Dai Viet su ky toan thu

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Bản in Nội Các Quan Bản

Mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697)

2 Đại Việt Sử

Ký Toàn Thư- Tựa

Tựa sách: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư

Năm

Soạn giả: Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, v.v... 1697

Dịch giả: Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam

1985-1992

Nhà xuất bản: Khoa Học Xã Hội - Hà Nội

1993

Chuyển sang ấn bản điện tử bởi: Lê Bắc, Công Đệ, Ngọc Thủy,

Tuyết Mai, Hồng Ty, Nguyễn Quang Trung

2001

Điều hợp: Lê Bắc - [email protected]

2001

3 Đại Việt Sử Ký Toàn Thư -

Ngoại Kỷ - Quyển I

Đạ i Vi ệ t S ử Ký Ngo ạ i K ỷ Toàn Th ư

Quyển I

[1a] Triều Liệt Đại Phu, Quốc Tử Giám Tư Nghiệp,

Kiêm Sử Quan Tu Soạn, Thần Ngô Sĩ Liên Biên

Xét: Thời Hoàng Đế dựng muôn nước, lấy địa giới Giao Chỉ về phía Tây Nam,

xa ngoài đất Bách Việt. Vua Nghiêu sai Hy thị1 đến ở Nam Giao2 để định

đất Giao Chỉ ở phương Nam. Vua Vũ chia chín châu3 thì Bách Việt4 thuộc

phần đất châu Dương, Giao Chỉ thuộc về đấy. Từ đời Thành Vương nhà Chu

[1063-1026 TCN] mới gọi là Việt Thường thị5, tên Việt bắt đầu có từ đấy.

K ỷ H ồ ng Bàng Th ị

Kinh Dương Vương

[1b] Tên húy là Lộc Tục, con cháu họ Thần Nông6.

Nhâm Tuất, năm thứ 17. Xưa cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông là Đế

Minh sinh ra Đế Nghi, sau Đế Minh nhân đi tuần phương Nam, đến Ngũ Lĩnh8

lấy con gái Vụ Tiên, sinh ra vua [Kinh Dương Vương]. Vua là bậc thánh trí

thông minh, Đế Minh rất yêu quý, muốn cho nối ngôi. Vua cố nhường cho

anh, không dám vâng mệnh. Đế Minh mới lập Đế Nghi là con nối ngôi, cai

quản phương Bắc, phong cho vua làm Kinh Dương Vương, cai quản phương Nam,

gọi là nước Xích Quỷ.

Vua lấy con gái Động Đình Quân tên là Thần Long9 sinh ra Lạc Long Quân

(Xét: Đường kỷ chép:

thời Kinh Dương có người đàn bà chăn dê, tự xưng là con gái út của Động

Đình Quân, lấy con thứ của

1 Hy thị: Tương truyền vua Nghiêu sai anh em họ Hy (Hy thị) và họ Hòa (Hòa

thị) đi bốn phương để trông coi công việc thiên văn

lịch pháp. Hy Thúc là em Hy Trọng đến ở miền đất phương Nam (Kinh Thư,

Nghiêu điển)

2 Kinh Thư chép vua Nghiêu sai Hy Thúc đến ở Nam Giao (Hy Thúc trạch Nam

Giao). Khổng An Quốc thời Tây Hán chú giải Kinh

Thư, chỉ cho Nam Giao là phương Nam. Mãi đến thời Đường, Tư Mã Trinh mới

giải thích Nam Giao là Giao Chỉ ở phương Nam.

3 Theo thiên Vũ Cống trong Kinh Thư, chín châu là Ký, Duyện, Thanh, Từ,

Dương, Kinh, Dự, Lương Ung.

4 Bách Việt: là từ mà người Hán dùng để gọi chung các tộc người khác Hán

sống ở miền nam Trung Quốc thời xưa. Từ này lần đầu tiên thấy chép trong

Sử Ký (Ngô Khởi Truyện của Tư Mã Thiên.

5 Việt Thường Thị: tên nước thời cổ ở phía Nam Trung Quốc có quan hệ với

nhà Chu (hiến chim trĩ cho Thành Vương), lần đầu tiên được ghi trong sách

Thượng Thư Đại Truyện. Có nhiều giải thích khác nhau, có thuyết nói rằng

Việt Thường Thị ở miền quận Cửu Đức, tức miền Hà Tĩnh (Thủy Kinh Chú, Cựu

Đường Thư); có thuyết nói Việt Thường thị ở vị trí nước Lâm Ấp đời sau (Văn

Hiến thông khảo, Minh Sử, Minh nhất thống chí).

6 Thần Nông: theo truyền thuyết Trung Quốc, là một trong 5 vị đế thời

thượng cổ, dạy dân biết cày bừa trồng trọt, cũng gọi là Viêm

Đế.

7 Theo Mục lục kỷ niên của Đại Việt Sử Ký và câu kết của Kỷ Hồng Bàng thị

(NK1, 5b) thì từ năm Nhâm Tuất đến năm Quý Mão

(258 TCN) cộng 2622 năm. Vậy năm Nhâm Tuất là năm 2879 TCN. Đó chỉ là một

niên đại suy đoán trên cơ sở - như trong Phàm

lệ đã nói rõ - muốn đặt Kinh Dương Vương ngang với Đế Nghi.

8 Ngũ Lĩnh: có nhiều thuyết khác nhau, đại khái chỉ 5 ngọn ở biên giới

phía nam của Trung Quốc. Theo Quảng Châu ký, đó là các núi: Đại Dũ, Thủy

An, Lâm Hạ, Quế Dương, Yết Dương.

9 Nguyên văn: "Thú Động Đình Quân nữ, viết Thần Long". Theo câu này thì

phải hiểu Thần Long là tên người con gái của Động Đình Quân. Nhưng ở đoạn

dưới (tờ 2b), soạn giả lại viết: "Kinh Dương Vương lấy con gái của Thần

Long, sinh ra Lạc Long Quân". Như vậy tên của Động Đình Quân là Thần Long.

Kinh Xuyên, bị bỏ, viết thư nhờ Liễu Nghị tâu với Động Đình Quân. Thế thì

Kinh Xuyên và Động Đình đời

đời làm thông gia với nhau đã từ lâu rồi).

Lạc Long Quân

[2a] Tên húy là Sùng Lãm, con của Kinh Dương Vương.

Vua lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ, sinh ra trăm con trai (tục truyền sinh

trăm trứng), là tổ của Bách Việt. Một hôm, vua bảo Âu Cơ rằng: "Ta là

giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó".

Bèn từ biệt nhau, chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về ở miền Nam

(có bản chép là về Nam Hải), phong cho con trưởng làm Hùng Vương, nối ngôi

vua.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Khi trời đất mới mở mang, có thứ do khí hóa ra, đó

là Bàn Cổ thị. Có khí hóa ra rồi sau có hình hóa, không thứ gì ngoài hai

khí âm dương cả. Kinh Dịch nói: "Trời đất nung ủ, vạn vật thuần hóa, đực

cái hợp tinh, vạn vật hóa sinh"1. Cho nên có vợ chồng rồi sau mới có cha

con, có cha con rồi sau mới có vua tôi. [2b] Nhưng thánh hiền sinh ra, tất

có khác thường, đó là do mệnh trời. Nuốt trứng chim huyền điểu mà sinh ra

nhà Thương2, giẫm vết chân người khổng lồ mà dấy nhà Chu3, đều là ghi sự

thực như thế. Con cháu Thần Nông thị là Đế Minh lấy con gái Vụ Tiên mà

sinh Kinh Dương Vương, tức là thủy tổ của Bách Việt. Vương lấy con gái

Thần Long sinh

ra Lạc Long Quân, Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai mà có phúc lành sinh

trăm con trai. Đó chẳng phải là cái đã gây nên cơ nghiệp của nước Việt ta

hay sao? Xét sách Thông Giám Ngoại kỷ (4)4 nói: Đế Lai là con Đế Nghi;

cứ theo sự ghi chép ấy thì Kinh Dương Vương là em ruột Đế Nghi, thế mà kết

hôn với nhau, có lẽ vì đời ấy còn hoang sơ, lễ nhạc chưa đặt mà như thế

chăng?

Hùng Vương

[3a] Con Lạc Long Quân (không rõ tên húy)5, đóng đô ở Phong Châu (nay là

huyện Bạch Hạc)6. Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là Văn Lang (nước này

đông giáp biển Nam Hải, tây đến Ba

Thục, bắc đến hồ Động Đình, nam giáp nước Hồ Tôn, tức nước Chiêm Thành, nay

là Quảng Nam), chia nước làm 15 bộ là: Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc

Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Vũ Định, Hoài Hoan, Cửu

Chân, Bình Văn, Tân Hưng, Cửu Đức; đều là đất thần thuộc của Hùng

1 Kinh Dịch: Hệ từ.

2 Truyền thuyết Trung Quốc nói là bà Giản Địch (vợ thứ Đế Cốc) nuốt trứng

chim huyền điểu, có mang, sinh ra ông Tiết, tổ của nhà

Ân - Thương.

3 Bà Khương Nguyên giẫm vết chân người khổng lồ, sinh ra ông Khi, tức Hậu

Tắc, tổ nhà Chu.

4 Thông giám ngoại kỷ: tức phần Ngoại Kỷ của sách Tư Trị Thông Giám (294

quyển) do Tư Mã Quang đời Tống soạn.

5 Nguyên bản in nhỏ hai chữ "khuyết húy", dễ nhận lầm là khuyết húy của

Lạc Long Quân. Nhưng ở trên đã nói Lạc Long Quân húy

Sùng Lãm. Ở đây nói khuyết húy của Hùng Vương.

6 Huyện Bạch Hạc thời Lê là một phần đất huyện Phong Châu, tỉnh Vĩnh Phú

ngày nay.

Vương; còn bộ gọi là Văn Lang là nơi vua đóng đô1. Đặt tướng văn gọi là

Lạc Hầu, tướng võ gọi là Lạc

Tướng (chữ Lạc Tướng, sau chép sai là Hùng Tướng2). Con trai vua gọi là

Quan Lang, con gái vua gọi là

Mị Nương. Quan coi việc gọi là Bồ Chính, đời đời cha truyền con nối, gọi

là phụ đạo. Vua các đời đều

gọi là Hùng Vương. Bấy giờ dân ở rừng núi thấy ở sông ngòi khe suối đều có

tôm cá, nên rủ nhau đi bắt

cá để ăn, thường bị thuồng luồng làm hại, [3b] đến thưa với vua. Vua nói:

"Người man ở núi khác với các loài thủy tộc; các thủy tộc ấy ưa cùng loài

mà ghét khác loài, cho nên mới bị chúng làm hại. Rồi vua bảo mọi người lấy

mực vẽ hình thủy quái ở mình. Từ đấy thuồng luồng trông thấy không cắn hại

nữa. Tục vẽ mình của người Bách Việt có lẽ bắt đầu từ đấy.

Đời Hùng Vương thứ 6, ở hương Phù Đổng, bộ Vũ Ninh có người nhà giàu, sinh

một con trai, đến năm hơn ba tuổi ăn uống béo lớn nhưng không biết nói

cười. Gặp lúc trong nước có tin nguy cấp, vua

sai người đi tìm người có thể đánh lui được giặc. Ngày hôm ấy, đứa trẻ

bỗng nói được, bảo mẹ ra mời thiên sứ vào, nói: "Xin cho một thanh gươm,

một con ngựa, vua không phải lo gì". Vua ban cho gươm

và ngựa, đứa trẻ liền phi ngựa vung gươm tiến lên trước, quan quân theo

sau, đánh tan quân giặc ở

chân núi Vũ Ninh3. Quân giặc tự quay giáo đánh lẫn nhau, chết rất nhiều,

bọn sống sót đều rạp lạy, tôn

gọi đứa trẻ ấy là thiên tướng, liền đến xin hàng cả. Đứa trẻ phi ngựa [4a]

lên trời mà đi. Vua sai sửa sang chỗ vường nhà của đứa trẻ để lập đền thờ,

tuế thời cúng tế. Về sau, Lý Thái Tổ phong là Xung Thiên Thần Vương.

(Đền thờ ở cạnh chùa Kiến Sơ, hương Phù Đổng).

Thời Thành Vương nhà Chu [1063-1026 TCN], nước Việt ta lần đầu sang thăm

nhà Chu (không

rõ vào đời Hùng Vương thứ mấy), xưng là Việt Thường thị, hiến chim trĩ

trắng. Chu Công nói: "Chính lệnh không ban đến thì người quân tử không

coi người ta là bề tôi của mình", rồi sai làm xe chỉ nam đưa

sứ giả về nước.

Cuối thời Hùng Vương, vua có con gái gọi là Mị Nương, nhan sắc xinh đẹp.

Thục Vương nghe tiếng, đến cầu hôn. Vua muốn gả, nhưng Hùng hầu can rằng:

"Họ muốn chiếm nước ta, chỉ lấy việc hôn nhân làm cớ mà thôi". Thục Vương

vì chuyện ấy để bụng oán giận. Vua muốn tìm người xứng đáng để

gả, bảo các bề tôi rằng: "Đứa con gái này là giống tiên, người nào có đủ

tài đức mới cho làm rể". Bấy

giờ có hai người từ ngoài đến, lạy dưới sân để cầu hôn. Vua lấy làm lạ,

hỏi thì họ thưa rằng một người

là [4b] Sơn Tinh, một người là Thủy Tinh, đều ở trong cõi cả, nghe nhà vua

có thánh nữ, đánh bạo đến

xin lĩnh mệnh. Vua nói: "Ta có một người con gái, lẽ nào lại được cả hai

rể hiền?". Bèn hẹn đến ngày hôm sau, ai đem đủ sính lễ đến trước thì gả

cho người ấy. Hai người vâng lời, lạy tạ ra về. Hôm sau, Sơn Tinh đem các

đồ châu báu vàng bạc, chim núi thú rừng đến dâng. Vua y hẹn gả con cho.

Sơn Tinh đón vợ về ở ngọn núi cao trên núi Tản Viên. Thủy Tinh cũng đem

sính lễ đến sau, giận tiếc là không kịp, bèn kéo mây làm mưa, dâng nước

tràn ngập, đem các loài thủy tộc đuổi theo. Vua cùng Sơn Tinh lấy lưới sắt

chăng ngang thượng lưu sông Từ Liêm4 để chặn lại. Thủy Tinh theo sông

khác, từ Ly Nhân vào chân núi Quảng Oai5 rồi theo dọc bờ lên cửa sông Hát,

ra sông lớn6 mà rẽ vào sông Đà để đánh Tản Viên, nơi nơi đào sâu thành vực

thành chằm, chứa nước để mưu đánh úp. Sơn Tinh có phép thần biến hóa, gọi

[5a]7 người man đan tre làm rào chắn nước, lấy nỏ bắn xuống, các loài có

vẩy và có vỏ trúng

1 Việt Sử Lược chép nước Văn Lang gồm 15 bộ lạc, trong đó có 10 bộ lạc

giống tên như Toàn thư ghi trên đây (Giao Chỉ, Vũ Ninh,

Việt Thường, Ninh Hải, Lục Hải, Hoài Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Cửu Đức, Văn

Lang), và 5 bộ lạc với tên khác (Quân Ninh, Gia Ninh, Thang Tuyền, Tân

Xương, Nhật Nam). Lĩnh Nam Chích Quái cũng chép đủ tên 15 bộ, nhưng trong

các bản hiện còn, tên các bộ ấy có nhiều sai khác chênh lệch. Dư Địa Chí

của Nguyễn Trãi chép đúng tên các bộ như Toàn Thư đã ghi trên đây, nhưng

không có tên bộ Văn Lang.

2 Chữ "Hùng" và chữ "Lạc" chỉ khác nhau về phía bên trái, dễ đọc và chép

lầm.

3 Lĩnh Nam Chích Quái chép Phù Đổng Thiên Vương đánh giặc Ân dưới núi Trâu

Sơn, Sách Việt Sử Tổng Vịnh chú rằng núi Vũ Ninh thuộc huyện Quế Dương (nay

thuộc đất Quế Võ, tỉnh Hà Bắc).

4 Sông Từ Liêm: chỉ khúc sông Hồng chảy qua Chèm, Hà Nội.

5 Tức là sông Đáy.

6 Tức là sông Hồng.

7 Nguyên bả n mất tờ in 5a - b, được thay thế bằng tờ chép tay.

tên đều chạy trốn cả. Rốt cuộc Thủy Tinh không thể xâm phạm được núi Tản

Viên. (Tục truyền Sơn

Tinh và Thủy Tinh từ đấy về sau đời đời thù oán, mỗi năm mùa nước to thường

vẫn đánh nhau).

Núi Tản Viên là dãy núi cao của nước Việt ta, sự linh thiêng rất ứng

nghiệm. Mị Nương đã lấy Sơn Tinh, Thục Vương tức giận, dặn lại con cháu

phải diệt Văn Lang mà chiếm lấy nước. Đến đời cháu là Thục Phán có dũng

lược, bèn đánh lấy nước.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Thời Hùng Vương đặt chư hầu để làm phên giậu,

chia nước làm 15 bộ. Ở 15 bộ ấy đều có trưởng và tá. Vua theo thứ bậc cắt

đặt các con thứ

để cai trị. Nói 50 con theo mẹ về núi, làm sao biết không phải là như thế?

Vì mẹ làm quân trưởng, các con đều làm chúa một phương. Cứ xem như tù

trưởng người man ngày nay xưng là nam phụ đạo, [5b] nữ phụ đạo (nay bản

triều đổi chữ phụ đạo

thành chữ phụ đạo thì có lẽ đúng như thế). Còn như việc

Sơn Tinh, Thủy

Tinh thì rất là quái đản, tin sách chẳng bằng không có sách, hãy tạm thuật

lại chuyện cũ để truyền lại sự nghi ngờ thôi).

Trở lên là [kỷ] Hồng Bàng thị, từ Kinh Dương Vương được phong năm Nhâm

Tuất, cùng thời với

Đế Nghi, truyền đến cuối thời vua Hùng Vương, ngang với đời Noãn Vương nhà

Chu năm thứ 57 [258

TCN] là năm Quý Mão thì hết, tất cả 2.622 năm [2879 - 258 TCN].

K ỷ Nhà Th ụ c

An Dương Vương

Họ Thục, tên húy là Phán, người Ba Thục1, ở ngôi 50 năm, đóng đô ở Phong

Khê (nay là thành

Cổ Loa).

[6a] Giáp Thìn, năm thứ 1 [257 TCN], (Chu Noãn Vương năm thứ 58). Vua đã

thôn tính được nước Văn Lang, đổi quốc hiệu là Âu Lạc. Trước kia vua nhiều

lần đem quân đánh Hùng Vương, nhưng Hùng Vương binh hùng tướng mạnh, vua bị

thua mãi. Hùng Vương bảo vua rằng: "Ta có sức thần, nước Thục không sợ ư

?" Rồi Hùng Vương bỏ không sửa sang võ bị, chỉ ham ăn uống vui chơi. Quân

Thục kéo sát đến nơi, hãy còn say mềm chưa tỉnh, rồi thổ huyết nhảy xuống

giếng chết, quân lính quay giáo đầu hàng Thục Vương.

Bấy giờ Thục Vương đắp thành ở Việt Thường, rộng nghìn trượng, cuốn tròn

như hình con ốc, cho nên gọi là Loa Thành2, lại có tên là thành Tư Long

(người nhà Đường gọi là thành Côn Lôn, vì thành

rất cao3). Thành này cứ đắp xong lại sụt, vua lấy làm lo, mới trai giới

khấn trời đất và thần kỳ núi sông,

rồi khởi công đắp lại.

Bính Ngọ, năm thứ 3 [255 TCN], (Động Chu Quân năm thứ 1). Mùa xuân, tháng

3, chợt có thần nhân đến cửa thành, trỏ [6b] vào thành, cười mà nói rằng:

"Đắp đến bao giờ cho xong!". Vua mời vào điện hỏi, thần nhân trả lời: "Cứ

đợi giang sứ đến". Rồi cáo từ đi ngay. Sáng hôm sau, vua ra cửa thành,

quả thấy có con rùa vàng bơi trên sông từ phía đông đến, xưng là giang sứ,

nói được tiếng người, bàn được việc tương lai. Vua mừng lắm, để vào mâm

vàng, đặt mâm lên trên điện. Vua hỏi về nguyên

1 Về điều ghi Thục Phán người Ba Thục (Tứ Xuyên, Trung Quốc), Cương mục có

nhận xét: "Nước Thục từ năm thứ 5 đời Thận Tĩnh

Vương nhà Chu (316 TCN) đã bị nước Tần diệt rồi, làm gì có vua nữa ? Huống

chi từ Thục đến Văn Lang còn có đất Kiện Vi (nay thuộc Vân Nam), đất Dạ

Lang, Cùng, Túc, Nhiễm Mang v.v... cách nhau hàng hai ba ngàn dặm, có lẽ

nào Thục vượt qua được các nước ấy mà sang đánh lấy Văn Lang? .... Hoặc giả

ngoài cõi Tây Bắc giáp với nước Văn Lang còn có họ Thục khác, mà sử cũ (tức

Toàn Thư) nhận là Thục Vương chăng ?" (CMTB1,9). Hiện nay, có nhiều giả

thuyết về nguồn gốc của Thục Phán, trong đó

có thuyết coi họ Thục là thủ lĩnh của người Âu Việt (hay Tây Âu) ở phía bắc

nước Văn Lang mà trung tâm là vùng Cao Bằng.

2 Nay còn di tích ở huyện Đông Anh, Hà Nội.

3 Côn Lôn: tên dãy núi Trung Quốc (ở miền Tân Cương - Tây Tạng).

do thành sụp, rùa vàng đáp: "Đó là do tinh khí núi sông vùng này bị con

vua trước phụ vào để báp thù

nước, nấp ở núi Thất Diệu. Trong núi có con quỷ, đó là người con hát thời

trước chôn ở đấy hóa làm quỷ. Cạnh núi có cái quán, chủ quán tên là Ngộ

Không, có một đứa con gái và một con gà trắng, đó là

dư khí của tinh, phàm người qua lại ngủ đêm ở đấy đều phải chết vì bị quỷ

làm hại. Chúng có thể gọi nhau họp đàn lũ, làm cho sụp thành. Nếu giết

con gà trắng để trừ tinh khí ấy, thì thành tự nhiên được

[7a] bền vững. Vua đem rùa vàng đến quán ấy, giả làm người ngủ trọ. Chủ

quán nói: "Ngài là quý nhân, xin đi ngay, chớ lưu lại đây mà bị họa". Vua

cười nói: "Sống chết có mệnh, ma quỷ làm gì nổi ?".

Rồi ngủ lại quán. Đến đêm nghe tiếng tinh quỷ từ ngoài đến gọi mở cửa, rùa

vàng liền quát mắng, quỷ

không vào được, đến khi gà gáy thì lũ quỷ tan chạy hết. Rùa vàng xin vua

đuổi theo. Tới núi Thất Diệu

thì tinh khí biến mất, vua trở về quán. Sáng sớm, chủ quán tưởng vua đã

chết rồi, gọi người đến để khâm liệm đem chôn. Thấy vua vẫn vui vẻ cười

nói, chủ quán liền sụp lạy nói: "Ngài làm sao được như thế, tất phải là

thánh nhân!". Vua xin con gà trắng giết để tế. Gà chết, con gái chủ

quán cũng chết theo. Vua liền sai người đào núi, thấy có nhạc khí cổ và

xương người, đem đốt thành tro, rải xuống sông, yêu khí mới mất hẳn. Từ

đấy, đắp thành không [7b] quá nửa tháng thì xong. Rùa vàng cáo từ ra

về. Vua cảm tạ, hỏi rằng: "Đội ơn ngài thành đắp đã vững, nếu có giặc

ngoài đến, thì lấy gì mà chống

giữ ?" Rùa vàng bèn trút chiếc móng trao cho vua và nói: "Nước nhà yên

hay nguy đều do số trời, nhưng người cũng nên phòng bị; nếu có giặc đến thì

dùng móng thiêng này làm lẫy nỏ, nhằm vào giặc

mà bắn thì không phải lo gì". Vua sai bề tôi là Cao Lỗ (có sách chép là

Cao Thông1) làm nỏ thần, lấy móng rùa làm lẫy, đặt tên là Linh Quang Kim

Trảo Thần Nỏ.

Cao Vương nhà Đường [tức Cao Biền] dẹp nước Nam Chiếu, khi đưa quân về qua

châu Vũ Ninh, đêm nằm chiêm bao thấy có người lạ tự xưng là Cao Lỗ, nói:

"Ngày xưa giúp An Dương Vương, có công đánh lui giặc, bị Lạc hầu gièm pha,

phải bỏ đi, sau khi chết, trời thương không có tội gì, ban cho một dải

núi sông này, cho làm chức quản lĩnh đô thống tướng quân, làm chủ mọi việc

đánh dẹp giặc giã và mùa màng cày cấy. Nay theo minh công đi dẹp yên quân

giặc, lại trở về bản bộ, không có lời từ biệt thì không phải lễ. Cao Vương

thức dậy, nói chuyện lại với liêu thuộc, có làm bài thơ:

Mỹ hĩ Giao Châu địa, Du Du vạn tải lai.

Cổ hiền năng đắc kiến, Chung bất phụ linh đài. (Đẹp thay đất Giao Châu,

Dằng dặc trải muôn thâu. Người xưa nay được thấy, Hả tấm lòng bấy lâu).

Nhâm Tý, năm thứ 9 [249 TCN], (Đông Chu Quân năm thứ 7; [bấy giờ có] 7 nước

là Tần, Sở, Yên, Triệu, Ngụy, Hàn, Tề). Năm ấy nhà Chu mất.

[8a] Canh Thìn, năm thứ 37 [221 TCN], (Tần Thủy Hoàng Lữ Chính năm thứ 26).

Nước Tần thôn tính cả 6 nước, xưng hoàng đế. Bấy giờ người Từ Liêm, Giao

Chỉ ta, là Lý Ông Trọng2 người cao 2 trượng 3 thước, lúc ít tuổi đến hương

ấp làm lực dịch, bị trưởng quan đánh, bèn bỏ sang nước Tần làm quan đến

chức Tư lệ hiệu úy. Thủy Hoàng lấy được thiên hạ, sai ông đem quân đóng

giữ đất Lâm Thao3, uy danh chấn động nước Hung Nô. Khi tuổi già, về làng

rồi chết. Thủy Hoàng cho ông là người

kỳ lạ, đúc đồng làm tượng, để ở cửa Tư Mã ở Hàm Dương, bụng tượng chứa được

mấy chục người, ngầm lay thì chuyển động được, Hung Nô tưởng đó là hiệu úy

còn sống, không dám đến xâm phạm (Triệu Xương nhà Đường làm đô hộ Giao

Châu, đêm thường nằm chiêm bao thấy cùng Ông Trọng giảng bàn sách Xuân Thu,

Tả Truyện, nhân hỏi chỗ ở cũ, rồi dựng đền thờ. Khi Cao Vương đi đánh Nam

1 Cao Lỗ, chép là Cao Thông trong các tài liệu của Trung Quốc như Giao

Châu Ngoại Vực Ký (do Thủy Kinh Chú, q.14 dẫn), Thái

Bình hoàn vũ ký (phần Nam Việt Chí, q. 170), v.v....

2 Một số tài liệu Trung Quốc (như Quảng Dư Ký, Đại Thanh Nhất Thống Chí,

v.v....) chép là Nguyễn Ông Trọng, có lẽ vì dựa theo sử

liệu Việt Nam đời Trần do kiêng húy đã đổi Lý thành Nguyễn.

3 Lâm Thao: tên huyện Trung Quốc thời Tần, nay thuộc tỉnh Cam Túc.

Chiếu, thần thường hiển linh giúp sức. Cao Vương cho sửa lại đền thờ, tạc

gỗ làm tượng, gọi là [tượng]

Lý hiệu úy. Đề ở xã Thụy Hương huyện Từ Liêm)1.

Đinh Hợi, năm thứ 44 [214 TCN], (Tần Thủy Hoàng năm thứ 33). Nhà Tần phát

những người trốn tránh, người ở rể [8b] người đi buôn, ở các đạo ra làm

binh, sai hiệu úy Đồ Thư đem quân lâu thuyền, sai Sử Lộc đào ngòi vận

lương, đi sâu vào đất Lĩnh Nam, đánh lấy miền đất Lục Dương, đặt các quận

Quế Lâm (nay là huyện Quý của đất Minh, Quảng Tây)2, Nam Hải (nay là tỉnh

Quảng Đông) và Tượng Quận (tức là An Nam)3; cho Nhâm Ngao4 làm Nam Hải úy,

Triệu Đà làm Long Xuyên lệnh (Long Xuyên là thuộc huyện của Nam Hải), đem

những binh phải tội đồ 50 vạn người đến đóng đồn ở Ngũ Lĩnh, Ngao và Đà

nhân đó mưu xâm chiếm nước ta. (Chuế tế: con trai không có tiền nộp sính

lễ, lấy thân ở gửi nhà vợ nên gọi là chuế tế [ở gửi rể] như cái bướu ở mình

người ta, là vật thừa. Lục Lương là người Lĩnh Nam phần nhiều ở chỗ núi

rừng, trên cạn (lục), tính người mạnh tợn (cường lương) nên gọi là

Lục Lương).

Tân Mão, năm thứ 48 [210 TCN], (Tần Thủy Hoàng năm thứ 37). Mùa đông,

tháng 10, Thần

Thủy Hoàng mất ở Sa Khâu. Nhâm Ngao và Triệu Đà đem quân sang xâm lấn. Đà

đóng quân ở núi Tiên

Du, Bắc Giang5 đánh nhau với vua. Vua đem nỏ thần ra bắn, Đà thua chạy.

Bấy giờ Ngao đem thủy quân đóng ở Tiểu Giang (tức là [con sông] ở phủ [9a]

Đô hộ, sau lầm là Đông Hồ, tức là bến Đông Hồ ngày nay)6, vì phạm thổ thần

nên bị bệnh, phải rút về. Nhâm Ngao bảo Đà rằng: "Nhà Tần sắp mất, dùng

mưu kế đánh Phán thì có thể dựng nước được". Đà biết vua có nỏ thần, không

thể địch nổi, bèn

lui giữ núi Vũ Ninh, sai sứ đến giảng hòa. Vua mừng, bèn chia từ Bình

Giang (nay là sông Thiên Đức ở huyện Đông Ngàn) trở lên phía Bắc thuộc

quyền cai trị của Đà, trở về phía Nam thuộc quyền cai trị của vua. Đà sai

con là Trọng Thủy vào hầu làm túc vệ, cầu hôn con gái vua là Mỵ Châu. Vua

bằng lòng. Trọng Thủy dỗ Mỵ Châu để xem trộm nỏ thần, rồi ngầm bẻ gãy lẫy

nỏ, thay cái khác vào, giả vờ về Bắc thăm cha mẹ, bảo Mỵ Châu rằng: "Ân

tình vợ chồng không thể quên nhau, nếu lỡ hai nước không hòa, Nam Bắc cách

biệt, ta lại tới đây thì làm thế nào mà tìm thấy nhau?". Mỵ Châu nói:

"Thiếp có cái nệm gấm lông ngỗng, thường mang theo mình, đi đến đâu thì rút

lông ngỗng rắc ở chỗ đường rẽ để làm dấu". Trọng Thủy về báo cho Đà biết.

[9b] Quý Tỵ, năm thứ 50 [208 TCN] (Tần Nhị Thế Hồ Hợi, năm thứ 2). Nhâm

Ngao ốm sắp chết, bảo Đà rằng: "Tôi nghe nói bọn Trần Thắng làm loạn, lòng

dân chưa biết theo về đâu. Đất này ở

nơi xa lánh, sợ bọn giặc xâm phạm đến đây, muốn cùng ông chặt đường (đường

vào đất Việt do nhà Tần mở), tự phòng bị, đợi xem chư hầu biến động thế

nào". Đến khi ốm nặng, lại nói: "Đất Phiên Ngung (nhà Hán gọi là Nam

Thành) dựa núi cách sông, đông tây dài mấy nghìn dặm, vả có người Tần cùng

giúp, cũng đủ dựng nước, dấy vương, làm chủ một phương. Các trưởng lại

trong quận này không người nào đáng cùng mưu bàn, cho nên tôi gọi riêng ông

để bảo". Rồi Ngao lấy Đà thay mình. Ngao chết, Đà liền gửi hịch đến các

cửa ải Hoành Phố, Dương Sơn, Hoàng Khê, nói: "Quân giặc sắp đến, phải gấp

chặt đường, họp binh tự giữ". Hịch đến nơi, các châu quận đều hưởng ứng.

Bấy giờ Đà giết hết các trưởng

lại do nhà Tần đặt, đem thân thích phe cánh thay làm thú lệnh. Đà đem quân

đến đánh vua, vua không biết lẫy nỏ đã mất [10a], ngồi đánh cờ cười mà bảo:

"Đà không sợ nỏ thần của ta sao?". Quân của Đà tiến sát đến nơi, vua

giương nỏ thì lẫy đã gãy rồi. Vua thua chạy, để Mỵ Châu ngồi trên ngựa,

cùng chạy

1 Tức đền Chèm ở huyện Từ Liêm, Hà Nội.

2 Quế Lâm: tên quận thời Tần, nay là vùng đất bắc và đông tỉnh Quảng Tây,

chứ không chỉ riêng huyện Minh Quý, nơi đóng trị sở

của tỉnh ấy.

3 Tượng Quận: tên quận đời Tần mà trước đây nhiều sách sử của ta và của

Trung Quốc đều chú giải là quận Nhật Nam, hay bao gồm cả ba quận Giao Chỉ,

Cửu Chân, Nhật Nam thời Hán, tức đất An Nam. Thuyết đó là dựa vào một câu

cước chú của Hán Thư (q.28 hạ, tr. 11a) về quận Nhật Nam thời Hán: "Quận

Nhật Nam - quận Tượng thời Tần ngày trước". Nhưng từ cuối thế kỷ XIX,

thuyết đó đã bị phê phán. Chính Hán thư phần Bản Kỷ (q.7 tr.9a) chép rõ

rằng: "Năm thứ 5 hiệu Nguyên Phương (76 TCN), bãi

bỏ quận Tượng, chia đất vào hai quận Uất Lâm và Tường Kha". Quận Uất Lâm

là vùng Quảng Tây, quận Tường Kha ở phía tây quận Uất Lâm và gồm một phần

Quý Châu. Vậy Tượng Quận là miền tây Quảng Tây và nam Quý Châu.

4 Chữ có hai âm: "Hiêu" và "Ngao". Chúng tôi phiên theo âm đã quen gọi.

5 Bắc Giang: tên đạo đời Đinh, tên lộ thời Lý, Trần và đầu Lê (nay là tỉnh

Hà Bắc).

6 Cương mục (TB1, 16b) chú: "Bây giờ không biết con sông này ở đâu".

9 Đại Việt Sử Ký Toàn Thư -

Ngoại Kỷ - Quyển I

về phía nam. Trọng Thủy nhận dấu lông ngỗng đuổi theo. Vua đến bờ biển,

hết đường mà không có

thuyền, liền gọi rùa vàng mấy tiếng: "Mau đến cứu ta!" Rùa vàng nổi lên

mặt nước, mắng rằng: "Kẻ ngồi sau ngựa là giặc đấy, sao không giết đi?".

Vua rút gươm muốn chém Mỵ Châu, Mỵ Châu khấn rằng: "Trung tín trọn tiết, bị

người đánh lừa, xin hóa thành ngọc châu để rửa thù nhục này". Cuối cùng

vua vẫn chép Mỵ Châu, máu chảy loang mặt nước, loài trai nuốt vào bụng, hóa

làm hạt minh châu. Vua cầm sừng tê văn dài 7 tấc xuống biển mà đi (tức như

ngày nay gọi là sừng tê rẽ nước. Tục truyền núi Dạ Sơn

xã Cao Xá ở Diễn Châu là nơi ấy). Trọng Thủy đuổi theo đến nơi, thấy Mỵ

Châu đã chết, thương khóc

ôm xác đem về chôn ở Loa Thành, hóa làm đá ngọc. Trọng Thủy nhớ tiếc Mỵ

Châu, trở lại chỗ Mỵ Châu

[10b] tắm gội trang điểm khi trước, thương nhớ không nguôi, cuối cùng nhảy

xuống giếng mà chết. Người sau được hạt minh châu ở biển Đông, lấy nước

giếng ấy mà rửa, sắc ngọc càng sáng hơn.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Chuyện rùa vàng đáng tin chăng? Chuyện thần giáng

đất Sần1, chuyện đá biết nói2 cũng có thể là có. Vì việc làm của thần là

dựa theo người, thác vào vật mà nói năng. Nước sắp thịnh, thần minh giáng

để xem đứa hóa; nước sắp mất, thần cũng giáng để xét tội ác. Cho nên có

khi thần giáng mà hưng, cũng có khi thần giáng mà vong. An Dương Vương

hưng công đắp thành có phần không dè đặt sức dân, cho nên thần thác vào rùa

vàng để răn bảo, chẳng phải là vì lời oán trách động dân mà thành ra như

thế ư? Nhưng thế cũng còn là khá. Đến như lo họa hoạn về sau mà

nài xin với thần, thì lòng riêng đã nảy. Lòng riêng một khi nảy mầm thì lẽ

trời theo đó mà mất, [11a] sao thần lại chẳng gieo cho tai họa! Rùa vàng

trút móng thiêng trao cho, bảo là có thể đánh lui được quân địch, đó là mầm

họa chăng? Như chuyện thần ban cho nước Quắc ruộng đất mà sao đó nước

Quắc cũng mất theo. Sau [An Dương Vương] quả nhiên như vậy. Thế chẳng

phải là thần theo người mà hành động sao? Nếu không có lời nài xin [với

rùa vàng], cứ theo đạo lý mà làm, biết đâu quốc thống lại chẳng được lâu

dài? Đến như chuyện Mỵ Châu rắc lông ngỗng chỉ đường, thì chưa chắc đã có.

Nếu có thì chỉ một lần là phải, thế mà sau này con gái Triệu Việt Vương lại

bắt chước mà cũng nói như thế, là làm sao? Có lẽ người chép sử cho rằng

nhà Thục và nhà Triệu mất nước đều do con rể, cho nên nhân một việc mà nói

hai lần chăng? Thế thì việc ma quỷ làm đổ thành cũng đáng tin sao? Trả

lời rằng: Đại loại cũng như chuyện Bá Hữu làm quỷ dữ, sau người nước Trịnh

lập con cháu của Hữu, [hồn của Hữu] có chỗ nương tựa

rồi thì hết3. Thế là trừ bỏ yêu khí, quỷ không [11b] có chỗ phụ vào nữa

thì phải thôi. Đến như sử chép An Dương Vương bại vong là do nỏ thần bị đỗi

lẫy, Triệu Việt Vương bại vong vì mũ đâu mâu mất móng rồng, đều là mượn

lời để cho vật trở thành thiêng mà thôi. Đại phàm việc giữ nước chống giặc

tự có đạo lý của nó, đúng đạo lý thì được nhiều người giúp mà nước

hưng, mất đạo lý thì ít người giúp mà nước mất, không phải vì

những thứ ấy.

Trở lên là [kỷ] An Dương Vương, khởi từ năm Giáp Thìn đến năm Quý Tỵ là

hết, tất cả

50 năm [257 - 208 TCN].

1 Thần giáng đất Sần: Tả Truyện chép rằng thần hiện ở đất Sần thuộc nước

Quắc, Quắc công sai quan đến làm lễ tế, được thần ban

cho ruộng đất.

2 Đá biết nói: Tả Truyện ghi việc năm thứ 8 đời Lỗ Ai Công ở đất Nguy Du

nước Tấn có hòn đá biết nói.

3 Bá Hữu: tức Lương Tiêu, đại phu nước Trịnh thời Xuân Thu bị chết oan,

thường hiện hồn về quấy nhiễu. Sau, Tử Sản cho con Bá

Hữu là Lương Chỉ làm quan, hồn Bá Hữu mới thôi không báo oán nữa. (Tả

Truyện, q.13).

10 Đại Việt Sử Ký Toàn Thư -

Ngoại Kỷ - Quyển II

Đạ i Vi ệ t S ử Ký Ngo ạ i K ỷ Toàn Th ư

Quyển II

[1a]

K ỷ Nhà Tri ệ u 1

Vũ Đế

Ở ngôi 71 năm [207 - 136 TCN], thọ 121 tuổi [256 - 136 TCN].

Họ Triệu, nhân lúc nhà Tần suy loạn, giết trưởng lại Tần, chiếm

giữ đất Lĩnh Nam, xưng đế, đòi ngang với nhà Hán, hưởng nước truyền

ngôi 100 năm mới mất, cũng là bậc vua anh hùng.

Họ Triệu, tên húy là Đà, người huyện Chân Định2 nước Hán, đóng đô ở Phiên

Ngung (nay ở tỉnh

Quảng Đông)3.

Giáp Ngọ, năm thứ 1 [207 TCN], (Tần Nhị Thế năm thứ 3). Vua chiếm lấy

đất Lâm Ấp4 và

Tượng Quận, tự lập làm Nam Việt Vương.

Ất Mùi, năm thứ 2 [206 TCN], (Tây Sở Bá Vương Hạng Tịch năm thứ 1; Hán

Vương Lưu Bang năm thứ I). Năm ấy nhà Tần mất.

[1b] Đinh Dậu, năm thứ 4 [204 TCN], (Sở Hạng Tịch năm thứ 3; Hán Lưu Bang

năm thứ 3). Mùa đông, tháng 10, ngày 30, nhật thực. Tháng 11, ngày 30,

nhật thực.

Mậu Tuất, năm thứ 5 [203 TCN], (Sở Hạng Tịch năm thứ 4; Hán Lưu Bang năm

thứ 4). Mùa thu, tháng 7, sao Chổi mọc ở khu vực sao Đại Giác.

Kỷ Hợi, năm thứ 6 [202 TCN], (Hán Cao Đế năm thứ 5). Mùa xuân, tháng 2,

Hán Vương lên ngôi hoàng đế. Năm ấy Tây Sở mất.

Quý Mão, năm thứ 10 [198 TCN], (Hán Cao Đế năm thứ 9). Vua sai hai sứ coi

giữ hai quận

Giao Chỉ và Cửu Chân.

Ất Tỵ, năm thứ 12 [196 TCN], (Hán Cao Đế năm thứ 11) Nhà Hán đã định được

thiên hạ, nghe

tin vua cũng đã xưng vương ở nước Việt, mới sai Lục Giả sang phong vua làm

Nam Việt Vương, trao cho

ấn thao5 và con so bổ đôi6, thông sứ với nhau, bảo vua giữ yên đất Bách

Việt, chớ cướp phá. Khi sứ

1 Toàn thư, cũng như nhiều bộ sử thời phong kiến, quan niệm nhà Triệu là

một triều đại chính thống của nước ta, và viết thành Kỷ

Nhà Triệu. Quan niệm đó, từ thế kỷ XVIII đã bị phê phán, mà người bác bỏ

đầu tiên là Ngô Thì Sĩ, tác giả Việt Sử Tiêu Án.

2 Nay là huyện Chinh Định, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc.

3 Tức Quảng Châu ngày nay. Ở Quảng Đông vẫn còn huyện Phiên Ngung.

4 Theo Sử Ký (q. 113: Nam Việt Liệt Truyện): "Khi nhà Tần đã bị diệt, Đà

lập tức đánh lấy Quế Lâm, Tượng Quận, tự lập làm Nam

Việt Vương". Ở đây, văn bản của Toàn Thư, do sao chép hoặc khắc in, đã

nhầm lẫn từ Quế Lâm thành Lâm Ấp.

5 NGuyên văn: "Tỉ thụ" = quả ấn và dây thao để buộc (và trang sức) quả ấn.

6 Nguyên văn: "Phẫu phù" = vật bằng vàng bạc, ngọc đá, v.v.... cấp cho

người được phong quan tước, khi cần xác định thì khớp hai nửa với nhau; tác

dụng cũng như phù tiết, nhưng phù tiết thường là hình ống làm bằng tre gỗ,

để cấp cho các viên quan đi thi hành mệnh lệnh.

đến, vua ngồi xổm mà tiếp Lục Giả. Giả nói: "Vương vốn là [2a] người Hán,

họ hàng mồ mả đều ở nước

Hán, nay lại làm trái tục nước mình, muốn chiếm đất này làm kẻ địch chống

chọi với nhà Hán, há chẳng lầm hay sao? Vả lại, nhà Tần mất con hươu1,

thiên hạ đều tranh nhau đuổi, chỉ có Hán Đế khoan nhân yêu người, dân đều

vui theo, khởi quân từ đất Phong Bái mà vào Quan Trung trước tiên để chiếm

giữ Hàm Dương, dẹp trừ hung bạo. Trong khoảng 5 năm, dẹp yên loạn lạc,

bình định bốn biển, đó không phải là sức người làm nổi, tức là trời cho.

Hán Đế nghe vương làm vua ở đất này, từng muốn quyết một phen được thua,

nhưng vì dân chúng lao khổ vừa xong cho nên phải bỏ ý định, sai sứ mang ấn

thao cho vương, đáng lẽ vương phải ra ngoài giao2 nghênh đón bái yết để tỏ

lòng tôn kính. Nay đã không làm thế, thì nên sắm lễ mà tiếp sứ giả mới

phải, sao lại cậy dân Bách Việt đông mà khinh nhờn sứ giả của thiên tử?

Thiên Tử nghe biết, phát binh sang hỏi tội, thì vương làm thế nào?". Vua

ra dáng sợ hãi, đứng dậy nói: "Tôi ở đất này lâu ngày [2b] quên mất cả lễ

nghĩa". Nhân hỏi Giả rằng: "Tôi với Tiêu Hà, Tào Tham ai hơn?"3 Giả

nói: "Vương hơn chứ". Lại hỏi: "Tôi với vua Hán ai hơn?". Giả nói: "Hán

Đế nối nghiệp của Ngũ Đế Tam Vương, thống trị người Hán kể hàng ức vạn

người, đất rộng hàng muôn dặm,

vật thịnh dân giàu, quyền chính chỉ do một nhà, từ khi trời đất mở mang đến

nay chưa từng có. Nay dân của vương, chẳng qua mười vạn ở, ở xen khoảng

núi biển, chỉ ví như một quận của nhà Hán, ví với Hán

Đế sao được?". Vua cười và nói: "Tôi lấy làm giận không được nổi dậy ở bên

ấy, biết đâu chẳng bằng nhà Hán?" Giả ngồi im lặng, sắc mặt tiu nghỉu.

Bèn giữ Giả ở lại vài tháng. Vua nói: "Ở đất Việt này không ai đủ để nói

chuyện được. Nay ông đến đây hàng ngày tôi được nghe những chuyện chưa

từng nghe." Cho Giả đồ châu báu giá nghìn vàng để làm vật bỏ bao. Đến khi

Giả về, lại cho thêm nghìn vàng nữa.

băng.

[3a] Bính Ngọ, năm thứ 13 [195 TCN], (Hán Cao Đế năm thứ 12). Mùa hạ,

tháng 4, vua Hán

Canh Tuất, năm thứ 17 [191 TCN], (Hán Huệ Đế Doanh năm thứ 4). Mùa hạ,

nhà Hán dựng

Nguyên Miếu ở phía bắc sông Vị.

Quý Sửu, năm thứ 20 [188 TCN], (Hán Huệ Đế năm thứ 7) Mùa xuân, tháng

giêng, ngày mồng một, nhật thực. Mùa hạ, tháng 5, nhật thực, mặt trời bị

che khuất hết. Mùa thu, tháng 8, vua Hán băng.

Ất Mão, năm thứ 22 [186 TCN], (Hán Cao Hậu Lữ Trĩ năm thứ 2). Mùa hạ,

tháng 6, ngày 30, nhật thực.

Đinh Tỵ, năm thứ 24 [184 TCN], (Hán Cao Hậu năm thứ 4). Nhà Hán cấm nước

Nam Việt mua

đồ sắt ở cửa quan. Vua nói: "Khi Cao Đế lên ngôi, ta cùng thông sứ chung

đồ dùng. Nay Cao Hậu nghe

lời gièm pha, phân biệt đồ dùng Hán, Việt. Việc này tất là mưu kế của

Trường Sa Vương4 muốn dựa uy

đức của nhà Hán mưu lấy nước ta mà làm vua cả, tự làm công của mình".

[3b] Mậu Ngọ, năm thứ 25 [183 TCN], (Hán Cao Hậu năm thứ 5). Mùa xuân,

vua lên ngôi hoàng đế, đem quân đánh Trường Sa, đánh bại mấy quận rồi về.

Canh Thân, năm thứ 27 [181 TCN], (Hán Cao Hậu năm thứ 7). Nhà Hán sai Lâm

Lư hầu Chu Táo sang đánh Nam Việt để báo thù việc đánh Trường Sa. Gặp khi

nắng to ẩm thấp, bệnh dịch phát, bèn bãi quân. Vua nhân thế dùng binh uy

và của cải để chiêu vỗ Mân Việc và Âu Lạc ở phía tây (tức là Giao Chỉ và

Cửu Chân), các nơi ấy đều theo về, từ đông sang tây rộng hơn vạn dặm. Vua

ngồi xe mui vàng, dùng cờ tả đạo5, cho là nghi vệ ngang với nhà Hán.

1 Dùng ai từ đồng âm (lộc là con hươu, và lộc là phúc lộc) để nói bóng

việc nhà Tần mất nước.

2 Giao: vùng ngoại ô đô thành.

3 Tiêu Hà, Taò Tham: hai người có công đầu trong việc phò tá Hán Cao Tổ,

nối tiếp giữ chức thừa tướng nhà Hán.

4 Tước của Ngô Nhuế đời Hán Cao Tổ được phong làm phiên vương ở Trường Sa

(nay là phần đất phía đông tỉnh Hồ Nam).

5 Tả đạo: loại cờ lớn trang sức bằng lông đuôi cừu, dựng trên xe nhà vua.

Tân Dậu, năm thứ 28 [180 TCN], (Hán Cao Hậu năm thứ 8). Mùa thu, tháng 7,

Cao Hậu băng,

các đại thần đón Đại vương Hằng lên ngôi, tức là Văn Đế.

Nhâm Tuất, năm thứ 29 [179 TCN], (Hán Văn Đế Hằng năm thứ 1). Vua Hán vì

thấy mồ mả tổ tiên của vua đều ở Chân Định [4a] mới đặt người thủ ấp để

trông coi, tuế thời cúng tế, gọi các anh em của vua cho làm quan to, ban

cho hậu. Vua Hán hỏi Tể tướng Trần Bình có thể cử ai sang sứ Nam Việt

được, Bình nói: "Lục Giả thời Tiên đế đã từng sang sứ Nam Việt". Vua Hán

gọi Giả cho làm Thái trung

đại phu, lấy một người yết giả1 làm phó sứ, đem thư sang cho vua. Thư

nói: "Kính hỏi thăm Nam Việt

Vương rất lao tâm khổ ý. Trẫm là con vợ lẽ của Cao Đế, phải đuổi ra ngoài

làm phiên vương ở đất Đại,

vì đường sá xa xôi, kiến thức hẹp hòi quê kệch, nên chưa từng gửi thư.

Cao Hoàng Đế lìa bỏ bầy tôi, Hiếu Huệ Hoàng Đế qua đời, Cao Hậu tự

lên trông coi việc nước, không may có bệnh, người họ Lữ chuyên

quyền làm bậy, một mình khống chế ngự được, mới lấy con người họ khác nối

nghiệp Hiếu Huệ Hoàng Đế. Nhờ anh linh tông miếu và sức lực của các công

thần, đã giết hết bọn ấy. Trẫm vì các vương hầu và quan lại không cho từ

chối, không thể không nhận, nay đã lên ngôi. Mới rồi nghe nói vương có

gửi thư cho tướng [4b] quân Lâm Lư hầu, muốn tìm anh em thân và xin bãi

chức hai tướng quân ở Trường Sa. Trẫm theo thư của vương, đã bãi chức

tướng quân Bác Dương hầu rồi, còn anh em thân của vương hiện ở Chân Định,

trẫm đã sai người đến thăm hỏi và sửa đắp phần mộ tiên nhân của vương rồi.

Ngày trước nghe tin vương đem quân đánh biên giới, cướp phá mãi không thôi,

dân Trường Sa khổ sở

mà Nam Quận khổ nhất, nước của vương há được lợi riêng hay sao? Tất phải

chết nhiều quân lính, hại các tướng lại tài giỏi, làm cho vợ góa chồng, con

mồ côi, cha mẹ mất con, được một hại mười, trẫm không nỡ làm thế. Trẫm

muốn phân định đất phong xen kẽ để chế ngự lẫn nhau2, đem việc ra hỏi, bọn

quan lại đều nói: "Cao Hoàng Đế sở dĩ lấy Trường Sa làm địa giới, vì [quá

chỗ đó] là đất của vương, không nên tự tiện thay đổi". Nay dù lấy được đất

đai của vương cũng không đủ lớn thêm, lấy được của

cải của vương cũng không đủ giàu thêm, cõi đất từ Ngũ Lĩnh về nam, vương cứ

việc trị lấy. Tuy vậy, vương xưng là [5a] đế, hai đế cùng lập mà không có

xe sứ thông hiếu, thế là tranh nhau. Tranh mà không biết nhường thì người

có nhân không làm. Trẫm nguyện cùng vương đều bỏ hiềm trước, từ nay

trở đi thông hiếu như xưa. Vì vậy mới sai Lục Giả sang đưa tờ dụ, để tỏ

với vương bản ý của trẫm. Vương cũng nên nghe theo, chớ làm những việc cướp

phá nữa. Nhân gửi biếu vương 50 chiếc áo bông thượng hạng, 30 chiếc áo

bông trung hạng, 20 chiếc áo bông hạ hạng. Mong rằng Vương hãy nghe nhạc

tiêu sầu và thăm hỏi nước láng giềng".

Khi Giả đến, vua tạ lỗi nói: "Kính vâng chiếu chỉ, xin làm phiên vương, giữ

mãi lệ cống". Rồi đó vua hạ chiếu rằng: "Trẫm nghe: hai người hùng không

đứng cùng nhau, hai người hiền không ở cùng đời. Hoàng Đế nhà Hán là bậc

thiên tử hiền tài, từ nay ta triệt bỏ xe mui vàng và cờ tả đạo là nghi chế

của hoàng đế". Nhân viết thư rằng: "Man Di đại trưởng lão phu, thần Đà,

mạo muội đáng chết, hai lạy dâng thư lên hoàng đế bệ hạ. Lão phu vốn là

lại cũ ở đất Việt, Cao Đế ban cho ấn [5b] thao làm Nam Việt Vương. Hiếu

Huệ Hoàng Đế lên ngôi, vì nghĩa không nỡ tuyệt nên ban cho lão phu rất hậu.

Cao Hậu lên coi việc nước lại phân biệt Hoa - Di, ra lệnh không cho Nam

Việt những khí cụ làm ruộng bằng

sắt và đồng; ngựa, trâu, dê nếu cho thì cũng chỉ cho con đực, không cho con

cái. Lão phu ở đất hẻo lánh, ngựa, trâu, dê đã già. Tự nghĩ nếu không

sắm lễ vật cúng tế, thì tội thực đáng chết, mới sai nội sử Phan, trung úy

Cao, ngự sử Bình, ba bọn dâng thư tạ lỗi, nhưng đều không thấy trở về. Lại

nghe đồn rằng, phần mộ của cha mẹ lão phu bị đập phá, anh em họ hàng đều bị

giết. Vì vậy, bọn lại bàn nhau rằng: "Nay bên trong không được phấn chấn

với nhà Hán, bên ngoài không lấy gì để tự cao khác với nước Ngô". Vì vậy

mới đổi xưng hiệu là đế, để tự làm đế nước mình, không dám làm điều gì hại

đến thiên hạ. Cao Hoàng Hậu nghe tin cả giận, tước bỏ sổ sách của Nam

Việt, khiến cho việc sai người đi sứ không thông. Lão phu trộm ngờ là vì

Trường Sa Vương gièm [6a] pha, cho nên mới đem quân đến đánh biên giới.

Lão phu ở đất Việt 49 năm, đến nay đã ẵm cháu rồi, những vẫn phải dậy sớm,

ngủ muộn, nằm không yên chiếu, ăn không biết ngon, mắt không

trông sắc đẹp, tai không nghe tiếng chuông trống, chỉ vì không được

làm tôi nhà Hán mà thôi. Nay may được bệ hạ có lòng thương đến,

1 Yết giả: chức quan đời Tần, Hán, giữ việc giao thiệp với nước ngoài.

2 Nguyên văn: "định địa khuyển nha chi tương chế" (phân định đất đai theo

kiểu xen kẻ như răng chó để chế ngự lẫn nhau). Nhà

Hán cắt đất phong kiểu cho xen lọt phần đất của phiên quốc nọ với phiên

quốc kia để dễ bề chế ngự.

được khôi phục hiệu cũ, cho thông sứ như trước, lão phu dù chết xương cũng

không nát. Vậy xin đổi

tước hiệu, không dám xưng đế nữa. Kính cẩn sai sứ giả dâng một đôi ngọc

bích trắng, 1.000 bộ lông chim trả, 10 sừng tên, 500 vỏ ốc màu tía, 1 giỏ

cà cuống, 40 đôi chim trả sống, 2 đôi chim công. Mạo muội liều chết, hai

lạy dâng lên hoàng đế bệ hạ".

Lục Giả đem thư ấy về báo, vua Hán rất mừng. Từ đấy Nam Bắc giao hảo, thôi

việc binh đao, dân được yên nghỉ.

Quý Hợi, năm thứ 30 [178 TCN], (Hán Văn Đế năm thứ 2). Mùa đông, tháng 10,

ngày 30, nhật

thực.

[6b] Giáp Tý, năm thứ 31 [177 TCN], (Hán Văn Đế năm thứ 3). Mùa đông,

tháng 10, ngày 30

nhật thực. Tháng 11, ngày 30, nhật thực.

Tân Tỵ, năm thứ 48 [160 TCN], (Hán Văn Đế Hậu Nguyên, năm thứ 4). Mùa hạ,

tháng 4, ngày

30, nhật thực.

Giáp Thân, năm thứ 51 [157 TCN], (Hán Văn Đế năm thứ 7). Mùa hạ, tháng 6,

vua Hán băng,

có chiếu dặn để tang ngắn. Mùa thu, tháng 9, sao Chổi mọc ở phương tây.

Ất Dậu, năm thứ 52 [156 TCN], (Hán Cảnh Đế Khải, năm thứ 1). Nhà Hán chiếu

sai các quận quốc dựng miếu Thái Tông.

Bính Tuất, năm thứ 53 [155 TCN], (Hán Cảnh Đế năm thứ 2). Mùa đông, tháng

11, có sao

Chổi mọc ở phương tây.

Đinh Hợi, năm thứ 54 [154 TCN], (Hán Cảnh Đế năm thứ 3). Mùa xuân, tháng

giêng, có sao

Chổi đuôi dài mọc ở phương tây. Tháng ấy, ngày 30, có nhật thực.

[7a] Mậu Tý, năm thứ 55 [153 TCN], (Hán Cảnh Đế năm thứ 4). Mùa đông,

tháng 10, ngày

30, nhật thực.

Quý Tỵ, năm thứ 60 [148 TCN], (Hán Cảnh Đế Trung Nguyên năm thứ 2). Mùa

hạ, tháng 4, có sao Chổi mọc ở phía tây bắc. Mùa thu, tháng 9, ngày 30, có

nhật thực.

Giáp Ngọ, năm thứ 61 [147 TCN], (Hán Cảnh Đế năm thứ 3). Mùa thu, tháng

9, có sao Chổi mọc ở phía tây bắc. Tháng ấy, ngày 30, nhật thực.

Ất Mùi, năm thứ 62 [146 TCN], (Hán Cảnh Đế năm thứ 4). Mùa đông, tháng 10,

ngày 30, nhật

thực.

Đinh Dậu, năm thứ 64 [144 TCN], (Hán Cảnh Đế năm thứ 6). Mùa thu, tháng 7,

ngày 30, nhật

thực. Bấy giờ vua sai sứ sang nhà Hán thì xưng là vương, giữ lễ triều yết

cũng như các nước chư hầu, ở

trong nước thì theo hiệu cũ [đế].

[7b] Mậu Tuất, năm thứ 65 [143 TCN], (Hán Cảnh Đế Hậu Nguyên, năm thứ 1).

Mùa thu, tháng 7, ngày 30, nhật thực.

Canh Tý, năm thứ 67 [141 TCN], (Hán Cảnh Đế [Hậu Nguyên] năm thứ 3). Mùa

đông1, tháng

10, mặt trời, mặt trăng đều sắc đỏ. Tháng 12, sắc mặt trời đỏ tía, năm sao

đi ngược chiều ôm lấy chòm sao Thái Vi; mặt trăng đi xuyên vào Thiên Đình

(Thiên Đình tức là 10 ngôi sao cung viên Thái Vi ở góc hữu sao Long Tinh, ở

khoảng sao Dực sao Chẩn; ấy là cung của thiên tử; tòa của ngũ đế).

Mùa xuân, tháng giêng, vua Hán băng.

Nhâm Dần, năm thứ 69 [139 TCN], (Hán Vũ Đế Triệt, Kiến Nguyên năm thứ 2).

Mùa xuân, tháng giêng, ngày 30, nhật thực. Mùa hạ, tháng 4, có sao to bằng

mặt trời mọc ban đêm.

1 Sự việc ghi trong năm Canh Tý này (141 TCN), trước đã nói mùa đông, sau

lại ghi việc mùa xuân, hẳn là việc ở hai năm khác

nhau. Hán Cảnh Đế ở ngôi 16 năm, chết năm Canh Tý (xem: Lịch đại đế cương

miếu thụy niên húy phả) đúng như Toàn Thư ghi

tại đây. Vì vậy, điều ghi "mùa đông, tháng 10 ..." ở trên là ghi lại sự

việc trong mùa đông năm trước. Hoặc cũng có thể coi là văn bản Toàn thư bỏ

sót tiêu mục về năm Kỷ Hợi (142 TCN) mà sự việc về mùa đông đã ghi nhầm vị

trí như trên.

Quý Mão, năm thứ 70 [138 TCN], (Hán Kiến Nguyên năm thứ 3). Mùa thu,

tháng 7, sao Chổi

mọc ở phía tây bắc. Tháng 9, ngày 30, nhật thực.

Giáp Thìn, năm thứ 71 [137 TCN], (Hán Kiến Nguyên, năm thứ 4). Vua băng,

thụy là Vũ Đế. Cháu là Hồ lên nối ngôi. (Về sau, nhà Trần [8a] phong là

Khai Thiên Thể Đạo Thánh Vũ Thần Triết Hoàng Đế).

Lê Văn Hưu nói: Đất Liêu Đông không có Cơ Tử thì không thành phong tục mặc

áo đội mũ [như Trung Hoa], đất Ngô Cối không có Thái Bá thì không thể lên

cái mạnh của bá vương. Đại Thuấn là người Đông Di nhưng là bậc vua giỏi

trong Ngũ Đế. Văn Vương là người Tây Di mà là bậc vua hiền trong Tam Đại.

Thế mới biết người giỏi trị nước không cứ đất rộng hay hẹp, người Hoa hay

Di, chỉ xem ở đức mà thôi. Triệu Vũ Đế khai thác đất Việt ta mà tự làm đế

trong nước, đối ngang với nhà Hán, gửi thư xưng là "lão phu", mở đầu cơ

nghiệp đế vương cho nước Việt ta, công ấy có thể nói là to lắm vậy. Người

làm vua nước Việt sau này nếu biết bắt chước Vũ Đế mà giữ vững bờ cõi,

thiết lập việc quân quốc, giao thiệp với láng giềng phải đạo, giữ ngôi bằng

nhân, thì gìn giữ bờ cõi được lâu dài, người phương Bắc không thể [8b] lại

ngấp nghé được.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Truyện [Trung Dung] có câu: "Người có đức lớn thì

ắt

có ngôi, ắt có danh, ắt được sống lâu". [Vũ] Đế làm gì mà được như thế?

Cũng chỉ vì

có đức mà thôi. Xem câu trả lời Lục Giả thì oai anh vũ kém gì Hán Cao.

Đến khi nghe

tin Văn Đế đặt thủ ấp trông coi phần mộ tổ tiên, tuế thời cúng tế, lại ban

thưởng ưu hậu cho anh em, thì bấy giờ vua lại khuất phục nhà Hán, do đó

tông miếu được cúng tế, con cháu được bảo tồn, thế chẳng phải là nhờ đức ư?

Kinh Dịch nói: "Biêt khiêm nhường thì ngôi tôn mà đức sáng, ngôi thấp mà

không ai dám vượt qua". Vua chính hợp câu ấy.

Văn Vương

Ở ngôi 12 năm, thọ 52 tuổi.

Vua lấy nghĩa để cảm nước láng giềng, đánh lui địch, yên biên cảnh, cũng

gọi là bậc vua có ý muốn thịnh trị vậy.

[9a] Tên húy là Hồ, con trai Trọng Thủy, cháu Vũ Đế.

Bính Ngọ, năm thứ 2 [135 TCN], (Hán Kiến Nguyên năm thứ 6). Mùa thu, tháng

8, có sao Chổi mọc ở phương đông, đuôi dài hết trời.

Mân Việt Vương Sính xâm lấn biên ấp nước ta. Vua giữ ước với nhà Hán,

không tự tiện dấy quân, sai người đem thư nói việc đó với nhà Hán. Nhà Hán

khen là nghĩa, vì vua mà phát đại binh, sai Vương Khôi xuất quân từ Dự

Chương, Hàn An Quốc xuất quân từ Cối Kê, để đánh Mân Việt.

Hoài Nam Vương [Lưu] An dâng thư can rằng:

"Việt là đất ở ngoài cõi. Dân cắt tóc vẽ mình, không thể lấy pháp độ của

nước đội mũ mang đai

mà trị được. Từ thời Tam đại thịnh trị, người Hồ, người Việt đã không nhận

chính sóc, không phải là vì mạnh mà không hàng phục được, uy không chế ngự

được, mà vì đất ấy không thể ở được, dân ấy không

thể chăn được, không bõ làm phiền đến Trung Quốc vậy. Nay họ đánh lẫn

nhau mà bệ hạ phát quân

đến cứu, thế là trái lại đem Trung Quốc mà [9b] phục dịch di dịch vậy.

Vả người Việt khinh bạc, tráo trở, không theo pháp độ, không phải mới có

một ngày. Nay mới không vâng chiếu mà cất quân đi đánh giết, thần sợ sau

này việc binh cách không biết đến lúc nào thôi. Vừa rồi mấy năm liền không

được mùa, sinh kế của dân chưa lại như cũ, nay phát binh lấy lương, đi mấy

nghìn dặm lại thêm rừng sâu tre rậm, nhiều rắn độc thú dữ, tháng hè mùa

nắng, các bệnh thổ tả hoặc loạn phát ra luôn, tuy chưa từng ra quân đọ kiếm

mà chết chóc tất đã nhiều rồi. Thần nghe rằng sau việc quân lữ, tất là

mất mùa, là bởi cái khí sầu khổ phá sự điều hòa của khí âm dương, cảm đến

tinh khí

của trời đất, tai biến do đấy mà sinh ra. Bệ hạ đức sánh trời đất, ơn đến

cỏ cây, một người đói rét

không được hưởng trọn tuổi trời mà chết, bệ hạ cũng lấy làm thương xót

trong lòng. Hiện nay trong nước không có tiếng chó sủa báo động mà khiến

quân lính phải dãi dầu [10a] ở đồng nội, ngấm ướt ở

núi hang, khiến dân ở biên cương phải đóng cửa sớm mở cửa muộn, bữa mai

không kịp bữa hôm, thần

An trộm xin bệ hạ thận trọng việc đó.

Vả người Việt nhân tài vật lực yếu mỏng không biết đánh bộ, lại không biết

dùng xe ngựa cung

nỏ, thế mà không thể đem quân vào được, là vì họ giữ được đất hiểm, mà

người Trung Quốc thì không quen thủy thổ.

Thần nghe ở đường sá người ta nói rằng: Mân Việt Vương bị em là Giáp giết

chết, Giáp cũng đã

bị giết rồi, dân nước ấy chưa thuộc về ai. Nếu bệ hạ sai trọng thần đến

nơi thăm hỏi, ban đức cấp thưởng để chiêu dụ họ, thế tất họ sẽ dắt trẻ dìu

già theo về thánh đức. Nếu [bệ hạ] không dùng đất ấy làm gì, thì nước đã

mất làm cho còn, dòng đã tuyệt khiến nối lại, phong làm vương hầu, như thế

tất họ phải đem mình làm tôi, đời đời nộp cống. Bệ hạ chỉ dùng cái ấn

vuông một tấc, dây thao một trượng hai, mà trấn vỗ được đất ngoài, không

phải nhọc mệt tên lính nào, không phải cùn một chiếc giáo nào,

mà uy đức đều được cả. Nay đem quân [10b] vào đất họ, họ tất sợ hãi, trốn

vào rừng núi; nếu ta bỏ

về, thì họ lại họp đàn tụ lũ, nếu ta ở để giữ, thì hết năm này sang năm

khác, quân lính mệt mỏi, lương thực thiếu hết, một phương có việc gấp, thì

bốn mặt đều sợ. Thần sợ rằng biến cố sẽ sinh, gian tà sẽ nổi, đều là bắt

đầu từ đấy cả.

Thần nghĩ rằng: quân của thiên tử chỉ đi đánh kẻ dưới phạm lỗi, chứ không

đi đánh nhau để tranh giành, vì là không ai dám đọ sức. Nếu người Việt làm

liều chống lại quan chấp sự mà trong quân kiếm củi đẩy xe có kẻ nào không

về đủ thì dù có chém được đầu của Việt Vương, thần cũng lấy làm xấu hổ1.

Bệ hạ lấy chín châu làm nhà, sinh dân đều là thần thiếp cả, đất của di địch

nào có đủ làm nhàn hạ được một ngày mà phải phiền đến ngựa đổ mồ hôi mệt

nhọc? Kinh Thi có câu: "Đạo vương tin thực, đất

Từ theo về". Ý nói vương đạo rất lớn mà phương xa mến phục. Thần An trộm

lo rằng tướng lại đem 10

vạn quân đi chỉ làm cái trách nhiệm của một người [11a] sứ giả mà thôi."

Khi ấy quân nhà Hán chưa qua đèo, Mân Việt Vương đã phát binh giữ chỗ hiểm

để chống cự.

Em Mân Việt Vương là Dư Thiện cùng với người trong họ bàn nhau rằng: "Vì

vương tự tiện đem quân đánh Nam Việt không xin phép nhà Hán, cho nên nhà

Hán đem quân đến đánh. Quân Hán nhiều và mạnh, dù may mà mình có đánh

được chăng nữa sau họ lại kéo sang nhiều hơn, chung quy nước cũng bị diệt,

chi bằng giết vương để tạ lỗi với nhà Hán mà xin bãi binh". Bèn giết Sính,

sai sứ đem đầu nộp cho Vương Khôi. Khôi liền cho đóng quân lại, bảo cho

Hàn An Quốc, rồi sai sứ mang đầu Sính chạy về báo. Vua Hán sai Trang Trợ

sang tỏ ý cho vua biết. Vua rập đầu nói: "Thiên tử vì quả nhân đem quân

giết vua Mân Việt, quả nhân dù chết cũng không báo đáp được ân đức ấy".

Mới sai thái tử là Anh Tề sang nhà Hán làm con tin. Nhân bảo Trợ rằng:

"Nước tôi mới bị cướp, sứ giả cứ về trước, quả nhân đang ngày đêm sắm sửa

hành trang để vào triều kiến thiên tử". Trợ về rồi, bầy tôi đều can [11b]

vua rằng: "Quân nhà Hán giết [Mân Việt Vương] Sính là có ý muốn cảnh cáo

nước Việt ta. Vả lại tiên đế đã nói thờ nhà Hán cốt không thất lễ thì

thôi. Tóm lại chớ nên tin lời nói khéo, vào chầu vua Hán thì không về được

nữa, đó là thế mất nước đấy." Vua bèn nói thác là có bệnh rồi không sang

yết kiến nữa.

Đinh Mùi, năm thứ 3 [134 TCN], (Hán Nguyên Quang, năm thứ 1). Mùa thu,

tháng 7, ngày 30, nhật thực.

Giáp Dần, năm thứ 10 [127 TCN], (Hán Nguyên Sóc năm thứ 2). Mùa xuân, tháng

3, ngày 30, nhật thực.

Ất Mão, năm thứ 11 [126 TCN], (Hán Nguyên Sóc năm thứ 3). Vua ốm nặng,

Thái tử Anh Tề ở

Hán về.

Bính Thìn, năm thứ 12 [125 TCN], (Hán Nguyên Sóc năm thứ 4). Vua mất, thụy

là Văn Vương.

Con là Anh Tề nối ngôi.

1 Câu này có khác vài chữ so với nguyên văn bức thư của Lưu An: " ....

thần do thiết vị Đại Hán tu chi": thần cũng trộm xấu hổ cho

nhà Đại Hán (Hán thư, Hoài Nam Vương truyện).

[12a] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Văn Vương giao thiệp với nước láng giềng

phải

đạo, nhà Hán khen là có nghĩa, đến mức dấy binh đánh giúp kẻ thù; lại biết

nghe lời can, thác bệnh không sang chầu nhà Hán, giữ phép nhà để mưu cho

con cháu, có thể gọi là không xấu hổ với ông nội.

Minh Vương

khen.

thực.

Ở ngôi 12 năm.

Vua không cẩn thận mối vợ chồng, gây thành loạn cho quốc gia, không có

gì đáng

Tên húy là Anh Tề, con trưởng của Văn Vương.

Đinh Tỵ, năm thứ 1 [124 TCN], (Hán Nguyên Sóc năm thứ 5). Lấy Lữ Gia làm

Thái phó.

Kỷ Mùi, năm thứ 3 [122 TCN], (Hán Nguyên Thú năm thứ 1). Mùa hạ, tháng 5,

ngày 30, nhật

Nhâm Tuất, năm thứ 6 [119 TCN], (Hán Nguyên Thú năm thứ 4). Mùa xuân, sao

Chổi mọc ở

phía đông bắc. Mùa hạ, sao Chổi dài mọc [12b] ở phương tây.

Ất Sửu, năm thứ 9 [116 TCN], (Hán Nguyên Đỉnh năm thứ 1).

Mậu Thìn, năm thứ 12 [113 TCN], (Hán Nguyên Đỉnh năm thứ 4). Trước kia

vua làm thế tử, sang làm con tin cho nhà Hán ở Trường An, lấy con gái người

họ Cù ở Hàm Đan, sinh con tên là Hưng. Đến khi lên ngôi, giấu ấn của tiên

đế đi, dâng thư sang nhà Hán xin lập Cù thị làm hoàng hậu, Hưng làm

thế tử. Nhà Hán mấy lần sai sứ giả sang khuyên vua vào chầu. Vua sợ vào

yết kiến phải theo pháp độ nhà Hán ngang với các chư hầu ở trong, cố ý cáo

ốm không đi, bèn sai con là Thứ công vào làm con tin. Năm ấy vua mất, thụy

là Minh Vương. Con là Hưng nối ngôi.

Ai Vương

Ở ngôi 1 năm [112 TCN].

[13a] Mẫu hậu ngang nhiên dâm loạn, quyền thần chuyên chính, vua hèn tuổi

trẻ, giữ

nổi thế nào được.

Tên húy là Hưng, con thứ của Minh Vương.

Năm ấy, vua đã lên ngôi, tôn mẹ là Cù thị là thái hậu.

Trước kia, thái hậu chưa lấy Minh Vương, đã từng thông dâm với An Quốc

Thiếu Quý người Bá Lăng. An Quốc là họ, Thiếu Quý là tên. Năm ấy nhà Hán

sai An Quốc Thiếu Quý sang dụ vua và thái hậu vào chầu, như đối với các chư

hầu ở trong, lại sai biện sĩ là bọn Gián nghị đại phu Chung Quân tuyên

dụ, dũng sĩ là bọn Ngụy Thần giúp việc, vệ úy Lộ Bác Đức đem quân đóng ở

Quế Dương để đợi sứ giả.

Khi ấy vua còn ít tuổi, Cù hậu là người Hán, Thiếu Quý đến, lại tư thông.

Người nước biết, phần nhiều không theo thái hậu. Thái hậu sợ loạn nổi,

muốn dựa uy nhà Hán, nhiều lần khuyên vua và các quan xin

nội phụ nhà Hán. [13b] Bèn nhờ sứ nhà Hán dâng thư, xin theo như các chư

hầu ở trong, cứ 3 năm một

lần vào chầu, triệt bỏ cửa quan ở biên giới. Vua Hán bằng lòng, ban cho

vua và Thừa tướng Lữ Gia ấn

bằng bạc và các ấn nội sử, trung úy, thái phó, còn các chức khác được tự

đặt lấy. Bỏ hình phạt cũ thích

chữ, cắt mũi, dùng pháp luật nhà Hán như các chư hầu ở trong. Các sứ giả

đều ở lại để trấn giữ vỗ về1.

Kỷ Tỵ, năm thứ 1 [112 TCN], (Hán Nguyên Đỉnh năm thứ 5). Vua và thái hậu

đã sửa soạn hành trang lễ vật quý giá để vào chầu. Bấy giờ Tể Tướng Lữ Gia

tuổi đã nhiều, làm tướng trải ba triều, người trong họ làm trưởng lại đến

hơn 7 chục người, con trai đều lấy con gái vua, con gái đều gả cho con em

vua và người tôn thất, cùng thông gia với Tần Vương ở quận Thương Ngô,

trong nước rất được lòng dân hơn cả vua. Gia nhiều lần dâng thư can vua,

vua không nghe, nhân thế có lòng muốn làm phản, thường cáo ốm không tiếp

[14a] sứ giả nhà Hán. Các sứ giả nhà Hán đều chú ý đến Gia, nhưng thế chưa

thể giết được. Vua và thái hậu cũng sợ bọn Gia khởi sự trước, muốn nhờ sứ

giả nhà Hán trù mưu giết bọn Gia. Bèn đặt tiệc rượu mời sứ giả đến dự,

các đại thần đều ngồi hầu rượu. Em Gia làm tướng, đem quân đóng ở ngoài

cung. Tiệc rượu mới bắt đầu, thái hậu bảo Gia rằng: "Nam Việt nội thuộc

[Trung Quốc] là điều lợi cho nước, thế mà tướng quân lại cho là bất tiện là

tại sao?", cốt để chọc tức sứ giả. Sứ

giả còn đương hồ nghi, chần chừ chưa dám làm gì. Gia thấy tai mắt họ có vẻ

khác thường, lập tức đứng dậy đi ra. Thái hậu giận, muốn lấy giáo đâm Gia,

vua ngăn lại. Gia bèn ra chia lấy quân lính của em dẫn

về nhà, cáo ốm không chịu gặp vua và sứ giả, ngầm cùng các đại thần mưu làm

loạn. Vua vốn không có

ý giết Gia, Gia cũng biết thế, vì vậy đến mấy tháng không hành động gì.

Thái hậu muốn một mình giết

Gia nhưng sức không làm nổi. [14b] Vua Hán nghe tin Gia không nghe mệnh,

mà vua và thái hậu thì cô lập, yếu ớt không chế ngự nổi, sứ giả thì nhút

nhát không quyết đoán, lại thấy vua và thái hậu đã nội phụ rồi, chỉ một

mình Lữ Gia làm loạn, không đáng dấy quân, muốn sai Trang Sâm đem 2 nghìn

người sang sứ. Trang Sâm nói: "Lấy sự hòa hiếu mà sang, thì vài người

cũng đủ, lấy vũ lực mà sang, thì 2 nghìn người không làm gì được". Sâm từ

chối không nhận. Vua Hán bèn bãi chức Sâm. Tướng Tế Bắc

cũ là Hàn Thiên Thu hăng hái nói: "Một nước Việt cỏn con, lại có vương và

thái hậu làm nội ứng, chỉ một mình thừa tướng Lữ Gia làm loạn, xin cấp cho

3 trăm dũng sĩ, thế nào cũng chém được Gia về báo". Bấy

giờ nhà Hán sai Thiên Thu và em Cù thái hậu là Cù Lạc đem 2 nghìn người

tiến vào đất Việt. Lữ Gia bèn

hạ lệnh cho trong nước rằng: "Vua còn nhỏ tuổi, thái hậu vốn là người Hán,

lại cùng với sứ giả nhà Hán dâm loạn, chuyên ý muốn nội phụ với nhà Hán,

đem hết [15a] đồ châu báu của Tiên Vương dâng cho nhà Hán để nịnh bợ, đem

theo nhiều người đến Trường An rồi bắt bán cho người ta làm đầy tớ, chỉ

nghĩ mối lợi một thời, không đoái gì đến xã tắc họ Triệu và lo kế muôn

đời". Bèn cùng với em đem quân đánh, giết vua và thái hậu, cùng

tất cả bọn sứ giả nhà Hán, rồi sai người đi báo cho Tần Vương

ở Thương Ngô và các quận ấp, lập con trưởng của Minh Vương là Thuật Dương

hầu Kiến Đức làm vua. Vua bị giết, tên thụy là Ai Vương.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Tai họa của Ai Vương, tuy bởi ở Lữ Gia mà sự thực

thì gây mầm từ Cù Hậu. Kể ra sắc đẹp đàn bà có thể làm nghiêng đổ nước nhà

người ta thì

có nhiều manh mối, mà cái triệu của nó thì không thể biết trước được. Cho

nên các tiên vương tất phải đặt ra lễ đại hôn2, tất phải cẩn thận quan hệ

vợ chồng, tất phải phân biệt hiềm nghi, hiểu những điều nhỏ nhặt, tất phải

chính vị trong ngoài, tất phải ngăn ngừa việc ra vào, tất phải dạy đạo

[15b] tam tòng, thì sau đó mối họa mới không do đâu mà đến được. Ai Vương

ít tuổi không thể ngăn giữ được mẹ, Lữ Gia coi việc nước, việc trong việc

ngoài lại không dự biết hay sao? Khách của nước lớn đến, thì việc đón tiếp

lễ nghi, chỗ ở có thứ tự, cung ứng có số, thừa tiếp có người, sao đến nỗI

để thông dâm với mẫu hậu? Mẫu hậu ở thẳm trong cung, không dự việc ngoài:

khi nào có việc ra ngoài, thì có xe da cá, có màn đuôi trĩ, cung tần theo

hầu, sao để đến nỗi thông dâm với

sứ khách được? Bọn Gia toan dập tắt lửa cháy đồng khi đang cháy rực, sao

bằng ngăn ngay cái cơ họa loạn từ khi chưa có triệu chứng gì có hơn không?

Cho nên nói: Làm vua mà không biết nghĩa Xuân Thu tất phải chịu cái tiếng

cầm đầu tội ác; làm tôi không biết nghĩa Xuân Thu tất mắc phải tội cướp

ngôi giết vua, tức như là Minh Vương, Ai Vương và

Lữ Gia vậy.

1 Nguyên bản in là: "dụng Hán pháp, tỷ nội chư hầu giả giai trấn phủ chi",

cú pháp và ý nghĩa đều không ổn. Ở Sử Ký (q.113 Nam

Việt liệt truyện) câu này viết rõ là: " .... dụng Hán pháp, tỷ nội chư hầu.

Sứ giả giai lưu trấn phủ chi". Như vậy, văn bản của Toàn

Thư ở câu trên đây bỏ sót hai chữ: sứ và lưu. Chúng tôi dịch theo câu đã

chỉnh lý.

2 Đại hôn: là hôn lễ của hoàng đế.

Thuật Dương Vương

[16a] Ở ngôi 1 năm [111 TCN].

Xã tắc họ Triệu, Cù hậu làm cho nghiêng, gốc đã nhổ trước rồi, ngọn cũng

theo mà đổ.

Tên húy là Kiến Đức, con trưởng của Minh Vương và người vợ Việt.

Bấy giờ, mùa đông, tháng 11, Tể tướng Lữ Gia đã lập vua lên ngôi, mà quân

của Hàn Thiên Thu

đã vào cõi, đánh phá một vài ấp nhỏ. Gia bèn mở một đường thẳng để cấp

lương cho quân, [khi quân nhà Hán] đến còn cách Phiên Ngung 40 dặm, thì Gia

xuất quân đánh, giết được bọn Thiên Thu. Sai người đem sứ tiết của nhà

Hán cho vào trong hòm để trên núi Tái Thượng (tức là đèo Đại Dũ) dùng lời

khéo để tạ tội, [một mặt] phát binh giữ chỗ hiểm yếu. Vua Hán nghe tin,

sai Phục ba tướng quân Lộ Bác Đức xuất phát từ Quế Dương, Lâu thuyền tướng

quân Dương Bộc xuất phát từ Dự Chương, Qua Thuyền tướng quân1 Nghiêm (sử

chép thiếu họ) xuất phát từ Linh Lăng, Hạ lại tướng quân Giáp [16b] (sử

chép thiếu họ) đem quân xuống Thương Ngô, Trì Nghĩa hầu Quý2 (sử

chép thiếu họ) đem quân Dạ Lang xuống sông Tường Kha, đều hội cả ở

Phiên Ngung.

Canh Ngọ, năm thứ 1 [111 TCN], (Hán Nguyên Đỉnh năm thứ 6). Mùa đông,

Dương Bộc nhà

Hán đem 9 nghìn tinh binh hãm Tầm Hiệp, phá Thạch Môn (Lữ Gia chất đá giữa

sông gọi là Thạch Môn)

lấy được thuyền thóc của ta kéo luôn cả các thuyền ấy đi, đem mấy vạn người

đợi Phục ba tướng quân

Lộ Bác Đức. Bác Đức nói vì đường xa nên chậm, rồi cùng với Lâu thuyền

tướng quân hội quân tiến đến

Phiên Ngung. Bấy giờ [Lộ Bác Đức] có hơn 1 nghìn người cùng tiến [với quân

Dương Bộc]. Dương Bộc

đi trước đến Phiên Ngung. Vua và Lữ Gia cùng giữ thành. Dương Bộc tự

chọn chỗ thuận tiện đóng ở

mặt đông nam; Lộ Bác Đức đóng ở mặt tây bắc. Vừa chập tối, Dương Bộc đánh

bại [quân Triệu], phóng

lửa đốt thành. Bác Đức không biết quân trong thành nhiều hay ít bèn đóng

doanh, sai sứ chiêu dụ. Kẻ nào ra hàng đều cho ấn thao và tha cho về để

chiêu dụ nhau. Lâu thuyền3 [17a] tướng quân Dương Bộc cố sức đánh, đuổi

[quân Triệu] chạy ngược vào dinh quân của Lộ Bác Đức. Đến tờ mờ sáng thì

trong thành đầu hàng. Vua và Gia cùng với vài trăm người, đang đêm chạy

ra biển. Bác Đức lại hỏi những người đầu hàng biết chỗ ở của Gia, bèn sai

người đuổi theo. Hiệu úy tư mã là Tô Hoằng bắt được vua, quan lang Việt là

Đô Kê (có bản chép là Tôn Đô) bắt được Gia. Bấy giờ quân của Hạ lại và

Qua thuyền tướng quân, cùng quân Dạ Lang của Trì Nghĩa hầu chưa đến mà nước

Việt ta đã bị Lộ Bác Đức

và Dương Bộc dẹp yên rồi. (Bấy giờ nước Việt ta sai ba quan sứ4 đem 300

con trâu, 1.000 chung rượu

và sổ hộ của 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam đến xin hàng; Lộ Bác Đức

nhân đó cho ba người

ấy làm thái thú ở 3 quận để trị dân như cũ). Từ đó [nhà Hán] lấy đất chia

làm 9 quận là: Nam Hải (quận

của nhà Tần, nay là đất Quảng Đông nhà Minh), Thương Ngô (nhà Đường gọi là

Ích Châu5, xưa là Âu Lạc, đất của nước Việt ta), Uất Lâm (nhà Tần là quận

Quế Lâm, Hán Vũ Đế đổi làm tên này), Hợp Phố (nhà Tần là Tượng Quận, nay

thuộc Liêm Châu), Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam (đều là Tượng Quận thời

Tần)6, Châu Nhai, Đạm Nhĩ (đều ở trong biển lớn). Từ đấy nhà Hán bắt đầu

[17b] đặt Thứ sử, Thái thú. Chế độ nhà Hán đặt Thứ sử cai trị một châu,

Thái thú cai trị một quận (quận là cấp dưới của châu) ....

1 Phục ba tướng quân, Lâu thuyền tướng quân, Qua thuyền tướng quân, Hạ lại

tướng quân đều là danh hiệu cấp tướng quân đời

Hán Vũ Đế (phục ba: dẹp sóng, lâu thuyền: thuyền lầu, hạ lại: xuống thác).

Riêng về tên hiệu Qua thuyền tướng quân, Trương

An chú giải Sử Ký viết: "Người Việt thường lặn dưới nước để lật úp thuyền,

lại thường có thuồng luồng làm hại cho nên phải cắm qua ở dưới thuyền, nhân

đó mà đặt tên" (qua là một loại vũ khí).

2 Từ Quảng chú giải Sử Ký ghi Trì Nghĩa hầu tên là Di.

3 Nguyên bản thiếu tờ 17 a-b và đóng nhầm tờ 17 a-b của BK2, chúng tôi

theo bản in khác để bổ sung tờ thiếu này.

4 Ở năm Quý Mão (198 TCN), Toàn thư đã ghi Triệu Vũ Đế sai hai sứ coi giữ

hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân; ở đây lại nói sai ba quan sứ đem sổ hộ của 3

quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Lời cẩn án của Cương mục (TB2,2b) dẫn

sách Thủy Kinh chú của Lịch Đào Nguyên cũng chép việc tương tự để đính

chính điều ghi trên đây: chỉ có hai sứ ở hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân,

không nói đến quận Nhật Nam.

5 Thương Ngô là tên quận đặt thời Hán, nhà Đường đổi gọi là Ngô Châu (nay

là huyện Thương Ngô, tỉnh Quảng Tây), chứ không phải là Ích Châu (nay là Tứ

Xuyên) như người chú thích nguyên bản đã nhầm.

6 Xem chú thích 3 tr.138.

19 Đại Việt Sử Ký Toàn Thư -

Ngoại Kỷ - Quyển II

Lê Văn Hưu nói: Lữ Gia can ngăn Ai Vương và Cù thái hậu không nên xin làm

chư hầu nhà Hán, đừng triệt bỏ cửa quan ở biên giới, có thể gọi là biết

trọng nước Việt vậy. Song can mà không nghe, thì nghĩa đáng đem hết bầy

tôi đến triều đình, trước mặt vua trình bày lợi hại về việc nước Hán, nước

Việt đều xưng đế cả, có lẽ Ai Vương và thái hậu cũng nghe ra mà tỉnh ngộ

Nếu lại vẫn không nghe theo, thì nên tự trách mình mà lánh ngôi [tể tướng],

nếu không thế thì dùng việc cũ họ Y1, họ Hoắc, chọn một người khác trong

hàng con của Minh Vương để thay ngôi, cho Ai Vương được như Thái Giáp2

và Xương Ấp mà giữ toàn tính mệnh, như thế thì không lỗi đường tiến thoái.

Nay lại giết vua để hả lòng oán, lại không biết cố chết để giữ lấy nước,

khiến cho nước Việt bị chia cắt, phải làm tôi nhà Hán, tội của Lữ Gia đáng

chết không dung.

[18a] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Ngũ Lĩnh đối với nước Việt ta là ải hiểm cửa

ngõ của nước cũng như Hổ Lao của nước Trịnh, Hạ Dương của nước Quắc. Làm

vua nước Việt tất phải đặt quân chỗ hiểm để giữ nước, không thể để cho mất

được. Họ Triệu một khi đã không giữ được đất hiểm ấy thì nước mất dòng

tuyệt, bờ cõi bị chia cắt. Nước Việt ta lại bị phân chia, thành ra cái

thế Nam-Bắc vậy. Sau này các bậc Đế Vương nổi dậy, chỗ đất hiểm đã mất

rồi, khôi phục lại tất nhiên là khó. Cho nên Trưng Nữ Vương tuy đánh lấy

được đất Lĩnh Nam, nhưng không giữ được nơi hiểm yếu ở Ngũ Lĩnh, rốt cuộc

đến bại vong. Sĩ Vương tuy khôi phục toàn thịnh, nhưng bấy giờ còn là chư

hầu, chưa chính vị hiệu, sau khi chết lại mất hết; mà các nhà Đinh, Lê, Lý,

Trần chỉ có đất từ Giao Châu trở về Nam thôi, không khôi phục được đất cũ

của Triệu Vũ Đế, cái thế khiến nên như vậy.

Trở lên là. họ Triệu, từ Vũ Đế năm Giáp Ngọ đến Thuật Dương Vương năm Canh

Ngọ

là hết, gồm 5 đời, cộng 97 năm [207 - 111 TCN].

1 Họ Y: tức Y Doãn, quan phụ chính của nhà Thương; sau khi vua Thang chết,

cháu nội là Thái Giáp đáng được nối ngôi, nhưng

Giáp kém đạo đức. Y Doãn bèn đày Giáp đến đất Đồng, sau 3

năm, Thái Giáp hối cải, Y Doãn lại đón về cho làm vua.

Họ Hoắc: là Hoắc Quang, quan phụ chính của nhà Hán. Sau khi Hán Chiêu Đế

chết, theo di chiếu, Quang rước lập Xương Ấp

Vương lên nối ngôi, nhưng Xương Ấp Vương dâm loạn, Quang phế đi mà lập

Tuyên Đế.

2 Xem chú thích NK1, 8b.

20 Đại Việt Sử Ký Toàn Thư -

Ngoại Kỷ - Quyển III

Đạ i Vi ệ t S ử Ký Ngo ạ i K ỷ Toàn Th ư

Quyển III

[1a]

K ỷ Thu ộ c Tây Hán

Tân Mùi, [110 TCN], (Hán Nguyên Phong năm thứ 1). Nước Việt ta đã thuộc về

nhà Hán. Nhà Hán cho Thạch Đái làm Thái Thú 9 quận. (Chế độ nhà Hán lấy

châu lãnh quận, trừ hai quận Châu Nhai, Đạm Nhĩ đều ở giữa biển, còn 7 quận

thuộc về Giao Châu, Đái làm châu Thái thú1. Thời Tây Hán, trị sở

của Thái Thú đặt tại Long Uyên, tức là Long Biên, thời Đông Hán đặt tại Mê

Linh tức là Yên Lăng2. Đến

khi Đái chết, Hán Chiêu Đế lấy Chu Chương thay. Đến cuối đời Vương Mãng,

châu mục Giao Châu là

Đặng Nhượng cùng các quận đóng chặn bờ cõi để tự giữ. Tướng nhà Hán là Sầm

Bành vốn quen thân

với Nhượng, gửi thư cho Nhượng bày tỏ uy đức của nhà Hán. Thế rồi [Nhượng]

bảo Thái thú Giao Chỉ là Tích Quang và Thái thú các quận là bọn Đỗ Mục sai

sứ sang cống hiến nhà Hán. Nhà Hán đều phong cho những người ấy tước hầu.

Bấy giờ là năm Kỷ Sửu thời Hán Quang Vũ năm Kiến Vũ thứ 5 [29]. Tích

Quang người quận Hán Trung, khi ở [1b] Giao Chỉ, lấy lễ nghĩa dạy dân. Lại

lấy Nhâm Diên làm Thái thú Cửu Chân. Diên là người Uyển [huyện]. Tục

người Cửu Chân chỉ làm nghề đánh cá, đi săn, không biết cày cấy. Diên mới

dạy dân khai khẩn ruộng đất, hàng năm cày trồng, trăm họ no đủ. Dân nghèo

không

có sính lễ cưới vợ, Diên bảo các trưởng lại trở xuống bớt bổng lộc ra để

giúp đỡ, cùng một lúc lấy vợ có

đến 2.000 người. Diên coi việc được 4 năm thì bị gọi về. Người Cửu Chân

làm đền thờ. Những người

đẻ con đều đặt tên là Nhâm. Phong tục văn minh của đất Lĩnh Nam bắt đầu từ

hai thái thú ấy.

Kỷ Hợi, [39], (Hán Quang Vũ Lưu Tú, Kiến Vũ năm thứ 15). Thái thú Giao Chỉ

là Tô Định chính

sự tham lam tàn bạo, Trưng Nữ Vương dấy binh đánh.

Trở lên là [kỷ] thuộc nhà Hán, từ năm Tân Mùi đến năm Kỷ Hợi, cộng 149 năm

[110

TCN - 39].

1 Thạch Đái: làm thái thú 9 quận, Cương mục (TB2, 6b) sửa là thứ sử bộ

Giao Chỉ. Nhưng thứ sử là chức quan được đặt vào năm

Nguyên Phong thứ 5 (106 TCN) đời Hán Vũ Đế.

2 Yên Lăng: nay thuộc tỉnh Vĩnh Phú.

[2a]

K ỷ Tr ư ng N ữ V ươ ng

Trưng Vương

Ở ngôi 3 năm.

Vua rất hùng dũng, đuổi Tô Định, dựng nước xưng vương, nhưng vì là vua đàn

bà, không thể

làm nên công tái tạo.

Tên húy là Trắc, họ Trưng. Nguyên là họ Lạc, con gái của Lạc tướng huyện

Mê Linh1, Phong

Châu, vợ của Thi Sách ở huyện Chu Diên2. (Thi Sách cũng là con Lạc tướng,

con hai nhà tướng kết hôn

với nhau. Sách Cương mục tập lãm lấy Lạc làm họ là lầm). Đóng đô ở Mê

Linh.

Canh Tý, năm thứ 1 [40], (Hán Kiến Vũ năm thứ 16). Mùa xuân, tháng 2, vua

khổ vì Thái thú

Tô Định dùng pháp luật trói buộc, lại thù Định giết chồng mình, mới cùng

với em gái là Nhị nổi binh đánh hãm trị sở ở châu. Định chạy về nước. Các

quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng, lấy được [2b] 65

thành ở Lĩnh Nam, tự lập làm vua, mới xưng là họ Trưng.

Tân Sửu, năm thứ 2 [41], (Hán Kiến Vũ năm thứ 17). Mùa xuân, tháng 2, ngày

30, nhật thực. Nhà Hán thấy họ Trưng xưng vương, dấy quân đánh lấy các

thành ấp, các quận biên thùy bị khổ, mới hạ lệnh cho Trường Sa, Hợp Phố và

Giao Châu ta sắp sẵn xe thuyền, sửa sang cầu đường, thông các núi khe, chứa

thóc lương, cho Mã Viện làm Phục Ba tướng quân, Phù Lạc hầu Lưu Long làm

phó sang xâm lược.

Nhâm Dần, năm thứ 3 [42], (Hán Kiến Vũ năm thứ 18). Mùa xuân, tháng giêng,

Mã Viện theo ven biển mà tiến, san núi làm đường hơn nghìn dặm, đến Lãng

Bạc (ở phía tây Tây Nhai của La Thành,

gọi là Lãng Bạc)3 đánh nhau với vua. Vua thấy thế giặc mạnh lắm, tự nghĩ

quân mình ô hợp, sợ không chống nổi, lui quân về giữ Cấm Khê (Cấm Khê, sử

chép là Kim Khê). Quân cũng cho vua là đàn bà, sợ không đánh nổi địch, bèn

tan chạy. Quốc thống lại mất.

[3a] Lê Văn Hưu nói: Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà, hô một tiếng mà các

quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố, cùng 65 thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng,

việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay, có thể thấy hình thế đất Việt

ta đủ dựng được nghiệp bá vương. Tiếc rằng nối sau họ Triệu cho đến trước

họ Ngô, trong khoảng hơn nghìn năm, bọn đàn ông chỉ cúi đầu bó tay, làm tôi

tớ cho người phương Bắc, há chẳng xấu hổ với hai chị em họ Trưng là đàn bà

hay sao? Ôi ! Có thể gọi là tự vứt bỏ mình vậy.

Trở lên là Trưng Nữ Vương, bắt đầu từ năm Canh Tý đến năm Nhâm Dần thì hết,

tất cả 3 năm [40-42].

K ỷ Thu ộ c Đ ông Hán

1 Huyện Mê Linh: thời thuộc Hán bao gồm phần đất tỉnh Vĩnh Phú và một số

huyện thuộc ngoại thành Hà Nội ngày nay.

2 Huyện Chu Diên: thời thuộc Hán ở miền lưu vực sông Đáy (thuộc một phần

đất Hà Tây và Hà Nam Ninh).

3 Ở đây, Toàn thư cho Lãng Bạc là Hồ Tây (Hà Nội), nhưng như vậy là lầm.

Nhiều nhà nghiên cứu đã đoán định Lãng Bạc ở vùng huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà

Bắc ngày nay.

Quý Mão, [Trưng Vương, năm thứ 4], [43], (Hán Kiến Vũ năm thứ 19). Mùa

xuân, tháng giêng,

Trưng Nữ Vương cùng em gái là Nhị chống cự lại với quân nhà Hán, [3b] thế

cô, đều thua chết. Mã Viện đuổi theo đánh quân còn sót là bọn Đô Dương.

Đến huyện Cư Phong thì [bọn Đô Dương] đầu hàng, [Viện] bèn dựng cột đồng

làm giới hạn cuối cùng của nhà Hán. (Cột đồng tương truyền ở trên động Cổ

Lâu1 châu Khâm. Viện có câu thề: "Cột đồng gãy thì Giao Châu diệt".

Người Việt ta đi qua dưới

cột ấy, thường lấy đá chất vào, thành như gò đống, vì sợ cột ấy gãy. Mã

Tổng nhà Đường lại dựng hai

cột đồng ở chỗ cũ của nhà Hán ghi công đức của Mã Viện để tỏ ra mình là

dòng dõi của Phục Ba, nay chưa rõ ở chỗ nào. Hai sông Tả Giang, Hữu Giang

mỗi nơi có một cột). Viện thấy huyện Tây Vu có 3 vạn 3 nghìn hộ, xin chia

làm hai huyện Phong Kê và Vọng Hải, vua Hán nghe theo. Viện lại đắp thành

Kiển Giang ở huyện Phong Khê. Thành đắp tròn như hình cái kén, cho nên

lấy [chữ Kiển]2 làm tên. Nước Việt ta lại thuộc vào nhà Hán. Ba năm sau,

Viện trở về. Người địa phương thương mến Trưng Nữ Vương, làm đền thờ phụng

(đền ở xã Hát Giang, huyện Phúc Lộc3, ở đất cũ thành Phiên Ngung cũng có).

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Họ Trưng giận thái thú nhà Hán bạo ngược, vung tay

hô một tiếng mà

[4a] quốc thống nước ta cơ hồ được khôi phục, khí khái anh hùng há chỉ lúc

sống dựng nước xưng vương, mà sau khi chết còn có thể chống ngăn tai họa.

Phàm gặp những việc tai ương hạn lụt, đến cầu đảo không việc gì là không

linh ứng. Cả bà Trưng em cũng thế. Vì là đàn bà mà có đức hạnh kẻ sĩ, cái

khí hùng dũng trong khoảng trời đất không vì thân chết mà kém đi. Bọn đại

trượng phu há chẳng nên nuôi lấy cái khí phách cương trực chính đại ấy ư ?

Giáp Thìn, [44], (Hán Kiến Vũ năm thứ 20). Từ đây về sau, trải các đời

Hán Minh Đế, Chương Đế, Hòa Đế, Thượng Đế, An Đế, gồm 5 đời, cộng 82 năm,

duy thời Minh Đế có Lý Thiện người huyện Nam Dương làm Tháu thú Nhật Nam,

làm việc chính sự có ân huệ yên dân, khiến cho người khác phong

tục cũng mến chuộng tìm đến. Sau Thiện đổi làm Thái thú Cửu Chân.

Bính Tý, [136], (Hán Thuận Đế Bảo, Vĩnh Hòa năm thứ 1). Thái thú Chu

Xưởng cho là Giao Châu ở ngoài chín châu [4b], ở rìa Bách Việt, dâng biểu

xin đặt phương bá4. Vua Hán để cho Xưởng làm Thứ sử5, cai quản các quận

huyện.

Đinh Sửu, [137], (Hán Vĩnh Hòa năm thứ 2). Người man ở huyện Tượng Lâm,

quận Nhật Nam

(ở địa giới nước Việt Thường xưa), là bọn Khu Liên đánh phá quận huyện,

giết trưởng lại. Thứ sử Giao

Châu là Phàn Diễn đem quân châu và quân Cửu Chân hơn vạn người đi cứu ứng,

nhưng quân lính ngại đi xa. Mùa thu, tháng 7, quân hai quận làm phản đánh

phủ trị, thế chuyển thành mạnh.

Mậu Dần, [138], (Hán Vĩnh Hòa năm thứ 3). Mùa hạ, tháng 5, Thị ngự sử Giả

Xương cùng với các châu quận hợp sức đánh bọn Khu Liên không được, bị Khu

Liên vây đánh hơn một năm, binh lương không thể tiếp tế được. Vua Hán gọi

các công khanh và thuộc lại bốn phủ để hỏi phương lược, các quan đều bàn

nên sai tướng phát 4 vạn quân của bốn châu Kinh, Dương, [5a] Duyện, Dự đi

đánh. Lý Cổ bác

đi, nói rằng: "Các châu Kinh, Dương giặc cướp tụ họp chưa tan; Trường Sa,

Quế Dương đã nhiều lần bị thu thuế bắt lính, nay lại làm rối động, ắt lại

sinh họa nữa. Người các châu Duyện, Dự phải đi xa muôn dặm, chiếu thư thúc

bách, tất phải bỏ trốn. Nam Châu6 thì trời nắng nực, ẩm thấp lại thêm lam

chướng dịch lệ, 10 phần phải chết đến 4, 5 phần. Đường xa muôn dặm, quân

lính mỏi mệt, đến lúc tới Lĩnh Nam

thì đã không kham nổi chiến đấu. Quân đi mỗI ngày 30 dặm mà Duyện, Dự cách

quận Nhật Nam hơn 9

1 Chuyện cột đồng Mã Viện được chép trong một số tài liệu của Trung Quốc,

nhưng đều không ăn khớp với nhau. Cho cột đồng ở

Cổ Lâu (Khâm Châu) chỉ là một thuyết, CMTB2, 13b chép là Cổ Sâm (theo Nhất

Thống Chí của nhà Thanh).

2 Kiển: ổ kén.

3 Nay ở Hát Môn, huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây.

4 Phương bá: gọi chung quan đứng đầu địa phương, nhưng thường chỉ quan

đứng đầu một châu như Thứ sử, Quan sát sứ thời

Hán, Bồ chính sứ thời Minh - Thanh, v.v...

5 Về việc Chu Xưởng dâng biểu, Cương mục ghi rõ: "Khoảng thời Hán Thuận

Đế, Thái thú Giao Chỉ là Chu Xưởng xin lập đất Giao

Chỉ làm một châu, triều đình bàn định không cho, nhưng phong cho Chu Xưởng

làm Thứ sử Giao Chỉ" (CMTB2, 17b, dẫn Tấn Chí). Như vậy nhà Hán chỉ cho

Xưởng làm Thứ sử là chức quan chính thức của người cai quản một châu, còn

việc lập riêng một châu (lĩnh các quận) thì mãi đến năm Kiến An thứ 8 (203)

mới thực hiện.

6 Nam Châu: châu ở phương Nam, chỉ Giao Châu.

nghìn dặm, phải 3 trăm ngày mới đến. Tính lương một người ăn mỗI ngày 5

thăng, thì phải dùng đến 60

vạn hộc gạo, đó là không kể lương thực của tướng lại và lừa ngựa. Đặt quân

ở đấy, chết chóc tất nhiều,

đã không đủ quân chống giặc, lại phải bắt thêm. Thế là xẻo cắt lòng bụng

để chắp vá cho chân tay. Cửu Chân và Nhật Nam chỉ cách nhau 1 nghìn dặm,

lại dân ở đó đi đánh còn không kham nổi, huống chi

lại làm khổ quân lính ở bốn châu [5b] để cứu nạn xa muôn dặm? Trước đây

Trung lang tướng Doãn Tựu đánh người Khương làm phản ở Ích Châu, người Ích

Châu có ngạn ngữ rằng: "Lỗ lai thượng khả, Doãn lai sát ngã" (Giặc đến còn

khá, Doãn đến chết ta). Sau Tựu bị đòi về, đem quân giao cho Phán châu là

Trương Kiều, Kiều vẫn dùng tướng lại của Tựu, chỉ trong khoảng mười hôm,

diệt hết giặc cướp. Thế là bằng chứng tỏ rằng sai tướng đi là vô ích, mà

châu quận có thể dùng được. Nay nên chọn người nào có dũng lược nhân huệ,

có thể làm tướng súy được, cho làm Thứ sử, Thái thú, dời lại dân ở Nhật Nam

đến nương dựa vào quận Giao Chỉ ở Bắc, trở lại chiêu mộ người Man Di, khiến

họ đánh lẫn nhau, chuyển vận hàng lụa đến để cấp cho, kẻ nào có thể phản

gián dụ hàng thì cắt đất phong cho. Thứ sử Tính Châu trước là Chúc Lương

dũng mãnh quyết đoán, Trương Kiều trước ở Ích Châu có công phá giặc, đều có

thể dùng được. Bốn phủ đều theo lời bàn của Cố. Bèn cho Lương làm Thái

thú Cửu Chân, Kiều làm Thứ sử Giao Châu. [6a] Kiều đến nơi, lấy

lòng thành thật dỗ bảo, dân chúng đều hàng phục. Lương đi một xe đến

Cửu Chân, tỏ rõ uy tín, người ra hàng đến vài vạn.

Giáp Thân, [144], (Hán Kiến Khang năm thứ 1). Mùa thu, tháng 8, vua Hán

mất. Mùa đông, tháng 10, người Nhật Nam lại đánh đốt quận ấp. Thứ sử Cửu

Chân là Hạ Phương gọi những kẻ ra hàng

dỗ bảo họ. Sau Phương đổi làm Thái thú Quế Dương, lấy Lưu Tảo thay.

Canh Tý, [160] (Hán Hoàn Đế Chí, Nguyên Gia năm thứ 2). Mùa đông, tháng

11, người quận Cửu Chân lại đóng giữ quận Nhật Nam, quân chúng trở nên mạnh

hơn. Khi ấy Hạ Phương đã đổi làm Thái thú Quế Dương, lại giao cho làm Thứ

sử. Phương vốn có tiếng về uy đức, khi đến Nhật Nam, dân chúng tụ họp hơn

vạn người đem nhau đến đầu hàng Phương.

Mậu Ngọ, [178], (Hán Linh Đế Hoành, Quang Hòa năm thứ 1). Mùa hạ, tháng 4,

người trong châu và bọn Man Ô Hử1 làm loạn đã lâu, mục [6b] thú là Chu

Ngung không ngăn được, người châu là bọn Lương Long nhân đấy dấy binh đánh

phá quận huyện, quân đến vài vạn người.

Tân Dậu, [181], (Hán Quang Hòa năm thứ 4). Vua Hán sai Huyện lệnh Lan Lăng

là Chu Tuấn, người Thượng Ngu quận Cối Kê, sang cứu Ngung. Đường đi qua

quê nhà, Tuấn mộ thêm gia binh cùng

với binh đem đi theo cộng 5 nghìn người, theo hai đường tiến vào. Trước

hết sai xem xét hư thực, tuyên dương uy đức để lay động lòng người rồi quân

bảy quận2 tiến bức, giết được Lương Long, kẻ đầu hàng đến vài vạn người.

Giáp Tý, [183], (Hán Trung Bình năm thứ 1). Đồn binh người châu bắt Thứ sử

Chu Ngung giết

đi, sai người đến cửa khuyết kể tội trạng của Ngung. Vua Hán nghe tâu,

xuống chiếu chọn kỹ quan lại

có tài. Hữu ty tiến cử Giả Tông là người Liêu thành Đông Quận làm Thứ sử

(Tông trước làm Ngự sử). Trước đây những người làm Thứ sử thấy [7a] đất

châu có các thứ ngọc trai, lông trả, tê, voi, đồi mồi, hương lạ, gỗ tốt,

nhiều người không liêm khiết, vơ vét của cải cho đầy, rồi lại xin đổi đi,

cho nên lại dân đều làm phản cả. Kịp khi Tông đến bộ3, xét hỏi tình trạng

làm phản, người ta đều nói rằng chính lệnh trước thuế má nặng quá, trăm họ

không ai không khốn khổ túng thiếu, Kinh sư thì xa, không biết tố cáo vào

đâu, dân không sống nổi, nên tụ họp nhau để chống, chứ không thực sự làm

phản. Tông mới sai người chia đi các nơi để khuyên dỗ, khiến đều yên

nghiệp làm ăn, dụ dỗ những kẻ lưu vong, tha bớt thuế khóa. Rồi giết kẻ

bạo ngược đầu sỏ, chọn quan lại tốt cho giữ quận huyện. Trăm họ được yên,

trên đường ngõ người ta có câu rằng: "Giả phụ lai vãn, sử ngã tiên phản.

Kim kiến thanh bình, bất cảm phục bạn". (Bố Giả đến muộn, khiến ta phản

trước; Nay thấy thanh bình, không dám phản nữa). Tông

coi việc 3 năm, được gọi về làm chức Nghị Lan. Lý Tiến thay. (Lý Tiến là

người Giao Châu ta).

1 Ô Hử: tên tộc thiểu số ở vùng núi Ô Hử thuộc huyện Hoành, tỉnh Quảng Tây

(CMTB2, 24a dẫn Hậu Hán Thư và Nam Châu Dị Vật

Chí cũng ghi Ô Hử ở phía nam Quảng Châu, phía bắc Giao Châu). Nguyên bản

in nhầm là Điểu Hử, chữ Ô dễ nhầm với chữ Điểu.

2 Nguyên bản in nhầm là: "thổ quận binh", đúng ra là "thất quận binh"

(theo Hậu Hán Thư q.71, Chu Tuấn truyện), chữ thất dễ

nhầm với chữ thổ.

3 Tức là bộ Giao Chỉ.

186].

[7b] Bính Dần, [186], (Hán Trung Bình năm thứ 3)1

Lê Văn Hưu nói: Xem sử đến thời nước Việt ta không có vua, bị

bọn thứ sử người Bắc tham tàn làm khổ. Bắc Kinh đường xa, không biết

kêu vào đâu, bất giác xen lẫn cảm thương hổ thẹn, muốn tỏ lòng thành như

Minh Tông nhà Hậu Đường, thường thắp hương khấn trời: xin trời vì nước

Việt ta sớm sinh thánh nhân, tự làm đế nước nhà,

để khỏi bị người phương Bắc cướp vét.

Trở lên là thời thuộc Hán, từ năm Quý Mão đến năm Bính Dần, tất cả 144 năm

[43-

1 Năm này chỉ ghi tên năm Can Chi và niên hiệu nhà Hán, không thấy ghi

việc.

K ỷ S ĩ V ươ ng

Sĩ Vương1

Ở ngôi 40 năm, thọ 90 tuổi.

Vương là người khoan hậu khiêm tốn, lòng người yêu quý, giữ vẹn đất Việt để

đương

đầu với sức mạnh của Tam quốc, đã sáng suốt lại mưu trí, đáng gọi là người

hiền.

[8a] Họ Sĩ, tên húy là Nhiếp2, tự là Ngạn Uy, người huyện Quảng Tín, quận

Thương Ngô. Tổ tiên người Vấn Dương nước Lỗ, hồi loạn Vương Mãng ở Bắc

triều, tránh sang ở đất Việt ta, đến vương là sáu đời. Cha là Tứ, thời Hán

Hoàn Đế làm Thái thú Nhật Nam. Khi còn ít tuổi, vương du học ở kinh đô nhà

Hán, theo học Lưu Tử Kỳ người Dĩnh Xuyên, chuyên trị sách Tả thị Xuân Thu,

có làm chú giải: được

cử hiếu liêm, bổ làm Thượng thư lang, vì việc công bị miễn chức; hết tang

cha, lại được cử mậu tài, bổ làm Huyện lệnh Vu Dương, đổi làm Thái thú Giao

Châu, được tước Long Độ Đình hầu, đóng đô ở Liên Lâu (tức là Long Biên)3.

Sau nhà Trần truy phong làm Thiên Cảm Gia Ứng Vũ Đại Vương.

Đinh Mão, năm thứ 1 [187], (Hán Trung Bình năm thứ 4). Vương có ba em trai

tên là Nhất, Vĩ4

và Vũ. Bấy giờ Thứ sử Chu [8b] Phù bị giặc Di giết chết, châu quận rối

loạn, vương bèn dâng biểu cử Nhất làm Thái thú Hợp Phố, Vĩ làm Thái thú Cửu

Chân, Vũ làm Thái thú Nam Hải. Vương độ lượng khoan hậu, khiêm tốn, kính

trọng kẻ sĩ, người trong nước yêu mến, đều gọi là vương. Danh sĩ nhà Hán

tránh nạn sang nương tựa có hàng trăm người.

Canh Thìn, năm thứ 14 [200], (Hán Hiến Đế Hiệp, Kiến An năm thứ 5). Thứ sử

Lý Tiến dâng lời

tâu lên vua Hán rằng: "Khắp cả thiên hạ đều là bề tôi của vua, thế mà nay

làm quan ở triều đình đều là

sĩ phu ở Trung Châu5 cả, chưa từng khuyến khích người xa". Lời lẽ thiết

tha cảm động, lại viện dẫn nhiều bằng chứng. Vua Hán xuống chiếu cho người

châu ta ai được cử hiếu liêm mậu tài thì cho phép được bổ trưởng lại trong

châu, không được bổ ở Trung châu. Tiến lại dâng sớ nói: "Người được cử làm

hiếu liêm xin cho được như bác sĩ ở mười hai châu, căn cứ theo nhân tài mà

đối xử". [9a] Nhưng hữu ty

sợ rằng người phương xa khoác lác mà chê bai bắt bẻ triều đình, nên không

chuẩn cho. Bấy giờ người nước Việt ta là Lý Cầm làm túc vệ ở đài, bèn rủ

người đồng hương là bọn Bốc Long 5, 6 người, giữa ngày đầu năm các nước

triều hội, đến quỳ lạy ở sân điện tâu rằng: "Ơn vua ban không đều". Hữu ty

hỏi vì cớ

gì? Cầm nói: "Nam Việt ở xa không được trời che, đất chở, cho nên mưa

ngọt không xuống, gió mát không đến". Lời ý khẩn thiết đau đớn. Vua Hán

xuống chiếu an ủi, lấy một người mậu tài nước ta làm Huyện lệnh Hạ Dương,

một người hiếu liêm làm Huyện lệnh Lục Hợp (Cầm là người Giao Châu). Sau

Lý Cầm làm quan đến Tư lệ hiệu úy, Trương Trọng làm Thái thú Kim Thành.

Như thế nhân tài nước Việt ta được cùng tuyển dụng như người Hán là mở đầu

từ Lý Cầm, Lý Tiến vậy. (Trọng người quận Nhật Nam,

1 Tác giả Toàn Thư theo quan điểm chính thống đương thời đề cao nho học,

coi Sĩ Nhiếp là người có công đầu trong việc truyền dạy

chữ Hán ở nước ta. Cương mục (phàm lệ) có nhận xét: "Sĩ Nhiếp theo lệnh

triều đình Trung Quốc phái sang làm Thái thú, không từng xưng vương bao

giờ, thế mà sử cũ cũng chép riêng thành một kỷ, nay tước bỏ đi, chỉ chép

thẳng công việc thời ấy để ghi lấy

sự thực ...". Để tôn trọng tác giả, chúng tôi vẫn giữ đúng nguyên bản,

nhưng chỉ phiên âm chữ "vương" chứ không dịch là vua như đối với các đế

vương khác: hết kỷ Sĩ Vương thì dịch thẳng là Sĩ Nhiếp.

2 Nguyên bản in chữ theo Khang Hy tự điển, đó là lối viết không

chính thức (tục tự) của chữ . Các tự điển cổ dẫn trong

tự điển nói trên đều chua âm đọc hai chữ ấy là Tiếp (hoặc phiên: tô hiệp

thiết; hoặc phiên: tất hiệp thiết) CMTB2, 29a cũng chua âm là Tiếp (tô

thiếp thiết). Nhưng ở đây chúng tôi vẫn phiên là Nhiếp theo thói quen lâu

nay.

3 Liên Lâu: cũng thường đọc là Luy Lâu, ở Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc, nay

còn di tích thành, theo nhiều nhà khoa học, thành Liên

Lâu không phải là Long Biên.

4 Sĩ VĨ, Toàn thư chép với chữ ; theo Tam quốc chí [Sĩ Nhiếp

truyện] tên đúng là chữ (đều âm Vĩ).

5 Tức nội địa Trung Quốc.

khi trước đến Lạc Dương, gặp hội lớn tết Nguyên Đán, Tấn Minh Đế1 hỏi: "Ở

quận Nhật Nam hướng về phía bắc để trông mặt trời phải không?" Trọng đáp

rằng: "Nay trong các quận, có quận gọi là Vân Trung (trong mây), là Kim

Thành (thành vàng), không hẳn phải có thật. Còn như phong khí ấm áp, mặt

trời đứng bóng trên đầu sinh dân [9b] thì vẫn có thế". Xét: Khoảng niên

hiệu Nguyên Gia [424-454] đời Tống Văn Đế, [quân Tống] đi đánh Lâm Ấp ở

phương nam, tháng năm, dựng nêu để đo bóng, thấy mặt

trời ở về phía bắc cây nêu 9 tấc 1 phân2 Giao Châu thì bóng ở về phía nam

cây nêu 3 tấc 3 phân. Giao Châu cách Lạc Thủy hơn 6,7 nghìn dặm. Chỗ dựng

nêu tính đường dây thẳng thì nên bớt đi nghìn dặm. Năm Khai Nguyên thứ 12

[724] thời Đường, đo ở Giao Châu vào ngày hạ chí, bóng ở phía nam cây nêu 3

tấc 3 phân, cũng giống số đo năm Nguyên Gia. Sách Luận Hành của Vương Sung

nói: "Quận Nhật Nam

ở cách Lạc [Dương] gần vạn dặm về phía nam mặt trời." Lý Thuyên nói: "Từ

phủ An Nam đến Trường

An cách 7.250 dặm". Mạnh Quán nói: "Lấy bốn phương mà đo thì An Nam đứng

vào đất cuối cùng của

Trung Quốc").

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Người quân tử đối với lời nói không thể cho qua

được. Ngày xưa Tông Miệt3 nếu không có lời nói thì cùng với cỏ cây mục nát

mà thôi. Lý Cầm không có lời nói thì sao được dùng ở đời, mà

người tài giỏi của nước Việt ta, người phương bắc làm sao biết được?

Lời nói không thể cho qua là vì vậy. Tuy nhiên, đây chỉ nói riêng về nhân

tài thôi, còn như Nhan [Hồi], Mẫn [Tử Khiên] thì không nói thế được.

[10a] Đinh Hợi, năm thứ 21 [207], (Hán Kiến An năm thứ 12). Viên Huy nhà

Hán gửi thư cho Thượng thư lệnh là Tuân Úc rằng: "Giao Châu Sĩ phủ quân4

đã học vấn sâu rộng lại thông hiểu chính trị, trong thời buổi đại loạn, giữ

vẹn được một quận hơn 20 năm, bờ cõi không xảy ra việc gì, dân không mất

nghiệp, những bọn khách xa đến trú chân5 đều được nhờ ơn, dẫu Đậu Dung giữ

đất Hà Tây cũng không hơn được. Khi việc quan có chút nhàn rỗi thì chăm

xem các sách thư, truyện. Phàm những chỗ biên chép không rõ ràng

trong sách Xuân Thu Tả thị truyện, [tôi] đem hỏi, đều được ông

giảng giải cho những chỗ nghi ngờ, đều có kiến giải của bậc thầy, ý tứ rõ

ràng, chặt chẽ. Lại như sách Thượng thư, cả

cổ văn và kim văn, những ý nghĩa to lớn, ông đều hiểu biết tường tận, đầy

đủ. Anh em ông làm quan

coi quận, hùng trưởng một châu, ở lánh ngoài muôn dặm, uy tín không ai hơn.

Khi ra vào thì đánh chuông khánh, uy nghi đủ hết; kèn sáo thổi vang, xe

ngựa đầy đường, người Hồ6 đi sát bánh xe để đốt hương thường có đến mấy

mươi người; vợ cả, vợ lẽ đi xe che kín, bọn con em cưỡi ngựa dẫn quân theo

[10b] hầu, người đương thời ai cũng quý trọng, các man di đều sợ phục, dẫu

Úy Đà cũng không hơn được". (Huy bấy giờ ngụ ở Giao Châu). Sau vua Hán sai

Trương Tân làm Thứ sử. (Tân nhận chức năm Kiến An thứ 6 [221] thời Hán).

Tân thích việc quỷ thần, thường đội khăn đỏ, gảy đàn, đốt hương, đọc sách

Đạo giáo, nói rằng có thể giúp việc giáo hóa, [sau] bị tướng là Khu Cảnh

giết, châu mục Kinh Châu

là Lưu Biểu sai Huyện lệnh Linh Lăng là Lại Cung thay Tân. Vua Hán nghe

tin Tân chết, gửi cho vương

[Sĩ Nhiếp] bức thư có đóng dấu ấn nói rằng: "Giao Châu ở cõi xa, một dải

sông biển ở phía nam, ơn trên không truyền đến, nghĩa dưới bị nghẽn tắc,

thế mà nghịch tặc Lưu Biểu lại sai Lại Cung dòm ngó đất

1 Về việc Trương Trọng giải thích tên gọi quận Nhật Nam, lời chú thích của

Toàn Thư ở đây ghi là trả lời câu hỏi của Tấn Minh Đế

(323-326). Cương mục căn cứ theo Lĩnh Nam di thư ghi là Trọng trả lời câu

hỏi của Hán Minh Đến (58-76) chứ không phải Tấn

Minh Đế. Do đó, nếu kể nhân tài nước ta được tuyển dụng như người Hán thì

phải kể Trương Trọng là người mở đầu (CMTB2,

27).

2 Nguyên văn trong Toàn thư: "Nhật tại biểu bắc cửu thốn nhất phân". Câu

này vô nghĩa vì mặt trời không thể ở phía Bắc nêu 9 tấc

1 phân. Tân Đường thư, q.31, Thiên văn chỉ chép rõ là: "Mặt trời ở phía

bắc, bóng ở Giao Châu ở về phía nam là 3 tấc, ở Lâm Ấp

là 9 tấc 1 phân". Như vậy các số đo ở đây là của bóng cây nêu. Ở Lâm Ấp

cũng như ở Giao Châu, trong tháng năm, mặt trời đều

ở phía bắc và bóng cây nêu đều đổ về phía nam. Nếu cây nêu dùng để đo cùng

một kích thước thì càng ở xa về phía nam, như

Lâm Ấp, bóng càng dài hơn.

3 Tông Miệt: tự Nhiên Minh, người nước Trịnh, thời Xuân Thu, có tiếng là

người hiền nhưng tướng mạo xấu xí. Khi Thúc Hướng nước Tấn sang Trịnh,

Miệt đứng hầu dưới sân, chỉ nghe một lời bàn việc. Thúc Hướng liền biết đó

là Tông Miệt, bèn xuống thềm

dắt tay mời lên.

4 Phủ quân: tức Thái thú. Thời Hán, dinh Thái thú gọi là phủ, do đó gọi

Thái thú là phủ quân.

5 Nguyên văn: "ky lữ", chỉ người Hán tránh loạn ở Trung Quốc chạy sang

nước ta.

6 Hồ nhân: chỉ các nhà sư Ấn Độ, Trung Á đến truyền đạo ở Liên Lâu, trị sở

của bộ Giao Chỉ thời bấy giờ.

27 Đại Việt Sử Ký Toàn Thư -

Ngoại Kỷ - Quyển III

Nam1, nay cho khanh làm Tuy Nam trung lang tướng trông coi bảy quận, lĩnh

Thái thú Giao Châu như cũ". Vương sai thuộc lại là Trương Mân mang đồ cống

sang kinh đô nhà Hán. Bây giờ thiên hạ loạn lạc, đường sá đứt nghẽn, nhưng

vương vẫn không bỏ việc nộp cống. Vua Hán lại xuống chiếu cho làm An Viễn

[11a] tướng quân, phong tước Long Độ Đình hầu. Sau Thái thú Thương Ngô là

Ngô Cự bất hòa với Cung, đem binh đánh đuổi, Cung chạy về Linh Lăng.

Canh Dần, năm thứ 24 [210], (Hán Kiến An năm thứ 15). Ngô Vương là Tôn

Quyền sai Bộ Chất làm Thứ sử Giao Châu. Khi Chất đến, vương đem anh em

đến vâng theo mệnh lệnh. Ngô Vương cho vương làm Tả tướng quân. Sau

vương sai con là Ngẩm2 làm con tin ở nước Ngô, Ngô Vương cho làm Thái thú

Vũ Xương. Các con của vương ở Nam đều cho làm Trung lang tướng. Vương

lại dỗ bảo thổ hào ở Ích Châu là bọn Ung Khải đem dân chúng trong quận phụ

thuộc xa với nước Ngô ở miền đông. Ngô Vương càng khen, thăng làm Vệ tướng

quân, tước Long Biên hầu. Vương thường sai sứ sang nước Ngô dâng các thứ

hương liệu, vải mịn, kể số hàng nghìn. Các thứ quý lạ như ngọc trai, ốc

lớn, lưu ly, lông trả, đồi mồi, sừng tê, ngà voi [11b] cùng các thứ quả lạ

như chuối, dừa, long nhãn, không năm nào không tiến, lại cống ngựa hàng mấy

trăm con. Ngô Vương viết thư ban cho rất hậu để yên ủi và đáp lại.

Lê Văn Hưu nói: Sĩ Vương biết lấy khoan hậu khiêm tốn để kính trọng

kẻ sĩ, được người thân yêu mà đạt đến quý thịnh một thời. Lại hiểu nghĩa,

thức thời, tuy tài và dũng không bằng Triệu Vũ Đế, nhưng chịu nhún mình thờ

nước lớn, để giữ vẹn bờ cõi,

có thể gọi là người trí. Tiếc rằng con nối không gánh vác nổi cơ nghiệp

của cha, để cho bờ cõi nước Việt đã toàn thịnh mà lại bị chia cắt, đáng

buồn thay !

Bính Ngọ, năm thứ 40 [226], (Hán Hậu Chúa Thiện, Kiến Hưng năm thứ 4; Ngô

Tôn Quyền, Hoàng Vũ năm thứ 5). Vương mất. Trước vương ốm, đã chết đi 3

ngày, người tiên là Đổng Phụng cho một viên thuốc hòa vào nước ngậm, rồi đỡ

lấy đầu mà lay [12a] động, mộc chốc lát mở mắt động tay,

sắc mặt bình phục dần dần, ngày hôm sau ngồi dậy được, 4 ngày lại nói được,

rồi trở lại bình thường. (Phụng tên tự là Xương Dị, người huyện Hầu Quan,

sự tích có chép trong Liệt tiên truyện. Hầu Quan là

tên huyện, thuộc Phúc Châu).

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Nước ta thông thi thư, học lễ nhạc, làm một nước

văn hiến, là bắt đầu từ Sĩ Vương, công đức ấy không những chỉ ở đương thời

mà còn truyền mãi đời sau, há chẳng lớn sao? Con không hiền là tội của con

thôi. Tục truyền rằng sau khi vương chết đã chôn, đến cuối thời nhà

Tấn đã hơn 160 năm, người Lâm Ấp vào cướp, đào mộ của vương, thấy

mình mặt vẫn như sống, cả sợ lại đắp lại, người địa phương cho

là thần, làm miếu để thờ gọi là "Tiên Sĩ Vương". Có lẽ là khí tinh anh

không nát, cho nên thành thần vậy. (Đền thờ tại thành cũ Long Biên3)

[12b] Trở lên là [kỷ] Sĩ Vương, từ năm Đinh Mão đến năm Bính Ngọ, tất cả 40

năm

[187-226].

1 Cuối đời Hán Hiến Đế, Lưu Biểu làm Thứ sử Kinh Châu, không thần phục nhà

Hán.

2 Lời chú của Cương mục nói: Con Sĩ Nhiếp là Hàm, sử cũ (tức Toàn Thư)

chép sai là Ngẩm.

3 Đền Sĩ Nhiếp ở thành Liên Lâu và Tam Á gần đó. Toàn thư cho Liên Lâu là

Long Biên nên chú như vậy.

28 Đại Việt Sử Ký Toàn Thư -

Ngoại Kỷ - Quyển IV

Đạ i Vi ệ t S ử Ký Ngo ạ i K ỷ Toàn Th ư

Quyển IV

[1a]

K ỷ Thu ộ c Ngô, T ấ n, T ố ng, T ề , L ươ ng

Đinh Mùi, [227], (Hán Kiến Hưng năm thứ 5; Ngô Hoàng Vũ năm thứ 6), Vua

Ngô nghe tin Sĩ

Nhiếp mất, thấy Giao Châu ở xa cách, mới chia từ quận Hợp Phố trở về bắc

thuộc vào Quảng Châu, cho

Lữ Đại làm Thứ sử; từ quận Hợp Phố trở về nam thuộc vào Giao Châu, cho Đái

Lương làm Thứ sử. Lại

sai Trần Thì làm Thái thú thay Sĩ Nhiếp. Đại ở lại Nam Hải. Lương và Thì

cùng lên đường. Đến Hợp Phố nghe tin ở Giao Châu con Sĩ Nhiếp là Huy đã tự

làm Thái thú, đem tông binh ra chống cự. (Cuối thời nhà Hán, tôn thất nổi

loạn, người Nam cũng tụ họp họ hàng làm binh để tự vệ, cho nên gọi là tông

binh). Lương ở lại Hợp Phố. Thuộc lại của Sĩ Nhiếp là Hoàn Lân cúi đầu

can Huy, xin đón Lương, Huy giận đánh chết Lân.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Từ xưa hễ giết bề tôi can ngăn thì chưa từng không

mất nước. Nước Trần giết [1b] Tiết Dã, nước Tề giết Cô Huyên, việc nước

Trần, nước

Tề đáng làm gương soi, lấy đó làm răn. Thế mà còn có người giết bề tôi căn

ngăn như

Sĩ Huy, nối nghiệp chưa kịp quay gót mà đã phải chết là đáng lắm.

Anh của Lân là Trị và con là Phát lại họp tông binh đánh Huy. Huy đóng cửa

thành để giữ. Bọn

Trị đánh mấy tháng không hạ được thành, bèn giảng hòa và đều bãi binh. Kế

đó Lữ Đại vâng chiếu nước Ngô đánh Huy, đem quân từ Quảng Châu, ngày đêm đi

gấp đến Hợp Phố, cùng với Lương đều tiến,

dụ con của Sĩ Nhiếp là Trung Lang Tướng Khuông1 bảo Huy ra chịu tội, tuy

mất chức quận thú, nhưng bảo đảm không có lo ngại gì khác. Đại theo Khuông

đến sau. Anh Huy là Chi, em Huy là bọn Cán, Tụng

sáu người cởi trần2 đón Đại. Đại mặc áo thường3 đi thẳng đến quận trị.

Sáng hôm sau, Đại bày màn trướng, mời anh em Huy theo thứ tự đi vào. Tân

khách đầy nhà, Đại đứng dậy cầm phù tiết đọc tờ chiếu kể tội Huy, tả hữu

trói quặt [2a] [anh em Huy] đưa ra ngoài, đem chém cả, lấy đầu đưa về Vũ

Xương.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Sĩ Huy cha mất không xin mệnh mà đã tự lập, lại

đem quân chống mệnh, theo nghĩa thì phải đánh. Nhưng Lữ Đại đã dụ [Huy] ra

hàng mà lại giết đi là trái lẽ. Giữ điều tin là báu của nước. Huy đã hàng

cứ trói giải về Vũ Xương, khiến cho việc sinh sát được quyết ở trên, mà uy

tín lan xuống kẻ dưới, há chẳng hay hơn ư? Tôn Thịnh nói: "Hòa với người

phương xa, được lòng người ở gần, không gì hay hơn chữ Tín". Lữ Đại giết

kể đầu hàng để cầu công, người quân tử lấy làm chê cười, xem thế mới biết

họ Lữ không được lâu là phải lắm.

Nhất, Vĩ và Khuông sau mới ra hàng, được Ngô Vương tha tội, cùng với con

tin của Sĩ Nhiếp là Ngẩm, đều giáng làm thứ nhân. Được vài năm, Nhất và Vĩ

có tội bị giết, duy có Khuông ốm chết trước. Đến khi Ngẩm chết, đại [2b]

tướng của Huy là Cam Lễ và Hoàn Trị đem lại dân đánh Đại, Đại đánh tan

1 Cương mục chép Sĩ Khuông là con Sĩ Nhất, tức là cháu chứ không phải con

Sĩ Nhiếp (CMTB3,4a).

2 Nguyên văn: "nhục đản" nghĩa là để mình trần không mặc áo, tỏ ý xin chịu

tội chết.

3 Nguyên văn: "Đại vi phục ...". Theo Tam Quốc Chí, q.5 "Đại từ chối, bảo

mặc áo lại" (Ngô thư, Sĩ nhiếp truyện), ý nghĩa rõ ràng hơn: Lữ Đại vờ tỏ

cho anh em Sĩ Huy hiểu ý không bị tội nặng. Cương mục (TB3, 4a) ngờ câu

văn của Toàn Thư chép sai, đã sửa lại theo tài liệu đã dẫn.

được. Bấy giờ mới bỏ Quảng Châu, đặt lại Giao Châu như cũ. Đại tiến đánh

quận Cửu Chân, chém và

bắt được kể hàng vạn người.

Tân Hợi, [231], (Hán Kiến Hưng năm thứ 9; Ngô Hoàng Vũ năm thứ 3). Người

man Ngũ Khê ở

Vũ Lăng nước Ngô làm phản. Ngô Vương cho là đất miền Nam đã dẹp yên, gọi

Thứ sử Lữ Đại về. Thái

thú Hợp Phố là Tiết Tống1 dâng sớ nói: "Ngày xưa vua Thuấn đi tuần phương

nam, mất ở Thương Ngô, nhà Tần đặt các quận Quế Lâm, Nam Hải, Tượng Quận,

thế thì bốn quận2 ấy nội thuộc đã lâu rồi. Triệu

Đà nổi dậy ở Phiên Ngung, vỗ về thần phục được vua Bách Việt, đó là miền

đất về phía nam quận Châu

Nhai, Hiếu Vũ (nhà Hán) giết Lữ Gia, mở 9 quận, đặt chức Thứ sử ở Giao Chỉ,

dời những người phạm tội

ở Trung Quốc sang ở lẫn vào các nơi ấy, cho học sách ít nhiều, hơi thông

hiểu lễ hóa. Đến khi Tích

Quang làm Thái thú Giao Chỉ, Nhâm Diên làm Thái thú Cửu Chân, dựng nhà học,

dẫn dắt bằng lễ nghĩa.

Từ đấy trở đi, hơn 400 [3a] năm, dân tựa hồ đã có quy củ. Nhưng đất rộng

người đông, núi rừng hiểm trở, dễ làm loạn. Thần từng thấy Hoàng Cái ở

Nam Hải làm Thái thú Nhật Nam, khi đến nơi thấy đồ cung đốn, trần thiết

không đủ, đánh chết người chủ bạ, nhưng rồi cũng bị đánh đuổi. Thái thú

Cửu Chân là Đam Manh vì bố vợ là Chu Kinh mà bày tiệc mời các quan to. Khi

rượu say cho cử nhạc, công

tào Phan Hâm đứng dậy múa, rồi mời Kinh. Kinh không chịu đứng lên, Hâm cứ

thúc ép mãi. Manh nổi giận giết Hâm. Em của Hâm đem quân đến đánh Manh.

Thái thú Giao Chỉ trước là Sĩ Nhiếp sai quân đến đánh dẹp không được. Bấy

giờ Thứ sử Chu Phù phần nhiều cho người làng như bọn Ngu Bao, Lưu Ngạn chia

nhau làm trưởng lại, vơ vét của dân, một con cá vàng thu thóc mộc hộc.

Trăm họ oán ghét làm phản, kéo đi đánh phá châu quận, Phù phải chạy ra

biển. Bộ Chất đã lần lượt làm cỏ, kỷ cương mới được chấn chỉnh lại. Sau

Lữ Đại bình được loạn Sĩ Huy, đổi đặt các trưởng lại, làm sáng tỏ kỷ cương

của nhà vua, uy [3b] danh khắp muôn dặm, lớn nhỏ đều theo. Do đó mà xem

thì giữ yên biên giới, vỗ về dân xa quả thật là ở tại người. Bổ nhiệm các

chức bá mục nên chọn người thanh liêm. Ngoài cõi hoang phục thì họa phúc

lại càng hệ trọng lắm. Nay Giao Châu tuy rằng tạm yên, nhưng còn bọn giặc

lâu nay ở Cao Lương3 bốn quận Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Châu Nhai cũng

chưa yên, trộm cướp thường tụ họp. Nếu Đại không trở lại phương Nam nữa

thì Thứ sử mới nên chọn người nào cẩn thận chu đáo, có phương lược mưu kế

để vỗ về, mới có thể trị yên được. Còn như hạng người thường, chỉ biết giữ

phép thường, không có mưu kỳ chước lạ thì lũ ác nghịch4 ngày thêm nảy

nở5". Ngô Vương lại cho Đại làm Trấn Nam tướng quân, phong tước Phiên

Ngung hầu (có sách chép là phong Ngụy quận Lăng Lệ Công).

Mậu Thìn, [284], (Hán Diên Hy năm thứ 11; Ngô Vĩnh An năm thứ 1)6. Người

Cửu Chân lại đánh hãm thành ấp, châu quận rối động. Ngô Vương cho Hành

Dương đốc quân đô úy Lục Dận (có sách chép là Lục Thương) làm Thứ sử kiêm

hiệu úy. [4a] Dận đến nơi, lấy ân đức tín nghĩa hiểu dụ, dân ra hàng phục

đến hơn 3 vạn nhà, trong châu lại yên. Sau, người con gái ở quận Cửu Chân

là Triệu Ẩu tập họp dân chúng đánh chiếm các quận huyện (Ẩu vú dài 3 thước,

vắt ra sau lưng, thường ngồi trên đầu

voi đánh nhau với giặc). Dận dẹp yên được. (Sách Giao Chỉ chí chép:

Trong núi ở quận Cửu Chân có người con gái họ Triệu, vú dài 3 thước, không

lấy chồng, họp đảng cướp bóc các quận, huyện, thường mặc áo ngắn màu vàng,

chân đi giày mũi cong7, ngồi đầu voi mà chiến đấu, sau chết làm thần)8.

1 Tức là Tiết Kính Văn, như đã chép trong Cương Mục (TB3, 5b).

2 Nguyên văn chép là "tứ quốc", hiểu là bốn quận (quận quốc)

3 Cao Lương: tên huyện, thuộc quận Hợp Phố

4 "Quần ác nhật tư" nguyên bản in nhầm chữ quần thành

chữ quận.

5 Lời sớ của Tiết Tổng chép trong Toàn Thư có khác một số chỗ với văn bản

trong Tam Quốc Chí, Ngô Thư q.8 Tiết Tống Truyện.

6 Năm Mậu Thìn (248) đúng là niên hiệu Diên Hy thứ 11 đời Hán Hậu Thư chúa

Lưu Thiện, nhưng các văn bản Toàn Thư đều in chữ

Hy (trong tên niên hiệu) là đúng ra là chữ .

Lại về niên hiệu tương ứng của nhà Ngô, các bản đều ghi nhầm là

Vĩnh An năm thứ 1, đúng ra là niên hiệu XÍch Ô năm thứ 11 đời Ngô Tôn

Quyền.

7 Nguyên văn chữ Hán: "xỉ lý".

8 Thái bình hoàn vũ ký của Nhạc Sử (thời Tống) cũng có chép sự tích bà

Triệu Ẩu với nội dung tương tự.

Quý Mùi, [263], (Hán Viêm Hưng năm thứ 1, Ngô Vĩnh An năm thứ 16)1. Mùa

xuân, tháng 3,

lúc trước nhà Ngô lấy Tôn Tư làm Thái thú Giao Châu, Tư là người tham bạo,

làm hại dân chúng. Đến đây vua Ngô sai Đặng Tuân đến quận. Tuân lại tự

tiện bắt dân nộp 30 con công đưa về Kiến Nghiệp. Dân sợ phải đi phục dịch

đường xa, mới mưu làm loạn. Mùa hạ, tháng 4, quận lại là Lữ Hưng giết Tư

và Tuân, xin nhà Tấn đặt Thái thú và cho binh. (Xét sách Cương mục chép

là xin nhà Ngụy đặt quan, nhưng đến năm sau. Ngụy nhường ngôi cho Tấn, thì

Ngụy cũng tức là Tấn). Các quận Cửu Chân, Nhật Nam đều hưởng ứng. Năm ấy

[4b] nhà Hán mất.

Giáp Thân, [264], (Ngụy Tào Hoán Hàm Hy năm thứ 1, Ngô Tôn Hạo Nguyên Hưng

năm thứ 1). Mùa thu, tháng 7, nhà Ngô tách Giao Châu, đặt Quảng Châu. Bấy

giờ Ngô đã phụ vào Tấn. Nhà Tấn cho Lữ Hưng làm An Nam tướng quân đô đốc

Giao Châu chư quân sự, cho Nam Trung giáp quân là Hoắc Dặc xa lĩnh2 Thứ sử

Giao Châu, cho được tùy nghi tuyển dụng trưởng lại. Dặc dâng biểu tiến cử

Thoán Cốc (có sách chép là Phần Cốc) làm Thái thú, đem thuộc lại là bọn

Đổng Nguyên, Vương Tố đem quân sang giúp Hưng, nhưng chưa đến nơi thì Hưng

đã bị công tào là Lý Thống giết. Cốc cũng chết (có sách chép Cốc ốm chết).

Ất Dậu, [265], (Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm, Thái Thủy năm thứ 1, Ngô Cam Lộ năm

thứ 1), Vua Tấn sai Mã Dung người Ba Tây thay Hưng. Dung ốm chết. Dặc

lại sai Dương Tắc người Kiện Vi thay Dung làm Thái thú.

[5a] Mậu Tý, [268], (Tấn Thái Thủy năm thứ 4, Ngô Bảo Đỉnh năm thứ 3). Nhà

Ngô lấy Lưu Tuấn làm Thứ sử. Tuấn cùng với Đại đô đốc Tu Tắc3 và Tướng

quân Cố Dung trước sau 3 lần đánh Giao Châu. [Dương] Tắc đều chống cự và

đánh tan được cả. Các quận Uất Lâm, Cửu Chân đều theo về Tắc. Tắc sai

tướng quân là Mao Linh4 và Đổng Nguyên đánh quận Hợp Phố, giao chiến ở Cổ

Thành (tức là thành quận Hợp Phố), đánh tan quân Ngô, giết Lưu Tuấn và Tu

Tắc, dư binh tan chạy về Hợp Phố, Dương Tắc nhân đó dâng biểu cử Mao Linh

làm thái thú Uất Lâm, Đổng Nguyên làm Thái thú Cửu Chân.

Kỷ Sửu, [269], (Tấn Thái Thủy năm thứ 5, Ngô Kiến Hành năm thứ 1). Mùa

đông, tháng 10, nhà Ngô sai Giám quân Nhu Phiếm, Uy Nam tướng quân Tiết Hủ

và Thái thú quận Thương Ngô người Đan Dương là Đào Hoàng theo đường

Kinh Châu sang; Giám quân Lý Đỉnh, Đốc quân Từ Tồn theo đường

biển Kiến An sang, đều hội ở Hợp Phố để đánh [Dương] Tắc (Lý Đỉnh có sách

chép là Lý Húc).

Tân Mão, [271], (Tấn Thái Thủy năm thứ 7, Ngô Kiến Hành năm thứ 3). Mùa

hạ, tháng 4, Ngu

Phiếm, Tiết Hủ, Đào Hoàng chống nhau với Tắc, đánh nhau [5b] ở sông Phần5

Đào Hoàng thua, lui về

giữ Hợp Phố, chết hai tướng. Hủ giận bảo Hoàng: "Ngươi tự dâng biểu xin đi

đánh giặc mà để chết mất

hai tướng thì trách nhiệm ở đâu?" Hoàng nói: "Hạ quan không được làm theo

ý mình, quân sĩ không hòa thuận, cho nên đến nỗi thua như thế". Hũ chưa

nguôi giận, muốn đem quân trở về. Đêm ấy, Hoàng đem mấy trăm quân đánh úp

Đổng Nguyên, lấy được của báu, chở thuyền đem về. Hủ bèn tạ lỗi, cho Hoàng

lĩnh chức Tiền bộ đô đốc Giao Châu. Hoàng lại theo đường biển, nhân khi

bất ngờ, tiến thẳng đến châu. Nguyên chống cự. Các tướng muốn đánh, Hoàng

ngờ bên trong chỗ cầu gãy có phục binh, bèn dàn riêng một đội quân giáo dài

ở đằng sau. Quân hai bên vừa mới giao chiến, Nguyên giả cách lui, Hoàng

đuổi theo, phục binh quả nhiên kéo ra. Quân giáo dài quay lại đánh, phá

tan bọn Nguyên, giết Nguyên [tại trận], lấy những thuyền chở hàng hóa báu

vật và mấy nghìn tấm thổ cẩm cướp được trước đây đem cho tướng giặc Phù

Nghiêm là Lương Tề6. Tề đem [6a] hơn vạn người đến giúp Hoàng. Bấy

1 Năm Quý Mùi (263), là niên hiệu Vĩnh An năm thứ 6 đời Ngô Tôn Hưu (Cảnh

Đế), chứ không phải Vĩnh An năm thứ 16 như

nguyên bản đã lầm.

2 Nguyên văn: "Dao lĩnh", nghĩa là lĩnh chức cai trị ở một nơi xa mà không

cần phải đích thân đến đóng trị sở nơi ấy.

3 Nguyên bản in là Thái đô đốc, nên sửa là Đại đô đốc, theo Thông giám và

Tấn thư, Đào Hoàng truyện, CMTB3, 11b chép chức quan của Tu Tắc là Bộ đốc.

4 Mao Linh: các tài liệu của Trung Quốc như Thông Giám cương mục, Tam quốc

chí - Tôn Hạo truyện, Tấn Thư - Đào Hoàng truyện

đều chép là Mao Cảnh ; CMTB3, 11b cũng sửa là Mao Cảnh.

5 Sông Phần: ở huyện Tân Hội, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.

6 CMTB3, 13a chép là Lương Kỳ.

giờ Dương Tắc lấy tướng của mình là Vương Tố thay Nguyên. Dũng tướng của

Nguyên là Giải Hệ cùng ở

trong thành. Hoàng sai em [của Hệ] là Tượng viết thư gửi cho Hệ, lại sai

Tượng ngồi xe ngựa, đánh trống thổi sáp, dẫn đường cho mình đi theo. Bọn

Tố bảo nhau rằng: "Tượng như thế, Hệ tất có ý bỏ bọn

ta để đi theo". Bèn giết Hệ. Bọn Hủ và Hoàng bèn đánh lấy châu. Nhà Ngô

nhân đó dùng Đào Hoàng làm Thứ sử. Hoàng là người có mưu lược, chu cấp kẻ

nghèo khốn, ưa bố thí, được lòng người, ai ai cũng

vui lòng giúp việc, đến đâu cũng có công trạng. Trước đây vua Tấn cho

Dương Tắc làm Thứ sử Giao Châu, Mao Miện1 làm Thái thú, ấn thao chưa gửi

đến mà Tắc và Miện đã thua chết rồi. Nhân đó vua Tấn truy tặng Tắc, Miện,

Tùng, Năng (Tùng, Năng không kê cứu được2) tước Quan nội hầu. Công tào

quận Cửu Chân là Lý Tộ giữ quận mà phụ theo nhà Tấn, Hoàng sai tướng đi

đánh, không được. Cậu của Tộ là

Lê Hoàn (có sách chép là Lê Minh) theo quân [của Hoàng], khuyên Tộ hàng, Tộ

gay gắt trả lời: "Cậu

[6b] là tướng nước Ngô, Tộ là bề tôi nước Tấn, chỉ có thể dùng sức mà đối

xử với nhau thôi". Quân của

Hoàng phải đánh, giờ lâu mới hạ được thành.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Bề tôi giữ đất, nếu ai cũng có lòng như lòng Lý Tộ

thì có thể gọi

là trung với chúa mình thờ.

Vua Ngô cho Đào Hoàng làm Thứ sử trì tiết đô đốc Giao Châu chư quân sự.

Dưới thời các tướng quân châu mục trước kia, các quận Vũ Bình, Cửu Đức, Tân

Xương, địa thế hiểm trở, người Di Lão hung tợn, đã mấy đời không chịu thần

phục, Hoàng đi đánh, dẹp yên được, mở thêm đất, đặt 3 quận, và hơn

30 huyện ở các nước phụ thuộc với quận Cửu Chân3. Sau vua Ngô lấy Hoàng

làm Đô đốc Vũ Xương, cho Thái thú Hợp Phố là Tu Nguyên4 thay. Dân địa

phương đến hàng nghìn người xin lưu Hoàng lại, bởi thế cho Hoàng trở về

nhiệm sở cũ. Sau vua Ngô hàng nhà Tấn, tự tay viết thư sai Mã Tức Dung5

khuyên Hoàng quy thuận [nhà Tấn]. Hoàng khóc mấy ngày, rồi sai sứ mang ấn

[7a] thao về Lạc Dương. Vua Tấn xuống chiếu cho phục chức, phong cho Hoàng

tước Uyển Lăng hầu, lại đổi làm Quán quân tướng quân. Hoàng ở châu 30 năm,

tỏ ra người có ân có uy, được người địa phương yêu mến. Đến khi chết,

cả châu khóc thương như mất cha mẹ hiền. Vua Tấn lấy Viên ngoại lang tán

kỵ thường thị là Ngô Ngạn làm Đô đốc thứ sử. Khi Hoàng mới mất, các thú

binh ở Cửu Chân làm loạn, đuổi Thái thú, người cầm đầu là Triệu Chỉ vây

quận trị, Ngạn dẹp yên cả. Ngạn giữ chức 25 năm, ân uy rõ rệt, dân trong

châu yên

ổn, sau dâng biểu xin cho người thay. Vua Tấn cho Viên ngoại lang tán kỵ

thường thị là Cố Bí thay. Bí là người ôn hòa, nhã nhặn, cả châu yêu mến,

không được bao lâu thì mất. Người trong châu cố ép con của

Bí là Tham trông coi việc châu. Sau Tham chết, em là Thọ trông coi việc

châu, người châu không nghe. Thọ cố nài, bèn được coi việc châu. Rồi giết

trưởng lại là bọn Hồ Triệu, lại toan giết đốc quân dưới trướng [7b] là

Lương Thạc. Thạc chạy thoát được, dấy binh đánh, bắt được Thọ. Mẹ Thọ sai

lấy thuốc độc giết chết. Thạc bèn chuyên quyền (có sách chép là cả mẹ của

Thọ cũng bị giết bằng thuốc độc), nhưng sợ dân tình không theo, bèn cho con

trai của Hoàng là Uy [đang làm] Thái thú Thương Ngô về lĩnh chức Thứ sử

[Giao Châu]. Uy ở chức rất được lòng dân, được 30 năm6 thì chết. Em trai

Uy là Thục, con trai [của Uy] là Tuy7 nối nhau làm thứ sử. Từ Cơ đến Tuy

bốn đời đều làm Thứ sử. Cơ là ông nội

của Hoàng8.

1 Mao Miện nói ở đây (và ở 2 dòng tiếp theo) đúng ra vẫn là Mao Cảnh mà ở

tờ 5a Toàn thư đã chép nhầm là Mao Linh.

2 CMTB3, 13b theo Tấn Thư q.57 chép đủ họ tên là Lý Tùng và Thoán Năng.

3 Nguyên văn: ".... cập cửu quân thuộc quốc tam thập dư huyện" (và 30

huyện ở các nước phụ thuộc với 9 quận). CMTB3, 14b đã sửa lại cho đúng là

"Cửu Chân thuộc quốc ..."

4 CMTB3, 14b Tấn Thư (Đào Hoàng truyện) đều chép là Tu Doãn (hai chữ: Doãn

và Nguyên dễ nhầm với nhau)

5 Mã Tức Dung: đoạn này Toàn Thư dùng sử liệu của Tấn thư, Đào Hoàng

truyện, mà ở truyện ấy chép là: "khiển Hoàng Tức Dung

..."; Thông giám q.81 đã sửa lại là; "khiển Đào Hoàng chi tử Dung" (sai con

của Đào Hoàng là Dung). Như vậy Mã Tức Dung nói

đây đúng ra là Đào Dung, con của Đào Hoàng).

6 Tấn thư, Đào Hoàng truyện chỉ ghi "tam niên" (?).

7 Việt sử lược, q.1, 6a lại chép Tuy là con Thục.

8 Tấn thư, Đào Hoàng truyện chép Cơ là cha của Hoàng.

Mậu Dần, [318], (Đông Tấn Nguyên Đế Tư Mã Duệ, Đại Hưng1 năm thứ 1). Mùa

đông, tháng

10, vua Tấn xuống chiếu cho Thứ sử Quảng Châu là Đào Khản làm Đô đốc Giao

Châu chư quân sự.

Nhâm Ngọ, [322], (Tấn Vĩnh Xương năm thứ 1). Vương Đôn nhà Tấn lấy Vương

Lượng làm

Thứ sử, sai đánh Lương Thạc. Thạc đem quân vây Lượng ở Long Biên.

[8a] Quý Mùi, [323], (Tấn Minh Đế Thiệu, Thái Ninh năm thứ 1). Mùa xuân,

tháng 2, Đào

Khản sai quân đi cứu Vương Lượng, chưa đến nơi thì Lương Thạc đã lấy được

Long Biên rồi. Thạc đoạt

lấy cờ tiết của Lượng, Lượng không cho, Thạc bèn chặt tay trái của Lượng,

Lượng nói: "Chết còn không tránh, chặt cánh tay thì làm gì?". Được hơn 10

ngày thì Lượng chết. Thạc chiếm châu, hung bạo mất lòng dân. Đào Khản sai

tham quân là Cao Bảo sang đánh, chém chết Thạc. Vua Tấn cho Khản lĩnh chức

Thứ sử Giao Châu, thăng hiệu là Chinh Nam đại tướng quân, được mở phủ riêng

nghi thức như tam ti. Không bao lâu, Thị lang Lại bộ là Nguyễn Phóng xin

làm Thứ sử, vua Tấn bằng lòng. Phóng đến Ninh Phố gặp Cao Bảo, mời Bảo

đến dự cơm, đặt phục binh muốn giết Bảo. Bảo biết chuyện, liền đem quân

đánh Phóng (Phong là cháu họ của Hàm). Phóng chạy thoát, đến châu được

chốc lát thì khát nước quá

mà chết.

Quý Sửu, [353], (Tấn Mục Đế San, Vĩnh Hòa năm thứ 9). Mùa xuân, tháng 3,

Nguyễn Phu nhà

Tấn làm Thứ sử Giao Châu. Phu đánh [8b] nước Lâm Ấp2, phá được hơn 50 lũy.

(Trước đây nhà Tấn

khi đã bình được nhà Ngô, trưng binh ở Giao Châu3, Thứ sử Giao Châu là Đào

Hoàng dâng thư nói: "Giao Châu ngoài cách Lâm Ấp chỉ vài nghìn dặm4. Tướng

Di [Lâm Ấp] là Phạm Hùng đời đời trốn tránh làm giặc, tự xưng vương, nhiều

lần đánh phá trăm họ. Vả lại [nước ấy] liền với nước Phù Nam, rất nhiều

chủng người, bè đảng dựa nhau, cậy thế đất hiểm không chịu thần phục. Khi

trước còn thuộc nước Ngô

thì nhiều lần cướp bóc dân lành, phá quận huyện, giết hại trưởng lại.

Thần trước kia được nước cũ

[Ngô] dùng, cho đóng giữ phương Nam hơn 10 năm, tuy đã trừ được những tên

đầu sỏ, nhưng ở chốn

núi sâu hang cùng vẫn còn có kẻ trốn tránh. Lúc đầu số quân của thần trông

coi là 8 nghìn. Vì đất Nam

ẩm thấp, có nhiều khí độc, liền năm đánh dẹp, ốm chết hao hụt, hiện nay chỉ

còn 2.400 người. Nay bốn biển thống nhất, không còn lo kẻ nào không thần

phục, đáng lẽ nên cuốn giáp hủy gươm [...]5. Phàm việc phong trần, biến

đổi thường xảy ra thình lình. Thần là người sót thừa của nước đã mất, lời

bàn không có gì khả thủ". Tấn Vũ Đế nghe theo, đến nay còn thấy hiệu

nghiệm).

Canh Thìn, [380], (Tấn Vũ Đế6, Xương Minh, Thái Nguyên năm thứ 5). Mùa

đông, tháng 10, Thái thú Cửu Chân là Lý Tốn chiếm châu làm phản.

Tân Tỵ, [381], (Tấn Thái Nguyên năm thứ 6). Thái thú Giao Châu là Đỗ Viện

chém được Lý Tốn, trong cõi lại được yên, thăng cho Viện làm thứ sử Giao

Châu1. (Viện người Chu Diên nước ta. Sách Giao Chỉ chí chép vào mục nhân

vật nước ta, xếp sau Sĩ Nhiếp).

1 Đại Hưng: đúng tên niên hiệu này là Thái Hưng (318-321)

2 Tên nước Lâm Ấp được nhắc đến từ thời Hậu Hán (Tấn thư, Lâm Ấp truyện) ở

phần đất mà thời Hán gọi là huyện Tượng Lâm, phía nam quận Nhật Nam.

Khoảng thời Đường, nước này được thư tịch Trung Quốc nhắc đến với cái tên

Hoàn Vương, sau đó là Chiêm Thành.

3 Nguyên văn: "Sơ, Tấn bình Ngô, trưng Giao Châu binh" ... Theo Tấn Thư,

Đào Hoàng truyện thì năm này vì đã bình được nhà

Ngô, cho nên nhà Tấn giảm bớt số quân ở Giao Châu (giản Giao Châu binh),

chứ không phải trưng binh ở Giao Châu. Đào Hoàng

vì muốn xin xét lại việc giảm quân đó, cho nên mới viết thư này.

4 CMTB3, 16a theo Tấn Thư, Đào Hoàng truyện sửa là "chỉ bảy trăm dặm", hợp

lý hơn.

5 Đoạn này Toàn Thư chép tóm tắt phần sau bức thư của Đào Hoàng, nhưng

ngắt không trọn câu (cũng có thể chỉ là do sao chép hoặc khắc in bỏ sót

cách quảng) tạo ra một câu tối và trái nghĩa: "đương quyến giáp tiêu binh,

lính kỳ tổn ước, dĩ thị đơn nhược" (nên cuốn giáp, hủy binh khí, khiến cho

nó giảm bớt, để tỏ ra đơn độc yếu đuối). Đúng ra, theo Tấn Thư, Đào Hoàng

truyện thì trong đoạn thư này Đào Hoàng nói một ý trái lại với câu đã dịch:

"Đáng lẽ nên cuốn giáp hủy gươm, chăm lo về đường lễ nghĩa. Nhưng mà người

châu này lại không thích yên vui, ưa làm những sự khởi loạn [....] Vậy thì

số quân ở châu chưa nên giảm bớt để

tỏ ra đơn độc yếu đuối". Khi dùng lại sử liệu này, Cương mục đã khôi phục

đầy đủ đoạn sau bức thư của Đào Hoàng, lấy thêm hơn 1 trăm chữ (Xem CMTB3,

16b).

6 Sử đúng là Tấn Hiếu Vũ Đế.

[9a] Kỷ Hợi, [399], (Tấn An Đế Đức Tông, Long An năm thứ 3). Mùa xuân,

tháng 3, vua nước

Lâm Ấp là Phạm Hồ Đạt đánh lấy Nhật Nam và Cửu Chân, rồi vào cướp Giao

Châu. Đỗ Viện đánh tan

được.

Tân Hợi, [411], (Tấn Nghĩa Hy năm thứ 7). Mùa hạ, tháng 4, Thái thú quận

Vĩnh Gia là Lư Tuần chạy sang [Giao Châu]. Trước đó, khi Thứ sử Đỗ Viện

chết (có sách nói Viện vốn người Kinh Triệu, ông

là Nguyên, làm Thái thú Hợp Phố, nhân đó Viện mới đến ở Giao Chỉ), vua Tấn

cho con là Tuệ Độ thay làm Thứ sử. Chiếu thư chưa đến nơi, Tuần đã đánh

phá Hợp Phố, tiến thẳng đến Giao Châu. Tuệ Độ đem các quan văn võ ở châu

phủ chống nhau với Tuần ở Thạch Kỳ2, đánh tan được. Quân của Tuần sống

sót khoảng 2 nghìn người. Dư đảng của Lý Tốn là bọn Lý Thoát kết tụ với

dân Lý, Lạo hơn 5 nghìn người để ứng theo Lư Tuần, ngày Canh Tý kéo đến bờ

nam Long Biên. Tuệ Độ bỏ hết gia tài để thưởng quân sĩ, cùng Tuần giao

chiến, ném đuốc đuôi trĩ đốt thuyền bè của Tuần, cho bộ binh áp bờ sông bắn

xuống. Thuyền của Tuần cháy hết, [9b] bèn tan vỡ. Tuần biết thế nào cũng

chết, bỏ thuốc độc cho vợ con chết trước rồi gọi các nàng hầu con hát hỏi

rằng: "Ai có thể theo ta?" Phần nhiều đều trả lời: "Con

sẻ, con chuột còn tham sống, chết theo thì khó lắm". Cũng có người nói:

"Quan còn phải chết, chúng tôi

há lại muốn sống". Tuần bèn giết hết những kẻ không chịu chết theo, rồi

gieo mình xuống sông mà chết. Tuệ Độ sai nhặt xác đem chém đầu, cùng với

vợ con của Tuần và bọn Thoát, đều lấy đầu đóng hòm đưa về Kiến Khang3.

Quý Sửu, [413], (Tấn Nghĩa Hy năm thứ 9). Mùa xuân, tháng 2, vua nước Lâm

Ấp là Phạm Hồ

Đạt cướp quận Cửu Chân. Tuệ Độ đánh chém được.

Ất Mão, [415], (Tấn Nghĩa Hy năm thứ 11). Mùa đông, tháng 12, quân Lâm

Ấp cướp Giao

Châu. Tướng châu đánh bại được.

Canh Thân, [420], (Tấn Cung Đế Đức Văn, Nguyên Hy năm thứ 2; Tống Vũ Đế Lưu

Dụ, Vĩnh Sơ năm thứ 1). Mùa thu, tháng 7, Tuệ Độ đánh Lâm Ấp, phá được,

chém giết đến quá nửa. Lâm Ấp xin hàng, Tuệ Độ cho. Những người trước sau

bị [Lâm Ấp] cướp bắt [10a] đều được trả về cả. Tuệ Độ ở Giao Châu, mặc áo

vải, ăn cơm rau, cấm thờ nhảm, sửa nhà học, năm đói kém thì lấy lộc riêng

để chẩn cấp, làm việc cẩn thận chu đáo cũng như việc nhà, lại dân sợ mà

yêu. Cửa thành đêm vẫn mở, ngoài đường không ai nhặt của rơi. Khi Tuệ Độ

chết, tặng chức Tả tướng quân, cho con là Hoằng Văn làm Thứ

sử. Năm ấy nhà Tấn mất.

Đinh Mão, [427], (Tống Văn Đế Nghĩa Long, Nguyên Gia năm thứ 4). Mùa hạ,

tháng 4, ngày Canh Tuất, vua Tống gọi Hoằng Văn về làm Đình Úy, cho Vương

Huy Chi làm Thứ sử. Bấy giờ Hoằng Văn đang ốm, cố ngồi xe lên đường, có

người khuyên chờ khỏi ốm hãy đi. Hoằng Văn nói: "Nhà ta ba

đời cầm phù tiết, thường muốn đem mình sang chầu sân vua, huống chi nay lại

được gọi về". Bèn cứ đi, chết ở Quảng Châu.

Tân Mùi, [431], (Tống Nguyên Gia năm thứ 8). Vua nước Lâm Ấp là Phạm Dương

Mại cướp phá quận Cửu Chân, bị quân châu đánh lui.

[10b] Nhâm Thân, [432], (Tống Nguyên Gia năm thứ 9). Mùa hạ, tháng 5, vua

Lâm Ấp là Phạm Dương Mại sai sứ sang cống nước Tống, xin lĩnh Giao

Châu. Vua Tống xuống chiếu trả lời vì đường xa không cho.

Lê Văn Hưu nói: [Dù khỏe như] Bôn và Dục4 mà lúc còn thơ ấu cũng không thể

chống nổi người què, người thọt đã tráng niên. Nước Lâm Ấp thừa lúc

nước Việt ta

1 CMTB3, 22b dẫn Tống Thư và Lương Thư xác định Đỗ Viện làm Thứ sử Giao

Châu năm Long An thứ 3 (399) và năm đó cũng có

việc quân Lâm Ấp đánh phá Giao Châu. Toàn Thư ở đây chép vào năm Tân Tỵ

(381), sát liền trên mục năm Kỷ Hợi (399), có thể

do sao chép văn bản sai vị trí.

2 Thạch Kỳ: tên trấn, ở phía Nam phủ trị Giao Châu (CMTB3, 24a).

3 Kiến Khang: kinh đô nhà Đông Tấn, vốn là Kiến Nghiệp, vì kiêng húy Tấn

Mẫn Đế, đổi thành Kiên Khang, tức Nam Kinh, Trung

Quốc ngày nay.

4 Theo truyền thuyết Trung Quốc, Mạnh Bôn là dũng sĩ thời Chiến Quốc, có

thể nhổ được sừng bò; Hạ Dục, người nước Vệ thời

Xuân Thu, có thể nhổ được đuôi bò.

không có vua, đến cướp Nhật Nam và Cửu Chân rồi xin quản lĩnh cả [Giao

Châu], có phải

bấy giờ nước Việt ta không thể chống nổi nước Lâm Ấp ấy đâu! Chỉ vì không

có người thống suất mà thôi ! Thời không bĩ mãi, tất có lúc thái. Thế

không khuất mãi, tất có lúc duỗi. Lý Thái Tông chém đầu vua nước ấy là Sạ

Đẩu, Lý Thánh Tông bắt vua nước ấy là Chế Củ, bắt làm tù dân nước ấy 5 vạn

người, đến nay vẫn còn phải chịu làm tôi tớ, cũng

đủ để rửa được mối hận thù hổ thẹn của mấy năm ô nhục này.

[11a] Bính Tý, [436], (Tống Nguyên Gia thứ 13)1. Mùa xuân, tháng 2, vua

Tống sai Thứ sử Giao Châu là Đàn Hòa Chi đánh Lâm Ấp. Trước kia, vua Lâm

Ấp là Phạm Dương Mại tuy sai sứ sang cống, nhưng vẫn không thôi việc cướp

bóc, cho nên vua Tống sai Hòa Chi đi đánh. Bấy giờ người quận Nam Dương là

Tông Xác, nếp nhà đời đời Nho học, riêng Xác thích việc võ, thường nói:

"Muốn cưỡi gió

lớn mà phá sóng muôn dặm". Đến khi Hòa Chi đi đánh Lâm Ấp, Xác hăng hái

xin đi theo quân. Vua Tống cho Xác làm Chấn vũ tướng quân. Hòa Chi sai

Xác làm tiên phong. Dương Mại nghe tin quân Tống sang, sai sứ dâng biểu

xin trả lại những người dân Nhật Nam bị bắt và nộp một vạn cân vàng, mười

vạn cân bạc. Vua Tống xuống chiếu bảo Hòa Chi: "Nếu Dương Mại thực có lòng

thành, cũng cho quy thuận". Hòa Chi đến đóng ở đồn Chu Ngô (huyện Chu Ngô

từ thời Hán đến giờ thuộc quận Nhật Nam, bấy giờ

đặt đồn thú ở đấy), sai Hộ tào tham quân của phủ là bọn Khương Trọng Cơ

(phủ là phủ thứ sử Giao

Châu) đi trước [11b] đến gặp Dương Mại, bị Dương Mại bắt giữ. Hòa Chi

giận, tiến vây tướng của Lâm

Ấp là Phạm Phù Long ở thành Khu Túc2. Dương Mại sai tướng là Phạm Côn Sa

Đạt đến cứu. Xác lén đem quân đón đánh [Phạm] Con Sa Đạt, phá tan được.

Tháng 5, bọn Hòa Chi hạ thành Khu Túc, chém Phù Long, thừa thắng tiến vào

Tượng Phố3. Dương Mại dốc sức cả nước ra đánh, lấy các vật che bọc mình

voi, trước sau không hở. Xác nói: "Ta nghe nước ngoài có giống sư tử, oai

phục được trăm loài thú". Bèn làm hình sư tử để chống lại voi, voi quả

nhiên sợ chạy. Quân Lâm Ấp thua to. Hòa Chi thắng được Lâm Ấp, Dương Mại

cùng với con đều chỉ chạy thoát thân, thu được đồ châu báu lạ không biết

bao nhiêu mà kể. Riêng Tông Xác không lấy một thứ gì, ngày về nhà cũng chỉ

có khăn áo xác xơ.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Có tài hữu dụng thì không thể không đem ra thi

thố, há câu nệ vì thói đời [12a]4 hay sao? Người ta lập chí mỗi người một

khác. Người có chí

về đạo đức thì công danh không thể động được lòng, người có chí về công

danh thì phú quý không thể động được lòng. Chí của Tông Xác có lẽ ở công

danh chăng ? Ngày trở

về nhà, tài vật không lấy một thứ gì, đó thực sự là phú quý không thể động

được lòng.

So với người có chí về đạo đức, cố nhiên không thể kịp, nhưng so với người

có chí về

phú quý thì hạng ấy còn kém xa.

Đinh Sửu, [437], (Tống Nguyên Gia năm thứ 14). Mùa đông, tháng 10, ngày

Nhâm Ngọ, Đàn

Hòa Chi bỏ quan về.

Mậu Thân, [468], (Tống Minh Đế Úc5, Thái Thủy năm thứ 4). Mùa xuân, tháng

3, Thứ sử Lưu Mục ốm chết. Người châu là Lý Trường Nhân giết những bộ

thuộc của châu mục đem từ Trung Quốc sang rồi chiếm giữ châu làm phản, tự

xưng là Thứ sử.

Mùa thu, tháng 8, vua Tống lấy Nam Khang tướng là Lưu Bột làm Thứ sử Giao

Châu. Bột đến, bị

Trường Nhân [12b] chống cự, không bao lâu thì chết. Tháng 11, Lý Trường

Nhân sai sứ xin hàng và tự

hạ xuống chức Hành Châu sự1. Vua Tống y cho.

1 CMTB3, 27a sửa là năm Bính Tuất, niên hiệu Nguyên Gia thứ 23 (Theo Tống

thư q.5 Đế kỷ, q.97 Nam Di Truyện). Nam Tề thư

Lâm Ấp truyện, chép việc này vào năm Nguyên Gia thứ 22 (445).

2 CMTB3, 26 chép tên thành là Khu Lật và dẫn Thủy kinh chú để chú thích về

thành này. Vị trí thành Khu Túc trước nay có nhiều ý kiến khác nhau. Đào

Duy Anh xác định đó là thành Lồi ở làng Cao Lao Hạ trên hữu ngạn sông Gianh

(Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Khoa học xã hội, 1964, tr.54).

3 Tượng Phố: CMTB3, 28b chua là tên huyện, Đào Duy Anh (Bdc) đoán dịch là

Cửa Đại, là cửa sông để vào kinh đô Lâm Ấp thời bấy giờ, ở khoảng Trà Kiệu,

huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng ngày nay.

4 Nguyên bản thiếu tờ 12 a-b, chúng tôi dịch theo bản in Quốc tử giám tàng

bản.

5 Tống Minh Đế: tức là Lưu Úc, nguyên bản in sót nét, thành chữ Hoặc.

Kỷ Mùi, [479], (Tống Thuận Đế Chuẩn, Thăng Minh năm thứ 3; Tề Cao Đế Tiêu

Đạo Thành,

Kiến Nguyên năm thứ 1). Mùa xuân, tháng 3, ngày mồng 1, có nhật thực.

Mùa thu, tháng 7, vua Tề lấy Lý Thúc Hiến làm Thứ sử Giao Châu. Thúc Hiến

là em con chú con bác của Trường Nhân. Trước đó khi Thứ sử Trường Nhân

chết, Thúc Hiến thay lĩnh việc châu, vì thấy hiệu lệnh chưa được thi hành

cho nên sai sứ sang xin nhà Tống cho giữ chức Thứ sử. Nhà Tống lấy Thái

thú Nam Hải là Thẩm Hoán làm Thứ sử Giao Châu, cho Thúc Hiến làm Ninh Viễn

quân tư mã, giữ chức

Thái thú hai quận Vũ Bình và Tân Xương2. Thúc Hiến đã được mệnh lệnh của

triều đình [nhà Tống], lòng người phục theo, bèn đem quân giữ nơi hiểm,

không chịu thu nạp Thẩm Hoán. Hoán lưu lại ở Uất Lâm, rồi chết. Vua Tề

bèn cho Thúc Hiến làm Thứ sử, vỗ yên đất phương Nam. Năm ấy nhà Tống mất.

[13a] Giáp Tý, [484], (Tề Vũ Đế Di, Vĩnh Minh năm thứ 2). Lý Thúc Hiến

nhận mệnh xong liền cắt đứt việc cống hiến. Vua Tề muốn đánh.

Ất Sửu, [485], (Tề Vĩnh Minh năm thứ 3). Mùa xuân, tháng giêng, ngày Bính

Thìn, vua Tề lấy Đại tư nông Lưu Khải làm Thứ sử, phát binh các quận Nam

Khang, Lư Lăng, Thủy Hưng đi đánh Lý Thúc Hiến. Thúc Hiến sai sứ xin bãi

binh, dâng 20 cỗ mũ đâu mâu toàn bằng bạc cùng dải tua bằng lông công. Vua

Tề không cho. Thúc Hiến sợ bị Khải đánh úp, mới đi đường tắt từ Tương Châu

sang chầu vua

Tề, Khải bèn vào trấn.

Canh Ngọ, [490], (Tề Vĩnh Minh năm thứ 8). Mùa đông, tháng 10,

Thứ sử là Phòng Pháp

Thặng (thay Lưu Khải) chỉ thích đọc sách, thường cáo ốm không làm việc, vì

thế trưởng lại3 là Phục Đăng

Chi được chuyên quyền [13b] thay đổi các tướng lại mà không cho Pháp Thặng

biết. Lục sự là Phòng

Tú Văn mách với Pháp Thặng. Pháp Thặng cả giận, giam Đăng Chi vào ngục hơn

10 ngày. Đăng Chi hối

lộ nhiều cho Thôi Cảnh Thúc, là chồng của em gái Pháp Thặng, nên được thả

ra, rồi đem bộ khúc đánh

úp châu trị, bắt Pháp Thặng, bảo Thặng rằng: "Sứ quân đã có bệnh, thì không

nên khó nhọc", rồi giam ở một nhà riêng. Pháp Thặng không có việc gì, lại

gặp Đăng Chi xin đọc sách. Đăng Chi nói: "Sứ quân ở yên còn sợ phát bệnh,

há lại còn xem sách?", bèn không cho, rồi tâu [với vua Tề] là Pháp Thặng bị

bệnh động tim, không thể coi việc được. Tháng 11, ngày Ất Mão, vua Tề cho

Đăng Chi làm Thứ sử. Pháp Thặng về đến Ngũ Lĩnh thì chết.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Phòng Pháp Thặng ham đọc sách mà bỏ việc quan đến

nỗi kẻ trưởng lại nhân đó chuyên quyên, thay đổi tướng lại, đó là cái lỗi

nghiện sách quá. Còn như giam [Đặng Chi] vào ngục mà [14a] trừng trị, thế

là biết sửa lỗi rồi. Đến như nghe lời thỉnh thác [của em rể] mà bỏ qua

không hỏi đến nữa, thì lỗi ấy to lắm, bị

[Đặng Chi] đánh úp lại là đáng, không chết là may. Cho nên phàm việc gì

quá mức trung thì chưa từng không tai hại vậy.

Nhâm Ngọ, [502], (Lương Vũ Đế Tiêu Diễn, Thiên Giám năm thứ 1). Năm ấy nhà

Tề mất.

Ất Dậu, [505], (Lương Thiên Giám năm thứ 4). Mùa xuân, tháng 2, Thứ sử

Giao Châu là Lý Nguyên Khải chiếm châu làm phản, Trưởng sử là Lý Tắc dẹp

được (trước Nguyên Khải thay Đăng Chi làm Thứ sử, cho là nhà Lương được

nhà Tề nhường ngôi, chưa có ân uy gì, nhân đó giữ châu làm phản. Đến đây

Tắc đem tông binh đánh Nguyên Khải, giết được).

1 Hành Châu sự: người chấp hành công việc của châu. Thực tế Lý Trường

Nhân được chuẩn cho đứng đầu cai quản Giao Châu,

tương đương như Thứ sử, nhưng Nhân xin tự hạ chức danh chỉ gọi là "Hành

châu sự"

2 Vũ Bình, Tân Xương: tên quận đặt từ thời Ngô: "Nhà Ngô cắt đất huyện Mê

Linh [thời Hán] mà đặt quận Tân Hưng, nhà Tấn đổi thành Tân Xương; cắt đất

các huyện Phong Khê và Chu Diên mà đặt quận Vũ Bình (theo Đặng Xuân Bảng,

Sử học bị khảo).

3 Nguyên bản in là trưởng lại; CMTB3, 31b sửa là trưởng sử (chữ

lại và chữ sử dễ viết nhầm). Trưởng lại chỉ là viên

huyện quan có cấp bậc cao hơn các huyện quan khác. Ở đây Phục Đăng Chi

giúp việc thay cho Thứ sử, phải là chức Trưởng

sử như Cương Mục đã ghi. Nam Tề Thư (Đông Nam Di truyện), Việt Sử Lược

(q.1) cũng chép là Trưởng sử. Trưởng sử là chức quan có từ thời Hán, giúp

việc cho Thừa tướng. Nhưng từ thời Ngụy Tấn trở về sau, các viên thứ sử

cai trị các châu thường là cấp tướng quân, cũng đặt chức Trưởng sử để giúp

việc (Từ hải, tr. 1399)

Bính Thân, [516], (Lương Thiên Giám năm thứ 15). Mùa đông, tháng 11, [vua

Lương] xuống

chiếu cho Lý Tắc làm Thứ sử, Tắc lại chém Lý Tông Lão là dư đảng của Nguyên

Khải, lấy đầu chuyển về

Kiến Khang, châu lại yên.

[14b], Trở lên thuộc Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương, từ năm Đinh Mùi đến năm

Canh Thân, cộng 314 năm [227 - 540].

K ỷ Nhà Ti ề n Lý

Tiền Lý Nam Đế

Ở ngôi 7 năm [541-547].

Vua có chí diệt giặc cứu dân, không may bị Trần Bá Tiên sang đánh chiếm,

nuốt hận mà chết. Tiếc thay !

Vua họ Lý, tên húy là Bí1, người Thái Bình [phủ] Long Hưng2. Tổ tiên là

người Bắc, cuối thời Tây

Hán khổ về việc đánh dẹp, mới tránh sang ở đất phương Nam, được 7 đời thì

thành người Nam. Vua có

tài văn võ, trước làm quan với nhà Lương, gặp loạn, trở về Thái Bình. Bấy

giờ bọn thú lệnh tàn bạo hà khắc, Lâm Ấp cướp phá ngoài biên, vua dấy binh

đánh đuổi được, xưng là Nam Đế, đặt quốc [15a] hiệu

là Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên3.

Tân Dậu, năm thứ 1 [541], (Lương Đại Đồng năm thứ 7). Thứ sử Giao Châu là

Vũ Lâm hầu Tiêu Tư, vì hà khắc tàn bạo, mất lòng người. Vua vốn con nhà

hào trưởng, thiên tư lỗi lạc, làm quan không được vừa ý. Lại có người là

Tinh Thiều giỏi từ chương từng đến [kinh đô nhà Lương] xin được chọn làm

quan. Thượng thư bộ Lại nhà Lương là Sái Tôn cho rằng họ Tinh trước không

có ai hiển đạt, nên chỉ bổ cho chức Quảng Dương môn lang. Thiều lấy làm

nhục, trở về làng, theo vua mưu việc dấy binh. Vua bấy giờ làm chức Giám

quân ở châu Cửu Đức4, nhân liên kết với hào kiệt mấy châu, đều hưởng ứng.

Có Triệu Túc tù trưởng ở Chu Diên5 phục tài đức của vua, bèn dẫn đầu đem

quân theo về. Tiêu Tư biết việc, đem của đến hối lộ cho vua, rồi chạy về

Quảng Châu. Vua ra chiếm giữ châu thành (tức là Long Biên).

Nhâm Tuất, năm thứ 2 [542], (Lương Đại Đồng năm thứ 8). Mùa đông, tháng

12, vua Lương

sai Tôn Quýnh, Lư Tử Hùng [15b] sang xâm chiếm. Quýnh lấy cớ là chướng khí

mùa xuân đương bốc,

xin đợi đến mùa thu. Bấy giờ Thứ sử Quảng Châu là Tân Dụ hầu Hoán6 không

cho, Vũ Lâm hầu cũng thúc giục. Bọn Tử Hùng đi đến Hợp Phố, 10 phần chết

đến 6, 7 phần, quân tan rã mà về. Tiêu Tư tâu

vu [với vua Lương] rằng Quýnh và Tử Hùng dùng dằng không chịu đi, đều bị

buộc phải tự tử.

Quý Hợi, năm thứ 3 [543], (Lương Đại Đồng năm thứ 9). Mùa hạ, tháng 4, vua

Lâm Ấp cướp quận Nhật Nam, vua sai tướng là Phạm Tu đánh tan ở Cửu Đức.

Giáp Tý, [Thiên Đức] năm thứ 1 [544], (Lương Đại Đồng năm thứ 10). Mùa

xuân, tháng giêng, vua nhân thắng giặc, tự xưng là Nam Việt Đế, lên ngôi,

đặt niên hiệu, lập trăm quan, dựng quốc hiệu là

1 Chữ Bí có nhiều âm đọc nhưng các từ thư, tự điển đều xếp âm Bí đầu tiên.

Hiện nay nhiều địa phương ở miền Bắc còn kiêng húy

ông, thường tránh gọi quả bí là quả bầu, chúng tôi dựa theo đó mà phiên âm

là bí.

2 Cương mục chú: "Tên Thái Bình đặt từ năm Vũ Đức thứ 4 (621) thời Đường;

tên Long Hưng đặt từ thời nhà Trần. Thời thuộc

Lương chưa có hai tên đất này, có lẽ Sử cũ chỉ theo đó mà truy gọi thôi"

(CMTB4, 1b).

3 Vị trí của thành Long Biên đến nay vẫn chưa xác định được, có thể ở vùng

gần thị xã Bắc Ninh, tỉnh Hà Bắc.

4 Châu Cửu Đức thời thuộc Lương là Đức Châu, ở vị trí huyện Đức Thọ, tỉnh

Hà Tĩnh ngày nay. CMTB4, 1b sửa là Cửu Đức quận.

5 Huyện Chu Diên thời Lương, thời Tùy, nay là phần đất tỉnh Hải Dương,

huyện trị có thể ở vào khoảng huyện Phả Lại.

6 Tân Dụ hầu Hoán : theo Trần thư (Cao Tổ ký) nên sửa là Ánh

(Tiêu Ánh).

Vạn Xuân, ý mong cho xã tắc truyền đến muôn đời vậy. Dựng điện Vạn Thọ làm

nơi triều hội. Lấy Triệu

Túc làm Thái Phó, bọn Tinh Thiều, Phạm Tu đều làm tướng văn, tướng võ.

[16a] Ất Sửu, [Thiên Đức] năm thứ 2 [545], (Lương Đại Đồng năm thứ 11).

Mùa hạ, tháng 6, nhà Lương cho Dương Thiêu1 làm Thứ sử Giao Châu, Trần Bá

Tiên làm Tư mã, đem quân sang xâm, sai Thứ sử Định Châu là Tiêu Bột hội với

bọn Thiêu ở Giang Tây2. Bột biết các quân lính sợ đi đánh xa, nhân

đó nói dối để giữ Thiêu ở lại. Thiêu học các tướng để hỏi kế. Bá Tiên

nói: "Giao Châu làm phản, tội do người tông thất3 để mấy châu hỗn loạn,

trốn tội đã nhiều năm nay. [Thứ sử] Định Châu chỉ muốn trộm yên trước mắt,

không nghĩ đến kế lớn. Tiết hạ4 vâng chiếu đi đánh kẻ có tội, phải nên

liều sống chết, há nên dùng dằng không tiến để nuôi cho thế giặc thêm mạnh

mà làm ngăn trở quân mình hay sao?" Rồi

Bá Tiên đem quân đi trước, Thiêu cho Bá Tiên làm tiên phong. Khi [quân của

Bá Tiên] đến Giao Châu, vua đem 3 vạn quân ra chống cự, bị thua ở Chu Diên,

lại thua ở cửa sông Tô Lịch, vua chạy về thành Gia Ninh5. Quân Lương đuổi

theo vây đánh.

[16b] Bính Dần, [Thiên Đức] năm thứ 3 [546], (Lương Đại Đồng năm thứ 1).

Mùa xuân, tháng giêng, bọn Bá Tiên đánh lấy được thành Gia Ninh. Vua chạy

vào đất người Lạo ở Tân Xương. Quân Lương đóng ở cửa sông Gia Ninh. Mùa

thu, tháng 8, vua lại đem 2 vạn quân từ trong đất Lạo ra đóng ở

hồ Điển Triệt6, đóng nhiều thuyền đậu chật cả mặt hồ. Quân Lương sợ, cứ

đóng lại ở cửa hồ không dám tiến vào. Trần Bá Tiên bảo các tướng rằng:

"Quân ta ở đây đã lâu, tướng sĩ mỏi mệt, vả lại thế cô không

có tiếp viện. Tiến sâu vào trong lòng [nước] người, nếu một đánh mà không

thắng, thì đừng mong sống sót. Nay nhân lúc bọ họ vừa thua luôn mấy trận,

lòng người chưa vững, mà người Di Lạo ô hợp, dễ đánh giết, chính nên cùng

ra tay liều chết, cố sức đánh lấy, không có cớ gì mà dừng lại thì lỡ mất

thời cơ". Các tướng đều im lặng, không ai hưởng ứng. Đêm hôm ấy nước sông

lên mạnh, dâng cao 7 thước, tràn đổ vào hồ. Bá Tiên đem quân bản bộ theo

dòng nước tiến trước vào. Quân Lương đánh trống reo

hò mà tiến. Vua vốn không [17a] phòng bị, vì thế quân vỡ, phải lui giữ ở

trong động Khuất Lạo7 để sửa binh đánh lại, ủy cho đại tướng là Triệu

Quang Phục giữ việc nước, điều quân đi đánh Bá Tiên.

Đinh Mão, [Thiên Đức] năm thứ 4 [547], (Lương Thái Thanh năm thứ 1). Mùa

xuân, tháng giêng, ngày mồng 1, nhật thực. Triệu Quang Phục cầm

cự với Trần Bá Tiên, chưa phân thắng bại. Nhưng quân của Bá Tiên

rất đông, Quang Phục liệu thế không chống nổi bèn lui về giữ đầm Dạ Trạch8.

Đầm này ở huyện Chu Diên, chu vi không biết bao nhiêu dặm, cỏ cây um tùm,

bụi rậm che kín, ở giữa có nền đất cao có thể ở được, bốn mặt bùn lầy,

người ngựa khó đi, chỉ có thể dùng thuyền độc mộc nhỏ chống sào đi lướt

trên cỏ nước mới có thể đến được. Nhưng nếu không quen biết đường lối thì

lạc không biết là đâu, lỡ rơi xuống nước liền bị rắn độc cắn chết. Quang

Phục thuộc rõ đường đi lối lại, đem hơn 2 vạn người vào đóng ở nền đất

trong đầm, ban ngày [17b] tuyệt không để khói lửa và dấu người, ban đêm

dùng thuyền độc mộc đem quân ra đánh doanh trại của quân Bá Tiên, giết và

bắt sống rất nhiều, lấy được lương thực để làm kế cầm cự lâu dài. Bá Tiên

theo hút mà đánh, nhưng không đánh được. Người trong nước gọi là Dạ Trạch

Vương. (Tục truyền thời Hùng Vương, con gái Hùng Vương là Tiên Dung Mỵ

Nương9 ra chơi cửa biển. Thuyền về đến bãi ở hương Chử Gia, Tiên Dung

lên trên bãi, gặp Chử Đồng Tử trần truồng núp trong bụi lau, tự cho là

Nguyệt lão xe duyên, bèn cùng nhau làm vợ

1 Thiêu, thường vẫn đọc là Phiêu. Nhưng nguyên bản chua rõ hai âm đọc là

Thiêu hoặc Thiệu (thuần chiêu phiên, thất diệu phiên)

2 Đúng ra là Tây Giang (thuộc huyện Vĩnh Phúc, phủ Quế Lâm), theo Trần thư

và Thông giám.

3 Chỉ Tiêu Tư, cùng dòng tôn thất với Lương Vũ Đế Tiêu Diễn.

4 Tiết hạ: người đứng dưới cờ tiết, ở đây là từ tôn gọi Dương Thiêu.

5 Thành Gia Ninh: ở xã Gia Ninh, huyện Vĩnh Lạc, tỉnh Vĩnh Phú ngày nay.

6 Hồ Điển Triệt: ở xã Tứ Yên, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phú ngày nay. Hồ

dài 1km, chỗ rộng nhất 400m, hẹp nhất 50m, sâu 5-

6m, xưa nay chưa bao giờ cạn.

7 Động Khuất Lạo, cũng đọc là Khuất Liệu, ở vùng núi thuộc hai xã Cổ Tiết

và Văn Lang, huyện Tam Thanh tỉnh Vĩnh Phú, nay còn

di tích mộ và đền thờ Lý Bí trên gò Cổ Bồng.

8 Đầm Dạ Trạch: cũng gọi là Nhất Dạ Trạch, nay là "Bãi Màn Trò", huyện

Châu Giang, tỉnh Hải Hưng.

9 Mỵ Nương: con gái của Hùng Vương (NK.1.3a).

chồng, sợ tội phải ở lánh trên bờ sông, chỗ ấy trở thành nơi đô hội. Hùng

Vương đem quân đến đánh.

Đồng Tử và Tiên Dung sợ hãi đợi tội. Bỗng nửa đêm mưa gió dữ dội làm rung

chuyển nơi ở, rường cột

tự bốc lên, người và gà chó trong một lúc cùng bay lên trời, chỉ còn lại

cái nền không ở giữa đầm. Người bấy giờ gọi bãi ấy là bãi Tự Nhiên, đầm ấy

là đầm Nhất Dạ, nay vẫn còn tên gọi cũ).

Trở lên là Tiền Lý Nam Đế, từ năm Tân Dậu đến năm Đinh Mão, tất cả 7 năm

(541-

547).

K ỷ Tri ệ u Vi ệ t V ươ ng

(Xét sử cũ không chép Triệu Việt Vương và Đào Lang Vương, nay nhặt trong dã

sử và các sách khác, bắt đầu chép vị hiệu của vương và phụ chép Đào Lang

Vương để bổ sung).

[18a] Triệu Việt Vương

Phụ: Đào Lang Vương

Ở ngôi 23 năm [548-570].

Vua giữ đất hiểm, dùng kỳ binh để đánh giặc lớn, tiếc vì quá yêu con gái

đến nỗi mắc họa vì con rể.

Vua họ Triệu, tên húy là Quang Phục, là con Triệu Túc, người huyện Chu

Diên, uy tráng dũng liệt, theo Nam Đế đi đánh dẹp có công, được trao chức

Tả tướng quân. Nam Đế mất, bèn xưng vương, đóng đô ở Long Biên, sau dời

sang Vũ Ninh1.

Mậu Thìn, năm thứ 1 [548], (Lương Thái Thanh năm thứ 2). Mùa xuân, tháng

3, ngày Tân Hợi,

[Lý] Nam Đế ở động Khuất Lạo lâu ngày nhiễm lam chướng, ốm chết.

Lê Văn Hưu nói: Binh pháp có câu: "Ba vạn quân đều sức, thiên hạ không ai

địch nổi". Nay Lý Bí có 5 vạn quân mà không giữ được nước, thế thì Bí kém

tài làm tướng

[18b] chăng ? Hay là quân lính mới họp không thể đánh được chăng ? Lý Bí

cũng là bậc tướng trung tài, ra trận chế ngự quân địch giành phần thắng

không phải là không làm được, nhưng bị hai lần thua rồi chết, bởi không may

gặp phải Trần Bá Tiên là kẻ giỏi dùng binh vậy.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Tiền Lý Nam Đế dấy binh trừ bạo, đáng là thuận đạo

trời, thế mà cuối cùng đến nỗi bại vong, là vì trời chưa muốn cho nước ta

được bình trị chăng ? Than ôi ! Không chỉ vì gặ phải Bá Tiên là kẻ giỏi

dùng binh, mà còn gặp lúc nước sông đột ngột dâng lên trợ thế [cho giặc],

há chẳng phải cũng do trời hay sao ?

Kỷ Tỵ, năm thứ 2 [549], (Lương Thái Thanh năm thứ 3). Vua ở trong đầm

thấy quân Lương không lui, mới đốt hương cầu đảo, khẩn thiết kinh cáo với

trời đất thần kỳ, thế rồi có điềm lành được mũ đâu mâu móng rồng [19a] dùng

để đánh giặc. Từ đó quân thanh lừng lẫy, đến đâu không ai địch nổi (tục

truyền rằng thần nhân trong đầm là Chử Đồng Tử bấy giờ cưỡi rồng vàng từ

trên trời rơi xuống, rút móng rồng trao cho vua, bảo gài lên mũ đâu mâu mà

đánh giặc).

Canh Ngọ, năm thứ 3 [550], (Lương Giản Văn Đế Cương, Thái Bảo2 năm thứ 1).

Mùa xuân, tháng giêng, nhà Lương cho Trần Bá Tiên làm Uy minh tướng quân

Giao Châu thứ sử. Bá Tiên lại mưu tính cầm cự lâu ngày khiến cho [ta]

lương hết quân mỏi thì có thể phá được. Gặp lúc nhà Lương có loạn Hầu

Cảnh, gọi [Bá Tiên] về, ủy cho tì tướng là Dương Sàn đánh nhau với vua.

Vua tung quân ra đánh.

1 Huyện Vũ Ninh: nay là vùng huyện Quế Võ, tỉnh Hà Bắc.

2 Thái Bảo: sửa đúng là niên hiệu Đại Bảo.

Sàn chống cự, thua chết. Quân Lương tan vỡ chạy về Bắc. Nước ta được yên.

Vua vào thành Long Biên

ở.

Anh của Nam Đế là [Lý] Thiên Bảo, ở đất người Di Lạo, xưng là Đào Lang

Vương, lập nước gọi là nước Dã Năng. Trước đó, khi Nam Đế tránh ở động

Khuất Lạo, Thiên Bảo cùng với tướng người họ là Lý Phật Tử đem 3 vạn người

vào Cửu Chân. Trần Bá Tiên đuổi theo đánh, [19b] Thiên Bảo bị thua, bèn

thu nhặt quân còn sót được vạn người chạy sang đất người Di Lạo ở Ai Lao,

thấy động Dã Năng ở đầu nguôn Đào Giang, đất phẳng rộng màu mỡ có thể ở

được, mới đắp thành để ở, nhân tên đất ấy mà đặt quốc hiệu. Đến bây giờ

quân chúng tôn làm chúa, xưng là Đào Lang Vương.

Ất Hợi, năm thứ 8 [555], (Lương Kính Đế Phương Trí, Thiệu Thái năm thứ 1).

Đào Lang Vương mất ở nước Dã Năng, không có con nối, quân chúng suy tôn Lý

Phật Tử lên nối ngôi, thống lĩnh quân chúng.

Đinh Sửu, năm thứ 10 [557], (Lương Thái Bình năm thứ 2; Trần Vũ Đế Tiên,

Vĩnh Định năm thứ

1). Lý Phật Tử đem quân xuống miền Đông đánh nhau với vua [Triệu Việt

Vương] ở huyện Thái Bình, năm lần giáp trận, chưa phân thắng bại, mà quân

của Phật Tử hơi lùi, ngờ là vua có thuật lạ, bèn giảng hòa xin ăn thề. Vua

nghĩ rằng Phật Tử là người họ của Tiền Nam Đế, không nỡ cự tuyệt, bèn chia

địa giới ở bãi Quân Thần (nay là hai xã Thượng Cát, Hạ Cát ở huyện Từ Liêm)

cho ở phía [20a] tây của nước, [Phật Tử] dời đến thành Ô Diên (nay là xã Hạ

Mỗ, huyện Từ Liêm, xã ấy nay có đền thờ thần Bát Lang, tức là đền thờ Nhã

Lang vậy). Sau Phật Tử có con trai là Nhã Lang, xin lấy con gái của vua là

Cảo Nương. Vua bằng lòng, bèn thành thông gia. Vua yêu quý Cảo Nương, cho

Nhã Lang ở gửi rể.

Canh Dần, năm thứ 23 [570], (Trần Tuyên Đế Húc, Đại Kiến1 năm thứ 2).

Nhã Lang bảo vợ rằng: "Trước hai vua cha chúng ta cừu thù với nhau, nay là

thông gia, chẳng cũng hay lắm ư ? Nhưng cha nàng có thuật gì mà có thể làm

lui được quân của cha tôi ?". Cảo Nương không biết ý của chồng, bí mật lấy

mũ đâu mâu móng rồng cho xem. Nhã Lang mưu ngầm tráo đổi cái móng ấy, rồi

bảo riêng với Cảo Nương rằng: "Tôi nghĩ ơn sâu của cha mẹ nặng bằng trời

đất, vợ chồng ta hòa nhã yêu quý nhau không nỡ xa cách, nhưng tôi phải tạm

dứt tình, về thăm cha mẹ". Nhã Lang về, cùng với cha bàn mưu đánh úp vua,

chiếm lấy nước.

[20b] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Đàn bà gọi việc lấy chồng là "quy" thì nhà

chồng tức là nhà mình. Con gái vua đã gả cho Nhã Lang thì sao không cho về

nhà chồng mà

lại theo tục ở gửi rể của nhà Doanh Tần để đến nỗi bại vong ?

Trở lên là kỷ Triệu Vương, từ năm Mậu Thìn đến năm Canh Dần tất cả 23 năm

[548-

570].

K ỷ H ậ u Lý

Hậu Lý Nam Đế

Ở ngôi 32 năm [571-602].

Vua dùng thuật gian trá để gồm lấy nước, mới thấy bóng giặc đã hàng trước,

việc làm trước sau đều phi nghĩa.

Vua họ Lý, tên húy là Phật Tử, là tướng người họ của Tiền [Lý] Nam Đế, đuổi

Triệu Việt Vương, nối vị hiệu của Nam Đế, đóng đô ở thành Ô Diên, sau dời

đến Phong Châu.

1 Các bản in Toàn thư đều in là Đại Kiế; sửa đúng là Thái Kiến.

[21a] Tân Mão, năm thứ 1 [571], (Trần Đại Kiến1 năm thứ 3). Vua phụ lời

thề, đem quân đánh Triệu Việt Vương. Lúc đầu Việt Vương chưa hiểu ý vua,

thảng thốt đốc quân, đội mũ đâu mâu đứng chờ. Quân của vua cùng tiến đến,

Triệu Việt Vương tự biết thế yếu không thể chống được, bèn đem con gái chạy

về phía nam, muốn tìm nơi đất hiểm để ẩn náu tung tích, nhưng đến đâu cũng

bị quân của vua đuổi theo sau gót. Việt Vương cưỡi ngựa chạy đến cửa biển

Đại Nha, bị nước chắn, than rằng: "Ta hết đường rồi !", bèn nhảy xuống

biển. Vua đuổi theo đến nơi, thấy mênh mông không biết [Việt Vương] đi

đằng nào, bèn trở lại. Họ Triệu mất nước. Người sau cho là linh dị, lập

đền thờ ở cửa biển Đại Nha (Đại Nha nay là huyện Đại An)2.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: "Lấy bá thuật mà xét thì Hậu [Lý] Nam Đế đánh

Triệu Việt Vương là đắc kế, lấy vương đạo mà xét thì việc ấy đã từng không

bằng chó lợn. Sao [21b] thế ? Là vì khi Tiền Lý Nam Đế ở động Khuất Lạo

đem việc quân ủy cho Triệu Việt Vương. Việt Vương thu nhặt tàn quân giữ

hiểm ở Dạ Trạch bùn lầy, đương đầu với Trần Bá Tiên là người hùng một đời,

cuối cùng bắt được tướng của y là Dương Sàn. Tiên, người phương Bắc, phải

lui quân. Bấy giờ vua [Hậu Nam Đế] trốn trong đất

Di [Lạo], chỉ mong thoát khỏi miệng hùm mà thôi. May mà Bá Tiên về Bắc,

[Lý] Thiên Bảo chết, mới đem quân đánh [Triệu] Việt Vương, dùng mưu gian

trá xin hòa, kết làm thông gia. Việt Vương lấy lòng thành đối đãi, cắt

đất cho ở, những việc làm của Việt Vương đều là chính nghĩa, giao hảo phải

đạo, thăm viếng phải thời , há chẳng phải là đạo trị yên lâu dài hay sao ?

Thế mà [Hậu Nam Đế] lại dùng mưu gian của Nhã Lang, vứt bỏ chính đạo nhân

luân, kíp tham công lợi mà diệt nhân nghĩa, đánh cướp lấy nước, tuy rằng

lấy được, mà Nhã Lang thì chết trước, bản thân cũng không khỏi làm tù, có

lợi

gì đâu ?

[22a] Nhâm Tuất, năm thứ 32 [602], (Tùy Văn Đế Dương Kiên, Nhân Thọ năm thứ

1)3. Vua

sai con của anh là [Lý] Đại Quyền giữ thành Long Biên, Biệt súy là Lý Phổ

Đỉnh giữ thành Ô Diên (bấy giờ vua đóng đô ở Phong Châu).

Dương Tố nhà Tùy tiến cử Thứ sử Qua Châu là Lưu Phương người Trường An, có

tài lược làm tướng. Vua Tùy xuống chiếu lấy Tố làm Giao Châu đạo hành quân

tổng quản, thống lĩnh 27 doanh quân sang xâm chiếm. Quân lệnh của Phương

rất nghiêm, ai phạm tất chém. Nhưng Phương tính nhân ái, binh sĩ người

nào ốm đau đều thân đến thăm viếng nuôi dưỡng, quân lính ai nấy đều mến đức

và sợ uy. Đến núi Đô Long gặp giặc cỏ4, Phương đánh tan hết, rồi tiến quân

sang đến cạnh dinh của vua, trước lấy họa phúc mà dụ. Vua sợ xin hàng, bị

đưa về Bắc rồi chết. Dân làm đền thờ ở cửa biển Tiểu Nha5 để đối

với đền thờ Triệu Việt Vương.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Nam - Bắc mạnh yếu đều có từng lúc.

Đương khi phương Bắc [22b] yếu thì ta mạnh, phương Bắc mạnh thì ta cũng

thành yếu. Thế lớn trong thiên hạ là như vậy. Phàm kẻ có nước phải sửa

sang giáp binh, chỉnh đốn xe cộ quân lính, phòng bị việc bất ngờ, đặt hiểm

để giữ nước, lấy lễ mà thờ nước lớn, lấy nhân mà vỗ nước nhỏ. Ngày nhàn

rỗi thì dạy điều hiếu, đễ, trung, tín để cho người trong nước biết rõ cái

nghĩa kính thân người trên, chịu chết cho người trưởng. Khi có họa xâm

lăng thì phải dùng lời văn để sửa đổi ý định của họ, dùng lời nói mà bảo

họ, lấy lễ vật ngọc lụa mà biếu cho họ. Như thế mà vẫn không tránh được,

thì dù đến khốn cùng cũng phải quay lưng vào thành mà đánh một trận, thề tử

thủ cùng với xã tắc mất còn,

rồi sau mới không hổ thẹn. Lẽ nào mới thấy quân giặc đến cõi, chưa xáp

binh đao, đã

1 Sửa đúng là Thái Kiến.

2 Cửa biển Đại Nha: cũng có tên là Đại Ác, thời Lý đổi là Đại An, nay là

Cửa Liêu (cửa sông Đáy). Huyện Đại An thời Lê nay là đất huyện Nghĩa Hưng,

tỉnh Nam Hà.

3 Năm này, các bản Toàn thư đều ghi là Nhân Thọ nguyên niên, đúng ra là

năm Nhân Thọ thứ 2.

4 Nguyên văn: ngộ thảo tặc: hai chữ "thảo tặc" đáng phải sửa lại vì soạn

giả dùng sử liệu của Trung Quốc không chỉnh lý. Thông giám và Tùy thư, Lưu

Phương truyện nói rõ đó là quân của Lý Phật Tử, hơn 2 nghìn người.

5 Tức Cửa Càn, ở phía nam cửa Đại An (xưa là Đại Nha, xem chú thích ở

trang trước)

41 Đại Việt Sử Ký Toàn Thư -

Ngoại Kỷ - Quyển IV

sợ hãi xin hàng ! Vua đã hèn nhát mà tướng văn, tướng võ đương thời không

ai từng có

một lời nào nói đến, có thể bảo là trong nước không có người vậy !

[23a] Trở lên là kỷ Hậu Lý Nam Đế, từ năm Tân Mão đế năm Nhâm Tuất, tất cả

32

năm [571-602], tính chung cả Tiền Nam Đế, Triệu Việt Vương là 62 năm.

42 Đại Việt Sử Ký Toàn Thư -

Ngoại Kỷ - Quyển V

Đạ i Vi ệ t S ử Ký Ngo ạ i K ỷ Toàn Th ư

Quyển V

[1a]

K ỷ Thu ộ c Tùy Đườ ng

Quý Hợi, [603], (Tùy Nhân Thọ năm thứ 2). 1 Lưu Phương bắt được tướng cũ

của Hậu Nam Đế, cho là gian ác, đều chém cả.

Ất Sửu, [605], (Tùy Dạng Đế Quảng, Đại Nghiệp năm thứ 1). Mùa xuân,

tháng giêng, Lưu Phương mới dẹp yên nước ta, bầy tôi nhà Tùy có người nói

nước Lâm Ấp có nhiều báu lạ. Vua Tùy bèn cho Phương làm Hoan Châu đạo hành

quân tổng quản, đi kinh lược nước Lâm Ấp. Phương sai bọn thứ

sử Khâm Châu là Nịnh Trường Chân đem quân bộ và quân kỵ hơn một vạn xuất

phát từ Việt Thường2. Phương thân dẫn bọn đại tướng quân Trương Tốn đem

thủy quân xuất phát từ quận Tỷ Cảnh (huyện của nhà Hán, thuộc quận Nhật

Nam; nhà Tùy đặt quận Tỷ Cảnh)3. Tháng ấy quân đến cửa biển. Tháng 3, vua

Lâm Ấp là Phạn [1b] Chí sai quân ra giữ nơi hiểm yếu, bị Lưu Phương đánh

tan chạy. Quân của Phương qua sông Chà Lê. Quân Lâm Ấp cưỡi voi lớn từ

bốn mặt kéo đến, quân của Phương đánh không

lợi bèn đào nhiều hố nhỏ, phủ cỏ lên trên, cho quân khiêu chiến, đang đánh

giả thua chạy. Quân Lâm

Ấp đuổi theo, voi phần nhiều sụp hố ngã nhào, nhốn nháo kinh hãi, quân trở

nên rối loạn. Phương cho dùng nỏ bắn voi, voi lùi chạy, xéo giẫm vào hàng

trận. Phương nhân đó cho quân tinh nhuệ đuổi theo. Quân Lâm Ấp thua to, bị

bắt, bị chém kể hàng vạn. Phương tiến quân đuổi theo, mấy trận đều được

cả, qua phía nam cột đồng Mã Viện, đi tám ngày nữa đến quốc đô Lâm Ấp. Mùa

hạ, tháng 4, Phạn Chí bỏ thành chạy ra biển. Phương vào thành lấy được 18

bộ thần chủ trong miếu đều đúc bằng vàng (tức là

18 đời vua), khắc đá ghi công rồi về. Binh sĩ thũng chân, mười phần chết

đến bốn năm phần. Phương cũng bị ốm, chết dọc đường.

[2a] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Lâm Ấp tự chuốc bại vong là có nguyên do.

Từ khi Phạm Hồ Đạt đánh chiếm Nhật Nam, Cửu Chân, cướp phá Giao Châu, bị Đỗ

Viện nhà Tấn đánh tan, mà không từng lấy đó làm răn. Năm nay cướp Cửu

Chân, sang năm lại cướp Giao Châu. Đỗ Tuệ Độ lại đánh tan, giết hết quá

nửa. Dương Mại lại cướp Cửu Đức, bị Đàn Hòa Chi nhà Tống đánh cho phải

phục tội. Tuy có sai sứ vào cống nhưng vẫn cướp phá như cũ. Tông Xác và

Hoà Chi đuổi dài, thắng được Lâm Ấp. Dương Mại may thoát khỏi miệng hùm,

văng mình bỏ chạy. Từ đấy, biển Nam sóng lặng, tưởng chừng mãi mãi lấy đó

làm răn. Nhưng Phạn Chí nối ngôi, lại ra cướp Nhật Nam, bị Pham

Tu đánh tan ở Cửu Đức, suốt cả đời Hậu Nam Đế không dám dòm ngó đất trung

châu phía bắc [tức nước ta] nữa, mà nước họ cũng được giàu thịnh. Đến đây

người Tùy tham của báu, cất quân đi đánh, giày xéo quốc [2b] đô, làm dơ bẩn

cung điện, tuy gọi là quân tham bạo, nhưng bọn man di quấy nhiễu trung châu

cũng có thể lấy làm răn.

1 Sửa đúng là niên hiệu Nhân Thọ năm thứ 3.

2 Việt Thường: tên huyện thời Tùy, thuộc quận Nhật Nam, vị trí vào khoảng

huyện Đức Thọ và phía nam huyện Hương Sơn, tỉnh Hà

Tĩnh ngày nay.

3 Tỷ Cảnh: tên quận do nhà Tùy đặt năm 607, vị trí ở vào khoảng phía nam

tỉnh Hà Tĩnh đến Quảng Trị. Ở đây, Toàn thư chép với chữ Cảnh ,

nhưng đúng ra là Cảnh (xem Tùy thư, Lưu Phương truyện). Cảnh còn

có thể đọc theo âm cổ là Ánh (Tỷ Ánh nguyên là tên huyện thời Hán, có nghĩa

là so bóng mặt trời).

Mậu Dần, [618], (Đường Cao Tổ Lý Uyên, Vũ Đức năm thứ 1). Mùa hạ, tháng 4,

Thứ sử Khâm

Châu là Nịnh Trường Chân đem đất Uất Lâm và Thủy An phụ theo Tiêu Tiển.

Thái thú Hán Dương là Phùng Áng đem đất Thương Ngô, Cao Yếu, Châu Nhai,

Phiên Ngung phụ theo Lâm Sĩ Hoằng. Tiển và Sĩ Hoằng đều sai người sang

chiêu dụ Thái thú Giao Châu là Khâu Hòa, Hòa không theo. Tiển sai Trường

Chân đem quân Lĩnh Nam đi đường biển đến đánh Hòa. Hòa muốn đón hàng, Tư

pháp thư tá là Cao Sĩ Liêm bảo Hòa rằng: "Quân của Trường Chân tuy nhiều,

nhưng quân cô từ xa đến, lương thực ít, tất không thể cầm giữ lâu, quân

giỏi trong thành cũng đủ đương được, việc gì mới nghe hơi đã vội chịu theo

người". Hòa nghe theo, lấy Sĩ Liêm làm [3a] Hành quân tư mã, đem các doanh

thủy bộ đón đánh, phá

tan quân [của Trường Chân]. Trường Chân chỉ chạy thoát một mình, quân lính

bị bắt hết. Hòa lại đắp

tử thành (tức thành nhỏ bên trong thành), chu vi 9 trăm bước để chống giữ.

Đến khi nhà Tùy mất, Hòa hàng phục nhà Đường. Vua Đường sai Lý Đạo Hựu

mang cờ tiết sang cho Hòa làm Giao Châu đại tổng quản1, tước Đàm quốc công.

Hòa sai Sĩ Liêm dâng biểu xin vào chầu. Vua Đường xuống chiếu sai quân

đi đón2. Năm này nhà Tùy mất.

Nhâm Ngọ, [622], (Đường Vũ Đức năm thứ 5). Trước đây, cuối thời nhà Tùy,

Khâu Hòa làm Thái thú Giao Châu, cậy uy thế của nhà Tùy, thường đi tuần các

khe động ở biên giới, ở châu hơn 60 năm, Lâm Ấp và các nước3 tặng cho Hòa

những ngọc minh châu, sừng tê văn và vàng bạc của báu, cho nên Hòa giàu như

vương giả. Năm này nhà Đường đổi Giao Châu làm An Nam đô hộ phủ4.

[3b] Mậu Tý, [628], (Đường Thái Tông Thế Dân, Trinh Quán năm

thứ 2). Tông thất nhà Đường là Lý Thọ làm Đô đốc Giao Châu tham ô phải

tội. Vua Đường thấy Thứ sử Doanh Châu là Lư Tổ Thượng có tài gồm văn võ,

gọi vào triều, dụ rằng: "Giao Châu đã lâu không được người giỏi, các đô đốc

trước sau đều không xứng chức. Khanh có tài lược dẹp yên biên giới, hãy vì

ta sang trấn đất ấy, chớ lấy đường xa mà từ chối". Tổ Thượng lạy tạ, rồi

lại hối, lấy cớ đau ốm mà từ chối. Vua Đường sai Đỗ Như Hối bảo cho Tổ

Thượng biết ý vua. Tổ Thượng vẫn cố từ. Lại sai Chu Phạm là anh vợ của Tổ

Thượng đến dụ rằng: "Người thường đã hứa với nhau còn biết giữ chữ tín,

khanh đã hứa trước mặt trẫm, há trái

lời hay sao? Nên sớm lên đường, sau ba năm tất gọi về, trẫm không nuốt

lời". Tổ Thượng trả lời rằng: "Đất Lĩnh Nam lam chướng, dịch lệ, đó là cái

lẽ đã ra đi thì không trở về". Vua Đường tức giận nói: "Ta

sai người không đi, còn làm chính lệnh thế nào được nữa". Sai chém ngay ở

triều đường. Sau hối lại, cho khôi phục quan tước và ấm phong.

[4a] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Vua sai bề tôi lấy lễ, bề tôi thờ vua lấy

trung. Đường Thái Tông sai bề tôi không chịu đi, dỗ đến hai lần, có thể gọi

là có lễ. Tổ Thượng được vua sai lại tránh khó nhọc, thế là thất tiết; đã

nhận rồi lại hối, thế là thất tín; lời nói giận dỗi, thế là thất lễ. Thái

Tông giết đi, tuy là quá, song Tổ Thượng đủ ba lỗi ấy, thì

tội ra sao?

Ất Mùi, [635], (Đường Trinh Quán năm thứ 9). Tông thất nhà Đường là Lý Đạo

Hưng làm Đô

đốc Giao Châu vì bệnh chướng khí chết ở nơi làm quan.

Đinh Hợi, [687], (Đường Trung Tông Triết, Tự Thánh năm thứ 4). Mùa thu,

tháng 7, các hộ

người Lý ở Lĩnh Nam theo như lệ cũ nộp nửa thuế, Đô hộ Lưu Diên Hựu bắt

phải nộp cả. Các hộ người

Lý mới oán giận, mưu làm loạn. Lý Tự Tiên làm [4b] chủ mưu, Diên Hựu giết

đi. Dư đảng là bọn Đinh Kiến họp quân vây phủ thành. Trong thành binh ít

không chống nổi, đóng cửa thành cố giữ để đợi quân cứu viện. Đại tộc ở

Quảng Châu là Phùng Tử Do muốn lập công, đóng quân không đến cứu, Kiến

giết Diên Hựu. Sau Tư mã Quế Châu là Tào Trực Tĩnh5 đánh giết được Kiến.

1 Nguyên bản in là Thái Tổng Quản, sửa lại theo Tân Đường thư, Khâu Hòa

truyện.

2 Nguyên văn: "chiếu phát sư nghênh chi"; có thể sai sót. Tân Đường thư,

Khâu Hòa truyện chép là: "chiêu kỳ tử Sư Lợi nghênh chi", nghĩa là: xuống

chiếu sai con [của Hòa] là Sư Lợi đi đón. Truyện Khâu Hòa trong Cựu Đường

thư và Thông Giám cùng chép tương tự ("khiển kỳ tử Sư Lợi nghênh chi")

3 Cựu Đường thư, Khâu Hòa truyện chép "Lâm Ấp chi tây chư quốc" (các nước

phía tây Lâm Ấp).

4 Cựu Đường thư, Địa lý chí chép: "Quận Giao Chỉ thời Tùy, năm Vũ Đức thứ

5 [nhà Đường] đổi làm Giao Châu tổng quản phủ"

5 Tân Đường thư, Cựu Đường thư, Thông giám đều chép là Tào Huyền Tĩnh.

Nhâm Tuất, [722], (Đường Huyền Tông, Long Cơ, Khai Nguyên năm thứ 10).

Tướng giặc là

Mai Thúc Loan1 chiếm giữ châu, xưng là Hắc Đế, bên ngoài liên kết với

người Lâm Ấp, Chân Lạp, số quân

nói là 30 vạn2. Vua Đường sai nội thị tả giám môn vệ tướng quân là Dương

Tư Húc và Đô hộ là Nguyên

Sở Khách3 đánh dẹp yên được.

Mậu Tuất, [758], (Đường Túc Tông Hanh, Chí Đức năm thứ 3). Nhà Đường đổi

An Nam Đô Hộ

Phủ làm Trấn Nam Đô Hộ Phủ.

Đinh Mùi [767], (Đường Đại Tông Dự, Đại Lích thứ 2). [Người] Côn Lôn4, Chà

Bà5 đến cướp, đánh lấy châu thành. Kinh lược sứ Trương Bá Nghi cầu cứu

với Đô úy châu Vũ Định là Cao Chính Bình. Quân cứu viện đến, đánh tan quân

Côn Lôn, [5a] Chà Bà ở Chu Diên. Bá Nghi đắp lại La Thành6. Khi

ấy có người tiết phụ họ Toàn7 là mẹ của Đào Tề Lượng ở Giao Châu, thường

lấy trung nghĩa dạy Lượng, nhưng Lượng ngoan cố không chịu nghe, mới dứt

tình với con, tự cày lấy mà ăn, dệt lấy mà mặc, người trong làng xóm đều

noi theo. Vua Đường xuống chiếu cho 2 người đinh đến hầu nuôi, sai quan

bản đạo bốn mùa đến thăm hỏi.

Mậu Thân, [768], (Đường Đại Lịch năm thứ 3). Nhà Đường đổi Giao Châu làm

An Nam Đô Hộ

Phủ.

Giáp Tý, [784], (Đường Đức Tông Quát, Hưng Nguyên năm thứ 1). Người quận

Cửu Chân là

Khương Công Phụ làm quan thời Đường, đậu tiến sĩ, bổ làm Hiệu Thư Lang.

Vì có bài chế sách hơn người, cho làm Hữu thập di Hàn Lâm học sĩ, kiêm chức

Kinh triệu hộ tào tham quân, từng xin giết Chu Thử, vua Đường không nghe.

Không bao lâu Kinh sư có loạn, vua Đường từ cửa Thượng Uyển đi ra, Công Phụ

giữ ngựa lại can rằng: "Chu Thử từng làm tướng ở đất Kinh đất Nguyên, được

lòng quân lính,

[5b] vì Chu Thao làm phản nên bị vua cất mất binh quyền, ngày thường vẫn

uất ức, xin cho bắt đem đi theo, chớ để cho bọn hung ác đón được". Vua

Đường đương lúc vội vàng không kịp nghe, trên đường đi

lại muốn dừng lại ở Phượng Tường để nương nhờ Trương Dật. Công Phụ can

rằng: "Dật tuy là bề tôi đáng tin cậy, nhưng là quan văn, quân đột kỵ ở Ngư

Dương do ông ta quản lĩnh đều là bộ khúc của Chu Thử. Nếu Thử thẳng đến

Kinh Nguyên làm loạn, thì ở nơi ấy không phải kế vạn toàn". Vua Đường bèn

đi sang Phụng Thiên. Có người báo tin Thử làm phản, xin vua phòng bị.

Vua Đường nghe lời Lư Kỷ xuống chiếu cho quân các đạo đóng cách xa thành

một xá8, muốn đợi Thử đến đón. Công Phụ nói: "Bậc vương giả không nghiêm

việc vũ bị thì lấy gì để oai linh được trọng. Nay cấm binh đã ít người mà

quân lính người ngựa đều ở bên ngoài, thần lấy làm nguy cho bệ hạ lắm".

Vua Đường khen là phải, cho gọi

hết vào trong thành. Quân của Thử quả nhiên kéo đến, đúng như lời của

Công Phụ. Vua Đường bèn thăng cho Phụ làm Gián Nghị Đại Phu, Đồng trung

thư môn hạ bình chương sự9. Sau [6a] vì việc can

1 Tân Đường thư - Bản kỷ chép là Mai Thúc Loan; Cựu Đường thư, Dương Tư

Húc truyện chép là Mai Lập Thành ---- Thông giám

chép là Mai Thúc Yên.

2 CMTB4, 21b theo Tân Đường Thư, Dương Tư Húc truyện ghi số quân của Mai

Thúc Loan là 40 vạn.

3 CMTB4, 21b theo Đường Thư; Dương Tư Húc truyện chép là Quang Sở Khách.

Hai chữ Quang và Nguyên dễ viết nhầm.

4 Côn Lôn: thư tịch Trung Quốc từ thế kỷ IV, nhất là từ thời Đường, thường

dùng tên Côn Lôn để chỉ một số cư dân trong vùng Nam Hải, tức vùng Đông Nam

Á ngày nay. Tuệ Lâm trong Nhất Thiết Kinh Âm Nghĩa (q.61), soạn năm 817,

nói rằng "Côn Lôn .... cũng gọi là Cốt Luân, là người Di ở các đảo châu Nam

Hải, rất đen .... chủng loại có nhiều". Cựu Đường Thư, Nam Man truyện cùng

chép: "Từ Lâm Ấp trở về phía nam, đều tóc quăn, da đen, gọi chung là Côn

Lôn". Như vậy Côn Lôn là một sự phiếm chỉ, khó có thể xác định đó là cư

dân một nơi nào ở Đông Nam Á hiện nay.

5 Chà Bà: phiên âm tên đảo Java.

6 Theo Nguyên Hòa quận huyện chí (q.38), năm này (767) Trương Bá Nghi cho

đắp La Thành ở vị trí mới, cách sông Tô Lịch khoảng

200 thước.

7 Cương mục TB4 chép người tiết phụ này họ Kim, hẳn là đã dựa vào Tân

Đường thư q.205 Liệt nữ truyện (Kim tiết phụ). Toàn thư

đã chép nhầm chữ Kim ra chữ Toàn.

8 Xá: 30 dặm.

9 Việc Khương Công Phụ căn ngăn Đường Đức Tông, Đường thư và Thông giám

đều ghi vào năm Kiên Trung thứ 4 (783), quan hàm được phong là Gián nghị

đại phu kiêm Đổng bình chương sự.

vua chôn cất công chúa Đường An quá hậu, trái ý vua, Lục Chí tâu gỡ cho,

nhưng không được, cuối cùng

vẫn phải xuống chức làm Thái tử tả thứ tử, lại bị biếm là Tuyền Châu biệt

giá. Đường Thuận Tông lên ngôi, cho làm Thứ sử Cát Châu, chưa đến nơi nhận

chức thì chết. Em là Khương Công Phục cũng đậu tiến sĩ, làm quan đến chức

Bắc bộ thị lang1.

Tân Mùi, [791], (Đường Trinh Nguyên năm thứ 7). Mùa xuân, An Nam đô hộ phủ

là Cao Chính Bình làm việc quan bắt dân đóng góp nặng. Mùa hạ, tháng 4,

người ở Đường Lâm thuộc Giao Châu (Đường Lâm thuộc huyện Phúc Lộc)2 là

Phùng Hưng dấy binh vây phủ. Chính Bình lo sợ mà chết. Trước đây Phùng

Hưng vốn là nhà hào phú, có sức khỏe, có thể vật trâu, đánh hổ. Khoảng

niên hiệu Đại Lịch (766-780] đời Đường Đại Tông, nhân Giao Châu có loạn,

cùng với em là Hãi hàng phục được các ấp bên cạnh, Hưng xưng là Đô Quân,

Hãi xưng là Đô Bảo, đánh nhau với Chính Bình, lâu ngày không thắng được.

Đến đây dùng [6b] kế của người làng là Đỗ Anh Hàn, đem quân vây phủ. Chính

Bình lo sợ phẫn

uất thành bệnh ở lưng mà chết. Hưng nhân đó vào đóng ở phủ trị, chưa được

bao lâu thì chết. Con là

An tôn xưng làm Bố Cái Đại Vương (tục gọi cha là Bố, mẹ là Cái, cho nên lấy

[Bố Cái] làm hiệu). Vương thường hiển linh, dân cho là thần, mới làm đền

thờ ở phía tây phủ đô hộ, tuế thời cúng tế (tức là Phu hựu chương tín sùng

nghĩa Bố Cái Đại Vương. Đền thờ nay ở phường Thịnh Quang3, ở phía đông

nam4 ruộng tịch điền).

Tháng 5, ngày Tân Tỵ, nhà Đường đặt quân Nhu Viễn ở phủ trị. Mùa thu,

tháng 7, ngày Canh Thìn, nhà Đường lấy Triệu Xương làm đô hộ. Xương vào

cõi, lòng dân bèn yên. Xương sai sứ dụ An, An đem quân hàng. Xương đắp

thêm La Thành kiên cố hơn trước, ở chức 17 năm, vì đau chân xin về. Vua

Đường chuẩn cho, lấy Lang trung bộ Binh là Bùi Thái thay Xương.

Quý Mùi, [803], (Đường Trinh Nguyên năm thứ 19). Đô đốc Bùi Thái sai lấp

bỏ những hào rãnh

ở trong thành, hợp làm một [7a] thành5. Tướng ở châu là Vương Quý Nguyên

đuổi Bùi Thái đi. Vua

Đường vời Xương hỏi tình trạng. Xương đã ngoài 70 tuổi, mà tâu việc rõ

ràng. Vua Đường cho là giỏi,

lại sai làm Đô hộ Giao Châu. Xương đến, người trong châu đều mừng, loạn

bèn yên.

Mậu Tý, [808], (Đường Hiến Tông Thuần, Nguyên Hòa năm thứ 3). Trương Chu

làm Đô hộ Giao Châu (trước Chu làm Kinh lược phán quan, đến nay thăng làm

Đô hộ), đắp thêm thành Đại La, đóng 300 chiếc thuyền mông đồng (loại thuyền

ngắn), mỗi thuyền có 25 chiến thủ, 23 tay chèo, thuyền chèo ngược xuôi,

nhanh như gió. Lại đắp hai thành ở châu Hoan, châu Ái, vì các thành ấy

trước bị Hoàn Vương (vua Chiêm Thành) phá hủy.

Kỷ Hợi, [819], (Đường Nguyên Hòa năm thứ 14). Mùa đông, tháng 10, Đô hộ là

Lý Tượng Cổ vì tham bạo hà khắc mất lòng dân chúng. Tướng của Cổ là Dương

Thanh đời đời làm tù trưởng Man, khoảng niên hiệu Khai Nguyên [713-742] nhà

Đường làm Thứ sử Hoan Châu6, [7b] Tượng Cổ vẫn kiêng

dè, gọi cho làm nha tướng, đến đai sai đi đánh người Man ở Hoàng Động.

Thanh nhân thấy lòng người oán giận Tượng Cổ, đang đêm trở về đánh úp châu,

chiếm được, giết Tượng Cổ (Thanh là người Giao Châu, Tượng Cổ là người

tôn thất nhà Đường). Vua Đường sai Quế Trọng7 đánh Dương Thanh

1 Bắc bộ thị lang: Đại Việt sử ký tiền biên (bản in thời Tây Sơn) sửa là

Tỉ bộ thị lang ( tỉ và bắc dễ viết nhầm). CMTB26

dẫn An Nam kỷ yếu ghi Bình trước là Đô úy ở Vũ Định, nhờ đem quân cứu viện

Trương Bá Nghi, được phong làm An Nam Đô Hộ.

2 Nay là xã Cam Lâm, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây.

3Nay thuộc quận Đống Đa, Hà Nội.

4 Nguyên bản in: "tịch điền đông-tây", có lẽ là đông-nam hay đông-bắc,

khắc in nhầm.

5 Nguyên văn: "Sản thành trung câu địa thành, hợp vi nhất thành" và cước

chú: "cậu địa có bản chép là câu trì (ao ngòi)". Như vậy "câu địa thành"

có lẽ phải đọc là "câu đìa thành", hiểu là thành có hào rãnh trong ngoài,

mà câu đìa là lối ghép 1 từ Hán và 1 từ Nôm đồng nghĩa. Trong câu trên có

3 chữ thành, thừa chữ thành thứ hai.

6 Người làm thứ sử Giao Châu nói đây là ước tính theo thời gian, cần hiểu

là người đời trước trong gia tộc của Dương Thanh chứ

không phải chính Dương Thang.

7 CMTB4, 29b theo Cựu Đường thư, Bản kỷ và Thông giám sửa lại là Quế Trọng

Vũ, bấy giờ làm An Nam đô hộ.

không thắng. Thanh vào trong người Man Lạo làm loạn, cướp phá phủ thành,

Đô hộ Lý Nguyên Gia

đánh không được, dụ không đến. Do đấy người Man Hoàng Động dẫn Hoàn Vương1

vào cướp.

Giáp Thìn, [824], (Đường Mục Tông Hằng, Trường Khánh năm thứ 4). Mùa đông,

tháng 11, Lý Nguyên Gia2 thấy trước cửa thành có dòng nước chảy ngược, sợ

trong châu nhiều người sinh lòng làm phản, vì thế dời đến đóng ở thành hiện

nay. (Bấy giờ Nguyên Gia dời phủ trị3 đến sông Tô Lịch, mới đắp thành nhỏ

thôi, có người thầy tướng bảo rằng: Sức ông không đắp nổi thành lớn, sau 50

năm nữa ắt có người họ Cao đến đây đóng đô dựng phủ. Đến đời Hàm Thông

[860-874], Cao Biền đắp thêm La Thành, đúng như lời người ấy. Lại xét: Phủ

thành đô hộ trước đó ở ngoài thành Đông Quan ngày nay, gọi là La Thành, sau

Cao Biền đắp thành hiện nay, thành bên ngoài cũng gọi là La Thành).

[8a] Mậu Thân, [828], (Đường Văn Tông Hàm, Thái Hòa năm thứ 2). Đô hộ Hàn

Ước đánh

Vương Thăng Triều ở Phong Châu, thắng được, sau bị Dương Thanh đuổi, chạy

về Quảng Châu.

Tân Dậu, [841], (Đường Vũ Tông Viêm, Hội Xương năm thứ 1). Vua Đường xuống

chiếu lấy Vũ

Hồn làm Kinh lược sứ thay Hàn Ước.

Quý Hợi, [843], (Đường Hội Xương năm thứ 3). Kinh lược sứ Vũ Hồn bắt

tướng sĩ đắp sửa thành phủ, tướng sĩ làm loạn, đốt lầu thành, cướp kho phủ.

Hồn chạy về Quảng Châu. Giám quân là Đoàn Sĩ Tắc vỗ yên được quân làm

loạn.

Bính Dần, [846], (Đường Hội Xương năm thứ 6). Người Nam Man4 vào cướp.

Vua Đường sai

Kinh Lược Sứ là Bùi Nguyên Hựu5 đem quân các đạo lân cận đánh dẹp được.

Đinh Sửu, [857], (Đường Tuyên Tông Thầm, Đại Trung năm thứ 11). Mùa hạ,

tháng 4, nhà

Đường lấy Hữu thiên ngưu vệ đại tướng quân [8b] là Châu Nhai6 là Kinh lược

sứ Giao Châu.

Mậu Dần, [858], (Đường Đại Trung năm thứ 12). Mùa xuân, tháng

giêng, vua Đường lấy

Khang Vương phó7 là Vương Thức làm Giao Châu kinh lược đô hộ sứ. Thức là

người có tài lược, đến phủ

sai trồng cây táo gai8 làm rào, bên ngoài đào hào sâu để thoát nước trong

thành, bên ngoài hào trồng

tre gai, giặc không thể xâm phạm được, kén chọn dạy bảo quân lính rất tinh

nhuệ. Không bao lâu, người Nam Man (tức Nam Chiếu) kéo đến đông, đóng ở

bến đò Cẩm Điền, cách châu độ nửa ngày đường. Ý tứ của Thức vẫn an nhàn

như thường, sai người phiên dịch đến dụ, bày tỏ lợi hại, chỉ một đêm người

Man

lại kéo đi, sai người đến từ tạ nói: "Chúng tôi chỉ đến bắt bọn người Lạo

làm phản, chứ không phải đến cướp".

Lại có Đô hiệu La Hành Cung (Đô hiệu cũng như Đô tướng) chuyên quyền ở phủ

đã lâu, quân tinh nhuệ dưới cờ đến 2 nghìn người mà ở phủ đô hộ chỉ có vài

trăm quân gầy yếu. Thức đến phủ, đánh trượng vào lưng [Hành Cung] rồi đuổi

ra nơi biên viễn.

1 Hoàn Vương: vua nước Chiêm Thành (khoảng những năm 756-808, nước Lâm Ấp

được thư tịch Trung Quốc gọi là Hoàn Vương

Quốc, từ sau năm 808 mới gọi là Chiêm Thành).

2 Lý Nguyên Gia: Việt Sử Lược q1.10b dựa vào Cựu Đường thư (Bản kỷ 17)

chép là Nguyễn (tức Lý) Nguyên Hỷ. Chữ Gia và chữ Hỷ

có thể lầm với nhau.

3 Nguyên bản in nhầm chữ phủ thành chữ phủ.

4 Ở đây, Toàn thư chép lè Nam Man. Tân Đường thư q.8 Bản Kỷ, khi nói đến

sự kiện này, lại chép là Vân Nam Man. Nhưng cũng căn cứ vào Tân Đường thư,

q.222 Nam Chiếu truyện, thì Vân Nam Man nói ở đây là Nam Chiếu, tên quốc

gia của các tộc người vùng Vân Nam, Trung Quốc (chủ yếu là người Thoán),

cường thịnh từ khoảng thế kỷ VIII, thường tiến hành những cuộc chiến tranh

xâm lược ra xung quanh.

5 Cương mục (TB4, 35a) theo sử liệu của Thông Giám và Tân Đường thư (Bản

kỷ) đã sửa lại là Bùi Nguyễn Dụ (hai chữ dụ và

hựu dễ viết nhầm)

6 Châu Nhai (cũng đọc là Chu Nhai), Toàn thư và cả Cương mục (TB4, 36b)

dựa và Thông giám và Cựu Đường thư (Bản Kỷ), nhưng

cả hai tài liệu ấy đều chép tên người này là Tống Nhai. Hai chữ

Tống và Chu dễ viết nhầm. Toàn thư chuyển tiếp lầm trong Cương

mục: nên sửa lại là Tống Nhai.

7 Thầy học của Khang Vương.

8 Vốn là "lặc mộc" (cây táo gai), nguyên bản in nhầm thành

"điều mộc" (Xem CMTB4, 37).

Trước đó, Đô hộ là Lý Trác làm chính sự tham [9a] lam tàn bạo, mua hiếp bò

ngựa của người

Man, mỗi con chỉ trả cho một đấu muối, lại giết tù trưởng Man là Đỗ Tồn

Thành, dân Man oán giận, dẫn đường cho người Nam Chiếu đến lấn cướp biên

giới. Đất Tây Nguyên, Đào Lâm, thuộc Phong Châu, từ xưa vẫn có quân phòng

đông1 6.000 người, tù trưởng Man Động Thất Quán bên cạnh là Lý Do Độc,

thường giúp đỡ việc đóng giữ và thu tô thuế. Viên Tri Châu Phong Châu

(không rõ họ tên) nói với Tác

xin bỏ quân đóng thú, chuyên ủy cho Do Độc ngăn phòng. Từ đó Do Độc thế

cô, không thể đứng vững được. Thác đông tiết độ của Nam Chiếu (Thác đông:

ý nói khai thác cõi đông; Giao Chỉ ở phía đông nước Nam Chiếu, cho nên đặt

chức ấy) gửi thư sang dụ Do Độc, đem con gái gả cho con trai của Do Độc, bổ

làm Thác đông thác nha2. Do Độc bèn đem dân chúng làm tôi nước Nam Chiếu.

Từ đấy Giao Châu mới có mối lo về người Man [Nam Chiếu].

Tháng 5 năm ấy, người Man [Nam Chiếu] đến cướp, Thức đánh lui được.

Mùa thu, tháng 7, có bọn dân xấu nhiều lần nổi loạn, nói phao rằng: "Nghe

đồn Kinh lược sứ Châu Nhai (Châu Nhai ở Quảng [9b] Châu)3 sai quân Hoàng

đầu (quân bịt đầu bằng khăn vàng) vượt biển sang đánh úp châu ta". Rồi

bọn họ đang đêm kéo nhau đến vây thành, đánh trống reo hò: "Xin đuổi Thức

về để chúng tôi đóng ở thành này chống giữ quân Hoàng đầu phía Bắc". Lúc

ấy Thức đang

ăn, có người khuyên nên tránh đi. Thức nói: "Tôi động chân một chút thì

thành này vỡ ngay". Rồi cứ thong thả mà ăn, ăn xong, mặc áo giáp dẫn tả

hữu lên mặt thành, dựng cờ đại tướng ngồi mà trách mắng. Bọn làm loạn quay

đầu bỏ chạy. Ngày hôm sau, Thức sai bắt giết hết.

Bấy giờ đói kém loạn lạc liên tiếp, 6 năm không nộp thượng cung (thượng

cung là tiền, lụa nộp sang Kinh sư để cho vua [Trung Quốc] chi dùng), trong

quân không có khao thưởng. Thức bắt đầu sửa sang việc thuế khóa, khao

thưởng quân lính. Chiêm Thành, Chân Lạp đều thông sứ trở lại.

Canh Thìn, [860], (Đường Ý Tông Thôi, Hàm Thông năm thứ 1). Mùa xuân, giặc

ở Chiết Đông

là Cừu Phủ làm loạn. Nhà Đường bàn chọn tướng đi đánh dẹp. Hạ Hầu Tư nói:

"Vương Thức tuy là con nhà nho, nhưng trước ở An Nam đã từng uy phục được

cả người Hoa và người Di, [10a] cõi xa đều nghe danh tiếng, có thể đảm

nhiệm được". Vua Đường bèn gọi Thức về trao cho chức Chiết Đông quan

sát sứ.

Mùa đông, tháng 12, ngày Mậu Thân, người thổ man dẫn quân Nam Chiếu hợp lại

hơn 3 vạn người, nhân khi sơ hở đến đánh chiếm phủ [trị] của châu ta. Đô

hộ Lý Hộ cùng với viên giám quân chạy

về Vũ Châu.

Tân Tỵ, [861], (Đường Hàm Thông năm thứ 2). Mùa xuân, tháng giêng vua

Đường xuống chiếu phát quân Ung Quản4 và các đạo lân cận sang cứu Lý Hộ,

đánh lại Nam di [Nam Chiếu]. Mùa hạ, tháng

6, ngày Quý Sửu, vua Đường sai Phòng ngự sứ Diêm Châu là Vương Khoan làm

Kinh lược sứ An Nam. Bấy giờ Lý Hộ từ Vũ Châu thu nhặt quân người địa

phương [Giao Châu] đánh bọn Man [Nam Chiếu], lấy

lại được phủ thành. Vua Đường trách tội thất thủ, biếm làm Tư hộ Đạm Châu,

sau đày đi Phong Châu,

lấy Vương Khoan làm Đô hộ kinh lược sứ. Hộ khi mới đến giết tù trưởng

người Man là Đỗ Trừng5, cho nên họ hàng nhà Trừng xui giục và dẫn đường cho

người Man [Nam Chiếu] đánh lấy châu.

[10b] Nhâm Ngọ, [862], (Đường Hàm Thông năm thứ 3). Mùa xuân, tháng 2, Nam

Chiếu lại vào cướp phá. Vương Khoan mấy lần sai sứ cáo cấp. Vua Đường sai

Hồ Nam quan sát sứ trước là Sái Tập thay thế, đem binh các đạo Hứa, Hoạt,

Từ, Biện, Kinh, Tương, Đàm, Ngạc, hợp lại được 3 vạn, giao cho Tập để chống

cự. Thế quân đã mạnh, quân Man bèn rút lui.

1 Đời Đường, quân phòng thủ ở biên giới thường được gọi là phòng thu và

phòng đông.

2 Thác đông thác nha: Thông giám (Mậu Dần, Đại Trung 2) khảo dị với Man

thư, đã hiệu chỉnh là Thác đông áp nha; nên sửa theo cách gọi đó.

3 Ở đây nói đến viên Kinh Lược Sứ Tống Nhai mà Toàn Thư đã lầm là họ Châu

tên Nhai (xem NK5 8b - năm 857), đến đây thấy trùng với tên quận Châu Nhai

(ở đảo Hải Nam) nên người chú thích nguyên bản Toàn thư đã chú nhầm.

4 Tức Ung Châu. Quản là đơn vị hành chính do nhà Đường đặt, tương đương

như phủ.

5 CMTB4, 40a theo Thông giám, chép là Đỗ Thủ Trừng.

Mùa hạ, tháng 5, Lĩnh Nam tiết độ là Sái Kinh thấy Tập đem quân các đạo đến

chống cự với

quân Man, sợ Tập lập được công, có ý ghen ghét, nhân đó tâu rằng: "Bọn Nam

Man đã trốn xa, biên giới không đáng lo nữa. Kẻ vũ phu cầu công, xin càn

quân đóng thú, tổn phí quân lương và chuyên chở, vì góc lánh đường xa khó

bề kiểm soát, nên tha hồ làm việc gian trá. Xin bãi quân đóng giữ, cho đạo

nào

lại về đạo ấy". Vua Đường nghe theo. Tập nhiều lần tâu rằng: "Bọn người

Man rình lúc sơ hở đã lâu, không thể không phòng bị, xin lưu lại 5 nghìn

thú binh". Vua Đường không nghe, Tập cho là giặc Man

[Nam Chiếu] ắt lại đến, mà quân lính và lương thực đều thiếu, trí lực [11a]

hai mặt đều quẫn, mới làm

tờ sớ "Thập tất tử trạng" [10 tình trạng ắt phải chết] trình lên tòa Trung

thư. Nhưng tể tướng thời bấy giờ tin lời Sái Kinh, cuối cùng vẫn không xét

đến.

Mùa thu, tháng 7, Sái Kinh ở trị sở, chính lệnh hà khắc thảm độc, cả cõi

đều oán, bị quân sĩ đuổi, phải biếm làm Tư hộ Nhai Châu, không chịu đi nhận

chức, vua Đường xuống sắc bắt phải tự tử.

Mùa đông, tháng 10, bọn Man Nam Chiếu 5 vạn người đến cướp, Tập cáo cấp.

Vua Đường sai

lấy quân hai đạo Kinh Nam, Hồ Nam 2 nghìn người và con em nghĩa chinh ở Quế

Quản (vì họ ứng mộ tòng quân nên gọi là nghĩa binh) 3 nghìn người đến Ung

Châu chịu lệnh tiết chế của Trịnh Ngu để sang cứu [Sái Tập]. Tháng 12,

Tập lại xin thêm quân, vua Đường sắc cho Sơn Nam đông đạo đem 1 nghìn quân

tay nỏ sang cứu. Khi ấy quân Nam Chiếu đã vây phủ, quân cứu viện không thể

đến được. Tập chỉ

cố thủ xung quanh thành mà thôi.

Quý Mùi, [863], (Đường Hàm Thông năm thứ 4). Mùa xuân, tháng

giêng, ngày Canh Ngọ, quân Nam Chiếu đánh chiếm phủ thành, tả hữu của Tập

[11b] đều chết hết. Tập chạy bộ, cố sức đánh, người trúng mười mũi tên,

muốn xuống thuyền của giám quân nhưng thuyền đã đi xa bờ, bèn nhảy xuống

biển chết, cả nhà 70 người. Liêu thuộc là Phàn Xước đem ấn tín binh phù

của Tập sang sông trước, được thoát. Tướng sĩ các châu Kinh Nam, Giang

Tây, Ngạc, Nhạc, Tương, hơn 4 trăm người chạy đến phía đông thành giáp

sông. Ngu hầu Kinh Nam là bọn Nguyên Duy Đức bảo quân sĩ rằng: "Bọn ta

không có thuyền, xuống nước tất chết, chi bằng lại quay về thành đánh nhau

với người Man, một người của ta đổi lấy hai người Man, cũng có lợi". Bèn

trở lại thành, vào cửa Đông La (tức là cửa đông La Thành An Nam). Người

Man không phòng bị, bọn Duy Đức tung quân đánh, giết quân Man hơn 2 nghìn

người. Đến đêm, tướng Man là Dương Tư Tấn từ trong tử thành (tức thành

nhỏ ở trong thành) đem quân ra cứu, bọn Duy Đức đều chết cả. Nam Chiếu hai

lần chiếm Giao Châu, vừa giết vừa bắt gần 15 vạn người. [Khi rút lui] lưu

lại 2 vạn quân, sai Tư Tấn giữ [12a] thành Giao Châu ta. Người Di Lão ở

các khe động không cứ xa gần đều hàng phục cả. [Vua] Nam Chiếu cho thuộc

hạ là Đoàn Tù Thiên làm Tiết độ sứ phủ [Giao Châu] ta. Vua Đường xuống

chiếu gọi viện binh các đạo về chia giữ Tây Đạo ở Lĩnh Nam1.

Tháng 6, bỏ An Nam đô hộ phủ, đặt chức Hành Giao Châu ở trấn Hải Môn2, cho

Hữu giám môn

vệ tướng quân là Tống Nhung giữ chức Hành Giao Châu thứ sử, cho Vũ Nghĩa

tiết độ sứ3 là Khang Thừa

Huấn kiêm lĩnh chức Lĩnh Nam cập chủ quân hành doanh4.

Mùa thu, tháng 7, lại đặt An Nam đô hộ phủ ở Hành Giao Châu, cho Tống Nhung

làm Kinh lược

sứ, đem quân Sơn Đông một vạn người đến trấn giữ. Khi ấy quân các đạo của

nhà Đường đến cứu viện, đều đóng lại ỡ Lĩnh Nam không tiến, hao phí lương

thực, vận chuyển, người Nhuận Châu là Trần Bàn Thạch dâng sớ xin đóng loại

thuyền nghìn hộc để chở gạo từ Phúc Kiến đi đường biển, không đầy một tháng

thì đến Quảng Châu. Vua Đường nghe theo, lương ăn của quân lính nhờ đó

được đầy đủ. Nhưng

[12b] bọn quan lại mượn tiếng thuê thuyền để cướp đoạt thuyền của người

buôn, vứt hàng hóa của họ

1 Tây Đạo: tức Ung Châu (trị sở ở Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc ngày

nay).

2 Trấn Hải Môn: lỵ sở ở huyện Bác Bạch, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc ngày

nay.

3 Vũ Nghĩa tiết độ sứ: nên sửa theo Tân Đường thư, Khang Thừa Huấn truyện

là Nghĩa Vũ tiết độ sứ.

4 Lĩnh Nam: trong chức vụ kiểm lĩnh của Khang Thừa Huấn nên sửa đúng là An

Nam, theo Thông Giám và Tân Đường thư (đã dẫn). CMTB5, 4a cũng dẫn nhầm là

Lĩnh Nam.

lên bờ: khi thuyền ra biển có chiếc nào bị sóng gió làm chìm đắm thì bắt

giam cương lại1 và chủ thuyền

để bắt đền số gạo bị mất, [vì thế] người ta rất khổ sở.

Giáp Thân, [864], (Đường Hàm Thông năm thứ 5). Vua Đường cho Tổng quản2

kinh lược sứ là Trương Nhân kiêm coi giữ việc Giao Châu, tăng thêm quân ở

trấn Hải Môn cho đủ số 2 vạn 5 nghìn người, sai Nhân tiến quân lấy lại phủ

thành.

Mùa thu, tháng 7, Nhân dùng dằng không dám tiến. Hạ Hầu Tư tiến cử Kiêu vệ

tướng quân là Cao Biền thay, bèn cho Biền làm Đô hộ tổng quản kinh lược

chiêu thảo sứ, bao nhiêu quân sĩ của Nhân đều trao cho Biền cả. Biền tiểu

tự là Thiên Lý, cháu của Nam Bình Quận Vương [Cao] Sùng Văn, đời đời

coi giữ cấm binh. Biền đổi chí vào việc học, thích bàn luận việc xưa nay,

người trong quân đều [13a] khen ngợi. Lúc còn ít tuổi, theo giúp Chu Thục

Minh. [Một hôm] có hai con diều sóng đôi bay qua, Biền giương cung nhắm

bắn, khấn rằng: "Nếu ta sau này được quý hiển thì phải bắn trúng" rồi bắn

một phát

tên trúng cả hai con. Mọi người cả kinh, nhân đó gọi là "Lạc điêu thị ngự

sử" [quan thị ngự sử bắn rơi chim điêu]. Sau Biền được thăng dần đến chức

Hữu thần sách đô ngu hầu. Người Đảng Hạng làm phản, Biền đem hơn 1 vạn

cấm binh đến đóng ở Trường Vũ, nhiều lần lập công, thăng chức Tần Châu

phòng ngự sử, lại có công nữa. Bấy giờ Nam Chiếu chiếm đất ta, cho nên

sai Biền sang thay [Trương Nhân].

Ất Dậu, [865], (Đường Hàm Thông năm thứ 6). Mùa thu, tháng 7, Cao Biền

sửa quân ở trấn

Hải Môn chưa tiến. Giám quân là Lý Duy Chu ghét Biền muốn tống đi, nhiều

lần giục Biền tiến quân. Biền đem hơn 5 nghìn quân vượt biển đi trước, hẹn

Duy Chu đem quân ứng viện. Biền đi rồi, Duy Chu cầm quân còn lại không

tiến phát. Tháng 9, Biền đến Nam Định3, Phong Châu, quân Man gần 5 vạn

đương gặt lúa, Biền ập đến [13b] đánh tan, chém được bọn Trương Thuyên, thu

lấy số lúa đã gặt dùng

để nuôi quân.

Bính Tuất, [866], (Đường Hàm Thông năm thứ 7). Mùa hạ, tháng 4, Nam Chiếu

thăng chức cho Đoàn Tù Thiên làm Tiết độ sứ Thiện Xiển (Thiện Xiển là đô

khác của Nam Chiếu, ở tây bắc Giao Châu)4, sai Trương Tập5 giúp Tù Thiên

đánh Giao Châu, cho Phạm Nật Ta làm Đô thống phủ ta, Triệu Nặc Mi làm Đô

thống Phù Da6. Giám trận nhà Đường sai Vi Trọng Tể đem hơn 7 nghìn quân

đến Phong Châu. Biền được thêm quân, tiến đánh Nam Chiếu, nhiều lần đánh

tan được. Tờ tâu thắng trận gửi đến trấn Hải Môn, Duy Chu đều giấu đi.

Mấy tháng không có tin tức, vua Đường lấy làm lạ mới hỏi Duy Chu. Duy Chu

tâu rằng: Biền đóng quân ở Phong Châu, ngồi nhìn giặc không chịu tiến. Vua

Đường tức giận,

sai Hữu vũ vệ tướng quân là Vương Án Quyền thay Biền, đòi Biền về kinh đô,

ý muốn biếm phạt nặng. Tháng ấy, Biền đánh tan quân Nam Chiếu, giết và bắt

sống rất [14a] nhiều. Nam Chiếu thu quân còn

sót chạy vào châu thành cố giữ. Mùa đông, tháng 10, Cao Biền vây châu

thành hơn 10 ngày, người Man

rất khốn quẫn. Thành sắp hạ thì vừa lúc Biền nhận được văn thư của Vương

Án Quyền cho biết đã cùng

với Duy Chu đem đại quân xuất phát từ trấn Hải Môn. Biền liền trao việc

quân cho Trọng Tể, rồi cùng với bộ hạ hơn 100 người về Bắc.

Trước đó, Trọng Tể sai tiểu sứ là Vương Tuệ Tán, Cao Biền sai tiểu hiệu là

Tăng Cổn cùng mang thư báo thắng trận về nhà Đường, đến giữa biển, trông

thấy cờ quạt kéo sang phía đông, hỏi những thuyền đi trên biển thì họ nói

đó là quan Kinh lược sứ và Giám quân mới đến. Hai người bàn nhau rằng:

1 Cương lại: người giữ việc ghi chép sổ sách vận chuyển lương thực.

2 Tân Đường thư q.224 hạ, Cao Biền truyện và Việt Sử Lược q.1 đều chép là

Dung Quản kinh lược sứ, Dung Quản hay Dung Châu thời Đường, đặt trị sở ở

huyện Bắc Lưu, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc ngày nay.

3 Nam Định: tên huyện do nhà Đường đặt năm Vũ Đức thứ 4 [621] (Đường thư,

Địa lý chí). Lại theo Thái Bình hoàn vũ ký của Nhạc Sử thời Tống thì ở

huyện Nam Định có núi Đông Cứu ở châu Gia Lâm. Như vậy huyện Nam Định

thời thuộc Đường ở về phía nam sông Đuống, vào khoảng huyện Gia Lương, tỉnh

Hà Bắc ngày nay.

4 Thiện Xiển: tức Côn Minh, ở tỉnh Vân Nam, Trung Quốc ngày nay.

5 Theo Thông Giám và Tân Đường thư, Nam Chiếu truyện, họ tên người này là

Dương Tập Tư, không phải là Trương Tập như Toàn thư đã viết nhầm.

6 Phù Da: tên huyện thuộc châu Vũ Định. Theo Thanh nhất thống chí, châu

Vũ Định thời Đường thuộc quyền An Nam đô hộ phủ;

nay ở địa phận tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Chữ Phù trong nguyên bản đúng ra

phải chép là .

"Duy Chu thế nào cũng cướp lấy tờ biểu và giữ chúng ta lại". Bèn nấp ở hải

đảo chờ Duy Chu đi qua rồi

mới đi gấp về kinh sư. Vua Đường được tờ tâu cả mừng, liền thăng cho Biền

làm Kiểm hiệu Công bộ

thượng thư, sai Biền đi đánh người Man. Biền về đến trấn Hải Môn thì quay

lại.

Án Quyền là người ngu hèn, việc gì cũng xin lệnh của Duy Chu. Duy [14b]

Chu là người hung bạo tham lam, các tướng không chịu giúp việc, bọn họ bèn

mở vòng vây cho người Man trốn đi quá nửa. Biền đến nơi lại đốc thúc khích

lệ tướng sĩ, đánh lấy được thành, giết Tù Thiên và Chu Cổ Đạo là người

thổ man dẫn đường cho quân Nam Chiếu, chém hơn 3 vạn đầu. Quân Nam Chiếu

trốn đi, Biền lại phá

được hai động thổ man dã theo Nam Chiếu, giết tù trưởng. Người thổ man rủ

nhau quy phục đến 1 vạn

7 nghìn.

Tháng 11, ngày Nhâm Tý, vua Đường xuống chiếu cho các lộ quân Giao Châu,

Ung Châu, Tây Châu1 phải giữ bờ cõi, không tiến đánh nữa; đặt Tĩnh Hải

quân ở Giao Châu, lấy Biền làm Tiết độ sứ. (Từ đây cho đến đời nhà Tống, An

Nam gọi là Tĩnh Hải quân tiết trấn). Từ khi Lý Trác xâm phạm quấy nhiễu,

khiến cho người Man [Nam Chiếu] gây họa đến gần 10 năm, đến đấy mới yên.

Cao Biền giữ phủ xưng vương2, đắp La Thành vòng quanh 1.982 trượng lẻ 5

thước, thân thành cao [15a] 2 trượng 6 thước, chân thành rộng 2 trượng 5

thước, bốn mặt thành đắp các nữ tường nhỏ3 trên bốn mặt thành cao

5 thước 5 tấc4, lầu nhìn giặc 55 sở, cửa ống 6 sở, cừ nước 3 sở, đường bộ

34 sở. Lại đắp con đê vòng quanh dài 2.125 trượng 8 thước; cao 1 trượng 5

thước; chân rộng 2 trượng, cùng làm nhà cửa hơn 40 vạn gian5.

Lê Văn Hưu nói: Một Lý Trác tham bạo mà dẫn đến mười mấy năm bị tai họa

người Man, huống chi lại có kẻ bạo ngược hơn cả Lý Trác nữa. Một Cao Biền

đốc suất

bộ thuộc mà chém được vài vạn quân giặc mạnh, huống chi lại có người giỏi

hơn Cao Biền nữa! Cho nên Trác không thể bảo toàn được mình, mà Cao Biền

thì giữ thành xưng vương, người khéo trị nước phải nên cẩn thận việc chọn

người.

Đinh Hợi, [867], (Đường Hàm Thông năm thứ 8). Mùa xuân, tháng giêng, Cao

Biền đi tuần thị đến hai châu Ung, Quảng thấy đường biển có [15b] nhiều đá

ngầm làm đắm thuyền, vận chở không thông, bèn sai bọn Nhiếp trưởng sử Lâm

Phúng, Hồ Nam tướng quân Dư Tồn Cổ đem quân bản bộ và thủy thủ hơn nghìn

người đến đục đá khai đường, bảo rằng: "Đạo trời giúp người thuận, thần

linh phù kẻ ngay. Nay khai đường biển để giúp sinh dân, nếu mình không

theo lòng riêng thì có gì khó. Các đô hộ thời trước không khao thưởng quân

sĩ, giữ phép không vững, làm sai lời hứa, trái ước hẹn, mưu lợi riêng, cho

nên mọi người đều trễ biếng. Nay ta không như thế, chỉ cốt làm cho xong

việc của nhà vua mà thôi". Biền nói xong, bọn Phúng vâng lệnh đi ra. Mùa

hạ, tháng 4, ngày mồng 5, khởi công khơi đào, trong khoảng hơn 1 tháng, gần

được thông suốt, duy ở quãng giữa có hai chỗ đá lớn quanh co chắn ngang đến

mấy trượng, đục xuống thì quằn đục, dùng búa thì gãy cán, người làm việc cả

ngày nhìn nhau, công việc cơ hồ bỏ dở. Ngày 26 tháng 5, đương ban ngày

bỗng nhiên mây dồn, gió nổi dữ dội, trông vào rừng tối như đêm, [16a] ngửa

bàn tay không nhìn thấy, chốc lát hàng trăm tiếng sét nổ vang trời ở chỗ đá

lớn, chỉ trong khoảnh khắc trở lại bừng sáng. Người làm việc chạy tới xem

thì thấy các khối

đá đã bị tan nát cả. Về phía tây lại gặp hai chỗ đá lớn dựng đứng, người

làm cũng phải chịu bó tay.

1 Tây Châu, nên sửa là Tây Xuyên, theo Thông Giám.

2 Nguyên văn: "Biền cứ ngã phủ xưng vương". Sử liệu Trung Quốc, kể cả

Tân Đường thư q.224 hạ; Cao Biền truyện đều không thấy ghi việc Cao Biền

xưng vương. Cương Mục cho rằng đó chỉ là do một số "người Giao Châu kinh

sợ Biền mà gọi Biền là Cao Vương") (CMTB5, 10b).

3 Nguyên văn: "nữ tường", tức tường nhỏ đắp trên mặt thành có các lỗ để

nhắm bắn.

4 Nguyên văn: "Ngũ trượng ngũ thốn", chắc là khắc in lầm, thân thành cao 2

trượng 6 thước thì nữ tường chỉ có thể là 5 thước 5

tấc; Việt Sử Lược (q.1) cũng ghi số đó.

5 Việt sử lược (q.1) chỉ ghi con số 5.000 gian.

Ngày 21 tháng 6 lại có sét đánh như trước, chỉ trong một lúc đá lớn đều bị

tan vụn cả. Kênh bèn đào

xong, vì thế gọi là kênh Thiên Uy1.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Việc Cao Biền đào kênh sao mà kỳ dị thế? Đó là

việc làm hợp lẽ2, cho nên được trời giúp. Trời là lẽ phải. Đất có chỗ

hiểm, chỗ bằng, đó là lẽ thường. Sức người có thể vượt hiểm được, đó cũng

là lẽ thường. Nếu hiểm mà không vượt được thì trời phải nhờ đến tay người

làm gì? Vua Vũ trị thủy, nếu không hợp lẽ thì trời do đâu mà tác thành

được? Đất do đâu mà bằng phẳng được? Công hiệu đến mức rùa sông Lạc hiện

điềm lành, thế không phải là trời [16b] giúp ư ? Xem như lời của Biền nói:

"Nay khai đường biển để giúp sinh dân, nếu không theo lòng riêng thì có gì

khó". Lòng thành phát ra từ lời nói, thì lời nói ấy há chẳng là thuận ư ?

Lòng tinh thành thực cảm thông đến cả vàng đá, huống nữa là trời? Việc gì

trời đã giúp sức là thuận. Kinh Dịch nói: "Giữ điều tín mà nghĩ điều

thuận, thì trời sẽ giúp cho, đều tốt cả, không có điều

gì bất lợi". Thế thì việc sét đánh đá lớn để giúp chẳng có gì là lạ cả.

Mậu Tý, [868] (Đường Hàm Thông năm thứ 9). Mùa thu, tháng 7, vua Đường lấy

Cao Biền làm Hữu kim ngô vệ đại tướng quân (có sách chép là Kiểm hiệu

thượng thư bộc xạ), đến đời Đường Hy Tông năm Ất Mùi niên hiệu Càn Phù năm

thứ 2 [875] đổi làm Tây Xuyên tiết độ sứ. Biền thấy cháu gọi bằng ông họ

là Cao Tầm trước làm tiên phong, xông pha tên đạn, được quân lính phục

theo, bèn dâng biểu tiến cử Tầm thay mình trấn giữ đất ta. Vua Đường nghe

theo. [Cả Biền và Tầm] ở trấn cộng 13 năm; Biền [17a] từ năm Bính Tuất đến

năm Giáp Ngọ niên hiệu Hàm Thông [866-874], Tầm từ năm Ất Mùi đến năm Mậu

Tuất niên hiệu Càn Phù (875-878).

Canh Tý, [880], (Đường Hy Tông Nghiễm, Quảng Minh năm thứ 1). Mùa xuân,

tháng 3, quân

ở phủ Đô hộ làm loạn, Tiết độ sứ Tăng Cổn bỏ chạy khỏi thành (Cổn thay

Biền, có tiếng là người biết vỗ dân3, người [trong châu] gọi là Tăng thượng

thư; Cổn từng soạn sách Giao Châu ký, 1 thiên). Các đạo quân nhà Đường

đóng giữ Ung Quản thường tự ý bỏ về luôn.

Ất Sửu, [905], (Đường Ai Đế Chúc, Thiên Hựu năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 2,

ngày Mậu Tuất, Chu Toàn Trung nhà Đường thấy Giao Châu tiết độ sứ đồng bình

chương sự Chu Toàn Dục là người ngu đần chất phác, không có tài năng gì, tự

xin bãi đi. Toàn Dục là anh Toàn Trung.

Trở lên là [kỷ] thuộc Tùy, Đường, từ năm Quý Hợi đến năm Bính Dần, cộng 304

năm

[603-906].

[17b]

K ỷ Nam B ắ c Phân Tranh

Đinh Mão, [907], (Đường Thiên Hựu năm thứ 4; Lương Thái Tổ Chu Toàn

Trung, đổi tên là

Hoảng, Khai Bình năm thứ 1). Nhà Lương cho Quảng Châu tiết độ sứ là Lưu Ẩn

kiêm chức Tĩnh Hải quân

1 Cương mục đã nhận xét rằng kênh ấy không thuộc địa phận nước ta (CMTB5,

12a). Có thể là ghềnh Bắc Thú, ở huyện Bác Bạch,

tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc ngày nay.

2 Nguyên bản in: "Cái sở hợp lý ....", có lẽ câu văn là "Cái sở hành hợp

lý ....", mà khắc in sót chữ hành.

3 Nguyên bản in: "Cổn đại Biền, phủ tự hữu thanh", có thể hiểu là: .....

có tiếng về chữ "phủ" (vỗ về dân chúng). Nhưng có khả

năng in nhầm: "... phủ dân hữu thanh" (có tiếng biết vỗ về dân chúng).

tiết độ sứ, tước Nam Bình Vương. Khi ấy, Ẩn chiếm giữ Phiên Ngung, người

Giao Châu là Khúc Hạo1

chiếm giữ châu trị, xưng là Tiết độ sứ, có ý mưu đồ lẫn nhau. Năm ấy nhà

Đường mất.

Tân Mùi, [911], (Lương Càn Hóa năm thứ 1). Nam Bình Vương nhà Lương là Lưu

Ẩn chết, em

là Nham lên thay.

Đinh Sửu, [917], (Lương Mạt Đế Hữu Trinh, đổi tên là Chẩn, Trinh Minh năm

thứ 3). Quảng

Châu tri lưu hậu nhà Lương là Lưu Nham đặt quốc hiệu là Hán (tức Nam Hán2),

niên hiệu Càn Hanh năm thứ 1. Khúc Hạo sai con là Thừa Mỹ làm Hoan hảo sứ

sang Quảng Châu để thăm dò tình hình [Nam Hán] hư thực thế nào. Hạo chết,

Khúc Thừa Mỹ lên thay3.

Kỷ Mão, [919], (Lương Trinh Minh năm thứ 5). Khúc Thừa Mỹ sai sứ sang nhà

Lương xin được lĩnh tiết việt, nhà Lương trao cho. Vua [Nam Hán] cả giận

(vua Hán trước tên là Nham, đổi là Thiệp, lại

đổi là Cung, vì có điềm rồng trắng hiện, nên đặt tên ấy. Năm Tấn Thiên

Phúc thứ 6 [941], tự cho chữ

Cung là không lợi, lại đổi [18a] là Nghiễm4).

Quý Mùi, [923], (Lương Long Đức năm thứ 3; Đường Trang Tông Lý Tồn Húc,

Đồng Quang năm thứ 1). Năm ấy nhà Lương mất.

Mùa thu, tháng 7, vua Hán sai kiêu tướng là Lý Khắc Chính5 đem quân sang

đánh Giao Châu6,

bắt được Tiết độ sứ là [Khúc] Thừa Mỹ đem về, [Khắc Chính] lấy bộ tướng của

mình là Lý Tiến thay thế.

Lý Khắc Chính ở lại giữ Giao Châu, bị tướng của Khúc Hạo là Dương Đình

Nghệ7 người Ái Châu đánh đuổi. Vua Hán trao cho Đình Nghệ tước vị, lấy Lý

Tiến làm thứ sử Giao Châu, cùng với Lý Khắc Chính giữ thành, bảo tả hữu

rằng: "Dân Giao Chỉ hay làm loạn, chỉ có thể ràng buộc (ki mi) mà thôi".

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Lưu Nghiễm đương lúc triều đình phương Bắc rối

loạn, nhờ nghiệp cũ của anh8 mà dựng nước, đặt niên hiệu, cùng với Khúc

Hạo tranh bá, rồi bắt Thừa Mỹ, lấy Giao Châu, hùng [18b] cứ một phương,

cùng xuýt xoát với các nước tiếm ngôi ở Bắc triều. Cho nên, Tiền Ngô

Vương nổi lên, tuy giết được con, phá được quân [của Nghiễm], nhưng không

giữ được đất, quốc thống họ Lưu kéo dài không dứt, mãi đến khi Tống [Thái]

Tổ dấy lên thì đất ấy mới nhập vào nhà Tống.

Tân Mão, [931], (Đường Minh Tông Tự Nguyên, Trường Hưng năm thứ 2). Mùa

đông, tháng

12, Dương Đình Nghệ nuôi 3 nghìn con nuôi, mưu đồ việc khôi phục. Lý Tiến

biết, sai chạy ngựa báo

1 Khúc Hạo: người làng Cúc Bồ, huyện Ninh Thanh, tỉnh Hải Hưng ngày nay, ở

đó hiện còn đình thờ họ Khúc. Cương mục dẫn sách

An Nam kỷ yếu, ghi thêm: "Cuối thời Đường, Khúc Hạo làm Tiết độ sứ thay cho

Độc Cô Tôn; đổi các hương ở các huyện làm giáp, đặt ở mỗi giáp một viên

quản giáp và một phó tri giáp để giữ việc đánh thuế. Hạo giữ chức Tiết độ

sứ được hơn 4 năm thì mất" (CMTB5, 15a).

2 Nam Hán: 1 trong 10 nước thời Ngũ Đại ở Trung Quốc bao gồm cả tỉnh Quảng

Đông, phần phía nam Quảng Tây, nam Phúc Kiến ngày nay, trước sau 67 năm

(905-971), gồm 5 đời làm vua.

3 Cương mục theo Tư trị thông giám ghi Khúc Thừa Dụ được trao chức Tĩnh

Hải quân tiết độ sứ, năm Thiên Hựu thứ 3 (906) được thăng Đồng bình chương

sự (CMTB5, 14a).

4 Nghiễm (trên chữ long là rồng, dưới chữ thiên), nguyên bản

khắc thiếu 1 nét thành trên chữ long dưới chữ đại, không có trong tự điển.

Còn chữ đã ghi (long + thiên), bản dịch cũ phiên là Yểm, bản dịch Cương mục

phiên là Yêm. Thực ra, chữ này có

hai âm Hán Việt là Yểm và Nghiễm, nhưng trong trường hợp tên vua Nam Hán ở

đây thì đọc là Nghiễm. Ngũ đại sử q.65 Nam Hán thế gia chép rằng vua Nam

Hán ban đầu tên là Nham, rồi đổi tên là Trắc (chứ không phải Thiệp)

như Toàn thư chép ở đây), "sau thấy rồng trắng hiện lên, lại đổi

tên là Cung, sau có nhà sư người Hồ nói rằng theo sấm thư thì diệt họ Lưu

là Cung, bèn lấy nghĩa "rồng bay lên trời" (phi long tại thiên) trong Chu

Dịch, đặt làm chữ âm là Nghiễm, lấy làm tên".

5 Thông giám (Trường Hưng 1), Tân Ngũ đại sử, Nam Hán thế gia chép tên

viên tướng nhà Nam Hán này là Lương Khắc Trinh.

6 Việc quân Nam Hán sang đánh Giao Châu (tức nước ta), bắt Khúc Thừa Mỹ,

sử liệu Trung Quốc như Thông giám ghi vào tháng 9

năm Trường Hưng thứ 1 (930). Tân Ngũ Đại sử, Nam Hán thế gia ghi vào niên

hiệu Đại Hữu thứ 3, cũng tức là năm 930. Chưa rõ

vì sao cả Toàn thư và Cương mục (TB5, 17a) đều ghi vào năm Quý Mùi (923)?

7 Cương mục ghi Dương Diên Nghê, người Ái Châu, tức Thanh Hóa (CMTB5,

17a). Tài liệu Trung Quốc như Tống Sử (q.488), Tư tri thông giám v.v....

cũng chép là Dương Diên Nghệ. Ngũ đại sử (q.65) chép như Toàn thư (là Đình

Nghệ). Có thể nhầm nét chữ vì chữ diên và chữ đình gần

giống nhau.

8 Chỉ Lưu Ẩn.

cho vua Hán. Năm ấy, Đình Nghệ đem quân vây Tiến. Vua Hán sai Thừa chỉ

Trần Bảo đem quân sang

cứu, chưa đến nơi, thành đã mất. Tiến trốn về nước. Bảo đến vây thành,

Đình Nghệ đưa quân ra đánh, Bảo thua chết. Từ đó Đình Nghệ tự xưng là Tiết

độ sứ, trông coi việc châu.

Bính Thân, [936], (Đường Phế Đế Tông Kha, Thanh Thái năm thứ 3, Tấn Cao Tổ

Thạch Kim

Đường, Thiên Phúc năm thứ 1). Năm ấy nhà [Hậu] Đường mất.

[19a] Đinh Dậu, [937], (Tấn Thiên Phúc năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 3, nha

tướng của Đình

Nghệ là Kiều Công Tiễn (Cương mục [Trung Quốc] chép )1 giết Đình

Nghệ để thay chức.

Mậu Tuất, [938], (Tấn Thiên Phúc năm thứ 3). Mùa đông, tháng 12, nha tướng

của Đình Nghệ

là Ngô Quyền từ Ái Châu cất quân đánh Công Tiễn. Công Tiễn sai sứ sang

đút lót để cầu cứu với nhà Hán. Vua Hán là Cung muốn nhân khi nước ta có

loạn chiếm lấy nước, bèn cho con là Vạn Vương Hoằng Tháo2 làm Tĩnh Hải

quân tiết độ sứ, đổi tước phong là Giao Vương, đem quân sang cứu Công Tiễn.

Vua Hán tự làm tướng, đóng ở Hải Môn để làm thanh viện. Vua Hán hỏi kế ở

Sùng văn sứ là Tiêu Ích, Ích nói: "Nay mưa dầm đã mấy tuần, đường biển thì

xa xôi nguy hiểm, Ngô Quyền lại là người kiệt hiệt, không thể khinh suất

được. Đại quân phải nên thận trọng chắc chắn, dùng nhiều người hướng đạo

rồi

sau mới nên tiến". Vua Hán không nghe, sai Hoằng Tháo đem chiến thuyền

theo sông Bạch Đằng mà vào, muốn đánh [19b] Quyền, nhưng Quyền đã giết Kiều

Công Tiễn rồi.

Quyền nghe tin Hoằng Tháo sắp đến, bảo các tướng tá rằng: "Hoằng Tháo là

đứa trẻ khờ dại,

đem quân từ xa đến, quân lính còn mỏi mệt, lại nghe Công Tiễn đã chết,

không có người làm nội ứng,

đã mất vía trước rồi. Quân ta lấy sức còn khỏe địch với quân mỏi mệt, tất

phá được. Nhưng bọn chúng

có lợi ở chiến thuyền, ta không phòng bị trước thì thế được thua chưa biết

ra sao. Nếu sai người đem

cọc lớn vạt nhọn đầu bịt sắt3 đóng ngầm ở trước cửa biển, thuyền của bọn

chúng theo nước triều lên vào trong hàng cọc thì sau đó ta dễ bề chế ngự,

không cho chiếc nào ra thoát". Định kế rồi, bèn cho đóng cọc ở hai bên cửa

biển. Khi nước triều lên, Quyền sai người đem thuyền nhẹ ra khiêu chiến,

giả thua chạy để dụ địch đuổi theo. Hoằng Tháo quả nhiên tiến quân vào.

Khi binh thuyền đã vào trong vùng cắm cọc, nước triều rút, cọc nhô lên,

Quyền bèn tiếng quân ra đánh, ai nấy đều liều chết chiến đấu.

[Quân Hoằng Tháo] không kịp sửa thuyền mà nước triều rút xuống rất gấp,

thuyền đều mắc [20a] vào cọc mà lật úp, rối loạn tan vỡ, quân lính chết

đuối quá nữa. Quyền thừa thắng đuổi đánh, bắt được Hoằng Tháo giết đi.

Vua Hán thương khóc, thu nhặt quân lính còn sót rút về. Vua Hán cho tên

Cung đáng ghét là vì vậy (Lưu Cung tức là Lưu Nghiễm).

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Lưu Cung tham đất đai của người, muốn mở rộng bờ

cõi, đất đai chưa lấy được mà đã hại mất đứa con của mình và hại cả nhân

dân, tức như Mạnh Tử nói: "Đem cái mình không yêu mà hại cái mình yêu" vậy

chăng?

Trở lên là [kỷ] Nam Bắc phân tranh, từ năm Đinh Mão đến năm Mậu Tuất

[907-938], tất cả 32 năm.

K ỷ Nhà Ngô

Tiền Ngô Vương

Ở ngôi 6 năm, thọ 47 tuổi [898-944].

[20b] Vua mưu tài đánh giỏi, làm nên công tái tạo, đứng đầu các vua.

1 Chữ âm Cảo, Kiểu, đồng âm với Kiều.

2 Vạn Vương [Lưu] Hoằng Tháo, nên sửa là Hồng Tháo, theo Tân Ngũ đại sử

(q.65). Các con của Lưu Cung đều có chữ Hồng.

3 Tân Ngũ đại sử (Nam Hán thế gia) chép: thực thiết quyết = đóng cọc sắt

(hiểu là cọc gỗ bịt sắt). Việt sử lược (q.1, 14b): thực thiết đầu đại dực

= đóng cọc lớn đầu sắt.

Họ Ngô, tên húy là Quyền, người Đường Lâm1, đời đời là nhà quý tộc. Cha

là Mân làm chức châu mục ở bản châu. Khi vua mới sinh có ánh sáng lạ đầy

nhà, trạng mạo khác thường, có 3 nốt ruồi ở lưng, thầy tướng cho là lạ, bảo

có thể làm chủ một phương, nên mới đặt tên là Quyền. Đến khi lớn lên, khôi

ngô, mắt sáng như chớp, dáng đi thong thả như hổ, có trí dũng, sức có thể

nâng được vạc; làm nha tướng của Dương Đình Nghệ, được Đình Nghệ gả con gái

và cho quyền quản Ái Châu. Đến đây giết Kiều Công Tiễn, tự lập làm vương,

đóng đô ở Loa Thành.

Kỷ Hợi, năm thứ 1 [939], (Tấn Thiên Phúc năm thứ 4). Mùa xuân, vua bắt đầu

xưng vương, lập

Dương thị làm hoàng hậu, đặt trăm [21a] quan, chế định triều nghi phẩm

phục.

Giáp Thìn, năm thứ 6 [944], (Tấn Tề Vương Trọng Quý, Khai Vận năm thứ 1).

Vua mất.

Lê Văn Hưu nói: Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới họp của nước Việt ta mà

đánh tan được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Tháo, mở nước xưng

vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể nói là

một lần nổi giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy. Tuy chỉ

xưng vương, chưa lên ngôi đến, đổi niên hiệu, nhưng chính thống của nước

Việt ta, ngõ hầu đã nối lại được.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Tiền Ngô [Vương] nổi lên không chỉ có

công chiến thắng mà thôi, việc đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm

phục, có thể thấy được quy mô của bậc đế vương. Nhưng hưởng [21b] nước

không được lâu, chưa thấy hiệu quả

trị bình, đáng tiếc thay !

Dương Tam Kha

Cướp ngôi 6 năm.

Tam Kha là anh (có sách chép là em) của Dương hậu, là gia thần của Tiền Ngô

Vương, tiếm xưng là Bình Vương2.

Ất Tỵ, [945], (Dương Tam Kha năm thứ 1, Tấn Khai Vận năm thứ 2).

Lúc trước, Tiền Ngô Vương bệnh nặng, có di chúc giao cho Tam Kha giúp

rập cho con. Khi Vương mất, Tam Kha cướp ngôi. Con trưởng của Ngô Vương là

Xương Ngập sợ, chạy về Nam Sách Giang3, trú ngụ ở nhà Phạm Lệnh Công

ở Trà Hương4. Tam Kha lấy con thứ hai của Ngô Vương là Xương Văn làm con

mình. Các con thứ của Ngô Vương là Nam Hưng, Càn Hưng còn bé, đều theo

Dương quốc mẫu. Được ít lâu, Tam Kha sai chỉ huy sứ là Dương Cát Lợi, Đỗ

Cảnh Thạc đem quân đến nhà Lệnh Công đòi bắt Xương Ngập, [22a] tất cả

ba lần đều không thực hiện được mệnh lệnh. Lệnh Công sợ, bèn giấu Xương

Ngập trong động núi. Tam

Kha biết, lại đòi bắt như trước, rốt cuộc vẫn không bắt được.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Dụng tâm của Phạm Lệnh Công thật là trung. Tam

Kha

là kẻ gian thần mà đuổi con đích của vua để cướp ngôi, lấy Xương Văn làm

con mình, chẳng qua là lời lẽ che đậy giả dối, ai mà biết được ? Vả lại,

lúc ấy người trong nước ai cũng xem Tam Kha là vua, mà Lệnh Công dám che

giấu cho Xương Ngập, muốn cho

1 Nay thuộc huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây; ở đây có đền thờ và lăng Ngô Quyền.

2 Việt Sử Tiêu Án của Ngô Thì Sĩ ghi Dương Tam Kha người làng Dương xá,

huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa, con của Dương Đình

Nghệ.

3 Nam Sách Giang: theo An Nam Chí Lược là tên lộ thời Lý. Nay là vùng

đất thuộc các huyện Chí Linh và Nam Thanh, tỉnh Hải

Hưng.

4 Trà Hương: theo CMTB5, 22a, huyện Kim Thành, nay thuộc đất huyện Kim

Môn, tỉnh Hải Hưng, xưa có tên gọi là Trà Hương.

dòng dõi họ Ngô không tuyệt tự, việc của Trình Anh, Chữ Cửu1 lại thấy ở

đây. Ai bảo một nước rộng lớn mà không có trung thần nghĩa sĩ.

Đinh Mùi, [947], (Dương Tam Kha năm thứ 3; Hậu Hán, Cao Tổ Lưu Tri Viễn lên

ngôi vẫn dùng niên hiệu nhà Tấn, Thiên Phúc năm thứ 12). Năm ấy nhà Tấn

mất.

[22b] Canh Tuất, [950], (Dương Tam Kha năm thứ 6; Hán Ẩn Đế Thừa Hựu, vẫn

dùng niên hiệu Càn Hựu năm thứ 3). Tam Kha sai Xương Văn và hai [chỉ huy]

sứ họ Dương, họ Đỗ2 đem quân đi đánh hai thôn Đường, Nguyễn ở Thái Bình3.

Đến Từ Liêm, Xương Văn ung dung bảo hai sứ rằng: "Đức

của Tiên vương ta thấm khắp lòng dân, phàm chính lệnh ban ra không ai không

vui lòng nghe theo, không may lìa bỏ quần thần, Bình Vương tự làm việc bất

nghĩa, cướp ngôi của anh em ta, tội không gì to bằng. Nay lại sai bọn

chúng ta đi đánh ấp không có tội, may mà đánh được thì thôi, nếu họ không

phục

thì làm thế nào ?" Hai sứ đều nói: "Xin theo lệnh của ông". Xương Văn

nói: "Ta muốn đem quân quay

lại đánh úp Bình Vương để khôi phục cơ nghiệp của Tiên Vương ta, có nên

chăng ?" Hai sứ đều trả lời là nên lắm. Bèn quay về đánh úp Tam Kha. Mọi

người muốn giết đi, Xương Văn nói: "Bình Vương đối với

ta có ơn, sao nỡ giết". Bèn giáng làm Chương Dương Công, nhân đó ban cho

thực ấp (nay là Chương

Dương độ)4. [23a] Năm ấy nhà Hán mất.

Lê Văn Hưu nói: Đuổi con vua mà tự lên làm vua, là tội công; nuôi con vua

làm con mình mà cho thực ấp, là ơn riêng. Đuổi Xương Ngập mà tự lên làm

vua, là bề tôi phản nghịch, đối với nghĩa thì hẳn là không dung được tội

phải chết. Hậu Ngô Vương không trị tội, lại vì ơn riêng nuôi dưỡng mà

không nỡ gia hình, lại ban cho thực ấp, há chẳng lầm to hay sao?

Hậu Ngô Vương

(Phụ: Thiên Sách Vương)

Ở ngôi 15 năm [951-965].

Vua nối được kỷ cương hoàng gia, khôi phục cơ nghiệp cũ. Tiếc rằng gây

việc can qua

ở trong nước đến nỗi bị chết.

Vua tên húy là Xương Văn, con thứ của Tiền Ngô Vương.

Tân Hợi, năm thứ 1 [951], (Chu Thái Tổ Quách Uy, Quảng Thuận năm thứ 1).

Vua đã truất bỏ Tam Kha, lên ngôi vua, xưng là Nam [23b] Tấn [Vương], sai

sứ đi đón anh là Xương Ngập về Kinh sư, cùng trông coi việc nước. Xương

Ngập xưng là Thiên Sách Vương.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Nam Tấn đón Xương Ngập về để cùng trông coi chính

sự, có thể gọi là người biết kính anh, muốn cho cùng hưởng phú quý. Xương

Ngập nên lấy sự mình không có công lao mà nhường ngôi cho em, để cùng hưởng

lập, thì đức ấy

há chẳng rạng rỡ lớn lao ư? Lại câu nệ về phận đích trưởng, cũng xưng

vương, trông coi chính sự, lại chuyên quyền làm oai làm phúc, đến nỗi Nam

Tấn Vương không được dự chính sự nữa, thật là mất đạo nghĩa anh em, chí thú

rất là ti tiện.

1 Trình Anh, Chữ Cửu: người nước Tấn thời Chiến Quốc, bạn của Triệu Sóc

(con Triệu Thuẫn, đời Tấn Cảnh Công). Tư khấu nước

Tấn là Đồ Ngạn Giả giết Triệu Sóc và xuống lệnh tru di cả họ Triệu, Trình

Anh và Chữ Cửu liều chết giấu con của Sóc là Vũ để cho

họ Triệu không tuyệt tự.

2 Tức Dương Cát Lợi và Đỗ Cảnh Thạc, đã nói ở trên.

3 Thái Bình: chưa rõ ở đâu. Cương mục dẫn Đường thư, Địa lý chí nói nhà

Đường cắt huyện Thái Bình đặt làm huyện Phong Khê,

lại nói Phong Khê thuộc Phong Châu, "hai thôn Thái Bình, Đường Nguyễn có lẽ

ở đấy" (CMTB4, 11b). CÓ thể là Đường Lâm và

Nam Nguyễn huyện Ba Vì, Hà Tây, thuộc vùng cát cứ Ngô Nhật Khánh, hoặc

Đường Lâm thuộc vùng cát cứ của Ngô Nhật Khánh

và Nguyễn Gia Loan, huyện Vĩnh Lạc, tỉnh Vĩnh Phú thuộc vùng cát cứ của

Nguyễn Khoan.

4 Chương Dương: nay là tên xã thuộc Thường Tín, tỉnh Hà Tây, ở đây có bến

đò Chương Dương ở hữu ngạn sông Hồng.

Bấy giờ người động Hoa Lư là Đinh Bộ Lĩnh cậy núi khe hiểm cố, không chịu

giữ chức phận làm

tôi. Hai vương muốn cất quân đi đánh; Bộ Lĩnh sợ, sai con là Liễn vào

triều làm con tin để ngăn chặn việc xuất quân [24a]. Liễn đến, hai vương

trách tội [Bộ Lĩnh] không đến chầu, rồi bắt giữ Liễn đem theo đi đánh. Hơn

một tháng, không đánh nổi, bèn treo Liễn lên ngọn sào, sai người bảo Bộ

Lĩnh, nếu không chịu hàng thì giết Liễn. Bộ Lĩnh tức giận nói: "Đại trượng

phu chỉ mong lập được công danh, há

lại bắt chước thói đàn bà xót con hay sao?". Liền sai hơn mười tay nỏ nhắm

Liễn mà bắn. Hai vương kinh sợ: "Ta treo con nó lên là muốn để nó đoái

tiếc con mà ra hàng cho chóng. Nó tàn nhẫn như thế, còn treo con nó làm

gì". Bèn không giết Liễn mà đem quân về.

Bấy giờ Thiên Sách Vương chuyên quyền làm uy, [Nam Tấn] Vương không được dự

chính sự

nữa. Hai vương do đó hiềm khích với nhau.

Giáp Dần, năm thứ 4 [954], (Chu Thế Tông Sài Vinh, Hiển Đức năm thứ 1)

Thiên Sách Vương mất. Vua [Nam Tấn Vương] lại giữ ngôi. Sai sứ sang thỉnh

mệnh vua Nam Hán là Lưu Xưởng1. Xưởng cho vua làm Tỉnh Hải quân tiết độ sứ

kiêm Đô [24b] hộ.

Canh Thân, năm thứ 10 [960], (Chu Cung Đế Tông Huấn2, năm thứ nhất; Tống

Thái Tổ Triệu

Khuông Dận, Kiến Long năm thứ 1). Năm ấy nhà Chu mất.

Ất Sửu, năm thứ 15 [965], (Tống Càn Đức năm thứ 3). Vua đem quân đi đánh

hai thôn Đường

và Nguyễn ở Thái Bình, mới vào đến cõi, đỗ thuyền lên bộ đánh, bị phục binh

tay nỏ bắn trúng chết.

Đinh Liễn trở về Hoa Lư.

Lê Văn Hưu nói: Nam Tấn Vương nhà Ngô trước bị gia thần là Tam Kha giam

giữ, sau bị anh là Xương Ngập áp chế, một sớm đắc chí, không biết cẩn thận

giữ mình, cho nên hưởng nước ngắn ngủi, không có chính tích gì, đáng tiếc

thay ! Nhưng, cứ xem việc tha tội cho Bình Vương, há không phải là nhân ư ?

Chịu nhịn cho Xương Ngập kiêu xấc, há không phải là cung ư ? Đã nhân lại

cung, cũng có thể thấy vương là người ra sao

rồi .

[25a] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Nam Tấn Vương nhà Ngô lấy nghĩa trừ kẻ bạo

tàn, khôi phục cơ nghiệp cũ, đủ thỏa được vong linh của tổ tông, hả lòng

căm giận của thần và người. Về chính trị, đang có đổi mới. Thế mà vì lòng

nhân, thương người kiểu đàn bà trẻ con mà không trị tội Tam Kha cướp ngôi;

tham việc can qua, vì hành động đánh dẹp càn rỡ ở hai thôn Đường, Nguyễn,

rốt cuộc lại tự giết mình. Đáng tiếc thay !

Ngô Sứ Quân

(Phụ: Các Sứ Quân)

Tất cả 2 năm [966-967].

Họ Ngô, tên húy là Xương Xí, khi Thiên Sách Vương lánh nạn,

lấy vợ ở Nam Sách

Giang3 sinh ra, là cháu gọi Nam Tấn Vương bằng chú.

Bính Dần, năm thứ 16 [966], (Tống Càn Đức năm thứ 4). Nam Tấn [Vương]

mất, các hùng trưởng đua nhau nổi dậy chiếm cứ quận ấp để tự giữ: Ngô

Xương Xí chiếm Binh Kiều4; Kiểu Công Hãn

1 Cương mục sửa là Lưu Thạnh, vì sứ giả của Nam Tấn Vương sang Nam Hán năm

Hiển Đức thứ 1 (954), khi ấy Lưu Thạnh còn làm

vua. Còn Lưu Xưởng thì 4 năm sau (958) mới lên ngôi (CMTB5, 26a). Ngũ đại

sử (Nam Hán thế gia) cũng chép sau khi Xương

Ngập chết thì em là Xương Tuấn sang xin tiết việt của Lưu Thạnh.

2 Tông Huấn: tức Cung Đế (Quách Tông Huấn) đời Hậu Chu nối ngôi năm 959,

qua năm sau nhường ngôi cho nhà Tống, trước sau chưa đầy 1 năm, không đặt

niên hiệu.

3 Nam Sách Giang: xem chú ở trang trước.

4 Binh Kiều: nay ở huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

57 Đại Việt Sử Ký Toàn Thư -

Ngoại Kỷ - Quyển V

(xưng là Kiểu Tam Chế) chiếm Phong Châu (nay là huyện Bạch Hạc)1; Nguyễn

[25b] Khoan (xưng là Nguyễn Thái Bình) chiếm Tam Đái2; Ngô Nhật Khánh

(xưng là Ngô Lãm Công) chiếm Đường Lâm3 (có sách chép là chiếm Giao Thủy4;

Đỗ Cảnh Thạc (xưng là Đỗ Cảnh Công) chiếm Đỗ Động Giang5; Lý Khuê (xưng

là Lý Lãng Công) chiếm Siêu Loại6; Nguyễn Thủ Tiệp (xưng là Nguyễn Lệnh

Công) chiếm Tiên Du,

Lữ Đường (xưng là Lữ Tá Công) chiếm Tế Giang7; Nguyễn Siêu (xưng là Nguyễn

Hữu Công) chiếm Tây Phù Liệt8; Kiểu Thuận (xưng là Kiểu Lệnh Công) chiếm

Hồi Hồ (nay ở xã Trần Xá huyện Hoa Khê vẫn còn nền thành cũ)9; Phạm Bạch

Hổ (xưng là Phạm Phòng Át) chiếm Đằng Châu10; Trần Lãm (xưng là Trần Minh

Công) chiếm Bố Hải Khẩu11; gọi là 12 sứ quân.

Đinh Mão, năm thứ 17 [967], (Tống Càn Đức năm thứ 5). Bấy giờ trong nước

không có chủ, 12

sứ quân tranh nhau làm trưởng, không ai chịu thống thuộc vào ai. Đinh Bộ

Lĩnh nghe tiếng Trần Minh Công là người có đức mà không có con nối, bèn

cùng với con là Liễn đến nương tựa. Minh Công thấy Bộ Lĩnh dáng mạo khôi

ngô lạ thường, lại có khí lượng, mới nuôi làm con, ơn yêu đãi ngày càng

hậu, nhân

đó giao cho coi quân, sai đi đánh các hùng trưởng khác, [26a] đều thắng

được cả. Phạm Phòng Át đem quân về hàng (dưới triều nhà Đinh, Phòng Át làm

Thân vệ tướng quân). Khi Minh Công mất, gặp lúc bọn con em của Ngô Tiên

chúa ở Đỗ Động Giang hơn 500 người đem quân đến đánh, mới vào đến đất Ô Man

thì bị người làng ấy là Ngô Phó sứ đánh bại phải trở về. Bộ Lĩnh nghe

tin, liền cất quân đi đánh vùng sông và động ấy, không bộ lạc nào không

hàng phục. Từ đó lại dân ở kinh phủ đều khâm phục theo về. Nhà Ngô mất.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Vận trời đất, bĩ rồi ắt thái, Bắc Nam đều cùng một

lẽ ấy. Thời Ngũ đại bên Bắc triều [Trung Quốc] suy loạn rồi Tống Thái Tổ

nổi lên. Ở Nam triều

[nước ta], 12 sứ quân phân chia quấy nhiễu, rồi Đinh Tiên Hoàng nổi lên.

Không phải là ngẫu nhiên mà do vận trời vậy.

Trở lên là kỷ nhà Ngô gồm 3 vua và Dương Tam Kha cướp ngôi, từ năm Kỷ Hợi

đến năm Đinh Mão [939-967] cộng 29 năm.

1 Bạch Hạc: nay thuộc huyện Phong Châu, tỉnh Vĩnh Phú.

2 Tam Đái: nay ở vùng huyện Vĩnh Lạc, tỉnh Vĩnh Phú. Nay ở xã Minh Tâm,

huyện Vĩnh Lạc có di tích thành cũ, và ở xã Vĩnh Mỹ

(cùng huyện) có đền thờ của sứ quân Nguyễn Khoan.

3 Đường Lâm: nay ở huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây.

4 Giao Thủy: nay ở huyện Xuân Thủy, tỉnh Nam Hà.

5 Đỗ Động Giang: Cương Mục chú: "Sông Đỗ Động phát nguyên từ các đầm lớn ở

xã Đào Viên thuộc huyện Thanh Oai, chảy qua các xã Sinh Quả, Úc Lý, đi

khuất khúc đến xã Thượng Cung, huyện Thượng Phúc thì hợp với sông Nhuệ"

(CMTB5, 29b). Ngô Thì

Sĩ ghi thêm: "Nay ở làng Bảo Đà, huyện Thanh Oai còn vết cũ của thành sứ

quân" (Việt Sử Tiêu Án). Đỗ Động Giang có thể là phần đất vào khoảng huyện

Thanh Oai, tỉnh Hà Tây ngày nay.

6 SIêu Loại: nay là đất huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc.

7 Tế Giang: nay thuộc đất huyện Mỹ Văn, tỉnh Hải Hưng.

8 Tây Phù Liệt: nay ở huyện Thanh Trì, Hà Nội.

9 Hồ Hồi, Hoa Khê: Cương mục chú: Cẩm Khê xưa là Hoa Khê, ở xã Trương Xá,

huyện Cẩm Khê còn có vết đất cũ của thành sứ

quân. Cẩm Khê nay thuộc đất huyện Sông Thao, tỉnh Vĩnh Phú.

10 Đằng Châu: nay là đất huyện Kim Thi, tỉnh Hải Hưng, ở xã Xích Đằng có

đền thờ Phạm sứ quân.

11 Bố Hải Khẩu: nay là vùng thị xã Thái Bình. Năm Thiên Thành thứ 3

(1030), Lý Thái Tông đi cày ruộng tịch điền ở Bố Hải Khẩu là nơi này (bấy

giờ ở đây còn là cửa biển nên gọi tên như vậy).

58 Đại Việt Sử Ký Toàn Thư

- Bản Kỷ - Quyển I

Đạ i Vi ệ t S ử Ký B ả n K ỷ Toàn Th ư

Quyển I

[1a]

K ỷ nhà Đ inh

Tiên Hoàng Đế

Họ Đinh, tên húy là Bộ Lĩnh, người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng1

con của Thứ sử châu Hoan Đinh Công Trứ, dẹp yên các sứ quân, tự lập làm đế,

ở ngôi 12 năm [968-979], bị nội nhân là Đỗ Thích giết, thọ 56 tuổi

[924-979], tán ở sơn lăng Trường Yên.

Vua tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời, quét sạch các

hùng trưởng, tiếp nối quốc thống của Triệu Vũ [Đế], song không biết dự

phòng, không giữ được trọn đời, tiếc thay!

Xưa, cha của vua là Đinh Công Trứ làm nha tướng của Dương Đình Nghệ, được

Đình Nghệ giao

giữ chức quyền Thứ sử châu Hoan, sau theo về với Ngô Vương, vẫn được giữ

chức cũ, rồi mất. Vua mồ

côi cha từ bé, mẹ họ Đàm đưa gia thuộc vào ở cạnh đền sơn thần trong động.

Vào tuổi nhi đồng, vua thường cùng bọn trẻ con chăn trâu ngoài đồng. Bọn

trẻ tự biết kiến thức không bằng vua, [1b] cùng nhau suy tôn làm trưởng.

Phàm khi chơi đùa, thường bắt bọn chúng chéo tay làm kiệu khiêng và cầm hoa

lau đi hai bên để rước như nghi trượng thiên tử. Ngày rỗi, thường kéo nhau

đi đánh trẻ con thôn khác, đến đâu bọn trẻ đều sợ phục, hàng ngày rủ nhau

đến phục dịch kiếm củi thổi cơm. Bà mẹ thấy vậy mừng lắm, mổ lợn nhà cho

chúng ăn. Phụ lão các sách bảo nhau: "Đứa bé này khí lượng như thế ắt làm

nên sự nghiệp, bọn ta nếu không theo về, ngày sau hối thì đã muộn". Bèn

dẫn con em đến theo, rồi

lập làm trưởng ở sách Đào Áo. Người chú của vua giữ sách Bông chống đánh

với vua. Bấy giờ, vua còn

ít tuổi, thế quân chưa mạnh, phải thua chạy. Khi qua cầu ở Đàm Gia Nương

Loan2, cầu gãy, vua rơi xuống bùn, [2a] người chú toan đâm, bỗng thấy hai

con rồng vàng hộ vệ vua, nên sợ mà lui. Vua thu nhặt quân còn sót, quay

lại đánh, người chú phải hàng. Từ đấy ai cũng sợ phục, phàm đi đánh đến

đâu đều dễ như chẻ tre, gọi là Vạn Thắng Vương.

Bấy giờ Mười hai sứ quân đều tự xưng hùng trưởng, cát cứ đất đai. Ngô

Xương Xí chiếm Bình Kiều, Ngô Nhật Khánh chiếm Đường Lâm, Kiểu Tam Chế

chiếm Phong Châu, Nguyễn Thái Bình chiếm Nguyễn Gia Loan, Đỗ Cảnh Thạc

chiếm miền sông Đỗ Động, Nguyễn Lệnh Công3 chiếm Tây Phù Liệt, Tế Giang

thì có Lữ Tá Đường, Tiên Du có Nguyễn Thủ Tiệp, Siêu Loại có Lý Lãng Công,

Hồi Hồ có Kiểu Lệnh Công, Đằng Châu có Phạm Phòng Át, Bố Hải có Trần Minh

Công4. Vua một phen cất quân là dẹp yên,

1 Đại Hoàng: tên châu, nay là đất huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình.

2 Nguyên văn: "Đàm Gia Nương Loan". Loan là chỗ sông uốn vòng. Các bản

in khác đều bỏ chữ "Nương", chỉ chép Đàm Gia Loan. Nay ở Điền Xá, huyện Gia

Viễn, tỉnh Ninh Bình.

3 Ở đoạn trước, NK5 chép là Nguyễn Hữu Công.

4 Tên địa phương cát cứ của các sứ quân, xem chú thích (7), tr. 209.

bèn tự lập làm đế. Chọn được chỗ đất đẹp ở Đàm thôn, vua muốn dựng [2b] đô

ở đó, nhưng vì thế đất

chật hẹp lại không có lợi về việc đặt hiểm, nên vẫn đóng đô ở Hoa Lư1 (nay

là phủ Trường Yên).

Mậu Thìn, năm thứ 1 [968], (Tống Khai Bảo năm thứ 1). Vua lên ngôi, đặt

quốc hiệu là Đại Cồ Việt, dời Kinh ấp về động Hoa Lư, bắt đầu dựng đô mới,

đắp thành đào hào, xây cung điện, đặt triều nghi. Bầy tôi dâng tôn hiệu là

Đại Thắng Minh Hoàng Đế.

Vua muốn dùng uy chế ngự thiên hạ, bèn đặt vạc lớn ở sân triều, nuôi hổ dữ

trong cũi, hạ lệnh rằng: "Kẻ nào trái phép phải chịu tội bỏ vạc dầu, cho hổ

ăn". Mọi người đều sợ phục, không ai dám phạm.

Lê Văn Hưu nói: Tiên Hoàng nhờ có tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm

mưu lược nhất đời, đương lúc nước Việt ta không có chủ, các hùng trưởng cát

cứ, một phen cất quân mà mười hai sứ quân phục hết. Vua mở nước dựng đô,

đổi xưng hoàng đế, đặt trăm quan, lập sáu [3a] quân, chế độ gần đầy đủ, có

lẽ ý trời vì nước Việt ta mà

lại sinh bậc thánh triết để tiếp nối quốc thống của Triệu Vương chăng?

Kỷ Tỵ, năm thứ 2 [969], (Tống Khai Bảo năm thứ 2). Tháng 5 nhuận, phong

con trưởng là Liễn làm Nam Việt Vương.

Canh Ngọ, Thái Bình năm thứ 1 [970], (Tống Khai Bảo năm thứ 3). Mùa xuân,

tháng giêng, đặt niên hiệu. (Sử cũ nói rằng nước Việt ta có niên hiệu bắt

đầu từ đây. Nhưng Lý Nam Đế [trước đó] đã

đặt niên hiệu là Thiên Đức [544-548]. Sai sứ sang nhà Tống giao hảo. Bấy

giờ nhà Tống sai Đại tướng

Phan Mỹ dẹp yên Lĩnh Nam (chỉ Lưu Xưởng2), cho nên mới có mệnh ấy.

Lập 5 hoàng hậu (một là Đan Gia, hai là Trinh Minh, ba là Kiểu Quốc, bốn là

Cồ Quốc, năm là Ca

Ông).

Lê Văn Hưu nói: Trời đất cùng che chở, mặt trời mặt trăng cùng chiếu soi,

mới sinh thành muôn vật, nảy nở mọi loài, cũng như hoàng hậu sánh với ngôi

vua, cho nên mới có thể [3b] đứng đầu tiêu biểu cho nội cung, tác thành cho

thiên hạ. Từ xưa chỉ lập

[hoàng hậu] một người để chủ việc nội trị mà thôi, chưa từng nghe nói lập

đến 5 người. Tiên Hoàng không kê cứu cổ học, mà bầy tôi đương thời lại

không có ai biết giúp sửa cho đúng, để đến nổi chìm đắm trong tình riêng,

cùng lập 5 hoàng hậụ Sau đến 2 triều Lê, Lý cũng phần nhiều bắt chước làm

theo, ấy là do Tiên Hoàng khởi xướng sự rối loạn thứ bậc vậy.

Tân Mùi, [Thái Bình] năm thứ 2 [971], (Tống Khai Bảo năm thứ 4). Bắt đầu

quy định cấp bật

văn võ, tăng đạo. Lấy Nguyễn Bặc làm Định quốc công, Lưu cơ làm Đô hộ phủ

sĩ sư3, Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân4, Tăng thống5, Ngô Chân Lưu được

ban hiệu là Khuông Việt đại sư, Trương Ma Ni làm Tăng lục6, Đạo sĩ Đặng

Huyền Quang được trao chức Sùng chân uy nghi7.

[4a] Nhâm Thân, [Thái Bình] năm thứ 3 [972], (Tống Khai Bảo năm thứ

5). Sai Nam Liệt

Vương Liễn sang sứ thăm nhà Tống.

1 Động Hoa Lư: Cương mục: ở về sơn phận hai xã Uy Viễn và Uy Tế tỉnh Ninh

Bình cũ; nơi đây bốn mặt đều có núi đá dựng đứng

như bức vách, trong có một chỗ hơi bằng phẳng rộng rãi, người địa phương

gọi là động Hoa Lư (CMTB5, 24b). Nay thuộc huyện

Gia Viễn, tỉnh Hà Nam Ninh.

2 Lưu Xưởng: vua cuối cùng của Nam Hán (958-970), đầu hàng tướng nhà Tống

là Phan Mỹ.

3 Đô hộ phủ sĩ sư: chức quan coi việc hình án ở phủ đô hộ, tức là trong cả

nước (nhà Đinh dùng tên phủ đô hộ thời thuộc Đường).

4 Tướng chỉ huy 10 đạo quân, tức quân đội cả nước.

5 Tăng thống: chức quan phong cho vị sư được triều đình coi là người đứng

đầu Phật giáo.

6 Tăng lục: chức quan trông coi Phật giáo dưới chức Tăng thống.

7 Sùng chân uy nghi: chức quan trông coi về đạo giáo.

Quý Dậu, [Thái Bình] năm thứ 4 [973], (Tống Khai Bảo năm thứ 6). Nam Việt

Vương Liễn đi sứ

về. Nhà Tống sai sứ sang phong cho vua làm Giao Chỉ Quận Vương, Liễn làm

Kiểm hiệu thái sư Tỉnh Hải quân tiết độ sứ An Nam đô hộ. (Lời chế đại lược

nói: "[Họ Đinh] đời làm vọng tộc, gìn giữ được phương

xa, chí hâm mộ phong hoá Trung Hoa, thường nghĩ đến việc nội phụ. Nay chín

châu hợp một, miền Ngũ

Lĩnh sạch quang1, bèn trèo non vượt biển đến dâng đồ cống. Khen người làm

con biết giữ lễ phiên thần, vậy ban cho cha ngươi theo lối cắt đất phong

tước, xếp phẩm trật cho vào hạng được cầm quân, được hưởng mức "tỉnh phú"2.

Như thế là để khen thưởng đức tốt của người già, há chỉ hạn chế trong điển

chương thường lệ đâu?".

Giáp Tuất, [Thái Bình] năm thứ 5 [974], (Tống Khai Bảo năm thứ 7). Muà

xuân, tháng hai, quy định về quân mười đạo: mỗi đạo có 10 quân, 1 quân 10

lữ, 1 lữ 10 tốt, 1 tốt 10 ngũ, 1 ngũ 10 người, đầu đội mũ bình đính3 vuông

bốn góc (loại mũ này làm bằng da, chóp phẳng, bố bên khâu liền, trên hẹp

dưới rộng, quy chế này đến đời bản triều khởi nghĩa vẫn còn dùng, đời sau

vẫn theo thế).

Hoàn thứ tử là Toàn sinh.

[4b] Ất Hợi, [Thái Bình] năm thứ 6 [975], (Tống Khai Bảo năm thứ 8). Mùa

xuân, quy định áo mũ cho các quan văn võ. Sai Trịnh Tú 4 đem vàng lụa,

sừng tê, ngà voi sang nhà Tống.

Mùa thu, nhà Tống sai Hồng lô tự khanh Cao Bảo Tự dẫn đầu bọn Vương Ngạn

Phù đem chế

sách sang gia phong cho Nam Việt Vương Liễn làm Khai phủ nghi đồng tam ty,

Kiểm hiệu thái sư, Giao

Chỉ Quận Vương. Từ đó về sau, sai sứ sang nhà Tống đều lấy Liễn làm chủ.

Bính Tý, [Thái Bình] năm thứ 7 [976], (Tống Khai Bảo năm thứ 9. Từ tháng 10

trở về sau thuộc

về Tống Thái Tông [Triệu] Khuông Nghĩa, niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc năm

thứ nhất). Muà xuân, thuyền buôn của các nước ngoài đến dâng sản vật của

nước họ. Sai Trần Nguyên Thái sang đáp lễ nhà Tống.

Mùa đông, tháng 10, Tống Thái Tổ băng.

Đinh Sửu, [Thái Bình] năm thứ 8 [977], (Tống Thái Bình Hưng Quốc năm thứ

2). Sai sứ sang nhà Tống mừng Thái Tông lên ngôi.

Mậu Dần, [Thái Bình] năm thứ 9 [978], (Tống Thái Bình Hưng Quốc năm thứ 3).

Mùa xuân, tháng giêng, động đất. Lập con nhỏ là Hạng Lang [5a] làm hoàng

thái tử, phong con thứ là Toàn làm Vệ Vương. Tháng hai, mưa đá.

Mùa hạ, tháng sáu, nắng hạn.

Kỷ Mão, [Thái Bình] năm thứ 10 [979], (Tống Thái Bình Hưng Quốc năm thứ 4).

Mùa xuân, Nam Việt Vương Liệt giết hoàng thái tử Hạng Lang. Liễn là con

trưởng của vua, thuở hàn vi cùng chịu gian khổ, đến khi định yên thiên hạ,

ý vua muốn truyền ngôi cho, mới phong làm Nam Việt Vương, lại từng xin mệnh

và nhận tước phong của nhà Tống. Sau vua sinh con nhỏ là Hạng Lang, rất mực

yêu quý,

lập làm thái tử. Liễn vì vậy bất bình, sai người ngầm giết đi.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Nối ngôi dùng con đích là đạo thường muôn đời, bỏ

đạo ấy, chưa từng không gây loạn. Cũng có khi nhân thời loạn mà lập Thái

tử, thì trước hết chọn người có công, [5b] hoặc con đích trưởng quá ác phải

bỏ thì sau mới lập con thứ. Thế là xử việc lúc biến mà vẫn được

đúng đắn, người xưa vẫn từng làm. Nam Việt Vương Liễn là con

trưởng, lại có công, chưa thấy lầm lỗi gì. Tiên hoàng yêu con thứ mà quên

con trưởng, cho như thế mới đủ tỏ tình yêu quý, không biết như thế là làm

hại con.

1 Chỉ việc nhà Tống đã diệt Hán, lấy được miền Nam Trung Quốc.

2 Nguyên văn: "Trù chi tỉnh phú". Theo Tống sử, Thực Hoá chí thì "tỉnh

phú" ( chữ tỉnh trong từ tỉnh điên) là chế độ quy định các

điạ phương đóng góp 1/5 binh mã cho chính quyền trung ương.

3 Bình đính: phẳng đầu.

4 Theo Cương mục: Trịnh Tú người châu Đại Hoàng (CMTB1,6b).

Liễn lại nhẫn tâm, đến nỗi giết em, thiên đạo nhân luân mất hết, chuốc họa

chết thiệt

thân, còn liên lụy cả cha nữa, há chẳng rùng rợn lắm thay! Không thế thì

tội đại ác của

Đỗ Thích do đâu nảy ra để hợp với lời sấm Được?

Mùa đông, tháng mười, Chi hậu nội nhân Đỗ Thích1 giết vua ở sân cung. Bọn

Đinh quốc công Nguyễn Bặc bắt được đem giết. Trước đó Đỗ Thích làm chức lại

ở Đồng Quan, đêm nằm trên cầu, bỗng thấy sao sa rơi vào miệng, Thích cho là

điềm tốt, bèn nảy ra ý định giết vua. Đến đây, nhân lúc vua ăn yến ban đêm,

say rượu nằm trong sân, [6a] Thích bèn giết chết, lại giết luôn cả Nam Việt

Vương Liễn.

Khi ấy lệnh lùng bắt hung thủ rất gấp, Thích phải lén núp ở máng nước trong

cung qua 3 ngày, khác lắm, gặp lúc trời mưa thò tay hứng nước uống, cung nữ

trông thấy liền đi báo. Đinh quốc công Nguyễn Bặc sai người bắt đem chém,

đập nát xương, băm thịt ra từng mảnh, chia cho người trong nước ăn, chẳng

ai không tranh lấy mà nhai nuốt. Ngày trước, khi vua còn hàn vi, thường

đánh cá ở sông Giao Thủy, kéo lưới được viên ngọc khuê to nhưng va vào mũi

thuyền, sứt mất một góc. Đêm ấy vào ngũ nhờ

ở chùa Giao Thủy, giấu ngọc ở dưới đáy giỏ cá, đợi sáng ra chợ bán cá. Bấy

giờ vua đang ngũ say, trong

giỏ có ánh sáng lạ, nhà sư chùa ấy gọi dậy hỏi duyên cớ, vua nói thực và

lấy ngọc khuê cho xem. Sư

than rằng: "Anh ngày sau phú quý không thể nói hết, chỉ tiếc phúc không

được dài".

Lại vào năm Thái Bình thứ 5 [974], có lời sấm ngữ: "Đỗ Thích thí Đinh Đinh,

Lê gia xuất thánh minh, cạnh đầu đa hoành nhi2 , đạo lộ tuyệt nhân hành.

Thập nhị xưng đại vương, thập ác vô nhất thiện

[6b], thập bát tử đăng tiên, kế đô3 nhị thập thiên" (Đỗ Thích giết hai

Đinh, nhà Lê nỗi thánh minh, tranh nhau nhiều hoành nhi, đường sá người

vắng tanh. Mười hai xưng đại vương, toàn ác không một thiện, mười tám con

lên tiên, sao kế đô hai chục ngày)4 . Người ta cho là số trời đã định như

thế. Khi ấy Định quốc công Nguyễn Bặc, Ngoại giáp Đinh Điền, cùng thập đạo

tướng quân Lê Hoàn rước Vệ Vương Toàn

lên ngôi Hoàng đế, tôn gọi vua là Tiên Hoàng Đế, tôn mẹ đẻ [vua mới] là

Dương Thị làm Hoàng thái hậu. Rước linh cữu Tiên Hoàng Đế về táng ở sơn

lăng Trường Yên5.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Đế vương dấy nghiệp không ai không nhờ ở trời.

Nhưng thánh nhân không cậy có mệnh trời mà làm hết phận sự của mình. Việc

đã thành, lại càng lo nghĩ đề phòng. Sửa sang lể nhạc hình án chính sự là

để phòng giữ lòng người. Đặt nhiều lần cửa, đánh hiệu canh là đề phòng kẻ

hung bạo. Bởi vì [7a] lòng dục không cùng, việc đời không bến, không thể

không đề phòng trước. Đó là nghĩ xa cho đời sau, mưu tính cho con cháu cũng

chính là ở đó. Cho nên Tiên Hoàng không được trọn đời là

do chưa làm hết việc ngừơi, không phải mệnh trời không giúp. Cũng vì vua

không giữ được trọn đời khiến cho cái thuyết sấm đồ5 đắc thắng, đời sau

không thể không bị mê hoặc vì điều đó.

1 Cương mục chú: Đỗ Thích người xã Đại Đê, huyện Thiên Bản, nay là huyện

Vụ Bản, tỉnh Hà Nam Ninh (CMTB1,8b).

2 Ở đây Toàn thư chép là hoành nhi mm mm, tức một loại nô tỳ, còn Đại Việt

sử lược (q.1, 17b) lại chép là hoành tử mm mm nghĩa

là chết phi lý, chết oan uổng.

3 Kế đô: là tên Trung Quốc phiên âm tên ngôi sao Kethu trong lịch cổ Ấn

Độ. Thiên văn cổ Ấn Độ cho rằng hệ mặt trời có 9 sao (Trung Quốc dịch là

Cửu diệu), ngoài mặt trời, mặt trăng và 5 sao Thủy (Bhuda), Kim (Sukra),

Hỏa (Angaraka), Mộc (Brhaspati), Thổ (Sanaiscara hay Sani), còn có 2 sao

nửa là Kethu và Rahu (Trung Quốc phiên âm là La hầu), hai sao này thường

che mặt trời, mặt trăng, làm thành nhật thực và nguyệt thực. Ngày nay ta

biết không phải như vậy và không có hai ngôi sao đó. Lịch pháp cổ

Ấn Độ (người Trung Quốc gọi là Phạn lịch đã truyền vào Trung Quốc cùng với

Phật Giáo). Trong kinh Phật (chẳng hạn Đại Nhật kinh), thường gặp tên sao

Kế đô này. Một số học giả thời Tống cũng đã bàn về sao này (xem Mộng khe

bút đàm của Thâm Quát, chương tượng số). Người làm bài sấm trên - nhiều khả

năng là nhà sư - đưa thêm tên ngôi sao này vào cho thêm phần bí hiểm, đồng

thời chữ đô, có thể ám chỉ việc đóng đô, hay làm vua, của nhà Lý.

4 Bài thơ sấm này hẳn là do người đời sau làm ra, vì trong đó không những

đã biết việc Đỗ Thích giết hai cha con vua Đinh, Lê

Hoàn lên ngôi, mà còn nói trước việc nhà Lý làm vua (gộp 3 chữ thập, bát,

tự thành chữ Lý).

5 Trường Yên: Ở đây là tên xã, chứ không phải tên phủ. Xã Trường Yên, gồm

Trường Yên Thượng và Trường Yên Hạ, là vùng thành

Hoa Lư. Lăng vua Đinh ở trên núi Mã Yên (núi Yên Ngựa) thuộc xã Trường Yên

tỉnh Ninh Bình.

PHẾ ĐẾ

Tên húy là Toàn, con thứ của Tiên Hoàng, ở ngôi 8 tháng. Họ

Lê cướp ngôi, giáng phong là Vệ Vương, thọ 18 tuổi [974-991].

Vua còn thơ ấu phải nối nghiệp lớn gian nan, cường thần nhiếp

chính, người trong nước lìa lòng, nhà Đinh bèn mất.

Vua nối ngôi khi mới 6 tuổi. Lê Hoàn nhiếp chính, làm công việc như Chu

Công1 , tự xưng là Phó Vương. Bọn Định quốc công Nguyễn Bặc, ngoại giáp

Đinh Điền, Phạm Hạp ngờ Hoàn sẽ làm điều bất lợi cho vua nhỏ, bèn cùng nhau

dấy binh, chia hai đường thủy bộ, muốn tiến về kinh đô giết [7b] Hoàn,

nhưng không đánh nổi, bị giết. Trước đó khi Điền và Bặc cất quân, Thái hậu

nghe tin, lo sợ bảo Hoàn rằng: "Bọn Bặc dấy quân khởi loạn làm kinh động

nước nhà ta. Vua còn nhỏ yếu chưa kham nỗi nhiều nạn, các ông nên liệu tính

đi chớ để tai họa về sau". Hoàn nói: "Thần ở chức Phó Vương nhiếp chính, dù

sống chết biến họa thế nào, đều phải đảm đương trách nhiệm". Rồi đó chỉnh

đốn quân lữ, đánh nhau với Điền, Bặc ở Tây Đô (Hoàn người Ái Châu, [sau lên

ngôi] đóng đô ở Hoa Lư, cho nên sử gọi Ái Châu là Tây Đô). Điền, Bặc thua

chạy, lại đem quân thủy ra đánh. Hoàn nhân chiều gió phóng lửa đốt thuyền

chiến, chém Điền tại trận, bắt được Bặc đóng củi đưa về kinh sư, kể tội

rằng: "Tiên đế mắc nạn, thần người đều căm thẹn. Ngươi là tôi con lại nhân

lúc tan tóc bối Krối mà dấy quân bội nghĩa. Chức phận tôi con có đâu như

thế?". Bèn chém đầu đem bêu.

Điền, Bặc đã chết, quân Phạm Hạp mất hết khí thế, tan chạy về hương Cát Lợi

ở Bắc Giang. Hoàn dẫn quân đuổi theo, bắt sống được Phạm Hạp đem về [8a]

Kinh sư.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Chu Công là người vương thất rất thân, giúp vua

nhỏ tuổi còn không tránh khỏi những lời gièm pha phao truyền. Lê Hoàn là

đại thần khác họ, nắm giữ binh quyền, làm công việc như Chu Công, thường

tình còn ngờ vực, huống là Nguyễn Bặc ở chức thủ tướng và Đinh Điền là đại

thần cùng họ hay sao? Bọn họ khởi binh không phải làm loạn, mà là một lòng

phù tá nhà Đinh, vì giết Hoàn không được mà phải chết, ấy là chết đúng chỗ.

Nay xem lời Đại Hành kể tội Nguyễn Bặc tựa như vạch tội mình. Khi Bặc chết,

ắt phải có nói một lời để bày tỏ chính nghĩa, nhưng không thấy sử chép, thế

là bỏ sót.

Phò mã Ngô Nhật Khánh dẫn thuyền quân Chiêm Thành hơn nghìn chiếc vào cướp,

muốn đánh thành Hoa [8b] Lư, theo hai cửa biển Đại Ác và Tiểu Khang, qua

một đêm, gặp gió bão nổi lên, thuyền đều lật đắm, Nhật Khánh cùng bọn người

Chiêm đều chết đuối, chỉ có thuyền của vua Chiêm thoát trở về nước. Nhật

Khánh là con cháu của Ngô Tiên chúa Quyền, trước xưng là An Vương, cùng 12

sứ quân mỗi người chiếm giữ một vùng. Tiên Hoàng dẹp yên, lấy mẹ Khánh làm

hoàng hậu, lấy em gái Khánh làm vợ Nam Việt Vương Liễn, còn lo sinh biến,

lại đem công chúa gã cho Khánh, ý muốn dập hết lòng oán vọng của hắn. Nhật

Khánh bề ngoài cười nói như không, nhưng trong lòng vẫn bất bình, bèn đem

cả vợ chạy

sang Chiêm Thành, đến cửa biển Nam Giới2 rút đao ngắn xẻo má vợ kể tội

rằng: "Cha mày lừa dối ức hiếp mẹ con ta, lẽ nào ta vì mày mà quên tội ác

của cha mày hay sao? Cho mày trở về, ta đi đằng khác

tìm kẻ có thể cứu ta". Nói xong bèn đi. Đến đây nghe tin Tiên Hoàng băng,

Khánh dẫn người Chiêm vào cướp.

[9a] Canh Thìn, [Thái Bình] năm thứ 11 [980], (Phế Đế vẫn dùng niên hiệu

Thái Bình, từ tháng

7 về sau là niên hiệu Thiên Phúc năm đầu của Lê Đại Hành; Tống Thái Bình

Hưng Quốc năm thứ 5).

1 Chu Công: tức Cơ Đán, em Vũ Vương, nhà Chu (Trung Quốc), có tiếng là

người hiền. Thành Vương nối ngôi còn nhỏ tuổi, Chu

Công làm nhiếp chính, từng bị lời dèm pha nói rằng Chu Công sẽ làm điều bất

lợi cho vua nhỏ...

2 Nam Giới: tên cửa biển ở phiá Nam, gần Chiêm Thành, còn có tên là Cửa

Sót, nay thuộc huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.

Mùa hạ, tháng 6,Tri Ung Châu1 của nhà Tống là Thái thường bác sĩ Hầu Nhân

Bảo dâng thư tâu với vuaTống rằng:

" An Nam Quận Vương cùng với con là Liễn đều bị giết, nước ấy sắp mất, có

thể nhân lúc này đem một cánh quân sang đánh lấy.nếu bỏ lúc này không mưu

tính, sợ lở mất cơ hôị. Xin cho đến cửa khuyết để

tâu Bày trực tiếp tình trạng có thể đánh lấy được ". Vua Tống sai chạy trạm

đến gọi Nhân Bảo. Lư Đa

Tốn nói: " An Nam bên trong rối loạn, đó là lúc trời làm mất, triều đình

nên bất ngờ đem quân sang đáng

úp, như người ta nói: " sét đánh không kịp bịt tai". Nếu trước gọi Nhân Bảo

về, mưu ấy ắt bị lộ, kẻ kia nhờ đó biết được, sẽ dựa núi ngăn mà phòng bị,

cái thế thắng thua chưa biết thế nào.

Chi bằng giao cho Nhân Bảo trách nhiệm ngầm đem quân sang, theo lệnh mà lo

liệu việc ấy, chọn tướng đem 3 vạn quân Kinh Hồ2 ruổi dài mà [9b] tràn

sang, tạo ra cái thế vạn toàn như xô bẻ cành khô gỗ mục, không phải lo tốn

một mũi tên".Vua Tống cho là phải.

Mùa thu,tháng 7, ngày Đinh Mùi, nhà Tống lấy Hầu Nhân Bảo làm Giao châulục

lộ thủy lộ chuyển vận sứ, Lan Lãng đoàn luyện sứ Tôn Toàn Hưng,Bất tác sứ

Hác Thủ Tuấn, Yên bi khổ sứ Tràn Khâm Tộ,

Tả giám môn tướng quân Thôi Lượng làm Ung Châu Lộ binh mã bộ thư, Ninh Châu

thứ sử Lưu Trừng, Quân khi khố phó sứ Giả Thực, Cung phụng quan cáp môn chi

hậu Vương Soạn làm Quảng Châu Lộ binh

mã đô bộ thư., họp quân cả bốn hướng, hẹn ngày cùng sang xâm lược.

Bấy giờ,Lạng Châu nghe tin quân Tống sắp kéo sang, liền làm tờ tâu báo về.

Thái hậu sai Lê

Hoàn chọn dũng sĩ đi đánh giặc, lấy người ở Nam Sách Giang là Phạm Cư Lạng3

làm đại tướng quân. Khi

[ triều đình ] đang bàn kế hoạch xuất quân, Cự Lạng cùng các tướng quân

khác đều mặc áo trận đi thẳng vào Nội phủ, [10a] nói với mọi người rằng: "

Thưởng người có công, giết kẻ trái lệnh là phép sáng

để thi hành việc quân. Nay chúa thượng còn trẻ thơ, chúng ta dẫu hết sức

liều chết để chặn giặc ngoài, may có chút công lao, thì có ai biết cho ?

Chi bằng trước hãy tôn lâp ông Thập đạo làm Thiên tử, sau đó

sẻ xuất quân thì hơn".Quân sĩ nghe vậy đều hô "vạn tuế ".

Thái hậu thấy mọi người vui lòng quy phục bèn sai lấy áo long cổn4 khoác

lên người Lê Hoàn, mời lên ngôi Hoàng đế. Từ đó Hoàn lên ngôi Hoàng đế, đổi

niên hiệu là Thiên Phúc năm đầu [ 980 ], giáng phòng vua làm Vệ Vương.

Truy phong cha của vua [ Hoàn ] làm Trường Hưng Vương, mẹ họ Đặng làm Hoàng

thái hậu.

Tháng 8, vua Tống xuống chiếu đem quân sang xâm lược, sai Lư Đa Tốn đem thư

sang nói rằng:

" Trung Hoa đối với Man Di, cũng như thân người có tứ chi, vận động duỗi co

tùy ở tim mình, cho nên

nói tim là chủ. Nếu ở một [10b] tay một chân mà mạch máu ngừng đọng, gân

cốt không yên thì phải dùng thuốc thang để chữa. Chữa mà không công hiệu

thì lại phải châm cứu cho kỳ khỏi, không phải là không biết thuốc thang thì

đắng miệng, mà châm chích thì rách da. Phải làm như thế là vì tổn hại ít mà

lợi ích nhiều. Kẻ làm vua thiên hạ cũng phải làm như vậy chăng? cho nên

Thái Tổ Hoàng Đế ta nhận ngôi

do nhà Chu nhường, đổi tên nước là Tống, văn vật trong sáng, một phen biến

đổi theo xưa, ở ngôi đế vương mà nhìn Man Di mắc bệnh. Cho nên năm thứ 1

thứ 2 thì thuốc thang cho các đất Kinh, Thục, Tương, Đàm, năm thứ 3 thứ 4

thì châm cứu cho các miền Quảng, Việt, Ngô, Sở5, gân cốt huyết mạch ra dáng

trẻ non, có phần khoẻ mạnh. Không do cơ trí thần diệu sáng suốt của bậc

vương giả mà trù liệu được đến thế ư ? Đến khi ta nối giữ cơ nghiệp lớn,

đích thân coi chính sự, cho rằng đất Phần, đất Tinh6

1 Ung Châu: nay là huyện Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.

2 Kinh Hồ: tên lộ thời Tống, gồm đất tỉnh Hồ Nam và tỉnh Hồ Bắc, Trung

Quốc ngày nay.

3 Phạm Cự Lạng: người huyện Chí Linh, tỉnh Hải Hưng, ông nội là Chiêm giữ

chức Đông giáp tướng quân đời Ngô Quyền, cha là Man, Tham chính đô đốc, anh

là Phạm Hạp, vệ uý đời Đinh Tiên Hoàng, người đã cùng Đinh Điền, Nguyễn Bặc

chống lại Lê Hoàn (theo Ngô Thì Sĩ, Đại Việt sử ký tiền biên).

4 Áo long cổn: áo của vua thêu hình rồng cuộn.

5 Chỉ các cuộc hành quân tiêu diệt các thế lực cát cứ đầu thời Tống ở tỉnh

Hồ Nam, Tứ Xuyên, Lưỡng Quảng,v.v...Trung Quốc.

6 Chỉ miền Phần Dương và Thái Nguyên thuộc tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc. Ở đây

Tống Thái Tông muốn nhắc đến cuộc tiến quân tiêu diệt nước Bắc Hán ở tỉnh

Sơn Tây năm 979.

là bệnh ở lòng bụng, nếu lòng bụng chưa chữa khỏi thì làm sao chữa nổi tứ

chi ? Vì thế mới luyện thuốc

thang bằng nhân nghĩa, [11a] sửa đồ châm cứu bằng đạo đức, hết sức chữa cho

các đất Phần, Tinh chỉ một lần là khỏi bệnh, chín châu bốn biển đã mạnh lại

yên. Chỉ có Giao Châu của ngươi ở xa cuối trời, thực là ngoài năm cõi1 .

Nhưng phần thừa của tứ chi, ví như ngón chân ngón tay của thân người, tuy

chỉ một ngón bị đau, bậc thánh nhân lại không nghĩ đến hay sao ? Cho nên

phải mở lòng ngu tối của ngươi, để thanh giáo của ta trùm tỏa, ngươi có

theo chăng ? Huống chi từ thời Thành Chu, [ nước ngươi ] đã đem chi trĩ

trắng sang dâng, đến thời Viêm Hán2, dựng cột đồng làm mốc, cho đến thời Lý

Đường, vẫn thuộc về nội địa. Cuối thời Đường nhiều họa nạn, chưa kịp xử

trí. Nay thánh triều lòng nhân trùm khắp muôn nước,

cơ nghiệp thái bình kể cũng đã thịnh. Lễ phân phòng đã sắp đặt sẵn, còn đợi

ngươi đến chúc sức khoẻ

của ta. Ngươi đừng ru rú trong bốn góc nhà, khiến cho ta buồn phiền, phải

chém cờ bổ so3 làm cỏ nước ngươi, hối sao cho kịp. Dù cho sông nước ngươi

có ngọc, [11b] ta vứt xuống suối; núi nước ngươi sản vàng, ta ném vào bụi,

[ để thấy ] chẳng phải ta tham của báu nước ngươi. Dân của ngươi bay nhảy (

ý

nói người hoàng dã ) còn ta thì có ngựa xe; dân ngươi uống mũi ( nay người

man ở miền rừng núi Giao

Quảng4 vẫn còn tục ấy ) còn ta thì có cơm rượu để thay đổi phong tục của

nước ngươi; dân ngươi bắt

tóc còn ta thì có áo mũ, dân ngươi nói tiếng chim, còn ta thì có Thi, Thư,

để dạy lễ cho dân ngươi. Cõi nóng chói chang, khói hơi mù mịt, ta tỏa mây

Nghiêu, tưới cho mưa ngọt. Khí biển hầm hập, cháy mày chảy đá, ta gảy đàn

Thuấn, quạt làn gió thơm. Sao trên trời nước ngươi, chẳng ai biết tên gì,

ta quay chòm tử vi để ngươi biết chầu về. Đất ngươi nhiều ma quỷ, ai cũng

sợ chúng quấy, ta đã đúc vạc lớn [để yểm trừ], khiến chúng không làm hại.

Ra khỏi chốn đảo di của ngươi mà xem nhà Minh đường, Bích ung5 chăng? Trút

áo quần cỏ lá của ngươi mà mặc áo cổn hoa thêu hình rồng núi chăng? Ngươi

có theo về hay không, chớ mau chuốc lấy tội. Nay ta đang chỉnh đốn xe cộ

quân lính, truyền hiệu lệnh chiêng trống. Nếu chịu theo giáo hóa, ta [12a]

sẽ tha tội cho, nếu trái mệnh ta sẽ sai quân đánh. Theo hay chống, lành hay

dữ, tự ngươi xét lấy". (Sử cũ chép thư này ở Đinh Kỷ, dưới năm Thái Bình

thứ 2 [971], nay xét nên để ở đây. Thư này do Vương Vũ Xứng nhà Tống soạn.

Lại xét ở trên đoạn đó, Lê Văn Hưu có nêu bốn chữ "cải nguyên xưng đế", thì

rõ ràng là từ mùa thu năm này, thuộc niên hiệu Thiên Phúc năm đầu.

Lại trong bức thư này nói: "Thái Tổ ta nhận ngôi nhà Chu nhường lại..., ta

nối giữ cơ nghiệp lớn...", thì rõ

là thư của Tống Thái Tông, Văn Hưu không thể quá lầm mà ghi vào đời Đinh

Tiên Hoàng, có lẽ do người sau sao chép ở những chỗ còn lại trong sách rách

giấy nát, tự ý chép bậy vào chỗ ấy, đến nỗi Văn Hưu phải chiụ oan là đã

lầm. Năm sau, là năm Tân Tỵ [981] mới đổi gọi là Thiên Phúc năm đầu, biết

đâu chẳng phải do mất tờ sách ấy mà đổi lầm chăng? Còn như Lý Thái Tổ lên

ngôi vào cuối năm, cho nên năm sau đổi niên hiệu, không giống như đây).

Mùa đông, tháng 10, vua sắp phát binh, trước sai nha hiệu là Giang Cự Vọng,

Vương Thiệu Tộ đưa thư sang nước Tống giả làm thư của [Vệ Vương] Toàn thỉnh

cầu nối ngôi cha, xin ban cho mệnh lệnh chính thức, ý muốn hoãn binh nhà

Tống ( thư nói: cha thần là mỗ, anh thần là mỗ, điều được đội

ơn nước, cho giữ phận trông coi biên khổn, kính giữ bờ cõi, không dám trái

lệnh. Chưa khó nhọc ngựa đổ

mồ hôi, đả đau buồn sương tan buổi sớm6 . Nhà thần sắp sụp đổ, chưa bỏ aó

tan thì quân dân tướng lại trong hạt, người giá lão ở núi rừng cùng đến chỗ

nằm rơm gối đất7 của thần, bảo thần tạm giữ việc quân

lữ. Thần cố từ ba bốn lần, nhưng bọn họ thỉnh cầu nài ép càng khẩn thiết.

Thần muốn [12b] đợi tâu bày, nhưng lại lo chậm trễ; người núi rừng hung ác,

dân khe động tráo trở, nếu không chiều ý họ, sợ có

khi tai biến xảy ra. Cho nên thần đã kính giữ quyền Tiết độ hành quân tư

mã, tạm giữ việc quân trong

1 Nguyên văn: "Ngũ phục", chữ dùng trong Kinh Thư, chỉ 5 vùng theo thứ tự

xa cách kinh kỳ (hầu, diện, tuy, yêu, hoang).

2 Viêm Hán: tức nhà Hán, tự coi là dòng dõi vua Nghiêu, ứng vào ngôi hỏa

(trong ngũ hành), cho nên gọi là Viêm Hán (Viêm đồng nghĩa với hỏa).

3 Nguyên văn: "tiệt phan đoạn tiết". Tiết là con so để làm tin, khi tướng

ra trận thì bổ đôi giao cho một nửa.

4 Chỉ vùng biên giới giữa nước ta (Giao Châu) với đất Lưỡng Quảng, Trung

Quốc.

5 Minh Đường: chổ vua các nước chư hầu triều kiế vua nhà Chu. Bích Ung:

nhà học của vua nhà Chu.

6 Ý nói cha và anh ở ngôi chưa được bao lâu đã bị nạn.

7 Nguyên văn: "Chiêm khối", chỉ nơi ở trong thời gian chịu tang cha mẹ

(nằm chiếu rơm (chiêm), gối đầu trên hòn đất (khối).

châu. Cúi mong được chính thức lĩnh mệnh, đủ được dự hàng phiên bang, để

yên ủi tấm lòng tận trung

của kẻ toi mọn, nêu cao thịnh điển ban khen của thánh triều ).

Khi ấy nhà Tống đang muốn trách hỏi vua về việc xưng đế đổi niên hiệu, lại

có ý chiếm lấy nước Việt ta, mới sai Trương Tông Quyền đưa thư trả lời

rằng: " họ Đinh truyền nối ba đời, trẫm muốn cho Toàn làm thống soái,

khanh1 làm phó. Nếu Toàn tướng tài chẳng có, vẫn còn trẻ con, thì nên bảo

cả mẹ con cùng thân thuộc sang quy phụ. Đợi khi bọn họ vào chầu ắt sẻ có

điễn lễ ưu đải và sẻ trao cờ tiết cho khanh. Nay có hai đường, khanh nên

chọn một".Vua đều không nghe.

Trở nên là triều Đinh, hai vua, bắt đầu từ năm Mậu Thìn, chấm dứt vào năm

Canh Thìn

[ 968- 980 ] tất cả 13 năm.

[13a]

K ỷ NHÀ LÊ

ĐạI HÀNH HOÀNG ĐẾ

Họ Lê, tên huý là Hoàn, người Ái Châu2, làm quan nhà Đinh đến chức Thập đạo

tướng quân; quân Tống xâm lược đem quân ra chống cự, rồi thay nhà Đinh làm

vua; ở ngôi 24 năm, thọ 65 tuổi [941 - 1006], băng ở điện Trường Xuân.

Vua trừ nội gian mà lấy được nước, đuổi giặc ngoài để yên dân,

trong nước thanh bình, Bắc Nam vô sự. Tiếc rằng không sớm chọn con nối,

khiến cho con cái tranh nhau bên trong, dẫn đến mất ngôi; về đạo vợ chồng

có nhiều điều đáng thẹn

Trước kia cha vua là Mịch, mẹ là Đặng thị, khi mới có thai chiêm bao thấy

trong bụng nở hoa sen, chỉ chốc lát đã kết hạt, bèn lấy chia cho mọi người,

còn mình thì không ăn, tỉnh dậy không hiểu nguyên do thế nào. Đến khi năm

Thiên Phúc thứ 6 thời Tấn [941] là năm Tân Sửu, mùa thu, tháng bảy, ngày

15, sinh ra vua. Đặng thị thấy tướng mạo khác thường, bảo với mọi người

rằng: "Thằng bé này lớn lên, ta sợ không kịp hưởng lộc của nó". Được vài

năm thì mẹ chết, sau đó cha [13b] cũng qua đời, trơ trọi một thân, muôn vàn

cô đơn đói rét. Trong thôn có viên quan sát họ Lê trông thấy lấy làm lạ,

nói: "

Tư cách đứa trẻ này, người thường không sánh được". Lại thấy là cùng họ nên

nhận làm con nuôi, sớm chiều chăm sóc dạy dỗ, không khác gì con đẻ. Có đêm

mùa đông trời rét, vua úp cối mà ngũ. Đêm ấy ánh sáng đẹp đầy nhà, viên

quan sát lén đến xem, thì thấy con rồng vàng che ấp bên trên, vì thế lại

càng thêm quý trọng. Lớn lên theo giúp Nam Việt Vương Liễn, [tỏ ra] phóng

khoáng, có chí lớn. Tiên Hoàng khen là người trí dũng, chắc thế nào cũng

làm được việc, bèn giao cho cai quản 1 nghìn quân sĩ, thăng dần đến chức

Thập đạo tướng quân điện tiền đô chỉ huy sứ. Đến đây thay họ Đinh làm vua,

đóng

đô ở Hoa Lư.

[14a] Tân Tỵ, Thiên Phúc ] năm thứ 2 [981], ( Tống Thái Bình Hưng Quốc năm

thứ 6, xét các bản chép niên kỷ các triều đều ghi năm này là năm Thiên Phúc

thứ 1, nay sửa lại ). Mùa xuân, tháng 2, Hầu Nhân Bảo, Tôn Hoàng Hưng đến

Lạng Sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây Kết, Lưu Trừng đến sông Bạch

1 Chỉ Lê Hoàn.

2 Ái Châu: tức Thanh Hóa ngày nay. Đại Việt sử lược (q.1,18b) chép Lê Hoàn

người Trường Châu, nay thuộc tỉnh Hà Nam Ninh. Đại Việt sử ký tiền biên

(q1) phần chính văn bản chép Lê Hoàn người Ái Châu, nhưng phần cước chú lại

ghi Lê Hoàn người Bảo Thái, huyện Thanh Liêm nay thuộc tỉnh Nam Hà.

Đằng1. Vua tự làm tướng đi chặn giặc, sai quân sĩ đóng cọc ngăn sông Chi

Lăng2. Vua sai quân sĩ trá hàng để dụ Nhân Bảo, đem chém. Bọn Khâm Tô. nghe

tin quân thủy thua trận, dẫn quân về. Vua đem các tướng danh, quân của Khâm

Tộ thua to, chết đến quá nửa, thây chết đầy đồng, bắt được tướng giặc

là Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân đem về Hoa Lư. Từ đó trong nước rất

yên. Bầy tôi dâng tôn hiệu

là Minh Càn Ứng Vận Thần Vũ Thăng Bình Chí nhân quảng Hiếu Hoàng Đế.

Lê Văn Hưu nói: Lê Dại Hành Giết Đinh Điền, bằt Nguyễn Bặc, tóm Quân Biện

[14b], Phụng Huân dễ như lùa trẻ con, như sai nô lệ, chưa đầy vài năm mà bờ

cõi định yên, công đánh dẹp chiến thắng dẫu là nhà Hán, nhà Đường cũng

không hơn được.Có người hỏi: Đại Hành với Lý Thái Tổ ai hơn? Thưa rằng: Kể

về mặt trừ dẹp gian trong, đánh tan giặc ngoài, làm mạnh nước Việt ta, ra

oai với người tống thì Lý Thái Tổ không bằng Lê Đại Hành có công lao gian

khổ hơn. Nhưng về mặt tỏ rõ ân uy, lòng người suy tôn, hưởng nước lâu dài,

để phúc cho con cháu thì Lê Đại Hành không bằng Lý Thái Tổ

lo tính lâu dài hơn. Thế thì Lý Thái Tổ hơn ư ? Đáp: Hơn thì không biết,

chỉ thấy đức của họ Lý dày hơn họ Lê, vì thế nên nói theo họLý.

Sử Thần Ngô Sĩ Liên nói: Tam cương là đạo thường của muôn đời, không thể

một ngày [15a] rối loạn. Khi Đại Hành giữ chức nhiếp chính, Vệ Vương

tuy còn nhỏ nhưng vẫn là vua, thế mà Đại Hành tự xưng là Phó Vương, rắp tâm

làm điều bất lợi. Đạo làm tôi không được rắp tâm, rắp tâm thì ắt phải giết.

Đó là phép của sách Xuân Thu, người người điều được nêu lên mà thi hành.

Nguyễn Bặc, Đinh Điền sao có thể nhẫn tâm điềm nhiên mà nhìn ? Rồi lui về

dấy quân hỏi tội, mưu giữ xã tắc, thế là bầy tôi trung nghĩa đấy. Việc

không xong mà chết, thế là bề tôi tử tiết đấy. Lời bàn của Văn Hưu

lái đánh đồng với hàng loạn tặc, khiến cho đạo nhân luân không được sáng tỏ

với đời sau, gây mầm mống tiếm đoạt, để cho những kẻ có quyền lực tranh

nhau bắt chước, quét sạch cương thường, vì thế không thể không biện bác.

Giang Nam chuyển vận sứ của nhà Tống là Hứa Trọng Tuyên đem việc Nhân Bảo

thua chết tâu lên. Vua Tống xuống chiếu rút quân về, sai sứ quở trách bọn

Lưu Trừng, Giả Thực, Vương Soạn. Trùng

ốm chết, Soạn bị giết ở [15b] Ung Châu, Tôn Hoàng Hưng cũng bị giết bêu ở

chợ.

Nhâm Ngọ, Thiên Phúc năm thứ 3 [982], ( Tống Thái Bình Hưng Quấc năm thứ 7

). Lập Hoàng thái hậu nhà Đinh là Dương thị làm Đại Thắng Minh Hoàng Hậu.

Hậu là vợ của Tiên Hoàng, mẹ đẻ cuả

Vệ Vương Toàn. Khi vua lấy được nước, đem vào cung, đến đây lập làm Hoàng

hậu, cùng với Phụng Càn

Chí Lý Hoàng Hậu, Thuận Thánh Minh Đạo Hoàng Hậu, Trịnh Quấc Hoàng Hậu,

Phạm Hoàng Hậu là 5 hoàng hậu ( về sau, tục dân lập đền thờ, tô tượng hai

vua Tiên Hoàng và Đại Hành và tượng Dương hậu cùng ngồi, hồi quốc sơ [đầu

thời Lê] vẫn còn như thế. Sau An Phủ Sứ Lê Thúc Hiển mới bỏ ).

Sử Thần Ngô Sĩ Liên nói: Đạo vợ chồng là đầu của nhân luân,

dây mối của vương hóa. Hạ kinh của Kinh Dịch nêu quẻ Hàm và quẻ Hằng lên

đầu, là để tỏ cái ý lấy đàn bà tất phải chính đáng. Đại Hành thông dâm với

vợ vua, đến chổ nghiễm nhiên lập làm hoàng hậu, mất cả lòng biết hổ thẹn.

Đem cái thói ấy truyền cho đời sau, [16a] con mình bắt chước mà dâm dật đến

nỗi mất nước, há chẳng phải là mở đàu mối họa đó sau

?

Vua thân đi đánh Chiêm Thành, thắng được. Trước đó vua sai Từ Mục, Ngô Tử

Canh sang sứ Chiêm Thành, bị người Chiêm bắt giữ. Vua giận, sai đóng chiến

thuyền sửa binh khí, tự làm tướng đi đánh, chém bê Mi Thuế3 tại trận.

Chiêm Thành thua to. Bắt sống được quân sĩ của chúng nhiều vô kể,

1 Sông Bạch Đằng: còn gọi là sông Rừng, chảy qua giữa hai huyện Yên Hưng

tỉnh Quảng Ninh và Thủy Nguyên, Hải Phòng.

2 Sông Chi Lăng: Cương mục (CB1, 18) chú là con sông ở xã Chi Lăng, tức

khúc sông Thương chảy qua Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn.

3 Bê Mi Thuế: Đại Việt sử lược (q.1, 19b) nói là vua Chiêm, Cương mục

(CB1, 19a) nói là tướng Chiêm. G.Maspéro khôi phục tên Phạn ngữ của người

này là Parames'varavarman I (Le Royaume de Champa); nhưng vẫn coi là giả

thuyết vì chưa có cứ liệu xác nhận.

cùng là kỹ nữ trong cung trăm người và một nhà sư người Thiên Trúc, lấy các

đồ quý đem về, thu được

vàng bạc của báu kể hàng vạn, san phẳng thành trì, phá hủy tông miếu, vừa

một năm thì trở về kinh sư.

Năm ấy đói to.

Quý Mùi, /Thiên Phúc/ năm thứ 4[ 983 ], (Tống Thái Bình Hưng Quấc năm thứ

8). Mùa xuân, sai sứ sang thông hiếu với nhà Tống.

Trước kia vua đi đánh Chiêm Thành, Quảng Giáp Lưu Kế Tông trốn ở lại nước

ấy. Đến đây, vua sai người con nuôi( không rỏ tên) [16b] đi bắt được kế

Tông, đem chém.

Kênh mới trên đường biển làm xong( chưa rỏ ở chổ nào ). Khi vua đi đánh

Chiêm Thành, qua núi Đồng Cổ1 đến sông Bà Hòa2, đường núi hiểm trở khó đi,

người ngựa mỏi mệt, đường biển thì sóng to khó đi lại, bèn sai người đào

kênh. Đến đây đào xong, thuyền bè đi lại đều được thuận tiện.

Giáp Thân, /Thiên Phúc năm thứ 5 [984], (Tống Ưng Hy năm thứ 1). Muà xuân,

tháng 2, đúc tiền Thiên Phúc.

Làm nhiều cung điện nhà cửa: dựng điện Bách Bảo Thiên Tuế ở núi Đại Vân3,

cổt giác vàng bạc, làm nơi coi chầu; phía đông là điện Phong Lưu, phía tây

là điện Tử Hoa, bên tả là điện Bồng Lai, bên hữu

là điện Cực Lạc. Tiếp đó là lầu Đại Vân, dựng tiếp điện Trường Xuân làm nơi

vua nghỉ. Bên cạnh điện

Trường Xuân lại dựng điện Long Bộc, mái lợp ngói bạc.

[17a] Ất Dậu, /Thiên Phúc/ năm thứ 6 [985], (Tống Ung Hy năm thứ 2). Mùa

thu, tháng 7 ngày rằm là ngày sinh của vua, sai người làm thuyền ở giữa

sông, lấy tre làm núi giả đặt trên thuyền, gọi là Nam Sơn, rồi bày lễ vui

đua thuyền, về sau thành thường lệ.

Nhà Tống sai sứ sang thăm. Vua sai sứ sang nhà Tống xin giữ chức Tiết

Trấn4.

Bính Tuất, /Thiên Phúc/ năm thứ 7 [986], (Tống Ung Hy năm thứ 3). Mùa thu,

tháng 8, điểm dân để lấy lính.

Mùa đông, tháng 10, nhà Tống sai Tả bổ khuyết Lý Nhược Chuyết, Quốc Tử Giám

bác sĩ Lý Giác mang chế sách sang phong cho vua làm An Nam đô hộ Tĩnh Hải

quân Tiết độ sử kinh triệu quận hầu (Lời chế nói: Đấng vương giả cả dựng

ngôi cao, vỗ yên chư hầu. Dựng phủ đệ tại kinh sư, cho lễ hội đồng được

long trọng; chia đất phong ở các nơi, để quyền tiết chế được nêu cao. Huống

nay từ cõi đất diều

rơi5 đến dâng đồ cống lông chim trả. Lúc đang đổi tướng, lợi dịp phong

hầu, lòng cũng không quên thỉnh mệnh, bèn ban ân điển thưởng công. Nay

quyền tri tam ty lưu hậu là Lê mỗ, tư cách gồm nghĩa dũng, bẩm tính vốn

trung thuần, [17b] được lòng người trong nước, kính giữ tiết phiên thần.

Vừa rồi Đinh Toàn đương tuổi trẻ thơ, không biết yên vỗ. Người là tâm phúc

chỗ thân, giữ quyền coi quân lữ, hiệu lệnh ban phát, uy ái đều gồm. Họ Đinh

bỏ quyền ba đời tiết sứ, chiều theo ý muốn mọi người. Người xa

tỏ lòng thành, xin ban tiết việt. [Phải như] Sĩ Nhiếp cứng mạnh, sáng suốt,

đổi tục Việt đều hay, Úy Đà cung kính, thuận tòng, vâng chiếu Hán chẳng

trái. Nên xứng chức đứng đầu cõi xa, cùng dự hàng chư hầu tôn quý. Vỗ yên

Man di bộ lạc, tuyên dương đức tốt vương triều).

Vua nhận chế rất kính, lễ thết đãi rất hậu, hàng ngày đem những thứ quý lạ

bày chật cả sân, để

tỏ sự giàu có. Đem bọn Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân trả cho về. Lại

Bảo Nhược Chuyết và Giác

1 Núi Đồng Cổ: ở xã Đan Nê, huyện Thuyệu Yên, tỉnh Thanh Hóa.

2 Sông Bà Hòa: sông chảy qua xã Bà Hòa, sau đổi là xã Đồng Hòa, nay thuộc

huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa.

3 Núi Đại Vân: ở thành Hoa Lư, tỉnh Hà Nam Ninh.

4 Tiết Trấn: tức Tiết độ sứ ở phiên trấn.

5 Chỗ này toàn thư chép là "Diên Chỉ chi ngung", bản dịch cũ dịch là "Diên

Chỉ cõi xa" và chú thích Diên Chỉ là Chu Diên và Giao Chỉ (bản dịch cũ, tập

1, tr.332). Nhưng xem lại Tống sử (Giao Chỉ truyện) ta thấy đoạn văn này

được chép là "Diên Diếp chi ngung". Diên Diếp hay Điếp Diên là từ lấy trong

Hậu Hán thư, Mã Viện truyện. Theo Mã Viện truyện, khi Mã Viện vào Giao Chỉ,

đến Tây Lý, đất nhiều khí độc bốc lên, "ngửng mặt nhìn thấy diều bay, lả tả

rơi xuống trong nước" (ngưỡng thị phi diên điếp điếp đọa thủy trung). Như

vậy, "diên điếp chi ngung" có thể dịch là "cõi đất diều rơi", chỉ miền đất

Giao Chỉ mà người Trung Quốc coi là nhiều

khí độc. Chữ Diên Điếp gần với chữ Diên Chỉ nên có sự lầm lẫn như trên.

rằng: "Nước tôi bé nhỏ, sông núi xa xôi, nghìn dặm cách trời, ở lánh góc

đất, sứ thần đi lại, lặn lội núi

sông, há chẳng khó nhọc lắm ư?". Giác đáp: "Bản triều cõi bờ muôn dặm, các

quận có đến bốn trăm, đất

có chỗ bằng phẳng, cũng có chỗ hiểm trở, một phương này lấy gì làm xa". Lấy

Từ Mục làm Tổng quản trị

quân dân sự, ban cho tước hầu, Phạm Cư Lạng làm Thái uý.

Sai Ngô Quốc [18a] Ân sang đáp lễ nhà Tống và nói về việc người Chiêm Thành

là Bồ La Át đem hơn trăm người họ xin nội phụ

Đinh Hợi, /Thiên Phúc/ năm thứ 8 [987], Tống Ung Hy năm thứ 4). Múa xuân,

vua lần đầu cày ruộng tịch điền ở núi Đọi1 được một hũ nhỏ vàng. Lại cày ở

núi Bàn Hải, được một hũ nhỏ bạc, nhân đó

đặt tên là ruộng Kim Ngân.

Nhà Tống lại sai Lý Giác sang. Khi Giác đến chùa Sách Giang2, vua sai pháp

sư tên là Thuận3 giả làm người coi sông4 ra đón. Giác rất thích nói

chuyện văn thơ. Lúc ấy nhân có hai con ngỗng lội trên mặt nước, Giác vui

ngâm rằng:

Nga nga lưỡng nga nga, Ngưỡng diện hướng thiên nha.

(Ngỗng ngỗng hai con ngỗng, Ngữa mặt nhìn chân trời).

Pháp sư dương cầm chèo5, theo vần làm nối đưa cho Giác xem:

Bạch mao phô lục thủy, Hồng trạo bãi thanh ba.

(Nước lục phô lông trắng, Chèo hồng sóng xanh bơi).

Giác càng lấy làm lạ, khi về đến sứ quán, làm thơ gửi tặng:

Hạnh ngộ minh thì tán thịnh du,

Nhất thân nhị độ sứ [18b] Giao Châu. Đông Đô lưỡng biệt tâm vưu luyến, Nam

Việt thiên trùng vọng vị hưu.

Mã đạp yên vân xuyên lãng thạch,

Xa từ thanh chướng phiếm trường lưu. Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu.

Khê đàm ba tĩnh kiến thiềm thu.

(May gặp thời bình được giúp mưu, Một mình hai lược sứ Giao Châu. Đông Đô

mấy độ còn lưu luyến,

Nam Việt nghìn trùng vẫn ước cầu. Ngựa vượt khói mây xuyên đá chởm, Xe qua

rừng biếc vượt dòng sâu. Ngoài trời lại có trời soi nữa.

Sóng lặng khe đầm bóng nguyệt thâu)1

1 Núi Đọi: tên chữ Hán là Đội Sơn hoặc Long Đội Sơn, ở xã Đại Sơn, huyện

Duy Tiên, nay thuộc tỉnh Nam Hà.

2 Sách Giang tự: tên chùa, gọi theo tên sông. Sông Sách Giang, theo Phan

Huy Chú, là con sông chảy qua Nam Sách. (Lịch triều hiến chương loại chí,

bang Giao Chỉ). Có lẽ bây giờ, cũng như về thời Trần sau này, sông Sách là

một đoạn sông Thương.

3 Pháp sư Thuận: tức thiền sư Pháp Thuận (1-990) họ Đỗ, trụ trì chùa Cổ

Sơn, hương Thư ở ái Quận; thuộc thế hệ thứ 11 thiền phái Tì-ni-đa-lưu-chí

(dòng thiền Nam Phương).

4 Nguyên văn là "giang lệnh".

5 Nguyên bản in là: "Bả điệu"; nhầm chữ trạo thành chữ điệu; dùng ở đây

không có nghĩa; ba trạo có nghĩa là cái mái chèo.

Thuận đem thơ này dâng lên. Vua cho gọi sư Ngô Khuông Việt2 đến xem.

Khuông Việt nói: "Thơ này tôn bệ hạ không khác gì vua Tống". Vua khen ý

thơ, tặng cho rất hậu3. Khi Giác từ biệt ra về, vua sai Khuông Việt làm bài

hát4 để tiễn, lời rằng:

Tường quang phong hảo cẩm phàm trương, Dao vọng thần tiên phục đế hương.

Vạn trùng sơn thủy thiệp thương lang, Cửu thiên quy lộ trường.

Tình thảm thiết,

Đối ly trường,

Phan luyến sử tinh lang.

Nguyện tương thâm ý vị biên cương, Phân minh tấu ngã hoàng5.

(Nắng tươi gió thuận cánh buồm giương, Thần tiên lại đế hương.

Vượt sóng xanh muôn dặm trùng dương, Về trời xa đường trường.

Tình thắm thiết, Chén lên đường,

Vin xe sứ vấn vương.

Xin đem thâm ý vì Nam cương, Tâu vua tôi tỏ tường)6

Giác lạy ra về.Năm ấy được mùa to.

Mậu Tý /Thên Phúc / năm thứ 9/ 988/, ( Tống Đoan củng năm thứ 1 b).

Vua nước Chiêm Thành là Băng Vương La Duệ ở Phật thành7 tự đặt hiệu [ 19a]

là Câu Thi Lị Ha

Thân Bài Ma La8.

Thái sư Hồng Hiến chết. Hiến là người Bắc [ tức Trung Quốc ], thông hiểu

kinh sử, thường theo các cuộc chinh phạt làm quân sư, cùng là khuyên vua

lên ngôi, mưu bàn việc nước, có công lớn, vua tin dùng như tâm phúc, đến

đây chết.

Năm ấy, vua Tống đổi niên hiệu, sai Hộ bộ viên ngoại lang là Ngụy Tường và

Trực Sử Quán là Lý

Độ mang chế sách sang gia phong vua làm Kiểm hiệu thái úy.

Ký Sửu, / Hưng Thống / năm thứ 1/ 989/, (Tống Đoan Củng năm thứ 2 ). Mùa

xuân, tháng giêng, đổi niên hiệu đại xá.

1 Theo bản dịch cũ.

2 Ngô Khuông Việt (933-1011): tức Ngô Chân Lưu, người hương Cát Ly; huyện

Trường Lạc; trụ trì chùa Phật Đà, thuộc thế hệ thứ

tư dòng thiền Vô Ngôn Thông.

3 Nguyên bản in "hậu khiển chi", chữ khiển (sai khiến) do chữ di (tặng,

biếu) khắc lầm.

4 Nguyên văn: chế khúc. Khúc là bài hát có lời, là bài từ đặt theo một ca

điệu có sẳn.

5 Bài từ này có một truyền bản khác ở Thiền uyển tập anh, bản in năm Vĩnh

Thịnh thứ 11 (1715), di biệt một số chữ so với văn bản Toàn thư phiên âm

trên đây. Trong bài Về bài từ ở thế kỷ X, Hoàng Văn Lâu đã khỏa dị nhận

xét, hai bản để phục nguyên bài từ (xem: Một số vấn đề văn hóa học Hán Nôm,

NXB Khoa Học Xã Hội, H. 1983, tr. 191-211).

6 Bản dịch của Hà Văn Tấn, Lịch sử Phật giáo Việt Nam NXB. Khoa Học Xã

Hội, H. 1988, tr. 127.

7 Phật thành tức là thành Phật Thệ (Vijaya), Cũng gọi là thành Chà Bàn,

kinh đô của Chiêm Thành; ở về phía Bắc thành phố Quy

Nhơn, ngày nay khoảng 27 Km.

8 Tức vua Chiêm Sri Harivarman II (ở ngôi 988-999).

Phong thái tử Thau làm Kình Thiên Đại Vương, hoàng tử thứ hai là Ngân Tích1

làm Dông Thành

Vương, hoàng tử thứ ba là Việt làm Nam Phong Vương.

Dương Tiến Lộc lấy hai châu Hoan, Ái2 làm phản. Vua thân đi đánh, Tiến Lộc

bị giết. Bấy giờ vua

sai viên Quảng giáp là Tiến Lộc đi thu thuế hai châu Hoan và Ái, Tiến Lộc

đem người hai châu ấy xin theo về với Chiêm Thành. Chiêm Thành không nhận.

Vua nghe tin, đem các quân [19b] đến đánh Châu Hoan, Châu Ái, đuổi bắt được

Tiến Lộc và giết người hải châu ấy không biết bao nhiêu mà kể.

Canh Dần, /Hưng Thống/ năm thứ 2 [ 990] (Tống Thuần Hoá năm thứ 1). Nhà

Tống sai Tả chính ngôn là Tống Cảo, Hữu chính ngôn là Vương Thế Tắc mang

chế sách sang phong thêm cho vua hai chữ là "Đặc tiến". Vua sai Nha nội chỉ

huy sứ là Đinh Thừa, Chính đem 9 chiếc thuyền dẫn 300 người đến quân Thái

Bình3 đón, theo cửa biển mà vào, nửa tháng đến sông Bạch Đằng, theo nước

triều mà đi. Mùa thu, tháng 9, đến trạm Nại Chinh ở Trường Châu. Vua ra

ngoài giao4 để đón, bày thủy quân và chiến cụ

để khoe. Vua cầm cương ngựa cùng đi với sứ thần. Đến cửa Minh Đức, vua bưng

chế thư để lên trên điện, không lạy, nói dối là năm vừa rồi đi đánh giặc

Man, bị ngã ngựa đau chân. Cảo và Tắc tin là thực. Sau đó bày yến tiệc thết

đãi. Vua bảo Cảo rằng: "Sau này có quốc thư thì cho giao nhận ở đầu địa

giới, khỏi phiền sứ thần đến tận đây nữa". Cảo về tâu, [20a] vua Tống bằng

lòng.

Tân Mão, /Hưng Thống/ năm thứ 3 /991/, (Tốn Thuần Hóa năm thứ 2). Mùa xuân,

tháng 2, sai

Đào Cần sang nhà Tống thăm đáp lễ.

Phong hoàng tử thứ tư là Đinh làm Ngự Man Vương, đóng ở Phong Châu, hoàng

tử thứ sáu là

Cân làm Ngự Bắc Vương, đóng ở trại Phù Lan5.

Nhâm Thìn, /Hưng Thống/ năm thứ 4 /992/, (Tống Thuần Hóa năm thứ 3). Mùa

xuân, tháng giêng, vua ngự điện Càn Nguyên xem đèn.

Phong hoàng tử thứ năm là Đĩnh làm Khai Minh Vưong, đóng ở Đằng Châu6.

Trần tiên sinh ở núi Tuyên Hoa đến cửa khuyết. (Xét nước ta không có núi

Tuyên Hoa, có lẽ là việc nhà Tống triệu Chủng Phóng ở núi Chung Nam, hoặc

có triệu cả Trần Đoàn ở Hoa Sơn mà sử chép lầm là việc nước ta? Nếu không

phải thế, thì sao tiếng tăm của Trần tiên sinh không truyền lại đời sau?

Dười chữ "tuyên" ngờ có sót chữ "triệu"7. Vân Đài quán ở Hoa Sơn là nơi ở

của Trần Đoàn).

Mùa hạ, tháng 6, cho người Chiêm Thành nhận lĩnh hơn 360 người ở thành cũ

châu Điạ Lý8 đem

về châu Ô Lý (Điạ Lý [20b] nay là Tân Bình9, Ô Lý nay là Thuận Hóa)10.

Muà thu, tháng 8, sai Phụ quốc Ngô Tử An đem 3 vạn người đi mở đường bộ từ

cửa biển Nam

Giới đến Châu Điạ Lý.

1 Ở đọan sau (BK1,24a) ghi hoàng tử này là Long Tích.

2 Các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa ngày nay.

3 Thái Bình quân: sau đổi là Liêm Châu tức tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc,

quân là đơn vị hành chính đầu thời Tống.

4 Giao: ngoại vi đô thành gọi là giao.

5 Phù Lan: Cương mục chú là tên trại, sau là xã Phù Vệ, huyện Đường Hào

(CMCB1, 27a) nay thuộc tỉnh Hải Hưng.

6 Đằng Châu: tên xã thuộc huyện Kim Động, nay thuộc huện Kim Thi, tỉnh Hải

Hưng; tên đất tương đương với Khoái Châu thời Lý, Khoái Lộ thời Trần, Khoái

Châu thời Lê, gồm gần cả tỉnh Hưng Yên cũ.

7 Tuyên Triệu: cho gọi đến.

8 Điạ Lý: tên châu của Chiêm Thành, sau khi sáp nhập vào lãnh thổ nhà Lý

đổi gọi là châu Lâm Bình (1075). Nay là phần đất huyện

Lệ Ninh, tỉnh Quảng Bình.

9 Tân Bình: tên phủ thời Lê, nay gồm toàn bộ đất Quảng Bình cùng với đất

huyện Bến Hải, tỉnh Quảng Trị.

10 Ô Lý: tên hai châu của nước Chiên Thành, thời Trần (năm 1306) đổi gọi

châu Ô là Thuận Châu, Châu Lý gọi là Hoá Châu - nay là phần phía nam tỉnh

Quảng Trị và tỉnh Thừa Thiên.

Quý Tỵ, /Hưng Thống/ năm thứ 5 /995/ (Tống Thuần Hoá năm thứ 4). Muá xuân,

tháng 2, ngày

Kỷ Mùi, mồng 1, nhật thực.

Phong hoàng tử thứ bảy là Tung làm Định Phiên Vương, đóng ở thành Tư Doanh,

Ngũ Huyện Giang1; hoàng tử thứ tám là Tương làm Phó Vương, đóng ở Đỗ Động

Giang, hoàng tử thứ chín là Kính làm Trung Quốc Vương, đóng ở Càn Đà huyện

Mạt Liên2.

Nhà Tống sai Vương Thế Tắc và Lý Cư Giản đem sách thư sang phong cho vua

làm Giao Chỉ

Quận Vương.

Giáp Ngọ, /Ứng Thiên/ năm thứ 1 /994/, (Tống Thuần Hoá năm thứ 5). Mùa

xuân, tháng giêng,

đổi niên hiệu.

Phong hoàng tử thừ mười là Mang làm Nam Quốc Vương, đóng ở châu Vũ Lung3.

Sai nha hiệu là Phí Sùng Đức sang nhà Tống [21a] sang thăm đáp lễ.

Cháu vua nước Chiêm Thành là Chế Cai vào chầu. Trước đây, nước Chiêm Thành

sai Chế Đông dâng sản vật địa phương, vua trách là trái lễ, không nhận. Vua

nước đó sợ, mới sai Chế Cai vào chầu.

Ất Mùi, /Ứng Thiên/ năm thứ 2 /995/, (Tống Chí Đạo năm thứ 1). Phong hoàng

tử thứ mười một là Đề (tức Minh Đề) làm Hành Quân Vương, đóng ở Bắc Ngạn

châu Cổ Lãm4; con nuôi làm Phù Đái Vương, đóng ở hương Phù Đái5.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Vua một nước, thờ tông miếu, giữ xã tắc, chẳng may

không có con nối thì chọn con của người tông thất nuôi làm con mình, để

mong truyền mãi không cùng, thế thì cũng có, chứ chưa thấy vua nào có con

nuôi. Vả lại, nhánh họ của vua đã đông người rồi, cái gọi là con nuôi,

chẳng qua là muốn thỏa lòng dấu yêu riêng với người ấy mà thôi, sao không

nghĩ như thế là gây mầm cướp ngôi hay sao?

[21b] Sai Đỗ Hanh sang nhà Tống thăm đáp lễ. Bấy giờ nhà Tống ngại việc

chinh chiến, vua cậy

có núi biển hiểm trở, hơi buông thả cho dân biên giới lấn cướp vào cõi của

nhà Tống. Mùa xuân năm ấy, Chuyển vận sứ Lộ Quảng Tây nước Tống là Trương

Quan, Binh mã giám áp trấn Như Hồng thuộc Khâm Châu là Vệ Chiêu Mỹ đều tâu

rằng chiến thuyền của Giao Chỉ hơn trăm chiếc, xâm phạm trấn Châu Hồng,

cướp bóc cư dân và lương thực rồi đi. Mùa hạ năm ấy, châu Tô Mậu6 nước ta

lại đem 5 nghìn hương bình xâm lược Ung Châu nước Tống, bị Đô tuần kiểm

Dương Văn Kiệt đánh phải trở về. Vua Tống muốn vỗ yên, không muốn dụng

binh, bỏ không hỏi đến. [Trương] Quan lại nói dối là vua bị họ Đinh đánh

đuổi, đem dư chúng ra ở miền hải đảo, cướp bóc để tự cấp, nay đã chết; bọn

Quan dân biểu mừng. Vua Tống

sai Thái thường thừa Trần Sĩ Long làm Thái phỏng sứ để dò xem hư thực, biết

là vua không có chuyện

gì.

[22a] Bính Thân, /Ứng Thiên/ năm thứ 3 [996], (Tống Chí Đạo năm thứ 2). Mùa

xuân, tháng

2, vua thân đi đánh lấy được bốn động Đại, Phát, Đan, Ba ở Ma Hoàng.

Nhà Tống xử tội bọn Trương Quan, Quan đã ốm chết, chém Vệ Chiêu Mỹ ở trấn

Như Hồng, lấy

Trần Nghiêu Tẩu làm Quảng Tây chuyển vận sứ, rồi sai Khải Khang úy là Lý

Kiến Trung mang chiếu sách

1 Ngũ Huyện Giang: Cương mục (CMCB1, 27a) chú là con sông chảy qua 5 huyện

Kim Anh, Đông Ngàn, vòng quanh đến huyện Yên

Phong và Tiên Du, rồi đổ vào sông Nguyệt Đức (sông Cầu).

2 Mạt Liên: Cương mục chú là huyện Tiên Lữ (CMCB1, 27b). Nay thuộc đất

huyện Phù Tiên, tỉnh Hải Hưng.

3 Vũ Lung: tên châu, thuộc tỉnh Thanh Hoá, chưa biết rõ vị trí (CMCB1,

27a).

4 Cổ Lãm: tức là châu Cổ Pháp thời Lý, nay là đất huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc

Ninh.

5 Phù Đái: Cương mục chú là xã Phù Đái, huyện Vĩnh Lại (CMCB1, 27a), nay

thuộc đất huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng.

6 Tô Mậu: là vùng Nà Dương, Đình Lập, An Châu, tỉnh Lạng Sơn.

sang ban. Trước đây, bọn Văn Dũng là dân ở trấn Triều Dương1 nước ta làm

loạn, giết người rồi trốn sang trấn Như Tích thuộc Khâm Châu của Tống (trấn

Như Tích liền với trấn Như Hồng), được trấn tướng

là Trần Lệnh Đức chứa chấp. Vua sai trấn tướng Triều Dương và Hoàng Thành

Nhã đuổi bắt. Lệnh Đức không chịu trả về. Nghiêu Tẩu đến Như Tích, tra ra

được nguyên do việc chứa chấp ấy, đem hết trai gái,

già trẻ đã chứa dấu tất cả 113 người gọi Thành Nhã sang giao cho nhận về.

Vua cảm ơn nhà Tống, sai sứ sang tạ ơn, lại nói về việc đã bắt được giặc

biển 27 người, giao trả cho chuyển vận sứ, và đã răn cấm các khe động không

được quấy rối nữa. Vua Tống [22b] lại sai Lý Nhược Chuyết mang chiếu thư và

đai ngọc sang ban cho vua. Khi Nhược Chuyết đến, vua ra đón ngoài giao, có

ý ngạo mạn không làm lễ để tỏ ra cao quý khác thường, bảo Nhược Chuyết

rằng: "Việc cướp trấn Như Hồng là do bọn giặc biển ở ngoài, Hoàng đế có

biết đó không phải là quân của Giao Châu không? Nếu Giao Châu có làm phản

thì đầu tiên dánh vào Phiên Ngung, thứ đến đánh Mân Việt2, há chỉ dừng ở

trấn Như Hồng mà thôi?". Nói xong mới cuối đầu tạ lỗi.

Đinh Dậu, /Ứng Thiên/ năm thứ 4 [997], (Tống Chí Đạo năm thứ 3). Mùa xuân,

tháng 3, vua

Tống băng.

Mùa hạ, tháng 4, nhà Tống phong vua làm Nam Bình Vương. Vua sai sứ sang

nước Tống đáp lễ. Vua Tống ban chiếu thư khen ngợi. Trước kia sứ Tống sang

thường mượn cớ đòi cống nước mắm, nhân

thể bắt đóng góp. Đến đây Tống Chân Tông lên ngôi, nghe biết chuyện ấy, chỉ

sai quan giữ biên giới đến nhận mệnh, không sai người sang sứ nữa.

Mùa thu, tháng 7, vua thân đi đánh giặc ở Đỗ Động Giang, bắt được đồ đảng

đem về kinh sư. Chiêm [23a] Thành đem quân dòm ngó nước ta.

Mậu Tuất, /Ứng Thiên/ năm thứ 5 [998], (Tống Chân Tông Hằng, Hàm Bình năm

thứ 1). Mùa xuân, tháng 3, động đất 3 ngày.

Mùa hạ, tháng 5, ngày Mậu Ngọ mồng 1, nhật thực. Tháng ấy không mưa. Tháng

6, cũng không mưa. Dân bị bệnh ho, trâu, ngựa chết nhiều.

Mùa đông, tháng 10, ngày bính tuất, mồng 1, nhật thực.

Kỷ Hợi, /Ứng Thiên/ năm thứ 6 /999/, (Tống Hàm Bình năm thứ 2). Vua thân đi

đánh Hà Động3

v. v..., tất cả 49 động và phá được /động/ Nhật Tắc, châu Định Biên4. Từ đó

các châu động điều quy phục.

Canh Tý, /Ứng Thiên/ năm thứ 7 /1000/, (Tống Hàm Bình năm thứ 3). Xuống

chiếu đi đánh giặc

ở châu Phong là bọn Trịnh Hàng, Trường Lệ, Đan Trường Ôn, bọn Hàng chạy vào

vùng núi Tản Viên.

Đại Thắng Minh hoàng hậu mất. Kình Thiên Vương (Thau) mất.

Sai Thống tướng Từ Mục đi tuần ở miền Hải Tây, Ngô Tử An đi tuần cõi Bắc để

dò xét tình hình biên giới.

[23b] Tân Sửu, /Ứng Thiên/ năm thứ 8 /1001/, (Tống Hàm Bình năm thứ 4). Vua

thân đi đánh giặc Cử Long5. Quân giặc thấy vua, giương cung nhắm bắn thì

tên rơi, lại giương cung thì dây đứt, tự lấy

1 Triều Dương: tên châu, nay thuộc phần đất các huyện Tiên Yên, Hải Ninh

tỉnh Quảng Ninh.

2 Mân Việt: chỉ vùng tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc.

3 Hà Động: tức động Hà Man, thuộc huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa

(CMCB1, 34).

4 Châu Định Biên: Nguyễn Thiên Tùng chú thích Dư địa chí của Nguyễn Trãi,

có ghi mỏ vàng ở Định Biên, tỉnh Cao Bằng, có lẻ châu

Định Biên ở vùng này. Bản Dịch cũ cho là vùng thượng du Thanh Hóa.

5 Cử Long: tên đất thuộc vùng dân tộc Mường huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh

Hoá. Cương mục ghi là tên dân tộc, thời Đinh, Lê gọi là Man Cử Long. Khoản

năm Thuận Thiên (1428-1433), nhà Lê đặt là huyện Lạc Thủy, khỏang năm Quang

Thuận (1460-1469) đổi là Cẩm Thủy (CMCB1, 35a).

làm sợ mà rút lui. Vua bèn đi thuyền vào Cùng Giang1để đuổi. Giặc bày trận

hai bên bờ chống lại, quan quân bị hãm ở [giữa] sông, vua cũ [nhà Đinh] là

Vệ Vương Toàn trúng tên chết tại trận. Vua kêu trời ba tiếng rồi thúc quân

đánh, giặc tan vỡ.

Nhâm Dần, /Ứng Thiên/ năm thứ 9 /1002/, (Tống Hàm Bình năm thứ 5). Mùa

xuân, tháng 3,

định luật lệnh, chọn quân lính, chia tướng hiệu làm hai ban: đổi mười đạo

làm lộ, phủ, châu.

Xuống chiếu làm mấy nghìn mũ đâu mâu, ban cho sáu quân.

Quý Mão, /Ứng Thiên/ năm thứ 10 /1003/, (Tống Hàm Bình năm thứ 6). Vua đi

Hoan Châu, vét kinh Đa Cái (nay là Hoa Cái)2 (cho Thông) thẳng đến [24a]

Tư Củng trường ở ám Châu3. Người Đa Cái làm phản, chém đầu để rao.

Dân ở thành Nhật Hiệu4 và đầu mục là bọn Hoàng Khánh Tập đem gia thuộc hơn

450 người trốn sang Khâm Châu nước Tống. Tống sai sứ đến dỗ bảo phải về.

Bọn Khánh Tập sợ tội không về, bèn ra ở

bờ biển.

Mùa thu, tháng 8, vua ốm, tháng 9 thì khỏi.

Giáp Thìn, /Ứng Thiên/ năm thứ 11 /1004/, (Tống Cảnh Đức năm

thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng, lập Nam Phong Vương Long Việt làm

hoàng thái tử, gia phong Long Đĩnh làm Khai Minh Đại Vương, Long

Tích làm Đông Thành Đại Vương. Trước đó Long Đĩnh xin làm thái tử, vua có ý

muốn cho. Đình thần nghị bàn cho rằng không lập con trưởng mà lập con thứ

là không phải lễ. Vua bèn thôi. Đến đây lập Long Việt làm hoàng thái tử mà

gia phong Long Đĩnh và Long Tích làm Đại Vương.

Sai Hành Quân Vương Minh Đề5, xưng là nhiếp Hoan Châu thứ sử, [24b] sang

thăm nước Tống. Minh Đề đến Biện Kinh6 khẩn cầu ân mệnh cho tuyên phủ đất

xa.

Vua Tống bằng lòng cho; gọi vào điện riêng thăm hỏi và ban thưởng rất hậu,

cho Minh Đề chức

Kim tử vinh lộc đại phu kiểm hiệu thái úy Hoan Châu thứ sử.

Vua xem kéo lưới ở sông Đại Hoàng7, có con rắn to nằn cuộn giữa lưới, người

đánh cá tâu lên. Vua dừng thuyền ở giữa sông muốn xem. Con rắn vụt chốc lội

ngược dòng mà đi. Sai người bơi thuyền nhỏ cản đuổi, rắn không trở lại, sau

lại về chỗ cũ.

Ất Tỵ, /Ứng Thiên/ năm thứ 12 [1005], (Tống Cảnh Đức năm thứ 2). Mùa xuân,

tháng 3, vua băng ở điện Truường Xuân, gọi là Đại Hành Hoàng Đế, sau nhân

đó dùng làm miếu hiệu mà không đổi, chôn ở sơn lăng châu Trường Yên (sách

Điạ Chí bản cũ chép vua băng vào năm Bính Ngọ [1006], đó là

lấy khi Lê Ngọa Triều xin mệnh (nhà Tống) mà mói, không phải là thực. Nay

theo Lê Văn Hưu là đúng).

Lê Văn Hưu nói: Thiên tử và hoàng hậu khi mới băng, chưa chôn vào sơn lăng,

thì gọi là [25a] Đại Hành Hoàng Đế8. Đại Hành Hoàng Hậu. Đến khi lăng tẩm

đã yên thì

1 Cùng Giang: con sông ở vùng Mường Cử Long huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh

Hóa. Cương mục chép là "Duyên Giang", nghĩa là đi

theo dọc sông (bản dịch cũ theo ý đó). Xét đoạn văn trên đây thì Cùng Giang

phải là tên riêng, vì tiếp theo có nói rõ: "giặc bày trận hai bên bờ...,

quan quân bị hãm ở giữa sông".

2 Đa Cái: tên xã, thuộc huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Kênh Đa Cái tức

là khúc kênh nối kênh Sắt với sông Lam

3 Cương mục có chép việc Lê Đại Hành đi vào kênh Hoa Cái, nhưng bỏ qua

không nói đến ám Châu và Tư Củng trường. Những tên

đất này chưa khảo được.

4 Thành Nhật Hiệu: Cương mục dẫn tên ghi trong An Nam chí của Cao Hùng

Trưng là Hiệu Thành trường, nay không khảo được

(CMCB1, 36a).

5 Minh Đề: ở BK1, 21a viết (chữ Hán) ở đây viết (chữ Hán) cùng âm Đề.

6 Biện Kinh: kinh đô nhà Bắc Tống (960-1126), nay là Khai Phong, tỉnh Hà

Nam, Trung Quốc.

7 Sông Đại Hoàng: theo Cương mục, là con sôngf chảy qua xã Đại Hữu, huyện

Gia Viễn (CMCB1, 37a). Bản dịch cũ chú là khúc sông

Hồng ở ngã ba Tuần Vương xã Đại Hoàng.

8 Đại Hành: khi vua mới mất chưa đặt thụy hiệu thì gọi là Đại Hành Hoàng

Đế. Có sách giải thích "đại hành" là đi xa hẳn không trở

lại. Có sách giải thích "đại hành" là đức hạnh lớn (hành và hạnh viết cùng

một chữ, âm cổ đọc như nhau).

hợp bầy tôi bàn xem đức hạnh hay hay dỡ để đặt thụy là mỗ hoàng đế, mỗ

hoàng hậu,

không gọi là Đại Hành nữa. Lê Đại Hành thì lấy Đại Hành làm thụy hiệu mà

truyền đến ngày nay là làm sao? Vì Ngọa Triều là con bất tiếu1, lại không

có bề tôi Nho học để giúp

đỡ bàn về phép đặt thụy cho nên thế.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Vua đánh đâu được đấy, chém vua Chiêm Thành để rửa

cái nhục phiên di bắt giữ sứ thần, đánh lui quân Triệu Tống để bẻ cái mưu

tất thắng của vua tôi bọn họ, có thể gọi là bật anh hùng nhất đời vậy. Song

trong khi làm nhiếp chính mà tự xưng là Phó Vương, dẫn đến việc bọn Điền,

Bặc phải khởi binh, lên ngôi vua thì phải nhờ bọn Cự Lạng đem binh đến uy

hiếp, [25b] làm cung điện thì lấy vàng, bạc mà trang sức. Phàm những việc

như thế thì không bằng Lý [Thái] Tổ biết nghĩ xa hơn. Văn Hưu nói lấy đức

của nhà Lý mà soi đức của nhà Lê thì [đức của Lý] dày hơn, há chẳng đúng

sao!

TRUNG TÔNG HOÀNG ĐẾ

Tên húy là Long Việt, con thứ ba của Lê Đại Hành, mẹ là Chi hậu Diệu Nữ2.

Lên ngôi được 3 ngày thì bị em cùng mẹ là Long Đĩnh giết, thọ 23 tuổi

(983-1005). Vua không biết phòng giữ từ khi mới chớm, đến nỗi bị họa nạn,

tính nhân hậu nhưng không biết làm vua, tiếc thay!

Sau khi Đại Hành Hoàng Đế băng, vua cùng hai vương Đông Thành, Trung Quốc

và em cùng mẹ

là Khai Minh Vương tranh nhau lên ngôi, giằng co 8 tháng, trong nước không

có chủ. Mùa đông, tháng

10, Đông Thành Vương thua chạy vào đất Cử Long. Vua đuổi bắt, lại chạy sang

Chiêm Thành, chưa đến

nơi thì bị người châu Thạch Hà3 giết ở cửa biển Cơ La (nay là Kỳ La)4. Khi

ấy, người nước cũng quy phụ Ngự Bắc Vương ở trại Phù [26a] Lan. Vua lên

ngôi được 3 ngày thì bị Long Đĩnh giết. Bầy tôi điều chạy trốn, duy có Điện

tiền quân là Lý Công Uẩn ôm xác mà khóc. Long Đĩnh lên ngôi, truy đặt thụy

cho vua

là Trung Tông Hoàng Đế, cho Công Uẩn làm Tứ sương quân phó chỉ huy sứ.

Lê Văn Hưu nói: Ngọa Triều giết anh, tự lập làm vua; bạo ngược với dân

chúng

để thỏa lòng hung ác, đến nỗi mất nước mất ngôi, không phải là sự bất hạnh

của nhà Lê, lỗi ở Đại Hành không sớm đặt Thái tử và do Trung Tông không

biết phòng giữ từ khi mời chớm nên đến nỗi thế.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Sách Dã sử chép rằng: Đại Hành băng, Trung Tông

vâng di chiếu nối ngôi. Long Đĩnh làm loạn, Trung tông vì anh em cùng mẹ

không nỡ giết, tha cho. Sau Long Đĩnh sai bọn trộm cướp đêm trèo tường vào

cung giết Trung Tông. Thế thì Trung Tông về tình anh em [26b] tuy là hậu,

nhưng việc đứng chủ cúng

tế, nối dõi tổ tiên thì xã tắc là trọng, anh em là khinh, huốngchi là em

bất dễ! Lúc ấy Trung Tông phải nêu việc Quản Thúc, Thúc Nha5 mà trị tội

thì mới phải, nếu không làm thế thì đem giam cầm ở một nơi riêng cho đến

khi chết cũng được. Nhưng Trung Tông

lại thả lỏng thì sao cho khỏi bị phản, rốt cuộc tan họ, diệt dòng là tự

Trung Tông làm ra

1 Bất tiếu: là không giống cha, tức là không phải là người hiền.

2 Mẹ của Lê Trung Tông Long Việt, Cương mục chú là: con gái quan chi hậu,

tên là Diệu, không rõ họ gì (CMCB1, 39a). Đại Việt sử

lược (q.1,21a) chép là mẹ của Long Việt là " hầu Di nữ " (con gái người hầu

gái người Chiêm Thành?).

3 Thạch Hà: tên châu đời Tiền Lê, nay là vùng huyện Thạch Hà, tỉnh Hà

Tĩnh.

4 Cửa biển Kỳ La là cửa Nhượng Bạn ở huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.

5 Quản Thúc: em Chu Vũ Vương và Chu Công, gây loạn để cướp ngôi của cháu

là Thành Vương, bị Chu Công bắt giết. Thúc Nha:

em của Lổ Trang Công, khi Trang Công chết, Thúc Nha muốn làm lọan, bị quan

nhiếp chính là Quý Hửu (cũng là em Trang Công)

bắt uống thuốc độc chết.

cả. Ngọa Triều thì có bõ trách làm chi? Cho nên người làm vua tất phải cư

xử cho thật

đúng đắn và phải xét hết lẽ vậy.

NGỌA TRIỀU HOÀNG ĐẾ

Tên húy là Long Đĩnh, lại có tên là Chí Trung, con thứ năm của Đại

Hành ở ngôi 4

năm, thọ 24 tuổi (986-1009) băng ở tẩm điện. Vua làm việc càn dỡ giết vua

cướp ngôi, thích dâm đãng tàn bạo, muốn không mất nước sao được?

Mùa đông, vua cướp ngôi, tôn hiệu là Khai Thiên Ứng Vận Thánh Vân Thấn Vũ

Tắc Thiên Sùng Đạo [27a] Đại Thắng Minh Quang Hiếu Hoàng Đế. Truy tôn mẹ là

Hưng Quốc Quảng Thánh Hoàng Thái Hậu.

Lập bốn hoàng hậu.

Ngự Bắc Vương cùng với Trung Quốc Vương chiếm trại Phù Lan1 làm phản. Vua

thân đi đánh. Đến Đằng Châu, Quản giáp là Đỗ Thị đem việc người anh em họ

ngoại là Lê Hấp Ni làm phản tâu lên. Vua sai bắt tra hỏi, Hấp Ni và những

kẻ dự mưu 12 người điều bị giết. Đến trại Phù Lan, người trại đóng cửa trại

cố thủ. Đánh không hạ được, bèn vây chặt vài tháng, người trong trại hết

lương ăn. Ngự Bắc Vương tự biết kế cùng thế khuất, bèn bắt Trung Bắc Vương

đem nộp. Chém Trung Quốc Vương, tha tội cho Ngự Bắc Vương, rồi đem quân

đánh Ngự Man Vương ở Phong Châu. Ngự Man Vương phải chịu hàng. Quân về đến

Đằng Châu, đổi tên châu ấy làm phủ Thái Bình. Từ đấy về sau các vương và

giặc cướp đều hàng phục cả. Chuyến đi này khi quan quân đánh nhau với người

trại Phù Lan, chợt thấy trạm báo tin là giặc Cử Long vào cướp đã đến cửa

biển Thần [27b] Đầu (nay là cửa biển Thần Phù)2. Vua về đến sông Tham đi

sang Ái Châu để đánh giặc Cử Long.

Bính Ngọ, /Ứng Thiên/ năm thứ 13 [1006], (Vua vẫn theo niên hiệu Ứng Thiên;

Tống Cảnh Đức năm thứ 3). Mùa xuân, tháng hai, phong con trưởng là Sạ làm

Khai Phong Vương, con nuôi là Thiệu Lý làm Sở Vương, cho ở bên tả; Thiệu

Huân làm Hán Vương, cho ở bên hữu. Sửa đổi quan chế và triều phục của các

quan văn võ và tăng đạo, theo đúng như nhà Tống.

Hành Quân Vương Minh Đề thấy trong nước loạn không thể về được, trú lại ở

Quảng Châu, Tri Châu là Cao Nhật thôi không cấp giấy quán khoán3 cho nữa.

Vua Tống phải xuống chiếu cho riêng 50 vạn (quan) tiền, 150 hộc gạo và tiếp

tục cấp quán khoán.

Mùa hạ, tháng 6, trí Quảng Châu là Lãng Sách dâng thư nói: "Này nhân Giao

Chỉ có loạn, xin cho thần và Duyên biên an phủ sứ Thiệu Việp cùng nhau bàn

tính công việc tâu lên. Bọn thần dựa theo lời

của bọn Hoàng Khánh Tập hơn nghìn người ở Giao Chỉ, do Liêm Châu4 đưa đến,

nói [28a] rằng các con

của Nam Bình Vương đều đặt trại sách phân tán các nơi, quan thuộc lìa tan5,

nhân dân lo sợ, xin đem quân sang đánh dẹp, bọn Khánh Tập nguyện làm tiên

phong, có thể hẹn ngày lấy được. Nếu triều đình chuẩn lời thỉnh cầu, thì

xin lấy binh đóng đồn ở các châu tuộc Quảng Nam6 và cho thêm 5 nghìn quân

mạnh ở Kinh Hồ, thủy bộ cùng tiến, có thể bình định được ngay".

1 Tại Pù Lan: xem chú thích (1) tr. 227.

2 Thần Đầu: tên cửa biển xưa (ngày nay đã bị lấp) ở xã Thần Đầu, huyện Nga

Sơn, tỉnh Thanh Hoá; đầu đời Lê đổi gọi là Thần Phù, thời Nguyễn (1838) xã

Thần Đầu nhập vào huyện Yên Mỗ, tỉnh Ninh Bình.

3 Quán khoán: tờ giấy cho phép sử dụng quán trọ.

4 Liêm Châu: tên châu thời Đường - Tống, nay là đất tỉnh Quảng Đông, Trung

Quốc.

5 Các bản in Toàn Thư đều in là "Lí Chiết" (lìa gãy), nghĩa tạm hiểu được.

Nhưng đúng ra ở đây chữ chiết là do chữ tích viết nhầm Lí tích nghĩa là

chia lìa.

6 Quảng Nam: lộ Quảng Nam thời Tống tức là đạo Lĩnh Nam thời Đường, nay là

đất các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Trung Quốc.

Vua Tống nói: "Họ Lê thường sai con vào chầu, góc biển yên tĩnh, không mất

trung thuận, nay

nghe tin mới chết, chưa có lễ tham viếng, đã vội đánh kẻ có tang, há phải

là việc làm của bậc vương giả?". Xuống chiếu cho bọn Sách vỗ yên như trước,

cốt được êm lặng. Lại sai Việp đưa thư sang bày tỏ

uy đức của triều đình, bảo không nên giết hại lẫn nhau, nếu anh em để lâu

không định ngôi thứ khi đó quân thiên triều sang hỏi tội, thì họ Lê không

một móng nào sống sót. Vua sợ, xin sai em sang cống.

Vua Tống xuống chiếu cho Việp đem việc nước bảo cho Minh Đề biết, cho tự

chọn ở lại hay về

nước. Nếu muốn về thì cấp người, thuyền [28b] cùng quán khoán và cho tiền

để tự lo liệu.

Minh Đề về, Việp muốn nhân đó lấy nước Việt ta, mới dâng bản đồ đường thủy,

đường bộ từ Ung Châu đến Giao Châu. Vua Tống đem cho Cận thần xem và nói

rằng: "Giao Châu nhiều lam chướng dịch lệ, nếu đem quân sang đánh thì chết

tất nhiều, nên cẩn thận giữ gìn cõi đất của tổ tông mà thôi". Việp bèn

thôi.

Mùa đông, tháng 10, ngày Bính Ngọ là sinh nhật của vua, lấy tre làm một

ngọn núi nhỏ, ban yến cho các quan.

Châu Vi Long (nay châu Đại Man)1 dâng ngựa trắng bốn chân có cựa.

Đinh Mùi, /Ứng Thiên/ năm thứ 14 [1007], (Vua vẫn dùng niên hiệu Ứng Thiên;

Tống Cảnh Đức năm thứ 4). Mùa xuân, sai em là Minh Xưởng và Chưởng thư ký

là Hoàn Thành Nhã dâng tê ngưu trắng cho nhà Tống, xin kinh Đại Tạng.

Mùa thu, tháng 8, nhà Tống phong vua làm Giao Chỉ Quận Vương, lĩnh Tĩnh Hải

quân tiết độ sứ

và cho tên là Chí Trung, ban tước cho Minh Xưởng và Thành Nhã.

Tháng 9, [nhà Tống] đúc ấn "Giao Chỉ Quận Vương", sai Quảng Nam chuyển vận

sứ [29a] đem sang ban.

Mậu Thân, niên hiệu Cảnh Thụy năm thứ 1 /1008/, (Tống Đại Trung Tường Phù

năm thứ 1). Phong con nuôi của Cảm Thánh Hoàng Hậu là Lê Ốc Thuyên làm Tam

Nguyên Vương). Vua thân đi đánh

hai châu Đô Lương2, Vị Long, bắt được người Man và vài trăm con người,sai

lấy gậy đánh, người Man đau qúa kêu gào, nhiều lần phạm tên húy của Đại

Hành, vua thích lắm. Lại tự làm tướng đi đánh Hoan Châu và châu Thiên Liễu,

bắt được người thì làm chuồng nhốt vào rồi đốt.

Kỷ Dậu, /Cảnh Thụy/ năm thứ 2 /1009/, (Tống Đại Trung Tường Phù năm thứ 2).

Mùa xuân, Minh Xưởng ở Tống về, xin đưởc kinh Đại Tạng và dụ được người con

gái nước Tống là Tiêu thị đem dâng. Vua thu nạp làm cung nhân.

Sai sứ đem biếu nhà Tống con tê ngưu thuần. Vua Tống cho rằng tê ngưu từ xa

đến, không hợp thủy thổ muốn trả lại, nhưng sợ trái ý vua, sai đợi cho sứ

nước ta [29b] về rồi thả ra biển. Vua lại xin áo giáo mũ trụ giát vàng, vua

Tống bằng lòng cho. Vua lại xin được đặt người coi việc tại chợ trao đổi

hàng hóa3 ở Ung Châu, nhưng vua Tống chỉ cho mua bán ở chợ trao đổi hàng

hóa tại Liêm Châu và trấn Như Hồng thôi.

Bọn Ngô đô đốc, Kiểu hành hiến4 dâng biểu xin đào kênh, đắp đường và dựng

cột bia5 ở Ái Châu. Vua xuống chiếu cho lấy quân và dân ở châu ấy đào đắp

từ cửa quan Chi Long1 qua Đỉnh Sơn đến sông Vũ Lung.

1 Vi Long: nay là huyện Chiêm Hóa, tỉnh Hà Tuyên.

2 Đô Lương, Thiên Liễu: tên châu, chưa rõ ở vùng nào.

3 Nguyên văn: cầu Thi Ung Châu Khưu thị, chữ khưu do chữ hỗ khắc lầm. Hỗ

thị là chợ trao đổi hàng hóa (với người nước ngoài)

không dùng tiền.

4 Nguyên văn: "Ngô đô đốc Kiểu hành hiến đẳng..." "Cương mục khi sử dụng

sử liệu này, coi Kiểu Hành Hiến là tên riêng, do đó bỏ

hai chữ Ngô và đẳng (coi như Toàn Thư in thừa chữ). Vì có chữ "đẳng" nên

chúng tôi cho rằng ở đây Toàn Thư nói việc dâng biểu cho hai người: Ngô đô

đốc và Kiểu hành hiến (đều không ghi tên). Như thế thì "hành hiến" phải lá

một chừc quan. Xin ghi lại đây

để chờ tra cứu.

5 Nguyên văn: "bi hậu", cột mốc chỉ dặm đường, mỗi dặm trồng một cột (như

cột cây số ngày nay).

Vua đi Ái Châu, đến sông Vũ Lung. Tục truyền người lội qua sông này phần

nhiều bị hại, nhân

thế vua sai người bơi lội qua lại đến ba lần, không hề gì. Xuống chiếu đóng

thuyền để ở các bến sông Vũ

Lung, Bạt Cừ, Động Lung bốn chỗ để chở người qua lại.

Mùa thu, tháng 7, vua thân đi đánh các châu Hoan Đường2, Thạch Hà. Đến Hoàn

Giang3, sai Phòng át sứ là Hồ Thủ Ích đem hơn 5 nghìn quân của châu Hoan

Đường4, sửa chữa đường từ sông Châu Giáp5 đến cửa biển Nam Giới để quân đi

cho tiện [30a]. Thuyền rồng rời cửa Hoàn6 ra ngoài biển, chợt

gió to sóng lớn, mây mưa tối sầm, bèn sai quay thuyền trở lại. Sau đó sợ

đường biển khó khăn nguy hiểm đi đường bộ về kinh sư.

Vua tính hiếu sát, phàm người bị hành hình, hoặc sai lấy cỏ gianh quấn vào

người mà đốt, để cho lửa cháy gần chết, hoặc sai kép hát người Tống là Liêu

Thủ Tâm lấy dao ngắn dao cùn xẻo từng mảnh, để cho không được chết chóng.

Người ấy đau đớn kêu gào thì Thủ Tâm nói đùa rằng: "Nó không quen chịu

chết". Vua cả cười. Đi đánh dẹp bắt được tù thì giải đến bờ sông, khi nước

triều rút, sai người làm lao dưới nước, dồn cả vào trong ấy, đến khi nước

triều lên, ngập nước mà chết; hoặc bắt trèo lên ngọn cây cao rồi chặt gốc

cho cây đổ, người rơi xuống chết. Vua thân đến xem lấy làm vui. Có lần vua

đi đến sông Ninh7, sông ấy nhiều rắn, vua sai trói người vào mạn thuyền8,

đi lại giữa dòng muốn cho rắn

cắn chết. Phàm bò lợn [30b] muốn làm thịt thì tự tay vua cầm dao chọc tiết

trước, rồi mới đưa vào nhà bếp sau. Có lần vua róc mía trên đầu sư Quách

Ngang, giả vờ lỡ tay làm đầu sư bị thương chảy máu rồi

cả cười. Hoặc nhân yến tiệc, giết mèo cho các vương ăn, ăn xong lấy đầu mèo

giơ lên cho xem, các vương đều sợ, vua lấy làm thích. Mỗi khi ra chầu, tất

sai bọn khôi hài hầu hai bên; vua có nói câu gì thì bọn ấy nhao nhao pha

trò cười để cho loạn lời tâu việc của quan chấp chính. Lại lấy thạch sùng

làm gỏi,

bắt bọn khôi hài tranh nhau ăn.

Mùa Đông, tháng 10, ngày Tân Hợi, vua băng ở tẩm điện9 gọi là Ngọa Triều,

vì vua mắc bệnh trĩ

phải nằm mà coi chầu (Dã sử chép: vua say đắm tửu sắc phát ra bệnh trĩ).

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Vua Kiệt nhà Hạ thích giết người, đến nỗi có hình

phạt

leo cột đồng nung nóng10, vua Trụ nhà Thương thích giết người đến nỗi có

việc chặt đùi người lội nước buổi sáng11, tuy có Long Bàng12, Tỷ Can13 là

người hiền hết lòng trung

[31a]có sức can ngăn mà đều bị giết, vì thế mất nước một cách đột nhiên.

Đời sau

1 Chi Long: theo Cương mục, là tên cửa quan thuộc huyện Chi Nga, tức huyện

Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa (CMCB2, 1b).

2 Hoan Đường: Cương Mục ghi làtên châu đời tiền Lê (CMCB2, 2b). Nay thuộc

đất các huyện Nam Đàn, Anh Sơn, Đô Lương, tỉnh

Nghệ An.

3 Hoàn Giang: Cương Mục (CB1, 38) chú là "không khỏa được" . Bản dịch cũ

cho cửa Hòan là cửa Sót (Nam Giới) và do đó sông

Hoàn là sông chảy ra cửa Sót.

4 Nguyên bản in là "Hoàn" Đường (với chữ "Hoàn" là ngọc hoàn), ngờ vẫn là

châu Hoan Đường đã nói ở trên, mà do ảnh hưởng các chữ "Hoàn" trên và dưới

nên đọc và khắc in nhầm.

5 Nguyên văn "Châu Giáp Giang", chưa rõ ở đâu.

6 Hoàn Hải Khẩu: hẳn là cửa sông Hoàn nói ở trên.

7 Sông Ninh: có lẽ là sông Ninh ở huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây. Đại Việt

sử lược, q.1, 21b chép là sông Chỉ Ninh.

8 Nguyên bản: "Hệ nhân chu đáo", đúng chữ là: "hệ nhân chu trắc" (buộc

người vào bên cạnh thuyền), chữ trắc khắc in nhầm thành đáo.

9 Tẩm điện: nhà ngũ của vua.

10 Nguyên văn: "Bào lạc chi hình" bôi mỡ lên cột đồng bắt tội nhân trèo

lên, trơn rơi xuống đống than lửa, xuất sứ ở Sử ký của Tư

Mã Thiên, nói tội ác của vua Trụ (q.1, ân bản kỷ).

11 Vua Trụ thấy người sáng sớm đi chân trần trên tuyết, khen giỏi, bắt

chặt ống chân xem bên trong có gì.

12 Long Bàng: người hiền thời Hạ, bị Kiệt giết.

13 Tỷ Can: người hiền thời Ân, nhiều lần can ngăn Trụ, Trụ nói: "Ta nghe

nói quả tim của thánh nhân có 7 lỗ", rồi mỗ bụng Tỷ Can moi tim để xem.

những vua thích giết người như Tôn Hạo1 nước Ngô cũng nhiều, cuối cùng đều

diệt vong cả. Ngọa Triều không những chỉ thích giết người, lại còn oán vua

cha không lập mình làm thái tử, đánh đau người Man, cho họ kêu gào, nhiều

lần phạm húy cha mà lấy làm thích, thật quá tệ. Mất nước mau chóng, há phải

không do đâu mà ra?

Lại xét Trung Tông và Ngọa Triều, đều không chép việc tang lễ, đó là do sử

cũ bị thiếu, há dám coi vua như là Di Địch mà không chép việc tang đâu.

Tháng ấy, ngày Qúy Sửu, Lý Công Uẩn tự lập làm vua. Trước đây ở hương Diên

Uẩn, châu Cổ Pháp2 có cây gạo bị sét đánh, người hương ấy xem kỹ dấu sét

đánh thấy có chữ: " Thụ căn điểu điểu, mộc biểu thanh thanh, hòa đao mộc

lạc, thập bát tử thành, đông a nhập địa, mộc dị tái sinh, chấn cung kiến

nhật, đoài cung ẩn tinh, lục thất niên gian, thiên hạ thái bình" (Gốc cây

thăm thẳm, ngọn cây xanh xanh, cây hòa đao rụng, mười tám hạt thành, cành

đông xuống đất, cây khác lại sinh, đông mặt trời mọc, tây sao náu hình,

khoảng sáu bảy năm, thiên hạ thái bình). Sư Vạn Hạnh tự đoán riêng rằng:

"Thụ

căn điểu điểu", chữ căn nghĩa là gốc, gốc tức là vua, chữ điểu đồng âm với

yểu, nên hiểu là yếu. "Mộc biểu thanh thanh", chữ biểu nghĩa là ngọn, ngọn

tức là bề tôi, chữ thanh âm gần giống với chữ thanh nghĩa là thịnh; Hòa ,

đao, mộc [ghép lại] là chữ Lê; Thập, bát, tử là chữ Lý; Đông A là chữ Trần;

nhập

địa là phương Bắc vào cướp: "Mộc dị tái sinh" là họ Lê khác lại sinh ra.

"Chấn cung kiến nhật", chấn là phương Đông, kiến là mọc ra; nhật là thiên

tử. "Đoài cung ẩn tinh", "đoài" là phương tây, "ẩn" cũng như lặn, "tinh" là

thứ nhân. Mấy câu này ý nói là vua thì non yểu, bề tôi thì cường thịnh, họ

Lê mất, họ Lý nổi lên, thiên tửở phương đông mọc ra thì thứ nhân ở phương

tây lặn mất, trải qua 6, 7 năm thì thiên hạ thái bình3.

Vạn Hạnh mới bảo Lý Công [32a] Uẩn rằng: "Mới rồi tôi thấy chữ bùa sấm kỳ

lạ, biết họ Lý cường thịnh, tất dấy lên cơ nghiệp. Nay xem trong thiên hạ

người họ Lý rất nhiều, nhưng không ai bằng Thân vệ là người khoan thứ nhân

từ được lòng dân, lại đang nắm binh giữ quyền trong tay, đứng đầu muôn dân

chẳng phải Thân vệ thì còn ai đương nỗi nữa. Tôi đã hơn 70 tuổi rồi, mong

được thư thả hãy chết, để xem đức hóa của ông như thế nào, thực là cái may

nghìn năm có một". Công Uẩn sợ câu nói ấy

tiết lộ, bảo người anh đem Vạn Hạnh giấu ở Tiêu Sơn4. Song từ ấy cũng lấy

thế tự phụ mới nảy ra lòng nhòm ngó ngôi vua, mà người ta cũng quy phụ.

Có lần Ngọa Triều ăn qủa khế lại thấy hột mận5, mới tin lời sấm ngữ, ngầm

tìm người họ Lý giết

đi, thế mà Công Uẩn ở ngay bên cạnh, rốt cuộc vẫn không biết. Đến khi Ngỏa

Triều băng, vua nối còn

bé, Công Uẩn cùng với Hữu điện tiền chỉ huy sứ là Nguyễn Đê mỗi người được

đem [32b] 500 quân tùy long6 vào làm túc vệ. Khi ấy Chi hậu là Đào Cam Mộc

dò biết Công Uẩn có muốn nhận việc truyền ngôi, mới nhân lúc vắng nói khích

rằng: "Gần đây chúa thượng ngu tối bạo ngược, làm nhiều việc bất nghĩa,

trời chán ghét nên không cho hết thọ, con nối thơ ấu, không kham nỗi nhiều

khó khăn. Mọi việc phiền nhiễu thần linh không ưa, dân chúng nhao nhác,

mong tìn chân chúa. Sao Thân vệ không nhân lúc này nghĩ ra mưu cao, quyết

đoán sáng suốt, xa xem dấu cũ của Thang Vũ, gần xem việc làm của Đinh, Lê,

trên thuận lòng trời, dưới theo ý dân, mà cứ muốn khư khư giữ tiểu tiết làm

gì!". Công Uẩn trong lòng thích lời nói đó nhưng còn ngờ Cam Mộc có mưu

khác, mới giả cách mắng rằng: "Sao ông lại nói như thế, tôi phải bắt ông

nộp quan!". Cam Mộc thong thả bảo Công Uẩn rằng: "Tôi thấy thiên thời nhân

sự như thế, cho nên mới dám phát ngôn. Nay ông lại muốn cáo giác tôi thì

tôi không phải là người sợ chết".

[33a] Công Uẩn nói: "Tôi đâu nở cáo giác ông, chỉ sợ lời nói tiết lộ thì

chết ráo, nên răng ông đó thôi".

1 Tôn Hạo: tức Ngô Hậu chủ thời Tam Quốc.

2 Cổ Pháp: tên châu, thời Đinh gọi là Cổ Lãm, thời Tiền Lê đổi là Cổ Pháp,

nay thuộc đất huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc.

3 Bài thơ này cũng được chép trong Đại Việt sử lược(q.1, 1a) của soạn giả

thời Trần, nhưng không có hai câu "Đông A nhập địa, Mộc dị tái sinh". Điều

đó một mặt chứng tỏ rằng bài sấm này được làm ra để tạo dư luận cho Lý Công

Uẩn lên ngôi; một mặt cho thấy người đời sau (Trần, Lê) còn xen thêm vào

hai câu đã dẫn. Còn câu "Lục thập niên..." thì Đại Việt sử lược chép là

"Lục thập nhật...", hợp lý hơn.

4 Tiêu Sơn: nay thuộc xã Tương Giang, huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc.

5 Chữ Lý nghĩa là cây mận.

6 Tùy Long Binh: đội quân hầu của vua.

79 Đại Việt Sử Ký Toàn Thư

- Bản Kỷ - Quyển I

Hôm sau Cam Mộc lại bảo Công Uẩn: "Người trong nước ai cũng nói họ Lý khởi

nghiệp lớn, lời sấm đã

hiện ra rồi, đó là cái họa không thể che dấu được nữa. Chuyển họa làm phúc,

chỉ trong sớm chiều. Đây

là lúc trời trao người theo, Thân vệ còn nghi ngại gì nữa?". Công Uẩn nói:"

Tôi đã hiểu rỏ ý ông, không khác gì ý của Vạn Hạnh, nếu thực như lời ấy thì

nên tính kế thế nào ?". Cam Mộc nói:" Thần Vệ là người khoan thứ, nhân từ,

lòng người chịu theo. Hiện nay trăm họ mỏi mệt kiệt quệ, dân không chịu

nổi, Thân

vệ nên nhân đó lấy ân đức mà vỗ về, thì người ta tất xô nhau kéo về như

nước chảy chỗ thấp, có ai ngăn được!". Cam Mộc biết việc cần kíp, sợ sinh

biến, mới nói chuyện với khanh sĩ và các quan, ai cũng

vui theo. Ngay ngày hôm ấy, điều họp cả ở trong triều, bàn rằng:" Hiện nay,

dân chúng ức triệu khác lòng, trên dưới lìa [33b] bỏ, mọi người chán ghét

tiên đế hà khắc bạo ngược, không muốn theo về vua

nối mà đều có lòng suy tôn quan Thân vệ, bọn ta không nhân lúc này cùng

nhau sách lập Thân vệ làm thiên tử, lỡ bối rối có xảy ra tai biến gì, liệu

chúng ta có giữ được cái đầu hay không?".

Thế rồi cùng nhau dìu Công Uẩn lên chính điện, lập làm thiên tử, lên ngôi

Hoàng đế. Trăm quan đều lạy rạp dưới sân, trong ngoài đều hô "vạn tuế",

vang dậy cả trong triều. Đại xá cho thiên hạ, lấy năm sau làm niên hiệu

Thuận Thiên năm đầu. Đốt giềng lưới, bãi ngục tụng, xuống chiếu từ nay ai

có việc tranh kiện cho đến triều tâu bày, vua thân xét quyết. Các quan dâng

tôn hiệu là "Phụng Thiên Chí Lý ứng Vận Tự Tại Thánh Minh Long Hiện Duệ Văn

Anh Vũ Sùng Nhân Quảng Hiếu Thiên Hạ Thái Bình Khâm Minh Quang Trạch Chương

Minh Vạn Bang Hiển Ứng Phù Cảm Uy Chấn Phiên Man Duệ Mưu Thần Trợ Thánh Tri

Tắc Thiên Đạo Chính Hoàng Đế.

[34a] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Kinh thư tôn xưng vua Nghêu là Phóng Huân,

vua Thuấn là Trùng Hoa. Bề tôi đời sau lấy đức hạnh thực mà tôn xưng vua,

đến hơn mười chữ đã là nhiều lắm rồi. Bấy giờ bầy tôi dâng tôn hiệu đến 50

chử, thế là không biết kê cứu cổ học mà chỉ biết nịnh vua.[Lý] Thái Tổ nhận

mà không từ, đó là muốn khoe khoang để cho đời sau không ai hơn được. Thế

là sai. Sau, Tôn Thái Tông cũng đến gần 50 chử là vì bắt chước ở đây.

Truy phong cha là Hiển Khánh Vương, mẹ là Minh Đức Thái Hậu.

Lê Văn Hưu nói: Nhà Chu dấy nghiệp vương, truy phong là Thái Vương, Vương

Quý, nhà Tống xưng đế truy phong là Hy Tổ, Dực Tổ, là theo nghĩa cha vì con

mà được tôn quý. Lý Thái Tổ ta đã xưng đế mà truy phong cha là Hiển Khánh

Vương, bấy giờ

[34b] lễ quan không biết cải chính, thế là tự ti vậy.

Lập sáu hoàng hậu, duy có đích phu nhân gọi là Lập Giáo Hoàng Hậu, quy chế

xe kiệu và y phục khác hẳn với các cung khác. Sách lập con trưởng là Phật

Mã làm Hoàng thái tử, các con khác đều phong tước hầu. Con gái 13 người đều

phong công chúa. Gả con gái trưởng là công chúa An Quốc cho Đào Cam Mộc,

phong Cam Mộc làm Nghĩa Tín Hầu, phong cho anh làm Vũ Uy Vương, chú làm Vũ

Đạo Vương, con Vũ Uy Vương là Trưng Hiển làm Thái úy, con Dực Thánh Vương1

là phó làm Tổng quản, Trần Cảo làm Tướng công, Ngô Đinh làm Khu mật sứ, Đào

Thạc Phụ làm Thái bảo, Đặng Văn Hiếu làm Thái phó,

Phí Xa Lỗi2 làm Tả kim ngô, Vệ Trúc làm Hửu kim ngô, Đàm Thản làm Tả vũ

vệ, Đỗ Giản làm Hửu vũ vệ, các người khác đều như cũ.

Ban y phục cho các tăng đạo.

[35a] Trở lên là triều Lê 3 vua, khởi từ năm Tân Tỵ mất năm Kỷ Dậu

[981-1009], tất cả 29 năm.

1 Soát lại việc Lý Công Uẩn phong tước ghi tại đây, ngờ toàn thư chép sót

về người được phong là Dực Thánh Vương. Đại Việt sử

lược (q.2, tờ 2b) ghi vua phong "cho anh làm Vũ Uy Vương, phong cho em làm

Dực Thánh Vương". Cương mục (CB2, 8a) không thấy dẫn Đại Việt sử lược,

nhưng dẫn Nam Thiên trung nghĩa lục (của Phạm Phi Kiến) nói Dực Thánh Vương

là con thứ của Lý Thái Tổ. Phối hợp cả Toàn thư ghi tại đây là Đại Việt sử

lược, ngờ Cương mục chú nhầm.

2 Phí Xa Lỗi: Đại Việt sử lược (q.2, 2b) chép là Bùi Xa Lỗi.

80 Đại Việt Sử Ký Toàn Thư -

Bản Kỷ - Quyển II

Đạ i Vi ệ t S ử Ký B ả n K ỷ Toàn Th ư

Quyển II

[1a]

K ỷ Nhà Lý

Thái Tổ Hoàng Đế

Họ Lý, tên húy là Công Uẩn, người châu Cổ Pháp1 Bắc Giang, mẹ họ Phạm, đi

chơi2 chùa Tiêu Sơn3 cùng với người thần giao hợp rồi có chửa, sinh vua

ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất, niên hiệu Thái Bình năm thứ 5 [974] thời

Đinh. Lớn lên làm quan nhà Lê, thăng đến chức Điện Tiền Chỉ Huy Sứ. Khi

Ngọa Triều băng, tự lập làm vua, đóng đô ở thành Thăng Long. Ở ngôi 18 năm

[1010-1028], thọ 55 tuổi [974-1028], băng ở điện Long An, táng ở Thọ Lăng.

Vua ứng mệnh trời, thuận lòng người, nhân thời mở vận, là người khoan thứ

nhân từ, tinh tế hòa nhã, có lượng đế vương. Song chưa làm sáng chính học,

lại ưa thích dị đoan, bị

lụy về chuyện đó.

Vua sinh ra mới 3 tuổi, mẹ ẵm đến nhà Lý Khánh Văn. Khánh Văn bèn nhận làm

con nuôi. Bé

đã thông minh, vẻ người tuấn tú khác thường. Lúc còn nhỏ đi học, nhà sư ở

chùa Lục Tổ4 là Vạn Hạnh thấy, khen rằng: "Đứa bé này [1b] không phải

người thường, sau này lớn lên ắt có thể giải nguy gỡ rối, làm bậc minh chủ

trong thiên hạ". Lớn lên, không chăm việc sản nghiệp, chỉ học kinh sử qua

loa, khảng khái có chí lớn. Trong đời Ứng Thiên, xuất thân thờ Lê Trung

Tông [1005]. Đại Hành băng, Trung Tông

bị giết, vua ôm xác mà khóc, Ngọa Triều khen là người trung, cho làm Tứ

sương quân5 phó chỉ huy sứ, thăng đến chức Tả thân vệ điện tiền chỉ huy

sứ. Đến khi Ngọa Triều băng, bèn lên ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu là Thuận

Thiên, đại xá thiên hạ.

Trước ở viện Cảm Tuyển chùa Ứng Thiên Tâm6, châu Cổ Pháp có con chó đẻ con

sắc trắng có

đốm lông đen thành hình hai chữ "Thiên tử". Kẻ thức giả nói đó là điềm năm

Tuất sinh người làm thiên tử. Đến nay, vua sinh năm Giáp Tuất lên làm thiên

tử, quả là [2a] ứng nghiệm.

Canh Tuất, Thuận Thiên năm thứ 1 [1010], (Tống Đại Trung Tường Phù năm thứ

3). Mùa xuân, tháng 2 xa giá, về châu Cổ Pháp, ban tiền lụa cho các bô lão

trong làng theo thứ bậc khác nhau.

Sai Viên ngoại lang Lương Nhậm Văn và Lê Tái Nghiêm sang nước Tống để kết

hảo.

Vua thấy thành Hoa Lư ẩm thấp chật hẹp, không đủ làm chỗ ở của đế vương,

muốn dời đi nơi khác, tự tay viết chiếu truyền rằng: "Ngày xưa, nhà Thương

đến đời Bàn canh năm lần dời đô, nhà Chu

1 Cổ Pháp: tên châu, từ thời Đinh về trước gọi là châu Cổ Lãm; triều Lê

Đại Hành cho đến năm 995 vẫn còn gọi tên ấy (BK1, tờ

21a), sau đổi gọi là Cổ Pháp, Lý Thái Tổ lên ngôi đổi làm phủ Thiên Đức.

Nay là đất huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc.

2 Nguyên bản in: "mẫu Phạm thị, tiêu dao du Tiêu Sơn tự" hai chữ "tiêu

dao" là diễn văn (chữ khắc thừa), do ảnh hưởng của tên bài văn Tiêu Dao Du

của Trang Tử.

3 Chùa Tiêu Sơn: tức chùa Trường Liêu trên núi Tên ở xã Tương Giang, huyện

Tiên Sơn, Hà Bắc.

4 Chùa Lục Tổ: cũng gọi là chùa Cổ Pháp, ỡ xã Đình Bảng, huyện Tiên Sơn,

tỉnh Hà Bắc.

5 Tứ sương quân: quân bảo vệ bốn mặt kinh thành.

6 Thiền uyển tập anh (tờ 52a) chép viện Hàm Toại chùa Ứng Thái Tâm (dùng

chữ Thái thay cho chữ Thiên trong tên các danh vật

đời Lý). Còn tên viện Cảm Tuyển hoặc Hàm Toại thì hẳn là do khuôn chữ gần

giống nhau nên sao khắc bị lầm.

đến Thành Vương ba lần dời đô, há phải các vua thời Tam đại ấy theo ý riêng

tự dời đô xằng bậy đâu.

Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu

muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời

đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh,

Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương

Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại [2b] không dài, vận số

ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể

không dời. Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương1, ở giữa khu vực

trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện

nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao

mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng

tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi

thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng

đô kinh sư mãi muôn đời. Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh

nghĩ thế nào?"

Bề tôi đều nói: "Bệ hạ vì thiên hạ lập kế dài lâu, trên cho nghiệp đế được

thịnh vượng lớn lao, dưới cho dân chúng được đông đúc giàu có, điều lợi như

thế, ai dám không theo". Vua cả mừng.

Mùa thu, tháng 7, vua [3a] từ thành Hoa Lư, dời đô ra kinh phủ ở thành Đại

La, tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự, nhân đó

đổi tên thành gọi là thành Thăng Long. Đổi châu Cổ Pháp gọi là phủ Thiên

Đức, thành Hoa Lư gọi là phủ Trường Yên, sông Bắc Giang gọi là sông Thiên

Đức2. Xuống chiếu phát tiền kho 2 vạn quan, thuê thợ làm chùa ở phủ Thiên

Đức, tất cả 8 sở, đều dựng bia ghi công. Lõi xây dựng các cung điện trong

kinh thành Thăng Long, phía trước dựng điện Càn Nguyên làm chỗ coi chầu,

bên tả làm điện Tập Hiền, bên hữu dựng điện Giảng Võ. Lại mở cửa Phi Long

thông với cung Nghêng Xuân, cửa Đan Phượng thông với cửa Uy Viễn, hướng

chính nam dựng điện Cao Minh, đều có3 thềm rồng, trong thềm rồng có hành

lang dẫn ra xung quanh bốn phía. Sau điện Càn Nguyên dựng hai điện Long An,

Long Thụy làm nơi vua nghỉ. Bên tả xây điện Nhật Quang, bên hữu xây điện

Nguyệt Minh, phía sau [3b] dựng hai cung Thúy Hoa, Long Thụy làm chỗ ở cho

cung nữ. Dựng kho tàng, đắp thành, đào hào. Bốn mặt thành mở bốn cửa: phía

đông gọi là cửa Tường Phù, phía tây gọi là cửa Quảng Phúc, phía nam gọi là

cửa Đại Hưng, phía bắc gọi là cửa Diệu Đức. Lại ở trong thành làm chùa ngự

Hưng Thiên và tinh lâu4 Ngũ Phượng. Ngoài thành về phía nam dựng chùa

Thắng Nghiêm.

Lê Văn Hưu nói: Lý Thái Tổ lên ngôi mới được 2 năm, tông miếu chưa dựng,

đàn

xã tắc chưa lập mà trước đã dựng tám chùa ở phủ Thiên Đức, lại trùng tu

chùa quán ở các lộ và độ cho làm tăng hơn nghìn người ở Kinh sư, thế thì

tiêu phí của cải sức lực vào việc thổ mộc không biết chừng nào mà kể. Của

không phải là trời mưa xuống, sức không phải là thần làm thay, há chẳng

phải là vét màu mỡ của dân ư? Vét máu mỡ của dân có thể gọi là làm việc

phúc chăng? Bậc vua sáng nghiệp, tự mình [4a] cần kiệm, còn lo cho con cháu

xa xỉ lười biếng, thế mà Thái Tổ để phép lại như thế, chả trách đời sau xây

tháp cao ngất trời, dựng cột chùa đá, điện thờ Phật, lộng lẫy hơn cung vua.

Rồi người dưới bắt chước, có kẻ hủy thân thể, đổi lối mặc, bỏ sản nghiệp,

trốn thân thích, dân chúng quá nửa làm sư sãi, trong nước chỗ nào cũng chùa

chiền, nguồn gốc há chẳng phải từ đấy?

Xuống chiếu truyền cho những kẻ trốn tránh phải về quê cũ. Lại hạ lệnh cho

các hương ấp, nơi nào có chùa quán đã đổ nát đều phải sửa chữa lại.

Mùa đông, tháng 12, cung Thúy Hoa làm xong, làm lễ khánh thành, đại xá các

thuế khóa cho thiên hạ trong 3 năm, những người mồ côi, góa chồng, già yếu,

thiếu thuế lâu năm đều tha cho cả.

1 Cao Vương: chỉ Cao Biền.

2 Sông Bắc Giang: hay sông Thiên Đức, tức sông Đuống.

3 Nguyên bản in là "...giai viết long trì..." (đều gọi là thềm rồng); ở vị

trí chữ "viết" phải là chữ "hữu" (giai hữu long trì = đều có thềm rồng)

tih' mới đúng nghĩa. Cương mục cũng đã sửa là "giai hữu long trì" (CMCB2,

10a).

4 Tinh lâu: lầu xem sao (chỉ lầu cao).

Cắp áo quần, lương thực, thuốc men cho 28 người lính man bị Ngọa Triều bắt,

[4b] sai người

đưa về quê cũ. Tha cho người ở vùng Nam Giới, huyện Thạch Hà thuộc châu

Hoan được trở về bản huyện.

Nhà Tống phong vua làm Giao Chỉ Quận Vương lĩnh Tĩnh Hải quân tiết độ sứ.

Đổi 10 đạo làm 24 lộ, châu Hoan, châu Ái làm trại. Năm ấy độ1 dân làm sư.

Phát bạc ở kho 1.680

lạng để đúc chuông lớn, treo ở chùa Đại Giáo.

Tân Hợi, [Thuận Thiên] năm thứ 2 [1011], (Tống Đại Trung Tường Phù năm thứ

4). Mùa xuân, tháng giêng, đặt quân tả hữu túc xa2, [mỗi đội] đều 500

người. Tháng hai, vua thấy giặc Cử Long ở Ái Châu hung hăng dữ tợn, trải

hai triều Đinh, Lê không đánh nổi, đến nay càng dữ, mới đem sáu quân đi

đánh, đốt bộ lạc, bắt kẻ đầu sỏ đem về, giặc ấy bèn tan.

Mùa hạ, tháng 4, sai viên ngoại lang là Lý Nhân Nghĩa và Đào Khánh Văn sang

thăm nước Tống

để đáp lễ. Khánh Văn trốn ở lại nước Tống, người Tống bắt trả lại cho ta,

[5a] đánh trượng chết.

Nước Chiêm Thành dâng sư tử.

Năm ấy, ở trong thành bên tả dựng cung Đại Thanh, bên hữu dựng chùa Vạn

Tuế, làm kho Trấn Phúc. Ngoài thành dựng chùa Tứ Đại Thiên Vương và các

chùa Cẩm Y3, Long Hưng, Thánh Thọ. Dựng điện Hàm Quang ở bến sông Lô4.

Nhâm Tý, [Thuận Thiên] năm thứ 3 [1012], (Tống Đại Trung Tường Phù năm thứ

5). Mùa hạ, tháng 4, sửa chữa hai điện Long An, Long Thụy.

Sách phong Hoàng thái tử Phật Mã làm Khai Thiên Vương, làm cung Long Đức ở

ngoài thành cho

ở, ý muốn thái tử hiểu biết mọi việc của dân.

Mùa thu, tháng 7, vua ngự ở điện Hàm Quang xem đua thuyền.

Mùa đông, tháng 10, sai Thái bảo Đào Thạc Phụ và Viên ngoại lang Ngô Nhưỡng

sang nước

Tống để kết hảo.

Tháng 12, trên tảng đá lớn ở ngọn núi phía đông nam có vết chân thần dài

rộng đều 3 thước, sâu 1 tấc (không biết rõ núi nào).

Nước Chân Lạp đến cống.

Vua thân đi đánh [5b] Diễn Châu. Khi về đến Vũng Biện5 gặp lúc trời đất

tối sầm, gió sấm dữ dội, vua đốt hương khấn trời rằng: "Tôi là người ít

đức, lạm ở trên dân, nơm nớp lo sợ như sắp sa xuống vực sâu, không dám cậy

binh uy mà đi đánh dẹp càn bậy. Chỉ vì người Diễn Châu không theo giáo hóa,

ngu bạo làm càn, tàn ngược chúng dân, tội ác chồng chất, đến nay không thể

dung tha không đánh. Còn như trong khi đánh nhau, hoặc giết oan kẻ trung

hiếu, hoặc hại lầm kẻ hiền lương, đến nỗi hoàng thiên

nổi giận phải tỏ cho biết lỗi lầm, dẫu gặp tổn hại cũng không dám oán

trách. Đến như sáu quân thì tội lỗi

có thể dung thứ, xin lòng trời soi xét". Khấn xong, gió sấm đều yên lặng.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Vua Thang gặp tai nạn hạn hán, lấy sáu việc tự

trách mình mà mưa xuống ngay. Nay vua gặp nạn gió sấm, lấy việc đánh dẹp tự

trách mình

1 Độ: vốn là một khái niệm Phật giáo, dịch từ Phạn paramita, nghĩa là

"vượt qua giới hạn (giữa mê tối và giác ngộ), dần dần mang

thêm nghĩa thông thường là cho phép xuất gia tu hành. Khi một người lần đầu

tiên đến chùa, được phép gọt tóc đi tu, gọi là thế độ, hoặc độ. Nguyên văn:

"độ bách tính vi tăng", có nghĩa là nhà nước thừa nhận cho dân làm sư, cấp

giấy gọi là độ điệp.

2 Túc xa quân: quân theo hầu xe vua, gồm 2 đội tả và hữu.

3 Đại Việt sử lược (q.2, 3a) chép là Y Cẩm tự.

4 Lô Giang là tên gọi sông Nhị (sông Hồng) từ thời thuộc Minh về trước,

khác với tên sông Lô từ thời Lê đến nay là sông chảy qua tỉnh Hà Tuyên,

tỉnh Vĩnh Phú rồi đổ vào sông Hồng ở ngã ba Bạch Hạc.

5 Vũng Biện: (nguyên văn là Biện Loan), vùng biển ở Biện Sơn, thuộc huyện

Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa.

mà gió bão ngừng ngay. [6a]. Trời và người cảm ứng nhau rất nhỏ nhạy, ảnh

hưởng rất

chóng, ai bảo là trong chỗ tối tăm mặt trời không soi đến ta mà dám dối

trời chăng?

Trong tàu ngựa nhà vua, có con ngựa trắng, phàm khi vua sắp đi thì nó tất

hí lên trước. Vua đặt cho tên là Bạch Long thần mã.

Năm ấy người Man1 sang quá cột đồng, đến bến Kim Hoa2 và châu Vị Long3

để buôn bán. Vua

sai người bắt được người Man và hơn 1 vạn con ngựa.

Quý Sửu, [Thuận Thiên] năm thứ 4 [1013], (Tống Đại Trung Tường Phù năm thứ

6). Mùa xuân, tháng 2, định các lệ thuế trong nước: 1 - Ao hồ ruộng đất, 2

- Tiền và thóc về bãi dâu, 3 - Sản vật ở núi nguồn các phiên trấn, 4 - Các

quan ải xét hỏi về mắm muối, 5 -Sừng tê, ngà voi, hương liệu của người Man

Lão, 6 - Các thứ gỗ và hoa quả ở đầu nguồn.

Mùa hạ, tháng 6, phong Hoàng tử Bồ làm Khai Quốc Vương, ở phủ Trường Yên.

Mùa thu, tháng 7, [6b] vua ngự điện Hàm Quang xem đua thuyền.

Mùa đông, tháng 10, châu Vị Long làm phản, hùa theo người Man [Nam Chiếu].

Vua thân đi

đánh. Thủ lĩnh là Hà Án Tuấn4 sợ, đem đồ đảng trốn vào rừng núi.

Cho các vương hầu công chúa được quản các thuế theo thứ bậc khác nhau.

Giáp Dần, [Thuận Thiên] năm thứ 5 [1014], (Tống Đại Trung Tường

Phù năm thứ 7). Mùa xuân, tháng giêng, tướng của người Man là Dương

Trường Huệ và Đoàn Kính Chí đem 20 vạn người Man vào cướp, đóng đồn ở bến

Kim Hoa, dàn quân đóng trại gọi là trại Ngũ Hoa. Châu mục châu Bình Lâm5

là Hoàng Ân Vinh đem việc tâu lên. Vua sai Dực Thánh Vương6 đem quân đi

đánh, chém đầu kể hàng vạn,

bắt sống được quân lính và ngựa không kể xiết. Xuống chiếu cho viên ngoại

lang là Phùng Chân và Lý Thạc đem một trăm con ngựa bắt được của người Man

sang biếu nhà Tống. Vua Tống xuống chiếu cho quan sở tại sai sứ thần đón

tiếp, cùng đi đến cửa khuyết, mọi khoản cung đốn dọc đường đều được chu cấp

đầy đủ. Khi đến, vua Tống gọi [7a] bọn Chân vào ra mắt ở điện Sùng Đức, ban

cho mũ, đai, đồ dùng, tiền bạc theo thứ bậc khác nhau.

Mùa hạ, tháng 4, châu Hoan dâng kỳ lân.

Tháng 5, Hữu nhai tăng thống là Thẩm Văn Uyển tâu xin lập đàn chay ở chùa

Vạn Tuế để cho tăng đồ thụ giới. Vua chuẩn tâu.

Mùa thu, tháng 9, xuống chiếu phát 310 lạng vàng trong kho để đúc chuông

treo ở chùa Hưng

Thiên.

Nước Chân Lạp sang cống.

1 Chỉ người Nam Chiếu. Cương mục dẫn An Nam chí của Cao Hùng Trưng chép là

người Man Hạc Thác, lại theo chú dẫn của Minh

sử thì Man Hạc Thác tức người Nam Chiếu.

2 Nguyên văn là "Kim Hoa bộ".

3 Vị Long: tên châu, nay là huyện Chiêm Hóa, tỉnh Hà Tuyên.

4 Cương Mục (CB2, 16b) chép là Hà Trắc Tuấn.

5 Bình Lâm: tên châu. Cương mục dẫn Độc sử phương dự kỷ yếu của Cố Tổ Vũ

ghi Bình Lâm là tên châu đặt từ thời thuộc Đường, ở vào miền huyện Quảng

Uyên, tỉnh Cao Bằng. Nhưng có nhiều khả năng châu Bình Lâm là châu Bình

Nguyên nói đến ở sau, tức miền đất huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Tuyên ngày nay.

Mới đây, ở huyện Vị Xuyên, tìm được vết tích chùa Bình Lâm thời Trần. Không

thể giặc vào vùng Chiêm Hóa, Hà Tuyên mà châu mục ở vùng Quảng Uyên (nay là

huyện Quảng Hòa), Cao Bằng lại tâu lên vua.

Đặt châu này ở Vị Xuyên thì hợp lý.

6 Dực Thánh Vương: xem chú thích ???, tr. ???

Mùa đông, tháng 10, xuống chiếu phát trăm lạng bạc trong kho để đúc hai quả

chuông treo ở

chùa Thắng Nghiêm và tinh lâu Ngũ Phượng. Đắp thành đất ở bốn mặt kinh

Thăng Long. Đổi phủ Ứng

Thiên1 làm Nam Kinh.

Ất Mão, [Thuận Thiên] năm thứ 6 [1015], (Tống Đại Trung Tường Phù năm thứ

8). Mùa xuân, tháng giêng, cho Trịnh Văn Tú làm Thiếu sư.

Đào Cam Mộc chết, tặng Thái sư á vương.

Tháng 2, sư chùa Tề Thánh huyện Thái Bình dâng hòm quý đựng xá lị.

Xuống chiếu cho Dực Thánh Vương và Vũ Đức Vương đi đánh các

châu Đô Kim2, Vị Long3, Thường [7b] Tân4, Bình Nguyên5, bắt được thủ

lĩnh là Hà Án Tuấn đem về kinh sư chém đầu bêu ở chợ Đông.

Bính Thìn, [Thuận Thiên] năm thứ 7 [1016], (Tống Đại Trung Tường Phù

năm thứ 9). Mùa xuân, tháng 3, lại lập 3 hoàng hậu: Tá Quốc hoàng hậu, Lập

Nguyên hoàng hậu, Lập Giáo hoàng hậu6,

Độ cho hơn nghìn người ở kinh sư làm tăng đạo. Dựng hai chùa Thiên Quang,

Thiên Đức và tô bốn pho tượng Thiên Đế.

Động đất. Làm lễ tế vong các danh sơn. (Vua nhân đi xem núi sông, đến bến

đò Cổ Sở7, thấy khí

tốt của núi sông, tâm thần cảm động, bèn làm lễ rưới rượu

xuống đất, khấn rằng: "Trẫm xem địa phương này, núi lạ sông đẹp, nếu

có nhân kiệt địa linh thì hưởng lễ". Đêm ấy, vua chiêm bao thấy có dị nhân

đến cúi đầu lạy hai lạy, nói: "Thần là người làng này, họ Lý tên Phục man,

làm tướng giúp Nam Đế,

có tiếng là người trung liệt, được giao trông coi hai dải sông núi Đỗ Động

và Đường Lâm, bọn Di Lão không dám xâm phạm biên giới, một phương yên bình.

Đến khi chết, thượng đế khen là trung trực, sắc cho giữ chức như cũ. Cho

nên phàm giặc Man Di đến cướp đều chống giữ được cả. Nay may được bệ hạ

thương đến, biết cho thần giữ chức này đã lâu rồi". Rồi đó thung dung nói:

" Thiên hạ khi mờ tối, trung thần giấu tính danh, giữa trời nhật nguyệt

sáng, ai chẳng thấy dáng hình"8. Vua thức dậy nói việc ấy với Ngự sử đại

phu Lương Nhậm Văn rằng: " Đó là ý thần muốn tạc tượng". Vua sai bói xin âm

dương, quả nhiên đúng như thế. Bèn sai người trong châu [8a] lập đền đắp

tượng đúng như hình dạng người trong chiêm bao, tuế thời cúng tế. Khoảng

niên hiệu Nguyên Phong [1251-1258] đời Trần, người Thát Đát9 vào cướp, đi

đến địa phương này, ngựa khuỵu chân không đi được, người trong

thôn dẫn dân chúng ra chống đánh, chém được đầu giặc, giặc chạy tan.

Khoảng năm Trùng Hưng [1285-1293], [Thát Đát] lại vào cướp, đến đâu cũng

đốt phá, mà ấp ấy vẫn như được che chở, không bị xâm phạm mảy may, quả đúng

như lời thần nói).

Nhà Tống phong vua làm Nam Bình Vương.

Năm ấy được mùa to, 30 bó lúa giá 70 tiền. Cho thiên hạ 3 năm không phải

nộp tô thuế.

1 Tức phủ Ứng Hòa đời sau, nay là huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây.

2 Đô Kim: theo Cương Mục, là huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang (CMCB2, 18b),

nay thuộc tỉnh Hà Tuyên.

3 Vị Long: xem chú thích ??? tr. ???

4 Thường Tân: tên châu, chưa rõ ở khoảng huyện nào trong tỉnh Hà Tuyên

ngày nay.

5 Bình Nguyên: tên châu thời Lý, từ thời Lê về sau gọi là châu Vị Xuyên,

gồm các huyện Vị Xuyên, Bắc Quang, Hoàng Su Phì, tỉnh

Hà Tuyên ngày nay.

6 Ở phần trên đã chép Lý Thái Tổ lập 6 hoàng hậu mà Lập Giáo hoàng hậu

đứng đầu, có quy chế xe kiệu riêng (BK1, 34b). Ở đây

nói lập thêm 3 hoàng hậu nữa, mà tên Lập Giáo hoàng hậu lại kể ở sau cùng.

Cương mục ghi: "Điều này chắc Sử có lầm, tạm chép lại đó chờ tra cứu thêm"

(CMCB2, 19a).

7 Cổ Sở: bến Cổ Sở có tên nôm là bến Giá, nay ở xã Yên Sở, huyện Hoài Đức,

tỉnh Hà Tây.

8 Nguyên văn: "Thiên hạ tao mông muội, trung thần nặc tính danh, trung

thiên minh nhật nguyệt, thục bất kiến kỳ hình". Bài thơ

này có các dị bản trong Việt điện u linh, Sơn Tây tỉnh chí" v.v... với

nhiều chữ chép khác biệt với đây.

9 Thát Đát: phiên âm tên Tartar hay Tatar, bộ tộc Mông Cổ, ở đây chỉ quân

Nguyên - Mông.

Đinh Tỵ, [Thuận Thiên] năm thứ 8 [1017], (Tống Thiên Hy năm thứ 1). Mùa

xuân, tháng 3, cho

Trần Văn Tú làm Thái phó1.

Xuống chiếu xá tô ruộng cho thiên hạ.

Điện Càn Nguyên bị sét đánh, vua coi chầu ở điện phía đông2.

Mậu Ngọ, [Thuận Thiên] năm thứ 9 [1018], (Tống Thiên Hy năm thứ 2). Mùa

xuân, tháng 2, truy phong bà nội làm hậu và đặt tên thụy.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Vua đến đây mới truy phong cho bà nội, đó là lỗi

chậm

trễ.

[8b] Mùa hạ, tháng 6, sai Viên ngoại lang là Nguyễn Đạo Thanh và Phạm Hạc3

sang nước Tống xin kinh Tam Tạng.

Mùa đông, tháng 10, phong Hoàng tử Lực làm Đông Chinh Vương. Xá một nửa tô

ruộng cho thiên hạ.

Kỷ Mùi, [Thuận Thiên] năm thứ 10 [1019], (Tống Thiên Hy năm thứ 3). Mùa

xuân, tháng giêng, dựng Thái Miếu ở lăng Thiên Đức4. Xuống chiếu độ dân

trong nước làm tăng.

Canh Thân, [Thuận Thiên năm thứ 11 [1020], (Tống Thiên Hy năm thứ 4). Mùa

hạ, tháng 4, nước Chân Lạp đến cống.

Mùa thu, tháng 9, Nguyễn Đạo Thanh đi sứ về, xin được kinh Tam Tạng; xuống

chiếu cho Tăng thống là Phí Trí sang Quảng Châu đón.

Mùa đông, tháng 12, sai Khai Thiên Vương [Phật Mã] và Đào Thạc Phụ đem quân

đi đánh Chiêm Thành ở trại Bố Chính5, thẳng đến núi Long Tỵ6, chém được

tướng của chúng là Bố Linh tại trận, người Chiêm [9a] chết đến quá nửa.

Năm ấy điện phía đông bị sét đánh, vua coi chầu ở điện phía tây7. Dựng ba

điện: điện phía trước

để coi chầu, hai điện phía sau để nghe chính sự.

Tân Dậu, [Thuận Thiên] năm thứ 12 [1021], (Tống Thiên Hy năm thứ 5). Mùa

xuân, tháng 2,

lấy ngày sinh nhật của vua làm tiết Thiên Thành, lấy tre kết làm một ngọn

núi gọi là Vạn Thọ Nam Sơn ở ngoài cửa Quảng Phúc, trên núi làm nhiều hình

chim bay thú chạy, muôn vẻ lạ kỳ. Lại sai người bắt chước tiếng của cầm thú

làm vui để ban yến cho bề tôi.

Sai bọn Viên ngoại lang Nguyễn Khoan Thái và Nguyễn Thủ Cương sang nhà

Tống. Làm nhà Bát giác chứa kinh.

Nhâm Tuất, [Thuận Thiên] năm thứ 13 [1022], (Tống Cao Hưng năm thứ 1). Mùa

xuân, tháng

2, vua thấy tiết Thiên Thành làm núi giả khó nhọc cho dân, bãi đi, chỉ đặt

yến lễ mà thôi.

Xuống chiếu cho Dực Thánh Vương đi đánh Đại Nguyên Lịch. Quân ta [9b] đi

sâu vào trại Như

Hồng1 trong đất Tống, đốt kho đụn ở đó rồi về (Xét: Trại Như

Hồng nước Tống giáp với trấn Triều

1 Không rõ có phải là Trịnh Văn Tú nói ở trước hay không?

2 Cương mục chú: điện phía đông tức ở điện Tập Hiền (CMCB2, 19b).

3 Cương mục chép Phạm Hạc thành Phạm Hạc Như (khiển viên ngoại lang Nguyễn

Đạo Thanh, Phạm Hạc Như).

4 Nguyên văn: "Thiên Đức lăng thái miếu", đến đây chưa thấy nói đến lăng

Thiên Đức, ngờ nhầm ở chữ "lăng"; hoặc có thể hiểu là

Lăng Thái Miếu ở phủ Thiên Đức?

5 Bố Chính: nay là đất các huyện Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hóa, tỉnh

Quảng Bình.

6 Núi Long Tỵ: theo Cương mục, ở địa phận xã Thuần Chất, huyện Bình Chính,

tỉnh Quảng Bình, hình thể núi này nhô lên như vòi rồng, nên gọi là "Long

tỵ" (CMCB2, 22a). Huyện Bình Chính nay là huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng

Bình.

7 Cương mục chú: điện phía tây tức là điện Giảng Vũ.

Dương2 nước ta. Đại Nguyên Lịch là một giống người Di ở vào khoảng giữa

hai vùng đất ấy. Về sau, Nùng Trí Cao làm phản, chiếm châu Thảng Do3, gọi

nước là Đại Lịch, ngờ là chỗ này).

Quý Hợi, [Thuận Thiên] năm thứ 14 [1023], (Tống Nhân Tông, húy Trinh, Thiên

Thánh năm thứ

1). Mùa thu, tháng 9, xuống chiếu chép kinh Tam tạng để ở kho Đại Hưng, đổi

trấn Triều Dương làm châu Vĩnh An.

Giáp Tý, [Thuận Thiên] năm thứ 15 [1024], (Tống Thiên Thánh năm thứ 2). Mùa

xuân, xuống chiếu cho Khai Thiên Vương [Phật Mã] đi đánh Phong Châu, Khai

Quốc Vương [Bồ] đi đánh châu Đô Kim.

Sửa chữa kinh thành Thăng Long.

Mùa thu, tháng 9, làm chùa Chân Giáo ở trong thành để vua tiện ngự xem tụng

kinh.

Ất Sửu, [Thuận Thiên] năm thứ 16 [1026], (Tống Thiên Thánh năm thứ 3). Mùa

xuân, tháng 2, nước Chân Lạp sang cống.

Xuống chiếu lập trại Định Phiên4 ở địa giới phía nam châu Hoan, cho quân

giáp Lý Thai Giai làm

chủ.

Mùa thu, [10a] tháng 8, định binh làm giáp, mỗi giáp 15 người, dùng một

người quản giáp. Lại

định các cấp bậc quản giáp (khi ấy có con hát là Đào thị, giỏi nghề hát,

thường được ban thưởng. Người thời bấy giờ hâm mộ tiếng hát của Đào thị,

phàm các con hát đều gọi là Đào nương).

Sư Vạn Hạnh chết (Vạn Hạnh không bệnh mà mất, người bấy giờ nói là hóa

thân).

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Sư Vạn Hạnh mới trông thấy Lý Thái Tổ, biết là

người khác thường, đến khi thấy sét đánh thành vết chữ thì đoán biết thời

thế thay đổi, như thế là có tri thức vượt người thường vậy. Nhưng dứt tính

mệnh, bỏ nhân luân, chán trần tục ồn ào, nương cửa thiền tịch mịch, để

trong sạch lấy một mình, người quân tử không cho là phải.

Bính Dần, [Thuận Thiên] năm thứ 17 [1026], (Tống Thiên Thánh năm thứ 4).

Mùa xuân, tháng giêng, xuống chiếu làm Ngọc điệp.

Mùa thu, tháng 8, [10b] sai Lý Trưng Hiển và Lê Tái Nghiêm sang nước Tống

kết hảo. Mùa đông, tháng 11, nước Chân Lạp sang cống.

Xuống chiếu cho Khai Thiên Vương đi đánh giặc ở Diễn Châu.

Đinh Mão, [Thuận Thiên] năm thứ 18 [1027], (Tống Thiên Thánh năm thứ 5).

Mùa hạ, tháng 6,

đại hạn.

Mùa thu, tháng 8, xuống chiếu chép kinh Tam tạng. Xuống chiếu cho Khai

Thiên Vương [Phật

Mã] đi đánh châu Thất Nguyên5, Đông Chinh Vương [Lực] đi đánh Văn Châu6.

Mậu Thìn, [Thuận Thiên] năm thứ 19 [1028], (Từ tháng 3 về sau là niên hiệu

Lý Thái Tông, Thiên Thành năm thứ 1; Tống Thiên Thánh năm thứ 6).

1 Cương mục dẫn Khâm Châu chí nói trại Như Hồng ở phía tây Khâm Châu, giáp

với trấn Như Tích, cách châu Vĩnh An của nước ta

20 dặm (CMCB2, 23b). Châu Vĩnh An tên cũ là trấn Triều Dương (đổi năm

1023), nay là đất huyện Hải Ninh, tỉnh Quảng Ninh.

2 Triều Dương: tên trấn thời Lý, xem chú thích về trại Như Hồng ở trên.

3 Thảng Do: tên châu thời Lý, nơi Nùng Trí Cao làm phản lập ra nước Đại

Lịch, ở về phần đất tỉnh Cao Bằng ngày nay (theo Độc sử

phương dư kỷ yếu; CMCB, 43a). Như vậy, điều ngờ ghi trong câu tiếp theo của

nguyên chú không đúng.

4 Trại Định Phiên: trại định cư của người Phiên chỉ các tù binh Chiêm

Thành.

5 Thất Nguyên: tên châu thời Lý, nay là huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn.

6 Văn Châu: tên châu thời Lý, nay là đất huyện Văn Quan và một đất huyện

Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn.

Mùa xuân, tháng 2, vua không khỏe. Tháng 3, ngày mồng 1 Bính Thân, nhật

thực. Ngày Mậu

Tuất, vua băng ở điện Long An. Bề tôi đều đến cung Long Đức xin thái tử

vâng di chiếu lên ngôi. Ba vương là Đông Chinh [Lực], Dực Thánh và Vũ Đức1

nghe tin đều đem quân ở phủ mình vào phục sẵn trong cấm thành. Đông Chinh

Vương phục ở trong Long Thành, hai vương Dực Thánh và Vũ Đức phục trong cửa

Quảng Phúc, đợi thái tử đến thì đánh úp. [11a]. Một lát sau, thái tử từ cửa

Tường Phù vào, đến điện Càn Nguyên, biết có biến, sai người hầu đóng hết

các cửa điện và sai các vệ sĩ trong cung phòng giữ, nhân bảo tả hữu rằng:

"Ta đối với anh em không phụ bạc chút nào. Nay ba vương làm việc

bất nghĩa, quên di mệnh của Tiên đế, mưu chiếm ngôi báu, các khanh nghĩ thế

nào?" Nội thị là Lý Nhân Nghĩa nói: "Anh em với nhau, bên trong có thể hiệp

sứ bàn mưu, bên ngoài có thể cùng nhau chống giặc. Nay ba vương làm phản,

thì là anh em hay là kẻ thù? Xin cho bọn thần đánh một trận để quyết được

thua". Thái tử nói: "Ta lấy làm xấu hổ là Tiên đế mới mất chưa quàn mà cốt

nhục đã giết nhau, há chẳng để cho muôn đời chê cười sao?" Nhân Nghĩa nói:

"Thần nghe rằng muốn mưa xa thì phải quên công gần, giữ đạo công thì phải

dứt tình riêng, đó là việc Đường Thái Tông và Chu Công Đán bất đắc dĩ phải

làm2. Nay điện hạ có cho Đường Thái và Chu Công là chăm [11b] mưu xa, giữ

đạo công chăng? Hay là tham công gần, đắm tình riêng chăng? Điện hạ biết

theo dấu cũ của Đường Thái, Chu Công thì

đời sau ca tụng công đức còn chưa rỗi, còn rỗi đâu mà chê cười!". Nhân

Nghĩa lại nói: "Tiên đế cho điện

hạ là người hiền, đủ để nối được chí, tài đủ để làm nổi việc, nên đem thiên

hạ phó thác cho điện hạ. Nay giặc đến vây bức cửa cung mà ẩn nhẫn như thế,

thì đối với sự phó thác của Tiên đế ra sao?" Thái tử im lặng hồi lâu rồi

bảo Nhân Nghĩa và bề tôi trong cung là bọn Dương Bình, Quách Thịch, Lý

Huyền Sư, Lê Phụng Hiểu rằng: "Ta há lại không biết việc làm của Đường

Thái, Chu Công hay sao? Chỉ vì ta muốn che giấu tội ác của ba vương, khiến

họ tự ý rút quân chịu tội để được vẹn toàn tình cốt nhục là hơn".

Khi ấy phủ binh của ba vương vây bức càng gấp, Thái tử liệu không thể ngăn

được, nói: "Thế đã như vậy, ta còn mặt mũi nào trông thấy ba vương nữa. Ta

chỉ biết làm lễ thành [12a] phục đứng hầu Tiên đế, ngoài ra đều ủy cho các

khanh cả". Bọn Nhân Nghĩa đều lạy hai lạy nói: "Chết vì vua gặp nạn là chức

phận của bọn thần. Nay đã được chỗ đáng chết, còn từ chối gì nữa!" Bèn ra

lệnh cho vệ sĩ trong cung mở cửa ra đánh, ai cũng vui lòng xông pha, đều là

một người địch với trăm người. Quân đánh nhau chưa phân được thua, Phụng

Hiểu tức giận rút gươm chạy thẳng đến cửa Quảng Phúc hô to rằng: "Bọn

Vũ Đức Vương ngắp nghé ngôi báu, không coi vua nối vào đâu, trên quên ơn

Tiên đế, dưới trái nghĩa tôi con, vì thế thần là Phụng Hiểu xin đem thanh

gươm này để dâng". Rồi xông thẳng đến chỗ ngựa của Vũ Đức Vương. Vương quay

ngựa tránh, ngựa quỵ xuống, bị Phụng Hiểu bắt giết. Phủ binh của ba vương

thua chạy. Quan quân đuổi theo chém giết không sót một mống, chỉ có hai

vương Đông Chinh và Dực Thánh chạy thoát được.

Bọn Phụng Hiểu trở về, mặc áo trận đi vào báo tin thắng trận ở trước linh

cữu Thái Tổ, rồi [12b] đến điện Càn Nguyên báo cho thái tử biết. Thái tử úy

lạo rằng: "Ta sở dĩ được gánh vác cơ nghiệp to lớn của tiên đế, toàn vẹn

được thân thể của cha mẹ để lại đều là nhờ sức của các khanh cả. Ta thường

xem

sử nhà Đường thấy Uất Trì Kính Đức giúp nạn vua, tự nghĩ là bề tôi đời sau

không ai sánh được. Ngày nay gặp biến, mới biết Phụng Hiểu còn trung dũng

hơn Kính Đức nhiều". Phụng Hiểu lạy tạ hai lạy nói: "Đức của điện hạ cảm

động cả trời đất, kẻ nào manh tâm mưu đồ gì khác thì trời đất thần linh đều

làm

hết chức phận mà giết đi, bọn thần có công sức gì!" (Phụng Hiểu người hương

Băng Sơn3 ở Ái Châu, từ

khi còn nhỏ đã có sức vóc hùng dũng. Hai thôn Cổ Bi và Đàm Xá tranh nhau

địa giới, toan đánh nhau, Phụng Hiểu bảo người thôn Cổ Bi rằng: "Một mình

tôi có thể đánh được bọn họ". Các phụ lão mừng lắm, làm cơm rượu để thết.

Phụng Hiểu ăn một bữa mấy đấu gạo, uống cũng quá mức, rồi đến khiêu chiến

với thôn Đàm Xá. Phụng Hiểu cứ đứng thẳng lưng nhổ cây mà đánh tới tấp,

nhiều người bị thương. Thôn Đàm Xá sợ, phải trả lại ruộng cho thôn Cổ Bi.

Thái Tổ nghe danh, dùng làm tướng, thăng đến chức Vũ vệ tướng quân. Đên đây

có công dẹp nạn, thăng Đô thống thượng tướng quân, tước hầu. Trong khoảng

1 Dực Thánh Vương: xem chú thích tr.???; Vũ Đức Vương: chưa rõ, từ trên

đến đây chưa thấy nói đến Vũ Đức Vương.

2 Trưởng Tôn Vô Kỵ và Uất Trì Kính Đức giết hai anh của Lý Thế Dân là Kiến

Thành và Nguyên Cát để giữ ngôi vua cho Thế Dân (Đường Thái Tông). Chu Công

Đán giết em là Quản Thúc và đày một em khác là Thái Thúc để giữ ngôi vua

cho cháu là Thành Vương.

3 Băng Sơn: theo (CMCB2, 28b) là xã Dương Sơn, nay thuộc huyện Hoằng Hóa,

tỉnh Thanh Hóa.

niên hiệu Thiên Cảm Thánh Vũ [1044 -1048] theo Thái Tông đi đánh ở miền

nam, làm tiên phong, phá

tan quân giặc, danh tiếng rung động nước Phiên. [13a]. Khi thắng trận trở

về định công, Phụng Hiểu nói: "Thần không muốn thưởng tước, xin cho đứng

trên núi Băng Sơn ném đao lớn đi xa, đao rơi xuống chỗ nào trong đất công1

thì xin ban cho làm sản nghiệp. Vua nghe theo. Phụng Hiểu lên núi, ném đao

xa hơn đến nghìn dặm, đao rơi xuống hương Đa Mi. Vua bèn lấy số ruộng ấy

ban cho, tha thóc thuế cho ruộng ném đao ấy. Vì vậy người Châu Ái gọi

[ruộng] thưởng công là [ruộng] ném đao).

Lê Văn Hưu nói: Nhà Lý phong cho các con mẹ đích đều làm vương, các con mẹ

thứ đều làm hoàng tử mà không đặt ngôi hoàng thái tử. Đến khi nào vua ốm

nặng mới chọn một người trong các con cho vào để nối nghiệp lớn. Truyền dần

thành tục, không biết là ý thế nào. Có người nói: "Nhà Lý không đặt thái tử

trước là vì muốn cho các con chăm làm điều thiện. Nếu lập ngôi thái tử thì

phận vua tôi đã định dù có con hiền như Vi Tử2 cũng không biết xử trí thế

nào. Đáp rằng: Gốc thiên hạ đã định rồi mà còn có cái họa như Dương Quảng

làm ra vẻ có đức hạnh3 để cướp ngôi đích, huống chi ngôi thái tử không lập

trước, đến khi vội vàng mới chọn lập, không may có việc như ba phu [13b]

nhân nài xin lập con khác, Từ Văn Thông mua bút sửa di chiếu4 thì dù muốn

không bằng lòng cũng chẳng được nữa. Người có nước nhà nên lấy đó làm răn.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Cùng lòng, cùng đức, tất sự nghiệp có thể thành.

Có vua, có tôi, gian hiểm nào cũng vượt được. Thái Tông đương lúc đau xót,

biến loạn sinh ngay kẽ nách mà vua tôi xử trí gãy gọn phải lẽ, vượt được

hiểm nạn, làm nên sự nghiệp, tông miếu nhờ đó được vững yên. Không phải là

vuà tôi gặp gỡ cùng đức cùng lòng mà được như thế ư? Xem sử chép thì tình

cảm chân thành của Thái Tông phát ra ở câu nói "cốt nhục giết nhau", lòng

trung phẫn khích của Nhân Nghĩa tỏ ở chỗ dẫn việc Đường Thái, Chu Công,

lòng nghĩa dũng hăng hái của Phụng Hiểu lộ ra ở lúc nhảy ngựa dâng gươm.

Đến khi xong việc, vua [14a] tôi không một chút khoe khoang, cố nhiên là

không

có gì đáng chê. Còn như việc chưa qua năm đã đổi niên hiệu thì không thể

không bàn đến được. Theo phép kinh Xuân thu thì khi vua cũ mất, vua nối lên

ngôi ngay khi bắt đầu phát tang, qua năm ấy rồi mới đổi niên hiệu. Chép

việc lên ngôi, theo nghĩa trước sau thì một năm không thể có hai vua được,

theo lòng thần dân thì không thể bỏ trống một năm không có vua. Đó là lễ

vậy. Thái Tông lại mạo nhận năm [ở ngôi] của tiên đế mà đặt niên hiệu là

thế nào? Phàm năm này sang năm khác theo can chi là sự chuyển vận của trời.

Người làm vua theo phép trời, nhân sự vận hành của can chi mà chép năm

ở ngôi lâu hay chóng, từ xưa đã như thế. Vua [Thái Tông] tinh thông lễ nhạc

thư số, lại không xét việc ấy mà làm rối, để cho đời sau noi theo việc cũ,

nối gót mà làm, ấy là lỗi lớn vậy.

Ngày Kỷ Hợi, Thái tử Phật Mã lên ngôi trước linh cữu. Tôn mẹ là Lê thị làm

Linh Hiển [14b] thái hậu. Đại xá thiên hạ. Đổi niên hiệu là Thiên Thành năm

thứ 1.

Ngày ấy, hai vương Đông Chinh và Dực Thánh đến cửa khuyết xin chịu tội.

Xuống chiếu tha cho,

lại cho tước như cũ.

1 Nguyên văn là "Quan địa".

2 Vi Tử: tên là Khải, anh của vua Trụ nhà Thương, Trụ dâm loạn, Vi Tử

nhiều lần khuyên can, bị Trụ đuổi đi.

3 Dương Quảng là con thứ của Tùy Văn Đế, đáng không được lập làm thái tử,

nhưng vì hoàng thái tử là Dương Dũng tính nết kiêu

xa. Văn Đế ghét. Quảng biết ý, vờ tỏ ra có đức hạnh để chiếm lòng yêu của

Văn Đế, quả nhiên Văn Đế bỏ Dũng, lập Quảng làm thái tử. Sau đó Văn Đế hối,

muốn sửa lại, Quảng bèn giết cả Văn Đế và Dũng để làm vua.

4 Ba phu nhân nói đây là Cảm Thánh, Nhật Phong, Phụng Thánh, đều là vợ của

Lý Thần Tông. Trước Thần Tông đã cho Thiên Lộc làm hoàng thái tử, đến khi

Thần Tông ốm nặng, ba phu nhân đến xin đổi lập Thiên Tộ làm thái tử (Xem

BK3, 42a). Tham tri chính

sự Từ Văn Thông nhận lời giúp ba phu nhân, nhưng cầm bút chờ Thần Tông đổi

ý chứ không tự ý sửa di chiếu (Cũng xem BK2,

42a).

Bầy tôi dâng tôn hiệu là Khai Thiên Thống Vận Tôn Đõo Quý Đức Thánh Văn

Quảng Vũ Sùng

Nhân Thượng Thiện Chính Lý Dân An Thần Phù Long Hiện Thể Nguyên Ngự Cực Ức

Tuế Công Cao Ứng

Chân Bảo Lịch Thông Huyền Chí Áo Hưng Long Đại Địch Thông Minh Từ Hiếu

Hoàng Đế.

Vua nhận việc mời lên ngôi, xuống chiếu cho lấy tiền lụa ở kho lớn ban cho

thiên hạ (ngày 15

Canh Thân).

Khai Quốc Vương làm phản. Trước vương đóng ở phủ Trường Yên, cậy có núi

sông hiểm trở, tụ

tập những kẻ trốn tránh, cướp bóc dân mọn, Thái Tổ không hề hay biết, nuôi

thành tội ác. Đến khi nghe

Thái Tổ băng, Vũ Đức Vương bị giết, lòng càng bất bình, bèn đem phủ binh

làm phản.

Phong tước vương cho thần núi Đồng Cổ, dựng miếu để tuế thời cúng tế và

[15a] làm lễ thề. Trước đây, một hôm trước khi ba vương làm phản, vua chiêm

bao thấy một người tự xưng là thần núi Đồng Cổ nói với vua về việc ba vương

Vũ Đức, Đông Chinh, Dực Thánh làm loạn, phải mau đem quân dẹp ngay. Tỉnh

dậy liền sai phòng bị, quả nhiên ứng nghiệm. Đến đây xuống chiếu giao cho

Hữu ty dựng miếu ở bên hữu thành Đại La sau chùa Thánh Thọ, lấy ngày 25

tháng ấy, đắp đàn ở trong miếu, cắm cờ

xí, chỉnh đốn đội ngũ, treo gươm giáo ở trước thần vị, đọc lời thề rằng:

"Làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, xin thần minh giết chết". Các quan từ

cửa đông đi vào, đến trước thần vị cùng uống máu ăn thề, hàng năm lấy làm

lệ thường. Sau vì tháng 3 có ngày quốc kỵ, chuyển sang mồng 4 tháng 4.

Mùa hạ, tháng 4, vua thân đi đánh phủ Trường Yên, cho nội thị Lý Nhân Nghĩa

ở lại giữ Kinh sư. Ngày Nhâm Thân đến Trường Yên. Ngày ấy, Khai Quốc Vương

đầu hàng. Vua hạ lệnh rằng: "Ai cướp bóc của cải của [15b] dân thì chém".

Quân sĩ nghiêm theo, không mảy may xâm phạm. Đại quân vào thành Trường Yên,

dân trong thành đem dâng biếu trâu rượu đứng đầy đường. Vua sai sứ tuyên

chỉ ủy lạo, cả thành vui to. Xuống chiếu dời Khai Quốc Vương và các liêu

thuộc của vương về kinh Thăng Long. Vua từ phủ Trường Yên về, xuống chiếu

tha tội cho Khai Quốc Vương, vẫn cho tước như cũ.

Tháng 5, ngày 6, có dấu vết của thần nhân hiện ra ở chùa Vạn Tuế. Bầy tôi

dâng lời nói: "Thái tử

là gốc của thiên hạ, gốc đứng thì thiên hạ yên, xin bệ hạ sớm chọn con nối

hiền lập ngôi Đông cung, để

thỏa lòng mong của thiên hạ". Vua nghe theo, sách phong hoàng tử Nhật Tôn

làm Đông cung thái tử.

Lập bảy hoàng hậu.

Tháng 11, cho cha của Mai hoàng hậu là Hựu làm An quốc thượng tướng, cha

của Vương hoàng hậu là Đỗ làm Phụ quốc thượng tướng, cha của Đinh hoàng hậu

là Ngô Thượng làm Khuông quốc thượng tướng.

[16a] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Thân thích của hoàng hậu được quý hiển, đời

trước cũng đã có. Tuy vậy, lấy thích thuộc cũng phải lấy người có tài. Bọn

Hựu quả là có

tài chăng? Thì không cứ là cha của hoàng hậu là phải, trao tước phong là

không phải. Hoặc có người nói: Đây là ân sủng đặc biệt chỉ cho tước, chứ

không cho quyền. Trả lời rằng: Tước cũng đã cao rồi, sao lại có

danh hiệu an quốc, phụ quốc, khuông quốc thượng tướng quân mà lạm

cho kẻ không có công lao!

Lấy Lương Nhậm Văn làm Thái sư. Ngộ Thượng Đinh1 làm Thái phó, Đào Xử

Trung làm Thái bảo,

Lý Đạo Kỷ làm Tả khu mật, Lý Triệt làm Thiếu sư, Xung Tân làm Hữu khu mật,

Lý Mật làm Tả tham tri chính sự, Kiểu Bồng làm Hữu tham tri chính sự, Liêu

Gia Trinh2 [16b] làm Trung thư thị lang, Hà Viễn làm Tả gián nghị đại phu,

Đỗ Sấm làm Hữu gián nghị đại phu, Nguyễn Quang Lợi làm Thái úy, Đàm Toại

Trang làm Đô thống, Vũ Ba Tu làm Uy vệ thượng tướng, Nguyễn Khánh làm Định

thắng đại tướng, Đào Văn Lôi làm Tả phúc tâm, Lý Nhân Nghĩa làm Hữu phúc

tâm, Phan Đường Liệt làm Nội thị.

Đặt các cấp bậc của tăng đạo.

1 Có sự lầm lẫn về cách ghi họ tên người cha của Đinh hoàng hậu. Ở trên

ghi: cha của Mai hoàng hậu là Hựu thì có thể hiểu người

đó là Mai Hựu..., cha của Đinh hoàng hậu là Ngô Thượng thì có thể hiểu

người đó là Đinh Ngô Thượng. Ở đây Toàn thư lại ghi

Ngô Thượng Đinh? Đại Việt sử lược (q2, tờ 5a) cũng ghi là Ngô Thượng Đinh.

Chưa rõ nhầm lẫn do đâu.

2 Đại Việt sử lược chép là Liêu Gia Chân (Chân và Trinh có thể lầm với

nhau).

Đặt 10 vệ điện tiền cấm quân: 1. Quảng Thánh, 2. Quảng Vũ, 3. Ngự Long, 4.

Bổng Nhật, 5.

Trừng Hải. Mỗi vệ đều chia ra tả hữu trực, đi quanh để bảo vệ bên trong cấm

thành, cộng là 10 vệ.

Tháng 6, lấy ngày sinh của vua làm tiết Thiên Thánh. Lấy tre làm núi Vạn

Tuế Nam Sơn ở Long

trì: kiểu núi làm thành năm ngọn, trên đỉnh ngọn ở giữa dựng núi Trường

Thọ, bên đỉnh bốn ngọn xung quanh đều đặt núi Bạch Hạc, trên núi làm hình

dạng các giống chim bay [17a] thú chạy, lưng chừng núi

có rồng thần cuốn quanh, cắm xen các thứ cờ, treo lẫn vàng ngọc, sai con

hát1 thổi sáo thổi kèn trong hang núi, dâng ca tấu múa làm vui, cho các

quan ăn yến. Quy chế núi năm ngọn bắt đầu từ đấy.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Mừng ngày sinh là lễ lớn. Bề tôi chúc mừng vua,

vua ban yến cho bề tôi, vua tôi hòa hợp để thông tình trên dưới, lễ vốn nên

như thế. Song vua đương để tang mà vui chơi hết mức, không nghĩ đến việc

tiên đế chưa chôn sao? Cái lòng đau đớn thương xót, có lẽ không còn gì.

Mùa đông, tháng 10, táng [tiên đế] ở Thọ Lăng, phủ Thiên Đức, đặt thụy là

Thần Vũ Hoàng Đế, miếu hiệu là Thái Tổ.

[17b] Lê Văn Hưu nói: Thời cổ, khi thiên tử đã băng, xây Lăng an táng linh

cữu, hoặc gọi là Mậu Lăng hoặc gọi là Xương Lăng; để văn chương ở các, hoặc

gọi là Hiển Mô, hoặc gọi là Bảo Văn. Nay nhà Lý, lăng các đời chỉ gọi chung

là Thọ Lăng, các gọi là Long Đồ, có lễ bấy giờ vua không có học mà các nho

thần cũng không biết sửa chữa hoặc không có sức kê cứu việc cổ vậy.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Lý [Thái Tổ] dấy lên, trời mở điềm lành hiện ra ở

vết cây sét đánh. Có đức tất có ngôi, bởi lòng người theo về, lại vừa sau

lúc Ngọa Triều hoang dâm bạo ngược mà vua thì vốn có tiếng khoan nhân, trời

thường tìm chủ cho dân, dân theo về người có đức, nếu bỏ vua thì còn biết

theo ai! Xem việc vua nhận mệnh sâu sắc lặng lẽ, dời đô yên nước, lòng nhân

thương dân, lòng thành cảm trời, cùng là đánh dẹp phản loạn, Nam Bắc [18a]

thông hiếu, thiên hạ bình yên, truyền ngôi lâu đời, có thể thấy là có mưu

lược của bậc đế vương. Duy có việc ham thích đạo Phật, đạo Lão là chỗ kém.

THÁI TÔNG HOÀNG ĐẾ

Tên húy là Phật Mã, một tên khác là Đức Chính, con trưởng của Thái Tổ. Mẹ

là hoàng hậu họ Lê, sinh vua vào ngày 26 tháng 6 năm Canh Tý,

niên hiệu Ứng Thiên năm thứ 7

[1000] thời Lê, ở phủ Trường Yên. Thái Tổ được nhường ngôi, lập Đông cung

thái tử. Khi Thái

Tổ băng, nhờ có Phụng Hiểu trung dũng, đồng lòng cứu nạn, lên ngôi hoàng

đế, ở ngôi 27 năm [1028 - 1054], thọ 55 tuổi [1000 - 1054], băng ở điện

Trường Xuân. Vua là người trầm mặc, cơ trí, biết trước mọi việc, giống như

Hán Quang Vũ đánh đâu được đấy, công tích sánh với Đường Thái Tông. Nhưng

người quân tử còn lấy việc khoe khoang thái quá để chê trách vua chưa hiền.

Khi vua mới sinh, ở phủ Trường Yên có con trâu của nhà dân tự nhiên thay

sừng khác, người ấy cho là điềm không lành, lấy làm lo. Có người giỏi chiêm

nghiệm đi qua nhà ấy cười mà nói: "Đó là điềm

đổi mới, can dự gì đến nhà anh". Người ấy [18b] mới hết lo.

Vua có bảy cái nốt ruồi sau gáy, như sao thất tinh2. Khi còn nhỏ cùng trẻ

con chơi đùa, có thể sai bảo được chúng, bắt chúng đi dàn hầu trước sau và

hai bên như nghi vệ các quan theo hầu vua. Thái Tổ thấy thế vui lòng, nhân

nói đùa rằng: "Con nhà tướng nên bắt chước việc quân, cần gì phải kẻ rước

người hầu?" Vua trả lời ngay rằng: "Kẻ rước người hầu thì có xa lạ gì với

con nhà tướng? Nếu xa lạ thì

1 Nguyên văn là "linh nhân".

2 Thất tinh: tức là chòm sao Bắc đẩu (có 7 sao).

sao ngôi vua không ở mãi họ Đinh mà lại về họ Lê, đều do mệnh trời thôi".

Thái Tổ kinh lạ, từ đấy càng

yêu quý hơn. Khi Thái Tổ nhận nhường ngôi, lập làm Đông cung thái tử. Năm

Thuận Thiên thứ 3 [1012], phong làm Khai Thiên Vương, cho ra ở bên ngoài.

Năm thứ 11 [1020] cho làm Nguyên soái đi đánh Chiêm Thành có trại Bó Chính.

Đại quân vượt biển, đến núi Long Tỵ [19a] có rồng vàng hiện ở thuyền ngự,

chỉ một mình vua đỡ lấy con rồng. Đến nơi, đánh tan quân Chiêm, bắt được

tướng đem về. Năm thứ 19 [1027], mùa xuân, tháng 3, ngày mồng 1 Bính Thân,

vua lấy áo ngự ban cho Trần Tuệ Long là đạo sĩ ở quán Nam Đế. Đêm ấy có ánh

sáng khắp trong quán. Tuệ Long kinh ngạc dậy xem thì thấy rồng vàng hiện ở

mắc áo. Các việc ấy đều là mệnh trời, đến đây đều thấy phù hợp cả. Vua bẩm

tính nhân từ, sáng suốt dĩnh ngộ, thông hiểu đại lược văn võ, còn như lục

nghệ lễ nhạc, ngự xạ, thư số không môn gì

là không tinh thông am tường.

Kỷ Tỵ, niên hiệu Thiên Thành năm thứ 2 [1029], (Tống Thiên Thánh năm thứ

7). Mùa xuân, tháng 2, ngày Nhâm Ngọ, khánh thành miếu Thái Tổ.

Tháng 3, ngày mồng 7, gả công chúa Bình Dương cho châu mục châu Lạng1 là

Thân Thiệu Thái.

[19b] Giáp Đản Nãi2 ở châu Ái làm phản. Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 1, vua

thân đi đánh giáp

Đản Nãi, cho Đông cung thái tử ở lại Kinh sư làm Giám quốc. Khi đánh được

giáp Đản Nãi rồi, sai Trung

sứ đốc suất người Đản Nãi đào kênh Đản Nãi. Vua từ Đản Nãi trở về Kinh sư.

Có dấu người thần hiện ở chùa Thắng Nghiêm. Tháng 6, rồng hiện lên ở nền

điện Càn Nguyên. Vua nói với tả hữu rằng: "Trẫm phá điện ấy, sang phẳng nền

rồi mà rồng thần còn hiện. Có lẽ đó là đất tốt, đức lớn hưng thịnh, ở chỗ

chính giữa trời đất chăng?" Bèn sai Hữu ty mở rộng quy mô, nhắm lại phương

hướng mà làm lại, đổi tên là điện Thiên An. Bên tả dựng điện Tuyên Đức, bên

hữu dựng điện Diên Phúc, thềm trước điện gọi là Long Trì (thềm rồng). Phía

đông thềm rồng đặt điện Văn Minh, phía

tây đặt điện Quang Vũ, hai bên tả hữu thềm rồng đặt lầu chuông đối nhau để

dân chúng ai có việc kiện tụng oan uổng thì đánh chuông lên. Bốn xung quanh

thềm rồng đều có hành lang để [20a] tụ họp các quan và sáu quân túc vệ.

Phía trước làm điện Phụng Thiên3, trên điện dựng lầu Chính Dương làm nơi

trông coi tính toán giờ khắc, phía sau làm điện Trường Xuân, trên điện dựng

gác Long Đồ làm nơi nghỉ ngơi du ngoạn. Bên ngoài đắp một lần thành bao

quanh gọi là Long Thành.

Mùa thu, tháng 8, châu Hoan dâng kỳ lân.

Mùa đông, tháng 10, ngày mồng 1, trời mưa gạo trắng thành đống trước bậc

thềm chùa Vạn

Tuế.

Năm ấy, sứ nhà Tống là Chương Dĩnh sang làm lễ điếu tang. Lại sai sứ sang

phong vua làm

Quận Vương.

Canh Ngọ, [Thiên Thành] năm thứ 3, [1030], (Tống Thiên Thánh năm thứ 8).

Mùa xuân, tháng

2, làm điện Thiên Khánh ở trước điện Trường Xuân để làm chỗ nghe chính sự.

Điện làm kiểu bát giác, trước sau đều bắc cầu Phượng Hoàng.

Mùa hạ, tháng 4, sai Đại liêu ban4 Lê Ốc Thuyên và Viên ngoại lang Nguyễn

Viết Thân sang nhà

Tống [20b] để đáp lễ.

Định kiểu mũ áo của các công hầu văn võ.

Mùa đông, tháng 10, được mùa to. Ngày 14, vua thân ra ruộng ở Điểu Lộ5 xem

gặt, nhân đổi tên cánh ruộng ấy gọi là ruộng Vĩnh Hưng. Ngày ấy, trở về

cung.

1 Lạng Châu: tên châu thời Lý, nay là đất Lạng Sơn.

2 Đản Nãi: tên giáp, có lẽ là vùng Đan Nê, huyện Thiệu Yên, tỉnh Thanh

Hóa, nơi có núi Đồng Cổ (xem BK1, 16b).

3 Phụng Thiên: Cương mục chép là Phụng Tiên (CMCB2, 34a).

4 Đại liêu ban: tên tước của triều Lý.

5 Nguyên văn: "Điểu Lộ điền". Tên đất này được nhắc đến hai lần trong Toàn

thư, ở đây và cách 3 tờ sau (BK2, 25a), đều khắc in

rõ chữ "Điểu". Các bản in sau bản Chính Hòa như bản VHv. 2330 (BK2, 20b và

25a), và các bản in của Quốc tử giám triều Nguyễn

Tân Mùi, [Thiên Thành] năm thứ 4 [1031], (Tống Thiên Thánh năm thứ 9). Mùa

xuân, tháng

giêng, châu Hoan làm phản.

Tháng 2, ngày mồng 1, vua thân đi đánh châu Hoan, cho Đông cung thái tử làm

Giám quốc. Quân đi từ Kinh sư đến châu Hoan, người châu ấy đầu hàng. Xuống

chiếu tha tội cho các quan châu huyện, sai Trung sứ phủ dụ dân chúng.

Tháng 3, vua từ châu Hoan về đến Kinh.

Xuống chiếu phát tiền thuê thợ làm chùa quán ở các hương ấp, tất cả 150

chỗ1. Mùa thu, tháng 8, mở hội chay để khánh thành. Đại xá thiên hạ.

Mùa đông, tháng 10, ngày mồng 1, đạo sĩ là Trịnh Trí Không tâu xin cho các

đạo sĩ được nhận ký lục2 ở cung Thái Thanh. Vua y cho.

Nhâm Thân, [Thiên Thành] năm thứ 5 [1032], (Tống Minh Đạo năm thứ 1). Mùa

xuân, tháng 2, chùa Thích Ca ở trước quán Lôi Công có cây ưu đàm3 [21a] nở

hoa.

Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 1, vua ngự đến Tín Hương ở Đỗ Động giang cày

ruộng tịch điền, có nhà nông dâng một cây lúa chiêm có 9 bông thóc. Xuống

chiếu đổi gọi ruộng ấy là ruộng Ứng Thiên. Ngày ấy trở về cung.

Mùa thu, tháng 9, vua đi châu Lạng bắt voi, rồi từ châu Lạng trở về. Mùa

đông, tháng 11, ban yến cho các quan ở điện Thiên An.

Quý Dậu, [Thiên Thành] năm thứ 6 [1033], (Tống Minh Đạo năm thứ

2). Mùa xuân, tháng giêng, nước Chân Lạp sang cống.

Châu Định Nguyên4 làm phản. Tháng 2, vua thân đi đánh, cho Đông cung thái

tử giám quốc. Mồng 85, quân đi từ Kinh sư, đóng lại ở châu Chân Đăng6, có

người đàn bà họ Đào1 dâng con gái, vua nhận cho làm phi. Ngày 17, dẹp được

châu Định Nguyên, đem quân về.

(như bản ký hiệu A.3 v.v...) đều in là Điểu Lộ, như bản Chính Hòa. Nhưng

Đại Việt sử ký tiền biên (bản in đời Tây Sơn, BK2, 26b)

và Cương mục (CMCB2, 35a) đều in là "Ô Lộ điền". Hai chữ "Điêu" và "Ô" chỉ

khác nhau 1 nét ngang ngắn trong lòng chữ phía trên, rất dễ đọc và chép

nhầm với nhau. Vì Cương mục dùng sử liệu của Toàn thư, mỗi trường hợp sửa

chữa các chữ thường có chú giải. Nhưng ở đây không thấy nói đến việc sửa

chữ, do đó chưa rõ Cương mục hay Toàn thư chép đúng? Tạm phiên đúng theo

nguyên văn Toàn thư bản Chính Hòa. Cương mục chú: "Ô Lộ, Vĩnh Hưng: chưa rõ

đích xác ở đâu. Nhưng xét huyện Đông Yên, tỉnh Hưng Yên có tông Vĩnh Hưng,

có lẽ ở đây chăng?" (CMCB2, 35a).

1 Nguyên văn: "... Chiếu phát tiền nhầm công tạo tự quán vu hương ấp, phàm

bách ngũ thập sở". Các bản in của Quốc tử giám thời

Nguyễn (A. 3v.v...) và các bản VHv. 2330 (sau bản Chính Hòa) đều in là "...

vu hương ấp, cửu bách ngũ thập sở" (... ở các hương

ấp, tất cả 950 chỗ). Chữ "phàm" và chữ "cửu" dáng chữ gần giống nhau, dễ

đọc và chép nhầm. Có thể trước do bản VHv. 2330 in phỏng theo bản Chính

Hòa, sau các bản in đời Nguyễn theo đó nhầm tiếp. Cương mục có thể đã dùng

một bản Toàn thư thuộc loại nói trên cho nên cũng chép như thế (cửu bách

thập sở. CMCB2, 35b). Nhưng Đại Việt sử ký tân biên bản in thời Tây Sơn,

vẫn chép là "... phàm bách ngũ thập sở" (ĐVSKTB BK2, 26b). Đại Việt sử lược

(q.2, 5b) cũng chép rõ hơn: "tạo tự quán phàm nhất bách ngũ thập xứ". Xét

về kết cấu ngữ pháp, câu "... phàm bách ngũ thập sở" chưa được chuẩn xác,

nhưng kết hợp với Đại Việt

sử lược, chúng tôi dịch là "150 sở".

2 Nguyên văn: "thụ ký lục"; có nghĩa là nhận sự đăng ký, được chính thức

thừa nhận việc tu hành.

3 Nguyên văn: ưu đàm thụ, tên loài cây phiên âm từ tiếng Phạn: Udumbara

(cũng phiên là ưu đàm loát). Cây này có quả mà không

có hoa, truyền thuyết Phật giáo nói đó là điềm lành, 3.000 năm mới một lần

nở hoa. Có thể coi cây sung tương ứng với cây ưu

đàm, nhưng cây sung ở ta không có truyền thuyết như cây Udumbara của Ấn Độ.

4 Định Nguyên: tên châu thời Lý, có lẽ là miền tỉnh Yên Bái.

5 Nguyên văn: "Bát nguyệt" (tháng 8). Nhưng ở dưới ghi tiếp lại là: "mùa

thu, tháng 7". Như vậy chữ "nguyệt" ở đây là khắc in nhầm, đúng ra phải là

chữ "nhật" (ngày).

6 Chân Đăng: tên châu thời Lý. Cương mục chua là "thuộc tỉnh Sơn Tây, tức

phủ Lâm Thao bây giờ" (CMCB2, 37a). Phủ Lâm Thao thời Nguyễn là đất huyện

Phong Châu và một phần đất các huyện Thanh Hòa và Sông Thao tỉnh Vĩnh Phú

ngày nay. Nhưng có thể châu Chân Đăng thời Lý gồm cả một phần đất huyện Tam

Thanh (Tam Nông cũ)

Mùa thu, tháng 7, ngày 12, châu mục châu Vĩnh An là Sư Dụng Hòa tâu rằng

châu ấy2 có vực chân châu. Vua sai sứ đến tìm, quả nhiên tìm được.

Tháng 8, sách phong Đông cung thái tử [Nhật Tôn] [21b] làm Khai Hoàng

Vương, ở cung Long

Đức.

Ngày 13, vua ra ngoài cửa Trường Quảng xem phủ đệ của hoàng tử vừa xây

xong. Xuống chiếu đúc quả chuông một vạn cân để ở lầu chuông Long Trì.

Tháng 9, châu Trệ Nguyên3 làm phản.

Mùa đông, tháng 10, vua thân đi đánh châu Trệ Nguyên, cho Khai Hoàng Vương

giám quốc. Dẹp

yên châuTrệ Nguyên. Tháng 12, ngày mồng 1, vua đem quân về.

Giáp Tuất, [Thiên Thành] năm thứ 7 [1034], (Từ tháng 4 về sau là niên hiệu

Thông Thụy năm thứ 1, Tống Cảnh Hựu năm thứ 1). Mùa hạ, tháng 4, xuống

chiếu cho các quan tâu việc ở trước mặt vua

thì gọi vua là "triều đình".

Lê Văn Hưu nói: Thiên tử tự xưng là "trẫm", là "dư nhất nhân". Bề tôi xung

vua

là "bệ hạ", chỉ chỗ thiên tử ở là triều đình, chỉ chỗ chính lệnh ban ra là

"triều sảnh", từ

xưa không thay đổi xưng hô. Nay [Lý] Thái Tông bảo các quan gọi mình là

"triều đình",

[22a] sau [Lý] Thánh Tông tự xưng là "Vạn thặng", Cao Tông bảo người gọi

mình là "Phật" đều không theo phép ở đâu, mà là thích khoe

khoang. Khổng Tử nói: "Danh không chính thì nói không thuận" là thế.

Tháng ấy, đổi niên hiệu là Thông Thụy năm thứ 1. Bấy giờ hai nhà sư là

Nghiêm Bảo Tính và Phạm Minh Tâm thiêu mình cháy kết thành thất bảo4. Vua

xuống chiếu đem thất bảo ấy giữ ở chùa Trường Thánh để hương đèn thờ cúng.

Vua cho là việc lạ, đổi niên hiệu là Thông Thụy.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Thuyết nhà Phật gọi xá lỵ là tinh túy do tinh khí

tụ lại khi đốt xác, lửa không đốt cháy được cho nên gọi là bảo. Tương

truyền người nào học Phật thành thì thân hóa như thế. Có lẽ vì sự đoạn

tuyệt tình dục thì [22b] tinh khí kết lại thành ra như thế ấy. Người đời

không thường thấy, cho là lạ, có biết đâu là tinh khí dương tụ lại mà thành

thôi. Vua cũng mê hoặc việc ấy, nhân đó đổi niên hiệu. Từ đấy về sau,

những người hiếu danh cạo đầu làm sư, nhẫn nại chịu chết như loại Trí

Thông5 nhiều lắm.

Tháng 6, châu Hoan đem dâng con thú một sừng, sai Viên ngoại lang là Trần

Ứng Cơ, Vương

Văn Khánh đem sang biếu nhà Tống.

Mùa thu, tháng 8, vua ngự đến chùa Trùng Quang núi Tiên Du6, sai dựng kho

Trùng Hưng [để

chứa kinh].

Sai Viên ngoại lang là Hà Thụ, Đỗ Khoan đem biếu nhà Tống hai con voi

thuần. Nhà Tống lấy kinh Đại tạng để tạ.

Mùa đông, tháng 11, đóng thuyền lớn Vạn An.

1 Nguyên văn: "Đào đại di". Đại di là Bà dì. Cương mục chỉ chép "Hữu Đào

thị giả" (có người họ Đào..., CMCB2, 37a).

2 Nguyên bảin in: "lục châu", có lẽ là khắc in nhầm chữ "bản châu".

3 Trệ Nguyên: tên châu thời Lý, Cương mục chua "không thảo được" (CMCB2,

38a), có thể ở gần châu Định Nguyên.

4 Thất bảo: bảy thứ quý. Theo Pháp hoa kinh, bảy thứ ấy là: vàng, bạc, lưu

ly, xà cừ, ngọc, mã não, trân châu (ngọc trai) mai khôi

(ngọc đỏ). Các kinh khác như Vô lượng thọ, A Di Đà, Bát Nhã đều nói đến

thất bảo với một vài thứ khác.

5 Nhắc việc sư Trí Thông, thị gia hầu bảo tháp xá lị của Trần Nhân Tông ở

núi Yên Tử, tự thiêu thời Trần Minh Tông (1314-1329).

6 Núi Tiên Du: ở huyện Tiên Du, nay là huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc, còn có

tên là núi Phật Tích, lại có tên là núi Lạn Kha (do truyền thuyết nó Vương

Chất vào núi đốn củi, chống cán rìu xem hai ông già đánh cờ, tan cuộc nhìn

lại thấy cán rìu đã mục nát).

Năm ấy, sư Hưu ở chùa Pháp Vân, châu Cổ Pháp tâu rằng, trong chùa ấy phát

ra mấy luồng ánh

sáng, theo chỗ ánh sáng đào xuống được [23a] một cái hòm bằng đá, bên trong

có cái hòm bằng bạc, trong hòm bạc lại có hòm bằng vàng, trong hòm vàng có

bình lưu ly, trong bình đựng xá lỵ. Vua sai rước vào cấm điện, xem xong lại

trả lại.

Ất Hợi, [Thông Thụy] năm thứ 2 [1035], (Tống Cảnh Hựu năm thứ 2). Mùa xuân,

tháng 2, cỏ

chi mọc ở trước điện Thiên Khánh.

Mùa hạ, tháng 4, xuống chiếu làm chiếc ghế chéo hình bát giác thép vàng1.

Mùa thu, tháng 7, lập người thiếp yêu (không rõ tên) làm Thiên Cảm hoàng

hậu; phong hoàng

tử Nhật Trung làm Phụng Càn Vương, các hoàng tử khác đều phong tước hầu.

Mở chợ Tây Nhai và dãy phố dài2 ở chợ ấy.

Xuống chiếu bắc cầu Thái Hòa ở sông Tô Lịch. Tháng 9, cầu bắc xong, vua ngự

đến xem, sai các quan hầu làm thơ.

Người châu Ái làm phản. Mùa đông, tháng 10, vua thân đi đánh, cho Phụng Càn

Vương lưu thủ Kinh sư. Quân đi từ Kinh sư, đến châu Ái. Vua ngự ở hành

dinh, ban yến cho các quan hầu và tướng súy, ngầm chỉ Định thắng đại tướng

là Nguyễn [23b] Khánh mà bảo các phi tần rằng: "Khánh thế nào cũng làm

phản". Các phi tần đều kinh ngạc hỏi: "Bệ hạ làm sao mà biết? Xin nói cho

nghe nguyên do". Vua nói: "Khánh trong lòng không bình thường, nhìn

trẫm có vẻ hổ thẹn, đi đứng thất tiết, nói làm trái thường. Lấy

đó mà xem đủ biết là nó có ý khác, hình trạng làm phản rõ rồi". Đánh được

châu Ái, trị tội châu mục châu Ái, sai sứ đi phủ dụ dân chúng trong châu.

Kinh sư lưu thủ là Phùng Càn Vương Nhật Trung cho chạy trạm báo tin bọn nhà

sư họ Hồ, em nuôi của Định thắng đại tướng Nguyễn Khánh, Đô thống Đàm Toái

Trạng, Hoàng đệ Thắng Càn, Thái Phúc mưu phản, quả đúng như lời vua nói.

Các phi

tần đều lạy hai lạy nói: "Bọn thiếp nghe nói thánh nhân thấy được chỗ chưa

hiện hình, biết trước việc chưa xảy ra, nay được chính mắt trông thấy".

Vua xuống chiếu bắt bọn Khánh đóng cũi đem về Kinh sư. Tháng 11, ngày mồng

1, vua từ châu

Ái về đến Kinh, làm tiệc rượu mừng việc trở về. Ủy lại các tướng sĩ có công

dẹp châu Ái.

Vua ngự điện Thiên Khánh xét [24a] án bọn sư Hồ, Nguyễn Khánh;

đều phải xẻo thịt băm xương ở chợ Tây, còn những kẻ khác thì xét theo

tội nặng nhẹ.

Xuống chiếu phát 6 nghìn cân đồng để đúc chuông đặt ở chùa Trùng Quang3.

Chuông đúc xong,

sai người kéo đưa đến chùa. Chuông ấy không đợi sức người, tự di chuyển

được, chỉ khoảnh khắc đã

đến chùa.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Phàm vật hình vuông thì đứng, hình tròn thì đi,

chuông

có thể đi được là vì hình tròn. Có lẽ là kéo nó đi, không nhọc đến sức

người, như có thần giúp vậy. Nay ta hãy xem như cây gỗ lớn mười mấy người

khiêng không nổi, một người đẩy ngang thì nó lăn tròn mà đi. Chuông cũng

thế, sư chùa muốn làm cho đạo mình có

vẻ thần diệu, mới nói phao lên như thế để đánh lừa mà thôi. Những chuyện

như dấu vết người thần, ánh sáng xá lỵ, cây ưu đàm [24b] nở hoa, tượng Phật

cổ nổi lên v.v... đều

1 Nguyên văn: "chế kim bát giác tiêu dao". Như vậy trong câu này tiêu dao

phải là một danh từ chỉ đồ vật nhưng hai chữ tiêu dao

không hề có nghĩa đó. Đại Việt sử ký tiền biên (bản in thời Tây Sơn) có chú

thích: "Tiêu dao là tên mũ... cách làm thế nào không khảo được" (BK2, 29a).

Tham khảo Vân đài loại ngữ thì biết câu trên in thiếu một chữ "tọa" ở cuối

câu: "chế kim bát giác tiêu dao tọa". Lê Quý Đôn viết: "Ghế ngồi của người

Hồ (Hung Nô) khoan chốt, để chéo chân, xỏ dây làm mặt ghế, mở ra gấp lại

chóng lắm, nặng không đến và cân, gọi là "tiêu dao tọa", tương truyền người

hầu của vua Đường Minh Hoàng đã làm chiếc ghế theo kiểu ấy để đem theo cho

tiện ngồi khi theo hầu vua đi chơi ở ngoài" (Bản dịch, tr.133). Như vậy có

lẽ "tiêu dao" không phải là tên chiếc mũ như ĐVSKTB đã chú, cũng không phải

là chiếc kiệu tiêu dao như ở bản dịch cũ, mà là tiêu dao tọa, có nghĩa là

chiếc ghế kéo như Lê Quý Đôn đã mô tả.

2 Nguyên văn: trường lang, dãy nhà dài.

3 Chùa Trùng Quang: ở núi Tiên Du (Tiên Sơn, Hà Bắc).

do bọn các nhà sư ra cả. Người cầm bút chép sử đương thời không xét lý lẽ,

cứ theo thế

mà chép vào sử sách.

Bính Tý, [Thông Thụy] năm thứ 3 [1036], (Tống Cảnh Hựu năm thứ 3). Mùa

xuân, tháng giêng, mở hội ở Long Trì khánh thành pho tượng phật Đại Nguyện.

Đại xá thiên hạ.

Tháng 2, xuống chiếu chép kinh Đại tạng cất ở kho Trùng Hưng.

Tháng 3, gả công chúa Kim Thành cho châu mục châu Phong là Lê Tông Thuận.

Mùa hạ, tháng 4, đặt hành dinh ở châu Hoan, nhân đó đổi tên châu ấy là Nghệ

An.

Mùa thu, tháng 8, gả công chúa Trường Ninh cho châu mục châu Thượng Oai là

Hà Thiện Lãm.

Mùa đông, tháng 10, đạo Lâm Tây1 và các châu Đô Kim, Thường Tân, Bình

Nguyên2 làm phản, xâm lấn các châu Tư Lăng của nước Tống, cướp trâu ngựa,

đốt nhà cửa rồi về.

Đinh Sửu, [Thông Thụy] năm thứ 4 [1037], (Tống Cảnh Hựu năm thứ 4). Mùa

xuân, tháng 2, ngày mồng 1, vua thân đi đánh đạo Lâm Tây, sai Khai [25a]

Hoàng Vương [Nhật Tôn] làm Đại nguyên soái đánh các châu Đô Kim, Thường

Tân, Bình Nguyên, cho Phụng Càn Vương [Nhật Trung] làm Kinh sư

lưu thủ. Quân đi từ Kinh sư đến đóng ở Lâm Tây, dẹp yên được. Tháng 3, vua

từ đạo Lâm Tây về đến kinh.

Xuống chiếu cho châu Nghệ An dựng các kho ở trong châu như Tư Thành, Lợi

Nhân, Vĩnh Phong, tất cả 50 sở.

Mùa thu, tháng 7, vua ngự điện Hàm Quang xem đua thuyền. Nước lên to.

Trong vườn dâu ở Điểu Lộ3 có pho tượng Phật cổ trồi lên. Tháng 8, đóng

thuyền Vĩnh Xuân. Mùa đông, tháng 12, đóng thuyền Nhật Quang.

Dựng đền thờ Hoằng Thánh Đại Vương. Trước đây vua thấy phủ Đô hộ để nhiều

án ngờ, quan sĩ

sư không xét đoán được, muốn tỏ rõ sự linh thiêng sáng suốt để tiệt hết kẻ

gian trá, bèn tắm gội đốt hương khấn Thiên Đế. Đêm ấy vua chiêm bao thấy sứ

giả mặc áo đỏ bưng sắc chỉ của thượng đế ban cho Phạm Cự Lạng làm chức Đô

hộ phủ ngọc tụng minh chủ. Vua hỏi sứ trời rằng: "Người ấy [25b] là

ai? Hiện đang giữ chức gì của ta?" Sứ giả nói: "Người ấy làm Thái úy triều

Lê Đại Hành". Nói xong thì biến mất. Vua tỉnh dậy, gọi các quan vào hỏi

việc áy, phong cho [Cự Lạng] tước vương, sai Hữu ty dựng đền ở phía tây cửa

Nam thành, tuế thời cúng tê (Hoằng Thánh sau đổi là Hồng Thánh)4.

Mậu Dần, [Thông Thụy] năm thứ 5 [1038], (Tống Bảo Nguyên năm thứ 1). Mùa

xuân, tháng 2, vua ngự ra cửa Bố Hải cày ruộng tịch điền. Sau Hữu ty dọn cỏ

đắp đàn. Vua thân tế Thần Nông, tế xong

tự cầm cày để làm lễ tự cày. Các quan tả hữu có người can rằng: "Đó là công

việc của nông phu, bệ hạ cần gì làm thế?" Vua nói: "Trẫm không tự cày thì

lấy gì làm xôi cúng, lại lấy gì cho thiên hạ noi theo?" Nói xong đẩy cày ba

lần rồi thôi. Tháng 3, vua về Kinh sư.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Thái Tông không phục lễ cổ, tự mình cày ruộng tịch

điền để nêu gương cho thiên hạ [26a] trên để cúng tông miếu, dưới để nuôi

muôn dân, công hiệu trị nước dẫn đến dân đông, của giàu, nên thay!

Mùa thu, tháng 8, vua ngự ở điện Hàm Quang xem đua thuyền.

Tháng 9, có dấu vết người thần hiện ở chùa Đại Thắng. Mùa đông, tháng 10,

dựng bia chùa

Trùng Quang.

1 Lâm Tây: tên đạo thời Lý, Cương mục chú, nhà Trần gọi là đạo Đà Giang,

thời thuộc Minh gọi là châu Gia Hưng, nhà Lê đổi là phủ

Gia Hưng. Nay là đất hai tỉnh Sơn La, Lai Châu.

2 Đô Kim, Thường Tân, Bình Nguyên: xem chú thích ?????????

3 Nguyên văn: "Điểu Lộ tang viên", xem chú thích ??? tr.????

4 Hoằng Thánh đổi là Hồng Thánh là do kiêng húy miếu hiệu của chúa Trịnh

Tạc (Hoằng Tổ Dương Vương, ở ngôi chúa 1657-1682).

Vương.

Tháng 11, dựng kho ngự.

Tháng 12, Nùng Tồn Phúc ở châu Quảng Nguyên1 làm phản. Nhà Tống phong vua

làm Nam Bình

Năm ấy, Đông Chinh Vương Lực chết.

Kỷ Mão, [Thông Thụy] năm thứ 6 [1039], (Từ tháng 6 về sau là niên hiệu Càn

Phù Hữu Đạo

năm thứ 1; Tống Bảo Nguyên năm thứ 2). Mùa xuân, tháng giêng, thủ lĩnh Tây

Nông2 là Hà Văn Trinh

đem việc Tồn Phúc làm phản tâu lên. Trước đây Tồn Phúc là thủ lĩnh châu

Thảng Do3, em là Tồn Lộc làm

thủ lĩnh châu Vạn Nhai4. Em trai của A Nùng, vợ Tồn Phúc, là Đương Đạo làm

thủ lĩnh châu Vũ Lặc5

[26b] đều thuộc châu Quảng Nguyên, hàng năm nộp cống đồ thổ sản. Sau Tồn

Phúc giết Tồn Lộc và Đương Đạo, chiếm luôn cả đất, tiếm xưng là Chiêu Thánh

Hoàng Đế, lập A Nùng làm Minh Đức Hoàng Hậu, phong cho con là Trí Thông làm

Nam Nha Vương, đổi châu ấy gọi là nước Trường Sinh, sửa soạn binh giáp, đắp

thành kiên cố để tự giữ, không nộp cống xưng thần nữa.

Tháng 2, vua tự làm tướng đi đánh Tồn Phúc, cho Khai Hoàng Vương [Nhật Tôn]

làm Giám quốc. Quân đi từ Kinh sư, qua bến Lãnh Kinh6, có cá trắng nhảy vào

thuyền. Đến châu Quảng Nguyên, Tồn Phúc nghe tin đem cả bộ lạc vợ con trốn

vào chằm núi. Vua cho quân đuổi theo bắt được Tồn Phúc và bọn Trí Thông 5

người. Chỉ có vợ là A Nùng, con là Trí Cao chạy thoát. Đóng cũi bọn Tồn

Phúc đem về Kinh sư, sai quân san phẳng thành hào, chiêu dụ tộc loại còn

sống sót, vỗ về yên ủi rồi đem quân về.

Tháng 3, vua từ Quảng Nguyên [27a] về Kinh sư, xuống chiếu rằng: "Trẫm từ

khi có thiên hạ đến giờ, đối với tướng văn tướng võ cùng các bề tôi không

thiếu đại tiết, phương xa cõi lánh, không đâu không đến xưng thần, mà họ

Nùng nối đời giữ bờ cõi vẫn thường cúng nộp đồ cống. Nay Tồn Phúc càn

rỡ tự tôn, cả tiếm vị hiệu, ra mệnh lệnh, tụ họp quân ong bọ, làm hại dân

chúng biên thùy. Trẫm vâng mệnh trời đi đánh, bắt được bọn Tồn Phúc 5 tên,

đều chém ở chợ kinh đô".

Mùa hạ, tháng 4, con vua Chiêm Thành là Địa Bà Lạt [cùng bọn] Lạc Thuẫn, Sạ

Đâu, La Kế, A Thát Lạt 5 người sang quy phục [nước ta].

Tháng 5, động Vũ Kiến7 thuộc châu Quảng Nguyên dâng một khối vàng sống

nặng 112 lạng. Huyện Liên8, châu Lộng Thạch9, châu Định Biên10 tâu rằng

trong bản xứ có hố bạc11.

Tháng 6, bầy tôi xin đổi niên hiệu là Càn Phù Hữu Đạo và xin tăng tôn hiệu

thêm 8 chữ là: "Kim

[27b] Dũng Ngân Sinh, Nùng Bình Phiên Phục"12. Vua nói: "Thời Đường Ngu

chỉ vạch hình mà người không dám phạm, không đánh mà khuất phục được binh

của người, giũ áo khoanh tay mà thiên hạ đại

trị, cho nên các sao không đi trái, sấm mưa không thất thường, chi muông

đến múa, phượng hoàng lại

1 Quảng Nguyên: tên châu thời Lý, thời thuộc Minh thuộc về đất Uyên huyện,

thời Lê đổi là châu Lộng Nguyên. Nay là đất các

huyện Quảng Uyên, Phúc Hòa, Thạnh An, tỉnh Cao Bằng.

2 Tây Nông: tên châu, nay là huyện Tư Nông, tỉnh Bắc Thái.

3 Thảng Do: tên châu, xem chú BK2, 9b.

4 Vạn Nhai: tên châu thời Lý, nay là phần đất huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn

và một phần huyện Võ Nhai, tỉnh Bắc Thái.

5 Vũ Lặc: tên châu, chưa rõ ở đâu. Cương mục dẫn Đường thư, Địa lý chí:

"Nhà Đường đặt Lung Châu quản lĩnh huyện Vũ Lặc" và cho rằng hai châu Thảng

Do, Vũ Lặc có lẽ ở vào địa hạt tỉnh Cao Bằng và tỉnh Lạng Sơn ngày nay

(CMCB2, 43a).

6 Lãnh Kinh: có lẽ là khúc sông Cầu chảy qua Thị Cầu, tỉnh Hà Bắc.

7 Động Vũ Kiến: Đại Việt sử lược chép là động Vũ Kiện, thuộc đất huyện

Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng hiện nay, nhưng chưa biết rõ ở đâu?

8 Huyện Liên: Đại Việt sử lược chép là huyện Hạ Liên, có lẽ thuộc đất

huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Thái ngày nay.

9 Lộng Thạch: tên châu, có lẽ thuộc đất huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng ngày

nay.

10 Định Biên: tên châu, nay là đất huyện Định Hóa, tỉnh Bắc Thái.

11 Nguyên văn: ngân huyệt.

12 Nghĩa là: Vàng nổi bạc sinh, họ Nùng dẹp, nước Phiên (chỉ Chiêm Thành)

quy phục.

chầu, bốn đi theo về, trăm man hướng hóa, không hiểu làm sao mà được đến

như thế! Trẫm là người ít

đức, đứng đầu thần dân, dậy sớm thức khuya, lúc nào cũng lo sợ như lội vực

sâu, chưa biết lấy đạo gì

để thấu trời đất, lấy đức gì để kịp Nghiêu Thuấn. Vừa rồi, giặc Nùng dẹp

yên, Chiêm Thành quy phụ,

động sinh vàng ròng, đất trồi bạc trắng, ý chừng có điều gì mà được thế

chăng? Hay sắp xảy ra việc gì

để cảnh cáo chăng? Trẫm rất lo sợ, sao đáng để tôn sùng tên đẹp hiệu vinh.

Lời bàn của các khanh nên

đình bãi". Bầy tôi cố nài vua mới chịu nhận.

[28a] Lê Văn Hưu nói: Đế Nghiêu, Đế Thuấn, Văn Vương, Vũ Vương đều lấy một

chữ làm hiệu, chưa từng thấy có tăng thêm tôn hiệu bao giờ. Đế vương thời

sau thích khoe khoang mới có tôn hiệu đến vài chục chữ. Nhưng chỉ lấy công

đức mà xưng tụng, chưa bao giờ lấy đồ vật và tên man di xen chắp vào. Thái

Tông chịu nhận cho bầy

tôi dâng tám chữ "Kim Dũng Ngân Sinh, Nùng Bình Phiên Phục" làm hiệu thì

việc khoe khoang lại thô bỉ nữa. Thái Tông không có học nên không biết,

nhưng bọn Nho thần dâng lên những chữ ấy để nịnh hót vua thì không thể bảo

là không có tội.

Mùa thu, tháng 8, sai Đại liêu ban Sư Dụng Hòa và Thân vương ban1 Đỗ Hưng

sang nước Tống tiếp tục việc thông hiếu cũ.

Mùa đông, tháng 10, xuống chiếu sửa lại miếu Thái Tổ Thần Vũ Hoàng Đế.

Tháng 12, [28b] nước Chân Lạp sang cống.

Canh Thìn, [Càn Phù Hữu Đạo] năm thứ 2 [1040], (Tống Khang Định năm thứ 1).

Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 1, Đinh Hợi, nhật thực.

Tháng 2, vua đã dạy cung nữ dệt được gấm vóc. Tháng ấy xuống chiếu phát hết

gấm vóc của nước Tống ở trong kho ra để may áo ban cho các quan, từ ngũ

phẩm trở lên thì áo bào bằng gấm, từ cửu phẩm trở lên thì áo bào bằng vóc,

để tỏ là vua không dùng gấm vóc của nước Tống nữa.

Sứ thần Ngô Sĩ Liên nói: Việc làm này của vua trong cái tốt lại còn cái tốt

nữa, không quý vật lạ, tỏ ra giữ đức kiệm ước, ban cho bầy tôi, tỏ ra hậu

đãi kẻ dưới.

Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 1, xuống chiếu từ nay trở đi phàm nhân dân trong

nước ai có việc kiện tụng gì, đều giao cho Khai Hoàng [29a] Vương xử đoán

rồi tâu lên, lại cho lấy điện Quảng Vũ làm

nơi Vương xử kiện.

Sứ thần Ngô Sĩ Liên nói: Chức việc của thái tử, ngoài việc thăm hỏi hầu cơm

vua

ra, khi ở lại giữ nước thì gọi là Giám quốc, khi đem quân đi thì gọi là Phủ

quân, có thế

mà thôi, chưa nghe thấy sai xử kiện bao giờ. Phàm xử kiện là việc của Hữu

ty. Thái Tông

sai Khai Hoàng Vương làm việc đó không phải là chức phận của

thái tử, lại lấy điện

Quảng Vũ làm nơi Vương xử kiện là không đúng chỗ.

Mùa thu, tháng 8, người giữ trại Bố Chính của nước Chiêm Thành là Bố Linh,

Bố Kha, Lan Đà

Tinh đem bộ thuộc hơn trăm người sang quy phụ.

Mùa đông, tháng 10, mở hội La Hán ở Long Trì, đại xá thiên hạ, tha tội lưu,

tội đồ và một nửa tiền thuế cho thiên hạ. Trước đây, vua sai thợ tạc hơn

nghìn pho tượng Phật, vẽ hơn nghìn bức tranh Phật, làm bảo phướn hơn [29b]

một vạn lá. Đến đây xong việc, làm lễ khánh thành.

Tân Tỵ, [Càn Phu Hữu Đạo] năm thứ 3 [1041], (Tống Khánh Lịch năm thứ 1).

Mùa xuân, tháng

2, có chim sẻ trắng đậu ở cấm đình.

Mùa hạ, tháng 5, đặt phẩm cấp các cung nữ, hoàng hậu và phi tần 13 người,

ngự nữ 18 người, nhạc kỹ hơn 100 người.

Tháng 6, Điện tiền chỉ huy sứ Đinh Lộc và Phùng Luật mưu làm phản. Xuống

chiếu bắt Lộc, Luật

và bè đảng giao cho quan trị tội. Khai Hoàng Vương xét xử, bọn Lộc, Luật

đều phải giết.

1 Đại liêu ban và Thân vương ban: đều là tên tước của nhà Lý.

Mùa thu, tháng 9, vua ngự đến Kha Lai để bắt voi, lại ngự đến Kha Lãm, rồi

về Kinh sư.

Mùa đông, tháng 10, vua ngự đến núi Tiên Du xem làm viện Từ Thị Thiên Phúc.

Khi về, xuống chiếu phát 7.560 cân đồng trong kho để đúc tượng Phật Di Lặc

và hai vị Bồ tát Hải Thanh và Công Đức cùng chuông để ở viện ấy.

Tháng 11, xuống chiếu cho Uy Minh hầu Nhật Quang1 làm tri châu Nghệ An.

[30a] Năm ấy, Nùng Trí Cao cùng với mẹ là A Nùng từ động Lôi Hỏa2 lại về

chiếm cứ châu Thảng Do, đổi châu ấy làm nước Đại Lịch. Vua sai tướng đi

đánh, bắt sống được Trí Cao đem về Kinh sư. Vua thương tình vì cha là Tồn

Phúc và anh là Trí Thông đều đã bị giết nên tha tội, cho giữ châu Quảng

Nguyên như cũ, lại phụ thêm cho bốn động Lôi Hỏa, Bình, An, Bà và châu Tư

Lang3 nữa.

Nhâm Ngọ, [Càn Phù Hữu Đạo] năm thứ 4 [1042], (Từ tháng 10 về sau là niên

hiệu Minh Đạo năm thứ 1; Tống Khánh Lịch năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 3 vua

ngự ra cửa biển Kha Lãm4 cày ruộng tịch điền rồi về Kinh sư.

Mùa hạ, tháng 5, xuống chiếu rằng các quan chức đô5, ai bỏ trốn thì phạt

100 trượng, thích vào mặt 50 chữ và xử tội đồ. Các quân sĩ trước bị tội đồ6

nếu trốn vào núi rừng đồng nội cướp của người thì

xử 100 trượng, thích vào mặt 30 chữ. Người con trấn trại mà bỏ trốn cũng

phải tội như thế.

Mùa thu, tháng 7, xuống chiếu kẻ nào ăn trộm trâu của công thì xử 100

trượng, 1 con phạt thành 2 con.

[30b] Tháng 9, phạt đánh 50 trượng những người vắng mặt trong buổi hội thề.

Sai Viên ngoại lang Đỗ Khánh và Lương Mậu Tài đem voi thuần sang biếu nhà

Tống để tiếp tục

sự thông hiếu cũ.

Động đất.

Châu Văn7 làm phản.

Tháng 9, nhuận, xuống chiếu kẻ nào ban đêm vào nhà gian dâm vợ cả, vợ lẽ

người ta, người chủ đánh chết, ngay lúc bấy giờ thì không bị tội.

Xuống chiếu về việc phú thuế của trăm họ, cho phép người thu, ngoài 10 phần

phải nộp quan được lấy thêm 1 phần nữa, gọi là "hoành đầu". Lấy quá thì xử

theo tội ăn trộm, trăm họ có người tố cáo được tha phú dịch cho cả nhà

trong 3 năm, người ở kinh thành mà cáo giác thì thưởng cho bằng hiện vật

thu được. Nếu quản giáp, chủ đô và người thu thuế thông đồng nhau thu quá

lệ, tuy xảy ra đã lâu, nhưng có người tố cáo thì quản giáp, chủ đô và người

thu thuế cũng phải tội như nhau.

Mùa đông, tháng 10, ngày mồng 1, cho Khai Hoàng Vương làm Đô thống đại

nguyên soái đi

đánh châu Văn.

Xuống chiếu đổi niên hiệu là Minh Đạo năm thứ 1.

Ban Hình thư8. Trước kia, việc kiện tụng trong nước [31a] phiền nhiễu, quan

lại giữ luật pháp câu nệ luật văn, cốt làm cho khắc nghiệt, thậm chí có

người bị oan uổng quá đáng. Vua lấy làm thương

1 Lý Nhật Quang: tước Uy Minh hầu, con thứ 8 của Lý Thái Tổ. Đại Việt sử

lược (q2, 7a) chép là Minh Uy hầu.

2 Lôi Hỏa: tên động, ở phía tây bắc tỉnh Cao Bằng ngày nay. Các động Bình,

An, Bà đều thuộc về đất tỉnh Cao Bằng.

3 Tư Lang: nay là đất huyện Trùng Khánh và phần đất đông bắc huyện Quảng

Hòa (vùng quanh Hạ Lang), tỉnh Cao Bằng.

4 Có lẽ cũng là địa danh Kha Lãm nhắc ở BK2, 29b.

5 Quan chức đô: Bản dịch cũ chú là các chức quan chỉ huy quân cận vệ.

6 Nguyên văn: "Đồ tội chư quân sĩ", chỉ những người trước đã phạm tội đồ

(đi đày) sang làm lính.

7 Châu Văn: xem chú Bk1, 10b.

8 Theo Lê Quý Đôn, bộ Hình thư này gồm 3 quyển, nay không còn (Đại Việt

thông sử, Nghệ văn chí).

99 Đại Việt Sử Ký Toàn Thư -

Bản Kỷ - Quyển II

xót, sai trung thư san định luật lệnh, châm chước cho thích dụng với thời

thế, chia ra môn loại, biên

thành điều khoản, làm thành sách Hình thư của một triều đại, để cho người

xem dễ hiểu. Sách làm xong, xuống chiếu ban hành, dân lấy làm tiện. Đến đây

phép xử án được bằng thẳng rõ ràng, cho nên mới đổi niên hiệu là Minh Đạo

và đúc tiền Minh Đạo.

Tháng 11, xuống chiếu cho những người từ 70 tuổi trở lên, 80 tuổi trở

xuống, từ 10 tuổi trở lên,

15 tuổi trở xuống và những người ốm yếu cho đến các thân thuộc nhà vua từ

hạng Đại công trở lên1

phạm tội thì cho chuộc [bằng tiền] nếu phạm tội thập ác thì không được theo

lệ này.

Năm ấy, thiên hạ đói to. Xuống chiếu cho Khu mật viện là Nguyễn Châu

hạ lệnh cho những người trốn tránh ở các lộ đều phải nhận lấy các cầu đường

ở địa phương, đắp đất thành ụ mốc, trên cắm biển gỗ [31b] để tiện chỉ hướng

đi về các nơi.

Quý Mùi, Minh Đạo năm thứ 2 [1043], (Tống Khánh Lịch năm thứ 3). Mùa xuân,

tháng giêng, châu Ái làm phản.

Tháng 2, vua ngự ở điện Thiên Khánh, xuống chiếu cho các quan chức cứ 3

người cùng đảm bảo cho một người, nếu có ai chứa giấu đại nam2 thì 3 người

bị tội cả.

Châu Văn làm phản.

Tháng 3, ngày mồng 1, cho Khai Hoàng Vương [Nhật Tôn] làm Đô thống đại

nguyên soái đi đánh châu Ái. Phụng Càn Vương [Nhật Trung] làm Đô thống

nguyên soái đi đánh châu Văn. Dẹp yên châu Văn, Phụng Càn Vương dâng 4 con

ngựa tốt bắt được. Vua đặt tên cho ngựa là Tái Thiên, Quảng Thắng, Truy

Phong, Nhật Ngự.

Mùa hạ, tháng 4, "giặc gió sóng" (nghĩa là nhân gió sóng mà đi cướp) Chiêm

Thành cướp bóc dân ven biển. Vua sai Đào Xử Trung đi đánh, dẹp yên được.

Vua ngự đến chùa cổ Tùng Sơn ở châu Vũ Ninh3, thấy dấu người vắng ẻ, nền

móng nứt hở, trong chùa có cái cột đá lệch nghiêng sắp đổ. Vua [32a] thở

than, ý muốn sai sửa chữa, nhưng kịp nói

thì cột đá bỗng tự đứng thẳng lại. Vua lấy làm lạ, sai Nho thần làm phú để

nêu rõ việc linh dị.

Mùa thu, tháng 8, xuống chiếu rằng kẻ nào đem bán hoàng nam trong dân gian

làm gia nô cho người ta, đã bán rồi thì đánh 100 trượng, thích vào mặt 20

chữ, chưa bán mà đã làm việc cho người thì cũng đáng trượng như thế, thích

vào mặt 10 chữ; người nào biết chuyện mà cũng mua thì xử giảm một bậc.

Vua hỏi tả hữu rằng: "Tiên đế mất đi, đến nay đã 16 năm rồi, mà Chiêm Thành

chưa từng sai một sứ giả nào sang là cớ gì? Uy đức của trẫm không đến họ

chăng? Hay là họ cậy có núi sông hiểm trở chăng?" Các quan đáp: "Bọn thần

cho rằng đó là vì đức của bệ hạ tuy có đến nhưng uy thì chưa rộng. Sao thế?

Vì từ khi bệ hạ lên ngôi đến giờ, họ trái mệnh không đến chầu, bệ hạ chỉ

ban ơn để vỗ về,

[32b] chưa từng ra oai dùng võ để đánh phạt, đó không phải là cách làm cho

người ta sợ oai. Bọn thần

e rằng các chư hầu khác họ trong nước đều như Chiêm Thành cả, há chỉ riêng

người Chiêm mà thôi

đâu". Vua từ đấy quyết ý đánh Chiêm Thành.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Bọn "giặc sóng gió" Chiêm Thành cướp phá dân ven

biển nước ta, đem quân hỏi tội là phải, vì như thế là đúng tội danh. Còn

nếu nói là người

xa không phục, thì cứ lấy đức hóa mà cảm cho họ theo về, há phải đem quân

đi xa!

1 Đại công là hạng tang phục thứ ba trong năm hạng tang phục, chỉ quan hệ

anh em con chú con bác (để tang 9 tháng). Hai hạng

trên là Tê thôi (cháu nội), Trám thôi (các con).

2 Đại nam: tức đại hoàng nam. Theo Ngô Thì Sĩ, thời Lý dân đinh đến 18

tuổi thì ghi tên vào "hoàng sách" (sổ bìa vàng), gọi là

"hoàng nam"; 20 tuổi trở lên gọi là "đại hoàng nam". Ai nuôi nô bộc riêng

chỉ được nuôi người chưa đến tuổi "hoàng nam".

3 Vũ Ninh: tên châu từ thời Lý, đến đầu đời Lê Trung hưng kiêng úy của

Trang Tông (Lê Duy Ninh) đổi là Vũ Giang, lại kiêng úy của

Uy Nam Vương Trịnh Giang đọc chệch âm là Vũ Giàng. Nay là đất huyện Quế Võ,

tỉnh Hà Bắc.

100 Đại Việt Sử Ký Toàn Thư -

Bản Kỷ - Quyển II

Tháng 9, ngày mồng 1, sai Ngụy Trưng đến châu Quảng Nguyên, ban cho Nùng

Trí Cao đô ấn,

phong làm Thái bảo.

Lê Văn Hưu nói: Năm trước, Nùng Tồn Phúc phản nghịch, tiếm hiệu, lập nước,

đặt quan thuộc, Thái Tông đã trị tội Tồn Phúc mà tha cho con là Trí Cao.

Nay Trí Cao lại noi theo [33a] việc trái phép của cha thì tội lớn lắm, giết

đi là phải, nếu lấy lại tước và

áp phong, giáng là thứ dân, thì cũng phải. Thái Tông đã tha tội, lại cho

thêm mấy châu quận nữa, ban cho ấn tín, phong làm Thái bảo, như thế là

thưởng phạt không có phép tắc gì. Đến khi Trí Cao gây tai họa ở Quảng

Nguyên, lại đem quân đi đánh, mượn cớ là viện trợ láng giềng, có khác gì

thả cọp beo cho cắn người, rồi từ từ đến cứu không? Đó

là vì Thái Tông say đắm cái lòng nhân nhỏ của nhà Phật mà quên đi mất cái

nghĩa lớn của người làm vua.

Vua định sang năm sẽ đi đánh Chiêm Thành, xuống chiếu sai đóng các chiến

thuyền hiệu Long, Phượng, Ngư, Xà, Hổ, Báo, Anh Vũ hơn vài trăm chiếc.

Mùa đông, tháng 10, cái thuẫn của vua ở điện Trường Xuân tự nhiên rung

động. Vua xuống chiếu cho các quan nghị bàn, đều nói rằng: Thuẫn là đồ binh

khí, thần nghe nói có gió thì chim loan liệng trước, [33b] sắp có mưa thì

đá tảng ướt trước, nay bệ hạ muốn đem quân đánh dẹp kẻ không đến chầu

mà binh khí tự rung động, đó là cái điềm thần và người lặng hợp, các vật

ứng nhau. Kinh Thư nói: "Mình động thì mọi vật ứng theo mà đón trước ý

mình. Nay vật ấy đã ứng trước ý mình, còn ngờ gì mà không động". Vua ban

cho là phải.

Xuống chiếu rằng quân sĩ bỏ trốn quá 1 năm xử 100 trượng, thích vào mặt 50

chữ, chưa đến 1 năm thì xử theo mức tội nhẹ, kẻ nào quay lại thì cho về chỗ

cũ. Quân sĩ không theo xa giá cũng xử trượng như thế và thích vào mặt 10

chữ.

Tháng 12, xuống chiếu cho quân sĩ sửa soạn giáp binh, hẹn đến mùa xuân,

tháng 2 sang năm đi

đánh Chiêm Thành.

Vua đến hành dinh Cổ Lãm1 xuống chiếu rằng kẻ nào ăn cướp lúa mạ và tài

vật của dân, nếu đã

lấy rồi thì xử 100 trượng, nếu chưa lấy được nhưng làm cho người bị thương

thì xử tội lưu.

Năm ấy lại đúc tiền Minh Đạo ban cho các quan văn võ.

[34a] Giáp Thân, [Minh Đạo] năm thứ 3 [1044], (Từ tháng 11 trở về sau là

niên hiệu Thiên Cảm Thánh Vũ năm thứ 1; Tống Khánh Lịch năm thứ 4). Mùa

xuân, tháng giêng, phát khí giới trong kho ban cho các quân. Ngày Quý Mão,

vua thân đi đánh Chiêm Thành, cho Khai Hoàng Vương [Nhật Tông] làm Lưu thủ

Kinh sư. Ngày ấy Hữu ty đem dâng túi mật to bằng quả bưởi lấy được khi làm

cỗ thiếu lao2 cúng thần núi. Vua nói đùa rằng: "Chữ "đảm" (mật) âm gần với

chữ "đam" (vui), con thiếu lao mà có mật to, có lẽ là điềm báo cho ta biết

chỉ khó nhọc một chút mà được vui lớn". Ngày Giáp Thìn, quân đi từ Kinh sư,

ngày Ất Tỵ, đến cửa biển Đại Ác, gặp lúc sóng gió yên lặng, đại quân qua

biển dễ dàng, cho nên

đổi tên Đại Ác làm Đại An3. Đến núi Ma Cô4, có đám mây tía bọc lấy mặt

trời. Qua vụng Hà Não5, có đám mây che thuyền ngự, thoe thuyền mà đi hoặc

ngừng. Ngày hôm ấy đến đóng doanh ở cửa biển Trụ Nha

(có bản chép Trụ Thân). Ngày hôm sau đi, nhờ thuận gió, trong một ngày qua

hai bãi Đại Tiểu Trường

1 Cổ Lãm: tên gọi thời Đinh Lê của châu Cổ Pháp, xem thêm chú thích 2

tr.??????????????????

2 Vua cúng đàn xã tắc thì dâng cỗ thái lao (trâu, dê, lợn mỗi thứ 1 con),

cúng thần sông núi thì dâng cỗ thiếu lao (dê, lợn mỗi thứ 1

con).

3 Đại An: tên cửa biển, tức Cửa Liêu ở huyện Hải Hậu, tỉnh Hà Nam Ninh,

Xem thêm phần chú thích tr.?????????????????

4 Núi Ma Cô: theo Cương mục, còn có tên núi là Lễ Đễ, ở ngoài biển huyện

Kỳ Anh (CMCB3, 9a), tỉnh Hà Tĩnh ngày nay.

5 Vụng Hà Não (Hà Não loan): Cương mục chua sông, Ngũ Bồ, vụng Hà Não đều

không khỏa được (CMCB3, 10a). Theo Đào Duy Anh, vụng Hà Não có thể là Vụng

Chùa, tên chữ Hán là Tự Loan, Đại Việt sử lược chep là Vũng Truy (Đất nước

Việt Nam qua các đời, tr.175).

Sa1. Đến cửa biển Tư Khách2, có con cá trắng nhảy vào thuyền. Vua nghe tin

Chiêm Thành đem quân và

voi bày trận ở bờ nam sông Ngũ Bồ3 muốn chống cự quan quân. Vua truyền cho

quân bỏ thuyền lê bộ, đem quân sĩ lên bờ bắc, thấy quân Chiêm đã dàn ở bên

sông. Vua mới cắt đặt quân sĩ dựng cờ nổi trống, sang tắt ngang sông đánh.

Binh lính chưa chạm mà quân Chiêm đã tan vỡ, quan quân đuổi chém được 3 vạn

thủ cấp. Quách Gia Di chém được đầu vua Chiêm là Sạ Đẩu4 tại trận đem

dâng. Đoạt được hơn 30

voi thuần, bắt sống hơn 5 nghìn người, còn thì bị quan quân giết chết, máu

nhuộm gươm giá, xác chất đầy đồng. Vua tỏ ý cảm khái, xuống lệnh rằng: "Kẻ

nào giết bậy người Chiêm Thành thì sẽ giết không tha".

Sử thần Ngô Sĩ Liêm nói: Tấm lòng ấy của vua cũng như tấm lòng của Tống

Thái

Tổ chăng? Truyền ngôi được lâu dài là phải lắm.

[35a] Mùa thu, tháng 7, vua đem quân vào thành Phật Thệ5 bắt vợ cả, vợ lẽ

của Sạ Đẩu và các cung nữ giỏi hát múa khúc điệu Tây Thiên6. Sai sứ đi khắp

các hương ấp phủ dụ dân chúng. Các quan chúc mừng thắng lợi.

Tháng 8, đem quân về. Đến hành dinh Nghệ An, gọi Uy Minh hầu Nhật Quang đến

úy lạo rồi trao cho tiết việt trấn thủ châu ấy, gia phong tước vương. Trước

đây, vua ủy cho Uy Minh thu tô hàng năm ở Nghệ An và sai lập trại Bà Hòa7

khiến cho [trấn ấy] được vững chắc, lại đặt điếm canh các nơi cất chứa

lương thực đầy đủ, cái gì cũng vừa ý vua, cho nên được tước phong như thế.

Tháng 9, ngày mồng 1, đến phủ Trường Yên, có rồng vàng hiện ở thuyền ngự.

Khi đến hành điện Ly Nhân8, sai nội nhân thị nữ gọi Mỵ Ê là phi của Sạ Đẩu

sang hầu thuyền vua. Mỵ Ê phẫn uất khôn xiết, ngầm lấy chăn quấn vào mình

nhảy xuống sông chết. Vua khen là trinh tiết, phong là Hiệp Chính Hựu Thiện

phu nhân.

[35b] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Phu nhân giữ nghĩa không chịu nhục, chỉ theo

một chồng cho đến chết, để toàn vẹn trinh tiết của người đàn bà. Người làm

tôi mà thờ hai vua tức là tội nhân đối với phu nhân. Vua khen là trinh

tiết, phong làm phu nhân để khuyến khích người đời sau là đáng lắm.

Vua từ Chiêm Thành về, làm lễ cáo thắng trận ở miếu Thái Tổ, xong về ngự ở

điện Thiên An, mở

tiệc rượu làm lễ mừng về đến nơi. Ngày hôm ấy, bầy tôi dâng tù binh hơn 5

nghìn tên và các thứ vàng

bạc châu báu. Xuống chiếu cho các tù binh đều được nhận người cùng bộ tộc,

cho ở từ trấn Vĩnh Khang9

đến Đăng Châu10 (nay là Quy Hóa), đặt hương ấp phỏng tên gọi cũ của Chiêm

Thành.

Vua sai đặt cũi lớn ở Dâm Đàm (tức là Hồ Tây ngày nay), lấy con voi thuần

của Chiêm Thành làm mồi nhử voi rừng vào trong cũi, vua thân đến bắt.

1 Đại Tiểu Trường Sa: bãi cát từ cửa Nhật Lệ đến Cửa Tùng là Đại Trường

Sa; bãi cát từ Cửa Việt đến cửa Tư Hiền, là Tiểu Trường

Sa.

2 Tư Khách: tên cửa biển đúng tên thời Lý gọi là cửa Ô Long, thời Trần đổi

gọi là cửa Tư Dung (do tên huyện Tư Dung, châu Hóa);

đời Mạc, vì kiêng húy Mạc Đăng Dung nên đổi gọi là Tư Khách. Thời Nguyễn

đổi là Tư Hiền như tên gọi hiện nay, ở phía đông nam tỉnh Thừa Thiên - Huế.

3 Sông Ngũ Bồ: Cương mục chú không rõ ở đâu. Theo Đào Duy Anh (Bản dịch cũ

1, 342), sông Ngũ Bồ có thể là sông Chợ Củi (hạ

lưu sông Thu Bồn) chảy ra cửa Đại Chiêm, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.

4 Sạ Đẩu: tức vua Chiêm Jaya Sinhavarman II (ở ngôi 1042-1044).

5 Thành Phật Thệ, xem chú BK1, 18b.

6 Tây Thiên khúc điệu: ở đây có thể là những khúc hát và múa Chiêm Thành

có nguồn gốc Ấn Độ (Tây Thiên, chỉ Ấn Độ).

7 Trại Bà Hòa: theo Cương mục (CB3, 10) ở sông Bà Hòa, nay là xã Đông Hòa,

huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa.

8 Ly Nhân: nay là đất huyện Ly Nhân, tỉnh Nam Hà.

9 Vĩnh Khang: nay là đất huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An.

10 Đăng Châu: tên châu thời Lý, nay thuộc đất tỉnh Yên Bái và Lào Cai.

Mùa đông, tháng 11, ban thưởng cho những người có công đi đánh Chiêm Thành:

có công từ lục

phẩm trở lên, thưởng áo bào gấm, từ thất phẩm trở xuống [36a] thưởng áo là.

Bề tôi xin đổi niên hiệu

là Thiên Cảm Thánh Vũ, tăng tôn hiệu thêm tám chữ là Thánh Đức Thiên Cảm

Tuyên Uy Thánh Vũ. Vua

y theo. Xuống chiếu rằng: "Đánh dẹp phương xa, tổn hại việc nông, ngờ đâu

mùa đông năm nay lại được mùa lớn! Nếu trăm họ đã đủ thì trẫm lo gì không

đủ? Vậy xá cho thiên hạ một nửa tiền thuế năm nay, để

úy lại sự khó nhọc lặn lội".

Xuống chiếu cho Quyến khố ty1, ai nhận riêng một thước lụa của người thì xử

100 trượng, từ 1

tấm đến 10 tấm trở lên thì [phạt trượng] theo số tấm, gia thêm khổ sai 10

năm.

Tháng 12, ngày mồng 1, đặt trạm Hoài Viễn ở bờ sông Gia Lâm làm quán nghỉ

trọ cho người nước ngoài khi đến chầu.

Thái bảo Nùng Trí Cao về chầu.

Năm ấy, xuống chiếu rằng các quân bỏ trốn xử tội theo ba bậc lưu. Cấm quan

coi ngục không

được sai tù làm việc riêng, ai phạm thì xử 80 trượng, thích chữ vào mặt và

giam vào lao.

[36b] Ất Dậu, [Thiên Cảm Thánh Vũ] năm thứ 2 [1045], (Tống Khánh Lịch năm

thứ 5). Chế xe

Thái Bình, lấy vàng trang sức "bồng la nga" (tức là cái bành voi của Chiêm

Thành) đóng voi để kéo.

Dựng bia ở Đại Nội.

Bính Tuất, [Thiên Cảm Thánh Vũ] năm thứ 3 [1046], (Tống Khánh Lịch năm thứ

6). Dựng cung riêng cho các cung nữ Chiêm Thành2.

Đinh Hợi, [Thiên Cảm Thánh Vũ] năm thứ 4 [1047], (Tống Khánh Lịch năm thứ

7). Mùa xuân, tháng 3, đặt trấn Vọng Quốc và 7 trạm Quy Đức, Bảo Ninh,

Tuyên Hóa, Thanh Bình, Vình Thông, Cảm Hóa, An Dân, các trạm đều dựng ụ

bia, để làm chỗ trọ cho người man di.

Mậu Tý, [Thiên Cảm Thánh Vũ] năm thứ 5 [1048], (Tống Khánh Lịch năm thứ

8). Mùa thu, tháng 9, sai tướng quân là Phùng Trí Năng đi đánh Ai Lao, bắt

được người và gia súc rất nhiều đem về.

Nùng Trí Cao làm phản, chiếm giữ động Vật Ác3. Sai Thái úy Quách Thịnh Dật

đi đánh. Vừa mới giao chiến, trời đất bỗng tối mù, một lát nghe tiếng sét

đánh trong động, [37a] thân thể các tù trưởng động ấy bị xé tan, cả động

kinh hãi. Trí Cao phải hàng.

Lập đàn xã tắc ở ngoài cửa Trường Quảng, bốn mùa cầu đảo cho mùa màng.

Mùa đông, tháng 12, ngày Lập xuân, xuống chiếu cho hữu ty làm lễ nghênh

xuân.

Kỷ Sửu, [Thiên Cảm Thánh Vũ] năm thứ 6 [1049]. (Từ tháng 3 về sau, thuộc

niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo năm thứ 1; Tống Hoàng Hựu năm thứ 1). Mùa xuân,

tháng 2, đổi niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo năm thứ 1.

Mùa đông, tháng 10, dựng chùa Diên Hựu4. Trước đây vua chiêm bao thấy Phật

Quan Âm ngồi trên tòa sen, dắt vua lên tòa. Khi tỉnh dậy, vua đem việc ấy

nói với bầy tôi, có người cho là điềm không lành. Có nhà sư Thiền Tuệ

khuyên vua làm chùa, dựng cột đá ở giữa đất5, làm tòa sen của Phật Quan

1 Quyến khố ty: ty coi việc kho lụa.

2 Đại Việt sử lược (q2, 8a) chép cung này tên là cung Ngân Hán.

3 Động Vật Ác: ở phía tây tỉnh Cao Bằng.

4 Chùa Diên Hựu: tức chùa Một Cột ở Hà Nội ngày nay.

5 Nguyên văn: "lập thạch trụ vu địa trung". Bản Chính Hòa và bản VHv.2330

đều in rõ chữ "địa". Nhưng các bản in của Quốc tử giám (triều Nguyễn) như

bản A.3 v.v... sử chữ địa thành chữ trì (ao, hồ). Xét ra nguyên bản Chính

Hòa để chữ địa hợp lý hơn: Khi mới làm chùa chỉ dựng cột đá ở giữa đất, đến

lần trùng tu năm 1105 mới đào hồ "Liên Hoa Đài" ở xung quanh cột đá (xem:

BK3,

15a). Cũng có người giải thích chữ "địa" ở đây là chữ Nôm, đọc là đìa tức

là ao, hồ. Chúng tôi theo văn bản, dịch là đất trong khi chờ đợi sự xác

minh.

Âm đặt trên cột đá như đã thấy trong mộng. Cho các nhà sư đi vòng lượn

chung quanh tụng kinh cầu

vua sống lâu. Vì thế gọi là chùa Diên Hựu1.

[37b] Canh Dần, [Sùng Hưng Đại Bảo] năm thứ 2 [1050], (Tống Hoàng Hựu năm

thứ 2). Mùa xuân, tháng 3, Chiêm Thành dâng voi trắng.

Mùa hạ, tháng 6, nước to.

Mùa thu, tháng 9, người động Vật Dương2 làm phản, dẹp yên.

Tân Mão, [Sùng Hưng Đại Bảo] năm thứ 3 [1051], (Tống Hoàng Hựu năm thứ 3).

Mùa xuân, tháng giêng, đặt quân tùy xa long, nội ngoại, sai Tả kiều vệ

tướng quân Trần Nẫm trông coi.

Định cho các quan văn võ làm việc lâu năm mà không có lỗi được thăng chức

tước theo thứ bậc khác nhau.

Mùa thu, tháng 8, khao thưởng lớn, ban cho dân vải lụa, tiền bạc theo thứ

bậc khác nhau. Mùa đông, tháng 11, đào kênh Lẫm3.

Nhâm Thìn, [Sùng Hưng Đại Bảo] năm thứ 4 [1052], (Tống Hoàng Hựu năm thứ

4). Mùa xuân, tháng giêng, phong các hoàng tử làm vương hầu, các hoàng nữ

làm công chúa.

Tháng 3, đúc chuông lớn để ở Long Trì, cho dân ai có oan ức gì không bày tỏ

được thì đánh chuông ấy để tâu lên.

Mùa hạ, tháng 4, Nùng Trí Cao làm phản, tiếm xưng là Nhân Huệ Hoàng Đế,

[38a] đặt quốc hiệu là Đại Nam, sang cướp đất nhà Tống, phá trại Hoàng

Sơn4, vây hãm các châu Ung, Hoành, Quý, Đằng, Ngô, Khang, Đoan, Củng, Tầm5

rồi kéo đến vây thành Quảng Châu6 đến 5 tuần không lấy được, bèn về. Lại

vào Ung Châu, giết tướng tá của nhà Tống hơn 3 nghìn người, bắt sống dân

chúng hàng vạn.

Đi đến đâu đốt trụi đến đấy. Vua tôi nhà Tống lấy làm lo. Khu mật sứ Địch

Thanh dâng biểu xin đi đánh. Vua Tống sai Thanh làm Tuyên huy sứ đô đại đề

cử, tổng quyền tiết việt đi đánh.

Quý Tỵ, [Sùng Hưng Đại Bảo] năm thứ 5 [1053], (Tống Hoàng Hựu năm thứ 5).

Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 5, động đất 3 lần. Mồng 10, có mây không

có mưa, rồng vàng hiện ở gác Đoan Minh. Bầy tôi chúc mừng, duy có nhà sư

Pháp Ngữ nói: "Rồng bay trên trời, nay lại hiện ở dưới là điềm không lành".

Địch Thanh chỉ huy 3 tướng đem quân đến phố Quy Nhân thuộc Ung Châu. Trí

Cao đem quân chống đánh bị Địch Thanh đánh bại, chạy hơn 10 dặm [38b].

Tướng tâm phúc của Cao là Hoàng Sư Mật cùng với thủ hạ 57 người chết tại

trận. Quân Tống đuổi theo giết hơn 2200 người. Trí Cao đốt thành ban đêm

trốn đi.

Mùa thu, từ tháng 7 đến tháng 8, nước to.

Mùa đông, tháng 10, Trí Cao sai Lương Châu đến xin quân [cứu viện]. Vua

xuống chiếu cho chỉ

huy sứ là Vũ Nhị đem quân cứu viện. Địch Thanh lại đánh phá được Trí Cao.

Trí Cao chạy sang nước Đại

1 Diên Hựu: nghĩa là kéo dài cõi phúc (chỉ tuổi thọ).

2 Vật Dương: tên động, ở phía bắc huyện Thạch Lâm, tỉnh Cao Bằng.

3 Kênh Lẫm (Lẫm Cảng): theo Đại Nam nhất thống chí (q. 14, tỉnh Ninh

Bình), ở địa phận các xã Thần Phù, Phù Sa và Ngọc Lâm, huyện Yên Mô, nay

thuộc tỉnh Hà Nam Ninh. Kênh đã bị bồi lấp thành đất bằng, chỉ còn lại cái

đầm gọi là đầm Lẫm.

4 Trại Hoành Sơn: nay là huyện Hoành, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.

5 Các châu: Ung, Quý, Đằng, Ngô, Củng, Tầm nay đều thuộc tỉnh Quảng Tây,

Trung Quốc. Hai châu: Khang, Đoan, nay thuộc tỉnh

Quảng Đông, Trung Quốc.

6 Nguyên văn: "chí Quảng Châu thành truyền thành công chi ". Hai chữ

"truyền thành" ở đây chưa rõ nghĩa gì, ngờ chữ vi (vây), lầm ra chữ truyền;

tạm dịch như trên.

104 Đại Việt Sử Ký Toàn Thư -

Bản Kỷ - Quyển II

Lý1. Người nước Đại Lý chém đầu Cao bỏ vào hòm dâng vua Tống. Từ đây họ

Nùng bị diệt. Trước đây,

Trí Cao cướp biên giới nước nước Tống, Tống sai Khu mật trực học sĩ Tôn

Miện, Nhập nội áp ban Thạch Toàn Bân cùng Kinh lược sứ bản lộ là Dư Tĩnh

tính việc đánh giặc cướp, vua xin đem quân đánh giúp, vua Tống cho được

tiện nghi. Đến khi Địch Thanh làm Đại tướng bèn tâu rằng: "Mượn binh ngoài

để trừ giặc trong không lợi cho ta. Có một Trí Cao mà sức hai tỉnh Quảng

không thể chống nổi, lại phải nhờ đến quân cõi ngoài, [39a] nếu họ nhân đó

mà dấy loạn, thì lấy gì chống lại?" Năm ấy, nhà Tống có chiếu dừng việc

viện binh của ta. Đến khi Trí Cao xin quân, vua lại nghe theo lời xin. Đô

giám nhà Tống là Tiêu Chú đi theo đường đạo Đặc Ma2 đánh úp, bắt được mẹ

là Trí Cao là A Nùng, đem giết.

Giáp Ngọ, [Sùng Hưng Đại Bảo] năm thứ 6 [1054], (Từ tháng 9 về sau thuộc

niên hiệu của

Thánh Tông Long Thụy Thái Bình năm thứ 1; Tống Chí Hòa năm thứ 1).

Mùa thu, tháng 7, xuống chiếu cho Hoàng thái tử Nhật Tôn coi chầu nghe

chính sự.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Xem đoạn văn ở dưới chép tháng 9 vua không khỏe,

thì tháng này xuống chiếu cho thái tử ra coi chầu nghe chính sự là việc bất

đắc dĩ.

Tháng 9, ngày Mậu Dần, vua không khỏe.

Mùa đông, tháng 10, ngày mồng một, vua băng ở điện Trường Xuân. Thái tử lên

ngôi ở trước linh cữu; đổi niên hiệu là Long Thụy Thái Bình năm thứ 1. Truy

tôn [39b] tên thụy cho Đại Hành Hoàng Đế, miếu hiệu là Thái Tông, mẹ họ Mai

làm Kim Thiên Hoàng Thái Hậu. Đặt quốc hiệu là Đại Việt. Ban quan tước cho

các bề tôi cũ ở Đông cung theo thứ bậc khác nhau. Cho Bùi Hựu làm Văn minh

điện đại học sĩ.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Sử khen vua là người nhân triết, thông tuệ, có đại

lược văn võ, lục nghệ không nghề gì không tường. Vì có tài đức ấy, nên có

thể làm mọi việc, song câu nệ về lễ yến hưởng vua tôi, đương lúc đau thương

mà cũng vui chơi, khiến cho đạo chí hiếu có thiếu sót. Mê hoặc bởi cái

thuyết từ ái của Phật mà tha tội cho bề tôi phản nghịch3 thì lòng nhân ấy

thành ra nhu nhược, đó là chỗ kém.

1 Nước Đại Lý: một nước ở vùng Vân Nam, Trung Quốc, trên địa bàn của nước

Nam Chiếu đời Đường, cư dân chủ yếu là người Di,

mà thư tịch cổ Trung Quốc thường chép là người Thoán, Bặc. Việc quân của Vũ

Nhị cứu viện cho Nùng Trí Cao đánh quân Tống không thấy tài liệu nào nói

đến; có thể chỉ mới có dự định, chưa kịp thực hiện thì Trí Cao đã chết.

2 Đạo Đặc Ma: tức phủ Quảng Nam, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc.

3 Chỉ việc Lý Thái Tông tha tội cho Nùng Trí Cao.

105 Đại Việt Sử Ký Toàn Thư -

Bản Kỷ - Quyển III

Đạ i Vi ệ t S ử Ký B ả n K ỷ Toàn Th ư

Quyển III

[1a]

Thánh Tông Hoàng Đế

Tên húy là Nhật Tôn, con trưởng của Thái Tông. Mẹ là Kim Thiên Thái Hậu họ

Mai, khi trước chiêm bao thấy mặt trăng vào bụng rồi có mang, ngày 25 tháng

2 năm Quý Hợi, Thuận Thiên thứ 14 [1023], sinh vua ở cung Long Đức. Năm

Thiên Thành thứ 1 [1028], được sách phong làm Đông Cung Thái Tử. Thái

Tông băng, bèn lên ngôi báu, ở ngôi 17 năm [1054-

1072], thọ 50 tuổi [1023-1072], băng ở điện Hội Tiên.

Vua khéo kế thừa, thực lòng thương dân, trọng việc làm ruộng, thương kẻ bị

hình, vỗ

về thu phục người xa, đặt khoa bác sĩ, hậu lễ dưỡng liêm, sửa sang việc

văn, phòng bị việc võ, trong nước yên tĩnh, đáng gọi là bậc vua tốt. Song

nhọc sức dân xây tháp Báo Thiên, phí của dân làm cung Dâm Đàm đó là chỗ

kém.

Ất Mùi, Long Thụy Thái Bình năm thứ 2 [1055], (Tống Chí Hòa năm thứ 2).

Mùa xuân, tháng giêng, sửa sang các cung điện trong đại nội.

Tháng 2, lấy ngày sinh nhật làm thánh tiết Thừa Thiên. Nước Chiêm Thành

sang cống.

Mùa đông, tháng 10, [1b] đại hàn, vua bảo các quan tả hữu rằng: "Trẫm ở

trong cung, sưởi than xương thú, mặc áo lông chồn còn rét thế này, nghĩ đến

người tù bị giam trong ngục, khổ sở về gông cùm, chưa rõ ngay gian, ăn

không no bụng, mặc không kín thân, khốn khổ vì gió rét, hoặc có kẻ chết

không đáng tội, trẫm rất thương xót. Vậy lệnh cho Hữu ty phát chăn chiếu,

và cấp cơm ăn ngày hai bữa.

Nhà Tống phong cho vua làm Giao chỉ Quận Vương.

Bính Thân, [Long Thụy Thái Bình] năm thứ 3 [1056], (Tống Gia Hựu năm thứ

1). Mùa xuân, tháng giêng nước Chân Lạp sang cống.

Mùa hạ, tháng 4, xuống chiếu khuyến nông.

Làm chùa Sùng Khánh Báo Thiên, phát 1 vạn 2 nghìn cân đồng để đúc chuông

lớn. Vua thân làm bài minh1.

Đinh Dậu, [Long Thụy Thái Bình] năm thứ 4 [1057], (Tống Gia Hựu năm thứ 2).

Mùa xuân, tháng giêng, xây bảo tháp Đại Thắng Tự Thiên cao vài [2a] chục

trượng, theo kiểu 12 tầng (tức là tháp Báo Thiên).

Sai sứ đem con thú lạ sang biếu nhà Tống nói là con lân. Tư Mã Quang nói:

"Nếu là con lân thực

mà đến không phải thời cũng chẳng lấy gì làm điềm tốt, nếu không phải lân,

thì làm cho người phương

xa chê cười. Xin hậu thưởng rồi bảo đem về".

Mùa đông, tháng 12, làm hai chùa Thiên Phúc và Thiên Thọ. Đúc hai pho tượng

Phạn Vương và

Đế Thích bằng vàng để phụng thờ. (Triều nhà Trần làm lễ yết chùa, tức là ở

hai chùa này).

1 Minh văn: bài văn khắc trên các đồ kim khí như chuông, đỉnh hoặc trên

bia đá.

Mậu Tuất, [Long Thụy Thái Bình] năm thứ 5 [1058], (Tống Gia Hựu năm thứ 3).

Mùa xuân, sửa

chữa cửa Tường Phù.

Kỷ Hợi, [Chương Thánh Gia Khánh] năm thứ 1 [1059], (Tống Gia Hựu năm thứ

4). Mùa xuân, tháng 3, đánh Khâm Châu nước Tống, khoe binh uy rồi về, vì

ghét nhà Tống phản phúc.

Mùa thu, tháng 8, vua ngự điện Thủy Tinh cho các quan vào chầu, truyền các

quan đội mũ phốc

đầu1, đi hia, mới cho vào. Đội mũ phốc đầu, đi hia bắt đầu từ đấy.

[2b] Định hiệu quân, gọi là Ngự Long, Vũ Thắng, Long Dực, Thần

Điện, Bổng Thánh, Bảo

Thắng, Hùng Lược, Vạn Tiệp đều chia làm tả hữu, thích vào trán ba chữ

"Thiên tử quân".

Canh Tý, [Chương Thánh Gia Khánh] năm thứ 2 [1060], (Tống Gia Hựu năm thứ

5). Mùa xuân, châu mục Lạng Châu là Thân Thiệu Thái đi bắt những binh lính

bỏ trốn vào đất Tống, bắt được chỉ huy

sứ là Dương Bảo Tài và quân lính, trâu ngựa đem về.

Mùa thu, tháng 7, quân Tống sang xâm lấn, không được, bèn sai Thị Lang bộ

lại là Dư Tĩnh đến

Ung Châu để hội nghị. Vua sai Phí Gia Hựu đi. Tĩnh hậu tặng cho Gia Hựu và

đưa thư xin trả Bảo Tài cho họ, vua không nghe.

Tháng 8, phiên dịch nhạc khúc và điệu đánh trống của Chiêm Thành, sai nhạc

công ca hát. Làm hành cung cạnh hồ Dâm Đàm2 để xem đánh cá.

Tân Sửu, [Chương Khánh Gia Thánh] năm thứ 3 [1061], (Tống Gia Hựu năm thứ

6). Mùa xuân, tháng 2, chọn con gái dân gian 12 người vào hậu [3a] cung.

Châu La Thuận dâng voi trắng.

Nhâm Dần, [Chương Thánh Gia Khánh] năm thứ 4 [1062], (Tống Gia Hựu năm thứ

7). Mùa xuân, quận Gia Lâm dâng con rùa 3 chân, mắt có 6 con ngươi.

Quý Mão, [Chương Thánh Gia Khánh] năm thứ 5 [1063], (Tống Gia Hựu năm thứ

8).

Bấy giờ vua xuân thu đã nhiều, tuổi 40 mươi mà chưa có con trai nối dõi,

sai Chi hậu nội nhân

Nguyễn Bông làm lễ cầu tự ở chùa Thánh Chúa, sau đó _ Lan phu nhân có mang,

sinh hoàng tử Càn Đức

tức Nhân Tông, (Tục truyền rằng vua cúng khấn cầu tự chưa thấy hiệu nghiệm,

nhân đi chơi khắp các chùa quán, xa giá đi đến đâu, con trai con gái đổ xô

đến xem không ngớt, duy có một người con gái hái dâu cứ nép trong bụi cỏ

lan. Vua trông thấy, gọi đưa vào cung, được vua yêu, phong làm _ Lan phu

nhân. Vua muốn có con trai, sai Bông đem hương cầu đảo ở chùa Thánh Chúa.

Nhà sư dậy cho Bông thuật đầu thai thác hoá. Bông nghe theo. Việc phát

giác, đem chém Bông ở trước cửa chùa. Người sau

gọi chỗ ấy3 là Đồng Bông. Chùa ở xã Dịch Vọng, huyện Từ Liêm4, Đồng Bông ở

phía Tây trước cửa chùa, nay hãy còn.

Giáp Thìn, [Chương Thánh Gia Khánh] năm thứ 6 [1064], (Tống Anh Tông Thự,

Trị Bình năm thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng sai sứ sang Tống.

Mùa hạ, tháng 4, [3b] vua ngự ở điện Thiên Khánh xử kiện. Khi ấy công chúa

Động Thiên đứng hầu bên cạnh, vua chỉ vào công chúa, bảo ngục lại rằng: "Ta

yêu con ta cũng như lòng ta làm cha mẹ dân. Dân không hiểu biết mà mắc vào

hình pháp, trẫm rất thương xót, từ nay về sau, không cứ gì tội nặng hay nhẹ

đều nhất luật khoan giảm".

1 Phốc đầu: tên mũ, tức là mũ cánh chuồn, có hai dải cánh giương ra hai

bên.

2 Dâm Đàm: tức Hồ Tây ở Hà Nội, xem BK2, 35b.

3 Nguyên văn: "Hậu nhân mục kỳ xứ viết". Chữ "mục" trong câu

này không hợp nghĩa (người sau nhìn xứ ấy (?), gọi là ......),

có lẽ là chữ vị ( ... vị kỳ xứ viết ...)

4 Huyện Từ Liêm: nay thuộc Hà Nội.

Bính Ngọ, [Long Chương Thiên Tự] năm thứ 1 [1066], (Tống Trị Bình năm thứ

3). Mùa xuân,

tháng giêng, ngày 25, giờ Hợi, hoàng tử Càn Đức sinh. Ngày hôm sau, lập

làm hoàng thái tử, đổi niên hiệu, đại xá phong mẹ thái tử là _ Lan phu nhân

làm Thần phi.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: thái tử là căn bản của nước, không

lập sớm không được. Kinh Xuân thu chép: "Con là Đồng sinh" ý cũng bởi đó.

Vua tuổi đã cao, may mà sinh hoàng tử, [4a] mừng vui bội phần, vội lập làm

hoàng thái tử, đại xá thiên hạ, để yên lòng mong mỏi của muôn dân là phải

lắm.

Mùa thu, tháng 9, sai lang tướng là Quách Mãn xây tháp ở núi Tiên Du1.

Lái buôn người nước Trảo Oa2 dâng ngọc châu dạ quang, trả tiền giá 1 vạn

quan.

Đinh Mùi, [Long Chương Thiên Tự] năm thứ 2 [1067], (Tống Trị Bình năm thứ

4). Mùa xuân, tháng 2, các nước Ngưu Hống3, Ai Lao dâng vàng bạc, trầm

hương, sừng tê, ngà voi và các thứ sản vật

địa phương.

Nhà Tống gia phong vua làm Khai phủ nghi đồng tam ti, rồi lại gia phong làm

Nam Bình Vương. Cho Viên ngoại lang là Ngụy Trọng Hoà và Đặng Thế Tư làm Đô

hộ phủ sĩ sư4, đổi mười người thư gia5 làm án ngục lại6. Cho Trọng Hoà và

Thế Tư mỗi người bổng hàng năm là 50 quan tiền, 100 bó lúa và các

thứ cá muối v..v.. [4b] ngục lại mỗi người 20 quan tiền, 100 bó lúa để nuôi

đức liêm khiết của họ.

Mậu Thân7, [Long Chương Thiên Tự] năm thứ 3 [1068], (từ tháng 2 về sau là

niên hiệu Thiên

Huống Bảo Tượng thứ 1; Tống Thần Tông Hy Ninh năm thứ 1). (Xét bài ký tháp

Thăng Bình, Thanh Hoá lấy năm này làm Thần vũ năm thứ 1 là sai).

Mùa xuân, tháng 2, hoàng tử là Minh Nhân vương (không rõ tên) sinh, đó là

người em cùng mẹ

của Nhân Tông.

Châu Chân Đăng8 dâng 2 con voi trắng, nhân đó đổi niên hiệu là Thiên Huống

Bảo Tượng9 năm

thứ 1.

Đổi hương Thổ Lỗi làm Hương Siêu Loại10, vì là nơi sinh của Nguyên Phi.

Chiêm thành dâng voi trắng, sau lại quấy nhiễu biên giới.

Kỷ Dậu11, [Thiên Huống Bảo Tượng] năm thứ 2 [1069], (Từ tháng 7 về sau là

niên hiệu Thần

Vũ năm thứ 1; Tống Hy Ninh năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 2, vua thân đi đánh

Chiêm Thành, bắt được

1 Núi Tiên Du: xem chú thích BK2, 22B

2 Trảo Oa: phiên âm tên đảo Java (Indonesia)

3 Ngưu Hống: tộc người Thái ở vùng Sơn La, có thể là người Thái Đen.

Ngưu Hống có thể là phiên âm tên Ngù Háu trong tiếng Thái, có nghĩa là "Rắn

hổ mang". Theo Quắm tố mướu (truyện kể bản Mường) của người Thái Đen thì

chúa Lò Rẹt ở Mường Muổi (khoảng thế kỷ XIV) lấy hiệu là Ngù Háu. Nhưng

Ngù Háu có thể là hình tượng của tộc Thái Đen từ trước

4 Sĩ sư: tên chức quan coi việc hình pháp ở Đô hộ phủ (Đô hộ phủ vốn là

tên gọi cơ quan cai trị cấp châu đời Đường, các triều đình

Đinh, Lê, Lý vẫn giữ tên Đô Hộ Phủ, nhưng chỉ chuyên việc hình pháp)

5 Thư gia: Theo Lê Quý Đôn, thư gia tức là ty lại (Kiến Văn Tiểu Lục, bản

dịch, Nxb Sử học, 1962, tr. 129 - 130), có thể cũng như

tên gọi "thư lại" đời sau. Phan Huy Chú ghi tên các thư gia như: Nội hỏa

thư gia, Ngự khố thư gia, Chi hậu thư gia, Nội thư gia, Lệnh thư gia v.v

... (Lịch triều hiến chương loại chí, bản dịch, T.2, Nxb Sử học, 1962, tr.

6)

6 Án ngục lại: người giúp việc xét hỏi về công việc hình án.

7 Nguyên bản in lầm là "Giáp Thân", theo thứ tự niên hiệu và can chi thì ở

đây phải là năm "Mậu Thân" (1068). Việt sử lược q.2,

13a cũng chép "Mậu thân"

8 Châu Chân Đăng: xem chú thích trang BK2, 21a.

9 Thiên Huống Bảo Tượng nghĩa là "Trời cho con voi trắng".

10 Hương Siêu Loại: nay thuộc địa phận huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc.

11 Nguyên bản in nhầm là "Ất Dậu". Theo thứ tự niên hiệu và can chi ở đây

phải là năm "Kỷ Dậu" (1069). Việt Sử Lược Q.2, 13b cũng chép "Kỷ Dậu"

vua nước ấy là Chế Củ1 và dân chúng 5 vạn người. trận này vua đánh chiêm

thành mãi không được, đem quân về đến châu Cư Liên, nghe tin Nguyên phi

giúp việc nội trị, lòng dân [5a] cảm hoá hoà hợp. Trong

cõi vững vàng, tôn sùng Phật giáo, dân gọi là bà Quan Âm, vua nói: "Nguyên

phi là đàn bà còn làm được như thế, ta là nam nhi lại chẳng được việc gì

hay sao?". Bèn quay lại đánh nữa, thắng được.

Mùa hạ, tháng 6 đem quân về. Mùa thu, tháng 7, vua từ Chiêm thành về đến

nơi, dâng tù ở Thái Miếu, đổi niên hiệu là Thần Vũ năm thứ 1. Chế Củ xin

dâng ba châu Địa Lý2, Ma Linh3, Bố Chính4 để chuộc tội. Vua bằng lòng, tha

cho Chế Củ về nước (Địa Lý nay là tỉnh Quảng nam)5.

Mùa đông, tháng 10, ngày Đinh Sửu, có đám mây sắc đỏ sát mặt trời.

Canh Tuất, Thần Vũ năm thứ 2 [1070], (Tống Hy Ninh, năm thứ 3). Mùa xuân,

làm điện Tử

Thần.

Mùa hạ, tháng 4 đại hạn, phát thóc, và tiền lụa trong kho để chẩn cấp cho

dân nghèo.

Mùa thu, tháng 8, làm Văn Miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối6,

vẽ tượng Thất

thập nhị hiền7, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến học ở đây.

[5b] Tân Hợi, [Thần Vũ] năm thứ 3 [1071], (Tống Hy Ninh, năm

thứ 4). Mùa xuân, tháng giêng, vua viết bia chữ "Phật" dài 1 trượng 6

thước đặt ở chùa Tiên Du8. Từ mùa xuân đến mùa hạ không mưa.

Chiêm Thành sang cống.

Định tiền chuộc tội theo thứ bậc khác nhau.

Mùa đông, tháng 12, vua không khỏe. Xuống chiếu cho Hữu ty ai vào lầm hành

lang tả hữu quan chức đô9 thì đánh 80 trượng.

Nhâm Tý, [Thần Vũ] năm thứ 4 [1072], (Từ tháng giêng về sau là Nhân Tông,

Thái Ninh năm thứ 1; Tống Hy Ninh năm thứ 5). Mùa xuân, tháng giêng, ngày

Canh Dần, vua băng ở điện Hội Tiên.

[Bầy tôi] dâng hiệu là Ứng Thiên Sùng Nhân Chí Đạo Uy Khánh Long Tường Minh

Văn Duệ Vũ Hiếu Đức

Thánh Thần Hoàng Đế, miếu hiệu là Thánh Tông.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Xót thương vì hình ngục, nhân từ với nhân dân, là

việc

đầu tiên của vương chính. Thánh Tông lo tù nhân trong ngục hoặc có kẻ vô

tội mà chết

vì đói rét, [6a] cấp cho chiếu chăn ăn uống để nuôi sống, lo quan lại giữ

việc hình ngục hoặc có kẻ vì nhà nghèo mà nhận tiền đút lót, cấp thêm cho

tiền bổng và thức ăn để nhà được giàu đủ. Lo dân thiếu ăn thì xuống chiếu

khuyến nông, gặp năm đại hạn thì ban lệnh chẩn cấp người nghèo, trước sau

một lòng, đều là thành thực. Huống chi lại tôn sùng đạo học, định rõ chế

độ, văn sự thi hành mau chóng bên trong; phía nam bình Chiêm; phía bắc đánh

Tống, uy vũ biểu dương hiển hách bên ngoài. Tuy có việc lầm lỗi nhỏ khác

cũng vẫn là bậc vua hiền. Hoặc có người bảo là vua nhân nhu có thừa mà

cương đoán không đủ, ngu ý chưa cho là phải.

1 Chế Củ: tức vua Chiêm Thành Rudravarman IV.

2 Châu Địa Lý: năm Thái Ninh thứ 4 (1075) đời vua Lý Nhân Tông đổi gọi là

châu Lâm Bình, nay là đất huyện Lệ Ninh, tỉnh Quảng

Bình

3 Châu Ma Linh: năm 1075 đời Lý Nhân Tông đổi gọi là châu Minh Linh, nay

là đất huyện Bến Hải, tỉnh Quảng Trị

4 Châu Bố Chính: nay là đất các huyện Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hóa,

tỉnh Quảng Bình

5 Lời chú thích trong nguyên bản nói: "Địa Lý nay là Quảng Nam" là không

đúng. Xem chú thích về châu Địa Lý ở trên.

6 Tứ phối: chỉ Nhan Uyên, Tăng Sâm, Tử Tư, Mạnh Tử là bốn học trò của

Khổng Tử được thờ với thầy ở Văn Miếu.

7 Thất thập nhị hiền: 72 học trò giỏi của Khổng Tử.

8 Chùa Tiên Du: ở núi Tiên Du, xem chú thích (4) trang 256)

9 Tức dãy hành lang đã quy định chỉ có các quan chức đô (chỉ huy các đô

quân cấm vệ) mới được phép lui tới

Hoàng thái tử Càn Đức lên ngôi trước linh cữu, đổi niên hiệu là Thái Ninh

năm thứ 1. Bấy giờ vua

mới 7 tuổi, tôn mẹ đẻ là _ Lan nguyên phi làm Hoàng thái phi, tôn mẹ đích

là Thượng Dương thái hậu

[6b] họ Dương làm Hoàng thái hậu, buông rem cùng nghe chính sự, Thái sư Lý

Đạo Thành giúp đỡ

công việc.

Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 8, vua xem lễ tắm Phật.

Vua bắt đầu ngự điện Thiên An coi chầu. Tha các tù ở phủ Đô hộ.

NHÂN TÔNG HOÀNG ĐẾ

Húy Càn Đức, con trưởng của Thánh Tông, mẹ đẻ là thái hậu Linh Nhân, sinh

vua ngày

25 tháng giêng năm Bính Ngọ, Long Chương Thiên Tự thứ 1 [1066], ngày hôm

sau lập hoàng thái tử. Thánh Tông băng, vua lên ngôi hoàng đế, ở ngôi 56

năm [1072 - 1127], thọ 63 tuổi

[1066 - 1127], băng ở điện Vĩnh Quang. Vua trán dô mặt rồng, tay dài quá

gối, sáng suốt thần võ, trí tuệ hiếu nhân, nước lớn sợ, nước nhỏ mến, thần

giúp người theo, thông âm luật, chế ca nhạc, dân được giàu đông, mình được

thái bình, là vua giỏi của triều Lý. Tiếc rằng mộ đạo Phật, thích điềm

lành, đó là điều lụy cho đức tốt.

Qúy Sửu, Thái Ninh năm thứ 2 [1073], (Tống Hy Ninh năm thứ 6). Bấy giờ mưa

dầm, rước phật

Pháp Vân1 về kinh để cầu tạnh. Cúng thần núi Tản Viên.

Giam Hoàng thái hậu họ Dương, tôn Hoàng thái phi làm Linh [7a] Nhân hoàng

thái hậu. Linh nhân có tính ghen, cho mình là mẹ đẻ mà không được dự chính

sự, mới kêu với vua rằng: "Mẹ già khó nhọc mới có ngày nay, mà bây giờ phú

qúy người khác được hưởng thế thì sẽ để mẹ già vào đâu?". Vua bèn sai đem

giam Dương thái hậu và 76 người thị nữ vào cung Thượng Dương, rồi bức phải

chết chôn theo lăng Thánh Tông.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Nhân Tông là người nhân hiếu, Linh Nhân là người

sùng Phật, sao lại đến nỗi giết đích thái hậu, hãm hại người vô tội, tàn

nhẫn đến thế ư? Vì ghen là thường tình của đàn bà, huống chi lại mẹ đẻ mà

không được dự chính sự. Linh Nhân dẫu là người hiền cũng không thể nhẫn nại

được, cho nên phải kêu với vua. Bấy giờ vua còn trẻ thơ, chỉ biết chiều

lòng mẹ là thích, mà không biết là lỗi to. Thái sư Lý Đạo Thành phải ra

trấn bên ngoài, biết đâu chẳng vì can gián [7b] việc ấy?

Nhà Tống phong vua làm Giao Chỉ Quận Vương.

Thái sư Lý Đạo Thành lấy chức Tả gián nghị đại phu ra coi châu Nghệ An. Đạo

Thành lập viện Địa Tạng ở trong miếu Vương Thánh châu ấy, ở giữa viện đặt

tượng Phật và vị hiệu của Thánh Tông, sớm hôm thờ phụng.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Đạo Thành là đại thần cùng họ, đương khi để

tang Thánh Tông vì có việc ra trấn ở ngoài, lòng cảm nhớ tiên đế là chân

tình, nhân mượn cớ thờ Phật để thờ vua, đó chỉ là việc nhất thời mà thôi.

Về sau những người trấn thủ châu Nghệ An vẫn lấy nơi ấy làm chỗ phụng thờ

Thánh Tông, suốt cả triều Lý không ai chê việc ấy là trái. Phàm vua không

được tế ở nhà bề tôi, cha không được tế ở nhà con thứ, huống chi lại thờ

chung với người Di. [8a] Đó là lỗi của nhà Lý sùng Phật.

Giáp Dần, [Thái Ninh] năm thứ 3 [1074], (Tống Hy Ninh năm thứ 7). Mùa xuân

có chim sẻ

trắng đậu ở cấm đình. Chiêm Thành lại quấy rối biên giới.

Cho Lý Đạo Thành làm Thái phó bình chương quân quốc trọng sự.

Xuống chiếu cho các công thần 80 tuổi đều được chống gậy ngồi ghế khi vào

chầu.

1 Phật Pháp Vân: là Phật ở chùa Pháp Vân, tức chùa Dâu, ở huyện Thuận

Thành, tỉnh Hà Bắc ngày nay

Ất Mão, [Thái Ninh] năm thứ 4 [1075], (Tống Hy Ninh năm thứ 8). Mùa xuân,

tháng 2, xuống

chiếu tuyển Minh kinh bác học và thi Nho học tam trường. Lê Văn Thịnh trúng

tuyển, cho vào hầu vua học.

Vương An Thạch nhà Tống cầm quyền, tâu [với vua Tống] rằng nước ta bị Chiêm

Thành đánh phá. Quân còn sót lại không đầy vạn người, có thể dùng kế chiếm

lấy được. Vua Tống sai Thẩm Khởi, và Lưu di làm tri Quế Châu1 ngầm dấy

binh người Man động2, đóng thuyền bè, tập thủy chiến, cấm các châu huyện

không được mua bán với nước ta. Vua biết tin, sai Lý Thường Kiệt, [8b] Tông

Đản đem hơn

10 vạn binh đi đánh. Quân thủy, quân bộ đều tiến3. Thường Kiệt đánh các

châu Khâm, Liêm; Đản vây châu Ưng, Đô giám Quảng Tây nhà Tống là Trương Thủ

Tiết đem quân đến cứu. Thường Kiệt đón đánh

ở cửa ải Côn Lôn (nay là phủ Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây của nhà Minh) phá tan

được, chém Thủ Tiết tại trận. Tri Ưng châu là Tô Giám cố thủ không hàng.

Quân ta đánh đến hơn 40 ngày, chồng bao đất trèo

lên thành. Thành bèn bị hạ. Giám cho gia thuộc 36 người chết trước, chôn

xác vào hố, rồi châm lửa tự đốt chết. người trong thành cảm ân nghĩa của

Giám, không một người nào chịu hàng, giết hết hơn 5 vạn

8 nghìn người, cộng với số người chết ở các châu Khâm, Liêm thì đến hơn 10

vạn. Bọn Thường Kiệt bắt sống người ba châu ấy đem về. Vua Tống truy tặng

Giám là Phụng quốc quân tiết độ sứ, thụy là Trung Dũng, cho một khu nhà lớn

ở kinh thành, 10 khoảnh ruộng tốt cho thân tộc [9a] 7 người làm quan, cho

con là Nguyên chức Cáp môn chi hậu.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Nhà Tống cho Tô Giám thụy là Trung Dũng cũng đủ

nêu rõ sự trung dũng của Lý Thường Kiệt, há có thể xem như hạng Túc Sa4

đâu?

Mùa thu, tháng 8, ngày mồng 1 Canh Dần, nhật thực.

Sai Lý Thường Kiệt tổng lĩnh các quân đi đánh Chiêm Thành, không thắng

được. Thường Kiệt bèn họa địa đồ hình thế núi sông của ba châu Bố Chính,

Địa Lý, Ma Linh rồi về. Đổi châu Địa Lý làm châu Lâm Bình, châu Ma Linh là

châu Minh Linh, chiêu mộ dân chúng đến đấy ở. Cho Thường Kiệt làm Thái

úy.

Bính Thìn, [Thái Ninh] năm thứ 5 [1076], (từ tháng 4 về sau là niên hiệu

Anh Vũ Chiêu Thắng năm thứ 1; Tống Hy Ninh năm thứ 9). Mùa xuân, tháng 3,

nhà Tống sai tuyên phủ sứ Quảng Nam5 là Quách Quỳ làm Chiêu Thảo sứ, Triệu

Tiết làm phó, đem quân 9 tướng, hợp với Chiêm Thành và [9b] Chân Lạp sang

xâm lấn nước ta. Vua sai Lý Thường Kiệt đem quân đón đánh, đến sông Như

Nguyệt6 đánh tan được. Quân Tống chết hơn 1 nghìn người. Quách Quỳ lui

quân, lại lấy châu Quảng Nguyên của

ta (người đời truyền rằng Thường Kiệt làm hàng rào theo dọc sông để cố thủ.

Một đêm quân sĩ chợt nghe ở trong đền Trương tướng quân có tiếng đọc to

rằng:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên phân định tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm? Nhữ đẳng

hành khan thủ bại hư!

(Sông núi nước Nam, Nam đế ở,

1 Quế Châu: nay là đất huyện Quế Lâm, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.

2 Người man động: ở đây chỉ chung người các dân tộc thiểu số ở miền núi

biên giới Việt - Tống.

3 Cương mục dẫn Cương mục tục biên của Trung Quốc, ghi cuộc hành quân của

Lý Thường Kiệt bắt đầu vào mùa đông năm Ất Mão (1075), đánh châu Khâm và

châu Liêm vào tháng 11 năm ấy, đánh châu Ung vào tháng giêng năm Bính Thình

(1076) để đính chính việc Toàn Thư ở đây ghi dưới đoạn chép việc tháng 2,

trước đoạn chép việc mùa thu tháng 8 (CMCB3, 36a)

4 Túc Sa: chỉ Túc Sa Vệ, tướng nước Tề thời Xuân Thu, theo lệnh của Tề

Tương Công đem quân đi đánh đất Lai, thế thắng, nhưng

Vệ nhận hối lộ rồi đem quân trở về

5 Quảng Nam: tên lộ của nhà Tống, sau chia làm Quảng Nam Đông lộ, tức tỉnh

Quảng Đông và Quảng Nam Tây lộ, tức tỉnh Quảng

Tây, Trung Quốc.

6 Sông Như Nguyệt: tức sông Cầu

Rõ ràng phân định tại sách trời

Cớ sao nghịch tặc sang xâm phạm? Cứ thử làm xem, chuốc bại nhơ!1)

Sau đó quả nhiên như thế. (Hai anh em Trương tướng quân, anh tên là Khiếu2,

em tên là Hát, đều là tướng giỏi của Triệt Việt Vương. [Triệu] Việt Vương

bị [Hậu] Lý Nam Đế đánh bại mà mất nước. Nam Đế gọi cho làm quan, hai người

đều nói: "Tôi trung không thờ kẻ làm vua đã giết hại chủ mình". Rồi

ẩn mình trốn ở núi Phù Long, Nam Đế gọi mấy lần không chịu ra, mới hạ lệnh

ai chém được thủ cấp hai người thì thưởng nghìn vàng. Hai người đều uống

thuốc độc chết. Nam Tấn Vương nhà Ngô đi đánh giặc

Lý Huy ở châu Tây Long đóng quân ở cửa Phù La3, chiêm bao thấy có hai người

xin theo giúp quân, nói rằng trời thương họ là trung thần không thờ hai

vua, bổ làm "Than hà Long quân phó tuần Vũ Lạng nhị giang" và Chi mạn

nguyên tuần giang đô phó sứ". Đến khi dẹp xong giặc, Nam Tấn Vương nhà Ngô

phong cho anh làm "Đại đương giang đô hộ quốc thần vương", lập đền thờ ở

cửa sông Như Nguyệt, em

là "Tiểu đương giang đô hộ quốc thần vương", lập đền thở ở cửa sông Nam

quận tức là đền thờ này).

Mùa hạ, tháng 4, đại xa, đổi niên hiệu làm Anh Vũ Chiêu Thắng năm thứ 1.

Xuống chiếu cầu lời nói thẳng.

[10a] Cất nhắc những người hiền lương có tài văn võ cho quản quân dân. Chọn

quan viên văn chức, người nào biết chữ cho vào Quốc tử giám.

Đinh Tỵ, [Anh Vũ Chiêu Thắng] năm thứ 2 [1077], (Tống Hy Ninh năm thứ 10).

Mùa xuân, mở

hội Nhân Vương4 ở điện Thiên An.

Tháng 2, thi lại viện bằng phép viết chữ, phép tính và hình luật.

Tháng 3, lại đem đại binh sang đánh hai châu Khâm và Liêm nước Tống, nói

lấy tiếng rằng nhà Tống thi hành phép thanh miêu5, tàn hại dân Trung quốc,

cho nên đem quân sang hỏi tội để cứu giúp nhau6.

Mùa đông, tháng 12, Triệu Tiết nhà Tống sang xâm lấn, không được lại đem

quân về7.

Mậu Ngọ, [Anh Vũ Chiêu Thắng] năm thứ 3 [1078], (Tống Nguyên Phong năm

thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng, sửa lại thành Đại La, sai Đào Tống Nguyên

đem biếu nhà Tống 5 con voi thuần, xin

trả lại các châu Quảng Nguyên, Tô Mậu, và những người các châu ấy bị bắt

đi.

1 Bài thơ này có nhiều dị bản chép trong Việt Điện U Linh, Trương tôn thần

sự tích, Thiên Nam vân lục liệt truyện, Hoàng Việt thi

tuyển v.v... ở đây chúng tôi dịch nghĩa theo văn bản của Toàn Thư

2 Về tên nhân vật truyền thuyết, người anh của Trương Hải, Việt điện u

linh, Hoàng Việt thi tuyển v.v... chép là Trương Hống, nhưng ở đây nguyên

bản Toàn Thư in rõ là Khiếu (Hống và Khiếu đều có nghĩa là kêu to, nhưng

Hống riêng dùng với loài vật lớn). Ngoài Toàn Thư còn có Toàn Việt thi lục

cũng chép là Trương Khiếu. Chúng tôi dịch theo văn bản Toàn Thư và nêu

vấn đề

để xác minh sau.

3 Châu Tây Long và cửa Phù Lan: chưa rõ ở đâu, Lê Đại Hành phong cho con

là Cân làm Ngự Bắc Vương, đóng ở Phù Lan, Cương Mục ghi Phù Lan là tên trại

ở xã Phú Vệ, huyện Đường Hào, Hải Dương (CMCB1,27a). Đường Hào nay là

huyện Mỹ Văn, tỉnh Hải Dương.

4 Nhân Vương Hội: tức hội tụng kinh Phật thuyết Nhân Vương Bát Nhã Bà La

Mật Kinh, trong đó có đoạn nói rằng vua các nước cầu nguyện kinh này thì

muôn dân được tai qua nạn khỏi.

5 Chỉ biện pháp kinh tế của nhà Tống do Vương An Thạch đề xướng: mỗi năm

hai vụ xuân hè, nhà nước cho dân vay tiền lúc lúa còn non, khi gặt trả lãi

2 phân.

6 Như Toàn Thư ghi đây thì quân nhà Lý trước sau hai lần sang đánh châu

Khâm, châu Liêm (lần trước vào năm Ất Mão, 1075, và

lần này vào tháng 3 năm Đinh Tỵ, 1077). Cương Mục theo các tài liệu của

Trung Quốc như Cương Mục tục biên, Giao Chỉ di biên

đã sửa lại, ghi cuộc hành quân năm Ất Mão diễn ra vào tháng 11 và kết thúc

sau khi hạ thành Ung Châu tháng giêng năm Bính

Thìn (1076), trước sau chỉ một lần chứ không phải hai lần như Toàn Thư đã

chép lầm (CMCB3, 36a)

7 Theo Cương Mục, Triệu Tiết chỉ là phó tướng của Quách Quỳ đem quân sang

xâm lược nước ta năm Bính Thìn, 1076 (Toàn Thư

đã ghi ở BK3, 9a) chứ không phải lại sang lần nữa vào năm này (Đinh Tỵ,

1077) như Toàn Thư đã chép nhầm ở đây.

[10b] Kỷ Mùi, [Anh Vũ Chiêu Thắng] năm thứ 4 [1079], (Tống Nguyên

Phong năm thứ 2).

Châu Lạng dâng voi trắng.

Mưa đá.

Được mùa to.

Nhà Tống đem Thuận Châu trả cho ta (tức là châu Quảng Nguyên, nhà Tống đổi

làm Thuận

Châu).

Canh Thân, [Anh Vũ Chiêu Thắng] năm thứ 5 [1080], (Tống Nguyên Phong năm

thứ 31). Mùa

xuân, tháng 2, đúc chuông lớn cho chùa Diên Hựu. Chuông đúc xong, đánh

không kêu, nhưng cho rằng

nó đã thành khí, không nên tiêu hủy, bèn đem bỏ ở Quy Điền [ruộng rùa] của

chùa. Ruộng ấy, thấp ướt,

có nhiều rùa, người bấy giờ gọi là chuông Quy Điền.

Mùa thu, tháng 8, móc ngọt xuống. Vua đem đua thuyền.

Tân Dậu, /Anh Vũ Chiêu Thắng/ năm thứ 6 [1081], (Tống Nguyên Phong năm thứ

4). Mà xuân, mặt trời có hai quầng sáng. Trả lại cho nhà Tống dân và lính

bị bắt ở ba châu Ung, Khâm, Liêm, vì nhà Tống đã trả lại ta các châu Quảng

Nguyên.

Mùa đông, tháng 10, Thái [11a] sư Lý Đạo Thành chết.

Nhâm Tuất, /Anh Vũ Chiêu Thắng/ năm thứ 4 [1082], (Tống Nguyên Phong năm

thứ 5). Mùa xuân, gả công chúa Khâm Thánh cho châu mục châu Vị Long là Hà

Di Khánh.

Quý Hợi, /Anh Vũ Chiêu Thắng/ năm thứ 8 [1083], (Tống Nguyên Phong năm thứ

6). Mùa xuân, vua thân duyệt các hoàng nam1, định làm 3 bậc.

Rồng vàng bay từ điện Tử Thần đến điện Hội Long.

Giáp Tý, /Anh Vũ Chiêu Thắng/ năm thứ 9 [1084], (Tống Nguyên Phong năm thứ

7). Mùa hạ, tháng 6, sai thi lang bộ Binh Lê Văn Thịnh đến trại Vĩnh Bình

cùng với người Tống bàn việc cương giới.

Xuống chiếu cho thiên hạ nung ngói lợp nhà.

Định biên giới.

Nhà Tống trả lại cho ta 6 huyện 3 động. Người Tống có thơ rằng:"Nhân tham

Giao Chỉ tượng, khướt thất Quảng Nguyên kim" (vì tham voi Giao Chỉ, bỏ mất

vàng Quảng Nguyên).

[11b] Ất sửu, /Quảng Hựu/ năm thứ 1 [1085], (Tống Nguyên Phong năm thứ 8).

Cho Lê Văn Thịnh làm Thái sư. Bấy giờ thiên hạ vô sự, Hoàng hậu đi chơi

khắp các nơi núi sông, ý muốn xây dựng chùa tháp.

Bính Dần, /Quảng Hựu/ năm thứ 2 [1086], (Tống Triết Hú, Nguyên Hựu năm thứ

1). mùa xuân, Nguyễn Viễn dâng con rùa 6 chân, trên lưng có vạch chữ.

Mùa thu, tháng 8, thi người có văn học trong nước, sung làm quan ở Hàn lâm

viện, Mạc Hiển

Tích trúng tuyển, bổ làm Hàn lâm học sĩ.

Làm chùa ở núi Đại Lãm2.

Đinh Mão, /Quảng Hựu/ năm thứ 3 [1087], (Tống Nguyên Hựu năm thứ 2). Mùa

xuân, tháng 3, dựng bí thư các.

1 Tức là dân đinh từ 18 tuổi trở lên, xem chú thích (1), tr. 264.

2 Chùa Đại Lãm Sơn hay chùa Lãm Sơn: tức là chùa Giạm trên núi Giạm (Lãm

Sơn) ở xả Nam Sơn, huyện Quế Võ, tĩnh Hà Bắc, nay vẫn còn các lớp nền và

cột đá chạm rồng thời Lý.

Nhà Tống phong làm Nam Bình Vương.

Mùa đông, tháng 10, vua ngự đến chùa Lãm Sơn. Đêm ban yến cho các quan, vua

thân làm hai bài thơ Lãm Sơn dạ yến.

Mậu Thìn, /Quảng Hựu/ năm thứ 4 [1088], (Tống Nguyên Hựu năm thứ 3). Mùa

xuân, tháng giêng, phonh nhà sư Khô Đầu làm Quốc sư (có thuyết nói là cho

[12a] tiết việt, cùng với Tể tướng đứng trên điện, xét đoán công việc và

đơn từ kiện tụng của thiên hạ, chưa chắc là có thể, có lẽ bấy giờ Nhân Tông

sùng đạo Phật, phong làm Quốc sư để hỏi việc nước, cũng như Lê Đại Hành đối

với Ngô Khuông Việt mà thôi). Dặt chức thư gia mười hỏa1.

Định các chùa trong nước làm ba hạng đại, trung và tiểu danh lam, cho quan

văn chức cao kiêm làm đề cử2. Bấy giờ nhà chùa có điền nô và kho chứa đồ

vật, cho nên đặt chức ấy.

Mùa đông, tháng 10, xây tháp chùa Lãm Sơn.

Kỷ Tỵ, /Quảng Hựu/ năm thứ 5 [1089], (Tống Nguyên Hựu năm thứ 4). Mùa xuân,

tháng 3,

định các chức văn võ, quan hầu vua và các chức tạp lưu.

Quân nhà Tống /xâm phạm/ vào châu Thạch Tê3.

Đào ngòi lãnh kinh4.

Canh Ngọ, /Quảng Hựu/ năm thứ 6 [1090], (Tống Nguyên Hựu năm thứ 5).

Làm cung hợp

hoan.

Tân Mùi, /Quảng Hựu/ năm thứ 7 [1091], (Tống Nguyên Hựu năm thứ 6). Mùa

xuân, vua ngự

đến Lạng Sơn xem bắt voi. Mùa Đông, tháng 11, cho Hà Ư làm Thiếu úy tri

điện tiền chư quân sự.

Lê Toàn Nghĩa dâng [12b] con rùa năm sắc.

Nhâm Thân, /Quảng Hựu/ năm thứ 7 [1092], (Tống Quang Hựu năm thứ 8), (Ừ

tháng 8 về sau

là niên hiệu Hội phong năm thứ 1; Tống Nguyên Hựu năm thứ 7). Mùa Thu,

tháng 8 đổi niên hiệu làm

Hội Phong năm thứ 1.

Được mùa to. Định sổ ruộng, thu tô mỗi mẫu 3 thăng5 để cấp lương cho quân.

Qúy Dậu, /Hội Phong/ năm thứ 2 [1093], (Tống Nguên hựu năm thứ 8). Cây ưu

bát đàm /cây sung/6 nở hoa.

Giáp Tuất, /Hội Phong/ năm thứ 3 [1094], (Tống Thiệu Thánh năm thứ 1). Mùa

xuân, tháng giêng, sai Hàn Lâm học sĩ Mạc Hiển Tích sang sứ Chiêm Thành đòi

lễ tuế cống.

Mùa Hạ, tháng 4, tháp chùa Lãm Sơn xây xong.

Ất Hợi, /Hội Phong/ năm thứ 4 [1095], (Tống Thiệu Thánh năm thứ 2). Mùa

xuân, các vương vào chầu.

Mùa Hạ, tháng 6, đại hạn. Thả tù, giảm hoặc miễn các khoản tang thuế1.

1 Nguyên văn: "thư gia thập hỏa". Thư gia theo Lê Quý Đôn là ty lại (người

giúp việc văn thư giấy tờ ở các nha môn. Kiến văn tiểu

tục Bản dịch, NXB Sử học, 1962, tr. 189). Phan Huy Chú kể tên một số "thư

gia" như nội hỏa thư gia, ngự khố thu gia, chi hậu thư gia, nội thư gia,

lệnh thư gia (Lịch triều hiến chương loại chí, t.2: Quan chức chí, NXB Sử

học ,1961, tr.6). Các "thư gia" khác đều chưa rõ.

2 Đề cử: tên chức quan thời Lý, quản lý ruộng đất và tài sản của nhà chùa.

3 Châu Thạch Tê: có lẽ miền huyện Thạch Lâm cũ của tỉnh Cao Bằng (theo

Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt, Sđd). Thạch Lâm là

đất các huyện Hòa An và Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng.

4 Lãnh Kinh Xuyên: khúc sông qua bến Lãnh Kinh, xem chú thích ở BK1, 26b.

5 Thăng : đơn vị đo lường, chưa rõ tương đương đơn vị ngày nay như thế

nào.

6 Ưu bát đàm: đúng tên là ưu đàm bát, còn gọi là ô - đàm - bạt - ha, ưu -

đàm - ba - la, đều là chữ phiên âm tiếng Phạn: Udumbara; xem chú thích (3),

tr. 255.

Trời mưa.

Bính Tý, /Hội Phong/ năm thứ 5 [1096], (Tống Thiệu Thánh năm thứ 3). Mùa

Xuân, tháng 3, Lê Văn Thịnh mưu làm phản, tha tội chết, [13a] an trí ở

Thao Giang2. Bấy giờ vua ra hồ Dâm Đàm, ngự trên thuyền nhỏ xem đánh cá.

Chợt có mây mù nổi lên, trong đám mù nghe có tiếng thuyền bơi đến, tiếng

mái chèo rào rào, vua lấy giáo ném. Chốc lát mây mù tan, thấy trong thuyền

có con hổ, mọi người

sợ tái mặt, nói: "Việc nguy rồi!". Người đánh cá là Mạc Thận quăng lưới

trùm lên con hổ, thì ra là Thái sư

Lê Văn Thịnh. Vua nghĩ Thịnh là đại thần có công giúp đỡ, không nỡ giết,

đày lên trại đầu Thao Giang. Thưởng cho Mục Thận quan chức và tiền của, lại

cho đất ở Tây Hồ làm thực ấp. Trước đấy Văn Thịnh có

gia nô người nước Đại Lý3 có phép thuật kỳ lạ, cho nên mượn thuật ấy toan

làm chuyện thí nghịch.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Kẻ làm tôi /phạm tội/ giết vua cướp ngôi mà được

miễn tội chết, thế là sai trong việc hình, lỗi ở vua tin sùng đạo Phật.

[13b] Đinh Sửu, /Hội Phong/ năm thứ 6 [1097], (Tống Thiệu Thánh năm thứ 4).

Mùa xuân, tháng giêng, xuống chiếu kiểm định các lệ, đều phỏng theo các

điển cũ.

Mùa Thu, tháng 8, sao mọc ban ngày. Bấy giờ trong nước giàu đủ, Thái hậu

làm nhiều chùa

Phật.

Mậu Dần, /Hội Phong/ năm thứ 7 [1098], (Tống Nguyên Phù năm thứ 1). Mùa

Thu, tháng 8,

động đất.

Sao Chổi hiện ra.

Kỷ Mão, /Hội Phong/ năm thứ 8 [1098], (Tống Nguyên Phù năm thứ 2). Rồng

thần hiện xuống

ở cây mai.

Canh Thìn, /Hội Phong/ năm thứ 9 [1100], (Tống Nguyên Phù năm thứ 3). Mùa

Đông, tháng

12, bệnh dịch lớn.

Tân Tỵ, Long Phù năm thứ 1 [1101], (Tống Huy Tông Cát, Kiến Trung Tĩnh Quốc

năm thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng, đổi niên hiệu. Cho Thái úy Lý Thường

Kiệt kiêm chức Nội thị phán thủ đô áp nha hành điện nội ngoại đô tri sự.

Sửa chùa Diên Hựu.

Nhâm Ngọ, /Long Phù/ năm thứ 2 [1102], (Tống Sùng Ninh năm thứ

1). Mùa xuân, tháng giêng, ngày Lập xuân; tuyết lành xuống.

Tháng 2, [14a] nước to. Sai Hoàng hậu và các phi tần trai giới lập đàn chay

để cầu tự.

Quí Mùi, /Long Phù/ năm thứ 3 [1103], (Tống Sùng Ninh năm thứ 2). Mùa xuân,

Thái hậu phát tiền ở kho Nội phủ để chuộc những con gái nhà nghèo đã phải

bàn đi ở đem gã cho những người góa vợ.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Con gái nhà nghèo đến phải cầm thân làm mướn, con

trai nhà nghèo đến nỗi không có vợ , đó là cùng dân trong thiên hạ. Thái

hậu đổi đời cho họ, cũng là việc làm nhân chính vậy.

Mùa Đông, tháng 10, người Diễn Châu là Lý Giác mưu làm phản. Giác trước học

được thuật lạ,

có thể biến cây cỏ làm người, bèn chiêu tập những kẻ vô lại chiếm cứ châu

ấy, đắp thành làm loạn. Việc

tâu lên, vua sai bọn Lý Thường Kiệt đi đánh. Giác thua trốn sang Chiêm

Thành, dư đảng đều bị dẹp yên.

1 Tang thuế: chưa rõ nội dung từ này, theo nghĩa chữ có thể hiểu là thuế

và tang. Tang có nghĩa là bẩn thỉu, bỉ ổi, có thể là từ dùng

để chỉ các khoản phụ thu thuế bất chính.

2 Thao Giang: tên trại thời Lý, thời Trần đổi là lộ (Phạm Sư Mạnh có bài

thơ Án Thao Giang lộ), nay là vùng huyện Tam Thanh, Sông

Thao, tỉnh Vĩnh Phú.

3 Nước Đại Lý: xem chú thích (1) tr. 270.

Chiêm Thành cướp [14b] biên giới.

Giáp Thân, /Long Phù/ năm thứ 4 [1104], (Tống Sùng Ninh năm thứ 3). Mùa

xuân, tháng 2, sai

Lý Thường Kiệt đi đánh Chiêm Thành, nói tình hình hư thực của nước ta. Vua

Chiêm Thành là Chế Ma

Na1 nhân thế đem quân vào cướp, lấy lại 3 châu Địa Lý v.v... mà Chế Củ đã

dâng. Đến đây, sai Lý

Thường Kiệt đi đánh, phá được, Chế Ma Na lại dâng nộp đất ấy.

Tháng 3, định lại binh hiệu của quân cấm vệ.

Ất Dậu, /Long Phù/ năm thứ 5 [1105], (Tống Sùng Ninh năm thứ 4). Mùa xuân,

cúng thần Cao Môi2 . Mùa hạ, tháng 6, Thái úy Lý Thường Kiệt chết, tặng

chức Nhập nội điện đô tri kiểm hiệu thái úy bình chương quân quốc trọng sự,

tước Việt quốc công, thực ấp 1 vạn hộ, cho người em là Lý Thường Hiến được

kế phong tước hầu (Thường Kiệt người phường Thái Hòa, thành Thăng Long, nối

đời làm quan, nhiều mưu lược, có tài làm tướng. Khi còn ít tuổi, vì vẻ mặt

tươi đẹp được sung làm Hoàng môn

chi hậu theo hầu Thái Tông, thăng dần đến chức Nội thị sảnh đô tri. Thánh

Tông phong chức Thái bảo, trao cho tiết [15a] việt để đi thăm hỏi lại dân ở

Thanh Hóa, Nghệ An. Đến khi vua thân đi đánh Chiêm Thành, ấy làm tướng tiên

phong, bắt được vua Chiêm là Chế Củ. Vì có công, được phong làm Phụ quốc

thái phó, dao thụ chư trấn tiết độ, đồng trung thư môn hạ, thượng trụ quốc,

thiên tử nghĩa đệ, phụ quốc thượng tướng quân, tước Khai quốc công, sau lại

có công nữa, được phong làm Thái úy, rồi chết).

Mùa thu, tháng 9, làm hai ngọn tháp chỏm trắng ở chùa Diên Hựu, ba ngọn

tháp chỏm đá ở chùa Lãm Sơn. Bấy giờ vua sửa lại chùa Diên Hựu đẹp hơn cũ,

đào hồ Liên Hoa Đài3, gọi là hồ Linh Chiểu. Ngoài hồ có hành lang chạm vẽ

chạy chung quanh, ngoài hành lang lại đào hồ gọi là hồ Bích Trì, đều bắc

cầu vồng để đi qua. Trước sân chùa xây bảo tháp. Hàng tháng cứ ngày rằm,

mồng một và mùa

hạ, ngày mồng 8 tháng 4, xa giá ngự đến, đặt lễ cầu phúc, bày nghi thức tắm

Phật, hàng năm lấy làm lệ

thường.

Bính Tuất, /Long Phù/ năm thứ 6 [1106], (Tống Sùng Ninh năm thứ 5). Mùa

xuân, tháng giêng, sao Chổi mọc ở Phương Tây, đuôi dài khắp trời. Sao Thái

Bạch mọc ban ngày. Đại xá cho thiên hạ, trừ những kẻ phe đảng làm loạn.

[15b] Đinh Hợi, /Long Phù/ năm thứ 7 [1107], (Tống Đại Quan năm thứ 1).Mùa

hạ, động

đất.

Mậu tý, /Long Phù/ năm thứ 8 [1108], (Tống Đại Quan năm thứ 2).Mùa xuân,

tháng 2, đắp đê ở

phường Cơ Xá4.

Các tháng mùa hạ không mưa.

Kỷ Sửu, /Long Phù/ năm thứ 9 [1109], (Tống Đại Quan năm thứ 3). Mùa xuân,

đắp đài Động

Linh.

Mùa thu, kẻ nghịch là Tô Hậu và Đỗ Sùng mưu làm phản, bị giết.

Canh Dần, /Hội Tường Đại Khánh/ năm thứ 1 [1110], (Tống Đại Quan năm thứ

4).Mùa xuân có

người đàn bà dâng con chim phượng non, có đủ 9 chòm ngũ sắc.

Từ Văn Thông5 dâng hổ trắng, ngựa trắng có cựa và cây cau một gốc 12 thân.

Mùa thu, tháng 8, Chiêm Thành dâng voi trắng

1 Vua Chiêm Thành thời gian này là jaya Indravarman II (1086-1113) (theo

G. Maspéro, sđd).

2 Cao Môi, cũng gọi là Giao Môi: tên vị thần chủ việc sinh con trai.

3 Liên Hoa Đài trì: hồ ở dưới đài hoa sen.

4 Tức là đoạn đê sông Hồng ở phường Cơ Xá, nay là ở khoảng gần cầu Long

Biên (ở đó còn bãi Cơ Xá) thuộc Hà Nội.

5 Việt sử lược (q2, 20b) chép là Tham chính Từ Văn Thông.

Tân Mão, /Hội Tường Đại Khánh/ năm thứ 2 [1111], (Tống Chính Hòa năm thứ

1). Mùa xuân,

phủ Thanh Hóa dâng cây cau một gốc 9 thân.

[16a] Mùa thu được mùa to. Mặt trời có hai quầng.

Nhâm Thìn, /Hội Tường Đại Khánh/ năm thứ 3 [1112], (Tống Chính Hòa nam thứ

2). Mùa xuân, móc ngọt xuống.

Chiêm Thành dâng voi trắng.

Bấy giờ vua tuổi đã nhiều mà chưa có con trai nối dõi, xuống chiếu chọn con

của tông thất để

lập làm con nối. Em vua là Sùng Hiều hầu (không rõ tên) cũng chưa có con

trai. Gặp lùc nhà sư núi Thạch Thất1 là Từ Đạo Hạnh đến chơi nhà, hầu nói

với Đạo Hạnh về việc cầu tự. Đạo Hạnh dặn rằng:" Bao giờ phu nhân sắp đến

ngày sinh thì báo cho tôi biết trước để cầu khấn với sơn thần". Ba năm sau,

phu nhân có mang sinh con trai là [Lý] Dương Hoán.

Quý Tỵ, /Hội Tường Đại Khánh/ năm thứ 4 [1113], (Tống Chính Hòa năm thứ 3).

Mùa hạ, tháng

6, phu nhân của châu mục châu Chân Đăng là công chúa họ Lý mất. (Phu nhân

tên là Ngọc Kiều, con

gái lớn của Phụng Càn Vương được Thánh Tông nuôi ở trong cung, lớn lên

phong làm chúa, gả cho châu mục châu Chân Đăng là người họ Lê, chồng chết,

phu nhân tự thề ở góa, đi tu làm sư nữ, đến đây mất,

thọ 72 tuổi. Thần Tông tôn làm Ni sư).

[16b] Giáp Ngọ, /Hội Tường Đại Khánh/ năm thứ 5 [1114], (Tống Chính Hòa năm

thứ 4). Mùa xuân, tuyết điềm lành xuống.

Ất Mùi, /Hội Tường Đại Khánh/ năm thứ 6 [1115], (Tống Chính Hòa năm thứ

5). Mùa xuân, tháng giêng, phong ba hoàng hậu là Lan Anh, Khâm Thiên, Chấn

Bảo và 36 cung nhân, Bấy giờ vua không có con trai, cho nên lập nhiều hoàng

hậu và cung nhân, làm đàn chạy để cầu tự. Thái hậu dựng chùa thờ Phật,

trước sau hơn trăm chùa. (Tục truyền rằng thái hậu hối về việc Thượng Dương

thái hậu

và các thị nữ vô tội mà bị chết, làm nhiều chùa Phật để sám hối rửa oan).

Bính Thân, /Hội Tường Đại Khánh/ năm thứ 7 [1116], (Tống Chính Hòa năm thứ

6). Mùa hạ, nhà sư Từ Đạo Hạnh trút xác ở chùa núi Thạch Thất (Thạch Thất

là tên huyện, tức là huyện Ninh Sơn ngày nay, tên núi là Phật Tích. Từ Đạo

Hạnh đến chơi núi ấy, thấy tảng đá trong hang núi có vết chân người, lấy

chân ướm vào vừa đúng: tục truyền đó là chỗ Đạo Hạnh trút xác). Trước là

phu nhân của Sùng Hiến Hầu là Đỗ thị đã có mang, đến đây trở dạ mãi không

đẻ. Hầu nhớ lại lời Đạo Hạnh dặn khi trước, sai người chạy ngựa đi báo. Đạo

Hạnh lập tức [17b] thay áo tắm rửa, vào hang núi trút xác mà qua đời. Sau

đó phu nhân sinh con trai, tức là Dương Hoán. Người làng cho là việc lạ, để

xác Đạo Hạnh vào trong khám để thờ. Nay núi Phật Tích tức là chỗ ấy. Hàng

năm, mùa xuân, cứ đền ngày mồng 7 tháng 3, con trai, con gái hội họp ở

chùa, là hội vui có tiếng một vùng. Người đời sau ngoa truyền là ngày giỗ

của sư (xác Đạo Hạnh đến khoảng năm Vĩnh Lạc nhà Minh, bị người Minh đốt

cháy, người làng

ấy lại đắp tượng lại thờ như cũ, hiện nay hãy còn).

Đinh Dậu, /Hội Tường Đại Khánh/ năm thứ 8 [1117], (Tống Chính Hòa năm thứ

7). Mùa xuân, tháng giêng, Diên Thành hầu (không rõ tên) chết. Xuống chiếu

bãi trò chơi "tàng câu"2 và cỗ bàn khao mừng; vẫn phát vàng bạc tiền lụa ở

kho để phúng điếu, việc tang rất hậu.

Tháng ấy, người giữ Thái Đường3 dâng hươu trắng. Người giáp Cam Giá4 dâng

hươu đen.

1 Núi Thạch Thất: thức núi Thầy (Sài Sơn), huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây.

2 Tàng câu: tên gọi một trò chơi tìm vật giấu trong nắm tay, tương tự như

trò chơi "tay nào có tay nào không".

3 Nguyên văn: "Thủ Thái Đường nhân". Thái Đường có lẽ là tên giáp, vị trí

vào khoảng huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây ngày nay.

4 Cam Giá: tức vùng mía ở huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây.

Tháng 2, định rõ lệnh cấm giết trộm trâu. Hoàng thái hậu nói: "Gần đây ở

kinh thành, hương ấp,

có nhiều người trốn tránh, [17b] lấy việc ăn trộm trâu làm nghề nghiệp,

trăm họ cùng quẫn, mấy nhà cày chung một con trâu. Trước đây, ta đã từng

nói đến việc ấy nhà nước đã có lệnh cấm. Nay giết trâu

lại càng nhiều hơn trước". Bấy giờ vua xuống chiếu kẻ naò mổ trộm trâu thì

phạt 80 trượng, đồ làm khao giáp1, vợ xử 80 trượng, đồ làm tang thất phụ2

và bồi thường trâu; Láng giềng biết mà không tố cáo, phạt

80 trượng.

Tháng 3, ngày Bính Thìn, vua ngự đến núi Chương Sơn3 để khánh thành bảo

tháp Vạn Phong

Thành Thiện. Có rồng vàng hiện.

Vua lại ngự đến hành cung Ứng Phong4 (nay là phủ Nghĩa Hưng) xem cày ruộng

công. Mùa hạ, tháng 5, Viên ngoại lang là Ngô Thiệu dâng cây lúa chiêm một

gốc 9 bông.

Phò mã lang là Dương Cảnh Thông dâng hươu trắng.

Thủ lĩnh châu Tư Nông5 là Hà Vĩnh Lộc dâng con ngựa hồng có cựa.

Sầm Tác Hỏa đầu là Lê Binh và Tào Nhi cùng dâng hươu trắng. Người giáp Trực

Tà dâng con hoẵng trắng.

Tháng 6, vua ngự đến hành cung [18a] Ứng Phong xem cày ruộng. Khi ấy không

mưa, cầu đảo

ở hành cung.

Rồng vàng hiện ở bảo đài, cầu đảo ở Động Linh. Trung Nghĩa hầu (không rõ

tên) chết.

Mùa thu, tháng 7, ngày 25, _ Lan hoàng thái hậu băng, Hỏa táng, bắt 3 người

hầu gái chôn theo. Tôn dâng tên thuy là Phù Thánh Linh Nhân Hoàng Thái Hậu.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Hỏa táng là lễ đạo Phật, chôn theo là tục nhà Tần,

Nhân Tông đều làm theo, hoặc giả vâng lời dặn lại của thái hậu chăng?

Mùa thu, tháng 8, táng Linh Nhân hoàng thái hậu ở Thọ Lăng phủ Thiên Đức6.

Mùa đông, tháng 10, vua ngự đến hành cung Khải Thuy xem gặt. Đêm hôm ấy,

mặt trăng có hai

quầng.

Tìm con trai họ tông thất để nuôi ở trong cung. Xuống chiếu rằng:"Trẫm cai

trị muôn dân mà lâu

không có con nối, ngôi báu của thiên hạ biết truyền cho ai? [18b] ậy nên

tẫm nuôi con trai của các hầu

Sùng Hiền, Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Hưng, chọn người

nào giỏi thì lập làm thái

tử. Bấy giờ con Sùng Hiền hầu là Dương Hoan mới lên 2 tuổi mà thông minh

lanh lợi, vua rất yêu và bèn lập làm hoàng thái tử.

Chiêm Thành dâng 3 đóa hoa bằng vàng.

Mậu Tuất,/Hội Tường Đại Khánh/ năm thứ 9 [1118], (Tống Trùng Hòa năm thứ

1). Mùa xuân, tháng giêng, xuống chiếu chọn hoàng nam trong dân chúng và

binh lính.

Tháng 2, sử nước Chân lạp sang chầu. Đặt lễ yến tiệc mùa xuân và mở hội

khánh thành bảy bảo tháp. Bấy giờ xuống chiếu cho Hữu ty bày nghi trượng ở

điện Linh Quang, dẫn sứ giả đến xem.

1 Đồ khao giáp: đây làm kẻ phục dịch trong quân.

2 Tang thất phụ: đàn bà làm việc ở nhà chăn tằm.

3 Núi Chương Sơn: là núi Ngô Xá ở xã Yên Lợi, huyện Ý Yên, tỉnh Hà Nam

ngày nay. Dấu vết của ngôi tháp thời Lý nay vẫn còn.

4 Ứng Phong: tên phủ thời Lý, tương đương với phủ Nghĩa Hưng thời Lê, tức

là đất ba huyện Nghĩa Hưng, Ý Yên, Vụ Bản, tỉnh Nam

Định ngày nay.

5 Tư Nông: tên châu thời Lý, nay là huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên.

6 Phủ Thiên Đức:Tức là châu Cổ Pháp trước năm 1010, xem chú thích (1) tr.

240.

Tháng 3, lấy các đại hoàng nam khỏe mạnh sung vào làm binh các đội Ngọc

Giai, Hưng Thánh,

[Vũ] Đô1 và Ngự Long, tất cả 350 người.

Tả thị lang bộ Hộ là Lý Tú Quyền chết.

Mùa hạ, tháng 5, biếm Hữu thị lang bộ Lễ là Lê Bá ngọc làm Nội nhân thư

gia.

Đại hạn, cầu đảo được mưa.

Mùa thu, tháng 7, [19a] ãi ỗ àn tết Trung Nguyên2 vì gặp ngay Lễ Vu lan

bồn3 [cầu siêu cho] Linh Nhân hoàng thái hậu.

Chiêm Thành sang cống.

Tháng 9, ngày Tân Tỵ, mở hội Thiên phật [Nghìn Phật] để khánh thành chùa

Thắng Nghiêm

Thánh Thọ, cho sứ Chiêm Thành đến xem.

Ngày Bính Tuất, vua ngự điện Linh Quang xem đua thuyền, đặt lễ yến tiệc mùa

thu.

Muà đông, tháng 11, sai Viên ngoại lang là Nguyễn Bá Độ4 và Lý Bảo Thần

đem biếu nhà Tống hai con tê giác trắng, đen và 3 con voi nhà.

Năm ấy, có mọc ngọt xuống, vua tự tay viết tám chữ, "Thiên hạ thái bình,

thánh cung vạn tuế"

vào bia, sai thợ khắc.

Cấm nô bọc của các nhà dân trong ngoài kinh thành không được thích mực vào

ngực, vào chân như cấm quân cùng là xăm hình rồng ở mình, ai phạm thì sung

làm quan nô.

Kỷ Hợi, /Hội Tường Đại Khánh/ năm thứ 10 [1119], (Tống Tuyên Hòa năm thứ

1). Mùa xuân, tháng giêng, vua ngự đến Khoái Trường bắt voi trắng.

Mùa hạ, [19b] tháng 4, Đô tào là Phan Điền dâng hươu trắng.

Tháng 5, mở hội khánh thành chùa Tịnh Lự. Rồng hiện ở hàng bán nước chè ở

Kinh sư.

Mùa thu, tháng 7, đóng hai chiếc thuyền Cảnh Hưng và Thanh Lan. Xuống chiếu

cho các quân

đóng thuyền chiến, sửa đồ binh giáp, vua muốn thân đi đánh động Ma Sa5.

Tháng 8, ngày Giáp Thân, vua ngự điệnLinh Quang xem đua thuyền. Đặt lễ yến

tiệc mùa thu. Từ đó về sau, hàng năm tháng 8 đua thuyền thì đặt yến làm lệ

thường.

Mùa đông, tháng 10, duyệt sáu binh tào Vũ Tiệp, Vũ Lâm v.v..., người nào

mạnh khỏe cho làm hỏa đầu ở các đội quân Ngọc Giai, Hưng Thánh, Bổng Nhật,

Quảng Thành, Vũ Đô, còn bậc dưới thì cho làm binh ở các quân Ngọc Giai,

Hưng Thánh, Bổng Nhật, Quảng Thành, Vũ Đô, Ngự Long.

Họp các quân nhân cả nước thề ở Long Trì. Xuống chiếu rằng:"Trẫm nhận lấy

cơ nghiệp của một

tổ hai tông, đứng trên dân đen, coi triệu họ trong bốn biển đều như con đỏ,

cả đến cõi xa cũng mến

[20a] lòng nhân mà quy phụ, phương khác cũng mộ nghĩa mà lại chầu. Vả xét

dân động Ma Sa sống ở

trong cõi của ta, động trưởng Ma Sa thì đời đời làm phiên thần của ta, thế

mà nay kẻ tù trưởng ngu hèn

ấy bỗng phụ ước của ông cha, quên việc tuế cống khiếm khuyết lệ thường phép

cũ. Trẫm vẫn nghĩ mãi, việc không đừng được, nay trẫm tự làm tướng đi đánh

dẹp. Nay các tướng súy sáu quân, các ngươi đều phải hết lòng, tuân theo

mệnh lệnh của trẫm". Bèn ban khí giới cho tướng sĩ, vua ngự thuyền Cảnh

Hưng, xuất phát từ bến Thiên Thu, cờ xí rợp trời, gươm giáo rẽ sương, quân

sĩ đánh trống reo hò, khí

1 Nguyên bản in sót chữ Vũ, ỡ đoạn sau (BK3, 19b) có ghi rõ Vũ Đô.

2 Tiết Trung Nguyên: tức lễ rằm tháng bảy.

3 Lễ Vu Lan bồn: lễ cúng Phật ngày rẳm tháng bảy, cầu siêu cho cha mẹ khỏi

bị khổ hình ở địa ngục.

4 Đại Việt sử lược (q.2, 22b) chép tên người này là Nguyễn Bá Khánh (hai

chữ) Khánh và Độ dễ sao chép lầm).

5 Động Ma Sa: thuộc địa phận huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình ngày nay.

thế trăm phần hăng hái. Ngày hôm ấy, rồng vàng hiện bay theo thuyền. Đến bờ

thác Long Thủy1, Thành Khánh hầu dâng con rùa mắt có sáu con ngươi, trên ức

có chữ "Vương". Sóng lại nổi lên. Vua tự làm tướng đánh động Ma Sa, phá tan

được, bắt được bọn động trưởng Ngụy Bàng vài trăm người, lấy được vàng lụa

trâu dê không [20b] kể xiết. Sai tỷ tướng vào các động dọc biên giới chiêu

dụ những người trốn tránh bảo về yên nghiệp.

Tháng 12, ngày mồng 1, vua từ động Ma Sa về, dâng tù Ngụy Bàng ở Thái Miếu.

Khao thưởng tướng sĩ, ban tiền lụa theo thứ bậc khác nhau.

Canh Tý, /Thiên Phù Dụê Vũ/ năm thứ 1 [1120], (Tống Tuyên Hòa năm thứ 2).

Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 1, bề tôi đang biểu khuyên gia thêm tôn

hiệu và xin đổi niên hiệu. Vua y theo.

Tháng 2, mở hội đèn Quảng Chiếu. Tháng 3, nước Chân Lạp sang cống.

Mùa hạ, tháng 6,chủ đô giáp Tất tác2 là Đặng An dâng chim sẻ trắng.

Mùa thu, tháng 9, có rồng vàng hiện. Nước Chiêm Thành sang cống.

Được mùa to.

Mùa đông, tháng 10, đắp đài Chúng Tiên.

Tháng 12, cho Nội nhân thư gia là Phan Cảnh và Mâu Du Đô làm Nội thường

thị.

[21a] Tân Sửu, /Thiên Dụê Vũ/ năm thứ 2 [1121], (Tống Tuyên Hòa năm thứ 3).

Mùa xuân, tháng 3, nhà sư Vương Ái dâng cây cau một gốc 7 thân. Thái sư

Trần Độ nói: "Vật này không lấy gì làm điềm lành". Vua không nhận.

Mở hội khánh thành chùa Bảo Thiên và điện Trùng Minh.

Mùa hạ, tháng 5, nước to, tràn vào đến bên ngoài cửa Đại Hưng.

Mùa thu, tháng 7, người phiên Tử Thảo là Hà Ngọ dâng con hoẵng trắng. Làm

chùa Quảng Giáo.

Có nhiều sâu cắn lúa.

Mùa đông, tháng 10, lại lấy Lê Bá Ngọc làm Nội thường thị.

Nhâm Dần, /Thiên Phù Duệ Vũ/ năm thứ 3 [1122], (Tống Tuyên Hòa năm thứ 4).

Mùa xuân, tháng 2, nhà sư Dương Tu dâng một đôi ngọc bích trắng.

Tháng 3, ngày Mậu Dần, mở hội khánh thành bảo tháp Sùng Thiện Diên Linh ở

Đội Sơn3. Cấm mọi người không được dùng gậy tre gỗ và đồ sắc nhọn đánh

nhau.

Mùa hạ, tháng 4 cho bọn Lý Phụng 20 người làm ngục lại, xét việc kiện tụng

của dân gian. Tháng 5, người quảng Giao [21b] giáp là Phạm Ba Tư dâng hươu

trắng.

Mùa thu, tháng 8, ngày Kỷ Hợi, vua ngự điện Linh Quang xem đua thuyền.

Lấn đầu chế dải mũ bằng bạc sung vào đồ nghi vệ.

1 Long Thủy hiệp: tức là Thác Bờ ở gần thị xã Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.

2 Tất tác giáp: giáp thợ sơn.

3 Đội Sơn: Tức là núi Đọi, ở xã Đội Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Nam Hà.

Ngày Đinh Mùi, Viên ngoại lang là Lý Nguyên dâng một viên ngọc châu tân

lang1. Xuống chiếu không nhận.

Muà đông, tháng 12, sai Viên ngoại lang là Đinh Khánh An và Viên Sĩ Minh

đem voi nhà biếu nhà

Tống. Bấy giờ Viên Sĩ Minh vào có tang không được thăng quan, cho con trai

là Sủng làm Phụng tin lang.

Năm ấy, xuống chiếu rằng: Những tên trộm cướp trốn tránh đã bắt được mà lại

bị nhà thế gia chiếm đoạt thì nhà thế gia ấy cùng tội với người trốn.

Kẻ lại đi bắt trộm cướp, bắt được rồi mà giữ lại ở nhà mình, không dẩn đến

quan, thì phạt đánh

80 trượng.

Quý Mão, /Thiên Phù Duệ Vũ/ năm thứ 4 [1123], (Tống Tuyên Hòa năm thứ 5).

Mùa xuân, tháng giêng, ngày 25, là tiết Đản thánh2, lần đầu làm nhà múa có

bánh xe đẩy, sai cung nữ múa ở trên để dâng rượu.

Tháng 2, mở lễ [22a] yến tiệc mùa xuân ở điện Sùng Uyên. Lần đầu làm chiếc

lọng che mưa cán cong.

Ngày Nhâm Dần, vua ngự đến Long Thủy3 để bắt voi.

Ngày Đinh Mùi, mở hội khánh thành chùa Phụng Từ. Ngày Bính Thìn, vua về đến

Kinh sư.

Tháng 3, ngày Tân Tỵ, mở hội khánh thành chùa Quảng Hiếu ở Tiên Du. Truy

dâng lễ cúng

Thánh Tông và Thượng Dương hoàng thái hậu.

Mùa hạ, tháng 4, ngày Giáp Thân, 5 người nước Chân Lạp quy phụ.

Cấm giết trâu. xuống chiếu rằng: "Trâu là vật quan trọng cho việc cày cấy,

làm lợi cho người không ít. Từ nay về sau ba nhà làm một bảo, không được

giết trâu ăn thịt, ai làm trái thì trị tội theo hình luật".

Mùa thu, tháng 7, nước Chân Lạp sang cống.

Tháng 8, ngày mồng 1, vua ngự điện Thiên An, ban áo mùa thu cho các quan.

Vua ngự điện Linh Quang xem đua thuyền. Đêm ấy vua ngự điện Sùng Uyên, đặt

lễ yến mừng chiếc lọng vàng.

Mùa đông, tháng 10, vua ngự đến hành cung Ứng Phong xem gặt lúa. Chuyến đi

này bắc [22b]

cầu vồng qua sông Ba Lạt4.

Tháng 11, vua đến kinh sư. Các nhà nho, đạo, thích đều dâng thơ mừng. Xây

đài Tử Tiêu5.

Năm ấy được mùa to.

Giáp Thìn, /Thiên Phù Duệ Vũ/ năm thứ 5 [1124], (Tống Tuyên Hòa năm thứ 6).

Mùa xuân, tháng giêng, Diêu Sách dâng chim sẻ trắng.

Tháng giêng nhuận, đóng thuyền Tường Quang, kiểu thuyền hai lòng.

1 Nguyên văn: "tân lang châu", chưa rõ là thứ ngọc gì, có lẽ chỉ là cách

để nói viên ngọc châu to bằng quả cau (tân lang)?

2 Đản thánh tiết: lễ sinh nhật của vua.

3 Nguyên bản in là "Long Thủy hải", có thể ở đây vẫn chỉ địa điểm Long

Thủy hiệp (Thác Bờ) là nơi Lý Nhân Tông đã dừng thuyền

khi đi đánh động Ma Sa ba năm trước để bắt voi.

4 Sông Ba Lạt: là khúc sông Hồng chảy ra biển ở cửa Ba Lạt ngày nay.

5 Việt sử lược chép là đài Thông Tiêu (q2,23a).

Vua ngự đến hành cung ở Ứng Phong xem cày ruộng. Khi vua ngự ở hành cung,

người nước

Chiêm Thành là Cụ Ông và ba người em họ đến chầu.

Tháng 2, vua về Kinh sư.

Mùa hạ, tháng 4, người nước Chân Lạp là Kim Đinh A Truyền cùng 4 người gia

đồng sang quy

phụ.

Thủ lĩnh châu Quảng Nguyên là Dương Tự Hưng dâng hươu trắng. Dựng chùa Hộ

Thánh.

Tháng 5, người nước Chiêm Thành là bọn Ba Tư Bồ Đà La 30 người sang quy

phụ. Mùa thu, tháng 7, hạn, làm lễ cầu mưa.

Chủ đô giáp Nội tác giám là Tô Ông dâng con rùa mắt có 6 con ngươi, trên ức

[23a] có hai chữ

"Thiện đế".

Tháng 9, Thành Khánh hầu (không rõ tên) chết. Mùa đông, tháng 10, đắp đài

Uất la.

Tháng 11, đô Ngọc Giai là Lý Hiệu dâng cá chiên vàng.

Tháng 12, phu nhân của Thành Khánh hầu là Hà Thị uống thuốc độc chết theo

chồng.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Đàn bà chỉ theo một chồng mà chết thì không gọi là

"tuẫn" [chết theo]. Hà thị theo tình mà đi thẳng, đến nỗi uống thuốc độc

chết theo, tuy

là quá, nhưng khó với người khác mà Hà thị lấy làm dễ, việc ấy cũng là khó

làm. Hoặc giả Thành Khánh hầu đến lúc ấy mới chôn mà Hà thị chết để chôn

theo chăng?

Lại cho Nội thường thị là Lê Bá Ngọc làm thị lang bộ Lễ. Tiểu thủ lĩnh

châu Quảng Nguyên là

Mạc Hiền và phe đảng bộ thuộc trốn sang động Cống ở địa giời Ung Châu nước

Tống.

[23b] Ất Tỵ, /Thiên Phù Duệ Vũ/ năm thứ 6 [1125], (Tống Tuyên Hòa năm thứ

7). Mùa xuân, tháng giêng, cho Nội thường thị là Mâu Du Đô1 làm Trung thư

thừa2.

Ung Châu bắt bọn Mạc Hiền, xin sai người đến Giang Nam để giao trả. Vua sai

người giữ phủ

Phú Lương3 là trung thư Lý Hiến đến Giang Nam nhận đem về kinh sư. Đày Mạc

Hiền vào châu Nghệ An,

vợ con đều sung làm quan nô.

Phiên làm giấy4 dâng ngọc châu tân lang, vua truyền không nhận.

Khánh thành điện Sùng Dương, mở yến tiệc ba ngày đêm. Mùa hạ, tháng 4, vua

ngự đến hành cung Ứng Phong xem cày ruộng.

Tháng 6, vua từ hành cung Ứng Phong đến hành cung Lý Nhân, Nhập nội thường

thị trung thừa

là Mâu Du Đô vâng chỉ tuyên bảo các quan trong ngoài rằng có rồng vàng hiện

ở điện kín của hành cung, chỉ có các cung nữ và hoạn quan trông thấy.

Mùa đông, tháng 10, vua ngự đến hành cung Ứng Phong xem gặt.

Tháng 11, sai Nhập nội Lễ bộ thị lang [24a] Lê Bá Ngọc đi đánh bọn Nùng

Quỳnh và Mạc Thất Nhân ở châu Quảng Nguyên. Khi sắp đi, Bá Ngọc họp quân

thề ở ngoài cửa Đại Hưng, tuyên bố quân lệnh.

1 Mâu Du Đô: Việt sử lược chép là Mâu Đô Du (q2, 23a).

2 Việt sử lược chép là trung tướng (q2, 23a).

3 Phú Lương: tên phủ đời Lý, gồm miền đất tỉnh Thái Nguyên cũ và cả huyện

Đa Phúc cũ.

4 Nguyên văn: "Chỉ tác phiên", đơn vị thợ chuyên làm giấy viết.

Rồng vàng lượn ở bảo đài kỳ thọ ở Động Vân.

Xuống chiếu rằng phàm đánh chết người thì xử 100 trượng, thích mặt 50 chữ,

đồ làm khao giáp. Bính Ngọ, /Thiên Phù Duệ Vũ/ năm thứ 7 [1126], (Tống Khâm

Tông Hằng, Tĩnh Khang năm thứ

1). Mùa xuân, tháng giêng, mở hội đèn Quảng Chiều bảy ngày đêm. Tha người

có tội [giam] ở phủ Đô

Hộ.

Cấm dân chúng mùa xuân không được chặt cây.

Tháng 2, ngày mồng 1, vua ngự điện Thiên An, xem các vương hầu đá cầu.

Tháng 3, làm lễ khánh hạ năm bộ kinh ở chùa Thọ Thánh.

Mùa hạ, tháng 5, ngày Nhâm tuất, mở hội Nhân Vương ở Long Trì. Ngày hôm ấy

rồng vàng hiện

ở điện Vĩnh Quang.

Mùa thu, tháng 7, hạn, từ tháng 6, đến đây càng dữ. Con rùa mắt có sáu con

ngươixuất hiện.

Mưa dầm, làm lễ cầu tạnh.

Tháng 9, nước Chiêm Thành sang cống.

Mở [24b] hội đèn Quảng Chiếu ở Long Trì, xuống chiếu cho sứ thần Chiêm

Thành vào xem. Mùa đông, tháng 11, vua ngự đến hành cung Ứng Phong xem gặt.

Tháng [11] nhuận, sai lệnh thư gia là Nghiêm Thường, Ngự khố thư gia là Từ

Diên đem 10 con

voi thuần và vàng bạc, sừng tê sừng bin sang biếu nhà Tống để tạ ơn việc

bắt Mạc Hiền. Thường và Diên

đến Quế phủ1 vào ra mắt quan kinh lược ty. [Họ] bảo với Thường và Diên

rằng: "Năm nay ở Đông Kinh

và các xứ Hồ Nam, Đĩnh Châu, Lễ Châu đều đã đem binh mã đi đánh người Kim,

chưa biết lúc nào về. Trong lúc này thì ngựa trạm, phu trạm dọc đường chổ

nào cũng ít, xin sứ giả đem lễ vật về". Thường và Diên phải trở lại. Năm ấy

người nước Kim là Niêm Hãn, Cán Lý Bất2 đem quân vây Biện Kinh nước Tống,

bắt vua Tống là Huy Tông và Khâm Tông đem về phương Bắc. Nước Tống loạn to.

(Lúc ấy vua Kim là Oa

Khoát Đài dựng nước ở Mạc Bắc3, đặt niên hiệu là Thiên Hội)4

[25a] Đinh Mùi, /Thiên Phù Khánh Thọ/ năm thứ 1 [1127], (Tống Tĩnh Khang

năm thứ 2, từ tháng 5 về sau là Cao Tông Cấu, Kiến Viên năm thứ 1). Mùa

xuân, tháng giêng, cho Ngự khổ thư gia là Phạm Tín làm Phán sự phủ Thanh

Hóa.

Tháng 2, các quan dâng tôn hiệu gia thêm bốn chữ: Khoan Từ Thánh Thọ. Từ

tháng giêng đến tháng 2 mưa dầm, sai quan làm lễ cầu tạnh.

Viên ngoại lang là Nguyễn Nghĩa Trường dâng con rùa ba chân, mắt sáu con

ngươi.

Tháng 3, thủ lĩnh châu Nông5 là Dương Tuệ dâng hai khối vàng sống (gọi là

vàng) Trường thọ. Mùa hạ, tháng 4, vua ngự đến hành cung Ứng Phong xem gặt.

1 Quế phủ: tức phủ Quế Châu, nay là Quế Lâm, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.

2 Cán Lý Bất, (đúng tên là Oát Ly Bất 2 chữ Oát và Can dễ sao chép lầm,

con thú hai của Kim Thái Tô (A Cốt Đả), cùng với Niêm

Hãn đem quân đánh kinh đô nhà Tống.

3 Mạc Bắc: tức phía bắc sa mạc Gôbi (từ chân núi Hưng An Lĩnh đến phía

đông núi Thiên Sơn).

4 Ở đây có nhiều nhầm lẫn trong lời chú thích nguyên bản. Việc tướng nước

Kim chiếm Biện Kinh, bắt sống Huy Tông và Khâm Tông nhà Tống mà toàn thư

nhắc đến đây là sự kiện vào năm Thiên Hội thứ 3 (1125) đời Kinh Thái Tông,

còn lập nước Kim là việc của Kim Thái Tổ (không có niên hiệu Thiên Hội).

Kim Thái Tổ họ Hoàn Nhan, tên là A Cốt Đả, sau đổi là Mân, còn Oa Khoát Đài

(Ogodai) là tên của hãn Mông Cổ (1228- 1241).

5 Nông Châu: tức châu Tư Nông (hoặc còn gọi là Tây Nông như ở BK3, 34a ),

nay là huyện Phú Bình, tỉnh Bắc Thái.

Mưa thóc.

Tháng 5, nhà sư Cao Đình dâng chim sẻ trắng.

Mùa thu, tháng 7, ngày Đinh Tỵ, khánh thành chùa Trung Hưng Diên Thọ.

Mùa đông, tháng 11, Khâm Châu nước Tống đưa trả nghịch đảng ở châu Quảng

Nguyên là bọn

Mạc Thất Nhân.

Tháng 12, sao Thiên Cẩu sa xuống, có tiếng kêu như sấm.

Gả công chúa Diên Bình cho thủ Lĩnh phủ Phú Lương là Dương Tự Minh.

[25b]Vua không khỏe, gọi Thái úy Lưu Khánh Đàm vào nhận di chiếu rằng:

"Trẫm nghe phàm các loài sinh vật không loài nào không chết. Chết là số lớn

của trời đất, lẽ đương nhiên của mọi vật. Thế

mà người đời không ai là không thích sống mà ghét chết. Chôn cất hậu làm

mất cơ nghiệp, để tang lâu làm tổn tính mệnh, trẫm không cho là phải. Ta đã

ít đức, không lấy gì làm cho trăm họ được yên, đến

khi chết đi lại khiến cho thứ dân mặc áo xô gai, sớm tối khóc lóc, giảm ăn

uống, bỏ cúng tế, làm cho lỗi

ta thêm nặng, thiên hạ sẽ bảo ta là người thế nào! Trẫm xót phận tuổi thơ

phải nối ngôi báu, ở trên các vương hầu, lúc nào cũng nghiêm kính sợ hãi.

Đã 56 năm nay, nhờ anh linh của tổ tông, được hoàng thiên phù hộ, bốn biển

yên lành, biên thùy ít biến, chết mà được xếp sau các bậc tiên quân là may

rồi, còn phải thương khóc làm gì? Trẫm từ khi đi xem gặt lúa đến giờ, bỗng

bị ốm, bệnh kéo dài, [26a] sợ không kịp nói đến việc nối ngôi. Mà thái tử

Dương Hoán tuổi đã tròn một kỷ1, có nhiều đại đội, thông minh thành thật,

trung nghiêm kính cẩn, có thể theo phép cũ của trẫm mà lên ngôi hoàng đế.

Nay kẻ ấu

thơ chịu mệnh trời, nối thân ta truyền nhgiệp của ta, làm cho rộng lớn thêm

công nghiệp đời trước. Nhưng cũng phải nhờ quan dân các ngươi một lòng giúp

rập mới được. Này Bá Ngọc, ngươi thật có khí lượng của người già cả, nên

sửa sang giáo mác, để phòng việc không ngờ, chớ làm sai mệnh, trẫm dù nhắm

mắt cũng không di hận. Việc tang thì chỉ 3 ngày bỏ aó trở, nên thôi thương

khóc; việc chôn thì nên theo Hán Văn Đế, cốt phải kiệm ước, không xây lăng

mộ riêng, nên để ta hầu bên cạnh tiên đế. Than ôi! Mặt trời đã xế, tấc bóng

khó dừng; từ giã cõi đời, nghìn thu vĩnh quyết. Các ngươi nên thật lòng

kính nghe lời trẫm, báo rõ cho các vương công, bày tỏ trong ngoài".

Ngày Đinh Mão, vua băng ở điện Vĩnh Quang.

[26b]Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Về thời đại thuận ngày xưa, người làm vua

biết giữ tín đạt thuận, tới được mức trung hòa, cho nên bấy giờ

trời không tiếc đạo, đất không tiếc của báu, móc ngọt tuân sa, rượu

thơm suối chảy, cỏ chỉ nảy mọc, mà các vật điềm lành như rồng, phượng, rùa,

lân, không giống gì không đến. Thời Nhân Tông, sao các vật điềm lành nhiều

đến thế? Là vì nhà vua thích, cho nên bề tôi dâng xằng mà thôi.

Hoàng thái tử lên ngôi trước linh cữu. Hạ lệnh cho Vũ vệ Lệ Bá Ngọc truyền

bảo quân hầu và các quan văn võ lui ra ngoài cửa Đại Hưng, sai các người

giữ thành đóng cửa canh phòng cẩn mật, không cho ai ra vào. Lại sai cấm

quân cầm binh khí đứng ở dưới điện Thiên An, rồi cho lệnh mở cửa nách bên

hữu, gọi các quan vào long trì sai Bá Ngọc truyền bảo các vương hầu và các

quan văn võ rằng: "Không may tiên đế lìa bỏ bầy tôi, ngôi trời không thể bỏ

không lâu ngày. Ta còn ít tuổi, cố gượng nối ngôi, các khanh nên bền mãi

một lòng2, giúp đỡ nhà vua, không những để không phụ lòng tiên đế chú ý

trông mong mà còn để con cháu các khanh đời đời hưởng lộc vị". Các quan đều

lạy mừng và thương khóc. Sai

nội nhân là Đỗ Thiện, xá nhân là Bồ Sùng đem việc ấy báo với Sùng Hiền hầu.

xuống chiếu cho các hương ấp trong nước đều yên nghiệp như cũ, không được

chứa giấu giặc cướp trốn tránh và những kẻ đánh nhau giết người.

Ngày Nhâm Ngọ, các quan dâng biểu xin quàn linh cữu ở điện Hồ Thiên. Ngày

Quý Mùi, các quan mặc áo trở ở ngoài gác Vĩnh Bình. Ngày Giáp Thân, các

quan dâng biểu xin vua ngự chính diện.

1 tức 12 tuổi.

2 Nguyên văn: "Vĩnh kiên nãi tâm"; chữ kiên là vững bền cho đồng âm mà

khắc lầm ra chữ kiên là vai.

Ngày Ất Dậu, vua bắt đầu ngự điên Thiên An coi chầu. xuống chiếu cho các

quan bỏ áo trở.

Ngày hôm ấy vua ngự giá đi Na Ngạn1 xem các cung nữ lên [27b] dàn thêu để

chết theo Đại Hành

Hoàng Đế.

Lê Văn Hưu nói: Trẻ nhỏ lên 3 tuổi thôi bế ẵm mới rời khỏi cha mẹ, cho nên

từ thiên tử cho đến dân thường, tuy sang hèn khác nhau, mà tình thương nhớ

3 năm thì là một. Thế là để báo đền công khó nhọc của cha mẹ vậy. Huống chi

Thần Tông được Nhân Tông nuôi nấng trong cung, không ơn gì hậu bằng, đáng

lẽ phải tang hết mức buồn, tế hết mức kính, để báo đáp mới phải. Nay chưa

được một tháng mà đã bảo các quan bỏ áo trở, chưa đến lễ tốt khốc mà đã đón

hai phi hậu vào cung, không hiểu bấy giờ lấy gì để làm khuôn mẫu cho thiên

hạ và biểu đạt với các quan? Thần Tông còn nhỏ tuổi, bầy tôi trong triều

cũng lấy việc để tang ngắn làm may, không ai có một lời nói đến. Có thể bảo

là trong triều không có người vậy

[28a].Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Nhân Tông thánh học cao minh,

hiểu sâu cớ sống chết, như lẽ tất nhiên có ngày thì có đêm. Lời di chiếu

nói rất thấu lẽ, đủ biết cái ý "không gõ chậu hát ca, đến lúc tuổi già than

tiếc"2. Dạy người như thế thật sâu xa vậy, tuy nhiên, ở Nhân Tông thì đó là

lời nói sáng đạo, mà ở Thần Tông thì lại là việc làm thất hiếu. Văn Hưu bàn

thế là phải.

1 Na Ngạn: nay là đất huyện Lục Ngạn, tỉnh Hà Bắc.

2 Dẫn lời quẻ Ly trong Kinh Dịch

THẦN TÔNG HOÀNG ĐẾ

Húy Dương Hoán, cháu gọi Thánh Tông bằng ông, cháu gọi Nhân Tông bằng bác,

con của Sùng Hiền hầu, do phu nhân họ Đỗ sinh ra. Khi mới lên 2 tuổi, được

nuôi trong cung, lập làm hoàng thái tử. Nhân Tông băng, bèn lên ngôi báu. Ở

ngôi 11 năm [1128 - 1138], thọ 23 tuổi [1116 - 1138] băng ở điện Vĩnh

Quang. Vua khi mới lên ngôi hãy còn trẻ dại, đến khi lớn lên, tư chất

thông minh, độ lượng nên việc sửa sang chính sự, dùng người

hiền tài, thủy chung đều chính, nhiệm nặt khúc nôi, không gì sai

lệch. Tuy thân mang ác tật nhưng rồi chữa lành, cũng là nhờ có ý

trời cả. Song quá thích điềm lành, tôn sùng đạo Phật, chẳng đáng

[28b] quý gì.

Mậu thân, Thiên Thuận1 năm thứ 1 [1128], (Tống Kiến Viêm năm thứ 2).

Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 1, Bính Tuất, đổi niên hiệu, đại xá. Tôn

mẹ nuôi là Trần Anh phu nhân làm Hoàng Thái hậu.

Xuống chiếu rằng: Phàm dân có ruộng đất bị sung công cùng là bị tội phải

làm điền nhi thì đều

được tha cả. Các tăng đạo và dân phải làm lộ ông2 cũng được miễn.

Cho sáu quân thay phiên nhau về làm ruộng, theo chế độ xưa.

Ngày Mậu Tý, tôn thụy hiệu cho Đại Hành Hoàng Đế là Hiếu Từ Thánh Thần Văn

vũ Hoàng Đế, miếu hiệu là Nhân Tông.

Ngày Kỷ Sửu, biếm Đại liêu ban Lý sùng Phúc vì khi đi qua cửa thành Tây

Dương, người tuần lại hỏi mà không trả lời.

Ngày Tân Mão, xuống chiếu rằng nước đang có tang, dân chúng không được cưỡi

ngựa và đi võng màu lam, xe che màn.

Ngày Canh Tý, vua bắt đầu ngự kinh diên [nghe giảng học].

Ngày Tân Sửu, lấy Nội [29a] vũ vệ Lê Bá Ngọc làm Thái úy, thăng tước hầu;

Nội nhân hỏa đầu Lưu Ba, Dương Anh Nhĩ làm Thái Phó, tước Đại liêu ban;

Trung thừa Mâu Du Đô làm Gián nghị đại phu, thăng trật chư vệ; Nội nhân hỏa

đầu Lý Khánh, Nguyễn Phúc, Cao y làm Thái Bảo, tước Nội thượng chế;

Nội chi hậu quản giáp Lý Sơn làm Điện tiền chỉ huy sứ, tước Đại liêu ban;

Linh nhân3 Ngô Toái làm

Thượng chế; Ngự khố thư gia Từ Diên làm Viên ngoại lang. Lại ban tiền lụa

cho Bá Ngọc, [Lưu] Ba và

[Mâu] Du Đô đến tận nhà đem lễ vật của Nhân Tông ban cho Sùng Hiền hầu.

Ngày Quý Mão, sai người ở Hoà Trại cáo phó với nhà Tống và báo việc lên

ngôi. (Khi ấy Tống Cao Tông lánh người Kim qua sông [Trường Giang] đóng đô

ở phủ Lâm An4. Ngày Giáp Thìn, xuống chiếu cho Đô phi kỵ mang di [29b]

chiếu của Nhân Tông và việc vua lên ngôi sang báo cho Chiêm Thành. Phát

vàng và lụa trong kho ban cho các quan theo thứ bậc khác nhau.

Ngày Mậu Thân, trường Quang lang dâng 9 chiếc thuyền của người buôn nước

Tống trôi giạt.

Đỗ Vũ Thắng là Quách Ti dâng cây đào cao 4 tấc có hoa.

Ngày Kỷ Dậu, cho Đào Thuấn làm Trung thư sảnh viên ngoại lang hành tây

thượng cáp môn sứ, Thượng thư sảnh viện ngoại lang Lý Bảo thần hành đông

thượng cáp môn sứ, Phạm Thưởng, Đỗ Lục,

1 Đại Việt Sử Lược chép niên hiệu này là Đại Thuận (Q.3, 1a)

2 Điền nhi và lộ ông: Cương Mục dẫn lời Ngô Thì Sĩ chua rằng: Điền Nhi và

Lộ Ông đều là những người bị tội đồ dịch. Còn phép phối dịch ra sao bây

giờ không thể khảo được (CMCB4, 19a).

3 Linh Nhân: tương truyền thời Hoàng Đế có người tên là Linh Luân chế tạo

ra âm nhạc, vì vậy đời sau gọi là nhạc quan và các diễn viên ca kịch là

"linh nhân"

4 Nay là Hàm Châu, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc.

Khổng Nguyên, Phạm Bảo, Kim Cát, Lý Khái, Đào Lão, Nguyễn Hoàn làm Viên

ngoại lang thượng thư

sảnh; Lương Cửu, Đào Sâm, Quách Thục, Nguyễn Nhân, Nguyễn Khánh, Đào Tương,

Quách Cự Tầm, Nguyễn Thối làm Trung thư hoả; Lý Ngũ, Kiểu Nghĩa, Lý Cá,

Nguyễn Biếm, Nguyễn Bộc, Nguyễn Khoan, Đào Lục, Đỗ Ký, Kiểu Thiệu làm Chi

hậu thư gia.

Ngày Quý Sửu, xuống chiếu cho Gián nghị đại phu Mâu Du Đô chọn quân Long

Dực cũ làm các quân tả hữu Ngọc Giai, Hưng Thánh, Quảng Thành, vũ [30a] Đô.

Ngày Giáp Dần, hơn 2 vạn người Chân Lạp vào cướp bến Ba Đầu ở châu Nghệ An.

Xuống chiếu cho Nhập nội thái phó Lý Công Bình đem các quan chức đô cùng

người châu Nghệ An đi đánh.

Tháng 2, ngày Ất Mão, xuống chiếu tha cho cá tội nhân ở phủ Đô hộ. Ngày

Nhâm Tuất, xuống chiếu tha cho 130 người bị biếm truất.

Ngày Quý Hợi, Lý Công Bình đánh bại người Chân Lạp ở bến Ba Đầu, bắt được

chủ tướng và quân lính.

Ngày Ất Sửu, các quan dâng tôn hiệu là Thuận Thiên Quảng Vận Khâm Minh Nhân

Hiếu Hoàng Đế. Vua bảo các quan rằng: "Trẫm còn trẻ thơ, nối nghiệp lớn của

tiên thánh, mà thiên hạ yên tĩnh, trong cõi sợ uy, đều là nhờ sức của các

khanh. Các khanh nên cẩn thận giữ chức, chớ có lười biếng qua quít để giúp

cho trẫm những chỗ còn thiếu sót".

Lập Lý thị làm Hoàng hậu. Trước đó vua sai Viên ngoại lang Lý Khánh Thần và

[30b] vợ đi đón con gái của Điện tiền chỉ huy sứ Lý Sơn, Viên ngoại lang

Trần Ngọc Độ và vợ đi đón con gái của Lê Xương là cháu chú bác của Thái

úy Lê Bá Ngọc, sách lập con gái của Sơn làm Lệ Thiên Hoàng hậu, con

gái của Xương làm Minh Bảo phu nhân. Thăng trật ký hầu cho Lý Sơn coi việc

quân sự ở lạng Châu, ban cho [Lê] Xương tước Đại liêu ban.

Mưa dầm.

Ngày Đinh Mão, các quan dân biểu mừng vua lên ngôi.

Lá phướn của hai chùa Thiên Long và Thiên Sùng không gió mà tự lay động như

múa. Vua ngự

xa giá đến hai chùa ấy để lễ tạ.

Thư báo thắng trận của Lý Công Bình đến kinh sư.

Ngày Mậu Thìn, vua ngự đến hai cung Thái thanh, Cảnh Linh và các chùa quán

trong thành để lễ

tạ ơn Phật và Đạo đã giúp ngầm cho Công bình đánh được người Chân Lạp.

Lê Văn Hưu nói: Phàm việc trù tính ở trong màn trướng, quyết định được

chiến thắng ở ngoài nghìn dặm, đều là [31a] công của người tướng giỏi cầm

quan làm nên thắng lợi. Thái phó Lý Công Bình phá được quân Chân Lạp cướp

châu Nghệ An, sai người báo tin thắng trận. Thần Tông đáng lẽ phải cáo

thắng trận ở Thái Miếu, xét công ở triều đường

để thưởng cho bọn Công Bình về công đánh giặc. Nay lại quy công cho Phật và

Đạo, đi các chùa quán để lạy tạ, như thế không phải là cách để ủy lạo kẻ có

công, cổ lệ chí khí của quân sĩ.

Ngày Canh Ngọ, vua ngự điện thiên an xem quốc nhân hội thề ở Long Trì1.

Nhân đó xuống chiếu phát quần áo, tiền lụa trong Nội phủ để ban cho.

Ngày Giáp Tuất, xuống chiếu cấmgia nô và tạo lệ của các quan không được lấy

con gái lương

dân.

Tông.

Hoàng hậu Lệ Thiên và phu nhân Minh Bảo về thăm nhà.

Sai Gián nghị đại phu Mâu Du Đô đến phủ Thiên Đức chọn đất tốt để xây sơn

lăng của Nhân

1 Nguyên văn: "quan quốc nhân minh vu Long Trì" (xem người trong nước

thề ở Long Trì). Hai chữ "quốc nhân" trong câu này

không được xác định rõ, thường hiểu là số đông người thuộc nhiều tầng lớp

xã hội.

Tháng 3 [ 31b] Lý Công Bình đem quân về kinh sư, dâng tù 169 người.

Cho nội lệnh thư gia Phí Công Tín làm Phụng nghị lang, Nội thư gia Ngụy

Quốc Bảo làm Tả ty. Vua xem đại hội Linh quang, cho Công Tín và Quốc Bảo

làm Nội thường thị.

Mùa hạ, tháng 4, hạn. Vua trai giới ăn chay cầu đảo, được mưa. Tháng 5, độ

cho lão binh đô tào là bọn Vũ Đại bốn người làm tăng.

Xuống chiếu miễn thuế dịch cho 100 người họ của Thần Anh thái hậu có biên

tên ở sổ.

Xuống chiếu rằng những việc kiện tụng đã phán xử dưới các triều Tổ, Tông1

rồi thì không được

đem bàn tâu lên nữa, làm trái thì bị tội.

Tháng 6, xuống chiếu cho đại thần và các quan chức đô hội thề ở ngoài cửa

Đại Hưng. Dự định làm lễ đưa táng Nhân Tông.

An táng Nhân Tông ở lăng Thiên Đức.

Lấy ngày sinh nhật của vua là tiết Thiên thụy.

Mùa thu, tháng 7, tiết Trung nguyên, vua ngự điện Thiên An, các quan dâng

biểu mừng. Vì [hôm

ấy] là ngày lễ Vu Lan [32a] bồn cầu siêu cho Nhân Tông nên không đặt lễ

yến.

Tháng 8, xuống chiếu cho Lưu Khánh Đàm và Mâu Du Đô chọn các quan chức đô.

Ngày Giáp Tuất, đưa di chiếu của Nhân Tông cho các quan xem (chiếu này đã

chép ở trên).

Người Chân Lạp vào cướp hương Đỗ Gia2 ở châu Nghệ An, có đến hơn 700 chiếc

thuyền. Xuống chiếu sai bọn Nguyễn Hà Viêm ở Thanh Hoá và Dương Ổ ở châu

ấy đem quân đánh, phá được.

Mùa đông, tháng 11, lấy Thái uý Lê Bá Ngọc làm Thái sư, đổi làm họ Trương.

Đày nguời [phạm tội] ở châu Quảng Nguyên đến phủ Thanh Hoá.

Châu Nghệ An đệ tâu một phong quốc thư của nước Chân Lạp, xin sai người

sang sứ nước ấy. Vua không trả lời.

Kỷ Dậu, [Thiên Thuận] năm thứ 2 [1129], (Tống Kến Viêm năm thứ 3). Mùa

xuân, tháng giêng, nhập nội điện trung là Lý An Dậu dâng hươu trắng. Cho An

Dậu tước Đại liêu ban.

Thái úy Dương Anh Nhĩ dâng hươu trắng.

Mở [32b] hội khánh thành 8 vạn 4 nghìn bảo tháp ở gác Thiên Phù3.

Ngày Giáp Ngọ, tôn thân phụ là Sùng Hiền hầu làm Thái thượng hoàng và thân

mẫu Đỗ thị làm

Hoàng thái hậu, ở tại cung Động Nhân.

Lê Văn Hưu nói: Thần Tông là con người tông thất, Nhân Tông nuôi làm con,

cho nối đại thống, đáng lẽ phải coi Nhân Tông làm cha mà gọi cha sinh là

Sùng Hiền hầu làm hoàng thúc, phong mẹ để là Đô thị làm Vương phu nhân, như

Tống Hiếu Tông đối với Tú An Hy Vương và phu nhân Trương thị, để tõ ra một

gốc mới phải. nay lại phong Sùng Hiền hầu làm Thái thượng hoàng, Đỗ thị làm

hoàng thái hậu,chả hoá ra hai gốc ư? Bởi Thần Tông bấy giờ còn trẻ thơ mà

các công khanh trong triều như Lê Bá Ngọc, Mâu Du [33a] Đô lại không biết

lễ nên mới như thế.

Tháng 2, vua trai giới để cầu mưa.

1 Chỉ các đời vua Thái Tổ, Thánh Tông và Nhân Tông đời Lý

2 Đỗ Gia: tên hương thời Lý, nay là huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tỉnh

3 Đây là những cái tháp nhỏ bằng đất nung cao 20 - 50 cm, thường tìm được

trong các di tích thời Lý

Thân vương ban Lý Lộc tâu ở núi Tản Viên có hươu trắng. Vua sai Thái úy

Dương Anh Nhĩ đi bắt

được. Cho Lộc tước Đại liêu ban.

Xuống chiếu tha cho những người phạm tội trong nước.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Nhân Tông thường nhân việc mở hội [Phật] mà tha

cho người có tội, là không phải lẽ, nhưng mà còn mượn tiếng hội Phật. Còn

như vua [Thần Tông] thì không có việc gì mà cũng tha bổng. Phàm người có

tội phạm pháp, có kẻ nặng người nhẹ, năm bậc hình phạt, có trên có dưới,

sao lại có thể tha bổng được, nếu nhất loạt tha cả thì kẻ tiểu nhân may mà

được khỏi tội, đó không phải là phúc cho người quân tử. Cho nên thời xưa

nói về đạo trị nước, tuy nói rằng không thể không xá tội, nhưng cũng cho

rằng xá tội là có hại. Tha lỗi [33b] thì được, tha tội thì không được. Kinh

dịch nói: "tha lỗi,giảm tội" Kinh thư nói: "Lầm lỗi thì tha cho, cố phạm

thì trị tội". Thế là phải.

Tháng 3, Lý Tử Khắc dâng tâu rằng, rừng ở Giang Để1 có hươu trắng. Vua sai

Thái úy Lưu Khánh

Đàm đi bắt được. Thăng Tử Khắc làm Khu mật sứ, xếp vào hàng tước minh tự,

được đội mũ bảy cầu.

Lê Văn Hưu nói: Phàm người xưa gọi là điềm lành, là nói việc được người

hiền

và được mùa, ngoài ra không có gì đáng gọi là điềm lành cả. Huống chi chim

quý thú lạ không nuôi ở quốc đô cũng là lời khuyên răng của tiên vương để

lại. Thần Tông nhân Nguyễn Lộc và Nguyễn Tử Khắc (Lộc và Tử Khắc nguyên là

họ Lý, Văn Hưu kiêng huý nhà Trần nên gọi là họ Nguyễn) dâng hươu trắng,

cho là vật điềm lành, cho Lộc tước đại liêu ban, cho Tử Khắc tước [34a]

minh tự, thì cả người thưởng và người nhận thưởng đều sai cả. Tải sao vậy?

Thần Tông vì dâng thú mà cho quan tước, thế là lạm thưởng. Lộc và Khắc

không có công mà nhận thưởng, thế là dối vua.

Đại thủ lĩnh châu Tây Nông là Hà Văn Quảng dâng hai khối vàng sống cộng

nặng 33 lạng 5 đồng

cân.

Mùa Hạ, tháng 6, Nhập nội Long đồ là Mâu Du Đô dâng ngựa trắng bờm đen, bốn

chân có cựa. Cho Nội thường thị Phí Công Tín làm Tả ty lang trung, Ngụy

Quốc Bảo làm Viên ngoại lang.

Mùa Thu, tháng 8, làm thần chủ của Nhân Tông Hoàng Đế ở Linh Điện. Rắn

thanh trúc quấn ở

ngai báu.

Tháng [8] nhuận, ngày Nhâm Ngọ, rước thần vị của Nhân Tông Hoàng Đế vào thờ

ở Thái Thất.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Tiên vương đặt lễ thờ người chết cũng như hầu hạ

khi còn sống, cho nên làm [mộc] chủ để tượng trưng cho thần, thế thì [mộc]

chủ là chổ dựa của thần. Tế ngu rồi mới làm thần chủ, tế luyện rồi mới đổi

thần chủ, [34b] đổi thần chủ xong rồi mới thờ chung vào Thái Miếu, lễ tiết

là như thế. Nhân Tông đã chôn từ tháng 6 năm trước, đến đấy đã mười bốn

tháng, kỳ tế luyện cũng quá lâu rồi mà bây giờ mới làm thần chủ để thờ

chung vào Thái Miếu, thế là để chậm và bất kính quá lắm.

Ngày Giáp Thân, người nung ngói ở cung Động Nhân là Nguyễn Nhân dâng con

rùa mắt có sáu con ngươi, trên ức có hai chữ " Phổ nhạc".

Xuống chiếu rằng nô tỳ của vương hầu và các quan không được cậy thế đánh

đập quan quân và bách tính, kẻ nào phạm thì gia chủ phải tội đồ, nô sung

làm quan nô.

Mùa Đông, tháng 10, thăng cho Tả ty Phí Công Tín làm Chư vệ, ban cho họ Lý.

Tháng 12, người giữ voi là Chu Hội dâng rùa trắng.

Lấy Nội thường Đỗ Nguyên Thiện làm Tham tri chính sự, giữ phủ Thanh Hoá;

Ngự khố thư gia

Phạm Tín làm Viên ngoại lang.

1 Nguyên bản in là Giang Để, có thể là Để Giang, tức sông Đáy, Để Giang

cũng là tên đất. Theo cương mục, từ thời Trần trở về

trước gọi là Để Giang, nhà Lê đổi gọi là huyện Sơn Dương, tỉnh Hà Tuyên.

[35a] Canh Tuất, [Thiên Thuận] năm thứ 3 [1130], (Tống Kiến Viêm năm thứ

4).

Mùa Xuân, tháng giêng, xuống chiếu cho con gái các quan không được lấy

chồng trước, đợi sau khi chọn sung vào hậu cung, người nào không trúng

tuyển mới được lấy chồng.

Lê Văn Hưu nói: Trời sinh ra dân mà đặt vua để chăn dắt, không phải để cung

phụng riêng cho vua. Lòng cha mẹ ai chẳng muốn con cái có gia thất, thánh

nhân thể lòng ấy còn sợ kẻ sất phu sất phụ không được có nơi có chốn.

Cho nên Kinh Thi tả sự ấy trong thơ "Đào yêu" và thơ "Siếu hữu mai" để khen

việc lấy chồng kịp

thì và chê việc để lỡ thì vậy. Thần Tông xuống chiếu cho con gái các quan

phải đợi xong việc tuyển người vào cung rồi mới được lấy chồng, thế là để

cung phụng cho riêng mình, đâu phải lòng làm cha mẹ của dân?

Hoá.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Vua bấy giờ chưa đến tuổi hai mươi, ra lệnh ấy là

muốn tuyển con gái các quan sung vào hậu cung thôi. Việc ấy chưa lấy gì làm

quá. Còn như đánh được giặc mà [35b] quy công cho Phật, dâng hươu mà làm

đem tước trật cho người đều là do tính trẻ thơ mà không ai giúp can ngăn.

Nếu có người lấy chí thành mà cảm, dùng lời nói khéo mà khuyên, thì vua vốn

tư chất thông minh, tất thế nào cũng nghe theo.

Quản giáp nội tác là Chu Thủy dâng cá diếc vàng. Lấy ngự khố thư gia Lương

Cải giữ phủ Thanh

Tháng 3, người nước Chiêm Thành là Ung Ma, Ung Câu sang quy phụ. Tháng 5,

quản giáp Phù Thu Liễu là Phí Nguyên dâng chim sẻ trắng. Thái thượng hoàng

băng, thụy là Cung Hoàng.

Tháng 6, hạn, làm lễ cầu mưa.

Mùa Thu, tháng 9, mưa dầm, làm lễ cầu tạnh. Vua ngự điện Linh Quang xem đua

thuyền. Xuống chiếu tha tù giam ở phủ Đô hộ.

Mùa Đông, tháng 10, vua ngự điện Thiên Linh duyệt sáu quân, định các cấp

bậc.

Nhà Tống sai sứ mang ấn báu và sắc vàng sang phong vua làm Giao Chỉ Quận

Vương1. Tháng 11, Chiêm Thành sang cống.

Tháng 12, vua đánh cầu ở Long Trì, cho sứ nước Chiêm Thành vào hầu xem.

Mở hội khánh

thành chùa Quảng Nghiêm Tư Thánh. Tha cho những người có tội. Sai Viên

ngoại lang là Lý Phụng Ân và

Lệnh thư gia là Doãn Anh Khái sang nước Tống đáp lễ.

Tân Hợi, [Thiên Thuận] năm thứ 4 [1131], (Tống Thiệu Hưng năm thứ 1). Mùa

xuân, tháng giêng, dựng hai gác ở trong điện Diên Hòa.

Tháng 2, Hoàng đệ là Tinh chết (con của Sùng Hiền hầu).

Mùa hạ, tháng 4, xuống chiếu cấm gia nô cuả các vương hầu, công chúa và các

quan không

được lấy con gái của các quan chức đô và bách tính.

Cấm con gái dân gian không được bắt chước kiểu búi đầu tóc như cung nhân.

Tháng 5, hạn, cầu đảo được mưa to.

1 Việc Nhà Tống phong Lý Thần Tông làm Giao Chỉ Quận Vương, Toàn thư chép

hai lần: ở đây (năm 1130) và ở BK3, 37b (năm

1132). Có lẽ Toàn thư ghi thừa ở năm 1130, vì Tống sử (q.488) cũng ghi việc

này vào năm 1132. Việt sử lược ghi việc nhà Tống phong tước Quận Vương cho

Lý Thần Tông vào năm Tân Hợi, 1131 (q.3, 1b) có lẽ cũng không chính xác.

Chủ đô Nhiễm hoành là Hà Nhi dâng chim sẻ trắng.

Dựng nhà cho đại sư Minh Không.

Mùa thu, tháng 7, các quan dâng biểu mừng [36b] được mùa.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói:Các triều thần bấy giờ xiểm nịnh quá lắm! Tháng 5,

đại hạn, cầu đảo may mà được mưa, đến tháng 7, thì lúa hè đã quá vụ, mà lúa

thu chưa chín, đã vội cho là được mùa, dâng biểu chúc mừng. Nếu đến tháng

9, tháng 10, mà gặp

lụt hạn hay bị sâu cắn thì đối với tờ biểu mừng ấy thế nào?

Tháng 9, mở vườn bảo hoa.

Xuống chiếu cho Mâu Du Đô coi châu Nghệ An. Tháng ấy mưa lâu ngày, làm lễ

cầu tạnh.

Muà đông tháng 10, Ngự tiền chỉ huy sứ là Vương Cát tâu là có dấu vết thần

giáng ở Long Trì trước lầu chuông bên tả, dấu dài 9 tấc 5 phân, rộng 5 tấc.

Hoàng đệ là Chu Cá chết.

Tháng 12, người ở hương Thái Bình là Nguyễn Mãi dâng hươu trắng. Người lính

ở Tả Vũ Tiệp là

[37a] Đỗ Khánh dâng cá xương công (tức là cá hầu)1 sắc vàng. Vua cho là

điềm lành, xuống chiếu cho các quan chúc mừng. Cáp môn sứ Lý Phụng Ân tâu

rằng:"con cá ấy là vật nhỏ mọn mà bệ hạ lấy làm điềm lành. Nếu có lân

phượng đến thì bệ hạ cho là vật gì?". Vua khen lời nói phải.

Nhâm Tý, [Thiên Thuận] năm thứ 5 [1132], (Tống Thiệu Hưng năm thứ 2). Mùa

hạ, tháng 4,

đêm có rồng vàng từ điện Vĩnh Quang hiện ra ở cung Lệ Quang2.

Tháng 5, ngày mồng 1, hoàng thứ trưởng tửlà Thiên Lộc sinh, sau phong làm

Minh Đạo Vương. Tháng [5], nhuận, hoàng trưởng nữ sinh, rồi chết.

Tháng ấy, gió bão làm đắm thuyền Diên Chương.

Mùa thu, tháng 7, người nước Chiêm Thành là bọn Cụ Bàn trốn về nước, đến

trại Nhật Lệ3 bị

người trại ấy bắt được, giải về Kinh sư.

Tháng 8, Chân Lạp và Chiêm Thành đến cướp châu Nghệ An. Hỏa đầu quân Tã Vũ

Lâm và Đỗ Quảng dâng cá xương công.

Xuống chiếu cho Thái uý Dương Anh Nhĩ đem người ở phủ Thanh Hóa [37b] và

châu Nghệ An đi

đánh quân Chân Lạp và Chiêm Thành, phá tan.

Châu mục châu Chân Đăng là Lê Pháp Quốc dâng hươu đen.

Tháng 9, Lệnh hỏa đầu ở đô Phụng vệ là Đinh Ngưu dâng hươu trắng.

Lệnh thư gia châu Nghệ An là Trần Lưu dâng ba người Chiêm Thành. Trước đây

bọn người này thường ẩn nấp ở chổ hiểm yếu, bắt người châu Nghệ an đem bán

cho người nước Chân Lạp, Lưu đặt phục binh ở chổ ấy, bắt được đem dâng.

Mùa đông, tháng 10, sai Viên ngọai lang Lý Phụng Ân và Phụng nghị lang Doãn

Anh Khái sang nước Tống đáp lễ.

1 Xương công ngư: lời chú nguyên bản nói cá "xương công" tức là cá

"hầu". Cương mục cũng chép việc này, nhưng chua rằng

"xương" và "công" là hai loài cá khác nhau. Cá Xương tức cá hầu, phần trên

đầu gồ lên liền với sống lưng, mình tròn, chỉ có 1

xương sống, thịt mềm, ăn được; cá Công là loài cá giống như con cua, ăn

được (CMCB4, 28b).

2 Nguyên bản khắc sai nét chữ "cung" thành ra hình như chữ "quản".

3 Nhật Lệ: là tên sông ở tỉnh Quảng Bình, trại Nhật Lệ chỉ miền ấy.

có lỗi.

Dựng điện Cảm Linh và gác Phụng Thiên.

Tháng 12, vua đón xuân ở đình Quảng Văn. Khánh thành điện Cảm Linh, ban yến

cho các quan. Thượng thư Lý Nguyên bị tội, chết ở trong ngục, vì con gái

của Nguyên là thứ phi Chương Anh

Nhà Tống phong vua làm Giao Chỉ Quận Vương.

[38a] Giáp Dần, Thiên Chương Bảo Tự năm thứ 2 [1134], (Tống Thiệu Hưng năm

thứ 4). Mùa

xuân, tháng giêng, ngày mồng 1, cho Viên ngoại lang Ngụy Quốc Bảo tước Đại

liêu ban.

Dựng hai chùa Thiên Ninh, Thiên Thành và tô tượng Đế Thích. Vua ngự đến

xem.

Lệnh thư gia Nguyễn Mỹ dâng con ngựa màu hoa đào, đầu xanh, bốn chân mọc

sáu cựa (hai chân trước đều một cựa, hai chân sau đều hai cựa).

Tháng ấy mưa lâu, làm lễ cầu tạnh. Tháng 3, vua ngự đến quán Ngũ Nhạc.

Mùa hạ, tháng 4, xuống chiếu cấm các viên chi hậu và nội nhân hỏa đầu không

được tự tiện ra ngoài, ai trái thì khép tội nặng, nếu có việc công phải

tâu trước rồi mới được ra.

Tháng 5, khánh thành điện Vĩnh Quang mới sửa chữa.

Phạm Tín ở châu Nghệ An và Lệnh tư gia là Trần Lưu dâng hươu trắng.

Hỏa đầu quân Hữu Ngự Long là Quách Tư dâng ngọc thiềm thừ1 hình dạng như

[38b] mắt cá. Vua nói: "Đó là vật nhỏ mọn, không đáng quý". Không nhận.

Người lính ở quân Hữu Hưng Vũ2 là Vương Cửu dâng con rùa mắt có sáu con

ngươi, trên ức có

nét chũ Trựu3, xuống chiếu cho các học sĩ và các tăng đạo biện nhận, đọc

thành tám chữ: "Thiên thư hạ

thị thánh nhân vạn tuế".

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Rùa là vật linh thiêng vì nó có thể

báo điềm trước, nhưng đời nào cũng thường có, không như rồng

phượng và kỳ lân ít thấy. Thế mà đương thời cho rùa là điềm lành mà

đem dâng cho nhiều thế là làm sao? Còn như trên

ức có nét chữ chỉ là những vết trắng, nét đen xen nhau mà thôi, bầy tôi

nhận là văn tự,

đó là chiều ý vua mà nói nịnh thôi, có phải thực có chữ đâu. Cho nên người

làm vua phải cẩn thận sự ưa chuộng.

Táng 6, Hoàng bà là Vương Bà Lịch chết.

Mùa thu, tháng 7, rồng vàng ban đêm hiện ở điện Vĩnh [39a] Quang. Mùa đông,

tháng 11, sửa lại điện Diên Sinh và quán Ngũ Nhạc.

Tháng 12, Thành Đạo hầu (không rõ tên) chết.

Bầy tôi dâng thêm tôn hiệu là Thuận Thiên Duệ Vũ Tường Linh Cảm Ứng Khoan

Nhân Quảng

Hiếu Hoàng Đế. Đại xá cho thiên hạ.

Ất Mão, [Thiên Chương Bảo Tự] năm thứ 3 [1135], (Tống Thiệu Hưng năm thứ

5). Mùa xuân, tháng giêng, lấy Ngự khố thư gia là Dương Chưởng giữ phủ

Thanh Hóa.

Tháng 2, hai nước Chân Lạp và Chiêm Thành sang cống.

1 Thiềm thừ châu: cũng như ở trên đã nói đến tân lang châu (ngọc cau), ở

đây nói thiềm thừ châu (ngọc cóc), chưa rõ là thứ ngọc

gì (chú thích 2, tr. 291).

2 Nguyên bản in là Thạch Hưng Vũ. Tên cai đội quân thường có chữ Tả, Hữu;

ở đây chữ Thạch do chữ Hữu khắc lầm.

3 Trựu văn: tức là chữ đại triện (tương truyền là do quan thái sử Sử Trựu

đời Chu Tiên Vương, Trung Quốc, đặt ra.

Tháng 3, Khánh Thiện hầu (không rõ tên)1 chết.

Mùa hạ, tháng 4, xuống chiếu cho Tả ty lang trung Lý Công Tín ra vào cung

cấm để tâu việc, không được ngăn cấm.

Vua ngự đến quán Ngũ Nhạc để khánh thành tượng Tam tôn2 bằng vàng bạc. Cho

Viên ngoại lang Ngụy Quốc Bảo làm Tả y lang trung.

Từ mùa xuân đến mùa hè không mưa. Tháng 5, ngày mồng 1, có mưa.

Tháng 6, Chi hậu thư gia là Lý Xương và nhà sư ở chùa Quán Đính3 là Nguyễn

Minh đều [39b]

dâng chim sẻ trắng.

Xuống chiếu rằng những người đã bán ruộng ao không được trả tăng tiền lên

mà chuộc lại, làm trái thì phải tội.

Mùa thu, tháng 7, Thái sư Trương Bá Ngọc4 chết.

Mùa đông, tháng 12, mở hội độ tăng5 ở Nghênh Tiên đường. Mở đàn chay khánh

thành ở điện Diên Sinh.

Đóng 3 chiếc thuyền Nhật Đỉnh, Thanh Lan, Diên Minh.

Bính Thìn, [Thiên Chương Bảo Tự] năm thứ 4 [1136], (Tống Thiệu

Hưng năm thứ 6). Mùa xuân, tháng giêng, mở vườn Diên Quang tại hương

Lãnh Kinh6.

Thấy chuông lớn thời xưa.

Tháng 2, Thành Hưng hầu (không rõ tên) chết. Tháng 3, Thái uý Lưu Khánh Đàm

chết.

Vua bệnh nặng, chữa thuốc không khỏi. Nhà sư Minh Không chữa khỏi, phong

làm quốc sư. Tha thuế dịch cho vài trăm hộ. (Tục truyền khi nhà sư Từ Đạo

Hạnh sắp trút xác, trong khi ốm đem thuốc niệm thần chú rồi giao cho học

trò là Nguyễn Chí Thành tức Minh Không, dặn rằng 20 năm sau nếu thấy quốc

vương bị bệnh lạ thì đến chữa ngay, có lẽ là việc này).

Mùa hạ, tháng 4, Hoàng bà là Lã A Mãi ốm chết.

[40a]Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Sách chép các đế vương chưa có chỗ nào chép

việc hoàng bà chết, mà trong đời Thần Tông thấy chép hai lần, có lẽ là vua

đặt cách gia phong ân tứ trọng hậu cho các bảo mẫu, cho nên sử thần theo đó

mà chép chăng ?

Hoàng trưởng tử Thiên Tộ sinh. Các quan dâng vàng bạc tiền lụa và biểu

mừng. Tháng 6, cho Tả ty lang trung Lý Công Tín7 làm Thiếu sư, tước Minh

tự.

1 Khánh Thiện hầu mà Toàn thư ghi tại đây là Tăng thống Khánh Hỷ có tiểu

truyện trong Thiền uyển tập anh (tờ 61a); chữ Thiện và

chữ Hỹ, nét chữ gần giống nhau, có thể chép lầm.

2 Tam tôn: thường là tượng phật A Di Đà và tượng hai bồ tát Quan Thế Âm,

Đại Thế Chi.

3 Theo Thiền uyển tập anh, chùa Quán Đính ở núi Không Lộ, lại theo Đại Nam

nhất thống chí (tỉnh Sơn Tây, núi Không Lộ ở địa phận huyện Thạch Thất,

trên núi có chùa Lạc Lâm, là chỗ Thiền sư Không Lộ trút xác mà hóa. Như thế

thì chùa Quán Đính còn có

tên là chùa Lạc Lâm và núi không Lộ, tức là Sài Sơn (núi Thầy), nay ở huyện

Quốc Oai, tỉnh Hà Tây.

4 Trương Bá Ngọc: tức là Lê Bá Ngọc, do Lý Thần Tông đổi làm họ Trương

(xem BK3, 32a).

5 Nguyên văn: "độ nhân hội", tức lễ độ cho những người đủ tư cách tăng

nhân.

6 Hương Lãnh Kinh: có lẽ là miền Thị Cầu, thị xả Bắc Ninh ngày nay, xem

thêm chú thích (4) tr.260.

7 Lý Công Tín: tức Phí Công Tín, được ban họ Lý (BK3, 34b).

Mùa thu, tháng 9, Gián nghị đại phu Mâu Du Đô bị bãi chức.

Mùa đông, tháng 10, Thái uý Dương Anh Nhĩ chết.

Tháng 12, ngày lập xuân, vua ngự điện Sùng Uyên, các quan dâng biểu mừng.

Ngày ấy gặp ngày quốc kỵ, cho nên lại đặt biểu này.

Hỏa đầu đo Tả Hưng Thánh là Tô Vũ dâng rùa thần, ở ức có nét chữ Trựu. các

quan nhận ra bốn chữ "Nhất Thiên Vĩnh Thánh".

Vua ngự đến [40b] phủ Thanh Hóa xem bắt voi.

Đinh Tỵ, [Thiên Chương Bảo Tự] năm thứ 5 [1137], (Tống Thiệu Hưng năm thứ

7). Mùa xuân, tháng giêng, châu Nghệ An chạy trạm tâu việc tướng nước Chân

Lạp là Phá Tô Lăng1 cướp châu ấy. Xuống chiếu cho thái uý Lý Công Bình đem

quân đi đánh.

Tháng 2, châu Nghệ An động đất, nước sông đỏ như máu. Công Bình sai Nội

nhân hỏa đầu Đặng

Khánh Hương về Kinh sư đem việc ấy tâu lên.

Công Bình đánh bại người Chân Lạp.

Tháng 3, Đại liêu ban Nguyễn Công Đào dâng rùa trắng.

Vua ngự đến chùa Báo Thiên, làm lễ Phật Pháp Vân để cầu mưa. Đêm ấy mưa to.

Mùa hạ, tháng 4, hoàng tử thứ ba (không rõ tên) sinh.

Tháng 5, Thiếu sư Lý Công Tín dâng một khối vàng sống, nặng 47 lạng.

Tháng 6, hạn xuống chiếu cho Nguyễn Công Đào đến Vu đàn2 ở phía nam làm lễ

cầu mưa. Mùa thu, tháng 9 , mở hội khánh thành chùa Linh Cảm, tha [41a]

người có tội trong nước.

Xuống chiếu rằng: Trong ngoài kinh thành cứ ba nhà làm một bảo, để giám sát

các quan chức

đô coi triều ban không được đem con mình cho người khác nuôi làm con để nhờ

cậy nhà quyền thế. Kẻ nào không có quan ấm3 mà can phạm thì bắt giữ tâu

lên. Người một bảo mà không giám sát nhau thì cùng một tội với can phạm.

Mùa đông, tháng 10, ngày Nhâm Ngọ, vua ngự đến hành cung Ly Nhân xem gặt.

Ngày Ất Sửu, hoàng nữ thứ hai sinh, sau phong làm Thuỵ Thiên công chúa.

Tháng 12, vua về đến Kinh sư.

Cho Ngự khố thư gia coi phủ Thanh Hóa là Dương Chưởng làm Viên ngoại lang.

Mậu Ngọ, [Thiên Chương Bảo Tự] năm thứ 6 [1138], (từ tháng 10 về sau là

niên hiệu của Anh Tông, Thiệu Minh năm thứ 1; Tống Thiệu Hưng năm thứ 8).

Muà hạ, tháng 5, Nội nhân hỏa đầu là Hứa Viêm dâng một khối vàng sống nặng

66 lạng.

Tháng 6, hạn, sai Nhập nôi tả ty lang trung là Nguỵ Quốc Bảo triệu các quan

hội bàn. Chư vệ là

Phạm Tín [41b] xin đến Vu đàn làm lễ cầu mưa. Vua y theo.

Mùa thu, tháng 7, không mưa. Vua sai Hửu ty làm lễ cầu ở Vu đàn và chùa Báo

Thiên. Ban cho các quan aó mùa đông.

Tháng 9, vua không khỏe.

1 Việt sử lược chép là Tô Phá Lăng và chép việc vào năm 1136 (q.3, 2a).

2 Vu đàn: đàn tế trời để cầu mưa. Theo Công Dương truyện, vua thân đến đàn

Nam Giao cầu đảo, cho đồng nam đồng nữ vừa múa vừa hô "Vu! Vu!...", vì thế

gọi là "Vu đàn".

3 Quan ấm: theo chế độ cũ, con cháu các nhà quan có công với triều đình

hoặc chết vì việc nước, được bổ làm quan, gọi là quan

ấm.

134 Đại Việt Sử Ký Toàn Thư -

Bản Kỷ - Quyển III

Lập Hoàng trưởng tử Tiên Tộ làm Hoàng thái tử. Trước vua đã lập Thiên Lộc

làm con nối. Đến

đây ốm, ba phu nhân là Cảm Thánh, Nhật Phụng và Phụng Thánh muốn đổi lập

thái tử khác, mới sai người đam của đút cho Tham tri chính sự Từ Văn Thông,

nói rằng nếu có vâng mệnh thảo di chiếu thì chớ bỏ lời của ba phu nhân. Văn

Thông nhận lời. Đến khi vua ốm nặng, sai soạn thảo di chiếu, Văn Thông tuy

vâng mệnh vua, nhưng nhớ lời dặn của ba phu nhân, cứ cầm bút mà không viết.

một lát ba phu nhân đến, khóc lóc nghẹn ngào nói rằng: "Bọn thiếp nghe rằng

đời xưa lập con nối ngôi thì lập con đích chứ không lập con thứ. Thiên Lộc

là con của người thiếp được vua yêu, nếu cho nối ngôi thì người

mẹ tất sẽ tiếm lấn, sinh lòng nghen ghét làm hại, [42a] như thế thì mẹ con

bọn thiếp tránh sao khỏi nạn? ". Vua vì thế xuống chiếu rằng:"Hoàng tử

Thiên Tộ tuy tuổi còn thơ ấu, nhưng là con đích, thiên hạ đều biết, nên cho

nối nghiệp của trẫm, còn thái tử Thiên Lộc thì phong làm Minh Đạo Vương".

Ngày 26, vua đăng ở điện Vĩnh Quang, quàn ở thềm phía tây điện ấy. Các quan

dâng tôn hiệu là

Quảng Nhân Sùng Hiếu Văn Vũ Hoàng Đế, miếu hiệu là Thần Tông.

Mùa đông, tháng 10, ngày mồng 1, Hoàng thái tử Thiên Tộ lên ngôi ở trước

linh cữu, bấy giờ mới lên ba tuổi. đổi niên hiệu là Thiệu Minh năm thứ 1.

Đại xá cho thiên hạ. Tôn mẹ là Cảm Thánh phu nhân họ Lê làm Hoàng thái hậu.

Hội thề quốc nhân ở Long Trì.

Sai sứ sang cáo phó với nhà Tống.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Thần Tông nối nghiệp lớn của tiên vương, làm thiên

tử đời thái bình [42b], bỏ con đích trưởng còn bú mớm, muốn lập

con thứ đã trưởng thành, là lấy việc lầm lỗi khi trước mình

còn non dạ làm răn, nhưng rốt cuộc chí ấy không thành. Việc Từ Văn

Thông ăn hối lộ thì đã rõ ràng. Lời nói của ba phu nhân thế là thẳng thắn,

nhưng tiếc rằng khi ấy không gọi ngay kẻ đại thần biết khuông phò xã tắc mà

uỷ thác con côi. Than ôi! Bề tôi gian tà giao kết với người ở trong cung

đình để đến nỗi làm hỏng việc của người, từ xưa vẫn có. Song việc Từ Văn

Thông và ba phu nhân này chẳng còn hơn việc dạy Vệ Vương1 phải vâng mệnh

ư? Tuy thế truyền ngôi cho con đích là lẽ thường xưa nay, nếu được người

giúp là bậc hiền như Y Doản, Chu Công giúp Thái Giáp và Thành ương thì để

tiếng khen đời sau mãi mãi.

1 Chỉ Vệ Vương Đinh Toàn, con Đinh Tiên Hoàng.

135 Đại Việt Sử Ký Toàn Thư -

Bản Kỷ - Quyển IV

Đạ i Vi ệ t S ử Ký B ả n K ỷ Toàn Th ư

Quyển IV

[1a]

Anh Tông Hoàng Đế

Tên húy là Thiên Tộ, con đích trưởng của Thần Tông, mẹ là Hoàng hậu họ Lê,

sinh tháng 4 năm Bính Thìn, Thiên Chương Bảo Tự thứ 4 [1136], tháng 9 năm

Mậu Ngọ [1138] lập làm Hoàng Thái Tử. Thần Tông băng, bèn lên ngôi báu. Ở

ngôi 37 năm [1138-1175], thọ

40 tuổi [1136-1175], băng ở điện Thụy Quang. Trong việc phế lập, vua

không mê hoặc lời nói của đàn bà, ký thác được người phụ chính hiền tài, có

thể gọi là không thẹn với việc gánh vách. Song không phân biệt được kẻ

gian tà, hình phạt không sáng suốt, cho nên trời xuống

tai biến để răn, giặc cướp nổi lên, giềng mối rối loạn, không thể nói xiết.

Kỷ Mùi, Thiệu Minh năm thứ 2 [1139], (Tống Thiệu Hưng năm thứ 9)1. Nhà

tống phong vua làm Giao Chỉ Quận Vương.

Canh Thân, [Thiệu Minh] năm thứ 3 [1140], (Từ tháng 2 về sau là niên hiệu

Đại Định năm thứ

1; Tống Thiệu Hưng năm thứ 10). Mùa xuân, tháng giêng, châu mục châu Chân

Đăng là Lê Pháp Viên dâng hươu trắng.

Tháng 2, đổi niên hiệu là Đại Định năm thứ 1.

Tháng 3, Ngọc bệ [1b] viên ngoại lang là Nguyễn Nghĩa Minh dâng hươu đen.

Lấy Đỗ Anh Vũ làm cung điện lệnh tri nội ngoại sư. Anh Vũ là em của Đỗ thái

hậu, nên Lê thái hậu trao cho chức này.

Mùa hạ, tháng 4, lấy ngày sinh của vua làm tiết Thọ Ninh. Từ mùa xuân sang

mùa hạ, không mưa.

Tháng 5, có mưa.

Mùa đông, tháng 10, được mùa to.

Người thầy bói Thân Lợi tự xưng là con của Nhân Tông2 đem đồ đảng theo

đường thủy đến châu

Thái Nguyên3, từ châu Tây Nông4 kéo ra, qua châu Lục Lệnh, vào chiếm châu

Thượng Nguyên và châu

Hạ Nông1, thu nạp những kẻ trốn tránh, chiêu mộ thổ binh, có đến hơn 800

người, cùng mưu làm loạn.

1 Việt Sử Lược chép năm Kỷ Mùi (1139) là niên hiệu Thiệu Minh thứ 3. Sở

dĩ có sự chênh lệch đó, có lẽ là do việc ghi năm mất của

Lý Thần Tông. Việt Sử Lược chép Thần Tông chết tháng 9 năm Đinh Tỵ (1137).

Toàn Thư chép Thần Tông chết ngày 26 tháng 9 năm Mậu Ngọ (1138). Đến

điều chép về năm Tân Dậu (1141) thì không có sự khác biệt ấy: cả hai tài

liệu đều chép Tân Dậu (1141) là niên hiệu Đại Định thứ 2.

2 Theo Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ, niên hiệu Thiệu Hưng thứ 9 (1139)

đời Tống, Quảng Tây suý ty nói: "Vua Nhân Tông nhà Lý

có người con của cung thiếp sinh ra, vua không nhận. Khi Lý Thần Tông lên

ngôi, người con ấy chạy sang nước Đại Lý, đổi họ là Triệu, tên là Trí Chi,

tự xưng là Nam Bình Vương. Khi Thần Tông mất, [Trí Chi] bèn trở về tranh

ngôi với Anh Tông, xin mượn quân của nhà Tống. Quan tỉnh Quảng Tây đem việc

ấy tâu lên, vua Tống từ chối". Vậy có lẽ Trí Chi và Thân Lợi chỉ là một

người,

khi trần tình để xin viện binh của nhà Tống thì nói dối [là con Nhân Tông]

để lừa nhà Tống.

3 Thái Nguyên: tên châu thời Lý, tức đất tỉnh Bắc Thái ngày nay.

4 Châu Tây Nông: nay là đất huyện Phú Bình, tỉnh Bắc Thái.

Tân Dậu, [Đại Định] năm thứ 2 [1141], (Tống Thiệu Hưng năm thứ 11). Mùa

xuân, tháng giêng,

Thân Lợi tiếm xưng là Bình Vương, lập vợ cả, vợ lẽ làm hoàng hậu và phu

nhân, con làm vương hầu, cho

đồ đảng quan tước theo thứ bậc[2a] khác nhau. khi ấy đồ đảng của Thân Lợi

chỉ hơn nghìn người, đi đến đâu nói phao là Lợi giỏi binh thuật để hiếp chế

người miền biên giới. Người các khe động dọc biên giới đều khiếp sợ, không

dám chống lại.

Tháng 2, quan coi biên giới dâng thư cáo cấp. Xuống chiếu cho Gián nghị đại

phu Lưu Vũ Nhĩ2

đem quân do đường bộ tiến đi, Thái phó là Hứa Viêm đem quân ngược đường

thủy để tiến đánh. Khi ấy

Vũ Nhĩ sai tướng tiên phong là Thị vệ đô Tô Tiệm và Chủ đô trại Tuyên Minh

là Trần Thiềm đem quân đi trước, đóng ở sông Bác Đà3, gặp thủy quân của Lợi

cùng giao chiến. Tiệm thua, bị Lợi giết, Lợi trở về giữ châu Thượng Nguyên,

đắp đồn ải ở huyện Bác Nhự để chống quan quân. Vũ Nhĩ đánh nhổ được ải Bác

Nhự, tiến đến Bồ Đinh4, gặp thủy quân của Lợi, đánh lớn, Vũ Nhĩ thua trận,

tướng sĩ chết đến quá nửa, phải rút về.

Mùa hạ, tháng 4, ngày Mậu Thìn, Vũ Nhĩ về đến Kinh sư. Ngày Tân Mùi, Lợi ra

chiếm châu Tây Nông, sai người ở các châu Thượng Nguyên [2b] Tuyên Hóa5,

Cảm Hóa6, Vĩnh Thông7 đánh lấy phủ Phú Lương8. Lợi chiếm giữ phủ trị, ngày

đêm hợp bè đảng mưu cướp kinh sư. Ngày Kỷ Mảo, vau sai thái úy

Đỗ Anh Vũ đem quân đi đánh Lợi.

Tháng 5, ngày Tân Mão, quân của Lợi kéo về cướp kinh sư, đóng ở Quảng

Dịch9, gặp quân của Anh Vũ, đánh lớn. Quân của Lợi thua, chết không kể

xiết. Anh Vũ sai chém lầy đầu bêu lên ở cạnh đường suốt từ quan Bình Lỗ10

đến sông Nam Hán.

Bắt được thủ lĩnh châu Vạn Nhai11 là Dương Mục, thủ lĩnh động Kim Kê là

Chu Ái, đóng củi giải

về Kinh sư. Lợi chỉ chạy thoát một mình về châu Lục Lệnh. Ngày Nhâm Ngọ,

giải bọn Mục và Ái về trói giam ở huyện phủ của chúng. Xuống chiếu cho Anh

Vũ chiêu tập bọn tàn tốt của Lợi ở cửa quan Bình Lỗ. Phát muối kho công cho

bọn Mục và Ái.

Mùa thu, tháng 8, quốc sư Minh Không chết (sư người xã Đàm Xá, huyện Gia

Viễn, phủ Trường

Yên, rất linh ứng, phàm khi có tai ương hạn lụt, cầu đảo đều nghiệm cả. Nay

hai chùa Giao Thủy và Phả

Lại đều có tượng thờ)12.

[3a]Mùa đông, tháng 10, ngày mồng 1, lại sai Anh Vũ đi đánh châu Lục Lệnh,

bắt được bọn bè đảng của Lợi hơn 2.000 người. Lợi trốn sang châu Lạng, Thái

phó Tô Hiến Thành bắt được Lợi, giao cho Anh Vũ đóng củi giải về kinh sư.

Sai Lý Nghĩa lâm chiêu tập vỗ yên dư đảng của Lợi. Xuống chiếu cho quan

Đình úy xét tội Lợi. Án xét xong, vua ngự điện Thiên khánh xử tội Lợi và

bọn đồng mưu 20 người

1 Châu Hạ Nông: miền Thượng Nông và Hạ Nông huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc

Thái. Như vậy châu Lục Lệnh và châu Thượng

Nguyên ở vào khoảng giữa huyện Phú Bình và huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Thái.

2 Lưu Vũ Nhĩ, Cương mục chép là Lưu Vũ Xứng (CMCB4,25a).

3 Sông Bác Đà: chưa rõ ở đâu, nhưng chắc chỉ là một đoạn sông Cầu, trong

vùng đất các huyện Phú Lương, Bạch Thông ngày nay. Phải chăng là đoạn sông

ở vùng Bắc Thắm, chợ mới?

4 Bác Nhự, Bồ Đinh: chưa rõ ở đâu, nhưng hẳn ở cạnh khúc sông Cầu từ Chợ

Mới đến thị xã Bắc Cạn.

5 Tuyên Hóa: nay là đất huyện Định Hóa, tỉnh Bắc Thái.

6 Cảm Hóa: nay là đất huyện Ngân Sơn, Na Rì và một phần phía Bắc huyện

Bạch Thông, tỉnh Bắc Thái.

7 Vĩnh Thông: nay là huyện Phú Lương, tỉnh Bắc Thái.

8 Phú Lương: nay là huyện Phú Lương, tỉnh Bắc Thái.

9 Quảng Dịch: (trạm Quảng): Việt sử lược chép là Khoảng Dịch (q.3,3a),

chưa rõ ở đâu.

10 Bình Lỗ quan: cữa quan ở sông Bình Lỗ. Sông Bình Lỗ có lẽ là sông Cà

Lồ.

11 Vạn Nhai: nay là đất huyện Võ Nhai, tỉnh Bắc Thái.

12 Hai chùa này đều gọi là chùa Keo, ở huyện Giao Thủy, tỉmh Nam Định cũ.

Chùa Keo Giao Thủy, hay chùa Keo Dưới, nay ở xã Vũ Nghĩa, huyện Vũ Thư,

tỉnh Thái Bình. Chùa Keo Phả Lại hay chùa Keo Trên, nay ở xã Hành Thiện,

huyện Xuân Trường, tỉmh Nam Hà.

đều xử trảm, những kẻ còn lại đều theo tội nặng nhẹ mà xử, tha cho những kẻ

vì ép buộc mà phải theo.

Các quan dâng biểu mừng.

Lưu Vũ Nhĩ dâng hươu trắng, lại dâng ngọc tân lang [ngọc cau].

Sử thần Ngô Sĩ liên nói: Bấy giờ Lưu Vũ Nhĩ có tội về sai quân luật mà bại

trận,

lại dâng những vật điềm lành để che lỗi, thế mà không một người nào dám bàn

đến, có thể biết hình pháp chính sự bấy giờ nhiều việt sai trái. Đỗ Anh Vũ

lăng loàn dữ tợn đâu phải không có nguyên do.

[3b] Nhâm Tuất, [Đại Định] năm thứ 3 [1142], (Tống Thiệu Hưng năm thứ 12).

Mùa xuân, tháng 2, Lưu Vũ Nhĩ dâng ngọc thiềm thừ [ngọc cóc].

Mùa đông, tháng 10, sai thủ Lĩnh phủ Phú Lương là Dương Tự Minh đến châu

Quảng Nguyên để

chiêu tập người châu ấy.

Tháng 12, xuống chiếu rằng những người cầm đợ ruộng thục1 trong vòng 20

năm thì cho phép chuộc lại; việc tranh chấp ruộng đất thì trong vòng 5 năm

hay 10 năm còn được tâu kiện; ai có ruộng đất

bỏ hoang bị người khác cấy cày trồng trọt trong vòng một năm thì được kiện

mà nhận, quá hạn ấy thì cấm. Làm trái thì xử 80 trượng. Nếu tranh nhau

ruộng ao mà lấy đồ binh khí nhọn sắc đánh chết hay làm

bị thương người thì đánh 80 trượng, xử tội đồ, đem ruộng ao ấy trả lại

người chết hay bị thương.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Giết người thì phải xử tội chết, đó là phép của

đời xưa, nay tôi giết người cũng xử như tội khác thực là không phân biệt

mức độ, mất sự cân nhắc nặng nhẹ.

[4a] Xuống chiếu rằng những người bán đoạn ruộng hoang hay ruộng thục đã có

văn khế rồi thì không được chuộc lại nữa, ai làm trái bị phạt đánh 80

trượng.

Xuống chiếu tha tội lưu cho các bè đảng của Thân Lợi.

Quý Hợi, [Đại Định] năm thứ 4 [1143], (Tống Thiệu Hưng năm thứ 13). Mùa

xuân, tháng 2, xuống chiếu thiên hạ từ nay về sau cứ ba nhà làm một bảo,

không được mổ riêng bò trâu, nếu có việc cúng tế phải tâu xin được chỉ rồi

mới cho mổ, kẻ làm trái thì trị tội nặng, láng giềng không cáo giác cũng

xử cùng tội.

Từ mùa xuân đến mùa hạ, đại hạn, vua thân làm lễ cầu đảo. Tháng 6, ngày

Đinh Sửu, có mưa.

Mùa thu, tháng 8, xuống chiếu cho Dương Tự Minh cai quản việc công các khi

động dọc theo biên giới về đường bộ.

Tháng 9, xuống chiếu rằng, các nhà quyền thế ngoài đầm ao của mình không

được ngăn cấm xằng bậy, làm trái thì có tội.

Mùa đông, tháng 10, sai Thái phó Hoàng Nghĩa Hiền và Viên ngoại lang Khổng

Trường đem quân các khe động dọc biên giới về đường bộ đi đãi vàng ở các xứ

Như Cá v. v...

Giáp Tý [Đại Định] năm thứ 5 [1144], (Tống Thiệu Hưng năm thứ 14). Gả công

chúa Thiều

Dung cho Dương Tự Minh, phong Tự Minh làm Phò mã lang.

Tháng 5, Mâu Du Đô dâng chim sẻ trắng. Cho Mâu Du Đô làm Thái sư, xa lĩnh

việc các khe động dọc biên giới về đường bộ.

Ất Sửu, [Đại Định] năm thứ 6 [1145], (Tống thiệu Hưng năm thứ 15). Mùa hạ,

tháng 4, mưa dầm, làm lễ cầu tạnh.

1 Nguyên văn: điển thục điển, điển tức là điển mại, nghĩa là bán nhưng còn

có quyền được chuộc lại (khác với tuyệt mại nghĩa là

bán đoạn tức là bán hẳn, không được chuộc lại). Thục điền là ruộng đã cày

cấy thành thục, khác với ruộng đất mới khai khẩn.

Phụng chức là Nguyễn Phụng dâng rùa mắt có sáu con ngươi, ức có hai hàng

chữ triện các quan

nhận ra bốn chữ "Vương dĩ công pháp"1.

Xống chếu rằng những người tranh nhau ruộng ao của cải không được nhờ cậy

nhà quyền thế, làm trái đánh 80 trượng, xử tội đồ.

Muà thu, tháng 7, dựng đền thần núi Tản Viên và các đền Bố Cái, Ông Nghiêm,

Ông Mẫu.

Tháng 8, kẻ có yêu thuật người nước Tống là Đàm Hửu Lượng trốn sang châu Tư

[5a] Lang2, tự xưng là Triệu tiên sinh3, nói dối là vâng lệnh đi sứ để dụ

nước An Nam4. Các khe động ở dọc biên giới nhiều người theo. Hữu Lượng bèn

đem đồ đảng đến cướp châu Quảng Nguyên. Bấy giờ Kinh lược suý ty

lộ Quảng Tây nước Tống đưa thư nhờ đuổi bắt Hữu Lượng. Vua xuống chiếu cho

Phò mã lang Dương Tự Minh và văn thần là Nguyễn Nhữ Mai, Lý Nghĩa Vinh đi

đánh. Không bao lâu lại sai Thái sư Mâu Du Đô đem quân các khe động dọc

biên giới về đường bộ tiếp đánh. Khi ấy Tự Minh đã lấy được ải Lũng Đổ,

châu Thông Nông5 bắt được bè đảng của Hữu Lượng và bọn Bá Đại 21 người,

duy có Hữu Lượng chạy thoát, trốn vào núi chằm. Xuống chiếu cho Quản quân

sứ là [Lý] Nghĩa Vinh trông coi áp giải bọn Bá Đại giao trả về nước Tống.

Trước đó Ung Châu làm cáo sắc giả sai người đi gọi Hữu Lượng, Hữu Lương cho

là thực, cùng với bọn thủ lĩnh châu Tự Minh hơn 20 người mang ấn đồng, địa

đồ và vật thổ sản quy phụ nhà Tống. Khi đến [5b] trại Dương Sơn, viên thủ

Ung Châu là Triệu Nguyệt bắt Hữu Lượng và bè đảng giải đến suý ty. Người

Tống thấy trong bọn ấy có Dương ở ngực có thích hình rồng đen, và bọn thủ

lĩnh

ở châu Bồ năm người, biết là người nước Việt ta, đều trả về.

Dựng cung Quảng Từ để hoàng thái hậu ở. Dựng các chùa Vĩnh Long, Phúc

Thánh.

Cấm các thợ bách tác6 không được làm đồ dùng theo kiểu của nhà nước tự

tiện bán cho dân

gian.

Bính Dần [Đại Định] năm thứ 7 [1146], (Tống Thiệu Hưng năm thứ

16). Mùa xuân, tháng

giêng, An Trung hầu (không rõ tên) ở châu Lạng dâng hươu trắng.

Tháng 3, Viên ngoại lang Lý Ngọ dâng hươu trắng. Thái sư Mâu Du Đô chết.

Muà hạ, tháng 4, trâu và gia súc chết dịch. Hạn, cầu đảo được mưa.

Sao Chổi mọc.

Tháng 6 nhuận, xuống chiếu cho các ty xử án, kẻ nào tranh bậy không hợp

điều luật pháp chế

thì xử 60 trượng.

1 "Vương dĩ công pháp" vua theo việc công.

2 Châu Tư Lang: nay là đất huyện Trùng Khánh và một phần đất huyện Quảng

Hòa, tỉnh Cao Bằng.

3 Việt sử lược chép là Lữ tiên sinh (q.3, 3b). Hai chữ "Lữ" và "Triệu" có

thể lầm với nhau.

4 Đối chiếu thì thấy một số sự việc từ năm 1140 đến năm 1157, toàn thư

phần nhiều chép lùi 2 năm so với Đại Việt sử lược như việc Đàm Hửu Lượng

nói ở trên, Đại Việt sử lược (ĐVSL) chép vào năm Quý Hợi (1143); làm kho

Thiên Tư, ĐVSL chép năm Giáp Tý (1144), Toàn thư chép vào năm Bính Dần

(1146); hoàng hậu họ Đỗ (Chiêu Hiến) mất. ĐVSL chép năm Ất Sửu (1145), Toàn

thư chép năm Đinh Mão (1147) v. v... Sở dĩ có sự chênh lệnh như vậy có lẽ

vì Toàn thư chép năm Lý Thần Tông mất nuộn một năm

với ĐVSL (xem chú BK4, 1a) và về khoảng thời gian này, ĐVSL lại chép sớm

lên một năm nữa (Trong bản dịch Việt sử lược Trần Quốc Vượng đã so điều ghi

về việc sao Chổi xuốt hiện, ĐVSL chép vào tháng 4 năm Giáp Tý (1144), Mà

Tống sử thì ghi tháng 4 năm Ất Sửu (1145), cho thấy ĐVSL chép sớm một năm).

Sự chênh lệnh ấy đến năm Mậu Dần (1158), kể từ việc Nguyễn Quốc (ĐVSL chép

là Nguyễn Quốc Dĩ) đi sứ về tâu xin làm hộp thơ bằng đồng, lại tiếp tục ăn

khớp.

5 Châu Thông Nông: nay là huyện Thông Nông, tỉnh Cao Bằng.

6 Tức thợ thủ công làm các đồ dùng cho vua và nhà nước.

Mùa thu, [6a] tháng 7, dựng 6 sở kho Thiên Tư.

Tháng 8, xuống chiếu rằng các quan quản giáp và chủ đô, phàm sung bổ cấm

quân, phải chọn những hộ nhiều người, không được lấy người cô độc, làm trái

thì trị tội.

Đinh Mão, [Đại Định] năm thứ 8 [1147], (Tống Thiệu Hưng năm thứ 17). Mùa

thu, tháng 8,

đóng hai thuyền Vĩnh Long, Thanh Lan và hai thuyền lớn Trường Quyết, Phụng

Tiên.

Tháng 9, thư gia là Lý Chiêu dâng con quạ trắng. Mùa đông, tháng 10,ngày

Canh Thìn, tiểu thị

vệ là Lý Sùng dâng con rùa mắt có sáu con ngươi, ức có tám chữ triện.

Dựng hành dinh ở trại Yên Hưng1.

Xuống chiếu cho Đỗ Anh Vũ đi phủ Phú Lương khảo xét quan liêu và định số

mục hộ tịch. Tháng 11, làm nhà cho Công chúa Thuỵ Thiên ở châu Lạng.

Hoàng thái hậu họ Đỗ băng, thuỵ là Chiêu Hiếu hoàng hậu.

Mậu Thìn, [Đại Định] năm thứ 9 [1148], (Tống Thiệu Hưng năm thứ 18). Mùa

xuân, tháng 2, vua ngự đến hành cung ly Nhân cày ruộng tịch điền [6b] rồi

đến hành cung Ứng Phong.

Mùa hạ, tháng 6, xuống chiếu cấm các thủ lĩnh và quan lang người Man Lý và

người Sơn Lão ở

hai trấn Đại Thông và Quy Nhân2 không có việc gì không được về Kinh.

Công chúa Thuỵ Thiên về châu Lạng.

Mùa đông, tháng 10, khánh thành cung quảng Từ.

Kỷ Tỵ, [Đại Định] năm thứ 10 [1149], (Tống Thiệu Hưng năm thứ

19). Mùa xuân, tháng 2, thuyền buôn ba nước Trảo Oa3, Lộ Lạc4, Xiêm La5

vào hải Đông6, xin cư trú buôn bán, bèn cho lập trang

ở nơi hải đảo, gọi là vân Đồn, để mua bán hàng hoá quý, dâng tiến sản vật

địa phương.

Mùa hạ, tháng 4, mở hội Nhân Vương ở Long Trì, đại xá người có tội. Vua ngự

ở Long Trì xem bắt voi.

Mùa đông, tháng 11, Công chúa Thiên Thành mất.

1 Yên Hưng: nay là đất huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh.

2 Địa danh thời Lý- Trần không thấy tài liệu nào ghi tên Quy Nhân, ngờ là

Quy Hóa mà bản in khắc lầm. Quy Hoá là tên phủ thời Lý, cuối thời Trần đổi

làm trấn, đầu thời Lê đổi làm lộ, từ đời Hồng Đức (1470- 1497) về sau lại

đổi làm phủ: nay thuộc tỉnh Yên Bái, Lao Cai, Đại Thông là tên phủ thời Lý

(có ghi trong Lĩnh ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi) chỉ miền Hưng Hoá, phía

tây sông Hồng. Như vậy, hai trấn Đại Thông và Quy Nhân (sửa là Hoá) đại thể

là đất tỉnh yên Bái, Lao Cai, Lai Châu và một phần Vĩnh phú ngày nay.

3 Trảo Oa: tức đảo Java, (Inđônêxia). Cương mục chép là Qua Oa

(CMCB4,33a), cũng tức là Java, theo cách phiên âm thường dùng trong Nguyên

sử và Minh sử.

4 Lộ lạc: chưa rõ chỉ nước nào. Thời trần, có thuyền buôn Lộ hạc đến Vân

Đồn. Có lẽ Lộ Lạc chính là Lộ Hạc. Dựa vào âm đọc, có

thể cho rằng Lộ Hạc là nước La Hộc được nhắc đến trong thư tịch Trung Quốc

thời Nguyên-Minh (xem thêm chú thích về Xiêm la

ở dưới). La Hộc là quốc gia Lavo ở Lopburi, Thái Lan. Lộ Hạc có khả năng là

nước Locac được nhắc đến trong du ký của Marco

Polo.

5 Xiêm La: quốc gia của người Thái vùng thượng lưu sông Mê Nam thời trung

đại. Điểm đáng chú ý là Toàn thư đả chép tên Xiêm

La vào năm 1149. Trong khi đó, thư tịch Trung Quốc chỉ nhắc đến nước này

vào cuối thế kỷ XIII (xem Nguyên sử, Xiêm quốc truyện) nhưng trong suốt

thời Nguyên, chỉ gọi là Xiêm chứ không phải là Xiêm La. Sang thời Minh, từ

năm Hồng Vũ thứ 4 (1371), mới thấy nhắc đến tên Xiêm la. Minh sử, Minh nhất

thống chí, Quảng Đông thống chí giải thích rằng vào khoảng niên hiệu Chí

Chinh (1341-1368), nước Xiêm đầu hàng nước La Hộc (tức Lavo) bên cạnh, hai

nước mới hợp nhất thành nước Xiêm La. Nguyễn Thiên Túng chú Dư địa chí của

Nguyễn Trãi cũng theo thuyết đó mà nói rằng Xiêm La xưa là hai nước Xiêm La

và La Hộc. Nếu đúng như thế thì phải chăng tên Xiêm La chép ở Toàn thư năm

1149 là do Ngô Sĩ Liên và các sử thần thời Lê chữa từ tên xiêm? Nhưng chưa

có căn cứ để nói rằng thuyết đó đúng. Nước Xiêm nói trong Nguyên sử rõ ràng

là vương quốc Sukhothai hình thành vào thế kỷ XIII ở Thái Lan. Mãi đến thế

kỷ XV, Sukhothai mới trở thành thuộc quốc của vương quốc Ayuthya.

6 Hải Đông: vùng đất tỉnh Quảng Ninh ngày nay.

Cho trung thư hoả giữ phủ Phú Lương làm Nguyễn Quyền là Trung thư xá nhân,

đến Na Dâm

Điền ở đầu phía nam châu Văn, hội với Triều phụng lang châu Thất Nguyên là

Nông Ngạn Cương [7a]

để bàn việc, vì người châu Quảng Nguyên bắt Liêu Ngũ ở châu Thất Nguyên.

Dựng hành cung ở Ly Nhân.

Canh Ngọ,[Đại Định] năm thứ 11 [1150], (Tống Thiệu Hưng năm thứ 20). Mùa

xuân, tháng 3,

hạn.

Mùa thu, tháng 7, hạn.

Tháng 9, người Chân Lạp cướp châu Nghệ An, đến núi Vụ Thấp1 gặp nắng nóng

ẩm thấp, phần

nhiều chết vì lam chướng bèn tự tan vỡ.

Khi trước vua còn trẻ thơ, chính sự không cứ việc lớn, việc nhỏ đều uỷ cho

Đỗ Anh Vũ cả. Anh

Vũ sai vợ là Tô thị ra vào cung cấm hầu hạ Đỗ thái hậu, do đó mà Anh Vũ tư

thông với Lê thái hậu, nhân

thế lại càng kiêu rông, ở triều đình thì khoát tay lớn tiếng, sai bảo quan

lại thì hất hàm ra hiệu, mọi người đều liếc nhau nhưng không ai dám nói.

Điện tiền đô chỉ huy sứ là vũ Đái, Hoả đầu đô Quảng Vũ là Lương Thượng Cá,

Hoả đầu đo Ngọc Giai là Đồng Lợi, Nội thị là Đỗ Ất, cùng với bọn Trí Minh

Vương, Bảo Ninh hầu, Phò mã lang Dương Tự Minh cùng mưu bắt giam Anh Vũ.

Bàn tính xong, bọn Đái[7b] đem quân lính đến ngoài cửa Việt Thành hô to

rằng: "Anh Vũ ra vào cấm đình, làm nhiều đều ô uế, tiếng xấu đồn

ra ngoài, không tội gì to bằng. Bọn thần xin sớm trừ đi, khỏi để mối lo về

sau". Bèn có chiếu sai cấm quân đến bắt Anh Vũ trói giam ở hành lang Tả

Hưng Thánh, giao cho Đình uý tra xét. Thái hậu sai người mang cơm rượu cho

Anh Vũ, ngầm để vàng vào trong đồ đựng món ăn để đút cho Vũ Đái và các

người canh giữ. Hoả đầu ở đô Tả Hưng Thánh là Nguyễn Dương nói: "Các ông

tham của đút, tôi với các ông tất không thoát khỏi tay Anh Vũ đâu, chi bằng

cứ giết trước đi cho khỏi tay hoạ về sau". bèn cầm giáo định đâm. Đô Tả

Hưng [Thánh]2 là Đàm Dĩ Mông ôm Dương, cướp lấy giáo, ngăn rằng: "Điện

tiền bảo Anh Vũ

tội đáng chết, nhưng còn phải đợi mệnh lệnh của vua, không nên tự tiện".

Dương giận, chửi: "Điện tiền

Vũ cứt chứ chẳng phải Đái! (chữ Cát Đái phương ngôn3 nói là cứt đái). [8a]

Sao tham của đút mà không tiếc đến mạng mình!". Nói xong, tự biết không

khỏi chết, bèn nhảy xuống giếng tự tử.

Bấy giờ vua xét án của Anh Vũ, đày Anh Vũ làm Cảo điền nhi4. Thái hậu lo

buồn, cố nghĩ làm thế nào để phục hồi chức nhiệm cho Anh Vũ, mới nhiều lần

mở hội lớn để xá cho tội nhân, mong Anh Vũ được dự vào đấy. Anh Vũ được mấy

lần xá tội, lại làm Thái uý phụ chính như cũ, càng được yêu dùng hơn, do

đấy chuyên làm oai, làm phúc, sinh sát mà lòng báo thù lúc nào cũng tỏ rõ,

còn sợ rằng bọn quân lại đi bắt bớ phần nhiều không được như ý, mới dâng

hơn một trăm người thủ hạ để làm đô Phụng quốc vệ, người nào phạm tội

đều giao cho đô Phụng quốc vệ đi bắt. Anh Vũ mật tâu với vua rằng: "Trước

kia bọn Vũ Đái tự tiện đem cấm quân xông vào cung đình, tội ấy không gì to

bằng, nếu không sớm trừng trị, sợ một ngày kia sinh biến, không thể lường

được". Vua chẳng biết gì cả, [8b] bèn chuẩn tâu. Anh Vũ sai đô Phụng quốc

về đi bắt bọn Vũ Đái giam vào ngục để trị tội. Hạ chiếu giáng Trí Minh

Vương xuống tước hầu, Bảo Ninh hầu xuống tước minh tự, Bảo Thắng hầu xuống

tước phụng chức, Nội

thị là bọn Đỗ Ất 5 người bị "cưỡi ngựa gỗ"5, bọn Hoả đầu đô Ngọc Giai là

Đồng lợi 8 người bị chém ở chợ

Tây Giai, bọn Điện tiền đô chỉ huy Vũ Đái 20 người chém bêu đầu ở các bến

sông, bọn Phò mã lang

1 Núi Vụ Thấp: còn gọi là Vụ Ôn, tức là núi Vụ Quang ở huyện Hương Sơn

tỉnh Hà Tĩnh.

2 Nguyên văn: "tả Hưng đô" tức là Tả Hưng thánh đô, "đô" vừa là tên đơn vị

đội quân cấm vệ (đô Ngọc Giai đô Quảng Vũ v. v...)

vừa là tên quan chức của viên chỉ huy đội quân cấm vệ ấy.

3 Chỉ cách đọc hai chữ "cát đái" thêm âm Nôm.

4 Việc này, Cương mục chỉ chép là Đỗ Anh Vũ bị đày làm "điền nhi" (CMCB5,

3a) tức là những người có tội bị bắt buộc phải làm ruộng cho nhà nước. Chữ

"cảo", Cương mục chữa làm Tảo và chú thích là "Tảo xả" nay là xã Nhật Tảo

huyện Từ Liêm (CMCB6,9). Vậy "Cảo điền nhi" là những người bị tội đày phải

cày ruộng cho nhà nước ở địa phương ngày nay là xã Nhật tảo huyện Từ Liêm,

Hà Nội. Vùng này BK10, 28a gọi là Cảo Động.

5 Cưỡi ngựa gỗ (thượng mộc mã): thứ hình phạt thời cổ, đem tội nhân đóng

đinh lên tấm ván, đem đi bêu chợ rồi đem ra pháp trường tùng xẻo.

dương Tự Minh 30 người bị tội lưu ở nơi xa độc, những người dự mưu đều bị

tội đồ làm điền hoành,

khao giáp, quả như lời nói của Nguyễn Dương.

Lê Văn Hưu nói: Đỗ Anh Vũ ra vào cấm đình, tư thông với mẫu hậu, không tội

to bằng. Bọn Vũ Đái nên tâu bày gian trạng rồi bắt giam vào ngục mà giết đi

là phải. Nay lại đem quân đột nhập cửa Việt Thành, hiếp vua nhỏ tuổi, ép

lấy chiếu chỉ. [9a] Đến khi bắt được Anh Vũ rồi, lại nhận vàng của thái hậu

mà không nghe lời nói của Nguyễn Dương, đến sau rốt cuộc bị Anh Vũ giết,

liên lụy đến mấy mươi người, thế là nuôi hổ để hoạ về sau vậy.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Anh Vũ là kẻ đại ác. Bọn [Vũ] Đái đã cùng với

người tông thất hiệp mưu mà không biết tuyên bố tội trạng ở triều đình để

trị tội cho đàng hoàng, lại đem binh lính bằt hiếp vua còn nhỏ tuổi. Ngay

lúc bấy giờ. Anh Vũ đã mừng

có cớ để nói rồi, biết đâu không lập kế thông với thái hậu để đút lót nhiều

cho bọn Đái, mong khỏi chết để thỏa lòng báo thù chăng? May mà Nguyễn Dương

bảo rõ tai hoạ. Khi bọn Đái không chịu nghe lời, [Dương] lại nhảy xuống

giếng mà chết để cảnh cáo, thế mà vẫn còn không tính, để sau bị tai vạ thì

còn trách ai nữa? Thế thì thái hậu không có tội

ư? Trả lời rằng: tội nặng lắm. Người không có tài đức quyền [9b] vị như Y

Doãn, Chu

Công mà muốn ngăn sửa thì khó tránh cái lỗi làm việc sừa lớn thì hỏng.

Xuống chiếu cấm bọn hoạn quan không được tự tiện vào trong cung, ai phạm

thì bị tội chết. Nếu

[canh giữ] không cẩn thận để người khác vào cung cũng bị tội như thế.

Cấm các quan trong triều không được đi lại nhà các vương hầu, ở trong cung

cấm không được

hội họp nhau năm, ba người bàn luận chê bai, ai phạm thì trị tội. Kẻ nào

phạm việc qua lại bên ngoài phía đầu hành lang chứa khí giới của đô Phụng

quốc vệ thì xử 80 trượng, tội đồ; nếu vào trong hành lang ấy thì xử tử.

Lính Phụng [quốc] vệ ở trong hành lang ấy có chiếu chỉ mới được cầm khí

giới, không

có chiếu chỉ mà tự tiện mang khí giới đi quá ra ngoài phía đầu [hành lang]

thì xử tử.

Tân Mùi, [Đại Định] năm thứ 12 [1151], (Tống thiệu Hưng năm thứ

21). Mùa xuân, tháng giêng, Nội nhân hoả đầu là Đỗ Thì dâng rùa vàng có

lông xanh.

Tháng 2, vua ngự đến Long Thủy1 bắt voi trắng, bắt được, các quan dâng

[10a] biểu mừng.

Mùa hạ, tháng 4, Đỗ Anh Vũ dâng cây cau một gốc 28 nhánh. Tháng 5, Đỗ Anh

Vũ dâng hươu

trắng.

Mùa thu, tháng 8, vua ngự đến cung Quảng Từ xem đua thuyền. Mùa đông, tháng

10, công chúa Thuỵ Minh mất.

Tháng 11, hoàng trưởng tử Long Xưởng sinh ở hành cung Ứng Phong, sau được

sách phong là

Hiển Trung Vương.

Dựng gác Vĩnh Thanh ở điện phía tây và hai chiếc thuyền VĨnh Diệu, Thanh

Lan.

Nhâm Thân, [Đại Định] năm thứ 13 [1152], (Tống Thiệu Hưng năm thứ 22). Muà

xuân, tháng

2, Nội sư ông là Lý Nguyên dâng rùa ba chân, mắt có sáu con ngươi, trên ức

có chữ triện. Các quan nhận thành bốn chữ: "Vương dĩ bát phương"2.

Mùa hạ, tháng 4, động đất. Tháng 5, trời mưa cát vàng.

Bá Đại Vương (chưa rõ là ai) mất.

1 Long Thủy: vùng Thác Bờ, tỉnh Hòa Bình.

2 Nghĩa: vua theo tám phương.

Mùa thu, tháng 7, trời mưa cát vàng.

Mùa đông, tháng 10, thi Điện.

Người nước Chiêm Thành [10b] là Ung Minh Ta Điệp1 đến cửa khuyết xin mệnh

cho làm vua nước ấy. Xuống chiếu cho Thượng chế Lý Mông đem hơn 5.000 người

ở phủ Thanh Hoá và châu Nghệ

An sang Chiêm Thành lập Ung Minh Ta Điệp làm vua. Mông đến Chiêm Thành bị

vua nước ấy là Chế Bì

La Bút2 chống cự, bọn Ung Minh Ta Điệp và [Lý] Mông đều chết.

Quý Dậu, [Đại Định] năm thứ 14 [1153], (Tống Thiệu Hưng năm thứ 23). Dựng

cửa Tân Quan.

Giáp Tuất, [Đại Định] năm thứ 15 [1154], (Tống thiệu Hưng năm thứ 24). Muà

xuân, tháng giêng, An Trung hầu (không rõ tên) dâng con hoẵng trắng.

Người Sơn Lão ở Chàng Long làm phản. Từ Dần dâng quạ trắng.

Tháng 2, xuống chiếu cho Anh Vũ đi đánh người Sơn Lão ở Chàng Long, hàng

phục được.

Mùa thu, tháng8, thủ lĩnh bọn Sơn lão ở Đại Hoàng giang (nay là phủ Trường

yên) là Nông Khả

Lai làm phản.

Tháng 9, vua ngự ra cửa Nam Thành Đại la xem đắp đàn Viên Khâu3.

[11a] Mùa đông, tháng 10, vua nước Chiêm Thành là Chế Bì La Bút dâng con

gái, vua nhận4.

Lê Văn Hưu nói: Các bậc đế vương đối với người Di Địch, nếu họ chịu phục

thì lấy đức mà vỗ yên, nếu làm phản thì lấy uy mà tỏ cho biết. Anh Tông sai

Lý Mông đem hơn 5 nghìn người để giúp lập Ung Minh Ta Điệp làm Vua nước

Chiêm Thành mà bị Chế

Bì la Bút giết, đáng lẻ phải đem quân hỏi tội, chọn lập một người khác để

thay làm vua nước ấy, thì mới có thể gia uy với cõi xa, mà vua sau phải nhớ

đức. Nay lại nhận con gái của họ mà không hỏi tội, có thể gọi là lầm lỗi.

Về sau Chiêm Thành và Chân Lạp liền năm vào cướp một lộ Nghệ An, mối hại

không kể xiết, thực là do Anh Tông khơi mối vậy.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Nước nhỏ nhờ vào nước lớn để cho mình được yên

tĩnh mà thôi.[11b] Không may gặp loạn, công tử5 chạy ra ngoài

thì cũng có thể đưa về nước, nhưng không chính đáng thì chưa bao giờ

nên việc. Nước Lỗ đưa công tử Củ về là thế6. Đưa về mà biết không chính

đáng thì như việc nước Tấn đưa Tiệp Tri về7, [Lý] Anh Tông đưa Ung Minh Ta

Điệp về, nếu quả là chính đáng mà kẻ kia chống mệnh giết càn

ư? Thì không thể không cất quân hỏi tội. Nếu quả là không chính đáng thì

sao không tự xét ngay ở mình? Song việc đã đến thì nên sai một sứ giả sang

hỏi tội, đợi cho họ phục tình hối lỗi mà tạ tội thì mới phải. Sao lại say

đắm tình riêng nữ sắc, quên mất việc lớn của nước nhà, mà những người ăn

thịt8 bấy giờ không ai nói gì là làm sao?

1 Đại Việt sử lược chép là Ung Minh Điệp (ĐVSL3,5a), tức ông Vangsaraja.

2 Chế Bì La Bút: tức Jaya Harivarman I (ở ngôi: 1145-1170).

3 Viên Khâu: đàn tế trời vào tiết Đông Chí hàng năm.

4 Đại Việt sử lược chép: Chế Bì La Bút nước Chiêm Thành đến cống

(ĐVSL3,5b).

5 Thời Xuân Thu, con các vua chư hầu gọi là công tử vì cha nhận tước công

của nhà Chu.

6 Công tử Củ: em Tề Tương công lánh nạn, nương nhờ nước Lỗ. Sau khi Tương

công bị giết. Lỗ Trang công cho quân đưa công tử

Củ về lập làm vua, nhưng bấy giờ Tiêu Bạch (là anh của củ) đã lên ngôi (tức

Tề Hoàn Công), nước Lỗ phải rút quân về.

7 Tiệp Tri: con Văn công nước Trâu (mẹ là con vua nước Tấn), sau khi Văn

công chết, Tấn cho quân đem Tiệp Tri về nước, nhưng con trưởng của Văn công

là Quắc Thư đã nối ngôi, người nước Tấn biết là trái đạo, phải rút về.

8 Chỉ quan lại.

Tháng 11, ngày Đinh Mùi, vua thân đi đánh Nông Khải lai. Ngày Canh Tuất,

xuất phát từ Kinh sư.

Ngày Giáp Dần [12a] thắng trận. Ngày Bính Thìn, đem quân về. Ngày Kỷ Mùi,

về đến Kinh.

Dựng hành cung Ứng Phong, hành cung Ly Nhân và đóng thuyền Vĩnh chương.

Ất Hợi, [Đại Định] năm thứ 16 [1155], (Tống Thiệu Hưng năm thứ 25). Mùa hạ,

tháng 5, công chúa Thiệu Dung mất.

Mùa thu, tháng 8, đua thuyền. Nước to.

Động đất.

Tháng 9, thu tô ruộng chiêm.

Mùa đông, tháng 10, sao Mộc phạm và sao Kim. Sai thợ làm phủ đệ ở Phú

Lương.

Tháng 11, nước Chiêm Thành sang cống. Tháng 12, động đất.

Làm cung Lệ Thiên và hành lang triều cận ở điện Long Khánh.

Bính Tý, [Đại Định] năm thứ 17 [1156], (Tống Thiệu Hưng năm thứ 26). Mùa

xuân, tháng 2, ngày tân Mùi, trời mưa cát vàng.

Mùa hạ, tháng 4, xuống chiếu làm phủ đệ ở châu Quảng Nguyên. Mùa đông,

tháng 12, ngày đinh Mùi, ban đêm kho ngự cháy.

Làm hành cung Ngự Thiên1, điện Thuỵ Quang, gác Ánh vân, cửa Thanh Hòa, thềm

Nghi Phượng,

[12b] gác Diện Phú, đình Thưởng Hoa, thềm Ngọc Hoa, hồ Kim Liên, cầu Minh

Nguyệt và đóng thuyền

to bản của ngự trù2, thuyền to bản của cung nội.

Thái phó Lý Du Đô dâng sớ xin hưu trí, thăng làm Thái sư, ban cho vàng bạc

về quê. Dựng miếu khổng Tử.

Năm ấy đói to, một thăng gạo giá 70 đồng tiền.

Đinh Sửu, [Đại Định] năm thứ 18 [1157], (Tống Thiệu Hưng năm thứ 27). Xuống

chiếu định luật lệnh.

Mậu Dần, [Đại Định] năm thứ 19 [1158], (Tống Thiệu Hưng năm thứ 28). Mùa

xuân, tháng 2, Nguyễn Quốc sang sứ nước Tống về, dâng tâu rằng: "Thần sang

nước Tống thấy ở giữa sân vua có cái hòm bằng đồng để nhận các chương tấu

của bốn phương, thần xin bắt chước mà làm như thế để bề trên

rõ được tình người dưới". Vua y theo, cho đặt cái hòm ở giữa sân để ai có

trình bày việc gì thì bỏ thư vào hòm ấy. Bấy giờ có người ngầm bỏ thư nặc

danh nói là Anh Vũ làm loạn, tìm xét [13a] không biết là ai. Anh Vũ vu cho

Quốc làm, đày Quốc đến trại đầu ở Thanh Hóa. Không bao lâu, vua gọi Quốc

về. Anh Vũ

lại đưa cho Quốc rượu có thuốc độc, Quốc tự nghĩ không khỏi bị hại, bèn

uống thuốc độc chết3.

1 Ngự Thiên: nay là một phần đất huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình (vùng huyện

Hưng Nhân cũ).

2 Ngự trù: bếp của nhà vua.

3 Về việc này, Toàn thư và Cương mục đều chép người đi sứ về là Nguyễn

Quốc, nhưng Đại Việt sử lược chép là Nguyễn Quốc Dĩ,

giữ chức Tả ty và kể sự việc kỷ hơn: Người giữ việc đọc thư nói lại với Đỗ

Anh Vũ về bức thư nặc danh, Anh Vũ nói: "Ông vì ta tâu vua xin xét việc

đó". Tìm không ra người viết thư, Anh Vũ tâu rằng: "Thư ấy tất do người

xướng xuất ra việc làm hòm viết ". Vua

lấy làm phải, sai bắt Quốc Dĩ và em là Nghi Giao cho quan xét xử, sau đó,

đày Quốc Dĩ lên trại Quy Hóa (Toàn thư, ghi là Thanh

Hóa?). Khi biết vua có ý định cho gọi Quốc Dĩ về, Anh Vũ sai người đem

thuốc độc cho Quốc Dĩ (ĐVSL3,6b).

Sai Thiếu bảo Phí Công Tín tuyển dân đinh, định các hạng và lấy người sung

việc thờ cúng ờ thái

miếu và sơn lăng.

Mùa thu, tháng 8, Đỗ Anh Vũ chết.

Kỷ Mão, [Đại Định] năm thứ 20 [1159], (Tống Thiệu Hưng năm thứ 29). Mùa

xuân, cột chùa

Thiên Phù chảy máu.

Nước Ngưu Hồng dâng voi hoa.

Mùa hạ, tháng 5, Ngưu Hồng và Ai Lao làm phản. Sai Tô Hiến Thành đi đánh,

bắt được người và trâu ngựa voi, vàng bạc châu báu rất nhiều. Phong Hiến

Thành làm Thái uý.

Canh Thìn, [Đại Định] năm thứ 21 [1160], (Tống Thiệu Hưng năm thứ 30). Mùa

xuân, tháng giêng làm đền Hai Bà và đền Xuy Vưu1 ở phường Bố Cái.

Tháng 2, sai Tô Hiến Thành và Phi Công Tín tuyển dân đinh, người mạnh khỏe

thì sung [13b] vào quân ngũ. Chọn các tướng hiệu, người nào thông thạo binh

pháp, am tường võ nghệ thì chia cho cai quản.

Tân tỵ, [Đại Định] năm thứ 22 [1161], (Tống Thiệu Hưng năm thứ 31). Mùa

xuân, sai đem voi thuần sang biếu nhà Tống. Vua Tống bảo các đại thần rằng:

"Trẫm không chuộng thú vật lạ, làm khó nhọc người xa, nên sai suý thần bảo

họ từ nay về sau bất tất phải mang vật ấy tiến cống".

Dựng chùa Pháp Vân2 ở châu Cổ Pháp.

Mùa đông, tháng 10, Thái phó Hoàng nghĩa Hiền chết, nghỉ thiết triều 5

ngày, vì Nghĩa Hiền có công giúp vua lên ngôi, nên đặt ân làm hơn lễ

thường.

Tháng 11, vua sai Tô Hiến thành làm Đô tướng, Đỗ An Di làm phó, đem 2 vạn

quân đi tuần các

nơi ven biển tây nam, để giữ yên miền biên giới. Vua thân đi tiễn đến cửa

biển Thần Đầu ở Đại An (nay

là cửa biển Thần Phù) mới trở về.

Thái uý Lưu Khanh Đàm chết.

Nhâm Ngọ, [Đại Định] năm thứ 23 [1162], (Tống Thiệu Hưng năm thứ 32). Mùa

xuân, tháng giêng, xuống chiếu rằng kẻ nào tự hoạn thì xử [14a] 80 trượng,

thích 23 chữ vào cánh tay bên trái.

Động đất.

Tháng 2, khảo khóa các quan văn võ, người nào đủ niên hạn khảo mà không có

lỗi thì thăng trật, định làm phép thường, cứ 9 năm là một kỳ khảo.

Quý Mùi, [Chính Long Bảo Ứng] năm thứ 1 [1163], (Tống Hiếu Tông Vĩ, Long

Hưng năm thứ 1). Cấm người trong nước không được dùng trân châu giả.

Mùa thu, tháng 8, lính chốn rủ nhau tụ họp thành bọn cướp bóc cư dân trên

đường bộ. Vua sai

Phu Công Tín đem 10 vạn quân đi đánh dẹp yên được.

Giáp Thân, [Chính Long Bảo Ứng năm thứ 2] [1164], (Tống Hưng Long năm thứ

2). Mùa xuân, tháng 3, nước Chiêm Thành sang cống.

Mùa thu, tháng 7, nước to quá mức thường, lúa bị ngập hết.

Nhà Tống phong vua làm An Nam Quốc Vương, đổi Giao Chỉ làm An Nam Quốc

Vương đổi Giao

Chỉ làm An Nam Quốc Vương.

1 Xuy Vưu: theo truyền thuyết Trung Quốc, là hậu duệ của Viêm Đế, làm vua

nước Cửu Lê thời thượng cổ, thua trận ở Trác Lộc, bị

Hoàng Đế bắt giết.

2 Chùa Pháp Vân: tức là chùa Dâu ở xã Thanh Khương,Hà Bắc.

Ất Dậu, 3 [1165], (Chính Long Bảo Ứng năm thứ 3 [1165]), (Tống Càn Đạo năm

thứ 1). Mùa

hạ, tháng 6, đại hạn, dân bị nạn dịch lớn, trâu bò gia súc chết nhiều,

[14b] giá gạo cao vọt.

Mùa thu, tháng8, thi học sinh.

Bính Tuất, [Chính Long Bảo Ứng] năm thứ 4 [1166], (Tống Càn Đạo năm thứ 2).

Mùa xuân, tháng 3, sứ Chiêm Thành đi đến miền Ô Lý, dùng quân phong thủy

(ma thuật của thầy tăng) mà vượt biển, cướp bóc nhân dân ven biển nước ta

rồi về.

Dân có người dâng con rùa ở ức có bốn chữ "Thiên tử vạn niên", cũng có

người dâng quạ trắng.

Đinh Hợi, [Chính Long Bảo Ứng] năm thứ 5 [1167], (Tống Càn Đạo năm thứ 3).

Mùa thu, tháng

7 , sai Thái uý Tô Hiến Thành đi đánh Chiêm Thành.

Mùa đông, tháng 10, Chiêm Thành sai sứ sang dâng trân châu và sản vật địa

phương để xin hoà. Xuống chiếu cho Tô Hiến Thành đem quân về. Từ đấy nước

Chiêm Thành giữ lễ phiên thần,

dâng cống không thiếu.

Đóng thuyền Nhật Long.

Mậu Tý, [Chính Long Bảo Ứng] năm thứ 6 [1168], (Tống Càn Đạo năm thứ 4).

Mùa thu, tháng

8, sứ nhà Tống sang sứ Thát Đạt (tức là sứ của nhà Nguyên), cũng sang1. Đều

thưởng hậu để dụ, ngầm

lấy lễ tiếp đãi cả hai sứ, không cho họ gặp nhau.

[15a] Kỷ Sửu, [Chính Long Bảo Ứng] năm thứ 7 [1169], (Tống Càn Đạo năm thứ

5). Mùa xuân, tháng 3, ngày rằm nguyệt thực. Cá ở cửa biển chết. Sai tăng

ni, đạo sĩ các chùa quán ở Kinh và các nơi tụng kinh cầu đảo.

Thái sư trí sĩ là Lý Du Đô chết.

Mùa hạ, tháng 4, làm điện Thanh Hoà để đặt thần vị của tiên đế và tiên hậu,

theo thời cúng tế. Sửa lại chùa Chân Giáo.

Canh Dần, [Chính Long Bảo Ứng] năm thứ 8 [1170], (Tống càn Đạo năm thứ 6).

Vua tập bắn

và cưỡi ngựa ở phía nam thành Đại La, đặt tên là Xạ Đình, sai các quan võ

hàng ngày luyện tập phép công chiến phá trận.

Tân Mão, [Chính Long Bảo Ứng] năm thứ 9 [1171], (Tống Càn Đạo năm thứ 7).

Mùa xuân, tháng 2, điện Vĩnh Nguyên vô cớ tự rung động.

Làm miếu điện thờ Văn Tuyên Vương2 và đền thờ Hậu Thổ.

Vua đi tuần các hải đảo, xem các hình thế núi sông, muốn biết dân tình đau

khổ và đường đi xa gần thế nào.

[15b] Nhâm Thìn, [Chính Long Bảo Ứng] năm thứ 10 [1172], (Tống Càn Đạo năm

thứ 8). mùa xuân, tháng 2, vua lại đi tuần các hải đảo ở địa giới các phiên

bang Nam Bắc, vẽ bản đồ và ghi chép phong vật rồi về.

Quý Tỵ, [Chính Lonh Bảo Ứng] năm thứ 11 [1173], (Tống càn Đạo năm thứ 9).

Mùa xuân, làm

lại cầu Thái Hoà.

Mùa hạ, tháng 5, ngày 25, Hoàng thái tử Long Trát sinh. Mùa thu, đóng

thuyền Ngoạn thủy.

1 Có nhầm lẫn ở điều ghi này của Toàn thư. Phải đến năm 1206 quốc gia Mông

Cổ mới thành lập. Sứ đến nước ta bấy giờ có lẽ là

sứ nước Kim. Cương mục cũng chữa là sứ thần nước Kim. (CMCB5, 14a).

2 Văn Tuyên Vương: tức Khổng Tử.

Giáp Ngọ, [Chính Long Bảo Ứng] năm thứ 12 [1174], (Từ tháng 2 về sau là

niên hiệu Thiên

Cảm Chí Bảo năm thứ 1; Tống Thuần Hy năm thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng động

đất.

Tháng 2, đổi niên hiệu là Thiên Cảm Chí Bảo năm thứ 11.

Muà thu, tháng 9, Thái tử Long Xưởng có tội, phế làm thứ dân và bắt giam.

Trước đó, Long Xưởng thông dâm với cung phi, vua không nỡ bắt tội chết, cho

nên có mệnh này. Một hôm, vua gọi tể tướng đến bảo rằng: "Thái tử là gốc

lớn của nước, Long Xưởng đã làm điều trái đạo, trẫm muốn Long Trát nối giữ

nghiệp lớn, nhưng nó còn nhỏ tuổi, [16a] sợ không đương nổi, nếu đợi lớn

thì trẫm đã tuổi

già suy yếu, biết làm thế nào?". Bấy giờ có nội nhân ẵm Long Trát ra, thấy

vua đội mũ, khóc đòi đội, vua chưa kịp tháo mũ đưa cho thì càng khóc to

hơn. Vua bèn tháo mũ đội cho, Long Trát cả cười. Vua càng

lấy làm lạ, ý lập Long Trát làm thái tử bèn quyết định.

Mùa đông, tháng 11, động đất.

Tháng 12, sao Chổi mọc phương nam.

Ất Mùi, [Thiên Cảm Chí Bảo] năm thứ 2 [1175], (Tống Thuần Hy năm thứ 2). ùa

xân, tháng giêng, sách lập long Trát làm Hoàng thái tử, ở đông cung. Phong

Tô Hiến Thành làm Nhập nội kiểm hiệu thái phó bình chương quân quốc trọng

sự, tước vương, giúp đỡ đông cung.

Mùa hạ, tháng tư, vua không khỏe, cố gượng sai Tô Hiến Thành ẵm thái tử mà

quyền nhiếp chính sự.

Mùa thu, tháng 7, ngày Ất Tỵ, vua băng ở điện Thuỵ Quang. Trước đó, khi vua

ốm nặng, hoàng hậu lại xin lập Long Xưởng, vua nói: "Làm con [16b] bất hiếu

còn trị dân sao được". Di chiếu cho Tô Hiến Thành giúp rập thái tử, công

việc quốc gia nhất nhất tuân theo phép cũ. Bấy giờ thái hậu muốn làm việc

phế lập, sợ Hiến Thành không nghe, mới đem vàng bạc đút cho vợ là Nữ thị.

Hiến Thành nói: "Ta là

đại thần nhận mệnh tiên đế dặn lại giúp rập vua bé, nay lấy của đút mà làm

việc phế lập thì còn mặt mũi nào trông thấy Tiên đế ở suối vàng?". Thái hậu

lại gọi Hiến Thành đến dỗ dành trăm cách. Hiến Thành

trả lời: "Làm việc bất nghĩa mà được giàu sang, kẻ trung thần nghĩa sĩ đâu

có vui làm, huống chi lời của Tiên đế còn ở bên tai, điện hạ lại không nghe

việc của Y Doãn, Hoắc Quang hay sao? Thần không dám vâng chiếu". Việc bèn

thôi.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Anh Tông nối ngôi tuổi còn thơ ấu, việc của Đỗ Anh

Vũ làm gì mà biết được, đến khi tuổi ngoại hai mươi, sai bọn Hiến Thành đem

quân đi tuần nơi biên giới, [17a] lại thân đi xem khắp tình thế núi sông,

muốn biết sự đau khổ của dân gian và đường đi xa2 gần, về mặt giữ dân giữ

nước, quy mô đã thấy rõ. Lại đặt Xạ Đình, sai các quan võ hàng ngày luyện

tập phép đánh trận, về mặt sửa binh giãng võ, mưu lược đã thấy rõ. Thái tử

Long Xưởng có tội thì phế đi mà lập Long Trát làm thái tử, cho ở đông cung,

để lòng người có chỗ gắn bó. đến khi ốm nặng, hoàng hậu xin lập lại Long

Xưởng, thì lấy lễ nghĩa mà bác bẻ, không mê hoặc lời nói của đàn bà, lại cố

gượng gọi Hiến Thành nhận di chiếu giúp thái tử quyền nhiếp chính sự, phó

thác được người giỏi để phòng lo sau, rốt cuộc mưu phế lập của thái hậu

không thể làm được, trên yên dưới thuận, không phải là sức của Anh

Tông sao? Còn như Cao Tông không phải là người hiền thì ngay lúc

bấy giờ đã biết trước thế nào được? Vua chỉ thuận theo lẽ phải mà làm [17b]

thôi.

Thái tử Long Trát lên ngôi trước linh cữu, bấy giờ mới lên 3 tuổi, tôn mẹ

là Đỗ thị làm Chiêu

Thiên Chí lý hoàng thái hậu.

Cho Đỗ An Di3 (em trai hoàng thái hậu) làm thái sư đồng bình chương sự, Tô

Hiến Thành làm thái uý1.

1 Đại Việt sử lược chép đổi niên hiệu vào tháng giêng (ĐVSL3,8a).

2 Nguyên bản khắc nhầm chữ đạo lý với chử lý (lẽ) đúng ra là chữ lý (dặm

đường).

3 Đại Việt sử lược chép là Đỗ An Thuận (ĐVSL3, 9b).!Chữ Di và chữ Thuận

gần giống nhau, dễ lầm lẫn.

Họp quốc nhân thề ở Long Trì.

Cao Tông Hoàng Đế

Tên huý là Long Trát con thứ sáu của Anh Tông, mẹ là hoàng hậu họ Đỗ2, sinh

ngày

25 tháng 5 năm Quý Tỵ, Chính Long Bảo Ứng thứ 11 [1173]. Năm Thiên Cảm Chí

Bảo thứ 2

[1175] sách lập làm hoàng thái tử. Anh Tông băng, bèn lên ngôi báu, ở ngôi

35 năm [1176-

1210], băng ở cung Thánh Ngọ.

Vua chơi bời vô độ, chính sự hình pháp không rõ ràng, giặc cướp nổi như

ong, đói kém liền năm, cơ nghiệp nhà Lý từ đấy suy.

Bính Thân, [Trinh Phù] năm thứ 1 [1176], (Tống Thuần Hy năm thứ 3). Mùa

xuân, tháng giêng,

đổi niên hiệu, đại xá thiên hạ.

[18a]Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Cao Tông lên ngôi từ tháng 7 năm ngoái, đến

đây mới đổi niên hiệu, là vì có Tô Hiến Thành phụ chính, biết trở lại lễ

cổ.

Đinh Dậu, [Trinh Phù] năm thứ 2 [1177], (Tống Thuần Hy năm thứ 4). Mùa

xuân, tháng 3, Chiêm Thành đến cướp châu Nghệ An.

Mậu Tuất, [Trinh Phù] năm thứ 3 [1178], (Tống Thuần Hy năm thứ 5). Hết quốc

tang. Chiêu Linh hoàng thái hậu ban yến cho các quan ở biệt điện, bảo rằng:

"Hiện nay Tiên đế đã chầu trời, vua nối còn thơ ấu, nước Chiêm Thành thất

lễ, người phương Bắc cướp biên. Các khanh chịu ơn nặng của triều đình, nên

lo việc của nước nhà. Kế sách ngày nay không gì bằng lập lại thái tử, để

vận nước được lâu, lòng dân được yên". Các quan đều chắp tay cuối đầu nói:

"Thái phó nhận mệnh lệnh rõ ràng của thiên

tử. Bệ hạ cũng đã nhiều lần dỗ bảo rồi, bọn thần không dám trái lệnh". Đều

lạy tạ rồi lui ra. Hiến Thành quản Lĩnh cấm binh, nghiêm hiệu lệnh, thưởng

phạt công bằng, [18b] người trong nước đều quy phục.

Mùa hạ, tháng 5, lấy ngày sinh của vua làm tiết Càn hưng.

Kỷ Hợi, [Trinh Phù] năm thứ 4 [1179], (Tống Thuần Hy năm thứ 6). Mùa xuân,

tháng giêng, tuyển các đinh nam, người nào mạnh khỏe sung vào quân ngũ.

Tháng 2, động đất.

Tháng 3, khảo xét công trạng các quan, người giữ chức siêng năng tài cán

nhưng không thông chữ nghĩa làm một loại, người có chữ nghĩa tài cán làm

một loại, người tuổi cao hạnh thuần, biết rõ việc xưa nay làm một loại, cứ

theo thứ tự mà trao cho chức vụ trị dân coi quân, khiến cho quan chức không

lạm nhũng.

Mùa hạ, tháng 6 (không rõ ngày nào), hai mặt trời cùng mọc.

Thái uý Tô Hiến Thành chết. Vua bớt ăn ba ngày, nghĩ thiết triều 6 ngày.

Trước đây khi Tô Hiến Thành nằm bệnh, Tham trì chính sự Vũ Tán Đường ngày

đêm hầu bên cạnh, Gián nghị đại phu Trần Trung Tá vì bận việc không lúc nào

rỗi để tới thăm hỏi. Đến khi bệnh nặng, thái hậu thân đến thăm, hỏi rằng:

"Nếu có mệnh hệ nào thì ai là người có thể thay ông?". Hiến Thành trả lời:

"Trung Tá [19a] có thể thay được". Thái hậu nói: "Tán Đường hàng ngày hầu

thuốc thang, sao không thấy ông nhắc đến?". Hiến Thành trả lời: "Vì bệ hạ

hỏi người nào có thể thay thần nên thần nói đến Trung Tá, còn như hỏi người

hầu dưỡng thì phi Tán Đường còn ai nữa?". Thái hậu khen là trung, nhưng

cũng không dùng lời ấy.

1 Năm Đại Định thứ 20 (1159), Tô Hiến Thành đã phong làm thái uý, lúc này

lại là đại thần nhận di chiếu của Anh Tông làm phụ

chính cho Cao Tông, ở đây lại ghi phong lại chức vụ cũ, Cương mục ngờ rằng

Toàn thư có thể chép nhầm (CMCB5, 18a).

2 Đại Việt sử lược chép hoàng hậu họ Đỗ tên là Thuỵ Châu (ĐVSL3, 8b).

Lấy Đỗ An Di làm phụ chính.

Sử thần Ngô Sỉ Liên nói: Tô Hiến Thành nhân việc ký thác con côi, hết lòng

trung thành, khéo xử trí khi biến cố, tuy bị gió lay sóng đập mà vẫn đứng

vững như cột đá giữa dòng, khiến trên yêu dưới thuận, không thẹn với phong

độ của đại thần đời xưa. Huống chi đến lúc sắp chết còn vì nước tiến cử

người hiền, không vì ơn riêng, thái hậu không dùng lời nói của Hiến Thành

là việc không may cho nhà Lý vậy.

Xuống chiếu cấm không được đem mắm muối và đồ sắt lên bán đổi ở đầu nguồn.

Canh Tý, [Trinh Phù] năm thứ 5 [1180], (Tống Thuần Hy năm thứ 7). Mùa xuân,

định lệ các vương hầu vào chầu.

Mùa thu, tháng 8, nước to.

[19b] Động đất ở hai điện Vĩnh Nguyên, Hội Tiên.

Tân Sửu, [Trinh Phù] năm thứ 6 [1181], (Tống Thuần Hy năm thứ 8). Mùa xuân,

tháng giêng, thái tử củ là Long Xưởng cầm đầu bọn gia thuộc nô lệ trộm cướp

bừa bãi, muốn mưu làm loạn.

Mùa hạ, tháng 4, sao Huỳnh Hoặc1 đi vào chòm Nam Đẩu. Đói to, dân chết gần

một nửa.

Nhâm Dần, [Trinh Phù] năm thứ 7 [1182], (Tống Thuần Hy năm thứ

9). Mùa xuân, tháng giêng, xuống chiếu cầu người hiền lương.

Đắp đàn phong tướng, lấy Ngô Lý Tín làm Thượng tướng quân, đem quân thủy bộ

đi tuần bắt trộm cướp.

Lấy Lý Kinh Tu làm Đế sư2, trong thì hầu việc giảng sách, ngoài thì dạy dân

trung hiếu, từ đấy

Chiêu Linh thái hậu không dám manh tâm mưu khác nữa.

Cấm người trong nước không được mặc áo sắc vàng. Nước Xiêm La sang cống.

[20a] Quý Mão, [Trinh Phù] năm thứ 8 [1183], (Tống Thuần Hy năm thứ 10).Mùa

xuân, tháng giêng, cho Ngô Lý Tín làm Đốc tướng đi đánh Ai Lao.

Mùa đông, tháng 11, ngày mồng 1 Nhâm Ngọ, nhật thực.

Giáp Thìn, [Trinh Phù] năm thứ 9 [1184], (Tống Thuần Hy năm thứ 11). Mùa

xuân, tháng 3, nước Chiêm Thành sang cống.

Người buôn các nước Xiêm La và Tam Phật Tề3 vào trấn Vân Đồn dâng vật báu

để xin buôn bán. Mùa đông, tháng 10, các sách Tư Mông v. v... làm phản,

đánh lẫn nhau4.

Ất Tỵ, [Trinh Phù] năm thứ 10 [1185], (Tống Thuần Hy năm thứ 12). Mùa xuân,

tháng giêng, thi

sĩ nhân trong nước, người nào từ 15 tuổi mà thông thi thư thì được vào hầu

học ở ngự điện. Lấy đỗ bọn

Bùi Quốc Khái, Đặng Nghiêm 30 người, còn thì đều ở lại học.

1 Huỳnh Hoặc: tức sao Hỏa.

2 Đế sư: thầy của vua.

3 Tam Phật tề: tức vương quốc Srivijaya ở đảo Smatra, được nhắc đến với

tên Thất Lợi Phật Thệ từ thế kỷ VII trong thư tịch Trung

Quốc và với tên Tâm Phật Tề từ thế kỷ V trong thư tịch Trung Quốc.

4 Các sách Tư Mông...: Đại Việt sử lược chép sách Tư Mông, sách Trịnh,

sách Ô Mễ, vua sai thái phó Vương Nhân Từ đi đánh. Nhân

Từ lấy người trong châu là Phạm Phẩm đóng ở ải Ông trọng, Trương Nhạn, Phạm

Đỗ đóng ở hương Bái, Đoàn Tùng đóng ở ải Khả Lão. Khi đến trại La Biều,

quan quân bị người Lão đánh úp, thua to, Nhân Từ chết trận. Cuộc hành quân

năm sau (1185) do Kiến Khang Vương (Đại Việt sử lược chép là Kiên Ninh

Vương) chỉ huy là để báo thù việc thất trận ở La Biều (ĐVSL3,10b,11a). các

sách, trại ghi ở đây đều chưa rõ ở đâu, nhưng có khả năng là ở vùng núi Hà

Sơn Bình. Đại Việt sử lược chép đến các quan lang họ Đinh ở vùng này.

được.

Mùa thu, tháng 7, sai Kiến Khang Vương Long Ích đem quân đánh người Man ở

sách Viêm, dẹp

[20b] Bính Ngọ,[Trinh Phù] năm thứ 11 [1186], (Từ tháng 7 về sau là niên

hiệu Thiên Tư Gia

Thuỵ năm thứ 1, Tống Thuần Hy năm thứ 13). Mùa xuân, tháng giêng, nhà Tống

phong vua làm An Nam

Quốc Vương, chế thư đại khái nói: "Ngay bắt đầu đã phong cho tước ấp ở một

nước yên vui, được theo

lệ cha truyền con nối ban sắc mệnh cho được thực thụ tước vượng, cần gì

phải đợi thăng dần theo thứ

tự"1. Đó là lễ đặc biệt.

Tháng 3, sách phong Đàm thị làm An Toàn nguyên phi (Phi là con gái của

tướng quân [Đàm] Thì

Phụng).

Mùa thu, tháng 7, bắt được voi trắng, đặt cho tên là Thiên Tư. Xuống chiếu

đổi niên hiệu là

Thiên Tư Gia Thuỵ năm thứ 1.

Sai Lê Hòe Khanh sang nhà Tống đáp lễ.

Đinh Mùi, [Thiên Tư Gia Thuỵ] năm thứ 2 [1187], (Tống Thuần Hy năm thứ 14).

Mùa hạ, tháng

4, sét đánh nhà Thái Miếu.

Có nhà sư Tây Vực2 đến. Vua xuống chiếu hỏi sư ấy có tài năng gì, trả lời

là có tài phục được hổ. Bảo làm thử, không hiệu nghiệm.

Mậu Thân, [Thiên Tư Gia Thuỵ] năm thứ 3 [1188], (Tống Thuần Hy

năm thứ 15). Mùa hạ, tháng 5, đại hạn.Vua thân ngự đến chùa Pháp Vân ở

Duềnh Bà3 [21a] để đảo vũ,nhân rước tượng phật Pháp Vân về chùa Báo Thiên.

(Buổi đầu bản triều [Lê] vẫn còn theo tục cũ này).

Tháng 6, động đất, gió bão.

Mùa thu, tháng 7, ngày mồng 1 Giáp Tý, nhật thực.

Thái sư Đỗ An Di chết, lấy Thái phó Ngô Lý Tín làm Phụ chính.

Kỷ Dậu, [Thiên Tư Gia Thuỵ] năm thứ 4 [1189], (Tống Thuần Hy năm thứ 16).

Mùa xuân, tháng

2, ngày mồng 1 Tân Dậu, nhật thực, mặt trời mặt trăng sắc đỏ như máu.

Động đất,

Tháng 3, vua ngự đi khắp núi sông, phàm xe vua đến đâu mà có thần linh đều

cho phong hiệu

và lập miếu để thờ.

Canh Tuất, [Thiên Tư Gia Thuỵ] năm thứ 5 [1190], (Tống Thiệu Hy năm thứ 1).

Mùa xuân, tháng giêng, hoàng thái hậu họ Đỗ băng.

Mùa thu, tháng 7, Thái phó ngô Lý Tín chết, lấy Đàm Dĩ Mông làm Thái phó.

Mùa đông, tháng 10, vua lễ yết Sơn Lăng, rước tượng mới tô của Hoàng thái

hậu thờ phụ vào

Thái Miếu.

Đóng thuyền Ngoạn Dao.

[21b] Tân Hợi, [Thiên Tư Gia Thuỵ] năm thứ 6 [1191], (Tống Thiệu Hy năm thứ

2). Mùa xuân, nước Chân Lạp sang cống.

1 Nhà Tống đối với các vua nước ta lúc mới lên ngôi thường chỉ phong tước

Giao Chỉ Quận Vương, rồi Nam Bình Vương, sau mới

phong An Nam Quốc Vương. Riêng với Lý Cao Tông, ngay lần đầu nhà Tống đã

phong tước ấy, vì vậy chế thư có câu: "Tức lạc quốc dĩ triện phong..."

(ngay bắt đầu đã phong...). Theo Tống sử (q.488) thì tước ấy đã phong ngay

năm đầu khi Cao Tông mới

lên ngôi (1177).

2 tây Vực: chỉ các nước ở miền Trung và Nam Á.

3 Chùa Pháp Vân: tức chùa Dâu, ở xã Thanh Khương, tỉnh Hà Bắc. Đào Duy Anh

chú bản dịch cũ đoán Duềnh Bà là chép nhầm từ chữ Luy Lâu. Nhưng Duềnh bà

cũng có thể là tên Nôm thời bấy giờ của vùng này. (Duềnh chỉ sông Dâu, Bà

chỉ Bà Dâu, nữ thần thờ ở chùa Dâu).

Mùa đông, tháng 12, sao Huỳnh Hoặc phạm vào sao Thái Bạch1.

Nhâm Tý, [Thiên Tư Gia Thuỵ] năm thứ 7 [1192], (Tống Thiệu Hy năm thứ 3).

Mùa hạ, tháng

6, động đất.

Mùa thu, tháng 7, sét đánh vào điện Vĩnh Ninh hai chỗ.

Người giáp Cổ Hoằng2 ở Thanh Hóa làm phản, sai tướng đi đánh, dẹp được.

Trước đó có người giáp ấy thấy vệt chân trâu [trèo lên] cây muỗm, nhìn lên

thấy con trâu bạc, hồi lâu, nó lại theo ngả khác

đi xuống. Có người lính ở giáp ấy là Lê Văn đoán rằng: 'Trâu trắng là vật ở

dưới, nay lại ở trên cây, thế là

điềm kẻ dưới lên ở trên". Nhân đó bèn rủ nhau làm phản. Đến đây đánh dẹp

yên được.

Đào sông Tô Lịch.

Quý Sửu, [Thiên Tư Gia Thuỵ] năm thứ 8 [1193], (Tống Thiệu Hy năm thứ 4).

Khảo khóa các quan văn võ trong ngoài, để rõ nên giáng hay thăng. [22a]thi

các sĩ nhân trong nước để [chọn người] vào hầu vua học.

Giáp Dần, [Thiên Tư Gia Thuỵ] năm thứ 9 [1194], (Tống Thiệu Hy năm thứ 5).

Mùa thu, tháng

7, hoàng thái tử Sảm sinh. Phong Đàm nguyên phi làm An Toàn hoàng hậu. Đại

xá thiên hạ. ban cho người già từ 70 tuổi trở lên mỗi người một tấm lụa. Mở

tiệc rượu hai ngày ở miếu.

Mùa đông, tháng 10, mưa đá, có tảng to bằng đầu ngựa.

Đóng thuyền Thiên Long.

Ất Mão, [Thiên Tư Gia Thuỵ] năm thứ 10 [1195], (Tống Ninh Tông Khuếch,

Khánh Nguyên năm thứ 1). Nùa xuân, tháng 2, động đất.

sét đánh gác Ly Minh.

Thi Tam giáo, cho đỗ xuất thân.

Đinh Tỵ, [Thiên Tư Gia Thuỵ] năm thứ 12 [1197], (Tống Khánh Nguyên năm thứ

3). Mùa hạ, tháng 6, hạn.

Dựng cung Nghênh Thiềm.

Mậu Ngọ, [Thiên Tư Gia Thuỵ] năm thứ 13 [1198], (Tống Khánh

Nguyên năm thứ 4). Mùa xuân, tháng giêng, xuống chiếu sa thải các tăng

đồ, theo lời tâu của Đàm Dĩ [22b] Mông.

Mùa thu, tháng 7, nước lớn.

Sứ Chiêm Thành sang cống và cầu phong.

Người hương cao Xá3ở câu Diễn là Ngô Công Lý chiêu tập những kẻ vô lại,

cùng với người châu Đại Hoàng là bọn Đinh Khả tự xưng là con cháu của Đinh

Tiên Hoàng và Bùi đô đồng thời làm loạn. Đều dẹp yên được.

Kỷ Mùi, [Thiên Tư Gia Thuỵ] năm thứ 14 [1199], (Tống Khánh Nguyên năm thứ

5). Mùa thu, tháng 7, nước to, lúa mạ ngập hết.

Đói to.

Mùa đông, tháng 10, vua ngự đến phủ Thanh Hóa bắt voi. Sai sứ sang phong

vua nước Chiêm

Thành.

1 Sao Huỳnh Hoặc tức sao Hỏa. Sao Thái Bạch tức sao Kim.

2 Cổ Hoằng: nay là đất huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

3 Nay là Diễn Thịnh huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.

Canh Thân, [Thiên Tư Gia Thuỵ] năm thứ 15 [1200], (Tống Khánh Nguyên năm

thứ 6). Mùa

xuân, tháng giêng, đem thóc chẩn cấp cho dân nghèo.

Mùa thu, tháng 7, Chiêm Linh Thái hậu băng.

Nhâm Tuất, [Thiên Tư Gia Thuỵ] năm thứ 17 [1202], (Từ tháng 8 về sau là

niên hiệu Thiên Gia

Bảo Hựu năm thứ 1; Tống Gia Thái năm thứ 2).

Mùa xuân, tháng 3, động đất.

Mùa thu, tháng 8, hoàng thái tử Thầm sinh. Đổi niên hiệu là Thiên Gia Bảo

Hựu năm thứ 1.

Sai nhạc [23a] công chế khúc nhạc gọi là nhạc Chiêm Thành, tiếng trong

trẻo, ai oán buồn rầu, người nghe phải chảy nước mằt. Tăng phó Nguyễn

Thường nói: "Ta nhge bài tựa Kinh Thi nói rằng: Âm thanh của nước loạn nghe

như ai oán giận hờn. Nay dân loạn nước nguy, chúa thượng thì rong chơi vô

độ, triều đình rối loạn, lòng dân trái lìa, đó là triệu bại vong".

Quý Hợi, [Thiên Gia Bảo Hựu] năm thứ 2 [1203], (Tống Gia Thái năm thứ 3).

Mùa xuân, tháng

2, làm nhiều việc thổ mộc, dựng các cung điện.

Mùa hạ, tháng 4, gác Kinh Thiên làm sắp xong, có chim khách vào làm tổ đẻ

chim con ở đấy. Các quan can rằng: "Ngày xưa Nguỵ Minh Đế làm gác Lăng

Tiêu, có con chim khách đến làm tổ, Cao Đường Long can rằng "Thần từng nghe

câu: Chim khách có tổ, chim cưu đến ở1. Nay chim khách đến làm tổ nơi cung

khuyết, theo ngu kiến của thần thì gác ấy có làm xong nữa tất có người họ

khác đến ở".

Xin bệ hạ xét lời của Cao Đường Long, [23b] trước cốt sửa đức, sau hãy khởi

công mới phải". [Nhưng]

vua nghe lời của hoạn quan là Phạm Bỉnh Di, giục làm càng gấp, trăm họ khốn

khổ.

Mùa thu, tháng 7, Điện tiền chỉ huy sứ tri châu Nghệ An là Đỗ Thanh và châu

mục là Phạm Diên

tâu rằng: "Vua nước Chiêm Thành là Bố Trì2 bị chú là Văn Bố Điền3 đuổi,

nay đem cả vợ con đến ngụ ở cửa biển Cơ La4, ý muốn cầu cứu". Tháng 8 vua

sai Đàm Dĩ Mông và Đỗ An đi liệu tính việc ấy. Sắp đến cửa biển Cơ La, đỗ

An nói: "Kẻ kia đem quân đến đây, lòng nó khó tin được. Tục ngữ có câu: "Lỗ

kiến có

thể vỡ đê, tấc khói có thể cháy nhà". Nay Bố Trì há phải là lỗ kiến, tấc

khói mà thôi đâu". Dĩ Mông nói lại

ý ấy với Thanh và Diên, bảo phải phòng bị. Bọn Thanh nói: "Kẻ kia vì hoạn

nạn đến xin cầu cứu, còn phải nghi ngờ gì?". Dĩ Mông giận, đem quân về.

Thanh và Diên cùng mưu đánh úp Bố Trì để làm kế tự bảo toàn. Mưu tiết lộ,

thành ra bị Bố Trì giết. Quân Nghệ [24a] An tan vỡ, chết không xiết kể. Bố

Trì thả sức cướp bóc rồi về.

Tháng 9, người ở Đại Hoàng giang5 lại làm phản. Trước đây người Đại Hoàng

giang là Phí Lang

và Bảo Lương6 tâu các tội mọt nước hại dân của Đàm Dĩ Mông, Dĩ Mông giận

lấy roi đánh. Bọn Lang vì

thế chứa chất oán giận, nhân khi thiên hạ sầu khổ muốn làm loạn, mới cùng

nhau phản, Vua sai chi hậu Trần Lệnh Hinh làm Nguyên soái đem quân đi đánh.

Lại sai Thượng thư Từ Anh Nhữ đem quân phủ Thanh Hóa đồng thời tiến đánh

Phí Lang, giao chiến ở cửa sông Lộ Bố7, bị thua, [Lệnh Hinh và Anh Nhữ] đều

chết cả.

1 câu này dẫn thơ "Thước sào": Duy thước hữu sào, duy cưu cư chi" (Kinh

Thi Thiệu nam).

2 Bố Trì: tức Suryavarmadeva.

3 văn Bố Điền: tức ôngDhanapatigrama: Đại Việt sử lược (Q3,14b), ghi là Bố

Do.

4 Cơ La: tên cửa biển, thời Trần đổi là Kỳ La, tức là cửa Nhượng ở huyện

Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.

5 Đại Hoàng: là tên châu, vừa là tên sông ở châu ấy, nay là sông Hoàng

Long ở huyện Hoàng Long, tỉnh Ninh Bình.

6 Đại Việt sử lược (q.3, 14b) ghi Bảo Lương họ Nguyễn, tức họ Lý (văn bản

đại việt sử lược theo lệ kiêng huý đời Trần đổi Lý thành

Nguyễn), giữ chức Thượng tướng quân.

7 Sông Lộ Bố: Cương mục dẫn Thiên hạ quận quốc lợi bệnh thư nói Lộ Bố là

sông ở địa phận Y Yên, (CMCB3, 30a). Xác định như vậy khá hợp lý. Dựa vào

các chi tiết được chép rõ hơn ở Đại Việt sử lược, có thể cho rằng sông Lộ

Bố là đoạn sông Đáy chảy qua huyện Ý Yên, tỉnh Nam Hà và cửa sông Lộ Bố là

ở chổ sông Hoàng Long gặp sông Đáy.

Giáp Tý, [Thiên Gia Bảo Hựu] năm thứ 3 [1204], (Tống Gia thái năm thứ 4).

Mùa xuân, tháng

giêng, sai Đỗ Kính Tu đi đánh bọn làm phản ở Đại Hoàng giang, không thắng.

Ất Sửu, [Thiên Gia Bảo Hựu] năm thứ 4 [1204], (Từ tháng 3 về sau là niên

hiệu Trị Bình Long Ứng năm thứ 1; Tống Khai Hy năm thứ 1). Mùa xuân, tháng

3, đổi niên hiệu làm Trị Bình [24b] Long Ứng năm thứ 1.

Người Tống sang cướp ở biên giới. Dân ta mệt nhọc chạy nạn, gặp cướp dần

nổi. Vua thì ham thích tiền của, các quan phần nhiều bán quan buôn ngục.

Bính Dần, [Trị Bình Long Ứng] năm thứ 2 [1206], (Tống Khai Hy năm thứ 2).

Mùa xuân, tháng

2, phong Đàm Dĩ Mông làm Thái bảo, được đội mũ củng thần.

Bấy giờ vua xây dựng không ngớt, rong chơi vô độ, hàng ngày cùng cung nữ

dạo chơi làm vui, nghe ngoài thành có trộm cướp thì lờ đi như không biết,

tính lại sợ sấm, nghe sấm là kinh hoảng. Người

bề tôi được vua yêu là Nguyễn Dư nói mình có phép cấm được sấm. Gặp khi sấm

động, vua sai Dư thử phép, Dư ngửa mặt lên trời đọc thần chú, mà sấm càng

to thêm. Vua vặn hỏi, Dư trả lời: "Thần răn cấm mãi rồi, nhưng vì trời cao

nên nó còn dữ tợn như thế!".

Đinh Mão,[Trị Bình Long Ứng] năm thứ 3 [1207], (Tống Khai Hy năm thứ 3).

Mùa Xuân, tháng giêng, giặc cướp nổi như ong. Xuống chiếu chọn các đinh

nam, người nào khỏe mạnh, [25a] sung vào quân ngũ, sai quan các lộ thống

quản để bắt [giặc cướp]. Mùa đông, tháng 10, người Man ở núi Tản Viên châu

Quốc Oai1 làm giặc, cướp bóc hương Thanh Oai2, bè lũ rất đông, không thể

ngăn được.

Mậu Thìn, [Trị Bình Long Ứng] năm thứ 4 [1208], (Tống Gia Định năm thứ 1).

Mùa xuân, tháng giêng, sách lập hoàng tử Sảm làm Hoàng thái tử, ở đông

cung.

Đói to, người chết đói nằm gối lên nhau.

Cho Phạm Du coi việc quân ở Nghệ An. Du bèn làm phản, thu nạp những kẻ vong

mệnh và trộm cướp, gọi là "hậu nhân"3, chia đi cướp bóc các nơi. Người châu

Quốc Oai cũng đem bè lũ đến đóng ở Tây Kết, đường sá vì thế không thông.

Vua sai Thượng phẩm phụng ngự Phạm Bỉnh Di đem quân châu Đằng4 đến đánh.

Kỷ Tỵ, [Trị Bình Long Ứng] năm thứ 5 [1209], (Tống Gia Định năm thứ 2). Mùa

xuân, tháng giêng, Phạm Bỉnh Di đem người châu Đằng và châu Khoái5 đi đánh

bọn Du. Du thua trận, chạy sang châu Hồng. Bỉnh Di tịch biên gia sản của Du

rồi đốt hết. Du oán giận càng sâu. [25b] vua sai phụng ngự

gọi Du về kinh. Mùa thu, tháng 7, Bỉnh Dư về đến Kinh sư, sắp vào tâu, có

người ngăn lại nói rằng: "Lời

của Du đã đến tai vua trước rồi, vua còn chưa nguôi giận"6. Bỉnh Di nói;

"Ta thờ vua hết trung mà bị kẻ gian tặc gièm pha ư? Huống chi là có mệnh

vua đòi, ta cón tránh vào đâu?", rồi Bỉnh Di vào. Vua sai bắt, đem giam

cùng với con là Phụ7 ở Thuỷ viện. sắp đem hành hình thì tướng của Bỉnh Di

là bọn Quách Bốc nghe tin đem quân đánh trống hò reo tiến vào, đến ngoài

cửa Đại Thành bị người coi cửa chống cự. Bọn

1 Quốc Oai: nếu châu Quốc Oai thời Lý tương đương với phủ Quốc Oai thời Lê

thì là đất các huyện Hoài Đức, Đan Phượng, Phúc

Thọ, Thạch Thất và huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây ngày nay. Nhưng theo đây thì

núi Tản Viên cũng thuộc châu Quốc Oai, vậy Quốc

Oai thời Lý có một phần đất huyện ba Vì ngày nay.

2 Thanh Oai: tên hương thời Lý, nay là huyện Thanh Oai, tỉnh Hà tây.

3 Hậu nhân: người do thám.

4 Đằng châu: ten châu thời Đinh Lê; năm 1005 Lê Long Đình đổi gọi là phủ,

nhà Lý đổi lại là châu, nay là phần đất Hưng Yên (cũ), tỉnh Hải Hưng.

5 Khoái Châu: nhà Lý tách một phần Đằng Châu đặt ra Khoái Châu, nay là đất

các huyện Phù Tiên, tỉnh Hải Hưng.

6 Cương mục chép: Du ngầm sai người đến kinh đô đem vàng bạc đút lót cho

bọn nội nhân để tâu vua rằng Bỉnh Di tàn ác giết người vô tội và bày tỏ oan

trạng của mình (CMCB5, 32b).

7 Cương mục có ý ngờ về điều ghi Phụ là con Bỉnh Di, vì Bỉnh Di là hoạn

quan (CMCB5, 33b). Nhưng hoạn quan có thể vẩn có con

từ trước khi chưa bị hoạn.

Bốc phá cửa tiến vào. Vua thấy việc kíp quá, sai đem Bỉnh Di và Phụ vào chỗ

bệ đá mát1 lấy xe ngự chở

xác Bỉnh Di, lấy chiếu ngự bọc xác của Phụ, theo cửa Việt Thành ra bến Đông

Bộ Đầu2 rồi lại trở vào cung Vạn Diên, lập Hoàng tử Thầm làm vua. Bọn Đàm

Dĩ Mông, Nguyễn Chính Lại đều chịu nguỵ chức của Thầm. [26a] Vua [lánh] đến

miền Quy Hóa giang3.

Người ở động Trư là Nguyễn Phá Lân đem bộ khúc đêm đến lấy trộm của kho

công ở Đội Sơn4. Hoàng thái tử [Sảm] đến thôn Lưu Gia5 ở Hai Ấp nghe tiếng

con gái của Trần Lý có nhan sắc,

bèn lấy làm vợ. Nhà Trần Lý nhờ nghề đánh cá nên giàu, người quanh vùng

theo về, nhân có quân

chúng, cùng nổi lên làm giặc. Thái tử đã lấy con gái của Lý, trao cho Lý

tước minh tự, phong cho cậu người con gái ấy là Tô Trung Từ làm Điện tiền

chỉ huy sứ.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Thái tử [Sảm] đi lần này là vì nước loạn mà tránh

nạn, sao lại buông lòng dâm dục ở ngoài mà tự tiện phong tước cho người?

Bởi cao Tông rong chơi vô độ, giường mối bỏ hỏng, cho nên mới thế. Nhưng họ

Lý nhân thế mà vong,

họ Trần nhân thế mà hưng, ấy là do trời cả.

Anh em họ Trần họp hương binh để dẹp loạn, rước vua về kinh, khôi phục

chính thống. [26b]

Trừng trị bọn Quách Bốc làm loạn, xử tội theo mức độ khác nhau.

Canh Ngọ, [Trị Bình Long Ứng] năm thứ 6 [1210], (Tống Gia Định năm thứ 3).

Mùa xuân, tháng

3, vua sai Thượng phẩm phụng ngự là Đỗ Quảng đem quân đến nhà Tô Trung Từ

đón Hoàng thái tử về Kinh sư, còn người con gái [Trần thị] thì về nhà cha

mẹ. [Bấy giờ] trần Lý đã bị bọn giặc khác giết, con thứ là Trần Tự Khánh

thay đem quân chúng về Kinh, được phong là Thuận Lưu Bá.

Mùa thu, tháng 7, Đỗ Anh Triệt6 kể tội Dĩ Mông rằng: "Người làm đại thần

mà ôm lòng vô quân, nhận tước phong của giặc, nay lại đứng ngang hàng với

ta, ta dù bất tài nhưng mặt mĩi nào mà nhìn người!". Dĩ Mông thẹn sợ mà lui

ra.

Sao chổi mọc.

Mùa đông, tháng 10, vua không khỏe, gọi Đỗ Kính Tu và nhận mệnh ký thác.

Ngày 28 Nhâm

Ngọ, vua băng ở cung Thánh Thọ.

[27a]Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Cao Tông tuổi bé nối ngôi, Chiêu Linh Thái

hậu rắp lòng phế lập, thân vua suýt nữa bị nguy. Nhờ có Tô Hiến Thành vốn

có quyền vị, nhận ký thác con côi, hết lòng phù hộ, ngôi báu không lay,

thiên hạ quy phục, tất phải

có mưu hay chước giỏi tâu riêng với vua rồi. Đến khi Hiến Thành chết, Đỗ

Kính Tu hầu

hạ nơi màn trướng, giúp vua sửa đức, đâu phải là không có người? Thế mà vua

mê mãi rong chơi, say đắm thanh sắc, ham tiền của, thích xây dựng, dạy tính

lười tham cho các quan, gây lòng oán giận ở trăm họ, làm cho cơ đồ nhà Lý

phải hao mòn, đến nỗi mất nước. Kinh thư có câu: "Ở trong mê sắc đẹp, ra

ngoài mê săn bắn, ham rượu, thích nhạc, xây nhà cao, trổ tường đẹp, phạm

một trong các điều ấy tất phải bại vong". Vua phạm đủ các điều ấy, còn nói

gì được nữa?

Lại xét sử cũ [chép việc an táng] các vua triều Lý, chỉ đối với Thái [27b]

Tổ có chép táng ở Thọ

Lăng; với Nhân Tông tuy có chép việc táng nhưng lấy tên đất làm tên lăng.

Phàm việc an táng thiên tử là

1 Nguyên văn: "Lương thạch xứ". Đại Việt sử lược có chổ chép là "Lương

thạch toạ" (ĐVSL3,30b). Theo mặt chữ có thể hiểu đó là

cái bệ đá để ngồi mát, ở bên hoặc gần sát bậc thềm có tên là thềm Kim Tinh

(Kim Tinh giai).

2 Đông Bộ Đầu: tức bến Đông ở Thăng Long, bên sông Hồng, ở vào khoảng gần

cầu Long Biên và dốc Hàng Than hiện nay.

3 Quy Hóa Giang: một tên khác của sông Thao (tức sông Hồng từ Việt Trì trở

lên), ở đây chỉ miền núi Vĩnh Phú, Yên Bái. An Nam

chí lược (q.12) chép thêm là Cao Tông nương nhờ ở nhà Hà Vạn.

4 Đội Sơn: còn gọi là núi Long Đội tức núi Đội ở huyện Duy Tiên, tỉnh Nam

Hà ngày nay.

5 Nay là Lưu Xá, huyện Hưng Hòa, tỉnh Thái Bình.

6 Đại Việt sử lược chép là Đỗ Anh Doãn (ĐVSL3, 20a).

việc lớn của nước, quốc sử không thể không chép được. Có lẽ Lê Văn Hưu thấy

đều gọi là Thọ lăng, cho

là không đúng lễ nên bỏ đi, nhưng thế không phải là phép làm sử.

Hoàng thái tử Sảm lên ngôi ở trước linh cữu bấy giờ mới 16 tuổi. Tôn mẹ là

Đàm thị là Hoàng thái hậu, cùng nghe chính sự. Lại đem thuyền rồng đi đón

Trần thị. Anh Trần thị là Trần Tự Khánh cho rằng bấy giờ đương lúc loạn

lạc, chưa đưa đi ngay được.

Sai sứ cáo phó với nhà Tống, nhà Tống sai người sang làm lễ tế điếu.

Huệ Tông Hoàng Đế

Tên huý là Sảm1, con trưởng của Cao Tông, mẹ là hoàng hậu họ Đàm, sinh

tháng 7 năm Giáp Dần [1194], năm Mậu Thìn, Trị Bình Long Ứng thứ 4 [1208],

tháng giêng, sách lập hoàng thái tử. Cao Tông băng, bèn lên ngôi báu, ở

ngôi 14 năm [1211-1224], truyền ngôi cho Chiêu Hoàng, sau bị Trần Thủ Độ

[28a] giết, thọ 33 tuổi [1194-1226]. Vua gặp buổi loạn lạc, giặc cướp tứ

tung, mình bị bệnh nặng, không biết sớm cầu con nối, họ Lý bèn mất.

Tân Mùi, [Kiến Gia] năm thứ 1 [1211], (Tống Gia Định năm thứ 4). Mùa xuân,

tháng giêng, đổi niên hiệu.

Tháng 2,, vua lại sai Phụng ngự là Phạm Bố đi đón Trần thị. Tự Khánh bèn

sai bọn Phùng Tá Chu đưa Trần thị đi. Gặp khi Tô Trung Từ và Đỗ Quảng đang

đánh nhau ở [bến] Triều Đông2, Tá Chu bèn đỗ thuyền ở bến Đại Thông. Đến

khi Đỗ Quang bị thua, vua sai Bố và Trung Từ đón Trần thị vào cung, lập làm

nguyên phi;cho Trung Từ làm Thái uý phụ chính; phong Thuận Lưu bá Trần Tự

Khánh làm Chương Thành hầu3.

Bấy giờ thừa hưởng thái bình đã lâu ngày, giường mối dần bỏ, dân không biết

việc binh, giặc cướp nổi lên không ngăn cấm được. Vua mới lên ngôi, đem

việc nước giao cho Thái uý Đàm Dĩ Mông. Dĩ Mông là người không có học thức,

không có mưu thuật, lại nhu nhược không quyết đoán, chính sự ngày một đổ

nát.

[28b] Nhâm Thân, [Kiến Gia] năm thứ 2 [1212], (Tống Gia Định năm thứ 5).

Mùa xuân, tháng 2, sai người cùng một vú nuôi là Đoàn Thượng chiêu mộ dân

châu Hồng đi bắt giặc cướp. Bấy giờ thế nước suy yếu, triều đình không có

chính sách hay, đói kém luôn luôn, nhân dân cùng khốn, [Đoàn] Thượng thừa

thế tự tiện làm oai làm phúc, không ai dám nói gì. Sau tội trạng tỏ rõ, bị

các quan hặc, phải giam vào ngục để hỏi tội. Thượng mới rút gươm, cởi trần

chạy về châu Hồng, nhóm họp bè đảng, đắp thành xưng vương, cướp bóc lương

dân, triều đình không thể ngăn được.

Quý Dậu, [Kiến Gia] nămthứ 3 [1213], (Tống Gia Định năm thứ 5). Mùa xuân,

tháng 2, Trần Tự

Khánh đem quân xâm phạm cửa khuyết xin đón xa giá. Vua lấy làm ngờ, xuống

chiếu lấy quân các đạo

đi bắt Tự Khánh, giáng nguyên phi làm ngự nữ.

Giáp Tuất, [Kiến Gia] năm thứ 4 [1214], (Tống Gia Định năm thứ 7). Mùa

xuân, tháng giêng, Trần Tự Khánh đem quân đến [bến] Triều Đông, tự vào quân

[29a] môn tạ tội, lại xin đón xa giá. Vua

1 Đại Việt sử lược chép đủ tên huý của Lý Huệ Tông là Hạo Sảm (ĐVSL3,

20b).

2 Bến Triều Đông: bến sông Hồng ở phía đông Thăng Long. cương mục chép là

Đông Bộ Đầu và chú là bến Đông Tân sông Nhị Hà.

3 Nguyên văn: "dĩ Trung Từ vi Thái uý phụ chính, phong Thuận Lưu bá Trần

Tự Khánh vi Chương Thành Hầu". Về việc này, Cương mục chép: "Vua bèn phong

cho Tự Khánh tước hầu, cho Tô Trung Từ làm Thái uý, phong tước Thuận Lưu

bá" (CMCB5, 35b). Đúng ra Lưu Thuận bá là tước của Trần Tự Khánh (như Toàn

thư đã chép ở BK4, 26b) và theo Đại Việt sử lược đến năm này (Nhâm Thân

1212), ngày Canh Tuất tháng giêng "vua cho Tự Khánh lên tước hầu, tước hiệu

là Chương Thành hầu" (ĐVSL3, 24a). Như vậy có thể nhận thấy rằng ở câu của

Toàn thư (đã dẫn), soạn giả Cương mục đã đặt nhầm một dấu ngắt đoạn ở sau

chữ "bá", cho nên mới chép Thuận Lưu bá là tước của Tô Trung Từ.

càng ngờ, bèn cùng với thái hậu và ngự nữ chạy đến núi Trĩ Sơn ở châu Lạng.

Tự Khánh nghe tin xa giá

long đong mà ngự nữ thì lâu nay bị thái hậu làm khổ, lại đem quân đến xin

đón xa giá như trước. Vua cũng chưa tin, lại cùng với thái hậu và ngự nữ

chạy sang huyện Binh Hợp1.

Mùa hạ, tháng 5, Tự Khánh đánh Đinh Khả và Bùi Đô ở châu Đại Hoàng, phá tan

được.

Bính Tý, [Kiến Gia] năm thứ 6 [1216], (Tống gia Định năm thứ 9). Mùa xuân,

sách phong ngự

nữ làm Thuận Trinh phu nhân. Thái hậu cho Trần Tự Khánh là kẻ phản trắc,

thường chỉ phu nhân mà nói

là bè đảng của giặc, bảo vua đuổi bỏ đi; lại sai người nói với phu nhân bảo

phải tự sát. Vua biết mới ngăn lại. Thái hậu bỏ thuốc độc vào món ăn uống

của phu nhân. Mỗi bữa ăn vua chia cho phu nhân một nữa và không lúc nào cho

rời bên cạnh. Thái hậu lại [29] sai người cầm chén thuốc độc bắt phu nhân

phải chết. Vua lại ngăn không cho, rồi đêm ấy cùng với phu nhân lẻn đi đến

chổ quân của Tự Khánh; gặp khi trời đã sáng, phải nghĩ lại ở nhà tướng quân

Lê Mịch ở huyện Yên Duyên, gặp tướng của Tự Khánh là Vương Lê đem binh

thuyền đến đón. Vua mới đỗ lại ở bãi Cửu Liên2. Truyền cho Tự Khánh đến

chầu.

Mùa hạ, tháng 6, hoàng trưởng nữ sinh ở bãi Cửu Liên, sau phong làm công

chúa Thuận Thiên.

Mùa đông, tháng 12, sách phong [Thuận Trinh] phu nhân làm hoàng hậu, phong

Tự Khánh làm Thái uý phụ chính, cho anh trai Tự Khánh là Trần Thừa (tức

thượng hoàng nhà Trần) làm Nội thị phán thủ. Tự Khánh cùng với Thượng tướng

quân Phan Lân xếp đặt quân ngũ, chế tạo binh khí, luyện tập võ nghệ, quân

thế dần dần phấn chấn.

Vua có bệnh trúng phong, chũa thuốc không khỏi mà chưa có thái tử, trong

cung chỉ sinh công chúa mà thôi.

Chiêm Thành và Chân Lạp đến cướp châu Nghệ An, châu bá là Lý Bất Nhiễm đánh

phá được.

[30a] Đinh Sửu, [Kiến Gia] năm thứ 7 [1217], (Tống Gia Định năm thứ 10).

Mùa xuân, tháng

3, vua dần dần phát điên, có khi tự xưng là Thiên tướng giáng, tay cầm giáo

và mộc, cắm cờ nhỏ vào búi tóc, đùa múa từ sớm đến chiều không nghỉ, khi

thôi đùa nghịch thì đổ mồ hôi, nóng bức khát nước, uống rượu ngủ li bì đến

hôm sau mới tỉnh. Chính sự không quyết đoán, giao phó cả cho Trần Tự Khánh.

Quyền

lớn trong nước dần dần về tay kẻ khác.

Mậu Dần, [Kiến Gia] năm thứ 8 [1218], (Tống Gia Định năm thứ 11). Mùa xuân,

tháng 3, động

đất.

Sao chổi mọc ở phương tây nam.

Mùa thu, tháng 8, xuống chiếu bằt cư sĩở chùa Phù Đổng là Nguyễn Nộn, vì

bắt được vàng ngọc

mà không đem dâng.

Tháng 9, hoàng thứ nữ sinh, sau phong làm công chúa Chiêu Thánh.

Mùa đông, tháng 10, Trần Tự Khánh đi đánh người Man ở Quảng Oai3 không

được.

Chiêm Thành và Chân Lạp đến cướp châu Nghệ An, Lý Bất Nhiễm đánh tan được,

thăng tước hầu, ban thực ấp 7.500 hộ, thực phong 1.500 [30b] hộ.

Kỷ Mão, [Kiến Gia] năm thứ 9 [1219], (Tống Gia Định năm thứ 12). Mùa xuân,

tháng 2, Trần Tự Khánh tâu xin tha cho Nguyễn Nộn, cho đi theo quân đánh

giặc để chuộc tội. Vua y cho. Mùa đông, tháng 10, sai Nguyễn Nộn đem quân

đi đánh người Man ở Quảng Oai.

Canh Thìn, [Kiến Gia] năm thứ 10 [1220], (Tống Gia Định năm thứ 13). Mùa

xuân, tháng 3, Nguyễn Nộn giữ hương Phù đổng, tự xưng là Hoài Đạo Vương,

dâng biểu xưng thần, xin đi dẹp loạn để

1 Huyện Binh Hợp: chưa rõ ở đâu.

2 Cửu Liên châu: có lẽ là bãi tả ngạn sông Hồng, gần Cửu Cao, trong đất

huyện Văn Giang cũ, nay thuộc huyện Mỹ Văn, tỉnh Hải

Hưng.

3 Quảng Oai: vùng đất ở huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây ngày nay.

chuộc tội. Vua sai người đem sắc thư đến tuyên dụ. Song vì vua có bệnh

phong, không thể chế ngự

được.

Tân Tỵ, [Kiến Gia] năm thứ 11 [1221], (Tống Gia Định năm thứ 14). Mùa xuân,

tháng giêng, tìm khắp thầy thuốc trong nước để chữa bệnh cho vua, nhưng

không hiệu nghiệm gì. Vua thì ở tít trong cung, giặc cướp bừa bãi, nhân dân

ở ngoài thành lưu ly cực khổ lắm.

[31a] Nhâm Ngọ, [Kiến Gia] năm thứ 12 [1222], (Tống Gia Định

năm thứ 15). Mùa xuân, tháng 2, chia trong nước làm 24 lộ, lộ chia cho

công chúa ở, lấy các hoành nô thuộc lệ và quân nhân bản

lộ, chia nhau làm giáp.

Làm đồ binh khí và ghe thuyền để tuần bắt giặc cướp.

Quý Mùi, [Kiến Gia] năm thứ 13 [1223], (Tống Gia Định năm thứ 16). Mùa

xuân, tháng 10, hạn, lúa bị sâu cắn.

Tháng 12, thế quân của Nguyễn Nộn ngày càng mạnh.

Trần Tự Khánh chết, truy phong làm Kiến Quốc Đại Vương; lấy Trần Thừa làm

Phụ quốc Thái uý, khi vào chầu không xưng tên.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Năm đầu niên hiệu Kiến Gia, giặc cướp đua nhau nổi

dậy, Huệ Tông nhu nhược không đánh dẹp được. Trần Tự Khánh vì cớ Huệ hậu bị

thái hậu làm khổ mà đem quân phạm cửa khuyết xin đón xa giá. Đương lúc bấy

giờ, lòng người không thể không ngờ vực, cho nên Huệ [31b] Tông có lệnh

bắt Tự Khánh mà không bắt được. Tự Khánh muốn làm cho kỳ được mới nhiều lần

làm kinh động đến vua,

xa giá phải dời chổ mấy lần, tội rõ ràng rồi. Nhưng mà Huệ Tông và Huệ hậu

rốt cuộc phải nhờ Tự Khánh mới được yên, thì tội ấy không kể đến. Thế là

việc tuy là trái nhưng tình thì thuận, sử chép không nêu lên nhưng thực

cũng có nêu đấy. Nếu không thế thì chỉ là kẻ đầu sỏ giặc cướp mà thôi.

Giáp Thân, [Kiến Gia] năm thứ 14 [1224], (Từ tháng 10 về sau là niên hiệu

cuả Chiêu Hoàng

Thiên Chương Hữu Đạo năm thứ 1; Tống Gia Định năm thứ 17). Bệnh của vua

ngày càng tăng mà không

có con trai để nối nghiệp lớn, các công chúa đều được chia các lộ làm ấp

thang mộc, uỷ nhiệm cho một mình chỉ huy sứ Trần Thủ Độ quản lĩnh các quân

điện tiền hộ vệ cấm đình.

Mùa đông, tháng 10, xuống chiếu lập công chúa Chiêu Thánh làm Hoàng thái tử

để truyền ngôi cho. Vua xuất gia ở chùa Chân Giáo trong đại nội. Chiêu

Thánh lên ngôi, đổi niên hiệu là Thiên Chương Hữu Đạo năm thứ 1, tôn hiệu

là Chiêu [32a] Hoàng.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Đạo trời có khi thường có khi biến. Thánh nhân

phối với trời đất, giúp việc hoá dục thì có đạo xử trí lúc biến mà vẫn

không mất phép thường. Như Đan Chu con vua Nghêu là kẻ bất tiếu1, thì vua

Nghêu tiến vua Thuấn với trời, mà thiên hạ thịnh trị. Thương Quân con vua

Thuấn là kẻ bất tiếu không thể truyền ngôi, thì vua Thuấn tiến vua Vũ với

trời, mà xã tắc được yên, đều là xử trí lúc biến mà không mất phép thường

cả. Đời sau chỉ truyền ngôi cho con mà không truyền ngôi cho người hiền,

vì là không có người nào được như Thuấn và Vũ. Nếu không may mà không có

con thì chọn con của người tông thất nuôi làm con mình để nối giữ nghiệp

lớn, đó cũng là một cách xử trí trong lúc biến vậy. Lý Nhân Tông đã làm như

thế rồi, Huệ Tông sao không xét việc cũ mà làm theo, lại để [32b] đến sau

lúc tật bệnh mới lập con gái mà truyền ngôi cho, thế có phải lẽ không? Các

quan bấy giờ không ai nghĩ gì đến xã tắc, để cho Phùng Tá Chu viện dẫn việc

Lữ hậu và Vũ hậu làm cớ mà thành ra việc Chiêu Hoàng nhường ngôi cho họ

Trần, ấy là người có tội với họ Lý.

1 Bất tiếu: không giống, không bằng (như con không giống cha), chuyển

nghĩa là không phải người hiền không thể truyền ngôi.

Chiêu Hoàng

Trước tên huý là Phật kim, sau đổi là Thiên Hinh, con gái thứ của Huệ Tông.

Huệ Tông không có con trai nối, lập làm hoàng thái tử để truyền

ngôi1, ở ngôi được 2 năm [1224-

1225] rồi nhường ngôi cho họ Trần.

Ất Dậu, Thiên Chương Hữu Đạo năm thứ 2 [1125], (Từ tháng 12 về sau là niên

hiệu Trần Thái Tông Kiến Trung năm thứ 1; Tống Lý Tông Hú, Bảo Khánh thứ

1). mùa ông, tháng 10, xuống chiếu tuyển con em của quan viên trong ngoài

sung vào các sắc dịch trong nội, như lục hỏa thị cung ngoại, Chi hậu, Nội

nhân thị nội2, ngày đêm thay phiên nhau chầu hầu. Điện tiền chỉ huy sứ Trần

Thủ Độ coi giữ mọi việc quân sự trong ngoài thành thị. Cháu gái Thủ Độ bằng

chú là Trần Bất Cập làm Cận thị thự lục

[33b] cục chi hậu3, Trần Thiêm làm Chi ứng cục, Trần Cảnh làm

Chính thủ (Cảnh sau là Trần Thái

Tông). Cảnh lúc ấy mới lên 8 tuổi, chực hầu ở bên ngoài. Một hôm phải giữ

việc bưng nước rửa, nhân

thế vào hầu bên trong. Chiêu Hoàng trông thấy làm ưa, mỗi khi chơi đêm cho

gọi Cảnh đến cùng chơi, thấy Cảnh ở chỗ tối thì thân đến trêu chọc, hoặc

nắm lấy tóc, hoặc đứng lên bóng. Có một hôm, Cảnh bưng chậu nước hầu, Chiêu

Hoàng rửa mặt lấy tay vốc nước té ướt cả mặt Cảnh rồi cười trêu, đến khi

Cảnh bưng khăn trầu thì lấy khăn ném cho Cảnh. Cảnh không dám nói gì, về

nói ngầm với Thủ Độ. Thủ

Độ nói: "Nếu thực như thế thì họ ta thành hoàng tộc hay bị diệt tộc đây?".

Lại một hôm, Chiêu Hoàng lại

lấy khăn trầu ném cho Cảnh, Cảnh lạy rồi nói: "Bệ hạ có tha tội cho thần

không? Thần xin vâng mệnh". Chiêu Hoàng cười và nói: "Tha tội cho ngươi.

Nay ngươi đã biết nói khôn đó". Cảnh lại về nói với Thủ Độ. Thủ độ sợ việc

[33b] tiết lộ thì bị giết cả, bấy giờ mới tự đem gia thuộc thân thích vào

trong cung cấm. Thủ Độ đóng cửa thành và các cửa cung, sai người coi giữ,

các quan vào chầu không được vào. Thủ Độ loan báo rằng: "Bệ hạ đã có chồng

rồi". Các quan đều vâng lời, xin chọn ngày vào chầu. Tháng ấy, ngày

21, các quan vào chầu lạy mừng. Xuống chiếu rằng: "Từ xưa nước Nam Việt ta

đã có đế vương trị thiên

hạ. Duy triều Lý ta vâng chịu mệnh trời, có cả bốn biển, các tiên thánh

truyền nối hơn hai trăm năm, chỉ

vì thượng hoàng có bệnh, không người nối dõi, thế nước nghiêng nguy, sai

trẫm nhận minh chiếu, cố gượng lên ngôi, từ xưa đến giờ chưa từng có việc

ấy. Khốn nổi trẫm là nữ chúa, tài đức đều thiếu, không người giúp đỡ, giặc

cướp nổi lên như ong, làm sao mà giữ nổi ngôi báu nặng nề? Trẫm dậy sớm

thức khuya, chỉ sợ không cáng đáng nổi, vẫn nghĩ tìm [34a] người hiền lương

quân tử để cùng giúp chính trị, đêm ngày khẩn khoản đến thế là cùng cực

rồi, Kinh thi có nói "Quân tử tìm bạn, tìm mãi không được, thức ngủ không

nguôi, lâu thay lâu thay". Nay trẫm suy đi tính lại một mình, duy có Trần

Cảnh là người văn chất đủ vẻ, thực thể cách quân tử hiền nhân, uy nghi

đường hoàng, có tư chất thánh thần văn võ,

dù đến Hán Cao Tổ, Đường Thái Tông cũng không hơn được. Sớm hôm nghĩ chín

từ lâu nghiệm xem nên nhường ngôi báu, để thỏa lòng trời, cho xứng lòng

trẫm, mong đồng lòng hết sức, cùng giúp vận nước, hưởng phúc thái bình. Vậy

bố cáo thiên hạ để mọi người điều biết". Tháng 12, ngày mồng một Mậu Dần,

Chiêu Hoàng mở hội lớn ở điện Thiên An, ngự trên sập báu, các quan mặc

triều phục vào chầu, lạy ở dưới sân.

Chiêu Hoàng bèn trút bỏ áo ngự mời Trần Cảnh lên ngôi hoàng đế. Đổi niên

hiệu là Kiến [34b] trung năm thứ 1, đại xá thiên hạ, xưng là Thiện Hoàng4,

sau đổi là Văn Hoàng. Bầy tôi dâng tôn hiệu là Khải Thiên Lập Cực Chí Nhân

Chương Hiếu Hoàng Đế. Phong Trần Thủ Độ làm Quốc thượng phụ, nắm

giữ mọi việc cai trị trong nước. Thủ Độ nói: "Hiện nay giặc cướp đều nổi,

họa loạn ngày tăng. Đoàn

Thựng giữ mạn đông, Nguyễn Nộn giữ mạn bắc, các châu Quảng Oai, Đại Viễn5

cũng chưa dẹp yên. Nhà

Lý suy yếu, thế nước nghiêng nguy, nữ chúa Chiêu Hoàng không gánh vác nổi,

mới uỷ thác cho nhị lang

[Chàng Hai]. Nhưng Nhị lang chưa am hiểu việc nước, chính sự nhiều chổ

thiếu sót, vận nước mới mở,

1 Theo Cương mục, Chiêu Hoàng khi nối ngôi mới lên 7 tuổi (CMCB5, 41b).

2 Lục hỏa thị cung ngoại: sáu hỏa (có lẽ là sáu đội lính) hầu ngoài cung;

Chi hậu, Nội nhân thị nội: các chức chi hậu và nội nhân hầu bên trong.

3 Cận thị thự lực cục chi hậu: chức chi hậu ở sáu cục của cận thị thự là

thự giữ việc hầu cận vua.

4 Thiện hoàng: hoàng đế được nhường ngôi Thiện có nghĩa là nhường ngôi.

5 Châu Đại Viễn: có lẽ muốn nói châu Đại Hoàng.

158 Đại Việt Sử Ký Toàn Thư -

Bản Kỷ - Quyển IV

lòng dân chưa phục, mối họa không phải là nhỏ. Ta tuy là chú nhưng không

biết chữ nghĩa gì, còn phải

rong ruổi đông tây để chống giặc cướp, không gì bằng mời thánh phụ làm

thượng hoàng tạm coi việc nước, một hai năm sau thiên hạ nhất thống, lại

giao quyền chính cho Nhị lang". Các quan đều cho là phải, mời thánh phụ

Trần Thừa nhiếp chính.

[35a] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: "Đến thời Huệ Tông, cái độc hại cho thiên hạ

đã

ăn sâu lắm, mà vua không phải người giỏi giang cứng cáp, bề tôi

giúp nước thì nhu nhược hèn kém, muốn chữa cái độc đã sâu thì làm thế nào

được. Huống chi vua lại bị chứng hiểm, chữa không khỏi, lại không có con

trai để nối nghiệp lớn, thế là điểm nguy vong đã hiện ra rồi. Tục truyền

rằng Lý [Thái] Tổ khi mới được thiên hạ, xa giá về Cổ Pháp ngự chơi chùa ở

hương Phù Đổng, có thần nhân đề thơ ở cột chùa rằng: "Nhất bất công đức

thủy, Tuỳ duyên hoa thế gian. Quang quang trùng chiếu chúc. Một ảnh nhật

đăng san". [Một bát nước công đức [của Phật], theo duyên sinh hoá ở thế

gian. Sáng rực hai lần đuốc rọi, mặt trời gác núi là hết bóng]. Sư chùa là

vạn hạnh đem bài thơ ấy dâng lên. Lý Thái Tổ xem xong rồi nói: "Việc của

thần nhân thì không thể hiểu được". Người đời truyền tụng, không ai biết

thơ ấy nói thế nào. Đến khi nhà Lý mất, mới cho bài thi8 ấy là nghiệm.

Vì từ đời Huệ Tông trở lên đến Thái Tổ là tam đời mà Huệ

Tông

[35b] tên là Sảm, tức là mặt trời gác núi, hết bóng1. Thế thì nhà Lý được

nước là tự

trời, mất nước cũng là tự trời vậy.

Trở lên triều Lý, 9 vua, từ Thái Tổ năm canh Tuất [1010] đến Chiêu Hoàng

năm Ất

Dậu [1225], cộng 216 năm.

1 Loại thơ sấm thường được dùng chữ theo lối đồng âm khác nghĩa và chiết

tự: chữ "bát" ở câu đầu có nghĩa là cái bát (bát nước0

đồng âm với chữ "bát" là tam (tam đời). Chũ Sảm gồm phần trên là chữ "nhật"

(mặt trời), phần dưới là chữ "sơn" núi= mặt trời gác núi.

159 Đại Việt Sử Ký Toàn Thư -

Bản Kỷ - Quyển V

Đạ i Vi ệ t S ử Ký B ả n K ỷ Toàn Th ư

Quyển V

[1a]

K ỷ Nhà Tr ầ n

Thái Tông Hoàng Đế

Họ Trần, tên húy là Cảnh, trước tên húy là Bồ, làm Chi hậu chính triều Lý,

được Chiêu

Hoàng nhường ngôi, ở ngôi 33 năm [1226-1258], nhường ngôi 19 năm, thọ 60

tuổi [1218-

1277] băng ở cung Vạn Thọ, táng ở Chiêu Lăng. Vua khoan nhân đại độ, có

lượng đế vương, cho nên có thể sáng nghiệp truyền dòng, lập kỷ dựng cương,

chế độ nhà Trần thực to lớn vậy. Song quy hoạch việc nước đều do Trần Thủ

Độ làm và chốn buồng the cũng có nhiều điều hổ thẹn.

Trước kia, tổ tiên vua là người đất Mân (có người nói là người Quế Lâm), có

người tên là Kinh đến ở hương Tức Mặc1, phủ Thiên Trường, sinh ra Hấp, Hấp

sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa, đời đời làm nghề đánh cá. Vua là con thứ của

Thừa, mẹ họ Lê, sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần, Kiến Gia thứ 8 triều Lý2.

Vua mũi cao, mặt rộng, giống như [1b] Hán Cao Tổ. Khi mới 8 tuổi, làm Chi

hậu chính chi ứng

cục triều Lý. Vì có chú họ là Trần Thủ Độ làm Điện Tiền Chỉ Huy Sứ, nên

vua được vào hầu trong cung. Chiêu Hoàng thấy vua thì ưa.

Năm Ất Dậu [1225], mùa đông, tháng 12, ngày 12 Mậu Dần, nhận thiền vị của

Chiêu Hoàng, lên ngôi Hoàng Đế, đổi niên hiệu là Kiến Trung.

Bính Tuất, Kiến Trung năm thứ 2 [ 1266], (Tống Bảo Khánh năm

thứ 2) mùa xuân, tháng

Giêng, sách phong Chiêu Hoàng làm hoàng hậu, đổi gọi là Chiêu Thánh.

Phong Trần Thủ Độ làm Thái sư thống quốc hành quân vụ chinh thảo sư.Phế

thượng hoàng nhà

Lý ra ở chùa Chân Giáo, gọi là Huệ Quang đại sư.

Tháng 2, định luật lệnh, điều lệ.

Sai Trần Thủ Độ đem quân đi đánh Nguyễn Nộn, Đoàn Thượng và các man.

Lúc ấy, nhân thế suy yếu của triều Lý, giặc cướp tụ tập nhiều. Người Man ở

vùng núi Tản Viên, vùng núi Quảng Oai xâm phạm đánh lẫn nhau. [2a] Nguyễn

Nộn chiếm cứ Bắc Giang3 , Đoàn Thượng chiếm cứ Hồng Châu 4. Thủ Độ điều

động các quân đi đánh dẹp.

Bấy giờ Nộn và Thượng binh thế còn mạnh, chưa dễ hàng phục được, mới phong

cho Nộn làm Hoài Đạo Vương, chia cho các huyện Bắc Giang Thượng, Bắc Giang

Hạ, Đông Ngạn5 cũng hẹn phong làm vương cho Thượng định ngày đến thề,

nhưng Thượng không đến.

1 Sau là xã Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định cũ, nay thuộc tỉnh Nam

Hà.

2 Tức năm 1218

3 Vùng đất của tỉnh Bắc Ninh.

4 Vùng đất phía tây bắc và phía nam tỉnh Hải Dương

5 Vùng đất huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

Mùa hạ, tháng 5, phong em là Nhật Hiệu làm khâm Thiên Đại Vương (khi ấy mới

2 tuổi).

Trao phẩm cấp cho các quan văn võ theo hẫu theo thứ bậc khác nhau. Tháng 6,

lấy ngày sinh làm tiết Càn Ninh.

Mùa thu, tháng 8, ngày mồng 10, Trần Thủ Độ giết Lý Huệ Tông ở chùa Chân

Giáo.

Trước đó, Thượng hoàng nhà Lý có lần ra chơi chợ Đông, dân chúng tranh nhau

chạy đến xem,

có người thương khóc. Thủ Độ sợ lòng người nhớ vua cũ, sinh biến loạn, cho

dời đến ở chùa Chân Giáo;

bề ngoài giả vờ là để phụng sự, mhưng bên trong thực ra là để dễ bề giữ

chặt.

Có lẫn Thủ Độ qua trước cửa chùa, thấ Huệ Tông ngồi xổm nhổ cỏ, Thủ Độ nói:

"Nhổ cỏ thì phải nhổ cả [2b] rễ sâu".

Huệ Tông đứng dậy, phủi tay nói: "Điều ngươi nói, ta hiểu rồi".

Đến nay, sai người bày biện hương hoa đến bảo [Huệ Tông]: "Thượng phụ sai

thẫn đến mời".. Thượng hoàng nhà Lý nói: "Ta tụng kinh xong sẽ tự tử".

Nói rồi vào buồng ngủ khấn rằng: "Thiên hạ nhà ta đã vào tay ngươi, ngươi

lại còn giết ta, ngày nay ta chết, đến khi thác con cháu ngươi cũng sẽ bị

như thế".

Bèn thắt cổ tự tử ở vườn sau chùa.

Thủ Độ ra lệnh cho các quan đến khóc, khoét tường thành phía nam cửa (người

bấy giờ gọi là "cửa khoét"), đưa linh cữu ra phường Yên Hoa để thiêu, chứa

xương vào tháp chùa Bảo Quang, tôn miếu hiệu là Huệ Tông. Giáng hoàng hậu

của Huệ Tông làm Thiên Cực công chúa, gả cho Trần Thủ Độ, cho châu lạng làm

ấp thang mộc.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Tam Đại xưa lấy được thiên hạ là vì lòng nhân. Cho

nên

[3a] những vua có đức lớn mà không làm nhiễu việc ác quá lắm thì trời chưa

bao giờ vội dứt bỏ họ. Nhà Hạ nếu không có Kiệt, nhà Thương có Trụ, thì

việc truyền ngôi hẵn cũng chưa hết. Xem như cuối đời nhà Chu, các nước chư

hẫu cưỡng bức, tiếm lấn mà ngôi chính thống vẫn truyền nối mãi mãi không

dứt. Đó là do nhân sâu ơn dày của tổ tông để lại mãi đến đời sau vậy.

Họ Lý được nước không kém gì Tam Đại, truyền nối nhiều đời, đến Huệ Tông

không có con trai,

lại mắc bệnh tật, chắc là ơn trạch của tiên vương đến đây là hết rồi, cho

nên họ Trẫn mới có thể lấy

được nước. Đã lấy nước của người ta, lại giết vua của người ta thì thực bất

nhân quá lắm.

Sau này, Phế Đế phải thắt cổ chết, Nguyên Quân bị giết1, mình làm thế nào

thì phải chịu thế ấy,

đạo trời là như vậy đó. Dù không có lời nguyền của Huệ Tông, cũng tin là

phải thế. Thủ Độ coi việc đó là

hết lòng trung, lo việc nước, nhưng có biết đâu thiên hạ đời sau chỉ mặt

[3b] gọi là giặc giết vua, huống chi lại còn làm thói cho lợn2.

Đưa các cung nhân và con gái họ hàng nhà Lý Huệ Tông gả cho các tù trưởng

người Man.

Mùa đông, tháng 10, tôn cha là Thừa làm Thượng hoàng, ở cung Phụ Thiên,

phường Hạc Kiều phía bên tả. Hễ khi nước có việc lớn, thì ở trong đó xem

xét, quyết định. Tôn mẹ là Lê thị làm Quốc Thánh hoàng thái hậu ( có sách

chép là Bảo Thánh Quốc mẫu).

Xuống chiếu cho dân gian dùng tiễn "tỉnh bách"3 mỗi tiễn là 69 đỗng. Tiền

nộp cho nhà nước (

tiễn " thượng cung") thì mỗi tiễn là 70 đồng.

1 Bản chữ Hán chép Nguyên hậu, là đã nhầm chữ Quân thành chữ Hậu. Nguyên

Quân tức là vua Trần Thuận Tông, sau khi nhường

ngôi cho thái tử Án (Thiếu Đế), xưng vương là Thái Thượng Quân Hoàng Đế,

thường được gọi là Nguyên Quân. Xem BK7.

2 Chỉ việc Trẫn Thủ Độ đã giết Huệ Tông lại lấy hoàng hậu của nhà vua

3 Tỉnh bách: có người đọc là "tỉnh mạch". Ở Trung Quốc, từ đỡi Ngũ Đại về

sau, lấy 77 làm 100, gọi là "tỉnh bách" ( nghĩa là 100

thiếu, hay 100 bớt ).

Tuyển thục nữ trong nước sung làm cung nhân.

Sai Phụ quốc thái phó Phùng Tá Chu quyền Tri phủ Nghệ An, cho phép ban tước

từ tá chức, xá nhân trở xuống cho người khác, rồi sau về triều tâu lê.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Ban tước cho người là quyễn của thiên tử, không

phải là quyền của kẻ làm tôi [4a]. Phùng Tá Chu là bề tôi cũ triều Lý,

không có việc cần phải chuyên quyễn như ra ngoài cương giới, làm lợi cho

quốc gia, vỗ yên trăm họ, mà lại cho phép chuyên quyền thì cả người cho

phép đều sai cả.

Bễ tôi nhà Trẫn mà biết đạo ấy, phải chăng chỉ có Quốc công Hưng Đạo Đại

Vương. Thánh Tông

vì thấy ông có công lao to lớn, cho phép được tự tiện phong tước cho người,

nhưng chưa bao giờ ông phong cho một ai cả. Giữa lúc giặc Hỗ vào cướp, cầm

quân chuyên chế, lấy thóc của người giàu để cấp lương quân, nhưng cũng chỉ

cho người đó làm giả Lang tướng mà không dám cho làm Lang tướng thực.

Đinh Hợi [Kiến Trung] năm thứ 3 [1227], (Tống Bảo Khánh năm thứ 3). Thi tam

giáo tử (nghĩa

là những nối nghiệp Nho giáo, Đạo giáo, Thích giáo).

Xuống chiếu rằng tất cả các đơn từ văn khế đều dùng phép in ngón tay vào

nửa tờ giấy.

Tuyên bố các điều khoản lễ minh thệ, theo như lệ cũ của triều Lý và bắt đẫu

định việc thực hiện. Nghi thức lễ đó như sau:

Hàng năm vào ngày mồng 4 tháng 4, tể tướng và trăm quan đến trực ngoài cửa

thành từ lúc gà gáy, [4b] tờ mờ sáng thì tiến vào triều. Vua ngự ở cửa Hữu

Lang điện Đại Minh trăm quan mặc nhung phục lạy hai lạy rồi lui ra. Ai nấy

đều thành đội ngũ, nghi trượng theo hầu ra cửa Tây thành, đến đền thờ thần

núi Đồng Cổ1, họp nhau lại uống máu ăn thề. Quan Trung thư kiểm chính tuyên

đọc lời thề rằng:

"Làm tôi tận trung, làm quan trong sạch, ai trái thề này, thần minh giết

chết".

Đọc xong, tể tướng sai đóng cửa điểm danh, người vắng mặt phải phạt 5 quan

tiền. Ngày hôm

ấy, trai gái bốn phương đứng chật ních bên đườngđể xem như ngày hội lớn.

Mậu Tý, [Kiến Trung] năm thứ 4 [1228]. (Tống Thiệu Định năm thứ 1). Mùa

xuân, tháng giêng, phong Khâm Thiên Vương Nhật Hiệu làm Quận vương.

Tháng 2, thi lại viên bằng thể thức công văn (bạ đầu cách). Mùa thu, tháng

8, phong anh là Liễu làm thái úy.

Xác định số đinh tỉnh Thanh Hóa.

Lệ cũ, hằng năm vào đầu mùa xuân, xã quan (nay là xã trưởng) [5a] khai báo

nhân khẩu gọi là đơn sổ, rồi căn cứ vào sổ, kê rõ các loại tông thất, văn

quan văn giai, võ quan võ giai, quan theo hầu, quân nhân, tạp lưu, hoàng

nam, già yếu, tàn tật, phụ tịch, xiêu tán v.v... Người có quan tước, con

cháu được tập ấm mới được ra làm quan, người giàu có khoẻ mạnh mà không có

quan tước thì sung quân đội,

đời đời làm lính.

Tháng 9, thi lại viên bằng thể thức công văn gọi là bạ đầu. Người trúng

tuyển được sung làm thuộc lại ở các sảnh viện. (Việc này đã chép vào tháng

2 rồi).

Mùa đông, tháng 10, nước Chiêm Thành sang cống. Tháng 12, Nguyễn Nộn đánh

giết Đoàn Thượng.

Nộn đã phá được Thượng, nhân gộp cả quân của Thượng, cướp bắt con trai, con

gái, tài sản, trâu ngựa đất Hồng

Châu. Con của Thượng là Văn đem gia thuộc đến hàng.

1 Núi Đồng Cổ: vốn ở THanh Hóa, tục gọi là núi Khả Phong. Đời Lý, các vua

cho rằng thẫn núi Đồng Cỏ đã có công giúp Thái Tông

đánh thắng Chiêm Thành, sau lại thác mộng báo cho biết âm mưu làm phản của

ba vương Vũ Đức, Đông Chinh, Dực Thánh, nên

đã dựng đền thờ trong đại nội, bên hữu chùa ThánhThọ. Hằng năm các quan

phải đến thề ở đền để tỏ lòng trung thành với nhà vua. Nhà Trần cũng theo

lệ ấy. (Xem Việt điện u linh, xem thêm BK2)

Thanh thế của Thượng rất lừng lẫy. Thủ Độ lo lắm, chia quân chống giữ và

sai sứ đem thư đến chúc

mừng, gia phong Nộn làm Hoài Đạo Hiếu Vũ Vương, đưa công chúa Ngoạn Thiềm

gả cho hắn để ngầm

[5b] dò la tin tức. Nộn cũng chia nha tướng riêng cho công chúa ở. Vì thế

công chúa không thể báo được

tin gì.

Kỷ Sửu,[Kiến Trung] năm thứ 5[1229], (Tống Thiệu Định năm thứ 2, Nguyên

Thái Tông Oa

Khoát Đài năm thứ1. Mùa xuân, tháng 3, nhật thực.

Nguyễn Nộn ốm chết.

Sau khi kiêm tính quân của Thương, Nộn tự xưng là Đại Thắng Vương, chè chén

chơi bời bừa bãi. Nhưng Nộn cũng biết là thế không thể cùng đối lập với

nhàTrần, định đến tháng 10 sẽ vào chầu, song còn do dự chưa quyết.

Đến khi ốm nặng, vua sai nội nhân tớihỏi thăm, Nộn cố gượng ăn cơm, phi

ngựa để tỏ ra còn khoẻ mạnh, không bao lâu thì chết. Người dưới quyền là

Phan Ma Lôi Ngầm phóng ngựa chạy trốn, không biết là đi đâu.

Ma Lôi là người Chiêm Thành, buôn bán ở Ai Lao, được Nộn nhận làm nô, có

tài chủ động đánh thắng, dùng binh như thần. Sau khi Nộn chết, thiên hạ lại

quy về một mối.

Sai sứ sang thăm nước Tống. Nha Tống phong vua làm An Nam Quốc Vương.

[6a] Canh Dần, [Kiến Trung] năm thứ 5 [1230], (Tống Thiệu Đinh

năm thứ 3). Mùa xuân, tháng 3, khảo xét các luật lệ của triều trước,

soạn thành Quốc triều thống chế và sửa đổi hình luật lễ nghi, gồm 20 quyển.

Định bị đồ có mức độ khác nhau:

Loại bị đồ làm Cảo điền hoành thì thích vào mặt 6 chữ, cho ở Cảo xẵ (nay là

xã Nhật Cảo), cày ruộng côn, mỗi người 3 mẫu, mỗi năm phải nộp 300 thăng

thóc.

Loại bị đồ làm Lao thành binh thì thích vào cổ 4 chữ, bắt dọn cỏ ở Phượng

Thành, thành Thăng

Long, lệ vào quân Tứ sương2.

Định các phường về hai bên tả hữu của kinh thành, bắt chước đời trước chia

làm 61 phường.

Đặt ty Bình bạc3.

Lại mở rộng phía ngoài thành Đại La, bốn cửa thành giao cho quân Tứ sương

thay phiên nhau canh giữ.

Sửa đổi quan chức các phủ lộ. Đặt 2 viên An phủ sứ và An phủ phó sứ.

Trong thành dựng cung, điện, lầu, các và nhà lang vũ ở hai bên phía đông và

tây. Bên tả là cung

Thánh Từ ( nơi thượng hoàng ở), bên hữu là cung Quan Triều (nơi vua ở).

Chép công việc của quốc triều làm bộ Quốc triều thường lễ, 10 quyển.

[6b] Mùa xuân, tháng 7, xuống chiếu rằng phàm người coi tục đi đòi người

kiện tụng, thì cho lấy tiềncước lục tùy theo quãng đường gần hay xa.

Tháng 9, Quốc Thánh hoàng thái hậu băng, truy tôn làm Thuận Từ hoàng thái

hậu.

Tân Mão, [Kiến Trung] năm thứ 7 [1231], (Tống Thiệu Định năm

thứ 4). Mùa xuân, tháng giêng, sai NộI minh tự Nguyễn Bang Cốc (hoạn

quan) chỉ huy binh lính phủ mình đào vét kênh Trầm và

1 Oa Khoát Đài : hay Oát Ca Đài (đời Thanh đổi gọi là Ngạc Cách đức Y)

là phiên âm tên vua Mông Cổ Ô-gô-đây là con trai thứ ba

của Thành Cát Tư Hãn, Thiết Mộc Chân (Têmugin), lên ngôi năm 1228.

2 Trấn binh của kinh đô, chuyên việc phòng vệ, canh gác.

3 CMCB6 chú là chức kinh doãn, chuyên xét đoán việc kiện tụng ở kinh

thành. Thực ra, Bình bạc ty (năm 1265 đổi thành đại an phủ

sứ, sau lại đổi thành Kinh sư đại doãn) là cơ quan hành chính và tư pháp ở

kinh đô Thăng Long lúc đó.

kênh Hào1 từ phủ Thanh Hóa đến địa giớI phía nam Diễn Châu. Việc xong,

thăng Bang Cốc làm Phụ

Quốc thượng hầu.

Mùa thu, tháng 8, vua ngự đến hành cung Tức Mặc, dâng lễ hưởng ở tiên miếu,

thết yến và ban lụa cho bô lão trong hương theo thứ bậc khác nhau.

Thượng hoàng xuống chiếu rằng trong nước hễ chổ nào có đình trạm đều phải

đắp tượng phật

để thờ.

Trước đây, tục nước ta vì nóng bức, nên làm nhiều đình cho người đi đường

nghỉ chân, thường

quét vôi trắng, gọi là đình trạm. Thượng hoàng khi còn hàn vi từng nghỉ ở

đó, có một nhà sư bảo rằng : "Người trẻ tuổi này ngày sau sẽ đại quý". Nói

xong [7a] thì không thấy nhà sư đâu nữa. Đến nay vua lấy được thiên hạ mới

có lệnh này.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói : Việc này của Trần Thái Tông cũng giống như việc

Vạn Hạnh với Lý Thái Tổ. Đó là mầm đầu tiên của sự sùng Phật ở đời Lý, đời

Trần. Kể ra, người thức giả mọi việc đều biết trước, có gì lạ đâu.

Nhâm Thìn, [Kiến Trung] năm thứ 8 [1232], (Từ tháng 7 về sau là Thiên Ứng

Chính Bình năm thứ 1, Tống Thiệu Định năm thứ 5).

Mùa xuân, tháng giêng, bắt đầu định triều nghi.

Phong con của thượng hoàng là Bà Liệt làm Hoài Đức Vương.

Xưa Thượng hoàng còn hàn vi, lấy người con gái thôn Bà Liệt (thuộc huyện

Tây Chân)2. Người

đó có mang thì bị ( Thượng hoàng) ruồng bỏ. Đến khi Bà Liệt ra đời, Thượng

hoàng không nhận con. Lớn lên Bà Liệt khôi ngô, giỏi võ nghệ, xin sung vào

đội đánh vật. Một hôm, bà Liệt đánh cầu với người trong đội, người kia vật

ngã Bà Liệt, bóp cổ Liệt đến suýt tắt thở. Thượng hoàng thét lên : " Con ta

đấy". Người ấy [7b] sợ hãi lạy tạ.

Ngay hôm đó, Thượng hoàng nhận Bà Liệt làm con, cho nên có lệnh này.

Tháng 2, thi thái học sinh. Đỗ đệ nhất giáp là Trương Hanh, Lưu Diễm; đệ

nhị giáp là Đặng Diễn, Trịnh Phẫu; đệ tam giáp là Trần Chu Phổ.

Mùa hạ, tháng 6, ban bố các chữ quốc húy và miếu húy.

Vì Nguyên tổ tên húy là Lý, mới đổi triều Lý làm triều Nguyễn, vả lại cũng

để dứt bỏ lòng mong nhớ của dân chúng đối với nhà Lý.

Tháng 8, gió lớn, dân gian phát dịch lệ, nhiều người chết. Trần Thủ Độ giết

hết tôn thất nhà Lý.

Khi ấy, Thủ Độ chuyên chính lâu ngày, đã giết Huệ Tông, tôn thất nhà Lý đều

bùi ngùi thất vọng.

Mùa đông năm ấy, nhân người họ Lý làm lễ tế các vua Lý ở Thái Đường, Hoa

Lâm3, Thủ Độ

ngầm đào hố sâu, làm nhà lên trên, đợi khi mọi người uống rượu say, giật

máy chôn sống hết.

(Xét thời Trần Anh Tông còn có người họ Lý làm tướng, hơn nữa [Phan] Phu

Tiên không ghi lại, việc này chưa chắc đã có thực, hãy tạm [8a] chép vào

đây).

Quý Tỵ,Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 2 [1233], (Tống Thiệu Định năm thứ 6),

sai Phùng Tá

Chu duyệt định các ấp lớn phủ Nghệ An.

1 CMCB6 chú là tên hai con kênh, thuộc huyện Ngọc Sơn (nay là tỉnh Gia),

tỉnh Thanh Hóa.

2 Sau là huyện Nam Chân, Nam Trực, tương với huyện Nam Ninh, tỉnh Hà Nam

ngày nay.

3 CMCB6 chú là thuộc huyện Đông Ngàn, nay là huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc

Ninh.

Hoàng Thái tử Trịnh mất.

(Xét phép chép sử: Hoàng thái tử sinh, tất phải chép rõ ngày, tháng, năm

sinh; khi mất cũng thế. Đây chỉ chép khi mất, có lẽ là vừa mới sinh đã chết

ngay, nên không chép ngày tháng sinh).

Nước to.

Giáp Ngọ, [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 3 [1234], (Tống Đoan Bình năm thứ

1). Mùa xuân, tháng giêng, ngày 18, thượng hoàng băng ở cung Phụ Thiên, thọ

51 tuổi.

Mùa thu, tháng 8, ngày 28, táng [Thượng hoàng] ở Thọ Lăng phủ Long Hưng.

(Lăng ở hương Tinh Cương1. Ba lăng Chiêu, Dụ Đức2 đều ở hương ấy). Miếu

hiệu là Huy Tông, tên thụy là Khai Vận Lập Cực Hoằng Nhân Ứng Đạo Thuần

Chân Chí Đức Thần Vũ Thánh Văn Thùy Dụ Chí Hiếu Hoàng Đế.

Lấy thái úy [ Trần] Liễu làm phụ chính, sách phong làm Hiển Hoàng.

[8b] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Thái Tông đối với anh là Liễu, có ý muốn tôn

kính khác thường, cho nên làm việc việc quá đáng này. Sách phong là Hiển

Hoàng, thế là danh không chính rồi. Đã danh không chính thì nói không

thuận, nói không thuận thì việc không thành. Liễu manh tâm làm loạn, vị tất

đã không phải do đấy.

Phong Trần Thủ Độ làm Thống quốc thái sư, tri Thanh Hóa phủ sự.

Gia phong thái phó triều Lý là Phùng Tá Chu làm Hưng Nhân Vương; Quan nội

hầu Phạm Kính

Ân làm Thái phó, tước Bảo Trung quan nội hầu.

Ất Mùi, [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 4 [1236], (Tống Đoan Bình năm thứ

2). Mùa xuân, tháng giêng, sét đánh 30 chỗ trong thành Đại Xá.

[9a] Bính Thân, [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 5 [1236], (Tống Đoan Bình

năm thứ 3). Mùa xuân, tháng giêng, định lệ cấp lương bổng cho các quan văn

võ trong ngoài và các quan ở cung điện, năng miếu, chia tiền thuế, ban cấp

theo thứ bậc.

Tháng 2, định quan hàm cho các đại thần.

Phàm người tôn thất vào chính phủ, hoặc là Thái sư, Thái phó, Thái bảo,

Thái uý, hoặc là Tư đồ,

Tả Hữu tướng quốc, đều kiêm hàm Kiểm hiệu đặc tiến nghi đồng tam ty bình

chương sự3.

Mùa hạ, tháng 6, nước to, vỡ tràn vào cung Lệ Thiên.

Bấy giờ Hiển Hoàng [Trần] Liễu làm tri Thánh Từ cung, nhân nước to, đi

thuyền vào chầu, thấy người phi cũ của triều Lý liền cưỡng dâm ở cung Lệ

Thiên. Đình thân hặc tâu, vì thế mới đổi tên cung Thưởng Xuân, giáng Hiển

làm Hoài Vương.

Mùa thu, tháng 8, chọn các nho sinh đã thi đỗ vào chầu, sau làm định lệ.

Mùa đông, tháng 10, cho Phạm Ứng Thần làm Thượng thư tri Quốc tử viện, đưa

con em văn thần và tụng thần vào học.

[9b] Gia phong Hưng Nhân Vương Phùng Tá Chu làm Đại Vương; Quan nội hầu

Phạm Kính Ân làm Thái úy, ban cho mũ áo đại vương.

Đinh Dậu, [ Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 6 [1237], (Tống Gia Hy năm thứ

1). Mùa xuân, tháng giêng, xuống rằng: khi làm giấy tờ về chúc thư, văn khế

ruộng đất và vay mượn tiền bạc thì người làm chứng in tay ở 3 dòng trước,

người bán in tay ở 4 dòng sau.

1 Vùng huyện Tiên Hưng cũ, nay thuộc huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình.

2 Chiêu lang: lăng của Trần Thái Tông, Dụ lăng: lăng của Trần Thánh Tông,

Đức lăng: lăng của Trần Nhân Tông.

3 Nghi đồng tam ty: nghĩa là nghi thức ngang với nghi thức của tam ty hay

tam công. Bình chương sự: nghĩa là xếp đặt cho tốt đẹp,

chỉ chức tể tướng. Đồng bình chương sự: nghĩa là ngang với tể tướng.

Lập công chúa Thuận Thiên họ Lý, là vợ của Hoài Vương Liễu, anh vua, làm

hoàng hậu Thuận

Thiên. Giáng Chiêu Thánh làm công chúa.

Bấy giờ Chiêu Thánh không có con mà Thuận Thiên đã có mang Quốc Khang 3

tháng. Trần Thủ

Độ và công chúa Thiên Cực bàn kính với vua là nên mạo nhận lấy để làm chổ

dựa về sau, cho nên có lệnh ấy. Vì thế, Liễu họp quân ra sông Cái làm loạn.

Vua trong lòng áy náy, ban đêm, ra khỏi kinh thành đến chỗ quốc sư Phù Vân

(quốc sư là bạn

cũ của Thái Tông) trên núi Yên Tử rồi ở lại đó [10a]1.

Hôm sau, Thủ Độ dẫn các quan đến mời vua trở về kinh sư. Vua nói: "Vì trẫm

non trẻ, chưa cáng đáng nổi sứ mạng năng nề, phụ hoàng lại vội lìa bỏ, sớm

mất chỗ trông cậy, nên không dám giữ ngôi vua mà làm nhục xã tắc".

Thủ Độ cố nài xin nhiều lần vẫn chưa được vua nghe, mới bảo mọi người rằng:

"Xa giá ở đâu tức là triều đình ở đó".

Thế rồi [Thủ Độ] cắm nêu trong núi, chỗ này là điện Thiên An, chỗ kia là

các Đoan Minh, sai ngườ xây dựng. Quốc sư nghe thấy thế bèn, tâu rằng:

"Bệ hạ nên gấp quay xa giá trở về, chớ để làm hại núi rừng của đệ tư".

Vua bèn trở về kinh đô. Được hai tuần, Liễu tự lượng thế cô, khó lòng đối

lâp được, ngầm đi thuyền độc mộc giả làm người đánh cá, đến chỗ vua xin

hàng.

Lúc ấy vua đang ở trong thuyền, vội vàng bảo Thủ Đô:

"Phụng Càn Vương (Phụng Càn là tên hiệu [10b] cũ của Liễu hồi còn nhà Lý)

đến hàng đầy!" rồi lấy thân mình che đỡ cho Liễu. Thủ Độ tức lắm, ném gương

xuống sông nói:

"Ta chỉ là con chó săn thôi, biết đâu anh em các người thuận nghịch thế

nào?". Vua nói giải hòa, rồi bảo Thủ Độ rút quân về.

Lấy đất Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang2 cho Liễu làm ấp

thang mộc. Nhân

đất được phong, mà Liễu có tên Hiệu là Yên Sinh Vương. Binh lính [theo

Liễu] làm loạn ở sông Cái đều bị

giết.

Phan Phu Tiên nói: Tam cương ngũ thường là luân lý lớn của loài người. Thái

Tông là ông vua khai sáng cơ nghiệp, đáng lẽ phải dựng phép tắc để truyền

lại cho đời sau, lại nghe mưu gian của Thủ Độ, cướp vợ của anh làm hoàng

hậu, chẳng phải là bỏ cả luân thường, mở mối dâm loạn đó ư? Liễu từ

đó sinh ra hiềm khích, cả gan làm loạn, là do Thái Tông nuôi nên tội ác cho

Liễu vậy. Có người bảo Thái Tông không giết anh, thế là nhân, nhưng tôi thì

cho rằng cướp vợ của anh, tội ác đã rõ ràng, không giết anh [11a] là vì lẽ

trời chưa mất mà thôi, sao được gọi là nhân? Xét ra sau này Trần Dụ Tông

dâm loạn làm càn chưa hẳn không do Thái Tông đầu têu vậy.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Thái Tông mạo nhận con của anh làm con của mình.

Sau này Dụ Tông và Hiến Từ đều cho Nhật Lễ làm con của Cung Túc Vương, đến

nỗi cơ nghiệp nhà Trần suýt nữa bị sụp đỗ, há chẳng phải là không có ngọn

nguồn của nó sau?

Các quan dâng tôn hiệu là Thống Thiên Ngự Cực Long Công Hậu Đức Hiền Công

Hựu Thuận

Thánh Văn Thần Vũ Hiếu Nguyên Hoàng Đế.

Ban yến cho các quan ở điện Thiên An.

1 Theo Thiền Tông chỉ nam tự trong Khóa hư lục thì Trần Thát Tông trốn

khỏi kinh thành vào đêm mồng 3 tháng 4 năm Bính Thân

(1236) và lên đến đỉnh Yên Tử vào ngày mồng 6 tháng 4 năm ấy. Như vậy là

Toàn Thư chép sự việc này muộn hơn một năm

2 Thuộc hai huyện Đông Triều và Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh ngày nay.

Tháng 2, dời dựng điện Linh Quang ở Đông Bộ Đầu, gọi là điện Phong Thủy.

Khi xa giá dừng ở

đây, các quan đưa đón, đều dâng trầu cao và trà, nên tục gọi là điện Trà.

[11b] Mùa hạ, tháng 5, tết Đoan ngọ làm lễ điếu Khuất Nguyên và người hiền

đời xưa như Giới

Tử Thôiv.v..Hằng năm cứ đến tháng này đều cử hành [lễ điếu].

Mậu Tuất, [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 7 [1238], (Tống Gia Hy năm thứ

2). Mùa xuân, tháng 2, sai Thống quốc thái sư Trần Thủ Độ duyệt định sổ

đinh phủ Thanh Hoá.

Mùa thu, tháng 7, nước to, vỡ tràn vào cung Thưởng Xuân.

Tháng 8, định quy chế thuyền xe cho vương hầu, công chúa, các quan văn võ

và người tông

thất.

Ban yến cho các quan từ ngũ phẩm trở lên ở điện Bát Giác.

Kỷ Hợi, [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 8 [1239], (Tống Gia Hy năm thứ 3).

Mùa xuân, tháng

giêng, lại cho Phùng Tá Chu chức Nhập nội thái phó. Sai [Chu] về hương Tức

Mặc xây dựng nhà cửa, cung điện.

Tháng 2, thi thái học sinh. Đỗ đệ nhất giáp là Lưu Miễn, Vương Giát; đệ nhị

giáp là Ngô Khắc; đệ

tam giáp là Vương Thế Lộc.

[12a] Kiểu Hiền làm loạn.

Canh Tý, [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 9 [1240], (Tống Gia Hy năm thứ 4).

Mùa xuân, tháng giêng, sai Phùng Tá Chu dựng 5 sở hành cung ở phủ Thanh

Hoá.

Mùa thu, tháng 7, gió lớn, mưa to, động đất.

Tháng 9, ngày 25, hoàng đích trưởng tử là Hoảng sinh, lập làm Đông cung

thái tử. Đại xá.

Mùa đông, tháng 10, quan đóng giữ Lạng Giang sai chạy trạm tâu về việc

người phương Bắc đến

bắt người cướp của dân cư trong hạt ấy. Vua sai thị thần là Bùi Khâm đến

biên giới phía bắc để bày tỏ.

Tân Sửu, [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 10 [1241], (Tống Thuần Hựu năm thứ

1). Mùa xuân, tháng 2, chọn người có sức khoẻ, am hiểu võ nghệ sung làm

quân Túc vệ thượng đô.

Mùa hạ, tháng 4, hạn hán, núi nhiếu nơi bị lở, ở chợ Dừa1, đất toác ra.

Tháng 9, xuống chiếu cho các ty xét án được lấy tiền bình bạc2 (bình tức

là xét, trước có ty bình bạc cũng là thế).

Mùa đông, tháng 10, người Man phương bắc đến cướp biên giới. Sai đốc tướng

Phạm Kính Ân đi

đánh lấy được các động Man rồi về.

Hoàng tử thứ ba Quang Khải sinh, là em cùng mẹ với thái tử Hoảng. Quốc

Khang là anh trưởng, sau đều phong đại vương. Thứ đến Nhật Vĩnh, Ích

Tắc, Chiêu Văn, đều phong vương. Thứ nữa thì phong thượng vị hầu. Con

trưởng của các vương thì phong vương, các con thứ thì phong thượng vị hầu,

coi đó là chế độ lâu dài.

Vua thân hành cầm quân đi đánh các trại Vĩnh An, Vĩnh Bình3 của nước Tống

phía đường bộ, vượt qua châu Khâm, châu Liêm, tự xưng là Trai Lang, bỏ

thuyền lớn ở trong cõi, chỉ đi bằng các thuyền nhỏ Kim Phụng, Nhật Quang,

Nguyệt Quang. Người châu ấy không biết là vua, đều sợ hãi chạy trốn. Đến

sau biết là vua mới chăng xích sắt giữa sông để chặn đường thủy. [13a] .Khi

trở về, vua sai nhổ lấy vài chục cái neo đem về.

1 CMCB6 chép là phường Thịnh Quang có ô Chợ Dừa ở phía nam Hà Nội nay

thuộc quận Đống Đa, Hà Nội.

2 Tức tiền xét án.

3 Trại Vĩnh An của Tống thuộc đất châu Khâm, giáp với vùng Móng Cái,

Quảng Ninh của ta. Trại Vĩnh Bình của Tống thuộc đất châu

Ung, giáp với vùng Lộc Bình, Lạng Sơn của ta.

Phùng Tá Chu mất.

Nhâm Dần, [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 11 [1242], (Tống Thuần Hựu năm thứ

2). Mùa xuân, tháng 2, chia nước làm 12 lộ1. Đặt chức an phủ, trấn phủ, có

2 viên chánh, phó để cai trị. Các xã, sách thì đặt chức đại, tiểu tư xã. Từ

ngũ phẩm trở lên là đại tư xã, từ lục phẩm trở xuống là tiểu tư xã.

Có người làm kiêm cả 2, 3, 4, xã, cùng xã chính, xã sử, xã giám gọi là xã

quan.

Làm đơn số2 hộ khẩu. Con trai lớn gọi là đại hoàng nam, con trai nhỏ gọi

là tiểu hoàng nam, 60 tuổi gọi là lão, già lắm thì gọi là long lão. Nhân

đinh có ruộng đất thì nộp tiền thóc, người không có ruộng đất thì miễn cả.

Có 1, 2 mẫu ruộng thì nộp 1 quan tiền, có 3, 3 mẫu thì nộp 2 quan tiền, có

từ 5 mẫu trở lên thì nộp 3 quan tiền. Tô ruộng mỗi mẫu nộp 100 thăng thóc.

Mùa hạ, tháng 4, sai [13b] Thân vệ tướng quân Trần Khuê Kình đem quân trấn

giữ biên giới phía bắc, đánh lấy các đất thuộc lộ Bằng Trường.

Trước kia, từ sau khi Nguyên Thái Tông mất, thì cửa ải thường không thông.

Nếu có sứ mệnh thì

chỉ có hai viên chánh phó sứ và hai bọn người đi theo, còn sản vật tiến

cống có bao nhiêu thì gói bọc

đưa đến địa đầu biên giới, quan địa phương nhận giữ và chuyển nộp. Sứ thần

đến kinh, chỉ dâng biểu

tâu thôi, các vật tiến cống không đến nơi cả được. Đến nay, sai tướng chống

giữ, đánh chiếm mới thông hiếu được với nước Tống.

Tháng 5, tháng 6, hạn hán, soát tù, đại xá.

Mùa thu, tháng 7, mưa. Miễn một nửa tô ruộng. Tháng 9, ngày canh thìn, mồng

1, nhật thực.

Mùa đông, tháng 10, Chiêm Thành sang cống. Tháng 12, rồng vàng hiện.

Quý Mão, [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 2 [1243], (Tống Thuần Hựu năm thứ

3). Mùa xuân, tháng giêng, lệnh cho quan các lộ làm sổ dân đinh, [14a] hạn

trong hai tháng phải xong.

Tháng 2, đắp thành nội, gọi là thành Long Phượng và trùng tu Quốc tử giám.

Mùa hạ, tháng 6, sai viên ngoại lang Trương Thất xét xử các án ở Đô vệ phủ.

Mùa thu, tháng 8, nước to, vỡ thành Đại La.

Mùa đông, tháng 10, chọn người bổ sung vào các quân bộ đ? sai khiến.

Giáp Thìn, [Thiên Ưng Chính Bình] năm thứ 13 [1244], (Tống Thuần Hựu năm

thứ 4). Mùa xuân, tháng giêng, sai các văn thần chia nhau đi trị nhậm các

phủ, lộ trong nước gồm 12 nơi. Phủ có tri phủ, lộ có thông phán, châu có

tào vận sứ và phó sứ, giữ việc vận chở.

Định các cách thức về luật hình.

Tháng 3, cho Phùng Tá Khang, cha Phùng Tá Chu, làm tả nhai đạo lục, tước Tả

Lang.

Bấy giờ các vương hầu bổ quan tăng đạo thì gọi la Tả nhai, vì không thể cho

đứng vào hàng ngũ các quan trong triều. Tả nhai là phẩm cao nhất của tăng

đạo. Không phải là người thông thạo [14b]

tôn giáo của mình thì không được dự càn. Nay đem phong cho Tá Khang là lễ

ưu hậu lắm.

Mùa đông, tháng 10, qui định lương bổng cho các quan làm việc trong ngoài

và các quan túc vệ.

1 CMCB6 chép danh sách 12 lộ là Thiên Trường, Long Hưng, Quốc Oai, Bắc

Giang, Hải Đông, Trường Yên, Kiến Xương, Hồng Khoái,

Thanh Hoá, Hoàng Giang, Diễn Châu. Danh sách này chưa hẳn đúng và đủ tên

các lộ thời Trần. An Nam chí lược của Lê Trắc đưa

ra một danh sách 15 lộ, nhưng chỉ có 6 lộ là có tên trong danh sách của

Cương mục.

2 Xem sự việc chép về năm Mậu Tý (1228) ở trên.

Ất Tỵ, [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 14 [1245], (Tống Thuần Hựu năm thứ

5). Mùa xuân,

tháng giêng, vua ngự hành cung Ứng Phong (nay là phủ Kiến Hưng)1.

Mùa thu, tháng 8, nước to, vỡ đê Thanh Đàm2.

Mùa đông, tháng 12, gió to, mưa lớn 3 ngày, nước sông tràn ngập, rắn, cá

chết nhiều.

Bính Ngọ, [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 15 [1246], (Tống Thuần Hựu năm thứ

6, Nguyên

Định Tông, Quý Do3 năm thứ 1). Mùa xuân, tháng 2, định quy chế các quận.

Chọn người khoẻ mạnh sung làm quân Tứ thiên, Tứ thánh, Tứ thần4

. Đinh tráng lộ Thiên Trường5 và Long Hưng6, sung vào các quân

Thiên thuộc, Thiên cương, Chương thánh và Củng thần; lộ Hồng7 và lộ Khoái8

sung quân tả hữu Thánh dực; lộ Trường Yên 9và lộ Kiến Xương10 sung vào

Thánh dực, Thần sách. Còn các lộ khác thì sung vào cấm quân trong Cấm vệ.

Hạng thứ ba thì sung vào đoàn

đội trạo nhi11 [15a] (có sách chép là phong đội).

Tháng 3, xét duyệt các quan văn, võ, trong ngoài. .

Cứ 15 năm 1 lần xét duyệt, 10 năm thăng tước 1 cấp, 15 năm thăng chức 1

bậc. Chức quan nào khuyết thì chức chánh kiêm chức phó. Chánh phó đều

khuyết thì lấy quan khác tạm giữ, đợi đủ hạn xét duyệt thì bổ chức ấy.

Bấy giờ quốc gia vô sự, nhân dân yên vui, người làm quan giữ mãi một chức,

người ở quán, các

10 năm mới được xuất thân, người ở sảnh, cục 15 năm mới được xuất thân,

chức tể tướng thì chọn người hiền năng trong tôn thất, có đạo đức, tài

nghệ, thông hiểu thi thư thì cho làm.

Mùa hạ, thạng, tháp trên núi Long Đội đổ.

Mùa thu, tháng 7, định lệ thi tiến sĩ, cứ 7 năm 1 khoa.

Mùa đông, tháng 12, cho Trương Mông làm Ngự sử đại phu (Mông người Thanh

Hóa, có hùng

tài).

Đinh Mùi, [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 16 [1247], (Tống Thuần

Hựu năm thứ 7). Mùa

xuân, tháng 2, mở khoa thi chọn kẻ sĩ. Ban cho Nguyễn Hiền đỗ trạng nguyên

[15b] Lê Văn Hưu đỗ bảng nhãn; Đặng Ma La đỗ thám hoa lang. Cho 48 người đỗ

thái học sinh, xuất thân theo thứ bậc khác nhau.

1 Phủ Kiến Hưng: hay phủ Nghĩa Hưng đời Lê là gồm đất 3 huyện: Nghĩa Hưng,

Ý Yên, Vụ Bản, tỉnh Nam Hà ngày nay. Từ đời Lý

đã có hành cung ở Ứng Phong, có lẽ ở trong đất huyện Ý Yên.

2 Đê Thanh Đàm: nay là đê Thanh Trì.

3 Quý Do tức hãn Mông Cổ Guyuk. Vì các bản khắc Toàn thư bị sứt chữ hay in

không rõ, nên chữ Do ở đây dễ bị đọc nhầm thành chữ Diền (Bản dịch cũ, tậ

II, 1971, tr.20).

4 Bản dịch cũ (tập II, 1971, tr.285) chú thích Tứ thiên là 4 vệ Thanh dực,

Tứ thần là 4 vệ Thần sách. Nhưng theo các quân hiệu được chép ở đây thì lại

có thể nghĩ rằng: Tứ thiên là 2 vệ (tả và hữu) của quân Thiên thuộc và 2 vệ

của quân Thiên Chương; Tứ thánh là 2 vệ của quân Thánh dực và 2 vệ của

quân Chương thánh; Tứ thần là 2 vệ của quân Thần sách và 2 vệ củ quân Củng

thần. Chú ý là đời Trần chỉ thấy nói đến các quân tả và hữu, chứ không gặp

các quân tiền và hậu.

5 Vùng tỉnh Nam Định cũ, nay thuộc tỉnh Nam Hà.

6 Gồm phần lớn tỉnh Thái Bình ngày nay.

7 Vùng tây Hải Dương.

8 Vùng nam Hưng Yên.

9 Vùng tỉnh Ninh Bình.

10 Vùng nam Thái Bình ngày nay.

11 Tức là đội chèo thuyền, thuỷ thủ của thuyền trên.

Trước đây, hai khóa Nhâm Thìn (1232) và Kỷ Hợi (1239) chia làm giáp, ất,

chưa có chọn tam

khôi1. Đến khoa này mới đặt [tam khôi].

Mùa hạ, tháng 4, động đất.

Mùa thu, tháng 8, thi các khoa thông tam giáo. Ngô Tần (người Trà Lô0 đỗ

giáp khoa, Đào Diễn, Hoàng Hoan (người Thanh Hóa) và Vũ Vị Phủ (người Hồng

Châu) đỗ ất khoa.

Mậu Thân, [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 17 [1248], (Tống Thuần Hựu năm

thứ 8). Mùa xuân, tháng giêng, đổi miế hiệu của Huy Tông gọi là Thái Tổ,

Thọ Lăng gọi là Huy Lăng.

Tháng 3, lệnh các lộ đắp đê phòng lụt, gọi là để quai vạc, từ đầu nguồn đến

bờ biển, để ngăn nước lũ tràn ngập.

Đặt hà đê chánh phó sứ để quản đốc. Chỗ đắp thì đo xem mất bao nhiêu ruộng

đất của dân, theo giá trả lại tiền [16a]. Đắp đê quai vạc là bắt đầu từ đó.

Mùa hạ, tháng 4, làm cầu Lâm Ba ở chùa Chân Giáo, qua hồ Ngoạn Thiềm, đến

quán Thái Thanh cung Cảnh Linh, cực kỳ tráng lệ.

Tháng 6, hoàng hậu Thuận Thiên băng, truy tôn là Hiển Tử Thuận Thiên hoàng

thái hậu.

Sai các nhà phong thủy đi xem khắp núi sông cả nước, chỗ nào có vượng khí

đế vương thì dùng phép thuật để trấn yểm, như các việc đào sông Bà Lễ2 đục

núi Chiêu Bạc3 ở Thanh Hóa; còn lấp các khe

ở kênh mở đường ngang dọc thì nhiều không kể xiết. Đó là làm theo lời Trần

Thủ Độ.

Sứ thần Ngô Sĩ Liên nói: Từ khi có trời đất này, thì đã có núi sông này, mà

khí trời chuyển vận, thánh nhân ra đời, đều có số cả. Khí trời từ bắc

chuyển xuống nam, hết nam rối lại quay về bắc. Thánh nhân trăm năm mới

sinh, đủ số lại trở lại từ đầu. Thời vận [16b] có lúc chậm lúc chóng, có

khi thưa khi mau mà không đều, đại lược là thế, có can gì đến núi sông? Nếu

bảo núi sông có thể lấy pháp thuật mà trấn áp, thì khí trời chuyển vận,

thánh nhân ra đời có pháp thuật gì trấn áp được không? Ví như Tần Thủy

Hoàng biết là phương đông nam có vượng khí thiên tử, đã mấy lần xuống

phương ấy để trấn áp, mà rút cuộc Hán Cao vẫn nổi dậy, có trấn áp được đâu.

Kỷ Dậu, [ Thiên Ứng Chính bình] năm thứ 18 [1249], (Tống Thuần Hựu năm thứ

9). Mùa xuân, tháng giêng, trùng tu chùa Diên Hựu, xuống chiếu vẫn làm ở

nền cũ.

Đại xá.

Mùa hạ, tháng 4, ngày Nhâm Dần mồng 1, nhật thực. Mùa thu, tháng 7, mưa đá

lớn.

Canh Tuất, [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 19 [1250], (Tống Thuần Hựu năm

thứ 10). Mùa xuân, tháng 3 động đất.

Xuống chiếu cho thiên hạ gọi vua là quan gia4.

Đổi Đô vệ phủ làm Tam ty viện, gồm các viện Phụng tuyên, Thanh túc, Hiến

chính.

Mùa hạ, tháng 5, xuống chiếu các việc kiện tụng đã thành án, phải cùng quan

thẩm hình viện xem xét định tội.

1 Tam khôi: là ba bậc đõ đầu gồm trạng nguyên, bảng nhãn và thám hoa.

2 CMCB6 chép là sông Bà Mã. Nguyên văn: "Bà Lễ giang", có lẽ là sông Bà Mã

và sông lễ gọi tắt. Bà Mã tu'c sông Mã ở Thanh Hóa, còn sông Lễ thì Cương

mục chú là sông Mã, nhưng có lẽ là sông Chu.

3 Núi Chiêu Bạc: Bản dịch cũ chú có lẽ là núi Chiếu Bạch (hiện có sông

Chiếu Bạch) ở huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa.

4 Nguyên văn là "quốc gia", ngờ là bản in nhầm. Vì 'quan gia " là tiếng

để gọi vua đời Trần, thường hay gặp. Chưa có sách nào

gọi vua là "quốc gia". Chúng tôi sửa lại.

[17a] cho Lê Phụ Trần làm Ngự sử trung tướng, tri Tam ty viện sự.

Mùa thu, tháng 7, cho Minh tự Lưu Miễn làm an phủ sứ phủ lộ Thanh Hóa.

Tân Hợi, [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 20 [1251] (Từ tháng 2 về sau là

Nguyên Phong năm thứ 1, Tống Thuần Hựu năm thứ 11, Nguyên Hiến Tông Mông

Kha năm thứ 1). Mùa xuân, tháng 1, đổi nguyên hiệu là Nguyên Phong (năm thứ

1).

Vua tự viết bài minh ban cho các hoàng tử, dạy về trung, hiếu, hoà, tốn,

ôn, lượng, cung, kiệm.

Gả trưởng công chúa Thiên Thành cho Trung Thành Vương (không rõ tên). Con

trai Yên Sinh

Vương là Quốc Tuấn cướp lấy. Công chúa về với Quốc Tuấn.

Ngày 15 tháng ấy, vua mở hội lớn 7 ngày đêm, bày các tranh về lễ kết tóc1

và nhiều trò chơi cho người trong triều ngoài nội đến xem, ý muốn cho công

chúa Thiên Thành là lễ kết tóc với Trung Thành Vương.

Trước đó, vua cho công chúa Thiên Thành đến ở trong dinh Nhân Đạo Vương

(Nhân Đạo Vương

là cha Trung Thành Vương). Quốc Tuấn muốn lấy công chúa Thiên Thành, nhưng

không làm thế nào

được, mới nhân ban đêm lẻn vào [17b] chỗ ở của công chúa thông dâm với

nàng.

Công chúa Thụy Bà (chị ruột của Thái Tông, cô của Quốc Tuấn, nuôi Quốc Tuấn

làm con) liền

đến gõ cửa điện cáo cấp. Người coi cửa vội vào tâu. Vua hỏi có việc gì,

Thụy Bà trả lời:

"Không ngờ Quốc Tuấn ngông cuồng càn rỡ, đang đêm lẻn vào chỗ Thiên Thành,

Nhân Đạo đã bắt giữ hắn rồi, e sẽ bị hại, xin bệ hạ rủ lòng thương, sai

người đến cứu"

Vua vội sai nội nhân đến dinh Nhân Đạo Vương. Đến nơi, thấy yên lặng,

bèn vào chỗ Thiên

Thành, thì thấy Quốc Tuấn đã ở đấy. Nhân Đạo bấy giờ mới biết chuyện.

Hôm sau, Thụy Bà dâng 10 mâm vàng sống, tâu rằng: " Vì vội vàng nên không

sắm được đủ lễ

vật".

Vua bắt đắc dĩ phải gả công chúa Thiên Thành cho Quốc Tuấn, lấy 2000 khoảnh

ruộng ở phủ

Ứng Thiên2 để hoàn lại sính vật cho Trung Thành Vương.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Con gái vua lấy kẻ bề dưới tất phải sai chư hầu

cùng họ đứng ra làm chủ hôn [18a] theo lễ phải thế. Thái Tông đem Thiên

Thành công chúa gả xuống cho Trung Thành Vương, nhưng công chúa lại về với

Hưng Đạo Vương, việc hôn nhân rất là bất chính. Thế thì lễ cưới này không

ai đứng chủ ư? Vì vua đã bất chính trong đạo vợ chồng, cho người làm tôi

con cũng bắt chước. Vả lại, hôn nhân không lấy người khác họ mà lấy người

cùng họ, thì chỉ có nhà Trần làm thế. Trong việc trái lễ, lại trái lễ nửa.

Vua ban yến ở nội điện, các quan đều dự. Đến khi say, mọi người đứng cả

dậy, dang tay mà hát. Ngự sử trung tướng ( sau đổi là Trung úy) Trần Chu

Phổ Cũng dang tay theo mọi người, nhưng không

hát câu gì khác, chỉ nói: "Sử quan ca rằng, sử quan ca rằng".

Sau này, trong yến tiệc, có người đội mo nang, cầm dùi làm tửu lệnh thì lại

càng thô bỉ lắm.

[18b] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Xem thế đủ thấy, tuy bấy giờ vua tôi cùng

vui, không gò bó vào lễ pháp, cũng là điều giản dị, chất phát của phong

tục, nhưng không còn chừng mực gì nữa. Hữu Tử nói: "Biết được hòa đồng rồi

hòa đồng, nhưng không lấy

lễ mà tiết chế, thì cũng không thể làm được" Ngự sử là bề tôi giữ việc can

ngăn, chức

1 Nguyên văn là "trần hợp kế đồ", có người hiểu "đồ" theo nghĩa Nôm là "đồ

đạc". CMCb6 chép là "bày đồ quý báo".

2 Tức phủ Ứng Hoa đời sau, tương ứng với các huyện Ứng Hòa, Mỹ Đức, Chương

Mỹ, Thanh Oai, tỉnh Hà Tây ngày nay.

phận là phải uốn nắn, đã không nói thì thôi, lại còn vào hùa với họ thì

kỷ cương của

triều đình để đâu?

Mùa hạ, tháng 4, Yên Sinh Vương Liễu mất, thọ 41 tuổi, gia phong đại vương.

Phạm Kính Ân mất (Kính Ân là thái úy quan nội hầu của triều Lý cũ).

Nhâm Tý, Nguyên Phong năm thứ 2 [1252], (Tống Thuần Hựu năm thứ 13). Mùa

xuân, tháng giêng, vua thân đi đánh Chiêm Thành, sai Khâm Thiên Đại vương

Nhật Hiệu làm lưu thủ.

Chiêm Thành từ khi nhà Lý suy yếu, thường đem thuyền nhẹ [19a] đến cướp bóc

dân cư ven biển. Vua lên ngôi, lấy đức vỗ về, sai sứ sang dụ, tuy họ có

thường sang cống, nhưng lại đòi xin lại đất

cũ, và có ý dòm ngó [nước ta]. Vua giận, nên có viễc thân chinh này.

Mùa đông, tháng 12, bắt được vợ của chúa Chiêm Thành là Bố Da La và nhiều

thần thiếp, nhân dân của y rồi về.

(Có thuyết nói bắt được chúa Chiêm Thành Bố Da La là sai. Nếu quả như thế

thì Lê Văn Hưu làm

Sử ký sao không dẫn để ca ngợi cùng với việc bắt được Sạ Đẩu. Nay theo

[Phan] Phu Tiên là phải).

Quý Sửu, Nguyên Phong năm thứ 3 [1253], (Tống Bảo Hựu năm thứ 1). Mùa hạ,

tháng 4, cho

Khâm Thiên Đại Vương Nhật Hiệu làm Thái úy.

Tháng 6, lập Quốc học viện. Đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Á Thánh (Mạnh

Tử), vẽ tranh

72 người hiền1 để thờ.

Muà thu, tháng 8, lập Giảng võ đường.

Tháng 9, xuống chiếu vời nho sĩ trong nước đến Quốc tử viện giảng tứ thư

lục kinh.

Giáp Dần, [Nguyên Phong] năm thứ 4 [1254], (Tống Bảo Hựu năm thứ 2). Mùa

hạ, tháng 5, định quy chế xe kiệu, mũ áo và người hầu cho tôn thất và các

quan văn võ [19b] theo thứ bậc khác nhau.

Từ tông thất cho đến quan ngũ phẩm đều được đi kiệu, ngựa và võng. Tôn thất

thì kiệu đầu đòn chạm phượng sơn son, tướng quốc thì kiệu đầu đòn chạm vẹt

sơn đen, lọng tía; từ tam phẩm trở lên thì kiệu đầu đòn chạm mây, lọng

xanh; từ tứ phẩm đến lục phẩm thì kiệu đầu đòn bằng dầu; ngũ phẩm trở

lên thì lọng xanh; lục thất phẩm thì lọng giấy đen. Người theo hầu

nhiều thì 1.000 người, ít thì 100

người.

Bấy giờ các vương hầu phần nhiều coi việc đánh nhau bằng tay không và một

mình đi cướp là dũng cảm. Vũ Uy vương Duy (con Thái Tông) cũng làm thế. Một

hôm, Vũ Uy [Vương] đánh nhau tay không ở Đông Bộ Đầu, vua vi hành qua đấy

trông thấy hỏi rằng:

"Người béo và trắng kia là ai, bắt lại đây để sai bảo". Vũ Uy [Vương] nge

thế trốn mất.

Tháng 6, bán ruộng công2, mỗi diện là 5 quan tiền (bấy giờ gọi mẫu là

diện), cho phép nhân dân mua làm ruộng tư.

[20a] Mùa đông, tháng 10, ban tiền cho Phạm Ứng Mộng, bảo tự hoạn để vào

hầu.

Trước đó, vua nằm mơ đi chơi thấy thần nhân chỉ một người bảo vua: "Người

này có thể làm hànnh khiển". Tỉnh dậy, không biết là người nào.

Một hôm tan buổi chầu, vua ngự ra ngoài thành, thấy một người con trai theo

học ở cửa nam thành, hiành dáng giống hệt người trong mộng, Vua gọi đến

hỏi, người đó ứng đối giống như những lời trong mộng.Vua muốn trao cho chức

hành khiển, nhưng thấy khó, mới cho 400 quan tiền bảo tự hoạn,

1 Chỉ 72 học trò xuất sắc của Khổng Tử (Thất thập nhị hiền).

2 Nguyên văn chử Hán là "quan điiền".

ban tên là Ứng Mộng. Sau này thăng dần đến chức hành khiển. Đó là bằt chước

lệ cũ của triều Lý, dùng

Lý Thường Kiệt và Lý Thường Hiến vậy.

Ất Mão, [Nguyên Phong] năm thứ 5 [1255], (Tống Bảo Hựu năm thứ 3). Mùa

xuân, tháng 2, sai

Lưu Miễn bồi đắp đê sông các xứ ở Thanh Hóa.

Mùa hạ, tháng 4, chọn tản quan làm hà đê chánh phó sứ các lộ. Khi việc làm

ruộng nhàn rỗi

[20b] thì đốc thúc quân lính đắp đê đập, đào mương ngòi đề phòng lụt, hạn.

Hoàng tử thứ 6 Nhật Duật sinh.

Trước đó, đạo sĩ cung Thái Thanh tên là Thậm cầu tự cho vua. Đọc sớ xong

[đạo sĩ] tâu vua: "Thượng đế đã y lời sớ tấu, sắp sai Chiêu Văn đồng tử

giáng sinh, ở trần thế bốn kỷ". Thế rồi hậu cung

có mang. Sau quả nhiên sinh con trai, hai cánh tay có chữ "Chiêu Văn đồng

tử", nét tử rất rõ, vì thế đặt hiệu là Chiêu Văn (Tức là Nhật Duật). Lớn

lên, nét chữ mới mất đi.

Đến năm [Nhật Duật] 48 tuổi, bị ốm hơn 1 tháng, các con ông làm chay, xin

giảm tuổi thọ của mình để kéo dài tuổi thọ cho cha. Đạo sĩ đọc sớ xong,

đứng dậy nói:

Thượng đế xem sớ xong, cười bảo: "Sao hắn quyến luyến trần trục muốn ở lại

lâu thế, nhưng các con hắn thực lòng hiếu thảo, cũng đáng cho. Thôi cho

thêm hai kỷ nữa".

Bệnh liền khỏi. Sau Nhật Duật mất, thọ 77 tuổi, thế là được đủ 6 kỷ lẻ 5

năm.

[21a] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Việc đaọ sĩ cầu tự, cho là đúng như thế

chăng? Thì đạo trời xa, không thể biết được. Cho là không như thế chăng?

Thì lòng thành cảm hóa, xa mấy mà chẳng tới được. Song, khi đạo sĩ rạp lạy

đợi mệnh trời, có lẽ trời hiện vhiêm bao để bảo cho. Kể ra số và lý nương

tựa lẫn nhau, lý sinh ra từ số, số cũng chưa bao giờ không sinh ra từ lý,

mệnh dài ngắn là số, lòng hiếu thành là lý. Có người bảo rằng đạo sĩ có thể

nắm tính mạng bay lên được, nhưng tôi không tin.

Tháng 5, trồng 500 trượng toàn cây muỗm (suốt từ bến Hồng đến đê quai vạc

Cẩu Thần). Mùa thu, tháng 8, nước to, vua ngự chơi Hồ Tây.

Mùa đông, tháng 10, Vua ngự đến hành cung phủ Thiên Trường.

Bính Thìn, [Nguyên Phong] năm thứ 6 [1256], (Tống BẢo Hựu năm thứ 4). Mùa

xuân, tháng 2,

mở khoa thi chọn kẻ sĩ. Ban cho Trần [21b] Quốc Lặc đỗ kinh trạng nguyên;

Trương Xán đỗ trại trạng nguyên; Chu Hinh đỗ bảng nhãn; Trần Uyên đỗ thám

hoa lang1. Lấy đỗ thái học sinh 43 người (kinh 42 người, trại 1 người),

xuất thân có thứ bậc khác nhau.

Hồi quốc sơ, cử người chưa phân kinh trại, người đỗ đầu ban cho [danh hiệu]

trạng nguyên. Đến nay, chia Thanh Hóa, Nghệ An làm trại, cho nên có phân

biệt kinh trại.

Tháng 3, nhuận, đúc 330 quả chuông.

Mùa hạ, tháng 5, sét đánh điện Thiên An, lại đánh cung Thái Thanh, tượng

Thiên Tôn gãy mất một ngán tay.

Vét sông Tô Lịch.

Mùa thu, tháng 7, Vũ Thành Vương Doãn đem cả nhà trốn sang nước Tống. Thổ

quan Tư Minh là

Hoàng Bính bắt lại đưa trả cho ta.

1 CMCB6 chú Quốc Lặc người huyện Thanh Lâm (châu Hồng); Trương Xán người

huyện Tế Giang (lộ Bắc Giang); Trần Uyên người

huyện Đường Hào (châu Hồng).

(Doãn là con Yên Sinh Vương do Hiển Từ sinh. Yên Sinh có hiềm khích với

vua, đến khi Hiển Từ

mất, bị thất thế, nên trốn sang nước Tống). Vua thưởng vàng lụa cho Bính.

Do đấy việc giữ phòng quan

ải càng thêm nghiêm ngặt.

Đinh Tỵ, [Nguyên Phong] năm thứ 7 [1257], (Tống Bảo Hựu năm thứ 5).Mùa

xuân, tháng 2, Hoàng Bính đem cả nhà đến cửa khuyết, dâng con gái [22a] vào

cung. Vua nhận, sách phong làm Huệ Túc phu nhân.

Mùa thu, tháng 8, chủ trại Quy Hóa1 là Hà Khuất sai chạy trạm tâu [vua] là

có sứ Nguyên sang. Tháng 9, xuống chiếu, lệnh tả hữu tướng quân đem quân

thủy bộ ra ngăn giữ biên giới, theo sự

tiết chế của Quốc Tuấn.

Mùa đông, tháng 11, lệnh truyền cả nước sắm sửa vũ khí.

Tháng 12, ngày 12, tướng Nguyên Ngột Lương Hợp Đải2 xâm phạm Bình Lệ

Nguyên3.

Vua thân hành đốc chiến, xông pha tên đạn. Quan quân hơi núng, vua ngoảnh

trông tả hữu, chỉ

có Lê Phụ Trần (tức Lê Trần) một mình một ngựa, ra vào trận giặc, sắc mặt

bình thản như không.

Lúc ấy, có người khuyên vua dừng lại4 để chỉ huy chiến đấu. Phụ Trần cố

sức can vua:

"Nay thì bệ hạ chỉ đánh một ván dốc túi thôi! Hãy nên tạm lánh chúng, sao

lại có thể dễ dàng tin

lời người ta thế!".

Bấy giờ, vua mới lui quân đóng ở sông Lô5. Phụ Trần giữ phía sau. Quân giặc

bắn loạn xạ, Phụ

Trrần lấy ván thuyền che cho vua khỏi trúng tên giặc.

Thế giặc rất mạnh, [vua] lại phải lui giữ sông Thiên Mạc6. Phụ Trần theo

vua bàn những việc cơ

mật, rất ít người biết được đều đó.

[22b] Vua ngự thuyền nhỏ đến thuyền Thái úy Nhật Hiệu hỏi kế sách (chống

giặc). Nhật Hiệu đương dựa mạn thuyền, cứ ngồi chứ không đứng dậy nổi, chỉ

lấy ngón tay chấm nước viết hai chỉ "nhập Tống"7 lên mạn thuyền. Vua hỏi

quân Tinh Cương ở đâu? (Tinh Cương là quân do Nhật Hiệu chỉ huy). Nhật Hiệu

trả lời:

"Không gọi được chúng đến"

Vua lập tức dời thuyền đến hỏi Thái sư Trần Thủ Độ, Thủ Độ trả lời: "Đầu

thần chưa rơi xuống đất, bệ hạ đừng lo gì khác".

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Nhật Hiệu là đại thần cùng họ với vua. Giặc đến,

khiếp sợ, hèn nhát, không có kế sách chống giữ, lại còn kiếm cách xui vua

mình chạy đi ở nhờ nước khác, thì còn dùng hắn làm tướng làm gì?

1 Trại Quy Hóa: thời Trần gồm đất tỉnh Yên Bái, phần hữu ngạn sông Hồng và

đất các huyện sông Thao, Thanh Hòa và Yên Lập,

tỉnh Vĩnh Phú hiện nay.

2 Tên Mông Cổ là Uy-ry-ang-kha-đai (Uriyangqadai), có sách phiên âm là

Ngột Lương Hợp Thai hay Ngột Lương Cáp Thai.

3 Có lẽ là chổ sông Cà Lồ gặp quốc lộ số 2, tức là vùng gần Hương Canh,

huyện BÌnh Xuyên (nay là huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh

Phú).

4 Nguyên văn: "Khuyến đế trú dịch thị chiến". "Trú dịch" nghĩa là "ở lại

dịch trạm", dùng ở đây không phù hợp. Chúng tôi ngờ rằng

đó là hai chữ "trú tất" có nghĩa là "dừng lại", "dừng xe ngự", một kiểu nói

đối với vua. Chữ tất đã bị chép lầm thành chữ dịch do dạng chữ gần giống

nhau.

5 Thời Trần, gọi đoạn sông Hồng từ Bạch Hạc trở xuống là sông Lô.

6 Sông Thiên Mạc: theo Cương mục là khúc sông Hồng chảy qua vùng bãi Mạn

Trù, nay thuộc xã Tân Châu, huyện Châu Giang, tỉnh Hải Hưng.

7 'Nhập Tống" nghĩa là chạy vào đất Tống. Bấy giờ nhà Tống còn giữ miền

nam nước Tống.

Ngày 24, vua và Thái Tử ngự lâu thuyền, tiến quân đến Đông Bộ Đầu, đón

đánh, cả phá được

quân giặc. Quân Nguyên chạy trốn về, đến trại Quy Hóa, chủ trại là Hà Bổng

chiêu tập người Man [23a]

ra tập kích, lại cả phá bọn chúng.

Khi ấy, người Nguyên mới lấy được Vân Nam, bọn du binh1 cướp đến, không có

ý đánh chiếm, nên bây giờ người ta gọi chúng là "giặc Phật". Giặc rút, ban

cho Bồng tước hầu.

Tha tội cho tiểu hiệu Hoàng Cự Đà.

Trước kia có lần vua ban xoài cho những người hầu cận, Cự Đà không được ăn.

Đến khi quân Nguyên tới Đông Bộ Đầu, Cự Đà ngồi thuyền nhẹ chạy trốn. Đến

Hoàng giang2 gặp hoàng thái tử đi thuyền ngược lên, Đà lánh sang bờ

sông bên kia, thuyền chạy rất gấp. Quan quân gọi lớn: "Quân

Nguyên ở đâu".

Cự Đà trả lởi:

"Không biết, đi mà hỏi những người ăn xoài ấy".

Đến đây, thái tử xin phép Cự Đà vào cực hình để răn những kẻ làm tôi bất

trung. Vua nói:

"Cự Đà tội đáng giết cả họ, song đời xưa đã có chuyện Dương Châm không được

ăn thịt dê, đến

nỗi làm quân nước Trịnh bị thua3. Việc Cực Đà là lỗi ở ta, tha cho hắn tội

chết, cho phép hắn đánh giặc chuộc tội".

Khi vua thân hành thống lĩnh sáu quân [23b] đi chống giặc, quan giữ ấn vội

vàng giấu ấn báu

lên rường điện Đại Minh, chỉ đem ấn nội mật đi theo. Giữa đường, ấn ấy lại

mất. Giấy tờ trong quân không có ấn. Vua sai thợ khắc gỗ làm ấn. Đến khi

xa giá về kinh, lại có người đem dâng con ấn bị mất,

ấn báu giấu đi vẫn còn nguyên ở chổ cũ.

Mậu Ngọ, [Nguyên Phong] na8m thứ 8 [1258], (Từ tháng 3 về sau là Thánh Tông

Thiệu Long năm thứ 1, Tống Bảo Hựu năm thứ 6). Mùa xuân, tháng giêng, ngày

mồng một, vua ngự chínnh điện, cho trăm quan vào chầu. Trăm họ yên nghiệp

như cũ.

Định công phong tước: cho Lê Phụ Trần làm Ngự sử đại phu; lại đem công chúa

Chiêu Thánh gả cho. Vua nói: "Trẫm không có khanh, thì đâu có ngày nay.

Khanh hãy cố gắng để cùngđược trọn vẹn về sau".

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Vua tôi nhà Trần coi thường đạo vợ chồng lại thấy

ở đây [24a] lần nữa.

Sai sứ sang thông hiếu với nhà Tống.

Sai Lê Phụ Trần, Chu Bác Lãm sang Nguyên.

lúc này, sứ Nguyên sang đòi lễ vật hằng năm, đòi tăng thêm tiến cống, lung

tung không định. Vua sai Lê Phụ Trần đi sứ, lấy Bác Lãm làm phó. Cuối cùng

qui định 3 năm một lần tiến cống, coi là thường lệ.

Tháng 2, ngày 24, vua nhường ngôi cho Hoàng thái tử Hoảng, lui ở Bắc Cung.

Thái tử lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Thiệu Long năm thứ 1. Đại xá.

Vua tự xưng là Nhân

Hoàng, tôn thượng hoàng là Hiển Nghiêu Thánh Thọ Thái Thượng Hoàng Đế.

1 Du binh: Cánh quân nhỏ có nhiệm vụ tuần tra hay đột kích cũng gọi là du

ky.

2 Khúc sông Hồng ở phía trên Nam Định, khoảng ngã ba Tuần Vường.

3 Theo Tả truyện, Dương Châm là người đánh xe cho hoa Nguyên nước Tống.

Tống và trịnh sắp đánh nhau, Hoa Nguyên làm thịt

dê cho binh sĩ ăn, nhưng không cho Dương Châm dự. Khi đánh nhau, Dương

Châm nói: Thịt dê hôm trứơc là quyền ở ngoài,

đánh nhau hôm nay là việc của tôi, rối đánh xe chạy theo quân Trịnh, nước

Tống do vậy bị thua. Chữ "Trịnh" ở Toàn thư phải sửa

là chữ "Tống".

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Từ khi Hạ Vũ truyền ngôi cho con thì cha chết con

nối,

anh chết em thay, đã thành phép thường mãi mãi.

Gia pháp họ Trần lại khác thế: con đã lớn [24b] thì cho nối ngôi chính,

còn cha lui ở cung Thánh Từ, xưng là Thượng hoàng, cùng trông coi chính sự.

thực ra truyền ngôi chỉ để yên việc sau, phòng lúc vội vàng, chứ mọi việc

đều do Thượng hoàng quyết định. Vua kế vị không khác gì hoàng thái

tử cả. Như vậy thì có hợp đạo không?

Có lẽ là lấy nghĩa quẻ Càn lui ở phương tây bắc và quẻ Chấn tiến ra phương

đông1. Nhưng chưa

đến lúc già nua thì không được lười mỏi. Sao bằng cứ truyền nối như Tam

Vương để đúng lẽ thủy chung

là hơn cả. Mạnh Tử nói: "Theo phép của Tiên Vương mà lỗi lầm thì chưa bao

giờ có thế".

Các quan dâng tôn hiệu là Hiến Thiên Thể Đạo Đại Minh Quang Hiếu Hoàng đế.

Mùa thu, tháng 8, gió to, đỉnh tháp Báo Thiên rơi xuống.

Lấy con gái thứ năm của Yên Sinh Vương là Thiều làm Thiên Cảm phu nhân. Ít

lâu sau, phong làm hoàng hậu.

Mùa đông, tháng 11, ngày 11, hoàng trưởng tử Khâm sinh.

Phong em là Quang Khải làm Chiêu Minh Đại Vương.

[25a] THÁNH TÔNG HOÀNG ĐẾ

Tên húy là Hoảng, con trưởng dòng đích của Thái Tông. Mẹ là Hiển Từ Thuận

Thiên hoàng thái hậu Lý thị, nhân Thái Tông chiêm bao thấy thượng đế trao

cho gươm báo, hậu có mang. Năm Canh Tý, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 9

(1240) tháng 9, ngày 25, giờ Ngọ sinh, sau đó lập làm hoàng thái tử. Thái

Tông băng2, liền lên ngôi báu, ở ngôi 21 năm, nhường ngôi 13 năm, thọ 51

tuổi, băng ở cung Nhân Thọ, táng ở Dụ Lăng. Vua trung hiếu nhân thứ, tôn

hiền trọng đạo, cha khai sáng trước, con kế thừa sau, cơ nghiệp nhà Trần

được bền vững vậy! Nhưng ưu du tam muội3, tìm dấu đạo nhất thừa4 thì không

phải phép trị nước hay của

đế vương.

Kỷ Mùi, Thiệu Long năm thứ 2 [1259], (Tống Khai Khánh năm thứ 1). Mùa xuân,

tháng giêng, phu nhân Trần Thủ Độ là Linh Từ quốc mẫu Trần thị mất.

Trần thị được gọi là quốc mẫu vì đó vốn là hiệu của Ngô phu nhân trước kia,

tức là hoàng hậu

[25b] Thái Tông thấy Linh Từ đã từng làm hoàng hậu của Lý Huệ Tông, không

nỡ gọi là công chúa, cho nên phong làm quốc mẫu, cũng là biệt danh của

hoàng hậu. Xe kiệu, mũ áo, quân hầu của bà đều ngang

với hoàng hậu.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Linh Từ trước lấy Lý Huệ Tông là bất chính, sau

lấy Trần Thủ Độ là thất tiết. Thế nhưng con gái bà là Chiêu Hoàng nhường

ngôi cho nhà Trần. Thuận Thiên lại là hoàng hậu của Thái Tông, sinh ra

thánh Tông. Yên Sinh Vương

1 Trong Bát quái, quẻ Càn chỉ cha, quẻ Chấn chỉ con trưởng.

2 Đúng ra là Thái Tông nhường ngôi.

3 Tam muội: (hay Tam ma địa, Tam ma đế...) là phiên âm tiếng Phạn Samàdhi,

có nghĩa là tập trung tư tưởng cao độ, được coi

là thiền định (dhyàna) ở bậc cao. Theo Phật giáo, đạt được phép Tam muội

thì lìa dứt được mọi tạp niệm, tà đoan, tâm linh không còn bị xao động nữa.

4 Nhất thừa: tiếng Phạn là ekayàna, có nghĩa là "cỗ xe duy nhất". Phật

giáo quan niệm giáo pháp của mình là cỗ xe duy nhất có

thể chở người ta đến Nát Bàn. Ở đây có nghĩa là giáo lý của nhà Phật.

có hiềm khích với Thái Tông, Linh Từ đã điều đình hòa giải, lại tình nghĩa

anh em như

xưa.

Đến khi người Nguyên tắt đường vào cướp, kinh thành thất thủ, Linh Từ ở

Hoàng Giang, giữ gìn hoàng thái tử, cung phi, công chúa và vợ con các tướng

soái thoát khỏi giặc cướp, lại khám xét thuyền

các nhà chứa giấu quân khí đều đưa dùng vào việc quân. Công của bà giúp nhà

Trần trong việc nội trị thì nhiều mà phần báo đáp nhà Lý thì [26a] không

được bằng. Thế mới biết trời sinh Linh Từ là để mở

nghiệp nhà Trần. Việc thì giống như Đồ Sơn dấy nhà Hạ1, mà đức thì không

giống. Đạo biến của trời nhhư thế đấy, huyền vi thay!

Mùa hạ, tháng 6, cho Nguyên Giới Huân làm Đại hành khiển, Thượng thư tả

phụ, Lê Phụ Trần làm Thủy quân đại tướng quân.

Mùa thu, tháng 7, bái yết sơn lăng. Đặt quan sơn lăng và phong cung tần của

tiên đế để thờ

phụng.

Tháng 9, lấy ngày sinh làm tiết Hưng Thiên.

Mùa đông, thánng 10, ngày mồng 4, Thượng hoàng ngự Bắc cung (tức cung Thánh

Từ), các

quan đến chầu mừng.

Canh Thân,[Thiệu Long] năm thứ 3 [1260], (Tống Cảnh Định năm thứ 1. Nguyên

Thế Tổ Hốt

Tất Liệt 2 Trung Thống năm thứ 1). Mùa xuân, tháng 3, ngày mồng 1 Mậu

Thìn, nhật thực.

Ngày 25, mặt trời có hai quầng, quầng bên trong có sắc vàng.

Tân Dậu, [Thiệu Long] năm thứ 4 [1261], (Tống Cảnh Định năm thứ 2, Nguyên

Trung Tống năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 2, chọn đinh tráng các lộ làm lính.

[26b] còn thì sung làm sắc dịch các sảnh, viện, cục và đội tuyển phong các

phủ, lộ, huyện.

Thi lại viên bằng viết chử và làm tính. Người đỗ sung làm duyên lại nội

lệnh sử. Các ty thái y, thái chúc, khảo thi những người tinh thông nghề

mình để bổ các chức.

Mùa hạ, tháng 6, nhà Nguyễn sai Lễ bộ lang trung Mạnh Giáp, Viên ngoại lang

Lý Văn Tuấn, đưa thư sang dụ.

(Thư đại lược nói: Quan liêu sĩ thứ An Nam, phàm các việc mũ áo, lễ nhạc,

phong tục đều căn cứ

theo lệ cũ của nước mình, không phải thay đổi. Huống chi, nước Cao Ly mới

rồi sai sứ sang xem, đã

xuống chiếu cho hết thảy đều theo lệ ấy. Ngoài ra đã răn bảo biên tướng ở

Vân Nam không được tự tiện đem quân lấn cướp nơi cương giới, quấy nhiễu

nhân dân. Quan liêu sĩ thứ nước ngươi hãy yên ổn làm ăn như cũ)3.

Đãi yến bọn Mạng Giáp ở cung Thán Từ.

Sai Thông thị đại phu Trần Phụng Công, Chư vệ ký ban Nguyễn Thám, Viên

ngoại lang Nguyễn

Diễn mang thư sang Nguyên thông hiếu.

Nhà Nguyên phong vua làm An Nam Quốc Vương, ban cho 3 tấm gấm tây, 6 tấm

gấm kim thục. Cho Chiêu Minh Đại Vương Quang Khải làm Thái úy. Bấy giờ, anh

vua [27a] là Quốc Khang lớn

tuổi hơn, nhưng tài năng tầm thường, nên phong Quang Khải làm tướng.

1 Theo truyền thyết Trung Quốc, Đại Vũ thay Cổn trị thủy, đến Đồ Sơn, gặp

người con gái biến thànnh con cáo trắng 9 đuôi, Vũ lấy

người đó. Người con gái Đồ Sơn đã giúp Vũ hoàn thành công việc trị thủy.

Sau Vũ được vua Thuấn truyền ngôi, trở thành ôn g vua đầu tiên của nhà Hạ.

2 Tên Mông Cổ là Khu-bi-lai (Qubilai), thư tịch Trung Quốc phiên âm là Hốt

Tất Liệt hay Hốt Tất Lai. Hốt Tất Liệt lên ngôi năm 1260, miếu hiệu là

Nguyên Thế Tổ, niên hiệu là Trung Thống.

3 Đây là nội dung tóm tắt tờ chiếu thư của Hốt Tất Liệt. Nguyên văm xem An

Nam chí lược, quyển 2, phần Đại Nguyên chiếu thế.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Theo quy chế nhà Trần, các vương hầu đều ở phủ đệ

nơi hương ấp của mình, khi chầu hầu thì đến kinh đô, xong việc lại về phủ

đệ. Như Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp, Thủ Độ ở Quắc Hương, Quốc Chẩn ở Chí Linh đều

thế cả. Đến khi vào triều làm tể tướng, mới thống lĩnh việc nước. Nhưng

cũng chỉ nắm đại cương thôi, còn quyền thì thuộc về hành khiển. Người khinh

lại thành trọng, người trọng lại thành khinh, mà không phải lo thêm một

tầng công việc, cũng là có ý bảo toàn vậy. Vả lại, như năm Đinh Tỵ đời

Nguyên Phong, giặc Nguyên sang cướp, các vương hầu cũng đem gia đồng

và hướng binh thổ hào làm quân cần vương. Trong sự biến đời Đại Định1 lại

đem người thôn trang sắm sửa nghi trượng đi đón vua, đó cũng làm vững cái

thế"duy thành"2 vậy.

[27b] Nhâm Tuất, [Thiệu Long] năm thứ 5 [1262], (Tống Cảnh Định năm thứ 3,

Nguyên Trung

Thống năm thứ 3). Mùa xuân, tháng 2, thượng hoàng ngự đến hành cung Tức

Mặc, ban tiệc lớn. Các hương lão từ 60 tuổi trở lên, mỗi người được ban

tước hai tư3, đàn bà được hai tấm lụa.

Đổi hương Tức Mặc làm phủ Thiên Trường, cung gọi là Trùng Quang. Lại xây

riêng một khu cung khác cho vua nối ngôi ngự khi về chầu, gọi là cung Trùng

Hoa. Lại làm chùa ở phía tây cung Trùng

Quang gọi là chùa Phổ Minh. Từ đó về sau, các vua nhường ngôi đều ngự ở

cung này. Do đó, đặt sắc dịch hai cung để hầu hạ, lại đặt quan lưu thủ để

trông coi.

Tháng 3, xuống chiếu cho các quân chế tạo vũ khí, chiến thuyền. Quân thủy,

lục tập trận ở chín bãi phù sa sông Bạch Hạc 4.

Mùa thu, tháng 9, soát tù, kẻ nào khi giặc Bắc sang mà đầu hàng quân Nguyên

thì không tha. Chiêm thành sang cống.

Mùa đông, tháng 11, nước Nguyên sai bọn Mã Hợp Bộ5 10 người sang hỏi về lễ

khánh hạ.

Tháng 12, [28a ] mưa gió to.

Quý Hợi, [Thiệu Long ] năm thứ 6 [1263], (Tống Cảnh Định năm thứ 4, Nguyên

Trung Thống năm thứ 4). Mùa xuân, tháng giêng, sai Điện tiền chỉ huy sứ

Phạm Cự Địa và Trần Kiều sang Nguyên. Vua Nguyên xuống chiếu ưu đãi, cho 3

năm một lần cống.

Tháng 2, mưa đá.

Tháng 3, sét đánh điện Thiên An

Mùa hạ, tháng 4, cho Lê Cư làm trại chủ Thanh Hoá

Mùa thu, tháng 7, Thủ Độ đi tuần các nguồn sông ở Lạng Sơn. Tháng 9, có

bệnh dịch

Mùa đông, tháng 12, gió lớn, mưa to.

Thổ quan phủ Tư Minh6 nước Tống là Hoành Bính dâng sản vật địa phương

vàđem 1200

bộ thuộc sang quy phụ.

1 Bản khắc Toàn thư đã khắc nhầm chử Đại? thành chử Thiên?. Đại Định là

niên hiệu của Dương Nhật Lễ. Dương Nhật Lễ là con người phường chèo, cướp

ngôi nhà Trần (1369), các vương hầu tôn thất nhà Trần đem quân dàn các nơi

đón Trần Phủ (Trần

Nghệ Tông) từ trấn Đà Giang về kinh đô giành lại ngôi vau cho nhà Trần.

2 Thi Kinh, Tiểu nhã có câu: "Tông Tử duy thành" thường được hiểu với ý

nghĩa là người tôn thất như bức thành bảo vệ triều

đình, ý nói vương hầu tôn thất nhà Trần là bức tường thành bảo vệ ngai vàng

vua Trần.

3 Quan chức đời xưa, mỗi cấp bậc chia làm nhiều tư, đủ số tư nhất định thì

thăng một cấp.

4 Nguyên văn: "Bạch Hạc giang cửu phù sa", chưa rõ nghĩa, tạm dịch như

trên.

5 Mã Hợp Bộ: là phiên âm của Mahmud (Ma-hơ-mút), một tín đồ HồI giáo làm

quan cho Hốt Tất Liệt.

6 Thuộc tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.

Giáp tý,[ Thiệu Long] năm thứ 7 [1264], (Tống Cảnh Định năm thứ 5, Nguyên

Chí

Nguyên năm thứ nhất ). Mùa xuân, tháng giêng, Thái sư Trần Thủ Độ chết (thọ

71 tuổi), truy tặng

Thượng phụ Thái sư Trung Vũ Đại Vương.

Thủ Độ tuy không có học vấn, nhưng tài lược [28b] hơn người, làm quan triều

lý được mọi

người suy tôn. Thái Tông lấy được lấy được thiên hạ đều nhờ mưu sức của ông

cả. Vì thế ông được nhà nước dựa cậy, quyền át cả vua.

Bấy giờ có kẻ đàn hặc ông, vào gặp Thái Tông khóc mà nói rằng :

"Bệ hạ còn thơ ấu mà Thủ Độ qyuền át cả vua, xã tắc rồi sẽ ra sao"?.

Thái Tông lập tức lệnh xe ngự đến dinh Thủ Độ, bắt cả người đàn hặc ấy đem

theo và nói hết những lời người ấy nói cho Thủ Độ biết. Thủ Độ trả lời:

"Đúng như nhữnglời hắn nói ".

Rồi lấy ngay tiền lụa thưởng cho người ấy.

Linh từ quốc mẫu có làn ngồi kiệu đi qua thềm cấm, bị quân hiệu ngăn

lại,về dinh khóc

bảo Thủ Độ:

" Mụ này làm vợ ông, mà bị bọn quân hiệu khinh nhờn đến thế ".

Thủ Độ tức giận, sai đi bắt. Người quân hiệu ấy nghĩ rằng mình chắc phải

chết. Khi đến

nơi, Thủ Độ vặn hỏi trước mặt, người quân hiệu ấy cứ theo sự thực trả lời.

Thủ Độ nói:" Ngươi ở chức thấp mà giữ được luật pháp, ta còn trách gì nữa

". Lấy vàng lụa thưởng cho rồi cho về.

[29a] Thủ Độ có lần duyệt định số hộ khẩu, quốc mẫu xin riêng cho một người

làm câu

đương 1. Thủ Độ gật đầu, rồi ghi họ tên quê quán của người đó. Khi xét

duyệt đến xã ấy, hỏi tên mỗ ở đâu, người đó mừng rỡ bảo hắn:

"Ngươi vì có công chúa xin cho được làm câu đương, không thể ví những câu

đương khác được, phải chặt một ngón chân để phân biệt với người khác".

Người đó kêu van xin thôi mãi mới tha cho. Từ đó không ai dám đến thăm vì

việc riêng

nữa.

:

Thái Tông có lần muốn cho người anh của Thủ Độ là An Quốc làm tể tướng. Thủ

Độ tâu

" An Quốc là anh thần, nếu cho giỏi hơn thần thì thần xin trí sĩ, nếu cho

thần giỏi hơn An

Quốc thì không thể cử An Quốc. Nếu anh em đều làm tể tướng cả thì việc

triều đình sẽ ra làm sao?".

Vua bèn thôi.

Thủ Độ tuy làm tể tướng, nhưng mọi việc không việc gì không để ý. Vì thế đã

giúp nên vương nghiệp và giữ được tiếng tốt cho đến lúc mất. Thái Tông

[29b]có làm bài văn bia ở sinh từ để tỏ

lòng đặc biệt quý mến ông. Thế nhưng cái tội giết vua và thông dâm với

hoàng hậu thì khó lẩn tránh với

đời sau vậy.

nước.

Tháng 2, sao Chổi hiện ở phương đông bắc.

Tháng 3, lấy Khâm Thiên Đại Vương Nhật Hiệu làm Tướng quốc thái úy, nắm

chung việc

Bấy giờ, vua cho Nhật Hiệu làm Thái sư , nhưng Nhật Hiệu cố ý từ chối không

nhận vì

xấu hổ về việc viết chữ lên mạn thuyền. Vua tuy cho ông không nhận chức

Thái sư, nhưng lại ban thêm hai chữ "Tướng quốc", thành "Tướng quốc thái

uý".

1 Câu đương: chức dịch trong xã, giữ việc bắt bớ, giải tống.

Mùa thu, tháng 7, ngày mồng 6, Thượng hoàng ban yến cho các quan ở điện

Diên Hiền.

Yến chưa xong, bỗng có sao Chổi xuất hiện ở phương đông bắc, đuôi dài suốt

trời. Thượng hoàng ra xem và bảo :

" Ta xem sao Chổi này rất sáng, mà đuôi rất dài, không phải là tai họa của

nước ta". Lệnh cứ dự xong yến.

Tháng 10, mùa đông năm ấy, vua Tống băng.

Ất Sửu, [ Thiệu Long] năm thứ 8 [1265], (Tống Độ Tông Cơ, Hàm Thuần năm thứ

nhất, Nguyên Chí Nguyên năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 2, nước Chiêm Thành sai

sứ [30a] sang cống.

Tháng 3, đổi Bình bạc ty ở Kinh sư làm Đại an phủ sứ.

Theo chế độ trước, An phủ sứ qua trị nhậm các lộ , đủ lệ khảo duyệt thì vào

làm An phủ

sứ phủ Thiên Trường, lại đủ lệ khảo duyệt nữa thì bổ làm việc ở Thẩm hình

viện, rồi mới được làm An phủ sứ Kinh sư.

Mùa thu, tháng 7, nước to, vỡ ở phường Cơ Xá. Người và súc vật bị chết đuối

nhiều.

Đại xá.

Hoàng tử Đức Việp sinh .

Bính Dần,[Thiệu Long]năm thứ 9 [1266],(Tống Hàm Thuần năm thứ 2, Nguyên Chí

Nguyên năm thứ 3). Mùa xuân,tháng giêng, sứ thần Chiêm Thành là Bố Tin, Bố

Hoằng, Bố Đột đến cống.

Tháng 2,nhà Nguyên sai Nậu Lạt Đinh1 sang bảo:

"Trước kia, ta đã sai sứ sang thông hiếu, kẻ thừa hành u mê không cho sứ

trở về2 do đó ta mới

có việc dụng binh năm trước3"

Vua sai Dương An Dưỡng và Vũ Hoàn sang Nguyên đáp lễ.

Tháng 3, mở khoa thi chọn học trò, Ban đỗ kinh trạng nguyên Trần Cố, trại

trạng nguyên Bạch Liêu; bảng nhãn (khuyết tên họ); thám hoa lang Hạ Nghi;

thái học sinh [30b] 47 người, xuất thân theo thứ bậc khác nhau.

Liêu người Nghệ An, tính thông minh nhớ lâu, đọc sách ngàn dòng một mạch.

Bấy giờ, thượng tướng Quang Khải coi Nghệ An, Liêu làm môn khách mà không

làm quan.

Tháng 2, thủy quân lộ Đông Hải đi tuần biên giới đến núi Ô Lôi do đó biết

được kỳ hạn quân

Nguyên sang xâm lược.

Mùa đông, tháng 10, xuống chiếu cho vương hầu, công chúa, phò mã, cung tần

chiêu tập dân phiêu tán không có sản nghiệp làm nô tỳ để khai khẩn ruộng bỏ

hoang, lập thành điền trang.Vương hầu

có trang thực bắt đầu từ đấy.

Đinh Mão,[Thiệu Long]năm thứ 10 [1267], (Tống Hàm Thuần năm thứ 3, Nguyên

Chí Nguyên năm thứ 4). Mùa xuân, tháng 2, Chiêm Thành sang cống.

Tháng 3, định ngọc diệp4 phái chính dòng họ vua của vương hầu, công chúa

để phong ấm, gọi là

"kim chi ngọc diệp"1. Cháu 3 đời được phong tước hầu hay quận vương, cháu 4

đời được ban tước minh

tự , cháu đời ban tước thượng phẩm [31a]. Tước phong theo ngũ phục đồ2.

1 Nậu Lạt Đinh là phiên âm từ Nu-rát-Din (Nurad-Din), một tín đồ Hồi Giáo

làm quan cho nhà Nguyên, Nguyên sử phiên âm là Nột

Lạt Đinh.

2 Trước lần xâm lược Đại Việt năm 1258, nhà Nguyên sai sứ sang doạ nạt,

yêu sách. Nhà Trần đã bắt giam bọn chúng.

3 Chỉ lần tiến quân xâm lược Đại Việt năm 1258 của quân Nguyên do Ngột

Lương Hợp Thai chỉ huy.

4 Phả hệ của Hoàng gia gọi là "ngọc diệp".

Mùa hạ, tháng tư, chọn dùng nho sinh hay chữ sung vào quán, các, sảnh,

viện.

Bấy giờ Đặng Kế làm Hàn lâm viện học sĩ, Đỗ Quốc Tá làm trung thư sảnh

trung thư

lệnh, đều là nho sĩ văn học.

Theo chế độ cũ, không phải là nội nhân (hoạn quan ) thì không được làm hành

khiển, chưa bao giờ dùng nho sĩ văn học. Bắt đầu từ đây, nho sĩ văn học mới

giữ được quyền bính.

Tháng 5, phong em là Ích Tắc làm Chiêu Quốc Vương.

Ích Tắc là con thứ của Thượng hoàng, thông minh hiếu học, thông hiểu lịch

sử, lục nghệ, văn chương nhất đời. Dù nghề vặt như đá cầu, đánh cờ, không

nghề ghì không thông thạo; từng mở học

đường ở bên hữu phủ đệ, tập hợp văn sĩ bốn phươngcho học tập, cấp cho ăn

mặc, đào tạo thành tài như

bọn Mạc Đỉnh Chi ở Bàng Hà, Bùi Phóng ở Hồng Châu v.v . . . gồm 20 người,

đều được dùng cho đời.

Mùa thu, tháng 8, xuống chiếu định quân ngũ, mỗi quân 30 đô, mỗi đô 80

người, [31b]

chọn người tôn thất giỏi võ nghệ, tinh binh pháp để chỉ huy.

Phong em là Nhật Duật làm Chiêu Văn Vương.

Bọn Dương An Dưỡng từ nước Nguyên trở về, mang theo luôn lễ vật của vua

Nguyên

đáp lại3.

Mậu Thìn, [Thiệu Long] năm thứ 11 [1269], (Tống Hàm Thuần năm thứ 4, Nguyên

Chí

Nguyên năm thứ 5 ). Mùa Xuân, tháng giêng, vua từng nói với tôn thất rằng:

"Thiên hạ là thiên hạ của tổ tông, người nối nghiệp của tổ tông phải cùng

hưởng phú quý với

anh em trong họ. Tuy bên ngoài có một người ở ngôi tôn, được cả thiên hạ

phụng sự, nhưng bên trong

thì ta với các khanh là đồng bào ruột thịt. Lo thì cùng lo, vui thì cùng

vui. Các khanh nên truyền những

lời này cho con cháu để chúng đừng bao giờ quên, thì đó là phúc muôn năm

của tông miếu xã tắc ".

Đến đây, xuống chiếu cho các vương hầu tôn thất, khi bãi triều thì vào

trong điện và lan đình.

Vua cùng ăn uống với họ. Hôm nào trời tối không về được thì xếp gối dài,

trải chăn rộng, kê giường liền cùng ngủ với nhau để tỏ hết lòng yêu quý

nhau.

[32a] Còn như trong các lễ lớn như triều hạ, tiếp tân, yến tiệc thì phân

biệt rõ ngôi thứ, cấp bậc cao thấp. Vì thế, các vương hầu thời ấy không ai

là không hòa thuận, kính sợ và cũng không phạm lỗi

khinh nhờn, kiêu căng.

Muà hạ, tháng 6, đại hạn.

Ngoại thích là Lý Cát phạm tội ngồi vào ngai vua ở điện Thiên An. Khi xét

hỏi trị tội thấy hắn có chứng điên, bèn đánh trượng rồi tha.

Mùa thu, tháng 7, nước to.

Tướng quốc thái úy Nhật Hiệu chết, thọ 44 tuổi, truy tặng Tướng quốc thái

sư.

Mùa đông, tháng 10, vua cùng anh là Tĩnh Quốc Đại Vương Quốc Khang cùng vui

đùa trước mặt

Thượng hoàng. Thượng hoàng lúc bấy giờ mặc áo vải bông trắng. Tĩnh Quốc

múa điệu múa của người

Hồ, Thượng hoàng cởi áo ban cho Quốc Khang. Vua cũng múa điệu múa của người

Hồ để xin chiếc áo

ấy. Quốc Khang nói:

"Cái quý nhất là ngôi hoàng đế, hạ thần còn không tranh với chú hai. Nay

đức chí tôn ban cho thần một vật nhỏ mọn mà chú hai cũng muốn cướp lấy

chăng ?".

1 Cành vàng lá ngọc, chỉ dòng dõi quyền quí. Ở đây là dòng dõi nhà vua.

2 Tức là đồ dẫn về tang phục theo 5 bậc, ứng với quan hệ gần xa đối với

người chết.

3 Nguyên sử, q.209 chép việc này vào tháng 9 năm Chí Nguyên năm thứ 4

(1267).

nhau".

Thượng cả cười nói:" Thế ra mày coi ngôi vua[32b] với cái áo xoàng này

chẳng hơn kém gì

Khen ngợi hồi lâu rồi [thượng hoàng] cho Tĩnh Quốc chiếc áo ấy.Trong chỗ

cha con, anh em hòa

thuận vui vẻ như vậy đấy.

Đói to.

Kỷ Tỵ, [Thiệu Long] năm thứ 12 [1269], (Tống Hàm Thuần năm thứ 5, Nguyên

Chí Nguyên năm thứ 6). Mùa xuân, tháng 2, Chiêm Thành dâng voi trắng.

Mùa hạ, tháng 5, đất nứt, sao băng.

Tháng 6, hạn hán. Soát tù. Có mưa. Đến tháng 7, mùa thu, dân mới cày cấy

được. Tháng 8, nước to.

Tháng 9, phong Tĩnh Quốc Đại Vương Quốc Khang làm Vọng Giang phiêu kỵ đô

thượng tướng

quân.

Mùa đông, tháng 10, được mùa nhỏ.

Tháng 12, sứ Nguyên Lung Hải Nha1 sang dụ về việc biên giới. Vua sai Lê

Đà, Đinh Củng Viên

sang Nguyên.

Canh Ngọ,[Thiệu Long] năm thứ 13 [1270], (Tống Hàm Thuần năm thứ 6, Nguyên

Chí Nguyên năm thứ 7). Mùa xuân, tháng 3, Tĩnh Quốc Đại Vương Quốc Khang

dựng phủ đệ ở Diễn Châu, hành lang, điện vũ bão quanh, tráng lệ khác

thường.Vua nghe tin ,sai người đến [33a] xem .Tĩnh Quốc sợ, mới tạc

tượng phật để đó (nay là chùa Thông).

Mùa hạ, tháng 4, Chiêm Thành sang cống.

Mùa thu, tháng 7, nước to. Các đường phố ở kinh đô phần nhiều phải đi lại

bằng thuyền bè. Tháng 9 ,Vua ngự đến hành cung Thiên Trường.

Tân Mùi, [Thiệu Long] năm thứ 14 [1271], (Tống Hàm Thuần năm thứ 7, Nguyên

Chí Nguyên năm thứ 8 ). Mùa xuân, tháng giêng, soát tù.

Tháng 2, ngày mồng 1, động đất.

Tháng 3, phong Chiêu Minh Đại Vương Quang Khải làm Tướng quốc thái úy, nắm

giữ việc nước. Năm ấy, Mông Cổ đặt quốc hiệu là Đại Nguyên, sai sứ sang dụ

vua vào chầu. Vua lấy cớ có bệnh

từ chối không đi.

Nhâm Thân, [Thiệu Long] năm thứ 15 [1272], (Tống Hàm Thuần năm thứ 8,

Nguyên Chí

Nguyên năm thứ 9) .Mùa Xuân, tháng giêng, Hàn lâm viện học sĩ kiêm Quốc Sử

viện giám tu Lê Văn Hưu vâng sắc chỉ soạn xong bộ Đại việt sử ký từ Triệu

Vũ [33b] đế đến Lý Chiêu Hoàng, gồm 30 quyển, dâng lên. Vua xuống chiếu

khen ngợi.

Mùa hạ, tháng 4, sứ Nguyên Ngột Lương2 sang dụ, hỏi giới hạn cột đồng cũ.

Vua sai Viên ngoại lang Lê Kính Phu đi hội khám. [Phu] trở về nói rằng, cột

đồng Mã Viện dựng lâu năm đã bị mai một,

không còn tung tích gì nữa.

Tháng 6, ngày 23, giờ Mùi, mặt trời rung động. Sai Đồng Tử Dã, Đỗ Mộc sang

Nguyên3.

1 Tức Hốt Lung Hải Nha trong Nguyên sử, phiên âm từ tiếng M

2 Phiên âm từ tiếng Mông Cổ U-ry-ang (Uriyang).

3 Nguyên văn chép: "Khiển Đồng Từ Đỗ Dã Mộc như Nguyên". Có người hiểu

là sai đồng tử (tức trẻ con) tên là Đỗ Dã Mộc sang

Nguyên (Bản dịch cũ q.II, 1971, tr.42 và tr.290). Nhưng An Nam chí lược

q.14, chép rõ: "Sai đại phu Đồng Tử Dã, Đỗ Mộc Cống".

Mùa động, tháng 10, xuống chiếu tìm người tài giỏi, đạo đức, thông hiểu

kinh sách làm Tư

nghiệp Quốc tử giám, tìm người có thể giảng bàn ý nghĩa của tứ thư , ngũ

kinh sung vào hầu nơi vua

đọc sách.

Quý dậu, Bảo Phù năm thứ 1 [1273], (Tống Hàm Thuần năm thứ 9, Nguyên Chí

Nguyên năm thứ 10). Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 1, đổi niên hiệu.

Tháng 3, ngày 19, sét đánh 7 chỗ ngoài cửa Đại Hưng.

Mùa đông, tháng 11, cho Nhân Túc Vương Toản làm Nhập nội phán đại tông

chính phủ đại tông

chính.

[34a] Giáp Tuất, Bảo Phù năm thứ 2 [1274], (Tống Hàm Thuần năm thứ 10,

Nguyên Chí

Nguyên năm thứ 11 ). Mùa thu, tháng 7, nước to.

Mùa đông, tháng 10, người Tống sang quy phụ.

(Trước đó, nước Tống ở mé Giang Nam, người Nguyên thường hay lấn đánh. Đến

đây, họ đem

30 chiếc thuyền biển chở đầy của cải và vợ con, vượt biển đến La Cát

Nguyên. Đến tháng 12, dẫn về

kinh, an trí ở phường Nhai Tuân, họ tự xưng là người Hồi Kê1. Người nưước

ta gọi người tống là kê quốc,

vì người tống có các hàng vải lụa, dược phẩm, bày hàng mở chợ buôn bán

riêng).

Tháng 12, sách phong hoàng trưởng tử Khâm làm hoàng thái tử, lấy con gái

trưởng của

Hưng Đạo Vương làm phi cho thái tử.

Chọn người nho học có đức hạnh trong thiên hạ vào hầu Đông Cung2.

Lấy Lê Phụ Trần làm Thiếu sư, kiêm Trừ cung giáo thụ3. lấy bọn Nguyễn Thánh

Huấn, Nguyễn Sĩ Cố sung Nội thị nội thị học sĩ (Phụ Trần người Ái Châu ).

Vua tự làm thơ để dạy hoàng tử và viết Di hậu lục 2 quyển.

Ất Hợi, [Bảo Phù] năm thứ 3 [1275], (Tống Cung Đế Hiền Đức Hựu năm thứ 1,

Nguyên

Chí Nguyên năm thứ 12 ). Mùa xuân, tháng 2, mở khoa thi chọn học trò. [34b]

Ban đỗ trạng nguyên

Đào Tiêu ; bảng nhãn (khuyết họ tên); thám hoa lang Quách Nhẫn ; thái học

sinh 27 người, xuất thân có thứ bậc khác nhau.

Hai Khoa Bính Thìn, Bính Dần trước kia có chia kinh trạng nguyên và trại

trạng nguyên,

đến nay lại hợp nhất.

Muà hạ, tháng 6, ngày Canh Tý mồng 1, nhật thực, mặt trời bị che hết 4.

Mùa đông, tháng 11, tướng thần ở biên giới phía bắc chạy trạm tâu báo người

Nguyên đi tuần biên giới, xem xét địa thế.

Sai Lê Khắc Phục và Lê Túy Kim sang Nguyên.5

Nguyên sử q.209 cũng chép việc Đồng Tử Dã và Lê Văn Ân vào cống năm Chí

Nguyên thứ 11 (1274). Như vậy Đồng Tử Dã là tên

người và được chép đúng. Ở đây, Toàn thư đã chép lẫn lộn tên hai người.

Phải sửa cho đúng là: "Sai Đồng Tử Dã và Đỗ Mộc sang

Nguyên".

1 Lời chú Bản dịch cũ (q.II, 1971, tr.209) ngờ rằng tên Hồi Kê ? là Hồi

Cốt ?). Hồi Cốt hay Hồi Hột, Hồi Hoạn là dân tộc Uigur ở Tân

Cương. Chắn người Tống nhận mình là người Hồi Hột để tránh quân Nguyên.

2 Tức thái tử.

3 Trừ cung: cũng là thái tử. Trừ cung giáo thụ là chức thày học của thái

tử.

4 Tức nhật thực toàn phần.

5 An Nam chí lược chép: "...sai đại phu Lê Khắc Phục, Lê Văn Túy đi cống".

Nguyên sử chép: "...sai Lê Khắc Phục, Văn Túy vào cống". Lê Túy Kim chắc là

Lê Văn Túy.

Bính Tý, [Bảo Phù] năm thứ 4 [1276], (Tống Đức Hựu năm thứ 2, từ tháng 5 về

sau là

Tống Đoan Tông Cảnh ViêM năm thứ 1, Nguyên Chí Nguyên năm thứ 13 ). Mùa

xuân, tháng 2, sai Đào

Thế Quang sang Long châu mượn cớ đi mua thuốc để thăm dò tình hình người

nguyên.

Tháng 3, mặt trời có chấm đen to bằng quả trứng gà, lay động hồi lâu. Có 2

ngôi sao

đấu nhau ở giữa trời, một ngôi sa xuống.

Mùa hạ, tháng 4, Nguyên Thế Tổ đánh Giang Nam, sai Hợp Tán Nhi Hải Nha 1

sang dụ 6

việc như điều dân, giúp quân v.v . . . Vua đều không nghe.

Mùa thu, tháng 9, ngày 17, hoàng trưởng tôn Thuyên sinh, lập làm hoàng thái

tôn, ít lâu sau lập làm Đông cung hoàng thái tử.

Đinh Sửu, [Bảo Phù] năm thứ 5 [1277], (Tống Cảnh Viêm năm thứ 2, Nguyên Chí

Nguyên năm thứ 14 ). Muà xuân, tháng 2, vua thân chinh đánh người Man, Lạo

ở động Nẫm Bà La2 , bắt sống bộ đảng hơn 1.000 người giải về.

Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 1 , Thượng hoàng băng ở cung Vạn Thọ

Trước đó, Thượng hoàng đến ngự đường, bỗng thấy con rết bò trên áo ngự.

Thượng hoàng sợ,

lấy tay phủi nó rơi đánh "keng" xuống đất, nhìn xem thì hóa ra cái đinh

sắt, đoán là điềm năm Đinh.

Lại có lần đùa sai Minh tự Nguyễn Mặc Lão dùng phép nghiệm quan nghiệm xem

điềm lành hay điềm dữ. Hôm sau Mặc lão tâu : "Thấy một chiếc hòm vuông bốn

mặt đều có [35b] chữ "nguyệt" , trên hòm có một cái kim, một chiếc lược".

Thượng hoàng lại đoán: "Hòm tức là quan tài, chữ " nguyệt" (tháng) ở bốn

bên tức là tháng 4,

cái kim có thể cắm vào vật gì, tức là nhập vào quan tài, chữ "sơ" là chiếc

lược, đồng âm với "sơ" là xa tức là sẽ xa rời các ngươi".

Lại lúc ấy đương có trò múa rối, thường có câu : "Mau đến ngày mồng 1 thay

phiên". Thượng hoàng lại đoán : "Thế là ngày mồng 1 ta chết".

Năm trước, có một hôm thượng hoàng chợt bảo tả hữu : "Tháng 4 sang năm ta

tất chết". Đến nay quả như vậy.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói : Điềm lành hay tai họa, chỉ có người thành tâm mới

biết trước được. Vì thế, Đại truyện trong kinh dịch có nói : "Hình dung sự

vật thì biết được vật thực, chiêm đoán sự vật thì mới biết được tương lai".

Nhưng tất là phải sau khi

đã suy xét trong lòng, nghiền ngẫm trong óc. Thái Tông biết

được việc tương lai là chiêm đoán sự vật đấy. Nhưng nếu không phải là

người lý sáng, lòng thành, mà cứ thấy việc là phỏng đoán mò để rồi khẳng

định, thì chưa bao giờ không chuốc lấy tai họa về sau .[36a]. Đó là chỗ

khác nhau giữa cái học sấm ký thuật số với cái học thánh hiền chăng?

Tháng 5, nước to. Đất nứt sâu 7 trượng (chưa rõ chỗ nào), súc vật, tôm cá

chết nhiều.

Mùa đông, tháng 10 ngày mồng 4, táng [thượng hoàng] ở Chiêu Lăng, miếu hiệu

là Thái Tông, tên thụy là Thống Thiên Ngự Cực Long Công Mậu Đức Hiền Hòa

Hựu Thuận Thần Văn Thánh Võ Nguyên Hiếu Hoàng đế.

Sử thần ngô sĩ liên nói: Dụ Tông có thơ ca ngợi Thái Tông:

Đường Việt khai cơ lưỡng Thái Tông

Bỉ xưng Trinh Quán ngã Nguyên Phong.

1 Tức Kha-xa Kha-y-a (Qasar Qaya), tên này được Hốt Tất Liệt cử làm Đạt lỗ

hoa xích ở Đại Việt từ tháng 3 năm 1275. Toàn thư

chép lầm 1 năm.Yêu sách 6 điểm của Hốt Tất Liệt là: quân trưởng phải vào

chầu, con em phải làm con tin, kê sổ hộ khẩu, thu nộp thuế má, điều động

quân giúp việc binh, đặt chức Đạt lỗ hoa xích để thống trị (Theo an Nam chí

lược q.2, Đại Nguyên chiếu chế).

2 CMCB7 chú là động Man ở phủ lộ Bố Chính, tức vùng Quảng Bình ngày nay.

Kiến Thành tru tử Yên Sinh tại,

Miếu hiệu tuy đồng đước bất đồng. (Sáng nghiệp Việt Đường hai Thái Tông Kia

xưng Trinh Quán, ta Nguyên Phong Kiến Thành1 bị giết, Yên Sinh2 sống,

Miếu hiệu như nhau, đức chẳng đồng).

Đức của Thái Tông sở dĩ được thế, tuy tấm lòng hiếu đễ bắt nguồn từ tính

trời, nhưng cũng do Linh Từ quốc mẫu điều đình [B] hòa giải. Việc cướp vợ

của anh cũng do Linh Từ và Thủ Độ. Thế là Thái Tông mắc vào tội lỗi là do

người dẫn lối, mà ẩn nhẫn để trọn nghĩa anh em cũng lại là do người dẫn

lối.

Đó là vì tuy có tư chất tốt đẹp trời phú cho, nhưng chưa có học thức. Đến

khi tuổi cao, lý lẽ sáng tỏ, đạo

đức tăng tiến, thì phải chăng điều đó có được là từ thánh học3?

Hôm thượng hoàng băng, công chúa Thiều Dương (con gái thứ của Thượng hoàng

tên là

Thúy ) đương ở cữ, bỗng nghe tiếng chuông liên hồi, mới hỏi: "Có thể nào

không phải là tin dữ chăng"?.

Những người hầu bên cạnh nói dối, nhưng công chúc chúa không nghe, cứ

thương khóc, kêu gào, mắt nhắm nghiền rồi mất.

Trước đó, Thương hoàng không khỏe. Lúc ấy công chú đã lấy thượng vị Văn

Hưng hầu (khuyết danh), công chúa nhiều lần sai người đến thăm hỏi, nhưng

người hầu cạnh đều trả lời là Thượng hoàng đã bình phục, không việc gì. Đến

khi nghe tiếng chuông, thương khóc kêu gào mãi rồi mất. Người trong nước ai

cũng thương.

Bấy giờ Uy Văn Vương [37a] Toại lấy con gái của Thượng Hhàng là công chúa

Thụy

Bảo. Toại ham học, hay thơ, có câu:

Pha lạp ngũ hồ vinh bội ấn ,

Tang ma tế dã thắng phong hầu. (Tơi nón năm bồ hơn giữ ấn,

Dâu giai nội vượt phong hầu ),

[Toại] tự hiệu là Sầm Lâu, có Sầm Lâu tập lưu hành ở đời.

Vua từng hỏi ông nghĩa chữ "Quan gia". Ông đáp:

"Năm đời đế lấy thiên hạ làm của công (quan), ba đời vương lấy thiên hạ làm

của nhà (gia) nên gọi là quan gia".

Vua khen ông kiến thức rộng. Không may chết sớm (24 tuổi), người trong nước

ai cũng

thương tiếc.

Mậu Dần, [Bảo Phù] năm thứ 6 [1278], (Tống Cảnh Viêm năm thứ 3, từ tháng 5

về sau

là Đế Bính Tường Hưng năm thứ 1, Nguyên Chí Nguyên năm thứ 15 ). Mùa xuân,

tháng 2, dân chết nhiều vì bệnh đậu mùa.

Hồi đó, nhà dân ở kinh thành thường bị cháy về ban đêm. Vua ra ngoại thành

xem chữa cháy, Nội thư gia Đoàn Khung đi theo. Vua sai điểm xem người nào

đến chữa cháy và kiểm xem ai đến trước . Khung ấn đầu từng người một bảo

ngồi xuống để đếm , đếm xong tâu rõ người nào đến trước , người nào đến sau

.

1 Thái Tông nhà Đường tên là Lý Thế Dân, sau khi cha là Lý Cao Tổ chết,

Thế Dân đem quân phục ở cửa Huyền Vũ, giết hai người

anh là Kiến Thành và Nguyên Cát để đoạt ngôi vua.

2 Yên Sinh: là thực thấp của Trần Liễu, sau khi Liễu nổi loạn chống lại

Trần Thái Tông. Khi Trần Liễu chết, được truy phong tước vương, nhân đất

phong mà gọi là Yên Sinh Vương.

3 Chỉ Khổng giáo hay Nho giáo.

Vau hỏi : " Tại sao mà biết ?".

Khung trả lời :" Thần ấn đầu người nào mà thấy mồ hôi thấm tóc và có tro

bụi bám

[37b] vào thì đó là những người đến trước và cố sức chữa, người nào đầu tóc

không có mồ hôi mà tro

bụi bay rơi là người đến sau không kịp chữa, vì thế mà biết ". Vua cho là

giỏi , có ý cất nhắc để dùng .

( Thời Anh Tông, Khung làm kiểm pháp quan, khi xét án , hễ Anh Tông hỏi về

điển lệ cũ

, Khung đều dẫn được án cũ làm chứng , có khi dẫn nhiều đến 5 , 6 án . Anh

Tông khen Khung thông minh nhớ lâu ).

Phong con thứ là Đức Việp làm Tá Thiên Đại Vương .

Tháng 3, phu nhân Lê Phụ Trần là công chúa Chiêu Thánh Lý thị mất

Công chúa lấy Phụ Trần hơn 20 năm, sinh con trai là thượng vị hầu Tông, con

gái là Ứng

Thụy công chúa Khuê. Đến nay 61 tuổi thì mất .

Mùa hạ , lúa mất mùa.

Tháng 6, có ngôi sao lớn sa về phương nam rơi xuống biển, hơn ngàn ngôi sao

nhỏ rơi theo, tiếng khêu như sấm đến vài khắc mới hết .

Mùa thu, tháng 8, động đất 3 lần, nhiều súc vật chết .

Mùa đông, tháng 10, ngày 22, vua nhường ngôi cho hoàng thái tử Khâm.

[38a] Khâm lên ngôi Hoàng đế, xưng là Hiếu Hoàng, tôn Thượng hoàng là Quang

Nghiêu Từ Hiếu Thái Thượng Hoàng Đế , tôn Thiên Cảm hoàng hậu làm Nguyên

Thánh Thiên Cảm

Hoàng Thái Hậu . Bầy tôi dâng tôn hiệu là Pháp Thiên Ngực Cực Anh Liệt Vũ

Thánh Minh Nhân Hoàng Đế

.

Vua Nguyên nghe tin Thái Tông băng, có ý mưa tính nước ta, sai Lễ bộ thượng

thư Sài

Xuân1 ( tức Sài Trang Hương) sang ta.

Bấy giờ sứ nước ta là Lê Khắc Phục đang trở về, gặp quân Nguyên đánh nước

Tống, liền theo đường Hồ Quảng mà về nước , Xuân cùng đi với Khắc Phục sang

ta [ Nhà Nguyên ] lấy cớ vua

không xin mệnh mà tự lập, dụ bảo phải sang chầu. Vua không nghe, sai Trịnh

Đình Toản, Đỗ Quốc Kế

sang Nguyên. Nguyên giữa Đình Toản không cho về2 .

NHÂN TÔNG HOÀNG ĐẾ

Tên húy là Khâm, con trưởng của Thánh Tông, mẹ là Nguyên Thánh Thiên Cảm

hoàng thái hậu, sinh năm Mậu Ngọ, Nguyên Phong năm thứ 8, tháng 11, ngày

11, được tinh anh thánh nhân, thuần túy đạo mạo, sắc thái như vàng, thể

chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng. Hai cung3 đều cho là lạ, gọi là Kim

Tiên [38b] đồng tử. Trên vai bên trái có nốt ruồi đen, cho nên có thể cáng

đáng được việc lớn, ở ngôi 14 năm, nhường ngôi 5 năm, xuất gia 8 năm, thọ

51 tuổi, băng ở am Ngoạ Vân núi Yên Tử, đưa về táng ở Đức Lăng. Vua nhân từ

hòa nhã, cố

1 Nguyên sử chép là Sài Thung, hai chữ Thung và Xuân gần giống như nhau

nên dễ lẫn. Trước đây, các sứ bộ của Đại Việt và

Mông Cổ đều đi qua đường Côn Minh (Vân Nam). Lần này, bọn Sài Thung đi

thằng từ Giang Lăng (Hồ Bắc), qua Ung Châu

(Quảng Tây) để vào nước ta, nên Toàn thư mới nói là đi theo đường Hồ Quảng

về nước.

2 Nguyên sử chép là Trịnh Quốc Toản.

3 Thượng hoàng Thái Tông và vua Thánh Tông.

kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời thuở trước, thực là bậc vua

hiền của nhà Trần.

Song để tâm nơi kinh phật, tuy nói là để siêu thoát, nhưng đó không phải là

đạo trung dung của thánh nhân.

Kỷ Mão, [Thiệu Bảo] năm thứ 1 [1279], (Tống Tường Hưng năm thứ 2, Nguyên

Chí Nguyên năm thứ 16 ). Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 1, đổi niên hiệu,

đại xá.

Chiêm Thành sai Chế Năng, Tra Diệp sang cống. Bọn Chế Năng xin ở lại làm

nội thần, vua không

nhận.

Lập bà phi Trần thị làm hoàng hậu.

Người Nguyên đánh úp quân Tống Nhai Sơn1. Quân Tống thua, Tả thừa tướng nhà

Tống là Lục

Tú Phu cõng vua Tống nhảy xuống biển chết. Hậu cung và các quan chết theo

rất nhiều. Qua 7 ngày có đến hơn 10 vạn xác chết nổi lên mặt biển. Xác vua

Tống cũng ở trong số đó. Thế là ứngv điềm sao sa xuống biển. Năm ấy nhà

Tống mất.

[39a] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói : Trong khoảng trời đất, chỉ có hai khí âm

dương mà thôi. Người làm vua đạt đến mức trung hòa thì trời đất định vị,

vạn vật sinh sôi, và hai khí cũng được điều hòa. Nếu

khí âm thịnh mà phạm bừa vào khí dương, thì trời đất tất xuất hiện tai biến

để tỏ cho người làm vua biết. Cho nên tai biến xuất hiện trước rồi sau đó

sẽ có chứng nghiệm ngay. Lúc bấy giờ nào nhật thực, nào

mặt trời lay động, nào đất nứt, nào mưa đá, sao sa, đều là khí âm thịnh hơn

khí dương cả. Nếu không phải là triệu chứng tôi con mưu hại vua cha thì

cũng là điềm di địch xâm lấn Trung Quốc. Phàm người

làm vua thận trọng trước sự răn bảo của trời, lo lắng làm hết phận sự của

người thì đó là đạo vãn hồi tai biến của trời vậy. Nhà Tống đã không vãn

hồi được tai biến của trời, mà nước Việt ta rồi cũng bị giặc Hồ2 xâm lấn.

May mà vua tôi cùng lo, quân dân chung sức, cuối cùng diệt trừ được giặc

Bắc và hoàn thành

võ công đại định. Vì thế mới nói: Thận trọng trước sự răn bảo của trời, làm

hết phận sự của người là cái

đạo vãn hồi tai biến của trời vậy.

[39b] Mùa đông, tháng 10, lấy ngày sinh làm tiết Thọ Thiên.

Canh Thìn, [Thiệu Bảo] năm thứ 2 [1280], (Nguyên Chí Nguyên năm thứ 17).

Mùa xuân, tháng giêng, ban thước gỗ, thước lụa cùng một kiểu.

Tháng 2, xét duyệt sổ đinh và các sắc dịch trong nước.

Mùa đông, tháng 10, được mùa to. Lúa ruộng ở Trà Kiều thuộc Khoái Lộ một

giò 2 bông.

Em Đỗ Khắc Chung là Đỗ Thiên Thư kiện nhau với người, tình lý đều trái.

Người kia đón xa giá

để kêu bày. Vua hỏi quan xử kiện. [Viên quan đó] trả lời:

" Án xử đã xong, nhưng hình như quan thoái thác không chịu chuẩn định đó

thôi". Vua nói:

" Đó là do sợ mà né tránh Khắc Chung đấy".

Lập tức, đang trên đường đi, sai Chánh crưởng nội thư hỏa là Trần Hùng Thao

kiêm chức kiểm pháp quan để chuẩn định, thì Thiên Thư quả thực là trái,

Quan áo xanh (tức là hoạn quan ) được làm

việc kiểm pháp bắt đầu từ Hùng Thao.

Sử Thần Ngô Sĩ Liên nói: Người kiện có điều oan uổng mà được dễ dàng kêu

bày, hình quan để chậm [40a] án, không thấy có lời trách hỏi, hoạn quan nội

thần lạm cử làm pháp quan, vua làm việc này có có ba lầm lỗi kèm theo,

nhưng như vậy thì dân tình được thấu lên trên. Việch cai trị kẻ dưới thà

sai để khoan thứ để cho án kiện đọng lại được xử ngay, cũng thấy được lòng

trung hậu của vua.

Trịnh Giác Mật ở đạo Đà Giang làm phản.

1 Nhai Sơn: ở phía nam huyện Tân Hội, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.

2 Chỉ quân xâm lược Nguyên Mông 3 lần sang đánh nước Đại Việt vào các năm

1258,1285, 1288 và đều bị thất bại.

Vua sai Chiêu Văn Vương Nhật Duật đi dụ hàng. Bấy giờ, Nhật Duật coi đạo Đà

Giang, ngầm

đem quân thuộc hạ đến.

Trịnh Giác Mật sai người đến quân doanh, bày tỏ lòng thành:"Mật không giám

trái mệnh. Nếu ân chúa một mình một ngựa đến thì Mật xin hàng".

Nhật Duật nhận lời, chỉ đem 5, 6 tiểu đồng cùng đi. Quân sĩ ngăn lại, Nhật

Duật nói: "Nếu nó giáo giở với ta thì triều đình còn có vương khác đến".

Khi tới trại, người Man dàn vây mấy chục lớp và đều cầm đao thương chĩa vào

phía trong. Nhật

Duật đi thẳng vào, trèo lên trại. Mật mời ông ngồi. Nhật Duật thạo biết

[40b] tiếng nói và am hiểu

phong tục của nhiều nước, cùng ăn bốc, uống bằng mũi với Mật. Người Man

thích lắm. Khi Nhật Duật trở

về, Mật đem gia thuộc đến doanh trại đầu hàng. Mọi người đều vui lòng

kính phục vì không mất một

mũi tên mà bình được Đà Giang. Đến khi về kinh sư, [Nhật Duật ] đem Mật và

vợ con hắn vào chầu, vua

rất khen ngợi ông. Sau đó, vua cho Mật về nhà, giữ con hắn ở lại kinh đô.

Nhật Duật mến nuôi hết lòng, xin triều đình ban tước thượng phẩm và cho vào

trông ao cá, sau cũng cũng cho về nhà.

Tân Tỵ, [Thiệu Bảo] năm thứ 3 [1281], Nguyên Chí Nguyên năm thứ 18). Mùa

xuân, tháng giêng, ngày 29 hoàng tử Quốc Chẩn sinh.

Sai chú họ là Trần Di Ái (tức Trần Ải) và Lê Mục, Lê Tuân sang Nguyên.

Nhà Nguyên lập Di Ái làm Lão hầu, cho Mục làm Hàn lâm học sĩ , Tuân làm

Thượng thư1, lại sai

Sài Xuân đem 1000 quân2 hộ tống về nước. Xuân ngạo mạn vô lễ, cưỡi ngựa đi

thẳng vào cửa Dương

Minh [41a]. Quân sĩ Thiên Trường ngăn lại, Xuân dùng roi ngựa quất họ bị

thương ở đầu. Đến điện Tập

Hiền, thấy chăng bày màn trướng, hắn mới chịu xuống ngựa. Vua sai Quang

Khải đến sứ quán khoản

tiếp. Xuân nằm khểnh không ra, Quang Khải vào hẳn trong phòng, hắn cũng

không dậy tiếp. Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn nghe thấy thế, tâu xin đến sứ quán

xem Xuân làm gì. Lúc ấy Quốc Tuấn đã gọt tóc, mặc áo vải. Đến sứ quán, ông

đi thẳng vào trong phòng. Xuân đứng dậy vái chào mời ngồi. Mọi người

đều kinh ngạc, có biết đâu gọt tóc, mặc áo vải là hình dạng nhà sư phương

Bắc. Ông ngồi xuống pha trà, cùng uống với hắn. Người hấu của Xuân cầm cái

tên đứng sau Quốc Tuấn, chọc vào đầu đến chảy máu, nhưng sắc mặt Quốc Tuấn

vẫn không hề thay đổi. Khi trở về, Xuân ra cửa tiễn ông.

Lập nhà học ở phủ Thiên Trường, cấm người hương Thiên Thuộc không được vào

học. (Lệ cũ

nhà Trần, quân sĩ Thiên Thuộc không được học tập văn chương nghệ thuật vì

sợ khí lực kém đi).

[41b] Nhâm Ngọ, [ Thiệu Bảo] năm thứ 4 [1282], (Nguyên Chí Nguyên năm thứ

19). Mùa xuân, tháng 2, Chiêm Thành sai bọn bọn Bố Bà Ma Các một trăm người

sang dâng voi trắng.

Mùa hạ, tháng 4, bọn Trần Di Ái đi sứ về nước.

Tháng 6, trị tội bọn phán thủ Trần Ải3. Ải phải đồ làm khao giáp binh Thiên

Trường, Lê Tuân phải

đồ làm Tống binh4.

Mùa thu, tháng 8, thú thần Lạng Châu5, là Lương Uất chạy trạm tâu báo

rằng, Hữu thừa tướng Nguyên là Toa Đô đem 50 vạn quân, nói phao là mượn

đường đi đánh Chiêm Thành, nhưng thực

ra là sang xâm lược nước ta6.

1 An Nam chí lược và Nguyên sử chép là: ... phong Di Ái làm An Nam Quốc

Vương, Lê Mục làm Hàn lâm học sĩ, Lê Tuân làm Thượng

thư...

2 Bản dịch cũ (tập II, 1967. tr.47) in nhầm là 5.000 quân.

3 Từc Trần Di Ái

4 Có lẽ lả đạo quân Tống lưu vong do nhà Trần thu nạp.

5 Tức Lạng Sơn.

6 Toa Đô: tên Mông Cổ là Xôghetu (Sôgatu). Thực ra Toa Đô mang 5.000 quân

đi đường thủy từ Quảng Châu đánh Chiêm Thành từ

tháng 11 năm Nhâm Ngọ (1282), còn kẻ chỉ huy 50 vạn quân Nguyên xâm lược

Đại Việt là Thoát Hoan và Lý Hải Nha.

Bấy giờ có cá sấu đến sông Lô1. Vua sai Hình bộ thượng thư Nguyễn Thuyên

làm bài văn ném xuống sông, cá sấu bỏ đi. Vua cho việc này giống như việc

của Hàn Dũ2, bèn ban gọi là Hàn Thuyên. Thuyên lại giỏi làm thơ phú quốc

ngũ. Thơ phú nước ta dùng nhiều quốc ngữ, thực bắt đầu từ đấy.

Mùa đông, tháng 10, vua ngự ra Bình Than3 đóng ở vũng Trần Xá4 họp vương

hầu và trăm quan, bàn kế sách công thủ và chia nhau đóng giữ [42a] những

nơi hiểm yếu.

Lấy Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư làm Phó đô tướng quân.

Lần trước, quân Nguyên vào cướp, Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư nhân sơ hở

đánh úp quân giặc. Thượng hoàng khen ông có trí lược, lập làm Thiên tử

nghĩa nam5. Sau đó, đánh người Man ở vùng núi, thắng lớn, được phong làm

Phiêu Kỵ đại tướng quân. Chức Phiêu Kỵ tướng quân nếu không phải là hoàng

tử thì không được phong. Vì Khánh Dư là Thiên tử nghĩa nam cho nên mới có

lệnh đó. Rồi từ trật hầu thăng mãi đến tử phục thượng vị hầu, quyền chức

phán thủ. Sau Khánh Dư thông dâm với công

chúa Thiên Thuỵ.

Bấy giờ Hưng Vũ Vương Nghiễn vì là con trai Quốc Tuấn, được lấy công chúa

Thiên Thuỵ, lại công đánh giặc. Vua sợ phật ý Quốc Tuấn, mới sai người đánh

chết Khánh Dư ở Hồ Tây, nhưng lai dặn

chớ đánh đau quá, để không đến nỗi chết. Ít lâu sau xuống chiếu đoạt hết

quan tước, quân tịch thu tài

sản không để lại cho một chút gì. Châu Chí Linh vốn là của riêng của Thượng

tướng Trần Phó Duyệt, nên

Khánh Dư mới giữ lại được. Khánh Dư lui về ở [42b] Chí Linh, cùng bọn hèn

hạ làm nghề bán than.

Lúc đó, thuyền vua đỗ ở bến Bình Than, nước triều rút, gió thổi mạnh, có

chiếc thuyền lớn chở

than củi, người lái thuyền đội nón lá, mặc áo ngắn. Vua chỉ và bảo quan thị

thần:

" Người kia chẳng phải là Nhân Huệ Vương đó sao?".

Lập tức sai người chèo thuyền nhỏ đuổi theo. Đến cửa Đại Than thì kịp. Quân

hiệu gọi: "Ông lái ơi, có lệnh vua triệu".

Khánh Dư trả lời:"Lão là người buôn bán, có việc gì mà phải triệu". Quân

hiệu trở về tâu thực như thế. Vua bảo:

"Đúng là Nhân Huệ đấy, ta biết người thường tất không dám nói thế". Vua lại

sai nội thị đi gọi. Khánh Dư mặc áo ngắn, đội nón lá [đến gặp vua]. Vua

nói:

" Nam nhi mà đến nỗi này thì thực là cùngcực rồi", bèn xuống chiếu tha tội

cho ông. Khánh Dư

lên thuyền lạy tạ. Vua ban cho áo ngự, cho ngồi các hàng dưới các vương,

trên các công hầu, cùng bàn việc nước, nhiều điều hợp ý vua.

Đến đây, tháng 10, lại cho Khánh Dư làm Phó tướng quân. Nhưng rốt cuộc

Khánh Dư cũng không sửa đổi được những lỗi lầm cũ.

[43a] Lại khi ấy, vua thấy Hoài Văn Hầu Quốc Toản, Hoài Nhân Vương Kiện đều

còn trẻ tuổi, không cho dự bàn. Quốc Toản trong lòng hổ thẹn, phẫn kích,

tay cầm quả cam, bóp nát lúc nào không biết. Sau đó [Quốc Toản] lui về, huy

động hơn nghìn gia nô và thân thuộc, sắm vũ khí, đóng chiến thuyền, viết

lên cờ 6 chữ :"Phá cường địch, báo hoàng ân" (phá giặc mạnh, báo ơn vua).

Sau này, khi

đối trận với giặc, tự mình xông lên trước quân sĩ, giặc trông thấy phải

lui tránh, không giám đối địch.

Đến khi mất, vua rất thương tiếc, thân làm văn tế, lại gia phong tước

vương.

1 Tức sông Hồng.

2 Hán Dũ: tên tự là Thối Chi, người Nam Dương, Trịnh Châu đời Đường, có

tài văn thơ. Tương truyền rằng: Khi làm quan ở Triệu

Châu, thấy nơi đó có nhiều cá sấu, Hàn Dũ làm bài văn tế cá sấu ném xuống

nước, cá sấu liền bỏ đi hết.

3 Đoạn sông Lục Đầu chảy qua huyện Chí Linh tỉnh Hải Hưng ngày nay.

4 Vũng Trần Xá: (Trần Xá loan), có lẽ là chổ hợp lưu hai con sông Thái

Bình và Kinh Thầy. Chỗ này về sau vẫn còn xã Trần Xá.

5 Thiên tử nghĩa nam: con nuôi của vua.

Lấy Thái úy Quang khải làm Thượng tướng thái sư, Đinh Củng Viên làm Hàn

lâm viện học sĩ

phụng chỉ.

Quý Mùi, [ Thiệu Bảo] năm thứ 5 [1283], (Nguyên Chí Nguyên năm thứ 20). Mùa

xuân, tháng giêng, Tĩnh Quốc Đại Vương Quốc Khang dâng rùa vàng, hình dáng

như con trai lớn, trên lưng có 7 ngôi sao, ngực có chữ "nhũng" bụng có chữ

"Vương".

Tháng 2, [42b] trị tội thượng vị hầu Trần Lão, cho Lão chuộc tội 1.000 quan

tiền, đồ làm lính, lăng trì tên Khoáng là gia nô của Lão ở chợ Đông, vì tội

làm thư nặc danh phỉ báng nhà nước.

Mưa đá lớn.

Mùa hạ, tháng 6, cá hồ Thủy Tinh chết.

Mùa thu, tháng 7, sai trung phẩm Hoàng Ư Lệnh, nội thư gia Nguyễn Chương

sang Nguyên, gặp thái tử A Thai1, Bình Chương A Lạt2, ở Hồ Quảng3, hội 50

vạn quân ở các xứ định sang năm vào cướp

nước ta.

Mùa đông, tháng 10, vua thân hành dẫn các vương hầu điều quân thủy bộ tập

trận.

Tiến phong Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn làm Quốc công tiết chế, thống lĩnh quân

đội toàn quốc, sai chọn các quân hiệu có tài chỉ huy, chia đi nắm giữ các

đơn vị.

Giáp Thân, [Thiệu Bảo] năm thứ 6 [1284], Nguyên Chí Nguyên năm thứ 21). Mùa

xuân, tháng giêng, vét sông Tô Lịch.

Tháng 2, đất ở Xã [44a] đàn4 nứt ra, dài 7 thước, rộng 4 tấc, sâu không

thể lường.

Mùa thu, tháng 8, Hưng Đạo Vương điều các quân của vương hầu, duyệt binh

lớn ở Đông Bộ

Đầu5, chia các quân đóng giữ Bình Than và những nơi xung yếu khác.

Tháng 9, ngày mồng 4, mặt trăng và sao Kim mọc ban ngày ở phương Tây Nam

chỉ cách nhau

độ 1 thước .

Mùa đông, tháng 11, sai Trần Phủ sang hành tỉnh Kinh Hồ6, nước Nguyên xin

hoãn binh7.

Tháng 12, Trần Phủ từ Nguyên trở về, tâu rằng vua Nguyên sai bọn thái tử

Trấn Nam Vương

Thoát Hoan8, Bình Chương A Lạt và A Lý Hải Nha9 đem quân lấy cớ mượn đường

đi đánh Chiêm Thành, chia đường vào cướp nước ta.

Thượng hoàng triệu phụ lão trong nước họp ở thềm điện Diên Hồng, ban yến và

hỏi kế đánh giặc. Các phụ lão điều nói "đánh", muôn người cùng hô một

tiếng, như bật ra từ một cửa miệng.

1 KHông có tên thái tử Nguyên nào là A Thai. Cương mục q.7 cho là do sử

của ta lầm. Trong cuộc chiến tranh này, tướng chỉ huy

của quân Nguyên là Thoát Hoan và A Lý Hải Nha.

2 A Lạt: hay A Lý Hải Nha, là phiên âm tên quan Bình chương nhà Nguyên

A-ríc Kha-y-a (Ariq-Qaya). Toàn thư có chỗ lầm thành hai người.

3 Hồ Quảng: gồm Hồ Nam, Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Quốc ngày nay. Nhà

Nguyên đặt Hồ Quảng hành trung thư tỉnh, gọi

tắt là hành tỉnh Hồ Quảng để thống trị khu vực đất đai nói trên và phụ

trách việc thôn tính các nước Đông Nam Á, cũng gọi là hành tỉnh Kinh Hồ

hoặc là hành tỉnh Kinh Hồ-Chiêm Thành

4 Xã Đàn: tức Xã tắc đàn là nơi vua chúa phong kiến tế lễ thần đất và thần

mùa màng ngày xưa, đắp bằng đất, có 2 bậc, nên gọi là

"đàn".

5 Đông Bộ Đầu: tức bến sông Hồng phía trên cầu cầu Long Biên gần dốc Hàng

Than, Hà Nội ngày nay.

6 Hành tỉnh Kinh Hồ cũng là hành tỉnh Hồ Quảng: xem chú thích về Hồ Quảng

ở BK5, 43b.

7 Theo An Nam chí lược và Nguyên sử, Trần Phủ tức Trần Khiêm Phủ, tước

trung đại phu.

8 Tên Mông Cổ là Tô-gan (Toghan), thư tịch Trung Quốc phiêm âm là Thoát

Hoan, là con của Hốt Tất Liệt.

9 Ở đây Toàn thư nhầm, A Lạt và A Lý Hải Nha chỉ là một người, tức

Ariq-Qaya.

Sử Thần Ngô Sĩ Liên nói: Giặc Hồ vào cướp nước là nạn lớn nhất của đất

nước.

Hai vua hiệp mưu, [44b] bầy tôi họp bàn há lại không có kế sách gì chống

giặc mà phải đợi đến ban yến hỏi kế ở các phụ lão hay sao? Là vì Thánh Tông

muốn làm thế để xét lòng thành ủng hộ của dân chúng, để dân chúng nghe theo

lời dụ hỏi mà cảm kích hăng hái lên thôi. Đó là giữ được cái nghĩa người

xưa nuôi người già để xin lời hay vậy.

Ngày 26, giặc đánh vào các ải Vĩn Châu, Nội Bàng1, Thiết Lược, Chi Lăng2,

Quan quân đánh bất

lợi lui về đóng ở bến Vạn Kiếp3.

Lúc đó, vua ngự thuyền nhẹ ra Hải Đông4, chiều rồi mà vẫn chưa ăn cơm sáng.

Có người lính là

Trần Lai dâng cơm gạo xấu, vua khen là trung, ban cho chức thượng phẩm ,

kiêm chức tiểu tư xã xã Hữu

Triều Môn ở Bạch Đằng.

Hưng Đạo Vương vâng mệnh điều quân dân các lộ Hải Đông, Vân Trà, Ba Điểm5,

chọn những người dũng cảm làm tiền phong, vượt biển vào Nam, thế quân lên

dần. Các quân thấy vậy, không đạo quân nào mà không tới tập hợp. Vua làm

thơ đề ở [45a] đuôi thuyền rằng:

Cối kK cựu sự quân tu ký,

Hoan Diễn do tồn thập vạn binh.

( Cối Kê6 chuyện cũ người lên nhớ, Hoan Diễn7 còn kia chục vạn quân)

Hưng Vũ Vương Nghiễn, Minh Hiến Vương Uất, Hưng Nhượng Vương Tảng, Hưng Trí

Vương Hiện đốc suất 20 vạn quân các xứ Bàng Hà8, Na Sầm9, Trà Hương, Yên

Sinh, Long Nhãn10 đến hội ở Vạn Kiếp, theo quyền điều khiển của Hung Đạo

Vương để chống quân Nguyên.

Trước đây, Hưng Đạo Vương có người nô là Dã Tượngvà Yết Kiêu11, đối xử rất

hậu. Khi quân Nguyên tới, Yết Kiêu giữ thuyền ở Bãi Tân12, Dã Tượng thì đi

theo. Đến lúc quan quân thu trận, thuỷ quân tan cả. [Hưng Đạo] Vương định

rút theo lối chân núi. Dã Tượng nói:

"Yết Kiêu chưa thấy Đại Vương thì nhất định không dời thuyền".

Vương đến Bãi Tân, chỉ có thuyền Yết Kiêu vẫn còn ở đó. Vương mừng lắm, nói

:

"Chim hồng hộc muốn bay cao phải nhờ ở sáu trụ cánh. Nếu không có sáu chiếc

trụ cánh ấy thì cũng chim thường thôi".

Nói xong cho chèo thuyền đi, Kỵ binh giặc đuổi theo không kịp. Vương đến

Vạn Kiếp, chia quân

đón giữ ở Bắc [45b] Giang1.

1 Ải Nội Bàng: vùng Chũ, tỉnh Hà Bắc ngày nay, nơi đóng bản doanh của Hưng

Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.

2 Ải Chi Lăng: thuộc huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn ngày nay.

3 Vạn Kiếp: nay là vùng Vạn Yên, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Hưng.

4 Hải Đông: Chỉ chung vùng Hải Dương cũ (nay thộc tỉnh Hải Hưng) và Hải

Phòng hiện nay.

5 Vân Trà, Ba Điểm: là hai hương thuộc lộ Hải Đông bấy giờ. Hương Vân Trà

hay Trà Hương là vùng Kim Thành, tỉnh Hải Hưng ngày nay.

6 "Chuyện cũ Cối Kê": là chuyện Câu Tiễn, vua nước Việt thời Chiến Quốc,

đánh nhau với nước Ngô, chỉ còn một ngàn quân lui giữ

Cối Kê, mà sau đánh bại Ngô Phù Sai, khôi phục được đất nước.

7 Hoan, Diễn: chỉ vùng Nghệ Tỉnh ngày nay.

8 Bàng Hà: đất huyện Thanh Hà cũ nay thuộc huyện Nam Thanh, tỉnh Hải Hưng

và huyện Tiên Lăng, Hải Phòng.

9 Na Sầm: tức Na Ngạn, thuộc đất huyện Lục Ngàn, tỉnh Hà Bắc ngày nay.

10 Long Nhãn: nay thuộn Yên Dũng, tỉnh Hà Bắc.

11 Dã Tượng: nghĩa là voi rừng, Yết Kiêu: là tên loài chó săn ngắn mõm.

Dùng tên thú đặt cho người, nói lên địa vị làm "nô" thấp kém của họ. Trong

cuộc kháng chiến chống quân Nguyên đời Trần, các nô tỳ có một vai trò rất

lớn.

12 Bãi Tân: là một địa điểm trên sông Lục Nam.

Sai Hàn lâm [viện] phụng chỉ Đinh Củng Viên quyền coi việc Bắc cung Nội sát

viện.

Ất Dậu, [Thiệu Bảo] năm thứ 7 [1285], (từ tháng 9 về sau là Trùng Hưng năm

thứ nhất,

Nguyên Chí Nguyên năm thứ 22). Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 6, tướng Ô

Mã Nhi2 đánh vào các

xứ Vạn Kiếp và núi Phả Lại3,

quan quân vỡ chạy4.

Ngày 12, giặc đánh vào Gia Lâm, Vũ Ninh5, Đông Ngàn6, bắt được quân của ta,

thấy người nào cũng thích hai chữ "Sát Thát"7 bằng mực vào cánh tay, chúng

tức lắm, giết hại rất nhiều. Rồi chúng đến Đông Bộ Đầu, dựng một lá cờ lớn:

Vua muốn sai người dò xét tình hình giặc mà chưa tìm được ai. Chi hậu cục

thủ Đỗ Khắc Chung tiến lên tâu rằng:

"Thần hèn mọn bất tài, nhưng xin được đi". Vua mừng, nói rằng:

"Ngờ đâu trong đám ngựa xe kéo xe muối lại có ngựa kỳ, ngựa ký như thế!"8

Rồi sai đem thư xin giảng hoà. Ô Mã Nhi hỏi [ Chung]:

"Quốc Vương ngươi vô lễ, sai người thích chữ "Sát Thát", khinh nhờn thiên

binh, lỗi ấy to lắm". Khắc Chung đáp:

"Chó nhà cắn người lạ không phải [46a] tại chủ nó. Vì lòng trung phẫn mà họ

tự thích chữ thôi, Quốc Vương tôi không biết việc đó. Tôi là cận thần, tại

sao lại không có?".

Nói rồi giơ cánh tay cho xem. Ô Mã Nhi nói:

"Đại quân từ xa tới, nước ngươi sao không quay giáo đến hội kiến, lại còn

chống lệnh. Càng bọ

ngựa cản bánh xe liệu sẽ ra sao?".

Khắc Chung nói :

" Hiền tướng không theo cái phương sách Hàn Tín bình nước Yên 9, đóng quân

ở đầu biên giới, đưa thư tin trước, nếu không thông hiếu thì mới là có

lỗi. Nay lại bức nhau, người ta nói thú cùng thì chống lại, chim cùng thì

mổ lại, huống chi là người".

Ô Mã Nhi nói:

1 Bắc Giang: tức là vùng đất tỉnh Bắc Ninh cũ, nay thuộc tỉnh Hà Bắc.

2 Ô Mã Nhi: phiên âm từ tên Hồi giáo Omar.

3 Núi Phả Lại: tức là núi ở xã Phả Lại, cạnh sông Lục Đầu, đối diện với

thị trấn Phả Lại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Hưng.

4 Thực ra, ngày mồng 6 tháng giêng mới chỉ là ngày Ô Mã Nhi đánh vào phòng

tuyến sông Bình Than. Mãi đến ngàu mồng 9 (14-2-

1258), sau trận thủy chiến lớn, quân ta mới rút.

5 Vũ Ninh: sau là Võ Giàng, nay là huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.

6 Đông Ngàn: tức là huyện Từ Sơn, nay là huyện Tiên Sơn, tỉnhBắc Ninh.

7 Thát: tức là Thát Đát, phiên âm từ Ta-ta (Tatar hay Tarta) chỉ người

Mông Cổ. Sát Thát nghĩa là giết giặc Thát Đát.

8 Ngựa kỳ, ngựa ký: chỉ những loại ngựa quý, ngựa tốt.

9 Hàn Tín: là tướng của Hán Cao Tổ, muốn đánh nước Yên, theo kế của Lý Tả

Xa viết thư dụ trước, quả nhiên nước Yên đầu hàng.

"Đại quân mượn đường để đi đánh Chiêm Thành, Quốc Vương ngươi nếu đến hội

kiến thì trong

cõi yên ổn, không bị xâm phạm mảy may. Nếu cứ chấp nê thì trong khoảnh khắc

núi sông sẽ thành đất bằng, vua tôi sẽ thành cỏ nát".

Khắc Chung về rồi, Ô Mã Nhi bảo các tướng rằng:

"Người này ở vào lúc bị uy hiếp [46b] mà lời lẽ tự nhiên, không hạ chủ nó

xướng là Chích1, không nịnh ta lên là Nghiêu2, mà chỉ nói "Chó nhà cắn

người"; giỏi ứng đối. Có thể nói là không nhục mệnh vua. Nước nó còn có

người giỏi, chưa dễ mưu tính được".

Sai người đuổi theo Khắc Chung nhưng không kịp.

Ngày 13, giờ mão, Khắc Chung từ chỗ quân Nguyên trở về. Giặc đuổi đến, đánh

nhau với quan

quân.

Ngày 28, Hưng Đạo Vương bàn xin Thượng tướng thái sư Quang Khải chặn đánh

cánh quân của

Nguyên soái Toa Đô ở Nghệ An3.

Tháng 2, ngày Giáp Thìn mồng 1, con thứ của Tĩnh Quốc Đại Vương Quốc Khang

là thượng vị

Chương Hiến hầu [Trần] Kiện và liêu thuộc là bọn Lê Trắc đem cả quân đầu

hàng quân Nguyên4.

Toa Đô sai đưa bọn Kiện về Yên Kinh5. Thổ hào Lạng Giang6 là bọn Nguyễn

Thế Lộc, Nguyễn

Lĩnh, tập kích ở trại Ma Lục7 . Gia nô của Hưng Đạo Vương là Nguyễn Điạ Lô

bắn chết Kiện. Trắc đưa xác

Kiện lên ngựa, trốn đi đêm, chạy được vài chục dặm, tới Khâu Ôn [47a] chôn

Kiện tại đó.

Sai người đưa công chúa An Tư (em gái út của Thánh Tông) đến cho Thoát

Hoan, là muốn làm thư giãn loạn nước vậy.

Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng (Vương là dòng dõi Lê Đại Hành, chồng sau

của công chúa

Thuỵ Bảo, ông cha làm quan đời Thái Tông, được ban quốc tính) đánh nhau với

giặc ở bãi Đà Mạc, nay

là bãi Mạn Trù) bị chết.

Khi bị bắt, Vương không chịu ăn, giặc hỏi việc nước, Vương không trả lời,

giặc hỏi Vương:" Có muốn làm vương đất Bắc không?".

Vương thét to:"Ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất bắc",

rồi bị giết. Thế giặc bức bách, hai vua ngầm đi chiếc thuyền nhỏ đến Tam

Trĩ nguyên8, sai người đưa

thuyền ngự ra Ngọc Sơn9 để đánh lừa giặc.

Lúc ấy, xa giá nhà vua phiêu giạt, mà Quốc Tuấn vốn có kỳ tài, lại còn mối

hiềm cũ của Yên Sinh

Vương1, nên có nhiều người nghi ngại. Quốc Tuấn theo vua, tay cầm chiếc gậy

có bịt sắt nhọn. Mọi

1 Chích: Là một tên cướp sừng sỏ trong truyền thuyết Trung Quốc.

2 Nghiêu: Là vị hoàng đế lý tưởng trong truyền thuyết Trung Quốc.

3 Cánh quân do Toa Đô chỉ huy, được lệnh từ Chiêm Thành, đánh chiếm các

châu lộ phía nam của ta, rối tiến ra bắc, phối hợp với các đạo quân của

Thoát Hoan bao vây tiêu diệt vua tôi và quân đội nhà Trần.

4 Trần Kiện vốn có hiềm khích vơí hoàng tử Đức Việp. Khi giặc Nguyên sang,

Kiện được lệnh đóng giữ Thanh Hóa, Toa Đô tiến ra

Thanh Hóa, Kiện đem bọn liêu thuộc đầu hàng giặc.

5 Yên KInh: tức kinh đô nhà Nguyên.

6 Lạng Giang: tức Lạng Sơn ngày nay.

7 Trại Ma Lục: Ở Chi L:ăng thuộc châu Lạng Giang thời đó, nay là tỉng Lạng

Sơn.

8 Tam Trĩ nguyên: là sông Ba Chẽ, ở huyện Ba Chẽ, thuộc tỉnh Quảng Ninh.

9 Ngọc Sơn: tên mũi biển thuộc châu Vạn Ninh tỉnh Quảng Yên đời sau, gần

Móng Cái, nay thuộc tỉnh Quảng Ninh.

người điếu gườm mắt nhìn. Quốc Tuấn liền rút đầu sắt nhọn vứt đi chỉ chống

gậy không mà đi, còn

nhiều việc đại loại như thế.

[47b] Sử Thần Ngô sĩ Liên nói: Bậc đại thần ở vào hoàn cảnh bị hiềm nghi

nguy hiểm, tất phải thành thực tin nhau, sáng suốt khéo xử, như hào cửu tứ

của quẻ Tuỳ2 thì mới có thể giữ tròn danh dự, làm nên sự nghiệp. Nếu không

thế thì nhất định sẽ mang tai họa. QuáchTử Nghi nhà Đường, Trần QuốcTuấn

nhà Trần đã làm được như vậy.

Tháng3, ngày Giáp Tuất, mồng 1 hai vua bỏ thuyền đi bộ đến Thuỷ Chú3. Lấy

thuyền ra sông

Nam Triệu4 (tức huyện Thuỷ Đường) vượt biển Đại Bàng5 vào Thanh Hóa.

Thượng vị Văn Chiêu hầu [Trần ] Lộng đầu hàng Thoát Hoan. Kế đó, Chiêu Quốc

Vương Trần Ích

Tắc và bọn Phạm Cự Địa, Lê Diễn, Trịnh Long đem gia thuộc đầu hàng quân

Nguyên.

Trước kia, khi Ích Tắc chưa sinh. Thái Tông mộng thấy thần nhân ba mắt từ

trên trời xuống nói với Thái Tông:

" Thần bị thượng đế quở trách, xin thác sinh là con vua, sau lại trở về

phương Bắc".

Đến khi Ích Tắc sinh, giữa trán có vài vết lờ mờ như hình con bắt, [48a]

hình dáng giống hệt người trong mộng. Đến 15 tuổi, thông minh hơn người,

làu thông kinh sử và các thuật, vẫn còn có ý

tranh đoạt ngôi trưởng đích. Ích Tắc đã từng gửi thư riêng cho khách buôn ở

Vân Đồn xin quân Nguyên xuống nam. Đến nay, người Nguyên vào cướp, Ích Tắc

xin hàng chúng để mong được làm vua. Người Nguyên phong làm An Nam Quốc

Vương. Sau khi quân Nguyên thất bại, Ích Tắc trong lòng hổ thẹn, chết

ở đất Bắc.

Nguyên soái Toa Đô đem 50 vạn quân từ Vân Nam qua nước Lão Qua6, thẳng đến

Chiêm Thành7, hội với quân Nguyên ở Châu Ô Lý8 rôi cướp châu Hoan, châu

Ái9, tiến đóng ở Tây Kết10, hẹn trong ba năm sẽ san phẳng nước ta.

Vua bàn với bầy tôi rằng: "Bọn giặc nhiều năm phải đi xa, lương thảo chuyên

chở hàng vạn dặm,

thế tất mỏi mệt. Lấy nhàn chống mệt, trước hết hãy làm chúng nhụt chí, thì

ắt là đánh bại được chúng".

Mùa hạ, tháng 4, vua sai bọn Chiêu Thành Vương (khuyết danh), Hoài Văn hầu

Quốc Toản, tướng quân Nguyễn Khoái đem tiệp binh đón đánh giặc [48b] ở bến

Tây Kết.

Quan quân giao chiến với quân Nguyên ở Hàm Tử Quan11. Các quân đều có

mặt. Riêng quân

của Chiêu Văn Vương Nhật Duật có cả người Tống, mặc quần áo Tống, cầm cung

tên chiến đấu. Thượng

1 Chỉ việc Thái Tông cướp vợ của Yên Sinh Vương Trần Liễu, thân phụ Hưng

Đạo Vương.

2 Lời hào cửu tứ, quẻ Tùy của Kinh dịch: "hữu phu, tại đạo, dĩ minh, bà

cửu", nghĩa là: "Thành thực, phải đạo, sáng suốt sử trí thì sao có lỗi".

3 Thủy Chú: có lẽ ở vào khoảng huyện lỵ Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh ngày

nay.

4 Sông Nam Triệu: thời bấy giờ là con sông từ ngã ba Nam Triệu nay là xã

Vũ Yên, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng chảy ra biển.

5 Cửa biển Đại Bàng nay là cửa Văn Úc thuộc huyện Kiến An, Hải Phòng. Biển

Đại Bàng là vùng biển ngoài cửa Văn Úc.

6 Lão Qua: tức nước Lào ngày nay.

7 Các sử tịch Trung Quốc đều chép là Toa Đô xuất phát từ Quảng Châu theo

đường biển tiến đánh Chiêm Thành vào tháng 11 năm

Nhâm Ngọ (1282).

8 Ô Lý: tức vùng nam tỉnh Quảng Trị và tỉnh Thừa Thiên-Huế ngày nay.

9 Châu Hoan: là vùng Nghệ Tỉnh ngày nay, Châu Ái: là tỉnh Thanh Hóa ngày

nay.

10 Tây Kết: ở ven sông Hồng, khoảng thôn Đông Kết, xã Đông Bình, huyện

Châu Giang, tỉnh Hải Hưng. Ngày nay, thôn này cách sông Hồng 3km, đất bãi

(tức bãi Mạn Trù, nay thhuộc xã Tân Châu), nhưng xưa kia sông kề thôn.

11 Hàm Tử Quan: ở xã Hàm Tử, huyện Châu Giang, Hải Hưng bên sông Hồng.

hoàng sợ các quân có thể không phân biệt được, sai người dụ rằng:"Đó là

quân Thát1 của Chiêu Văn

đấy, phải nhận kỹ chúng".

Vì người Tống và người Thát, tiếng nói và y phục giống nhau. Quân Nguyên

trông thấy [quân Tống] đều rất kinh hãi, bảo nhau là người Tống sang giúp,

vì thế thua chạy. Trước kia, nhà Tống mất, nhiều người Tống theo ta, Nhật

Duật thu nạp họ, có Triệu Trung làm gia tướng. Cho nên chiến công

đánh bại giặc Nguyên, Nhật Duật lập được nhiều hơn cả.

Tháng 5, ngày mồng 3, hai vua đánh bại giặc ở phủ Trường Yên2, chém đầu cắt

tai giặc nhiều không kể xiết.

Ngày mồng 7, thám tử báo tin: Toa Đô từ Thanh Hoá tới.

Ngày mồng 10, có người từ chỗ giặc trốn về đến ngự doanh tâu báo:

Thượng tướng Quang Khải, Hoài Văn Hầu Quốc Toản và Trần Thông, Nguyễn Khả

Lạp cùng

[49a] em là Nguyễn Truyền đem dân binh các lộ đánh bại quân giặc ở các xứ

Kinh Thành, Chương

Dương3. Quân giặc tan vỡ lớn. Bọn thái tử Thoát Hoan, Bình chương A Lạt rút

chạy qua sông Lô4.

Ngày 15, hai vua bái yết các lăng ở Long Hưng.

Ngày 17, Toa Đô và Ô Mã Nhi lại từ biển đánh vào sông Thiên Mạc, muốn hội

quân ở Kinh sư, để

chi viện cho nhau.

Du binh giặc đến huyện Phù Ninh5, viên phụ đạo huyện ấy là Hà Đặc lên núi

Trĩ Sơn cố thủ. Giặc đóng ở động Cự Đà6. Hà Đặc lấy tre đan thành những

hình người to lớn, cho mặc áo, cứ đến chiều tối thì dẫn ra dẫn vào. Lại dùi

thủng cây to, cắm tên người lớn vào giữa lỗ để giặc ngờ là sức bắn khoẻ

xuyên

suốt được. Giặc sợ không dám đánh nhau với Đặc. Quân ta hăng hái xông ra

đánh bại được giặc. Đặc đuổi đánh đến A Lạp, bắc cầu phao qua sông, hăng

đánh quá bị tử trận. Em là Chương bị giặc bắt, lấy trộm được cờ xí , y phục

của giặc trốn về, đem [49b] dâng lên, xin dùng cờ ấy giả làm quân giặc, đến

doanh trại giặc. Giặc không ngờ là quân ta, do vậy ta cản phá được chúng.

Ngày 20, hai vua tiến đóng ở Đại Mang Bộ7. Tổng quản giặc Nguyên là Trương

Hiển đầu hàng. Hôm đó, ta đánh bại giặc ở Tây Kết, giết và làm bị thương

rất nhiều, chém đầu Nguyên Soái Toa Đô8. Nửa đêm Ô Mã Nhi trốn qua cửa sông

Thanh Hoá, hai vua đuổi theo nhưng không kịp bắt được hơn 5

vạn dư đảng giặc đem về, Ô Mã Nhi chỉ còn một chiếc thuyền vượt biển trốn

thoát.

Hưng Đạo Vương lại giao chiến với Thoát Hoan và Lý Hằng ở Vạn Kiếp, đánh

bại được, giặc chết

đuối rất nhiều. Lý Hằng đem quân hộ vệ Thoát Hoan chạy về Tư Minh. Quân ta

lấy tên tẩm thuốc độc bắn trúng đầu gối bên trái của Hằng, Hằng chết. Tỳ

tướng Lý Quán thu nhặt 5 vạn quân còn lại, giấu

Thoát Hoan vào một đồ đồng, chạy chốn về Bắc. Đến Tư Minh, Hưng Vũ Vương

đuổi kịp, dùng tên tẩm thuốc độc bắn trúng Lý Quán, Quán chết. Quân Nguyên

[50a] tan vỡ lớn.

Vua trông thấy thủ cấp của Toa Đô, thương hại nói: "Người làm tôi phải nên

như thế này".

1 Thát: tức Thát Đát, xem chú thích 6, tr.50. Ở đây chỉ quân Tống tham gia

hàng ngũ chiến đấu của Nhật Duật.

2 Trường Yên: vùng đất tỉnh Ninh BÌnh.

3 Chương Dương: theo CMCB7 thì Chương Dương là tên bến. Nay ở huyện Thường

Tín, tỉnh Hà Sơn Bình còn có tên xã Chương

Dương ở ven sông Hồng.

4 Sông Lô: tức sông Hồng.

5 Phù Ninh: thuộc tỉnh Phú Thọ. Cánh quân giặc đến Phù Ninh hẳn là cánh

quân rút chạy về Vân Nam.

6 Động Cự Đà: có lẽ thuộc xã Tử Đà, huyện Phong Châu, tỉnh Vĩnh Phú ngày

nay. Theo thần tích địa phương thì Hà Đặc là người xã

Tử Đà.

7 Đại Mang Bộ: là tên bến trên sông Hồng, chưa rõ ở đâu.

8 Có tài liệu ghi là Toa Đô phóng ngựa rơi xuống nước chết (An Nam chí

lược), lại có tài liệu ghi là Toa Đô chết ở sông Cầu (Nguyên sử)

Rồi cởi áo ngự, sai quân đem liệm chôn, nhưng ngầm sai lấy đầu Toa Đô đem

tẩm dầu để răn, vì

cớ Toa Đô mượn đường vào cướp nước ta đã ba năm vậy1.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Than ôi! Câu nói ấy của vua thực là câu nói của

bậc đế vương ! Nói rõ đại nghĩa để người bề tôi muôn đời biết rằng trung

với vua, chết vì phận sự là vinh, tuy chết mà bất hủ, mối quan hệ lớn lắm

vậy. Huống chi lại cởi áo ngự,

sai người liệm chôn nữa. Làm vậy có thể khích lệ sĩ khí để trừ giặc mạnh

là phải lắm.

Tháng 6, ngày mồng 6, hai vua trở về kinh sư, Thượng tướng Quang Khải làm

thơ rằng:

Đoạt sáo Chương Dương độ, Cầm hồ Hàm Tử quan.

Thái bình tu trí lực, Vạn cổ thử giang san.

(Bến Chương Dương cướp giáo. Cửa Hàm tử bắt thù.

Thái bình nên gắng sức, Non nước cũ muôn thu).

[59b] Ngày hôm ấy nước to.

Sai Trung phẩm phụng ngự Đặng Du Chi đưa bọn tề thần của Chiêm Thành là Bà

Lậu, Kê Na

Liên 30 người về nước, vì đi theo Toa Đô nên bị bắt.

Mùa thu, tháng 8, sai Tả bộc xạ Lưu Cương Giới tuyên phong công thần theo

thứ bậc khác nhau

và trị tội những kẻ hàng giặc.

Tháng 9, đổi niên hiệu là Trùng Hưng năm thứ 1. Đại xá

Bia chùa Bảo Thiên gãy làm đôi. Núi Cảo Sơn lở.

Ngày 12, gia tôn huy hiệu cho các tiên đế và tiên hậu

Mùa đông, tháng 10, xuống chiếu định hộ khẩu trong nước. Triều thần can là

dân vừa lao khổ,

định hộ khẩu thực không phải là việc cần kíp. Vua nói.

"Chỉ có thể định hộ khẩu vào lúc này, chẳng nên qua đó mà xem xét [tình

trạng] hao hụt, điêu tàn của dân ta hay sao?". Quần thần đều khâm phục.

[51a] Bính Tuất, Trùng Hưng năm thứ 2 [1286], Nguyên Chí Nguyên năm thứ

23). Mùa xuân, tháng giêng, thả quân Nguyên về nước.

Tháng 2, sứ Nguyên là Hợp Tán Nhi Hải Nha2 đến.

Tháng 3, vua Nguyên sắc phong cho Thượng thư tỉnh Áo Lỗ Xích3, Bình Chương

sự Ô Mã Nhi,

Đại tướng Trương Văn Hổ điều 50 vạn quân, hạ lệnh Hồ Quảng đóng 300 chiếc

thuyền biển, hẹn tháng

8 hội cả ở Khâm Châu, Liêm Châu. Lại ra lệnh quân ba hành tỉnh Giang

Chiết, Hồ Quảng, Giang Tây xâm lược phương Nam, mượn cớ đưa người đầu hàng

là Trần Ích Tắc về nước lập làm An Nam Quốc Vương.

Mùa hạ, tháng 6, lệnh cho vương hầu, tôn thất mộ binh, thống lĩnh thuộc hạ

của mình. Vua hỏi Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn:

"Thế giặc năm nay thế nào?".

QuốcTuấn trả lời:

1 Toa Đô xuất phát từ Quảng Châu để đánh Chiêm Thành từ năm 1282, đến khi

đánh bại, bị chém đầu ở trận Tây Kết năm 1285,

tức là đã 3 năm.

2 Phiên âm từ tiếng Mông Cổ Kha-xa Kha-ya (Qasar - Qaya).

3 Tên MÔng Cổ là A-gu-rúc-tri (Auruyvci).

"Nước ta thái bình lâu ngày, dân không biết việc binh. Cho nên, năm trước

quân Nguyên vào

cướp, thì có kẻ đầu hàng chốn chạy. Nhờ uy tín của tổ tông và thần võ của

bệ hạ, nên quét sạch được

bụi Hồ. Nay nếu nó lại sang thì quân ta đã quen việc chiến trận, mà quân nó

thì sợ phải đi xa. Vả lại, chúng còn nơm lớp cái thất bại của Hằng, Quán1

[51b] không còn chí chiến đấu. Theo như thần thấy, phá được chúng là điều

chắc chắn".

Vua lệnh cho Hưng Đạo Vương đốc thúc vương hầu tôn thất điều động quân

lính, chế tạo vũ khí, thuyền bè.

Mùa đông, tháng 10, kiểm duyệt, diễn tập quân lính điều động được.

Đinh Củng Viên xin thôi quyền trông coi việc Nội mật viện. Vua y cho, ban [

cho Viên] tước Nội minh tự.

Đinh Hợi, Trùng Hưng năm thứ 3 [1287], (Nguyên Chí Nguyên năm thứ 24). Muà

xuân, tháng

2, Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu băng.

Tháng 2, cá nhà táng chết cạn ở sông Bạch Đằng, dài 2 trượng 6 thước, dày 6

thước.

Nhà Nguyên Phát Quân Mông Cổ, quân Hán Nam2, 3 hành Tỉnh GiangHoài, Giang

Tây, Hồ

Quảng, lính Vân Nam, lính người Lê ở 4 châu ngoài biển3, chia đường vào

cướp. Sai bọn vạn hộ Trương

Văn Hổ đi đường biển, chở 70 vạn thạch lương4 theo sau. Lại đặt Chinh Giao

Chỉ hành thượng thư tỉnh

[52a] do Bình chương sự Áo Lỗ Xích, các Tham tri chính sự Ô Mã Nhi, Phàn

Tiếp thống lĩnh và chịu tiết chế của Trần Nam Vương.

Quan chấp chính xin bọn tráng đinh sung quân để tăng quân số lên nhiều.

Trần Hưng Đạo nói

:"Quân quý ở tinh nhuệ, không quý ở số đông. Dẫu đến 100 vạn quân mà như Bồ

Kiên5 thì cũng làm gì

được?".

Tháng 3, ân xá .

Mùa hạ, tháng 4, lấy Tá Thiên Đại Vương Đức Việp quyền tướng quốc sự. Duyệt

binh. Xử án. Định các danh sách.

Mùa đông, tháng 10, ngày mồng 1, nhật thực.

Tháng 11, ngày 11, giờ Mùi, mặt trời rung thành 4 góc.

Ngày 14, Trịnh Xiển tâu rằng thái tử Nguyên A Thai6 xâm phạm ải Phú

Lương. Vua hỏi Hưng Đạo Vương:"Giặc tới, liệu tình hình thế nào".

Vương trả lời: "Năm nay đánh giặc nhàn".

Ngày 24, lệnh cho cấm quân giữ ải Lãnh kinh7.

1 Chỉ Lý Hằng và Lý Quán bị chết trong cuộc chiến tranh 1285.

2 Quân Hán Nam: là quân người Hán ở nam Trung Quốc, trong khu vực đất nhà

Nam Tống cũ, thư tịch Trung Quốc đời Nguyên thường gọi là quân tân phụ.

3 Tức bốn châu Nhai, Quỳnh, Đạm, Vạn trên đảo Hải Nam.

4 Thạch: là đơn vị đo lường thời xưa, mỗi thạch có 10 đấu.

5 Bồ Kiên: là vua tiền Tần (một nước do tộc Đê lập nên ở bắc Trung Quốc)

đem 100 vạn quân đánh Đông Tấn (Hán tộc), bị các tướng Tấn như Tạ Thạch, Tạ

Huyền đánh tan tác trong trận Phì Thủy nổi tiếng. Bồ Kiên sau trận này chỉ

còn mười vạn tàn quân chạy trốn về Lạc Dương.

6 Theo Nguyên sử q.149, trong lần xâm lược này có một chư vương A Thai đi

theo cánh quân Vân Nam do Ái Lỗ chỉ huy, có lẽ Toàn thư lầm ra là thái tử.

7 Ải Lãnh Kinh: có lẽ vào khoảng Đáp Cầu, trên sông Cầu (Hà Bắc), cấm quân

đóng ở đây để chặn đánh cánh quân Nguyên từ Vĩnh

Bình, Chi Lăng đánh xuống.

Hưng Đức hầu Quán đem quân đón đánh, dùng tên tẩm thuốc độc bắn giặc chết

và bị thương

rất nhiều. Giặc lui về đóng ở ải Vũ Cao.

[52b] Ngày 28, Phán thủ thượng vị Nhân Đức hầu Toàn đem thuỷ quân đánh ở

vụng Đa Mỗ1

giặc chết đuối rất nhiều, ta bắt sống 40 tên và thu được thuyền ngựa, khí

giới đem dâng.

Tháng 12, ngày 16, chiếu sai minh tự Nguyễn Thức đem quân Thánh dực dũng

nghĩa đến chỗ

Hưng Đạo Vương để giữ cửa Đại Than2.

Ngày 26, [quân ta] gặp giặc, đánh bại chúng.

Ngày 30, thái tử Nguyên A Thai3 cùng Ô Mã Nhi họp 30 vạn quân đánh vào Vạn

Kiếp rối thuận dòng xuôi về phía đông. Người các hương Ba Điểm, Bàng Hà đều

đầu hàng chúng.

Khi ấy, thủy quân Nguyên đánh vào Vân Đồn, Hưng Đạo Vương giao hết công

việc biên thùy cho Phó tướng Vân Đồn là Nhân Huệ Vương Khánh Dư. Khánh Dư

đánh thất lợi4 thượng hoàng được tin, sai trung sứ xiềng Khánh Dư giải về

kinh. Khánh Dư nói với trung sứ:

"Lấy quân pháp mà xử, tôi cam chịu tội, nhưng xin khất hai, ba ngày, để

[53a] mưu lập công rồi

về chịu tội búa rìu cũng chưa muộn".

Trung sứ theo lời xin đó.

Kháng Dư liệu biết quân giặc đã qua, thuyền vận tải tất theo sau, nên thu

thập tàn binh đợi chúng. Chẳng bao lâu thuyền vận tải quả nhiên đến, [Khánh

Dư] đánh bại chúng, bắt được quân lương

khí giới của giặc nhiều không kể xiết, tù binh cũng rất nhiều. Lập tức sai

chạy ngựa mang thư về báo. Thượng hoàng tha cho tội trước không hỏi đến và

nói:

"Chỗ trông cậy của quân Nguyên là lương thảo khí giới, nay đã bị ta bắt

được, sợ nó chưa biết,

có thể còn hung hăng chăng?".

Bèn tha những tên bị bắt về doanh trại quân Nguyên để báo tin. Quân Nguyên

quả nhiên rút lui. Cho nên, năm này, vết thương không thảm như năm trước,

Khánh Dư có phần công lao trong đó.

Trước đây, Khánh Dư trấn giữ Vân Đồn, tục ở đó lấy buôn bán làm nghề nghiệp

sinh nhai, ăn uống, may mặc đều dựa vào khách buôn phương Bắc, cho nên quần

áo, đồ dùng theo tục người Bắc. Kháng Dư duyệt quân các trang, ra lệnh:

"Quân trấn giữ Vân Đồn là để ngăn phòng giặc [53b] Hồ, không thể đội nón

của phương Bắc, sợ khi vội vàng khó lòng phân biệt, nên đội nón Ma Lôi (Ma

Lôi là tên một hương ở Hồng Lộ, hương này khéo nghề đan cật tre làm nón,

cho nên lấy tên hương làm tên nón), ai trái tất phải phạt".

Nhưng Khánh Dư đã sai người nhà mua nón Ma Lôi từ trước, chở thuyền đến đậu

trong cảng rồi. Lệnh vừa ra, sai người ngầ2m báo dân trong trang: "Hôm qua

thấy trước vụng biển có thuyền chở nón

Ma Lôi đậu".

Do đấy, người trong trang nối gót trrranh nhau mua nón, ban đầu muaa không

tới 1 tiền, sau giá đắt, bán 1 chiếc nón giá 1 tấm vải. Số vải thu được tới

hàng ngàn tấm. Thơ mừng của một người khách phương Bắc câu: "Vân Đồn kê

khuyển diệc giai kinh" (Vân Đồn gà chó thảy đều kinh) là nói thác sợ phục

uy danh của Kháng Dư mà thực là châm biếm ngầm ông ta. Kháng Dư tính tham

lam, thô bỉ, những nơi ông ta trấn nhậm, mọi người đều rất ghét. Nhân Tông

chỉ tiếc ông có tài làm tướng, nên không nỡ bỏ

mà thôi.

1 Đầy là trận chặn đánh cánh quân thủy do Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp chỉ huy ở

vùng mũi Ngọc gần Móng Cái bây giờ.

2 Đại Than: là tên xã, ở huyện Gia Lương, tỉnh Hà Bắc, gần chỗ sông Đuống

chảy ra sông Lục Đầu. Cửa Đại Than tức là cửa sông

Đuống.

3 Ở đây, Toàn thư đã chép nhầm Thoát Hoan thành A Thai. Khi Thoát Hoan

tiến quân đến Vạn Kiếp, thì cánh quân phía tây của

Trình Bằng Phi và cánh thủy quân của Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp cũng đến hội quân

ở đấy.

4 Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư chịu trách nhiệm giữ vùng bờ biển, không

chặn nổi thủy quân giặc, để chúng qua được cửa An

Bang tiến về Vạn Kiếp. Vân Đồn nay tức là Vân Hải, tỉnh Quảng Ninh.

[54a] Mậu Tý, [Trùng Hưng] năm thứ 4 [1288], (Nguyên Chí Nguyên năm thứ

25). Mùa xuân,

tháng giêng, Ô Mã Nhi đánh vào phủ Long Hưng1.

Ngày mồng 8, quan quân hội chiến ngoài biển Đại Bàng, bắt được 300 chiếc

thuyền giặc, 10 thủ

cấp giặc, quân Nguyên bị chết đuối rất nhiều2.

Tháng 2, ngày 29, Ô Mã Nhi đánh vào trại Yên Hưng3.

Tháng 3, ngày mồng 8, quân Nguyên hội ở sông Bạch Đằng để đón thuyền lương

của bọn

Trương Văn Hổ nhưng không gặp. Hưng Đạo Vương đánh bại chúng.

Trước đó, Vương đã đóng cọc ở sông Bạch Đằng, phủ cỏ lên trên. Hôm ấy, nhân

lúc nước triều lên, Vương cho quân khiêu chiến rối giả cách thua chạy, bọn

giặc đuổi theo, quân ta cố sức đánh lại.

Nước triều xuống, thuyền giặc vướng cọc hết. Nguyễn Khoái chỉ huy quân

Thánh dực dũng nghĩa đánh

nhau với giặc, bắt sống Bình chương Áo Lỗ Xích4. Hai vua đem quân tiếp đến,

tung quân đánh lớn, quân

Nguyên chết đuối nhiều không kể xiết, nước sông do vậy đỏ ngầu cả. Đến khi

Văn Hổ tới quân mai phục

hai bên bờ hăng hái xông ra đánh, [54b], lại đánh bại chúng. Nước triều rút

nhanh, thuyền lương của

Văn Hổ mắc trên cọc, nghiêng đắm gần hết. Quân Nguyên chết đuối rất nhiều.

Bắt được 400 chiếc

thuyền. Nội Minh tự Đỗ Hành bắt được Ô Mã Nhi và Tích Lê Cơ Ngọc5 dâng lên

thượng hoàng6. Thượng hoàng sai dẫn lên thuyền ngự, cùng ngồi nói chuyện

với chúng và uống rượu vui vẻ. Thoát Hoan và A

Thai dẫn quân trốn về Tư Minh, thổ quan là Hoàng Nghệ bắt được đem dâng7.

Hai vua trở về phủ Long Hưng.

Ngày 17, đem các tướng giặc bị bắt là Tích Lệ Cơ Ngọc, Nguyên soái Ô Mã

Nhi, Tham chính Sầm

Đoàn, Phàn Tiếp, Nguyên soái Điền, các Vạn hộ, Thiên hộ làm lễ dâng thắng

trận ở Chiêu Lăng.

Trước đó quân Nguyên đã khai quật Chiêu Lăng muốn phá đi, nhưng không phạm

được tới quan

tài. Đến khi giặc thua, chân ngựa đá [ở lăng] đều bị lấm bùn. Đó là thần

linh giúp ngầm vậy. Khi vua cử

lễ bái yết, có làm thơ rằng:

Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,

Sơn hà thiên cổ điện [55a] kim âu. (Xã tắc hai phen bon ngựa đá,

Non sông ngàn thuở vững âu vàng8. Ngày 27, xa giá hai vua trở về kinh sư.

Mùa hạ, tháng 4, Thượng hoàng ngự ở hành lang Thị Vệ (vì cung điện bấy giờ

đã bị giặc đốt hết), đại xá thiên hạ. Những nơi bị binh lửa, cướp phá thì

miễn giảm theo mức độ khác nhau.

Vua dụ ty Hành khiển giao hảo với viện Hàn lâm.

1 Phủ Long Hưng: là đất huyện Tiên Hưng cũ, nay thuộc huyện Đông Hưng,

tỉnh Thái Bình, nơi có lăng mộ của họ Trần. Bọn Ô Mã

Nhi đã khai quật lăng Trần Thái Tông để trả thù lần thất bại trước.

2 Trận Đại Bàng là trận thủy chiến giữa thủy quân nhà Trần với bọn Ô Mã

Nhi khi bọn này đi đón thuyền lương của Trương Văn Hổ. Cửa Đại Bàng nay là

cửa Văn Úc ở huyện Kiến An, Hải Phòng.

3 Trại Yên Hưng: ở vùng huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh ngày nay. Sau khi

đón thuyền lương của Trương Văn Hổ không kết quả.

Ô Mã Nhi trở về Vạn Kiếp. Trên đường về, hắn cho quân đi cướp phá một số

nơi thuộc An Bang (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh) như

trại Yên Hưng.

4 Thực ra, Áo Lỗ Xích theo Thoát Hoan trốn thoát chứ không bị bắt.

5 Nhiều tài liệu khác đều ghi là Tích Lê Cơ, hay Tích Lê Cơ Đại Vương.

Viên tướng Mông Cổ này tên là Tích Lê Cơ, còn Vương là tước hiệu. Chữ Ngọc?

chép lầm từ chữ Vương?.

6 Đoạn này có nhiều sai lầm, đã chép lẫn lộn việc Ô Mã Nhi đi đón thuyền

lương của Trương Văn Hổ với trận phục kích đánh bọn Ô

Mã Nhi khi chúng rút chạy về nước.

7 Thoát Hoan theo đường bộ chạy trốn, đã thoát được, chứ không bị bắt.

8 Âu vàng (kim âu): Là biểu tượng sự toàn vẹn và vững chắc của lãnh thổ

một nước.

Lệ cũ, mỗi khi tuyên đọc lời vua, thì viện Hàn lâm lĩnh đưa bản thảo tờ

chiếu cho Hành khiển để

giảng tập trước. Đến khi tuyên đọc, thì giảng cả âm nghĩa cho dân thường dễ

hiểu, vì chức Hành khiển

để dùng hoạn quan thôi. Bấy giờ, Lê Tòng Giáo làm tả phụ, vốn bất hòa với

Hàn kâm phụng chỉ Đinh Củng Viên. Ngày tuyên đọc lời vua đã đến rồi mà Củng

Viên vẫn cố ý không đưa bản thảo. Tòng Giáo đòi nhiều lần vẫn không được.

Hôm ấy, xa giá sắp ra ngoài cung, Củng Viên mới đưa bản thảo. Tòng Giáo

tuyên đọc tờ chiếu

đại xá, không hiểu âm nghĩa, phải im lặng. Vua [55b] gọi Củng Viên đứng

đằng sau, nhắc bảo âm nghĩa. Tòng Giáo rất thẹn. Tiếng nhắc của Củng Viên

to dần, mà tiếng đọc của Tòng Giáo lại nhỏ đi, trong triều

chỉ còn nghe thấy tiếng của Củng Viên thôi. Vua về trong cung, gọi Tòng

Giáo dụ bảo:

"Củng Viên là sĩ nhân, ngươi là trung quan1 sao lại bất hòa đến thế? Ngươi

là lưu thủ Thiên

Trường, dùng con rươi quả quýt đi lại, đưa tặng lẫn nhau thì có việc gì?".

Từ đó, Tòng Giáo và Củng Viên giao hảo với nhau càng gắn bó.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Vua bảo kẻ thần hạ tặng biếu giao hảo với nhau,

thì chẳng phải là gây cái tệ tư giao giữa người làm tôi với nhau sao?

Xin thưa, giao hảo với tư giao, việc thì giống nhau, nhưng tình thì có

khác. Đem tư tâm mà kết ngầm với nhau, đó là tư giao, như Kinh Xuân thu chê

Thái Bá đến nước Lỗ là thế2 . Lấy tình nghĩa giao hoan với nhau thì không

phải là tư giao, như thi nhân ngâm vịnh việc tặng dưa tặng mận3 cho nhau

[56a] là vậy. Vua bảo bề tôi giao hảo với nhau là để cùng nhau làm tốt việc

của nhà vua. Nhà Trần trung hậu như thế [qua việc này] có thể thấy được.

Nhưng lấy hoạn quan không biết chữ làm Hành khiển thì cũng không phải.

Mù thu, tháng 9, phu nhân Hưng Đạo Vương Nguyên từ quốc mẫu Trần thị (tức

công chúa Thiên

Thành) mất.

Mùa đông, tháng 10, sai Đỗ Thiên Hư (Thiên Hư là em Khắc Chung)

sang Nguyên. Đỗ Khắc

Chung [trước đây] đi sứ sang Nguyên có công, đến nay, tiến cử em là Thiên

Hư. Vua nghe theo.

Kỷ Sửu, Trùng Hưng năm thứ 5 [1289], (Nguyên Chí Nguyên năm thứ 26). Mùa

xuân, tháng 2,

sai Nội thư Hoàng Tá Thốn đưa bọn Ô Mã Nhi về nước, dùng kế của Hưng Đạo

Vương, lấy người giỏi bơi lặn, sung làm phu thuyền, ban đêm dùi thuyền cho

đắm, bọn Ô Mã Nhi đều chết đuối cả.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Chữ tín là vật báu của nước, mà làm cho người khác

phục mình sâu sắc

thì đó là gốc của vương chính. [56b] Hưng Đạo Vương dùng bá thuật4, muốn

được thành công trong một thời mà không biết làm như thế là đã thất tín với

muôn đời. Đã nói là đưa về nước lại dùng mưu kế

để giết đi, thì thực quỷ quyệt quá lắm. Thái Tổ Cao Hoàng Đế nước Đại Việt

ta5 đang khi dẹp loạn, định

tha người Minh về nước. Bọn nguỵ quan có kẻ viện dẫn cho người Minh nghe

câu chuyện dùi thuyền của Hưng Đạo Vương khi trước nhằm ngăn cản ý muốn về

nước của họ. Nhưng lòng tín thực của Thái Tổ thấu đến cả muông thú, nên rốt

cuộc ngườu Minh tin theo không ngờ vực. Thế mới là làm cho người khác phục

mình sâu sắc và là cội gốc của vương chính. Đâu có thể nói [chữ tín] chỉ là

chuyện nhỏ nhặt.

Tháng 3, ngày mồng 1, nhật thực.

Mùa hạ, tháng 4, định công dẹp giặc Nguyên.

1 Trung quan: tức là hoạn quan.

2 Thái Bá làm khanh sĩ của nhà Chu, không có lệnh của vua nhà Chu, tự tiện

sang nước Lỗ, như vậy là tư giao (Xem Tả truyện, Lỗ

An Công năm thứ nhất).

3 Thi Kinh có bài Mọc qua, ngâm vịnh việc tặng dưa tặng mận cho nhau, ca

ngợi quan hệ hữu hảo tốt đẹp.

4 Bá thuật: là những thủ đoạn xảo trá để đạt mục đích nhất thời, bất chấp

nhân nghĩa. Đối lập với bá thuật là vương đạo, vương chính, nghĩa là đường

lối chân chính, trọng nhân nghĩa, trọng tín lễ, làm cho người khác thực

lòng tin phục.

5 Chỉ Lê Lợi: Trong khi vây đánh thành Đông Quan, Lê Lợi nhiều lần viết

thư dụ hàng bọn Vương Thông, hứa sẽ cho chúng an toàn

về nước. Có lần Vương Thông định nghe theo, nhưng bọn nguỵ quan Lương Nhữ

Hốt dẫn việc Hưng Đạo Vương dùi thuyền giết tù binh, Vương Thông lại ngoan

cố chống lại. Sau khi hai cánh viện binh thất bại, Vương Thông mới chịu đầu

hàng.

Tiến phong Hưng Đạo Vương làm Đại Vương, Hưng Vũ Vương làm Khai

Quốc công, Hưng

Nhượng Vương làm Tiết độ sứ. Người nào có công lớn thì được ban quốc tính.

Khắc Chung được dự trong số đó, lại được nhận chức Đại hành khiển. Đỗ Hành

chỉ được phong [57a] Quan nội hầu, vì khi bắt được Ô Mã Nhi không dâng

lên quan gia1, lại dâng lên Thượng hoàng. Hưng Trí Vương không

được thăng trật, vì đã có chiếu cho người Nguyên về nước, các tướng không

được cản trở, mà lại còn đón đánh chúng. Cho Man trưởng Lạng Giang Lương

Uất làm trại chủ Quy Hóa. Hà Tất Năng làm Quan phục hầu vì đã chỉ huy người

Man đánh giặc.

Việc thưởng tước đã xong, vẫn còn có người chưa bằng lòng. Thượng hoàng dụ

rằng:

"Nếu các khanh biết chắc là giặc Hồ không vào cướp nữa thì nói rõ cho trẫm

biết, dù có thăng đến cực phẩm trẫm cũng không tiếc. Nếu không thế mà đã

vội thưởng hậu, vạn nhất giặc Hồ trở lại, và các khanh lại lập công nữa thì

trẫm lấy gì mà thưởng để khuyến khích thiên hạ".

Mọi người đều vui vẻ phục tùng.

Tháng 5, trị tội những kẻ đã hàng giặc. Chỉ quân lính và dân thường được

miễn tội chết, nhưng

bắt chở gỗ đá, xây cung điện để chuộc tội, quan viên phạm tội [57b] [hàng

giặc] thì tùy tội nặng nhẹ

mà xét xử.

Lấy Phùng Sĩ Chu làm Hành hiển.

Sĩ Chu người [xã] Cổ Liễu, Trà Hương. Khi người Nguyên sang, vua sai Sĩ

Chu bói. Sĩ Chu đoán rằng: "Thế nào cũng đại thắng".

Vua mừng bảo; "Nếu đúng như lời đoán, sẽ có trọng thưởng".

Giặc yên, vua nói: "Thiên tử không có nói đùa". Do đấy, có lệnh này. Sĩ Chu

là người trung hiếu,

có tài văn nghệ, làm quan đến Thiếu phó, hiệu là Tốn Trai tiên sinh.

Gia phong Nguyễn Khoái làm liệt hầu, ban cho một quận thang mộc, gọi là

Khoái Lộ?, sau đổi thành Khoai Lộ? (nay là phủ Khoái Châu).

Định các công thần [đánh Nguyên] lần trước và lần sau. Người nào xông lên

trước phá trận giặc, lập kỳ công thì chép vào tập Trung hưng thực lục lại

sai vẽ hình.

Xử tội đồ quân dân hai hương Ba Điểm và Bàng Hà, làm thang mộc binh2, không

được làm quan, ban cho tể thần làm sai sử hoành3.

Trươóc kia, người Nguyên vào cướp, vương hầu, quan lại nhiều người đến

doanh trại giặc xin hàng. Đến khi giặc thua [58a] bắt được cả một hòm biểu

xin hàng. Thượng hoàng sai đốt hết đi để yên lòng những kẻ phản trắc. Chỉ

có kẻ nào đầu hàng trước đây, thì dẫu bản thân ở triều đình giặc, cũng kết

án vắng mặt, xử tội đi đày hoặc tử hình, tịch thu điền sản, sung công, tước

bỏ quốc tính. Như Trần Kiện

là con của Tĩnh Quốc thì đổi làm họ Mai. Người khác cứ theo lệ ấy mà đổi,

như bọn Mai Lộng, Ích Tắc là chỗ tình thân cốt nhục, tuy trị tội cũng thế,

nhưng không nỡ đổi họ xóa tên, chỉ gọi là Ả Trần, có ý chê hắn hèn nhát như

đàn bà vậy. Vì thế, những ghi chép đương thời đều gọi là Ả Trần, Mai

Kiện...

Có tên Đặng Long là cận thần của vua, rất giỏi văn học, tước đến hạ phẩm,

đã được ghi chú để

cất nhắc. Vua định cho làm Hàn lâm học sĩ, nhưng lâm học sĩ, nhưng Thượng

hoàng ngăn lại. Hắn mang

dạ bất bình, đến giờ cũng hàng giặc. Giặc thua, hắn bị bắt, đem chém để răn

bảo kẻ khác.

Thượng hoàng ngự đến hành cung Thiên Trường, có làm bài thơ rằng: Cảnh

thanh u vật diệc thanh u,

Thập nhất [58b] tiên châu, thử nhất châu.

1 Thời Trần gọi vua là Quan gia.

2 Thang mộc binh: Lính hầu trong các ấp thang mộc, tức đất phong của vương

hầu.

3 Sai sử hoành: nô tỳ dùng để sai khiến.

Bách bộ sênh ca, cầm bách thiệt,

Thiên hàng nô bộc quất thiên đầu Nguyệt vô sự chiếu nhân vô sự, Thủy hữu

thu hàm thiên hữu thu. Tứ hải dĩ thanh trần dĩ tính,

Kim niên du thắng tích niên du

(Cảnh thanh u, vật cũng thanh u, Mười một tiên châu, đây một châu. Trăm

giọng chim ca, trăm bộ sáo Ngàn hàng cây quýt ngàn tên nô Trăng vô sự soi

người vô sự,

Nước vẻ thu ngậm trời vẻ thu.

Bốn biển đã quang, trần đã lặng. Chuyến đi nay thắng chuyến đi xưa).

Vì là xúc cảm về hai lần đánh giặc đã qua mà phát thành thơ vậy.

Hạn từ tháng 6 mùa hạ đến tháng 10 mùa đông.

Canh Dần, [Trùng Hưng] năm thứ 6 [1290], (Nguyên Chí Nguyên năm

thứ 27). Mùa xuân, tháng 2, chọn quan văn chia đi cai trị các lộ.

Vua thân đi đánh Ai Lao. Triều thần can rằng: "Giặc Hồ vùa rút, vết thương

chưa lành, đâu đã có thể dấy binh đao!".

Vua nói:

"Chỉ có thể lúc này ra quân thôi. Vì sau khi giặc rút, ba cõi tất cho là

lính tráng, ngựa chiến của

ta đã chết cả, thế không thể lên nổi, sẽ có sự khinh nhờn từ bên trong, cho

nên phải cất quân lớn để thị

uy".

Bầy tôi đều nói:

"Nhà vua há chẳng biết làm nhọc dân là việc đáng lo, nhưng còn có việc đáng

lo lớn hơn [59a]

thế nữa. Thánh nhân lo xa, bọn thần không thể nghĩ đến được".

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Bây giờ, triều thần can việc thân chinh chưa phải

là sai lắm, đến khi nghe lời Nhân Tông mà vội tán tụng là "thánh nhân lo

xa" thì gần như là nịnh hót rồi.

Tháng 3, gia phong Tá Thiên Đại Vương Đức Việp làm Nhập nội Kiểm hiệu thái

úy.

Mùa hạ, tháng 4, sông Tô Lịch chảy ngược (sôngnày hễ có mưa to thì nước

rút, tràn và chảy

ngược).

Tháng 5, ngày 25, Thượng hoàng băng ở cung Nhân Thọ.

Lấy Hạ phẩm phụng ngự Phạm Ngũ Lão chỉ huy Hữu vệ Thánh dực quân. Mùa thu,

tháng 8, sai Ngô Đình Giới sang cáo phó với nước Nguyên.

Tháng 9, để tang Thánh Tông mới hơn 3 tháng, Ngự sử đại phu Đỗ Quốc Kế tâu

rằng:

"Phàm để tang không nên [59b] làm thương tổn người sống. Nay thiên tử đều

dùng kiệu khiêng,

thế là người sống bị tổn thương, xin hãy cưỡi ngựa". Vua nghe theo, chỉ

dùng yên trắng.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Xem lời tâu của Quốc Kế, chẳng những học vấn nông

cạn mà kiến thức cũng thấp hèn. Cưỡi ngựa không phải là điều nên làm trtong

tang chế mà cứ xin cưỡi ngựa; làm thương tổn người [sống ] có người là hủy

thân thể, diệt sinh mạng, mà lại bảo [đi kiệu] là thương tổn người [sống]!

Học vấn của hắn như thế, kiến

thức của hắn như thế thì việc sửa lầm, nắn lỗi sẽ ra sao? Nhân Tông đang

có tang,

không nhận ra điều sai trái đó mà lại lầm lẫn làm theo thì cũng không

phải.

Đói to, 3 thăng gạo giá 1 quan tiền, dân nhiều người bán ruộng đất, và bán

con trai con gái làm

nô tỳ cho người, mỗi người giá 1 quan tiền.

Xuống chiếu phát thóc công chẩn cấp dân nghèo và [60a] miễn thuế nhân đinh.

Mùa đông, tháng 12, ngày 15, táng [Thượng hoàng] ở Dụ Lăng, miếu hiệu là

Thánh Tông, truy tôn là Huyền Công Thịnh Đức Nhân Minh, Văn Vũ Tuyên Hiếu

Hoàng Đế.

Sử thần Ngô SĨ Liên nói: Thánh Tông nối nghiệp Thái Tông, giữa chừng gặp

tai họa giặc vào cướp, đã ủy nhiệm tướng thần, cùng với Nhân Tông chung

sức, cùng nhau vượt qua, khiến cho thiên hạ

đã tan mà lại họp, xã tắc đã nguy mà lại yên, suốt đời Trần, không còn nạn

xâm lược của giặc Hồ1 nữa. Công lao ấy to lớn lắm.

Tân Mão,[Trùng Hưng] năm thứ 7 [1291], (Nguyên Chí Nguyên năm thứ 28). Năm

này lại đói to, ngoài đường nhiều người chết đói.

Nhà Nguyên sai Lễ bộ thượng thư Trương Lập Đạo sang dụ vua vào chầu2. Năm

sau, (vua) sai

Nguyễn Đại Phạp sang Nguyên từ chối, lấy cớ có tang.

[60b] Nhâm Thìn, [Trùng Hưng] năm thứ 8 [1292], (Nguyên Chí Nguyên năm thứ

29). Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 1, nhật thực.

Lấy Phí Mạnh làm An phủ Diễn Châu, giữ chức chưa bao lâu, có tiếng đồn là

tham ô, vua triệu

về, đánh trượng, lại sai đi trấn trị. Sau được tiếng là công bằng thang

liêm. Người Diễn Châu vì thế có câu rằng: "Diễn Châu an phủ thanh như thủy"

(An Phủ Diễn Châu trong tựa nước).

Lấy Trần Thì KIến làm An phủ lộ Yên Khang3, nhưng tên huyện đã bỏ và đất

chia nhập vào huyện Tam Điệp và huyện Kim Sơn.

Trước đây, quân Nguyên vào cướp, vua sai Thì Kiến bói, được quẻ Dự biến

sang quẻ Chấn, đoán

là tốt. Mùa hạ năm sau, quân Nguyên đại bại, quả đúng như lời đoán. Mùa thu

năm Trùng Hưng thứ 2, quân Ngyên lại vào cướp, vua lại sai bói, được quả

Quan biến sang quẻ Hoán, [Kiến] đoán: "Hoán nghĩa

là tan, là điềm giặc tan". Sau quân Nguyên đến sông Bạch Đằng, quả nhiên

tan chạy. Vua khen tài của

Kiến, cho nên có lệnh này.

Tháng 2, ngày mồng 3, lập Đông cung thái tử Thuyên làm Hoàng thái tử. Lấy

con gái trưởng

[61a] của Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng làm phi cho thái tử.

Lấy Đinh Củng Viên làm Thái tử thiếu bảo, thăng tước Quan nội hầu.

Tháng 3, xuống chiếu rằng phàm văn tự bán đứt hoặc cầm đợ thì phải làm hai

bản giống nhau, mỗi bên cầm một bản.

Xuống chiếu cho những mua dân lương thiện làm nô tỳ thì phải cho chuộc lại;

ruộng đất, nhà cửa không theo luật này. Vì là nạn đói hai năm Canh Dần và

Tân Mão, nhiều người chết, [nên có chiếu này].

Vua từng ngự chơi bên ngoài, giữa đường, hể gặp gia đồng của vương hầu thì

tất gọi chúng mà hỏi: "Chủ mày đâu?", rồi răn các vệ sĩ không được thét

đuổi. Đến khi về cung, bảo tả hữu rằng:

"Ngày thường thì có thị vệ tả hữu, khi quốc gia lắm hoạn nạn thì chỉ có

bọn chúng có mặt". Vì

là vua cảm mến bọn chúng đi theo bảo vệ mình hồi phải chạy ra khỏi kinh

thành mà nói thế.

1 Giặc Hồ ở đây chỉ quân xâm lược Nguyên Mông.

2 Theo An Nam chí lược, mãi đến ngày 18 tháng 3 năm Nhâm Thìn (1292),

Trương Lập Đạo mới tới Khâu Ôn (Ôn Châu, Lạng Sơn).

33Yên Khang: là huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.

Nguyễn Đại Phạp đến nước Nguyên, người Nguyên gọi là Lão lệnh công. Đại

Phạp tới Ngọc Châu,

vào yết kiến các quan bình chương ở hành tỉnh. Lúc ấy Chiêu QuốcVương Ích

Tắc cũng ngồi ở đó. Đại

Phạp [61b] chỉ không chào một mình hắn. Ích Tắc hỏi:

"Ngươi không phải là tên biên chép ở nhà Chiêu Đạo Vương đó ư?" (Chiêu Đạo

Vương trước tên

là Quang Xưởng, là con thứ của Thái Tông, anh cùng mẹ của Ích Tắc). Đại

Phạp trả lời"

"Việc đời đổi thay, Đại Phạp trước vốn là tên biên chép cho Chiêu Đạo

Vương, nay là sứ giả, cũng như Bình chương xưa kia là con vua, nay lại là

người đầu hàng giặc".

Ích Tắc có vẻ hổ thẹn. Từ đấy về sau, sứ ta đến, hắn không còn ngồi ở tỉnh

đường nữa.

Quý Tỵ, [Trùng Hưng] năm thứ 9 [1293], (từ tháng 3 trở đi là Anh Tông Hưng

Long năm thứ 1, Nguyên Chí Nguyên năm thứ 30). Mùa xuân, tháng 3, ngày mồng

9, vua nhường ngôi cho Hoàng thái tử Thuyên. [Hoàng thái tử Thuyên] lên

ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu là Hưng Long năm thứ 1, đại xá, tự xưng là Anh

Hoàng, tôn Thượng hoàng làm Hiến Nghiêu Quang Thánh Thái Thượng Hoàng Đế,

tôn Bảo Thánh hoàng hậu làm Khâm Từ Bảo Thánh hoàng thái hậu.

Quần thần dâng tôn hiệu là Ứng Thiên Quảng Vận Nhân Minh Thánh Hiếu

Hoàng Đế. Phong bà phi làm Văn Đức phu nhân, rồi lại phế đi, lấy em

gái Văn Đức làm Thánh [62a] Tư phu nhân.

Mùa thu, tháng 9, ngày 13, Khâm từ bảo thánh hoàng thái hậu

băng ở Lỗ Giang, phủ Long

Hưng, tạm quàn ở cung Long Hưng.

Thái hậu nhu mì đức tốt, thông minh sáng suốt, nhân hậu với kẻ dưới.

Thượng hoàng có lần làm chuồng hổ ở thềm Vọng Lâu, sai quân sĩ đánh nhau

với hổ, [thượng hoàng] ngự trên lầu để xem, thái hậu và phi tần đều theo

hầu. Lầu thấp, song chuồng hổ và thềm cũng thấp, hổ bỗng nhiên thoát khỏi

chuồng trèo lên lầu. Người trên lầu đều tan chạy cả. Chỉ có Thượng hoàng và

Thái hậu cùng 4, 5 thị nữ còn ở đó. Thái hậu nghĩ không khỏi bị hại, mới

lấy chiếc chiếu che cho Thượng hoàng và tự che mình. Hổ lên lầu gầm rống

rồi nhảy xuống không vồ hại ai cả.

Lại một lần Thượng hoàng ngự điện Thiên An xem đấu voi ở Long Trì. Con voi

bỗng nhiên xổng thoát,xông tới, định lên điện, tả hữu đều sợ hãi tan chạy

cả, chỉ có Thái hậu vẫn ở đó.

[62b] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Hổ hay vồ, voi hay quật, há chẳng đáng khiếp

sợ sao. Thế mà Thái hậu đương lúc chúng lồng lộn xông xáo, tâm thần không

dao động, bình tĩnh đối phó vì bà suy nghĩ chín chắn, lý lẽ đã sáng tỏ vậy.

Kể người đàn bà dáng điệu mềm yếu mà có thể như thế, so với nàng Tiệp Dư

ngày xưa đứng chắn gấu [cho vua]1, có lẽ cũng không thẹn gì. Kẻ sĩ đại phu,

há chẳng nghĩ làm thế nào đạt đến mức

suy nghĩ chín chắn, lý lẽ sáng tỏ, để đối phó với mọi chuyển biến của sự cơ

hay sao?

Có người nói Nhân Tông xem đánh hổ, đấu voi, nếu Thái hậu quả là nguười

hiền, thì nên can ngăn đi, can mà [vua] không nghe, thì cởi trâm hoa dể tạ

tội là phải2. Nay lại đi theo để xem, đến lúc nguy cấp, thoát khỏi tai họa

là may, sao lại được gọi là hiền?

Xin thưa: Đó là những lời trách quá đáng, không phải là lời bàn thường

tình.

[63a] Chiêm Thành sang cống.

Sao Chổi xuất hiện ở vùng sao Tử Vi, sát tới sao Đẩu, sao Khôi, tia sáng

hơn 1 thước, đến trăm ngày mới tắt.

Nhà Nguyên sai Binh bộ thượng thư Lương Tằng dụ vua vào chầu. Vua lấy cớ có

bệnh từ chối,

sai Đào Tử Kỳ sang tặng phương vật. Nhà Nguyên giữ Tử Kỳ ở Giang Lăng, lập

An Nam hành tỉnh, lấy

1 Phùng Tiệp Dư, là một cung nhân của Hán Nguyên Đế; đứng hầu Nguyên Đế

xem chuồng gấu, gấu bỗng xổng thoát, định trèo lên

điện, Tiệp Dư đứng chắn trước vua, ngăn không cho gấu đụng đến vua.

2 Theo tích Khương Hậu, vợ Chu Tuyên Vương, Khương Hậu thấy vua hay dậy

trưa, khuyên mãi không được, bèn cởi bỏ trâm hoa mà tạ tội. Tuyên Vương từ

đấy chăm chính sự, ra chầu sớm, bãi chầu muộn.

204 Đại Việt Sử Ký Toàn Thư -

Bản Kỷ - Quyển V

bọn Bình chương Lưu Nhị Bạt Đô1 cầm quân đóng ở Tĩnh Giang2, đợi lệnh

tiến đánh. Tháng giêng năm năm sau, nguyên Thế Tổ băng. [Nguyên] Thành

Tông3 lên ngôi, xuống chiếu bãi binh, thả Tử Kỳ về nước.

Phong em là Quốc Chẩn làm Huệ Vũ Đại Vương.

1 Tức Lưu Quốc Kiệt, Bạt Đô là phiên âm tiếng Mông Cổ (baatur), có nghĩa

là "dũng sĩ". "người dũng cảm", là danh hiệu của Lưu

Quốc Kiệt.

2 Tĩnh Giang: tức là huyện Quế Lâm, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.

3 Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt chết ngày Quý Dậu, tháng giêng, năm Giáp Ngọ

(18 tháng 2 năm 1294). Nguyên Thành Tông tức là

Thiết Mộc Nhĩ (Tamur) lên ngôi, ra lệnh bãi binh đánh Đại Việt.

205 Đại Việt Sử Ký Toàn Thư -

Bản Kỷ - Quyển VI

Đạ i Vi ệ t S ử Ký B ả n K ỷ Toàn Th ư

Quyển VI

[1a]

K ỷ Nhà Tr ầ n

Anh Tông Hoàng Đế

Tên là Thuyên, con trưởng Nhân Tông, mẹ là Khâm Từ Bảo Thánh hoàng thái

hậu, ở ngôi 21 năm, nhường ngôi 6 năm, thọ 45 tuổi, băng ở cung Trùng

Quang, phủ Thiên Trường, táng ở Thái Lăng. Vua khéo biết kế thừa, cho nên

thời cuộc đi tới thái bình, chính trị trở nên tốt đẹp, văn vật chế độ ngày

càng thịnh vượng, cũng là bậc vua tốt của triều Trần. Song tụ họp nhà sư

trên núi Yên Tử, làm nhọc sức dân dựng gác Ánh Vân, thì chẳng phải là tỳ

vết nhỏ trong đức lớn đó sao?

Giáp Ngọ, Hưng Long năm thứ 2 [1294], (Nguyên Chí Nguyên năm thứ 31). Mùa

xuân tháng 2, ngày mồng 7 ban bố các chữ quốc húy: chữ húy của vua là

Thuyên, của Nhân Tông là Khâm, của Thánh Tông là Hoảng; của Thái Tông là

Cảnh, của Thái Tổ là Thừa, của Nguyên Tổ là Lý; các chữ nội húy: Thánh Từ

hoàng hậu là Phong, Thuận Từ hoàng hậu là Diệu, Hiển Từ hoàng hậu là Oanh,

Nguyên Thánh hoàng hậu là [1b] Hâm.

Tháng 3, lấy Nhập nội phán thủ thượng vị Chiêu Hoài hầu Hiện làm Đô áp nha,

coi giữ các sắc mục trong ngoài cung Thánh Từ, lấy con Văn Túc Vương1 là

Văn Bích làm Thượng vị Uy Túc hầu.

Mùa thu, tháng 7, ngày mồng 3, Thượng tướng thái sư Chiêu Minh Đại Vương

Quang Khải mất, thọ 54 tuổi.

Quang Khải lúc mới sinh, phát chứng kinh suýt chết, Thái Tông lấy áo của

Thượng hoàng và thanh gươm báu truyền quốc để bên cạnh rồi bảo ông: "Nếu

sống lại, sẽ ban cho những thứ này".

Đến khi sống lại, Thái Tông nói:

"Gươm báu truyền quốc, không thể trao bừa, chỉ ban cho áo của Thượng hoàng

thôi".

Quang Khải có học thức, hiểu tiếng nói của các phiên2. Trước kia, Thánh

Tông thân đi đánh giặc, Quang Khải theo hầu, ghế tể tướng bỏ không, vừa lúc

có sứ phương Bắc đến. Thái Tông gọi Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn tới bảo:

"Thượng tướng đi theo hầu vắng, trẫm định lấy khanh làm Tư đồ để tiếp sứ

phương Bắc". Quốc Tuấn trả lời:

"Việc tiếp [2a] sứ giả, thần không dám từ chối, còn như phong thần làm Tư

đồ thì thần không dám vâng chiếu. Huống chi Quan gia đi đánh giặc xa, Quang

Khải theo hầu mà bệ hạ lại tự ý phong chức, thì tình nghĩa trên dưới, e có

chỗ chưa ổn, sẽ không làm vui lòng Quan gia và Quang Khải. Đợi khi

xa giá trở về, sẽ xin vâng mệnh cũng chưa muộn".

1 Văn Túc Vương: tên là Đạo Tái, con của Trần Quang Khải.

2 Chỉ các dân tộc ít người sống trên lãnh thổ Đại Việt thời đó. Nhật Duật

còn biết tiếng của nước xung quanh Đại Việt, như Hán, Chăm-pa.

Đến khi Thánh Tông trở về, việc ấy lại bỏ đấy, vì hai người vốn không ưa

nhau.

Một hôm, Quốc Tuấn từ Vạn Kiếp tới, Quang Khải xuống thuyền chơi suốt ngày

mới trở về. Lại

Quang Khải vốn sợ tắm gội, Quốc Tuấn thì thích tắm thơm, từng đùa bảo Quang

Khải:

"Mình mẩy cáo bẩn, xin tắm giùm", rồi cởi áo Quang Khải ra, dùng nước thơm

tắm cho ông và

nói:

"Hôm nay được tắm cho Thượng tướng".

Quang Khải cũng nói: "Hôm nay được Quốc công tắm rửa cho".

Từ đó, tình nghĩa qua lại giữa hai người càng thêm mặn mà. Bản thân làm

tướng văn, tướng võ,

giúp rập nhà vua, hai ông đứng hàng đầu.

Quang Khải ham học hay thơ, có Lạc đạo [2b] tập lưu hành ở đời. Con ông là

Văn Túc Vương

Đạo Tái cũng nổi tiếng về văn học thời đó, được Thượng hoàng ưu ái hơn các

em thúc bá khác.

Bấy giờ, Thượng hoàng đến Vũ Lâm1 vào chơi hang đá, cửa núi đá hẹp, thượng

hoàng ngự chiếc thuyền nhỏ, Tuyên Từ thái hậu ngồi đằng đuôi thuyền, gọi

Văn Túc Vương lên mũi thuyền, chỉ để một người chèo thuyền thôi. Đến khi

thượng hoàng xuất gia, sắp ra đi, mời Đạo Tái vào điện Dưỡng Đức cung Thánh

Từ cho ngồi ăn các món hải vị, làm thơ rằng:

Hồng thấp bác quy cước, Hoàng hương chích mã an, Sơn tăng trì tịnh giới,

Đồng tọa bất đồng xan. (Quy cước2 bóc đỏ ướt,

Mã yên nướng vàng thơm, Sơn tăng giữ trai giới,

Cùng ngồi chẳng cùng ăn).

Tin yêu, quý mến Đạo Tái đến như vậy, định dùng ông vào chức to, nhưng trời

không cho sống lâu. Cháu [Quang Khải] là Uy Túc công Văn Bích làm Thái bảo

thời Minh Tông, chắt là Chương Túc quốc thượng hầu Nguyên Đán là Từ đồ đời

Nghệ Tông cũng có danh tiếng. Đức trạch [của Quang Khải] thực sâu dày, cùng

hưởng phúc với nhà vua từ trước đến sau.

[3a] Tháng 8, Thượng hoàng đích thân đi đánh Ai Lao, bắt được người và súc

vật nhiều không

kể xiết. Trong chiến dịch này, Trung Thành Vương (không rõ tên) làm tiên

phong, bị quân Ai Lao bao vây, Phạm Ngũ Lão dẫn quân ập tới, giải vây, rồi

tung quân nghênh chiến, đánh bại quân Ai Lao. Ban kim phù cho Ngũ Lão.

Tháng 9, lấy ngày sinh làm tiết Sùng Thiên.

Thiếu bảo Đinh Củng Viên mất, vua tôn trọng không gọi tên ông.

Ất Mùi, [Hưng Long] năm thứ 3 [1295], (Nguyên Thành Tông Mộc Nhĩ Nguyên

Trinh năm thứ

1). Mùa xuân, tháng 2, ngày mồng 1, sứ Nguyên Tiêu Thái Đăng sang.

Vua sai Nội viên ngoại lang Trần Khắc Dụng, Phạm Thảo cùng đi theo, nhận

được bộ kinh Đại

Tạng đem về để ở phủ Thiên Trường, in bản phó để lưu hành.

Mùa hạ, tháng 6, Thượng hoàng trở về kinh sư. Vì [trước] đã xuất gia ở hành

cung Vũ Lâm rồi lại

trở về.

Bấy giờ, Tuyên Từ thái hậu từ khi Khâm Từ băng, phải quản việc trong cung,

tính người khó

khăn nóng nảy, dạy bảo rất nghiêm, mà vua vâng theo rất kính cẩn. Thượng

hoàng [3b] nói [với vua]:

1 Tức là xã Vũ Lâm huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.

2 Quy cước, mã yên: là hai món ăn. Quy cước là món sò huyết, mã yên: chưa

rõ món gì.

"Cha tự thẹn xưng là Hiếu Hoàng, nên dùng danh hiệu ấy để gọi Quan gia thì

phải".

Ngày 13, người đàn bà ở phường Tây Nhai phía hữu kinh thành là Lê Thị Ta

nghe tin chồng là Phạm Mưu đi sứ nước Nguyên ốm mất, thương nhớ không ăn 3

ngày rồi cũng mất. Việc ấy tâu lên, [vua] cho bạc lụa để viếng.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Công chúa Thiều Dương nghe tin Thái Tông băng, kêu

gào mãi rồi chết; Lê thị nghe tin chồng chết, không ăn mà chết; Mỵ Ê phu

nhân tiết nghĩa không thờ hai chồng, nhảy xuống sông mà chết; vợ Ngô Miễn

là Nguyễn Thị không phụ nghĩa chồng, cũng nhảy xuống sông chết theo

chồng. Mấy người này đức hạnh thuần hiếu, trinh tiết, trên đời thực

không có nhiều. Các vua đương thời nêu khen họ để khuyến khích đời sau thực

là phải lắm! Nhưng Thiều Dương và Nguyễn thị chưa được nêu khen, cho nên

bàn chung cả ở đây.

Truy tặng Đinh Củng Viên làm Thiếu phó.

Mùa thu, tháng 8, thi con trai các quan văn từ miện sam1 trở xuống [4a]ở

nha An Hoa, sung bổ

làm thuộc viên nha ấy.

Bính Thân, [Hưng Long] năm thứ 4 [1269], (Nguyên Trinh năm thứ 2). Mùa

xuân, tháng 3, Thượng phẩm Nguyễn Hưng đánh bạc, [vua sai] đánh chết.

Phan Phu Tiên nói: Luật pháp nhà Trần nghiêm cấm đánh bạc đến như vậy, thế

mà đến đời Dụ Tông lại công nhiên làm bậy, gọi là những người giàu vào cung

đánh bạc,

rồi sau người trong nước bắt chước cái dở ấy, không thể ngăn cấm được nữa.

Cuối cùng

vì tệ đánh bạc mà rồi mất nước.

Nhân Huệ Vương Khánh Dư từ Bài Áng vào chầu.

Người trong trấn kiện Khánh Dư tham lam thô bỉ. Hành khiển đem sự trạng tâu

lên. Khánh Dư

nhân đó tâu vua:

"Tướng là chim ưng, dân lính là vịt, dùng vịt để nuôi chim ưng thì có gì là

lạ?".

Vua không hài lòng, Khánh Dư bèn trở về. Khánh Dư vào chầu không quá 4

ngày đã trở về, vì

sợ ở lâu bị vua khiển trách.

Mùa thu, tháng 7, vua [4b] ngự đến Đông Bộ Đầu xem đua thuyền. Được mùa to.

Đinh Dậu, [Hưng Long] năm thứ 5[1279], (Nguyên Đại Đức năm thứ 1). Mùa

xuân, tháng 2, duyệt định dân binh các xã trong cả nước, bắt đời đời làm

lính, không được làm quan theo quy chế cũ.

Đổi giáp thành hương.

Sai Chiêu Văn Vương Nhật Duật đi đánh sách A Lộc. Hưng Nhượng Vương Quốc

Tảng đi đánh sách Sầm Tử.

Ai Lao xâm phạm sông Chàng Long. Phạm Ngũ Lão đánh bại chúng, lấy lại được

đất cũ. Ban vân phù cho Phạm Ngũ Lão.

Mùa hạ, tháng 4, lấy Trần Thì Kiến làm Kiểm pháp quan, nhậm chức Đại an phủ

Kinh sư.

Thì Kiến tính người cương trực, trước kia làm môn khách của Hưng Đạo Vương,

Vương tiến cử

ông, được cất nhắc làm An phủ sứ Thiên Trường. Có người trong hương, nhân

ngày giỗ đem biếu mâm

cỗ, Thì Kiến hỏi vì cớ gì mà biếu. Người ấy trả lời là vì ở gần trị sở [nên

đem biếu] chứ không kêu xin gì. Mấy ngày sau, quả nhiên có việc kêu xin.

Thì Kiến [5a] móc họng mửa ra. Đến đây lại được thăng làm Kiểm pháp quan.

Mỗi khi có kiện tụng, thì dùng lý lẽ mà bắt bẻ, việc đến thì tìm phương

pháp để ứng phó. Người đời đều cho là giỏi xét đoán kiện tụng (Thì Kiến

người Cự Sa, huyện Đông Triều).

1 Theo Cương mục thì miện sam là chức hiệu thư quyền miện, người đỗ thám

hoa được bổ chức ấy. Sam là chức bạ thư mạo sam,

người đỗ bảng nhãn được bổ chức ấy.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Thì Kiến hành động lạ lùng quá mức để uốn nắn cái

tệ

xin xỏ của người bấy giờ, cũng như Án Anh tằn tiện quá mức để uốn nắn cái

thói xa xỉ

tiếm lễ của Quan Trọng vậy.

Mùa đông, tháng 10, sai phủ tông chính khảo chính phả hệ của họ nhà vua.

Mậu Tuất, [Hưng Long] năm thứ 6 [1298], (Nguyên Đại Đức năm thứ 2). Mùa

xuân, ban hai chữ húy là Ngụy và Châu.

Mùa thu, tháng 8, cấm mọi người không được xưng là "thần" với các nhà đại

thần tôn thất. Thi đánh gậy.

Tháng 9, gió lớn mưa to.

Mùa đông, tháng 10, đánh Ai Lao. Tướng Nguyên đầu hàng là Trương Hiển chết

tại trận, được tặng tước minh tự, cho thờ ở Thái Thường.

Lấy Phạm Ngũ Lão làm Hữu kim ngô vệ đại [5b] tướng quân. Đặt [các quân

hiệu] Thượng đô1, Thủy dạ xoa đô, Chân kinh đô, thích các chữ như "Chân

kim"... lên trán.

Tháng 12, sao Chổi mọc ở phương đông. Vua lánh không ở chính điện, giảm món

ăn. Lấy Ngự sử đại phu Trần Khắc Chung làm Đại an phủ Kinh sư.

Lấy Trần Thì Kiến làm Nhập nội hành khiển hữu gián nghị đại phu. Vua ban

cho ông cái hốt có khắc bài minh ngự chế.

Thái sơn trinh cao, Tượng hốt trinh liệt, Linh trãi tiến giác,

Vi hốt nam chiết. (Thái sơn rất cao, Hốt ngà rất cứng,

Linh trãi2 dâng sừng, Làm hốt khó gãy).

Kỷ Hợi, [Hưng Long] năm thứ 7 [1299], (Nguyên Đại Đức năm thứ 3). Mùa xuân,

tháng 4, ngày

12, xuống chiếu cấm chữ húy của Khâm Minh Đại Vương và Thiện Đạo quốc mẫu

(Khâm Minh tên húy là Liễu, Thiện Đạo tên húy là Nguyệt; Thiện Đạo là phu

nhân của Liễu) khi làm văn không được dùng. Các các chữ Ngụy, Thấp, Nam,

Càn, Tô, Tuấn, Anh, Tảng khi làm văn phải viết bớt nét. Nhà Trần kiêng tên

huý họ ngoại bắt đầu từ đây.

Lấy Phạm Ngũ Lão làm Thân vệ tướng quân kiêm quản quân Thiên thuộc phủ Long

Hưng.

[6a] Tháng 5, lấy Đoàn Nhũ Hải làm Ngự sử trung tán.

Bấy giờ Thượng hoàng từ phủ Thiên Trường trở về kinh sư. Các quan trong

triều không ai biết

cả, vua thì uống rượu xương bồ say khướt. Thượng hoàng thong thả đi thăm

khắp các cung điện, từ giờ Thìn đến giờ Tỵ. Cung nhân dâng bữa, Thượng

hoàng ngoảnh nhìn không thấy vua, lấy làm lạ, hỏi là Quan gia ở đâu? Cung

nhân vào trong nội đánh thức, nhưng ngài không tỉnh. Thượng hoàng giận lắm,

lập tức trở về Thiên Trường, xuống chiếu cho các quan ngay ngày mai đều

phải tới phủ Thiên Trường để điểm danh, ai trái lệnh sẽ bị xử tội.

Đến giờ Mùi vua mới tỉnh, cung nhân đem việc ấy tâu lên. Vua sợ quá, đi rảo

ra khỏi cửa cung không thấy ai coi giữ; qua chùa Tư Phúc, thấy học sinh

Đoàn Nhữ Hài ở cửa chùa. Vua hỏi: "Sao ngươi

1 Cương mục chép là Thượng chân đô.

2 Theo truyền thuyết Trung Quốc, trãi là loài thú không chân, có 1 sừng,

hễ gặp người không chính trực thì húc nên dùng trãi làm biểu tượng cho quan

ngự sữ giữ việc đàn hặc, hay gián quan giữ việc khuyên can vua.

lại ở đây?". Nhữ Hài vội vàng lạy rạp xuống đất tâu: "Thần vì mãi học, đi

lỡ ra đây". Vua bèn dẫn Nhữ

Hài vào buồng ngủ và bảo:

"Vừa rồi trẫm vì say rượu, có tội với Thượng hoàng, giờ trẫm định đến [6b]

trước mặt ngài tạ

tội, ngươi hãy thảo cho trẫm bài biểu".

Nhữ Hài đứng trước mặt vua, soạn xong tờ biểu. Vua bèn lấy thuyền nhẹ đi

ngay, cho Nhữ Hài theo mình.

Sáng sớm hôm sau, vua tới phủ Thiên Trường, dâng biểu tạ tội. Thượng hoàng

thấy Nhữ Hài, liền hỏi là người nào. Nội nhân trả lời là người dâng biểu

của Quan gia. Thượng hoàng không nói gì.

Buổi chiều, mưa gió ập đến. Nhữ Hài vẫn cứ quỳ không nhúc nhích. Thượng

hoàng hỏi: "Người ở

trong sân có còn đấy không?". Nội nhân đáp rằng còn. Thượng hoàng bèn sai

nhận biểu để xem, thấy lời

lẽ khẩn thiết cho gọi vua vào bảo:

"Trẫm còn có con khác, cũng có thể nối ngôi được. Trẫm đang sống mà ngươi

còn như thế, huống chi sau này?".

Vua rập đầu tạ tội. Thượng hoàng hỏi: "Ai soạn biểu cho ngươi". Vua thưa:

"Đó là thư sinh Đoàn Nhữ Hài".

(Sử cũ chép việc này vào năm Mùi đời Minh Tông nay xét nên để ở đây).

Thượng hoàng bèn gọi Nhữ Hài vào và bảo: "Bài biểu ngươi soạn, rất hợp lòng

trẫm". Rồi xuống chiếu cho Quan [7a] gia lại vẫn làm vua; các quan về triều

như cũ.

Vua từ Thiên Trường trở về [Kinh], phong Nhữ Hài làm Ngự sử trung tán. Bấy

giờ có người ghen

Nhữ Hài tuổi trẻ làm quan to, làm thơ chế giễu rằng:

Phong hiến luận đàm truyền cổ ngữ, Khẩu tồn nhữ xú Đoàn trung tán.

(Ôn câu chữ cổ: Đài ngự sử,

Miệng sữa còn hôi: Trung tán Đoàn).

Nhữ Hài là cận thần của vua. Vua nói năng hành động gì đều được biết cả.

Đến khi nhận chức này, xem thực lục của sử thần chép, có chổ lầm lẫn, bèn

sửa lại cho đúng, rồi đốt bỏ bản thảo cũ đi.

Vua bái yết sơn lăng.

Tháng 6, tế khắp các thần kỳ núi sông.

Mùa thu, tháng 7, xây am Ngự Dược trên núi Yên Tử.

Tháng 8, Thượng hoàng từ phủ Thiên Trường lại xuất gia vào núi Yên Tử tu

khổ hạnh.

Thượng hoàng có lần ngự cung Trùng Quang, vua đến chầu, quốc

công Quốc Tuấn đi theo. Thượng hoàng nói:

"Nhà ta vốn là người hạ lưu (thủy tổ người Hiền Khánh), đời đời chuộng dũng

cảm, thường xăm hình rồng vào đùi. Nếp nhà theo nghề võ, nên [7b] xăm rồng

vào đùi để tỏ là không quên gốc".

Bấy giờ thợ xăm đã đợi mệnh ở ngoài cửa cung. Vua rình lúc Thượng hoàng

quay nhìn chỗ khác,

về ngay cung Trùng Hoa. Một lúc lâu, Thượng hoàng hỏi Quan gia đâu rồi, các

quan tả hữu thưa là đã về

cung Trùng Hoa. Thượng hoàng bảo: "Quan gia đã trốn rồi chăng? thì xăm cho

Huệ Vũ Quốc Chẩn vậy".

Quốc phụ có xăm hình rồng ở đùi, mà về sau nối ngôi không xăm ở đùi nữa là

bắt đầu từ Anh

Tông.

Lại hồi quốc sơ, quân sĩ đều xăm hình rồng ở bụng, ở lưng và hai bắp đùi,

gọi là "thái long"

(rồng hoa).Vì khách buôn người Tống thấy dân Việt ta xăm hình

rồng, lỡ gặp gió bão thuyền đắm, thuồng luồng không dám phạm tới, cho

nên gọi là "thái long".

Vua thích vi hành, cứ đêm đến, lại lên kiệu, cùng với hơn chục thị vệ đi

khắp trong kinh kỳ, gà

gáy mới trở về cung. Có đêm, ra đến quân phường, bị bọn vô lại ném gạch

[8a] trúng vào đầu vua. Người theo hầu thét lên: "Kiệu vua đấy". Bọn chúng

biết nhà vua, mới tan chạy cả. Một hôm, thượng hoàng thấy đầu vua có vết

thương, vặn hỏi, vua cứ thực mà thưa. Thượng hoàng giận giữ hồi lâu.

In các sách Phật giáo pháp sư, Đạo trường tân văn và Công văn cách thức ban

hành trong cả

nước.

Tháng 9, xuống chiếu rằng từ năm Canh Dần (1290), Tân Mão (1291) đến nay,

phàm bán ruộng

đất và mua gia nhân làm nô thì cho được chuộc, nếu để quá năm nay thì không

cho chuộc nữa.

Xuống chiếu cho sĩ nhân trong nước ôn luyện để đợi thi.

Lấy nội quan Trần Hùng Thao làm Tham tri chính sự, đồng tri Thánh Từ cung

tả ty sự. Sau Hùng

Thao can tội phê án tha người nên bãi chức.

Canh Tý, [Hưng Long] năm thứ 8 [1300], (Nguyên Đại Đức năm thứ 8). Mùa

xuân, tháng giêng, ngày 27, động đất 3 lần, suốt từ giờ thân đến giờ tý mới

thôi.

Tháng 3 nhuận, Trần Quốc Khang chết.

Quốc Khang từng cai trị Diễn Châu, chọn [8b] con gái đẹp trong châu làm vợ

lẽ nàng hầu, nên các con thứ như Huệ Nghĩa, Quốc Trinh đều do các bà Diễn

Châu sinh ra. Về sau chức Tri châu Diễn Châu đều do con cháu Quốc Khang làm

cả. Đến khi dòng giống thiếu người nối dõi, mới dùng người trong châu làm

chức ấy.

Mùa hạ, tháng 4 (không chép ngày), mặt trời rung động.

Tháng 5, ngày 16, xuống chiếu rằng các quan văn võ trong triều ai mới có

chữ phê mà không có

ấn trướng hạ1 thì phải giảm 1 tư, người có công đánh dẹp thì không phải

giảm (đó là xét những thiếp ban cho trong thời gian mất ấn).

Người đàn bà lộ Hồng đẻ một con trai có hai đầu. Tháng 6, ngày 24, sao sa.

Hưng Đạo Vương ốm. Vua ngự tới nhà thăm, hỏi rằng:

"Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách

như thế nào". Vương trả lời:

"Ngày xưa Triệu Vũ dựng nước, vua Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế "thanh

dã"2, đại quân

ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, còn đoản binh thì đánh úp phía

sau. Đó là [9a] một thời. Đời Đinh, Lê dùng người tài giỏi, đất phương Nam

mới mạnh mà phương Bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân

không lìa, xây thành Bình Lỗ3 mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời.

Vua Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm,

Liêm, đến tận Mai Lĩnh4

là vì có thế.

Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa

mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Đại khái,

nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản [binh] chế trường

[trận] là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa,

như

gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng

chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy,

tùy thời tạo thế, cóđược đội quân một lòng như cha

1 Ấn trướng hạ: con dấu đóng trong khi hành quân, đánh dẹp.

2 Thanh dã: làm vườn không nhà trống, khiến quân xâm lược tới không có một

nguồn hậu cần tại chổ nào.

3 Thành Bình Lỗ: chưa biết là ở đâu, nhưng có lẽ là nằm ở trong vùng hương

Bình Lỗ hay quận Bình Lỗ đời Lê Đại Hành, tức khu vực nằm giữa sông Cầu và

sông Cà Lô, gần Phù Lỗ, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.

4 Đèo Mai Lĩnh: tức đèo Đại Du, phía nam huyện Đại Dũ, tỉnh Quảng Tây,

Trung Quốc.

con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân [9b] để làm kế sâu rễ bền

gốc, đó là thượng sách giữ

nước vậy".

Quốc Tuấn là con Yên Sinh Vương, lúc mới sinh ra, có một thầy tướng xem cho

và bảo: "[Người này] ngày sau có thể giúp nước cứu đời".

Đến khi lớn lên, dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người, đọc rộng các

sách, có tài văn võ. Yên Sinh Vương trước đây vốn có hiềm khích với Chiêu

Lăng1, mang lòng hậm hực, tìm khắp những người tài nghệ để dạy Quốc Tuấn.

Lúc sắp mất, Yên Sinh cầm tay Quốc Tuấn giối giăng rằng:

"Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không

nhắm mắt được?. Quốc Tuấn ghi điều đó trong lòng, nhưng không cho là phải.

Đến khi vận nước lung lay, quyền quân quyền nước đều do ở mình, ông đem lời

cha dặn nói với gia nô là Dã Tượng, Yết Kiêu. Hai người gia nô can ông:

"Làm kế ấy tuy được phú quý một thời nhưng để lại tiếng xấu ngàn năm. Nay

Đại Vương há chẳng đủ phú và quý hay sao? Chúng tôi thề xin chết già làm

gia nô, chứ không [10a] muốn làm quan

mà không có trung hiếu, chỉ xin lấy người làm thịt dê là Duyệt làm thầy mà

thôi2.

Quốc Tuấn cảm phục đến khóc, khen ngợi hai người.

Một hôm Quốc Tuấn vờ hỏi con ông là Hưng Vũ Vương:

"Người xưa có cả thiên hạ để truyền cho con cháu, con nghĩ thế nào?". Hưng

Vũ Vương trả lời:

"Dẫu khác họ cũng không nên, huống chi là cùng một họ!". Quốc Tuấn ngẫm cho

là phải.

Lại một hôm Quốc Tuấn đem chuyện ấy hỏi người con thứ là Hưng Nhượng Vương

Quốc Tảng. Quốc Tảng tiến lên thưa:

"Tống Thái Tổ vốn là một ông lão làm ruộng, đã thừa cơ dấy vận nên có được

thiên hạ"3. Quốc Tuấn rút gươm kể tội:

"Tên loạn thần là từ đức con bất hiếu mà ra", định giết Quốc Tảng, Hưng Vũ

Vương hay tin, vội chạy tới khóc lóc xin chịu tội thay, Quốc Tuấn mới tha.

Đến đây, ông dặn Hưng Vũ Vương:

"Sau khi ta chết, đậy nắp quan tài đã rồi mới cho Quốc Tảng vào viếng".

Mùa thu, tháng 8, ngày 20, Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn mất ở phủ đệ Vạn Kiếp,

được tặng Thái

sư [10b] thượng phụ thượng quốc công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương.

Thánh Tông có soạn bài văn bia ở sinh từ [của Quốc Tuấn], ví ông với Thượng

phụ [ngày xưa]4.

Lại vì ông có công lao lớn, gia phong là Thượng quốc công, cho phép ông

được quyền phong tước cho người khác, từ minh tự trở xuống, chỉ có tước hầu

thì phong tước rồi tâu sau. Nhưng Quốc Tuấn chưa bao giờ phong tước cho một

người nào. Khi giặc Hồ vào cướp, Quốc Tuấn lệnh cho nhà giàu bỏ thóc ra cấp

lương quân, mà cũng chỉ cho họ làm lang tướng giả chứ không cho họ tước

lang thực, ông kính cẩn

giữ tiết làm tôi như vậy đấy.

1 Tức Trần Thái Tông.

2 Sở Chiêu Vương chạy loạn ra nước ngoài, có người làm thịt dê tên là

Duyệt đi theo. Sau Chiêu Vương trở về nước, ban thưởng cho

Duyệt. Duyệt từ chối và nói: "Nhà vua mất nước, tôi không được giết dê, nay

vua về nước, tôi lại được làm nghề giết dê, tước lộc thế là đủ còn thưởng

gì nữa".

3 Cao Tổ nhà Hậu Tống Tên là Lưu Dụ vốn là người làm ruộng, sau nhân dịp

loạn lạc, nổi lên giành được thiên hạ.

4 Thượng phụ: tức Lã Vọng, giúp Chu Vũ Vương giành được thiên hạ, Vũ Vương

tôn làm thầy, gọi là Thượng phụ.

Quốc Tuấn lại từng soạn sách để khích lệ tướng sĩ dưới quyền, dẫn chuyện Kỷ

Tín chết thay để

cứu thoát Hán Cao1, Do Vu giơ lưng chịu giáo để cứu Sở Tử2 Thế là dạy đạo

trung đó.

Khi sắp mất, ông dặn con rằng: Ta chết thì phải hỏa táng, lấy vật tròn đựng

xương, bí mật chôn trong vườn An Lạc, rồi san đất và trồng cây như cũ, để

người đời không biết chỗ nào, lại phải [làm sao cho] mau phục [11a].

Quốc Tuấn giữ Lạng Giang, người Nguyên hai lần vào cướp, ông liên tiếp đánh

bại chúng, sợ sau này có thể xảy ra tai họa đào mả chăng. Ông lo nghĩ tới

việc sau khi mất lại như thế đấy.

Ông lại khéo tiến cử người tài giỏi cho đất nước, như Dã Tượng, Yết Kiêu là

gia thần của ông, có

dự công dẹp Ô Mã Nhi, Toa Đô. Bọn Phạm Ngũ Lão, Trần Thì Kiến, Trương Hán

Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực vốn là môn khách

của ông, đều nổi tiếng thời đó về văn chương và chính sự, bởi vì ông có tài

mưu lược, anh hùng, lại một lòng giữ gìn trung nghĩa vậy. Xem như khi Thánh

Tông vờ bảo Quốc Tuấn rằng: "Thế giặc như vậy, ta phải hàng thôi". Quốc

Tuấn trả lời: "[Bệ hạ] chém đầu tôi trước rồi hãy hàng". Vì thế, đời Trùng

Hưng, lập nên công nghiệp hiếm có. Tiếng vang đến giặc Bắc, chúng thường

gọi ông là An Nam Hưng Đạo Vương mà không dám gọi tên. Sau khi mất rồi, các

châu huyện ở Lạng Giang hễ có tai nạn bệnh dịch, nhiều người cầu đảo ông.

Đến nay, mỗi khi [11b] đất nước có giặc vào cướp, đến lễ ở đền ông, hễ tráp

đựng kiếm có tiếng kêu thì thế nào cũng thắng lớn.

Quốc Tuấn từng soạn sách Binh gia diệu lý yếu lược để dạy các tỳ tướng, dụ

họ rằng bài hịch như sau:

"Ta từng nghe, Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế; Do Vu giơ

lưng chịu giáo che chở cho Chiêu vương; Dự Nhượng nuốt than báo thù cho

chủ3; Thân Khoái chặt lấy tay cứu nạn cho nước4; Kính Đức, một chàng tuổi

trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thế Sung5; Cảo Khanh, một bề

tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc6. Từ xưa các bậc

trung thần nghĩa sĩ,

bỏ mình vì nước, đời nào không có? Giả sử các bậc đó cứ khư khư theo thói

nhi nữ thường tình thì cũng chết uổng nơi xó cửa, sao có thể lưu danh sử

sách, để cùng bất hủ với đất trời?.

Các ngươi vốn nòi võ tướng không hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện ấy,

nửa tin nửa ngờ

[12a]. Thôi việc đời trước, hãy tạm không bàn. Nay ta lấy chuyện Tống,

Thát7 mà nói: Vương Công Kiên

là người thế nào; tỳ tướng của ông là Nguyễn Văn Lập (có thuyết cho là Sơn

Lập) lại là người thế nào,

mà lấy thành Điếu Ngư nhỏ như cái đấu chống lại quân Mông Kha đông hàng

trăm vạn; khiến cho sinh linh bên Tống đến nay còn đội ơn sâu8. Cốt Đãi

Ngột Lang9 là người thế naò, tỳ tướng của ông là Cân Ty

1 Hán Cao Tổ bị Hạng Vũ Vương bao vây, bề tôi là Kỷ Tín giả là Hán Cao Tổ

ra hàng. Cao Tổ do đó trốn thoát, còn Kỷ Tín đã bị

thiêu chết.

2 Do Vu: là bề tôi của Sở Chiêu Vương thời Xuân Thu, Sở Chiêu Vương lúc

lánh nạn bị kẻ cướp đâm. Do Vu đã giơ lưng ra chịu đâm

để cứu Chiêu Vương Sở Tử tức Sở Chiêu Vương.

3 Dự Nhượng: là gia thần của Trí Bá nước Tấn thời Chiến Quốc. Trí Bá bị

Triệu Tương Tử giết, Dự Nhượng đã nuốt than cho khác giọng, giả làm hành

khất, mưu giết Trưng Tử để báo thù cho chủ.

4 Thân Khoái: là viên quan giữ ao cá cho Tề Trang Công đời Xuân Thu. Khi

Trang Công bị Thôi Trữ giết, Thân Khoái cũng chết theo.

5 Kính Đức tức Uất Trì Cung là tướng của Đường Thái Tông (lúc ấy còn gọi

là Đức xông lên chém tướng giặc, hộ vệ Thái Tông bị

Vương Thế Sung vây đánh, Kính Đức xông lên chém tướng giặc, hộ vệ Thái Tông

thoát khỏi vòng vây.

6 Nhan Cảo Khanh làm thái thú Thường Sơn, khi An Lộc Sơn nổi loạn đánh bị

bắt, Cảo Khanh luôn miệng chửi An Lộc Sơn, bị Lộc

Sơn cắt lưỡi.

7 Thát: tức Thát Đát, chỉ Mông Cổ.

8 Vương Công Kiên tức Vương Kiên, trị châu Hợp Châu (Tứ Xuyên) đã huy động

nhân dân anh dũng chiến đấu ở núi Điếu Ngư, cầm

cự với đạo quân Mông Cổ do vua Nguyên Mông Ke chỉ huy trong 4 tháng trời,

cho đến khi Mông Ke ốm chết dưới thành Điếu Ngư, quân Mông Cổ phải rút.

9 Tức Uryangkhađai (Uriyangqadai), tên tướng Mông Cổ đã đánh chiếm vùng

Vân Nam và tiến quân vào nước ta năm 1258. Tên của Uryangkhađai ở các thư

tịch có nhiều phiên âm: Ngột Lương Hợp Đãi, Ngột Lương Hợp Thai, Ngột Lương

Cáp Đãi, Ô Đặc Lý Cáp Đạt, Ô Lan Cáp Đạt...

Tư1 lại là người thế nào, mà xông pha lam chướng trên đường muôn dặm, phá

quân Nam Chiếu trong khoảng vài tuần, khiến cho quân trưởng người Thát đến

nay vẫn còn lưu tiếng tốt2.

Huống chi ta cùng các ngươi, sinh ra phải thời rối ren, lớn lên gặp buổi

khó nhọc, ngó thấy sứ

giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục

triều đình, ỷ cái thân dê chó

mà bắt nạt tể phụ. Thác lênh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để thỏa lòng tham

khôn cùng [12b], giả hiệu Vân Nam Vương3 mà thu bạc vàng, để vét của kho

có hạn. Thật khác nào ném thịt cho hổ đói, giữ sao cho khỏi tai vạ về sau!.

Ta từng tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, nước mắt đầm đìa, ruột đau như

cắt, chỉ giận không được ăn thịt, nằm da, nuốt gan, uống máu quân thù, dẫu

trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện

xin làm.

Các ngươi ở lâu dưới trướng, nắm giữ binh quyền, người không có áo, ta cho

áo mặc, kẻ không

có ăn, ta cấp cơm ăn. Quan thấp thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp

bổng, đi thủy thì ta cho thuyền, đi

bộ thì ta cho ngựa; lúc trận mạc thì cùng nhau sống chết, khi ở nhà thì

cùng nhau vui cười, nếu so với

Công Kiên đãi kẻ tỳ tướng, Ngột Lang đãi người phụ tá, cũng chẳng kém gì.

[13a] Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo, thân chịu quốc sỉ

mà không biết thẹn, làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết

tức, nghe nhạc thái thường thết yến sứ ngụy mà không biết căm, hoặc lấy

chọi gà làm vui, hoặc lấy đánh bạc làm thú, hoặc chăm chút vườn ruộng để

nuôi gia đình, hoặc quyến luyến vợ con chỉ vì ích kỷ, hoặc lo làm giàu mà

quên việc quân việc nước, hoặc ham săn bắn mà bỏ việc đánh việc phòng, hoặc

thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hát. Nếu có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa

gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng

làm mưu lược nhà binh, vườn ruộng giàu không thể chuộc được tấm thân ngàn

vàng, vợ con bận không ích gì cho việc quân quốc. Tiền của dẫu nhiều, khôn

mua được đầu giặc; chó săn tuy khỏe, khôn đuổi được [13b] quân thù. Chén

rượu ngon không đầu độc được quân thù, tiếng hát hay không chọc thủng được

tai giặc. Lúc bấy giờ, chúa tôi nhà ta đều bị bắt, đau xót biết dường nào!

Chẳng những thái

ấp của ta bị tước, mà bổng lộc các ngươi cũng về tay kẻ khác, chẳng những

gia quyến ta bị đuổi, mà vợ con các ngươi cũng bị người khác bắt đi, chẳng

những xã tắc tổ tông của ta bị người khác bới đào, chẳng những thân ta kiếp

này bị nhục, dẫu trăm đời sau, tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu mãi còn, mà đến

gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang tiếng là viên bại tướng. Lúc bấy

giờ, dẫu các ngươi có muốn thỏa lòng vui thú, phỏng có được không?.

Nay ta bảo rõ các ngươi: Nên nhớ chuyện "đặt mồi lửa vào dưới đống củi"4,

làm nguy cơ, nên lấy điều "kiềng [14a] canh nóng mà thổi rau nguội"5 làm

răn sợ. Hãy huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho người người

giỏi như Bàng Mông6, nhà nhà đều là Hậu Nghệ, để có thể bêu đầu Hốt Tất

Liệt dưới cửa khuyết, phơi xác Vân Nam Vương ở Cảo Nhai7. Như vậy, chẳng

những thái ấp của ta mãi mãi lưu truyền, mà bổng lộc các ngươi cũng đời đời

được hưởng, chẳng những gia quyến của ta được yên ấm gối chăn, mà vợ con

các ngươi cũng được bách niên giai lão, chẳng những tông miếu của ta được

muôn đời tế lễ, mà ông cha các ngươi cũng được thờ cúng quanh năm, chẳng

những thân ta kiếp này đắc chí, mà các ngươi trăm năm về sau tiếng thơm vẫn

còn. Chẳng những danh hiệu ta lưu truyền

1 Bản Hoàng Việt văn tuyển chép là Xích Tu Tư.

2 Năm 1253, Hốt Tất Liệt và tướng Uryangkhađai vượt sông Kim Sa đánh chiếm

thủ đô nước Đại Lý. Chỉ trong vài tuần, nước Đại Lý

bị chinh phục, vua Đại Lý là Đoàn Hưng bị bắt và đầu hàng. Nam Chiếu nói

đến trong bài hịch là chỉ nước Đại Lý bấy giờ, ở vùng

Vân Nam, Trung Quốc.

3 Vân Nam Vương: tên là Hốt Kha Xích (Hugodi), con trai của Hốt Tất Liệt.

Cuối năm 1267, Hốt Tất Liệt phong Hốt Kha Xích làm Vân

Nam vương, đem quân đóng giữ đất nước Đại Lý cũ ở Vân Nam.

4 Câu trong sách Hán thư: "Ôm mồi lửa đặt dưới đống củi rồi nằm lên trên,

lửa chưa kịp cháy vẫn cho là yên".

5 Câu từ Sở từ: "Kẻ sợ canh nóng thường thổi cả rau nguội".

6 Bàng Mông, Hậu Nghệ: là hai nhân vật bắn cung giỏi trong thần thoại

Trung Quốc.

7 Vốn là nơi trú ngụ của các vua "man di" khi vào chầu vua Hán ở Trường

An. Ở đây chỉ nơi dành cho các sứ bộ nhà Nguyên lưu trú trong kinh thành

bấy giờ.

mãi mãi, mà họ tên các ngươi cũng sử sách lưu thơm. Lúc bấy giờ, dẫu các

ngươi không muốn vui thú

phỏng có được không?.

Nay ta chọn binh pháp các nhà, soạn thành một quyển, gọi là [14a] Binh thư

yếu lược. Các ngươi nếu biết chuyên tập tập sách, theo lời ta dạy bảo, thì

trọn đời là tôi chủ, nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời ta dạy bảo, thì

trọn đời là cừu thù.

Vì sao vậy? Vì giặc Mông Thát là kẻ thù không đội trời chung, mà các người

cứ điềm nhiên không nghĩ rửa nhục, không lo trừ hung, lại không dạy quân

sĩ, thế là quay mũi giáo mà chịu đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua

giặc, khiến cho sau khi dẹp giặc, muôn đời để nhơ, thì còn mặt mũi nào đứng

trong

cõi trời che đất chở nữa? Cho nên, ta viết bài hịch này để các ngươi biết

rõ lòng ta!:.

Quốc Tuấnlại sưu tập binh pháp các nhà, làm thành Bát quái cửu cung đồ, đặt

tên là Vạn Kiếp tông bí truyền thư. Nhân Huệ Vương Khánh Dư viết bài tựa

cho sách ấy như sau:

"Người giỏi cầm quân thì không cần bày trận, người giỏi bày trận thì không

cần phải đánh, người giỏi đánh thì không thua, người khéo thua thì không

chết.

Ngày xưa Cao Dao làm sĩ [15a] sư1 mà không ai dám trái mệnh, đến Vũ Vương,

Thành Vương nhà Chu làm tướng cho Văn Vương, Vũ Vương2, ngầm lo sửa đức, để

lật đổ nhà Thương mà dấy nên vương nghiệp, thế là người giỏi cầm quân thì

không cần phải bày trận vậy. Vua Thuấn múa mộc và múa lông trĩ mà họ Hữu

Miêu đến chầu3, Tôn Vũ nước Ngô đem ngươi đẹp trong cung thử tập trận mà

phía

tây phá nước Sở mạnh, phía bắc uy hiếp nước Tấn, nước Tần, nổi tiếng chư

hầu4, thế là người khéo bày trận không cần phải đánh vậy. Đến Mã Ngập5

nước Tấn theo bát trận đồ, đánh vận động hàng ngàn dặm, phá được Thụ Cơ

Năng để thu phục Lương Châu. Thế gọi là người đánh giỏi không bao giờ thua

vậy.

Cho nên trận nghĩa là "trần", là bày ra, là khéo léo. Ngày xưa, Hoàng Đế

lập phép tỉnh điền 6 để

đặt binh chế. Gia Cát 7 xếp đá sông làm bát trận đồ, Vệ Công 8 sửa lại

làm thành Lục hoa trận. Hoàn Ôn

9 lập ra Xà thế trận có vẽ các thế trận hay, trình bày thứ tự, rõ ràng,

trở thành khuôn phép. Nhưng người đương thời ít ai hiểu được, thấy muôn đầu

ngàn mối, cho là rối rắm, chưa từng biến đổi. [15b] Như Lý Thuyên 10 có

soạn những điều suy diễn của mình, những người đời sau cũng không hiểu ý

nghĩa. Cho nên Quốc công ta mới hiệu đính, biên tập đồ pháp của các nhà,

soạn thành một sách, tuy ghi cả những việc nhỏ nhặt, nhưng người dùng thì

nên bỏ bớt chỗ rườm rà, tóm lược lấy chất thực.

[Sách] gồm đủ ngũ hành tương ứng 11, cửu cung suy nhau 1, phối hợp cương

nhu, tuần hoàn chẵn lẻ. Không lẫn lộn âm với dương, thần với sát, phương

với lợi, sao lành, hung thần, ác tướng, tam

1 Theo truyền thuyết Trung Quốc, Cao Dao làm sĩ sư thời Ngu Thuấn. Sĩ sư

là chức đứng đầu về việc hành ngục thời đó.

2 Vũ Vương làm tướng cho Văn Vương, Thành Vương làm tướng cho Vũ Vương,

đều là những người có công lớn khai sáng ra nhà

Chu.

3 Theo truyền thuyết Trung Quốc, Hữu Miêu là một tộc ở phía Nam, nổi lên

chống lại Thuấn, Thuấn dùng thủ đoạn vỗ về để thu phục.

4 Tôn Vũ là người nước Tề, làm tướng cho Ngô Vương Hạp Lư (đời Xuân Thu)

lấy cung nhân của Hạp Lư, tập trận bày đánh trận, về

sau giúp nước Ngô thu phục chư hầu, mở rộng đất đai.

5 Sách Tấn thư (q.27) chép là Mã Long.

6 Đây là truyền thuyết. Thực ra phép tỉnh điền có từ đời Chu.

7 Gia Các Lượng: Tên tự là Khổng Minh, người đời Tam Quốc, giúp Lưu Bị

dựng nên nước Thục, cùng hai nước Ngô và Nguỵ tạo thành thế chân vạc.

8 Vệ Công: Tức Lý Tĩnh đời Đường Thái Tông, đã mô phỏng bát trận đồ của

Gia Cát Lượng làm ra Lục hoa trận, trận lớn bọc trận nhỏ, gọi là Lý Vệ Công

binh pháp.

9 Hoàn Ôn: Tên tự là Nguyên Tử, một danh tướng đờ Tấn, làm đến chức Đại tư

mã, đã đánh Nguỵ, Tiền Tần... nổi tiếng thời đó.

10 Lý Thuyên: Người đời Đường, soạn sách Thái bạch âm kinh nói về mưu

chước dùng binh.

11 Ngũ hành: Là thuỷ, thổ, kim, mộc, hoả. Ở đây là vận dụng thuyết ngũ

hành tương ứng trong binh pháp.

cát, ngũ hung 2, đều rất rõ ràng, ngang với Tam Đại, trăm đánh trăm thắng.

Cho nên, đương thời có thể

phía bắc trấn ngự Hung Nô 3, phía nam uy hiếp Lâm Ấp 4". Rồi dùng sách này

dạy bảo [con cháu] làm

gia truyền, không tiết lộ ra ngoài. Lại có lời dặn rằng: "Sau này, con cháu

và bồi thần của ta, ai học được

bí thuật này phải sáng suốt mà thi hành, bày xếp [thế trận]; không được ngu

dốt mà trao chữ truyền lời. Nếu không thế thì mình chịu tai ương mà vạ lây

đến con cháu. Thế gọi là tiết lộ thiên cơ đó".

[16a] Ngày 21, hoàng tử Mạnh sinh.

Bấy giờ, các hoàng tử đều không nuôi được, đến khi Mạnh sinh, vua nhờ công

chúa Thụy Bảo

[tức là cô của Nhân Tông] nuôi hộ. Nhưng công chúa cho là bấy giờ bà đương

có vận hạn, lại nhờ Nhật Duật nuôi. (Nhật Duật là anh công chúa Thụy Bảo).

Nhật Duật coi là trách nhiệm của mình, chăm sóc, nuôi nấng, không khác gì

con mình. Nhật Duật nghĩ rằng con trưởng của mình tên là Thánh An, con gái

tên là Thánh Nô, mới đặt tên cho hoàng tử là Thánh Sinh, vì muốn [tên hoàng

tử[ cũng giống với tên con mình. Hoàng tử từ bé nhờ nuôi nấng, đến khi lên

ngôi vua, công chăm nom của Nhật Duật rất nhiều.

Mùa đông, tháng 10, quy định kiểu mũ áo mới của quan văn võ. Quan văn thì

đội mũ chữ đinh màu đen, tụng quan thì đội mũ toàn hoa màu xanh vẫn như quy

chế cũ. Ống tay áo của các quan văn võ rộng 9 tấc đến 1 thước 2 tấc, không

cho dùng từ 8 tấc trở xuống. Các quan văn võ không được mặc xiêm, tụng quan

không được mặc thường (mũ toàn hoa xanh có hai vòng vàng đính vào hai bên).

[16b] Tân Sửu, [Hưng Long] năm thứ 9 [1301], (Nguyên Đại Đức

năm thứ 5). Mùa xuân, tháng giêng, xuống chiếu rằng các quan văn võ đều

đội mũ chữ đinh, thêm miếng lụa bọc tóc màu tía xen màu biếc.

Gả công chúa Thiên Trân cho Uy Túc công Văn Bích5, phong Văn Bích làm Phò

ký lang.

Lấy Trần Thì Kiến làm Tham tri chính sự. Trước đó, khi Thì Kiến làm gián

ngị, can tội chứa giấu dân đinh bị bãi chức, vua nghĩ không phải là cố ý,

nên có lệnh này.

Tháng 2, Chiêm Thành sang cống .

Tháng 3, Thượng hoàng vân du các nơi, sang Chiêm Thành.

Ai Lao sang cướp Đà Giang, sai Phạm Ngũ Lão đi đánh, gặp quân giặc ở Mường

Mai6, giao chiến, bắt được rất nhiều. Phong Ngũ Lão làm Thân vệ đại tướng

quân, ban cho quy phù.

Mùa hạ, tháng 4, hạn hán. Soát tù. Có mưa.

Phong con trưởng của Hưng Nhượng Đại Vương là Quang Triều làm Văn Huệ

Vương. Mùa đông, tháng 11, Thượng hoàng từ Chiêm Thành trở về.

Trần Hùng Thao lại được làm Tham tri chính sự, rồi được cử làm Tả bộc xạ.

[17a] Đói to.

1 Cửu cung: 9 cung. Khái niệm cửu cung ban đầu được đưa ra một cách mơ hồ

trong Cần tạo độ của Kinh Dịch: "Thái Nhất lấy số

của nó để đi qua cửu cung, 4 chính và 4 duy đều hợp thành 15". Trịnh Huyền

chú thích là thần Thái Nhất (hay Thái Ất) ở cung giữa, lần lượt tuần hành 8

cung bát quái ở chung quanh. Cũng từ đó, người Hán lập thành cửu cung số,

gồm 9 cung, tức 9 ô vuông trong một hình vuông, 3 ô hàng trên mang các số

4, 9, 2; 3 ô hàng giữa mang các số 3, 5, 7; 3 ô hàng dưới mang các số

8, 1, 6. Như vậy đó là một ma trận (ảo phương) mà tổng các cột ngang, dọc

và chéo đều bằng 15. Người ta thần bí hoá cửu cung

và về sau đến đời Tống, người ta lại coi cửu cung số là "Lạc thư".

2 Cương nhu, chẵn lẻ, âm dương, thần sát, phương hướng, tinh tú, hung

thần, ác tướng, tam cát, ngũ hung... đều là các khái niệm

được dùng trong việc lập trận đồ thời xưa.

3 Chỉ nước Nguyên.

4 Chỉ vương quốc Chiêm Thành (Chăm-pa).

5 Văn Bích: là con Đạo Tái, cháu Quang Khải.

6 Mường Mai: nay là đất huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình.

Nhâm Dần, [Hưng Long] năm thứ 10 [1302], (Nguyên Đại Đức năm thứ 6). Mùa

xuân, tháng

giêng, lấy thái úy Đức Việp làm thống chính thái sư; Huệ Võ Đại Vương Quốc

Chẩn làm Nhập nội bình chương; Chiêu Văn Vương Nhật Duật làm Thái úy quốc

công.

Theo quy chế cũ: Tân vương1 vào làm tể tướng thì gọi là Quốc công thượng

hầu, nếu vào nội

đình thì gia phong Quan nội hầu.

Có đứa nghịch thần tên là Biếm làm loạn. Sai Phạm Ngũ Lão đi đánh, Biếm bị

giết. Phong Phạm

Ngũ Lão làm Điện súy, ban cho hổ phù.

Bấy giờ có người đạo sĩ phương Bắc là Hứa Tông Đạo theo thuyền buôn sang

ta, cho ở bến sông

Yên Hoa2. Phép phù thủy, đàn chay bắt đầu thịnh hành từ đó.

Quý Mão, [Hưng Long] năm thứ 1 [1303], (Nguyên Đại Đức năm thứ

7). Mùa xuân, tháng giêng, ngày 15, thượng hoàng ở phủ Thiên Trường

[17b], mở hội Vô lượng pháp ở chùa Phổ Minh, bố

thí vàng bạc tiền lụa để chẩn cấp dân nghèo trong nước và giảng kinh Giới

thí.

Tháng 2, lấy Đô áp nha thượng vị Chiêu Hoài hầu Hiện làm Nhập nội phụ quốc

thái bảo.

Mùa đông, tháng 10, quy định kiểu mũ của vương hầu: người tóc dài đội mũ

triều thiên, người tóc ngắn đội mũ bao.

Lấy Trần Khắc Chung làm Nhập nội đại hành khiển.

(Chức hành khiển mà có thêm 2 chữ "nhập nội" là theo triều Lý, chuyên dùng

hoạn quan làm chức ấy. Thời Thánh Tông, thượng tướng Quang Khải khi mới

được phong làm nhập nội thái úy, kiêm làm hành khiển còn có 2 chữ "nhập

nội", liền tâu rằng: "Thần từ bên ngoài vào, cho nên thêm hai chữ "nhập

nội", còn các hành khiển khác đều là hoạn quan, sao lại thêm chữ "nhập

nội", xin bỏ chữ "nhập nội", Thánh Tông nghe theo. Từ đó, hàm hành khiển

chỉ gọi là nội hành khiển. Đến đây, thượng hoàng mới lấy Khắc Chung làm

hành khiển, lại thêm 2 chữ "nhập nội" như xưa và dùng cả sĩ phu làm hành

khiển).

Lấy Đoàn Nhữ Hài làm Tham tri chính sự.

Trước đây, vua sai Nhữ Hài đi sứ Chiêm Thành, Nhữ Hài xin yết kiến Thượng

hoàng ở chùa Sùng

Nghiêm núi Chí Linh, suốt ngày không được gặp. Một lát sau, pháp giá ra

chơi, Nhữ Hài đến bái yết

[18a]. Thượng hoàng nói chuyện với Nhữ Hài có đến một giờ. Khi trở về,

Thượng hoàng bảo tả hữu:

"Nhữ Hài đúng là người giỏi, hắn được Quan gia sai khiến là phải".

Trước đây, sứ nước ta tới Chiêm Thành, đều lạy chúa Chiêm trước, rồi sau

mới mở chiếu thư.

Đến khi Nhữ Hài tới, liền bưng ngay chiếu thư để lên trên án và nói với

chúa Chiêm:

"Từ khi sứ thiên triều mang chiếu thư của thiên tử sang, xa cách ánh sáng

lâu ngày, nay mở chiếu thư, thực như trông thấy mặt thiên tử, tôi phải lạy

chiếu thư đã, rồi mới tuyên đọc sau". Rồi lập tức hướng vào tờ chiếu mà

lạy. Lúc ấy, chúa Chiêm đứng bên cạnh, lạy thế không khỏi có chút chưa ổn,

nhưng lấy cớ mà lạy chiếu thư thì về lý là thuận, mà sứ tiết cũng không

phải khuất.

Hôm sau, Nhữ Hài treo bảng cấm buôn bán ở Tỳ Ni3 (bến cảng của Chiêm

Thành, nơi tụ tập các thuyền buôn), tuyên đọc xong, treo bảng lên, lại gọi

viên coi cảng đến bảo:

"Chỗ này người buôn bán tụ họp phức tạp, lại là bến tàu xung yếu, khó giữ

gìn, [18b] sứ thần

về rồi, cất ngay bảng đi, đừng để mất".

1 Bản dịch cũ chữa là "Thân vương", có lẽ đúng hơn.

2 Yên Hoa: nay là Yên Phụ ở Hà Nội. Thực ra không phải năm này (1302), đạo

sĩ Hứa Tông Đạo mới đến Đại Việt. Theo bài minh trên chuông Thông Thánh

Quán ở Bạch Hạc (Việt Trì), do chính Hứa Tông Đạo soạn năm Đại Khánh thứ 8

(1321), thì ông đã đến Đại Việt vào năm Bính Tý (1276). Ông là người hương

Thái Bình, huyện Phúc Thanh, Phúc Châu, lộ Phúc Kiến.

3 Tỳ Ni còn gọi là Thi Lị bBì Nại hay Thi Nại (Sri Vinaya), tức là cửa Quy

Nhơn ngày nay.

Ý ông cho rằng Chiêm Thành tuy đã thần phục, nhưng thực ra chưa chịu nội

phụ, bảng cấm rốt

cục cũng bị bỏ đi, cho nên nói trước như vậy, không để tự họ làm như thế.

Sau này, đi sứ Chiêm Thành, không lạy chúa Chiêm là bắt đầu từ Nhữ Hài. Khi

về nước, vua rất khen ngợi ông và quyết ý dùng vào chức to, cho nên có lệnh

này.

Giáp Thìn, [Hưng Long] năm thứ 12 [1304], (Nguyên Đại Đức năm thứ 8). Mùa

xuân, tháng giêng, người đàn bà là Lê thị, phường Các Đài, ở cầu bên hữu

kinh thành đẻ con gái có hai đầu, bốn chân, bốn tay.

Tháng 2, lấy Bùi Mộc Đạc làm Chi hậu bạ thư chánh chưởng trông coi cung

Thánh Từ.

Mộc Đạt tên tự là Minh Đạo (người Hoàng Giang), họ Phí, tên là Mộc Lạc, có

tài năng. Thượng hoàng cho rằng họ Phí từ xưa không thấy có, mới đổi làm họ

Bùi, cái tên Mộc Lạc là điềm chẳng lành1 , mới đổi thành Mộc Đạc, sai theo

hầu ngày đêm. Đến nay, trao cho chức ấy. Sau này, người [19a] họ Phí hâm mộ

danh tiếng của Mộc Đạc, nhiều người đổi làm họ Bùi.

Tháng 3, thi kẻ sĩ trong nước. Ban cho trạng nguyên. Mạc Đĩnh Chi chức Thái

học sinh hỏa dũng thủ, sung làm nội thư gia; bảng nhãn Bùi Mộ chức chi hậu

bạ thư mạo sam, sung làm nội lệnh thư gia; thám hoa lang Trương Phóng chức

Hiệu thư quyền miện, sung làm nhị tư; Nguyễn Trung Ngạn đỗ hoàng giáp; tất

cả 44 người đỗ thái học sinh.

Dẫn 3 người đỗ đầu ra cửa Long Môn của Phượng Thành đi du ngoạn đường phố 3

ngày. Còn

3302 người khác thì ở lại học tập.

Trung Ngạn mới 16 tuổi, đương thời gọi là thần đồng.

Về phép thi: Trươc hết thi ám tả thiên Y quốc và truyện Mục Thiên tử3 để

loại bớt. Thứ đến kinh nghi4, kinh nghĩa5, đề thơ (tức thể cổ thi ngũ ngôn

trường thiên) hỏi về "vương độ khoan mãnh"6, theo luật "tài nan xạ trĩ7, về

phú thì dùng thể 8 vần "đế đức hiếu sinh, hiệp vụ dân tâm"8. Kỳ thứ ba thi

chế, chiếu, biểu. Kỳ thứ tư thi đối sách.

(Đĩnh Chi người Chí Linh [19b], Mộ người Thanh Oai, Phóng người Thanh Hóa).

Sư Du Già nước Chiêm sang ta, chỉ ăn sữa bò.

Thi các thủ phân (thủ phân tức là quan lại nắm việc hình pháp) hỏi phép đối

án.

Mùa thu, tháng 7, xuống chiếu rằng các chữ huý về miếu hiệu, tên vua, thì

viết bớt nét.

Tháng 8, cấm chữ huý miếu hiệu nhà Lý 8 chữ: Uẩn, Mã, Tôn, Đức, Hoán, Tộ,

Cán, Sảm, viết bớt

nét.

Tháng 9, xuống chiếu rằng, khi áp tay vào giấy tờ hình án hay văn tự thì

dùng hai đốt của ngón

tay vô danh9 bên trái.

Mùa đông, tháng 11, xuống chiếu thi kẻ sĩ trong nước, hỏi về 7 khoa.

1 Mộc Lạc: có nghĩa là "cây đổ, cây rụng".

2 Nguyên bản in là tam bách tam thiên, hẳn là chữ thiên? in nhầm từ chữ

thập?. Các bản in đời Nguyễn đã chữa lại là tam bách tam thập.

3 Y thiên quốc, lấy ở Quốc ngữ, nội dung nói về đạo trị nước. Mục thiên tử

truyện bộ tiểu thuyết cổ của Trung Quốc, do Quách Phác

đời Tấn chú giải, chép truyện Mục Vương đời Chu. Bản nhầm chữ thiên tử

thành thái tử.

4 Kinh nghi: những điều nghi vấn trong kinh điển nho gia.

5 Kinh nghĩa: bàn về nghĩa lý trong kinh điển nho gia.

6 Chế độ rộng, ngặt.

7 Tài khó bắn trĩ.

8 Đức độ đế vương vốn ưa sự sống, phù hợp với lòng dân.

9 Cũng gọi là ngón đeo nhẫn, ngón áp út.

Tháng 12, sao Chổi mọc ở phương nam.

Trần Hùng Thao xin từ chức Tả bộc xạ, y cho. Lấy Đoàn Nhữ Hài tri Khu mật

viện sự.

Vua đối với người tôn thất như Bảo Hưng (không rõ tên) thân yêu hết mực,

nhưng không trao cho việc chính sự, vì không có tài. Còn như Nhữ Hài chỉ là

một nho sinh thôi, nhưng vì có tài, nên không ngại trong việc ủy dụng nhanh

vọt.

[20a] Xuống chiếu cho phủ Tông chính soạn ngọc phả của họ vua.

Ất Tỵ, [Hưng Long] năm thứ 13 [1305], (Nguyên Đại Đức năm thứ 9). Mùa xuân,

tháng giêng, sách phong hoàng tử thứ tư là Mạnh làm Đông cung thái tử,

(vua) làm bài Dược thạch châm1 ban cho.

Tháng 2, Chiêm Thành sai Chế Bồ Đài và bộ đảng hơn trăm người dâng hiến

vàng bạc, hương quý, vật lạ làm lễ vật cầu hôn. Các quan trong triều đều

cho là không nên, duy có Văn Túc Vương Đạo

Tái chủ trương bàn việc đó, Trần Khắc Chung tán thành, việc bàn mới quyết.

Tháng 3, nước La Hồi2 sai người dâng vải liễn la và các thứ khác. Lấy Trần

Thì Kiến làm Tả bộc xạ.

Bấy giờ có viên độc bạ là Trần Cụ tính khoan hậu, cẩn thận, thật thà, giỏi

ngề đánh cá, bắn nỏ

và chơi cầu. Vua sai dạy thái tử các nghề ấy.

Cụ mỗi khi sắp đánh đàn, thì trước hết cắt đầu dây, buộc lại cho chặt dây

rồi sau mới gảy. Có người hỏi [20b] cớ làm sao, Cụ trả lời: "Nếu khúc đàn

chưa hết mà dây đứt thì làm thế nào?".

Cụ làm cầu thì cân nhắc các múi da, cho mười hai múi cân nhau, duy ba múi ở

miệng cầu lỗ là chỗ bỏ cái bong lợn vào thì hơi mỏng và nhẹ, để cân với sức

nặng ở đầu bong bóng, cho nên khi đá cầu, múi nào ở trên đến lúc rơi xuống

đất lại nguyên như cũ, không bao giờ chuyển khác.

Người đời bắn nỏ, chân đứng cũng như bắn cung, tức là kiểu chữ "đinh" không

thành, chữ "bát" không ngay. Cụ thì đứng ngay ngắn mà bắn và bảo mọi

người:"Phàm bắn cung thì tay trái giơ ra phía trước nắm lấy thân cung, tay

phải kéo dây cung về phía sau, mình đã nghiêng thì chân cũng phải lệch, còn

bắn nỏ thì đưa cân bằng ra phía trước, cho nên khi cầm nỏ mà bắn, thân mình

ngay ngắn, thì cớ gì chân lại phải đứng lệch?".

Nhà ông ta ở và thuyền ông ta đi, đều có hai cửa đối nhau, xếp đặt, bày

biện các thứ cũng cân

đối và phải ngay ngắn, vì là bản [21a] tâm như vậy, cho nên biểu hiện ở mọi

việc làm cũng như vậy.

Cụ người Cứu Liên, vốn có mối hận với Cứu Liên, thề rằng chân không giẫm

lên đất ấy nữa. Sau này trở về Cứu Liên thì đi thuyền, đến khi lên bộ thì

đi kiệu vào cửa, tới giường mới xuống kiệu, thức ngủ, ăn uống đều ở trên

giường. Khi nào chơi xem vườn ao thì sai khiêng giường đến chỗ đó, hết hứng

thì trở về, lại ngồi kiệu, lên thuyền... Cứ như thế cho đến hết đời, chưa

hề giẫm một bước xuống đất

[Cứu Liên]. Ông ta giữ lòng bền rắn một mực như vậy đó, đời xưa gọi thế là

người gàn.

Bính Ngọ, [Hưng Long] năm thứ 14 [1306], (Nguyên Đại Đức năm thứ 10). Mùa

xuân, tháng giêng, ngày mồng 1, Thống chính thái sư Tá Thiên Đại Vương Đức

Việp mất (thọ 42 tuổi).

Mùa hạ, tháng 6, gả công chúa Huyền Trân cho chúa Chiêm Thành Chế Mân.

Trước đây, Thượng hoàng vân du sang Chiêm Thành, đã hứa gã rồi. Các văn sĩ

trong triều ngoài

nội [21b] nhiều người mượn chuyện vua Hán đem Chiêu Quân gả cho Hung Nô làm

thơ, từ bằng quốc ngữ để châm biếm việc đó.

1 Dược thạch châm: nghĩa là bài châm khuyên răn, có tác dụng như thuốc

thang.

2 La Hồi: có lẽ là nước La Hộc (Lava) ở Laphuri, Thái Lan.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Ngày xưa, Hán Cao hoàng vì nước Hung Nô nhiều lần

làm khổ biên cương, mới lấy con gái nhà dân làm công chúa gả cho Thiên Vu

1.

Kết hôn với người không cùng giống nòi, các tiên nho đã từng chê trách,

song dụng ý là muốn binh yên, dân nghỉ, thì còn có thể nói được. Nguyên Đế

thì vì Hô Hàn 2 sang chầu, xin làm rể nhà Hán, nên lấy Vương Tường mà ban

cho, cũng là có cớ.

Nhân Tông đem con gái gả cho chúa Chiêm Thành là nghĩa làm sao? Nói rằng

nhân khi đi chơi đã trót hứa gả, sợ thất tín thì sao không đổi lại lệnh đó

có được không? Vua giữ ngôi trời mà Thượng hoàng đã xuất gia rồi, vua đổi

lại lệnh đó thì có khó gì, mà

lại đem gả cho người xa không phải giống nòi để thực hiện lời hứa trước,

rồi sau lại dùng mưu gian trá cướp về, thế thì tín ở đâu?

[22a] Mùa thu, tháng 9, ngày 15, giờ Tuất, nguyệt thực.

Sai thiên chương học sĩ Nguyễn Sĩ Cố giảng Ngũ Kinh. Sĩ Cố thuộc dòng Đông

Phương Sóc 3, giỏi khôi hài, hay làm thơ phú quốc ngữ. Nước ta làm nhiều

thơ phú bằng quốc ngữ bắt đầu từ đó.

Hành khiển trí sĩ Nguyễn Kim Ngô về chầu, tự xưng là Liễu Nhiễu. Kiên Ngô

tính thẳng thắn, vua

ưu đãi, quý trọng, không gọi tên để khuyến khích những người tuổi già vẫn

giữ quyền vị.

Lấy Trần Hùng Thao làm Thiếu bảo.

Sai Hàn lâm học sĩ Lê Tông Nguyên, Trung thị đại phu Bùi Mộc Đạc sang

Nguyên đáp lễ.

Đinh Mùi, [Hưng Long] năm thứ 15 [1307], (Nguyên Đại Đức năm thứ 11). Mùa

xuân, tháng giêng, đổi hai châu Ô, lý thành châu Thuận và châu Hoá. Sai

Hành khiển Đoàn Nhữ Hài đến vỗ yên dân

hai châu đó.

Trước đấy chúa Chiêm Thành Chế Mân đem đất hai châu đó làm lễ vật dẫn cưới,

nhưng người các thôn La Thuỷ, Tác Hồng, Đà Bồng không chịu theo. Vua [22b]

sai Nhữ Hài đến tuyên dụ đức ý [của nhà vua] chọn người trong bọn họ trao

cho quan tước, lại cấp ruộng đất, miễn tô thuế 3 năm để vỗ về.

Tháng 3, ngày 17, giờ Tỵ, mặt trời có hai quầng, như hình hai cầu vòng giao

nhau. Mùa hạ, tháng 5, chúa Chiêm Thành Chế Mân chết.

Mùa thu, tháng 9, nước to, vỡ đê Đam Đam.

Thế tử Chiêm Thành Chế Đa Da sai sứ thần Bảo Lộc Kê sang dâng voi trắng.

Mùa đông, tháng 10, sai Nhập nội hành khiển thượng thư tả bộc xạ Trần Khắc

Chung, An phủ

Đặng Văn sang Chiêm Thành đón công chúa Huyền Trân và thế tử Đa Da về.

Theo tục lệ Chiêm Thành, chúa chết thì bà hậu của chúa phải vào giàn thiêu

để chết theo. Vua biết thế, sợ công chúa bị hại, sai bọn Khắc Chung, mượn

cớ là sang viếng tang và nói với [người Chiêm]: "Nếu công chúa hỏa táng thì

việc làm chay không có người chủ trương, chi bằng ra bờ biển chiêu hồn ở

ven trời, đón linh [23a] hồn cùng về, rồi sẽ vào giàn thiêu".

Người Chiêm nghe theo.

Khắc Chung dùng thuyền nhẹ cướp lấy công chúa đem về, rồi tư thông với công

chúa, đi đường biển loanh quanh chậm chạp, lâu ngày mới về đến kinh đô.

Hưng Nhượng Đại Vương ghét lắm, mỗi khi thấy Khắc Chung thì mắng phủ đầu:

1 Thiền Vu: tên gọi chúa Hung Nô.

2 Ho Hàn: tức Hô Hàn Da, một thiền vu Hung Nô. Đời Hán Nguyên Đế, Hô Hàn

Da sang chầu và xin làm rể nhà Hán, Nguyên Đế đem Vương Tường (tức Chiêu

Quân) gả cho.

3 Đông Phương Sóc: tên tự là Mạn Thiến, người đời Hán, giỏi khôi hài, hoạt

kê, từng làm Kim mã môn thị trung cho Hán Vũ Đế.

"Thằng này là điểm chẳng lành đối với nhà nước. Họ tên nó là Trần Khắc

Chung1 thì nhà Trần rồi mất về nó chăng?". Khắc Chung thường sợ hãi né

tránh.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Thói gian tà của Trần Khắc Chung thực quá quắt

lắm! Không những hắn giở trò chó lợn ở đây mà sau này còn vào hùa với Văn

Hiến vu hãm quốc phụ thượng tể2 vào tội phản nghịch, làm chết oan đến hơn

trăm người. Thế mà hắn được trọn đời phú quý. Khổng tử nói: Kẻ gian tà được

sống sót là may mà thoát tội chăng?".

Song, sau khi hắn chết, gia nô của Thiệu Vũ [Vương]3 đào xác hắn lên mà

vằm nhỏ ra thì lời thánh nhân càng đáng tin.

[23b] Đói.

Mậu Thân, [Hưng Long] năm thứ 16 [1308], (Nguyên Vũ Tông Hải Sơn, Chí Đại

năm thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng, lấy Trương Hán Siêu làm Hàn lâm học sĩ.

Mùa thu, tháng 11, ngày mồng 1, mặt trời có hai quầng.

Ngày mồng 3, Thượng hoàng băng ở am Ngọa Vân núi Yên Tử.

Bấy giờ Thượng hoàng xuất gia, tu ở ngọn Tử Tiêu núi Yên Tử, tự hiệu là

Trúc Lâm đại sĩ4. Bà

chị là Thiên Thụy ốm nặng, Thượng hoàng xuống núi, tới thăm và bảo:

"Nếu chị đã đến ngày đến giờ thì cứ đi, thấy âm phủ có hỏi thì trả lời

rằng: Xin đợi một chút, em tôi là Trúc Lâm đại sĩ sẽ tới ngay".

Nói xong, Thượng hoàng trở về núi, dặn dò người hầu là Pháp Loa5 các việc

về sau, rồi bỗng nhiên ngồi mà hóa. Thiên [24a] Thụy cũng mất vào hôm đó.

Pháp Loa thiêu [xác Thượng hoàng] được hơn ba ngàn hạt xá lỵ6 mang về chùa

Tư Phúc ở kinh

sư. Vua có ý ngờ. Các quan nhiều người xin bắt tội Pháp Loa. Hoàng thái tử

Mạnh mới 9 tuổi, đứng hầu bên cạnh, chợt thấy có mấy hạt xá lỵ ở trước

ngự7, đưa ra cho mọi người xem, kiểm lại trong hộp, thì đã mất một số ít

hạt. Vua xúc động đến phát khóc, trong lòng mới khỏi nghi ngờ.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Nhân Tông trên thờ Từ Cung làm sáng đạo hiếu, dưới

dùng người giỏi, lập nên võ công. Nếu không có tư chất nhân, minh, anh, võ,

thì sao được như thế? Chỉ có một việc xuất gia là không hợp đạo trung dung,

là cái lỗi của bậc hiền giả8.

Sứ Nguyên là Thượng thư An Lỗ Khôi9 sang báo tin Vũ Tông lên ngôi. Vua sai

Mạc Đĩnh Chi sang

Nguyên.

1 "Trần Khắc Chung" theo tiếng Hán có nghĩa là nhà Trần sắp chấm dứt.

2 Tức Huệ Vũ đại vương Trần Quốc Chẩn.

3 Thiệu Vũ Vương là con của Quốc Chẩn.

4 Thượng hoàng Nhân Tông là tổ thứ nhất của phái Thiền Trúc Lâm đời Trần.

5 Sư Pháp Loa trước là đệ tử của Trúc Lâm đại sĩ, sau trở thành vị tổ thứ

hai của phái Trúc Lâm.

6 Xá lỵ: phiên âm tiếng Phạn sarira, nghĩa là thân thể, thuật ngữ Phật

giáo, chỉ những phần còn lại sau khi thiêu xác, thường là những hạt nhỏ,

được gọi là xá lỵ. Bản in khắc nhầm chữ Xá lỵ thành Xá sát.

7 Câu chuyện trên cũng được chép trong Nam ông mộng lục của Hồ Nguyên

Trừng. Theo sách này (chuyện Tô linh định mệnh), xá

lỵ bay vào ống tay áo hoàng tử Mạnh.

8 Nguyên văn: "Hiền giả quá chi dã". Theo chúng tôi, có lẽ Toàn thư đã

khắc nhầm từ câu: "Hiền giả chi quá dã", nên dịch như trên.

9 Nguyên bản Toàn thư chép là An Lỗ Uy, nhầm chữ Khôi ra chữ Uy. Nguyên

sử, Bản kỷ (Vũ Tông) chép rằng năm Chí Đại thứ 1 (1308), Lễ bộ thượng thư A

Lý sang nước ta. A Lý Khôi hay A Lặc Khôi là những tên phiên âm khác nhau

của người Mông Cổ Alqui.

Đĩnh Chi người thấp bé, người Nguyên khinh ông. Một hôm viên tể tướng mời

ông vào phủ cho

[24b] cùng ngồi. Lúc ấy, đương hồi tháng 5, tháng 6. Trong phủ có bức

trướng mỏng thêu hình con chim sẽ vàng đậu cành trúc. Đĩnh Chi vờ ngỡ con

chim sẽ thực, vội chạy đến bắt. Người Nguyên cười ồ, cho là người phương xa

bỉ lậu. Đĩnh Chi kéo bức trướng xuống xé đi. Mọi người đều lấy làm lạ hỏi

tại sao. Đĩnh Chi trả lời:

"Tôi nghe người xưa vẽ cành mai và chim sẽ, chứ chưa thấy vẽ chim sẻ đậu

cành trúc bao giờ. Nay trong bức trướng của tể tướng lại thêu cành trúc với

chim sẽ. Trúc là bậc quân tử, chim sẽ là kẻ tiểu nhân. Tể tướng thêu như

vậy là để tiểu nhân trên quân tử, sợ rằng đạo của tiểu nhân sẽ mạnh, đạo

của quân tử sẽ suy. Tôi vì thánh triều mà trừ giúp bọn tiểu nhân".

Mọi người đều phục tài của ông.

Đến khi vào chầu, gặp lúc nước ngoài dâng quạt, vua Nguyên sai làm bài

minh. Đĩnh Chi cầm bút viết xong ngay, lời bài minh như sau:

"Lưu kim thước thạch, thiên vị địa lô, nhĩ ư tư thì hề, Y Chu cự nho.

Bắc phong kỳ lương, vũ tuyết tái đồ, nhĩ ư tư thì hề, Di [25a] Tề ngã phu.

Y! dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng, duy ngã dữ nhĩ, hữu như thị phù".

(Chảy vàng tan đá, trời đất như lò, ngươi bấy giờ là Y Chu1 đại nho.

Gió bấc căm căm, mưa tuyết mịt mù, ngươi bấy giờ là Di Tề đói xo2.

Ôi, được dùng thì làm, bỏ thì nằm co, chỉ ta cùng ngươi là thế ru!). Người

Nguyên lại càng thán phục.

Kỷ Dậu, [Hưng Long] năm thứ 17 [1309], (Nguyên Chí Đại năm thứ 2). Mùa

xuân, tháng giêng,

đại xá.

Sách phong Đông cung thái tử Mạnh làm Hoàng thái tử. Truy tôn Khâm Từ Bảo

Thánh thái hậu

làm Thái hoàng thái hậu. Sách phong Thánh Bà phu nhân làm Thuận Thánh hoàng

hậu.

Thứ phi của vua là Phạm thị, là con gái Phạm Ngũ Lão, không có con, xin

xuất gia, vua cho. Mùa đông, tháng 11, trị tội những kẻ đại nghịch là bọn

tên Hân.

Tên Hân bị chém ở cầu Giang Khẩu3, tên Trù ở cửa thành chợ Dừa4, tên Tổng ở

cửa thànhh Tây Dương5, tên Dung ở cửa thành Vạn Xuân6. Tên Hân vì ngày

trước có công lớn, được miễn tịch thu gia sản. Còn bọn tên Lệ 6 người bị

đày ra châu Ác Thuy (Ác Thủy thuộc huyện Yên Bang7. Người bị đày ra

đó, [25b] không một ai sống nổi). Tên Lệ là dòng cuối trong họ nhà vua,

được miễn thích chữ vào mặt. Bọn tên Đảo 4 người bị đày ra châu xa, tên Ma

vì sai vợ là Thị Vĩnh ra thú trước, được tha tội. Theo lệ

cũ, những kẻ có tội đều bị tước bỏ họ, chỉ gọi tên thôi. Tội đồ thì tuy còn

đề họ, nhưng cũng chỉ gọi tên không.

1 Y: Y Doãn, công thần khai quốc của nhà Thương; Chu: là Chu công, công

thần của nhà Chu.

2 Di Tề: tức Bá Di, Thúc Tề hai bề tôi trung của nhà Thương, không chịu

thần phục nhà Chu, bỏ lên núi Thú Dương ở ẩn, bị chết

đói ở đó.

3 Cầu Giang Khẩu: cầu ở vùng của sông Tô Lịch, thuộc phường Giang Khẩu,

tức vùng phố Hàng Buồm, Hà Nội ngày nay.

4 Cửa thành chợ Dừa: ở Ô Chợ Dừa, Hà Nội ngày nay.

5 Cửa thành Tây Dương: ở cửa Ô Cầu Giấy, Hà Nội ngày nay.

6 Cửa thành Vạn Xuân: ở phía ngoài phường Ông Mạc, tức Ô Đống Mác ở Hà Nội

ngày nay.

7 Nguyên bản chép là huyện Yên Bang, nhưng thực ra Yên Bang là tên lộ thời

Trần và tên đạo thời Lê, tức đất tỉnh Quảng Ninh ngày nay. Trong Dư địa chí

của Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn có nói: "Yên Bang là nơi hiểm ác, gọi là viễn

châu (châu xa), các triều đại đều đày người đến ở đó".

Phu nhân Uy Túc công1 là công chúa Thiên Trân mất. Vua thương xót, đến đưa

đám.

(Lệ cũ: Những người lấy công chúa, nếu mất mất hay bỏ nhau, thì đều không

được lấy vợ khác, nếu có lén lấy vợ khác, thì phải giấu giếm vụng trộm.

Thiên Trân mất, Uy Túc lăn ra đất khóc lóc không đứng dậy được. Vua đến đưa

đám, phải người đỡ hai bên mới ra tiếp được, ai cũng bảo là [Uy Túc] nhất

định sẽ không lấy vợ khác nữa, thế mà Uy Túc sau lại lấy Huy Thánh. Văn Huệ

công Quang Triều2 lấy công chúa Thượng Trân. Công chúa mất, Minh Tông đến

điếu tang, Văn Huệ ra đón tiếp tâu bày, như không có vẻ gì đau buồn, mọi

người đều cho là (Văn Huệ) thế nào cũng lại lấy vợ khác. Nhưng sau Văn Huệ

đi tu đến trọn đời).

Lấy Bùi Mộc Đạc làm Trung thư thị lang.

Canh Tuất, [Hưng Long] năm thứ 18 [1310], (Nguyên Chí Đại năm thứ 3). Mùa

thu, tháng 9, ngày 16, rước linh cữu thượng hoàng [26a] về chôn ở lăng Quy

Đức, phủ Long Hưng, xá lỵ thì cất ở bảo tháp am Ngọa Vân; miếu hiệu là Nhân

Tông, tên thụy là Pháp Thiên Sùng Đạo Ứng Thế Hóa Dân Long

Từ Hiển Hiệu Thánh Văn Thần Võ Nguyên Minh Duệ Hiếu Hoàng Đế. Đem Khâm Từ

Bảo Thánh thái hoàng thái hậu hợp táng ở đấy.

Trước đó, linh cữu Nhân Tông tạm quàn ở điện Diên Hiền. Khi sắp đưa rước,

đã đến giờ rồi mà quan lại và dân chúng còn đứng chật cả cung điện. Tể

tướng cầm roi xua đuổi mà vẫn không giãn ra được. Vua cho gọi Chi hậu thánh

chưởng Trịnh Trọng Tử tới bảo:

"Linh cữu sắp đưa rồi mà dân chúng đầy nghẽn như vậy thì làm thế nào? Ngươi

hãy làm cho họ

tránh ra".

Trọng Tử lập tức đến thềm Thiên Trì, gọi quân Hải khẩu và quân Hổ dực (quân

do Trọng Tử trông coi) đến ngồi thành hàng trước thềm, sai hát mấy câu điệu

Long Ngâm. Mọi người đều kinh ngạc, kéo nhau đến xem, cung điện mới giãn

người, bèn rước [linh cữu thượng hoàng] về lăng Quy Đức.

Trọng Tử lo dọc đường thế nào cũng có chỗ cao thấp quanh co, nếu nghiêm túc

im lặng, thì sợ

có sự nghiêng lệch, nếu truyền gọi bảo ban thì lại e ồn ào, bèn đem những

lời dặn về cách đi đứng dàn hàng, phổ vào khúc hát Long Ngâm, sai người hát

lên để bảo nhau. Người thời ấy rất ca ngợi ông. Ý tứ khéo léo của ông đại

loại như vậy. Vua gọi ông là con nhà trời, vì ông hiểu khắp mọi nghề, lớn

nhỏ đều thạo, không việc gì là không biết [26b].

(Trọng Tử nhiều tài nghệ, như cưỡi ngựa lạ không cần người giỏi cưỡi ngựa

chỉ bảo, chỉ nghĩ

cách phòng giữ cho ngựa khỏi lồng chạy đá cắn thôi, thế mà thuật cưỡi ngựa

không có gì là không biết.

Học thuốc thì không cần hỏi thầy thuốc, cứ theo bài thuốc trong sách, xét

chứng xem mạch rồi bốc thuốc, mà cũng không sai lầm. Lại đựng vị xuyên

khung trong túi vải, cho gia đồng mang theo để lấy

hơi người, không sinh mối mọt.

Học đánh cờ thì vẽ bàn cờ và quân cờ lên trần nhà, rồi ngồi nhìn và suy

tính kỹ càng, người

đương thời khen là giỏi cờ.

[Trọng Tử] thường mời đạo sĩ làm phép trấn yểm, đạo sĩ vào chổ ngồi, nhưng

mọi việc đều do Trọng Tử làm cả, mà đạo sĩ thì không phải nói một lời nào.

Khi công chúa Thiên Trân mất, các vương hầu đều tới điếu viếng, thầy cúng

làm phép "hú vía", nhưng thiếu người trả lời. Trọng Tử cố hỏi là người

trả lời phải đứng ở chỗ nào, rồi đến ngay chỗ khuất người để trả lời, mọi

người đều che miệng cười. Đại khái, tài khéo léo của ông đều như thế cả).

[27a] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Triều đình cốt phải nghiêm. Rước đưa linh

cữu thì cần gì phải đến

tể tướng dẹp người, hữu ty dùng kế mới đi được? là bởi nhà trần khoan hậu

thì có thừa mà nghiêm khắc

thì không đủ vậy!.

1 Uy Túc công: tức Trần Văn Bích, con Trần Đạo Tái, cháu Trần Quang Khải.

2 Văn Huệ công: tức Trần Quang Triều, con Trần Quốc Tảng, cháu Trần Quốc

Tuấn. Ở trên, đã chép.

Xá lỵ của Nhân Tông đưa cất vào bảo tháp, có sư Trí Thông phụng hầu. Trước

đây, khi Nhân

Tông xuất gia, sư chùa Siêu Loại là Trí Thông tự đốt cánh tay mình, từ bàn

tay đến tận khuỷu tay, vẫn ung dung không biến sắc. Nhân Tông vào xem, Trí

Thông đặt chỗ cho vua ngồi, lạy và nói: "Thần tăng đốt đèn đó! Đốt đèn

xong, về viện ngũ kỹ, ngũ dậy, chỗ bỏng lửa phồng lên sẽ khỏi hết".

Đến đây, Nhân Tông băng, Trí Thông liền sai vào núi Yên Tử ở hầu bảo tháp

chứa xá lỵ. Đến đời

Minh Tông, ông tự thiêu mà chết.

Năm này nước to, đói.

[27b] Tân Hợi, [Hưng Long] năm thứ 19 [1311], (Nguyên Chí Đại năm thứ 4).

Đặt đô Toàn kim cương, thích ba chữ ở trán, theo lệ Chân thượng đô, Quân

Thiên thuộc có đô Phù đồ thượng và đô Phù

đồ hạ.

Nhận con gái của nhà sư người Hồ là Du Chi Bà Lam vào cung.

Sư đã sang ta vào thời Nhân Tông, vẻ người già nua, tự nói là 300 tuổi, có

thể ngồi xếp bằng nổi trên mặt nước, lại có thể thu cả ngũ tạng lên ngực,

làm cho trong bụng lép kẹp, chỉ còn da bụng và xương sống thôi. Sư chỉ ăn

lưu hoàng, mật, rau dưa, ở mấy năm thì về nước, đến nay lại sang ta. Vua

lấy con gái sư là Đa La Thanh vào cung. Nhà sư sau mất ở Kinh sư.

(Đời Minh Tông có sư người Hồ là Bồ Đề Thất Lý sang ta, cũng có thể giống

nổi trên mặt nước, nhưng nằm ngửa mà nổi, không giống nhà sư Du Chi).

Mùa đông, tháng 12, vua thân đi đánh Chiêm Thành, vì chúa nước ấy là Chế

Chí? (có sách ghi là phan trắc).

Nhâm Tý, [Hưng Long] năm thứ 20 [1312], (Nguyên Nhân Tông Ái Dục Lê Bạt

Lực Bát Đạt

Hoàng Khánh năm thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng, ngày 17, mặt trời [28a] rung

động.

Mùa hạ, tháng 5, dụ bắt được chúa Chiêm Thành Chế Chí đem về; phong em hắn

là Chế Đà A Bà

Niêm làm Á hầu trấn giữ đất ấy.

Trước đó, Chế Chí sai người sang cống. Người ấy là trại chủ Câu Chiêm. Vua

sai Đoàn Nhữ Hài bí mật ước hẹn với hắn. Đến khi vua đích thân đi đánh,

đến phủ Lâm Bình, chia quân làm ba đường: Huệ

Vũ Vương Quốc Chẩn theo đường núi, Nhân Huệ Vương Khánh Dư theo đường biển,

vua tự dẫn sáu quân theo đường bộ; thủy bộ, cùng tiến. Lấy Đoàn Nhữ Hài làm

Thiên tử chiêu dụ sứ đi trước.

Vua đến Câu Chiêm dừng lại. Nhữ Hài sai người tới chỗ trại chủ, nói rõ ý

yêu cầu quốc chủ ra hàng. Trại chủ báo cáo với Chế Chí. Chế Chí nghe theo,

đem gia thuộc đi đường biển tới hàng. Nhân Huệ Vương đem quân đuổi theo.

Nhữ Hài lập tức chạy thư tâu rằng:

"Khánh Dư định cướp công vua".

Vua giận lắm, sai bắt giám quân của Khánh Dư là Nguyễn Ngỗi đem chặt [28b]

chân. Nhân Huệ

sợ, đến ngự doanh tạ tội và nói rằng:

"Thần sợ nó đến giữa biển lại đổi bụng khác, nên mới chặn đằng sau thôi".

Vua nguôi giận, sai chia quân đi tuần các bộ lạc. Người Chiêm tụ tập định

đánh vào ngự doanh. Tiếng voi đã gần, quân sĩ có vẻ lo sợ. Được vài hôm,

quân của Huệ Vũ Vương ự tìm đường mà tới, người Chiêm chạy tan. Trận này

không mất một mũi tên mà Chiêm Thành bị dẹp, đó là công sức của Nhữ Hài.

Ngày vua đóng ở Câu Chiêm, Minh Hiến Vương Uất (con út của Thái Tông) ở

trong doanh trại, bàn tán biện bác, mê hoặc lòng quaân. Vua giận, đuổi ra

khỏi dinh, lệnh cho các quân không được thu nhận. Minh Hiến bèn cùng vài

mươi gia đồng ngủ ở ngoài nội. Phạm Ngũ Lão nghe tin ấy vội mời vào trong

quân và bảo mọi người:

"Thánh thượng vừa quở trách ân chúa và đuổi ra ngoài, lỡ ra bị giặc bắt

được, thì chúng nói là

bắt được hoàng tử, chứ biết đâu là bị vua [29a] quở trách! Ngũ Lão thà chịu

tội trái lệnh, chứ không nỡ

làm lợi cho giặc".

Vua nghe biết, cũng không quở trách ông, Minh Hiến với Ngũ Lão tình nghĩa

thì rất thân nhưng

lễ ý thì rất sơ sài. Minh Hiến đến nhà Ngũ Lão, thường cùng ngồi với nhau

một chiếu, khi về [Ngũ Lão]

lại đem biếu tặng vàng bạc, hễ [Minh Hiến] cần gì, cũng không có ý sẻn

tiếc. Cho nên Minh Hiến thích chơi với ông.

Vua có lần đã trách Ngũ Lão:

"Minh Hiến là hoàng tử, sao ngươi lại khinh xuất thế!". Sau Minh Hiến lại

đến nhà, Ngũ Lão vẫn cùng ngồi như xưa, chỉ nói: "Ân chúa nhớ đến nhà tôi

nữa mà Thánh thượng quở trách tôi".

Nhưng Minh Hiến vẫn lui tới thường xuyên, mà Ngũ Lão cũng không đổi nết cũ.

Ấy là vì một người thì cậy của mà giữ lễ tiết sơ sài, một người thì ham của

mà quên mất cả phận trên dưới vậy.

Nhà Nguyên sai Lễ bộ thượng thư Nãi Mã Đài1 sang báo việc Nhân Tông lên

ngôi. Xa giá trở về, dâng lễ thắng trận [29b] ở các lăng phủ Long Hưng.

Đến sông Thâm Thị2, bỗng gặp mưa gió sấm chớp, ban ngày mà tối đen như đổ

mực, trong khoảng gang tấc cũng không nhìn thấy nhau. Dây buộc thuyền đều

bị đứt cả. Thuyền ngự chìm ở giữa dòng. Vua bám lấy mũi thuyền leo lên mui,

đưa chân cho các cung nữ, nữ quan bám lấy để cùng leo lên mui. Các thuyền

khác đều giạt sang bãi cát. Vua truyền chỉnh đốn lại nghi trượng để về

kinh đô.

Tháng 6, vua từ Chiêm Thành về (đến kinh đô). Các quan bái yết đều mặc áo

ngắn cả, vì đồ

quân phục đều bị ướt hết.

Bấy giờ Hoàng thái tử giám quốc, Chiêu Văn Đại Vương Nhật Duật và Nghi Võ

hầu Quốc Tú chỉ

huy quân tả hữu Thánh dực ở lại giữ nước.

Vua có chiếu tuyên dụ rằng: "Công lao của các quan ở lại giữ nước và các

tướng theo ta đi đánh trận là ngang nhau. Vì thái tử còn trẻ dại, nên việc

ở lại giữ nước lúc này không giống với các lúc khác, còn các tướng đi theo

thì cũng có công". [Nhưng rồi] cũng không tiến hành ban thưởng nữa.

Sai sứ sang Nguyên.

Phong Chế Chí làm Hiệu Trung Vương, [30a] lại đổi làm Hiệu Thuận Vương. Tôn

thêm huy hiệu cho các tiên đế, tiên hậu và gia phong danh thần các xứ. Lập

đền thờ thần ở cửa biển Cần Hải3.

Trước đây, vua đi đánh Chiêm Thành, đến cửa biển Cần Hải (trước là Càn,

tránh tên huý đổi là Cần), đóng quân lại, đêm nằm mơ thấy một thần nữ khóc

lóc nói với vua: "Thiếp là cung phi nhà Triệu Tống, bị giặc bức bách, gặp

phải sóng gió, trôi giạt đến đây. Thượng đế phong thiếp làm thần biển đã

lâu. Nay bệ hạ mang quân đi, thiếp xin giúp đỡ lập công". Tỉnh dậy, vua cho

gọi các bô lão tới hỏi sự thực, cho tế, rồi lên đường. Biển vì thế không

nổi sóng. [Quân nhà vua] tiến thẳng đến thành Đồ Bàn4,

bắt được [chúa Chiêm] đem về. Đến nay, sai hữu ty lập đền, bốn mùa cúng tế.

Truy tôn Chiêu Vương làm Nguyên Tổ Hoàng Đế, Cung Vương làm Ninh Tổ Hoàng

Đế, Ý Vương làm Mục Tổ Hoàng Đế5.

[30b] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Vũ Vương nhà Chu lên ngôi, truy tôn hai tổ

làm vương; Thái Tổ nhà Tống được nước, truy tôn bốn đời làm đế. Bởi vì tổ

tông tích lũy

1 Nãi Mã Đại: các bản Toàn thư khắc nhầm thành Nãi Mã Phản, do chữ Đãi gần

giống chữ Phản. Nãi Mã Đãi là phiên âm tên Mông

Cổ Naimatai (có nghĩa là "người của bộ lạc Naiman").

2 Theo chú thích của CMCB9 thì ở huyện Thanh Trì, Hà Nội, có xã Thâm Thị.

Sông Thâm Thị có lẽ là đoạn sông Hồng chảy qua xã này.

3 Cửa biển Cần Hải: tức Cửa Cờn, nay thuộc huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

4 Đồ Bàn: là kinh đô của Chiêm Thành, nay thuộc tỉnh Bình Định.

5 Chiêu Vương tức là Trần Lý, Cung Vương là Trần Hấp, Ý Vương là Trần

Kinh.

công đức, nhân nghĩa nên mới có được thiên hạ, thì việc truy tôn huy hiệu

cho các miếu

thờ là việc cần phải làm gấp. Nhà Trần có thiên hạ, đã lên ngôi đế mà tước

vương truy phong cho ba đời đã là việc không thỏa lòng người, đến nay mới

truy tôn đế hiệu thì lại

có lỗi là để chậm chạp.

Quý Sửu, [Hưng Long] năm thứ 2 [1313], (Nguyên Hoàng Khánh năm thứ 2). Mùa

xuân, tháng giêng, [truy] tôn Ninh Tổ phu nhânlàm Ninh Từ hoàng hậu, Mục Tổ

phu nhân làm Mục Từ hoàng hậu.

Tháng 2, Hiệu Thuận Vương Chế Chí đến hành cung Gia Lâm, chết, đem hỏa

táng. Tháng 3, sao Chổi mọc ở phương tây.

Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng mất.

Mùa hạ, tháng 6, ngày 20, sét đánh Tam ty viện, thủ phân Lương Lang chết.

Truyền cho bản ty

bỏ tiền ra làm chay lễ tạ.

Theo lệ1 cũ, sét đánh cung điện, đường vũ, [31a] phải làm chay cầu phúc

trừ tà thì hữu ty lo đồ

bày biện, còn lễ vật cần ùng thì do kho công ban cấp. Các xứ khác thì do

bản ty bỏ tiền làm chay lễ tạ.

Mùa đông, tháng 10, duyệt định Vũ quân, đổi quân Vũ tiệp thành quân Thiết

ngạch, lấy Đại liêu ban Trần Thanh Ly làm Vũ vệ đại tướng quân thống lĩnh

quân này.

Lấy An phủ sứ Đỗ Thiên Hư làm Kinh lược sư. Bấy giờ Chiêm Thành bị người

Xiêm xâm lược, vua

sai Thiên Hư đi kinh lược Nghệ An, Lâm Bình để sang cứu. Sau này mọi kế

hoạch, lo liệu về biên giới phía tây, Minh Tông đều ủy cho Thiên Hư.

Tháng 12, Phụ quốc thái bảo Chiêu Hoài hầu Hiện mất. Lấy Trần Khắc Chung

làm Tả phụ, tước Quan Phục hầu.

Giáp Dần, [Hưng Long] năm thứ 22 [124], (từ tháng 3 trở đi là Đại Khánh năm

thứ 1, Nguyên Diên Hựu năm thứ 1). Mùa xuân, tháng 3, sắc cho Trung thư ban

tên húy của bản triều, thêm các tên húy của Ninh Hoàng và của hai thái hậu

Tuyên Từ, Bảo Từ2.

[31b] Ngày 18, vua nhường ngôi cho hoàng thái tử Mạnh. [Thái tử] Mạnh lên

ngôi hoàng đế,

đổi niên hiệu là Đại Khánh năm thứ 1. Đại xá. [Vua tự] xưng là Ninh Hoàng,

tôn Thượng hoàng là Quang Nghiêu Duệ Vũ Thái Thượng Hoàng Đế; tôn

Thuận Thánh hoàng hậu là Thuận Thánh Bảo Từ Thái Thượng hoàng hậu.

Quần thần dâng tôn hiệu là Thể Thiên Sùng Hóa Khâm Minh Duệ Hiếu Hoàng Đế.

Truy tặng Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng làm Thái úy.

Mùa đông, tháng 10, thi thái học sinh. Ban tước bạ thư lệnh, sai cục chính

Nguyễn Bính giảng dạy để sau này bổ dụng.

Xuống chiếu cho tam phẩm phụng ngự lập Dung đô để chờ sung bổ.

Đặt đô Phù liễn làm Long vệ tướng. Chọn con trai cấm quân và những người đã

thích chữ Kim cương trong quân Thiết ngạch để sung bổ vào.

Sau khi vua nhận nhường ngôi, sứ Nguyên sang, làm lễ đọc quốc thư xong, hôm

sau ban yến. Vua mặc áo tràng vạt bằng là màu vàng, đội mũ có thao, sứ giả

khen [32a] vua là "thanh thoát như thần tiên". Đến khi về nước, [sứ giả]

thường nói đến vẻ người thanh tú của vua.

Sau này, sứ ta sang [Nguyên], có người hỏi rằng: "Tôi nghe nói thế tử vẻ

người thanh tú nhẹ

nhõm như thần tiên có đúng không?".

Sứ ta trả lời: "Đúng như thế, song cũng là tiêu biểu cho phong thái cả

nước".

1 Nguyên văn là chữ "lễ", chúng tôi cho rằng Toàn thư in lầm.

2 Tuyên Từ: là bà hậu của Nhân Tông, Bảo Từ: là mẹ đích của Minh Tông.

Sau Nguyễn Trung Ngạn và Phạm Mại sang Nguyên đáp lễ.

MINH TÔNG HOÀNG ĐẾ

Tên húy là Mạnh, con thứ tư của Anh Tông, mẹ đích là Thuận Thánh Bảo Từ

hoàng thái hậu Trần thị, con gái của Hưng Nhượng Đại Vương Quốc Tảng, mẹ

sinh là Chiêu Hiến hoàng thái hậu Trần thị, con gái của Bảo Nghĩa Vương

Bình Trọng. Ở ngôi 15 năm, nhường ngôi 28 năm, thọ 58 tuổi, băng ở cung Bảo

Nguyên, táng ở Mục Lăng. Vua đem văn minh sửa sang đạo trị nước, làm rạng

rỡ công nghiệp của người xưa, giữ lòng trung hậu, lo nghĩ sâu xa, trong yên

ngoài phục, kỷ cương đủ bày. Tiếc rằng không nhận biết mưu gian của Khắc

Chung, để đến nỗi Quốc Chẩn phải chết, đo là chỗ kém thông minh vậy.

Ất Mão, [Đại Khánh] năm thứ 2 [1315], (Nguyên Diên Hựu năm thứ 2). Mùa hạ,

tháng 4, ngày mồng 7, đua thuyền.

Tháng 5, [32b] xuống chiếu cấm cha con, vợ chồng và gia nô không được tố

cáo lẫn nhau.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Vua vốn nhân hậu với họ hàng, nhất là đối với bậc

bề trên mà hiển quý lại càng tôn kính. Kẻ thần hạ hễ ai cùng tên (với họ

hàng nhà vua) đều phải đổi cả, như Độ đổi thành Sư Mạnh vì là cùng tên với

thượng phụ1, Tung đổi thành Thúc Cao vì là cùng tên với Hưng Ninh Vương2

(con trưởng của An Ninh vương)3. Lại các tên của chú bác, cô cậu, khi nói

đến vẫn kiêng cả. [Vua] có quyển sổ nhỏ biên những chữ húy không được nói

đến, trao cho các hoàng tử và cung phi. Chỉ vì ngài có tấm lòng ấy, nên đã

có chính tích ấy.

Tháng 6, hạn hán.

Bấy giờ Trần Khắc Chung làm Hành khiển. Quan ngự sử dâng sớ nói:

"Chức vụ tể tướng, trước hết phải điều hoà âm dương. Nay Khắc Chung ở ngôi

tể tướng, không biết phối hợp đất trời [33a] cho khí tiết điều hòa, để đến

nỗi mưa nắng trái thời, thế là làm quan không được công trạng gì".

Khắc Chung nói:

"Tôi lạm giữ chức tể tướng, chỉ biết có sức làm những việc mà chức vụ phải

làm, còn như hạn hán thì hỏi ở Long Vương. Khắc Chung đâu phải là Long

Vương mà đổ tội được?".

Sau nước sông lên to, vua đích thân đi xem đắp đê. Quan ngự sử tâu: "Bệ hạ

nên chăm sửa đức chính, xem làm gì việc đắp đê nhỏ nhặt". Khắc Chung nói:

"Khi dân bị nạn lụt, người làm vua phải cứu giúp tai họa khẩn cấp đó, sửa

đức chính không gì lớn hơn việc đó, cần gì phải ngồi thinh, tư lự rồi bảo

là "sửa đức chính?".

Có người bàn rằng: "Khắc Chung đổ lỗi cho Long Vương, đài quan chê [đắp đê]

là việc nhỏ nhặt,

[hai bên] đều sai cả".

Mùa thu, tháng 8, lấy ngày sinh làm tiết Ninh Thiên. Tháng 9, có sâu ăn

lúa.

Mùa đông, tháng 10, có sâu ăn lúa.

1 Tức Trần Thủ Độ.

2 Hưng Ninh Vương, tức Trần Tung, có tên hiệu Phật giáo là Tuệ Trung

thượng sĩ.

3 Đúng ra là An Sinh Vương, tức Trần Liễu. Ở đây Toàn thư nhầm chữ Sinh

thành chữ Ninh.

Ban cho Trần Khắc Chung tước Á quan nội hầu.

[33b] Bính Thìn, [Đại Khánh] năm thứ3 [1316], (Nguyên Diên Hựu

năm thứ 3). Mùa xuân, tháng 2, xét duyệt quan văn và1 hộ khẩu có mức

độ khác nhau.

Các quan xét duyệt cho rằng những tấm thiếp đóng ấn gỗ vào năm Nguyên Phong

[1251 - 1258]

là giả tạo. Thượng hoàng nghe tin ấy, bảo họ:

"Đó đúng là những tấm thiếp của nhà nước đấy". Nhân ôn chuyện xưa2 mà dụ

rằng: "Những người ở trong triều mà không am hiểu điển cũ thì lỡ việc nhiều

lắm".

Mùa đông, tháng 11, sai tể thần, tôn thất và các quan gặt ruộng tịch điền.

Sai Nhân Huệ Vương Khánh Dư đi Diễn Châu xét duyệt sổ lính, sổ dân, lấy Nội

thư hỏa chánh chưởng phụng ngự Nguyễn Bính làm phó.

Xong việc về triều, Bính đem tiền bổng dâng nộp. Vua sai hữu ty nhận lấy.

Có người hỏi: "Bính nộp tiền bổng mà bệ hạ nhận, thần chưa hiểu là cớ làm

sao?".

Vua đáp: "Bính nộp tiền bổng là thành thực, nếu trẫm không nhận, thì hãm

Bính vào tội dối trá, cho nên nhận lấy để tỏ rõ Bính không gian dối".

Bính là cận [34a] thần của Thượng hoàng, tính người trong sạch thẳng thắn,

năm trước đứng đầu hành nhân sang sứ nước Nguyên, trở về không mua thứ gì,

Thượng hoàng khen ngợi, đặc cách ban thưởng 2 tư. Theo lệ cũ, những người

đi sứ Nguyên về, mỗi người được ban tước 2 tư, người đứng đầu hành nhân trở

xuống, mỗi người 1 tư. Bính là người trong sạch thẳng thắn nên được 2 tư.

Lấy Trần Hùng Thao làm Thiếu phó.

Đinh Tỵ, [Đại Khánh] năm thứ 4 [1317], (Nguyên Diên Hựu năm thứ 4). Mùa

xuân, tháng 3, làm lễ thành hôn cho năm công chúa là Thiên Chân, Ý Trinh,

Huy Chân, Huệ Chân, Thánh Chân.

Huy Chân lấy Uy Giản hầu (không rõ tên). Trước đây, mẹ thân sinh Huy Chân

là Trần Thị Thái Bình làm cung tần của Thượng hoàng, tính tham lam, thường

chiếm đoạt ruộng đất của dân. Có người kiện, vua không giao cho hữu ty, gọi

Uy giản tới đưa đơn kiện cho xem và dụ rằng:

"Trẫm không giao cho quan lại xét, sợ làm nhục phi tần của tiên hoàng,

ngươi nên theo đơn mà trả [ruộng cho] dân".

Uy Giản lập tức [34b] vâng chiếu trả lại ruộng. Sau Thái Bình chết, Uy Giản

đem tất cả ruộng

[bà] chiếm đoạt khi trước trả lại cho chủ cũ. Vua vì thế khen ông.

Thượng hoàng ngự cung Trùng Quang. Hình bộ lang trung Phí Trực

theo hầu. Chức an phủ

Thiên Trường khuyết, sai Trực kiêm làm.

Bấy giờ trộm cướp bắt đầu nổi lên, tên Văn Khánh là đầu sỏ bọn cướp. Có

người khai là bắt được một tên cướp, giải lên nộp quan và bảo nó là Văn

Khánh. Đến lúc tra hỏi, tên ấy nhận ngay, ai cũng cho

là thực, duy có mỗi Trực vẫn ngờ. Án ấy để lâu không giải quyết. Thượng

hoàng hỏi chuyện đó, Trực trả

lời:

"Mạng người rất trọng, lòng tôi còn có chỗ ngờ, không dám liều lĩnh xử

quyết".

Không bao lâu, Thượng hoàng hỏi lại, Trực trả lời như lần trước. Thượng

hoàng giận bảo: "Nó đã nhận như thế, còn ngờ gì nữa". Trực tâu:

"Nó không bị tra tấn khổ sở mà điềm nhiên thú nhận, thần trộm lấy làm ngờ".

1 Dịch chữ "cập"? trong nguyên văn. Cương mục sửa lại là "cấp"?. Bản dịch

cũ: "... xét định lại quan văn, cấp cho hộ khẩu theo thứ

bậc khác nhau".

2 Năm Nguyên Phong thứ 7 (1257), trong lúc hành quân chống quân Mông Cổ,

ấn vua bị mất, phải khắc ấn gỗ để dùng trong giấy

tờ việc quân (xem Toàn thư, BK5, 23b).

Một tháng sau, Văn Khánh quả nhiên bị bắt. Thượng hoàng do đó khen Trực

[35a] có tài.

Thượng hoàng có lần ban bữa ăn cho vua. Vua nhai rất kỹ, Thượng hoàng nói:

"Đàn ông phải ăn như rồng nuốt, cọp cắn, cần gì phải nhai kỹ?". Khi ban bữa

ăn cho vương hầu, thượng hoàng cũng dụ như thế.

Mậu Ngọ, [Đại Khánh] năm thứ 5 [1318], (Nguyên Diên Hựu năm thứ 5). Mùa

xuân, tháng 2, ngày 18, đem trưởng công chúa Thiên Chân gả cho Huệ Chính

vương (không rõ tên). Phong Huệ làm Phò ký lang.

Mùa thu, tháng 8, ngày 19, Tuyên Từ thái hậu băng.

Sai Huệ Vũ Đại Vương Quốc Chẩn đi đánh Chiêm Thành. Tộc tướng nhà Lý là

Hiếu Túc hầu Lý Tất Kiến chết tại trận. Quản Thiên võ quân Phạm Ngũ Lão

tung quân đánh phía sau giặc. Quân giặc thua chạy, bắt được rất nhiều.

Phong Ngũ Lão tước Quan nội hầu, ban cho phi ngư phù và cho con ông làm

quan.

Bấy giờ, Thượng hoàng có ý xuất gia, nên sai cung nhân ăn chay. Các cung

nhân đều ngần ngại, duy có nữ quan Nguyễn Thị Diên chặt ngón tay [35b] đem

dâng. Thượng hoàng ngợi khen, ban cho 40 mẫu ruộng làm lương ăn tu hành

ngày sau. Rồi Thị Diên quả nhiên đi tu cho đến lúc mất, Phật hiệu là Tịnh

Quang ni.

Mùa đông, phụ táng Tuyên Từ thái hậu ở cạnh lăng Nhân Tông.

Trước đây, Nhân Tông từng dặn lại Anh Tông ngày sau phải đem dì (tức là

thái hậu) táng ở cạnh lăng và vẽ bản đồ chôn cất thành huyệt hình thước thợ

trao lại. Đến đây, Thượng hoàng theo di mệnh, đào cạnh lăng để chôn. Đất

lăng nhiều bùn lầy, tiếng đào đắp vang động cả khu lăng. Thượng hoàng có

vẻ lo. Trước đây, khi sắp chôn thái hậu [vào đấy], các quan tâu rằng không

nên làm kinh động lăng tẩm. Thượng hoàng nói:

"Tiên đế có lệnh, ta không dám trái. Nếu có tổn hại gì, ta sẽ chịu cả".

Sau khi chôn không được bao lâu, Thượng hoàng bị bệnh, đầy năm thì băng.

Kỷ Mùi, [Đại Khánh] năm thứ 6 [1319], (Nguyên Diên Hựu năm thứ 6). Mùa hạ,

tháng 4, bến

Đông Thiên Vương ở Đống Lâm lở 10 trượng.

[36a] Tháng 5, ngày 17, hoàng thái tử Vượng sinh tên hiệu là Thiên Kiến.

Nước to.

Mùa đông, tháng 11, hoàng thái tử Nguyên Trác sinh.

Canh Thân, [ Đại Khánh] năm thứ 7 [1320], (Nguyên Diên Hựu năm thứ 7). Mùa

xuân, tháng 3, ngày 16, thượng hoàng băng ở cung Trùng Quang phủ Thiên

Trường, rước linh cữu vào cửa Tường Phù, quàn tại cung Thánh Từ.

Thượng hoàng tính tình khiêm tốn hoà nhã, hoà mục với người trong họ, mọi

việc của triều đình đều tự mình quyết đoán. Khi thư rỗi trong muôn việc

bận, Thượng hoàng để tâm tới việc trước thuật. Nhưng viết được gì, vẽ được

gì, ngài đều đốt cả. Tập thơ ngự chế tên là Thủy vân tùy bút, trước khi

mất, cũng đốt đi.

Hồi còn trẻ, thích uống rượu, Nhân Tông răn bảo chuyện đó, từ đấy không bao

giờ uống nữa. Ngài từng ban tước hơi nhiều cho các quan trong triều. Nhân

Tông biết được, sai lấy sổ xem rồi ghi vào trong đó rằng:

"Sao lại có một nước bé bằng bàn tay mà phong quan tước nhiều như thế", từ

đó lại càng [36b]

thận trọng khi ban chức tước. Ngài không ngại sửa lỗi như vậy đó!.

Quan nô là Hoàng Hộc và Thiên Kiện dùng mưu kế xảo trá, đánh lừa hình quan,

người trong hương rốt cuộc phải chịu tội vu cáo. Thượng hoàng biết chuyện,

bảo hình quan rằng:

"Tên Hộc gian ngoan xảo quyệt đến thế mà ngục quan không biết suy xét tình

lý. Tình ngay lý

gian thì không được lấy lý bỏ tình. Phải suy xét cả tình và lý, tình lý

không xung đột thì mới là giỏi xử án. Nếu biết tình không gian, thì theo lý

mà làm là phải, nếu tình quả là gian rồi, thì lại phải suy xét xem lý ngay

hay cong, như vậy, điều gian dối sẽ tự khắc hiện ra, càng không nên tách

rời tình lý làm hai mà xét".

Ngài sáng suốt, thận trọng về hình phạt lại như thế đấy.

Huy Tư được phong hoàng phi, thi theo hầu [thượng hoàng] chưa được ngồi

kiệu. Bảo Từ lấy kiệu mình vẫn đi ban cho bà thì ngài trách rằng:

"Bảo Từ có thương yêu Huy Tư thì cho thứ khác là phải, chứ cái kiệu ngồi

còn điển chế cũ, không thể [37a] cho được!".

Nguyễn Sĩ Cố, Chu Bộ là cận thần của thái tử. Đến khi thái tử lên ngôi. Cố

và Bộ đều vì không có đức hạnh nên đều không được cất nhắc. Cố làm đến

Thiên chương các học sĩ, chức này thực đặt làm vì, chứ không có quyền hành

gì. Bộ thì chỉ coi mấy bộ cấm binh Khôi. Khi thượng hoàng thân đi đánh

Chiêm Thành, Bộ chết trận, Cố thì chết trên đường đi. Hai người này phục vụ

Thượng hoàng khó nhọc lâu ngày, nhưng vì tài không thể dùng được, nên đặc

họ vào chức nhàn tản và đều cho bổng lộc tước trật ưu hậu

cả mà không trao cho thực quyền.

Nguyễn Quốc Phụ làm Nội thư chánh chưởng, là cận thần của Nhân Tông. Khoảng

năm Hưng Long [1293 - 1314] khuyết chức Hành khiển. [Có lần]

Thượng hoàng chầu Nhân Tông ở chùa Sùng Nghiêm, Nhân Tông bảo: "Quốc

Phụ được đấy!" [Thượng hoàng thưa:

"Nếu lấy ngôi thứ mà bàn, thì [Quốc Phụ] được rồi, chỉ hiềm hắn nghiện rượu

thôi!".

Nhân Tông im lặng rồi không dùng. Quốc Phụ cuối cùng vẫn giữ chức cũ cho

đến khi chết. Ngài thận trọng đối với những chức vị quan trọng lại như thế

đấy.

Bấy giờ rước linh cữu [thượng hoàng] [37b] đưa về Thiên Trường. Thuyền của

Bảo Từ thái hậu

có 8 dây kéo, thuyền của Huy Tư hoàng phi có 2 dây kéo. Người coi cấm quan

có ý nịnh vua, lấy dây buộc thêm vào thuyền của hoàng phi. Tướng quân Trần

Hựu nói:

"Thuyền của thái hậu có 8 dây kéo là quy chế của nhà Trần để tỏ rõ danh

phận trên dưới", lập tước rút gươm cắt dây bỏ bớt đi. Việc đến tai vua, vua

khen ông trung thành. Hựu là viên quan cận thần của Thượng hoàng.

Mùa hạ, tháng 6, nước to. Mùa thu, tháng 8, gió to.

Mùa đông, tháng 10, xuống chiếu rằng những người tranh nhau ruộng đất, nếu

khám xét thấy không phải của mình mà cố tranh bậy thì bị truy tố, tính giá

tiền ruộng đất, bắt đền gấp đôi. Nếu làm văn khế giả, thì bị chặt một đốt

ngón tay bên trái.

Tháng 11, Điện súy thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão mất tại phũ đệ vua ban ở

vườn cau trong thành, thọ 66 tuổi. Vua nghỉ chầu 5 ngày, đó là ân điển đặc

biệt.

Ngũ Lão [người làng] Phù Ủng, [huyện] Đường Hảo [châu] Thượng Hồng, lúc hơn

hai mươi tuổi,

[38a], Hưng Đạo Vương thấy và cho là có kỳ tài, đem con gái nuôi gả cho.

[Ngũ Lão] nhân đó, làm gia thần cho vương, được vương dạy bảo thêm, tài

nghệ tuyệt vời. Vương tiến cử ông.

Ngũ Lão xuất thân trong hàng quân ngũ, nhưng rất thích đọc sách, là người

phóng khoáng, có

chí lớn, thích ngâm thơ, tựa như không để ý đến việc võ bị. Nhưng quân ông

chỉ huy, thực là đội quân phụ tử, hễ đánh là thắng. Ông có làm bài thơ:

Hoành sáo giang sơn cáp kỷ thu, Tam quân tỳ hồ khí thôn ngưu. Nam nhi vị

liễu công danh trái,

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.

(Vung giáo non sông trải mấy thu,

Ba quân tựa cọp nuốt trôi trâu. Trai chưa trả nợ công danh được,

Còn thẹn khi nghe chuyện Vũ hầu)1.

Ông huấn luyện quân đội rất có kỷ luật, đối đãi tướng hiệu tực như người

nhà, cùng đồng cam cộng khổ với binh sĩ, cho nên quân đi tới đâu, không ai

dám chống; tất cả chiến lợi phẩm thu được đều sung vào kho quân, coi của

cải như không, là bậc danh tướng của một thời vậy.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Tôi từng thấy các danh tướng nhà Trần như Hưng Đạo

Vương thì học vấn [38b] tỏ ra ở bài hịch, Phạm điện súy thì học vấn biểu

hiện ở câu thơ, không chỉ có chuyện về nghề võ. Thế mà dùng binh tinh diệu,

hễ đánh là thắng, đã tấn công là chiếm được, người xưa cũng không một ai

vượt nổi các ông. Lê Phụ Trần thì dũng lược đứng đầu ba quân, một mình một

ngựa xông pha trong lúc gian nguy, mà tài văn học của ông đủ để dạy bảo

thái tử. Đủ biết, nhà Trần dùng người, vốn căn cứ vào

tài năng của họ để trao trách nhiệm. Còn như quân Thiên thuộc (tức là quân

Thiên vũ) mà cấm không được vào học. Giả sử có người văn võ toàn tài sinh

ra ở trong đó, thì chẳng bị kìm hãm lắm sao!

Tháng 12, ngày 12, táng Thượng hoàng vào Thái lăng ở Yên Sinh (Thái Lăng ở

núi Yên Sinh, hai lăng Mục Lăng và Phụ Lăng cũng ở đó), miếu hiệu là Anh

Tông, thụy hiệu là Hiển Văn Duệ Vũ Khâm Minh Nhân Hiếu Hoàng Đế.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Gốc của thiên hạ là ở nước, gốc của nước là ở nhà,

[39a] gốc của nhà là ở mình. Có dạy được người trong nước. Đời Đường Ngu

thịnh trị chẳng qua cũng là như vậy. Kinh Thư ca ngợi Đế Nghiêu dẫn dắt

muôn dân bỏ ác làm thiện, đi tới thịnh trị, thì hẳn là vì trước hết ông

biết thân yêu họ hàng2, cũng tức là đã thực hiện giáo hóa bắt đầu từ trong

nhà vậy. Tôi đọc sử chép về Anh Tông, thấy không ngần ngại sửa bỏ lỗi lầm,

kính cẩn thờ phụng cha mẹ, hòa mục với họ hàng, truy tôn tổ tiên làm đế làm

hậu, chu đáo trong cúng tế, thận trọng trong tang lễ, đều là phải đạo;

trong nhà đủ làm khuôn phép, người ngoài bắt chước theo. Cho nên trên thì

Nhân Tông khen là hiếu, dưới thì Minh Tông tuân theo khuôn phép. Nước trở

nên văn minh,dân tới chỗ giàu thịnh. Như thế chẳng phải là hiệu quả trị

nước vốn ở gốc tu thân tề gia là gì?

Dù lời khen trong Thi, Thư3 cũng không hơn thế.

Lại nói: Thiên tử mất 7 tháng thì chôn, nay để hơn 9 tháng mới chôn. Có lẽ

thế là theo thuyết âm dương chăng4.

[39b] Trước đây, Anh Tông không khoẻ, vua ngày đêm ơ luôn ngoài cửa phòng

ngủ của Thượng hoàng, mỗi khi vào thăm thì cùng đi với Quốc Chẩn. Vì Anh

Tông tin cậy Quốc Chẩn hơn cả, định đem vua gửi gắm Quốc Chẩn, cho nên

không cho vào thăm một mình, mà phải cùng đi với Quốc Chẩn, cốt để cho tình

nghĩa vua tôi được khăng khít và không còn nghi ngại gì nữa.

Bấy giờ, Bảo Từ thái hậu cho gọi sư Phổ Huệ đến chùa Phổ Minh mở hội Quán

đính5. Anh Tông bệnh vừa chuyển nặng. Phổ Huệ xin được gặp để trình bày

việc sống chết. [Anh Tông] sai trả lời rằng:

1 Vũ hầu: tức Gia Cát Lượng, tướng nước Thục thời Tam Quốc.

2 Nguyên văn là "Cửu tộc" tức họ 9 đời gồm cao, tằng, tổ, khảo bản thân và

con, cháu, chắt, chút, ở đây chỉ họ hàng nói chung.

3 Thư Kinh (Nghiêu điển) ca ngợi vua Nghiêu: "Làm sáng đức lớn để thân yêu

hòa hợp được họ hàng, họ hàng hòa mục rồi, lại làm cho trăm họ tốt đẹp,

trăm họ sáng tỏ rồi lại hòa hợp với muôn nước chư hầu. Dân chúng trong

thiên hạ đều bỏ ác làm thiện, trở nên yên vui hưng thịnh".

4 Thuyết âm dương: ở đây là chỉ quan niệm của các nhà chiêm tinh thuật số

cho rằng người chết phải chọn ngày, chọn giờ để chôn, nếu không được ngày

giờ lành, sẽ có thể gây ra tai họa cho người sống.

5 Quán đính:(Abhiseka) là một nghi lễ Phật giáo, dùng nước hoặc sữa gội

lên đỉnh đầu.

"Sư hãy đến đây, ta chết rồi, Quan gia có sai bảo gì, thì cứ việc làm. Còn

như chuyện sau khi

chết, thì sư cũng chưa chết, biết đâu mà trình bày việc chết với ta?".

Thái học sinh Đặng Tảo thường xuyên đứng hầu bên giường ngự để viết di

chiếu. Anh Tông băng, vua đích thân khâm liệm. Chỉ có Quốc phụ cùng Tảo và

gia nhi chủ nô là Lê Chung tham gia việc này. Đến khi rước linh cữu về sơn

lăng, Tảo, Chung đều tới hầu [40a] lăng tẩm. Hàng năm, khi vua bái

yết lăng, Tảo thườn lánh đi chổ khác, chỉ có ý nguyện ở lại phụng thờ lăng

tẩm mà thôi, chứ không đòi xin gì khác.

Vua thương Tảo nghèo, ban cho 20 mẫu ruộng, sai Trần Thế Hưng mang giấy

cho. Ruộng này

khi trước đã ban cho thứ phi của vua là Thiên Xuân. Thiên Xuân cứ giữ giấy

cũ mà cày cấy, thế mà Tảo vẫn không tranh chấp với bà. Thế Hưng biết

chuyện, tâu thực với vua. Vua lập tức thu lại giấy của Thiên Xuân, đem

ruộng trả cho Tảo, Tảo cũng chẳng lấy làm mừng.

Chung thì đời mồ mả tổ tiên, bán ruộng đất, nhà cửa, đem gia quyến vợ con

đến Yên Sinh, chôn

cất và làm nhà ở đấy. Cả hai người đều ở Yên Sinh cho đến khi mất. Sau này

Nghệ Hoàng đến Yên Sinh, tưởng nhớ hai người bề tôi đó, liền sai Trần An

trùng tu chùa cũ của Tảo và Chung, lại cấp ruộng để thờ cúng, ban tên chùa

là chùa Trung Tiết.

Đổi đô Phù Liễn làm Khấu mã quân.

Đói.

Lấy Bùi Mộc Đạc tri Thẩm hình viện sự, kiêm [40b] Chuyển vận sứ lộ Hoàng

Giang Hạ.

Tân Dậu, [Đại Khánh] năm thứ 8 [1321], (Nguyên Anh Tông Thạc Đức Bạt Lạt

Chí Trị năm thứ

10). Mùa xuân, tôn Thuận Thánh Bảo Từ thái thượng hoàng hậu làm Thuận Thánh

Bảo Từ hoàng thái hậu, tôn mẹ thân sinh là Huy Tư hoàng phi làm Huy Tư

hoàng thái phi (tức là Chiêu Từ hoàng thái hậu).

Tháng 2, gạo 1 thăng nhỏ trị giá 1 quan tiền. Mùa hạ, lúa chiêm được mùa

to.

Mùa đông, tháng 12, hoàng tử thứ ba là Phủ sinh. Thi các tăng nhân, hỏi

kinh Kim Cương.

Ban cho Trần Khắc Chung tước Quan nội hầu. Sai sứ sang Nguyên mừng Anh Tông

lên ngôi.

Lấy Nguyễn Trung Ngạn làm Ngự sử đài thị ngự sử.

Nhâm Tuất, [Đại Khánh] năm thứ 9 [1322], (Nguyên Chí Trị năm

thứ 2). Mùa xuân, tháng giêng, lấy Huệ Túc Đại Vương Niên làm Phó ký

lang.

Tháng 3, sét đánh tháp Báo Thiên, sụt mất 2 tầng góc bên đông.

Mùa hạ, người Nguyên [41a] tranh chấp biên giới. Sai Hình bộ thượng thư,

ty Hành khiển là

Doãn Bang Hiến sang Nguyên tranh biện. Hiến mất trên đường đi, vua rất

thương tiếc.

Quý Hợi, [Đại Khánh] năm thứ 10 [1323], (Nguyên Chí Trị năm thứ 3). Mùa

xuân, tháng 8, ngày

22, vua ngự đến nhà Thái học. Có tên Mặc trong quân Thiên thuộc ở Hoàng

Giang đỗ khoa thi Thái học sinh, vua xuống chiếu bắt trở lại quân ngũ, làm

quân lại quân Thiên đinh, đến khi thi đánh gậy, [Mặc] lại

đỗ cao.

Bấy giờ tuyển chọn các quân, lấy người béo trắng làm hạng trên, cho nên

quân sĩ không xăm mình nữa là bắt đầu từ đấy.

Xuống chiếu rằng khi tranh ruộng mà ruộng có lúa, thì hãy chia làm 2 phần,

bồi thường cho người cày 1 phần, còn 1 phần lưu lại. Đó là theo lời tâu của

Đại an phủ Kinh sư kiêm Kiểm pháp quan Nguyễn Dũ. Dũ nổi tiếng ngang với

Thiên Hư. Khi Thiên Hư thôi chức Kinh lược sứ Nghệ An, Lâm Bình, vua sai Dũ

kế chức ấy. Người Chiêm [41b] cũng sợ phục.

Bấy giờ, quan trong triều như bọn Trần Thì Kiến, Đoàn Nhữ Hài, Đỗ Thiên Hư,

Mạc Đĩnh Chi,

Nguyễn Dũ, Phạm Mai, Phạm Ngộ, Nguyễn Trung Ngạn, Lê Quát, Phạm Sư Mạnh, Lê

Duy (Duy người xã

Cổ Định, huyện Nông Cống), Trương Hán Siêu, Lê Cư Nhân nối nhau vào triều,

nhân tài rộ nở.

Anh em Ngộ, Mại vốn trước là họ Chúc, khi Nhân Tông xuất gia, làm nội học

sinh theo hầu. Vua cho rằng họ Chúc không phải là họ lớn, mới đổi cho thành

họ Phạm. Ngộ trước tên là Kiên, Mại trước tên

là Cố, đều theo học Nguyễn Sĩ Cố. Kiên tránh tên của phán thủ Huệ Nghĩa đổi

là Ngộ, Cố tránh tên của thầy, đổi là Mại. Mại ở ngự sử đài1, cương trực

dám nói, có phong cách người bề tôi can ngăn ngày xưa". Sau vào chính phủ,

không được mấy năm bị bãi chức.

Trung Ngạn tên cũ là Cốt. Khi Anh Tông ngự cung Trùng Quang, có ý muốn xuất

gia, có làm bài thơ "Chiêu ẩn"2 ban cho Trung Ngạn, Trung Ngạn từ chối

không vâng mệnh.

Đĩnh Chi là người liêm khiết, [42a] sống rất đạm bạc. Vua rất hiểu ông, sai

người ban đêm đem

10 quan tiền bỏ vào nhà ông. Hôm sau, Đĩnh Chi vào chầu, tâu vua hay chuyện

đó. Vua bảo: "Không ai đến nhận, cho khanh lấy mà tiêu". Thời Hiến Tông,

ông làm Nhập nội hành khiển Hữu ty lang trung rồi thăng Tả ty lang trung.

Mùa đông, tháng 11, đúc tiền kẽm.

Tháng 12, sách phong con gái trưởng của Huệ Vũ Đại Vương Quốc Chẩn là Huy

Thánh công chúa làm Lê Thánh hoàng hậu (tức là Hiến Từ thái hậu).

Lấy Uy Giản hầu (không rõ tên) làm Tham thị triều chính trị quân quốc sự.

Thân thuộc có kẻ chê chức ấy thấp. Uy Giản bảo chúng:

"Bọn bay ngu quá, phàm bề tôi được chúa thượng trông tới, đều do ở lòng

thánh lựa chọn, chứ không phải là sức người làm nổi, sao lại được càn rỡ

nghĩ xằng? Ta may được đội ơn yêu quý, thực đã quá lòng mong muốn rồi, bàn

chi đến chức cao hay thấp".

Vua nghe biết, cho là những lời nói phải.

[42b], Giáp Tý, [Khai Thái] năm thứ 1 [1324], (Nguyên Thái Định năm thứ 1).

Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 1, đổi niên hiệu.

Xét duyệt các sắc mụ nội thị tạp lưu.

Mùa hạ, tháng 4, lấy Huệ Vũ Đại Vương Quốc Chẩn làm Nhập nội quốc phụ

thượng tể, Kiểm hiệu thái úy Nhật Duật làm Tá thánh thái sư; Uy Túc công

Văn Bích làm Nhập nội phụ quốc thái bảo, Văn Huệ công Quang Triều làm Nhập

nội hiệu tư đồ.

Vua Nguyên sai Mã Hợp Mưu3, Dương Tông Thụy sang báo tin lên ngôi4 và trao

cho 1 quyển lịch. Bọn Mưu đi ngựa đến tận đường ở cầu Tây Thấu Trì không

xuống. Những người biết tiếng Hán,

vâng lệnh tiếp chuyện, từ giờ Thìn đến giờ Ngọ, khí giận càng tăng.

Vua sai Thị ngự sử Nguyễn Trung Ngạn ra đón. Trung Ngạn lấy lẽ bẻ lại, Hợp

Mưu đuối lý, phải xuống ngựa bưng chiếu đi bộ. Vua rất hài lòng.

Rồi sau bàn việc trái ý vua, [Ngạn] bị giáng làm Thông phán châu Viêm Lãng,

[43a] được tiếng

là chính sự giỏi. Ít lâu sau, được thăng làm Thiêm tri Thánh Từ cung sự.

1 Theo Nam ông mộng lục của Hồ Nguyên Trừng thì Phạm mại làm ngự sử trung

thừa, bị cách chức trong vụ án Huệ Vũ Vương

Quốc Chẩn. Sau khi Quốc Chẩn được minh oan, Mại được thăng làm tham tri

chính sự.

2 Chiêu ẩn: có nghĩa là mời bậc ẩn sĩ ra làm quan. Hoài Nam vương An đời

Hán có thiên "Chiêu ẩn sĩ", Tống Văn Đề có xây Chiêu

Ân quán cho Lôi Thứ Tông ở Chung Sơn.

3 Phiên âm tên Hồi giáo Mahmud.

4 Vua Nguyên lên ngôi nói ở đây là NguyênThái Định Đế.

Ban cho Trần Bang Cẩn bức tranh và bài thơ. Bấy giờ, Bang Cẩn làm Đại hành

khiển thượng thư

tả bộc xạ, là người tín thực giữ gìn, giản dị điềm tĩnh, không xa hoa. Vua

ban cho bức tranh và bài thơ

rằng:

Hình dung cốt cách nại đông hàn, Tướng mạo đình đình diệc khả khan. Phong

lưu nhất đoạn hồn miêu tận, Tâm lý nan miêu cảnh cảnh đan.

(Cốt cách dáng hình chịu rét đông,

Hiên ngang tướng mạo thực nên trông. Phong lưu mọi vẻ đều nên cả,

Vẽ sao canh cánh tấm lòng trung). Mùa đông, tháng 12, cấm tiền kẽm.

Năm này hạn hán, sâu bọ; trâu bò, gia súa chết nhiều.

Ất Sửu, [Khai Thái] năm thứ 2 [1325], (Nguyên Thái Định năm thứ 2). Mùa

xuân, đặt ty Liêm phỏng ở các lộ. Lấy Đặng Lộ làm Liêm phỏng sứ hai lộ Đại

Hoàng và An Tiêm.

Mùa thu, tháng 8, ban xuống các điều lệ mới quy định.

Theo quy chế cũ, Hành khiển ty ở cung Quan Triều và Thánh Từ, cùng Nội thư

hỏa cục thì gọi chung là Nội mật viện. Đến nay, đổi Hành khiển ty thành Môn

hạ sảnh, còn Nội thư hỏa cục vẫn là Nội mật [43b] viện.

Tư đồ Văn Huệ công Quang Triều mất (thọ 39 tuổi).

Bính Dần, [Khai Thái] năm thứ 3 [1326], (Nguyên Thái Định năm thứ

3). Từ tháng 2, mùa xuân, đến tháng 6 không mưa.

Tháng 3, Trung thư thị lang tri Thẩm hình viện sự Bùi Mộc Đạc mất. Trước

đây, khi Anh Tông sắp băng có bảo vua:

"Mộc Đạc trải thờ ba triều, là người cung kính, thận trọng, giữ gìn, học

thức khả quan, nên đãi ngộ cho khéo, chớ để bị người ta ngăn trở".

Vua sai vẽ chân dung Mộc Đạc cất ở nhà sách, có ý định dùng vào chức to,

nhưng chưa kịp thăng thì mất (thọ 62 tuổi).

Mùa thu, tháng 7, xét duyệt các quan văn võ.

Lấy Nội thư hỏa chánh chưởng phụng ngự Tạ Bất Căng làm Nhập nội hành khiển,

hành Tả ty lang trung. Lấy Trần Khắc Chung làm thiếu bảo, hành Thánh Từ

cung Tả ty sự, ban tên tự là Văn Tiết, hàm Đồng trung thư môn hạ bình

chương sự.

Buổi quốc sơ, theo quy chế cũ của nhà Lý, hàm Hành khiển có thêm các chữ

Trung thư môn hạ

bình [44a] chương sự. Từ khi thượng tướng Quang Khải ở ngôi tể tướng, chê

chức hành khiển và chức

tể tướng ngang hàng nhau, mới tâu xin đổi thành Trung thư môn hạ công sự để

cho có phân biệt.

Đến đây, vua cho Khắc Chung thăng chức Thiếu bảo, nhưng vẫn làm việc hành

khiển; để ưu đãi, nên đặc cách thêm các chữ Trung thư môn hạ bình chương

sự, là theo quy chế cũ.

Giáng Nguyễn Trung Ngạn làm An phủ sứ Thanh Hóa.

Trung Ngạn có tính hay sơ xuất. Bấy giờ, Bảo Vũ Vương được ban tước Tạo y

thượng vị hầu1, Trung Ngạn ghi sổ, lại xếp vào hàng Tử y2. Vua thương ông

có tài, vả lại cũng là do lầm lỡ, không bắt

tội, nên đuổi ra làm quan bên ngoài. Trung Ngạn từng làm bài thơ tự phụ

rằng:

Giới Hiên tiên sinh lang miếu khí, Diệu kinh dĩ hữu thốn ngưu chí.

Niên phương thập nhị thái học sinh, Tài đăng thập lục sung đình thí.

Nhị thập hựu tứ nhập gián quan, Nhị thập hựu lục Yên kinh sứ.

(Giới Hiên tiên sinh tài lang miếu3,

Có chí nuốt trâu từ niên thiếu. Tuổi mới mười hai thái học sinh, Vừa đến

mười sáu dự thi đình.

Hai mươi bốn tuổi làm quan gián, Hai mươi sáu tuổi sứ Yên Kinh)4.

Ông kiêu căng như vậy đấy. Về sau, hai lần sung chức [44b] Hựu sảnh5. Đến

thời Dụ Tông, vào chính phủ, giữ trọn tiếng tốt, không phụ là bậc nho giả,

thọ hơn 80 tuổi. Có Giới Hiên tập lưu hành ở đời.

Bấy giờ Trương Hán Siêu làm Hành khiển. Một hôm, Siêu nói trong triều rằng

hình quan Phạm

Ngộ và Lê Duy ăn hối lộ. Vua lập tức sai điều tra. Hán Siêu nói kín với

người khác:

"Tôi làm việc ở chính phủ, được chúa thượng tin dùng, cho nên

mới nói thế, biết đâu lại có chuyện tra xét này!".

Vua nghe vậy nói: "Hành khiển là quan ở sảnh, Thẩm hình là quan ở viện, ta

đều tín nhiệm cả. Sao lại làm ta tin quan sảnh mà ngờ quan viện?".

Đến khi tra hỏi, Hán Siêu đuối lý phải phạt 300 quan tiền.

Ít lâu sau, lấy Phạm Ngộ làm Tham tri chính sự đồng tri thượng thư Tả ty

sự, chức ngang với

Hán Siêu. Ngộ tuy học vấn không bằng Hán Siêu, nhưng làm quan thanh liêm

cẩn thận, được tiếng khen

ở thời đó.

Huệ Túc Vương đánh Chiêm Thành không thắng lợi [45a] trở về. Vua nói:

"Tiên đế tắm mưa gội gió mới bắt được chúa nước nó. Quốc phụ là một trọng

thần, phụng mệnh

đi đánh6, khiến chúa nước giặc là Chế Năng phải chạy sang nước khác (Chế

Năng chạy sang Trảo Oa cầu cứu), lập tù trưởng A Nan làm Hiệu Thánh á

vương. Nay Huệ Túc chỉ là một vương thôi, uy vọng không

1 Tạo y thượng vị hầu: tước vị hầu mặc áo đen.

2 Tử y thượng vị hầu: tước thượng vị hầu mặc áo tía.

3 Lang miếu: là triều đình, câu thơ có ý "Tiên sinh Giới Hiên là nhân tài

của triều đình".

4 Năm 26 tuổi, Nguyễn Trung Ngạn được lệnh đi sứ sang kinh đô nhà Nguyên,

bấy giờ là Yên Kinh (nay là Bắc Kinh).

5 Hựu sảnh: tức là Nội mật viện.

6 Toàn thư chép năm Mậu Ngọ (1318). Sai Huệ Vũ Vương Quốc Chẩn đi đánh

Chiêm Thành (q.6, tờ 35a). Toàn thư cũng chép năm Giáp Tý (1424) lấy Huệ Vũ

Vương Quốc Chẩn làm Nhập nội quốc phụ thượng tể. Như vậy Quốc phụ ở đây là

Quốc Chẩn và lần đi đánh Chiêm Thành này xảy ra vào năm 1318.

thể sánh với Quốc phụ, thế mà ta cứ ở yên trong cung, trao cho chuyên việc

đánh dẹp, muốn bắt sống

chúa nó thì làm nổi chăng?".

Đinh Mão, [Khai Thái] năm thứ 4 [1327], (Nguyên Thái Định năm thứ 4). Mùa

hạ, tháng 5, sét đánh lăng tẩm. Quần thần bàn việc ấy. Xuống chiếu phạt bọn

Thiếu bảo Trần Khắc Chung, Hành khiển Đoàn Nhữ Hài theo mức độ khác nhau.

Sau hôm sét đánh, các quan họp bàn ở Nội nhân văn cục. Các vương hầu cùng

giải lao với Trần Khắc Chung và Đoàn Nhữ Hài. Khắc Chung nói chuyện có

giọng hài hước. Nhữ Hài vội đứng dậy bỏ đi. Khắc Chung nói xong mọi người

đều cười, [45b] bị quan Ngự sử hặc tội. Xuống chiếu phạt Khắc Chung

và Nhữ Hài. Nhữ Hài cãi:

"Lúc cười đùa thì thần đã đi rồi". Vua nói:

"Nhữ Hài nghe biết là đùa cợt, không ngăn, lại bỏ mà đi, thế là cố ý hãm

mọi người vào tội lỗi mà tính kế tránh lỗi cho mình".

Rốt cuộc vẫn phạt Nhữ Hài.

Có viên quan tên là Hiệu Khả ca ngợi vua giỏi hơn Anh Tông. Vua biến sắc

mặt, ngăn không cho nói và bảo:

"Ai mà khen người khác là giỏi hơn cha, thì người ấy hẳn là bất hiếu với

cha mẹ, cho nên mới nói

ra câu ấy".

Hiệu Khả không biết chiều cha mẹ, nên vua nói thế để răn đe y.

(Hiệu Khả là người trong lòng trí trá. Có lần, vua lấy ra hai chiếc hòm

đựng áo mặc, sai Hiệu Khả

xếp loại tốt xấu và bảo Khả: "Một cái do chính tay Thái thượng tự làm, một

cái do nội nhân Lê Kế làm, cả

hai đều tinh xảo cả, ngươi chỉ xem cái nào khéo hơn".

Hiệu Khả xem đi xem lại hai ba lần rồi nói úp mở theo kiểu nước đôi: "Chúa

thượng có cái khép của chúa thượng, bề tôi cũng có cái khéo của bề tôi".

Vua cũng phải phì cười.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Câu nói ấy của vua, tuy là nhất thời nói ra với

Hiệu Khả, [46a] nhưng tấm lòng trung hậu qua đó cũng đủ rõ.

Mậu Thìn, [Khai Thái] năm thứ 5 [1328], (Nguyên Trí Hoà năm thứ 1, từ tháng

9 trở đi là Văn

Tông Đồ Thiếp Mục Nhĩ năm Đại Lịch thứ 1). Mùa xuân, tháng 3, giết Quốc phụ

thượng tể Quốc Chẩn.

Bấy giờ, vua ở ngôi đã 15 năm, tuổi đã cao mà vẫn chưa lập thái tử. Cha

hoàng hậu là Quốc Chẩn giữ ý định đợi hoàng hậu có con rồi sẽ lập. Cương

Đông Văn Hiến hầu (không rõ tên) là con (có sách chép là em) của Tá Thánh

thái sư Nhật Duật, muốn đánh đổ hoàng hậu để lập hoàng tử Vượng, mới đem

100 lạng vàng đút lót cho gia thần của Quốc Chẩn là Trần Phẫu, bảo nó vu

cáo Quốc Chẩn âm mưu phản loạn. Vua tin là thực, giam Quốc Chẩn ở chùa Tư

Phúc rồi đem việc ấy hỏi Thiếu bảo Trần Khắc Chung. Khắc Chung cùng cánh

với Văn Hiến, lại cùng mẹ với Vượng, đều là người Giáp Sơn và đã từng làm

thầy dạy Vượng, liền trả lời: "Bắt hổ thì dễ, thả hổ thì khó". [46b] Vua

mới cấm tuyệt không cho Quốc Chẩn ăn uống, bắt phải tự tử. Hoàng hậy lấy áo

tẩm nước cho Quốc Chẩn uống, uống xong thì chết. Bắt bớ đến hơn trăm người

liên can. Mỗi khi xử án, bị can phần nhiều đều kêu oan.

Vài năm sau, gặp khi vợ cả vợ lẽ tên Phẫu ghen nhau, đem chuyện Văn Hiến

đút vàng tâu lên vua. Phẫu bị hạ ngục. Ngục quan Lê Duy là người cương

trực, xét xử ngay ngày hôm ấy. Tên Phẫu bị lăng trì, nhưng chưa kịp hành

hình thì gia nô của Thiệu Võ (không rõ tên) là con của Quốc Chẩn đã ăn sống

hết cả thịt của nó. Văn Hiến được miễn tội chết, bị giáng làm dân thường,

xóa tên trong sổ [hoàng tộc].

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Ngôi thái tử là gốc của nước, không thể không lập

sớm. Phận chính đích không thể để chi thứ phạm bừa. Vua ở ngôi đã lâu, con

thứ đã lớn rồi

mà con chính đích chưa sinh, thì làm thế nào? Tòng quyền là phải. Đợi con

đích là chấp

chính1, lập [47a] con thứ là tòng quyền. Đến khi con đích sinh ra, lớn lên,

thì gia phong cho con thứ tước vương, còn ngôi thái tử trả về con đích, ai

bảo là chẳng nên?.

Có người hỏi rằng: "Lỡ có chuyện không lành, vua cha mất trước thì nguy

lắm".

Xin thưa: Hãy chămchú vào lời dạy thường ngày, nhận rõ lấy những lời

trong di chiếu, chọn người bề tôi xã tắc, ủy cho việc gửi gắm con côi, thì

không có lo gì. Huống chi Minh Tông chính mình ở vào cảnh ấy rồi, tất nhiên

có thể xử trí được ổn thỏa. Quốc Chẩn là người cố chấp không linh hoạtt, để

cho kẻ gian thần thừa dịp gieo vạ, đáng thương thay!.

Kinh dịch có câu: "Xét xem có chỗ sáng tỏ thông suốt mà thi hành điển lễ".

Quốc

Chẩn có lẽ chưa nghe bao giờ! Nhưng mối oan của ôn không thể không làm cho

rõ.

Còn như Trần Khắc Chung cũng là nhân vật của một thời, vua trao cho hắn

chức vị sư bảo2, và đem việc nước hỏi hắn, đáng lẽ phải hết lòng trung

khuyên can, để cho vua mình trở thành Nghiêu Thuấn mới phải. Thế mà lại vào

hùa với kẻ [47b] quyền quý, làm hại người ngay thẳng, đi theo bọn gian

tà, đẩy người lành tới nỗi oan khiên, hãm đức vua vào việc làm tội lỗi.

Việc ấy mà nhẫn tâm làm được,

thì còn việc gì mà không nhẫn tâm làm nữa? Sau lại xui vua cầu công đi đánh

Chiêm Thành, thì cái thói nịnh hót lại lộ ra nữa. Cho nên, bậc làm vua khi

dùng người hiền, phải xét kỹ họ, là bởi sợ rằng có đứa tiểu nhân như bọn

Khắc Chung có thể lọt vào trong đó vậy.

Lập hoàng tử Vượng làm Đông cung thái tử; phong con thứ là Nguyên Trác làm

Cung Tĩnh Đại

Vương.

Kỷ Tỵ, [Khai Thái] năm thứ 6 [1329], (từ tháng 2 trở đi là Khai Hựu năm thứ

1, Nguyên Đại Lịch

năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 2, ngày mồng 7, sách phong Đông cung thái tử

Vượng làm Hoàng thái tử.

Ngày 15, vua nhường ngôi, Vượng lên ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu là Khai

Hựu năm thứ 1. Đại

xá. (Vua tự) xưng là Triết Hoàng, Tôn Thượng hoàng là Chương Nghiêu Văn

Triết Thái Thượng [48a] Hoàng Đế. Tôn Lệ Thánh hoàng hậu làm Hiến Từ thái

thượng hoàng hậu (Hiến có sách chép là Huệ). Quần thần dâng tôn hiệu là Thể

Nguyên Ngự Cực Duệ Thánh Chí Hiếu Hoàng Đế.

Rước thượng hoàng về ở hành cung Thiên Trường. Các hoàng tử chầu hầu.

Thượng hoàng thường hay bàn đến các nhân vật của bản triều. Thái bảo Uy Túc

Văn Bích nói:

"Xét bàn nhân vật để dạy hoàng tử, chỉ nên nhắc tới người thiện, còn kẻ ác

hãy bỏ chớ bàn đến,

sợ các hoàng tử nghe được, có thể sẽ có người bắt chước".

Thượng hoàng nói:

"Thiện ác đều phải nêu để đối chiếu, không thể bỏ một bên nào. Nếu con ta

quả là hiền, thì nghe điều thiện tất phải theo mà học tập, nghe điều ác tất

phải ghét mà tránh xa; thiện, ác đều có thể làm gương được cả. Nếu (con ta)

không hiền, thì đợi gì thấy kẻ ác rồi mới làm điều ác? Như Thái Khang3 thất

đức, là bởi các vua trước chơi bời mà bắt chước hay sao? Tùy Dưỡng Đế4

luôn mồm nói đến Nghiêu Thuấn, nhưng mọi việc làm của ông ta thì lại như

Kiệt, Trụ, có phải là ông ta thấy điều thiện mà bắt chước hay sao".

1 Kinh, quyền là hai khái niệm thường gặp trong kinh điển nho gia. Kinh là

những nguyên tắc, nguyên là lý về đạo nghĩa, pháp chế

không thể thay đổi được, bất di bất dịch, đòi hỏi mọi người phải luôn luôn

tuân thủ (chấp kính). Quyền là quyền biến, là những biện pháp linh hoạt có

lúc cần phải theo (tòng quyền), để đạt được mục đích (đạo), dù những biện

pháp ấy có thể trái với các nguyên lý, nguyên tắc kinh điển.

2 Khắc Chung được phong Thiếu bảo năm Khai Thái thứ 3 (1326), lại là thầy

dạy (sư) của hoàng tử (sau là thái tử) Vượng nên gọi

là "sư bảo".

3 Theo truyền thuyết Trung Quốc: Thái Khang là vua nhà Hạ, con của Khải,

chơi bời vô độ, sau bị chư hầu họ Hữu Cùng là Hậu

Nghệ đuổi đi.

4 Tùy Dưỡng Đế Dương Quảng là một tên vua vô đạo, giết cha là Văn Đế để

cướp ngôi vua, cực kỳ xa hoa, tàn bạo, sau bị giết.

Uy Túc cúi đầu nhận là phải.

Lại một hôm, [thượng hoàng] mời Huệ Túc Vương vào tẩm điện, bảo ông ngồi.

Thượng hoàng

đang ăn chay. Huệ Túc Vương vốn bài xích Phật Lão, nhân nói:

"Thần không biết ăn chay thì có ích lợi gì?". Thượng hoàng đoán biết ý ông,

liền dụ rằng:

"Ông cha ta ngày xưa thường ăn cơm chay, cho nên ta bắt chước đó thôi, còn

ích lợi gì thì ta không biết".

Huệ Túc im lặng rồi lui ra.

Phong Tá thánh thái sư Nhật Duật làm Đại Vương.

Mùa đông, Thượng hoàng đi tuần thú đạo Đà Giang, đích thân đi đánh man Ngưu

Hống, sai

Thiêm tri Nguyễn Trung Ngạn đi theo để biên soạn thực lục.

Trước đó, thời Nhân Tông, Ngưu Hống cùng Đạo Mật vào chầu, cho trở về. Đến

nay, chúng làm phản, thả sức cướp bóc; đất cõi Đà Giang về tay chúng cả1

lại mưu cướp nhà Hoài Trung. Thượng hoàng quyết định thân chinh. Trần Khắc

Chung can rằng:

"Đà Giang vốn có tiếng là đất lam chướng, lại nhiều ghềnh thác chảy xiết,

không [49a] lợi cho việc hành quân. Chiêm Thành không có lam chướng, khí

độc, vả lại đế vương đời trước thân chinh, nhiều

lần bắt được chúa nó. Chi bằng bỏ Ngưu Hống đấy mà đánh ChiêmThành là hơn.

Thượng hoàng nói:

"Trẫm là cha mẹ dân, nếu sinh dân mắc vào cảnh lầm than thì phải cứu gấp,

chả lẽ đi so đo khó

dễ lợi hại hay sao?". Khắc Chung lạy tạ tâu rằng:

"Lòng thánh che chở, nuôi dưỡng rộng khắp, không phải là điều mà trí ngu

tối của thần có thể

nghĩ tới được".

Trước đây, khi Thượng hoàng sắp đi đánh Ngưu Hống, người Chiêm Chiêu đế cửa

khuyết dâng thư, đinh ninh rằng sẽ xin đem cả trại ra hàng, nên đã khắc

phù2 làm tin. Thượng hoàng đang muốn lên trên thành trại của họ, bắt chước

chuyện vua Hán Vũ Đế lên đài của chúa Hung Nô ngày xưa. Đến khi thân chinh,

sai Chiêm Nghĩa tiến sang để tiếp ứng quân nhà vua và dặn rằng:

"Trại Chiêm Chiêu đã ước hẹn xin hàng, phải đợi quân ta tới, không được

hành động liều".

Thượng hoàng đến Mường Việt3, đóng quân lại, ban tên [cho đất ấy] là phủ

Thái Bình; [ở đây]

có suối Bác Tử, ban tên là suối Thanh Thủy [48b]. Chiêu Nghĩa hầuj tới

Chiêm Chiêu, muốn tâng công,

tấn công trại, bị thua. Tuyên uy tướng quân Vũ Tư Hoằng liều sức chiến đấu,

chết tại trận. Thượng hoàng nghe tin nói: "Đã lỡ rồi!".

Song chiến dịch này, Thượng hoàng đích thân chỉ huy, hiệu lệnh nghiêm minh,

uy thanh vang dội, Ai Lao nghe tiếng chạy tan.

Khi về đến sông Bạch Hạc, giữa sông có đá ngầm dọc theo dòng chảy. Thuyền

đi thường bị chạm phải hay mắc cạn. Nghe nói thần sông ấy là Phụ Vũ Đại

Vương. Thượng hoàng khấn thầm: "Nếu thuyền ngự đi được an toàn thì sẽ khen

thưởng".

Sau này Hưng Hiếu Vương đi đánh man Đà Giang, đỗ thuyền trên sông Bạch

Hạc, đêm thấy thần báo mộng rằng: "Năm trước vua có lệnh khen thưởng mà đến

nay vẫn chưa thấy gì".

1 Nguyên văn là "Bản giang chi địa...", chúng tôi cho rằng bản chữ "bản"

vốn là chữ "Đà" Toàn thư chép lẫn.

2 Phù là vật để làm tin, thường làm bằng tre, gỗ, đồng, ngọc có khắc chữ,

chia làm hai, mỗi bên cầm một nữa, lúc cần chứng thực

thì đem hai nửa ghép lại.

3 Mường Việt: nay là đất huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La.

239 Đại Việt Sử Ký Toàn Thư -

Bản Kỷ - Quyển VI

Hưng Hiếu Vương về tâu lại, Thượng hoàng bèn phong thêm cho hai chữ: Quỷ

thần thiêng liêng,

ứng nghiệm, quả không sai là ngoa vậy.

Lấy Vũ Nghiêu Tá làm Nhập nội hành khiển Môn hạ hữu ty lang trung.

Nghiêu Tá (người Hồng Châu) với em là Nông, [50a], đều đỗ cùng một khoa hồi

Thượng hoàng còn ở ngôi vua. Anh em đều nổi tiếng văn học, Nghiêu Tá làm

Hành khiển đồng tri Nội mật viện sự. Đến nay, trao cho chức này.

240 Đại Việt Sử Ký Toàn Thư -

Bản Kỷ - Quyển VII

Đạ i Vi ệ t S ử Ký B ả n K ỷ Toàn Th ư

Quyển VII

[1a]

K ỷ Nhà Tr ầ n

Hiến Tông Hoàng Đế

Tên húy là Vượng, con thứ của Minh Tông, mẹ đích là Hiến Từ tuyên thánh

hoàng thái hậu, mẹ sinh là Minh Từ hoàng thái phi Lê thị. Ở ngôi 13 năm,

thọ 23 tuổi, băng táng ở lăng Xương An. Vua tư trời tinh anh, sáng suốt,

vận nước thái bình, nhưng hưởng thọ không dài, chưa thấy làm được gì, đáng

tiếc thay!

Canh Ngọ, Khai Hựu năm thứ 2 [1330], (Nguyên Chí Thuận năm thứ 1). Mùa hạ,

tháng 5, lấy ngày sinh làm tiết Hội Thiên.

Mùa thu, tháng 7, Thuận Thánh Bảo Từ hoàng thái hậu1 băng tại am Mộc Cảo,

Yên Sinh.

Thái hậu tính nhân từ. Các con của Anh Tông, dù là con vợ thứ sinh ra, bà

đều yêu dấu, chăn nuôi như con mình.

Công chúa Huệ Chân được Anh Tông yêu quí, thái hậu cũng rất yêu nàng. Thiên

Chân là con đẻ

của [1b] Thái hậu, nhưng khi có ban thức gì, thì cho Huệ Chân trước, rồi

sau mới đến Thiên Chân. Sau khi Anh Tông băng, Thái hậu càng chăm sóc Huệ

Chân hơn trước.

Đến như đối xử với các cung tần ưu hậu, như nữ quan trong cung là Vương

thị, mẹ đẻ của Huệ

Chân, được yêu quí mà có thai, Thái hậu đã lấy song hương đường ( phòng ngủ

của thái hậu ) cho làm

nơi sinh đẻ. Vương thị sau khi đẻ xong thì mất. Cung nhân ngầm tâu với

Thượng hoàng là Thái hậu giết

Vương thị. Thượng hoàng vẫn biết Thái hậu là người nhân từ, liền nổi giận

lấy roi đánh người cung nhân

ấy. Thái hậu cũng chẳng để bụng chuyện đó.

Bảo Huệ quốc mẫu ( tức là mẹ của Bảo Từ thái hậu ) có lần xin cho Nguyên

Huy ( túc là con gái của Uy Huệ, cháu gái của Bảo Từ ) vào làm cung phi.

Thượng hoàng đem chuyện đó hỏi thái hậu. Thái hậu trả lời: " Không được,

nếu Nguyên Huy được làm phi thì sẽ khiến Thục Tư phải xưng là nô chăng?".

Bà không đem ơn riêng mà cho bừa là như vậy đó. Người đương thời ca ngợi bà

là bậc đứng đầu mẫu đức. Từ khi rước linh cữu Anh Tông về Yên Sinh, mọi

điều khổ hạnh, bữa cháo, bữa chay, [2a] không việc gì bà không làm, nhưng

bà không chịu thụ giới với nhà sư. Bà nói:

" Từ khi Tiên đế ra đi, ta không thể trông thấy mặt nhà sư, ngồi nói chuyện

với nhà sư được, chỉ

ăn chay, húp cháu khổ hạnh để báo đáp đức lớn như trời của tiên đế thôi, y

bát2 mà làm gì?".

Bà ở núi mười năm rồi mất.

Tá Thánh thái sư Chiêu Văn Đại Dương Nhật Duật mất ( thọ 77 tuổi ).

1 Thuận Thánh Bảo Từ: là vợ của Anh Tông, mẹ đích của Minh Tông.

2 Y bát: là áo cà sa và bát xin thức ăn, hai vật tượng rưng cho nhà sư. Ở

đây không đi tu.

Nhật Duật thích chơi với người nước ngoài, thường cưỡi voi đến chơi thôn Bà

Già ( thôn này hồi

Lý Thánh Tông đánh chiếm Chiêm Thành, bắt được người Chiêm cho ở đấy, lấy

tiếng Chiêm đặt tên là

Đa Gia Ly, sau gọi sai thành "Bà Già") có khi ba, bốn ngày mới về. Lại hay

đến chơi chùa Tường Phù, nói chuyện với nhà sư người Tống, ở lại đến hôm

sau mới về. Người nước ngoài đến kinh sư, thường kéo đến nhà ông. Nếu là

khách Tống thì ông kéo ghế ngồi gần, chuyện trò suốt buổi, nếu là người

Chiêm hay người các man khác, thì đều theo phong tục nước họ mà tiếp đãi.

Đời Nhân Tông, sứ nước Sách Mã Tích1 sang cống, không tìm được người phiên

dịch. Chỉ có [2b] Nhật Duật là dịch được. Có người hỏi vì sao ông biết

tiếng nước họ, ông trả lời rằng:

"Thời Thái Tông, sứ nước ấy sang2 nhân có giao du với họ nên hiểu được đôi

chút tiếng nước

họ".

Nhân Tông từng bảo:

"Chiêu Văn Vương3 có lẽ là kiếp sau của người phiên lạc, nên giỏi tiếng

các nước đó".

Khi đã làm tể tướng, ông thường qua nhà Trần Đạo Chiêu là người Tống, ngồi

bên nhau nói

chuyện phiếm hàng giờ mà không mỏi. Anh Tông nghe biết chuyện bảo ông:

"Tổ phụ4 là tể tướng. Đạo Chiệu tuy là người Tống, nhưng đã có Hàn lâm

phụng chỉ, há nên ngồi nói chuyện với hắn?".

Theo lệ cũ, sứ Nguyên sang, phải sai người biết tiếng để phiên dịch, tể

tướng không được nói chuyện [trực tiếp ] với họ, sợ lỡ có sai sót gì thì đỗ

lỗi cho người phiên dịch. Nhật Duật thì không thế, khi tiếp sứ Nguyên, ông

thường nói chuyện thẳng với họ mà không mượn người phiên dịch. Đến khi sứ

về

nơi nghỉ thì dắt tay cùng vào, ngồi uống rượu vui vẽ như bạn vẫn quen biết.

Sứ Nguyên hỏi ông:

"Ông là người Chân Định5 tới làm quan ở đây chớ gì ? ".

Nhật Duật ra sức bác lại, nhưng họ vẫn không tin [3a] vì hình dáng và tiếng

nói của ông đều giống người Chân Định.

Anh Tông muốn tuyên Tôn Từ hoàng thái hậu làm Thái hoàng thái hậu, nhưng

chưa biết gia tôn thế nào. Khâm Từ hoàng thái hậu đem việc ấy hỏi ông, ông

trả lời là tôn làm thái hoàng thái hậu.

Anh Tông có hai chiếc mũ võ, là mũ đội khi duyệt và giảng võ mà chưa có tên

gọi. Khi đi đánh

Chiêm Thành, định đội đi, sai Nhật Duật đặt tên, Nhật Duật liền đặt tên một

chiếc là Vũ Uy, một chiếc là

Vũ Đức. Đến các tênb"Toát Trai", "Tư thiện đường" của Đông cung ( nhà học

của hoàng thái tử gọi là Tư

thiện đường, nhà học của Đông thái tử gọi là Toát trai) cũng đều là do ông

đặt tên cả.

Những tiết tấu âm nhạc, khúc điệu múa hát cũng do Nhật Duật sáng tác.

Cuối niên hiệu Thiệu Bảo6, ông giữ trại Thu Vật ở Tuyên Quang. Giặc hồ vừa

xâm phạm bờ cõi, Chiêu Quốc7 tâu với vua rằng:

1 Sách Mã Tích: có lẽ là nước Tumasik, tên cổ của Singapur ngày nay. Thư

tịch Trung Quốc có chổ phiên âm là Đơn Mã Tích.

2 Nguyên văn là "Bắc quốc sứ", bản dịchcũ dịch là "sức Bắc quốc". Ta

thường hiểu Bắc quốc là Trung Quốc. Nhưng ở đây đang nói

về nước Sách Mã Tích, mấy chữ "Bắc quốc sứ" làm câu mất nghĩa. Chúng tôi

cho rằng chữ Bắc? là nhầm tử chữ Thử?. "Thử quốc sứ" là "sứ nước ấy", câu

trở nên rõ ràng. Ngôn ngữ Tumasik thuộc hệ Mã Lai - Đa Đảo. Trần Nhật Duật

biết tiếng Chàm, cùng thuộc hệ này, nên có thể nahnh chónh học được tiếng

Tumasik.

3 Trần Nhật Duật là con của Trần Thái Tông, em của Trần Thánh Tông, nên

Nhân Tông gọi là "chú" (nguyên văn: "Chiêu Văn thúc").

4 Anh Tông gọi Nhật Duật bằng tổ phụ, tức là ông.

5 Nay là vùng đất huyện Chính Định, thuộc tỉnh Hà Bắc (Trung Quốc).

6 Niên hiệu Thiệu Bảo đời Trần Nhân Tông kéo dài từ 1270 đến 1280. Từ

tháng 10-1285, mới đổi sang niên hiệu Trùng Hưng. Việc

Trần Nhật Duật chống quân Nguyên nói ở đây là xảy

7 Tức Chiêu Văn Vương Trần Ích Tắc.

"Chiêu Văn ở Tuyên Quang, chắc ở trên đó gọi giặc sang rồi!" ( Nhật Duật

thích chơi với người

Tống nên Chiêu Quốc nói thế ).

Khi Tuyên Quang thất thủ, Nhật Duật thuận dòng [3b] rút về xuôi, quân giặc

theo hai bên bờ sông đuổi ông. Nhật Duật ngoảnh lại thấy giặc đi thong thả,

bảo quân lính: "Truy kích thì phải nhanh, nay chúng lại đi thong thả, sợ có

quân phía trước đón chặn".

Vội sai người dò xem, quả nhiên thấy giặc đã chặn ngang ở hạ lưu. Ông liền

lên bộ chạy thoát.

Ông là người hòa nhã, độ lượng, mừng giận không lộ ra sắc mặt, trong nhà

không bao giờ chứa roi vọt để đánh nô lệ. Nếu có đánh thì cũng kể tội lỗi

sau rồi mới đánh.

Có lần ông sai gia đồng giữ thuyền, tên này bị gia đồng của Quốc phụ1

đánh, có người đến mách. Nhật Duật hỏi: "Có chết không?". Người đó trả

lời:"Chỉ bị thương thôi". Ông nói: "Không chết thì thôi, mách làm gì!".

Lại có người kiện gia tùy của ông với Quốc phụ. Quốc phụ sai gia đồng tới

bắt. Người gia tùy chạy vào trong phủ, người gia phủ chạy đến nhà giữa, bắt

trói ầm ỹ. Phu nhân khóc lóc nói với ông :

"Ân chúa là tể tướng, Bình chương2 cũng là tể tướng, vì ân [4a] chúa nhân

từ, nhu nhược nên người ta mới coi khinh đến nước này".

Nhật Duật vẫn ung dung không nói, chậm rãi sai người bảo kẻ gia tỳ rằng:

"Mày cứ ra đi, ở đâu cũng đều có phép nước".

Ông lại thiệp liệp sử sách, rất hâm mộ huyền giáo3,thông hiểu xung điển4,

nổi tiếng đương thời

là người uyên bác.

Hồi Thượng hoàng còn nhỏ, bị ốm, từng sai ông làm phù phép trấn áp cho yên.

Ông mặc áo lông

đội mũ, trông như đạo sĩ.

Vợ ông là Trinh Túc phu nhân từng có việc xin riêng với ông, ông gật đầu.

Đến khi ra phủ, người thư ký đem việc ấy trình lên ông, ông lại không cho.

Ông là bậc thân vương tôn quý, làm quan trải bốn triều, ba lần coi giữ trấn

lớn, trong nhà không ngày nào không mở cuộc hát xướng, làm trò, mà không ai

cho là say đắm. So với Quách Tử Nghi5 tột cùng xa xỉ mà không ai chê, ông

cũng gần được như thế.

Trinh Túc phu nhân là người Thanh Hóa, cho nên các nàng hầu vợ lẽ của Nhật

Duật [4b] đều là người Thanh Hóa và các con ông cũng đều do các bà ở Thanh

Hóa đẻ ra. Sau này, có bổ tri phủ Thanh Hóa, đều lấy con cháu Nhật Duật cho

làm, cũng như Quốc Khang ở Châu Diễn vậy.

Trần Khắc Chung chết, tặng chức Thiếu sư.

Khắc Chung là người cố làm ra vẻ khác đời để cầu tiếng khen, không chăm lo

đến nghiệp nhà. Mỗi buổi sáng vào chầu thì tạm nghỉ ở cục Thượng Liễn cửa

Vĩnh Xương, xem kỹ các bản tâu để chuẩn bị

tâu bày. Khi tan chầu thì tới Đông cung ( khi ấy Minh Tông đang còn ở Đông

cung ) dạy học, đều giả vờ,

cố sức mà làm.Thường hay đánh bạc với học sĩ Nguyễn Sĩ Cố, có khi đến 2,3

ngày, đánh thâu đêm suốt sáng, ngồi ngay trên giường đánh bạc mà húp cháo,

không nghỉ lấy một chút. Được thua chỉ một hai quan tiền mà dụng tâm khổ sở

như vậy. Lại như gặp những ngày trẻ đầy năm,mừng nhà mới của bạn

1 Chỉ Quốc phụ thượng tể Trần Quốc Chẩn.

2 Chỉ Quốc phụ thượng tể Trần Quốc Chẩn.

3 Tức Đạo Giáo.

4 Xung: nghĩa là sâu, là hư không; xung điển: là chỉ chung các kinh điển

của Đạo giáo.

5 Quách Tử Nghi: quan đời Đường (Trung Quốc) trải bốn triều huyền Tông,

Túc Tông, Đại Tông, Đức Tông. Sau khi dẹp loạn An, Sử, được Túc Tông phong

là Phần Dương Vương, nên thường được gọi là Quách Phần Dương. Đời Đức Tông,

làm Thái úy trung thư lệnh, nên cũng được gọi là Quách Lệnh Công.

bè, được mời là đến cả. Thậm chí nhà quan thầy thuốc có món ăn ngon cũng

tới.Quân nhân biếu món ăn

thì khen ngợi[5a] vợ họ. Một hôm,[ Khắc Chung ] bảo con là Công Xước: " Mày

Lấy con gái nhà ấy sao không bảo cho ta biết ?".

Trước đây Khắc Chung lấy nàng Bảo Hoàn. Khoảng đời Trung Hưng, người Nguyên

vào cướp, cha mẹ Bảo Hoàn hàng giặc, tài sản, ruộng đất đều bị tịch thu

sung công. Đến khi vua lên ngôi, xuống chiếu cho trả lại, nhưng ông cũng

không đem điền sản đó dùng vào việc thờ cúng. Ông ta xu thời giả tạo như

thế đó. Chỉ có việc đi cầu hòa [với quân Nguyên ] là khả quan thôi. Cho

nên, người đời đều khen là giỏi.[Khi mất], đưa về chôn ở Giáp Sơn, bị gia

nô của Thiệu Võ băm nát xác ra.

Tân Mùi, [Khai Hựu] năm thứ 3[1331], ( Nguyên Chí Thuận năm thứ 2). Nhà

Nguyên sai Lại bộ

thượng thư Tản Chỉ Ngõa1 sang báo việc Văn Tông lên ngôi.

Sai sứ sang Nguyên chúc mừng2.

Thượng hoàn ngự cung Trùng Quang. Hoàng tử phủ đứng hầu. Gặp mưa gió to,

[hoàng tử Phủ ]

ứng chế làm bài thơ có câu :

An đắc tráng sĩ lực cái thế,

Khả ngự đại ốc chi đồi phong. (Sao được tráng sĩ sức hơn đời, Chống đỡ nhà

to khi gió mạnh).

Thượng hoàng thưởng cho Phủ 10 lạng vàng (Phủ lúc ấy 11 tuổi).

[5b] Nhâm Thân, [Khai Hựu] năm thứ 4 [1332], (Nguyên Chí Thuận năm thứ 3).

Mùa xuân, tháng 2, ngày 15, phụ táng Thuận Thánh Bảo Từ Hoàng thái hậu

vàoThái Lăng.

Trước đó, Thượng hoàng sai các quan chọn ngày chôn cất. Có người bác đi

rằng: "Chôn năm nay

tất hại người tế chủ". Thượng hoàng sai hỏi người đó rằng: "Người biết là

sang năm ta nhất định chết à?".

Người ấy trả lời là không biết. Thượng hoàng lại hỏi rằng:

"Nếu sang năm trở đi, ta chắc chắn không chết, thì hoãn việc chôn mẫu hậu

cũng được; nếu sang năm ta chết, thì lo xong việc chôn cất mẫu hậu chẳng

hơn là chết mà chưa lo được việc đó ư? Lễ

cát lễ hung phải chọn ngày là vì coi trọng việc đó thôi, chứ đâu có phải

câu nệ họa phúc như các nhà âm dương."

Triều.

Rốt cuộc vẫn cử hành lễ tang.

Tháng 3, lấy Nguyễn Trung Ngạn làm Nội mật viện phó sứ, giữ sổ sách ở nội

sảnh cung Quan

Mùa thu, tháng 7 lấy Nguyễn Trung Ngạn làm Tri thẩm hình viện sự, kiêm An

phủ sứ Thanh Hóa.

Trung Ngạn[6a] lập Bình doãn đường xét xử ngục tụng. Không ai bị xử oan

hoặc xử quá đáng.

Quý Dậu, [Khai Hựu] năm thứ 5[1333], (Nguyên Thuận Đế Thỏa Hoan Thiếp Mục

Nhi, Nguyên

Thống năm thứ 1). Mùa thu, tháng 7, nước lớn.

Đói to.

Giáp Tuất, [Khai Hựu] năm thứ 6[1334], (Nguyên Nguyên Thống năm thứ 2). Mùa

xuân, đặt thêm chức tả hữu chính ngôn tham nghị ở Trung thư.

Thượng hoàng tuần thú đạo Nghệ An, thân đi đánh Ai Lao. Lấy Nguyễn Trung

Ngạn làm Phát vận sứ Thanh Hóa, vận tải lương thực đi trước. Xa giá tới

Châu Kiềm3.

1 Nguyên sử, bản ký (Văn Tông) chép là tản Lý Ngoã.

2 CMCB9 dựa vào Nguyên sử chép tên người câm đầu sứ bộ lần này là Đoàn Tử

Trinh.

3 Châu Kiềm tức Mật châu, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An (theo CMCB9).

Ai Lao nghe tin chạy trốn. Sai Trung Ngạn mài vách núi khắc chử ghi công

rồi về1.

Ất Hợi, [Khai Hựu] năm thứ 7[1335], (Nguyên Chí nguyên năm thứ 1). Nhà

nguyên sai lại bộ

thượng thư là Thiết Trụ sang báo việc Thuận Đế lên ngôi.

Mùa thu, tháng 9, Thượng hoàng thân đi đánh Ai Lao bị thua. Đoàn Nhữ Hài bị

chết đuối.

Trước đó, Thượng hoàng đã bàn việc đánh Ai Lao mà không đi được. Đến đây,

lại bàn việc thân chinh, nhưng bị đau [6b] mắt. Có người xin hõan việc xuất

quân. Thượng hoàng nói :

"Năm ngoái định thân chinh rồi không được, năm nay lại vì đau mắt mà hoãn

việc xuất quân, thiên hạ sẽ bảo ta là nhát, nếu giặc phương Bắc xâm lấn thì

ta còn nhờ cậy vào đâu?".

Bèn quyết chí thân chinh, ít lâu sau mắt cũng khỏi. Đến Nghệ An, bệnh lại

tái phát. Thượng hoàng ngồi thuyền cố gượng mà đi, khi lên bộ thì khỏi.

Bấy giờ Nhữ Hài chỉ huy quân thần Vũ và Thần Sách, kiêm chức kinh lược đại

sứ Nghệ An, mà Ai Lao xâm lấn đất Nam Nhung2 là thuộc ấp của Nghệ An, cho

nên lấy Nhữ Hài làm đốc tướng, các quân đều chịu sự chỉ huy của ông.

Nhữ Hài chỉ đem quân thần Vũ và quân Nghệ An tiến đánh, đoán chừng Ai Lao

giữ đất Nam Nhung, quân ít và thiếu, đánh nhất định thắng. Vả lại, trại nó

sát ngay sông lớn Tiết La3 , sau khi thắng trận bắt được tù binh theo dòng

xuôi xuống, đi qua Chân Lạp và các nước phiên khác, đều có diễu võ giương

oai, nhân đó dụ bảo con em các nước ấy vào chầu, y muốn lập [7a]kỳ công để

lấn lướt người cùng hàng.

Đến ngày giao chiến, mây mù che tối, giặc đã phục sẵn voi ngựa, hai mặt

giáp công, quan quân thua to, sa xuống nước chết đuối đến quá nửa. Nhữ Hài

cũng ở trong số người chết đuối đó.

Thượng hoàng được tin đó bảo rằng: "Nhữ Hài dùng mưu tất thắng thừa kế tất

thắng, công đã gần thành, cuối cùng bị giặc nhử mồi[mà chết]. Nhữ Hài không

phải không biết tình thế của giặc, chỉ vì muốn làm to quá mới đến nỗi

vậy.Thế mới biết sự mong muốn của con người không thể vượt quá giới hạn

được".

Sử thần ngô Sĩ liên nói :"Trận đánh Thành Bộc4. Tử Ngọc có mưu tất thắng mà

rốt cuộc bị thua là vì bị Văn Công nhử mồi.Trận đánh Nam nhung, Nhữ Hài có

mưu tất thắng rồi cũng bị thua là vì bị Ai Lao nhử mồi. Hai viên tướng này

đâu phải không có tài lược mà đến nỗi như thế. Chỉ vì kiêu căng nên chuốc

lấy thất bại đó thôi.

Khổng Tử nói: "Gặp[7b] việc thì lo sơ, mưu giỏi thì thành công". Điều cốt

yếu của việc chiến trận không gì lớn hơn thế. làm tướng mà kiêu ngạo, có

thành công được bao giờ!.

Khi Thượng hoàng thân chinh thì Đỗ Thiên Hư chỉ huy quân Khoái Hộ (tức là

quân Thần Sách) đang bị ốm nặng. [Thượng hoàng ] bảo ở lại Thiên Hư liền

sai người nhà khiêng mình đến ngoài cửa Vĩnh An, cố xin theo xa giá và nói

:

"Thần thà chết ngoài cửa quân dinh chớ không muốn chết trong giường đệm".

Thượng hoàng khen ngợi chí khí của ông, cho đi theo, khi vào đất giặc thì

chết. Thượng hoàng than thở thương tiếc sắc cho dùng nhạc Thái thường để

cúng tế. Sau này Nguyễn Dũ chết cũng như vậy.

1 Bài văn khắc ở núi Thành Nam, thôn Trầm Hương, huyện Tương Dương, trỉnh

Nghệ An. Theo CMCB9, thì nét chữ to bằng bàn tay,

tạt vào đá sâu đến hơn một tất. Cương mục chép việc này vào năm Ất Hợi,

Khai Hựu năm thứ 7 (1335).

2 Nam Nhung: là tên ấp, ở huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An.

3 Cương mục chú sông Tiết La ở ấp Nam nhung. Có lẽ sông Tiết La là miột

khúc của sông Lam ở gần vùng Cửa Rào.

4 Trận đánh Thành Bộc ở nước Vệ thời Xuân Thu xảy ra giữa nước tấn và nước

Sở. Quân Sở do Tử Ngọc chỉ huy vốn có ưu thế hơn quân Tấn. Tướng Tấn Loan

Chi dùng mưu giả cách thua chạy, Tử Ngọc dẫn quân đuổi theo, bị quân tấn

hai bên đánh ập lại, quân

Sở đại bại.

(Bấy giờ cúng tế thông thường mà dùng nhạc Thái thường thì chỉ có hành

khiển mới được, chức

thẩm hình chỉ được dùng trai nội tế.Thiên Hư được tế bằng Thái thường là ân

sủng đặc biệt, không kém

gì hành khiển).

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Kẻ tiểu nhân suy tính thấy lợi thì tiến,thấy hại

thì [8a] lui, chỉ mong vừa lòng mình, có lợi cho mình.Cho nên có kẻ thấy

việc ngại thì khó, có kẻ làm quan thì kiếm cớ, hiếm được người sốt

sắng với vua họ. Thiên Hư đang lúc ốm nặng, Minh Tông cho ở

lại, như thói thường của người đời thì chẳng qua vâng lời là xong,

lại cố xin đi theo, không muốn chết ở nơi giường đệm, thì suy nghĩ của ông

chỉ sốt sắng với nhà vua thôi, há chẳng làm cho những kẻ ngại khó kiếm cớ

xấu hổ sao ?

Bấy giờ có thượng tướng Phạm Thương Cối tính người hòa nhã, chưa từng tranh

cạnh với ai.Trần

Ngô Lang thường hay khinh rẻ ông, nhưng ông cũng không động lòng. Đến việc

đánh dẹp thì nhiều lần

có công, cũng không cậy công mà lên mặt với người khác. Thượng hoàng có lần

bảo :

"Cách sửa mình của Thương Cối cũng gần được như Quách Tử Nghi". Mùa đông,

tháng 12, động đất.

[8b] Bính Tý, [Khai Hựu ] năm thứ 8[1336], (Nguyên Chí nguyên năm thứ 2).

Thượng hoàng từ

Ai Lao về đến kinh sư.

Mùa thu, tháng 7, nước to.

Mùa đông, tháng 10, ngày 19, con của Thượng hoàng là Hạo sinh (tức là Dụ

Tông).

Đinh Sửu, [Khai Hựu] năm thứ 9[1337], (Nguyên Chí Nguyên năm thứ 3). Mùa

hạ, tháng 6, ngày mồng 2, con của Thượng hoàng là Kính sinh (tức là Duệ

Tông).

Ngày mồng 5, sét đánh đình Át Vân điện Thụy Chương. Sao chổi mọc ở phương

đông Bắc.

Xét duyệt các quan văn võ, vẫn đặt thuộc viên các sảnh, viện.

Mùa thu, tháng 7, lấy công chúa Hiển Trinh, con gái trưởng của Bình chương

Huệ Túc vương làm

Thần phi.

Tháng 9, xuống chiếu cho các quan trong ngoài triều khảo sát các thuộc viên

do mình cai quản, người nào có tờ khai cam kết thì giử lại, người nào ở nhà

không làm việc thì đuổi về.

Lấy Nguyễn Trung Ngạn làm An phủ sứ Nghệ An, kiêm Quốc sử viện giám tu quốc

sử, hành Khoái Châu lộ tào vận sứ Trung Ngạn kiến nghị lập tào thương chứa

thóc tô để chẩn cấp dân bị đói. Xuống chiếu cho các [9a] lộ bắt chước thế

mà làm.

Sai Hưng Hiếu Vương dẹp người man Ngưu Hống. [Hưng Hiếu Vương] tiến quân

vào trại Trịnh

Kỳ, đánh tan quân man, chém tù trưởng của họ là Xa Phần.

Quân trở về, quân sĩ đều được ban thưởng. Hưng Hiếu Vương viện dẫn việc

Nhân Huệ Vương đi dẹp ấp Nam Nhung khi trước, xin thưởng cả những người giữ

thuyền. Thượng hoàng nói :

"Khánh Dư đi đánh Nam Nhung, từ Nghệ An đi bộ mấy ngày, đến sông Nam Nhung

mới đục gỗ làm thuyền.Đó là giữ thuyền trong đất của giặc, chứ không phải

là giữ thuyền ở Nghệ An.Người giữ thuyền lần này thì khác thế.Vả lại, có

thưởng tất phải có phạt, thưởng phạt thường phải có cả. Nếu người

giữ thuyền muốn nhờ ở chiến thắng để lấy thưởng, giả sử người đi đánh bị

chết thì người giữ thuyền cũng chịu chết chăng?".

Hưng Hiếu trả lời :"Nếu không có người giữ thuyền, trong quân mà nghe tin

giặc lấy mất thuyền

thì quân sĩ liệu có giữ vững được không?". Thượng hoàng nói: "Nếu vậy thì

trước hết phả thưởng cho những người trong triều mới phải, vì nếu

Kinh sư không yên thì quân sĩ có thể đi đánh giặc được không?".

Hưng Hiếu [9b] không trả lời được.

Trong chiến dịch này, gia đồng của Hưng Hiếu là Phạm Ngải có lập chiến

công, Thượng hoàng

nói: "Gia nô tuy có chút công lao nhưng không được dự vào quan tước triều

đình".

Xuống chiếu cấp cho Ngải 5 phần suất ruộng. Lại có Bảo Vũ là người Thượng

hoàng rất yêu mến, nhưng cũng không được đặt vào chức quan trọng vì không

có tài, cũng như Anh Tông đối với Hưng Bảo1 vậy.

Mậu Dần, [Khai Hựu] năm thứ 10 [1338], (Nguyên Chí Nguyên năm thứ 4). Mùa

thu, tháng 8, nước to.

Mùa đông, tháng 10, gió to, nhà cửa, cây cối bị đỗ gãy nhiều.

Lấy Cung Tĩnh Vương Nguyên Trác làm tham dự triều chính, Cung Định Vương

Phủ làm Phiêu kỵ

thượng tướng quân, lĩnh trấn Tuyên Quang.

Kỷ Mão, [Khai Hựu] năm thứ 11[1339], (Nguyên Chí Nguyên năm thứ 5). Mùa

xuân, đổi tên lịch

Thụ thành lịch Hiệp kỷ.

Khi ấy, Hậu nghi lang thái sử cục lệnh là Đặng Lộ cho rằng lịch các đời

trước đều gọi là lịch Thụ

thì, xin đổi tên thành lịch Thụ thì, xin đổi thành lịch Hiệp [10a] kỷ. Vua

y theo.

(Lộ là người huyện Sơn Minh )2 .Lộ từng làm linh lung nghi thảo nghiệm

thiên tượng, không việc

gì là không đúng.

Mùa thu, tháng 8, ngày 15, ban đêm, con của Thượng hoàng là Hạo đi thuyền

chơi Hồ Tây bị chết đuối, vớt được ở lỗ cống đơm cá. Thượng hoàng sai thầy

thuốc Trâu Canh cứu chữa. Canh nói: "Dùng kim châm sẽ sống lại, nhưng chỉ

sợ sẽ bị liệt dương". Dùng kim châm thì quả như lời ông ta nói,

từ đấy mọi người gọi Trâu Canh là thần y. Canh sau mãi được thăng lên Quan

phục hầu Tuyên Huy viện

đại sứ kiêm Thái y sứ.

Lấy Trương Hán Siêu làm Môn tạ hữu ty lang trung. Nhân Huệ Dương Khánh Dư

chết.

Năm nay, sao Huỳnh Hoặc mọc vào giới phận sao Nam Đẩu ở đến hơn một tháng

mới ra (chưa

rỏ tháng nào ).

Tân Tỵ, [Khai Hựu] năm thứ 13[1341], (từ tháng 8 trở đi là Dụ Tông, Thiệu

Phong năm thứ 1, Nguyên Chí Chính năm thứ 1) .Mùa xuân, lấy nguyễn Trung

Ngạn làm Đại Doãn kinh sư.

Mùa hạ, tháng 6, ngày 11, vua băng ở chính tẩm, tạm quàn[10b] ở cung Kiến

Xương, miếu hiệu

là Hiến Tông.

Sử Thần Ngô Sĩ Liên nói: "Vua tuy có thiên tư tốt đẹp, nhưng vì tuổi trẻ

nối ngôi, công việc trong nước đều do Thượng hoàng giữ cả, thì cũng như là

người chưa nắm việc của đất nước, tức như câu "cha còn sống, con không được

chuyên quyền"" 3 vậy, còn bàn vào đâu được nữa.

Mùa thu, tháng 8, ngày 21, Thượng hoàng đón hoàng tử Hạo lên ngôi Hoàng đế,

đổi niên hiệu là

Thiệu Phong năm thứ 1.

Đại xá.

[ Vua ] tự xưng là Dụ Hoàng. Các quan dâng tôn hiệu là Thống Thiên Thể Đạo

Nhân Minh Quang Hiếu Hoàng Đế. Vua lúc ấy mới lên 6 tuổi. [Thượng hoàng ]

không lập con trưởng là Cung Túc Vương Dục, Vì [Dục] là người ngông cuồng.

1 Nên sửa là Bảo Hưng. Toàn thư, BK6 chép: Hưng Long năm thứ 12 (1304),

tháng 12... Vua (Anh Tông) đối với người tôn thất như

Bảo Hưng Vương (không rõ tên) rất là thân yêu mà không trao cho chính sự vì

không có tài.

2 Huyện Sơn Minh: nay là huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây.

3 Lời chú trong thiên Học nhi, sách Luận ngữ.

Sai Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn làm biên soạn bộ Hòang triều đại

điển và khảo soạn

bộ Hình thư để ban hành.

[11a] Dụ TÔNG HOÀNG ĐẾ

(Phụ:HÔN ĐỨC CÔNG DƯƠNG NHẬT LỄ, 1 năm )

Tên húy là Hạo, con thứ mười của Minh Tông, do Hiến Từ Hoàng hậu sinh ra. Ở

ngôi

28 năm,thọ 34 tuổi, băng táng ở Phụ Lăng. Vua tính rất thông tuệ, học vấn

cao minh, chăm

lo việc võ, sữa sang việc văn, các di thần đều phục. Đời Thiệu Phong, chính

sự tốt đẹp; từ

năm Đại Trị về sau, chơi bời quá độ, cơ nghiệp nhà Trần suy yếu từ đó.

Nhâm Ngọ, [Thiệu Phong] năm thứ 2[1342], (Nguyên Chí Chính năm thứ 2). Mùa

xuân, tháng

3, xét duyệt các quan văn võ và tạp lưu.

Mùa hạ, tháng 4, phong con gái của Thượng hòang là Ngọc Tha (còn chép là

Bạch Tha) làm

Thiên Ninh công chúa, gã cho Chính Túc Vương Kham, (có sách chép là Hưng

Túc).

Tháng 5, chúa Chiêm thành Chế A Nan chết. Con rể là Trà Hòa Bố Đề tự lập

làm vua, sai đến cửa khuyết báo tin buồn.

Mùa thu, tháng 7, tôn Hiến Từ hoàng hậu làm Hoàng Thái hậu.

Lấy Trương Hán Siêu làm [11b] tả ty lang trung kiêm Kinh lược sứ Lạng

Giang; Nguyễn Trung Ngạn chọn đinh tráng các lộ bổ sung các ngạch thiếu của

cấm quân, định thành sổ sách. Khu mật viện quản lãnh cấm quân bắt đầu từ

Trung Ngạn.

Thượng hoàng ngự đến Ngự sử đài. Giám sát ngự sử Doãn Định và Nguyễn Như Vi

bị bãi chức.

Bấy giờ đã trùng tu xong Ngự sử đài.Sáng sớm, Thượng hoàng ngự tới, Ngự sử

Trung tán là Lê

Duy theo hầu Thượng hoàng trở về cung rồi, Doãn Định và Nguyễn Như Vi mới

đến [Hai người] bèn làm

sớ kháng nghị, nói là Thượng hoàng không được vào Ngự sử đài và hặc tội Lê

Duy không biết can ngăn,

lời lẽ rất gay gắt.

Thượng hoàng gọi đến dụ họ rằng: "Ngự sử đài cũng là một trong các cung

điện, chưa từng có cung điện nào mà thiên tử không được vào.Vả lại, trong

Ngự sử đài xưa kia còn có chổ để thiên tử giảng học.các bạ thư[12a] chi hậu

dâng hầu bút nghiêng đều ở đó cả. Đó việc cũ thiên tử vào Ngự sử đài. Ngày

xưa Đường Thái Tông còn xem Thực lục, huống chi là vào đài!".

Bọn Định còn cố cãi, mấy ngày vẫn không thôi. Vua dụ họ hai, ba lần cũng

không được, bèn bị

bãi chức cả.

Quý Mùi, [Thiệu Phong] năm thứ 3 [1343], ( Nguyên Chí Chính năm thứ 3). Mùa

xuân, tháng 2, Thượng hoàng ngự đến phủ Thiên Trường.

Mùa hạ, tháng tư, ngày mồng một, nhật thực.

Tháng 5, tháng 6, hạn hán. Xuấng chiếu ban giảm một nửa thuế nhân đinh năm

này. Mùa đông, tháng 11,ngày mồng một, Khâm từ hoàng Thái hậu băng.

Năm này mất mùa,đói kém,dân nhiều kè làm trộm cướp, nhất là gia nô các

vương hầu.

Giáp Thân, [Thiệu Phong] năm thứ 4[1344], (Nguyên Chí Chính năm thứ 4). Mùa

xuân, tháng

2, người Trà Hương1 là Ngô Bệ họp bọn ở núi Yên Phụ2 làm giặc cướp.

Đổi Hành khiển ty ở cung Thánh Từ làm Thương thư sảnh, còn Hành

khiển ty ở cung Quan

Triều[12b] vẫn để là môn hạ sảnh như cũ.

Đặt đại sứ và phó sứ của viện Tuyên Huy.

Đổi kiểm pháp quan của viện Đăng Văn thành Đình úy, Tự khanh và Thiếu

khanh.

Đặt đồn điền sứ và phó sứ ở ty Khuyến nông.

Lộ lớn thì đặt An phủ sứ và phó sứ, thuộc châu thì đặt Thông phán. Lại đặt

chức Đề hình và chức Tào ty chuyển vận ở lộ nhỏ. Phủ Thiên Trường thì đặt

là Thái phủ và Thiếu phủ.

Phục hồi quan tước cho Quốc phụ thượng tể Quốc chẩn.

Mùa thu, tháng 8, đặt 20 đô phong đoàn ở các lộ để đuổi bắt giặc cướp. Ngày

15 an táng Hiến Tông vào An Lăng ở Kiến Xương3.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Thiên tử mất 7 thánh thì chôn.Ngày

xưa Chu Hòan Vương mất đến 7 năm mới chôn là vì nhà Chu khi ấy có lọan Tử

Nghi và Hắc Kiên4. Hiến Tông đến nay đã mất 4 năm rồi mới táng, vẫn chưa

biết lý do vì sao. Có lẽ còn thượng hoàng nên phải theo lệnh chăng?. [13a]

nhưng lúc ấy cũng không thấy ai đem lễ ra bàn

cãi cả.

Năm này mất mùa, đói kém, dân nhiều kẻ phải làm sư và làm nô cho các thế

gia.

Ất Dậu, [Thiệu Phong] năm thứ 5[1345], (Nguyên Chí Chính năm thứ 5). Mùa

xuân, tháng 3, thi thái học sinh. Phép thi dùng ám tả, cổ văn, kinh nghĩa,

thi phú.

Mùa hạ, tháng 4 và 5 hạn hán. Xuống chiếu soát tù, giảm tội bọn tội phạm.

Mùa thu, tháng 8, sứ Nguyên là Vương Sĩ Hành sang hỏi việc cột đồng. Sai

Phạm Sư Mạnh đi biện bạch việc này.

(Xét năm này ở nước Nguyên giặc cướp nổi lên ở khắp nơi, hơn nữa, tháng 9

năm sau Sư Mạnh

được lệnh thăng chức, đi về sao lại nhanh thế?. Việc này chưa chắc đã có,

hãy tạm chép vào đây).

Mùa đông, tháng 11, lấy Trương Hán Siêu là Tả gián nghị đại phu.

Sai quân nhân đi bắt Ngô Bệ ở núi Yên Phụ. Quân của Bệ chạy trốn tan rã cả.

Bính Tuất, [Thiệu Phong] năm thứ 6 [1346], (Nguyên Chí Chính năm thứ 6).

Mùa xuân, tháng

2, ngày mồng một, nhật thực.

Sai Phạm Nguyên Hằng sang sứ [13b] Chiêm Thành, trách hỏi về việc thiếu lễ

triều cống hàng

năm.

Mùa hạ, tháng 5, Ai Lao vào cướp biên giới. Sai Bảo Uy Vương Hiến đánh tan

bọn chúng. Bắt

được rất nhiều người và súc vật. Mùa thu,tháng 9, lấy Phạm Sư Mạnh là

Trưởng bạ kiêm Khu mật tham chính.

Mùa đông, tháng 10, Chiêm Thành sai sứ sang cống, lễ vật rất đơn bạc.

1 Trà Hương: là đất huyện Kim Thành trước đây, nay là một phần đất huyện

Kim Môn, tỉnh Hải Hưng.

2 Núi Yên Phụ: ở huyện Kim Môn, tỉnh Hải Hưng.

3 Nay là huyện Vũ Thư và huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.

4 Đời Chu ở Trung Quốc, Chu Hoàn Vương Cơ Lâm chết, con là Trang Vương Cơ

Đà lên ngôi, nhưng Chu Công Hắc Kiên âm mưu giết Trang Vương lập Tử Nghi

(em Trang Vương), cung đình loạn to, xác Hoàn Vương để tới 7 năm mới chôn.

Đinh Hợi, [Thiệu Phong] năm thứ 7 [1347], (Nguyên Chí Chính năm thứ 7) .Mùa

xuân, tháng

giêng, ngày mồng một, nhật thực.

Mùa hạ, tháng 6 , Bảo Uy Vương Hiến có tội bị đuổi ra làm Phiêu

kỵ tướng quân trấn Vọng

Giang1, rồi bị giết ở sông Vạn Nữ2, lộ Trường Yên.

Buổi đầu dựng nước, thuyền buôn nước Tống sang dâng người nước Tiểu Nhân,

thân dài 7 tấc, tiếng như ruồi nhặng, không thông ngôn ngữ, lại dâng một

tấm vải hỏa hoãn3 giá mỗi thước 300 quan tiền, lưu truyền làm của quý. Sau

đem may áo vua, cắt hơi ngắn, sai cất trong nội phủ. [14a] Bảo Uy tư thông

với cung nhân lấy trộm áo ấy. Một hôm Bảo uy mặc áo ấy vào trong rồi vào

chầu, tâu việc trước mặt Thượng hoàng, để lộ ống tay áo ra. Thượng hoàng

trông thấy có ý ngờ, sai người kiểm xét lại, quả nhiên chiếc áo cất giữ đã

mất. Người cung nhân sai người thị tỳ già đến nhà Bảo uy lấy áo đem về, rồi

ngầm đem vào cung dâng trình. Thượng hoàng không nỡ giết, đuổi Bảo Uy ra

làm quan ở trấn ngoài. Đến sông Vạn Nữ, sai vũ sĩ đi thuyền nhẹ đuổi giết,

vứt xác vào bãi cát rồi về, giáng làm Bảo Uy hầu.

Mùa thu, tháng 8, Đôn Từ hoàng thái hậu Lê thị băng. Cung Mẫn Vương Nguyên

Hú chết.

Mậu Tý, [Thiệu Phong] năm thứ 8[1348], Nguyên Chí Chính năm thứ

8). Mùa xuân, tháng giêng, lấy ngự tiền học sinh Đỗ Tử Bình làm thị

giảng.

Mùa hạ, tháng 5, hạn hán. Mùa thu, tháng 7, nước to.

Mùa đông, tháng 10, thuyền buôn nước Đồ Bồ4 đến hải trang Vân D(ồn ngầm

mua ngọc trai. Người Vân Đồn [14b] nhiều kẻ mò trộm ngọc trai bán cho họ.

Chuyện này bị phát giác, đều bị tội cả.

Phương Cốc Trân5 nước Nguyên dấy binh làm loạn.

Kỷ Sửu, [Thiệu Phong] năm thứ 9 [1349], (Nguyên Chí Chính năm thứ 9). Mùa

xuân, tháng 3, thuyền buôn phương Bắc sang cống bát Diêu Biến.

(Cuối đời Tống, người Hàng Châu nung lò bát sắp được, thấy con chim diêu

bay qua trên lò bát,

ỉa phân vào trong lò, hoá thành bát ngọc, nên đặt tên là Diêu Biến6) .

Mùa hạ, tháng 5, nước Đại Oa7 sang cống sản vật địa phương và chim vẹt đỏ

biết nói.

Mùa đông, tháng 10, sách phong công chúa Ý Từ, con gái thứ tư của Bình

chương Huệ Túc

Vương làm Nghi Thánh hoàng hậu.

Tháng 11, ngày mồng một, nhật thực.

Đặt quan trấn, quan lộ vá sát hải sứ ở trấn Vân Đồn, lại đặt quân Bình Hải

để trấn giữ. Trước

đây, thời nhà Lý, thuyền buôn tới thì váo từ các cửa biển Tha, Viên8 ở

Châu Diễn. Đến nay, đường biển

đổi dời, cửa biển nông cạn, thuyền buôn phần nhiều tụ tập ở Vân Đồn, cho

nên có [15a] lệnh này.

1 Tức đất huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An ngày nay.

2 Sông Vạn Nữ: hay sông Trinh Nữ ở địa giới huyện Yên Mô (CMCB9), nay

thuộc huyện Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình.

3 Thứ vải chịu lửa, có nhiều thuyết, nhưng có lẽ là giặc bằng lửa (hoãn

cũng đọc là cán, có nghĩa là giặt).

4 Cũng đọc là Chà Bồ, có lẽ là phiên âm tên Java (In-đô-nê-xi-a).

5 Sử Trung Quốc chép là Phương Quốc Trân. Năm 1348, Phương Quốc Trân khởi

nghĩa ở Chiết Đông, lấy Khánh Nguyên (Ninh Ba, Chiết Giang) làm căn cứ.

6 Thứ bát sứ tráng men, khi nung, lửa lò không đều, men biến đi mà thành

sắc lạ.

7 Có lẽ cũng là Qua Oa, tức Java.

8 Bản dịch cũ chú rằng có lẽ là cửa Thơi và cửa Quèn.

Canh Dần, [Thiệu Phong ] năm thứ 10[1350], (Nguyên Chí Chính năm

thứ 10). Mùa xuân,

tháng giêng, có người Nguyên là Đinh Bàng Đức, nhân nước có lọan, đem cả

nhà đi thuyền vượt biển chạy sang ta. Bàng Đức giỏi leo dây, làm trò ca

múa. Người nước ta bắt chước làm trò múa leo dây. Trò

leo dây bắt đầu có từ đó.

Cung Giản Vương Nguyên Thạch chết.

Từ Thọ Huy nước Nguyên dấy binh, tự xưng là Hoàng đế1, nước [Nguyên] loạn

to.

Tân Mão, [Thiệu Phong] năm thứ 11[1351], (Nguyên Chí Chính năm thứ 11). Mùa

xuân,tháng giêng, người Thái Nguyên và Lạng Sơn tụ họp làm giặc cướp, đánh

lẫn nhau. Đánh dẹp được bọn chúng.

Mùa hạ, tháng 5, ngày mồng một, nhật thực. Mùa thu, tháng 7, nước to.

Lấy Trương Hán Siêu làm Tham tri chính sự.

Người con gái ở Thiên Cương, Nghệ An biến thành con trai. Trâu Canh có tội

đáng chết, được tha.

Bấy giờ Trâu Canh thấy vua bị liệt dương, dâng phương thuốc nói rằng [15b]

giết đứa bé con trai, lấy mật hòa với dương khởi thạch mà uống và thông dâm

với chị hay em ruột của mình thì sẽ hiệu nghiệm. Vua làm theo, thông dâm

với chị ruột là công chúa Thiên Ninh, quả nhiên công hiệu.

Canh từ đấy được yêu quý hơn, được ngày đêm luôn ở trong hậu cung hầu hạ

thuốc thang. Canh liền thông dâm với cung nữ. Việc phát giác, Thượng hoàng

địng bắt Canh chết, nhưng vì có công chữa khỏi bệnh cho vua nên được tha.

( Canh là con Trâu Tôn người phưong Bắc. Khoảng năm Thiệu Phong2, người

Nguyên vào cướp,

tôn làm thầy thuốc đi theo quân Nguyên, đến khi quân Nguyên thua, thì bị

bắt. Tôn ở nước ta, chữa thuốc cho các vương hầu thời đó, phần

nhiều thấy công hiệu. Người trong nước nhiều lần cho Tôn ruộng,

nô, thành ra giàu có. Canh nối nghiệp cha, trở thành danh y, nhưng không có

hạnh kiểm nên đến

nỗi thế. Đến sau lại được phục hồi chúc vị. Dòng dõi của Canh đến triều nay

còn có người là Trâu Bảo,

được của do Trâu Canh cất giữ trở nên giàu có, nhưng cũng vì thế mà trở nên

lụng bại).

Lấy Nguyễn Trung Ngạn làm Nhập nội hành khiển, vẫn coi việc ở khu mật viện.

Mùa đông, tháng 11, vua ngự điện Thiên An, duyệt cấm quân ở Long Trì, ban

cho Nguyễn Trung

Ngạn mặc chiến bào, đội mũ võ, đeo thẻ bài gỗ, nghiên vàng3 để duyệt cấm

quân, định loại hơn kém.

[16a] Nhâm Thìn, [Thiệu Phong] năm thứ 12, [1352], (Nguyên Chí Chính năm

thứ 12). Mùa xuân, tháng 3, Chế Mỗ người Chiêm Thành chạy sang ta, dâng voi

trắng, ngựa trắng, mỗi thứ một con, một con kiến lớn (dài 1 thước 9 tấc) và

các cống vật xin đánh Trà Hòa Bố Để mà lập y làm vương quốc.

Trước đây, khi chúa Chiêm là Chế A Nan còn sống, con rể là

Chế Mỗ làm bố điền (tức đại vương), con rể là Trà Hòa Bố Để làm bố đề

(Tức tể tướng), nói câu gì bàn kế gì cũng được chúa Chiêm nghe theo, nhân

thế hắn lập bè đảng với Chế Mỗ. Chế Mỗ khi nào bị quở trách, Bố Để thưồng

cứu gỡ cho. Người trong nước do vậy mà có lòng khác, không chuyên tâm theo

về Chế Mỗ nữa. Đến khi A Nan chết, Bố Để liền đuổi Chế Mỗ mà tự lập làm

vua. Thế mới biết kẻ làm tôi mà lập bè đảng là có mưu đồ khác mà Chế Mỗ vẫn

không biết là mình bị sa vào thuật của nó.

1 Từ Thọ Huy nổi dậy ở vùng Hồ Bắc, xưng đế, quốc hiệu là Thiên Hoàn, đóng

đô ở Nghi Thủy, sau dời đô về Hán Dương (tỉnh Hồ

Bắc, Trung Quốc).

2 Niên hiệu Thiệu Phong (1341-1358) không có quân Nguyên xâm lược. Cương

mục chữa là Nguyên Phong (1251 -1258). Như vậy

là muốn chỉ cuộc xâm lược của quân Mông Cổ vào năm 1258, không chắc là có

thầy thuốc Trung Quốc đi theo quân Mông Cổ. Chúng tôi cho rằng nên chữa là

là Thiệu Bảo (1279-1285). Trong niên hiệu này, có cuộc xâm lược lần thứ hai

1285. Lần này ta bắy được nhiều tù binh.

3 Thẻ bài gỗ có bốn cạnh như hình cái thước vuông và nghiên vàng đựng mực,

là hai thứ đeo vào đai lưng để tiện ghi chép.

Mùa thu, tháng 7, nước lớn tràn ngập, vỡ đê Bát Khối1 lúa má chìm ngập.

Khóai Châu2, Hồng

Châu3 và Thuận An4 hại nhất.

[16b] Quý Tỵ, [Thiệu Phong] năm thứ 13 [1353], (Nguyên Chí Chính năm thứ

13). Mùa xuân, tháng giêng, xuống chiếu cho các vương hầu đóng thuyền

chiến, chế tạo vũ khí, luyện tập binh sĩ.

Lấy cung Định Vương Phũ làm Hữa tướng quốc.

Mùa hạ, tháng 6, cử đại binh đi đánh Chiêm thành. Quân bộ đến Cổ Lũy5 ,

quân thủy chở lương gặp trở ngại lại quay về.

Trước kia Hưng Hiếu Vương coi Hóa Châu6 , Chế Mỗ nói với Tước Tề (là gia

nhi của Minh Tông đi

lại với Chế Mỗ) rằng:

"Chuyện cổ của Chiêm Thành kể rằng ngày xưa có ông vua nuôi một con khỉ

lớn, rất yêu quí nó, muốn cho nó biết nói. Ông ta tìm khắp trong nước, bảo

người nào biết nuôi dạy được khỉ nói thì thưởng một lạng vàng. Có một người

nói là sẽ dạy đưọc. Vua mừng lắm, sai hắn nuôi khỉ. Người ấy nói: "Hàng

tháng dùng thuốc phí tổn đến trăm lạng vàng, sau ba năm mới có kết quả".

Vua nghe theo. Ý hắn nghĩ rằng quốc vương với mình cùng con khỉ, trong

khỏang ba năm nhất định có một kẻ chết hãy cứ lấy vàng của vua đã, mà chẳng

cấn phải có kết quả. Chế Mỗ theo về chúa thượng, nhưng thực là Hưng Hiếu

chủ trương[17a] việc ấy. Trải bao năm tháng mà vẫn chưa nghe được ngày về

nước. Sự thể của tôi cũng giống chuyện đó".

Triều đình nghe lới Chế Mỗ, cử binh đưa Chế Mỗ về nước, nhưng không thành

công. Chế Mỗ ở

lại nước ta, không bao lâu rồi chết.

Thăng Thái úy Nguyên Trác làm Tả tướng quốc.

Mùa thu, tháng 9, Chiêm Thành vào cướp Hóa Châu, quan quân đánh đuổi chúng

rất bất lợi. Vua

gọi Trương Hán Siêu mưu tính việc đó. HánSiêu trả lời: "Không nghe lời thần

nên đến nỗi thế". Vua bèn sai Trương Hán Siêu đem các quân Thần sách đi

trấn giữ Hóa Châu.

Giáp Ngọ, [Thiệu Phong] năm thứ 14 [1354], (Nguyên Chí Chính năm thứ 14).

Mùa xuân, tháng

2, quan trấn giữ biên giới phía bắc cho chạy trạm tâu việc Trần Hữu Lượng

nước Nguyên dấy binh, sai sứ

sang xin hòa thân (Hữu Lượng là con Trần ích Tắc ).

Tháng 3, ngày mồng một, nhật thực.

Bấy giờ đói kém, dân khổ vì giặc cướp. Có kẻ tự xưng là cháu ngoại của Hưng

Đạo Đại Vương

tên là Tề, tụ họp các gia nô bỏ trốn của các vương hầu làm giặc, cướp bóc

các xứ Lạng Giang7, Nam

Sách8 .

[17b] Mùa thu,tháng 9, có nạn sâu lúa. Xuống chiếu giảm một nửa tô ruộng.

Mùa đông, tháng 11, có con hổ đen xuất hiện trong thành.

Tả tham tri chính sự Trương Hán Siêu trấn giữ Hóa Châu, biên thùy trở lại

yên ổn. Ông xin trở về

triều, vua y cho, nhưng về chưa tới kinh sư thì chết, được truy tặng Thái

bảo.

1 Bát Khối: tức Bát Tràng và Thổ Khối, tên hai xã của huyện Gia Lâm, Hà

Nội.

2 Khoái Châu: gồm đất các huyện Châu Giang (trừ đất Văn Giang cũ), Kim Thi

và Phù Tiên, tỉnh Hải Hưng ngày nay.

3 Hồng Châu: gồm đất các huyện Mỹ Văn, Cẩm Bình, Ninh Thanh và Tứ Lộc,

tỉnh Hải Hưng ngày nay.

4 Thuận An: gồm đất huyện Thuận Thành và huyện Gia Lương, tỉnh Hà Bắc,

huyện Văn Giang cũ của tỉnh Hải Hưng và huyện Gia

Lâm, Hà Nội.

5 Cổ Lũy: là đất tỉnh Quãng Ngãi.

6 Hóa Châu: gồm đất các huyện Hương Điền, Hương Phú, Phú Lộc tỉnh Thừa

Thiên - Huế.

7 Lạng Giang: gồm đất các huyện Yên Dũng, Lục Ngạn, Yên Thế, tỉnh Bắc

Giang và huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn ngày nay.

8 Nam Sách: gồm đất các huyệnn Chí Linh, Nam Thanh, tỉnh Hải Hưng và dất

huyện Tiên Lăng, Hải phòng ngày nay.

Hán Siêu người Phúc Thành,[ huyện] Yên Ninh1, [phủ] Trường Yên,là người

chính trực, bài xích

dị đoan, có tài văn chương và chính sự. Nhà vua chỉ gọi ông là thầy chứ

không gọi tên. Ông từng sọan bài văn bia chùa Khai Nghiêm ở Bắc Giang, nội

dung tóm lược như sau:

"Chùa bỏ rồi lại dựng, đó chẳng phải là ý muốn của ta. Dựng bia rồi khắc

chử, ta biết nói chuyện

gì. Ngày nay thánh triều muốn truyền bá phong hóa nhà vua, để chấn hưng

phong tục đang bị suy đồi.

Dị đoan đáng phải truất bỏ, thánh đạo nên được phục hưng. Làm đại sĩ phu,

không phải đạo Nghiêu Thuấn thì không trình bày, không phải đạo Khổng Mạnh

thì không trước thuật. Thế mà cứ bo bo lải nhải chuyện phật, ta lừa dối ai

đây?".

[18a] Ông nổi tiếng thời bấy giờ, nhưng Tông chính đại khanh Lê Cư Nhân

từng coi ông là chân

đá cầu nhà quê, vì người làng quê đá cầu phần nhiều không trúng, để ví với

Trương Hán Siêu lo liệu công việc phần nhiều không thỏa đáng. Ông ta khinh

bỉ người cùng hàng, không giao du với họ chỉ chơi thân với bọn họan quan

Phạm Nghiêu Tư, gặp quan thầy thuốc thì thế nào cũng đùa bợt nói cười, đều

là những kẻ không đồng điệu với ông. Đến khi coi đất Lạng Giang thì gả con

gái cho tù trưởng đất ấy là Nùng Ích Vấn, khi coi chùa Hùynh Lâm thì gả con

gái cho tam bảo nô Nguyễn Chế, đều vì mộ sự giàu có của họ cả.

Lê Cư Nhân chết. Cư Nhân hồi Minh Tông còn trị vì, làm quan nội mật kiêm

việc khẩm hình, tra

xét án ngục ở nhà, bị trung úy Quách Hạo hặc lỗi. Minh Tông hỏi ông sao

không tránh đi? Ông trả lời:

"Thần thà chịu phạt trách chứ không dám lừa dối, làm quan mà lừa dối thì

làm sao suất lĩnh

được liêu thuộc ?".

Xem những lời ông ta chê người khác [18b] và những câu ông ta tự nhận lỗi,

thì đủ biết ông là người như thế nào. Đến khi chết được truy tặng Nhập nội

hành khiển hữu ty lang trung đồng tri tả ty sự.

Ất Mùi, [Thiệu Phong] năm thứ 15 [1355], (Nguyên Chí Chính năm thứ 15). Mùa

xuân,tháng 2, núi Thánh Chúa2 ở Trà Hương lở.

Động đất.

Từ tháng 3 đến tháng 6, mùa hạ, hạn hán. Mùa thu,tháng 7, mưa to, nước lớn.

Tháng 9, sát đánh cửa Triều Nguyên và hai cửa nách hai bên tả hữu.

Chu Đức Dụ nước Nguyên xưng hoàng đế (tức Minh Thái Tổ) sau đổi tên thành

Nguyên Chương. Lấy Nguyễn Trung Ngạn làm kinh lược sứ trấn Lạng Giang, Nhập

nội đại hành khiển, thượng thư

hữu bật, kiêm tri khu mật viện sự, thị kinh diên đại học sĩ, trụ quốc Khai

Huyện bá.

Bà thứ phi của Anh Tông tên hiệu là Tĩnh Huệ, là con gái Điện súy Phạm Ngũ

Lão, trước đã xuất gia. Sau khi Anh Tông băng, bà trở về quê hương. Một hôm

lên chùa Bảo Sơn xã Phù Ủng, [19a] bà than rằng: "Chùa này do tiên quân3

ta dựng lên. Ta tuổi đã cao, làm nhà ờ đây vừa có thể thờ vua lại vừa có

thể cúng tổ tiên, trung hiếu vẹn cả đôi đường. Đó là sở nguyện của ta".

Thế rồi sữa lại chùa đó , lại làm điện ở phía bên đông chùa và làm nhà ở

phía đằng sau để cúng

lễ tổ tiên thần thánh. Khi làm xong, Thượng hoàng đến thăm, ban cho biển

ngạch để biểu dương lòng hiếu kính của bà.

Bính Thân, [Thiệu Phong] năm thứ 16[1356], (Nguyên Chí Chính năm thứ 16).

Mùa xuân, tháng

3, thiếu can chi ngày, hai mặt trời rập rờn nhau.

1 Yên Ninh: là tên huyện thời Lê sơ, sau vì kiêng húy tên Trang Tông

(1533-1548), đổi thành Yên Khang. Thời Nguyên là huyện Yên

Khánh. Nay chia vào đất huyện Tam Điệp và huyên Hoa Lưu, tỉnh Ninh Bình

2 Núi Thánh Chúa: ở Kính Chủ, tỉnh Hải Dương.

3 Chỉ cha của bà là Phạm Ngũ Lão.

Hai vua đi tuần biên giới, đến Nghệ An.

Mùa hạ, tháng 5, xa giá trở về kinh sư.

Mùa thu, tháng 8, [Thượng hoàng] ngự đến đền thờ Quốc phụ thượng tể Huệ Vũ

Đại Vương

[Quốc Chẩn], trên núi Kiệt Đặc1. Khi trở về, trong thuyền ngự có con ông

vàng đốt vàng má phía bên trái của Thượng hoàng, rồi Thượng hoàng bị bệnh.

Vua sai người giữ thuyền ngự trông coi việc đánh quan

tài.

Mùa đông, tháng 10, Hiến Từ thái hậu gặp ngày mẹ mất, may áo tang, Thượng

hoàng nhân bảo thái hậu: "Ta sẽ [19b] không mặc áo tang này đâu". Vì khi ấy

Chiêu Từ thái hậu hãy còn2 cho nên Thượng hoàng mới nói thế.

Hiến Từ thái hậu lập đàn chay ở chùa Chiêu Khánh, phát tiền bố thí dân

nghèo để cầu đảo cho

Thượng hoàng.

Đinh Dậu, [Thiệu Phong] năm thứ 7 [1357], ( Nguyên Chí Chính năm thứ 17).

Mùa xuân, tháng

2, ngày 19, Thượng hoàng băng ở cung Bảo Nguyên, miếu hiệu là Minh Tông,

tên thụy là Chương Nghiêu

Văn Triết Hoàng Đế.

Trước đây, Minh Tông nối ngôi đã lâu, rồi mẹ đích mới sinh con trai. Hôm

người con ấy đầy tuổi

thì Anh Tông đi tuần biên giới vắng, việc ở nhà do Minh Tông quyết định. Có

người xi làm lễ theo tư cách

tử tế. Các quan còn nghi ngại thì Minh Tông bảo họ:

"Còn ngại gì nữa. Trước đây vì con đích trưởng chưa sinh, nên ta tạm ở ngôi

này. Nay đã sinh rồi thì đợi khi lớn lên, ta sẽ trả lại ngôi vua chứ có khó

gì?".

Người đó trả lời:

"Việc này từ xưa hay sinh nguy biến, xin nghĩ kỹ lại". Minh Tông nói: "Cứ

thuận nghĩa mà làm, yên hay nguy đâu đáng lo?".

Cuối cùng [20a] làm lễ thao tư cách tử tế. Một năm sau thì người con đích

tự ấy mất. Minh Tông rất thương xót.

Ngài thường dạy các hoàng tử rằng:

"Con nào mà dốc sức mưu tính sản nghiệp, keo sẻn làm giàu thì không phải

con ta. Nếu quả làm chuyện đó thì thà phân tán hết của cải cho người nghèo

đi còn hơn. Vì như vậy, dẫu không tránh khỏi túng thiếu, vẫn còn là hành vi

của bậc quí nhân".

Khi se mình, triều đình muốn lập đàn chay cầu đảo, Minh Tông biết chuyện,

gọi Hữu tướng quốc Phủ vào chổ nằm để hỏi. Vua sợ, lập tức bảo phủ là Phạm

Ứng Mộng xướng nghị xin lấy mình chết thay. Phủ đem câu ấy tâu lên. Minh

Tông nói :

"Ứng Mộng tự nhận làm địa vị Chu Công thì cứ lấy thân mình mà chết thay cho

cha hắn, còn đàn chay thì không đuợc làm!".

Bấy giờ Hiến Từ thái hậu phóng sinh các giống súc vật để cầu cho Minh Tông

khỏe lại. Minh

Tông bảo bà: "Thân ta không thể lấy con lợn, con dê mà đổi đuợc".

Khi bệnh trầm trọng, cho gọi quan thầy thuốc là bọn Trâu Canh, Vương Định,

Phạm Thế Thường vào xem [20b] mạch. Canh nói: "Mạch phiền muộn". Minh Tông

ứng khẩu một bài thơ nhỏ, đọc cho bọn Canh nghe:

Chuẩn mạch hưu luân phiền muộn đa, Trâu công lương tễ yếu điều hòa.

1 Núi Kiệt Đặc: ở địa phận huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương.

2 Chiêu Từ Thái Hậu: tức là Huy Từ hoàng thái phi, mẹ sinh của Minh Tông.

Nhược ngôn phiền muộn vô hưu yết,

Chỉ khủng trùng phiêu phiền muộn gia.

( Xem mạch chớ bàn nhiều muộn phiền, Ông Trâu thuốc tốt cắt cho yên.

Nếu còn nói mãi phiền cùng muộn, Chỉ sợ càng tăng phiền muộn lên ) .

Vì Trâu Canh ra vào cung cấm, hay dùng những câu kỳ lạ, những kế quỷ quyệt

để huyễn hoặc

Dụ Hoàng. Minh Tông ghét hắn, nên mượn bài thơ để châm biếm. Đến khi dâng

thuốc lên thì ngài nói:

"Người ta ở đời,bao nhiêu khổ não. Ngày nay thóat được khổ não này, thì

ngày khác lại phải chịu khổ não khác". Rồi không chịu uống thuốc.

Khi bệnh nguy kịch, sai thị thần là Nguyễn Dân Vọng đem bản thảo tập thơ

ngự chế đốt đi. Dân

Vọng còn do dự, thì Minh Tông nói:

"Vật đáng tiếc còn không thể tiếc được, tiếc làm gì thứ ấy". Các hoàng tử

đứng hầu bên cạnh, ngài nhân thể nói với họ:

"Các con cứ xem việc làm của người xưa, vịệc nào hay thì theo, việc nào dở

thì lánh, cần gì phải cha dạy?".

Ngài từng nói:

"Người làm vua dùng người, không phải là có tình riêng với người đó, mà chỉ

nghĩ là người đó

[21a] hiền thôi. bởi vì người đó theo tấm lòng của ta, giữ chức vụ cho ta,

làm việc cho ta, chịu nhọc cho

ta, cho nên ta coi là hiền mà dùng họ. Nếu ta quả là hiền, thì những người

được ta dùng cũng hiền, như Nghiêu Thuấn đối với Tắc Khiết, Quỳ Long vậy.

Nếu ta không hiền, thì những kẻ ta dùng cũng không hiền, như Kiệt, Trụ đối

với Phi Liêm, Ác lai vậy. Đó chính là đồng thanh tương ứng, đồng khí tương

cầu, cùng loại thì hợp nhau. Kiệt, Trụ đâu phải có tình riêng gì với bầy

tôi của hắn?. Bảo hắn là ngu tối thì được, chứ bảo hắn là có tình riêng thì

không phải".

Lại dặn Hiến Từ thái hậu:

"Sau khi ta mất, người ở lại cung Thánh Từ, đừng vào núi [đi tu]".

Sau khi Minh Tông băng, thái hậu theo lời dặn, không thụ giới nhà Phật.

Phan Thu Tiên nói: Minh Tông có bẩm tính nhân hậu, nối nghiệp thái bình,

phép

cũ của tổ tông, không thay đổi gì cả. Bấy giờ có kẻ sĩ dâng sớ nói là trong

dân gian có nhiều người du thủ du [21b] thực, đến già vẫn không có hộ tịch,

thuế má không nộp,

sai dịch không theo. Vua nói:

"Không như thế, thì sao thành đời thái bình? Ngươi muốn ta trách phạt họ

thì

được việc gì không?".

Triều thần như bọn Lê Bá Quát, Phạm Sư Mạnh muốn thay đổi chế độ. Vua nói:

"Nhà nước đã có phép tắc riêng, Nam, Bắc khác nhau, nếu nghe kế của bọn học

trò mặt trắng tìm đường thoát thân thì sinh loạn ngay".

Điều đáng tiếc là nghe lời gian nịnh của Trần Khắc Chung mà giết Quốc

phụ

thượng tể, đó là điểm kém thông minh vậy.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Cái đức của Minh Tông mà nên được, tuy là do thiên

tốt đẹp, cũng còn do sức dạy bảo của vua cha. Khi vua ở Đông cung, đang

tuổi ấu thơ,

có lần nghịch làm chiếc giá đèn bằng tre, Anh Tông đòi xem, sợ không dám

dâng. Hôm khác, vào hầu [22a] tẩm điện Anh Tông đang rửa mặt, nhânhỏi đến

trò nghịch cũ, Anh Tông giận lắm, cầm ngay cái chậu rửa mặt ném vua.Vua nấp

vào cánh cửa tránh được, chậu rơi trúng cánh cửa vỡ tan. Được sự răng dạy

nghiêm ngặt như vậy, cho nên tài đức của vua do đấy mà nên và cả các con

cũng đều có tài nghệ cả.

Mùa hạ, tháng 4, xuống chiếu chỉ cho các lộ ở Thanh Hóa và Nghệ An khơi các

kênh ngòi cũ.

Phong anh là Thiên Trạch làm Cung Tín Vương.

Mùa thu, tháng 9, ngày mồng 8 tôn Hiến Từ thái hậu làm Thái hoàng thái hậu.

Mùa đông, tháng 11, ngày 11, táng [Minh Tông] ở Mục Lăng1, vì câu nệ ngày

giờ nên để chậm.

Từ năm Ất Mùi [1355] đến năm nay [Đinh Dậu, 1357], trong 2 năm, một thăng

gạo trị giá 1 tiền.

Mậu Tuất, [Đại Trị] năm thứ 1[1358], (Nguyên Chí Chính năm thứ 18). Mùa

xuân, tháng giêng, ngày mồng 1, dổi niên hiệu. Đại xá.

Truy [22b] tặng Quốc phụ thượng tể Quốc Chẩn làm Đại Vương.

Từ tháng 3 đến tháng 7 mùa thu, hạn hán, sạu cắn lúa, cá chết nhiều.

Mùa thu, tháng 8, xuống chiếu khuyến khích nhà giàu ở các lộ bỏ thóc ra

chẩn cấp dân nghèo. Các quan ở địa phương tính xem số thóc bỏ ra là bao

nhiêu trả lại bằng tiền.

Lấy Phạm Sư mạnh là Nhập nội hành khiển tri Khu mật viện sự.

Ngô bệ lại đem quân tụ họp ở núi Yên Phụ, dựng cờ lớn ở trên núi, tiếm sưng

vị hiệu, yết bảng nói cứu giúp dân nghèo.Từ Thiên Liêu2 đến Chí Linh. Bệ

chiếm giữ cả.

Mùa đông, tháng 11, xuống chiếu cho An phủ sứ các lộ đem quân các đội phong

đoàn đi bắt giặc

cướp.

Kỷ Hợi, [Đại Trị], năm thứ 2 [1359], (Nguyên Chí Chính năm thứ 19). Mùa

xuân tháng giêng,

nhà Minh sai sứ sang thông hiếu.

Bấy giờ, vua Minh cầm cự với Trần Hữu Lượng chưa phân được thua..Vua sai Lê

Kính Phu sang

sứ phương Bắc để xem hư [22a] thực.

Mùa hạ, tháng 4, ChiềuTừ Hoàng thái phi mất, được truy tôn là Chiêu Từ

hoàng thái hậu (mẹ

của Minh Tông).

Mùa thu,tháng 7, lấy Đỗ Tử Bình làm [tri] Khu mật viện sự.

Từ ngày 27 tháng 8 đến ngyà mồng 3 tháng 9, mưa to, nước lớn, trôi cả nhà

cửa của dân, thóc lúa bị ngập.

Mùa đông, tháng 10, lấy Phạm Sư Mạnh làm Hành khiển tả ty lang trung, Lê

Quát kiêm chức Hàn lâm viện phụng chỉ.

Canh Tý, [Đại Trị] năm thứ 3 [1360], (Nguyên Chí Chính năm thứ 20). Mùa

xuân, tháng 2, đúc tiền Đại trị thông bảo.

Thăng Huệ Túc công Đại Niên làm Bình chương chính sự, phục lại tước vương.

Năm này [Đại

Niên] mất (mới 55 tuổi).

Theo qui chế cũ, những người tước vương vào làm tể tướng đều gọi là "công",

chỉ có thân vương

thì được phong lại tước vương. Huệ Túc công, Uy Túc công trong đời Đại

Khánh được phong tước vương, khi vào làm tể tướng đều gọi là "công" mà lại

truy phục tước vương là không đúng [23b] lệ.

Tháng 3, Ngô Bệ bị giết.

Bấy giờ, quân của lộ bắt được Bệ ở Yên Phụ. Bệ chạy trốn, định về kinh sư

thú tội. Các quan bản

lộ bắt được Bệ cùng 30 tên bè đảng của hắn, đóng cũi giải về kinh, đều bị

chém cả.

Mùa hạ, tháng 5, ngày mồng một, nhật thực.

1 Mục Lăntg: ở xã Yên Sinh, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.

2 Thiên Liêu: là tên xã.

Tháng 6, nước Nguyên loạn. Trần Hữu Lượng tiếm xưng đế, đặt quốc hiệu là

Hán, đổi niên hiệu

là Đại Nghĩa, đánh nhau với Minh Thái Tổ. Quan trấn thủ biên giới phía Bắc

là Hoàng Thạc cho chạy trạm

tâu rằng Minh và Hán đánh nhau ở Long Châu, Bằng Tường1 .Bọn Thạc nhân

việc họ tranh nước với nhau thu được hơn 300 người.

Mùa thu, tháng 7, nước to.

Mùa đông, tháng 10, thuyền buôn của các nước Lộ Hạc2, Trà Nha3, Xiêm La4

đấn Vân Đồn buôn bán, dâng các vật lạ.

Tháng 12, xuống chiếu bắt gia nô của các vương hầu, công chúa đều phải

thích chữ vào trán và phải gọi theo loại hàm. Kẻ nào không thích chữ, không

khai sổ bị coi là [24a] giặc cướp, lớn thì trị tội, bé

thì sung công.

Tân Sửu, [Đại Trị], năm thứ 4[1361], Nguyên Chí Chính năm thứ 21). Mùa

xuân, tháng giêng, sao Chổi mọc ở phương đông bắc. Vua tránh không ngự ở

chính điện.

Tháng 2, Minh Thái Tổ đánh Giang Châu. Trần Hữu Lượng lưu giữ Vũ Xương, sai

người sang ta xin quân [cứu viện]. [ Vua] không cho.

Tháng 3, giặc cỏ Chiêm Thành vượt biển đến cướp dân ở cửa biển Dĩ Lý5. Quân

của phủ ấy đánh tan bọn chúng.

Mùa hạ, tháng 5, lấy Phạm A Song làm tri phủ phủ Lâm Bình (Tức là Dĩ Lý)6.

Mùa thu, tháng 7, Tạ Lai có tội bị giết.

Bấy giờ vua ngủ ngày ở Long Phương đường. Ngự thư hỏa Tạ Lai đứng hầu,

chung quanh không

có ai. Lai rút gươm ra xem. Vua thức dậy, sai đem chém.

Nhâm Dần, [Đại Trị], năm thứ 5 [1362]. (Nguyến Chí Chính năm thứ 22). Mùa

xuân, tháng giêng, lệnh cho các nhà vương hầu, công chúa dâng [24b] các trò

tạp hý vua xét duyệt trò nào hay thì thưởng cho.

Trước đấy, khi đánh Toa Đô, bắt được người phường hát là Lý Phương Cát rất

giỏi hát, những con ở trẻ của các nhà thế gia theo y tập hát điệu phương

Bắc. Nguyên Cát sáng tác các vở tuồng truyện

cổ, có các tích như Tây vương Mẫu hiến bàn đào. Trong tuồng cổ có các vai

quan nhân, chu tử, đán nương, câu nô gồm 12 người, mặc áo gấm, áo thêu,

đánh trống, thổi sáo, gảy đàn, vỗ tay, gõ ồn phím đàn (Chú : Chu Hậu chết,

Hậu Chủ ghi vào mặt sau đàn tỳ bà: Hương trời còn đuôi phượng, hơi ấm tỏa

phím đàn), thay đổi nhau ra vào làm trò, khiến người xem xúc động, muốn cho

buồn được buồn, muốn cho vui được vui. Nước ta có tuồng truyện bắt đầu từ

đấy.

Lại cho gọi các nhà giàu trong nước, như ở làng Đình Bảng ở huyện Bắc

Giang, làng Nga Đình thuộc Quốc Oai vào cung đánh bạc làm vui. Có tiếng bạc

đặt tới 300 quan tiền, ba tiếng thì đã gần ngàn quan rồi.

1 Long Châu: tên châu đời Đường, đời Tống, Nguyên cùng gọi là Long Châu.

Nay là đất huyện Long Châu, Trung Quốc. Bằng

Tường: tên động đời Tống, Nguyên. Đời Minh đặt làm thổ châu. Nay là đất

huyện Bằng Tường, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.

2 Lộ Hạc chắc là nước lộ Hạc mà Toàn thư dã chép vào đời Lý (BK6, 6B). Dựa

vào âm đọc, có thể cho rằng Lộ Hạc al2 nước La Hộc được nhắc đến trong thư

tịch Qrung Quốc đời Nguyên. La Hôc là quốc gia Lavo ở Lopburi, Thái Lan. Lộ

Hạc có khả năng là nước Locac được nhắc đến trong du ký của Mác-cô Pô-lô

(Marco Polo).

3 Trà Nha: nguyên bản chép là . Toàn thư chú rằng: đọc al2 (Nha), nhưng

chữ này cũng có âm đọc là Oa. Trà Oa thì chắc chắn là

chỉ đảo Ja-va (In-đô-nê-xi-a) mà ở những chổ khác Toàn thư chép là Trảo Oa,

qua Oa hay Chà Bồ.

4 Xiêm La: Ở đây chỉ vương quốc Sukhuthai hình thành vào thế kỷ XIII ở

Thái Lan.

5 Cửa biển Dĩ Lý ở xã Lý Hoà, huyện Bố Trạch, nay thuộc tỉnh Quảng Bình.

6 Ở đây, Toàn thư chú thích phủ Lâm Bình là Dĩ Lý, nhưng chắc là nhầm. Phủ

Lâm Bình nói ở đây hẳn gồm cả đất châu Lâm Bình

đời Lý. Năm 1075, Lý Nhân Tông đã đổi châu Địa Lý thành châu Lâm Bình (Toàn

thư BK3, 9a). Có lẽ chữ Dĩ Lý ở đây nhầm từ chữ

Địa lý.

Lại sai tư nô cày 1 miếng đất ở bên bờ bắc sông Tô Lịch [25a] để trồng

hành, tỏi rau dưa đem

bán, gọi tên phường ấy là Vườn Tỏi1 (đến nay vẫn còn) và làm quạt đem bán

cũng như thế.

Tháng 2, sao chổi thấy ở phương Bắc. Tháng 3, Chiêm Thành cướp Hóa Châu.

Mùa hạ, tháng 4, sai Đỗ Tử Bình duyệt bổ quân ở Lâm Bình, Thuận Hóa và đắp

thành Hóa Châu. Tháng 5, sét đánh điện Thiên An.

Từ tháng 5 đến tháng 7 mùa thu, hạn hán. Soát tù. Mưa to. Xuống chiếu miễn

cho cả nước một nửa tô thuế năm ấy.

Tháng 8, lấy Hành khiển Phạm Sư Mạnh làm tri Khu mật viện sự.

Đói to. Xuống chiếu cho các nhà giàu dâng thóc để phát chẩn cho dân nghèo,

ban tước theo thứ

bậc khác nhau.

Tháng 9, vua ngự đến phủ Thiên Trường. Dân có ai ốm thì được ban thuốc uống

công và tiền gạo, ít nhiều khác nhau. (Thuốc có tên là viên Hồng ngọc

sương, trừ bách bệnh. Dân nghèo ai nghe tin đến được thì được ban 2 viên

thuốc, 2 tiền và 2 thăng gạo).

Mùa đông tháng 10, núi Thiên Kiện2 lở.

Tháng 12,[25b] lấy Đỗ Tử Bình làm Đồng môn tri hạ.

Quý Mão, [Đại Trị], năm thứ 6 [1363], (Nguyên Chí Chính năm thứ 23). Mùa

xuân, tháng 2, xuống chiếu chọn dân đinh bổ sung quân các lộ.

Tháng 3, thi học trò, hỏi văn nghệ để lấy người bổ sung vào quán các. thi

lại viên bằng viết chữ, lấy làm thuộc viên các sảnh, viện.

Truy tặng Thiếu bảo Trương Hán Siêu chức thái phó. Mùa hạ, tháng 5, trả lại

cho Trâu Canh chức tước cũ.

Tháng 6, tịch thu gia sản của Ngô Dẫn, trại chủ xã Đại Lai.

Trước đây, về đời Minh Tông, cha Dẫn bắt được viên ngọc rết rất đẹp, đem

đến Vân Đồn, các thuyền buôn tranh nhau mua. Một người chủ thuyền muốn đuợc

vật lạ đó, dốc hết của cải để mua. Dẫn

do vậy trở nên giàu có. Minh Tông đem công chúa Nguyệt Sơn gả cho Dẫn. Dẫn

cậy giàu có thông dâm

với người con gái khác, lại có những lời lăng nhục công chúa. Công chúa đem

việc ấy tâu vua. Dẫn được tha tội chết, nhưng bị tịch thu gia sản.

Mùa đông, tháng 10, đào [26a] hồ ở vườn ngự trong hậu cung.Trong hồ xếp đá

làm núi, bốn mạch đều khai ngòi cho chảy thông nhau. Trên bờ hồ trồng

thông, tre và các thứ hoa thơm cỏ lạ. Lại nuôi chim quý, thú lạ trong đó.

Phía tây hồ trồng hai cây quế, dựng điện Song Quế. Lại gọi tên điện là điện

Lạc Thanh, tên hồ là hồ Lac Thanh. lại đào một hồ nhỏ khác. Sai người hải

Đông chở nước mặn chứa vào đó, đem các thứ hải vật như đồi mồi, cua, cá

nuôi ở trong hồ. Lại sai người Hóa Châu chở cá sấu đến thả vào đó. Lại có

hồ Thanh Ngư để thả cá thanh phụ [ cá diếc ]. Đặt chức khách đô để trông

coi.

Giáp Thìn, [Đại Trị] năm thứ 7 [1364 ], (Nguyên Chí Chính năm thứ 24). Mùa

xuân, tháng 2, xây dãy khách lang ở Tây điện, thẳng đến cửa Hoàng Phúc.

1 Nguyên văn là Toán Viên. Đến đời Lê, ở Thăng Long vẫn còn phường Toán

Viên. Hai bài thơ trong Lã Đường di tập của Thái

Thuận nói về phường Toán Viên đều nhắc đến Cửa Bắc và Hồ Tây. Có lẽ phường

này ở ven Hồ Tây, gần cửa Bắc, chứ không phải

là ở Láng như nhiều người thường nghĩ.

2 Núi Thiên Kiện: còn có tên là núi Địa Cận, ở xã Thiên Kiện, huyện thanh

Liêm, tỉnh nam Hà.

Mùa hạ, tháng 4, gọi Cánh chưởng phụng cung Vĩnh An là Bùi Khoan cùng [26b]

uống rượu.

Khoan lập mẹo uống vờ hết 100 thăng rượu, được thưởng tước 2 tư.

Tháng 5, vua đi hóng gió chơi trăng. Vì uống rượu quá sai, lại lội xuống

sông tắm, nên bị ốm. Sai quan thầy thuốc là bọn Trâu Canh thay nhau hầu

thuốc thang.

Mùa thu, tháng 7, vua khỏi bệnh.

Thángg 8, chọn hoàng nam trong nước, định 3 bậc quân ngũ, sữa soạn thuyền

chiến và vũ khí

để phòng việc biên cương.

Mùa đông, tháng 10, Cung Túc Vương Nguyên Dục mất.

Ất Tỵ, [Đại Trị] năm thứ 8[ 1365], Nguyên Chí Chính năm thứ 25).

Mùa xuân, tháng giêng, người Chiêm Thành cướp dân đi chơi xuân của Hóa

Châu.

Trước đây, theo tục Hóa Châu, tháng giêng hàng năm, trai gái họp nhau ở Bà

Dương chơi trò

đánh đu. Người Chiêm đã nấp sẵn ở đầu nguồn Hóa Châu từ tháng 12 năm trước,

đến khi ấy ập tới cướp bắt đem về.

Mùa đông, tháng 11, xuống chiếu cho các quân Sơn Lão1 ở lạng

Giang trấn giữ [27a] biên phòng, vì đất Bắc có lọan, Minh, Hán tranh

nhau2 , đóng binh ở Nam Ninh, Long Châu.

Bấy giờ có Thiều Thốn người Thanh Hóa, làm phòng ngự sứ Lạng Giang, thống

lĩnh quân Lạng Giang, đóng ở sông Đông Bình, khéo vỗ về quân sĩ, trong quân

ai cũng thích ông ta. Sau vì em trai kiêu ngạo làm bậy, ông bị tội lây, mất

chức. Trong quân làm câu ca về ông: "Trời chẳng thấu oan, ông Thiều mất

quan". Đến khi ông sửa soạn hành trang ra về, chúng lại làm câu ca: "Ông

Thiều trở về, lòng ta tái tê". Triều đình nghe biết chuyện ấy, khôi phục

quan chức cho ông, trong quân lại có câu ca: "Trời đã thấu oan, ông Thiều

lại làm quan". Ít lâu sau, ông chết.

Minh Từ Hoàng Thái phi mất (phi là mẹ đẻ của Nghệ Tông ).

Bính Ngọ, [Đại Trị] năm thứ 9 [1366], (Nguyên Chí Nguyên năm thứ 26).

Mùa xuân, tháng giêng, sai Tả bộc xạ Tăng Khoan, Hữu bộc xạ Lê Quát xét

duyệt sổ đinh Thanh Hóa. (Quát là người Thanh Hóa hồi trẻ ra chơi kinh sư,

gặp khi bạn ông được cử đi sứ Kinh Yên, Quát tặng bạn bài thơ rằng :

Dịch lộ [27b] tam thiên quân cư an Hải môn thập nhị ngã hoàn san Trung

triều sứ giả yên ba khách,

Quân đắc công danh, ngã đắc nhàn. (Đường trạm ba ngàn, anh ruổi ngựa, Mười

hai cửa biển, tớ về ngàn.

Kẻ sang sứ Bắc, người mây nước,

Anh được công danh, tớ được nhàn.)

Người thức giả biết Quát sau này sẽ quý hiển. Quả nhiên, Quát thi đỗ, thăng

chức nhanh chóng, vượt người bạn kia ).

Tháng 3, người Chiêm cướp phủ Lâm Bình. Quan phủ Phạm A Song đánh bại

chúng. Thăng A Song làm đại tri phủ Lâm Bình, Hành quân thủ ngự sứ.

Mùa hạ, tháng 4, xuống chiếu cho An phủ sứ các lộ đi bắt giặc cướp.

Tháng 6, vua ngự thuyền nhỏ đến chơi nhà Thiếu úy Trần Ngô Lang ở hương Mễ

Sở3, đến canh

ba mới về. khi tới sông Chử Gia1 bị cướp mất ấn báu, gươm báu. vua tự biết

mình không sống lâu, càng thả sức chơi bời.

1 Sơn Lão quân: quân các dân tộc miền núi.

2 Minh: tức chu Nguyên chương, Hán: tức Trần Hữu Lượng.

3 Hương Mễ Sở: nay thuộc huyện Châu Giang, tỉnh Hải Hưng.

Năm ấy, Hán mất nước2.

Đinh Mùi, [Đại Trị] năm thứ 10 [1367], (Nguyên Chí Chính năm thứ 27). Mùa

đông, tháng 12,

lấy Minh tự Trần Thế hung làm Thống quân hành khiển đồng tri thượng thư tả

ty sự, Đỗ Tử Bình làm phó, đi đánh Chiêm Thành.

Phong Cung Định Vương phủ làm Tả tướng quốc, gia phong Đại Vương. Năm này

nhà Nguyên mất.

[28a] Mậu Thân, [Đại Trị] năm thứ 11[ 1368], (Minh Thái Tổ Chu Nguyên

Chương, Hồng Vũ

năm thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng, sao Chổi hiện ở khoảng sao Mão.

Tháng 2, Chiêm Thành sa Mục Bà Ma sang đòi lại đất biên giới Hóa Châu.

Tháng 3, làm hành lang dài suốt từ gác Nguyên Huyền đến tận cửa Đại triều

phía Tây để tiện cho việc các quan vào chầu tránh nắng mưa.

Mùa hạ, tháng 4, Trần Thế Hưng đến Chiêm Động3. Người Chiêm phục quân đánh

trộm, quân ta tan vỡ. Thế Hưng bị giặc bắt, Tử Bình đem quân trở về.

Minh Thái Tổ lên ngôi ở Kim Lăng, đặt niên hiệu là Hồng Vũ, sai Dịch Tế Dân

sang thăm ta. Mùa thu, tháng 8, sai Lễ bộ thị lang Đào Văn Đích sang Minh

đáp lễ.

Mùa đông, tháng 10, cho mời đạo sĩ Huyền Vân ở núi Chí Linh đến kinh để hỏi

về phép tu luyện. Ban cho động của đạo sĩ tên là "Huyền Thanh động".

[28b] Kỷ Dậu, [Đại Trị] năm thứ 12 [1369], (Từ tháng 6 trở đi là Dương Nhật

Lể, Đại Định năm thứ 1; Minh Hồng Vũ năm thứ 2). Mùa hạ, tháng năm, ngày

mồng một, nhật thực.

Ngày 25, vua băng ở chính tẩm, miếu hiệu Dụ Tông.

Ngày vua sắp băng, vì không có con, xuống chiếu đón Nhật Lễ vào nối đại

thống.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói : Dụ Tông bị ngã xuống nước mà bệnh4, chẳng lẽ lại

không biết là mình không có con hay sao ? Nhật Lễ là đứa làm trò, chẳng lẽ

lại không biết nó không phải là con của Dục hay sao? Huống chi các con của

Minh Tông đều có tài nghệ cả, nếu nghĩ tới xã tắc làm trọng thì chọn người

nào có tài đức lập làm thiên tử để làm yên lòng thiên hạ, như vậy gốc nước

sẽ được vững bền. Đã không biết làm như thế, đến khi ốm nặng lại không bàn

với thái hoàng tính kế vì xã tắc, lại xuống chiếu gọi Nhật

Lễ vào nối đại thống để cho mình bị tuyệt tự, mà sau khi chết, còn vạ lây

đến thái hoàng

và thái tể5 [29a]. Nếu không có Nghệ Hoàng và các vị tông thất khác thì

quốc gia đã không còn là của họ Trần nữa rồi. Vua biết tôn trọng thầy dạy,

nhưng lại không bàn việc nước với thầy. Vì thế bậc hiền năng không nên để

chỉ làm vì. Chu An đi rồi, không còn ai bảo ban vua đạo hay lẽ phải nữa. Đó

thực là "không tin bậc nhân hiền thì nước trống rỗng như không có người"

vậy.

Tháng 6, ngày 10, mưa to, gió lớn.

Ngày 15, Hiến Từ Hoàng thái hậu sai người đón con thứ của cố Cung Túc Đại

Vương Dục là Nhật

Lễ lên ngôi. Đổi niên hiệu là Đại Định năm thứ 1.

1 Tức bãi Chử Gia, sau gọi là Chử Xa, huyện Văn Giang cũ, nay thuộc huyện

Châu Giang, tỉnh Hải Hưng.

2 Hán: là quốc hiệu của Trần Hữu Lượng. Lượng đánh nhau với Chu Nguyên

Chương ở hồ Phiên Dương, bị chết trận. Chu Nguyên

Chương đến vây Vũ Xương, con của Lượng là Trần Lý đầu hàng,.

3 Đất Chiêm Động của nước Chiêm Thành bấy giờ là đất các huyện Thăng Bình,

Tam Kỳ, Duy Xuyên, Quế Sơn tỉnh Quảng Nam - Đà

Nẳng ngày nay.

4 Dụ Tông chơi thuyền ở Hồ Tây, suýt chết đuối, được Trâu Canh chữa khỏi,

nhưng bị chứng liệt dương (xem BK7, 10a).

5 Thái hoàng chỉ thái hậu Hiến Từ, thái tể chỉ Nguyên Trác, làm thái tể

dưới triều Nhật Lễ.

Nhật Lễ là con người làm trò tên là Dương Khương. Mẹ Nhật Lễ

khi đóng trò có tên hiệu là

Vương Mẫu (Trò có tích "Vương Mẫu hiến bàn đào ", Mẹ Nhật lễ đóng vai Vương

Mẫu, nên lấy tên làm hiệu), đương có thai, Dục thấy nàng xinh đẹp, nên lấy

làm vợ. Đến khi đẻ, Dục nhận làm con mình. Lúc này thái hậu bảo các quan

rằng :

"Dục là con đích trưởng mà không được ngôi vua, lại [29b] sớm lìa đời. Nhật

Lễ chẳng phải là con của Dục ư?".

Rồi đón Nhật Lễ lập làm vua. Truy phong cho Dục là Hoàng thái bá.

Mùa thu,tháng 8, ngày mồng 4, Nhật lễ tôn Hiến Từ hoàng thái hậu làm Hiến

Từ Tuyên Thánh thái hoàng thái hậu; Nghi Thánh hoàng hậu làm Huy Từ Tá

Thánh hoàng thái hậu.

Lập con gái Cung Định Vương Phủ làm hoàng hậu. Mùa đông, tháng 11, táng [Dụ

Tông ] ở Phụ Lăng1.

Nhà Minh sai Ngưu Lượng, Trương Dĩ Ninh sang tặng ấn vàng và sắc rồng, gặp

lúc Dụ Tông từ

trần, Lượng làm bài thơ viếng rằng :

Nam phục thương sinh điện chẩn an, Long Biên khai quốc chống chư man. Bao

mao sạ hỷ song vương cống ;

Giới lộ ninh kỳ biệt thứ quan,

Đan chiếu viễn ban kim ấn trọng ; Hàng trường tân bí ngọc y hàn. Thương tâm

tối thị thiên triều sứ, Dục kiến vô do lệ mãn an.

(Dân cõi Nam xa được trị an,

Long Biên mở nước giữ trăm man. Vừa mừng lễ vật sang dâng cống, Đâu ngỡ bi

ca bỏ các quan.

Chiếu đỏ xa ban kim ấn nặng, Chén vàng mới đậy ngọc y hàn. Sứ trời là kẻ

đau lòng nhất,

Muốn gặp, còn đâu lệ ứa tràn ).

Rồi Dĩ Ninh ốm chết, chỉ có Lượng trở về nước. Hữu tướng quốc

Cung Định Vương Phủ làm

[30a] bài thơ tiễn ông ta rằng :

An Nam tể tướng bất năng thi Không bá trà âu tống khách quỳ, Viên tản sơn

thanh, Lô thủy bích, Tùy phong trực nhập ngũ vân phi. (An Nam tể tướng

chẳng thơ hay, Chỉ có bình trà tiễn khách đây.

Viên tản non xanh, Lô nước biếc, Xin bau theo gió tới năm mây ).

Lượng bảo Phủ ắt sẽ làm vua. Sau quả như lời ông ta nói.

Nhật Lễ phong Hữu tướng quốc Nguyên trác làm Thượng tướng quốc thái tể.

Tháng 12, ngày 14, Nhật lễ giết Hiến Từ Tuyên Thánh Thái hoàng thái hậu ở

trong cung.

1 Phụ lăng: ở xã Yên Sinh, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.

Thái hậu vốn người nhân hậu, có nhiều công lao giúp rập [họ Trần]. Trước

kia, khi Minh Tông

còn ngự ở Bắc Cung, có tên gác cổng bắt được con cá bống trong giếng Nghiêm

Quang, trong mồm có ngậm vật gì, moi ra thì thấy có chữ, đó là bùa yểm, có

ghi các tên Dục Tông, Cung Túc, Thiên Ninh (đều

là các con đẻ của Hiến Từ ). Tên gác cổng cầm lá bùa tâu lên vua. Minh Tông

sợ lắm, truyền bắt hết các cung nhân, bà mụ, thị tỳ trong cung để tra hỏi.

Thái hậu thưa: "Khoan đã, sợ trong đó có kẻ bị oan, thiếp xin tự mình bí

mật xét hỏi đã".

[30b] [Minh Tông ] nghe theo. Thái hậu sai người hỏi tên gác cổng rằng:

"Gần đây, phòng nào trong cung mua cá bống?". Tên gác cổng trả lời là thứ

phi Triều Môn. Thái hậu nói cho Minh Tông biết. Minh Tông lập tức ra lệnh

tra xét cho ra. Thái hậu tâu:

"Đây là việc trong cung, không nên để hở ra ngoài. Thứ phi Triều Môn là con

gái của Cung Tĩnh Vương, nếu để hở ra thì Quan gia sẽ sinh hiềm khích với

Thái úy. Thiếp xin ỉm việc này đi không xét hỏi nữa!". Minh Tông khen bà là

người hiền.

Đến khi Minh Tông băng, tướng quân Trần Tông Hoắc muốn tỏ ra trung thành

với Dụ Tông, thêu

dệt việc đó ra, làm Thiếu úy suýt nữa bị hại, nhờ Thái hoàng cố sức cứu đỡ

mới thoát. Người bấy giờ ca ngợi bà là đã trọn đạo làm mẹ, tuy là phận con

đích, con thứ không giống nhau, mà lòng nhân từ thì đối

với con nào cũng thế, làm cho ân nghĩa vua tôi, anh em, cha con không một

chút thiếu sót, từ xưa đến nay chưa có ai được như vậy. Người xưa có nói

"Nghiêu Thuấn trong nữ giới"1, Thái hậu được liệt vào hàng [31a] ấy. Bà

từng hối tiếc về việc lập Nhật Lễ. Nhật Lễ ngấm ngầm đánh thuốc độc giết

bà.

NGHệ TÔNG HOÀNG ĐẾ

(Phụ : HÔN ĐỨC CÔNG DƯƠNG NHẬT LỄ, 1 năm )

Tên húy là Phủ, con thứ ba của Minh Tông. Mẹ đích là Hiến Từ

Tuyên Thánh thái hoàng thái hậu, mẹ đẻ là thứ phi họ Lê của Minh Tông, em

gái cùng mẹ với Hiến Từ, do con gái của Nguyễn Thánh Huấn lấy một người họ

lê sinh ra. Ở ngôi năm, nhường ngôi 27 năm, thọ 74 tuổi. Vua dẹp yên được

tai nạn bên trong, khôi phục được cơ đồ to lớn. Công nghiệp lớn lao, sáng

lòa vũ trụ. Song cung kính kiệm ước thì có thừa mà cương nghị, quyết đoán

lại không đủ, bên ngoài thì quân giặc xâm phạm kinh kỳ, bên trong thì gian

thần ngấp nghé ngôi báu. Xã tắc suy mòn, rồi đến diệt vong.

Canh Tuất, [Thiệu Khánh] năm thứ 1 [1370], (từ tháng 10 trở về trước là

Dương Nhật lễ, Đại Định năm thứ 2, Minh Hồng Vũ năm thứ 3). Mùa xuân, tháng

giêng, vua Minh tự làm bài chúc văn, sai Diêm Nguyên Phục, đạo sĩ cung

Triều Thiên, đem lễ trâu và lụa, đền tế thần núi Tản Viên và các thủy thần

sông Lô.

Mùa hạ, tháng 4, Diêm Nguyên phục vào kinh đô nước ta, [31b] làm lễ tế

xong, khắc bài văn vào đá ghi việc đó vào rồi từ biệt về nước.

Nhật Lễ tiếm vị, rượu chè dâm dật, hằng ngày chỉ rong chơi, thích các trò

hát xướng, muốn đổi

lại họ là Dương. Người tôn thất và các quan đều thất vọng.

Mùa thu, tháng 9, ngày 20, thái tể Nguyên Trác cùng con là Nguyên Tiết giết

Nhật Lễ không

được, bị giết.

1 Lời Tống Anh Tông ca ngợi Cao hoàng hậu nhà Tống, Nguyên văn: "Nữ trung

nghiêu Thuấn".

Đêm hôm ấy, cha con Nguyên Trác và hai người con của công chúa Thiên Ninh1

đem người tôn thất vào thành định giết Nhật lễ. Nhật Lễ trèo qua tường, nấp

dưới cầu mới. Mọi người lùng không thấy, giải tán ra về. Khi trời sắp sáng,

Nhật lễ vào cung, chia người đi bắt 18 người chủ mưu. Bọn Nguyên Trác đều

bị hại.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Nhật Lễ tiếm ngôi trời, là người tôn thất nhà Trần

lẽ nào lại có thể điềm nhiên ngồi nhìn để cho xã tắc dời sang họ khác? Lúc

[32a] Nhật Lễ đang có tội giết thái hậu, tiếc rằng các đại thần tôn thất

không biết kể tội và giết đi, mà mưu chước vụng về, lại bị nó giết hại.

Đáng thương thay.

Mùa đông, tháng 10, vua vì có con gái làm hoàng hậu (của Nhật Lễ), sợ vạ

lây đến mình, tránh

ra trấn Đà Giang (tức Gia Hưng ), ngầm hẹn với các em là Cung Tuyên Vương

Kính, Chương Túc quốc thượng hầu Nguyên Đán, Thiên Ninh công chúa Ngọc Tha

hội ở sông Đại Lại2, phủ Thanh Hóa để dấy quân. Khi ấy, Nhật Lễ chuyên dùng

thiếu úy Trần Ngô Lang mà không biết Ngô Lang đồng mưu với vua.

Mỗi khi sai quân tướng đi đánh bắt, (Ngô Lang ) đều bí mật bảo họ theo vua

đừng về nữa. Rất nhiều lần

sai các quân Nam, Bắc đi đánh, đều không một ai trở về, Ngô Lang cũng xin

đi, Nhật Lễ không cho.

Trước đây, vua vốn không có ý định làm vua. Công chúa Thiên Ninh bảo :

"Thiên hạ là thiên hạ của tổ tông mình, sao lại vứt bỏ nước cho kẻ khác ?

Anh phải đi đi, em sẽ đem bọn gia nô [32b] dẹp nó cho!". Lúc ra đi, vua làm

bài thơ gởi cho em là Kính rằng:

Vị cực sàm thân tiện thứ quan, Trắc thân, độ lĩnh, nhập sơn man. Thất lăng

hồi thủ thiên hàng lệ, Vạn lý môn tâm lưỡng mấn ban, Khử Vũ đồ tồn Đường xã

tắc,

An Lưu phục để Hán y quan.

Minh Tông sự nghiệm quân tu ký, Khôi phục thần kinh chỉ nhật hoàn.

( Ngôi cả gièm nhiều mới bỏ quan, Né thân, vượt núi, tới sơn man,

Bảy lăng3 ngoảnh lại châu tuôn chảy, Muôn dặm đau lòng, tóc bạc lan.

Diệt Vũ (2), giữ gìn đường xã tắc, Phò Lưu(3) lại thấy hán y quan. Minh

Tông sự Nghiệp em nên nhớ, Thu phục thần kinh sắp khải hoàn.)

Người bấy giờ cho bài thơ ấy là sấm.

Khi vua chưa ra đi, chi hậu nội nhân phó chưởng là Nguyễn Nhân khuyên ngài:

"Người ta muốn

hại ông, sao ông không xem thời cơ mà hành động trước?". Đến khi vua lên

ngôi lấy Nhiên làm hành khiển, thăng làm tả tham ty chính sự. Nhiên chữ

nghĩa ít, khai phê giấy tờ, vua thường bảo vẽ các nét chữ đưa cho Nguyễn

Nhiên xem.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Báo cho vua tai nạn là ơn riêng, ban tước cho

người tai nạn giữa triều là việc công .Vua nhớ ơn của Nguyễn Nhiên, đền đáp

bằng vàng,lụa thì được, cho làm hành khiển [33a] là chức quan trọng thì

không được. Chức hành khiển đời bấy giờ cũng như "lục khanh" đời Chu, là

các quan chức điều hành chính sự của đất nước, mà lại để cho người không

biết chữ làm, thì không phải là lựa chọn vì việc công vậy.

1 Công chúa Thiên Ninh: là con gái Minh Tông do bà Hiến Tử sinh ra. Hai

người con bà sử không nói rõ tên.

2 Tức sông Lèn, một chi lưu của sông mã, tỉnh Thanh Hóa.

3 Bảy lăng: Là Chiêu Lăng chôn Thái Tông, Dụ Lăng chôn Thánh Tông, Đức

Lăng chôn Nhân Tông, Thái Lăng chôn Anh Tông, Mục

Lăng chôn Minh Tông, An Lăng chôn Hiến Tông, Phụ Lăng chôn Dụ Tông.

Tháng 11, vua cùng Cung Tuyên (vương), Thiên Ninh (công chúa) đều dẫn quân

về Kinh.

Ngày 13, [Vua] đến phủ Kiến Hưng1 ( tên cũ là Hiển Khánh, hạ Nhật Lễ làm

Hôn Đức công).

Ngày 15, [vua] lên ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu, đại xá. [Vua] tự xưng là

Nghĩa hoàng. Mọi công việc đều theo lệ cũ đời Khai Thái2. Vua từng nói:

"Triều trước dựng nước, có luật pháp, chế độ riêng, không theo qui chế của

nhà Tống, là vì nam Bắc, nước nào làm chủ đó, không phải bắt chước nhau.

Khoảng năm Đại Trị3, bọn học trò mặt trắng được dùng, không hiểu ý nghĩa

sâu xa của việc lập pháp, đem phép cũ của tổ tông đổi theo tục phương Bắc

cả, như về y phục, âm nhạc... thật không kể xiết".

Bởi thế, chính sự buổi đầu đều theo đúng lệ cũ đời Khai Thái.

[33b] Hôm ấy, chính phi của vua là Huệ Ý phu Nhân mất ở sông Hổ4 châu

Trường Yên, phủ Kiến

Hưng, được truy phong là Thục Đức hoàng hậu.

Các quan dâng tôn hiệu là Thể khiên kiến cực thuần hiếu hoàng đế.

Khi (quân vua) tiến đến bến Chử Gia, tôn thất và các quan đón mừng đều hô

"muôn năm", nhân

đó gọi Chử Gia là xã Sơn Hô.

Ngày 21, xa giá tiến đến Đông Bộ Đầu, Ngô Lang xin Nhật Lễ mặc áo thường,

nhường ngôi, xuống thuyền đón tiếp vua.

Vua bảo Nhật Lễ: "Không ngờ hôm nay sự thể đến nỗi này". Sai giam Nhật Lễ ở

phường Giang Khẩu5.

Nhật Lễ gọi Ngô Lang vào trong màn, nói dối rằng:

"Ta có lọ vàng chôn ở trong cung, ngươi đi lấy về đây".

Ngô Lang qùy xuống vâng lệnh. Nhật Lễ bóp cổ Ngô Lang đến chết. Cháu của

Ngô Lang là Trần

Thế Đỗ đem việc ấy tâu vua. Vua sai đánh chết Nhật Lễ và con hắn là Liễu,

đem chôn ở núi Đại Mông.

Truy tặng Ngô Lang làm nhập tư nội mã, ban tên thụy là Trung Mẫn á vương.

[34a] Ngày 26 trị Trần Nhật Hạch về tội lật đổ xã tắc, Nhật Hạch đồng mưu

với Nhật Lễ, khuyên hắn giết hại người tôn thất, nên bị giết.

Quốc tử giám tư nghiệp Chu An mất, được truy tặng tước Văn Trinh công, ban

cho tòng tự ở Văn

Miếu.

An (người Thanh Đàm )6, tính cương nghị, thẳng thắn, sửa mình trong sạch,

bền giữ tiết tháo,

không cầu lợi lộc. Ông ở nhà đọc sách, học vấn tinh thông, nổi tiếng gần

xa, học trò đầy cửa, thường có

kẻ đỗ đại khoa, vào chính phủ. Như Phạm Sư Mạnh, Lê Bá Quát đã làm hành

khiển mà vẫn giữ lể học trò, khi đến thăm thầy thì lạy hỏi ở dưới giường,

được nói chuyện với thầy vài câu rồi đi xa thì lấy làm mừng lắm. Kẻ nào xấu

thì ông nghiêm khắc trách mắng, thậm chí la hét không cho vào. Ông là người

trong sạch, thẳng thắn, nghiêm nghị, lẫm liệt đáng sợ đến như vậy đấy. Minh

Tông mời ông là Quốc Tử giám tư nghiệp, dạy thái tử học. Dụ Tông ham chơi

bời luời chính sự, quyền [34b] thần nhiều kẻ làm trái phép nước, An khuyên

can, [Dụ Tông] không nghe, bèn dâng sớ xin chém bảy tên nịnh thần, đều là

1 Phủ Kiến Hưng: đời Trần, là phủ Nghĩa Hưng thời Lê, nay là đất các huyện

Vụ Bản, Nghĩa Hưng và Ý Yên, tỉnh Nam Định.

2 Khai Thái: (1342 - 1329) là niên hiệu của Trần Minh Tông.

3 Đại Trị: (1358 - 1369) là niên hiệu của Dụ Tông.

4 Sông Hổ: Con sông ở huyện Yên Mỗ, nay thuộc huyện Tam Điệp, tỉnh Ninh

Bình.

5 Tức phường Hà Khẩu sau này, ở vào khoảng phố Hàng Buồm, Hà Nội ngày nay.

6 Chu An hay Chu Văn An (1292 - 1370), quê ở thôn Văn, xã Thanh Liệt,

huyện Thanh Trì, Hà Nội. Huyện Thanh Đàm đời Lê là huyện Thanh Trì ngày

nay. Đời Lê trung hưng, vì kiêng húy Thế Tông là Đàm, mới đổi Thanhb Đàm

thành Thanh Trì.

những kẻ quyền thế được vua yêu. Người bấy giờ gọi là "Thất trảm sớ". Sớ

dâng lên nhưng không được

trả lời, ông liền treo mũ về quê. Ông thích núi Chí Linh, bèn đến ở đấy.

Khi nào có triều hội lớn thì đến kinh sư. Dụ Tông đem chính sự trao cho

ông, ông từ chối không nhận. Hiến Từ thái hoàng thái hậu bảo:

"Ông ta là người không thể nào bắt làm tôi được, ta sai bảo thế nào được

ông ta?".

Vua sai nội thần đem quần áo ban cho ông. Ông lạy tạ xong, liền đem cho

người khác hết. Thiên

hạ đều cho là bậc cao thượng. Đến khi Dụ Tông băng, quốc thống suýt mất,

nghe tin các quan đến lập vua, ông mừng lắm. Chống gậy đến xin bái yết,

xong lại xin trở về quê, từ chối không nhận chức gì.

Vua sai quân đến tế, ban tặng tên thụy, ít lâu sau có lệnh cho tòng tự ở

Văn miếu.

[35a] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Người hiền được dùng ở đời, thường lo người

làm vua không thi hành những điều sở học của mình. Người làm vua sử dụng

người hiền thường lo người hiền không theo ý muốn của mình. Cho nên, vua

[sáng] tôi [hiền] gặp nhau, từ xưa vẫn là rất khó.

Những nhà nho nước Việt ta được dùng ở đời không phải không nhiều, nhưng kẻ

thì chỉ nghĩ đến công danh, kẻ thì chuyên lo về phú quý, kẻ lại a dua với

đời1, kẻ chỉ cốt ăn lộc giữ thân, chưa có ai chịu

để tâm đến đạo đức, suy nghĩ tới việc giúp vua nêu đức tốt, cho dân được

nhờ ơn. Như Tô Hiến Thành

đời Lý, chu Văn Tring đời Trần, có lẽ gần được như thế. Nhưng Hiến Thành

gặp được vua (sáng suốt) cho nên công danh, sự nghiệp được thấy ngay đương

thời. Văn Tring không gặp vua (anh minh) nên chính học của ông, đời sau mới

thấy được. Hãy lấy Văn Trinh mà nói, thờ vua tất thẳng thắn can ngăn, xuất

xử thì làm theo nghĩa lý, đào tạo [35b] nhân tài thì công khanh đều ở cửa

ông mà ra, tiết tháo cao thượng thì thiên tử cũng không thể bắt làm tôi

được. Huống chi tư thế đường hoàng mà đạo làm thầy được nghiêm, giọng nói

lẫm liệt mà bọn nịnh hót phải sợ. Ngàn năm về sau, nghe phong độ của ông,

há không làm chp kẻ điêu ngoa thành liêm chính, người yếu hèn biết tự lập

được hay sao? Nếu không tìm hiểu nguyên cớ, thì ai biết thụy hiệu của ông

xứng đáng với con người của ông. Ông thực đáng được coi

là ông tổ của các nhà nho nước Việt ta mà thờ vào Văn Miếu.

Những người khác như Trần Nguyên Đán là bậc hiền tài trong các khanh sĩ

cùng họ nhà vua, tuy mang khí phách trung phẫn, nhưng bó tay bỏ mặc vận

nước không biết làm sao, lánh quyền tướng quốc

để mong bảo toàn gia thuộc sau khi nước đổ. Trương Hán Siêu là ông quan văn

học, vượt hẳn mọi người, tuy cứng cỏi, chính trực nhưng lại chơi với kẻ

không đáng chơi, gả con gái cho người không đáng

gả. Họ so với Văn Trinh, [36a] có gì đánh kể, huống hồ những kẻ còn kém hai

ông này!.

Bấy giờ nho thần Lê Quát cũng muốn làm sáng đạo thánh hiền, gạt bỏ dị đoan,

nhưng rút cuộc vẫn không thực hiện được. Ông từng làm bài văn bia chùa

Thiệu Phúc, thôn Bái ở Bắc Giang như sau:

"Thuyết họa phúc của nhà Phật tác động tới con người, sao mà được người ta

tin theo sâu sắc

và bền vững như thế? Trên từ vương công, dưới đến dân thường, hễ bố thí vào

việc nhà Phật, thì dẫu dến hết tiền của cũng không sẻn tiếc. Nếu ngày nay

gởi gắm vào tháp chùa thì mừng rỡ như nắm được khoán ước để lấy quả báo

ngày sau. Cho nên trong từ kinh thành, ngoài đến châu phủ, cho tới thôn

cùng ngõ hẻm, không mệnh lệnh mà người ta vẫn theo, không thề thốt mà người

ta vẫn tin. Chỗ nào có người ở, tất có chùa Phật, bỏ rồi lại xây, hỏng rồi

lại sửa, chuông trống lâu đài chiếm dến nửa phần so

với với dân cư, Đạo Phật hưng thịnh rất dễ mà được rất mực tôn sùng.

Ta thuở trẻ đọc sách, để tâm khảo xét [36b] xưa nay, cũng hiểu sơ sơ đạo

của thánh nhân để giáo hóa dân chúng mà rốt cuộc vẫn chưa được một hương

tin theo. Ta thường dạo xem sông núi, vết chân trên khắp nửa thiên hạ, đi

tìm những "Học cung", "Văn miếu" mà chưa hề thấy một ngôi nào! Đó là điều

khiến ta vô cùng hổ thẹn với bọn tín đồ nhà Phật. Bèn viết ra đây để tỏ

lòng ta".

Tháng 12, lấy ngày sinh làm tiết Kiến Thiên.

1 Dịch thoát ý từ câu "hòa quang đồng trần", nguyên là câu "hòa kỳ quang,

đồng kỳ trần" (hòa chung ánh sáng, cùng chung bụi

bặm) trong sách Đạo đức kinh của Lão Tử.

Tân Hợi, [Thiệu Khánh] năm thứ 2 [1371], (Minh HồngVũ năm thứ 4). Mùa xuân,

tháng giêng,

truy tôn mẹ sinh là nguyên phi Anh Tư làm Minh Từ hoàng thái phi.

Tháng 2 , đãi yến các qusan ở điện Thiên An, ban thưởng theo thứ

bậc khác nhau. Phong công chúa thiên Ninh là Lạng Quốc thái trưởng công

chúa, đổi tên là Quốc Hinh.

Phong người tôn thất là Sư Hiền làm Cung Chính vương, Nguyên Đán làm tư đồ,

Nguyên Uyên làm phủ quân tướng quân.

Bỏ phép cắt chân bãi bồi. Xóa lệnh kiểm kê tài sản.

Trước đây, các nhà vương [37a] hầu, công chúa lập điền trang ở ven sông thì

đất phù sa mới

bồi đều thuộc về người chủ [điền trang]. Thái hậu Chiêu Từ [nhân đó] mới

lập thành phép cắt chân bãi bồi (bnghĩa là cắt lấy những đất mới bồi).

Những người quyền quý chết thì tài sản đều thuộc về con cháu họ. Dụ Tông

mới có lệnh kiểm kê (nghĩa là những thứ gì quý báu phải đem nộp vào nhà

nước), đều là do bọn bề tôi tham lam vơ vét xui vua làm chuyện đó. Đến đây

đều bãi bỏ cả.

Tháng 3 nhuận, Chiêm Thành vào cướp, từ cửa biển Đại An1 tiến thẳng đến

kinh sư. Du binh

[của giặc] đến bến Thái Tổ (nay là Phục Cổ)2. Vua đi thuyền sang Đông Ngàn

lánh chúng.

Ngày 27, giặc ùa vào thành, đốt phá cung điện, cướp lấy con gái , ngọc lụa

đem về.

Chiêm Thành sở dĩ sang cướp là vì mạ Nhật Lễ chạy trốn sang nước ấy, xúi

giục chúng vào cướp

để báo thù cho Nhật Lễ. Bấy giờ thái bình đã lâu ngày, thành quách biênm

cương không có phòng bị, giặc đến không có quân nào ngăn được. Chúng đốt

trụi cung điện, nhà cửa. Thư tịch, sổ sách do vậy sạch không. Nhà nước

[37b] từ đó sinh ra nhiều chuyện.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Không có nước địch làm mối lo bên ngoài thì nước

hay

bị mất, đó là điều răn từ xưa đến nay. Chiêm Thành với ta, đời đời là cừu

thù, triều Trần chả lẽ lại không biết mà phòng bị trước hay sao? Chỉ vì

lòng người sinh biếng trễ, phép nước bị buông lơi, đã qua nhiều năm tháng,

việc phòng thủ biên cương bị triệt bỏ, nên đến nỗi ấy. Giặc vào bờ cõi mà

biên thành thất thủ, giặc tới kinh đô mà cấm binh chống

lại thì còn nước thế nào được! Dụ Tông vốn quen chơi bời, cố nhiên là chẳng

đáng kể. Nghệ Tông thì bản thân đã trải nhiều biến cố mà không nghĩ tới

việc đó, há chẳng phải

là chỉ chăm lo văn nghệ mà không trông nom gì đến võ lược ư?.

Mùa hạ, tháng 4, lập em (vua) là Cung Tuyên đại vương Kính làm hoàng thái

tử, soạn [38a]

chương Hoằng huấn ban cho. Phong vợ cả hoàng thái tử là Lê thị làm hoàng

thái tử phi.

Tháng 5, lấy người họ ngoại là Lê Quý Ly làm khu mật viện đại sứ.

Hai chị em bà cô của Quý Ly, Minh Tông đều lấy làm cung nhân. Một bà sinh

ra vua, đó là bà

Minh Từ. Một bà sinh ra Duệ Tông, đó là bà Đôn Từ. Cho nên vua khi mới lên

ngôi rất tín nhiệm Quý Ly.

Lại đem em gái mới góa chồng là công chúa Huy Ninh gả cho ông ta (Huy Ninh

trước là vợ của tôn thất

Nhân Vinh, Nhân Vinh bị Nhật Lễ giết hại).

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Nhân Vinh chết vì thù nước, Huy Ninh để tang

chồng mới được 6 tháng mà vua đã đem gả cho Quý Ly. Thế là làm hỏng nhân

luân bắt đầu từ vua, mà kẻ làm chồng, người làm vợ cũngkhông có nhân tâm.

Phá bỏ lẽ chồng vợ, đảo loạn đạo tam cương, thì làm sao mà chẳng sinh

loạn?.

1 Cửa Đại An: sau đổi là cửa Liêu, huyện Đại An, nay là huyện Nghĩa Hưng,

tỉnh Hà Nam Ninh.

2 Phường Phục Cổ: Ở khoảng phó Nguyễn Du, Hà Nội hiện nay. Nếu đời Trần ở

đó có bến thì chắc là có một nah1nh sông Hồng chảy qua đó, nối với hồ

Thuyền Quang.

[38b] Xuống chiếu rằng xây dựng cung thất cốt sao cho giản dị, môc mạc, chỉ

lấy các tản quan

tôn thất phục dịch, không phiền nhiễu đến dân.

Mùa thu, tháng 8, sai Lê Quý Ly đi Nghệ An để chiêu tập dân chúng, vỗ yên

nơi biên giới. Tháng 9, gia phong Lê Quý Ly làm Trung Tuyên quốc thượng

hầu.

Mùa đông, tháng 10, lấy tu sử Phan Nghĩa làm Lễ bộ lang trung, soạn định

Quốc triều thông chế

và các lễ nghi.

Ra lệnh cho những người có chức tước phải khai báo để làm thành sổ sách.

Nhưng dân gian giả

dối quá lắm, lấy không làm có rất nhiều.

Tháng 12, truy phong mẹ sinh hoàng thái tử là Sung Viên1 Lê thị làm Quang

Hiến thần phi.

Nhâm Tý, [Thiệu Khánh] năm thứ 3 [1372], (Minh HồngVũ năm thứ 5). Mùa xuân,

tháng giêng, xét công lao của các quan văn võ.

Mùa hạ, tháng 4, lấy Đỗ Tử Bình làm hành khiển, tham mưu quân sự.

Tháng 5, lấy Nguyễn Nhiên kiêm [39a] chức tri Khu mật viện chánh chưởng; Hồ

Tông Thốc làm

Hàn lâm viện học sĩ, lấy người Hoá Châu là Hồ Long làm tri châu Hóa Châu.

Mùa thu, tháng 7, ban cho quan phủ Lâm Bình là Phạm A Song tước minh tự.

Tháng 8, xuống chiếu cho các lộ làm đơn số (là sổ hộ tịch).

Mùa đông, tháng 10, vua ngự đến phủ Thiên Trường, sửa lại miếu thờ ở các

lăng.

Tháng 11, ngày mồng 9, vua nhường ngôi cho hoàng thái tử Kính. Kính lên

ngôi hoàng đế. Đại

xá. [Vua tự] xưng là Khâm hoàng. Các quan dâng tôn hiệu là Kế thiên ứng vận

nhân minh khâm hhoàng

đế.

Truy tôn mẹ sinh là Quang Hiến thần phi làm Đôn Từ hoàng thái phi. Phong bà

phi họ Lê làm Hiển Trinh thần phi.

Lúc vua mới lên ngôi, thượng hoàng làm bài Đế Châm 150 chữ ban cho vua. Ban

tặng chi thiếu phó Trương Hán Siêu được tòng tự ở miếu Khổng Tử.

[39b] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Nghệ hoàng ban cho Hán Siêu được tòng tự ở

Văn Miếu vì ông ta hay bài xích dị đoan chăng? Hình như vậy. Nhưng xét ra

ông ta là người cậy tài, kiêu ngạo. Thhời Minh Tông, Hán Siêu làm hành

khiển, khinh bỉ người cùng hàng, đến nỗi vu cho Phạm Ngộ, Lê Duy nhận hối

lộ. Khi đuối lý bị phạt, còn nói với người khác: "Đã được chúa thượng tin

dùng, đâu ngờ có chuyện xét hỏi lại", thì thực

là bằng chứng của thói kiêu ngạo, keo bẩn đấy. Khổng Tử nói: "Dẫu tài giỏi

đến như Chu Công mà kiêu ngạo và keo bẩn thì những gì còn lại cũng chẳng ra

sao!". Tôi nghĩ Hán Siêu hiền tài nếu có thiêng, hẳn không dám dự thờ ở

miếu Khổng Tử.

Duệ TÔNG HOÀNG ĐẾ

Tên húy là Kính, con thứ 11 của Minh Tông, em Nghệ Tông. Mẹ là Đôn Từ hoàng

thái phi. Sinh năm Đinh Sửu, Khai Hựu năm thứ 9 (1337), tháng 6, ngày mồng

2. Khi Nghệ Tông lánh nạn, quân lính, khí giới đều là công sức của vua cả,

vì thế (Nghệ Tông) đem nhường ngôi cho. Vua ở ngôi 4 năm, thọ 41 tuổi.

[40a] Vua ương gàn cố chấp, không nghe lời can, khing thường quân giặc, nên

mang họa vào thân chứ không phải là do bất hạnh.

1 Sung Viên: một bậc cung tần.

Quý Sửu, [Long Khánh] năm thứ 1 [1337], (Minh Hồng Vũ năm thứ 6). Mùa xuân,

tháng giêng,

ngày mồng1, đổi niên hiệu.

Tôn thượng hoàng làm Quang hoa anh triết thái thượng hoàng đế. Truy tôn

Thục Từ hoàng hậu làm Thuận Từ hoàng thái hậu.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Bà hậu của Trần Thái Tổ1 có tên hiệu là Thuận Từ.

Những người bàn

đặt tên thụy hồi đó không cho là sai chăng? Hay cho là thế đại đã lâu rồi

mà cứ đặt nhhư thế? [Nếu vậy thì] ý nghĩa tìm về nguồn cội sẽ ra làm sao?

Tiên vương theo lòng người mà đặt lễ nghi. Bàn đặt tên thụy của thái hậu

lại trùng với tên thụy của bà cụ tổ thì lòng người có yên được không? Trái

lẽ quá lắm!.

[40b] Tháng 2, lập sổ danh sách các quan văn võ. Sách phong nguyên phi Lê

thị làm Gia Từ hoàng hậu.

Tháng 3, phong con trưởng là Vĩ làm Chương Vũ đại vương (14 tuổi), định lập

làm hoàng thái tử, nhưng lên nhọt độc rồi chết.

Mùa hạ, tháng 6, lấy ngày sinh làm tiết Tề Thiên.

Mùa thu, tháng 8, định việc bổ sung quân ngũ, đóng sửa thuyền chiến để

chuẩn bị đánh Chiêm

Thành.

nhau.

Ra lệnh cho quân và dân nộp thuế cho nhà nước, (người nộp được) ban tước

theo thứ bậc khác

Thi lại viên bổ làm nội lệnh sử duyệt lại.

Mùa đông, tháng 12, xuống chiếu nói việc vua thân đi đánh Chiêm Thành. Năm

ấy, giặc cướp đua nhau nổi dậy.

Giáp Dần, [Long Khánh] năm thứ 2 [1347], (Minh Hồng Vũ năm thứ 7). Mùa

xuân, tháng 2,

thượng hoàng về ở cung Trùng Hoa, phủ Thiên Trường.

[Tổ chức] thi đinh cho các tiến sĩ. Ban cho Đào Sư Tích đỗ trạng nguyên, Lê

Hiến Phủ đỗ bảng nhãn, Trần Đình Thám đỗ thám hoa, bọn La Tu đỗ hoàng giáp

cập đệ và đồng cập đệ.

Tất cả đều được ban yến và áo xếp, cho quan chức theo thứ bậc [41a] khác

nhau. Dẫn ba vị đỗ đầu đi chơi phố 3 ngày.

Theo lệ cũ: thái học sinh 7 năm thi 1 lần, chỉ lấy 30 ngườ thôi. Thi trạng

nguyên thì không có lệ định sẳn. Nhưng thuộc quan ở tam quán, thái học

sinh, thị phần học sinh, tướng phủ học sinh và những người có tước phẩm đều

được vào thi cả.

Tháng 3, xuống chiếu cho Thanh Hóa, Nghệ An đào kênh đến cửa biển Hà Hoa2.

Mùa hạ, tháng 5, tháng 6, hạn hán.

Mùa thu, tháng 8, chọn dân đinh bổ sung quân ngũ. Hạng nhất sung vào Lan Đô

rồi đến hạng nhì, hạng ba. Người thấp bé nhưng nhanh nhẹn, can đảm cũng

được sung vào hạng trên.

Trước đây, quân túc vệ có các quân Tứ Thiên, Tứ Thánh, Tứ Thần, sau đặt

thêm các quân Uy

Tiệp, Bảo Tiệp, Long Dực, Ý Yên, Thiên Trường, Bắc Giang, Điện Hậu, Long

Tiệp. Những quân này xâm

ba chữ đen lên trán. Quân thị vệ thì xâm trán. Các quân Hoa Ngạch, Tả Ban,

Hữu Ban và quân Thanh Hóa, Nghệ An, Hóa Châu, Thuận Châu, Lâm Bình đều

[41b] đặt quân hiệu, có đại đội trưởng, đại đội phó làm tướng hiệu.

1 Tức Trần Thừa, cha của Trần Thái Tông (Trần Cảnh).

2 Tức cửa khẩu, ở huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.

Mùa đông, tháng 10, định ngạch tụng quan. Đặt 6 cục Cận thị chi hậu, lấy

vương hầu và tôn thất

làm chánh chưởng. 800 người làm thị vệ trong các chi hậu do phán thủ trông

coi đều đội mũ bồn hoa.

Xuống chiếu cho quân và dân không được mặc áo, chải đầu theo

người phương Bắc và bắt chước tiếng nói của các nước Chiêm, Lào.

Ất Mão, [Long Khánh] năm thứ 3 [1375], (Minh Hồng Vũ năm thứ 8). Mùa xuân,

tháng giêng, lấy Khu mât viện đại sứ Lê Quý Ly làm tham mưu quân sự.

Xuống chiếu chọn các quan viên biết luyện tập võ nghệ, thông hiểu thao

lược, thì không cứ là người tôn thất, đều cho làm tướng coi quân.

Đổi châu Diễn thành lộ Diễn Châu, châu Hoan thành các lộ Nhật Nam, Nghệ An

nam, bắc, trung.

Đổi Lâm Bình thành phủ Tân Bình1. Sai Đào Lực Đinh và Hà Tử Công đốc suất

người Thanh Hóa, Nghệ

An, Tân Bình đắp sửa đường sá từ Cửu Chân2 đến Hà Hoa3, [42a] 3 tháng thì

xong.

Mùa hạ, tháng 6, sao Kim hiện ban ngày.

Mùa thu, tháng 8, làm sổ quân, thải bớt người già yếu, lấy người mạnh khoẻ

bổ sung vào. Những người làm thuê của các hộ, xá4 Thanh Hóa, Nghệ An đều

phải sung vào quân ngũ.

Xuống chiếu cho những người giàu ở các lộ đem dâng thóc. (Người dâng thóc)

được ban tước theo thứ bậc khác nhau.

Tháng 9, đem công chúa Trang Huy gả cho Nguyên Dận là con trai Cung Chính

Vương. Sách phong con gái của thái bảo Trần Liêu làm phi.

Mùa đông, tháng 10, lấy Thúc Ngạn, con trai của thượng hoàng làm tư đồ coi

trấn Thái Nguyên;

tư đồ Nguyên Đán coi việc quân trấn Quảng Oai.

Bính Thìn, [Long Khánh] năm thứ 4 [1376], (Minh Hồng Vũ năm thứ 9). Mùa

xuân, tháng giêng,

gả công chúa Tuyên Huy cho quan phục đại vương Húc (con của thượng hoàng).

Thượng hoàng thân đi

đón dâu.

(Xét: Quan phục không phải là tước hiệu được phong. Có lẽ khi ấy Húc được

phong tước, được ban mũ áo đại vương (đại vương quan phục) như Cung Giản

vương được truy tặng mũ áo đại vương.

[42b] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Vua tôi, cha con, chồng vợ là ba giềng mối,

đạo nhân luân không gì lớn hơn thế. Đã gọi là giềng mối thì sao được làm

rối loạn? Lễ của tiên vương thường thận trọng cả đến việc nhỏ, huống chi

lại là việc lớn.

Lễ rước dâu là nghi tiết lớn trong lễ cưới. Duệ Tông đem công chúa Tuyên

Huy

gả cho quan phục thì người đón dâu phải là người chồng. Nghệ Tông lại tự

mình đi đón thay cho con thì đạo tam cương đã rối loạn rồi! Quan phục sau

không được trọn vẹn5, điềm gở đã hiện ra ở đó rồi. Người làm vua, làm cha

há chẳng nên thận trọng sao? Vả lại

lễ cốt để tránh hiềm nghi. Làm vua, làm cha mà đi đón vợ của con là mối

hiềm nghi lớn lắm. Việc ấy mà không thận trọng thì các việc khác cũng có

thể biết được.

1 Phủ Tân Bình: thời Trần, mà trước đó gọi là phủ Lâm Bình, có lẽ tương

đương với phủ Tân Bình thời Lê sau này (nghĩa là gồm cả

đất hai châu Minh Linh và Bồ Chính thời Lý). Nếu đúng vậy, phủ Lâm Bình hay

Tân Bình thời Trần bao gồm vùng đất các huyện Bố

Trạch, Quảng Trạch, Lệ Ninh, Tuyên Hóa, Bến Hải tỉnh Quảng Bình ngày nay,

trong khi châu Lâm Bình thời Lý chỉ gồm đất huyện

Lệ Ninh ngày nay.

2 Cửu Chân: chỉ vùng Thanh Hóa.

3 Hà Hoa: đất các huyện Kỳ Anh, Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay.

4 Hộ, xá: những người không có tên trong sổ hộ tịch, đi làm thuê lấy tiền

công, họp thành các ộ, các xá.

5 Húc sau bị Phế đế giết vào năm Xương Phù thứ 5 (1381).

hội thề.

Mùa hạ, tháng 4, định lại quy chế về thuyền, xe, kiệu, lọng, nghi trượng

quần áo, vì lẽ sắp làm lễ

Tháng 5, Chiêm Thành dến cướp Hóa Châu.

Tháng 6, xuống chiếu cho các quân sắm sửa [43a] khí giới, thuyền chiến để

chuẩn bị việc thân

chinh Chiêm Thành.

Mùa thu, tháng 7, ngự sử trung tán Lê Tích dâng sớ can rằng:

"Binh đao là đồ huhng khí, không nên tự mình gây ra. Huống chi ngày nay vừa

mới dẹp được giặc trong nước, thế như cái nhọt lâu năm chưa khỏi, chúa

không nên vì mối tức giận riêng mà dấy quân, tướng không thể cầu công mà

đánh liều. Dù Chiêm Thành không có lòng thần phục1 cũng chỉ nên

sai tướng đi đánh để chờ trời diệt chúng, còn xa giá thân chinh thì thần

trộm nghĩ là không nên".

Vua không nghe.

Tháng 8, xuống chiếu cho quân dân Thanh Hóa, Nghệ An, Diễn Châu chở 5 vạn

hôc lương tới

Hóa Châu.

Mùa đông, tháng 10, đại duyệt quân thủy, bộ ở bãi cát sông Bạch Hạc. Hai

vua đích thân làm

tướng.

Tháng 12, vua thân đi đánh Chiêm Thành, dẫn 12 vạn quân xuất phát từ kinh

sư. Đến bến sông

xã Bát2, có người làng làm lễ đám ma, vua truyền phạt 30 quan [43b] tiền.

Sai Lê Quý Ly đốc thúc Nghệ

An, Tân Bình, Thuận Hóa chở lương cấp cho quân.

Trước đây, chúa Chiêm Thành Chế Bồng Nga quấy rối biên giới, vua sai han2h

khiển Đỗ Tử Bình đem quân trấn giữ Hóa Châu. Bồng Nga đem 10 mâm vàng dâng

lên [vua]. Tử Bình ỉm đi, cướp làm của mình, nối dối là Bồng Nga ngạo mạn

vô lễ, nên đem quân đánh. Vua giận lắm, quyết ý thân chinh. Bấy

giờ quan quân đến cửa biển Di Luân3, các quân vượt biển mà tiến. Vua cưỡi

ngựa dẫn quân bộ, men theo bờ biển, đến cửa biển Nhật Lệ4 đóng quân lại,

luyện tập trong một tháng. Người Tân Bình, Thuận Hóa bắt được người Chiêm

trốn sang, đem đến dâng nộp.

Đinh Tỵ, [Long Khánh] năm thứ 5 [1377], (từ tháng 5 trở đi là Phế Đế năm

Xương Phù thứ 1, Minh Hồng Vũ năm thứ 10). Mùa xuân, tháng giêng, ngày 23,

đại quân tiến đến cửa Thi Nại5 của Chiêm Thành, lên đến Thạch Kiều, đóng ở

động _ Mang.

Bồng Nga dựng [44a] trại bên ngoại thành Đồ Bàn6, sai viên quan nhỏ là Mục

Bà Ma đến trá hàng, nối dối là Bồng Nga đã chạy trốn, chỉ còn lại thành

không, nên tiến quân gấp, đừng để lỡ cơ hội.

Ngày 24, vua mặc áo đen, cưỡi ngựa nê thông7, sai Ngự Câu vương Húc mặc áo

trắng, cưỡi ngựa trắng, kíp truyền lệnh tiến quân.

Đại tướng Đỗ Lễ can rằng:

"Nó đã chịu hàng, là muốn bảo toàn dất nước làm đầu. Quan quân vào sâu đánh

phá thành giặc

là việc bất đắc dĩ. Xin hãy sai một biện sĩ cầm mảnh thư đến hỏi tội, để

xem tình hình hư thực của giặc, như kế sách của hàn Tín phá nước Yên ngày

trước, không phải khó nhọc mà thành công. Cổ nhân có nói: "Lòng giặc khó

lường". Thần xin bệ hạ hãy xét kỷ lại".

1 Nguyên văn "vô thần thiếp chi tâm", chúng tôi cho là có lẽ bản khắc in

đã lầm chữ "phục" thành chữ "thiếp".

2 Có lẽ là xã Bát Tràng, thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội ngày nay.

3 Di Luân: tức cửa Ròn, ở huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.

4 Tức cửa sông Nhật Lệ ở Đồng Hới, thuộc tỉnh Quảng Bình.

5 Nguyên văn: "Thi Nại Hồn cảng khẩu", chữ "Hồn" có lẽ là thừa. Cửa Thi

Nại nay là cảng Quy Nhơn, thuộc tỉnh Bình Định.

6 Đồ Bàn: hay Chà Bàn, là kinh đô của nước Chiêm Thành hồi đó. Dấu vết của

thành ngày nay vẫn còn ở Bình Định.

7 Ngựa nê thông: ngựa lông sắc trắng, sắc đen chen nhau như màu bùn.

Vua nói:

"Ta mình mặc giáp cứng, tay mang gươm sắc, dãi gió dầm mưa, lội sông trèo

núi, vào sâu trong

đất giặc, không ai dám đươngđầu với ta. Thế là cái aơ trời giúp cho ta đó.

Huống chi nay chúa giặc nghe

tin đã chạy trốn, không còn lòng dạ đánh nhau. Cổ nhân [44b] nói: "Dùng

binh quý thần tốc". Nay nếu dừng lại không tiến, thì thực là trời cho mà

không lấy, để nó lại cơ mưu khác thì hối sao kịp. Ngươi chính

là hạng đàn bà".

Rồi sai lấy áo đàn bà mặc cho Lễ. Quân lính bèn nối gót nhau như xâu cá mà

đi. Cánh quân đi trước và cánh quân ở sau hoàn toàn cách biệt. Giặc thừa

thế xông ra đánh chặn.

Giờ Tỵ, quan quân tan vỡ. Vua bị hãm trong trận mà chết. Bọn đại tướng Đỗ

Lễ, Nguyễn Nạp Hòa, hành khiển Phạm Huyền Linh đều chết cả. Giặc bắt sống

được Ngự Câu vương, đem con gái gả cho1. Đỗ Tử Bình chỉ huy hậu quân, không

đến cứu nên thoát chết. Lê Quý Ly đốc quân chở lương, nghe

tin vua băng, bỏ trốn về nước.

Ngày hôm ấy ở kinh sư, ban ngày mà trời tối om, chợ búa phải đốt đuốc để

mua bán. Xe cũi chở

Tử Bình về qua Thiên Trường, người ta lấy gạch ngói ném vào thuyền mà chửi

hắn2. Quân trở về, trị tội

Tử Bình, tha cho hắn tội chết, phạt tội đồ làm lính. Trước đây, ngự sử đại

phu Trương Đỗ (có sách chép

là Xã) can vua rằng:

"Chiêm Thành chống lệnh, [45a] tội cũng chưa đáng phải giết. Song nó ở tận

cõi tây xa xôi, núi sông hiểm trở. Nay bệ hạ vừa mới lên ngôi, đức chính,

giáo hóa chưa thấm nhuần được tới phương xa, nên sửa sang văn đức khiến nó

tự đến thuần phục. Nếu nó không theo, sẽ sai tướng đi đánh cũng chưa muộn".

Đỗ ba lần dâng sớ can vua không được, bèn treo mũ mà bỏ đi.

Đỗ là người thanh liêm, thẳng thắn, không bè đảng, phóng khoáng, có chí

lớn. khi còn nhỏ, có

lần ông đi chơi Hồ Tây xem tướng quân tập bắn, nói đùa rằng: "Nghề này thì

có khó gì?". Tướng quân ngạc nhiên hỏi: "Mày có bắn trúng được không?". Ông

trả lời: "Xin thử xem". Rồi ông bắn ba phát trúng

cả ba. Tướng quân rất kinh ngạc, muốn nuôi làm con, nhưng Đỗ coi khinh

không theo. Sau ông bỏ nhà

đi du học, thi đỗ tiến sĩ, rất nổi danh. Ông làm quan trong sạch, nghèo

túng, không gầy dựng điền sản, con cháu nối đời làm quan cũng có tiếng

nghèo mà trong sạch.

Đỗ người Phù Đái, huyện Đồng Lại3, ngụ tại phường Nghi Tàm, Cơ Xá ở kinh

thành, làm quan

đến chức Ngự sử đài tư gián đình úy tự khanh trung đô phủ tổng quản rồi

chết.

[45b] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Trương Đỗ khi làm quan thì không giấu lời

nói thẳng, thế là đã xứng đáng với chức vụ của mình, khi can thì nói tới ba

lần, thế là đã dám chạm đến vua. Vậy mà ông không được vua nghe, thế là tâm

trí nhà vua đã lẫn rồi! Người có ttrách nhiệm phải nói, không được nghe

theo thì bỏ đi, thế là sự tiến lui của Đỗ đều đã hợp lẽ phải vậy. Tuy lời

nói thẳng thường trái tai vua, nhưng lại hay lợi cho thân vua. Việc này có

thể làm gương được.

Mùa hạ, tháng 5, ngày 13, thượng hoàng vì thấy vua chết vì nạn nước, mới

lập con trưởng của vua là Kiến Đức đại vương Hiện nối nghiệp lên ngôi hoàng

đế. [Vua] tự xưng là Giản Hoàng, đổi niên hiệu là Xương Phù năm thứ 1. Đại

xá. Các quan dâng tôn hiệu là Hiến thiên thể đạo khâm minh nhân hiếu hoàng

đế.

Tháng 6, ngày 11, Chiêm Thành vào cướp.

1 Theo CMCB 10, 41, thì Ngự Câu vương Húc đầu hàng giặc.

2 Theo CMCB 10, 41, thượng hoàng sai đem xe tù đi bắt Tử Bình. Khi về qua

phủ Thiên Trường, người ta tranh nhau chửi hắn, lấy gạch ngói ném vào xe

hắn.

3 Huyện Đồng Lại: sau là huyện Vĩnh Lại, tức là đất huyện NInh Giang cũ,

nay thuộc huyện ninh Giang tỉnh Hải Hưng và phần đất phía nam huyện Vĩnh

Bảo, Hải Phòng.

271 Đại Việt Sử Ký Toàn Thư -

Bản Kỷ - Quyển VII

Đầu tiên thượng hoàng nghe tin giặc đến, sai trấn quốc tướng quân Cung

Chính vương Sư Hiền

giữ cửa biển Đại An. Giặc biết [ở đó] có phòngbị, mới từ cửa biển Thiên

Phù1 [46a] mà vào, rồi tiến thẳng đến kinh sư. Ngày 12, giặc lại dẫn quân

về, ra cửa biển Đại An2 bọ bão, chết đuối rất nhiều.

Mùa thu, tháng 9, sách phong con gái thượng hoàng là Thiên Huy công chúa

Thục Mỹ làm hoàng hậu, hiệu là Quang Loan.

Chiêu hồn (của Duệ Tông) chôn ở Hy Lăng, miếu hiệu là Duệ Tông.

Sai Trần Đình Thám sang cáo phó với nước Minh, nói là Duệ Tông đi tuần biên

giới bị chết đuối

và báo tin lập vua nối ngôi. Người Minh từ chối, lấy cớ là có ba thứ chết

không có lễ viếng là chết vì sợ, chết vì bị đè, chết đuối. Đình Thám cãi

lại, cho là người Chiêm gây loạn quấy nhiễu biên cương, còn Duệ Tông có

công chống nạn cứu dân sao lại không viếng. Bấy giờ vua Minh đang có âm mưu

thôn tính nước

ta, định lợi dụng sơ hở đó. Thái sư Lý Thiện Trường can rằng:

"Em chết vì nạn nước mà anh lập con của em lên, xem việc người như vậy, thì

có thể biết được mệnh trời". Việc ấy bèn bỏ đi.

Đình Thám từ tiến sĩ thám hoa lang, trải làm trung thư thị lang, kiêm [46b]

tri thẩm hình viện

sự. Họ Hồ cướp nước, ông giả điếc, bị trung thừa là Đồng Thức hặc, phải

giáng làm đồng giám tu quốc

sử bí thư giám.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Kẻ sĩ lúc bé di học, là muốn biết những điều mình

sẽ

làm, lớn lên đi làm, là làm những điều mình đã học. "Học ba trăm bài thơ

trong Kinh Thi,

đi sứ bốn phương không làm nhục mệnh vua3. Đình Thám được như vậy đó. Huống

chi gặp thời buổi tiếm vị, cướp ngôi, lại biết tự giấu mình để tránh quyền

vị, thì thực đáng gọi là kẻ sĩ, đáng coi là không phụ với học vấn của mình

vậy!.

1 CMCB 10 chép là cửa Trần Phù, tức cửa Thần Đầu trước kia.

2 Nguyên văn: "... hoàn xuất Đại hải khẩu", thiếu chữ "An"

3 Lời của Khổng Tử trong "Luận ngữ".

272 Đại Việt Sử Ký Toàn Thư -

Bản Kỷ - Quyển VIII

Đạ i Vi ệ t S ử Ký B ả n K ỷ Toàn Th ư

Quyển VIII

[1a]

K ỷ Nhà Tr ầ n

Phế Đế

Tên húy là Hiện, con trưởng của Duệ Tông, mẹ là bà Gia Từ hoàng hậu Lê thị,

sinh ngày mồng 6 tháng 3, năm Đại Trị thứ 4, Tân Sửu (1361), đến khi Duệ

Tông đi đánh phương Nam rồi mất, được Nghệ Tông lập nên làm vua. Sau bị

giáng làm Linh Đức Vương, rồi bị thắt

cổ chết. Ở ngôi 12 năm, thọ 28 tuổi, chôn ở núi An Bài.

Vua u mê, nhu nhược, không làm nổi việc gì, uy quyền ngày càng về tay kẻ

dưới1, xã tắc lung lay, đến thân mình cũng không giữ được. Thương thay!

Mậu Ngọ, Xương Phù năm thứ 2 [1378], (Minh Hồng Vũ năm thứ 11). Mùa xuân,

tháng giêng, tuyển chọn vệ sĩ. [Lấy] Trần Tông Ngoạn quản quân Thiên Đinh;

Trần Trung Hiếu coi quân Bảo Tiệp; Trần Thế Đăng coi quân Thần Dực;

Bùi Bá Ngang coi quân Thần Sách; Bùi Hấp coi quân Thiên Uy;

Hoàng Phụng Thế coi quân Thánh Dực; Lê Mật Ôn coi quân Hoa Ngạch; Đỗ Dã Ca

coi quân Thị Vệ; Nguyễn Tiểu Luật [1b] coi quân Thiên Trường; Trần Na coi

quân Long Tiệp; Nguyễn Kim Ngao coi quân Thần Vũ.

Tháng 3, lấy ngày sinh làm tiết Quang Thiên.

Xuống chiếu cho các quân chế tạo vũ khí và thuyền chiến.

Mùa hạ, tháng 5, ngày mồng 5, người Chiêm đưa Ngự Câu Vương Húc đã đầu hàng

đến cướp phủ Nghệ An, tiếm xưng vị hiệu đề chiêu dụ dân chúng, nhiều người

theo lệnh của bọn ngụy.

Tháng 6, giặc đánh vào sông Đại Hoàng2 Vua sai Hành khiển Đỗ Tử Bình đi

chống giữ. Quan quân tan vỡ. Giặc liền đánh vào kinh sư, bắt người cướp của

rồi rút về. An phủ sứ Lê Giốc bị giặc bắt. Giặc buộc Giốc phải lạy, Giốc

trả lời chúng:

"Ta là quan của nước lớn, sao phải lạy chúng mày!".

Giặc nổi giận, giết ông. Giốc luôn miệng chửi chúng. Việc này tâu lên, Giốc

được truy phong là

Mạ Tặc Trung Vũ hầư3, cho con ông là Nhuế làm Chánh chưởng bốn cục Cận thị

chi hậu, Giốc là con của

cố Nhập nội hành khiển thượng thư hữu bật Lê Quát.

[2a] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Bỏ sống đễ giữ nghĩa còn hơn là sống; cầu

sống mà nhục, người quân tử không làm. Kinh dịch nói: Người quân tử thà hy

sinh tính mạng

để thực hiện chí hướng của mình4. Giốc là người như vậy.

1 Chỉ Hồ Quý Ly.

2 Xem chú thích Tập I, BK1, 24b.

3 Nghĩa là "Trung Vũ Hầu chửi giặc".

4 LờI Tượng của quẻ Khôn trong Kinh Dịch. Nguyên văn "trí mệnh toại chí".

Mùa thu, tháng 7, nước lớn.

Đỗ Tử Bình kiến nghị thu mỗi hộ đinh nam 3 quan tiền. Vua nghe theo. Bấy

giờ đương có việc dùng binh mà kho tàng trống rỗng, nên Tử Bình có kiến

nghị này.

Theo lệ cũ, các trấn hễ có việc binh thì lệnh cho mỗi huyện có bao nhiêu

ruộng thì phải nộp bao nhiêu vàng, bạc, tiền, lụa, không tính thêm theo số

nhân đinh1 sinh ra, cũng không trừ bớt theo số người

đã chết. Nếu phục dịch việc binh, thì đều thu bổ theo số ruộng cả. Các lộ

có đơn binh2, là phải phục dịch việc binh, [những người này] đời đời làm

[2b] lính, không được ra làm quan. Người nào có ruộng, bãi dâu, đầm cá thì

phải đóng thuế, không có thì thôi. Đến đây, Tử Bình bắt chước phép đánh

thuế dung3

của nhà Đường, thuế má lại nặng thêm.

Mùa đông, tháng 10, lựa chọn những người khoẻ mạnh, dũng cảm, thông hiểu võ

nghệ trong các

vệ quân sung làm vệ sĩ.

Lấy Nguyễn Bát Sách, người cùng một vú nuôi với nhà vua quản lĩnh quân

Thiếu Sang; Nguyễn Văn Nhi quản lĩnh quân Thiết Sang; Nguyễn Văn Nhi quản

lĩnh quân Thiết Giáp; Nguyễn Hổ, Lê Lặc quản lĩnh quân Thiết Liêm; Nguyễn

Thánh Du quản lĩnh quân Thiết Hổ; Trần Quốc Hưng quản lĩnh quân Ô Đồ.

Năm nay, con của Thượng hoàng là Ngung sinh (tức là Thuận Tông).

Kỷ Mùi, [Xương Phù] năm thứ 3 [1379], (Minh Hồng Vũ năm thứ 12). Mùa xuân,

tháng 2, Lê

Quý Ly làm Tiểu tư không kiêm Hành khu mật đại sứ như cũ.

Quý Ly tiến cử Nguyễn Đa Phương làm tướng quân. Đa Phương là con của Sư

Tề. Quý Ly hồi nhỏ theo học Sư Tề, Sư Tề dạy cho võ [3a] nghệ, nhân đó

nhận Đa Phương làm em. Đa Phương từng bị Chiêm Thành bắt, sau đó trốn về.

Đến đây, Quý Ly tiến cử ông ta. Lại có chủ thư thị ngự sử Phạm Cự Luận giỏi

bày mưu tính kế, Quý Ly tiến cử làm quyền đô sự. Người bấy giờ bảo Quý Ly

có "phương viên

tá lự4.

Mùa hạ, hạn hán, đói to.

Mùa thu, tháng 8, Nguyễn Bồ, ngưi lộ Bắc Giang tự xưng là Đưởng lang tử y,

dùng pháp thuật, tiếm hiệu xưng vương làm loạn, bị giết.

Tháng 9, sai quân dân chở tiền đồng giấu vào núi Thiên Kiện5 (núi Thiên

Kiện trước gọi là núi Địa

Cận, tục truyền có cây tùng cổ, rồng quấn ở trên, Trần Thái Tông dựng hành

cung ở đó).

Mùa đông, tháng 10, giấu [tiền] ở khám6 Khả Lãng, Lạng Sơn, là vì sợ nạn

người Chiêm đốt cung

điện.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Thiên tử có cả bốn biển, kho tàng phủ khố đâu

chẳng phải là [3b] của mình? Đương khi nước nhà nhàn hạ thì làm tỏ chính

hình, sửa sang lễ nghĩa, ví như con chim đi lấy rễ dâu ràng buộc cửa tổ7,

thì ai làm nhục mình được? Thế mà sợ tai nạn Chiêm Thành đốt cướp, đem chở

tiền của giấu tận hang cùng núi thẳm, làm kế tránh giặc, thực là nhử giặc

đến, chuốc lấy tiếng chê cười của đời sau. Có thể coi

là cả nước không còn người nữa vậy!.

1 Nguyên văn là "nhân binh", ngờ là khắc lầm.

2 Binh lính ghi trong sổ binh.

3 Thuế dung: hay thuế đinh, tức là thuế thân. Hồi đầu đời Trần dẫu có thuế

đinh nhưng chỉ ngườI có ruộng mớI phải đóng. Đến

đây, không cứ có ruộng hay không, đều phải đóng cả, chỉ binh lính mới được

miễn.

4 Giúp mưu kế cho được vuông tròn. "Phương" (chỉ Đa Phương) có nghĩa là

"vuông", "viên" là "tròn" chỉ Cự Luận. Luận âm đọc gần

với luân, có nghĩa là "tròn". "Phương viên tá lự" còn có nghĩa Đa Phương và

Cự Luận bày giúp mưu kế.

5 Xem Trần Dụ Tông, Đại Trị năm thứ 5, BK7.

6 Khám: là tần dướI của tháp chùa.

7 Nguyên văn: "Triệt bỉ tang đồ, trủ mâu hộ đũ", là câu trong một bài thơ

của Kinh Thi, ý nói phải đề phòng sự biến lúc chưa xảy ra.

Hữu tướng quốc Cung Tín Vương Thiên Trạch mất.

Canh Thân, [Xương Phù] năm thứ 4 [1380], (Minh Hồng Vũ năm thứ 13). Mùa

xuân, tháng 2, người Chiêm xúi giục người Tân Bình, Thuận Hóa ra cướp Nghệ

An, Diễn Châu, cướp của bắt người.

Tháng 3, [Chiêm Thành lại] cướp các nơi ở Thanh Hóa. Thượng hoàng sai Lê

Quý Ly chỉ huy quân thủy, Đỗ Tử Bình chỉ huy quân bộ đi chống giữ. Đến Ngu

[4a] Giang1, đóng cọc ở giữa sông cầm

cự với người Chiêm.

Mùa hạ, tháng 5, Quý Ly dẫn viên tướng chỉ huy quân Thần Vũ và Nguyễn Kim

Ngao và tướng

chỉ huy quân Thị vệ là Đỗ Dã Kha ra đánh. Kim Ngao quay thuyền trở lại để

tránh mũi nhọn của giặc. Quý Ly chém Ngao để rao trong quân. Các quân nổi

trống hò reo mà tiến. Chúa Chiêm Chế Bồng Nga thua trận rút chạỵ Tử Bình từ

đó cáo ốm, không giữ binh quyền nữa. Chỉ còn Quý Ly chuyên lãnh chức

Nguyên nhung hành Hải Tây đô thống chế2.

Mùa đông, tháng 11, lấy Đỗ Tử Bình làm Nhập nội hành khiển tả tham tri

chính sự, lĩnh chức

Kinh lược sứ Lạng Giang, được vài năm thì chết, được truy tặng Thiếu bảo,

và được tòng tự ở Văn Miếu.

Phan Phu Tiên nói: Bậc danh nho các đời có bài trừ được dị đoan, truyền giữ

được đạo thống thì mới được tòng tự ở Văn Miếu, thế là để tỏ

rõ đạo học có ngọn nguồn. Nghệ Tông cho Chu An [4b], Trương Hán Siêu,

Đỗ Tử Bình được dự vào đó, thì Hán Siêu là người cứng cỏi, bài xích đạo

Phật, An sửa mình trong sạch, bền giữ khí tiết, không cầu hiển đạt, thì

cũng tạm được. Đến như Tử Bình là hạng học nhảm chiều người, tham lam bòn

vét, là kẻ gian thần hại nước, sao lại được len vào chổ đó?

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Tử Bình lén đánh cắp vàng cống của Bồng Nga, tậu

bậy lừa vua, để đến nỗi Duệ Tông đi tuần phương nam không trở về nữa, nước

nhà từ đó liên tiếp có tai họa Chiêm Thành vào cướp, tội ấy giết cũng chưa

đáng, còn học nhảm chiều người thì chê trách làm gì?

Tân Dậu, [Xương Phù] năm thứ 5 [1381], (Minh Hồng Vũ năm thứ 14). Mùa xuân,

tháng 2, thi thái học sinh.

Tháng 2, sai quốc sư Đại Than3 đốc suất tăng nhân trong nước và các tăng

nhân không có độ điệp ở rừng núi, người nào khỏe mạnh thì tạm [5a] làm quân

đi đánh Chiêm Thành.

Mùa hạ, tháng 4, chém Hồ Thuật người Diễn Châu, vì nhân giặc Chiêm Thành,

Thuật rủ người đi cướp của.

Tháng 5, lấy Đào Sư Tích làm Nhập nội hành khiển hữu ly lang trung, Toàn

Bân, cha Sư Tích, làm tri Thẩm hình viện sự.

Tháng 6, rước thần tượng các lăng ở Quắc Hương4, Thái Đường5, Long Hưng,

Kiến Xương đưa về

lăng lớn ở Yên Sinh để tránh [nạn] người Chiêm Thành vào cướp.

Mùa thu, tháng 9, lấy Nguyễn Nhiên làm Nhập nội hành khiển hữu ty.

Nhiên người Tiên Du. Trong năm Thiên Khánh6 làm Chi hậu nội nhân, biết

Nhật Lễ định giết hại họ Trần, mật báo cho Thượng hoàng. Đến đây, Thượng

hoàng nhớ công ấy, nên trao cho ông chức đó.

1 Sông Ngu: là một nhánh sông Mã, nay là sông Lạch Trường ở huyện Hoằng

Hóa tỉnh Thanh Hóa.

2 Hải Tây: là vùng đất suốt, từ Thanh Hóa trở vào đến Thuận Hóa. Đến đờI

Lê ( 1428) có đặt đạo Hải Tây (Hải Tây đạo).

3 Đại Than: là tên xã thuộc huyện Gia Bình cũ, nay thuộc huyện Gia Lương

tỉnh Hà Bắc.

4 Quắc Hương: thuộc huyện Mỹ Lộc, Nam Định cũ, nay thuộc tỉnh Nam Hà.

5 Nay thuộc huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

6 Nên sửa lại là Thiệu Khánh (1370-1372) Toàn thư: Tháng 10 (năm 1370),

vua... tránh ra trấn Đà Giang... ; còn Thiên Khánh là niên hiệu của Trần

Cảo 1426.

Mùa đông, tháng 10, hoàng hậu Gia Từ băng ở am Tây chùa Chiêu Khánh (nay là

chùa Triệu

Khánh) hương Long Đàm1.

Vua dụ giết Quan phục hầu đại vương Húc.

[5b] Nhâm Tuất, [Xương Phù] năm thứ 6 [1382], (Minh Hồng Vũ năm thứ

15). Mùa xuân, tháng 2, Chiêm Thành vào cướp Thanh Hóa. [Vua] sai Quý Ly

đem quân đi chống giữ. [Quý Ly] đóng quân ở núi Long Đại2. Cho tướng coi

quân Thần Khôi là Nguyễn Đa Phương giữ hàng cọc đóng ở [cửa] biển Thần

Đầư3.

Người Chiêm tiến đến bằng cả hai đường thủy bộ. [Quân giặc] ở trên núi lấy

đá ném xuống, thuyền quân ta bị hỏng nhiều. Đa Phương không đợi lệnh của

Quý Ly, tự ý cho mở hàng cọc xông ra đánh, một chốc thì thắng. Các quan

thừa thắng tấn công. Chiêm Thành thua to, chạy tán loạn vào rừng núi. Quân

ta vây núi ba ngày, giặc nhiều tên bị chết đói. Ta đốt hết thuyền bè của

giặc, tàn quân giặc chạy trốn cả. Tháng 3, đuổi giặc đến thành Nghệ An rồi

về.

Mùa hạ, tháng 4, tin thắng trận báo về, phong Nguyễn Đa Phương làm Kim ngô

vệ đại tướng

quân.

Mùa thu, tháng 7, nước to.

Mùa đông, tháng 10, xuống chiếu cho quân dân Nghệ An, Diễn Châu đào các

kênh ở Hải Tây.

[6a] Quý Hợi, [Xương Phù] năm thứ 7 [1383], (Minh Hồng Vũ năm thứ 16). Mùa

xuân, tháng

giêng, sai Lê Quý Ly thống lĩnh thủy quân đi đánh Chiêm Thành.

Bấy giờ mới đóng xong các thuyền lớn có tên là Diễm Trị, Ngọc Đột, Nha

Tiệp. Thuyền tới vùng biển Lại Bộ Nương4 và Ô Tôn5 bị sóng gió đánh hư

hỏng. Dẫn quân về.

Mùa hạ, tháng 6, chúa Chiêm Thành là Chế Bồng Nga cùng với thủ tướng La

Ngai dẫn quân đi bộ theo chân núi, từ trấn Quảng Oai6 dò đưng đến đóng ở

sách Khổng Mục. Kinh sư kinh động. Thượng hoàng sai tướng chỉ huy quân Hoa

Ngạch là Lê Mật Ôn đem quân đi chống giữ.

Mật Ôn đến chân Tam Kỳ (nay là phủ Quảng Oai) định bày trận chống giữ.

Nhưng giặc đã mai phục từ trước, quân voi đều xông ra, quan quân thua chạy,

Mật Ôn bị giặc bắt sống.

Chiêm Thành từ đi Lê, Lý tới đây, quân lính hèn nhát, hễ quân ta đến là đem

cả nhà chạy trốn hoặc họp nhau khóc lóc xin hàng. Đến Bồng Nga, La Ngai mới

tập họp dân họ lại [6b], bảo ban dạy dỗ, thay đổi dần dần thói cũ, trở nên

can đảm, hăng hái, chịu được gian khổ, nên thường hay sang cướp, trở thành

tai họa của nước ta.

Nguyễn Đa Phương đôn đốc quân lính dựng rào trại ở kinh thành, ngày đêm

phòng giữ. Thượng hoàng ngự sang sông Đông Ngàn để lánh giặc. Khi ấy có

người học trò là Nguyễn Mộng Hoa để cả áo

mũ lội xuống nước kéo thuyền ngự lại, xin [thượng hoàng] ở lại đánh giặc,

nhưng (thượng hoàng) không nghe.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Nghệ Tông thiếu can đảm. Giặc chưa tới đã lánh

trước,

thì người trong nước như thế nào? Mộng Hoa là một người học trò, còn biết

giữ Nghệ

Tông lại, những kẻ ăn thịt thực đáng khinh thay!1.

1 Hương Long Đàm: nay là đất thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội.

2 Tức núi Hàm Rồng ở Thanh Hóa.

3 Cửa biển cũ, sau đã bị lấp, ở huyện Yên Mô cũ, nay thuộc huyện Tam Điệp,

tỉnh Ninh Bình.

4 Sau là cửa biển Nương Loan ở huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.

5 Sau là vùng biển Vĩnh Sơn, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.

6 Trấn Quảng Oai: thời cuốI Trần là phủ Quảng Oai; đời Lê, gồm đất huyện

Lương Sơn, tỉnh Sơn Bình và huyện Tùng Thiện cũ, nay

là một phần của huyện Ba Vì, Hà Nội.

Độc bạ Trần Công Niếu cưỡi ngựa tuần tra, giặc đuổi theo, đến địa hạt Cát

Giang, bị ngăn cách

con ngòi rộng đến một trượng. Ngựa nhảy qua ngòi thoát được, bèn đặt tên

cho con ngựa là Tử Bất Tề.

[7a] Mùa đông, tháng 12, Chiêm Thành dẫn quân về. Thượng hoàng

ở cung Bảo Hòa2, sai Thiêm tri nội mật viện sự Nguyễn Mậu Tiên,

Lễ bộ lang trung Phan Nghĩa và gia thần Vũ Hiếu hầu (không rõ

tên) ở Tiên Du thay phiên nhau chầu chực. [Thượng hoàng] ban cho ăn và hỏi

các việc cũ, ghi chép từng ngày, biên soạn thành 8 quyển, đầu đề là Bảo Hòa

dư bút3, sai Đào Sư Tích đề tựa ở đầu sách

để dạy bảo Quan gia.

Giáp Tý, [Xương Phù] năm thứ 8 [1384], (Minh Hồng Vũ năm thứ

17). Mùa xuân, tháng 2, Thượng hoàng cho thi thái học sinh ở chùa Vạn

Phúc núi Tiên Du4 , [lấy đỗ] bọn Đoàn Xuân Lôi, Hoàng

Hối Khanh... 30 người.

Mùa hạ, tháng 5, chọn số thái học sinh còn lại cho làm thư sử ở cung Bảo

Hòa.

Mùa thu, tháng 9, nhà Minh bắt đầu đánh Vân Nam, sai bọn Dương Bàn, Hứa

Nguyên mang tờ

tư của bộ Hộ sang đòi lương để cấp cho [7b] binh lính đóng ở Lâm An5.

Mùa đông, tháng 11, sai Triều phụng đại phu Lê Á Phu, Thiếu trung đại phu

Đỗ Tử Trừng trả lời rằng: Đã sai Hành khiển ty Trần Nghiêu Du đôn đốc

Chuyển vận sứ ty các lộ vận chuyển lương thực tới

địa đầu huyện Thủy Vĩ6 giao nộp rồi. Bấy giờ các quan sai đi, nhiều người

nhiễm lam chướng mà chết.

Ất Sửu, [Xương Phù] năm thứ 9 [1358], (Minh Hồng Vũ năm thứ 18). Mùa xuân,

tháng giêng, xét duyệt sổ sách quan văn võ.

Tháng 3, nhà Minh sai sứ sang đòi 20 tăng nhân.

Trước đây, nước ta đưa bọn nội nhân Nguyễn Tông Đạo, Nguyễn Toán đến Kim

Lăng, vua Minh dùng làm cận thần, đãi ngộ rất hậu. Bọn Tông Đạo tâu: "Tăng

nhân nước Nam biết dựng đạo tràng giỏi hơn tăng nhân phương Bắc". Đến đây

[nhà Minh cho sứ] sang đòi.

Mùa thu, tháng 7, tư đồ Chương Túc Quốc thượng hầu Nguyên Đán trí sĩ [8a]

lui về Côn Sơn7, gửi cho các bạn làm quan bài thơ, có câu rằng:

Kim cổ hưng vong chân khả giám, Chư công hà nhẫn gián thư hy? (Còn mất xưa

nay gương đã rõ, Các ông sao nỡ vắng thư can?).

Thái Úy Trang Định Vương Ngạc có bài thơ tặng rằng:

Ngã thị đương niên khí vật, Công phi đại hạ kỳ tài.

Hội thủ nhất ban lão bệnh, Điền viên tảo biện quy lai. (Ngày nay tôi là đồ

bỏ,

Ông không tài lạ cứu đời. Cùng một lớp già đau ốm,

1 Kẻ ăn thịt: chỉ người làm quan.

2 Cung Bảo Hòa: ở núi Lan Kha, tức núi Phật Tích ở xã Phật Tích, huyện

Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc.

3 Thiên Nghệ văn chì trong Đại Việt Thông sử của Lê Quý Đôn ghi rằng Bảo

Hòa điện dư bút có 8 quyển.

4 Chùa Vạn Phúc ở núi Tiên Du: tức chùa Phật Tích ở núi Phật Tích, thuộc

xã Phật Tích, huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc.

5 Lâm An: tên lộ đờI Nguyên ở Vân Nam. Minh đổi thành phủ Lâm An, trị sở

đóng tại huyện Kiến Thủy.

6 Huyện Thủy Vĩ: đời Trần tức châu Thủy Vĩ đời Lê, tương đương vớI toàn bộ

tỉnh Lào Cai, tức gồm đất các huyện Bát Xá, Mường

Khương, Bắc Hà, Sa Pa, Bảo Thắng và thị xã Lao Cai.

7 Côn Sơn: thuộc huyện Chí Linh,tỉnh Hải Hưng.

Ruộng vườn sớm liệu về thôi!).

Bởi vì khi ấy Quý Ly đang giữ quyền binh, các bậc hiền nhân quân tử buồn lo

thời thế, không thể

không biểu hiện ra câu thơ.

Ngạc lại làm bài thơ yết hậu bằng quốc ngữ để châm biếm Nguyên

Đán. Nguyên Đán tính chuyện thông gia để mong tránh mối họa sau này,

đem con là Mộng Dữ gửi gắm Quý Ly, Quý Ly đem công chúa Hoàng Trung là con

gái của cố tôn thất Nhân Vinh gả cho Dữ1. Sau Quý Ly trị nước, lấy Mộng

Dữ làm Đông cung phán thủ, em Mộng Dữ là Thúc Dao và Thúc

Quỳnh làm tướng quân, con cháu

Nguyên Đán đều tránh được nạn.

Nguyên Đán có hai người con gái, con trưởng tên là Thái [8b], con thứ tên

là Thai, sai nho sinh

đem văn học dạy cho hai người.

Nguyễn Ứng Long dạy Thái, Nguyễn Hán Anh dạy Thai. Ứng Long nhân gần gũi lả

lơi, làm thơ ca quốc ngữ khêu gợi Thái, thông dâm với Thái, Hán Anh cũng

làm thơ quốc ngữ bắt chước Ứng Long. Thái

có thai, Ứng Long bỏ trốn.

Đến ngày Thái đẻ, Nguyên Đán hỏi Ứng Long ở đâu. Người nhà trả lời là Ứng

Long sợ tội trốn đi rồi. Nguyên Đán nói:

"Vận nước sắp hết, biết đâu chẳng phải là trời xui nên thế, vị tất không

phải là phúc". Bèn cho gọi hai chàng về bảo rằng:

"Người xưa cũng đã có chuyện này. [Các ngươi] không thấy chuyện Văn Quân

với Tương Như hay sao2. Nếu [các ngươi] làm được như Tương Như, truyền lại

danh tiếng cho đời sau thì đó là điều mong muốn của ta".

Hai chàng cảm ơn sâu nặng, chăm chỉ học hành. Đến khi thi, cả hai đều đỗ.

Thượng hoàng nói: "Bọn chúng có vợ giàu sang, như thế là kẻ dưới mà dám

phạm thượng, bỏ không dùng".

Sau Hán Anh làm quan đến chức Chuyển vận. Ứng Long đến nhà Hồ được cất nhắc

[9a] sử

dụng, đổi tên là Phi Khanh (Phi Khanh sinh ra [Nguyễn] Trãi, cũng đỗ thái

học sinh).

Nguyên Đán có tập thơ tên là Băng Hồ3, vài quyển, truyền ở đời. Bấy giờ Hàn

lâm học sĩ Hồ

Tông Thốc cũng có tập thơ Thảo nhàn hiệu tần thi tập đều là cảm thờI thế mà

làm cả.

Bính Dần, [Xương Phù] năm thứ 10 [1386], (Minh Hồng Vũ năm thứ 19). Mùa

xuân, tháng 2, nhà Minh sai Lâm Bốt sang đòi giống các loại cây cau, vải,

mít, nhãn, vì nộI nhân Nguyễn Tông Đạo nói hoa quả phương Nam có nhiều thứ

ngon. Vua sai bọn Viên ngoại lang Phạm Đình đem sang, nhưng những cây ấy

không chịu được rét, đi nửa đường đều chết khô cả.

Nhà Minh lại sai bọn Cẩm y vệ xá nhân Lý Anh sang mượn đường đánh Chiêm

Thành, đòi 50 con voi, đặt các dịch trạm từ phủ Nghệ An cung cấp cỏ, thức

ăn, đưa voi đến Vân Nam.

Lấy Hồ Tông Thốc làm Hàn [9b] lâm học sĩ phụng chỉ.

Tông Thốc (người Sĩ Thành4, Diễn Châu) tuổi trẻ đỗ cao, rất có tài danh.

Trước đó, Thốc chưa được nổi tiếng lắm, gặp tết Nguyên tiêu, có đạo nhân là

Lê Pháp Quan treo đèn đặt tiệc, mời khách văn chương đến dự làm vui. Thốc

nhận thiếp xin đề thơ, làm xong trăm bài thơ ngay trên bữa tiệc. Mọi người

1 Nhân Vinh có vợ là công chúa Huy Ninh. Nhân Vinh chết, Nghệ Tông đem Huy

Ninh gả cho Quý Ly, như vậy Hoàng Trung gọi Quý

Ly là bố dượng.

2 Tương Như: tức Tư Mã Tương Như, tên tự là Trường Khanh, người Thành Đô.

ĐờI Hán Cảnh Đế làm vũ kỵ, thường thị, dùng tiếng đàn khêu gợi người phụ nữ

trẻ mới góa chồng là Trác Văn Quân, con gái yêu của Trác Vương Tôn, rồi hai

người mới lấy nhau. Sau được bố vợ giúp đỡ, Tương Như trở nên giàu có, rồi

làm quan, được phong tới chức Hiếu Văn viên lệnh, rất giỏi về từ chương.

3 Theo Nghệ văn chi của Lê Quý Đôn, Trần Nguyên Đán soạn Băng Hồ ngọc hác

tập, 10 quyển. Cũng theo sách trên, Hồ Tông Thốc soạn Thảo nhãn hiệu tần

tập).

4 Sĩ Thành: nên sưa là Thổ Thành, tên xã thuộc huyện Đông Thành, phủ Diễn

Châu, nay thuộc tỉnh Nghệ An.

xúm lại xem, rất thán phục. Từ đấy tiếng dậy kinh sư, vì giỏi văn học nên

được người đương thời kính

trọng, mà thơ rượu thì không ngày nào không có.

Trước kia Tông Thốc làm An phủ, có lấy của dân, việc bị phát giác, Nghệ

Tông thấy làm lạ hỏi ông chuyện đó. Tông Thốc lạy tạ thưa rằng: "Một con

chịu ơn vua, cả nhà ăn lộc trời"1, vua tha tội cho. Sau ông được thăng

nhiều lần, đến Hàn lâm học sĩ phụng chỉ kiêm Thẩm hình viện sứ, thọ hơn 80

tuổi, mất tại nhà.

Đinh Mão, [Xương Phù] năm thứ 11 [1387], (Minh Hồng Vũ năm thứ 20). Mùa

xuân, tháng 2, Thượng hoàng từ cung Bảo Hòa trở về kinh đô.

[10a] Tháng 3, Lấy Lê Quý Ly làm Đồng bình chương sự, ban cho một thanh

gươm, một lá cờ đề

8 chữ "Văn võ toàn tài, quân thần đồng đức"2 Quý Ly làm bài thơ quốc ngữ

tạ ơn .

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Bọn loạn thần tặc tử mà thực hiện mưu kế của

chúng, nguyên nhân không phải là một sớm một chiều. Việc đó có ngọn nguồn

hình thành dần

từ lâu rồi. Cho nên, thánh nhân phải nhận biết âm mưu đó từ sớm và thận

trọng phòng giữ như giẫm lên sương.3. Họ Hồ cướp ngôi nhà Trần chẳng những

vì Nghệ Hoàng không thận trọng trước âm mưu của nó, mà còn vì đã gây ra đầu

mối nữa.

Mậu Thìn, [Xương Phù] năm thứ 12 [1388], (từ tháng 11 về sau là Thuận Tông

Quang Thái năm thứ 1, Minh Hồng Vũ năm thứ 21). Mùa hạ, tháng 5, lấy Trần

Đỗ làm cung lệnh. Đỗ là con Thượng

vị hầu Tông, mẹ Đỗ cải giá lấy Quý Ly, cho nên có lệnh này. Sau Đỗ đổi làm

họ Hồ.

Tháng 6, lấy Lê Quý Tỳ4 là [10b] phán thủ Tri tả hữu ban sự; nội nhân

Nguyễn Vị làm Tri điện nội: Trần Ninh làm tri khu mật viện sự.

Nhập nội hành khiển tả ty Vương Nhữ Chu trí sĩ, lấy Lê Dũ Nghị lên thay.

Mùa thu, tháng 8, sao Chổi hiện ở phương tây. Vua bàn mưu với Thái úy Ngạc

rằng:

"Thượng hoàng tin yêu ngoại thích là Quý Ly, cho hắn mặc sức làm gì thì

làm, nếu không lo trước đi thì sau sẽ rất khó chế ngự".

Con Vương Nhữ Chu là hữ Mai hầu vua học, nhân tiết lộ mưu đó. Quý Ly biết

được. Đa Phương khuyên Quý Ly lánh ra núi Đại Lại5 để đợi biến động. Phạm

Cự Luận nói:

"Không được, một khi đã ra ngoài thì khó lo chuyện sống còn". Quý Ly nói:

"Nếu không còn phương sách gì thì ta đành tự tử, không để tay kẻ khác giết

mình". Cự Luận nói:

"Thượng hoàng trong lòng vẫn căm vua về việc giết Quan Phục Đại Vương, vua

rất không hài lòng. Nay quyền bính trong thiên hạ đều ở đại nhân cả [11a]

mà vua lại mưu hại ngài thì Thượng hoàng

lại càng ngờ lắm. Đại nhân hãy liều vào lạy Thượng hoàng, bày tỏ lợi hại,

thì nhất định Thượng hoàng sẽ nghe theo ngài, chuyển họa thành phúc, dễ như

trở bàn tay. Thượng hoàng có nhiều con chính đích, ngài cứ tâu rằng thần

nghe ngạn ngữ nói "Chưa có ai bán con để nuôi cháu, chỉ thấy bán cháu để

nuôi

1 Ý nói một người làm quan, cả họ được nhờ.

2 Văn võ toàn tài, vua tôi một dạ.

3 Kinh dịch có câu: "Lý sương nhi kiên băng chí" (Giẫm lên sương thì biết

sẽ có băng cứng), ý nói phải thận trọng đề phòng sự biến xảy ra, khi mới

thấy triệu chứng, như thấy có sương là biết sẽ có đóng băng.

4 Tỳ là em của Quý Ly.

5 Núi Đại Lại: Cũng gọi là núi Kim Âu. Thuộc huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh

Hóa ngày nay.

con"1 may ra thượng hoàng tỉnh ngộ mà đổi lập Chiêu Định Vương2 là Thuận

Tông. Nếu thượng hoàng không nghe thì chết cũng chưa muộn".

Quý Ly nghe theo, bí mật tâu với Thượng hoàng như lời Cự Luận. Thượng hoàng

cho là phải. Mùa đông, tháng 10, ngày rằm, nguyệt thực toàn phần.

Tháng 12, ngày mồng 6, sáng sớm, Thượng hoàng vờ ngự về Yên Sinh, sai điện

hậu hộ vệ, rồi

sai chi hậu nội nhân gọi vua tới bàn việc nước. Vua chưa kịp ăn, vội đi

ngay, chỉ có hai người theo hầu thôi. Đến nơi, Thượng hoàng bảo vua: "Đại

Vương lại đây!"3, rồi lập tức sai người đem vua ra giam ở chùa Tư Phúc

[11b] tuyên đọc nội chiếu rằng:

"Trước đây, Duệ Tông đi tuần phương Nam không trở về, lấy con đích để nối

ngôi, đó là đạo từ xưa. Nhưng từ khi Quan gia lên ngôi đến nay, lòng dạ trẻ

con, giữ đức không thường, gần gũi bọn tiểu nhân, nghe lời Lê Á Phu, Lê Dữ

Nghị gièm pha vu hãm công thần, làm lung lay xã tắc, phải giáng làm Linh

Đức Đại Vương. Song quốc gia không thể không có chủ, ngôi báu không thể bỏ

trống lâu, nên hãy đón Chiêu Định vào nối đại thống. Bá cáo trong ngoài để

mọi người đều biết".

Bèn giáng con của vua làm Thuận Đức Vương. Các tướng chỉ huy các phủ quân

cũ như tướng chỉ

huy quân Thiết Liêm là Nguyễn Khoái, Nguyễn Vân Nhi, tướng chỉ huy quân

Thiết Giáp4 là Nguyễn Kha,

Lê Lặc, tướng chỉ huy quân Thiết Sang là Nguyễn Bát Sách định đem quân vào

cướp lấy vua đem ra. Vua viết hai chữ "Giải giáp"5 đưa cho các tướng và

răn bảo họ không được trái ý vua cha, các tướng mới thôi.

Lát sau, [thượng hoàng sai] dìu vua xuống phủ Thái Dương thắt cổ cho chết.

Trước [12a] đó, theo lệ cũ của sảnh, đài, từ chức Đồng bình chương trở lên

được ngồi ghế tựa sơn đen. Bấy giờ Trang Định Đại Vương Ngạc làm Thái úy,

Lê Quý Ly làm Đồng bình chương sự. Tri thẩm hình viện Lê Á Phu đã bảo Ngạc

bỏ ghế của Lê Quý Ly đi, không cho ngồi cùng, lại bí mật tâu vua giết Quý

Ly. Mưu cơ tiết lộ, đến nỗi thất bại, bọn Á Phu, Khoái, Vân Nhi, Kha, Bát

Sách, Lặc và người học sinh được tin yêu là Lưu Thường đều bị giết cả. Lưu

Thường khi bị hành hình có làm thơ rằng:

Tàn niên tứ thập hựu dư tam, Trung ái phùng chu tử chính cam. Báo nghĩa

sinh tiền ưng bất ngỗ,

Bộc thi nguyên thượng cách hà tàm. (Tuổi tàn bốn chục lại thừa ba,

Bị giết vì trung, chết đáng mà!

Khi sống không sai điều giữ nghĩa, Phơi thây đồng nội thẹn gì ta).

Duy có Dữ Nghị là bị đày ra Trại Đầu, sau xét không có tội, lại được bổ

làm Tuyên phủ sứ lộ Bắc Giang. Đến năm Kiến Tân thứ 26, lại vì việc bè cánh

bị giết. Dữ Nghị là anh họ của Á Phu. Bát Sách chạy trốn, sau bắt giam

người mẹ, Sách mới chịu ra chết .

[12b] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Khi ấy khí thế của họ Hồ đang mạnh, mọi

người đều biết là nó sẽ cướp ngôi, Trang Định Vương Ngạc là Thái úy, lại

là con của Nghệ hoàng, thấy xã tắc sắp nghiêng đổ, nếu biết hướng vua làm

điều phải, gây niềm tin ở vua cha, hiệu lệnh nghiêm ngặt, để nhiều người

theo về mình, khiến cho Nghệ Tông già

1 Đế Hiện là con Duệ Tông, cháu Nghệ Tông. Ý nói nên phế bỏ Đế Hiện mà lập

con mình.

2 Tên húy là Ngung, con út Nghệ Tông, sau được lập làm vua.

3 Theo quy chế của nhà Trần, đáng lẽ Nghệ Tông phải gọi Đế Hiện là "quan

gia". Ở đây gọi là "đại vương" là có ý gay gắt, không

coi Hiện là "đế" nữa.

4 Nguyên văn thiếu hai chữ Thiết Giáp, chúng tôi theo các bản khác bổ sung

vào.

5Giải tán quân lính.

6 Năm 1399, Kiến Tân là niên hiệu Trần Thiếu Đế.

lẫn phải tỉnh lại. Giản hoàng nhút nhát phải tự lập, quyền bính về tay hết,

mệnh lệnh ban

từ trên, thì lòng gian của họ Hồ cũng phải tự ngừng lại. Trang Định không

mưu tính đến việc đó, Á Phu không lường được vu mình chẳng có tài cương

đoán, lại khuyên vua giết Quý Ly, mà cơ mưu không cẩn mật, để cho nó biết

trước. Trang Định lại không sớm quyết đoán, bỏ lỡ cơ hội, đến nỗi công việc

thất bại, thân mình bị giết, lại giết lây cả đến những quân tướng tài giỏi,

thực đáng than thở biết bao! Có người hỏi: Họ Hồ trên được vua tin, [13a]

dưới nắm binh quyền, dẫu đến Nguyên Đán là người có kiến thức, lại lão

luyện sự đời còn không làm gì được, huống chi là Trang Định! Xin thưa: Cứ

xem nói trong lòng lo sợ mà định tự tử, thì việc chế ngự Quý Ly cũng dễ

thôi! Trước hết hãy trừ bọn Đa Phương, Cự Luận để chặt vây cánh của nó đi,

thì thế nó phải cô ngay.

Trước đây, bà Lê thị, hoàng hậu của Duệ Tông là mẹ Linh Đức Vương, em họ

của Quý Ly, Duệ

Tông đi đánh phương Nam không trở về, bà cắt tóc làm ni cô. Khi Duệ Tông

lập Linh Đức lên ngôi, hậu

từ chốic không được, bèn khóc lóc nói với những người thân thích rằng:

"Con ta phúc bạc, khó lòng gánh vác nổi trách nhiệm lớn, nói phải tai họa

vì việc đó thôi. Tiên hoàng xa lìa cõi thế, kẻ chưa chết này chỉ muốn chết

theo, không muốn trông thấy việc đời nữa, huống

chi lại phải nhìn thấy con mình sắp bị nguy hiểm nữa".

Bà mất được hai năm thì Linh Đức [13b] bị hại .

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Linh Đức được lập lên là do Nghê Hoàng, bị phế bỏ

cũng do Nghệ Hoàng. Trước không nghe lời bà hoàng hậu Lê thị là vì nghĩa,

sau nghe lời gièm của Quý Ly là vì tư tình. Thế thì khi trước lập lên sao

sáng suốt thế! Mà sau phế bỏ sao mà ngu tối thế! Lại còn thắt cổ chết Linh

Đức thì thực quá lắm!

Phong Thái úy Ngạc làm Đại Vương.

Trước đó, Linh Đức bị giáng, Quý Ly nói phao là lập Ngạc lên nối ngôi. Đến

khi xong công việc, Ngạc từ chối không nhận, Quý Ly nhân dịp ấy tâu rằng:

"Thái úy biết từ chối ngôi báu, đó là đức lớn". Thượng hoàng cho lời ấy là

phải nên có lệnh này.

Ngày 27, Thượng hoàng lập con út là Chiêm Định Vương Ngung làm Hoàng đế.

Ngung lên ngôi,

đổi niên hiệu là [14a] Quang Thái năm thứ 1, đại xá, tự xưng là Nguyên

Hoàng.

Nhà Minh sai Đỗ Tử Hiền, Ổ Lân1, Hình Văn Bác2 mang sắc rồng sang phong,

nhưng Linh Đức đã

bị hại rồi . Trước đây sứ phương Bắc tới thì dẫn qua cửa Tường Phù, chỉ có

bọn Lân thì qua cửa Cảnh

Dương.

THUẬN TÔNG HOÀNG ĐẾ

Tên huý là Ngung, là con út của Nghệ Tông, ở ngôi hơn 9 năm xuất gia hơn 1

năm, bị Quý Ly giết, thọ 22 tuổi. Vua chỉ ngồi giữ ngôi không, việc nước

trong tay quyền thần, tai họa đến thân mà không biết, thương thay!

Kỷ Tỵ, [Quang Thái] năm thứ 2 [1389], (Minh Hồng Vũ năm thứ 22). Mùa xuân,

tháng giêng, lập Thánh Ngâu, con gái lớn của Quý Ly làm hoàng hậu, gọi chỗ

ở là điện Hoàng Nguyên.

Tháng 2, chôn Linh Đức Đại Vương ở núi An Bài, sai Quý Tỳ trông coi việc

ấy. Tháng 3, lấy Đỗ Tử Trừng làm Ngự sử đại phu.

1 Lịch triều hiến chương loại chí ghi là Sư Lân.

2 Có sách chép là Đặng Văn Bác (Lịch triều hiến chương loại chí) hay Du

Vân Vĩ (Minh sử, 1.321).

Mùa hạ, tháng 4, lấy Phạm Cự Luận làm Thiêm thư Khu mật [14b] viện sự.

Quý Ly hỏi thuộc viên Khu mật viện người nào có thể dùng được, Cự Luận tiến

cử người em là Phạm Phiếm cùng Vương Khả Tuân, Dương Chương, Hàn Tử Tây,

Nguyễn Sùng, Nguyễn Thư, Nguyễn Cảnh Thân, đều có danh tiếng, đức vọng, có

thể dùng được, duy Đỗ Tử Mãn là hơn cả.

Tháng 5, lấy Vương Khả Tuân coi quân Thần Dực ở Ý Yên, Dương Chương coi

quân Thần Dũng.

Mùa thu, tháng 8, Nguyễn Thanh, người Thanh Hóa tự xưng là Linh Đức trốn

tránh tai nạn. Dân chúng vùng sông Lương Giang1 đều hưởng ứng.

Tháng 9, Nguyễn Kỵ, người Nông Cống, tụ họp bè lũ đi cướp bóc, tự xưng là

Lỗ Vương Điền Kỵ2. Mùa đông, tháng 10, ngời Chiêm đến cướp Thanh Hóa, đánh

vào Cổ Vô3, [thượng hoàng] sai

Quý Ly đem quân đi chống giữ. Giặc đắp ngăn thượng lưu sông, quan quân đóng

cọc dày đặc để chống

cự.

Ngày 20, giặc phục sẵn quân và voi, rồi giả vờ bỏ doanh trại rút về. Quý Ly

lựa lấy quân tinh nhuệ, dũng cảm, làm quân cảm tử, truy kích giặc. Thủy

[15a] quân mở hàng cọc xông ra đánh. Giặc liền phá đập chắn nước, tung voi

trận xông ra. Lúc ấy, quân tinh nhuệ dũng cảm đã đi xa rồi, quân thủy khó

tiến ngược dòng, tiến lên rất khó khăn, vì thế bị thua. Tướng chỉ huy quân

Hữu Thánh Dực là Nguyễn Chí

(có sách chép là Trần Đình Quý) bị giặc bắt sống, 70 tướng còn lại đều bị

chết trận. Quý Ly để tỳ tướng Phạm Khả Vĩnh ở lại cầm cự với giặc, còn mình

thì trốn về. Nguyễn Đa Phương tạm chỉ huy quân Thánh Dực. Đêm đó, Đa Phương

bàn với Khả Vĩnh:

"Thế giặc như vậy, bọn ta cô quân, khó lòng cầm cự được lâu. Nếu rút quân

về, giặc nhất định thừa cơ đuổi theo".

Bèn hạ lệnh các quân giăng nhiều cờ xí, buộc thuyền lớn vào cọc, sai người

canh giữ, rồi lấy thuyền nhẹ đang đêm trốn chạy. Quý Ly về đến

triều đình, xinh phái thêm thuyền chiến Châu Kiều nhưng Thượng

hoàng không cho, Quý Ly do vậy xin thôi nắm quyền cầm quân, không đi đánh

nữa.

[15b] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Quý Ly thân làm đại tướng, có quan hệ tới

mối an nguy của cả nước, thế mà để đến nỗi thất trận tan quân, tội ấy rất

lớn. Đã không lo dốc sức trận sau để chuộc tội lần trước, lại bỏ quân chuồn

về trước để tránh mưu kế của giặc, rồi lại không tự trói mình chịu tội như

người xưa vẫn làm. Cái lòng vô quân ấy lớn lắm. Cứ theo quân pháp thì hắn

đáng phải tội chết, như trận đánh Thành Bộc, Tử Ngọc

để vỡ quân, bị vua Sở mỗi ngày một mạnh và uy lệnh được thi hành. Nghệ

Hoàng không bắt tội Quý Ly, thế là chính hình đã lầm lỡ rồi. Còn như Đa

Phương, Khả Vĩnh vì đem cô quân chống giặc mạnh mà phải ngầm rút chạy thì

chưa hẳn phải trách cứ nặng nề. Là vì trong việc dùng binh, hễ đánh lui

được giặc là có công, đánh không lợi mà rút là không

có tội. Dùng kế lừa giặc để lui quân là thuật của nhà binh, có hại gì đâu?

Nghệ Tông không biết [16a] dùng Đa Phương đó thôi.

Tháng 11, Thượng hoàng sai Trần Khát Chân 4 chỉ huy quân Long Tiệp ra quân

đánh giặc.

Khát Chân vâng mệnh, khảng khái nhỏ nước mắt lạy tạ ra đi. Thượng hoàng

cũng khóc, lấy mắt tiễn đưa. Quân xuất phát từ sông Lô5, đến Hoàng Giang đã

gặp giặc rồi, Khát Chân quan sát chỗ ấy

1 Lương Giang: tức sông Lương, hay sông Chu ở Thanh Hóa. Nhưng Lương Giang

còn là tên một khu vực có sông Lương chảy qua.

Theo An Nam chí lược của Lê Trác thì Lương Giang là một huyện Lương Giang.

Đầu thời Lê cũng còn gọi là huyện Lương Giang, mãi đến đầu thế kỷ XVI mới

đổi tên là huyện Thụy Nguyên. Về sau là đất huyện Thiệu Hóa, nay là một

phần đất huyện Thiệu Yên, tỉnh Thanh Hóa.

2 Điền Kỵ: nha tướng nước Tề đời Chiến Quốc. Điền Kỵ sau chiếm nước Tề.

3 Cổ Vô: CMCB 11 chú là tên hương.

4 Trần Khát Chân: là dòng dõi Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng.

5 Sông Lô thời trần tức sông Hồng.

không thể đánh được, mới lui giữ sông Hải Triều1. Em trai Linh Đức là

Nguyên Diệu muốn báo thù cho

Linh Đức, đem quân đầu hàng giặc.

Lấy Nhân Tĩnh Vương Nguyên Đĩnh, con trai Thái tể Nguyên Trác, làm Tư đồ;

cựu Hàn lâm học sĩ

Trần Tôn làm Thiếu bảo cùng gia thần là Nguyễn Khang làm phụ tá.

Nguyễn Đa Phương từ sông Ngu về, cho rằng mình có công cao, có ý lên mặt,

thường hay chê

Quý Ly là bất tài. Quý Ly liền gièm lại rằng vì nghe Đa Phương mà đến nỗi

thất bại. Bèn thu lại số quân

do Đa Phương chỉ huy, [16b] Đa Phương vẫn còn vẻ kiêu. Thượng hoàng nói:

"Nên trị tội nhẹ để cảnh cáo hắn". Quý Ly tâu:

"Đa Phương rất gan góc, tráng kiện, thần sợ hắn sẽ trốn sang nước Minh

phương Bắc hay Chiêm

Thành phương Nam, thả cọp để lại mối họa về sau, chi bằng giết đi là hơn".

Rồi bắt Đa Phương phải tự tử.

Đa Phương than rằng: "Ta vì có tài nên được giàu sang, cũng vì có tài mà

đến nỗi chết, chỉ hận

là không được chết ở chiến trận mà thôi".

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Đa Phương vào bè với họ Hồ, có lẽ trời mượn cớ đó

để giết hắn chăng? Khả Vĩnh sau vì họ Hồ mà giết Thuận Tông, rồi cũng vì

việc bè đảng mà chết. Những kẻ a dua phụ họa với loạn thần hãy lấy đó làm

gương!

Tháng 12, nhà sư Thiên Nhiên là Phạm Sư Ôn làm phản, hô hào dân chúng tụ

họp ở lộ Quốc Oai

Thượng, tiếm xưng hiệu lớn, lấy Nguyễn Tông Mại người cổ Sở, Lư Mộ; Nguyễn

Khả Hành người La Xã2

[17a] làm hành khiển; chiêu tập những bọn không quê quán, lập các quân hiệu

Thần Kỳ, Dũng Đấu, Vô

Hạn, đánh vào kinh sư.

Hai vua sang châu Bắc Giang. Sư Ôn ở kinh sư ba ngày rồi ra đóng quân ở Nộn

Châu3. Thượng hoàng sai tướng chỉ huy quân Tả Thánh Dực là Hoàng Phụng Thế

đi đánh, dẹp được.

Trước đó, Phụ Thế (người Hoằng Hóa) cùng thủ tướng Chiêm Thành La Ngai cầm

cự nhau ở

sông Hoàng Giang, đến đây được lệnh này. [Phụng Thế đưa quân] theo đường ra

sông Miệt Giang4. Bấy

giờ mùa đông, nước cạn, phải đào khơi dòng chảy cho thuyền chiến đi qua.

Đánh một trận, bắt sống được Sư Ôn, Tông Mại, Khả Hành, đều đem giết cả.

Còn những kẻ bị cưỡng bức đi theo thì không hỏi đến người nào.

Canh Ngọ, [Quang Thái] năm thứ 3 [1390], (Minh Hồng Vũ năm thứ

23). Mùa xuân, tháng giêng, ngày 23, đô tướng Trần Khát Chân đại thắng

quân Chiêm Thành ở Hải Triều, giết được chúa nó là Chế Bồng Nga. Khi ấy,

Bồng Nga cùng với [17b] Nguyên Diệu dẫn hơn một trăm thuyền chiến đến quan

sát tình thế của quan quân. Các thuyền giặc chưa tập họp lại, thì có tên

tiểu thần của Bồng Nga là Ba Lậu Kê nhân bị Bồng Nga trách phạt, sợ bị

giết, chạy sang doanh trại quân ta, trỏ vào chiến thuyền sơn xanh bảo rằng

đó là thuyền của quốc vương hắn. Khát Chân liền ra lệnh các cây súng5 nhất

tề nhả đạn, bắn trúng thuyền Bồng Nga, xuyên suốt ván thuyền, Bồng Nga

chết, người trong thuyền ồn ào kêu khóc. Nguyên Diệu cắt lấy đầu Bồng Nga

chạy về với quan quân. Đại đội phó Thượng đô quân Long Tiệp là Phạm Nhũ Lặc

và đầu ngũ là Dương Ngang liền giết luôn Nguyên Diệu, lấy cả đầu Bồng Nga.

Quân giặc

tan vỡ.

1 Sông Hải Triều: tức sông Luộc hiện nay, khúc sông chảy qua huyện Phù

Tiên, Hải Hưng và huyện Hưng Hà, Thái Bình.

2 La Xã: nay là Xuân La, huyện Từ Liêm, phía tây Hồ Tây.

3 Nộc Châu: thuộc lộ Quốc Oai.

4 Miệt Giang: tức sông Châu Cầu ngày nay, là phân lưu của sông Hát, nối

với sông Hoàng Giang.

5 Nguyên văn: "hỏa súng", chỉ loại súng có nòng kim loại và có nhồi thuốc

cháy.

Khát Chân sai quân giám Lê Khát Khiêm bỏ đầu giặc vào hòm, đi thuyền về báo

tin thắng trận ở

hành tại Bình Than. Bấy giờ đồng hồ đã điểm canh ba, Thượng hoàng đang ngủ

say, giật mình tỉnh dậy, tưởng là giặc đánh vào ngự doanh. Đến khi nghe tin

thắng trận, nói là đã lấy được đầu Bồng Nga thì mừng lắm, cho gọi các quan

[18b] tới xem cho kỹ. Các quan mặc triều phục, hô "muôn năm". Thượng hoàng

nói:

"Ta với Bồng Nga cầm cự nhau đã lâu, ngày nay mới được gặp nhau, có khác gì

Hán Cao Tổ thấy

đầu Hạng Vũ, thiên hạ yên rồi!".

La Ngai dẫn số quân còn lại đến phía trên bờ sông Lô hỏa táng xác Bồng Nga

rồi ngày đêm đi bộ men theo chân núi, gác đường san đạo1, nấu cơm trên đó,

rồi vừa đi vừa ăn, đem cả quân trở về. Gặp quan quân đuổi đánh thì dừng voi

lại, tung tiền bạc của cải ra để quân ta ngừng lại.

Bấy giờ, người Nghệ An vốn ở hai lòng, còn Tân Bình, Thuận Hóc thì phần

nhiều làm phản theo

Chiêm Thành, cho nên người địa phương phân tán đánh lén khắp nơi, không ai

ngăn được. Triều đình

tuy đã lấy Lê Khả Chú làm An phủ sứ lộ hai lộ ấy, nhưng chỉ ở kinh sư mà

trấn trị từ xa, chứ chưa bao

giờ tới quận. Chỉ có thổ hào Phan Mã và Phạm Căng đem dân chúng quy thuận.

Mãnh là người can đảm mưu lược, dò biết được nhiều tình hình của giặc, lại

có công đón [18b] đánh quân giặc bại trận chạy qua. Thượng hoàng thưởng cho

rất hậu, cho làm tới Dực vệ quân, lại thăng làm Uy Minh tướng quân, chỉ huy

quân Thánh Dực ở Tân Bình và Thuận Hóa, đeo vân phù vàng.

Tháng 2, vua ngự về Long Hưng, Kiến Xương, Yên Sinh, bái yết các lăng.

Xuống chiếu bắt bọn đảng giặc là Nguyên Đĩnh, Nguyễn Động,

Nguyễn Doãn, Hoàng Khoa, Nguyễn Khang2. Những người bị cưỡng bức theo

chúng thì không bị tội, Nguyên Đĩnh và Trần Tôn nhảy xuống sông tự tử,

Khang thì chạy trốn sang nước Minh, nói dối là con cháu họ Trần, đổi tên là

Thiêm Bình.

Lấy Trần Khát Chân làm Long Tiệp phụng thần nội vệ thượng tướng quân, phong

tước Vũ Tiết Quan nội hầu. Phạm Khả Vĩnh (người Tây Châu)3 làm Xa kỵ vệ

thượng tướng quân, phong tước Quan phục hầu. Phạm Cự Lặc, Dương Ngang được

thưởng tước 5 tư, thăng Lặc làm Giám cấm vệ đô, ban cho Ngang 30 mẫu ruộng.

Còn những người khác thì đều được thăng chức tước theo mức độ khác nhau.

Mùa hạ, tháng 4, tôn thêm huy hiệu cho các tiên đế [19a], tiên hậu và thụy

hiệu cho thần kỳ

các nơi.

Tháng 6, ngày 25, mưa bão lớn.

Lấy Chương Tĩnh vương Nguyên Hy, em trai Nguyên Diệu, làm Nhập nội kiểm

hiệu tướng quốc

bình chương sự. Bấy giờ Chương Tĩnh Vương Nguyên Hy trong lòng không yên4,

cho nên có lệnh này.

La Ngai về đến Chiêm Thành, chiếm nước, tự lập làm vua. Con của Bồng Nga là

Chế Ma Nô Đà Nan và em là Chế Sơn Nô sợ bị giết, liền chạy sang ta. Phong

Ma Nô Đà Nan làm Hiệu chính hầu, Sơn Nô làm Á hầu.

Mùa đông, tháng 10, khơi sông Thiên Đức.

Sai thợ đá ở An Hoạch5 đào mở cửa hang núi Thiên Kiện và hang núi Khuẩn

Mai để lấy tiền của chôn ở đó khi trước. Nhưng bấy giờ cả hai núi đều bị

lở, cửa hang bị lấp kín, đào mãi không được, phải

bỏ.

Tháng 11, ngày 14, Tư đồ Chương Tức Quốc thượng hầu [19b] Nguyên Đán mất.

1 Đường men theo núi, phải lấy gỗ bắc sàn mà đi.

2 CMCB 11 chép là Trần Khang.

3 Tây Châu: tên huyện đời Trần và đầu thời Lê. Đến thế kỷ XVII, đổi là Nam

Chân. Nay là đất huyện Nam Ninh, tỉnh Nam Hà.

4 Nguyên Hy: có hai người anh là Linh Đức (Đế Hiện) và Nguyên Diệu đều bị

giết, nên lo ngại không yên.

5 An Hoạch: Tức làng Nhồi, hay Nhuệ thôn, thuộc huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh

Hóa.

Nguyên Đán là người hiền từ, nho nhã, có phong cách của bậc quân tử thời

xưa. Thượng hoàng

thường ngự đến nhà riêng của ông để thăm bệnh và hỏi việc sau này. Nhưng

Nguyên Đán đều không nói

gì, chỉ thưa:

"Xin bệ hạ kính nước Minh như cha, yêu ChiêmThành như con, thì nước nhà vô

sự. Tôi dầu chết cũng được bất hủ".

Thượng hoàng có làm bài thơ đề trên mộ ông. Nguyên Đán từng làm bài thơ

Thập cầm1 có câu

rằng:

Nhân ngôn ký tử dữ lão nha, Bất thức lão nha liên ái phủ. (Đem con mà gửi

cho loài quạ,

Chẳng biết quạ già có xót thương?).

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Làm rõ điều nghĩa mà không mưu lợi, làm sáng đạo

lớn mà không kể công, đó là tấm lòng người quân tử. Nguyên Đán là bậc đại

thần cùng họ với vua, biết họ Hồ sắp cướp ngôi, cơ nghiệp nhà trần sắp hết,

thế mà không nghĩ đến việc vững vàng vượt qua gian nan, cùng vui lo với

nước, lại đem con mình gửi gắm cho

họ Hồ để làm kế về sau2. [20a] [Thế là] mưu lợi mà không nghĩ đến nghĩa, bỏ

đạo mà chỉ tính đến công, sao gọi là người hiền được? Hơn nữa, lúc ấy tai

họa người Chiêm là việc cần kíp, mà lại bảo yêu Chiêm Thành như con, thờ

nước Minh như cha, thì chỉ là câu nói tầm thường chung chung về đạo thờ

nước lớn,yêu nước nhỏ, có bổ ích gì cho việc nước lúc đó? Tiếc rằng học vấn

kiến thức của ông biết trước được mọi điều mà lòng nhân thì không giữ được.

Tháng 12, lấy Phạm Thán làm Tri phủ Nghệ An.

Tân Mùi, [Quang Thái] năm thứ 4 [1391], (Minh Hồng Vũ năm thứ 24). Mùa

xuân, tháng 2, Lê

Quý Ly đem quân đi tuần châu Hóa, xét duyệt quân ngũ, xây sửa thành trì.

Tháng 3, Quý Ly sai viên tướng coi quân Tả Thánh Dực Hoàng Phụng Thế đem

quân đi tuần đất Chiêm Thành. Người Chiêm Thành đặt mai phục. Quân Phụng

Thế [20b] tan vỡ, [Phụng Thế] bị giặc bắt. Quý Ly sai chém 30 viên đại đội

phó dưới quyền của Phụng Thế. Phụng Thế dùng mưu kế thoát về, được phục

chức như cũ.

Mùa hạ, tháng 4, Quý Ly đem quân về.

Tháng 6, Thái úy Trang Định Vương Ngạc trốn ra trang Nam Định. Người trong

trang lấy thuyền đưa Ngạc ra trại Vạn Ninh3. Người trại ấy là Dương Độ

không nhận. Thượng hoàng sai viên tướng coi quân Ninh Vệ Nguyễn Nhân Liệt

đuổi bắt về. Quý Ly ngầm sai Liệt giết đi. Nhân Liệt đánh chết Ngạc bị

giáng làm Mẫn Vương. Sau Thượng hoàng tỉnh ngộ lại, hỏi người đuổi bắt Mẫn

Vương là ai, Nhân Liệt sợ, thắt cổ tự tử.

Trước đó, Thượng hoàng đã phế Linh Đức, định lập Ngạc. Quý Ly dùng mưu đánh

lừa, mới lập làm vua mà gia phong Ngạc làm đại vương, vẫn giữ chức phụ

thần. Ngạc có hiềm khích với Quý Ly, nhiều lần bị Quý [21a]4 Ly gièm,

thành ra sợ hãi nghi hoặc, nên đến nỗi thế. Sau Quý Ly cướp nước, giáng

Ngạc làm Liệt hiệu phán hầu.

Mùa thu, tháng 8, các tướng Hóa Châu bàn về thế lợi hại. Phan Mãnh nói:

"Trời không thể có hai mặt trời, dân không thể có hai vua!".

1 Thập cầm: Có nghĩa là "mười loài chim", thơ vịnh.

2 Bản Chính Hòa mất tờ 20a và b. Chúng tôi dịch theo bản VHv 179/1-9 kho

sách Hán Nôm, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, BK8, 20a-b.

3 Nay là đất huyện Hải Ninh, tỉnh Quảng Ninh.

4 Từ BK8, 21a, dịch theo bản Chính Hòa.

nào)1.

Chu Bỉnh Khuê nói: "Dương liễu nhiều lời, mọi người ngậm miệng" (chưa rõ

câu này nói ý thế

Bấy giờ bọn Đặng Tất và Hoàng Hối Khanh ngầm gửi thư cho Quy Ly, Quý Ly cho

là họ âm mưu

làm loạn. Bỉnh Khuê và Mãnh đều bị giết cả. Lấy Đặng Tất làm Hữu châu phán,

Hoàng Hối Khanh làm Chính hình viện đại phu. Ngự sử đại phu Đỗ Tử Trừng

không nói gì đến việc ấy, Quý Ly làm thơ gửi cho Trừng, có câu:

Tá vấn Tử Trừng nọa trung úy, Thư sinh hà nhẫn phụ bình sinh. (Thử hỏi Tử

Trừng trung úy nhát, Học hành sao nỡ phụ bình sinh?).

Mùa đông, tháng 12, lấy La Tu làm Tri phủ phủ Thanh Hóa.

Dựng điện Thụy Chương.

[21b] Nhâm Tuất, [Quang Thái] năm thứ 5 [1392], (Minh Hồng Vũ năm thứ 25).

Mùa xuân, tháng 2, giết tôn thất Trần Nhật Chương. Nhật Chương mưu giết Quý

Ly, Thượng hoàng cho là có lòng khác, giết đi.

Mùa hạ, tháng 4, hạn hán, xuống chiếu cầu lời nói thẳng.

Bùi Mộng Hoa dâng thư, đại ý nói: "Thần nghe trẻ con có câu hát rằng: "Thâm

hiểm thay Thái

sư ho Lê2. Xem thế, Quý Ly nhất định có ý dòm ngó ngôi báu".

Thượng hoàng xem tờ tâu rồi đưa cho Quý Ly. Sau Quý Ly chuyên chính, Mộng

Hoa ẩn lánh không ra nữa.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Kinh Dịch nói: Vua không kín thì mất bề tôi3. Sao

cầu được lời nói thẳng rồi lại đưa cho kẻ bị lên án xem? Nghệ Hoàng đến đây

đã già lẫn quá rồi. Mộng Hoa không gặp vua sáng là tự trời, mà cũng là điều

bất hạnh cho nhà Trần đó.

Tháng 6, lấy Phạm Cự Luận tri Khu mật viện sự.

Mùa thu, tháng 7, đổi tên cho Lê Nhân [22a] Thống thành [Lê] Cảnh Kỳ, lấy

vào chính phủ làm

Hành khiển.

Tháng 9, lấy Hà Đức Lân làm Hành khiển tả ty.

Mùa đông, tháng 10, đặt các quan cửa sông và tuần thú ở các xứ để xét bắt

trộm cướp, mỗi xứ

tùy vị trí xung yếu có thể đặt 3, 4 hay 5 đô4.

Phan Phu Tiên nói: Nhà Trần từ sau khi Dụ Tông hoang dâm phóng túng, lại

thêm Chiêm Thành xâm lược, quấy rối, thì giặc cướp rất nhiều.

Chúng cướp của bắt người giữa ban ngày, pháp luật không thể ngăn cấm

được. Quý Ly nắm quyền cai trị, tìm cách lùng bắt, mới hạn chế được một

phần nào!

Tháng 12, xuống chiếu rằng quân lính và dân thường hễ ai trốn việc lao dịch

[cho nhà nướ] thì phải phạt 4 quan tiền, thích vào gáy 4 chữ, kẻ đầu mục

thì xử tội chém, ruộng đất sung công.

Quý Ly soạn sách Minh đạo gồm 14 thiên dâng lên.

Đại lược cho Chu công1 là tiên thánh, Khổng Tử2 là tiên sư. Văn Miếu đặt

tượng Chu Công [22b]

ở chính giữa, nhìn về phương nam3, Khổng Tử ở phía bên, nhìn về phương tây.

Cho sách Luận ngữ4 có

1 CMCB 11 chú rằng Quý Ly nói nhiều để khóa miệng mọi người.

2 Nguyên văn: "Thâm tai! Lê sư", có nhiều cách hiểu. Ở đây dịch theo các

hiểu của Bùi Mộng Hoa.

3 Nguyên văn: "Quân bất mật tắc thất thần", lời của Hệ từ trong Kinh Dịch,

giải nghĩa hào "sơ cửu" quẻ Tiết.

4 CMCB tr.10 chú rằng: Mỗi đô là 30 người .

bốn chỗ đáng ngờ, như Khổng Tử ra mắt nàng Nam Tử5, Khổng Tử bị hết lương ở

nước Trần6, Công Sơn, Phật Hất7 cho gọi, mà Khổng Tử đều muốn tới

giúp... cho Hàn Dũ là "đạo nho"8; cho bọn Chu Mậu Thúc9, Trình Di10,

Dương Thi11, La Trọng Tố12, Lý Diên Bình13, Chu Tử14, tuy học rộng nhưng ít

tài, không

sát với sự việc, chỉ thạo cóp nhặt [văn chương người xưa]. Thượng hoàng ban

chiếu dụ khen.

Quốc tử trợ giáo Đoàn Xuân Lôi dâng thư nói bàn thế là không phải, bị đày

đi châu gần.

(Xuân Lôi người xã Ba Lỗ, huyện Tân Phúc15 là người thông minh, nhanh trí,

hiểu biết, có kinh nghiệm, sau làm quan đến Trung thư hoàng môn thị lang

kiêm tri Ái Châu thông phán, chết tại chức).

[Xuân Lôi] khai là Đào Sư Tích có xem thư ấy, nên Sư Tích bị giáng làm

Trung thị lang đồng tri thẩm hình viện sự.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Đạo của tiên thánh nếu không có Khổng Tử thì không

ai phát huy được; hậu [23a] thánh sinh ra, nếu không có Khổng Tử thì không

còn ai làm khuôn phép nữa. Từ khi có sinh dân đến nay, chưa có ai nổi tiếng

hơn Khổng Tử, thế mà Quý Ly lại dám khinh suất bàn về ngài thì thực là

không biết lượng sức mình.

Quý Dậu, [Quang Thái] năm thứ 6 [ 1693], (Minh Hồng Vũ năm thứ

26). Mùa xuân, tháng giêng, lấy Hồ Cương coi quân Tả Thánh Dực (Cương

người Diễn Châu). Quý Ly ngầm tìm được dòng dõi

họ Hồ, muốn đổi theo họ cũ, đưa Cương ra làm người tâm phúc.

Tháng 2, thi thái học sinh, cho đỗ 30 người, là bọn Hoàng Quán Chi, Lê Vị

Tẩu, Mai Tú Phu,

Đồng Thức...

Mùa hạ, tháng 4, thi lại viên. Tháng 6, hạn hán.

Mùa thu, tháng 7, gió dữ, mưa lớn.

1 Chu Công: tức Chu Công Đán, con Văn Vương, người định ra quan chế, lễ

nhạc. Đời sau nói đến lễ, nhạc, phần nhiều nhắc đến

Chu Công.

2 Khổng Tử: tên là Khâu, tên tự là Trọng Ni, người nước Lỗ thời Xuân Thu,

đã san định Lục kinh, là sách kinh điển của Nho giáo, trở

thành ông tổ của nho gia.

3 Tượng trưng cho ngôi vị của thiên tử.

4 Luận ngữ: là sách ghi những lời của Khổng Tử, do học trò của ông biên

tập, được coi là sách kinh điển của nho gia.

5 Xem Luận ngữ thiên Ung dã, Nam Tử là vợ Vệ Linh Công, đẹp nhưng rất dâm

dật.

6 Xem Luận ngữ thiên Vệ Linh Công, Khổng Tử từ nước Vệ sang nước Trần, dọc

đường bị hết lương ăn, người đi theo đói đến nỗi không đứng dậy được.

7 Xem Luận ngữ thiên Dương hoá, Công Sơn tức Công Sơn Phất Nhiễu, làm quan

tể của họ Quý, giữ ấp Phi làm phản. Phật Hất là quan tể ấp Trung Mâu, gia

thần của quan đại phu Triệu Giản Tử nước Tần.

8 Hàn Dũ: tên tự là Thoái Chi, cũng gọi là Hàn Xương Lê, người Nam Dương,

là một danh nho đời Đường.

9 Chu Mậu Thúc là tên tự của Chu Đôn Di đời Tống, hiệu là Liêm Khê tiên

sinh, soạn Thái cực đồ và sách Thông thư, là ông tổ của phái Lý học.

10 Trình Hiệu, Trình Di: là hai anh em, học trò Chu Đôn Di. Trình Hiệu,

hiệu là Minh Đạo tiên sinh, có san định lại sách Tính lý và thuyết Thái cực

đồ. Trình Di, hiệu là Chính Thúc, hiệu là y Xuyên tiên sinh, là em Trình

Hiệu, có làm truyện cho kinh Dịch và kinh Xuân thu.

11 Dương Thi: tên tự là Trung Lập, hiệu là Quy Sơn tiên sinh, học trò của

Trình Di.

12 Trọng Tố: là tên của La Tùng Ngạn, hiệu là Dự Chương tiên sinh, học trò

Dương Thi. Ông ở ẩn, đọc sách, không ra làm quan.

13 Lý Diên Bình: tức Lý Đồng, tên hiệu là Diên Bình tiên sinh, là học trò

La Tùng Ngạn và là thầy học Chu Hy, nổi tiếng về lý học.

14 Chu Tử: tức Chu Hy, tên tự là Nguyên Hối (sau đổi là Trọng Hối), khi

mất được tòng tự ở Văn Miếu nên gọi là Chu Tử, là người tập đại thành của

phái Lý học đời Tống.

15 Huyện Tân Phúc: sau là huyện Đa Phúc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội.

Tháng 8, động đất, nước to.

Tháng 9, có sâu lúa.

Mùa đông, tháng 10, đem công chúa Thái Dương1 gả cho Thái bảo Hãng. Thái

Dương là hoàng hậu của Linh Đức. Từ khi Linh Đức bị hại, Thượng

hoàng định chọn người chồng hiền gả cho. Thái Dương nhân đi chơi

[23b] Hồ Tây, thông dâm với Phủ quân ty là Nguyên Uyên (con

của Cung Tín Vương Thiên Trạch). Thượng hoàng giận, đem gả cho Hãng là em

Nguyên Uyên để làm nhục.

Giáp Tuất, [Quang Thái] năm thứ 7 [1394], (Minh Hồng Vũ năm thứ

27). Mùa xuân, tháng giêng, thuyền buôn nước Chà Bà2 tới dâng ngựa lạ.

Tháng 2, Thượng hoàng sai thợ vẽ tranh Chu Công giúp Thàng Vương3, Hoắc

Quang giúp Chiếu Đế4, Gia Cát giúp Thục Hậu chúa5, Tô Hiến Thành giúp Lý

Cao Tông6, gọi là tranh "Tứ phụ"7, ban cho Quý Ly, để giúp quan gia8 cũng

nên như thế.

Tháng 3, Thượng hoàng chiêm bao thấy Duệ Tông đem quân đến và đọc bài thơ

như sau: Trung gian duy hữu xích chủy hầu,

Ân cần tiếm thượng bạch kê lâu.

Khẩu vương dĩ định hưng vong sự, Bất tại tiền đầu tại hậu đầu.

(Ở giữa chỉ có loài mỏ đỏ, Lăm le lấn lên lầu gà trắng.

Khẩu vương đã định việc hưng vong, Không ở trước mà ở về sau).

Thượng hoàng tự mình chiết tự đoán là : "xích chủy"9 là Quý Ly "bạch kê"

là Thượng [24a] hoàng, vì thượng hoàng tuổi tân dậu10; "khẩu vương" là chữ

"quốc"11; việc nước còn hay mất sau sẽ thấy. Thượng hoàng suy nghĩ về giấc

chiêm bao này lung lắm, nhưng thế không thể làm gì được nữa.

Mùa hạ, tháng 4, sau hội thề12, thượng hoàng gọi Quý Ly vào cung, ung dung

bảo rằng:

"Bình chương13 là họ thân thích nhà vua, mọi việc nước nhà đều trao cho

khanh cả . Nay thế nước suy yếu, trẫm thì già nua. Sau khi trẫm chết, quan

gia nếu giúp được thì giúp, nếu hèn kém ngu muội thì khanh cứ tự nhận lấy

ngôi vua".

1 CMCM 11 chép là Thiên Huy công chúa, con gái thượng hoàng.

2 Tức Ja-va (In-đô-nê-xi-a).

3 Chu Công Đán là quan chủng tề của nhà Chu. Chu Vũ Vương Phát chết, con

là Thành Vương Tung lên ngôi lúc 13 tuổi. Chu Công phải trông coi mọi việc,

giúp Thành Vương đến lúc trưởng thành.

4 Hoắc Quang giữ chức Đại tư mã tướng quân, phò Hán Chiêu Đế lúc lên ngôi

mới 9 tuổi.

5 Gia Cát Lượng tức Khổng Minh, là thừa tướng của Chiêu Đế Lưu Bị nước

Thục đời Tam Quốc. Lưu Bị chết, con là Lưu Thiện nối ngôi, tức Thục Hậu

chúa, mọi việc nước, việc quân đều phải trông cậy vào Gia Cát Lượng.

6 Tô Hiến Thành là Thái úy triều Lý Cao Tông, nhận di mệnh Cao Tông phò

vua nhỏ là Long Cán lên nối ngôi mới 3 tuổi.

7 Tứ phụ: nghĩa là bốn viên đại thần giúp vua khi mới lên ngôi.

8 Chỉ Thuận Tông.

9 Xích chủy: nghĩa là mõm đỏ, miệng đỏ, hay đỏ mỏ. Xích chủy hầu là loài

đỏ mỏ ám chỉ Lê Quý Ly.

10 Bạch kê: nghĩa là gà trắng. Nghệ Tông sinh năm Tân Dậu, tức năm gà. Tân

thuộc hành kim, loài kim sắc trắng. Vì thế "bạch kê"

ám chỉ Nghệ Tông.

11 Chữ vương? ở trong lòng chữ khẩu? là chữ "quốc"?.

12 Theo tục nhà Trần, hằng năm vào ngày mồng 4 tháng 4, vua hội họp bề tôi

làm lễ tuyên thệ ở đền Đồng Cổ. (Xem bản kỷ, quyển

5, Kiến Trung năm thứ 3, 1277).

13 Chỉ Quý Ly.

Quý Ly bỏ mũ, rập đầu khóc lóc từ tạ, chỉ trời vạch đất thề rằng:

"Nếu thần không biết dốc lòng trung, hết sức giúp Quan gia để truyền đến

con cháu về sau thì trời sẽ ghét bỏ thần".

Quý Ly lại nói: "Lúc Linh Đức Vương làm điều thất đức, nếu không nhờ oai

linh bệ hạ thì thần đã ngậm cười dưới đất rồi, còn đâu được tới ngày nay!

Thần dù nát thịt tan xương cũng chưa hề báo đáp

lấy một trong muôn phần ơn đức đó, dám đâu lại có lòng khác!".

Mùa thu, tháng 7, lấy Phùng [24b] Cụ làm Kinh sư doãn, đổi thành Trung đô

doãn. Tháng 8, lấy Hoàng Hối Khanh làm An phủ sứ lộ Tam Đái.

Mùa đông, tháng 11, bãi bỏ Đăng văn kiểm pháp viện, đặt Thượng lậm tự. Lấy

Lê Nguyên Trừng con cả của Lê Quý Ly làm Phán tư sự. Tháng 12, ngày 15,

Thượng hoàng băng, táng vào Nguyên Lăng ở Yên Sinh, miếu hiệu là Nghệ Tông,

tên thụy là Quang Nhiên Anh Triết Hoàng Đế.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Nghệ Tông tính trời hòa nhã, giữ lòng kính cẩn, lo

sợ. Nhưng uy vũ không đủ để đánh lui giặc ngoài1, sáng suốt không đủ để

phân biệt lời gièm, có một Nguyên Đán mà không biết dùng, lại giao việc

nước cho người họ ngoại2, khiến xã tắc nhà Trần đi đến sụp đổ, thực là

"đằng trước có kẻ siểm nịnh mà không thấy, đàng sau có giặc cướp mà không

[25a] hay"3.

Ất Hợi, [Quang Thái] năm thứ 8 [1395], (Minh Hồng Vũ năm thứ 28). Mùa xuân,

tháng 2, ngày

20, bỏ húy chữ "nguyệt" và chữ "nam" cho dùng chữ cũ.

Quý Ly giết người tôn thất là Phủ quân ty Nguyên Uyên và con thứ của Cung

Chính Vương Sư

Hiền là Nguyên Dận, vì hai người này trong khi để tang Nghệ Tông hay nói

đến chuyện Nhật Chương4.

Lại giết cả sĩ nhân Nguyễn Phù. Sư Hiền giả điếc thoát chết. Tước bỏ họ

Trần của Nguyên Uyên, đổi thành họ Mai. Theo lệ cũ: người tôn thất có tội

nặng phải tước bỏ họ cũ, đổi gọi là họ Mai.

Lấy Quý Ly làm Nhập nội phụ chính thái sư bình chương quân quốc trọng sự,

Tuyên Trung vệ

quốc đại vương, đeo lân phù vàng.

Mùa hạ, tháng 4, xuống chiếu cho Quý Ly được ở nhà bên hữu sảnh, đài gọi là

"Hoa lư"5. Quý Ly nhân biên chép thiên Vô dật6, dịch [25b] ra quốc ngữ để

dạy Quan gia, mệnh lệnh ban ra thì xưng là Phụ Chính Cai Giáo Hoàng Đế7.

Tháng 6, cấm các quan không được dùng áo thụng tay, chỉ cho phép dùng áo

hẹp tay. Dân gian chỉ được dùng trong dịp ngày chay, ngày giỗ. Đồ dùng

không được mạ vàng, sơn son.

Nhà Minh sai bọn Nhâm Hanh Thái sang đòi 5 vạn quân, 50 cỗ voi, 50 vạn

thạch lương đưa đến biên giới để dùng vào việc quân .

Khi ấy, người Minh đánh các man làm phản ở Long Châu và châu Phụng Nghĩa8,

ngầm bày kế ấy, hòng lấy cớ số lương thực nộp không đủ, để bắt người nước

ta. Hanh Thái mật báo cho ta biết. Ta thác

1 Chỉ Chiêm Thành.

2 Chỉ Lê Quý Ly.

3 Lời Đồng Trọng Thư trong sách Hán thư. Nguyên văn: "Tiền hữu sàm nhi bất

kiến, hậu hữu tặc nhi bất tri".

4 Nhật Chương mưu giết Quý Ly, bị Nghệ Tông giết (việc chép vào năm Quang

Thái thứ 5, 1392).

5 Sảnh, đài: là Trung thư sảnh và Ngự sử đài. Hoa lư: là nhà ở của đại

thần thân cận vua.

6 Một thiên trong sách Thượng thư được coi do Chu Công Đán soạn ra để răn

dạy Thành Vương nhà Chu. "Vô dật" có nghĩa là chớ

có lười biếng, an nhàn. Nội dung của thiên này là làm vua nên chăm lo chính

sự, hiểu nỗi khó nhọc của dân, không nên đánh thuế

nặng...

7 Nghĩa là giúp vua trị nước kiêm việc dạy bảo vua.

8 Long Châu và Phụng Nghĩa: đều thuộc tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.

cớ không cung cấp quân lính và voi chiến, chỉ cấp một ít lương thực sai

quan đưa đến Đồng Đăng rồi trở

về.

Nhà Minh lại sai sứ sang đòi nhà sư, phụ nữ xoa bóp, người bị thiến, ta đưa

sang mỗi loại một ít. Mùa đông, tháng 12, lấy Lương Nguyên Bưu làm Hành

khiển tri [26a] Đại tông chính; Hà Đức

Lân làm nhập nội hành khiển môn hạ tả ty; Hoàng Hối Khanh làm Phát vận ty;

Phạm Cự Luận làm Tham mưu quân sự kiêm Khu mật viện sự.

Bính Tý, [Quang Thái] năm thứ 9 [1396], (Minh Hồng Vũ năm thứ 29). Mùa

xuân, tháng giêng, xuống chiếu sa thải các tăng đạo chưa đến 50 tuổi trở

xuống, bắt phải hoàn tục. Lại thi những người thông hiểu kinh giáo, ai đỗ

thì cho làm Đường đầu thủ1, tri cung, tri quán, tri tự, còn thì cho làm kẻ

hầu

của người tu hành.

Tháng 3, xét duyệt quân ngũ.

Mùa hạ, tháng 4, bắt đầu phát [tiền giấy]. Thông bảo hội sao. In xong, ra

lệnh cho người đến

đổi, cứ 1 quan tiền đồng đổi lấy 1 quan 2 tiền giấy.

Thể thức [tiền giấy]: tờ 10 đồng vẽ rồng, tờ 30 đồng vẽ sóng, tờ 1 tiền vẽ

mây, tờ 2 tiền vẽ rùa,

tờ 3 tiền vẽ lân, tờ 5 tiền vẽ phượng, tờ 1 quan vẽ rồng. Kẻ làm tiền giả

bị tội chết, ruộng đất, tài sản tịch thu.

Cấm [26b] tuyệt tiền đồng, không được chứa lén, tiêu vụng, tất cả thu hết

về kho Ngao Trì ở

kinh thành và trị sở các xứ. Kẻ nào vi phạm cũng bị trị tội như làm tiền

giả.

Xuống chiếu qui định cách thức thi chọn nhân tài, dùng thể văn bốn kỳ, bãi

bỏ phép viết ám tả

cổ văn.

Kỳ thứ nhất thi một bài kinh nghĩa có các phần phá đề, tiếp ngữ, tiểu

giảng, nguyên đề, đại

giảng, kết luận, từ 500 chữ trở lên. Kỳ thứ hai thi một bài thơ Đường

luật, một bài thơ phú cổ thể, hay

thể Ly tao, thể Văn tuyển, cũng từ 500 chữ trở lên. Kỳ thứ ba thi một bài

chiếu theo thể Hán, một bài chế, một bài biểu theo thể tứ lục đời Đường. Kỳ

thứ tư một bài văn sách, ra đề thì theo kinh, sử hay thời

sự, mỗi bài phải 1000 chữ trở lên. Cứ năm trước thi hương thì năm sau thi

hội, người đỗ thì vua thi 1 bài văn sách để xếp bậc.

Tháng 6, quy định [26a] kiểu mũ áo các quan văn võ: Quan nhất phẩm (áo) màu

tía; nhị phẩm màu đỏ thẫm; tam phẩm màu hồng nhạt; tứ phẩm màu xanh lục;

ngũ phẩm, lục phẩm, thất phẩm màu xanh biếc; bát phẩm, cửu phẩm màu xanh.

Duy nội thị thì dùng quần hai ống, không dùng xiêm. Người không có phần hàm

và hạng hoàng nô thì dùng màu trắng. Các tụng quan chức tước từ lục phẩm

trở lên dùng mũ cao sơn2, chánh lục phẩm được thắt đai, đi hia. Về sắc mũ,

chánh thì sắc đen, tòng thì sắc xanh. Người tôn thất thì đội mũ phương

thắng màu đen. Võ quan tước lục phẩm đội mũ chiết xung, tước

cao mà không có chức thì thắt đai, đội mũ giác đính, tứ thất phẩm trở xuống

đội mũ thái cổ3; tòng thất phẩm đội mũ toàn hoa . Vương hầu đội mũ viễn

du4; ngự sử đài đội mũ khước phi5. Những quy chế về tiền giấy, về mũ áo

trên đây đều làm theo lời của thiếu bảo Vương Nhữ Chu cả.

Mùa thu, tháng 8, sai tướng chỉ huy quân Long Tiệp là Trần Tùng đi đánh

Chiêm Thành, bắt

được tướng nước ấy là Bố Đông đem về, ban cho họ tên là Kim [27b] Trung

Liệt, chỉ huy quân Hổ Bôn.

1 CMCB 11 chép là Tăng đường đầu mục, có lẽ là một chức đứng đầu một bộ

phận nhà sư.

2 Mũ cao sơn: cũng chế như kiểu mũ viễn du, nhưng không lõm xuống, đứng

thẳng, không có ống suốt tháo ra lắp vào.

3 Mũ thái cổ: theo Lễ ký, là mũ của người mới gia quan, mũ vải thảm.

4 Mũ viễn du: theo Dư phục chí trong Hậu Hán thư thì kiểu mũ này cũng như

mũ thông thiên, cao 9 tấc, thân mũ thẳng, đính mũ

hơi lõm, thẳng chỗ lõm xuống ấy làm một vòng sắt (cầu mũ), nằm ngang trước

vòng sắt có cái ống suốt ngang để tháo hoặc lắp vòng sắt ấy.

5 Mũ khước phi: chế như kiểu mũ trường quan, cao 7 tấc, rộng 5 tấc, làm

bằng cật tre, nhưng bên dưới co lại.

Sau này, vào năm Bính Tuất, khi phòng ngự thành Đa Bang, [Trung Liệt] dâng

kế sách đưa quân

lên biên giới đón đánh, không cho quân giặc tiến vào đất ta, không để chúng

ỷ vào trường binh và thông

đuợc đường tiến quân. Nhưng các tướng không theo kế ấy. Bố Đông bị bệnh rồi

chết.

Mùa đông, tháng 10, lấy Hồ Cương làm Đại trị châu lộ Diễn Châu, Đặng Tư

Thành làm Phán châu sự.

Tháng 11, Quý Ly làm sách Quốc ngữ Thi nghĩa1 và bài tựa, sai nữ sư dạy

hậu phi và cung nhân học tập. Bài tựa phần nhiều theo ý mình, không theo

tập truyện của Chu Tử.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Từ sau khi Mạnh Tử mất, người làm

thầy đều chỉ chuyên dạy môn của mình, người đi học cũng chỉ học riêng

theo một học thuyết . Nguồn chia, dòng tách, sai một ly đi một dặm! Có khi

thì chảy tách thành một dòng khác, có khi

lại quay giáo mà đánh lẫn nhau, không sao quay về một mối được! Những học

giả đáng

[28a] ca ngợi, tuy gọi bậc đại nho cũng không tránh khỏi còn có vết tỳ vết

nhỏ, chưa có

ai là được hoàn hảo cả .

Chu Tử sinh vào cuối đời Tống, kế tiếp công việc chú giải lục kinh2 của

các nhà nho Hán, Đường, ngược dòng tìm nguồn, hiểu được ý của thánh nhân ở

các bộ kinh để lại, rõ được đạo thánh nhân ở những lời huấn giải, vắt óc

nghiền ngẫm, lý và tâm dung họp . Ông giải thích thì tường tận, chỉ dẫn thì

xa rộng, thực là tập đại thành của các tiên nho và cũng là khuôn mẫu cho

những kẻ hậu học. Huống chi

lại có Trình Tử xướng ơ trước, và Chu Tử bổ sung chỗ chưa hoàn hảo ở sau,

thì nghĩa đã tinh lắm rồi. Người sau mà có trước tác, thì cũng chỉ là mở

mang cho rộng thêm, tô chuốc cho bóng thêm, có thế mà thôi, sao lại được

chê bai bàn cải?

[28b] Đinh Sửu, [Quang Thái] nămthứ 10 [1397], (Minh Hồng Vũ năm thứ

30). Mùa xuân, tháng giêng, sai Lại bộ thượng thư kiêm Thái sư lệnh Đỗ Tỉnh

(có sách chép là Mẫn) đi xem đất và đo đạc động An Tôn phủ Thanh Hóa, đắp

thành đào hào, lập nhà tông miếu, dựng đàn xã tắc, mở đường phố, có ý muốn

dời kinh đô đến đó, tháng 3 thì công việc hoàn tất.

Trước đó, triều đình bàn bạc chưa xong, hành khiển Phạm Cự Luận khuyên nên

thôi. Quý Ly nói: "Ý ta đã định từ trước rồi, ngươi còn nói gì nữa!".

Đến đây thì thực hiện.

Lúc ấy, Khu mật chủ sự Nguyễn Nhữ Thuyết dâng thư can, đại ý nói: "Ngày

xưa, nhà Chu, nhà Ngụy dời kinh đô đều gặp điều chẳng lành. Nay đất Long

Đỗ3 có núi Tản Viên, có sông Lô nhị4, núi cao sông sâu, đất bằng phẳng

rộng rãi. Từ xưa, các bậc đế vương mở nền dựng nước, không đời nào không

lấy đất làm nơi sâu gốc bền rễ. Hãy nên noi theo việc trước: khi ấy quân

Nguyên bị giết, giặc Chiêm phải nộp đầu... Xin nghĩ lại điều đó, để làm thế

vững vàng cho nước nhà. An [29a] Tôn đất đai chật hẹp, hẻo lánh, ở nơi đầu

non cuối nước, hợp với loạn mà không hợp với trị. Cho dù dựa vào thế hiểm

trở thì đời xưa đã có câu: "Cốt ở đức chứ không cốt ở hiểm"5.

Quý Ly không nghe. Sau đến kỳ xét công Quý Ly thấy có tên Nhữ Thuyết liền

nói: "Người ngày từng nói cốt ở đức không cốt ở hiểm".

Rồi phế bỏ không dùng.

1 Quốc ngữ Thi nghĩa: giải thích Kinh Thi bằng quốc ngữ hay dịch Kinh Thi

ra quốc ngữ (chữ Nôm).

2 Chỉ 5 bộ sách kinh điển của nhà Nho là Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch,

Kinh Lê, Kinh Xuân thu và Kinh Nhạc.

3 Long Đỗ: chỉ Thăng Long. Truyền thuyết kể rằng lúc Cao Biền nhà Đường

mới đắp thành Đại La, thấy thần nhân hiện lên xưng là thần Long Đỗ. Đại La

từ đời Lý đổi là Thăng Long. Do đó người ta thường gọi là Thăng Long (Hà

Nội ngày nay) là đất Long Đỗ.

4 Sông Lô: hay sông Nhị, là sông Hồng ngày nay.

5 Nguyên văn "Tại đức bất tại hiểm" là câu của Ngô Khởi, một danh tướng

đời Chiến Quốc nói với Ngụy Vũ hầu.

Phan Phu Tiên nói: Tào Tháo dời kinh đô đến đất Hứa, nắm lấy thiên tử để

sai

khiến chư hầu, cơ nghiệp, nhà Hán chìm đắm thực là bắt đầu từ đó. Quý Ly

dời kinh đô

đến An Tôn, giết vua và diệt họ vua, cơ nghiệp nhà Trần bị sụp đổ, chả lẽ

khôg phải bởi

đó hay sao? Tuy nhiên, bọn loạn thần tặc tử đời nào mà chẳng có chúng? Cốt

ở người làm vua phải cương quyết mà xử đoán, sáng suốt mà tra xét để không

có mối lo về sau thôi.

Mùa hạ, tháng 4, đổi trấn Thanh Hóa thành trấn Thanh Đô; trấn Quốc Oai

thành trấn Quảng Oai; trấn [29b] Đà Giang thành trấn Thiên Hưng; trấn Nghệ

An thành trấn Lâm An; trấn Trườn Yên thành trấn Thiên Quan; trấn Lạng Giang

thành trấn Lạng Sơn; trấn Diễn Châu thành trấn Vọng Giang; trấn Tân Bình

thành trấn Tây Bình. Bãi các chức đại, tiểu tư xã, đại toát, còn chức quản

giáp vẫn theo quy chế cũ.

Định quy chế quan lại trấn nhậm bên ngoài.

Lộ đặt chức An phủ sứ và An phủ phó sứ. Phủ đặt chức Trấn phủ sứ và Trấn

phủ phó sứ. Châu

đặt chức Thông phán và Thiêm phán. Huyện đặt chức Lệnh úy và Chủ bạ để cai

trị. Lộ thống nhiếp phủ, phủ thống nhiếp châu, châu thống nhiếp huyện. Các

việc hộ tịch, tiền thóc, ngục tụng đều làm chung thành sổ sách của một lộ,

đến cuối năm báo lên sảnh để làm bằng cứ mà khảo xét. Lại đặt các phủ đô

đốc, đô hộ, đô thống, tổng quản và ty thái thú để trông coi.

Lấy Phó tướng Lê Hán Thương coi phủ đô hộ lộ Đông Đô; Thái bảo Trần Hàng

coi phủ đô thống

lộ Bắc Giang; Trần Nguyên Trữ1 [30a] coi phủ đô thống lộ Tam Giang; thiếu

bảo Vương Nhữ Chu làm tri Thiên Trường phủ lộ quân dân sự; Hành khiển Hà

Đức Lân làm hành Tân Yên phủ lộ thái thú. Lại đặt chức giáo thụ và giám thư

khố ở các châu trấn.

Tháng 5, xuống chiếu rằng:

"Đời xưa, nước có nhà học, đảng có nhà tư, toại có nhà tường2 là để tỏ rõ

giáo hóa, giữ gìn phong tục, ý trẫm rất chuộng như vậy. Nay quy chế ở kinh

đô đã đủ, mà ở châu, huyện thì có thiếu, làm

thế nào rộng đường giáo hóa cho dân? Nên lệnh cho các phủ lộ Sơn Nam, Kinh

Bắc3, Hải Đông, đều đặt một học quan, ban cho quan điền4 theo thứ bậc khác

nhau: phủ châu lớn thì 15 mẫu, phủ châu vừa thì

12 mẫu5, phủ châu nhỏ 10 mẫu để chi dùng cho việc học trong phủ châu mình

(một phần để cúng ngày mồng một, một phần cho nhà học, một phần cho đèn

sách). Lộ quan và quan đốc học hãy dạy bảo học

trò cho thành tài nghệ, cứ đến cuối năm thì chọn [30b] người ưu tú tiến cử

lên triều đình, trẫm sẽ thân hành thi chọn và cất nhắc".

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Bấy giờ có chiếu lệnh này, còn gì tốt đẹp bằng thế

nữa? Nhưng lệnh này không thấy thi hành, vì không phải là bản ý của vua, mà

vì Quý Ly muốn làm việc cướp ngôi, mượn việc ấy để thu phục lòng người mà

thôi.

Tháng 6, xuống chiếu hạn chế danh điền6.

Đại vương và trưởng công chúa thì số ruộng không hạn chế; đến thứ dân thì

số ruộng là 10 mẫu. Người nào có nhiều nếu có tội, thì cho tùy ý được lấy

ruộng để chuộc tội, bị biếm chức hay mất chức cũng được làm như vậy. Số

ruộng thừa phải hiến cho nhà nước.

1 Bản dịch cũ (t.II, tr.201) chép là Trần Nguyên Hãn và chú là CMCB 11

chép là Trần Nguyên Hãn. Nhưng thực ra Cương mục ở chổ

này vẫn ghi là Trần Nguyên Trữ coi phủ đô thống Tam Giang.

2 Đảng: là một đơn vị hành chính đời xưa gồm 50 nhà: toại tương tự như

làng, xã; tự và tường đều là tên trường học.

3 Đây là tên đất thời Lê chứ không phải tên đất đời Trần. Có thể lời chiếu

được chép lại không đúng nguyên văn.

4 Quan điền: tức ruộng công .

5 Bản dịch cũ chép là 11 mẫn và chú là CMCB 11 ghi 12 mẫu.

6 Danh điền: là ruộng có người đứng tên, tức ruộng tư.

Trước kia, các nhà tôn thất thường sai nô tỳ của mình đắp đê bồi ở bờ biển

để ngăn nước mặn,

sau hai ba năm, khai khẩn thành ruộng, cho họ lấy lẫn nhau và ở ngay đấy,

lập ra nhiều ruộng đất tư

trang, cho nên có lệnh này.

Hữu thiêm tri chính sự [31a] hành Khu mật viện sự Phạm Cự Luận chỉ huy

quân Thần Sách đánh bọn giặc cỏ áo đỏ ở trấn Tuyên Quang, thua trận bị

chết, được tặng Tả bộc xạ (Cự Luận người huyện Đườn An1. Lấy Hành khiển Đỗ

Thế Mãn thay làm Kinh luợc sứ Tuyên Quang.

Mùa đông, tháng 11, Quý Ly bức vua dời kinh đô đến phủ Thanh Hóa .

Vua đi Yên Sinh bái yết các lăng trước, rồi tới hành tại ở hương Đại Lại

gọi là cung Bảo Thanh. Cung nhân Trần Ngọc Cơ và Trần Ngọc Kiểm nói mật với

vua là dời kinh đô thế nào cũng có việc cướp ngôi. Quý Ly nghe được, cho

rằng viên miếu lệnh Lê Hợp, viên phụ đạo Hữu Lũng2 là Lương Ông cũng đồng

mưu, đem giết cả.

Hành khiển đồng tri Đại tông chính tự Lương Nguyên Bưu đỡ gạch ngói, gỗ lớn

ở các cung điện

Thụy Chương, Đại An, giao hết cho các châu Từ Liêm và Nam Sách chở tới kinh

đô mới, gặp bão chìm

[31b] đắm mất quá nửa .

Nhà Minh sai đưa hai người tộc họ nhà Nguyên là Đại Hồ và Tiểu Hồ sang an

trí ở nước ta. Cho

Đại Hồ tên là Địa Phục Cơ, Tiểu Hồ tên là Địa Bảo Lang.

Tướng Chiêm Thành là Chế Đa Biệt cùng với em là Mộ Hoa Từ Ca Diệp đem cả

nhà sang hàng. Ban tên cho Đa Biệt là Đại Trung, phong là Kim Ngô vệ tướng

quân, Ca Diệp làm Cấm vệ đô, đều ban

họ Đinh, lại cho trấn thủ Hóa Châu để chống giữ Chiêm Thành.

Mậu Dần, [Quang Thái] năm thứ 11 [1398], (từ tháng 3 trở đi là Thiếu Đế

Kiến Tân năm thứ 1, Minh Hồng Vũ năm thứ 31). Mùa xuân, tháng 3, ngày 15,

Lê Quý Ly bức vua phải nhường ngôi cho hoàng tử An3.

Quý Ly có ý cướp ngôi, nhưng đã trót thề với Nghệ Hoàng rồi, sợ trái lời

thề, bèn ngầm sai đạo sĩ

Nguyễn Khánh ra vào trong cung, thuyết phục vua rằng:

"Cõi tiên thanh nhã thơm tho, khác hẳn phàm trần, [32a] Liệt thánh triều ta

chỉ thờ đạo Phật, chưa có ai đi theo chân tiên. Bệ hạ được tôn ở ngôi cửu

ngũ4, nhưng muôn việc khó nhọc, chi bằng truyền ngôi cho Đông cung5 để giữ

khí hư hòa".

Vua nghe lời, rồi Khánh làm lễ tâu ghi vào sổ phụng đạo vào cõi tiên. Quý

Ly làm cung Bảo Thanh ở phía tây nam núi Đại Lại, mời vua tới ở đó. Vua bèn

nhường ngôi cho hoàng thái tử. Tờ chiếu nhường ngôi đại lược nói:

"Trẫm sớm mộ huyền phong6, không có bụng muốn ngự xe hoàng ốc7. Đức kém lạm

giữ ngôi cao, thực khó lòng kham nổi. Huống chi tâm bệnh thường hay phát

ra, việc tông miếu và chính sự do đấy đều bị trở ngại. Lời thề nguyền

trước, trời đất quỷ thần đều đã nghe. Nay phải nhường ngôi để giữ mãi cơ đồ

to lớn, Hoàng thái tử An hãy lên nối ngôi Hoàng đế. Phụ chính thái sư Lê

Quý Ly lấy danh

1 Đường An: tức huyện Bình Giang về sau, nay là một phần đất huyện Cẩm

Bình, Hải Hưng.

2 Nguyên văn là chữ "hữu", nhưng chắc là chữ "cổ", Cương Mục cũng chép là

Cổ Lũng. Cổ Lũng là tên đời Trần, đến đời Lê mới đổi

là Hữu Lũng, nay là huyện Hữu Lũng, thuộc tỉnh Lạng Sơn.

3 Nguyên văn là chữ? không có loại từ nào có chữ này. Tên vua nhà Trần

thường có bộ nhật, hoặc hỏa. Ở đây, tên vua là An và thêm bộ hỏa .

4 Hào Cửu ngũ của quê Kiền trong Kinh Dịch nói: "Long phi tại thiên, lợi

kiến đại nhân" được coi là điềm xuất hiện vua giỏi, nên

"ngôi cửu ngũ" là chỉ ngôi vua.

5 Tức thái tử.

6 Huyền phong: là phong cách thanh tao, ở đây chỉ đạo giáo.

7 Hoàng ốc: loại xe vua ngự, ngoài bọc lụa sắc vàng. Nên hoàng ốc cũng

dùng để chỉ ngôi vua.

nghĩa Quốc tổ1 giữ quyền nhiếp chính. Trẫm tự làm Thái Thượng Nguyên Quân

Hoàng Đế, tu dưỡng ở

cung Bảo Thanh để thỏa ý nguyền từ trước".

[32b] Hoàng thái tử An lên ngôi ở cung Bảo Thanh, đổi niên hiệu là Kiến Tân

năm thứ 1. Đại xá. Tôn Khâm Thánh hoàng hậu là Hoàng thái hậu.

Khi ấy thái tử mới lên 3 tuổi, nhận truyền ngôi không biết lạy. Quý Ly sai

thái hậu lạy trước cho thái tử lạy theo.

Quý Ly tự xưng là Khâm Đức Hưng Liệt Đại Vương. Bản văn thì đề là Trung thư

thượng thư sảnh phụng nhiếp chính cai giáo hoàng đế thánh chỉ v.v ..

Ngày hôm ấy, lên ngự điện ở kinh đô mới. Lễ mừng xong, ban yến cho các quan

từ ngũ phẩm trở lên, cho phép con trai, con gái dạo xem ở cửa nam thành cả

ngày lẫn đêm.

Ra lệnh cho những người có ruộng phải khai báo số mẫu ruộng.

Hành khiển Hà Đức Lân nói kín với người nhà rằng: "Đặt ra phép này chỉ để

cướp ruộng của dân thôi". Quý Ly nghe được, giáng Lân làm Hộ bộ thượng thư.

Lại ra lệnh cho dân phải nêu rõ họ tên cắm ở trên ruộng. Quan lộ, phủ châu,

huyện [33a] cùng khám xét, đo đạc, lập thành sổ sách, 5 năm mới xong. Ruộng

nào không có giấy khai sinh báo hay cam

kết thì lấy làm quan điền2.

THIẾU ĐẾ

Tên là An, là con trưởng của Thuận Tông, ở ngôi 2 năm, Quý Ly cướp ngôi,

phế làm

Bảo Ninh Đại Vương.

Phụ: HỒ QUÝ LY và HÁN THƯƠNG

Quý Ly tên tự là Lý Nguyên, tự suy tổ tiên là Hồ Hưng Dật vốn người Chiết

Giang, đời Hậu Hán thời Ngũ Quý3 sang làm Thái thú Diễn Châu. Sau đó, làm

nhà ở hương Bào Đột châu này, rồi là trại chủ. Đến đời Lý, [có

người] lấy công chúa Nguyệt Đích, sinh ra công chúa Nguyệt Đoan,

đến đời cháu thứ 12 là Hồ Liêm dời đến ở hương Đại Lại, Thanh Hóa, làm con

nuôi tuyên úy Lê Huấn, từ đấy lấy Lê làm họ mình. Quý Ly là cháu bốn đời

của Huấn. Đời Trần Nghệ Tông, từ chức Chi hậu tứ cục chánh chưởng

thăng lên Khu mật đại sứ, lên Tiểu tư không, tiến phong Đồng

bình chương sự, liên tiếp gia phong tới Phụ chính thái sư nhiếp

chính, Khâm Đức Hưng Liệt Đại Vương, Quốc Tổ Chương Hoàng, rồi thay ngôi

nhà Trần, đặt quốc hiệu là Đại Ngu, trở lại họ Hồ, chưa đầy một

năm thì truyền ngôi cho con là Hán Thương. Hán Thương tên cũ là Hỏa,

tiếm ngôi được hơn 6 năm. Sau hai cha con đều bị người Minh bắt. Sử sũ đem

hai người họ Hồ4 chép từng năm thành kỷ5, nay truất bỏ và sửa cho đúng.

1 Quốc tổ: tức là tổ phụ (ông) của vua. Vợ Thuận Tông là con gái trưởng

Quý Ly. Quý Ly là ông ngoại của Thiếu đế An.

2 Quan điền: ruộng công.

3 Ngũ Quý: còn gọi là Ngũ Đại, giai đoạn lịch sử Trung Quốc gồm 5 triều

đại: Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu, Hậu Hán (947 - 950)

là tên một triều đại do Lưu Tri Viễn lập ra kế tiếp triều đại Hậu Tấn, đặt

quốc hiệu là Hán, nên đời sau gọi là Hậu Hán.

4 Tức Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương.

5 Theo phép chép sử truyền thống của sử gia phong kiến, chỉ những triều

đại chính thống mới được chép riêng thành kỷ, như kỷ

nhà Lý, kỷ nhà Trần, kỷ nhà Lê... những triều đại không chính thống (gọi là

nhuận triều) thì không được chép thành kỷ.

[33b] Kỷ Mão, [Kiến Tân] năm thứ 2 [1399], (Minh Thái Tổ Kiến Văn năm thứ

11). Mùa hạ, tháng 4, Quý Ly cương bức vua phải xuất gia thờ Đạo giáo, ra ở

quán Ngọc Thanh thôn Đạm Thủy2, mật

sai nội tẩm học sinh Nguyễn Cẩn đi theo để trông coi. Vua hỏi rằng:

"Người theo hầu ta muốn làm gì chăng?".

Cẩn không nỡ trả lời. Quý Ly làm bài thơ bảo Cẩn rằng: "Nguyên Quân3 không

chết, thì ngươi phải chết!".

Lại làm bài thơ đưa cho Nguyên Quân rằng:

Tiền hữu dung ám quân, Hôn Đức cập Linh Đức. Hà bất tảo an bài,

Đồ sử lao nhân lực. (Trước đó vua hèn ngu, Hôn Đức và Linh Đức. Sao không

sớm liệu đi,

Để cho người nhọc sức?).

Cẩm bèn dâng thuốc độc. Vua không chết, lại dâng nước dừa và không cho ăn

mà vẫn không chết. Đến đây, sai Xa kỵ vệ thượng tướng quân Phạm Khả Vĩnh

thắt cổ chết. Chôn ở lăng Yên Sinh, miếu hiệu là Thuận Tông.

Bọn Thái bảo Trần Hãng, Thượng tướng quân Trần Khát Chân mưu giết Quý Ly

không thành, bị

giết.

Hôm ấy, Quý Ly họp thề ở Đốn Sơn4. Bọn Khát Chân đã có ý giết Quý Ly. Quý

Ly ngồi trên lầu

nhà Khát Chân [34a] để xem, y như lệ thiên tử ngự đến miếu đến chùa5. Cháu

Khả Vĩnh là Phạm Tổ Thu và thích khách là Phạm Ngưu Tất cầm gươm định lên,

Khát Chân trừng mắt ngăn lại, nên việc không xong.

Quý Ly chột dạ đứng dậy, vệ sĩ hộ vệ xuống lầu.

Ngưu Tất vứt gươm xuống đất nói: "Chết uổng cả lũ thôi".

Sự việc bị phát giác, bọn tôn thất Hãng, Trụ quốc Nhật Đôn, tướng quân Trần

Khát Chân, Phạm Khả Vĩnh, hành khiển Hà Đức Lân, Lương Nguyên Bửu, Phạm Ông

Thiện, Phạm Ngưu Tất và các liêu thuộc, thân thích gồm hơn 370 người đều bị

giết cả, tịch thu gia sản, con gái bắt làm nô tỳ, con trai từ 1 tuổi trở

lên bị chôn sống, hoặc bị dìm nước. Lùng bắt dư đảng liền mấy năm không

ngớt. Người quen biết nhau chỉ đưa mắt ra hiệu, không dám nói chuyện với

nhau. Nhà dân không được chứa người đi đường ngủ trọ, hễ có người [34b] ngủ

trọ, thì phải báo nhà láng giềng, cùng nhau xét hỏi giấy tờ, hành

lý, lý do đi qua để làm chứng cứ bảo lĩnh. Các xã đều đặt điểm tuần, ngày

đêm tuần tra canh giữ. Lễ

minh thệ từ đó không cử hành nữa.

Khát Chân người Hà Lãng, huyện Vĩnh Linh6, ba đời làm thượng tướng quân.

Người đời truyền Khát Chân khi sắp bị hành hình, lên núi Đốn Sơn gào thét 3

tiếng, chết qua 3 ngày sắc mặt vẫn như khi sống, ruồi nhặng không dám bâu.

Sau có hạn hán, cầu mưa thì ứng nghiệm ngay.

1 Kiến Văn: là niên hiệu của Minh Huệ Đế, không phải là của Minh Thái Tổ,

Toàn thư in lầm.

2 Thôn Đạm Thủy: thuộc huyện Đông Triều, nay thuộc tỉnh Quảng Ninh.

3 Tức Thuận Tông. Sau khi truyền ngôi cho con, Thuận Tông tự xưng là Thái

Thượng Nguyên Quân Hoàng Đế.

4 Đốn Sơn: là ngọn núi ở xã Cao Mật, huyện Vĩnh Lộc, thuộc tỉnh Thanh Hóa.

5 Chữ "lệ"? ở nguyên bản là chữ "trắc"?, sửa lại là "lệ", chúng tôi cho là

hợp lý.

6 Vĩnh Linh: tên huyện đời Trần, đời Lê đổi là Vĩnh Phúc. Nay là huyện

Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa.

Nguyên Bưu người Tuyên Quang, tiên tổ là Thế Sung làm Toát Thông Vương kiêm

phụ đạo ở

triều Lý. Các con là Văn, Hiến, Quế đều được phong hầu. Con của Quế là Hiếu

Bão vì có công đánh Toa

Đô được phong Quan phục hầu; Hiếu Bão sinh ra Thế Tắc được phong Lặc Thuận

hầu; Thế Tắc sinh ra

Cúc Tôn làm Quan sát sứ; Cúc Tôn sinh ra Nguyên Bưu.

[35a] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Quý Ly đến đây tội ác đã chất đầy rồi. Trần

Hãng đã đi lại, hẹn ước với các tướng văn tướng võ từ trước, nếu biết thừa

cơ quyết đoán, vạch tội giết vua của Quý Ly, hiệp sức với Khả Vĩnh mà giết

nó đi, thì danh chính ngôn thuận, mà việc cũng xong rồi. Đánh tiếc lại do

dự, sợ sệt, đến nỗi chuốc lấy bại vong.

Tháng 6, Quý Ly tự xưng là Quốc Tổ Chương Hoàng, mặc áo màu bồ hoàng1, ở

cung Nhân Thọ,

ra vào theo lệ thái tử2, dùng 12 chiếc lọng vàng. Con là Hán Thương xưng là

Nhiếp thái phó, ở bên hữu điện Hoàng Nguyên. Nguyên Trừng làm tư đồ. Bảng

văn thì đề là Phụng Nhiếp Chính Quốc Tổ Chương Hoàng, chỉ xưng là "dư" mà

chưa dám xưng "trẫm"3.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Công tử Ngữ nước Sở trước khi cướp ngôi, đặt phục

chế, bày [35b] quân hầu, kết cỏ bồ như cung vua, ngang nhiên ngạo mạn, lộ

vẻ hung hăng để làm nhụt chí mọi người. Thấy không ai dám chống lại, bấy

giờ mới không còn kiêng sợ gì nữa mà trổ hết ngón ác4. Việc làm của họ Hồ

cũng cùng một duộc!.

Mùa thu, tháng 7, Nguyễn Dụng Phủ, người Cổ Đằng5 phủ Thanh Hóa dâng thư

đại ý nói rằng: Chương Hoàng là hiệu gì? Bồ hoàng là sắc gì? Đối với việc

phó thách cuả tiên đế thì thế nào?

Quý Ly bắt giam mấy ngày rồi tha.

Tháng 8, tên cướp Nguyễn Nhữ Cái trốn vào núi Thiết Sơn làm giả tiền giấy

tiêu dùng. Gặp lúc Thuận Tông bị giết, Khát Chân bị chém, mới chiêu dụ dân

lành được hơn vạn người, hoạt động ở các xứ Lập Thạch, sông Đáy, Lịch Sơn6,

sông Đà, Tản Viên, cướp bóc bừa bãi, các châu huyện không sao chống được.

Tháng 9, dời các tội nhân giam ở Cảo Điền vào xã Tương Một,Thanh Hóa.

[36a] Sai Trần Ninh dốc suất người phủ Thanh Hóa trồng tre gai ở phía tây

thành, phía nam từ Đốn Sơn, phía bắc từ An Tôn đến tận cửa Bào Đàm, phía

tây từ chợ Khả Lãng ở Vực Sơn đến sông Lỗi Giang, vây quanh làm toà thành

lớn bọc phía ngoài. Dân chúng ai lấy trộm măng thì bị xử tử.

Dọc rừng rậm và đồng hoang dựng các quán xá, từ cầu Đại Tân đến bến Đàm Xá

để tiện cho quân dân qua lại nghỉ ngơi.

Đặt sở tuần kiểm ở sông Đại Lại. Sai chăng dây chão to ở giữa sông phàm các

thuyền trên sông phải kéo dây theo thứ tự mà đi, không được tranh nhau đi

trước.

Mùa đông, tháng 10, đổi người có tội đi đày làm lính khơi mương, sai đi

khơi các con kênh Vi, kênh Trầm, kênh Hào, đến tận cửa biển Hà Hoa để tiện

thuyền bè qua lại.

Tháng 12, sai Nguyễn Bằng Cử, An phủ sứ Đông Lộ7 đi đánh Nguyễn Nhữ Cái,

dẹp yên được.

1 Màu bồ hoàng: màu vàng như nhị hoa xương bồ.

2 CMCB 11 chép là "thiên tử", có lẽ hợp lý hơn.

3 "Dư" là đại từ ngôi thứ nhất, nghĩa làm "ta", dùng cho mọi người, còn

"trẫm" là tiếng tự xưng, chỉ riêng vua được dùng.

4 Công tử Ngữ nước Sở khi hội thề với các nước ở đất Quắc, mặc áo đẹp như

áo vua, có quân hầu cầm giáo mác hộ vệ, kết cỏ bồ làm chỗ ở tại nơi thề như

cung vua. Sau này, giết Giáp Ngao, là vua Sở, lên làm vua tức Sở Linh Vương

(xem Tả truyện, Lỗ Chiêu Công năm thứ 1).

5 Cổ Đằng: là tên giáp, thuộc huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

6 Lịch Sơn: thuộc huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang ngày nay.

7 Ở đây Toàn thư chép là Đông Lộ, nhưng ở đoạn sau (tờ 40b), chép rõ ràng

Bằng Cử là An phủ sứ lộ Đông Đô.

(Bằng Cử người huyện Đông Ngàn, Bắc Giang).

[36b] Canh Thìn, [Kiến Tân] năm thứ 3 [1400], (Năm này nhà Trần mất, từ

tháng 3 trở đi, Quý

Ly cướp ngôi, xưng là Thánh Nguyên năm thứ 1; Minh Kiến Văn năm thứ 2). Mùa

xuân, tháng giêng, Lê

Quý Ly lập con là Hán Thương làm thái tử.

Trước đây, Quý Ly định lập Hán Thương nhưng chưa quyết, mới mượn cái nghiên

đá mà nói

rằng:

"Thử nhất quyển kỳ thạch, hữu thì vi vân vũ dĩ nhuận sinh dân" (Hòn đá lạ

bằng nắm tay này, có

lúc làm mây làm mưa để nhuần thấm sinh dân), bảo con trưởng là Trừng đối

lại để xem chí hướng ra sao.

Trừng đối lại rằng: "Giá tam thốn tiểu tùng, tha nhật tác đống tác lương dĩ

phù xã tắc" (Cây thông nhỏ mới ba tấc kia, ngày sau làm rường cột để chống

nâng xã tắc). Bấy giờ ý mới quyết định.

Tháng 2, ngày 28, Quý Ly bức vua nhường ngôi và buộc người tôn thất và các

quan ba lần dâng biểu khuyên lên ngôi. Quý Ly giả vờ cố tình từ chối nói:

"Ta sắp xuống lỗ đến nơi rồi, còn mặt mũi nào trông thấy tiên đế ở dưới đất

nữa?".

Rồi tự lập làm vua, đặt niên hiệu là Thánh Nguyên, quốc hiệu là Đại Ngu1,

đổi thành họ Hồ.

[37a] Phan Phu Tiên nói: Khổng Tử nói: "Không phải ma nhà mình mà cúng là

siểm nịnh". Vì thế Địch Thanh từ chối không nhận là dòng dõi Lương Huệ

Công2; Lưu Việp tạ từ không nhận là họ hàng Lưu thái hậu. Nhà Đường tế Đế

Nghiêu làm tiên tổ mà tiên nho chê cười: Chiêu Liệt là con cháu Trung Sơn

Tĩnh Vương mà Ôn Công không thừa nhận3. Đâu phải có riêng tư gì trong việc

khen chê!.

Là vì họ hàng xa xôi, các đời biến đổi, khó mà tin chắc được. Quý Ly lại

nhận là dòng dõi xa của

Hồ Công Mãn, tế Ngu Thuấn làm thủy tổ, thì cái tội dối đời để tiếm ngôi

thực không gì to bằng.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Phu Tiên theo thuyết của Ôn Công cho rằng nếu

Chiêu Liệt là dòng dõi của Trung Sơn Tĩnh Vương thì họ hàng xa xôi cũng khó

mà tin được. Như vậy là không tin lời của Gia Cát

Vũ [37b] hầu4. Nhưng Gia Cát là bậc hiền tài, hơn nữa thế đại cũng chưa xa

lắm, bảo Chiêu Liệt là dòng

dõi nhà vua chả lẽ lại không có căn cứ mà nói bịa đặt hay sao? Chu Tử5 đã

theo thuyết ấy thì còn nghi ngờ gì nữa.

Hồ Quý Ly phế vua làm Bảo Ninh Đại Vương, vì vua là cháu ngoại nên không

giết.

Lộ Tam Giang dâng con chim đen đỏ mỏ, tên là chim yểng, có thể nói được

tiếng người. (Người đàn bà hương ấy một hôm bắt được cái trứng chim, để lẫn

vào trứng gà cho ấp, khi lớn lên, chim vẫn theo người đàn bà ấy đi cho lợn

ăn, bắt chước tiếng gọi lợn, dần dần nói được tiếng người).

Người trong thành dâng chim trắng.

1 Theo truyền thuyết, họ Hồ là con cháu Ngu Thuấn; con Ngu Yên là Vĩ Mãn

được Chu Vũ Vương phong co ở đất Trần gọi là Hồ

Công, sau dùng chữ Hồ làm tên họ. Quý Ly nhận mình là dòng dõi họ Hồ, con

cháu Ngu Thuấn, nên đặt quốc hiệu là Đại Ngu.

2 Địch Thanh khi làm tể tướng nhà Tống, có người con cháu xa của Địch Nhân

Kiệt tức Địch Lương Công (được phong là Lương Huệ Công) đem bức chân dung

và bằng sắc của Lương Công đến dâng và bảo ông là con cháu xa của Lương

Công. Ông từ chối nói: May gặp được phú quý nhất thời, đâu dám nhận là con

cháu Lương Công.

3 Chiêu Liệt là Lưu Bị, Trung Sơn Tĩnh Vương là con Hán Cảnh Đế, Ôn Công

tức Tư Mã Quang, sử gia đời Tống, tác giả bộ sử Tư trị

thông giám. Tư Mã Quang không thừa nhận Lưu Bị là dòng dõi vua Hán.

4 Tức Khổng Minh Gia Cát Lượng, bề tôi của Lưu Bị.

5 Chỉ Chu Hy.

Quý Ly sai thuộc quan ở tam quán, chi hậu nội nhân, nội tẩm học sinh chia

nhau đi các lộ, bí mật

dò hỏi kẻ hay người dở trong quan lại, việc lợi việc hại ở dân gian để tiến

hành việc giáng truất hay thăng bổ, quy định thành thể thức lâu dài. Từ đó,

các chức thú lệnh1mới thay đổi luôn.

Mùa thu, tháng 8, Quý Ly mở khoa thi [38a] thái học sinh. Lấy đỗ bọn Lưu

Thúc Kiệm 20 người. Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Vũ Mộng Nguyên, Hoàng Hiến,

Nguyễn Thành đều đỗ kỳ này.

(Tử Tấn, Mộng Nguyên và Thành đều làm quan ở triều nay2 đến chức Quốc tử

giám tế tửu, Hiến làm đến Quốc tử giám giáo thụ).

Đầu đề bài phú là "Linh kim tàng"3. Các học trò xin giảng nghĩa đề thi.

Quan trường hỏi: "Có lệ

cũ như vậy không?" Duy có Bùi Ứng Đẩu trả lời rằng triều Tống có Tôn Hà

Khoa đã hỏi nghĩa đề thi "Chi ngôn nhật xuất"4. Cho nên quan trường đã

giảng nghĩa đề này.

(Ứng Đẩu người Sơn Vi5, làm giám thư khố đời Trần, đến đây bị giải chức,

vào thi đã 50 tuổi, được bổ chức giám quan. Sau nói việc trái ý, bị giáng

làm thái tử thuyết thư, không bao lâu bị giáng làm thái tử tân khách).

Mùa đông, tháng 12, Quý Ly tìm phả hệ họ nôi, họ ngoại, bà là họ Chu, mẹ là

họ Phạm, gọi là họ

Hoạ thị.

Quý Ly lấy Hành khiển Đỗ Mân làm Thủy quân đô tướng; tướng chỉ huy quân Tả

Thánh Dực là

Trần Vấn (được ban họ Hồ) làm Đồng đô tướng; tướng chỉ huy quân Long Tiệp

Trần Tùng (được ban họ

Hồ) làm Bộ quân đô tướng; tướng chỉ huy quân Tả Thánh Dực là Đỗ Nguyên Thác

làm Đồng đô tướng;

[38b] đem 15 vạn quân đi đánh Chiêm Thành.

Quý Ly nhường ngôi cho con là Hán Thương, tự xưng là thượng hoàng, cùng coi

chính sự.

Hán Thương phong bà phi của mình là Trần Thị làm Hiến Gia hoàng hậu, ở cung

Phù Tang. Vì chữ "tang" (cây dâu) đồng âm với chữ "tang" (việc tang) nên

đổi là cung Phù Cực.

Quý Ly sai sứ sang nhà Minh.

Trước kia, mẹ Hán Thương là Huy Ninh công chúa (truy tôn là Thái tử hoàng

hậu), con gái của Trần Minh Tông, trước đã lấy Phò ký lang Trần

Nhân Vinh, Nghệ Tông không cho giữ tiết [để tang chồng], đem gả

cho Quý Ly, sinh ra Khâm Thánh hoàng hậu và Hán Thương.

Đến đây, sai sứ sang báo nhà Minh, nói rằng họ Trần đã tuyệt tự, Hán Thương

là cháu ngoại

Minh Tông, tạm trông coi việc nước.

Hán Thương đánh thuế các thuyền buôn, định 3 mức thượng, trung, hạ. Mức

thượng đánh thuế

mỗi thuyền 5 quan, mức trung 4 quan, mức hạ 3 quan.

Năm ấy, chúa Chiêm Thành [39a] La Ngai chết, con là Ba Đích Lại lên ngôi.

Tân Tỵ, [1410], (Hồ Hán Thương Thiệu Thành năm thứ 1, Minh Kiến

Văn năm thứ 3). Mùa xuân, tháng 2, sét đánh điếm canh trên thành.

Hán Thương đổi lịch Hiệp kỷ của nhà Trần, dùng lịch Thuận Thiên. Tháng 3,

sét đánh vào Đông cung, chết mất 3 người.

1 Thú: thái thú, lệnh: lệnh doãn. Thú lệnh là tên gọi chung những chức

quan đứng đầu ở phủ, châu hoặc ở huyện.

2 Chỉ triều Lê.

3 Linh kim tàng: kho chứa gươm thiêng, lấy điển Lưu Bang dùng gươm chém

rắn khi mới nổi lên chống nhà Trần.

4 Chi ngôn nhật xuất (Chén rượu như câu nói mỗi lúc một khác) là câu trong

sách Trang Tử. Chi là chén ở trong mà biến đổi tư thế, cũng ví như lời nói

tùy theo sự vật mà đổi thay.

5 Sơn Vi: tên huyện, nay là huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Bùi Ứng Đẩu,

người xã Xuân Dũng (làng Dóng). (BT).

Mùa hạ, tháng 4, Hán Thương sai làm sổ hộ tịch trong cả nước, ********Hán

Thương đổi lịch

Hiệp kỷ của nhà Trần, dùng lịch Thuận Thiên.

Tháng 3, sét đánh vào Đông cung, chết mất 3 người.

Mùa hạ, tháng 4, Hán Thương sai làm sổ hộ tịch trong cả nước, cho ghi họ Hồ

có hai phái ở Diễn Châu và Thanh Hóa. Biên hết vào sổ những nhân khẩu từ 2

tuổi trở lên và lấy số hiện tại làm thực số, không cho phép người lưu vong

mà vẫn biên tên trong sổ. Yết thị cho các phiên trấn hễ có người kinh nào

trú ngụ thì đuổi về nguyên quán. Trước đây Quý Ly có lần nói với các quan:

"Làm thế nào có được

100 vạn quân để chống giặc Bắc?". Đồng tri khu mật sứ Hoàng Hối Khanh dâng

kế sách này.

Đến đây, sổ làm xong, tính số người từ 15 tuổi trở lên, 60 tuổi [39b] trở

xuống được gấp bội so với trước. Cho nên năm Thiệu Thành thứ 2 [1402] điểm

binh càng nhiều.

Hán Thương lập phép hạn chế gia nô, chiếu theo phẩm cấp được có số lượng

khác nhau, còn thừa phải dâng lên, mỗi tên được trả 5 quan tiền. Người nào

đáng được có gia nô phải xuất trình chúc thư 3 đời. Nô người nước ngoài thì

không theo lệ này.

Các nô đều thích vào trán để đánh dấu: Quan nô thì thích hình viên ngọc hỏa

châu, có khi lấy bổ sung vào quân điện tiền; của công chúa thì thích hình

cây dương, cây đường; của đại vương thì thích 2 khuyên đỏ, của quan nhất

phẩm thì thích 1 khuyên đen; của quan nhị phẩm trở xuống thích 2 khuyên

đen.

Bấy giờ bọn sĩ đại phu tham phú quý, mong được lòng của họ Hồ, dâng thư

khuyên giết hại con cháu nhà Trần, giảm bớt số ruộng và nô để nén bớt thế

lực của họ, như bọn Hoàng Hối Khanh, Nguyễn

Hy Chu, Đồng Thức, còn lại thì nhiều vô kể.

Hồ Tùng đi đánh Chiêm Thành, nghe lời Đình Đại Trung, cho quân bộ đi đường

núi, [40a] tách

xa hẳn quân thủy, gặp khi nước lũ, tướng sĩ ở giữa đường hết lượng đến 3

ngày, phải nướng cả áo giáp bằng da để ăn. Quân trở về, Tùng do đi đường

hiểm, lỡ mất quân cơ, đáng phải xử chém. Nhưng vì có công lao hồi còn tiềm

để1 được tha tội chết, đề làm xã binh.

Hán Thương đặt kho thường bình2, phát tiền giấy cho các lộ, theo giá cả mua

thóc chứa vào kho. Bấy giờ số quan lại ở các lộ, phủ, châu, huyện có thay

đổi, nên không làm được.

Hán Thương đặt hương đình quan, có chánh, có phó, sau chỉ dùng một viên.

Hán Thương hạ lệnh cho các lộ nung gạch để dùng vào việc xây thành. Trước

đây xây thành Tây

Đô, tải nhiều đá tới xây, ít lâu sau lại bị sụp đổ, đến đây mới xây trên

bằng gạch, dưới bằng đá.

Hán Thương định quan chế và hình luật nước Đại Ngu.

Mùa đông, tháng 12, Hán Thương lấy Nguyễn Phi Khanh làm Hàn lâm học sĩ.

[40b] Nhâm Ngọ, [1402], (Hán Thương Thiệu Thành năm thứ 2, Minh Kiến Văn

năm thứ 4). Mùa xuân, tháng 2, Hán Thương xét duyệt quân ngũ.

Tháng 3, Hán Thương đắp sửa đường sá từ thành Tây Đô đến Hóa Châu. Dọc

đường đặt phố xà

và trạm truyền thư, gọi là đường thiên lý.

Mùa hạ, tháng 6, Hán Thương lấy Đồng Thức làm Trung tán, ban cho họ

Ngụy (ví với Ngụy

Trưng3 nhà Đường).

1 Tức là khi Hán Thương ở ngôi thái tử.

2 Thường bình: nghĩa là "luôn luôn cân bằng". Khi thóc hơn thì đong vào,

khi thóc kém thì bán ra theo giá rẻ để giá thóc ổn định

3 Ngụy Trưng: là tể tướng của nhà Đường, nổi tiếng thẳng thắn can ngăn

vua, dâng hơn hai trăm tờ biểu sớ can ngăn Đường Thái

Tông, Thái Tông cũng phải kính nể .

Mùa thu, tháng 7, Hán Thương đem đại quân đi đánh Chiêm Thành. Lấy Đỗ Mãn

làm Đô tướng;

Điện nội phán thủ Nguyễn Vị làm Chiêu dụ sứ; An phủ sứ lộ Đông Đô Nguyễn

Bằng Cử làm Đồng chiêu

dụ sứ.

Đại quân sắp tới đất Chiêm, Đinh Đại Trung cưỡi ngựa đi trước các quân, gặp

tướng giặc Chế

Tra Nan, hai bên giao chiến, đều bị chết.

Chúa Chiêm Ba Đích Lại sợ, sai cậu là Bố Điền dâng một voi trắng, một voi

đen và các sản vật

địa phương, lại dâng đất Chiêm Động1 để xin rút quân.

Bố Điền tới, Quý Ly bắt ép [41a] phải sửa tờ biểu là dâng nộp cả động Cổ

Lũy2. Rồi chia đấy ấy thành bốn châu Thăng,Hoa, Tư, Nghĩa. Đặt An phủ sứ và

An phủ phó sứ lộ Thăng Hoa để cai trị; miền đầu nguồn đất ấy thì đặt trấn

Tân Ninh3. Chiêm Thành thu lấy những dân phụ cận đưa về nước. Người ở

lại thì bổ làm quân.

Hán Thương điều An phủ sứ lộ Thuận Hóa Nguyễn Cảnh Chân làm An phủ sứ lộ

Thăng Hoa. Cảnh Chân dâng thư nói xin theo việc cũ của nhà Hán, nhà Đường,

mộ người nộp thóc để việc phòng bị biên cương được đầy đủ, những người nộp

thóc thì hoặc ban tước cho, hoặc được miễn tội tuỳ theo mức

độ.

Quý Ly phê: "Biết được mấy chữ mà dám nói việc Hán Đường, thực là thằng

ngọng hay nói, chỉ

chuốc lấy tiếng cười thôi!".

Hán Thương lấy Hiệu Chính hầu Chế Ma Nô Đà Nan làm Cổ Lũy huyện thượng hầu,

trấn giữ châu

Tư, Nghĩa, chiêu dụ, vỗ về dân chúng người Chiêm để mưu tiến đánh.

Đặt nhã nhạc, lấy con các quan văn [40b] làm kinh vĩ lang, con các quan võ

làm chỉnh đốn lang, tậpvúa các điệu võ, văn,võ.

Tháng 8, Hán Thương đắp đàn Giao ở Đốn Sơn để làm lễ tế Giao4. Đại xá.

Hôm tế, Hán Thương ngồi kiệu Vân Long, từ cửa Nam đi ra, các cung tần, mệnh

phụ5, quan văn, quan võ trong triều theo thứ tự đi sau. Mũ áo của đàn bà

kém chồng một bậc, nếu bản thân là tôn quý

thì không phải kém.

Lệ cũ của đời trước có nghi lễ bái yết hai bậc, quan lại và người theo hầu

rất đông. Cứ 3 năm cử hành đại lễ một lần, thiên tử ngồi xe Thái Bình6,

khắc gỗ làm 40 hình người tiên, mặc áo vóc, cầm cờ đi trước, nếu đi thuyền

nhỏ ở hồ Chu Tước thì dùng dây thừng gấm để kéo thuyền; 2 năm cử hành trung

lễ một lần, thiên tử ngồi ngai chạm bách cầm; 1 năm cử hành tiểu lễ một

lần, thiên tử ngồi ngai nhỏ. Chưa từng làm lễ tế Giao. Nay Hán

Thương mới bắt đầu làm lễ này. Nhưng vì khi dâng chén rượu,

[Hán Thương] run tay, rượu bị đổ [42a] xuống đất, nên phải ngừng lại.

Hán Thương định lại các lệ thuế và tô ruộng.

Triều trước, mỗi mẫu thu 3 thăng thóc, nay thu 5 thăng. Bãi dây, triều

trước thu mỗi mẫu 9 quan hoặc 7 quan tiền, nay thu hạng thượng đẳng mỗi mẫu

5 quan tiền giấy, hạng trung đẳng mỗi mẫu 4 quan tiền giấy, hạng hạ đẳng 3

quan tiền giấy. Tiền nộp hằng năm của đinh nam trước thu 3 quan, nay chiếu

theo số ruộng, người nào chỉ có 5 sào ruộng thì thu 5 tiền giấy; từ 6 sào

đến 1 mẫu thì thu 1 quan;

1 Chiêm Động: được chia làm hai châu Thăng và Hoa, là đất các huyện Thăng

Bình, Tam Kỳ, Quế Sơn, Duy Xuyên tỉnh Quảng Nam

- Đà Nẵng ngày nay.

2 Cổ Lũy: được chia thành hai châu Tư và Nghĩa, là đất các huyện Bình Sơn,

Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Mộ Đức, Đức Phổ, tỉnh Quảng

Ngãi ngày nay.

3 Tân Ninh: là vùng các con sông Thu Bồn, Vu Da ở miền tây tỉnh Quảng Nam-

Đà Nẵng ngày nay.

4 Tế Giao: là tế trời vào tiết Đông chí và tế đất vào tiết Hạ chí.

5 Mệnh phụ: các bà được vua phong hiệu cho.

6 Xe Thái Bình: được chế tạo từ đời Lý.

1 mẫu 1 sào đến 2 mẫu thu 2 quan; từ 2 mẫu 1 sào đến 2 mẫu 5 sào thu 2 quan

6 tiền; từ 2 mẫu 6 sào

trở lên thu 3 quan. Đinh nam không có ruộng và trẻ mồ côi, đàn bà góa, thì

dẫu có ruộng cũng thôi không thu.

Sĩ nhân Nguyễn Bẩm dâng thư cho rằng Tiền Hồ1 nên nhường ngôi, lui về ở

Kim Âu2, Hậu Hồ3,

thì nên tôn là thượng hoàng [42b], thái tử Nhuế lên ngôi Quan gia4. Quý Ly

giận lắm, cho là Bẩm chỉ

trích nhà vua, sự tình nghiêm trọng, sai đem chém.

Quý Mùi, [1403], (Hán Thương Khai Đại năm thứ 1, Minh Thái Tông Vĩnh Lạc

năm thứ 1). Mùa xuân, tháng 2, Hán Thương đem những người không có ruộng mà

có của dời đến Thăng Hoa5, biên chế thành quân ngũ. Quan lại ở các lộ,

phủ,châu, huyện chia đất cho họ ở. Người ở châu nào thì thích hai chữ tên

châu ấy vào hai cánh tay để làm dấu hiệu. Đến năm sau đưa vợ con đi theo,

giữa đường, bị bão chết đuối, dân phần nhiều ta oán.

Hán Thương mộ dân nộp trâu để cấp cho dân mới dời đến ở Thăng Hoa, người

nộp được ban

tước.

Hán Thương lấy phủ lộ Thanh Hóa làm đất Tam phụ6 của kinh kỳ; đổi phủ

Thanh Hóa thành phủ

Thiên Xương, gồm với Cửu Chân và Ái Châu gọi là Tam phụ. Lại đổi Diễn Châu

thành phủ Linh Nguyên, cộng là Tứ [43a] phụ. Đổi phủ Kiến Xương thành phủ

Kiến Ninh, đổi núi Đại Lại thành núi Kim Âu. Đặt chức thị giám7; ban hành

cân, thước, thưng, đấu, định giá tiền giấy, cho mua bán với nhau. Bấy giờ,

người buôn bán phần nhiều chê tiền giấy. Lại lập điều luật để xử tội không

tiêu tiền giấy, bán giá cao, đóng cửa hàng, bao che giúp nhau.

Hán Thương cấm người tôn thất và cung nhân không được xưng quý hiệu, người

vi phạm bị trị

tội.

Hán Thương sai giết người phương thuật là Trần Đức Huy.

Đức Huy hồi trẻ mồm rộng đút vừa nắm tay, tay dài quá gối, có người bảo

rằng ngày sau tất quý

hiển. Đến khi lớn lên, học nghề phường thuật, thường ban đêm đánh mõ làm

phép kỳ binh, như có nghìn muôn người reo hò đánh nhau; lại đi khắp các xã,

lấy trộm tên những người đi tuần biên vào sổ quân. Việc bị phát giác, thu

được một quyển sách phương thuật, một con dấu nguỵ, một thanh gươm nhỏ, mộc

chiếc mõ đồng. Xử tội lăng trì, [43b] sổ quân thì ném xuống nước hoặc đốt

đi không hỏi đến.

Hán Thương dựng miếu ở các lăng tẩm tại Thiên Xương, để thờ cúng tổ khảo,

sớm chiều cúng

tế. Lại dựng miếu ở các lăng tẩm Bào Đột, Linh Nguyên để thờ cúng tiên tổ.

Ở kinh thành thì dựng Đông thái miếu để thờ cúng tông phái họ mình, Tây

thái miếu để thờ họ ngoại là Trần Minh Tông và Trần Nghệ Tông.

Nhà Minh sai Ổ Tu8 sang báo việc Thái Tông lên ngôi và đổi niên hiệu.

Bấy giờ vua Minh đóng đô ở Kim Lăng, Yên Vương Lệ làm phản, giết các quan

Tam ty, đem quân tiến đánh kinh sư, đi đến đâu thắng được đấy, vào trong

thành chém giết bừa bãi. Kiến Văn9 tự thiêu mà chết. Lệ tự lập làm vua,

đổi niên hiệu là Vĩnh Lạc. Bấy giờ có bài thơ rằng:

1 Chỉ Hồ Quý Ly.

2 Tức núi Đại Lại, thuộc huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa.

3 Chỉ Hồ Hán Thương.

4 Tức ngôi vua. Đời Trần, Hồ, vua gọi là quan gia.

5 Tên lộ, gồm 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa.

6 Đời xưa, đât gần kinh kỳ gọi là "phụ". "Tam phụ" là ba vùng đất gần kinh

kỳ.

7 Thị giám: người coi chợ.

8 Minh sử, An Nam truyện chép năm này nhà Minh sai hành nhân là Dương Bột

sang ta. CMCB 12 cũng chép theo như vậy.

9 Kiến Văn: là niên hiệu của vua Huệ Đế nhà Minh.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro