơn mười vạn đại quân Sở quốc đóng quân, đạo quân này dùng để phòng bị Tấn quốc xâm lược, thế nhưng người Tấn Nam hạ, chưa hẳn đã chỉ có duy nhất con đường này, chỉ có điều nếu chọn việc đi đường lớn, bắt buộc sẽ phải đi xuyên qua rất nhiều nước chư hầu, nếu vậy thì đám nước chư hầu kia sẽ đương nhiên phải đưa ra quyết định, lập trường, cuối cùng đem càng ngày càng nhiều các quốc gia bị cuốn vào trong vòng chiến loạn.

Nghĩ tới đây, khóe miệng Khánh Kỵ bỗng nở nụ cười.

Để cổ vũ sĩ khí quân tâm, Phí Vô Cực đã công bố ra bên ngoài chuyện sứ giả đi tới Tần quốc xin viện binh, còn có cả việc Văn Chủng đi Tống quốc cầu viện, chỉ có điều là hắn trơ trẽn nói rằng những việc đó đều xuất phát từ chủ ý của hắn mà ra, lấy đó để cho thấy sự sáng suốt biết rõ tiên cơ của hắn.

Điều này đem lại cơ hội cho Khánh Kỵ, một thủ hạ tâm phúc của hắn theo đuôi một vị tín sứ nước Sở, rồi giả mạo làm một tiều phu mật báo lĩnh thưởng, tố giác vị tín sứ kia, khiến hắn bị người nước Ngô bắt được, từ đó Ngũ Tử Tư đã nắm được tin tức này, làm cho Cơ Quang cũng có sự phòng bị từ trước.

Khánh Kỵ hiểu rõ tính khí của vị vương thúc đó của mình, càng hiểu rõ rằng Ngũ Tử Tư quyết không chấp nhận tỏ ra yếu thế trước mặt người Sở, lựa chọn của Cơ Quang và Ngũ Tử Tư chỉ còn là lấy "gậy ông đập lưng ông", cũng mượn binh của các nước chư hầu khác, chỉ có như vậy thì mới có thể đạt được mục đích của hắn.

Nếu không, đợi đến khi quân đội Sở quốc cần vương tụ hội, xông thẳng tới Dĩnh Đô, Cơ Quang nghe được tin bất ngờ, lại hai ba vạn tinh binh của hắn cũng tham gia vào quân Sở, thêm cả việc Tần quốc cũng phát binh tương trợ, trong lúc cấp bách không có cách nào kháng cự, chỉ còn cách lui về Ngô quốc, nếu như vậy, người Sở đương nhiên đạt được mục đích, đối với hắn mà nói thì sẽ vô cùng bất lợi. Hắn buộc phải ngăn chặn Cơ Quang và quân Ngô lại, cố sống cố chết mà ngăn chặn tại Sở quốc, như vậy, đám kỳ binh mà hắn giữ ở Tề quốc mới phát huy tác dụng được.

Ngũ Tử Tư...

Khánh Kỵ cười lạnh:

- Vị thiên cổ danh nhân này, chẳng phải cũng bị ta đùa giỡn trong lòng bàn tay đó sao.

"Xuân Thu không có chiến tranh chính nghĩa", từ lúc Khánh Kỵ từ một linh hồn xuyên Việt với gốc gác là một thành viên trong đoàn làm phim phổ thông, dần dần trở thành một vị lãnh tụ của một đoàn thể chính trị, càng ngày hắn càng thấm hiểu sâu sắc ý nghĩa của câu nói này. Đâu chỉ có Xuân Thu không chiến tranh chính nghĩa, tự cổ chí kim, có cuộc chiến tranh nào với cờ hiệu đẹp đẽ, đường đường chính chính mà không phải là hướng về lợi ích của một vài cá nhân?

Mặc kệ là dùng loại cờ hiệu nào, mục tiêu cuối cùng cũng là một chữ "lợi". Giữa các nước với nhau chẳng bao giờ có tình hữu nghị mãi mãi, chỉ có quyền lợi mãi mãi mà thôi. Một lợi ích của giai cấp, đoàn thể, đương nhiên sẽ phải tổn hại đến lợi ích của một đoàn thể, một giai cấp khác để làm tiền đề. Cho dù là sử dụng thủ đoạn nào, chỉ cần khiến cho người của mình giảm thiểu những hy sinh đổ máu, giảm thiểu những cái giá phải trả là được, Khánh Kỵ bây giờ cũng đã bình chân như vại rồi. Hắn đã không còn nói những lời ba hoa bốc phét như ước mộng tuổi thiếu niên nữa.

Gió đã yếu bớt, tuyết lại càng thêm dày đặc. Khánh Kỵ một ngày mấy lần đi lên trên thành quan sát, chờ đợi đại quân của hắn mau đến. Lúc này đã là lần thứ ba trong buổi chiều hắn đi lên thành rồi, tuy nhiên phía xa vẫn là một màu trắng ảm đạm và lặng lẽ. Hắn vung vẫy những bông hoa tuyết trên vai, chà xát hai tay đã đông cứng vào nhau, đang định trở xuống dưới chân thành, ánh mắt bỗng tập trung vào một chỗ, nhìn về phía xa trong đám tuyết trắng xóa xuất hiện một đường đen uốn lượn.

Thần sắc Khánh Kỵ khẽ động, vội vàng nheo mắt che tay nhìn về phương xa, đường đen đang di động kia rõ ràng là một đoàn quân. Bọn họ đang tiến tới đây với vận tốc chậm rãi, làn gió tuyết khiến ngọn cờ tung cao phần phật, trên ngọn cờ xuất hiện hai chữ. Nhìn từ xa, lại thêm việc tuyết phủ trắng xóa che kín tầm mắt, chưa thể nhìn rõ chữ trên cờ hiệu là gì. Nhưng trông thấy cờ xí quen thuộc kia, Khánh Kỵ đã nhận ra đó là quân đội của mình.

Hắn mừng rỡ kêu lên một tiếng, rồi chạy một mạch xuống dưới cổng thành. Chỉ trong thoáng chốc, sĩ tốt người Sở đã đẩy cửa thành ra, Khánh Kỵ ngồi trên một chiếc chiến xa lao nhanh ra bên ngoài, bánh xe đi trên con đường đầy tuyết tạo nên hai hàng dấu vết thẳng tắp.

- Công tử!

Khi Khánh Kỵ thúc xe tới gần, thì đoàn quân kia bỗng đột nhiên dừng lại, đợi đến khi Khánh Kỵ đi tới trước mặt, trên chiếc chiến xa ở hàng trên nhất lập tức bước xuống một người, vẻ mặt vui mừng tiến tới.

Trên chiếc nón trụ của hắn tích đầy bông tuyết, thân hình cao lớn, râu ria xồm xoàm. Tà áo tung bay trong cơn bão tuyết, đúng là tả hữu luôn theo gót trung thành với hắn Lương Hổ Tử.

- Bái kiến công tử!

Đám sĩ tốt ở tiền phương đồng loạt thi hành quân lễ với Khánh Kỵ, tin tức nhanh chóng được truyền tới trận tuyến phía sau, toàn bộ đội ngũ xôn xao rầm rĩ.

- Các tướng sĩ suốt dọc hành trình đều phải đối mặt với mưa gió bão tuyết, vất vả rồi!

Khánh Kỵ chắp tay vái chào về mọi người xung quanh, sau đó ôm một cái thân mật với Lương Hổ Tử:

- Lương tướng quân, ta đoán được tính nóng vội của tướng quân, nhất định sẽ cầm đầu đoàn quân đi tiên phong, ha ha... Tọa chấn trung quân hẳn là Kinh tướng quân rồi.

Khắp mặt Lương Hổ Tử đầy vẻ phong sương, nhưng lại lộ rõ vẻ vui mừng trông thấy. Nghe Khánh Kỵ nói như vậy, không khỏi ha hả cười nói:

- Lần này thì công tử đoán sai rồi, tọa chấn trung quân là Yểm Dư công tử, Kinh Lâm tiểu tử lần này áp hậu trận phía sau.

Khánh Kỵ nghe vậy thì sững sờ:

- Yểm Dư vương thúc? Chẳng phải ta đã bảo vương thúc tọa chấn Ngải Thành sao? Tại sao người lại tới đây?

Lương Hổ Tử gượng cười nói:

- Yểm Dư công tử là vương thúc của công tử, ngài nhất định đòi đến đây, thuộc hạ cũng chẳng biết làm sao. Thuộc hạ cũng theo quân lệnh của công tử ngăn cản Yểm Dư công tử, thế nhưng ngài đã quát mắng té tát vào mặt thuộc hạ, ngài nói: "Cái gì mà tọa chấn Ngải Thành, ba quân đều đã xuất phát đi thảo phạt Cơ Quang rồi, để ta canh giữ một tòa thành trống để làm gì? Tên tiểu tử mất nết Khánh Kỵ, chẳng qua là muốn phòng khi hắn chẳng may thất bại, thậm chí chết nơi sa trường, để ta lại phải báo thù cho hắn mà thôi. Lúc này đây hắn đã gây dựng được cơ đồ như vậy, nếu như hắn đánh không lại Cơ Quang, thì cho dù ta có dốc hết chút hơi tàn của cái mạng này cũng chẳng thể nào mà đi báo thù cho hắn được. Chi bằng đi cùng nhau, cùng lắm là chú cháu ta kề vai sát cánh chiến đấu, chết trận oanh liệt nơi sa trường thôi."

Khánh Kỵ nghe xong dậm chân nói:

- Ài, nếu nói như vậy, Chúc Dung vương thúc lần này đi Phí Thành Phi Hồ cốc chắc cũng theo đoàn quân xuất chinh rồi.

Lương Hổ Tử cười hắc hắc:

- Công tử đoán đúng rồi, Chúc Dung công tử trước khi đi tới Lỗ quốc quả đã nói như vậy. Công tử nói, thắng bại vinh nhục đều được quyết định trong trận chiến này, đại quân của công tử là hy vọng phục quốc cuối cùng, nếu như lại bại nữa, chỉ còn con đường chết theo mà thôi. Ngài đường đường là Ngô quốc công tử, nam nhi chí lớn, làm sao chịu để cho người khác ở nơi trận tiền liều mạng, còn mình tọa thủ ở một tòa thành bỏ trống như một kẻ ham sống sợ chết.

Khánh Kỵ nghe hắn nói vậy cũng không khỏi gượng cười, Lương Hổ Tử quay lại đưa mắt nhìn những sĩ binh lặn lội suốt một hành trình dai dẳng, nhưng tinh thần ai nấy đều tươi tỉnh, ý chí chiến đấu sục sôi, liền trầm giọng nói với Khánh Kỵ:

- Công tử cũng không cần hối tiếc, hai vị công tử nghĩ vậy, đám binh lính sĩ tốt trong ba quân của chúng ta cũng nghĩ vậy, Cơ Quang đã chiếm đoạt ngôi vị Ngô quốc đại vương hơn một năm nay, nếu cứ để tiếp diễn như vậy nữa thì chúng ta sẽ không còn cơ hội hạ bệ hắn, thắng bại vinh nhục, thật sự được quyết định trong trận đánh này. Ngay cả những người đầu bếp cũng nghĩ vậy, chịu đi theo công tử, ai nấy đều mang theo vũ khí tòng quân, Ngải Thành đã trở thành một tòa thành trống, tất cả chúng thuộc hạ đều tình nguyện vào sinh ra tử cùng công tử! Công tử chính là linh hồn của anh em tướng sĩ, bất luận là nguy hiểm thế nào, bất luận là kẻ địch thế nào, anh em ba quân tướng sĩ đều sẽ kề vai sát cánh, cùng sống cùng chết với công tử, quyết không nhụt chí!

Lời nói này thật có khí phách, được phát ra một cách dõng dạc giữa cơn gió tuyết rít gào, Khánh Kỵ nghe vậy mà cảm động trong lòng, nhịn không được cầm lấy bàn tay của hắn, nam chi ý chí kiên cường, lòng dạ bất khuất, hai bên cùng nhìn nhau rồi cười, tất cả đều không bộc lộ ra được trong lời nói.

Hắn thở một hơi thật dài, đón nhận những bông tuyết đang lao tới trước mặt, nhìn về phía đội ngũ đang xếp thành hàng nghiêm chỉnh trước mắt mình. Đôi mắt quét qua những khuôn mặt thanh niên, quen thuộc có, không quen thuộc có, có vài nét mặt còn thể hiện sự rầu rĩ tang thương khi phải xa nhà, bỗng nhiên, ánh mắt của hắn dừng lại trên người một chiến sĩ thân hình thấp bé.

Hắn khoác áo giáp nửa người, bên trong giáp là một bộ võ phục, một thanh trường kiếm vác trên vai, dải tua trên thanh kiếm bị gió thổi lên, quét qua mặt của hắn, nhưng dù bị che bởi những tua kiếm kia, thì khuôn mặt thanh tú, mỹ lệ như đào hoa kia vẫn không thể che giấu được, đích thị là Quý Tôn Tiểu Man. Nàng đứng bên cạnh một chiếc chiến xa, đang mỉm cười nhìn về phía mình.

Khánh Kỵ bất giác đi về phía nàng, Lương Hổ Tử đứng phía sau bỗng gọi:

- Công tử, thuộc hạ có chuyện này.... công tử...

Khánh Kỵ bỏ mặc không để ý, đi thẳng tới chỗ Quý Tôn Tiểu Man, kinh ngạc nói:

- Nàng... chiến trường là nơi nguy hiểm, nàng đến đây làm gì, chẳng phải ta đã nói nàng phải ở lại Ngải Thành sao?

Quý Tôn Tiểu Man liếc nhìn hắn, sẵng giọng nói:

- Ngải Thành đã là một tòa thành trống, ta ở lại đó làm gì? Đã không có nơi nào đi, vậy thì chỉ còn biết theo đến đây thôi.

Khánh Kỵ biết đó chỉ là lời nói biện cớ, thiên hạ lớn như vậy, nàng đi đâu chả được? Lúc trước bảo nàng ở lại bên cạnh chăm sóc thì nàng còn không chịu cơ mà. Bây giờ lại chịu kham chịu khổ theo tới Sở quốc, tấm lòng thiếu nữ lẽ nào hắn lại không biết?

Trong lúc xúc động, Khánh Kỵ vụt chốc nắm chặt lấy đôi tay nàng, đôi bàn tay nhỏ bé được ấp chặt trong bàn tay to lớn của hắn, cảm giác lành lạnh, Khánh Kỵ trông thấy khuôn mặt của nàng hơi tím tái, đôi bàn tay đông lạnh đến đỏ bừng, không khỏi có chút tức giận:

- Ngải Thành một năm nay tích lũy rất nhiều lương thực quân nhu, lẽ nào lại không thể chuẩn bị được cho nàng vài bộ quần áo dày dặn ấm áp ư? Nàng ăn mặc phong phanh như vậy, cơ thể thì lạnh cứng, nếu chẳng may sinh bệnh thì biết làm sao đây? Lương Hổ Tử!

Trong ánh mắt của Quý Tôn Tiểu Man hiện lên một ý cười ôn nhu, thanh âm cũng trở nên dịu dàng:

- Đừng trách Lương tướng quân, là do người ta không chịu mặc, những bộ quân phục đó mặc lên trông phì nộn cả người ra, khó coi chết đi được.

Khánh Kỵ nghe xong không biết nên khóc hay nên cười:

- Điều này quả đúng như câu xinh đẹp đến run người, muốn đẹp không muốn sống hay sao?

Quý Tôn Tiểu Man câng mặt lên:

- Vậy thì đã làm sao, dù sao thì càng đi về Nam càng ấm áp, đợi khi qua được sông thì đến cả bông tuyết cũng chẳng nhìn thấy nữa đâu.

Khánh Kỵ lắc lắc đầu, cởi áo khoác của mình xuống, chẳng nói chẳng rằng khoác lên trên vai nàng, buộc dây áo cho nàng, rồi nói:

- Thật chẳng thể hiểu được nàng nữa, được rồi, cứ mặc tạm áo khoác của ta đã, đợi đến Bách Thành...

Lương Hổ Tử chạy tới, vội nói:

- Công tử, thuộc hạ có...

Khánh Kỵ quay đầu sang, hừ một tiếng nói:

- Chuyện ta căn dặn ngươi, chẳng có chuyện nào là làm cho tốt cả, còn muốn... hả?

Hắn nhìn thấy Lương Hổ Tử hướng về phía mình nháy mắt ra hiệu vài cái, thần tình có chút quỷ dị, không khỏi khẽ chút giật mình, thuận theo ánh nhìn của Lương Hổ Tử nghiêng mắt ra xem, dùng khóe mắt kín đáo liếc về phía đó. Lúc này mới bị khiếp vía hồn bay phách lạc, nhìn lại lần nữa, quả nhiên là thật, người kia tuy rằng mặc một bộ giáp, chiều cao cũng chỉ tương đương với sĩ tốt bình thường, nhưng khuôn mặt rõ ràng là Thúc Tôn Diêu Quang.

Trong khoảnh khắc Khánh Kỵ dường như đang mơ hồ trong giấc mộng: "Diêu Quang... tại sao nàng ấy lại ở đây được chứ?"

Sau đó, ánh mắt của hắn khẽ chùng xuống, tâm tình cũng cụt ngủn không còn hứng thú. Hỏng rồi, hai tay của hắn vẫn đang dừng trước ngực của Quý Tôn Tiểu Man, ngón tay khẽ chạm vào chiếc cằm mỹ lệ lành lạnh của nàng, chiếc dây trên cổ áo khoác mới chỉ cài được một nửa, động tác này, nhìn thế nào cũng có chút ám muội.

Dường như gió tuyết có chút lạnh, vì Khánh Kỵ phát hiện da mặt của mình cũng hơi đanh lại. Khóe miệng của hắn hơi co lại, khẽ mấp máy, đón lấy cái nhìn từ cặp mắt trong trẻo của Quý Tôn Tiểu Man, cặp mắt to đẹp đó vẫn đang mang một sự vui vẻ hiền dịu, thế nhưng.... Khánh Kỵ bất giác cảm thấy trong đôi mắt đó hiện lên một chút gì đó của sự đắc ý.

Khánh Kỵ bỗng nhiên tự hận mình, tiểu cô nương đóng giả tiểu tử kia đã bao giờ có mùi vị nữ nhân đâu, lúc nãy làm sao nàng ta có thể vì sự quan tâm hỏi han của mình mà bộc lộ ra tình cảm như vậy? Động tác này của mình, lúc thường thì phản ứng của nàng ta phải là ngượng nghịu bất an, cảm giác không thoải mái mới phải. Nàng ta... rõ ràng là cố ý châm chọc ta.

Khánh Kỵ hung hăng trừng mắt nhìn nàng, Quý Tôn Tiểu Man đáp lại bằng ánh mắt thờ ơ, nụ cười trên vẻ mặt đóng kịch lại càng dương dương đắc ý hơn.

- Nàng đã đến đây rồi, ta cũng không thể đuổi nàng về được!

Ánh mắt của Khánh Kỵ không liếc nhìn về phía Thúc Tôn Diêu Quang nữa, cứ như thể hắn chưa từng nhìn thấy Thúc Tôn Diêu Quang vậy, giọng nói bỗng nhiên sang sảng vang vọng, thần thái nghiêm nghị, đường hoàng nghiêm trang nói với Quý Tôn Tiểu Man:

- Ta cùng Tam Hoàn thế gia quan hệ sâu sắc, Thúc Tôn Thị, Mạnh Tôn Thị, đều có cội nguồn chặt chẽ với ta, nàng là người của Quý Thị thế gia, một thân nữ tử lưu lạc bên ngoài, ta làm sao có thể nhìn mà không để ý chứ? Nên mới thu giữ nàng ở lại, nếu như nàng sinh bệnh ở chỗ của ta, há chẳng phải là do ta chăm sóc không chu đáo sao? Đợi khi vào Bách Thành, lập tức sẽ thay bằng quần áo dày ấm. Hừ, cái gì mà quân phục dày cộm phì nộn bất kham chứ, căn bản thì vẫn là một tiểu hài tử chưa trưởng thành, ai thèm để ý tới dung nhan đẹp xấu của nàng?

Quý Tôn Tiểu Man quay lưng về phía Thúc Tôn Diêu Quang, làm động tác dí dỏm thè lưỡi với hắn, mũi hơi nhăn nhăn trêu tức, đắc ý nói:

- Lêu lêu lêu, phản ứng của công tử Khánh Kỵ nhanh đấy nhỉ, lại lừa được ngay cô nương người ta rồi đấy nhỉ? Hi hi...

Khánh Kỵ toát mồ hôi, ngoài trời rất lạnh, gió thổi rất lớn, thế nhưng hắn lại cảm thấy trong người có cảm giác rất nóng rất nóng. Bản thân phải làm sao vừa tự nhiên vừa ngạc nhiên mà phát hiện ra Thúc Tôn Diêu Quang đang ở trong đội ngũ kia đây, còn phải làm ra một bộ mặt kinh ngạc, vui mừng, nếu không thì màn kịch lúc nãy chỉ phí công vô ích thôi...

Ánh mắt sát nhân đáng sợ của nàng... chết tiệt thật, Lương Hổ Tử đâu? Lúc nãy nhìn thấy ta, tại sao hắn không nói luôn là Diêu Quang cũng có ở đây...

Khánh Kỵ quay đầu lại tìm Lương Hổ Tử với ánh mắt cầu cứu, bỗng thấy nơi lúc nãy Lương Hổ Tử đứng đã không còn thấy ai. Ở phía xa truyền đến một tiếng nói như sấm sét ngang trời, cứ như thể sợ hắn không nghe thấy vậy. Khánh Kỵ nhìn về nơi phát ra tiếng nói, chỉ thấy tên Lương Hổ Tử lúc nãy còn đang nói vì hắn mà vào sinh ra tử, đổ máu nơi sa trường, bất luận thế nào cũng không chịu thoái bước kia đang dùng cánh tay còn lại vung vẩy, tay áo bồng bềnh, gân cuống họng lên cao hứng bừng bừng nói:

- Các huynh đệ, công tử đến đón chúng ta rồi, các huynh đệ, đã gặp được công tử nhà ta rồi!

Chỉ là, bước chân của hắn rất nhanh, dường như phía sau đít có con chó đang đuổi theo vậy, tình hình đó nhất định không phải là đang cổ vũ sĩ khí toàn quân, mà giống như là... bỏ chạy mất dạng vậy.

Bên tai vang đến tiếng cười khúc khích khe khẽ của Thúc Tôn Diêu Quang, Khánh Kỵ hung dữ trừng mắt nhìn về phía tên Lương Hổ Tử không biết nói lời nghĩa khí kia, đã tức đến nỗi không nói được gì...

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 188: Khói lửa chiến tranh (Thượng Trung Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Khánh Kỵ quay đầu lại tìm Lương Hổ Tử với ánh mắt cầu cứu, bỗng thấy nơi lúc nãy Lương Hổ Tử đứng đã không còn thấy ai. Ở phía xa truyền đến một tiếng nói như sấm sét ngang trời, cứ như thể sợ hắn không nghe thấy vậy. Khánh Kỵ nhìn về nơi phát ra tiếng nói, chỉ thấy tên Lương Hổ Tử lúc nãy còn đang nói vì hắn mà vào sinh ra tử, đổ máu nơi sa trường, bất luận thế nào cũng không chịu thoái bước kia đang dùng cánh tay còn lại vung vẩy, tay áo bồng bềnh, gân cuống họng lên cao hứng bừng bừng nói:

- Các huynh đệ, công tử đến đón chúng ta rồi, các huynh đệ, đã gặp được công tử nhà ta rồi!

Chỉ là, bước chân của hắn rất nhanh, dường như phía sau đít có con chó đang đuổi theo vậy, tình hình đó nhất định không phải là đang cổ vũ sĩ khí toàn quân, mà giống như là... bỏ chạy mất dạng vậy.

Bên tai vang đến tiếng cười khúc khích khe khẽ của Thúc Tôn Diêu Quang, Khánh Kỵ hung dữ trừng mắt nhìn về phía tên Lương Hổ Tử không biết nói lời nghĩa khí kia, đã tức đến nỗi không nói được gì...

Hán Thủy, cứ điểm quan trọng bến sông Ngư Phản , tiếng chém giết rung trời.

Quân Ngô đang tấn công mạnh mẽ vào bến sông Ngư Phản, nơi đây, hiện tại vẫn là quân Sở chiếm giữ.

Đại tướng quân Ngô Vương Tôn Hùng chống mâu đứng trước trận tiền, hờ hững nhìn về phía doanh trại trước mặt, binh lính của hắn giống như một bầy kiến liều mạng, đang công kích về phía tòa doanh trại kia. Chòi quan sát, thành lũy trên doanh trại đều hướng ra phía ngoài để chống địch đến từ trước mặt, bây giờ kẻ địch lại đánh xốc ở phía sau lưng, thế địa lợi đã bị hạn chế. Lại thêm cả việc thành lũy doanh trại đều chủ yếu được xây dựng bằng gỗ, dưới những làn mưa tên xối xả công kích liên hồi, hiện tại đã có mấy khu vực lửa cháy phừng phừng, chuyện thất thủ đã không còn phải bàn cãi.

Cung nỏ của người Sở sắc bén lợi hại, tuy nhiên hiện tại tên đã bắn gần hết, hai bên đành phải bắt đầu áp vào nhau dùng vũ khí ngắn đánh giáp lá cà, kiếm thuẫn của người Ngô bắt đầu phát huy uy lực của mình. Kiếm quang lấp lánh, vung vẫy còn khiến người ta phải ớn rét thấu xương, vô số những thanh đoản kiếm chạm vào những chiếc thuẫn thủ, phát ra những tiếng "keng keng" ầm trời, chiến xa của người Ngô giống như một đám mây đen mù mịt, nuốt chửng trận địa của người Sở, những tiếng gầm rú háo hức rít lên đinh tai nhức óc.

Sở đại phu Khuất Vô Trần cầm kiếm đứng ở trên thành trại, lửa bốc cháy ngùn ngụt, bóng dáng cao gầy tựa cành cây khô đứng lẻ loi trong gió. Toàn thân ông khoác trên mình một bộ đồ trắng toát, đeo dây lưng bên hông, đầu quấn khăn trắng, cách ăn mặc như đang để tang vậy.

Ông mặc như vậy, chính là để tang cho mình, để tang cho thân nhân trong gia đình mình, để tang cho hàng nghìn hàng vạn binh sĩ trong doanh trại của mình. Khi quân Ngô phát binh đánh úp Ngư Phản, ông đã biết rằng tòa thành này nhất định sẽ không thể cầm cự được bao lâu. Khi ông đánh lui đợt tấn công lần thứ tư của quân địch, tận dụng thời gian quân sĩ đôi bên chỉnh đốn lại chiến trận, liền quay trở về nhà, cưỡng ép ra lệnh cho thê thiếp già trẻ lớn bé trong nhà, tổng cộng là mười bảy người, tất cả đều phải thắt cổ tự tử để tỏ lòng hy sinh vì tổ quốc. Sau đó mặc bộ đồ tang trở lại trận địa, ông đã quyết tâm chiến đấu tới người lính cuối cùng, cùng sống cùng chết với cứ điểm Ngư Phản.

Một dải hàng rào lay động vài cái, rồi sụp đổ ầm ầm. Doanh trại này tuy làm bằng gỗ, nhưng hàng rào đều được xây dựng bằng những khối gỗ to lớn chôn sâu xuống đất. Người Ngô khi công trại đã dùng dây thừng ngựa kéo nhưng cũng không làm cách nào đổ hàng rào cho được. Thế nhưng dưới những làn hỏa công mạnh mẽ, chẳng bao lâu sau chúng đã bị cháy rụi điêu tàn, cuối cùng những hàng rào kia cũng đã hoàn thành sứ mệnh của mình.

Khóe miệng Vương Tôn Hùng lộ ra một tia cười thỏa mãn, bàn tay của hắn nắm chặt dần thanh trường mâu, chậm rãi giơ nó lên không trung. Đầu mâu sắc bén lấp lánh phát ánh sáng chói lòa khi được ánh mặt trời chiếu sáng. Thanh trường mâu huơ trong không trung trong chốc lát, rồi sau đó dưới sự điều khiển của cánh tay vâm đô của Vương Tôn Hùng dũng mãnh lao lên phía trước.

- Giết!

Đội quân dự bị sau lưng Vương Tôn Hùng đồng loạt giơ trường mâu lên, giống như một rừng binh khí sắt thép, nhất tề chĩa về phía trước. Cả rừng trường mâu giống như dòng thủy triều ào ạt lao lên phía trước, toàn bộ đội ngũ xếp thành hình thế, thần tốc lao vào lỗ hổng vừa được tạo ra, tiến thẳng vào doanh trại.

Đôi mắt Khuất Vô Trần đỏ ngầu, giơ trường kiếm lên, khàn giọng hét lớn:

- Toàn quân xông lên, cùng chết với địch!

- Toàn quân xông lên, cùng chết với địch!

Những binh sĩ Sở đôi mắt cũng ngầu máu rời khỏi những lỗ châu mai phía trên doanh trại, lao xuống phía dưới vật lộn với đoàn quân Ngô. Kiếm thuẫn, trường mâu kết hợp , tạo thành một tiểu đội hoàn mỹ hợp tác tác chiến với nhau. Quân Sở còn lâu mới là đối thủ của đội quân Ngô quen dùng vũ khí ngắn này, máu tươi, chết chóc cứ không ngừng tăng lên...

Khuất Vô Trần thề sống mái với quân thù giống như kẻ điên, tay cầm trường kiếm của người Sở lao thẳng vào trong trận địa của quân Ngô, không màng sống chết đâm chém lung tung. Lưỡi kiếm gạt bỏ hết được những thanh trường mâu tạt tới, vận hết sức bình sinh, nhưng chỉ là phí công vô ích, đâm bổ mãi cũng chỉ chạm được vào những trận địa thuẫn được bố trí nghiêm mật.

- A!

Khuất Vô Trần ngửa mặt lên trời thét dài một tiếng, rồi khuỵu gối xuống vung kiếm quét một vòng, trong khoảnh khắc hàng thuẫn của quân Ngô có chút lơi lỏng, đã chặt đứt một chân của một viên binh sĩ, sau đó ông dùng chân đá bay tấm thuẫn kia, đạp ngã tên lính đã cụt một chân đang kêu rú thảm thiết ngã sóng xoài, lợi dụng lỗ hổng lao lên phía trước.

"Keng" một tiếng, một thanh trường mâu đột nhiên xuất hiện trước mặt, mũi mâu giao kích với trường kiếm, thanh kiếm vốn đã sứt mẻ nhiều chỗ giờ đây lại xuất hiện một vết nứt rỗ lớn, Khuất Vô Trần loạng choạng lùi lại, trước mặt là một vị tướng quân đang đứng ngạo nghễ.

Giáp nhẹ, trường mâu, đứng sừng sững hiên ngang, sát khí hầm hầm ngưng tụ trên đôi mắt của hắn.

- Sở nhân Khuất Vô Trần ở đây, ngươi là kẻ nào?

Người kia nhẹ nhàng nhấc trường mâu lên, đạo mạo nói:

- Ngô nhân Vương Tôn Hùng.

"Được!" Khuất Vô Trần cười khó khăn, trường kiếm dựng thẳng, đôi mắt đỏ ngầu chằm chằm nhìn đối phương.

Vương Tôn Hùng đứng nghiêng người, một tay cầm mâu, tay kia khẽ phẩy, sĩ tốt quân Ngô bốn bề lập tức dạt về phía sau, hình thành một bức tường vòng tròn, trong vòng tròn là Khuất Vô Trần và Vương Tôn Hùng người cầm kiếm kẻ cầm mâu, ngoài vòng tròn, là những binh sĩ Sở quốc và những tướng sĩ Ngô quốc giống như bầy hổ lang đang ngã xuống, số lượng càng ngày càng ít dần.

- Tướng quân xin hãy xuất chiêu đi!

Vương Tôn Hùng một tay cầm mâu, hướng mũi mâu về phía trước, quát giọng lanh lảnh.

- Ya!

Khuất Vô Trần xoay người lao tới, mượn tốc độ di chuyển nhanh chóng của bước chân và sức lực của cơ vai, liên tiếp bổ xuống mười mấy kiếm, giống như cuồng phong đâm bổ về phía Vương Tôn Hùng.

Vương Tôn Hùng cầm trường mâu, vung vẫy khiêu khích, lui dần về phía sau, binh khí hai bên va đụng vào nhau, tiếng va đập vang lên không ngớt, liên tiếp mười mấy kích, "Keng" một tiếng, thanh kiếm của Khuất Vô Trần không chịu nổi những đợt phản kích dữ dội uy lực, đã bị gãy ra thành hai đoạn, trường mâu của Vương Tôn Hùng chĩa về ngực ông, mũi mâu sắc bén đã tiếp giáp với áo bào, áp sát vào trước ngực, Vương Tôn Hùng cười nhạt, quát lớn:

- Hàng hay chết?

Sau tiếng "keng", một nửa thanh trường kiếm rơi xuống bãi cát, Khuất Vô Trần cười bi phẫn, cầm lấy nửa thanh kiếm còn lại trong tay, gọt một đường thẳng tắp trên cổ mình, máu tươi phun ra liên hồi, ứa ra chảy tràn khắp áo bào như hoa mai nở. Vương Tôn Hùng khẽ thở dài:

- Biết rõ là không địch lại được, tại sao còn cố chấp như vậy?

Hắn lắc tay, thu trường mâu lại, thân hình Khuất Vô Trần khẽ lảo đảo, thần thái trong mắt tiêu tan dần, khóe môi khẽ động đậy, dường như còn muốn nói điều gì, nhưng sau một hơi thở hắt ra, ông đã đổ người xuống đất.

Binh sĩ bốn bề quan sát trông thấy vậy thì giương cao binh khí trong tay, hoan hô hưởng ứng, có người đã cao giọng nói to:

- Tướng thủ thành Ngư Phản Khuất Vô Trần đã chết! Tướng thủ thành Ngư Phản Khuất Vô Trần đã chết!

Tiếng kêu truyền ra khắp doanh trại, lúc này đã là biển lửa, những tốp binh sĩ Sở tụm lại thành nhóm ba, năm người bị quân Ngô chia cách, từng hàng trường mâu và kiếm thuẫn bao bọc lấy những tướng sĩ Sở quốc còn lại, bọn họ giống như những chiếc lá héo tàn giữa phong ba bão tố, bị gió bão giày xéo, bảy nổi ba chìm. Cho dù bọn họ đã ôm lòng quyết tử cho tổ quốc quyết sinh, nhưng nghe được thông tin này, quyết tâm thề chết đã bị dao động, những chiếc "lá rụng" kia đã bị cuồng phong dập nát.

Vương Tôn Hùng bước qua những tử thi và máu tươi lênh láng trên đường, trong tiếng chém giết sang sảng quát lớn:

- Kẻ nào không chịu đầu hàng thì giết chết không tha, nhanh chóng thu dọn chiến trường, thu nạp toàn bộ chiến thuyền lớn nhỏ, giữ lại ba mươi chiếc dự trữ, số còn lại gom lại rồi đốt hết!

Dĩnh Đô, một đội kéo dài nhìn mãi không thấy điểm tận. Những đội xe ngựa của các công khanh, thân sĩ từ Sở quốc lập thành một đội, được binh sĩ tinh nhuệ hộ tống, hành trình thẳng tới Ngô quốc. Một đội nhân mã tạm thời được điều về Ngư Phản, đem những vật trang tư dụng cướp bóc được theo đường thủy trở về nước.

Hạp Lư dường như muốn mang theo cả toàn bộ Sở quốc vậy, tất cả vật tư quân nhu, công cụ sinh hoạt, vàng bạc châu báu, binh khí sắt thép, bất kể là dùng được hay là không đều được vận chuyển cho bằng hết. Bây giờ hắn không lo là không có xe ngựa, mà hắn lo là không đủ người đi theo hộ tống hết chỗ xe ngựa chở đồ này. Tất cả những của cải vật chất của Sở quốc tích lũy suốt hơn năm trăm năm nay sắp bị Hạp Lư vơ vét thu vào túi riêng sạch sẽ.

- Tránh ra! Tránh ra!

Hơn mười viên đại hán cưỡi khoái mã, trên vai cắm lá cờ nhỏ, hẳn là tín sứ trong quân, một tay quất roi thúc ngựa, một tay soải ra đuổi tránh những đoàn quân đang chở của cải sang hai bên, khiến cho đoàn quân ngũ xiêu vẹo méo mó phải nhường ra một con đường, đoàn người tức tốc vọt lên thoát khỏi đám đông.

Bọn họ chính là những tín sứ được Cơ Quang phái đi, Cơ Quang có ý muốn cầm cự thêm ở Dĩnh Đô một thời gian nữa, chống đỡ những đợt tấn công của liên quân Khánh Kỵ với người Sở. Đợi đến khi Tề Tấn có phản ứng, đại cục thiên hạ xoay vần, nhưng thực sự thì hắn vẫn chưa thể yên tâm với Ngô quốc, liền phái người cưỡi khoái mã quay về, bàn mưu tính kế hợp mưu hành động với bào đệ Phu Khái và thái tử Phù Sai.

Cơ Quang lệnh cho bào đệ Phu Khái đề phòng nghiêm ngặt Việt quốc, nước trước nay luôn câu kết với Sở quốc làm điều gian "nhân lúc cháy nhà mà đi hôi của", lệnh cho thái tử Phù Sai phái thám mã, cùng với những trinh sát được mình phái đi giám sát nghiêm ngặt mọi con đường yếu đạo đi tới Ngô quốc, để đề phòng Khánh Kỵ chỉ Nam đánh Bắc, giả ý liên minh với Sở quốc, kỳ thực ngấm ngầm tập kích Ngô quốc.

Cùng lúc đó, hắn phái vài lộ đại quân chia ra cát cứ chiếm đóng ở những cửa ải hiểm yếu xung quanh Dĩnh Đô, định bụng thừa lúc quân đội cần vương của người Sở chưa kịp hội quân chiếm cứ toàn bộ những vùng yếu địa chiến lược, chiếm lấy ưu thế về địa lý.

Xung quanh Dĩnh Đô, tất cả những cửa ải hiểm yếu, nơi nào cũng có quân Ngô canh giữ, chiến hỏa phừng phừng...

- Nằm giữa hai ngọn núi, tòa thành lũy kia là nơi nào vậy?

Khánh Kỵ ẩn mình trong rừng rậm, phóng mắt quan sát trận địa, hỏi một binh sĩ Sở dẫn đường.

- À, tướng quân, tòa thành nhỏ kia chính là Na Xứ (dịch sang tiếng Việt là "chỗ đó")

- Đúng vậy, chính là tòa thành đó, nó tên là gì vậy?

- Ách... tướng quân, tòa thành nhỏ đó, tên gọi của nó chính là "Na Xứ"

- Gì cơ?

Khánh Kỵ khẽ ngẩn người ra, sau đó cười khẩy nói:

- Cái tên này thật khiến người ta cảm thấy kỳ lạ.

Hắn ngẩng đầu nhìn tiết trời, bóng tịch dương đã buông xuống, bầu trời còn hơi chút ửng đỏ, nhưng khí lạnh đã bắt đầu lan tỏa. Tuy rằng đây là vùng Giang Nam, mùa đông cũng chả được coi là lạnh lẽo cắt da cắt thịt, nhưng màu sắc của bầu trời lẫn mặt đất, vẫn khiến cho người ta cảm nhận được một sự ảm đạm thê lương, sầu não đến vô cùng.

- Căn dặn ba quân tướng sĩ tất cả ẩn vào trong rừng nghỉ ngơi, không được nhóm lửa, không được gây ra tiếng động lớn, coi chừng lũ ngựa thật tốt.

- Rõ.

A Cừu chắp tay vâng lệnh, vội vã lui ra.

- Diêu Quang...

Nhìn thấy viên lính dẫn đường cũng theo đó lui ra ngoài, Khánh Kỵ liền cười ôn hòa nói với Thúc Tôn Diêu Quang đang đứng kế bên:

- Đêm nay khi phát động cuộc tập kích với tòa thành đó, nàng chỉ được ở trận địa phía sau, tuyệt đối không được xung phung lên trước, khiến ta bị phân tâm.

- Dạ! Biết rồi, đánh trận, là chuyện của đàn ông mà...

Thúc Tôn Diêu Quang cười ngọt ngào, thái độ rất hòa nhã:

- Nhưng... chàng... chàng phải cẩn thận, nếu như chàng gặp phải một chút thương tổn nào, thì lần sau thiếp nhất định phải được sát cánh chiến đấu bên cạnh chàng.

- Được!

Khánh Kỵ mỉm cười.

Hôm đó khi phát hiện ra Thúc Tôn Diêu Quang ở trong đoàn quân, cho dù hắn cảm giác được rằng hành động "mừng rỡ bất ngờ ngoài ý muốn" của mình có chút vụng về, nhưng dường như Thúc Tôn Diêu Quang vẫn cho là thật, nàng trước sau chẳng thèm dò hỏi nghi ngờ lấy một câu, cũng không có một lời than vãn trách móc, điều này khiến cho Quý Tôn Tiểu Man vốn đang nghĩ sẽ được xem kịch hay có đôi chút thất vọng.

Còn Khánh Kỵ thì như đi guốc trong bụng với những biểu hiện của Thúc Tôn Diêu Quang, nàng không phải là không nhận ra điều gì, mà là bởi vì lúc này là lúc Khánh Kỵ đang lĩnh binh phạt Ngô phục quốc, là một thời khắc vô cùng vô cùng quan trọng, cho dù nàng chất chứa một bụng nghi ngờ, nhưng cũng không thể hiện ra ngoài, đề cập đến khiến Khánh Kỵ phân tâm trong thời khắc như vậy.

Việc khéo hiểu lòng người cùng phong độ biết rõ thời cuộc, công tư phân minh của Thúc Tôn Diêu Quang khiến cho Khánh Kỵ đã kính giờ còn càng thêm yêu nàng. Những ngày qua hai người sát cánh hành quân, bàn bạc việc quân, mặc dù đã không còn nhiều thời gian bàn chuyện phong hoa tuyết nguyệt như hồi ở Phí thành, nhưng tình cảm của hai người ngược lại càng thêm bền chặt keo sơn.

Chỉ là... sau trận đại chiến thì sao? Khánh Kỵ không hề quên, có một đêm hắn đưa Diêu Quang về trướng, muốn thừa cơ vui đùa với nàng một tí, không ngờ nàng nha đầu này đột nhiên nổi cơn ghen tuông nói:

- Đi đi đi, người ta bây giờ đang giúp chàng đánh trận vẫn chưa đủ sao? Muốn tìm nữ nhân à, đi mà tìm Ngải tướng quân của chàng ấy. Hứ, còn định già mồm cãi chối ư? Chàng dám nói việc cởi bào tặng áo hôm bão tuyết đó không có chút tình cảm nam nữ nào, chỉ là quân tâm thuộc hạ mà thôi sao? Hừ! Đợi khi chàng làm xong đại sự, thiếp sẽ lại tính sổ với chàng!

Đừng tưởng nàng ôn nhu hiền hòa như nước, sự đanh đá chua ngoa của nàng so với sự điêu toa giả dối của Tiểu Ngải còn trên một bậc, bây giờ nàng giấu đi nanh vuốt sắc bén, đợi khi đại cục đã định sẽ bắt đầu phát tác trở lại. E rằng sẽ khiến người ta phải kinh hãi muôn phần. "Đi một bước nhìn một bước, trước mắt hai a đầu này đang thầm tranh đấu gầm ghè lẫn nhau, toàn bộ công phu cao thấp đều dồn vào trong chiến sự, chưa hẳn đã là chuyện không tốt." Khánh Kỵ khẽ nhìn trộm dung nhan giảo mỹ của nàng, thầm nghĩ như vậy trong lòng.

Bóng tịch dương vàng vọt, nhuốm lên trên dung mạo đẹp đẽ của Thúc Tôn Diêu Quang một đường viền vàng vọt, tựa hồ như cảm thấy Khánh Kỵ đang nhìn mình, nàng liền liếc nhìn sang phía Khánh Kỵ. Khánh Kỵ vội thu lại ánh nhìn, nhìn thẳng về phía trước, hai người chầm chậm bước xuống bãi cỏ dưới sườn núi, đang muốn vượt qua một con suối, một chân Khánh Kỵ choạng vạng, suýt tí nữa thì chạm nước.

- Địa hình của tòa thành này thật hiểm trở.

Khánh Kỵ nén giọng nói xuống rất thấp.

Yểm Dư, Lương Hổ Tử, Kinh Lâm, còn cả A Cừu Tái Cừu, các tướng lĩnh thân thuộc chúm chụm lại thành vòng tròn, không có đống lửa nổi lên ở giữa. Màn đêm tối tăm, ánh trăng ảm đạm, nhìn không rõ mặt mũi mọi người, chỉ có thể nhờ vào ánh trăng sao lấp lánh chiếu lờ mờ, trong giọng nói và thân hình của mỗi người để nhận ra thân phận của họ.

Trong bóng tối, ngũ quan Khánh Kỵ khó nhìn rõ được, chỉ có đôi mắt sáng lóe phát ra ánh sáng rạng rỡ.

- Theo tình hình suốt chặng đường chúng ta dò la xem xét, vị trí địa lý của tòa thành này cực kỳ có lợi cho những hành động tiếp theo của chúng ta, vì vậy, ta muốn chiếm cho bằng được tòa thành này, biến nó thành đại bản doanh của chúng ta.

Yểm Dư công tử lên tiếng nói:

- Tòa Na Xử thành này không lớn lắm, là nơi trú chân cho ba vạn đại quân của ta e rằng hơi chật chội, bức bối, còn về ưu thế địa lý..., Khánh Kỵ, cháu hãy nói cho mọi người biết lý do và dự định tại sao lại chọn tòa thành này, cho mọi người thương nghị xem sao.

- Dự định của ta, mọi người đều biết rõ. Cơ Quang phạt Sở, điều động đại bộ phận quân tinh nhuệ Ngô quốc, mục đích của chúng ta chính là dẫn dụ hắn vướng vào trong cuộc chiến tranh với Sở quốc, nhân lúc trong nước không có vua quân coi giữ, chiếm lại quyền kiểm soát Ngô quốc. Hiện tại, những tuyến đường giao thông huyết mạch từ Ngô quốc sang Sở quốc đều nằm trong tay của Cơ Quang. Hàng vạn đại quân của ta hành quân, tuyệt đối không thể lọt qua được tai mắt của hắn, vì vậy, những con đường yếu đạo cả trên thủy lẫn trên bộ từ hướng Đông sang Ngô quốc chắc mẩm đã được bố phòng dày đặc mật thám của Cơ Quang, nếu chúng ta vứt bỏ Cơ Quang sang một bên, trực tiếp tập kích thẳng tới Ngô quốc, như vậy thì Cơ Quang có thể quay về nước nhanh hơn chúng ta một bước, đó là điều chắc chắn.

Cho dù chúng ta có thể tiến tới Ngô quốc đồng thời với hắn, hoặc thậm chí đi trước một bước, cũng chắc chắn phải đối mặt với sự chống cự quyết liệt từ phía quân thủ thành mà Cơ Quang để lại trong nước, bất kể chúng ta có công thành phá trại thế nào, đại quân chủ lực của Cơ Quang cũng sẽ trở về kịp, như vậy thì đại kế sách của chúng ta sẽ tan thành mây khói. Vì vậy, chúng ta phải dàn dựng như thể sẽ tạo ra một trận quyết tử với Cơ Quang tại Sở quốc, khiến hắn mơ hồ, đưa ra cái nhìn sai lầm về bố cục. Lợi dụng cơ hội đang kết minh với Sở quốc mà vây chặt hắn tại đây, nếu chuyện không thành, thì cũng phải tận lực tiêu hao binh lực của hắn, tạo điều kiện tiền đề thuận lợi cho chúng ta trong các cuộc đại chiến sau này trên lãnh thổ đất Ngô. Lực lượng mà ta dùng để tấn công thực sự vào Ngô quốc nằm ở Lỗ quốc, đó là đội quân hiện tại do Chúc Dung vương thúc, Tôn Vũ, cùng Anh Đào thống lĩnh, đó chính là đội kì binh phạt Ngô phục quốc của chúng ta.

Địa thế của tòa thành Na Xử kia rất hiểm yếu, là một trong ba tuyến đường bộ mà Cơ Quang lựa chọn để rút quân, hơn nữa lại là con đường ngắn, nhanh và tiện lợi nhất, là vùng đất mà trong binh gia buộc phải có được, đây chính là lý do quan trọng thứ nhất mà ta chọn nó. Thứ hai, nơi này nếu tiến về Nam, có thể công phá Dĩnh Đô, một khi đội quân cần vương của Sở quốc tề tụ đông đủ, chúng ta có thể mượn nơi này làm bàn đạp để tạo thành thế gọng kìm với Sở quân kẹp Cơ Quang lại; Nơi này nếu tiến về Bắc, chỉ hai mươi dặm xa đã đi tới Hán Thủy, chúng ta thủ tại nơi này, dựa vào địa lợi, khi thời cơ thích hợp, có thể rút lui quân đội bất cứ lúc nào, men theo dòng Hán Thủy Đông tiến, từ vùng nước Trường Giang giết trở lại Ngô quốc, rồi lại đi đường bộ, đây cũng là đoạn đường ngắn nhất.

- À...,

Yểm Dư trầm ngâm trong chốc lát, rồi vuốt cằm nói:

- Không sai, suy nghĩ của cháu thật thấu đáo, ta đồng ý với quyết định của cháu, có điều ta còn có một vài ý kiến nữa. Gần ba vạn đại quân của ta, tất cả dồn tụ đồn trú tại nơi này là không hợp lý, huống hồ tuy bảo nơi này là hiểm địa, nhưng nó cũng là tuyệt địa, đội quân cần vương của người Sở hiện tại đang lục tục đi về Tùy quốc, nhất thời không thể tới đây, nếu như chúng ta chiếm đóng tòa thành đó vào thời điểm này, Cơ Quang nhất định sẽ phái trọng binh đánh ngược trở lại, chẳng may để chúng bao vây trong tòa thành đó, đội quân cô độc của chúng ta sẽ trở nên "khéo quá hóa vụng" mất thôi.

Ta chinh chiến ở Sở quốc suốt một năm, có hiểu biết nhất định về địa hình địa lý ở nơi này. Ta còn nhớ từ nơi này hướng về phía Tây Bắc, khoảng chừng ba mươi dặm, có một chiếc hồ lớn dựa vào núi, hồ tên gọi là Bách Tân. Hồ Bách Tân thông sông Hán, nối sông Chương, chu vi vài trăm dặm, dựa núi tựa hồ, dễ thủ khó công. Theo ý kiến của ta, sau khi chúng ta hạ xong tòa thành này sẽ chia binh đồn trú ở hồ Bách Tân, tạo thành thế ỷ giốc với tòa thành này, tương trợ lẫn nhau. Như vậy sẽ tránh bị rơi vào tình thế hiểm nghèo cô lập.

Kinh Lâm khen ngợi:

- Lời công tử Yểm Dư nói quả là chí lý. Chuyện binh không thể khinh suất, nên dùng kế sách vẹn toàn này. Hơn nữa, chúng ta phạt Ngô sẽ có khả năng phải dùng tới đường thủy. Con đường đó đến từ Vệ quốc, chúng ta lại không có lấy nổi một còn thuyền. Hồ Bách Tân khuôn viên mấy trăm dặm, lại thông tới Hán Thủy, nhân mã của chúng ta đồn trú tại hồ Bách Tân có thể nhân tiện thu gom thuyền bè lại phòng khi sử dụng tới, một khi đến lúc sử dụng là có thể tùy ý huy động được ngay.

Mọi người bàn tán sôi nổi, ai nấy đều phát biểu bổ sung ý kiến, cho đến khi ánh trăng đã lên cao vời vợi, chiếu sáng mọi nơi, khiến cho bóng dáng của họ in trên nền đất che lấp khuôn mặt người đối diện, đám đông mới thôi bàn tán. Mọi người thống nhất, trước tiên đoạt lấy tòa thành này, chiếm đóng con đường bộ chính yếu để lui binh của Cơ Quang. Sau đó chia binh ra hồ Bách Tân, kết hợp với nhau chặt chẽ, đồng thời thu gom thuyền bè để sử dụng lúc về Ngô tác chiến. Trong màn đêm, tòa thành kia bốn bề yên ắng, đại đội nhân mã nấp sau cánh rừng rậm rạp, Khánh Kỵ chỉ cầm ba ngàn binh sĩ già dặn có kinh nghiệm tác chiến lâu năm, trườn sấp đi về phía trước, từ từ tiếp cận tòa thành. Tại một nơi trên sườn núi, Khánh Kỵ ra lệnh quân sĩ dừng lại, ngẩng đầu xem xét tỉ mỉ động tĩnh trong thành, tòa thành kia trong bóng đêm giống như một con quái thú cô hồn dạ quỷ, lẳng lặng thủ phục ở đằng kia.

Ghé tai nghe ngóng động tĩnh trong thành, Khánh Kỵ lặng lẽ đứng lên, nắm chặt thanh trường mâu trong tay:

- Xung trận đoạt thành! Ai lên thành trước được tấn thêm một bậc, giết tên đầu sỏ được tấn hai bậc, xuất phát!

Trong màn đêm yên tĩnh, phát ra một tiếng động, đó chính là âm thanh phát ra do ma sát từ những bộ giáp trụ của binh sĩ khi nhất tề đứng dậy. Sườn núi bỗng nhiên cao thêm một đoạn, kiếm kích sắc bén dưới ánh trăng tỏa sáng phát ra những ánh quang mang ớn lạnh. Những công cụ công thành thô sơ được các võ sĩ nhấc lên, bọn họ giống như dòng thủy triều đổ xuống sườn núi, tiếng bước chân rầm rập từ từ phát lớn, như voi dữ dậm chân, đất đai rung chuyển.

- Giết!

Khi bọn họ tiến tới dưới chân thành, có người phát ra một tiếng thét gầm giận dữ, giống như thể dòng đại hồng thủy tìm được lỗ hổng để xối xả, ba nghìn sĩ binh cùng lúc hô gào, một tiếng gầm đáng sợ phát ra trong đêm đen, quây lấy tòa thành trì nhỏ bé kia.

Chiến kiếm huy vũ, những công cụ đầu nhọn thô kệch công thành va đập vào chiếc cổng thành mỏng manh, một làn hỏa tiễn trong đêm như cơn mưa sao băng rót xuống tòa thành, ánh lửa và sắc máu tóe ra không ngừng.

Dưới sự công kích không ngừng, chiếc cổng thành không được dày dặn cho lắm đã bị đánh phá cho bầm dập gãy nát, trong ngoài thành ánh lửa bốn bề, quân trên thành và quân thủ thành của Ngô quốc bắt đầu triển khai chiến trận, hơn trăm chiếc thang gỗ thô sơ được gác lên tòa thành thấp nhỏ, binh sĩ trườn bò lên như bầy kiến, không ngừng có người kêu thảm rớt xuống dưới, không ngừng có người tiếp tục leo lên, quan binh thủ thành vội vã ứng chiến rất nhanh chóng bước vào giai đoạn giao chiến bằng binh khí ngắn.

- Quân địch không phải người Sở!

Có người nhìn thấy qua ánh lửa lập lòe, phát ra câu nói kinh hãi.

- Ngô quốc Khánh Kỵ, thảo phạt nghịch tặc Cơ Quang, kẻ nào hàng thì sống, chống cự thì chết!

Nhân mã của Khánh Kỵ thuận đà la lớn.

Khánh Kỵ rời nước mới được hơn một năm, trong đám sĩ binh người Ngô vẫn còn uy danh là "kẻ không thể đánh bại", vừa nghe tới đây là nhân mã của Khánh Kỵ, những quan binh Ngô quốc vốn đã trở tay không kịp nay lại càng thêm hoảng loạn.

Khánh Kỵ ngạo nghễ đứng trên trận tiền, có chút nhíu mày, Yểm Dư cầm mâu đứng kế bên, bèn hỏi:

- Đang nghĩ gì vậy?

Khánh Kỵ khẽ lắc đầu, hạ giọng nói:

- Sự phản kháng của quân Ngô mạnh mẽ hơn là ta tưởng.

Yểm Dư cũng thoáng gật đầu:

- Đúng vậy, hơn một năm nay, quân Ngô với ta đã nhiều lần đại chiến ở Sở quốc, ngu thúc (chỉ Yểm Dư) bất tài, nhiều lần bại trận, sự sợ hãi trong lòng của quân Ngô đã rất nhỏ nhoi.

Khánh Kỵ lắc đầu nói:

- Vương thúc cố nhiên binh bại tại Sở quốc, Khánh Kỵ lần trước phạt Ngô không thành, bại trận trở về, cũng khiến cho sự lo sợ của đám sĩ tốt giảm đi nhiều. Huống hồ, nguyên nhân quan trọng nhất chính là, trong thời gian hơn một năm qua, e là Cơ Quang đã thay thế toàn bộ tướng lĩnh trong quân đội rồi.

Hắn im lặng trong chốc lát, rồi bỗng nhiên cười nói:

- Cơ Quang thay thế tướng lĩnh quân đội, nhưng mới chỉ được có một năm có lẻ, trẻ con của Ngô quốc vẫn chưa trưởng thành, hắn không thể nào thay thế toàn bộ binh sĩ tướng lĩnh trong quân được. Binh lính Ngô quốc đã quên mất võ dũng của hai ta, vậy chúng ta hãy dùng sự thực, khiến bọn chúng lại lần nữa phải sợ hãi e dè!

Câu nói của Khánh Kỵ nhen nhóm ý chí chiến đấu trong lòng Yểm Dư, hắn nắm chặt trường mâu, cao giọng cười lớn:

- Chính xác, chúng ta hãy dùng sự thực bằng máu nóng, khiến cho chúng sợ hãi lần nữa.

Hai chú cháu nhìn nhau cười ha hả, tiếng trống trận kinh động lòng người vang lên dồn dập, xóa sạch tàn vết của những âm thanh khác trên chiến trường.

- Theo bản công tử công thành, trong thời gian ba nén hương phải chiếm cho được tòa thành này!

Khánh Kỵ và Yểm Dư cầm mâu xung phong, tám trăm binh sĩ tay cầm kiếm mâu theo sát phía sau, bọn họ đạp mạnh từng bước về phía trước, mỗi lần đi một bước, liền dùng sống kiếm đập lên bì thuẫn thật mạnh, phát ra tiếng "Coong" thật mạnh. Tám trăm người đồng thời dùng kiếm gõ thuẫn, tiếng động này giống như tiếng rít gào, còn đáng sợ hơn cả tiếng trống trận.

- Coong! Coong! Coong!

Khánh Kỵ và Yểm Dư soái lĩnh binh lính, đích thân xông lên phía trước.

Đôi bên đã bước vào giáp chiến, điều Khánh Kỵ không ngờ tới là, binh sĩ Ngô quốc cố sống cố chết kháng cự, thề chết không lui. Hắn điên tiết lên, sát ý nảy sinh. Binh sĩ Ngô quốc chết trong trường mâu của hắn đã đếm không xuể, toàn thân chiến bào đều nhuốm đỏ sắc máu. Toàn bộ tòa thành đã không còn những tiếng chỉ huy (đúng hơn là thét gào chỉ huy thế nào cũng chả ai nghe thấy), ai ai cũng chỉ lo chiến đấu vì bản thân mình. Đám hộ binh quây kín xung quanh Khánh Kỵ chuyển vào một hẻm nhỏ, trong căn hẻm tối tăm đột nhiên vang lên một hồi thanh âm.

- Cẩn thận đề phòng!

Khánh Kỵ hét lớn, đồng thời vứt bỏ thanh trường mâu lúc này đã không còn thích hợp khi chiến đấu trong ngõ hẹp, rút ra Thừa Ảnh kiếm của hắn. Hắn đã ý thức được rằng mình đang lâm vào một trận địa phục kích của địch. Một bóng đen trước mặt mang theo một luồng sát khí lao tới, Khánh Kỵ nghiêng người xoay chuyển, Thừa Ảnh kiếm linh hoạt quét một đường nửa hình tròn, chém đứt ngọt xớt đầu lâu của đối thủ, cùng lúc mũi kiếm chỉ về phía trước, khi tên địch thứ hai còn chưa kịp phản ứng, thì lưỡi kiếm đã xuyên thẳng qua ngực hắn.

"Cạch cạch cạch", tiếng bước chân phía sau vang lên dị thường, Khánh Kỵ không chút nghĩ ngợi, vặn người lại, kiếm quang bổ xuống, "keng" một tiếng, song kiếm giao thoa, đoản kiếm của người kia bị hắn một kiếm chém đứt, lưỡi kiếm của Khánh Kỵ bổ xuống chính giữa mặt hắn, từ mũi xuống cổ, rạch một đường máu thẳng tắp, găm lại tại vùng xương đòn trước ngực, Khánh Kỵ thu kiếm, phía sau vang lên một tiếng bình bịch của thân thể đổ xuống, toán quân Ngô đó đã bị tiêu diệt hoàn toàn.

"Phừng!" Một cây đuốc được thắp lên, Khánh Kỵ một tay cầm đuốc, một tay cầm Thừa Ảnh kiếm, đằng đằng sát khí soi rõ khuôn mặt tên quân Ngô vừa đánh lén hắn, tuy rằng tên đó nằm trong vũng máu, nhưng hắn vẫn chưa chết.

Ánh lửa lờ mờ, dường như có chút thân thuộc, có điều máu me khắp mặt, không dám khẳng định chính xác, Khánh Kỵ nguôi ngoai sát khí, quát rằng:

- Ta là vương tử Khánh Kỵ, ngươi là kẻ nào?

Người kia sửng sốt, sau đó cười buồn bã nói:

- Khánh Kỵ? Thì ra là ngươi...

Khánh Kỵ nghe thấy giọng nói đó, thân thể không khỏi chấn động, nghẹn ngào kêu lên:

- Sư phó?

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 189: Cuộc chiến thầm lặng (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

- Cát Hoa sư phó!

Khánh Kỵ vội vàng quăng kiếm, ngồi xổm xuống đỡ ông vào trong lòng. Đám lính đứng vây quanh cầm đuốc soi sáng, để bọn họ ở chính giữa, cây đuốc vang lên tiếng rít gào trong gió lạnh, nghe mà sởn hết gai ốc.

- Vương tử...

Cát Hoa muốn cười lắm, nhưng hắn bị một kiếm của Khánh Kỵ bổ từ trên trán xuống dưới hàm, đôi môi đều nứt cả ra, nụ cười trông vô cùng kỳ dị, lại thêm khuôn mặt máu me be bét, trông giống như quỷ dạ xoa hiển linh vậy.

- Hồi vương tử còn nhỏ, Cát Hoa luôn đau đầu nghĩ cách để thua vương tử, đến khi công tử trưởng thành, Cát Hoa muốn không thua cũng chẳng được nữa. Vương tử từ nhỏ chí lớn, Cát Hoa thua giả thua thật với người, trước sau đã có cả vài nghìn lần rồi, lần này... lần này có lẽ là lần cuối cùng rồi.

- Sư phó!

Khánh Kỵ không cầm được lòng bật khóc, nước mắt chảy ròng ròng, hai người động thủ trong bóng đêm, Cát Hoa không biết rằng người mà mình đợi sẵn ở đây mai phục chính là Khánh Kỵ, Khánh Kỵ cũng không hề biết rằng người mà hắn phản kích lại là ân sư dạy võ, võ công của Cát Hoa hiện tại đã không bằng hắn, nhưng cũng không thể một chiêu hạ thủ như vậy được, trừ phi kiếm của Khánh Kỵ quá sắc bén, nếu không thì Cát Hoa đã không dễ dàng táng mạng như vậy.

Từ thuở nhỏ, Khánh Kỵ đã được cha là Ngô Vương Liêu chọn lựa cho hắn bốn vị sư phó võ nghệ cao cường truyền dạy võ công, trong bốn người đó Cát Hoa là người truyền thụ kiếm thuật cho hắn, tính tình của ông là hiền hòa nhất, cũng bởi Khánh Kỵ là con cưng của Ngô Vương, nên Cát Hoa không khỏi có phần nuông chiều hắn. Khánh Kỵ hoặc là ham chơi, hoặc là lười biếng, Cát Hoa đều cố tình che giấu hộ hắn. Ông không phải là người thầy nghiêm khắc, nhưng trong lòng Khánh Kỵ thuở còn ấu thơ, luôn cảm thấy rằng ông là người sư phó tuyệt vời nhất. Giờ đây ông chết thảm dưới lưỡi kiếm vô tình của Khánh Kỵ, khiến hắn không cầm được lòng mình, kêu khóc thống thiết.

Cát Hoa thở dốc liên hồi, giọng nói yếu ớt:

- Vương tử, xin dung thứ... xin dung thứ cho tội kháng cự tập kích của Cát Hoa. Cát Hoa... Cát Hoa cũng là do bất đắc dĩ...

- Con không trách thầy, không trách thầy, sư phó, người đừng nói gì nữa, con lập tức đi tìm y sĩ...

Đôi mắt của Cát Hoa đã được che phủ bởi một tầng máu tươi, những gì ông trông thấy chỉ là một dải dài sắc máu, không còn nhìn thấy hình hài của Khánh Kỵ nữa. Cơ thể ông khẽ run rẩy, cảm giác càng lúc càng lạnh lẽo. Biết rằng mình đã không thể qua khỏi, liền nắm chặt lấy tay của Khánh Kỵ, gắng hết sức nói:

- Vương tử, Cát Hoa... đã không trụ nổi thêm được nữa rồi. Xin đừng oán hận Cát Hoa, cũng xin đừng... oán hận những sĩ tốt kia...

Thanh âm của ông ngày càng yếu ớt, cố gắng cầm hơi nói nhỏ:

- Đại vương... đại vương nghe nói vương tử đến Sở quốc, đã... đã hạ lệnh xuống ba quân tướng sĩ: Phàm là Ngô quân, chỉ cần đụng độ Khánh Kỵ, kẻ nào không đánh, tự ý rút lui... Giết! Vứt bỏ binh khí đầu hàng, giết... giết hết cả nhà. Cát Hoa... Cát Hoa bất đắc dĩ...

Khánh Kỵ phải hơi nghiêng tai mới có thể nghe rõ những tiếng thì thào yếu ớt của ông, Cát Hoa nói tới đây bỗng nhiên ngừng lại, Khánh Kỵ từ từ nâng đầu lên, chỉ thấy đầu của ông đã rủ xuống khuỷu tay của mình, bàn tay kia vẫn nắm chặt lấy cánh tay mình, chặt tới mức mảnh giáp che tay hơi lõm xuống.

Khánh Kỵ ngồi quỳ trên mặt đất rất lâu, cho đến khi thân thể đã cứng đờ, mới dùng tay gạt từng ngón tay của ông ra, từ từ đặt ông nằm ngay ngắn trên đất, cơ thể của hắn đã nhuốm đầy những giọt máu đã khô lại của Cát Hoa, từng cơn gió thổi qua, khiến cho da thịt trên cơ thể hắn khẽ rùng mình.

Tiếng chém giết bốn bề đã ngừng lại, nhiều đội sĩ tốt thắp đuốc tuần tra lùng sục khắp thành. Có người nhìn thấy Khánh Kỵ đang ở nơi này, Lương Hổ Tử cụt tay cầm theo thanh trường kiếm đang rỏ máu ròng ròng rảo bước về phía hắn.

- Thu liễm thi thể của ông, rồi chôn cất ông cho tử tế, để ông được yên nghỉ.

Khánh Kỵ khe khẽ căn dặn cho sĩ tốt đứng bên.

- Công tử!

Lương Hổ Tử chạy tới gần, chắp tay nói:

- Tòa thành đã hoàn toàn nằm trong quyền kiểm soát của chúng ta, thật kỳ lạ, lần này quân Ngô chống cự quyết liệt khác thường, biết rõ không địch nổi vậy mà có rất ít kẻ đào tẩu, gây tổn thất không ít cho các huynh đệ của chúng ta. Không biết trong thành có nhân vật quan trọng gì không, A Cừu và Tái Cừu đang thẩm vấn một số tù binh ít ỏi bắt được.

- Chẳng có nhân vật quan trọng nào ở đây hết.

Khóe môi Khánh Kỵ khẽ nhếch lên:

- Phân phó xuống dưới, thu dọn chiến trường, tiếp quản thành trì, đón đại quân vào thành. Phái hai nghìn người đêm nay phòng thủ thành trì, thám mã tỏa ra cách ngoài thành hai mươi dặm. Bố trí ổn thỏa cho những người thương vong, những người khác an bài nơi nghỉ ngơi, sáng sớm ngày mai tu sửa thành trì, dựa vào địa thế hiểm yếu nằm kẹp giữa hai dãy núi, biến nó thành một cứ điểm trọng yếu phong tỏa Dĩnh Đô.

- Rõ!

Lương Hổ Tử trông thấy Khánh Kỵ vẻ mặt đau thương, không khỏi nhìn xuống dưới lòng đất xem thi thể, rồi sau đó mới chắp tay bỏ đi.

- Cơ Quang..., thật là tên cáo già! Ngươi cứ cẩn thận... chơi với lửa có ngày chết cháy!

Trong mắt Khánh Kỵ ánh lên một tia nhìn dữ dằn, hai bàn tay dính máu nắm thật chặt, các khớp xương phát ra tiếng kêu răng rắc.

Trời sáng, trong thành ai nấy cũng đều tất bật, những cổng thành, tường thành bị hủy hoại đều được sửa chữa, gia cố lại. Trên thành chất đầy gỗ đá, hai đội nhân mã do A Cừu, Tái Cừu thống lĩnh, chia nhau ra đồn trú tại hai bên núi, giống như hai cái gọng kìm, hô ứng cho tòa thành Na Xử ở chính giữa.

Yểm Dư và Kinh Lâm lãnh một nửa quân, đi về vùng hồ Bách Tân ở phía Tây Bắc, đồng thời thu gom thuyền bè, rồi tận dụng các khu rừng nguyên sơ được hình thành từ hồi thượng cổ đến bây giờ để lấy gỗ xây dựng các chiến hạm to lớn.

Lương Hổ Tử ở lại cùng Khánh Kỵ coi giữ thành Na Xử, đôn đốc tu sửa thành trì, gia cố phòng ngự. Khánh Kỵ một mặt phái thám mã đi dò la tin tức Dĩnh Đô, một mặt sai người đi liên lạc với Sở vương và Phí Vô Cực, để xác định kế hoạch hành động, đồng thời nghe ngóng tin tức từ phía Lỗ quốc. Theo tính toán về lộ trình và thời gian, tín sứ của hắn chắc đã đến Lỗ quốc Phi Hồ cốc, Chúc Dung và Tôn Vũ chắc đã có động thái tiếp theo rồi.

Đồng thời, hắn còn điều động thêm vài đội nhân mã đi bố cáo từ trong thành Na Xử cho đến vùng dân dã xung quanh rằng "Na Xử thành" hiện đã nằm trong tay hắn, hơn nữa Khánh Kỵ đã ký kết hiệp ước đồng minh với người Sở, vì vậy nên người dân Sở quốc hãy ở nguyên tại nhà, không cần phải bôn ba tứ phía chạy nạn, đồng thời khuyên nhủ những cư dân trong thành Na Xử chui lủi trốn tránh trong rừng rậm trở lại thành trì.

Các đội quân nhận được chiếu thư cần vương của Sở vương đang lũ lượt hành quân tới Tùy quốc để hội quân cùng Sở vương, còn phía Dĩnh Đô không hề có bất cứ phản ứng nào trước việc Khánh Kỵ chiếm lĩnh được "Na Xử thành", khiến người ta bàn tán về những tính toán của Cơ Quang và Ngũ Tử Tư. Thám mã báo tin về, chỉ biết được rằng quân Ngô đã đẩy nhanh tốc độ vận chuyển của cải từ Sở quốc về, điều đáng chú ý là, đại tướng số hai thủ hạ của Cơ Quang là Bá không có động tĩnh gì trong thời gian này, không hề thấy bất cứ hành động nào của hắn ở Dĩnh Đô, Khánh Kỵ rất để tâm tới hành tung của hắn, chỉ tiếc là đã tìm đủ mọi cách nhưng vẫn không thể tìm ra được tăm hơi nào của hắn. Đại chiến sắp nổi lên, thành Na Xử tạm thời khôi phục lại vẻ yên bình. Rất nhiều người Sở trong thành Na Xử trở về gia viên, trong đó có một vài thương nhân, còn nhận được tiền đặt cọc của Khánh Kỵ, giúp hắn thu mua lương thảo. Những người bình dân dễ thỏa mãn chỉ biết được rằng mình đang có người bảo vệ, giống như một người bạn đáng tin cậy vậy. Ngô quốc Khánh Kỵ một năm trước là nỗi khiếp sợ của họ, giờ đây trở thành vị thần hộ mệnh trong mắt họ.

Tòa thành Na Xử sau khi đã dọn dẹp vết máu và lửa xém giờ đây như được hồi sinh trở lại, mang một sức sống hoàn toàn mới, bước chân của mọi người không còn thất thểu vội vã, phụ nữ và trẻ em cũng bắt đầu xuất hiện trên phố, rảo bước trên đường. Thỉnh thoảng còn nghe thấy từng trận cười rộ lên.

Chậm bước trên con phố trong thành, trong lòng Khánh Kỵ có một cảm giác rất kỳ lạ. Gian khổ từ việc sát phạt mà ra, hạnh phúc cũng từ việc sát phạt mà ra. Trường mâu và lợi kiếm của hắn đã giết hại không biết bao nhiêu người, khiến cho rất nhiều gia đình bị tan nát trong chiến tranh, người vợ thành góa phụ, người con mất đi người cha, gia đình vốn đang hạnh phúc trở thành tang thương. Ngược lại, cũng là trường mâu và lợi kiếm của hắn, lại có thể bảo vệ che chở cho một số phu quân của những người khác, gia đình hạnh phúc ngập tràn, tiếng khóc xưa kia nay đã thành tiếng cười rạng rỡ.

Giữa thị với phi, đúng với sai, vốn dĩ không hề có một ranh giới rõ ràng, càng không thể đúng với tất cả mọi người.

Khánh Kỵ đưa mắt nhìn về phía Đông, tuy là Giang Nam, nhưng trên đồng ruộng lại không thấy ai làm việc đồng áng, các chị em phụ nữ ngồi dưới mái hiên đan sọt, dệt vải, phía sau lưng là căn nhà được đắp bùn vừa mới xây xong còn tanh mùi bùn, mái hiên làm bằng cỏ tranh vẫn còn chút màu xanh tươi mới, bọn họ cười đùa trò chuyện, thản nhiên đón nhận những ánh mắt của nam nhân cầm giáo mác đi qua, nếu nhìn thấy một vài sĩ binh tướng mạo anh tuấn trẻ trung, họ còn mạnh bạo ngẩng đầu lên nhìn rồi cùng chị em bàn tán một phen suốt từ đầu đến chân anh chàng đó.

Trông thấy những cô nương dễ thương mạnh bạo kia, khóe môi Khánh Kỵ không giấu nổi một nụ cười vui vẻ.

- Mấy cô nương người Sở kia ngoại trừ eo ót cũng tạm được ra, còn có cái gì hấp dẫn nữa?

Quý Tôn Tiểu Man đứng ở cách đó không xa bất bình nói, nàng õng ẹo cái eo nhỏ của mình, khôi phục lại vài phần tự tin:

- Nếu không phải là mặc bộ áo giáp này, thì eo của ta cũng thon nhỏ như họ.

Thúc Tôn Diêu Quang đứng bên cạnh cũng mặc một bộ giáp y như nàng khẽ gườm nàng một cái, rồi hừ giọng:

- Nhìn cái gì mà nhìn? Ta còn chưa nổi cơn ghen đây, ngươi ngoa ngoắt như thế làm cái gì? Đợi khi chàng trở thành Ngô vương, khắp cung đều là nữ nhân, lúc đó ngươi sẽ phải ghen tức đến xịt máu mà chết mất.

- Xấc, ngươi không ghen, thế sao lông mày lại vểnh hết lên thế kia? Chẳng lẽ là vui quá hóa cuồng à?

- Ngươi...

Thúc Tôn Diêu Quang nắm lấy bảo kiếm bên hông:

- Quý Tôn Tiểu Man, ngươi đừng có quên ước định giữa hai chúng ta, khi nói chuyện với ta không được sấc láo.

- Hừ! Là ngươi lên mặt với ta đấy chứ.

Quý Tôn Tiểu Man cười chế giễu:

- Chàng còn chưa được làm đại vương Ngô quốc, vậy mà ngươi lại nói chuyện ngôi vị vương hậu rồi đấy.

Thúc Tôn Diêu Quang khẽ nhảy dựng lông mày lên, cố ý chọc giận nàng nói:

- Ngươi đừng có mơ hão, ta à, chắc chắn là sẽ được ngồi vào chiếc ghế Ngô quốc vương hậu, nếu ngươi còn biết khôn, thì từ bây giờ hãy bớt chọc giận ta đi, nếu không thì sau này sẽ không có tương lai tốt đẹp đâu.

Lương Hổ Tử đứng một bên mồ hôi vã ra như tắm, cười cười khuyên nhủ:

- Hai vị cô nương, đại cục làm trọng, đại cục làm trọng.

Quý Tôn Tiểu Man hừ lạnh một tiếng, vỗ bảo kiếm bên hông:

- Đừng có uy hiếp ta, bản cô nương ăn mềm không ăn cứng, nếu ngươi còn không phục, thì chúng ta dùng kiếm giải quyết, tìm cơ hội để múa máy tay chân. A.... đúng rồi, nói cho nhà ngươi biết, thanh Hàn Quang bảo kiếm của ta là do chàng đích thân tặng cho đấy.

Quý Tôn Tiểu Man cố ý cười e thẹn, quay người bỏ đi, cố ý bước đi như kiểu nam nhân, ưỡn ngực ưỡn bụng giống như một chú gà trống cao ngạo.

- Ngươi quay lại!

Quý Tôn Tiểu Man giả vờ không nghe thấy, Thúc Tôn Diêu Quang giận lắm, thân thể điên tiết đến phát run, Lương Hổ Từ mồ hôi mồ kê nhễ nhại khuyên bảo:

- Diêu Quang cô nương không nên tức giận, đại nghiệp của công tử quan trọng hơn, lúc này không thể để cho công tử phân tâm, đại cục làm trọng, đại cục làm trọng, a... nếu như cô nương thích, mạt tướng sẽ đi nói với công tử một tiếng, đem Thừa Ảnh kiếm đến dâng tặng cho cô nương...

- Bỏ đi!

Thúc Tôn Diêu Quang giận dỗi dậm chân:

- Chàng đang chinh chiến quyết liệt ngoài sa trường, đang vào lúc cần đến vũ khí sắc bén phòng thân...

- Đúng quá đúng quá, Diêu Quang cô nương nói thật chí lý, đại cục làm trọng, đại cục làm trọng.

- Hừ...

Thúc Tôn Diêu Quang khẽ hừ một tiếng từ trong lỗ mũi, cố nguýt dài giọng ra:

- Đúng vậy, đại cục làm trọng. Đợi khi đại cục hoàn thành, ta sẽ lại đi tính nợ với chàng!

Thúc Tôn Diêu Quang nói xong, hất mạnh tay áo, nhấc cằm lên, như chú chim khổng tước kiêu ngạo đi theo hướng ngược lại với Quý Tôn Tiểu Man...

Tấn quốc Dực Thành, quốc vương Cơ Khí Tật nhìn sáu mỹ nữ Ngô Việt đang đứng trước mặt, mặt mày hớn hở cười nói với Ngô quốc sứ tiết Úc Bình Nhiên Úc đại phu, khen rằng:

- Ngô oa Việt diễm, thanh thủy phù dung, quả nhiên không phải nói ngoa, ha ha, được, được, được.

Úc Bình Nhiên mỉm cười, khom người nói:

- Đây là tấm tâm ý của quốc quân tệ quốc đối với đại vương, chỉ cần đại vương yêu thích là được rồi.

Nói đến đây, hắn khẽ thở dài rồi nói:

- Tấn quốc là bá chủ trong thiên hạ, Ngô quốc chúng tôi hàng năm đi sứ, đời đời tấn cống, kính sợ Tấn quốc, coi như huynh đệ. Vậy mà, người Sở lại muốn mưu đồ chiếm đoạt Ngô quốc, cấu kết với bọn phản tặc trong nước Yểm Dư, Chúc Dung chờ thời phạt Ngô. Quân thượng chúng tôi bất đắc dĩ, đành phải xuất binh truy bắt đám phản nghịch Yểm Dư, Chúc Dung, thế nhưng bây giờ người Sở lại cầu cạnh sự giúp đỡ từ phía người Tần, Ngô quốc chúng tôi đang có nguy cơ bại vong, ài... lần này e sẽ là lần cuối cùng triều cống đại vương, ngày này năm sau... quân thần Ngô quốc chúng tôi không biết thân xác đã trôi dạt về nơi nào rồi.

Tấn hầu Cơ Khí Tật nghe xong ha hả cười nói:

- Úc đại phu không cần lo lắng như thế, Tấn quốc ta chính là Bá trưởng của chư hầu trong thiên hạ, theo lý phải chủ trì chuyện bất bình trong thiên hạ. Ừ... ngươi cứ tạm về dịch quán nghỉ ngơi, đợi quả nhân... quả nhân triệu tập quần thần, bàn bạc chuyện xuất binh tương trợ quý quốc.

Úc Bình Nhiên nghe xong, mặt mày rạng rỡ, vội vàng cung kính lễ độ quỳ rạp xuống, dập trán xuống đất, dùng đại lễ yết kiến:

- Ngoại thần Úc Bình Nhiên, tạ ơn đại vương.

Tấn quốc là nước hùng mạnh nhất trong các nước chư hầu, thế nhưng vị quốc quân của quốc gia lớn mạnh nhất trong thiên hạ này lại chỉ là một vị nguyên thủ trên danh nghĩa, cũng giống như Lỗ quốc quốc quân, khanh sĩ phân quyền, quốc quân không có quyền hành thực sự. Cơ Khí Tật vốn cũng muốn làm nên điều gì đó, hai năm trước, trước khi Sở quốc Thái Tử Kiến chạy trốn khỏi Trịnh quốc lập mưu làm phản với quyền thần Trịnh quốc, đã từng đến bái phỏng Tấn quốc, thăm dò thái độ của quốc quân Tấn hầu nước láng giềng, lúc đó hắn cũng thầm bày tỏ sự ủng hộ đối với hành động của Thái Tử Kiến, hy vọng Trịnh quốc đại loạn, thừa cơ xuất binh, mượn quân công gia tăng quân quyền của mình. Nào ngờ, hiền tướng Trịnh quốc Tử Sản quả thực là vô cùng lợi hại, đám Ngũ Tử Tư, Thái Tử Kiến còn chưa kịp hình thành kế sách tạo phản hoàn thiện, đã bị Tử Sản nắm được một vài tin tức hạ thủ trước, giải trừ mối họa, âm mưu tạo phản bị phá sản nhanh chóng, khiến quốc quân Tấn quốc buồn bực vô cùng.

Bây giờ lục khanh đã lớn mạnh, năm nay Triệu Giản Tử cấu kết với Tri thị, Hàn thị, Ngụy thị, Phạm thị, Trung Hành thị tiêu diệt lão công tộc Kỳ thị và Dương Thiệt thị. Thế lực của lục khanh lại càng lớn mạnh hơn nữa. Triệu Giản Tử càng được thể khí thế ngút trời, Cơ Khí Tật tự biết việc đã không thể thành được nữa, hùng tâm tráng chí thời niên thiếu đều triệt để hóa thành ảo mộng, sa đọa hoàn toàn vào tửu sắc. Người Ngô biết ý, dâng tặng những mỹ nhân Ngô oa, Bách Việt. Tấn hầu nhìn thấy mà không khỏi khấp khởi hưng phấn trong lòng.

Nơi người Tấn sinh sống nằm ở vùng đất Sơn Tây ngày nay, sát nách với Nhung Địch, dân tộc Nhung Địch nổi tiếng với việc sản sinh ra mỹ nữ, mỹ nhân trong thiên hạ nếu luận về sự gợi cảm yêu kiều, thì mỹ nhân Nhung Địch xếp hạng nhất. Những mỹ nhân vong quốc trong lịch sử, như Đát Kỷ, Bao Tự, Ly Cơ đều mang dòng máu Nhung Địch.

Tấn hầu là quân chủ của Tấn quốc, trong cung tuyệt đối không thiếu tuyệt sắc giai nhân, lại càng có nhiều mỹ nhân Nhung Địch, nhưng lòng tham của người này không biết bao nhiêu là đủ, mỹ nhân Ngô Việt có vẻ đẹp duyên dáng thùy mị của vùng đất quê hương mình, phong tình lại khác biệt với nữ tử Nhung Địch, hôm nay người Ngô biết ý dâng tặng, trong lòng Cơ Khí Tật mừng rỡ lắm lắm, quyết định triệu tập lục khanh, hắn lấy danh nghĩa là quân chủ một nước mà điều phái lục khanh phát binh tương trợ người Ngô.

Ban đêm, trong phủ thủ lĩnh lục khanh Tấn quốc, không miện chi vương (vị vua không đeo vương miện), Triệu Giản Tử.

Dưới ánh đèn, Triệu Giản Tử đang nâng niu thanh bảo kiếm trong tay.

Thanh kiếm có chuôi đen hoàn toàn, không một chút sứt sát, làm cho người ta cảm nhận được sự sắc bén của nó, tuy nhiên, thanh kiếm cầm trong tay, uy nghiêm tự sản sinh, nó giống như một vị trưởng giả hiền từ nhưng không mất đi vẻ uy nghiêm, khiến người ta không dám khinh thường. Ngón tay của Triệu Giản Tử khẽ mân mê thanh kiếm, một luồng lãnh ý từ đầu ngón tay xâm nhập vào trong lòng, thanh kiếm ẩn chứa thần vận mê người, giống như một đôi mắt thâm thúy, tinh thông quảng đại đang chăm chú quan sát vạn vật chúng sinh.

- Thần vật ắt có điều dạy bảo a...

Triệu Giản Tử nâng niu vuốt ve thanh bảo kiếm từng tí một, lẩm bẩm nói:

- Lấy ngũ kim chi anh, thái dương chi tinh để rèn đúc nên thanh kiếm này. Xuất ra có thần, thu vào có uy, sức mạnh vô địch, thần vận tiềm tàng, chính là Trạm Lư... Nhân đạo chi kiếm, nhân giả vô địch...

Hắn hơi nhắm hờ đôi mắt, ngón tay đặt lên trên thân kiếm, nghĩ tới lời nói của Úc Bình Nhiên khi tới gặp hắn.

- Đại phu lấy danh nghĩa sứ tiết đến Tấn quốc chúng ta, theo lý phải bái kiến quốc quân của chúng ta trước, tại sao lại đến gặp ta?

- Bởi vì người có thể cứu giúp được Ngô quốc chúng tôi, không phải Tấn hầu, dưới gầm trời này chỉ có đại phu.

- Hử? Nghe nói ngài mang đến sáu mỹ nữ Ngô Việt, muốn kính tặng cho quốc quân của chúng ta, tại sao lại tặng ta một thanh bảo kiếm?

- Bảo kiếm tặng anh hùng!

Triệu Giản Tử khục khặc cười, đôi mắt hắn đanh lại, tra kiếm lại vào vỏ, lẩm bẩm:

- Tần Sở kết minh, người Tần sẽ không còn phải lo lắng về sau, sau này xuất binh ra Hàm Cốc quan, Đông tiến mà giành thiên hạ, Tấn quốc ta chỉ còn biết đứng mũi chịu sào. Giúp đỡ Ngô quốc cũng chính là giúp đỡ chúng ta. Sáng mai, ta sẽ xin quốc quân xuất chỉ, mời thêm các nước Tào, Đài, Chu, Đằng, Tiết, Kỷ, Huân, Trịnh cùng xuất binh, cứu trợ Ngô quốc, phạt Tần Sở!

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 190: Loạn thế thiên hạ (Thượng Trung Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

- Hử? Nghe nói ngài mang đến sáu mỹ nữ Ngô Việt, muốn kính tặng cho quốc quân của chúng ta, tại sao lại tặng ta một thanh bảo kiếm?

- Bảo kiếm tặng anh hùng!

Triệu Giản Tử khục khặc cười, đôi mắt hắn đanh lại, tra kiếm lại vào vỏ, lẩm bẩm:

- Tần Sở kết minh, người Tần sẽ không còn phải lo lắng về sau, sau này xuất binh ra Hàm Cốc quan, Đông tiến mà giành thiên hạ, Tấn quốc ta chỉ còn biết đứng mũi chịu sào. Giúp đỡ Ngô quốc cũng chính là giúp đỡ chúng ta. Sáng mai, ta sẽ xin quốc quân xuất chỉ, mời thêm các nước Tào, Đài, Chu, Đằng, Tiết, Kỷ, Huân, Trịnh cùng xuất binh, cứu trợ Ngô quốc, phạt Tần Sở!

Yểm Dư và Kinh Lâm đóng quân tại hồ Bách Tân, đốn phạt cây rừng, tìm kiếm thợ thuyền, một mặt tích lũy quân lương, một mặt gia cố thành trì, đề phòng quân Ngô tấn công, đồng thời điều phái thám mã, liên tục giữ liên hệ với Sở vương, Phí Vô Cực, nghe ngóng tin tức quân Ngô, truyền đạt động thái các nước, thám mã đi đông như trảy hội, bên ngoài thì tòa thành giống như một vùng đất bình lặng, nhưng nhìn những chiến mã suốt cả ngày qua qua lại lại, đến cả người dân bình thường cũng có thể cảm thấy được một không khí vô cùng khẩn trương.

Mấy ngày này, vài vị khách thương mệt mỏi tới đây sau một hành trình mệt nhọc, sau khi quân thủ thành tra hỏi xong thì được cấp tốc đưa vào thành ở nhờ trong phủ đệ của Khánh Kỵ.

Khánh Kỵ nghe nói người đến là Văn Chủng, vội vàng hạ giá nghênh đón, đón hắn vào trong phủ, mừng rỡ ra mặt gọi người lập tức đi chuẩn bị tiệc. Khánh Kỵ đối đãi với những người có địa vị thấp hèn hơn mình một cách trọng đãi như vậy khiến cho Văn Chủng vô cùng cảm kích, chỉ có điều bản tính của hắn vốn là người thâm trầm kỹ tính, trước mắt tuy Sở quốc và Khánh Kỵ hòa hợp như người một nhà, sau này là bạn là thù còn khó đoán định, là một vị đại phu Sở quốc, hắn không dám tỏ ra quá thành thật.

An tọa trên chiếc ghế dưới sảnh, Khánh Kỵ liền hỏi:

- Tử Cầm huynh, huynh vừa từ Tống quốc trở về có phải không?

Văn Chủng chắp tay nói:

- Dạ, được điện hạ nhắc nhở, Văn Chủng ngày đêm gấp rút đi tới Tống quốc, diện kiến Vệ quốc quân phu nhân Nam Tử, có thư tín của điện hạ trong tay, Nam Tử phu nhân tiếp kiến tại hạ, nghe tại hạ phân tích Sở quốc một khi bị diệt vong, thế lực Tấn quốc sẽ chắc chắn xuôi xuống miền Nam, vậy thì Vệ, Tống sẽ phải đứng mũi chịu sào, gánh chịu hậu quả khôn lường, Nam Tử phu nhân biết thế nên lập tức dẫn tại hạ đi gặp Tống công.

Tống quốc tuy nhỏ, nhưng lại là công tước nhất đẳng được Chu thiên tử lệnh phong, xưng công cho Tống quốc quốc quân. Văn Chủng uống một ngụm nước, cười rồi nói:

- Kỳ thực suốt mấy năm nay Tấn quốc luôn cố gắng xâm nhập sang miền Nam, lấn chiếm Vệ Tống, Tống quốc quốc quân đương nhiên đi guốc trong bụng. Sau khi tại hạ phân tích lợi hại, Tống công liền đồng ý tương trợ cho Sở quốc. Tống Vệ máu chảy ruột mềm, như môi với răng, xưa nay cùng tiến cùng thoái, Vệ quốc chịu áp bức của Tấn quốc sâu sắc hơn, một khi Tống quốc đã đứng về bên Sở quốc chúng ta, Vệ quốc đương nhiên không còn cần bàn cãi gì thêm nữa. Khi ta trở về, Tống công liền viết một lá thư, sai người cưỡi khoái mã mang sang Vệ quốc.

Văn Chủng nói đến đây, có chút tự mãn cười nói:

- Có được sự trợ giúp của hai nước Vệ Tống, Trịnh quốc nằm giữa Vệ, Tống, Tấn, Sở ắt hẳn sẽ không nằm ngoài cuộc. Vì vậy khi Văn Chủng quay về liền thuận đường bái phỏng Trịnh quốc quốc quân và thừa tướng Tử Sản đại nhân. Hai năm trước Công Tử Kiến, Ngũ Tử Tư âm mưu sát hại Trịnh quân và Tử Sản, hai bên vốn đã có mối thù không đội trời chung, bây giờ Ngũ Tử Tư được phong làm Ngô quốc tướng quốc, lại cộng thêm dã tâm nham hiểm của Tấn quốc cũng là không nhỏ. Trịnh quân và Tử Sản đại nhân xem xét thời cục, cũng đã đồng ý liên minh với Sở, Bắc chống Tấn quốc, Nam phạt Ngô quân. Trong mấy hôm nay chắc hẳn sứ thần của ba nước đã tới nơi rồi.

Khánh Kỵ nghe xong không khỏi lộ vẻ kinh ngạc, hắn vốn có ý định đưa Văn Chủng sang tấn kiến Tống quốc, là bởi vì giữa hắn và Nam Tử đã từng có một cuộc mật đàm, hắn từng đồng ý rằng nếu như có cơ hội, dưới tiền đề hai bên giúp đỡ nhau cùng có lợi, sẽ giúp đỡ Nam Tử phu nhân củng cố địa vị, khuếch trương thế lực của nàng, để nàng tự tay giết chết Công Tử Triều, xóa giải nỗi hận trong lòng.

Trong bức mật tín kia, hắn đã trình bày tỉ mỉ những điều lợi khi tận dụng thời cục đại loạn, tận dụng liên hệ với Nam Tử liên minh hai nước Vệ Tống tạo sự ràng buộc để hóa giải tình thế. Liệu đoán rằng sau khi Nam Tử gặp sẽ cố hết khả năng để giúp đỡ Văn Chủng, dựa vào trí thông minh cùng thân phận và ảnh hưởng đặc thù của nàng tại hai nước Vệ Tống thì đại sự gần như chắc chắn thành công. Chỉ không ngờ được rằng Văn Chủng, một viên tiểu tướng quân nhỏ bé, lại dám bạo gan đi tới Trịnh quốc diện kiến Trịnh quân và hiền tướng Tử Sản, cầu cạnh Trịnh quốc xuất binh.

Khánh Kỵ nghe được tin tức tốt lành như vậy không khỏi mừng ra mặt, khen tấm tắc:

- Tử Cầm huynh trong chuyến đi này đã nhìn rõ được đại cục thiên hạ, đạp gió cưỡi mây, cầu viện ba nước xuất binh cứu giúp, lập nên công lao to lớn không kể xiết, khi gặp Sở vương chắc chắn sẽ được trọng dụng, tấn phong làm thượng khanh, cấp phong thế hầu, chỉ còn là chuyện dễ như trở bàn tay thôi, chúc mừng, chúc mừng.

Văn Chủng như mở cờ trong bụng, lại khiêm tốn chắp tay nói:

- Văn Chủng có được công lao này, đều là được điện hạ ban tặng, Văn Chủng phải tạ ơn điện hạ mới đúng.

Hai người nói xong nhìn nhau cười khoái trá.

Vệ quốc Đế Khâu, Vệ hầu Cơ Nguyên đang cầm thư tín do nhạc phụ Tống quốc quốc quân gửi tới, cùng các cận thần thân tín Cừ Bá Ngọc, Công Thúc Bạt, Công Mạnh, Công Tử Kinh, Công Thúc Phát đang mật bàn với nhau. Bắc Cung Hỉ cũng ngồi đó, từ sau khi hắn được Vệ hầu đưa lên địa vị cao quý, giành lấy đại quyền của Tề Báo, Tề Báo với hắn đã nảy sinh hiềm khích với nhau. Bắc Cung Hỉ cô độc đơn côi, đành phải dần dựa dẫm vào Vệ hầu.

Tuy rằng hiện tại hắn không thể hoàn toàn tin tưởng vào Cơ Nguyên, và Cơ Nguyên cũng không thể nào tin tưởng hắn giống như tin tưởng Cừ Bá Ngọc, Công Thúc Bạt, Công Mạnh được, thế nhưng quan hệ qua lại giữa đôi bên vẫn êm dịu hơn rất nhiều, hôm nay hắn có thể được ngồi ở đây đã đủ thấy rằng sự coi trọng hắn như người một nhà của Cơ Nguyên. Đương nhiên, trong đó ẩn giấu những dụng ý thử lòng tin đối với hắn, dù sao thì hắn cũng đang nắm giữ lực lượng quân đội chủ lực của Vệ quốc, chỉ là mục đích này không đủ để nói cho người ngoài biết.

- Các ái khanh, bức thư của Tống công các ngươi đều đã xem qua rồi, chư vị cảm thấy thế nào?

Cừ Bá Ngọc nghiêm nghị nói:

- Quốc quân, Vệ quốc ta tiếp giáp với Tấn quốc, vị "láng giềng" khổng lồ này luôn có dã tâm chiếm đoạt thôn tính Vệ quốc chúng ta, bây giờ Ngô Sở tranh hùng, người Tần tham chiến, Tấn quốc dấy binh xuống miền Nam tiếp viện Ngô quốc, không kể đến chuyện hắn liệu có ý định giữa đường dẫn quân tấn công ngược trở lại, thừa cơ diệt Vệ quốc chúng ta, cho dù hiện tại mục tiêu của chúng là Sở quốc, đến khi Sở quốc bại vong, người Tần mất đi lá chắn, ắt phải lui quân quay lại Quan Trung, lúc đó Vệ quốc chúng ta khó lòng bàn tay xâm lược của người Tấn. Cho nên, thần nghĩ rằng trước mắt liên thủ với Tống, liên minh với Sở, ngăn cản người Tống tiến xuống phía Nam, chỉ cần Sở quốc ổn định, Tấn Sở tạo thế cân bằng, bên nào cũng không dám tự tiện manh động, thì Vệ quốc chúng ta sẽ được an toàn.

Công Tử Kinh nhíu mày nói: "Nói là vậy, nhưng... Vệ quốc ta cận kề với Tấn quốc, Tống quốc lại nằm sau lưng chúng ta, nếu như tuyên chiến với người Tấn, Vệ quốc chúng ta sẽ rơi vào cảnh đứng mũi chịu sào. Đạo lý môi hở răng lạnh đương nhiên ai ai cũng hiểu, thế nhưng một khi giao chiến với Tấn, người Tống sẽ chịu xuất ra bao nhiêu binh mã, chi ra bao nhiêu lương thực tiền bạc giúp đỡ còn chưa nói chắc được, ngộ nhỡ chiến cục Ngô Sở nảy sinh biến động, Tống quốc tính toán thế nào cũng rất khó dự liệu cho chính xác được. Chư hầu với nhau, lợi ích mới là điều kiện hợp tác duy nhất, một tờ minh ước, nói lập thì lập được, nói hủy thì cũng hủy được, chúng ta làm sao có thể dám chắc Tống quốc sẽ đồng tâm đồng lòng với Vệ quốc chứ.

Công Tôn Bạt trầm ngâm trong chốc lát rồi nói:

- Quân thượng, thần cho rằng, theo thế của Vệ quốc, việc dấy binh kháng Tấn là điều bắt buộc phải làm. Về liên minh Vệ Tống, mấy trăm năm nay hai nước luôn giao hỏa với nhau, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, đến thời khắc nguy hiểm này, người Tống chưa chắc đã có lòng ích kỷ, chỉ lo cho bản thân mình. Đương nhiên, đưa cả giang sơn xã tắc, nghìn vạn lê dân chỉ để trông chờ vào một lời cam kết của một kẻ quân tử quả thật là quá mạo hiểm. Thần nghĩ, tại sao quân thượng không thúc gọi quân phu nhân hồi quốc? Quân phu nhân là ái nữ của Tống công, giờ đây lại là phu nhân của Vệ quốc chúng ta, thân phận khác thường. Nếu như quân phu nhân trở về, có người bên cạnh, thì có thể đẩy mạnh mối liên hệ giữa hai nước Vệ Tống. Hơn nữa, quân thượng có thể bí mật gửi thư cho quân phu nhân, mời phu nhân quay về, rồi xin Tống công điều một đội đại quân hộ tống theo nàng trở về, tin chắc rằng với mối ràng buộc từ quân phu nhân, Tống công sẽ không dễ dàng ruồng rẫy Vệ quốc đâu.

Công Mạnh tán thưởng:

- Công Tôn đại phu nói chí phải, quân phu nhân là phu nhân của Vệ quốc chúng ta, vinh nhục sống còn của Vệ quốc có mối liên hệ mật thiết với quân phu nhân, Vệ Tống liên thủ cự địch, nếu như có quân phu nhân liên kết ở giữa, thì sẽ không còn gì phải lo lắng nữa.

Vệ hầu trầm ngâm nửa ngày, rồi khẽ gật đầu.

Đợi đến khi mọi người tản đi, con của Công Tôn Bạt là Công Tôn Mậu hộ tống Vệ hầu về cung, đi tới bên hồ Thanh Thủy, Vệ hầu dừng lại, nhìn xuống mặt hồ. Mặt hồ đóng băng, phía trên phủ một lớp tuyết trắng, phát ra ánh sáng chói lòa dưới ánh mặt trời. Những cành cây bên hồ đã héo khô, khẽ đong đưa trong gió, bốn bề tiêu điều u ám.

Vệ hầu bùi ngùi thở dài, từ từ khép đôi mắt lại, thầm nghĩ:

- Chẳng lẽ quả nhân lại phải cúi đầu trước ả tiện nhân đó sao?

Hắn suy tư thật lâu, nói khe khẽ:

- Chuyện nghị sự trong triều lúc nãy, ngươi đều đã nghe thấy cả, vậy ngươi có quan điểm thế nào?

Công Tôn Mậu khẽ phập phồng chiếc mũi, rồi nói:

- Quân thượng, người coi thần như kẻ tâm phúc, thần sẽ nói những lời của một kẻ tâm phúc cho người, nếu như có chỗ nào mạo phạm, dám mong quân thượng thứ tội. Thần cho rằng, lời của gia phụ là có lý. Tuy rằng quân phu nhân không được hòa hợp với quân thượng cho lắm, nhưng đây dù sao cũng là việc trong nhà, quân phu nhân lưu lạc tại Tống quốc, cũng không quá để ý tới chuyện tại Vệ quốc. Quân phu nhân trẻ đẹp mỹ miều, thân phận cao quý, lại không có tình ý gì với quân thượng, nếu như Vệ quốc đại bại thậm chí là vong quốc, đối với Tống quốc mà nói thì bất cứ lúc nào cũng có thể bám lấy Tề quốc hoặc Sở, Tần quốc. Đối với Nam Tử phu nhân, thì nàng có thể tái giá tùy ý, vẫn mang thân phận cao quý tôn nghiêm như cũ. Nếu như gả cho quân hầu trẻ tuổi, nói không chừng lại càng hợp ý của nàng hơn.

Vệ hầu Cơ Nguyên hừ lạnh một tiếng trong lòng, nhưng hắn biết rằng Công Tôn Mậu nói lời khó nghe như vậy thì quả đúng là một tâm phúc thành thực với hắn. Hơn nữa, tiểu tiện nhân kia chẳng có chút cảm tình nào với hắn, nếu thật sự muốn ả tái giá, nói không chừng ả lại thích quá ấy chứ.

Công Tôn Mậu thấy Vệ hầu không mở miệng trách mắng, tiếp tục nói:

- Tuy nhiên, quân phu nhân nếu như ở tại Vệ quốc, thì vinh nhục được mất của nàng lại hòa chung vào với Vệ quốc, với quân thượng. Tống công có ái nữ ở đây, cũng tuyệt đối không dám dễ dàng vứt bỏ đồng minh. Quân thượng vì giang sơn xã tắc, vì lê dân trăm họ tại Vệ quốc, cung thỉnh quân phu nhân trở về, điều đó thì đã làm sao? Huống chi nội tình bên trong, có mấy ai biết rõ thực hư đâu?

Vệ hầu khẽ thở dài, nói:

- Thôi được rồi, để quả nhân viết một bức thư, ngươi phái một kẻ thân tín đi làm tín sứ, mau chóng đi tới Tống quốc, giao cho phu nhân.

Tống quốc đô thành Thương Khâu, Nam Tử đứng dưới một gốc mai, khoác trên mình tấm áo lông chồn, đẹp đẽ kiêu sa, hoa nhường nguyệt thẹn.

Vị tín sứ kia vốn là gia tướng trong phủ Công Tôn Bạt, sau khi Công Tôn Bạt dẫn người vào Đế Khâu, được tuyển chọn vào cung làm thị vệ, là thân tín của con Công Tôn Bạt Công Tôn Mậu, đây là lần đầu tiên hắn được gặp quân phu nhân Nam Tử, tuy từ lâu đã biết tiếng mỹ miều của nàng, hôm nay được gặp tận mắt, không khỏi hơi hoa mắt choáng váng trước vẻ đẹp kiêu sa kia.

Hắn sợ thất lễ nên không dám nhìn nhiều, vội vã cúi thấp đầu, hai tay nâng cao bức thư tín của Vệ hầu gửi sang, đôi mắt chỉ dán xuống đất, nhưng trông thấy đôi giầy da hươu của Nam Tử thôi cũng đã thấy đẹp đẽ lạ thường, hít hà hương vị mê ly lạ thường của phụ nữ, không biết mùi vị của cặp giò kia tuyệt với tới mức độ nào, không khỏi khô rát cổ họng, nuốt nước bọt ừng ực không thôi.

Tuy rằng Nam Tử phải đi tới Tống quốc, trong khoảng thời gian này nàng không còn được ở bên cạnh cha mẹ, nhưng dù sao không còn phải nhìn thấy mấy bộ mặt đáng ghét của Vệ hầu và Công Tử Triều, những kẻ luôn khiến nàng phát ngán, cuộc sống trở nên tươi vui vô cùng. Dung mạo trước kia có chút tiều tụy, giờ đây đã khôi phục lại vẻ lung linh kiều diễm.

Nàng nhận lấy bức thư, bóc ra xem dưới ánh hoa mai, không khỏi bật nụ cười khanh khách.

Tiếng cười kinh động lũ chim khách trên cây, lũ chim vội bay tán loạn, khiến một vài bọt tuyết rơi xuống, những đám bọt tuyết phiêu bồng dưới ánh mắt trời, khẽ thoảng qua khuôn mặt với nụ cười hơi có phần thô lỗ của nàng, vị tín sứ kia nghe vậy ngẩng đầu nhìn cũng không khỏi sững sờ, tham lam cố níu kéo nhìn thêm chút nữa, rồi mới chịu cúi đầu xuống tiếp.

Nam Tử dứt nụ cười, rồi sau đó lại trầm ngâm trở lại:

- Cha ta mong được kết minh với Vệ, đây là chuyện quốc gia đại sự, đâu phải trò đùa trẻ con, đường đường là Tống công, nói xuất binh thì nhất định sẽ xuất binh, quốc quân lại không chịu tin, còn lén lút phái ngươi tới gặp ta? Nếu để cha ta biết được sẽ nổi trận lôi đình.

Vị tín sứ thấp thỏm không yên chắp tay nói:

- Quân phu nhân, việc này có mối liên hệ trọng đại, quốc quân không thể không cẩn thận cho được, kính mong quân phu nhân thông cảm cho.

Nam Tử hừ một tiếng, những bọt tuyết trắng xóa bám lên trên mặt lúc này đã hóa thành mấy giọt nước nho nhỏ, nàng lấy từ trong tay áo ra một chiếc khăn lụa, khẽ lau những bọt nước trên mặt, chậm rãi nói:

- Muốn xuất binh cần phải điều binh trước, điều binh phải có khiển tướng, rất nhiều chuyện cần phải chuẩn bị tới. Trong thời gian ngắn ngủi, lẽ nào người Vệ nhất định phải muốn binh mã của người Tống đến tận nơi thì mới chịu có gan đi đối địch với quân Tấn? Muốn ta trở về nước cũng không phải chuyện khó, chỉ có điều, không phải là vào lúc này, ngươi quay về đi, cứ nói với quốc quân rằng Nam Tử ở cung thành Vệ quốc toàn phải gặp mặt những kẻ đáng ghét, trong lòng không thấy thoải mái, hơn nữa, ta hiếm khi có dịp được quay về nước, bây giờ tiết trời đang rất lạnh, tuyết rơi đầy trời, làm sao có thể quay về đây? Ta phải ở Tống quốc thêm một thời gian nữa, đợi đến tháng ba năm sau, tết đến xuân về, trăm hoa đua nở, băng tuyết tan hẳn thì ta mới trở về.

Vị tín sứ cung kính nói:

- Quân phu nhân, tiểu nhân phụng mệnh đến đây, quốc quân có lời này muốn tiểu nhân bẩm báo cho phu nhân.

- Ồ? - Đôi mắt long lanh của Nam Tử khẽ xoay chuyển, khóe môi nhếch lên lộ ra hàm răng trắng tinh:

- Chuyện gì vậy?

- Quốc quân nói, đại địch trước mắt, lòng người lo lắng, phu nhân về nước có thể ổn định nhân tâm, dám mong phu nhân không ngại cực khổ, mau chóng về nước. Còn về điều mà phu nhân nói... quốc quân đã dặn rằng: nếu như phu nhân quay lại, quả nhân nhất định sẽ đáp ứng mọi yêu cầu của nàng, để nàng vui lòng quay về.

- Vui lòng quay về?

Đôi mắt to tròn như đào hoa của Nam Tử khẽ hấp háy, ẩn chứa trong đó sát khí uy vũ:

- Rất tốt, vậy ngươi cứ về trước đi, nói với quốc quân rằng, hai ngày nữa Nam Tử sẽ dẫn binh khởi hành, quốc quân để ta vui lòng quay về, ta cũng sẽ để quốc quân vui lòng nghênh đón.

Vệ quốc, Đế Khâu, phủ đệ Tề Báo.

Bên ngoài căn phòng tuyết rơi lạnh lẽo, trong căn phòng ấm áp sắc xuân.

Tề Báo, Trử Sư Phố, Bắc Cung Hỉ, Công Tử Triều cùng một số đại thần trong triều theo phe cánh của họ đang tề tựu đông đủ trong phòng.

Ghế trên có bốn người ngồi, rất nhiều vũ kỹ mặc y phục rực rỡ hoa lệ, bộ ngực trắng trẻo nõn nà, đang ấp vào trong lòng họ, gắp thức ăn rót rượu mời, tiếng cười rộn giã.

Tuy Bắc Cung Hỉ không hợp với Tề Báo, nhưng dù sao cũng là đồng phạm tru sát Công Mạnh Trập, tuy rằng hai người họ tranh đấu quyền lực rất gay gắt, nhưng Bắc cũng lo là một khi Tề Báo bị đổ, Vệ hầu sớm muộn gì cũng sờ gáy khai đao với hắn, vì vậy cho nên tuy Vệ hầu liên tục bày thiện ý, dụ dỗ lấy lòng, nhưng đại sự lớn đến như vậy, hắn vẫn phải thương nghị cùng Tề Báo.

Công Tử Triều chẳng hề quan tâm tới mỹ nhân đang khiêu khích nghịch ngợm trong lòng, nói nhanh với Tề Báo:

- Tề đại phu, cơ hội trời ban đó, đại phu cần phải nắm chặt lấy cơ hội này, xin quốc quân được dẫn binh xuất chinh, tóm lấy binh mã của bọn Công Tôn Bạt, Cừ Bá Ngọc trong tay, bất luận kết quả liên minh với Sở, chống hoành với Tấn thế nào đi chăng nữa, có đại quân trong tay thì chúng ta cũng được bảo đảm.

Hắn lại chắp tay về phía Bắc Cung Hỉ nói:

- Bắc Cung đại phu, chúng ta đều là những kẻ ngồi chung thuyền, được cùng được, mất cùng mất. Ngài nắm giữ quân đội trong triều, quân đội ngoài triều do Tề đại phu nắm giữ, như vậy thì chúng ta có thể nói là vững như bàn thạch rồi. Tề đại phu, Bắc Cung đại phu hết đời này sang đời khác đều là đại tướng của Vệ quốc, giờ đây Công Mạnh Trập đã chết, phóng tầm mắt về Vệ quốc, ngoại trừ hai vị ra thì còn có kẻ nào đủ tư cách dẫn binh xuất chinh đây? Chuyện này Bắc Cung đại phu cũng nên nói một tiếng tốt trước mặt quốc quân. Còn bản công tử cũng sẽ nói tốt cho Tề đại phu trước mặt quốc quân.

Mỹ nhân trong lòng nâng chén rượu, hồn nhiên đưa tới trước môi của hắn, bị Công Tử Triều bất nhẫn đẩy ra, tuy hắn có danh vị, nhưng rất nhiều chuyện đại sự Vệ hầu Cơ Nguyên đều không khiến hắn tham dự, sự tin tưởng còn lâu mới bằng Công Tôn Mậu. Tiềm lực của Tề Báo to lớn khủng khiếp, Bắc Cung Hỉ đang nắm giữ đại quyền, Trử Sư Phố tuy lực lượng thua kém hơn một chút, nhưng hắn lại là công khanh thế gia suốt mấy trăm năm nay của Vệ quốc, có những mối quan hệ dây mơ rễ má nhằng nhịt với rất nhiều thế tộc, lại thêm cả việc hắn đối với ai cũng vui vẻ hòa nhã, không đắc tội với bất kỳ ai cả, nhân duyên cũng khá tốt, tính ra thì căn cơ của hắn là yếu nhất, làm sao mà hắn không căng thẳng lo lắng vạn phần cho được.

Tề Báo có chút dao động trước chủ trương của hắn, hắn khẽ đưa mắt liếc nhìn Công Tử Triều, mỹ nhân ngồi trong lòng Công Tử Triều tuy rằng bị hắn lạnh nhạt thờ ơ, nhưng những vị đại nhân trên đại đường kia duy chỉ có mình Công Tử Triều là anh dũng đạo mạo, những vũ kỹ trong phủ Tề Báo lấy sắc đẹp để dâng tặng cho khách nhân, khi tiếp đãi khách nhân vốn không quan trọng chuyện già xấu ra sao, có điều nhìn thấy mỹ nam tử thì cũng nhiệt tình hơn một chút, lúc đó thấy Công Tử Triều không muốn uống rượu, liền nắm lấy cổ hắn, hôn nhẹ lên những chỗ nhạy cảm, đến cả áo bào cũng được nới lỏng ra, Tề Báo thoáng nhìn qua, thấy lấp ló qua cổ áo của hắn là một chiếc áo lót của nữ tử, nghĩ lại tin đồn về mối quan hệ của hắn với Vệ hầu Cơ Nguyên, Tề Báo không khỏi cảm thấy hậm hực, ngoảnh đầu nhìn về phía Bắc Cung Hỉ.

Bắc Cung Hỉ cầm lấy chén rượu, đang cúi đầu trầm ngâm. Tuy rằng bản thân hắn hiện tại đang nắm giữ quyền lực lớn nhất, thế nhưng căn cơ của tên Tề Báo với chức danh hiếm có là cả thái sư và thái phó còn thâm hậu hơn cả hắn, tiềm lực cũng vô cùng khủng khiếp, nếu thật sự phải đấu một trận, thì cũng chưa biết ai thắng ai thua đâu, đó chính là nguyên nhân vì sao Tề Báo dám tranh quyền cùng hắn. Hơn nữa, cho dù thế lực của hắn mạnh hơn Tề Báo, cũng không thể tru sát Tề Báo được, tự chặt tay của mình, tạo điều kiện cho Vệ hầu trừ khử hắn.

Nếu để cho Tề Báo nắm giữ bên ngoài, thế lực của hắn sẽ càng thêm lớn mạnh, thế nhưng quyền lực đó đã phải trải qua tay của đám Công Tôn Bạt, Cừ Bá Ngọc, Công Mạnh, giống như một thanh kiếm sắc bén treo lơ lửng trên đầu, khiến người ta cứ suốt ngày phải nơm nớp lo sợ. Vả lại, Tề Báo có được thực quyền chính trị của mình, những mâu thuẫn giữa hai người cũng sẽ không kịch liệt đến như vậy.

Nghĩ tới điều này, Bắc Cung Hỉ khẽ gật đầu nói:

- Tử Triều nói phải lắm, lão phu nắm nội quân, Tề đại phu nắm ngoại quân, Trử đại phu nắm quốc khố, sẽ không có ai chống lại chúng ta nữa. Chỉ có điều việc này cần phải thương thảo cho kỹ, quốc quân chưa chắc đã giao đại quân cho Tề đại phu, nhưng bất luận thế nào thì chúng ta cũng phải giúp đỡ Tề đại phu có một phần quyền lực trong đó. Đúng rồi, Tử Triều có kế hoạch gì chưa?

- Ta?

Công Tử Triều lúc này mới phát hiện ra mỹ nữ nằm trong lòng đã nới lỏng áo choàng của hắn, hắn vội nắm chặt vạt áo, che đi nội y của mình, thuận tay vỗ mông mỹ nhân kia một cái, bảo nàng tránh ra xa một chút, lúc này mới cười nói:

- Ta ở trong cung đấu pháp với Công Tôn Mậu, nhất thời chưa thể bỏ đi được. Vả lại, ta còn phụ trách việc điều phối quân nhu cho Khánh Kỵ, đến nay Vệ quốc chúng ta cũng muốn chiến tranh, việc này có chút rắc rối, ta cũng cần phải cân nhắc thật kỹ mới được.

Trử Sư Phố không đồng tình nói:

- Bây giờ là lúc nào rồi mà còn để ý đến tên Khánh Kỵ làm chi?

Công Tử Triều mỉm cười nói:

- Chuyện đã chấp thuận với người ta, thì phải làm cho xong. Hơn nữa Khánh Kỵ giờ đây cũng là quân đồng minh của chúng ta, hắn đánh bại được Cơ Quang, thì Tấn quốc mới từ bỏ dã tâm tiến xuống phía Nam của hắn. Một khi Khánh Kỵ phục quốc thành công, nhận được sự giúp đỡ của chúng ta từ trước, chẳng phải lúc đó sẽ trở thành một trợ lực to lớn cho chúng ta sao?

Trử Sư Phố lộ ra một nụ cười khinh khỉnh châm biếm trên khuôn mặt mập mạp, hắn đang định nói gì đó, bất chợt nhìn thấy trong ánh mắt Công Tử Triều có thần sắc kỳ lạ nào đó xuất hiện rồi vụt biến mất, trong lòng không khỏi chột dạ: "Tên Tử Triều này khuôn mặt chất chứa dã tâm, không biết hắn đang suy nghĩ gì vậy nhỉ?

Trử Sư Phố là người cẩn trọng chu đáo, trước nay không dễ dàng để đắc tội với người khác, hắn vô tình nhìn thấy thần tình quỷ dị của Công Tử Triều, lời nói giễu cợt đang định thốt ra bỗng không dám nói ra nữa, trong lòng dâng lên vài phần phòng bị.

Khánh Kỵ giữ Văn Chủng ở lại nghỉ ngơi một ngày, Văn Chủng vội vàng đem tin tức bẩm báo cho Sở vương. Ngày hôm sau liền cáo từ lên đường, Khánh Kỵ đích thân tiễn hắn ra khỏi thành, đến tận con đường mòn qua núi để tới Tùy quốc mới chịu thúc ngựa trở về thành.

Khi hắn vừa vào trong phủ, Quý Tôn Tiểu Man liền luống cuống chạy đến, vẻ mặt rạng rỡ nói:

- Mau lại đây mau lại đây, Lỗ quốc gửi thư tới rồi.

Khánh Kỵ mừng rỡ, vội vàng bước lên bậc, Quý Tôn Tiểu Man kéo một tay hắn dắt đi trong đại sảnh, Khánh Kỵ ngượng cười nói:

- Này này, bình tĩnh nào, không cần phải sốt sắng đến như vậy chứ.

Vào trong sảnh, Thúc Tôn Diêu Quang nhìn thấy Quý Tôn Tiểu Man nắm tay Khánh Kỵ, không khỏi đưa ánh mắt hình dao găm phóng về phía nàng, nếu như đôi mắt là con dao, e rằng con dao này đã cắt cụt cánh tay kia của họ. Khánh Kỵ khi bước vào phòng chỉ để ý tới vị tín sứ Lỗ quốc, không chú ý tới thần sắc của nàng. Quý Tôn Tiểu Man cứ như là oan gia mà ông trời sinh ra để đối nghịch với nàng, đôi mắt nhỏ nhắn nhìn thấy rõ biểu lộ của nàng. Quý Tôn Tiểu Man cười khúc khích đắc chí, lòe mặt quỷ dọa trước mặt nàng, dường như vô cùng vui vẻ.

Vị tín sứ kia chính là một thân binh Khánh Kỵ để lại tại Lỗ quốc Phí Thành Phi Hồ cốc, vừa thấy Khánh Kỵ hắn vội vàng bước lên trước quỳ gối nói:

- Nô tài bái kiến công tử.

- Mau đứng dậy đi, mau đứng dậy đi, tình hình Lỗ quốc thế nào rồi?

- Bẩm công tử, sau khi công tử đi, Phi Hồ cốc không thu nạp thêm tân binh nữa, Tôn Vũ tướng quân, Anh Đào tướng quân ngày đêm thao luyện, tổng cộng đã đào tạo được tám nghìn tinh binh. Khi Chúc Dung công tử đến, lại mang theo một nghìn nhân mã, vài ngày trước nghe tin công tử phát binh Sở quốc, Tôn tướng quân và Anh tướng quân lập tức chuẩn bị tập kích Ngô, khi nô tài khởi hành, bọn họ cũng đang nhổ trại, xé nhỏ ra từng tốp đi tới biên giới Ngô quốc rồi tập hợp tại nơi đã định, lúc này chắc là đã đến nơi rồi. Đây là thư của Tôn tướng quân, xin công tử xem qua.

Khánh Kỵ nhận lấy bức thư, khoát tay nói:

- Ngươi ngồi xuống đi.

Dứt lời đi tới ngồi xuống trước ghế thượng tọa giở thư ra xem, căn phòng trở nên yên tĩnh, lặng lẽ dõi theo những thay đổi trên nét mặt của Khánh Kỵ, Quý Tôn Tiểu Man không có việc gì, cũng không chịu ngồi im một chỗ, liền đứng đằng sau lưng Khánh Kỵ, kiễng người lên nhìn bức thư trong tay Khánh Kỵ.

- Hm...!

Thúc Tôn Diêu Quang đằng hắng một tiếng, hung hăng trừng mắt nhìn Quý Tôn Tiểu Man.

Quý Tôn Tiểu Man đưa lại cái nhìn tinh nghịch, ngượng ngùng chắp tay đi ra, gằn giọng lầm bầm nói:

- Ta xem thì đã làm sao? Có phải là thư tình ngươi viết cho chàng đâu, nếu là mấy thứ vớ vẩn ngươi viết cho chàng, thì cầu xin ta ta cũng không thèm xem.

Khánh Kỵ đọc xong, không nhịn được cười lớn.

Lương Hổ Tử, Thúc Tôn Diêu Quang mắt nghếch như chuông đồng, đồng thanh hỏi:

- Thế nào rồi, có tin tức gì chưa?

Quý Tôn Tiểu Man lúc nãy bị Thúc Tôn Diêu Quang hục hặc, bây giờ giả bộ ngẩng mặt nhìn trời, ra vẻ ta đây không thèm nghe, nhưng đôi tai thì lại dỏng lên, nghe ngóng thanh âm của Khánh Kỵ.

Khánh Kỵ vỗ bàn rầm một cái, cười khoái trá nói:

- Hay, hay lắm. Ha ha ha..., Tề quốc xuất binh rồi, ha ha ha...

- Thật ư?

Quý Tôn Tiểu Man đang giả ngơ không biết gì là người đầu tiên nhảy cẫng lên, chạy tới bên cạnh hắn, cầm lấy tay đưa đẩy, phấn khích đến nỗi khuôn mặt đỏ gay:

- Tề quốc xuất binh rồi? Hay quá là hay, nước lớn nhất ở phía Đông xuất binh tương trợ, Cơ Quang bị kẹp ở giữa, khó bề chống đỡ, hy vọng phục quốc của ngài đã thành công rồi.

Khánh Kỵ cười nói:

- Chưa hẳn, chưa hẳn, Tề quốc xuất binh là xuất binh, nhưng chưa hẳn đã là giúp ta, mà là nhận lời mời của Cơ Quang mà xuất binh, định xuống phía Nam tham chiến.

- Ách!

Quý Tôn Tiểu Man đẩy mạnh bả vai hắn, tức tối nói:

- Ngài bị ấm đầu sao? Người ta đến đánh ngài mà ngài còn vui mừng được?

Khánh Kỵ cười nói:

- Sao mà không vui cho được, hắn muốn tham chiến, cũng cần phải đến đó mới được. Tôn Vũ có mối quan hệ với Tôn thị gia tộc bên Tề quốc, thu được một số thông tin tình báo quan trọng, Cơ Quang muốn mua chuộc các tộc Đông Di cho Tề quốc hòng đổi lấy việc Tề quốc xuất binh, hai phe trong triều đình Tề quốc tranh luận kịch liệt, Điền Khất chủ trương xuất binh, Yến Anh phản đối xuất binh, hai bên tranh cãi loạn xị ngậu, cuối cùng phe xuất binh chiếm thế thượng phong, phe phản chiến uất ức lắm lắm, liền có người đem tin tức về điều kiện trao đổi để kết minh giữa Cơ Quang với Tề quốc rêu rao ra bên ngoài.

Trần quốc, Tào quốc, Lỗ quốc sát vách Đông Di lo lắng thế lực Tề quốc xâm phạm phía Nam, sẽ gây bất lợi cho họ, đã kết thành liên minh, cùng nhau chống lại Tề binh. Cả người Đông Di cũng tham chiến, quân Tề dù có mạnh cũng nhất thời không thể chiếm thế thượng phong dễ dàng được, hơn nữa những nước đó phát binh chính là sự che chắn tốt nhất cho những hành động của đám người Tôn Vũ. Thủy quân Ngô cho dù biết được, cũng nhất thời không thể đoán ra hướng đi và mục đích của họ, làm sao mà ta không vui được? Ha ha ha...

Giữa Tề và Ngô còn có một vùng đất rộng lớn, không có chính quyền nhà nước, lại có rất nhiều bộ lạc sinh sống, dân cư chủ yếu là do hai bộ lạc Hoài Di và Di Hổ . Người Đông Di vốn là chủ nhân của Tề quốc hiện tại, nhưng bọn họ giống như người Anh-điêng ở khu vực Bắc Mĩ, vùng đất này bị người Chu phong hầu xua đuổi ra khỏi vùng đất cố xưa, mấy trăm năm nay đã lui ra khỏi toàn bộ khu vực Sơn Đông, sau đó cùng với sự mở rộng của ranh giới Tề quốc, tiếp tục lui về hướng Đông Nam, cuối cùng bị đẩy về dưới hạ du sông Hoài, trở thành khu vực đệm giữa ba nước Tề Lỗ Ngô.

Nếu như tiếp tục bị Tề quốc lấn chiếm xuống phía dưới nữa thì vùng đất của con cháu người Đông Di sau này đến cả một khoảnh nhỏ cũng chẳng còn, bọn họ chỉ có thể đi xuôi theo thượng nguồn sông Hoài, chạy đến biển Hoàng Hải, chiếm cứ vài ngôi đảo nhỏ để sinh sống mà thôi.

Giờ đây ý đồ bành trướng xuống phía Nam của người Tề bại lộ, các nước xung quanh vô cùng bất an, đã ký kết đồng minh cùng nhau kháng Tề, đồng thời, các bộ lạc trong vùng Đông Di như Doanh, Tần, Từ, Hoàng, Giang, Lý cũng triệu tập cuộc họp liên minh các bộ lạc, uống máu ăn thề, tạo thành liên quân, quyết một trận sinh tử với Tề quốc vì vùng đất sinh tồn cuối cùng của họ. Binh mã Tề quốc đã bắt đầu điều động, vốn muốn phò Ngô phạt Sở, lấy lý do đường đường chính chính xuôi xuống phía Nam, nhân lúc họ không phòng bị mà khuếch trương xuống lưu vực Hoàng giang, lúc đó mới chính thức trở thành trợ Ngô phạt Sở, lúc đó sẽ ký kết liên minh với Ngô, vùng duyên hải nối thành một dải, các nước xung quanh nếu muốn phản kháng sẽ phải mạo hiểm giáp công Nam Bắc, nhưng bây giờ tin tức đã sớm bị tiết lộ, các nước phản ứng mãnh liệt, Tề quốc há miệng mắc quai, đành phải cắn răng tiếp tục tiến tới.

Nghe Khánh Kỵ nói nhân quả bên trong, Quý Tôn Tiểu Man và Thúc Tôn Diêu Quang mới hiểu rõ sự tình, không giấu nổi vẻ vui mừng. Sau đó Khánh Kỵ tiết lộ một phần về kế hoạch tập kích Ngô của Tôn Vũ, mọi người đang vui vẻ, bỗng tiếng bước chân rầm rập của một người bước vào điện, chắp tay nói:

- Báo! Công tử, nhận được tin tức từ Sở quốc, Sở vương bị ám sát tại Cửu Phượng cốc.

Khánh Kỵ nghe xong, sắc mặt bỗng trắng bệch, hắn muốn đứng dậy, nhưng tâm trí khiếp đảm nhất thời không thể nhấc nổi thân mình. Tình hình Sở quốc bây giờ, nếu như Sở vương bị ám sát, lập tức sẽ trở thành đống cát vụn, các công tử tranh đoạt vương vị, chưa biết liệu có ai toàn tâm toàn ý quyết chiến với Ngô không, và liệu có ai đủ năng lực hiệu triệu quân đội Sở quốc? Tất cả khổ tâm của mình đều tan theo dòng nước mất.

- Sở vương thế nào rồi, ngươi nói mau đi!

Trông thấy vẻ mặt Khánh Kỵ kinh hãi thất thần, Lương Hổ Tử vội bước tới dò hỏi thám tử.

- Sở vương không sao, tên thích khách đó đơn thương độc mã thâm nhập vào trong núi, lúc ra tay hành thích bị tướng quân Tử Kỳ của Sở quốc lao lên đỡ thay một kiếm cho Sở vương, Tử Kỳ tướng quân chết ngay tại chỗ, tên thích khách kia cũng tự vẫn mà chết.

Khánh Kỵ nghe được thì sững sờ, hắn chậm rãi hắt ra một hơi nhẹ nhõm, cơ thể đang đứng khom lưng dần dần ngồi xuống trở lại. Cảm giác vào lúc này... hắn rất muốn một tay bóp chết cái tên thám tử chết tiệt kia.

Lương Hổ Tử nghe xong cũng bốc giận trong người, hắn tung chân lên đá một cước vào đít của tên thám tử, quát lớn:

- Cút! Lần sau khi báo tin phải nói cho rành mạch rõ ràng, con bà nhà ngươi chứ.

Thám tử kia chẳng hiểu làm sao, lủi thủi lui ra ngoài.

Khánh Kỵ và Lương Hổ Tử nhìn nhau, trong mắt đối phương đều là sự phấn khởi đến cuồng nộ:

- Cơ Quang hành thích, Sở vương gặp nạn mà không chết, lần này mối thù càng lúc càng lớn thêm.

Đáng tiếc, bọn họ đoán đúng kết quả, nhưng lại không đoán đúng quá trình. Kẻ hành thích Sở vương không phải Cơ Quang, mà là một kẻ đã rơi vào quên lãng từ lâu trong con mắt bàn dân thiên hạ. Chỉ là, Ngô Vương Hạp Lư nổi tiếng với thủ đoạn sử dụng thích khách, trong thiên hạ không ai không biết, vụ này không đổ vào đầu hắn thì vào đầu ai?

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 191: Sở đô Ngô doanh (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Trên đại điện trơ trọi tại hoàng cung Sở vương ở Dĩnh Đô, phát ra tiếng gào thét giận dữ của Ngô vương Cơ Quang: "Bá vô dụng! Dùng thích khách không thể thiếu một trong ba yếu tố thời cơ, địa điểm, cơ hội, thế mà hắn lại hành động sơ suất, quả nhân đem trọng trách này giao phó cho hắn, hắn lại chỉ phái có một tử sĩ lén vào núi động thủ, thật là ngu ngốc hết sức, Sở vương giờ đây chắc là cẩn thận đề phòng hơn, sau này có còn xuất hiện cơ hội nữa không?"

Các tướng đứng dưới điện sắc mặt nghiêm nghị, đều im lặng không thốt lời nào. Tướng quốc Ngũ Tử Tư quét mắt khắp một lượt quần thần đứng đó, bước ra khải tấu: "Đại vương nguôi giận, Bá hành sự xưa nay luôn cẩn trọng kĩ càng, nếu không có kế sách vẹn toàn, tuyệt đối không ra tay bừa bãi. Cái thủ đoạn dùng thích khách này, xem ra không giống hành vi của Bá, hay là đợi tín sứ của Bá về báo tin rồi tính sau."

Cơ Quang tím tái mặt mày, phất tay áo mạnh một cái, gằn giọng: "Không phải hắn thì còn ai vào đây nữa, nôn nóng muốn giết Sở vương như vậy, ngoại trừ chúng ta, chỉ còn Tề và Tấn, mà hai nước Tề, Tấn không thể nào hành động nhanh chóng như thế được. Hơn nữa, Tề, Tấn mưu đồ thôn tính thiên hạ, nếu chiến sự ở Sở quốc sớm chấm dứt, bọn họ lấy đâu ra cớ để xuất binh? Họ còn mong ở đây càng loạn lên càng tốt ấy, ngoại trừ họ ra, thiên hạ còn ai muốn giết Sở vương?"

Ngũ Tử Tư lắc đầu nhè nhẹ, mái tóc bạc phất phơ, nói: "Thần cũng nghĩ không ra, chỉ là cảm thấy với tính cách của Bá, đây không giống hành vi của hắn."

Đúng vào lúc này, có người chạy vội vào điện bẩm báo: "Bẩm đại vương, tín sứ của Bá tướng quân đến."

Ngũ Tử Tư mừng rỡ: "Mau mau đưa hắn vào điện!"

Cơ Quang đang tức tối đi qua đi lại trên đại điện hứ một tiếng rõ to, quay về chiếc ghế vương vị giữa điện ngồi xuống. Một tên tín sứ vội vàng bước vào, dập đầu hành lễ: "Tiểu nhân phụng lệnh Bá tướng quân, bái kiến đại vương."

Cơ Quang lại gằn giọng, lạnh lùng chất vấn: "Quả nhân giao ba ngàn quân tinh nhuệ cho hắn, bảo hắn đi Tùy quốc thưởng thức phong cảnh đó hả? Bá sao lại chỉ phái có một thích khách vào Cửu Phụng cốc ở Tùy quốc hành thích, hắn phái ngươi về đây là để thỉnh tội với quả nhân đúng không?"

Tên tín sứ sợ hãi quỳ đó, lên tiếng phân bua: "Hồi bẩm đại vương, tên thích khách đó không phải do Bá tướng quân phái đi. Bá tướng quân phái người lén trà trộn vào Tùy quốc dò thám động tĩnh, mới phát hiện có người hành thích Sở vương."

Cơ Quang ngớ người ngạc nhiên: "Quả nhiên không phải là hắn động thủ ư?"

Ánh mắt Cơ Quang hướng về Ngũ Tử Tư như muốn hỏi gì. Ngũ Tử Tư bước tới hỏi tên tín sứ: "Bá hiện giờ đang ở đâu?"

Tên tín sứ trả lời: "Hồi bẩm tướng quốc, Bá tướng quân nghe được tin Sở vương bị hành thích, biết là Sở vương sẽ đề cao cảnh giác, kế hoạch trước đây khó mà tiến hành được nữa, hơn nữa các lộ binh mã cần vương của quân Sở mỗi ngày đi sang Tùy quốc vô số. Bá tướng quân sợ bị người Sở phát hiện hành tung, đã tránh khỏi đường lớn, dẫn quân mai phục tại các cánh rừng dọc đường từ Tùy quốc đến Dĩnh Đô, ngoài ra còn phái binh sĩ giả làm tiều phu đi dò thám tin tức liên tục."

Ngũ Tử Tư nghe xong khen ngợi: "Bá quả nhiên hành sự cẩn trọng, suy nghĩ thấu đáo, biết tùy cơ ứng biến, quả là tài giỏi, hắn phái ngươi về đây gặp đại vương, còn có gì dặn dò không?"

Cơ Quang nghe Ngũ Tử Tư nói vậy, thử nghĩ nếu quả thật thích khách không phải do Bá phái đi, Bá xử lí như thế đương nhiên đáng được khen ngợi, cơn giận trong lòng tiêu tan, cất tiếng hỏi lớn: "Nói mau, Bá phái ngươi về đây còn gì nữa không?"

Tên tín sứ khúm núm: "Đại vương, Bá tướng quân nói các lộ binh mã cần vương không ngừng tập kết về Tùy quốc, chắc không lâu nữa quân Sở sẽ rời khỏi Tùy quốc đánh về Dĩnh Đô. Tướng quân vốn nhận lệnh chờ Sở vương tiến về Dĩnh Đô, tập kích vào trung quân chém vua Sở, nhưng giờ Sở vương bị hành thích, đánh rắn động cỏ, bên mình chắc chắn tăng thêm nhiều thị vệ hộ tống, nếu theo kế hoạch cũ, e khó đạt hiệu quả, nên tướng quân phái tiểu nhân về đây, nghe lệnh tiếp theo của đại vương có gì thay đổi không ạ."

Ngũ Tử Tư lại hỏi han một hồi về tình hình của Bá như thế nào, xong quay qua chắp tay bẩm báo: "Đại vương, nếu như đại vương không định về nước Ngô ngay, như vậy theo ý kiến của thần, cánh quân của Bá không cần triệu tập về đây gấp, kế hoạch thích sát Sở vương tuy là thất bại, nhưng chúng ta phái đi một cánh quân mai phục, sau này ắt vô cùng hữu dụng. Theo ý thần đại vương không vội triệu Bá về, cứ ra lệnh cho Bá phục quân ở xung quanh, lúc cần thiết nói không chừng ta có thể tập kích bất ngờ quân Sở."

Cơ Quang xưa nay luôn nghe theo Ngũ Tử Tư răm rắp, thấy tướng quốc đã có ý vậy, bèn ra lệnh: "Tướng quốc nói phải lắm. Ngươi tức tốc quay về, lệnh cho Bá mai phục quanh đó, giữ liên lạc với quả nhân, chờ mệnh lệnh tiếp hẵng tính sau."

Tên tín sứ dập đầu nhận lệnh xong lui ra. Cơ Quang vuốt râu suy ngẫm: "Kì lạ nhỉ, là ai muốn giết Sở vương chứ? Chẳng lẽ...trong số các hoàng thân quốc thích của Sở có kẻ thấy Sở vương gặp nạn, muốn thừa nước đục thả câu, nhân cơ hội giết hắn hòng cướp ngôi? Thật là khốn kiếp, làm hỏng cả chuyện lớn của quả nhân."

Ngũ tử tư lên tiếng: "Đại vương, kẻ đứng sau lưng vụ này e nhất thời không dễ gì lộ diện đâu ạ. Quân Sở mấy ngày tới chắc xua quân đánh trả, mà...Khánh Kỵ lại sớm chiếm giữ thành trì bên kia, chặn đường rút lui của đại quân ta, dụng tâm của hắn không nói ra thì ai cũng biết, bây giờ chúng ta kéo dài thêm ít ngày tháng, một là có thời gian vận chuyển của cải từ Sở về nước để Ngô quốc ta sử dụng sau này, hai là tạo cơ hội xuất quân tham chiến cho hai nước Tề, Tấn, nhưng quân Ngô ta tiến sâu vào đất địch, cố thủ Dĩnh Đô không phải là cách hay, chúng ta cần bàn bạc kĩ kế hoạch hành động tiếp theo, cứ ngồi đây cố thủ chi bằng chủ động xuất kích, gây cho quân Sở chút thương vong, ngăn cản chúng bao vây phản kích chúng ta, đồng thời việc bố phòng ở Dĩnh Đô cũng phải tăng cường..."

Cơ Quang ngạo mạn cười mỉm: "Về phía Khánh Kỵ, phái thêm nhiều thám mã, chỉ cần hắn có ý đồ bỏ đi quay về tập kích Ngô quốc, chúng ta lập tức men theo con đường như kế hoạch đề ra về Ngô chặn đánh hắn, còn nếu hắn cứ giao chiến với quân ta ở Sở... Hừ! Đợi khi các chư hầu xuất quân, thiên hạ đại loạn, chúng ta mới quay về Ngô quốc, cứ cho đội quân ô hợp của hắn ở lại đây thu xếp tàn cục này đi, ha ha...

Còn về quân đội của người Sở, giống như là trăm vạn con cừu non, tuy đông mà vô dụng, đâu phải là đối thủ quân Ngô hùng mạnh của ta. Hơn nữa số quân người Sở triệu tập được sẽ không quá mười vạn, nếu nhiều hơn thì không cần chúng ta ra tay, trong có các nước phụ thuộc nổi lên làm phản, ngoài có các nước chư hầu thừa cơ xâm lấn, Sở quốc lập tức sẽ tiêu đời. Mười vạn quân Sở, cộng thêm hơn hai vạn quân của Khánh Kỵ, cùng lắm là mười ba vạn quân, còn binh mã của ta có bốn vạn, giờ có thêm tù nhân được thả ra của Sở, quân mới chiêu nạp từ đám nô lệ, cộng lại cũng hơn hai vạn. Sáu vạn quân Ngô chống với mười ba vạn liên quân, nếu đối khánh trước mặt thì chúng chiếm ưu thế, nhưng nếu ta cố thủ thì chúng muốn bao vây, với số quân đó cũng không làm được, ta còn sợ gì bọn chúng nào?"

Ngũ Tử Tư khẽ nhíu mày, khuyên can: "Đại vương, kiêu binh tất bại! Quân Sở bị chúng ta đánh cho một trận tơi bời, nhưng người Sở tuyệt đối không phải là hoàn toàn vô dụng, số quân Sở dũng cảm tử chiến không thiếu, hơn nữa lần này Khánh Kỵ lại dấy binh khởi sự, càng không thể xem thường, ở đây dù sao cũng là Sở quốc, là thiên hạ của người Sở, đại vương sao lại khinh suất như thế này?"

Ngũ Tử Tư nặng lời chỉ trích, Cơ Quang ngược lại mỉm cười không trách phạt, trong số các đại thần cũng chỉ có Ngũ Tử Tư dám lên tiếng can gián Ngô vương Hạp Lư hung bạo này, mà Cơ Quang lại thích tính cách này của hắn. Cơ Quang vuốt râu: "Tướng quốc dạy phải lắm, quả nhân biết sai rồi. Giờ các tướng đều ở đây, tướng quốc sẽ nói kế hoạch chúng ta đã nghị định ra cho các tướng nghe xem sao, nếu có gì không ổn, mọi người có thể bàn bạc cho thỏa đáng ngay tại đây."

"Dạ, xin tuân ý chỉ của đại vương." Ngũ Tử Tư chắp tay cúi chào, ung dung đứng thẳng người, vẫy tay một cái, bên ngoài đại điện lập tức có hai võ sĩ bước vào, một tên cầm theo một cuộn tranh to, khi đứng yên trong điện, hai tên võ sĩ mỗi người cầm một đầu cuộn tranh, từ từ kéo cuộn tranh ra hai hướng, Cơ Quang chăm chú nhìn vào, thấy đó là một tấm bản đồ chi tiết.

Ngũ Tử Tư nói: "Tấm bản đồ này là do thần tìm được trong hoàng cung, thần căn cứ theo tình hình điều động binh mã của đôi bên gần đây thêm vào chú thích, vẽ ra tấm bản đồ như mọi người đã thấy. Trên bản đồ có vẽ những điểm và đường màu đỏ, là lực lượng quân ta đang chiếm giữ, còn điểm và đường màu xanh là binh mã của Sở, còn cái tam giác màu xanh lá chính là binh mã của Khánh Kỵ."

Tấm bản đồ khá lớn, núi non sông ngòi nhìn vào rất rõ ràng, chỉ là trên đó giờ có thêm ba màu đỏ, xanh, xanh lá khiến các tướng nhìn chả hiểu gì cả, lúc này nghe Ngũ Tử Tử giải thích, mọi người so sánh với tình hình phân bố binh lực của các bên trong kí ức của mình, thấy quả nhiên chính xác như trong bản đồ.

Theo như bản đồ có thể nhận ra, khu vực xung quanh Dĩnh Đô tập trung nhiều màu đỏ và xanh nhất, trung tâm của màu xanh chính là Cửu Phụng cốc ở Tùy quốc, các tuyến đường hành quân của quân Sở đều đổ về hướng ấy, sau đó hợp lại thành một màu xanh đậm, từ từ di chuyển về hướng Dĩnh Đô. Tòa thành trì phía Đông Nam của Dĩnh Đô, có một tam giác màu xanh lá, chính là nơi quân Khánh Kỵ trú đóng. Cứ điểm của Khánh Kỵ rất nhỏ, vị trí này chính là yếu đạo hai ngả thủy lục từ Ngô quốc đi sang, Khánh Kỵ đóng quân ở đấy rõ ràng có ý tạo thế gọng kiềm cùng quân Sở bao vây Dĩnh Đô, còn muốn rút quân không tham gia trận chiến, xua quân lui sang phía Đông vòng lại tiến đánh thẳng vào Ngô quốc cũng rất thuận tiện.

Trên bản đồ một màu đỏ tụ tập lại tại vị trí Dĩnh Đô, mấy con đường trọng yếu xung quanh và một số thành trì nhỏ gần Dĩnh Đô cũng có vài chấm đỏ, như các ngôi sao bao bọc xung quanh mặt trăng ở giữa là Dĩnh Đô vậy. Các tướng có mặt trên đại điện đều là tướng lĩnh thân thuộc của Cơ Quang, họ vừa nhìn thấy tuyến đường đỏ chót vẽ từ Dĩnh Đô ra ngoài thì đã hiểu đó chính là đường rút quân về Ngô mà Ngô vương Hạp Lư quyết định.

Ngũ Tử Tử cất cao giọng: "Các tướng xem cho rõ, đám quân cần vương của Sở vương một khi tập hợp lại, chắc chắn từ Tùy quốc tiến thẳng sang phía Đông, chủ soái mười phần có tám chín là Phí Vô Cực, cách đánh của hắn chẳng qua chỉ có hai cách là tấn công thành hoặc bao vây, theo tình hình trước mắt, quân số người Sở huy động được có hạn, hơn nữa quân Sở mới bại trận, lòng quân hoang mang, Phí Vô Cực chưa chắc dám chia quân ra bao vây, sợ bị chúng ta tiêu diệt từng cánh quân, vì thế cho dù gặp trường hợp xấu nhất, chúng ta muốn phá vòng vây về nước cũng dễ như trở bàn tay, đấy chính là lí do đại vương muốn mạo hiểm ở lại Dĩnh Đô, Ngũ Viên không ra sức ngăn cản.

Điều duy nhất đáng lo là tâm ý của Khánh Kỵ, hắn định phối hợp với quân Sở giao tranh với quân ta ở đây hay là thừa lúc quân ta chiến đấu với quân Sở lén xua quân về Ngô đánh chiếm Cô Tô thành? Ta phải cẩn trọng chú ý động thái bên Khánh Kỵ, nhưng...mấy vạn binh mã của hắn, muốn điều động cũng không phải chuyện dễ, cho dù muốn xua quân Đông tiến, dọc đường núi non hiểm trở, sông ngòi chằng chịt, chúng chỉ có hai con đường để chọn lựa, trèo đèo vượt suối, san rừng lấp biển, tốc độ hành quân không quá nhanh, nếu như hắn chọn cách đi thuyền men theo Trường Giang, tuy là thuận theo con nước, nhưng Trường Giang quanh co uốn khúc, tính theo tốc độ của thuyền, hắn không thể đi nhanh hơn chúng ta quay về Ngô quốc, hơn nữa ở Ngô có hai vị công tử Phù Khái và Phù Sai chặn địch, chỉ cần chúng ta cẩn thận hành sự, không có gì đáng phải lo ngại.

Trong thành Dĩnh Đô, quân ta đang đóng chủ lực một vạn năm ngàn quân ở đây, ngoài ra tăng cường thêm ba ngàn quân được trang bị nỏ Sở, khoảng tám ngàn quân tù nhân và nô lệ, họ chủ yếu phụ trách việc gia cố thành trì, đào hào sâu và chế tạo cơ giới phòng thủ. Quân số chia ra trấn giữ các con đường trọng yếu là hai vạn quân, các thành trì nhỏ xung quanh Dĩnh Đô có một vạn bốn ngàn quân trấn giữ, Bá dẫn theo ba ngàn quân, tuy quân số ít nhưng đều là quân tinh nhuệ chinh chiến lâu năm trên sa trường, vũ khí sắc bén, giáp trụ đầy đủ, ai cũng được trang bị nỏ mạnh của người Sở, cánh quân mai phục này có tác dụng gây bất ngờ, đợi quân Sở tiến về phía Đông, cánh quân này chính là nhát dao nhọn đâm thẳng vào trái tim người Sở.

Bố phòng như thế, đảm bảo cho quân ta an tâm ở lại đất Sở, trừ khi có gì sơ suất, bằng không quân ta không gì phải lo ngại. Nhưng đại vương thân phận cao quý, liên hệ đến an nguy xã tắc toàn Ngô quốc, giờ đại vương thân tại Sở quốc, tuy mang bên mình mấy vạn hùng sư, cũng nên đề phòng bất trắc. Nhỡ Khánh Kỵ và quân Sở có mưu kế thâm sâu nào ta không đoán ra được, công phá phòng tuyến vững chắc của quân ta, cũng giống như ta thừa lúc người Sở không để ý tiến đánh Dĩnh Đô vậy, lúc đó quân ta phải quyết đoán lập tức rút chạy về nước..."

Nói đến đây, Ngũ Tử Tư ngập ngừng giây lát, Cơ Quang ngắt lời hắn: "Chưa tính đường chiến thắng đã tính đường thất bại, đấy chính là tính thận trọng của tướng quốc. Các tướng đừng nghĩ Khánh Kỵ và quân Sở liên minh hung hăng tiến đánh mà e sợ, số quân địch gấp đôi này không vây khốn quả nhân được đâu. Ngộ nhỡ bọn chúng tấn công bất ngờ, đột kích vào thành, quân ta chưa kịp rút đi, lúc đó cứ làm theo kế của tướng quốc, tập hợp quân tinh nhuệ chạy ra thành Đông, đốt lửa khắp thành ngăn cản quân địch, sau khi ra thành ta lấy chiến xa mở đường, bộ binh theo sau, ở giữa áp giải mười vạn dân đen hiện giờ bị quả nhân bắt chuyển sang ở thành Đông, làm vậy dù là Khánh Kỵ hay quân Sở cũng không dám bỏ mặc đám dân đen này phát động tấn công vào quân ta, phía trước chắc chắn không còn vật cản..."

Các tướng lĩnh thân tại Sở quốc, quả thật có hơi chút lo lắng con đường rút quân, giờ nghe mưu kế độc ác này của Cơ Quang và Ngũ Tử Tư xong, ai nấy vui mừng hớn hở, trong lòng yên tâm phần nào. Ngũ Tử Tư lại chỉ tay lên tấm bản đồ, dừng lại ngay vị trí phía Nam Vân Mộng Trạch, nghiêm nghị: "Tất nhiên, đây chỉ là đề phòng bất trắc thôi, quân Sở và Khánh Kỵ chưa chắc làm gì được quân ta."

Hắn xua tay cho lính thu tấm bản đồ lại, quay người lại nói tiếp: "Bây giờ lại nói đến trường hợp quân ta đánh bại liên quân Khánh Kỵ và quân Sở, bước tiếp theo nên làm thế nào. Giờ này Tề quốc và Tấn quốc đều đã xuất quân, còn lệnh cho các nước phụ thuộc tham chiến, phía ta có Tề, Tấn, Thái, Đường, Đài, Chu, Đằng, Tiết, Kỷ, Huân mười nước giúp sức, còn phía Sở có Tần, Tào, Lỗ, Trần, Vệ, Tống, Trịnh, Thuấn, Hồ, Thẩm, Trần, Hứa và Khánh Kỵ mười ba lộ binh mã tương trợ, các nước như Lữ, Lưu, Phí, Cam, Đơn, Thiệu, Dương, Việt chưa rõ thái độ ngả về phe nào, vẫn đang nghe ngóng chờ thời.

Tề, Tấn là hai nước lớn, quân đội hùng mạnh, nếu hai nước thuận lợi xua quân nam hạ, lúc đó thiên hạ nghe theo, tình thế lập tức thay đổi, các nước chư hầu phe ta chắc chắn làm chủ trung nguyên, chúng ta ở nước Ngô chớp lấy thời cơ mở rộng bờ cõi ra gấp mấy lần, nếu tình hình quả thật phát triển theo hướng ấy, cách bố trí của ta cũng cần kịp thời điều chỉnh..."

Ngũ Tử Tư huyên thuyên không ngớt, chốc chốc Cơ Quang và các tướng lại hỏi hắn vài vấn đề, mọi người bàn luận hết cả buổi sáng, các tướng mới ra khỏi đại điện rời đi, Ngũ Tử Tư theo sau Cơ Quang đi vào hậu cung, lại bàn chi tiết thêm về kế hoạch vạch ra hôm nay hồi lâu, hai người cùng dùng ngự thiện xong, Ngũ Tử Tư cáo lui về phủ.

Một lão thái giám hầu hạ bên cạnh Ngô vương Hạp Lư đi theo hắn định cất tiếng nói gì đó nhưng lại thôi, không ngừng đưa mắt liếc nhìn Ngũ Tử Tư.

Ngũ Tử Tư tuy là mái đầu bạc râm, nhìn có vẻ già hơn tên thái giám kia nhiều, nhưng thật ra hắn chỉ ngoài ba mươi tuổi, tai thính mắt tinh, hành vi của tên thái giám lập tức bị hắn phát hiện, Ngũ Tử Tư giả đò không nhận thấy, cứ bước đến trước tiền điện, lúc này phía trước đã có thị vệ quân Ngô canh giữ, theo quy định thái giám cung nữ trong hoàng cung không được bước vào đó, Ngũ Tử Tư dừng bước, quay đầu lại nhìn tên thái giám già mặt đầy nết nhăn hỏi: "Nhạn, ngươi có gì muốn nói với ta ư?"

Thì ra tên thái giám này vốn là chỗ quen biết với Ngũ Tử Tư, khi xưa Ngũ Tử Tư còn làm quan ở Sở, Ngũ gia là trọng thần Sở quốc, phụ thân hắn hay ra vào hoàng cung, dẫn theo Ngũ Tử Tư nên hắn và tên thái giám hầu hạ Sở vương này đã quen biết nhau từ đó.

"Tướng quốc đại nhân..." Tên thái giám già này khom lưng nói giọng ồ ồ: "Nhạn có mấy câu muốn nói với đại nhân."

"Chuyện gì thế?"

"Đại nhân vốn là người Sở, tổ tiên của đại nhân mấy đời ra sức vì nước Sở, trong thành Dĩnh Đô có bao nhiêu gia đình từng là bằng hữu của Ngũ gia. Đại nhân...đại nhân sao lại có thể nghĩ ra mưu kế độc ác này, lấy thường dân vô tội của Sở quốc làm lá chắn thoát thân, bắt họ làm vật thế mạng trên chiến trường chứ?"

Ngũ Tử Tư trừng mắt, bước lên một bước, tức giận hét lên: "To gan, ngươi dám nghe lén kế hoạch của ta và đại vương hả?"

Tên thái giám già tên Nhạn cười khổ, lọm khọm nói nhỏ: "Nhạn...không dám, Nhạn ở trong cung chỉ là tên thái giám nhỏ hầu hạ người khác, có ai xem Nhạn là con người đâu? Đại nhân và Ngô vương uống rượu nói chuyện to tiếng với nhau, Nhạn đứng bên dưới hầu hạ, không hề nghe Ngô vương và đại nhân bảo lui ra. Nếu đại nhân sợ Nhạn để lộ tin tức, bây giờ xin cứ giết Nhạn đi là xong."

Ngũ Tử Tử nắm chặt bảo kiếm, lạnh lùng: "Giết ngươi thì có ích gì? Ngươi ra khỏi hoàng cung được sao? Nếu có ngày cần dùng đến kế sách ấy, Ngũ Tử Tư ta sợ gì người khắp thiên hạ biết đó là mưu kế do ta bày ra."

Nhạn lắc đầu nguầy nguậy: "Đại nhân vì muốn trả mối thù gia tộc, dẫn quân đánh về Sở quốc, đuổi Sở vương, hãm hiếp Sở nữ, cướp bóc của cải Sở quốc, giết tướng sĩ của Sở, quất roi vào xác tiên vương, làm bao nhiêu chuyện, cho dù là có thù sâu tựa biển cũng phải nguôi giận rồi chứ... Đốt trụi Dĩnh Đô, đem mười vạn dân thường vô tội ra làm lá chắn, đại nhân có biết...đó đều là người già trẻ nhỏ? Hành động tàn ác như thế, đại nhân quả thật nhẫn tâm thế này sao?"

Ngũ Tử Tư im lặng giây lát, ngửa mặt lên trời cười to ba tiếng, hai mắt rực lửa, lạnh lùng trừng mắt nhìn vào thái giám Nhạn: "Ngũ Viên lúc làm người Sở, nhà tan cửa nát, người Sở có ơn gì với ta nào? Bây giờ Ngũ Viên chỉ còn một thân một mình, đều do Sở quốc mang đến cho ta! Ta ra sức giúp Ngô vương, chinh chiến thảo phạt Sở quốc sao lại cho phép có tình riêng ở đây? Ta không có gì phải day dứt trong lòng cả!"

"Ông..." Thái giám Nhạn tức giận sôi gan, Ngũ Tử Tư phất tay một cái, quay lưng bỏ đi.

Thái giám Nhạn đuổi theo hai bước, dõi theo bóng dáng Ngũ Tử Tư từ từ đi khỏi, dậm chân mấy cái, rầu rĩ: "Ta đã sớm biết có nói ra cũng không ích gì, Ngũ tướng quốc giờ đây đã khác xa nhị công tử nhiệt tình đôn hậu ngày trước. Ngươi nếu hãy còn nhân tính, sao lại giết chết gã ngư phu chở ngươi qua sông và cô gái tiếp tế cơm nước cho ngươi để diệt khẩu, còn nói họ là tự vẫn mà chết, ngươi giấu được cả thiên hạ, không qua mắt được người Sở, không qua mắt được lão già này đâu, khi xưa ngươi chỉ là một tiểu tử ở Ngũ gia, một công tử chỉ biết ăn chơi, có ân đức gì mà bắt gã ngư phu và cô thôn nữ phải hy sinh vì ngươi..."

Hắn quay đầu bước chầm chậm, nhủ thầm: "Làm nhiều điều ác, Ngũ Viên ơi là Ngũ Viên, trời cao có mắt, ngươi sẽ không có kết cục tốt đẹp gì đâu!"

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 192: Giao chiến (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Tàn dương như máu, soi rọi xuống mặt đất bao la, một màu nắng đỏ rực ảm đạm.

Một thiếu niên mặc áo lông trắng, đứng trên bức tường thành cũ kĩ, ánh mắt dõi về phương Nam, im lặng như một bức tượng, hồi lâu không thốt lên lời nào.

Những bậc thang cao cao trải dài từ trên tường thành xuống tận mặt đất, khắp nơi phủ một lớp tuyết dày cộm không bị ai quét dọn, hai viên quan dẫn theo mấy tên cung bộc mặc áo ấm đứng hầu ở đó dưới cơn gió lạnh cắt da cắt thịt.

Một viên quan già mặc lễ phục cũ xưa chốc chốc lại dậm chân hít hà phà hơi ấm vào hai lòng bàn tay, quay qua nói nhỏ với viên quan kia xem ra tuổi tác còn già hơn hắn: "Thiếu Doãn đại nhân, mặt trời xuống núi rồi, thời tiết càng ngày càng lạnh, hay là...khuyên thiên tử về cung thôi, nếu ngài vì cái lạnh ngã bệnh thì nguy, chúng ta sao gánh vác trách nhiệm?"

Lão quan già nua kế bên thở dài một tiếng, hắn đúng là quá già rồi, đến nỗi phải nhờ một cung bộc dìu lấy mới đứng cho vững được, khi hắn thở dài, những nết nhăn trên mặt trơ ra như đá, không hề động đậy.

"Bá Tư đại nhân, cứ để thiên tử yên tĩnh thêm chút nữa. Tin tức hôm nay khiến ngài vô cùng thất vọng, trong lòng ngài khó chịu lắm đây. Hừ, những ngày này thiên tử cứ trông ngóng phía bên Sở quốc có tin tốt truyền về, không ngờ lại đợi được tin này, thiên tử còn nhỏ tuổi, sao chịu được cú sốc lớn này chứ?"

Hai lão quan già lại thở dài chán nản, ngẩng đầu lên trông theo Chu thiên tử Cơ đang đứng cô đơn một mình trên tường thành cao chót vót, phía sau lưng họ là hoàng cung xưa cũ lâu ngày không được chỉnh trang, nay đã u ám tàn tạ. Lâu lâu mới có một vài cung nữ và thái giám đi lại trên con đường vắng vẻ trong cung, cứ như hai lão già đang đứng dưới chân tường, khắp nơi đây nhuốm một màu vắng lặng buồn tẻ.

Chu thiên tử Cơ đứng trên tường thành hoàng cung Lạc Ấp, nhìn xuống tòa thành Lạc Ấp không còn chút sinh khí này, sau đó ánh mắt từ từ dõi xuống phương Nam, nhìn vào phía chân trời xa xa, cũng thở dài ngao ngán. Những ngày này hắn cứ mong chờ được một tin tốt gì đó, chờ đợi tin báo thích sát Sở vương thành công truyền về, kết quả lại là tướng quân Sở quốc Tử Kỳ thế mạng, Cơ cảm thấy vô cùng thất vọng.

Sở vương khinh thường quyền uy của Chu thiên tử, tự lập lấy vương hiệu, làm tấm gương xấu cho những nước Ngô, Việt noi theo, đồng thời liên kết các nước chư hầu phía nam Trường Giang, thế lực không ngừng mở rộng sang phương Bắc, nanh vuốt của Sở quốc nay đã giương tới những địa phương cách Lạc Ấp không quá hai trăm dặm, thành mối họa lớn đe dọa thiên tử. Ngô quốc tiến đánh vào Dĩnh Đô, đánh cho Sở quốc ngạo mạn một trận tơi bời hoa lá, nếu bây giờ Sở vương mà chết, Sở quốc quần long vô thủ, chư hầu phương nam tranh đoạt lãnh thổ của Sở, cứ thế chinh chiến tiêu hao lực lượng lẫn nhau, sẽ không còn quan tâm việc xâm lấn về phương Bắc nữa. Các nước chư hầu Chu thất phương Bắc lại còn thừa dịp đánh trả về phương Nam, diệt trừ mối họa lớn này triệt để, thế mà giờ đây tất cả tan theo mây khói rồi.

Chu thiên tử lại thở dài, ánh mắt quay sang hướng Tây Bắc, hai bàn tay lạnh cóng xoa xoa vào nhau tìm chút hơi ấm. Hướng Tây Bắc, là lãnh thổ Tấn quốc, giờ chỉ còn đặt hết hy vọng vào Tấn quốc thôi, mong sao Tấn quốc nhân cơ hội này xuất quân chinh phạt, bình định tên chư hầu man di Sở quốc không chịu thần phục hoàng thất họ Chu này.

Lúc này, đại quân của Tấn quốc đã xua quân nam hạ, nhưng vừa mới đi được một ngày đường, liền bị Triệu Giản Tử phái tín sứ đuổi kịp, thay đổi mệnh lệnh. Từ nam hạ đổi thành đông chinh, vì đại quân hai nước Vệ và Tống đã áp sát biên giới Tấn, Vệ. Phía biên giới Tấn, Trịnh cũng thấy quân Trịnh không ngừng điều động gia tăng quân số, hình như đang mưu toan xâm lược. Lúc này Triệu Giản Tử không dám mạo hiểm xua quân nam hạ, đề phòng Vệ, Tống thừa cơ đánh lén, chỉ còn cách phái người ngăn cản cánh quân nam hạ, quyết định chuyển qua đánh bại liên quân Vệ, Tống trước, đồng thời trấn áp Trịnh quốc rồi tính sau.

Mạnh môn. Liên quân Tống, Vệ đang gấp rút xây chiến hào, đặt doanh trại. Liên quân hai nước chia làm thế gọng kiềm hạ trại hai bên, cách nhau chỉ có vài dặm, chiến kì hai nước phấp phới dưới cơn gió lạnh, các đội binh sĩ hấp tấp qua lại không ngớt, một bầu không khí khẩn trương khi chiến sự sắp nổ ra.

Cách đó một con sông nhỏ, đội quân tiên phong của Tấn và quân đội của Vệ Tống nhìn rõ mặt nhau, doanh trại của quân Tấn cũng đang vội vàng dựng lên, ba đạo quân chỉ cách nhau có mấy dặm. Đại quân của Vệ do Tề Báo làm chủ soái, Công Tôn Bạt làm phó soái, Công Tử Triều làm tiên phong, ba người gấp gáp thị sát quân doanh, đứng ở nơi cao quan sát doanh trại quân Tấn đằng xa.

Cánh quân Tấn tiên phong này doanh trại chen chúc, nhìn vào không thấy giới hạn, ước chừng ít nhất cũng có một vạn năm ngàn quân, ba người chỉ tay về hướng đại doanh quân Tấn, thảo luận phương án tấn công, quyết định được một phương án rồi, sau đó Tề Báo dẫn theo hai người đi về phía doanh trại quân Tống, cùng đại soái thống quân Tống quốc Hiên Viên Hành bàn bạc kế hoạch ứng chiến.

Hiên Viên Hành cũng vừa mới đi thị sát xong doanh trại về, còn chưa kịp cởi áo giáp, nghe báo là chủ soái của quân Vệ đến đây, vội vàng ra đón tiếp ba người vào trong lều bàn chuyện.

Tề Báo giữ chức chủ soái quân Vệ, Công Tôn Bạt làm phó soái, Công Tử Triều làm tiên phong, việc này cũng từng xảy ra tranh chấp kịch liệt trên đại điện Vệ quốc. Mới đầu tuy đám đại thần có quyền lực như Bắc Cung Hỉ hô hào ủng hộ Tề Báo làm chủ soái, nhưng Vệ hầu Cơ Nguyên rốt cuộc không chịu giao binh quyền cho Tề Báo, vì chuyện này các phe cánh cãi nhau nảy lửa, việc xuất quân sém chút tan thành bọt nước.

Lúc này đại quân Tống quốc đã đến, Vệ phu nhân Nam Tử đích thân dẫn đại quân về Đế Khâu, Vệ hầu Cơ Nguyên nghe tin vội dẫn theo văn võ bá quan ra nghênh đón phu nhân, đưa nàng và đại quân Tống quốc đón vào Đế Khâu, lần này dẫn quân về giúp đỡ, Vệ phu nhân Nam Tử có công to lớn, vì thân phận đặc thù của nàng, và địa vị đặc thù trong mối liên minh Tống, Vệ, nên tiếng nói của nàng có ý nghĩa quyết định.

Vệ hầu Cơ Nguyên và Nam Tử bàn bạc riêng một hồi, lại truyền lệnh thượng triều, đồng ý kiến nghị cho Tề Báo làm chủ soái thống lĩnh quân Vệ, nhưng lại kèm theo một điều kiện: đưa Công Tử Triều lên giữ chức tiên phong, tất cả cấm quân thuộc hữu quân dưới trướng Công Tử Triều toàn bộ được đưa cả vào cánh quân tiên phong, điều sang chiến đấu ở biên giới Vệ, Tấn.

Tề Báo quá đỗi vui mừng vì được nắm giữ binh quyền, mà Bắc Cung Hỉ có nghĩ đến tuy làm vậy họ sẽ mất đi lực lượng cấm vệ có thể trực tiếp khống chế Vệ hầu, nhưng giờ đây toàn bộ binh quyền đã nằm trong tay, đối với họ mà nói mức độ an toàn cao hơn việc nắm giữ một nửa lực lượng cung vệ, cho nên mặc kệ Công Tử Triều ra sức phản đối, cứ nhận lời thay hắn luôn. Không ngờ Vệ hầu lại ra lệnh cho Công Tôn Bạt làm phó soái, cánh quân chủ lực của đại quân Vệ quốc lại được xây dựng bằng người ngựa của Công Tôn Bạt, Cừ Bá Ngọc dẫn vào Đế Khâu hồi trước, làm vậy chẳng khác nào giám sát chặt bọn Tề Báo, sợ hắn chiếm dụng quân đội mưu đồ phản loạn.

Giờ đây chủ soái, phó soái, tướng quân tiên phong của quân Vệ bề ngoài ra vẻ đoàn kết một lòng, sau lưng lại không tránh khỏi mưu tính quyền lợi riêng, chỉ là kẻ địch trước mắt, họ đều là người thông minh, chưa ngốc đến nỗi tàn sát lẫn nhau trước sự đe dọa của quân Tấn mà thôi.

Tề Báo nói: "Nguyên soái Hiên Viên, chúng ta vừa quan sát xong tình hình quân Tấn, nghĩ ra một cách phối hợp tấn công quân địch, nay định bàn bạc với nguyên soái coi sao."

"Hô hô, thế thì tốt quá, Hành cũng định qua mời ba vị tướng quân đến đây cùng bàn đại sự, nào nào, thời tiết lạnh lẽo, chúng ta vào lều ngồi cho ấm rồi hãy từ từ bàn bạc."

Hiên Viên Hành nói xong liếc mắt về phía Công Tử Triều, hai người là chỗ quen biết khi Tử Triều còn ở Tống, tuy quan hệ giữa họ không được thân thiết lắm, nhưng cũng không phải kẻ thù của nhau, nhưng giờ đây Công Tử Triều đang tối sầm mặt, ánh mắt láo liên không biết đang suy tính việc gì, không thèm chào hỏi người quen cũ một câu.

Hiên Viên Hành chớp chớp mắt, trong đầu vang lên những lời dặn dò bí mật của Nam Tử trước lúc hắn dẫn đại quân lên đường: "Lần này đi sang biên giới Vệ, Tấn, tướng soái quân Vệ bất hòa, đây chính là kết quả tranh đoạt quyền lợi giữa hai phe cánh trong triều đình Vệ quốc, biết chắc là bất lợi cho chiến sự, nhưng cũng không thể không sắp xếp thế này, trận đầu tiên có thể quân ta sẽ gặp bất lợi, nhưng nội loạn đáng lo hơn kẻ địch bên ngoài, một khi thua trận, Vệ hầu có thể nhân cơ hội trị tội Tề Báo, diệt trừ mối đe dọa này, cái này là mượn tay kẻ địch bình định nội loạn, lúc đó Vệ hầu sẽ hạ lệnh cho ngươi thống lĩnh hết liên quân hai nước tái chiến với quân Tấn, ngươi hành sự phải cẩn thận, giữ gìn lực lượng sau này dùng đến."

"Mạc tướng tuân lệnh."

"Còn việc này..."

"Mời công chúa cứ nói."

"Hiên Viên tướng quân, Tử Triều mang nặng dã tâm, lúc ở Tống quốc của ta đã lôi kéo phe cánh, lập mưu nắm giữ triều cương, sau đó trốn sang Vệ quốc, lại nói ngon nói ngọt lấy lòng thương hại của bổn công chúa, lừa lấy lòng tin của ta, giờ có chốn dung thân ở Vệ, hắn cấu kết với bọn gian thần Tề Báo, Bắc Cung Hỉ, mưu đồ khống chế chính sự Vệ quốc, có người này ở đây, hai nước Vệ, Tống không có tháng ngày yên ổn, hắn lấy thân phận là công tử Tống quốc, nếu gây ra chuyện gì bất lợi cho Vệ hầu, không chỉ hại đến uy tín của bổn công chúa, còn gây bất lợi cho mối liên minh mấy trăm năm của hai nước Vệ, Tống. Ý của quốc quân Vệ hầu và ta là..., tìm cơ hội nào đó, ngươi diệt tên Tử Triều này đi, khi Tề Báo, Tử Triều chết đi, Công Tôn Bạt không còn bị hai tên này chế ngự, sẽ thống lĩnh đại quân Vệ quốc, sát cánh cùng tướng quân chống lại kẻ địch quân Tấn."

"Công chúa yên tâm, mạc tướng đã ghi nhớ rồi ạ."

Nghĩ đến đây, Hiên Viên Hành khoái chí mỉm cười, lại đưa mắt liếc nhìn Công Tử Triều một cái.

Công Tử Triều lòng đầy tâm sự, từ khi hắn bị điều ra tiền tuyến, hắn đã biết ý Nam Tử muốn ra tay với hắn rồi. Hồi trước đắc tội với Nam Tử, hắn không thể nào không chịu nhục đưa thân ra mua vui cho Vệ hầu, hy vọng được Vệ hầu giữ cho tính mạng, củng cố địa vị ở Vệ quốc. Không ngờ Vệ hầu Cơ Nguyên hận hắn bắn chết huynh trưởng Công Mạnh Trập, giờ lại nghe theo lời Nam Tử, đem hắn ra làm vật hy sinh nơi trận tiền.

Suốt dọc đường hành quân Công Tử Triều ray rứt không yên, hắn không biết Nam Tử đã nhờ cậy Hiên Viên Hành hay là Công Tôn Bạt, cũng có thể là một tên lính nào đó trong quân đội làm thích khách, càng không biết bọn Tề Báo, Bắc Cung Hỉ có bán đứng hắn hùa theo Nam Tử và Vệ hầu âm mưu hại hắn không? Giờ đây Công Tử Triều ăn không ngon ngủ không yên, ngay cả gió rít chim kêu cũng giật mình sợ hãi, tâm thần hoảng loạn.

Công Tử Triều cúi đầu rầu rĩ theo sau mọi người bước vào trong lều, ngồi xuống mơ mơ màng màng trầm tư một mình, đột nhiên nghe tiếng đập bàn cái rầm, hắn giật mình hoảng hốt, chỉ nghe Viên Hiên Hành nói lớn: "Tốt! Quân ta chia làm hai cánh trái phải, thừa lúc quân chủ lực của Tấn chưa đến đánh phủ đầu cho chúng mất hết nhuệ khí. Tử Triều tướng quân, ngài có ý kiến gì?"

"Hả? À được đấy, rất hay! Tử Triều đồng ý...cứ nghe theo ý kiến của các tướng quân." Công Tử Triều như bừng tỉnh sau giấc mộng, lắp bắp trả lời.

Hiên Viên Hành vuốt râu, nhướng mày: "Tốt, nếu tất cả mọi người đều đồng ý làm vậy, chúng ta cứ tiến hành thôi. Người đâu, mang bản đồ lại đây, chúng ta bàn chi tiết hơn về kế hoạch tác chiến sắp tới nào!"

Lều chỉ huy của Hiên Viên Hành vừa mới dựng xong, bản đồ chưa được treo lên, hai tên lính cung kính bước vào trải tấm bản đồ rộng ra, các tướng đều bước về phía tấm bản đồ bàn bạc, Công Tử Triều cũng ngơ ngác theo sau, tâm trí hắn lại nhớ về quá khứ trong hoàng cung Đế Khâu...

Hắn mặc một chiếc áo bào trắng, khí khái ung dung, tay cầm cây tiêu bằng tre, đi qua đi lại ở khu vườn thượng uyển, Nam Tử mặt mày tươi tắn, mỉm cười quyến rũ xuất hiện, ánh mắt nàng là tình yêu say đắm và niềm vui kinh ngạc, đó chính là cảnh hắn vừa chạy từ Tống quốc sang Vệ. Bên tai Tử Triều ong ong, các tướng lĩnh đang luận bàn kế hoạch tấn công quân Tấn, âm thanh hỗn tạp lao xao, bọn họ đang nói gì Tử Triều không nghe thấy câu nào cả.

"Ta...rốt cuộc muốn có được gì chứ?" Công Tử Triều tự hỏi trong lòng, nhớ về quá khứ sâu thẳm trong tim, nhớ về Nam Tử, trong lòng trống trải...

"Thùng thùng thùng......" một hồi trống vang lên lanh lảnh, mây lửng lờ trôi, gió rít mạnh từng cơn. Phía trận địa của Khánh Kỵ bày ra năm mươi chiến xa, một ngàn cung thủ, hai ngàn kiếm thủ, hai ngàn trường mâu thủ, sau lưng là núi cao và sơn cốc hiểm trở, dàn trận chuẩn bị nghênh chiến.

Phía bên kia trên một chiếc chiến xa, cắm cây cờ ghi chữ "Hùng" to tướng, Vương Tôn Hùng râu ria khắp mặt đang uy nghi cầm kích đeo kiếm đứng trên đó.

Khánh Kỵ khẽ nhíu mày, tự nhủ: "Lạ nhỉ? Vương Tôn Hùng dẫn quân đến đây lại không tấn công thành trì, chỉ bày trận ra ngoài sơn cốc, ý hắn muốn thế nào đây?"

A Cừu ngồi trên xe, chỉ mặc áo giáp thân trên, bên dưới chỉ là tấm áo vải thô, đeo kiếm ngang hông, trong tay không cầm vũ khí, đang nắm lấy dây cương của bốn con chiến mã phía trước, cười ha hả: "Công tử, còn phải hỏi sao? Tên cẩu tặc Cơ Quang khiếp sợ uy danh của công tử, đâu dám bén mảng tới thành trì của ta chuốc lấy thất bại."

A Cừu là người điều khiển chiến xa, đừng xem thường hắn chỉ lái chiến xa, thật ra hắn mới là người quan trọng nhất trên đó, một khi đại chiến bắt đầu, hắn phải điều khiển cho tốt cùng lúc mấy con chiến mã, tai phải nghe rõ hiệu lệnh tiến quân rút quân, mắt luôn quan sát diễn biến tình hình trên chiến trường, tránh việc chiến xa đi sâu vào trận địa quân địch không trở ra được, hơn nữa lại không cầm được vũ khí dài hộ thân, vừa vất vả vừa nguy hiểm vô cùng.

Hai phía trái phải Khánh Kỵ đang đứng hai người, bên trái là một thần tiễn thủ, toàn thân mặc giáp, chỉ chừa vai phải ra, tay cầm cung, vai đeo một túi đựng đầy tên, bên phải là Tái Cừu, mặc giáp cầm song kích, phía sau chiến xa không chở theo trống bự, chiếc chiến xa này là để xông pha giết giặc chứ không phải dùng chỉ huy toàn quân.

Khánh Kỵ lắc đầu nguầy nguậy: "Đừng nói bậy, Vương Tôn Hùng trung thành tuyệt đối với Cơ Quang, hơn nữa phiêu dũng thiện chiến, nếu chỉ xét vũ lực cá nhân, hắn không là đối thủ của ta, nhưng chỉ huy quân đội tác chiến, hắn chưa chắc kém ta phần nào đâu. Vương Tôn Hùng dẫn quân đến đây chắc có dụng ý nào đó."

Tái Cừu kế bên ngạo mạn lên tiếng: "Mặc kệ hắn có dụng ý gì, hắn không tấn công thì chúng ta đánh qua đó, đánh cho hắn tan tác, lúc đó dụng ý gì cũng tiêu tùng."

Khánh Kỵ cười ha hả, nhíu mày nói: "Tái Cừu à, con người ngươi suy nghĩ đơn giản, nhưng lại là một ý kiến hay. Nếu đã không đoán ra hắn đang có dụng ý gì, chúng ta không đoán nữa, cứ đánh bại hắn rồi tính. Cơ Quang đã ban lệnh xuống, ai giao chiến với Khánh Kỵ ta mà rút lui bỏ chạy, chém! Buông vũ khí đầu hàng, giết cả nhà, nên trận chiến này sẽ ác liệt lắm đây, các ngươi hãy cẩn thận."

A Cừu nắm chặt dây cương trong tay, lớn tiếng: "Công tử yên tâm, ra lệnh tấn công đi!"

Khánh Kỵ phất tấm áo khoác ra sau lưng, hét lớn: "Tấn công!"

Trên một ngọn núi, Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man đang đứng sát vai nhau theo dõi trận chiến dưới kia, sau lưng hai nàng là hai tì nữ mới tuyển lựa trong tòa thành chiếm được, hai tì nữ cùng ôm một chiếc đàn, cũng dõi mắt về phía dưới núi. Tuy gió lạnh rít mạnh bên người, Thúc Tôn Diêu Quang lại nắm chặt bàn tay đang không ngừng tuôn chảy mồ hôi, miệng lải nhải oán trách: "Thân là chủ tướng, lại đích thân ra trận, bắt chúng ta gảy đàn thổi sáo ở đây, nhìn chàng giết giặc. Thật là tức chết đi được, người ta đang lo lắng, tâm trí nào mà gảy đàn chứ?"

Quý Tôn Tiểu Man đang xoay xoay một cây tiêu bằng ngọc xanh trên tay, lại đang háo hức theo dõi trận chiến, xem ra có vẻ thích thú lắm. Động tác Khánh Kỵ phất áo choàng về phía sau bị nàng nhìn thấy, cất tiếng khen ngợi: "Oa! Động tác này oai phong lẫm liệt, thật là mê người."

Thúc Tôn Diêu Quang trừng mắt nhìn Tiểu Man, hét lên: "Đừng làm ồn, sắp tấn công rồi đó, chàng thân làm chủ soái lại đích thân dẫn quân ra trận, thật khiến người ta lo lắng."

Quý Tôn Tiểu Man liếc Diêu Quang một cái, châm chọc: "Chuyện này cũng không biết sao? Đây là trận đầu tiên Khánh Kỵ giao chiến chính diện với quân Ngô, năm ngoái Khánh Kỵ bại trận ở Đại Giang, uy danh bị tổn hại, một năm trôi qua, tướng sĩ quân Ngô càng lúc càng ít sợ hắn hơn, người Ngô không còn e sợ, sau này hắn xua quân phạt Ngô không biết phải phí bao nhiêu sức lực, chết thêm bao nhiêu tướng sĩ, trận chiến này hắn đích thân dẫn quân ra trận, nếu đánh cho quân địch thua chạy tan tác, có thể gầy dựng lại uy danh bất khả chiến bại của hắn trong mắt người Ngô, rất có lợi cho chiến sự sau này."

"Hứ, công nhận là cô cũng có chút hiểu biết đó."

Quý Tôn Tiểu Man cười đắc ý, chắp tay: "Quá khen, quá khen, không dám nhận, không dám nhận, ta cũng chỉ nghe Kinh tướng quân nói lại thế thôi."

Thúc Tôn Diêu Quang nghe xong cảm thấy tức tối, nàng hứ một tiếng rõ to: "Cũng không tệ, cô không chiếm lấy công lao về phía mình."

Lúc này dưới núi tiếng hò hét vang lên, đại quân của Khánh Kỵ bắt đầu lao lên phía trước, chiếc xa lướt đi băng băng, bụi bay mịt mù, đứng trên núi nhìn xa xa xuống dưới, cứ như một đội thiên binh đang cưỡi mây lướt gió tiến lên.

Thúc Tôn Diêu Quang hồi hộp bấu chặt cánh tay của Quý Tôn Tiểu Man, toàn thân run lên, la lên liên hồi: "Giao chiến rồi, giao chiến rồi, ối, cẩn thận chứ! Sao lại phải lao ra tận phía trước, nguy hiểm quá, sợ quá, cái tên A Cừu đáng chết này, sao lại lao nhanh thế không biết, chiến xa hai bên không theo kịp rồi kìa."

Quý Tôn Tiểu Man bị bấu vào tay đau điếng, hét lên: "Này, cô bấu ta đau quá, có gì mà phải lo lắng, cô lần đầu thấy người ta đánh trận à, sao sợ đến nỗi trắng bệch ra rồi?"

Thúc Tôn Diêu Quang giờ mới phát hiện ra mình đang bấu chặt tay Tiểu Man, vội hất tay Tiểu Man ra trách cứ: "Cô không có tình cảm gì cả, lúc ở Ngải thành chúng ta đã nói gì nào? Đuổi cô đi thì không chịu đi, còn tưởng là cô thích chàng lắm, bây giờ chàng xông pha trận mạc, sao không thấy cô có chút lo lắng nào hết vậy? Hứ, ta hiểu rồi, dù sao cô và chàng cũng đâu có hôn ước, nếu chàng có mệnh hệ nào, cô mặc kệ cứ đi lấy người khác đúng vậy không?"

Quý Tôn Tiểu Man thương hại nhìn vào Diêu Quang, lắc đầu nguầy nguậy: "Thật không hiểu cô lo lắng cái gì, hắn là ai kia chứ? Đệ nhất dũng sĩ Ngô quốc đấy! Hắn là Khánh Kỵ chạy nhanh hơn ngựa, nhảy lên túm được chim bay, sức mạnh quật ngã bò tót, hắn ra chiến trường giết giặc có gì mà phải lo lắng, ai chết cũng không đến lượt hắn đâu, hứ bậy quá, không nói đến chết chóc ở đây. Cô đó, làm ta rối cả lên, ta có...lòng tin với hắn."

Thúc Tôn Diêu Quang trợn tròn đôi mắt, nhìn vào cô bé Tiểu Man đang ngưỡng mộ sùng bái Khánh Kỵ, sau đó lại dõi mắt theo dõi trận chiến dưới kia, tiếng thét vang trời, bụi bay mù mịt, tên bắn như mưa.

Tiểu Man hét lên: "Hứ, điên thật, tên Vương Tôn Hùng đó dám chạy xe lên đơn đả độc đấu với Khánh Kỵ à?"

Ánh mắt của Thúc Tôn Diêu Quang không hề muốn rời khỏi bóng dáng Khánh Kỵ, nhưng nàng quay đầu nhìn theo hướng của Quý Tôn Tiểu Man, chỉ thấy Vương Tôn Hùng đang cầm mâu xông thẳng về phía Khánh Kỵ...

Khánh Kỵ và Vương Tôn Hùng uy nghi đứng trên chiến xa, trừng mắt nhìn nhau, hai người đều mặc giáp da, trên đầu đội mũ giáp bằng đồng, tay cầm trường mâu sắc nhọn, sau lưng hai người bụi bay mịt mù, từng hàng chiến xa điên tiết lao vào nhau.

Chiến xa hai bên tuy lao nhanh về trước, nhưng cũng lấy chiến xa của chủ soái làm trung tâm, tạo thành một đội hình tấn công hình chóp, khoảng cách được thu ngắn lại, khi hai bên chỉ còn cách nhau không quá mười trượng, một trận mưa tên vù vù xé gió bắn vào nhau.

Quân của Khánh Kỵ chiếm giữ vị trí phía Bắc, giờ đang thuận gió, thêm vào đó giữa khe núi sức gió thổi mạnh, tất cả tên bắn ra đều bay xa hơn mạnh hơn phía quân Ngô, sau một trận mưa tên, rất nhiều binh sĩ ngã xuống tử trận.

"Đỡ khiên!" Khánh Kỵ hét lớn ra lệnh, sau chiến xa của hắn các kiếm thủ đồng loạt giơ khiên lên, các tấm khiên được bọc bằng da, tạo thành tấm chắn vững chắc đỡ lấy tên từ phía quân Ngô bắn qua, phía trước đội chiến xa dàn hàng ngang tăng tốc lao nhanh, đồng thời các binh sĩ trên đó dùng binh khí trên tay gạt tên bắn tới.

Chiến xa càng lúc càng gần, chiến mã hí vang, hai bên ập vào nhau...

"Đỡ!" Khánh Kỵ và Vương Tôn Hùng hét lên gần như cùng lúc, tay lăm lăm trường mâu.

A Cừu vận sức vào hai vai, cầm cương quất mạnh vào mông bốn con ngựa chiến, ngựa chiến lồng lên lướt qua chiến xa phe địch, Tái Cừu nhổ lấy một cây trường mâu cắm trên xe, quét thành một vòng tròn lấy thế, chém về phía tên lính Ngô đang điều khiển chiến xa bên kia. Khi hai chiếc chiến xa lướt qua nhau, Khánh Kỵ và Vương Tôn Hùng cùng lúc giơ trường mâu lên, hét to một tiếng, đâm một nhát mạnh về phía đối phương...

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 193: Huyết chiến sa trường (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

"Keng! Chát!" Hai tiếng khô khốc vang dội, hai thanh trường mâu chạm nhau tóe lửa, hai chiếc chiến xa đã xẹt qua, tuy mới giao chiến có một hiệp, Vương Tôn Hùng hai chân run rẩy, lảo đảo đứng không vững trên xe, vội đưa tay bấu chặt thanh gỗ thế mới đứng thẳng được, cánh tay tê tái đau nhói từng chập.

"Lao nhọn!"

Khánh Kỵ và Vương Tôn Hùng lại cùng lúc hét lớn, Tái Cừu cắm lại thanh trường mâu trên tay lên xe, nhổ ra một cây lao dài gần sáu thước, cán tròn như trứng, chĩa từ phía sau hướng về trước, đầu mũi lao sắc nhọn chỉ thẳng vào hàng binh sĩ cầm đoản kiếm đang đỡ khiên theo sau sát chiến xa quân Ngô.

Từ trên đồi cao nhìn xuống, chiến xa hai bên cuốn tung một lớp bụi mù mịt, nhìn như một cơn sóng khổng lồ, gầm thét dữ tợn ập vào phía đối phương, khi chiến xa hai bên từng chiếc từng chiếc lướt qua nhau, cứ như hai luồng sóng lớn đập mạnh vào nhau, bọt sóng bật tung tóe lên cao, trong con sóng mờ mờ ảo ảo ẩn hiện từng lớp chiến xa, từng hàng chiến sĩ, như một dãy đá ngầm nhô lên giữa sóng biển mênh mông.

Hai con sóng va mạnh vào nhau, máu tươi bắn ra nhuộm đỏ cả mặt đất, các binh sĩ đứng trên chiến xa không đâm trúng đối phương bị dính đòn rú lên đau đớn ngã lăn ra, bị chiến xa kéo lê, bị bánh xe nghiền nát, hóa thành mớ thịt bầy nhầy máu me hòa chung với đất đỏ...

Tiếp theo hàng kiếm thủ đụng phải lao nhọn từ chiến xa của đối phương đâm tới, liền bị bật lùi lại mấy mét, dù cho tấm khiên kiên cố thế nào đi nữa, dưới sức công phá từ tốc độ lao nhanh của chiến xa cộng với độ sắc nhọn của cây lao dài, hàng chiến xa va vào hàng kiếm thủ che khiên như cây kim đâm thủng mảnh giấy, các binh sĩ che khiên không phải bị chiến xa hất tung lên trời, thì cả thân người bị lao nhọn đâm xuyên qua ngực lôi theo, rồi sau đó là tên thứ hai, tên thứ ba..., cứ như xiên kẹo hồ lô vậy.

Khi lao nhọn bị chém gãy hoặc chiến xa hết thế lao nhanh không còn tiếp tục đâm tới được nữa, lúc này chiến xa đã lọt vào giữa vòng vây quân địch, bánh xe vẽ theo một vệt máu dài từ từ chạy chậm lại, binh lính trên xe vứt bỏ lao dài, rút kiếm, kích, mâu ra chiến đấu, Khánh Kỵ và Tái Cừu đứng trên xe đâm chém quyết liệt với đám quân Ngô cầm kiếm và trường mâu vây lấy chiến xa. Hàng kiếm thủ và trường mâu thủ bên quân Ngô xông lên huyết chiến với quân chủng cùng loại bên quân của Khánh Kỵ. Khắp chiến trường đều là vang vọng tiếng hò hét xung trận, tiếng giẫm đạp lên nhau, tiếng binh khí va chạm chan chát, tiếng rú lên đau đớn...

A Cừu tập trung điều khiển chiến xa, không ngừng thúc ngựa thay đổi vị trí, chiến xa vừa di chuyển vừa chiến đấu, tránh cho bị bộ binh kẻ địch vây khốn không thoát ra được, đồng thời dáo dác nhìn xung quanh trong thiên binh vạn mã, truy tìm chiến xa của chủ tướng phe địch. Các chiến xa khác bên quân Khánh Kỵ cũng đang cố gắng tiếp cận chủ soái, một mặt chiến đấu với quân địch, một mặt thu ngắn khoảng cách từ từ, tiếp ứng lẫn nhau, tránh bị quân địch tấn công cả trước mặt sau lưng.

Mặc dù là vậy, tấm giáp da dày bốn lớp trên người Khánh Kỵ đã có vài chỗ bị đâm thủng, nhiều vết trầy xướt, may mà có chiến xa hai bên trợ chiến, cung thủ trên xe và Tái Cừu đang điên tiết bắn giết, Khánh Kỵ mới không bị thụ thương. Còn A Cừu điều khiển chiến xa lúc này đã đổi tư thế từ ngồi thành đứng thẳng, một tay giữ chặt dây cương buộc bốn con chiến mã, một tay cầm đoản kiếm, không ngừng "leng keng leng keng" đỡ gạt binh khí của quân địch đâm tới, hai mắt trợn tròn giận dữ, hơi thở phập phù tung cả lọn râu dưới cằm, nhìn bộ dạng còn đáng sợ hơn cả Khánh Kỵ. (Nói thêm: Khi giáp chiến, muốn vô hiệu hóa chiến xa phe địch cách tốt nhất là tiêu diệt người điều khiển xe, vì người điều khiển xe bận đốc thúc ngựa chiến kéo xe, lại không cầm binh khí dài để chiến đấu được, chỉ còn cách cầm đoản kiếm chống đỡ, do đó quân Ngô chủ yếu tập trung tấn công A Cừu, chỉ cần người điều khiển xe bị tiêu diệt, chiến xa không thể chạy tiếp, lúc đó mới bao vây tiêu diệt binh lính trên xe cũng chưa muộn.)

"Phục binh của Lương Hổ Tử đâu rồi, sao giờ này còn chưa xuất hiện?" Thúc Tôn Diêu Quang đứng trên đồi theo dõi trận chiến, dậm chân liên hồi: "Ta phải xuống dưới kia!"

Quý Tôn Tiểu Man điệu đà xoay xoay cây ngọc tiêu trong tay, quay qua hỏi: "Khánh Kỵ dặn chúng ta đứng ở đây xem náo nhiệt, cô xuống núi chẳng lẽ nhìn rõ hơn khi đứng ở đây à?"

Thúc Tôn Diêu Quang nguýt dài: "Đứng xem ở đây, có bằng trực tiếp xuống đó tham chiến rõ hơn không?" Nói xong không chờ Tiểu Man trả lời quay phắt người bỏ đi.

Quý Tôn Tiểu Man chìa môi nhủ thầm: "Hình như cũng có lí, cô cũng không sợ nguy hiểm, chẳng lẽ ta lại sợ?"

Nghĩ vậy Tiểu Man cũng sải bước đuổi theo, hai tì nữ vội ôm đàn bám theo sau.

Khánh Kỵ đứng trên chiến xa, một mặt cầm trường mâu chiến đấu, một mặt đưa mắt quan sát tình hình chiến sự xung quanh. Lúc này binh sĩ hai bên đã lao vào hỗn chiến loạn xạ, tiếng thét của tướng lĩnh không còn nghe rõ được nữa, chỉ dựa vào tiếng trống tiếng chiêng truyền quân lệnh chỉ huy chiến đấu, đám quân Ngô dám liều chết xông vào Khánh Kỵ ít đi thấy rõ, dù sao Khánh Kỵ cũng từng là tướng quân trẻ tuổi oai danh nhất trong quân đội Ngô quốc, với lại hắn có biệt danh "Muôn người khó địch", binh lính của Ngô vừa kính nể vừa sợ hãi trước Khánh Kỵ, giờ không có tướng lĩnh đốc chiến, đều cố tránh chiến xa của Khánh Kỵ ra càng xa càng tốt, chỉ quay sang chém giết với đám binh lính bình thường, nhờ thế Khánh Kỵ được lơi tay quan sát tình hình trên chiến trường.

Binh sĩ đôi bên hỗn chiến loạn xạ, bộ binh còn giữ được đội hình, chiến xa một khi lao thẳng về phía quân địch đều xông vào trận địa bộ binh đối phương, dàn chiến xa trước quân địch đông đúc không thể quay đầu lại, cứ thế mà tiến lên giết địch, lúc này Vương Tôn Hùng đã dẫn đội chiến xa và bộ binh quân Ngô xông vào đến tận hậu trận của Khánh Kỵ, tương tự Khánh Kỵ và chiến xa của mình cũng đang ở hậu trận quân Ngô, ở giữa là bộ binh của hai bên đang giao chiến ác liệt.

"Thời cơ này tốt lắm. Lương Hổ Tử từ trên cao đánh ập xuống, chắc sẽ chiếm trọn ưu thế."

Khánh Kỵ vừa nghĩ đến đấy, phía ngang hông chiến trường vang lên tiếng hò hét xung trận. Hai cánh quân đang giao chiến y như hai con sóng mạnh đập vào nhau, bọt sóng tung tóe, ngay bên bìa rừng bên hông đột nhiên có một cánh quân xông thẳng ra lao vào chỗ tiếp giáp giữa hai ngọn sóng, người đi đầu là độc thủ tướng quân Lương Hổ Tử, tay vung thanh kiếm sáng loáng, hai bên trái phải có hai dũng sĩ cầm mâu theo sát, sau lưng Lương Hổ Tử tiếng gào như sấm, đã có mấy trăm người điên cuồng lao ra từ trong rừng, phía sau còn nhiều người liên tiếp ùa ra không ngớt, chẳng biết được hắn có bao nhiêu binh sĩ mai phục tại đây.

Những binh sĩ này đều dùng binh khí thô sơ, xem giống như một thanh gỗ bự, một đầu được bọc bằng đồng, nhưng binh khí này lạ ở chỗ đầu thanh gỗ bự còn tua tủa những chiếc gai nhọn, không dài lắm, chỉ độ nửa thước, những chiếc gai cũng không sắc lắm, vì quá sắc chạm phải áo giáp sẽ bị gãy, những chiếc gai to bè như ngón tay cái, nếu đập vào người thì chắc lủng một lỗ to, sức sát thương không cần nói cũng hiểu.

Đấy chính là lí do Khánh Kỵ trang bị vũ khí do hắn phát minh riêng này cho đám lính mới tuyển mộ, vì sử dụng vũ khí này không cần tập luyện nhiều, chỉ cần có sức khỏe là được, đại đội lang nha bổng được phát huy tối đa sức chiến đấu nhờ vũ khí, đám tân binh mới tuyển lựa là bọn nông dân khỏe mạnh, nếu không thì là bọn lưu manh vô lại hung hăng, tính kỉ luật, tinh thần hợp tác, kĩ năng chiến đấu đều yếu kém, nhưng nếu lựa chọn binh khí phù hợp, thêm vào tính bất ngờ xông ra khi hai bên đang hỗn chiến, trên tay lại cầm binh khí quái lạ có tác dụng uy hiếp tinh thần địch, mỗi khi lang nha bổng to bự được giơ lên đập xuống, những chiếc gai đồng khoan từng lỗ to trên tấm thân tội nghiệp của quân Ngô, máu thịt văng tung tóe, quân Ngô lập tức hoảng loạn.

Cánh quân này phóng chạy như bay, không ngừng phang lang nha bổng túi bụi vào quân Ngô chắn trước mặt, theo chân Lương Hổ Tử điên cuồng lao lên, chỉ một lúc đã chia tách được người ngựa hai bên đang hỗn chiến ra, sau đó quay sang đám quân Ngô bị sót lại không kịp rút lui, phang tới tấp vào đầu vào cổ của chúng, có cánh quân này nhảy vào tham chiến, quân Ngô bị chia cắt ra làm hai, một trăm chiếc chiến xa và số ít bộ binh theo sau của Vương Tôn Hùng bị kẹt lại ở phía hậu quân của Khánh Kỵ, lúc này bị quân Khánh Kỵ bao vây mấy lớp không thoát ra được, cung tên bắn ào ạt về phía ấy, lính Ngô dính tên lăn ra chết như rạ, xong quân Khánh Kỵ lại đồng loạt đâm trường mâu, hoặc đâm người, hoặc nhằm vào ngựa, ngựa chết chiến xa không di chuyển được thành ra vật cản trở, cục diện trận chiến thay đổi rõ rệt, ưu thế lúc này hoàn toàn thuộc về quân của Khánh Kỵ.

Còn bên kia chiến tuyến, mấy chục chiến xa của Khánh Kỵ vẫn giữ được đội hình phối hợp, xông pha vào hậu quân của Vương Tôn Hùng, theo sau là kiếm thủ bám sát chiến xa, tiếp cận đại đội trường mâu của quân Ngô, khi giao chiến gần ưu thế về vũ khí lập tức hiện rõ, nhất là đám lính cầm lang nha bổng do Lương Hổ Tử chỉ huy, cứ giơ lên phang vào đầu lính Ngô, dù cho có đội mũ sắt cũng trào óc ra, đám lính thường đâu được đội mũ sắt bảo vệ, bị đập trúng đầu nát cả sọ, bị đánh trúng thân thì rú lên thảm thiết, trong một lúc tiếng kêu la làm binh sĩ quân Ngô hoảng loạn cả lên, không còn ý chí chiến đấu. Đúng lúc này người bên Khánh Kỵ lại la to danh hiệu của hắn, khơi lại kí ức bị lãng quên về chàng trai đệ nhất dũng sĩ Ngô quốc của binh lính Ngô.

Quân Ngô bại trận như núi đổ!

Thời hiện đại đã không còn cảnh tác chiến tập hợp mấy vạn người chen chúc chém giết nhau trên chiến trường chật hẹp, trong điện ảnh cũng hiếm khi lột tả được cảnh chân thật của chiến trận, nên khó mà tưởng tượng được cảnh bại trận như núi đổ của quân Ngô lúc này là như thế nào? (Câu này tác giả tự phân bua chăng?)

Binh sĩ là lá gan của tướng, tướng là linh hồn của binh sĩ, một khi chia cắt binh sĩ và tướng chỉ huy ra, binh sĩ có đông cũng như một nhúm cát rời rạc, nếu thống soái phe địch vốn là người mà binh sĩ e sợ tận đáy lòng, bị tấn công mạnh mẽ sẽ khiếp sợ hơn gấp bội, trong trận chiến hôm nay, không biết là ai dẫn đầu bỏ chạy, chỉ thấy quân Ngô như gặp cơn đại dịch lan tỏa, rất nhanh, binh sĩ phía Ngô mất hết ý chí chiến đấu quay đầu cắm cổ chạy như điên.

Khánh Kỵ cầm mâu oai vệ đứng trên xe, ra lệnh nổi hồi chiêng dừng truy đuổi, cho dù là vậy, đám lính mới của Lương Hổ Tử xưa nay quen thói hung hăng, lại không có ý thức gì về kỉ luật quân đội vẫn điên cuồng truy sát quân Ngô, phải mất hồi lâu mới chịu dừng lại. Khánh Kỵ quay đầu lại nhìn về hậu quân của mình, một trăm chiếc chiến xa của Vương Tôn Hùng bị bao vây túm tụm lại một chỗ, ra sức chống đỡ một cách tuyệt vọng từng lớp từng lớp binh sĩ không ngừng lao lên của Khánh Kỵ. Nhìn cảnh tượng ấy, như một tảng đá ngầm nhô lên giữa biển khơi, bị từng đợt sóng trắng xóa vỗ ập vào, lúc ẩn lúc hiện.

Khánh Kỵ không nhịn được nỗi vui mừng, trên môi nở một nụ cười mãn nguyện.

Vào thời này, muốn phân biệt thành phần trong quân đội là rất dễ. Lúc đầu, những người có tư cách mặc áo giáp lên chiến trường chiến đấu, chỉ có quốc dân và quý tộc, quốc dân chính là người ở trong thành thị, còn bọn nông dân chân đất quê mùa, gọi là dã nhân, họ không có tư cách đi đánh trận. Sau này, quy mô chiến tranh ngày càng mở rộng, dân nông thôn cũng bị triệu tập vào quân đội trở thành binh sĩ, nhưng quý tộc, quốc dân, dã nhân có sự phân chia giai cấp rõ ràng, binh lính có tư cách cưỡi chiến xa ra trận, đều xuất thân từ tầng lớp quý tộc, binh lính theo sau chiến xa hỗ trợ tác chiến thì là quốc dân có khả năng chiến đấu cao, có nghĩa là bây giờ quân Ngô bị cắt làm đôi, đám quân Ngô đang bị vây khốn ở hậu quân Khánh Kỵ mới chính là cánh quân chủ lực tinh nhuệ thật sự.

Đám lính mới cầm lang nha bổng đang truy đuổi quân Ngô bỏ chạy không nghe theo hiệu lệnh lui quân, nhưng cũng không dám chống lại đội chiến xa của Khánh Kỵ, đợi khi mấy chục chiếc chiến xa của Khánh Kỵ chạy tới trước mặt quát tháo, đám lưu manh vô lại đang hăng máu này mới chịu dừng lại, kéo lê lang nha bổng dính bê bết máu thịt quay về, trên đường đi tiện thể cúi xuống thu lụm của cải trên xác chết nằm la liệt trên chiến trường.

Đám lính chịu rời bỏ quê hương tòng quân này, cho dù là nông dân chân đất, hay là dũng sĩ các nước chư hầu đến đầu quân, tất cả đều là bọn hung hăng, nếu ở thành thị thì trong mắt dân lành họ chẳng qua chỉ là một đám lưu manh vô lại, nhưng trên chiến trường khốc liệt, họ lại trở thành những chiến sĩ trời sinh, thắng lợi trong trận chiến hôm nay, phần lớn được quyết định bởi tính hung bạo của đại đội lang nha bổng này.

Đại đội lang nha bổng từ từ tập hợp lại, dán mắt vào chiến xa quân Ngô đang vất vả chống trả giữa vòng vây, hai mắt chúng lộ rõ tia sáng tham lam. Họ biết những binh lính Ngô đang cưỡi chiến xa kia xuất thân tầng lớp quý tộc, đó mới là người giàu thật sự, tuy khi ra trận không ai mang theo của cải bên mình, nhưng bao nhiêu binh khí, áo giáp, ngọc bội, tất cả đều rất có giá trị, đám lính hung hăng này thèm thuồng nắm chặt lang nha bổng trong tay, ánh mắt háo hức trông theo thống soái của họ - Độc thủ tướng quân Lương Hổ Tử.

Khánh Kỵ đã đánh xe quay về, lúc này Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man vừa từ trên núi đi xuống. Nhìn thấy hai người, Khánh Kỵ chau mày nói: "Hai nàng sao lại xuống đây? Cứ đứng phía sau chờ đợi, đừng lại gần."

Dứt lời Khánh Kỵ quay đầu trở lại chiến trường, đứng trên xe hắn nhìn rất rõ, phía không xa đằng kia là chiến xa của Vương Tôn Hùng. Chiến xa đó sắp xông qua hậu quân quay đầu lại, nhưng nay bị đại đội lang nha bổng của Lương Hổ Tử chặn mất đường lui, không nhận được tiếp viện bị bao vây ở giữa, tiến không được lùi cũng không xong, hình như bánh xe của hắn đã bị phá hỏng, lọt thỏm vào hố cát không nhúc nhích được.

Vương Tôn Hùng xem ra cũng có tài chỉ huy, trong lúc lòng quân hoang mang vẫn ra lệnh cho mười mấy chiến xa lại gần, sau đó liên kết đống chiến xa lại với nhau, tạo thành một lá chắn, tất cả binh sĩ đều nhảy xuống xe, trong cùng là cung thủ, bên ngoài là kiếm thủ trường mâu phối hợp với nhau, tạo thành một đội hình phòng thủ liên hoàn chặt chẽ, bọn chúng không ai hò hét, chỉ cắn rắn im lặng tập trung chống trả.

"La to lên, bảo chúng đầu hàng, sẽ được tha mạng!" Khánh Kỵ chăm chú nhìn trong giây lát, hạ giọng ra lệnh.

Tái Cừu lập tức dẫn theo mấy mươi binh sĩ la to mệnh lệnh của Khánh Kỵ, nhưng câu trả lời chỉ là tiếng binh khí leng keng chống cự, một vòng tròn lớn đang vây lấy một vòng tròn nhỏ bên trong, xen giữ hai vòng tròn là một khoảng không hẹp cho binh khí chạm nhau, binh sĩ hai bên đột nhiên im bặt chăm chú chiến đấu, giờ chỉ còn nghe thấy tiếng binh khí va nhau, máu văng tung tóe, người bị đâm trúng nhanh chóng đổ rạp xuống, trở thành miếng giẻ bị xung quanh xông vào giẫm đạp lên để lấp vị trí, ngoại trừ tiếng binh khí, hơi thở hổn hển như trâu của các binh sĩ vang tận bên tai Khánh Kỵ.

Khánh Kỵ nhắm nghiền mắt, thở dài một hơi.

"Công tử, bọn chúng đã quyết tâm chống cự đến cùng, hơn nữa, lão tặc Cơ Quang đã có lệnh, họ cũng không thoát được đâu, tuyệt đối không dám buông vũ khí đầu hàng. Xin công tử đừng mềm lòng."

Tái Cừu sợ Khánh Kỵ thương hại quân Ngô, sẽ mở một con đường sống cho đám quân địch hung hăng này. Nghe Khánh Kỵ thở dài, vội lên tiếng nhắc nhở.

"Ta biết."

Khánh Kỵ nhảy phóc xuống xe, đến bên Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man, âu yếm hỏi: "Chiến trường máu me thế này, không sợ à?"

Thúc Tôn Diêu Quang mỉm cười dịu dàng, nhẹ giọng nói: "Không sợ, còn nhớ thiếp từng nói gì với chàng không?"

"Gì vậy?"

"Chàng nếu đi giết người, thiếp sẽ theo chàng đi giết người!"

Khánh Kỵ ngớ người, sau đó nở một nụ cười mãn nguyện. Hắn đương nhiên còn nhớ, lúc đó hắn thắng được Thúc Tôn Diêu Quang làm tì nữ của hắn, sau đó sứ giả của Ngô quốc đến Lỗ, Quý Tôn Ý Như có ý e dè, muốn đuổi hắn ra khỏi Lỗ quốc, trong hoàn cảnh nguy nan, nàng đã bày tỏ tấm lòng với một vương tử lưu vong như hắn.

Tiếng binh khí va nhau văng vẳng không ngớt, gió lạnh rít vào trong khe núi, mang theo hơi lạnh từ phương Bắc, tà áo nhuốm máu đỏ của Khánh Kỵ bị gió thổi phất phơ. Khánh Kỵ nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn của Thúc Tôn Diêu Quang, quay qua ra lệnh: "Không chịu đầu hàng thì giết sạch, chỉ để lại một mình Vương Tôn Hùng."

Hai huynh đệ A Cừu, Tái Cừu mở to mắt ra đợi lệnh, khi Khánh Kỵ vừa dứt lời, hai người vội mở miệng hô tuân lệnh rồi chạy đi sắp xếp.

"Ta từng nghe nàng đánh đàn chưa nhỉ?"

"Chàng nói thử xem?"

"Ừm...Hình như là chưa, ta chỉ mới nghe nàng hát."

Thúc Tôn Diêu Quang cảm thấy lạ: "Có chuyện này ư? Thiếp từng hát cho chàng nghe rồi à?"

Khánh Kỵ nhướn người về phía trước, đặt cằm vào bờ vai thon thả của Diêu Quang, nói nhỏ bên chiếc tai nhỏ nhắn xinh xinh của nàng: "Tất nhiên là có, lúc ở Phí thành, trong tẩm thất của nàng, nàng ứ a ứ a..."

"Bốp!" Lưng Khánh Kỵ bị Diêu Quang vỗ mạnh, nàng đỏ mặt nhìn hắn, đôi mắt e thẹn, chớp chớp liên hồi.

Khánh Kỵ cười ha hả khoái trá, đứng thẳng người ung dung nói: "Ra đại sảnh, vào tẩm thất, lên chiến trường, nữ nhân thế này biết tìm đâu ra? Ha ha, còn nhớ khúc nhạc Bạch thủy thao thao không? Đàn cho ta nghe, thế nào?"

"Được!" Thúc Tôn Diêu Quang nở một nụ cười dịu dàng với Khánh Kỵ.

Tiếng đàn thánh thót vang lên trên chiến trường tràn ngập sát khí, len lỏi giữa ngàn vạn binh sĩ đang hăng say chiến đấu, trong một lúc như át đi mùi tanh của máu, át cả tiếng leng keng khô khốc khi binh khí va nhau.

"Thao thao bạch thủy, bạch thủy thao thao, nam nhi chí khí, vút cao trời xanh, tráng chí chưa thành, khó mà tiêu diêu. Thao thao bạch thủy, bạch thủy thao thao, nam nhi chí khí, vút cao trời xanh, tráng chí chưa thành, khó mà tiêu diêu..."

Khánh Kỵ ngẩng đầu lên nhìn vào bầu trời bao la trên chiến trường, khúc nhạc như một dòng sông nhỏ róc rách len lỏi trong tim hắn, tâm trí vượt qua thiên sơn vạn thủy, giờ đã bay cao bay xa tận bầu trời Ngô quốc: Tôn Vũ, Anh Đào, các ngươi hiện giờ...đã tấn công vào Ngô hay chưa?

Quý Tôn Tiểu Man hai mắt ngấn lệ lầm lủi bước sang một bên, nàng không chịu thừa nhận thấy cảnh Diêu Quang và Khánh Kỵ âu yếm, trong lòng cảm thấy không vui. "Vì gió ở đây thổi mạnh, nên cát bay vào mắt, nhất định là vì lí do này." Tiểu Man đang tự an ủi trong lòng.

Nàng đưa tay vuốt ve cây tiêu ngọc giắt ở dây lưng , tuy nàng muốn lập tức chứng minh cho Khánh Kỵ thấy, thật ra tài thổi sáo của nàng hay hơn gấp vạn lần tài đánh đàn của Thúc Tôn Diêu Quang, nhưng hiện giờ Tiểu Man lại không muốn cùng hòa tấu với tiếng đàn của Diêu Quang chút nào.

Đưa mắt dáo dác nhìn xung quanh, Tiểu Man phát hiện trên một chiếc chiến xa ngã chổng bánh có treo mớ bùi nhùi gì đó, thì ra là một tấm lưới. Nàng lại gần thu tấm lưới trong tay, nhón gót nhìn Vương Tôn Hùng thọ thương ở vai, đang điên cuồng chống cự như một con hổ bị dồn vào đường cùng, nắm chặt Hàm Quang kiếm trong tay, Tiểu Man đột nhiên nhảy vút lên không trung, nhẹ tựa chim én, lao về phía ấy...

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 194: Tiết lộ bí mật (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

"Vương Tôn Hùng."

"Tam vương tử."

"Hô hô, ngươi còn nhận ra ta là vương tử à?"

"Thân phận vương tử khắp thiên hạ đều biết, thần sao dám không nhận?"

Sắc mặt Khánh Kỵ trầm xuống, hét hỏi: "Nếu ngươi đã nhận ta là vương tử, sao còn giúp tên nghịch tặc Cơ Quang?"

Vương Tôn Hùng tuy áo giáp rách bươm, trên người vẫn còn bị tấm lưới chụp lấy, dáng vẻ thảm hại, nhưng lại hiên ngang ngẩng cao đầu, lạnh nhạt: "Tiên vương Thọ Mộng có bốn vương tử, Chư Phàn, Dư Tế, Di, Quý Trát. Tiên vương có ý truyền ngôi cho Quý Trát, vì Quý Trát từ chối nên ba vị vương tử lần lượt nối ngôi, cho đến khi tổ phụ của ngài lên ngôi, Quý Tử vẫn chưa chịu kế thừa vương vị, ngôi vị theo thứ tự trưởng thứ, phải nên do đương kim đại vương con trai của Chư Phàn kế thừa, nhưng tổ phụ ngài lại truyền ngôi cho phụ vương ngài, chủ ta chỉ lấy lại ngôi vị vốn thuộc về mình, sao có thể gọi là nghịch tặc?"

"To gan!" A Cừu đá vào sau gối Vương Tôn Hùng, hắn vừa bị đá quỳ xuống lập tức đứng bật dậy, ngạo mạn nhìn vào Khánh Kỵ, không hề sợ sệt.

Khánh Kỵ cười khẩy, phản bác: "Thứ tự trưởng thứ ư? Ngươi cũng đã nói tiên vương Thọ Mộng có bốn vương tử lại có ý truyền ngôi cho tứ vương tử Quý Trát, thế thì đâu có thứ tự trưởng thứ gì ở đây, lúc đó ngôi báu có phải là chắc chắn thuộc về con trưởng đâu? Quý Tử không chịu lên ngôi, ba vương tử còn lại lần lượt kế thừa vương vị, đó đều là ý của tiên vương, phù hợp lễ pháp. Phụ vương ta kế vị, là nghe theo di mệnh của tiên vương, giao phó quốc gia vào tay người nào, đó phải là di mệnh của tiên vương hợp pháp đời trước, không phải là món hàng tùy ý chuyển nhượng, sao lại nói vốn thuộc về Cơ Quang hả? Tiên vương đã lập thái tử, danh phận quân thần đã định, Cơ Quang sai thích khách giết vua, ngươi có nói cho trời đổ ập xuống, cũng không che đậy được sự thật giết vua đoạt ngôi này."

Vương Tôn Hùng hứ một tiếng rõ to, ngẩng cao đầu nói: "Vương vị Ngô quốc, vốn là chuyện của Cơ thị Ngô quốc, ai đúng ai sai không liên quan đến Vương Tôn Hùng. Vương Tôn Hùng là tướng lĩnh dưới trướng Ngô vương Hạp Lư, bổn phận phải ra sức vì đại vương, đến chết mới thôi."

Khánh Kỵ cười to: "Ha ha, ngươi đuối lí rồi phải không? Nên mới nói ra những lời đứng về phía thân thuộc chứ không đứng về phía lí lẽ. Vương Tôn Hùng, hôm nay ngươi dẫn quân tiến về thành Na Xứ của ta, Cơ Quang phái ngươi đến là có ý gì? Chỉ với số binh mã của ngươi, nếu ta thủ thành, ngươi khó tiến thêm bước nào, giờ ta chủ động ra thành ứng chiến, vẫn cứ đánh cho ngươi bại trận tan tác. Ta cứ cho rằng ngươi có quân mai phục, để đề phòng bất trắc, còn sai Kinh Lâm dẫn quân phòng bị, không ngờ quân của ngươi chạy mất dạng, không hề thấy một binh một tốt tới cứu viện, Cơ Quang bảo ngươi tới nộp mạng đó hả?"

Vương Tôn Hùng lại hứ một tiếng, uất hận mà nói: "Vương Tôn Hùng tưởng điện hạ không biết thực hư quân ta, trong một lúc không dám ra thành ứng chiến, nên mới không hề chuẩn bị, nếu không sao để ngài dễ dàng chiến thắng? Thôi vậy, việc đã đến nước này, nói nhiều vô ích, điện hạ muốn giết thì cứ giết, Vương Tôn Hùng mà chau mày thì không là hảo hán."

Khánh Kỵ cười khoái trá: "Ta giết ngươi có ích gì? Cơ Quang tàn bạo, dùng quân luật hà khắc trị quân còn sợ chưa đủ, còn dùng cả nhà lớn bé thân thuộc vô tội của quân sĩ ra làm con tin, đấy không phải là chủ nhân tốt. Nếu đã phạt Sở chiếm cứ Dĩnh Đô thành công, có được kỳ công này lại không biết xuôi theo thời thế, chiêu dụ người Sở, tầm nhìn hạn hẹp, chỉ biết làm cường đạo giết người cướp của, hãm hiếp nữ nhân, đấy không phải là đấng minh quân. Tướng quân thần dũng, Khánh Kỵ xưa nay kính phục, sao cứ phải theo hầu hôn quân tàn bạo này chứ? Tướng quân nếu chịu quy thuận Khánh Kỵ, không những giữ được tính mạng, sau này vinh hoa phú quý, phong hầu bái tước, dễ như trở bàn tay, tướng quân có đồng ý không?"

Vương Tôn Hùng hít một hơi dài, mái tóc rối tung phấp phơ trong gió, hai mắt bắn ra tia nhìn kiên quyết, hiên ngang nói: "Đa tạ ý tốt của điện hạ, Vương Tôn Hùng đã bái đại vương làm chủ nhân, sao lại có thể tham sống sợ chết đầu hàng người khác? Nếu giờ ta làm vậy, điện hạ không sợ sau này ta lại vì muốn được tính mạng đầu hàng kẻ khác ư? Điện hạ không cần nhiều lời, xin hãy cho Vương Tôn Hùng được toại nguyện."

Khánh Kỵ trừng mắt nghiêm nghị: "Ngươi không chịu đầu hàng thật ư?"

"Xoạt, xoạt!" Hai tiếng gỏn lọn vang lên, hai thanh đao sáng choang lập tức được kề vào cổ Vương Tôn Hùng, hắn không hề tỏ ra sợ hãi, ngước cổ lên nhắm nghiền mắt, ảm đạm cất tiếng: "Không cần nhiều lời, muốn giết cứ giết!"

"Ha ha, quả nhiên là một trang hảo hán!" Khánh Kỵ khen xong, lắc đầu than thở: "Ta có thể không giết Yêu Ly, sao lại nỡ giết ngươi chứ? Hây! Chỉ là tiếc cho một trang nam tử hán nhà ngươi, lại ra sức cho tên nghịch tặc Cơ Quang tàn bạo, tiếc thay, tiếc thay..."

Vương Tôn Hùng nổi giận đùng đùng: "Điện hạ muốn giết ta thì cứ việc ra lệnh, hà tất sỉ nhục đại vương."

Khánh Kỵ nhìn chăm chú vào hắn hồi lâu, Vương Tôn Hùng không hề né tránh tia nhìn của Khánh Kỵ, Khánh Kỵ lại mỉm cười, xua tay: "Khá lắm, quả nhiên là anh hùng, thả hắn ra!"

"Cái gì?" Tướng lĩnh xung quanh đồng loạt kêu lên.

Khánh Kỵ không hề chớp mắt, nói giọng đều đều: "Ta nói, thả hắn ra, đây là quân lệnh!"

"...Tuân lệnh!" A Cừu, Tái Cừu cố chế ngự cơn giận, xua tay cho hai tên lính kề đao vào cổ Vương Tôn Hùng lui xuống, Vương Tôn Hùng ngớ người ra giây lát, vẻ mặt nghi ngờ hỏi: "Điện hạ...muốn thả ta đi?"

Khánh Kỵ hứ một tiếng: "Ngươi không chịu đầu hàng, giữ lại trong quân ta để tốn cơm gạo à? Biến, mau biến cho ta!"

Vương Tôn Hùng bước lùi hai bước, ánh mắt dò xét một lượt, sau đó đứng thẳng người, chắp tay vái lạy Khánh Kỵ một cái, quay sang phía Quý Tôn Tiểu Man đang đứng gần đó, lên tiếng hỏi: "Xin hỏi cao danh quý tánh của cô nương là gì?"

Vừa nãy giao chiến, hắn tuy bị Quý Tôn Tiểu Man chụp lưới bắt giữ, nhưng cũng đâm một mâu hất tung mũ sắt của Tiểu Man, nhìn thấy búi tóc của nàng đã biết đây không phải là một thiếu niên, mà là một cô nương chưa được hứa gả cho ai.

Quý Tôn Tiểu Man vênh mặt khoái chí, đáp lời: "Lỗ nhân Quý Tôn Tiểu Man, thế nào, ngươi không phục kiếm pháp của ta hử?"

Vương Tôn Hùng mỉm cười: "Kiếm thuật của cô nương kỳ lạ, Vương Tôn Hùng mới gặp lần đầu, trong lòng rất là khâm phục, hôm nay bị cô nương bắt giữ, hy vọng sau này trên sa trường, Vương Tôn Hùng lại có cơ hội tiếp chiến cô nương. Xin phép cáo từ!"

Dứt lời, Vương Tôn Hùng quay phắt người bước đi, cũng không nói thêm lời nào với Khánh Kỵ. Khánh Kỵ quả nhiên không sai người ngăn cản, nhìn trừng trừng dõi theo Vương Tôn Hùng đi xuyên qua từng lớp từng lớp binh sĩ đội ngũ chỉnh tề, hiên ngang bỏ đi.

"Này!" Quý Tôn Tiểu Man quay sang Khánh Kỵ, mở to đôi mắt đen láy, vẻ hậm hực: "Ngài hay nhỉ, người ta phí bao nhiêu công sức, còn sém bị hắn đâm chết mới bắt được hắn, ngài sao lại thả cho hắn đi? Người này cứng đầu như trâu, sau này chắc chắn sẽ lại đối địch với ngài đó."

Khánh Kỵ dõi theo bóng dáng Vương Tôn Hùng giờ đã đi xa, ánh mắt sáng lên, nói: "Ta biết, nhưng giết một mình hắn có ích gì? Chi bằng thả cho hắn về, lại làm nguôi ngoai cơn giận của người Ngô, đập tan sĩ khí chiến đấu của chúng. Cơ Quang đã có lệnh, ai rút lui bỏ chạy, giết! Ai buông vũ khí đầu hàng, giết cả nhà! Vừa nãy các binh sĩ bỏ chạy, không biết hắn có giết hay không? Vương Tôn Hùng là ái tướng của Cơ Quang, lần này đại bại, tổn thất nghiêm trọng, không biết hắn có giết hay không?

Lần này thảm bại, không phải tướng sĩ của Vương Tôn Hùng không nghe lệnh liều chết, nếu giết cả sẽ làm tướng sĩ quân Ngô sợ hãi, một khi nắm bắt thời cơ không đúng, còn có thể ép quân Ngô tạo phản, còn nếu không giết, quân lệnh của hắn nói ra không thực hiện, sau này quân Ngô giao chiến với ta, chắc sẽ không ngoan cường chống cự như hôm nay nữa."

"Ơ..." Quý Tôn Tiểu Man kể ra cũng hiểu chuyện, nghe lời Khánh Kỵ giải thích, lập tức hóa giận thành vui: "Không ngờ chỉ một tên tù binh mà có tác dụng lớn thế này, ngài lợi hại quá!"

Khánh Kỵ mỉm cười khoái trá: "Ha ha, điều đó đương nhiên, cho dù là một hòn đá, ta cũng bắt nó chảy dầu ra... (1) À phải rồi, nàng đừng lái sang chuyện khác!"

Khánh Kỵ làm mặt giận, hỏi: "Ai cho nàng ra tay hả? Nếu không may nàng bị thương thì ta sao ăn nói với Quý thị Lỗ quốc? Còn nữa, Vương Tôn Hùng hỏi tên nàng, sao nàng lại nói cho hắn biết?"

Quý Tôn Tiểu Man bị Khánh Kỵ trách mắng giữa chốn đông người, khuôn mặt đỏ chít vì xấu hổ, phụng phịu: "Lại là ta không đúng ư? Tên của bổn cô nương đây xấu lắm hay sao mà không nói cho người khác biết được chứ?"

"Đương nhiên là không nói ra được rồi! Hừ, bây giờ khắp thiên hạ không ai không chú ý chiến sự ở Sở quốc, Vương Tôn Hùng quay về nói ra, lúc đó khắp thiên hạ đều biết Lỗ nhân Quý Tôn Tiểu Man đang ở trong quân Khánh Kỵ ta, Lỗ quân và Quý Tôn Ý Như mà nghe nói thì..."

"Chết rồi!" Quý Tôn Tiểu Man nhảy dựng lên hốt hoảng, sau đó xoạt một cái rút kiếm ra, nhón chân nhìn dáo dác xung quanh, Khánh Kỵ thấy bộ dạng của nàng ta, cảm thấy kỳ lạ hỏi: "Nàng làm gì vậy?"

"Mau tìm cho ta một chiếc chiến xa."

"Nàng muốn bỏ trốn? Trốn đi đâu chứ?"

"Hứ! Đã trốn đến tận Sở quốc rồi, còn trốn được đi đâu nữa? Chẳng lẽ trốn vào bộ lạc của người Tây Địch à? Ta phải đuổi theo tên Vương Tôn Hùng mới được ngài thả ra, giết người diệt khẩu."

----------------------------

(1) Vắt dầu từ đá: Đây không phải là một lời nói bâng quơ của Khánh Kỵ mà là một câu nói lịch sử của nhà hóa học F. Bergius (1884 - 1949) người Đức. Khi còn bé Bergius tuy chỉ chơi bời lêu lổng nhưng lại hay tỏ ra hiểu biết và lừa cô bạn gái của mình rằng "Anh có thể ép dầu ra từ đá", về sau khi cô gái lớn lên nhận ra bản chất của Bergius thì cô quay lưng lại với ông. Bergius đau khổ và lao đầu vào học, cuối cùng ông chứng minh được rằng: Đúng là có thể ép dầu ra từ đá! Từ trong than luyện chế thành nhiên liệu lỏng!

Ông nhận được giải Nobel hóa học, khi đứng trên bục nhận giải, Bergius lại hồi tưởng tới người bạn gái thuở nào.

Chỉ tiếc rằng nàng đã qua đời, không kịp nhìn thấy thành công của ông.

"Thì ra Cơ Quang muốn nhân lúc các cánh quân cần vương của Sở chưa ổn định, tấn công Quyền Ấp, lại lo lắng chúng ta và người Sở đưa tin lẫn nhau, sợ ta xuất binh cứu viện, nên mới phái Vương Tôn Hùng dẫn quân từ Ngư Phản đến đây, khống chế quân ta hành động. Chỉ là hắn không ngờ tới ta đang định mượn trận chiến này lập uy, lại chủ động xuất kích, đánh cho Vương Tôn Hùng không kịp trở tay. Thế nhưng...Quyền Ấp bị quân Ngô chiếm giữ, sẽ gây bất lợi lớn cho quân ta đấy."

Khánh Kỵ nhíu chặt mày nghiêm nghị: "Từ mục đích này mà nói, quân Ngô tuy bại trận, thật ra chúng vẫn chiếm phần thắng." Khánh Kỵ bước đến bức bản đồ chỉ lên đó, nói: "Các ngươi xem, phía trước mặt chúng ta là Dĩnh Đô, mặt phải là Quyền Ấp, mặt trái là Ngư Phản. Hai cánh quân từ Quyền Ấp và Ngư Phản của Cơ Quang kẹp chặt chúng ta ở giữa, chúng ta muốn tấn công Dĩnh Đô, lúc nào cũng phải phòng bị hai bên hông, sợ quân Ngô tập kích, còn nếu chúng ta tấn công một phía, cánh quân khác của chúng sẽ chặn hướng rút lui của ta, nếu ta chia quân hai ngả cùng lúc tấn công quân địch hai cánh, binh lực có đủ hay không còn chưa biết, với lại quân Ngô ở Dĩnh Đô lúc nào cũng có thể tăng viện, khó lắm đây."

Yểm Dư công tử gật gù: "Đúng vậy, quân địch ở Quyền Ấp, đóng gần con sông Bá Tân của chúng ta, sau này chúng ta phải cẩn thận đề phòng bọn chúng. Theo tình hình này ta không khinh suất hành động được rồi, tiên phong của quân Sở bị xơi mất một nửa, tàn quân của họ hiện đang đóng tại sông Dư La, đợi đại quân của tướng quân Tử Tây đến phối hợp, chúng ta cũng phải chờ đợi, chỉ cần đợi đại quân của người Sở đánh đến chiếm giữ nơi trọng yếu, đánh lủng một chỗ trong lá chắn phòng ngự của Cơ Quang, chúng ta mới có thể hành động."

Khánh Kỵ gật đầu đồng ý: "Ừ, giờ thứ quan trọng nhất chính là tin tức, nhưng giờ đây nước Sở hỗn loạn khắp nơi, tin tức truyền đưa khó khăn, quân đội của phe địch và phe ta lại phân bố đan xen lẫn nhau, trong lúc này khó thiết lập một nơi đưa nhận tin cố định, chỉ có thể phái ra thám mã ước lượng vị trí và quân số của kẻ địch, khó nắm được thông tin tình báo có giá trị hơn thế."

Lương Hổ Tử ngao ngán góp lời: "Thế cũng hết cách, quan lại cai quản của người Sở xung quanh đây người thì bỏ trốn, người thì chết mất tiêu, cơ sở cai trị của người Sở ở khu vực này đã bị tê liệt, muốn kịp lúc thu nhặt thông tin tình báo, e là ngay cả quân Sở cũng không làm được, nói gì đến đám người ngoài như chúng ta đây."

Khánh Kỵ khẽ gật đầu: "Đúng vậy, muốn kịp thời truyền tin và thu nhặt thông tin tình báo cần đặt một địa điểm thỏa thuận cố định, hiện nay chúng ta không làm được chuyện này, nhưng người của Cơ Quang cũng không làm được giống ta, thế mới nói, về mặt này, ta và địch không ai chiếm ưu thế."

Khánh Kỵ bước về chỗ ngồi xuống, nói tiếp: "Nếu đã là vậy, đối địch với Cơ Quang, ta vẫn có lòng tin, giờ điều ta lo lắng chính là phía bên Ngô quốc kìa."

Hắn ngẩng đầu lên, tầm mắt như nhìn xuyên qua bức vách, hướng về nơi xa xăm ngoài kia: "Truyền đưa tin tức là một vấn đề khó khăn, không thể kịp thời biết được tình hình bên Chúc Dung hoàng thúc và Tôn Vũ, Anh Đào thế nào, chúng ta không phối hợp nhịp nhàng tác chiến với họ được. Bây giờ quân trấn giữ ở Ngô quốc tuy không nhiều, nhưng dù sao chúng cũng chiếm trọn ưu thế địa lợi nhân hòa, cũng may có Chúc Dung hoàng thúc ở trong quân, ít nhiều cũng vớt vát được chút giúp sức trong quân Ngô, điều chúng ta có thể làm bây giờ là chế ngự đại quân của Cơ Quang, một khi phía Chúc Dung hoàng thúc tập kích thành công, đoạt lấy Cô Tô thành, lúc đó tín sứ của ta và của Phù Sai sẽ cùng lúc chạy sang Sở đưa tin, thắng thua là vào lúc ấy, chính là lúc quân đội của ta chạy đua với quân đội của Cơ Quang, xem ai sớm quay về Ngô quốc trước tiên."

Nói đến đây, Khánh Kỵ ngập ngừng giây lát, cười chua chát: "Cho nên dù cho Chúc Dung hoàng thúc có thuận lợi chiếm giữ Cô Tô thành, cũng không chắc chắn chúng ta giành được thắng lợi, mà phải xem tín sứ của phe nào tới trước, ai quay về Ngô quốc trước tiên. Trong tình cảnh tin tức truyền đi chậm chạp khó khăn thế này, phải phối hợp tác chiến từ xa đúng là xưa nay mới xuất hiện lần đầu. Có nhiều khi, thắng bại lại được quyết định bởi ý trời..."

Cô Tô thành mới được xây dựng không lâu, bá tánh và các hộ giàu có trong thành đều di cư từ khắp mọi miền đến đây. Nằm ở vị trí trung tâm Cô Tô thành, hoàng cung Ngô quốc giống một tòa thành nhỏ nằm trong tòa thành lớn, tuy không nguy nga tráng lệ như hoàng cung của các nước chư hầu trung nguyên, nhưng nhìn vào cũng khá là hùng vĩ.

Một con tuấn mã phi từ trong hoàng cung ra ngoài, phía trước là đội xe ngựa được cấm quân và thái giám hộ tống đang đi vào trong cung, trên xe chất đầy ngọc ngà châu báu, gấm vóc lụa là, vàng bạc vũ khí lấy từ Dĩnh Đô Sở quốc, giờ đã được vận chuyển từ Sở về, số của cải này nhiều gấp ba lần số của cải chứa trong hoàng cung Ngô quốc, phía xa đội xe, tàu chuyên chở của cải từ Sở quốc quay về vẫn còn xếp hàng dài không ngớt.

Nhìn thấy chàng thanh niên đang ngồi trên ngựa, đám cấm quân và thái giám vội vàng dừng lại hành lễ với hắn, chàng thanh niên kia không thèm để ý đến chúng, quất roi vào mông ngựa, lướt nhanh ra ngoài cổng hoàng cung. Hắn mặc chiếc áo xanh lá đậm, trên có thêu họa tiết núi non long phụng, búi tóc bằng một cây trâm ngọc phỉ thúy, mặt mày sáng sủa, thần khí cao ngạo, là một nam tử khôi ngô tuấn tú.

Người này chính là con trai của Ngô vương Hạp Lư, đương kim thái tử Phù Sai của Ngô quốc.

Phía bên ngoài hoàng cung được phân chia ra các khu vực khác nhau, càng về phía ngoài, tuy cũng có đình đài lầu các, nhưng phần lớn là vùng đất cây cối um tùm, đan xen còn có nhiều mảnh vườn trồng rau quả xanh tươi. Vào thời này trong hoàng cung cũng có khu vực trồng rau trái tự cung tự cấp, bên ngoài cũng không ngoại lệ, trong Cô Tô thành bố trí rất nhiều đất trồng, một khi xảy ra chiến tranh, chỉ cần trong thành có nguồn nước, bị vây khốn ba đến năm năm không lo về lương thực.

Phía ruộng lúa trước mặt xuất hiện một cây cầu, trên cầu đang có hai mươi mấy tên lính đứng đó, thấy Phù Sai đi đến, mọi người vội thi nhau hành lễ, Phù Sai giơ roi ngựa lên chỉ nhẹ về phía trước, sau đó phóng ngựa lướt qua mặt mấy tên lính, đám lính liền chạy bám theo sau.

Ngựa chiến từ từ chạy chậm lại, đi dọc con đường chính dẫn ra tận cổng hoàng cung, đám binh sĩ hợp sức đẩy cánh cửa dầy cộm nặng nề ra, Phù Sai phóng ngựa ra ngoài, theo sau là hai mươi mấy tên vệ sĩ, khi hắn ra ngoài rồi cánh cổng đóng sầm lại. Trước mặt trái phải có hai tòa lầu cao ngất, Phù Sai nắm chặt cương ngựa, ngẩng đầu nhìn vào bầu trời trong xanh, một cơn gió thoảng qua, cơn gió mang đến giọng ca ngọt ngào của một nữ nhân.

"Một năm mới bắt đầu rồi, mà thiên hạ cũng bắt đầu đại loạn." Phù Sai nghĩ: "Tề Tấn liên thủ nam chinh, Sở Tần liên minh chống cự, chư hầu khắp thiên hạ đều ngả vào hai bên chiến tuyến, một trận đại loạn sắp bắt đầu diễn ra. Mà Ngô quốc, có điều kiện địa lí được ông trời ưu đãi, Ngô quốc nằm ngay gốc Đông Nam, phía Bắc có Trường Giang hiểm trở, phía Nam chỉ là một Việt quốc nhỏ bé, phía Đông là biển cả, còn về phía Tây, chính là Sở quốc.

Sở quốc nhìn bề ngoài có vẻ rộng lớn, giờ bị phụ vương tấn công vào tận Dĩnh Đô, Tề Tấn một khi xua quân nam hạ, liên quân Sở Tần tự lo thân mình còn chưa xong, vốn không lo nổi chuyện của Ngô quốc, ngọn lửa chiến tranh đang thiêu rụi khắp thiên hạ này khó mà cháy lan tới Ngô quốc. Ngô quốc có uy danh đánh thắng Sở quốc, lại chiếm lấy số của cải tích trữ mấy trăm năm của Sở làm vốn, thừa lúc thiên hạ đại loạn, nỗ lực xây dựng quân đội, đợi khi nguyên khí các nước đại thương, Ngô quốc đã thành bá chủ Đông Nam, muốn tranh đoạt ngôi bá chủ thiên hạ, cũng không phải là không có cơ hội."

Nghĩ đến đây, Phù Sai không khỏi máu nóng sôi sục trong tim.

"Thái tử, chúng ta đi đâu ạ?" Thị vệ trưởng bước lên cung kính hỏi chuyện.

Phù Sai quất nhẹ roi ngựa, cười khoái trá: "Cứ đi thong dong vài nơi, bây giờ người Đông Di làm loạn, cùng Lỗ quốc kháng Tề, đại đạo Triển Chích thừa cơ dấy binh tạo phản, cùng nước Tề trong ứng ngoại hợp. Hí, cách nhau con sông Trường Giang, chúng ta cứ xem vở tuồng hay coi sao, nghe nói các bộ lạc Đông Di cũng có lúc vượt sông nam hạ, cướp bóc dân chúng nơi biên giới, trong kinh thành có nổi lên lời đồn tin liên minh của Khánh Kỵ và quân Sở, càng làm người ta lo lắng, thân là thái tử, ta phụng mệnh phụ vương trấn giữ Cô Tô thành, bây giờ đi lại trong thành cũng có tác dụng làm an lòng dân chúng."

"Dạ, thuộc hạ xin hộ tống thái tử đi tuần tra."

Cấm quân hộ tống Phù Sai ở giữa, men theo con đường chính trong Cô Tô thành thong dong bước đi, hàng vệ sĩ đi trước cầm trường mâu gạt đám đông ra mở đường. Phù Sai đi tới bên một cây cầu, vừa định thúc ngựa qua cầu, bên đường đột nhiên có một người nhảy ra chặn trước đầu ngựa, đám thị vệ hốt hoàng hét lên, lo đó là thích khách, lập tức có hai tên thị vệ giơ trường mâu đâm thẳng vào người đó, người này thân pháp lanh lẹ, chỉ xoay người nhẹ sang một bên đã tránh được hai đầu nhọn sắc bén đâm tới, đoạn dang tay ra, nắm chặt hai thanh trường mâu trong tay, hét to tiếng: "Khoan ra tay vội, tiểu nhân xin gặp thái tử có đại sự cần bẩm báo!"

"Dừng tay!" Phù Sai nghe vậy hét vào đám thị vệ, thần thái ung dung nhìn vào người đó.

Người này mặc áo vải thô, đầu đội mũ rơm che hết cả khuôn mặt, nhìn thế đứng vững vàng, thân thủ bất phàm, chắc là một võ sĩ. Hai chân Phù Sai thúc nhẹ vào bụng ngựa, tiến ngựa lại gần, không hề có ý cảnh giác, hỏi: "Ngươi là ai, muốn gặp bổn thái tử bẩm báo việc gì?"

Người này ngẩng đầu lên nhìn lên lưng ngựa, thấy người ngồi trên đó dung mạo tuấn tú, khí khái cao ngạo, nhất là đôi mắt sáng choang, tia nhìn sắc lẹm.

Hắn buông trường mâu ra, bước lùi ba bước, hạ gối quỳ xuống, nói: "Tiểu nhân có việc quan trọng, chỉ mong được gặp mặt thái tử một lần, bẩm báo riêng với thái tử. Vừa rồi mừng rỡ khi thấy thái tử đi tuần, trong lúc vội vàng nhảy ra kinh động thái tử, xin thái tử tha tội."

Phù Sai lên tiếng: "Nói ý định tới đây của ngươi ta nghe."

"Dạ!" Người kia cung kính trả lời, sau đó tháo mũ rơm xuống, cúi đầu: "Tiểu nhân vốn là người Lỗ, từ Khúc Phụ đến đây, có việc liên quan đến cơ mật Ngô quốc muốn bẩm báo thái tử, chỉ là...sự việc hệ trọng, nói ở đây không được thuận tiện."

"Người Lỗ? Từ Khúc Phụ đến ư?" Phù Sai lộ vẻ nghi ngờ, hắn ngước đầu nhìn vào một mái đình nhỏ bên kia cầu, dặn dò: "Nào, ta qua kia nói cho rõ." Dứt lời nhảy phóc xuống ngựa, sải bước đi về phía mái đình, mấy tên thị vệ lập tức ùa qua phía ấy, la hét đuổi người đi đường xung quanh đó dạt ra xa.

Người kia nói: "Dạ, tiểu nhân là người Lỗ, vốn là thực khách môn hạ của Thúc Tôn Ngọc đại phu Lỗ quốc, họ Lý tên Hàn. Lý Hàn ngưỡng mộ uy danh của Ngô vương và thái tử đã lâu, lần này đến đây đầu quân, còn mang theo một công lớn."

Phù Sai tuy trẻ tuổi, nghe hắn kể rõ thân phận, nghĩ chắc có chuyện gì cơ mật quan trọng lắm cần bẩm báo đây, nhưng hắn năm lần bảy lượt muốn nói rồi lại thôi, trong lòng cảm thấy không vui, liền nhăn mặt: "Nếu đã là chuyện cơ mật, cứ nói ra với bổn thái tử, chỉ cần là đại sự có lợi cho Ngô quốc, ta sẽ thay mặt phụ vương làm chủ, cho ngươi làm quan to, ban thưởng hậu hĩ."

Lý Hàn mừng rơn, vội dập đầu cảm tạ: "Lý Hàn xin đa tạ thái tử. Thái tử có biết, đại quân của Khánh Kỵ hiện đang ở đâu không?"

Phù Sai nói: "Đương nhiên là đang ở Sở..."

Phù Sai chợt im bặt, trong lòng ngờ ngợ, ánh mắt toát ra tia sáng nghi hoặc: "Ngươi nói...hắn đang ở đâu?"

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 195: Loạn thế giai nhân (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Lý Hàn vốn định lấy lòng Thúc Tôn Diêu Quang, từ đó một bước lên trời, bước vào hàng ngũ quý tộc. Khi biết được hôn ước bí mật của Khánh Kỵ và Thúc Tôn Diêu Quang, hắn vừa hận vừa đố kỵ, lại thất vọng tràn trề, nhưng khi đó hắn vẫn ôm hy vọng được Thúc Tôn Ngọc coi trọng, bắt chước Dương Hổ dấn thân chốn quan trường bằng con đường tiến cử.

Khi quân Tề nam chinh, Triển Chích tạo phản, Tam hoàn Lỗ quân cùng khởi binh bình nội loạn chống ngoại xâm, Lý Hàn cảm thấy vào thời loạn thế này, chính là cơ hội tốt cho kẻ anh hùng kiến công lập nghiệp, do đó hắn ra sức tranh thủ cơ hội dẫn quân xuất chinh, nhưng dù hắn phí bao công sức, chỉ vì xuất thân thường dân, thời gian ở tại phủ Thúc Tôn Ngọc quá ngắn, căn cơ thiển cận, không thể kiếm được một chức tướng lĩnh nào đó trong quân Lỗ.

Lý Hàn thất vọng cuối cùng nảy ra ý định bỏ đi nơi khác, suy nghĩ kĩ lưỡng, hắn thấy đầu quân về phía Đông Nam là tốt nhất, hơn nữa còn mang theo một món quà người Ngô không bao giờ từ chối: Tin về cánh quân mai phục ở Phi Hồ cốc tại Phí thành Lỗ quốc của Khánh Kỵ.

Phù Sai không ngờ hắn lại mang đến tin động trời này, nghe xong thất kinh hồn vía. Hắn sai người đưa Lý Hàn đi dịch quán ở tạm trước, sau này sẽ luận công ban thưởng, sau đó phóng ngựa quay về hoàng cung, lấy thân phận thái tử giám quốc lấy quốc ấn ra, hạ một đạo quân lệnh cho quan binh trấn giữ ven sông, lệnh cho họ đặt trạng thái chiến tranh bố phòng nghiêm ngặt bất kể ngày đêm, lại thảo một bức thư sai người tức tốc mang đến Dĩnh Đô ở Sở báo tin cho Ngô vương Hạp Lư, mặt khác còn sai tín sứ đi Ngự Nhi thành triệu hồi hoàng đệ của Hạp Lư là Phù Khái. Phù Khái lúc này đang trấn giữ Ngự Nhi thành, mục đích là phòng hờ Việt quốc thừa cơ hội giở thói lưu manh chạy sang Ngô quốc cướp bóc, Phù Khái nghe tin xong cũng thất kinh hồn vía, lập tức sắp xếp việc bố phòng Ngự Nhi thành thỏa đáng, xong xuôi phi ngựa trong đêm quay về Cô Tô thành. Sau khi hỏi rõ chi tiết từ Lý Hàn, theo tình báo từ Lý Hàn cho biết thời gian xây dựng Phi Hồ thành, quy mô thành trì, suy luận ra phục binh trong Phi Hồ thành nhiều nhất chỉ khoảng một vạn, với binh lực thế này chỉ có thể tập kích bất ngờ mới mang lại hiệu quả, giờ đây Ngô quốc đã sớm phòng bị trước, liệu rằng tên Tôn Vũ và Anh Đào nhóc con ấy khó làm nên đại sự, Phù Khái mới yên lòng đôi chút.

Nhưng dù cho là vậy, hiện nay Hạp Lư đang chinh chiến tại Sở, dẫn theo đại bộ phận binh lực của Ngô quốc. Quân bố phòng trong nước chỉ còn lại rất ít, Phù Khái không dám sơ suất, bèn bàn bạc với Phù Sai, vẫn để Phù Sai trấn thủ Cô Tô thành, Phù Khái tức tốc lên đường đến Hàn Ấp, đặt quân bố phòng nghiêm ngặt ven sông.

Đến Hàn Ấp rồi, Phù Khái thu thập tin tức từ nhiều phía. Nghe nói những ngày này liên tục có từng nhóm nhỏ người ngựa lén qua sông cướp bóc, tướng lĩnh trấn giữ ven sông cứ tưởng là người Đông Di vì muốn chuốc giận nên tập hợp lại vượt sông cướp bóc, Phù Khái nghe xong nghi ngờ đó là phục binh của Tôn Vũ và Anh Đào chia nhỏ ra qua sông, do đó một mặt tăng cường phòng ngự dọc đường sông, một mặt sai quan lại địa phương dán cáo thị khắp nơi, hứa trọng thưởng cho ai cáo mật, đồng thời đưa quân lục soát núi non, sông ngòi, làng quê hoang dã, muốn tìm ra địa điểm tập kết của đội phục binh của Khánh Kỵ.

Nhưng Phù Khái tốn nhiều công sức, cũng không có được tin gì của cánh quân này. Sau khi hắn tăng cường bố phòng đúng là đã bắt được vài nhóm người, đều ăn mặc như thợ săn của Đông Di, tra hỏi chúng cũng không lần ra mối liên hệ gì với phục binh của Khánh Kỵ, Phù Khái đem tất cả bọn người này ra chém đầu, treo thủ cấp vào cột tre đặt ngay đường lớn trong thành để thị chúng, hành động này dấy lên thù hận từ người Đông Di, số người Đông Di lén vượt sông vào ban đêm trả thù cho người thân liên tục không ngớt, làm náo loạn cả nhánh sông Trường Giang, ban ngày thì quân Ngô chiếm ưu thế, ban đêm thì bị người Đông Di đánh lén, cứ thế đánh qua đánh lại, Phù Khái không sao bình định được biên giới.

Lúc này đã bước sang tháng hai đầu xuân, khắp mặt đất vùng Giang Nam một màu xanh biếc, cỏ cây um tùm. Chỉ là mùa xuân năm nay đã được dự báo không trôi qua êm ả, ngọn lửa chiến tranh đang nổi lên khắp thiên hạ, khắp nơi đều là tin chiến sự truyền về, chư hầu thiên hạ hoặc vì tự bảo vệ, hoặc vì muốn kiếm chác lợi lộc gì đó trong thời loạn thế, đều ngả về hai phe liên quân Tần Sở và liên quân Tề Tấn, người giữ vị trí trung lập ngoại trừ cô gia quả nhân Chu thiên tử mang danh là chủ thên hạ, cũng chả có mấy nước nhỏ đứng ngoài cuộc.

Tấn quốc lúc này vừa mới đánh bại liên quân Vệ Tống, liên quân Vệ Tống lui giữ vùng đất Tu Trạch, chỉnh đốn quân đội. Vì quân Vệ ra trận thất bại, ba quân tan tác, thống soái Tề Báo khó tránh trách nhiệm, bị Vệ hầu hạ chỉ bắt giữ hỏi tội. Tề Báo lần này vốn định mượn cơ hội đoạt lấy binh quyền, không ngờ trước bị phó soái Công Tôn Bạt chế ngự, sau lại do bại trận khó thoái thác tránh nhiệm, bị Vệ hầu trả thù, ngay cả Bắc Cung Hỉ cũng không cách nào cứu được hắn.

Vệ quốc bại trận xong không ngoài dự đoán do Công Tôn Bạt tiếp tay, thăng chức nguyên soái. Tiên phong tướng quân Công Tử Triều vì chém chết đại tướng Kỵ Tễ của quân Tấn ngay trận tiền, lập được đại công, Nam Tử tuy hận hắn thấu xương, cũng không tiện ra tay xử trí với hắn vào lúc này, cứ cho hắn sống thêm ít ngày vậy. Công Tử Triều lập được công lại không thấy Vệ hầu ban thưởng, trong lòng đã biết chắc Vệ hầu và Nam Tử đã đạt được thỏa thuận trừ khử hắn, bắt đầu suy tính đường riêng cho mình.

Quân Tần với năm trăm chiến xa, bốn vạn hùng binh tiến ra Vũ Quan, qua Thân huyện, hướng về Sở quốc. Vì liên quân Vệ Tống đang chỉnh đốn nội bộ, bổ sung binh lính, nhất thời chưa tái chiến với Tấn quốc được, quân Tấn sĩ khí ngút trời tiến về phương Nam, giáp mặt với quân Tần vừa mới đi ra Vũ Quan.

Hai bên binh lực ngang ngửa, nhưng phía bên kia quân Sở đóng ở biên giới nghe tin quân Tần tới nơi đã chủ động ra ứng chiến, cùng với quân Tần giáp chiến trước mặt sau lưng quân Tấn, quân Tấn trận đầu bại trận, cố thủ nơi hiểm yếu, đợi binh mã các nước nhỏ đồng minh kéo đến tập hợp lại mới đánh tiếp, quân Tần bị kẻ địch hùng mạnh này chắn ngang, không dám sơ suất tiến sâu, chỉ còn cách phối hợp với quân Sở phía kia, bắt đầu giao chiến với quân Tấn.

Quân Tần tung hoành ở Phương thành, quân Sở hoạt động khu Nam Bắc Hán Thủy, trải qua mấy trận đánh lớn với quân Tấn, đôi bên có thắng có thua, trong một lúc rơi vào thế dằng do, bất phân thắng bại, thành quả duy nhất mà liên quân Tần Sở đạt được chính là tiêu diệt Đường quốc từng giúp Ngô đánh Sở nay lại giúp Tấn quấy nhiễu liên quân Tần Sở.

Ở mặt trận phía Đông, Tề chiếm thế thượng phong khi giao chiến với liên quân Trần, Lỗ, Tào và các bộ lạc Đông Di. Vì trong liên quân ba nước Trần, Lỗ, Tào cộng thêm các bộ lạc Đông Di, thực lực mạnh nhất chỉ là Lỗ quốc, mà Lỗ quốc hiện nay có Triển Chích tạo phản, đồng thời Triển Chích còn thuyết phục được Trọng Lương Hoài, Công Sơn Bất Nữu bị dồn ép bởi Dương Hổ, nổi dậy chiếm hai tòa thành quan trọng của Quý thị, liên kết với hắn củng dấy binh tạo phản. Ba mối họa này cộng lại với nhau, trở thành mối họa lớn bên trong Lỗ quốc.

Lỗ quốc bổ nhiệm Dương Hổ vừa thăng chức đại phu làm thống soái ba quân, thống lĩnh quân đội của Tam hoàn bao vây tiêu diệt quân phản loạn của Triển Chích, Trọng Lương Hoài, Công Sơn Bất Nữu. Như vậy Lỗ quốc phải lo cùng lúc cả hai chiến trường, lực bất tòng tâm, quân Lỗ đóng vai trò quân chủ lực giao chiến với Tề, nay quân Lỗ tự lo còn không xong, liên quân tự nhiên không đánh lại quân Tề, nhưng họ liều chết bám lấy quân Tề, khiến tốc độ tiến quân nam chinh của đại quân Tề quốc chậm như rùa bò.

Phí thành, lúc này đã trở thành một thành trì quan trọng về mặt quân sự, trong ngoài thành từng đội quân qua lại không ngớt, đám dân đen hấp tấp đi chạy nạn. Trong đại sảnh nhà cũ của Quý thị, ánh mặt trời rọi vào, khắp nơi vắng lặng, so với cảnh ồn áo huyên náo bên ngoài, nơi đây nghe rõ cả tiếng ruồi bay.

Ngoài sân đang dừng đậu mấy chiếc xe ngựa, mấy chục tên võ sĩ trang bị áo giáp vũ khí đầy đủ đứng yên bất động dưới ánh nắng, bóng của chúng in dài ra mặt đất. Trong sảnh hai nam nhân đang đứng đó, một người mặc áo bào xanh đeo kiếm, người kia thân hình thấp bé, đôi mắt lờ đờ như vừa mới ngủ dậy.

Tiếng bước chân vội vả vang lên, hai người ngước mắt nhìn về phía tấm bình phong, một mỹ nhân bước ra từ phía sau, tà áo xanh mướt, thân hình yểu điệu, dung mạo thanh nhã, mỗi bước đi đều làm say đắm lòng người.

Tên nam nhân già đứng đó thấy nhói một cái trong tim, vội cúi đầu né tránh tia nhìn của nàng ta. Đã mười mấy năm trôi qua, cô nương này vẫn mê hoặc như năm xưa, nàng như một vò rượu để càng lâu càng thơm, mùi thơm mang hơi ấm nồng nàn. Cũng chính vì vẻ đẹp ấy, vẻ đẹp khó bắt người ta xuống tay hủy diệt, lão già này năm xưa phạm phải lỗi lầm lớn, giờ hắn tuyệt đối không nhìn vào đôi mắt làm điên đảo lòng người của Thành Bích phu nhân nữa.

"Tỉ tỉ." Thành Tú thấy Thành Bích phu nhân bước ra, lập tức bước lên phía trước: "Tỉ tỉ, xe ngựa đã chuẩn bị xong."

"Ừ!" Thành Bích phu nhân đáp khẽ, nhét một cuộn tranh đang cầm trên tay vào tay Thành Tú, dặn dò: "Thành Tú, cuộn tranh này được vẽ theo cách bí mật mà tỉ đã dạy đệ, đệ có thể xem hiểu, cầm theo nó, đi với tốc độ nhanh nhất sang Sở quốc, làm theo dặn dò của tỉ."

"Tỉ tỉ, chúng ta...có thật phải từ bỏ tất cả ở đây, bây giờ cũng không nên đến đó, tỉ..."

"Im miệng!" Thành Bích chau mày, đôi mắt long lanh như nước hồ mùa thu quét sang ông chủ Lỗ Quái Cư đang bất an đứng bên cạnh, người từng là đệ nhất kiếm khách Lỗ quốc Viên Tố, nhỏ nhẹ: "Ngươi lui xuống trước đã!"

"Dạ!" Viên Tố như trút được gánh nặng, vội quay đầu bước ra ngoài.

Thành Bích lúc này mới nói với Thành Tú: "Đệ đệ, bây giờ thiên hạ đại loạn, còn có nơi nào là an toàn tuyệt đối chứ? Đệ đó, cũng không phải là suốt đời nhờ vào tỉ được đâu, cũng phải có sự nghiệp riêng cho mình chứ. Cầm theo cuộn tranh này đi tìm Khánh Kỵ, một khi Khánh Kỵ phục quốc thành công, đệ lúc đó là khai quốc công thần, chắc chắn được phong hầu bái tước, còn nếu Khánh Kỵ thất bại...những gì ghi trên bức tranh này, cũng đủ giúp đệ giữ được tính mạng."

Thành Tú hoang mang hỏi: "Tỉ tỉ, còn tỉ thì sao?"

"Đệ yên tâm, tỉ là một nữ nhân, trong lúc chiến loạn không tiện ra ngoài, tốc độ đi đường lại chậm, đệ cứ đi trước, tỉ sẽ theo sau đi tìm đệ."

Thành Tú nghe vậy mới hơi yên tâm, nhưng nghĩ kĩ hắn lại thấy anh ách: "Tỉ tỉ, đệ không ở bên cạnh tỉ, quả là không an tâm chút nào. Tỉ cũng biết hiện nay thiên hạ đại loạn, chúng ta quay về Khúc Phụ, chẳng phải an toàn hơn sao? Người Tề lợi hại đến đâu, chắc không đánh đến kinh đô Lỗ quốc được đâu nhỉ? Đệ cứ đi Sở quốc đưa tin, còn tỉ chi bằng quay về Khúc Phụ, đợi khi sóng yên gió lặng, đệ lại đón tỉ qua Sở."

Thành Bích phu nhân thở dài: "Đệ đệ ngốc của ta, đệ tưởng tỉ vội qua đó...qua đó gặp Khánh Kỵ à?" Nói đến đây, Thành Bích hơi đỏ mặt, tiếp: "Tỉ không đi cũng không được, Công Sơn Bất Nữu lợi dục công tâm, hùa theo đại đạo Triển Chích tạo phản, lợi dụng bí mật của tỉ khi xưa, hắn không ngừng sai người bắt tỉ cung cấp lương thảo binh khí, càng lúc càng tham lam, đây là cái động không đáy, trám không đầy được. Nhưng kêu tỉ sao từ chối đây? Tỉ không đồng ý nghe theo hắn sẽ nói ra bí mật của tỉ, đến lúc đó là tỉ tiêu đời, Sinh nhi cũng không giữ được tính mạng, nếu không đến bước đường cùng rồi tỉ sao lại rời khỏi vào lúc này chứ?"

Thành Bích thần sắc sầu não: "Sinh nhi hãy còn nhỏ, nó tuy không phải là máu mủ ruột thịt của tỉ, nhưng bao nhiêu năm qua tỉ đã xem nó như con ruột của mình, nếu không vì sự thể nghiêm trọng, tỉ sao nỡ bỏ mặc nó? Ài! May là gia chủ Quý Tôn rất thương yêu nó, có gia chủ Quý Tôn chăm sóc, lại có số của cải khổng lồ trong phủ, suốt đời này nó không phải lo rồi."

"Vậy...đệ và tỉ tỉ cùng lên đường."

"Tuyệt đối không thể nào!" Thành Bích nghiêm nghị: "Những gì ghi chép trên cuộn tranh này rất quan trọng, tỉ tin Khánh Kỵ giờ đang rất cần nó, nếu thời cơ qua đi, nó đối với Khánh Kỵ chỉ còn là một đống rác không có giá trị, đệ phải lập tức lên đường, phải đi với tốc độ nhanh nhất đưa đến cho Khánh Kỵ."

"Dạ!" Thành Tú cúi đầu vâng lời.

"Được rồi, đệ ra ngoài chuẩn bị đi, kêu Viên Tố vào gặp tỉ."

"Dạ!" Thành Tố bước ra ngoài sảnh, một lát sau, Viên Tố lê bước chầm chậm đi vào, bộ dạng e dè, không hề mang chút khí khái oai phong của đệ nhất kiếm khách Lỗ quốc năm nào.

Thành Bích hứ một tiếng, nói giọng không vui: "Thôi được rồi, trước mặt ta ngươi không cần làm ra bộ dạng đó nữa, ngươi có biết ta gọi ngươi từ Khúc Phụ đến đây là có ý gì không?"

Viên Tố giả lả: "Tiểu nhân không biết."

"Ta muốn ngươi bảo vệ Thành Tú đi Sở quốc."

"Cái gì?" Viên Tố ngớ người, vội làm ra vẻ khó xử từ chối: "Đi Sở quốc? Môn hạ của phu nhân đâu thiếu người tài, cao thủ như mây, đâu cần dùng đến Viên Tố này? Viên Tố già rồi, gân cốt toàn thân rã rời, không múa kiếm được nữa đâu, hơn nữa lão Viên còn phải trông coi Lỗ Quái Cư, lão mà đi khỏi..."

"Trông cái gì mà trông? Tưởng ta không biết dụng ý của ngươi khi mở Lỗ Quái Cư hả?" Thành Bích phu nhân tức giận ngắt lời, lạnh lùng nói: "Lỗ Quái Cư từ giờ đóng cửa, tiểu Ngải hiện đang ở Sở quốc, ngươi còn nán ở Khúc Phụ chờ đợi gì chứ?"

"Tiểu Ngải đã đến Sở quốc?" Viên Tố kinh ngạc kêu lên, nghĩ đến tình hình Sở quốc giờ đang hỗn loạn, tiểu Ngải một thân nữ nhi..., Viên Tố chợt biến sắc.

Thành Bích phu nhân vênh mặt, cặp lông mày quyến rũ như hồ ly, cất giọng đều đều: "Không sai, nàng ấy đang ở Sở, với lại đang trong đại quân của Khánh Kỵ, ngươi bảo vệ Thành Tú qua đó, tiện thể gặp tiểu Ngải luôn không tốt sao?"

Viên Tố ngơ ngẩn giây lát, tấm lưng còng từ từ đứng thẳng, chỉ trong khoảnh khắc một lão già lọm khọm bỗng hóa thân thành một kiếm khách oai phong, trở lại bộ dạng khí khái bất phàm năm xưa, Thành Bích phu nhân tuyệt đẹp đứng ngay trước mặt, nhưng khí chất của hắn như lấn át cả tuyệt sắc giai nhân Thành Bích.

Viên Tố ngẩng đầu lên, bắt gặp ánh nhìn xuyên thấu vào tim của hắn: "Không cần nhiều lời nữa, thời gian cấp bách, ngươi đi với Thành Tú ngay lập tức, còn về tổn thất của Lỗ Quái Cư, bổn phu nhân sẽ bồi thường cho ngươi."

Viên Tố vội cụp mắt xuống, tuy chỉ là một khắc tia nhìn chạm nhau, nhưng vẻ thu hút phát ra từ đôi mắt Thành Bích thật khiến người ta khó lòng kiềm chế. Viên Tố hạ giọng đáp ứng: "Dạ! Phu nhân nếu đã nói thế, Viên Tố còn có gì không bỏ lại được chứ? Viên Tố bằng lòng đi cùng Thành Tú đến Sở một chuyến."

"Rất tốt, mọi người khởi hành ngay đi, bổn phu nhân còn có chuyện cần làm, không tiễn."

"Phu nhân, tại hạ cáo từ!" Viên Tố chắp tay cúi lạy xong lui ra ngoài, thần thái ung dung, bước đi vững vàng, hoàn toàn khác với bộ dạng lom khom khập khiểng khi nãy.

"Hư..., đợi Thành Tú đi khỏi, chúng ta mới đi."

"Dạ..." Tiểu Hà hơi chút do dự: "Phu nhân...nhất định phải làm như vậy ư?"

Thành Bích liếc mắt vào Tiểu Hà, hỏi: "Ngươi lo gì à?"

Tiểu Hà cắn môi không trả lời, Thành Bích phu nhân mỉm cười, từ từ xoay lưng lại, thở một hơi dài: "Đi triệu tập đầy đủ người ngựa, chúng ta lập tức lên đường."

"Dạ!" Tiểu Hà quay đầu bước ra ngoài. Thành Bích lại thở dài, tự nói với mình: "Chàng vốn chỉ là một công tử lưu vong, còn ta lại có gia nghiệp khổng lồ và thân phận đặc thù để lợi dụng, ta thật không biết...chàng đến với ta, rốt cuộc có bao nhiêu phần thật lòng, rốt cuộc còn vì mục đích nào khác không? Trên thế gian này, thứ khó đọc hiểu nhất chính là lòng người..., không biết trong lòng chàng có thật tồn tại Thành Bích, ta không yên tâm, không cam tâm chút nào."

Thành Bích ngây dại nhìn khắp đại sảnh trống trơn, lại nói tiếp: "Tiểu Man hận ta thấu xương, mà giờ nàng ta đang ở cùng chàng, còn tên Công Sơn Bất Nữu cứ bám riết lấy ta, uy hiếp ta cung ứng quân trang cho hắn. Tất cả đều là nút thắt khó gỡ, nhưng lại buộc phải đi gỡ..."

Thành Bích đứng đó ưu sầu hồi lâu.

Hoàng hôn buông xuống, ánh nắng vàng dịu, vì chiến sự đang diễn ra khốc liệt, Phí thành lập tức phải đóng cửa. Lúc này, giữa đám đông chen chúc ùa vào thành, xuất hiện thêm một đoàn người ngựa áo giáp chỉnh tề, vũ khí sáng choang, trang bị còn tốt hơn cả đại quân của Tam hoàn. Ba trăm võ sĩ hộ tống chiếc xe ngựa xa hoa của Thành Bích phu nhân đi ra cửa thành Nam, hòa cùng ánh chiều tà lay lắt.

Dưới ánh nắng hoàng hôn, in bóng một đoàn người từ từ đi xa...

Đại Tranh Chi ThếTác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 196: Bách Tân hồ (Thượng)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Bách Tân hồ. Khánh Kỵ cùng Yểm Dư, Thúc Tôn Diêu Quang, Quý Tôn Tiểu Man đang thong dong đi dạo ven hồ, nước hồ xanh biếc, lăn tăn gợn sóng, trên mặt hồ đang có mấy con thuyền nhỏ thả lưới đánh cá, đó đều là binh sĩ của Khánh Kỵ, trong hồ có nhiều cá béo ngậy, bắt lên bổ sung cho bữa ăn cũng khá hay, lại có thể để đám binh sĩ trước đây chưa từng đi thuyền rèn luyện thêm, một công đôi việc.

Bên hồ có một khu vực rộng lớn bị dọn trống, làm xưởng đóng thuyền "Chu thất", những binh sĩ biết đóng thuyền trong quân Khánh Kỵ giờ bị điều động hết tập trung ở đây, ngoài ra còn tuyển lựa nhiều thợ mộc vào đội đóng thuyền, còn những thợ cưa gỗ thì không cần phí công chọn lựa, đám binh sĩ khỏe mạnh chặt cây khiêng đá còn nhanh hơn cả dân làm lao dịch.

Những thủy binh phụ trách chèo thuyền gọi là "Thuyền tốt", với "Thuyền quan" chỉ huy đội chèo đều được tuyển lựa kĩ lưỡng từ trong quân Khánh Kỵ, còn các binh sĩ còn lại, chỉ cần thích ứng việc đánh trận trên thuyền là được. Lúc này đám binh sĩ đang lái những chiếc thuyền màu sắc hỗn tạp mới mua về, tập luyện thủy chiến trên lòng hồ xa xa, cả trăm mái chèo cùng lúc rẽ bọt sóng, hai thuyền giáp mặt thu ngắn khoảng cách, các binh sĩ phóng móc câu qua đó níu chặt thuyền của đối phương, phi thân bay qua tiếp chiến, thỉnh thoảng có người tuột tay rơi tỏm xuống nước, tuy chỉ là diễn tập nhưng tất cả binh sĩ đều tập luyện hăng say như thật.

Yểm Dư nói: "Ta từng đi tìm một số thuyền về đây, đáng tiếc đó đều là thuyền đánh cá loại nhỏ và thuyền chở khách, không thích hợp đi lại đường dài trên sông lớn, chỉ còn cách tự đóng thuyền lấy vậy. Lần này chúng ta chủ yếu chờ đợi sau khi phía Chúc Dung thành công chiếm giữ Cô Tô thành, tiến quân thần tốc quay về chặn trước đại quân của Cơ Quang, chiếm lĩnh thành trì chờ hắn tới nộp mạng. Ta đã tính toán, với khoảng cách đường bộ Ngô Sở, dọc đường phải chèo đèo vượt suối, đường đi vô cùng khó khăn, chúng ta không có đủ số xe ngựa chuyên chở binh sĩ, dù có đủ xe cũng khó đi trên con đường hiểm trở, tốc độ không nhanh bằng đi đường thủy. Với lại hành quân thế này lương thảo khó theo kịp đại quân, chúng ta không thể không tính đến trường hợp bại trận, nếu lương thảo theo không kịp, đánh nhau lại bại trận thì lòng quân hoang mang, sợ lúc đó có nhiều binh sĩ bỏ trốn."

Khánh Kỵ gật gù. Yểm Dư lại nói: "Vì thế với số thuyền này, ta không dám mảy may sơ suất, chúng ta đang đóng nhiều tàu thuyền, có thuyền lớn dùng cho việc vận chuyển binh lính, vì muốn đối phó với thủy binh quân Ngô, ta còn chuẩn bị đóng lâu thuyền, thuyền đụng, thuyền cánh én, thuyền nhỏ để truyền đưa tin tức và dò thám nữa..."

Khánh Kỵ khẽ gật đầu hài lòng: "Hoàng thúc suy nghĩ chu đáo, nếu chúng ta đi đường thủy về Ngô, tuy là xuôi theo dòng nước, để tăng tốc cũng nên ra sức huấn luyện thêm cho binh sĩ, lần này về Ngô quốc, đường sá xa xôi, số thuyền tốt này không đủ dùng đâu, để ta đi chọn thêm số người biết lái thuyền đưa tới, tổ chức làm đội dự bị, hai đội thuyền tốt thay phiên nhau chèo..."

Khánh Kỵ chợt ngưng bặt, toàn thân tưng lên một cái rồi cứng đơ ra, một cánh tay còn giơ lên không trung, miệng mở to bất động, không nói tiếng nào. Mọi người hoảng sợ cả lên, vội nhìn cả vào hắn, chỉ thấy hắn trợn mắt đáng sợ, gân xanh nổi lên trên trán, thân trên run lập cập như đánh đu.

Thúc Tôn Diêu Quang lo lắng, vội bước tới vịn lấy vai Khánh Kỵ, hốt hoảng kêu lên: "Chàng sao rồi? Mau nói gì đi chứ? Chàng sao rồi?"

Khánh Kỵ nhìn trừng trừng vào đống tàu thuyền đang được đóng dang dở bên "Chu thất" được dựng lên sơ sài. Hai mắt trợn tròn, vẫn không phát ra tiếng nào. Thúc Tôn Diêu Quang quay đầu lại nhìn theo hướng đó, các binh sĩ bên kia vẫn bận rộn làm việc, không có gì khác lạ, Thúc Tôn Diêu Quang càng thêm sợ hãi, sắp bật khóc đến nơi. Nàng ra sức lay lay Khánh Kỵ, quay qua cầu cứu Yểm Dư: "Mau, mau đi mời một thuật sĩ về đây, chàng...chàng nhất định bị trúng tà rồi."

Phía bên kia, Quý Tôn Tiểu Man gần như cùng một lúc với Diêu Quang lao đến bên cạnh Khánh Kỵ, bấu chặt chiếc vai còn lại của hắn, nàng không lay Khánh Kỵ, chỉ là mở to đôi mắt đen láy như hạt ngọc, kinh hãi nhìn vào hắn. Thúc Tôn Diêu Quang ra sức lay mạnh Khánh Kỵ cho hắn tỉnh lại, Quý Tôn Tiểu Man cũng bị lay cho chóng mặt, hét lên: "Đừng lay hắn nữa! Tên này giết người vô số, đôi tay nhuốm đầy máu tanh, có con ma nào dám ám hắn chứ?"

Khánh Kỵ chợt xoay đầu lại, nhe răng phát ra tiếng âm u: "Ta là ma nữ đây!"

Quý Tôn Tiểu Man "Oái!" một tiếng nhảy dựng, bật về phía sau, đoạn "Xoạt!" rút Hàm Quang kiếm cầm trong tay, hung dữ chĩa vào trước ngực Khánh Kỵ, nghiêm giọng: "Ngươi đi ra cho ta!"

Khánh Kỵ không còn nhịn được nữa, bật cười khanh khách: "Nàng chui vào ta đi!"

Quý Tôn Tiểu Man ngờ ngợ: "Ta không phải là ma nữ, sao mà vào được?"

Khánh Kỵ cười ha hả khoái trá, cười đến nỗi ôm bụng lăn lộn: "Tiểu Ngải à Tiểu Ngải, nha đầu này ngốc nghếch đáng yêu thật. Ha ha ha..., ai nói ta bị ma nữ ám chứ? Giết người vô số, tay nhuộm đầy máu tanh, nàng nói ta thành "Hỗn thế ma vương" mất rồi, ta còn bị ma ám được ư? Ha ha ha..."

Quý Tôn Tiểu Man nóng ran hai má, xấu hổ vì biết bị lừa, hậm hực nói: "Ngươi đó, không đàng hoàng gì cả, sao lại hù dọa người ta?"

Thúc Tôn Diêu Quang đẩy mạnh Khánh Kỵ một cái, phụng phịu: "Chàng đó, lần sau đừng hòng người ta lo lắng cho chàng nữa."

Khánh Kỵ tươi cười hớn hở, cứ như lượm được kho báu, cười đến nỗi không ngậm miệng lại được, hắn cũng không giải thích với hai cô nương, chỉ là đưa tay nắm lấy Yểm Dư, vội lên tiếng: "Không cần lo, chỉ là ta vừa mới nhớ ra một chuyện lớn. Mau, chúng ta đi "Chu thất", lập tức triệu tập tất cả thợ đóng thuyền, ta có chuyện dặn dò bọn họ."

Kéo theo Yểm Dư đang nghệch mặt ra không hiểu gì cả đi được vài bước, Khánh Kỵ quay đầu lại nói: "Hai nàng tự đi đâu đó chơi đi, không cần theo ta."

Quý Tôn Tiểu Man hậm hực tra kiếm vào bao, đôi mắt long lanh tức tối, nguýt to: "Đúng là một tên vô lại!"

Thúc Tôn Diêu Quang hùa theo: "Là tên vô lại hư hỏng hết chỗ nói!"

Hai người nhìn vào nhau, bỗng chốc nảy sinh cảm giác đồng hội đồng thuyền, hai người mỉm cười với nhau, lại thoáng thấy ngại ngùng, Thúc Tôn Diêu Quang nắm lấy tay Quý Tôn Tiểu Man: "Muội muội, chúng ta tìm một chiếc thuyền nhỏ đi chèo thuyền chơi, mặc kệ tên hỗn đản đó."

"Ờ...hay đó!" Quý Tôn Tiểu Man còn chưa quen Diêu Quang tỏ thái độ thân thiết với nàng như vậy, ậm ự nói: "Nhưng ta không biết chèo..."

Thúc Tôn Diêu Quang mỉm cười: "Ta biết đôi chút, không sao...chúng ta kêu người khác chèo hộ."

Quý Tôn Tiểu Man mừng rỡ: "Hay quá! À hay là chúng ta đợi ở đây một lát, tên khốn đó hù dọa chúng ta thế này, phải bắt hắn chèo thuyền cho chúng ta, mệt chết hắn mới thôi!"

"Được!" Hai cô nương cười khúc khích khoái trí với nhau.

Các thợ đóng thuyền đang làm việc trong "Chu thất" đều bị đuổi hết ra ngoài, ngoại trừ Khánh Kỵ, Yểm Dư, chỉ vài đội trưởng giữ chức vụ cao được ở lại, họ đều là thợ đóng thuyền lão luyện, mọi người đứng thành một vòng tròn, Khánh Kỵ đứng giữa, trên tay cầm một mô hình thuyền gỗ, tỉ mỉ giảng giải cho mọi người nghe, chốc chốc có người giơ tay thắc mắc, Khánh Kỵ dừng lại giải thích kĩ hơn.

Đợi Khánh Kỵ nói xong, một tên đội trưởng lên tiếng khâm phục: "Tiểu nhân tuy ở Sở quốc, nhưng đã sớm nghe danh công tử Khánh Kỵ mới là thiên hạ đệ nhất về chế tạo, hôm nay được thấy tận mắt, đúng là danh bất hư truyền, máy xay gạo, bánh xe tưới tiêu, đã là tác phẩm tuyệt diệu, còn thuyền này..., Ây! Tiểu nhân từ nhỏ đã theo phụ thân học đóng thuyền, cả đời này các loại thuyền do chính tay tiểu nhân đóng nhiều vô số, nhưng chưa từng nghĩ ra ý tưởng khác lạ như thế. Tuy cái vật này tiểu nhân chưa từng thấy qua, trước mắt còn chưa làm thử, nhưng với kinh nghiệm đóng thuyền cả đời của tiểu nhân, biết chắc các thiết kế này rất khả dụng, mọi người thấy thế nào?"

Các đội trưởng xung quanh ai nấy gật đầu lia lịa, vui mừng ra mặt. Bọn họ đều là thợ đóng thuyền tài ba,đối với họ có thể đóng ra một chiếc thuyền chất lượng ưu việt là chuyện vui sướng nhất trên đời. Còn nếu đóng được một chiếc thuyền xưa nay chưa từng có, càng là thành tựu vĩ đại, lúc này đây trong lòng họ phấn khích vô cùng, không hề thua kém cảm giác lâng lâng vừa nãy khi mới nảy ra ý tưởng của Khánh Kỵ.

Đại Tranh Chi ThếTác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 196: Bách Tân hồ (Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Khánh Kỵ mừng rơn: "Đương nhiên là khả dụng rồi, thuyền này dùng cánh buồm mà bổn công tử vừa nói, mượn sức gió đi trên sông, trong lúc thuận gió, không những tiết kiệm rất nhiều sức, mà tốc độ di chuyển còn nhanh gấp mấy lần, cho dù là ngược gió hay gió thổi chệch hướng, chỉ cần mặt nước đủ rộng, điều chỉnh góc độ cánh buồm chạy theo đội hình chữ "Chi" (chữ Chi trong tiếng Hán viết giống chữ Z trong tiếng Anh.), vẫn cứ tiến nhanh như cũ. Tất nhiên, đội lái thuyền phải từ từ tập luyện mới nắm bắt được cách điều khiển, trước mắt chúng ta chưa cần nghĩ tới. Hoàng thúc, nơi này cần tăng cường canh gác, phải đảm bảo trước khi chúng ta dùng đến, tin tức không tiết lộ ra ngoài, còn sau này thì, sợ gì không cho khắp thiên hạ được biết, ha ha..."

Câu cuối cùng hắn nói là để cho đám thợ đóng tàu này nghe. Hồi xưa hễ mà có vật gì quý báu hay chuyện cơ mật, quân vương vì muốn độc chiếm, giết người diệt khẩu chuyện gì cũng dám làm. Khánh Kỵ sợ đám thợ này sau khi cơn phấn khích qua đi, lo lắng Khánh Kỵ vì muốn giữ bí mật, sau này sẽ giết chết bọn chúng, lúc đó chắc không ra sức làm việc, nên mới nói ra câu này, ý là hiện giờ thì cần phải giữ bí mật, một khi dùng xong đống tàu thuyền mới này, thì không sợ khắp thiên hạ biết đến, lúc đó không phải giữ bí mật gì nữa, bọn họ sẽ không bị đe dọa tính mạng, còn nắm bắt được một số kỹ thuật đóng thuyền mới mẻ. Khánh Kỵ dùng chiêu này để trấn an lòng người.

Yểm Dư hiểu ý Khánh Kỵ, hắn cũng mỉm cười góp tiếng nói: "Yên tâm đi, xung quanh Bách Tân hồ có đại quân canh giữ, không cho phép người lạ tiếp cận, đợi khi chúng ta dùng đến đống thuyền này, lúc đó Cơ Quang có biết thì đã muộn, hắn không kịp đóng thuyền bắt chước theo chúng ta, đại sự có cơ hội thành công rồi, ha ha..."

"Ừm, giờ nghĩ ra cách này, ta quyết tâm quay về Ngô quốc bằng đường thủy." Khánh Kỵ lại quay sang đám thợ, nói: "Còn về bánh lái, bổn công tử chỉ nghĩ ra phương thức, còn cụ thể chế tạo, lắp đặt, vận hành thế nào cần các ngươi ra sức nghiên cứu, dù là làm ra xong cũng phải có thời gian đủ cho đội thuyền tốt thao tác sử dụng thành thạo, nên các vị phải nhanh chóng thiết kế làm ra để các thuyền tốt tập luyện. Còn về cái khoang tàu đóng kín kia, tin chắc bổn công tử nói ra là mọi người hiểu ngay, cái đó không cần nói nhiều nữa."

Đám thợ cùng chắp tay: "Xin hai vị công tử yên tâm, ở đây vật liệu nhân công đều đầy đủ, tàu thuyền còn chưa đóng xong, muốn chỉnh sửa đôi chút không gì khó, bọn tiểu nhân lập tức làm việc, làm ra chiếc chiến thuyền kiểu mới tận dụng sức gió và khống chế dòng chảy này."

Khánh Kỵ gật đầu mỉm cười: "Tốt, đợi khi nào hoàn thành, ngoài tiền công đã hứa, các vị đều được nhận thêm gấp năm, à không! Gấp mười lần tiền thưởng, Ngô quốc Khánh Kỵ, đã nói là làm, các vị có thể yên tâm, bắt đầu bắt tay vào làm việc đi."

Khánh Kỵ phất tay, cùng Yểm Dư lui ra ngoài "Chu thất", mấy đội trưởng đóng thuyền lập tức túm tụm lại với nhau, léo nhéo bàn bạc một hồi, số khoang thuyền kín, bánh lái, buồm gió Khánh Kỵ nói với họ trước đây chưa từng thấy qua, họ là những tay đóng thuyền lão luyện lúc này cũng cần bàn bạc điều chỉnh cho phù hợp, tất nhiên cần trao đổi kinh nghiệm với nhau trước đã.

Vừa ra khỏi "Chu thất", Yểm Dư phấn khích khen lấy khen để: "Khánh Kỵ này, thúc phụ bây giờ đối với cháu đúng là tâm phục khẩu phục, cháu có thể trong một thời gian ngắn nảy ra ý tưởng táo bạo này, không phải có thần thánh giúp đỡ không thể làm được. Thiên hạ của Ngô quốc, thuộc về cháu chắc rồi! Có các chiến thuyền kiểu mới này, chúng ta muốn quay về Ngô quốc trước lão tặc Cơ Quang dễ như trở bàn tay, chỉ cần thuyền được đóng xong, ta lập tức cho binh sĩ tập luyện sử dụng thành thạo, ..."

Khánh Kỵ mỉm cười, vừa định lên tiếng, phía bìa rừng xa xa Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man đang xì xào to nhỏ đã nhìn thấy hắn bước ra ngoài, Quý Tôn Tiểu Man sải bước dài lao nhanh tới trước mặt Khánh Kỵ, làm mặt giận dỗi: "Này! Muội muốn chèo thuyền trên hồ."

Khánh Kỵ còn đang bận suy tư gì đó chưa kịp định thần, hờ hững buông một câu: "Thế thì đi đi."

"Nhưng muội không biết chèo thuyền."

"Đơn giản thôi mà, kiếm ai đó chèo giúp."

Quý Tôn Tiểu Man cười tinh nghịch: "Vậy người ta tìm ai để chèo nè?" Thúc Tôn Diêu Quang lúc này đã đến đứng kế bên cũng đang tủm tỉm.

Khánh Kỵ vừa định trả lời, Kinh Lâm từ phía xa đang chạy nhanh tới, vừa chạy vừa hét lớn: "Công tử, công tử, có tin đưa đến."

Khánh Kỵ vội bước tới, hỏi: "Có chuyện gì?"

Kinh Lâm vừa thở hổn hển vừa bẩm báo: "Hai cánh quân Ngô ở Ngư Phản, Quyền Ấp tấn công tàn quân trấn thủ La Giang của quân Sở, quân chủ lực của Sở phải ba ngày sau mới đến được, bây giờ quân Sở ở La Giang nguy ngập, phái người đột phá vòng vây chạy đến xin công tử cứu viện."

"Hử?" Khánh Kỵ đanh mặt, vội gọi theo Yểm Dư, nói: "Đi, chúng ta đến chỗ ở của hoàng thúc rồi bàn bạc rõ ràng hơn."

Hắn xua tay về hướng cô nương Tiểu Man có tính khí trẻ con: "Tiểu nha đầu, muốn đi chơi trên hồ thì cứ tìm mấy tên lính biết chèo thuyền chở theo là được mà."

Quý Tô Tiểu Man phụng phịu: "Hứ, lại để hắn chuồn đi mất rồi."

"Thôi đi, nam nhân ấy à, cứ bàn đến đánh trận là trong lòng chỉ có quân địch, còn chứa được gì khác đâu chứ? Chàng có việc lớn cần làm, chúng ta không giúp ích được gì cũng không nên gây cản trở, đi chơi trên hồ chúng ta tự đi vậy." Thúc Tôn Diên Quang thông cảm lên tiếng.

Quý Tôn Tiểu Man quay đầu lại, nhìn một lượt từ đầu đến chân Diêu Quang. Thúc Tôn Diêu Quang hai má ửng hồng, thắc mắc: "Bị gì vậy?"

Quý Tôn Tiểu Man thở nhè nhẹ, hạ giọng: "Không có gì. Ta bây giờ đã hiểu vì sao hắn cứ gọi mình là tiểu nha đầu. Ây! Ta đúng là tính khí trẻ con, rất nhiều chuyện...cứ thích là làm, không hề suy nghĩ cho người khác..."

Thúc Tôn Diêu Quang nhìn vào khuôn mặt Tiểu Man, ánh nắng êm dịu rọi lên khuôn mặt búp sen của nàng ta, xung quanh lỗ tai có ít tóc tơ, toát ra vẻ ngây ngô của con trẻ, nhưng cũng có nét xinh xắn quyến rũ.

Thúc Tôn Diêu Quang thở dài: "Muội đó, biết nói ra những lời này, nghĩa là đã trưởng thành rồi."

Diêu Quang ngẩng đầu, nhìn bóng lưng Khánh Kỵ đã đi sang bên kia bìa rừng, đan các ngón tay vào nhau, tâm sự: "Lúc mới gặp chàng, ta cũng chỉ là một thiếu nữ điêu ngoa không hiểu chuyện, cái tính khí bây giờ là được chàng dạy dỗ đó, ta cũng vừa mới chín chắn lên thôi."

"Hừ! Quân Sở hành quân với tốc độ quá chậm, hậu quân xuất phát chậm, lại vội phái quân tiên phong tiến đánh Quyền Ấp, kết quả đơn độc tác chiến, bị Cơ Quang đánh bật ra La Giang, quân Sở rốt cuộc đang tính toán gì chứ?" Yểm Dư nghe Kinh Lâm bẩm báo chi tiết về tình hình bên quân Sở xong nổi cơn tanh bành.

Khánh Kỵ cười khổ: "Ai cũng biết hiện giờ người cầm quyền ở Sở chỉ là một tiểu Sở vương nhỏ tuổi, người kia là Phí Vô Cực. Phí Vô Cực thật ra rất thông minh, chỉ đáng tiếc con người hắn quá ích kỉ, một người ích kỉ chỉ biết lo nghĩ cho riêng mình, khó tránh khỏi làm ra những chuyện ngu ngốc. Hắn phái quân xâm nhập riêng lẻ, khó nói không phải vì muốn chúng ta gánh chịu sức tấn công của Cơ Quang giùm hắn."

Kinh Lâm nổi đóa: "Chúng ta cũng đang bị Cơ Quang tấn công mà, đại quân của Vương Tôn Hùng không phải do công tử đánh cho tan tác ư? Cho dù Phí Vô Cực có đến đây hắn cũng không có gì để trách, chẳng qua hắn cứ nhỏ nhen, chấp nhận thiệt mất một cánh quân Sở. Hừ! Sở quốc giờ đã ra nông nỗi thế này, thứ gian thần như hắn còn toan tính chủ ý gây tổn hại lên nhau, khó trách đệ nhất cường quốc lãnh thổ rộng lớn, binh mã đông đúc phương Nam lại thảm hại đến bước đường này."

Khánh Kỵ nói: "Lạc đà ốm đói vẫn to hơn con ngựa, hơn nữa Sở quốc không phải không mạnh, chỉ là thiếu gắn kết mà thôi, như một con sư tử khỏe mạnh có một bộ óc heo, nên mới bị người ngoài xà xẻo. Nay chúng ta vẫn cần hợp tác với người Sở, nên đối với quân Sở đang bị vây khốn ở La Giang, biết chắc là dụng tâm của Phí Vô Cực, cũng không thể bỏ mặc không cứu."

Yểm Dư uất ức: "Binh mã của ta chính là bị đám khốn kiếp Nang Ngõa, Phí Vô Cực hại cho mất hết. Khánh Kỵ, ý cháu là...chúng ta vẫn phải xuất binh đi cứu viện đám quân Sở bị vây ở La Giang ư?"

Khánh Kỵ lắc đầu nguầy nguậy: "Phí Vô Cực đã gây ra chuyện này, người Sở sẽ tự đi cứu viện, chỉ vì biết chắc chúng ta không thể không cứu, người Sở nghĩ ra, bọn gian tặc Cơ Quang, Ngũ Tử Tư sao lại không nghĩ ra? Chúng vây đánh quân Sở tại La Giang là giả, mai phục quân cứu viện của ta mới là thật, nên...chúng ta không thể đi!"

Yểm Dư và Kinh Lâm cùng ngớ người không hiểu: "Vừa phải đi cứu, lại không thể đi cứu, vậy theo ý của chủ soái là...?"

Đại Tranh Chi ThếTác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 197: Đánh úp sau lưng (Thượng)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

"Mọi người xem." Khánh Kỵ chỉ lên tấm bản đồ nói: "Phía Tây chỗ này là Ngư Phản, phía Đông chỗ này là Quyền Ấp, ở giữa là con sông La Giang, tàn quân của Sở đều tập trung cả ở đây. Mặt nam là Dĩnh Đô, mặt bắc khe núi này là thành Na Xứ chúng ta đang chiếm giữ. Nếu chúng ta xuất binh đi cứu quân Sở tại La Giang, Dĩnh Đô cũng xuất quân chặn đường chúng ta, sau đó quân Ngô tại Ngư Phản và Quyền Ấp sẽ tấn công hậu quân của ta, chúng ta cùng lúc bị đánh cả trước mặt sau lưng, làm không tốt thì cũng rơi vào tình cảnh của đám quân Sở này, mất đi thành trì hiểm yếu, lưu lạc tới vùng La Giang, đợi Tử Tây đến cứu, lúc đó cứu người không được, lại tự hại thân mình, sao có thể xuất binh đi cứu chứ?"

Đôi mắt Yểm Dư chớp chớp, đã hiểu ra vấn đề, nói: "Nếu quân Ngô lấy tàn quân của Sở tại La Giang làm mồi nhử, mục đích thật sự là nhằm vào chúng ta, vậy chúng ta hãy làm ra vẻ như muốn đưa quân đi cứu quân Sở, đánh trống khua chiêng tiến về La Giang, giữa đường ta thay đổi đột ngột, chỉ để lại ít người dẫn dụ quân địch, còn đại đội binh mã bất ngờ tấn công Ngư Phản hoặc Quyền Ấp, tương kế tựu kế cướp thành trì của chúng, có phải vậy không?"

Khánh Kỵ cười ha hả: "Hoàng thúc đoán đúng lắm, nhưng phải để lại ít quân thủ thành, quân chủ lực đi tấn công Quyền Ấp hoặc Ngư Phản, kết quả cuối cùng có thể là chiếm được một thành, mất một thành. Thành Nã Thứ nằm giữa Quyền Ấp và Ngư Phản, hồ Bách Tân từ khi biến thành xưởng đóng thuyền của quân ta, đã trở thành cứ điểm quan trọng quyết định đại nghiệp phạt Ngô sau này của ta có thành công hay không, nên cũng không thể khinh suất điều quân rời đi tiến đánh Quyền Ấp hoặc Ngư Phản. Ý của ta là...giả bộ xuất quân đến cứu viện La Giang, giữa đường chuyển sang tấn công Ngư Phản, sau đó..."

Ngón tay của Khánh Kỵ chỉ ngay vị trí của thành Na Xứ trên bản đồ, gằn từng tiếng một: "Một là hư chiêu, hai cũng là hư chiêu, ba mới là đánh thật. Chúng ta tương kế tựu kế, đợi khi quân Ngô tập kích thành Nã Thứ, đại quân quay về sau lưng chúng, đâm cho chúng một nhát hồi mã thương."

Kinh Lâm không hiểu thế nào là "Hồi mã thương", nhưng ý của Khánh Kỵ thì hắn đã hiểu ra, phấn khích khen ngợi: "Công tử quả nhiên diệu kế! Chúng muốn dụ chúng ta rơi vào bẫy mai phục, ngược lại rơi vào bẫy mai phục của chúng ta. Công tử thần cơ diệu toán như thế, lần này phạt Ngô phục quốc, đại sự tất thành."

Khánh Kỵ khẽ lắc đầu, nghiêm nghị: "Binh sĩ có suy nghĩ như vậy, có thể nâng cao sĩ khí chiến đấu, nhưng thân làm tướng lĩnh, tuyệt đối không được tự tin thái quá, nên biết kiêu binh tất bại, trong binh pháp tuy có đề cập dùng binh tập kích bất ngờ giành thắng lợi, nhưng thắng lợi cuối cùng phần lớn thuộc về kẻ nào dùng binh lực hùng mạnh giao chiến chính diện. Cái gì mà lấy ít thắng nhiều, lấy yếu thắng mạnh trong binh gia không phải là không có, chỉ là có quá ít, chính vì vậy mới được người ta xem như kinh điển, ngoài ra đó chỉ quyết định thành bại trong một trận chiến, cực ít trường hợp xoay chuyển được cục diện cả chiến dịch."

Ánh mắt Khánh Kỵ dõi theo phương xa, tự nói với mình: "Cho dù có là Binh thánh, binh lực cũng là tiêu chuẩn duy nhất quyết định tất cả. Cầm ba vạn quân trong tay, thiên hạ không ai địch lại, chỉ là một câu tâng bốc không đúng với thực tế, cũng như Khánh Kỵ ta bị người ta nói thành vạn người khó chống lại, cứ cho một trăm binh sĩ vây kín ta, ta có mọc cánh cũng khó mà chạy thoát thân."

Kinh Lâm thấy chủ soái nói có vẻ nghiêm trọng, liền luôn miệng nhận lỗi. Yểm Dư không biết hắn đang lo về cánh quân mấy ngàn người do Tôn Vũ thống lĩnh có nhiệm vụ tập kích bất ngờ vào Ngô quốc, những lời vừa nãy nghe hắn nhắc đến xưởng đóng thuyền, trong lòng chợt nổi lên một khúc mắc, liền lên tiếng hỏi: "Khánh Kỵ, cháu bản lĩnh đầy mình, điều đó ta biết. Luận về kiếm pháp, cháu không bằng ta. Luận về mâu pháp, ta không bằng cháu. Cháu trời sinh đã có thần lực, trên chiến trường ít có địch thủ, được xưng tụng là Đệ nhất dũng sĩ Ngô quốc, điều đó cũng xác đáng thôi. Nhưng nói về dẫn quân đánh trận, cháu luôn quen việc dẫn quân đường đường chính chính giáp chiến chính diện với quân địch, không giỏi về việc dùng mưu mẹo, bây giờ thói quen dụng binh của cháu so với hồi năm ngoái lúc rời khỏi Sở khác nhau một trời một vực. Còn nữa, cháu đường đường là vương tử Ngô quốc, sao lại biết nghiên cứu ra máy xay, bánh xe gió, rồi mấy thứ thuyền buồm, bánh lái gì đó? Ta nghe nói, bàn chải đánh răng mà hiện nay các công khanh quý tộc khắp các nước chư hầu đều thích dùng cũng do cháu thiết kế làm ra, cháu làm ra tất cả bao nhiêu thứ, khiến ta khó mà tin đó là sự thật."

Nghe những lời này, Khánh Kỵ không khỏi giật mình, người thời đó phần lớn chỉ nghe oai danh Khánh Kỵ, chứ không hiểu rõ về hắn, nên hắn có phát minh quái lạ nào người ngoài cũng không thắc mắc. Nhưng Yểm Dư thì khác, Yểm Dư là hoàng thúc của hắn, hai người tuổi tác không mấy chênh lệch, lại từ nhỏ chơi chung với nhau, cùng nhau trưởng thành nên hiểu rõ hắn hơn ai hết. Phong cách cầm quân đánh trận của hắn giờ đúng là hoàn toàn khác trước, số phát minh quái lạ ngay cả số thợ lão luyện lành nghề nhất lúc bấy giờ cũng không nghĩ ra của hắn không giống như chủ ý mà một vương tử quý tộc có thể nghĩ ra, Yểm Dư nổi lòng nghi ngờ là lẽ đương nhiên. Sau này gặp mặt Chúc Dung, hoặc sau khi phục quốc quay về Ngô, số người hiểu rõ quá khứ của hắn chắc chắn nhiều hơn, số điểm khác biệt xuất hiện trên người hắn vào lúc này phải tìm lí do giải thích nghe sao cho hợp lí mới được, nếu không thì rắc rối đây.

Nghĩ đến đây, Khánh Kỵ đột nhiên nhớ đến chuyện hồi nãy Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man tưởng lầm hắn trúng tà bị ma ám, bèn nảy ra một ý, vừa suy tính câu chuyện bịa đặt trong đầu, vừa nói giọng đều đều kéo dài thời gian: "Chuyện này nói ra thì..., thật ra đó là bí mật lớn nhất của ta, ta chưa từng nói cho người khác nghe, nhưng hai người một người là hoàng thúc, một người là tướng lĩnh vào sinh ra tử với ta, ta sẽ nói cho hai người nghe vậy."

Yểm Dư và Kinh Lâm nghe Khánh Kỵ nói vẻ nghiêm trọng, đều hồi hợp nín thở nghe hắn kể tiếp câu chuyện.

Khánh Kỵ ra vẻ bí hiểm: "Không giấu gì hai người, ta ở trên sông bị Yêu Ly đâm cho một nhát xuyên thấu phủ tạng, với thương tích nặng thế thật ra khó mà sống sót. Lúc đó, ta thấy mình như đang trôi bồng bềnh trên bầu trời, ta còn nhìn thấy Kinh Lâm và Lương Hổ Tử ôm xác ta than khóc, định phóng hỏa đốt thuyền. Sau đó, trước mặt ta xuất hiện một tia sáng chói lòa, tia sáng xẹt ngang, toàn thân ta bị hút vào trong đó, thấy một thế giới hoàn toàn khác với thế giới hiện nay trong thiên hạ..."

Những gì tiếp theo, đối với Yểm Dư và Kinh Lâm mà nói, đều là chưa từng nghe qua, còn với người hiện đại như chúng ta thì đều đó cũng dễ hiểu. Khánh Kỵ đem chuyện thần thoại cổ tích và sự vật trong xã hội hiện đại kết hợp lại với nhau, thêu dệt cho họ nghe về một thế giới thiên đường. Thời đại Xuân Thu, truyện thần thoại Trung Quốc chưa có hệ thống hoàn thiện, người ta chỉ biết trên có thượng đế cai quản chúng sinh, còn chi tiết thế nào không một ai đủ sức tưởng tượng ra.

Khánh Kỵ nói đến nào là Nam Thiên môn, Kim Lăng điện, Tứ đại thiên vương, Bát đại kim cang, ba mươi ba tầng trời, sứ giả đi phong hỏa luân, rồi thiên lí nhãn, thuận phong nhĩ, thậm chí còn bịa ra các mỹ nhân mắt xanh môi đỏ mặc váy ngắn lái xe hơi, kết hợp cả cổ kim Đông Tây. Yểm Dư và Kinh Lâm nghe đến nỗi há hốc mồm không ngậm lại được.

Tóm lại, ý của câu chuyện này là: Khánh Kỵ vốn đã bỏ mạng, nhưng lên được thiên đình, được thần tiên thương hại, nên cho phép hắn tiếp tục sống để báo thù phục quốc, còn về những phát minh kì lạ của hắn, thật ra chỉ là lúc ở trên thiên đường hắn nhìn thấy mà thôi.

Câu chuyện thần tiên của Khánh Kỵ đem nói ra vào thời hiện đại còn hù dọa được đám dân đen quê mùa, nói gì đến thời đại Xuân Thu hơn hai ngàn năm trước, hắn kể xong câu chuyện bịa đặt, quay qua nhìn Yểm Dư và Kinh Lâm, thấy trong ánh mắt của hai người toát ra vẻ kính nể sợ sệt, cứ như trước mặt là một pho tượng thần.

Hội Kê, kinh đô Việt quốc, quần thần đang tranh luận nhau kịch liệt trên đại điện.

Đại phu Duệ Dong của Việt quốc khẳng khái mở lời phân tích: "Đại vương, hiện giờ Ngô vương Hạp Lư đang sa lầy ở Sở quốc, chính là cơ hội tốt cho chúng ta lợi dụng, năm trước Việt quốc ta lại bại trận lần nữa cho Ngô quốc, buộc phải nhục nhã xưng thần với Ngô, hai năm nay triều cống cho Ngô chịu nhiều sỉ nhục của người Ngô rồi, lúc này đây là lúc trả món nợ này."

Đại phu Nhược Thành cũng đồng ý: "Duệ Dong đại phu nói có lí lắm, giờ ta nhận được tin Phù Khái bên Ngô vì người Đông Di làm loạn, đã quay về Hàn Ấp, binh lực ở Ngự Nhi thành không có bao nhiêu, nếu lúc này đại vương xua quân phạt Ngô, chiếm thành trì của chúng, thế như chẻ tre."

Cao Như đại phu nói: "Đại vương, thực lực của Việt quốc ta không bằng Ngô quốc, thừa lúc Ngô đang trống rỗng xua quân thảo phạt chính là lúc này, hơn nữa chúng ta có thể lấy danh nghĩa giúp đỡ Sở quốc, nước Sở bao la rộng lớn, người Ngô tuy chiếm cứ Dĩnh Đô nhưng không đủ sức xâm lấn cả nước Sở đâu, bây giờ Tần, Vệ, Tống, Trần, Lỗ các nước đều xuất binh cứu Sở, Sở vương chắc sẽ quay về Dĩnh Đô, lúc đó chúng ta và Sở trở thành liên minh, người Ngô có hận cũng e dè chúng ta mấy phần."

Đại Tranh Chi ThếTác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 197: Đánh úp sau lưng (Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Việt vương Duẫn Thường ngồi trên đại điện, nghe xong phân tích của quần thần ra vẻ gật gù. Hạo Tiến đại phu lại căn ngăn: "Đại vương, theo ý tiểu thần, Việt quốc ta không nên tiến đánh Ngô quốc vào lúc này. Chư hầu khắp thiên hạ chỉ có Việt quốc ta là gần Ngô nhất, binh lực lại kém xa Ngô, lần này thừa cơ xuất binh tập kích, người Ngô chắc ôm hận trong lòng. Đợi khi thiên hạ ổn định, Việt quốc ta sẽ bị Ngô tính sổ, người Sở quen thói bỏ mặc người khác, Yểm Dư, Chúc Dung chính là tấm gương còn đó, Việt quốc ta nên thừa lúc thiên hạ đại loạn, nghỉ dưỡng quân sĩ, gia tăng sản xuất tăng cường sức mạnh quốc gia, không thể đi theo vết xe đổ của Yểm Dư, Chúc Dung được ạ."

Duẫn Thường chau mày đăm chiêu, quay đầu nhìn sang kế bên, một thanh niên đang đứng bên cạnh hắn, người này thân hình cao ốm, nước da ngăm đen, cổ dài như cổ rắn, hai mắt sắc lẹm như chim ưng, mũi cao, mặc một chiếc áo bào trắng toát, đang chăm chú lắng nghe ý kiến của các đại thần.

Việt vương Duẫn Thường mỉm cười hỏi: "Hoàng nhi, hiện nay Ngô quốc trong ngoài đều khó khăn, Việt quốc ta có nên thừa cơ hội xuất binh thảo phạt, các đại thần ai cũng có ý kiến riêng, quả nhân muốn nghe thử ý kiến của con."

Chàng thanh niên đó nhe răng, để lộ một hàm răng hô trắng hếu, lúc ngậm miệng như chiếc mỏ chim nhọn hoắc, người này chính là con trai duy nhất của Việt vương Duẫn Thường, đương kim thái tử Việt quốc Câu Tiễn.

Câu Tiễn nghe phụ vương hỏi vậy vội bước lên một bước, bẩm: "Phụ vương, các đại thần ai cũng có ý kiến riêng, người chủ công cũng có lí, người muốn thủ cũng không sai. Nhi thần nghe xong ý kiến các vị đại thần, phân tích đắn đo lợi hại trong đó, cảm thấy hiện nay thiên hạ đại loạn, Việt quốc ta khoanh tay không làm gì chưa chắc đã là chuyện tốt. Phía nam Việt quốc là rừng rậm hoang vu, là nơi tụ tập của các bộ lạc man di, phía Tây là lãnh thổ của Sở, Sở muốn mở rộng bờ cõi buộc phải tiến đánh Ngô phía Bắc, mở ra con đường thông ra trung nguyên. Ngô quốc bây giờ gây thù chuốc oán khắp nơi, cùng với các nước xung quanh là Sở, Lỗ, Đông Di nhóm lên ngọn lửa chiến tranh, đây chính là cơ hội cho Việt quốc ta tận dụng, nhân lúc hắn đang suy yếu lấy mạng hắn luôn, lúc này mà đóng cửa lại cố thủ, đợi khi Ngô quốc nghỉ ngơi dưỡng sức xong lại chà đạp lên đầu lên cổ người Việt ta à?"

Việt vương Duẫn Thường cười ha hả, vỗ đùi một cái, quét mắt về phía quần thần: "Những lời của hoàng nhi hợp với ý của quả nhân..."

Câu Tiễn lại nhe răng: "Phụ vương hãy khoan!"

"Hoàng nhi còn có gì muốn nói?" Việt vương Duẫn Thường thật ra đã có ý xuất binh, lại cố ý quay qua hỏi con trai, chỉ là hy vọng con trai hiểu được tâm ý của mình, nhờ vào miệng của Câu Tiễn nói ra quyết định xuất binh, từ đó tạo lập uy tín của thái tử trước mặt quần thần, đó cũng là tâm ý của người làm cha. Câu Tiễn quả nhiên tán thành xuất binh, trong lòng Duẫn Thường mừng rơn, vừa định hạ lệnh triệu tập binh mã thảo phạt Ngô quốc, vừa nghe con trai định nói tiếp, bèn cười tủm tỉm quay đầu lại hỏi.

"Dạ, phụ vương, nhi thần cho rằng phạt Ngô là chuyện chắc chắn phải làm, nhưng trước mắt thời cơ chưa đến."

"Trước mắt thời cơ chưa đến? Hoàng nhi cứ từ từ nói ra ý kiến của mình cho quả nhân và các vị đại thần nghe coi sao."

"Dạ, phụ vương. Việt quốc ta phạt Ngô, có ba điều kiện thuận lợi: một là Ngô vương Hạp Lư đang dẫn quân bên ngoài, dằng co với quân Sở và binh mã của Khánh Kỵ; hai là Phù Khái rời khỏi Ngự Nhi thành, trấn thủ Hàn Ấp đề phòng người Đông Di xâm lấn, tạo điều kiện cho Việt quốc ta Bắc tiến; ba là Ngô Sở kết oán, chư hầu khắp thiên hạ ngả về hai phe, nếu Việt quốc ta khai chiến với Ngô sẽ trở thành liên minh của Sở, kết giao được với một Sở quốc hùng mạnh.

Nhi thần nói lúc này chưa phải là thời cơ ra tay, nguyên nhân cũng có ba: một là tình hình khắp thiên hạ chưa rõ, nếu liên quân Tề Tấn nam tiến, quân Tần lùi về Quan Nội, tình hình thiên hạ xoay chuyển, Việt quốc ta giơ cao ngọn cờ giúp Sở không phải là hành động khôn ngoan; hai là lúc này khởi binh, Hạp Lư nghe tin trong nước xảy ra chiến loạn, lập tức rút quân về Ngô, đại quân của hắn vẫn chưa đại chiến nhiều trận với quân Sở, nguyên khí chưa bị tổn thương nặng, nếu hắn rút về nước là ta mất cơ hội; ba là Ngô quốc Khánh Kỵ, quyết chí giết chết Hạp Lư đoạt ngôi vị Ngô vương, cho dù hắn vây khốn Hạp Lư ở Sở, thậm chí giết chết Hạp Lư, Phù Sai ở Ngô cũng sẽ lập tức đăng cơ, Khánh Kỵ muốn đoạt vương vị, buộc phải đánh về Ngô mới được. Với thực lực của Việt quốc ta hiện giờ, vẫn chưa đủ sức chiếm cả nước Ngô, lúc này đánh Ngô chẳng qua chỉ là thừa cơ cướp bóc chút của cải. Thế tại sao chúng ta không chịu khó nhẫn nhịn chờ đợi thêm, đợi một thời cơ thích hợp hơn nào?"

Nhược Thành đại phu nghi hoặc hỏi: "Thời cơ thích hợp hơn? Ý của điện hạ là...?"

Câu Tiễn cười lạnh lùng, ánh mắt sắc lẻm: "Khánh Kỵ sẽ không chịu ở lại Sở quốc ra sức giúp Sở vương đánh về Dĩnh Đô đâu, hắn cuối cùng cũng phải đánh về Ngô quốc, đến lúc đó hắn bỏ hết tất cả vốn liếng ra đánh một trận, không còn đường lui nữa. Còn Hạp Lư, chắc sẽ dồn toàn lực ra quyết tử chiến với Khánh Kỵ một phen. Hai bên bước vào cục diện một mất một còn, đến lúc đó chúng ta mới khởi binh đánh Ngô, bọn họ là kẻ thù bất cộng đái thiên, Hạp Lư có chịu rời bỏ vương vị giao nộp thủ cấp? Hay là Khánh Kỵ chấp nhận từ bỏ vương vị và thù cha? Hai thứ đều không, họ sẽ không vì giữ vẹn toàn cho Ngô quốc mà hy sinh bản thân, khi đó chúng ta hạ có thể đạt được mục đích cướp bóc của cải của Ngô quốc, trung có thể ép một trong bọn họ xưng thần với Việt quốc ta để đổi lấy trợ giúp, thượng, chính là...ta thừa lúc họ lưỡng bại câu thương, binh lực hao tổn gần hết, chiếm trọn cả Ngô quốc."

Quần thần chăm chú lắng nghe, khắp đại điện im phăng phắc. Câu Tiễn mỉm cười đắc ý, lại nói: "Mà ba điều kiện thuận lợi cho chúng ta phạt Ngô, đến lúc đó không những không biến mất, ngược lại còn được chúng ta vận dụng linh hoạt, chủ động nắm bắt hơn."

Duẫn Thường nghe xong, nhắm mắt trầm tư giây lát, đột nhiên bật cười to tiếng.

Đại phu Kế Nghiên bước lên hai bước, vái lạy Duẫn Thường, vẻ thần phục lên tiếng: "Đại vương, điện hạ thông minh, nhìn xa trông rộng, chúng thần thán phục. Đại vương ta có con trai tài giỏi, Việt quốc ta có thái tử thế này, là phúc của ngàn vạn dân chúng Việt quốc, chúc mừng bệ hạ."

Các đại phu Cao Như, Hạo Tiến đều bước cả ra, cung kính: "Kế này của điện hạ, tiến thoái đều ổn thỏa, chúng thần tán đồng."

Duẫn Thường hí hửng nhìn vào con trai, đập bàn cái rầm, phán: "Tốt, cứ theo kế hoạch của con ta. Đợi khi thời cơ đến, quả nhân sẽ phong chức đại tướng quân cho thái tử, con hãy đi mang giang sơn Ngô quốc về cho quả nhân."

Câu Tiễn chắp tay hành lễ, dõng dạc: "Nhi thần tuân lệnh!"

Chính vào lúc này, một vị tướng quân bước vào đại điện, vì hắn đang mặc áo giáp, nên hành quân lễ: "Chư Kê Dĩnh tham kiến đại vương."

Duẫn Thường kinh ngạc: "Chư Kê Dĩnh, lúc này chẳng phải ngươi nên ở Ô Thú sao? Sao lại quay về Hội Kê làm gì?"

Chư Kê Dĩnh nói: "Thần phụng mệnh Tử Minh tướng quân quay về Hội Kê, bẩm báo quân tình quan trọng với đại vương."

Duẫn Thường lập tức nhổm lên, hai tay chống vào mặt bàn, vẻ mặt khẩn trương: "Nói mau, đã xảy ra chuyện gì?"

Chư Kê Dĩnh chắp tay trả lời: "Đại vương, quân ta đóng tại Vọng Hải Quan phát hiện có mấy trăm chiến thuyền lớn nhỏ, cứ tưởng là quân Ngô đến đánh lén, Tử Minh tướng quân nhận được tin báo, một mặt tăng cường phòng bị, một mặt phái ra vài đội quân do thám theo dõi động tĩnh của chúng, thấy chúng đã chỉnh đốn đội ngũ xong xuôi, lại lén đi về phía Ngô quốc, sáng nghỉ tối đi, hành tung bí hiểm, hình như có ý đồ gì với Ngô, lực lượng này chưa rõ là bạn hay thù, Tử Minh tướng quân không dám manh động nên sai tiểu tướng về đây báo cáo với đại vương."

"Hử? Mấy trăm chiến thuyền vận chuyển binh lính trên biển..., chúng có khoảng bao nhiêu người?"

"Chắc cũng phải sáu bảy ngàn người trở lên, dưới một vạn."

Duẫn Thường dõi mắt vào quần thần, các đại thần đều kinh ngạc, quay qua bàn luận với nhau. Hai nước Ngô Việt, xưa nay lấy Ô Ấp làm ranh giới, sau khi Việt quốc bại trận phải xưng thần với Ngô, để tránh ở quá gần quân biên phòng của Ngô xảy ra xung đột, các điểm đóng quân của Việt đều lui cả về sau, tạo thành vùng đất không người ở rộng mười mấy dặm ở giữa hai nước, vùng đất này có nhánh sông thông ra biển lớn, nên gọi là Vọng Hải Quan.

Lúc bấy giờ thuyền bè đi lại hoàn toàn dựa vào sức người chèo, vận chuyển số quân lớn này theo đường thủy, hao tốn tiền của khá nhiều, trước giờ chưa ai làm vậy, nhưng bọn chúng lên bờ phía Vọng Hải Quan, có nghĩa là đó không phải quân Ngô đi tập kích Việt quốc, vì nếu đánh Việt cứ tiến quân theo đường bộ là được rồi, đâu cần phí bao nhiêu sức người sức của đi đường vòng ngoài biển vào cho tốn công tốn sức. Hơn nữa sau khi lên bờ chúng lại lén vào lãnh thổ Ngô quốc, chúng là ai mới được chứ?

Duẫn Thường và Câu Tiễn nhìn nhau, đều không hẹn trước mà nghĩ tới một người.

Câu Tiễn lộ vẻ phấn khích, buộc miệng kêu lên: "Phụ vương, thời cơ của chúng ta đã đến!"

Đại Tranh Chi ThếTác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 198: Tôn Vũ trổ tài (Thượng)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Vọng Hải Loan, chính là gần khu vực Hàng Châu thời hậu thế, nhưng khi đó vùng Hàng Châu vẫn còn ngập trong biển nước, địa hình địa lí khác xa so với hiện nay. Tôn Vũ sau khi cho đại quân lên bờ, lệnh cho một bộ phận binh lính quen thuộc thủy tính cưỡi thuyền nhẹ dọc theo bờ biển tiến lên Bắc, còn quân chủ lực đi đường bộ, chia làm hai ngả đánh tan hai đồn biên phòng của quân Ngô đóng tại biên giới.

Đang đại chiến ở nước Sở, quan hệ giữa nước Ngô với Lỗ quốc và các bộ lạc Đông Di ở phương Bắc ngày một căng thẳng, tuy nhiên Việt quốc trong mắt người Ngô có thực lực kém xa, không phải là mối đe dọa chí mạng, đóng quân ngay đây chỉ là phòng hờ Việt quốc thừa lúc chủ nhà đi vắng, như con chó điên xộc vào chuồng ngoặm một miếng thịt rồi bỏ đi, tận đáy lòng người Ngô đã tồn tại ý nghĩ khinh thường người Việt, nên mới tạo cơ hội thuận lợi cho Tôn Vũ dễ dàng dẹp yên đồn biên phòng của Ngô.

Khi đội thuyền của Tôn Vũ áp sát doanh trại thủy quân của Ngô quốc, đang vào lúc tờ mờ sáng, tinh thần cảnh giác của con người vào lúc kém nhất. Mấy chục chiếc thuyền cánh én nhỏ lặng lẽ tiến về phía Ngô doanh, hai chiếc thuyền đi trước dùng nỏ Sở bắn rụng số binh lính gác đêm trên chòi canh giữa sông, mở đập ngăn ra, đội thuyền nhanh chóng ùa vào.

Loại thuyền cánh én nhỏ này dài không quá mười thước, chỉ đủ chở mười người, nhưng lại xoay chuyển linh hoạt, dùng trong tấn công phòng thủ đều thần tốc. Trên thuyền chỉ có hai tay chèo, tám người còn lại có bốn người cầm nỏ, dưới chân đặt sẵn rìu bự, bốn người kia ngồi xen kẽ với nỏ binh, giơ khiên yểm trợ cho đồng đội, họ được trang bị trường mâu, chuẩn bị khi hai thuyền giáp chiến sẽ đưa qua móc lấy thuyền địch, nhảy vào trợ chiến. Ngoài ra, trên thuyền còn để nhiều vật dụng dễ bắt lửa đã được tẩm dầu và rất nhiều chai lọ sành sứ.

"Trên sông có người, trên sông có người, tập kích...Á!" Một tên lính Ngô đang đứng bên mạn thuyền tè xuống sông thấy trong sương đêm đột nhiên xuất hiện mấy chiếc thuyền địch, sợ đến nỗi lập tức hét toáng lên.

Hắn mới kêu được ba tiếng, ba mũi tên đã cắm phập vào người hắn, tên lính gục đầu chết tươi, rơi tỏm xuống mặt nước, một chiếc thuyền cánh én nhanh chóng áp sát, ném mồi lửa lên chiến thuyền quân Ngô, có mấy tên lính Ngô nghe tiếng hét báo động còn chưa kịp mặc áo hấp tấp ùa ra ngoài, lập tức bị nỏ Sở tiêu diệt, số binh lính còn lại cúi rạp người trong khoang thuyền không dám động đậy lên tiếng.

Chiến thuyền thời đó đều làm bằng gỗ, một khi bắt lửa, lại ném lên đó mấy cái lọ sành, trong lọ đều chứa đầy dầu, lọ sành vỡ tan khi đập vào thân tàu, lửa cháy lan theo vệt dầu loang, cả con thuyền lập tức cháy bừng bừng như một ngọn núi lửa. Chiếc thuyền cánh én vòng nhanh qua chiếc thuyền đang cháy, tiếp cận tiêu diệt chiến thuyền tiếp theo.

"Phóng tiễn, phóng tiễn!" Một số binh sĩ quân Ngô giờ đã phát giác bị tấn công lóp ngóp bò dậy cầm cung tên chạy ra, bắn lung tung vào làn sương mờ ảo trước mặt, thuyền cánh én giơ khiên chắn tên bắn tới, đồng thời dùng nỏ Sở bắn trả, số binh sĩ phụ trách che khiên một tay cầm khiên, tì vào vai mượn sức, tay còn lại cầm lấy mồi lửa đợi khi thuyền cánh én tiến vào phạm vi tầm ném thì ném sang chiến thuyền phe địch, sau đó còn bồi thêm vài lọ dầu qua kia.

Khi số thuyền cánh én luồn lách như cá trê vào đội chiến thuyền đang dừng đậu ven sông của quân Ngô, sau lưng họ các thuyền lớn đang cháy to bừng bừng. "Người Việt đánh lén, thuyền lớn không di chuyển được, mau lên thuyền nhỏ cản quân địch lại!"

Cuối cùng cũng có mấy viên tướng lĩnh chạy ra, hốt hoảng hạ mệnh lệnh chỉ huy chiến đấu, lập tức có mấy chiếc thuyền con chở theo lính Ngô còn chưa kịp trang bị đầy đủ áo giáp vũ khí tiến lên chặn đầu số thuyền cánh én, binh sĩ trên thuyền cánh én bắn nỏ, không cần đứng lên giương cung lắp tên, chỉ cần đặt tên vào, núp sau tấm khiên bắn ra, đợi khi hai thuyền áp sát, binh sĩ hai bên phóng móc câu vào thuyền đối phương, binh sĩ trên thuyền cánh én cũng lập tức buông nỏ xuống, nhặt rìu bự lên phối hợp với lính cầm trường mâu nhảy vào chém giết.

Số binh lính này đều trước sau trải qua huấn luyện nghiêm ngặt bởi Khánh Kỵ và Tôn Vũ, giỏi về sử dụng binh khí ngắn khi giáp chiến cự ly gần, mà quân Ngô hấp tấp lên thuyền ra trận, chưa kịp mang theo binh khí dài, với lại chúng không phải là đội quân kiếm thủ vang danh thiên hạ của Ngô quốc, chiến đấu trên thuyền con chật hẹp, quân địch sử dụng rìu to có sức, bên cạnh còn có trường mâu phối hợp, còn quân Ngô dùng kiếm ngắn bị thua thiệt, chúng không dám dùng kiếm tiếp chiêu với rìu bự của đối phương, vì chiến đấu trong khu vực chật hẹp lại không tận dụng được ưu điểm linh hoạt của kiếm ngắn, dưới thế chém mạnh của rìu bự hết tên này đến tên khác rơi tỏm xuống nước, máu loang đỏ cả mặt sông.

May là đám thuyền cánh én này không muốn đánh lâu, một khi đốt cháy một chiến thuyền, lập tức quay sang một chiến thuyền khác, số thuyền này vốn đang dừng đậu san sát nhau trên bến, thuyền cánh én lợi dụng khe hẹp len lỏi đi lại, còn thuyền to của Ngô lại không nhúc nhích được. Lúc này trời tờ mờ sáng, thủy triều dâng cao, gió thổi mạnh vào bờ, số thuyền chiến cháy rực như ngọn đuốc bị gió thổi cuốn vào bên trong, bắt lửa cả vào các thuyền khác, hàng chiến thuyền sau cùng chưa bị cháy, nhưng khói bay mù mịt làm cho quân Ngô tối tăm mặt mũi, không còn quan sát gì được nữa.

Số thuyền cánh én thấy đã hoàn thành xong nhiệm vụ tập kích, lập tức chia ra hai cánh đột phá vòng vây, số binh lính quen thuộc thủy tính châm lửa lên cả thuyền cánh én, đâm sầm vào chiến thuyền quân Ngô, sau đó nhảy xuống nước bỏ trốn.

Doanh trại quân Ngô đóng trên bờ là trận địa phía trước Ngự Nhi thành, trong doanh trại có hai ngàn binh sĩ, quân chủ lực của Tôn Vũ tiến đánh chỗ này không cần đánh lén, mà là phái một cánh quân tiên phong bày binh bố trận, lấy kiếm gõ vào khiên, khiêu chiến với quân Ngô trong doanh trại.

Sương đêm mịt mờ, mờ mờ ảo ảo không nhìn rõ đối phương có bao nhiêu binh mã, người Ngô nghe thấy bên ngoài huyên náo, trong đó còn xen lẫn tiếng địa phương của Việt quốc, cứ tưởng là quân Việt đến tập kích, Việt quốc có binh lực ít ỏi, giao chiến với Ngô quốc chuốc lấy thất bại như cơm bữa, tướng sĩ quân Ngô vốn đã kiêu căng không xem quân Việt ra gì, đại tướng Tây Môn Thắng nghe báo có người Việt khiêu chiến, lập tức tập hợp binh mã ra trận, quay lưng về phía doanh trại bày trận tiếp chiến.

Theo thông lệ, đối phương đã ngang nhiên khiêu chiến, hai bên sẽ bày binh bố trận, sau đó binh sĩ hai bên mới xông vào nhau chém giết, chưa đến lúc phân thắng bại thì đội quân do chủ tướng thống lĩnh ít khi phát động tấn công. Nhưng không ngờ binh mã của Tây Môn Thắng vừa bước ra khỏi doanh trại, đội hình còn chưa bày xong, "Quân Việt" bên kia lập tức ùa sang tấn công, mưa tên vù vù bắn về phía quân Ngô.

Muốn cất giữ cung tên trong miền sông nước phương Nam không hề dễ, nên cung tên không phải là vũ khí chủ lực trong các cuộc giao tranh Ngô Việt, Tây Môn Thắng nằm mơ cũng không ngờ kẻ địch lại trang bị nỏ mạnh, binh chủng hoàn toàn khác với quân Việt trước đây, binh mã của hắn vang lên tiếng rú thảm thiết trong đêm.

"Bắn tiếp!" Tôn Vũ đứng ở trận tiền, dõng tai lắng nghe tiếng kêu gào đau đớn phía bên kia chiến tuyến, lạnh lùng ra lệnh. Đội cung nỏ thứ hai đã chuẩn bị sẵn lập tức bắn tiếp một chập tên, "Vù, vù!" tiếng tên bay xé gió lao đi, ào ạt trút xuống đầu quân Ngô tội nghiệp. Tiếng lích kích kéo căng dây cung lại vang lên, đội cung nỏ đầu tiên bắn tên đi nay lại lắp tên xong giơ nỏ lên.

Tên là một loại binh khí hao phí nặng, muốn cất giữ cung nỏ, cán tên, lông vũ, mũi nhọn đều hao phí không hề ít, vả lại phần lớn là chỉ bắn tên vào đợt đầu trước khi tấn công, tên bắn ra khó có cơ hội thu hồi lại, hai nước Ngô Việt không giàu bằng Sở quốc rộng lớn và các nước chư hầu trung nguyên, nên cung tên có rất ít, về vấn đề tiền của là một lí do lớn ảnh hưởng.

Hai lượt tên bắn ra, đó là một món hao phí lớn, Chúc Dung công tử đứng xem bên cạnh có hơi tiếc đứt ruột, Tôn Vũ không hề biến sắc, lạnh lùng ra lệnh: "Tiếp tục bắn! Nổi trống lên, tấn công hai cánh!" Cùng với giọng nói của Tôn Vũ, trận mưa tên thứ ba được bắn ra, hai cánh quân trái phải được sương mù che chắn nghe hồi trống xông trận, dũng mãnh lao lên như hổ dữ xuống núi...

Đại Tranh Chi ThếTác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 198: Tôn Vũ trổ tài (Trung)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Doanh trại quân Ngô khắp nơi hoang tàn, Tôn Vũ đứng trên một gò đất bị cháy đen còn bốc khói dõi mắt về phương xa, lúc này sương mù đã tan, số quân Ngô bị bắt làm tù binh đang bị áp giải cúi đầu lủi thủi đi ngang sau lưng Tôn Vũ.

"Tôn tướng quân quả nhiên tài giỏi, dẫn dụ Phù Khái đi Hàn Ấp, xách động người Đông Di chế ngự binh lực của hắn, sau đó vận chuyển cả vạn đại quân theo đường biển vòng về sau lưng địch lên bờ, chủ ý này bổn công tử ngay cả nghĩ còn không dám nghĩ đến, chúng ta chỉnh đốn binh mã, còn phải chiếm lấy Ngự Nhi thành, sau đó mới đánh thẳng vào Cô Tô được, trận chiến sắp tới không dễ đánh đâu, nhưng có Tôn tướng quân ở đây, bổn công tử tràn trề lòng tin."

Chúc Dung tuy là thân phận công tử, nhưng đội quân này là do Tôn Vũ thống lĩnh, trong đội quân này uy danh của hắn kém xa Tôn Vũ và Anh Đào, chính vì vậy với tính khí cao ngạo nóng nảy của hắn, ngược lại phải cung kính nể trọng Tôn Vũ.

Tôn Vũ mỉm cười nói: "Công tử quá khen rồi, Anh Đào đang tập kích thủy trại quân Ngô, đợi huynh ấy về, chúng ta lập tức rời khỏi đây, Ngự Nhi thành không thể đánh, đó là cứ điểm quan trọng Phù Khái đề phòng người Việt, tuy thành trì không to lớn hiểm trở, nhưng Phù Khái dụng tâm xây dựng, bố phòng nghiêm ngặt, chúng ta dễ dàng đánh thắng ở đây chứ không dễ chiếm giữ Ngự Nhi thành đâu, chúng ta cũng không thể tốn quá nhiều thời gian ở đây, đánh trận ở đây vẫn phải dùng cách khi chúng ta xuất binh tại Phi Hồ cốc, chia nhỏ binh lực, hẹn trước thời gian, địa điểm, phái tướng lĩnh trung thành đáng tin cậy, thông thạo địa hình Ngô quốc dẫn đường, chia ra đến địa điểm tập kết."

Chúc Dung nghe xong giật mình kinh ngạc: "Chia nhỏ binh lực, muốn vòng qua Ngự Nhi thành theo đường rừng không phải là không làm được, nhưng làm như vậy chẳng phải là cho phép quân thủ thành ở Ngự Nhi chặn mất đường lui của ta?"

Tôn Vũ nói vẻ nghiêm nghị: "Công tử, từ khi chúng ta đặt bước lên lãnh thổ Ngô quốc, chúng ta đã không còn đường lui rồi. Chúng ta không thể cứ mải miết công thành đoạt trại, đánh về phía Cô Tô thành, bằng không khi chúng ta tới được Cô Tô, binh mã đã bị hao tổn gần hết, đến lúc đó đâu còn sức mà công thành? Thừa lúc Phù Khái bị thu hút về phía Hàn Ấp, chúng ta phải nhanh chóng tiến vào Cô Tô, còn về việc quân Ngô ở Ngự Nhi thành chặn đánh sau lưng ta thì..., cho dù không có cánh quân này, một khi chúng ta xuất hiện tại Cô Tô, các lộ binh mã thủ thành khắp nơi đều sẽ ùa vào chúng ta thôi."

Chúc Dung hứ một tiếng, nhíu mày nói: "Được, bổn công tử cũng phải đích thân dẫn một đội quân, quân trấn thủ Vũ Nguyên là bộ hạ cũ của ta, Cơ Quang tuy thay hết tướng lĩnh của ta, nhưng không thể nào đuổi hết quân của ta về nhà, hắn dẫn quân giao chiến với ta ở Sở, thế nào cũng không dám dùng đội quân ta từng làm chủ soái này, mà điều họ đi trấn giữ duyên hải phía Đông Nam. Ta dẫn quân theo, nói không chừng có thể lôi kéo đội quân này, lúc đó binh lực của chúng ta sẽ mạnh lên đôi chút."

Tôn Vũ trầm ngâm: "Thế thì được, chỉ là công tử nên cẩn thận giữ gìn an toàn cho bản thân, chúng ta bàn bạc quyết định xong thời gian, địa điểm tập hợp, công tử mới xuất phát cũng chưa muộn. Từ khi tiếp tay quản lí Phi Hồ cốc, Tôn Vũ đã phái người không ngừng đến Cô Tô thành dò thăm tin tức..."

Nói đến đây, Tôn Vũ thở dài ngao ngán: "Cô Tô thành do Ngũ Tử Tư xây dựng, ở phương Bắc có lẽ còn chưa được xem là tòa thành hiểm trở không thể leo lên, nhưng ở Ngô quốc đã là đại thành trước đây chưa từng có. Lúc Ngũ Viên xây thành cũng đã nghĩ đến trường hợp kinh đô bị vây đánh, trong thiết kế vận dụng khéo léo ưu thế địa hình, tòa thành này dễ thủ khó công, hơn nữa đương kim thái tử Phù Sai cũng không phải thứ bất tài vô tướng, sắp xếp việc bố phòng đâu ra đó, muốn dựa vào hơn vạn quân tập kích vào thành, khó đấy! Còn nếu bao vây tấn công mạnh mẽ, chỉ dựa vào số lính thủ thành, chúng chiếm ưu thế địa hình, chúng ta cũng chưa chắc giành phần thắng, ngoài ra còn phải đề phòng quân địch quay về cứu viện, vì thế ta mới ra sức giữ gìn binh lực, đi vòng theo đường biển đến sau lưng địch, đâm nhát mạnh vào tim chúng, khiến chúng trong ngoài không thể tiếp ứng lẫn nhau. Cái chúng ta làm được chỉ có bấy nhiêu, nếu vọng tưởng chiếm trọn Cô Tô, dựa vào chút binh lực của chúng ta, đợi khi Khánh Kỵ công tử về Ngô quốc, lúc đó chỉ kịp dọn xác giùm ta mà thôi."

Chúc Dung ngớ người, vội hỏi: "Mục đích của chúng ta không phải là chiếm giữ Cô Tô thành, thủ thành đợi viện binh sao? Thế chúng ta xua quân vào sâu, chẳng lẽ không nguy hiểm?"

Tôn Vũ lắc đầu: "Chưa chắc, nếu chúng ta đặt mục tiêu tấn công thành Cô Tô, vậy phải hứng chịu sức tấn công của quân Ngô cả trong và ngoài thành, với binh lực của chúng ta chẳng khác nào tự sát. Việc dùng binh, gấp mười bao vây, gấp năm tấn công, binh lực chúng ta thua xa đối phương, chỉ còn cách cơ động tác chiến, dắt mũi quân địch chạy theo chúng ta. Binh lực trong Ngô quốc hiện giờ không đủ tạo thế bao vây ta, nên quân ta ở đây vẫn còn nhiều đất dụng võ. Thứ chúng ta phải làm là tạo cơ hội, trái chín ắt sẽ rụng, đợi Khánh Kỵ công tử về nước, chỉ cần chúng ta tạo ra thanh thế và cơ hội đủ cho công tử lợi dụng, vậy trái đào chín mọng trên cây này, tự nhiên sẽ được công tử hái xuống."

Nói đến đây, ánh mắt Tôn Vũ sáng lên, gằn giọng: "Đương nhiên, đánh trận quyết liệt cuối cùng cũng phải đánh, nếu không sao tạo dựng thanh thế?"

Chúc Dung nghe vậy cho rằng Tôn Vũ muốn nhường công lao chiếm giữ Cô Tô thành cho Khánh Kỵ, tạo điều kiện thuận lợi cho Khánh Kỵ bước lên vương vị sau này, trong lòng cảm thấy không vui, hỏi: "Khánh Kỵ đang thu hút quân chủ lực của Cơ Quang ở Sở, bảo chúng ta đoạt lấy Cô Tô thành, đó không phải là kế hoạch đã vạch sẵn ư? Giờ sao Tôn tướng quân lại nói thế?"

Tôn Vũ trả lời: "Tôn Vũ cho rằng, thượng binh phạt mưu, kì thứ phạt giao, kì thứ phạt binh, kì hạ công thành. Với binh lực kém xa đối phương, xét vị trí địch là chủ ta là khách, với tài trí của Phà Sai, Phù Khái và tình hình Ngô quốc hiện tại phán đoán, tấn công đoạt thành không phải là hành động khôn ngoan vào lúc này. Kế hoạch định sẵn chỉ là dựa theo tình hình nắm bắt được lúc đó đưa ra quyết định, nay chúng ta đang có tình báo thiết thực hơn, thì nên xuôi theo thời thế thay đổi kế hoạch trước đây, tướng tại ngoại, quân lệnh có thể không nghe theo."

(Giải thích: "Thượng binh phạt mưu, kì thứ phạt giao, kì thứ phạt binh, kì hạ công thành." Câu này được trích trong Tôn Tử binh pháp, nghĩa là việc dụng binh hay nhất là sử dụng mưu mẹo, tiếp đến là ngoại giao, sau đó mới dùng đến binh sĩ chiến đấu, tấn công thành trì xếp cuối cùng.)

Chúc Dung tự biết mình tuy là thân phận công tử, nhưng Tôn Vũ là người của Khánh Kỵ, công tử như hắn trên thực tế không thể chỉ huy được binh mã của Khánh Kỵ, bèn nhẫn nhịn nói: "Chủ ý này của tướng quân đã báo với Khánh Kỵ chưa? Bây giờ đột nhiên thay đổi kế hoạch, tướng quân muốn phối hợp với Khánh Kỵ thế nào?"

Tôn Vũ nói: "Lát nữa đợi Anh Đào quay về, Tôn Vũ cùng công tử, Anh Đào tướng quân bàn định kế hoạch hành động chi tiết bước tiếp theo xong, lập tức phái tín sứ đưa tin đến công tử Khánh Kỵ ở Sở quốc."

Chúc Dung thất kinh hỏi: "Chúng ta đã xuất hiện tại Ngô quốc, tin này rất nhanh sẽ truyền đến tai Phù Sai và Phù Khái, tin của chúng ta đưa đi có kịp không? Khánh Kỵ có kịp ứng biến phối hợp không?"

"Việc này...Xin công tử cứ yên tâm, trước lúc tới Ngô, ta từng được một người giúp đỡ." Tôn Vũ cười một cách bí hiểm: "Theo cách của nàng ta, tin tức chắc chắn kịp thời nhanh chóng đưa tới cho Khánh Kỵ công tử."

Chúc Dung nghe Tôn Vũ nói chuyện gì cũng đưa Khánh Kỵ lên trước tiên, trong lòng đã không vui, giờ lại nghe hắn nói có người giúp đỡ vẻ bí hiểm, cứ tưởng Khánh Kỵ có cách thức đưa tin bí mật gì không nói cho mình biết, trong lòng càng thấy tức tối, hứ mạnh một tiếng: "Được rồi, ta đi bắt vài tên tù binh, coi có tra hỏi được tình hình Ngô quốc hiện nay không?" Dứt lời phất tay áo quay lưng hậm hực bỏ đi.

Tôn Vũ nhìn theo bóng lưng Chúc Dung, mỉm cười chua chát, hắn nhìn thấu suy nghĩ trong tim Chúc Dung, đó chính là lí do hắn phòng bị đối với Chúc Dung. Nhưng tên Chúc Dung này hãy còn có ích nhiều, bây giờ Khánh Kỵ ở xa tận Sở quốc, hắn lấy danh nghĩa thay Khánh Kỵ phạt Ngô phục quốc giết vào Ngô, chỉ dựa vào lí do này là không đủ, có Chúc Dung trong quân, chí ít giảm được chút khó khăn trở ngại, đối với đại nghiệp của chúa công Khánh Kỵ có tác dụng to lớn.

Biển thu nhận cả trăm con sông đổ vào, người làm việc lớn phải biết bao dung, tấm lòng bao dung gồm bao dung sở đoản của người khác, bao dung lòng riêng của người khác. Trong mắt không cho phép có một hạt cát, nếu không phải kẻ có mười hai phần tận trung thành khẩn thì không sử dụng, chúa công thế này chỉ thích hợp dẫn theo ba đến năm trăm hán tử không cầu sinh cùng ngày cùng tháng cùng năm, chỉ mong chết cùng năm cùng tháng cùng ngày làm sơn tặc đại vương. Khánh Kỵ không để bụng khi xưa Yểm Dư, Chúc Dung mang lòng riêng ở lại Sở quốc, không những đón họ về mà còn giao phó hai cánh quân Ngải thành và Phí thành vất vả tạo dựng vào tay họ, tấm lòng bao dung đó mới giống người làm việc lớn, Tôn Vũ đối với Khánh Kỵ ngày càng kính phục là vậy.

Đại Tranh Chi ThếTác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 198: Tôn Vũ trổ tài (Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Tôn Vũ quay đầu về phía biên giới Việt quốc, một khoảng trống mọc đầy cỏ dại trải dài, không hề thấy bóng dáng doanh trại của quân Việt, nhưng Tôn Vũ biết ở phía bên kia, không biết có bao nhiêu đôi mắt đang theo dõi nhất cử nhất động của hắn, Tôn Vũ tủm tỉm cười đầy ẩn ý.

Dẫn theo hơn một vạn binh mã, bất ngờ tập kích vào Ngô, đoạt lấy kinh đô, kế hoạch này rất chủ động nhưng khả năng thành công lại khá thấp. Hồi đó Khánh Kỵ vốn định mượn thành đóng quân tại Lỗ quốc, từ đó quấy nhiễu quân Ngô, bảo đảm ảnh hưởng của mình trong người Ngô không mất đi, tấn công Ngô quốc vẫn phải theo hướng chính diện.

Người Lỗ không chịu vì Khánh Kỵ mà xung đột trực tiếp với Ngô, hắn bèn tính kế thứ hai, bí mật xây dựng một đạo quân ngay tại Lỗ quốc, lúc chinh phạt Ngô quốc, lấy đạo quân bên Vệ làm chủ lực, tân quân bên Lỗ tiếp ứng, giáp chiến hai mặt, chia cắt binh lực của Ngô vương Hạp Lư, tận dụng tất cả khả năng tạo điều kiện có lợi cho đại nghiệp phạt Ngô phục quốc.

Hồi sau Ngô quốc phạt Sở, tình hình thay đổi, Khánh Kỵ mới căn cứ theo tình hình mới, quyết định đem quân đội đóng ở Vệ của mình đến liên minh với người Sở, thu hút quân chủ lực của Ngô tại Sở, cánh quân mới xây dựng tại Lỗ vốn định chỉ để quấy nhiễu đánh tuyến thứ hai nay phải gánh vác trọng trách trở thành đạo quân chủ lực đánh chiếm kinh đô của Ngô quốc, kế hoạch tác chiến vẫn còn đang không ngừng điều chỉnh hoàn thiện theo tình hình Ngô quốc hiện nay.

Trên thực tế, dù cho quân chủ lực của Ngô đang đánh trận ở Sở, chỉ dựa vào một cánh quân mới thành lập, ý đồ công phá kinh đô Ngô quốc là một nhiệm vụ bất khả thi. Khánh Kỵ dám mạo hiểm quyết định làm vậy, dù bản thân hắn không phát hiện ra, nhưng trong tiềm thức của hắn chịu một lí do quan trọng ảnh hưởng: Tôn Vũ.

Vì Khánh Kỵ biết rõ tài năng quân sự của Tôn Vũ trong lịch sử Trung Quốc, tuy hắn ba lần bảy lượt tự nói với bản thân, muốn giành thắng lợi trong chiến tranh tuyệt đối phải dựa vào sức mạnh, hắn nói với Yểm Dư và Kinh Lâm tại Bách Tân hồ cũng là vậy, nhưng hắn vẫn còn chút mê tín về khả năng của Binh thánh Tôn Vũ.

Tôn Vũ tiếp quản đội quân Phi Hồ cốc, với lại sau khi xác định rõ mục tiêu phạt Ngô, từng lần lượt phái đi nhiều mật thám lẻn vào Ngô quốc thu nhặt tình báo, biết người biết ta, trăm trận trăm thắng, binh lực của hắn thua kém Ngô quốc, lại gánh vác trọng trách thế này, tuyệt đối không thể nhắm mắt làm liều khi chưa hoàn toàn hiểu rõ tình hình phía Ngô được.

Khi nắm rõ được tình báo, thêm vào phán đoán lực lượng đôi bên, Tôn Vũ cảm thấy chỉ dựa vào hành động quân sự khó có thể đạt được mục đích, do đó hắn thay đổi kế hoạch tác chiến của Khánh Kỵ, nhanh chóng đưa kế hoạch mới của mình đến nước Sở, Tôn Vũ tin chắc Khánh Kỵ sẽ ủng hộ quyết định táo bạo này của hắn.

Đội ngũ tập hợp chỉnh tề, vừa mới trải qua trận chiến, trên mặt các binh sĩ hãy còn mang sát khí đằng đằng, gươm giáo tua tủa, quân sĩ đứng im phăng phắc, trong rừng đám chim chóc bị tiếng chém giết kinh động bay trở về, lại không tìm được cái tổ quen thuộc, chúng bay tán loạn trên đầu các binh sĩ, có con đậu xuống dưới vai, cảm nhận được luồng sát khí đáng sợ đám người đứng đó đang toát ra, vội vỗ cánh xuyên qua rừng gươm giáo bay đi mất dạng.

Chúc Dung không khỏi nổi lòng thán phục, hắn cũng là người dẫn quân lâu năm, binh sĩ dưới trướng không thể nói là không anh dũng thiện chiến, nhưng so về kỉ luật nghiêm khắc, tuyệt đối không sánh bằng đội quân này của Tôn Vũ, cánh quân này mới được huấn luyện có mấy tháng thôi. Tên Tôn Vũ này đúng là một tướng tài, tiếc là dướng trướng hắn không có người tài như thế, bằng không cũng không thua thê thảm ở Sở quốc rồi...Chúc Dung rầu rĩ nhớ lại.

"Các tướng sĩ nghe lệnh!" Tôn Vũ hét to một tiếng, toàn quân im phăng phắc lắng nghe.

Tôn Vũ sải bước đi lên đài điểm tướng, quay mặt về phía đội ngũ đen sì sì, chỉ tay về phía xa, cất cao giọng: "Trận chiến hôm nay chỉ là tập dượt thôi, mục tiêu cuối cùng của quân ta chính là Cô Tô thành, ngoài ra đều không thèm nói tới. Nhưng...Cô Tô thành không dễ tấn công như chỗ này, Phù Sai và Phù Khái cũng không dễ chế ngự như Tây Môn Thắng."

Cột cờ kế bên đài điểm tướng đã hạ lá cờ của quân Ngô xuống, trên đó giờ treo lơ lửng một cái thủ cấp, chính là thủ cấp của Tây Môn Thắng, hắn chết dưới kiếm của Chúc Dung.

"Trong thiên hạ sẽ không xuất hiện một đạo quân giống như chúng ta, với binh lực không quá một vạn người, dám phát động tấn công vào kinh đô một nước, chỉ dựa vào việc này thôi là đủ cho thiên hạ lác mắt, đủ cho đám nam nhi nhiệt huyết chúng ta cảm thấy kiêu ngạo. Kể từ chỗ này, cho đến dưới chân thành Cô Tô, chúng ta phải đi xuyên qua chốt chặn quan trọng Ngự Nhi thành, còn phải đi xuyên các tòa thành Túy Lý, Lạp Trạch, Hình Ấp, Hoành Thượng..., phải vượt qua mấy chục phòng tuyến của địch, giao chiến với quân Ngô không rõ số lượng đang bố phòng khắp nơi.

Thủ đoạn của quân Ngô các ngươi thấy rõ, cho dù là người Đông Di bị bắt hoặc đầu hàng, tất cả đều bị Phù Khái bêu đầu, lần này tiến quân, chúng ta có tiến không lui, nếu muốn sinh tồn, chỉ còn cách tiêu diệt kẻ địch, nếu muốn kiến công lập nghiệp, sau này bái tước phong hầu, chỉ còn cách giẫm lên máu của quân địch mà đi tới. Cơ Quang có thể dùng năm vạn quân đánh chiếm Dĩnh Đô, chúng ta chỉ dùng dưới một vạn đoạt lấy Cô Tô. Cơ Quang nếu thua trận còn có Ngô quốc làm chỗ dựa, các ngươi không có chỗ dựa, Ngô quốc cũng chính là lối thoát hiểm duy nhất, chiếm lấy Cô Tô, các ngươi mới được sống, mới có căn cứ dung thân, mới được hưởng vinh hoa phú quý!"

Xung quanh doanh trại đã bị san thành bình địa, hơi thở của gió xuân hòa nhịp, đưa tiếng nói của Tôn Vũ vang cao vang xa.

"Các ngươi không phải đơn độc chiến đấu, bổn tướng đã phái người phi ngựa đem tin đánh xộc vào Ngô quốc của chúng ta đến báo cho công tử Khánh Kỵ, rất nhanh, công tử sẽ đưa đại quân quay về Ngô quốc, sát cánh chiến đấu cùng quân ta. Theo như sắp xếp, mỗi năm trăm người chia làm một đội, chia ra chọn đường mà tiến tới, đến địa điểm chọn trước tập hợp, nếu bị quân Ngô đánh tan thì dùng chiến thuật du kích, mạnh ai nấy ẩn náu, chờ đợi thời cơ đánh lén, hoàn thành sứ mệnh của các ngươi, có nghe rõ không?"

Ba quân đồng thanh hét lớn: "Dạ!"

Tôn Vũ phất tay một cái: "Xuất phát!"

Từng đội binh sĩ theo sắp xếp định sẵn phân ra nhiều nhóm, do một lữ soái thống lĩnh, chia nhau các hướng tiến sâu vào Ngô quốc, đại quân hành động nhanh chóng bài bản, theo quy chế trong quân của Khánh Kỵ, quân đội được chia theo quy cách lúc bấy giờ, năm người là một "Ngũ", có một ngũ trưởng; năm ngũ là một "Lượng", có một lượng tư mã; bốn lượng thành một "Tốt", có một tốt trưởng; năm tốt thành một "Lữ", do một lữ soái chỉ huy...Vậy một lữ vừa đúng có năm trăm người.

Khánh Kỵ chưa bao giờ cảm thấy chia quân ra như thế có thể nâng cao sức chiến đấu của quân đội lên, hơn nữa lúc đó mỗi một quân sĩ còn phải phân chia đẳng cấp và vũ khí sử dụng, khá là rắc rối, nên trong lúc huấn luyện quân đội Khánh Kỵ không mấy quan tâm chuyện chia quân này, chỉ khi Tôn Vũ tiếp quản mới ra sức huấn luyện, lúc này phải hành quân nhóm nhỏ mới thấy rõ tác dụng của việc chia quân.

Lữ này gồm năm trăm người, Tôn Vũ chỉ định một viên tốt trưởng thông thạo địa lí Ngô quốc làm Lữ soái, phụ trách thọt vào sau lưng địch, có quyền độc lập chỉ huy tác chiến trước khi đến được địa điểm tập kết. Nhìn toàn quân tập hợp, chia tách, tiến quân nhanh chóng mà không rối, Tôn Vũ mỉm cười hài lòng, chỉ trong một thời gian ngắn có thể huấn luyện một đội quân hỗn tạp gồm nông dân, thương lái, nô dịch, tù nhân và cả đám lưu manh vô lại thành ra thế này, tất nhiên đủ khiến chàng tướng quân trẻ tuổi cảm thấy tự hào.

Hơn nữa trong công tác huấn luyện, Tôn Vũ có ý đồ đặt nặng việc huấn luyện kỉ luật và ý thức của quân sĩ, theo tiêu chuẩn quan quân mà huấn luyện, làm vậy là chuẩn bị cho đại nghiệp phục quốc của Khánh Kỵ một khi thành công, giúp Khánh Kỵ nhanh chóng dựa vào đám người này khống chế tiếp quản quân đội Ngô quốc. Với lại vào thời này tin tức đi lại khó khăn, trong lúc không thống nhất chỉ huy được, cần mạnh ai nấy tác chiến độc lập, chất lượng chỉ huy trong quân cũng nâng cao rõ rệt, một khi tướng chỉ huy tử trận, có thể theo thứ tự cử người thay thế, không rơi vào cảnh như rắn mất đầu, chỉ huy chết là toàn quân tan rã.

Anh Đào và Chúc Dung cũng tự dẫn theo một đội quân, leo lên lưng ngựa, chắp tay chào Tôn Vũ, xong mạnh ai nấy dẫn quân rời khỏi. Tôn Vũ từ từ buông tay xuống, hít một hơi dài, hướng về phía Việt quốc, khóe môi nở một nụ cười bí hiểm.

"Đại trượng phu kiến công lập nghiệp, chính là lúc này!" Tôn Vũ phấn chấn tinh thần, sải bước đi xuống đài điểm tướng, leo lên lưng ngựa, dẫn theo số binh mã còn lại, đi về phía thảo nguyên mênh mông, sau lưng Tôn Vũ, doanh trại quân Ngô nay chỉ còn là một đống hoang tàn, một cột khói bốc thẳng lên trời cao...

Đại Tranh Chi ThếTác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 199: Phá nhuệ khí địch (Thượng)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Vương Tôn Hùng suất lĩnh một đội nhân mã, kìm ngựa cắn đũa (thời xưa khi hành quân bí mật, binh sĩ phải ngậm trong miệng mỗi người một chiếc đũa để không nói), bí mật tiến vào trong núi rừng . Trải qua một lần bại trận được thả về, bởi vì Ngô Vương vốn yêu thích hắn, chúng tướng cũng biết vậy mà hết lời cầu khẩn cho hắn, rốt cục hắn cũng được ân xá, cuộc đánh úp Na Xứ thành lần này, Vương Tôn Hùng chủ động xin đi giết giặc, lấy công chuộc tội rửa sạch nỗi nhục khi trước.

Thám mã của hắn đã điều tra tin tức chuẩn xác của Khánh Kỵ, chủ lực của Khánh Kỵ đã rời khỏi Na Xứ thành, tới sông La cứu viện quân Sở. Quân Ngô công kích quân Sở ở sông La, đã định liệu rằng chắc chắn Khánh Kỵ sẽ đi cứu, Quyền Ấp cùng Ngư Phản hai lộ đại quân ở ngoài sáng, đại quân Dĩnh Đô ở trong tối, đã bày ra thiên la địa võng ở sông La, nếu Khánh Kỵ tới sông La cứu viện, tất sẽ rơi vào bao vây trùng trùng điệp điệp, nếu hắn nhân cơ hội này đánh chiếm Ngư Phản hoặc Quyền Ấp, thì Vương Tôn Hùng đã nắm được đại bản doanh của hắn rồi. Quân coi giữ Ngư Phản và Quyền Ấp sớm đã có phòng bị chỉ cần đứng vững trước tiến công của hắn, ba đường quân Ngô ở sông La nuốt sạch quân Sở, sẽ hội quân tiến quân thần tốc về hướng đó. Khánh Kỵ đã mất đi căn cơ nếu như không muốn bị ăn tươi nuốt sống, chỉ có thể chạy trối chết, Na Xứ thành mà hắn đã khổ tâm gây dựng chẳng những rơi vào tay địch thủ, hơn nữa cả một con đường quan trọng cuối cùng để liên lạc cũng bị rơi vào tay quân Ngô. Hắn khó đối kháng lại quân Ngô, quân Sở lại bị tầng tầng vây quanh, chiến lược 'từng bước ép vào' cũng hoàn toàn bị phá sản.

Trong rừng rậm tối om om, binh lính dẫn đường phía trước dùng một cái đèn lồng được phủ vải đen, chỉ chiếu ra một chút ánh sáng ở phía dưới, chiếu sáng một khoảng không lớn ở dưới chân, trong rừng ngoại trừ âm thanh cỏ cây sột soạt vì ma sát, còn lại không có âm thanh gì khác. Nhưng mà Vương Tôn Hùng biết, ở tại sơn cốc phía bên kia rừng núi, cũng có một nhánh quân đội đang cùng hắn tiến lên. Sơn cốc ở hai bên sườn núi vốn có hai nhánh quân đội của Khánh Kỵ đóng quân, nhưng hiện tại chủ lực của Khánh Kỵ xuất chinh, quân trông giữ đỉnh núi đại bộ phận cũng bị điều động đi rồi. Nhưng mà Vương Tôn Hùng biết rằng nơi đó vẫn có binh sĩ đóng quân, vì sợ bị nhân mã lưu thủ ở Na Xứ thành phát hiện ra sớm sự tiến công của hắn, hắn chia binh ra làm hai đường, từ cánh trái phải lặn lội đi đường núi, tránh quân phòng thủ ở cốc khẩu.

Phía trước là một ngọn đồi nhỏ, đi qua ngọn đồi này, Na Xứ thành ở ngay tại một bình nguyên phía ngoài cốc khẩu. Một đường bình an vô sự, Vương Tôn Hùng trèo đèo lội suối đến mức toàn thân toàn mồ hôi thối âm thầm thở phào nhẹ nhõm.

"Mau, sắc trời sắp sáng rồi, phải nắm chắc thời gian. Ôn Thành, mang vài người sang mặt Đông liên hệ, mệnh cho bọn họ nhanh chóng tập kết chỗ này; Hà Lý tướng quân, ngươi phụ trách cản đường, mang nhân mã bản bộ của ngươi đi sang hướng Tây Bắc, hủy diệt Linh Tú Kiều, đóng quân ở chỗ đó, bảo hộ cánh quân thủ thành của ta, ngăn cản nhân mã của Khánh Kỵ đóng ở bến Bách Tân tới cứu viện; Công Sư, lập tức chặt cây cối chỗ này, chế tạo công cụ công thành thô sơ, cần phải hoàn thành trước hừng đông.

Mọi người nhất nhất lĩnh mệnh mà đi. Vương Tôn Hùng hai tay chống kiếm, đứng ở trước ngọn núi nhắm mắt không nói gì. Bên trong đầu hắn, đang hiện lên tình cảnh một lần giao chiến với Khánh Kỵ. Khánh Kỵ đột nhiên dẫn quân xuất hiện, chủ động xuất kích, ở trong hỗn chiến sử dụng phục binh chặt đứt sự phối hợp của xa trận và bộ binh của hắn, đánh đuổi bộ binh, vây lấy tinh nhuệ, đấu pháp xảo quyệt, khác rất nhiều với thủ pháp mà hắn quen dùng.

"Đã trải qua hơn một năm lang bạt kỳ hồ, trải qua nguy hiểm suýt nữa bỏ mạng, xem ra đã khiến cho Khánh Kỵ thay đổi rất lớn, hắn đã không còn là Khánh Kỵ trước kia. Chỉ có điều... mặc cho hắn có giả dối như cáo, lúc này cũng không còn cơ hội nữa. Đại vương đánh chiếm Sở đô, danh vọng nhất thời tăng cao, lại mang tài phú của nước Sở vận chuyển về nước Ngô, thực lực của nước Ngô tất nhiên cũng sẽ tăng lên nhiều. Chỉ cần vua của ta đánh bại liên quân, thành công trở về Ngô quốc, là sẽ có thể lập uy thu nạp nhân tâm của mọi người. Khánh Kỵ cho dù không chết, thì lúc đó cũng không thể làm gì với nước Ngô ta nữa."

Vương Tôn Hùng từ từ nhắm hai mắt, khóe miệng hơi hơi mỉm cười.

" Vương Tôn tướng quân, quân của mạt tướng đã tập kết xong, đang ở phía trước chờ mệnh."

Vương Tôn Hùng mở mắt ra, đã thấy Y Thu tướng quân từ sơn cốc phía bên kia sườn núi vội vàng chạy tới trước mặt, cách đó không xa phía sau nhân mã như rồng, đang uốn lượn mà tới.

"Ừm, bên ngươi có phát hiện gì không?"

" Không có, các huynh đệ đều vô cùng cẩn thận." Y Thu thở hổn hển lau mồ hôi trên trán: "Chỉ có điều vừa mới vượt núi tới đây, tất cả mọi người đều có hơi mỏi mệt."

Vương Tôn Hùng ngẩng đầu nhìn sắc trời tối như mực, nói: "Truyền lệnh, toàn quân nghỉ ngơi tại chỗ, ăn chút lương khô, uống nước, sau thời gian hai nén hương, công thành!"

Thời cơ đã tới, mặc dù không đốt hương, nhưng mà Vương Tôn Hùng với kinh nghiệm nhiều năm chinh chiến, đã có thể nắm giữ thời gian chính xác. Hắn lại lần nữa ngẩng đầu lên, ở chân trời đã ẩn ẩn hiện lên một vệt sáng.

" Công Sư, tạo ra bao nhiêu dụng cụ công thành rồi."

Công Sư vội vàng tiến lên bẩm: "Hồi bẩm tướng quân, bởi vì thời gian cấp bách, lại thêm sắc trời tối tăm, không thể thắp đèn, trong lúc vội vàng chỉ làm được hai chiếc xe, hơn mười cây gỗ, hơn hai mươi cái thang gỗ."

Vương Tôn Hùng thản nhiên cười: "Na Xứ thành không cao, hào không sâu, cổng không dày, quân trông giữ bên trong lại ít, như thế là đủ rồi, chúng ta chỉ cần tấn công một chút là có thể lấy được thành. Khánh Kỵ dù đi rồi, nhưng một khi phát hiện trúng kế, rất có thể sẽ phớt lờ quân Sở mà phá vây quay về, thời gian cấp bách, lập tức công thành!"

Vương Tôn Hùng lần này đi cấp bách, lại là đánh lén ban đêm, cho nên còn không kịp chế tạo những dụng cụ như trục bắn cung, là một chiếc xe có thể từ trên cao bắn tên thẳng vào trong thành, hay như trùng xa là loại xe để công phá cửa thành, còn có máy bắn đá cũng không kịp chế tạo. Có điều Na Xứ thành ở rất gần Dĩnh Đô, vốn là có đóng quân, nhưng bởi vì ở sâu bên trong nước Sở, không tính tới việc sẽ có kẻ thù vây bên ngoài thành, cho nên xây dựng thành cực kỳ đơn sơ, căn bản là không cần những công cụ công thành nặng nề, chỉ cần mấy thứ như vậy là đủ rồi.

Vương Tôn Hùng vọt tới dưới thành, quân coi giữ trên tường thành cũng đã phát hiện ra bọn họ, lập tức khoa chiêng báo nguy. Nương theo chút tia nắng ban mai, Vương Tôn Hùng thấy được trên tường thành đã có chút cải tạo, mặc dù tường vẫn không cao, nhưng lại có thêm những mái chắn để che cho quân phòng thủ thành, ở góc thành có chòi canh, chỉ có điều cổng thành vẫn cũ nát như cũ, không được trang bị cầu treo như những thành trì vốn được dùng vào quân sự.

Na Xứ thành trì thấp bé, vật tư phòng ngự chuẩn bị trong thành cũng không được đầy đủ, nếu hai bên nổi lên chiến trận, Vương Tôn Hùng nhìn số quân coi giữ trên tường thành, cùng với những khí giới phòng thủ của bọn họ, liền biết chắc chắn hôm nay có thể phá thành. Vương Tôn Hùng không khỏi mừng rỡ, lập tức cho cả đội dự bị cũng cùng đi vào. Hắn lo rằng Khánh Kỵ một khi phát hiện ra trúng kế, lập tức sẽ bỏ rơi quân Sở mà quay về sào huyệt, nếu trước khi hắn quay về mà không thể công được Na Xứ thành, vậy sẽ lâm vào tình huống hai mặt đều có địch cực kì nguy hiểm, cho nên lúc này bất kể hy sinh, mệnh lệnh tấn công mạnh mẽ.

Thang gỗ công thành quá ít, đã bị những lực sĩ trên tường thành dùng dây xích sắt và thiết chùy đánh hư rất nhiều. Hai chiếc xe đã được đưa đến hai bên cổng thành, Vương Tôn Hùng vẫn chưa sử dụng phương pháp đào địa đạo hoặc phá hỏng tường thành, Na Xứ thành tuy rằng tường thành sơ sài, nhưng muốn đào lên cũng không phải trong phút chốc là có thể, hắn cũng không an bài nhiều sĩ tốt bên cạnh hai chiếc xe, chỉ chất lên đó rất nhiều cỏ tươi, bên trên giội dầu hỏa, tới dưới thành thì châm cả xe cháy lên, khói đặc cuồn cuộn bay lên, khiến cho những quân coi giữ trên tường thành bị chảy nước mắt đầy mặt, mắt không thể thấy rõ gì nữa.

Lập tức liền có binh lính ôm thân cây to cứng rắn mạnh mẽ đánh vào cánh cửa, quân trên thành đỏ cả hai mắt, ném những thân cây, đá tảng xuống bên dưới, lại không ngừng bắn tên, mặc dù bắn được không ít binh lính công thành, nhưng mà binh lính Ngô quân dưới sự chỉ huy của Vương Tôn Hùng không ham sống sợ chết, một khi có người ngã xuống, lập tức có người lấp vào, liên tiếp vài cú va đập, cánh cổng thành mỏng mảnh kia đã lung lay muốn đổ.

Quân trong thành lớn tiếng kêu lên sợ hãi, lập tức có người lao lên chống đỡ cổng thành, chỉ có điều cánh cổng thành chỉ được gia cố một tầng ván gỗ kia không chịu nổi va chạm, liên tiếp vài cú va đập, chỉ nghe "ầm" một tiếng, cổng thành đã bị vỡ làm bốn, những binh lính trong thành đang chống cổng bị đâm bay ra sau, ngã xuống đất.

Vương Tôn Hùng mừng rỡ, lập tức quát: "Nổi trống, đoạt thành!"

Tiếng trống trận "bình bình" vang lên, quân Ngô rời khỏi hai bên tường thành chen chúc từ cổng chính mà vào. Vương Tôn Hùng xông ngựa lên đầu, cầm mâu tiến nhanh về phía trước, một đường đánh ngã hơn mười sĩ binh, suất lĩnh hơn năm trăm quân tiên phong vọt vào trong thành. Trong thành ào ra rất nhiều sĩ tốt, song phương nhất thời hỗn chiến ở một chỗ.

Đại Tranh Chi ThếTác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 199: Phá nhuệ khí địch (Trung)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Tiếng la hét rung trời, chỉ nghe thấy quân Ngô ở phía sau kêu lên sợ hãi không thôi. Vương Tôn Hùng rút mâu ra khỏi ngực một tên lính, quay đầu nhìn lại, không khỏi chấn động, Khánh Kỵ không tu bổ gia cố gì nhiều cho tường thành của Na Xứ thành, nhưng mà phía trên cổng thành lại tạo ra một cơ quan, khó trách trên cổng thành được xây thêm một tòa thành lâu, hóa ra là để treo một cánh cổng nữa. Lúc này mới có chưa tới hai ngàn người vọt vào cổng thành, từ cái cổng tò vò chính giữa đã có một cánh cổng rất nặng hạ xuống, uỳnh một tiếng rơi xuống đất, ngăn cách quân Ngô trong ngoài.

Lập tức chung quanh có rất nhiều tiếng hò hét vang lên, không biết nhảy ra biết bao nhiêu phục binh đứng ở trên tường thành, mỗi người trong tay đều cầm nỏ của người Sở, từ trên cao nhìn xuống, nhắm vào quân Ngô dưới mặt đất. Những binh lính vốn đang giao chiến với quân Ngô nhanh chóng lui về sau, tạo ra một khoảng cách với bọn chúng, cầm giáo dài đại kích ngăn trở bọn chúng đi về phía trước. Một gã thiên tướng thủ hạ của Vương Tôn Hùng thấy tình cảnh như vậy liền hét lớn một tiếng chĩa mâu xông lên, vừa mới chạy được hai bước, liền nghe thấy một trận tiếng mưa tên "sưu sưu" xé gió, tên thiên tướng kia đã bị bắn thành giống như con nhím, không kịp kêu lên lấy một tiếng, liền gục đầu ngã xuống đất.

Bên người Vương Tôn Hùng còn có người muốn lao lên, lại bị hắn nắm chặt lại, lúc này chợt nghe thấy từ cái lầu trên cổng thành có tiếng mõ vang lên, Vương Tôn Hùng quay đầu nhìn lại, chỉ thấy một người đội mũ công tử, thân khoác áo choàng trắng mỉm cười hiện ra trên bờ tường, vịn tường hô lên với hắn: "Vương Tôn Hùng, lần này có chịu quy hàng không?"

Vương Tôn Hùng nhìn thấy người này là công tử Yểm Dư vốn phải đóng ở bến Bách Tân, không khỏi thở dài một tiếng, biết rằng đã trúng độc kế của Khánh Kỵ.

Khi cánh cổng treo hạ xuống, trong ngoài bị ngăn cách, tiếng trống trận bên ngoài thành thình thình vang lên, từ xa chỉ thấy bụi đất mù mịt, từ phía ánh sáng mặt trời lao tới, tựa như nổi lên một trận bão cát hung dữ.

Quân Ngô ngoài thành trợn mắt há hốc mồm, tới tấp dừng chân trố mắt nhìn lại, chỉ thấy khoảng một trăm năm mươi cỗ xe xếp thành hình nón tam giác đang điên cuồng lao về phía tường thành. Na Xứ thành có khoảng năm mươi binh xa, hơn nữa lần trước thu được hơn một trăm binh xa, những chiến xa này lúc đó trên chiến trường tương đương với xe tăng hạng nặng hậu thế.

Na Xứ thành nằm trong cốc khẩu, nhưng mà bên ngoài cốc khẩu là một vùng đất bằng phẳng, chính là thích hợp cho chiến xa hành động. Lần này đại quân Khánh Kỵ cũng không chỉ như lần trước xua tan quân Ngô là xong việc, một trăm năm mươi cỗ chiến xa giống như máy ủi đất đang từ vùng bình nguyên trước cổng thành cày tới, bánh xe chạy tới đâu, cả vùng đầy máu tới đó.

Quân Ngô là vượt núi đánh lén, cũng không mang theo vũ khí nặng, một tiếng nổ lớn như tiếng sấm, hơn một trăm cỗ chiến xa đã đánh sâu vào trong đội quân công thành của quân Ngô, một Lữ soái quân Ngô hoảng sợ né tránh một cỗ chiến xa, lấy tay rút kiếm, đang muốn hét lên ra lệnh trường mâu thủ tạo thành trận pháp ngăn chặn chiến xa, lại có một cỗ chiến xa chui ra từ trong bụi đất mù mịt, vó ngựa hất cao, đá bay cả thân mình hắn lên. Lữ soái này chỉ cảm thấy mình giống như là đang đằng vân giá vũ, "Bịch" một tiếng rơi xuống đất, lại lăn người đứng lên, cảm giác rằng trên người dường như chưa bị thương tới một cọng tóc.

Lữ soái này giật mình, phát giác ra kiếm sắc trong tay đã bị đá bay, liền đoạt lấy một cây binh khí từ tử thi nằm trên mặt đất phía trước, hắn vừa mới lao đi hai bước, liền cảm thấy thiên địa rung chuyển, cổ họng hơi ngọt, một vòi máu tươi phun ra, trước mắt tối sầm rồi mềm nhũn ngã xuống đất. Mặt đất chấn động, lại một cỗ chiến xa lao tới, bánh xe không chút lưu tình cán qua cơ thể hắn. Ý thức của hắn vẫn còn, hai mắt mở thật to, dùng sức trừng mắt nhìn phía trước, nhưng chẳng nhìn thấy nổi cái gì, bánh xe nặng nề cán qua eo hắn, hình như là cắt đứt eo hắn, nhưng mà hắn cũng không cảm thấy đau đớn, máu đen trào ra ở tai mắt mũi miệng hắn...

Rất nhiều bộ binh hò hét vọt lên theo chiến xa, hơn trăm cỗ chiến xa chạy qua trận doanh của quân Ngô đang gào thét, sau đó rẽ sang hai cánh rồi lại quay về, giống như muốn phát động đợt xung phong thứ hai. Ở những vùng mà chiến xa lăn qua, có rất nhiều bộ binh đi theo, đánh cho bộ binh quân Ngô tơi bời hoa lá, bỏ chạy về phía sơn cốc. Cờ xí chiêng trống đều bị bọn họ vứt bỏ, một vài tướng lãnh may mắn còn sống khàn cả giọng truyền lệnh cho quân đội, kết quả là cũng thân bất do kỷ bị binh lính kéo bỏ chạy theo.

Ở hai bên đỉnh núi cũng có quân Ngô đóng giữ, nhưng mà nhân số quá ít, một vài mũi tên lẻ tẻ lực sát thương không lớn, chiến xa mang theo truy binh đuổi theo, nhưng đường trong sơn cốc khó đi, chiến xa khó có thể phát huy uy lực. Những quân Ngô này quăng mũ cởi giáp, mồ hôi ướt đẫm chạy ra khỏi sơn cốc, còn chưa kịp thở một hơi, đã sợ đến ngây người, mấy ngàn nhân mã đứng ngây ra như phỗng ở cốc khẩu, đột nhiên lặng ngắt như tờ.

Ra khỏi cốc khẩu là một cái dốc nhấp nhô thoai thoải, đi qua dốc này là tới ngã ba đường đi Dĩnh Đô, Ngư Phản, Quyền Ấp. Chỉ có điều ở trên cái dốc đó có một đạo nhân mã đang lẳng lặng đứng trang nghiêm, cờ bay phấp phới kéo dài, liếc mắt nhìn không thấy bờ bến, cũng không biết rốt cuộc là bao nhiêu nhân mã.

Ở giữa là một gã võ tướng, cưỡi ngựa cầm mâu, phía sau bên trái là một cây cờ hiệu, bên phải là một cây cờ chủ soái, ở trên viết hai chữ Khánh Kỵ, không ngờ rằng Khánh Kỵ đã dẫn quân trở lại.

Hai gã võ tướng giống như cột sắt thúc ngựa tiến lên vài bước, cao giọng quát: "Điện hạ có lệnh, ai hàng miễn chết, các ngươi nhanh chóng quyết định đi!"

Quân Ngô chạy tới cốc khẩu còn đang kinh hoàng chưa bình tĩnh kịp, nghe thấy lời đó không khỏi hai mặt nhìn nhau, dần dần, những sĩ tốt đều tập trung ánh mắt về những tướng lãnh có chức vị hơi cao trong quân. Vài tên tướng lĩnh đó còn đang do dự không quyết, uy phong cùng ngạo khí bọn họ có từ khi phạt Sở đến giờ đã bị hai trận chiến của Khánh Kỵ quét cho sạch trơn, uy danh Ngô quốc đệ nhất dũng sĩ từ ngày xưa một lần nữa lại nổi lên trong lòng bọn họ. Lúc này chủ tướng Vương Tôn Hùng bị nhốt ở trong thành sống chết không biết thế nào, bọn họ cũng đã hoàn toàn đánh mất dũng khí đối đầu với Khánh Kỵ, nhưng mà...

Hàng? Gia quyến của mình ở nước Ngô làm sao bây giờ? Hạp Lư có lẽ sẽ không mất trí đến mức giết hại gia nhân của tất cả sĩ tốt, nhưng mà với một vài vị tướng thì hắn sẽ bỏ qua sao?

Hai gã võ quan đang chiêu hàng phía trước là A Cừu và Tái Cừu. Mắt thấy bọn họ còn đang chần chừ, A Cừu cười to nói: "Tái Cừu, ta thấy những người này chưa từ bỏ ý định, còn muốn khiêu chiến với trường mâu của điện hạ đó. Chỉ là không biết, dưới tay của Ngô quốc đệ nhất dũng sĩ ai xứng đáng làm địch thủ, dù sao thì ta cũng không làm được, ha ha..."

Tái Cừu 'phì' cười một tiếng, tay cầm song kích nói: "Ta thấy cũng chưa chắc, bọn họ chỉ lo rằng một khi đầu hàng, gia quyến ở nước Ngô sẽ bị Cơ Quang tàn bạo giết hại, cho nên mới đành chịu cảnh toàn quân bị diệt, chứ không chịu đầu hàng."

A Cừu cười ha hả, nói: "Cái đó thì có gì phải lo? Cơ Quang mặc dù muốn đại sính dâm uy, cũng phải chờ cho sau khi hắn về tới nước Ngô, nhưng hắn có còn quay về nước được sao? Hiện giờ Sở, Vệ, Tống, Tào, Lỗ mấy nước chư hầu gần Ngô quốc đều đã kết minh với điện hạ, Tề Tấn hai nước tuy rằng cường đại, nhưng lại nước xa không cứu được lửa gần. Cơ Quang bị nhốt ở Dĩnh Đô thành, điện hạ mấy ngày nữa phạt Ngô phục quốc, trở thành quân chủ Ngô quốc, hôm nay là người quy phục điện hạ, ngày sau đều là thần tử có công, vợ con hưởng đặc quyền đều có thể, khi đó Cơ Quang muốn không chết còn khó, còn làm sao mà giết cả nhà họ?"

Những binh lính Ngô bị vây khốn trong cốc khẩu nghe thấy vậy thì nhất thời xôn xao lên, trong lòng bọn họ sợ quân pháp tàn nhẫn của Hạp Lư, nhưng mà một cuộc đối đáp của A Cừu Tái Cừu lại khiến cho trong lòng bọn họ sinh ra dị tâm. Người trong lúc khốn cảnh ai chẳng ham sống, nếu có thể có cách vẹn toàn, trong lòng người tự nhiên sẽ suy nghĩ về phía tốt hơn, nếu Khánh Kỵ thành quân chủ Ngô quốc, như vậy còn e sợ quân pháp khổ hình của Cơ Quang sao?

Khánh Kỵ ngồi thẳng bất động, nhìn thấy binh lính nước Ngô đã tâm động, Khánh Kỵ đúng lúc bọn họ còn chưa kịp đưa ra quyết định liền bỏ thêm một quả cân lên cái cân, hắn cầm trường mâu trong tay hướng về phía trước, lưỡi mâu thẳng tắp hướng lên không trung. Có hiệu lệnh của chủ soái, trong quân lập tức vang lên tiếng trống trận vang dội.

"Thình! Thình! Thình thình thình thình..." Mỗi chuỗi tiếng trống với tiết tấu và tốc độ như nhau vang lên, Khánh Kỵ dùng trống hiệu của quân Ngô, khiến cho sĩ binh quân Ngô đều nghe và hiểu được, đây là tiếng trống khi sắp phát động xung phong. Tiếng trống ngày càng dồn dập, tim bọn họ cũng đập càng lúc càng nhanh, nhất thời khẩn trương tới mức miệng lưỡi đều khô, mồ hôi bất tri bất giác chảy đầy trên trán.

"Có đầu hàng hay không? Có đầu hàng hay không?" Tay cầm mác thì dùng mác đập, tay cầm kiếm thuẫn thì dùng kiếm đánh lên mặt thuẫn, lớn tiếng hét lớn về phía những quân Ngô bị vây bên trong cốc khẩu. Quân Ngô trong cốc khẩu lại càng bối rối, một vài tên tướng lãnh trong đó cũng vô cùng lo lắng trao đổi ánh mắt cho nhau.

Đại Tranh Chi ThếTác giả: Nguyệt Quan

Quyển 3: Hợp Tung Liên Hoành

Chương 199: Phá nhuệ khí địch (Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Mâu của Khánh Kỵ dừng lại ở không trung trong nháy mắt, chậm rãi chỉ thẳng về phía trước, cờ soái tung bay, cờ hiệu theo đó phất lên, cờ xí sặc sỡ trong quân cũng đồng thời phất lên, cái này gọi là "Ứng kỳ", ý là các quân cùng nhận được mệnh lệnh của chủ soái tướng lãnh, kế tiếp chỉ cần ngọn cờ hiệu của Khánh Kỵ chỉ về phía trước, các quân sẽ như hổ lang lao về phía trước, phát động một trận đại chiến.

Mắt nhìn thấy cờ hiệu của Khánh Kỵ, binh sĩ quân Ngô đều thầm nuốt nước bọt, cờ hiệu của Khánh Kỵ được lực sĩ đưa lên, ngay lúc lá cờ sắp chỉ về phía trước, đột nhiên có một tiếng hét lớn, từ trong đội ngũ quân Ngô có một gã tướng lãnh đi ra, một mình tiến về phía trước, hai tay giơ lên cao, rồi từ từ giương ra hai bên.

Trường mâu trong tay Khánh Kỵ hơi hơi ngưng lại, chăm chú nhìn vào hắn. Dung mạo người này có chút quen thuộc, hơi hơi suy nghĩ một chút, Khánh Kỵ cũng đã nhớ ra người này, chính là Ngô quốc trung đại phu Xích Trung, ấn theo cấp độ, lần này trong quân là Sư soái, địa vị của hắn gần với Vương Tôn Hùng, liền hít một hơi giương giọng, lạnh lùng quát hỏi: "Xích Trung, ngươi có gì để nói?"

Sư soái quân Ngô Xích Trung giơ rộng hai tay, ngăn Khánh Kỵ hạ lệnh tiến công, sau đó chậm rãi xoay người nhìn về đống hỗn loạn phía sau mình, quân Ngô phía sau hắn đang tán loạn, chen chúc trong cốc khẩu. Sau cốc cũng đã bị quân Khánh Kỵ chặn đường, toàn quân đã không còn đội hình, trong ánh mắt mỗi binh lính đều có sự bối rối và khát vọng sinh tồn, đôi mắt trông mong nhìn vào hắn. Ánh mắt của hắn lướt qua, vài tên Lữ soái thuộc hạ xấu hổ cúi đầu, giống như sợ sẽ bị hắn nhìn thấy suy nghĩ của mình.

Xích Trung bùi ngùi thở dài, lại xoay người trở lại, mặt hướng về Khánh Kỵ, sau đó 'keng' một tiếng rút kiếm ra khỏi vỏ. Mũi kiếm của hắn dưới ánh mặt trời bắn ra hàn quang, phát ra ánh sáng chói mắt. Khánh Kỵ ngồi trên lưng ngựa, mắt lạnh lùng nhìn hắn, không nói không cử động.

Xích Trung lớn mật bước về phía trước, ở trước mắt bao người hướng về Khánh Kỵ, cách Khánh Kỵ khoảng mười bước, một loạt trường mâu thủ tiến lên phía trước ba bước, mũi mâu sáng như tuyết đồng loạt giương lên, ngăn chặn trước người hắn.

Xích Trung dừng lại, ngẩng đầu nhìn Khánh Kỵ, đột nhiên cúi người, 'Phập' một tiếng cắm kiếm thật sâu vào trong bùn đất, tay cầm chuôi kiếm, quỳ một gối xuống, trầm giọng nói: "Xích Trung nguyện dẫn quân đội trong tay, trung thành dưới trướng công tử!"

Khánh Kỵ thản nhiên nói: "Ngươi là người nước Ngô, đáng ra phải gọi ta là điện hạ!"

Xích Trung cúi đầu nói: "Đúng, quân đội trong tay Xích Trung, nguyện... nguyện trung thành với Khánh Kỵ điện hạ!"

Đã có người đi đầu, các tướng lĩnh quân Ngô đều thở phào nhẹ nhõm, những quân sĩ quân Ngô vốn bàng hoàng bất lực hiện giờ như đã tìm ra được lựa chọn, tới tấp theo Xích Trung quỳ rạp xuống đất về phía Khánh Kỵ, tuyên thệ nguyện trung thành, Khánh Kỵ không khỏi ngửa mặt lên trời cười to.

Đội quân này một khi đã tuyên thệ nguyện trung thành với hắn, từ nay về sau, vì tính mạng của hắn, vì tính mạng của gia nhân, vì tiền đồ của bọn họ, liền chỉ có thể sống chết cống hiến cho hắn. Trọng yếu hơn đúng là, có đội quân này gia nhập, sẽ làm dao động quân tâm của Cơ Quang, tâm lý người theo số đông rất nghiêm trọng, một cấm địa mà ban đầu ai cũng cho rằng không thể vượt qua, một khi đã có người bước ra đầu tiên, những người bước theo sẽ nối liền không dứt. Từ nay khi giao phong với quân đội Cơ Quang, hắn đã có một thứ để ỷ vào, không chỉ có lợi trong một trận chiến này, mà dần dần sẽ mài mòn sĩ khí quân Ngô, tranh thủ nhân tâm, mở tâm phòng (sự phòng bị trong thâm tâm) của người nước Ngô.

"Người đâu, giải Vương Tôn Hùng!"

Khánh Kỵ hét lớn một tiếng, Vương Tôn Hùng bị trói gô dẫn đi lên.

"Quỳ xuống!" Hai gã binh lính lớn tiếng quát, đồng thời hung hăng đá một cước lên đầu gối Vương Tôn Hùng. Hai chân Vương Tôn Hùng vừa cong, lập tức lại thẳng lên. Hắn quay đầu lại hung hăng trừng mắt nhìn hai gã sĩ tốt kia, sau đó ngang nhiên nhìn về phía Khánh Kỵ và Yểm Dư. Khánh Kỵ cùng Yểm Dư sóng vai đứng ở trước trướng, phía sau Khánh Kỵ không xa còn có hai võ sĩ thân mặc giáp nửa người, đầu vai lộ ra một đoạn chuôi kiếm, dung nhan tuấn tú, tôn nhau lên rất thú vị.

Hai người cũng không cần che dấu thân phận, Vương Tôn Hùng chỉ cần liếc mắt một cái, liền nhận ra thiếu nữ Quý Tôn Tiểu Man lần trước bắt hắn, mặc dù hắn nhìn không ra thân phận, nhưng cũng là một cô gái cực kỳ thanh tú.

Vương Tôn Hùng cũng không nhìn nhiều, ánh mắt chỉ thoáng chuyển qua hai người bọn họ, liền quay về trên người Khánh Kỵ, lớn tiếng nói: "Nếu y theo thân phận, Vương Tôn Hùng vốn nên dập đầu hành lễ với công tử, tuy nhiên hiện giờ công tử phản loạn Đại vương, là nghịch tặc Ngô quốc ta, Vương Tôn Hùng thân là chủ tướng Ngô quân, thụ mệnh của Ngô Vương, thứ cho không thể tham bái công tử."

Yểm Dư giận dữ, hai hàng lông mày hơi nhướng lên, Khánh Kỵ đưa tay ngăn lại, ha hả cười nói: "Vương Tôn Hùng, ngươi cũng là hậu duệ vương tộc của Ngô quốc ta, sao lại ăn nói hồ đồ như vậy? Cơ Quang nếu không hành thích vua tự lập, nếu không làm kẻ trộm phản quốc, làm gì có cái danh hiệu Đại vương hôm nay? Khánh Kỵ ta mới đúng là người kế thừa thực sự của tiên vương, hiện giờ tiêu diệt phản nghịch, khôi phục Ngô quốc, như thế nào lại trở thành phản tặc? Bảo ta không chống lại Cơ Quang, ta đây phải làm cái gì bây giờ? Tự trói tới gặp Cơ Quang, rồi bảo hắn chém đầu ta đi mới được gọi là trung thần liệt sĩ sao?"

Vương Tôn Hùng ngang nhiên nói: "Đại vương của ta là đương kim quân chủ Ngô quốc, ngay cả Chu thiên tử cũng đã ban cáo thừa nhận, làm sao có thể nói là giành quyền bất chính? Công tử, vẫn nên thừa nhận sự thực đi, chỉ cần ngài lấy binh quy thuận, với lòng dạ như biển của Đại vương ta, tất nhiên sẽ xá cho ngài tội mưu phản, ban thưởng cho ngài vinh hoa phú quý, làm một công tử thái bình, chẳng phải tốt hơn sao? Làm sao phải đồng tộc tương tàn, cho ngoại nhân lợi dụng?"

Khánh Kỵ mỉm cười nhìn hắn, nét cười trên mặt dần dần đanh lại.

Hắn nhẹ nhàng thở dài một tiếng, nói: "Vương Tôn Hùng, theo cái quy luật hỗn trướng của ngươi, thì đó chính là 'kẻ thắng làm vua kẻ thua làm giặc'. Ta tiếc cho ngươi một thân hảo hán, bảo Vương thúc lưu lại mạng sống cho ngươi, vốn định giữ lại một kẻ mạnh mẽ như ngươi để dốc sức cho Ngô quốc, đáng tiếc..., Ai! Tốt lắm, nếu đã bảo nắm tay ai cứng, kẻ đó chính là kẻ có lí, chính là chánh chủ thiên mệnh, như vậy, chúng ta cứ dùng kiếm mà chứng thực đi."

"Người đâu, mang rượu tới."

Kinh Lâm nao nao, lập tức xua tay cho người đi lấy, một lát sau, một gã tiểu tốt cầm một vò rượu ngon, cùng với hai cái bát lớn chạy trở lại. Khánh Kỵ đưa tay đoạt lấy vò rượu, xé đi giấy phủ, rót rượu tràn đầy hai bát lớn, sau đó đưa đến trước mặt Vương Tôn Hùng, quát: "Cởi trói cho hắn."

"Xoẹt!" Khóe mắt Khánh Kỵ chỉ liếc thấy một đạo nhân ảnh khéo léo như vượn chợt lóe lên, sau đó một đạo kiếm quang như điện chợt hiện, những sợi dây thừng đang trói Vương Tôn Hùng đồng loạt đứt ra. Người nọ lộn người nhảy trở lại, chúng tướng trong sảnh đều là người trong nghề, trông thấy kiếm pháp tinh diệu như vậy, không khỏi ầm ầm trầm trồ khen ngợi, Yểm Dư công tử hô lên một tiếng: "Hảo kiếm pháp, tuyệt diệu đến đỉnh điểm."

Chiêu thức kiếm pháp đó quả thực rất cao, dây thừng trên người Vương Tôn Hùng buộc rất rắn chắc, dường như lằn sâu cả vào da thịt, mà một kiếm này cắt đứt được tầng tầng dây thừng, tuy rằng kiếm này bản thân đã là bảo kiếm cực sắc, nhưng mà lực tay, lực đạo, xuất kiếm đều phải chuẩn mực, chỉ cần một khắc không cẩn thận, Vương Tôn Hùng sẽ khó tránh khỏi bị thương trên người, chỉ có điều một kiếm này, ngay cả quần áo của hắn còn không bị cắt rách.

Vương Tôn Hùng vẫn không phục chính mình khi trước bị thiếu nữ kia bắt sống, lúc này nhìn thấy kiếm thuật của nàng không khỏi kinh tâm, liếc mắt chăm chú nhìn nàng một cái thật sâu. Quý Tôn Tiểu Man nhảy về bên cạnh Thúc Tôn Diêu Quang, tai nghe thanh âm mọi người ủng hộ không dứt, trên mặt tuy rằng là một bộ dáng không hề để ý chút nào, nhưng trong mắt lại lộ ra thần sắc khoe khoang.

Thúc Tôn Diêu Quang liếc xéo sang nhìn nàng, dùng thanh âm chỉ hai người mới có thể nghe được nói: "Khoe khoang như thế, nhìn thế nào cũng giống như một tiểu hài tử chưa lớn hết!"

Quý Tôn Tiểu Man nhướng đôi mày nhọn, tưởng rằng giận dữ, nhưng nàng bỗng nở nụ cười, nhún nhún vai, nhỏ giọng trả lời: "Kiếm pháp vốn quá tốt, thật sự là không có biện pháp."

Thúc Tôn Diêu Quang chanh chua nói: "Hừ! Một nữ hài tử, đánh đánh giết giết là rất giỏi sao? Nữ nhân à, phải học cầm kỳ thi họa, nếu không sau này làm Ngô Vương phi, thực mất mặt."

"Này, cô chỉ biết đánh đàn thôi, không cần phải thổi phồng lên chứ, ta còn biết thổi sáo đó."

"Ta còn biết quản lí gia sản."

"Ta biết nấu cơm."

"Vậy để cho cô nấu cơm..."

Hai cô gái ở phía sau líu ríu tranh cãi, Khánh Kỵ đã cùng Vương Tôn Hùng đối ẩm một chén rượu lớn, nâng bát lên ném xuống mặt đất, nghiêm nghị quát: "Khánh Kỵ kính ngươi là một hảo hán, không đành lòng nhìn ngươi chết dưới hình binh. Ngươi trở về đi, bảo với Cơ Quang, hắn cướp của cha ta, ta sẽ tự tay đoạt lại! Dĩnh Đô thành, chính là mồ chôn xương của hắn!"

Vương Tôn Hùng mắt hổ chợt lóe quang mang, lui lại ba bước, rốt cục quỳ một gối xuống, nặng nề chắp tay với hắn, không nói được lời nào, xoay người liền đi.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển IV: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 200: Đang đêm tập kích (Thượng)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Yểm Dư thong thả bước tới bên người Khánh Kỵ, nghiêng đầu nhìn hai hàng tùy tùng y giáp sáng ngời bước nhanh ra phía ngoài cùng Vương Tôn Hùng, hơi hơi cau mày: "Sao lại vẫn để cho hắn đi? Ta bảo cháu này, cháu chẳng lẽ có niềm tin rằng hắn sớm muộn gì cũng sẽ đầu nhập làm môn hạ hay sao? Ta thấy cái kẻ cơ bắp này chắc là sẽ không phản bội Cơ Quang đâu."

Khánh Kỵ gật đầu nói: "Ta biết, ta còn biết, hắn liên tục bại hai lần, lần này trở về, nhất định sẽ tự sát để tạ tội với Cơ Quang. Chính bởi vì hắn đã quyết ý sẽ chết, cho nên lúc đi mới bái với ta một cái, nếu không, hắn sẽ không chịu cúi đầu với ta đâu. Ai, đáng tiếc cho một hán tử..."

Khánh Kỵ lắc đầu, bước chầm chậm đi ra. Yểm Dư công tử chớp chớp mắt, vân vê chòm râu buồn bực nói thầm: "Trở về thì cũng chết, vậy thì còn thả hắn về làm gì? Cứ muốn hào phóng sao?... Ai dà! Khánh Kỵ tiểu tử này, quá âm hiểm rồi, ngay cả người chắc chắn phải chết mà cũng lợi dụng."

" Khánh Kỵ công tử âm hiểm như thế nào?" Yểm Dư công tử nói xong, liền kinh ngạc phát hiện ra trái phải đã có hai người đứng đó, vây hắn ở giữa. Hai cô gái thân mặc giáp trụ, tư thế oai hùng hiên ngang, vẻ mặt không vui trừng mắt nhìn hắn, tua kiếm màu hạnh hoàng (màu vàng hơi hơi đo đỏ như quả hạnh) không gió mà động, ẩn ẩn mang theo sát khí.

Yểm Dư công tử rùng mình một cái, cười gượng nói: "Việc này nói ra thì rất dài, mới trước kia còn ở trong vườn cây Vương thành trộm đào..., ách, đó là chuyện cũ năm xưa, các ngươi hay là đi hỏi Khánh Kỵ cho thỏa đáng."

Yểm Dư nói xong, định chuồn mất, Quý Tôn Tiểu Man xoay người một cái, liền chắn trước mặt hắn, kỳ quái hỏi han: "Cái việc trộm đào này thì có quan hệ gì? Cây đào nhà mình, vì cớ gì phải trộm."

"Ách..." Hai mắt Yểm Dư loạn chuyển, còn chưa nghĩ ra một đáp án hợp lí, một gã sĩ tốt đã vào phòng bẩm báo: "Công tử, có một lão giả cùng một người trẻ tuổi tự nói là từ Lỗ quốc tới, có việc quan trọng muốn yết kiến Khánh Kỵ điện hạ."

"Từ Lỗ quốc tới? Ta trốn trước đã..." Quý Tôn Tiểu Man chột dạ xoay người định đi, lại bị Thúc Tôn Diêu Quang giữ chặt lại, tựa cười lại như không cười nói: "Từ lần trước cô bắt giữ Vương Tôn Hùng, danh hào Hàm Quang kiếm khách đã lan truyền nhanh chóng, thiên hạ sớm đã đều biết, cô có tránh né, cũng có ai không biết cô ở trong quân của Khánh Kỵ? Đi thôi, cùng đi xem rốt cục là nhân vật đến từ phương nào."

Quý Tôn Tiểu Man vừa tức vừa vội, lại không muốn yếu thế trước mặt Thúc Tôn Diêu Quang, Yểm Dư công tử thật vất vả mới tìm được một lí do thoát thân, vội vàng nói: "Đúng đúng đó, chúng ta cùng nhau xem, dẫn bọn họ lên đi."

Sĩ tốt kia đáp lại xoay người đi ra ngoài, một lúc sau mang theo hai người lên, Yểm Dư tiến lên hai bước, chậm rãi hỏi han: "Khụ, các vị là ai, là người nào sai phái các vị tới gặp Khánh Kỵ..."

Hắn còn chưa nói hết, Quý Tôn Tiểu Man đã hoan hô một tiếng, nhảy nhót lao về trước, ôm lấy cổ lão giả. Yểm Dư công tử một đôi mắt trừng đến sắp muốn lồi ra: "Này... này không phải quá kì cục sao, tốt xấu gì ngươi cũng cháu dâu trong nhà ta, sao có thể không kiêng nể gì mà thân thiết với nam nhân khác như thế?"

Yểm Dư đang bận nghĩ ngợi lung tung, Quý Tôn Tiểu Man đã kêu lên: "Viên thúc, sao thúc lại tới đây, là cố ý tới tìm cháu à?"

Thúc Tôn Diêu Quang cũng cả kinh kêu lên: "Lão Viên!"

Viên Tố vỗ vỗ bả vai Tiểu Man, ý bảo nàng buông mình ra, thân thiết cười nói: "Còn không phải vì đứa trẻ tinh ranh nhà ngươi à, cháu đó, như thế nào lại một mình chạy tới Sở quốc, lúc vừa mới nghe nói, thật sự là khiến ta giật mình."

Nói xong lại xoay sang thi lễ với Thúc Tôn Diêu Quang, nói: "Viên Tố ra mắt Diêu Quang công tử."

"Chớ đa lễ." Thúc Tôn Diêu Quang vốn định chê cười một chút, nhìn kĩ lại mới thấy hóa ra là bề tôi trung thành của Quý Tôn Tiểu Man, nàng không khỏi thất vọng, ánh mắt liền chuyển tới vị thiếu niên mi thanh mục tú kia. Nàng mặc dù ở Quý Thị lão trạch lâu ngày, cũng chưa từng nhìn thấy Thành Tú, lão Viên liền giới thiệu: "Vị này... là đệ đệ của Thành Bích phu nhân, có một thứ rất trọng yếu cần giao cho Khánh Kỵ công tử. Viên Tố lần này đi, là vì Tiểu Man tiểu thư, cũng là vì hộ tống Thành Tú đến đây."

Quý Tôn Tiểu Man mặc dù cũng không thống hận Thành Bích như trước, nhưng nàng vẫn không tránh khỏi có chút khúc mắc, vừa nghe nói là đệ đệ của nàng ta, sắc mặt nhất thời trầm xuống: "Thành Bích? Nàng ta có thứ gì trọng yếu muốn giao cho Khánh Kỵ? Lấy ra cho ta xem!"

"Tiểu Man!" Viên Tố nhẹ nhàng kéo kéo ống tay áo của nàng, liếc mắt nhìn nàng một cái, nói: "Việc của Thành Tú, quả thực rất trọng yếu, có trợ giúp lớn với chiến sự của Khánh Kỵ công tử, còn phải mời Khánh Kỵ ra xem nữa."

Tiểu Man nghe nói có liên quan đến đại sự chiến cuộc của Khánh Kỵ, liền không nhiều lời nữa. Yểm Dư con mắt xoay xoay hơi chuyển, nói: "Đã là cố nhân của hai vị nữ tướng quân, vậy xin mời nghỉ ngơi một chút, bản công tử đi gọi hắn ra đây."

Khánh Kỵ cầm tập tranh mà Thành Tú đưa lên liền mừng rỡ như điên, nghe Thành Tú giải thích, hắn mới biết rằng tập tranh này là những ghi chép của Thành Bích tại Ngô, Việt, Sở ba nước, những cửa hàng và những người liên lạc mà nàng đã khổ công bố trí sau nhiều năm kinh doanh.

Sinh ý của Thành Bích trải rộng nhiều quốc gia, những sinh ý này là tiền vốn mà Thành Bích dự tính sau khi thoát ly khỏi Quý Tôn Thị tự lập hộ riêng, đương nhiên cần phải chặt chẽ nắm trong tay. Tin tức truyền đi cần cực kì kịp thời, ổn định, để nàng có thể biết được nhất cử nhất động của các cửa hàng ở các quốc gia, đồng thời mỗi quốc gia có các nhu cầu về hàng hóa và chênh lệch giá cả khác nhau, cho nên cần có sự hiểu biết về động thái chính trị, kinh tế, quân sự của quốc gia đó.

Trải qua sự bồi dưỡng nhiều năm của Thành Bích phu nhân, nàng ở một vài quốc gia có mạng lưới tin tức khổng lồ, đương nhiên vào thời chiến loạn, một ít điểm truyền tin sẽ mất đi liên hệ, nhưng mà chiến tranh ảnh hưởng không nhiều đến những gia đình bình dân, mạng lưới tin tức của nàng vẫn có thể vận hành bình thường.

(Ở đây xin nói thêm, vì sao chiến hỏa liên miên mà không ảnh hưởng nhiều đến gia đình bình dân. Bởi vì chiến tranh chủ yếu là giữa quân đội, cho dù một đội quân khác công chiếm thành trì thì thông thường cũng sẽ không đụng tới nhân dân mà trong nhiều trường hợp còn muốn lấy lòng dân trong thành, nhất là khi nhân dân có điều bất mãn với quan lại sở tại. Việc Cơ Quang và Ngũ Viên phá hoại Dĩnh Đô phần nhiều là vì thù hận của Ngũ Viên và Bá, hành động này cũng đã được Úc đại phu Úc Bình Nhiên cảnh tỉnh, tuy nhiên quân thần Ngô quốc vì cừu hận mà mờ mắt, đã không còn phân định được phải trái.)

Điều này đối với Khánh Kỵ mà nói, có ý nghĩa không phải là nhỏ. Hiện tại hắn liên lạc tin tức Ngô quốc, Sở quốc vô cùng chậm chạp, năng suất rất thấp, đây là một nhược điểm trí mạng trong sự liên lạc phối hợp chặt chẽ giữa hai đội quân. Rất nhiều thời điểm, thời cơ chiến đấu trước mắt mà hắn lại chỉ đứng xem, hoặc là tới khi hắn biết được tin tức của đối phương, thì bên đối phương đã xảy ra biến hóa long trời lở đất, mà hắn lại hoàn toàn không hay biết.

Hắn dù phái đi nhiều thám mã trinh sát, thì những tin tức đoạt được sao có thể so được với Thành Bích nhiều năm tổ chức, lợi dụng dân bản xứ xây dựng một mạng lưới tin tức khổng lồ, mà hiệu suất truyền tin cũng còn xa mới bằng được.

" Vương thúc, chúng ta có những cơ sở ngầm này, tác dụng không thua gì tăng thêm năm vạn đại quân đó!" Khánh Kỵ mừng rỡ như điên nói với Yểm Dư, Yểm Dư đương nhiên biết tầm quan trọng của tin tức quân tình đối với bọn họ, không khỏi liên tục gật đầu.

" Thành Tú, đệ trước hết ở chỗ này đã, tác dụng của vật này đối với ta quá lớn, đại ân không lời nào cảm tạ hết được. Khánh Kỵ hứa với đệ, ta nếu có thể phục quốc đoạt vị, Thành Tú đệ sẽ được bái làm Ngô quốc công khanh, nếu đệ không muốn làm quan, Ngô quốc ta cũng sẽ dốc hết sức có thể cho đệ thuận tiện, trở thành thương nhân phú khả địch quốc một phương."

Thành Tú nghe thấy những lời xúc động của Khánh Kỵ, bất giác cũng cảm động, vội vàng gập người bái tạ. Khánh Kỵ nâng hắn dậy, hơi chần chừ, rồi hỏi hắn: "Ách... Đệ cùng Viên Tố cưỡi ngựa tới đây, trên đường có an tĩnh không? Lệnh tỷ vừa rời khỏi Lỗ quốc, dọc đi trên đường các nước đều có đại chiến, nàng có thể bình an tới đây không?"

Thành Tú chắp tay nói: "Làm phiền công tử quan tâm rồi, gia tỷ tính tình xưa nay luôn tỉnh táo cẩn thận, bên người luôn có mấy trăm võ sĩ trung thành theo bảo vệ, lần này bí mật đi về phương Nam, cũng không có gì đáng ngại. Chỉ có điều gia tỷ là một nữ tử yếu đuối, đi đường từ tốn, còn phải chậm một chút mới tới nơi, đệ nghĩ không quá nửa tháng là gia tỷ có thể tới đây."

" Tốt! Tốt!" Khánh Kỵ mặt mày hớn hở, xa cách lâu như vậy, hắn đúng thật là vô cùng nhớ Thành Bích, hiện giờ bên người tuy có Thúc Tôn Diêu Quang cùng Quý Tôn Tiểu Man một đôi tiểu vưu vật, nhưng mà hai người này lại giám thị lẫn nhau, ai cũng không cho đối phương có nhiều cơ hội tiếp xúc riêng tư với hắn. Khánh Kỵ trơ mắt nhìn hai quả tươi trong veo như nước treo ở trước miệng mà không được ăn, hiện giờ rốt cục có một quả còn ngon miệng kiều diễm ướt át hơn đưa đến miệng.

Mùa xuân, đang lặng yên tới.

Ngày mai sẽ là chiến trường tràn ngập khói lửa, cũng là một mảnh sắc xuân...

Khánh Kỵ vui vẻ thầm nghĩ.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 200: Đang đêm tập kích (Trung)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Khánh Kỵ thành công đánh bại âm mưu của Ngũ Tử Tư, chẳng những đoạt lại Na Xứ thành, hơn nữa còn chiêu hàng được toàn bộ binh sĩ quân Ngô đã hết đường lui. Ngô Vương Hạp Lư ở trong thành Dĩnh Đô nghe được tin thì vô cùng giận dữ, lập tức muốn lãnh binh thân chinh, lại bị Ngũ Tử Tư tận lực can ngăn.

Quân Sở ở sông La vốn là đối tượng mà quân Ngô đánh nghi binh, bởi vậy tổn thất cũng không quá nghiêm trọng. Quân Sở thoát khỏi đại nạn, như chim sợ cành cong không dám lưu lại ở gần Dĩnh Đô, bọn họ dời đi về phía Tây Nam, cuối cùng ở Tân Ấp gặp được đại quân cần vương, hai quân hội hợp, cho nên mới đóng quân ở Tân Ấp.

Tử Tây dẫn đại quân ba đường từ Tùy quốc mà tới, chiếm cứ Tân Ấp, Tuyển thành, Chương Vu ba chỗ trọng yếu, bao vây một nửa Dĩnh Đô, liên tiếp giao thủ vài lần với tiên phong quân Ngô có thắng có bại, nhất thời quân tâm dần dần ổn định. Nhưng mà ba địa phương này đều ở phía Bắc Dĩnh Đô, cũng không có tác dụng nếu Cơ Quang chạy về phía Nam.

Khánh Kỵ biết đây là do người Sở sợ hắn muốn ngăn cản Cơ Quang ở lại Sở quốc, lợi dụng người Sở làm hao hết lực lượng của Cơ Quang, cho nên trái lại lại lợi dụng hắn để cản đường Cơ Quang, khiến cho hắn phải gánh chịu áp lực cường đại đến từ quân Ngô.

Lúc này hắn đã có chiến thuyền với cánh buồm và bánh lái, chắc chắn sẽ trở về nước sớm hơn Cơ Quang. Chỉ có điều cần có thời gian để đóng thêm chiến thuyền và để binh lính quen thuộc với việc điều khiển, thứ hai là nội tình Ngô quốc như thế nào hiện nay hắn hoàn toàn không biết gì cả, vẫn chờ đợi tin tức của Chúc Dung, Tôn Vũ. Vì không để chủ soái song phương Ngô Sở là Phí Vô Cực và Ngũ Tử Tư sinh nghi, hắn liền tương kế tựu kế, không ngừng phát binh tấn công Ngư Phản, làm ra vẻ muốn chiếm cứ Ngư Phản, lát sau lại dẫn quân xuống phía Nam, làm bộ ngăn trở con đường duy nhất mà ba cánh quân Ngô ở Dã Phụ, Chử Cung, Chương Hoa Thai có thể đi xuống phía Nam.

Người Ngô ở Dĩnh Đô cũng không kinh hoảng, một là Dĩnh Đô lương thảo sung túc, chỉ cần thành không bị phá, không thì thủ thành tới ba năm cũng không thành vấn đề. Thứ hai, từ đường sông Trường Giang quay về nước Ngô nhất định phải đi qua hai con đường là Na Xứ thành và cửa ngõ Ngư Phản, từ đường bộ đi về Ngô có ba con đường, một là đi qua Chương Hoa Thai hoặc Dã Phụ, xuyên qua Vân Mộng trạch (trạch: đầm), một đường khác là đi từ Chử Cung theo hướng Đông Nam, đi qua con đường Hoa Dung nổi danh hậu thế, từ chỗ giao giới Ngô Việt mà về.

Na Xứ thành đã rơi vào tay Khánh Kỵ, từ Ngư Cô muốn quay về bằng đường thủy cũng phải suy xét tới việc mấy vạn đại quân từ Sở về Ngô sẽ có rất nhiều con thuyền trên sông Trường Giang, trong quá trình đi thuyền việc Khánh Kỵ có dẫn binh tập kích hay không lại là vấn đề, nhưng mà đi đường bộ về nước thì lại không có vấn đề mấy, bởi vậy quân Ngô cứ tử thủ ở Ngư Cô. Khánh Kỵ mỗi lần xuất binh tấn công Ngư Phản, Quyền Ấp quân Ngô lại tập kích quấy rối ở đằng sau, quân ở Dĩnh Đô cũng sẽ xuất binh viện trợ, Khánh Kỵ nhân đó mà làm ra vẻ không biết làm thế nào đành lui về Na Xứ thành, cuộc chiến song phương cứ diễn ra dai dẳng không xong.

Trong lúc đó, quân Sở cũng xuất binh tập kích phía sau quân Ngô, nhưng quân Ngô thủ thành Dĩnh Đô rất kiên cố, lại do Ngô Vương Hạp Lư cùng tướng quốc Ngũ Viên tự mình tọa trấn, cho nên quân Ngô trên dưới đều phục vụ quên mình, bọn họ căn bản là không có cơ hội đắc thủ. Khánh Kỵ nhiều lần gửi thư sai sứ sang khiển trách Tử Tây, bảo là làm hỏng việc quân cơ, một cây làm chẳng nên non, Tử Tây tướng quân cũng là cực chẳng nói lên được, hắn tuy là chủ tướng tiền quân, nhưng mà quyền hành trong quân lại là do Phí Vô Cực điều khiển. Hắn mặc dù muốn thay đổi chiến lược, phối hợp với Khánh Kỵ để làm một trận chiến toàn lực, nhưng mà vấn đề là không làm chủ được.

Khánh Kỵ làm ra hành động như vậy chẳng qua là để sau này khi mình thoát ly khỏi chiến trường Sở mà quay về Ngô thì cũng có chút đạo nghĩa mà thôi. Tuy nói rằng mình làm ra vẻ khổ tâm thù địch, nhưng căn bản là không mong muốn hắn mang quân đến phối hợp, Phí Vô Cực bành trướng tư tâm, chính là lại hợp với ý hắn.

Chiến sự địch ta song phương cứ giằng co như vậy, Cơ Quang cũng thúc đẩy nhanh hơn tiến độ vận chuyển tài phú nước Sở, đồng thời bắt đầu thu xếp cuộc đại rút lui phản hồi Ngô quốc. Đúng lúc này, Bá dẫn dắt một nhánh quân đơn độc xâm nhập vào Tùy quốc áp sát Cửu Phượng cốc, ba ngàn tinh binh tiến vào vùng trống phía sau trận doanh của người Sở, đánh cho quân Sở đại bại.

Các thượng khanh, trung khanh, quan lớn địa phương Sở quốc đều tập hợp trong Cửu Phượng cốc. Văn Chủng, Phạm Lãi một là hạ tướng quân, một là huyện tư mã, chức quan chỉ như hạt vừng hạt đậu, ở trong Cửu Phượng cốc lại trở thành hai gã sai vặt. Vậy mà thời khắc mấu chốt lại chính là họ mang theo thân binh của mình xông vào sơn động của Sở Vương, cõng tiểu Sở Vương đào tẩu vào trong rừng sâu rậm rạp.

Bá đến chậm một bước chỉ biết nhìn biển rừng mênh mông mà dậm chân thở dài, cuối cùng đành bắt một đống lớn các thượng khanh, trung khanh bụng to não nhỏ, cùng với những quan viên mục thủ địa phương tới cần vương hộ giá cấp tốc lui khỏi Cửu Phượng cốc, theo đường cũ về Dĩnh Đô. Phí Vô Cực đang khoan thai suất lĩnh trung quân tới Dĩnh Đô nghe nói Cửu Phượng cốc bị tập kích, Sở Vương sống chết ra sao không biết, không khỏi cực kì sợ hãi, lập tức tản nhân mã ra chặn đường lui của Bá, tự dẫn quân chạy về Cửu Phượng cốc, cho nên chuyện Phí Vô Cực tiếp viện Dĩnh Đô đành phải trì hoãn lại. Tử Tây đợi không thấy Phí Vô Cực, đối với mấy lộ quân đã hành quân tới phụ cận Dĩnh Đô lại không có quyền điều động để bố trí một cuộc tiến công đại quy mô, áp lực lên phía Khánh Kỵ lại càng lớn hơn nữa.

Bá chạy về Dĩnh Đô, Cơ Quang đối với chiến quả của hắn rất là tán thưởng. Ngũ Tử Tư đưa ra phán đoán, người Sở nóng lòng vì an nguy của Sở Vương, tạm thời sẽ không phát động tiến công với Dĩnh Đô, vì thế thừa dịp này tự mình lãnh binh tấn công Na Xứ thành. Lộ tuyến quay về Ngô quốc của bọn họ đã được xác định là đi qua Chương Hoa Thai hoặc đi về Chử Cung phía Nam, cũng không cần phải cướp cửa ải hiểm yếu Na Xứ thành, đây chỉ là muốn trước khi về nước tận lực đả kích lực lượng của Khánh Kỵ mà thôi.

Ngũ Tử Tư tập trung quân phòng thủ Ngư Phản, Quyền Ấp, ba đường đại quân hợp công Na Xứ thành, đồng thời bên trong thành Dĩnh Đô cũng đã làm xong chuẩn bị cuối cùng cho việc rút lui. Khánh Kỵ biết Na Xứ thành căn bản không chịu nổi sự công phạt của đại quân, cho nên chủ động tấn công trước, triệu tập trọng binh bảo vệ hai sườn sơn cốc bên ngoài Na Xứ thành, dựa vào địa lợi mà dựng doanh trại quân đội, quyết chiến với quân Ngô, song phương đại chiến ba ngày, tổn thương lẫn nhau đều cực kỳ nghiêm trọng.

Nhá nhem ngày hôm đó, lại chấm dứt một hồi đại chiến, ánh tà dương đỏ tươi chiếu lên mảnh đất, chiến xa vỡ nát, chiến kỳ trơ trọi, thi thể nằm ngang dọc, cùng với kiếm kích trường mâu dựng đứng trong trận giống như cỏ dại, cấu thành một hình ảnh yên lặng thảm thiết. Ngẫu nhiên, ở trong hình ảnh đó sẽ có một vài sĩ tốt tỉnh lại, trong vũng máu bò đi vài bước, run rẩy phát ra tiếng kêu gọi, ở trong gió đêm tựa như tiếng nghẹn ngào của chó hoang.

Đại quân của Ngũ Tử Tư đã lui về phía sau, quay về doanh trại. Đại doanh của Ngũ Viên hình tam giác chia làm ba tòa, trung quân của hắn là lều lớn ở phía sau, bên trái bên phải là hai đạo nhân mã của Quyền Ấp và Ngư Phản, như một đôi sừng thú chỉa ra ngoài, kìm chặt ngọn núi của Khánh Kỵ.

Bố trí như vậy, nếu Khánh Kỵ điều động đại quân tiến công, có thể tránh được hai mặt thụ địch, cũng có thể đồng thời phát động lệnh tiến công tới hai tòa đại doanh, mà trung quân của Ngũ Tử Tư vẫn có thể chiếm thế chủ động, lúc nào cũng có thể cứu viện cho hai tòa quân doanh. Hoặc là hậu doanh trực tiếp tiến lên trước, còn hai tòa quân doanh trái phải từ quân tiên phong biến thành phối hợp tác chiến, từ đó biến thành chủ công.

Trong chủ doanh quân Ngô, dưới lá cờ lớn có chữ Ngũ, Ngũ Tử Tư đang ngắm nhìn ngọn núi xa xa. Mặt trời chiều ngả về Tây, trên mặt đất cũng có những cái bóng kéo dài, nhưng mà phía trên sườn núi vẫn rất sáng rõ, phía bên phải sườn núi, là cờ hiệu và cờ soái của Khánh Kỵ đứng sừng sững.

Nhưng mà Ngũ Tử Tư cũng không nghĩ rằng Khánh Kỵ nhất định sẽ ở sườn núi bên phải. Trải qua một thời gian đánh giá, hắn đã phát hiện ra phương pháp tác chiến của Ngô quốc đệ nhất dũng sĩ Khánh Kỵ hiện giờ so với Khánh Kỵ hắn vốn hiểu rõ là hoàn toàn khác nhau. Trước kia Khánh Kỵ dụng binh, phong cách chính là 'đại khai đại hợp' (mở là mở hợp là hợp), xưa nay thích lấy quân đường đường chính chính quyết chiến. Hắn khi chỉnh đốn binh mã xuất binh đánh về Ngô quốc, cũng là một đường phất cờ phấp phới, trống trận rền vang, chỉ sợ người khác không biết quân đội của hắn đang ở chỗ nào, người Ngô có thể dễ dàng nắm giữ được lộ tuyến hành quân của hắn.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 200: Đang đêm tập kích (Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Chiến pháp của hắn cũng giống như chiến mâu của hắn, cũng không dựa vào chiêu thuật quỷ quái gì mà người ta khó phỏng đoán, mà lấy chiến lực vô cùng dũng mãnh của hắn, dùng thế không thể đỡ, trực tiếp đánh tới đối thủ. Nhưng mà từ khi gặp chuyện trên sông Trường Giang, hắn tựa như thay đổi thành một người khác, hắn lại có thể nén chịu nhục bị sứ giả nước Ngô đuổi đi, ở Lỗ quốc âm thầm sắp xếp một nhánh phục binh; hắn lại có thể sử dụng ba tấc lưỡi mà thỏa hiệp được với chính khách hai nước Lỗ Vệ, đổi được sự viện trợ của bọn họ; hắn một kẻ xưa nay luôn tâm cao khí ngạo, vậy mà lại giống như hai kẻ không tiền đồ Yểm Dư và Chúc Dung, kết minh với kẻ thù truyền kiếp của Ngô quốc là Sở quốc, hơn nữa thời cơ lại rất vừa đúng; từ khi vào Sở đến nay đánh mấy trận với quân Ngô, hắn cũng chưa lần nào không ngại trả giá, quyết chiến đối mặt với quân Ngô. Thiên thời, địa lợi, nhân hòa, mưu kế, phàm là có thể sử dụng, hắn đều có thể dùng tới.

Khánh Kỵ hôm nay, đã không còn là Khánh Kỵ khi xưa, một con mãnh hổ, nếu có được mưu kế của hồ ly, vậy lại càng thêm khó chơi. Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, từ đội quân chính quy ban đầu của hắn mà thành lập một đội phản quân, vô luận là quân giới lương bổng, hay là quân kỹ chiến lực, so với đội quân tinh nhuệ của Ngô quốc cũng không thua kém tí nào, về mặt sĩ khí thậm chí còn hơn vài phần, điều này khiến cho Ngũ Viên càng thêm kiêng kị với Khánh Kỵ. Điều may chính là, Đại vương chôn vùi Dĩnh Đô, đã lập ra đại công khiến cho thiên hạ phải kiêng nể, chỉ cần ngài có thể bình yên trở về Ngô quốc, tuyên truyền chiến công này ra tứ phía, chắc chắn tầm ảnh hưởng sẽ được mở rộng thêm một bước ra toàn Ngô quốc thậm chí toàn bộ thiên hạ, đến lúc đó, vốn là kế thừa không hợp pháp, cũng sẽ dưới quân công chói lọi mà lên ngôi đường đường chính chính, Khánh Kỵ khó có thể làm gì được nữa.

Sắc trời còn lưu lại một ánh nắng chiều như tia máu, ánh sáng trên ngọn núi đối diện cũng đã biến mất, đứng ở đây cũng không còn nhìn thấy động tĩnh trên núi nữa. Gió thổi lên mái đầu bạc, những sợi tóc vuốt qua những đường cong khuôn mặt như đao khắc của hắn. Không biết tại vì sao, Ngũ Viên có một loại cảm giác, Khánh Kỵ hiện tại nhất định cũng đang đứng trên đỉnh núi, giống như hắn giờ phút này, nhìn chăm chú vào động tĩnh trong quân của hắn.

Ngũ Tử Tư bỗng nhiên mỉm cười, lại phóng tầm mắt nhìn ra dãy núi xa xa, tựa hồ như thăm hỏi với Khánh Kỵ đang đứng sóng đôi với hắn trên đỉnh núi xa xa kia.

"Khánh Kỵ thủ ở chỗ hiểm trở, đã liên tục hai ngày đại chiến cứng đối cứng với ta, cũng không chiếm được lợi thế gì. Nhìn sắc trời thì đêm nay có lẽ có mưa, truyền lệnh xuống quân, ba quân đề phòng, cảnh giới canh gác giãn ra, để phòng ngừa Khánh Kỵ đánh lén."

"Rõ!" Quan thư kí phía sau vội vàng ghi nhớ mệnh lệnh của Ngũ Tử Tư.

Ngũ Tử Tư quay người lại, ấn kiếm đi xuống khỏi đài quan sát.

Hoàng hôn dần dần buông xuống, giấu những thi thở nằm ngang dọc khắp nơi trên mặt cỏ vào trong bóng đêm. Mây đen che trăng, bắt đầu nổi lên mưa phùn. Trong quân doanh của Ngũ Viên treo cao đèn, một đội binh lính tuần tra mặc áo tơi đi tới đi lui tuần tra khắp nơi.

Ban đêm, Khánh Kỵ quả nhiên thừa dịp trời mưa đột kích, Ngũ Tử Tư vốn mặc nguyên quần áo mà ngủ, nghe thấy tiếng la giết, liền mặc giáp ra khỏi trướng xem, thấy bên tay trái ở chỗ doanh trại quân đội Quyền Ấp tiếng 'sát' rung trời, cả trại rực lửa, lát sau, có người vội vàng chạy tới bẩm báo, Ngũ Tử Tư nghe được chiến báo, không khỏi nhíu đôi lông mày trắng, nói: "Chỉ tập kích phía bên trái, mà nhân số lại hữu hạn? Sao lại thế được..., lệnh cho hữu quân (quân bên phải) phòng thủ, án binh bất động, canh phòng nghiêm ngặt đánh lén, cánh trái tổ chức phản công, cần phải đánh đuổi đợt tiến công của Khánh Kỵ."

Chiến đấu giằng co nửa canh giờ, tiếng chém giết bên phía cánh trái dần dần yếu đi, không lâu sau, lại tới doanh trại bên phải bị đánh lén, địch tới cũng không nhiều lắm, tiến công cũng không mãnh liệt, chỉ đánh trống quấy rầy bên ngoài doanh trại, làm như thế hai ba lượt, trong lòng Ngũ Tử Tư đã hiểu rõ, không khỏi cười lạnh: "Đến đi! Phân phó xuống, tối nay ba quân cứ gối mác mà đợi, cẩn thận đề phòng. Khánh Kỵ làm thế này, vừa là kế nghi binh, còn là kế làm binh mỏi mệt, cái gọi là đột kích, thực chất chỉ là giả bộ, chờ tới khi hắn thực sự tiến công, chắc cũng phải sau nửa đêm thậm chí là rạng sáng không thể nghi ngờ!"

Tướng lãnh trong quân Ngũ Tử Tư phần lớn đều có nhiều năm kinh nghiệm chiến trận, đối với phán đoán của Ngũ Tử Tư thì rất đồng tình, vì thế tới tấp lĩnh mệnh, vội vàng an bài xuống dưới. Tới nửa đêm, mưa dần dần ngừng rơi, bên phía Khánh Kỵ đã hoàn toàn đình chỉ quấy rầy đánh lén, ba quân Ngũ Tử Tư đề phòng, cho tới rạng sáng, bên phía Khánh Kỵ vẫn không hề có động tĩnh.

Cho tới khi trời sáng rõ, Ngũ Tử Tư lên cao quan sát, chỉ thấy đại kỳ của Khánh Kỵ ở trên núi tung bay theo gió, từ xa nhìn lại, lờ mờ có thể thấy được binh lính của Khánh Kỵ đứng ở sườn núi, cảnh giới những chỗ hiểm yếu. Ngũ Tử Tư nhíu mày trầm tư, cân nhắc một hồi, không hiểu đêm qua Khánh Kỵ quấy rầy doanh trại là có dụng ý gì, "Chẳng lẽ... mục đích của hắn chỉ đơn giản như vậy, làm cho binh của ta mệt mỏi?"

Lúc này, phó tướng vội vàng đi tới báo cáo: "Tướng quốc đại nhân, quân Khánh Kỵ đã không còn đột kích, hay là chúng ta bỏ phòng bị, để cho ba quân đào bếp nấu cơm, rồi lại tập kết đánh một trận với địch?"

Ngũ Tử Tư đang ở trên đài quan sát bước đi thong thả, cúi đầu nhìn một giọt nước dưới đài, hình ảnh trong giọt nước chính là mây trắng trên không trung, rõ ràng như gương. Phó tướng đứng ở trước đài lẳng lặng chờ, Ngũ Tử Tư cúi đầu trầm tư trong chốc lát, đột nhiên ngẩng đầu, lông mi trắng nhướng lên nói: "Không! Lệnh cho hai cánh quân tả hữu, lập tức tổ chức nhân mã tấn công lên núi! Ta muốn xem, thằng nhóc Khánh Kỵ này rốt cuộc là đang làm cái trò quỷ gì!"

"Rõ!" Phó tướng lĩnh mệnh đi xuống, một lát sau, cờ hiệu được huy động, hai cánh quân tiên phong tả hữu theo hiệu lệnh cờ, lập tức người hô ngựa hý. Hai đạo nhân mã rời khỏi doanh trại, thăm dò tiến công hai sườn trái phải ngọn núi mà Khánh Kỵ đang chiếm cứ.

Không ngờ lần này tiến công, hai đạo nhân mã công dưới chân núi, lại không có ai ngăn cản. Bọn họ sợ trúng kế, lập tức đình chỉ tiến công, vội vàng quan sát một hồi, rồi cho người hồi báo lại Ngũ Tử Tư. Ngũ Tử Tư nghe vậy cũng thấy kinh ngạc, tình huống kì quái như vậy thật khiến cho người ta khó có thể phán đoán, hắn vội vàng lệnh cho thám mã trinh sát mạo hiểm lên núi thám thính động tĩnh, tới khi một thám mã làm vật hi sinh tự thổi phồng lá gan nơm nớp lo sợ đi lên đỉnh núi, chỉ thấy hai tòa trại lớn của Khánh Kỵ đã không còn ai cả, đại kỳ vẫn đứng sừng sững trên đỉnh núi, những binh lính canh gác đều là dùng cỏ tết lại rồi khoác quân phục lên, trên núi không một bóng người, nhưng mà trên mặt đất xốp sau cơn mưa, lưu lại rất nhiều dấu chân hỗn độn, xem xét những dấu chân đó, đều là dọc theo đường núi lui về phía sau.

Ngũ Tử Tư và các tướng lĩnh thủ hạ nghe được tin tức này không khỏi hai mặt nhìn nhau, hóa ra Khánh Kỵ đêm qua tập kích doanh trại không phải là kế làm binh mỏi mệt, cũng không phải là kế nghi binh, mà là hắn lui quân ra khỏi vùng khói lửa. Khánh Kỵ thừa dịp ban đêm dời đi, chơi kế thành trống, mục đích của hắn là gì, người của hắn đang ở nơi nào?

Ngũ Tử Tư thấy quân địch ở trên ngọn núi thừa dịp ban đêm bỏ trốn, liền cảm thấy tình hình không ổn, nhưng để cẩn thận, hắn vẫn cho người khống chế hai bên trái phải ngọn núi, sau đó mới dẫn đại quân ra khỏi cốc mà đánh tới Na Xứ thành. Cư dân Na Xứ thành không tấn công mà chỉ mở cửa nghênh đón, có một người tuổi cao vọng trọng bên trong thành khi thấy Ngũ Tử Tư thì run rẩy, trình lên một phong thư đình chiến của Khánh Kỵ.

Ngũ Tử Tư đọc xong bức thư vội cho người chạy nhanh tới Bách Tân hồ để thám thính động tĩnh, nơi đó chỉ còn lại một doanh trại rỗng, đại quân Khánh Kỵ quả nhiên chẳng biết đi đâu rồi. Ngũ Tử Tư không dám chần chừ, lập tức dùng tốc độ cao nhất quay về Dĩnh Đô báo cho Cơ Quang, Cơ Quang nghe thấy tin tức thì kinh hãi. Ngũ Tử Tư cùng Bá cẩn thận tính toán một hồi, bởi vì Trường Giang ngoằn ngoèo, lộ trình có nhiều khó khăn, cho nên Khánh Kỵ mặc dù đi đường thủy cũng không để nhanh hơn được bọn họ hành quân đường bộ. Tuy rằng Khánh Kỵ đi sớm hơn một ngày, nhưng mà đi đường thủy về nước Ngô, so với bọn họ đi đường bộ thì hẳn phải chậm hơn dăm ba ngày.

Cho ra được kết luận này, Cơ Quang mới hơi an tâm, hắn lập tức hạ lệnh điều động hết thảy xe lừa trâu ngựa của người nước Sở, đại quân hướng phía Đông đi về nước, trước khi đi còn hỏa thiêu hoàng cung Dĩnh Đô vốn đã bị hắn cướp bóc phá hủy chẳng còn gì. Đợi khi Phí Vô Cực tìm thấy Sở Vương, che chở Sở vương trở về, khi đại quân Sở về tới Dĩnh Đô, thì quân Khánh Kỵ và quân Ngô cũng đã sớm theo hai đường thủy bộ tới Ngô quốc rồi. Hoàng cung vốn ở trong thành Dĩnh Đô bây giờ chỉ còn sót lại một mảnh phế tích đổ nát thê lương.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 201: Tường đồng vách sắt (Thượng)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Quân biên giới Tây Bắc của người Sở đang phối hợp với quân Tần, dốc sức chiến đấu với đại quân Tấn quốc đang đi xuống phía Nam. Mà một vài bộ lạc Tam Miêu ở phía Nam người Sở, thậm chí ngay cả một vài tiểu bá quốc vốn thần phục Sở quốc cũng đã bắt đầu rục rịch ổn định quốc nội. Tình hình như vậy, cho nên không thể tác chiến nhiều mặt, vì thể tiểu Sở vương và các quần thần vừa mới trở về Dĩnh Đô liền gặp phải một sự lựa chọn: triệu tập đội quân cần vương đánh theo quân Ngô ở phía Nam, lợi dụng cuộc tranh đoạt vương vị của Khánh Kỵ cùng Cơ Quang mà nhân cơ hội tiêu diệt quân đội của Cơ Quang; hay là lưu lại bảo vệ xung quanh đô thành, sau đó phân nhân mã ra làm hai, một bộ phân đi đàn áp bộ lạc Tam Miêu cùng với những tiểu bá quốc đang có phản tâm, một bộ phận khác phái đi tiếp viện cho quân biên giới Tây Bắc, đánh cho người Tấn về chầu ông bà ông vải.

Cuộc thảo luận rút ra được một nhất trí lạ thường, gần như tất cả công khanh đại thần đều lựa chọn con đường thứ hai. Lý do là bởi sự cường đại của Tấn quốc, người nước Ngô chỉ như một con sói dưới chân một con voi. Con sói có thể tha đi một miếng thịt, còn con voi lại có thể san bằng cả giang sơn Sở quốc. Nếu người Tấn đả bại người Tần, Tề Tấn liên quân đánh xuống phía Nam, thì thế cục toàn bộ thiên hạ sẽ thay đổi, Sở quốc mất nước cũng không có gì là lạ.

Về phần Ngô quốc thì họ lại không dám mạo hiểm, chi bằng cứ để mặc cho Khánh Kỵ cùng Cơ Quang tự giết lẫn nhau, cho dù là ai thắng thì cũng là thắng thảm, khi đó tuyệt đối sẽ không có lực lượng nào lại một lần nữa xâm nhập vào Sở quốc. Sở quốc nếu kết minh với Tần đả bại liên quân Tề Tấn, thì chính là bá chủ thiên hạ, khi đó quay lại đối phó với Ngô quốc chỉ dễ như trở bàn tay, huống chi, Sở quốc gặp phải đại nạn, cũng cần phải ổn định lại bên trong. Một hồi thương nghị xong xuôi, tiểu Sở Vương nghe thấy ai nói cũng có đạo lý, cuối cùng đành nhờ Phí Vô Cực làm chủ, lựa chọn quyết định thứ hai.

Những công khanh đại phu đưa ra lựa chọn như vậy, chân chính là có người sợ sự hung mãnh của người Ngô; có người quả thật là tính toán lâu dài, cảm thấy rằng nếu chưa giết đi người Tấn thì cảnh nội nước Sở vẫn còn bị uy hiếp; có người lại bởi vì gia chủ bị Bá bắt đi, bắt làm tù binh, ước gì gia chủ vĩnh viễn không cần trở về, gia tộc lại phân phối lại quyền lực, chính mình là tinh anh trong gia tộc có thể được phân một chén canh, đủ loại lý do các loại, phần lớn là không nói ra với người ngoài.

Phí Vô Cực chờ các công khanh thống nhất ý kiến, lập tức lấy danh nghĩa Sở vương, sai Tử Tây dẫn một lộ quân đi Tây Bắc tiếp viện, đối kháng quân Tấn, sai Yên tướng soái dẫn quân đi phía Nam đàn áp những bộ lạc Tam Miêu đang rục rịch cùng với những bá quốc dã tâm bừng bừng, rồi lập tức lấy cớ thắng lợi đuổi đi được người nước Ngô, xếp các thân tín và người của mình vào khắp các vị trí, chính mình lại vất vả lao tâm khổ tứ, chẳng những tiếp nhận chức lệnh doãn của Nang Ngõa, hơn nữa còn một thân mà kiêm cả tam công, quyền hành khuynh đảo đương triều, uy phong không ai bì kịp.

Đại quân Khánh Kỵ từ Bách Tân hồ nhập vào Trường Giang, đi xuống hơn mười dặm mới giương buồm đi nhanh. Trên dòng Trường Giang, mấy trăm chiến hạm giương cờ, đón gió đi về phía Đông. Ngẫu nhiên có một vài chiếc thuyền đánh cá trên bờ sông, thấy một đại đội chiến hạm không cần mái chèo trước kia chưa từng thấy, một đám không khỏi trợn mắt há hốc mồm. Gió thổi phần phật, kích động cánh buồm, hơn nữa dòng chảy của sông vốn là về hướng Đông, cho nên tốc độ cũng rất mau.

Ban đầu Yểm Dư công tử còn muốn cho người chèo thuyền, để cho thuyền đi nhanh hơn một ít, chỉ có điều chiến thuyền kiểu mới này, những người chèo thuyền vẫn còn chưa quen sử dụng, cho người chèo thuyền tuy rằng tốc độ có nhanh hơn, nhưng nắm giữ bánh lái còn chưa tốt, một con thuyền phía trước thẳng tắp nhắm ngay vào đá ngầm mà đâm vào. Cũng may là đã được Khánh Kỵ gợi ý, chiến hạm nào cũng được thiết kế một khoang thuyền kín, cho nên chiến thuyền đó cũng không đến mức chìm nghỉm, nhưng Khánh Kỵ không có thời gian sửa thuyền, liền để cho những sĩ tốt trên thuyền đó ở lại phía sau sửa tàu, đại quân lại chậm rãi đi tới Giang Đông, Yểm Dư cũng không dám đưa ra chủ trương lung tung nào đó nữa.

Ngô Vương Hạp Lư sớm đã làm đủ loại bố trí cho đường lui, một đường đi không gặp chút trở ngại nào. Tới khi hắn đi qua Sào thành, sắp vượt Giang Đông để tiến vào đất Ngô quốc, thì những thủ vệ mới được bố trí bên bờ sông cho biết đội thuyền Khánh Kỵ không ngờ đã đi qua đây từ ba ngày trước rồi. Ngô Vương Hạp Lư nghe thấy thế thì tim như muốn nhảy ra, hắn vô luận thế nào cũng không nghĩ ra, thuyền của Khánh Kỵ sao lại có thể chạy nhanh hơn hắn. Tới khi nghe binh lính phòng thủ kia kể rõ việc chứng kiến đoàn thuyền Khánh Kỵ, thấy có chỗ khác thường, Hạp Lư cùng Ngũ Tử Tư, Bá các tướng hai mặt nhìn nhau, bọn họ mặc dù còn chưa biết Khánh Kỵ đụng tay đụng chân gì vào thuyền, nhưng cũng mơ hồ đoán ra được hắn dựng trên thuyền một cái cột cao, chắc là trên đó treo một tấm ván gỗ thật lớn.

"Sức gió, đây là mượn sức gió mà đi..., hắn... sao lại có thể nghĩ ra chủ ý như vậy, từ khi gặp chuyện trên Trường Giang, Khánh Kỵ giống như thay đổi thành con người khác, hay là có thần trợ giúp?"

Một ý niệm xuất hiện, trong lòng Ngũ Tử Tư chấn động, nhưng hắn lập tức phủ định đi ý nghĩ của chính mình: "Không có khả năng, nếu thần linh thực có mắt, sao có thể trơ mắt ngồi xem Ngũ gia ta một nhà trung liệt lại bị đồ sát, Khánh Kỵ... hẳn là có một cao nhân ẩn dật tương trợ, mới có thể có biến hóa như thoát thai hoán cốt như vậy."

Ngũ Tử Tư nghĩ đến đây, vội nói: "Đại vương không nên kinh hoảng, từ khi biết Khánh Kỵ ở Lỗ quốc có một đội phục binh, thái tử điện hạ đã tăng cường đề phòng Cô Tô thành. Thái tử điện hạ túc trí đa mưu, Phu Khái công tử anh dũng thiện chiến, Cô Tô thành mà thần mới xây, lại chính là hùng thành đệ nhất Giang Đông, Khánh Kỵ cho dù chạy về Ngô quốc sớm hơn chúng ta mấy ngày, cũng không thể công được Cô Tô thành."

Nói tới đây, hắn vừa kiêu ngạo vừa tự phụ nói: "Với sự hùng vĩ hiểm trở của Cô Tô thành, chỉ cần phòng thủ thỏa đáng, không có mười vạn đại quân vây khốn ba năm, thì không thể đoạt thành mà vào. Chúng ta hiện tại trở về, lại có thể ngăn đường lui của Khánh Kỵ, khiến cho hắn hai mặt thụ địch, chắc chắn sẽ bị giết dưới thành Cô Tô."

Mặc dù được Ngũ Tử Tư xoa dịu, nhưng trong lòng Hạp Lư vẫn không yên, hắn lập tức phân phó qua sông, đẩy nhanh hành trình tiến về Cô Tô thành. Lúc này, đại quân Khánh Kỵ cũng đã đổ bộ lên bờ, ngày đêm chạy tới Cô Tô, cách Cô Tô thành chỉ còn hai ngày lộ trình.

Lúc này Tôn Vũ đang dẫn quân tới Thái Hồ nghỉ ngơi và chỉnh đốn, cũng phái nhân mã đi ngóng chờ hắn đến. Sau khi Chúc Dung bí mật chạy tới Vũ Nguyên để xúi giục quân trông giữ nơi đó tạo phản, Tôn Vũ cùng với vài vị lữ soái của hắn chia nhau suất lĩnh vài đội nhân mã xen kẽ phía sau, hội hợp ở bờ sông, biết Phu Khái vẫn tọa trấn ở Hàn Ấp chưa trở về, nghĩ rằng đây là một cơ hội khó có được, liền phái một đội nhân mã ra vẻ là một đội bán dạo đi vào Cô Tô thành, trong ngoài phối hợp cướp lấy Cô Tô.

Cho đến khi tới được Cô Tô thành, liên hệ với mật thám, biết được bố trí tường tận của Cô Tô thành, Tôn Vũ mới biết Cô Tô thành dễ phòng thủ khó tấn công, giống hệt như tường đồng vách sắt, sự hùng vĩ hiểm trở còn hơn xa khả năng dùng ngôn ngữ để miêu tả của mật thám. Đô thành này là do Ngũ Tử Tư tự mình đốc thúc xây dựng, thập phần chú trọng vào thiết kế phòng ngự quân sự, Phù Sai cũng có bản lĩnh thủ thành, Tôn Vũ vừa tới Cô Tô thành biết được những tư liệu này, liền biết phỏng đoán ban đầu của mình có khi là chính xác, tòa thành này căn bản là không thể dùng binh mã của hắn mà mạnh mẽ công phá được.

Phù Sai là một người trẻ tuổi chưa tới nhược quán lấy thân phận thái tử giám quốc, tọa trấn Cô Tô thành. Trong việc phòng ngự Cô Tô thành, đã biểu hiện ra khả năng quân sự trác tuyệt của hắn. Phù Sai đã nhận được tin tức của những binh lính trốn về từ biên cảnh Ngô Việt, Tôn Vũ còn chưa tới, Cô Tô thành đã tiến vào trạng thái toàn diện chuẩn bị cho chiến tranh.

Sự cảnh giới mở rộng ra cả ba mươi dặm xung quanh Cô Tô ngoài thành, Phù Sai di chuyển toàn bộ người nước Ngô trong vòng ba mươi dặm vào trong thành, tất cả nhà cửa trong vòng ba mươi dặm toàn bộ san bằng, đốt hết toàn bộ cây cối, hạ độc dược vào nước giếng, thực hiện vườn không nhà trống.

Cách mười dặm xung quanh Cô Tô thành bắt đầu dựng lầu quan sát, cứ cách trăm bước lại dựng một lầu quan sát, trên là ba gã Ngô quân, phụ trách trinh sát cảnh giới, ban ngày phát hiện quân địch thì phất cờ cảnh báo, ban đêm phát hiện quân địch thì đốt lửa cảnh báo. Muốn phái vào một đội nhân mã, dùng vũ lực cướp lấy cửa thành, sau đó phục binh bên ngoài thành mạnh mẽ đoạt thành là không có khả năng. Đại quân nếu tới, từ lúc ở ngoài mười dặm đã bị phát hiện, quân Ngô lập tức sẽ đứng đầy tường, một đội phục binh cho dù có vào được Cô Tô thành, thì cũng làm gì có cơ hội tiếp cận cổng thành?

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 201: Tường đồng vách sắt (Trung)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Ở dưới lầu quan sát, Phù Sai còn thiết lập các con đường chính cùng trạm kiểm soát, phụ trách kiểm tra những dân chúng, thương lữ, tín sứ các nơi hàng ngày ra vào Cô Tô thành, đồng thời còn phái Ngũ Trường mang theo nhiều tiểu đội năm người, trinh sát tất cả mọi thứ xung quanh Cô Tô thành kể cả gió thổi cỏ lay. Nghiêm mật phòng ngự như thế, cho dù ngươi có bản lĩnh thông thiên, cũng đừng mơ tưởng có thể thần không biết quỷ không hay mà tiến tới gần Cô Tô thành nửa bước.

Cô Tô thành chu vi bốn mươi bảy dặm, mười sáu cổng thành thủy bộ, ở các nước chư hầu phương bắc cũng được coi là một thành lớn. Thành trì chắc chắn nguy nga, trong ngoài hai lớp tường dày, thành hào (sông đào bảo vệ ngoài thành) lợi dụng nguồn nước dư thừa của Giang Nam cùng với những hồ nước phụ cận, chỗ hẹp nhất tới mười bảy trượng, chỗ rộng nhất căn bản là lấy luôn hồ nước làm thành hào, rộng tới hơn 50 trường, trở thành một cái rào chắn, khiến cho không dễ mà đánh tới được dưới thành.

Thành hào cách tường thành ba trượng, dưới nước cắm những cây trúc nhọn ngắn dài không đồng nhất. Ở giữa thành hào và tường thành có thêm một dãy tường thấp, vào thời chiến có thể giấu quân sĩ, phối hợp với quân trên thành bắn giết địch nhân, lại có thể gây trở ngại cho quân địch dùng thang. Ở dưới chân tường, còn sắp xếp một dãy cọc gỗ, vừa có thể cản trở địch nhân bấu vào tường thành vừa dùng để đâm chết khi địch nhân rơi xuống.

Tiếp đó mới là tường thành Cô Tô, đây là lá chắn thành trì cuối cùng. Tường thành Cô Tô so với tường thành Khúc Phụ Lỗ quốc còn cao hơn vài phần, cao tới năm trượng, rộng ba trượng, hai sườn có chỗ giấu binh, có lỗ châu mai để bắn tên. Trên tường thành mỗi hai mươi trượng lại xây một tòa lầu các, dùng để tiêu diệt những kẻ địch đứng ở góc chết và mang tác dụng giáp công từ nhiều phía. Chân tường sâu hơn mười trượng, cho dù có bị đào rỗng, cũng không mất trọng tâm sụp xuống mà chỉ lún xuống.

Về phần cổng thành, Cô Tô thành có mười sáu cổng thành thủy bộ, đều là những cổng thành kép trong ngoài, ngoài ra còn bố trí cánh cổng treo, cầu treo, cơ quan điều khiển đóng mở cầu cổng. Ở trên cổng thành chắc chắn rất nặng còn được bố trí những lỗ bắn, vì để phòng cháy, cổng thành được bọc đồng đen, cùng một hàng dài đinh tán gia cố.

Tôn Vũ nghe thấy những tin tình báo như vậy thì không khỏi thầm cả kinh, hắn vốn tưởng rằng Cơ Quang dẫn dắt rất nhiều quân Ngô đi tới nước Sở xa xôi, quân binh chủ lực ở trong nước hẳn là phải lưu thủ ở biên giới Ngô Việt, lại thêm người Đông Di làm loạn, trước mắt thu hút rất đông nhân mã tới phòng ngự ở ven bờ Trường Giang. Quân phòng thủ bên trong thành Cô Tô vốn đã cực hữu hạn rồi, chỉ cần nhanh chóng trà trộn vào trong Cô Tô thành, là mình có khả năng thừa cơ hội. Nhưng mà Ngũ Tử Tư không tiếc nguồn vốn xây dựng ra tòa đại thành Hạp Lư này, thực đúng là đã phát huy những phương diện phòng thủ thành trì lên tới cực hạn.

Tôn Vũ tính toán sơ qua một chút, nếu cho hắn đến thủ thành, với sự hùng vĩ hiểm yếu của Cô Tô thành, cho dù có mười vạn đại quân vây thành, hắn cũng chỉ cần 4000 lính, là có thể phong tỏa được nhuệ khí của cường địch. Mà bên trong thành Cô Tô hiện tại quân phòng thủ có tới 9000, mà ngay cả nam tử bình dân, phụ nữ khỏe mạnh, thậm chí người già trẻ em cũng có thể lên tường thành. Cư dân được sung làm phụ binh, hậu cần, tạp dịch có thể lên tới sáu vạn, cho nên hạ được Phù Sai là việc không đơn giản.

Mà Tôn Vũ thì sao, trong tay của hắn chỉ có không tới tám ngàn binh mã, còn phải đề phòng quân Ngô ở Hàn Ấp phía Bắc, Ngự Nhi thành phương Nam đánh về cứu viện cho Cô Tô. Hai mặt thụ địch, binh lực hữu hạn, làm sao có thể đánh hạ được Cô Tô?

Một khi đã biết được tình huống, trong lòng Tôn Vũ đã bắt đầu mưu tính sách lược mới. Hắn một mặt lợi dụng mạng lưới tình báo mà Thành Bích phu nhân giao cho hắn để nắm được mọi tình hình, nghe ngóng tin tức từ Khánh Kỵ, một mặt hủy bỏ kế hoạch thử tấn công Cô Tô, trực tiếp dẫn quân lách qua Cô Tô, bắt đầu gạt bỏ những đạo quân Ngô đóng ở bên ngoài Cô Tô.

Hoằng Thượng, Một thành, núi Cô Tô... Tôn Vũ đánh vòng quanh Cô Tô thành, đánh cho những quan binh vệ thành* đóng quân xung quanh Cô Tô hoa rơi nước chảy. Nhưng mà Phù Sai ở bên trong Cô Tô lại rất trầm tĩnh, căn bản không để ý tới khiêu khích của hắn, không điều người nào ra ứng chiến, mà chỉ liên tiếp phái ra ba đội tín sức, điều Vương thúc Phu Khái từ Hàn Ấp trở về thành giải vây.

(Vệ thành: Các thành phòng vệ, thường đóng xung quanh một thành lớn trung tâm)

Trải qua vài trận đại chiến, quân đội trong tay Tôn Vũ cũng đã chịu tổn hại, binh lính giảm bớt, thương binh gia tăng, cần phải nghỉ ngơi và hồi phục. Một ngày này, Tôn Vũ dẫn binh vào Thái Hồ tạm nghỉ chỉnh đốn lại, liền có tai mắt đưa tới tin tức, đại quân Khánh Kỵ đã đổ bộ lên bờ Trường Giang, một đường đi nhanh, chỉ còn cách nơi này hai ngày lộ trình.

Tôn Vũ nghe thấy tin báo như vậy thì vui mừng giãn đôi chân mày, hắn lập tức ở trong trướng mở tấm bản đồ da dê ra xem lộ tuyến hành quân của Khánh Kỵ, hoan hỉ nói: "Công tử có thể đi nhanh hơn Hạp Lư, cơ hội là rất lớn."

Hắn bỗng nhiên ngẩng đầu nói: "Cơ Quang hiện ở nơi nào?"

Thám tử kia nói: "Chưa có được tin tức của Cơ Quang."

Tôn Vũ nhướng hai hàng lông mày, phân phó xuống: "Nhanh chóng tìm hiểu động thái các lộ quân Ngô của Cơ Quang, Phu Khái, Ngự Nhi thành, một khi có tin tức, phải lập tức hồi báo."

"Tuân mệnh!" Trinh sát kia vội vàng lui ra.

Tôn Vũ lại cúi đầu nhìn kỹ lên bản đồ nước Ngô, trầm ngâm một lát, lấy tay chỉ trỏ lên bản đồ, cũng không ngẩng đầu lên nói: "Anh tướng quân, ngươi tạm lĩnh toàn quân nghỉ ngơi phục hồi, bản tướng dẫn một đội nhân mã đi nghênh đón công tử, sau khi vào Ngô phải dựa vào trận đánh đầu tiên, sắp đánh rồi, trận chiến này quan hệ rất trọng đại, ngươi phải cẩn thận chuẩn bị."

"Mạt tướng tuân mệnh!"

Trải qua một thời gian tiếp xúc, Anh Đào vốn luôn tâm cao khí ngạo, đối với vị Tề quốc võ sĩ xấp xỉ tuổi của mình đã hoàn toàn phục tùng. Hai người bọn hắn vốn là tương đương, luận về lai lịch thì Anh Đào còn trên Tôn Vũ, khi Khánh Kỵ bổ nhiệm Tôn Vũ làm chủ soái toàn quân, Anh Đào vốn cũng có chút không phục, nhưng bây giờ cũng đã cam tâm tình nguyện kính hắn làm chủ tướng, vừa nhận được quân lệnh, lập tức chắp tay lĩnh mệnh.

Bên trong thành Cô Tô, Ngô thái tử Phù Sai lúc này đang tiếp kiến sứ thần của Việt quốc. Việt quốc đại phu Linh Cô Phù ăn mặc long trọng, quan mão chỉnh tề, hành lễ với Phù Sai nói: "Đông hải thần quốc Việt Vương Duẫn Thường hạ thần Linh Cô Phù, tham kiến đại Ngô thái tử điện hạ."

Phù Sai toàn thân hoa phục, ấn kiếm ngồi bên cạnh vương vị đại vương, cười lạnh nói: "Linh Cô Phù, Việt quốc là nước phụ thuộc Ngô quốc ta, vốn một năm phải yết kiến hai lần, tiến cống gạo thóc tiền tài, cho tận thần lễ. Lần đầu yết kiến trong năm nay lại mãi tới tận bây giờ, ta nghe nói ngươi vào thành chỉ mang theo năm cỗ xe ngựa, hay là đã cho rằng Ngô quốc ta trong ngoài đều khốn đốn, cho nên tới để rình động tĩnh sao? Ha hả, ngươi xem thành Cô Tô của ta sừng sững như ngọn núi, Khánh Kỵ một thân một mình có thể công được sao?"

Linh Cô Phù hoảng sợ cả kinh, vội vàng phất tay áo hành lễ nói: "Thái tử điện hạ thứ tội, thần quốc Đại vương trung thành và tận tâm với Ngô quốc, luôn thủ thần lễ, không dám có chút dị tâm."

Hắn nói tới đây, thần tình lại trở nên u sầu nói: "Hạ thần không dám giấu diếm điện hạ, Việt là nước nhỏ ít dân, thực lực một nước hữu hạn, năm trước lại gặp nạn sâu bệnh, thu hoạch không nhiều, năm nay lễ vật yết kiến không cách nào kiếm được, cho nên mới kéo dài tới tận bây giờ. Phải tới khi bọn chúng thần đề nghị với vua, Ngô quốc là nước lớn Giang Đông, gạo cá sung túc, thực lực hùng mạnh, là thần tử chỉ cần dành hết tâm ý, thì ngay cả lễ vật có thiếu một chút, Đại vương thượng quốc cũng sẽ không trách tội. Vua của chúng thần nghe thấy vậy, mới thuận theo đề nghị của hạ thần, từ trên dưới Việt quốc, tuyển năm mươi nữ tử tuyệt sắc làm lễ vật."

"Hả?" Phù Sai là người có tính mưu lợi, nghe thấy lời này không giật mình, vội hỏi: "Các ngươi năm nay tiến cống cho phụ vương ta năm mươi nữ tử?"

Linh Cô Phù chỉnh lý lại nói: "Việt quốc tiến cống năm mươi mỹ nữ, ba mươi người tiến dâng cho Ngô quốc Đại vương, hai mươi người tiến dâng cho thái tử điện hạ."

Sắc mặt của Phù Sai lúc này mới nhất thời dịu lại, ha hả cười nói: "Duẫn Thường lão thất phu, thật còn biết thức thời. Ha ha, mang lễ vật của ngươi vào điện, để cho bản thái tử xem, nước Việt nghèo nàn ngu dốt các ngươi, có được mỹ nữ như thế nào."

"Dạ! Hạ thần tuân mệnh!" Linh Cô Phù không thèm để ý đến lời nói vũ nhục của hắn, chỉ mỉm cười chắp tay đáp lại.

Cửa Nam Cô Tô thành mở ra, một hàng hơn một trăm người giương cờ nước Việt ra khỏi Cô Tô thành, phía sau cánh cửa nặng trịch đóng lại ầm ầm, Linh Cô Phù buông lỏng đầu vai, thầm thở ra một hơi lạnh. Phó tướng bên cạnh hắn quay đầu lại nhìn thoáng qua Cô Tô đại thành sâm nghiêm, thấp giọng nói: "Phù Sai tiểu tử này, trong lúc nguy cấp còn có lòng thanh thản đùa bỡn nữ sắc."

Linh Cô Phù nói: "Anh hùng nan quá mỹ nhân quan - anh hùng cũng khó qua được ải mỹ nhân, son phấn làm giáp trụ, giường chiếu làm chiến trường, đối phó với một nam tử tự cho là anh hùng như vậy, mỹ nhân chỉ cần nhăn mặt cười, cũng như là kiếm kích. Huống chi Cô Tô đại thành này đúng thực là phòng thủ kiên cố, theo như ta thấy, Khánh Kỵ tuyệt đối khó mà công thành được."

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 201: Tường đồng vách sắt (Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Phó tướng bên cạnh Linh Cô Phù động sắc mặt nói: "Tướng quân nói, chúng ta có còn cơ hội ở Ngô quốc không?"

Ánh mắt Linh Cô Phù chợt lóe, từ từ nói: "Khánh Kỵ thế yếu, tự mình không làm nên chuyện. Việt quốc ta nếu muốn chờ hai hổ tranh đấu, từ giữa thủ lợi, thì nhất định phải giúp yếu kháng mạnh, khiến cho bọn họ lưỡng bại câu thương. Chờ quay về gặp Đại vương, trước tiên bình tĩnh chờ xem biến, Khánh Kỵ nếu có thể có triển vọng, chúng ta sẽ phát binh tương trợ, đâm một cây châm vào trong tâm lý quân Ngô."

Phó tướng của Linh Cô Phù nghe vậy liên tiếp gật đầu, đoàn xe của hai người càng lúc càng đi xa, ngẫu nhiên quay đầu lại, nhìn thấy tòa Hạp Lư đại thành đứng sừng sững ở đằng kia, khóe miệng hai người không khỏi lộ ra một nụ cười giống như lang sói.

Khánh Kỵ suốt đường hành quân gấp gáp, không tới mấy ngày đã tới Yểm thành, cách nơi này không xa là Diên Lăng. Diên Lăng Quý Tử, chính là Vương thúc Quý Trát của đương kim Ngô Vương Hạp Lư, nổi danh trong các nước là quân tử lương thiện, uy vọng to lớn, ở Ngô quốc không có ai cao hơn. Để bày tỏ kính ý với Quý Tử, Ngô Hạp Lư không dám trú binh ở Yểm thành, sợ khiến cho người ta nghi ngờ hắn có lòng muốn giám thị Quý Tử, cho nên đây là một tòa thành không có binh lính, chỉ có một vài quan lại địa phương cùng với một ít tiểu tốt trị an, Khánh Kỵ có thể không đánh mà giành được thành.

Khánh Kỵ đại quân dọc đường đi thuyền, sĩ tốt cũng không mỏi mệt, nhưng mà sau khi lên bờ hành quân mấy ngày, toàn bộ đều đi bằng hai chân, đến đây phải nghỉ tạm một đêm, nếu không khi tới Cô Tô thành cũng không còn lực mà chiến đấu tiếp. Khánh Kỵ dàn xếp đại quân hạ trại, nhớ tới lúc trước Nhâm Nhược Tích đã từng đề nghị hắn mượn dùng sự tương trợ của Diên Lăng Quý Tử, chần chừ một lúc, liền triệu đến các vị tướng Yểm Dư, Kinh Lâm, Lương Hổ Tử, thương nghị có nên hay không nên nhờ sự giúp đỡ của Quý Tử - người đã đóng cổng thành tự thủ, quyết ý cả đời không qua lại với triều đình Ngô quốc. Khánh Kỵ vừa mới nói ra tâm ý, đã có quân tốt vội vàng tới bẩm báo: "Khởi bẩm điện hạ, ngoài thành có một đạo nhân mã, người cầm đầu tự xưng là Tôn Vũ, xin được cầu kiến!"

Khánh Kỵ nghe nói Tôn Vũ đã tới, không khỏi quá đỗi vui mừng, vội vàng tự mình ra ngoài, mở cổng thành nghênh đón một hàng hơn một trăm người của Tôn Vũ vào thành. Tôn Vũ so với lần chia tay trước thì gầy đi một chút, nhưng mà hai mắt sáng ngời hữu thần, nhìn vào đó có một loại khí chất khác với năm xưa, đó là một loại khí chất quân nhân được tôi luyện qua sát phạt chiến trường.

Trước kia, hắn mặc dù chất đầy chiến lược binh thư trong bụng, nhưng lại chưa từng có cơ hội được mang binh đi thực tiễn. Hiện giờ mấy tháng này từ luyện binh đến mang binh, tự mình sắp xếp và chỉ huy mấy trận chiến đấu, hắn rốt cuộc đã dần dần thành thục.

Khánh Kỵ nhìn thấy bộ dáng của hắn như vậy thì vô cùng sung sướng, thế gian này chẳng có một ai không phải trải qua tôi luyện, từ khi sinh ra đã là kỳ tài, con người hoàn hảo, thánh nhân. Nếu Khổng Khâu chu du các nước được một vị quân chủ nào đó trọng dụng, như vậy trên thế gian sẽ không còn có Khổng thánh nhân. Những cuốn sách Xuân Thu sẽ chỉ chú thích một chút: Ở một nước nào đó có một vị hiền đại phu, họ Khổng tên Khâu tự Trọng Ni, một vài nét bút văn tự mà thôi. Tôn Vũ cũng là như vậy, từ khi Khánh Kỵ chết đi sống lại, nhân sinh của Tôn Vũ cũng xảy ra biến hóa. Khánh Kỵ vốn còn có chút lo lắng liệu có phải nếu mình cải biến nhân sinh của hắn, thì trên đời từ nay về sau sẽ thiếu đi một quyển "Binh pháp Tôn Tử", lịch sử thiếu đi một vị binh thánh Tôn Vũ. Hiện giờ xem ra, lo lắng này tựa hồ như là dư thừa rồi.

Khánh Kỵ nắm tay Tôn Vũ tiến vào lều lớn, Tôn Vũ mời Khánh Kỵ ngồi lên ghế trên, còn chính mình thì đứng nghiêm nghị trong trướng, sau đó quỳ một gối xuống đất, chắp tay thi hành quân lễ với Khánh Kỵ, nói: "Tôn Vũ vi phạm quân lệnh của công tử, không theo kế lúc trước mà tiến công Cô Tô, thỉnh công tử trị tội."

Khánh Kỵ vội vàng hai tay nâng hắn lên, nói: "Trường Khanh không nên như thế, làm ngoài quân mệnh không phải không được, ta tin rằng ngươi làm thế tất phải có nguyên do. Đến đến đến, ngồi xuống nói chuyện."

Ánh mắt Tôn Vũ lộ ra thần sắc cảm động, Khánh Kỵ kéo hắn ngồi cùng chiếu, nói sơ qua về tình hình ở nước Sở, sau đó hỏi về thế cục Ngô quốc. Nghe Tôn Vũ nói hắn đã dụ được Phu Khái tới Hàn Ấp, sau đó mượn dùng mấy con thuyền lớn chở muối của Tề quốc để vận chuyển binh, gián tiếp ra phía sau địch, tránh gặp địch chính diện, rồi phân tán đột kích tới dưới thành Cô Tô, nơi nơi đều nguy hiểm, khiến các tướng nghe thấy không khỏi khát khao.

Tới khi nói về tình hình phòng thủ thành kiên cố của Cô Tô thành, sắc mặt của đám người Khánh Kỵ, Yểm Dư, Kinh Lâm, Lương Hổ Tử đều trở nên ngưng trọng. Yểm Dư công tử giật mình nói: "Khó trách Cơ Quang luôn đối với Ngũ Tử Tư nói gì nghe nấy, người này thật sự là nhân tài, chỉ trong vòng một năm, đã kiến tạo được một tòa đại thành như vậy, thực là một chuyện vĩ đại chưa từng có ở Ngô quốc ta trước nay. Chỉ có điều... đến lúc này tất phải hao hết tài lực Ngô quốc ta, khó trách Cơ Quang giống như phát điên, hận không thể vác cả Dĩnh Đô trở về Ngô quốc."

Khánh Kỵ liếc mắt nhìn hắn, thầm nghĩ: "Đâu chỉ có Ngũ Tử Tư là nhân tài, nhân tài ở Sở quốc cũng đâu có hiếm. Chỉ tiếc là, Sở Vương ngu ngốc, gian thần cầm quyền, kẻ sĩ trung lương có tài hoặc là bị áp chế không ngóc đầu lên nổi, hoặc là bị khiến cho nhà tan cửa nát."

A Cừu sờ sờ sau gáy, oán hận mắng: "Ngũ Tử Tư này thật là thần cơ diệu toán, liệu định rằng một năm sau Ngô quốc sẽ có ngày này. Nếu không cứ để tòa thành cũ kia, chỉ cần chống một cây gậy trúc là có thể nhảy lên được tường thành, mụ nội nó, sao phải phí phạm nhiều tiền của như vậy?"

Tôn Vũ nói: "Ngũ Viên kia chưa chắc là tính toán cái gì, hắn vội vã xây dựng đại thành này, chỉ là vì củng cố quyền lực của Cơ Quang thôi. Xây dựng đại thành hùng tráng, tuyên dương uy phong Ngô Vương, đó là thứ nhất; xây dựng đại thành, tập trung những gia tộc quyền thế giàu có cả nước, ở gần giám thị, phòng ngừa dị tâm, đó là thứ hai; xây dựng đại thành, cần tập trung lao động thanh niên cả nước, khiến những người này tập trung toàn bộ ở đô thành để tham gia xây dựng công sự, có thể tránh cho bọn họ đi theo công tử, thảo phạt kẻ cướp ngôi vị, đó là thứ ba; xây một lần mà hiệu quả muôn đời, xây dựng một tòa thành kiên cố làm căn bản cho Ngô quốc, đó là thứ tư. Chính là xuất phát từ đủ các loại nguyên nhân, nên Ngũ Tử Tư mới không tiếc quốc lực mà xây nên tòa đại thành này, lần này bọn họ cướp được tài phú như núi từ Sở quốc, chẳng những bù lại được những tiêu hao của việc xây công sự, lại càng làm tăng thêm tài phú của Ngô quốc, cái cách lấy chiến tranh nuôi dưỡng chiến tranh này, thực hợp với cá tính của Ngũ Viên."

Khánh Kỵ lo lắng nói: "Vì sao Ngũ Tử Tư xây thành ta không muốn quản, chỉ có điều Cô Tô thành dễ thủ khó công, hiểm yếu như vậy, chúng ta vội vàng chạy tới Ngô quốc, phía sau lại có đại quân Cơ Quang đuổi theo, thành không thể phá, mấy vạn đại quân này ngay cả một chỗ để đặt chân cũng không có, càng không nói tới lương thảo cấp dưỡng có thể chống đỡ được bao nhiêu thời gian. Chẳng nhẽ chúng ta hao tổn tâm cơ, cuối cùng lại chỉ có thể bại trận mà quay về Vệ quốc sao?"

Tôn Vũ nói: "Công tử, khi Tôn Vũ đổ bộ vào biên cảnh Ngô Việt, căn cứ vào những tư liệu nắm được, liền phỏng đoán Cô Tô khó có thể mạnh mẽ đánh hạ, cho nên mới lệnh cho tín sứ ngày đêm chạy tới nước Sở, thỉnh công tử cần phải về Ngô quốc trước Cơ Quang, để chuẩn bị phương án. Một, đó là trong ngoài phối hợp, bất ngờ đánh chiếm Cô Tô. Hiện giờ xem ra, Cô Tô hiểm trở, Phù Sai có cách phòng thủ, kế này khó thành. Ta có biện pháp thứ hai, tuy rằng nguy hiểm, nhưng mà nếu vận dụng thích đáng, thì muốn đoạt nước Ngô, cũng không phải không có khả năng."

Khánh Kỵ ánh mắt sáng ngời, vội nói: "Trường Khanh có diệu kế gì, mau nói đi."

Tôn Vũ nói: "Một kế này, còn cần bẩm báo công tử, cùng với các vị tướng quân thương nghị."

Hắn lấy từ trong tay áo ra một quyển bản đồ, mở ra ngay tại trên chiếu, chúng tướng xung quanh ngồi bao quanh lại, Tôn Vũ chỉ vào bản đồ nói: "Mọi người mời xem, Cô Tô thành ở chỗ này, thành trì hiểm yếu, dễ thủ khó công, quân phòng thủ trong thành dù không nhiều, nhưng cũng là một tòa hùng thành mà một người có thể chắn một trăm, khó có thể dùng lực. Mục đích của chúng ta, là thiên hạ Ngô quốc. Muốn lấy thiên hạ Ngô quốc, liệu có phải chỉ có một con đường là cướp thành Cô Tô không? Không phải, Ngô quốc có hai cột mốc, một cái bất động, chính là Cô Tô vương thành ở đây, một cái lại di động, chính là đương kim Ngô Vương Hạp Lư!"

Khánh Kỵ ánh mắt chợt lóe, hỏi: "Trường Khanh, ngươi là nói... vây thành đả viện binh?"

Ánh mắt Tôn Vũ ngạc nhiên, vui vẻ khen: "Vây thành đả viện binh? Những chữ này của công tử rất hay, Tôn Vũ chính là có ý này."

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 202: Dương Đông kích Tây (Thượng)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Khánh Kỵ ánh mắt chợt lóe, hỏi: "Trường Khanh, ngươi là nói... vây thành đả viện binh?"

Ánh mắt Tôn Vũ ngạc nhiên, vui vẻ khen: "Vây thành đả viện binh? Những chữ này của công tử rất hay, Tôn Vũ chính là có ý này."

------------------------------------

Khánh Kỵ hơi hơi trầm ngâm, lắc đầu nói: " Khó! Với nhân mã của chúng ta, nếu muốn vây thành còn sợ binh lực không đủ, đồng thời lại còn muốn đánh viện binh, không khác gì lấy trứng chọi với đá. Trong tay Cơ Quang còn gần sáu vạn nhân mã, chúng ta hợp binh ở một chỗ còn không đủ bốn vạn, làm sao có thể hai mặt tác chiến, mà còn đánh bại thậm chí bắt được Cơ Quang?"

Tôn Vũ sắc mặt ngưng trọng nói: " Đây đúng là một nan đề, trận này nhất định là một trận đánh ác liệt, chỉ có điều với điều kiện của chúng ta, muốn đạt được mục đích, thì đây là cơ hội duy nhất. Tôn Vũ đi nước cờ hiểm này, cũng đã từng cẩn thận cân nhắc, Tôn Vũ nghĩ rằng, Cơ Quang biết được công tử chạy về Ngô quốc trước, lo lắng mất sào huyệt, cho nên suốt đường hành quân gấp gáp, tất nhiên không thể phái thám mã cẩn thận do thám tình hình tiền phương. Hơn nữa hắn nhận định công tử vượt lên về nước trước, chắc hẳn sẽ tập trung vào Cô Tô thành, chứ khó nghĩ rằng công tử lại tập kích hắn. Chúng ta lấy hữu bị tính vô bị, đó là điều kiện thuận lợi thứ nhất của chúng ta.

Hắn chính là đi đường bộ, không dám dừng lại giây lát, thể lực của sĩ tốt sẽ bị hao tổn rất lớn, theo Tôn Vũ phỏng đoán, lặn lội đường xa như vậy, sĩ tốt không được nghĩ ngơi, chiến lực ít nhất cũng sẽ mất đi bốn thành. Chúng ta lấy quân khỏe ứng với quân địch mệt mỏi, bất ngờ hành động, đó là điều kiện thuận lợi thứ hai của chúng ta.

Cơ Quang đi đường bộ sang Sở, rồi lại quay về địa bàn của hắn, lương thảo tất nhiên sẽ không mang nhiều, hơn nữa hắn dọc đường đã ăn cướp thành tánh, ta thấy đại quân của hắn có lẽ còn không mang theo lương thực đủ cho ba ngày. Toàn bộ Ngô quốc hiện giờ mặc dù là của hắn, nhưng mà hắn một khi bị nguy cấp, lại không có được cung cấp, quân tâm sĩ khí thậm chí cả chiến lực cũng sẽ tan rã, đó là điều kiện thuận lợi thứ ba của chúng ta."

Khánh Kỵ hơi có chút suy nghĩ trầm ngâm, chậm rãi nói: " Ừm... còn gì nữa không ? "

"Còn, Cơ Quang giành được nước đã hơn một năm, mượn cớ xây dựng thành mới, hắn tập trung tất cả thân hào cự phú vào Cô Tô, lại mời các thanh niên trai tráng đầu nhập vào trong quân, lần này đánh hạ Dĩnh Đô, trở thành chư hầu đầu tiên từ khi Chu thiên hạ khai quốc tới giờ công chiếm được đại thủ đô của kẻ khác, uy danh hiển hách, náo động thiên hạ, nếu lần này chúng ta không thể áp chế được hắn, từ nay về sau sẽ không còn cơ hội, bởi vậy, một nước cờ hiểm này, là bất đắc dĩ phải đi, bất đắc dĩ phải lâm vào.

Huống chi, phục kích Cơ Quang mặc dù rất khó khăn, nhưng mà khó khăn này so với việc tấn công vào thành Cô Tô có chín ngàn sĩ tốt canh gác thì còn dễ dàng hơn, chúng ta chỉ cần một trận chiến là có thể đánh bại được Cơ Quang, phá hủy sức chiến đấu của hắn, như vậy là có thể nắm được quyền chủ động trên toàn bộ chiến trường Ngô quốc. Công tử mời xem, nếu chúng ta có thể giết chết Cơ Quang ở địa điểm phục kích, vậy thì uy vọng của Phù Sai sẽ không đủ để toàn Ngô quốc khiếp sợ, hơn nữa Cô Tô thành lúc đó sẽ chỉ còn là một tòa thành cô độc bị chúng ta vây khốn, nếu chúng ta cứ vây khốn bọn họ, không cần phải công thành, thì bọn họ muốn ra khỏi thành cũng không phải dễ dàng. Khi đó công tử cứ lên làm vua trước, đoạt được sự ủng hộ của người Ngô.

Nếu Cơ Quang không chết, mà chỉ bị chúng ta vây khốn, Phù Sai sốt ruột cứu cha, thì có thể sẽ dẫn binh mã đi cứu, chúng ta có thể dẫn dụ được binh mã của Phù Sai ra khỏi Cô Tô thành, nhân cơ hội mà khoét được hang ổ của hắn."

Yểm Dư nghe thấy kế hoạch của hắn như vậy, lo lắng nói: " Đó chính là phương pháp tốt nhất, nhưng mà một khi thất bại, chỉ sợ là chúng ta sẽ lâm vào thế vạn kiếp bất phục."

Khánh Kỵ nhắm mắt lại, rồi lại mở mắt ra, hỏi: " Chư vị, có biện pháp nào khác không? "

Từ Yểm Dư xuống, chúng tướng đều im lặng không nói gì. Khánh Kỵ nắm chặt tay, đấm mạnh một cái lên bản đồ, nói: " Nếu như thế, chúng ta chỉ có lựa chọn này mà thôi."

Tôn Vũ xúc động nói: " Binh quý thần tốc, nếu công tử đồng ý với kế hoạch của Tôn Vũ, chúng ta sẽ lập tức bắt đầu chuẩn bị. Nếu muốn phục kích, vậy thì phải không tiếc nuối hết thảy, chẳng những phải đánh bại quân Ngô, mà còn phải tốc chiến tốc thắng, vì cho dù quân thủ thành của Phù Sai có không ra, thì khi Phù Khái dẫn quân quay về từ Hàn Ấp, chúng ta cũng sẽ lâm vào cục diện hai mặt đều thụ địch."

Khánh Kỵ kỳ quái nhìn hắn một cái, không biết vì sao trong lời của hắn lại không nhắc tới quân phòng thủ Ngự Nhi thành, theo như lời hắn vừa nói, quân phòng thủ Ngự Nhi thành chưa bị tổn hao tới một sợi tóc, một khi tới cần vương cứu giá, đó là một cỗ lực lượng không thể bỏ qua. Tôn Vũ dường như đang trầm ngâm, có chút vô ý tránh đi ánh mắt của hắn, nói: " Đáng tiếc, trong Ngô quốc không có lực lượng nào có thể lợi dụng, nếu không... cho dù có kết minh theo kiểu bằng mặt nhưng không bằng lòng giống như người Sở, cũng sẽ giúp chúng ta chia sẻ được bớt áp lực. "

Hắn vừa nói điều này, trong lòng Khánh Kỵ chợt lóe linh quang, liền vứt bỏ cái ý nghĩ kỳ quái vừa mới nảy ra kia, nói: "Không sai, hiện giờ chúng ta cần phải đoàn kết hết thảy những lực lượng có thể đoàn kết, lúc này đã khác lúc xưa, Lỗ quốc khai chiến với Tề quốc, Tống quốc thì khai chiến với Tấn quốc, Tề quốc có minh ước với Cơ Quang, Tấn quốc có minh ước với Tề quốc, cứ như vậy, chúng ta và Lỗ, cũng coi như là đồng minh có cùng ích lợi. Trước mắt bọn họ còn không lo nổi cho chính mình, không có lực lượng trợ giúp chúng ta, nhưng mà để bọn họ bố trí nghi binh, làm ra bộ dáng dẫn quân đi xuống phía Nam để níu kéo Phù Khái là có thể. Còn có bộ lạc Đông Di, cũng có thể khiến cho Phù Khái phải đau đầu, chỉ cần bọn họ có thể tạm thời bám trụ lấy Phù Khái, thì chúng ta ở nơi này có thể rảnh tay rảnh chân, Vương thúc..."

Yểm Dư gật đầu nói: " Được, ta sẽ đi một chuyến. "

Khánh Kỵ gật gật đầu, lại nói: " Nơi này đi không xa về phía Bắc chính là Diên Lăng, Trường Khanh, ngươi tới đây, ta đang thương nghị với mọi người, có nên xin sự tương trợ của Quý Tử hay không. Uy vọng của Quý Tử ở nước Ngô ta rất lớn, nếu được ông ta tương trợ, thì cho dù quân đội nước Ngô có nằm trong tay Cơ Quang, cũng có thể được tuyệt đại đa số bình dân nước Ngô cùng khá nhiều công khanh đại phu hỗ trợ. "

" Quý Tử là một quân tử, ôn lương như ngọc, là người có đức, Tôn Vũ kính đại danh Quý Tử đã lâu. Chỉ là người này không màng danh lợi, ở trong lòng ông ta, xã tắc quan trọng hơn quốc quân, lê dân quan trọng hơn xã tắc, bởi vậy năm đó mới ẩn nhẫn chuyện Cơ Quang hành thích vua tự lập, chỉ vì để củng cố xã tắc Ngô quốc, lê dân được hưởng an bình. Xin thứ cho mạt tướng nói thẳng, hiện nay Cơ Quang vẫn chiếm ưu thế, hy vọng phục quốc của công tử vẫn mù mịt, nếu lúc này đi bái phỏng Quý Tử, chỉ sợ Quý Tử sẽ không bởi vì mối hận trong nhà của công tử, bởi vì vinh nhục của một nhà mà giúp đỡ công tử."

Khánh Kỵ gật đầu nói: " Không sai, ta cũng băn khoăn về điều này, lúc này mà đi gặp Quý Tử, chỉ sợ là vô bổ, thậm chí còn hổ thẹn. Chi bằng chúng ta đánh một trận ác liệt, cho dù không thể thắng, cũng phải làm cho Quý Tử cảm thấy rằng không thể để cho Ngô quốc ở trong tình trạng lưỡng bại câu thương như thế nữa, khi đó ông ta mới có thể đưa ra lựa chọn. Tạm không nói về chuyện này nữa, chúng ta thương lượng chuyện làm sao để công hãm được doanh trại của Cơ Quang đi."

Đại quân Khánh Kỵ đột nhiên xuất hiện dưới Cô Tô thành, những trạm canh gác mà thái tử Phù Sai an bài trong khoảng ba mươi dặm đã nhanh chóng phát hiện ra đại quân Khánh Kỵ mênh mông cuồn cuộn mà tới, một lá cờ, hai lá cờ, ba lá cờ... được phất lên để báo vào trong thành phát hiện quân địch, đang tiến vào gần Cô Tô...

Chỉ trong vòng một nén hương, khi các trạm canh gác phất lên đủ năm lá cờ, các binh lính canh gác vừa tới tấp chạy bỏ mạng về thành, thì đại chiến đã bắt đầu rồi.

Lần này tấn công thành Cô Tô, vốn chỉ là trận chiến nghi binh. Nhưng mà nghi binh nếu muốn khiến cho quân địch tin tưởng, cũng phải đánh cho giống thật mới được. Khi dẫn quân tới Thái Hồ để nghỉ ngơi và hồi phục, Tôn Vũ đã cho một đạo quân bí mật đi vào rừng rậm ở núi Cô Tô để tạo vũ khí công thành, lần này quay lại mang theo đủ các loại vũ khí quân thành, trong đó còn có mười cái máy bắn đá do Khánh Kỵ thiết kế.

Những chiếc máy bắn đá này so với những chiếc máy bắn đá truyền thống phải cần hơn trăm người kéo thì khác biệt rất nhiều, có thể tiết kiệm rất nhiều thời gian và không gian chiến đấu, thích hợp cho việc tác chiến ở vùng đầm nước Giang Nam.

Đại quân Khánh Kỵ chậm rãi, tấn công trực tiếp vào cổng chính Xương Môn của Cô Tô thành. Sĩ tốt mang đất tới lấp sông, tới lui như kiến, đầu tường tên bắn xuống như mưa, bên phía Khánh Kỵ dùng khiên che chắn. Cổng chính Cô Tô thành là con đường mọi người hay qua lại, cho nên ở đây sông không rộng, người Ngô mặc dù đã nhấc cầu lên, nhưng bên phía Khánh Kỵ cả vạn người cùng đổ đất xuống sông, cuối cùng cũng chặn được con sông đó, sau đó lấy xe cùng khiên lớn yểm hộ, xua binh tấn công vào gần, ở phía sau lấy nỏ lớn, máy bắn đá làm vũ khí hỗ trợ từ xa, áp chế địch nhân trên đầu tường.

Quân Khánh Kỵ ở dưới thành bắn tên tẩm dầu lên, tên bay loạn xạ, quân phòng thủ trên đầu tường thì dùng thân cây, đá tảng để đáp lễ. Quân Khánh Kỵ không tiếc hy sinh tấn công dưới thành, đáp bậc thang lên tường thành, ở trên đầu tường quân phòng thủ lại dùng những chiếc chùy nặng được buộc trên vách tường đập cho những chiếc thang gỗ đó vỡ tan tành.

Dưới cổng thành được ném tới nhiều bó củi, lửa cháy bừng bừng dấy lên, khiến cho đồng đen bọc cổng thành Cô Tô bị đốt cháy ẩn ẩn hiện lên màu đỏ, gỗ ở bên trong cũng phát ra mùi cháy khét. Người Ngô ở trên cổng thành lại sử dụng những cái máng chứa nước, bên này thế lửa dấy lên, đầu tường liền có người đổ nước xuống, giống như những chiếc vòi hoa sen chảy xuống, nước lửa tương khắc, trên thành dưới thành song phương đại chiến tạo thành thế bất lưỡng lập (không đội trời chung).

Khánh Kỵ gióng trống khua chiêng, công khai giương lên cờ hiệu của mình, lại sử dụng kế nghi binh, ở trước trận lập một doanh trại, cho năm ngàn binh sĩ cứ tuần hoàn ra ra vào vào, khiến cho từ đầu tường nhìn ra xa xa, cứ như là có mười vạn đại quân đang không ngừng tụ tập tới, khó có thể phỏng đoán được hắn rốt cuộc là có bao nhiêu nhân mã.

Quân thủ thành Cô Tô chưa từng giao thủ với Khánh Kỵ hay Yểm Dư, Chúc Dung, đối với vị Ngô quốc đệ nhất dũng sĩ vốn vẫn có tâm kính sợ, lại thấy tình hình này, quân tâm sĩ khí dưới thế công mãnh liệt của hắn lại càng uể oải. Rõ ràng là phòng thủ một tòa hùng thành không thể phá được, nhưng thế phòng thủ trên đầu tường lại nhất thời bị dồn ép liên tục.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 202: Dương Đông kích Tây (Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Tin tức truyền tới hoàng cung, thái tử Phù Sai nghe thấy vậy thì giận dữ, lập tức rút kiếm chạy tới, đi theo sau là chánh phó thái giám tổng quản, chia nhau cầm vương kỳ cùng ấn tín. Hắn đi lên thành lâu Xương Môn, lập tức chém đầu chủ tướng Xương Môn, treo đầu của hắn lên cao, rồi mệnh cho phó tướng chủ trì việc quân, chính hắn tự mình đốc chiến.

Phù Sai cho người trải chiếu ra rồi ngồi trên thành lâu, phía sau là thái giám cầm vương kỳ cùng ấn tín, trong ngực ôm mỹ nữ do người Việt tiến cống, trong tay nâng chén rượu ba chân rót đầy rượu ngon, phía trước đầu gối là trường kiếm máu chảy đầm đìa, cao cao phía trước còn treo một cái đầu người dữ tợn, trên trời tên bay tứ tung, thỉnh thoảng còn có tảng đá lớn bay ngang trời, đập vào nơi nào, liền khiến cho mặt đất nơi đó rung chuyển, nhưng hắn vẫn cười cười nói nói, hồn nhiên không thèm để ý, điều này cổ vũ rất lớn cho sĩ khí của quân thủ thành Cô Tô, ổn định lòng người, thế phòng thủ Xương Môn lập tức vững như Thái Sơn, áp chế thế công mãnh liệt của quân Khánh Kỵ.

Khánh Kỵ đứng ở trước trận nhìn chiến trường tiếng kêu hét rung trời, khẽ lắc đầu nói: "Cô Tô Đại Thành, quả nhiên là không thể công. Binh lính chúng ta hữu hạn, tạm thời không thể bổ sung, tiêu hao ở đây không nổi, máy bắn đá vừa đưa tới thêm bao nhiêu?"

Kinh Lâm đáp: "Vừa vận tới tám cái, thợ công tượng phía sau vẫn đang không ngừng chế tạo, may là điện hạ khi ở Phi Hồ cốc đã cho bọn họ chế tạo suốt ngày, lắp đi lắp lại trang bị, cho nên những công tượng này đã vô cùng thuần thục."

Khánh Kỵ thở dài nói: "Trước khi ta rời khỏi Lỗ, còn cảm thấy rằng máy bắn đá cồng kềnh này tác dụng không lớn, hiện tại xem ra, đối mặt với tòa thành trì hùng vĩ thế này, uy lực của máy bắn đá lại là lớn nhất."

Thúc Tôn Diêu Quang ôn nhu nói: "Tình thế trên chiến trường thay đổi trong nháy mắt, ai có thể đoán trước được tiên cơ."

Khánh Kỵ cười, rồi phân phó xuống cho Kinh Lâm: "Để cho bọn họ tiếp tục chế tạo máy bắn đá, càng nhiều càng tốt, nghi binh phía sau tiếp tục chạy, đêm nay, ta sẽ dẫn chủ lực rời khỏi nơi này, ngươi cũng phải cẩn thận một chút."

Kinh Lâm đáp lời, nói: "Công tử yên tâm, chỉ cần chế tạo ra hai ba mươi cái máy bắn đá, phía sau lại có nghi binh, thì với mấy ngàn nhân mã của ta, cũng đủ để cho Phù Sai hắn phải co đầu rụt cổ trong thành không dám ra đây, chỉ có điều nguyên liệu đá tốn nhiều công sức, lại phải vận chuyển tới từ xa."

Đúng lúc này, A Cừu vội vàng chạy tới bẩm báo: "Điện hạ, quả nhiên không ngoài dự đoán của người, Phù Sai ra vẻ trấn tĩnh, nhưng từ Tư môn, Sở môn, Xà môn, Lâu môn, Bàn môn năm cổng thành lại phái tín sứ phá vây ra ngoài."

Khánh Kỵ mỉm cười: "Chạy hay lắm, ngươi không bắt được một ai sao?"

A Cừu lớn tiếng nói: "Đương nhiên là muốn bắt, nhưng mà bọn người đó chạy thật sự nhanh, hơn nữa lại là đi đường thủy, trong tay mạt tướng không có thuyền, chỉ có thể trơ mắt nhìn hắn rời đi."

Khánh Kỵ ha ha cười lớn, vỗ lên bả vai hắn, quay đầu lại nói với Kinh Lâm: "Về vấn đề đá thì không cần lo lắng, ngươi có thể đào bùn lên, đắp thành viên cầu, lấy lửa hong khô, rồi ném đi thành đạn bùn, cũng có thể khiến cho bọn chúng không dám thò đầu ra. Còn nữa, Phù Sai đã phá hủy hết nhà cửa trong vòng mười dặm, những mảnh vỡ từ những căn nhà này cũng có thể dùng làm đạn."

Hắn ngừng lại một chút, lại nói: "Để tránh cho tiểu tử Phù Sai kia nhìn ra sơ hở, từ ngày mai trở đi, sửa thành ban ngày quấy nhiễu địch, ban đêm công thành."

" Rõ, mạt tướng tuân mệnh!"

Khánh Kỵ quay đầu lại cười cười với Thúc Tôn Diêu Quang cùng Quý Tôn Tiểu Man, nói: "Hai nàng không cần phải đi theo ta, ta ở chỗ này rất an toàn, các nàng đi cùng Lương Hổ Tử tướng quân an bài việc rời binh đêm nay đi."

" Rõ! Mạt tướng tuân mệnh!" Thúc Tôn Diêu Quang cùng Quý Tôn Tiểu Man trăm miệng một lời, rồi không khỏi phì cười, như hai đóa phù dung.

Màn đêm buông xuống, Khánh Kỵ suất lĩnh chủ lực lặng yên dời đi, hội hợp với Tôn Vũ, Anh Đào đã tới trước để an bài chỗ mai phục. Kinh Lâm thì thay đổi chiến thuật, ban ngày lấy một ít binh lính quấy nhiễu thành, ban đêm lấy máy bắn đá làm vũ khí chủ yếu tấn công thành, phía sau dùng kế nghi binh để làm như đại quân vẫn còn ở trong doanh trại quấy rầy Phù Sai.

Đá tảng, bùn đất từ máy bắn đá của Kinh Lâm uy lực quả thực không nhỏ, những nơi đạn đá đạn bùn rơi xuống trong Cô Tô thành nhà cửa đều bị san phẳng, quân phòng thủ ở đầu tường ẩn náu không dám lên thành, mà khi lên thành, dưới chân đầy là đá vụn bùn đất, đi qua đi lại cũng khó khăn.

Kinh Lâm có vẻ đã thích trò tấn công trên không này, lệnh cho những công tượng phía sau ngừng chế tạo những khí giới công thành khác, toàn lực chế tạo máy bắn đá. Máy bắn đá tạo ra càng nhiều, đá tảng lại càng ít để sử dụng. Ở hai sườn doanh trại đại quân Khánh Kỵ đất được đào lên để làm đạn bùn, dần dần tạo ra hai rãnh chiến hào rất sâu, chỉ có điều tầm bắn của máy bắn đá chỉ có hạn, chỉ có thể đả kích những khu vực ở gần tường thành, nếu không phải là do Ngũ Tử Tư khổ tâm thiết kế, thì một tòa đại thành cứng rắn có thể ngăn cản được mười vạn hùng binh cũng chẳng cần phải tấn công, bên trong cũng trở thành một vùng phế tích.

Kinh Lâm từ giảm bớt dần dần hủy bỏ toàn bộ bộ binh công thành, đổi từ quấy nhiễu địch sang tấn công bằng máy bắn đá. Ở trong mắt Phù Sai, là do binh lực thực tế của Khánh Kỵ hữu hạn, chỉ là phô trương thanh thế mà thôi. Hắn chỉ bảo vệ chặt chẽ thành trì, đón đạn đá đạn bùn, ngày đêm tự mình canh giữ trên thành, tu sửa công sự, thề sống chết thủ vững. Trong thành nếu có ai có lời đồn đại, làm dao động quân tâm, chỉ cần nói ra một câu bực tức, là sẽ bị chém đầu treo trên đầu tường để mọi người đều thấy. Trong các nhà, nam làm nô nữ làm tỳ đều sắp xếp phục vụ cho quân đội. Sau hai ngày thời gian, đầu người trên tường thành Cô Tô tạo thành một quang cảnh rất độc đáo, trong thành trên dưới quả nhiên không ai dám kháng mệnh, Phù Sai lệnh cho các nhà các hộ thay phiên cho nam nữ tráng niên lên thành trợ thủ, cũng không có ai dám nói câu oán hận.

Lúc này, Khánh Kỵ đã dẫn quân chủ lực tới núi Thiên Mục, hội hợp với Tôn Vũ, Anh Đào đã tới trước, lẳng lặng chờ đợi Hạp Lư đang ngày đêm thần tốc tiến quân vào trong ổ phục kích của mình...

"Mau, đi nhanh nữa lên! Đi nhanh nữa lên!" Cơ Quang đứng ở trên chiến xa, đỡ tay vịn mà lòng như lửa đốt, gió thổi làm chiếc áo choàng màu đỏ của hắn tung bay như những đám mây lửa.

Sớm nhận được mật báo của Lý Hàn, Phù Sai lập tức cho người tới Sở quốc xa xôi để nói rõ tình huống, nên Cơ Quang mới biết được Khánh Kỵ còn có một nhánh phục binh ở Lỗ quốc. Lúc đó bởi vì nhánh phục binh này nhân số không nhiều, mà Ngô quốc còn có một đệ ruột Phù Khái kinh nghiệm chiến trận phong phú, cho nên dù đã biết được tình hình của đối phương, nhưng mà đối phương khó có thể đánh lén được thành công, nên hắn lúc đó còn chưa lo lắng cho lắm.

Nhưng mà hiện tại Khánh Kỵ đột nhiên lại rút lui khỏi chiến trường Sở quốc, thậm chí còn không có ý niệm muốn khiến cho nhân mã của hắn (Cơ Quang) diệt vong ở Sở quốc, mà chạy như bỏ mạng về Ngô quốc, khiến cho hắn sợ hãi. Nếu không phải là phục binh của Khánh Kỵ tập kích thành công, rất cần viện trợ của Khánh Kỵ, Khánh Kỵ sao lại hành động như vậy?

Ở trong lòng mỗi người cha, con hắn vĩnh viễn luôn là một đứa nhỏ cần được chăm sóc, trong lòng Cơ Quang cũng tồn tại tâm lí như vậy. Phù Sai con hắn chưa bao giờ một mình đảm đương mọi việc, hắn không biết liệu Phù Sai có sơ suất khinh thường không, lại để cho Khánh Kỵ thừa thời cơ. Khổ nỗi thời đại này việc truyền tin không tiện, thám mã đầu tiên quay về báo cáo tin tức: Khánh Kỵ hiện đang công thành, lại còn phong tỏa phạm vi xung quanh thành Cô Tô, cho nên không thể biết thêm được tin tức cặn kẽ hơn. Hắn lúc này không biết được tin tức chuẩn xác của Cô Tô thành, đủ loại hậu quả đáng sợ không ngừng nổi lên từ đáy lòng, khiến cho hắn không ngừng thúc giục toàn quân kiệt lực tiến về phía trước, muốn nhanh chóng về Cô Tô thành giải vây.

"Hành quân gấp như vậy không được rồi, nếu còn như vậy thêm, nhân mã sẽ mệt mỏi không chịu nổi, ngay cả có chạy tới Cô Tô thành, cũng khó mà công kích được. Chúng ta nên khuyên nhủ Đại vương, không thể để cho binh lính đi nhanh như vậy. Cô Tô thành là tự tay ta xây, chỉ cần phòng ngự thích đáng, không có mười vạn hùng binh thì đừng hòng mơ tưởng trong vòng một năm rưỡi có thể đánh hạ được nó." Ngũ Tử Tư đứng ở trên một cỗ chiến xa khác, lo lắng nói.

Bá nhíu mày lại, nói: "Chúng ta cũng đã khuyên rất nhiều lần, nhưng Đại vương chịu nghe sao? Sao phải gặp Đại vương mà chịu xui xẻo."

Hắn hơi trầm ngâm, nói: "Đại vương làm như vậy, cũng có đạo lý của Đại vương. Nhân mã của chúng ta hơn xa nhân mã của Khánh Kỵ, cho dù khi chạy tới Cô Tô thành chưa thể lập tức khai chiến tiến công, nhưng nếu muốn phòng thủ, bọn họ cũng không làm gì được chúng ta. Chỉ cần Cô Tô thành chưa thất thủ, thấy chúng ta đuổi về tới bên ngoài, tất có thể ổn định quân tâm, chỉ cần nghỉ tạm một ngày, trong ngoài giáp công, tất có thể một trận chiến hạ được Khánh Kỵ."

Ngũ Tử Tư tính tình nóng nảy, nghe thấy hắn phụ họa cho Hạp Lư không khỏi giận tím mặt, suýt nữa thì mắng ra một câu "hỗn trướng", có điều nghĩ lại Bá lần này ở Sở quốc đã lập công lớn, hiện giờ địa vị trong lòng Ngô vương còn gần hơn cả hắn, đành phải kìm nén câu đó lại, một đôi mi như tằm nằm giật giật, trầm giọng nói: "Quân ta mặc dù đông, nhưng hiện giờ hành quân đường dài đã mệt mỏi không chịu nổi, chiến lực giảm sút, hiện giờ gấp rút tiếp viện Cô Tô , không kịp phái thám mã đi phía trước, đội hình toàn quân tán loạn, tình hình như thế, nếu Khánh Kỵ bỏ Cô Tô mà nghênh đón quân ta, ở phía trước có mai phục, khi đó phải làm như thế nào?"

Bá ngây người ngẩn ra, đột nhiên tức cười nói: "Tướng quốc lo lắng quá rồi, đại quân của chúng ta đi rất gấp, không ngừng di động, ngay cả việc phái thám mã đi thám thính con đường phía trước cũng không làm được, thì thử hỏi Khánh Kỵ hấp tấp chạy về Ngô quốc, chỉ sớm hơn chúng ta có hai ba ngày, hắn có cái thủ đoạn nào mà nắm giữ được chuẩn xác lộ tuyến hành động của chúng ta, vào đúng thời gian và địa điểm, mai phục mấy vạn đại quân trên con đường của chúng ta? Mấy vạn đại quân, đó cũng không phải là dăm ba tên trộm vặt cướp đường, sao có thể hành động tùy ý, chỉ cần quân lệnh thường xuyên truyền xuống trên dưới, đợi khi đại quân ta tới đó, đại quân của hắn không cần đánh cũng sẽ tự tán loạn."

Ngũ Viên nghe thấy cũng có đạo lý, hắn quay đầu lại nhìn đằng sau chiến xa đang phóng nhanh, đại quân đang vô cùng mệt mỏi, nặng nề thở dài một tiếng.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 203: Mai phục

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

"Báo, quân Ngô đang đi nhanh tới đây, ước chừng khoảng hai canh giờ là có thể tới trước núi." Một gã tín sứ giống như thương nhân nâng vạt áo, đầu đầy mồ hồi chạy tới trước doanh trướng giấu trong bụi cây của Khánh Kỵ bẩm báo.

"Hai canh giờ!" Tôn Vũ chợt kích động, hắn ngẩng đầu lên nhìn bầu trời, vui vẻ nói: "Hai canh giờ nữa, sắc trời đã tối, thật sự là trời giúp chúng ta."

Khánh Kỵ nói: "Thành Bích phu nhân thật tuyệt vời, có tai mắt của nàng, chúng ta tựa như có một con mắt nhìn xa nghìn dặm, luôn nắm rõ nhất cử nhất động của địch trong lòng bàn tay, nhờ có điều này, mới có thể thư thả chuẩn bị, xuất hiện kì binh, lấy yếu thắng mạnh. Lần này phạt Ngô nếu thắng, công của Thành Bích phu nhân là rất lớn!"

Thành Tú đứng một bên nghe thấy hắn khen tỷ tỷ, không khỏi cười nói: "Công tử quá khen, tỷ tỷ bày ra mạng lưới tai mắt ở Sở Ngô, vốn là dùng để truyền thông tin thương nghiệp, nhiều năm tổ chức, mới có được hiệu quả như thế, ban đầu ta thật không nghĩ tới lại có thể dùng cho quân sự."

Khánh Kỵ tò mò hỏi: "Thành Tú, tỷ tỷ ngươi dùng biện pháp gì mà tin tức có thể truyền đi nhanh chóng vậy?"

Thành Tú gãi gãi đầu nói: "Phương pháp kỳ thực thì rất nhiều, chỉ cần sắp xếp kinh doanh nhiều năm là được. Cách thức truyền tin tức kinh thương của chúng ta là, chưởng quầy do nhà chúng ta phái đi các nơi đi sưu tầm tin tức, mà người truyền tin tức, chẳng qua đúng là nông dân, ngư dân hoặc các xa phu rong ruổi bốn phương mà thôi. Những năm gần đây, chúng ta ở trong dân gian Sở Ngô tìm được một vài người nông dân, hàng năm trợ cấp cho bọn họ một ít kim tiền, khi có tin tức, bọn họ sẽ sử dụng một vài phương pháp như qua các xe, qua các con đò để từng đoạn từng đoạn truyền tin tức cho chúng ta, tin tức truyền tới nơi, thì sẽ có thêm phần thưởng, bọn họ chẳng qua là làm chân sai vặt, hàng năm lại có thêm một nguồn thu xa xỉ, cho nên đối với việc này rất nhiệt tình. À, đúng rồi, vào lúc khẩn cấp, chúng ta còn dùng bồ câu để truyền tin."

" Bồ câu đưa tin!" Khánh Kỵ kích động nói: "Các ngươi còn dùng bồ câu để truyền tin tức?"

Khoảng 3000 năm trước công nguyên, người Ai Cập và Hy Lạp đã biết thuần dưỡng chim bồ câu hoang làm bồ câu nhà, người Ai Cập từ đó bắt đầu dùng bồ câu để đưa thư. Nước Trung Quốc vào thời kỳ Xuân Thu, ở khu vực phía Nam cũng có các loại bồ câu nhà, có điều phải tới thời Tần Hán mới được mở rộng ra, rồi tới thời Tùy Đường thì là phương pháp tương đối phổ biến để thư từ qua lại.

Khi đó chủ yếu là ở An Nam (Việt Nam hiện nay), Nghiễm Châu (Quảng Châu hiện nay) bởi vì có nhiều thuyền rời bến, thư từ qua lại không được tiện, cho nên thường mang theo bồ câu nuôi trong nhà lên thuyền, rồi thả bay trở về, truyền thư báo bình an cho gia đình, cũng không mấy khi dùng cho quân sự. Khánh Kỵ biết việc nuôi chim để truyền tin, huấn luyện mất rất nhiều công sức, không có vài năm thì không được, hơn nữa bồ câu kia cũng không phải ngươi muốn cho nó bay tới chỗ nào là nó bay tới chỗ đó, nó chỉ biết quay về nhà của nó mà thôi, nếu muốn dùng bồ câu đưa tin thì phải có một căn nhà đáng tin cậy, trở thành một trung tâm truyền tải tin tức, chuyện như vậy không phải trong chốc lát mà làm được, với một vương tử đào vong bên ngoài như hắn thì lại càng không có khả năng làm, cho nên mặc dù khổ vì thông tin bất tiện, cũng từng có chủ ý với việc bồ câu đưa tin, nhưng mà vẫn đành phải buông bỏ, không thể tưởng được Thành Bích đã sớm tiến hành phương thức này rồi.

" Bồ câu đưa tin?" Thành Tú ngẩn ra, cười nói: "Công tử gọi hay lắm, bồ câu của chúng ta đúng là dùng để đưa tin, có điều bồ câu bay mặc dù nhanh, nhưng lại chỉ nhận ra nhà của mình, hơn nữa trên đường bay còn có thể bị thợ săn bắn hạ, chim ưng ăn mất, cho nên bình thường chúng ta cũng không dùng. Lúc này bởi vì việc trọng đại, cho nên khi ta tới Sở quốc gặp công tử, đã theo phân phó của tỷ tỷ, lệnh cho những người chuyên truyền tin tức cho chúng ta ở Ngô Sở sớm đem bồ câu do nhà mình nuôi đưa đến nhà tiếp theo (trong mạng lưới truyền tin), khi nào phải có tin tức thực sự trọng yếu thì mới được thả bồ câu, cho nó bay về nhà của mình. Vào thời khắc trọng yếu trước mắt, mỗi lần phải thả ít nhất là ba con bồ câu, trên đùi buộc theo nội dung như nhau, để phòng đánh rơi thất lạc mất."

Hắn cười nói: "Những nông dân này tuy rằng vất vả hơn chút, lúc nào cũng phải ở nhà chờ tin tức, có điều vào thời điểm thế này, phần thưởng cho bọn họ luôn nhiều hơn gấp bội, bọn họ còn ước gì chúng ta ngày nào cũng có tin tức khẩn cấp truyền qua truyền lại, như vậy bọn họ cũng chẳng cần đi làm ruộng nữa, chỉ trông vào việc truyền tin tức cho chúng ta, cũng có thể trở thành thủ phủ trong thôn."

Khánh Kỵ cùng các tướng nghe vậy, không khỏi đều bật cười.

............

" Phía trước đã tới Thiên Mục sơn, Đại vương, sắc trời đã tối muộn, chúng ta không thể đi qua núi trong đêm, huống hồ sĩ tốt đã không bước nổi nữa, chúng ta nên cắm trại nghỉ tạm ở trước núi đi, chờ trời sáng lại đi tiếp."

Khi quân tiên phong của Ngô tới dưới chân núi Thiên Mục, Ngũ Tử Tư lại nhịn không được góp lời với Cơ Quang.

Lần này, Bá cũng không nhịn được, góp lời với Cơ Quang: "Đại vương, sắc trời đã tối muộn, sĩ tốt mệt mỏi không chịu nổi nữa, cần phải ăn uống một chút, huống hồ đội sau cách quá xa, cũng nên chờ bọn họ đuổi tới hội hợp mới được, hẳn là nên cắm trại nghỉ tạm.

Cơ Quang làm gì chẳng biết nên cho binh lính nghỉ ngơi một chút, nhân mã của hắn dù sao cũng có máu có thịt, tóm lại không thể không ăn không uống, cứ thế mà chạy. Hắn gật gật đầu, vung tay lên, Bá lập tức cao giọng nói: "Truyền lệnh, toàn quân dựng trại tạm, đào bếp nấu cơm."

Lập tức liền có hoàng kỳ vẫy lên, xoay tròn bay múa trên không trung, lại có người đánh trống, ba dài ba ngắn, hiệu lệnh toàn quân. Nghe được tin tức dựng trại tạm, rất nhiều sĩ tốt dừng cước bộ, nằm la liệt xuống đất, cả người mềm nhũn, chẳng muốn động đậy gì nữa. Những ngũ trưởng, tư mã, tốt trưởng các chức quan cũng mỏi mệt không chịu nổi, nhưng vẫn xốc lại tinh thần, liên tục đá với quất roi, bức cho những sĩ tốt ngã xuống phải đứng lên vận động, để phòng ngừa đột nhiên từ động chuyển sang tĩnh mà bị thương.

Còn một vài binh lính còn sức ai cắm trại thì đi cắm trại, ai bố trí phòng vệ thì đi bố trí phòng vệ, đào bếp thì đào bếp, khắp bình nguyên trước núi là một cảnh bận rộn. Ngũ Tử Tư vội vàng nhảy xuống chiến xa, gọi chiến tướng tâm phúc, phân phó: "Lập tức phái ra mấy đội nhân mã, suốt đêm đi dò tin tức Cô Tô thành, lại điều vài đội bộ binh, thám thính ngọn núi phía trước."

" Tướng quốc đại nhân, sĩ tốt đều mệt mỏi, không đi được nữa, có phải hay không nên cho bọn họ nghỉ tạm một chút, quả thực là ..."

" Không được!" Ngũ Tử Tư nhíu hàng lông mi trắng, giận tím tái mặt mũi nói: "Việc binh phải cẩn trọng, thám mã nhất định phải phái đi."

Viên tướng kia đành phải chắp tay đồng ý, lập tức điều đi một vài trinh sát, cho mỗi người thêm một chút tiền, để bọn họ lập tức chấp hành mệnh lệnh.

Ánh mặt trời đã tắt, cả ngọn núi tối đen như mực, đoàn người Khánh Kỵ ở bên trong rừng cây rậm rạp nhìn ra doanh trại quân đội đang không ngừng được mở rộng bên ngoài núi, Anh Đào xoa tay nói: "Công tử, chúng ta thừa dịp bọn họ còn chưa ổn định, lao ra đi thôi."

" Không thể!" Tôn Vũ vội vàng ngăn cản: "Xem trận hình hạ trại này, họ vẫn chưa phòng bị cho việc bị tập kích. Còn nữa, bọn họ đi vội vàng, không mang theo nhiều đồ quân nhu, phía trước lại là một vùng bình nguyên, không có chỗ nào có thể ẩn náu, làm sao mà phòng thủ nghiêm mật được, cứ để cho bọn họ dựng doanh trại đi, làm cho khí lực của bọn họ hao đi càng nhiều càng tốt, chờ bọn họ ăn cơm chiều xong, sắc trời cũng đã tối, càng không dễ dàng di chuyển, khi đó hẵng động thủ."

Anh Đào liếc mắt nhìn Tôn Vũ một cái, ngẫm lại tình hình, không khỏi âm thầm rùng mình. Cơ Quang vốn có sáu vạn năm ngàn người, hiện giờ sau mấy trận chiến ở Sở quốc, còn hơn năm vạn người. Hơn năm vạn nhân mã này, từ Sở quốc tới đây là đi đường bộ, xe ngựa có hạn, không chở được bao nhiêu người, đại quân lặn lội đường xa, mỗi sớm đi lúc mặt trời mọc, mặt trời lặn mới nghỉ, đã sớm hao mòn hết thể lực cùng nhuệ khí. Hai ngày này vì nghe nói Khánh Kỵ đã tới trước, nên Cơ Quang thúc giục mọi người phải đi băng băng, ai cũng đã sức cùng lực kiệt. Thế mà Tôn Vũ còn lo là không đủ, còn muốn trước tiên để cho bọn họ dựng doanh trại, tiêu hết đi một ít khí lực cuối cùng, lại để cho những binh lính này ăn no bụng, ai nấy đều vừa mệt vừa buồn ngủ, chắc bụng khó đi lại, lúc đó sẽ...

Nhìn khuôn mặt hắn trung hậu, không thể tưởng được dụng binh lại tàn nhẫn như thế, ai nếu phải làm đối thủ của hắn, thật sự là ác mộng.

Tôn Vũ tựa hồ như biết suy nghĩ của hắn, khóe mắt đảo qua, nói: "Nhân từ không nắm được binh."

Anh Đào cười khan một tiếng: "Tôn tướng quân nói không sai."

Khánh Kỵ gật đầu nói: "Trường Khanh nói có lý, chúng ta chờ thêm một chút, nếu lúc này tùy tiện đánh úp, Cơ Quang nói không chừng sẽ thừa dịp toàn quân chưa kịp cắm trại, lập tức dẫn quân lui về phía sau, hội hợp với nhân mã phía sau, khi đó sẽ không dễ để đánh."

Tôn Vũ nghển cổ nhìn từng đợt khói bếp bốc lên trên thảo nguyên, tự nhủ: "Lại chờ thêm một canh giờ nữa, đêm nay không có trăng, khi đó sắc trời như mực, lợi cho quân ta đục nước béo cò. Đến lúc đó, binh của Cơ Quang vừa mới nghỉ ngơi ăn cơm chiều, nhân mã phía sau cũng vừa mới lục đục tới trong quân doanh, muốn chạy cũng không dễ dàng, lúc này đánh bất ngờ, mới có thể gây ra sát thương lớn nhất với lực chiến đấu của hắn."

Lương Hổ Tử cùng A Cừu, Tái Cừu nghe thấy lời này, cũng không khỏi lạnh cóng cả người.

" Chư vị tướng quân, các ngươi hãy nhìn rõ vị trí đội quân của Cơ Quang. Chăm chú nhìn vào nơi đó, trận hỗn chiến tối nay, chỉ cần chúng ta có một đội quân giết được tới đó, là đại công cáo thành!" Tôn Vũ nói xong quay đầu lại, vừa thấy ánh mắt mọi người, không khỏi sửng sốt, theo bản năng vuốt vuốt mũi và hai má, hỏi: "Có gì không đúng à?"

Chúng tướng đều đồng loạt ra sức lắc đầu: "Không có, không có..."

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 204: Diệt trừ tai mắt (Thượng)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Triền núi phía trước thoai thoải, mấy viên thám báo chậm chạp trèo lên một bãi cỏ trên sườn núi, một người trèo lên được bên trên bèn nằm soãi ra mặt cỏ mềm mại rên rỉ:

- Ông trời của tôi ơi, xương cốt sắp rã rời cả ra rồi.

Thám báo còn lại cũng đặt mông ngồi xuống bên cạnh, uể oải rũ rượi xoa xoa cặp đùi:

- Tướng quốc cũng thật là... Đã vào trong biên giới của nước mình, việc gì phải bắt ra vẻ như đang đương đầu với đại địch ở Sở quốc chứ. Ai da... ngươi nói xem, liệu Khánh Kỵ điện hạ có công hạ được thành Cô Tô không?

Thám báo bên cạnh duỗi thẳng lưng, dang hai chân ra nói:

- Ta thấy khó nhằn lắm, khi thành Cô Tô được xây dựng thì ta đã ở đây rồi, tòa thành này vô cùng kiên cố, Khánh Kỵ điện hạ phải có trong tay mười vạn đại quân, vây hãm thành trong nửa năm, cắt đứt nguồn nước, xây dựng thành cao, đào đắp hào sâu, phía ngoài không có kẻ khác tới quấy nhiễu, thì may ra mới có thể công hạ được, nếu không thì...

Hắn lắc đầu rần rật, hắn nằm xuống gối đầu vào hai tay, đăm chiêu suy nghĩ nhìn về bầu trời càng lúc càng tối đen, lẩm bẩm nói:

- Cũng không hẳn đã là như vậy, sông Trường Giang quanh co khúc khuỷu, cho dù là xuôi theo dòng nước đi xuống hạ lưu, ban đêm dù không sợ đâm phải đá ngầm, cũng không thể tới trước chúng ta được, bây giờ thì sao?

Viên lính ngồi cạnh hắn láo liên đưa mắt nhìn ngó tứ phía, thần sắc bí hiểm nói:

- Ta bảo các vị điều này, mọi người không thấy có điều gì kỳ lạ sao? Nghe nói trước đây khi gặp thích khách trên sông, mũi kích của Yêu Ly đã đâm xuyên qua ngực của Khánh Kỵ vương tử, thế nhưng công tử lại không chết. Lần này, ngài giống như lắp thêm đôi cánh, đi phía trước chúng ta trở về Ngô quốc. Ài, ta kể chuyện này, các ngươi chớ có nói ra ngoài đó nha.

- Chuyện gì thế?

Mấy sĩ binh ngồi bên cạnh nghe thấy vậy thì bắt đầu hào hứng.

Viên thám báo kia nói với giọng bí hiểm:

- Khi ta phụng lệnh đi tới Bách Tân Độ, nghe có người bảo Khánh Kỵ điện hạ khi bị ám sát trên sông Trường Giang thì thật sự đã chết rồi. Nhưng linh hồn của ngài cứ quanh quẩn rồi phiêu bạt lên chín tầng mây, bay lên tới tận thiên đình, nhìn thấy phủ đệ của thần tiên mà thiên đế đã sắp đặt.

Mấy người kia nghe vậy thì kinh hãi thay đổi sắc mặt:

- Ta bảo này Tiểu Xá, ngươi đừng có nói mò, nếu để tướng quốc đại nhân nghe được, thì chắc chắn ngươi sẽ phải chịu tội tung tin đồn thất thiệt mê hoặc chúng dân đấy.

- Ài, thì chẳng phải ở đây không có người ngoài sao? Mấy anh em chúng ta vào sinh ra tử cùng như đã lâu, tình cảm như ruột thịt, làm gì có chuyện tiết lộ ra ngoài chứ?

Mấy người kia lắc đầu lia lịa, một người trong số đó như không thể chờ đợi được nữa nói:

- Ngươi nói đi, tình hình về sau thế nào, thế ngươi nghe tin đó từ đâu?

Tiểu Xá đáp:

- Nghe nói, sau khi Khánh Kỵ điện hạ lên trên thiên đình, thiên đế nói rằng mệnh của người chưa dứt, nên đã cho người hồi sinh trở lại.

- Thiên đế..., thiên đế á! Phàm nhân bỗng dưng lại được gặp thiên đế! Thiên đế chỉ nói một câu đó thôi sao?

Tiểu Xá liếc mắt nói:

- Nói bậy, đó là thiên đế đấy, vốn dĩ thiên đế không coi quản chuyện trong nhân gian, người chịu nói một câu, chịu gặp mặt vương tử Khánh Kỵ, nếu đổi là người khác thì liệu họ có phúc phận như vậy không? Các ngươi xem... điều đó có ý nghĩa thế nào? Chẳng phải có ý rằng chỉ có vương tử Khánh Kỵ mới có thể đưa Ngô quốc...

- Câm miệng!

Một sĩ binh trông có vẻ già dặn đứng kế bên đột ngột biến sắc, tuy trời đã về đêm, lại thêm việc đang ở trên giữa sườn núi cheo leo, bốn bề không một bóng người, nhưng hắn vẫn dáo dác nhìn khắp nơi cảnh giác, nén giọng xuống thật thấp nói:

- Tên tiểu tử nhà ngươi không cần mạng nữa sao, nếu tin này mà để truyền ra ngoài thì chắc chắn sẽ phải chịu trọng tội diệt thân đó.

Tiểu Xá vâng vâng dạ dạ bảo phải, nhưng vẫn không câm nổi miệng nói cố:

- Nhưng nếu không phải là như vậy, thì thật là quái lạ. Chịu phải vết thương nặng như vậy mà vẫn còn sống sót được. Người ta bảo gặp đại nạn không chết thì chắc chắn sẽ có phúc về sau. Còn nữa, điện hạ liên tục sáng tạo ra những vũ khí vô cùng kỳ quái, nghe nói đều là những thứ được nhìn thấy khi đi lên thiên đình nên mới có thể nghĩ ra và sáng tạo được như thế. Lần này, điện hạ có thể tạo ra được chiến thuyền có khả năng mượn sức gió để đi, chắc mẩm cũng là thứ học được trên thiên đình mà thôi.

- Trên thiên đình...

Mấy thám báo đứng bên cạnh không khỏi tò mò nhìn lên trên trời, sắc trời lúc này đã về đêm, toàn không gian là một màu đen u ám, đêm nay không có trăng, ánh sao sáng rọi, phát ra hào quang đẹp mê ly, có từng đám mây bàng bạc, thoắt ẩn thoắt hiện. Đám người đều có chung một cảm giác là kính sợ đối với bầu trời mang đầy vẻ thần bí kia.

Tiểu Xá nói:

- Lúc đó ta còn định hỏi kỹ càng thêm một chút, thế nhưng đám dân công làm thuê chế tạo chiến thuyền trên Bách Tân Độ đó nói rằng thiên cơ bất khả lộ, cho nên khi trước Khánh Kỵ điện hạ lúc bàn chuyện này với đám tâm phúc cũng nói rất sơ sài, đến khi đám tướng tá tâm phúc đó truyền đạt ra ngoài thì lại càng ít ỏi hơn nữa. Điện hạ đã đi lên trời, được diện kiến thiên đế, thể nào mà chẳng hấp thu chút tiên khí trên đó chứ? Khi ta quay về thì không dám nói điều đó ra, chỉ sợ bị tướng quốc khép vào tội dao động lòng quân, rồi lại chặt phăng đầu của ta đi thì toi. Nhưng cứ ỉm đi giữ làm của riêng thì đêm nằm ngủ ta cũng thấy rất bứt rứt khó chịu, không thể ngủ ngon được, mọi người đều là anh em huynh đệ tốt của nhau, nên ta mới nhiều chuyện một chút đấy.

Mọi người đều chùng xuống, vị thám báo già dơ kia lại hắng một tiếng, rồi hỏi:

- Chúng ta có tiếp tục đi lên đó kiểm tra nữa không? Tướng quốc đại nhân đã có lời dặn rằng phải kiểm tra lên tận đỉnh núi nữa.

Một binh sĩ uể oải nói:

- Nếu muốn đi thì tự ngươi đi đi, ta mệt không động nổi tay chân nữa rồi. Trời lại tối om om, tướng quốc cũng không cho phép đốt đuốc, nếu như chẳng may tuột tay rơi xuống dưới thì chẳng phải chết oan uổng lắm sao? Vả lại, nơi này thì làm gì có ai mai phục nổi, họa chăng là thiên binh thiên tướng!

Mấy binh sĩ lười nhác không muốn trèo lên tiếp cũng đồng thanh tán thưởng, một tên nói:

- Diệp đại ca, chúng ta cứ ngồi ở đây, đợi trôi đủ hai canh giờ nữa, thì lại đi xuống rồi bảo là đã kiểm tra xong, ai mà biết được.

Vị huynh đài tên là Diệp đại ca nghe mấy người kia nói vậy thì cũng đằng hắng ngậm bồ hòn làm ngọt.

Được một lúc, Diệp đại ca bỗng nhiên thở dài một tiếng rồi nói:

- Thuở còn nhỏ, nghe tổ phụ(ông nội) nói, những nhân vật cấp cao này đều là những vì tinh tú trên trời hạ phàm xuống đây. Có lẽ... đại vương của chúng ta, còn cả Khánh Kỵ điện hạ, Ngũ tướng quốc nữa, đều là những vì tinh tú trên trời đầu thai xuống nhân gian. Những kẻ phàm nhân tục tử chúng ta, cần phải đi theo sự dẫn dắt chỉ bảo của những nhân vật cỡ bự đó thì mới khá lên được, nếu không thì chẳng làm nên trò trống gì đâu. Thế nhưng... ta hy vọng rằng những vị đại nhân được thượng đế ưu ái kia có thể mang lại cho chúng ta những ngày tháng tươi đẹp. Giờ đây tiết trời đã bước sang xuân, trăm hoa khoe sắc, vậy mà vẫn còn phải đánh trận đổ máu, ở nhà còn có cha mẹ già yếu, vợ đau ốm bệnh tật đang phải nai lưng ra kiếm sống cầm cự qua ngày, thật não cả ruột gan a.

Mấy sĩ tốt đứng kế bên cũng im lặng lắng nghe, ngẩng đầu lên nhìn bầu tinh không, từng vì sao chiếu sáng lấp lánh, giống như đôi mắt của họ vậy. Tâm tưởng của ai nấy dường như đều đang cất cánh về cố hương.

Trong không khí yên tĩnh, Tiểu Xá trầm ngâm nói tiếp:

- Thời gian độ hai năm trước thật tốt biết bao, bất luận thiên hạ loạn thế nào chăng nữa, thì Ngô quốc chúng ta do ở xa tít tận Đông Hải, nên cũng chẳng can hệ quái gì cả. Ban ngày cày ruộng, ban đêm nghỉ ngơi, thỉnh thoảng phải đi đánh trận, nhưng cũng chỉ là đám người Việt quốc rỗi hơi gây sự, gảy một khúc đàn là đã đánh lui bọn chúng nó ra khỏi bờ cõi rồi, không đáng kể cho lắm. Từ khi đương kim đại vương đăng cơ đến nay... Ài, nghe Diệp đại ca kể chuyện thì ta cũng thấy nhớ nhà rồi, trước khi ta bị tuyển mộ đi đánh trận, thì con bò trong nhà đang bị bệnh, lúc đó nó còn đang mang thai nữa, ài, từ đó đến giờ chả có tin tức gì từ gia đình, cũng không biết bệnh biếc của nó đã khỏi hay chưa nữa... Hình như ta lại nghe thấy tiếng kêu của nó rồi đấy...

- Ụm bò, Tiểu Xá nhắm chặt mắt, bên tai vọng lên tiếng bò kêu loáng thoáng đâu đây, hắn bất giác cũng giả giọng tiếng bò kêu.

Trong sơn cốc bao trùm một vẻ yên ắng lạ thường, mỗi người ở trong sơn cốc đều giống như hòa vào không gian xung quanh làm một vậy, chỉ có đôi mắt là phát sáng, mấy ngọn đuốc sáng trưng được ngụy trang dưới tầng đất đá phát ánh sáng chói mắt.

Tôn Vũ đứng trên tảng đá lớn, dặn dò binh lính đứng chật đầy trong sơn cốc:

- Trận chiến đêm nay, kế hoạch tác chiến hành động của chúng ta trước đó đã được phổ biến đến từng binh sĩ, ai nấy đều phụ trách nhiệm vụ cụ thể rõ ràng rồi. Một khi phát động tấn công ập vào doanh trại, thì không cần phải quan tâm tới hiệu lệnh từ cờ quạt nữa, chỉ cần lao thẳng tới phương hướng và mục tiêu đã định trước là được. Lúc tập kết đồng loạt tiến công đương nhiên cũng phải phân chia thành từng nhóm có trật tự hàng lối, nhưng vì đánh đêm nên đội ngũ không được đông đúc quá, cứ lấy hai tư mã làm tiêu chuẩn, nhiều nhất là không quá một tốt binh lực xung phong lên trước, các tốt các lữ các soái lúc phân lúc hợp. Các tướng sĩ chỉ huy nếu như bị chết thì phó tướng phải lập tức thay thế ngay. Kẻ địch của chúng ta đêm nay chỉ là một đám người ngựa mù lòa, một lũ heo ngốc mà thôi. Chỉ cần bỏ chút hơi sức cũng đã làm thịt chúng được rồi, bây giờ chúng ta sẽ nuốt chửng chúng vào bụng, đánh một trận thật sảng khoái.

- Chuẩn bị xong cả chưa?

Tôn Vũ cất tiếng hỏi.

Binh lính trong sơn cốc chẳng ai nói năng gì, chỉ nắm chặt bàn tay, vỗ vỗ vào trước ngực, nắm tay vỗ vào áo giáp, phát ra âm thanh "cồng cộc", hàng cơ số người nhất tề vỗ ngực, khiến cho âm thanh cộng hưởng lại tạo nên tiếng động như sấm rền.

- Làm dấu hiệu!

Trong sơn cốc vang lên âm thanh sột soạt. Mỗi binh sĩ đều được phân phát một chiếc khăn lụa trắng, đây là loại lụa thượng hạng từ Lỗ quốc, bọn họ buộc chúng thật chặt trên đầu, bầu trời đêm bỗng chốc nổi lên một màn trắng xóa.

- Xuất phát!

Tôn Vũ rút kiếm ra khỏi vỏ, chĩa về phía ngoài sơn cốc, binh sĩ trong cốc xuất phát trong câm lặng, lăm lăm binh khí, tràn ra ngoài theo hướng Tôn Vũ chỉ, giống như một dòng thác lũ đang tuôn trào vậy...

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 204: Diệt trừ tai mắt (Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

- Thật kỳ lạ, hình như ta cũng nghe thấy tiếng bò rống ở đâu đó...

Diệp đại ca dỏng tai lắng nghe.

- Ùm... bò...

Tiếng bò rống càng lúc càng gần hơn, hai binh sĩ đứng kế bên cũng nhảy dựng lên:

- Không phải, là tiếng bò kêu thật, đêm hôm khuya khoắt, lại ở giữa núi sâu thế này lấy đâu ra bò kêu ở đây?

Tiểu Xá vội vàng ngồi nhỏm dậy:

- Không sai, đúng là có tiếng bò kêu...

Bọn họ hoang mang đưa mắt nhìn nhau, vội đi theo hướng âm thanh phát ra tiếng bò kêu, khi đi tới ven sơn cốc, tiếng bò kêu lại càng rõ ràng, âm thanh cũng gần hơn, từng đám lửa trong sơn cốc được nhanh chóng thắp lên, đám lửa bỗng bùng lên rồi di động! Tiếng bò rống càng lúc càng gần, khoảnh đất đột ngột trở nên chấn động.

Bọn họ đứng ở trên triền núi, trợn mắt há hốc miệng nhìn về phía sơn cốc, giống như là đang nhìn thấy một bầy quái vật. Âm thanh ì ầm đó vang rền trong sơn cốc, bắt đầu cộng hưởng thành một tiếng gầm khủng khiếp, sau đó giống như dòng nước đại hồng thủy mạnh mẽ lao về phía doanh trại quân Ngô.

- Đó... đó là loài quái vật gì thế?

Ánh mắt của Tiểu Xá đơ dại dõi theo những đám lửa ma trơi đang di động với tốc độ kinh hồn kia, kinh ngạc nhìn xuống doanh trại quân mình dưới sườn núi. Diệp đại ca hớt hải thét lên kinh khiếp:

- Không phải ma quỷ gì đâu, tập kích, có kẻ tập kích!

Bọn họ đã không còn kịp báo tin nữa rồi, phía trong sơn cốc bỗng nhiên trào ra hàng ngàn đốm lửa, không biết có bao nhiêu binh sĩ đang giương đuốc thần tốc lao về phía trước, mấy thám báo đứng trên triền núi thậm chí còn nhìn rõ cả những bộ mặt đằng đằng sát khí và vũ khí lăm lăm sáng lóa trên tay họ.

Diệp đại ca ngồi bệt mông xuống dưới, hít vào một hơi, ngán ngẩm nói:

- Hết rồi, hết rồi, bọn chúng... tại sao lại xuất hiện được ở nơi này chứ?

Doanh trại được bao biện đơn sơ vốn dĩ không thể ngăn cản được bước tiến của đám hỏa ngưu, đám trâu nước hung hăng gắn ở mông một bao cỏ rơm đang bốc cháy nghi ngút, lao thẳng xuống con đường thẳng tắp phía dưới, gặp người húc người, gặp trại húc trại, dường như không gì có thể ngăn được bước tiến của chúng.

Binh sĩ trong doanh trại đã cởi bỏ giáp trụ, nhưng phần đông vẫn chưa ngủ, Giang Hoài lúc này vừa duyệt đội ngũ, ăn cơm no nê xong, đang ngồi vắt vẻo trên chiếc nệm cỏ, tháo bỏ giầy ra, đang lim dim thao thức, bỗng nhiên nghe thấy một tiếng động rì rầm từ đâu truyền tới, hắn đưa mắt dò hỏi đám binh sĩ nằm cùng trướng, nhưng chẳng ai biết là đã xảy ra chuyện gì hết. Một con trâu nước to lớn liền "rầm" một tiếng húc tan chiếc lều, bỏ mặc mọi thứ cắm cổ trối chết lao qua, Giang Hoài cảm thấy hình như chân mình còn hơi sượt qua chân của một con trâu khác.

Phía sau mông của đám trâu nước treo một chiếc đệm cỏ, lũ trâu điên bổ ngang đâm dọc lao tới tấp, phá tan doanh trại, rồi còn lôi theo đống lều trại vải trướng tiếp tục bổ về phía trước, Giang Hoài lấy một tay ôm chân, một tay cầm tăm xỉa răng, mắt ngây dại ngồi thu lu một chỗ, lều trướng bị kéo phăng, bỗng chốc hắn nhìn thấy những vì sao, bầu trời, còn có cả con đường lấp ló...

Lều trướng trại doanh bị đám trâu điên kéo đi bị lửa phía đằng đuôi của chúng bén gọn, lửa cháy càng lúc càng to, đám lửa cứ bám theo phía sau mông lũ trâu nước, chỉ có chạy trối chết về phía trước mới có thể mượn gió đẩy ngọn lửa dạt về phía sau cho bớt nóng, như vậy thì đám trâu nước mới cảm thấy dễ chịu hơn chút được. Thế nên bọn chúng vận hết sức, dặn hết mình, chạy ngang bổ dọc càng nhanh hơn, những nơi đi qua người ngã ngựa đổ thành một đống hỗn độn.

Theo sát đó là đại quân của Khánh Kỵ. Đôi bên hiện tại đều không có binh xa công phá doanh trại trong các cuộc dã chiến, vả lại, Ngô quốc là vùng sông nước, điều kiện địa lý như vậy cũng không cần người Ngô phải trang bị các loại binh chủng chiến xa, trong các cuộc chiến tranh nổ ra tại Lỗ quốc, phần lớn là đôi bên bày trận đồ sát lẫn nhau. Giờ đây quân Khánh Kỵ đang khẩn trương đột phá đại bản doanh của đối phương, đoạt lấy trung quân, vốn dĩ chỉ dựa vào bộ tốt đột kích. Thế nhưng hơn một trăm con trâu nước được lấy từ vùng Yểm Thành về lại tạo ra những hiệu quả còn ghê gớm hơn cả chiến xa, chỉ trong nháy mắt chúng đã biến doanh trại của quân Ngô hổng một lỗ lớn. Khi quân đội Khánh Kỵ tiến vào doanh trại quân Ngô, phía trước không hề thấy quân địch ra ứng chiến.

Trong quân đội ban ngày lấy cờ quạt làm hiệu, ban đêm lấy đèn đuốc làm hiệu, còn có một loại hiệu lệnh thông dụng cho cả ngày lẫn đêm, đó chính là cổ nhạc(trống quân), thế nhưng trong trận đại chiến, tiếng gầm thét chém giết vang trời, cự ly giữa các binh đoàn lại cách nhau xa, thì tiếng trống cũng bị lấn át đi, nên chỉ còn cách lấy đèn đuốc làm hiệu lệnh, do vậy nên phải trái trước sau, phía trên thành lầu, đều thắp đèn hiệu, dựa theo số lần nhấp nháy và số lượng đèn thắp để truyền đạt quân lệnh.

Còn Khánh Kỵ thì sau khi đưa quân ập vào doanh trại, lập tức phái một đội quân tinh nhuệ tiến về phía lầu quan sát, lập tức những rừng tên phóng ra tới tấp, giống như thể bắn không tiếc tay vậy, trong những trận đại chiến liên miên, số lượng tên còn lại đã không nhiều. Toàn bộ tập trung trong tay đội đột kích này. Đám tên trút như mưa của đội quân đột kích này đã hạ thủ được đám binh vệ trên lầu gác. Tiếp đó vứt bỏ hết đám cung tên lúc này đã không còn tác dụng, rồi cầm lấy rìu giắt ở sau lưng. Vung ngang bổ ngửa chém loạn xà ngầu, chém cho vụn gỗ bay tứ tung, chẳng bao lâu sau, một lầu quan sát đã bị đốn cho đổ sụp xuống, mang theo những tiếng kêu thảm thiết của đám binh sĩ phía trên, rơi xuống đất, thịt xương bay tung tóe.

Đám quân lính trong doanh trại Ngô bất ngờ gặp phải cuộc tập kích quá đỗi bất ngờ và mạnh mẽ như vậy đã trở nên hoảng loạn mất tinh thần, còn Khánh Kỵ thì đã có sự chuẩn bị trước, trước đó quân sĩ đều đã được phổ biến quân lệnh, sau khi tiến vào doanh trại quân Ngô thì không cần phải nghe theo hiệu lệnh gì hết, cứ dựa theo thế trận của đội mình, lần lượt giết sạch những lều trại hai bên, lấy lầu gác truyền đạt hiệu lệnh làm nơi tập trung cờ xí, ào ạt lao tới.

Quân đội Khánh Kỵ được nhận diện bằng chiếc khăn đầu màu trắng cấp tốc lao tới mục tiêu, những binh lính Ngô vội vã chui ra từ trong những lán trại đứng chắn đường phía trước đều bị chém chết sạch, rồi ngay sau đó đoàn quân lại ồ ạt xông lên, đám quân Ngô mất đi sự thống nhất khi điều động quân của hệ thống chỉ huy, trở nên hoảng loạn giống như rắn mất đầu, chỉ bất lực theo bản năng giương cao vũ khí lên chống đỡ, đám quan quân chỉ có thể tụ tập binh lính trong phạm vi nhỏ thành từng tổ đội tự lo chiến đấu.

Quân Khánh Kỵ vốn có tổng cộng ba vạn năm ngàn người, trong mấy trận đại chiến ở Sở quốc bị tổn thất mất năm ngàn người, thu nạp được ba ngàn binh lính chiêu hàng, cộng thêm bảy ngàn quân hội tập với Tôn Vũ, tất thảy có bốn vạn người, tuy đánh thành Cô Tô chỉ là đánh nghi binh, nhưng cũng không được đưa quân ra quá ít, nếu không sẽ bị quân địch nghi ngờ, cho dù Phù Sai không điều binh đến tiếp ứng cho Hạp Lư, thì chỉ cần mang quân xuất thành giao chiến, thì đám quân vây thành này chắc chắn sẽ bị tiêu diệt, số quân giữ lại công thành và đám quân dùng làm kế nghi binh do Kinh Lâm giữ là một vạn người, như vậy, đám quân tham gia cuộc đột kích núi Thiên Mục lần này chỉ có ba vạn người.

Lúc này Anh Đào, Lương Hổ Tử mỗi người giữ năm ngàn quân, lẳng lặng di chuyển ra bên cánh trại Ngô, đứng trên cao quan sát không vội tham chiến, bản trận của Khánh Kỵ và Tôn Vũ để lại do Xích Trung thống soái để làm quân dự bị là năm ngàn người, đội quân chính thức phụ trách việc áp sát đột nhập doanh trại quân địch cắt đứt phòng tuyến chỉ huy, gây rối loạn quân ngũ địch chỉ có một vạn rưởi người. Nhưng khi bọn họ đã chiếm được thượng phong, lại có mục tiêu đã định sẵn, không giống như những binh sĩ Ngô đã mất chỉ huy, thể lực mất đi sự đáng sợ vốn có, một vạn năm ngàn người kia khuấy đảo hàng phòng ngự của quân địch, khiến chúng hoang mang khôn xiết.

Tiền doanh vừa truyền đến tin báo động, Ngô vương Hạp Lư, Ngũ Tử Tư, Bá liền lục tục mặc giáp trụ, Ngũ Tử Tư lập tức truyền lệnh dàn xếp thế trận, trường mâu thủ đứng phía trên, kiếm thuẫn thủ bọc sau, tạo thành các thế trận hình tròn, cùng lúc đó phát ra tín hiệu đèn trại, lệnh cho các doanh tập hợp quân bày đặt thế trận. Trung quân, hậu doanh, tả doanh, hữu doanh nối lại tạo thành thế trận hình tròn cố thủ bản doanh, nhưng khi Hạp Lư vừa mới phát ra tín hiệu thăm dò, trong lúc vẫn chưa được hồi âm, thì bỗng nhiên tín hiệu đèn trại ở hữu doanh bị vụt mất giống như tiền doanh, tình hình ở vùng chiến sự trong khu đó nhất thời mất liên lạc, cũng không biết là cả tòa thành trại đã thất thủ, hay chỉ là hệ thống chỉ huy bị phá vỡ.

Bá lập tức phái hai viên lữ soái mỗi người lĩnh năm trăm quân phối hợp với nhau đi tiếp ứng hữu doanh, Ngũ Tử Tư sau khi ổn định doanh trại, soái nhiệm chủ soái, soái hai ngàn năm trăm quân đột phá khu trung lộ, xếp thành đội hình chặt chẽ, áp chế tiền doanh, phản ứng không thể không gọi là nhanh chóng được.

Từ hai bên sườn núi, Anh Đào và Lương Hổ Tử nhìn những đốm lửa di động trong doanh trại quân Ngô, đã hiểu được ý đồ của quân Ngô, không khỏi thầm khen ngợi Tôn Vũ thần cơ diệu toán. Quân Ngô tuy phải lặn lội đường xa mệt nhọc, nhưng dù sao cũng là những quân sĩ tinh nhuệ trải qua trăm trận, kinh nghiệm tác chiến phong phú, tính toán của Tôn tướng quân quả nhiên không sai, công tử nghĩ ra diệu kế dùng hỏa ngưu trận, lại tập kích lúc đêm tối, cắt được tai mắt của quân địch, nhưng hiện tại mới chỉ cắt được tín hiệu từ hai tòa đại doanh, Ngô quân lúc này đã chỉnh đốn quân đội, trong thủ có công rồi.

- Thắp tín hiệu!

Anh Đào vừa dặn dò xong, một sĩ tốt đứng cạnh lui về sau vài bước, thắp lên một ngọn đuốc, nâng cao rồi huơ qua huơ lại mấy lần giữa sườn núi tối đen như mực. Đứng ở vị trí đó, người đứng ở ngọn núi đối diện có thể nhìn thấy rõ ràng, đám hỗn quân ở dưới mặt đất cho dù ngẩng đầu lên nhìn tới cũng không thể nhìn thấy gì cả.

Tĩnh lặng trong chốc lát, phía núi đối diện truyền lại tín hiệu tương tự, Anh Đào lấy ra bội kiếm sau lưng, cắm vào kẹp giữa dây đai và vạt áo, rút lên thanh trường mâu đang đặt kế bên, mũi mâu hướng xuống dưới núi, quát lớn:

- Mục tiêu, cánh trái lầu gác, tấn công!

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 205: Cắt đứt tay chân (Thượng)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Từ hai bên sườn núi, Anh Đào và Lương Hổ Tử nhìn những đốm lửa di động trong doanh trại quân Ngô, đã hiểu được ý đồ của chúng, không khỏi thầm khen ngợi Tôn Vũ thần cơ diệu toán. Quân Ngô tuy phải lặn lội đường xa mệt nhọc, nhưng dù sao cũng là những quân sĩ tinh nhuệ trải qua trăm trận, kinh nghiệm tác chiến phong phú, tính toán của Tôn tướng quân quả nhiên không sai, công tử nghĩ ra diệu kế dùng hỏa ngưu trận, lại tập kích lúc đêm tối, cắt được tai mắt của quân địch, nhưng hiện tại mới chỉ cắt được tín hiệu từ hai tòa đại doanh, Ngô quân lúc này đã chỉnh đốn quân đội, trong thủ có công rồi.

- Thắp tín hiệu!

Anh Đào vừa dặn dò xong, một sĩ tốt đứng cạnh lui về sau vài bước, thắp lên một ngọn đuốc, nâng cao rồi huơ qua huơ lại mấy lần giữa sườn núi tối đen như mực. Đứng ở vị trí đó, người đứng ở ngọn núi đối diện có thể nhìn thấy rõ ràng, đám hỗn quân ở dưới mặt đất cho dù ngẩng đầu lên nhìn tới cũng không thể nhìn thấy gì cả.

Tĩnh lặng trong chốc lát, phía núi đối diện truyền lại tín hiệu tương tự, Anh Đào lấy ra bội kiếm sau lưng, cắm vào kẹp giữa dây đai và vạt áo, rút lên thanh trường mâu đang đặt kế bên, mũi mâu hướng xuống dưới núi, quát lớn:

- Mục tiêu, cánh trái lầu gác, tấn công!

Năm trận kết doanh, đan xen vào nhau, một khi kết trận thành công thì sẽ khiến cho kẻ địch vô luận là tấn công từ hướng nào cũng đều phải trả một cái giá rất đắt mới có thể tiếp cận được doanh trại. Ngũ Tử Tư dự liệu rằng cho dù Khánh Kỵ có đặt binh mai phục ở nơi này thì binh lực của hắn cũng không thể nào đông đảo hơn của mình được. Mục tiêu của cuộc tập kích vào trại quân lần này ắt hẳn là trung quân, nếu như quân địch liều mạng tới cùng tấn công vào trung quân, vậy thì lúc đó các đại doanh quây tụ xung quanh đã tập kết ổn định trận tuyến sẽ được điều động, bao vây ngược trở lại quân địch ở trung tâm.

Nhưng Tôn Vũ cũng đã nghĩ tới tố chất binh sĩ quân Ngô, tuy rằng binh lính đã phải đi suốt một chặng đường mệt mỏi, thể lực sĩ khí đều chịu phải ảnh hưởng không nhỏ, nhưng dù sao thì đó cũng không phải là một đội quân vừa mới gặp phải tập kích đã lập tức tan rã đội hình. Huống hồ nhân vật cầm quân bên phía Ngô lại không phải là kẻ chỉ có hư tài, nơi này là Ngô quốc chứ không phải Sở quốc, hiện tại Ngô vương lại đang ở trong doanh trại, lòng quân vô cùng vững chãi, cho nên vốn dĩ cũng không nghĩ tới chuyện tập kích một trận mà thắng toàn cục. A Cừu, Tái Cừu dẫn quân chọc thẳng vào chính giữa hàng ngũ địch, hai bên tả hữu còn an bài binh sĩ tiếp ứng.

Lúc này đại doanh quân Ngô vừa mới ổn định thế trận, Lương Hổ Tử và Anh Đào ở hai bên tả hữu cũng đã bắt đầu rục rịch phát động.

Hai cánh quân tả hữu tràn từ trên núi xuống, còn cần phải đi qua một đoạn đường trống thì mới đánh vào trong Ngô doanh được. Cánh quân bên trái quân Ngô vừa mới ổn định đội hình, năm doanh trại của Cơ Quang mỗi doanh đều có khoảng trên dưới một vạn quân, lúc này một vị tướng soái đang điều binh chống cự lại đội quân thế như mãnh hổ của Khánh Kỵ, trong lúc đang vất vả đối phó thì lại chui ra một đạo kì binh bên cánh sườn, thế trận vừa mới được ổn định nhất thời lại bị buông lỏng, quân tướng tả doanh lập tức lại cử hai vị tướng soái nữa ra đón đầu chặn địch, hai bên bước vào cuộc hỗn chiến.

Binh sĩ Giang Nam phần nhiều đều có thể hình thấp bé, nhưng thấp bé cũng có lợi thế của nó. Ngô binh sống ở vùng sông nước Giang Nam được trang bị áo giáp, cầm khiên cứng, vững đoản kiếm, đánh trận gan dạ, lanh lẹ cơ trí, nếu như ở trong một vùng đất như vậy của Ngô quốc đụng độ với đội binh xa tinh nhuệ bách chiến bách thắng phương Bắc, thì những chiến xa đó cũng chỉ làm đồ chơi, chả có tác dụng gì cả. Thế nhưng hiện tại binh lính đôi bên đều là những đội quân tinh nhuệ áp dụng chiến thuật quân Ngô, các binh chủng trong quân đội đều là những kiếm thuẫn thủ tay cầm đoản kiếm. Do bóng đêm dày đặc, nên trường mâu thủ không thể phối hợp tác chiến được. Vũ khí sử dụng được chỉ là những binh khí ngắn dùng đánh giáp lá cà.

Ở cánh quân bên phải, các binh sĩ vẫn còn chưa kịp hoàn hồn, đã bị một đội quân chừng hơn năm trăm người cưỡng công xộc vào trong doanh, huỳnh huỵch chặt đổ những lầu quan sát liên lạc thông tin, ngay sau đó liền bị quân Ngô bao vây, đám quân Ngô vẫn còn đang kinh hồn bạt vía lúc này đã tập trung lực lượng phát động tấn công áp đảo đối với một nhóm quân tiên phong của Khánh Kỵ, điên cuồng công kích, máu chảy lênh láng khắp nơi. Những binh sĩ hàng trên bị kiếm kích đâm quỵ, những binh sĩ phía sau lập tức lao lên thay thế, trận chiến vô cùng ác liệt, chẳng bao lâu, đội hình phòng ngự của đội ngũ năm trăm người đã càng lúc thu hẹp dần, quân số cũng giảm xuống còn hơn ba trăm người, trong vòng tròn phòng ngự được thu nhỏ từng lúc kia nằm la liệt những thi thể binh sĩ hai bên.

Đúng vào lúc này, binh mã của Lương Hổ Tử đã tới, tiếng thét giết rung trời, binh lính trong trại dao động nhân tâm, những binh sĩ tinh nhuệ trong đội quân của Khánh Kỵ đang gồng mình chiến đấu quyết tử trong vòng vây khốn đẫm máu của quân Ngô tinh thần phấn chấn, cao giọng đồng thanh hét:

- Viện binh đến rồi, viện binh đến rồi!

Vừa la hét, vừa chuyển từ thế trận hình tròn sang thế trận hình chữ chùy( giống như mũi tên), xông vào đạo quân bên trái điên cuồng chém giết phá vòng vây.

Phía sau lưng bọn họ, quân sĩ của Khánh Kỵ từ tiền doanh giết tới nối thành những hàng dài không dứt, nhưng lúc này đã bị chặn lại bởi đội quân hữu doanh đã ổn định lại tinh thần, hai bên đang trong cuộc hỗn chiến. Ba trăm tráng sĩ kia chọc thủng doanh trại quân Ngô, vừa chém giết tìm đường thoát vây, vừa cầm lấy đuốc ném bừa ra tứ phía phóng hỏa doanh trại. Còn Lương Hổ Tử bao vây vòng ngoài, dẫn năm nghìn quân hừng hực khí thế đang khẩn trương mở một con đường đột phá doanh trại quân Ngô phía trước lúc này đang được phòng thủ bằng những cỗ chiến xa kiên cố.

Binh mã của Lương Hổ Tử giết tới trận tiền, phá vỡ những hàng rào gỗ sơ sài vừa được chôn đêm đó, phía trước mặt chính là chiến xa của quân Ngô, xe ngựa gắn kết với nhau tạo thành xa trận, quân Ngô dựa vào xa trận với số ít cung thủ và trường mâu đại kích kháng địch. Binh mã của Lương Hổ Tử sau khi có khoảng hơn trăm người ngã xuống đã tiếp cận được xa trận, hàng trăm móc câu đồng thời được quăng ra, không cần biết có móc trúng cái gì không, cầm tay chạy ngược trở lại, những binh sĩ yểm trợ phía sau nhất tề kéo mạnh dây thừng, khiến cho những sợi dây thừng đều được kéo căng thẳng tắp.

Đám binh sĩ đồng loạt kinh hô, rồi kéo những xe ngựa chạy ra tứ phía, những binh sĩ Ngô bị móc câu móc vào người hoặc bị càng xe ép vào trong trung tâm kêu thét thảm thiết, canh ba giữa đêm, giống như tiếng quỷ kêu khóc. Đám xe bị kéo giãn, xa trận của quân Ngô bị trống hoác một lỗ lớn, Lương Hổ Tử cầm kiếm sắc trong tay, hét lên hiệu triệu:

- Giết!

Rồi thúc ngựa xông lên trước lao vào trận địa quân địch.

Cùng lúc đó, binh sĩ Ngô cũng bắt đầu chen chúc lấp lại lỗ hổng, một viên sĩ tốt bên Ngô gào thét khản cả cổ, nhưng đáng tiếc là chẳng có mấy ai nghe thấy tiếng kêu của hắn, màn đêm tăm tối, đâu đâu cũng là cảnh hỗn loạn, không những không tìm thấy quân trống hiệu ở cạnh bên chờ lệnh, mà còn không có cách nào dùng đăng hỏa làm hiệu, hắn cắn răng mấy cái, giơ trường mâu lên rồi cũng lao vào trong dòng người đang trương phình ra chen chúc nhau tại lỗ hổng.

Tiếng kêu thảm vang lên tứ phía, những người đang đánh nhau gân cổ gào thét đều cảm thấy như ngay cả giọng của mình cũng không nghe thấy được, đâu đâu cũng là những binh sĩ đang xáp lại hỗn chiến tưng bừng, bên cạnh người đổ xuống không ngừng, nhưng cũng chẳng có ai bận tâm tới cả. Lương Hổ Tử bị vấp phải một thi thể, loạng choạng chúi người về phía trước mấy bước rồi mới đứng vững lại được, một tay kiếm thuẫn thủ cầm đoản kiếm sắc bén đâm tới, bị những hỗ binh bên cạnh hắn giương kiếm ra chống đỡ, Lương Hổ Tử đá một cước vào giữa chiếc khiên của hắn, khiến hắn bay ngửa ra sau, đang định lấn bước đâm tới bồi thêm một kiếm, nhưng không biết từ đâu lại đã có binh sĩ lao ra "phập" một tiếng, nhát kiếm đâm trúng vào cổ họng tên đó.

- Tướng quân!

Hỗ binh bên cạnh đỡ hắn đứng vững, Lương Hổ Tử định thần lại, chỉ cảm thấy trên má hơi man mát, thò tay lên lau thì mới cảm thấy đau rát, máu mê nhẫy nhụa khắp bàn tay, không biết bị mũi kiếm sượt qua từ lúc nào, hắn lại chẳng phát giác được ra.

- Không cần ham chiến, chỉ cần tập trung nhân mã, đánh thẳng tới đại trướng trung quân!

Lương Hổ Tử hạ lệnh với giọng nói khàn khàn.

- Rõ!

Những hỗ binh đứng sau lưng hắn lấy từ sau lưng ra một cái mõ, tiếng mõ khiến cho những bộ hạ đang tứ tán bốn phía tìm địch truy sát tập hợp lại, vừa mới điểm lại đội hình, Lương Hổ Tử liền vội vã vung kiếm lên, tiết tấu của tiếng mõ lại được thay đổi, quân Khánh Kỵ lấy Lương Hổ Tử làm trung tâm, xếp thành thế trận hình trữ chùy lao vào doanh trại quân Ngô.

Anh Đào lúc này đã mở ra một lỗ trên phòng tuyến của quân Ngô, kế hoạch tập kích bất ngờ của hắn thất bại, không phá hỏng được lầu quan sát của quân Ngô, đội quân của hắn xếp thành hình chữ truy lao thẳng vào doanh trại quân Ngô, quân Ngô từ hai bên cánh không ngừng được điều động tới đây, các loại đèn hiệu trên lầu quan sát không ngừng được thay đổi, thỉnh thoảng lại truyền đạt tình hình chiến trận tới đại doanh trung quân, khi thì lại truyền đạt quân lệnh tới quân sĩ bên cánh trái, truyền lệnh điều động quân lính phòng thủ bao vây lấy đám người ngựa của Anh Đào đang đột phá vào trong.

Quân Ngô bị những binh sĩ của Khánh Kỵ hung hãn liều mạng đâm đầu lao tới, chọc thủng một hàng tuyến rất sâu trong doanh trại, nhưng được sự chỉ huy của đèn hiệu, bọn họ nhanh chóng tập hợp thành những đội nhân mã phản công trở lại, hai đạo quân Ngô không ngừng tràn về phía đội quân của Khánh Kỵ, lợi dụng khuyết điểm trong thế trận hình chùy, chia cắt khu trung tâm của đối phương, xử lý sạch sẽ đám quân tiên phong của Khánh Kỵ lúc này đã tiến vào quá sâu.

Anh Đào cầm thanh trường mâu đầm đìa máu lao về phía trước, hắn được hàng trăm binh sĩ mặc giáp sắt, cầm kiếm sắc làm hỗ binh, dần dần áp sát tới lầu quan sát của quân Ngô.

Tiền phương, đèn đuốc sáng trưng, tướng quân Ngô Hạ Thiên đứng trước trận tiền, phía sau là đội ngũ chỉnh tề, đan xen chặt chẽ, đông vô số kể, mũi kích lăm lăm.

- Hảo hán tử, lại đánh được tới tận trướng soái của ta cơ đấy, có dám quyết một trận sinh tử với ta không?

Hạ Thiên trừng mắt nhìn, đanh giọng quát lớn.

Nếu là Anh Đào một năm trước, lúc này chắc hẳn đã cởi bỏ áo giáp, cởi trần cầm trường mâu ra tiếp nhận lời khiêu chiến của hắn rồi. Nhưng giờ đây..., hơn một năm qua, trước sau đã đi theo Khánh Kỵ và Tôn Vũ, pha trộn tính cách của hai nhân vật trên, bản tính vốn có trong dòng máu của Anh Đào đã bị biến chất từ lâu rồi.

Hắn đưa mắt láo liên, nhìn thấy rõ tình thế trước mặt, liền cười lạnh một tiếng, quát lớn:

- Tốc chiến tốc thắng, hạ thủ lầu quan sát, xốc thẳng tới trung quân của Cơ Quang!

Dứt lời ẩn vào trong những hỗ binh sát khí đằng đằng xông lên phía trước.

Hạ Thiên hai tay hai mâu, trông thấy hắn làm như vậy không khỏi ngạc nhiên, hắn còn chưa kịp phản ứng gì thì đã bị hàng trăm binh sĩ còn chưa động thủ từ nãy đến giờ bao bọc lấy Anh Đào xuất hiện, đám lính này trong tay ai cũng lăm lăm những chiếc nỏ Sở đắt đỏ, chỉ nghe thấy những tiếng lên dây cung, rồi sau đó là một trận mưa tên được bắn ra không chút do dự, đổ ập xuống đầu đám lính Ngô đang chúm chụm lại với nhau trong doanh trại.

- Hèn hạ!

Hạ Thiên trợn mắt hô to, hai chữ vừa mới thoát ra khỏi miệng, đã có hai mũi tên bắn vào trong miệng hắn, một mũi cắm xuyên, một mũi xuyên vọt ra ngoài, mang theo một luồng máu tươi, những mũi tên trúng vào người hắn càng không đếm xuể, đám quân Ngô tập hợp ở trước trận doanh đổ rạp như cắt lúa mạch vậy.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 205: Cắt đứt tay chân (Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Không đợi Ngô quân ở phía sau kịp phản ứng, những cung tiễn thủ kia lại tiếp tục lạnh lùng rút tên ra, lên dây cung, lượt tên thứ hai lại được bắn ra. Sau đó là lượt thứ ba..., tiếng lên dây cung khủng bố đè nén những tiếng kêu thảm thiết, những mũi tên sắc bén có thể đâm xuyên bốn tầng áo giáp, huống chi là đám quân Ngô vừa mới thiu thiu thức dậy, đến cả áo giáp cũng chưa kịp mặc. Những mũi tên bắn xuyên qua cơ thể, từng hàng từng hàng thi thể quân Ngô chất đống chồng chất.

Loại nỏ Sở này được gia công rất tốn kém, ngay cả mũi tên thôi cũng đã đắt hơn nhiều so với mũi tên thông thường, Khánh Kỵ vốn định trang bị cho toàn quân loại vũ khí tân tiến này, nhưng đến khi sờ tận tay nó mới thấy là đống vũ khí này đốt tiền của hắn kinh khủng thế nào, đến cả một quốc gia giàu có như Sở quốc cũng không dám tiêu xài hoang phí, nên Khánh Kỵ chỉ trang bị cho một bộ phận quân chủ lực loại vũ khí này, hắn cũng không nghĩ tới vấn đề về lâu về dài, chỉ có nắm chắc hiện tại mới có được tương lai, đương nhiên phải dốc hết tiền lực vật lực, lần phạt Ngô này đã tiêu tốn tất cả, cho dù như vậy, hắn vẫn không thể đạt được mục tiêu trang bị cung nỏ Sở cho toàn quân, binh lính được cung cấp loại nỏ Sở này tổng cộng chưa đến hai nghìn người, lần quyết chiến này đã được đem đi sử dụng hết nhẵn.

- Giết!

Anh Đào trầm giọng gầm lên, soái lĩnh binh sĩ xông lên phía trước, giống như một trận cuồng phong, đạp trên những đống thi thể chất chồng như núi, tung bay trên không, một mâu đâm thẳng vào quân địch phía trước.

- Cấp tốc hủy diệt lầu quan sát!

Anh Đào gạt phăng một binh sĩ Ngô ra, thở hổn hển nói, bốn bề khí nộ xung thiên, tuy rằng thể lực quân Ngô yếu kém, đã không còn sức chiến đấu như trước, nhưng dù sao chúng cũng là người đông thế mạnh, hơn nữa chúng cũng biết được tầm quan trọng của lầu quan sát. Tiếng hô xung trận của Anh Đào chỉ là phí công phí sức, lấy mạng người để bù đắp, hắn cố sống cố chết xông tới dưới lầu quan sát.

Mười mấy binh sĩ cầm rìu bén bắt đầu lao lên trước đốn hạ khung trụ của lầu quan sát, một binh sĩ Ngô trúng tên nằm dưới đất nghe thấy tiếng nói của Anh Đào, biết được hắn là tướng của Khánh Kỵ, liền dùng chút hơi tàn đâm về phía bụng của hắn, Anh Đào hoảng mình cảm thấy dưới mặt đất có bóng người khẽ động đậy, vội né mình sang một bên, nhát kiếm đâm trúng đùi hắn, lập tức máu chảy ra như suối, mấy binh sĩ bên cạnh vừa giật mình vừa tức giận, lao lên trước đâm chém đủ kiểu vào tên lính Ngô kia, trong chốc lát thân thể hắn đã nhão nhoét như bùn.

- Đèn hiệu bên tả doanh bị hủy rồi!

Trong doanh trại chỉ huy của Ngô quân lập tức xôn xao, Cơ Quang lóe chớp mục quang, quát lớn:

- Truyền lệnh, tất cả quân sĩ tựa vào trung quân.

- Khoan đã!

Ngũ Tử Tư vội ngăn cản:

- Không được đâu đại vương, hiện tại tình hình chiến trận đang rất hỗn loạn, trước sau trái phải trận doanh đều có địch, địch ta lẫn lộn với nhau, một khi truyền lệnh tập hợp, quân địch sẽ tự động kéo lại đây, thừa cơ xông thẳng tới trung quân. Hiện tại tuy chúng ta đã mất thông tin về tình hình ba trại tiền tả hữu, nhưng vẫn có thể phát lệnh ra cho quân sĩ, nếu như lầu quan sát của trung quân bị hủy, dù có trăm vạn đại quân cũng chỉ như người mù cưỡi ngựa mù, chỉ còn biết mặc cho quân địch chém giết.

Cơ Quang nghe xong thì kinh hãi:

- Tướng quốc nhắc đúng lắm, vậy giờ chúng ta nên làm gì đây?

Ngũ Tử Tư nói:

- Chỉ còn cách lệnh cho quân sĩ ba doanh tiền tả hữu tập kết lại, tập trung cố thủ, đến khi trời sáng. Hậu doanh có thể tiếp cận được với trung quân phối hợp tác chiến.

Cơ Quang vuốt cằm nói:

- Được, cứ theo lời tướng quốc đi, truyền lệnh xuống dưới, hậu doanh áp sát trung quân, ba quân ở tiền tả hữu cố gắng phòng thủ, ngăn chặn quân địch công phá trận thế của ta đến khi trời sáng.

Doanh trại chỉ huy của trung quân của Cơ Quang thiết lập bốn lầu quan sát, bốn lầu quan sát lập tức phát đèn hiệu truyền đạt mệnh lệnh của Cơ Quang. Ánh đèn nhấp nháy cũng truyền đến bản trận của Khánh Kỵ, cờ hiệu đèn hiệu của quân Ngô hơi có chút sai khác so với trước, nhưng đại để giống nhau, muốn thay đổi cờ hiệu đèn hiệu, huấn luyện xuống toàn quân vào thời đó không phải việc dễ dàng, vì vậy Khánh Kỵ là tướng lĩnh của quân Ngô một năm trước vẫn có thể hiểu rõ tín hiệu đó là gì.

Hắn vừa nhìn vừa lý giải cho Tôn Vũ, Tôn Vũ nói:

- Cơ Quang quả nhiên sử dụng kế sách này, loạn trung thủ thắng, chặt đứt đầu não của địch trong đêm tối là một chuyện vô cùng khó khăn, giờ đây Cơ Quang đã sử dụng chiến thuật như vậy, chúng ta chỉ cần sử dụng kế hoạch hai là được.

Khánh Kỵ gật đầu:

- Một trận mà tiêu diệt được đầu não quả thực là vô cùng khó khăn, hắn mà chạy trốn trong đám loạn quân thì cũng khó mà bắt được, phương án hai quả là rất hợp với ý của ta, Cơ Quang lệnh cho các doanh trại tử thủ, còn mình thì rụt đầu không chịu chui ra, cờ hiệu đèn hiệu ở tam quân tiền tả hữu đã bị chúng ta triệt phá, tin tức từ các doanh trại không thể truyền tới chủ doanh được, hắn không nắm được tình hình, cũng không dám mạo muội dẫn quân đi tiếp ứng, phù hợp cho chúng ta tập trung binh lực, tiêu diệt sinh lực địch.

Tôn Vũ thở phào nhẹ nhõm như trút được gánh nặng, vui vẻ cười nói:

- Hiện tại, đội quân dự bị của chúng ta có thể xuất trận được rồi, phối hợp với tiền quân, tiêu diệt tiền doanh địch trước.

- Ừ!

Khánh Kỵ đi tới trước sườn núi vài bước, tiếng hò hét dưới núi theo gió truyền tới, lúc trầm lúc bổng, ngược lại càng khiến người ta cảm thấy ngọn núi yên tĩnh lạ thường. Những ánh lửa dưới núi giống như bầu trời lấp lánh vì sao đêm, không biết rằng ở dưới đó đã có bao nhiêu sinh mạng vụt tắt trong muôn ngàn ánh sao đêm kia, đốt trụi những ánh sáng le lói cuối cùng của cuộc đời họ.

- Trận này không biết sẽ có bao nhiêu sinh mạng phải chôn vùi dưới núi rồi.

Khánh Kỵ trầm ngâm nói.

- Công tử, Cơ Quang hiện là đại vương Ngô quốc, ở trong lãnh thổ của Ngô quốc đã chiếm được thiên thời địa lợi nhân hòa. Dựa theo số lượng binh mã của chúng ta, chống chọi chính diện ở nơi mà quân địch chiếm được cả thiên thời, địa lợi, nhân hòa, thì căn bản không có cơ hội chiến thắng. Cơ hội duy nhất của chúng ta chỉ có đêm nay thôi, nếu bỏ lỡ cơ hội này thì sau này sẽ không còn cơ hội nào khác nữa đâu.

Lương Hổ Tử, Anh Đào, A Cừu, Tái Cừu là bốn mũi tấn công mà ta bắn ra, mục tiêu của họ chính là đâm thẳng vào giữa lòng địch, chặt đứt bộ máy chỉ huy của chúng, mang ý nghĩa sống còn trong cuộc chiến. Nếu như có thể giết được Cơ Quang, toán đại quân này công tử có thể sử dụng tùy ý, đó là kết cục tuyệt vời nhất. Thế nhưng cho dù Cơ Quang có sai lầm triệu hồi các lộ đại quân quay về tập trung ở bổn trận, thì việc tru sát đầu não của quân địch trong đêm đen này cũng không dễ dàng. Bây giờ hắn lệnh cho các doanh cố thủ, chúng ta phải kịp thời thay đổi chiến thuật, chặt đứt vây cánh của hắn, cắt bỏ tứ chi của hắn! Trận này chúng ta buộc phải thắng, chỉ có chiến thắng mới có thể tránh được những hy sinh to lớn về sau.

Lời nói của Tôn Vũ lạnh lùng đanh thép, ẩn chứa trong đó là dòng máu nóng nhiệt huyết nhưng cũng rất quyết đoán vô tình. Khánh Kỵ quay sang nhìn hắn, sắc mặt gầy ốm của hắn có chút tiều tụy, chỉ có đôi mắt là vẫn sáng tinh.

Khánh Kỵ đột nhiên nhớ tới câu chuyện Tôn Vũ luyện binh hồi trước, Ngô vương cho Tôn Vũ sử dụng tùy ý ba trăm cung nữ trong cung vào việc luyện binh, Tôn Vũ nhiều lần nói rõ kỷ cương quân luật, nhưng đám mỹ nữ chỉ tưởng là đại vương đang chơi trò chơi, cười đùa giễu cợt không thèm nghe theo quân lệnh, Tôn Vũ không chút do dự, sai người bắt giữ hai phi tần mà Ngô vương sủng ái nhất, dựa theo quân pháp chặt đầu thị uy. Nếu đổi lại là mình, thì đừng nói là những mỹ nhân vạn người có một, tuyệt sắc giai nhân đó, ngay cả những nữ nhân hết sức bình thường thì e là cũng không nỡ hạ thủ mất! Lòng dạ đàn bà, hại người hại mình, đã đến thế giới này rồi thì phải tuân theo luật lệ của nó, lúc này không phải là lúc động lòng trắc ẩn đối với những binh sĩ cũng là người Ngô kia.

Khánh Kỵ nghiêm nghị gật đầu, khẽ vỗ bờ vai Tôn Vũ, nói giọng nhỏ nhẹ:

- Trận này, do ngươi chỉ huy, hạ lệnh đi nào!

- Thuộc hạ tuân lệnh!

Tôn Vũ chắp hai tay vào nhau, phần giáp tay va vào nhau kêu đoanh đoách, quay người mạnh bước đi ra.

Đội quân dự bị nghỉ ngơi dưỡng sức, nãy giờ chưa hề động tĩnh gì giống như bầy sói phục ẩn khắp ngọn núi, sau khi Tôn Vũ phát đèn hiệu, liền thi nhau lao ra từ trong rừng rậm. Bọn họ không hề hò hét, không khua chiêng gõ trống, từ rừng rậm chỉ phát ra những tiếng bước chân rầm rập, bọn họ xung phong trong im lặng, như làn sóng dữ điên cuồng lao về phía doanh Ngô chém giết.

Trong cuộc chiến điều cốt yếu không phải là kỹ thuật của từng binh lính, mà là sự điều động tài tình của người chủ soái. Lần tập doanh của Tôn Vũ lần này, quân trận binh lực điều động phối hợp rất đẹp mắt có quy củ, hoàn toàn đột phá so với những quy củ lề thói cũ trong tác chiến đánh giáp lá cà trước đây của tiền bối đi trước, sử dụng quân chủ lực cơ động đến mức tuyệt hảo, tình hình chiến trận lúc này là quân đội Khánh Kỵ xâm nhập vào phòng tuyến địch, đánh úp bất ngờ, xông thẳng vào doanh trại địch, cắt đứt sự liên hệ giữa các trại với trung quân. Ngô vương Cơ Quang bất lực trong việc liên lạc với các trại, buộc phải hạ lệnh quân đội các trại cố thủ, lúc này quân đội dự bị của Khánh Kỵ lập tức nắm bắt lấy cơ hội tham gia chiến đấu. Quân của Lương Hổ Tử và Anh Đào đang tấn công hai cánh lập tức có chút điều chỉnh, từ sau đánh bọc sườn, chia cắt trung quân của Ngô với hậu doanh, bay vây toàn bộ quân Ngô trong ba trại tiền tả hữu ở giữa.

Nếu như vậy, xét về binh lực thực tế trong trận chiến của đôi bên, thì quân của Khánh Kỵ tham chiến đông hơn, quân lính của Khánh Kỵ tràn trề thể lực và sĩ khí, được sự chỉ huy và điều động có trật tự, còn quân Ngô ở ba trại lúc này thể lực yếu ớt, chỉ huy thiếu nhạy bén, sĩ khí giảm sút, đánh nhau đơn lẻ, không có liên kết, sức chiến đấu nhanh chóng tụt lùi, đến cả ba phần chiến lực cũng không phát huy ra nổi. Trong bóng tối dày kịt trở thành những con dê ngoan ngoãn cho bầy hổ lang chi sư của Khánh Kỵ thỏa thê làm thịt.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 206: Moi gan (Thượng)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Trong doanh trại quân Ngô, Cơ Quang đang đứng trên vọng cao quan sát. Khi tả doanh thất thủ, tâm trạng hắn bỗng trầm lắng xuống đôi chút, sắc mặt trở nên khó coi:

- Tại sao lại..., tên Khánh Kỵ rốt cuộc có bao nhiêu quân? Hắn làm sao dám sử dụng toàn bộ binh mã hiện có vào trận đánh này với quả nhân? Tại sao trong thời gian ít ỏi như vậy hắn có thể đoạt được một lúc ba trại của ta. Lẽ nào... lẽ nào thành Cô Tô đã thất thủ?

- Đại vương cả nghĩ rồi.

Ngũ Tử Tư co chặt hàng lông mi, thái độ bần thần nói:

- Thái tử điện hạ đã gửi thư hàm tới, trong thư nói rằng tuy rằng Khánh Kỵ có tấn công thành, nhưng cũng không gây thiệt hại đáng kể gì cho thành trì cả. Điện hạ nghe theo lời căn dặn nên sẽ tuyệt đối không rời khỏi thành nửa bước, hiện đã phái tín sứ đi gọi Phu Khái công tử đem binh mã trở về tấn công Khánh Kỵ. Với tình hình này thì Khánh Kỵ đừng mong lấy được thành Cô Tô, thần chỉ lo...

Bá cầm kiếm đứng kế bên, không nhịn nổi được nữa nói:

- Tướng quốc đại nhân lo lắng điều gì? Bọn chúng có khả năng tấn công trực diện vào bản trại của chúng ta ư?

Ngũ Tử Tư lắc đầu nhè nhẹ, ngón tay chỉ về phía trước, khẽ đưa đẩy cánh tay:

- Điều ta lo lắng, một là tình cảnh hiện tại, một là Cô Tô. Thế tấn công của địch hiện tại là rất quyết liệt, nhưng mục đích thực sự của chúng vẫn còn khá mù mờ. Xem cách bọn chúng liên tiếp tập kích đánh chiếm mấy đại doanh, dường như là muốn cắt đứt liên lạc giữa các doanh trại, rồi nhân cơ hội giành lấy trung quân. Tuy nhiên một khi chúng ta ra lệnh các trại tập trung quân bày binh bố trận, thì sự tấn công về trung quân sẽ giảm xuống tới mức tối đa, hiện tại bên ngoài tiếng chém giết đang kịch liệt, tựa hồ các quân đã bị chia cách, loại trừ những điều đó ra...

Hắn còn chưa nói dứt lời, Cơ Quang đã chặn ngang:

- Quả nhân muốn tập kết binh lính lại cũng chính là lo lắng gian kế của chúng. Tướng quốc đã nói như vậy rồi thì hãy lệnh cho các lộ quân mã tập kết tại trung quân đi.

Ngũ Tử Tư cười nói:

- Đại vương nhìn xem, các doanh trại đều lửa cháy ngút trời, địch ta đã không còn phân biệt được nữa, muốn bọn chúng cũng tập kết lại chĩa mũi nhọn vào chúng ta? Như vậy chẳng phải là mở cổng doanh trại mời kẻ địch vào cùng đó sao? Lúc đó hàng trăm ngàn binh sĩ hỗn chiến với nhau trong đêm đen, việc điều động chỉ đạo binh lính mất hoàn toàn tác dụng, thể lực của binh sĩ bên ta còn đang chưa hồi phục, khi bị tập kích đã hoảng loạn nao núng mất vài phần, làm sao có thể đối phó với một cuộc hỗn chiến như vậy được? Lúc đó thì ngay cả trung quân và hậu doanh cũng đều rơi vào thế bị động hết.

Lại nói thêm, Vương Tôn Hùng từng nói bên cạnh Khánh Kỵ có một nữ kiếm khách tên Quý Tôn Tiểu Man, kiếm thuật siêu quần, lại có sở trường về khinh thân thuật. Thần đã điều tra rõ ràng, thị nữ tên Quý Tôn Tiểu Man đó là thành viên trong gia tộc Quý Thị ở Lỗ quốc, học kiếm thuật của kiếm khách đệ nhất lừng lẫy một thời ở Lỗ quốc là Viên Tố. Quý Tôn Tiểu Man từng ở trong quân binh của Khánh Kỵ học hỏi kiếm pháp của Viên Thị hồi còn ở Vệ quốc Ngải Thành. Thần lo ngại, tên Viên Tố đó cũng đầu quân dưới trướng của Khánh Kỵ. Có một cao thủ như vậy ở phe địch, nếu như hắn còn dẫn theo dăm ba chục tên đệ tử tâm phúc đắc lực theo, giữa cuộc hỗn chiến thiên binh vạn mã trà trộn lẫn lộn với nhau, nhân lúc đêm tối lấy đầu chủ tướng, cho dù chúng ta có hùng binh vô số, cũng không thể cứu vãn được tình hình, đại vương là linh hồn của toàn quân, làm sao có thể để người rơi vào tình cảnh hiểm nghèo như vậy được?

Cả Cơ Quang và Ngũ Tư Tư đều là những kẻ rất giỏi sử dụng thích khách, bọn chúng thành thạo việc dùng thích khách, nên cũng không có gì là lạ khi chúng lo lắng người khác dùng cách tương tự để đối phó với mình. Cơ Quang dừng bước nói:

- Thế này không được, thế kia cũng không được, lẽ nào ta cứ giương mắt đứng trơ tại nơi này, nhìn Khánh Kỵ xơi tái đại quân của mình sao?

Ngũ Tử Tư nói:

- Trung quân của đại vương là nơi ổn định toàn quân, chính vì trung quân của đại vương vững như bàn thạch, nên chư tướng mới có thể an tâm mà chiến đấu. Một khi lầu chỉ huy của trung quân thất thủ, khi đó thì dù chúng ta có nhiều người hơn nữa cũng sẽ bị Khánh Kỵ đánh cho đại bại. Đại vương đừng vội vàng nôn nóng, đợi khi hậu doanh hợp với trung quân, lúc đó có thể lệnh cho binh sĩ phân quân ứng cứu tam doanh.

Cơ Quang nghe xong, thở gấp một hơi dài bất nhẫn. Bá tâm tư kín đáo, ghi nhớ hai điều lo lắng của Ngũ Tư Tư, hỏi liến thoắng:

- Tướng quốc đại nhân, còn có một điều lo lắng về thành Cô Tô, rốt cuộc là thế nào?

Ngũ Tử Tư nói:

- Ta lo lắng Khánh Kỵ tiến đánh trung quân của ta là trong thực có hư, một khi biết là không thể, liền chuyển sang diệt trừ các cánh bao bọc quân ta, nhưng thực sự việc diệt trừ vây cánh bao bọc trung quân mới là trong thực có hư. Ý đồ thực sự của hắn chính là thành Cô Tô mà hắn chưa thể tìm ra biện pháp công hạ.

Thành Cô Tô là căn cơ của Cơ Quang, những công khanh quý tộc có quyền có thế ở Ngô quốc phần đông đều sinh sống tại tòa vương thành này. Nơi đây là biểu tượng vương quyền của Ngô quốc, không chỉ chứa đựng những tiền tài của cải của toàn bộ Ngô quốc, mà hiện tại còn đang lưu giữ của cải khổng lồ của kinh thành Dĩnh Đô Sở quốc. Một khi Cô Tô thất thủ, Khánh Kỵ vốn đã danh chính ngôn thuận sẽ đường đường chính chính đăng kế vương vị, trừ gạt toàn bộ những kẻ chống đối. Cơ Quang nghe vậy thì chột dạ, vội vàng hỏi:

- Bọn chúng nhắm vào Cô Tô thành là sao? Tướng quốc mau nói rõ xem nào.

Ngũ Tử Tư quặp đôi lông mày, nói:

- Lợi dụng đêm tối tập kích đoạt lấy trung quân chỉ là trung sách. Nếu như làm cho đại vương bị thương thậm chí... thì Khánh Kỵ đã thành công một nửa; Buộc quân ta cố thủ, lợi dụng thời cơ triệt hạ vây cánh của ta, là hạ sách, để giết một ngàn quân của ta thì cũng phải mất tám trăm quân. Hiện tại Khánh Kỵ không có binh lính bổ sung. Hắn không thể giết được đại vương, mà chỉ làm cho chúng ta dồn dập hơn, đợi khi các cánh quân chủ lực của ta từ Hàn Ấp và Ngự Nhi thành trở về, lúc đó kẻ bại vong sẽ là hắn.

Còn thượng sách... thần lo rằng Khánh Kỵ dốc hết quân số, không nề hà tổn thất tấn công quân đội của đại vương, chính là muốn ngụy tạo khung cảnh đang bao vây toàn diện quân ta, thái tử là người con có hiếu, hiện đang cố thủ tại thành Cô Tô. Khánh Kỵ không có cách nào công hạ được. Nếu bây giờ nghe tin đại vương gặp nguy, e là sẽ bất chấp tất cả xuất thành đi cứu viện cho đại vương. Lúc đó cho dù Khánh Kỵ chỉ còn một nửa binh mã, nhân lúc thành trì trống trải cướp lấy Cô Tô, như vậy đã có thể làm chấn động cả Ngô quốc rồi.

Khi đó, những quan viên địa phương trước đó thần phục uy nghiêm của đại vương sẽ quay đầu sang trướng của Khánh Kỵ, khi đó hắn muốn xin thêm viện binh cũng chẳng phải khó khăn gì. Cho dù quân ta binh lực vẫn còn, nhưng căn cơ đã mất, muốn nuôi dưỡng những binh sĩ như vậy cũng chẳng thể làm được, lẽ nào đại vương lại túng quẫn đi cướp đoạt những phần lương thực cuối cùng của con dân Ngô quốc? Nếu làm như vậy, thì Ngô quốc sẽ rơi vào tay Khánh Kỵ nhanh hơn thôi.

Chăm chú nghe phân tích của Ngũ Tử Tư, Cơ Quang liền hít một hơi dài, lập tức tỉnh cơn mê:

- Tướng quốc nói đúng lắm, với tính cách của con ta, nếu như quả nhân gặp nạn, nó chắc chắn sẽ bất chấp mọi giá đến đây cứu viện.

Cơ Quang nói xong, tháo bội kiếm giắt bên hông ra quát:

- Người đâu!

Hai tên cận vệ thiết thân từ dưới đi lên, chắp tay đáp:

- Đại vương!

- Cầm lấy bội kiếm của ta, mang theo một toán binh mã liều chết thoát khỏi vòng vây, đi tới thành Cô Tô, lệnh cho thái tử cố thủ thành trì không được ra ngoài, kẻ nào trái lệnh chém.

Hắn giương to cặp mắt, nghiêm nghị nói:

- Nghe cho rõ đây, quả nhân sẽ điều binh từ Hàn Ấp và Ngự Nhi thành tới tiếp viện, chín ngàn binh lính phòng ngự ở Cô Tô thành, một binh một tốt cũng không được xuất thành, kể cả quả nhân có chết cũng tuyệt đối không được rời khỏi thành nửa bước!

- Rõ!

Mấy tên cận vệ dùng hai tay nhận kiếm, tâm trạng hoang mang đi ra.

Cơ Quang quay người lại, trông thấy trên lầu quan sát đã đưa tín hiệu, cho biết hậu trại đã nhổ trại, bắt đầu tới đây hội quân. Xem ra quả nhiên là binh lực thực tế của Khánh Kỵ có hạn, nếu không vào lúc này hắn dẫn một lộ binh mã, thừa lúc đại quân điều động đánh úp hậu doanh, như vậy thì hết sức gay go.

Cơ Quang trầm ngâm nói:

- Kỳ lạ, Khánh Kỵ dụng binh trước đây luôn là lúc lên lúc xuống, lúc co lúc giãn, cho dù là ba ngàn đối lại mười vạn, cũng luôn sử dụng trận pháp liều chết tấn công, tại sao bây giờ dụng binh lại khác trước nhiều vậy?

Bá chen miệng nói:

- Những tướng lĩnh mà Khánh Kỵ sử dụng đại để đều là những người hồi trước theo hắn chạy tới Vệ quốc. Những tướng từ bên ngoài, chỉ có Tôn Vũ và Anh Đào, hai người này đều chỉ mới ngoài đôi mươi, chẳng lẽ là bọn chúng hiến kế cho trận đánh ngày hôm nay?

Ngũ Tử Tư mỉm cười khinh miệt, không đồng tình nói:

- Tôn Vũ Anh Đào? Hạng con nít vô danh mà thôi, đâu đáng để nhắc tới. Người gặp đại nạn thì tâm tư tự khắc thay đổi. Khánh Kỵ từ sau khi bị Yêu Ly ám sát, chết đi sống lại ở Trường Giang, mọi hành vi đã khác xưa rất nhiều. Đại vương, hậu doanh đã sát nhập với chúng ta, vậy hãy lập tức lệnh cho quân sĩ chia quân thành hai ngả, cứu viện cho hai cánh quân tả hữu.

Bá buột miệng nói:

- Thế còn tiền doanh thì sao?

Ngũ Tử Tư đảo mắt, nhìn về phía xa là ba doanh trại đang lửa cháy khắp nơi, nói giọng thâm trầm:

- Khánh Kỵ trước tiên sẽ phá tiền trại của ta, sau đó chia binh sang đâm vào cánh sườn quân ta, quân lính ở tiền doanh... e là đã không thể cứu vãn được nữa, chỉ còn mong bọn họ tự lực cánh sinh cứu lấy chính mình, tử thủ đến cùng thôi, nếu như cầm cự được đến khi trời sáng, thì tức là họ đã giành được thắng lợi, nếu không...

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 206: Moi gan (Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Tiền quân sớm đã tan rã, Khánh Kỵ dùng hỏa ngưu công phá doanh trại, sau đó đem đại quân công kích, những nhóm quân chia thành từng ngũ, lưỡng tư mã, tốt ngang nhiên chọc xuyên qua doanh trại, gạt bỏ đám quân lính hoảng loạn như rắn mất đầu người Ngô lại đằng sau, chia quân ra công kích hai cánh tả hữu và trung quân, ý chí chiến đấu của binh lính ở tiền doanh đã hoàn toàn tiêu tan.

Bọn họ chạy tán loạn trong doanh trại, không có trật tự, không có chỉ huy, phân lẻ như bãi cát vụn tự lo chiến đấu, chỉ biết tiện tay chọc kiếm đâm mâu ra đám quân Khánh Kỵ đang chú tâm lao về phía trước một cách yếu ớt để giữ mạng mà thôi. Trong thời điểm hỗn loạn như thế, quân dự bị của Khánh Kỵ đã tới.

Đội quân tràn trề sinh lực đó đang lao thẳng về phía họ, những đội hình chữ ngũ hiển hiện trong tiền doanh quân Ngô, chia thành từng năm hàng một, hàng ngàn binh sĩ tinh thần đang hưng phấn, thể lực dồi dào buộc khăn trắng trên đầu, tỏa sáng lạ thường trong đêm tối. Mấy ngàn cái đầu trắng bệch mang đến hàng ngàn nỗi sợ hãi màu trắng tang thương, bất cứ binh sĩ nào cản đường tiến của đoàn quân này, chỉ cần trên đầu không buộc khăn trắng làm dấu, đều sẽ bị vô số những kiếm kích trường mâu đổ ập xuống mà chém, mà đâm tới tấp, toàn bộ đội quân nửa đi nửa chạy lao về phía trước, những nơi đi qua tử thi rải rác.

Một bên có tổ chức, có trật tự, còn một bên thì hoảng loạn bất kham, thân ai nấy lo chiến đấu, thì cho dù là quân số bằng nhau cũng sẽ xuất hiện một cách biệt vô cùng lớn. Huống hồ giờ đây quân Ngô đã bị tiêu tan cả về tâm lý. Đối diện với đội quân dự bị dày đặc, xếp thành từng trận hình như nêm cối của Khánh Kỵ, quân Ngô tiền doanh đổ vỡ mạnh mẽ, binh sĩ đã mất hết dũng khí chiến đấu, bắt đầu vứt bỏ vũ khí bỏ chạy tán loạn về cánh đồng rộng lớn hai bên, lao về phía bóng núi xa xa tối tăm trước mặt.

Cảm giác sợ hãi nhanh chóng lan ra, kiếm kích đâm sát phía sau lưng nhưng chẳng có ai nghĩ tới việc cầm đao ngăn cản, chỉ biết sải rộng đôi chân, chạy trốn với tốc độ nhanh nhất có thể, không mong chạy qua quân địch, chỉ mong chạy qua đồng đội, lấy đồng đội làm lá chắn thịt sống để giành lấy chút ít cơ hội sống sót cho bản thân mình. Tiền doanh quân Ngô hoàn toàn rơi vào tình trạng hỗn loạn, những binh sĩ chết và bị thương chưa tới một nửa, đại bộ phận binh sĩ còn lại đều quay đầu chạy trốn vào trong vùng sơn cốc hoang sơ...

Hậu doanh quân Ngô chia quân ra làm hai đường, vòng ra hai bên tả hữu doanh giao tranh với hậu quân của Lương Hổ Tử và Anh Đào, tình hình chiến trận ở ba doanh trại kia thế nào, binh sĩ thương vong ra sao, hiện tại bên nào đang nắm thế thượng phong, Ngô vương ở trong đại doanh quân Ngô hoàn toàn không hề hay biết. Do quân của Khánh Kỵ lập thành từng tiểu đội xếp thành đội hình rõ ràng lưu động tác chiến độc lập với nhau, khiến phương thức truyền tin của quân Ngô bị mất tác dụng, binh không tìm được tướng, tướng không gọi được binh, đến nỗi toàn bộ chiến trường giống như một nồi bùn nhão.

Cảm tưởng như trước sau trong ngoài, chỗ nào cũng có thể đụng độ những tiểu đội đầu buộc khăn trắng đang chém giết điên cuồng chạy loạn khắp nơi. Đám binh lính được phái đi tiếp viện trong tình hình này không phát huy tác dụng được là mấy, bọn họ giống như nhảy vào vũng bùn lầy để cứu đồng đội đang ngập ngụa trong đống bùn lầy nhớp nháp vậy, hoàn toàn không thể phát huy được ưu thế của đội quân còn sung sức. Khiến cho một vị lữ soái đi tiếp viện hữu doanh xung phong lên đầu cũng phải nổi gân xanh cuồn cuộn, không khỏi nghĩ dại trong đầu:

- Giá như mà đám binh lính quân ta ở hữu doanh chết sạch hết rồi có phải tốt hơn không, còn hơn là bây giờ cứ phải tìm kiếm trong đám loạn quân, không biết đâu là ta đâu là địch này nữa.

- Không được, quả nhân phải đích thân lãnh binh tiếp ứng!

Cơ Quang không nhận được tin tức chính xác, không thể nắm bắt được tình hình chiến trường, ruột gan cồn cào như kiến bò trên chảo nóng, hắn chạy qua chạy lại trong trướng trung quân như con dã thú bị vây khốn, bỗng dưng không thể chịu đựng thêm được nữa gầm thét rút kiếm ra.

Ngũ Tử Tư cũng rất ư lo lắng, nửa đêm qua đã lâu, tiếng kêu giết vẫn chưa ngừng, doanh trại trung quân của họ ít chịu ảnh hưởng của cuộc tấn công nhất, một mặt cho thấy binh lực của đối phương là có hạn, hai đạo binh mã được điều đi tiếp ứng đã phát huy tác dụng, thành công trong việc ngăn cản bước tiến của quân đội Khánh Kỵ, nhưng một mặt khác điều đó cũng khiến bọn họ hoàn toàn không có khả năng nắm giữ tình hình chi tiết ở tuyến đầu.

- Xin đại vương lấy ba quân làm trọng, tuyệt đối không được đưa mình vào chỗ nguy hiểm, về chiến sự tiền phương...

Ngũ Tử Tư dựng đứng hàng lông mày trắng toát:

- ... hãy để thần dẫn viện binh đi cho!

Dứt lời, hắn không đợi Cơ Quang đáp lại, nói với Bá:

- Xin Bá tướng quân bảo vệ đại vương, giữ vững bản trận.

Bá đáp:

- Tướng quốc đại nhân, hay là để mạt tướng đi cho.

Ngũ Tử Tư nói:

- Không, chưa có được chút thông tin nào từ tiền phương, lão phu cũng cảm thấy không an tâm, đại vương, xin chớ u sầu, thần sẽ dẫn binh đi tiếp viện ngay đây!

Ngũ Tử Tư mắt điếc tai ngơ, bước nhanh ra khỏi đại trướng, cao giọng ra lệnh:

- Đi, bốn góc lầu gác phát tín hiệu, nổi trống trận trong trại, thông cáo cho tướng sĩ các doanh trại, đại vương chỉ huy ở trung quân , nửa bước không lùi! Tướng quốc Ngũ Viên, đích thân dẫn đại quân tăng viện!

- Rõ!

Bên ngoài đáp lại một tiếng. Ngay sau đó, đèn hiệu ở bốn lầu gác bật lên, tiếng trống trận trong doanh trại nổi lên đì đùng, Ngũ Tử Tư đích thân dẫn theo một đội binh mã, mở viên môn giết ra ngoài.

Tình hình chiến trận ở hữu doanh do Lương Hổ Tử phụ trách vô cùng thảm khốc, đội dự bị của Khánh Kỵ sau khi tham chiến, với lợi thế tập trung được binh lực, đã áp chế được sinh lực quân Ngô, sau khi giải quyết được chiến sự tiền doanh, lập tức tràn quân sang tả doanh, hội quân với Anh Đào và A Cừu, trong ta có địch, trong địch có ta, mở rộng quy mô một cuộc hỗn chiến, còn cánh phải hoàn toàn giao cho Lương Hổ Tử và Tái Cừu phụ trách.

Sau khi đội quân tiếp viện thứ nhất của quân Ngô tới, tuy rằng không mang lại mấy hiệu quả do chiến trường hỗn loạn, gây ra một áp lực tương đối lớn cho quân đội, nhưng hắn biết rằng quân mình trụ vững ở đây thêm lúc nào thì sẽ càng nắm chắc phần thắng hơn, nên quyết định dẫn một đội binh mã từ trong trung quân lao tới chiến đấu, cổ vũ sĩ khí toàn quân. Cuộc chiến vô cùng tàn khốc, hai bên chỉ có binh sĩ chết trận, ít khi có binh sĩ bị thương còn sống sót, không có ai kịp mang những chiến hữu bị thương ra khỏi vòng chiến, và một khi bị thương, thì cho dù là thủng bụng lòi ruột, người chiến sĩ đó cũng chỉ còn biết cắn răng mà tiếp tục chiến đấu, một khi ngã xuống, bất cứ lúc nào cũng có thể bị đối phương bồi thêm một kiếm nữa.

Người áp người, người giẫm người, tiếng kiếm đâm rìu bổ không ngớt bên tai, những tiểu đội của Khánh Kỵ phân tán ra khắp nơi chỉ cần có chút lơ là, hoặc bị đả thương, bị tụt lại đội ngũ đang chạy phía trước, liền ngay lập tức sẽ bị loạn kiếm của kẻ địch phanh thây. Vào lúc này, chẳng có mấy ai có đủ sức đi cứu người đó, điều duy nhất mà người sống có thể làm được là giết thêm vài tên địch nữa để báo thù cho người đã khuất. Cảnh ngộ thê thảm của quân Ngô còn lớn hơn rất nhiều, bởi mặc dù quân số bên họ đông đảo, nhưng lại không có tổ chức, cho dù tướng lĩnh đứng trong hàng ngũ hét khản cổ, cũng không làm sao để tập hợp binh sĩ xung quanh lại bên cạnh mình được.

Lương Hổ Tử dẫn theo một toán quân lao ra từ trong đoàn người dày đặc, một tay giữ kiếm, hơi thở hổn hển. Hắn chẳng có lúc nào được ngơi tay từ nãy đến giờ, thể lực bị giảm sút một cách nghiêm trọng. Trước mặt một toàn quân Ngô đang lao tới, chẳng kịp nghĩ ngợi gì liền vung kiếm nhấc mâu lao tới chém giết.

Nhưng khí thế và tốc độ của đám quân Ngô cũng không linh hoạt cho lắm, hơi thở từ trong lồng họng cứ như bị xẹp lép vậy, hai bên đại chiến đến lúc trời gần sáng rồi, binh sĩ của Khánh Kỵ đến sớm trước hai ngày, đã được nghỉ ngơi tĩnh dưỡng tinh thần đầy đủ, vậy mà lúc này còn cảm thấy mệt mỏi, huống chi là đám nhân mã lặn lội đường xa mà vẫn chưa được nghỉ ngơi một giây một phút nào kia.

- Giết!

Lương Hổ Tử là chủ tướng, bên cạnh có rất nhiều hộ binh, nhiệm vụ chủ yếu là bảo vệ an toàn cho hắn, trông thấy tình hình như vậy không dám chậm trễ, lập tức giương binh khí lao lên phía trước, hai bên đan quân vào nhau, chỉ trong chốc lát, trên mặt đất lại ngổn ngang một đống thi thể nhầy nhụa, máu mê be bét, nhuộm đầy bãi cỏ.

Đột nhiên, phía trước vang lên tiếng giết rầm trời, lại là một đội binh mã nữa lao tới. Lúc này trời đã gần sáng, chân trời đã xuất hiện vệt màu trắng bạc, Lương Hổ Tử chống kiếm nheo mắt dò xét qua ánh sáng ban mai le lói, thì ra không biết tự lúc nào đã đánh tới hậu phương hữu doanh của quân Ngô, đội quân đó là đội quân từ trong đại trướng trung quân của Ngô đi ra, vừa hay đụng đầu ngay với hắn.

- Lại là một đám quân nữa, Cơ Quang lại tăng binh rồi!

Trong lòng Lương Hổ Tử khẽ cả kinh, lập tức dặn dò:

- Rút về, dụ địch sa vào hỗn chiến!

Dứt lời mặc kệ đám nhân mã kia, dẫn theo binh sĩ của mình rút lui. Đội quân kia chính là toán quân sung sức do Ngũ Tử Tư đích thân thống lĩnh, bọn họ vừa tới, đám quân của Khánh Kỵ ở vòng ngoài không kịp trở tay rút lui đành đứng mũi chịu sào, tiếng kêu thét kinh hoàng, thống thiết không ngừng vang lên kèm theo những tiếng kiếm kích giao tranh khắp nơi.

Đội quân Ngô tiếp viện lao tới như thủy triều, chọc thẳng vào giữa không gì ngăn cản nổi, nhưng chỉ xâm nhập được vào trong chừng chưa tới trăm bước, liền bị trận hỗn chiến ác liệt làm phân tản đội hình, bị sa lầy vào trong cuộc hỗn chiến loạn xà ngầu.

- Giết, giết!

Đội quân Ngũ Tử Tư dẫn tới vẫn chưa hoàn toàn tham chiến, bởi vì phía trước hỗn chiến, tốc độ di chuyển chậm chạp, đội hình phía sau uốn khúc như rắn cuộn, đúng vào lúc này ở xa xa lại cất lên tiếng chém giết, hai đội nhân mã giết ra ngoài từ tả doanh quân Ngô, hình như kéo sắc, vừa chọc thẳng bảy tấc vào con "trường xà"(chỉ đoàn quân tiếp viện của Ngũ Tử Tư) kia, vừa trực tiếp lao thẳng vào trung quân của Cơ Quang.

Tiếng kêu giết ngập trời, không ít binh sĩ đang hỗn chiến trong bản doanh đều sợ hãi nhìn lại, Ngũ Tử Tư và Lương Hổ Tử nhìn về phía đó, không khỏi vừa mừng vừa lo, hai người lúc này đều nghĩ: "Trận doanh cánh trái, đừng mong thoát!"

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 207: Thừa thắng truy sát (Thượng)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

- Giết, giết!

Đội quân Ngũ Tử Tư dẫn tới vẫn chưa hoàn toàn tham chiến, bởi vì phía trước hỗn chiến, tốc độ di chuyển chậm chạp, đội hình phía sau uốn khúc như rắn cuộn, đúng vào lúc này ở xa xa lại cất lên tiếng chém giết, hai đội nhân mã giết ra ngoài từ tả doanh quân Ngô, hình như kéo sắc, vừa chọc thẳng bảy tấc vào con "trường xà"(chỉ đoàn quân tiếp viện của Ngũ Tử Tư) kia, vừa trực tiếp lao thẳng vào trung quân của Cơ Quang.

Tiếng kêu giết ngập trời, không ít binh sĩ đang hỗn chiến trong bản doanh đều sợ hãi nhìn lại, Ngũ Tử Tư và Lương Hổ Tử nhìn về phía đó, không khỏi vừa mừng vừa lo, hai người lúc này đều nghĩ: "Trận doanh cánh trái, đừng mong thoát!"

..................

- Chỉ thiếu chút nữa thôi!

Tôn Vũ khẽ thở dài

- Nếu như màn đêm kéo dài thêm một canh giờ nữa thôi, thì chúng ta đã có thể giết vào trong trung quân của Cơ Quang rồi.

Hắn cầm kiếm lên, áo giáp ở bả vai rách một vệt lớn, máu tươi từ bên trong trào ra nhuộm đỏ một bên áo giáp. Đó là một vết giáo cắt, nếu lúc nãy không phải là Khánh Kỵ dùng mâu đẩy ra, làm chệch hướng đi chiếc giáo của Ngũ Tử Tư, thì Ngũ Viên đã một giáo chặt phăng thủ cấp của Tôn Vũ rồi.

Khánh Kỵ xoa xoa bờ vai của Tôn Vũ, nói nhẹ:

- Đi băng bó vết thương đó đi, chúng ta có thể làm được như vậy đã là một kỳ tích khó tin lắm rồi.

Hắn giương mắt nhìn ra xa, trên chiến trường tử thi la liệt, xác chết ngổn ngang, dường như chẳng có nổi một chiến sỹ nào lành lặn cả.

- Công tử, việc thống kê quân số đã cũng tương đối rồi.

A Cừu người đầy máu nhơ chạy lại, trong đó có máu của hắn, cũng có máu của kẻ khác, người này ăn mặc như con nghé con, trên người có vô số vết thương, có vết thương đã được băng bó xong xuôi, có vết thương vẫn để hở, nhưng hắn vẫn chẳng hề bận tâm tới.

- Tình hình thương vong thế nào, còn bao nhiêu người có thể chiến đấu được tiếp?

Khánh Kỵ sốt ruột lại gần hỏi.

- Dạ..., à....

Đôi mắt ngưu nhãn của A Cừu cứ chớp chớp, bỗng nhiên quên béng sạch những con số trong đầu.

- Công tử, trận này quân ta có ba ngàn bảy trăm binh sĩ tử trận, trọng thương một ngàn chín trăm người, bị thương nhẹ nhưng vẫn còn khả năng chiến đấu tiếp có khoảng hơn hai vạn bốn ngàn người.

Anh Đào vịn một vết thương băng bó dưới chân, vừa khập khiễng đi tới bẩm báo hộ A Cừu.

- Hử? Tình hình thương vong rất thấp, thấp hơn dự tính của ta khá nhiều!

Khánh Kỵ nghe xong vui mừng rạng rỡ, quân Ngô đã mất đi ba tòa đại doanh, chỉ còn lại trung quân và hậu doanh nhân lúc trời tờ mờ sáng lui về phía sau một góc sông khô cạn trên núi. Ba tòa đại doanh, tương đương với ba vạn đại quân Ngô, đám quân Ngô đó không chết thì bị thương nặng, ngay cả chạy trốn cũng đa phần đều bị tóm gọn, đã không còn tham gia chiến đấu tiếp được. Chỉ một trận đã giành được chiến tích vẻ vang như vậy, khiến cho Khánh Kỵ vào giờ phút này đây đã cân bằng lực lượng với Cơ Quang tại Ngô quốc, trong khi cái giá phải trả thì lại vô cùng nhỏ bé, khiến cho hắn không khỏi điên lên vì vui sướng.

- Trưởng Khanh, may mà có diệu kế của ngươi! Tập kích ban đêm, lấy tinh thần tỉnh táo khắc chế quân địch mỏi mệt, trước diệt tai mắt, sau cắt tay chân, chỉ huy hữu hiệu, nên mới có chiến thắng của chúng ta ngày hôm nay.

Tôn Vũ đang ngồi trên một chiếc chiến xe xiêu vẹo, Thúc Tôn Diêu Quang đang bọc vết thương cho. Tôn Vũ cũng biết rằng hai cô nương Thúc Tôn Diêu Quang, Quý Tôn Tiểu Man mười phần thì có đến tám chín phần sẽ trở thành phu nhân tương lai của Khánh Kỵ chủ công. Được vị phu nhân tương lai của chủ công đích thân băng bó vết thương, quả thực khiến cho hắn có chút không thoải mái cho lắm, đường đường là một đấng nam nhi, binh gia thiên cổ phong là một nhân vật chí thánh nhân, lúc này bị Thúc Tôn Diêu Quang cởi bỏ áo giáp băng vết thương cho, bỗng dưng hơi có cảm giác xấu hổ.

Câu nói khen ngợi của Khánh Kỵ đã gạt bỏ được sự ngượng ngùng đó của hắn, theo thói quen hắn chắp tay lại, lập tức đau đớn đến phồng mồm trợn má:

- Công tử quá khen, đây đều là công lao của tướng sĩ đã chấp hành mệnh lệnh nghiêm ngặt. Công tử, bây giờ chúng ta vẫn chưa được coi là đã chiến thắng, nếu Cơ Quang ổn định lại trận tuyến, Phu Khái mang quân tiếp viện đến, chúng ta không có cơ sở ở Ngô quốc, trận chiến ngày hôm nay khó lòng bù đắp lại tổn thất, phải thừa dịp chiếm lợi thế về nhuệ khí, liên tiếp phát động tiến công.

Khánh Kỵ gật đầu, nheo mắt nhìn về đằng xa, ngọn núi kia cây xanh um tùm, tuy rằng không nhìn rõ, nhưng Khánh Kỵ biết rõ đại quân của Cơ Quang lúc này đang cố thủ tại đó chờ đợi quân tiếp viện.

- Thế nhưng, quân ta e rằng cũng đã mệt mỏi bất kham rồi, suốt đêm công phá ba tòa đại doanh, trong số ba vạn quân thì đã có gần bốn ngàn người tử thương. Tấn công tiêu diệt ba vạn đại quân của Cơ Quang... nhưng lúc này người ngựa đều mệt mỏi, ta lo rằng, chúng ta khó lòng tấn công lên trên núi một đợt nữa được, cho dù đánh được thì khi đại quân của Phu Khái đến, cũng không thể nào mà chiến đấu tiếp được nữa.

- Công tử!

Tôn Vũ quýnh lên, quên mất bên cạnh mình là Thúc Tôn Diêu Quang, gạt phắt tay của nàng ra, đứng bật dậy khỏi xe:

- Công tử, quân ta mệt mỏi, đại quân của Cơ Quang còn mệt mỏi hơn gấp mấy lần quân ta. Lúc này viện quân của chúng chưa tới, ba quân nơm nớp lo sợ, sĩ khí hao nhụt, chính là thời khắc vàng cho chúng ta thừa thắng truy kích. Lúc này đây chúng ta như tên đã lên dây, không thể không bắn dược. Đừng nói là binh lực hiện tại của Cơ Quang kém hơn chúng ta, mà ngay cả khi chúng đông hơn chúng ta, thì quân ta cũng phải xông lên tấn công, chần chờ một chút thôi là chúng ta sẽ bị phản thắng thành bại, rơi vào thập diện mai phục, đến lúc đó thì một chút cơ hội nhỏ nhoi cũng không còn.

- Theo như lời của Trưởng Khanh, thì cần phải dốc toàn sức lực truy đuổi quân địch đến cùng?

- Bằng không, Cơ Quang đã rơi vào đường cùng, dựa vào thế núi hiểm trở để ngoan cố kháng cự. Nếu thừa thắng truy đuổi thương vong sẽ rất nhiều, địch rơi vào đường cùng sẽ liều chết chống cự. Tuy nhiên hiện tại chúng lại đang đợi viện binh, quân ta lại đơn độc không có tiếp viện, lại càng không thể không đánh, công kích mạnh mẽ lên núi, để lại một con đường đào thoát cho Cơ Quang. Dự tính đám tàn quân của Cơ Quang khi đã sức cùng lực kiệt, lại thấy được đường sống, thì làm sao dám chống cự tiếp nữa? Huống hồ Cơ Quang là Ngô vương, Ngũ Tử Tư nào dám mạo hiểm để Cơ Quang chiến đấu, một khi nhìn thấy đường sống, hắn sẽ chủ động phá vòng vây. Một khi hắn tháo chạy thì khó lòng tổ chức đội hình chống cự, chúng ta sẽ truy sát theo sau tiêu diệt sinh lực địch.

Điều lo lắng duy nhất là thành Cô Tô kiên cố, hơn nữa còn là vương đô của Ngô quốc, chúng ta cần phải chặn đường rút của Cơ Quang về thành Cô Tô, nếu không một khi hắn vào được trong thành Cô Tô, quân ta tấn công đuổi theo sẽ không thể nào công phá được thành, bị giữ chân ở dưới thành, lương thực không được tiếp tế, trong khi quân viện binh của Cơ Quang bao bọc bốn bề, quân ta tiến không được, lui cũng không xong, chắc chắn sẽ chịu cảnh bại vong. Hiện tại ta cần phải đuổi hắn cách xa khỏi thành Cô Tô, dùng mẹo để ngăn chặn, rồi sau đó lập mưu tiêu diệt. Gần thì có thể chiến, xa thì đoạt được dân tâm, thế cục thiên hạ nằm trong tay chúng ta.

Khánh Kỵ không nói năng gì, hắn xoay người lại, chậm rãi tiến về phía trước mấy bước, đưa mắt nhìn khắp khung cảnh chiến trường. Trước mắt hắn là vô số thi thể nằm ngổn ngang, tuy rằng trận hỗn chiến trong đêm đã hòa thi thể của họ cùng với đám bùn đất nhớp nhúa làm một, nhưng vẫn có thể nhìn thấy rõ sĩ tốt của đôi bên, có người nằm ngửa, có người nằm sấp, có người bị chặt phăng đầu, có người nửa quỳ trên mặt đất, sau lưng cắm vào một ngọn trường mâu sắc bén xuyên người, còn có cả cảnh hai thi thể quấn vào nhau, một tên đang ngậm răng cắn chặt tai của tên kia, còn ngón tay của tên kia thì đang chọc vào mắt đối phương...

Dưới chân hắn, một cành cỏ dại nhẹ nhàng đung đưa, toàn bộ cánh đồng bát ngát nơi đại doanh đóng quân đồn trú hầu như chẳng có nổi vài ngọn cỏ xanh tươi nguyên vẹn, ngọn cỏ này tuy chưa bị chà đạp thành bùn, nhưng cũng đã bị nhuốm đỏ bởi máu người lúc này đã khô lại. Gió và ánh nắng, đã biến những vũng máu khô đọng lại hiện lên phía trước, vì vậy những bãi cỏ tươi tắn xanh mơn mởn tràn đầy sức sống hồi nào giờ đây bỗng nhiên trở nên xấu xí và kinh tởm vô cùng.

Khánh Kỵ từ từ cúi xuống, bứt cọng cỏ dưới đất nhẹ nhàng đặt vào lòng bàn tay, đưa mắt vọng nhìn ra xa, toàn bộ dãy núi đều mọc đầy cỏ dại, kiên cường khắc khổ sinh trưởng trong vùng sơn dã hoang vu, khắc nghiệt. Đêm qua chúng đã được tắm táp bằng máu tươi, sang năm có lẽ sẽ tươi tốt hơn rất nhiều.

- Đúng vậy, tuy thắng trận này, nhưng chúng ta vẫn đang nằm trong vòng vây nguy hiểm. Đợi khi chúng ta vượt qua từng cửa ải, đốn hạ từng thành trì, chỉ cần thất bại ở một thành trì nào thôi, thì ta cùng đại quân của ta sẽ bị chôn vùi mãi mãi ở mảnh đất Ngô quốc này. Vào ngày này sang năm, những ngọn cỏ bị ta vặt trụi sẽ lại sinh sôi nảy nở và tăng trưởng trở lại, lúc đó... thân thể ta đang ở đâu? Đại quân của ta ở đâu?

- Truyền lệnh, toàn quân vùi nồi nấu cơm, người bị thương băng bó vết thương, ai bị thương nặng thì đưa vào trong sơn cốc tìm nơi tĩnh dưỡng, còn lại toàn bộ tham gia chiến đấu, một canh giờ sau, ba quân tổng tấn công đại doanh Cơ Quang!

Khánh Kỵ chậm rãi đứng thẳng lưng lên, đón nhận ánh nắng mặt trời ló rạng phía Đông, dặn dò kỹ lưỡng.

- Vết thương của tướng quốc thế nào rồi?

- Thần... không sao cả, vết thương không nghiêm trọng lắm, đại vương không cần lo lắng. Cần phải tận dụng thời gian ổn định quân tâm, theo dự tính của thần, Khánh Kỵ sẽ nhân đà thắng truy kích.

Thái y còn chưa kịp trả lời, Ngũ Tử Tư đã cắn răng đáp thay. Hắn bị dính một mâu của Khánh Kỵ, tí nữa thì lủng bụng, vết thương tuy không sâu, nhưng khi quân hắn rút lui, lúc quân lính cõng lên trên núi, do đường xóc nảy nhiều nên vết thương bị rách, máu thấm nhuộm khắp áo bào, do mất máu quá nhiều nên lúc này khuôn mặt xanh xao yếu ớt.

Hạp Lư oán hận giậm chân, quay đầu nhìn xuống dưới núi. Hắn không thể không lẩn quân vào trong núi, lên trên núi thì hắn mới có thể cố thủ đợi viện, nếu như lúc đó mặc sức tháo chạy, trong khi quân Khánh Kỵ đuổi theo sát nút đằng sau, vậy thì mấy vạn đại quân không cần đánh cũng sẽ tản mác tứ tán không biết đâu mà lần nữa.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 207: Thừa thắng truy sát (Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Quân Khánh Kỵ tấn công quả thực vừa nhanh vừa mạnh. Bọn họ trước tiên dùng một đạo quân tập kích doanh trại, sau khi lọt vào bên trong doanh trại quân Ngô thì phá hủy các đài truyền tin, kế đó cánh quân hai bên phát động tấn công nội ứng ngoại hợp, cuối cùng phát động đội phòng bị, tiêu diệt toàn bộ đội quân bị chia tách ở tiền doanh, sau đó để lại một cánh quân huyết chiến với tả doanh của quân Ngô, còn lại tập trung binh lực giải quyết hữu doanh, sau đó đồng thời phát động tấn công với tả doanh và trung quân, mức độ ác liệt còn mạnh mẽ hơn cuộc tập kích rất nhiều.

Đám binh sĩ quân Ngô tan tác tán loạn tựa hồ vỡ vụn trận hình, sau đó Bá ra lệnh không cho người vào trong doanh nữa, bất luận là quân địch hay quân ta cũng đều sẽ giết sạch khi áp sát lại gần doanh trại, lúc này mới phần nào duy trì được trận thế. Cho dù là vậy, cũng chỉ duy trì được trong thời gian ba nén hương, trận địa phòng ngự bị quân của Khánh Kỵ đánh cho thất điên bát đảo.

Ngô quân lúc này lòng quân đã tan tác, không đủ sức để ngăn cản bước tiến công của Khánh Kỵ, chỉ biết tập hợp binh lực đưa nhau chạy lên núi, không tránh khỏi việc bị trung quân của Ngô giết hại không duyên cớ. Cho dù rút lui kịp thời, thì cũng có khoảng hai ngàn năm trăm người đi bọc hậu phía sau không còn đường quay về nữa.

Thế tấn công của quân Khánh Kỵ quả thực đáng sợ, cho đến bây giờ Hạp Lư cũng không thừa nhận rằng mình quá nóng vội hành quân, khiến cho toàn quân trên dưới không còn sức chiến đấu, lại thêm cả nguyên nhân bị tập kích giữa đêm, các phương thức truyền tin bị cắt đứt hoàn toàn. Hắn đổ dồn trách nhiệm về tả doanh để tiền doanh bị mất liên lạc, cho dù trong ba trại, tả doanh là trại cuối cùng bị tiêu diệt.

Tả doanh là nơi tập trung những phạm nhân Sở quốc được phóng thích và những nô lệ chiêu nạp từ Sở quốc. Tuy rằng đám quân này rất trung thành, nhưng cũng không phải là dòng giống người Ngô. Cơ Quang nghĩ bụng sau khi tả doanh bị quân Khánh Kỵ lẻn vào phá hủy đèn hiệu, dẫn đến lòng quân xao động, rồi mới bị Khánh Kỵ thừa cơ lợi dụng. Đáng tiếc, tả doanh cũng nằm trong danh sách bị tiêu diệt, nếu không kẻ dễ nổi nóng như hắn nói không chừng sẽ lôi hết quân tướng ở tả doanh đi bêu đầu thị chúng rồi.

Xa xa, quân lính của Khánh Kỵ đang tập kết, giống như đám mây trên trời, dần dần tụ lại, càng tụ càng dày, dần dần trở thành một đám mây đặc quánh, trong làn khói mờ chớp lóe những ánh sáng chói mắt, một trận phong ba bão táp chuẩn bị ập đến.

- Quân lính của hắn nhiều lắm cũng chưa bằng một nửa quân số của ta, hoàn toàn dựa dẫm vào việc đánh lén ban đêm, cắt đứt liên lạc các tuyến của ta, dẫn đến các lộ quân doanh điều động lung tung, dẫn đến việc bị đánh tan tác, bây giờ đại cục đã định, ưu thế tạm thời về binh lực của Khánh Kỵ đã lộ rõ, ta chỉ cần dựa vào địa hình hiểm trở cố thủ, chờ đợi viện binh, mới có thể thay đổi tình thế.

Cơ Quang ngẫm nghĩ một lúc, quay đầu nhìn về quân sĩ của hắn, binh sĩ của hắn ẩn trong rừng, triền núi đóng quân cố thủ trong lúc vội vã này cũng không thích hợp để tác chiến, một là vì triền núi khá bằng phẳng, không có chỗ nào hiểm địa để nương náu, hơn nữa rừng sâu rậm rạp, không có đường đi, nếu lấy một toán quân nhỏ đánh phục kích, sau đó tận dụng thời cơ dào thoát, thì sẽ vô cùng thuận lợi. Nhưng nếu dùng để che chắn cho một đội quân đến cả vạn người, rồi còn tập trung tác chiến, như vậy căn bản là không bài bố đội hình chính xác được, dẫn đến việc quân lính của hắn chỉ có thể phân tán ẩn náu trong từng phân khu cố định, trong lúc cấp bách, hắn cũng không thể điều người xuống núi tìm nơi đóng quân khác được.

Ở bên cạnh hắn là những người được Ngũ Tử Tư điều đi tăng viện tả doanh, trông thấy trung quân bị tập kích vội vàng quay đầu hộc tốc trở về cứu viện, bọn họ đứng thu lu một chỗ, trông giống như đám vịt giời dài cổ ngóng nhìn về phương xa nơi có đám "mây đen" ùn ùn đang chuẩn bị kéo tới kia. Tiếng thở dốc nhè nhẹ, mang theo sự hoảng sợ trong tâm tưởng mỗi người, hội tụ lại trở thành một tiếng tru tréo khiến người ta chột dạ, giống như một con dã thú đang thở dốc bên tai.

- Dựa vào đám quân sĩ tinh thần còn chưa được trút bỏ gánh nặng kia liệu có thể ngăn chặn được đòn đánh hiểm độc của Khánh Kỵ sắp tới không?

Cơ Quang lại đảo mắt nhìn về đám mây đen dưới núi, sau đó lướt qua bọn họ, nhong mắt nhìn về phía xa trong núi sâu.

- Phu Khái... có đến kịp thời gian đã định không?

Những cành cây ngọn cỏ khẽ lay động trước những cơn gió xuân thổi tới, mang theo hơi khí ngập tràn sắc xuân tươi. Phía xa, bỗng nhiên vọng tới một hồi thanh âm chói tai "Keng keng keng", "rầm rầm rầm", rất nhiều âm thanh pha trộn vào nhau rung động mặt đất, giống như là tiếng động hành quân của một đạo quân lớn, kèm theo là những tiếng chiến xa hạng nặng lộc cộc đi trên đường, tiếng động càng lúc càng gần. Những người nông dân đang cặm cụi làm đồng ngẩng đầu lên, bỗng nhiên kinh ngạc khi trông thấy một đội quân đông đảo cờ hiệu bay phấp phới, đang đi men theo đường lớn tới nơi này.

Khôi giáp phát ra những tiếng ma sát, đôi khi vũ khí lại va vào nhau leng keng, những âm thanh đó được cộng hưởng bởi vô số binh sĩ, hội thành một hiệu ứng âm thanh khủng khiếp. Những người nông dân sửng sốt đứng thẳng dậy, những phụ nữ, trẻ em sợ hãi nép mình bên cạnh chồng, bố của mình, khiếp đảm nhìn cảnh tượng hành quân đó.

Trên một chiếc xe, Phu Khái khoanh chân ngồi trên một chiếc ghế nệm dày cộm mềm mại, nhìn chăm chú đống thẻ tre trong tay, thân thể hổ trườn rồng phục của hắn khiến cho chiếc xe cũng hơi chòng chành lắc lư. Trước chỗ ngồi của hắn là một vị tín sứ đang quỳ mọp báo tin.

- Đại vương với sáu vạn hùng binh, lại phải binh bại dưới tay một tên Khánh Kỵ quân số chưa bằng một nửa?

Phu Khái nheo mày, trầm giọng nói.

- Vâng, Khánh Kỵ tập kích nửa đêm, trong đám loạn quân...

Phu Khái vịn hai tay xuống đầu gối, thân thể cũng đong đưa theo chiếc xe, nghe hắn nói xong liền hỏi:

- Đại vương giờ đang ở đâu?

Tín sứ đáp:

- Đại vương vội vã cho lui quân lên ngọn núi gần đó, ổn định đội ngũ, nhưng trong lúc cấp bách, không kịp mang theo quân lương, Khánh Kỵ công núi không thành, vẫn lỳ lợm bao vây tại đó cả một ngày, lại phát động cuộc tấn công thứ hai. Quân ta người ngựa mệt mỏi, đói rét không còn sức chiến đấu, Tư Môn Sào tướng quân cầm vương kỳ đại vương dẫn một toán quân dẫn dụ chủ lực Khánh Kỵ. Đại vương, tướng quốc cùng Bá tướng quân dẫn gần một vạn quân chạy theo đường khác. Lúc này đã chạy tới suối Đông Điều, bị Khánh Kỵ phát giác, chặn lấy đường đi, đại vương mong tướng quân mau tới cứu viện, tổn thất của Khánh Kỵ cũng không hề nhỏ, đánh trận liên tục nên càng mệt mỏi, chỉ cần viện binh tới là sẽ cầm chắc phần thắng.

Phu Khái nhăn lại hàng lông mày hỏi:

- Chạy tới suối Đông Điều? Chỗ đó cách thành Ngự Nhi không bao xa, sao không điều động quân thủ thành ở đó tới tiếp viện?

Tín sứ giải thích:

- Đại vương không phải là bỏ chạy thật sự, đây là kế của Ngũ tướng quốc, đại vương đích thân lao vào hiểm nguy, lấy thân mình làm con mồi dẫn dụ đại quân của Khánh Kỵ tới, đến lúc đó sẽ phái người tới thành Ngư Nhi điều binh tới, đề phòng Khánh Kỵ bỏ chạy, rồi một mặt quân lính của tướng quân từ sau đánh thốc tới, dốc toàn lực đánh một trận lập đại công.

Phu Khái suy nghĩ một chút, gật đầu nói:

- Biết rồi, ngươi bẩm lại với đại vương Phu Khái hành quân ngày đêm không nghỉ, sẽ đến đúng thời gian đã định, tham gia quyết chiến với địch.

- Rõ, nô tài cáo từ!

Tên tín sứ lạy một lạy, rồi quay người đi xuống xe, nhảy lên chiến xa lúc nãy mạo hiểm vượt trùng vây của mình, đánh ngựa giơ roi, dẫn theo bốn hỗ binh giục ngựa bỏ đi.

Phu Khái dựng đứng lông mày, nhìn theo phía sau lưng vị tín sứ kia, khẽ thở dài nói:

- Kịp thời đến nơi..., lúc nào thì được coi là kịp thời đây? Đáng tiếc, nếu như ở trong trận trên núi Thiên Mục, bọn chúng đều...

Phu Khái "hắc" một tiếng, vội vàng đập càng xe nói:

- Truyền lệnh xuống dưới, tăng tốc hành quân, mục tiêu thay đổi, vòng qua Cô Tô, đi thẳng tới suối Đông Điều.

Thành Ngự Nhi, năm vị tín sứ của Ngô vương ngơ ngác đứng nhìn một đống phế tích trước mặt, dường như không thể tin được đây là cứ điểm phòng ngự biên giới của Ngô quốc. Bọn họ dắt ngựa, há hốc miệng đi qua chiếc cổng thành đã bị tàn phá, đi chầm chậm trên những tuyến phố tử thi ngổn ngang, máu me nhớp nháp khắp nơi, hai bên đường là những đống tro tàn đổ nát đã bị thiêu trụi, có nơi vẫn còn đang bốc khói xanh, thậm chí một vài căn nhà vẫn đang bốc cháy nghi ngút.

Lửa chưa được dập, khói chưa tan, vết máu trên mặt đất chưa khô, cảnh tượng hoang tàn này nhất định là vừa mới xảy ra trong ngày. Nơi này... tại sao lại biến thành thế này? Khánh Kỵ rõ ràng vẫn đang ở vùng giữa suối Đông Điều và Lạp Trạch giằng co với đại vương cơ mà, rốt cuộc hắn có bao nhiêu quân???

Mấy vị tín sứ nghĩ tới đây không rét mà cứ run lên cầm cập.

Đúng lúc này, phía trước một chiếc xe nằm chỏng lọng trên đất bỗng nhiên phát ra tiếng động khe khẽ, vài vị tín sứ cảnh giác như gặp đại địch, lập tức vứt bỏ cương ngựa rút ra bội kiếm, quát lớn về phía sau chiếc xe.

Trên xe đặt một thi thể mềm nhũn, hai chân thõng giữa không trung, máu từ chân của hắn giỏ xuống đất, phía sau lưng hắn, một binh sĩ từ từ đứng dậy, sắc mặt trắng bệch, áo giáp ngập ngụa máu, trong tay cầm chắc một thanh đoản kiếm, nhưng khi nhìn mặt của hắn thì mọi người đều nghi ngờ việc hắn liệu có cầm nổi thanh kiếm đó được không.

Hai bên đều kinh sợ nhìn nhau, người kia nhìn thấy cách ăn mặc của mấy tín sứ thì nhận ra đó là quân Ngô, trong lòng nhẹ nhõm đôi chút, khàn giọng nói:

- Ta... ta là quân thủ thành Ngự Nhi, các vị... các vị là thuộc hạ của tướng quân nào?

Năm tín sứ đưa mắt nhìn nhau, rồi nhìn ra bốn phía, không thấy có người nào còn sống xuất hiện trong tầm mắt, rồi nhìn về phía trước, qua bộ áo giáp lờ mờ có thể nhận ra đó cũng là binh sĩ quân Ngô, thế là chậm rãi thu hồi lại bội kiếm, vị tín sứ cầm đầu tính tình cẩn trọng, không muốn cho một tên tốt quèn vận chuyển vật tư tầm thường biết thân phận của mình, liền thuận miệng nói luôn:

- Chúng ta là thuộc hạ của tướng quân Tư Môn Sào, phụng lệnh đến Ngự Nhi thành làm việc. Nơi này... rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì thế? Là quân của ai công thành, không lẽ... không lẽ toàn bộ quân thủ thành Ngự Nhi đã bị tiêu diệt rồi sao?

Viên lính kia nơm nớp lo sợ nói:

- Tôi... tôi cũng không biết nữa. Đêm qua, quân Việt bỗng nhiên tập kích, một đám du thương người Việt trong thành bị chúng mua chuộc lén lút mở cổng thành, để cho quân Việt tràn vào, nhất thời toàn thành nổi lửa, nơi đâu cũng có binh sĩ giao chiến. Một viên tướng thủ thành vội vã kéo mấy chiếc xe đến đây lập phòng tuyến ngăn chặn trên phố, về sau chiếc xe này bị lật, hất tôi xuống dưới, về sau... tôi không biết gì nữa cả, tôi... tôi cũng vừa mới tỉnh dậy thôi.

Quân Việt tập kích quân doanh? Thành Ngự Nhi chỉ là một trại quân doanh, không có tác dụng gì mấy, người Việt tập kích là có ý đồ gì đây? Mấy tín sứ đưa mắt nhìn nhau, trong mắt ai nấy đều lộ thần sắc hoang mang, bọn họ không nghĩ thêm gì nữa, lập tức đi men theo con đường lớn chất đầy thi thể lao tới.

Tên lính gặp đại nạn không chết kia nheo mắt nhìn quanh, cũng vội vàng thất tha thất thểu đi theo.

Hậu thành Ngự Nhi không có dấu vết hỏa hoạn, nhưng tử thi cũng chất đống khắp nơi, rõ ràng cũng xảy ra những trận chém giết kịch liệt, cổng thành phía sau không có dấu vết bị phá vỡ, nhưng cổng thành lại mở toang, trên mặt đất là vô số vết chân lớn nhỏ, những mũi giầy đều hướng hết về phía Ngô quốc.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 208: Tạo lập thanh thế (Thượng)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Kiền Toại thành, có mấy người áo quần rách bươm đang chống cành cây lết từng bước khó nhọc trên đường, gặp người qua đường ăn mặc tươm tất liền dừng lại, làm ra vẻ đáng thương xin bố thí thức ăn. Những người này phần lớn đều mang thương tích trên mình, những mảnh vải băng bó vết thương bị máu thấm đầy hóa thành màu đen sậm, nhìn vào cách ăn mặc rách rưới của chúng, không giống với ăn mày bình thường, mà là thương binh lạc khỏi quân ngũ.

Một ông chủ mở quán ăn ven đường cầm một ít thức ăn ra phân phát cho bọn chúng, nhìn bộ dạng của chúng một hồi, ông chủ lên tiếng hỏi: "Mấy vị này, ta thấy mấy vị không giống những kẻ đi ăn xin dọc đường, thế sao lại...sao lại thành ra nông nỗi này?"

Mấy người này nghe hỏi vậy thở dài ngao ngán, trong đó có một người trả lời: "Ấy, một lời khó mà nói hết được, mấy người chúng ta vốn là binh lính theo đại vương đi phạt Sở, ai mà ngờ, lúc ở Sở thì đánh trận nào thắng trận nấy, về đến Ngô quốc, lại bị Khánh Kỵ điện hạ đánh cho tan tác."

Ông chủ kia nghe kể chuyện phấn chấn tinh thần, xung quanh đột nhiên một đám người nhiều chuyện vây lấy bọn người kia, hỏi han đủ thứ: "Nghe nói Khánh Kỵ điện hạ về nước rồi, còn dẫn theo mấy vạn đại quân, cưỡi những con thuyền mọc cánh, có thật không vậy?"

"Nghe nói đại vương bị bại trận? Bây giờ thế nào rồi?"

"Nghe nói..."

Một tên thương binh than thở: "Ấy, chuyện này ấy mà, mọi người chỉ là nghe nói, còn chúng ta đã tận mắt chứng kiến. Chúng ta đi đường bộ về nước, còn đường thủy uốn khúc quanh co, vốn dĩ không thể nào nhanh hơn chúng ta được, thế tại sao mà Khánh Kỵ điện hạ tới trước chúng ta nào? Chính là vì cưỡi loại thuyền lướt đi trên gió đó."

"Lướt đi trên gió à?" Đám dân đen huyên náo cả lên.

"Còn không phải ư? Ta nghe nói Khánh Kỵ điện hạ năm ngoái bị hành thích ở Trường Giang, từng gặp được tiên nhân, được truyền cho ba quyển thiên thư, nên mới đánh đâu thắng đó, dưới Thiên Mục sơn, mười vạn đại quân của đại vương bị Khánh Kỵ điện hạ thỉnh xuống vật cưỡi của thiên thần là Thần ngưu biết phun lửa, giẫm tanh bành cả năm quân doanh lớn, trận chiến đó, giết hơn quá nửa binh mã của chúng ta đó."

"Woa! Đó không phải là năm sáu vạn người à?"

"Chứ sao, máu chảy thành sông, máu chảy thành sông luôn đó. Ta nói cho mọi người nghe, vì ta là một thương binh nên Khánh Kỵ điện hạ mới tha mạng cho, ta thấy tận mắt mà, xác chết chất cao từng đống, còn cao hơn cả cán cờ cắm trên chiến xa nữa, thảm thương hết chỗ nói!" Một tên lính nói giọng âm u.

"Vậy bây giờ thế nào rồi? Nếu quả thật Khánh Kỵ điện hạ có thần thánh trợ giúp, sao không trực tiếp đánh chiếm Cô Tô thành?"

"Cái này...cái này là thiên cơ. Ta nói cho mọi người nghe, mọi người đừng nói ra ngoài đó." Tên thương binh dáo dác sợ sệt nhìn xung quanh xong mới nói tiếp: "Cô Tô thành là hoàng thành, hoàng thành tất nhiên có vương khí, còn có thần linh phù hộ nữa, Khánh Kỵ điện hạ không triệt để đánh bại đại vương, hấp thụ vương khí sẽ không vào được Cô Tô thành, nhưng bên ngoài Cô Tô thành thì Khánh Kỵ điện hạ muốn hô phong hoán vũ, làm gì cũng được hết."

Đám dân đen tụ tập càng lúc càng đông, người nào người nấy im lặng lắng nghe chăm chú. Tên thương binh cứ thế huyên thuyên: "Đại vương chỉ có nước thua hết trận này đến trận khác thôi, bây giờ đã lui về Đông Điều Khê, bị Khánh Kỵ điện hạ chặn mất đường lui về Cô Tô thành, giang sơn này...Hic! Giang sơn này, khó nói lắm..."

"Nói chuyện đó làm gì nữa, các vị hương thân phụ lão rũ lòng thương, bố thí thêm cho mấy người đáng thương này ít thức ăn nữa đi ạ. Đại vương đã không lo được cho chúng ta rồi, chúng ta mang thương tích đầy mình, cũng không biết còn sống được bao lâu, chỉ mong...có thể gắng gượng quay về quê nhà, gặp mặt phụ mẫu thê nhi một lần..."

Nói đến đây, tên thương binh nghẹn ngào bật khóc.

Đám dân chúng nổi lòng thương hại, ai cũng bố thí tùy theo khả năng của mình. Có người hỏi: "Mấy người quê ở đâu?"

"Ta ở Yểm thành."

"Ta ở Diên Lăng."

"Còn ta ở Nam Vũ thành, cám ơn các hương thân phụ lão, thôi không nói tiếp nữa, chúng ta còn phải đi khắp nơi xin chút tiền đi đường để quay về quê nhà, đa tạ các vị có lòng hảo tâm."

Mấy tên thương binh ra vẻ thương cảm, chắp tay vái lạy đám dân đen vừa bố thí cho chúng, sau đó chống gậy tiếp tục lảo đảo bước đi, bỏ lại đám đông ồn ào đang túm tụm bàn luận ý kiến với nhau.

Mất tên thương binh đi xiên vẹo bước ra lối nhỏ, quay đầu lại thấy không ai bám theo, vội nháy mắt ra hiệu, lại rẽ vào một con đường khác, cùng một màn xin bố thí thức ăn kể lể tình hình chiến sự lại được trình diễn ở một nơi khác...

Trong Cô Tô thành, Phù Sai lo lắng không yên, hắn đã nhận được tin phụ vương bại trận lui về Đông Điều Khê, chỉ là đại quân của Khánh Kỵ chặn ngay lối đi giữa Đông Điều Khê và Lạp Trạch, vừa đúng chỗ cản đường phụ vương quay về Cô Tô thành. Hắn lo cho an nguy của phụ vương, có ý định dẫn quân ra khỏi thành đi cứu viện, thế nhưng...Cô Tô thành là gốc rễ của phụ vương, hắn sao lại không biết điều này, nếu đánh mất cả Cô Tô, hậu quả vô cùng nghiêm trọng.

Hơn nữa, lại có hai tên tín sứ mang theo bảo kiếm của Hạp Lư quay về, lệnh cho hắn không được trúng kế điệu hổ ly sơn của Khánh Kỵ, cứ thủ chặt Cô Tô thành, tình hình hiện nay hắn chỉ còn mong cho Phù Khái ở Hàn Ấp và quân trấn thủ Ngự Nhi thành kịp thời quay về giải vây cho phụ vương mà thôi.

"Đùng!" lại một tiếng đinh tai nhức óc vang lên, mặt đất rung chuyển hồi lâu mới dứt. Một lúc sau, có người chạy vội vào động trú ẩn dưới chân tường thành, đó là một chàng thanh niên, mũi chim ưng mặt gầy gò, thần thái nghiêm nghị, hai mắt sắc lẻm, bắp tay rắn chắc.

Hắn vội chạy đến bên Phù Sai, chắp tay nói: "Thái tử điện hạ, quân địch đã dừng bắn đá."

Phù Sai ừ hử một tiếng, bừng tỉnh khỏi suy nghĩ trong đầu, nhìn chàng thanh niên một cái. Người này họ Chuyên tên Nghị, còn trẻ tuổi mà đã giữ chức tư mã Ngô quốc, xếp vào hàng ngũ thượng khanh. Một năm trước hắn hãy còn là một thường dân, ngay cả đất cũng không có ba sào, nhưng phụ thân hắn là Chuyên Chư được Ngũ Tử Tư sử dụng làm thích khách giúp Cơ Quang hành thích Ngô vương Cơ Liêu, trước lúc hành sự phụ thân hắn đưa ra một yêu cầu đó là sau khi thành công, phải phong cho con trai làm thượng khanh. Cơ Quang đồng ý yêu cầu này, Chuyên Chư thích sát Cơ Liêu thành công, Cơ Quang ngồi lên vương vị quả nhiên giữ lời hứa, phong cho con trai của Chuyên Chư làm thượng khanh, giữ chức tư mã Ngô quốc. Chuyên Nghị này cũng giống cha, hết mực trung thành phò trợ cha con Cơ Quang.

Chuyên Nghị còn trẻ, tài năng không có, căn cơ lại thiển cận, tuy giữ chức quan đại tư mã, cai quản binh mã thủy lục quân Ngô, nhưng binh quyền thật sự lại nằm trong tay tướng quốc Ngũ Tử Tư, hắn chỉ là mang danh nghĩa thế thôi. Cũng may là Chuyên Nghị tự biết thân biết phận, hắn hiểu sở trường của hắn chỉ là chút kiếm thuật võ nghệ phụ thân đã truyền dạy, chỉ đủ làm một thị vệ, bắt hắn giữ chức tư mã Ngô quốc là không xứng đáng, nên Chuyên Nghị không có tranh quyền đoạt lợi, vì thế Phù Sai rất coi trọng hắn.

Phù Sai theo sau Chuyên Nghị ra khỏi động ẩn náu, bên ngoài một vết hoang tàn, những ngày này Kinh Lâm ngày nào cũng bắn đá tảng đất nung vào thành, đất đá bên ngoài bị đào sâu ba thước, ngược lại trong thành thì cao thêm ba thước, đá tảng băm nát hoàn toàn khu vực trong phạm vi một trăm bước chân xung quanh tường thành, khắp nơi đều là đất đá vương vãi, vì ngày nào cũng bắn nên cũng không ai đi dọn dẹp, nhìn vào cứ như một tòa thành bị bỏ hoang lâu ngày, muốn đi lại trên đường cũng gặp khó khăn.

Quân ngoài thành cũng phải nghỉ ngơi, cho dù luân phiên nhau thao tác máy bắn đá, mỗi ngày cũng sẽ có những lúc tạm ngừng "không kích". Không kích vừa dứt, Phù Sai bèn bước lên tường thành, quan sát tình hình quân địch, một khắc cũng không dám lơ là.

Hôm nay Phù Sai lại bước lên tường thành, vịn vào một mảnh tường bị phá hoại dõi mắt ra xa, thấy trong quân của Kinh Lâm cột khói bốc lên cao vút, lại thấy có mười mấy tên đại hán dùng thanh gỗ bự vác ngược mấy con heo mập ú trắng nõn đã cạo sạch lông, vừa reo hò khoái trá vừa khiêng từ ngoài bờ suối vào tận quân doanh.

Phù Sai ngớ người nghĩ ngợi giây lát, đột nhiên nổi giận lôi đình, hai bàn tay đang vịn trên tường thành run lên bần bật.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 208: Tạo lập thanh thế (Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Chuyên Nghị thấy vậy vội bước tới hỏi: "Thái tử điện hạ, ngài sao rồi?"

Phù Sai chỉ tay về phía xa, gầm gừ trong miệng: "Đáng chết! Một lũ tặc tử đáng chết!"

Chuyên Nghị ngạc nhiên không hiểu, Phù Sai cũng không thèm giải thích, phất tay áo bỏ đi, căm phẫn chửi rủa: "Đợi sau khi đánh lui quân địch, bổn thái tử thề sẽ tìm hết bọn người này ra, lột da xẻ thịt từng đứa, không chừa tên nào."

Thì ra, mấy ngày này quân của Kinh Lâm bắt đầu cạn kiệt lương thảo, Phù Sai quan sát trên thành thấy bên ngoài hay phái quân đi bắt cá hoặc hái rau dại làm thức ăn, vì Kinh Lâm chỉ tấn công Xương môn, không thể phong tỏa hết mười sáu cổng thành của Cô Tô, nên Phù Sai thường nhân lúc đêm xuống phái thám mã ra ngoài thám thính khắp nơi, được biết quân đội của Khánh Kỵ vì muốn lấy lòng dân chúng, không cướp bóc của dân, chỉ bỏ tiền ra thu mua lương thực, nhưng mấy thành trì nhỏ và làng mạc thôn quê có ít lương thực dự trữ, với lại trong quân Khánh Kỵ cũng không mang theo nhiều tiền, gần đây đã xảy ra tình cảnh phải đem áo giáp của các binh sĩ tử trận đi đổi lấy lương thực.

Nhưng bắt đầu từ hôm qua số người bắt cá hái rau dại ít đi thấy rõ, lúc đó Phù Sai cảm thấy hơi lạ, lúc này lại nhìn thấy chúng có thịt heo ăn nữa chứ. Phù Sai sao mà không hiểu ra? Quân của Khánh Kỵ vì muốn lấy lòng dân nên không chịu đi cướp của lê dân bá tánh, tiền của mang theo lại ngày một vơi đi, chúng lấy đâu ra thực phẩm để dùng? Giờ còn có cả thịt heo nữa?

Rõ ràng là bọn phú hộ xung quanh thành trì xuôi theo chiều gió, cho rằng Ngô vương Hạp Lư sắp hết thời, nên mới hùa theo ủng hộ Khánh Kỵ, lén quyên góp tiền của, vận chuyển lúa gạo gia cầm tặng cho quân của Khánh Kỵ, mưu cầu được phong cho chức quan sau này. Thật không ngờ phụ vương vừa mới bại trận, người Ngô lại xuôi theo chiều gió thế này! Phù Sai đâu biết chuyện Tôn Vũ phái người đi khắp nơi tung tin đồn, đã tạo dựng một hình tượng Khánh Kỵ có thần linh phù hộ trong lòng dân chúng, giờ ai cũng mang niềm tin chắc chắn Khánh Kỵ sẽ trở thành Ngô vương. Phù Sai đương nhiên căm phẫn hành động phản bội này.

Phù Sai tức giận vừa định ra thành ứng chiến, đột nhiên một viên tướng lĩnh vội vã chạy đến bẩm báo với hắn: "Thái tử điện hạ, mạc tướng tuần tra, bắt được có người ném thư ra ngoài thành."

"Hử?" Phù Sai trợn mắt, ánh mắt hung tợn, sắc mặt đanh lại: "Là ai? Trong thư nói gì?"

"Cái này, là...là người nhà trong phủ Triết đại phu, thư...thư ở đây ạ." Viên tướng đó thấy Phù Sai tức giận, trong lòng cũng cảm thấy sợ, nói lắp ba lắp bắp, hai tay dâng bức thư lên, rụt rè: "Lá thư còn chưa kịp bắn ra ngoài, mời...mời điện hạ xem qua."

Phù Sai đưa tay cầm lấy, "rẹt!" một tiếng xé ra xem, trong thư không có trình bày cách bố phòng trong thành, trên thực tế thì cái vị Triết đại phu gì đó cũng không rõ về bố phòng trong thành, thư chỉ huyên thuyên kể lể về ân tình giữa nhà Triết đại phu với nhà Khánh Kỵ, Vương Liêu bị hành thích, Khánh Kỵ trốn đi xa, Triết đại phu đau lòng biết nhường nào, ngày nhớ đêm mong, mong cho Khánh Kỵ sớm đánh về Ngô quốc, đoạt lại vương vị. Nội dung trong thư rõ ràng là không xem trọng hai cha con Cơ Quang, bắt đầu mở đường trải thảm đón quân vương mới.

Hiện giờ Hạp Lư bại trận chạy về Đông Điều Khê, lòng quân hoang mang, lòng dân dao động, thân là thái tử giám quốc, trong lòng Phù Sai bị đè nén cỡ nào? Lá thư này vừa lúc như châm thêm dầu vào lửa, hắn vận sức vào hai tay, rứt gãy cả chỉ nối, những tấm thẻ tre rơi đầy cả ra mặt đất.

Phù Sai nghiến răng ngẩng đầu lên, viên tướng lĩnh sợ sệt bước lui lại một bước, chỉ thấy Phù Sai đanh mặt trừng mắt, hai mắt đỏ ngầu, quắc mắt ngước mũi như một con rồng lửa, hắn gằn từng tiếng: "Đi! Bắt cả nhà Triết đại phu lại cho ta, triệu tập tất cả công khanh đại phu, gia chủ thế tộc trong thành, phanh thay nam đinh cả nhà bất kể già trẻ lớn bé của Triết đại phu trước mặt họ, sau đó ném xác cho chó ăn! Nữ nhân thì xung quân làm doanh kĩ mua vui cho quân sĩ, đến chết mới thôi."

Viên tướng lĩnh nói giọng run run: "Điện hạ, Triết đại phu tuy tư thông với địch, nhưng tội không đáng chu di cả họ, hơn nữa Triết đại phu và điện hạ có mối quan hệ kết thân, theo bối phận thì còn là dượng của ngài."

Phù Sai phất tay, gào lên hung bạo: "Mặc kệ hắn là ai, cứ theo lệnh của ta mà làm, lập tức đi mau! Ngươi mà còn đứng đây lải nhải không nghe lệnh của ta thì cùng chung tội với hắn."

"Dạ! Tuân lệnh!" Viên tướng lĩnh run rẩy tuân lệnh xong vội vàng quay lưng bỏ đi.

Phù Sai đi xuống dưới cầu thang, bị đất đá làm vấp chân sém té ngã, hắn điên tiết nhảy dựng lên, xoay người đi ngược trở lên, đụng ngay mặt Chuyên Nghị đang theo sau đi xuống, Chuyên Nghị vội lách qua một bên tránh đường, Phù Sai sải bước lên tường thành, nhìn cột khói phía quân doanh Khánh Kỵ, đột nhiên nhíu mày nói: "Chuyên Nghị, đi tìm người đến đây hét lớn ra ngoài thành, Kinh Lâm hùa theo phản tặc Khánh Kỵ, là kẻ địch của Ngô quốc ta, ai chém thủ cấp của hắn mang vào thành sẽ được thưởng vạn lượng vàng, phong khanh bái tướng, còn được chia đất."

Giai cấp trong thiên hạ thứ tự là Thiên tử, chư hầu, khanh, đại phu, sĩ, thứ dân, nô lệ. Được trực tiếp phong chức khanh, có thể nói là một bước lên mây, bước vào hàng quý tộc, hơn nữa ngoài chức tước còn vạn lượng vàng và quan hàm tướng quân, Phù Sai lấy thân phận thái tử Ngô quốc nói ra những lời này tất nhiên sẽ thực hiện, lại bảo Chuyên Nghị nói ra ngoài, hắn tin cho dù binh sĩ ngoài kia không ai có gan đi chặt cái đầu trên cổ Kinh Lâm, cũng có thể khiến Kinh Lâm ăn không ngon ngủ không yên, ngày đêm đề phòng bị hành thích.

Chuyên Nghị lập tức đi chọn ra mất tên lính to tiếng nói vọng ra, Phù Sai thì bước xuống thành đến phủ Triết đại phu, Phù Sai quả nhiên kiên quyết làm chuyện này, tất cả công khanh thế tộc trong thành đều bị tập trung hết lại, còn dù có người trong hoàng tộc đứng ra xin giúp, Phù Sai cũng không mảy may động lòng, chỉ một lát sau cả con đường bị chen chúc chật kín người, từ người già trên bảy mươi tuổi đến đứa bé sơ sinh phủ Triết đại phu, chỉ cần là nam nhân, đều bị tùng xẻo.

Tùng xẻo cũng chính là Lăng trì, là hình phạt tàn bạo, người thụ hình kêu la thảm thiết, người đứng xem sợ hãi mặt không còn giọt máu, Phù Sai lại ung dung thư thái, quay qua nói với các công khanh đại phu: "Tồn vong của Cô Tô thành quan hệ đến giang sơn xã tắc Ngô quốc, nếu thành trì bị thất thủ, bổn thái tử sẽ nổi lửa thiêu trụi toàn thành cùng chết với nhau, các ngươi phải đồng tâm tận lực cùng triều đình thủ thành, chống cự quân địch, kẻ nào lâm trận phản bội, sẽ có kết cục thế này, các ngươi lấy đó mà làm gương. Người đâu, đưa hết tất cả nữ nhân vào trong quân ban thưởng cho binh sĩ."

Một đám lính hung tợn xông vào kéo tất cả nữ nhân khóc lóc thê lương của Triết phủ bỏ đi, Phù Sai quét ánh nhìn hung tợn vào từng người, những ai bị hắn nhìn vào đều cúi rạp đầu xuống, Phù Sai cười to ba tiếng, phất tay áo bỏ đi, bỏ lại một đám công khanh đại phu, gia chủ thế tộc trước cửa phủ đệ Triết đại phu, đang run lẩy bẩy trong tiếng kêu gào thảm thiết...

Phù Sai quay lên tường thành Xương môn, Chuyên Nghị đang dẫn theo một tốp lính hét lớn truyền lệnh của hắn ra ngoài, định dùng công tâm kế với quân Khánh Kỵ, không ngờ tốp lính hét đến khản cả giọng, binh lính ngoài kia sau khi ăn uống no nê, mới uể oải dàn hàng ngang ra trước Viên môn, rất nhiều người trên tay còn cầm cành liễu bẻ lấy bẻ để, Phù Sai lúc đầu không hiểu chúng đang làm gì, hồi sau mới nhìn rõ là chúng bẻ cành liễu dùng làm tăm xỉa răng.

Đám người đứng xiên vẹo ngoài kia dàn hàng ngang hét to vào thành: "Người trong thành nghe đây, Khánh Kỵ điện hạ đánh bại Cơ Quang, sắp đăng cơ xưng vương, ai giết được Phù Sai, đem thủ cấp đến đầu hàng, điện hạ thưởng vạn lượng vàng, ngàn mẫu ruộng, còn phong tướng bái hầu!"

Phù Sai nghe xong tức tối muốn lập tức dẫn quân xông thẳng ra ngoài, tên Kinh Lâm vô sỉ này dám nói y chang hắn, còn mở to miệng hứa ban thưởng giùm cho Khánh Kỵ.

Phù Sai nhẫn nhịn đi qua đi lại trên tường thành nửa ngày trời, thấy Chuyên Nghị vẫn đang đứng đó đợi lệnh, Phù Sai trầm ngâm một hồi, vẫy tay: "Ngươi qua đây!"

Chuyên Nghị lập tức bước tới bên cạnh, Phù Sai nói: "Phụ vương không cho ta ra thành cứu viện, nhưng ta quả thật không an tâm an nguy của phụ vương, bên cạnh ta chỉ có ngươi là giỏi nhất, đêm nay ngươi lẻn ra ngoài thành, đến Đông Điều Khê gặp phụ vương, lúc này chắc quân trấn thủ Ngự Nhi thành đã đến tiếp ứng cho phụ vương, hai quân tập hợp lại đủ kháng cự với Khánh Kỵ. Ngươi nói với phụ vương là Phù Khái hoàng thúc đang ngày đêm tiến quân đến giải vây, đợi quân hoàng thúc đến nơi, Khánh Kỵ bị đánh trước mặt sau lưng, ba quân tan rã, lúc đó mời phụ vương nhanh chóng quay về Cô Tô, ta và phụ vương trong ngoài giáp công, tiêu diệt Kinh Lâm, sau đó mời phụ vương trấn giữ Cô Tô, ta thay cha cầm quân xuất chinh, truy quét phản loạn."

Hắn nói đến đây, hai nắm tay đấm mạnh vào nhau, gầm gừ: "Mỗi ngày đứng trên tường thành, lo lắng cho an nguy của phụ vương nơi xa, kẻ địch ngay trước mặt lại không được ra ứng chiến, thật là tức chết đi được."

"Dạ!" Chuyên Nghị chắp tay vái lạy định lui xuống.

"Khoan đã!" Phù Sai lại gọi hắn lại, trầm ngâm lên tiếng: "Dẫn theo tên Lý Hàn, người này mưu mô quỷ quyệt, lại hiểu rõ tình hình Khánh Kỵ ở Lỗ quốc, có thể...phụ vương cần dùng đến hắn."

"Dạ!" Chuyên Nghị lui xuống chuẩn bị.

Phù Sai nhìn xuống phía dưới, chỉ cách có gang tấc, hắn lại không thể làm gì đám người ti tiện gây hấn. Phù Sai nhổ xuống, đấm một quả mạnh vào tường thành.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 209: Thù trong giặc ngoài (Thượng)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Doanh trại Khánh Kỵ đóng trên mảnh đất rộng ven sông, bên trái là một dòng sông dưới thông Đông Điều Khê, trên nối liền Ngũ Hồ. Trong doanh trại người ngựa qua lại không ngớt, thám mã không ngừng đưa tin từ khắp nơi về, các tướng lĩnh tề tựu trong túp lều lớn đặt tại trung tâm.

"Tôn tướng quân, có phải nên bố phòng ven hồ bên trái, nhỡ khi Cơ Quang trốn chạy vào Ngũ Hồ, thì sẽ vượt sông đến dưới chân thành Cô Tô."

"Không cần, các tàu thuyền lớn nhỏ trên sông đã bị chúng ta tịch thu hết, trừ khi bọn chúng bị điên, bằng không xông vào Ngũ Hồ, ngoài quay lưng về sông nước quyết chiến một phen ra không còn đường nào khác. Hiện giờ binh mã của chúng ta tuy sĩ khí cao hơn Cơ Quang, nhưng đừng quên Cơ Quang vẫn đang là Ngô vương, hắn còn có viện quân, chúng ta buộc phải tập trung toàn bộ lực lượng..."

Một bức bản đồ lớn dùng than vẽ ghép lên hai mảnh da dê dựa vào tấm bản đồ nhỏ được treo lên bức vách gỗ, các tướng đang bàn bạc kế hoạch tác chiến.

"Chúc Dung giờ thế nào rồi? Hắn đi Vũ Nguyên có tin gì không?"

"Đã phái người đi Vũ Nguyên liên lạc, tin tức chắc cũng mau về tới."

"Vũ Nguyên nằm ở cánh phải của ta, nếu Chúc Dung có thể chiêu hàng thủ quân Vũ Nguyên, cùng chúng ta tạo thế gọng kiềm, lúc đó Cơ Quang không thể qua sông bằng đường thủy, đường bộ cũng bị cắt đứt."

Khánh Kỵ nói: "Cũng chưa chắc, đừng quên bên Ngự Nhi thành còn có bảy ngàn quân của Cơ Quang, đó là bảy ngàn quân chưa bị sứt mẻ gì, cánh quân này đổi lại vào lúc khác tác dụng có thể không lớn, nhưng đợi khi quân ta và quân địch đều sức cùng lực kiệt mà kéo đến thì sức chiến đấu của chúng không thể xem thường. Điều quan trọng nhất là nó có tác dụng vực dậy lòng quân đang đi xuống của binh mã Cơ Quang."

Tôn Vũ nhìn vào các điểm bố trí binh lực quân ta và quân địch trên tấm bản đồ, trầm ngâm: "Mạc tướng cũng thấy lo điểm này, theo sau còn có binh mã của Phù Khái từ Hàn Ấp quay về, Chúc Dung công tử có chiêu hàng được thủ quân Vũ Nguyên hay không còn là một biến số, binh mã của Phù Khái khi nào sẽ tới cũng là một biến số, còn về binh mã ở Ngự Nhi thành... Ta tuy thắng trận nhưng biến số quá nhiều, rất nhiều việc còn không nắm chắc trong tay, nếu muốn không bị các biến số này ảnh hưởng, chúng ta phải dồn tất cả sức lực thừa lúc nó chưa xảy ra tấn công chí mạng vào tàn quân của Cơ Quang đóng ở Đông Điều Khê, ta tin...chúng sẽ không chịu nổi đợt tấn công này đâu."

"Nếu bây giờ lại phát động tấn công, binh mã ở Ngự Nhi thành hoặc Vũ Nguyên, hoặc của Phù Khái kéo đến kịp thời, tình hình chiến sự sẽ phát triển theo hướng nào?" Khánh Kỵ chớp mắt, chất vấn Tôn Vũ, hắn tuy là hỏi nhưng lại có ý nhắc nhở, ai cũng biết nếu trường hợp đó xảy ra thì thế công thủ thắng bại lập tức bị đảo ngược.

Tôn Vũ nói: "Đó chính là lí do Ngũ Tử Tư chọn lui về chỗ này, đi về phía Bắc là không thể vì có chúng ta chặn mất đường tiến quân, với sĩ khí của đám tàn quân dù đụng độ với một vạn quân đang công thành của ta cũng khó giành phần thắng. Dời binh đóng tại Đông Điều Khê, bên phải có Vũ Nguyên, phía sau có Ngự Nhi thành, còn có thể đợi Phù Khái đưa quân đánh sau lưng chúng ta, hắn muốn đi vào tử địa để trùng sinh, mượn tình hình này chuyển bại thành thắng, còn chúng ta..."

Tôn Vũ cười khổ nói tiếp: "Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, chúng ta tuy muốn nắm phần chủ động trong tay, nhưng hiện nay phần lớn phải xem ý trời quyết định biến số thế nào rồi?"

"Báo! Quân tình khẩn cấp. Việt quốc thừa lúc Ngô quốc ta nội loạn vượt biên giới tập kích, đã san bằng Ngự Nhi thành, hiện nay không rõ tung tích."

"Cái gì?" Các tướng cùng lúc hét lên, tin này vừa đáng mừng vừa đáng lo, quân trấn thủ Ngự Nhi thành bị tiêu diệt, Hạp Lư sẽ mất đi một cánh quân cứu viện, đối với đại quân của Khánh Kỵ là một việc tốt, nhưng người Việt lần này đến đây không mang ý tốt, tuyệt đối không là đến giúp Khánh Kỵ, ai biết con rắn độc này bước tiếp theo sẽ tấn công Cơ Quang hay tấn công Khánh Kỵ?

"Quân Việt có bao nhiêu binh lực? Do ai thống lĩnh?"

Tên tín sứ trả lời: "Cái này...còn chưa biết rõ."

Tôn Vũ vội ra lệnh: "Thám mã các nơi mau chóng dò la hành tung của quân Việt, một khi có tin lập tức báo về, không được chậm trễ."

"Tuân lệnh!" Tên tín sứ vội lui ra.

Khánh Kỵ từ từ liếc mắt vào Tôn Vũ: "Trường Khanh khi nào phái ra một đội thám mã vòng qua Cơ Quang, lại đi dò la tin tức bên Ngự Nhi thành vậy? Hình như...hắn sớm biết Ngư Nhi thành sẽ xảy ra tình cảnh này...", Khánh Kỵ bất chợt nhớ lại lần trước bàn về các cánh quân Ngô có thể cứu viện Cơ Quang, Tôn Vũ không hề nhắc tới quân trấn thủ ở Ngự Nhi thành...

Phù Khái dẫn quân đến Yểm thành, nghỉ ngơi chỉnh đốn xong lệnh cho đại quân tiếp tục lên đường, ba quân vừa định nhổ trại, một con ngựa phi nhanh tới, hai vai của tên lính trên lưng ngựa cắm hai lá cờ nhỏ màu đỏ, chính là tín sứ trong quân. Tên lính phi ngựa như bay tới trước xe ngựa của Phù Khái nhảy vội xuống, bước nhanh về phía trước bám lấy bánh xe Phù Khái, thở hổn hển nói: "Báo! Đại tướng quân, có quân tình khẩn cấp."

Phù Khái đang ngồi trên xe, lạnh lùng lườm tên lính một cái, dửng dưng nói: "Chuyện gì mà phải hốt hoảng? Đứng lên rồi nói!"

"Dạ, dạ!" Tên tín sứ gật đầu lia lịa, nhưng đôi chân hắn khi cưỡi ngựa đã bị tê liệt, bên đùi rướm đầy máu tươi, hắn gắng gượng hai lần cũng chưa đứng lên được, chỉ còn cách quỳ tại chỗ, vội vàng bẩm báo: "Đại tướng quân mới rời khỏi Hàn Ấp có hai ngày, quân Lỗ và người Đông Di phối hợp tấn công Hàn Ấp. Bọn chúng...bọn chúng vốn chỉ giả bộ tấn công, nhưng quân số còn lại ở Hàn Ấp quá ít, kẻ địch nhìn ra khẽ hở, bèn cùng người Lỗ và người Đông Di hợp binh lại công phá Hàn Ấp, hiện giờ liên quân của chúng đã vượt sông đuổi đánh vào Vân Dương. Chúng...chúng giơ cờ hiệu của Yểm Dư công tử."

"Cái gì?" Phù Khái giật nảy người, hai tay vịn vào thành xe, bật dậy ngay lập tức.

Phía trước vọng đến tiếng bánh xe lăn bánh, tiền quân đã nhổ trại xong, Phù Khái phất tay một cái, hét lớn: "Dừng tiến quân!"

Cờ hiệu lập tức được giơ lên truyền lệnh, chỉ trong giây lát, tiền quân dừng lại không tiến quân nữa. Phù Khái nhảy phốc xuống xe, sắc mặt do dự không biết làm thế nào, đứng đó đăm chiêu suy nghĩ.

"Yểm Dư đã mượn được quân từ Lỗ quốc và người Đông Di? Bọn chúng trong lúc giằng co với Tề còn có binh lực phát động tấn công xuống phía Nam ư? Tin này là thật hay giả? Chúng xuất binh đánh thật hay tung hỏa mù dụ ta? Nếu là thật thì ta dẫn quân đi cứu viện Đông Điều Khê, Yểm Dư đuổi theo đánh thọc sau lưng ta, lúc đó ta bị đánh cả trước mặt sau lưng à?"

Phù Khái đôi mắt sắc lạnh, nhìn xuống ngón chân trầm ngâm suy nghĩ, một ý nghĩ động trời nhen nhóm trong lòng hắn: "Hoàng huynh... e là không cứu được rồi, ta dẫn quân nam hạ giải vây cho huynh ấy, chi bằng tiến về Cô Tô, quét sạch binh mã đang vây thành của Khánh Kỵ, trốn vào Cô Tô thành rồi mưu tính đại nghiệp sau. Phù Sai chỉ là tên nhóc con miệng còn hơi sữa, trong quân đội Ngô quốc, uy danh của ta không kém cạnh so với Khánh Kỵ, đến lúc đó nói không chừng ta có thể thay thế hoàng huynh..."

Hắn lại lắc đầu, từ bỏ tham niệm mới nhen nhóm trong tim: "Không được, nếu hoàng huynh bị tiêu diệt, Khánh Kỵ chắc chắn tiến đánh Cô Tô thành, lại có liên quân người Lỗ và Đông Di của Yểm Dư giúp sức, đến lúc đó ta sao mà chống lại?"

Hắn nhíu mày đăm chiêu, nôn nóng đi vòng quanh chiếc xe ngựa hai vòng, dừng bước: "Người Tề hùng mạnh, vượt xa các nước Tào, Trần, Lỗ, Đông Di, phía Bắc người Lỗ và Đông Di chiến sự gay gắt, quân của chúng nếu không đánh nhanh thắng nhanh thì không thể nán lâu trong Ngô quốc ta, chỉ có việc tiếp tế lương thảo chúng cũng khó lo nổi, nếu viện binh bên ngoài mà lui, chỉ chừa lại cánh quân của Khánh Kỵ, thành Cô Tô kiên cố có thủ trên ba năm cũng không thành vấn đề, hơn nữa lúc đó ta thu nạp luôn quân thủ thành, binh lực có thể công có thể thủ, còn có binh mã ở Vũ Nguyên, Ngự Nhi thành, chỉ cần ta giơ cao cờ hiệu của Ngô vương điều động thì..."

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 209: Thù trong giặc ngoài (Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Phù Khái sáng mắt lên, ngẩng đầu hét lớn: "Người đâu!"

Một tên quan ghi chép và một tên tín sứ cùng bước tới, chắp tay: "Đại tướng quân!"

"Truyền lệnh..." Phù Khái đưa tay lên, đột nhiên lại ngập ngừng: "Nếu hoàng huynh bại trận nhưng không chết, chạy về Cô Tô, vậy... vậy ta nên làm thế nào?..."

"Đại tướng quân?" Tên quan ghi chép kinh ngạc nhìn Phù Khái.

"Hử? À, truyền lệnh... Truyền lệnh ba quân nhổ trại, tiến về Đông Điều Khê."

"Tuân lệnh!"

"Về đây! Còn nữa..."

"Đại tướng quân xin cứ sai bảo."

"Phía Cô Tô thành và Đông Điều Khê, phái thêm nhiều thám mã, lúc nào cũng đưa tin liên tục. Phía Vũ Nguyên cũng phái người đi liên lạc. Vì...người Lỗ và người Đông Di đuổi theo sau lưng, đề phòng bất trắc, ba quân của ta lúc nào cũng phải trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu, khoảng cách đóng quân không được cách xa nhau, hậu quân đi chậm lại, tập hợp đội hình, đề phòng quân địch truy kích sau lưng."

"Tuân lệnh!"

Hậu hoa viên Nhâm gia, Nhâm Nhược Tích ngồi bên cửa sổ. Ngoài kia, hoa nở rực rỡ, cỏ xanh um tùm, bên bờ hồ, Nhâm Băng Nguyệt đang câu cá, vừa ném lưỡi câu vào hồ, còn chưa kịp đợi lưỡi câu chìm xuống đã vội nhấc cần lên, sau đó lại thả xuống. Nhâm Nhược Tích hai tay chống cằm, vẻ mặt ngu ngơ nhìn vào em gái, cũng không hề cảm thấy tức cười.

So với một năm trước, thân hình của nàng có hơn chút ốm đi, hàng mi cong vút, dung nhan như ngọc, chiếc vòng ngọc đeo trên tay tựa như xuôi tay xuống là tuột ra, eo thon nõn nà, tà áo phất phơ, nàng ưu sầu tiều tụy đang lo cho sinh tồn của gia tộc và tính mạng cá nhân.

Sau này nên làm sao đây? Gia tộc của nàng nên đi đâu về đâu? Phụ thân, muội muội, tất cả thân nhân, còn có bao nhiêu người sống nhờ vào Nhâm Gia của nàng nữa, vận mệnh của bao nhiêu người tập trung lại như ngọn núi nặng trĩu trong lòng nàng. Khánh Kỵ và Cơ Quang đang tranh đoạt cả Ngô quốc, dù giang sơn có ra thế nào cuối cùng cũng rơi vào tay một trong hai người họ, trong quá trình tranh đoạt đã hy sinh bao nhiêu tính mạng, có bao nhiêu gia tộc tan thành mây khói, tất cả đều không quan trọng, gia tộc mới sẽ mọc lên, thế lực mới sẽ hình thành, quá khứ sẽ rơi vào quên lãng, chẳng qua đó là một con sóng nhỏ trong dòng chảy, sinh ra, huy hoàng rực rỡ, tan biến...

Nhưng đối với nàng, cái gia tộc nhìn như con sóng nhỏ này trong mắt các nhân vật lớn kia lại chính là tất cả của nàng, nàng sinh ra ở đây, lớn lên ở đây, phụ mẫu thân nhân, gia tộc của nàng, vận mệnh của nàng có quan hệ mật thiết không tách rời. Ngoài ra bảo vệ gia tộc, bảo vệ thân nhân cũng là trách nhiệm nàng không thể chối bỏ. Phụ mẫu ngày càng lớn tuổi, mái đầu bạc phơ, nếp nhăn đầy mặt, đó là hai người đã ban nàng sinh mạng, nuôi nấng nàng khôn lớn, thân là Nhâm gia trưởng nữ, gánh vác vận mệnh gia tộc là sứ mệnh của nàng, nên bây giờ nàng xuất hình một nỗi lo trong lòng.

Hơn nữa, đây không phải là tranh chấp của thương buôn, khi hai tập đoàn chính trị hùng mạnh phát động chiến tranh toàn diện, gia đình giàu có bậc nhất như nàng, vận mệnh chẳng qua chỉ như bọt sóng trong dòng chảy thời loạn thế, lúc nào cũng có nguy cơ bị tiêu diệt, hoàn toàn không tự quyết định được số phận.

Khánh Kỵ...

Bỗng nhiên, nàng nhớ đến chàng thanh niên múa trường mâu cách một bức tường với nàng, nghĩ đến khoảnh khắc chàng phóng mâu cứu nàng dưới lưỡi kiếm của kẻ địch, nhớ lại lúc chàng quay lưng bỏ đi, cất cao giọng hát ném cho nàng trái đào, lại nhớ chàng đích thân nói với nàng dưới bóng trăng: "Nếu như, lần này Khánh Kỵ không chết; nếu như, lần này nàng chưa gả cho ai; nếu như Khánh Kỵ quả thật phục quốc lên ngôi, ta nhất định triệu nàng vào cung..."

Nhâm Nhược Tích cảm thấy hai má nóng ran, đôi mắt long lanh như dòng nước mùa thu toát ra tình ý say đắm lung linh...

Có cô gái nào mà không tương tư? Chàng tà áo phất phơ, chàng khôi ngô tuấn tú, chàng cưỡi ngựa múa quyền... từng hình ảnh một, ẩn hiện trong tim. Thế mà nàng không có cả quyền theo đuổi hạnh phúc của mình, sinh ra làm phận con cái, nàng mãi mãi không làm được chuyện ích kỉ chỉ nghĩ cho hạnh phúc của riêng nàng, nhất cử nhất động của nàng đều liên hệ đến vận mệnh gia tộc, liên hệ phụ mẫu thân nhân, liên hệ đến sinh tử tồn vong của ngàn mấy sinh mạng trong gia tộc...

Một tiếng thở dài ngao ngán, Nhâm Nhược Tích từ từ cúi đầu xuống. Đời người, rất nhiều chuyện không tự làm chủ được, thám mã trong thành phái ra đi do thám các thành trì thị trấn xung quanh, đã mang về rất nhiều câu chuyện của Khánh Kỵ. Có người nói Khánh Kỵ đã kết thân với hai gia tộc thế lực Lỗ quốc, lấy hai cô gái Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man, nên Lỗ quốc mới ra sức giúp đỡ hắn, chọn lựa đối đầu với Tề quốc hùng mạnh, còn đưa quân đến Ngô quốc giúp hắn phục quốc, những tin tức này nghe từ tướng lĩnh thủ thành Chuyên Nghị, nên có lẽ không giả.

Vị đại tư mã này có tình ý với nàng, tiếc là Chuyên Nghị tài cán bình thường, duy chỉ giỏi kiếm thuật, sao lại biết lấy lòng nữ nhi chứ?

Nam nhân, cuối cùng cũng lấy sự nghiệp làm trọng, lấy hai cô nương đại diện cho hai thế lực lớn có thể giúp sức, nếu nàng là Khánh Kỵ, nàng cũng sẽ không hề do dự mà làm vậy.

Bản thân nàng còn có tương lai ư? Phụ thân bị bắt phải ở trong Cô Tô thành để tiện giám sát, Nhâm gia đang bị ép không ngừng cung ứng vũ khí quân bị cho quân Ngô, Khánh Kỵ một khi phục quốc, gia tộc nàng chính là phe cánh ủng hộ Cơ Quang, nếu gia tộc nàng là một thị tộc nhỏ không quyền không thế còn dễ nói, nay là gia tộc giàu có bậc nhất, phụ trách cung ứng toàn bộ vũ khí quân bị cho quân Ngô, Khánh Kỵ đâu thể ngồi yên bỏ mặc cho nó tồn tại, đến lúc đó hiến tặng một nữ nhi có nguôi cơn giận trong lòng quân vương Khánh Kỵ?

Còn Cơ Quang chiến thắng thì sao? Hắn công phá Dĩnh Đô, mặc sức cướp bóc của cải Sở quốc, chiến công lừng lẫy, nếu lại đánh bại đại quân Khánh Kỵ, lúc đó hắn ngồi vững giang sơn, Nhâm gia tuy có giúp sức nhưng lại vì bị thúc ép buộc phải làm, hắn sẽ không tin tưởng gia tộc Nhâm thị, hắn hoàn toàn có khả năng xử trí Nhâm gia, ít ra cũng răn đe dọa nạt, từng bước lấy sạch của cải cực khổ gầy dựng của Nhâm gia chiếm làm của riêng. Lúc đó, vì tồn vong của gia tộc, có lẽ nàng bị biến thành một lễ vật đem gả cho quyền thần nào đó trong Ngô quốc làm thiếp, Phù Sai, Phù Khái, hoặc có thể là Ngũ Tử Tư, Bá, Tư Môn Sào...

Sinh ra trên đời đừng làm thân nữ nhi, trăm năm vui buồn khổ cực do tay người khác quyết định! Nhớ lại câu nói này của Khánh Kỵ, Nhâm Nhược Tích nhói đau trong lòng, có lẽ...mơ ước xa xưa, là một vết thương không bao giờ lành trong tim nàng.

"Đại tiểu thư..." Dương bá mái đầu bạc phơ, quản sự Nhâm phủ dừng lại ngoài cửa phòng, gọi nhẹ một tiếng.

"Dương bá, có chuyện gì?" Nhâm Nhược Tích không quay đầu lại, nàng đang ngu ngơ nhìn ra ngoài cửa sổ, gió thổi tung mái tóc nàng, để lộ chiếc cổ trắng mịn như tuyết.

"Gia chủ mời đại tiểu thư đến gặp ngài."

"Cha ta đã về?" Nhâm Nhược Tích quay đầu lại, vội vã đứng dậy chạy đi.

Trong thư phòng Nhâm Tử Anh, hai cha con ngồi đối mặt nhau.

Nhâm Tử Anh mặt như quán ngọc, mũi cao, dưới cằm có ba lọn râu, vốn là một trang nam tử khôi ngô tuấn tú, trải qua bao nhiêu năm lao tâm lao lực gánh vác gia nghiệp của Nhâm gia, tuy biết cách giữ gìn, trên mặt vẫn xuất hiện rất nhiều nết nhăn, mái đầu cũng xuất hiện nhiều sợi tóc bạc. Ngước nhìn phụ thân, Nhâm Nhược Tích thấy chua chát trong lòng.

"Con gái, ta thấy Hạp Lư đã rơi vào đường cùng rồi, chúng ta cũng nên tính toán cho mình." Nhâm Tử Anh đầy vẻ lo âu lên tiếng.

"Phụ thân cứ nói!" Nhâm Nhược Tích giật mình, không khỏi nôn nao.

"Con gái, hôm nay thái tử bắt phụ thân qua đó, không phải là ép buộc Nhâm gia chúng ta tiếp tục cung cấp binh khí, mà là...đến xem cả nhà Triết đại phu bị hành hình."

"Triết đại phu?" Nhâm Nhược Tích cảm thấy kì lạ: "Triết đại phu là khanh sĩ Ngô quốc, lại có quan hệ thân thích với Ngô vương, sao lại bị hành hình?"

Nhâm Tử Anh đanh mặt, gò má hai bên co giật mấy cái, nói: "Hạp Lư binh bại, Cô Tô bị vây khốn, các thế tộc công khanh khắp nơi có quan hệ liên lạc với Khánh Kỵ ngày càng nhiều, Triết đại phu không chịu nhẫn nhịn, vì muốn giữ lấy phú quý, hắn muốn tỏ lòng tốt với Khánh Kỵ, thế là viết một bức thư tỏ lòng trung thành muốn bắn ra ngoài thành, không ngờ lại bị binh lính tuần tra bắt giữ."

Nhâm Nhược Tích toát mồ hôi lạnh kêu lên: "Thôi rồi, sao hắn lại hồ đồ như thế? Lâm trận quay sang đối địch, làm loạn lòng quân, thái tử mười phần có tám chín chắc chắn không niệm tình cũ, xử cho tội chết."

Nhâm Tử Anh giọng vẫn còn run rẩy: "Thì đó, cả nhà Triết đại phu bất kể già trẻ lớn bé, nam đinh toàn bộ bị tùng xẻo, đem xác cho chó ăn, nữ nhân bị xung quân làm doanh kĩ..."

"Cái gì?" Nhâm Nhược Tích kinh hãi thét lớn.

Nhâm Tử Anh lắc đầu nguầy nguậy: "Tất cả gia chủ danh môn thế tộc, công khanh đại thần toàn thành đều bị gọi đến xem hành hình, tiếng kêu gào thảm thiết đó đến giờ còn văng vẳng bên tai ta...Phù Sai, đã mất hết tính người, ta nhìn vẻ mặt các công khanh, tuy có vẻ sợ hãi nhưng lại mang lòng ganh ghét, Phù Sai đã mất nhân tâm. Trong hoàng thành đã thế, bên ngoài không cần nghĩ cũng đã biết thế nào. Khánh Kỵ vốn là thế tử Ngô quốc danh chính ngôn thuận, lần này trở về đại bại Hạp Lư, vòng vây Cô Tô thành đến nay chưa được hóa giải, đại vương lưu lạc bên ngoài không thể vào thành, ta thấy...Hạp Lư khí số đã tận, Nhâm gia ta không thể cứ thế tiêu tùng theo hai cha con hắn được."

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 210: Viện quân (Thượng)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Nhâm Tử Anh cúi đầu trầm ngâm hồi lâu, mới từ từ ngước mặt lên nói: "Con...năm ngoái trên đường đi Tề quốc, từng có duyên gặp mặt với Khánh Kỵ điện hạ, còn kết giao tình nghĩa với ngài nữa. Lúc ở Tề quốc, con còn ra tay giúp đỡ ngài ấy đúng không?"

Nhâm Nhược Tích cảm thấy xấu hổ trong lòng, vội nhảy dựng lên đáp lời: "Dạ phải!"

Nhâm Tử Anh ánh mắt vụt sáng, nói: "Bây giờ chúng ta phải toan tính cho gia tộc của mình thôi. Thiên hạ đại loạn, gia nghiệp Nhâm gia ta to lớn, càng không thể dời đi đâu được, chỉ có thể ở lại Ngô quốc phát triển, mà hiện nay chức chủ nhân Ngô quốc, phần thắng của Khánh Kỵ điện hạ tăng cao..."

Hắn ngước nhìn con gái, đột nhiên mỉm cười: "Hai năm trước, phụ thân từng đề cập chuyện hôn sự của con và Khánh Kỵ điện hạ với tiên vương, may mắn được tiên vương ưng thuận. Đáng tiếc là ngay sau đó Hạp Lư hành thích giết chết tiên vương, chuyện này tuy chưa công bố ra ngoài, nhưng lại trở thành lí do Nhâm gia ta phải mang tội. Hiện nay...xem ra phải khơi lại chuyện cũ rồi, đó cũng là số phận sắp đặt sẵn cho con."

Nhâm Nhược Tích thấy sống mũi cay cay, nước mắt chực trào ra trên đôi mắt nàng: "Phụ thân ơi..."

Nhâm Tử Anh vỗ nhè nhẹ vào vai con gái, an ủi: "Chúng ta cung cấp nhiều binh khí thế này cho Ngô vương, lại không được hắn xem như tâm phúc, muốn bảo toàn gia tộc, giờ đây chỉ còn dựa vào Khánh Kỵ. Con đi chuẩn bị đi, đêm nay con và Băng Nguyệt rời khỏi Cô Tô thành, quay về Nhâm gia thành của ta, tập hợp tất cả thợ rèn, thợ xây, thợ khuân vác, gia tướng, gia nô, trang bị áo giáp vũ khí của Nhâm gia ta, đi đầu quân chỗ Khánh Kỵ điện hạ, lập công lớn phục quốc giúp điện hạ."

Nhâm Nhược Tích bỗng chốc trở nên kích động, đôi má đỏ chót cả lên, nàng cố gắng giữ bình tĩnh: "Phụ thân, thế phụ thân thì sao? Muốn đi chúng ta cùng đi."

Nhâm Tử Anh lạnh lùng trách mắng: "Lắm lời! Nếu có thể cùng đi, phụ thân sao lại không đi? Phụ thân thân tàn sức yếu, lại chưa từng tập luyện võ nghệ, Cô Tô thành này thành cao tường dày, nếu dẫn theo ta, các con sao chạy thoát khỏi thành?"

"Cái gì?" Nhâm Nhược Tích nghe xong khóc lóc van xin: "Phụ thân không đi, con cũng không đi. Tấm gương của Triết đại phu còn đó, nếu con mà bỏ đi, phụ thân sao giữ được tính mạng?"

"Hỗn xược!" Nhâm Tử Anh trừng mắt giận dữ: "Đời người có hạn, chẳng qua chỉ mấy mươi năm, đều lại quay về với đất, có gì mà đáng tiếc? Nhâm Tử Anh ta có thể gầy dựng cơ nghiệp lớn thế này, giàu ngang cả quốc gia, trong thiên hạ có mấy ai làm được như ta? Gia tộc lớn mạnh và uy danh này chính là gốc rễ cơ nghiệp của ta, cơ nghiệp còn, mạng sống của ta coi như tồn tại mãi mãi."

Nhâm Nhược Tích nghẹn ngào cầu xin: "Phụ thân, nữ nhi xưa nay chưa từng dám làm trái ý phụ thân, duy chỉ có lần này, thứ cho nữ nhi không thể nghe theo."

Nhâm Tử Anh sắc mặt nghiêm nghị, quát lên: "Thêu hoa trên gấm vóc, không bằng tặng than lúc gió tuyết. Nhâm gia ta muốn tranh thủ địa vị cao ở Ngô quốc, thì phải trả cái giá tương xứng, thế mới công bằng. Khánh Kỵ phục quốc, Hạp Lư giữ ngai vàng, ai cũng không tiếc hy sinh, ngàn vạn sinh mạng theo đó tan thành mây khói. Nhâm gia ta muốn giữ lấy cơ nghiệp gia tộc, chết đi một ít người thì có đáng là gì? Phù Sai tàn bạo, hắn bảo ngày thành trì bị công phá sẽ đốt trụi cả thành theo hắn quyết không phải nói chơi, Nhâm gia ta không thể ngồi yên chờ chết, nếu chuyện lớn này không phải vì cần có con đi thực hiện, mà cần con hy sinh để giữ toàn vẹn gia tộc, Nhâm Tử Anh ta cũng không hề do dự hy sinh con. Nào, nghe lời phụ thân, mau đi chuẩn bị."

"Nữ nhi không dám!" Nhâm Nhược Tích ngã gục ra đất khóc to.

Nhâm Tử Anh đứng phắt dậy, rút thanh kiếm treo trên tường ra, trợn mắt sắc lạnh: "Con muốn làm đứa con bất hiếu hả? Con không nghe theo phụ thân, phụ thân chỉ còn cách giết chết con và Băng Nguyệt trước, tránh bị người khác làm nhục. Sau đó nhờ em họ con gánh vác trách nhiệm bảo toàn gia tộc! Nó tuổi còn nhỏ, có làm được hay không còn chưa biết, nhưng cũng còn mang lại chút ít hy vọng cho phụ thân!"

Thanh kiếm bén nhọn được chỉa vào trước ngực Nhâm Nhược Tích, đụng nhẹ vào dưới cằm nàng, Nhâm Tử Anh hai mắt đỏ ngầu, nghiến răng ken két: "Con gái, con muốn phụ thân chết không được nhắm mắt ư?"

Màn đêm buông xuống. Nhâm phủ.

Nhâm Tử Anh ăn mặc sang trọng chỉnh tề, ngồi trên đại sảnh, trên đùi đặt một thanh kiếm đã tuốt khỏi vỏ, kiếm sắc lạnh như nước hồ mùa thu, bốn góc nhà chất đầy vật dễ cháy được tẩm dầu, mùi dầu nồng nặc xộc vào mũi.

Lão quản sự trung thành Dương Bá dẫn theo bốn tên võ sĩ đeo kiếm mặt mày dữ tợn bước vào sảnh, hành lễ với Nhâm Tử Anh: "Gia chủ, lão nô phục mệnh."

Nhâm Tử Anh nhắm nghiền mắt, nghe tiếng Dương Bá liền từ từ mở mắt ra: "Đều giải quyết rồi chứ?"

Dương Bá cung kính buông xuôi hai tay: "Dạ! Từ phu nhân trở xuống, tất cả nữ nhân, đều đã treo cổ."

Nhâm Tử Anh ánh mắt sắc lạnh: "Có ai cần các ngươi giúp đỡ không?"

Dương Bá cúi rạp đầu, mái đầu bạc phơ rầu rĩ lên tiếng: "Không có, tất cả nữ nhân trong phủ, đều đã tự vẫn."

Nhâm Tử Anh búng tay vào thanh kiếm, phát ra tiếng leng keng hồi lâu, hắn ngửa mặt lên trời cười như điên dại: "Ha ha..., tốt, tốt lắm! Nữ nhân trong Nhâm gia ta, xem ra không làm Nhâm Tử Anh ta thất vọng."

Hắn lại cúi đầu, hai mắt thu lại nhìn vào màn đêm đen kịt bên ngoài, giọng âm u: "Lúc này con ta chắc đã đi đến gần Xà môn, tạp dịch toàn phủ cứ đuổi đi hết, đốt lửa!"

Dương Bá phe phẩy tay mấy cái, một tên gia tướng bước ra ngoài cửa ra hiệu, trong màn đêm phát ra tiếng sột soạt, thì ra đã có không ít tạp dịch trong phủ vai đeo tay nải đứng sẵn ở đó, lúc này mở cửa sau ra, ai nấy ùa ra bên ngoài bỏ chạy. Nhâm Tử Anh cười chua chát nói: "Sau khi phóng hỏa, các ngươi cũng tự bỏ trốn giữ lấy mạng sống vậy."

Dương Bá không nói nên lời, đột nhiên quỳ mọp xuống, bò đến trước mặt Nhâm Tử Anh, ôm lấy chân chủ nhân, trán mũi chạm sàn, hồi lâu không ngẩng lên. Nhâm Tử Anh thở dài, đặt tay lên mái đầu bạc phơ của tên quản sự già, nói nhỏ: "Ngươi theo ta cũng đã hơn bốn mươi năm rồi nhỉ?"

"Dạ, lúc chủ nhân vừa được sinh ra đời, lão nô đã bế qua chủ nhân, lúc ấy chủ nhân còn rất nhỏ, lão nô bế chủ nhân đi chơi đây đó, ngón tay của chủ nhân vừa bé vừa mềm, ánh nắng chiếu vào có thể nhìn xuyên qua, lão nô hết hồn, cố gắng cẩn thận, sợ dùng sức mạnh một chút sẽ làm gãy tay chủ nhân. Sau này chủ nhân từ từ lớn lên, hay cưỡi lên cổ lão nô ra ngoài chơi, có một lần chơi vui quá quên nhảy xuống đi tè, thế là tè cả vào người lão nô..."

Nhâm Tử Anh nở nụ cười thân thiện: "Phải rồi, ngươi nhắc ta mới nhớ lại rất nhiều rất nhiều chuyện hồi nhỏ trước đây..."

Dương Bá nghẹn ngào nói tiếp: "Hồi đó có ngày nào mà lão nô không cùng chủ nhân ra ngoài chơi, dù nắng hay mưa cũng không thay đổi. Ây, chủ nhân từ từ khôn lớn, lưng của lão nô cũng ngày một còng thêm, ngày xưa lão nô nắm tay chủ nhân đi, sau đó đuổi theo sau lưng chủ nhân, kể từ đó, thì chỉ theo sau chủ nhân thôi. Đôi chân này đã không còn linh hoạt, đến bây giờ chỉ còn có thể trông coi vườn tược, giữ cửa cho chủ nhân."

Nhâm Tử Anh xoa xoa đầu lão nô Dương Bá, trầm ngâm: "Dương Nô Nhi, Dương Nô Nhi, ta hình như sém quên mất tên của ngươi rồi, những năm này cũng chỉ còn nhớ ngươi là Dương Bá, quên mất hồi bé cứ hay gọi ngươi là Dương Nô Nhi. Hây, ngươi dẫn theo bốn người họ châm lửa rồi rời khỏi đây mau, với thân thủ của họ tìm một chỗ ẩn thân không khó. Còn ngươi, chỉ là một lão nô, nghĩ chắc thái tử sẽ không làm khó một tên người hầu như ngươi."

"Chủ nhân, lão nô sống là người của Nhâm gia, chết làm ma của Nhâm gia. Lão nô đã hầu hạ chủ nhân cả một đời, xin chủ nhân khai ân, cho phép lão nô cùng lên đường với chủ nhân."

Nhâm Tử Anh thở một hơi dài: "Ngươi đó, cái tên Dương Nô Nhi này." Hắn ngẩng đầu lên nhìn vào bốn tên thị vệ cận thân, bốn thị vệ nhất tề quỳ xuống, tuốt kiếm dõng dạc: "Xin gia chủ khai ân, cho phép tiểu nhân cùng lên đường với gia chủ."

Nhâm Tử Anh trầm lặng trong giây lát, phất tay áo một cái, rầu rầu hạ lệnh: "Châm lửa!"

Thành nam Cô Tô, gần Xà môn, binh lính thủ thành hỗn loạn cả lên, có người hét to: "Mau xem, mau xem, trong thành bị cháy."

"Ối! Nhà ở khu đó toàn là của các công khanh đại phu, danh môn thế tộc, là nhà ai đấy nhỉ? Trận lửa này to quá, cháy rực cả bầu trời, sao mà cứu được."

Trong bóng đêm gần đó, hai tên hắc y nhân quay đầu nhìn vào đám cháy hừng hực phía xa, đột nhiên quỳ mọp xuống đất, dập đầu ba cái, một hàng hắc y nhân sau lưng cùng lúc quỳ xuống bái lạy. Hai người ngẩng đầu lên, ánh trăng mờ ảo, hai khuôn mặt trắng nõn giờ có thêm hai hàng nước mắt chảy dài.

Cô gái thân cao đi đầu cắn răng phất tay một cái, dẫn theo đoàn người xông thẳng về phía Xà môn, chỉ trong thoáng chốc, cổng thành lập tức vang vọng tiếng la hét và tiếng binh khí leng keng giao chiến, trải qua một trận đánh ác liệt, khắp nơi phủ đầy xác chết, cuối cùng chỉ còn lại hơn mười người hộ tống hai hắc y nhân thân hình mảnh mai xông lên tường thành.

Dưới thành có hào nước, xung quanh có cọc gỗ nhọn hoắt chỉa ra cản địch, họ leo lên tường thành xong nhanh chóng cột dây vào cán cờ, từng người từng người tuột xuống, vẽ ra một vệt đen dưới bóng trăng, "Tỏm" nhảy ùm vào hào nước, bọt bắn tung tóe, rong rêu tứ tung, sau đó tất cả trở lại màn đêm tĩnh lặng, duy chỉ có trong thành ngọn lửa đỏ rực vẫn tiếp tục cháy dữ, sáng cả một góc trời đêm nay...

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 210: Viện quân (Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Đông Điều Khê, đại doanh quân Ngô.

Khánh Kỵ sải bước đi vào, Tôn Vũ theo sát đằng sau, Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man toàn thân áo giáp như vệ sĩ kè kè kế bên, đám binh sĩ tự giác tránh ra một lối đi, khi Khánh Kỵ đi qua, lại tụ tập theo sát sau lưng chủ soái.

Trong doanh trại còn văng vẳng tiếng chém giết đâu đây, xung quanh Khánh Kỵ lại yên lặng tuyệt đối, chỉ có tiếng thở dốc nặng nề và tiếng va chạm nhẹ của binh khí. Chiếc lều dựng tạm bị vứt sang một bên, bị giẫm đạp lên nát bấy cả ra, ngoài cửa doang trại là khu vực tử thương nghiêm trọng nhất, hai bên đại chiến bên thủ bên xông vào, giờ đây xác nằm la liệt, Khánh Kỵ không còn một khoảng trống để bước qua, trong kia vẫn còn một đội quân nhỏ bị bỏ lại đang chống cự trong tuyệt vọng, đội quân Ngô này còn khoảng hơn hai trăm người, vừa đánh vừa lui, nhưng chúng đã không còn đường lui, Anh Đào dẫn quân tấn công ngay chính diện, A Cừu và Tái Cừu dẫn hai cánh quân nhanh chóng chia ra hai bên hông và sau lưng chúng xộc đến, đám quân Ngô đã rơi vào đường cùng buộc phải tử chiến.

Khi Khánh Kỵ xuất hiện, chút ý chí chiến đấu sau cùng của đội quân này cũng bị tiêu tan, không chỉ vì sự xuất hiện của Khánh Kỵ mang ý nghĩa cả doanh trại đã hoàn toàn thất thủ, còn là trong lòng của đám quân này, kẻ quyền quý trời sinh mãi mãi cao cao tại thượng, họ chỉ là đám dân đen phục tùng dưới chân những ai quyền quý. Khi chúng tôn thờ Ngô vương Cơ Quang làm chủ nhân, chúng hãy còn chút dũng khí chiến đấu chống lại Khánh Kỵ, nay Cơ Quang bại trận bỏ trốn, thế tử Ngô quốc hôm nào áo giáp tinh tươm lại xuất hiện trước mặt chúng, cái cảm giác phục tùng lập tức lấn át ý chí quyết chiến của đám quân Ngô.

Khánh Kỵ phất tay một cái, quân lính của Anh Đào lập tức dừng tấn công, hai trăm mấy tên quân Ngô bị bao vây ở giữa nhìn trừng trừng vào Khánh Kỵ một hồi, sau đó không ai bảo ai cùng lúc buông vũ khí xuống, quỳ rạp cả ra.

"Cơ Quang đang ở đâu?" Khánh Kỵ đi đến trước mặt chúng, trừng mắt uy nghi quát lên.

Phía trước tên lữ soái chỉ huy quân Ngô giật mình run rẩy, buộc miệng trả lời: "Đại vương..."

Hắn mới nói đến đó, phát hiện cách xưng hô như vậy bây giờ không ổn, sợ hãi ngưng bặt tiếng, Khánh Kỵ cười khẩy: "Nói tiếp!"

"Dạ, dạ dạ, Cơ...đại vương đã biết Ngự Nhi thành bị quân Việt tập kích, quân thủ thành bị tiêu diệt toàn bộ, không thể kéo đến cứu viện. Điện hạ...điện hạ tấn công như vũ bão, đại vương... đại vương đã rút lui về hướng Vũ Nguyên."

Anh Đào nói xen vào: "Công tử, Tôn tướng quân và Lương Hổ Tử tướng quân đã dẫn quân đuổi theo."

Khánh Kỵ hỏi dồn: "Tình hình bên Vũ Nguyên thế nào?"

Tên lữ soái hơi chút do dự, Khánh Kỵ gằn giọng: "Hử?"

Tên lữ soái giật mình, vội đáp: "Ngũ tướng quân từng phái đi nhiều tín sứ, chia nhau liên lạc tin tức với Cô Tô, Hàn Ấp, Vũ Nguyên, Ngự Nhi thành, nhưng những nơi có khả năng đến cứu viện chỉ có Ngự Nhi thành, Vũ Nguyên, Hàn Ấp. Hiện nay Ngự Nhi thành thất thủ, Phù Khái tướng quân ở Hàn Ấp bị Yểm Dư công tử mượn quân Lỗ chế ngự, hành quân chậm chạp, duy chỉ còn biết trông cậy vào Vũ Nguyên. Quân trấn thủ Vũ Nguyên đã đưa tin đến, họ biết Cô Tô lâm nguy đang định dẫn quân đến thành Cô Tô cứu giá, sau khi gặp tín sứ biết đại vương bị vây ở Đông Điều Khê, đã vội dẫn quân tiến về đó ngay trong đêm, đại vương vốn định chờ quân từ Vũ Nguyên đến tập hợp lại tiếp chiến với điện hạ, nhưng điện hạ tấn công thần tốc, không cho đại vương chút thời gian để thở, đại vương chỉ còn cách lui về hướng Vũ Nguyên..."

Khánh Kỵ trong lòng nôn nao: "Chúc Dung chiêu hàng thất bại rồi ư? Quân Vũ Nguyên mà đến, lại diễn ra giao tranh ác liệt, không biết quân ta còn chống đỡ được đến bao giờ?"

"Công tử, Tôn Vũ tướng quân, Lương Hổ Tử tướng quân đã đuổi theo Cơ Quang, chúng ta cũng mau đuổi theo đi ạ." A Cừu bước đến, to tiếng nhắc nhở.

Khánh Kỵ suy ngẫm khá nhanh, truyền lệnh: "Tập hợp binh mã, thương binh bỏ lại dọn dẹp chiến trường, còn tất cả những người còn lại theo ta thừa thắng truy kích!"

Khánh Kỵ chỉnh đốn xong xuôi, từ từ thong thả tiến quân theo sau Tôn Vũ và Lương Hổ Tử, không vội hội quân với hai tướng quân. Một là phía sau lưng không biết có xảy ra bất ngờ gì không, đại quân trải qua mấy trận đại chiến khốc liệt, không thể không nghỉ ngơi dưỡng sức. Hai là hiện giờ còn một cánh quân Việt đang không rõ tung tích, cần thận trọng đề phòng bọn chúng đánh úp.

Bản chất của chiến tranh từ trước giờ không phải là mục đích, mà là một loại thủ đoạn, thủ đoạn này có mục đích vì kinh tế, hoặc vì chính trị, hoặc vì tín ngưỡng, thậm chí là vì nữ nhân, nhưng chưa bao giờ chỉ vì muốn chiến tranh mà phát động chiến tranh, vậy mục đích của người Việt là gì? Trước khi làm rõ động thái và mục đích tiến quân vào Ngô của chúng, Khánh Kỵ không dám dồn tất cả binh mã vào mỗi trận đánh, buộc phải để lại một cánh quân đề phòng bất trắc xảy ra.

Cũng may là xung quanh ít có đồng bằng, toàn là sông rạch núi non hiểm trở chắn đường, đại chiến cả vạn người dàn trải ra chiến trường không thể xảy ra, đồng thời trải qua mấy trận chiến kịch liệt binh mã Khánh Kỵ còn trên dưới hai vạn, mà Cơ Quang bại trận mấy lần, thương binh vô số, số lính bỏ trốn cũng nhiều, thêm vào Tư Môn Sào nghi binh dụ Khánh Kỵ đuổi đánh lại dẫn theo một ít quân, nên giờ binh mã Cơ Quang mang theo bên mình đã kém xa Khánh Kỵ, cho dù dồn hết toàn bộ binh lực vào chiến đấu đi chăng nữa thì Khánh Kỵ vẫn chiếm thế thượng phong.

Hiện giờ thứ làm Khánh Kỵ lo nhất chính là cánh quân từ Vũ Nguyên, cánh quân này không nhiều nhưng lại chưa hề sứt mẻ, nếu chúng nhảy vào tham chiến nói không chừng sẽ làm thay đổi cục diện trên chiến trường, chính vì vậy càng cần phải để lại quân dự bị phòng hờ tình hình chiến sự có gì thay đổi bất ngờ.

"Báo, đại vương, tướng quốc, quân Vũ Nguyên đã kéo đến, đang ở ngoài tầm bắn ba mũi tên."

"Hở?" Cơ Quang dáng vẻ thảm hại mừng rơn, hắn bây giờ đang bại trận thê thảm phải bỏ trốn, đội nghi thức của Ngô vương đã vứt bỏ hết, nghe thám mã bẩm báo, hắn vội lệnh người dừng chiến xa lại, tay tựa vào cánh dù che nắng dõi mắt ra xa.

"Đỡ ta...đứng dậy..." Ngũ Tử Tư cố gắng đứng dậy, vết thương của hắn không mấy nghiêm trọng, nhưng cũng cần có thời gian tịnh dưỡng mới khỏi hẳn, mấy ngày này vết thương đã hồi phục đôi chút, nhưng chưa vận sức được nhiều, bằng không vết thương lại tái phát.

Phía xa xa bụi bay mịt mù, đang có một cánh quân đang ùn ùn kéo đến. Ngũ Tử Tư nói: "Quân trấn thủ Vũ Nguyên vốn là bộ hạ của Chúc Dung, nên chỉ điều sang trấn giữ Vũ Nguyên, xưa nay chưa từng điều động dùng đến, bây giờ họ ngày đêm chạy vội đến cứu viện, đã tỏ rõ lòng trung thành với đại vương, đại vương nên ban thưởng cho tướng lĩnh Vũ Nguyên, thăng quan tiến chức cho Bình Bố."

Cơ Quang cảm thấy được an ủi phần nào: "Quả nhân biết mà, tướng quốc hãy nằm xuống nghỉ ngơi đã, đừng cố sức làm toát vết thương."

"Chút thương vặt này, không hề hấn gì." Ngũ Tử Tư nheo mắt nhìn ra xa, nói với thám mã: "Đi nói với Bình Bố, bảo đại quân của hắn dừng lại đợi lệnh, mau đến bái kiến đại vương!"

"Tuân lệnh!" Thám mã quay đầu ngựa lao về phía đại quân Vũ Nguyên.

Đại quân Vũ Nguyên đang kéo đến ùn ụt, mười mấy chiếc chiến xa đi trước, cờ hiệu phấp phới, binh mã chen chúc như kiến theo sau, tổng cộng có hơn tám ngàn người, xem tình hình này quân Vũ Nguyên đã kéo hết đến đây, một binh một tốt cũng không để lại trấn giữ.

Chúc Dung toàn thân giáp trụ, tay nắm trường mâu, chòm râu còn dính đầy bụi đường, ngước nhìn đoàn quân thảm hại đang dừng lại bên kia, phấn khích nói với người đứng kế bên: "Bình Bố, ngươi thấy rõ rồi chứ?"

Bình Bố thân hình thấp bé, chỉ đứng đến vai của Chúc Dung, nhưng lại vạm vỡ rắn chắc, hắn vịn tay vào chiến xa, nhón chân nhìn về phía trước, gật gù: "Nhìn rõ rồi, tại sao cờ hiệu, soái kì, vương kì đều không có thế này, chúng thảm bại đến mức này sao?"

Chúc Dung cười ha hả: "Tín sứ của Cơ Quang không phải đã nói rồi sao? Tư Môn Sào giả làm Cơ Quang dẫn dụ truy binh của Khánh Kỵ, cờ hiệu, vương kì gì đó bị Tư Môn Sào mang theo cả, nhưng đại quân của hắn ngay cả soái kì trung quân cũng đánh mất, đúng là thua thảm thiệt! Đám tàn quân này còn tự dâng tận miệng chúng ta, đúng là công lớn từ trên trời rơi xuống."

Bình Bố chà xát nắm đấm, phấn khích nói: "Công tử cứ trấn giữ trung quân, mạc tướng dẫn một cánh quân lên tấn công quân địch, bắt sống Cơ Quang."

"Cơ hội tốt thế này còn trấn giữ trung quân làm cái gì? Toàn quân tiến lên tấn công quân địch."

"Dạ dạ, vậy xin công tử đoạn hậu, mạc tướng làm tiên phong..."

"Tiên phong con khỉ, quân của Cơ Quang còn ra đội hình sao hả? Chúng ta bày trận ra cho ai xem? Cứ xông thẳng tới, ai bắt được hắn tính công lao người đó."

"Được!"

"Ngươi nghe cho rõ, chỉ được theo sau chiến xa của ta, không được vượt lên đầu ta đó, nghe rõ chưa?"

Bình Bố xoay xoay cái đầu thấp bé không thấy cổ của hắn, trừng mắt tức tối, trút tất cả giận dữ lên đám thuộc hạ của mình: "Xông lên, xông lên, không cần đánh trống, cứ xông thẳng vào cho ta! Công lớn đang đặt trước mặt, đây là công lao cuối cùng đó, tiến lên! Giết!"

Bên kia, Cơ Quang vẫn ngây ngô chưa biết khí số của hắn sắp tận...

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 211: Mệt mỏi trốn chạy (Thượng)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Trên đồi, Ngũ Tử Tư tựa kiếm quỳ một chân xuống đất, khắp người đầy máu. Binh sĩ xung quanh hắn càng đánh càng ít, vòng tròn phòng thủ càng lúc càng bị thu hẹp, bại trận chỉ còn là vấn đề thời gian. Hắn liều chết cố thủ ở khe núi này, phía sau là một lối nhỏ, Ngô vương Cơ Quang đã bỏ chạy theo lối đó. Cơ Quang tức tối điên cuồng không chịu chạy tiếp bị Bá dẫn theo võ sĩ trung thành cứ thế mặc kệ kéo hắn đi, đó cũng là mệnh lệnh cuối cùng Ngũ Tử Tư giao phó cho Bá.

Bây giờ Cơ Quang bỏ chạy đã được một canh giờ, tuy nói toàn quân trốn chạy mất một phần, đầu hàng đi một phần, nhưng Ngũ Tử Tư thấy tất cả như thế cũng xứng đáng, ít đi đại quân vướng chân bận cẳng, Cơ Quang có thể cải trang làm thường dân, đường lớn lối nhỏ, núi sông kênh rạch đều có thể tùy ý chọn lựa, chỉ cần đại vương bình an trốn được về Cô Tô thành, đại sự chưa chắc đã hết cách.

Ai mà ngờ được, quân trấn thủ Vũ Nguyên đến cứu viện lại là một lũ sói dữ đến vồ mồi, trong lúc không hề phòng bị, lại mệt mỏi vì bị truy đuổi, cánh quân của Cơ Quang vốn đã không thể địch lại, đúng lúc này truy binh của Khánh Kỵ từ sau lưng đuổi kịp, đại quân trước sau đều bị đánh, nhanh chóng bị xẻ ra làm nhiều mảng, có người bỏ trốn, có kẻ đầu hàng, khí số đã tận, giờ đây chỉ còn cánh quân của Ngũ Tử Tư liều chết giữ lấy đường núi yểm trợ cho Ngô vương Cơ Quang tiếp tục trốn chạy.

Vết thương cũ trên người của Ngũ Tử Tư giờ đã toát ra, vì mất máu quá nhiều, trước mắt hắn là một màn sương đen, toàn thân dần dần lạnh toát, hắn biết sứ mạng của hắn sắp kết thúc, mối thù gia tộc đã được trả, bây giờ là lúc hắn dùng tính mạng đền đáp Ngô vương Hạp Lư, chết cũng coi như xứng đáng rồi.

Số binh sĩ còn kề cận chiến đấu đều là các dũng sĩ thề chết tận trung, số người này mặc dù đang liều mạng chém giết như cọp điên, nhưng đã là mũi tên bắn đến tận cùng không còn sức phóng, ngay cả quay qua lo cho tướng quốc đại nhân cũng có lòng không có sức.

"Xông qua đó! Cơ Quang không còn bao nhiêu vệ sĩ bên mình, đừng để hắn trốn thoát, nhất định phải bắt cho được hắn!" Chúc Dung hét lớn, quét mâu gạt ngang một kiếm một kích đâm tới ngang ngực, hùng hổ lao lên chém giết, Bình Bố dẫn theo binh sĩ theo sát đằng sau. Ngũ Tử Tư hít một hơi dài, lao lên đâm một nhát kiếm, bị Bình Bố giơ kích gạt phăng, sải bước lao nhanh vượt qua hắn.

Ngũ tướng quốc biết giờ như chim bay trong lồng, chức quan của hắn cao vốn là một công lao khá lớn khi lấy đầu hắn, nhưng so với sức hấp dẫn từ Cơ Quang thì vẫn kém xa. Bình Bố lúc này chỉ muốn bắt sống Cơ Quang, lập công lớn để được phong hầu bái tước, đâu cần để mắt tới Ngũ Tử Tư xưa nay hắn luôn cung kính không dám to tiếng giờ đang hấp hối ở đó.

Lại một đám người xông tới, Ngũ Tử Tư nhận ra người dẫn đầu là Xích Trung, bỗng nổi giận đùng đùng, gào to: "Phản đồ!"

Hắn đứng chưa vững lại cầm kiếm lao lên, Xích Trung thấy là tướng quốc, khuôn mặt thoáng lộ vẻ hổ thẹn, không tự chủ được bước lui vài bước, một tên lính kế bên thấy có cơ hội tốt, đâm một nhát kiếm xuyên qua lớp giáp da của Ngũ Tử Tư, dưới bụng Ngũ Tử Tư lập tức máu tuôn như suối.

"Á!" Ngũ Tử Tư rú lên đau đớn, tay trái nắm chặt chuôi kiếm chém phạt vào tên lính, tên lính trong lúc đang khoái chí vì đâm trúng Ngũ tướng quốc nên không hề đề phòng, bị Ngũ Tử Tư chém bay mất nửa cái đầu. Ngũ Tử Tư lảo đảo lùi lại, một cây kích lại đâm tới xuyên qua đùi trái của hắn, Ngũ Tử Tư trừng mắt nhìn lên, tên lính kia hoảng sợ run tay, cây kích dài bén nhọn không đâm tiếp nữa, chỉ thấy tay Ngũ Tử Tư khẽ động đậy, tên lính sợ hãi hét toáng lên bỏ cả kích chạy ra xa.

Ngũ Tử Tư cười như điên dại, nón giáp trên đầu hắn đã bị chém bay, mái tóc bạc phơ rối tung trong gió, vẻ uy nghi của hắn vẫn còn, tuy toàn thân đầy máu nhưng không ai dám lại gần, nhưng ai nấy nhìn thấy vết thương của hắn máu tươi không ngừng tuôn ra, đều biết vị tướng quốc đại nhân này không còn sống được bao lâu nữa.

Ngũ Tử Tư cười điên dại xong, ho lên vài tiếng, khóe miệng chảy ra máu tươi, hắn lảo đảo lui thêm vài bước, vấp ngã ra đất, mấy tên thị vệ cận thân đang ra sức chiến đấu với quân Khánh Kỵ, có người muốn đến cứu, hơi chút lo là phân tâm lập tức bị đâm chết, giờ đây xung quanh Ngũ Tử Tư là một đám binh sĩ của Khánh Kỵ đang lăm lăm trường mâu bao vây hắn ở giữa.

Mấy tên lính liếc mắt nhìn nhau, nổi lòng ham muốn lập công, đột nhiên cùng lúc hét lên, không ai bảo ai giơ binh khí đâm thẳng vào Ngũ Tử Tư.

"Hứ!" Ngũ Tử Tư chống kiếm xuống đất, gằn to một tiếng, ánh mắt dữ tợn, mười mấy cây trường mâu vốn đã đâm đến sát bên, bị hắn trừng mắt liếc nhìn, đám binh sĩ mất hết dũng khí, đều nhất tề ngưng lại.

"Đầu của Ngũ Viên, có thể đổi chức vạn hộ hầu, ai dám đến đây mà lấy?" Ngũ Tử Tư lại hét to, mười mấy tên lính không dám tiến lên mà cùng lui cả lại.

Ngũ Tử Tư giơ tay vận sức, phóng thanh kiếm trong tay ra, vì cố gắng phóng kiếm, hắn ngã chúi nhủi về phía trước, vì hắn đã không còn chút sức lực, kiếm phóng ra bay với tốc độ không cao, bị một tên lính giơ khiên lên đỡ, kiếm chạm cái mạnh vào tấm khiên bắn bật trở lại, rơi ngay trước mặt hắn.

Tiếng bước chân vang lên, Ngũ Tử Tư khẽ ngẩng đầu, chỉ thấy đại quân bao vây hắn tách ra nhường cho một lối đi, một nam tử mặc áo bào đen đi giầy vải đi đến trước mặt hắn, tay áo bào màu trắng của ánh trăng, trên có thêu họa tiết hoa mai, viền giầy vải cũng là màu trắng, bước chân đạp lên bãi cỏ xanh mướt dưới đất, vững vàng có sức.

Ngũ Tử Tư ngẩng đầu lên, màn sương đen nơi đôi mắt đã biến mất, mặt mũi của người này hiện lên rõ mồn một, đó là một nam tử tuấn tú, nhìn dáng vẻ chưa đến ba mươi tuổi, không mặc áo giáp, chỉ đeo một thanh kiếm ngang hông.

Ngũ Tử Tư không biết người này, nhưng hắn nhận ra người này phải là chủ tướng trong quân Khánh Kỵ, vì khi người này xuất hiện, tên Xích Trung phản bội lại cung kính lui lại, tỏ vẻ thần phục.

"Rút kiếm ra, đánh với ta!" Ngũ Tử Tư rít qua kẽ răng, đưa tay muốn nhặt kiếm.

Người kia khẽ cử động, chiếc giầy vải nhè nhẹ nhấc lên, sau đó đạp lên thanh kiếm dưới đất, cất tiếng ảm đạm: "Thắng thua đã rõ, đâu cần thiết tỏ ra ngoan cố."

Ngũ Tử Tư ngước mặt nhìn hung tợn vào hắn, người kia thần thái ung dung, không thèm nhúc nhích.

Ngũ Tử Tư nhắm mắt hồi lâu, sầu não hỏi: "Ngươi là Tôn Vũ, hay là Anh Đào?"

"Tại hạ Tôn Vũ."

"Ta...đã quá coi thường ngươi..."

"Tại hạ lại không dám coi thường tướng quốc đại nhân."

"Hứ..., nên...ta mới thất bại..."

Tôn Vũ nghe hắn nói vậy, hình như có ý cho rằng hắn thua vì khinh địch chứ không phải thua vì tài dùng binh đánh trận, chỉ mỉm cười một cái, không lên tiếng cãi lại.

Ngũ Tử Tư cố sức muốn ngồi dậy, chỉ là toàn thân giờ không còn chút sức lực, cố gắng hồi lâu cũng chỉ lật mặt qua nằm ngửa lên trời, chóng mặt hoa mắt, một màn đen che kín mắt hắn.

Tôn Vũ từ từ ngồi xuống, Ngũ Tử Tư nhắm nghiền mắt, nghe giọng của Tôn Vũ văng vẳng bên tai, lúc rõ lúc không.

"Đại vương...đã chạy xa, sao ngươi không đuổi theo?"

"Cơ Quang rời khỏi đã lâu lắm rồi, đường núi khó đi, chắc đuổi không kịp."

"Ha ha...Ngươi...không chịu phí thêm ít sức lực."

"Ta chỉ là không muốn đi làm những chuyện không có cơ hội làm được." Tôn Vũ bình tĩnh nói: "Sự thật là ta đã tiên liệu dù có đuổi kịp Cơ Quang cũng phải khổ chiến một phen. Quân trấn thủ Vũ Nguyên đầu hàng chúa công của ta, biến số này trước đó ta không dự liệu được."

"Ngươi rất lợi hại, nhưng...nhưng...ta đã giữ được con đường núi này, các ngươi chưa bắt được đại vương. Đại vương hãy còn, ta...ta vẫn chưa...chưa thua..."

Ánh mắt Tôn Vũ lộ vẻ kính phục: "Phải, những gì tướng quốc muốn làm, đều đã hoàn thành rồi."

Ngũ Tử Tư cười to: "Nếu không vì ai nấy có chủ nhân riêng, có thể chúng ta sẽ thành bằng hữu. Nào, chặt lấy cái đầu của ta đem dâng cho Khánh Kỵ, đó là một công lớn."

Sức lực của Ngũ Tử Tư càng lúc càng cạn kiệt, hai mắt cũng không thể mở ra, mệt mỏi vô cùng, hắn chỉ muốn ngủ đi. "Tướng quốc cả đời anh hùng, không nên chết dưới tay người khác!" Trong lúc mơ màng, Ngũ Tử Tư cảm thấy có vật gì nhét vào tay hắn, dùng sức nắm chặt, mới biết đó là một thanh kiếm sắc bén.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 211: Mệt mỏi trốn chạy (Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

"Cả đời anh hùng ư?..." Ngũ Tử Tư lẩm cẩm lặp lại câu nói đó của Tôn Vũ, tiếng bước chân đã đi xa, tiếng ra lệnh cho binh sĩ, tiếng binh sĩ rầm rập tập hợp thành đội ngũ, nhưng tất cả những thứ ấy dường như là âm thanh phát ra từ thế giới khác.

"Cả đời anh hùng ư?" Kí ức cả cuộc đời ùa về, Ngũ Viên từng là một công tử khôi ngô như ngọc, mang theo mối thù máu của gia tộc cô độc rời bỏ Sở quốc. Chính từ lúc đó, trong tim hắn chỉ có thù hận không thể hóa giải: Nửa cuộc đời lưu vong, nay đây mai đó, hận thù trong tim ngày càng trĩu nặng, máu hắn ngày càng lạnh căm, chính khách tâm địa nham hiểm ở Trịnh quốc, tướng quốc thủ đoạn ác độc ở Ngô quốc...

Đến hình ảnh đào mộ quất roi vào xác Sở vương ở Sở quốc, thứ đáng an ủi nhất, chính là khoảnh khắc ấy, lúc hắn trả được thù lớn, nét mãn nguyện nhanh chóng lướt qua trong lòng, sau đó lại rơi vào cõi hư vô...

Ngũ Viên cất lên hơi tàn cuối cùng: "Ta...Ngũ Viên ta...chưa bao giờ là một anh hùng. Ta chỉ là...chỉ là một... nam nhi tràn đầy thù hận..."

Hắn đưa kiếm từ từ kề lên cổ, hít một hơi sâu, năm ngón tay đầy máu nắm chặt chuôi kiếm, hồi lâu không thấy cứa xuống. Gió lay nhẹ mái tóc và chòm râu bạc của hắn, Ngũ Tử Tư đã tắt thở từ lâu...

Sau khi trốn khỏi vùng núi, Cơ Quang quay đầu lại nhìn vào dãy núi nhấp nhô sau lưng, nấc lên thảm thiết. Hắn biết rõ tướng quốc Ngũ Tử Tư không còn cơ hội sống sót, khi xưa dẫn theo bốn vạn đại quân đến Sở quốc, chiêu hàng nạp phản, quân đội tăng lên sáu vạn người, thế mà giờ đây bên cạnh chỉ còn hơn hai trăm quân. Từ vui đến buồn, từ thịnh đến suy, cứ như hoa quỳnh đêm khuya, quá trình hoa nở hoa tàn nhanh đến nỗi không cho ai có đủ thời gian nhìn cho rõ.

Bá vội an ủi: "Đại vương, đại vương không nên đau buồn quá, chúng ta có hai ba trăm người, mục tiêu vẫn còn khá lớn, đợi chạy đến làng mạc phía trước, mời đại vương tạm chịu đựng thay lấy trang phục thường dân, đám người này chia ra mười mấy đội làm nghi binh đánh lạc hướng. Tiểu thần dẫn theo mấy tên tâm phúc hộ tống đại vương lẻn về Cô Tô thành, đến lúc đó chúng ta vẫn còn cơ hội chỉnh đốn binh mã phản kích."

Cơ Quang giậm chân giận dữ, ngửa mặt lên trời gào to: "Khánh Kỵ ơi là Khánh Kỵ, quả nhân không phanh thây ngươi ra làm trăm ngàn mảnh, tán xương cốt ngươi ra thành tro bụi, khó tiêu tan cơn hận trong lòng quả nhân!"

"Đại vương, chúng ta chạy mau thôi, nếu bị truy binh đuổi kịp, nhìn thấy con đường ta rút chạy thì khó thoát được lắm, sự hy sinh của tướng quốc đại nhân sẽ uổng phí, xin đại vương."

Trong lúc vội vàng, Bá đưa tay kéo tay áo Cơ Quang, dáo dác nhìn quanh, Bá quyết định tránh xa lối mòn bên trái, chỉ tay sang dòng suối cỏ dại mọc um tùm bên phải nói: "Cứ đi men theo bờ suối che giấu tung tích, sau khi đi khỏi một đoạn ta băng vào rừng, trốn bọn truy binh..."

Cơ Quang thân là Ngô vương, chưa từng phải chịu khổ chịu nhục thế này, đoàn người vất vả lội xuống dòng suối tiến lên, đi được một dặm hơn, nhảy lên bờ chui vào rừng rậm đi tiếp.

Khu rừng hoang vu này ít có người qua lại, cỏ dại cao quá đầu người, đợi khi đám người Cơ Quang đi xuyên qua rừng, đến trước một cái hồ nhỏ, mồ hôi đã lấm tấm cả lưng, toàn thân rã rời, áo quần bị cỏ dại cứa rách bươm, dù là tướng lĩnh hay binh sĩ, lúc này nhìn vào không có gì khác biệt.

Chúng ùa vào bờ hồ uống lấy uống để, còn lấy nước rửa ráy vết thương, sau đó phấn chấn tinh thần vòng qua bờ hồ đi vào đường lớn.

Vừa đặt bước ra đường, thấy từ xa có một đám đông đang đi tới, Bá mới lủi thủi đi ra từ bìa rừng thất kinh hồn vía, như chim non sợ cành cong, hốt hoảng nói: "Đại vương mau chạy, chúng ta trốn vào rừng."

Cơ Quang hứ một tiếng: "Hoảng cái gì? Ngươi không nhìn thấy chúng giơ cờ hiệu gì à?"

Bá nghe vậy đưa tay che mắt nhìn về hướng đó, đoàn người ngựa đang đi theo hướng ngược nắng, ẩn hiện lá cờ phấp phới trong gió có thêu hình rồng. Biểu tượng của Ngô quốc chính là rồng, trên cờ hay thêu hoa văn rồng, giơ cao cờ hiệu này rõ ràng là quân đội trung thành với Ngô vương, Bá nhìn thấy khấp khởi vui mừng.

Lúc này, đám người kia cũng đã phát hiện có một hai trăm người lúc nhúc ở bìa rừng, đứng đó nhìn về phía chúng, lập tức rút binh khí ra, ồ ạt xông lên.

"Đại vương, chúng, chúng không...không phải người của ta." Một tên lính run lập cập nói.

"Cái gì?" Cơ Quang còn đang định chỉnh tranh một chút, tránh mất mặt trước thần dân, nghe vậy giật mình hốt hoảng, vội ngước mắt nhìn về phía đó. Gió thổi phất lá cờ lên, Cơ Quang lúc này mới nhìn rõ hình thêu trên lá cờ không phải là con rồng uy nghi to lớn, mà là một con rắn đang phun độc.

Ba nước vùng Giang Nam, người Sở thờ Phụng, người Ngô thờ Rồng, người Việt thờ Rắn. Ngũ Tử Tư xây dựng Cô Tô thành, trong số mười sáu cổng thành có Xà môn, Cô Tô thành theo thuyết phong thủy có nhiều cách giải thích, Ngô lấy rồng làm cổng chính, xung quanh Long môn xây dựng các cửa khác, Kinh Lâm tấn công vào Xương môn còn có tên gọi khác là Phá Sở môn, tỏ lòng quyết tâm phục thù Sở quốc của Ngũ Tử Tư. Ngoài ra, phía Bắc có Bình môn, Tề môn, mang ẩn ý diệt Tề, còn phía Nam dựng Xà môn, nằm ngay mé của vuốt rồng, ngụ ý trấn áp Việt quốc dùng rắn làm biều tượng. Lá cờ có hình rắn này..., chẳng lẽ cánh quân này lại là quân Việt đã tiêu diệt quân trấn thủ Ngự Nhi thành, sau đó đột nhiên không rõ tung tích?

"Cung thủ mau tiến lên trước, tiêu diệt tất cả bọn chúng, đừng cho chúng làm lộ hành tung quân ta!" Việt thái tử Câu Tiễn một tay cầm khiên, tay kia cầm kiếm, sát khí đằng đằng ra lệnh.

Câu Tiễn dẫn cánh quân Việt đến Ngô quốc thừa nước đục thả câu đã chọn con đường ít người qua lại này để không gây chú ý, tránh xa chiến trường quyết chiến của Ngô vương và Khánh Kỵ, vốn định vòng ra sau lưng kiếm chác lợi ích, không ngờ đến đây lại gặp phải một đội quân Ngô, lúc đầu hắn cũng ngạc nhiên hoảng sợ, nhưng nhìn kĩ thấy đám quân Ngô ít ỏi này không hề phòng bị, cũng không che giấu hành tung, chỉ đứng giữa đường nhìn vào quân của hắn, Câu Tiễn lập tức định thần lại, hiểu ra đội quân Ngô này còn chưa phát giác thân phận của hắn, đối phương có thể là một đội quân lạc mất đội ngũ của một trong hai phe Cơ Quang và Khánh Kỵ khi hỗn chiến.

Câu Tiễn thế mới an tâm hạ lệnh, lập tức tiêu diệt sạch đội quân Ngô này, tránh cho chúng tiết lộ hành tung đại quân của hắn. Câu Tiễn có mang theo một đội cung nỏ hơn ba trăm người, cũng được trang bị nỏ Sở. Sở quốc những năm gần đây chưa từng đánh trận lớn với các nước trung nguyên, ở giữa lại ngăn cách bởi một số quốc gia nhỏ phụ thuộc, nên sự lợi hại của nỏ Sở không được các chư hầu trung nguyên biết đến, cũng không được coi trọng. Còn Ngô và Việt nằm sát ngay Sở quốc, tất nhiên quá hiểu sự lợi hại của nỏ Sở trên chiến trường, vì thế Việt quốc thông qua nhiều cách khác nhau có được nỏ Sở, chỉ là Việt quốc quá nghèo, vũ khí đắt tiền này họ không trang bị nổi, chỉ đủ khả năng trang bị cho ba trăm người mà thôi. Lần này thái tử đích thân dẫn quân đánh vào Ngô quốc, Việt vương Duẫn Thường rất yêu thương con trai, bèn đưa đại đội ba trăm người được trang bị nỏ Sở cho Câu Tiễn dẫn theo.

Vừa thấy bên kia là quân Việt, Bá lập tức kéo tay Cơ Quang quay đầu bỏ chạy, quân Việt đuổi theo đến nơi thấy quân Ngô bỏ chạy tán loạn bèn giơ nỏ lên bắn tới tấp vào chúng, ba trăm mũi tên như cơn mưa ập vào cây chuối, phát ra tiếng loạt soạt khi bắn vào rừng, rất nhiều cây cối bị cắm đầy tên, còn nhiều mũi tên khác thì cắm phập vào đám lính Ngô tội nghiệp, cả đội quân Ngô vừa bước khỏi bìa rừng rú lên thảm thiết ngã xuống.

Bá kéo tay Cơ Quang vừa chạy được mấy bước, đột nhiên vai hắn bị chấn động, một luồng sức mạnh chia tách hai người ra, Bá nằm rạp người vào bãi cỏ, bị một cành cây cào xước mặt, lúc này một cơn đau nhói từ vai hắn truyền đến, hắn định thần nhìn kĩ, một mũi tên bắn xuyên qua vai hắn, Bá rít lên đau đớn, gục đầu xuống bãi cỏ.

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 212: Tiêu đời (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

"Xoạt xoạt xoạt!" mưa tên không ngừng bắn tới, sau lưng tiếng rú thảm thiết không ngừng vang lên, Cơ Quang cũng không còn lo nghĩ tới vẻ uy nghi của bậc quân vương nữa, xoay lưng lại chạy nhanh như tên bắn, tên xé gió bắn tới, Cơ Quang tựa như nghe thấy tiếng gió rít qua tai. Sau một hồi tên, trải qua một trận bắn giết đẫm máu, số quân Ngô may mắn giữ được tính mạng chỉ còn không quá ba mươi người, trong đó một nửa bị dính tên lăn ra đất kêu gào thảm thiết. Câu Tiễn cùng binh lính của hắn xông tới bìa rừng, bước chân vững vàng đuổi theo, người nào người nấy trên tay chỉ cầm một thanh đoản kiếm dài hơn một thước, độ dài này giống với dao găm trang bị cho binh chủng biệt kích thời hiện đại.

Việt quốc nghèo hơn Ngô quốc, điều kiện sinh sống của người Việt khó khăn hơn người Ngô, do đó kinh nghiệm sống của người Việt trong rừng rậm, đầm lầy và kinh nghiệm tác chiến cũng phong phú hơn người Ngô, số binh lính Câu Tiễn mang theo, có nhiều người phải để hở chân, bàn chân chỉ được lót một miếng gỗ kiển dày, giẫm lên bãi cỏ bước đi không hề mất thời gian, lại nhẹ nhàng linh hoạt không phát ra tiếng động.

Số quân Ngô trốn được vào rừng bị đám binh lính nhìn như dã nhân của Việt quốc đuổi kịp tiêu diệt từng tên, không một ai giữ được tính mạng. Câu Tiễn bước thoăn thoắt trên đôi giày cỏ lại gần, lạnh lùng hạ lệnh: "Kiểm tra kĩ vào, không được để tên nào sống sót!"

Binh lính cầm đoản kiếm ngắn như dao găm đó, kiểm tra từng xác chết nằm la liệt dưới đất, phát hiện ai còn hơi thở thì bồi cho một nhát kiếm ngay cổ họng. Một tên lính nhìn thấy trong bụi cây thấp lùn có một đôi chân lòi ra, bèn nhảy bổ qua đó kéo người kia ra, giơ kiếm định đâm xuống, người kia vội kêu lên: "Các ngươi không thể giết ta!"

Tên lính cười lạnh lùng: "Tàn binh bại tướng, có gì mà không thể giết?"

Người kia nén đau ngồi dậy, thở hổn hển: "Ta là thượng khanh của Ngô quốc, đâu thể để tên tiểu nhân như ngươi ức hiếp, thống soái của các ngươi là ai, mau kêu hắn đến gặp ta."

Tên lính không nhịn được cười khanh khách: "Đám người các ngươi, tên nào tên nấy áo quần rách bươm, dáng vẻ thảm hại, chẳng qua chỉ là một đội quân bại trận chạy trốn, trong đó có thượng khanh Ngô quốc gì chứ?" Dứt lời giơ kiếm định đâm xuống.

"Khoan đã!" Câu Tiễn nghe người kia nói vậy, trong lòng nghi hoặc, vội bước tới lên tiếng ngăn cản. Hắn mới đầu không xem đội quân Ngô này ra gì, đám quân này số lượng quá ít, áo quần lếch thếch, hơn nữa lại hốt hoảng bỏ chạy, không có sức chống trả, trong quân đội Ngô quốc chắc cũng không phải thuộc đại quân tinh nhuệ gì, chỉ là một tên lính quèn không có giá trị, giết đi cho xong chuyện. Câu Tiễn không hề biết vì đám quân Ngô này ngộ nhận quân của hắn là người nhà, hơn nữa đám bại binh chạy trốn đường dài đã sức cùng lực kiệt, lại bị hắn dùng nỏ Sở uy hiếp, dù có ba đầu sáu tay e cũng khó làm nên chuyện vào lúc ấy. Lúc này nghe người kia dám tự xưng là thượng khanh Ngô quốc, không biết thật giả thế nào, phải hỏi cho rõ đã.

Câu Tiễn bước tới một bước, nói: "Túc hạ là thượng khanh Ngô quốc? Xin hỏi cao danh quý tánh, giữ chức quan gì?"

Bá nhìn hắn một hồi, thấy người này hãy còn rất trẻ, cổ rắn mỏ chim, khuôn mặt dài thoàng khá xấu xí, nhưng hành động cử chỉ lại oai vệ, hỏi ngược lại: "Ngươi là ai?"

"Bỉ nhân là thượng tướng quân Việt quốc Linh Cô Phù, không biết có tư cách nghe danh của túc hạ không?"

"Ồ!" Bá nghe vậy không khỏi bất ngờ: "Thì ra là Linh Cô Phù tướng quân, ta chính là thái tể Bá của Ngô quốc, tướng quân có từng nghe nói đến?"

Bá trong trận chiến Cửu Phụng cốc ở Sở quốc bắt giữ được nhiều công khanh quý tộc của Sở lập được đại công, đã được cất nhắc lên chức thái tể, thực quyền tuy không bằng Ngũ Tử Tư, nhưng chức quan lại tương đương. Câu Tiễn tất nhiên có nghe về Bá, nghe người này nói hắn chính là Bá cũng giật mình kinh ngạc: "Ngươi là Bá đại phu? Ngươi...ngươi...sao lại lưu lạc đến chốn này?"

Vừa nãy Bá bị trúng tên, vội chui vào bụi cây lánh tạm, tình hình tiếp theo hắn chỉ nghe được tiếng chứ không quan sát được tận mắt. Bá cũng biết cánh quân này của Linh Cô Phù đi vào Ngô quốc không mang ý tốt gì, chỉ là muốn thừa nước đục thả câu. Chỉ là với thân phận khanh sĩ đại phu cao quý, chức quan lại cao như hắn một khi bị bắt giữ, cho dù là quốc gia nào cũng ít khi giết chết nên mới nói rõ thân phận. Bá chỉ mong Cơ Quang có thể đoạt lại Ngô quốc, lúc đó sẽ chuộc hắn từ Việt quốc về, đương nhiên hắn không chịu nói mình đang hộ tống Ngô vương chạy trốn tận đây.

Bá suy ngẫm trong lòng một hồi mới nói: "Bá hộ tống Ngô vương về Cô Tô thành, Khánh Kỵ dẫn quân tấn công, cắt vụn trận địa đại quân của ta, Bá không thể tìm thấy chủ lực đại quân trong lúc loạn lạc, thế mới..."

Bá mới nói đến đấy, hai mắt sáng bừng lên, chỉ thấy rất nhiều binh lính Việt đang khiêng xác quân Ngô từ trong rừng ra, trong đó có một cái xác bị người ta nắm lấy vạt áo lôi sềnh sệt từ trong rừng, áo bào của cái xác rách te tua, dây lưng bị cởi tung, đầu tóc mặt mũi bê bết máu, tên lính đang lôi xác vẫn đang cầm miếng ngọc bội sáng bóng sang trọng chơi đùa ra vẻ khoái chí, rõ ràng là chiến lợi phẩm bị hắn lấy từ cái xác.

"Đại vương!" Bá như bị sét đánh, không để ý đến Linh Cô Phù kế bên nữa, hắn lăn lộn lê lết lao qua đó ôm lấy cái xác khóc to: "Đại vương, đại vương, Bá vô dụng, không thể bảo vệ an toàn cho đại vương, đại vương ơi..."

Theo như sử sách ghi chép, Ngô vương Hạp Lư với chỉ mấy vạn binh mã tây phá cường Sở, công vào Dĩnh Đô, chiến công hiển hách, lại trong lúc giao chiến với Việt quốc yếu hơn Ngô quốc nhiều bị đại tướng Việt quốc Linh Cô Phù ném mâu đâm trúng ngón chân, sau đó bị nhiễm trùng mà chết. Bây giờ cái chết của Hạp Lư có xảy ra thay đổi, nhưng kết cục đại thể cũng giống nhau, cũng là lật thuyền trong rãnh cống, thậm chí còn nhảm nhí hơn, trong cơn mưa tên bỏ mạng, rốt cục cũng không xác định được ai là người lấy mạng Ngô vương.

Câu Tiễn há hốc miệng kinh ngạc, tròng mắt muốn rơi cả ra ngoài: "Đại vương? Ngô quốc đại vương Cơ Quang? Mình đã dẫn quân bắn chết Ngô vương dễ dàng thế ư?" Trong một lúc, Câu Tiễn dường như không dám tin vào lỗ tai của mình.

Bá khóc lóc thảm thương, nước mắt giàn giụa, Câu Tiễn cuối cùng cũng lên tiếng hỏi: "Bá thái tể, ông nói...hắn...hắn chính là Ngô vương Hạp Lư?"

Đến lúc này Bá đâu còn gì phải che giấu nữa, hắn khẽ gật đầu, sau đó lại khóc to.

Câu Tiễn toát mồ hôi lạnh, cả thân người cứng đơ ra đó, đám binh lính Việt quốc đứng xung quanh cũng nghệch mặt ra, trong rừng bỗng chốc trở nên yên lặng, chỉ còn tiếng khóc thê lương của Bá cất lên.

Hồi lâu sau, Câu Tiễn từ từ tỉnh táo lại, đôi mắt hắn láo liên trong khoảnh khắc, một âm mưu đã nhen nhóm trong tim. Câu Tiễn hít một hơi sâu, bước tới hai bước, chắp tay cung kính hành lễ: "Bá thái tể!"

Bá ngẩng đầu lên nhìn hắn, Câu Tiễn vẫn cứ cung kính nói tiếp: "Bá thái tể tài trí hơn người, không ai sánh bằng. Ngô vương có được hiền sĩ tài trí song toàn như Bá thái tể đây phò trợ, mới có thể dẫn mấy vạn binh mã tây phá cường Sở, lập chiến công hiển hách. Câu Tiễn Việt quốc, ngưỡng mộ uy danh Bá thái tể từ lâu, bây giờ Ngô vương đã chết, hoàng tộc Ngô quốc nội chiến tranh đoạt vương vị chưa xong, nơi đây đã không phải chốn dung thân. Câu Tiễn kính nể tài học của Bá thái tể, nguyện lấy thân phận thái tử Việt quốc thay phụ vương mời túc hạ làm thái tể Việt quốc ta, phò trợ phụ vương, cùng mưu nghiệp lớn, mong Bá thái tể khẳng khái ưng thuận."

"Cái gì?" Bá ngớ người ra.

Câu Tiễn mỉm cười lại hành lễ một cái: "Vừa rồi Câu Tiễn chưa nói rõ thân phận, vị tướng quân kế bên ta đây mới là thượng tướng quân Việt quốc Linh Cô Phù, còn ta chính là con trai của Việt vương, Câu Tiễn xin Bá thái tể bỏ qua cho tội cố tình che giấu thân phận."

Linh Cô Phù đứng kế bên thấy thái tử có ý chiêu nạp Bá, bèn bước tới nói: "Bá đại phu, tại hạ là Linh Cô Phù, Bá đại phu phò trợ Ngô vương trị nước, chỉ trong một năm quốc gia hùng mạnh, giúp Ngô vương phạt Sở, tiến quân Dĩnh Đô, công phá Cửu Phụng cốc, công trạng hiển hách. Ngô vương Hạp Lư phong cho Bá đại phu quan to chức lớn, nhưng với công trạng của Bá đại phu, kể cũng xứng đáng với ban thưởng như vậy.

Giờ đây Ngô vương đã chết, hai bên giao chiến, đao thương không có mắt, vốn không hề dính dáng thù xưa oán cũ. Bá đại phu đã cố hết sức, không phụ Ngô vương, giờ ở Ngô, Phù Sai chỉ là một nhóc con, phụ vương hắn đăng cơ chưa được một năm, Phù Sai căn cơ thiển cận, Phù Khái dẫn quân dã tâm tự lập, Khánh Kỵ lấy danh nghĩa trả thù cho tiên vương mưu đoạt vương vị. Hạp Lư mà chết, trong hoàng tộc Ngô quốc không còn chủ nhân đáng để thờ, còn Việt vương ta, hùng tài thao lược, thái tử Việt quốc ta trọng người hiền tài. Có câu chim khôn chọn cành mà đậu, thần giỏi chọn chúa mà thờ, Bá đại phu sao không giúp sức cho Việt quốc chứ?"

Câu Tiễn tiếp tục thuyết phục: "Nam nhi tại thế, cuối cùng cũng nên hoàn thành chí lớn của mình, thăng quan tiến chức, công thành danh toại, mưu cầu vinh hoa phú quý, thê thiếp đầy đàn, mưu cầu danh tiếng lẫy lừng, lưu danh muôn thuở. Câu Tiễn thật lòng chiêu mộ Bá đại phu, trời cao chứng giám, xin Bá thái tể nể tấm chân tình của Câu Tiễn." Nói xong vái lạy một cái.

Hai người thi nhau thuyết phục, Bá nghe xong, cúi xuống nhìn xác Hạp Lưu đang ôm trên tay, không nói tiếng nào. Ánh mắt Câu Tiễn khẽ lay động, cùng Linh Cô Phù liếc mắt nhìn nhau một cái, để lộ một nụ cười nham hiểm trên khóe môi...

Ngô vương Hạp Lư đã chết.

Khánh Kỵ dẫn đại quân tấn công Đông Điều Khê đại bại Ngô vương Hạp Lư, Hạp Lư trốn chạy sang Vũ Nguyên, bị phiến quân Vũ Nguyên giáp công cùng quân Khánh Kỵ, tử trận trên sa trường, tướng quốc Ngũ Viên cũng quyết chiến tử trận theo Ngô vương. Thái tể Bá phụng di mệnh của Hạp Lư, đến Việt quốc xin quân cứu viện trả thù cho chủ nhân, Việt vương Duẫn Thường lệnh cho thái tử Câu Tiễn đích thân dẫn tám ngàn đại quân, toàn quân đánh vào Ngô quốc.

Tin này nhanh chóng được lan truyền rộng rãi khắp Ngô quốc, truyền khắp thiên hạ. Lịch sử và sự thật là hai chuyện khác nhau, sự thật là sự thật, còn lịch sử chỉ là viết theo nhu cầu của người có quyền khống chế lịch sử mà thôi.

Người Việt đem cái chết của Hạp Lư đẩy trách nhiệm lên người Khánh Kỵ, điều đó có lợi cho họ thừa nước đục thả câu ở Ngô quốc. Còn phía Khánh Kỵ thì sao? Cho dù không có thái tể Bá làm nhân chứng cho Việt quốc, cũng không thể khiến kẻ địch tin hắn không phải là hung thủ giết chết Cơ Quang, hơn nữa kẻ địch không vì Cơ Quang có chết dưới tay Khánh Kỵ hay không mà thay đổi lập trường, số người còn phân vân do dự cũng vì tin này mà ngả sang phía hắn, trên thực tế tin này có lợi cho việc tạo dựng uy danh của Khánh Kỵ trong lòng người Ngô, nên dù biết rõ đấy là gian kế của Câu Tiễn, Khánh Kỵ vẫn buộc phải chấp nhận.

Lịch sử chính là trong mưu cầu lợi ích giữa hai phe địch và ta viết ra kết luận: Ngô quốc Khánh Kỵ, vì trả thù cho phụ vương Cơ Liêu, giết chết Ngô vương Hạp Lư mưu triều tán vị tại Vọng Hà cốc. Trong âm mưu phối hợp lợi ích của hai phe này, có lẽ người vui nhất chính là Hạp Lư nơi chín suối, người chết để danh, chết dưới tay một tên lính Việt vô danh tiểu tốt, đương nhiên không vẻ vang bằng chết dưới tay Khánh Kỵ.

Thế là, Khánh Kỵ im lặng nhận lấy công lao giết chết Cơ Quang, lập đàn tế vong linh phụ vương, khích lệ toàn quân thừa thắng bắc tiến, thề chiếm lấy Cô Tô thành, giành thắng lợi toàn vẹn. Còn bọn quân Việt vốn lén lút lẻn vào Ngô quốc kiếm chác lợi ích, nay bỗng hóa thân thành đội quân chính nghĩa phụng di chiếu của Ngô vương Hạp Lư đến thảo phạt Khánh Kỵ.

Hạp Lư chết đi, tình hình Ngô quốc lập tức biến động lớn, Phù Khái vốn đang hành quân chậm chạp tiến về Đông Điều Khê đột nhiên tăng tốc hành quân, toàn quân đeo khăn tang lao nhanh về hướng Cô Tô thành, lên tiếng đòi thảo phạt phản tặc, trả thù cho đại vương. Phía Cô Tô thành, Kinh Lâm nhận được tin báo lập tức lợi dụng địa hình đã đào sâu xây dựng công sự, chuẩn bị ứng chiến. Cùng lúc đó, Khánh Kỵ và Chúc Dung hợp binh lại với nhau tức tốc tiến về Cô Tô thành, tạm thời không rảnh đối phó với con rắn độc Việt quốc.

Phù Khái dẫn quân đến Kiền Toại, nghe tin Kinh Lâm bày trận đợi sẵn, liền một mặt chỉnh đốn binh mã chuẩn bị tấn công, mặt khác phái người vào thành liên lạc với Phù Sai, muốn trong ứng ngoài hợp. Trong lúc rối ren này, phú hộ giàu nhất Ngô quốc, gia tộc chế tạo binh khí lớn nhất vùng Giang Nam là Nhâm gia tạo phản, tất cả thợ rèn, thợ xây, thợ khuân vác, thêm vào gia tướng, gia nô ở Nhâm gia thành tổng cộng có hơn chín ngàn người, trang bị áo giáp của Nhâm gia, tay cầm binh khí của Nhâm gia chế tạo, đeo khăn tang vì gia chủ, dưới sự dẫn dắt của trưởng nữ Nhâm thị Nhâm Nhược Tích kéo đến chân thành Cô Tô, hạ trại ngoài Bàn môn, cùng với Kinh Lâm tạo thế gọng kiềm, trong kháng Phù Sai, ngoài cự Phù Khái.

Phù Khái nghe tin thất kinh hồn vía, vội vã thu quân, lấy Kiền Toại làm doanh trại, đối chọi với liên quân Nhâm gia và Kinh Lâm, một mặt phái người đi liên lạc với cánh quân Việt đã phụng di chiếu của Ngô vương đến cứu viện, mặt khác lo toan trường hợp bại trận chạy về Nam Vũ thành, các cứ một vùng tự lập làm vương.

Trong thành Cô Tô, Phù Sai nghe tin phụ vương chết thảm, lập tức muốn bất chấp tất cả dẫn quân ra thành quyết một trận tử chiến với Khánh Kỵ, bị tướng lĩnh thuộc hạ dưới trướng liều chết căn ngăn. Phù Sai khóc lóc thảm thiết, cuối cùng từ bỏ ý định lấy trứng chọi đá, quyết định dùng Cô Tô thành làm mồi nhử, thu hút Khánh Kỵ, Phù Khái, Câu Tiễn, các lộ nhân mã có dã tâm đến đây tàn sát lẫn nhau, hắn xem tình hình từ đó hưởng lợi.

Phù Sai lập tức đăng cơ, kế thừa ngôi vị Ngô vương, hắn ra một đạo nghiêm lệnh, tất cả dân chúng trong Cô Tô thành đeo tang, khắp nơi một màu trắng xóa, nghiêm cấm uống rượu ăn thịt, tiệc tùng vui vẻ. Phù Sai lại bắt tất cả nữ nhân trẻ khỏe, tất cả nam nhân dân thường từ mười bốn đến sáu mươi tuổi và gia tướng gia nô của các công khanh thế tộc trong thành biên vào quân ngũ thao luyện, trong một lúc toàn thành Cô Tô đều là binh lính, đội quân mới này có quân số năm vạn tám ngàn tám trăm người.

Khánh Kỵ trả thù cho cha, Phù Sai trả thù cho cha, Phù Khái, Câu Tiễn tuyên bố trả thù cho quân vương, Nhâm gia quân của Nhâm Nhược Tích muốn trả thù cho gia chủ. Khắp nước Ngô ai cũng đeo tang, ai ai cũng giương cao ngọn cờ trả thù chuốc hận, trong một đêm các lộ binh mã trong lãnh thổ Ngô quốc hóa thành đội quân thù hận. Từ khi Hạp Lư chết đến khi Khánh Kỵ đánh vào Cô Tô thành, giai đoạn lịch sử này từ đây bị người đời sau gọi là "Trận chiến thù nước hận nhà".

Ngoài thành Cô Tô, Khánh Kỵ đăng cơ.

Đây là đại sự đầu tiên được các tướng lĩnh phe Khánh Kỵ hội họp bàn bạc quyết định.

Hạp Lư đã chết, Phù Sai xưng vương. Câu Tiễn Việt quốc và Phù Khái qua lại bí hiểm, họ không lập tức công nhận vương vị của Phù Sai, lòng riêng của Phù Khái không nói đã rõ, nhưng chúng vẫn giương cao ngọn cờ đòi trả thù cho Ngô vương Hạp Lư để đảm bảo cho tính hợp lí của sự tồn tại của đại quân Việt quốc trên lãnh thổ Ngô.

Trước tình hình này, trên dưới Ngô quốc không biết nghe ai, muốn nhanh chóng ổn định lòng dân, tranh thủ tối đa ủng hộ của dân Ngô, nắm bắt quyền chủ động, Khánh Kỵ là con trai duy nhất còn lại của Ngô vương Cơ Liêu, cũng là người thừa kế hợp pháp vương vị Ngô quốc, phải lập tức đăng cơ xưng vương. Chỉ khi địa vị hợp pháp của Khánh Kỵ được công nhận, mới có thể tập hợp tất cả lực lượng khả dụng. Bộ hạ của Khánh Kỵ đương nhiên không ai phản đối, trong các thành viên hoàng tộc Yểm Dư công tử cũng tỏ ý tán thành, Chúc Dung tuy có hơi không đồng ý nhưng ai cũng nhất chí, Khánh Kỵ có được các thế lực chính trị trong và ngoài nước ủng hộ, hắn chỉ có một lộ nhân mã, hắn buộc phải tỏ ý hoàng điệt Khánh Kỵ kế thừa vương vị là trên thuận ý trời, dưới hợp dân tâm.

Quyết định đăng cơ tuy hơi gấp gáp, các nước xung quanh hãy còn kịp tỏ thái độ. Việt quốc là người đầu tiên đưa ra kháng nghị, viết ra một bức tuyên cáo dài thoàng, kể tội Khánh Kỵ giết vua mưu đoạt vương vị, là hành động phi pháp. Bốn nước Sở, Tống, Lỗ, Vệ lại tỏ ý ủng hộ, Lỗ quốc và Vệ quốc góp nhiều sức giúp Khánh Kỵ phục quốc thành công, đương nhiên tán đồng Khánh Kỵ đăng cơ, còn phái người mang đến số lượng lớn lễ vật chúc mừng, tuy đường sá xa xôi chưa kịp thời vận chuyển đến Ngô được, nhưng sứ giả đã đưa danh sách lễ vật đến trước. Tống quốc vì lí do Vệ phu nhân Nam Tử là công chúa của Tống, cũng mang đến nhiều lễ vật. Các nước nhỏ Từ, Thái, Trần thì giữ thái độ trung lập không tỏ thái độ ủng hộ hay phản đối.

Ngày mai chính là ngày hoàng đạo các thuật sĩ chọn làm ngày đăng cơ của Khánh Kỵ, ngoài Bàn môn Cô Tô thành dựng lên một tòa đàn cao, công việc chuẩn bị đang gấp rút tiến hành. Khánh Kỵ thì đang tắm rửa trong lều, chuẩn bị các nghi thức cúng tế đăng cơ vào ngày mai. Đúng lúc này, Anh Đào đi vào bẩm báo: "Công tử, lại có sứ thần đến chúc mừng."

Khánh Kỵ mở to mắt hỏi: "Ồ! Là sứ thần do quân vương nước nào phái đến?"

"Sứ thần tự xưng là tín sứ của nữ vương Đông Di là Doanh Thiền Nhi."

Khánh Kỵ nhướn mày lên, cảm thấy ngạc nhiên: "Doanh Thiền Nhi, chính là Doanh Thiền Nhi tự xưng là hậu nhân của Thiếu Hạo, thừa lúc người Tề nam hạ liên kết bảy mươi mốt bộ lạc Đông Di tự lập xưng vương? Mau mời!"

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 213: Sứ giả Đông Di (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Vùng đất Hoài Di, Di Hổ, người Đông Di cai quản phần lớn cương thổ, số người Đông Di sống trên vùng đất này không có tổ chức thành bộ máy nhà nước chặt chẽ, do họ và người Sở là đồng tộc từ thời Tam hoàng Ngũ đế, dây mơ rễ má thâm sâu, lại dùng "Phụng" làm biểu tượng, do đó các bộ lạc Đông Di lớn nhỏ từ lâu đã giao hảo thân cận với Sở quốc.

Nhưng gần đây Sở quốc tự lo thân mình còn chưa xong, đã mất đi quyền kiểm soát khu vực này, Ngô vương Hạp Lư từng phái sứ giả đi Tề mật bàn với Tề phân chia vùng đất này, tin tức bị lộ ra ngoài, các bộ lạc Đông Di bắt đầu huấn luyện binh mã, chuẩn bị tử chiến một phen để giữ mảnh đất dung thân cuối cùng của mình. Dưới tình hình Tề quốc hùng mạnh sắp xâm chiếm, các bộ lạc liên minh hợp sức với nhau, tổ chức các bộ lạc vốn chia rẽ nay vì đối kháng ngoại xâm dần dần manh nha phát triển nên một quốc gia hoàn chỉnh.

Khánh Kỵ cũng có chú ý đến sự phát triển của các bộ lạc Đông Di, nhất là lần này Yểm Dư đến Lỗ và Đông Di mượn quân quấy nhiễu Phù Khái, người Đông Di ra sức ủng hộ, trong đó nữ vương Đông Di góp tiếng nói quan trọng trong việc này, có thể xem như một thủ lĩnh tương đối hảo hữu với Khánh Kỵ. Khánh Kỵ từng hỏi Yểm Dư biết được đôi chút về vị nữ vương này, các bộ lạc Đông Di thấy đại địch trước mắt, vội liên minh chống ngoại xâm, lúc đó một cô gái đột nhiên đứng ra, nàng bỏ nhiều tiền của tiếp tế dân chúng, chiêu binh mãi mã, huấn luyện quân đội, chỉ trong thời gian ngắn, lấy cơ sở từ hai bộ lạc lớn Phong thị, Doanh thị phát triển, đã đoàn kết mấy mươi bộ lạc nhỏ khác đầu quân dưới trướng nàng ta.

Cô gái này tự xưng là hậu nhân đích truyền của Đông Di Thiếu Hạo đế Doanh Chất, dựa vào vị trí tối thượng của Thiếu Hạo đế trong lòng người Đông Di, cộng với mưu lược tài trí, thủ đoạn chính trị của nàng, nhanh chóng khiến các dũng sĩ bộ lạc vốn thuần hậu, dũng mãnh trở thành thần dân trung thành của nàng, từ đó vị thế đứng cao hơn cả các tộc trưởng bộ lạc, xưng là nữ vương Đông Di.

"Mau mời vào đây!" Khánh Kỵ sửa soạn áo bào chỉnh tề đứng lên, trong lòng nghĩ thầm: "Sứ giả Đông Di vượt sông đến đây, theo lẽ phải đi ngang Kiền Toại, họ lại không bị Phù Khái chặn bắt, nghĩ chắc là biết rõ tình hình Ngô quốc, nên mới đi đường vòng tránh chỗ nguy hiểm. Một liên minh các bộ lạc xưa nay chỉ biết đánh cá săn bắn, có thể hiểu rõ Ngô quốc ta như lòng bàn tay, vị nữ vương này quả nhiên không hề đơn giản."

Khánh Kỵ chỉnh trang y phục, ngồi trong lều chờ đợi, một lát sau, Anh Đào dẫn theo tám sứ giả bốn nam bốn nữ vào trong đại doanh trung quân, kiểu dáng quần áo của tám người này giống với nữ nhân Đông Di khi Khánh Kỵ đại chiến với Triển Chích tại Lỗ từng được thấy, bốn cô thiếu nữ mặc áo hở vai và váy ngắn, dưới váy để lộ bắp đùi rắn chắc, dung mạo tuy không xinh xắn lắm, nhưng lại mang sức sống tràn trề của tuổi thanh xuân, bốn nam tử kiểu áo y chang, chỉ là cánh tay và đùi của họ màu đồng đen, càng thêm vạm vỡ rắn chắc.

Điều khác biệt là vải áo của họ tuy thô kệch nhưng rõ ràng nó thuộc trang phục truyền thống lễ nghi chính thức nào đó, trên áo có thêu các biểu tượng phụng hoàng, mặt trời sặc sỡ, nam tử đội mũ lông vũ đủ màu, nữ nhân thắt hai bím tóc dài sau lưng, trên đầu đeo vòng hoa có ít lông vũ trang trí làm trang sức, nam thì cương dương, nữ thì kiện mỹ, cách ăn mặc đúng là khác biệt so với lê dân bá tánh khắp thiên hạ của nhà Chu.

Ngang hông họ có đeo dao găm nhỏ, trên vai khoác một cây cung, sau lưng có một vò tên. Đông Di, trong tiếng cổ ngữ có nghĩa là "Đông phương cung tiễn thủ", người Đông Di bất kể già trẻ lớn bé, ai ai cũng giỏi bắn cung, thần tiễn thủ nổi tiếng khắp thiên hạ lúc bấy giờ là Hậu Nghệ, chính là thủ lĩnh một bộ lạc của Đông Di.

"Đây là điện hạ của ta." Anh Đào bước lên giới thiệu.

Đôi mắt to tròn, đen láy của một thiếu nữ Đông Di mở to ra nhìn vào Khánh Kỵ, bước tới hai bước, vái chào hành lễ: "Tám sứ giả Huyền Điểu, Đan Ô ... dưới trướng nữ vương Đông Di Doanh Thiền Nhi bái kiến Ngô quốc Khánh Kỵ đại vương."

Khánh Kỵ ha hả cười to, xua tay nói: "Các vị sứ giả không cần đa lễ, mời ngồi, mời ngồi, các vị cứ gọi ta là điện hạ là được rồi, Khánh Kỵ vẫn chưa đăng cơ, không dám xưng đại vương."

Cô thiếu nữ tên Huyền Điểu chớp chớp mắt, nói: "Chẳng phải một hai ngày nữa là xưng vương sao? Sớm hơn hay trễ hơn một hai ngày có gì khác biệt? Hôm nay gọi điện hạ, mai gọi đại vương, sửa tới sửa lui cũng không khỏi phiền phức."

"Ừm..." Khánh Kỵ bị cô sứ giả này dạy dỗ cho một chập, nhưng thấy bộ dạng nàng ta ngây thơ, có vẻ không biết lễ nghi phép tắc của người văn minh, chỉ còn cách cười trừ: "À, phải lắm, Huyền Điểu cô nương nói phải lắm, mời ngồi, mời ngồi."

Vị Huyền Điểu cô nương cười hi hi, vui vẻ lên tiếng: "Nữ vương nói, chúng ta nên liên minh với Ngô quốc Khánh Kỵ, xem ra nữ vương chọn lựa đúng người rồi, các quan lại của các người, cho dù là tên hạ đại phu, thấy người Đông Di chúng ta đều làm ra vẻ cao sang, chỉ có đại vương ngài lại chịu nghe lời ta nói, tốt lắm, tốt lắm."

Khánh Kỵ khóc không được cười cũng không xong, ngẩng đầu liếc Anh Đào một cái, Anh Đào đang cố nhịn cười, cũng không giúp Khánh Kỵ giải vây. Khánh Kỵ chỉ còn cách ho lên một tiếng: "Khụ khụ, phải rồi, các vị sứ giả mời ngồi. Nữ vương Đông Di có lòng thành khẩn, Khánh Kỵ cảm kích vô cùng, ngày mai là đại lễ đăng cơ của Khánh Kỵ, mời các vị sứ giả ở lại, đợi đăng cơ đại điển xong xuôi, Khánh Kỵ còn phải trả lễ cảm tạ nữ vương Đông Di."

Huyền Điểu vỗ tay tươi cười khoái trá: "Hay quá, chúng ta đang muốn xem coi đại lễ đăng cơ của người Ngô là như thế nào. Phải rồi, Khánh Kỵ đại vương này, ta thấy ngài cao lớn vạm vỡ, lại anh tuấn bất phàm, người ta ai cũng nói ngài là đệ nhất dũng sĩ Ngô quốc, tay bắt được chim bay, chạy nhanh hơn ngựa chiến, nhưng sao sức khỏe lại kém thế này, cứ ho lên ho xuống, cẩn thận kẻo bị cảm lạnh, ảnh hưởng đến đại lễ đăng cơ ngày mai."

"Khụ khụ...ừm..." Khánh Kỵ thấy cô nương này ngây ngô khiển trách, lại còn tỏ ý quan tâm dặn dò, hình như không phải giả tạo, trong một lúc không biết nên khóc hay nên cười mới phải, chỉ còn biết lên tiếng cảm tạ tấm lòng quan tâm của Huyền Điểu cô nương.

Anh Đào đứng kế bên cố gắng nhịn cười, không dám tỏ ra mất lễ nghi trước mặt công tử, khuôn mặt hắn vì cố kiềm nén đỏ ửng cả lên.

Huyền Điểu nhìn trưng trưng vào Anh Đào: "Người Ngô các ngài hình như thể chất không được tốt cho lắm, ngài làm đại vương sức khỏe không tốt, sao đại tướng dưới quyền cũng có vẻ mang bệnh thế này? Sớm biết như vậy ta mang theo một xe thảo dược tới đây, thảo dược của người Đông Di chúng ta hiệu nghiệm lắm, chút phong hàn vặt vãnh này không cần lo đâu."

"Không sao, không sao, cơ thể ta tốt lắm mà." Anh Đào xua tay liên hồi, vội chắp tay vái lạy Khánh Kỵ, xin phép ra ngoài chuẩn bị nơi ăn chốn ở tiếp đón các vị sứ giả Đông Di, còn chưa đợi Khánh Kỵ gật đầu liền chạy như bay ra ngoài, trốn vào sau túp lều xa xa, thế mới ôm bụng cười một trận thỏa thích.

Huyền Điểu lại mở to mắt quay sang nhìn trưng trưng vào Khánh Kỵ: "Ta có nói sai gì à? Sao hắn chạy nhanh hơn cả con lừa thế?"

Khánh Kỵ vẻ e dè khó xử phân bua: "Anh Đào là người bên cạnh ta, xưa nay vẫn hay tính khí thất thường, xin Huyền Điểu cô nương đừng trách, cô nương ngây thơ trong trắng, cho dù có nói sai chuyện gì, Khánh Kỵ cũng thấy thích mà."

Huyền Điểu nghe vậy, đỏ mặt e thẹn: "Khánh Kỵ đại vương, Huyền Điểu xin nói thẳng, ngài đừng trách cứ. Ta...ta chỉ là mang lễ vật đến, chứ không thích ngài đâu..."

Khánh Kỵ cũng thấy khó xử: "Ờ, cái này...cái này... Cô nương tính tình thẳng thắn, không biết mưu tính, quả là...quả là..."

Huyền Điểu chớp chớp mắt, hỏi: "Tính tình thẳng thắn, không biết mưu tính..., có phải ngài nói ta ngốc..."

Khánh Kỵ lập tức ngậm miệng, cô nương này đơn thuần không biết cách hành xử thế sự, lúc này lại có vẻ nghe hiểu ý hắn. Hắn cũng không phân biệt được cô nương này là ngốc thiệt hay ngốc giả, càng không biết tại sao nữ vương Đông Di lại phái đến một sứ giả ngây ngô thế này.

Tên võ sĩ tên Đan Ô lớn tuổi hơn, xem ra có vẻ trưởng thành hơn đôi chút, hắn thấy Huyền Điểu liên tiếp lộ điểm yếu ra, vội đứng ra can thiệp: "Huyền Điểu, Khánh Kỵ công tử đang khen cô mà, đừng nói lung tung nữa."

"Thế à?" Huyền Điều xoay xoay tròng mắt, vẻ hoài nghi: "Mỗi khi ta nói sai câu nào, làm chuyện ngốc gì, nữ vương cũng nói với ta thế này, sao do miệng Khánh Kỵ đại vương nói ra thì thành biến khen ngợi rồi?" Đan Ô nghe cô nương này phân bua cũng thấy khó xử không biết phải làm sao.

Huyền Điểu suy nghĩ một hồi vẫn không hiểu ra, bèn tạm thời tin vào giải thích của Đan Ô, vui vẻ ra mặt: "Ngài không phải đang ẩn ý mắng ta là được, nữ vương chúng ta rất coi trọng đăng cơ đại điển của ngài, nếu không thì Huyền Điểu này thân là con gái của tộc trưởng, cũng không đích thân mang lễ vật đến Ngô quốc tặng ngài rồi."

"Thì ra Huyền Điểu cô nương là con gái của tộc trưởng bộ lạc Phong, thất kính, thất kính." Trong số các bộ lạc Đông Di, hiện nay thế lực của bộ lạc Phong là mạnh nhất, thứ hai là bộ lạc Doanh, giờ đây cái cô Doanh Thiền Nhi tự xưng là hậu nhân Thiếu Hạo gì đó lên làm nữ vương Đông Di, đương nhiên phải ra sức lôi kéo hai bộ lạc này, Huyền Điểu là con gái của tù trưởng bộ lạc Phong, cũng là người đứng đầu đoàn sứ giả Đông Di.

Cô nương Huyền Điểu nói chuyện huyên thuyên hồi lâu, lại lớ ngớ không rõ ràng, người ngoài không sao chen vào được, Khánh Kỵ phải mất khá lâu mới nắm rõ thông tin là cô nương Huyền Điểu này mang theo lễ vật tổng cộng có đến mười hai xe, món quà của người Đông Di không phải là vàng bạc châu báu, cũng không phải là gấm vóc lụa là, trên mười hai chiếc xe chỉ chứa một thứ duy nhất: hài cốt của cự long thời thượng cổ.

Khánh Kỵ nghe họ thuật lại bèn lập tức hiểu ra. Nghe nói xưa kia có người đào được vô số mảnh xương to lớn, vì Khổng Khâu học rộng hiểu nhiều, tri thức uyên bác, nên phái người đi thỉnh giáo ông ta, Khổng Khâu theo ghi chép từ sách cổ cho rằng đó là con rồng khổng lồ cai quản gió mưa năm xưa bị Đại Vũ giết chết, người đời nhờ thế tôn Đại Vũ làm Thánh nhân trị thủy. Thật ra đống xương đó chỉ là xương hóa thạch của con thú lớn thời thượng cổ mà thôi, bây giờ người Đông Di đào được nguyên bộ xương nguyên vẹn, Khánh Kỵ nghe họ miêu tả, liền đoán ra đó là một bộ xương khủng long hóa thạch.

Bộ xương này nếu nói vô dụng, thì cũng đúng là vô dụng, còn nói là quá có ích thì cũng đúng là góp công to lớn trong đại nghiệp của Khánh Kỵ, đối với người ngoài có thể vô dụng, còn với người Ngô lại mang ý nghĩa cực kỳ quan trọng, vì người Ngô tôn thờ "Rồng".

Hiện nay Khánh Kỵ đăng cơ, ở ngoài kia Tề, Tấn và hơn một nửa chư hầu trong thiên hạ vì lợi ích cá nhân đều không thừa nhận, còn ở nước Ngô những phe cánh thuộc về Phù Sai, Phù Khái cũng không thừa nhận địa vị hợp pháp của hắn.

Thế mà trước lúc hắn đăng cơ lại đột nhiên xuất hiện hài cốt của con cự long này, lại được đưa vào trong quân hắn. Thời đại đó là thời nào chứ? Mấy trăm năm sau một tên đình trưởng muốn làm hoàng đế phải chém bạch xà ra vẻ thuận theo ý trời (chính là Hán Cao tổ Lưu Bang), hơn một ngàn năm sau một tiểu hòa thượng muốn làm hoàng đế phải nổ vang trời rằng khi hắn sinh ra khắp phòng đỏ rực (Tống Cao tổ Triệu Khuôn Dẫn). Trong thời đại mê tín này, nếu vào đại lễ đăng cơ ngày mai, lập đàn tế lễ trang trọng an táng bộ hài cốt này, lúc đó số đông người dân đều tin vào thần thánh mệnh trời, làm vậy có tác dụng tuyên truyền thu phục nhân tâm lớn cỡ nào? Sẽ có bao nhiêu người vốn kiên định theo phò Phù Sai, Phù Khái dao động chuyển sang đầu hàng Khánh Kỵ?

Khánh Kỵ quá đỗi vui mừng, hạ lệnh long trọng tiếp đãi đoàn sứ giả Đông Di, bên ngoài Anh Đào đã thu xếp xong nơi ăn chốn nghỉ. Anh Đào dẫn đoàn sứ giả rời khỏi không lâu liền vội quay vào lều nói nhỏ với Khánh Kỵ: "Điện hạ, sứ giả Đông Di Đan Ô bí mật xin cầu kiến."

"Hử? Mau mời!" Khánh Kỵ ngớ người, mới tỉnh ngộ nhận ra vị nữ vương Đông Di kia phí nhiều công sức sai sứ giả đến gặp, còn mang tặng hài cốt cự long, e là có ý đồ gì đó.

Một lúc sau, Đan Ô vừa thu xếp xong lại vội vã bước vào trong lều, nói: "Điện hạ, nữ vương Đông Di có một việc quan trọng cần bàn với ngài, chỉ vì Huyền Điểu ngây ngô, khó đảm nhận nhiệm vụ bí mật này, nữ vương đã sai tiểu nhân mang theo bức mật thư này, đến giao cho điện hạ."

Đan Ô nói xong lấy từ dưới ngực ra một bức mật thư được dùng sáp nến niêm phong, thư viết trên thẻ tre Lỗ quốc, mỏng mà chắc chắn, xếp thành mấy lớp. Khánh Kỵ vội đón lấy mở ra xem, xem xong đập bàn kêu hay, hắn định thần lại, nói với Đan Ô đang đứng đó chờ đợi: "Sứ giả Đan Ô, mời về lều nghỉ ngơi trước, việc này cho phép Khánh Kỵ bàn bạc lại với các tướng lĩnh rồi hồi đáp sau."

Đan Ô cáo từ lui ra, Khánh Kỵ lập tức triệu tập các tướng lĩnh Yểm Dư, Chúc Dung, Tôn Vũ, Kinh Lâm, Lương Hổ Tử tề tựu trong lều. Trên thực tế lúc này Khánh Kỵ vẫn còn một lực lượng quân sự quan trọng, đó chính là Nhâm gia quân do Nhâm Nhược Tích thống lĩnh, nếu không phải Nhâm Nhược Tích dẫn đại quân kịp lúc kéo đến giúp Kinh Lâm cản đường tiến quân của Phù Khái, Phù Khái lúc này dù chưa vào Cô Tô thành, e rằng đại quân Kinh Lâm dưới sức ép trong ngoài thành đã bị tổn thất trầm trọng. Giờ có Nhâm gia quân tham chiến, thực lực hai bên tạo lập thế cân bằng, có thể nói công lao của Nhâm gia vô cùng lớn, vì thế lúc này đang giữ vị trí quan trọng trong đại quân Khánh Kỵ.

Nhưng hiện giờ Nhâm gia quân do Nhâm Nhược Tích thống lĩnh, Khánh Kỵ không biết sắp xếp chức vụ gì thích hợp cho nàng ta, nên lúc này không triệu nàng vào nghị sự. Hai người khi xưa đã sớm nảy sinh tình cảm, lúc ở Tề Nhâm Nhược Tích yểm trợ Khánh Kỵ trốn chạy, Khánh Kỵ còn hứa hẹn chuyện chung thân với nàng. Chỉ là chiến sự đang căng thẳng không tiện công bố tin này ra, hai người chỉ gặp mặt nhau một lần khi Khánh Kỵ quay về Cô Tô, sau đó thì ngay cả cơ hội hẹn hò riêng tư cũng không có nữa.

Vì muốn trấn an Nhâm gia quân, Khánh Kỵ sắp xếp cho Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man ở tại doanh trại bên kia, cùng ăn cùng ở với Nhâm Nhược Tích, trên dưới Nhâm gia quân đều biết hai cô nương này sau này sẽ là hoàng phi Ngô quốc, Khánh Kỵ đưa hai nhân vật quan trọng vào ở trong quân họ, rõ ràng là tuyệt đối tin tưởng và xem trọng họ rồi, hành động này có tác dụng khích lệ rất tốt với Nhâm gia quân.

Còn với Khánh Kỵ, làm như vậy một vốn bốn lời, một là thu phục nhân tâm Nhâm gia quân; hai là lúc này hắn chinh chiến ác liệt, qua lại với sứ giả các nước thường xuyên, đúng là không tiện mang theo hai thiếu nữ chưa xác định danh phận này bên mình; ba là cho Thúc Tôn Diêu Quang, Quý Tôn Tiểu Man giao lưu với Nhâm Nhược Tích; bốn là..., giờ hắn bận đến nỗi không thể phân thân, lại không thể gặp riêng Nhâm Nhược Tích lựa lời an ủi, đem hai cô nương kia sắp xếp ở cạnh Nhược Tích, tránh cho nàng ta ghen tuông vớ vẩn...

Nghe Khánh Kỵ thuật lại xong, Yểm Dư kinh ngạc kêu lên: "Người Đông Di muốn lập quốc?"

Khánh Kỵ nói: "Đúng vậy, nhưng Đông Di không tồn tại quốc gia đã lâu, các bộ lạc giờ đây vì cùng cảnh ngộ chống ngoại xâm nên tạm thời đoàn kết với nhau, một khi mối nguy được giải trừ, các bộ lạc vốn quen tự do khó chấp nhận sự quản thúc của thể chế quốc gia, còn binh mã của vị nữ vương Đông Di này cũng đều đến từ các bộ lạc khác nhau, nàng ta thiếu cơ sở quyền lực tạo lập chính quyền, chỉ còn cách dựa vào một cường quốc làm hậu thuẫn.

Tề quốc xưa nay luôn giơ cao ngọn cờ thay Chu thiên tử dẹp yên man di xâm lấn lãnh địa của người Đông Di, từ thời Tề Hoàn Công đến nay, lãnh thổ Tề quốc mở rộng thêm gấp bội, diệt hơn bốn mươi quốc gia nhỏ, trong đó có khá nhiều quốc gia kiểu bộ lạc như người Đông Di, Tề và Đông Di thù oán sâu nặng, là quốc gia người Đông Di không chấp nhận nhờ cậy. Lỗ quốc sát cánh cùng Đông Di chiến đấu chống Tề, chẳng qua vì tự bảo vệ, người Lỗ muốn yên thân an phận, không muốn bành trướng, sẽ không đồng ý tiếp nhận người Đông Di mà gây thù với Tề, nữ vương Đông Di sai sứ đến đây bày rõ ý định của mình, đó là một khi chúng ta phục quốc thành công, muốn Đông Di dựa vào Ngô quốc, làm thuộc địa của Ngô, thành lập quốc gia. Tất nhiên đấy chỉ là một đề nghị, nếu chúng ta đồng ý mới tiến hành đàm phán bước tiếp theo."

Yểm Dư phấn khích: "Hay lắm! Sao lại không đồng ý? Người Đông Di có lãnh thổ rộng lớn, tuy vùng đất của họ có hơi nghèo nàn, người Đông Di chỉ sống bằng săn bắn đánh cá, ít trồng trọt cày cấy, làm công vụ thương lái, có thu thuế má cũng không được bao nhiêu, nhưng người Đông Di xưa nay luôn tự cung tự cấp, cũng sẽ không gây cho ta thêm gánh nặng gì, một khi Đông Di làm thuộc địa của ta, về mặt quân sự, ngoại giao tất cả đều nằm trong tay Ngô quốc, còn dễ dàng quản lí hơn một vùng đất phong cho công khanh đại thần, lại nâng cao uy danh của Ngô quốc trong các nước chư hầu, đây là việc có lợi lớn nên làm."

Tôn Vũ cũng nói: "Người Đông Di tuy hoang dã, nhưng lãnh thổ của họ rộng gấp bội Ngô quốc ta, miếng thịt này ta không ăn, sớm muộn cũng bị người khác nuốt vào miệng, bây giờ người Đông Di chủ động tìm đến, đâu có lý do gì phải từ chối? Hơn nữa người Đông Di tuy lạc hậu nhưng cũng vì Chu thất cố tình tạo ra cục diện này, chứ không phải vùng đất của họ nghèo nàn, con dân dốt nát.

Năm xưa khi quân của Hoàng đế lấy gậy gỗ làm vũ khí, người Đông Di đã biết thuật luyện kim, tạo ra vật dụng bằng đồng. Sau Chu thiên tử, người đầu tiên dám xưng vương không phải là Sở vương Tử Hùng, mà là Từ vương Đông Di, khi đó người Đông Di lập ra nước Từ quản hạch lưu vực Hoài Thủy, Tứ Thủy, Từ vương có đạo trị nước, nhân nghĩa vang danh thiên hạ, quốc gia cường thịnh, các nước thần phục xung quanh hơn ba mươi, mới dám thách thức trực diện với Chu thiên tử, hoàng thành của Từ được xây hùng vĩ hơn cả của Chu thiên tử. Chỉ là khi đó khí số Chu thất đang lên, phát động toàn thiên hạ khởi binh diệt trừ Từ quốc, từ đó không thèm cai trị bỏ mặc người Đông Di, trải qua mấy trăm năm bị tách biệt với văn minh nên người Đông Di mới thế, chỉ cần Ngô quốc ta quan tâm dạy dỗ, không mất nhiều thời gian sau Đông Di sẽ trở thành cơ sở vững mạnh của Ngô, giờ Đông Di chủ động nhờ cậy, điện hạ không thể lỡ mất dịp may này."

Khánh Kỵ gật gù: "Các tướng nghĩ vậy cũng đúng với ý định của ta."

Chúc Dung vốn cũng cảm thấy đây là dịp tốt trời ban, nhưng nghe Khánh Kỵ nói vậy thấy anh ách trong lòng, bèn lên tiếng phản đối: "Tiếp nhận Đông Di, chúng ta phải gánh chịu sức ép từ người Tề, giờ đây Ngô quốc nội chiến liên miên, giang sơn chưa ổn định, Tề quốc hùng mạnh chúng ta có chống lại nổi không? Hơn nữa các bộ lạc Đông Di xưa nay luôn giao hảo với Sở, chúng ta mà xen vào tiếp quản, lại kết oán với người Sở.

Chà! Nên nói là oán cũ chưa xong, lại kết thêm thù mới. Ngô quốc ta phạt Sở, giết người cướp bóc vô số, dân Sở không phải ai cũng phân biệt rõ chúng ta và Cơ Quang đâu, Cơ Quang lúc đánh vào Dĩnh Đô cướp hết của cải trong hoàng cung, nay đang chất đầy Cô Tô, chúng ta phục quốc xong cũng cần dùng số của cải này xây dựng lại quốc gia, sứ giả Tần quốc hôm qua nhắc nhở khi phá thành chúng ta nên trả lại cho Sở số của cải này, lúc đó nên trả hay không trả? Nếu không trả, người Sở tức giận, ta tiếp nhận Đông Di càng gây thù chuốc oán với họ, Sở xua quân đến đánh, vậy chẳng phải chúng ta cùng lúc chống với bốn cường quốc Tần Sở Tấn Tề sao?"

Tôn Vũ ung dung: "Tề quốc tuy mạnh, nhưng lại ở xa, nếu xua quân viễn chinh, hao tổn chắc lớn, hơn nữa hai phái Điền, Yến, năm họ tộc quyền cao chức trọng ở Tề khó đạt được đồng thuận ý kiến, nên tạm thời không đáng lo. Còn việc Đông Di đến nương nhờ ta ủng hộ lập quốc, đó là ý nguyện của người Đông Di, đâu phải chúng ta dùng vũ lực chiếm giữ, người Sở muốn trách cũng không được. Còn nói đến số của cải Cơ Quang cướp về từ Dĩnh Đô, chuyện đó càng dễ dàng hơn..."

Tôn Vũ hít một hơi dài, nói giọng bình thản: "Sau này công phá Cô Tô thành, ta chọn ra mấy căn nhà trong hoàng thành đốt trụi, cứ nói là trong lúc chiến loạn Phù Sai đã đốt lửa thiêu hết số của cải. Người Sở hiện đang lo lắng Tam Miêu phía Nam, phía Bắc phải chống trả với Tấn, phía Đông các nước phụ thuộc đang manh nha phản loạn, họ tự lo thân mình đã vất vả, nếu không có chứng cứ xác thực, lại có lý do giải thích hợp lý, Sở đâu dám xua quân đánh ta."

Khánh Kỵ nhìn trưng trưng vào vị Binh thánh Tôn Vũ được sử sách miêu tả từ tài năng quân sự đến đối nhân xử thế đều hoàn hảo này, không dám tin vào mắt mình.

Tôn Vũ cười khoái trá, quay sang Khánh Kỵ: "Điện hạ thấy thế nào?"

Khánh Kỵ mỉm cười: "Ý ta cũng như ý Tôn tướng quân đây!"

Đại Tranh Chi Thế

Tác giả: Nguyệt Quan

Quyển 4: Kẻ Thắng Làm Vua

Chương 214: Thích khách (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Phía xa xa có hai người đứng trong bụi cỏ nhìn vào đại doanh của Khánh Kỵ.

Chuyên Nghị trầm giọng nói: "Thái tử điện hạ lệnh cho ta đi tìm đại vương, chúng ta còn chưa đến nơi, đại vương đã tử trận, giờ đây Khánh Kỵ xua quân vây thành, quân Việt lấy danh nghĩa phụng di mệnh đại vương thảo phạt Khánh Kỵ, nhưng đại quân giấu đầu lòi đuôi, giờ cũng chả biết đi đâu. Còn Phù Khái... Phù Khái tướng quân đóng quân tại Kiền Toại, không tiến cũng không lui, không biết đang toan tính gì, chúng ta quay về thành gặp thái tử phải hồi đáp sao đây?"

Lý Hàn sắc mặt hầm hầm đứng bên cạnh không nói tiếng nào.

Hắn hiện giờ đang cảm thấy vô cùng hối hận, hối hận không nên rời khỏi Lỗ quốc, chạy đến Ngô đầu quân Hạp Lư, cứ tưởng rằng nắm được thông tin Khánh Kỵ lén mai phục một đội quân tại Phi Hồ cốc là lập được công lớn, người Ngô có thể dựa vào tin đó mai phục tiêu diệt gọn quân Khánh Kỵ, tuyệt luôn đường lui của hắn, sau cùng ép hắn vào đường cùng phải bỏ mạng ven đường, còn Lý Hàn đây thì được tận hưởng vinh hoa phú quý, ai mà biết Tôn Vũ lại chơi một chiêu xưa nay chưa từng xuất hiện, đó là đem cả vạn đại quân vòng đường biển đến sau lưng quân Ngô, làm cho cục diện thay đổi, giờ lại đến kết cục thất bại này. Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Khi đó nếu cứ ở lại Lỗ quốc , tuy không được người đẹp để ý, tuy không được thăng quan tiến chức, chí ít cũng là gia tướng đứng đầu gia tộc Thúc Tôn thị, chỉ cần chờ đợi cơ hội, chưa chắc không có ngày ngẩng cao đầu, còn bây giờ phải làm sao đây?

Tay Lý hàn từ từ di chuyển đến phía chuôi kiếm: "Ta lén lút rời khỏi Lỗ, Thúc Tôn thị không biết lý do ta rời khỏi, nếu ta giết tên Chuyên Nghị này... Không được, trong Cô Tô thành có không ít người biết thân phận và lai lịch của ta, sau này khó mà đảm bảo chúng không tiết lộ âm mưu của ta... Ây!"

Chuyên Nghị không thấy Lý Hàn trả lời quay đầu lại nhìn hắn, vừa đúng lúc thấy tay Lý hàn đang đặt vào chuôi kiếm, ánh mắt hung tợn. Bị hắn nhìn vào, Lý Hàn lập tức tránh tầm nhìn của hắn, cố giấu diếm ý định giết người. Chuyên Nghị lại hiểu lầm ý định của Lý hàn, hắn tiến tới vỗ tay vào vai Lý Hàn, mở lời khen: "Ta biết mà, ngươi cũng sẽ có ý định giống ta".

"Ơ...". Chuyên Nghị vừa nãyy tiến tới, Lý Hàn thấy nôn nao trong lòng, nhưng hắn vẫn chưa đoán ra có phải Chuyên Nghị nhìn ra ý định bỉ ổi của hắn không, hơi chút do dự nên cứng đờ ra, hơn nữa kiếm thuật của Chuyên Nghị cao siêu hơn hắn, cộng cả hai lý do lại nên Chuyên Nghị đưa tay ra vỗ vai, hắn không kịp né tránh. Nghe Chuyên Nghị nói ra câu đó, Lý hàn thế mới biết hắn không nhìn ra ý định của mình, chỉ là không biết tên Chuyên Nghị này đang toan tính gì, vẫn đứng nghệch mặt ra chờ đợi.

Chuyên Nghị phấn khích nói: "Vừa rồi ta cũng nghĩ như vậy, hai người chúng ta về thành, chẳng qua góp thêm sức của hai người, không giúp ích nhiều cho thái tử điện hạ. Ta thấy sứ giả các nơi mang lễ vật đến chúc mừng Khánh Kỵ không ngớt, ngay cả người Đông Di cũng mang lễ vật đến, được Khánh Kỵ nghênh đón vào doanh trại. Ta vừa nghĩ ra một cách.."

Hắn xoay đầu lại, chỉ tay về phía quân doanh Khánh Kỵ nói: "Ngươi xem, bao nhiêu túp lều, mấy vạn tướng sĩ dũng mãnh, chỉ chiến đấu vì một mình Khánh Kỵ, chỉ cần Khánh Kỵ mà chết, dựa vào uy danh của hai tên Yểm Dự, Chúc Dung, tuyệt đối không thể bảo đại quân này phục tùng bán mạng cho chúng được. Đại quân Khánh Kỵ tan rã, cục diện Ngô quốc lập tức thay đổi, chúng ta chỉ cần giết chết Khánh Kỵ, hơn cả việc mượn được mười vạn hùng binh mang về".

"huynh... chuẩn bị... mạo nhận làm sứ giả vào hành thích Khánh Kỵ?"

"Sao? Ngươi muốn tấn công thẳng vào quân doanh à?" Chuyên Nghị tự cảm thấy hắn nghĩ ra một diệu kế, trong một lúc quá phấn khích. Hắn quay qua Lý Hàn giải thích: "Làm vậy không hay đâu, chúng ta còn chưa gặp được Khánh Kỵ, đã bị phanh thây ra rồi, chỉ có mạo nhận thân phận sứ giả các nước, mởi có thể mang theo binh khí tiếp cận hắn được".

Lý Hàn khẽ co giật, hắn cũng biết đây là cách duy nhất có thể làm vào lúc này, hơn nữa cơ hội thành công khá cao, nhưng dù cho có xông thẳng vào quân doanh hay mạo nhận làm sứ giả, kết cục của thích khách cuối cùng cũng chỉ có một, đó là bị băm thành thịt vụn. Mà hắn thì... không muốn hy sinh vì bất cứ ai, không muốn chết chung với Khánh Kỵ, hắn chỉ muốn vinh hoa phú quý thôi.

"Ta... ta biết chứ, ta chỉ nghĩ đến xông thẳng vào quân doanh là vì, là vì... Khánh Kỵ nhận ra ta, nếu đóng giả làm sứ giả, chỉ cần gặp mặt, hắn hét to ra lệnh, chúng ta chưa kjp tiếp cận đã lập tức chết dưới đao kiếm của bọn thị vệ của hắn rồi". Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Chuyên Nghị ngớ ra: "Không sai, ta quên mất chuyện này". Hắn suy ngẫm một lát, nói: "Hừ, ta cứ tưởng có nguơi giúp sức, cản đám thị vệ giùm ta, ta có thể rảnh tay giết tên Khánh Kỵ. Xem tình hình này, chỉ còn cách ta đi gặp hắn một mình vậy".

Hắn vỗ vỗ vai Lý Hàn, ra vẻ cảm động: "Ngươi tìm cách chuồn về trong thành đi. Dù cho thành công hay thất bại ta cũng đã cố hết sức tận trung, nói với thái tử giùm ta, cứ nói... phụ tử Ngô vương đãi ngộ tận tình, cha con Chuyên Chư lấy tính mạng đền đáp, không dám phụ Ngô vương và điện hạ".

Lý Hàn nghe xong không khỏi cảm động, hai người đi với nhau mấy ngày, hắn luôn không xem trọng tên thượng khanh dựa vào tính mạng phụ thân đánh đổi này, nhưng vào lúc này, cho dù là người ích kỷ hèn mạt như Lý Hàn, trong lòng cũng cảm thấy day dứt không yên.

Lý Hàn buột miệng nói: "Tư mã đại nhân, Khánh Kỵ từng bị hành thích một lần, sao lại không phòng bị cẩn thận chứ? Kế hoạch hành thích chưa chắc linh nghiệm, đại nhân đâu cần thiết hy sinh vô ích, hay là cùng ta quay về Cô Tô thành thôi".

Chuyên Nghị bừng bừng đôi mắt, lòng hắn đã quyết: "Không. Đây là một cơ hội xoay chuyển tình thế, nếu đã có cơ hội thì ta phải đi thực hiện. Người quân tử có chuyên nên làm có chuyện không nên làm, ta đã quyết định rồi, dù phía trước có thiên quân vạn mã, Chuyên Nghị cũng không cau mày sợ hãi. Thế tử Khánh Kỵ và ngô vương Cơ Liêu, hai người bị cha con Chuyên Chư và Chuyên Nghị hành thích, ha ha, có thất bại đi chăng nữa thì hành động này cũng lưu truyền mãi vào ngàn năm sau rồi!"

Lý Hàn tự lẩm bẩm: Người muốn tự tìm cái chết, có khuyên cũng vô ích".

Trong quân doanh, Kinh Lâm sai người đem đến rất nhiều thứ, đều là vật dụng trong đại lễ đăng cơ ngày mai, có quốc hiệu, niên hiệu, hoàng kì, văn tế quỷ thần, văn tế rồng thần, văn tế tổ tiên, hoàng bảo, mũ quán , vân vân...

Khánh Kỵ xem xét kiểm tra kĩ lưỡng từng món. Đột nhiên hắn nhìn vào lá cờ hoàng kì, trên nền màu xanh có thêu một con ngũ trảo kim long, Khánh Kỵ cầm hoàng kì lên xem xét tỉ mỉ một hồi, ngẩng đầu lên hỏi: "Nếu trong vòng một đêm, thêu thêm ít hoa văn trên hoàng kì có hoàn thành được khôgn?"

Kinh Lâm ngạc nhiên nói: "Điện hạ, những thứ này đã được quyết định từ trước, điện hạ còn muốn thêm gì nữa?"

Khánh Kỵ trải lá cờ ra trên bàn, chỉ lên đó nói: "Ngươi xem, phía trên xanh lợt, phía dưới đậm, ở giữa là một con ngũ trảo cự long, rìa tấm hoàng kì chỉ thêu một số hoa văn thôgn thường, ta muốn... dẹp các hoa văn này đi, thêu một con phượng hoàng ngay bốn góc, đầu phượng thêu góc trên bên trái, thân phượng thêu dọc theo lá cờ, đến góc bên kia hướng lên, đuôi phượng ở góc trên bên phải, mặt trên lá cờ thêu thêm chút hoa văn mây bay, rồng bay phượng múa, long phượng cát tường, ngươi thấy thế nào?"

Kinh Lâm ngớ người: "Điện hạ, Phụng... là... là thần thú người Sở tôn thờ, người Ngô chúng ta tôn thờ rồng thần mà".

Khánh Kỵ mỉm cười: "Không chỉ người Sở, từ biên thùy phía Tây trải dài ra biển đông, còn có người Tần, Di Hồ, Hoài Di, họ cũng lấy phụng làm biểu tượng..."

Kinh Lâm hình như hiểu ra đôi chút, nín thở chờ được giải thích thêm.

Khánh Kỵ hí hửng giải thích: "Người phương Bắc thờ rồng, người phương Nam thờ phụng, Ngô quốc ta vốn là dòng dõi Chu thất, nên cũng lấy rồng làm biểu tượng. Nhưng Ngô quốc lập quốc đã lâu, từ đó tách biệt với trung nguyên, sớm bị các chư hầu trung nguyên xem là nam man dị tộc. Sau mươi năm trước, thái tổ phụ ta bỏ danh hiệu công tước tự xưng vương tước, xem như đã đối địch với Chu thiên tử. Hô hô, nếu đã là vậy chúng ta sao phải bị người phương Bắc xem là dị tộc, bị người phương Nam cũng xem là dị tộc chứ?"

Ánh mắt Khánh Kỵ từ từ lóe sáng: "Tần, Sở, Ngô, Đông Di, từ Tây sang Đông, nếu liên kết lai với nhau thì..."

Kinh Lâm ngộ ra đạo lí kêu lên: "Chúa công muốn gia nhập vào trận địa phương Nam, cùng kháng cự với các chư hầu phương Bắc, hơn nữa... muốn từng bước phát huy ảnh hưởng trogn dân chúng phương Nam. Người Tần, người Sở đều là hậu duệ của Đông Di, làm vậy một khi người Ngô dung nạp Đông Di, áp lực đe dọa sau lưng giảm đến mức tối thiểu, muốn đối phó với Tề quốc hùng mạnh lại còn nhận được sự giúp đỡ từ họ , dung hòa Tần, Sở, Ngô, Việt, Đông Di lại với nhau, chiếm cứ lưu vực Trường Giang, xâm chiếm sang lưu vực Hoàng Hà, bao vây các chư hầu trung nguyên..."

Tấm bản đồ hùng vĩ đó được trải ra trong suy nghĩ, Kinh Lâm thấy sôi sục máu nóng, việc lớn thế này không thể ngày một ngày hai làm đuọwc, có lẽ cần trải qua mấy thế hệ ra sức mới xong, nhưng chúa công của hắn có hùng tâm tráng chí như vậy, kẻ làm thuộc hạ như hắn cảm thấy khâm phục vô cùng.

Kinh Lâm chà xát nắm đấm vào nhau, đang định hỏi chi tiết thêm về kế hoạch của Khánh Kỵ, bỗng một tên lính vội vã chạy vào lều, thở hổn hển bẩm báo: "Điện hạ, có sứ giả Từ quốc cầu kiến".

Khánh Kỵ khẽ nhăn mày: "Ngươi hoảng cái gì?"

Các nước nhỏ Từ , Trần xung quanh vẫn giữ thái độ trung lập trước việc Phù Sai, Khánh Kỵ lần lượt đăng cơ, chỉ vì quốc gia của họ quá nhỏ bé, khi chưa rõ tình hình nghiêng về phía nào, không dám tùy tiện tỏ ý ủng hộ một phe, điều này Khánh Kỵ đương nhiên hiểu rõ, cũng có thể thông cảm. Bây giờ Từ quốc phái sứ giả đến chức mừng, Khánh Kỵ cảm thấy có hơi bất ngờ.

Tên lính vẫn thở hổn hển: "Sứ giả Từ quốc lúc đi ngang Kiền Toại bị người của Phù Khái ngăn cản, đội nghi thức hộ tống bị đánh cho tan tác, bây giờ chỉ còn một sứ giả đến được đây, toàn thân máu me, đang hấp hối sắp chết ạ..."

"Cái gì?" Khánh Kỵ giệt nảy mình, vội ra lệnh: "Mau đưa ta đi xem".

Tuy hiện giờ Khánh Kỵ chưa nắm quyền kiểm soát cả Ngô quốc, các thế lực chống đối vẫn nhiều, những chuyện này các nước khác đều biết rõ, nhưng sứ giả bị giết, chứng tỏ quyền lực của hắn có hạn, đấy là một việc mất mặt tổn hại uy danh. Khánh Kỵ vội vàng bước ra lều, dặn dò Kinh Lâm: "Mau đi mời thầy lang tới đây, phải bằng mọi giá giữ lấy tính mạng cho sứ giả".

Kinh Lâm dạ một tiếng vội lui ra ngoài, Khánh Kỵ theo sau tên lính dẫn đường đi ra đại doanh hướng về phía Viên môn bước tới. Tên lính vừa đi vùa nói: "Sứ giả Từ quốc khắp mìnhd đầy máu, cũng không biết bị thương nặng cỡ nào, chúng tiểu nhân cũng không dám di chuyển sứ giả, để sứ giả nằm nghỉ tại Viên môn..."

Hai người vội vã bước tới Viên môn, chỉ thấy một người đang nằm sấp ở đó, xung quanh có mấy tên lính đang băng bó vết thương cho hắn, thấy Khánh Kỵ bước tới, có người gọi lên: "Điện hạ".

Khánh Kỵ xua tay, bước lên hai bước, chỉ thấy người này mới hơn hai mươi tuổi, mũi nhọn, khuôn mặt gầy gò trắng bệch, khắp mình máu me lấm lem, tay phải duỗi thẳng xuống đất, một ngón tay bị chặt mất, máu thịt be bét.

"Túc hạ chính là sứ giả Từ quốc?"

Người kia gắng gượng nhìn sang, hỏi: "Ngài là...?"

"Ngô quốc Khánh Kỵ".

Người kia khẽ kêu lên, cố gắng ngồi dậy: "Thì ra là công tử Khánh Kỵ, Tư Mã nghị cuối cùng cũng hoàn thành sứ mệnh, gặp được công tử".

Khánh Kỵ vội trấn an: "Sứ giả không cần ngồi dậy, thầy lang sẽ đến đây tức thì".

Tên Tư Mã Nghị tia tỏ ra bướng bỉnh: "Tư Mã Nghị lần này đến đây là thay mặt quốc quân Từ quốc đến gặp quân vương tương lai của Ngô quốc, lễ nghi quốc gia, sao lại.. sao lại bỏ được. Đợi sau khi Tư Mã Nghị dùng lễ nghi sứ giả tham kiến xong điện hạ, rồi băng bó chữa trị cũng chưa muộn". Tư mã Nghị nói xong, đẩy hai tên lính đang băng bó cho hắn ra, bước tới hành lễ, nhìn dáng vẻ hắn lảo đảo đứng không vững, hình như sắp tắt thở đến nơi.

Khánh Kỵ nghe vậy trong lòng nể phục, tên Tư mã Nghị bước đi xiêu vẹo đứng trước mặt Khánh kỵ, chỉnh trang y phục, sau đó cúi rạp người vái lạy: "Sứ giả Từ quốc Tư mã Nghị, bái kiến công tử Khánh Kỵ".

Khánh Kỵ vội bước lên đưa tay ra đỡ: "Quý sứ miễn lễ, mau mời đứng dậy".

Hai tay Khánh Kỵ vừa đụng vào người Tư mã Nghị, chỉ thấy hắn đột nhiên ngước mặt lên, tràn đầy sát khí: "Xoạt" một tiếng vang lên, thanh kiếm ngang lưng đã được tuốt ra khỏi vỏ, các vinh sĩ xung quanh biết chuyện không hay xảy ra, nhưng đang đứng cách xa không kịp cứu viện, chỉ kịp đồng thanh hốt hoảng hét lên: "Điện hạ cẩn thận".

Khánh Kỵ bước tới tính đỡ, Tư Mã Nghị liền lao người về phía trước, hai người chạm mặt, mũi ngang mũi, phà hơi thở vào nhau, đôi mắt trừng trừng nhìn vào đối phương, binh sĩ xung quanh kinh hãi quan sát hai người, bàn tay đều toát cả mồ hôi lạnh.

Kinh Lâm dẫn theo thầy lang chạy tới, vừa đúng lúc Tư Mã nghị ra tay hành thích, trong lòng lạnh toát, hai mắt phủ một màu đen: "Thôi rồi, nếu như điện hạ bị hành thích tử vong, đại nghiệp thế là tiêu tan!" Trái tim Kinh Lâm đập nhanh thình thịch muốn rớt cả ra ngoài, một tướng quân dũng mãnh trên sa trường nay đứng chết trân ra đó. Khánh Kỵ và Tư mã Nghị gườm nhau hồi lâu, không hề động đậy, xung quanh như có đại địch đang lan tỏa ra, các binh sĩ ở xa cũng cảm nhận được bầu không khí khác lạ, tất cả mọi người đều bất động theo, duy chỉ còn tiếng gió nhè nhẹ thổi lá cờ bay phất phơ trong gió.

Khánh Kỵ nheo mắt lại, khóe miệng nở nụ cười đắc ý, đẩy tay mạnh về phía trước một cái, Tư Mã Nghị lảo đảo bước lui lại, tay hắn đang ấn vào bụng mình, thanh kiếm sắc bén dài hơn một thước đã đâm thọt hoàn toàn vào bụng hắn.

"ngươi... ngươi sao có thể phát hiện ra ta là thích khách?"

"Là ai đã phái ngươi đến?"

"Không ai phái ta đến cả!" Chuyên Nghị muốn đứng thẳng người, nhưng trong bụng bị cắm một thanh kiếm, hắn làm sao đứng thẳng lên được, "Ta là... Chuyên Nghị, con trai của Chuyên chư, là ta... tự ý quyết định đến giết ngươi".

"Con trai của Chuyên Chư?" Khánh Kỵ im lặng hồi lâu, các binh sĩ xung quanh thấy lạnh cả sống lưng, nhưng KHánh Kỵ lại tỏ ra bình tĩnh khác lạ, không phải cứ nghe thấy tên này là con trai của kẻ thù giết cha, liền điên tiết lao lên phanh thây xẻ thịt hắn.

Chuyên Nghị đứng không còn vững nữa, hắn lảo đảo quỷ một chân chống tay xuống đất, vẫn không cam tâm luôn miệng hỏi: "Ngươi... sao ngươi phát hiện... ta là thích khách?"

Khánh Kỵ lạnh lùng đáp: "Vì ngươi dù cho có giữ chức thượng khanh đại tư mã, nhưng vẫn chỉ là một tên thích khách. Ngươi, chỉ xứng làm một tên thích khách, hơn nữa là một tên thích khách không hiểu biết, thứ ngươi duy nhất có được là kiếm thuật siêu phàm, nhưng chỉ cần ta đề phòng trước thì ngay cả cơ hội xuất kiếm ngươi cũng không có". Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Chuyên Nghị mở to mắt nhìn trừng trừng vào Khánh Kỵ.

"Y phục và giầy của ngươi mang là kiểu dáng của người Ngô, có thể giải thích là ngươi thay y phục của Ngô để che dấu hành tung, cây trâm búi tóc của ngươi cũng là vật phẩm của Ngô, cái này miễn cưỡng cho qua vậy. Nhưng ngươi không nên làm cho áo mình rách bươm ra quá đáng, để lộ ngực ra, trước ngực ngươi có xăm hình rồng rắn và cây tảo, ta chưa từng nghe nói quý tộc người Từ cũng giống như dân Ngô dân Việt có thú vui xăm mình. Còn nữa, kiếm của ngươi, kiếm sứ giả đeo trên người là loại kiếm dài ba thước chỉ dùng trang trí thôi, còn ngươi lại mang theo cây kiếm dài một thước chuyên dùng để giết người này, cái này... đơn giản thế mà ngươi không hiểu sao?"

Chuyên Nghị đanh mặt lại không hề lên tiếng.

Khánh Kỵ nói tiếp: "Phụ thân của ngươi vì chuẩn bị cho kế hoạch hành thích đã phí mất thời gian nửa năm, tốn ba tháng đi học nướng cá ở Thái Hồ, thế mới tiếp cận được phụ vương ta, dù là tâm cơ, kiến thức, ngươi đều không bằng phụ thân ngươi".

Chuyên Nghị ngu ngơ trong giây lát, đột nhiên nhổ bặt thanh kiếm cắm trong bụng ra, máu tuôn như suối, binh sĩ xung quanh lập tức giơ binh khí bao vây hắn lại, đề phòng hắn giẫy chết làm liều.

Chuyên Nghị thở ra hơi thở cuối cùng, lẩm bẩm: "Thì ra, làm một thích khách, cũng không hề đơn giản..."

Khánh Kỵ cười lạnh lùng: "Ngày mai là ngày vui ta đăng cơ lên ngôi quân vương, cám ơn ngươi đã mang tặng lễ vật quý này!"

Khánh Kỵ phất tay áo quay lưng bước đi, chỉ để lại một câu lệnh: "Lấy thủ cấp hắn, cúng tế tiên vương!"

Chương 215: Đại lễ đăng cơ (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Khánh Kỵ xưng vương, nhưng trình tự bốn bước Trai, Mộc, Đàn, Tế (ăn chay, gội đầu, lập đàn tế lễ) cũng không rườm rà như bình thường. Hôm nay Ngô quốc chưa ổn định, Khánh Kỵ đăng cơ xưng vương ở ngoại thành quá trình thực hiện nghi lễ đã rút gọn đáng kể, cho dù như vậy, cũng diễn ra hết sức phứt tạp.

Đăng đàn thụ phong, phải có di chiếu của Tiên vương, bước này được bỏ qua. Chư hầu đăng cơ phải có sắc phong của chu Thiên Tử, nhưng Ngô quốc từ thời thái tổ của Khánh Kỵ là Thọ Mộng đã vượt qua bổn phận này mà xưng Vương, quyền thế ngang bằng với Chu Thiên Tử, Chu Thiên Tử không thể phái sứ tiết tới Ngô quốc sắc phong, trình tự này cũng bỏ qua.

Vừa sáng sớm, Nhâm Nhược Tích, Quý Tôn Tiểu Man, Thúc Tôn Diêu Quang đã xuất hiện trước mặt Khánh Kỵ. Kỳ thực từ tối qua khi nghe tin Khánh Kỵ gặp thích khách, ba người đã kinh hồn khiếp vía chạy tới. Nhâm Nhược Tích mang đến một loại nhuyễn giáp (áp giáp mềm) mà Nhâm gia tinh chế, đây là loại giáp hai tầng, ở giữa giáp trụ bó sát mình phủ một lớp ngũ kim mềm mại, chi phí chế tạo đắt đỏ, không thể chế tạo với số lượng nhiều được, tuy nhiên sản xuất vài bộ đem tặng quý nhân sử dụng thì có thể được.

Khánh Kỵ hôm nay bị ba người ép buộc mặc bộ nhuyễn giáp này để phòng thân. Đứng trước Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man, Khánh Kỵ và Nhâm Nhược Tích không tiện nói gì, nhưng có vẻ như tình nhân gặp lại, lời nói hành động, thần thái có chút kì quái. Khánh Kỵ có vẻ khá hơn một tí, nhưng Nhâm Nhược Tích toàn thân mang bộ dạng giống như hoa lê sau mưa, khả năng che đậy không hoàn mỹ tí nào.

Thúc Tôn Diêu Quang quan sát thần sắc hai người có vẻ khác thường, trong lòng cũng hiểu rõ, nhưng hiện tại Nhâm gia quân không chỉ giúp Khánh Kỵ rất nhiều, Khánh Kỵ sau khi thống nhất toàn vẹn lãnh thổ Ngô quốc, cũng cần ổn định giang sơn cơ nghiệp, cần sự giúp đỡ rất nhiều từ những bậc thế gia quyền quý như Nhâm gia. Huống hồ gì Khánh Kỵ hôm nay đăng cơ xưng Vương, quân chủ một quốc gia phi tần làm sao lại thiếu? Nàng đã được gia tộc đính hôn với Khánh Kỵ, địa vị thân phận của bản thân đã được bảo hộ, mặc dù nói trong lòng có chút đăng đắng, nhưng ngược lại thái độ biểu hiện ra của nàng cũng rộng lượng , không biểu lộ rõ ra ngoài. Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Còn với Quý Tôn Tiểu Man, mặc dù đã từng lén lút kéo tai Khánh Kỵ hờn dỗi, chất vấn giữa hắn và Nhâm Nhược Tích có ngoại tình gì. Nhưng nàng từ đầu đã không hiểu Thúc Tôn Diêu Quang lấy ở đâu ra thân phận phu nhân của Khánh Kỵ mà ép nàng suốt ngày, đến nay đã có nhiều đối thủ cạnh tranh hơn, sự uy hiếp đối với Thúc Tôn Diêu Quang so với nàng thì nhiều hơn nhiều, kỳ thật nàng lại muốn điều đó. Lại bị Khánh Kỵ phản công một trận, ôm nàng vào lòng, liều lĩnh có những hành động mơn trớn, thượng hạ kỳ thủ (vuốt ve từ trên xuống) , lời nói sâu sắc. Nàng lập tức buông xuôi trước khí thế mạnh mẽ dấy binh thảo phạt, thở hổn hển, cuối cùng nàng cài lại trâm tóc , khuôn mặt mãn nguyện thẹn thùng vén màn chạy ra khỏi trướng.

Quý Tôn Tiểu Man quay đầu suy nghĩ cẩn thận một lát, chưa từng làm khó dễ Khánh Kỵ, nhưng lại bị hắn chiếm đoạt không ít tiện nghi của bản thân, bất giác vô cùng nản lòng. Nản lòng thì nản lòng, tiểu ni tử lại cảm giác bị hắn bắt chơi trò chơi người lớn vuốt ve ôm ấp nàng vào lòng cũng rất ngọt ngào , vì vậy có lúc nàng trừng mắt tỏ vẻ tức giận, lại có lúc xoa cằm cười bẽn lẽn, nàng cũng chẳng để ý gì đến điệu bộ quái lạ của Thúc Tôn Diêu Quang và Nhâm Nhược Tích.

Hôm nay Khánh Kỵ đăng cơ, là một ngày trọng đại không gì sánh được, ba người bọn họ mặc dù đều mang những suy tính khác nhau, nhưng trong thời khắc trọng đại này thì không ai có biểu hiện gì cả. Bọn họ tự phát sắm vai là tì nữ theo cạnh Khánh Kỵ, giúp hắn thay y phục, trang điểm. Những phục trang phức tạp của đấng quân vương, khi mặc vào thì càng ngày càng lộn xộn. Ở đây không có cung nữ có nhiệm vụ thay y phục cho đấng quân vương như trong cung, đám tì nữ tầm thường này không hiểu y phục của bậc Đế vuơng, nên ba người bọn họ đành phải đương nhiệm.

Ngô vương và Chu thiên tử ngang nhau, đại lễ xưng Vương, lễ phục đều rất phức tạp với áo giữa mỏng, áo lông lớn, y phục đen, xiêm y, vương miện. Vài bộ y phục trong ngoài, có chiếc màu vàng, màu đỏ, lại có chiếc màu xanh, đen thâm thúy, tượng trưng cho sắc thái của trời và đất. Trên áo đính hoa văn tinh tế sáu loại tinh hoa của trời đất với mặt trời mặt trăng, sao, núi , rồng, bọ. Dưới xiêm y cũng được thêu sáu sản phẩm đất trời với tảo, lửa, bột gạo, rượu cúng, áo lễ , áo tế, tổng cộng mười hai hoa văn.

Đương thời đại lễ long trọng nhất, Công khanh đại vương đều phải diện xiêm y, đeo quan mão, đó cũng là chiếc mũ có mành che mà trên các bộ phim lịch sử sau này thường thấy. Lúc đó tuyệt không có quan mão chuyên biệt dành cho Đế vương, quan mão long trọng nhất dành cho các bậc công khanh đại phu cũng là những chiếc mũ như vậy, chỉ khác nhau ở chỗ trên mũ được đính nhiều hay ít ngọc châu và châu tử thôi. Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Khánh Kỵ xưng vương , cúng trời tạ đất, là lễ tiết quan trọng nhất, do đó vương miện dùng mười hai tràng trọc lưu (chuỗi ngọc dành cho vua chúa thời xưa), mỗi tràng đính mười hai viên ngọc châu. Yểm Dư, Chúc Dung là công vương, dùng chín tràng ngọc và chín viên ngọc châu, Tôn Vũ, Lương Hồ Tử, Kinh Lâm là công khanh, chia quan vị cao thấp với sáu tràng ngọc, bốn tràng ngọc, hai tràng ngọc theo thứ tự chức vị, công khanh từ tam công trở xuống chỉ dùng dải tua. Trên y phục cũng tùy theo quan vị mà giảm dần hoa văn đính kém, Yểm Dư, Chúc Dung trên áo không đính mặt trăng mặt trời, còn lại đều giống với Khánh Kỵ, lần lượt các quan vị phía dưới y phục đều không đính hoa văn mặt trời mặt trăng, các vì sao và núi. Mặc dù đại lễ được cử hành tại doanh trại quân đội, nhưng những lễ chế tứ tiết này đều không dám làm qua loa, đại khái. Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Khánh Kỵ đăng đàn thụ phong, hai bên trưng bày quốc bảo, hôm nay bảo vật của nước Ngô đều đặt ở Cô Tô, lại không thể lấy lễ vật chúc mừng của chư hầu ra làm quốc bảo của Ngô quốc được, ban đầu chỉ cần giản dị một chút, nhưng Nữ Vương Đông Di đem tặng bộ xương khủng long cực lớn cũng đã bổ khuyết sự thiếu sót này. Bộ xương khủng long lớn hóa thạch đó do không có nhà sinh vật học nào đến chỉ đạo bọn họ ghép xương vào một cái giá khủng long như thế nào, cho nên đám lính trong doanh trại đều mặc nhiên theo đuổi trí tưởng tượng của mình. Phía trước đàn được đào một cái hố sâu dùng để thở cúng, sau đó dựa vào hình dạng Kim long ngũ trảo trên Vương kì ghép ra bộ xương rồng cực lớn, sứ giả chư quốc tới dự lễ đứng ở trên vương đàn nhìn thấy đồ vật khổng lồ như vậy, hết thẩy đều tỏ vẻ ngạc nhiên kinh sợ.

Khánh Kỵ đăng cơ, được nhận các khí vật tượng trưng cho các lĩnh vực như Ngọc tỉ, Vương kỳ, Hoàng sách, Địa đồ..., tại ngày lành tháng tốt mà khấn thiên cáo địa, hiến tam sinh cúng trời đất (tam sinh - ba loại gia súc để cúng tế bò, dê, lợn), Khánh Kỵ đưa tay đốt đuốc châm lửa vào chiếc đỉnh bằng đồng tinh, ngọn lửa bùng lên, khói bay cao tới thiên đỉnh, các bậc nho sĩ đăng đàn cầu khấn, tuân theo phép tắt thờ cúng mà khấn bái nhật, nguyệt, phong, lôi, bốn mùa, y theo phép "Vọng" tuế mà khấn cầu giang sơn đất nước tứ phương.

Nghi lễ tiếp theo là tôn bái Thần Long, thắp hương mai táng thần long cốt; tôn bái tổ tiên, phụ vương, hiến tế đầu của đương kim Ngô quốc Đại tư mã Chuyên Nghị. Mỗi hồi cúng tế, lễ từ đều khác nhau, tất cả văn tế đều do Thúc Tôn Diêu Quang viết ra , để trích dẫn kinh điển, viết ra những bài văn tế này, nàng có thể mất vài ngày không ngủ soạn thảo chúng. Nhưng nhìn thấy Khánh Kỵ đăng cơ Hoàng đế, thân mang Vương phục cáo cáo thiên hạ, trong lòng nàng ngọt ngào tựa như mật ong, do đó so với những vất vả kia, cũng không cảm thấy gì cả.

Thời khắc mà Khánh Kỵ đăng đàn lúc đó, ánh mắt Quý Tôn Tiểu man từng hồi từng hồi hướng về Khánh Kỵ, mấy ngày qua lo việc quân cơ, khiến chotreen khuôn mặt Khánh Kỵ có vẻ chính chắn hơn nhiều, ánh mắt nàng quan sát kỹ hơn một tí, nhìn Vương bào Khánh Kỵ đang mặc, lại thấy hắn thấp thoáng hiện lên vài phần khí chất Vương giả, nhìn vậy Quý Tôn Tiểu Man bất giác thần sắc mơ hồ, miên man, ánh mắt nhìn Khánh Kỵ. Vị nam tử này cuối cùng cũng có ngày hôm nay khôi phục lại giang sơn, hiện tại mặc dù Cô Tô thành chưa công hạ, quân xâm lược của Việt quốc và Phù Khái vẫn chưa dẹp bỏ được, nhưng nàng tin rằng, với con người như Khánh kỵ, thì đó không phải là việc quá khó khăn.

Nhớ lại tình cảm của hai người trong hơn một năm qua, có vẻ như giữa họ có tình mà không có ý. Số mệnh có vẻ đã sớm được định đoạt.. Nghĩa lại những lời lẽ hùng hồn mà Khánh Kỵ từng nói với nàng: Ta Khánh Kỵ nếu có thể khôi phục lại giang sơn, sẽ tôn nàng là phi. Đến nay thế sự đã thay đổi, bất luận là tâm trạng của mình, hay là vận mệnh gia tộc của bản thân , đều đẩy nàng đến bên cạnh vị công tử này, nhưng bên cạnh chàng, đã có hai vô nương đẹp như hoa, đã từng ăn nằm với Khánh Kỵ. Khánh Kỵ và nàng chưa bao giờ tâm tình với nhau, nhìn thái độ lúc gần lúc xa đó, có phải là chàng oán giận Nhâm gia ta đợi đến mọi chuyện rõ ràng minh bạch rồi mới đưa ra quyết định hay không? Nghĩ tới đây, Nhâm Nhược Tích ngán ngẩm thở dài một tiếng.

Khánh Kỵ theo tuần tự khấn bái thần linh, tổ tiên, sau khi hoàn tất, bước đến Vương tọa, tiếp nhận triều bái của quần thần, chư quốc sứ tiết chúc mừng, sau đó là màn nhảy múa theo nghi thức, trước văn sau võ, biểu thị lấy võ lực giành thiên hạ, lấy văn trị giành thái bình. Múa văn, múa võ, tượng trưng hai loại thể chế thống trị văn trị, võ công. Trong âm thanh của tiếng nhạc, lấy chìa khóa, lông gà, con cò làm hình tượng cho múa văn, tượng trưng cho văn đức.

Sau màn múa văn, đến lượt võ sĩ tay cầm thuẫn, thương, búa, giương cung tên lên đàn bắt đầu múa, tượng trưng cho võ công. Mỗi tư thế đều biểu diễn võ thuật đại diện cho một chữ, bài hát khi xướng lên một từ, nhạc cụ ngân lên một âm, thì màn biểu diễn thay đổi một động tác, mỗi hiến lễ là ba mươi hai thế múa, ba hiến lễ tổng thể chín mươi sáu thế, mỗi thế biểu diễn hiện lên, đều giống như một bức tranh điêu khắc độc đáo và tinh tế.

Màn biểu diễn này trong mắt Đông Di sứ tiết, những người đã mất nước từ lâu, đúng là đại khai nhãn giới. Vị Huyền Điểu cô nương kia say sưa thích thú đứng nhìn, Khánh Kỵ tranh thủ ngắm nhìn nàng một lúc, chỉ nhìn thấy vị cô nương này đôi khi chắp tay trước ngựa đứng nhìn sau đó lại mấp máy môi, đôi môi hồng kia lại được thể dao động, giống như đang ăn thứ gì vậy. Vì để lưu truyền lại cho hậu thế những hồi ức về Khánh Kỵ, nên hắn đối với đại lễ này tuyệt nhiên thập phần kính nể, nên cũng cố gắng đến ướt đẫm mồ hôi.

Đợi cho tất cả các lễ nghĩa đã hoàn tất, quần thần văn võ đến ngồi hai bên dưới trướng hoàng đế, yến tiệc của tân vương đăng cơ bắt đầu , tứ phương nghi trướng võ sĩ đứng cạnh nhau chỉnh tề bất động, mỗi đội hình vuông vức san sát, chiếc nồi lớn bên dưới lửa cháy hừng hực, bên trong chứa đầy thịt trâu, dê, heo. Dưới nhà bếp, những đầu bếp khuôn mặt thấm đẫm mồ hôi đang cật lực làm việc, chuẩn bị các món ăn để thiết yến.

Có Quý Tôn Tiểu Man từ nhỏ đến lớn đã sống tại Lỗ Quái Cư chỉ huy, nên lúc này tình hình dưới nhà bếp trong doanh trại đều trật tự không rối loạn, hơn nữa lại đăng cơ tại doanh trại, nên mọi chuyện rất đơn giản, thực phẩm trong doanh trại đều có giới hạn, nhưng hôm nay Quý Tôn Tiểu Man chỉ đạo, chế biến rất nhiều món ăn mới, ngoài những món chiên xào truyền thống, còn chế biến những món ăn mới rất đặc sắc, nên cũng bù đắp cho sự thiếu sót trong yến tiệc của đại lễ đăng cơ, chí ít đối với sứ giả các nước chư hầu mà nói, không ngờ sự giản dị này, lại có thể đem đến một hương vị mới mẻ như vậy.

Đến lúc thức ăn được mang lên, thì có Nhâm Nhược Tích giúp đỡ. Đối với yến tiệc trọng đại trang trọng thế này, thức ăn cũng phải được bố trí với các quy cách khác nhau. những món ăn có xương phải được đặt ở bên phải của chủ vị, những món thuần thịt được đặt bên trái, những món nướng được bố trí xa một tí, những món ngọt và nước tương đặt gần hơn, rượu các loại và các loại nước uống khác được đặt cạnh với các loại canh. Bố trí tinh tế và tỉ mỉ như vậy, nếu có thêm các loại thịt khô thì có thể tùy vị trí mà đặt ở bên phải, hoặc đặt theo hàng tuần tự ở bên trái. Thử nghĩ trong doanh trại của Khánh Kỵ đều là võ phu, cho dù đã tập luyện mười ngày , nhưng ai có thể nhớ hết những quy cách này chứ, nếu nhỡ đến lúc món ăn được mang lên, bọn họ lại bố trí lung tung, hỗn loạn, thì có thể gây trò cười cho thiên hạ, khiến cho đại lễ đăng cơ trang nghiêm như thế này bỗng chốc biến thành một mớ hỗn loạn thì khốn.

Nhân gia đại nghệp cực lớn, giàu sang không thể tả nổi, trong nhà luôn có kẻ hầu người hạ, hôm nay Nhâm thị tạo phản, đám gia nô này cũng tập trung vào trong doanh trại. Bọn họ đều biết rõ những quy cách rườm rà này, do đó có bọn họ sắp xếp món ăn, nên mọi việc hôm nay đều ngay ngắn rõ ràng, mọi việc đều đâu vào đấy, khiến cho sứ tiết các nước đều tấm tắc khen ngợi và ngạc nhiên không kém, không hiểu tại một đại lễ đăng cơ được tổ chức vội vàng ở bên ngoài thành, mà Khánh Kỵ lại kiếm đâu ra những gia nô tì nữ được huấn luyện kĩ càng thế này, nên đối với Khánh Kỵ vừa thống nhất được nước Ngô, bọn họ lạ càng tăng vài phần tin tưởng.

Khánh Kỵ tay nâng ly rượu, nói:

- Chư vị sứ tiết từ xa tới dự lễ , thịnh tình thành khẩn, Quả nhân mời chư vị một ly, thay lời cảm ơn của ta. Nguyện vọng của Ngô quốc ta, cùng với chư hầu quý quốc, hãy cùng nhau tương trợ, mãi mãi là hảo bằng hữu của nhau.

Chủ nhân cung tiến, là vì hiến lễ, chư quốc sứ tiết lần lượt nâng ly đáp lễ, Khánh Kỵ bước đến chỗ ngồi của Đông Di sứ tiết, vị cô nương Huyền Điều kia vội vàng đứng dậy, dường như muốn nâng ly cùng Khánh Kỵ, khiến cho Khánh Kỵ bất ngờ, vội vàng quay ngắt một trăm tám mươi độ.

Huyền Điểu ở phía sau Khánh Kỵ tấm tắc nói:

- Những hạt ngọc trên mũ ngài rất đẹp, độ tinh khiết rất cao. Nhưng tấm màn che mặt của ngài, không sợ bị té ngã hay sao?

Đơn Ô ở bên cạnh không chịu được cất tiếng gọi:

- Huyền Điểu...

Khánh Kỵ làm như không nghe thấy gì, vội vàng bước tám bước hướng về phía đối diện mà đi.

Khánh Kỵ mời rượu xong, quay về chỗ ngồi của mình, chư quốc binh khách mời rượu lại, Khánh Kỵ cười uống, gọi là tạc tửu (khách mời rượu chủ nhà) . Sau đó, Khánh Kỵ rót rượu vào ly, tự uống một ly, rồi hướng về chư vị binh khách mời rượu, đó là thù tửu (chúc rượu giữa chủ và khách - cho nên mới có câu chén tạc chén thù). Từ hiến lễ, lại đến thù tạc, sau đó đến chúc rượu, gộp chung lại được gọi là "Nhất hiến chi lễ". Trước nhị hiến , mọi người có thể tự do nói chuyện , tùy ý uống rượu, Khánh Kỵ nhận lời chúc rượu của hai vị Vương thúc Yểm Dư, Chúc Dung, sau đó lại đến Tôn Vũ, Kinh Lâm, Lương Hổ Tử, Xích Trung, tiếp theo đến lượt A Cừu, Tái Cừu mời rượu...

Tửu ý chưa thấm tháp vào đầu, Khánh Kỵ nâng ly, từ từ bước tới phía trước vài bước, chư quốc sứ tiết đều không dám uống nhiều rượu tại buổi tiệc có tính lễ tiết này , do vậy thần thái đều rất tỉnh táo. Khánh Kỵ chỉ một cử động, bọn họ đều nhận biết được, đều chờ đến lúc Khánh Kỵ cử hành "Nhị hiến chi lễ", bèn vội vàng đi cầm ly của riêng mình, có vị mỹ tửu trong ly đã cạn, vội vàng đi châm rượu thêm, vị Huyền Điểu cô nương kia uống nhiều đến nỗi khuôn mặt ửng hồng như hoa đào, lúc này chỉ dựa vào một nữ tử Đông Di bên cạnh mà thì thầm to nhỏ, tuyệt không chú ý đến hành vi của Khánh Kỵ.

Chương 216: Bốn vị cô nương (Thượng)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

-Tiểu Ngải, nàng từ đâu chui ra vậy, ta và Diêu Quang...đang bàn việc đại sự, nàng xuất hiện bất thình lình, khiến người khác hoảng sợ đó có biết không?

Hắn vừa nói, vừa đưa tay kéo áo Thúc Tôn Diêu Quang lên che lại cảnh xuân lúc ẩn lúc hiệu trước ngực nàng, sau đó lại như không có việc gì nhấc mông nàng ra khỏi đủi, đặt ngồi lên càng xe bên cạnh.

Thúc Tôn Diêu Quang lúc này xấu hổ không biết giấu mặt vào đâu được, Quý Tôn Tiểu Man giương giương đắc ý giống như bắt được quả tang hai kẻ đang tình tứ trên giường vậy, nhưng khuôn mặt Khánh Kỵ lại tỏ ra rất chính trực, hắn phát ngôn tỏ vẻ nghiêm khắc, hai cô nương nhìn hắn đều có vẻ ngạc nhiên ngớ ngẩn, bọn họ ngay từ đầu đã không biết rằng, da mặt Khánh Kỵ so với bức tường thành Cô Tô còn dày hơn gấp ba lớp.

-Ngồi xuống đây.

Khánh Kỵ chỉ vào chỗ ngồi phía bên phải của mình nói, tiểu Ngải vừa có vẻ do dự, Khánh Kỵ đã giống như tự hỏi tự trả lời tiếp tục nói:

-Lần này sứ giả nước Lỗ đến, sứ giả cho ta biết một số tin tức về nước Lỗ, có liên quan đến các nàng nên ta phải nói cho các nàng biết.

Quý Tôn Tiểu Man nghe vậy, lập tức ngoan ngoãn bước qua, ngồi xuống bên cạnh hắn. Khánh Kỵ đắc ý cười, nhưng sườn bên trái lập tức đau nhói, thì ra là cánh tay Thúc Tôn Diêu Quang nhéo vào.

-Tình hình nước Lỗ có vấn đề gì sao?

Một người cất tiếng hỏi, không ngờ là Thúc Tôn Diêu Quang. Mặc dù nói nàng giận dỗi gia đình mà ra đi, nhưng nói nàng không hề quan tâm tới chuyện trong nhà, e rằng điều đó trái với lương tâm của nàng. Chỉ là phụ thân xưa nay tính tình luôn gay gắt, nàng cũng chưa từng làm gì quá khích như vậy, trong long khó tránh khỏi có chút thấp thỏm không yên, bình thường nàng rất sợ nghe về tin tức gia đình, nhưng lúc này Khánh Kỵ chủ động phát ngôn, tâm thần nàng lại càng bất định hơn.

-Sứ tiết lần này, là người của lệnh tôn, Thúc Tôn đại phu, người vẫn nắm trong tay đại quyền ngoại giao của nước Lỗ, cho dù Khổng Khâu mới là đại hành nhân.

Khánh Kỵ ngừng một lát, hạ giọng nói:

-Lệnh tôn là người thông minh. Mặc dù chưa nói gì với ta cả, nhưng việc người phái tiết sứ đến, đã chỉ rõ dụng ý của người, ta đã hiểu rõ ý của người rồi, nàng có thể yên tâm, lệnh tôn không trách nàng đâu.

Thúc Tôn Diêu Quang có vẻ lo lắng nhìn Khánh Kỵ:

-Chàng... có trách cha thiếp không?

Khánh Kỵ chăm chú nhìn nàng, bỗng nhiên cười nhẹ một cái, hắn nói:

-Ta không trách, so với những bậc làm cha trên thế gian này, phụ thân nàng là một người rất tốt rồi. Huống gì, người ta muốn cưới làm vợ là nàng, chứ đâu phải lệnh tôn, tóm lại cũng không thể một mực nhớ đến nhạc phụ đại nhân được, đúng không?

Thúc Tôn Diêu Quang cười một hồi, nàng đưa tay hờn dỗi đánh yêu Khánh Kỵ một cái, nàng vung tay rất nhanh nhưng chạm vào Khánh Kỵ rất nhẹ, nàng đánh trúng lòng bàn tay Khánh Kỵ, hai bàn tay úp với nhau, ẩn chứa nhiều tình ý.

Quý Tôn Tiểu Man kéo nhẹ vật áo phía trước Khánh Kỵ, nàng cất tiếng hỏi:

-Này... chàng nói có liên quan đến ta nữa, là việc gì vậy?

Khánh Kỵ quay người lại, nói tiếp:

- Lỗ quân đăng cơ, không thế không có phu nhân. Đại hành nhân Khổng Khâu đã từ Tào quốc tuyển công chúa để làm phu nhân của Lỗ quốc.

Quý Tôn Tiểu Man nghe xong ngớ người ra, lập tức như trút được gánh nặng trong lòng , nàng nói:

- Hắn tuyển chọn được phu nhân thì tốt rồi. Nhưng điều này thì có liên quan gì đến ta chứ.

Khánh Kỵ cười lớn, lại nói tiếp:

-Tề, Lỗ hai nước chiến sự giằng co. Tề quốc binh lực cực mạnh, nhưng vì trong nội bộ Tề quốc Yến Anh tể tướng và ngũ đại thế gia xảy ra hục hặc đấu đá nhau, rất khó hình thành hợp lực cùng nhau đối ngoại. Quốc quân Tề quốc có ý bãi binh, hiện tại đang phái người bí mật thương nghị với Lỗ quốc về việc bãi binh này. Đại hành nhân Khổng Khâu có ý muốn giao hòa với hai nước láng giềng, nên đã đề xuất với Quốc quân tái cống nạp con gái của Tề quốc làm phu nhân, hai nước kết làm thông gia với nhau, từ đó tiến hành bãi binh đình chiến. Điều này cũng do Thúc Tôn đại nhân biệt phái người đến nói cho ta biết.

Tam Hoàn thế gia lo lắng trước sau gì Quốc quân cũng cùng với Tào quốc, Tề quốc cũng kết thân với nhau. Quốc quân Lỗ quốc cũng sẽ thành con rể của hai nước Tề, Tào, lại trở nên ngày càng khó khống chế, do đó cực lực phản đối. Có một ngày Cơ Tống uống rượu vào nói rằng, cuộc đời của hắn, chỉ yêu có mỗi mình tiểu Ngải. Nếu nàng chịu quay về bên cạnh hắn, hắn sẽ không tiếc gì cả, và sắc phong nàng làm chánh phu nhân. Quý Tôn đại nhân muốn cưới nàng cho Cơ Tống, do đó đã sai người đến báo tin cho nàng. Có thông tin đòn nhảm rằng, Cơ Tống cho rằng ta dụ dỗ nàng rời khỏi nước Lỗ, do đó hắn căm thù ta đến tận xương tủy.

Khánh Kỵ cười một hồi rồi hỏi:

-Nàng nghe kỹ rồi chứ. Cơ Tống có thể không trách nàng rời bỏ gia trang, mà chỉ hận Khánh Kỵ ta dụ dỗ một thiếu nữ không biết gì là nàng, nếu nàng muốn trở về, ta...

Quý Tôn Tiểu Man buộc miệng nói:

-Ta quyết không trở về.

Khánh Kỵ nhìn chăm chú:

-Vậy, nàng muốn ở lại bên ta?

Khuôn mặt Quý Tôn Tiểu Man chuyển sang màu hồng, nàng không lường trước được Khánh Kỵ sẽ hỏi trực tiếp như vậy, bên cạnh có Thúc Tôn Diêu Quang đang chăm chú nhìn, thử hỏi nàng phải quyết định ra sao? Một lúc, gật đầu cũng không phải, lắc đầu cũng không phải, Khánh Kỵ chỉ nhìn thấy thái độ lúng túng, mồ hôi ướt đẫm toàn thân của nàng, hắn cười một hồi, nhẹ nhàng nắm lấy bàn tay nhỏ mềm mại của nàng, rồi nói:

-Khánh Kỵ ta không có thói quen lấy nữ nhân ra làm vật trao đổi vì lợi ích của mình, đừng nói Tề, Lỗ chỉ là bãi binh đình chiến, ngay cả việc bọn họ lien minh giao hòa với nhau, ta cũng không đem nàng ra để trao đổi đâu, nàng muốn ở lại, thì hãy mãi mãi ở lại bên cạnh ta, vậy nhé?

Quý Tôn Tiểu Mao thần sắc khuôn mặt giống như hoa đào, nàng ho một tiếng, đợi đến một hồi lâu, mới lên tiếng trả lời:

-Chàng đừng cho rằng ta không còn nơi nào để đi mới phải ở lại bên cạnh chàng, ta chỉ là... ta chỉ là...

Khánh Kỵ không nhịn được cười một tiếng:

-Đương nhiên là không phải rồi, nàng chỉ là thích ta, thích ta nhiều hơn so với Cơ Tống một tí thôi.

Quý Tôn Tiểu Man trừng đôi mắt đen như hai quả nho nhìn hắn rất hung dữ:

-Da mặt chàng sao mà dày đến thế cơ chứ?

Khánh Kỵ đưa tay vuốt ve những cọng râu nhỏ phía dưới cằm, cười đáp:

-Tiếp tục chung sống với ta, nàng sẽ phát hiện ra ngày càng nhiều ưu điểm của ta.

Quý Tôn Tiểu Man hung hăng trừng mắt nhìn hắn một hồi lâu, cuối cùng đỏ mặt phì cười.

Khánh Kỵ dang hai tay ra, ôm hai cô nương vào lòng, trong lòng đầy mãn ý nói:

Như vậy là tốt rồi.

Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man giương mắt nhìn nhau với vẻ thẹn thùng. Khánh Kỵ đưa mắt hướng nhìn về thành Cô Tô sừng sững ở phía xa, nói:

-Cô Tô thành có thể không đánh thì không đánh, ta không thể mang các nàng vào một tòa thành đổ nát được phải không? Đại thành này Ngũ Tử Tư xây dựng, thực tại không tìm ra sơ hở gì, đó có thể là nhiều năm tích lũy, huy động vô số nguồn nhân lực mà xây thành.

-Lại huống hồ gì, Ngô quốc hôm nay đầy cảnh hoang tàn, xảy ra nhiều cuộc đại chiến, nông dân lại bỏ lỡ mùa xuân canh, đến mùa thu năm nay, Ngô quốc lại chịu cảnh mất mùa, bên trong thành Cô Tô đang tập trung lương thảo của toàn quốc và nắm giữ phần lớn tài nguyên đến từ nước Sở, những điều này đều là bảo đảm vững chân cho ta sau khi phục quốc hậu chiến. Nếu cường lực công phá Cô Tô thành, chúng ta không những tổn thất cực lớn, mà còn rất có thể dồn ép Phù Sai toàn thành vì thế mà tuẫn tán, đó là có thể lợi bất cập hại. Ta đang nghĩ... đợi đến khi đả bại được Phù Khái, sẽ đến Diên Lăng yết kiến Quý Tử lão nhân gia, vì ngài là người có uy vọng cao nhất tại Ngô quốc, có thể... không đánh mà vãn chiếm được thành.

Thúc Tôn Diêu Quang nhìn hắn nói dăm ba câu lại khiến chon ha đầu bướng bỉnh Quý Tôn Tiểu Man kia răm rắp nghe theo, không biết Khánh Kỵ lén lút với Tiểu Man đã vài phần thân mật, khiến cho tiểu cô nương này lao tâm, còn nói những lời lẽ ngon ngọt nữa, khiến cho cô nương này một mực tin tưởng hắn, lúc này Thúc Tôn Diêu Quang sẵn giọng nói:

-Thật đáng tiếc, tên Phù Sai không phải nữ nhân, nếu không thì không cần gì phải đi Diên Lăng gặp Quý Tử, chỉ cần những lời nói này của chàng ,là có thể lừa được hắn chắp tay giao thành Cô Tô cho chàng thôi.

Quý Tôn Tiểu Man trừng mắt nhìn nàng, hờn dỗi nói:

-Là có ý gì, chẳng lẽ ta lại dễ lừa đến thế sao?

Thúc Tôn Diêu Quang không chịu được buồn bực trong lòng, đôi tay Khánh Kỵ lúc này đặt lên mông hai vị cô nương, khiến cho cả hai duyên dáng hô to một tiếng, Khánh Kỵ nổi máu phu quân nói:

-Đừng ầm ĩ nữa, chuyện lấy thành Cô Tô như thê nào, đó là chuyện nam nhân. Hừ... Tiểu Ngải vừa mới cảnh tỉnh ta, ta không thể chỉ cẩn thận mỗi tên chó sói Phù Khái kia, Việt thái tử Cấu Tiện (đủ ti tiện), dường như có vẻ nguy hiểm hơn.

Lưỡng vị cô nương nghe thấy hắn gọi Câu Tiễn thành Cấu Tiện, trong lòng không giấu được buồn cười, ngược lại không biết trong lòng Khánh Kỵ, đối với tên Câu Tiễn này, ngay từ đầu đã căm ghét hắn rồi. Từ xưa đến nay, hắn chỉ tán thưởng vị nam hán tử không chịu khuất phục mình như Hạng Vũ, còn đối với kể như Câu Tiễn, kẻ thà chịu nhục mà ứng phó với tình hình trước mắt. Đối với Khánh Kỵ mà nói, bất kể là tính cách của Tịch Bân tiền thế, hay là tính cách của Khánh Kỵ hôm nay, thì đối với tên tiểu nhân hèn hạ như Câu Tiễn, ai cũng đều căm ghét hắn.

Chương 216: Bốn vị cô nương (Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Với quan điểm truyền thống 'thắng làm vua, thua làm giặc', mà Câu Tiễn được nhiều tác phẩm ca tụng công đức. Trước khi chinh phạt nước Ngô, vì để thử lòng trung thành của quân lính, hắn đã tự mình đốt cháy Việt Vương cung, gây ra hỏa hoạn, mắt hướng về đám sĩ binh từng đoàn gấp rút chữa cháy cứu đồ đạc, nhiều người đã hy sinh trong đám cháy đó, hắn không những không đau buồn cho họ, mà ngược lại còn vui mừng vì quân tâm dùng được.

Con người này, còn bắt bớ vợ của những binh sĩ đã hy sinh trong chiến trận lại, nói là vì quốc gia nuôi dưỡng họ, nhưng thực ra lại đem họ đi làm cung nữ, nô tì, lại lấy việc đó mà khuyến khích đám binh sĩ lập chiến công cống hiến cho tổ quốc, khiến cho đám binh lính vì thế mà không tiếc mình bán mạng sống vì hắn.

Con người Câu Tiễn, chim hết mới cất cung tên, lúc đầu quỳ xuống trước mặt Phù Sai mà xin hắn tha mạng, ha đầu gối đều mơ hồ dính đầy máu thịt, sau đó lại ban kiếm bức tử Văn Chủng đại phu, người đã hết long hết sức giúp hắn báo được đại thù. Con người này, sau khi tiêu diệt được nước Ngô, đã ra lệnh sát hại vương hậu cùng với những người đã đồng cam cộng khổ. Vì mạng sống mà hắn đã nếm phân của Phù Sai, vì mạng sống mà nhường luôn phi tần của mình để ngủ với Phù Sai. Hắn không giết vương hậu, nhưng vĩnh viễn cũng không cho vị nữ nhân của mình đứng thẳng dậy làm người được. Nếm mật nằm gai? Hừ! hắn đã từng nếm qua phân, khó khăn gian khổ cũng đã trải qua, không quản thứ gì để đạt được mục tiêu thành công của hắn, hắn thích dùng những lời hoa mĩ 'thắng làm vua, thua làm giặc' mà phán đoán một người là anh hùng hay tiểu nhân để che giấu sự vô liêm sỉ của mình. Trong lòng Khánh Kỵ, lúc đã hiểu rõ những thủ đoạn đê hèn của hắn, đều không kềm được tỏ vẻ xem thường và căm ghét con người này.

"Việt Vương Câu Tiễn, tên ác nhân có một không hai, có thật là vô địch không? Nếu hôm nay ngươi và ta đáu với nhau, sớm muộn gì ngươi cũng chết dưới kiếm của ta thôi! Nhưng...,tên tiểu nhân này đang ẩn núp ở đâu? Hắn mang theo gần một vạn lính, tuyệt không phải là ít, nhưng bặt tăm ở đâu không lộ diện."

Thúc Tôn Diêu Quang nhìn hắn đề cập đến Việt Vương Câu Tiễn, trong long cũng có vẻ trầm tư, cuối cùng không kiềm chế được, nàng hỏi:

-Sau khi chàng về Ngô quốc, đối với động tĩnh các nơi rõ như lòng bàn tay, sao hôm nay lại không biết được tin tức gì của con rắn độc Câu Tiễn kia?

Khánh Kỵ cười khổ đáp lại:

-Câu Tiễn từ đầu đã không đi vào thành lớn, đường lớn, chỉ chọn đi ở nơi núi cao đường hẹp, ẩn nấp trong rừng, hơn nữa đám binh lính của hắn đều giống như dân du mục, quen sống ở nơi đầm lầy, rừng sâu, hoa rừng rau củ quả, chim bay thú chạy gì cũng có thể ăn được, ngay cả lương thực cũng không vào thành trấn mua, tai mắt của ta, cũng không có mặt khắp tại Ngô quốc được. Hơn nữa đám tai mắt này có được từ trong đám thương nhân, trao đổi truyền đi, vì vậy những tin tức có được không phải là ở đại đại thành lũy, mà kiếm được trong những nơi sầm uất, những đường giao thông huyết mạch, thực không dễ biết được tin tức của đám người hoang dã này.

Quý Tôn Tiểu Man nhăn đôi mày liễu nói:

-Tên Câu Tiễn này thế mà lại lấy chiêu bài vì Hạp Lư báo thù, nhất định sẽ gây bất lợi cho chàng, chàng phải cẩn thận mới được.

-Ừm... Ta biết, tên Câu Tiễn này tính tình hiểm độc, nhiều mưu ma chước quỷ, chỉ cần đạt được mục tiêu, mà không cần từ thủ đoạn nào cat, ta phải chú ý đề phòng hắn. Nhưng Câu Tiễn đối với toàn Ngô quốc cho dù không có thiện ý gì, nhưng với lực lượng hiện nay của nước Việt, ngay cả ta và Phù Sai lực lượng hai bên có tiêu hao nhiều phần, thì bọn họ cũng không dám to gan mà đánh chiếm Ngô quốc. Vì vậy, hắn hiện tại dám địch với ta, chỉ là bởi vì hiện tại lực lượng của ta mạnh hơn so với Phù Sai và phù Khái, hắn muốn cân bằng lực lượng các bên, mục đích khác, đương nhiên là thừa nước đục thả câu, từ bên trong mà có lợi cho mình.

Tiểu Man ngạc nhiên nói:

-Hắn không đủ lực lượng để thôn tính Ngô quốc, vậy hắn muốn thu được lợi ích gì? Chẳng lẽ lại là những tài nguyên từ nước Sở trong thành Cô Tô?

Khánh Kỵ cười đáp:

-Câu Tiễn, hiện tại e rằng hắn không có cái ý nghĩ điên rồ đó đâu, chỉ cần đợi đến khi ta, Phù Sai, Phù Khái tương quan lực lượng giữa các bên song phương khởi binh tiêu hao sinh lực, lúc đó Ngô quốc nguyên khí đại thương vong, điều này đối với nước Việt mà nói, thì là lợi ích cực lớn đó.

Tiểu Man nghe vậy cũng mơ mơ hồ hồ, Khánh Kỵ cười đáp:

-Được rồi, những chuyện này ta nam nhân giải quyết được rồi, còn các nàng, yên ổn ở trong doanh trại là được rồi.

Khánh Kỵ thở một hơi dài, vươn thẳng người dậy, trong lòng cảm thấy sung mãn nói:

-Lúc mới quay về Ngô quốc, ta cũng chưa nghĩ đến cục diện hôm nay, hôm nay chỉ khó khăn ở Cô Tô thành, chỉ cần đánh hạ được Kiền Toại thành của Phù Khái, lúc đó thì đại thế đã định. Việt quốc... Hừm... Nước Việt từ địa lý đã yếu kém, tiểu quốc quả dân, không đủ để gây họa. Trừ khi Khánh Kỵ ta mờ mắt, tự hủy tường thành, thì Việt quốc vĩnh viễn không đủ thực lực để uy hiếp nước Ngô được.

-Được rồi, hai nàng lui đi, Tôn tướng quân đang dẫn binh tấn công vào Kiền Toại thành, mỗi ba ngày đều báo tin về cho ta, ta tạm thời về phòng đợi tin tức mới nhất từ chiến trận đã.

Hai vị cô nương lần lượt đứng dậy, Thúc Tôn Diêu Quang liếc nhìn hắn một lát rồi nói:

-Chàng... chàng không đến doanh trại của Nhâm gia sao?

Khánh Kỵ trong lòng ngạc nhiên, không biết ý của nàng là sao, vội hỏi lại:

-Đến doanh trại Nhâm gia làm gì?

Thúc Tôn Diêu Quang chớp chớp mắt đáp lại:

-Thì đi thăm Nhâm gia quân tướng, chẳng lẽ lại đi thăm Nhâm gia đại mỹ nhân hau sao chứ?

Quý Tôn Tiểu Man cười một hồi lớn nói lại:

-Nếu là đi xem mỹ nhân, thì có thể không chỉ là một Nhâm đại mỹ nhân đâu, em gái của nàng ấy hôm nay vừa từ Nhâm gia thành phủ đến, ta nghe nói Nhâm Băng Nguyệt cũng là một tiểu mỹ nhân quốc sắc thiên hương đó.

Khánh Kỵ trong lòng trống rỗng, vội đáp:

-Chuyện này... hôm nay quân vụ đang rất bận, dường như không cần phải... Không cần phải lại đến doanh trại Nhâm gia thăm viếng đâu?

Lúc này chỉ nghe một giọng hờn dỗi vang lên:

-Khánh Ky, ngươi bước ra cho ta.

Khánh Kỵ hoảng nhiên hướng về phía phát ra âm thanh, thì chỉ nghe tiếng của Nhâm Nhược Tích nói:

-Muội muội, không được vô lễ với Đại Vương.

-Đại Vương gì...

Cùng với âm thanh phát ra, chỉ nhìn thấy một vị tiểu cô nương đang vội bước đến, nàng toàn than trắng toát, giống như một giọt sương ngưng tụ trên đóa hoa lê, thì ra là người em gái đã xa cách từ lâu Nhâm Băng Nguyệt. Mắt vừa nhìn thấy Khánh Kỵ, nàng lập tức bước dài về phía trước, cặp mày liễu dương lên. Nàng nói:

-Khánh Kỵ, Nhâm gia ta toàn tâm toàn ý giúp đỡ ngươi, cần người ta đưa người tới, cần tiền có tiền, cần binh khí, mũ giáp, tất cả ta đều cung ứng. Phụ mẫu tan gay cả tính mạng cũng đều giao cho ngươi rồi, thế mà, ngươi chỉ quan tâm đến hai con hồ ly tinh này, mà không dấy binh vào Cô Tô thành, báo thù cho phụ thân ta?

Nàng nói tới đây, hai mắt đã ngấn lệ, rồi khóc sướt mướt.

Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man hướng cặp mắt trắng dã nhìn nàng, đồng thời tay chạm vào bao kiếm bên hông, quát lớn:

-Ngươi nói ai là hai con hồ ly tinh?

Nhâm Nhược Tích từ phía sau Nhâm Băng Nguyệt vội vàng bước tới, mắt nàng hướng về phía Khánh Kỵ, thấy hắn cùng với Quý Tôn Tiểu Man và Thúc Tôn Diêu Quang ở hai bên, không kiềm được nỗi oán hận trong lòng, trừng mắt nhìn hắn một cái, rồi mới bái kiến:

-Nhâm nữ Nhược Tích bái kiến Đại Vương. Tiểu muội tuổi nhỏ không biết gì, đã mạo phạm đến Đại Vương, khẩn cầu Đại Vương tha tộị.

-Hừm...Quả nhân...

-Quả nhân gì ngươi, ngươi hôm nay nếu không giải thích rõ cho ta, thì cho dù ngươi có đại vương cỉa nước Ngô đi chăng nữa, ta quyết không nương tay cho ngươi đâu.

Thúc Tôn Diêu Quang đùng đùng giận dữ, quát:

-To gan ngươi dám nói với Đại Vương như thế sao? Nhâm Băng Nguyệt, ngươi đừng ỷ có công lao mà kiêu ngạo như vậy.

Quý Tôn Tiểu Man không giận dữ, trái lại cười nói:

-Ha ha,... rất đúng, tính khí này, rất giống ta. Ta lúc Lỗ quân Cơ Tống vừa mới đăng cơ cũng chửi mắng hắn như vậy, đúng cái khẩu khí này rồi.

Nhâm Băng Nguyệt đột nhiên nói:

-Khánh Kỵ hắn không phải tên ngốc, rõ rang là một con sói mắt trắng dã. Thật đáng thương cho Nhâm gia ta.. đáng thương cho phụ mẫu ta.

Nói đến đây, Nhâm Băng Nguyệt trong lòng đau đớn, nước mắt chảy dài trên khuôn mặt. Nàng nói ra những lời kiềm nén trong lòng, vừa nhớ cha mẹ ở bên kia thế giới, không biết đại thù khi nào mới trả được, vậy mà người mà mình mong sẽ thay mình báo thù rửa mối hận này lại đang ở đây mà tán gái, một cơn tức giận đùng đùng nổi lên. Mà sau khi nói ra những điều kiềm nén trong lòng, nàng dù sao cũng là một cô bé chưa tới mười lăm tuổi, nhất thời không biết phải làm gì, chỉ biết trong lòng có nỗi oan ức, lúc này cũng không để ý đến mọi người, nàng khóc òa lên như thể là hoa lê sau mưa vậy.

-Muội muội, muội muội.

Nhâm Nhược tích lúng túng không biết làm cách nào, trên trán đã thấm đẫm mồ hôi.

Khánh Kỵ thấy vậy, không kiềm được, thầm kêu khổ: "Hai người thôi đã khó rồi, ngay lập tức phati thu phục cả bốn vị cô nương, hình như là có chút khó khăn rồi."

Chương 217: Trí đoạt Kiền Toại (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

-Kinh Lâm, ngươi giỏi lắm. May mà ngươi chuyển đến tình hình quân cơ quan trọng từ Kiền Toại, quả nhân vì thế mới có thể thoát than, ha ha, ta nghĩ không ra một người hiền lành như ngươi cũng biết bịa đặt đấy.

Kinh Lâm lúng túng đáp:

-Đại vương, thành Kiền Toại đích xác chuyển đến tình hình quân cơ quan trọng, Phù Khái đã thua trận bỏ thành mà chạy rồi.

-Nhanh vậy sao?

Khánh Kỵ ngạc nhiên một lát. Theo tính toán thời gian, Tôn Vũ hiện tạ tấn công vào Kiền Toại đã bảy ngày. Kiền Toại là một trong những vệ thành của Cô Tô, mục đích của vệ thành là đóng binh, bảo vệ đô thành, nghe lệnh điều binh từ quốc quân, vì vậy mặc dù vệ thành là kiến trúc mang tính quân sự, nhưng nói đúng hơn, nó là một doanh trại quân lính, cũng không phải là một cửa ải hiểm yếu khó tấn công.

Trước khi Khánh Kỵ chiếm được nước Ngô, Tôn Vũ đã từng đánh qua Cô Tô thành, lúc loại trừ những vây cánh xung quanh, cũng đã từng tấn công Kiên Toại thành. Bởi vì Ngô Vương Hạp Lư lúc đó vẫn còn đang tác chiến ở Ngô quốc, các vệ thành cũng không có nhiều binh sĩ, do đó công thành cướp trại đều diễn ra rất thuận lợi. Lần này Phù Khái đóng quân ở Kiên Toại, tình hình vì thế mà đã thay đổi khác rồi.

Phù Khái tuyệt đối không phải là một tên mãng phu, hắn bày binh bố trận, điều binh khiển tướng đều rất độc đáo, đối với một người võ dũng mà nói, hắn tại Ngô quốc danh tiếng chỉ đứng sau Khánh Kỵ, kinh nghiệm chiến trận thì Khánh Kỵ còn thua hắn. Sau khi hắn chiếm Kiền Toại thành, hắn lợi dụng địa hình Kiền Toại mà tiến hành sửa chữa và bố trí mới lại trận địa.

Lần này Tôn Vũ dấy binh thảo phạt, bởi vì trong thành Cô Tô có nhiều thứ dân bị bắt vào quân dịch, mặc dù nói là chiến lực có hạn, nhưng dù sao cũng là hang vạn binh lính cầm khí giới chiến đấu, Khánh Kỵ không dám khinh thường, vid vậy tập trung nhiều binh lực tại xung quanh thành.

Lại thêm Việt quốc Câu Tiễn gióng trống khua chiêng mà đến, cuối cùng lại mất dấu vết đại quân của hắn, Khánh Kỵ đối với hắn không thể không có phòng bị được, cho nên mới sai Lương Hổ Tử dẫn quân bám theo Tôn Vũ để hỗ trợ, đóng quân ngay giữa Cô Tô thành và Kiền Toại. làm một lực lượng cơ động, bởi vì vậy, lực lượng mà Tôn Vũ mang theo chỉ đủ để đánh bại Phù Khái. Kiền Toại mặc dù không phải là cửa ải hiểm yếu, nhưng bên phòng thủ dù sao cũng luôn chiếm được một chút ưu thế, mặc dù Tôn Vũ có kinh nghiệm chiến trường, có chiến thuật, chiến lược độc đáo, nhưng đọ sức nơi chiến trường, về thực lực thì không có ưu thế về binh lực, còn nói về tài cầm binh thì cũng không dễ dàng đánh bại đối phương, huống hồ gì Phù Khái tuyệt không phải là một kể tầm thường, vì vậy Khánh Kỵ chưa tính đến việc Phù Khái bị đánh bại nhanh đến thế.

-Người báo tin đâu?

Khánh Kỵ phấn khởi hỏi.

Kinh Lâm đáp lại:

-Hắn đang ở đại trướng đợi Đại Vương.

-Được, ta đến đó hỏi xem sao.

Khánh Kỵ vội vàng tiến vào đại trướng bên trong doanh cơ. Yểm Dư, Chúc Dung hai vị tướng lĩnh nghe có được tin tức cũng đã đến, đang hai nắm rõ mười vấn đáp tình hình với người đưa tin, may mà tên đưa tin nói năng rõ ràng, giọng nói linh hoạt, còn có thể miễn cưỡng ứng phó. Khánh Kỵ vừa đến, tên đưa tin lại nói lại từ đầu.

Thì ra, Tôn Vũ cũng đã tính rằng thời gian này, Phù Khái đã xây dựng kiên cố Kiền Toại thành, nếu dựa vào thành mà kiên trì phòng thủ, cường hành công thành thì chưa chắc gì đã có hiệu quả, cách duy nhất là dụ hắn ra khỏi thành giao chiến. Nhưng mà, nếu ở ngoài thành giao chiến, Phù Khái bị đả bại, lại thối quân vào thành phòng thủ, vậy thì lại rơi vào cục diện giống như lo lắng ban đầu, do vậy trận chiến này phải nghĩ ra cách để khiến hắn phải rời bỏ Kiền Toại.

Vì vậy, Tôn Vũ khởi binh đánh Kiền Toại, đánh đến ngoài thàng lại dùng Mạ Thành Kế (kế chửi bới), lệnh cho những lão binh thiết lập trận đồ mạ quân, những bậc lão binh Ngô quốc này đều là những tên lọc lõi, không gì là bọn họ không dám nói, đến nay Khánh Kỵ, xung vương, bọn họ đã có chỗ dựa vững chắc, nên trong mắt không xem tên Phù Khái đại tướng quân kia ra gì cả. Tôn Vũ hạ lệnh, đám lão binh này tiến đến phía trước thành, lên tiếng chửi bới thóa mạ, chửi cho tên Phù Khái kai mất mặt mà thôi.

Phù Khái biết được dụng ý này, liền ra lệnh đóng cửa thành không ra nghênh chiến. Tôn Vũ cũng không gấp gáp, chia làm ba đội quân chia nhau ra tiến đến phía dưới thành mà la hét chửi bới. Đám lão binh này cưỡi gió lướt mây mà chửi, như gãi đúng chỗ ngứa, họ đem tất cả chuyện xấu xa bỉ ổi ra mà đổ lên người Phù Khái, chửi hắn cho đến khi không chịu nỗi nữa. Làm người phải trọng thanh danh, huống hồ gì Phù Khái mắt cao tại đỉnh, địa vị cao quý, lại chịu bị những tên tiểu nhân đê tiện này sỉ nhục sao? Huống hồ gì toàn quân tướng sĩ nghe được những lời thô tục đó, sao lại có thể ngoảnh mặt làm ngơ được chứ?

Hắn sai lính bắn cung, đám kiêu binh núp sau khiên lớn, càng tăng thêm những lời chửi bới khó nghe, những tiếng chửi bới ngay cả ba quân binh sĩ đều nghe thấy, Phù Khái còn nhẫn nhịn được nữa sao? Hắn mặc dù đã biết rõ kế sách của Tôn Vũ, những cũng không thể không xuất binh ứng chiến được.

Phù Khái điều binh xuất trận, đám lão binh mạ trận (chửi trận :D) lập tức tháo chạy mất dạng. Tôn Vũ nhìn thấy đối phương đã chịu xuất binh ứng chiến, lại dựa vào quy củ cách ba tầm bắn tên, bày trận tương chiến. Lúc Tôn Vũ lui binh dàn trận, đại quân của Phù Khái cũng xuất thành đuổi theo, bày thế trận ngya trước thành. Nhìn trận thế này, hai bên alf muốn dùng cách đánh chính diện thòi Xuân Thu vận dụng nhiều nhất để quyết định thắng bại, nhưng mà trong lúc hai bên bày trận lại đều có mưu đồ riêng. Do chiến địa bên ngoài Kiền Toại thành không rộng rãi, bên phải có một sông dài từ Cô Tô thành chảy đến, bên trái là một rừng dâu rậm rạp, trận địa hia bên đặt tại một khoảng đất rộng không tới bốn dặm phía bên ngoài thành, chỉ có thể bày trận hai quân trái phải. thành thế gọng kiềm.

Phù Khái giương cờ tại cánh quân bên trái, làm ra vẻ đạo quân chủ đạo ở hướng này, còn bản than thì ngược lại dẫn theo đám tinh binh theo cánh phải, tính toán nhân lúc đối phương cho rằng đạo quân cánh trái là "chủ trận" mà chủ lực tấn công, từ đó hắn mới dốc toàn lực từ cánh phải dấy binh đánh tới, cấp tốc đánh bại cánh quân phía này, khiến cho cánh quân chủ lực ở phía khác tứ cố vô thân, kinh hoàng tháo loạn, tiến tới tiêu diệt toàn bộ quân địch.

Nhưng Tôn Vũ ngược lại không có bởi vì sư kỳ, nha kỳ (cờ lệnh) của đối phương mà tập trung đánh về bên trái. Vương kỳ Ngô quốc từ Tống, Chu, Cơ thị, đều quan trọng phía bên cánh phải, thói quen này đã thấm nhuần vào cuộc sống đời thường, các phương diện của đời sống chính trị của các bậc quý tộc, mặc áo có vạt áo bên phải, ngồi ghế bên phải, thượng triều đứng bên phải.. cứ như thế đến bây giờ có một loại ảnh hưởng ngầm đối với mọi người, lúc bon họ lựa chọn cách xuất quân, thường cũng không tự giác dựa theo thói quen của bản thân và những nhận thức đời thường mà quyết định. Do vậy, là một vị Vương gia nên lúc Phù Khái bày trận như vậy, đã không ý thức mà lựa chọn cánh quân chủ lực phía bên phải mà tấn công.

Hiểu được điều này, Tôn Vũ lại cẩn thận quan sát lại đội hình và khí thế ở hai bên cánh quân tả hữu của Phù Khái, lại phán đoán cánh quân chủ lực của đối phương thực tế đang nấp ở bên cánh phải của trận đồ. Tôn Vũ đoán ra được cánh quân chủ lực của đối phương, không đem cánh quân chủ lực của mình hướng đến đối đầu với đối phương, mà ngược lại, hắn lập tức tương kê tựu kế, điều chỉnh quân trận, làm ra vẻ cánh quân chủ lực của mình đang tấn công bên cánh trái "trung quân chủ lực" của đối phương, điều động hết đội quân tinh nhuệ sang đứng đối diện với cánh trái đối phương.

Đại chiến xảy ra, đội quân cánh phải của Phù Khái xuất hiện gây nhiễu, đây thong thường đều là nhiệm vụ quân yếu mới phụ trách, chịu trách nhiệm tạo ra cơ hội cho trung quân chủ lực, Tôn Vũ cũng làm ra vẻ "Quả nhiên trúng kế", vừa đánh thối lui đối phương theo kiểu thăm dò, sau đó lập tức tập trung quân tinh nhuệ chủ lực hướng về phía đội quân mang cờ soái phía cánh trái.

Phù Khái nhìn thấy Tôn Vũ "trúng kế" rồi, không giấu được vẻ vui mừng, lập tức ra lệnh huy động toàn bộ quâ ntinh nhuệ xuất binh đánh theo cánh sườn của Tôn Vũ, định tốc chiến tốc thắng, sau đó lại tập kích đánh úp phía sau lưng Tôn Vũ. Không ngờ rằng Tôn Vũ cũng đánh theo ý như vậy, đạo quân tinh nhuệ chủ lực của Tôn Vũ tấn công mãnh liệt không kém gì Phù Khái, Phù Khái xông lên khiến cho cánh quân của Tôn Vũ đại loạn, Tôn Vũ cũng không mảy may quan tâm, chỉ quan tâm chỉ đạo quân lính tấn công mãnh liệt vào "Trung quân" của đối phương.

Tôn Vũ hoàn toàn dựa vào suy nghĩ chiến lược của Phù Khái mà tiến đánh, bên chủ động cũng vậy mà bên bị động cũng thế. Đến tình huống tiếp theo thì tuyệt nhiên không giống nhau, Tôn Vũ đã có tính toán từ trước, cánh quân của mình sẽ bị đánh cho tơi bời tan tác, nhưng lúc đó hắn không hề kinh hoàng, lại không quay lại viện trợ, ngược lại càng gia tăng tốc độ công phá, quyết tâm chọc thủng thế trận của phương, lập tức xông thẳng vào doanh trại, buộc đám phòng thủ trong thành Kiền Toại phải nâng cầu treo lên, sau đó quyết một trận sống mái với chúng, chặn đứng đường thoát thân của Phù Khái.

Phù Khái dẫn quân mãnh liệt công phá cánh sườn của Tôn Vũ, cánh quân bên sườn Tôn Vũ do Anh Đào chỉ huy, hắn chỉ huy đám quân non yếu này cố gắng chống đỡ một trận, vừa thấy Tôn Vũ đã công phá được "Cánh quân chủ lực" của Phù Khái ở cánh trái, liền lập tức quay đầu tháo chạy. Phù Khái dẫn quân đuổi theo truy sát, nhìn thấy đám binh sĩ này tuyệt đối không quay đầu kháng cự, giống như kiểu toàn quân chủ lực của bọn họ đã bị diệt vậy, bỏ chạy rất nhanh, khiến ai đuổi theo cũng không kịp, hắn cảm thấy tình hình này có gì đó kì lạ. Nhìn thấy đạo quân của mình đã đánh bại bên cánh sườn của Tôn Vũ, mà Tôn Vũ không những không chỉ huy quân lính trở lại viện trợ giống như hắn đã dự liệu, mà ngược lại, dường như Tôn Vũ đang dốc toàn lực công phá đạo quân bên cánh trái của hắn. Thấy vậy hắn vội vàng ra lệnh cấp tốc thu binh, chỉnh đốn đội ngũ, quay lại tấn công.

Đợi cho đám lính của hắn quay lại, Tôn Vũ đã xuyên thủng đại quân bên cánh trái của hắn rồi, tiến đến bên dưới thành Kiền Toại bố trí trận địa, quyết một phen sống mái với chúng, lúc này Anh Đào cũng đã chỉnh đốn binh mã, quay ngược lại phản công. Hai bên giao chiến trận này, đến lúc này mới biến thành cuộc đọ sức về thực lực của hai bên, vứt bỏ hết những mưu ma chước quỷ, bây giờ mới diễn ra cuộc quyết chiến song phương.

Trận chiến này cực kỳ oanh liệt, hai bên giao chiến nửa ngày trời, binh lính tử trận, bị thương thập phần nghiêm trọng, lực lượng phòng thủ phía trong thành Kiền Toại có hạn, chỉ có thể đứng trên thành bắn tên thực hiện chiến thuật quấy nhiễu đối với đạo quân Tôn Vũ, nên đối với cuộc quyết chiến bên ngoài thành này, bon chúng không có ảnh hưởng gì đến cả. Đợi đến khi mặt trời lặn về hướng Tây, hai bên đã sức cùng lực tận, đành phải thu binh, đóng quân ngay tại chỗ.

Lúc này đạo quân chủ lực của Tôn Vũ đóng phía trước cửa thành Kiền Toại, phía trước là đại quân của Phù Khái, đại quân Phù Khái hai mặt đều có địch, bên ngoài là đạo quân của Anh Đào. Nếu nửa đêm hắn nhân cơ hội xuất quân, tập trung lực công phá doanh trại của Anh Đào, thì có thể xuyên thủng được, nhưng Tôn Vũ biết Phù Khái không dễ dàng từ bỏ Kiền Toại được, nếu hắn muốn nửa đêm đột kích, mục tiêu sẽ không phải là đạo quân Anh Đào bên ngoài, mà là đánh vào đây. Nhân lúc hai bên ngừng chiến, Tôn Vũ vội đào hầm đắp đất, thiết lập một thế trận phòng thủ kỹ càng, đồng thời hạ lệnh cho đám thủy quân xuôi theo dòng nước mà xuống, vượt qua doanh trại của Phù Khái thông báo cho Anh Đào, sai hắn lập tức cho người thông báo cho Lương Hổ Tử ở phía sau lập tức điều động nhân mã trong đêm nay tới cứu viện, muốn nhân cơ hội kềm chân Phù Khái mà tập trung ưu thế binh lực, khởi binh tiêu diệt Phù Khái tại đây.

Không ngờ, tính toán này của Tôn Vũ lại sai lầm, ngay trong đêm Phù Khái tập hợp toàn bộ binh mã, ra lệnh đại quân đánh thẳng vào doanh trại của Anh Đào, mở con đường máu, nhắm thẳng hướng Nam Vũ thành mà đi.

Tôn Vũ không ngờ Phù Khái lại có dũng khí chặt đứt cánh tay của mình là thành Kiền Toại, ngay trong đêm tháo chạy khỏi chiến trường, doanh trại của Anh Đào bị xuyên thủng trong đêm, ngay đêm cũng tập hợp binh lính truy đuổi nhưng cũng không kịp, Tôn Vũ đành phải quay lại chiếm lấy thành Kiền Toại, đợi đến trời sáng mới tập hợp binh lính truy đuổi, đồng thời thông báo ngay trong đêm cho đạo quân của Lương Hổ Tử đang trên đường tới cũng theo hướng Nam Vũ thành mà đuổi theo.

Tên đưa tin nói tới đây, trong trướng ầm ĩ cả lên, người người nhảy nhót ăn mừng, lần lượt chúc mừng Khánh Kỵ, người đưa tin đợi cho mọi người dần ổn định lại rồi mới nói tiếp:

Lương Hổ Tử tướng quân lúc hành quân đuổi theo, đã bắt được vài tên trinh thám, sau một hồi thẩm vấn, thì không ngờ lại là người của Việt thái tử Câu Tiễn phái đến, hơn nữa đám trinh sát này tuyệt không phải là nhóm duy nhất, Lương Hổ Tử tướng quân đã lệnh cho người thông báo việc này cho Tôn Vũ tướng quân rồi, đồng thời ra lệnh cho tiểu nhân quay về căn dặn đại vương, mong đại vương cẩn thận.

Khánh Kỵ nghe xong tính toán trầm tư một lát, rồi nhẹ gật đầu:

-Theo lý giải của ta, hắn sẽ không chịu thua nhanh như vậy đâu, quả nhân đoán rằng hắn vứt bỏ Kiền Toại thành, toàn quân nhắm hướng Nam Vũ thành mà đi, xem ra là do trinh sát nước Việt đã nắm rõ tin tức về đại quân của Lương Hổ Tử, hơn nữa còn thông báo chuyện này cho Phù Khái, Phù Khái mới nhanh chóng thay đổi chủ ý. Như vậy xem ra, Phù Khái và Câu Tiễn đã có liên kết với nhau, binh mã của Câu Tiễn nói không chừng còn đang quanh quẩn đâu đó ở hai bên doanh trại, Tôn Vũ đã biết được thông tin này thì tốt, nếu không thì phải cấp báo, khó tránh khỏi thiệt thòi lớn.

Chúc Dung không chú ý nói:

-Việt quốc là thủ hạ bại tướng của nước Ngô ta, mấy trăm năm qua luôn bị nước Ngô ta áp chế dịch không nổi thân, đến nay Việt quốc phái xuất một đội quân chưa đến vạn người, có thể đem đến tác dụng gì chứ, chúng ta cần gì phải cẩn trọng như vậy?

Yếm Dư phản bác lại:

-Nước Việt mặc dù yếu thế hơn Ngô quốc ta, vài trăm năm qua đều bị nước ta áp chế. Nhưng mấy trăm năm qua Ngô quốc quyết không chịu phục thật sự, vừa bị đả bại thì lập tức chắp tay xin hang, đợi có cơ hội thì lập tức phái binh chiếm đánh, nó giống như một con rắn độc đánh mà không chết, nước Ngô ta cũng không ít lần chịu thiệt thòi từ bọn chúng, đến nay mặc dù đại vương đăng cơ, nhưng ngược lại chưa thể khống chế hoàn toàn Ngô quốc. Một trận thắng bại đều có thể thay đổi hoàn toàn chiến cục, đám binh mã này của Câu Tiễn, chúng ta sao lại không coi trọng được chứ?

Đến hôm nay, súng bắn đá đã quá mòn rồi, không còn cách nào sữa chữa được nữa, đã hư đến hai mươi cái rồi, súng bắn đá mới đang ngày đêm không ngừng đưa tới. Súng bắn đá ở ngoài thành Cô Tô đã đạt đến hơn một trăm năm mươi chiếc, bình thường thì những chiếc máy bắn đá này đều bắn bi đất thuốc súng, đồng thời Khánh Kỵ cũng sai người đi xa hơn lựa chọn những viên đá lớn hơn, vận chuyển theo đường song, tích lũy số đá này lại, chuẩn bị cho tình huống khẩn cấp. Nếu đại quân Phù Khái bị diệt, mà Phù Sai lại mang ý tưởng 'Ngọc đá đều nát' mà thủ ở trong Cô Tô thành, thì không còn cách nào khác hơn, chỉ có cách dung đá lớn đập phá tường thành, gia tăng sức công phá thành.

Chỉ là hiện tại bức tường thành của Cô Tô thành vừa rộng vừa dày, đào bờ tường thành cũng không dễ đổ được, những chiếc máy bắn đá này không biết có thể bắn đổ được bức tường thành này như dự liệu hay không? Phù Sai bị những chiếc máy bắn đá của Khánh Kỵ áp chế cả ngày, chỉ có thể ẩn nấp phía trong thành, nên cũng làm y như vậy, trong thành cũng chặt cây để làm máy bắn đá, máy bắn đá mà hắn chế tạo lại chỉ như loại dụng cụ nguyên thủy, muốn bắn được đá thì phải huy động hơn một trăm người kéo dây mới có thể bắn được, cho dù ngươi căn bản đã không biết vung đao múa kiếm, thì cũng phải biết kéo dây thừng chứ. Chỉ có điều là những chiếc máy bắn đá của Khánh Kỵ đang ở xa, đám thợ thủ công của Phù Sai phía trong thành vội vàng chế tạo những chiếc máy bắn đá này, cho dù là số lượng hay chất lượng đều không thể so sánh với Khánh Kỵ, đa phần vừa mới chuyển tới đầu thành đều bị những chiếc máy bắn đá ngoài thành bắn cho tơi tả, nát nhừ.

Vì vậy mỗi ngày nghe đến, đa phần đều là âm thanh ra lệnh tấn công của máy bắn đá ở ngoài thành hướng vào nội thành, đám binh sĩ trong thành kiên cường phòng thủ, còn bên ngoài thành thì không gấp gáp, ngày ngày bắn đá, hai bên đều kiên trì như nhau.

Chúng nhân trầm tư một hồi, Khánh Kỵ chuyển sắc cười lớn nói:

-Bọn họ nói đều có đạo lý cả, chúng ta không mắc gì phải tỏ vẻ như lâm đại địch đối với đám quân sĩ nước Việt, lại cũng không thể xem thường sự liên kếy giữa Phù Khái và Câu Tiễn. Cử người gấp rút liên hệ với Tôn Vũ và Lương Hổ Tử, gia tăng cảnh giới trận địa phía dưới Cô Tô thành, đồng thời cử nhiều thám mã đi trinh sát, cho dù Câu Tiễn là một con rắn độc ẩn nấp trong đám cỏ, cũng phải bị quả nhân bắt ra thôi.

-Tuân lệnh.

Kinh Lâm chắp tay tuân thủ.

-Được rồi, chư vị tạm thời lui đi.

Khánh Kỵ hạ lệnh, đám chúng nhân lần lượt thối lui. Khánh Kỵ vẫn ngồi tại sau án, cẩn trọng suy nghĩ một hồi lâu, Đối với Câu Tiễn con người này, điều làm Khánh Kỵ lo lắng là con người Câu Tiễn vì đạt được mục đích của mình mà có thể không từ bất cứ thủ đoạn gì. Bởi vì hiểu rõ lịch sử, chính Câu Tiễn con người này đã tiêu diệt Ngô quốc vốn lớn hơn Việt quốc rất nhiều, vì vậy đối với hắn, Khánh Kỵ có phần chú trọng.

Hơn nữa về một phương diện khác, đến từ hiểu biết của Khánh Kỵ đối với Việt quốc, Khánh Kỵ cũng sớm biết rằng dựa vào lực lượng hiện nay của Viêt quốc, thì vĩnh viễn không thể chinh phục nước Ngô. Trong sự phát triển của lịch sử Xuân Thu trong thời gian tới, hắn hiểu rõ nhất về sự tích Câu Tiễn nếm mật nằm gai, cuối cùng đánh bại được nước Ngô. Nhưng giai đoạn đó lịch sử đã bị cải biến, Câu Tiễn đã mất hia mươi năm khôi phục nguyên khí, nhưng vẫn như cũ không có lực lượng tiêu diệt Ngô quốc, sự diệt vong của Ngô quốc, không phải vì nước Việt, mà diệt vong bởi chính tay của người nước Ngô. Đương thời Ngô vương Phù Sai đối nội ăn chơi xa xỉ, xây dựng rầm rộ những cung điện hào hoa, còn đối ngoại nhiều lần phát binh, làm cạn kiệt dần quốc lực nước Ngô, do đó với tình hình như thế, Việt quốc nghiễm nhiên nhân lúc Phù Sai dẫn binh chinh chiến ở ngoài, mà lợi dụng trong nước rỗng tuếch, dẫn binh bất ngờ đánh úp lúc mày mới thuận lợi, lúc đó mới thấy được sự chênh lệch cực lớn giữa hia nước.

Nhưng mà đến nay, Ngô vương bây giờ cuối cùng vẫn chưa là Ngô vương chân chính được, phía trong CÔ Tô thành vẫn còn một Ngô vương khác, Khánh Kỵ hiện tại không thể công bố mệnh lệnh đối với thần dân Ngô quốc, không thể trưng thu thuế khóa, chiêu mộ phu phen, chính lệnh không ra khỏi doanh trại, tất cả phải dựa vào quân đội mình, do đó một trận thất bại, thế trận công thủ lúc nào cũng có thể thay đổi, vì vậy đối với hành tung bí hiểm của Câu Tiễn, Khánh Kỵ không thể không chú trọng.

Khánh Kỵ đang theo dòng suy nghĩ của mình, thì bức mành trướng được vén lên, một tên thị vệ đứng ngay phía trước nhẹ nhàng bẩm báo:

-Đại vương, Nhâm cô nương xin cầu kiến.

Khánh Kỵ ngạc nhiên lo lắng, vôi vàng hỏi:

-Chị hay em?

Tên lính hầu đáp lại"

-Là... Nhâm đại cô nương.

Khánh Kỵ bỗng thở phào nhẹ nhõm, vội nói:

-Nhanh mời vào.

Chương 218: Công thành chiếm đất (Thượng Hạ)

Dịch: Ngạo Thiên Môn

Nguồn: Sưu Tầm

Tên binh sĩ vừa thối lui khỏi màn trướng, một vị nữ tử khởi bộ bước vào, nàng trên người mặc một bộ trang phục màu trắng, nhìn xuyên qua dưới ánh nắng mặt trời, hiên lên một tư thế thanh thoát. Mặt trời phát ra những sợi tơ, làm toát lên những sợi ánh đen nhánh, lấp láy. Bức màn trướng hạ xuống, càng làm cho ánh sáng bên ngoài chiếu vào rõ hơn, lúc đó hình ảnh của nàng hiện lên còn rõ hơn.

Thân hình thon dài ấy, bởi vì còn để tang cha, do đó nàng phải mặc bô trang phục trắng này, ngay eo nàng thắt một dải thắt lưng màu trắng bạc, bên sườn thắt một sợi dây nhỏ, luôn chực bay theo chiều gió. Mái tóc đen óng kia được búi lên cao, phía trên cài một cây ngọc tram màu trắng tinh, dáng người thanh lệ uyển chuyển, toàn thân trắng toát hiện lên màu sắc lạnh nhạt giống như một bong cúc lạnh lẽo.

"Nhâm Nhược Tích bái kiến Đại Vương...."

Nhâm Nhược Tích vừa quỳ xuống bái kiến, Khánh Kỵ đã bước nhanh tới đỡ nàng đứng dậy, Nhâm Nhược Tích nhẹ nhàng đứng dậy, hướng mắt nhìn Khánh Kỵ một hồi, muốn nói gì nhưng lại nhíu chặt hàng chân mày lại.

"Nàng cuối cùng cũng gặp riêng ta rồi sao?" Khánh Kỵ vừa nói trên mặt hiện lên vẻ đùa cợt.

"Đại Vương..." Nhâm Nhược Tích nhẹ giọng đáp lại, muốn rút tay mình từ trong bàn tay Khánh Kỵ ra nhưng không cử động được, đôi gò má trắng nhạt ấy bỗng chốc từ từ chuyển sang màu hồng thẹn thùng.

"Vẫn gọi tên ta đi."

"Đại Vương, quân thần cách biệt. Dân nữ không dám mạo phạm."

"Ài... làm đại vương, thật mất đi những thú vui của con người bình thường... thôi được rồi, ta không làm khó nàng nữa, hôm nay có chuyện gì mà nàng chịu một mình đến đây vậy?"

"Đại Vương, Nhược Tích yết kiến, một là thay cho tiểu muội ở nhà xin tạ tội trước Đại Vương, hai là có việc này muốn nói với đại vương. Hôm nay, tiểu muội vô lễ với đại vương, không tuân thủ theo lễ cách, gây náo loạn, khẩn cầu đại vương niệm tình tiểu muội thần tuổi còn nhỏ, mà đừng quy cho nó tội chết, Nhược Tích vì chuyện này xin đa tạ đại vương. Nhưng... Đại vương vừa mới đăng cơ, binh lính bao vây Cô Tô thành lâu như vậy, nhưng bao vây mà không đánh, chỉ là bắn bi đất vào thành nội. Tiểu muội của thần vừa từ Nhâm gia đến, vì vậy mà trong long oán hận, kì thật không chỉ mình tiểu muội... người của Nhâm gia thần cũng không ít kẻ đã tỏ vẻ bất mãn..."

Khánh Kỵ thở một tràng dài, rồi buông tay nàng ra, ra hiệu cho nàng tùy cơ ngồi xuống: "Nhược Tích, người ngoài không hiêu rõ được, dụng ý của ta không lẽ nàng cũng không hiểu rõ sao? Cô Tô thành đương nhiên ta sẽ tấn công, nhưng không phải lúc này. Nhìn vẻ bề ngoài, ta lúc này đã chiếm cứ được thế thượng phong, nhưng Phù Khái phía sau lưng ta lại muốn kéo dài, Câu Tiễn thì xuất quỷ nhập thần, đại quân của hắn đóng ở đâu cũng không ai biết. Binh mã của ta nếu đánh hết đợt này đến đợt khác, thì lúc đó đã ở vào thế bất lợi rồi. Lúc đó, cục diện đã bị đảo ngược, ta há lại không bị khống chế, đừng nói là công thành, mà ta sợ rằng tự giữ lấy được thành của mình còn khó khăn gấp bội, đó là điều thứ nhất.

Thứ hai, nàng hãy nhìn tòa thành hùng vĩ phía trước chúng ta, nếu muốn kiên trì tấn công, cho dù Phù Khái và Câu Tiễn không níu chân, thì cũng sẽ chịu tổn thất rất lớn, ở tình huống đó, nếu muốn tiếp tục tấn công, e rằng Ngô dân bách tính có đồng tình không? Mùa xuân năm nay chiến sự lien mien, đã bỏ lỡ vụ nông canh rồi, nếu lúc này lại tăng cường tấn công thành, lúc Phù Sai khó bảo vệ được thành, thành trì ngọc nát đá tan, tất cả đều bị tiêu hủy, lúc đó tiền tài, lương thực trong Cô Tô thành tất cả sẽ tiêu tan cùng với ngọn lửa kia, toàn nước Ngô lúc đó người chết đói chất đầy đồng, Khánh Kỵ ta cho dù lúc đó có lấy được toàn Ngô quốc, lúc đó cũng là một tên tội đồ của nước Ngô mà thôi.

Ai mà không có vợ chồng con cái, trong đó Nhâm gia nàng tám ngàn nô tì, người ở, lại có biết bao nhiêu thân nhân của họ cư trú trong Cô tô thành. Chẳng lẽ nào lại để họ chết cùng với Phù Sai hay sao? Khánh Kỵ lần này phục quốc, không chỉ là vì phụ thân báo thù, lấy lại tôn thất chính thống của dòng họ, nhưng điều quan trọng nhất là làm cho con dân nước Ngô ta có được cuộc sống ấm no hạnh phúc, xa rời nghiệp đao binh, cuộc sống thịnh vượng thái bình."

Nhâm Nhược Tích thở nhẹ một tiếng đáp lại: "Nguyên nhân này, thần cũng có nghĩ qua. Nhưng... sợ rằng Đại Vương không còn cách lựa chọn nào khác, gia phụ..."

Nhâm Nhược Tích nói đến đây, đôi mắt bỗng đỏ hoe ngấn lệ: "Gia phụ phóng hỏa, trước đây cũng đã từng nói qua, cha ta cũng nhìn ra được, Phù Sai quyết ý sống chết cùng Cô tô thành, đại vương mặc dù sợ đắc tội với thiên hạ, chỉ sợ rằng không được như ý."

Khánh Kỵ đáp lại: "Ta cũng biết khó khăn trùng trùng, cố hết sức mà nghe thiên mệnh, nàng còn nhớ... nàng từng khuyên bảo ta không?"

Nhâm Nhược Tích ngẩn người: "Khuyên bảo gì?"

"Diên Lăng Quý Tử."

"A..., chàng... đại vương muốn mời quý tử xuất đầu lộ diện?"

"Uhm..." Khánh Kỵ nhẹ gật đầu : "Ta nghĩ... chỉ cần tiêu diệt được Phù Khái, cắt đứt triệt để quân viện trợ cho Phù Sai, lúc đó ta sẽ nắm lấy ưu thế tuyệt đối, Quý Tử sẽ có lựa chọn thong minh cho mình."

Khánh Kỵ cười nhạt một lúc rồi nói tiếp: "Quý Tử là bậc quân tử có tài có đức, ông ấy không quan trọng thân thiết hay xa lạ, không xem đúng sai, chỉ xem việc ngươi có khả năng mang lại lợi ích cho giang sơn Ngô quốc và lê dân xa tắc hay không, do đó, ông ấy có thể hướng đến cái ác mà thỏa hiệp, ông ấy là một người quân tử hoàn toàn không giống ta, gần như là thánh nhân. Ta tôn trọng ông ấy, nhưng ngược lại cũng có chút không thích con người như vậy. Hạp Lư đã từng lợi dụng con người từ khi sinh ra đã nguyên tắc như vậy, hiện tại, ta cũng muốn thế."

Nhâm Nhược Tích rối trí suy nghĩ một hồi, rồi nói tiếp: "Dụng ý của đại vương như vậy, Nhược Tích đã hiểu rõ rồi. Quay về.. thần sẽ trấn an đám gia nhân. Tiểu muội của thần còn nhỏ không hiểu rõ, mạo phạm đại vương, khẩn cầu đại vương đừng trách tội nó."

Khánh Kỵ cười đáp lại: "Ta đương nhiên sẽ không trách nàng ấy, tiểu nha đầu ấy, ta nếu so đo với sự hiểu biết tầm thường của nàng ấy, thì chẳng phải là hạ thấp mình quá sao?"

Nhâm Nhược Tích thở nhè nhẹ, nói yếu ớt đáp lại: "Nó cũng không còn nhỏ nữa rồi, từ khi chúng ta từ nước Tề quay trở lại, Hạp Lư đều theo dõi nhất cử nhất động của phụ thân ta, chỉ là không có chứng cứ, không thể khép người vào tội, cho nên mới đem phụ thân ta giam lỏng trong Cô tô thành, do ta thường ngày phải thay cha tiếp quản công việc gia đình, nên hắn cũng bắt ta vào Cô tô thành. Nhâm gia từ đó chỉ có thể giao cho tiểu muội quản lí, mọi chuyện lớn bé muội ấy đều quan tâm, lại còn lo lắng đến sự an nguy của phụ thân và ta, tâm tính của muội ấy đã trải qua rất nhiều va chạm như vậy, nên dường như không giống như một thiếu nữ bình thường như lúc trước nữa."

Nhâm Nhược Tích nói đơn giản như vây, Khánh kỵ tưởng tượng tình hình kúc đó, ngược lại có thể tưởng tượng ra tình hình một năm tới, lúc Nhâm gia sống trong sự sợ hãi và khẩn trương tại ranh giới của sự hủy diệt, Khánh Kỵ không giấu được lặng lẽ thở dài một tiếng.

Khánh kỵ nhìn Nhâm Nhược Tích, thần tình nghiêm túc lại nói: "Nhược Tích, khổ tâm của ta, cũng mong nàng có thể nói với Nhâm gia trên dưới biết. Ta chấp nhận, chỉ cần đại quân Phù Khái tan vỡ, ta sẽ lập tức khởi binh công phá Cô Tô thành! Nàng quay về có thể thông báo cho tráng sĩ Nhâm gia. Hãy nghỉ ngơi dưỡng sức, chuẩn bị chu đáo, ta hiện tại đang chế tạo loại vũ khí đại hình công thành, đợi giải quyết xong tên Phù Khái, sau đó sẽ đánh Cô Tô thành."

Nhâm Nhược Tích trên mặt hiện vẻ hồng hào kích động: "Có câu nói này của đại vương, dân nữ an tâm rồi. Nhược Tích sẽ quay về, triệu tập gai tộc trưởng giả quản sự, nói rõ tâm ý của đại vương, để trấn tĩnh lòng tin của họ. Đại vương..."

Nhâm Nhược Tích hướng đôi mắt đẹp chăm chú nhìn Khánh Kỵ, nhẹ nhàng nói: "Dân nữ xin cáo từ."

"Đợi đã!" Khánh Kỵ cầm lấy cánh tay trắng ngà của Nhược Tích nói: "Nhược Tích, công sự đã bàn xong, bây giờ hãy đị thoe ta!"

Nhược Tích đỏ mặt thẹn thùng, nói nhẹ: "Đại vương..."

Khánh Kỵ hướng mắt nhìn lại, thấp giọng nói: "Băng Nguyệt nha đầu kia đâu?"

Nhâm Nhược Tích đáp: "Nó không biết khinh trọng, mạo phạm đại vương, đã bị Nhược Tích sai người trông coi rồi. Diêu Quang và Tiểu Man hai vị cô nương ấy đang ở cùng muội muội."

Khánh Kỵ thở phào nhẹ nhõm, vui vẻ nói: "Như vậy là, một mình nàng đến đây sao?"

Nhâm Nhược Tích thong minh sang suốt như vây, nghe những lời này đã biết rõ dụng ý, lại tăng phần ái náy không yên, lắp bắp nói: "Đại...Đại vương, như vậy là ý gì?"

Khánh kỵ đột nhiên dang tay ôm chặt nàng vào lòng, Nhâm Nhược Tích muốn giãy dụa, Khánh Kỵ đã có dự liệu trước, nên nhẹ nhàng dùng lực, ôm chặt nàng hơn nữa. Nhâm Nhược Tích mặt đỏ như gấc, nhẹ giọng nói: "Đại Vương..."

"Nhược Tích... nàng còn nhớ những gì ta đã nói, nếu có một ngày ta lấy lại được vương vị, thì sẽ tôn xưng nàng làm vương phi của ta, nàng nhớ không?"

Nhâm Nhược Tích hờn dỗi một hồi, lúc này mới dám thổ lộ những nỗi hờn giận thầm kín trong lòng: "Bên cạnh Đại vương đã có Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man, hai vị cô nương ấy đều là bậc quốc sắc thiên hương, gia thế cao quý bất phàm, đều được chọn là bậc vương phi của Ngô quốc, vậy thì chắc gì đến lượt Nhược Tích được chọn chứ?"

Khánh kỵ cười một hồi dài, nói với giọng bỡn cợt: "Vậy sao, vậy nàng không vui sao?"

Nhâm Nhược Tích đáp lại: "Dân nữ nào đâu dám vậy chứ?" Lời nói vừa thoát ra khỏi miệng thì trong lòng nàng cảm thấy không còn chịu đựng được nữa, khuôn mặt nàng lại thẹn thùng, nàng nói tiếp: "Đại vương chọn ai thì đó là việc của đại vương, dân nữ đâu có quyền vui hay không vui chứ?"

Khánh Kỵ lại càng siết chặt nàng hơn trong vòng tay mình, hắn ôm nàng vào lòng, vuốt ve cái than hình mềm mại uyển chuyển ấy, rồi thì thầm bên tai nàng: "Ngô quốc đang đại loạn, Vương thất bị phế truất còn trống đó, một hồi lập quốc, quả nhân phải sớm có con nối dõi, để làm cho lòng dân an định. Thân là vua một nước, bên cạnh há gì chỉ có hia phu nhân, ta chọn nàng làm Vương phi ngô quốc, đó cũng là điều đương nhiên thôi."

Đa phần những tướng sĩ đi theo Khánh Kỵ, nguyên nhân là vì thanh danh Khánh Kỵ vang xa, bọn họ đều muốn cùng hắn xây dựng đại sự nghiệp, lập chiến công muôn đời, hơn nữa, kẻ nào lại không có tâm ý của riêng mình? Kẻ nào lại không có dự định của riêng mình, lại tính đến sau này nữa? Vợ con được hưởng quyền sang phú quý, lập đại công hưởng bổng lộc, làm bậc thế gia công thần, đời đời được lưu truyền tiếng thơm, đó đều là tâm ý của mỗi bậc thần tử. Nếu Khánh Kỵ muộn màng có con nối dõi, hay là có con nối dõi quá ít, vậy thì khó bảo toàn được vương vị nước Ngô vĩnh viễn được, một khi lọt vào tay một vương gia khác, những người này đều là bậc thế gia công thần đã cùng Khánh Kỵ vào sinh ra tử thì có khả năng đứng dựa bên cạnh, Ngô quốc lúc này có khả năng sẽ xảy ra đại loạn nữa, do đó có con hay không có con nối dõi, xác thực là để an lòng dân, ổn định binh sĩ, đây là điều kiện thiết yếu nhất. Lúc đó tỉ lệ hài nhi chết yểu lại cực cao, cho nên để có người lo cho hương hỏa tổ tiên, thì phải có nhiều vợ nhiều con, như vậy mới đảm bảo gia thế hưng vượng được.

Đạo lý này, Nhâm Nhược Tích cũng đã hiểu được, nhưng khi nghe Khánh Kỵ nói như vậy, trong lòng khó tránh khỏi chua xót, mắt nàng giương lên, chua xót nói: "Đại vương giang sơn chưa định, àm đã nghĩ đến chuyện này rồi sao? Dân nữ là hạ thần của đại vương, dụng ý của đại vương thần không thể không phục tùng, chỉ cần đại vương lấy lại được thành Cô Tô, ổn định giang sơn, dân nữ báo được thù cho phụ thân, lúc đó thần sẽ tìm cho đại vương những bậc mỹ nữ Ngô Việt Sở Tần, quốc sắc thiên hương, thiên hạ mỹ nhân tất cả sẽ được thu nạp vào cung của Ngô vương."

Khánh Kỵ đáp lại: "Nếu giang sơn thu về một mối, Khánh Kỵ chiếm được Cô Tô thành, sao có thể để nàng vì ta mà bôn tẩu thiên hạ được chứ?"

Nhâm Nhược Tích nghẹn họng, tâm khẩu bỗng nhiên bị đè xuống, nàng nói: "Đại vương... Ý chàng là sao?"

Khánh Kỵ hướng đoi mắt nhìn chăm chú vào nàng, nói: "Nhược Tích, nàng vẫn không hiểu rõ tâm ý của ta sao? Hay là nàng giả vờ không hiểu gì vậy?"

"Đại vương..."

Nhâm Nhược Tích cụp đôi chân mày xuống, khuôn mặt đỏ gay, hai hàng lông mi dài nhấp nháy, nàng không có dũng khí để hướng ánh mắt nhìn, khuôn mặt nàng có vẻ yếu ớt, làn da trắng nõn nà, đôi môi thắm cứ nhấp nháy muốn nói gì, nhìn bộ dạng của vị tiểu cô nương lúc đó không khỏi khiến người khác xúc động.

Nhâm Tử Anh quyết ý, lúc để cho con gái xuất thành đi để bảo vệ toàn phú quý của Nhâm gia, trong lòng đã có ý gả con gái cho Khánh Kỵ, huống hồ gì trong lòng Nhâm Nhược Tích sớm đã có tình ý với Khánh Kỵ rồi, nghe những ý này của hắn, Nhâm Nhược Tích vừa có vẻ mừng rỡ thẹn thùng, trái tim trong lòng ngực giống như con nai nhỏ cứ nhảy loạn xạ, nàng cảm thấy những hy sinh, nỗ lực của mình cuối cùng rồi cũng được đền đáp, nghĩ vậy đôi mắt nàng không giấu được nước mắt cứ chảy dài.

Khánh Kỵ buông cặp mắt rũ xuống, nhìn thấy lồng ngực nàng cứ nhấp nhô thở dốc liên hồi, bỗng nhiên chàng kéo nàng lại gần hơn, áp sát ngực nàng vào ngực mình, Nhâm Nhược Tích không giữ được tự chủ ngẩng khuôn mặt lên, hướng mắt nhìn Khánh Kỵ, thấp giọng nói: "Đại vương...A..aaa"

Lời nàng chưa nói xong, môi nàng đã bị chặn lại bởi đôi môi Khánh Kỵ, đôi mắt nàng hốt hoảng mở ra, ngạc nhiên trong tích tắc, đôi mắt lại mất đi tiêu cự, từ từ khép lại.

Mùi hương thoang thoản

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#qqqqq