DAI VIET THONG SU

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Đại Việt Thông Sử

Soạn giả: LÊ QUÝ ĐÔN  

Đại Việt Thông Sử

QUYỂN I

Đế Kỷ Đệ Nhất

Thần Đôn soạn

THÁI TỔ (THƯỢNG)

[tờ 7a] Vua Thái Tổ, thụy hiệu Thống Thiên khải vận thánh đức thần công duệ văn anh vũ

khoan minh dũng trí hoằng nghĩa chí nhân đại hiếu Cao Hoàng Đế. Vua họ Lê, tên húy là Lợi, người làng

Lam Giang, huyện Lương Giang, phủ Thanh Hoa. Cụ Tằng Tổ của vua tên húy là Hối, sau truy tôn là

"Cao thượng tổ Minh Hoàng Đế". Tính cụ chất phát ngay thẳng, giữ mình như người ngu, nhưng hiểu

biết rất sâu xa, có thể biết trước những sự chưa thành hình. [tờ 7b] Nguyên trước ở thôn Như Áng, một

hôm, cụ đi chơi, thấy đàn chim liệng vòng quanh trên một khoảng đất nơi dưới núi Lam sơn, trông hình

như một đám người tụ hội. Cụ tự nghĩ: "Chỗ này tất là nơi đất lành", bèn dời nhà đến ở đấy, rồi khai phá

ruộng vườn, tự chăm lo cày cấy, được 3 năm, trở thành một sản nghiệp, tự đấy, đời đời đều là hùng

trưởng một phương. Sau này vua dựng đô mở nước, thực cũng căn cơ tự đấy vậy. Cụ Hoàng tổ, tôn

phong là "Hiến tổ Trạch Hoàng Đế", tên húy là Đinh, cụ nối được cơ nghiệp tiền nhân, tính khoan nhân,

có bụng yêu người, người các nơi gần xa đều qui phục, trong nhà có hàng nghìn người. Lấy cụ bà "Hiền

từ Gia thục Hoàng Thái Hậu" họ Nguyễn, tên húy là Quách, sinh hạ 2 con trai, con trưởng tên là Tòng,

con thứ tức là cụ Hoàng Khảo, tôn phong "Tuyên tổ Phúc Hoàng Đế", [tờ 8a] tên húy là Khoáng, cụ nuôi

nhiều tân khách đúng lễ nghi, thương yên nhân dân, chu cấp người nghèo cùng, giúp đỡ người bệnh tật,

cả vùng đều phục cụ là có nghĩa, lấy cụ bà "Trinh từ Ý văn Hoàng Thái Hậu" họ Trịnh tên húy là Ngọc,

sinh hạ 3 con trai, con trưởng tên là Học, sau truy phong "Chiêu hiếu đại vương", con thứ tên là Trừ, sau

truy tặng "Hoằng dụ vương", con trai út tức là Hoàng đế. Hoàng đế sinh giờ tý ngày mồng 6 tháng 8

năm Ất sửu (1385), nhằm niên hiệu Xương phù thứ 9 nhà Trần, sanh tại làng Chủ sơn, huyện Lôi dương.

Nguyên trước, xứ Du sơn thôn Như áng hậu thuộc làng này (Chủ sơn), có một cây quế, dưới cây quế này

có con hùm xám thường xuất hiện, nhưng nó hiền lành, vẫn thường thân cận với người mà chưa từng

hại ai. Tự khi Hoàng đế ra đời, thì không thấy con hùm ấy đâu nữa. Người ta cho là một sự lạ! Ngày

Hoàng đế sanh, thì trong nhà có hào quang đỏ chiếu sáng rực, và mùi thơm ngào ngạt khắp làng. [tờ

8b] Khi lớn tuổi, ngài thông minh dũng lược, độ lượng hơn người, vẻ người tươi đẹp hùng vĩ, mắt sáng

mồm rộng; sống mũi cao, xương mi mắt gồ lên; bả vai bên tả có 7 nốt ruồi, bước đi như rồng như hổ;

tiếng nói vang vang như tiếng chuông. Các bậc thức giả biết ngay là một người phi thường.

Khi Hoàng đế giúp việc ở Khả lam, được hồn sư ông Bạch Y hiển hiện chỉ cho ngôi huyệt phát

"đế vương" ở động Chiêm nghi.

Thời ấy, người phường chài ở sách Mục sơn là Lê Thận, đêm nào cũng thấy khoảng sông Lam

Xuyên có luồng ánh sáng như bó đuốc cháy, rồi hơn một tháng sau, bỗng chài được một thanh sắt dài

hơn một thước, hình tựa thanh đao cũ, đem về để trong nhà, ngay hôm ấy Hoàng đế đến nhà y, thấy

trong nhà tối có một luồng ánh sáng, liền tới chỗ đó lấy thanh đao đem về, về đến nhà, không phải mài

mà sáng như đao mới, nhận thấy có hàng chữ triện khắc trên thân đao, biết là một thanh bảo kiếm. Đêm

hôm sau, [tờ 9a] có trận mưa gió, sáng ra, thấy trong vườn rau có lốt chân thần in trên lá rau, Hoàng

đế sai người vẽ hình vết chân ấy. Ngày hôm sau, Hoàng hậu ra vườn hái rau, đến chỗ cây rau có hình

bàn chân, bỗng được một quả ấn báu, bề dài bề rộng ngay ngắn, mặt quả ấn khắc mấy chữ lối triện.

trên quả ấn khắc đích họ tên Hoàng đế, nhận kỹ mới rõ. Hoàng đế biết rõ bảo vật của trời đất ban cho,

bèn cuối đầu lạy tạ. Ngày hôm sau, bỗng được cái chuôi thanh kiếm ở cây đa, rửa sách đất cát đi, thấy

có khắc hình con rồng và con hổ, và hiện ra hai chữ "Thanh Thúy", đem lắp vào thanh kiếm đã bắt được

hồi trước, vừa vặn không sai tý nào, càng tin là vật thần cho. 4 Đại Việt Thông Sử - Quyển I - Đế Kỷ Đệ Nhất (BD:LML)

Bấy giờ là thời kỳ họ Hồ cướp ngôi vua nhà Trần, Hoàng đế ở quê hương đọc sách và nghiên cứu

binh pháp, giữ mình chờ thời vận.

Đến khi nước Tàu dẫn quân sang đánh, bắt họ Hồ đem vầ kinh đô Kim lăng, rồi chia nước Nam

ta thành từng Quận từng Huyện. [tờ 9b] Hoàng đế ngầm có chí khôi phục non sông, ngài hạ mình tôn

người hiền, tung tiền của nuôi binh sĩ, chiêu nạp những người mắc lỗi trốn lánh, được nhiều người qui

phục.

Vua Hưng Khánh và vua Trùng Quang nối tiếp khởi binh chống quân Tàu, lấy danh nghĩa là khôi

phục ngôi vua nhà Trần, được rất nhiều người hưởng ứng. Nhưng Hoàng đế biết rõ thời thế, cho là tất

không thành công. Bởi thế ngài không dự, và hết sức ẩn kín hình tích, không lộ tiếng tăm.

Trịnh Đồ tự nước Ai Lao lại yết kiến, hiến 1 con voi đực, Hoàng đế sai Trương Phấn đón tiếp, sau

Trịnh Đồ và Trịnh Khả đều được ngài tín nhiệm.

Những hào kiệt thời ấy như: Lê Văn An, Lê Văn LInh, Bùi Khai Hưng, Nguyễn Truy, Lưu Nhân

Chú, Trịnh Vô, Vũ Uy, Lê Liễu, và Lê Xa Lôi, đều nối tiếp qui phục, ngài niềm nở đón tiếp, [tờ 10a] cùng

bí mật mưu việc khởi nghĩa.

Có tên Đỗ Phú người xã Hào lương, đến Ty Bố chánh kiện Hoàng đế về việc lấn ruộng đất,

nhưng y đuối lý, bị thua kiện, đem lòng oán giận, bèn cáo mét quan nhà Minh dẫn quân bức bách Hoàng

đế ở Lạc thủy (nay đổi là Cẩm thủy).

Từ khi người Minh đô hộ nước ta, chánh sự phiền toái; thuế má nặng nề; quan tham lại nhũng;

cấm dân nấu muối trồng rau; bắt dân xuống biển tìm ngọc châu; phá núi lấy vàng; những sản phẩm quý

giá như: ngà voi, sừng tê, cánh chim chả, cùng các thứ hương, chúng đều vơ vét hết. Sau lại bắt dân

đắp 10 thành trong 10 Quận để đóng quân; chúng lại khéo dụ dỗ các người hào kiệt, đưa vào triều đình

Trung Hoa làm quan, cốt là an tri ở nước Tàu vậy. Bởi vậy nhân dân nước ta không trừ một ai, thấy đều

sầu thảm oán giận! Hoàng đế vẫn giữ chí như trước, dù người Minh đem quân tước cũng không dụ được,

[tờ 10b] lấy thế lực cũng không hiếp được, nhưng nhận thấy thế quân địch đang mạnh, nên ngài càng

ẩn trong bóng tối, không dám khinh động, thường đem bảo vật năn nỉ hối lộ cho bọn Trương Phụ, Trần

Trí, Sơn Thọ và Mã Kỳ, những mong được khỏi nạn, để nuôi thêm sức lực và chờ đợi thời cơ. Chỉ vì tên

Lương nhữ Hốt người huyện Cổ đẳng (nay đổi Hoằng hóa), giữ chức Tham chánh là Thổ quan của người

Minh, đem lòng ghen ghét, bèn mất cáo với người Minh rằng:

"Người chủ Lam Sơn chiêu nạp những kẽ vong mạng, và đãi ngộ sĩ tốt rất hậu, chí của người ấy

không phải là nhỏ. Nếu không sớm tính đi, để cho con rồng có lúc gặp mây gặp mưa, thì khi ấy nó sẽ

không còn là một con vật trong ao nữa đâu. Vậy xin trừ ngay đi, đừng để lưu tai vạ về sau này".

Người Minh tin lời tên Nhữ Hốt, cho nên càng bức bách ngài rất gấp. Bởi vậy ngài bèn đại hội

Tướng sĩ, bàn tính việc khởi binh.

Ngày mồng 2 là ngày Canh Thân, tháng giêng năm Mậu Tuất (1418), nhằm niên hiệu Vĩnh Lạc

triều Minh thứ 16, [tờ 11a] Hoàng đế dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, xưng là Bình Định Vương, phong

chức Đại Tướng và chức Thừa Tướng cho: Lê Khang, Lê Luân, Lê Sao, Lê Lễ, Lê Hiêu, Lê Nhữ Tri, Lê Cố,

Trịnh Thác, Trịnh Hối, Lê Thỏ, lê Lý, Lê Xa Lôi, Lê Khắc Phục, Lê Định, Lê Lãng, Lê Vấn, Lê Cuống, Lê

Chiêm, Lê Đệ, Lê Khiêm, Lê Trinh, Lưu Đàm, Lê Lâm, Lê Nghiệm, Lê Văn Giáo, Trần Đạt, Trần Khai, Lê

Cảnh Thọ, Phạm Lung, Phạm Quì, Lê Sát, Trương Lôi, Trịnh Khả, Bùi Quốc Hưng, Lê Nỗ, Lê Liễu, Lê Nhữ

Lãm, Lê Khả Lãng, Vũ Oai, Trịnh Vô, Lưu Hoạn, Trần Hốt, Đỗ Bí, Nguyễn Trãi, Lê Văn Linh, Lê Thận và

Lê Văn An, [tờ 11b] chia nhau đốc suất đội quân Thiết đột ra đối địch với quân Minh.

Lúc ấy binh tướng của ta đương thời kỳ ban đầu, còn rất ít ỏi, thế mà quân Minh có tới hơn

45.000, voi ngựa có hàng trăm con, bởi thế Hoàng đế không địch nổi, thua trận phải chạy vào Mang Một,

nay là (Mang Chánh), rồi lần đến Trịnh Cao, giáp giới nước Ai Lao, nơi đây, dân thưa lương ít, trên đường

không người đi lại. Đóng ở Mang Cốc trong núi Linh sơn hơn 10 ngày, phải dùng mật ong trộn với vũ dư

lương (thứ phấn hồng trong đá) làm bữa ăn, rất là khốn đốn! Hoàng đế bèn hỏi các tướng: 5 Đại Việt Thông Sử - Quyển I - Đế Kỷ Đệ Nhất (BD:LML)

"Có ai dám bắt chước việc Kỷ Tín thời xưa không1

?".

Người ở thôn Ðặng Tú là Lê Lai khẳng khái vâng mệnh, tự nguyện thay đổi mặc áo bào nhà vua,

xưng là vua Lê Lam Sơn, dẫn quân ra đánh nhau với quân Minh, quân Minh mừng rỡ, liền dồn cả quân

vây chặt Lê Lai, Lai chống cự đến kiệt sức thì bị bắt, quân Minh dẫn Lai về thành Đông Quang giết chết,

[tờ 12a] chúng bèn lui binh, ta được thoát nạn.

Hoàng đế được biết Trịnh Khả và Lê Lôi đã từng đi đón tiếp con voi tự nước Ai Lao về, tất nhiên

am hiểu tiếng nói và văn tự nước Ai Lao, bèn sai hai Tướng này mang tờ thông điệp sang bảo Quốc

Vương nước Ai Lao rằng:

"Quốc gia tôi phụng tờ thông điệp của triều Đại Minh ban cho nhà vua. Vậy nhà vua hãy đem số

lương thực đủ quân sĩ dùng trong 5 tháng, và khí giới cùng voi trận tới yết kiến, rồi nhận tờ điệp văn về

thi hành, để khỏi phải bắt giải. Nếu không tuân mệnh, lập tức sai nước Xa Lý và Lão Qua hợp quân 6

nước tiến đánh".

Vua nước Ai Lao sợ hãi, xin tuân mệnh trên. Hoàng đế nhờ được lương thực và quân dụng đó,

nên thế quân lại trở nên phấn chấn.

Ngày mồng 4 tháng 4 (năm Mậu Tuất), Hoàng đế kéo quân về Lam Sơn, trao rất nhiều vàng bạc

cho Tướng Trịnh Đồ, Trịnh Khả và Lê Lôi, đem đút lót cho Tướng nhà Minh là Trần Trí, Sơn thọ và Mã Kỳ,

[tờ 12b] để cầu được hoãn binh.

Ngày mồng 9 (tháng 4 năm Mậu Tuất), người Minh cất quân đánh vào Lam Sơn, Hoàng đế bỏ

Lam Sơn lui quân và đóng tại Lạc Thủy, rồi đặt phục binh sẵn để đợi địch.

Ngày 13 (tháng 4 năm Mậu Tuất), quả nhiên quân địch kéo đến, phục binh nổi dậy xung đột; 4

Tướng Lê Thạch, Đinh Bồ, Lê Ngân và Lê Lý xông lên trước hãm trận, chém đầu hơn 2.000 tên địch, thu

được hàng mấy nghìn chiến lợi phẩm.

Ngày 16 (tháng 4 năm Mậu Tuất), tên bầy tôi phản bội của ta là Thượng Ái, dẫn quân Minh do

đường tắt đánh úp vào sau quân ta, và bắt hết vợ con binh sĩ. Quân sĩ đâm chán nản, mất hết tinh thần

chiến đấu. Hoàng đế bèn thu quân cùng với Lê Lễ, Phạm Hướng, Đỗ Bí, Nguyễn Xí và Lê Đạp, tạm náu ở

núi Linh Sơn, hơn 3 tháng trời, chỉ dùng võ măng tre và rễ cỏ làm bửa ăn khỏi đói.

Sau khi địch đã lui binh, Hoàng đế lại trở về Lam Sơn, đắp đồn lũy và chiêu tập tàn binh, được

chừng trăm tên, dựng trại sách ở xứ Mang Khao. Ngài vỗ về tướng sĩ, chỉnh đốn hàng ngũ và khí giới,

quân nhu cũng khá đầy đủ, lúc ấy lòng quân lại phấn khởi, đều xin tình nguyện thù tử chiến đấu. Hoàng

đế biết là quân sĩ có thể dùng được, bèn đặt phục binh ở Mang một, rồi sai độị khinh binh ra khiêu chiến,

quân địch tiến tới chỗ hiểm, phục binh liền dùng nỏ bắn tên tẩm thuốc độc ra như mưa, quân địch thua

chạy tán loạn. Hoàng đế lại tiến quân tới Mang Ninh, ngày đêm tiến đánh, quân địch bị tổn hại, phải lui

về giữ một xã Nga Lạc Hạ.

Năm Kỷ Hợi (1419), niên hiệu Vĩnh Lạc thứ 17, tháng 4, Hoàng đế tiến quân đóng tại trại A Đả,

đánh nhau với quân Minh ở xứ Nghĩa Canh, bắt được viên Chỉ huy là Nguyễn Sao và chém đầu 300 tên

địch.

Tháng 5, Hoàng đế đóng dồn quân ở trại Đà Sơn, đặt phục binh ở Mang Chánh, đánh đuổi đước

quân địch, rồi dời quân đến đóng tại trại Lưu Sơn, [tờ 13b] được nước Ai Lao đem quân lại giúp, lại dời

tới Mang Thôi đóng đồn.

Mùa thu, tháng 7, viên Tri phủ Phan Liêu là Thổ quan tỉnh Nghệ An phản nhà Minh, người Minh

dẫn quân vây thành Nghệ An, Tổng binh Phong thành hầu là Lý Bân cũng dẫn quân lại cứu, Phan Liêu

1

 Thời Hán, Hán- Cao- Tổ đóng quân ở thành Vinh Dương, bị Hạng Võ dẫn quân Sở vây chặt mấy vòng. Tướng quân Kỷ

Tín thấy tình thế nguy cấp, dânng kế lừa Sở: Tín bèn vận mũ áo Đại Vương, dùng cờ quạt xe ngựa Hoàng đế ra cửa Đông hô rằng:

"Ta là Hán Vương, vì cạn hết lương thực xin ra đầu hàng nước Sở". Quân Sở bèn xúm cả vào đấy. Hán Vương thừa cơ hội lẻn ra

cửa Tây trốn thoát. Sau Hạng Võ biết là giả, giết chết Kỷ Tín. 6 Đại Việt Thông Sử - Quyển I - Đế Kỷ Đệ Nhất (BD:LML)

thua chạy sang nước Ai Lao, Lý Bân đuổi đến châu Ngọc Ma, không đuổi kịp dẫn quân về. Thổ quan Lộ

văn tú là Tướng tiền phong của Lý Bân lại phản, bỏ đi.

Tháng 11, các tướng giặc: Trịnh Công Chứng, Phạm Hỉ, Nguyễn Trì và Nguyễn Cấu ở các hạt: Hạ

Hồng, Tân Minh, Khoái Châu và Hàng Giang, đều khởi binh kéo đến sông Nhị Hà đánh phá cầu nổi, Lý

bân sai tướng sĩ đánh phá, giặc đều thua chạy tán loạn. Lúc ấy, các lộ miền Bắc, nơi nào cũng có giặc

nhiễu loạn, duy Tam giang, Qui hóa và Tuyên quang được yên ổn thôi. Bởi thế, người Minh không có thì

giờ để ý đến Thanh Hóa.

[tờ 14a] Năm Canh Tý (1420) niên hiệu Vĩnh Lạc thứ 18. Mùa xuân, tháng 2, Lý Bân dẫn quân

trở về Đông Quang.

Mùa hạ, tháng 4, Lộ Văn Luật khởi binh ở huyện Thạch Thất, Lý Bân đánh tan, Văn Luật chạy

sang nước Ai Lao.

Tháng 6, triều Minh sai Vĩnh Xương Bá là Trần Trí đóng giữ Đông Quan.

Người đất Phụng Hóa là Trần Văn Xung và người đất Đồ Sơn là Phạm Ngọc Giai đều khởi binh

phản nhà Minh, Lý Bân đánh phá tan cả.

Người ở Tràng Cảng thuộc huyện Thủy Đường là Lê Ngã đổi tên ra Dương Củng, trá xưng là con

cháu xa của vua Trần Duệ Tông, tự nước Lão Qua trở về, Bế Thuấn ở Đan Ba thuộc núi Đan làm Phụ

đạo, dựng Ngã làm chúa, đóng trại Hồng Doanh ở An Bang. Dư đảng của Trịnh Công Chứng và Phạm

Ngọc đều qui phụ, quân số có tới vài vạn. Tự xưng là Thiên Thượng Hoàng Đế, đặt niên hiệu là Vĩnh

Thiên, đặt đủ các chức quan, rồi chia quân đánh đốt thành Xương Giang; cướp trại Bình Than. [tờ 14b].

Lý Bân dẫn đại binh tới đánh, Lê Ngã và Bế Thuấn thua chạy trốn đi lúc ban đêm. Không biết đi đâu.

Người hạt Kiến Xương là Nguyễn Thuật đánh quân Minh ở Hoàng Giang, giết viên Tham chánh là

Hầu Bảo.

Tháng 10, Tướng Minh lại kéo đại quân tới. Hoàng đế tính trước: Chúng sẽ đến Bổng Tân vào

khoảng giờ Tỵ (15 giờ), bèn đặt sẵn phục binh để chờ. Đúng giờ tỵ, quả nhiên quân địch tràn tới đó, 4

mặt phục binh đều chỗi dậy xông đánh, quân địch tan vỡ, ta giết chết và bắt sông vô kể, thu được hơn

trăm con ngựa, và phóng lửa đốt hết khí giới của chúng.

Ngày hôm sau, Hoàng đế bảo các Tướng lãnh rằng: "Quân địch vừa mới thua trận, tất nhiên

chúng để tâm đề phòng cẩn mật. Vậy ta không nên giao chiến".

Nhưng các Tướng đem lòng khinh địch, không tuân theo, cứ tiến đánh. Quả nhiên bị tổn thương

rất nhiều! Bèn lưu binh ở Nang Ninh, rồi lại lui binh về giữ Mang Thôi.

Phụ đạo châu Quì là Cầm Lan hướng đạo cho [tờ 15a] Trấn Thủ nhà Minh là Lý Bân và đô đốc

là Phương Chánh, dẫn hơn mười vạn quân theo đường châu Quì vào đánh ta. Hoàng đế sai Lê Hướng và

Lê Lý đem mấy nghìn khinh binh đi trước tiên, để đón đường chặn đánh, rồi đặt phục binh ở Bồ Mộng để

đợi. Khi quân địch tới, ta đánh phá đại thắng! Nhưng quân địch ỷ vào thế mạnh, vẫn cứ tiến quân, địch

đánh thẳng tới doanh trại của Hoàng đế. Hoàng đế tiên liệu, đã đặt sẵn phục binh ở các lối hiểm yếu.

Ngày hôm sau, quân giặc kéo tới, ta dồn quân đánh úp ở Thi Lang, đại thắng! Chém đầu hơn ba nghìn

tên địch, Lý Bân và Phương Chánh chỉ chạy thoát thân lấy mình thôi. Ta thừa thắng đuổi dài suốt ba

ngày đêm mới ngừng, rồi tiến đóng trại Ba Lẫm ở Suối Giang, dẫn quân khiêu chiến. Các Tướng nhà

Minh tại đồn Tạ Phượng, đồn Hoàng Thành và trại Nga Lạc, đều giữ trại Quan Du để phòng bị cho thành

Tây Đô, cố thủ trong trại, không chịu ra đánh, [tờ 15b] Hoàng đế ngày đêm dồn quân vây đánh các

đồn, chia tướng Lê Hào và Lê Sát dẫn quân đánh úp trại Quan Du, phá tan quân địch, chém đầu hơn vạn

tên, thu được rất nhiều khí giới. Tự đấy, thế địch một ngày một suy. Nhân dân các xứ trong nước, không

nơi nào là không hưởng ứng Hoàng đế.

Năm Tân Sửu (1421) niên hiệu Vĩnh Lạc thứ 19, ngày 20 tháng 11. Tham Tướng nhà Minh là

Trần Trí, đem hơn mười vạn vệ quân ở Giao Châu, đánh trại Ba Lãm ở ải Kình Lộng Hoàng đế bàn với các

Tướng rằng: 7 Đại Việt Thông Sử - Quyển I - Đế Kỷ Đệ Nhất (BD:LML)

"Hiện tình, bên địch nhiều quân, bên ta thì ít, bên địch hành quân vất vả, mà bên ta thì quân sĩ

được thảnh thơi. Binh pháp có câu rằng: "Sự thắng địch cốt ở Tướng giỏi, chứ không quan hệ ở số quân

nhiều hay ít". Nay chúng ta tuy nhiều quân, nhưng ta dùng quân được thảnh thơi đánh quân vất vả,

nhọc mệt, thì tất phá được".

[tờ 16a] Tối hôm ấy ta chia quân đánh úp các ngả, quân sĩ hò la vang động, đánh phá được 4

trại, chém đầu hơn nghìn quân địch, thu được rất nhiều chiến lợi phẩm.

Thần Trí lại phá núi mở đường tiến quân đánh ta, Hoàng đế ngầm đặt phục binh các nơi hiểm

yếu ở xứ Úng Ải để đợi. Đến giữa trưa, quả nhiên Thần Trí dẫn quân do đường núi tới, bị hai cánh quân

ta đánh vào hai bên, Thần Trí thua trận dẫn quân lui.

Thời ấy, nước Ai Lao cường thịnh, Hoàng đế giao thiệp thân thiện, thỉnh thoảng có đưa quân

sang giúp ta. Chỉ vì thổ quan Lê Văn Luật trốn chạy sang đấy, đem lời gièm pha, nên vua Ai Lao sinh

lòng oán giận. Đến đây, ta đang chống cự với quân Minh, chưa phân thua được, thì bổng Ai Lao đem

50.000 quân và 100 con voi đến đóng tại phía trước trại Hoàng đế, nói là lại giúp ta. Hoàng đế yên chí

vẫn thân thiện, không ngờ là khi trá, bèn ước hẹn cùng hợp đánh quân Tàu. [tờ 16b] Đến nửa đêm, ta

bị quân Ai Lao đánh úp! Hoàng đế thân tự đốc chiến, đánh rất hăng hái, tự giờ tý (1 giờ sáng) đến giờ

mão (5 giờ sáng), đánh tan quân Ai Lao, chém đầu hơn vạn tên, thu 14 con voi và hàng vạn chiến lợi

phẩm. Ta thừa thắng đánh đuổi bốn ngày đêm, đến tận sào huyệt chúng. Tù trưởng là Man Sát xin hòa,

ta không nghe. Bình chương là Lê Thạch Kinh tiến đánh trước, trúng phải chông nhọn, chết.

Năm Nhâm Dần (1422) niên hiệu Vĩnh Lạc thứ 20, tháng 2, quan tổng binh nhà Minh là lý Bân

chết.

Ngày 21, tháng 12, Ai Lao đem quân đến Kiệt Mang dựng trại kết trận, Thiếu úy là Lê Chích đánh

lui.

Mã Kỳ ước hẹn với Ai Lao cùng đánh ta ở Quan gia, quan quân giao chiến mấy trận, thường bị

tổn thất [tờ 17a] bèn lui quân về đóng tại Khối Sách, ủy lạo quân sĩ, tu sữa khí giời, được 7 ngày thì

quân Minh kéo đến, Hoàng đế bảo Tướng sĩ rằng:

"Hiện giờ bị quân địch bao vây bốn mặt, ta không còn lối thoát đi đâu được! Đó tức binh pháp

gọi là "tử địa" Vậy, phải đánh chớp nhoáng mới sống, nếu chậm trễ sẽ chết".

Nói xong, ngài sa hai hàng lệ, mọi người đều cảm khích, tranh đua thù tử chiến đấu! Các Tướng

Lê Lĩnh, Lê Hướng, Lê Hào và Lê Triện, đích thân xông ra hãm trận, chém đầu tham tướng là Phùng Quí

và hơn nghìn quân, thu được hơn trăm con ngựa, Mã Kỳ và Trần Trí chạy về Đông Quan, quân Ai Lao

cũng trốn về. Hoàng đế bèn thu quân về núi Chí Linh. Ở đây thiếu lương thực, trong 2 tháng trời, quân sĩ

toàn ăn rau cỏ và măng tre, phải giết bốn con voi và một số ngựa để quân sĩ ăn. Thường có quân bỏ

trốn, [tờ 17b] Hoàng đế kiểm soát rất nghiêm nhặt, bắt được viên Tướng bỏ trốn là Thượng Khanh,

đem chém đầu để làm gương, tự đấy quân sĩ lại nghiêm chỉnh như trước. Lúc này, ta từng trải nhiều

phen nguy nạn, Tướng sĩ mỏi mệt, muốn được nghĩ ngơi, đều khuyên Hoàng đế hòa với người Minh, ngài

bèn sai thân thần là Lê Vận và Lê Trăn đưa thư đến Mã Kỳ và Sơn Thọ để cầu hòa, bọn Mã Kỳ ưng

thuận.

Năm Quí Mão (1423) niên hiệu Vĩnh Lạc thứ 21, ngày mồng 10 tháng 4, Hoàng đế trở về Lam

Sơn, Trần Trí và Sơn Thọ thường đem tặng trâu, bò, muối, cá, nông cụ và thóc giống, ngài cũng sai bọn

Lê Trăn đem vàng bạc tặng đáp. Nhưng Trần Trí ngờ ta chỉ giả vờ giao hảo bề ngoài, mà bề trong có ý

thực đánh úp, nên bắt giữ Lê Trăn không cho về. Hoàng đế bèn tuyệt giao.

[tờ 18a] Năm Giáp Thìn (1424) niên hiệu Vĩnh Lạc thứ 22, mùa thu, tháng 7, vua Thái Tông nhà

Minh chết, Thái tử lên nối ngôi Thiên Tử, đổi niên hiệu là Hồng Hưng. Lúc này mới có tờ chiếu đình chỉ

việc kiếm vàng bạc và các thứ hương ở Giao Chỉ ta, triệt hồi các viên Giám đốc về công tác trên.

Ngày 20, tháng 9. Hoàng đế hỏi các bầy tôi rằng:

"Nay chúng ta nên tới xứ nào để mưu đồ việc nước"

Thiếu úy Lê Chích đáp: 8 Đại Việt Thông Sử - Quyển I - Đế Kỷ Đệ Nhất (BD:LML)

"Hạ thần thường qua lại tỉnh Nghệ An nhiều lần, nên có biết những nơi hiểm yếu trong tỉnh ấy.

Nay xin dẫn quân vào trại của Cầm Bành tỉnh Nghệ An, hễ ai hàng thì ta phủ dụ, nếu không hàng thì ta

đánh lấy trại ấy làm căn bản, rồi từ từ tính việc lấy lại Đông Đô. Như vậy việc nước có thể sẽ thành".

Hoàng đế cho lời bàn của Lê Chích là phải, bèn chia quân đến đánh úp phá thành Đa Căng, số

quân địch bị giết và bị chết đuối có tới hơn một ngàn, ngụy Tham chánh là Lương Nhữ Hốt chỉ kịp chạy

thoát lấy một mình, ta thu được chiến lợi phẩm vô kể, rồi đốt hết trại thành. Tướng của Cầm Bành là Hoa

Anh [tờ 18b] dẫn quân lại cứu, ta lại đánh tan. Hoa Anh thua chạy vào Tây Đô.

Sau khi thắng trận, Hoàng đế sai thả hết các phụ nữ đã bắt được, rồi ở đấy tuyển mộ binh sĩ,

seo sửa khí giới, chỉnh đốn hàng ngũ, chứa đủ lương thực, dẫn quân thẳng tới tỉnh Nghệ An, do đường

châu Trà Long, vượt qua núi Bồ Lạp thuộc châu Quì.

Đồng Tri là Sư Hựu tướng chỉ huy quân Minh, cùng với tri phủ châu Trà Long là Cầm Bành dẫn

5.000 quân đón đánh vào mắt tiền quân ta; các Tướng Minh là Trần Trí, Lý An, Phương Chánh và Thái

Phúc dẫn quân đánh vào mặt hậu quân ta, quân ta bị địch áp bức cả mặt tiền mặt hậu! Hôm ấy, trời sắp

tối, Hoàng đế đặt phục binh các ngả rồi ung dung chờ quân địch. Một lát thì Trần Trí dẫn quân đến, quân

phục binh ta nổi dậy xông đánh, quân địch tan vỡ, ta chém đầu Đô ty là Trần Quí và hơn hai ngàn sĩ tốt,

thu hơn trăm con ngựa, Trần Trí và Phương Chánh bị thua chạy.

Ngày hôm sau [tờ 19a] quân ta đi đến trang Trịnh sơn, gặp cánh quân của Tướng Sư Hựu, ta

xông thẳng tới đánh phá, chém đầu Thiên hộ là Trương Bản và hơn nghìn quân sĩ. Sư Hựu chỉ kịp chạy

thoát lấy một mình. Hoàng đế bèn đóng quân ở Mộc Sách, còn Trần Trí thì thu vét tàn quân, đuổi ta đến

sông Trạm Hoàng, nhưng sợ không dám tiến, trở về giữ thành Nghệ An.

Tháng 11, Hoàng đế sai Sứ Giả chiêu hàng Cầm Bành, Bành không chịu hàng, đem hơn nghìn

quân lập doanh trại trên đỉnh núi, để chờ viện binh. Quan quân vây chặt nơi đây.

Tháng 12, Sơn Thọ sai Nguyễn Sĩ đưa Lê Trăn trả về ta để cầu hòa. Số là Trần Thọ và Đức Chính

đóng ở Nghệ An, thấy Cầm Bành bị vây, vẫn muốn cứu lắm, nhưng sợ không dám tiến, bèn sai Sứ giả

đem thư cầu hòa, xin giải vây. Sau khi tiếp sứ giả, Hoàng đế triệu các Tướng bàn rằng:

"Hiện Cầm Bành bị vây khốn đốn, lẽ ra bọn tên Chánh phải cấp cứu ngay mới phải, thế mà đến

nay vẫn còn dùng dằng quanh co. Đó tất là có ý nhát sợ. [tờ 19b] Chi bằng ta hãy cứ vờ bằng lòng hòa,

để xem tình thế. Trong khi thư từ qua lại độ một tháng, thì ta đã bắt được Cầm Bành rồi".

Bàn xong, cho viết bức thư, để lên trên một cái bè, thả cho xuôi dòng, trong thư nói: "Chúng tôi

muốn trở về Thanh Hóa, nhưng bị Cầm Bành ngăn chặn. Vậy ông cho người tới giải hòa để thông lối về,

rất mong". Chánh nhận được thư, tin là thật, bèn sai Trần Đức Nhị đưa thư đến Cầm Bành bảo nên hòa

giải. Cầm Bành được thư, biết là viện binh không đến, bèn mở cửa thành ra hàng. Sau khi bình định châu

Trà Long, Hoàng đế ra lệnh các quân sĩ không ai được xâm phạm một mảy may của dân, còn các quân

địch đều được xá tội hết, không giết một người nào. Ngài thưởng lạo các bộ trưởng và tù trưởng, tuyển

được 5.000 trai tráng sung vào ngạch binh. Thanh thế trở nên lừng lẫy! (Sau Cầm Bành mưu toan trốn

đi, bị giết). Người Minh nghe thanh thế ta phấn chấn, lại tới đánh sơn trại ta, Hoàng đế đánh lui, rồi tiến

quân đóng tại cửa ải Khả Lưu, định đánh thành Nghệ An, [tờ 20a] nhưng chưa biết rõ tình thế, nhân

gặp hồi vua Nhân Tông nhà Minh mới lên ngôi, sai Sơn Thọ đến phủ dụ Hoàng đế hàng. Ngài rằng:

"Đó chỉ là kế của quân địch lừa dối ta. Nhưng ta hãy nhân đó để thi hành kế sách của mình".

Ngài bèn cho sứ giả qua lại, để dò hư thực. Sau Sơn Thọ biết là kế của y không ăn thua gì, lại

tuyệt hòa nghị. Hoàng đế bèn phát binh đánh Nghệ An. Sắp hành quân thì có tin báo: "Người Minh phái

rất nhiều binh mã và thuyền bè, cả thủy binh và bộ binh đều tiến, và sắp tới. Hoàng đế bèn hội các

Tướng mà bảo rằng:

"Hiện bên địch rất nhiều quân, mà ta thì ít. Bên ít quân mà muốn địch nổi bên nhiều quân, chỉ có

cách giữ lấy cái chỗ hiểm yếu trước, thì mới thành công. Binh pháp có câu: "Thiện chiến giã trí nhân nhi

bất tri ư nhân". Những Tướng tài giỏi, thường bắt buộc đối phương phải đến chỗ mình đã chỉ định, chứ

không bao giờ đến chỗ đối phương định. 9 Đại Việt Thông Sử - Quyển I - Đế Kỷ Đệ Nhất (BD:LML)

Nói xong, ngài chia hơn nghìn quân cho Đinh Liệt dẫn đi trước, theo con đường tắt chiếm lấy

huyện Đỗ Gia, tranh cướp lấy nơi địa lợi, rồi ngài thân đốc đại quân chiếm đóng ở các chỗ hiểm yếu, để

chờ quân địch. Vừa sắp đặt xong đô 3, 4 ngày, quả nhiên địch dẫn đại quân [tờ 20b] đến cửa ải Lậu

Thư và Khả Lưu, chúng đóng trại ở phía dưới dòng nước, Hoàng đế thì đóng ở phía trên dòng nước, ban

ngày dựng cờ và thúc trống ầm ầm, ban đêm thì đốt đèn đuốc sáng choang trong trại, rồi ngầm sai binh

mã qua sông phục nơi hiểm yếu. Trời sắp sáng, địch dẫn quân đánh vào trại ta, Hoàng đế vờ thua chạy

lui, dẫn địch vào ổ phục binh, bốn mặt phục binh đều dhỗi dậy xông phá, có hàng vạn quân địch bị giết

và chết đuối! Thua trận này, chúng bèn lập trại tựa vào thế núi để đóng quân, mà không chịu ra giao

chiến nữa.

Lúc này, bên địch lương thực dồi dào, mà lương thực bên ta thì chưa đủ để quân sĩ dùng trong

10 ngày. Hoàng đế bảo các tướng sĩ rằng:

"Giặc cậy nhiều lương, nên cứ cố thủ trong trại, không chịu ra đánh. Đó là chúng định lập cái kế

lâu dài vậy. Ta ít lương thực, không có thể cầm cự lâu dài với chúng được".

Ngài bèn sai tự đốt hết các doanh trại, vờ như trốn lánh, rồi đi ngầm ra lối tắt. Quân địch thấy

vậy rất mừng, liền tiến quân đóng vào doanh trại cũ của ta, và đắp thêm đồn lũy lên trên núi.

Ngày hôm sau, Hoàng đế [tờ 21a] ngầm đặt phục binh ở Bồ Ải, rồi sai đội khinh kỵ đến khiêu

chiến. Địch không hay biết, liền dẫn hết quân ra ứng chiến, đến Bồ Ải trúng ổ phục binh, quân phục binh

liền chỗi cả dậy, các viên dũng Tướng: Phạm Vấn, Lê Sát, Lê Ngân, Đinh lễ, Lê Xý, Lê Đạp, Lê Triện, Lê

Bôi, Lê Nhân Chú, Lê Chiến, Lê Tông Kiều và Lê Khôi đều tranh đua xông trận trước, đánh phá quân địch

chém đầu vô kể, thây địch lấp sông, khí giời đầy đường, thuyền bè trôi ngang. Bắt sống Đô ty là Chu

Kiệt, chém Tướng Tiền phong là Hoàng Thành, bắt sống chừng nghìn quân. Trần Trí và Sơn Thọ chạy về

tỉnh Nghệ An, cố thủ trong thành.

Năm Ất Tỵ (1425) niên hiệu Hồng Hưng thứ nhất (tự tháng 11 năm này trờ xuống, là niên hiệu

Thiên Khánh thứ nhất vua Trần Cao thời Hậu Trần). Mùa xuân, Hoàng đế tiến quân đóng tại làng Mỹ Lôi

huyện Thổ Du (nay là huyện Thiên Lộc) tỉnh Nghệ An [tờ 21b] các người già trẻ trong làng, đều mang

rượu thịt ra đón mừng tướng sĩ, và cùng bảo nhau rằng:

"Không ngờ ngày nay chúng ta lại được trông thấy uy nghi nước nhà".

Viên tri phủ châu Ngọc Ma là Cầm Quí, dẫn hơn 8 nghìn quân và 10 con voi về hàng Hoàng đế,

được ngài phong cho chức Thái úy. Hoàng đế hạ lệnh rằng:

"Nhân dân ta lâu nay đã khốn khổ về chánh trị bạo tàn của người Minh! Vậy quân sĩ đến châu

huyện nào, cũng không được xâm phạm của dân một mảy may. nếu không phải là trâu bò thóc gạo của

ngụy quan, thì dù có thiếu thốn cũng không được lấy".

Lúc ấy, quân sĩ có người ba ngày chưa được một bữa ăn, mà không ai dám phạm lệnh trên! Về

phần nhân dân, thì ai nấy cũng đem những trâu bò thóc gạo của người Minh đã chứa tích ra để tiếp tế

quân sĩ ta. Hoàng đế chia quân đi thu phục các châu huyện, quân ta đến châu huyện nào, chúng cũng ra

hàng tức khắc, ngài bèn vây thành Nghệ An, địch cố thủ trong thành, không dám ra giao chiến.

[tờ 22a] Hoàng đế huấn luyện Tướng sĩ, tu sửa khí giới, trong một tuần chiến cụ đầy đủ, ngài

bèn duyệt vũ nghệ, dạy quân sĩ biết các phép: Ngồi, đi, đánh và đâm; chỉ cho biết các thế: Kỳ, chính,

chia và hợp; lại cho biết các hiệu lệnh về chiêng, trống, và lá cờ để biết lệnh tiến lệnh lui. Đội ngũ

nghiêm chỉnh, thưởng phạt công minh, quân sĩ đều hăng hái, nhân dân cả vùng dắt díu qui phục đông

như người về chợ. Hoàng đế ủy lạo vỗ về, ai ai đều hoan hỉ.

ngày 15, tháng 4, tham Tướng nhà Minh là Lý An tước An bình bá, dẫn thủy quân tự Đông Quan

lại cứu thành Nghệ An. Hoàng đế tính: Trần Trí bị vây khốn đã nhiều ngày, bây giờ có viện binh tới, y tất

nhiên ra đánh. Ngài bèn dời quân đến tại cửa sông Quật Giang thuộc huyện Đỗ Gia, sai Lê Ninh dẫn binh

phục nơi bờ sông. 10 Đại Việt Thông Sử - Quyển I - Đế Kỷ Đệ Nhất (BD:LML)

Ngày 17, địch dẫn hết quân trong thành ra [tờ 22b] đánh trại Lê Thiệt của ta, chúng mới qua

sông được nửa số quân, bị phục binh chỗi dậy đánh phá, chém hơn mười thủ cấp. quân địch bị chết đuối

rất nhiều. Trần Trí chạy vào trong thành.

Tháng 5, Hoàng đế sau Tư Không là Đinh Lễ đến châu Diễn, đặt phục binh đón đánh cướp

những thuyền lương của Đô Tư là Trương Hùng, ta vừa đuổi vừa đánh cho đến thành Tây Đô. Hoàng đế

lại tuyển 2.000 tinh binh sai các Tướng Lê Sát, Lê Nhân Chú, Lê Triện và Bùi Bị dẫn tiếp theo làm hậu

viên cho Đinh Lễ, đánh úp thành Tây Đô, chém hơn năm trăm đầu quân địch, thu rất nhiều chiến lợi

phẩm. Tướng nhà Minh đóng chặt cửa thành cố thủ, Đinh lễ và Lê Triện chiếu tập nhân dân, hợp binh

vây thành. Người tỉnh Thanh Hóa đều đua nhau đến cửa quân xin hàng.

Tháng này, vua Nhân Tông nhà Minh chết, Thái tử lên nối ngôi, đổi niên hiệu là Tuyên Đức.

Mùa thu, tháng 7, [tờ 23a] Hoàng đế hội các Tướng mà bảo rằng:

"Các vị Tướng giỏi thời xưa, thường bỏ chỗ kiên cố mà đánh vào nơi nứt rạn; lánh chỗ xung đột

mà đánh vào nơi trống không. Như vậy thì chỉ dùng nửa phần sức lực, mà thu lượm được thành công

gấp đôi. Nay hai xứ Thuận Hóa và Tân Bình, mất liên lạc với Nghệ An và Đông Đô đã lâu rồi. Vậy ta nên

thừa thời thế tiến đánh hai xứ đó".

Ngài bèn sai Tư Đồ và Trần Nguyên Hãn, Thượng Tướng quân là Doãn Nỗ, và Chấp lệnh là Lê Đa

Bồ, dẫn hơn nghìn quân đi kinh lược xứ Thuận Hóa và Tân Bình, để chiêu phủ nhân dân, bọn Trần

Nguyên Hãn đánh phá tướng nhà Minh là Nhiệm Năng ở sông Bố Chánh. Hoàng đế lại sai Lê Ngân, Phạm

Bôi và Lê Văn An dẫn thuyền chiến ra ngoài biển, để làm đội quân kế tiếp, liền phá được thành này, quân

dân hai phủ trên thảy đều qui thuận, ta thu lọc được vài vạn quân tinh nhuệ, để sung thêm vào binh số,

thanh thế rất lừng lẫy! Các Tướng bèn suy tôn Hoàng đế là [tờ 23b] "Đại thiên hành hóa". Tự đây,

trong những tờ Bảng hoặc những tờ Dụ đều nêu bốn chữ này.

Mùa đông, tháng 11, dựng Trần Cao làm vua, đặt niên hiệu là Thiên Khánh. Trần Cao chính tên

là Hồ Ông, lánh nạn đến châu Ngọc Ma, mà thổ quan là Cầm Quí đã giả mạo xưng Ông là dòng dõi vua

họ Trần. Vì vua triều Minh cho là quốc dân nước ta vẫn còn nhớ họ Trần, cho nên đón Trần Cao dựng

nên làm vua, để mượn việc đó trả lời cho triều Minh và sai viên Tả Bọc Xạ là Bùi Quốc Hưng truyền tin

này, còn Hoàng đế thì tự xưng một cách khiêm tốn là: "Kiểm hiệu Thái sư bình chương quân quốc trọng

sự, đại thiên hành hóa, tứ kim ngư đại kim hổ phù trang võ vệ quốc công". Ngày 30 tháng 12, là ngày

Mậu Tý, làm lễ tâu cáo với các vị Vua và Hoàng hậu thời trước của nhà Trần về việc dựng vua này.

[tờ 24a] Niên hiệu Tuyên Đức (triều Minh) thứ 1, nhằm niên hiệu Thiên Khánh vua Trần năm

thứ 2 (1427), thuộc năm Mậu Ngọ. Mùa hạ, tháng 5, vua triều Minh ban tờ chiếu tha tội bạn nghịch cho

các quan lại và quân dân nước Giao Chỉ ta; và bãi bỏ hết thẩy các thứ thuế trưng thầu buôn bán các loại:

vàng, bạc, đồng, thiếc, sắt, muối, hương và cá. Những loại này để cho người bản xứ tự do mua bán, các

quan không được cấm. Tưởng cũng nên biết, trước đây, pháp luật nhà Minh rất hà khắc nghiêm nhặt!

Nhân tình không ưa, cho nên mới ban tờ chiếu mệnh này. Nhưng lòng dân oán ghét đã lâu, phần nhiều

điều phụ về với quân ta, đại thế không thể kéo trở lại được nữa.

Mùa thu, tháng 8 (năm Bính Ngọ), Hoàng đế tính: Bao nhiêu quân tinh nhuệ của nhà Minh đều

đóng ở thành Nghệ An, còn các xứ thuộc Đông Đô, thẩy đều chỉ có một số quân yếu kém. Ngài bèn sai

các Tướng thi hành kế sách: Sai Cơ mật đại sứ là Phạm Văn Sảo, Thiếu úy là Lê Triện, Thái giám [tờ

24b] là Lê Khả, Á hầu là Đỗ Bí, Lê Như Thận, dẫn 3.000 quân và một con voi đi chiêu phủ nhân dân các

xứ: Thiên Quang, Quảng Oai, Quốc Oai, Gia Hưng, Qui Hóa, Đà Giang, Tam Đới và Tuyên Quang, để

ngăn chặn quân cứu viện tự tỉnh Vân Nam (thuộc Trung Hoa) tới; Thông hầu là Lưu Nhân Chú, Thiếu úy

là Bùi Bị, Thái giám là Lê Văn, Lê Ninh, dẫn 2.000 quân và 1 con voi đến các xứ: Thiên Trường, Tân

Hưng,và Kiến Xương, để chặn con đường chạy trở về của Đức Chính và Lý An khi thua trận. Hai đạo binh

này sau khi đã chiếm được đất, liền chia quân đóng giữ các nơi; Nhân Chú, Bùi Bị cùng với Lê Bồi, Lê Vị

Tẩu, dẫn 2.000 quân Thanh Hóa và một con voi, đi chiêu mộ nhân dân các xứ: Khoái Châu, Bắc Giang và

Lạng Giang, rồi đóng quân giữ các nơi hiểm yếu, để ngăn chặn quân cứu viện do tỉnh Quảng Đông và

Quảng Tây (thuộc Trung Hoa) tới; Tư Không là Đinh Lễ Nguyễn Sí và Lê Bì, [tờ 25a] dồn quân tinh nhuệ

tiến đánh Đông Đô, để biểu dương thanh thế. Ra lệnh cho các Tướng: Đến đâu đều không được lấy của 11 Đại Việt Thông Sử - Quyển I - Đế Kỷ Đệ Nhất (BD:LML)

dân một mảy may. Bởi thế quân đi qua mà chợ vẫn hợp như thường. Các Trấn ở các Lộ thẩy đều hoan

nghênh, thi đua đem thịt trâu thịt dê cơm rượu ra khao lạo quân sĩ.

Ngày 12, Lê Triện dẫn 3.000 quân tiến sát Đông Đô, tham Tướng nhà Minh là Trần Trí, thấy

quân ta kéo đến một cách bất thình lình! Sợ quá! Bèn dẫn quân ra ứng chiến ở Ninh Kiều thuộc phủ Ứng

Thiên, Lê Triện, Lê Khả và Đỗ Bí hết sức chiến đấu. Quân Minh thua, ta chém đầu 2.000 quân địch, rồi

tiến quân đến bờ phía tây sông Ninh. Trần Trí thấy thành Đông Quang cô lập nguy cấp, bèn đào hào đắp

lũy thêm, để làm kế "cố thủ", rồi phi một tờ cáo cấp, để vào trong hộp bằng thiếc gởi tới Nghệ An, bảo

Lý An và Phương Chánh dẫn quân về cứu nơi cỗi rễ.

Ngày 17 tháng 9, Lý An và Phương Chánh [tờ 25b] để chỉ huy là Thái Phúc ở lại giữ thành Nghệ

An, rồi xuống thuyền lẻn ra biển lúc ban đêm. Quan quân ta đã phục sẵn các nơi yếu hại, để chặn đường

về của chúng, bởi thế bọn Phương Chánh chỉ loanh quanh ở trong biển, không lên bờ được. Về phần

quân ta, lúc ấy hãy còn ít thuyền, khó bề đuổi đánh, nên bọn Phương Chánh chạy thoát. Hoàng đế bèn

để Lê Ngân, Lê Văn An, Phạm Bôi, Lê Thận, Lê Văn Linh và Bùi Quốc Hưng ở lại vây thành Nghệ An, ngài

thì đích thân đốc suất cả thủy quân và lục quân, tiến theoo sau Lý An và Phương Chánh. Khi quân tới Tây

Đô, ngài đóng doanh trại tại Lỗi Giang, uý lạo Tướng sĩ; ban thưởng cho các vị phụ lão trong làng và các

người thân thuộc trong họ, tùy theo từng hạng. Nhiều người trong các Quận, các Huyện tỉnh Thanh Hóa

nghe thấy Hoàng đế tới, đều đến cửa viên tình nguyện theo ngài xông pha ra trận, ngài đều cho dẫn vào

bệ kiến, [tờ 26a] rồi tùy tài cho ghép vào các đội binh.

Ngày 20, viên Đô tư tỉnh Vân nam nhà Minh là Vương An Lão dẫn hơn vạn quân tới cứu viện, đi

đến cầu Xa Lộc thuộc Tam Giang, Văn Sảo đón đánh phá tan. Địch bị giết và chết đuối tới hơn một

nghìn quân, còn thì chạy vào thành Tam Giang.

Lê Triện đánh nhau với Ty Đô nhà Minh là Vi Lượng ở cầu Nhân Mục, đại thắng bắt được Vi

Lượng.

Mùa đông, tháng 10, vua nhà Minh sai tổng binh là Thành Sơn Dật và Vương Thông, giữ chức

Tham tán việc quân, cùng với Thượng thư bộ binh là Trần Hợp, và Tham Tướng là Mã Anh dẫn 50.000

quân và 5.000 kỵ binh tới cứu viện. Khi chúng tới Đông Đô, thì hơn vạn quân đạo binh Vân Nam đã đến

Tam Giang rồi, và đang xuôi dòng thẳng tiến. Bọn Lê Khả được tin này, lập tức tự Ninh Kiều vội vã tới

gấp, đón đánh ngay ở cầu Xa Lộc. [tờ 26b] phá tan được đạo quân Minh này.

Ngày mồng 6, Vương Thông ỷ vào thế mạnh lúc mới đến, bèn suất tất cả 1.000.000 quân, cùng

với bọn Trần Hợp, Sơn Thọ, Mã Kỳ, Lý An, Trần Trí và Phương Chánh, chia làm 3 đạo quân kéo ra ngoài

thành, đánh vào trại của Lê Triện và Lê Bí ở bến đò Cổ...1

, Lê Triện bèn cấp báo cho lê Lễ và Lê Sí biết,

bọn Lê Lễ dẫn quân tự Thanh Đàm lại cứu, rồi cùng nhau bàn kế dụ lừa quân địch, và cùng hăng say

chiến đấu, phá tan quân Vương Thông ở Ninh Kiều Túy Động (việc này có chép ở truyện tiểu sử Lê

Triện). Trần Hợp và Lý Lương nhà Minh cùng 50.000 quân chết đuối rất nhiều, ta bắt sống được hơn vạn

quân địch, và thu được khí giới, ngựa trâu, vàng bạc của cải rất nhiều, bọn Vương Thông chỉ chạy thoát

lấy thân về Đông Quan đóng thành cố thủ. Lê Lễ và Lê Triện [tờ 27a] thừa thắng thẩng tiến vây thành,

quân uy lừng lẫy sấm vang! Lúc này Hoàng đế đang hội các Tướng Hải Tây đóng ở Thanh Hóa, nhận

được thư báo thắng trận, ngài bèn thân xuất đại quân và 20 con voi thẳng tiến, ngày 11 tới Lũng Giang,

các Tướng đón mừng.

Tri Châu châu Bình Chánh là Hà Hoạn bị quân ta bắt, nhưng y chịu chết không hàng.

Vương Thông tự sau khi thua trận, khí giời gần hết, phải phá quả chuông Qui Điền và cái đỉnh

Phổ Minh để đúc đạn súng.

Ngày 22, Hoàng đế tiến quân đến Phù Liệt, ngày hôm sau, ngài sai Trần Hãn, Bùi Bị lĩnh 100

thuyền chiến tự sông Đại Lũng bơi ra cửa sông Hác Giang, rồi xuôi dòng thẳng xuống; Đinh Lễ dẫn hơn

vạn quân bản bộ đánh vào cầu Tây Dương, ngài thì đích thân cầm quân đánh vào cửa Nam Thành Đại

1

 Đây là tên một bến đò, có 2 chữ, nhưng bản chính chỉ chép có 1 chữ "cổ", còn phần dưới bỏ trắng khoảng một chữ.

Vậy không thể biết là bến đò cổ gì?. 12 Đại Việt Thông Sử - Quyển I - Đế Kỷ Đệ Nhất (BD:LML)

La. Đến trống canh ba đêm hôm ấy, quân ta đánh cả bốn mặt, rồi phóng lửa đốt những nhà của dân ở

bên ngoài thành, binh Tướng của Phương Chánh ở doanh ngoài, [tờ 27b] vội tranh nhau chạy vào trong

thành, bị chết ngổn ngang! Ta giải phóng hết những người Việt ta từng bị chúng ức hiếp phải theo, và

thu được hơn trăm chiếc thuyền chiến, cùng rất nhiều khí giới đồ đạc. Quân dân vùng này thảy đều qui

phụ quân ta. Bọn Vương Thông và các quan 3 Ty đều cố chết giữ thành, để đợi quân cứu viện. Hoàng đế

bèn đóng dinh tại Đông Phù Liệt gần đó để uy hiếp.

Sau khi Hoàng đế tới thành Đông Đô 3 ngày, các vị hào kiệt các Lộ; nhân dân các Phủ Huyện; và

Tù Trưởng các Trấn kéo nhau đến cửa dinh đông nghịt, thẩy đều tình nguyện giúp sức đánh phá các

thành, Hoàng đế cho dẫn các người vào bệ kiến, ngài phủ dụ an ủi và giảng cho biết lẽ lui tới; các sĩ phu

và thứ dân đến yết kiến ngài đều niềm nở tiếp đãi đúng lễ, rồi tùy tài cao thấp của từng người, cho liệt

vào các chức; ban hành cả thưởng và phạt, để cho mọi người biết sự khuyên răn. [tờ 28a] Ai nấy đều

cảm khích.

Chia các lộ và các Trấn ở Đông Đô làm thành 4 Đạo; đặt các quan văn võ trong Triều và ngoài

Đạo; đặt chức tuần kiểm ở các cửa biển, để khám xét ngưởi qua lại, và bắt những kẻ phản đảng đã làm

quan với nhà Minh, cùng những kẻ ngoan dân có lòng phản bội định đem thư về Trung Hoa.

Lại ban lời dụ rằng:

"Các bậc văn nhân tài tử nào chưa ra làm quan, mà có thể viết thư đưa vào thành Đông Đô,

khuyên được Tướng Tá trong đó mở cửa thành ra hàng, hoặc giảng hòa để về nước. Sẽ đặt cách trọng

dụng ngay".

Ban lệnh tịch thu sản nghiệp, vợ con, tôi tớ của bọn ngụy quan (làm quan với triều Minh), lấy

thóc lúa sung vào kho dự trữ, để cung cấp quân nhu.

Tháng 12, ra lệnh cấm quân sĩ không được chặt phá cây cối hoa quả, cướp bóc tài sản của nhân

dân.

Quan quân ta vây thành Đông Đô rất gấp. Vương Thông bị cùng quẩn quá! Bèn gởi thư giảng

hòa, xin cho được đem hết quân sĩ về Trung Hoa. Hoàng đế rằng:

[tờ 28b] "Binh pháp có câu: "Không cần đánh mà đối phương phải khuất phục. Đó là thượng

sách của nhà binh vậy".

Ngài bèn bằng lòng cho hòa, và hẹn Vương Thông phải dồn tất cả người và lính ở các thành

khác, về hội cả Đông Đô, càng sớm càng hay. Nhưng mới qua một thời gian, có bọn cận thân qua lại với

Vương Thông là bọn ngụy Đô ty Trần Phong, Tham chánh Lương Nhữ Hốt, và Đô chỉ huy Trần An Vinh

bảo Vương Thông rằng:

"Thời xưa, Ô Mã Nhi thua trận ở sông Bạch Đằng, phải đem quân lại hàng, Hưng Đạo Vương

bằng lòng cho hàng, rồi sai đem các thuyền lớn chở đưa về nước, nhưng lại dùng các người tài lặn làm

thủy thủ. Khi thuyền ra tới ngoài biển, chờ khi ban đêm, các người trong thuyền ngủ say, lúc ấy thủy thủ

lặn xuống nước, khoan thủng đáy thuyền, làm cho binh Tướng Tàu đều chết đuối hết trơn, không còn

một mống".

Bởi thế, Vương Thông đâm ngờ, lại đắp thêm lũy, đào thêm hào, và gài chông nhọn để làm kế cố

thủ [tờ 29a] rồi ngầm sai mấy chục người đem bức thư bọc ngoài bằng sáp ong, lén đi lối tắt để cầu

viện binh. Quan quân ta bắt được bọn này, nên Hoàng đế phát ghét về thói tráo trở, ngài bèn sai đặt

phục binh khắp bốn mặt bên ngoài thành, để bắt các người trong thành ra vào, tổng số bắt được đã tới

hơn 3.000 lính và 5 con ngựa, thì tự đấy Vương Thông đóng thành không ra, sứ giả qua lại cũng chấm

dứt.

Hoàng đế sai các Tướng dẫn quân đi đánh các Phủ Huyện: Bùi Quốc Công đánh Đao Kê Thị Kiều;

Lê Khả và Lê Văn đánh Tam Giang; Lê Sát, Lê Thụ, Lê Lý và Lê Lãnh đánh Xương Giang; Lê Lưu và Phạm

Bôi đánh Khâu Ôn. 13 Đại Việt Thông Sử - Quyển I - Đế Kỷ Đệ Nhất (BD:LML)

Ngày 20, đặt chức An Phủ Sứ vào các Lộ, dùng Đào Công Soạn và Nguyễn Dực cả thảy 24 người

sung chức này; đặt chức Viên ngoại lang vào 6 đạo quân, dùng Nguyễn Tông Vỹ cả thảy 6 người sung

chức này. Bọn Công Soạn hết thảy đều là [tờ 29b] sĩ tử mới trúng tuyển.

Năm Đinh Tỵ, niên hiệu Thiên Đức thứ 211

, Mùa xuân, tháng giêng, Hoàng đế tiến quân đóng tại

bờ phía Bắc sông Lô, rồi chia quân vây thành Đông Đô: Lê Hướng giữ vây cửa Đông thành, Đinh Lễ giữ

vây cửa Nam thành, Thái giám Lê Chửng giữ vây cửa Tây thành, Lê Triện giữ vây cửa Bắc thành. Sơn

Thọ sai Thông Sự là bọn Nguyễn Nhiệm gồm 3 người, lại thông tin tức với ta.

Hoàng đế ban chức Hỏa thủ quân trong các Lộ, tùy theo từng hạng; bổ 515 người vào thuộc lại

trong Viện Hàn Lâm, và thuộc lại trong bốn Đạo; sai Dương Thái Nhất tu sửa đền thờ Trần Hưng Đạo,

cấm không được chặt phá cây cối nơi đây; ra lệnh cho Lộ An Bang nộp gỗ sung và tên bắn bằng tre; ra

mệnh lệnh cho các Lộ các Trấn chuyển vận lương hướng tới Xương Giang và Tam Giang, để cung cấp

quân lính; ra lệnh cho các Tướng và quan chức các Lộ, phải dò hỏi [tờ 30a] tìm tòi người có tài ba trí

dũng, có thể làm chức Thượng Tướng Tư Mã, mỗi viện phải tiến cử một người; ra lệnh cho nhân dân,

người nào dâng thóc để cấp phát cho quân, sẽ được phong tước, tùy theo từng hạng.

Viên chỉ huy tỉnh Nghệ An là Thái Phúc đầu hàng ta. Thành Diễn Châu cũng hàng.

Phạm Cự Luyện ở huyện Đường Hào, và Đoàn Lộ ở huyện Cổ Phí, đều dâng kế sách đánh phá

thành trì; và cách thức làm phên chiến đấu, xe phá thành và xe ngựa bay. Hoàng đế khen hay, bèn sai

các Tướng y theo kiểu mẫu đó để làm các thứ trên.

Ra lệnh cho các xứ phải tôn thờ miếu thờ các vị Công thần thời trước.

Sai người đã đầu hàng là viên Bách Hộ Hà Vượng, mang thư vào thành Đông Quan dụ Vương

Thông ra hàng. Sai Tư Mã Tuyên Quang là Lương Thế Vinh và Đề Đốc Phụ Đạo là Ma Tông Kế coi việc

đóng thuyền chiến.

Sai Nhập nội Thiếu bảo là Lê Lưu tổng quản việc quân dân các xứ Lạng Sơn và An Bang, [tờ

30b] xuất quân đánh thành Khâu Ôn, rồi chia quân đóng giữ các chỗ hiểm yếu nơi ấy, và cho Lê Lưu

được quyền "tiên trảm hậu văn" (mỗi khi kẻ nào phạm pháp, được quyền chém đầu kẻ ấy ngay, rồi sau

mới tâu lên vua).

Mời viên Nhập nội thiếu phủ là Lê Chích ở Nghệ An về Đông Đô.

Phong cho viên Hàn Lâm Viện Thừa chỉ học sĩ là Nguyễn Trãi chức "Triều liệt đại phu nhập nội

hành khiển, Lại bộ Thượng thư, kiêm Cơ Mật viện". Hoàng đế sai dựng một cái lầu mấy tầng trong dinh

Bồ Đề, hằng ngày ngài ngự tại từng lầu trên cùng, để trông vào thành bên địch, cho Nguyễn Trãi ngồi ở

tầng lầu dưới, để bàn luận cơ mưu hầu ngài, và thảo những thư từ gởi đi, xét những thư từ gởi tới.

Ngày 13, Lê Lưu và Phạm Bôi đánh chiếm được thành Khâu Ôn, người Minh bỏ thành chạy trốn

vào lúc ban đêm.

Viên Tư mã là Lê...2

 cậy có chiến công [tờ 31a] thường thốt ra những lời khinh nhờn. Hoàng đế

sai giết chết, và tịch thu gia sản. Viên Thiên hộ là Lý Vân, và Tòng nhân là Bùi Vĩnh, lấy trộm muối chở

vào thành Chí Linh, ngài cũng sai giết cả. và đều bị tịch thu gia sản.

Ra lệnh kiểm điểm khí giới của binh sĩ, kẻ nào thiếu, sẽ trị theo quân luật.

Ra lệnh cho tỉnh Thái Nguyên và tỉnh Lạng Sơn nộp vỏ cây gai, để dùng vào việc quân. Ra lệnh

cho huyện Tân Phúc mở lò rèn sắt.

Sai viên Tư mã Tổng đốc Trấn Thiên quan là Cao Ngự dẫn quân vây thành Cổ Lộng, và cho ông

được quyền "tiên trị hậu văn" (mỗi khi kẻ nào phạm pháp, được quyền trị tội ngay, rồi sau mới tâu lên

1

 Năm trước đây là năm Bính Ngọ niên hiện Tuyên Đức thứ nhất, nhằm niên hiệu Thiên Khánh triều Trần thứ 2. Năm này

là năm ĐinhTỵ, liền sát ngay với năm trước, sao lại chép niên hiệu thứ 21? Hoặc chép lầm chăng ?.

2

 Đây là tên người, nhưng chính bản chỉ chép một chữ "Lê" (họ Lê) mà bên dưới bỏ trắng khoảng một chữ. Vậy không

biết viên này tên là gì ?. 14 Đại Việt Thông Sử - Quyển I - Đế Kỷ Đệ Nhất (BD:LML)

vua), rồi sai các Tướng đóng đồn giữ nơi đây: Lê Vấn đóng đồn tại cửa Đông thành Đông Quan; Đinh Lễ,

Lê Sát, Lê Lý và Lê Chích đóng đồn tại cửa Nam; Lê Bị đóng đồn tại cửa Tây; Lê Triện và Lê Văn An đóng

đồn tại cửa Bắc.

Ra lệnh cho các xứ : Tam Giang, Tam Đới, Tuyên Quang và Qui Hóa nộp thứ tre [tờ 31b] nứa,

dựng bức thành ở dưới nước, vào phía bờ bên Bắc sông Nhĩ Hà.

Lê Chích đánh chiếm được thành Đao Kê, viên Chỉ huy là Trương Lân và viên Tri phủ là Trần Vân

ra đầu hàng.

Chế tạo súng Tương dương, để dùng vào việc đánh phá thành trì.

Ra lệnh cho người trong nước: Người nào có cha mẹ vợ con, anh em, tôi tớ hoặc họ hàng, đã

trót theo quân địch ở trong thành, cho phép tự nguyện đến ghi tên1

, chờ sau khi phá được thành, sẽ

chiếu đó giao cho đưa về gia đình. Nếu không khai, đến khi thành phá, lại tư túi tranh nhận xin về chung

sống, sẽ trị tội theo quân luật.

Ban cho các viên Phụ đạo ở các Xứ chức Thủ ngự đoàn luyện, phẩm tước tùy theo từng hạng.

Ngày 7, tháng 2, Thiếu úy là Lê Triện, đánh nhau với Tướng nhà Minh là Phương Chánh ở Khỏa

Động, Triện bị tử trận, Đỗ Bí thì bị giặc bắt.

Ngày 19, quân Minh đánh đồn Bài Sa Đôi thuộc huyện Từ Liêm, quan quân đóng vững cửa thành

và cố sức chống cự, tới khi hết tên đạn [tờ 32a] phải lấy cả vò lọ và gạch nấu bếp liệng ra, quân địch

không tiến nổi, sau phải giỡ nhà của dân chất đống lại, phóng lửa đốt theo chiều gió, rồi kéo nhau bơi lội

qua sông, bị chết đuối khá nhiều. Duy đạo quân Thiên quan không biết bơi lội, ở lại thù tử chiến đấu,

quân địch phải thua chạy.

Lê Chích dẫn quân vây đánh thành Thị Kiều, Tướng nhà Minh là Vương Đường và Bảo Trinh ra

hàng.

Hoàng đế sai Nguyễn Trãi đi cùng với người đã hàng là viên chỉ huy họ Tăng đến thành Tam

Giang chiêu dụ (khuyên hàng).

Sứ thần nước Chiêm Thành lại nước ta dâng cống hiến, Hoàng đế đãi yến, khi trở về ngài lại ban

cho lụa vải và con ngựa, và sai Thiêm tri khu mật là Hà Lật đi cùng với sứ giả tới Chiêm Thành để tuyên

bố ủy lạo.

Ra lệnh các Tướng Tá lại bắt đầu lập công mới. Tự các vị đại thần tới chức Thái úy, ai có công

lớn được thưởng "kim phù", thì được hưởng thuế một Quận; các viên Chấp lệnh có công được hưởng

một Ấp; các viên Đốc Tướng và quân nhân có công [tờ 32b] cũng được hưởng một Quận hoặc một Ấp,

tùy theo từng hạng. Những vị nào không có công thưởng, thẩy đều giáng xuống hạng dân thường.

Ban tờ chiếu cho các điạ phương, nơi nào có Lăng Miếu của các vị vua thời trước, mà bị người

Minh phá hủy, thì quan chức nơi ấy phải tu sửa lại, và phái người trông coi; mỗi Lăng mấy người, tùy

theo từng hạng.

Tháng 3, duyệt binh ở Vĩnh Động, hàng ngũ đội binh của viên Chánh đốc là Nguyễn Liên Khiếm

Khuyết, khí giới lại không tề chỉnh, liền chém đầu Nguyễn Liên để làm gương.

Phong chức Thượng thư bộ lễ, và Kiêm Tư đông đạo quân dân bạ tịch cho Bùi Ư Đài.

Ra lệnh cho ba quân: Kẻ nào có chí hi sinh về việc nước, mà tinh thông võ nghệ, có sức mạnh,

tính quả cảm, đều được tự đến tiến thân, sẽ tuyển vào đội thị vệ nơi Nội phủ.

1

 Câu này bản chính chép: "Hứa tự nguyện đăng thành" (cho phép được tự nguyện lên trên thành). Hai chữ "đăng thành"

(lên trên thành) đáng ngờ. Vì đang lúc hai bên đánh nhau, mặt thành là nơi canh phòng cẩn mật, người thường đâu có thể lên

được. Vả lại trèo lên thành để làm gì ?như vậy đũ rõ hai chữ "đăng thành" là không hợp văn lý. hoặc do chữ "đăng ký" (ghi tên vào

quyển sổ) chép lộn ra chăng ? Vậy xin dịch theo nghĩa chử "đăng ký". 15 Đại Việt Thông Sử - Quyển I - Đế Kỷ Đệ Nhất (BD:LML)

Ngày mồng sáu , viên chỉ huy sứ nhà Minh là Lưu Thanh tại thành Tam Giang ra hàng. Lưu

Thanh vẫn sẵn có chí qui phụ ta. Nguyên hồi trước, người Tam Giang theo viên tổng binh nhà Minh [tờ

33a] đi đánh Thanh Hóa, bị thua trở về, bọn người bản xứ có những kẻ nói những lời hỗi xược, Lưu

Thanh liền mắng rằng:

"Thằng mán vô lễ! Người ấy sẽ là vị Hoàng đế của chúng mày đấy".

Đến đây Lưu Thanh ra hàng. Cách đây một thời gian ngắn, hơn vạn hàng binh các thành khác

hợp nhau làm phản, việc vỡ lỡ, đều bị giết hết, chỉ có binh sĩ thành Tam Giang không dự việc này.

Ngày mồng 8, viên Tư Không là Đinh Lễ và Thượng Tướng quân là Nguyễn Sí, đánh nhau với

Tướng nhà Minh là Vương Thông ở Mỵ Động, bị thua, Đinh Lễ tử trận, Nguyễn Sí bị địch bắt.

Phong chức Hành quân quản đốc nhập nội đại tư mã cho Thông hầu là Lưu Nhân Chú, và được

quản lĩnh 4 Vệ: Tiền, Hậu, Tả, Hữu, lại được biết tới các việc quân trong Tân Vệ.

Ra lệnh cho Tướng Tá và quân nhân trong hạt Quốc Oai, Tam Đới: Người nào bắt được tờ thư

của giặc, nội dung toàn những lời lừa dối dụ dỗ, cốt để mê hoặc lòng người, mà chỉ đem thư ấy trình

riêng [tờ 33b] lên viên Tướng trong bộ mình, sẽ bị chém đầu. Viên Đốc Tướng trong các đội ấy, mà

không xét tới việc ấy, cũng bị đồng tội. Kẻ nào phao lời mê hoặc tại các Châu Huyện, thì bắt ngay dẫn

giải tới cửa quân, chém đầu.

Bố trí những quan nhà Minh đã đầu hàng vào các Xứ: Thanh Hóa, Nghệ An, Lam Ấp, và Tân

Bình.

Ra mệnh lệnh cho các Lộ, phải tiến cử những người anh tuấn hiền tài có trí dũng và ngay thẳng,

sẽ vời vào triều đình đối đáp xử dụng. Nếu trong hạt có người hiền trên, mà các quan ẩn giấu không tiến

cử, sẽ bị giáng chức hoặc cách chức.

Ra lệnh cho chức Thiếu úy giữ lệnh giám sát trong quân ngũ: Lúc ngày thường, có tên lính nào

phạm pháp, không được tự ý giết ngay. nhưng khi lâm trận, tên lính nào trái lệnh, được quyền chém đầu

ngay, rồi sẽ tâu lên vua.

Ngày 19, thành Thị Kiều đầu hàng. Vua ra lệnh:

"người trong nước, ai có vợ con hoặc anh em đã bị quân giặc ở các thành cướp bắt làm vợ, làm

thiếp, hoặc làm tôi tớ, nay đã ra hàng, mà có thể cùng nhau đánh vào thành Đông Quan, [tờ 34a] kẻ

nào chém được đầu giặc, hoặc bắt được giặc, sẽ tra hỏi người thân thích giao cho về nhà, và vẫn được

thưởng cấp bậc, tùy theo từng hạng".

Cấm các người đồng cốt không được hành nghề tả đạo, giả xưng tà ma quỷ thần, đem những lời

phù phiếm cổ động, mê hoặc lòng người.

Ra lệnh cho những nhân dân lưu tán được về nguyên quán, kẻ nào chăm chỉ cày cấy ruộng

nương, đều cho được giao dịch mua bán, kẻ nào hoang phế việc nông, sẽ trị tội nặng.

Sai người Minh đã đầu hàng là Châu Sài đem 340 con ngựa đến Hóa Châu chăn nuôi.

Ra mệnh lệnh cho các đạo quân, luyện tập thủy chiến.

Ra mệnh lệnh cho các viên Thiếu úy, chọn những con nhà giàu, lấy hạng thân thể to lớn; tinh

thông nghề võ; có sức mạnh, lại có chí quả quyết, mỗi viên hãy chọn 200 như trên, để sung vào đội Thị

vệ.

Vì Đào Lý Khánh tư thông với giặc1

.

Cấm viên chức coi kho muối, [tờ 34b] không được tự ý đem muối thông dụng.

1

 Câu này chưa đủ ý nghĩa. Hoặc bên dưới còn hai chữ "sát chi" (giết chết) mà người chép đã bỏ sót chăng ?. 16 Đại Việt Thông Sử - Quyển I - Đế Kỷ Đệ Nhất (BD:LML)

Tháng này (tháng 5 Đinh Tỵ), nhà Minh sai viên Thái Tử Thái Phó, tước An viễn hầu là Liễu

Thăng, mang quả ấn Chinh lỗ phó tướng quân, và Thượng thư hộ Binh là Lý Khánh giữ chức Tham tán

quân vụ, dẫn 70.000 quân trong các tỉnh Kinh Hồ, Tích Giang và Phúc Kiến, do đường tỉnh Quảng Tây tới

đánh ta; viên Thái phó tước Kiềm quốc công là Mộc Thạnh, mang quả ấn Chinh nam tướng quân, đem

50.000 quân Vân Nam, do đường tỉnh Vân Nam tới đánh ta.

Mùa hạ, tháng 4. sai viên Phòng ngự là Trần Ban quản đốc công tác tu sửa cửa ải Lê Hoa, để

phòng ngăn quân Vân Nam.

Hoàng đế hạ lệnh rằng:

"Ta không có tài dũng và trí tuệ, thế mà một mình giữ trách nhiện trọng đại này, sợ không

đương nổi. Bởi thế, nên ta vẫn thường khoanh tay cầu người hiền, nghiêng lòng tôn kẻ sĩ, để cùng mưu

toan việc lớn, cứu vớt dân này. Vậy ai tiến cử những bậc có cơ mưu võ dũng hơn người, [tờ 35a] hoặc

đích thân tự tiến, ta sẽ phong cho tước Thượng Khanh".

Ghi chép công các người đã khó nhọc về việc nước: Phong chức Thái úy cho em trai Lê Lễ là

Đinh Liệt ; phong chức Quan sát sứ cho thân phụ Lê Triện là Lê Ba Lao; phong chức Phòng ngự sứ cho

con Lê Triện là Lăng1

.

Sai bam lời dụ khuyến khích các Tướng sĩ trong 14 Vệ Thiết đột, phải đồng lòng đánh quân giặc;

lại sai ban lời dụ cho các Tướng sĩ trong 3 Lộ; Nghệ An, Tân Bình và Thuận Hóa, phải gắng sức dẹp giặc.

Hoàng đế hạ lệnh cho các Tướng các quân rằng:

"Người Minh tàn hại dân ta đã hơn 20 năm nay. Buổi đầu số quân của ta có hơn trăm vạn, sai để

35 vạn chờ đánh phá thành Đông Quan, cho 25 vạn về làm ruộng, lưu vài chục vạn làm quân phòng ngự

việc nước. bây giờ phải lấy thêm quân, cứ nhà nào có 3 người thì lấy 1 người làm lính. Còn các thứ thuế

và tạp dịch đều miễn cho 3 năm. [tờ 35b] Lại tuyên bố 10 điều quân luật cho quân sĩ biết.

Cho viên Thiếu bảo là Lê Văn An được quyền tổng tri việc quân trong 4 Lộ: Quốc Oai, Thượng

Trung, Tam Đối, và Quảng Oai.

Ban 3 điều răn cho các quan văn và võ:

1. Không được vô tình.

2. Không được dối trá, khinh nhờn.

3. Không được gian tham.

Sai ban lời dụ cho các hào kiệt trong thiên hạ rằng:

"Hiện nay đã phá được nhiều thành quân địch, duy còn thành Đông Quan vẫn chưa hạ được. Bởi

thế, ta ngũ không yên giấc, ăn không biết ngon,đêm ngày lo nghĩ, Vã lại ta chưa được người hiền tài phụ

tá. Ta tuy là chủ Tướng nhưng tự xét:

1. Già yếu không có tài năng;

2. Học thức nông hẹp;

3. Trách nhiệm nặng nề khó đương nổi.

"Thế mà các vị đại thần giúp đỡ, chưa có người đặt vào chức Tướng Quốc, chức Thái phó và Thái

bảo; chức Thái úy, chức Đô nguyên soái cũng còn thiếu; các chức Hành khiển [tờ 36a] và các quan

khác, mười phần mới có một hai. Thế cho nên ta thành thực khuyên mong các vị hào kiệt gắng sức giúp

ta, để cứu vãn nhân dân, không nên ẩn mình giấu bóng, để cho thiên hạ phải chịu cảnh khổ lầm than

1

 Lê Lễ và Lê Triện là hai vị kiện Tướng, đã từng lập nhiều chiến công, và đều đã tử trận. Triều đình nghĩ tới công lao,

nên phong quan chức cho thân nhân của ông. 17 Đại Việt Thông Sử - Quyển I - Đế Kỷ Đệ Nhất (BD:LML)

này mãi. Hoặc có vị nào muốn giữ tiết tháo cao siêu như tứ hạo1

; trốn lánh công danh như Tử Phòng2

,

cũng nên vì dân, hãy ra cứu nạn, chờ sau khi thành công mà muốn toại chí nguyện, lúc ấy sẽ về ẩn nơi

rừng núi, ta không cưỡng ép".

Ra mệnh lệnh cho các Tướng giữ đồn ải, phải xét hỏi gắt những người qua lại vận sắt phục lạ, và

xét những thư từ các biên thùy đưa về, xem thực hay giả.

Tháng 5, ra mệnh cho mọi người tục nạp văn bằng của người Minh đã phong cho, và xét kỷ dấu

ấn trong văn bằng đó có đúng không.

người ở hạt Bố chánh là Nguyễn Tử Hoan hiến kế sách, Hoàng đế vừa ý, ngài bèn phong cho ông

chức Quân sư.

Ra mệnh cho các viên Thiếu úy và quan các Lộ, phải tìm tòi hết văn bằng của các ngụy quan,

(làm quan với giặc) và tịch thu tài sản trâu bò vợ con đầy tớ của các ngụy thổ quan và ngụy thổ quân

[tờ 36b] để nộp, cho phép được nộp tiền chuộc tội, để lấy tiền cấp cho quân sĩ.

Sai tuyển nhân đinh, chọn lấy những người khỏe mạnh, để bổ thêm vào hàng ngũ quân đội.

Bọn Vi Báo tại châu Tư Lăng thuộc phủ Tư Minh ra đầu hàng ta.

Các Tướng đánh nhau với quân Minh ở Từ Liêm và Cơ Xá, đều thắng trận, đều được ban thưởng

tùy từng hạng.

Ra lệnh cho các quan lại tại 4 Lộ: Thiên Trường, Kiến Xương, Lý Nhân và Tân Hưng, phải cấp

dưỡng những người ở các thành đã ra hàng, cả đàn ông và đàn bà gồm hơn 6.000 người, không được để

cho chúng phải lưu ly thất sở.

Thổ tù ở Mộc mang thuộc trấn Gia Hưng là Xa Khả Tham qui thuận, Hoàng đế phong cho chức

Ty không bình chương sự, Tri thượng Phán thuộc trấn Đà Giang, và cho túi Kim ngư áo mũ tước Hầu,

trao cho con ông là Xa Lộc chức Thượng Tướng quân vệ kim ngô; trao chức Đại Tướng quân vệ Ngọc

kiềm cho Xa Khát, Xa Bàn, Xa Điểm, đều cho [tờ 37a] được đổi ra họ nhà vua (họ Lê).

Ngày mồng 10, tháng 6, Tước Trấn viễn hầu nhà Minh đóng ở tỉnh Quảng Tây là Cố Hưng Tổ,

dẫn 50.000 quân và 5.000 con ngựa sang cứu thành Đông Đô, khi đi đến cửa ải Pha Lũy, bị các Tướng

đóng giữ ở đây là Lê Lưu và Lê Bôi đánh phá tan, Hưng Tổ phải chạy về Quì Châu.

Phụ đạo là Cầm Lan qui thuận.

Phong thêm chức Tư đồ Tư mã cho Nguyên tử thị trung là Tư Tể, và chức Tư không cho Nhân

Chú. Bổ các viên Thiếu úy là Lê Vấn, Lê Sát vào chức Tư mã Thượng Tướng; Lê Bôi vào chức Thiếu úy.

Ta đắp một đồn nhỏ ở châu Cơ Xá, bị quân nhà Minh đánh phá tan! Hoàng đế ra lệnh không

được cứu, để cho chúng yên chí là quân ta nhát.

Tháng 7, ra mệnh lệnh cho quan các Lộ, và quan văn Môn hạ tỉnh hành khiển, cùng với Tướng

Tá các đạo quân, hợp đồng lập hộ tịch (sổ đinh).

Sứ thần nước Chiêm Thành tới dâng phẩm vật bản xứ.

Ra lệnh ban tờ dụ cho các vị Tướng quân: [tờ 37b] "Tướng nào giữ việc binh, phải chăm lo về

việc chiến trận, Tướng giữ việc vận tải, phải chăm lo về việc tiếp tế lương thực, việc đốn cũi, việc nấu

muối, và ngăn chặn các lối đường thủy, đường bộ, để bắt những kẻ gian. Các ngươi nên hi sinh bản

1

 Tứ hạo: 4 ông già ngoại 80 tuổi: 1. Đông Viên Công, 2. Hạ Hoàng Công, 3.- ỷ Lý Công, 4.-Giác Lý Tiên Sinh, cùng nhau

ở ẩn tại núi Thương Sơn, vua Hán Cao tổ cho sứ vời, đều không chịu tới. Sau vua Cao Tổ định bỏ Thái tử Doanh, dựng em Doanh

là Như Ý lên thay, Trương Lương bèn lập mưu mời đón được 4 ông già này đến phụ Tá Thái tử. Vua Cao Tổ thấy vậy, cho là Thái

tử được người hiền giúp, bèn bỏ ý thay Thái tử.

2

 Tử Phòng tức Trương Lương, được Hoàng Thạch Công trao cho quyển "Thái công binh pháp", học tập trở nên đại tài

thao lược, chức quân sư giúp vua Hán Cao Tổ bình định thiên hạ. Sau khi thành công, ông không chịu nhận chức làm quan, rồi

giong thuyền tiêu dao nơi Ngũ Hồ. 18 Đại Việt Thông Sử - Quyển I - Đế Kỷ Đệ Nhất (BD:LML)

thân, chăm lo công vụ, sát cánh cùng nhau giết hết quân thù. Ta là cha mẹ của dân, há ta không biết

như thế là vất vã, mà còn buộc các ngươi vào những việc cực khổ đó chăng ? đó chỉ là sự chẳng được

đừng vậy. Các ngươi hãy cố gắng lên, để lập công lớn".

Các Tướng đánh nhau với quân Minh ở thành Đông Quan và hạt Thổ khối, đều thắng trận, được

thưởng ngân bài và tiền lụa, tùy theo từng hạng.

Nước Ai Lao sai sứ sứ thần đến hiến phẩm vật bản xứ.

Tháng 8, ra lệnh ban tờ dụ khắp thiên hạ rằng:

"Hiện nay quân giặc ở trong nước ta, dân ta chưa được bình định, thì các ngươi có yên lòng

chăng ? Xưa vì họ Hồ vô đạo, cho nên giặc Minh nhân đó mà cướp nước ta, [tờ 38a] những sự chúng

tàn ngược nhân dân ta, tưởng các ngươi cũng đã đều thấy cả . Bây giờ hãy dùng sức gian lao trong một

năm, để hưởng cơ nghiệp thái bình muông thuở. Các ngươi nên nghĩ cho kỹ, đừng để lưu mối họa về

sau".

Sai bọn Lê Khắc Hài sang sứ nước Chiêm Thành.

Lê Khả Tham hiến 3 con voi. Hoàng đế ban thưởng ngựa và lụa cho Khả Tham.

Ra lệnh nhân dân các Lộ tới cả dinh Bồ Đề, để tuyển lấy hạng khỏe mạnh, ghép thêm vào hàng

ngũ quân đội.

Ra lệnh ban lời dụ cho Tướng Tá quân nhân lộ Tân Bình và Lộ Thuận Hóa rằng:

"Thời xưa nước Chiêm Thành phản nghịch, xâm lấn nơi biên thùy nước ta, lúc ấy, chính Tổ Tiên

ông cha các ngươi, đã tận trung với nước, góp sức đánh bại quân thù, lấy lại đất đai do chúng đã lấn

cướp. Những công trạng hiển hách đó, hiện đã chép vào sử sách, lưu truyền đời sau. Hiện nay, người

Minh vô đạo, trái nghịch lòng trời, hiếu chiến dùng binh, để mở thêm đất đai, khiến cho nhân dân ta đã

chịu lầm than khốn khổ hơn 20 năm, thế mà trong các Lộ ta, chưa thấy có kẻ nào đem lòng trung nghĩa,

chưa gắng sức lập công. Các ngươi là bầy tôi nơi biên thùy, nên nghĩ đến công của Tổ Tiên ông cha các

ngươi ngày trước, phải tận trung với nhà vua, cố sức đánh giặc lập công. Những sự trung thành đó, rất

đáng khen, và sẽ đặt cách phong tước vào hàng quan cao. Các ngươi nên cố gắng".

Ngày mồng 8, tháng 9 viên Thái úy Trần Hãn, Tư Mã Lê Sát, và Thiếu úy Lê Lý, dẫn quân đánh

phá được thành Xương Giang, quan Tri phủ Lưu Tử Phụ và chỉ huy dân Lý Nhiệm nhà Minh đều bị tử

trận, ta thu chiến lợi phẩm, khao cho quân sĩ, Hoàng đế bèn sai các Tướng dẫn quân qua sông, cướp lấy

đê Vạn Xuân, đắp bức lũy lên, để uy hiếp thành Đông Đô.

Quan tổng quản nhà Minh tước An viễn hầu là Liễu Thăng, dẫn 10 vạn quân tự tỉnh Quảng Tây

[tờ 39a] tới nước ta; tước Kiềm quốc công nhà Minh là Mộc Thạnh, dẫn 5 vạn quân tự tỉnh Vân Nam tới

nước ta. tin này tự biên thùy báo về rất gấp! Hoàng đế bèn sai Trần Hãn, Lê Sát và Lê Nhân Chú dẫn

binh tượng (voi) tới phục tại ải Chi Lăng, để đợi chống đạo viện binh tự Quảng Tây tới; sai Phạm Văn Sảo

và Lê Khả, dẫn binh tượng đóng giữ ải Lê Hoa thuộc Mông Tự, để đợi chống đạo viện binh tự Vân Nam

tới.

Lúc này, được tin đại binh nhà Minh sắp ồ ạt kéo đến, các Tướng phần nhiều xin Hoàng thượng

đánh gấp ngay các thành nơi Đông Đô, để tuyệt quân nội ứng của chúng. Nhưng Hoàng đế phán rằng:

"Việc đánh thành lúc này là kế sách kém nhất. Là vì nếu ta đánh vào thành kiên cố đó, phải mất

mấy tháng hoặc hàng năm, chưa chắc đã hạ nổi, binh sĩ ta tất phải mỏi mệt chán nản. Đang khi ấy, viện

binh của địch lại kéo đến sau lưng, thế là ta bị địch đánh cả vào đằng trước và đằng sau, rất là nguy lắm.

Chi bằng ta hãy dưỡng sức, để chờ đánh viện binh , một khi viện binh đã bị phá, tất nhiên Tướng trong

thành phải ra hàng, thế là ta chỉ khó nhọc một phen, mà thu được hai mối lợi. [tờ 39b] Đó là kế sách

vạn toàn vậy".

Sau đấy, ngài sai canh gác cẩn thận, tuần phòng ngày đêm, và ra lệnh cho các Lộ: Lạng Sơn,

Bắc Giang, Tam Đới, Tuyên Quang và Qui Hóa, phải dời vợ con của quân dân đi nới khác, để lánh viện

binh của địch tới, rồi hợp các Tướng thảo luận, Hoàng đế bàn rằng: 19 Đại Việt Thông Sử - Quyển I - Đế Kỷ Đệ Nhất (BD:LML)

"Quân giặc (Trung Hoa) sẵn lòng khing rẻ ta, cho là quốc dân ta nhát, vốn sợ oai chúng, nay

nghe tin mấy chục vạn quân chúng kéo đến, tất là phải kinh sợ. Và cái sự khỏe lấn yếu, nhiều thắng ít, là

sự thông thường. Nhưng chúng không tính đến hình thế được thua của mình và của người, lại không biết

tới cơ trời đi lại của thời vận. Còn như sự dẫn quân đi cứu nguy, thường cần mau lẹ. Vậy tất nhiên chúng

đang đi một cách vội vàng. Binh pháp có câu: "Dẫn quân đi gấp khoảng đường 500 dặm để tới đích, sẽ

quệ viên thượng tướng". Nay Liễu thăng dẫn viện binh đi gấp, binh sĩ tất mỏi mệt [tờ 40a] ta đem đạo

quân được thảnh thơi đánh quân mệt nhọc, còn lẽ già là không thắng".

Ngài liền ra lệnh cho Trần Hãn và Lê Sát, dẫn quân đi đóng giữ nơi hiểm yếu, hễ viện binh đến,

lập tức đón đánh ngay tại nơi biên cảnh, đừng để cho chúng vào được Bình Dương.

Ngày 18, đạo quân của Liễu Thăng tới cửa Quan Pha Lũy, viên Tướng giữ Quan là Lê Lưu kéo

quân lui, về đóng tại Ải Lưu, rồi lui về giữ Chi Lăng.

Ngày 20, Liễu Thăng thân tự đốc đạo quân tiền phong tiến tới, Trần Hãn và Lê Sát liền đem quân

phục binh ra đánh, phá tan, chém đầu Liễu Thăng tại núi Mã Yên!

Ngày 25, Hoàng đế sai Lê Lý và Lê Văn An dẫn thêm quân đến, hiệp cùng với bọn Lê Sát đánh

phá quân Minh, chém đầu tước Bảo Định Bá là Lương Minh.

Ngày 28, viên Tham tán quân vụ nhà Minh, chức binh bộ Thượng thư Là Lý Khánh chết bệnh tại

trong quân, Phó Tướng là Thôi Tụ và Công bộ Thượng thư là Hoàng Phúc, thu thập tàn quân, miễn

cưỡng tiến vào, bọn Lê Sát mở đường [tờ 40b] cho tiến, cho đến chỗ phục binh, mới tung quân đón

đánh, chúng bị thua. Bọn Lê Sát liền chia quân ngăn chặn các đường hẻm nơi Mã Yên, Chi Lăng và Pha

Lũy.

Thôi Tụ xin hòa, Hoàng đế không cho, ngài bèn sai Trần Hãn dẫn quân đánh úp vào quân vận

lương thực của địch; Lê Vấn và Lê Khôi đem thêm quân tiến đánh, đánh trong 15 ngày, phá tan quân

Minh, chém chết 5 vạn quân, bắt sống Tướng Thôi Tụ và Hoàng Phúc cùng hơn 5 vạn quân, thu chiến lợi

phẩm rất nhiều vô kể.

Khi đạo quân của Mộc Thạnh đến cửa quan Lê Hoa, Hoàng đế tính: Mộc Thạnh là viên tướng

nhiều tuổi, từng trải, tất không dám tiến bừa. Ngài bèn mật báo cho Phạm Văn Sảo và Trịnh Khả phải cố

thủ, chớ có giao chiến.

Sau khi Liễu Thăng thua trận, Hoàng đế sai đêm 4 tên Chỉ huy Thiên hộ đã bắt được, và bằng

sắc ấn tính của Liễu Thăng, đưa đến cho Mộc Thạnh, quân sĩ của Thạnh quá kinh hãi, tự tan rã, [tờ

41a] bọn Văn Sảo liền tung quân đánh vào, phá tan đạo quân đó ở nơi Lãnh Thủy Đan Xá, chém đần

hơn vạn tên, thu rất nhiều chiến lợi phẩm.

Hoàng đế sai Thông sự là Đặng Hiếu Lộc, dẫn Tướng Thôi Tụ và Hoàng Phúc do ta bắt, cùng với

ấn tính cờ trống của chúng, đến thành Đông Đô hiểu thị. Bọn Vương Thông trong thành trông thấy, xiết

đỗi kinh hoàng! Ngài bèn sai các Tướng sắm các chiến cụ phá thành, dẫn quân tiến sát thành Đông Đô,

Vương Thông mấy lần giao chiến đều thất lợi, lại bị ta vây hết đường hái củi và cỏ ngựa.

Tháng 11, Hoàng đế ra lệnh cho các Tướng Tá dâng kế sách về thời sự, kế nào có thể dùng sẽ

được thưởng hậu.

  

Hoàng đế sai Đại Tướng Nguyễn Lôi, đem thư đến thành Cổ Lộng và thành Tây Đô dụ hàng, binh

tướng hai thành này đều nghe theo ra hàng.

Vương Thông và Sơn Thọ sai viên Thiên hộ đem thư giảng hòa tới, xin mở con đường cho chúng

về nước. Hoàng đế ưng cho.

Vương Thông lại dẫn quân trong thành ra đánh ta, các quân Tướng đặt phục binh rồi vờ thua

chạy, quân Minh đuổi theo, tới ổ phục binh [tờ 41b] quân ta vùng lên đánh cho tơi bời! Vương Thông

ngã ngựa, suýt nữa bị bắt, may sao chạy vào thành được thoát, quan quân liền tiến thẳng đến cửa Nam

Thành, rồi đắp bờ lũy để chống cự. Hoàng đế thì thân đốc các Tướng, đem quân đắp bờ lũy tự phường

An Hoa thẳng tới cửa Bắc thành, chỉ trong một buổi chiều đã đắp xong. Tự đây quân Minh chỉ ở trong

thành, không dám ra nữa. 20 Đại Việt Thông Sử - Quyển I - Đế Kỷ Đệ Nhất (BD:LML)

Ghi chiến công của Tướng Tá vây cữa Nam Thành Đông Đô, ban thưởng tùy theo từng hạng.

Vương Thông và Sơn Thọ bị bao vây khốn đốn, lại xin giảng hòa. Quốc dân ta đã bị cực khổ về

chính sách tàn bạo của người Minh lâu năm, nên phần nhiều kéo nhau đến xin Hoàng đế đánh gấp và

giết cho bằng hết để hả giận. Ngài phán rằng:

"Việc dụng binh, lấy sự toàn quân1

 (không chết một mạng nào) là hơn cả. nay hãy để cho lũ

Vương Thông về nói với vua nhà Minh, trả lại đất nước ta, không còn xâm lấn, thì ta còn cần gì hơn nữa,

hà tất phải giết hết, để kết mối thù với nước lớn".

Ngài bèn ưng cho hòa và ra lệnh cho Lộ Bắc Giang và Lạng Giang, tu sửa lại cầu cống đường xá,

sắm đủ ghe thuyền, để chờ đưa quân Minh về nước. [tờ 42a] Lại sai Hành khiển là Nguyễn Trãi soạn tờ

biểu, viết lời Trần Cao dòng dõi họ Trần xin được dựng làm vua, đưa tờ biểu này nhờ Tướng ở Vân Nam

là Mộc Thạnh và Tướng ở Quảng Tây là Cố Hưng Tổ chuyển tâu với triều Minh.

Trước ta đã bắt được hai Tướng nhà Minh là Thôi Tụ và Hoàng Phúc, nhưng Thôi Tụ đã chết

bệnh, bèn sai lính hộ tống Hoàng Phúc về tỉnh Quảng Tây.

Ta đưa thư trả lời Vương Thông dùng Lê Quốc Trinh và Lê Như Trì làm con tin.

Thái Giám nhà Minh là Sơn Thọ và Mã Kỳ đến dinh Bồ Đề làm con tin. Hoàng đế cũng sai con là

Tư Tề và cháu họ là Nhân Chú vào thành Đông Đô làm con tin, để định hòa ước.

Hoàng đế ra lệnh ban lời dụ 6 điều cho Tướng Tá vá quân sĩ:

1. Phàm những bề tôi phải hết lòng trung, không được làm những việc khi trá.

2. Những dân chúng nên chuộng sự ngay thẳng, chớ làm những sự gian tà trái phép.

3. Những người ra trận đánh giặc, khi chém giết hay bắt được quân địch, không được nhận hão

để tranh công.

4. Trong quân dân có kẻ nào gian ngược trái phép, thì quân dân khác [tờ 42b] nên báo bắt trị

tội, và các ngươi cũng nên lấy kẻ ấy làm gương, đừng để chính mình cũng sẽ bị phạt như

vậy.

5. Những cẫn thần thị vệ, chớ nên cậy quyền quý mà ngược ngạo mọi người.

6. Những bầy tôi có bổn phận xông pha công việc, nên tự mình làm trước, để cho kẻ dưới bắt

chước.

Ngày 22, Hoàng đế cùng với các Tướng nhà Minh: Tổng binh thành sơn hầu là Vương Thông,

Tham tướng Mã Anh, Thái giám Sơn Thọ và Mã Kỳ, Vinh xương hầu Trần Trí, An binh hầu Lý An, Đô tư

Phương Chánh, Chưởng đô tư sự Trần Tuyền, và Trần Tá, Giám sát ngự sử Chu Kỳ Hậu, Cấp sự trung

Quách Vĩnh Thanh, Hữu bố chánh sứ Dặc Kiêm, Tả hữu tham chánh Hồng Bỉnh Lương, Lục Trinh và Lục

Quảng Bình, Án sát sứ Dương Thời Tập, và Thiêm sự Quách Đoan, hội ở cửa Nam thành Đông Đô. [tờ

43a] Ngài ra lệnh cho các Tướng giải vây thành này, kéo quân lui về, lại sai giải vây cho 3 thành: Tây

đô, Cổ lộng và Chí linh, truyền cho quân ta hộ tống các Tướng trong 3 thành trên dẫn quân về cả thành

Đông Đô, để sẽ cùng trở về Trung Hoa.

Ngày 29, Hoàng đế sai Lê Thiếu Dĩnh và Lê Cảnh Quang, đem tờ biểu cầu phong của Trần Cao,

cùng các phẩm vật cống hiến, theo viên chỉ huy do Vương Thông sai, đi sang triều Minh.

Tháng 12, Hoàng đế ra lệnh cho các Tướng coi đường thủy, cấp 500 cái thuyền cho người Minh,

giao cho Phương Chánh và Mã Kỳ Lĩnh; các Tướng coi đường bộ thì cấp lương thảo, giao cho Sơn Thọ và

Hoàng Phúc nhận lãnh; đưa về hơn 2 vạn quân cả đều đầu hàng và bị bắt, cùng hai vạn con ngựa, giao

Mã Kỳ nhận lãnh; Chinh Man Tướng quân là Trần Tuyền thì dẫn quân Trấn thủ đi hộ tống.

1

 Câu này chỉnh bản chép toàn quốc, có lẽ chép lầm. Xin dịch theo nghĩa chữ toàn quân. 21 Đại Việt Thông Sử - Quyển I - Đế Kỷ Đệ Nhất (BD:LML)

Ngày 12, Phương Chánh và Mã Kỳ tới dinh Bồ Đề cáo biệt Hoàng đế, tại đây suốt một buổi chiều,

hai Tướng mới ra về. Hoàng đế sai sắm [tờ 43b] trâu dê mùn màng và lể phẫm hậu tặng. Lúc ấy, các

Tướng sĩ và nhân dân ta, đều thâm thù sự tàn bạo của người Minh, nên đều mật khuyên Hoàng đế nhân

dịp giết chết cả đi. nhưng ngài dụ rằng:

"Việc phục thù trả oán, là tình thường của mọi người, nhưng không ưa giết người, là bản tâm của

người nhân. Huống chi người ta đã hàng, mà mình lại giết chết, thì còn gì bất tường hơn nữa. Ví bằng

giết đi cho hả giận một lúc, để gánh lấy tiếng xấu giết kẻ hàng mãi tới đời sau, chi bằng hãy cho sống ức

vạn mạng người, để dứt mối chiến tranh tới muôn thuở, công việc sẽ chép vào sử sách, tiếng thơm sẽ

truyền tới ngàn thu, há chẳng đẹp lắm ru ?".

Các bầy tôi đều bái phục độ lượng khoan hồng của Hoàng đế.

Khi Mộc Thạnh dâng tờ biểu cầu phong của Trần Cao lên vua Minh, thì lúc ấy vua Minh vẫn chưa

biết việc Vương Thông đã ký hòa ước với ta, ngài bèn ban lời dụ cho quần thần rằng:

[tờ 44a] "Những kẻ bàn tán, không hiểu ý muốn dứt việc can qua, tất cho là nghe theo thỉnh

cầu của An Nam là không oai hùng. Nhưng nếu được nhân dân yên lành, thì trẫm không e ngại những lời

đó".

Ngài bèn sai Công bộ Thượng thư là La Nhữ Kinh và Từ Vĩnh Viễn đem tờ sắc sang nước ta,

phong Trần Cao làm "An nam quốc vương", liền bãi đạo binh chinh nam; triệu bọn Vương Thông về

nước. Tự đấy dứt nạn binh đao, thiên hạ thái bình.

 22 Đại Việt Thông Sử - Quyển II - Đế Kỷ Đệ Nhị (BD:LML)

Đại Việt Thông Sử

QUYỂN II

Đế Kỷ Đệ Nhị

THÁI TỔ (HẠ)

Năm Mậu Thân niên hiệu Thuận Thiên thứ nhất (1428), nhằm niên hiệu Thiên Đức thứ 3 nhà

Minh, ngày mồng 10, tháng giêng, mùa xuân, vua Trần Cao ngự tại thành Cổ Lộng, tự cho mình không

có công gì với thiên hạ, mà giữ ngôi vua, thường ái náy không yên, bèn cỡi thuyền ra biển, lén vào châu

Ngọc Ma. Khi Trần Cao đến bến Ma Cảng, quan quân đuổi kịp dẫn trở về, cho uống thuốc độc chết.

Hoàng đế sai làm lễ táng tế rất hậu.

Hoàng đế sai các quan: Tư Đồ, Tư Mã, Thiếu úy và Hành khiển, cùng hợp bàn định phép cai trị

muôn dân, để cho người làm Tướng [tờ 45b] biết phép trị quân, người làm quan các Lộ biết phép trị

dân, và sự răn dạy quân dân, cũng nên cho biết có phép, để những người giữ việc gì, biết phép của việc

ấy mà làm.

Hoàng đế ra lệnh cho Tướng Tá và quần thần rằng:

"Tự xưa đến nay, việc cai trị trong nước, tất phải có phép, nếu không sẽ loạn. Bởi thế nên bắt

chước đời xưa mà dựng phép, để dạy Tướng Tá quân dân, khiến cho đều biết điều thiện ác. Vậy đều

thiện thì làm, điều bất thiện thì lánh, chớ có phạm pháp".

Tháng 2, định phong chức tước cho các công thần: Gồm 121 quân nhân có công cao về sự xông

pha vất vả ngoài mặt trận nơi núi đồi, đều được thưởng; hạng công đệ nhất được cho đồi sang họ vua,

là bọn Lê Qui, Lê Nhượng gồm 52 người, phong chức "Vinh lộc đại phu [tờ 46a] tả kim ngô vệ đại tướng

quân" tước "Thượng trí tự"; hạng công thứ 2 được cho đổi sang họ vua, là bọn Lê Bồ, Lê Liệt, Lê Khảo

gồm 72 người, phong chức "Trung lượng tả phụng thần vệ quân" tước "Đại trí tự"; hạng công thứ 3 được

cho đổi sang họ vua, là bọn Lê Lễ, Lê Hiến gồm 94 người, phong chức "Trung vũ đại phu câu linh vệ

tướng quân" tước "trí tự"; bổ Đào công soạn chức Hoàng Môn thị Lang.

Ngày 8 tháng 3, Chánh sứ nhà Minh là Lý Kỳ, La Nhữ Kính, cùng phó sứ là Hoàng Ký Từ Vĩnh Đạt

mang tờ sắc tới Đông kinh, sách phong Trần Cao làm vua, Hoàng đế sai bọn Ông Khí mang tờ biểu đi

theo Lý Kỳ sang triều Minh tạ ơn.

Phong con trai thứ là Nguyên Long tước Lương quận công.

Hoàng đế họp tất cả các tướng văn võ và quần thần [tờ 46b] để định công ban thưởng, tùy

theo người có công cao công thấp, để phong cấp bậc trên dưới: Phong thừa chỉ Nguyễn Trãi tước quan

phục hầu; Tư đồ Trần Hãn chức Tả tướng quân; cơ mật đại sứ Phạm Văn Sảo chức Thái bảo, đều được

cho đôỉ ra họ vua.

Chia trong nước làm 5 đạo, mỗi đạo đặt một vệ quân, mỗi Vệ đặt một viên tổng quản, để cho

cấp lớn cấp nhỏ, cấp trên cấp dưới, đều có sự liên hệ ràng buộc nhau. Lại đặt chức hành khiển vào các

Đạo, để giữ sổ sách, ghi tên quân dân. Sai quan tế thần sông núi miếu xã các nơi, và tế lăng phẩm các vị

vua triều trước. Truy tôn tên thụy cụ Tổ Khảo đời thứ hai.

Tháng 4, Hoàng thượng tới thành Đông Kinh, bèn đóng kinh đô tại đây. Quần thần dâng tờ biểu

tôn ngài lên ngôi Hoàng đế, ngài khiêm nhường không nhận, ban lời dụ rằng: 23 Đại Việt Thông Sử - Quyển II - Đế Kỷ Đệ Nhị (BD:LML)

"Những vị vua có công đức lớn, như các vua Vũ Thang, [tờ 47a] Văn và Võ thời Tam đại, mà

cũng chỉ tước Vương thôi. Huống chi đức lượng mỏng manh như Trẫm, đâu dám nói đến hiệu Hoàng đế,

Nay chỉ xưng tước Vương cũng đã quá vậy".

Ngày 15, Hoàng thượng lên ngôi vua tại điện Kinh Thiên, xưng là "Thuận Thiên thừa vận, Duệ

Văn Anh Vũ Đại Vương", đặt tên nước là Đại Việt, đổi niên hiệu đại xá thiên hạ, ban lời cáo rằng:

"Việc làm nhân nghĩa, cốt yếu nhân dân, đạo quân điếu phạt, trước trừ kẻ bạo. Nước Đại Việt ta,

là một nước văn hiến, đối với Trung Hoa, non sông bờ cõi đã khác nhau, phong tục Bắc Nam cũng không

giống. Tự họ triệu họ Đinh họ Lý họ Trần, dựng nền độc lập nước ta, cùng triều Hán triều Đường triều

Tống triều Nguyên, đều xưng Hoàng đế một nước. Tuy nước mạnh nước yếu không đồng đều, nhưng

hào kiệt nước nhà vẫn chẳng thiếu. Thế cho nên [tờ 47b] Lưu Cung Triệu Tiết đánh nước ta, đều phải

gánh lấy họa thảm bại; Toa Đô thì bị bắt tại quan Hàm Tử; Ô Mã thì bị giết ở sông Bạch Đằng. Xét vào

việc trước, đủ có chứng minh.

"Hồi trước đây, vì chánh sự họ Hồ hà khắc, khiến lòng nhân dân oán thù, người Minh1

 nhân giày

xéo dân ta, bọn ác lại mưu toan bán nước. khắc nghiệt tự đốt dân đen, thảm họa như chôn con đỏ. Kế

lừa lương dân, kể có hàng ngàn vạn, đem binh gây chiến, đã hơn 20 năm, thương nhân bại nghĩa, trời

đất tối om, thuế nặng sưu cao, non sông vét sạch. Bắt dân kiếm vàng, dầm lam chướng mà phá non đãi

cát; bắt dân kiếm ngọc [tờ 48a] đụng thuồng luồng mà lặn biển lội sông. Lại sai đặt bầy nhử hươu đen,

chăng lưới bắt chim biếc. Sâu bọ cỏ cây, cũng hết đường sống, điên liên quan, quả2

, thẩy đều không

yên. Hút máu sinh linh, cho béo mồm quan lại; hao công hồ mộc, để xây cất thự dinh. Phục dịch nhân

công khốn khổ, làng xóm canh cửi bỏ hoang. những tội ác đó, dù gánh cạn nước biển, rửa chẳng hết

nhơ; hoặc chẻ hết trúc rừng, chép không hết lỗi. Thần dân đều giận, trời đất không tha.

"Ta đây khởi nghĩa tự núi Lam Sơn, nương mình nơi nội vắng. Tự Nghĩ: Kẻ thế thù đâu thể đội

trời chung, phường nghịch tặc quyết thề [tờ 48b] không cùng sống. Đau lòng nhức óc, chốc đã mười

mấy năm thừa; nếm mật nằm gai, đâu chỉ một ngày nào nọ. Nổi giận quên ăn, đem sách lược thao

nghiên cứu; suy kiêm ngẫm cổ, thấy đời hưng phế đổi thay. Quyết tâm phục quốc, chẳng lúc nào quên.

Khi ta mới khởi nghĩa binh, đúng lúc quân thù đang mạnh".

"Ngặt vì, nhân tài như lá mùa thu, tuấn kiệt tựa sao buổi sớm, thiếu kẻ bôn tẩu trước sau, thiếu

người mưu mô màn trướng. Chỉ vì, một niệm cứu dân, thường mong thành Đông thẳng tới: cỗ xe cầu

Tướng, vẫn trơ bên tả bỏ không. Nhưng, hiền tài chưa thấy, mịt mù như trông cõi trùng dương; thành

thực tự mình, gấp bách như vớt người chết đuối. [tờ 49a] Giận chưa giết được bạo tàn; ngán vận suy

của nhà nước. Khi ở Linh Sơn, lương thiếu hàng tuần, khi ở Côi Huyện, lính chưa đủ đội. Áng chừng trời

bắt khốn cùng, để trao trách nhiệm, cho nên ta càng cố gắng, mong vượt gian lao. Dựng cờ khởi nghĩa,

nhân dân đâu đấy sum vầy; mở tiệc khao quân, binh sĩ cha con một dạ. Dùng kế sách "nhược chế

cường" (nước yếu đánh nước mạnh), đánh vào chỗ hở; theo chiến lược "quả địch chúng" (ít quân đánh

nhiều quân), phục đạo kỳ binh".

"Kết quả: Đại nghĩa đã thắng được hung tàn; chí nhân đã thay phường bạo ngược. Trận Bồ Đằng

chớp nhoáng sấm vang; trận Trà Lân chẻ tre khói tỏa! Sĩ khí càng hăng, binh uy lừng lẩy! Trần Trí Sơn

Thọ, nghe hơi đã tán phách kinh hồn; Phương Chánh Lý An, nín thở mà [tờ 49b] tìm đường thoát chết.

Thừa thắng ruổi dài, Tây kinh ta đã thu được; chỉ gươm thẳng tiến. Đông Đô thẩy lại về ta. Ninh Kiều

máu chảy thành sông, hôi tanh muôn dặm; Tuy động thây nằm đầy nội, lưu xú ngàn thu. Trần Hợp bị

chém đầu, Lý Lượng lại phơi xác,, Vương Thông mưu tính không xong, Mã Anh cứu nguy không nổi.

Chúng sức đã cùng, đành khoanh tay mà chết; ta mưu lòng phục, không cần đánh địch tự hàng, Tưởng

chúng tất thay lòng mà lui tới, nào ngờ lại gây nghiệt để mua oan: chỉ cố chấp ý kiến của mình, để gây

tai vạ cho người khác; tham công trong một thời, mua cười khắp thiên hạ [tờ 50a] Đến nổi vua Tuyên

Đức hiếu chiến không ngừng, lại sai Thạnh Thăng đem dầu chữa lửa. Tháng 9, năm Đinh tỵ, Liễu Thăng

1

 Câu này chính bản chép cuồng Hồ. Có lẽ chép lộn. Xin dịch theo nghĩa chữ "cuồng Minh".

2

 Điên liên: Những người cùng quẩn, không có thân thích, không biết trông cậy vào đầu được. Quan: Người đàn ông góa

vợ. Quả: Người đàn bà góa chồng. 24 Đại Việt Thông Sử - Quyển II - Đế Kỷ Đệ Nhị (BD:LML)

dẫn quân do Khâu Ôn tiến, cũng tháng này Mộc Thạnh chia đường tự Vân Nam sang. Ta điều binh giữ

hiểm, bẻ gảy nhuệ phong; lại sai lính chặn đánh ngang, tuyệt đường lương thảo. Ngày 18, trận Chi Lăng

Liễu Thăng bị thua, ngày 20, trận Mã Yên Liễu Thăng bị giết, ngày 25, Định Bá Lương Minh tử trận, ngày

28, thượng thư Lý Khánh quyên sinh. [tờ 50b] Ta thừa thế lia đao chẻ trúc, chúng vội vàng ngả giáo

vào thành. Liền thêm lính vây thành bốn mặt, hẹn giết giặc vào giữa tháng mười. Bèn tuyển quân tùy hổ,

ra lệnh Tướng trảo nha, gươm mài mòn đá núi, voi uống cạn nước sông, đánh một trận quét quân kình

ngạc, trận thứ hai tan lũ chim muông. Tổ kiến hỏng phá toang đê lớn, qua cơn dông rụng hết lá khô. Đô

đốc Thôi Tụ quì chân xin lỗi, Thượng thư Hoàng Phúc tự trói ra hàng. Thây chất đầy đường hai tỉnh

Lạng, máu trôi nhuộm đỏ nước Xương Bình! Khiến cho gió mây thay đổi sắc, nhật nguyệt kém hào

quang! Quân Vân Nam bị ta ách ở Lê Hoa, [tờ 51a] quá sợ hãi mà vỡ toang mật; quân Mộc Thạnh nghe

tin Thăng thua ở Cần Trạm, dẫm lên nhau để chạy thoát thân! Lãnh câu máu chảy trôi cây, nước sông

rền rĩ; Đan xá thây chồng như núi, cỏ nội đượm hồng! Hai đạo viện binh, thua trận chưa hề trở gót; các

thành cùng khốn, ra hàng đều phải bó gươm. Bắt tên đầu đảng, chúng van lơn như hổ đói múa đuôi;

không giết là oai, ta thể tất tấm lòng nhân Thượng đế. Cấp năm trăm thuyền cho Mã Kỳ Phương Chánh,

ra ngoài biển mà còn phách lạc hồn bay; cấp mấy nghìn ngựa cho Vương Thông Mã Anh [tờ 51b] về tới

Tàu mà vẫn tim rung gân giựt! Chúng đã sợ chết mà cầu hòa, tỏ lòng thành thực; ta muốn toàn quân là

Thượng Sách, dân được nghĩ ngơi. Đó là mưu kế rất sâu xa, việc này xưa nay chưa từng có".

"Xã tắc tự đây vững bền, non sông tự đây đổi sắc, kiền khôn đang bĩ lại thành hanh, nhật nguyệt

đã mờ bừng sáng chói. Dựng nền thái bình muôn thuở, rửa sách ô nhục ngàn thu. Đó là nhờ trời đất tổ

tiên phù hộ độ trì, mới được như vậy".

"Than ôi! Một mảnh áo nhung, dựng nên huy hoàng công nghiệp, bốn phương phẳng lặng, ban

bố tờ cáo duy tân. Truyền khắp gần xa, thẩy đều nghe biết".

Ban tờ chiếu khắp thiên hạ: Các [tờ 52a] thứ thuế ruộng đất, đầm trì, bãi dâu, và trưng thâu

vàng bạc, đều được miễn thuế trong 2 năm; trong các Lộ, ai tự 70b tuổi trở lên, được miễn sai dịch; có

người con hiếu, hoặc người vợ thủ tiết; thì quan đầu Lộ tâu lên triều đình dể ban khen thưởng; nhà nào

có 3 người tòng quân, thì cho được miễn 1 người; Huyện nào có lăng mộ hoặc miếu thờ các vị Đế Vương

hoặc Công Thần thời trước, thì quan đầu huyện tâu lên triều đình, để cấp lương cho người phu trông coi

nơi đó.

Ngày 20, ban tên húy hiệu cho các Thần thờ tại các Miếu.

Tháng này sông Nhĩ Hà bổng sản xuất vàng, quần thần bèn dâng tờ biểu tâu mừng về việc này.

Tặng hiệu Trung Vũ Đại Thần cho Bình Chương Sự là Lê Thạch; dùng Lê Tri Vận vào Ban tri tả

hữu; phong chức Tổng tri vệ Xa Kỵ cho Liệt hầu Nguyễn Lỗ.

Hoàng đế ra lệnh sai trị tội các ngụy quan đã theo giặc Tàu.

Sứ thần Lê Thiếu Dĩnh sang sứ triều Minh trở về.

Tháng 4 nhuận, [tờ 52b] Hoàng đế sai các đại thần, lại bàn định thể thức bổ các quan Lộ quan

Huyện và quan giữ các nơi cửa biển quan trọng, chọn những hạng tinh thông và có đức thanh liêm chính

trực, thì các quan tiến cử, để sung bổ các chức trên.

Đúc quả ấn "Thuận thiên bảo tỷ".

Ngày 12, tháng 5, Hoàng đế triệu các đại thần vào triều, bàn định luật lệnh về các chức quan Lộ

quan Trấn và đồng ban, cùng điều lệ về tước trật.

Tháng 6, Hoàng đế sai khảo hạch các quan trong triều ngoài quận, chia làm ba bậc. Lại ra mệnh

cho các quan văn quan võ đại thần, tiến cử người hiền tài, sẽ được thưởng, nếu vì tiền của hoặc vì thân

thích, mà tiến cử người không xứng, sẽ bị tội.

Ngày 26, Hoàng đế ban chỉ hỏi các đại thần văn võ rằng:

"Trẫm là người thế nào, mà mệnh trời trao cho chức Đế Vương ? Và trẩm nhờ ở điểm nào mà

dựng nên được công nghiệp lớn này ? Hiện nay, [tờ 53a] công việc nơi triều đình rất phức tạp, việc gì 25 Đại Việt Thông Sử - Quyển II - Đế Kỷ Đệ Nhị (BD:LML)

nên làm trước, việc già nên làm sau ? Hiện các Tướng trong triều, ai là người đảm nhiệm được nhiệm vụ

trọng đại, có thể ủy thác được mệnh lệnh ngoài nghìn dặm ? Và ai có thể phụ đạo cho Thái tử ?".

Tháng 8, dùng ngày sinh nhật của Hoàng đế làm tiết "Vạn thọ" hàng năm.

Tháng 10, định số ngạch cho mỗi đạo quân bao nhiêu cờ quạt, nghi trượng khí giới và thuyền

ghe; đổi chức Hỏa đầu ra Chánh đội trưởng và Phó đội trưởng.

Tháng 9, ban chiếu định phẩm trật chức tước các quan văn võ; cho các vị công thần được đổi

sang họ nhà vua (họ Lê).

Ngày 19, sứ thần nhà Minh là La Nhữ Kính sang nước ta, đòi ta tìm dòng dõi họ vua Trần, để

dựng làm vua; và xét số quan lại quân nhân Tàu còn lại nước ta bao nhiêu, đưa trả hết thẩy về Tàu.

Hoàng đế sai Hà Lật dẫn sứ bộ sang triều Minh.

Tháng 10, Hoàng đế ban mệnh cho Hà Công Soạn được tham bàn việc chánh trị.

Ngày 1, tháng 11, Hoàng đế sai Đỗ Như Hùng sang sứ triều Minh.

Ngày 24, giết hết đảng phản nghịch là bọn: Trần Phong, [tờ 53b], Lương Nhữ Hốt, An Vinh, Đỗ

Duy Trung, tên Tồn, tên Sĩ Văn, tên Sùng Lễ và tên Xác. Ban tờ chiếu khắp nơi, cho biết tội của bọn này

là: Trước đã làm quan với giặc Minh, khi đã hàng triều ta, lại âm mưu định phản nghịch.

ngày 25, lập sổ điền và sổ đinh.

ngày 28, ban mệnh cho quan viên và quân nhân khắp thiên hạ, cho biết đến tháng 5 sang năm,

tới Đông kinh dự thi: Ban văn thì thi về Kinh sử, ban võ thì thi về Võ kinh và Pháp lệnh kỳ thư.

Tháng 12, xây cất điện Vạn Thọ; dựng hai điện Tả và Hữu; dựng điện Cần Chánh và điện Kính

Thiên. Tạo binh khí và ghe thuyền. Đúc tiền "Thuận thiên thông bảo".

Năm Kỷ Dậu niên hiệu Thuận Thiên thứ 2 (1429), mùa xuân, tháng giêng, cấm không được đánh

cờ bạc, [tờ 54a] sẽ bị phạt tội chặt tay, nhữnh kẻ tụ tập uống rượu, sẽ bị phạt tội đánh 100 roi. Nhưng

trong đám rượu trà đó, có kẻ nào còn giữ được thái độ đứng đắn, sẽ giảm tội cho một bậc.

Ngày 7, Hoàng đế sai Nội kiểm hiệu Bình chương sự là Lê Vấn, Đại tư mã Lê Ngân và Thiếu phó

Lê Văn Linh truyền tờ kim sách dựng con trưởng Hữu tướng Khai quốc quận công là Tư Tề làm Quốc

vương, được tạm coi việc trong nước; lại sai Tư khấu Lê Sát, Tư không Lê Nhân Chú, Tư mã Lê Lý, và

Thiếu úy Lê Quốc Hưng tuyên tờ kim sách lập con thứ Lương quận công là Nguyên Long làm Hoàng Thái

Tử.

Tháng 9, Hoàng đế ban mệnh cho các quan: Ban võ tự chức Tổng quản trở lên, ban văn tự chức

hành khiển trở lên, vị nào có con trai tự 9 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống, được vào hầu Thái tử; ban võ

tự chức Đồng tri trở xuống; ban văn tự chức Thượng thư trở xuống, vị nào có con trai tự 9 tuổi trở lên,

17 tuổi trở xuống, được vào trường Quốc giám học tập.

[tờ 54b] Ngày 22, Hoàng đế họp các đại thần văn võ bàn việc quốc gia:

Có những con em của các chiến sĩ, đã từng chiến đấu ngoài trận, hiện không có một thước đất

để ở. Thế mà những phường du thủ du thực, không làm một việc gì ích lợi cho nước, lại có rất nhiều

ruộng đất; cả đến bọn trộm cướp cũng vậy. Bởi thế ai cũng ham chuộng làm giàu, mà không có người

tận tâm với nước. Vậy ban sắc chỉ cho các đại thần, bàn định số ruộng cấp phát cho quân dân; Từ hạng

đại thần trở xuống, cho tới hạng già yếu, mồ côi, góa chồng, goá vợ, hạng nào đáng được cấp bao nhiêu

ruộng đất, kê rõ tâu trẫm xét.

Ngày 21, tháng 2, ban mệnh lệnh cho các Tướng Tá quân sĩ các Vệ trong 5 Đạo, đến ngày 27

tập trận cả thủy binh và bộ binh. Sau khi tập trận, chia số quân sĩ làm 5 Phiên, lưu lại 4 Phiên, còn cho

về theo nghiệp nông.

[tờ 55a] ngày 26, Hoàng dế ban chỉ dụ cho các đại thần và các quan hành khiển rằng: 26 Đại Việt Thông Sử - Quyển II - Đế Kỷ Đệ Nhị (BD:LML)

"Các khanh như thấy mệnh lệnh của trẫm, hoặc có điều nào bất tiện trong việc quân việc nước;

hoặc vô cớ bắt dân phục dịch; hoặc đánh thuế nặng, hoặc tà dâm; hoặc bạo ngược, lập tức phải tâu xin

sửa chữa, không được theo xuôi.

"Các Ngôn quan (các chức Ngự sử), như trẫm có chính sách hà khắc, đánh thuế nặng, bạo

ngược dân lành; hoặc thưởng công phạt tội không công minh, không theo phép cổ , phải tâu ngay; thấy

các đại thần, các Tướng Tá, các công chức, có ai không tôn trọng pháp luật; nhận hối lộ, nhiễu hại dân

lành, hoặc thiên vị kẻ trái, phải đàn hạch ngay. Nếu thấy ai phạm những đều trên, mà dung túng không

nói, lại còn khen những việc nhỏ mọn, và nói những câu không căn cứ, sẽ bị phạt theo luật pháp. Còn lỗi

của các quan khi vào sân điện, như có ai vận aó mũ giày dép không trúng phép, hoặc đi đứng ngang dọc

không đúng lễ độ, những lỗi này đã có các Tổng quản đạo quân Thiết độ [tờ 55b] chỉ huy viện Nội mật

xét hỏi. Các ngôn quan không được đàn hạch".

Ban tờ chiếu bắt giam Thái úy Hữu Tướng quốc là Trần Nguyên Hãn, Hãn liền tự sát.

Định lệ thổ trạch cho các quan và dân.

Tháng 5, phong chức công thần cho 93 viên; thứ đến phong tước Huyện thượng hầu, Á hầu,

Khanh hầu, và Đinh hầu, tùy theo từng hạng.

Hoàng đế ban mệnh rằng:

"Những bậc hào kiệt có tài văn võ, mà còn bỏ sót chưa người tiến cử, hoặc bị kẻ thù kiềm hãm,

hãy tới ngay sở Thiếu phó Lê Văn Linh, tại đây xét thực về tài đức, sẽ tâu trình bổ dụng. Chỉ cốt được

người có tài có đức, chứ không câu nệ về sự đã ra làm quan với Minh, hoặc kẻ sĩ thường".

Ngày 26, Hoàng đế ban mệnh cho quân nhân các Phủ các Lộ, và những kẻ sĩ ẩn dật nơi sơn lâm,

[tờ 56a] có kẻ nào thông kinh sử văn nghệ, thẩy đều tới Sảnh đường dự thi vào ngày 28 tháng này. Kẻ

nào trúng tuyển sẻ được bổ dụng.

Ngày 28, Hoàng đế ban mệnh cho các quan văn võ trong triều ngoài quận, có ai tinh thông Kinh

sử, thẩy đều tới Sảnh đường dự thi vào ngày 29 tháng này.

Ngày 20 tháng 6 khảo thi các vị tăng đạo tại sảnh đường.

Tháng 7, Hoàng đế họp các vị đại thần và các quan trong triều ngoài quận, bàn về tiền tệ, ngài

ban chiếu rằng:

"Tiền là một thứ rất cần thiết, như huyết mạch của nhân dân, không thể thiếu được. Nước ta đút

tiền ít ỏi, lại vì số tiền đồng cũ của ta, đã bị người Minh1

 tiêu hủy rất nhiều, chỉ còn chừng một phần trăm

thôi. Hiện nay sự tiêu dùng về việc quân việc nước thiếu thốn. Muốn cho sự lưu thông tiền tệ dồi dào, lại

được thuận lòng dân, há chẳng khó lắm ru ?. [tờ 56b] Ngày nọ, có kẻ dâng thư, xin tiêu dùng bằng

phép "sao"2

, để thay cương vị đồng tiền. Nhưng trẫm nghĩ kỹ, như vậy chưa thỏa đáng. Nghĩa là "sao" là

một thứ vô dụng, mà đem thi hành vào những sự hữu dụng trong dân gian, thực không phải là cách

dùng tiền có ý thương yêu dân, như thời xưa coi vàng bạc tiền và "sao" không quan hệ, không đằng nào

hơn. Nay các đại thần, các quan, và các kẻ sĩ thông hiểu thời vụ, hãy đều bàn về lệ đồng tiền, thế nào

cho thuận dân tình, ngỏ hầu khỏi tiếng: đem ý muốn của một người, cưỡng ép ý muốn muôn nghìn

người. Cần được một qui chế tiền tệ rất đúng, không thể không sớm bàn định tâu lên, trẫm sẻ lựa chọn

thi hành".

Ngày 16, tháng 9 Hoàng đế chỉ huy đại thần và các quan rằng:

1

 Câu này chính bản chép "Hồ Nhân" (người họ Hồ). Nhưng xét nếu là họ Hồ thì chép "Hồ thị" chứ không phải "Hồ nhân".

Như vậy đũ rõ là chép lầm. hoặc do chữ "Minh nhân" (người nhà Minh) chép lộn ra chăng ? Vậy xin dịch theo nghĩa chữ "Minh

nhân".

2

 Sao: là tiền giấy. Thời kim (Trung Hoa) có đặt ra thứ tiền giấy để tiêu dùng, cùng với tiền thực: Có 5 hạng tự một quan

tiền đến 5 quan tiền gọi là "đại sao" và 5 hạng tự 100 đồng tiền đến 700 đồng tiền, gọi là "tiểu sao". 27 Đại Việt Thông Sử - Quyển II - Đế Kỷ Đệ Nhị (BD:LML)

[tờ 57a] "Tự nay trở đi quan nào nói công việc, nên lấy việc quân việc dân làm cần thiết, không

được vị tư tình, cần phải hợp lý. Trẫm thường nghiệm về tình lý các việc, như việc tiến cử, hoặc xử kiện,

cùng các việc công tư, thẩy đều có sự ẩn giấu thay đổi, đủ biết các quan chức ít người trong sạch, phiền

nhiều nhơ đục. Nay trẫm xét thấy 2 việc xử tù phạm Mông Vân và tù phạm Lương Châm, mới biết tình

trạng thực hay giả của các quan, cho nên nói lời này. Vậy các bầy tôi nên tận thành để thờ vua, chớ có vị

tư hại công, sẽ hối không kịp! Nay ban chiếu thị, cho thẩy đều nghe biết".

Ngày 27, Hoàng đế chỉ huy ban huấn thị cho đại thần và các quan: Phải lưu ý về nghề nông của

dân; về quân sự, cần chỉnh đốn hàng ngũ, tu sửa khí giới ghe thuyền.

[tờ 57b] Ngày 1, tháng 10, Hoàng đế ban tờ chiếu rằng:

"Trẫm nghĩ: Trị nước cần ở được người hiền, mà sự được người hiền tất do người tiến cử. Thế

cho nên các vị Đế Vương đều lấy việc đó làm cần thiết ưu tiên. Thời thịnh đời xưa các quan tại triều,

thường có ý nhường người hiền tài lên cấp trên mình, cho nên dưới dân gian không có người hiền nào bỏ

sót, công việc quốc gia không việc nào bỏ bê, trở nên một nền thái bình thịnh trị. Đến như các bầy tôi

nhà Hán nhà Đường, thẩy đều biết suy nhường kẻ hiền tài, người nọ dẫn tiến người kia, như Tiêu Hà tiến

cử Tàu Tham, Ngụy Vô Tri tiến cử Trần Bình, Địch Nhân Kiệt tiến cử Trương Cửu Linh, và Tiêu Tung tiến

cử Hàn Hưu. Tuy tài của các người này, có cao thấp không đều, nhưng thẩy đều là được hiền tài và xứng

chức.

[tờ 58a] nay trẫm đảm nhiệm trọng trách này, lúc nào cũng lo sợ, như người tới đầm sâu, chỉ vì

một nổi chưa được hiền tài phụ tá. Vậy các khanh văn võ đại thần, công hầu đại phu tự tam phẩm trở

lên, mỗi vị phải tiến cử một người, bất luận người đã làm quan tại triều, người chưa làm quan còn ở thôn

dã, hễ có tài văn võ trí thức, có thể cai trị nhân dân, trẫm sẽ tùy tài bổ dụng.

Sự tiến cử hiền tài được trọng thưởng, đó là đạo thông thường tự thời xưa. Vậy vị nào tiến cử

người hiền trung bình, sẽ được thăng tước hai cấp. Nếu cử được người tài đức tuyệt đối, sẽ được thưởng

rất hậu.

Đã đành rằng vậy. Nhân tài trên đời vốn không phải hiếm, nhưng cách cầu tài đâu phải chỉ một

lối nào. Hoặc có người có tài kinh luân thao lược, [tờ 58b] mà vẫn phải làm quan cấp dưới, không người

tiến cử, và những bậc hào kiệt, vẫn còn ẩn phục ở nơi thảo dã, hoặc lẫn trong hàng ngũ quân nhân.

Những hạng này nếu không tự tiến, làm sao trẫm biết được. Vậy tự nay các bậc hiền tài, như muốn theo

giúp ta, hãy cứ tự tiến. Thời xưa Mao Toại tự tiến theo Bình Nguyên Quân, Ninh Thích tự tiến giúp Tề

Hoàn Công, mà đều không cậu nệ về điểm vụn vặt đó.

Từ ngày ban tờ chiếu này, các quan chức đều nên lưu tâm thành thực tiến cử hiền tài; các bậc

hiền tài hãy còn hàn vi ở nơi thôn xóm, hãy nên tự tiến, đừng lấy sự đem ngọc bán rau làm hổ thẹn,

khiến trẫm phải than thở về nổi thiếu nhân tài.

Ngày 13, nhà Minh sai Lý Kỳ và Từ Vĩnh Đạt cùng đi với Hà Lật sang nước ta, lại đòi tìm dòng dõi

vua Trần để dựng làm vua, và đòi binh sĩ cùng khí giới do ta đã bắt mà chưa trả về hết.

Ngày 18, Hoàng đế chỉ huy [tờ 59a] các đại thần và các cấp tổng quản hành khiển trở xuống

rằng:

"Cố nhân có câu: "Quân bất trạch tướng, dĩ kỳ quốc dữ địch dã" (nếu vua không tuyển được

tướng giỏi, tất sẽ đem toàn quốc dâng cho bên địch). Trẫm thường nghĩ vào câu này, không lúc nào

quên, cho nên đem quân sự chánh trị trọng đại, giao phó các khanh, thế mà các khanh cứ nghiễm nhiên

không hề để ý. Như vậy, đối với trên, phụ ý triều đình đã phó thác; đối với dưới không hề thương xót

quân dân! Sao mà trể nải bổn phận quá như vậy ?.

Nay ban tờ chiếu này răn bảo, nếu các khanh không đỗi lỗi, vẫn cứ lơ đãng như thế, thì nước ta

đã có pháp luật đấy. Lúc ấy đừng bảo trẫm phụ những bầy tôi đã từng có công lao.

Ngày 29, Hoàng đế sai bọn Đào Công Soạn, theo bọn Lý Kỳ đi sang nhà Minh (Trung Hoa).

Tháng 11, Hoàng đế đi thăm Tây Kinh, ngài lễ yết lăng tiên tổ ở trên núi, và ban thưởng cho các

Tướng sĩ hộ tùng, mỗi viên được thăng tước một cấp; các tước "thượng trí tự", [tờ 59b] "đại trí tự" đều 28 Đại Việt Thông Sử - Quyển II - Đế Kỷ Đệ Nhị (BD:LML)

được thăng tước một tự. Những vị con cháu đã được phong tước Hầu, và những vị không có công lao,

đều không được dự lệ này.

ngày 19, tháng 12, Hoàng đế ra mệnh cho các quan Phủ Lộ Châu Huyện Xã:

"Xã nào có nhiều ruộng ít người, có ruộng bỏ hoang, thì quan bản hạt cấp số ruộng ấy, cho

những người xã khác hiện không có ruộng, đến cày cấy, những chủ điền xã ấy không được chiếm giữ.

Nếu kẻ nào trái mệnh này, sẽ phạt về tội "cưỡng chiếm".

Năm Canh Tuất, niên hiệu Thuận Thiên thứ 3 (1430), ngày 10, tháng 6, định ngạch các thứ

thuế; ban các luật lệ; đổi Đông Đô gọi là Đông Kinh; Tây Đô gọi là Tây Kinh.

Ngày 24, Hoàng đế ban tờ chiếu rằng:

"Chuộng nhà cửa cung đài cao đẹp, tất gây nên thói kêu sa; theo ý mình mà trái lòng người, sẽ

vời mọi người oán ghét. Trẫm rất lo về điểm này, [tờ 60a] cho nên tự nghĩ, những cung điện huy hoàng

tráng lệ đây, đều là sức lao động của quân dân, trẫm được ngự yên, vẫn còn lo không xứng. Thế mà các

quan văn võ, còn thường sắm lễ dâng mừng, thực là trái ý trẫm. Vậy từ nay, dù gặp ngày khánh tiết, các

quan không được dâng biểu xưng tụng công đức, và không được bày ra tiệc mừng yến ẩm xa hoa".

Sai Hành quân Tổng quản là Lê Khôi đóng quân tại Hoá Châu, để trấn nước Chiêm Thành.

Ngày 17, tháng 11, Hoàng đế ban tờ chiếu rằng:

"Trẫm nghe có câu: "Chánh sách nước nào theo đạo trị, thì nước ấy rất hưng thịnh, nếu theo đạo

loạn, sẽ diệt vong". Thế cho nên những bậc biết làm chánh trị, thường chọn đều thiện để theo, điều bất

thiện thì đổi. Truyện có câu rằng: "Điều thiện là thày của người ta, điều bất thiện là thù của người ta";

Kinh thi có câu: "Cái gương để nhà Ân soi, phải tìm đâu xa, ở ngay đời vua nhà Hạ". Vua tôi chúng ta,

[tờ 60b] nên lấy câu này làm qui thức. Họ Trình1

 xưa, cậy sự giàu có của mình, không nghĩ đến sự khốn

cùng của dân, chuộng vẽ trang hoàng, ham bề tửu sắc, lúc nào cũng bày những trò chơi vô ích: Đánh

bạc đánh cờ, chọi gà thả cáp, bồn nuôi cá vàng, chuồng nuôi bách thú, khoe khoang mẹo khôn, để tranh

thua được; quên cả thiên hạ, chẳng hề để tâm. Những tội oan uổng, bị quan lại câu lưu, hàng 2,3 năm

chưa hỏi đến; những bậc thân sơ, bị kẻ hầu ngăn trở, hoặc 2,3 tháng không tâu trình. Các Tướng lập

thành bè đảng, triều đình không kẻ can ngăn. Đến nỗi, con cháu chí thân, hãm hại bởi kế bầy tôi gian

xảo; toàn quyền trong nước, chuyển dời xuống tay [tờ 61a] trá nịnh nhân gian. Lòng dân oán than mà

không biết, đạo trời khiển trách cũng không hay, chánh giáo suy đồi, kẻ cương rối loạn. Tuy rằng họ Hồ

làm việc bất trung, nhưng cũng bởi lòng trời ghét những đức xấu đó, cho nên mượn tay người khác vậy.

Sau khi họ Hồ đã dùng trí gian để cướp nước, lại đem trí gian ức hiếp dân. Đặt ra lệnh bảo sao2

,

thì dân đều oán là thiệt thòi nguồn sống; ban ra lệnh di dân, thì dân đều oán vì phải bỏ quê hương.

Thêm vào đấy sưu cao thuế nặng, luật ngặt hình nghiêm, chỉ chăm ích mình, không lo hại nước Hơi ho

họ mạc, đều phong cho chức quan cao; nịnh nọt tiểu nhân, thẩy đều ơn vinh trọng dụng. Hể mừng thì

thưởng, nhân giận bắt tù, trung trực ngậm tăm, ngay lành oan uổng, [tờ 61b] Thế mà vẫn kêu ngạo tự

tôn, không sợ mệnh trời ra tai nạn. Tuy rằng giặc Ngô tham tàn, nhưng cũng do lòng trời ghét kẻ nghịch

đó, cho nên mượn tay người Ngô vậy.

Sau khi người Ngô đã lấy được nước ta, không dùng khoan thay ngược, lại càng tàn bạo hơn.

Ham giết người để thị oai, coi mệnh người như cỏ rác, bắt vợ con dân nước ta, đào lăng tẩm vua nước

ta. Cấm nấu muối khiến dân khốn vì ăn, đòi vải vóc để dân khổ vì mặt, bắt dân tìm vàng ngọc, bắt dân

cống voi tê, hình chánh phiền hà dân hết đường sống. Kẻ mắc tội oan chỉ vạch trời kêu mới thấu; những

người trung nghĩa, thẩy đều nghiến lợi căm hờn! Ai ai cũng nguyện liều chết giết giặc thù. Thế cho nên

ta vừa dựng cờ khởi nghĩa, tức thì hào kiệt bốn phương nổi dậy như ong, cùng đánh cho người Ngô tan

rã. [tờ 62a] Đó là người Ngô chỉ biết dùng bạo lực để lấy nước, mà không biết đem ân huệ để an dân.

1

 Chữ "họ Trình" hoặc chép lộn chăng ?

2

 Bảo sao: là loại tiền giấy, xem số 2 trang 91. 29 Đại Việt Thông Sử - Quyển II - Đế Kỷ Đệ Nhị (BD:LML)

Tuy vì trẫm có đại nghĩa mới được lòng dân, nhưng cũng do trời ghét sự tàn bạo đó, nên mượn tay trẫm

vậy.

Những sự kể trên, đều bởi các quan chức không biết thể lòng vua, thi hành chánh trị tốt. Trong

thì che giấu nhầm lỗi đối với vua, ngoài thì lập thành đảng phái đối với chúng, không có lòng trung tuẫn

quốc, chỉ chăm lo kế vinh thân. Đến nổi nước mất nhà tan, vua tôi đều nhục! Chúng ta há chẳng lấy đó

làm gương ru ?

Buổi sớm ban tối, trẫm chưa hề giây phút nào quên những nỗi niềm đó, là vì rất sợ như cái xe

trước, đã bị lọt hố đổ kềnh, mà cái xe sau lại hãm luôn vào vết ấy. Cho nên luôn luôn nói đi nói lại, răn

dạy các khanh, đã nói hàng nghìn vạn lời, [tờ 62b] đã ban hàng chín mười dụ, thế mà các khanh vẫn

coi như mớ văn suông, không hề tuân theo lời dạy, không hề thay đổi lỗi xưa, vẫn cứ làm điều trái phép,

ngược dưới nhờn trên.

Những bầy tôi cũ, đã từng dự phần khó nhọc, cậy công mà kêu hoạnh, có phạm vào những sự

nhầm lỗi, còn có thể tùy theo việc nặng nhẹ mà châm chước, hoặc tha hoặc không tha1

. Còn như hạng

tân tiến, bởi thấy thế quân đã mạnh, việc nước đã xong mới di tuyên mưu đồ công danh, đó là hạng theo

việc đã thành. Thế mà phạm việc nhầm lỗi, há có thể trái luật pháp mà tha được ru ?

Nay đã ban lời ngăn cấm răn dạy này, mà kẻ nào vẫn không nghe không đổi, thì chính kẻ ấy tự

mang lấy tai vạ, chứ không phải là lỗi không khuyên răn của trẫm.

[tờ 63a] Tự nay, từ các đại thần Tổng quản, cho tới các cấp đội trưởng, cùng các quan Tỉnh

Viện cục, có chức trách quản quân trị dân, thẩy đều nên dụng tâm công bằng, làm việc cần mẫn thờ vua

thì tận trung, với bạn thì hòa nhã, bỏ thói tham ô, trừ nết ngạo mạn, dứt lối riêng tư bằng đảng, đừng

theo thói cũ lỗi lầm. Coi công việc của quốc gia là công việc của mình; mối lo của dân chúng tức mối lo

của mình, tận trung hết sức phù trì nhà vua. Khiến cho xã tắc yên như núi Thái Sơn; cơ đồ vững như bàn

bằng đá! Sẽ cùng hưởng tước lộc với trẫm đời nay; sẽ cùng truyền thanh danh về hậu thế. Đại nghĩa vua

tôi, trước sau trọn vẹn. Như vậy há chẳng đẹp ru ?

[tờ 63a] Ôi nếu đàn gảy không êm, thì đổi dây tơ cho đúng điệu; hoặc xe trước đã đổ, thì đi lối

khác kiếm đường bằng. Các quan chức ta hãy soi vào đấy.

Nay bố cáo quần thần trong triều ngoài quận, đều nên biết rõ.

Mồng 1, tháng 8, vì có tai dị, nên Hoàng đế ban tờ chiếu tự nhận lỗi.

Ra lệnh quần thần dâng thư đựng trong phong bì kín.

Tháng 10, bổ Đào Công Soạn kiêm chức Thượng thư bộ Hộ, và chức Tham tri đông đạo quân

dân bạ tịch.

Tháng 11, vì Thổ tù ở châu Thạch Lâm tỉnh Thái Nguyên là Bế Khắc Thiệu và Nông Đắc Thái ở

châu Thượng Lãng, liên kết với Trần Hãn làm phản, Hoàng đế bèn hạ chiếu thân chinh, và tuyển bộ binh

ở bãi Bồ Đề.

[tờ 64a] Năm Tân Hợi, niên hiệu Thuận Thiên thứ 4 (1431), mồng 1, tháng giêng, Hoàng đế sai

Lê Như Lãm và Hà Lật sang sứ nhà Minh cầu phong Vương.

Hoàng đế ban tờ chiếu rằng:

"Đạo kinh luân thiên hạ, phải tính ban đầu để yên lúc cuối, phải lập pháp luật để lưu về sau. Thế

cho nên, cha làm con nối, đạo nhà tất hanh thông; anh truyền em tiếp, nền nước sẽ bền vững. Các bậc

Đế Vương thời xưa, lo tính công việc rất sâu và xa.

Trẫm thân mặc áo giáp, dầu dãi tuyết sương đã 13 năm nay, kể cũng khó nhọc, nay trí nhớ hơi

kém, tuổi cũng đã cao mà việc nước rất nhiều, khó lòng một mình liệu lý.

1

 Câu này chính bản chép: "hoặc khả nộ, hoặc bất khả nộ" (hoặc đáng giận, hoặc không đáng giận). Xét không hợp văn

lý. Hoặc 2 chữ "nộ" (giận) trong câu, đều do hai chữ " thứ " ( tha) chép lộn ra chăng ? Xin dịch theo nghĩa chữ " thứ ". 30 Đại Việt Thông Sử - Quyển II - Đế Kỷ Đệ Nhị (BD:LML)

Xét thấy thời xưa, cũng có khi dùng quyền thay kinh, mà hợp với đạo thánh hiền, dựng anh

truyền em, mà ngôi vua dài vững. Vậy châm chước tùy thời, dựng làm phép tắc.vvv

[tờ 64b] Như Tư Tề (con trưởng) hiện đã lớn tuổi, vào hạng thành nhân. Tuy liệu việc chưa

được kín đáo tinh vi cho lắm, nhưng mắt thấy tai nghe, cũng đã từng trải qua nhiều việc. Hãy cho tạm

coi việc nước, để giúp đỡ trẫm. Nguyên Long (con thứ), tính tuy minh mẫn nhưng tuổi còn non, hãy nên

nuôi dưỡng dự trữ trong Thanh Cung, chờ ngày đức tính đầy đủ. Khi nào Tư Tề lên ngôi chấp chánh, thì

lúc ấy Nguyên Long lại coi việc nước việc quân. Đó là theo việc đã làm của thời Triệu tống xưa. Con cháu

đời sau, cũng nên theo nghĩa truyền ngôi như vầy mãi mãi. Sau đây hoặc có kẻ nào không theo lời trẫm,

bàn luận trái lại, viện dẫn lời chê Triệu Phổ nhầm lẫn1

, để thay đổi phép nhất định trong tờ chiếu này, thì

kẻ ấy chỉ là phường siểm nịnh, chực đem mưu gian để tính kế [tờ 65a] sẽ được như Vương Mãng và

Tào Tháo2

, chứ không phải tận trung với nước, pháp luật tất không tha.

Nay ban tờ chiếu này cho quần thần văn võ, để được biết ý nghĩa truyền ngôi đã định, và giải

điểm nghi hoặc về bàn luận bất nhất, Các ngươi đều nên hiểu rõ.

Hoàng đế soạn bài "Hậu tự huấn", để răn Quốc Vương (Tư Tề) và Thái tử (Nguyên Long) rằng:

"Ta thường nghe: Đế Vương nhường ngôi, tất truyền lại cả phép hay và phép trị; đời vua truyền

nối, thường lưu lại cả lời dạy và lời răn. Tuy cảnh ngộ mỗi thời một khác, nhưng việc làm thẩy đều giống

nhau.

Ta đích thân phát hết gai góc, bừa phẳng bạo tàn, thường lấy áo giáp làm đồ mặc, nội cỏ làm

cửa nhà, trải bao nơi nguy hiểm, xông pha trước giáo gươm, mới quét sạch phong trần (giặc), [tờ 65b]

dựng nên cơ nghiệp, công cuộc kinh doanh, đã từng vất vả.

Nay chúng mày không có công lao như ta, mà được hưởng cơ nghiệp của ta. Vậy những yếu

điểm về việc nước, việc quân, đều phải để tâm say nghĩ, cố gằng mà làm đừng nên trể nải. Đối với họ

Thân, nên hết tấm lòng thân ái; đối với nhân chúng nên ban chánh sách khoan nhân. Đừng vì ơn riêng

mà lạm thưởng; đừng vì cơn giận mà ra hình; đừng mưu sinh lợi để xa hoa; đừng gần con hát sinh dâm

đãng. Đối với quần thần cần nghe can gián. Một chánh lệnh một việc làm, đều noi lẽ chính, để làm phép

thường. Như vậy mới có thể hợp lòng trời và đủ tin cho dân chúng [tờ 66a] Quốc gia sẽ được bình yên

lâu dài. Nếu tự cậy thông minh, dùng kẻ thân cận. Truất bầy tôi của ta, đổi chính sách của ta, biến cải

gia pháp, sơ khoáng họ thân, xa người thẳng ngay, gần kẻ nịnh nọt. Chỉ làm những việc vui đùa; chỉ ham

những vật đẹp mắt. Không theo thói cần kiệm; không nghĩ công gian lao. Có khác gì cổ nhân đã nói:

"Cha dựng ngôi nhà mà con không biết sửa sang; cha đã gieo mạ mà con không biết cấy gặt ". Như vậy

sao có thể nối được chí ta, hưởng được nghiệp ta, để truyền ngôi lâu dài được.

Vả lại, người dân thường mến phục vua nhân đạo, mà chính người dân cũng có thể lật đổ vua. Ví

như nước thường chở thuyền, mà thuyền đắm cũng vì nước; trời thường giúp người có đức, mà thay đổi

bất thường cũng chính là trời vậy.

Tuy thánh như 4 vua Thuấn Vũ Thang Văn, mà vẫn nơm nớp lo sợ, kính trời chăm dân, không

phút nào ngừng, huống chi hạng tài đức kém các vua trên ru ?

Phàm những vua nối ngôi, chỉ sinh dưỡng trong cung điện, thường được yên vui, không biết lập

chí. Nếu không răn dạy ngay lúc ban đầu, cho biết sợ hãi cảm khích, thì đâu có biết hết đạo nối ngôi, mà

ban phúc cho thiên hạ. Bởi thế, không thể dừng được mà ban lời răn dạy này.

Ôi! vua Khải vua Vũ thời xưa, đều làm trọn đạo nối ngôi, cho nên vua Khải tại vị lâu dài, [tờ

67a] vua Vũ lừng danh con hiếu.

Chúng mày nên ghi nhớ lời nói ta đây, và theo đời thánh hiền thời trước.

1

 Khi Đỗ Thái hậu nhà tống bệnh nặng, vời Triệu Phổ vào nhận di mệnh, dặn vua Tống Thái Tổ sẽ truyền ngôi cho em

trai là Quang Nghĩa, bảo Triệu Phổ ghi nhớ lời đó. Triệu Phổ xin tuân mệnh, bèn lập tờ ước thệ, rồi ký tên vào. Việc này Trịnh Bá

Kiền chê Triệu Phổ không biết giảng giải can ngăn, đến nổi về sau sinh loạn. Như vậy không phải là bậc đại thần có tài kinh quốc.

2

 Vương Mãng là gian thần, cướp ngôi nhà Tiền Hán. Tào Tháo là gian thần nhà Hậu Hán. 31 Đại Việt Thông Sử - Quyển II - Đế Kỷ Đệ Nhị (BD:LML)

Nay ban lời dạy.

Giết Thái úy Phạm Văn Sảo.

Hoàng thượng thân chinh đạo Thái Nguyên, tháng 2 đánh được Lâm Châu. Bế Khắc Thiệu thua

chạy, rồi chết; bắt được Nông An Thái, bèn kéo quân trở về.

Ngày 12, tháng này, ban tờ chiếu kể tội trạng của Bế Khắc Thiệu cho trong triều ngoài quân đều

biết.

Tháng 3, Hoàng thượng trở về kinh đô.

Đặt Ty xá nhân trong Nội giám và Ngoại giám, do theo đề nghị của Ngô Văn Thông.

Ngày 4, tháng 8, ban tờ chiếu kể tội trạng Nông An Thái khắp trong triều ngoài quận.

Mồng 1, tháng 11, nhà Minh sai Chương Kính và Từ Kỳ mang tờ sắc sang ban mệnh cho Hoàng

đế tạm quyền coi việc nước. Hoàng đế bèn sai nguyễn Văn Huyến và Nguyễn Văn Chí, làm sứ thần theo

bọn tên Sưởng sang nhà Minh tạ ơn, tặng 5 vạn lạng bạc.

Tháng 12, Hoàng đế sai các vị nho thần [tờ 67b] soạn bài tựa quyển "Lam sơn thực lục " do

ngài chế.

Vì Đao Cát Hãn ở Triệu Lễ, thông đồng với Phạm Văn Sảo làm loạn, lại liên kết với nghịch thần

nước Ai Lao là Kha Đốn, xâm lấn đất Mang Mỗi, Hoàng đế bèn sai Tư Đồ Lê Sát và Quốc Vương Tư Tề

dẫn quân đánh Triệu Lễ, rồi ngài lại thân chinh.

Năm Nhâm Tý niên hiệu Thuận Thiên thứ 5 (1452), mùa xuân, tháng giêng, quan quân đánh

được Mang Lễ Kha Đốn bị giết, Đao Cát Hãn chạy trốn, quan quân bắt hết dư đảng, bèn đổi Mang Lễ làm

châu Phục Lễ.

Ngày 3, tháng 3, Hoàng đế kéo quân trở về, bèn ban tờ chiếu rằng:

"Thời xưa, rợ miêu trái mệnh, vua Vũ nhà Hạ phát binh, nước Mật không kính, vua Thái Vương

nổi giận".

Triệu lễ vốn là một xứ lệ thuộc của nước ta tự xưa. Chỉ vì thời vua vừa đây, triều đình suy bại

chính trị tồi tàn, nhà vua mất kỷ cương, [tờ 68a] biên thùy bỏ sơ khoáng. Bởi thế xứ ấy mới dám cậy

hiểm cậy xa, không nộp thuế nữa, lại cướp lấn biên thùy, tàn hại dân ta. Những nơi bị chúng tàn hại

nhất, là các trấn: Thái Nguyên, Tuyên Quang, Qui Hóavà Gia Hưng.

Trẫm tự khi lên ngôi tới giờ, vẫn muốn tu đức để nước xa tự phục, không hề kỳ thị. Tuy Tù

trưởng xứ ấy là Đao Cát Hãn vẫn quen thói cũ, không lại triều cống, trẫm đã nhiều lần đem lời tín nghĩa,

giảng dụ ân cần, lại hứa sẽ phong cho tước cao, được hưởng lộc hậu. Nhưng y vốn lòng lang dạ thú, vẫn

giữ chí xưa quên ân bội nghĩa, trở mặt thành thù, hiệp cùng tên phản nghịch Thượng Hối Khanh và lũ

Thượng Đinh Quế, dụ dỗ dân biên thùy, mưu làm việc trái phép, tụ tập phường vong mạng, kể đã khá

đông, lại kết đảng với nghịch thần nước Ai Lao là bọn Thượng Kha Đốn, [tờ 68b] cùng nhau đánh vào

đất nước Chiêm và nước Ai Lao cho tới các xứ Mang Mỗi, nhân dân các sách đó đều bị chúng nhiễu hại.

Bàn Nhự nước Ai Lao bèn sai sứ thần đến nước ta, cần xin cứu viện.

Trẫm là cha mẹ dân, thay trời nuôi dân, nhân dân nơi nào thẩy đều coi như con cả, đâu nở để

cho dân một phương nào bị tai hại. Bèn sai Tướng dẫn quân đánh giặc cứu dân, Cát Hãn liền xuất toàn

quân chống lại quân ta, giao chiến một trận ở Mang Kiệt, Kha Đốn bị thua, đầu mục của Cát Hãn là bọn

Lãm Cương kinh hãi chạy trốn. Thế mà Cát Hãn còn sai bọn đầu mục khác hô hào Tù Trưởng Mang Bồ là

bọn Đinh Quế, hiệp cùng bọn phản nghịch Thượng Hối Khanh, kéo quân thẳng vào xứ Gia Hưng và Đà

Giang nước ta, hiếp dụ dân ngu, dám gây nổi loạn.

[tờ 69a] Trẫm xét, kẻ loạn thần tặc tử, thì ai ai cũng có thể giết chết. Năm ngoái, Thượng Khắc

Thiệu, ở Thái Nguyên mưu làm phản, đích là do tên Thượng Hãn xui nên, năm nay Cát Hãn nổi loạn, lại

do âm mưu của Thượng Sảo. Vì cần tiêu diệt hết mầm mống họa loạn, Trẫm bèn sai Tư Đồ Lê Sát, dẫn

quân do đường Đà Lãng tiến đánh trước, lại sai Quốc Vương thống binh, do đường Bắc Quan tiến chặn 32 Đại Việt Thông Sử - Quyển II - Đế Kỷ Đệ Nhị (BD:LML)

phía sau, trẫm thì đích thân đốc 6 quân, do đường Gia Hưng kế tiến, bọn phản nghịch Thượng Đinh Quế

liền hoảng sợ tan rã, quân ta đuổi thẳng tới dinh tướng Mang Bồ, Man Xá, bắt giết bọn phản nghịch

Thượng Hối Khanh, đem thủ cấp hiến trước cửa viên, quan quân bắt sống Đinh Quế cùng vợ con, lại bắt

và giết rất nhiều đảng chúng. [tờ 69b] Ta bèn chia quân tiến cả đường thủy đường bộ, ngày 20 tháng

giêng năm nay, tiến thẳng vào sào huyệt Cát Hãn.

Trước đây, nghịch thần nước Ai Lao là Kha Đốn, vẫn nương thân ở Mang Lự nghe tin quân ta

đến, liền giết Kha Đốn, đem thủ cấp ra đón hàng, Cát Hãn cũng bỏ vợ con lại, chỉ chạy trốn thoát thân.

Trẫm bèn sai Tư Đồ dẫn quân tiến vào Mang Cồ, Quốc vương thì đóng tại Mang tô, cho quân vào rừng

lùng bắt, lại sai các Tướng cho quân vào các nơi mang hiểm lục soát, bắt được vợ con Cát Hãn cùng đồ

đảng của y, tất cả trai gái hơn 3 vạn người; hơn 100 con voi; khí giới thuyền bè đồ vật rất nhiều vô kể.

Bèn đặt đất đó thành từng Châu từng Huyện, ghi vào đồ bản nước nhà.

[tờ 70a] Nay dẫn quân khải hoàn, làm lễ hiến phù nhà Thái Miếu. Vậy ban cáo thị cho thần dân

thiên hạ:

Phàm bầy tôi, nên lấy tên Hãn, tên Sảo làm răn; người giữ chức nơi Phiên Trấn, nên lấy Khắc

Thiệu, Cát Hãn làm răn. Như vậy thì thần dân ta đều được hưởng phúc thái bình, và có tiếng tới đời sau.

Tháng 11, Cát Hãn và con là Mạnh Vượng xin hàng, Hoàng đế tha tội cho. Khi Cát Hãn tới Kinh

tạ tội, được phong chức Tư Mã.

Phong Trịnh Lỗi Nhập nội hành khiển tả bộc xạ; Lê Liệt và Lê Bôi đều chức Nhập nội tư mã, được

tham dự triều chánh.

Năm Quý Sửu, niên hiệu Thuận Thiên thứ 6 (1433) (nhằm niên hiệu Tuyên Đức thứ 9 nhà Minh),

mùa xuân, tháng giêng tuyển con em các quan, và học sinh tuấn tú trong 3 Lộ Quốc Oai; [tờ 70b] 2 Lộ

Bắc Giang vào học trường Quốc Tử Giám.

Tháng 4, sai Trần Thuấn Du, Nguyễn Khả Chi và Bùi Cầm Hổ sang cống nhà Minh theo lệ thường

niên.

Hoàng đế đi Lam Kinh, làm lễ bái yết Lăng trên núi.

Tháng 8, Hoàng đế trở về Đông Kinh.

Tháng 10, ban tờ săc cho thiên hạ, đại thần, bá quan, văn võ và quân dân:

"Làm tôi phải trung, làm con phải hiếu, thế mà con trẫm là Tư Tề không trung hiếu với cha mẹ,

ngược đãi quần thần, khinh nhờn trời đất, không theo đạo của các đấng tiên vương. Nay giáng Tư Tề

xuống chức Quận Vương. Vậy bố cáo thiên hạ ".

Ngày 26 ban tờ chiếu rằng:

"Trẫm tư chất bạc nhược, vâng giữ mệnh trời đã 6 năm nay, già nua mỏi mệt. Thiên hạ rất rộng

công việc rất nhiều, bởi thế lo âu tích thành bệnh tật [tờ 71a] cố gắng sớm hôm sợ không đương nổi.

Hoàng Thái tử, tuy hãy còn trẻ tuổi, nhưng nổi tiếng hiếu nhân, ai ai đều tin cậy, ngôi báu đáng

về tay. Vậy trao cho ấn kiếm, để trông coi việc nước thay trẫm".

Hoàng đế lại ban tờ sắc cho Thái tử rằng:

"Việc truyền ngôi báu là đại sự của quốc gia, lời cha dạy con, là chí tình trong thiên hạ. Bởi đại

sự quốc gia, cho nên khi trao nhận không thể không nói; bởi chí tình phụ tử, cho nên lời răn dạy không

thể không tường.

Trẫm gặp thời tao loạn, dựng nghiệp gian nan hơn 20 năm, mới nên nghiệp lớn. Những đau khổ

của nhân dân, thẩy đều hiểu biết; những đường khốn nạn trong thế sự, thẩy đều trải qua. Thế mà đến

khi lên ngôi, những người thực giả, cũng chưa dễ gì biết tường; những việc nghi ngờ, [tờ 71b] cũng

chưa dễ gì phán đoán. Như vậy, đạo làm vua há không là không khó ru ? 33 Đại Việt Thông Sử - Quyển II - Đế Kỷ Đệ Nhị (BD:LML)

Huống chi mày, đương thời tuổi trẻ, nối nghiệp gian nan nghe biết còn nông tư lường chưa thấu.

Vậy nên dốc lòng kính cẩn, như qua ván mỏng vực sâu, thờ trời đất nên hết lòng cung phụng tôn miếu

nên trọn đạo hiếu, thân ái anh em, hòa mục tôn tộc, cho tới đối với trăm quan và muôn dân, thẩy đều

nghĩ sao cho phải đạo. Chớ đổi phép cũ của Tiên Vương; chớ bỏ cách ngôn của tiên triết; chớ gần thanh

sắc mà chuộng tiền tài; chớ thích đi săn mà sinh dâm đãng; chớ nghe lời gièm mà xa can thẳng; chớ

dùng tân tiến mà bỏ cựu thần. Trời khó tin, mệnh không thường, phải nghĩ phép [tờ 72a] trị khi chưa

loạn; công khó thành, việc dễ hỏng, phải nghĩ giữ nước lúc chưa nguy. Khi mày được vui thú, phải nghĩ

tới cơ nghiệp khó nhọc của ta; khi mày hưởng cao sang, phải nghĩ tới công đức tích lũy của Tổ. Phải cẩn

thận trước để toan sau, phải làm sự lớn trước sự nhỏ, phải theo chí trước mới có thể giữ được nghiệp

trước, phải thuận lòng trời mới có thể hợp được lòng người. Một giây một phút , chớ trễ chớ quên.

Trao cho mày ngọc tỷ, coi việc nước thay ta, để bền vững Quốc gia, để yên lòng dân chúng.

Ôi! Truyền ngôi giữa vua Nghiêu vua Thuấn, ở giữ được phép trung, đạo lớn của vua Vũ vua

Văn, cần nối chí không bỏ".

Tháng 8 nhuận, có sao tuệ tinh xuất hiện ở phương Tây.

Ngày 22, Hoàng đế băng hà [tờ 72b] ở nơi Tẩm Điện, ngài hưởng thọ 49 tuổi.

Ngày 24, Hoàng Thái tử ban lệnh chỉ cho các quan trong ngoài, đều vận áo để tang xổ gấu, sau

khi làm lễ tốt khốc (100 ngày), đều vận áo trắng làm việc; quân dân khắp thiên hạ, đều vận áo trắng 3

ngày; cấm chỉ âm nhạc và yến ẩm trong 3 năm.

Ngày 8 tháng 9 Thái tử lên ngôi.

Ngày 21, làm lễ đặt tên thụy Hoàng đế, rồi an táng ngài tại Vĩnh Lăng núi Lam.

Ban lời dụ rằng:

"Thời xưa, Trọng Hủy xưng vua Thang rằng: "Trời ban cho vua đức trí dũng, để làm tiêu biểu

cho muôn nước". Đó là nói các bậc Đế Vương đều có mệnh trời vậy.

Vua Thái Tổ ta, có tài dùng binh, khi ngày mới dựng cờ khởi nghĩa, chỉ vỏn vẹn có 200 quân thiết

đột; 200 dũng sĩ, và 300 nghĩa binh. Thế mà phía Tây Ai Lao phải thần phục, phía Bắc dẹp hết giặc Ngô.

Xét về Kế bí mưu kỳ, phần nhiều là do tài thao lược. Ngài lại tinh tường việc chính trị: [tờ 73a] Khi mới

đến hành doanh Bồ Đề, ngài đã tuyển dụng hiền tài, đặt quan chia chức, trừ tàn cấm bạo, thương yêu

quân dân, thu hút các bộ lạc, phòng bị nơi biên cương. Thực đã có ngay một qui mô đại định thiên hạ.

Đến khi thống nhất non sông, ngài phong công thần, phong nho giáo, chế lễ nhạc, định luật

lệnh, đặt quân kỷ, lập hộ tịch, chỉnh đốn các ngành thuế, bỏ phép tiêu tiền giấy. Thi hành chánh sự rất là

rộng lớn chu đáo. Cứ xem ngay những bài Chiếu bài Sắc ban ra thời ấy, đủ thấy lời răn dạy và phép trị

bình rất là tường tận.

Ngài khôi phục non sông, đem lại thái bình, công đức ban khắp đương thời, cơ nghiệp truyền cho

hậu thế. Rực rỡ lắm thay".

 34 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)

Đại Việt Thông sử

QUYỂN ___

LIệT TRUYệN

Thần Đôn soạn

NGHỊCH THẦN TRUYệN

MạC ĐĂNG DUNG

[tờ 1a] Mạc Đăng Dung quê ở làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương. Cụ Tổ 7 đời tên là Đĩnh Chi, ở

làng Đông Cao, huyện Bình Hà, tức làng Long Động, huyện Chí Linh bây giờ, đậu trạng nguyên khoa

Giáp Thìn (1304) thời vua Anh Tông nhà Trần, làm quan đến chức Nhập nội hành khiển Thượng thư môn

hạ Tả bộc xạ, kiêm Trung thư lệnh, tri quân dân trọng sự. Rất thanh liêm thận trọng, tiếng tăm lừng lẫy

cả 2 nước (nước ta và nước Trung Hoa).

Đĩnh Chi sinh ông Dao [tờ 1b] quan Ty hình viên đại phu. Ông Dao sinh 4 con trai là: Địch,

Thuấn, Thúy và Viễn, người nào cũng có tài năng sức lực, cuối thời Nhuận Hồ, vì bất đắc chí, đều đem

con em đón hàng nhà Minh. Lúc ấy quân họ Hồ đóng giữ phía Bắc sông Phù Lương, tướng nhà Minh là

Trương Phụ không biết hư thực thế nào, nên không dám qua sông. Thúy bèn tự phủ Nam Sách cùng với

Tri Châu châu Tam Đới Đặng Nguyên vẽ bản địa hình, xin làm hướng đạo dẫn quân Trương Phụ qua

sông đánh úp phá thành Đông Kinh; Thúy lại sai thủ hạ bọn đầu mục Nguyễn Như Khanh bắt Hán

Thương ở núi Cao Vọng. Người Minh thưởng công, phong cho Thúy chức Giao chỉ bố chánh ty tham

chánh, Địch chức chỉ huy sứ, Viễn chức Diêm thiết sứ. Sau Thúy dẫn quân vào tỉnh Lạng Sơn đánh Nùng

Phản Lịch, [tờ 2a] bị trúng tên độc chết.

Thúy sinh ra Tung, di cư đến làng Lang Khê, huyện Thanh Hà. Khi ấy vua Thái Tổ Cao Hoàng Đế

đã bình định thiên hạ, nghiêm trị bọn ngụy quan, cho nên Tung không dám ra làm quan, chỉ ẩn náu nơi

thôn xóm.

Tung sinh ra Bình, lại di cư đến làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương.

Bình sinh ra Hịch, 3 đời này không hiển đạt.

Hịch lấy con gái Đặng Xuân, người cùng làng, tên là Đặng Thị Hiếu, sinh 3 con trai con trưởng

tức là Đăng Dung, con thứ là Đốc, tước Trào quận công, sau Đặng Dung tiếm ngôi, ngụy phong cho tước

Từ Vương, con thứ 3 là Quyết, tước Đông quận công, ngụy phong tước Tín Vương, sau khi chết Ngụy

truy phong Uy tín đại vương.

Đặng Dung sinh giờ Ngọ, ngày 23 (Nhâm Tý) tháng 11, năm Qúy Mão, nhằm niên hiệu Hồng

Đức thứ 14 (1483). Ít tuổi đã dũng hãn, nhà nghèo, làm nghề đánh cá. [tờ 2b].

Thời vua Uy Mục, cầu dũng sĩ, Dung dự thi nghề Giao chật (đánh vật), trúng Đô lực sĩ xuất thân,

được sung vào Túc vệ, giữ việc cầm dù theo xe vua. Khoảng thời Thụy Khánh, thăng bổ chức Đô chỉ huy

sứ vệ Thiên vũ. Năm Hồng Thuận thứ 3 (1511), tiến phong tước Vũ xuyên bá, năm này Dung 29 tuổi.

Năm Hồng Đức thứ 7 (1476), cha là Hịch chết. Thời Quang Thiệu, triều đình sai trấn thủ Sơn Nam, gia

phong chức phó Tướng Tả đô đốc. 35 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)

Đăng Dung là người rất gian trá, nhưng bề ngoài làm ra vẽ thật thà ngay thẳng, để mua danh

dự. Thời ấy có Cù Khắc Xương và Trần Công Vụ, mượn đạo Thiên vũ, Thiên bồng, để mê hoặc ngu dân.

Đăng Dung dâng sớ xin trị tội, lại hạch luôn cả quan Thừa Hiến Lê Tích và Đỗ Thao về tội mê tín tà

thuyết. tờ sớ lược rằng:

[tờ 3a] "Hạ thần thiết nghĩ: Nhân, nghĩa, trung, tín, làm bốn điều thánh nhân thường làm luôn;

quái, lực, loạn, thần, là bốn điều thánh nhân không nói tới. Xét việc đời xưa, đủ có chứng minh. Vua

Hoàng đế định thời khắc để phân ngày đêm, vua Cao Dương dựng Thái Cực để thông trời đất. Đã dựng

cái nêu cho thời bấy giờ, và để đời sau làm gương soi vào đấy.

Hoàng thượng là bậc thánh nhân, mở nền trung hưng rực rỡ! Vừa là vua vừa là thầy, đủ trách

nhiệm chăn nuôi, dạy bảo; hoá bằng đạo, hoá bằng đức, mong được tới hòa mục thái bình. Cả trong

thiên hạ điều được ấm no.

Nay quân nhân Thiên thí nhân vũ là Cù Khắc Xương và quân nhân Gia phúc Phạm tùng là Trần

Công Vụ, vốn là lính thường, cũng như dân vậy. Đáng lẽ phải noi Vương đạo Vương Lộ, [tờ 3b] và tuân

theo gia huấn, lại đi mượn Thiên vũ, Thiên bồng, để dụ dỗ ngu dân. Mượng chùa thờ Phật làm chợ khí

trá; mượn đền thờ Thần làm ổ chứa gian. Thuật nghiền than làm thuốc, khiến già trẻ bôn ba, phép phun

nước phi bùa, làm ngả nghiêng làng xóm.

Bọn yêu quái đã làm như vậy, các quan trên đáng phải bài trừ. Các quan Thừa hiến, đã từng đọc

sách thánh hiền, đều là chức trách sư tướng. Đáng lẽ phải như Địch Nhân Kiệt phá đền dâm ở tỉnh Hà

Nam, để trừ mê hoặc; như Hồ Dĩnh đánh nhà sư ở tỉnh Quảng Đông, để bài dị đoan. Thế mà các quan

này lại như bọn phàm phu, không hiểu lẽ phải, Lê Tích Văn Vận mê tin đều xằng bậy [tờ 4a]; Tử Ký Đỗ

Thao phụ họa vào thuyết tà. Cùng nhau theo tả đạo, mê đắm thói cốt đồng. Đã mê hoặc thần quái,

huống còn làm thói hung cuồng. Xin thi hành hình pháp, nghiêm trị để tỏ điều trừng giới".

Hoàng đế nghe theo lời sớ trên, ra lệnh giết Khắc Xương và Công Vụ.

Thiêu Quốc công Lê Quảng Độ hàng giặc Cao, Trấn tướng quân bắt được, điệu về Kinh Sư. Đăng

Dung lại dâng biểu đàn hạch, xin giết Quảng Độ về tội bất trung. Bài biểu lược rằng:

"Ba cương1

 năm thường2

, là rường cột chống đỡ trời đất, là bàn đá3

 yên vững nhân dân. Nếu

nước mà không có điều, thì tuy là nước trung hạ, nhưng chính là nước man di; người mà không có

những điều đó, thì tuy thường vận áo xiêm, nhưng chính là loài cầm thú. [tờ 4b] Tự xưa tới nay, chưa

từng có ai bỏ các điều đó mà có thể đứng trong khoảng trời đất.

Nay Lê Quảng Độ, nhờ phúc Tổ phụ, đội ơn triều đình thờ qua bốn triều, ngôi tới nhất phẩm, mà

vẫn đận đờ, chỉ toan nhòm ngó. chiều vua thì trăm kế phùng nghinh; chuyên chánh thì múa may nhiều

quẻ. tội ác chứa chấp đã lâu, đâu có phải một sớm một chiều, mà gây nên họa Thụy Khánh Hồng Thuận.

Mấy năm nay giặc Cao khởi binh, tiếm xưng bảo hiệu. Thế mà Quảng Độ tham sống sợ chết,

nhẫn nhục thờ kẻ thù, mượn danh vị đi cổ động dân ngu cho giặc Cao, làm đầu mục đi nước ngoài cầu

phong cho giặc Cao, hạnh kiểm như chó lợn, lòng dạ tựa cưu cánh4

. [tờ 5a] Người người đều mắng

nhiếc, Quảng Độ vẫn trơ trơ! Y không nghĩ đến hậu ân của quân phụ, đại nghĩa về cương thường. Y

mang tội với trời đất, mang tội với tổ tông và thiên hạ, tội y không thể tha thứ được".

Hoàng đế bèn ra lệnh giết Quảng Độ. Tự đây ngài tin Đăng Dung là trung trực, càng thêm ân

sủng.

1

 Ba cương - là 3 đạo: Vua tôi, cha con và vợ chồng.

2

 Năm thường - là 5 điều: Nhân, nghĩa, lễ, trí và tín.

3

 Câu này, chính bản chép chữ: "trụ thạch" (cột đá), có lẽ do chữ: "bàn thạch" (bàn đá) chép lộn ra chăng ? Xin dịch theo

nghĩa chữ "bàn thạch".

4

 Cưu là tên con ác điểu. Loài chim này thường ăn thịt cha nó. Cánh là tên con ác thú. Giống thú này thường ăn thịt mẹ

nó. 36 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)

Lúc bấy giờ Vĩnh Hưng Bá Trịnh Tuy là cháu họ Duy sản, tranh quyền với An Hòa Hầu Nguyễn

Hoằng Dụ, kéo quân đánh nhau.

Họ Thủy chú (Trịnh) và họ Tống sơn (Nguyễn) đều là họ Công thần hạng nhất, danh vọng trên

đời, thế mà bổng gây hiềm khích, Hoàng đế hòa giải cũng không yên. Hoằng Dụ cử binh đánh Trịnh Tuy,

Tuy chạy về Lôi Dương. Trần Chân là con nuôi Duy Sản, nên bênh Trịnh Tuy, bèn cử binh đánh Hoằng

Dụ, Hoằng Dụ chạy [tờ 5b] về Tống Sơn. Thế là chỉ còn một mình Trần Chân lưu lại triều đình phụ

chánh.

Hoàng đế thấy hai họ đánh nhau, chưa phân đằng nào phải trái, lại nghe theo lời Trần Chân, sai

Đăng Dung dẫn thủy quân đuổi đánh Hoằng Dụ ở Thanh Hoa. Hoằng Dụ đưa tờ thư và bài thơ cho Đăng

Dung, Đăng Dung bèn án binh bất động, nên Hoằng Dụ được chạy thoát.

Năm Quang Thiệu thứ 3 (1518), Đăng Dung thăng tước Vũ Xuyên Hầu, ra trấn thủ Hải Dương.

Tại đây Đăng Dung thu thập dân quân, chỉnh đốn đội ngũ, binh số ngày thêm nhiều.

Lúc này, chỉ có một mình Thiết Sơn Bá Trần Chân nắm quyền binh trong Kinh Sư, Đăng Dung sợ

Chân, bèn cưới con gái Chân cho con trai mình là Đăng Doanh, để làm vây cánh.

Vua Chiêu Tông nghe lời gièm pha, giết Trần Chân. Đồ đệ Trần Chân là bọn Nguyễn Kính, đều

thuộc hạng tướng mạnh vùng Sơn Tây, liền cử binh đánh vào Kinh Đô, Hoàng thượng chạy sang nhà Xúc

ý huyện Gia Lâm, [tờ 6a] Trịnh Tuy đóng đồn ở Sơn Nam, có chừng hơn vạn quân, được tin trên dẫn

binh về cứu. Hoàng thượng triệu Hoằng Dụ để dẹp giặc cứu nhà vua, nhưng Dụ không chịu đến; các tôn

thất và đại thần chạy theo vua cũng không có bao người; lính cấm vệ quá ít, không biết cậy vào Tướng

nào, vua bèn sai Hà Văn Chính và Lê Đại Đỗ đi triệu Đăng Dung. ý ngài muốn cậy binh lực của Đăng

Dung để khôi phục lại Kinh Sư. Nhưng Đăng Dung thấy triều đình rối loạn, bèn nẩy ra mưu đồ khác.

Sau khi vào yết kiến Hoàng đế, Đăng Dung đóng thủy quân ở sông Nhị Hà, và cho là Xúc ý

đường hơi xa, bèn tâu xin Hoàng thượng dời về Thuần Mỹ Đường Bồ Đề, để tiện theo hầu.

Đăng Dung muốn mượn thế giặc để giết hại đại thần, cho hết vây cánh nhà vua, bèn lập ra kế:

Vờ cho người đi dụ bọn Kính, Áng hàng rồi mạo lời chúng yêu sách, liền ức hiếp triều đình [tờ 6b] giết

Đoan quận công Ngô Bính, Thọ quận công Trịnh Hựu, và bọn Trử Khải để vừa lòng giặc.

Đăng Dung cho là Hoàng đế ở điện Thuần Mỹ, hơi gần với nơi thủy quân của bọn con em Trần

Chân, định xin Hoàng thượng dời đến Bảo Châu, nhưng Đô ngự sử Đỗ Nhạc, và Phó đô ngự sử Nguyễn

Dự tranh luận, không đồng ý. Đăng Dung bèn sai người trong đảng là Đinh Mông bắt Đỗ Nhạc1

 và

Nguyễn Dự, đem giết tại vườn dâu phía cửa Bắc hành doanh Xuân Xã. Quần thần đều rung sợ! Bèn rước

Hoàng đế tới Bảo Châu. Tự đây, đại quyền trong triều ngoài quận đều thuộc về tay Đăng Dung.

Sau đấy một thời gian ngắn, Nguyễn Hoằng Dụ đem quân về cứu nạn giặc, Hoàng đế bèn sai

Đăng Dung và Hoằng Dụ, đều dẫn quân đánh bọn Kính và Áng ở Sơn Tây. Hoằng Dụ dẫn quân bản bộ

tiến đánh trước, bị thua trận. Đăng Dung thì án binh không tiến, [tờ 7a] nên vẫn được toàn quân, rồi

Hoằng dụ dẫn quân về, Đăng Dung bèn giữ hết binh quyền một mình. Ít lâu, Hoằng Dụ chết ở Thanh

Hoa, Đăng Dung lại càng tung hoành, không còn phải sợ một ai. Mùa đông năm này, Hoàng thượng cho

Đăng Dung chức Đề thống các doanh thủy quân và bộ binh.

Năm Quang Thiệu thứ 4 (1519), Hoàng thượng sai Đăng Dung thống lĩnh các quân đánh phá

giặc Lê Tiếu ở Từ Liêm, bắt được Lê Tiếu, lại chiêu dụ đảng giặc Nguyễn Kính và Hoàng Duy Nhạc đầu

hàng. Bộ đội ngày càng nhiều, công danh ngày càng thịnh, triều đình ai cũng phục.

Sau khi Hoàng thượng trở về Kinh Đô, tiến phong Đăng Dung tước Minh Quận Công.

Niên hiệu Quang Thiệu thứ 5 (1520), Đăng Dung bàn với nhân gia Lễ bộ Thượng thư Phạm Gia

Mô, tính kế được nắm trọn binh quyền, để đánh dẹp cướp giặc. Bọn Gia Mô cũng nghĩ: Tự xưa, quyền tại

5 phủ, các văn thần kỳ cựu cũng không được dự. Chi bằng bây giờ để cho [tờ 7b] Đăng Dung làm quan

 1

 Chữ này chính bản chép chữ "binh", có lẽ do chữ "nhạc" viết lộn ra chăng ? xin dịch theo chữ "nhạc". 37 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)

Tiết chế, thì việc gì chúng mình cũng co thể làm được. Bèn cùng nhau ký tên vào tờ bảo cử. Hoàng đế

ưng theo, cho Đăng Dung chức Tiết chế 13 Đạo thủy lục quân; Gia Mô chức Tán lý quân vụ. Thế là tất cả

binh mã trong thiên hạ, đều thuộc quyền Đăng Dung.

Niên Hiệu Quang Thiệu thứ 6 (1521), Đăng Dung tự phong lên tước Nhân quốc công, Tiết chế 13

Đạo thủy lục quân.

Đăng Dung giữ binh quyền đã lâu, Tướng Tá đều quy phụ. Hoàng đế cũng biết y chuyên quyền,

nhưng còn mong lòng trung nghĩa của y, hy vọng thu công sau này, ngài thân đến phủ Đăng Dung và

phong thêm cho chức Thái phó. Mùa đông năm này, Hoàng đế đến viện Quỳnh Vân úy lạo Đăng Dung,

và sai dẫn quân đi Bắc Giang đánh giặc Trần Thăng, sau khi Đăng Dung đã đi, ngài lại ban cho tờ sắc

rằng:

"Trẫm thường nghe: [tờ 8a] Vì nước trừ bạo tàn, xông pha nơi nguy hiểm. Đó là chức trách của

người làm Tướng. Cho nên Điền Đan nước Tề, xông pha nơi tên đạn mà nước địch hàng; Lý Tố nước

Đường, xông pha gió sương, mà bình Quán Sái, các Tướng ấy đều bảo vệ xã tắc, và có công lớn với thiên

hạ.

Khanh là người trẫm trông cậy. Nay giặc Thăng tụ tập chúng đảng, đóng vùng Thái Nguyên Lạng

Sơn, triều đình phong cho khanh làm Đô Tướng, dẫn thủy lục quân trong thiên hạ đi đánh dẹp, vượt

sông núi, gội gió mưa, phá quân giặc ở huyện phượng nhỡn và Bảo Lộc, những nơi khanh dẫn quân đi

qua, binh sĩ không hề xâm phạm của dân một mảy may, các dân xã đó đều mến phục. Đã mấy lần nhận

được thư tâu thắng trận, trẫm rất khen ngợi.

Nay sai Thiếu bảo Binh bộ Thượng thư Cẩm sơn hầu Lê thúc Hựu, [tờ 8b] Tư lễ giám Tổng thái

giám kiêm Tài dụng khố sự Lê Khoái, và Tả thị lang Đông các Đại học sĩ Nguyễn Quýnh, đem tờ sắc chỉ

này úy lạo khanh cùng tướng sĩ các doanh, và 100 lạng bạc để khanh thưởng kẻ có công.

Khi nhận tờ sắc này, khanh nên thể theo ý trẫm; Lấy điều trung nghĩa khích lễ tướng sĩ, đồng

tâm hiệp lực, lập kế bắt giặc. Chỉ cốt bắt cho bằng được chính tên giặc Thăng, còn những kẻ a tòng, đều

tha hết thẩy. Quét sạch vào sào huyệt của giặc ẩn núp đã lâu năm; cứu vớt dân một phương khỏi lầm

than, được an cư lạc nghiệp, để thông đường sứ sự, để trọn vẹn chiến công. Như vậy thì công danh của

khanh vang lừng vũ trụ, tước lộc của khanh sẽ lưu truyền mãi mãi tới con cháu đời sau".

[tờ 9a] Đăng Dung tiến quân đến Lạng Nguyên, Trần Thăng thua chạy, quan quân đuổi bắt

được, bèn kéo quân trở về.

Niên hiệu Quang Thiệu thứ 7 (1522, Lê Bá Hiếu nổi loạn ở Đông Ngàn, Đăng Dung dẫn các

tướng đánh dẹp, nhưng không được. Đợt sau lại dẫn quân đánh phá, bắt được Bá Hiếu.

Sau khi Đăng Dung một mình giữ binh quyền, từng bình được nhiều giặc lớn, uy quyền ngày

càng thịnh, mà đạo quân nhà vua thì yếu ớt, lòng người ai cũng hướng về Đăng Dung, nên y càng lưu

tâm mưu việc phản nghịch.

Nhân Gia với Đăng Dung và Phạm Gia Mô, chức Lễ bộ Thượng thư, giữ chánh quyền trong triều;

em rể là Vũ Hộ, chức Tả đô đốc trấn Sơn Tây, đều là bè đảng thông đồng. Thượng thư Trịnh Chí Lâm,

Nguyễn Thời Ung đều phụ họa thêm. Y lại tiến vua một mỹ nhân, giả danh là con gái của y, vào làm

cung tần để dò la tin tức Hoàng đế; sai em là Đông quận công Mạc Quyết giữ đạo binh túc vệ; sai con

trai là Đăng Doanh Dục mỹ hầu [tờ 9b] giữ điện Kim Quang.

Khi Đăng Dung đi đường bộ, thì dùng lọng phượng bông vàng; khi đi đường thủy thì dùng

thuyền rồng dây lụa1

. Tự do ra vào nơi cung cấm, không hề nể sợ. Lại giết hết những người tâm phúc

của vua là bọn: Thị vệ Nguyễn Cấu, Đô lực sĩ Minh sơn bá Nguyễn Thọ và Đàm Cử.

1

 Lọng phượng và thuyền rồng, đều là nghi trượng của vua Thiên tử. Đây chép Đăng Dung tiếm dụng. 38 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)

Hoàng đế thấy tình thế ngày một bức bách, bèn ngầm bàn với Nguyễn Hiến và Phạm Thứ, định

dời Kinh đô đi ra ngoài, để hiệu triệu các Tướng 4 phương hỏi tội Đăng Dung. Bàn xong, sai người đi

trước, mang tờ mật chiếu tới Tây kinh, dụ viên cựu thần Trịnh Tuy đem binh đến đón Hoàng đế.

Mùa thu năm này, hồi trống canh hai đêm 27 tháng 7, Nguyễn Hiến và Phạm Thứ vào cung dự

hầu yến, rồi đón Hoàng đế ra đi tới Ốc sơn huyện Minh Nghĩa. Trong lúc vội vàng, không kịp báo Thái

hậu và Hoàng đệ.

Ngày hôm sau, Đăng Dung mới biết, [tờ 10a] bèn sai quân ngăn chặn các nẻo đường cốt yếu,

rồi dựng cờ điểm binh; ra lệnh các phố phường không được náo động; sai người trong đảng là Hoàng

Duy Nhạc dẫn quân đuổi kịp Hoàng đế ở huyện Thạch Thất, Hoàng thượng dùng quân Thạch Thất chống

đánh, bắt chém Duy Nhạc.

Ngày này, Đăng Dung vào Kinh đô, thả ngay Thượng thư Trình Chí Lâm và Nguyễn Thời Ung do

vua bắt giam, rồi mưu với đại thần Lê Phụ, Lê Điêu, lập Hoàng đệ Xuân lên ngôi vua.

Hoàng thượng triệu Vũ Hộ dẫn quân đến Cần Vương. Nhưng Hộ lại phản, dẫn 3.000 quân qui

phụ Đăng Dung, Đăng Dung rất hả, sai Hộ đóng quân ở Giang Bắc, rồi sai Lê Điêu và Nguyễn Như Quế

phụng nghinh Xuân tới Hồng Thị, làm nơi hành điện; sai quân dân đắp gấp lũy Cẩm Giang để phòng thủ.

Lúc này, Hà Phi Hổ chống nhau với Đăng Dung, [tờ 10b] dụ Phạm Tại làm hướng đạo, còn bọn

Bá Ký đều chạy về Bắc.

Tháng 8, Đăng Dung suy tôn Hoàng đế xưng đế hiệu, nhưng vì sợ vua Chiêu Tông ở ngoài hiệu

triệu binh thiên hạ, nên không dám đóng tại Kinh thành, đón Xuân về Gia Phúc, và vận tải hết bảo vật

trong thành về, rồi phong quan tiến tước cho các quan, văn thần là bọn Vũ Cán, Nguyễn Văn Thái, đều

được phong làm Chánh doanh đề sát thủy bộ quân vụ.

Sau đấy không lâu vua Chiêu Tông trưng tập được khá nhiều binh, dẫn quân tự Mông Sơn về,

ngự tại hành điện Thụy Quang, trăm quan tới triều, bốn phương hưởng ứng, ngài sai bọn nguyễn Kính cả

thẩy 4 viên Tướng, chia làm 4 đạo quân tiến đánh Đăng Dung, đóng quân tại các huyện: Gia Lâm, Văn

Giang, Đường Hào, Cẩm Giang, Lương Tài, và Gia Định, hai bên chống nhau đã một tháng, chưa phân

được thua.

[tờ 11a] Lúc này, các xứ về 3 mặt Tây, Nam và Bắc, đều đã thuộc về vua Chiêu Tông, còn Đăng

Dung, tuy mượn tiếng dựng Hoàng đệ, nhưng chỉ giữ được một góc về xứ Hải Dương thôi.

Sau đây, Đăng Dung chia quân hai đường thủy bộ, tiến đánh các xứ Đông Hà, Hoàng đế sai các

Tướng: Lại Thúc Mậu, Nguyễn Dư Hoan, Nguyễn Định và Đàm Khắc Nhượng, chia đóng các doanh trấn

giữ. Hai bên đang cầm cự, thì Đăng Dung dùng thủy quân đánh úp vào ban đêm, phá được các doanh

liền dẫn quân qua sông, Thúc Mậu và Dư Hoan1

 thua chạy. Có 4 tên lính giặc vào khiêng mác, tự phường

Phục Cổ xông vào điện Thụy Quang, nhưng lính hộ vệ cự được, Hoàng đế hoảng hốt chạy lánh đến đình

cũ làng Nhân mục Tây hà! Trăm quan tan rã, mấy ngày mới tụ tập lại.

Tháng 9, Hoàng đế lại đốc quân về Kinh đô, Đăng Dung vì còn vướng với các Tướng ở miền Bắc

giang [tờ 11b] cho nên không dám ngó tới Đô thành.

Mùa đông năm này, Trịnh Tuy đem toàn bộ quân Tam phủ, tự Thanh Hoá về cứu giá. Nhưng vì

nghe lời ly gián, đem lòng nghi ngờ thành ra ngăn trở, rồi ép Hoàng đế bỏ Đông Kinh về Thanh Hoa, giải

tán hết các đạo binh. Tự đây, không còn chiếu lệnh nhà vua nữa, thiên hạ thất vọng, các Tướng khởi

nghĩa đều giải tán. Việc nước hết nói vậy.

Sau khi Hoàng đế bôn ba, kinh thành trống không, quân Đăng Dung ngày càng mạnh, bình định

Kinh Bắc, rồi sai tỳ tướng đánh phá Giang Văn Dụ ở Thanh Oai, đuổi tận đến chân núi. Bèn đón vua Cung

đế về ngự tại Bồ Đề, để hiệu lệnh 4 phương, quan lại quân dân đều qui phụ theo.

1

 Chữ "Hoan" này do viết sai, cho nên khác mặt chữ nhưng chính là "Nguyễn Dư Hoan" ngay dòng trên. Không phải là tên

một người khác. 39 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)

Niên hiệu Thống Nguyên thứ 2 (1523), Đăng Dung sai em là Đông Sơn Hầu Mạc Quyết, [tờ 12a]

cùng Vũ Hộ, Vũ Như Quế, phát quân đánh Trịnh Tuy ở Thanh Hoa.

Tháng 7, Đăng Dung mạo tờ chiếu của vua Cung đế, bỏ Hoàng đế Chiêu Tông, xuống tước Đà

dương vương.

Niên hiệu Thống Nguyên thứ 3 (1524), Đăng Dung tự thăng lên tước Bình chương quân quốc

trọng sự thái phó Nhân Quốc công. Sai em là Mạc quyết dẫn quân đánh Trịnh Tuy ở Nguyên Đầu, chiếm

hết các Quận Huyện ở Tây đô. Trịnh Tuy chết bệnh.

Niên hiệu Thống Nguyên thứ 4 (1525), tháng 10 Đăng Dung tự làm Đô Tướng, dẫn tất cả thủy

quân và bộ binh các doanh trong thiên hạ vào Thanh Hoa, Hoàng đế bức bách, chạy vào động An Nhân

núi Cao Trĩ châu Lương Chánh, Đăng Dung đến ép vua đưa về Kinh Sư. Tướng đóng ở Bắc Giang là bọn

Hà Phi Ổ đều tan rã và bị giết cả. Đăng Dung lại giết hết thẩy các quan văn võ nào theo vua Chiêu Tông

mà không theo mình. Tiến quận [tờ 12b] công Nguyễn Lĩnh lấy em gái Đăng Dung tên là Huệ, lại lấy

thêm 10 thiếp, Thị Huệ ghen, tố cáo là Lĩnh lập đảng phái, Đăng Dung cũng giết luôn Nguyễn Lĩnh. Đăng

Dung giữ hết quyền thưởng phạt hoặc thăng giáng, các quan lại cùng Tướng sĩ, vua chỉ là hư vị mà thôi.

Đăng Dung lại giả bộ làm lánh quyền hành, lui về ở Cổ Trai, nhưng thực vẫn chế ngự chánh trị trong

triều.

Tháng 12, niên hiệu Thống Nguyên thứ 5 (1526), Đăng Dung sai Bái khê bá Phạm kim Bảng mật

giết vua Chiêu Tông ở Hàng sở.

Niên hiệu Thống Nguyên thứ 6 (1527), Đăng Dung tự thăng lên tước Thái sư An quốc vương, gia

cửu tích.

Hoàng đế sai Tùng dương hầu Vũ Hữu, Lan xuyên hầu Phan đình Tá, và Trung xứ Đỗ hiếu Đễ

cầm cờ tiết đem kim sách; áo mạo thiêu rồng đen, đai dát ngọc; kiệu tía, quạt vẽ; và lọng tía. đến Cổ

Trai tuyên mệnh vua ban cho Đăng Dung, Đăng Dung đón tiếp tại bến đò An sáp hạt Tiên minh.

[tờ 13a] Tháng 5, ngày mồng 5, Đăng Dung tự Cổ Trai tới Kinh bái yết Hoàng thượng, rồi tự

cửa Đông Hoa ra cửa Đại Hưng trở về Cổ Trai.

Tháng 6, Đăng Dung về Kinh sư ép vua nhường ngôi cho y. Lúc này thần dân phần nhiều xu

hướng về Đăng Dung. Mạc Đăng Dung đón cả vào cung.

Ngày 15, thuộc ngày canh thân, sau khi các quan yên vị trong triều, bèn tuyên tờ chiếu của

Hoàng đế rằng:

"Vua Thái Tổ ta thừa thời cách mệnh, bèn có bốn phương, các thánh truyền ngôi, đã nhiều lịch

số. Đó là lòng người hợp với ý trời xui nên vậy.

Tự cuối thời Hồng Thuận, gặp lúc quốc gia nhiều nạn, Trần Cao bắt đầu gây loạn; Trịnh Tuy lập

kẻ nghịch lên ngôi, lòng người lìa tan, trời cũng không giúp. Lúc ấy thiên hạ đã không phải của nhà ta

vậy.

Ta bạc đức nối ngôi, không thể gánh nổi mệnh trời và lòng người, [tờ 13b] hướng về người có

đức. Vậy nay Thái sư An quốc vương Mạc Đăng Dung, là người tư chất thông minh, đủ tài văn võ bên

ngoài đánh dẹp, bốn phương đều phục, bên trong trị nước, trăm họ yên vui, công đức rất lớn lao, trời

người đều qui phụ.

Nay nhường ngôi báu cho người có đức, để hợp mệnh trời, để yên nhân dân. Kính vậy thay".

Bài chiếu này là lời của nguyễn Văn Thái.

Sau khi tuyên chiếu, Đăng Dung bèn xưng Hoàng đế, ban lệnh đại xá thiên hạ, dùng ngay năm

này làm niên hiệu Minh Đức thứ nhất, bỏ Hoàng đế xuống tước Cung vương, rồi giam cùng với Thái hậu

ở cung Tây nội. Sau giết chết. 40 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)

Tháng này Đăng Dung vào Kinh thành, ngự nơi chính điện, tế yết Nam giao, đặt tỉnh Hải Dương

là Dương Kinh, [tờ 14a] lập cung điện ở Cổ Trai, truy tôn Tổ 7 đời Đĩnh Chi làm "Kiến thủy Khâm minh

Văn Hoàng đế ".

(Đăng Dung lại dựng ngôi điện gọi là Sùng Đức vào nền nhà cũ của Đĩnh Chi ở xã Lũng Động.

Phần mộ thân phụ ở Tây Lăng, cho nên nay trong làng gọi nơi ấy là xứ Ổ Lăng. Lại đắp một gò lớn tại bờ

sông phía Bắc mặt tiền điện Sùng Đức, để làm nơi lễ bái, các quan nhà ngụy Mạc ai đi qua nơi đây, đều

lễ vọng vào điện Sùng Đức. Nay nền điện và gò này hãy còn, điện thì ở xã Lũng Động nơi gần sông, gò

thì ở bờ sông xã Đông đôi, gọi là gò Mã thảo. Nhà giảng học cũ của Đĩnh Chi: một ở nền Huyện trị cũ xã

Cao Đôi; một ở chùa Quất lâm xã Tống xá. Những di tích này vẫn hãy còn rành rành, có thể khảo sát );

Tổ 6 đời Giao làm "Hoằng cơ đốc thiện Tuyên hưu Hoàng đế "; Cao Tổ thúy làm "Dụ tổ thiệu phúc hoằng

đạo tích đức Hoàng đế "; Tằng Tổ Cao làm "Ý tổ hồng khánh uyên triết anh duệ Hoàng đế "; Tổ Bình làm

"Hoằng tổ thuần hiến tuy hưu đốc cung Hoàng đế "; các bà Tổ trên đều là Hoàng hậu; thân phụ Hịch làm

"Chiêu tổ quang liệt cơ mệnh Hoàng đế " [tờ 14b] thân mẫu Đặng Thị làm Hoàng Thái Hậu.

Dựng thêm một ngôi điện để ở, gọi là điện Phúc Ý, tại phía Tây điện Hưng Quốc Dương Kinh.

Lập con trai Đăng Doanh làm Thái tử, phong em tri Quyết làm Tín vương, truy phong em trai

Đốc làm Từ Vương, 3 am gái đều phong Công chúa: em gái trưởng Ngọc phong làm "Trang hoà Trưởng

Công chúa " em gái thứ Ngọc Huệ phong làm "Khánh diệm Công chúa ", em gái út Ngọc Anh phong làm

"Tú hoa Công chúa ". Phong Vũ Hộ làm Tĩnh Quốc Công, cho đỗi sang họ Mạc; phong Trung quan

Nguyễn Thế Ân người làng Ngọc Lâm huyện Tứ Kỳ làm Lý Quốc Công.

Dùng ngày sinh nhật của Đăng Dung làm ngày "càn ninh thánh tiết".

Lúc này, thần dân thất vọng, thiên hạ nôn nao, Đăng Dung sợ lòng người còn nhớ vua cũ, có thể

sẽ sinh biến, bèn phải tuân theo [tờ 15a] pháp độ triều Lê, phủ dụ quần thần trấn áp nhân dân. Để che

mắt thế gian, trưng cầu con cháu các vị công thần thế gia, giả danh là trưng dụng, nhưng kỳ thực cốt để

kiềm chế như là quản thúc vậy. Bởi thế nhiều người trốn vào rừng núi, hoặc ẩn giấu tên tuổi không chịu

ra, hoặc tụ họp nhau làm đảng cướp, hoặc bỏ đi ra ngoại quốc để cầu yên. Đăng Dung lại muốn thu

nhân tâm, bèn phong tất cả các vị tiết nghĩa cựu thần như bọn Vũ Duệ; Đàm Thận Huy; sai quân tu sửa

lâu điện ở Lam Kinh, mỗi năm hai lần tế lễ vào mùa xuân và mùa thu; lại bốn kỳ tế lễ nơi lăng Mỹ Xá. Đó

là giả nhân nghĩa để thuận lòng dân vậy.

Năm Mậu Tý (1525), mùa xuân, tháng giêng. Đăng Dung muốn thay cũ lập chánh mới, bèn sai

đúc loại tiền Thông bảo [tờ15b] hình tròn ngày trước, nhưng phần nhiều không thành, cho nên lại phải

đúc loại tiền "gián" mới bằng kẽm, để ban bố cho các xứ tiêu dùng.

Tháng 2, Đăng Dung phong cho bầy tôi Nguyễn Quốc Hiến làm Phò mã đô úy Thái bảo Lâm quốc

công, và cho đổi là họ Mạc; Mạc Quốc Trinh làm Thái sư Lân quốc công; Mạc Đình Khoa làm Tả đô đốc

Khiêm quốc công; Mạc Bang Hộ làm Thái bảo Tĩnh Quốc công; Nguyễn Thời Ung làm Thiếu bảo Thông

quốc công; Khuất Quỳnh Cửu tước Thuần khê hầu; Nguyễn Bỉnh Đức tước Khánh khê hầu; Phạm Gia Mô

tước Hoằng lễ hầu; Phan Đình Tá tước Lan xuyên bá; Nguyễn Văn Thái tước Đạo xuyên hầu; Nguyễn

Mậu tước Văn đại bá; Hà Cảnh Đạo tước Sùng lễ bá; Mạc Ích Trưng tước Tố xuyên bá; [tờ 16a] Nguyễn

Tuệ tước Hưng giáo bá; Nguyễn Địch tước Lộc hiến hầu; Phạm Chánh nghị tước Văn tràng bá; Nguyễn

Chuyên Mỹ tước Văn đẩu hầu; Nguyễn Độ tước Hà ngưng bá; Lê Quang Bí tước Tô xuyên hầu; Nguyễn

Điển Kính tước Văn minh hầu; và bọn Nguyễn Hậu Liêm chức Trung quan trưởng giám. Tất cả có 56

người được thăng trật và phong tước tùy từng hạng.

Đăng Dung do sự cướp ngôi mà được nước, cho nên sợ nhà Minh hỏi tội, bèn sai Sứ thần sang

Yên Kinh dâng biểu nói: Con cháu họ Lê không còn ai thừa tự. cho nên chúc thác đại thần họ Mạc tạm

quản việc nước, để yên nhân dân. người Minh biết đó là giả dối, không tin, ,bèn mật sai người sang thăm

dò tin tức, gạn hỏi căn do. Đăng Dung cùng bọn bầy tôi thường bày đặt lời lẽ để đối đáp, lại dùng vàng

bạc đút lót những viên Tướng nhà Minh giữ biên thùy, để nhờ che chở.

[tờ 16b] Tháng 2, Bích khê hầu Lê Công Uyên người huyện Lôi Dương, là cháu viên công thần

cũ Lê Văn Linh, cùng với Nguyễn Ngã, Nguyễn Thọ Trường, cùng khởi nghĩa binh đánh vào cửa Chu

Tước, bị thua, chạy vào Thanh Hoa, rồi chiêu tập dân chúng, dựng cờ chiêu an, nhưng binh không có 41 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)

niên hiệu. Đăng Dung sai quân đến đánh. Dực nghĩa hầu Lê Thiệu người châu Thúy thuần, sai thủ hạ

ngầm giết Công Uyên, các Tướng Văn Thông Bá và Thái Sơn Bá đều tan vỡ. Xứ Thanh Hoa và xứ Nghệ

An bị nạn binh hỏa liền liền mấy năm, nhân dân lưu tán, ruộng vườn bỏ hoang.

Mùa đông, tháng 10 sau khi đã được bình định, Đăng Dung cho là pháp luật lỏng lẻo, bèn sai

bọn Quốc Hiến họp bàn đổi định phép binh, phép điền, phép lộc; [tờ 17a] đặt 4 vệ: Quốc Hưng, Chiêu

Vũ, Cẩm Y, Kim Ngô; các vệ nội ngoại trong 5 phủ; tên các Ty; tên quan chức công chức trong các nha

môn, theo như quan chế triều trước, y lệ biên phép đủ. Lấy trấn binh xứ Hải Dương thuộc vào vệ Cẩm Y,

trấn binh xứ Kinh Bắc thuộc vào vệ Kim Ngô. Mỗi Ty đặt 1 viên Chỉ huy sứ, 1 viên Chỉ huy đồng tri, một

viên Chỉ huy thiêm sự, 10 viên Trung hiệu, 1100 binh sĩ Trung sĩ. Số lính này chia làm 22 phiên, thay

phiên túc trực. Như Trung sĩ nào có công lao thì được thăng bổ các chức: Thiên hộ, Thống chế, Quản

lĩnh và Trung úy. Mỗi vệ đặt 1 viên Thư ký, dùng hạng kí lục xuất thân, sẽ được bổ các chức thủ lãnh.

[tờ 17b] Lính Trung sĩ chiếu theo lệ chia thành phiên, mỗi phiên chia làm 5 giáp, mỗi giáp đặt một viên

giáp trưởng, quan đầu Ty chọn trong hàng Trung hiệu, lấy người xứng đáng bổ vào chức này.

Năm Kỷ Sửu, niên hiệu Minh Đức thứ 3 (1529), hai anh em Trịnh Ngung và Trịnh Ngang, là cựu

thần nhà Lê, chạy sang triều Minh báo cáo Đăng Dung cướp nước, và xin binh để dẹp. Vì Đăng Dung hối

lộ bầy tôi nhà Minh ở nơi biên thùy để cầu ngăn trở, nên việc không thành công, 2 ông đều chết già ở

đất Trung Hoa.

Hữu vệ Điện tiền Tướng quân An thanh hầu Nguyễn Cam ở Thanh Hoa, là em Nguyễn Hoằng Dụ,

một vị vốn có danh vọng, đem con em chạy sang nưới Ai Lao, có chí mưu đồ khôi phục.

Tháng 3, Đăng Dung mở khoa thi Cử nhân, [tờ 18a] lấy bọn Đỗ Tông, cộng 27 tên trúng tuyển.

 Tháng 12, Đăng Dung thấy nhân tâm trong nước chưa yên, bèn truyền ngôi cho con là Đăng

Doanh, rồi tự xưng là Thái thượng hoàng, ra điện Tường Quan ở.

Năm Canh Dần (1530), tháng giêng, ngày Đinh Hợi, mồng 1, Đăng Doanh tiếm hiệu Hoàng đế,

ban lệnh đại xá thiên hạ, đổi năm ấy là niên hiệu Đại Chánh thứ nhất, ngụy tôn Đăng Dung làm Thái

thượng hoàng, dựng điện nguy nga để Đăng Dung ở, mỗi tháng vào ngày mồng 8 và ngày 22, Đăng

Doanh dẫn quần thần đến điện triều yến.

Đăng Dung về Cổ Trai ở, là để trấn vững nơi căn bản, và làm ngoại viện cho Đăng Doanh, nhưng

vẫn định đoạt các việc trọng đại quốc gia.

Soạn 59 điều cáo ban hành.

Chưa bao lâu, Lê Ý là con Công chuá An Thái, khởi binh ở châu Gia, lại xưng niên hiệu Quang

Thiệu, nhân dân đều hưởng ứng.

[tờ 18b] Tháng 4, Đăng Dung đích thân đốc mấy vãn thủy lục quân đánh Lê Ý ở Mã Giang, mấy

trận đều bị thua, bèn lui quân về Đông Kinh.

Đăng Doanh lại dẫn binh vào Thanh Hoa, đánh Lê Ý ở Động hàng, bị thua to, bèn kéo quân về,

lưu Mạc Quốc Trinh ở lại chống cự với Lê Ý. Quốc Trinh biết Lê Ý cậy thắng trận luôn, không có phòng bị,

bèn tuyển quân đánh úp, phá tan doanh trại, bắt được Lê Ý, đem về Đông Kinh giết chết.

Mùa xuân năm Tân Mão (1531), An Thanh Hầu Nguyễn Cam dẫn quân tự nước Ai Lao về Thanh

Hoa, Đăng Dung sai binh đánh , bị thua to.

Mùa xuân, năm Quý Tỵ (1533), các vị cựu thần nhà Lê: Lý Quốc Công; Trịnh Duy Noãn, Phúc

Hưng Hầu; Trịnh Duy Duyệt, và Tả đô đốc Trịnh Duy Liệu, dựng vua Trang Tông lên ngôi vua tại nước Ai

Lao, [tờ 19a] đặt niên hiệu là Nguyên Hòa. Quốc thống phân minh, danh nghĩa chính đáng. Sau khi

phong các Tướng, vua sai Duy Liệu vượt biển sang nhà Minh, tâu cáo tội trạng của Đăng Dung, và xin

nhà Minh đánh dẹp. Duy Liệu là người có tiết tháo, giỏi văn chương, soạn tờ tâu kể hết tội tiếm nghịch 42 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)

của Đăng Dung. Ông lại tự ví như Thân Tư, Dự Nhượng vàTrương Lương1

, lời lẽ rất lâm ly bi đát! Vua

nhà Minh nhận tờ tấu, giao xuống đình nghị, định cất quân sang hỏi tội Đăng Dung.

Đăng Dung được tin trên, liền sai người trong đảng là Phạm Chánh Nghị mang tờ thư đến tỉnh

Vân Nam trình quan đầu tỉnh. Trong thư đại ý nói:

Trước kia, Quốc vương tôi Lê Điêu bị tên nghịch thần Trần Cao giết, không có con trai, Đăng

Dung cùng người trong nước dựng em Điêu là Huệ lên ngôi vua, Huệ lại bị gian thần Đỗ Ôn và Thịnh Tuy

dụ dỗ đưa vào Thanh Hoa, [tờ 19b] Đăng Dung bèn dựng em Huệ là Khoáng lên ngôi, rồi vào Thanh

Hoa đón Huệ về. Sau Huệ và Khoáng đều chết bệnh, họ Lê không có con nối. Khi Khoáng sắp chết, có

bàn với quần thần rằng: "Đăng Dung và con trai, đều có công với nước, vậy giao ấn tín cho y để giữ

nước". Bởi thế cả nước suy tôn Đăng Dung lên ngôi vua. Sở dĩ không dâng biểu xưng thần và nộp cống

hiến, là vì: Buổi trước thì bị Trần Thăng chiếm cứ tỉnh Lạng Sơn, nghẻn đường không qua được; Về sau

lại bị các quan giữ cửa ải của thượng quốc, đóng cửa quan không cho qua. Còn như Lê Ninh, là con của

tên loạn thần Nguyễn Cam, chứ không phải là con trai của Huệ.

Viên Thủ Tướng nhà Minh chuyển đạt lời trên lên vua, triều đình đều cho lời đó là hoang vu,

không đúng sự thực. Còn đạo quân của Tướng Cừu Loan, tuy đã kéo đến lãnh thổ nước ta, nhưng vẫn

do dự chưa tiến.

[tờ 20a] Năm Kỷ Hợi, niên hiệu Nguyên Hòa thứ 7 (1539), tháng 5 ngày Canh Ngọ, thân mẫu

Đăng Dung Đặng Thị chết, thọ 82 tuổi. Sùng An Vương Trí Nhân giữ việc hộ lễ, Đăng Dung để tang 3

năm, Đăng Doanh và quần thần để tang 1 năm, người trong Kinh thành và trong ấp Thang mộc đều để

tang 100 ngày, toàn dân thiên hạ để tang 27 ngày. Đó là theo phép đời xưa vậy. Ngụy tôn tên thụy bà là

"Chiêu từ sùng hựu hiến Hoàng thái hậu ", ngày Bính Ngọ tháng 9 làm lễ an táng, phần mộ gọi là Thụy

Lăng.

Năm Canh Tý, niên hiệu Nguyên Hòa thứ 8 (1540), nhằm niên hiệu Đại Chánh thứ 11 ngụy Mạc,

ngày Mậu Ngọ tháng giêng. Đăng Doanh chết, Đăng Dung lại trở về Đông Kinh, dựng cháu nội là Phúc

Hải lên nối ngôi vua.

 Sợ nhà Minh đem quân đánh. Đăng Dung mật sai người hối lộ viên tướng giữ châu Liêm là

Trương Nhạc, yêu cầu xin cắt đất nộp nhà Minh và tự bỏ Đế hiệu.

Viên Tham chánh nhà Minh Ông Vạn Đạt [tờ 20b] sai Lương Ngọc Phụ đem tờ đem tờ sức Đăng

Dung phải đích thân đến cửa quân, nộp đất dựng mốc; bỏ Đế hiệu đã tiếm xưng, và vâng lĩnh lịnh theo

ngày tháng của Trung Quốc.

Tháng 11, Đăng Dung vận áo trắng, tự quấn dây sợi vào cổ, dẫn cháu họ là Văn Minh cùng bầy

tôi là: Nguyễn Như Quế, Đỗ Thế Khánh, Đặng Văn Trị, Lê Thuyên, Nguyễn Tông, Tô Văn Tốc, Nguyễn

Kinh Tế, Dương Duy Nhất, và Bùi Trí Vĩnh (các người này cũng đều quấn tua sợi vào cổ ), đến chực ở

cửa Nam Quan. Vạn Đạt đã dựng sẵn một mạc phủ ở gần đấy, truyền lệnh mở cửa quan, Đăng Dung do

cửa quan bên Tả bước ra, quì gối hướng mặt về phía Bắc, dâng tờ hàng biểu, và bạ ghi chép thổ địa

1

 Thân bao tư bày tôi nước Sở thời Chiến quốc. Khi nước Sở bị Tử Tư dẫn quân nước Ngô đánh phá thành đô, vua Sở

phải chạy vạn phần nguy ngập, có thể mất nước đến nơi. Bao Tư bèn sang Tần cầu cứu, vua Ai Công nước Tần do dự không muốn

xuất quân, Bao Tư bèn quì tại sân triều, gào khóc thảm thiết, ròng rã 7 ngày không hề ăn uống. Vua Tần cảm động sai Tướng dẫn

quân cứu nước Sở, nước Ngô phải lui quân.

Dự Nhượng, gia thần Trí Dao, tước Bá nước Tấn thời chiến quốc. Sau khi Trí Dao bị Triệu Vô Tuất giết chết luôn cả 3 hô

Dự Nhượng bèn thay đổi họ tên, thủ một con mủi nhọn, trà trộn vào đám quân hầu trong dinh họ Triệu, ẩn trong phòng vệ sinh,

định giết Vô Tuất. Vô Tuất bắt được vặn hỏi, Dự Nhượng nói thật là định trả thù cho Trí Dao. Vô Tuất cho là nghĩa sĩ, tha cho về.

Nhưng Dự Nhượng vẫn chưa thoái chí, lại cạo đầu, bôi sơn vào mình, làm hình dạng người cùi; nhai nuốt than cho khỏi nhận ra

tiếng quen thuộc, rồi đến phục trong cầu Xích Kiều. Khi Vô Tuất đến khánh thành cầu, lại bắt được hình dạng tuy biến đổi, Vô Tuất

vẫn nhận ra được, sai lính chém đầu.

Trương Lương, Tổ phụ 5 đời làm Tướng nước Hàn. Sau khi nước Hàn bị nước Tần diệt, Trương Lương bán hết gia tài để

mộ lực sĩ, đón giết vua Tần Thủy Hoàng trong khi đi qua đất Bát Lãng. Nhưng lực sĩ chỉ đập tan cái xe giả dạng, vua Tần thoát nạn.

Trương Lương lại theo Hán Cao Tổ, bày mưu đánh phá nước Tần, báo thù cho vua nước Hàn. 43 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)

quân dân trong nước, tình nguyện nộp các động: Tư Lẫm, Kim Lặc, Cổ Sâm và Liễu Cát trong châu Yên

Quảng và châu Vĩnh yên, [tờ 21a] để lệ thuộc vào Khâm châu; xin ban cho niên lịch và ấn tín.

Sau khi Tướng nhà Minh nhận hàng, bèn sai Văn Minh, Nguyễn Giản Thanh, và Hứa Tam Tỉnh

đem tờ hàng biểu tới Yên Kinh dâng vua Minh.

Năm Tân Sửu (1541) tháng 8 ngày Nhâm Tuất, Đăng Dung bị bệnh, Phúc Hải sai Thái Bảo Bàn

quốc công Đặng Văn Trị, Thái Bảo Dương quốc công Đặng Đôn, và Thiếu Bảo Liêm quốc công Mạc ninh

Bang tới Cổ Trai hầu bệnh, rồi Phúc Hải cũng đích thân vào thăm.

Khi Đăng Dung bệnh nặng, truyền mệnh Phúc Hải phải kíp về Kinh sư, để trấn an nhân tâm, và

coi xã tắc là trọng. Phúc Hải bèn trở về Kinh sư. Ngày 27 thuộc ngày Ất Hợi, Đăng Dung chết, tiếm ngôi

vua 3 năm, truyền ngôi rồi ra ở ngoài 12 năm, thọ 59 tuổi. Có di chúc: Dựng đàn chay cúng phật.

Ngày Mậu Dần, Kinh Sư nhận được báo tang [tờ 21b] Phúc Hải dẫn quần thần đến điện Quảng

Đức, sai Sùng An Vương Mạc nhân trí làm Tổng đốc sứ, Tả đô đốc Kỳ quận công Mạc ninh Ngội làm phó,

Lương quận công Phạm kim Bảng làm Sơn lăng sứ, Tổng thái giám Vũ cảnh hành làm Phó.

Tháng 9, ngày Mậu Thân, Phúc Hải sai Thái úy Trung quốc công Mạc Nhứ Quế, Thái bảo Dương

quốc công Đặng Đôn Tín vào phụ chánh. Đông các Đại học sĩ Thiếu bảo Liêm quận công Mạc ninh bang

dâng tờ sách đặt ngụy thụy Đăng Dung là "Nhân minh Cao Hoàng đế ", miếu hiệu Thái tổ. Tháng 10

ngày Canh Thân an táng tại Long Sơn, mộ hiệu là An Lăng.

Mạc Ninh Ngội và Mạc Như Quế đều là Tướng của vua Chiêu Tông, vì thờ Đăng Dung nên đều

đổi ra họ Mạc. Còn Mạc Ninh Bang tức là nguyễn Bỉnh Đức, đỗ khoa Giáp Tuất thời Hồng Thuận. Khi

thiếu thời, Bỉnh Đức chơi với Đăng Dung rất thân, đến khi làm chính trị, ngầm giúp nhiều mưu kế về việc

thoán nghịch cho Đăng Dung, nên Đăng Dung rất sủng ái tín dụng. Sau bị quyền thần giết.

Bọn Miễn Thiệu soạn văn bia, nhiều câu xưng tụng quá đáng.

Sau Bình An Vương giúp vua Thế Tông Nghị Hoàng đế khôi phục Kinh sư, giết hết bọn ngụy

đảng; đem quân phá hết cung điện ở Cổ Trai; hủy bia đá mộ; chặt hết cây trồng trong lăng. Đó là tỏ sự

truy khiển vậy.

Đăng Dung có 10 con trai, con trưởng tức là Đăng Doanh, con thứ 2 là Trung Chánh, ngụy

phong Hoằng vương, thứ 3 Phục Sơn [tờ 22b], ngụy phong Định vương, thứ 4 Nhân Phủ phong Khang

vương, thứ 5 Quang Khải phong Quảng Vương, thứ 6 Nhân Quảng, thứ 7 Đại Khánh, mấy người này đều

còn nhỏ tuổi, chưa được phong tước. Con gái Ngọc Thọ tiếm phong Thụy ninh Công chúa, Ngọc Châu

tiếm phong Thái an Công chúa, còn Ngọc Quang và Ngọc Tư đều còn nhỏ tuổi chưa được phong tước.

Còn con trai là Gia Vương, Đại Dung, cùng con gái là Hồng Ngọc, Đoan Túc, và Ngọc Lan thẩy đều chết

non.

 44 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)

Đại Việt Thông Sử

LIệT TRUYệN

Thần Đôn soạn

NGHỊCH THẦN TRUYỆN

MạC ĐĂNG DOANH

[tờ 23a] Đăng Doanh là con trưởng Đăng Dung, buổi đầu thời Quang Thiệu, được phong tước

Dục mỹ hầu, giữ điện Kim Quang, khi Đăng Dung cướp ngôi vua, được dựng làm Thái tử. Sau khi Đăng

Dung tiếm ngôi được 3 năm, vì sợ nhân tâm chưa ổn định, bèn truyền ngôi cho. năm Canh Dần (1580)

mồng một tháng giêng thuộc ngày Đinh Hợi, Đăng Doanh tiếm ngôi vua, đổi niên hiệu là Đại Chánh, tôn

bà nội Đặng Thị làm Thái hoàng Thái; Đăng Dung làm Thái Thượng hoàng.

Lúc này, Lê Ý [tờ 23b] con trai An Thái Công chúa, khởi binh ở Na Châu, lại xưng niên hiệu

Quang Thiệu, hiệu triệu Tướng sĩ trong các xứ Thanh Hoa Nghệ An, hợp binh đánh giặc (Đăng Doanh).

Đăng Dung đích thân cầm quân đánh Lê Ý ở Mã Giang, mấy trận đều thua, phải kéo quân trở về.

Ngày 23, tháng 8 Đăng Doanh vào Thanh Hoa, hội binh ở sông Hoằng Hóa, rồi chia làm hai đạo,

sai Mạc Quốc Trinh lãnh đạo chiến thuyền tiến trước, bị Lê Ý đánh phá, Đăng Doanh lại đốc thúc Tôn

Thất Kỳ tiến binh tới Động Hàng, Lê Ý đón đánh phá tan, bắt được rất nhiều. Đăng Doanh bèn lui binh cố

thủ.

Mùa đông, tháng 11, Đăng Doanh để Quốc Trinh ở lại cầm cự với Lê Ý, rồi trở về Kinh Sư. Lê Ý

cậy thắng trận luôn, không đặt phòng bị, lui về Na Châu [tờ 24a] bị Quốc Trinh bắt được, giải về Kinh

Sư giết chết.

Tháng 12, cựu thần của Hoàng triều An Thanh Hầu Nguyễn Cam, nhân lánh loạn sang ở châu

Sầm Thượng, Sầm Hạ bên nước Ai Lao, chiêu tập các người trung nghĩa, có số binh Tướng hơn nghìn

người, 30 con voi và 300 con ngựa. Đến đây theo thỉnh cầu của các Tướng, bèn dẫn quân về Kinh Lược

xứ Thanh Hoa, đóng ở Lôi Dương, gặp phục binh của Ngọc Trục Hầu tướng Đăng Doanh đón đánh phá

tan.

Thời ấy, cha con Đăng Doanh do thoán nghịch cướp nước, cho nên hào kiệt phần nhiều không

phục, rất nhiều thổ tù các nơi khởi binh, Nguyễn Cam đóng ở nước Ai Lao; Trịnh Ngung, Trịnh Nghêu

chiếm cứ xứ Thái Nguyên; Vũ Văn Uyên chiếm cứ xứ Tuyên Quang, các Tướng này đều nêu danh nghĩa

phục quốc [tờ 24b] Suốc các xứ Thanh Hoa, Nghệ An và Tuyên Hưng, đều không theo hiệu lệnh của họ

Mạc.

Mùa xuân năm Tân Mão (1531), Đăng Doanh sai Tướng Đặng Quốc Công Nguyễn Kính vào đánh

Nguyễn Cam ở xứ Thanh Hoa, Nguyễn Cam đón đánh phá tan quân Nguyễn Kính, rồi chia Tướng sĩ đóng

các Huyện. Nguyễn Kính lại đánh vào Đông Sơn, Nguyễn Cam lại đánh phá được, vừa chém giết vừa bắt

sống được mấy trăm tên, rồi dẫn quân ra Gia Viễn, chiêu dụ và chiếm đất.

Mùa thu, tháng 7 năm này, trời đổ mưa nhiều, nước sông đầy dẫy; họ Mạc dùng chiến thuyền

tiến đánh, quân dân tán loạn, thế không thể cố thủ, Nguyễn Cam lại phải trở về Ai Lao, để dưỡng sức đợi

thời, Đăng Doanh cũng không dám tiến sâu vào nữa. Lúc này xứ Thanh Hoa bị nạn đói kém, một đấu

gạo phải mua với giá một tiền (60 đồng tiền kẽm). 45 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)

Có người ở Sơn Đông là Hùng Sơn hậu, lại đem mấy trăm con em vào xứ Thanh Hoa, [tờ 25a]

dựng doanh trại chiếm đóng, được mấy tháng thì Đăng Doanh sai Tướng vào đánh, nhà ở núi Ngọc

Huân. Hùng Sơn Hậu chết bệnh, quân đều tan rã.

Mùa xuân năm Nhâm Thìn (1532), Đăng Doanh mở khoa thi Cử nhân, lấy bọn Nguyễn Thiến,

gồm 27 người trúng tuyển.

Đăng Doanh thấy trong nước còn nhiều trộm cướp, bèn ra lệnh cấm nhân dân các xứ, không

được mang gươm giáo đao nhọn, và các đồ binh khí hoành hành ngoài đường. Nếu kẻ nào trái lệnh, cho

pháp ty bắt trị. Tự đấy, những người đi buôn bán chỉ đi tay không, không phải đem khí giới tự vệ, trong

khoảng mấy năm, trộm cướp biệt tăm, súc vật chăn nuôi, tối đến không phải dồn vào chuồng, cứ mỗi

ngày một lần kiểm điểm thôi. Lại trúng mùa luôn luôn, nhân dân bốn trấn đều được yên ổn.

Mùa đông, tháng 10, Đăng Doanh dùng Trung quan Trung hậu hầu làm Đại tướng quân, lãnh

binh thống quản tất cả binh [tờ 25b] dân 3 Phủ và quan 3 Ty trong xứ Thanh Hoa, toàn quyền tổng

trấn một phương. Tây An Bá Lê Phỉ Thừa gièm rằng:

"Châu Ái (Thanh Hoa) là một nơi núi sông hiểm trở, ruộng đất phì nhiêu, binh lương đầy đủ.

Quyền hành không nên để một người nắm giữ. Nếu người bầy tôi được chuyên quyền, tất sẽ tới sự họa

loạn. Nay đem nơi trọng địa đó trao phó cho một người tổng quản, nếu xảy ra biến cố, sợ khó bề chế

ngự, mà nơi đó sẽ không còn là của triều đình nữa. Xin xét kỹ lại, đừng để hối hận về sau ".

Đăng Doanh bèn chia xứ Thanh Hoa làm đôi, giao 7 Huyện: Thụy Nguyên, An Định, Vĩnh Phúc,

Đông Sơn, Thạch Thành, Cẩm Thủy và Quang Bình cho Thừa Phỉ quản thống, cùng với Trung hậu hầu

cùng khống chế lẫn nhau. Sai khi Thừa Phỉ được binh quyền, lại càng kêu căng phóng túng.

Tháng này có tuệ tinh hiện ở Phương Đông.

[tờ 26a] Đăng Doanh dùng An Bang Thừa chánh sứ Trần Phỉ làm Lại bộ Tả thị lang.

Tháng 12, An Thanh hầu Nguyễn Cam, và cựu thần triều Lê là Lý quốc công Trịnh Duy Thoan,

Phúc hưng hầu Trịnh duy liệu, dựng con trưởng vua Chiêu Tông lên ngôi vua ở nưới Ai Lao.

Mùa xuân, năm Quý Tỵ (1533), vua Trang Tông lên ngôi Hoàng đế ở Sách Thúy thuần, đặt niên

hiệu Kiến Hòa năm thứ nhất, phong tước cho các Tướng, luyện binh để mưu đồ khôi phục. Sai Trịnh Duy

Liệu sang xin quân nhà Minh.

Năm này hiệu úy Nguyễn Nhân Tỵ khởi binh ở Thuận Hóa, Đăng Doanh sai Tướng đánh, nhưng

không được.

Năm Giáp Ngọ, niên hiệu Nguyên hòa thứ 2 (1534), nhà Minh sai Hàm Ninh Hầu Bí Loan, và Binh

Bộ Thượng thư Mao Bá Ôn, dẫn quân đến cảnh thổ nước ta, tuyên bố là đến đánh họ Mạc. [tờ 26b]

Đăng Doanh xiết đổi sợ hãi! Liền tu sửa trại sách, luyện tập thủy quân; trưng cầu hết thẩy các cựu thần

lão tướng để cùng bàn việc nước; phục chức cho Thái Bảo Vũ Hộ làm Tây quân Tả đô đốc chưởng phủ

sự, để tới triều đình bàn luận chánh sự. Tháng 9 năm này, Vũ Hộ bị bệnh chết.

Mùa xuân năm Kỷ Tỵ, niên hiệu Nguyên Hòa thứ 3 (1535), Đăng Doanh mở khoa thi Cử nhân,

lấy bọn Nguyễn Bỉnh Khiêm cộng 32 người trúng tuyển.

Mùa xuân năm Bính Thân, niên hiệu Nguyên Hòa thứ 5 (1536) Đăng Doanh sai Đông quân Tả đô

đốc Khiêm quận công Mạc Đình Khoa tu sửa lại trường Quốc tử giám.

Tháng giêng, mùa xuân năm Đinh Dậu niên hiệu Nguyên Hòa thứ 5 (1537) Đăng Doanh đến

trường Thái học làm lễ Thích điện (tế tiên thánh tiên sư ).

Mùa hạ, tháng 4 có trận gió bão, làm đổ gẫy cây, tốc mái nhà, nước bể dâng lên giàn giụa, rất

nhiều người và súc vật chết đuối.

Trấn thủ Thanh Hoa Tây An Hầu [tờ 27a] Lê Phỉ thừa đánh phá Tam Ty, rồi sang Ai Lao qui

thuận Hoàng đế, được thăng tước Quận công. 46 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)

Mùa xuân, năm Mậu Tuất, niên hiệu Nguyên Hòa thứ 6 (1538) Đăng Doanh mở khoa thi Cử

nhân, lấy bọn Giáp Hải cộng 36 người trúng tuyển. Bỗ Trần Phỉ chức Thượng thư, làm Thừa tuyên sứ đạo

Hưng Hóa. Tuyển trai tráng sung vào ngạch quân.

Lúc bây giờ, triều Minh tuy có hạ chiếu sai Tướng sang hỏi tội họ Mạc, nhưng vẫn còn di duyên

chưa phát binh, chỉ hư trương thanh thế để hống hách thôi. Cha con Đăng Doanh xiết đổi kinh hoàng!

Sai Nguyễn Văn Thái đem tờ biểu đến tỉnh Quảng Tây xin hàng, tình nguyện tuân theo lệnh triều Minh

phân xử, lời lẽ rất thảm thiết! Lại hối lộ rất hậu các quan 3 Ty tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và các

Tướng Tá châu Khâm, châu Liêm. Các quan này nhận hối lộ [tờ 27b] hứa sẽ chuyển tâu về triều đình

xin tha cho. Bởi thế thời kỳ tiến quân được tạm hoãn.

Mùa xuân, năm Kỷ Hợi, niên hiệu Nguyên Hòa thứ 7 (1539), vua Trang Tông phong Đại Tướng

quân Dực nghĩa hầu Trịnh Kiểm tước Dực quận công. Dực nghĩa hầu người làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh

Phúc, theo Thái sư Nguyễn Cam đi đánh dẹp, lập được nhiều chiến công. Nguyễn Cam thấy ông có tài,

bèn gả con gái cho. Đến đây Hoàng đế phong cho tước Công, coi là một Đại Tướng tâm phúc. Công

nghiệp trung hưng bắt đầu tại đây.

Hoàng đế lại phong tước cho các Tướng: Phong Tuyên quận công cho Trịnh Công Năng, Hòa

quận công cho Lại Thế Vinh, Thụy sơn hầu cho Hà Nhân Chánh. Ngoài ra như; Hiệp quận công, Tường

quận công, Từ quận công, Trấn quận công, Tây quận công, Dương quận công, và Bảo quận công, đều

được ban cho mỗi vị một quả ấn Tướng quân [tờ 28a], để dẫn binh bản bộ chia đường tiến quân, thanh

thế rất lừng lẫy! Đánh vào vùng Lôi Dương, nơi nào quân Đăng Doanh cũng bị thua.

Vua Thế Tông nhà Minh tiếp tờ biểu xin hàng của Đăng Doanh, bèn ban sắc cho Mao Bá Ôn

rằng:

"Trước đây, cháu vua nước An Nam có tây rằng: "Vì tặc thần Mạc Đăng Dung làm loạn, cướp

chiếm thành đô, đường xá nghẽn lối, cho nên thiếu sự cống hiến ". Trẫm đã sai quan tra xét, biết đúng

sự thực, đang định sai đem quân hỏi tội, thì lại tiếp tờ tấu của các quan Trấn thủ tỉnh Quảng Đông,

Quảng Tây và Vân Nam tâu rằng: "Cha con Mạc Đăng Dung nghe tin thiên triều định hỏi tội, rất là sợ hãi,

và đã hối tỉnh, dâng biểu xin hàng, tình nguyện dâng tất cả thổ địa nhân dân nước ấy, để thuộc quyền

thiên triều thẩm định ". Lời cầu xin cũng đáng thương, bèn giao xuống đình thần hội nghị, nhưng thẩy

đều cho là: Di tình khó lường, [tờ 28b] lời kêu vang tuy khẩn thiết, nhưng ý rất có thể quỉ quyệt. Bởi thế

cần phải chính pháp tỏ nghĩa. Nay mệnh người hãy cùng Tổng đốc quân vụ Hàm minh hầu Cừu Loan,

đến tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và Vân Nam, hội đồng với các Đề đốc và các quan Tướng Phó tham

tam ty, điều động thổ binh thổ quan trong 3 tỉnh ấy đi hỏi tội Đăng Dung. Các cơ nghi chiến lược, cho

người được tiện nghi định đoạt. Như cha con tên tặc thần quả đã hối tội, tự đem mình lại xin hàng, thì

ngươi xét đích thực tình trạng, rồi tâu gấp ngay về triều đình. Nếu nó vẫn ngoan cố không đổi lỗi, thì

phải giết chết không tha [tờ 29a] Trong việc chiến trận, các ngươi nên tùy nghi châm chước, cần dùng

kế vạn toàn, cốt là dẹp sự tiếm loạn, bắt được tội nhân, để tỏ nghĩa chinh phạt của thiên triều, để yên

nhân dân nươc phiên thuộc.

Nay ủy trọng nhiệm này cho nhà ngươi ".

Bá Ôn bèn đi Quảng Tây, phái viên Tri phủ Thái bình Giang Nhất Quế, và chỉ huy Vương Lương

Phụ đến đặt dinh tại Băng Tường, thẩm nghiệm xem cha con Đăng Doanh có quả thực dốc lòng qui

hàng, thì nhận cho hàng. Như tình còn tráo trở không lường1

, thì được tùy nghi định đoạt. Nhất Quế bèn

truyền tờ lệnh cho Đăng Dung, phải khai đích thực nguyên do về sự xin hàng, và sẽ phát nguyện để

quyền thiên triều xử trí thế nào ? phải khaii rõ ràng hết thẩy. Đăng Dung lại trình tờ phúc đáp đầy đủ.

Giang Nhất Quế lại truyền tờ hịch cho các kỳ lão nhân sĩ nước ta rằng:

[tờ 29b] "Hoàng thượng ta, trung hưng giữ vận, thống nhất hoa di, các phương xa vời, không

đâu là không thần phục. Duy nước các ngươi, đã lâu không tới triều đình, bèn sai Quân môn vâng mệnh

khám hỏi. Được biết nước ngươi có cha con Mạc Đăng Dung, Đăng Doanh, thừa cơ rông dữ, cướp đoạt

1

 Câu này chính bản chép: "cự trắc " (lớn lên). Khó hiểu. Hoặc do chữ "phả trắc " (không thể lường ) chép lộn ra chăng ?

Xin dịch theo nghĩa chữ "phả trắc ". 47 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)

ngôi vua, gây nên mầm loạn, liên tiếp binh đao, khiến cho nước các ngươi nhân dân lầm than, làng xóm

ly tán. Tội trạng đã rõ pháp luật khôn tha. Thiên tử là chũ cả hao di, tất trọng điều nhân khôi phục cho

nước bị tiệt diệt; thánh nhân rất mực đạo cương thường, ắt tỏ cái nghĩa đánh dẹp để trừ kẻ phản nghịch.

Nay con cháu nhà Lê chưa tiệt, mà tội ác họ Mạc đã đầy, mệnh trời lòng người, rất là rõ ràng, [tờ 30a]

không thể che giấu. Phàm những kẻ loạn thần tặc tử, thì ai ai cũng có quyền giết chết. Nước An Nam các

ngươi, tuy ở nơi hẻo lánh nhưng đã từng thấm nhuần thanh giáo của thiên triều, há không có kẻ sĩ tôn

sùng trung nghĩa; những tài dẹp loạn an bang. Như có thể cùng dựng nghĩa binh, để giết tên đại ác, thì

ta sẽ treo phần thưởng, để giúp cho chóng thành công. Các ngươi nên kính lòng họa dâm phúc thiện của

Hoàng thiên; thể ý vấn tội chánh danh của Thánh thượng. Nghĩ nghĩa họ Lê là vua cũ, họ Mạc là kẻ thù.

Đều nên huy động lòng trung dũng, sắp đặt các kế mưu, một người xướng trăm người họa, chẳng hẹn

mà cùng; người gần vui người xa lại, không ước mà nên. Nổi đoàn nghĩa sĩ, [tờ 30b] giết kẻ cừ khôi;

tuyên bố nhân thanh, yên dân làng xóm. Kẻ nào chém được đầu cha con Mạc Đăng Dung, Mạc Đăng

Doanh, sẽ được thưởng 20.000 lạng bạc, và tâu triều đình thăng chức quan cao. Kẻ nào tình nguyện

dâng một Phủ qui phụ, sẽ được cho làm quan cai trị Phủ ấy. Kẻ nào dâng một Châu hoặc một Huyện qui

phụ, cũng được cho làm quan cai trị Châu hoặc Huyện ấy, và đều được thưởng 5.000 lạng bạc.

"Ta lại được biết Mạc Đăng Dung lấy Đô ấp làm nơi sinh sống; dùng Cửu công phủ làm Đô đốc

hộ vệ. Ôi! các vị Cửu công đâu có phải không có lương tâm, chẳng qua chỉ sợ quy thế đó thôi. Nay các vị

Cửu công nếu có thể bắt chém cha con Mạc Đăng Dung, Mạc Đăng Doanh [tờ 31a] sẽ thưởng đồng

đều, mỗi vị 20.000 lạng bạc, và tâu triều đình thăng tước trật cao; hoặc muốn dâng một Phủ, môt Châu

hoặc một Huyện qui phụ, sẽ cho được chức cai trị Phủ Châu Huyện đó, và cũng ban bạc thưởng như

trên.

 Như vậy thì, dân vô tội nước An Nam, sẽ khỏi cái nạn chém giết; kẻ chí sĩ nước An Nam, sẽ được

tỏ cái danh trung nghĩa. Trên thuận đạo trời, dưới yên lòng người, há không phải là một sự đại hạnh cho

nước An Nam ru ?

Nếu không thế, binh thiên triều sẽ tấp nập đến ngay, lúc ấy ngọc cũng như đá, đều sẽ cháy tiêu,

dù có những kẻ sĩ trung nghĩa, cũng không phân biệt, tất đều phải đưa đầu chịu giết! Hối còn sao kịp.

Cũng như người muốn tự cắn vào rốn mình, có thể kịp đâu.

Vậy cấp phát 14.000 tờ điệp văn của bản phủ [tờ 31b] cho các Phủ: Trường Khánh, Lạng Sơn,

và các châu Vĩnh An, Văn Uyên. Dân sĩ phụ lão các ngươi, nên tính mau mau! ".

Đăng Doanh và Trần Phỉ làm Thượng thư bộ lễ; phong cho Lê Bá Ly tước Khiêm quận công. Bá

Ly nguyên quán xã Cổ phạm hạt Đông sơn, đến ở tại làng Thịnh Liệt, huyện Thanh trì, nổi tiếng là người

tài dũng, khi làm quan thời vua Chiêu Tông, được phong tước Mai xuyên bá, bạn thân cũ của Đăng

Dung, khi Đăng Dung tiếm ngôi, sai Bá Ly giữ vệ Kim Ngô, tiến phong tước Hầu, lại gả em gái là Lương

thượng Công chúa cho. Đến đây Đăng Doanh càng thêm tín nhiệm Bá Ly, thăng cho chức Đông quân đô

đốc, tước Quận công.

Mùa hạ, bị nạn đại hạn. Mùa đông, tháng 10 động đất.

Năm Canh Tý, niên hiệu Nguyên Hòa thứ 8 (1540), nhằm niên hiệu Gia Tĩnh thứ 19 triều Minh,

[tờ 32a] mùa xuân, tháng giêng, ngày 25 thuộc ngày Mậu Ngọ, Đăng Doanh chết, tiếm vị 11 năm, dựng

con là Phúc Hải lên ngôi, ngụy đặt tên thụy là "Thái tông Khâm triết Văn Hoàng đế ". Có 7 con trai, con

trưởng là Phúc Hải, thứ 2 Phúc Tư, ngụy phong Ninh Vương, thứ 3 Kính Điển, ngụy phong Khiêm Vương,

thứ 4 Lý Thiền, thứ 5 Lý Hòa, thứ 6 Hiệp Thái, thứ 7 Đôn Nhượng, ngụy phong Ứng Vương.

PHÚC HẢI

 48 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)

Phúc Hải là con trưởng Đăng Doanh, trước tên là Đức Nguyên, ngụy lập làm Hoàng Thái tử, tiếm

ngôi vào tháng 2 năm Nguyên Hòa thứ 8 (1540), đổi năm Tân Sửu làm năm Quảng Hòa thứ nhất (1541),

phong Lê Bá Ly làm Phụng quốc công.

Trung Quốc có sự cảnh cấp, nên triệu Tổng binh Cừu Loan về, để trấn thủ 2 tỉnh Quảng, [tờ

32b] mà cho An viễn hầu Liễu Tuân thay Cừu Loan. Mao Bá Ôn dẫn binh thẳng tới tỉnh Nam Ninh. Đăng

Dung trước đã có lời hứa với Bá Ôn, nên vội vàng xin ra biên cảnh hàng phục, lời lẽ và lễ nghi rất là cung

kính.

Ngày 28, tháng 10, Đăng Dung sai Thượng thư Trần Phỉ tới doanh Niệm nhai bày tỏ các khoảng.

Bá Ôn ra lệnh chuẩn định ngày tới hàng vào ngày 3 tháng 11. Bọn Giang Nhất Quế nhà Minh dựng sẵn

Tướng đài tại nơi Mạc phủ trấn Nam quan. Đúng kỳ hẹn trên, Đăng Dung lưu Phúc Hải ở lại giữ nước, rồi

tự dẫn tiểu mục và kỳ nhân là bọn Nguyễn Như Quế, đến cửa Nam Quan ứng chực, thảy đều dùng thước

vãi tự quấn vào cổ. Trên Tướng đài đã đặt sẵn cái long đình, các quan Phó giám Tam ty trong hai tỉnh

Quảng nhà Minh, đều ngồi đợi trên đài. [tờ 33a] Đến khi truyền lệnh mở cửa quan, Đăng Dung do cửa

bên Tả bước ra, bỏ giầy đi chân không, quỳ gối quay mắt về phương Bắc, quan nhà Minh sai sinh viên Tạ

Thiên Túng cởi những vải quấn ở cổ cho bọn Đăng Dung, và nhận tờ hàng biểu. Đăng Dung phủ phục lễ

5 lễ, và cúi đầu 3 vái, cháu họ Đăng Dung là bọn Mạc Văn Minh cũng lần lượt lễ theo. Quan nhà Minh

truyền rằng: "Hãy dong cho đới tội về nước, chờ đây chuyển tâu lên triều đình, xin cho được khỏi tội chết

". Sau khi Đăng Dung lạy tạ rập đầu xuống đất, tướng nhà Minh truyền lệnh đóng cửa quan, rồi thu binh

về. Đăng Dung cũng về nước, sai cháu họ là Mạc Văn Minh cùng với tiểu mục tòng nhân là bọn Hứa Tam

Tỉnh cả thảy 28 người, theo tùy viên của Tướng nhà Minh tới Yên Kinh, Văn Minh đem một tờ hàng biểu.

Bài biểu rằng:

[tờ 33b] "Hạ thần là kẻ mọn nơi biên cương, hiểu biết thấp kém, thế mà mỗi khi xa trông

phương Bắc, thấy sáng rực tới nước Nam, lại trời đất thanh bình, bể sông yên lặng, hạ thần biết ngay là

Trung Quốc có bậc Thánh nhân. Huống chi thiên huy chấn động, mà vẫn có lòng nhân như khi mùa

xuân, hạ thần vừa sợ vừa cảm, kể sao cho xiết.

Cuối thời họ Lê chũ nước hạ thần, gặp vận truân chuyên, kế tiếp qua đời, truyền đến Lê Khoáng,

chưa được bao lâu, lại lâm bệnh nặng, trong khi thảng thốt, theo tục nước mọn, tạm giao phó việc nước

cho hạ thần, rồi hạ thần lại giao phó cho con trai Đăng Doanh, nhưng đều chưa kịp tâu trình, như vậy là

thiện quyền. Tuy thiên triều xa cách, khó tới trình tâu, nhưng tội lỗi tầy trời, đâu dám tự dấu.

[tờ 34a] Niên hiệu Gia Tĩnh thứ 17, hạ thần đã kính cẩn sai Nguyễn Văn Thái dâng biểu xin

hàng, và tình nguyện tuân theo thiên triều định đoạt. Đó là do tự lòng thành, không hề vờ dối. Chỉ vị chí

thành đó chưa được thấu tới thánh hoàng, cho nên hạ thần sớm tối lo sợ không yên.

Niên hiệu Gia Tĩnh thứ 19, ngày 25, tháng giêng, Đăng Doanh không may bị bệnh chết, người

trong nước chực noi theo tục cũ, định dựng con trưởng Đăng Doanh là Phúc Hải thay ngôi. Nhưng hạ

thần tự nghĩ: Mấy lần trước truyền ngôi, chưa kịp tâu xin, đã là lầm lỗi, thường ái náy không yên, nếu giờ

lại theo ý người trong nước, sẽ nặng thêm tội, hết đường kêu van. Cho nên hạ thần và Phúc Hải vẫn kính

cẩn chờ mệnh thiên triều.

Vừa đây, đại tướng chuyên chinh, dẫn quân tới cõi, hạ thần ví như con heo trong chuồng, đâu

dám kháng cự.[tờ 34b] May được Tướng quân truyền hịch đòi hạ thần đến cửa quan gạn hỏi, được

nghe truyền những lời nhân từ của thánh thượng, hạ thần cảm động đến giàn giụa nước mắt! Bao nhiêu

tội lỗi, thần xin nhận hết, còn lũ dân đen, đều là vô tội. Bệ hạ khoan hồng, tha cho kẻ tội thần này còn

chút hơi tàn, hạ thần xiết đổi cảm khích, đã hướng về phương Bắc mà tung hô.

Ngày 3 tháng 11, niên hiệu Gia Tĩnh thứ 19, hạ thần đã cùng bọn tiểu mục Nguyễn Như Quế, Đỗ

Thế Khanh, Đặng Văn Trị, Kỳ Nhân Lê Thuyên, Nguyễn Tổng, Tô Văn Tốc, sĩ nhân Nguyễn Kinh Tế,

Dương Duy Nhất, Bùi Tri Vĩnh, tự quấn tua vào cổ, thân tới biên thùy, cúi đầu trước Mạc Phủ Tướng

quân, dâng các khoản đầu hàng.

Đăng Dung thần, vẫn muốn đích thân tới kinh đô, chiêm bái long nhan, xin nhận tội chết. Chỉ vì

tuổi già mình yếu, đi lại khó khăn; [tờ 35a] cháu trưởng Phúc Hải thì đang cư tang. Bởi thế đã kính cẩn

sai cháu họ Mạc Văn Minh thay hạ thần tới cửa khuyết, phủ phục đợi tội. Như vậy đũ tỏ cha con hạ thần 49 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)

sai bọn Nguyễn Văn Thái dâng hàng biểu hồi trước, chính là do sự sợ uy mến đức, chứ không có lòng

trang sức dối trá gì.

Cúi mong thánh thượng nhân từ, nhủ lòng tha thứ cho hạ thần được đổi lỗi cũ. Còn như thổ địa

nhân dân hạ quốc, đều thuộc quyền sở hữu của thiên triều, xin bệ hạ đoái tình nước mọn, tùy nghi định

đoạt, cho hạ thần được nội thuộc, đời đời xưng là phiên quốc; mỗi năm lĩnh những quyền lịch "Đại Minh

nhất thống ", đem ban phát khắp nước, để phụng theo ngày tháng. Đó là một đại hạnh cho hạ thần vậy.

Tuy tiên triều hạ quốc, họ Đinh họ Trần và họ Lê, đều kế tiếp xưng tôn hiệu và đặt niên hiệu

riêng. Đến hạ thần sau khi cải hối, tự biết việc đó là không đáng [tờ 35b], cho nên đã nghiêm cấm

trong nước, cải cách lối đó, chỉ khuyên chờ theo mệnh mới, đâu dám lại theo lỗi xưa, để đắc tội với thiên

triều.

Thủ thần Khâm châu tỉnh Quảng đông tâu xưng: 2 đô Như tích, Chiêm Lãng, và 4 động Tư

Phiêu, La Phù, Cổ Lâm, Liễu Cát, là đất cũ của Khâm Châu tỉnh Quảng Đông. Nếu quả như vậy thì những

đất ấy do triều nước họ Lê mạo nhận. Nay hạ thần xin tình nguyện dâng các xứ ấy lệ thuộc vào Khâm

châu.

Còn như Lê Ninh mà Duy Liệu xưng là con cháu họ Lê, thì người trong nước đều tương truyền là

con của Nguyễn Cam. Dòng dõi họ Lê đích thật không còn ai, cho nên hạ thần đã lập hương hỏa trong

quốc đô để thờ phụng họ Lê.

Nay ở Vân Nam, lại có người cho Lê Ninh là dòng dõi họ Lê, [tờ 36a] hiện ở nước Lão Qua, và

đã tâu lên thánh thượng, hạ thần đâu dám biện bạch. Duy tình nguyện cắt trại Thất châu, trại Hồng Y ở

Quảng Lăng, và mấy xứ phụ thuộc gần đó, để cho y quản hạt. Những xứ này thuộc tỉnh Vân Nam. Cúi

xin thánh hoàng sai người một vài viên sứ thần thẳng tới hạ quốc, dò hỏi khắp các người cố lão, như có

biết ai là con cháu họ Lê, thì hạ thần xin dẫn quần thần đón hàng, và trao trả hết thẩy đất đai toàn quốc,

há chi cắt mấy xứ kể trên thôi đâu. Nếu quốc nhân đều công nhận họ Lê đích thực không còn ai, thì xin

bệ hạ đoái thương đến nhân dân, cho hạ thần tạm coi việc nước.

Về việc hạ quốc còn thiếu cống hiến trong mấy năm trước đây, tất nhiên sẽ xin nộp bù, và từ nay

mỗi năm xin theo lệ cống hiến đầy đũ, cái đó hạ thần không dám kêu này, [tờ 36b] là vì hạ thần hiện là

kẻ có tội, đang cầu xin khỏi chết còn sợ chưa được.

Hạ thần lại muốn chiếu theo lệ cũ triều trước của hạ quốc, định mỗi năm cống hiến một người

bằng vàng để thế mạng, nhưng còn sợ đường đột nên chưa dám. Nay nhân tâu sớ đầu hàng, xin bệ hạ

định đoạt, và xin cho hạ thần được tạm dùng quả ấn, lọng vàng, do thiên triều đã cho hạ quốc từ trước.

Vì những thứ ấy hạ thần vẫn cẩn thận giữ đấy, mà không dám tự ý đem dùng. Nhưng không có, thì

không lấy gì làm chứng nhiệm. Cúi mong thánh triều soi xét ".

Lại bọn tiểu mục Nguyễn Như Quế, kỳ nhân Lê Thuyên, và sĩ nhân Nguyễn Kinh Tế dâng tờ biểu

tâu vua Minh rằng:

"Bọn quốc nhân chúng tôi, tuy ở nơi hoang vắng, song vẫn được nhờ ơn thiên triều, mới được

sinh sống. Duy cách thiên triều quá xa, mà nuớc chúng tôi luôn luôn gặp nạn; [tờ 37a] Khoảng năm

Chánh Đức Gia Tĩnh, bọn nghịch thần Trần Cao, Trần Thăng, Trịnh Tuy và Đỗ Ôn Nhuận, nối tiếp nhau

làm loạn, bức hiếp giết quốc chủ Lê Điêu, Lê Huệ phải bỏ thành đô chạy, hoàng tộc gần hết người, chỉ

còn mỗi một Lê Khoáng giữ việc nước, nhưng chưa được bao lâu lại bị bệnh chết! khiến các nơi nhiễu

loạn, nhân dân lầm than đến cực độ! Lúc ây, Đăng Dung dẹp hết bọn tiếm nghịch, quả là một người có

công. Tuy nhiên, thổ địa nhân dân đều do thiên triều ban cho, thế mà Lê Khoáng đem trao cho Đăng

Dung, Đăng Dung nhận rồi lại tự trao cho con, mà chưa thỉnh mệnh, tội đó không thể chối được.

Bọn quốc nhân chúng tôi, cũng nhân sau cuộc loạn lạc, sợ tụi ngông cuồng lại nổi dậy như Trần

Cao hồi trước, [tờ 37b] thì tai vạ biết bao giờ hết. Trong lúc thảng thốt, kiếm kế cầu xin, tự chọn người

chủ, suy đới Đăng Dung. Đó là do sự ngu muội, tội cũng như Đăng Dung vậy. Sau đây, vì đường sá xa

xôi, cửa quan đóng kín, tuy mấy lần dâng sớ khẩn cầu, nhưng không sao tới đến thiên nhan. Bởi vậy tội

càng thêm nặng, đến nổi oai trời nổi giận, sai Tướng xuất quân, năm trước, quân môn truyền hịch tới

bản quốc, cha con Đăng Doanh sợ hãi không yên, đã kính cẩn dâng biểu xin hàng, chưa được chấp nhận. 50 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)

Nay đại Tướng lại động binh, oai như sấm sét, vang động núi sông! Chúng tôi cầm chắc phen này sẽ

thành mẳn cám hết trơn, không còn một mống nào sống sót! Nào ngờ lại được ơn trời tha thứ, dong cho

đầu hàng. [tờ 38a] Khi viên Giám thống tới tuyên dụ, thì nhân dân toàn quốc trông nhau mà giàn giụa

nước mắt, cùng nhau dắt già cõng trẻ, đều đến cửa quân, tình nguyện cùng Đăng Dung bó thân hàng

phục. Được khỏi sự chết, là nhờ ơn cha mẹ trời đất ban cho, cảm khích hân hoan, không biết đâu là cùng

cực!

Quốc nhân chúng tôi lại trộm nghĩ: Dân không thể tự trị, việc tất phải chánh danh. Nếu danh

không chánh thì việc không có ai thống quản; việc không người thống quản thì dân sẽ tự tranh giành

nhau, rồi tan rã mà không ai cấm. Như vậy muốn khỏi loạn vong, có thể được chăng ?

Nay bệ hạ đã cho Đăng Dung và quốc nhân được sống lại, thế mà lại bị chết vì cuộc rối loạn, thì

chắc bệ hạ cũng không nỡ lòng. [tờ 38b] Bởi vậy chúng tôi kính tỏ nỗi niềm riêng, cúi mong bệ hạ ban

bố ân đức, cho chúng tôi trước sau đều được hưởng cảnh sinh sống.

Muôn tâu bệ hạ, Đăng Dung tự khi giữ việc nước tới nay, chưa làm điều gì bạo ngược, chỉ chăm

lo sự ích lợi cho dân, cho nên dân đều cảm đức. Nay đã sợ uy hối tội, cùng với cháu trưởng Phúc Hải đều

đợi mệnh thiên triều, không dám tự tiện nhận giữ việc nước như trước, và cũng đã sức toàn quốc, không

dám theo triều trước mà xưng tôn hiệu.

Chúng tôi trộm nghĩ, ông cháu Đăng Dung tự ý làm Di mục, quả là có tội, đâu còn dám mong

đến thịnh điển. nhưng nghĩ cho cùng, họ Mạc tuy có tội thực, song đều bởi quốc dân đều qui phục, cho

nên mới thành tội trạng đó. bây giờ nếu không nhờ ơn thánh thượng ban cấp cho một danh sắc, thì lấy

gì cai trị người trong nước, để cho khỏi làm loạn. [tờ 39a] Bởi vậy cúi mong bệ hạ thương dân phương

xa, thuận tình nước mọn, ban cho họ Mạc một mệnh mới, tra theo việc cũ các triều trước, hoặc cho làm

Tổng quản, hoặc cho làm Đô hộ, để cai quản việc nước, đời đời xưng là phiên thần, lũ chúng tôi cũng

được giữ chút sống thừa, đời đời xưng làm phiên dân, thì ơn tái tạo của bệ hạ sáng ngang với trời đất,

không bao giờ cùng vậy ".

Bá Ôn sai người đưa bọn Văn Minh đi Bắc Kinh, và dâng tờ sớ bàn về việc này:

"Tuân theo thánh chỉ y cho bàn xử về việc Đăng Dung xin nội thuộc xưng phiên; mỗi năm lĩnh

nhật lịch Đại thống; và xin nộp bù cống phẩm còn thiếu các năm trước. Vậy xin kính tâu:

Hạ thần xét về nước An Nam, tự thời Hán thời Tống đến nay, [tờ 39b] tuy xưng là nội phụ,

nhưng vì thói tục di liêu, khí độc lam chướng, vốn không thích nghi với Trung Quốc. Vả chăng nước ấy cứ

vài năm lại một lần loạn, mà đã loạn thì, kéo bè kết đảng, đánh giết lẫn nhau. thế tất lại qua mấy năm

mới yên. Thời xưa, Trương Phụ dùng hơn mười vạn người đánh dẹp nước ấy, mà cũng chỉ Quận Huyện

được mấy năm, chúng lại liên tiếp phản bạn, rốt cuộc quyền cai trị lại thuộc về người Di. Đó là một

chứng nghiệm rất rõ vậy.

Nay châm chước sự lợi hại về thời trước, không gì bằng cứ để nước ấy là nước ngoài, mà không

sáp nhập Trung Quốc, chỉ dùng người Di trị người Di, mới được ổn tiện.

Như cho là Đăng Dung có tội, đầu hàng, nên chưa vội trao cho tước phẩm đất đai. Còn cháu y là

Mạc Phúc Hải đượng chờ mệnh. Nếu được bệ hạ lượng thương tha thứ, ban cho danh sắc, hoặc làm Đô

hộ, hoặc Tổng quản, chiếu theo lệ thời Hán thời Đường. [tờ 40a] Mỗi năm đến Ty Bố chánh tỉnh Quảng

Tây nhận ban cấp lịch Đại Thống. Nay thì tới lĩnh tại trấn Nam Quan; tra số cống hiến còn thiếu về mấy

năm trước, nay phải nộp đủ; tự đây về sau, cứ hàng năm theo lệ nộp cống một lần.

Các chức hành lệnh ở 4 động: Tự Lẫm, Cổ Sâm, Liễu Cát và La Phù thuộc Khâm Châu, nguyên là

tước hầu tước An Nam, lại có chú thêm là chức quan Tham chánh phó sứ. Vậy xin chiếu nguyên ngạch

biên vào hạ tịch Khâm Châu, và ưu đãi như hiện nay, chờ 3 năm1

 sau, sẽ cấp lương theo cấp bậc hết

thẩy.

1

 Chữ này bản chính chép chữ "thiên" (nghìn) hoặc do chữ "niên" (năm) chép lộn ra chăng ? Xin dịch theo chữ "niên ". 51 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)

Các Sứ sự của nước ấy đã sai tới, tự trước tới nay, sau khi xong công việc, xin cho về nước hết

thảy.

Đó chính là phép dùng người Di trị người Di vậy.

Còn như Lê Ninh, tuy tự xưng là con cháu họ Lê, nhưng hạ thần căn cứ vào lời đã tra xét của các

Ty trước, thì tung tích y đích thực không rõ. Duy liệu một mặt ẩn náu [tờ 40b] ở trại trong động Lãng

Thạch Lâm Châu. Nơi phụ cận với địa phương Thổ quan tỉnh Quảng Tây, cũng không biết diện mạo Lê

Ninh ra thế nào, cho nên hoặc xưng là Lê Ninh, hoặc xưng là Lê Hiến, hoặc xưng là Quang Chiếu, hoặc

xưng là Nguyên Hòa, hoặc lại cho là con trai Nguyễn Cam, hoặc lại cho là do họ Trịnh bịa đặt ra. Gần

đây, Ty Bố chánh tỉnh Vân Nam có mở cuộc hội thẩm, người Di là Trịnh Viên khai rằng: Động Tất mã

giang tuy có tên Lê Ninh, nhưng lai lịch về tông phái không tường, diện mạo và tuổi của y, so với nguyên

báo của Trịnh Duy Liệu lại khác xa. Như vậy đều không gì làm bằng cứ. Nay nên giao các quan Trấn thủ

tỉnh Vân Nam khám tra, như quả đủ bằng cứ, mà không gì mâu thuẫn, thì cho y cứ ở ngay nơi Tất mã

giang đó [tờ 41a] và những địa phương chung quanh nơi ấy, đều cho y quản lĩnh, hoặc cho y một chức

vị gì thuộc tỉnh Vân Nam. Nếu không phải là con cháu họ Lê, thì xin bỏ qua khỏi bàn tới.

Còn Trịnh Duy Liệu, xin an sáp trong tỉnh Quảng Đông, tùy theo nơi thuận tiện, và lượng cấp

ruộng đất cho y khỏi phải lưu ly thất sở.

Phân xử như vậy mới chu đáo mọi lẽ. Kính xin bệ hạ sắc cho Bộ này họp bàn, rồi tâu lên thánh

thượng tài định, dứt quyết mối ngờ, định đoạt việc lớn. Tự đấy, Hoa Di nội ngoại, thẩy được yên vui vô

sự ".

Sau đây, quân Tàu kéo về hết. Trần Phỉ tự Bắc Quan trở về Kinh Sư, Phúc Hải phong cho chức

Thượng thư bộ lễ, coi việc Thừa tuyên sứ tỉnh Hải Dương.

Năm này, vua Trang Tông sai Nguyễn Cam, xuất quân đánh vào các huyện trong tỉnh Nghệ An,

rất nhiều hào kiệt hưởng ứng qui phụ, [tờ 41b] quân của Phúc Hải bị thua trận luôn luôn.

Năm Tân Sửu, niên hiệu Nguyên Hòa thứ 9 (1541), mùa xuân, Phúc Hải mở khoa thi Cử nhân,

lấy bọn Nguyễn Kỳ gồm 30 người trúng tuyển.

Mùa thu, tháng 8, ngày Ất Hợi, Đăng Dung chết ở Cổ Trai. Phúc Hải đưa linh cữu an táng tại

Long Sơn, ngụy xưng là An Lăng.

Cùng ngày này, vua Thế Tông nhà Minh ban tờ chiếu:

Xá tội cho cha con Đăng Dung; đổi "An nam quốc " làm "An nam Đô thống sứ "; trao cho Đăng

Dung chức Đô thống sứ, cho hàm nhị phẩm và quả ấn bằng bạc, và được đời truyền nối; 13 Lộ thì cứ

theo nguyên tên cũ, mội Lộ đặt một viên Tuyên phủ, một viên Đồng tri, một viên Phó sứ, và một viên

Thiêm sự, dưới quyền Đô thống sứ quản hạt và sai khiến triều cống; ngoài ra, các chức quan lớn nhỏ

trong toàn cõi, đều thuộc quyền Đô thống sứ tùy nghi cất đặt; [tờ 42a] nhân dân địa phương trong bốn

động do y dâng trả, nguyên là dân biên thùy nước ta, vậy cho thu cả vào bản đồ; sức nha môn Tuần phù

2 tỉnh Quảng phải đối đãi các người đầu hàng một cách hậu tình thương xót. Sau khi đã xá tội, chuẩn

thưởng cho Mạc Văn Minh 1 áo đơn bằng nhiễu trắng, và 2 áo kép bằng đoạn màu, thưởng cho Nguyễn

Văn Thái 1 áo kép đoạn màu, thưởng cho Hứa Tam Tỉnh 1 áo nhiễu, và cho trở về nước ngay ngày hôm

ấy; các lễ phẫm cống hiến, đều chiếu theo lệ cũ; các hộ khẩu tiền lương của nước ấy, không cần phải

biên chép tâu về.

Bộ Lễ sai chủ sự Ngô Ứng Khuê đi Lưỡng Quảng cấp phát bạc thưởng và áo, còn một đạo sắc

phong Mạc Đăng Dung làm An Nam Đô thống sứ, và 1 quả ấn An Nam Đô thống sứ ty, thì quan tỉnh ấy

phụng đem chuyển giao cho Đăng Dung thủ Lĩnh. Nhưng lúc ấy Đăng Dung đã chết, phao truyền là bị

bầy tôi là Nguyễn kính giết. Phúc Hải sai người đến cửa quân lưỡng Quảng báo cáo an tín, và xin tập

phong.

Vua Thế Tông nhà Minh thấy Đăng Dung chưa được nhận chức mà đã chết, cũng tỏ ý thương

xót, bèn sai Thái Kinh hội đồng với các quan Tổng đốc, tra khám xem Đăng Dung chết bệnh hay có vì cớ

gì khác không, và Phúc Hải có đích thực là cháu đích tôn của Đăng Dung không ? Kỳ mục bọn Như Quế 52 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)

xin bảo đảm là không có gì dối trá. Bọn Mao Bá Ôn xin cho Phúc Hải lĩnh chế mệnh. Vua Thế Tông ưng

cho.

Năm Nguyên Hòa thứ 10 (1542), nhằm niên hiệu thứ 21 nhà Minh, mùa xuân, tháng 2, vua

Trang Tông tự cầm quân đi kinh lược tỉnh Thanh Hoa, [tờ 43a] sai Nguyễn Cam dẫn quân đánh vào tỉnh

Nghệ An, Phúc Hải sai quân chống cự.

Phúc Hải ngụy phong tước vương cho các em là bọn Kính Điển; đổi Trần Phỉ sang chức Thượng

thư bộ hình.

Hàn lâm viện Thị độc Nguyễn Đức Lượng soạn dâng bài châm "bảo nghiệp ", có ngụ ý khuyên

răn, Phúc Hải rất tán thưởng.

Tháng 3, Phúc Hải thân dẫn bầy tôi là bọn Nguyễn Kính, Nguyễn Ninh Ngũ đến cửa quan Trấn

An, lĩnh tờ sắc, quả ấn, vá 1.000 quyển lịch.

Vua nhà Minh ban tờ sắc dụ cho Phúc Hải rằng:

"Trẫm là Đế vương coi thiên hạ như một nhà, muốn cho muôn dân đều được yên ổn. Nơi nào

cũng coi như vậy, không kỳ thị gần xa.

Nước An Nam mày, ở phương Nam xa, đời đời giữ chức cống hiến. Mấy năm trước đây không

đến triều cống, xét về duyên cớ, chính là tội của Đăng Dung ông Tổ của mày, [tờ 43b], trẫm đã sai

quan dẫn quân hỏi tội, ông tổ mầy biết hối cải, dâng biểu xin hàng, kể hết duyên cớ về tội tự tiện trao

ngôi nhận ngôi, tình nguyện hiến thổ địa nhân dân, theo quyền triều đình xử định. Mao Bá Ôn dâng tờ

tâu đó, triều đình giao bộ binh họp bàn, rồi đề nghị xin rằng: "Ông tổ mày Đăng Dung sợ oai đầu hàng,

là rất thành thực đợi tội ". Trẫm vì thể đức "hiếu sinh " của Thượng đế, muốn thuận tình "an lạc " của hạ

dân, cho nên tha cho hết thẩy tội lỗi, rồi đổi quốc hiệu bỏ phong vương, trao cho chức Đô thống sứ, hàm

tòng nhị phẩm nha môn, dùng quả ấn bằng bạc, được theo ngày tháng và triều cống, cho con cháu được

nối ngôi, đời đời giữ đất nước. Đó là một sự lợi ích rất lâu dài của dòng họ mày vậy.

Nay quan Trấn thủ tâu rằng: [tờ 44a] "Đăng Dung ông tổ mầy đã chết bệnh, mày là cháu đích

tôn. Và mày đã bày tỏ hết nổi chí thành về sự đầu hàng của tổ mầy, lại thuật hết những lời di chúc của

tổ mầy ". Như vậy cũng có thể gọi là noi được chí ông tổ vậy.

Vậy ban sắc dụ này, cho tổ mầy chức Đô thống sứ. mày nên tuân theo hết lòng trung thành,

kính giữ chức cống; cai trị dân chúng, yên tĩnh địa phương, để xứng với ý thương mến của triều đình, và

hợp với lòng thành kính của ông tổ, sẽ hưởng nhiều phúc, há chẳng đẹp ru ?

Phàm các công việc, đều phải chiếu theo các lẽ trong tờ sắc dụ đã ban cho Tổ mầy mà làm. Kính

đấy! ".

Phúc Hải nhận lĩnh các khoản, rồi trở về kinh đô.

Mùa thu, ngày 3 tháng 8, Phúc Hải sai Giao bắc Tuyên phủ [tờ 44b] Đồng tri Nguyễn Kính Điển,

Thiêm sự Nguyễn Công Nghi và Lương Giản sang nhà Minh tạ ơn về sự được sắc phong, tiến dâng lễ

phẩm bản xứ: 4 lô hương và bình cắm hoa bằng vàng (nặng 190 lạng ); 1 rùa bằng vàng (nặng 19 lạng

); 2 lô hương và bình cắm hoa bằng bạc (nặng 151 lạng ); 12 mâm bằng bạc (nặng 641 lạng ); 60 cân

trầm hương; 148 cân thương; cố 30 cây giáng chân hương; 20 tòa tê giác; 30 cái ngà voi, cùng các thứ

hương thơm tơ lụa khác.

Lại sai Nguyễn Chiêu Huấn, Vũ Tuân, và Tạ Đình Quang. dâng các phương vật về lễ cống hiến

hàng năm, cũng như các thứ kể trên. Sau bèn thành lệ.

Tờ biểu tạ ân rằng:

"Phủ phục kính thưa: Trung Quốc có Thánh nhân, trưng điềm sông trong biển lặng; ngoại di lại

triều cận [tờ 45a] thấm nhuần phúc lớn ân sâu. Giờ Ngọ khí dương hồi, bắc thần mọi sao chiếu. 53 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)

Hạ thần Phúc Hải trộm nghĩ: Lòng trời đất thể theo muôn vật, ý sinh ban bố đồng đều, không vì

tươi khô mà phân biệt; đức Đế vương thường chỉ yêu người, kẻ nào cũng đều thương xót, không vì còn

mất mà sai thù. Đó là bởi lẽ công bằng, cho nên ban ra rất rộng.

Hạ thần Phúc Hải trộm nghĩ: Tổ hạ thần Mạc Đăng Dung, sớm do đời loạn, gặp phải thời gian.

Nhân dân lưu ly tán loạn, giữ được bình an; quen thói cha truyền con nối, tự chuyên vẫn sợ. Mấy năm

thiếu cống Bắc triều, một sớm bổng nghe nổi giận. Đợi tội Nam Quan, những sợ nương thân không đất;

tới hàng Bắc Quyết, [tờ 45b] may sao bộc bạch có trời. Bèn dẹp cơn lôi đình, mà ban ân vũ lộ. Ơn sâu

tắm gội, mong được toại nguyện trung thành; di chúc đinh ninh, không dám quên lòng sự thượng.

Hạ thần Phúc Hải. đương tuổi trẻ thơ, lạm nối ngành trưởng. Theo lời kính trung tổ phụ, việc

nước chăm lo; nhờ nhân thương rộng triều đình, những mong tới dưới, đội ơn thể tuất, bèn được vinh

quang. Cho được vâng lĩnh ấn tín, nêu cao danh khí. Ân sâu thắm khắp, quá đổi trời cao. Tổ hạ thần đợi

mệnh lúc hơi tàn, tuy chết mà vinh dự; chính hạ thần đang ở kỳ tang thứ. [tờ 46a] nước mắt theo lại

giàn. Tất cả nhân dân toàn cõi, đều biết thánh thượng vô tư.

Kính duy Hoàng đế bệ hạ, ngài gồm các đức: cương kiện tụy tinh, thông minh duệ trí. Kính

nhường sáng khắp bốn phương. Nghêu văn rực rỡ; tài đức ban yên mọi nước. Vũ liệt nguy nga. Hòa

thuận thái bình, hoàng gia ban bố. Coi ấp hạ thần ngàn dặm xa xăm, muốn đồng thanh giáo; thương Tổ

hạ thần một lòng kính thuận, ơn khắp thủy chung. Sắc dụ đã ban, khúc thành tỏ đạo. Hạ thần kính cẩn

thay tiên tổ bái lĩnh, để biểu dương cùng dân chúng.

Chánh lệnh đức trạch dồi dào, [tờ 46b] đều nung đức do nơi thánh hóa; thổ địa thuế sưu cống

hiến, thường thành thực ở mức chính cung ".

Bài biểu này, do Thượng thư Nghĩa Trang Bá Nguyễn Bạt Tụy soạn.

Tháng 9, Lại bộ Tả thị lang Trình Xuyên Hầu Nguyễn Bỉnh Khiêm xin trí sĩ, đi về làng hưu dưỡng

điều viên. Phúc Hải ưng cho.

Niên hiệu Nguyên Hòa thứ 11 (1543), mùa xuân, vua Trang Tông thân chinh đánh Phúc Hải, lấy

được Tây Đô, phá tan quân Chánh Trung của Ngụy Hoằng Vương, Tổng trấn tỉnh Thanh Hoa Đại Tướng

quân Trung hậu hầu dẫn quân đầu hàng.

Mùa hạ, tháng 5, Phúc Hải bổ nhiệm Trần Phỉ chức Thượng thư Bộ Lễ.

Thiếu sư Mạc Ninh Bang xin bàn định phép cấp lộc điền cho Hiệu sĩ:

"Niên hiệu Quảng Hòa thứ 3, ra lệnh; Xã nào ngoài số ruộng đất tư, mà có ruộng quan và ruộng

chùa, [tờ 47a] thì tùy theo số ruộng đó, chiếu cấp cho: Nhất hạng trung hiệu mỗi người 2 phần rưỡi;

nhất hạng trung sĩ mỗi người 2 phần rưỡi. Xã nào không có ruộng thì mỗi người một phần. Như xã nào

tuy số ruộng nhiều đáng được 2 phần, thì 2 phần ấy cũng không được quá số 2 mẫu, rồi tùy theo cấp

bậc giảm dần, còn bao nhiêu ruộng sẽ theo nhân số trong xã mà chia đồng đều.

Như vậy đủ thấy triều đình ưu đãi Trung hiệu, Trung sĩ rất hậu. Nhưng hạ thần thiết nghĩ: Trong

bọn Trung hiệu, Trung sĩ, tất nhiên có kẻ khỏe mạnh, có kẻ lười biếng, đâu có nhất luật như nhau, thế

mà cấp phát ruộng đất một cách đồng đều không phân biệt, thì sao có thể khuyến khích lòng người

được.

Vậy xin cho các quan Tướng bản doanh, ra lệnh cho các quan bản huyện, lựa chọn bảo cử người

nào tinh tráng khỏe mạnh và thiện chiến, làm nhất hạng, [tờ 47b] rồi biên cả vào sổ cấp điền, các quan

Phủ Huyện Xã Trưởng chiếu theo sổ cấp điền trước, đem ruộng nhất đẳng cấp cho hạng này trước, để

khuyến khích chiến sĩ ". Phúc Hải nghe theo.

Niên hiệu Nguyên Hòa thứ 12 (1544), mùa xuân, Phúc Hải mở khoa thi Cử nhân, lấy bọn Vũ Kính

17 người trúng tuyển.

Niên hiệu Nguyên Hòa thứ 13 (1545), thưởng công đi sứ nhà Minh, phong Trần Phỉ tước Vinh dự

tử, các người khác trong phái Bộ sứ thần này, cũng đều được phong. 54 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML)

Lúc này, vua Trang Tông tự làm Tướng cầm quân đánh Phúc Hải, đóng quân tại hạt Yên Mô.

Thái sư Hưng quốc công Nguyễn Cam bị hàng tướng trung hậu hầu bỏ thuốc độc chết. Trung hậu hầu

liền trốn đi, rồi lại trở về với Phúc Hải.

Tháng 8, Phúc Hải sai tướng là Thái tể Ninh quốc công, xuất quân ngũ phủ vào các trấn, thừa cơ

vào đánh cướp doanh trại Hoàng đế. Khi chúng đến bến sông Phù Chẩn. Hoàng đế bèn thân chinh. Đề

thống ngự doanh [tờ 48a] Dực quận công Trịnh Kiểm đốc quân tiên phong ra đánh phá tan, Ninh quốc

công trốn về, quân Mạc chết vô kể.

Hoàng thượng bổ nhiệm Dực quận công Trịnh Kiểm làm chức "Tiết chế các xứ thủy bộ chư

doanh ", phong tước Lương quận công1

, được độc quyền giữ việc binh, và tổng tài chánh sự; trị dân dạy

người, tuyên bố uy đức. Quốc thế ngày thêm thịnh vượng, châu Ái tạm yên, các vị hào trưởng trong 4

châu: Hoan, Diễn, Ô và Quảng đều đua nhau đến cửa quân xin hiệu lực. Cơ nghiệp Hoàng gia, bắt đầu

tiến tự đây. Còn thế của Phúc Hải thì càng ngày càng xuống.

Năm Bính Ngọ, niên hiệu Nguyên Hòa thứ 14 (1546), ngày 8, thuộc ngày Quý Hợi, Phúc Hải chết,

tiếm ngôi được 6 năm, ngụy đặt thụy là "Hiến tôn Hiển Hoàng đế ", con là Phúc Nguyên nối ngôi.

1

 Chữ "quận công " có lẽ lầm, vì Trịnh Kiểm hiện đã tước quận công, đâu có phong thêm tước quận công nữa. Hoặc do

chữ "quốc công" chép lộn ra chăng ? 55 Đại Việt Thông Sử - Liệt Truyện - Nghịch Thần Truyện (BD:LML) 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro