dong dinh ho gia su 21 - 30

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hồi 21 Hồn tử sĩ gió ù ù thổi, Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.

(Chinh phụ ngâm khúc)

Trần Tự-Sơn, Đào Kỳ, Đô Dương… đến chỗ trú của anh hùng Lĩnh Nam ở cửa Đông thành thì không thấy một người nào ở đây nữa. Chủ nhà cho biết khi trước đó mấy giờ, Phương-Dung trở về, đốc xuất mọi người vượt thành ra ngoài. Nàng để lại một bức thư. Đào Kỳ lấy bóc ra, trong thư vỏn vẹn có mấy chữ: 

Trần đại ca nên mang Khất đại phu, Chu sư bá, Đô đại ca và Đào tam lang đi Lạc-dương cứu nhũ mẫu, nhất là phải áp bức Mã Thái-hậu đưa thuốc giải để cứu Tiên-yên nữ hiệp. Mọi việc ở đây tiểu muội xin lo liệu hết. 

Khất đại phu nói: 

– Con bé Phương-Dung ước tính như vậy là phải. Về võ công, lão với Đào tiểu hữu đủ sức đấu với các võ sĩ cấm quân Lạc-dương. Về lý thì Lĩnh-nam vương với Hàn Thái-hậu tình nghĩa mẹ con thâm trọng, thì nên đích thân đi. Còn Đô, Chu thì thuộc đường lối trong thành. Thôi chúng ta lên đường. 

Nguyên sau khi cứu Trần Tự-Sơn ra khỏi nhà ngục, Khất đại phu, Đô Dương, Chu Bá đánh nhau một trận trời long đất lở với cấm quân, thoát đến điện Vị-ương. Phương-Dung nảy ra ý cho Trần Tự-Sơn giáp mặt với Quang-Vũ, gọi là ân đoạn nghĩa tuyệt, để Vương có thể nhất tâm, nhất trí lo phục hồi Lĩnh Nam. Vì hơn ai hết, Phương-Dung biết Tự-Sơn là người tình cảm. Giữa Vương với Quang-Vũ không phải một ngày, đôi tháng mà tuyệt tình được. Nay nếu đưa Vương ra ngoài thành cầm quân, Vương không thể thẳng tay với Quang-Vũ, thì chi bằng trong lúc Vương đang phẫn hận, để Vương gặp Quang-Vũ tuyệt tình với y, thì mới mong Vương dứt khoát với Hán. 

Sau khi Tự-Sơn kể hết những xấu xa bỉ ổi của Quang-Vũ trước mặt quần thần, Vương gọi tên tục Cảnh-Thủy hoàng đế là Lưu Huyền, gọi tên tục Quang-Vũ là Lưu Tú. Đô Dương mạ lỵ Quang-Vũ bằng lời lẽ nặng nề, như vậy Tự-Sơn không còn liên hệ với Hán nữa. Trong khi Đô Dương kinh nghiệm về quân tình nhà Hán. Chàng lại cầm quân lâu, nên đưa ra ý định khi rời thành Trường-an, phải đánh Quang-Vũ một trận trời long đất lở, để y biết mặt anh hùng Lĩnh Nam. Phương-Dung ước tính rằng Trần Tự-Sơn với Quang-Vũ tình nghĩa quá thâm trọng, không dễ gì một ngày trở mặt với nhau được. Lại nữa, các quan văn võ triều Hán đều không ít thì nhiều liên hệ với Vương, mà bảo Vương dùng quân Thục đánh nhau với họ, không thể nào được. Vậy muốn thực hiện trận đánh, Phưong-Dung tìm cách cho Tự-Sơn vắng mặt. Trận đánh Trường-an là trận then chốt, sau trận này, anh hùng Lĩnh Nam rời Trung-nguyên, trở về đánh đuổi quân Hán phục quốc. 

Phương-Dung cùng Tiên-yên nữ-hiệp, Trần Công-Minh vượt thành, gặp quân Thục đang đi tuần. Viên lữ-trưởng nhận ra Phương-Dung vội đón về doanh trại. 

Trong doanh trại Thục, anh hùng Thiên-sơn, Lĩnh Nam tụ tập đông đủ. Họ thấy Phương-Dung trở về với một số người lạ mặt thì ngơ ngác không hiểu. Đầu tiên Mai-động ngũ hùng Nguyễn Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, đến trước mặt Tiên-yên nữ hiệp, Trần Công-Minh, Đặng Đường-Hoàn phủ phục xuống hành lễ, vấn an sư bá, sư thúc. Các tướng Thục biết ba người này địa vị không nhỏ. Họ lại thấy Cao Cảnh-Sơn cùng hai con đến trước mặt Cao Cảnh-Minh thụp xuống làm lễ kêu bằng sư thúc, thì biết đây là những cao nhân mới từ Lĩnh Nam tới. 

Bỗng Tiên-yên nữ hiệp kêu lên một tiếng, ái chà rồi loạng choạng muốn ngã. Phương-Dung đỡ bà dậy, mặt bà khi xanh, khi đỏ, mồ hôi vã ra, tay chân lạnh toát. Nàng đưa bà vào trong trướng đặt lên giường. Hơi thở của bà rất yếu, chỉ còn thoi thóp. Tuy nhiên bà là người cương cường can đảm, dù đau đến chết bà cũng không lên tiếng, song độc tố Huyền-âm của Trần Lữ hành hạ, khiến người bà run lập cập, mặt tái nhợt, tỏ ra đau đớn vô cùng. Các anh hùng Lĩnh Nam đều lắc đầu nhìn bà ngao ngán không biết làm sao. 

Đêm hôm trước Khất đại-phu đã nói, trúng chưởng này không có thuốc nào chữa được. Khi bất cứ ai bị trúng nọc độc Huyền-âm thì cứ cách ngày lên cơn một lần, cho đến khi nào trong người kiệt lực không còn sức chống bệnh nữa, sẽ chết như ngọn đèn hết dầu. Phương-Dung kể chuyện cho mọi người nghe, Tạ Thanh-Minh với Trần Lữ bị Đào Kỳ dùng nội công đẩy chất độc Huyền-âm trở lại người, bọn chúng cũng chịu chết mà không có thuốc giải. Bây giờ chỉ hy vọng Khất đại-phu, Trần Tự-Sơn, Đào Kỳ áp chế Mã Thái-hậu đoạt thuốc giải kịp thời cứu bà mà thôi. 

Một lát Tiên-yên nữ hiệp mệt quá ngủ thiếp đi. Hoàng Thiều-Hoa ra lệnh đánh trống, họp các tướng. Bên Thục cao nhất là Thái-tử Công-tôn Tư, bởi chàng lãnh chức Đại Tư-mã quyền chưởng quản toàn bộ quân sĩ trong tay. Tuy nhiên về vai vế trong phái Thiên-sơn, trên chàng còn có Tề-vương Tạ Phong, Lũng-tây vương Triệu Khuôn, Phiêu-kỵ đại-tướng quân Nhiệm Mãng, là vai sư phụ, sư thúc, nên chàng để họ ngồi hai bên, sau đó tới tám đại-tướng Thục và năm đại-tướng Hán mới hàng, theo thứ tự ngồi xuống. Phía Lĩnh Nam Hoàng Thiều-Hoa là Vương-phi Lĩnh-nam vương cầm quyền Đại tướng-quân ngồi cao nhất. Nàng để các vị Trần Công-Minh, Đặng Đường-Hoàn, Cao Cảnh-Minh, Cao Cảnh-Sơn, Đinh Công-Thắng, Lương Hồng-Châu ngồi ngang hàng. Còn các anh hùng khác theo thứ tự ngồi xuống. Thấp nhất là Tây-vu Thiên-ưng Lục-tướng, Tây-vu Lục-hầu tướng. 

Đây là lần hội họp đông đủ anh hùng nhất kể từ khi rời Lĩnh Nam. Lục Sún thấy mình được ngồi ngang hàng với các vị sư bá, sư thúc Việt, lại thấy mình được trọng vọng như các đại tướng Thục, chúng vênh mặt, ưỡn ngực lên, ngồi nghiêm chỉnh đạo mạo chưa từng thấy! 

Thái-tử Công-tôn Tư lên tiếng: 

– Thưa các vị anh hùng Lĩnh Nam. Nhờ ân đức của Lĩnh-nam lão tiên, Thiên-sơn lão tiên mà chúng ta đang từ thế đối nghịch, trở thành anh em. Đúng như các vị ước tính, các vị chỉ trở tay một cái mà đã trả hết thành trì đã mất về cho chúng tôi. Chúng tôi còn được thêm đất Hán-trung. Ba đạo quân của chúng ta tới Trường-an đúng như dự liệu. Ta lại chiếm được vùng Phù-phong, thu được năm chục ngàn quân Hán đầu hàng. Bây giờ, trước mắt, chúng ta sẽ đánh chiếm Trường-an, Vị-nam, Lâm-đồng và Đồng-quan. 

Anh hùng Lĩnh Nam và các tướng sĩ vỗ tay rung động doanh trướng. 

Phương-Dung tiếp: 

– Theo các nơi báo cáo thì đạo Kinh-châu và Trường-sa vương Công-tôn Thiệu cùng Trưng Nhị đã chiếm xong chín quận Kinh-châu, hai quận cuối cùng là Trường-sa, Linh-lăng đã thuộc về Lĩnh Nam, đại quân đạo Kinh-châu đang trên đường về đánh Nam-dương chĩa thẳng vào Lạc-dương. Vậy chúng ta cần đánh một trận long trời lở đất, cho quân Hán rúng động mất hết tinh thần, song hiện Quang-Vũ có mặt tại đây cùng với Tần-vương, Hoài-nam vương và các đại tướng-quân danh tiếng Ngô Hán, Đặng Vũ, muốn thắng Hán trong một trận, chúng ta phải chấp nhận hy sinh. 

Phưong-Dung thuật hết mọi chuyện đi cứu Trần Tự-Sơn, từ việc Giao-Chi thuyết được Đô Dương về hàng, đến việc gặp Tiên-yên nữ hiệp đánh nhau với Mã Viện trong đêm. Đến chỗ Tiên-yên, Đào Kỳ vào Trường-lạc cung dọa Quang-Vũ té đái vãi phân ra quần, anh hùng Việt, Thục đều vỗ tay cười vang dội cả hội trường. Rồi nàng thuật tiếp việc cứu Trần Tự-Sơn đến việc Tự-Sơn chửi Quang-Vũ. Đào Kỳ đánh bại hết cao thủ trước điện Vị-ương. Hiện Tự-Sơn, Khất đại-phu, Đào Kỳ, Đô Dương, Chu Bá đang trên đường đi Lạc-dương cứu Hàn Tú-Anh. 

Nguyễn Giao-Chi nói: 

– Đạo Kinh-châu có Tương-dương cửu hùng vô địch thiên hạ, thì Sầm Bành, Cảnh Yểm, Tế Tuân đã bị giết, đạo Hán-trung có Phùng Dị, Lưu Thương, Lai Háp cả ba cũng bị giết, cộng là sáu, như vậy từ nay cái tên Tương-dương cửu hùng, Côn-dương ngũ hổ không còn nữa. 

Sún Rỗ hỏi: 

– Bây giờ chúng ta đánh Trường-an phải không? 

Sún Lé hỏi Công-tôn Tư: 

– Sư huynh để chúng tôi đột nhập Trường-an cho chim ưng ăn thịt Quang-Vũ, khỏi mất công đánh. 

Phương-Dung lắc đầu: 

– Không! Chúng ta không bắt Quang-Vũ, cũng không giết hắn. 

Sún Lé bất phục: 

– Quang-Vũ là chúa tướng Hán, bắt y, Hán như rắn mất đầu. Chúng ta tiến về Lạc-dương, chia đôi thiên hạ với Thục, sư bá Công-tôn Thuật làm Hoàng-đế một nửa Trung-nguyên, sư tỷ Hoàng Thiều-Hoa làm Hoàng-đế một nửa còn lại, bọn em làm Thiên-ưng đại tướng-quân. 

Các tướng sĩ nghe Sún Lé đều cười ồ lên, nhưng họ nhận thấy Sún Lé rất chí lý. 

Phưong-Dung nói: 

– Em biết một mà không biết hai, chúng ta hiện chưa đủ lương thực, quân sĩ chiếm Trung-nguyên, chúng ta hãy chiếm Quan-trung, giao cho Thục để làm tiêu tan chí khí Quang-Vũ mà thôi. Để sau đó Thục chỉnh bị quân mã rồi mới mưu đồ chiếm Trung-nguyên, chúng ta đánh Quang-Vũ mở đường cho y chạy, vì hiện y đang bị quần thần coi thường, trong cung mẫu tử bất hòa, giết y đi ắt Hoài-nam vương lên thay, Hán sẽ có ông vua hiệp nghĩa, dân chúng qui phục, chúng ta không đánh được. 

Sún Cao hỏi Công-tôn Tư: 

– Công-tôn sư huynh, đất Trường-an có phải đất Tần không? 

Thái-tử Công-tôn Tư có tài vương bá, chàng liếc mắt một cái nhận biết từng loại người một ngay, từ hôm đi cùng Lục Sún từ Hán-trung ra đây, chàng nhận thấy Lục Sún là những đứa trẻ thông minh, biết phân biệt chính tà, vì vậy chúng dám cãi lệnh Trưng Nhị tha Công-tôn Thiệu, mở đầu cho việc hòa hợp Lĩnh Nam với Thục, y nghe Sún Cao hỏi vậy liền đáp với một giọng ôn tồn:

– Đúng đấy, phía Bắc Trường-an là Hàm-dương, kinh đô cũ của nhà Tần. 

Sún Cao tiếp: 

– Quang-Vũ là người, chúng ta cũng là người, Quang-Vũ muốn làm vua cả Trung-nguyên, Lĩnh Nam, Thục tại sao chúng ta không làm vua Trung-nguyên được ? Theo ý em mình đánh Trường-an, bắt Quang-Vũ giết đi, cắt đất Trường-an phong cho Tần-vương Điền Sầm, không lẽ Công-tôn sư bá phong cho Điền sư thúc chức Tần-vương mà không được cai trị đất Tần ư ? 

Sún Đen tiếp: 

– Vậy thì phải cắt đất Lạc-dương phong cho Tạ sư thúc, vì sư thúc được phong Tề-vương. 

Sún Lùn tiếp: 

– Thế từ Thiên-thủy về phía Tây cắt phong cho sư thúc Triệu Khuôn, vì sư thúc được phong vùng Lũng-tây vương. 

Đến đó nó reo lên sung sướng: 

– Đúng rồi, sư huynh Công-tôn Thiệu được phong làm Trường-sa vương, hiện giờ đã trấn thủ Trường-sa rồi. 

Sún Lé nói với Thiều-Hoa: 

– Vậy mình cứ thế mà làm, chúng ta chỉ giơ tay ắt giết được Quang-Vũ, giết tên bất hiếu. Diệt nhà Hán, cắt Trung-nguyên làm hai, Thục một nửa, Lĩnh Nam một nửa. Em đề nghị thế này: Sư bá Lại Thế-Cường làm Nhật-nam vương, sư bá Đào Thế-Kiệt làm Cửu-chân vương, sư-tỷ Trưng Trắc làm Giao-chỉ vương, Sư-bá Nam-hải làm Nam-hải vương, sư-tỷ Trưng Nhị làm Tượng-quận vương, sư tỷ Hoàng Thiều-Hoa làm Quế-lâm vương, Nghiêm đại-ca làm Hoàng-đế. Những đất đai cắt được ở Trung Nguyên, phong cho các vị sư bá, sư thúc, sư huynh, sư tỷ khác. 

Công-tôn Tư hỏi: 

– Thế Lục Sún muốn được phong gì nào ? 

Lục Sún đang thao thao bất tuyệt, nghe Công-tôn Tư hỏi vậy thì ngẩn người ra, Sún Hô nói: 

– Chúng em trở về Tây-vu làm Thiên-ưng Tây-vu lục tướng rồi đi từ Nam tới Bắc, từ Đông sang Tây, xử tử tất cả những tên lừa thầy phản bạn, bất hiếu, bất nghĩa. 

Hoàng Thiều-Hoa hiểu nhiều tâm lý trẻ, nàng không muốn quát Lục Sún im lặng như Hồ Đề, Phương-Dung, vì nếu quát chúng chỗ đông người, chúng làm việc khó lường được, như thả Công-tôn Thiệu, nàng ôn tồn nói: 

– Nếu thế chị sẽ phong cho các em trấn thủ thành Bạch-đế, mỗi ngày đọc một ngàn tờ phúc trình. 

Lục Sún nghe đọc một ngàn tờ phúc trình thì ớn da gà, vì chúng nó không biết chữ, chúng tiu nghỉu ngồi im. 

Công-tôn Tư bàn: 

– Quang-Vũ mang theo hai chục vạn quân, cộng với mười vạn quân Trường-an là 30 vạn, y mất 5 vạn ở Phù-thành về hàng Thục, như vậy hai bên quân số bằng nhau, vậy chúng ta phải làm thế nào ? 

Quân-sư Trung-lang tướng Tào Mạnh nói: 

– Hiện ở Trường-an chỉ có bốn đại tướng giỏi, một là Hoài-nam vương, hai làTần-vương, ba là Ngô Hán, bốn là Mã Viện. Cần đánh gấp nếu không Quang-Vũ gọi các tướng trấn thủ Vị-nam, Lâm-đồng, Đồng-quan về cứu thì khó khăn lắm. 

Hoàng Thiều Hoa nói với Công Tôn Tư: 

– Chúng ta để Phương-Dung điều động quân mã. 

Công-tôn Tư hai tay nâng ấn kiếm trao cho Phương-Dung, Phương-Dung thăng trướng nói: 

– Bây giờ chúng ta cần đuổi Quang-Vũ khỏi Trường-an, vậy nỗ lực chính đánh Trường-an, nỗ lực phụ đánh Vị-nam, Lâm-đồng, Đồng-quan. Bàn về quân ngang nhau, nhưng về tướng chúng ta hơn quân địch gấp bội. Bên Hán có các cao thủ Hoài-nam vương, Ngô Lương, Ngũ-phương thần-kiếm, Tương-dương lục hùng hiện đều ở cả Trường-an, chúng ta chỉ có Tần-vương, Tề-vương, Lũng-tây vương và tôi địch lại họ. Chỉ ngặt một điều phía bên họ những mười ba người, ta có bốn người, ta lợi dụng họ tập trung một chỗ mình phân tán đi đánh các nơi khác không có cao thủ trước, các nơi khác mất Trường-an lâm nguy. 

Đoạn nàng cầm binh phù đứng dâïy nói với Triệu Khuôn: 

– Lũng-tây vương trí dũng vẹn toàn, lĩnh năm vạn quân đánh Vị-nam, tại Vị-nam Hán có năm vạn quân, nhưng không có tướng giỏi, hẳn Quang-Vũ ra lệnh cố thủ không đánh, vậy Triệu vương-gia thống lĩnh các tướng Hán, mới qui phục Vương Hữu-Bằng, Lý Thái-Hiền, Chu Á-Dũng, Ngô Triệu, Phan Đức, cùng chư vị anh hùng Lĩnh Nam Nguyễn Giao-Chi, Trần Quốc, Mai-động ngũ-hùng, đội Giao-long Mai-động, nội đêm nay lên đường, làm sao trưa mai lấy được thành. Sau khi lấy thành, chất củi, cỏ, đốt cho khói lên mịt mù làm loạn lòng quân Trường-an Vương Hữu-Bằng hỏi: 

– Đào quân-sư, xin Quân-sư xét lại, thành Vị-nam hiểm trở có sông lớn chảy qua, quân trong thành bằng chúng tôi, làm sao chúng tôi chiếm ngay trong một ngày? 

Triệu Khuôn cười: 

– Trấn-bắc tướng quân Đô-đình hầu lầm rồi, chính vì có sông Vị-nam chảy qua mà chúng ta vào được thành. 

Ông chỉ Giao-Chi, Giao-long nữ nói: 

– Dù cá Kình cũng thua các vị này, chỗ chứa lưong thảo của thành Vị-nam đặt bên nhánh sông nhỏ, chúng ta cùng đợi Kình-ngư Lĩnh Nam lặn theo sông, đốt cháy lương thảo, giết quân canh, mở cổng. Giữa đêm chúng ta tràn vào lấy thành như trở bàn tay, chúng ta đánh úp, chớ có công thành đâu mà cần đông quân. 

Vương Hữu-Bằng chợt hiểu ra, gật đầu cười. 

Phương-Dung nói: 

– Sau khi chiếm Vị-nam, Triệu-vương chiếm hết các thành phụ dung như: Cao, Lặng, cho một đội cung nỏ phục sẵn trên đường từ Hàm-dương về Trường-an, để quân đóng ở Hàm-dương không về cứu được Trường-an. 

Phương-Dung lại lấy binh phù đưa cho Phiêu-kị đại tướng quân Nhiệm Mãng: 

– Xin Phiêu-kị đại tướng-quân cùng với tướng Điền Nhung, có sư thúc Lương Hồng-Châu, Đặng Đường-Hoàn trợ giúp, mang ba vạn quân phục trên đường từ Hàm-dương về Trường-an, để ngăn quân Hàm-dương cứu Trường-an. Ngày mai nếu thấy khói bốc lên từ Vị-nam, cũng cho quân đốt lửa lên làm nghi binh, hầu làm loạn lòng Quang-Vũ. 

Sau đó nàng cầm binh phù đưa cho Tạ Phong: 

– Tề-vương lĩnh các tướng Nhiệm Đăng, Ngụy Đảng, Lữ Vi cùng các anh hùng Lĩnh Nam sư thúc Đinh Công-Thắng, Trần Công-Minh, đem năm vạn quân đánh Lâm-đồng. Khi thấy khói bốc lên ở Vị-nam, cũng đốt lửa làm như chiếm được Lâm-đồng, làm loạn lòng Quang-Vũ. 

Đoạn Phương-Dung nói với Công-tôn Tư: 

– Trong thành Trường-an, Tần-vương Lưu Nghi mới bị mất tín nhiệm qua vụ Tạ Thanh-Minh, người của Xích Mi trà trộn vào, Mã Viện bị nghi ngờ, chỉ còn Hoài-nam vương với Ngô Hán. Tôi nghĩ Ngô Hán sẽ ở nhà giữ thành, Hoài-nam vương cầm quân, y là người mưu lược, khi chúng ta tiến đánh Quang-Vũ thế nào y cũng cho hai đạo Kỵ-binh đột xuất ra cửa Bắc và Nam đánh vào hông ta, vậy phiền sư bá Cao Cảnh-Minh và Cao Cảnh-Sơn xuất lĩnh hai đội nỏ thần phục ngoài cửa thành, hễ thấy giặc ra dùng thần tiễn bắn lui, mục đích không cho giặc cứu ứng lẫn nhau, sau khi giặc lui, đánh quặt trở lại cửa Tây. 

Phương-Dung biết trận này thành hay bại, nhờ lực lượng Tây-vu của Hồ Đề, đám đệ tử Tây-vu là những người chân thật, tính tình giản dị, họ được huấn luyện về phản Hán phục Việt, cho nên đối với họ cứ đem chính nghĩa ra, bảo họ lăn vào chỗ chết họ cũng cam tâm, nàng hỏi: 

– Trong khi sư tỷ Hồ Đề không có ở đây, ai là chúa tướng Tây-vu ? 

Sún Lé nói: 

– Luật lệ ở Tây-vu, khi sư tỷ Hồ Đề vắng mặt người nào lớn tuổi nhất coi như thống lĩnh, ở đây Vi Đại-Khê lão gia làm thống lĩnh. 

Phương-Dung gật đầu nói: 

– Trận đánh Trường-an là trận lớn nhất, mà chúng ta phải tham dự, song thắng hay bại đều do anh hùng Tây-vu. 

Các anh hùng Tây-vu nhìn nhau, mắt đầy hãnh diện, từ hôm theo quân sang Trung-nguyên, họ không còn bị gọi là mọi là mán là Nam-man nữa, họ được ngồi cạnh bậc vương như Trần Tự-Sơn được sống với tiên ông như Khất đại-phu, tự ái của họ thoả mãn, bây giờ Phương-Dung lại bảo thắng hay bại là do họ, họ tự nhận thấy vai trò quan trọng. 

Phương-Dung hỏi Hồ Hác: 

– Sư đệ mới về Lĩnh Nam trở sang, sư đệ kiểm lại đội Thần-tượng chưa ? 

Hồ Hác đáp: 

– Dạ! tất cả có hai trăm thớt, chia thành hai tốt, tổng cộng tám lượng, mỗi lượng hai mươi lăm. 

Phương Dung hỏi Lục-phong Quận-chúa: 

– Các sư muội! Khí hậu lạnh thế này, Thần-phong có dùng được không ? 

Hoàng-phong quận-chúa đáp: 

– Thưa được, không có gì trở ngại. 

Phương-Dung ghé qua tai dặn kỹ càng Lục Sún với Lục-hầu tướng những gì phải làm. 

Công-tôn Tư viết chiến thư gửi Quang-Vũ, thách thức y ngày mai ra trước cửa Tây thành quyết chiến một trận, sứ giả đi một lúc trở về trình chiến-thư, quả nhiên trên chiến-thư Hoài-nam vương phê chữ Lai nhật Thìn thời quyết chiến, nghĩa là ngày mai giờ Thìn quyết chiến. 

Sáng hôm sau giờ Dần, Phương-Dung thăng trướng nói: 

– Tề-vương Tạ Phong chỉ huy Hầu Đơn, Quế-Hoa đi bên phải, có Sún Rỗ, Sún Đen, Hắc-Phong trợ giúp, Tần-vương Điền Sầm đi bên trái với Sử Hùng, Quỳnh-Hoa, Sún Lùn, Sún Hô và Hoàng-Phong trợ giúp. Trung-ương Thái-tử Công-tôn Tư, sư tỷ Hoàng Thiều-Hoa hỗ trợ, có Sún Lé, Sún Cao, Bạch, Xích, Thanh, Hồng-Phong sư muội. Bắc-bình vương Công-tôn Khôi làm Đốc-quân trung-ương, còn Vi lão gia dẫn Tây-vu lục hầu-tướng lĩnh nhiệm vụ đột nhập Trường-an, phóng hỏa khắp nơi. 

Giờ Mão quân Thục tiến tới thành Trường-an dàn thành trận thế, trong thành phát pháo, đạo quân thứ nhất xuất hiện, Mã Viện cùng Tương-dương lục-hùng, đối diện cánh trái Thục, một lát đội quân nữa xuất hiện. Do Ngô Lương dẫn đầu cùng Ngũ-phương thần-kiếm đối diện cánh phải của Thục. 

Tiếp theo pháo nổ ran, Hoài-nam vương cùng các quan văn võ yểm trợ Quang-Vũ ra trước trận. Hoài-nam vương quan sát trận thế một lúc, rồi nói với Quang-Vũ: 

– Thựïc đáng lo ngại, bên Thục binh hùng, tướng mạnh, sao hiện diện ở đây chỉ có bảy tám vạn là cùng, vậy chúng đi đâu ? Thần lo cho Vị-nam, Lâm-đồng, Hàm-dương quá. Còn Nghiêm Sơn, Đào Kỳ, Khất đại-phu, Đô Dương, Chu Bá… và hầu hết các tướng Thục sao không thấy? 

Hoài-nam vương là người văn võ kiêm toàn, đánh dư trăm trận, kinh nghiệm nhiều, nhưng ông không hiểu rằng Phương-Dung xuất thân đệ tử phái Long-biên, kiếm pháp cực kỳ phức tạp, những chiêu thức phần lớn là hư, rất ít thực, nhưng đối phương không để ý thì hư thành thực ngay. Hư hư thực thực vốn là sở trường của nàng, nàng biết rõ Hoài-nam vương nên phân tán binh đi các nơi, chỉ để một ít ở Trường-an hầu làm kế nghi binh. Như vậy đạo quân chính ở Trường-an lại biến thành hư, còn các đạo Vị-nam, Hàm-dương, Lâm-đồng mới thực. Nàng ước tính rằng, nếu đem tất cả quân mã đánh Trường-an, ba nơi kia sẽ đưa quân về đây cứu viện, mình tứ bề thọ địch, vì vậy nàng cho gửi chiến-thư, dàn quân làm như đánh Trường-an, trong khi đó đánh úp các nơi. Các nơi kia mất, Trường-an lâm nguy, cho nên vừa mới xuất trận Hoài-nam vương đã cảm thấy nghi ngờ rồi, đạo dùng binh, tối kỵ nghi ngờ, đã nghi ngờ thì không thể thắng nổi. 

Hoài-nam vương cầm roi ngựa chỉ sang Thục: 

– Công-tôn Tư đâu, mau ra đây yết kiến Thánh-hoàng. 

Bên trận Thục, Công-tôn Tư đi song song với Hoàng Thiều-Hoa, Phương-Dung phía sau có Sún Lé, Sún Cao, Bạch, Xích, Thanh, Hồng-Phong, so với bên Hán quả là quá ít. 

Công-tôn Tư gò ngựa quát: 

– Ta là Thái-tử Công-tôn Tư đây, Lưu Tú có điều gì muốn nói với ta thì nói đi ? 

Quang-Vũ nói: 

– Cha ngươi trước kia được Tiên-đế giao cho quản lĩnh sáu quận, khi Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, cha ngươi đã không biết đem tấc lòng diệt bạo trừ gian, lại hùng cứ một phương, thế là đạo lý gì vậy? Bây giờ ngươi mang quân phạm Trường-an, tội không nhỏ, ta đây dòng dõi chính thống, phất cờ giết Vương Mãng, thống nhất sơn hà, mệnh trời ở trong tay nhà Hán. Vậy ngươi mau bảo cha ngươi qùi gối xưng thần, cái chức vị phong hầu đã không mất mà lại được tiếng trung thần. 

Công-tôn Tư vận khí vào đơn-điền nói thật lớn: 

– Các tướng sĩ Hán, Thục hãy nghe đây. Trước đây bạo Tần tàn hại trăm họ, đánh mất con nai, quần hùng thi nhau mà đuổi. Cuối cùng còn Hạng Võ với Lưu Bang. Lưu Bang được tam-kiệt Trương Lương, Tiêu Hà, Hàn Tín phù trợ mà thành đại nghiệp, chứ có tài gì đâu. Thế rồi khi nghiệp đã thành, Lưu Bang bỏ tù Tiêu Hà, đuổi Trương Lương đi tu, còn Hàn Tín bị giết ba họ, việc làm khiến trời sầu đất thảm. Bởi vậy sau này bị con cháu Vương Mãng cướp ngôi, anh hùng sĩ dân không trung thành với Hán nữa, đó là lẽ đương nhiên không chối cãi được. 

Đoạn Công-tôn Tư chỉ vào Hoàng Thiều-Hoa: 

– Tổ tiên ngươi sát hại công thần, nghĩa sĩ thiên hạ. Còn mi thì sao ? Đây Lĩnh-nam vương-phi, ta để Vương-phi đối thoại với ngươi. 

Từ sau trận Hoàng Thiều-Hoa cỡi ngựa từ từ đi ra, Quang-Vũ và các quan Hán từng nghe Vương-phi đẹp như tiên nữ, võ công hơn đời, nay tận mắt thấy nàng cỡi ngựa tiến ra, đều không khỏi choáng váng cả người. Quang-Vũ suýt xoa nghĩ thầm: Gái Việt đẹp thực, thảo nào xưa kia Ngô Phù-Sai chẳng mất nước vì Tây-Thi với Trịnh Đán, ta đã thấy Tường-Qui đẹp nhu mì như một bông hoa lan, cũng đã thấy cái đẹp mơn mởn của Phương-Dung, bây giờ không ngờ Hoàng Thiều-Hoa còn đẹp gấp bội. 

Quang-Vũ vẫy Mã Viện đến gần nói: 

– Mã quốc-cửu! Ngươi hãy điều khiển Tương-dương cửu-hùng, bằng mọi gía xông vào trận bắt Hoàng Thiều-Hoa cho trẫm, người đẹp thế kia dù trẫm có đổi giang sơn lấy nàng cũng không tiếc. 

Mã Viện biết Quang-Vũ từ lâu, được Quang-Vũ tín nhiệm, mấy hôm nay xảy ra việc Mã bị trúng kế Trưng Nhị mất phân nửa Ích-châu với chín quận Kinh-châu, theo luật nhà Hán phải tội chém cả nhà, nhưng Quang-Vũ nể Mã Viện là cháu Thái-hậu không truy cứu tội, tiếp theo vụ Trần Lữ muốn hành thích Quang-Vũ, rồi Nghiêm Sơn, Đào Kỳ tố giác Mã Thái-hậu định hại mẹ đẻ Quang-Vũ là Hàn Tú-Anh, những việc đó làm cho Mã Viện lo lắng không ít. 

Bây giờ Quang-Vũ gọi Mã Viện để thố lộ tâm sự, Mã Viện nắm ngay được việc lập công, y nghĩ: Nếu bắt được Thiều-Hoa, công tuy nhỏ nhưng được lòng Quang-Vũ, thì muốn gì chẳng được.Y vội cung kính tâu với Quang Vũ: 

– Thần xin hết sức bắt y thị dâng Hoàng-thượng. Hoàng-thượng muốn bắt sống Hoàng Thiều-Hoa, bên Thục chỉ ngại có Trần Đại-Sinh, Đào Kỳ, Phật-Nguyệt và Phương-Dung, bây giờ bọn chúng không có mặt ở đây, vậy chúng ta chia nhau làm như sau. Hai người cầm chân Phương-Dung, hai người đánh vào phía phải cầm chân Công-tôn Khôi, hai người đánh vào phía trái cầm chân Công-tôn Tư, một người bắt sống Hoàng Thiều-Hoa. 

Bô-lỗ đại tướng-quân Mã Vũ lắc đầu: 

– Kim chỉ của Hoàng-thượng thì chúng ta phải làm sao cho được, nhưng e rằng phải hy sinh nhiều quân-sĩ, tướng-quân thử nhìn xem: Trận Thục nghiêm minh như thế kia, chúng ta làm sao xông vào bắt Thiều-Hoa cho nổi ? Đầu tiên, cánh phải, cánh trái tấn công chọc sâu trận Thục, rồi cắt ngang ở giữa. Bấy giờ cho đội Thiết-kị xung vào, chúng ta đi với đội này, gần tới nơi thi hành kế hoạch của tướng-quân mới xong. 

Hoàng Thiều-Hoa gò ngựa đứng trước trận, gió xuân thổi nhẹ nhàng, y phục nàng bay phơi phới, tướng sĩ Thục, Hán im lặng phăng phắc, để nhìn một Tiên-nữ giáng trần, Thiều-Hoa hướng Quang-Vũ xá ba cái rồi nói: 

– Tiểu muội Hoàng Thiều-Hoa, xin vấn an đại-ca Lưu Tú, trước trận tiểu-muội không hành đại lễ được, mong đại-ca thứ lỗi. 

Quang-Vũ ngẩn ngơ một lúc mới lên tiếng: 

– Trước đây trẫm nghe nhị đệ thành hôn với một đệ nhất giai nhân Lĩnh Nam, trẫm có gửi quà mừng đám cưới, tiếc rằng từ hồi ấy đến giờ, huynh đệ ngàn trùng xa cách, không thì giờ gặp nhau, vì vậy mãi đến hôm nay trẫm mới gặp được nhị muội, tại sao nhị muội lại theo Thục đánh ta? Nhị muội là Vương-phi của triều Hán mà! 

Hoàng Thiều-Hoa là đệ tử của Đào-hầu, nổi danh nghĩa khí, ghét kẻ giả nhân, giả nghĩa, nàng thấy Quang-Vũ lờ việc bắt giam Trần Tự-Sơn, nàng nói lớn: 

– Phu quân của tôi một ngựa một gươm, cứu Hoàng-thượng. Một đêm đánh hai mươi trận, bị thương mười lăm lần, rồi giúp Hoàng-thượng phất cờ trung hưng, khắp thiên hạ ai ai cũng nói, không có phu quân tôi thì không có nhà Đông-Hán. Sau Ngô Hán, Đặng Vũ, Mã Viện, Sầm Đành, Phùng Dị đem toàn bộ Trung-nguyên đánh Thục bị thất bại, phu-quân tôi cử anh hùng Lĩnh Nam về giúp Hoàng-thượng, chúng tôi vào Thành-đô, Hoàng-thượng tưởng dẹp được Thục rồi, bắt giam phu-quân tôi, khi mới khởi binh phu-quân tôi nói rằng: Sau khi thành đại nghiệp, đại ca chỉ xin một thanh gươm, một con ngựa tiêu dao thắng cảnh. Thế mà đại ca cũng không cho, phu-quân tôi đã nói rằng: Kết nghĩa lầm với một người vô nghĩa bất nhân nhất thiên hạ. 

Nàng ngưng một lát rồi nói tiếp: 

– Con quạ là giống vật dơ bẩn, còn không nỡ bỏ mẹ bỏ cha, đại ca thân làm Hoàng-Đế, thế mà mẹ ở Lĩnh Nam bị con ác phụ họ Mã sai nhiều cao thủ đi giết hại, đại ca không cho bảo vệ mẹ mình thì thôi còn không nhìn đến bà. Như vậy đại ca đòi cai trị thiên hạ ư ? Vì thế ta mang quân đánh giết kẻ bất nghĩa, bất hiếu, những phường đó không xứng đáng để phu-quân ta gọi là đại ca nữa. 

Quang-Vũ hỏi: 

– Theo như Vương-phi ta phải làm thế nào để nối lại tình xưa với Lĩnh-nam vương ? 

Sún Lé đứng sau lưng Hoàng Thiều-Hoa nó xen vào, hô lớn: 

– Dễ lắm, điều thứ nhất bắt con ác phụ họ Mã chặt đầu, giết ba họ nó. Sau đó mang Hàn Thái-hậu về phụng dưỡng. 

Sún Cao tiếp: 

– Thứ nhì, ra chiếu chỉ đại xá thiên hạ, nhận lỗi với Trần đại-ca, rút quân khỏi Trường-an. 

Sún Rỗ thêm vào: 

– Chia ba thiên hạ với Lĩnh Nam và Thục 

Quang-Vũ hỏi: 

– Nếu ta không thuận thì sao ? 

Thiều-Hoa cầm roi chỉ sang Hán, ra lệnh cho Sún Lé, Sún Cao. Quang-Vũ cùng các tướng nhìn lên trời thấy hai đoàn Thần-ưng bay lượn thành vòng tròn. Sún Lé cầm cờ phất một cái, toán đầu hai mươi lăm thần ưng tách khỏi đàn, rồi toán thứ nhì, thứ ba, thứ tư … đâm bổ xuống trận Hoài-nam vương, Lưu Quang đã nghe nói về đoàn Thần-ưng, y cùng các tướng cầm gươm thủ sẵn, bảo vệ Quang-Vũ, đoàn Thần-ưng bay xuống cách đầu người năm sáu trượng thì kêu lớn rồi lộn trở lên, chúng đồng ị xuống. Sau khi bốn toán Thần-ưng vọt lên thì từ trên Quang-Vũ xuống dưới các tướng Hán đều bị phân chim dính đầy người, trông thực thảm thiết. 

Nhưng đã hết đâu, đoàn Thần-ưng của Sún Cao tiếp tục, rồi đến đoàn của Sún Đen, Sún Hô, Sún Lùn, Sún Rỗ. 

Khi các đoàn thần ưng ị xong, Bắc-bình vương Công-tôn Khôi nói với Quang-Vũ: 

– Lưu Tú, ngươi ăn ở bất nhân, nên chim trời cho ngươi ăn phân. 

Công-tôn Tư chỉ tay một cái, quân tướng Thục ào sang tấn công vào trận Hán, binh Thục từ lúc được anh hùng Lĩnh Nam giúp sức, tinh thần hăng say, đoàn Thiết-kỵ xung vào trận Hán tấn công, Công-tôn Tư cầm cờ, đứng lên mình ngựa chỉ huy, hô lớn: 

– Ai bắt được Quang-Vũ ta sẽ cho làm Chúa Trường-an. 

Các Sún được tướng Thục bảo vệ, chúng nó đứng lên mình ngựa cầm cờ phất, chỉ huy đội Thần-ưng, từng đàn một hai mươi lăm Thần-ưng, từ trên trời lao xuống vun vút tấn công vào Quang-Vũ và các tướng Hán. Chỉ riêng có Ngũ-phương Thần-kiếm không bị tấn công, vì Lục Sún biết họ là bạn của Phương-Dung và Đào Kỳ. Tại trung quân có Quang-Vũ, đích thân Sún Lé chỉ huy tấn công, Thần Ưng lao xuống đánh, Hoài-nam vương dùng kiếm bảo vệ Quang-Vũ như thành đồng vách sắt, Thần-ưng lao xuống bốn đợt mà không tấn công được lần nào. Phương-Dung bảo Sún Lé: 

– Em cho Thần-ưng tẻ ra một vài cặp, đánh từ phía sau, phía trước lại, như vậy Lưu Quang không bảo vệ nổi. 

Sún Lé huýt sáo, bốn cặp Thần-ưng chia làm hai phía trước sau tấn công Quang-Vũ. Trong khi một đoàn trăm Thần-ưng từ trời vun vút bay xuống, quả nhiên hai Thần-ưng lao vào tấn công ngựa Quang-Vũ và Lưu Quang, ngưa ré lên một tiếng, vật hai người ngã lăn ra, Lưu Quang ôm Quang Vũ nhảy lên cao, hai tướng đứng cạnh nhường ngựa cho chúa, Lưu Quang sơ hở một chút, bị Thần-ưng cào mặt Quang-Vũ, các tướng xúm bảo vệ hai người, Thần-ưng bị đánh dạt bay lên trời. 

Trong khi đó hai cánh trái phải, trận chiến đánh kịch liệt, Mã Viện cho Tương-dương lục-hùng chia làm ba tấn công như đã định, nhưng quân tướng Thục thiện chiến đánh bật lại, Lưu Quang lấy hỏa pháo đốt lên, cửa Bắc, cửa Nam thành Trường-an mở rộng, hai đợït Thiết-kị từ trong thành vọt ra ngoài khí thế như thác đổ. 

Hai đoàn Thiết-kị Hán, mỗi đoàn đông đến hơn ba vạn, dũng khí hùng mạnh, vừa ra khỏi cửa thành cả hai đoàn đánh quật lại cửa Tây, Phương-Dung đứng trên cây cao đốc chiến, nàng đã đặt tại không phận cửa Nam, Bắc mỗi nơi năm chục Thần-ưng, Thần-ưng tuần tiễu thường trực, khi thấy Thiết-kị trong thành tiến ra ngoài, chúng lao xuống tấn công làm hiệu. Phương-Dung cầm cờ vàng phất lên, tại cửa Nam Cao Cảnh-Sơn đợi chờ Thiết-kị ra hết, đánh quật về Tây, ông mới thả một trăm thớt voi đi hai bên, ở giữa mười xe chở nỏ thần, nỏ thần do đại tướng-quân Cao Nỗ chế ra từ thời Âu-Lạc, mỗi phát bắn hàng trăm mũi tên. Sau khi thắng Đồ Thư, Cao-cảnh hầu, Cao Nỗ chữa lại, nỏ bắn xa hai trăm trượng (400 mét ngày nay). Có loại bắn tên, loại ngắn bằng gang tay, có loại bắn tên bằng cổ tay, dài hai ba thước. Nỏ đặt trên một xe, phía trước xe có cái giá bằng rơm bảo vệ cho xạ thủ, hai bên xe nỏ có giáp sĩ hộ tống. 

Đoàn Thiết-kị hô lên, cùng nhào vào tấn công, Cảnh-Sơn phất cờ, loạt đầu mười xe nỏ đều bắn liên châu. Hơn nghìn Thiết-kị đổ xuống, tướng chỉ huy đoàn Thiết-kị kinh hoảng trước thế trận nguy hiểm, y ra lệnh tử chiến, các xe chở nỏ vừa bắn, vừa tiến. Đoàn Thần-tượng dàn hai bên hộ vệ theo xe tràn tới làm chiến mã Hán quân hỗn loạn, chỉ một lát đoàn kỵ mã bị hao hụt quá nửa, viên tướng chỉ huy định cho lệnh chạy vào thành. Cảnh-Sơn cho Thần-tượng xung vào trận, binh tướng Hán thấy voi to lớn xung sát, kinh hoảng bỏ cửa thành Bắc chạy về phía cửa Đông. 

Tại cửa Nam Cao Cảnh-Minh thấy Thiết-kị tràn ra, ông rút tên bắn liền mười mũi, ba viên tướng đi đầu dùng vũ khí gạt, nhưng ông bắn liên châu, chúng đều trúng tên. Đoàn voi dàn hai bên bảo vệ các xe chở nỏ thần, cứ mỗi loạt bắn ra hàng ngàn Thiết-kỵ ngã ngựa, viên tướng chỉ huy thấy nguy cơ, không dám tiến, ra lệnh lui vào trong thành. 

Quân Hán trên mặt thành bắn xuống yểm trợ đội Thiết-kị xe chở nỏ ở ngoài tầm tên. Trong khi đó nỏ thần có tầm bắn xa hơn Cao Cảnh-Minh bảo Cao Cảnh-Anh, Hùng, Hào, Kiệt bắn lên mặt thành, họ là những tay cung thủ thượng thặng, cứ mỗi mũi tên, quân trên mặt thành rơi xuống. 

Các xe chở nỏ được đẩy sát cửa thành, hai đội Thần-tượng đi theo hộ tống định tràn vào, tướng giữ cửa thành là Tần-vương Lưu Nghi với Đặng Vũ, hai người đứng trên địch lầu cho lệnh đóng cửa thành, đội Thần-nỏ lui ra chờ đợi. 

Cao Cảnh-Sơn đứng nhìn mặt trận phía Tây thành, quân Thục núng thế, ông bảo Cao Cảnh-Nham, Cao Cảnh-Khê: 

– Bố với năm xe Thần-nỏ trấn ở đây, con đem bớt năm xe nỏ đánh vào hông địch. 

Phía mặt trận Thục, chỉ huy cánh trái là Sử Hùng với Quế-Hoa, được Sún Lùn, Sún Hô, Hoàng-Phong yểm trợ, ba lần xung phong chọc thủng phòng tuyến, giết người ngổn ngang, nhưng lớp này chết lớp khác tiến lên thay thế. 

Sử Hùng đứng trên con ngựa, chỉ huy các đội Thiết-kị xung phong, thấy quân Hán không núng, y nói vọng xuống: 

– Các sư-đệ Sún Lùn, Sún Hô mau ra tay ! 

Sún Lùn phất cờ một cái, đoàn Thần-ưng đang bay lượn trên không, tách ra từng đội hai mươi lăm con một nhào xuống tấn công vào hậu quân địch, hậu quân náo loạn hẳn lên, mặt trận Hán đã rúng động, Mã Viện thấy vậy rút kiếm quát lên: 

– Ai lui ta chém ! 

Trước sức tấn công vũ bão của Thần-ưng, một tùy tướng lui lại hai bước Mã Viện vung kiếm chặt đầu, quân sĩ thấy vậy kinh hoảng lớp lớp tiến lên, hàng ngũ Thục lại lui trở về. 

Sún Hô phất cờ cho đoàn Thần-ưng nhào ngay xuống đội hình phía trước của quân Hán, từng đội, từng đội tấn công, hàng ngũ quân Hán rối loạn gần vỡ. 

Mã Viện nói với Tương-dương lục-hùng: 

– Không ngờ đoàn Thần-ưng hung dữ quá, càng giết chết chúng càng lao xuống, hãy bỏ kế hoạch bắt Hoàng Thiều Hoa, Mã Vũ, Tang Cung, Lưu Hán đánh sang phải, Phùng Tuấn, Đoàn Chí, Lưu Long đánh sang trái. Chúng ta cần bắt cho được hai thằng nhóc chỉ huy đội Thần-ưng mới mong sống còn. 

Hai bên giao chiến, quân sĩ chết hàng hàng lớp lớp, quân Hán bị các tướng đứng sau canh chừng, người nào lui thì chém, quân Thục có Thần-ưng yểm trợ, họ tiến lên không ngừng. 

Trận Hán chuyển động, Tương-dương lục-hùng bỏ trận tiến ra trước, phóng chưởng đánh bạt quân Thục lại. 

Sử Hùng nói với Hoàng-Phong: 

– Hoàng sư-muội, cho Thần-phong xuất trận. 

Hoàng-Phong cầm tù và thổi lên, năm cái xe phía sau trận hàng triệu Thần-phong bay lên mù trời, nhào xuống tấn công Tương-dương lục-hùng. Lục-hùng kinh khiếp, múa tít vũ khí bảo vệ thân mình, Thần-phong vẫn lọt được vào trận tấn công ngựa. Ngựa nhảy lồng lên, quật bọn họ xuống. Họ nhảy xuống đất, vận dụng vũ khí múa tít bảo vệ thân mình, quân sĩ thì ôm đầu chạy trở lại, quân Thục do đó tiến lên, thành ra Lục-hùng bị vây vào giữa trận. 

Bên cánh phải trận Thục, Ngô Lương cùng Ngũ-phương thần-kiếm đốc quân tiến lên, Hầu Đơn đốc quân phía trước, Quế-Hoa đứng đốc quân phía sau, cứ đợt nào bị chết, trống chỗ, nàng cho đội khác tiến lên, trám vào liền. 

Ngũ-phương thần-kiếm dàn hàng năm tiến trước trận, kiếm khoa lên, quân Thục ngã xuống, Hầu Đơn hô lớn: 

– Các sư đệ Sún Rỗ, Sún Đen đâu, xuất trận thôi! 

Sún Rỗ phất cờ, đoàn Thần-ưng đang bay trên cao, chia làm bốn, ba toán lao vào giữa trận tấn công Ngô Lương, một toán tấn công vào hậu đội, Sún Đen cho đoàn Thần-ưng của nó tấn công vào tiền đội, quân Hán náo loạn lui trở lại. 

Ngô Lương mải chống trả với Thần-ưng, ngước nhìn thấy Thần-ưng không tấn công Ngũ-phương thần-kiếm, y ngạc nhiên: 

– Không lẽ bọn này phản Hán rồi sao ? 

Ngũ-phương thần-kiếm cũng thấy thế, bọn họ vung kiếm tấn công về phía trước, Sún Đen đứng trên mình ngựa rồi nói lớn: 

– Ngũ Phương đại ca! Năm vị đại ca có ơn với Lĩnh Nam, bọn tiểu đệ không muốn tấn công các đại ca. Các đại ca lui lại ngay, Thần-ưng thì có thể sai tấn công người này, không tấn công người kia, chứ đoàn Hắc Phong chúng ngu lắm, muốn bảo nó đừng tấn công các vị đại ca thì không được đâu. 

Ngũ-phương thần-kiếm không nghe, múa kiếm tiến lên hàng ngũ Thục rối loạn, phía Thục không có tướng nào khả dĩ đối đầu được với họ, họ đi đến đâu đầu rơi, người đổ đến đó, quân Hán nhờ thế tiến lên, quân Thục phải lui lại. 

Hắc Phong công-chúa thấy nguy cơ cầm tù-và thổi, đội ong-bầu đen thui bay rợp bầu trời tiến lên, nhào xuống tấn công Ngũ-phương thần-kiếm và đội hình quân Hán, Ngũ-phương thần-kiếm đã biết lợi hại của đoàn Thần-phong, múa tít kiếm như những quả cầu bạc che kín thân hình không hề gì. Nhưng quân Hán bị tấn công hàng ngũ rối loạn lùi lại phía sau, quân Thục lại tiến lên đuổi theo. 

Ngô Lương đứng đốc chiến phía sau cũng bị đoàn ong bầu tấn công, y múa đao tự bảo vệ, vì sơ hở Thần-phong lọt trong vòng đao quang, đốt trúng trán, y nhức đến chảy nước mắt, đao chậm lại một chút, đoàn Hắc-phong nhào vào đốt người, ngựa y, quân sĩ kinh hoảng dùng áo đập đàn ong cứu y, Hắc-Phong công-chúa thổi tù-và thúc Thần-phong tiến lên, quân Hán kinh hoàng lui tới gần chân thành. 

Tại trung ương chủ lực Hán tới mấy trăm viên tướng, do chính Quang-Vũ với Hoài-nam vương đốc chiến, các tướng tiến lên gặp phải sức chống cự của đoàn đệ tử phái Thiên-sơn gồm hơn ngàn người võ công can đảm tuyệt vời. Phòng tuyến Thục vững như thành đồng vách sắt. 

Về điều binh, thiết kế thì Phương-Dung đứng vào hàng thứ nhất thời bấy giờ, nhưng việc xung phong hãm trận, đốc chiến ứng phó với tình hình, nàng còn thua cả Hoàng Thiều-Hoa. Phía trước trung quân Công-tôn Tư đốc chiến, phía sau Công-tôn Khôi chỉ huy đội trừ bị, hai chú cháu học cùng sách vở, cùng chiến đấu bên cạnh nhau lâu ngày, phối hợp rất nhịp nhàng. Hoàng Thiều-Hoa đứng trên bành con voi lớn, phía trước có Sún Lé, phía sau có Sún Cao, cạnh nàng Phương Dung đứng trên lưng ngựa ô, cầm kiếm phòng thủ, Tứ Phong Công-chúa Bạch, Xích, Thanh, Hồng gò ngựa chờ lệnh. 

Xung sát một lúc, Quang-Vũ cầm dùi đánh trống thúc quân tiến lên, binh tướng Hán ào ào xô về trước, đoàn đệ tử Thiên-sơn dũng mãnh như thế cũng phải lùi lại, Công-tôn Tư nói với Thiều Hoa: 

– Xin Sư-tỷ cho các Sún yểm trợ. 

Thấy Công-tôn Tư cầu cứu, nàng bảo Sún Lé, Sún Cao 

– Các sư đệ ra tay đi thôi. 

Trên trời hai đoàn Thần-ưng trực thuộc Sún Lé, Sún Cao vẫn bay lượn vòng vòng, trông rất đẹp mắt. Sún Lé nghe Thiều-Hoa ra lệnh cầm cờ phất lên, đoàn Thần-ưng một trăm con, tẻ ra một đội hai mươi lăm con lao xuống tấn công vào trung quân. Tiếp theo đội thứ nhì, thứ ba, rồi thứ tư, trung quân náo loạn lên. 

Sún Cao hỏi Thiều-Hoa: 

– Thằng Quang Vũ khả ố quá, để em cho nó một bài học. 

Thiều Hoa hỏi: 

– Em định làm gì nó ? 

Sún Cao cười: 

– Em trói nó lại cho bõ ghét. 

Nó phất cờ hai ba cái, năm Thần-ưng rất lớn bay đến trước bành voi, nó mở cái túi vải trên lưng ra, Thiều-Hoa nhìn thấy mà nổi da gà, trong đó có hai con trăn lớn và hàng chục con rắn nhỏ. Sún Cao chỉ chỏ huýt sáo dặn Thần-ưng, rồi cho hai con trăn quấn vào lưng hai Thần-ưng lớn nhất, mười mấy con rắn nhỏ cho quấn vào ba Thần-ưng còn lại. Nó hú một tiếng cả năm Thần-ưng bay bổng lên cao, nó cầm cờ phất đoàn Thần-ưng trực thuộc lao xuống tấn công một lúc vào giữa chỗ Quang-Vũ đứng đánh trống. Các tướng Hán xúm vào dùng vũ khí chống trả với Thần-ưng, nhưng khác với mỗi đợt tấn công thông thường, Thần-ưng lao xuống từng đội hai mươi lăm con, tấn công một lát rồi bay lên, nhường chỗ cho đội khác. Lần này lao xuống cả trăm, tấn công liên miên, đang lúc các tướng Hán mãi chống cự với làn sóng Thần-ưng, thì năm Thần-ưng chở trăn, rắn tà tà hạ mình xuống thấp. Sún Cao cầm tù-và thổi lên tu tu ba hồi, hai con trăn buông mình rơi xuống cùng với đoàn rắn nhỏ đúng vào chỗ Quang-Vũ đang đánh trống thúc quân, bị hai con trăn lớn quấn chặt lấy chân, tay, ngã lăn xuống mình ngựa, Hoài-nam vương kinh hoàng nhảy xuống ngựa cứu Quang-Vũ, thì một vật nhỏ chui vào cổ, rồi lưng ông cảm thấy đau, ông thò tay vào lấy vật đó ra, thì là một con rắn lục. Con rắn co thân lại đớp một miếng nữa vào tay ông. 

Ông hoảng kinh buông ra, hai ba con nữa chui vào ống quần, ông hốt hoảng hốt lấy tay đập rắn, nhưng con rắn nhỏ rất tinh khôn, đã chạy ra chỗ khác mất. Giữa lúc đó trên trời Thần-ưng lao xuống chụp đầu ông, hai chân cấu thịt, mỏ mổ vào mắt, ông phất tay giết Thần-ưng, thì nó đã bay bổng lên trời mất. 

Tuy Quang-Vũ với Hoài-nam vương bị trăn quấn, rắn cắn, Thần-ưng cấu, nhưng nhờ các tướng giữ vững phòng tuyến nên quân Thục vẫn không chọc nổi thủng được, Phương-Dung quay lại nói: 

– Bạch-Phong cho tấn công vào phía trái, Xích-Phong tấn công vào phía phải, Thanh-Phong cho tấn công vào tiền quân, Hồng-Phong cho tấn công vào hậu quân. 

Lục Phong công-chúa cầm tù-và thổi lên, phía sau trận Thục hàng chục cái xe chở tổ ong, xuất phát mấy triệu Thần-phong bay lên mù trời. Chúng chia làm bốn toán, nhào xuống tấn công, quân tướng Hán náo loạn, lui trở lại đến mấy trượng, quân Thục đuổi theo, dần dần quân Hán bị dồn đến chân thành 

Từ trong thành hai đội Thiết-kị xông ra, do Tần-vương suất lĩnh tiến lên thay thế đội quân đang chiến đấu mệt mỏi. Giữa lúc đó quân Hán la hoảng, họ nhìn về phía Hàm-dương, Vị-nam, Lâm-đồng khói bốc lên nghi ngút. 

Hoàng Thiều-Hoa cho bắc loa gọi khắp nơi: 

– Các dũng sĩ Thục nghe đây: Chúng ta đã lấy được Hàm-dương, Vị-nam, Lâm-đồng rồi, hãy tiến lên lấy Trường-an. 

Quân Thục reo hò tiến lên, Quang-Vũ, Hoài-nam vương đã được cứu, hai con trăn bị giết chết, còn mười con rắn nhỏ không biết chạy đâu. Trời đã về chiều quân sĩ hai bên cùng mệt mỏi, người chết thây phơi khắp một vùng, Hoàng Thiều-Hoa hỏi Phưong-Dung: 

– Hai bên chết nhiều quá rồi, nên thu quân chăng? 

Phương-Dung nói nhỏ vào tai Thiều-Hoa: 

– Binh sĩ chết nhiều hay ít, mình cũng đành chấp nhận, phải đánh một trận cho Quang-Vũ kinh hồn khiếp vía mới thôi. 

Thiều-Hoa hiểu ý Phương-Dung, phất cờ tiến lên nữa, Bắc-bình vương Công-tôn Khôi nói với Phương-Dung: 

– Tôi chỉ còn một đợt quân này nữa là hết, xin quân sư định liệu. 

Phương-Dung chỉ thành Trường-an nói: 

– Chúng ta giơ tay một cái lấy được Trường-an, xin vương gia cứ cho tiến lên.

Vừa lúc đó Cao Cảnh-Nham, Cao Cảnh-Khê dẫn đội Thần-nỏ đến bắn vào sườn cánh quân của Mã Viện, quân Viện cũng dùng cung bắn lại, nhưng tên do người bắn, tầm xa chỉ bằng nữa tên do Nỏ thần bắn, vì vậy khi năm xe nỏ tiến đến đâu quân Viện lui tới đó, phút chốc đã lui đến chỗ trung quân của Quang-Vũ. 

Mã Viện nói với Hoài-nam vương: 

– Vương-gia chúng ta phải liều mạng xông vào trận địch bắt tướng thì mới hy vọng sống qua ngày hôm nay. Bên Thục, Lĩnh Nam nhiều cao thủ, nhưng chúng phân nhau đi lấy Hàm-dương, Lâm-đồng và Vị-nam, ở đây chỉ có Phương-Dung, Công-tôn Khôi, Công-tôn Tư mà thôi. Bây giờ chúng ta có Tương-dương Lục-hùng và Ngũ-phương Thần-kiếm, nếu tất cả cùng xông vào trận địch, bắt Chúa-tướng, mới mong thoát nạn. 

Hoài-nam vương nói: 

– Trong các tướng địch ở đây, thì Hoàng Thiều-Hoa là chúa, võ công thị tuy cao, nhưng không hơn mấy người kia. Vậy phải bắt thị trước, bây giờ thế này: Mã Vũ, Tang Cung cầm chân Tạ Phong, Lưu Hân, Phùng Tuấn cầm chân Điền Sầm, Đoàn Chí, Lưu Long với Mã Viện xông vào bắt Hoàng Thiều-Hoa, Ngũ-phương Thần-kiếm cản Phương-Dung, Công-tôn Khôi, Công-tôn Tư, tôi tiếp ứng: 

Mã Viện là người xảo quyệt hiến kế: 

– Bọn Thục và Lĩnh Nam tự thị hiệp nghĩa xuất thân, vậy bây giờ ta cho thu quân, đội Thần-ưng, Thần-phong được gọi trở về, giữa lúc đó ta bất thần xung vào trận thì thành công. 

Hoài-nam vương ra lệnh đánh chiêng thu quân, quân Hán dừng lại không tiến nữa, Công-tôn Tư cũng cho lệnh thu quân, Lục Phong Nữ dùng tù-và thu Thần-phong trở về trận, Lục Sún cho Thần-ưng bay lượn trên cao tuần hành, quân sĩ hai bên cùng lui lại. 

Tương-dương Lục-hùng tiến lên hàng đầu, bất thình lình Mã Viện hô lớn: 

– Tiến lên ! 

Tương-dương Lục-hùng dùng kinh công lao vút vào trận Thục, các tướng Thục cản lại, Lục-hùng là những người võ công kinh nhân, chưởng phong như vũ bão, các tướng Thục đều bật lui 

Công-tôn Tư phất cờ, quân sĩ Thục trùng trùng điệp điệp vây Tương-dương lục-hùng vào giữa, quân đông mặc quân đông, Lục-hùng xung vào được trung quân, Phương-Dung nhận ra ý đồ của lục-hùng nói lớn: 

– Hoàng sư-tỷ mau lui lại! 

Lục Phong Nữ, Lục Sún cùng Hoàng Thiều-Hoa lùi lại hậu trận, Lưu Phong, Mã Viện, Đoàn Chí ngang tay, Phương-Dung rút kiếm ánh quang lóe lên, Mã Viện, Lưu Long bị chụp trong vòng kiếm quang. Nhưng hai người đều là đệ nhất cao thủ đương thời, một phải, một trái tấn công Phương-Dung, phía phải Hoàng, Bạch, Hắc kiếm đồng tấn công vào Công-tôn Tư, Công-tôn Tư tuy võ công cao, nhưng còn thấp hơn bất cứ người nào trong Ngũ-phương thần-kiếm, Công-tôn Tư thấy vậy, hô các tướng xúm vào vây ba người, còn chàng vẫn đứng điều khiển quân sĩ tiến lên giữ vững phòng tuyến. 

Hoài-nam vương rút kiếm nhảy vào tấn công Phương-Dung, Đoàn Chí, Lưu Long rảnh tay, xung vào trung quân chỗ Hoàng Thiều-Hoa đứng chỉ huy. 

Lục Phong nữ là những cô gái Mường, võ công bình thường, ngoài bản lĩnh điều khiển Thần-phong ra, các cô không biết gì hơn, Lục Sún võ công càng tầm thường hơn nữa. 

Thấy hai người hung hãn quá, Sún Lé hô: 

– Tung Thần-xà tấn công chúng. 

Trong Lục Sún, Sún Cao đã dùng Thần-xà tấn công Quang-Vũ, nó chỉ còn tay không, Ngũ Sún cũng mở túi ra, tung trăn tấn công ba người, Lưu Long tấn công Thiều-Hoa, Thiều-Hoa đứng trên bành voi vung chưởng đánh xuống, chưởng của nàng là chưởng Cửu-chân chạm vào chưởng Lưu Long làm chưởng của y bị mất tăm, Hoàng Thiều-Hoa võ công cao, song nàng chỉ mới ở tuổi hai mươi bốn, hai mươi lăm công lực chưa được làm bao. Trong khi đó Đoàn Chí, Lưu Long đã đến tuổi bốn mươi lăm, bốn mươi sáu, công lực cao thâm khôn lường, Mã Viện thấy Thiều Hoa để hở phía sau, y vọt người lên tấn công vào lưng nàng, Thiều-Hoa hoảng hốt quay lại đỡ chưởng của y, thì Đoàn Chí, Lưu Long đồng vọt lên chụp nàng, Đoàn Chí vác Thiều-Hoa, Mã Viện, Lưu Long mở đường máu chạy về trận Hán. 

Lục Sún tung trăn quấn Tang Cung, Lưu Hân ngã xuống ngựa, bị binh tướng Thục bắt sống, bên kia Hoài-nam vương bỏ Phương Dung chạy đến bảo vệ Đoàn Chí. 

Phương Dung thấy vậy nghĩ: 

– Nếu mình cứu Hoàng sư tỷ, cũng không địch lại bốn đại cao thủ, chi bằng mình vào trận bắt Quang Vũ là hơn. 

Nàng hú lên một tiếng, con ngựa ô vọt về phía trận Hán, nó lao vào hàng quân, Phương-Dung đứng trên lưng ngựa, kiếm lia, đầu rơi, phút chốc nàng đã tới gần Quang-Vũ, Hoài-nam vương kinh hoảng, rút kiếm tấn công Phương-Dung, Phương-Dung xử dụng chiêu: Chiêu dương mộ nhật, một chiêu thức có tới 360 chiêu hư bao trùm, Quang-Vũ, Lưu Quang, Lưu Quang cảm thấy tay đau nhói, kiếm văng khỏi tay, Quang-Vũ phi ngựa bỏ chạy, Phương-Dung hô lên một tiếng, con ngựa ô vọt theo sát nút. Các tướng Hán reo hò cản Phương-Dung, nhưng ngựa ô đi tới đâu nàng vung gươm tới đó, đầu rơi, máu chảy, Quang-Vũ chạy đến cửa thành, thì ngựa Phương-Dung theo bén gót, y kinh hoàng thúc ngựa chạy vào trong, ngựa ô cũng vọt theo, Phương-Dung móc tay vào túi được nén vàng, nàng búng đến véo một cái, nén vàng trúng chân ngựa Quang-Vũ, ngựa đau quá ngã chúi về trước, vật y ngã lăn ra, Phương-Dung vọt khỏi mình ngựa, xuống đất dí kiếm vào cổ định nhắc y lên mình ngựa ô ra khỏi thành. Thình lình bốn mũi tên từ hai phía bắn vào nàng, nàng vung kiếm lên gạt, kiếm chạm vào tên, nàng cảm thấy cánh tay tê rần. Trong khoảnh khắc đó Quang-Vũ nhóm người dậy định chạy, nàng lia một kiếm ngang đầu, y kinh hoàng ngã chúi đầu về phía Phương-Dung. Trong đầu óc y thoáng nghĩ được một lối thoát: phụ nữ thì sợ người ta đụng vào chỗ kín, y húc đầu vào háng nàng. Thời bấy giờ dù Hán, dù Việt trong lúc giao tranh thà người ta chịu chết, chứ không bao giờ dùng đến chiêu thức hạ lưu này. Quang-Vũ trong khi thấy cái chết bên mình, lao đầu húc vào háng Phương-Dung, nàng hoảng hốt định xoạt chân định nhảy lên tránh thì y đã chui đầu qua quần nàng ra phía sau. 

Nếu Phương-Dung là đàn ông, chỉ kẹp hai chân lại thì bắt sống được y. Nhưng nàng là gái, luống cuống một chút, y đã ra sau lẩn vào trong đám đông quân sĩ. 

Phương-Dung vội lên ngựa ô chạy ra ngoài, bên ngoài thành đội Thần-nỏ đi đầu đang bắn vào quân Hán, quân Thục đi phía sau đuổi quân Hán đến cổng thành, cổng thành đóng lại. 

Trong thành khói lửa bốc lên mịt mờ khắp nơi, đoàn Thần-hầu đột nhập vào cử Đông từ lâu, Tây-vu lục-hầu tướng chia làm bốn đội đốt phá bốn cửa thành, còn lại hai đội đốt phá cung thất. 

Công-tôn Tư thúc quân đánh vào trong, quân tướng Hán liều mạng quyết chiến, quân Thục trùng trùng điệp điệp vào trong thành, đội Thần-tượng, Thần-nỏ đi đến đâu quân Hán tan đến đó, hai bên giao chiến đến nửa đêm, quân Hán theo cửa Bắc ra khỏi thành. 

Công-tôn Tư cho lệnh thu quân, quân Thục chiến thắng trở về, Công-tôn Khôi kiểm điểm lại quân, mã: Thục chết mất mười vạn quân, hơn ngàn dũng tướng. Chinh-di đại tướng-quân Tang Cung, Phấn-uy đại tướng-quân Lưu Hân bị Lục Sún dùng trăn bắt sống, trong lúc Lục Sún khủng hoảng tinh thần vì Thiều Hoa bị bắt, chúng cho Thần-ung ăn thịt hai tướng, Công-tôn Tư tiếc than khôn cùng: 

– Các em cho Thần-ưng ăn thịt hai đại cao thủ thực uổng, vì đất Trung-nguyên, cao thủ bằng hai người này, không quá hai chục người, giá để hai người chúng ta đổi lấy Hoàng sư-tỷ. 

Một lát có tin báo: Hàm-dương, Vị-nam, Lâm-đồng đã chiếm được, Lũng-tây vương Triệu Khuôn, Phiêu-kị đại tướng-quân Nhiệm Mãng dẫn quân đắc thắng trở về. 

Các tướng Thục và anh hùng Lĩnh Nam đều kinh hoàng về trận đánh vừa qua. Họ cho rằng đây là trận đánh lớn nhất, sau trận đánh giữa Hàn Tín với Hạng Võ ở Cai-hạ, trong trận này Sở có mười vạn quân, Hán có mười lăm vạn, kết quả mười vạn quân Sở tan rã, mười vạn quân Hán bị chết và bị thương. Trận đánh Trường-an kinh khủng ở chỗ, quân sĩ hai bên đều tinh nhuệ. Chúa tuớng võ công cao và đầy mưu trí. 

Bên Lĩnh Nam Hoàng Thiều-Hoa bị bắt, trong khi bên Hán hai đại tướng-quân bị giết chết, Quang-Vũ chạy bán sống bán chết mới thoát thân. 

Lũng-tây vương Triệu Khuôn nói: 

– Quang-Vũ hy sinh hai đại tướng đã từng theo y chinh chiến hai chục năm nay. Để đổi lấy Lĩnh-nam vương-phi, chắc y không hại Vương-phi đâu, mà chỉ muốn trao đổi điều kiện gì với ta mà thôi. 

Hồi 22 Động đình hồ ngoại sử

Trận đánh Trường-an kinh hồn động phách do Phương-Dung thiết kế, Điền Sầm, Tạ Phong, Công-tôn Khôi, Triệu Khuôn, Nhiệm Mãng, Công-tôn Tư và các anh hùng Lĩnh Nam chỉ huy, toàn thắng. Hán thiệt trên hai chục vạn quân, hàng mấy ngàn chiến tướng kinh nghiệm tử trận, khi thiết kế trận đánh, anh hùng Thiên-sơn, Lĩnh Nam chỉ muốn đánh chiếm Hàm-dương, Vị-nam, bức Quang-Vũ bỏ Trường-an, rút quân về giữ Lạc-dương, quần hùng đợi chiếm xong Hàm-dương, Vị-nam kéo quân về uy hiếp Trường-an. Trận Trường-an trong kế hoạch chỉ cầm chân lực lượng Hán, không ngờ lần đầu tiên đội thần nỏ Âu-Lạc xuất hiện, có Thần-tượng hộ tống đạt thắng lợi ngoài sự tưởng tượng, Công-tôn Tư ước tính trong bảy vạn Thiết-kị Hán có tới năm vạn bị Thần-nỏ bắn chết, hầu hết các chiến tướng chết vì tên. Còn đoàn Thần-hầu, Phương-Dung dặn Lục Hầu tướng giả leo lên thành đe dọa quân Hán. Không ngờ chúng được Thần-phong yểm trợ. Lọt vào thành, Lục Hầu tướng cùng hơn sáu trăm Thần Hầu tràn ngập Hoàng-cung khiến bọn Ngự-tiền thị-vệ không còn đủ sức bảo vệ cung quyến vợ con các vương, hầu, chúng phóng hỏa khắp nơi. Vì vậy lực lượng Thiên-sơn có mười vạn mà đánh hai mươi vạn quân Hán bỏ thành Trường-an chạy. 

Đám anh hùng Tây-vu phần nhiều là trẻ con, tính Thiều-Hoa thích con nít, nàng săn sóc chúng như con đẻ, lại hay chuyện trò với chúng. Chúng tuy gọi nàng là sư-tỷ, nhưng tình cảm chúng coi nàng như mẹ, khi thấy nàng bị bắt, chúng đánh xả láng cứu nàng, Lục Sún cỡi trên sáu con voi đi đầu, phía sau Lục Phong Quận-chúa, Tây-vu Lục-hầu tướng reo hò xua Thần-phong, Thần-hầu đuổi theo. 

Mặc dầu Phương-Dung cho đánh chiêng thu quân, chúng vẫn xua Thần-ưng, Thần-phong đuổi theo quân Hán, Công-tôn Tư sợ chúng có gì sơ xuất, đốc thúc Tạ Phong, Điền Sầm đem một đoàn Thiết-kị tiếp ứng, bên Hán đi đoạn hậu là Tần-vương Lưu Nghi, khi rời Trường-an trên trăm dặm, ngựa đói lè lưỡi, sĩ tốt mệt mỏi, ông cho đóng quân kiểm điểm binh mã: năm vạn Kị-binh, còn hơn vạn, vợ con tướng sĩ, của cải đều lọt vào tay Thục, Bộ-binh tan rã hoàn toàn. Cũng may vừa lúc đó, một huyện-lệnh nghe xa giá Quang-Vũ tới, sai xuất kho nuôi quân. Quân sĩ đốt bếp nấu nướng, chưa kịp ăn, bỗng chúng la hoảng chỉ lên trời, Tần-vương nhìn theo. Một đoàn Thần-ưng bay lượn vòng vòng. 

Tần-vương chưa kịp phản ứng, thì hơn trăm thớt voi xuất hiện, quân sĩ kinh hoàng bỏ cả ngựa chạy vào thôn xóm, giữa lúc đó Phương-Dung đuổi tới, gọi Lục Sún trở về gấp, chúng đành líu ríu tuân lệnh. 

Còn Phương-Dung trước chiến thắng vĩ đại, song nàng buồn muốn khóc, nàng tả xung hữu đột để bắt Quang Vũ đổi lấy Thiều Hoa, nhưng bị thất bại. Trở về trướng, nàng ôm đầu xúc động mạnh, từ ngày Đào Kỳ đi theo tiếng gọi phục-quốc, lúc nào nàng cũng thành công, lần thứ nhất bị thất bại, nàng bồi hồi, nước mắt những muốn chảy ra, nhưng nghĩ lại: 

– Tiền cổ đến giờ, Hán cũng như Việt ta là nữ tướng đầu tiên đánh những trận long trời lở đất rồi đây muôn nghìn năm sau còn truyền tụng, nếu ta khóc thì còn gì nữ kiệt Lĩnh Nam nữa. 

Vì vậy nàng không khóc, nàng đứng dậy đi thăm Tiên-yên nữ hiệp, bà đang ngồi nghiến răng vận công, trấn tỉnh cơn đau nhức, Phương-Dung đứng nhìn, không biết giải quyết sao. 

Tối hôm đó Phương-Dung nhận được tin quân báo: 

– Có sứ giả Trưng Nhị tới. 

Phương-Dung truyền đón vào thì ra Sa-Giang, Vương Sa-Giang thấy Công-tôn Tư, quì mọp xuống làm lễ. 

– Thần Sa-Giang xin tham kiến Thái-tử. 

Công-tôn Tư không cho quì, cầm tay nàng bảo ngồi xuống bên cạnh, chàng nhìn Sa-Giang nói: 

– Chắc Trưng Nhị cô nương giúp Thục tiếp thu được thành trì phía Đông rồi phải không ? 

Sa-Giang nheo mắt cười, nàng vốn dĩ là một người giỏi âm nhạc, cử chỉ nhu hòa, tư thái phiêu hốt, bây giờ nheo mắt coi thật duyên dáng, Vương Sa-Giang hỏi: 

– Sao sư-huynh biết rõ như thế ? 

Công-tôn Tư cười: 

– Gì mà ta không hiểu, này nhé, sư muội là võ tướng lại là tiên nga của âm nhạc. Người giỏi âm nhạc bao giờ cũng nhạy cảm, buồn vui không dấu nổi được ai, sư muội được Trưng cô nương sai đi, mặt tươi như hoa hải-đường, ta chắc mọi sự phải tốt đẹp lắm. 

Sa-Giang đưa thư cho Phương-Dung, rồi nàng thuật lại mọi truyện. 

Đoạn này thuật: 

Trong khi trận Trường An diễn ra, thì cánh quân của Trưng Nhị, Hồ Đề, Trần Năng giúp Công-tôn Thiệu chiếm Kinh-châu. 

Sau khi họp với anh hùng Lĩnh Nam ở Dương-bình quan, Trưng Nhị cùng mọi người trở về bản doanh Đặng Vũ ở Quảng-an, Đặng Vũ nóng lòng về việc tiến quân vào Thành-đô để làm chúa Ích-châu, y đón Trưng Nhị vào trướng hỏi: 

– Tình hình thế nào? Chúng ta tiến vào Thành-đô được chưa? 

Trưng Nhị thản nhiên cười: 

– Tôi mừng cho tướng quân, Công-tôn Thuật cho sứ giả đến Tả tướng-quân Lĩnh-nam vương xin giả hàng, y cầu được ở lại Ích-châu, giữ gìn mồ mả tổ tiên, Nghiêm đại-ca tâu với Kiến-Vũ hoàng-đế, lệnh cho ngừng tiến quân. 

Đặng Vũ nghe nói mặt buồn rầu rầu, y chỉ vào một người giới thiệu: 

– Đây Phục-ba tướng-quân Mã Viện, phó nguyên-soái của tôi mới từ Kinh-châu đến. 

Đặng Vũ theo Quang-Vũ từ khi khởi binh, y từng đánh trăm trận, công lao chỉ thua có Nghiêm Sơn, vì vậy Quang-Vũ cho y giữ chức Đại tư-mã, cai quản binh mã toàn quốc. Y được cử làm Nguyên-soái đánh Thục thống lĩnh binh mã Kinh-châu, Giang-đông, vì Quang-Vũ hứa rằng ai vào Thành-đô trước sẽ được phong làm chúa Ích-châu, bây giờ nghe Công-tôn Thuật đầu hàng, y buồn không tả được. 

Trưng Nhị tiếp: 

– Kiến-Vũ thiên-tử ngự ra Trường-an, ban thưởng tướng sĩ có công, ngài truyền bãi quân, Lĩnh-nam vương bảo tấu cho Đặng Đại tư-mã được phong tước Triệu-công, Thiên-tử chuẩn tấu, ban chỉ cho Đặng tư-mã kéo quân về bảo vệ Lạc-dương, trong lúc ngài xuất chinh ở Trường-an. Thiên-tử muốn cử một người trấn thủ Lương-châu, Vương tâu xin cho Mã tướng-quân vào chức đó, vì Lương-châu nơi biên địa phía Tây, coi như hàng rào bảo vệ Lạc-dương, tướng-quân với Thiên-tử là chỗ thâm tình sâu xa chốn hậu cung tình thân gần bằng Vương-gia với Thiên-tử. Nếu tướng-quân trấn thủ Lương-châu, một giải từ Lương-châu tới Trường-an, Lạc-dương được bảo vệ. 

Lại Thế-Cường tiếp: 

– Tướng quân có biết tại sao Vương-gia lại bảo tấu cho Ngô Hán làm chúa Ích-châu, mà không bảo tấu cho tướng-quân không ? 

Mã Viện vỗ tay nói: 

– Tôi hiểu! Tôi hiểu! Vương-gia sợ cho Ngô Hán trấn thủ Ích-châu, lỡ ra y thay lòng đổi dạ thực nguy cho Hán, vì vậy phải để tôi trấn thủ Lương-châu, hầu phòng Ngô Hán có gì, tôi từ Lương-châu chặn đầu y trước. 

Hồ Đề cười: 

– Tướng quân xứng đáng người thâm tình của thái-hậu vậỵ 

Trưng Nhị móc binh phù của Nghiêm Sơn, trao cho Mã Viện: 

– Đây lệnh của Vương-gia, tướng-quân tạm giao quyền chỉ huy cho tôi, khẩn cấp về Trường-an phục lệnh Thiên-tử nhận sắc phong. Khi tướng quân đến Lương-châu rồi, tôi mới trao quyền cho Ngô Hán. 

Mã Viện mừng quá: 

– Vương-gia thật cẩn thận và tin tưởng tôi, ngài đợi tôi tới Lương-châu rồi mới chịu để cho Ngô Hán trấn thủ Ích-châu, nhưng nghĩ cho kỹ các tướng trong triều, Hoàng-thượng với Vương-gia là nghĩa huynh đệ, Vương-gia cẩn thận như vậy mới phải. 

Trưng Nhị đưa binh phù cho Đặng Vũ. 

– Xin Đại tư-mã lên đường đi Lạc-dương ngay, Thiên-tử xuất chinh cần có người tim gan trấn thủ đế đô. 

Đặng Vũ vội vã lên đường. 

Mã Viện đánh trống họp các tướng sĩ, tuyên bố việc chinh phạt Thục hoàn toàn thành công, y về triều kiến Thiên-tử, y sẽ tấu cùng ngài ban thưởng các tướng, còn y được đi trấn nhậm Lương-châu. 

Phật-Nguyệt hỏi Mã Viện: 

– Phục-ba tướng-quân! Tướng quân một mình tới Lương-châu, liệu có giữ được đất này không? Lòng người khó dò, tại sao tướng quân không mang theo tướng sĩ, tham-quân thân tín ? Tại đây hết chinh chiến rồi, tướng quân mang theo bao nhiêu người chẳng được. 

Mã Viện gật đầu tán thành: 

– Cô nương nói chí phải. 

Y tuyên bố việc về Trường-an yết kiến Hoàng-đế, y muốn một số tướng sĩ theo y đi Lương-châu, các tướng sĩ thân tín tình nguyện đi theo. 

Trưng Nhị cho mời Tương-dương cửu-hùng là : 

Phiêu-kị Đại tướng-quân Sầm Bành 

Kiến-oai Đại tướng-quân Cảnh Yểm 

Bô-lỗ Đại tướng-quân Mã Vũ 

Chinh-lỗ Đại tướng-quân Tế Tuân 

Chinh-di Đại tướng-quân Tang Cung 

Phấn-uy Đại tướng-quân Lưu Hân. 

Hổ-uy Đại tướng-quân Phùng Tuấn 

Long-nhượng Đại tướng-quân Đoàn Chí 

Chinh-viễn Đại tướng-quân Lưu Long. 

Song chỉ có bảy tướng hiện diện, vắng mặt Sầm Bành, Tế Tuân, Trưng Nhị biết hai người tuân chỉ Mã thái-hậu thám thính anh hùng Lĩnh Nam, Tế Tuân đã bị Trần Năng dùng Lĩnh-nam chỉ giết, Sầm Bành bị Đào Kỳ đánh nát thây, sợ các tướng nghi ngờ, nàng nói: 

– Sầm, Tề tướng-quân, nhận mật chỉ thái-hậu làm một việc khẩn, sẽ về sau. 

Nàng tiếp: 

– Lĩnh-nam vương tâu Thiên-tử phong cho các tướng tước hầu cử làm Thứ-sử, vậy các tướng về Trường-an cùng với Phục-ba tướng-quân ngay. 

Đợi cho bọn Đặng Vũ, Mã Viện, Tương-dương thất hùng đi rồi, Trưng Nhị cho mời anh hùng Thiên-sơn vào trướng nghị sự. 

Trưng Nhị lệnh cho hai mươi lăm tướng Thục, giả làm tướng Hán từ Hán-trung tới, thay thế cho các tướng theo Mã Viện đi. 

Công-tôn Thiệu tước phong Trường-sa vương, am hiểu tình hình Kinh-châu bàn: 

– Đất Kinh-châu gồm có chín quận, gần với chúng ta nhất là Kinh-châu, Tương-dương, Nam-quận, sau đó tiến về phía Đông là Di-lăng, nếu chiếm được bốn quận này, hai quận phía Đông và năm quận phía Nam như rắn mất đầu, chúng ta chỉ cần truyền một hịch là lấy được. 

Trưng Nhị hỏi: 

– Bao nhiêu quân Kinh-châu, Mã Viện đã đem theo hết, vì vậy chúng ta dùng binh phù của Vương-gia truyền cho các thái-thú rằng đã bình xong Thục, quân sĩ ca khúc khải hoàn. Tất cả Thái-thú không ngờ, ra ngoài thành đón, chúng ta bất thần chiếm thành dễ như trở bàn tay, song có điều chúng ta chỉ có năm ngày để làm mà thôi, vì Phương Dung đã ước hẹn các đạo quân Hán-trung, Lĩnh Nam rằng chúng ta vẫn dùng cờ Hán, đúng mười lăm ngày đổi cờ Thục, hôm nay đã là ngày thứ mười. 

Lại Thế-Cường, lo xa, khôn ngoan ông bàn: 

– Vậy bây giờ chúng ta truyền lệnh khẩn cấp đến các quận, huyện trên đường về Kinh-châu, cùng các châu, quận Kinh-sở rằng chinh Thục đã xong, Lĩnh-nam vương cho quân hồi hương khẩn cấp để binh sĩ được đoàn tụ gia đìng trong dịp đầu xuân, cần nhất điều quân sao cho cùng về tới bốn nơi: Kinh-châu, Tương-dương, Nam-quận và Di-lăng một lúc. 

Công-tôn Thiệu bàn: 

– Phàm dùng binh phải lo bảo vệ hậu quân cho vững, cần một người trấn thủ miền Đông Ích-châu để chúng ta tiến quân, điều này phi Vương hiền-đệ không xong. 

Vương Nguyên khẳng khái nhận lời. 

Trưng Nhị truyền lệnh: 

– Trường-sa vương và Trấn-đông tướng quân Vũ Chu, quân Hán đã biết mặt, không thể xuất hiện, nên giả trang đi lẫn trong quân, sư bá Lại Thế-Cường có Vũ tướng-quân theo giúp tiến đánh Tương-dương, sư-thúc Trần Năng tiến đánh Nam-quận có Trường-sa vương giúp sức, còn lại Hồ Đề, An-viễn tướng-quân Hoài An, đô-đốc Phạm Sự và tôi đánh Kinh-châu, Phật Nguyệt cùng với Hổ-uy tướng quân Viên Kiệt đánh Di-lăng, chúng ta cùng giả ca khúc khải hoàn trở về. Tất cả các đạo tới nơi vào lúc chập choạng tối, các thái-thú ra đón không phòng bị, ta cho quân tiến vào thành, khi vào thành rồi bất thình lình bắt giam thái-thú, chiếm giữ thành, nếu thái-thú nào chịu đầu hàng thì tha, ai không chịu đầu hàng trả về Hán, chọc giận Hán-đế. Sau khi chiếm bốn quận rồi, tiến về phía Nam chiếm sáu quận còn lại. 

Ngày hôm đó Trưng Nhị rút quân, quân sĩ nghe hết chiến tranh được trở về đồn trú tại quê hương là Kinh-châu, reo hò mừng rỡ, họ chuẩn bị gỡ lều trại, thu dọn vật dụng, lương thảo rất mau. 

Trưng Nhị truyền giao thành lại cho quân địa phương trấn đóng, nhưng thực ra các đạo quân đó đều là quân Thục, giả mặc theo quân Hán nói rằng thừa lệnh Ngô Hán, tới tiếp nhận thành trì. 

Trưng Nhị cho quân kị đi đường bộ, còn bộ-binh do thủy quân chuyên chở xuôi Trường-giang về phía Đông, thuyền đi mau như ngựa, chiều hôm sau về tới biên giới Kinh-châu, bây giờ Trưng Nhị mới cho chỉnh đốn lại hàng ngũ, chia làm bốn đạo, tiến về bốn quận. 

Thứ-sử Kinh-châu, thái-thú ba quận Nam-quận, Tương-dương và Di-lăng nhận được binh phù của Tả tướng-quân nói rằng việc chinh phạt Thục hoàn tất. Phục-ba tướng quân Mã Viện cử đi trấn thủ Lương-châu, Phiêu-kị Đại tướng-quân Ngô Hán được cử trấn thủ Ích-châu, lệnh còn nói rằng: Thứ-sử, Thái-thú phải ra ngoài thành tiếp đón ủy lạo, khao thưởng đoàn quân viễn chinh trở về, binh phù còn nói rõ rằng quân các đạo trở về đến địa phận các nơi đúng vào ngày nào, giờ nào. 

Từ lúc Mã Viện được lệnh mang tất cả quân mã Kinh-châu và chín quận trực thuộc Tây-chinh, trên từ Thứ-sử cho đến các Thái-thú, Huyện-lệnh, Huyện-úy đều lo sợ, ngày đêm tuyển binh huấn luyện, bổ xung số tử vong ở chiến trường, một mặt lo đốc thúc các nơi thu dụng lương thảo gửi ra mặt trận. Dân chúng khốn khổ vì phải nộp thuế nuôi quân, người đau khổ vì con em chinh chiến xa xôi, không biết ngày nào về, bây giờ nghe đoàn quân trở về là mừng lắm, chuẩn bị lễ khao quân thực hậu. Thứ-sử và các Thái-thú đều nghe nói có rất nhiều nữ tướng, võ công cực cao, dung nhan xinh đẹp từ Lĩnh Nam theo tòng chinh cũng trở về với quân Kinh-châu, họ cũng muốn ra đón xem mặt cho biết. 

Họ không ngờ khi quân tới, họ ra tận ngoài thành tiếp đón, quân tướng vào trong thành rồi, chỉ một chiêu họ bị các nữ tướng bắt sống, quân sĩ tràn ra bốn mặt chiếm thành mau chóng, một mũi tên, một giọt máu không đổ, Thục chiếm được bốn thành dễ dàng, sau khi chiếm bốn quận bấy giờ Trưng Nhị mới cho kéo cờ Thục lên, các quân Vũ-lăng, Quế-dương và Nam-dương thấy các quận phía Bắc mất, đường liên lạc với Trung-nguyên bị cắt đứt, quân sĩ trong tay không còn, vì Mã Viện đã dốc quân chinh Tây hết, các Thái-thú đều đầu hàng, Thục cử Trường-sa vương Công-tôn Thiệu làm trấn thủ Kinh-châu. 

Còn lại hai quận Trường-sa, Linh-lăng, hai Thái-thú không chịu đầu hàng, chỉnh đốn binh mã nghinh chiến. 

Công-tôn Thiệu mời Trưng Nhị, anh hùng Lĩnh Nam họp bàn cách tiến đánh hai quận này, Thiệu hỏi: 

– Thái-thú Trường-sa là Mã Anh, em ruột Mã Viện, trong tay có ba vạn binh, y tài kiêm văn võ như Mã Viện, lại là cháu của Thái-hậu, mẹ Hán Quang-Vũ, nên y không chịu đầu hàng, còn chỉnh đốn binh mã đánh lại Kinh-châu nữa. 

Lại Thế-Cường hỏi: 

– Mã Anh có được lòng tướng sĩ không ? 

Công-tôn Thiệu nói thực: 

– Y cũng như Mã Viện có tài dùng binh, biết an ủi sĩ tốt, được lòng dân chúng, bên trong lại được Thái-hậu và Quang-Vũ tin cẩn, uy thế của y rất mạnh. 

Hồ Đề thắc mắc: 

– Thành Trường-sa địa thế ra sao ? 

Thành Trường-sa dài hơn mười dặm, hào sâu, rộng, lũy rất cao, tuy nhiên ở vùng đồng bằng không hiểm trở mấy, trong thành có Tượng-quận tam-anh võ công tuyệt vời. 

Phật-Nguyệt hỏi Vũ Chu: 

– Vũ tướng-quân, võ công của Tượng-quân tam-anh so với tướng-quân như thế nào ? 

Vũ Chu lắc đầu: 

– Tôi chưa đấu với họ, nên không rõ, nghe đâu họ là người đất Tượng-quận, võ đạo, hiệp nghĩa nổi tiếng, người cầm đầu là Hàn Bạch, nội công thâm sâu không biết đâu mà lường, người thứ nhì là Vương Hồng chưởng lực hùng hậu, người thứ ba là Chu Thanh kiếm thuật thần thông. Hàn Bạch giữ chức Đô-úy, Vương Hồng giữ chức Đô-sát còn Chu Thanh giữ chức Trấn Viễn tướng-quân. 

Công-tôn Thiệu hỏi Trưng Nhị: 

– Trưng cô nương! tôi nghe anh hùng Lĩnh Nam dù Quế-Lâm, dù Nam-hải, dù Giao-chỉ cũng đều nuốt hận vong quốc, vậy sao Tượng-quận tam-anh lại theo Hán ? 

Trưng Nhị ngẫm nghĩ một lúc rồi nói: 

– Trước đây tôi nghe danh Tượng-qận tam-anh, khí vũ hiên ngang, muốn phục hồi Lĩnh Nam, nhiều lần định gửi thư làm quen, nhưng chưa kịp thực hiện, không hiểu sao họ đi theo Mã Anh ? Đại-ca Trần Tự-Sơn có lần kể rằng Tượng-quận tam anh giết chết Thái-thú Tượng-quận, họ là người nghĩa hiệp, tiếng tăm tới tận Cửu-chân. 

Lê Chân góp ý: 

– Biết đâu họ chẳng giúp Mã Anh cũng như chúng ta giúp Trần Đại-ca, chúng ta cần tìm hiểu mới được, hiện Tượng-quận chúng ta chưa liên lạc được với các anh hùng, để cùng mưu đại sự, nếu kéo họ về với chúng ta thì tốt biết mấy. 

Trưng Nhị đồng ý gật đầu: 

– Đối với những đấng anh hùng, chúng ta nên dùng đại nghĩa khích họ, hơn là lôi kéo, thuyết phục. 

Công-tôn Thiệu đứng lên nói: 

– Thưa các anh hùng Lĩnh Nam, tại hạ được phong làm Trường-sa vương, thì bất cứ giá nào cũng phải chiếm cho được thành nầy, dù chiếm được hay không tại hạ cũng xin đa tạ các vị trước. Phái Thiên-sơn chúng tôi từ trên xuống dưới, không bao giờ quên ơn hào kiệt Lĩnh Nam. 

Trưng Nhị không thấy Công-tôn Thiệu không nhân danh Thục-đế Trường-sa vương tạ ơn, mà lại nhân danh phái Thiên-sơn, biết Thiệu muốn dùng tình võ lâm đối với mình, thì cảm động đáp: 

– Chúng tôi hứa giúp Công-tôn sư huynh chiếm Trường-sa, bây giờ chúng ta phải tiến quân tới Trường-sa đã. 

Trưng Nhị truyền lệnh cho quân lên đường, sau khi vượt Trường-giang thì vào hồ Động-đình, nàng truyền lệnh đóng quân tại phía Nam hồ, quân mã hạ trại. 

Nàng truyền lệnh: 

– Trước hết sư bá Lại Thế-Cường làm chánh tướng, Trấn-đông tướng quân Vũ Chu làm phó tướng dẫn ba vạn Bộ-binh, một vạn Kị-binh theo đường bộ đến chiếm Bình-giang uy hiếp phía đông Trường-sa, đô-đốc Phạm Sự dẫn toàn bộ Thủy-quân rời hồ Động-đình vào Tương-giang trấn đóng tại Ích-châu làm tiền đạo. 

Phật-Nguyệt nói với Trưng Nhị: 

– Sư-tỷ! Sư-tỷ có nhớ hồ Động-đình là nơi phát tích ra hai vị quốc mẫu của chúng ta không ? Chúng ta phải dạo chơi hồ Động-đình thưởng lãm thắng cảnh, di tích lịch sử của Lĩnh-Nam nhà mình, trước đây đất Lĩnh Nam, Bắc tới hồ Động-đình, vậy sau này đòi lại Lĩnh Nam chúng ta có đòi hai quận Trường-sa và Linh-lăng hay không ? 

Trưng Nhị cũng như tất cả thanh niên nam nữ thời bấy giờ, được cha mẹ nhắc nhở hằng ngày về mối hận vong quốc. Thường luôn nói về nguồn gốc của giống giòng Việt, rằng Lĩnh Nam là quê hương, hầu như người nào cũng thuộc nằm lòng: 

Chúng ta là con Rồng cháu Tiên, xưa vua Đế Minh cháu ba đời vua Thần Nông đi tuần thú Phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên là Lộc Tục. 

Vua Đế Minh truyền ngôi cho con trưởng là Đế Nghi, làm vua phương Bắc, phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu Xích Qủi. Bờ cõi nước Xích Quỉ Bắc tới hồ Động Đình, Nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía Tây giáp Ba Thục, phía Đông giáp bể Nam Hải. Kinh Dương Vương làm vua vào năm Nhâm Tuất (2879 trước Tây Lịch), lấy con gái vua Động Đình là Long Nữ đẻ ra Sùng Lãm, Sùng Lãm nối ngôi gọi là vua Lạc Long, vua Lạc Long lấy con gái vua Đế Lai tên là Âu Cơ đẻ ra một trăm con... … 

Trưng Nhị cương quyết: 

– Chúng ta được biết theo truyền thuyết địa giới Lĩnh Nam là như thế, các đời vua Hùng và vua An Dương, sử sách còn ghi thêm Trường-sa, Linh-lăng đều thuộc về Văn-Lang. Đòi được Nam-hải, Tượng-quận, Quế-lâm, đất nước mình cũng bằng Trung-nguyên, dù dân mình ít, đất mình rộng, ở không hết cũng phải đòi, chúng ta có thể thừa thắng chiếm hết giang sơn người Hán., nhưng chiếm rồi phải lo đối phó với sự chống đối của dân chúng thì chiếm làm gì ? 

Sau khi an dinh hạ trại xong, Trưng Nhị nói với Công-tôn Thiệu. 

– Công-tôn sư huynh! Hồ Động-đình là nơi phát tích ra quốc mẫu đất Lĩnh Nam, vì vậy chúng tôi xin sư huynh cho mượn một con thuyền lớn, hành hương đất xưa của Quốc Mẫu. 

Công-tôn Thiệu cười: 

– Trưng cô nương là quân sư, nói rằng chỉ có dưới tại hạ, nhưng thực ra quyền trong tay quân sư, quân sư muốn điều động sĩ tốt thì mặc ý, việc gì phải khách sáo ? 

Đám hào kiệt Lĩnh-Nam cũng đòi đi cả, Trưng Nhị sai lấy một chiếc thuyền hai tầng rất lớn, có thủy thủ chèo, trên thuyền mang theo rượu thịt hoa quả. 

Vương Sa-Giang hỏi: 

– Sư tỷ! Em không phải là gái Lĩnh Nam, sư tỷ cho em đi theo được không ? 

Trưng Nhị biết Sa-Giang giỏi âm nhạc, cô thích các cuộc du ngoạn trên sông nước, ngắm cảnh hùng vĩ của tạo hoá, nàng vẫn có cảm tình với cô thiếu nữ nhu mì, lãng mạn này. 

Trưng Nhị vuốt tóc nàng: 

– Cuộc du ngoạn này mà có thêm Vĩnh-Hoa thì kết thành bộ ba mới thực là tuyệt, nhưng thôi, em với Lê Chân tấu nhạc cũng đủ rồi. 

Hôm ấy là đêm 14 tháng giêng trời đang tiết xuân, gió hồ thổi còn thấy lạnh. Nhưng quần hùng Lĩnh Nam được du ngoạn một thắng cảnh ghi lại mối tình của Quốc Tổ và Quốc Mẫu, lòng họ đều lâng lâng như gió xuân trên mặt hồ, trăng xuân rọi xuống hồ long lanh như một tấm thảm bạc, nối tiếp đến chân trời. Xa xa là dãy núi Tam-sơn và Quân-sơn. 

Trong các anh hùng Lĩnh Nam thì hầu hết là nữ, chỉ mình Lại Thế-Cường là nam, bên cạnh ông còn Tây-vu tam hổ-tướng, tam báo-tướng, Ngao-sơn Vi Đại-Lâm, Vi Đại-Sơn, tất cả tám người, họ là người sắc dân Mường, uống rượu như uống nước. Nên ông cùng họ quây quần uống rượu, họ ít nói, hiền lành, tính tình chân thực, từ hôm sang Trung-nguyên đến giờ, Ngao-sơn tứ lão không được xuất trận, bởi các ông chỉ huy đội chó sói, chuyên tuần phòng và bắt gian tế, hai ông được đối xử ngang hàng với những danh nhân như: Khất đại-phu, Đặng Thi-Sách, Trưng Nhị, bởi vậy hai ông không buồn rầu, tự an ủi với nhiệm vụ khiêm tốn của mình. 

Thuyền vượt sóng đi về phía Bắc, bỗng có tiếng hát véo von: 

Trúc xinh, trúc mọc bờ ao, 

Em xinh em đứng chỗ nào cũng xinh. 

Trúc xinh trúc mọc đầu đình. 

Em xinh em đứng một mình cũng xinh. 

Tiếp theo tiếng sáo vi vu bay bổng lên không trung, tiếng hát nhẹ nhàng như hương thơm hoa lan, hoa huệ, len lỏi theo gió xuân làm ấm lòng mọi người, tiếng sáo khi bổng khi trầm, như tỏa vào mặt hồ cùng với sóng róc rách đánh nhịp, khi cao lên tận mây xanh hòa với ánh trăng. 

Khúc hát hết, mọi người nhìn lại thì là Sa-Giang đứng dựa cột buồm, tay cầm ống tiêu, nàng mặc bộ quần áo trắng, trong đêm trông nổi hẳn lên. Dưới trăng xiêm áo bay phất phới, mọi người nhìn nàng ngây ngất như nhìn tiên nga đứng bên động Thiên-thai. 

Hồ Đề nhìn Sa-Giang nói: 

– Người ta đồn trong chuyến du ngoạn Thành-đô, Đào hiền đệ đã bị tiếng ca, giọng hát, tiếng tiêu, sắc đẹp mê hồn của sư muội, làm hồn phách bay phơi phới, có đúng thế không? Ta thấy sư muội hát bài ca bằng tiếng Việt, thì biết rằng người dạy sư muội là Đào hiền đệ. 

Quả thật Sa-Giang đang mơ màng nghĩ lại những đêm bên cạnh Đào Kỳ, hai người như hoa, như nước, tình yêu chan chứa. Nhưng Đào Kỳ vẫn giữ một lòng trung thành với Phương-Dung, duy trì tình trạng trong sạch giữa hai người. Những ngày đó, nàng thấy mê man đi trong nhịp yêu đương, nhưng nay Đào Kỳ một nơi, nàng một nơi, mà hai người có ở bên nhau chăng nữa, thì chàng cũng như hoa trong gương, bóng chim dưới nước mà thôi. Thấy thì thấy đấy, nhưng đưa tay nắm lấy muôn ngàn lần vẫn không được. Lê Chân là đệ tử phái Sài-sơn, rất giỏi âm nhạc, nàng lấy túi vải trên lưng xuống một cái đàn bầu, lên dây và bật lên những tiếng dài ngân vang. Sa-Giang mang đàn tỳ bà hòa theo, Phật-Nguyệt nhận ra đó là bản Động Đình ca của Trương Chi. Tiếng đàn bầu, đàn tỳ-bà hòa nhịp kéo dài, lẫn vào với tiếng sóng nước, khiến cho anh hùng Lĩnh Nam tưởng như mới năm nào Quốc Tổ đến đây cầu hôn vói Quốc mẫu, hai người đã đi du ngoạn trên bờ hồ này. Tiếng nhạc dứt, thuyền vẫn đi về phương Bắc, Sa-Giang cất tiếng ca: 

Đêm qua ra đứng bờ ao, 

Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ, 

Buồn trông con nhện dăng tơ. 

Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ nhớ ai ? 

Nhớ ai dạ những bồi hồi, 

Như đứng đống lửa, như ngồi đống rơm. 

Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ, 

Nhớ ai, ai nhớ ? Bây giờ nhớ ai. 

Anh ơi "chua" "ngọt" đã từng, 

Non xanh đất đỏ xin đừng xa nhau. 

Tiếng ngâm theo điệu sa mạc của nàng cao vút lên từng mây, giọng đầy buồn, nhớ, thương, miệng ca, tay nàng vuốt nhẹ trên phím tỳ bà, Phật-Nguyệt nói: 

– Đào hiền-đệ quả là con người tài hoa, chỉ mấy ngày gần nhau mà y đã dạy Sa Giang được biết bao nhiêu câu hát tiếng Việt. 

Lê Chân chỉ vào một dãy núi xa xa nói: 

– Kìa là núi Tam-sơn, trong đó có một động lớn, tương truyền ngày xưa Quốc-Tổ với Quốc-Mẫu thành hôn rồi vào ở với nhau cả năm trời, chúng ta thử đến xem sao. 

Trưng Nhị ra lệnh thuyền đi vào phía Tam-sơn, hồ bấy giờ hẹp lạ, tuy nói là Tam-sơn nhưng thực ra chỉ là ba ngọn đồi nhỏ, thủy thủ cho thuyền ghé vào cạnh sườn núi. 

Phật Nguyệt kinh công cao nhất, nàng cầm sợi giây, nhún chân vọt người lên cao, lơ lửng trên không, đá gió một cái người bay vọt lên bờ, thân pháp đẹp không thể tưởng tượng được, nàng cần giây kéo mạnh, con thuyền ghé sát bờ, nàng cột đầu giây vào một gốc cây, thủy thủ đem ván bắc cầu, mọi người cùng lên. Trăng đã lên đến đỉnh đầu, ánh sáng tỏa xuống núi Tam-sơn đầy hoa mùa xuân. Mọi người theo sườn núi, leo lên đỉnh, họ là những người võ công cực cao, chỉ một lát đã tới, quả thực trên đỉng có cái hang đá, hang khá lớn, Lại Thế-Cường tiến vào hang đầu tiên, mọi người theo ông ngắm nhìn. 

Phật-Nguyệt nói: 

– Đây là động Tam-sơ, ngày xưa Quốc Tổ Kinh-Dương Vương, gặp Quốc Mẫu Long-Nữ ở chỗ này, không ngờ cuộc gặp gỡ đó nảy sinh ra chúng mình biết bao nhiêu mà kể. 

Lê Chân tiếp: 

– Cũng như mỗi chúng mình bây giờ là một, sau này phục quốc rồi có chồng, có con, ngàn năm sau giòng giống mỗi người sẽ tới hàng triệu, chúng du ngoạn hồ Động-đình, tới Tam-sơn ngoạn cảnh mà nói rằng: Thời Lĩnh-Nam tổ-mẫu Lê Chân trên đường phục quốc đã dừng bước ở chỗ này. 

Lê Chân rút dao ngắn vận công, khắc lên tấm đá bằng phẳng trên vách: 

Anh hùng Lĩnh-Nam trên đường phục quốc, dừng lại đây ngày 14 tháng giêng năm Đinh Dậu, giờ Dậu. 

Laị Thế Cường, Trưng Nhị, Trần Năng, Hồ Đề, Lê Chân, Phật Nguyệt, Vĩ Đại Lâm, Vĩ Đại Sơn, Thục Nữ Trung Sa Giang, Tây Vu Tam Hổ Tướng: Hoàng Hổ, Hắc Hổ, Bạch Hổ, Tây Vu Tam Bảo Tướng, Hoàng Báo, Hắc Báo, Bạch Báo. 

Vương Sa-Giang chỉ ra giữa khu đất bằng phẳng: 

– Kìa, giữa sân có pho tượng bằng đá, không biết ai tạc và tạc tượng ai thế kìa ? 

Trưng Nhị cùng mọi người chạy ra nhìn, giữa sân một bệ đá bằng phẳng, trên bệ là pho tượng, lớn như một người tầm thước, tượng bằng đồng hay đá màu đen, trong tư thức ngồi dưỡng thần luyện công, ánh trăng chiếu vào pho tượng, màu đen phản chiếu óng ánh. 

Lại Thế-Cường ngắm nghía nói: 

– Dường như người ta tạc tượng một người ngồi luyện công thì phải, song tư thức rất đặc biệt, hai bàn tay chắp lại để trước ngực. 

Hồ Đề là người tinh nghịch bậc nhất, nàng nhún chân nhảy vọt lên cao, đáp xuống bệ đá, rồi tiến lại gõ tay lên đầu nhẵn bóng của pho tượng, nàng nói vọng xuống : 

– Kỳ lạ không? Đêm xuân lạnh thế này mà sao đầu pho tượng ấm quá và mềm như nhung vậy. 

Thuận tay nàng gõ xuống đầu pho tượng ba cái, bỗng nàng rụt tay lại kêu lên một tiếng đau đớn: 

– Ôi! Đau quá! 

Nguyên nàng gõ cái thứ nhất êm như gõ vào đầu người, đến cái thứ nhì thì hơi cứng, đến cái thứ ba thì tay tê chồn. Thấy kỳ lạ nàng vận sức vào tay ấn xuống đầu pho tượng một cái, một luồng kình lực nhu hòa bật tay nàng lên, Hồ Đề cả kinh vận sức đứng vững, nhưng không tự chủ được, sức từ đầu pho tượng hất nàng bay vọt lên cao. Ở trên cao nàng phóng chưởng đánh xuống đỉnh đầu pho tượng, chưởng lực của nàng khá hùng hậu, trúng vào đầu pho tượng đánh binh một cái, người nàng lại bay lên cao hơn nữa kèm theo tiếng kêu: 

– Chết! 

Trưng Nhị gần Hồ Đề đã lâu, biết tính nàng can đảm, gan dạ, dù nguy hiểm đến đâu cũng không sợ hãi, dù đau đớn đến đâu cũng không kêu. Bây giờ chỉ sờ vào đầu pho tượng mà kêu đau, người vọt lên cao, thì phải có cái gì quái đản lắm, rồi từ trên cao nàng phóng chưởng xuống, với chưởng lực của nàng dù đánh vào vật gì thì cũng chỉ bật lên một chút. Nay tại sao nàng bật lên cao như bị ai nắm lấy tung lên trời vậy? Trên đời này chỉ có Khất đại-phu, Đào Kỳ mới cô công lực liệng một người lên cao như vậy. 

Hồ Đề rơi xuống phía ngoài phiến đá, ngã xuống đất cái bịch, Phật Nguyệt vọt tới bồng nàng xuống hỏi: 

– Sao ? Sao ? Cái gì vậy. 

Vì với bản lĩnh của Hồ Đề, khi rơi xuống đất đâu đến nỗi không đứng được, mà ngã lăn ra ? 

Hồ Đề nhăn nhó, hai tay xoa vào nhau nói: 

– Không phải tượng đá đâu, mà là quỉ, con quỉ này ghê gớm lắm. Tôi mới sờ vào đầu bị nó hất ngược lên cao, từ trên cao tôi đánh xuống một chưởng, bị nó dùng kình lực hất lần thứ hai, cánh tay tôi tê dại. 

Trong đầu óc Phật Nguyệt hiện ra biết bao nhiêu vấn đề: 

– Nhìn tư thế Hồ Đề bị hất lên cao, thì rõ ràng bị người có nội công thượng thừa đánh, nhưng trên đời này làm gì có người đạt tới mức chỉ sờ vào mà bị hất lên như vậy? Dù Khất đại-phu, Đào hiền-đệ, muốn hất một người lên cao, cũng phải đứng dậy, vận hết sức mình, chứ đâu chỉ ngồi bất động mà phát kình lực huyền diệu đến thế ? Người này là ai, đêm xuân lên phiến đá giữa chốn hoang sơ ngồi luyện công ? 

Lại Thế-Cường nhiều kinh nghiệm giang hồ, ông vẫy tay cho mọi người đứng im, rồi tiến lại quan sát, ông lắng tai nghe xem nếu có tiếng hô hấp thì là người, còn không thì là tượng. Nhưng tuyệt nhiên ông không nghe tiếng hô hấp, cũng không thấy ngực nhô lên thụp xuống, vậy là tượng rồi, là tượng thì tại sao có thể dùng nội công thượng thừa hất Hồ Đề lên cao như vậy? 

Ông nhảy lên phiến đá, dùng tay phất qua phất lại trên đầu pho tượng, thấy như không có phản ứng gì. Ông ông đưa tay sờ vào đầu pho tượng thì cảm thấy một luồng điện cực kỳ mãnh liệt, nhu hòa truyền vào thân thể ông. Ông trấn tỉnh vận khí kìm lại, nhưng vẫn bị luồng điện đó hất vọt lên không. Ở trên không ông đá gió một cái người bắn ngược trở lại đáp xuống an toàn. 

Trưng Nhị hỏi: 

– Sư-bá, cái gì vậy ? 

Lại Thế-Cường lắc đầu: 

– Ta cũng không biết rõ ràng người hay tượng nữa ? 

Ông bảo Trần Năng: 

– Cháu xuất thân từ phái Tản Viên, được Khất đại-phu truyền nội công thượng thừa, vậy cháu thử sờ vào đầu pho tượng xem sao ? 

Trần Năng nhảy lên bệ, vận khí vào đơn-điền truyền xuống chân thật chắc, rồi đưa tay sờ vào đầu pho tượng. Trưóc mắt nàng rõ ràng là pho tượng đồng đen, nàng dùng sức ấn mạnh, một luồng điện nhu hòa ấm áp chính đại quang minh truyền vào người, hóa giải kình lực của nàng mất tăm mất tích, nàng vận khí mạnh hơn nữa, thì cũng thấy bị mất tích. Thấy lạ, nàng dùng toàn lực vận khí ấn tay vào đầu pho tượng thì thấy từ pho tượng có sức phản kích cực kỳ hùng hậu đẩy vọt nàng bay vọt lên cao. 

Trần Năng nhảy lên bệ, vận khí vào đơn-điền truyền xuống chân thật chắc, rồi đưa tay sờ vào đầu pho tượng. Trưóc mắt nàng rõ ràng là pho tượng đồng đen, nàng dùng sức ấn mạnh, một luồng điện nhu hòa ấm áp chính đại quang minh truyền vào người, hóa giải kình lực của nàng mất tăm mất tích, nàng vận khí mạnh hơn nữa, thì cũng thấy bị mất tích. Thấy lạ, nàng dùng toàn lực vận khí ấn tay vào đầu pho tượng thì thấy từ pho tượng có sức phản kích cực kỳ hùng hậu đẩy vọt nàng bay vọt lên cao. 

Trưng Nhị thấy Hồ Đề, Lại Thế-Cường đều bị hất ngược lên, nhưng không cao bằng nửa Trần Năng, Trần Năng bị hất cao lên ba trượng là ít, nàng tà tà rơi xuống đất, nàng nói: 

– Người chứ không phải tượng, vì có hơi nóng, người này nội công cao hơn sư phụ và Đào sư-thúc nhiều, có lẽ y không có ác ý với chúng ta nên kình lực phát ra nhu hòa, nội công cương nhu hợp nhất, chính đại quang minh chứ không phải tà môn. 

Phật-Nguyệt tính ôn tồn, bước đến trước pho tượng chắp tay: 

– Chúng tôi tất cả đều thuộc võ lâm Lĩnh Nam, nhân đi hành hương Động-đình tìm di tích Quốc Tổ, lầm lộn tôn-giá với pho tượng có đôi chút mạo phạm, mong tôn-giá đại xá cho. 

Pho tượng cũng không đụng đậy, dưới ánh trăng da đen bóng của pho tượng phản chiếu óng ánh. 

Trưng Nhị nghi hoặc hỏi Trần Năng: 

– Sư thúc! Sư thúc có thấy hơi nóng từ pho tượng thật không ? 

– Thực! Tôi sờ vào thấy ấm áp và dễ chịu lắm, da đầu mềm mại như nhung vậy. 

Lê Chân là người nóng nảy, nàng lấy đá lửa đánh lên, rồi tìm cây khô bó thành đuốc, soi sát vào pho tượng, bất giác mọi người cùng ồ lên một lượt, vì đúng là một người, nhưng mũi hơi cao, bụng phệ, lưng choàng một tấm vải màu vàng, da đen bóng như tượng đồng. 

Lê Chân nói: 

– Tại sao lại có người đen đến như thế này ? 

Trưng Nhị đọc sách nhiều, nàng đáp: 

– Tôi nghe phía Tây-nam Trung-nguyên có một xứ tên là Tây-trúc, người ở đây hiền hậu, đời sống văn minh như Trung-nguyên, nước da của họ đen bóng như tượng đồng thoa mỡ, người này chắc thuộc xứ Tây-trúc đây ? Thôi chúng ta đi, không nên quấy phá cuộc luyện công của người. 

Ngao Sơn Vi Đại-Lâm bàn : 

– Người này nước da đen bóng, người không ra người, quỉ không ra quỉ, vậy lão để cho con Thần-ngao lên đánh hơi, hễ là người chân chính hay ma quỉ thì biết ngay. 

Hồ Đề chợt nhớ ra, đàn Thần-ngao của Tây-vu rất giỏi trong việc phân loại người, gian tế hoặc tà môn, chúng sẽ sủa ầm lên, còn người chính phái thì nó vẫy đuôi mừng. Đi đâu mỗi người trong Ngao-sơn tứ lão đều mang theo một Thần-ngao sai khiến, Vị Đại-Lâm chỉ vào pho tượng huýt sáo, con Thần-ngao nhảy vọt lên bệ, mọi người im lặng quam sát, nó đi quanh pho tượng ngửi một lúc, rồi nằm phục xuống bên cạnh, đuôi vẫy liên tiếp. Cử chỉ này nó muốn tỏ ra quì lạy, nó chỉ làm việc đó với Hồ Đề và Ngao-sơn tứ lão mà thôi, bây giờ nó cũng làm với pho tượng. 

Vi Đại-Lâm đến trước pho tượng quì xuống lạy tám lạy, rồi ông khấn một loạt tiếng Mường. 

Mọi người cùng nhìn Hồ Đề, nàng giải thích: 

– Thông thường ở Tây-vu thần linh giáng nhập vào người nào, thì Thần-ngao cũng cúi đầu tuân phục, hành lễ như vậy. Vi Đại-Lâm thấy Thần-ngao quì gối hành lễ, thì biết rằng người này là Thần-nhân. 

Lại Thế-Cường là người cao niên nhất, ông chắp tay hướng người Tây-trúc vái chào: 

– Chúng tôi người Lĩnh Nam qua dây vô tình gặp tôn-giá, quấy nhiễu tôn-giá, thật đắc tội, mong tôn-giá lượng thứ cho. 

Cả bọn lại theo sườn núi đi trở xuống, họ không ngớt bàn truyện Tây-trúc, Trần Năng nói: 

– Người này nội công cao hơn Sư-phụ với Đào sư-thúc nhiều, không hiểu họ thuộc võ lâm Trung-nguyên hay võ lâm Tây-trúc, chúng ta nói năng bàn tán mà tuyệt nhiên người đó không động đậy. Trấn nhiếp tâm thần như vậy, quả thật hiếm có trên đời. 

Cả bọn theo tấm ván cầu xuống thuyền, Phật-Nguyệt đi đầu tiên, bỗng nàng kêu lên một tiếng : 

– Ái chà! 

Rồi nhảy lùi trở lại, mọi người nhìn theo tay nàng chỉ, thấy pho tượng Tây-trúc đang ngồi giữa sàn chiến thuyền. Trưng Nhị kinh ngạc đến ngẩn người ra, vì lúc cả bọn xuống núi thì tượng đồng vẫn còn ngồi đó, thế mà thoáng một cái đã xuống thuyền từ hồi nào ? Trên thuyền đầy thủy thủ mà tượng đồng xuống không ai phát giác ra. 

Trưng Nhị biết người này võ công kinh công tuyệt trần, nhưng không có ác ý, nàng chắp tay nói: 

– Tôn giá quá bộ tới đây chơi, chúng tôi chậm chân về trễ không tiếp đãi chu đáo, mong tôn giá thứ lỗi. 

Người Tây-trúc đứng dậy, chắp tay xá mọi người, ông nói chậm chạp: 

– Các vị thí chủ với bần tăng vốn có tiền duyên, cộng nghiệp thì phải gặp nhau, đã là tiền duyên đâu cần phải đón, lễ nghi ? 

Lời nói ôn nhu, ngụ ý cao xa, huyền bí, khiến Trưng Nhị thêm kính trọng, nàng mời ông vào khoang thuyền, truyền pha trà đãi khách, Trưng Nhị chắp tay: 

– Chẳng hay tôn giá quí tánh cao danh là gì ? 

Người Tây Trúc chắp tay nói: 

– Bần tăng đi tu thì cái tên cái họ đều bỏ hết, khi mặc áo Như Lai vào nhà Như Lai chỉ còn pháp-danh mà thôi, bần tăng pháp danh Tăng Giả Nan Đà, bần tăng mới từ Tây-trúc qua Trung-thổ hoằng dương đạo pháp của Đức Thế Tôn, bần tăng mới học viết chữ Hán, nói năng còn ngượng ngập. 

Tất cả đều ngạc nhiên, vì thời bấy giờ là năm thứ ba mươi chín sau Tây lịch, đạo Phật chưa truyền qua Trung-thổ cũng như Lĩnh Nam. Người nổi tiếng kiến văn quảng bác như Trưng Nhị mà cũng chưa nghe qua. 

Trưng Nhị hỏi: 

– Tăng Giả Nan Đà tiên-sinh, tiểu nữ chưa từng nghe trên thế gian này có một tôn-giáo của Đức Thế Tôn, mong tiên sinh thuyết giảng cho. Đạo của Đức Thế Tôn gọi là gì ? 

– Tiếng bình dân gọi là đạo Phật. 

Phật-Nguyệt liếc nhìn Tăng Giả Nan Đà, tự nhiên trong tâm nàng mở rộng ra một cách kỳ lạ, nàng chắp tay hướng về ông lạy ba lạy: 

– Sư phụ! Sư phụ, nói giữa chúng con có tiền duyên, có cộng nghiêp. Vậy thế nào là tiền duyên, thế nào là cộng nghiệp? 

Tăng Giả Nan Đà nói: 

– Thí chủ ngồi xuống! 

Phật-Nguyệt ngồi xuống ván thuyền, xếp chân bàn tròn như Tăng Giả Nan Đà, hai tay chắp lại trước ngực. 

– Được rồi, thí chủ nhắm mắt lại. 

Phật Nguyệt nhắm mắt lại. 

– Bây giờ thí chủ buông lỏng cơ thể, cố quên đi mọi vật xung quanh, từ hình dáng đến mầu sắc sự vật, rồi bỏ ra ngoài âm thanh của chúng ta. 

Ông nói đến đâu Phật-Nguyệt làm theo đến đó, tự nhiên trước mắt hiện lên một vườn đầy hoa thơm cỏ lạ, có chim ca hót líu lo, trong đó có đủ mọi người quen biết, từ sư phụ Nguyễn Phan cho đến Khất đại-phu, Trưng Trắc, Trưng Nhị, Công-tôn Thuật v.v..., không thiếu một ai, nàng nhìn về phía xa xa một người khoác áo vải trên lưng giống như Tăng Giả Nan Đà, ông ngồi trên bệ đá tham thiền, tư thái ung dung nhàn hạ, nàng đến trước mặt ông quì xuống lạy:

– Sư phụ! Sư phụ! Thương xót đệ tử, giảng cho con ý nghĩa cao sâu của Đức Thế Tôn. 

Tăng Giả Nan Đà vẫy tay nói: 

– A Di Đà Phật. Thiện tai! Thiện tai!, người đã xin ta như vậy là đã có duyên với nhau, kiếp sau dù thế nào chăng nữa cũng lại tái ngộ. 

Bất thình lình Tăng Giả Nan Đà quát một tiếng, Phật-Nguyệt tỉnh giấc, mở mắt ra, thở phào một cái, nàng đứng dậy nói: 

– Đệ tử hiểu rồi, Sư phụ! Có phải lúc ở trên núi Tam-sơn, sư phụ đã dùng phép này để trấn nhiếp tâm hồn, khiến cho bao nhiêu người đánh vào không làm cho sư phụ chuyển động, có phải thế không ? Phép này gọi là phép gì mà huyền diệu như vậy? 

Tăng Giả Nan Đà đáp: 

– Đó là phép Thiền của nhà Phật, thiền là pháp môn tối cao để đi vào Vô Thượng Bồ Đề, tức thoát khỏi cảnh luân hồi. Pháp môn này lấy yếu chỉ từ kinh Kim Cương, Lăng Gìa, nếu có thiện duyên bần tăng sẽ giảng cho thí chủ nghe.

Trần Năng hỏi: 

– Sư phụ! Lúc ở trên núi, tiểu nữ chỉ vận khí, đụng vào đầu sư phụ, mà bị kình lực hất đến bay vọt lên cao. Dường như sư phụ không biết dùng cách hất lên, mà chỉ do chân khí tự động phản ứng mà thôi. 

Tăng Giả Nan Đà đáp: 

– Phu nhân ngộ tính thật cao, bần tăng có ba phép Thiền, một Thiền Tuệ đi đến giác ngộ, vào được Vô Thượng Bồ Đề Đắc quả, hai Thiền Lực làm cho sức khỏe con người tăng lên gấp bội, giống như cô nương luyện nội lực vậy. Ba Thiền Y, người mới tập sẽ chữa được bệnh mình, người luyện tới mức cao có thể dùng chân khí của mình trị bệnh cho người. Bần tăng biết luyện cho thân thể khỏe mạnh, chứ không biết cách xử dụng hất người lên cao. 

Trưng Nhị thông minh tuyệt đỉnh, nàng nghĩ ra một điều: 

– Chúng ta luyện nội lực, nội công cao có thể dùng khí lực tấn công người, vì chúng ta ở trong thế giới chém giết, tàn hại nhau. Còn đại-sư không bao giờ nghĩ tới, tưởng tới, dùng chân khí mà đánh người, vì đại-sư ở trong thế giới từ bi bác ái, chỉ luyện công tự giải thoát, nếu chúng ta học được pháp môn Thiền của đại-sư rồi áp dụng vào nội công, chiêu thức sẽ trở thành anh hùng vô địch trong thiên hạ. Tiếc rằng Khất đại-phu và Đào tam-lang không có ở đây, bằng không họ có thể hợp Thiền với đại sư, với nội công Văn-Lang làm một. Nàng nói: 

– Đại-sư đệ tử dám thỉnh nguyện đại sư thuyết giảng cho bọn ngu tối chúng tôi những lẽ huyền vi của đạo Phật. 

Tăng Giả Nan Đà chắp tay đáp lễ: 

– A Di Đà Phật, phúc đức quá, các vị với bần tăng có cộng nghiệp với nhau từ tiền kiếp, hôm nay bần tăng xin thuyết về nguồn gốc đạo Phật. Trước hết đạo Phật không có chỗ khởi đầu, cũng không có chỗ cuối cùng, để hiểu rõ hơn, các vị hãy nghe về lịch sử Đức Thích Ca Mâu Ni, ngài là Giáo-chủ của thế giới chúng ta ở, trong đạo Phật gọi thế giới này là thế giới Ta Bà. 

Hồ Đề là người thực tế, nàng hỏi: 

– Bạch đại-sư, thế giới Ta Bà gồm có Trung-nguyên, Lĩnh Nam, Tây-trúc hay có nhiều xứ khác nữa ? 

– Hồ cô-nương hỏi thực phải, Trung-nguyên, Tây-trúc, Lĩnh Nam v.v..., thuộc về mặt đất, mặt đất nằm trong thế giới Ta Bà, trên mặt đất này có đến mấy trăm nước khác nhau mà cô nương chưa biết đó thôi, nào là: Trung-nguyên, Tây-trúc, Lão-qua, Hồ-tôn, Cao-ly, Mông-cổ, tất cả các xứ đó cô nương có thể dùng ngựa dùng xe, dùng chân đi tới, mặt đất chỉ là một phần rất nhỏ của thế giới Ta Bà, thế giới Ta Bà có nhiều mặt đất khác, mà cô nương không thể dùng chân, dùng xe, dùng thuyền đi tới được. 

Vi Đại-Lâm hỏi: 

– Mặt trăng, mặt trời, có thuộc về thế giới Ta Bà không? 

– Có chứ, mặt trời là một khối lửa, cháy trong thế giới Ta Bà, cứ mỗi 365 ngày 11 giờ, 98% của giờ, mặt trời đi hết một vòng trở lại chỗ cũ, vòng của mặt trời cách xa mặt đất không đều, nên chúng ta có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông, còn mặt trăng là một khối đất giống như chúng ta, trên đó không có người ở. 

Sa-Giang hỏi: 

– Như vậy trong thế gian có nhiều thế giới, thế giới Ta Bà là một, trong thế giới Ta Bà có nhiều mặt đất? 

Tăng Giả Nan Đà gật đầu: 

– Đúng thế, thế giới Ta Bà dịch sang tiếng Hán là: Nhẫn, đại nhẫn, kham nhẫn trong thế giới Ta Bà nhà tu phải kham nhẫn, chịu sự nhẫn nhục, vì thế giới có đủ sự trược ác mà chúng sinh phải chịu. Trong thế giới Ta Bà có năm giới chúng sinh ở với nhau: Địa ngục, Ngạ-quỉ, Súc-sinh, Thiên và Nhân, đạo Phật nói tới cõi Liên-hoa có hai chục tầng thế giới, cõi Ta Bà ở tầng thứ mười ba, gồm nhiều thế giới nhỏ, trong mỗi thế giới nhỏ có ba cõi Dục giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới, chia làm bốn Châu: Thánh-thần châu, Tây-ngưu hoa châu, Nam-thiện bô châu, Bặc-cư lư-châu và một núi Tu-di, tổng cộng thế giới Ta Bà có một ngàn triệu thế giới nhỏ. 

Phật Nguyệt thở dài: 

– Thưa đại sư, đúng như đại-sư nói, chúng ta ở thế giới Ta-Bà này khổ quá, mới sinh ra đã khóc oe oe. Bệnh tật, đói khổ, thương nhớ, bệnh giết người, thiên tai giết người, người giết người, có thế giới nào mà ta không khổ như thế giới Ta Bà không? Khi lên đó không cần chém giết nhau nữa, người người thương nhau. 

Nan Đà đáp: 

–Có, thế giới đó là thế giới Tịnh-độ. 

– Ở như vậy thành Tiên rồi còn gì nữa, thỉnh đại-sư nói về thế giới đó, dạy bọn đệ tử có thể đến được. 

Nan Đà vẫn cười tủm tỉm: 

– Tịnh nghĩa là sạch, đó là cõi đất tinh sạch, Quốc Độ Nghiêm Tịnh do Phật cai quản, nơi trú ngụ của hàng thánh giả: La Hán, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật. Ấy là cõi không nhiễm nhơ bẩn Ngũ Trược, trong kinh Phật gọi là Phật-địa, Phật-giới, Phật-quốc, Phật-độ, Tịnh-sát, Thanh-tịnh-độ, Tịnh-điều-quốc-độ. Trong thập phương phế giới nhà Phật có nhiều cõi Tịnh-độ và cũng có nhiều giới Uế-độ, Trược-độ như chúng ta, thế giới cực lạc nghĩa là sung sướng vô cùng, thế giới này là của Phật A Di Đà tức là thế giới Tịnh-độ, còn thế giới Ta-bà là của Phật Thích Ca Mâu Ni. 

Hồ Đề gật đầu: 

– Nghe đại sư nói về thế giới Tịnh-độ đệ tử thấy thèm quá, vậy có cách nào về thế giới ấy không ? Đại-sư giúp đệ tử về thế giới Tịnh-độ đó đi. 

– Bần tăng không giúp được cô nương, bần tăng cũng không giúp được ai cả. 

Hồ Đề không chịu: 

– Tại sao? 

Nan Đà đáp: 

– Muốn vãng sinh về thế giới đó, thì tự mình làm lấy, chứ không nhờ người khác giúp cho mà được, tự mình là tại sao? Là phải theo Pháp môn tịnh độ tông. Đó là một môn phái dạy niệm Phật được vãng sinh tịnh độ, tức sau khi chết, đức Phật A Di Đà đón chúng ta về thế giới đó. Chúng ta đầu thai làm hài nhi, lớn lên, sinh sống. 

Trăng xuân chiếu xuống mặt hồ Động-đình lung linh như muôn ngàn ánh vàng, tiếng Tăng Giả Nan Đà thao thao bất tuyệt, giọng ngài sang sảng khiến anh hùng Lĩnh Nam say mê, không còn biết gì nữa, đám thủy thủ cũng kính cẩn chắp tay ngồi nghe. 

Trời gần sáng Tăng Giả Nan Đà kết luận: 

– Trung thổ có đạo Nho, đạo Nho nói phần xác, đạo Phật nói phần hồn, đạo nho dạy cách ăn ở lúc sống, đạo Phật dạy làm sao thoát khỏi cảnh luân hồi, sinh tử. 

Tăng Giả Nan Đà thuyết thao thao bất tuyệt, mỗi câu, mỗi lời nói của ngài, đều khiến mọi người cảm thấy sảng khóai tâm hồn, người ngây ngất, muốn bay lên cao. 

Trưng Nhị chắp tay nói: 

– Hòa Thượng đã dạy giữa người với chúng con có tiền duyên, vậy xin người dời gót ngọc sang kia hồ Động-đình với chúng con, không biết có được không ? 

Tăng Giả Nan Đà cười tủm tỉm gật đầu. 

– Được chứ! Được chứ! Bần tăng xin theo chư vị, để chúng ta đàm đạo Phật pháp. 

Quần hùng gặp Tăng Giả Nan Đà, người nào cũng cảm thấy hào hứng, nhẹ nhàng lâng lâng như gặp buổi trời xuân bình minh. 

Phật Nguyệt sai dọn riêng một lều cho ngài ở. Trần Năng kể cho Công-tôn Thiệu nghe về cuộc gặp gỡ kỳ lạ đêm qua, Công-tôn Thiệu vội vàng đến tham kiến Tăng Giả Nan Đà, truyền binh sĩ phụ trách hàng ngày cơm chay cúng dường. Thiệu dặn các tướng để ngài tự do muốn ra vào doanh trại, thuyết pháp cho tướng, sĩ mặc ý, ngài cần gì phải lễ phép cung ứng đầy đủ. 

Công-tôn Thiệu bàn về cuộc tiến binh đánh Trường-sa, Linh-lăng, Phật-Nguyệt bảo Trưng Nhị: 

– Sư tỷ! Bây giờ tôi với Trần Năng vào thành thám thính tình hình, Tượng-quận tam anh xem sự thể ra sao, trước khi tiến binh. 

Trưng Nhị gật đầu đồng ý. 

Phật-Nguyệt, Trần Năng hóa trang thành hai thiếu nữ vùng Trường-sa, lấy ngựa hướng thành tiến tới. 

Từ xa hai người thấy binh sĩ đi lại trên thành, tuần phòng nghiêm ngặt, cửa thành vẫn mở giáp sĩ đi lại bên ngoài. Hai người đã quen với lối tổ chức, kiểm soát của quân Hán, thản nhiên đi tới, lính canh thấy hai thiếu nữ xinh đẹp, lưng đeo bảo kiếm, cỡi ngựa khoan thai vào thành, cho là tiểu thư con nhà quan nào đó, nên không hỏi han gì cả. Hai người cứ nhắm giữa thành đi vào, trong thành dân chúng tấp nập rất đông, nhà cửa xây bằng gạch hoặc bằng gỗ san sát nối nhau. Trai thanh gái lịch thản nhiên như không biết chiến tranh tới gần, hai người đi cửa Bắc đến cửa Nam rồi vòng sang cửa Đông rồi cửa Tây. 

Trần Năng bàn: 

– Nếu bây giờ chúng ta vào quán ăn uống thì bị Tế-Tác Hán phát giác ngay, vì vậy chúng ta kiếm một ngôi đền, miếu nào ẩn thân tối hãy hành sự thì hơn.

Phật-Nguyệt đồng ý đến một ngôi miếu bỏ hoang ở góc thành, miếu thờ vua Văn-Vương đời Chu. Trên bệ có ngôi tượng Văn-Vương ngồi giữa, hai bên có tượng Chu-Công, Khương Thái-công, Phật-Nguyệt lấy cơm nắm muối vừng của Trần Năng ăn, rồi cả hai nhắm mắt dưỡng thần, Phật-Nguyệt nhớ lại tư thức ngồi thở hít của Tăng Giả Nan Đà dạy, đầu tiên tập trung tinh thần, nhắm mắt bỏ ra ngoài những hình ảnh trong tư tưởng rồi tự trầm lại, không suy nghĩ nữa đến lúc đó nàng đã tự mình biến đi. 

Nàng nhớ Tăng Giả Nan Đà đã giảng: 

– Hãy bỏ ra ngoài những âm thanh, nghe mà không phân biệt đó là vong tỵ, tức mất đi cái mũi, không nói là vong thiệt, tức mất đi cái lưỡi, bỏ ra ngoài những hình ảnh trước mắt là vong nhãn, tức là mất đi cả con mắt. Khi đã không nói, không nghe, không thấy, thì cái thân cũng biến đi mất đó là vong thân thân biến đi rồi trầm lặng không nghĩ, đó là vong ý. Trong Kinh Kim Cương gọi là: Vô, nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý, tức là nhập đạo đi vào tới cái vô cùng của Bát Nhã Ba La Mật vậy. 

Phật Nguyệt làm thử một lát không còn biết gì nữa, nàng trầm đi như vậy không biết bao nhiêu lần, thì Trần Năng vỗ vào lưng. 

– Sư-tỷ! Ngủ vậy đủ rồi, chúng ta thám thính phủ Mã Anh đi. 

Phật-Nguyệt tỉnh dậy, người khoan khoái nhẹ nhàng không bút nào tả xiết. Đầu óc minh mẫn sáng suốt, như vừa uống xong chung nước trà thơm tho, nàng nghĩ thầm: 

– Tư thức thở hít, vận khí, dưỡng thần mà Tăng Giả Nan Đà dạy ta được gọi là phép thiền tuệ. Thiền Tuệ là pháp môn của nhà Phật thật huyền diệu, ta mới ngồi dưỡng thần một lúc mà đã vậy, nếu ngày nào ta cũng ngồi chỉ vài năm, con người trở thành thanh thản, không lo, không sợ, không buồn, không giận, có khác gì tiên không ? 

Nàng cùng Trần Năng hướng dinh Thái-thú đi tới, trước dinh vệ sĩ canh gác nghiêm mật, hai người nhảy qua hàng rào vào trong, rồi nhảy lên mái nhà, theo mái nhà truyền đến lầu cao có đèn sáng trưng từ trong nhà chiếu ra. 

Hai người bám cửa sổ, lấy ngón tay nhúng vào miệng cho ướt, để vào cửa sổ giấy, giấy nhũn ra thành lỗ nhỏ, hai người ghé mắt nhìn vào trong. Một người ngồi giữa tướng mạo hùng vĩ giống Mã Viện như đúc, trẻ hơn một chút, chắc là Mã Anh, bên cạnh là ba người tuổi gần năm mươi, một người to béo, cao lớn, một người lùn tịt và một người cao nghệu. 

Trần Năng nghĩ: 

– Công-tôn Thiệu bảo rằng Tượng-quận tam anh ở vai sư thúc của Mã Viện, người to lớn kia chắc là Hàn Bạch, người cao nghệu kia chắc là Vương Hồng, còn người lùn tịt chắc là Chu Thanh.

Hồi 23 Nhớ xưa kia, ai tài hoa, ai tiết liệt, ai đài trang, Cũng một giấc mơ màng trong vũ trụ.

(Tản Đà, Đời đáng chán)

Người thứ tư ngồi đối diện với Mã Anh là Việt-kị hiệu-úy Trương Linh. Phật-Nguyệt nhớ lại hôm đến Trường-an, y có lời lẽ chống đối Nghiêm Sơn, sau khi đấu chưởng với Trưng Nhị, Khất đại-phu nhắc Trưng Nhị đánh bại y. Không biết y tới đây từ lúc nào, để làm gì ? 

Trương Linh nói: 

– Thái-hậu cho rất nhiều cao thủ xuống Quế-lâm truy lùng tin tức y thị mà không thấy. Không ngờ trong lúc đó y thị lại bỏ Quế-lâm lên Linh-lăng, có thể nay mai tới Trường-sa. Vì vậy Thái-hậu mậët sai tôi tới đây truyền lệnh cho Quốc-cữu, bằng mọi giá phải tìm ra y thị mang về nộp. Thái-hậu hứa thăng Mã tướng-quân lên chức Thứ-sử bất cứ vùng nào Quốc-cữu muốn. 

Mã Anh đáp : 

– Ân chỉ của Thái-hậu, dĩ nhiên tôi phải làm cho hết sức, có điều Trường-sa đang bị quân Thục từ Kinh-châu đánh xuống. Đại quân gần mười vạn người, hiện đã tới hồ Động-đình, ngày mai chắc chắn sẽ có cuộc giao tranh lớn. Tôi phải chống giặc, khó mà chu toàn chỉ dụ của Thái-hậu. 

Trương Linh gật đầu : 

– Tôi hiểu cái khó khăn của Quốc-cữu, nhưng nếu mất Trường-sa chưa chắc Quốc-cữu đã bị tội, còn không thi hành ân chỉ của Thái-hậu e rằng chúng ta không còn chỗ đội nón. 

Mã Anh tỉnh ngộ: 

– Hiệu-úy nói đúng, tôi cho Tế-tác đi khắp nơi trong vùng Trường-sa, Linh-lăng nghe ngóng tin tức y thị, nếu gặp y thị phải bắt bằng được, mang về Lạc-dương để Thái-hậu phát lạc. Tôi nghĩ có lẽ y thị đến Trường-sa hơn là Linh-lăng, vậy muốn bắt y thị phải giữ Trường-sa bằng mọi giá trong một thời gian nữa, nhưng Trường-sa quân mình ít quân giặc đông, khó giữ lâu được. 

Trương Linh bàn: 

– Tốt hơn hết, chúng ta cố thủ, không xuất trận, với lương tiền trong kho, ít ra cũng còn đủ cho quân ăn 6 tháng. Bấy giờ viện-quân tới, Quốc-cữu còn lo gì nữa ? 

Hàn Bạch lên tiếng : 

– Quân Thục mới đến, còn mệt mỏi, đêm nay chúng ta bất thần xuất thành cướp trại, tất thắng lợi. 

Trương Linh lắc đầu: 

– Hàn tướng-quân chớ nên khinh địch, Công-tôn Thiệu là một trong những người trí dũng song toàn, một tay cầm quân vùng Kinh-châu. Kiến-Vũ thiên-tử cách chức, giam Nghiêm Sơn, sai sứ giả truyền lệnh trễ có mười lăm ngày, mà y đã cùng với Trưng Nhị đánh lừa Phục-ba tướng-quân, nắm lấy quyền, dùng binh phù chiếm tất cả thành Thục bị mất, và chỉ một ngày lấy mất bảy quận Kinh-châu. Trường-sa, Linh-lăng ở xa, chứ nếu ở gần thì đã mắc lừa rồi. Bên cạnh y còn có đám anh hùng Lĩnh Nam như Trưng Nhị mưu trí tuyệt vời, võ công cao hơn tôi. Phật-Nguyệt kiếm thuật thần thông, đến Hoài-nam vương còn bị bại, nay chúng ở xa tới, tất đề phòng nghiêm mật, chúng ta cướp trại chưa chắc đã thành công. 

Vương Hồng gật đầu : 

– Được, vậy chúng ta đóng cửa thành, không giao chiến. Đợi ít ngày, giặc không đề phòng, chúng ta tiến quân đến Nam hồ Động-đình, đốt lương thảo. Giặc từ xa đến, quân đông nếu lương thảo tuyệt, lòng quân loạn, ta chỉ đánh một trận thì thành công. 

Trương Linh nói: 

– Trong thời gian đó chúng ta phải dò tin tức y thị. 

Mã Anh cầm lấy tờ chỉ dụ của Thái-hậu kính cẩn khép lại, mở tráp cho vào trong, khóa cẩn thận rồi nói : 

– Mời Hiệu-úy sang phòng bên cạnh, tôi xin được khoản đãi Hiệu-úy một bữa no say, sáng mai chúng ta cùng nhau dò la tin tức. 

Bọn Mã Anh, Trương Linh đi rồi, Phật-Nguyệt nhảy vào trong phòng. Nàng lấy cái tráp của Mã Anh, định nhảy ra ngoài, nhưng tính tình tinh nghịch, nàng cầm bút viết lên tờ giấy mấy chữ : 

Quần hùng Lĩnh Nam bái kiến Tượng-quận tam anh 

Sau đó, nhảy qua cửa sổ ra ngoài. Hai người chờ trời sáng lên ngựa trở về dinh Thục. 

Trần Năng kể cho Trưng Nhị nghe chi tiết mọi truyện, rồi đưa tờ mật chỉ của Thái-hậu cho nàng coi. 

Trưng Nhị nói: 

– Không biết đây là việc gì mà Thái-hậu đứng ra lo liệu? Có lẽ việc riêng của Thái-hậu, chứ nếu là việc công, chính Hán Quang-Vũ phải làm chứ ? 

Nàng cầm chỉ dụ mở ra đọc, ngoài bao thư có hàng chữ Cháu là Mã Anh, Thái-thú Trường-sa khai khán. Bên trong có bức thư, nét chữ không lấy gì làm đẹp lắm, có lẽ là thủ bút của Thái-hậu : 

Kể từ khi cô về Lạc-dương không được gặp cháu nữa. Nhưng lòng cô lúc nào cũng nghĩ tới cháu. Hiện nay Mã Viện đang cầm đại quân đánh vào Ích-châu, nếu Mã Viện bắt được Công-tôn Thuật, cô sẽ nói với Thiên-tử phong cho tước Công, làm chúa Ích-châu, đời đời hưởng lộc. 

Bấy giờ cô cũng nói với Thiên-tử, cất nhắc cháu lên làm Thứ-sử Kinh-châu, sở dĩ cô cất nhắc cháu làm Thứ-sử Kinh-châu vì mong cháu làm cho cô việc ấy. Trong thiên hạ hiện giờ chỉ có cháu giúp được mà thôi. Cô bỏ ra nhiều vàng bạc châu báu, đi tìm tông tích y thị, gần đây cô khám phá ra y thị hiện ẩn náu ở Quế-lâm. Cháu có biết y thị là ai không? Thì ra y thị là nhũ mẫu Nghiêm Sơn, không biết y thị có nói chuyện kia với Nghiêm Sơn không? Cô chắc là không, vì nếu y thị nói với Nghiêm Sơn thì Nghiêm đã tâu với Kiến-Vũ, cô cháu ta đâu có còn sống tới ngày nay và y thị đâu có còn ở Quế-lâm, cho nên cô phải hạ thủ trước. Cô gửi mật chiếu đi khắp nơi, dò la tin tức Nghiêm Sơn, may ra cô tìm ra Nghiêm Sơn chuyên quyền, muốn lập nước Lĩnh Nam để làm vua, vì vậy cô dùng vàng ngọc mua chuộc đại thần, họ cực lực phản đối việc tái lập Lĩnh Nam. Đó là cái mối để cô chia rẽ giữa Nghiêm Sơn và Quang-Vũ. 

Hiện Quang-Vũ nghe lời cô cùng quần thần bắt giam Nghiêm Sơn, tước binh quyền của y, trước sau gì rồi cũng giết y, còn cô thì biết y thị từ Quế-lâm lên Trường-sa, còn cháu ngày đêm phục ở lăng mộ tiên-vương hầu bắt sống y thị cho cô. Cô sẽ thưởng cho cháu như lời hứa, cháu phải nhất tâm nhất dạ mà làm. Thư bất tận ngôn. 

Trưng Nhị đọc xong nói với Trần Năng, Phật-Nguyệt : 

– Thì ra Mã Thái-hậu không phải là mẹ đẻ Quang-Vũ. Theo như lời Nghiêm đại-ca nói với Khất đại-phu, do sư thúc Trần Năng kể, thì Trường-sa vương lấy một người tỳ thiếp Hàn Tú-Anh, sinh ra hai người con là Lưu Diễn và Lưu Tú. Thái-phi không bằng lòng trong phủ Trường-sa Định-vương có người con hát làm Vương-phi, cũng không muốn cháu mình sau này lên nối ngôi cha làm Trường-sa Định-vương, tôn con hát lên làm Thái-phi. Bà cho người giết chết Hàn Tú-Anh, cướp lấy hai đứa con mang về cho Mã Vương-phi nuôi, dối là con đẻ. Không ngờ Hàn Tú-Anh được thân phụ Nghiêm Sơn cứu thoát, đem về làm vú nuôi Nghiêm. Bấy giờ Mã Thái-hậu tuy bề ngoài là mẹ ruột Quang-Vũ, nhưng vẫn lo Hàn Tú-Anh xuất hiện, bà cho người đi dò tung tích biết được Tú-Anh là mẹ nuôi Nghiêm Sơn, vì vậy bà hại Nghiêm đại-ca trước, bây giờ bà biết Tú-Anh đang trên đường lên Trường-sa vội truyền mật chỉ cho Mã Anh giết Tú-Anh. 

Phật-Nguyệt cười : 

– Tên Mã Anh ăn tiệc xong, trở lại trướng, thấy mất bức mật chỉ, lại thấy mấy chữ trên bàn, thì nhất định hồn phách bay lên mây. 

Trưng Nhị mời tất cả anh hùng Lĩnh-Nam lên chiến thuyền du ngoạn đêm trước họp, nàng trình bày chi tiết, nội vụ, nguồn gốc Nghiêm Sơn cho đến bức mật chiếu của Mã Thái-hậu. 

Trần Năng bàn : 

– Mã Thái-hậu không phải là mẹ đẻ của Hán Quang-Vũ, trước đây chánh-phi Trường-sa Định-vương giết Hàn Tú-Anh chứ không phải Mã Thái-hậu. Chánh-phi Trường-sa vương bắt Lưu Diễn và Quang-Vũ giao cho Mã Thái-hậu nuôi. Quang-Vũ lớn lên tưởng Mã Thái-hậu là mẹ mình, có ngờ đâu mẹ mình đang ở Lĩnh Nam, y cũng không ngờ Nghiêm Sơn cứu y là do mẹ mình đứng trong bóng tối thúc đẩy. Bây giờ mẹ ruột Quang-Vũ đã bị Mã Thái-hậu truy lùng giết cho tuyệt hậu hoạn, vậy chúng ta phải chia lực lượng ở đây ra làm hai : Một là đánh Trường-sa, hai là tìm cách cứu Hàn Tú-Anh đưa về Lạc-dương, làm rối loạn triều đình Quang-Vũ. Chúng ta cứ đưa Tú-Anh về cho Phương-Dung hay Vĩnh-Hoa, hai người này chắc có nhiều mưu kế hơn. 

Lại Thế-Cường ngẫm nghĩ một lúc rồi nói: 

– Bây giờ ta cần phải biết Hàn Tú-Anh ở đâu, mới có thể cứu bà. Hôm trước Phương-Dung nhờ Trưng Trắc về Quế-lâm tìm bà, không biết Trưng Trắc đã gặp chưa? Không chừng bà lên Trường-sa là do Trưng Trắc mời đi cũng nên, vì nếu đi bằng đường Độ-khẩu qua Thành-đô đường đất khó khăn quá, nếu quả Trưng Trắc đi với bà thì chả cần tìm đâu xa, chắc chắn họ sẽ đến bản doanh tìm chúng ta. 

Lê Chân đồng ý: 

– Lỡ Trưng sư-tỷ chưa tìm được bà, mà bà đi rồi mới nguy. Trưng sư-tỷ là người cẩn thận, nếu tìm bà ở Quế-lâm không gặp, sẽ hỏi bà đi đâu. Người nhà thể nào cũng chẳng nói bà đi Trường-sa, Trưng sư-tỷ chắc sẽ theo lên đây tìm bà, may mắn đi giữa đường gặp bà thì tạm yên. Còn chẳng may đi giữa đường không gặp bà, mà Mã Anh cho người tìm hại bà mới là cái nguy. 

Trưng Nhị ngồi ngẫm nghĩ một lúc rồi nói: 

– Vấn đề như thế này, nếu bà đi Trường-sa do Trưng Trắc đưa đi, thì không dễ gì Mã Anh hại được bà, còn trường hợp bà đi một mình ta phải tìm hiểu lý do tại sao bà đi Trường-sa. Ta thử đặt mình vào trường hợp bà xem tại sao bà đi Trường-sa? 

Mọi người cúi đầu suy nghĩ, trong chiến thuyền im lặng, không một tiếng động. Bên ngoài gió thổi vi vu, sóng hồ Động-đình vỗ dào dạt, quần hùng Lĩnh Nam chau mày, nhưng không tìm được lý do Hàn Tú-Anh đi Trường-sa. 

Trần Năng bàn: 

– Hay chúng ta trở lại thám thính xem sao, chứ không lẽ ngồi chờ bà Hàn Tú-Anh bị Mã Thái-hậu giết ? 

Vương Sa-Giang bỗng lên tiếng : 

– Em có thể góp ý kiến được không ? 

Trưng Nhị nhíu mày nghĩ: 

– Hàn Tú-Anh là ca-kỹ, Sa-Giang tuy không phải là ca-kỹ, nhưng có cái hồn giống nhau, có thể nàng hiểu Tú-Anh hơn. 

Nghĩ vậy nàng nói: 

– Sư muội cứ nói. 

Sa-Giang cười : 

– Tú-Anh là tỳ thiếp của Trường-sa vương, nguyên không phải vì tham công danh. Em nghe nói Trường-sa vương giả khách viễn phương, nghe tiếng nàng tìm đến. Thế rồi trai tài gái sắc gặp nhau, sau khi họ đã có hai con. Trường-sa vương mới cho biết thân thế của mình. Như vậy hai người lấy nhau vì tình yêu, tình yêu của họ bị đứt đoạn, vì thành kiến xã hội, một người là vương tước nhà Hán, một người là ca-kỹ. Rồi nàng bị đoạt mất con, bị ám hại, còn Trường-sa Định-vương bị Vương Mãng giết chết. Hai người coi như Chưa trọn cuộc tình, tơ duyên còn vướng mắc, sao có thể khuây khỏa được ? Khi đã không quên dĩ vãng, họ phải tìm lại kỷ niệm xưa. Vậy Tú-Anh trở lại Trường-sa không phải thăm bà con, vì bà con Tú-Anh không ở đây. Bà trở lại thăm con ư ? Bà biết rằng con bà là Quang-Vũ, con nuôi bà là Nghiêm Sơn đều không ở Trường-sa. Vậy bà trở lại Trường-sa chỉ để thăm lại chốn cũ mà thôi, chốn cũ của bà là gì ? Phải chăng là căn nhà hai người sống vụng trộm với nhau hoặc tìm đến tế mộ Trường-sa vương. Vậy ta cứ cho người phục ở những nơi đó, thế nào cũng gặp lại bà. 

Phật-Nguyệt vỗ tay : 

– Chúng ta bằng này người, mà không ai bằng Sa-Giang, quả thật những người ở cùng hoàn cảnh mới hiểu nhau. Đoạn trường ai mới qua cầu mới hay. Vì Sa-Giang giỏi âm luật, tính tình lãng mạn, mới hiểu được Tú-Anh. 

Trưng Nhị trở lại trại quân gặp Công-tôn Thiệu, nàng hỏi: 

– Vương gia! Trước đây Vương-gia đã ở Trường-sa, vậy Vương-gia có biết ba đệ nhất thắng cảnh không ? 

Công-tôn Thiệu ngạc nhiên : 

– Cô nương muốn nói thắng cảnh nào ? 

Trưng Nhị cười: 

– Một là kỹ-viện, xưa kia có một kỹ-nữ tuyệt sắc tên gọi là Hàn Tú-Anh, khiến Trường-sa Định-vương cha Quang-Vũ mê man, giả làm văn nhân đến gặp hoa khôi. 

Công-tôn Thiệu nhíu mày cười: 

– Kỹ-viện đó bị Thái-phi, mẹ Trường-sa Định-vương đốt cháy từ lâu rồi, còn Tú-Anh sống hay chết không ai biết tin tức ra sao. Trước đây khi tôi còn trấn ở Trường-sa dò hỏi tin tức tìm nàng, nhưng tuyệt không ai biết gì cả, thực đáng tiếc. 

Hồ Đề tính hay đùa, nàng hỏi: 

– Công-tôn vương-gia, tại sao Vương-gia lại nói đáng tiếc ? Phải chăng Vương-gia cũng là một khách đa tình, say mê nàng, nhưng nàng bị Trường-sa vương nhà Hán cướp mất. Khi Vương-gia được phong Trường-sa vương Thục, tìm nàng để nhặt cái phấn hương thừa? 

Sa-Giang cũng nói: 

– Sư bá! Sư bá đã thấy sư-tỷ Hoàng Thiều-Hoa, Phương-Dung, bà Tú-Anh, vậy sư bá bảo ai đẹp hơn ? 

Công Tôn Thiệu bị hai người hỏi dồn, bối rối: 

– Không! Tôi nghe tiếng nàng đẹp, chứ không hề thấy mặt nàng, còn Hoàng vương-phi với Đào phu-nhân quả thật trên đời tôi chưa thấy ai đẹp hơn. 

Trưng Nhị hỏi: 

– Còn ngôi nhà Trường-sa Định-vương với Hàn Tú-Anh ẩn náu chắc Vương-gia biết chứ ? 

Công-tôn Thiệu gật đầu: 

– Ngôi nhà ở ngoài thành, nằm về phía nam thôn Đào-gia, nay vẫn còn. Cô nương muốn coi sau khi đánh thành tôi sẽ đưa cô nương đi, ngôi nhà kiến trúc bằng đá rất đẹp. Tương truyền Định-vương nhà Hán phái hơn ba ngàn quân vào núi, kiếm những phiến đá đẹp đẽo thành phiến, đem về làm nhà cho nàng ở, gọi là Ngọc-động, danh sĩ đương thời Từ Thẩm, làm một bài từ, ca tụng Ngọc-động và Tú-Anh như sau : 

Phương Thảo thanh thanh, 

Ngọc Động long lanh. 

Dáng người quần hồng, mặt buồn thê lương, 

Nàng cất tiếng hát, ngàn chim họa theo, 

Nào khách anh hùng, nào đế, nào vương, 

Hãy bỏ ngai vàng bệ ngọc về đây … 

Về đây để được quì dưới gót chân nàng. 

(Lược dịch bài từ Mỹ nhân Trường Sa của Từ Thẩm) 

Trưng Nhị lại hỏi: 

– Sau khi Trường-sa Định-vương chết, thì thi thể táng ở đâu ? 

Công-tôn Thiệu đáp: 

– Sau khi y chết có sáu võ lâm cao thủ tên Hợp-phố Lục-hiệp trộm xác đem về chôn ở Vương-sơn phía Đông Nam Trường-sa khoảng ba mươi dặm. Quang-Vũ trùng hưng, muốn cải táng, thầy địa lý bảo đó là ngôi mộ kết phát, y để nguyên, cho xây lăng rất đẹp. Vì Trường-sa có lăng mộ Trường-sa Định-vương, Quang-Vũ mới để em con cô tên Mã Anh làm Thái-thú, hầu trông coi. Chúng ta đánh Trường-sa chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn hơn các nơi khác.

Trưng Nhị tường thuật cho Công-tôn Thiệu nghe những điều Phật-Nguyệt, Trần Năng dọ thám được trong thành Trường-sa, nàng dấu hẳn vụ Hàn Tú-Anh, nàng nói: 

– Vì vậy tôi cho Tế-tác đột nhập thành Trường-sa chờ đợi, nếu Mã Anh cất quân đốt lương ta, tôi sẽ tương kế tựu kế, chiếm thành. Bây giờ Vương-gia có thể cho quân xuất trại, dạo chơi, nhưng đêm phải dọn trại, chuẩn bị áo giáp sẵn, khi quân trong thành khởi sự cướp lương, ta đánh úp lấy thành ngay. Một mặt tôi cho các anh hùng Lĩnh Nam đột nhập Trường-sa, khi khởi sự thì ra tay. 

Trưng Nhị trở về thuyền riêng sắp đặt: 

– Bây giờ sư-thúc Trần Năng cùng với sư-tỷ Phật Nguyệt đến phục ở Đào-gia thôn, còn tôi với Hồ Đề đến phục ở lăng Trường-sa Định-vương, mọi việc ở nhà do sư-bá Lại Thế-Cường trông coi, chúng ta mang theo Thần-ưng để liên lạc. 

Sa-Giang níu áo Trưng Nhị: 

– Sư-tỷ! Sư-tỷ cho em đi với. 

Trưng Nhị tuy mưu trí tuyệt vời, nhưng lại nhiều cảm tình, ngay từ hôm đầu tiên mới gặp Sa-Giang, nàng đã có cảm tình với cô gái Tứ-xuyên nhu mì, lãng mạn này. Nàng biết Sa-Giang yêu Đào Kỳ bằng tất cả mối tình nồng thắm, nhưng Đào Kỳ lại trung thành với Phương-Dung, từ võ công cho đến nhan sắc, trí thông minh, bất cứ phương diện nào Sa-Giang cũng không bằng Phương-Dung. Vì vậy mối tình của nàng tuyệt vọng, để muôn nghìn năm sau là mối vạn cổ sầu. Trưng Nhị thương tình vuốt tóc nàng: 

– Em muốn đi, ta đâu có thể chối từ ? 

Ba người lấy ngựa hướng về phía Nam, dọc đường họ gặp những toán dân chúng sợ chiến tranh, bỏ thành Trường-sa gồng gánh về phương Nam. Hồ Đề mang theo năm Thần-ưng, nàng đặt cho chúng tên Ngũ-ưng, nàng tự tay chăm sóc từ nhỏ, đi đâu chúng cũng bay theo, ba người chậm chạp ruổi ngựa về hướng Vương-sơn, trong khi đó Ngũ-ưng bay lượn trên đầu. 

Trong ba người, Trưng Nhị, Hồ Đề nói tiếng Hán giọng Quế-lâm, còn Sa-Giang nói giọng Tứ-xuyên, ba người thủng thẳng đi, không nói nhiều. Họ giả trang giống như những thiếu nữ vùng Giang-hạ, vì vậy không ai để ý đến họ. 

Bỗng Sa-Giang nói khẽ : 

– Phải cẩn thận, đừng quay lại, phía sau chúng ta có năm kị mã đang phi tới, tốc độ nhanh vô cùng. 

Trong ba người, võ công Trưng Nhị cao nhất, nàng không nghe thấy gì, thế Sa-Giang lại nghe thấy, nàng còn phân biệt được tốc độ của ngựa nữa, thật là tuyệt. 

Hồ Đề hỏi: 

– Sa muội! Trưng sư-tỷ võ công cao hơn sư muội nhiều, tại sao sư-tỷ chưa nghe thấy tiếng ngựa phi, mà sư muội đã nghe thấy ? 

Sa-Giang đáp: 

– Em thấy gió từ sau thổi lại, phớt qua tai rất đều, có những điểm gió như cái đũa, từng đợt từng đợt bật vào đầu, vào tai thì biết do tốc độ mau. Tốc độ mạnh như vậy mà không nghe tiếng kêu, chỉ có thể một con vật nào to lớn từ xa đang lao tới, đúng là ngựa, em mới đoán phỏng chừng. 

Hồ Đề chợt hiểu, Sa-Giang giỏi âm nhạc, nàng thính tai hơn bất cứ ai. Ba người đang nói chuyện, đã thấy tiếng lộp cộp gần, rồi năm kị mã phóng đi như bay. 

Sa-Giang kêu lên: 

– Khúc-giang ngũ-hiệp ! 

Hồ Đề hỏi: 

– Họ là ai vậy ? Sao sư muội biết họ ? 

Sa-Giang đáp: 

– Nguyên năm năm trở về đây, sau khi Ngỗi Thuần đầu hàng, thân phụ em phẫn chí, bỏ đi giang hồ. Phụ thân em cùng em giả đi làm người hát dạo, phiêu bạt khắp nơi, em được nghe biết nhiều về anh hùng thiên hạ. Năm kị mã vừa rồi quê ở Khúc-giang, họ là năm anh em ruột đồng môn, hành hiệp khắp nơi, em gặp họ một lần ở Kinh-châu hồi tháng năm, năm trước, sở trường của họ là những chưởng pháp, quyền pháp, vũ khí họ dùng là roi da, võ công họ rất cao. 

Hồ Đề hỏi Trưng Nhị: 

– Sư-tỷ, Khúc-giang ở vùng nào vậy ? 

– Khúc-giang là một con sông ở quận Nam-hải, chạy giữa ba dãy núi Thạch-sơn, Đào-sơn, Thanh-vân-sơn. Khi Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư mang quân đánh Âu Lạc, vua An-Dương hạ lệnh rút khỏi vùng Nam-hải, Quế-lâm, Tượng-quận, các đạo quân đều tuân theo. Riêng có Phương-chính hầu Trần Tự Minh không tuân lệnh, ngài xuất lĩnh đệ tử kháng chiến chống giặc, sau khi Đồ Thư chiếm quận này trao cho viên quan là Triệu Đà trấn thủ, Đồ Thư chết rồi vua An-Dương cũng không nghĩ đến chiếm lại ba quận phía Bắc. Vì vậy Triệu Đà nhân Trung-nguyên có loạn, lập nước Nam-Việt, Khúc-giang hầu cùng đệ tử chiếm một vùng, không thần phục. Đã nhiều lần mang quân vào đánh đều bị thất bại, Triệu Đà đành để cho Khúc-giang hầu tự trị như một nước riêng biệt.

Hồ Đề chợt nhớ ra điều gì hỏi: 

– Em nghe nói Khất đại-phu, sư-bá Nam-hải đều là giòng dõi Phương-chính hầu. Như vậy Khất đại-phu với Khúc-giang ngũ-hiệp có tình máu mủ ? 

Trưng Nhị gật đầu tiếp: 

– Khúc-giang hầu, đời đời cha truyền con nối làm chủ vùng Khúc-giang. Cho đến khi nhà Hán dứt họ Triệu, Phục-ba tướng-quân nhà Hán là Lộ Bác-Đức mang quân đánh Khúc-giang, Khúc-giang hầu thấy tình thế không ổn, đầu hàng rút về còn phái Khúc-giang mà thôi. Phái Khúc-giang truyền đến đời thứ tám là Trần Phương-Đức. Nhân Thái-thú Nam-hải tàn ác, người giết chết y rồi cùng vợ, con tông tộc chạy xuống Giao-Chỉ lập nghiệp, tới Giao-Chỉ người gác kiếm qui ẩn, không dính líu đến võ thuật nữa. Em trai của người tên Trần Đại-Sinh, tức Khất đại-phu theo học phái Tản-viên, các con của người như Trần Thị Phương-Châu, Trần Thị Phương-Chi, Trần Công-Minh và Trần Quốc-Hương theo học phái Sài-sơn, trở thành bốn vị Thái-bảo sau này. 

Trưng Nhị nghĩ rồi tiếp: 

– Vì vậy võ công của sư bá Nam-hải là võ công của phái Sài-sơn chứ không phải của phái Khúc-giang. Phái Khúc-giang võ đạo rất cao, người nào cũng đầy khí phách. Còn Khúc-giang ngũ-hiệp là nhân vật như thế nào thì ta không rõ, như vậy họ ngang vai với sư bá Nam-hải. 

Hồ Đề hỏi Sa-Giang: 

– Võ công của thân phụ em so với Khúc-giang ngũ-hiệp như thế nào ? 

Sa-Giang lắc đầu: 

– Em không rõ, vì hai bên không đấu với nhau, nghe đâu Mã Viện đã đấu chưởng với một trong Ngũ-hiệp, chỉ một chưởng làm Mã phun máu miệng. 

Trưng Nhị a lên một tiếng nói : 

– Chưởng lực Mã Viện cao hơn ta nhiều, thế mà y chịu một chưởng đã phun máu miệng, thì chưởng lực của Khúc-giang ngũ-hiệp phải cao lắm. Hôm hội quân ở Quế-lâm, Minh Giang đến hành lễ với sư bá Nam-hải gọi bằng sư thúc, Minh Giang là đệ tử của Khúc-giang nhất-hiệp. 

Hồ Đề nói: 

– Khất đại-phu thường nói: Khúc-giang ngũ-hiệp tuy phải gọi người bằng chú, song võ công cao ngang với ngài. Còn Nghiêm đại-ca, người thuộc vai anh Khúc-giang ngũ-hiệp. Khi Thục An-Dương khám phá ra mình bị mắc mưu Triệu Đà, ngài bèn xuống chiếu chỉ nhường ngôi cho con trai sư đệ Phương-chính hầu Trần Tự-Minh là Trần Tự-Anh kế tiếp sự nghiệp ngài, phục hồi Lĩnh Nam, trong chiếu chỉ ngài dặn rõ: 

Nếu một năm không phục được nước thì mười năm, hai mươi năm. Đòi này không phục được thì đời con, đời con không làm được thì đời cháu, miễn đừng bao giờ quên phục quốc là được. 

Trưng Nhị nói: 

– Như vậy Nghiêm đại-ca phải gọi Khất đại-phu bằng chú, người ở vai sư huynh của sư bá Nam-hải, Tiên-yên. Trong lần hội mặt ở Cối-giang người xuất trình gia phả, xuất trình chiếu của An Dương-Vương, nên trên từ Thái sư-thúc Khất đại-phu, Đào-hầu, Đinh-hầu cho tới tôi đều kính cẩn quì gối nghe chiếu chỉ An-Dương-Vương. Kể từ đấy anh hùng Lĩnh Nam nhất nhất tuân theo lệnh Nghiêm đại-ca, coi Nghiêm đại-ca như Hoàng-đế Lĩnh Nam, đáng lẽ tôi phải gọi Nghiêm đại-ca bằng sư-thúc, song gọi đại-ca đã quen rồi, không sửa được nữa. 

Sa-Giang móc trong túi ra một tấm bản đồ vẽ trên lụa đưa cho Trưng Nhị : 

– Sư-tỷ, đây là bản đồ lăng mộ của Trường-sa Định-vương, sư bá đưa cho em để chúng ta biết đường mà đi. 

Trưng Nhị mở tấm bản đồ, đối chiếu với cảnh bên ngoài, nàng chỉ vào một dãy núi nhỏ: 

– Theo bản đồ này, kia là Vương-sơn, lăng mộ Trường-sa Định-vương ở Vương-sơn. Vì là lăng mộ của cha đẻ Quang-Vũ, chắc chắn có quân lính canh phòng. Chúng ta tìm một thôn xóm nào nghỉ chân, tối hãy thám thính. 

Chiều hôm đó, ba người tới Vương-sơn, tìm một nhà nông xin tá túc, chủ nhà là cặp vợ chồng già, không có con, họ thấy ba thiếu nữ xinh đẹp, cưỡi ngựa, trang phục sang trọng, nét nghi ngờ hiện ra trên mặt, Sa-Giang móc một nén bạc đưa cho lão già nói: 

– Thưa hai bác, chúng cháu từ Kinh-châu đi Linh-lăng thăm bà con, xin hai bác cho chúng cháu tá túc một đêm. 

Lão già cầm lấy nén bạc nói: 

– Ba vị cô nương thanh quí thế này, mà ở trong nhà lụp xụp, thực tội nghiệp. Nhà lão chỉ có ba gian, vậy nhường hai gian cho ba vị cô nương, không biết ba vị cô nương ăn uống gì không ? 

Sa-Giang đáp: 

– Chúng cháu mang lương khô theo, không dám phiền hai bác. 

Ăn cơm chiều xong, ba người ra bờ suối nhìn hoa. Bây giờ tiết tháng hai, hoa nở đầy trời, khí hậu mát dịu, ba người cùng ngắm hoa, lòng phơi phới nhẹ nhàng. Tuy họ phải ở trong hoàn cảnh phải làm những chuyện nghiêng trời lệch đất, nhưng bản chất dù sao cũng là những thiếu nữ đương xuân, cho nên trong chốc lát, họ mơ màng thả hồn theo thiên nhiên. Trưng Nhị đọc sách, nhiều tình cảm dễ hòa mình với thiên nhiên. Hồ Đề gốc thiếu nữ ở rừng núi từ thuở nhỏ, thiên nhiên là khung cảnh thích hợp với nàng. Còn Sa-Giang tuy con nhà võ nhưng nàng thích âm nhạc, tính tình lãng mạn, trước cảnh chín vạn hoa trời nở, nàng ngây ngất không ít. 

Ba người ngồi ngắm hoa, mỗi nguời đuổi theo một ý nghĩa riêng biệt, Sa-Giang hỏi Trưng Nhị: 

– Sư-tỷ! Sư-tỷ! Nghĩ gì về ông bà chủ nhân này ? 

Trưng Nhị lắc đầu: 

– Chị không chú ý cho lắm. 

Sa-Giang thở dài: 

– Trưng sư-tỷ! Em muốn nói một câu, nhưng phải xin lỗi trước, sư-tỷ không chấp em mới dám. 

Một tay Trưng Nhị cầm tay Sa-Giang, một tay nâng cằm nàng lên, nói: 

– Từ hôm gặp em, chị đã thấy như quen biết tự bao giờ, đúng như Đại-sư Tăng Giả Nan Đà nói: Chúng mình có tiền duyên với nhau từ kiếp trước. Cho nên chị nghĩ, nếu chị là con trai, chị sẽ bắt em về làm vợ, vì vậy chị nhắc lại: Chúng ta đối xử với nhau như ruột thịt, em có ý kiến gì cứ nói. 

Sa Giang cảm động: 

– Em thấy dường như tất cả sách vở của Trung-nguyên, chị đều đọc hết, hiểu hết, ứng dụng linh động. Võ công chị thuộc loại tuyệt cao, hơn nữa mưu trí không ai bì kịp. Nhưng chị ít tiếp xúc với đời nhiều nên thiếu tinh tế nhỏ nhặt, những tinh tế đó, đối với chị không cần thiết, song đôi khi nó dễ đưa đến nguy hiểm cho chị và cho đại cuộc. 

Trưng Nhị nhận thấy lời Sa-Giang là đúng, về bất cứ mặt gì nàng cũng hơn cô bé này. Duy có một điều, những kinh nghiệm, những xảo trá trên đời nàng kém Sa-Giang, kinh nghiệm của Trưng Nhị do ở sách vở, còn những gì Sa-Giang có do gần mười năm theo phụ thân phiêu bạt khắp nơi thu thập được. 

Sa Giang tiếp: 

– Khi vào nhà cặp vợ chồng nhà quê, em thấy có gì khác lạ, ông nói giọng Trường-sa, bà nói giọng Nam-hải. Bởi vậy em biết họ không phải người vùng này, chẳng qua họ tới đây mưu đồ việc gì khác lạ mà thôi. 

Hồ Đề chợt hiểu: 

– Chị biết rồi, họ gốc người ở nơi khác đến đây mưu đồ việc gì, nên giả làm nông phu, vì nếu họ làm lái buôn họ có thể nói giọng Nam-hải, Trường-sa, đây gốc nông dân chỉ có thể là người Trường-sa mà thôi. Thế nhưng lão bà nói giọng Nam-hải, mười tiếng có đến bảy tám tiếng Việt nhà mình. 

Sa-Giang nói: 

– Bước chân của lão rất vững, đôi mắt sáng như sao, hàm răng trắng đều, cử động tự nhiên. Tỏ ra còn trẻ có nội công thượng thừa. Tuy ông hóa trang bằng chòm râu, mái tóc bạc và tô cho lớp da dăn deo, còn lão bà thì yểu điệu tha thướt, không lên tiếng, dáng đi vững chắc, mắt sáng. Nhất là khi bà mở cửa cho chúng ta, tay áo co lại, để hở ra cánh tay trắng muốt, mịn màng, em tưởng sư-tỷ lịch lãm nhiều, chắc để ý đến điều đó. Không ngờ từ nãy đến giờ, không thấy sư-tỷ đề cập đến, em mới quyết rằng sư-tỷ không chú ý ! 

Trưng Nhị toát mồ hôi: 

– Quả thực chị thiếu thận trọng, thiếu lịch lãm giang hồ, vậy chúng ta phải dè dặt mới được. Hai người này giả làm nông dân ở đây, chắc cũng liên quan đến lăng mộ Trường-sa Định-vương. 

Sa-Giang tiếp: 

– Chúng ta đề phòng, từ nước uống cho đến những việc nhỏ như đi, đứng nhất thiết không được sơ hở. Tối hôm nay chúng ta sẽ thám thính lăng mộ Trường-sa Định-vương. 

Ba người trở về, mở cửa căn nhà bước vào, lão chủ nhà pha trà ra bát mời ba người uống, lão hỏi: 

– Chẳng hay ba vị cô nương quí tính phương danh là gì ? Và sao lại qua đây trong lúc Trường-sa sắp có giặc ? 

Trưng Nhị chỉ Hồ Đề đáp: 

– Hồ sư muội đây người Lĩnh Nam với tôi, chúng tôi là con Lạc-hầu, cha mẹ gửi chúng tôi sang Kinh-châu học, còn đây Trang sư-muội người Thành-đô, chúng tôi cùng theo học một thầy. Nay nhân vì Kinh-châu có loạn, chúng tôi tạm lánh về Lĩnh Nam ít lâu, chẳng hay hai bác quí tính là gì ? 

Lão già nói: 

– Tôi họ Vương, tên Anh, còn đây tiện nội họ Chu tên Nghi-Gia, chúng tôi là nông dân vùng này, vợ chồng chúng tôi có hai con trai đều bị gọi đi lính, thành ra chúng tôi sống cô quạnh một mình 

Chu Nghi-Gia hỏi Trang Sa-Giang: 

– Trang cô nương ở Thành-đô ra Kinh-châu học đã lâu chưa ? Cô nương học về khoa gì ? 

Sa-Giang đáp: 

– Cháu ra Kinh-châu học từ năm trước, bấy giờ Kinh-châu thuộc đất Thục, sau Kinh-châu thuộc Hán, rồi mới đây lại thuộc Thục. Cháu học về âm nhạc, sư phụ của cháu là Trường-giang lão-sư. 

Sa-Giang lưu lạc bên cạnh cha lâu ngày, nàng nói dối rất dễ dàng. Nàng biết Nghi-Gia nghi ngờ nàng không phải từ Thục ra Kinh-châu học, mới hỏi học lâu chưa, vì giữa Thành-đô và Kinh-châu thường bị gián đoạn vì chiến tranh. Bây giờ nàng nói rõ ràng từng chi tiết, Nghi-Gia mới hết ngờ. 

Ba nàng lấy cớ mệt, từ biệt đi ngủ, Sa-Giang với Trưng Nhị lên giường nằm, còn Hồ Đề nhảy lên xà nhà, dựa vào kèo nhà mà ngủ. Nguyên Hồ Đề sống ở rừng lâu năm, nàng thường leo lên cây ngủ như loài khỉ, bây giờ trước cặp vợ chồng nông thôn, nhiều nghi ngờ, nàng lên xà nhà quan sát động tĩnh. 

Nhờ ở trên cao, nàng nhìn sang phòng vợ chồng Vương Anh rất rõ ràng. Hai người đang nằm trên giường, họ ghé tai vào nhau bàn chuyện, nàng lắng tai nghe, nhưng không phân biệt được hai người nói gì. Một lát sau Vương Anh bò dậy, nhẹ nhàng đến cạnh phòng nàng ghé mắt nhìn vào, lắng tai nghe ngóng một lúc, rồi vẫy tay gọi vợ ra ngoài sân. 

Hồ Đề truyền theo xà nhà, đưa tay lên mái tranh giật một cái, mái tranh hở ra lỗ nhỏ, nàng chui khỏi nóc nhà, từ nóc nhà nàng truyền sang cây lớn phía sau, tuột xuống đất bám sát vợ chồng Vương Anh. 

Vợ chồng Vương Anh đến bờ suối ngừng lại, Chu Nghi-Gia lên tiếng: 

– Sư-ca thử đoán xem ba cô gái này là ai ? Họ có phải người du học thực hay không ? 

– Tôi thấy Hồ cô nương bàn tay lớn, nước da đen, chắc không phải người cầm bút. Trưng cô-nương nói năng ôn nhu, văn hoa tất đọc sách nhiều, còn Trang cô-nương thì đúng người đất Thục, như vậy có thể tin rằng họ du học. 

– Sư ca quên mất một điều, giữa lúc chiến tranh thế này, mà ba cô gái dám ra ngoài, thực quái lạ, không hiểu họ có biết võ công không ? 

– Thí dụ họ là người nào chăng nữa, chúng ta cũng mặc họ, ngày mai họ sẽ ra đi, việc ta, ta cứ tiếp tục. 

Hai người nhắm hướng Vương-sơn phóng mình vào đêm tối, thoáng một cái đã biến mất, đủ tỏ kinh công của họ thuộc loại cao siêu. Hồ Đề hú lên một tiếng gọi Ngũ-ưng, lập tức năm con chim Ưng bay lượn trên đầu nàng, rồi đậu xuống các cành cây cạnh nhà, Hồ Đề huýt sáo ra lệnh, lập tức cả năm con bay vút lên cao, hướng theo vợ chồng Vương Anh, Hồ Đề trở về phòng đã thấy Trưng Nhị, Sa-Giang thức giấc, nàng thuật cho hai người nghe về hành động của vợ chồng Vương Anh. 

Trưng Nhị bàn: 

– Chắc chắn vợ chồng Vương Anh có liên quan đến lăng Trường-sa Định-vương, vậy chúng ta cùng đi thám thính xem sao ? 

Ba người nhắm hướng Vương-sơn tiến tới, xa xa trong bóng trăng Hồ Đề thấy Ngũ-ưng bay lượn trên trời, nhờ thế nàng biết rõ vị trí của vợ chồng Vương Anh ở phía Tây lăng Trường-sa Định-vương. Hồ Đề nói: 

– Vợ chồng Vương Anh ở phía Tây của lăng, vậy chúng ta đột nhập vào phía Nam cho khỏi đụng chạm nhau. 

Ba người dùng khinh công lên núi Vương-sơn, xa xa đã thấy lăng mộ hiện ra dưới ánh trăng. Hồ Đề giả tiếng cú, hú lên mấy tiếng, Ngũ-ưng bay lại trước nàng đáp xuống, nàng huýt sáo với Ngũ-ưng. Ngũ-ưng bay lên cao liền, năm con bay năm nơi khác nhau. 

Sa-Giang hỏi: 

– Có phải sư tỷ sai Ngũ-ưng canh chừng bốn phía lăng và vợ chồng Vương Anh không ? 

Hồ Đề gật đầu nói : 

– Trong lăng không có ai, nếu có Ngũ-ưng đã báo cáo cho chúng ta biết rồi, bây giờ ta tìm chỗ ẩn xem sao. 

Ba người cùng ẩn vào một bụi hoa lớn gần mặt chính lăng, Hồ Đề luôn luôn nhìn trên trời quan sát Ngũ-ưng. 

Hồ Đề giảng cho Sa-Giang 

– Sư muội chú ý nghe: bốn Thần-ưng bay lượn bốn phía lăng, dù chỉ con chồn, con cáo xuất hiện, chúng cũng sẽ báo cho mình biết ngay. Còn con Thần-ưng kia nó cứ bay lượn trên đầu chỗ ẩn của vợ chồng Vương Anh, dù họ di chuyển một chút cũng không qua mắt Thần-ưng. 

Bỗng Sa-Giang bịt miệng Hồ Đề: 

– Coi chừng có nhiều tiếng ngựa ở phía Bắc tới. 

Chỉ nháy mắt sau, quả nhiên Thần-ưng canh chừng phía Bắc lăng từ trên cao bổ nhào xuống, rồi bay vụt lên. Chúng kêu lên năm tiếng liền rồi cứ bay lượn phía Bắc lăng. 

Hồ Đề nói nhỏ: 

– Đúng như sư muội nói, họ có năm người tới, Thần-ưng đang bay trên đầu họ. 

Chỉ lát sau có người đi lên, không thấy ngựa. Có lẽ họ đã dấu ngựa dưới chân núi, năm người đi quanh lăng một vòng, Trưng Nhị nhận ra đó là Khúc-giang ngũ-hùng, họ ra hiệu cho nhau rồi ẩn thân vào các bụi cây, cũng may họ không ẩn vào chỗ bọn Hồ Đề. 

Sa-Giang nói nhỏ: 

– Trong lăng có tới ba phe ẩn náu, không biết còn bao nhiêu phe phái nữa ở đây ? 

Trong lòng Trưng Nhị nảy ra nghi vấn : 

– Vợ chồng một khách giang hồ giả làm người nhà quê trong vùng. Đêm đêm phục ở lăng mộ để mưu cầu điều gì ? Khúc-giang ngũ-hùng từ Nam-hải lên đây, cũng ẩn nấp chờ đợi cái gì? Không biết hai phe này có liên hệ với nhau không ? Họ mai phục vì tư lợi, hay vì trận đánh Trường-sa ? Hay vì Hàn Tú-Anh như nàng với Sa-Giang, Hồ Đề ? 

Một lát sau có tiêng Thần-ưng ở phía Đông kêu lên, Hồ Đề nhìn theo nói: 

– Có nhiều người sắp tới nữa có lẽ gần mười người. 

Quả nhiên lát sau có chín người ngựa cùng lên đồi. Họ gồm ba nữ sáu nam, họ mang theo nhiều thứ trên lưng ngựa, sáu người nam gỡ những vật mang theo, đến bày trước chính lăng: Heo, dê, gà, hoa quả, vàng hương, rượu. Họ đốt đuốc lên sáng rực, rồi chia nhau đứng làm hai hàng, ba thiếu nữ thì hai mặc quần áo xanh, còn một mặc quần áo trắng. Trưng Nhị suýt kêu thành tiếng, vì thiếu nữ mặc áo trắng tuổi 19, 20, đẹp tuyệt thế, Trưng Nhị đã thấy vẻ đẹp của Chu Tường-Quy, Hoàng Thiều-Hoa, Nguyễn Phương-Dung, ba người đẹp ngang nhau. Tường-Quy nhu mì, ủy mị, mềm mại như phong lan, Phương-Dung sắc sảo tươi như hoa hải-đường, còng Hoàng Thiều-Hoa thì vẻ đẹp trang nhã có sức hút người rất mạnh. Nay nàng thấy vẻ đẹp của thiếu nữ này, thoang thoảng như bông hoa dưới nước, thấp thoáng như người trong sương, vẻ đẹp như có như không, thực huyền ảo, nhất là trong đêm xuân, dưới ánh đuốc, ánh trăng. Thiếu nữ đến trước lăng, đốt hương lên rồi quì xuống, hai vai nàng rung động mãnh liệt, dường như đang khóc. 

Trưng Nhị cảm thấy kỳ lạ: 

– Thiếu nữ trẻ đẹp này là ai ? Nếu là con cháu Trường-sa vương thì sao không đường hoàng đến ban ngày tế lăng, mà phải đến ban đêm ? Bảo nàng là Hàn Tú-Anh thì không đúng, vì bà là mẹ Quang-Vũ, năm nay Quang-Vũ cũng gần 30 tuổi rồi, bà ít ra cũng phải 50 tuổi mới đúng. Còn thiếu nữ này tuổi khoảng 20 là cùng. Vậy thì Trường-sa Định-vương chết, nàng còn nhỏ lắm, chắc không phải Phi-tần của ông. Vậy nàng là ai ? 

Thiếu nữ mở cái túi, lấy ra một cây đàn cầm. Nàng so phím vuốt tay trên dây, tiếng đàn ai oán não nùng trong đêm tối, nàng cất tiếng ca, tiếng nàng cao vút như muốn bay vào không gian. Sa-Giang biết đó là bài Sở-từ của Khuất Nguyên tên Ly Tao. 

Ly Tao, là một thiên Sở-từ của Khuất Nguyên, ông người thời Chiến-quốc, thuộc tôn thất nước Sở. Ông trợ giúp Sở Hoài-Vương về nội trị, sau bị gian thần dèm pha, không được dùng. Ông phẫn chí làm bài Ly Tao, tình cảm nồng nàn, giọng văn thanh nhã. Bởi vậy sau này khi phê bình văn học, người ta thường ví với Ly Tao: nào tao nhã, thanh tao, rừng tao và tao nhân mặc khách. Bài Sở-từ Ly Tao không được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc, cho đến nay chỉ còn bản phổ nhạc của Từ Thẩm, Vương Hoài và Lý Kế-Xuyên. 

Trên đồi vắng, dưới ánh trăng, ánh đuốc chập chờn, tiếng đàn, tiếng ca, bi ai, khiến cho người cứng rắn như Hồ Đề cũng cảm thấy bải hoải chân tay. 

Thiếu nữ ca hết bài Ly Tao, lại ca đến một bài trữ tình thê lương. Sa Giang nhận ra đó là bài Phượng Cầu Kỳ Hoàng của Tư-mã Tương-Như. Ba người bị ru hồn vào tiếng đàn, tiếng hát, thì cả bốn Thần-ưng đều reo lên trên không. 

Thiếu nữ áo trắng dơ tay vẫy nhẹ nhẹ. Hai thiếu nữ áo xanh, cùng sáu người cầm đuốc quì xuống. Nàng lướt tay trên phím đàn. Hai thiếu nữ áo xanh cất tiếng ca một lượt: 

Ao ao lộc ninh 

Thực dã chi bình, 

Ngã hữu gia tân. 

Cổ cầm suy sinh, 

Suy sinh cổ quảng 

Thừa khương thi tương, 

Nhân chi hiếu ngã, 

Thị ngã chu hàng. 

Hồ Đề ngơ ngác hỏi khẽ Sa-Giang: 

– Bản nhạc này là bản gì, mà sao chị nghe quen quá? 

Sa Giang ghé vào tai nàng nói: 

– Đó là bài ca Lộc Minh trong Kinh thi để tiếc các bậc vua chúa thời xưa. 

Hồ Đề nhớ ra hồi trước đây, mỗi khi tế vua An-Dương-Vương ở Tây-vu. Các nhạc công thường tấu bản này. 

Kinh thi là một trong Ngũ-kinh: Thư, Thi, Dịch, Lễ và Xuân-Thu. Bốn bộ đầu do Khổng Tử san định, tuyển chép lại. Bộ kinh Xuân-thu thì chính ngài là tác giả. Ngũ kinh là sách căn bản giáo dục của Nho-gia. Kinh thi là bộ chép các bài ca dân dã cuối Tây-Chu (1066-770 trước Tây lịch 500 năm). Cương thổ nhà Chu bấy giờ gồm các tỉnh Thiểm-tây, Sơn-tây, Hà-nam, Hà-bắc, Sơn-đông và Hồ-bắc ngày nay. Vua nhà Chu cắt đất phong cho 800 chư hầu. Hàng năm nhà vua gửi quan đến các địa phương, ghi chép bài ca dân gian về nghiên cứu. Cho rằng các bài ca đó, là phản ảnh đời sống dân chúng. Vua nhà Chu xét nội dung các bài Thi để quyết định thăng thưởng, trách phạt chư hầu. Đến đời Khổng Tử còn trên 3000 bài. Ngài tước bỏ hết, còn lại 305 bài. Ngài chia ra: Quốc phong là bài ca dân gian của từng nước một như Chu-Nam, Thiện-Nam, Tề-Phong, Trịnh-Phong v.v... Những bản nhạc như: Quan thư, Đào yêu, Yến yêu, Hùng Trĩ, Tĩnh Nhữ đã trình bày ở các hồi trước, đều là những bài ca trong Quốc Phong. Bài Lộc minh trên đây thuộc phần Tiểu nhã. Nhà nghiên cứu Chu-Hy đời Tống viết trong bài tựa Kinh thi rằng: Tiểu nhã là những bài nhạc tấu trong bữa tiệc. Còn đại nhã để tế các vị vua. 

Lúc mà Trưng Nhị với Hồ Đề nấp ở lăng Trường-sa vương là năm 39 sau Tây lịch. Các nhạc gia Trung-nguyên chưa sáng tác ra được nhiều bản mới, quanh quẩn lại chỉ hát những khúc trong Kinh thi. Thảng hoặc có những đại nhạc gia tài ba như Tống Ngọc, Tư-mã Tương-Như, Chiêu Quân sáng tác mấy khúc còn lưu truyền. Tại Lĩnh Nam thì Trương Chi đỉnh lập ra hẳn một lối sáng tác. Khảo trong hơn 300 cuốn phổ về các danh nhân từ thời Trưng Vương về trước, thấy nói đến các bản sau đây của Trương Chi: Động Đình Ca kể lại mối tình ông với Mỵ Nương. Bản Phù Đổng Thiên Vương ca tụng ngài đánh giặc Ân. Bản Lô hoa tình khúc nghĩa là khúc hát trữ tình dưới bụi lau, ca tụng mối tình của Chử Đồng Tử và Tiên Dung. Còn ba bài Xuân giang dạ vũ nghĩa là mưa trên sông mùa Xuân, Trung thu tý dạ ca bài hát giữa đêm thu, Đoạn trường mang mang nghĩa là mối hận đứt ruột ra. Xét về lời lẽ, thì tác giả không thể là Trương Chi được vì lời ca óng chuốt, nặng ảnh hưởng của thơ Đường. Có hai vấn đề đặt ra: Hoặc ba bản đó không phải của Trương Chi. Hoặc nguyên của Trương Chi rồi người sau sửa đổi lời, nên có lẫn ảnh hưởng của thơ Đường. Tỷ dụ câu: 

Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu 

Phương thảo thê thê Anh vũ châu. 

Thì câu trên lấy trong bài Khuê Oán của Lý Bạch nghĩa là: Ngày xuân ngưng trang điểm, lên lầu buồn nhớ. Câu cuối lấy trong bài Hoàng hạc lâu của Thôi Hiệu nghĩa là: Bãi xa Anh Vũ xa đầy cỏ non. 

Hồ Đề ít đọc sách, nghe thiếu nữ áo trắng đàn, hai thiếu nữ áo xanh hát bài Lộc Minh trong Tiểu-nhã, nàng không biết là phải. Đoạn trên nghĩa rằng: 

Con nai kêu oang oác, 

Nó đừng gậm bèo hoang, 

Khách đến đầy nhà ta. 

Tấu đàn, tiêu mời khách, 

Âm thanh tiêu, đàn hòa hợp, 

Lễ vật dâng lên thành kính 

Bằng hữu đều thương mến, 

Dạy ta đạo lý, đáng kính. 

Tiếng đàn, tiếng ca bi hùng vang lên trong đêm vắng. 

Hồ Đề hỏi nhỏ: 

– Có rất nhiều người, theo bốn hướng lên đây. 

Một lát sau, quả nhiên bốn phía đều có người lên trên núi. Họ tiến tới bao vây thiếu nữ áo trắng và đám người tế lăng. 

Hai thiếu nữ áo xanh một người đeo trường kiếm, một người đeo cây nhuyễn tiên. Hai người liếc mắt nhìn bốn phía, thấy tình hình bất lợi. Thiếu nữ đeo kiếm nói: 

– Sư tỷ! Phải cẩn thận. Có nhiều người tiến vào lăng. 

Thiếu nữ áo trắng vừa đàn, vừa ca, những giọt lệ chảy xuống hai má, dưới ánh sáng của sáu ngọn đuốc, trông càng tăng thêm vẻ đẹp huyền ảo. Đám người mới tới vũ khí sáng choang, khí thế hùng mạnh. Trưng Nhị nhận ra người cầm đầu là Việt-kị hiệu-úy Trương Linh. Trương Linh vẫy tay cho thủ hạ vây kín bọn người tế lăng. Bọn người tế lăng như coi thường đám người của Trương Linh. Sáu người đàn ông vẫn cầm đuốc đứng như pho tượng. Hai thiếu nữ chống kiếm đứng cạnh thiếu nữ áo trắng, thản nhiên như không có gì xảy ra. 

Thiếu nữ áo trắng vừa đàn vừa ca. Giọng nàng bi thiết, tiếng đàn não nùng, khiến người nghe như nát tim, vỡ phổi. 

Tiếng ca vừa dứt, thì thiếu nữ áo xanh đeo kiếm hỏi Trương Linh: 

– Các ngươi là ai? Đêm khuya lên lăng mộ Tiên-đế làm gì? 

Trưng Nhị lấy cùi chỏ sẽ thúc Hồ Đề, Sa-Giang ý nói: 

– Thiếu nữ này dùng chữ Tiên-đế chắc chắn là con cháu Trường-sa Định-vương đây. 

Trương Linh đáp: 

– Tôi là Việt kị hiệu-úy, họ Trương tên Linh. Vâng chỉ dụ Thái-hậu tới đây bắt gian nhân đột nhập lăng Tiên-đế. 

Thiếu nữ áo trắng vẫn không lên tiếng, nàng đưa mắt liếc nhìn Trương Linh hơi cau mày một chút. 

Thiếu nữ áo xanh đeo kiếm chậm chạp nói: 

– Người là Việt-kị hiệu-úy, tức Thống-lĩnh thị-vệ, cấm-quân. Ngươi không ở Lạc-dương, đến đây làm gì? Việc bắt gian nhân đột nhập lăng Tiên-đế là nhiệm vụ của Thái-thú Trường-sa, đâu phải của người? 

Trương Linh đáp: 

– Tôi vâng mật chỉ của Thái-hậu tới đây. 

Thiếu nữ áo xanh đeo roi chỉ vào thiếu nữ áo trắng: 

– Vậy ngươi hãy quì xuống ra mắt sư tỷ ta đi. 

Trương Linh hỏi: 

– Các vị là ai? 

Thiếu nữ áo trắng cau mặt: 

– Ta là ai, không đến cái thứ như ngươi được quyền hỏi bằng giọng hỗn láo như vậy. 

Trương Linh đáp: 

– Ta được mật chỉ của Thái-hậu, tới đây bắt bất cứ ai vào lăng này. Dù hoàng-thân quốc thích. 

Thiếu nữ áo xanh đeo kiếm nhìn Trương Linh hỏi: 

– Ta hỏi Trương tướng-quân điều này: Đương thời Tiên-đế có đức, hậu nhân mới kính trọng, kính trọng mới tế lăng. Như xưa kia Văn-Vương ân đức trải khắp thiên hạ, trăm họ đều nhớ ngày kị mà tế mộ, sao gọi là gian nhân? 

Trương Linh ngẩn người người ra một lúc rồi nói: 

– Thái-hậu chỉ dụ, có nhiều gian nhân, muốn lợi dụng đêm tối, định phạm lăng Tiên-đế, ăn cắp bảo vật, sai ta phục quanh núi này bắt. Vậy các người hãy theo ta về Lạc-dương để Thái-hậu phát lạc. 

Thiếu nữ áo xanh đứng cạnh lên tiếng: 

– Trương hiệu-úy! Ngươi là thần tử nhà Đại-Hán, người núp ở đây đây từ nãy đến giờ, chắc ngươi đoán ra chúng ta là ai rồi? Đã biết chúng ta là ai mà không dập dầu làm lễ, một tội đáng chém đầu. Đã không dập đầu làm lễ, còn nói lời vô lễ, hai tội đáng chém đầu. Ngươi muốn làm phản phải không? Quân này to gan lớn mật thật. 

Trương Linh nghe thiếu nữ áo xanh nói như vậy, y ngẩn người ra tự hỏi: 

– Thái-hậu sai ta đến Trường-sa bắt Hàn Tú-Anh. Nhưng ta xem ra trong ba thiếu nữ, đều không phải Hàn Tú-Anh, vì Hàn Tú-Anh không thể trẻ như thế này được. Không chừng con cháu Tiên-đế cũng nên. Như vậy thì hỏng bét. Vạn nhất là Công-chúa, Quận-chúa thì nguy. 

Y gặng hỏi: 

– Tôi vâng chỉ dụ Thái-hậu đến đây bảo vệ lăng mộ Tiên-đế, cho nên thấy người lạ đột nhập vào lăng, phải tra hỏi. Vàng thau lẫn lộn, khó phân biệt chân giả. Vậy chẳng hay các vị là ai? Các vị là con cháu di thần của Tiên-đế hay thuộc chi nào của nhà Đại-Hán mà đến đây tế mộ? 

Thiếu nữ áo trắng thủy chung không lên tiếng, nàng quì gối, ôm lấy chiếc lư hương bằng đồng trong lăng mà khóc. Tiếng khóc của nàng trong, nhẹ nhàng, nức nớ, nghẹn ngào, làm thiếu nữ áo xanh với Trương Linh phải tạm ngừng tranh luận. Thiếu nữ áo trắng lại lấy cây đàn ra dạo lên những tiếng thanh thoát. Trưng Nhị nhận ra bài Đại Phong. Hồi nàng đi Trường-an, đã thấy nhạc quân tấu lên trước khi Quang-Vũ thiết triều. 

Nguyên hồi Cao Tổ nhà Hán, Lưu Bang, sau khi thắng Sở Bá Vương Hạng Võ, trở về cố hương. Trong lúc hứng chí vì đại nghiệp đã thành, làm bài ca Đại Phong. Từ đó, nhạc quan nhà Hán phổ nhạc, khi thiết triều tấu lên, tỏ uy vũ: 

Đại phong khởi hề! Vân phi dương. 

Uy gia hải nội hề! Qui cố hương. 

An dắc mãnh sĩ hề! Thư tứ phương. 

(Gió lớn dấy lên, mây bay lên trời. 

Oai của ta bao trùm khắp nước, nay trở về quê cũ. 

Ta thu phục mãnh sĩ, chiếm được bốn phương). 

Giọng thiếu nữ áo trắng cao vút, trong mà nhẹ, hòa lẫn với tiếng dàn vang vang trong đêm vắng. 

Dứt bản Đại Phong, thiếu nữ áo trắng, thắp lên tuần hương nữa, lạy 8 lạy rồi sửa lại quần áo. 

Thiếu nữ áo xanh đeo nhuyễn tiên bấy giờ mới lên tiếng: 

– Trương tướng quân, luật lệ của bản triều do Tiêu thừa-tướng soạn ra: Bắt gian phi phải có chứng cớ. Người vâng chỉ Thái-hậu giữ lăng, bắt gian thì gặp gian tế người mới có quyền bắt, đây người gây sự với thần dân vì nhớ ân đức tiên-vương đến tế lăng, đó là tội đáng tru di tam tộc. Còn người thấy chúng ta, biết chúng ta không phải gian tế, mà còn gây sự là hai tội. Được, ta sẽ tâu lên Thiên-tử, người có đến mười cái đầu cũng cụt. Còn chúng ta là ai, ngươi không xứng đáng hỏi đến. 

Trương Linh nghe thiếu nữ áo xanh nói, y mới cảm thấy lạnh gáy: Thái-hậu sai y đi bắt Hàn Tú-Anh. Trong lúc chủ quan, y đã phạm vào một tội trọng đối với luật nhà Hán. Nhìn cung cách, y cũng biết thiếu nữ áo trắng giòng dõi của Trường-sa Định-vương, nếu không phải Công-chúa, cũng Quận-chúa gì đây. 

Bấy giờ thiếu nữ áo trắng mới lên tiếng: 

– Lan-Anh sư muội, ngươi nói cho tướng quân biết ta là ai đi. 

Thiếu nữ đeo kiếm nói: 

– Trương Linh, đây là Công-chúa Vĩnh-Hòa, trưởng nữ của Cảnh-Thủy Hoàng-đế. Còn ta là Quận-chúa của Tấn-công. Ta họ Lý, khuê danh Lan-Anh.. 

Nàng lại chỉ thiếu nữ đeo nhuyễn tiên: 

– Đây là Quận-chúa Chu Thúy-Phượng, trưởng nữ của Ngụy-công Chu Huy. 

Trương Linh nghe Lý Lan-Anh nói, hồn phách bay lên mây. 

Nguyên con thứ của Hán Cảnh-Đế tên Phát được phong Trường-sa Định-vương. Truyền đến đời thứ tư tức cha đẻ của Quang-Vũ. Khi Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, Trường-sa Định-vương đời thứ năm bị hại. Người anh của ông tên Huyền khởi binh ở Quan-trung, xưng hiệu Cảnh-Thủy Hoàng-đế (23 sau Tây Lịch) phong cho hai cháu Lưu Diễn, Lưu Tú (Quang-Vũ) làm tước Vương. Sau khi giết Vương Mãng, ông phong cho ba sư đệ Phan Sùng làm Sở-vương, Chu Huy làm Ngụy-công, Lý Điệt làm Tần-công. Sau Phan Sùng cầm quân trong tay, làm phản, giết Lưu Huyền. Hai sư đệ Lý Huy, Chu Điệt cũng bị giết. Vì Phan Sùng là người râu, tóc đỏ hoe nên người đời gọi là Xích-mi. 

Lưu Diễn nhân đó cầm quân đánh Xích Mi, lấy cớ cháu kế nghiệp bác. Diễn chết, con còn nhỏ. Nghiêm Sơn cùng các tướng tôn em là Lưu Tú lên thay. Cảnh-Thủy Hoàng-đế không có con trai, chỉ có một con gái. Để lấy lòng sĩ dân, Quang-Vũ phong cho con gái Lưu Huyền làm Vĩnh-Hòa Công-chúa, con gái Lý Điệt và Chu Huy làm Quận-chúa, ban cho một cây Thượng-phương kiếm, được quyền trên trảm hôn quân, dưới trảm gian thần, mà không phải tấu. 

Trương Linh thấy mình đã phạm tội nặng. Nếu có quì xuống kêu van, chắc cũng không toàn mạng. Thôi thì một liều ba bảy cũng liều. Y phải giết chết ba người rồi tìm cách bắt Hàn Tú-Anh. Nếu việc bại lộ, đã có Thái-hậu che chở. 

Nghĩ vậy, y quát lớn: 

– Bọn gian tế thực lớn mật, giám mạo xưng Công-chúa, Quận-chúa. Bây đâu, bắt lấy chúng cho ta. 

Lý Lan-Anh rút kiếm ra quát lớn: 

– Phản rồi! Phản rồi! 

Bọn võ sĩ theo Trương Linh cũng rút binh khí nhảy vào bắt sáu thanh niên cầm đuốc. Sáu thanh niên rút binh khí chống trả. 

Hồi 24 Hận tình chưa trả cho ai, Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan.

(Đoạn trường Tân Thanh)

Sáu võ sĩ theo hầu Công-chúa Vĩnh-Hòa buông đuốc rút binh khí chiến đấu. Họ là những võ sĩ bản lĩnh cao. Nhưng chỉ có sáu người trong khi phía Trương Linh tới trên trăm người. Nên một lát sau, sáu người yếu thế dần. 

Lý Lan Anh thấy vậy rút kiếm quát lớn: 

– Ngừng tay! 

Cả hai bên đều lui lại. 

Lý Lan Anh đưa kiếm ra nói: 

– Đây, Thượng phương bảo kiếm của thiên tử ban cho chúng ta. Từ xưa thấy kiếm như thấy Thiên tử. Các ngươi mau quì xuống nghe chiếu chỉ. Đám võ sĩ nhìn Trương Linh, lòng nghi hoặc. 

Trương Linh hoảng sợ, quát lên: 

– Các người phải bắt cho được ba nữ tặc nầy. Đó là chỉ dụ của Thái hậu. Nếu ba tên nữ tặc chạy trốn, tất cả đều mất đầu. 

Khi rời Lạc Dương đi Trường Sa, Trương Linh đã lực lấy một trăm vệ sĩ trong hoàng cung, đều võ nghệ cao cường, chân tay thân tín của y. Cho nên nay gặp hoàn cảnh hiểm nguy. Họ vẫn trung thành, nghe lệnh. 

Đám vệ sĩ hoàng cung lại nhảy vào tấn công. Sáu võ sĩ hộ vệ Vĩnh Hòa, chiến đấu rất can trường. Song họ ít người, không chống cự được. 

Người cầm đầu kêu lớn lên: 

– Bọn phản tặc làm lộng, xin Công chúa tạm dời gót. Bọn hạ thần cương quyết lấy cái chết báo ơn Công chúa. 

Y vừa dứt lời, đã bị đánh ngã. Bọn vệ sĩ hoàng cung bắt sống năm người còn lại. Chúng cùng nhìn Trương Linh hỏi ý kiến. Trương Linh chỉ Vĩnh Hòa quát: 

– Hãy bắt ba nữ tặc ngay. 

Bọn vệ sĩ nhảy vào bắt Vĩnh Hòa, Lý Lan Anh và Chu Thúy Phượng trói lại. 

Bấy giờ Trương Linh mới nói với đám vệ sĩ: 

– Các vị huynh đệ nghe nay: chúng ta vâng chỉ dụ của Thái Hậu bắt khâm phạm. Không ngờ gặp bọn này. Nếu để cho chúng đi, thì lỡ việc của Thái Hậu, tất Thái hậu sẽ cắt đầu chúng ta. Vậy anh em nghĩ sao? 

Bây giờ đám thị vệ vệ mới biết ba thiếu nữ là Công chúa, quận chúa thật. Họ biết ba người này có Thượng Phương bảo kiếm, cho phép được tiền trảm hậu tấu. Nếu thả họ ra lỡ việc thái hậu khó an toàn mạng. Còn bắt họ, sẽ bị khép vào tội rất nặng. Tất cả đồng nhìn Trương Linh để hỏi ý kiến. 

Một người hỏi: 

– Trương tướng quân bảo rằng nay là ba tên khâm phạm, chúng tôi mới ra sức bắt. Bắt rồi tướng quân mới công nhận họ là Công chúa, Quận chúa. Thế thì tội ở tướng quân, chứ không phải tội ở chúng tôi. 

Y quay lại nói với anh em: 

– Các vị huynh đệ, sự thể đã ra thế này, chúng ta cứ thả công chúa ra rồi tùy lượng công chúa tha hay không cũng không cần. Bất quá chúng ta mất mạng. Còn nghe theo Tướng quân, có thể đưa đến họa diệt tộc. 

Đám thị vệ ngơ ngác nhìn nhau tìm quyết định chung. 

Trương Linh hoảng sợ, quát lớn: 

– Các ngươi dám trái chỉ dụ của thái hậu ư? Đây ta đọc chỉ dụ của Thái Hậu cho các ngươi nghe. 

Y móc trong túi ta một cuộn giấy, mở ra đọc lớn: 

"Nay chỉ dụ cho Việt kị Hiệu úy Trương Linh tức tốc lên đường đi Trường Sa canh gác lăng Tiên đế. Bất cứ ai tới tế, hay khóc tại lăng đều phải bắt về Lạc Dương phục lệnh. Các quan văn võ địa phương từ thái sứ trở xuống đều phải tuân lệnh đều động của Trương tướng quân." 

Bên dưới ấn son đóng đỏ chói. Các thị vệ hoàng cung truyền nhau đọc. Bây giờ Trương Linh mới nói: 

– Nếu chúng ta thả ba người này ra, lỡ việc của Thái hậu, sẽ bị giết. Còn giải họ về Lạc Dương, Hoàng thượng sẽ giết chúng ta. Chi bằng chúng ta giết họ, bịt miệng, như vậy là thượng sách. 

Đám vệ sĩ nhìn nhau tần ngần rồi đồng gật đầu. Trương Linh chỉ một vệ sĩ nói:

– Lưu đội trưởng. Ngươi cùng anh em chém chin đứa này ngay. Sau đó lấy củi chất thành đống. Chúng ta đốt chín cái thây ma cháy thành than, phi tang. 

Tên đội trưởng họ Lưu rút dao ra, vung lên hướng vào cổ Công chúa Vĩnh Hòa chém xuống. Cả trăm thị vệ hoàng cung đều nhắm mắt lại, không dám nhìn nhát dao chặt đầu con người sắc nước hương trời. Bỗng choang một tiếng. Tia lửa tóe ra ngay cổ Công chúa, thanh đao trên tay Lưu đội trưởng bay lên không, cắm phập vào một cây gần đó. Cán dao còn rung rinh không ngớt. 

Trương Linh hỏi: 

– Cái gì vậy? 

Lưu đội trưởng mặt nhợt nhạt: 

– Không biết nữa, có lẽ y thị có tà thuật. 

Trương Linh bảo một tên vệ sĩ khác: 

– Ôn Bình, ngươi thử xem. 

Ôn Bình cầm đao, hướng vào cổ Vĩnh Hòa bổ xuống. Khi đao sắp tới cổ Vĩnh Hòa lại "choang" một tiếng, tóe lửa, đao của hắn bay vọt lên cắm vào cành cây. Kỳ diệu ở chỗ hai thanh đao cùng cắm vào một chỗ, nhưng mũi chụm vào nhau, mà chuôi chĩa về hai hướng khác nhau. 

Trương Linh ngạc nhiên đến đờ người ra. Y đứng nhìn công chúa Vĩnh Hòa suy nghĩ xem tại sao lại có hiện tượng đó. 

Dưới bụi hoa Trưng Nhị nhìn rất rõ. Khi tên đội trưởng họ Lưu cũng như Ôn Bình cung đao chém Công Chúa Vĩnh Hòa, thì một người núp trong góc cây gần đó, tay cầm sợi giây, vận kình lực vào, khiến sợi giây như con rắn, vươn cổ về phía trước, "mổ" đúng vào thanh đao. Đao bị kình lực hất bắn lên trên không, tuyệt ở chỗ sợi giây đi chậm mà kình lực mạnh kinh người. 

Trưng Nhị ngạc nhiên: 

– Ta tưởng trên đời này chỉ có thái sư thúc Khất Đại Phu và Đào hiền đệ có thể làm được như vậy mà thôi. Không hiểu người này đến đây tự bao giờ, mà Thần Ưng của Hồ Đề cũng không khám phá ra. 

Hồ Đề nói sẽ vào tai Trưng Nhị: 

– Có nhiều người lên núi Vương Sơn, chắc chắn là quân Hán, chúng ta rút lui hay cứ đứng đây ? 

Trưng Nhị ghé tai Hồ Đề nói nhỏ: 

– Su muội hãy rút khỏi núi ngay, dùng Thần Ưng đưa tin cho Phật Nguyệt và Trần Năng, mang đội Thần Hổ, Thần Báo đến đây. Nhớ bao vây núi thật kỹ, không cho một người chạy thoát. 

Hồ Đề lui ra, men mép rừng, nhảy vọt lên cây, truyền theo cành đi như 1 con khỉ. 

Nguyên Hồ Đề sống ở sơn cước từ nhỏ, nàng huấn luyện Thần Hầu đã quen, nàng cũng truyền cành cây đi như loài khỉ được. 

Về phần Trương Linh y vẫn chưa khám phá ra kỳ nhân núp sau bụi cây, dùng kình lực biến sợi giây biến thành ám khí vừa nhu vừa hòa vừa cương mãng đánh bay đao của hai tên bộ hạ. 

Y cho rằng công chúa Vĩnh Hòa có phép tắc gì, y rút kiếm chém vào quân chúa Chu Thúy Phượng, kình lực cực mạnh, đến "véo" một tiếng, lưng y hướng về phía kỳ nhân phóng dây cứu công chúa Vĩnh Hòa. Trưng Nhị hoảng hốt, nàng định ra tay, nếu không Chu Thúy Phượng phải chết. Không ngờ sợi dây từ bụi cây vọt lên cao, uốn vòng qua người Trương Linh, đầu sợi dây lại "mổ" đụng vào lưỡi kiếm của y "choang" một tiếng, lưỡi kiếm của y bay lên cắm vào cùng một chỗ với hai lưỡi đao, lần này Trương Linh cảm thấy có một kình lực nhu hòa vòng qua đầu mình, y không rõ đối phương làm thế nào mà có thể đánh bay vũ khí của mình. 

Y quay lại nhìn phía sau, quát lớn: 

– Cao nhân phương nào ? Xin xuất hiện tương kiến, tại sao lại ẩn ẩn náu náu như vậy ? 

Vẫn không có tiếng trả lời, y nhìn về phía phát ra kình lực, thấy một bụi cây, y đoán người phóng kình lực cứu Chu Thúy Phượng núp ở đó, y nhảy vèo đến, tay rút kiếm xuất chiêu chém xuống. 

Trưng Nhị súyt bật cười, vì người phóng dây ngồi ở bụi cây phía sau, mà Trương Linh lại phóng kiếm vào bụi cây có một trong Khúc Giang Ngũ Hiệp ẩn náu. 

Trương Linh đâm kiếm thứ nhất, không thấy gì, y đâm kiếm thứ nhì cũng không thấy gì, khi y thu kiếm về thì kiếm y như bị đóng vào cây cột, y cố gắng nhổ không ra, biết gặp điều bất ổn, y buông kiếm, rút trong bọc ra 5 mũi phi trùy, phóng vào bụi cây, phi trùy trúng vào, thì một bàn tay vung lên, bắt cả 5 mũi, một người đứng úy Tướng Quân, này kiếm và phi trùy đây, người cầm lấy đi. 

Bấy giờ Trương Linh mới nhìn kỹ đối phương, đây là người tướng mạo hùng vĩ, cao hơn y một cái đầu, tuổi khoảng 45, 46, Trương Linh nhìn nét mặt ôn nhu, tiêu sái của người đó, trong lòng bớt sợ một chút, y nghĩ thầm: 

– Người này tuổi cũng chưa già, tại sao công lực lại cao đến dường này, hai ngón tay y kẹp thanh kiếm mà ta cố vùng vẫy cũng không ra, không lẽ trên đời có người công lực cao đến dường này ư ? 

Trương Linh hỏi: 

–Tôn giả là ai ? đêm khya giá lâm lăng mộ này có chuyện gì ? 

Người đó đáp bằng giọng ôn nhu: 

– Tại hạ Trần Ngũ Gia, người đất Lĩnh Nam. 

Câu này khiến Trưng Nhị suýt bật thành tiếng, vì tất cả anh hùng Lĩnh Nam, trong đại hội Tây Hồ quyết định rằng từ nay khi giao đấu với ai thì bao giờ cũng giới thiệu tên mình rồi thêm vào câu "người Lĩnh Nam", như vậy Khúc Giang Ngũ Hiệp chắc cũng mưu phục quốc như nàng. 

Trong đại hội trên con thuyền của Tang Cối Giang bàn kế hoạch khởi nghĩa, Khúc Giang Ngũ Hiệp không về kịp, cho người đưa thư nói rằng: Anh hùng Lĩnh Nam quyết định gì, Khúc Giang Ngũ Hiệp sẵn sàng tuân theo, có lần nàng hỏi về nguồn gốc Khúc Giang Ngũ Hiệp, Khúc Đại Phu trả lời rằng: Khúc Giang Ngũ Hiệp quê ở Khúc Giang, thuộc Nam Hải, họ là cháu chín đời Tể Tướng Âu Lạc Phương chính hầu Trần Tự Minh, võ công cực cao, người nào cũng võ công cao ngang với Khất Đại Phu, Khất Đại Phu cũng giòng dõi Phương Chính Hầu, so vai vế ông ở vai thúc phụ. Khúc Giang ngũ Hiệp là sư phụ của Minh Giang, hiệu là Phấn Oai Đại Tướng Quân, chỉ huy đạo quân Quế Lâm. 

Trương Linh nghe tới Trần Ngũ Gia thất kinh: 

– Tiên sinh có phải đệ ngũ nhân trong Khúc Giang Ngũ Hiệp không ? 

Trần Ngũ Gia đáp: 

– Không dám, tại hạ người thứ năm. 

Trương Linh đã có vẻ xuống nước: 

– Hôm nay tiểu tướng được diện kiến đệ ngũ tiên sinh trong Khúc Giang, thực vạn hạnh. Thảo nào người dùng kình lực đánh bay đao kiếm của bọn tiểu tướng. 

Trần Ngũ Gia lắc đầu: 

– Bắt ám khí, giữ kiếm của tướng quân là tại hạ, còn người dùng kình lực nhu hòa bay kiếm đao của các vị là một cao nhân khác, muôn ngàn lần anh em tại hạ không bằng. 

Trần Ngũ Gia vỗ tay một cái, bốn người còn lại trong Khúc Giang Ngũ Hiệp đồng xuất hiện. 

Trần Ngũ Gia giới thiệu: 

– Đây bốn vị sư huynh của tại hạ. 

Bỗng Ôn đội trưởng lùi lại chỉ Trần Tứ Gia 

– Ngươi! Ngươi là phản tặc. 

Y nói với Trương Linh: 

– Trương tướng quân! Đây là tên khâm phạm ghê gớm của triều đình. 

Trương Linh hỏi: 

– Sao ngươi biết ? 

Gã họ Ôn đáp: 

– Hôm trước thái hậu sai tiểu nhân mang một tên thị vệ là Trương Minh Đức xử tử, thì tên này từ đâu xuất hiện, giết hơn ba chục thị vệ, cứu tên Trương Minh Đức đi mất, thái hậu, hoàng thượng rất căm hận y. 

Trương Linh nghe danh Khúc Giang Ngũ Hiệp từ lâu, võ công của y so với một trong ngũ hiệp, ví như con đom đóm với mặt trăng mặt trời, muôn ngàn lần y không dám so sánh. Bây giờ nghe gã họ Ôn nói vậy, y lâm hoàn cảnh khó xử, gặp khâm phạm mà không bắt, tội không nhỏ, mà muốn động thủ với Khúc Giang ngũ hiệp chỉ có nước chết, y hỏi gã họ Ôn: 

– Ngươi trông lầm đấy chứ ? 

Gã họ Ôn chưa đáp, Trần Tứ Gia đáp: 

– Gã họ Ôn nói đúng, chính tay ta giết chết 29 tên thị vệ, cứu tên Trương Minh Đức. Trương Minh Đức là một tên thị vệ nhỏ bé, y có cô vợ người Việt tên Chu Tường Qui xinh đẹp bị Quang Vũ cưỡng đoạt, Mã Thái Hậu đổ lên đầu y tội phản nghịch, rồi đem chém để diệt khẩu, nên ta phải ra tay cứu y. 

Trương Linh lùi lại bốn bước, y có ý khoa trương lực lượng cho Khúc Giang Ngũ Hiệp tránh đi chỗ khác : 

– Anh em thị vệ nghe đây, chúng ta bắt ba nữ tặc này trước đã, rồi mới bắt khâm phạm sau. Này Khúc Giang Ngũ Hiệp! Các vị mau rời khỏi nơi đây, chúng ta không muốn đấu với ngươi ở lăng mộ tiên đế, sợ ô uế. 

Trần Tứ Gia cười khẩy: 

– Ngươi có biết đây là đâu không? 

Trương Linh nói lớn: 

– Đây thuộc lĩnh địa Trường Sa. 

Tứ Gia gật đầu: 

– Trường Sa thuộc Lĩnh Nam, ta là người Việt, ta đứng trên đất tổ tiên ta, các ngươi bọn Hán bốn chân, phải rời khỏi nơi đây tức khắc 

Trương Linh không muốn tranh hơn thua với Khúc Giang ngũ hiệp, y bảo bộ hạ: 

– Hãy bắt 3 nữ phạm này trước, rồi mới nói chuyện khác sau. 

Khúc Giang ngũ hiệp đứng im lặng, không nói gì, một lát sau Trần Nhất Gia nói:

– Trương tướng quân, Vĩnh Hòa Công Chúa với anh em tại hạ có chút ân nghĩa, anh em tại hạ dám lớn gan xin tướng quân cho anh em tại hạ đón Công Chúa đi được không? 

Trương Linh lắc đầu: 

– Khúc Giang ngũ hiệp là con dân nhà Hán, phải tuân theo phép nước, tại hạ được chỉ dụ của thái hậu bắt những người này vễ kinh phục mệnh, không thể tuân theo ngũ hiệp được. 

Quận Chúa Lý Lan Anh chỉ mặt Trương Linh nói: 

– Các ngươi là phản tặc, tội đáng chu di, các ngươi phạm tội, còn muốn giết người diệt khẩu. Trần Ngũ sư thúc, đệ tử dám xin sư thúc giết tên Trương Linh dùm tiểu nữ. 

Trần ngũ Gia thản nhiên nói với Trương Linh: 

– Trương tướng quân! Nếu thật sự tướng quân tuân chỉ thái hậu, khi về Lạc Dương đối chất sẽ rõ trắng đen, Lý quận chúa là đệ tử của đại sư huynh tôi, vì vậy một là chúng tôi phải duy trì công đạo, hai là phải bảo vệ đệ tử. 

Ông vừa dứt câu, người lạng đi một cái hai tay biến thành trảo chụp Trương Linh, Trương Linh hoảng kinh, vận sức phóng chưởng đánh vào ngực ông. Bùng một tiếng, người ông chỉ hơi rung động hai tay ông túm được y, rắc, rắc hai tiếng cánh tay y bị bẻ quẹo ra phía sau. Ông định quăng y cho đám vệ sĩ của công chúa Vĩnh Hòa trói lại, thì có tiếng quát lớn: 

– Tha Trương tướng quân ra ngay, không thôi chúng tôi buông tên, chết cùng chết cả. 

Xung quanh núi Vương Sơn xuất hiện không biết là bao nhiêu cung thủ, trong tư thế tên đặt lên cung chờ buông. 

Trưng Nhị đã được Hồ Đề báo cho biết trước có quân Hán lên núi, nên nàng không ngạc nhiên. 

Người cầm đầu đám cung thủ Hán không mặc quần áo theo quân binh, mà lại mặc theo lối Lĩnh Nam. 

Trưng Nhị nghĩ: 

– Ta nghe nói trong thành Trường Sa có ba đại cao thủ là Tượng Quân Tam Anh, chắc ba người này đây, người cao lớn kia là Hàn Bạch, người cao lớn lênh khênh kia chắc là Vương Hồng, còn người lùn kia chắc là Chu Thanh. 

Trần Ngũ Gia cười lớn: 

– Các vị có phải Tượng Quân Tam Anh đấy không ? 5 anh em tại hạ họ Trần ở đất Khúc Giang, hân hạnh được tương kiến hào kiệt Lĩnh Nam. Tại hạ thường nghe tiếng ba vị như sấm nổ bên tai. Hàn đại hiệp nội công cao nhất thiên hạ. Vương đại hiệp chưởng lực hùng hậu, không ai chịu nổi hai chưởng. Chu đại hiệp kiếm thuật thần thông, võ công các vị lừng danh tượng quận, hiệp nghĩa vang thiên hạ, khiến cho đất Lĩnh Nam chúng ta người người đều hãnh diện. 

Hàn Bạch thấy đối phương tư thái ung dung, nhàn nhã, rõ ra một đại tôn sư võ học, đã vậy lại ca tụng võ công hiệp nghĩa của mình rồi còn thêm vào câu "người Lĩnh Nam hãnh diện", vội chắp tay đáp lễ. 

– Không giám, anh em tại hạ đã từng nghe nói:"Nếu là Anh Hùng Lĩnh Nam mà chưa được diện kiến Khúc Giang ngũ hiệp thì chỉ là hư danh", hôm nay anh em tại hạ được tham kiến ngũ hiệp, thật là tam sinh hữu hạnh. Trương tướng quân đây vô ý mạo phạm đến ngũ hiệp, xin ngũ hiệp nể mặt anh em tại hạ mà tha cho y. 

Trưng Nhị nghe Hàn Bạch câu đo, cười một mình: 

– Võ công Hàn Bạch tuy cao, nhưng kiến thức thua xa Khúc Giang ngũ hiệp, Khúc Giang ngũ hiệp bị vây, mà vẫn bình tĩnh như thường, thái độ ung dung. Rõ ràng Tượng Quân Tam Anh là kẻ thù, vẫn ôn tồn lễ độ, kẻ thù có cái hay, cái giỏi, vẫn khen cái hay cái giỏi, còn biết khơi lòng yêu nước của kẻ thù bằng câu khen họ nổi tiếng Lĩnh Nam. Khúc Giang ngũ hiệp mà gặp Cửu Chân song kiệt Đào Thế Kiệt và Bình Đại, chắc chắn họ kết thành những người bạn chí thân, từ tư thái võ đạo, lòng yêu nước đều giống nhau. 

Từ lúc xuất hiện đến giờ, Trần Nhất Gia để cho Ngũ Gia nói, ông im lặng, bây giờ ông mới lên tiếng: 

– Ngũ đệ, hãy tha Trương tướng quân ra, giữa Anh Hùng Lĩnh Nam chúng ta lấy võ đạo, nghĩa khí đối với nhau là đủ, huống chi đã có lời của Tượng Quân nhất hiệp. 

Trần Ngũ Gia xách Trương Linh tới trước mặt Hàn Bạch: 

– Trương tướng quân, chúng ta thả Trương tướng quân ra là nể lời Tượng Quân Tam Anh, còn việc Trương Tướng Quân thấy Thượng Phương kiếm của Thiên Tử, bất tuân chỉ, còn mưu giết công chúa là việc của triều đình nhà Hán, không liên quan gì đến người Lĩnh Nam ta. 

Câu nói này của Trần Ngũ Gia có nghĩa: Ta chỉ nể Trường Sa Tam Anh nên tha cho, còn công chúa, quận chúa có tha hay không đó là chuyện của người Hán. 

Quận chúa Chu Thúy Phượng rút kiếm đưa lên, tay chỉ công chúa Vĩnh hòa : 

– Tướng sĩ, cùng chư quân nghe đây: vị này là Vĩnh Hòa công chúa, trưởng nữ của Cảnh Thủy Hoàng Đế, còn đây là quận chúa của Tấn Công, còn ta là quận chúa của Ngụy Công, chúng ta được Kiến Vũ Thiên Tử ban cho thanh Thượng Phương bảo kiếm, trên có thể trảm hôn quân, dưới có thể trảm loạn thần, chúng ta nhân qua đây vào tế lăng Tiên Đế, bị tên Trương Linh làm phản dẫn trên 100 tên bộ thuộc đến bắt chúng ta toan giết đi, vậy tất cả tướng sĩ đều vô can. Các ngươi thấy Thượng Phương bảo kiếm cũng như thấy Thiên Tử, ai bắt được Trương Linh ta sẽ bảo tấu Thiên Tử phong tước, ai theo y bị chém cả ba họ. 

Quân Hán nhao nhao muốn nhảy vào bắt Trương Linh, khiến y kinh hoàng hỏi Hàn Bạch: 

– Hàn Đô Úy, ngươi cùng Mã quốc cữu cũng như ta nhận mật chỉ của thái hậu, canh gác lăng Tiên Đế bắt những ai đến tế lăng, vậy nay ba người này là công chúa, quận chúa mặc lòng, chúng ta phải bắt về Lạc Dương phục mệnh. 

Hàn Bạch lắc đầu: 

– Chúng ta vâng mật chỉ bắt người khác, chứ không phải để bắt công chúa, theo tại hạ thì, tướng quân lúc đầu vì lầm lỡ, trót mạo phạm công chúa, lại muốn giết người bịt miệng, việc này không liên quan đến mật chỉ của Thái Hậu, tại hạ nghĩ tướng quân nên tạ tội với công chúa đi là xong. 

Trương Linh muốn đổ quạu với anh em Hàn Bạch, vì y vâng mật chỉ của thái hậu làm việc, khi ra đi Mã thái hậu đã dặn rằng nhất thiết cần bảo mật tối đa, những ai vô tình hay hữu ý biết việc này phải giết không tha, dù là hoàng thân quốc thích. Thái hậu dặn rằng, trong đám vệ sĩ hoàng cung đi theo, sau khi mọi việc xong xuôi cũng đều giết hết. Thế mà nay hiện diện tại đây không phải chỉ có 100 vệ sĩ, còn 9 người tế Lăng, anh em Khúc Giang ngũ hùng và cả ngàn binh sĩ của Trường Sa, y luống cuống không biết giải quyết sao, thì Tượng Quân Tam Anh lại không nghe lời y. 

Trần Nhất Gia tiếp lời: 

– Trương tướng quân! Lăng mộ các danh nhân, bất cứ ai có lòng ngưỡng mộ người quá cố, đều có thể đến tế lễ, có đâu lại bắt giam ? Tại hạ e rằng mật chỉ của thái hậu mục đích bắt người nào đến giả tế lăng, ăn cắp bảo vật, chứ đâu để bắt hoàng thân quốc thích ? 

Chu Thúy Phượng chỉ vào mặt Trương Linh: 

– Mật chỉ của thái hậu chưa thể phân biệt được thực hay giả. Còn chúng ta là công chúa, quận chúa cùng Thượng Phương bảo kiếm là thực, không nghi ngờ gì nữa. Chư quân nghe đây: các ngươi nghe theo Trương Quân làm phản, tội đáng chu di tam tộc, nếu nay các ngươi bắt được y, sẽ được ân xá, còn được ban thưởng. 

Trong khi Thúy Phượng nói, công chúa Vĩnh Hòa, quận chúa Lan Anh, vệ sĩ đã lui ra ngoài vòng vây cuả quân Hán, khi nàng nói xong câu đó, nhảy lùi lại lại bước, Trương Linh lọt vào giữa vòng vây. 

Thúy Phượng hô lớn: 

– Cung thủ, nạp tên. 

Các cung thủ cùng nạp tên, hướng vào Trương Linh, chỉ chờ lệnh, buông tên, Trương Linh đưa mắt, nhìn Tượng Quân Tam Anh. 

– Hàn Đô Úy, Vương Đô Sát, Chu tướng quân, các ngươi thấy chủ tướng lâm nguy, đứng tọa thủ bàng quang ? 

Công Chúa Vĩnh Hòa chỉ mặt Trương Linh: 

– Tên phản tặc, hôm nay ta dùng Thượng Phương bảo kiếm giết ngươi, ngươi đâu còn tư cách Việt Kỵ Hiệu Úy nữa ? Ta sẽ thượng biểu về triều, chu di tam tộc nhà ngươi. 

Trương Linh cảm thấy nguy cơ, y nhìn trước nhìn sau tìm lối thoát, nhưng quân Hán dầy đặc, chỉ cần mệnh lệnh ban ra, người y bị hàng trăm mũi tên bắn vào. 

Y vội quì xuống hướng vào Công Chúa: 

– Tiểu tướng trong lúc tuân chỉ thái hậu, có đôi chút lầm lỡ xin công chúa đại ơn đại đức tha cho tiểu tướng. 

Nói rồi y đập đầu xuống đất binh binh không ngừng. 

Vĩnh Hòa vẫy tay cho vệ sĩ trói y lại, nói với Tượng Quân Tam Anh: 

– Các vị vô can, đâu cứ về đó, thôi các vị mang quân về Trường Sa đi. 

Tượng Quân Tam Anh muốn nói chuyện riêng với Khúc Giang Ngũ Hiệp. Họ ra lệnh cho quân rời khỏi lăng, khi quân đi rồi Hàn Bạch hướng vào ngũ hiệp: 

– Chẳng hay ngũ hiệp giá lâm Trường Sa có điều chi dạy bảo: 

Trần Nhất Gia mỉm cười: 

– Các vị hào kiệt Tượng Quân, các vị nguyên là anh hùng người Việt thuộc Lĩnh Nam, mấy nghìn năm trước từ Ngũ Lĩnh về phương Nam thuộc nước Văn Lang sau là Âu Lạc, từ Ngũ Lĩnh đến Bắc thuộc Trung Nguyên, cương thổ đã định, văn hiến có khác, tập tục không đồng. Nay Lĩnh Nam bị người Hán cai trị, coi chúng ta như trâu như lợn, người người muốn sống không được, các anh hùng thuộc Giao Chỉ Cửu Chân, Nhật Nam, Quế Lâm đã chuẩn bị xong, đang trên đường phục quốc, không lẽ Tượng Quận, Nam Hải chúng ta ngồi ôm cây đợi thỏ hay sao ? 

Trần Nhị Gia thấy bọn Hàn Bạch cúi đầu suy nghĩ thì tiếp: 

– Đất nước này là của chúng ta. Người Hán đến ngồi lên đầu lên cổ, rồi ban cho ta một vài chức nhỏ mọn cầm gươm giết hại người ruột thịt của mình. Như ba vị, võ công bỏ xa Mã Anh, Trương Linh. Kiến thức, võ đạo vang danh bốn phương. Thế mà chúng chỉ cho giữ chức Đô Sát, Đô Úy hỏi còn trời đất nào nữa không? Đúng ra với tài ba vị thì ít ra cũng là đại tướng quân trấn thủ một vùng, tước phong hầu, bá. Tôi nghĩ các vị có uy tín ở Tượng Quận, phải trở về quê hương mình, hội hào kiệt. Chúng ta họp với anh hùng các nơi, đồng lập lại Lĩnh Nam. 

Vương Hồng hỏi: 

– Không biết các vị anh hùng đã liên lạc được với hào kiệt Cửu Chân, Nhật Nam, Giao Chỉ, Quế Lâm chưa? Tình hình những nơi đó như thế nào? 

Trần Nhất Gia thấy Tượng Quận Tam Anh đã chuyển lòng, nói: 

– Đất Cửu Chân, thì Cửu Chân xong kiệt Đào Thế Kiệt, Đinh Đại đã liên hợp hầu hết Lạc Hầu, Lạc tướng trong vùng. Chỉ can phất cờ, đất Cửu Chân thuộc về chúng ta. Đất Nhật Nam, Nhật Nam thất hiệp có hàng vạn tráng đinh. Khi Cửu Chân khởi binh, Nhật Nam mất liên với Trung Nguyên, chỉ cần dơ tay ra là lấy được. Tại Giao Chỉ, Đặng Thi Sách với số đông anh hùng đã giữ hầu hết các chức huyện úy huyện lệnh. Thái thú Tô Định như bị bó tay. Việt chiếm lại đất chỉ còn chờ thời gian. 

Ông ngừng một lúc tiếp: 

– Riêng có đất Quế Lâm gặp khó khăn. Vì từ khi Triệu Đà chiếm Quế Lâm, Nam Hải, Tượng Quận bỏ các chức lạc hầu, tổ chức thành làng, xã, huyện. Anh hùng tuy nhiều, mà thực lực không có. Trong mấy trăm năm nay, người Hán đi từ Bắc xuống, đồng hóa mất một nửa dân chúng. Đất Nam Hải, chúng tôi giữ được mười huyện úy, huyện lệnh trong mười hai huyện. Đất Tượng Quận chúng tôi chưa gặp được hào kiệt, cho nên mới lên nay tìm các vị. Nhờ các vị trở về đất cũ, chuẩn bị cùng khởi sự. 

Hàn Bạch cúi đầu suy nghĩ một lúc rồi ngửng lên, vẻ mặt cương quyết: 

– Khúc Giang ngũ hiệp đã dậy. Chúng tôi xin kính cẩn tuân theo. Từ trước đến nay, chúng tôi tuy thân làm quan ở Hán, mà vẫn nghĩ tới quê hương. Lòng đau như cắt. Bây giờ gặp các vị anh hùng, chúng ta nhất định cùng nhau khởi sự. Tôi nghe anh hùng Cửu Chân, Nhật Nam, Giao Chỉ, Quế Lâm. Không biết vì lẽ gì đang giúp Hán đánh Thục, mới đây lại trởi giáo giúp Thục đánh Hán. Giang Sơn nhà Hán nghiêng ngửa vì họ. 

Trần Tam Gia hỏi: 

– Các vị có biết Vương Mãng đánh chiếm Trường Sa, Giết Trường Sa Định Vương, cho người đuổi bắt hai thế tử Lưu Diễn, Lưu Tú. Lưu Tú được mấy vệ sĩ bảo vệ chạy trốn. Võ sĩ Vương Mãng truy lùng rất gắt. Giữa lúc nguy nan gặp một người võ lâm tả xung hữu đội cứu thoát không? 

Vương Hồng đáp: 

– Truyện nay khắp sĩ dân thiên hạ ai cũng biết. Người đó là Nghiêm Sơn cùng với hiệp phố Lục Hiệp, phải xung sát hai chục trận mới cứu được Lưu Tú. Hiệp Phố Lục Hiệp trộm thây Trường Sa Định Vương, đem lên đồi này chôn. Lưu Tú kết nghĩa huynh đệ với Nghiêm Sơn. Nghiêm Sơn giúp anh em Lưu Tú khởi binh ở Côn Dương vào năm Nhâm Ngọ (22 sau Tây Lịch). Năm sau, Lưu Huyền, bác Lưu Diễn, Lưu Tú khởi binh ở Quan Trung xưng là Cảnh Thủy Hoàng Đế, Lưu Huyền có hai người em kết nghĩa là Ngụy Công Chu Huy và Lý Điệt. Khi Cảnh Thủy Hoàn đế thắng Vương Mãng, Xích Mi thay lòng đối dạ, giết chết Hoàng Đế và hai người em kế nghĩa là Ngụy Cộng Chu Huy và tấn công Lý Điệt. Lưu Diễn cũng bị giết chết. Nghiêm Sơn giúp Lưu Tú khởi binh xưng Kiến Vũ vào năm Bính Tuất (26 sau Tây lịch). Nghiêm Sơn đánh chiếm Kinh Châu, giao cho Mã Viện trấn thủ. Nghiêm Sơn thừa thắng, xua quân diệt Xích Mi. Lúc đó quần hùng nổi lên tứ phương. Thục thì Công Tôn Thuật xưng vương, Bàng Sùng xưng vương. Nghiêm Sơn đề nghị với Quang Vũ cho mình và Hiệp phố lục hiệp kinh lý các châu quận Phương Nam để có Lương Thực, quân lính chinh tiễu Trung Nguyên. Quang Vũ phong cho Nghiêm Sơn làm Lĩnh Nam Công, chức Bình Nam đại tướng quân, được toàn quyền tại sáu quận phía Nam Kinh Châu. Nghiêm Sơn cùng Hiệp phố lục Hiệp, chỉ một thanh gươm, yên ngựa khiến các Thái thú phải khuất phục. Nghiêm tổ chức quân đội hùng mạnh ở Phương Nam. Nghiêm nguyên người Quế Lâm, thuộc giòng dõi Lĩnh Nam. Không biết có đúng thế không? 

Trần Nhị Gia gật đầu: 

– Đúng thế! Nghiêm ở Lĩnh Nam ban hành chính sách rộng rãi, rất được lòng anh hùng hào kiệt. Hào kiệt thuyết phục y tái lập Lĩnh Nam. Một mặt vì đất nước, một mặt vì nghĩa huynh là Quang Vũ, y đề nghị tổ chức đại hội hồ Tây sang yết kiến Quang Vũ, xin tái lập Lĩnh Nam. Nói rằng tái lập hay không cũng chỉ trên danh nghĩa, chứ thực ra Lĩnh Nam là đất phong của Nghiêm Sơn, có khác gì đâu. Giữa lúc đó, xảy ra vụ Phiêu kị đại tướng quân Ngô Hán, Phục ba đại tướng quân Mã Viện đánh Thục bị thua. Nguyên do có chuyện bất hòa giữa Mã với Ngô, Thục mới thành công. Quang Vũ cần phải có một người thân tín, tài ba, cầm đầu hai tướng này.Vì vậy y gọi Nghiêm Sơn về đánh Thục, phong làm Lĩnh Nam vương, lĩnh chức Tả tướng quân. 

Vương Hồng bấy giờ hiểu ra: 

– Vì thế Nghiêm Sơn mới mang anh hùng Lĩnh Nam về đánh thục? 

Trần Nhị Gia lắc đầu: 

– Anh hùng Lĩnh Nam đâu có dễ sai bảo. Nghiêm Sơn đứng giữa thế lôi kéo, một bên anh hùng Lĩnh Nam, một bên nghĩa huynh, Quang Vũ. Y đề nghị anh hùng Lĩnh Nam cùng tòng chinh đánh Thục, lập chút công, cũng để cho Quang Vũ biết đất Lĩnh Nam nhiều hào kiệt. Sau khi đánh Thục xong, tất Quang Vũ phong chức tước. Họ chỉ xin lĩnh chức tước tại Lĩnh Nam. Thế là bao nhiêu Thái thú, Đô úy, Đô Sát về tay mình. Họ cùng nhau xin Quang Vũ không thuận, cũng tự lập lại nước cũ. 

Chu Thanh vỗ tay: 

– Kế hoạch tuyệt diệu. Nhưng rồi tại sao lại xảy ra bất hòa giữa lúc sắp đánh xong Thục? 

Trần Nhị Gia tiếp: 

– Nghiêm Sơn chia quân làm ba đạo. Đạo Lĩnh Nam do Đào Kỳ, con trai Cửu Chân nhất hiệp làm Chinh Viễn đại tướng quân, thống lĩnh, vượt núi Kim Sơn, cửa Độ khẩu đánh thẳng vào Thục. Còn đạo Kinh Châu do Đặng Vũ chỉ huy, quân sư là Trưng Nhị cùng cới một số anh hùng Lĩnh Nam theo giúp. Đạo Hán Trung do Ngô Hán làm nguyên Soái, Phùng Vĩnh Hoa làm quân sư. Ba đạo tiến như vũ bão. Đạo Lĩnh Nam đổ về phía lưng Thành Đô như sét nổ. Thục vương Công Tôn Thuật, tuy có Thiên Sơn thất hiệp, huynh đệ giúp sức, vẫn bị thua. Đạo Lĩnh Nam tiến tới, sắp chiếm Thành Đô. 

... Giữa lúc đó một số người Lĩnh Nam phản bội, do Lê Đạo Sinh cầm đầu, đến Lạc Dương tố cáo với Mã Thái Hậu âm mưu của anh hùng Lĩnh Nam. Mã Thái hậu triệu Quang Vũ vào cho biết Nghiêm Sơn tổng lĩnh quân mã Lĩnh Nam, Kinh Châu, Lương Châu, Hán Trung và Ích Châu. Nếu y làm phản thì trở tay không kịp. Quang Vũ không tin truyện đó, nói rằng đất Lĩnh Nam đã phong cho Nghiêm Sơn, thành một nước riêng rồi còn gì. Vả lại Quang Vũ được Trung Nguyên do tay tay Nghiêm Sơn, chia cho y một giải phía Nam cũng đúng. Mã Thái Hậu đem truyện Xính Mi, em kết nghĩa của Cảnh Thủy Hoàng Đế, khi quân quyền vào tay, giết luôn nghĩa huynh để dọa Quang Vũ, Quang Vũ vẫn không tin. Sau... 

Trần Nhị Gia chỉ người em thứ tư: 

– Sau Lê Đạo Sinh dò la biết được một tin khủng khiếp. Nguyên Trường Sa Định vương cha đẻ Lưu Diễn, Lưu Tú đã có vợ họ Mã, nhiều tỳ thiếp nhưng không con. Ông nghe ngoài thành Trường Sa có một kỳ nữ sắc nước hương trời là Hàn Tú Anh. Ông giả làm một văn nhân đến gặp nàng. Ông Nguyên làmột văn tài, được Tú Anh thương yêu. Ông dùng tiền bạc xây một căn nhà cực kỳ hoa lệ ở Đào gia hưởng hạnh phúc với nàng. Tú Anh những tưởng ông là văn nhân giàu có, không ngờ lúc có hai con Lưu Diễn, Lưu Tú, ông mới thú thật. 

Cả ba anh em Trường Sa Tam Anh, Công Chúa Vĩnh Hòa, hai quận chúa Lý Lan Anh và Chu Thúy Phượng cùng kêu lên: 

– Ủa? 

– Úi cha? 

– Kỳ lạ? 

Công chúa Vĩnh Hòa hỏi: 

– Trần Tứ Gia, như vậy Kiến Vũ hoàng đế không phải con của Mã thái hậu ư? 

– Đúng! Hàn Tú Anh khi nghe người yêu thú thực thì bật ngửa ra. Định vương mời nàng về phủ Trường Sa Vương ở. Nàng đành lòng tòng quyền. Nhưng Thái phi, thân mẫu Định Vương không bằng lòng cho một kỹ nữ ở trong phủ mình. Cũng không muốn sau nầy đứa cháu mình do kỹ nữ sinh ra sẽ nối ngôi làm Định Vương. Bà bí mật sai người giết chết Hàn Tú Anh, giao con Hàn Tú Anh cho vương phi họ Mã nuôi, dối là con đẻ. 

Công chúa Vĩnh Hòa, và hai Quận chúa đồng kêu lên: 

– Úi chà! Thực là tàn ác. 

– Nhưng khi võ sĩ mang Hàn Tú Anh đi giết, thì gặp một viên võ quan đang đi săn. Viên quan nầy không hiểu nội vụ, thấy võ sĩ giết người đàn bà đẹp, ra tay đánh giết, cứu Hàn Tú Anh. Hàn Tú Anh nói thực mọi truyện. Viên võ quan đó sợ quyền lực của Thái Phi, từ chức về quê sống, mang theo Tú Anh. Viên quan có người con ngang tuổi Lưu Tú đang bú, chẳng may bà mẹ bị cảm mạo mất sữa. Bà nhờ Tú Anh nuôi con dùm. Viên quan đó họ Nghiêm, người Quế Lâm, tức cha đẻ Nghiêm Sơn. Nhũ mẫu Nghiêm Sơn chính là Hàn Tú Anh vậy. 

Mọi người nghe kể chuyện biến chuyển kỳ lạ, không ai lên tiếng. 

Trần Tứ Gia tiếp: 

– Vương Mãng đánh Trường Sa, cha Nghiêm Sơn đã qua đời. Nghiêm Sơn đối với nhũ mẫu cực kỳ hiếu đễ. Bà cho Nghiêm Sơn biết ràng Trường Sa Định Vương với bà có ơn nghĩa nặng. Bà muốn Nghiêm lên TrườngSa xem xét tình hình. Nếu Trường Sa bị nạn phải tận lực cứu giúp. Khi Nghiêm Sơn với Hiệp phố lục hiệp đến nơi, Trường Sa đã thất thủ. Bọn họ trộm xác Trường Sa Định vương chôn ở đây. Nghiêm cùng Hiệp phố lục hiệp tìm được Lưu Tú giữa lúc y lâm nguy. Họ ra tay đánh đuổi võ sĩ Vương Mãng cứu Lưu Tú. 

Lý Lan Anh xen vào: 

– Vì thế Lê Đạo Sinh đem truyện Nghiêm Sơn là con nuôi, Kiến Võ hoàng đế là con đẻ của Hàn Tú Anh, nói cho Mã thái hậu nghe. Mã Thái hậu hoảng kinh, quyết trừ cho được Nghiêm Sơn. 

Trần Tứ Gia gật đầu: 

– Đúng thế! Mã Thái Hậu dùng vàng bạc, quyền thế mau chuộc Tam công và các tướng ngoài biên ải vu cáo Nghiêm Sơn sắp làm phản. Kẻ nói đi, người nói lại mãi, Quang Vũ phải tin. Y bắt chước Hán Cao Tổ du Vân Mộng bắt Hàn Tín. Y đem đại quân tới Trường An, dối rang tiếp viện cho Nghiêm Sơn, giữa lúc quân Nghiêm đã vào Thành Đô. 

Lý Lan Anh "à" lên một tiếng: 

– Vì vậy Nghiêm Sơn đến Trường An tiếp giá, y bị bắt. 

Trần Tứ Gia lắc đầu: 

– Quận chúa đoán sai rồi! Trong quân Nghiêm Sơn có bốn người tài trí phi thương. Một là Phương Dung vợ Đào Kỳ. Hai là Phùng Vĩnh Hoa. Ba là Trưng Nhị, sau thêm Trưng Trắc. Họ nhìn ra mưu của Quang Vũ. Vì quân của Nghiêm phải đánh vào Thành Đô. Chỉ dơ tay ra là bình xong Ích Châu, việc gì Quang Vũ phải mang quân tiếp viện? Họ họp nhau nói cho Nghiêm nghe, xúi Nghiêm làm phản, chỉ đánh một trận bắt được Quang Vũ. 

Trần Tứ Gia ngưng lại hỏi Công Chúa Vĩnh Hòa: 

– Công chúa, nếu công chúa là Nghiêm Sơn. Công chúa sẽ làm thế nào? 

Vĩnh Hòa thản nhiên: 

– Tôi cất quân đánh úp Lạc Dương, bắt Quang Vũ giết đi, rồi lên làm hoàng đế. 

Trần Tứ Gia lắc đầu: 

– Nghiêm Sơn là người hiệp nghĩa, coi nghĩa nặng như núi, không thiết công danh. Y tự cho rằng mình có ơn nghĩa với Quang Vũ, tình như ruột thịt. Y đến Trường An. Hào Kiệt đành cho y đi, nhưng cứ theo ba người. Một là Khất đại phu Trần Đại Sinh, võ công đệ nhất Lĩnh Nam, hai là Phật Nguyệt, kiếm hiệp vô song và Trưng Nhị tuyệt vời. Nghiêm Sơn tới yết kiến Quang Vũ, bị Tam Công và quần thần xúm vào chất vấn. Nghiêm ung dung trình bầy việc làm của mình. Quần thần chịu ảnh hưởng của Mã Thái Hậu, xúm vào kết tội Nghiêm, cho rằng những công lao của anh hùng lĩnh nam cùng tài ba của họ do Nghiêm bịa đặt. Trước hoàn cảnh đó Nghiêm đành cho Trưng Nhị đấu võ với Việt kị hiệu úy Trương Linh. Linh bị bại. Rồi đệ nhất kiếm thuật Trung Nguyên Hoài Nam vương đấu võ Phật Nguyệt cũng bị bại. Khất đại phu ra tay chữa trị cho quần thần triều Hán. Trước sự đó, Quang Vũ không biết nói sao. Bắt Nghiêm thì dân không phục, còn mang tiếng vong ơn bội nghĩa. Tha Nghiêm ra sợ Nghiêm uất ức làm phản. Trong khi đó Nghiêm chỉ xin Quang Vũ giữ lời hứa lúc đầu. Lúc mới khởi sự Quang Vũ chỉ trời đất thề sau khi được thiên hạ, chia cho Nghiêm một nửa. Nghiêm xin sau khi xong việc, chỉ nhận được thanh gươm, một con ngựa ngao du bốn bể. Bây giờ Nghiêm nhắc lại lời đó. Quần thần tâu với Quang Vũ rang nếu để Nghiêm ra đi như vậy, sĩ dân kết tội triều đình. Nên phải tìm cới gì kết tội Nghiêm. Nghiêm thấy bộ mắt phản phúc, lừa đảo của Quang Vũ. Y đứng dậy quật chết hai vị trong ba vị Tam Công rồi xin Quang Vũ cách chức y về tội giết đại thần. Quang Vũ cho giam Nghiêm, đợi khi nắm được hết quyền bính của Nghiêm mới giám cách chức Nghiêm, vì lỡ ra người dưới của Nghiêm chống lại, còn có thể dùng Nghiêm để điều đình. 

Chu Thúy Phượng gật đầu: 

– Kiến Vũ thiên tử cũng thâm mưu đấy chứ. Thế sự thể sau ra sao? 

– Không ngờ trong lúc Quang Vũ cùng quần thần đối thoại với Nghiêm, thì anh hùng Lĩnh Nam là Khất đại phu phục ở trên nóc điện biết được. Hôm sau Quang Vũ gửi bai sứ giả đi các nơi tuyên bố bình Thục xong, giao Ngô Hán đánh Thành Đô, Mã Viện trấn thủ Knh Châu, Mã Anh trấn thủ Lĩnh Nam. Anh hùng Lĩnh Nam họp nhau khẩn cấp. Họ đón đường giết sứ giả. 

Chu Thúy Phượng suýt xoa: 

– Tuyệt vời! Như vậy các nơi vẫn tưởng Nghiêm Sơn vẫn là Lĩnh Nam vương, Tả tướng quân. Khi Nghiêm vắng mặt, quân sư Nguyễn Phương Dung cầm quyền. Bà chỉ việc dùng binh phù của Nghiêm, cấp tốc giữ các đồn ải, chỉ một ngày lấy xong Hán Trung, Kinh Châu, Lĩnh Nam chứ có khó gì đâu? 

Trần Tứ Gia tiếp: 

– Anh hùng Lĩnh Nam không có tham vọng chiếm Trung nguyên. Họ trở mặt giúp Công Tôn Thuật. Họ trả lại thành trì cho Thục đế, dùng quân Thục chiếm đóng Đông Xuyên, Ích Châu, Kinh Châu. Họ còn cất quân từ Hán trung làm bao đạo đánh Trường An. 

Công chúa Vĩnh Hòa thở dài: 

– Khiếp, người Lĩnh Nam ghê thực. Nếu họ dẫn quân về Lĩnh Nam khởi binh, Lĩnh Nam đất rộng người thưa, ắt bị Hán đè bẹp. Vì thế họ giúp Thục chiếm Kinh Châu, HánTrung, Trường Sa. Mã Thái Hậu vẫn lo Hàn Tú Anh xuất hiện, nên cho nhiều cao thủ đi Quế Lâm giết Hàn thị. Nhưng tới nơi thì bà ta đã đi Trường Sa tế mộ Tiên đế. Thái hậu ban chỉ dụ cho cháu là Mã Anh cùng với Trương Linh phục ở lăng này, bắt hết những người tế lăng. Không may cho Linh. Y gặp phải công chúa và quận chúa, nên mới ra nông nỗi. 

Hàn Bạch thở dài: 

– Thế thì tôi trở về Trường Sa không được nữa. Ngũ hiệp, năm vị thử nghĩ coi bây giờ chúng ta mượn binh Thục đánh xuống Quế Lâm, Nam Hải, Tượng Quận, nhưng ai sẽ là minh chủ? 

Trần Nhất Gia nói: 

– Chúng tôi cũng như ba vị, chỉ có võ công cao, có võ đạo, nhưng mù tịt về dùng binh. Tôi nghĩ chỉ có bằng này người làm minh chủ được, vì biết hành quân, chiếm đất: Một là Phương Dung, hai là Phùng Vĩnh Hoa, ba là Đào Kỳ nhưng cả ba còn trẻ quá. Ngoài ra, còn có hai người nữa là Đào Thế Kiệt, Đinh Đại, văn võ song toàn. Song họ chỉ có thể là đại tướng, chứ không biết về chính sự. Cuối cùng còn ba người đủ mưu trí, võ công võ đạo cao, biết chính sự là Đặng Thi Sách, Trưng Trắc và Trưng Nhị. Đặng Thi Sách hiện ở Giao Chỉ, Trưng Trắc theo đạo quân Lĩnh Nam đánh về Quế Lâm. Chỉ có Trưng Nhị hiện làm quân sư cho Công Tôn Thiệu đang vây Trường Sa. Liệu các vị có chịu tôn Trưng Nhị làm minh chủ hay không? 

Hàn Bạch khẳng khái: 

– Tại sao lại không? Bây giờ chúng ta phải làm gì để vào Trường Sa bắt Mã Anh, mang quân đánh Nam Hải, Tượng Quận? 

Bỗng Trần Nhất Gia nói: 

– Dường như có người đang lên núi. Chúng ta mau ẩn thân xem ai đã. 

Lập tức tất cả mọi người đều ẩn vào bụi cây. 

Trưng Nhị thấy vậy nghĩ: 

– Họ đâu biết rằng ta với Sa Giang núp ở đây, còn kỳ nhân võ công thật cao, tung giây đánh Trương Linh không biết là ai. 

Lát sau thì thấy hai con ngựa dừng lại trước cổng lăng. Kị mã là một nam tuổi khoảng 25-26. Một nữ không rõ tuổi. Vì nàng dùng chiếc khăn che khuất nửa mặt. Hai người lấy đồ tế bày ra, lại hai người nữa đến tế lăng, đốt hương nến, rồi nam đứng sang một bên, thờ ơ nhìn mọi vật. Còn nữ quì xuống lâm râm khấn vái. Một lúc sau, hai vai nàng rung động mạnh. Chứng tỏ nàng đang khóc. 

Trưng Nhị thấy dáng điệu thiếu nữ mềm mại, hiểu rằng nàng không biết võ công. Lưng nàng thon đẹp không thể tưởng tượng được. Khóc một lúc, nàng lấy bọc bên cạnh mở túi, thì là một cây dao cầm. Nàng vuốt tay, buông những tiếng ai oán, lâm ly muốn não ruột. Tiếng đàn như cặp nhân tình giang dở, nỉ non than thở khóc lóc, khi thì như thiếu phụ phòng khuê nhớ tình quân. Nàng đánh hết khúc nầy sang khúc khác. Sa Giang giỏi âm nhạc mà cũng không biết tên những khúc nàng tấu. Sa Giang biết rằng những khúc đó mới được sáng tác ra. 

Bỗng một tiếng xé gió của ám khí bay đến, hướng đầu thiếu phụ. Thanh niên đứng cạnh, vung tay một cái, ánh kiếm chém ngang vào ám khi đánh choang một tiếng. Trưng Nhị thấy rõ ám khí từ chỗ núp của vợ chồng Vương Anh bay đến. Biết rằng cặp vợ chồng này ra tay. 

Véo, véo,véo, một loạt ám khí bay đến hướng vào thiếu phụ. Thanh niên đứng cạnh cung kiếm lên gạt. Nhưng chỉ được ba mũi đầu. Còn mũi thư tư hướng vào giữa lưng thiếu phụ. 

Khúc Giang Ngũ hiệp định ra tay, nhưng ám khí bay đến sát lưng thiếu phụ, thì chạm vào vật gì, kêu đến bộp một tiếng rồi rơi xuống. Trưng Nhị nhìn rõ ràng là chiếc lá từ chỗ "kỳ nhân" bay ra, chạm vào ám khí, ám khí rơi xuống. 

Nàng kinh hoàng nghĩ: 

– Dù Khất đại phu, dù Đào Tam Lang muống bay ám khí đi, cũng phải dùng một vật cứng, vận kinh lực phóng ra, mới làm được. Đây "Kỳ nhân" chỉ dùng một chiếc lá mềm mại, phóng ta nhẹ nhàng nhu hòa, nhưng đi nhanh chặn được ám khí. Cả hai cùng rơi xuống, dường như kình lực của chiếc lá chỉ để hóa giải kình lực ám khí mà thôi. 

Nàng suy đoán: 

– Không biết kỳ nhân nầy là ai, mà công lực đến trình độ nầy? Ta e rằng Thái sư thúc Khất đại phu với Đào Kỳ cũng còn thua xa. 

Vợ chồng Vương Anh lại phóng tới bốn lưỡi phi đao nhỏ. Kình lực rất mạnh rít lên vù vù. Thanh niên dùng kiếm gạt được một. Còn ba lưỡi hướng vào lưng thiếu phụ áo trắng. 

Từ chỗ kỳ nhân núp, ba quả thông bay ra, chạm vào ba lưỡi đao. Ba lưỡi dao đổi chiều bay lên, cắm phập vào cây thông. Từ phía vợ chồng Vương Anh bay đến một lúc hơn mười ám khí lơn bằng quả cam. Ám khí chạm một cột lăng nổ lên những tiếng chói tay, khói bay mịt mù. Mấy quả nữa hướng vào chỗ núp của Khúc Giang Ngũ Hiệp và Tượng quận Tam Anh. Trong khi mấy người nấp nằm rạp xuống tránh, thì vợ chồng Vương Anh vọt tới cắp thiếu phục vào tay chạy khỏi lăng. 

Trưng Nhị nhận ra mấy trái hỏa lựu nầy là ám khí củ phái Tản Viên. Trước đây Lê Đạo Sinh đã chế tạo rất nhiều để dùng. Trong trận đánh Tây Hồ, bọn Lê Nghĩa Nam dùng giết Phương Dung. Bây giờ vợ chồng Vương Anh lại dùng đến, thì chắc có liên hệ đến Lê Đạo Sinh. 

Vương Hồng quát lớn: 

– Để người lại! 

Ông phóng một chưởng. Chưởng lực cực kỳ hùng hậu. 

Vương Anh đang định chạy, thì chưởng lực đã chụp xuống người. Y phóng chưởng đỡ, bùng một tiếng. Cả hai người cùng rung động mãnh liệt. Trong khi đó Hàn Bạch phóng chưởng đánh Chu Nghi Gia. Bùng một tiếng, Nghi Gia lảo đảo lùi lại mấy bước. Còn Hàn Bạch thì đứng nguyên. Trưng Nhị giật mình: 

– Ta tưởng trong đám nữ lưu, ngoài sư thúc Trần Năng với Phương Anh ra khồng còn ai hơn ta. Không ngờ Chu Nghi Gia chưởng lực cũng mạnh đến trình độ nầy. 

Vương Anh đấu đến chưởng thứ ba với Vương Hồng cảm thấy yếu thế. Y ôm thiếu phụ nhảy lùi lại, vung tay lên nói: 

– Các vị dừng tay, nếu không cùng chết cả. Tôi đập chết y thị, rồi muốn sao thì muốn. 

Hàn Bạch quát lớn: 

– Cứ coi bản lĩnh của hai vị,thuộc loại hiếm có trong thiên hạ. Thế sao hai vị lại ra tay bắt đàn bà không biết võ nghệ. Như vậy cũng gọi người võ lâm ư? 

Chu Nghi Gia cười gằn: 

– Đêm nào chúng tôi cũng ẩn ở đây, trải trên hai năm rồi. Những điều các vị bàn với nhau; chúng tôi nghe hết. Chắc các vị muốn biết người đàn bà nầy phải không? Được tôi nói cho các vị biết. Bà là Hàn Tú Anh, người mà Mã thái hậu treo thưởng mười vạn lượng vàng, tước vạn hộ hầu, thêm chức thứ sử cho ai bắt, hoặc giết được y thị. Các vị đều là anh hùng Lĩnh Nam. Xin các vị lo truyện phục quốc của mình? Còn truyện của cung thất nhà Hán thì mặc họ, chẳng nên can thiệp vào. Xin các vị cho chúng tôi rời khỏi đây. 

Trần Ngũ Gia kêu lên: 

– Phan Anh! Thì ra là mi. Ta tưởng mi chết từ lâu rồi, hóa ra mi vẫn còn sống trên thế gian này. Không ngờ một vị vương giả như mi, mà chỉ vì đồng tiền, tán tận lương tâm, làm chuyện hèn hạ như vậy? 

Vương Anh cùng vợ rút khăn lau mặt, để lộ ra khuôn mặt chưa tới ba mươi tuổi. 

Hàn Bạch hỏi Trần Ngũ Gia: 

– Chúng là ai vậy? 

Trần Ngũ Gia nói: 

– Y là con trai Xích Mi. Xích Mi vùng Cảnh Thủy hoàng Đế, Ngụy Công, Tấn công kết huynh đệ đồng sinh, cộng tử. Sau y giết Cảnh Thủy, Tấn Công, xưng vương. Người con Xích Mi được phong Trường An Vương. Tôi tưởng trong trận đánh Trường Sa y chết cùng với cha. Có ngờ đâu y vẫn còn sống, làm việc hèn hạ nầy? Trước đây y có võ công rất cao, không hợp tính cha. Khi được Xích Mi phong làm Đông cung thái tử. Y từ chối vì cho rằng cha giết Cảnh Thủy hoàng đế cùng với Ngụy Công, Tấn Công là bất nhân bất nghĩa. Giang hồ ai cũng khen y là chính nhân quân tử. Vợ y người Nam Hải đất Lĩnh Nam, họ Trần tên Nghi Gia. Đối với anh em tôi, là chỗ họ hàng xa. 

Hàn Bạch chỉ vào mặt Phan Anh: 

– Mi thả Hàn thái hậu ra ngay. Nếu mi làm bà bị thương hay chết, thì chúng ta sẽ ngươi khoét mắt, cắt lưỡi chặt chân tay, để cho vợ chồng người chết không được, sống không xong. 

Phan Anh Cương quyết: 

– Khi Trường Sa thất thủ, mẫu thân ta bị cắt cầm tù. Ta khổ công dò la mãi mới biết người bị giam ở Trường Sa.Ta đã nhiều lần vào cứu mà không được. Vì vậy nay ta bắt sống Hàn Tú Anh yêu cần thái hậu ân xá cho thân mẫu ta. Hàn đại hiệp, ông là người hiệp nghĩa, thì biết chữ hiếu rất quan trọng. Ta nghĩ người không giúp ta, cũng nên để ta chu toàn chữ hiếu. Người đừng cản ta. 

Hàn Bạch nói: 

– Ngươi cứ thả Hàn Thái Hậu. Ta vào Trường Sa tha hết tất cả tù, trong đó tất có mẫu thân ngươi. Người nghe chúng ta bàn nhau từ nãy giờ thì biết đấy. Chúng tay chỉ cất tay một cái lấy được thành Trường Sa, có khó gì đâu. 

Phan Anh lắc đầu: 

– Được, tôi giữ Hàn Tú Anh, đợi Hàn đại hiệp đem mẫu thân tôi tới. Tôi sẽ thả y thị ra. 

Trần Nhật Gia nói với Hàn Bạch: 

– Thôi được, chúng ta cứ để cho y đi. 

Phan Anh cúi đầu nói: 

– Đa tạ Khúc giang Ngũ hiệp, Trường Sa Tam anh. Hậu hội hữu kỳ. 

Hai vợ chồng y từ từ đến chỗ cột ngựa của Hàn Tú Anh. Cả hai leo lên ngựa khoan thai rời khỏi khu lăng mộ. 

Hàn Bạch thắc mắc: 

– Trần Nhất Hiệp, Nhất Hiệp bảo tha y thì tôi tha, nhưng…. 

Trần Nhất Gia cười: 

– Nếu chúng ta bức bách quá, y giết Hàn Tú Anh. Ta cứ để cho y đi, rồi chúng ta rượt theo cứu Hàn Tú Anh. Chúng chạy đâu cho thoát được mà sợ. 

Họ còn đang bàn tán, có nhiều tiếng gầm gừ từ dưới núi vang lên. Trưng Nhị biết đó là đoàn Thần Hổ, thần báo của Hồ Đề đã tới. Tiếng gầm mỗi lúc một gần. Chỉ lát sau vợ chồng Phan Anh cho ngựa chạy ngược lên núi. 

Phan Anh nói lớn: 

– Không hiểu cọp, beo ở đâu nhiều quá. Chúng tôi không vượt nổi vòng vây. Dường như cọp, beo có người điều khiển. 

Dưới núi, đoàn Thần hổ Thần báo cứ xiết chặt vòng vây dần dần. Khúc Giang Ngũ Hiệp, Trường Sa tam anh đều võ công tuyệt đỉnh. Họ vượt vòng vây dễ dàng, nhưng còn bọn công chúa Vĩnh Hòa chín người thì làm sao. 

Trần Nghi Gia nói: 

– Cọp, báo nhiều thế nầy tất có chủ nuôi. Đã có chủ thì chúng ta có thể điều đình. Không biết chủ họ là ai? 

Đoàn Thần báo, Thần hổ đến phía ngoài lăng xếp thành hàng. Hướng đầu vào trong, nghển cổ cùng gầm một tiếng rồi im lặng. Từ ba phía sau, ba thiếu nữ rẽ đoàn thú tiến tới đó là Hồ Đề, Trần Năng, và Phật Nguyệt. 

Nguyên Hồ Đề được trưng Nhị phái đi gọi Trần Năng, và Phật Nguyệt ở Đào gia. Đem đoàn Thần báo, Thần hổ về đối phó với quân của Trương Linh. Khi gặp nhau, Hồ Đề kể cho Phật Nguyệt, Trần Năng nghe mọi truyện, rồi dẫn đoàn Thần hổ, Thần báo đến Vương Sơn. Tới châu núi họ gặp vợ chồng Phan Anh đang đi xuống, tay cắp người đàn bà. Trần Năng đoán là người bất hảo. Nàng xua Thần hổ tấn công. Vợ chồng Phương Anh tả xung hữu đột mà không thoát. Đành chạy ngược trở lên. 

Trần Năng là người thông Minh, đầy lòng hiệp nghĩa. Nàng thấy vợ chồng Phan Anh cắp một người đàn bà, thì nổi giận. Nàng tiến lên phóng chưởng đánh liền.

Trần Nghi Gia thấy một thiếu nữ diễm kiều phóng chưởng đánh chồng mình, chưởng lực hùng hậu vô cùng. Thì nhảy tới chặn trước mặt chồng, phát chưởng đỡ. Hai chưởng chạm nhau, bùng một tiếng, cát bụi bay tung. Khí huyết Trần Năng chạy nhộn nhạo trong người. Nàng phải lui lại hai bước mới kềm chế được, cánh tay gần như tê liệt. Trong kho đó thì Trần Nghi Gia loạng choạng muốn ngã. 

Trần Năng thất kinh hồn vía nghĩ: 

– Đất Lĩnh Nam nhà mình trước đây chưởng lực mạnh nhất là sư bá Nam Hải rồi tới Vũ Phương Anh, Trưng Trắc, Trưng Nhị. Sau ta được sư phụ và Đào sư thúc chỉ dậy, võ công vượt hơn hẳn Vũ Phương Anh, nhị Trưng rất nhiều. Tưởng rằng trên thế gian khó có người đối chưởng được với mình. Không ngờ hôm nay lại gặp Trần Nghi Gia, chưởng lực đến chừng này? 

Trần Năng vội hít một hơi, vận chân khí rồi thung dung nhìn đối thủ. 

Hồi 25 Viễn ly ư đoạn trường, Thế gian hằng như mộng.

(Kinh Lăng Già) 

Nghĩa là: 

Xa hẳn với cái đoạn thường, 

Vì thế gian nầy đều như giấc mộng.

Nghi Gia quát lớn: 

– Giỏi! Ngươi đấu với ta chưởng nữa xem. 

Y thị phóng chưởng đánh xuống. Trần Năng hít một hơi phát chiêu "Lưỡng ngưu tranh phong" trong Phục ngưu thần chưởng. Chiêu này cực kỳ mãnh liệt. Bùng một tiếng. Trần Năng muốn nghẹt thở, còn Nghi Gia lùi lại một bước. Mặt tái mét, chân tay như tê liệt, mím chặt môi, để khỏi thổ ra huyết. 

Phan Anh hỏi vợ: 

– Thế nào? Có sao không? 

Nghi Gia khạc một tiếng nhổ ra búng máu, nói: 

– Để thử lại chiêu nữa xem sao. 

Y thị nói với Trần Năng: 

– Vị cô nương kia, ngươi là ai? Ta đi khắp thiên hạ, chưa từng có người đàn bà nào đỡ được của ta một chưởng. Mà cô nương đấu với ta được hai chưởng, thực hiếm có. 

Trần Năng lễ phép đáp: 

– Không giám, Phan phu nhân quá khen. Tôi là Việt nữ đất Lĩnh Nam họ Trần tên Năng. 

Nghi Gia vận khí nhảy vọt lên cao đánh vào Trần Năng một chưởng cực mãnh liệt. Trần Năng cùng nhảy vọt lên cao. Nàng ra chiêu "Ngưu hổ tranh phong". Tay phải đánh thẳng về phía trước. Tay trái đánh xéo từ dưới lên. Chưởng của nàng chạm vào chưởng Nghi Gia. Cả hai người cùng bắn vọt trở lại. Trần Năng lộn ba vòng trên không. Đáp xuống đỉnh đầu pho tượng đá trong lăng. Còn Nghi Gia cùng lộn hai vòng. Đáp xuống đỉnh đồng. Nghi Gia nhảy tới, tay phải đánh thẳng về phía trước. Tay trái quay thành vòng tròn đánh xéo từ phía sau về. Kình lực nhu hòa. Chưởng phong không có gió. Chiêu thức quái dị. 

Phật Nguyệt đứng lược trận kêu lên: 

– Úi cha! 

Nguyên nàng thấy lối vận công, phát chưởng của Trần Nghi Gia có phần giống với phái Long Biên của mình. 

Hồ Đề đứng cạnh: 

– Loa thành nguyệt ảnh. 

Trước nay Hồ Đề nghe nói võ công Cửu Chân khắc chế võ công Trung Nguyên. Nàng biết Trần Năng và chồng là Hùng Bảo được Đào Kỳ dậy cho chiêu thức nay của Cửu Chân, nên buộc miệng nhắc. 

Trần Năng tỉnh ngộ, lùi hai bước, vận khí phát chiêu "Loa Thành Nguyệt Ảnh" tấn công Nghi Gia. Nghi Gia dồn hết chân khí ra hai tay đánh xéo một chưởng vào giữa chưởng Trần Năng. Bùng một tiếng, Trần Năng thấy mắt nẩy đom đóm, cánh tay tê nhức chịu không được, còn Nghi Gia thì đứng im không động đậy. 

Hồ Đề, Trần Năng, Phật Nguyệt cho tới Trưng Nhi đều ngạc nhiên. Vì chưởng trước là Phục Ngưu Thần Chưởng thì Trần Năng thắng Nghi Gia một chút. Không ngờ nay dùng chưởng Cửu Chân, khắc chế võ công Trung Nguyên, thì lại bị thua sút là nghĩa làm sao? 

Nghi Gia cười nhạt: 

– Tưởng thế nào, hóa ra chí có vậy thôi sao? Hãy tiếp chưởng nữa của ta. 

Nghi Gia vận chưởng đánh tới. Trần Năng vội phát chiêu "Ngưu Hổ Tranh Phong" đánh trả. Bùng một tiếng, cả hai đều lui lại. Trần Nghi Gia bật lùi hai bước. Như vậy Trần Năng thắng thế. Trần Năng hiểu được nguyên do. 

Trần Ngũ Gia nói: 

– Nghi Gia, người xuất thân con gái họ Trần, học võ công Lĩnh Nam nhà ta. Rồi dùng võ công đó để bắt người đàn bà yếu ớt ư? Võ đạoTrần gia chúng ta sẽ không dung thứ cho ngươi đâu. 

Trần Nghi Gia đáp: 

– Xuất gia tòng phu! Nay tôi đã là người nhà họ Phan, nhất thiết phu xướng phụ tùy. Chồng tôi vì chữ hiếu mà ra tay, tôi phải giúp chồng. Đợi việc ở đây xong, chúng tôi sẽ về Khúc Giang tạ lỗi với Ngũ hiệp sau. 

Trần Năng nghe họ đối đáp mới tỉnh ngộ: 

– Thì ra võ công Nghi Gia là võ công Lĩnh Nam, mà võ công Lĩnh Nam thì phái Tản Viên đệ nhất. Ta dùng võ công Tản Viên đấu với nàng thì thắng thế. Còn võ công Cửu Chân đối với võ công Trung Nguyên mới đủ uy lực khắc chế, mà ta đem đấu với võ công Lĩnh Nam thua là phải. 

Nghĩ vậy nàng vận khí phát Phục Ngưu thần chưởng tấn công Nghi Gia. Hai người quấn lấy với nhau dưới ánh trăng. Trần Năng trầm mạnh, chiêu thức mãnh liệt. Nghi Gia thì đương cương, chiêu số đường đường chính chính. Rõ ra đế tử danh môn chính phái. Trần Năng nghĩ: 

– Ở đây mình có Thần Hổ, Thần Báo, muốn bắt bọn này dễ như trở bàn tay. Ta thử dùng võ công Tản Viên đấu với y thị xem sao. Nếu không thắng hãy dùng lối vận công bằng kinh mạch, hoặc Lĩnh Nam chỉ pháp. 

Nghĩ vậy nàng lại phóng chưởng tấn công Nghi Gia. 

Trưng Nhị núp trong bụi cây thấy võ công của Trần Năng tiến một cách kỳ lạ, tự nghĩ: 

– Thái sư thúc Khất đại phu và Đào Kỳ thực kỳ nhân võ học. Hôm đại hội hồ Tây. Võ công sư thúc Trần Năng thua mình xa, thế mà chỉ có một thời gian sau, đã đến trình độ nầy. Nếu sư thúc tiếp tục luyện, chẳng mấy chốc sẽ bằng Lê Đạo Sinh. 

Trần Năng nhờ Đào Kỳ dạy đủ ba mươi sáu chiêu Phục Ngưu thần chưởng, chiêu nọ tiếp nối chiêu kia, liên miên bất tuyệt. Chưởng lực tuôn ra ào ào. Còn Nghi Gia chưởng lực ảo diệu, biến hóa không chừng. Hai người đấu được trên trăm chiêu vẫn không phân biệt thắng bại. Trên núi Vương Sơn, hiện diện mấy chục người, mà không một tiếng động. Ai cũng say sưa coi cuộc đấu. Đàn Thần hổ, Thần báo nằm im, nghển cổ nhìn mọi người dưới ánh trăng. 

Chợt có tiếng gõ mõ từ bụi cây kỳ nhân ẩn náu, và tiếng tụng kinh vang lên: 

Thế gian ly sinh diệt, 

Thí như hư không hoa, 

Chí bất đắc hữu vô, 

Nhi hưng đại bi tâm. 

Nhất thiết pháp như huyễn, 

Viễn ly ư tâm thức, 

Chí bất đắc hữu vô, 

Nhi hưng đại bi tâm. 

Trưng Nhị, Trần Năng, Hô Đề, Phật Nguyệt, Sa Giang bấy giờ mới biết kỳ nhân núp sau bụi hoa, vận khí khiến giây vọt lên như con rắn, đánh văng dao, kiếm của bọn Trương Linh là Tăng Giả Nan Đà. 

Khúc Giang Ngũ Hiệp và Trường Sa Tam Anh giật mình quay lại nhìn "kỳ nhân", một người đen như tượng đồng, đầu trọc. Ông ngồi xếp bằng, tay gõ mõ, mắt lim dim, khuôn mặt đầy vẻ từ bi. 

Thời bấy giờ Phật giáo chưa truyền vào Trung Nguyên, Lĩnh Nam. Những người nghe nhiều hiểu rộng như Khúc Giang Ngũ Hiệp cũng không biết Tăng Giả Nan Đà là một hòa thượng. 

Họ nghĩ: 

– Người nầy là ai? Núp ở bụi cây từ nãy đến giờ dùng nội công thượng thừa khiến cho một sợi giây vọt lên, không một tiếng động, tốc lực kinh khủng. Kình lực vừa cương vừa nhu đến độ đánh bay được đao kiếm của các cao thủ. Rồi bây giờ lại đọc bốn câu "thơ chẳng ra thơ" lời lẽ huyền bí thế nầy, ngụ ý gì đây? 

Trưng Nhị thì nghĩ: 

– Mình đáng chết thật! Đúng rồi, trên đời làm gì có người nào, nội công cao hơn Khất đại phu với Đào Kỳ ngoài vị Phật Gia Tăng Giả Nan Đà? Có điều vận sức âm nhu vào gợi giây, để giây vọt lên tấn công người cực mạnh mà không một tiếng động. Rồi biến tư nhu sang cương, đánh văng được kiếm của Trương Linh, không ai có thế tưởng tượng được. Trương Linh với mình võ công ngang nhau. Thế mà kiếm của y bị sợi giây "mổ" bay đi, thì nội công này đã tới mức không biết đâu mà lượng. 

Trần Năng đang đấu với Nghi Gia, thấy Tăng Giả Nan Đà đọc một đoạn trong kinh Lăng Già mà ngài đã giảng cho nàng. 

Hôm đó ngài nói: 

"Lăng Già là mội kinh tối cao của Thiền Môn. Ngày xưa đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngự đến núi Lăng Già giảng kinh đại Thừa, nên kinh mang tên Lăng Già. Thời bấy giờ, khi Phật giảng kinh bao giờ cũng có một người ngồi làm Thượng thủ. Hôm Phật giảng kinh Lăng Già thì Đại Bồ Tát Đại Huệ ngồi làm Thượng thủ với nhiều Bồ Tát. Mở đầu Đại Huệ Bồ Tát lạy phật thưa rằng: 

– Con là Đại Huệ, thông hiểu Đại Thừa. 

Sau đó Đại Huệ Bồ Tát đọc một bài kệ ca tụng Phật Tổ. Đoạn ngài vừa đọc là đoạn đầy trong bài kệ đó. 

Thế gian ly sinh diệt câu này ý nói Phật Tổ là Đấng đại giác ngộ thoát ra ngoài lẽ sinh, tử. Chí bất đắc hữu, vô ngài đã bỏ ra ngoài ngũ uẩn, không phân biệt ta với người, người với người nữa cho nên dù "có" dù "không" cũng thế thôi. Tất cả chỉ còn ở ngài một trái tim đại từ đại bi. Nhất thiết pháp như huyễn Ngài giảng phép Phật rõ ràng có, mà không. Cho nên Phật Giáo không có chỗ khỏi đầu, cũng không có chỗ cùng tận là thế" 

Trần Năng thắc mắc không hiểu sao ngài đọc lên giữa lúc nầy? Hôm đó ta hỏi ngài, làm thế nào thì "Chí bất đắc hữu vô" được. Ngài bảo cứ "không tâm" tâm vận khí thì được như thế. Hôm đó ta không tâm vận khí thử, thấy trong lòng khoan khoái vô cùng. 

Trần Năng vừa chiến đấu vừa suy nghĩ, rồi trong lúc không tự chủ nàng vận khí "không tâm", chân khí chuyển vận tự nhiên như không biết đến. Giữa lúc nàng "không tâm" vận khí, buông lỏng kình lực, tay phát ra chiêu "Ngưu Tẩu Như Phi". Chưởng của nàng chạm vào chưởng của Nghi Gia. Không một chút gió nào. Bịch một tiếng, nàng cảm thấy người khoan khoái vô cùng. Còn Nghi Gia chưởng lực bị mất tăm mất tích. Y thị hoảng sợ nhảy lùi lại. Cả hai cùng ngẩn người ra suy nghĩ. 

Trần Năng phấn khởi: 

– Ta vô tình "không tâm" phát chiêu. Kình lực dương cương biến mất, chân khí trong người biến thành một thức chân khí kỳ lạ. Không phải để đánh đối chủ, cũng không phải để đỡ đối thủ, mà "hóa giải hết kình lực độc ác của đối thủ". Như vậy Phục Ngưu Thần Chưởng, không còn là chưởng pháp dũng mãnh nữa. Trước đây Vạn Tín Hầu nhân Phục Ngưu Thần Chưởng của thánh Tản Viên, chế ra ba mươi sáu chiêu cùng mang trên Phục Ngưu Thần Chưởng. Nhưng vận khí âm nhu, khi phat chiêu hung ác khác thường. Nếu bây giờ ta dùng tâm pháp của Tăng Giả Nan Đà, Phục Ngưu Thần Chưởng lại biến thể thành một loại chưởng mới nữa. 

Còn Nghi Gia thì ngẩn người ra: 

– Lạ lùng thực! Ta đang đấu với y thị. Bỗng nhiên chưởng y thị đổi một cách kỳ dị, khiến ta thấy như mất hết kình lực. Ta phải cẩn thận mới được. 

Nghĩ rồi Nghi Gia phóng chưởng tấn công tiếp.Trần Năng vận chưởng đỡ. Lần nầy đã có ý niệm: Nàng chuyển chân khí về Đơn Điền, buông lỏng kình lực. Trong lòng không gợn chút sưu tư, thuận tay phát chiêu. Chiêu số của nàng phát ra không có gió. Nghi Gia thấy vậy thì mừng lắm. Y thị đánh thẳng một chưởng vào giữa ngực Trần Năng. Chưởng phong ào ào đổ tới. Trần Năng vẫn không tâm, buông lỏng kình lực. Chưởng lực của Nghi Gia chụp tới, kình lực biến mất tích. Thành ra khi tay thị đụng vào tay Trần Năng, cảm thấy kình lực biến đi. Thị kinh hoàng, nghiến răng đánh liền bốn chưởng. Trần Năng vẫn thản nhiên "không tâm" đỡ. Đánh được mấy chưởng nàng lại nghĩ: 

"Hôm ấy Tăng Giả Nan Đà giảng về ứng dụng đại thể tám câu kinh trên rằng: Khi quán tưởng thế gian nầy bằng trí và bi. Người sẽ thấy nó giống như hoa đớm giữa trời. Không thể nói nó có sinh ra hay bị diệt đi. Vì cả hai cái có và không đều dùng được. Khi quán tưởng môn vật bằng trí và bi. Người sẽ thấy nó như ảo giác. Ngoài hẳn sự nhận biết của tâm thức. Cũng không thể nói nó có hoặc không. Vì cả hai đều không dùng được ở đây. 

Muốn đi ra ngoài cái có và không, thì cần nhất để cái tâm trống rỗng. Khi phát lực, thì chân khí toàn thân cũng đổ ra như sóng biển dồn dập đánh vào bờ. Sóng tuy nhiều, tuy mạnh nhưng lại là thể lỏng. Không hình không dạng". 

Nàng lại nghĩ: 

"Ngài dậy ta không tâm, trong khi kinh nói Đại Bi tâm thế là thế nào? Vậy thì ta phát chiêu, trong lòng trống rỗng, rồi chuyển chân khí ra tay thử xem". 

Nghĩ vậy nàng ra chiêu Thanh Ngưu ư hà vận khí không tâm rồi chuyển Đại Bi Tâm. Bịch một tiếng, hai chưởng chạm nhau, kình lực Nghi Gia mất hút. Còn bị dư lực Trần Năng đánh vọt lên cao. 

Vô tình chỉ mấy câu kinh của Tăng Giả Nan Đà, mà Trần Năng hợp được Cương, Nhu vào trong một chiêu, khiến Nghi Gia bị thua. Còn ở trên không, y thị hét lên: 

– Chết! 

Phan Anh chạy lại đỡ vợ dậy hỏi: 

– Có sao không? Cái gì đã xảy ra? 

Trần Nghi Gia lắc đầu: 

– Không hiểu nữa, dường như y thị có tà thuệt thì phải. Lúc đầu y thị đấu với em kém thế. Rồi tự nhiên cái người "Đen như đồng" đọc lên mấy câu quái quỉ gì đó. Khiến cùng một thứ chưởng pháp, y thị biến đổi đi, làm mất hết kình lực của em. 

Y thị quay lại nói với Tăng Giả Nan Đà: 

– Nan Đà Đại sư! Trước đây chúng tôi có duyên gặp gỡ Đại Sư trên hồ Động Đình. Chúng tôi không hề vô phép với Đại Sư. Tại sao Đại Sư lại đi giúp địch thủ hại tôi? 

Tăng Giả Nan Đà chắp tay: 

– A Di Đà Phật tư bi chứng giám cho bần tăng. Bần tăng chỉ đọc mấy câu kệ, xưa kia Đại Huệ Bồ Tát tán thán Đức Thích Ca Mâu Ni. Mục đích bần tăng khuyên các vị nên "Rời xa được lẽ sinh, diệt" đến độ "Chí không còn để vào chỗ có, chỗ không", đến trình độ đó, thì đủ vào được Vô thượng Bồ Đề. Hùng phu nhân có duyên với Phật pháp. Nghe mà hiểu thấu đáo để huyền diệu của "Tự tính không". Kình lực Dương Cương võ công Tản Viên biến mất hết. Chí "Bất đắc hữu vô" không còn kình lực sát thủ, mà chỉ giải "Sắc tướng" trong chưởng pháp của Phan phu nhân. Phật pháp mở rộng vô bờ bến. Pháp môn nhiều vô kể. Như Phục Ngưu Thần chưởng, vốn chỉ có dương cương. Vạn Tín hầu chế ra âm nhu. Đó là hai biến hóa. Hùng phu nhân nghe kinh Phật, bỏ lòng độc ác, chỉ muốn hóa giải ác nghiệp của Phan phu nhân. Chưởng pháp Tản Viên lại biến ra một pháp mới. Đó là lẽ "Vô Thường" trong thế gian nầy. Bần tăng mong hai vị không đánh nhau, giết nhau. Đâu có để tâm vào giúp Hùng Phu nhân? Huống hồ Phan công tử và Phan phu nhân với bần tăng có duyên gặp gỡ trên hồ Động Đình. Bần tăng làm sao mà hại phu nhân cho được? 

Trần Nghi Gia nổi giận: 

– Hòa thượng còn chối cãi ư. Ban nãy chúng ta phóng ám khí giết Hàn Tú Anh, người ra tay cứu y thị. Như vậy tâm thiên vị rồi. 

Tăng Giả Nan Đà chắp tay: 

– A Di Đà Phật. Hai vị ẩn thân ở đây đã hai năm. Đâu có phải để giết Hàn thái hậu? Mục đích của hai vị ở chỗ khác. Bần tăng đã biết rồi. Hôm nay hai vị ra tay giết Hàn thái hậu. Sát nghiệp nổi lên, vung tay một cái, có ngờ đâu cái vung tay đó làm cho người ra đau đớn khổ sở. Bần tăng không thể nào ngồi nhìn nhị vị giết người. Bần tăng chỉ ra tay hóa giải thôi. 

Phan Anh bảo vợ: 

– Thôi, không nên nói với cái ông tượng đồng nữa. Nàng lùi lại, để ta đấu với Hùng phu nhân xem sao. 

Y vận khí phóng chưởng đánh Trần Năng. Trần Năng thấy kình lực phát ra âm nhu, giống như chưởng pháp Long Biên. Trong chưởng pháp có mùi tanh hôi, khiến nàng muốn nôn ọe. 

Trần Năng lại vận khí "không tâm" rồi "Đại bi tâm" phát chiêu. Bịch một tiếng chưởng của nàng chạm vào chưởng của Phan Anh. Nàng cảm thấy luồng chân khí của Phan Anh nhu hòa, âm độc, hàm chữa sát thủ giống như nội công của Phương Dung. Nàng kêu lên: 

– Ngươi luyện nội công âm nhu với phái Long Biên. Người là người phái Long Biên? 

Nội công phái Long Biên thiên về âm nhu, khắc chế với nội công Tản Viên của Trần Năng. Song Trần Năng lại vận khí theo Thiền Công của nhà Phật, hóa giải áp lực ngoài vào, làm mất kình lực của Phan Anh. 

Phan Anh cười nhạt: 

– Ta không biết phái Long Biên, Hổ Biên? 

Nội công phái Long Biên thiên về Âm Nhu, khắc chế với nội công Tản Viên của Trần Năng. Song Trần Năng lại vận khí theo Thiền công của nhà Phật, hóa giải áp lực của Phan Anh. 

Phan Anh cười nhạt: 

– Ta không biết phái Long Biên, Hổ Biên quái quỉ gì cả. 

Miệng nói y phát chiêu vù vù. Trần Năng vận " không tâm" và "đại bi tâm" chống lại dễ dàng. Trần Nhất Gia nói: 

– Trần phu nhân phải cẩn thận. Phu nhân nói đúng đó, giữa nội công của Phan Anh thuộc phái Trường Bạch với phái Long Biên ở Giao Chỉ có cùng nguồn gốc. Vì xưa kia Vạn Tín hầu sau khi đánh Hung Nô rồi, để lại một đệ tử, làm quan với Tần. Vị nầy lấy vợ Trung Nguyên, ở lại lập ra phái Trường Bạch. Phan Anh là người của phái Trường Bạch. 

Hai bên đấu được đến một trăn hiệp nữa. Tự nhiên Phan Anh lùi lại phóng một chưởng rất thô kệch. Trần Năng vung chưởng đỡ. Bịch một tiếng, hai chưởng dính với nhau. Trần Năng thấy trong chưởng của đối phương hàm chứa một mùi tanh cực kỳ khó chịu. Nàng ung dung vận khí " không tâm" rồi "đại bi tâm" hóa giải. 

Bỗng nàng cảm thấy mùi tanh lợm giọng, muốn mửa ra ngoài. Phan Anh thu chưởng lại cười ha hả, giọng điệu khoái trá. Y nói: 

– Hùng phu nhân, người trúng phải Huyền Âm Độc chưởng của ta rồi. Người mau ngồi xếp chân, vận công mới hy vọng thoát khỏi cái chết. Người phải mở vòng vây. Khi rời khỏi nay, ta trao thuốc giải cho ngươi. Bằng không người sẽ đau đớn vô cùng. Mỗi ngày lên cơn trong vòng hai giờ. Cuối cùng 7 lần 7 là 49 ngày. Ngươi sẽ chết. 

Trần Năng nhìn thấy tay mình biến thành xanh tím, ngứa ngáy khó chịu. 

Trần Nhất Gia nói lớn: 

– Trần phu nhân phải cẩn thận. Tuy nội công Trường Bạch với Long Biên giống nhau. Nhưng nội công Long Biên thì đường đường chính chính. Còn nội công Trường Bạch, đã trộn năm thứ nọc vào, đó là nọc rắn, nọc rết, nọc bò cạpp, nọc nhện và nọc tằm độc. Ai trúng phải người đau nhức, chết đi sống lại. Muốn chết không được, muốn sống cũng không xong. 

Trần Năng bị trúng độc, cánh tay thấy tê tê, ngứa quá. Nàng biết nguy rồi. Bản tính can đảm, nàng quát lớn: 

– Đằng nào ta cũng chết. Chúng ra cùng chết với nhau. 

Nàng vận khí vào Đơn Điền, rồi truyền ra Đốc Mạch, dẫn tới kinh Tam Tiêu, phát ra ở huyệt Quan Xung. Nàng điểm đến "véo" một cái vào người Phan Anh. Phan Anh thấy chỉ lực lợi hại, vội lăn tròn người đi tránh. Chỉ trúng vào một viên đá. Viên đá bay tung đi. 

Trần Năng nghĩ: 

– Ta phải dùng võ công thượng thừa, khống chế tên Phan Anh nay, mới mong sống còn. 

Nàng phóng chưởng cực kỳ hung bạo đánh Phan Anh. Đánh được bốn chưởng lại thấy Tăng Giả Nan Đà đọc kinh: 

Viễn ly ư đoạn thường, 

Thế gian hằng như mộng, 

Trí bất đắc hữu vô, 

Nhi hưng đại bi tâm. 

Trong lúc phẫn uất, nàng dùng toàn sát thủ tấn công. Nên những câu kinh của Nan Đà không lọt vào tai nàng. Chỉ lực nàng phóng ra vi vu. Phan Anh nhảy nhót tránh né. Được một lát cánh tay Trần Năng tê dại dần. Chỉ lực phát ra yếu ớt. Chên khí hỗn loạn. 

Tăng Giả Nan Đà lại đọc bốn câu kinh trên một lần nữa. Lần nay Trần Năng đã nghe rõ. Nàng nhớ ngài giảng "Đời chúng ta cái gì sinh ra rồi cũng diệt đi. Chỉ có Phật Tổ, viễn ly được với cái vô thường. Xa hẳn thế gian nầy, chẳng qua là cõi mộng mà thôi". Nghĩ vậy nàng bỏ ra ngoài đau đớn, chết chóc. 

Nàng nghĩ: 

"Theo Phật, ai sinh ra cũng phải chết. Ta không thoát khỏi cái chết. Ta không chết trước cũng chết sau. Cuộc đời như giấc mộng mà thôi. Thế mà ta dùng võ công của sư phụ giết Phan Anh, e đi ngược lại với kinh Phật". 

Vô tình chân khí của nàng từ "không tâm, đại bi tâm" đưa đến, nàng như mê dại đi không biết gì. Trong khi tay vẫn vung chưởng đánh Phan Anh. Hai chưởng lại đụng nhau nữa. Cả hai cùng dùng âm nhu. Một bên là nội công Âm Nhu của Vạn Tín hầu. Một bên là Thiền Công nhà Phật, hóa giải ác nghiệp từ ngoài vào. Hai chưởng đụng nhau, êm nhẹ, không tiếng động. Trần Năng cảm thấy cái ngứa ngáy khó chịu giảm bớt. Còn Phan Anh thấy kình lực của mình biến mất, như ném một ném muối vào biển. 

Trần Năng tỉnh ngộ: 

– Tăng Giả Nan Đà dường như đọc kinh để nhắc ta thắng Phan Anh thì phải. Ta phải chú ý mới được. 

Tăng Giả Nan Đà lại đọc: 

Trí nhân pháp vô ngã, 

Phiền não cập nhĩ diệm, 

Thường thanh tĩnh vô tướng, 

Nhi hưng đại bi tâm. 

Trần Năng phát chưởng như gió, nhưng trong tâm lại suy nghĩ theo lời kinh của Tăng Giả Nan Đà. Ngài giảng: Chỉ có Phật mới bỏ ra ngoài sự phân biệt giữa ta và người. Vì đã bỏ ra được cái ta và người, thì tự nhiên sẽ không phân biệt nhiều người, còn đâu là tranh dành, còn đâu phiền não? Vì vậy tâm hồn mới được thanh tịnh. Tóm lại muốn đạt đến mức đó phải bỏ ra ngoài cái Ta với Người tức là không tưởng thì mới đưa đến đai bi tâm. 

Trần Năng vừa nghĩ, vừa tự động phát chưởng ra. Nàng thấy tay mình toát mồ hôi, tanh hôi vô cùng, người khoan khoái nhẹ nhàng. Nàng tỉnh ngộ: 

–Thì ra ta chú ý đến Phan Anh đánh ta. Ta chú ý đến đau đớn, tức phân biệt "Ta" với "Người". Bây giờ không tâm, đi đến vô tướng, thì độc chất phát ra. 

Bịch một tiếng, chưởng của nàng chạm vào chưởng của Phan Anh. Người y lảo đảo bật lùi trở lại, rồi ngã xuống đất. 

Từ Khúc Giang ngũ hiệp tới Trưng Nhị đều kinh ngạc không ít. Với bản lĩnh Trần Năng lúc đầu. Đấu với Trần Nghi Gia, kém hơn một chút. Trần Năng nghe "Tăng Giả Nan Đà đọc kinh, giác ngộ, áp dụng "Tự Tính không" đánh bại Nghi Gia. Nàng đấu với Phan Anh, bị trúng Huyền âm độc chưởng. Tính mệnh nguy hiểm trong chốc lát. Bây giờ đảo ngược lại, dường như nàng không còn đau đớn nữa. Còn đánh Phan Anh lạc bại. 

Phan Anh đứng dậy, điều hòa hơi thở, lại vung chưởng tấng công. Trần Nghi Gia đứng ngoài, phát chiêu cùng với chồng tấn công Trần Năng. Trần Năng lùi lại ba bước, phát chưởng đấu với cả hai một lúc. Hai người phối hợp cương, nhu phát chiêu. Trần Năng hít một hơi chân khí rồi vận "không tâm", vung chưởng đỡ. Chưởng của Nghi Gia thuộc Dương Cương. Chưởng hướng của Phan Anh thuộc Âm Nhu. Hai chưởng giao nhau với chưởng lực của Trần Năng. Cả ba người đều bật lùi lại. 

Trần Năng bình tĩnh, đã có một chút ý niệm về "không tâm". Nàng quay tròn vung chưởng đấu với cả hai vợ chồng Phan Anh. 

Nàng tiếp tục dùng "không tâm" rồi "Đại bi tâm" phát chưởng giao đấu với hai người. Nàng nghiệm thấy mỗi lần hai chưởng chạm nhau đối phương như mất hết kình lực. Vì vậy nàng vừa đỡ đòn, thỉnh thoảng tấn công một chiêu. Đấu được khoảng năm chục chiêu, đã quen với lối vận khí. Cứ một chiêu đỡ, nàng có một chiêu tấn công. Có một điều nàng cảm thấy nguy hiểm là: Công lực của nàng thấp hơn một trong hai người. Mà phải đấu với cả hai một lúc. Công lực nàng cạn dần. 

Trần Năng tính toán: 

– Trước đại hội Tây hồ, nếu ta gặp một trong hai vợ chồng nay, thì e rằng chỉ một chiêu họ cũng đánh bại ta. Sau nhờ sư phụ và Đào Sư Thúc truyền dậy, võ công ta tiến bộ không ngừng. Ta những tưởng rằng mình đứng đầu trong nữ lưu. Không ngờ hôm nay gặp Trần Nghi Gia, võ công cao hơn ta một chút. Giữa lúc có thể bị thua, vị Đại Hòa thượng đọc một đoạn kinh Lăng Già, khiến ta tỉnh ngộ, thắng được Nghi Gia. Bây giờ hai vợ chồng họ đấu với ta. Tuy ngang nhau, nhưng dần dà, công lực ta bị tiêu hao, ta sẽ bị thua. Ta phải làm sao đây? Dù sao còn Phật Nguyệt đứng lược trận. Nàng mà ra tay thì khống chế được hai người này. 

Bỗng Tăng Giả Nan Đà gõ mõ đọc kinh. Trần Năng nhận ra ngài đọc bài "Bát nhã ba la mật đa tâm kinh": 

Quán Tự Tại Bồ Tát, 

Hành thâm Bát Nhã Ba la mật đa thời, 

Chiếu kiến ngũ uẩn giai không, 

Độ nhất thiết khổ ách, 

Xá lợi tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc. 

Trần Năng ngơ ngác tự hỏi: 

– Tăng Giả Nan Đà đọc kinh "Bát nhã ba la mật tâm kinh" lên làm gì? Hôm trước ngài giảng rằng: Kinh bát nhã ba la mật vượt ra ngoài lời nói, tư tưởng và tán ngữ. Tự tính như hư không. Không sinh, không diệt là cảnh giới của "Huệ". Hiển hiện trong nội tâm chúng ta. Bấy giờ đức Thế Tôn nhập vào Tam muội Chính Giác cực sâu. Cùng một lúc đó đại Bồ Tát Quán Tự Tại đang thực hành Bát Nhã Ba La mật rất sâu xa. 

Đoạn trên có nghĩa là: Khi Bồ Tát Quán Tự tại thực hành Bát nhã ba la mật sâu xa. Ngài soi thấy rằng có năm uẩn. Ngài nhận thấy năm uẩn đó không có tự tính trong chúng. 

Này Xá lợi Phất: 

Sắc ở nay là không. Không là sắc. 

Sắc không khác không. 

Không không khác sắc. 

Sắc tức thị là không. 

Không tức thị là sắc. 

Thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy. 

Nàng lẩm nhẩm: 

– Như vậy chưởng của ta phát ra phải lấy cái "Không tâm" làm căn bản. Đó là "Sắc không khác không". Kình lực ta phát ra "không", song nó lại là sắc, hóa giải kình lực của vợ chồng Phan Anh. Như thế thì "Sắc" "không" cùng giống nhau. Ta đánh người, người đánh ta, đều phải coi như không có. Tự đó đưa đến: Thọ, Tưởng, Hành, Thức cùng giống nhau. 

Nàng buông lỏng kình lực. Để tâm trong sáng. Nhàn nhã đưa chưởng đỡ. Chưởng của nàng ôn nhu, nhẹ nhàng. Chạm vào chưởng của vợ chồng Phan Anh, dù cương, dù nhu, cũng không thấy rung động. 

Phan Anh nhìn vợ. Cả hai cùng phát năm chiêu liền. Trần Năng hời hợt đưa tay đỡ. Năm chiêu điều biến mất. 

Tiếng Tăng Giả Nan Đà vẫn vọng lên đều đều: 

Xá lợi Phất! Thị chư pháp không tướng, 

Bất sinh, bất diệt. 

Bất cấu, bất tịnh, 

Bất tăng, bất giảm, 

Thị cố không trung vô sắc, thọ, tưởng, hành, thức. 

Vô nhãn, nhĩ, ty, thiệt, thân ý. 

Vô sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp. 

Vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới. 

Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, 

Vô khổ tập diệt đạo, 

Vô trí, diệc vô đắc. 

Trần Năng suy nghĩ rất mau: 

– Khi xưa Phật nói với Bồ Tát Xá Lợ Phất rằng: Tất cả các pháp đều không có hình tướng. Không sinh, không diệt. Không dơ bẩn, không tinh khiết. Không tăng không giảm. Cho nên không có sắc, thọ, tưởng, hành thức. Như vậy không còn phân biệt chiêu thức của ta, của địch nữa. 

Thuận tay phát chiêu, nàng phát bừa một chiêu. Vợ chồng Phan Anh ngẩn người tự hỏi: 

– Chiêu nầy là chiêu gì ? 

Phân tâm một chút. Chưởng Trần Năng đã tới. Cả hai đưa bốn chưởng đẩy ra. Trần Năng thu chưởng về, biến thành trảo chụp lên vai hai người. Trảo của nàng thô kệch. Không có tý kình lực nào. Ngón tay nàng dính vào vai hai người. Thì Phan Anh rung động toàn thân. Trên đầu có khói trắng bốc lean. Còn Trần Nghi Gia mặt tái nhợt. Cả hai lùi lại. Mặt nhợt nhạt. Phan Anh quát lên tay phóng độc chưởng. Trần Nghi Gia rút kiếm đánh liền mười chiêu. Kiếm quang bao phủ người Trần Năng. Nàng kinh hãi, vọt người lên cao tránh. Nghi Gia đuổi theo, khoa kiếm định chăt chân nàng. Phan Anh đánh xéo một chưởng trở lên. 

Phật Nguyệt đứng ngoài thấy Trần Năng lâm nguy. Nàng rút kiếm vọt người đi, chĩa vào cổ Nghi Gia. Còn lơ lửng trên không, kiếm của nàng đụng vào phải một vật, kêu choảng một tiếng. Cánh tay nàng tê chồn. Kình lực mất. Nàng rơi xuống đất. Thì ra Tăng Giả Nan Đà ném một trái tùng vào kiếm của nàng. Nàng định lên tiếng, thì nghe tiếng một trái trúng vào kiếm bay bổng lên trời gãy làm bốn mảnh rơi xuống. 

Nguyên Trần Năng còn ở trên không. Bị vợ chồng Phan Anh tấn công. Tay trái nàng phóng chỉ vào thanh kiếm Nghi Gia, kình lực vận theo "cho nên không trung không sắc, thọ, tưởng, hành, thức". Chỉ chạm vào kiếm, làm kiếm gãy thành 4, 5 đoạn. Tay phải nàng đẩy một chướng vào chưởng của Phan Anh. Giữa lúc nguy nan, mắt nàng mờ đi, tai không còn nghe thấy gì, thân cũng như ý tưởng ngất đi. Đúng với câu: "Không có mắt, tai mũi, lưỡi, thân, ý". Kình lực nhu hòa phát ra mạnh đến long trời lở đất. Chưởng của nàng đánh vào chưởng của Phan Anh. Người nàng lại bay vọt lên cao. Trong khi ở trên cao. Người nàng bị câu: "Không có sắc, thanh, hương, vị, súc, pháp. Không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới. Không có minh, không có vô minh. Không có diệt, không có vô minh diệt. Như vậy thì không có tuổi già, không có sự chết. Không có khổ, tập, diệt, đạo. Không có trí, không có đắc, và không có chứng. Bởi vì không có đắc, người nàng từ từ rơi xuống. Giữa lúc chưởng của Nghi Gia đánh vào. Bình một tiếng. Nàng trúng chưởng của Nghi Gia. Người nàng hơi rung động. Còn Nghi Gia bay vọt lên cao. Thị ngã ngửa xuống đất. Phan Anh rút kiếm, đâm vào giữa ngực Trần Năng. Nàng vung tay, kẹp lất lưng thanh kiếm. Phan Anh thấy vậy thì chửi thầm: 

– Còn lỏi nay khinh địch. Chết đừng oán ta. 

Trong khi Trần Năng tập trung tinh thần, bỏ ra ngoài nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý. Nàng không còn sợ hãi nữa. Tay kẹp cứng thanh kiếm của Phan Anh. Y dùng hết sức dằng ra, mà không được. Y vận thêm kình lực đẩy thanh kiếm về trước. Thanh kiếm như đinh đóng cột không rung động. 

Trần Năng rung động tay một cái. Thanh kiếm gãy làm 7, 8 mảnh. Thuận tay nàng nay các mảnh kiếm vào người Phan Anh. Y kinh hoàng, tung Hành Tú Anh lên không trung, dùng hai chưởng gạt các mảnh kiếm. Trần Nang tấn công thêm hai chưởng, y nhảy lùi lại ba bước dỡ. Nàng thuận tay đỡ lấy Hàn Tú Anh, di chuyển đến trước Phật Nguyệt, trao cho nàng. 

Chợt Tăng Giả Nan Đà lại đọc: 

Nhất thiết vô Niết Bàn, 

Vô hữu niết bàn Phật, 

Vô hữu Phật Niết Bàn, 

Viễn ly giác sở giác, 

Nhược hữu, nhược vô hữu. 

Thị như hốt câu ly, 

Mâu ni tịch tĩnh quan. 

Thị tắc viễn ly sinh, 

Thị danh vị bất thủ, 

Kim thế, hậu thế tịnh. 

Trần Năng nhận ra đoạn kinh nầy vẫn là bài kệ của Đại Huyệ Bồ Tát tán thán Phật. Tăng giả Nan Đà giảng rằng: Khi đã bỏ ra ngoài sắc tướng thì làm gì có Niết Bàn, cũng chẳng có Phật nữa, phải xa lìa những cái ngộ giác ngộ mình đạt được. Coi có, và không đều như nhau. Như thế mới xa lìa được cái sống, cái chết tức đạt tới "Vô đẳng chính thượng chính giác" tức thành Phật vậy. 

Nàng vừa nghĩ, vừa bỏ hết tất cả kình lực, cứ thuận tay phát chưởng. Chưởng phong vù vù phát ra, nhưng nhu hòa. Bộp một tiếng, Phan Anh bay bổng lên cao, rơi xuống bụi cây. Bộp một nữa Trần Nghi Gia bắn ra xa đến ba trượng, rơi xuống đất. Hai người nằm im một lúc, rồi mới từ từ ngồi dậy. 

Vợ chồng Phan Anh mặt tái nhợt, nói: 

– Hùng phu nhân. Người không phải người nữa rồi. Võ công của ngươi trên đời ta chưa từng nghe qua. Nội công của người dùng là nội công gì vậy? 

Trần Năng tuy là gái. Nhưng chí khí như nam nhi, nàng thản nhiên chỉ vào Tăng Giả Nan Đà nói: 

– Chưởng pháp, võ công của tôi, do sư phụ tôi là Khất Đại Phu đất Lĩnh Nam truyền dậy. Phan phu nhân, lúc đầu đấu chưởng với phu nhân, tôi hơi kém một chút. Sau nhờ Phật gia đây dậy mấy câu, tôi thắng được phu nhân. Rồi cũng nhờ Phật Gia đây dậy mấy câu nữa, tôi thắng được hai vị. Phan phu nhân, phu nhân đừng buồn. Tôi đi từ Lĩnh Nam sang Trung Nguyên, chưa có nữ lưu nào thắng được chưởng của tôi. Mà phu nhân hơn tôi một chút thì phu nhân là người võ công cao nhất trong nữ lưu thiên hạ rồi. 

Phan Anh cùng vợ nhìn nhau hội ý, rồi phát chưởng tấn công Phật Nguyệt. Phật Nguyệt kinh hoảng tung Hàn Tú Anh sang phía Hồ Đề. Nàng phát chưởng chống lại. Thuận thế nhảy lui ba bước để hóa giải kình lực của chúng. Vợ chồng Phan Anh chỉ chờ có thế, họ nhảy lại chụp Hồ Đề, Hàn Tú Anh. Hồ Đề ôm Hàn Tú Anh nhảy lùi vào giữa đàn cọp. Song cái chụp của Nghi Gia làm mất tấm khăn che mặt của bà. 

Đàn cọp thấy chúa tướng bị tấn công. Chúng gầm lên một tiếng rúng động trỗi dậy. Hơn mười con nhảy đến vồ vợ chồng Phan Anh. Vợ chồng Phan Anh kinh hoảng, nhảy lùi lại phía sau Tăng Giả Nan Đà núp. 

Tấm vải che mặt của Hàn Tú Anh bay ra. Mọi người đều kêu "Ồ" lên một tiếng. Vì từ đầu, người ta chỉ thấy lưng thon thon, vai mảnh khảnh, dáng người thướt tha của bà, chứ chưa thấy mặt. Bây giờ mặt bà không còn che vải, thực là đẹp tuyệt thế. Tuổi bà đã trên năm mươi, nhưng mới nhìn qua tưởng chỉ khoảng ba mươi là cùng. 

Trần Năng đặt bà xuống cạnh Phật Nguyệt, đề phòng Phan Anh ám toán. 

Nàng đến trước Tăng Giả Nan Đà quì xuống lạy bốn lạy: 

– Sư phụ! Sư phụ đến đây từ hồi nào? Nhờ sư phụ chỉ dậy, để tử mới cứu được Hàn Thái Hậu. 

Tăng Giả Nan Đà cười tủm tỉm, nét mặt ông hiền hòa, từ bi: 

– Bần tăng tới từ chập tối. Trần tí chủ, thí chủ có duyên với Phật pháp. Ngộ tính của thí chủ cực cao. Thí chủ biết chuyển từ lời lẽ vào với võ công dương cương đầy sắc của Lĩnh Nam. Huyền diệu! Huyền diệu! 

Ông tiếp: 

– Hùng phu nhân! Thiền công nhà Phật đặt căn bản trên kinh Kim Cương, Lăng Già, Bát Nhã ba la mật tâm kinh. Phàm khi xử dụng, phải để tâm trong sáng. Địch mạnh, mặc địch mạnh. Địch hung dữ mặc địch hung dữ. Tâm tư bình thản, coi thế cuộc như "hư không hoa". Đến Niết Bàn, cũng không còn nữa. Thế là đi vào đến cửa Bồ Đề. Trong nhà Phật gọi là "Vô Thượng Chinh Đẳng Chính Giác". Hôm nay cơ duyên đưa đến. Phu nhân luyện được thiền công. Khi xử dụng phải lấy từ bị làm gốc. Hồi nãy, biết mình bị trúng Huyền âm độc chưởng, phu nhân dùng Lĩnh Nam chỉ muốn giết Phan công tử. Sát nghiệp nổ dậy, tức là "Sắc tướng". Phàm có "Sắc tướng" là có "ngã tướng". Có nhân tướng có thì phải nhiều nhân tướng, thành "chúng sinh tướng". Vì vậy lực không ra suýt nữa bị hại. Xin phu nhân chú ý cho. 

Trần Năng kính cẩn bái tạ. 

Tăng Giả Nan Đà móc ra một tập sách mỏng, nói tiếp: 

– Bần tăng mới dịch kinh Kim Cương. Lăng Già, Bát Nhã ba la mật tâm kinh sang Hán Văn. Xin tặng Hùng phu nhân, làm duyên. 

Trần Năng kính cẩn nhận bỏ vào túi. 

Khúc Giang Ngũ Hùng và Trường Sa Tam Anh thấy Trần Năng xuất hiện cùng Hồ Đề, Phật Nguyệt đem theo đàn cọp, beo có ý lo ngại. Bây giờ thấy họ xưng người Lĩnh Nam mới yên tâm. 

Hồ Đề quen mặt tất cả. Nàng đi một lượt, giới thiệu từng người với nhau. 

Trần Nhất Gia hỏi Trần Năng: 

– Hùng Phu Nhân! Phu nhân là đệ tử của Khất Đại Phu, Trần tiên sinh đó sao? Hèn gì Phục Ngưu Thần Chưởng của phu nhân biến ảo khôn lường. Theo ngu ý dường như phu nhân có chế biến thêm vào. Bởi Trần tiên sinh chỉ biết có 16 chưởng, chứ không đủ 36 chưởng như phu nhân xử dụng. Lão già nầy mắt kém, nhận không ra, xin phu nhân chí cho. Không biết gần nay tiên sinh có được khỏe mạnh không? 

Trước kia, Trần Năng thường nghe sư phụ nói về Trần Gia ngũ hiệp ở Khúc Giang. Ngài nói rằng giữa ngài với họ là chỗ thâm tình huyết tộc. Họ dưới ngài một vai. Nghe Trần Nhất Gia hỏi, nàng vội tới làm lễ: 

– Đại sư huynh. Tiểu muội Trần Năng xin tham kiến năm vị sư huynh. Sư phụ tiểu muội vẫn khỏe. Người nhắc đến các vị luôn. Hồi nầy người chuyên chú về y học nhiều hơn. Còn về Phục Ngưu Thần Chưởng, quả người chỉ biết có mười sáu chiêu. Sau Đào sư thúc của phu quân muội tìm được bộ Văn Lang vũ học kỳ thư, trong đó ghi đủ ba mươi sáu chiêu Phục Ngưu Thần chưởng, cả cương lẫn nhu, người mang ra dậy cho tiểu muội. 

Trần Nhất Gia vuốt râu cười: 

– Khất Đại Phu không phải người thường! Thúc phụ đã thành một Tiên ông rồi. Này tiểu muội, ta thấy vừa rồi tiểu muội xử dụng thứ nội công kỳ lạ, phải chăng nội công Âm Nhu của phái Long Biên? Có điều nội công Âm Nhu của tiểu muội thì chính đại quang minh. Chỉ dùng để thắng người chứ không giết người, thế là thế nào? 

Trần Năng khâm phục: 

– Sư phụ muội thường nói sư huynh kiến thức quảng bác thiên hạ. Vừa rồi, muội xử dụng nội công Tản Viên đấu với Phan phu nhân, hơi kém thế. Sau được Phật Gia dậy muội mấy cây huyền diệu của Phật Pháp, muội mới thắng được Phan phu nhân. Thiền công của nhà Phật, tuy đánh người mà không làm hại người. 

Trần Nhất Gia liếc nhìn Tăng Giả Nan Đà nói: 

– Đúng như vị Phật gia dậy. Tiểu muội có duyên với Phật pháp, nên ngài đọc những câu "quyết", mà tại nay có bấy nhiêu người, không ai hiểu gì cả. Duy mình tiểu muội hiểu, đem áp dụng mà thành công. Với bản lĩnh đó, hiện giờ tiểu muội không thua gì bọn ta nữa rồi. 

Trần Nghi Gia nghe Trần Nhất Gia nói truyện với Trần Năng mới rõ những gì đã xảy ra trong khi mình đấu với nàng. Y thị thở dài cúi đầu xuống thất vọng. 

Phan Anh nhìn vợ hội ý: 

– Thôi rồi, thế là việc cứu mẫu thân coi như hư vô. 

Hai người vung kiếm lên cổ tự tử. 

Ánh kiếm lóe lên, mọi người định can thiệp, nhưng không kịp. Tăng Giả Nan Đà cầm sợ giây, tay rung một cái. Sợ giây như con rắn, mổ vào thanh kiếm của hai người. Kiếm bay vọt lên cao cắm vào cùng chỗ với mấy thanh đao kiếm của bọn Trương Linh. 

Hàn Bạch nói: 

– Phan tiểu vương gia! Ngươi đừng tự tử làm gì. Ta hứa sẽ cứu mẫu thân ngươi. Hàn mỗ xưa nay chưa sai hẹn bao giờ. 

Phan Anh đến trước mặt Tăng Giả Nan Đà thụp xuống đất lậy: 

– Tăng Giả Đại Sư, đa tạ Đại Sư cứu mạng. 

Tăng Giả Nan Đà khoan thai nói: 

– Phan thí chủ. Cách đây bốn tháng, bần tăng có duyên hội ngộ với thí chủ tại hồ Động Đình. Bần tăng đã đem Phật Pháp giác ngộ thí chủ rằng: Dục tính con người ta vốn không bờ bến. Người được một đồng lại muốn một trăm. Lúc được một trăm, lại muốn hàng vạn hàng triệu. Khi người ta làm một chức lại nhỏ, thì muốn làm đến Huyện lệnh. Được Huyện lệnh lại muốn làm Thái thú, thứ sử. Tới Thứ Sử thì mong được tước Hầu, tước công. Được tước công lại muốn làm Hoàng Đế. Con người bị ba mối tham, sân, si; bị ngũ uẩn che mất ánh sáng giác ngộ. Cứ suốt đời chạy theo mãi, không bao giờ cùng, thực lao tâm khổ tử khôn cùng. Sao bằng buông hết tất cả, thản nhiên, tiêu dao, có phải sung sướng biết mấy không? 

Câu nói của Tăng Giả Nan Đà, mọi người đều không hiểu, vì nó không ăn nhập vì hoàn cảnh Phan Anh. Phan Anh bắt Hàn Thái Hậu với mục đích cứu mẹ, mà vị Phật Gia nay lại nói đâu đầu những gì tham, sân, si? Nhưng Tăng Giả Nan Đà vừa dứt lời Phan Anh mặt tái nhợt. 

Trần Nghi Gia lo sợ đánh trống lảng: 

– Đại sư vừa dậy đệ tử Ngũ uẩn. Đệ tử ngu tối, không hiểu Ngũ uẩn là gì. Dám xin Đại Sư thương xót mà giảng cho. 

– A di đà Phật. Xích phu nhân hỏi vậy là phải. Để bần tăng giảng cho phu nhân nghe. Ngũ uẩn là năm thứ tích tụ lại của con người và của chúng sinh. Ngũ uẩn che lấp mất ánh sáng trí tuệ, khiến cho chúng sinh u mê, luân hồi vô cùng. 

Phật Nguyệt hỏi: 

– Sư Phụ! Sư phụ chưa giảng cho đệ tử biết luân hồi là gì, thì làm sao đệ tử hiểu được Ngũ uẩn? 

Từ hôm gặp Tăng Giả Nan Đà đến giờ, Phật Nguyệt gần ngài nhiều nhất. Nàng được hưởng ân huệ thuyết pháp của ngài luôn. Song hôm nay lần đầu tiên nghe đến chữ luân hồi, nàng nêu thắc mắc. Tăng Giả Nan Đà khoan thai giảng: 

– Phật Nguyệt thí chủ quả tinh minh. Luân hồi tiếng Phạn là Samsara. Bần tăng dịch là luân hồi. Luần là bánh xe, hồi là trở về. Luân hồi là cái bánh xe quay vòng, thì bất cứ cái lăn của bánh xe nào cũng trải qua nhiều vị trí, từ vị trí cao nhất, vị trí ngang, đến vị trí thất nhất. Sau khi quay hết một vòng, cái lăn lại trở về vị trí cũ. Đấy đại để luân hồi là thế. Các động vật chia làm sáu loài: Cao nhất tiên rồi tới thần, rồi tới người. Cõi người là cõi trung bình. Thấp hơn cõi người là địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. 

Đó là sáu cõi. Con người cứ như bánh xe, nay cõi nay, mai cõi khác. Kiếp này là Tiên, không lo tu hành khi hưởng hết phúc, cũng bị chết, đẩy vào cõi thần, người, địa ngục, ngạ quỉ hay súc sanh. 

Phật Nguyệt suýt xoa: 

– Phải rồi, vì vậy Phật Thích Ca mới bỏ ngôi Thái tử để đi tu. Hầu tìm lấy con đường giải thoát khỏi sáu cõi. 

Tăng Giả Nan Đà mỉm cười: 

– Thí chủ hiểu mau quá, nói đúng quá. Muốn thoát khỏi sáu cõi luân hồi phải tìm đường tu thành đạo, hết luân hồi, hết khổ não. 

Phật Nguyệt chăm chăm nhìn Tăng Giả Nan Đà: 

– Khi con người giác ngộ, tu hành, đã hết khổ não một phần. Như sư phụ nay, không lo, không giận, không phiền, không tham muốn, đã thành một Bồ Tát sống rồi dậy. Sư phụ! Người có thể độ cho đệ tử theo người thành Bồ Tát được không? 

Tăng Giả Nan Đà lắc đầu: 

– Không bao giờ bần tăng giúp thí chủ thành Bồ Tát, vì bần tăng có giúp cũng không được. 

Phật Nguyệt chưng hửng: 

– Sư phụ! Tại sao vậy? 

– Bần tăng chỉ giảng Phật pháp cho thí chủ mà thôi. Còn giác ngộ tự chính thí chủ. Thí chủ hãy bỏ hết Ngũ uẩn, trở lại với con người mình. Con người mình không còn gì nữa, thì Phật sẽ đến ngay trong tâm thí chủ. 

Những lời đối đáp giữa Tăng Giả Nan Đà với Phật Nguyệt ngày càng cao xa, khiến quần hào ngồi đó bị lôi kéo, say xưa, không biết rằng trời sáng lúc nào. Đoàn Thần hổ, Thần báo, nằm ngủ ngáy vang như sấm. Chim trời thức giấc, hót líu lo chào mừng bình minh và muôn hoa. Trần Năng chấp tay: 

– Như hồi nãy, đệ tử đấu với Phan tiểu vương gia và phu nhân. Sư phụ nhắc đệ tử "Chí bất đắc hữu vô" đệ tử "không tâm" thì kình lực cũng không. Hóa giải hết kình lực của Phan phu nhân, nên phu nhân mới bị thua. Rồi sư phụ nhắc "Nhi hưng đại bi tâm" trong cái "không tâm" của nhà Phật, lòng đại bi đối với chúng sanh phải rộng như biển. Thì trong cái không lại hiện cái có đúng như kinh Bát Nhã nói "Sắc tức thị không, không tức thị sắc. Sắc bất dị không, không bất dị sắc". Đệ tử áp dụng vào chuyển chân khí, thắng được Phan tiểu vương gia và phu nhân. Đó là chẳng qua đệ tử "Trực chỉ nhân tâm, kiến tính của mình mà thấy Phật tính". Có phải thế không? 

Tăng Giả Nan Đà nhìn Trần Năng: 

– Hùng phu nhân tuy nghe ít, mà giác ngộ nhiều. Niết bàn đối với phu nhân không xa. Bây giờ bần tăng trở lại với Ngũ uẩn. Ngũ uẩn là năm thứ nó che mất tính giác ngộ của chúng sinh, khiến chúng sinh bị giam trong kiếp luân hồi. Ngũ uẩn là: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Tại sao bần tăng lại đen? Tại sao Hàn thái hậu với công chúa Vĩnh Hòa trắng? Tại sao Hùng phu nhân với cô nương da lại hồng? Đó là những cái hình thể của chúng ta khác nhau. 

Hàn Tú Anh lên tiếng: 

– Giữa chúng tôi với công chúa tuy da trắng giống nhau, thế mà chúng tôi vào trong lăng này, mỗi người có một tâm khác nhau. Cái đó gọi là gì? Xin đại Sư giảng cho. 

Tăng Giả Nan Đà nhìn Thái Hậu với vẻ thương xót: 

– Cái đó gọi là Vedana, dịch sang tiếng Hán là Thọ. Đối với cảnh lăng này, Thái hậu tới nay tế lăng, nhớ đến Tiên đế khi xưa giả làm văn nhân đến gặp thái hậu. Rồi hiển hiện lên cảnh sống hạnh phúc ở Đào gia. Rồi cảnh Thái hậu bị đem vào rừng giết, lưu lạc xuống Quế Lâm, xa hai Thế tử, xa tiên đế. Còn Công chúa tới đây tế lăng, quì xuống khóc, nhớ lại ông chú mình xưa là Trường Sa vương, bị giết. Cảm thương sự nghiệp nhà Đại Hán, nhớ đến Cảnh Thủy Hoàn Đế, nhớ đến Thái phu nhân, thì lòng vừa lo, vừa hồi hộp, vừa hy vọng. Những cảm quan khác nhau như vậy gọi là Thọ. Còn trong lăng nay, chúng ta nhận ra hình thể của Khúc Giang Ngũ Hiệp, Tượng quận Tâm Anh, người người khác nhau cái đó gọi là Sanjina, dịch sang tiếng Hán là Tưởng. 

Dưới ánh bình minh, tiếng Tăng Giả Nan Đà nói sang sảng như tiếng chuông, khiến mọi người bị lôi kéo theo, không còn biết cảnh vật xung quanh nữa. 

Ngài tiếp: 

– Nhìn cảnh lăng này, thì Hùng Phu nhân nghĩ cứu xong Hàn thái hậu, cất quân về chiếm lại Lĩnh Nam. Phan tiểu vương muốn bắt Hàn thái hậu. Công chúa giận Xích Mi đã giết Cảnh thủy hoàng đế. Tất cả những cái đó gọi là Samskaras dịch sang tiếng Hán là Hành. Còn như trong lăng mộ nay, Trần Nhất Hiệp phân biệt được nội công, võ công của Hùng phu nhân có những dị biệt, đó là Vijana tức là Thức. Vậy Ngũ uẩn là cái gì? Nó chính là con người, mỗi con người có Ngũ uẩn hợp thành. Muốn giác ngộ, phải bỏ Ngũ uẩn trước. Trong kinh Bát Nhã, bần tăng đọc lên ban nãy có câu rằng "Chiếu kiến ngũ uẩn giai không". Ở đây cộng chung có ba mươi mốt người mà chỉ Hùng phu nhân giác ngộ, hiểu được, áp dụng vào nội công, thắng Phan tiểu vương và phu nhân. 

Hàn Bạch đưa tay đếm số người rồi nói: 

– Đại hòa thượng lầm rồi, chỉ có hai mươi bốn người, kể cả ngài là hai mươi lăm thôi, không tới ba mươi mốt. 

Tăng Giả Nan Đà cười: 

– Tới 30, với bần tăng là 31. 

Trần Nhị Gia đưa tay đếm: 

– Nhóm của Công chúa 9 người, nhóm Phan Anh 2 người, nhóm của tại hạ 5 người nữa, cộng lại là 24. 

Tăng Giả Nan Đà đưa tay về phía phải, một luồng kình phong nhu hòa thổi vào bụi cây có Trưng Nhị, Sa Giang núp. Hai người biết bị bại lộ, vội đứng dậy. Trưng Nhị bước đến trước mặt Tăng Giả Nan Đà chắp tay: 

– A Di Đà Phật! Đệ tử ẩn thân ở nay, được nghe lời giảng cao siêu của Đại Sư, thực muôn vàn cảm tạ. 

Nàng hướng vào mọi người: 

– Trưng Nhị, người đất Lĩnh Nam xin tham kiến Khúc Giang Ngũ Hiệp và Tượng Quận Tam Anh. 

Hồ Đề đi một vòng giới thiệu. 

Trần Nhất Gia hỏi: 

– Vậy mới là 26 người. Còn năm người nữa ở đâu, xin Đại Sư mời họ ra tương kiến, không biết có được không? 

Tăng Giả Nan Đà lắc đầu: 

– Không nên. Trong năm người nay, hai người nội công cao thâm không lường. Một người già, một người trẻ. Lòng dạ từ bi. Ba người nữa thuộc loại siêu nhân. Họ đến đây trước cả bần tăng. Họ không muốn hiển lộ thân thế thì thôi.

Hồ Đề huýt sáo gọi Thần ưng, ra lệnh cho chúng tìm 5 người Tăng Giả Nan Đà nói đến. Tần ưng bay lên cao, lượn một vòng, rồi đâm bổ xuống phía chân đồi. Chúng bay lên kêu ba tiếng. 

Hồ Đề nói: 

– Năm người thấy bại lộ, đã xuống đồi. Họ là người nhà, Thần ưng quen mặt, nên không tấn công. Thôi bỏ qua truyện nầy. 

Trần Nhất Gia hỏi Trưng Nhị: 

– Trưng cô nương, chẳng hay Đặng Thi Sách và phu nhân có được mạnh khỏe không? Cách nay mấy năm, tôi đã được gặp Đặng đại ca, bàn truyện phục hồi Lĩnh nam đến hai đêm hai ngày. Đặng đại ca hùng tâm, đại lược, khiến anh hùng bốn phương đều qui phục. 

Trưng Nhị tường thuật tất cả những biến chuyển vừa qua cho Trần Nhất Gia nghe. Nàng kết luận: 

– Trần Kim Bằng tiên sinh là bác của các vị. Vì giữ trong người giữ di chiếu phục quốc của An Dương Vương. Người phải cải tên Nghiêm Bằng. Võ công Khúc giang, người dấu không dạy cho con. Trần Tự Sơn chỉ biết sự thực khi thân phụ qua đời, truyền di vật cho mà thôi. 

Năm anh em Khúc Giang Ngũ hùng nghe truyện, nước mắt chan hòa. Trần tứ Gia thở dài: 

– Bá phụ làm việc quá kín đáo. Hồi người bỏ đi. Chúng tôi tìm khắp nơi mà không thấy. Ai ngờ người cải tên họ, làm quan với Trường Sa Vương. Bấy lâu nay, chúng tôi hằng chống Lĩnh Nam Vương. Có ngờ đâu, ngài lại là anh họ mình. 

Trưng Nhị nói với Hàn Tú Anh: 

– Bá mẫu, chúng tôi đối với Nghiêm Đại ca như tình ruột thịt. Chúng tôi đến đây cứu bá mẫu. Xin bá mẫu đừng sợ hãi. 

Hàn Tú Anh cất tiếng ôn nhu hỏi: 

– Nghiêm Sơn mang quân đánh Thục, đã xong chưa? 

Trần Năng đáp: 

– Nghiêm vương Quang Vũ bắt giam. Không chừng giờ này bị giết rồi cũng nên. Sở dĩ Vương bị hại do Mã thái hậu khích Quang Vũ. Cháu đề nghị bá mẫu cần xuất hiện. Trước là mẫu tử cốt nhục trùng trùng. Sau là hóa giải "nghiệp chướng" giữa Kiến vũ hoàng đế với Trần Đại ca. Có như vậy mới tránh được một trận giặc kinh hồn động phách giữa Lĩnh Nam với Trung Nguyên. 

Tăng Giả Nan Đà nói: 

– Trưng thí chủ nói đúng. Thái hậu ơi! Chiến tranh, biết bao nhiêu người chết. Biết bao nhiêu người tan nhà nát cửa. Thái hậu cần về Lạc Dương gấp. Nếu chậm e không kịp. 

Hồi 26 Tương giang song hậu

Công chúa Vĩnh Hòa vẫy quận chúa Chu, Triệu. Cả ba đến trước mặt Hàn Tú Anh quì xuống, rập đầu lậy: 

– Kẻ hạ thần là công chúa Vĩnh Hòa thuộc giòng Cảnh Thủy hoàng-đế, và hai quận-chúa thuộc giòng Triệu công, Tần công, bái kiến Thái-hậu. Kính chúc Thái-hậu trường thọ an khang. 

Hàn Tú Anh vẫy tay nói: 

– Công-chúa thuộc giòng Cảnh-Thủy hoàng-đế à? So vai vế thì là vai chị Quang-Vũ. Người coi ta là thím cũng quí rồi. Việc gì phải dùng danh xưng thái-hậu, công-chúa, mất thân mật. 

Giọng bà nhu mì, nhẹ nhàng. Bà cầm tay công-chúa Vĩnh Hòa, ngắm nhìn một lúc rồi nói: 

– Cháu giống mẫu thân cháu như hai giọt nước vậy. Ta ở Quế-lâm, nghe tin phụ hoàng tuẫn quốc. Xích Mi định cưỡng bức mẫu hậu cháu. Mẫu hậu cháu đã thung dung đập đầu vào cột đá. Ta đau xót vô cùng. 

Vĩnh Hòa nước mắt chan hòa hỏi: 

– Thái-hậu cũng biết mẫu hậu cháu sao? 

Hàn Tú Anh vuốt tóc nàng nói: 

– Chúng ta là sư tỷ, sư muội. Mẫu hậu cháu là sư tỷ, lớn hơn ta một tuổi. Ta là sư muội. Chúng ta nổi tiếng Tương-giang song-hậu. Chơi với nhau từ tuổi hoa niên. Cùng xinh đẹp như nhau. Chúng ta học đàn, học hát một thầy. Cả hai đều mơ ước lấy được người chồng văn nhân nhu nhã. Nhưng rồi tai vạ xẩy đến. Gia đình suy xụp, chúng ta rơi vào kỹ viện. Với tài sắc chúng ta, chẳng bao lâu danh tiếng truyền khắp nước. Một ngày kia thân mẫu cháu gặp văn nhân từ xa, ngưỡng mộ tìm đến. Chàng bỏ tiền chuộc mẫu thân cháu ra khỏi kỹ viện. Hai người như bóng với hình. Tình yêu nồng thắm khi du ngoan trên sông, ngắm trăng. Chàng làm từ, nàng hát. Khi lên núi hái hoa, thổi tiêu. Cả thành Trường-sa đều biết tiếng. Thanh thiếu niên nam nữ ai cũng ước được mối diễm tình như vậy. 

Chàng bỏ tiền, xây một ngôi nhà bằng đá ở ngoại thành Trường-sa. Trong vườn trồng trăm thứ hoa thơm cỏ lạ. Tính sư tỷ của ta thích hoa đào. Chàng trồng hơn nghìn cây đào quanh nhà. Dân chúng gọi căn nhà của hai người là Đào-hoa trang. Ngày nay tên đó đổi là Đào hoa thôn. 

Bà ngưng một lúc, mơ màng ôn lại truyện cũ rồi tiếp: 

– Hạnh phúc được hai năm, thì chàng nói thực: Chàng họ Lưu tên Huyền. Đương kim thế tử của Trường-sa Định-vương. Sau này sẽ kế nghiệp cha, trấn thủ Trường-sa. Sư tỷ ta khóc hết nước mắt. Ngươi có biết tại sao không? 

Công chúa Vĩnh Hòa đáp: 

– Chắc mẫu hậu cháu, không thích làm vương phi. 

Hàn Tú Anh lắc đầu: 

– Sai rồi! Nguyên giữa chị em chúng ta có mối thù với Trường-sa Định vương. 

Công-chúa Vĩnh Hòa, cùng mọi người đều bật lên tiếng kêu ngạc nhiên: 

– Ủa? 

Hàn Tú Anh thở dài: 

– Sư tỷ của ta, tức mẫu hậu cháu họ Chu tên Mẫu Đơn. Thân mẫu bà có sắc đẹp tuyệt thế. Một ngày kia, Trường-sa vương trông thấy. Ông say đắm như điên, như khùng, mưu cướp lấy. Bọn quan lại dưới quyền tâng công, vu cho thân phụ nàng mưu phản. Chúng đem quân vào nhà. Đào được nhiều gươm đao ở vườn, khép tội, giết ông, bắt bà nộp cho Trường-sa vương. Bà treo cổ tự tử. Chính vì vậy chúng ta mới bị lọt lầu xanh. 

Câu truyện càng ngày càng đi vào chi tiết bi thảm. Khiến mọi người đều im lặng theo dõi. Hàn Tú Anh tiếp: 

– Truyện tình lãng mạn của hai người đến tai Trường-sa vương. Vương nổi giận lôi đình. Ông triệu hồi thế-tử ra điều kiện quyết liệt. Thế tử phải chọn một trong hai: Một là giữ ngôi thế-tử, kế nghiệp nhận sắc phong Vương, phải bỏ Chu Mẫu Đơn. Hai là lấy Chu Mẫu Đơn, thì mất ngôi thế-tử. Phụ hoàng của cháu chọn điều thứ hai. 

Bà thở dài: 

– Phụ hoàng cháu là người một thứ nòi tình. Ông thản nhiên dọn ra Đào trang ở với Chu Mẫu Đơn. 

Truyện tình của hai người vang danh thiên hạ. Kẻ thì chê phụ-hoàng của cháu hư thân mất nết. Đường đường là thế tử, trái lời cha say mê kỹ nữ. Ngược lại các danh sĩ Trung Nguyên, không ngớt lời ca tụng mối tình của hai người. Chính tiên đế nhà ta, nhờ anh bỏ ngôi thế-tử, ngài mới được lên thay, vẫn cho là anh hành động đúng. Ngài thỉnh thoảng vẫn trốn ra Đào-trang thăm anh. Ca ngợi hạnh phúc của anh. Ngài thèm được mối tình lãng mạng như vậy, tuy không nói ra. 

Khi tiên đế gặp ta rồi cùng ta quyến luyến, phụ thân cháu khuyên tiên-đế hãy trở về với ngôi thế-tử. Đợi sau khi phụ vương qua đời, bấy giờ đi tìm tình yêu cũng chưa vội. Nếu như tiên-đế bắt chước anh, khiến phụ vương đau buồn thành bệnh. Cả hai anh em trở thành những đứa con bất hiếu. Tiên-đế nghe lời khuyên của anh, trở về yên vị giữ ngôi thế-tử. 

Công chúa Vĩnh Hòa gật đầu: 

– Phụ hoàng cháu thực là người đa tình. 

Bà tiếp: 

– Phụ hoàng cháu là người tài kiêm văn võ, nhưng nhất tâm chỉ biết có mẫu thân cháu mà thôi. Cho đến khi Vương Mãng cướp ngôi. Người dấy binh giết Vương Mãng, lên ngôi Hoàng-đế, hiệu là Cảnh-Thủy. Người có ba người em kết nghĩa, lớn nhất tên Lý Điệt, thứ nhì tên Chu Huy, thức ba tên Xích My. Người phong tước công cho cả ba. Giao cho Lý Điệt chức Tư-đồ, Chu Huy chức Tư-không, Xích Mi chức Tư-mã. Quyền trong thiên hạ giao cho ba em. Nhưng nào ngờ, Xích Mi say mê mẫu hậu ngươi. Y tìm cách lân la gần gũi. Mẫu hậu ngươi chống đối. Biết truyện bại lộ, khó toàn mạng. Y nổi loạn giết ba người anh kết nghĩa. Cướp vợ của nghĩa huynh. Mẫu hậu ngươi quyết tự tử để bảo toàn danh tiết. 

Trần Năng hỏi: 

– Tâu thái-hậu! Tại sao Phan Sùng lại có tên là Xích Mi? 

Hàn Tú Anh đáp: 

– Y xuất thân chưởng môn phái Trường-bạch. Phái này luyện Huyền âm độc chưởng. Người nào công lực đạt tới độ tối cao, râu tóc đều hóa đỏ hết. Phan Sùng võ công cực cao. Râu tóc y đỏ hoe. Người đời gọi y là Xích Mi. 

Trần Năng hỏi Phan Anh: 

– Phan tiểu vương gia. Dường như người nào trúng Huyền âm độc chưởng thì cách ngày lên cơn đau đớn không bút nào tả xiết. Sau 7 lần 7 là 49 ngày, kiệt lực mà chết. Có đúng thế không? Đệ tử phái Trường-bạch, luyện độc chưởng cũng thế. Hàng năm phải có thuốc giải của chưởng môn phát cho nếu không cũng đau đớn mà chết. Vì vậy đệ tử phải tuyệt đối trung thành. Nếu không thì không có thuốc giải, sẽ chết trong cơn đau đớn. Vậy bây giờ ai là chưởng-môn phái Trường-bạch? 

Phan Anh nói: 

– Tôi không biết cách chế thuốc giải. Từ khi Tiên phụ tạ thế. Trong bản phái chỉ còn một người biết chế thuốc giải là Thái sư phụ Mao Đông Các. Không biết giờ này người qui ẩn ở đâu. Hàng năm tôi phải về tổng đàn bản phái, nhận thuốc giải. 

Trần Năng cười: 

– Bây giờ thì Huyền-âm độc chưởng không còn mối lo nữa. Tôi đã học được Thiền-công. Nếu luyện tập trong một thời gian ngắn nữa. Tôi có thể dùng Lĩnh-nam chỉ, vận Thiền công trị Huyền-âm độc chưởng cho người khác. 

Nói rồi nàng vận chân khí Không tâm, Vô-tưởng theo kinh mạch. Phóng chỉ vào gốc cây. Xùy một tiếng, gốc cây lủng lỗ sâu đến hơn đốt ngón tay. 

Hàn Tú Anh ngồi mơ màng nghĩ đến mối diễm tình năm xưa của bà với Trường-sa vương. Mới ngày nào, yêu yêu, thương thương, nhớ nhớ. Bây giờ kẻ nằm dưới mồ này. Người ngồi đây. Đúng như Tăng Giả Nan Đà nói: Đời là Vô-thường. 

Công chúa Vĩnh Hòa hỏi tiếp: 

– Tâu thái-hậu, thế còn truyện của thái-hậu? 

– Vì phụ hoàng ngươi bỏ ngôi thế-tử ra Đào-gia ở, nên khi Trường-sa vương băng hà, người em thứ, tức tiên-đế lên ngôi Trường-sa vương. Lúc đó tiên-đế đã có vương phi, mỹ nữ, nhưng không có con. Ta ở kỹ viện được ba năm. Một buổi chiều, nhàn du dạo chơi Tương-giang, gặp văn nhân đang chèo đò. Chàng thấy ta ngây người ra nhìn, làm một bài từ ca tụng sắc đẹp của ta. Ta cảm động, ngâm bài từ của chàng. Từ đấy chàng với ta thường gặp nhau. Chàng kể rằng quê ở Nam-dương. Tới Trường-sa theo học, định lập nghiệp bằng khoa cử. Chúng ta bí mật gặp nhau một thời gian. Tình yêu như trái cây chín, nó phải rụng. Đã đến lúc chúng ta không xa nhau được nữa. Ta rời kỹ viện, đến Đào-thôn ở với sư tỷ Chu Mẫu Đơn. Hàng ngày chàng vào thành học, chiều trở về nhà. Chúng ta sống những ngày hạnh phúc nhất trên thế gian. 

Sau ba năm, chúng ta có hai đứa con. Đứa lớn tên Lưu Diễn, đứa nhỏ tên Lưu Tú. Ta muốn dời đi nơi khác sống. Vì sợ hai đứa con lớn lên, biết mẹ là kỹ nữ, chúng sẽ khổ sở lắm. Ta đem ý ấy nói với chàng. Chàng cương quyết không chịu. Ta nói thế nào cũng không được. Một hôm ta cho con hầu, theo chân chàng vào thành Trường-sa, hầu biết nhà thầy dạy của chàng. Ta dự định tìm đến thầy, nhờ ông khuyên chàng. Tỳ nữ theo dõi cả buổi, trở về nói rằng chàng chính là Trường-sa vương. Ta nghe mà nghẹn cả người. Ta không tin, đích thân dò theo, quả nhiên đúng. 

Trở về Đào-trang, ta trách thế-tử Lưu Huyền, sư tỷ Chu Mẫu Đơn rằng tại sao biết chàng là Trường-sa vương, lại dấu ta? Ngươi có biết thế-tử nói sao không? Ông an ủi ta: Ông không thích làm vương, chỉ thích hạnh phúc. Khi sống cạnh Chu Mẫu Đơn, tự thấy mình lên tiên, mới bầy kế cho em trai, giả văn nhân nghèo gặp ta. Vì vậy hai cặp tình nhân sống ở Đào-trang, mà ta không biết họ là anh em. 

Công chúa Vĩnh Hòa nói: 

– Cháu nghe mẫu hậu kể: Phụ-hoàng có hai anh em. Một người giống cha, một người giống mẹ. Người ngoài nhìn vào, không biết là anh em. 

Hàn Tú Anh tiếp: 

– Đúng vậy! Chiều chàng trở về! Ta cật vấn. Chàng thú thực, xin lỗi ta. Chàng nói: Nhờ anh, nhờ chị dâu mà người biết mùi tình yêu. Chứ với địa vị thế-tử, rồi Trường-sa vương thì nào vương-phi, nào phi tần... Bảo sao nghe vậy. Làm gì có tình yêu? Tình yêu như bông hoa, tự nó có hương. Khi một thiếu nữ bị bắt làm tỳ thiếp, bảo họ yêu thương. Họ cũng không biết yêu là gì? Giả thử họ có biết, chưa chắc họ đã yêu, đã thương. 

Chàng an ủi ta rằng: Trong phủ Trường-sa vương. Nào vương-phi, nào phi-tần, nào mỹ nữ. Không ai cho chàng đứa con. Bây giờ chàng đưa ta về phủ, không ai có thể nói ra nói vào được câu nào. Chàng nói là làm. Chàng xin phép thái-phi, đón ta về phủ. Thái-phi thấy Lưu Diễn, Lưu Tú giống chàng như đúc thì mừng lắm. Bà thương yêu hai cháu, đích thân nuôi dưỡng, dậy dỗ. 

Công chúa Vĩnh Hòa hỏi: 

– Tâu thái-hậu! Thế rồi tại sao thái-hậu lại lưu lạc xuống Quế-lâm cho tới ngày nay? 

Hàn Tú Anh ngơ ngẩn nhìn trăng tiếp: 

– Thái-phi xuất thân danh giá. Bà không muốn trong phủ Trường-sa vương có một kỹ nữ. Nhất là mẹ Lưu Diễn, Lưu Tú sau sẽ lên kế nghiệp cha, kỹ nữ trở thành thái-phi. Cho nên, cho đến... 

Hàn Tú Anh đầm đìa nước mắt: 

– Một ngày kia chàng đi vắng. Thái-hậu bảo ta đến đền Thần Nông làm lễ cầu cho các con, vì chúng không được khỏe. Ta vâng lời lên xe cùng vệ sĩ đi. Không ngờ đến ven rừng chúng đánh xe đưa ta vào một khe suối định giết. 

Tất cả mọi người chưa biết truyện đều kêu lên: 

– Úi cha! 

– Ối trời! 

– Ái chà! 

– Ta khóc lóc hỏi tại sao? Họ nói rằng: Giữa họ với ta không thù, không oán. Gan họ có to bằng trời, cũng không giám vô phép với một thứ phi của vương-gia, chứ đừng nói là giết chết. Chẳng qua họ tuân lệnh thái-phi mà thôi. Giữa lúc chúng sắp ra tay, thì một võ tướng đang đi săn xuất hiện. Chỉ mấy hiệp, ông giết chết bọn võ sĩ, cứu ta, hỏi tên họ, quê quán ta ở đâu để đưa ta về. Ta thố lộ thân thế. Ông nghe truyện, kinh hoảng nói: Thế thì vương-phi không thể trở về vương-phủ nữa. Tôi cũng không tiếp tục làm quan được nữa. Thôi, tôi đành từ quan, rời nơi hang cọp nầy. 

Trần Năng đã biết sơ câu truyện. Nàng hỏi: 

– Dường như ông tướng đó họ Nghiêm tên Kim Bằng. Người Quế-lâm. Lĩnh chức Phấn-uy tướng quân thì phải? 

Hàn Tú Anh gật đầu: 

– Hùng phu nhân! Ngươi đã biết truyện ta rồi ư? Có phải Nghiêm Sơn kể cho ngươi nghe không? 

Trần Năng đáp: 

– Tâu thái-hậu! Tôi trẻ người, đâu đáng để cho Nghiêm vương thuật cho nghe câu truyện thâm cung bí sử của triều Hán? Vương thuật cho sư phụ tôi nghe. Sư phụ tôi tức là thúc phụ người. 

Vương Hồng hỏi: 

– Thế Nghiêm tướng quân cũng vì sắc đẹp của thái-hậu, mà bỏ chức tước trở về điền dã? 

Hàn Tú Anh lắc đầu: 

– Không! Ông là chính nhân hiệp sĩ, vì võ đạo, hy sinh cứu ta. Nghiêm đại hiệp có đứa con trai, cùng tuổi với Lưu Tú. Nhỏ hơn Lưu Tú mấy tháng. Tên là Nghiêm Sơn. 

Nghiêm Sơn giúp Quang-Vũ khởi nghiệp. Danh vang thiên hạ. Ai cũng nghe danh. Song nguồn gốc xuất thân của chàng rất bí mật. Có người bảo chàng là em cùng mẹ khác cha với Quang-Vũ. Có người bảo chàng là anh em con cô cậu với Quang-Vũ. Cũng có người bảo chàng là người Việt, không phải người Hán. Bây giờ mới thấy, lời đồn đó đều có căn nguyên. 

Hàn Tú Anh lại tiếp: 

– Nghiêm phu nhân bị cảm, mất sữa. Ta vì không cho Lưu Tú bú, sữa căng không chịu được. Ta xin Nghiêm đại hiệp cho ta được nuôi Nghiêm Sơn. Ta theo Nghiêm đại hiệp về Quế-lâm ẩn thân. Đợi sau này, con ta lên ngôi vương, ta sẽ tìm, để mẫu tử trùng phùng… Còn truyện sau này thế nào công-chúa biết cả rồi. 

Diễm tình của Cảnh-Thủy hoàng-đế với Chu Mẫu Đơn. Hận tình của Trường-sa vương với Hàn Tú Anh, trước sau do ba người thuật lại. Đầu tiên, Trần Tự Sơn thuật với Khất đại-phu. Vương chỉ nhấn mạnh vào điều: Vương là người Việt, liên hệ với Quang-Vũ vì nhũ mẫu Hàn Tú Anh. Lần thứ nhì vương thuật tại điện Vị-ương cho Quang-Vũ nghe. Vương nhấn mạnh vào mối oan khiên của Hàn Tú Anh phải chịu. Hàn Tú Anh thuật lại, dưới con mắt của một nòi tình. 

Tăng giả Nan Đà an ủi thái-hậu: 

– Trường-sa vương vì ham mê sắc đẹp của thân mẫu Chu Mẫu Đơn, mà hại cả nhà nàng tan nát. Đời con là Cảnh-Thủy hoàng-đế lại bị Xích Mi giết chết, vì say mê sắc đẹp của hoàng hậu Chu Mẫu Đơn. Đúng là tiền oan nghiệp chướng. 

Công-chúa thở dài: 

– Xích Mi thực là người tàn ác, bất nghĩa. Không hiểu sao khi đại quân đánh chiếm Trường-sa, giết Xích Mi rồi, không giết tuyệt cả nhà y, mà giam vợ y trong thành làm gì. Vương tướng quân! Ngươi là Đô-sát của Trường-sa, ngươi chắc biết sự thật? 

Vương Hồng đáp: 

– Niên hiệu Kiến-vũ nguyên niên (25 sau Tây lịch), Quang-Vũ lên ngôi đánh đuổi Xích Mi. Hắn rút về Trường-sa. Năm sau Nghiêm Sơn sai Đặng Vũ đem quân đánh Xích Mi ở hồ Động-đình, chiếm Trường-sa. Y rút về Linh-lăng. Niên hiệu Kiến-vũ thứ 3 (27 sau Tây lịch), Nghiêm Sơn đích thân mang Đặng Vũ, Phùng Dị đánh Linh-lăng. Xích Mi chết trong quân. Đặng Vũ giết hết ba họ của Phan Sùng. Có một số tỳ nữ không bị giết. Vì họ là tỳ nữ từ thời tiên-đế, rồi trải qua thời Vương Mãng, Xích Mi cũng vẫn bị giữ lại. Đặng Vũ thương tình tha cho họ về quê làm ăn, Đặng cầm tù hơn mười tỳ nữ, thuộc loại tin cẩn của hắn mà thôi. Chánh phi của Xích Mi bị điệu ra chém cùng một lúc với hơn ngàn người. Có đâu còn sống đến ngày hôm nay. 

Ông quay lại hỏi Phan Anh: 

– Chúng ta hiện không còn là mệnh quan của nhà Hán. Ngươi núp ở đây nghe ta bàn truyện Lĩnh Nam, hẳn đã biết rồi. Những thù oán giữa Xích Mi với Cảnh-Thủy hoàng-đế, với triều Đông-hán, chúng ta không cần biết. Vậy ngươi có thể kể cho ta nghe, tại sao mẫu thân ngươi không bị giết. Hiện còn giam ở Trường-sa? Ngươi có nói thực, ta mới cứu được mẫu thân ngươi. 

Phan Anh ngần ngừ muốn nói. Quận-chúa Lý Lan Anh nhìn Xích Anh rồi lại nhìn mọi người. Nàng nghĩ thầm: 

– Ở đây đông người. Nhưng hầu như họ đều thù nghịch với triều Hán, ta phải làm sao giết vợ chồng Phan Anh, trả thù cha? Khúc-giang ngũ hiệp là sư phụ ta với công-chúa thực. Ngặt vì người là anh hùng Lĩnh Nam, đâu có chịu vì Kiến-Vũ thiên-tử mà ra tay? Các người hứa thả chúng, ta xin cũng vô ích. Mấy thiếu nữ Lĩnh Nam tại đây, đang cầm quân đánh Trường-sa. Tuy họ cứu thái-hậu thực. Song chẳng qua vì Lĩnh-nam vương Nghiêm Sơn chứ chẳng phải vì nhà Hán. Nhờ họ ra tay trừ ác, họ sẽ nói: Quang-Vũ còn ác hơn. Trường-sa tam-anh là Đô-úy, Đô-sát, tướng-quân của Trường-sa. Bây giờ họ đã theo Khúc-giang ngũ hiệp phản Hán phục Việt, hy vọng gì nhờ cậy họ bắt Xích Anh cho mình? Thôi, ta đành im lặng, đợi thoát khỏi nơi nầy rồi sẽ tính. 

Nàng nói với Phan Anh: 

– Ngươi sợ công-chúa với chúng ta giết mẫu thân ngươi, trả thù năm xưa ư? Ngươi đừng sợ, chúng ta có ba chị em, sáu người hộ vệ, võ công tầm thường làm sao địch lại ngươi? Ngươi không nói rõ mẫu thân ngươi làm cách nào thoát lưỡi kiếm của Đặng Vũ, không bị giết. Hiện bị giam giữ thì Hàn tướng quân làm sao cứu được? 

Phan Anh hiểu ra. Y nói với Vương Hồng: 

– Vương đại hiệp, tôi xin nói thực. Khi Trường-sa thất thủ. Tôi ẩn trốn trong dân gian. Còn mẫu thân tôi được một người tỳ nữ, mặc quần áo hoàng hậu của người, thế thân. Vì vậy Đặng Vũ tưởng thị là mẫu thân tôi, giết đi. Thực mẫu thân tôi vẫn còn sống. Bị cầm tù bấy lâu nay. 

Vương Hồng làm Đô-sát. So với ngày nay là chức vụ coi về Công-an, cảnh sát. Ông lại là người tinh tế cẩn thận. Bao nhiêu tù tại Trường-sa đều biết mặt. Trong lao xá tuy có giam mấy người cung nữ của Xích Mi để lại. Ông đã phóng thích hết từ lâu. Chỉ còn một người duy nhất bị câm. Y thị không thân thích, xin được ở lại. Ông thương tình, để thị coi việc nấu ăn cho tù nhân. Vì nàng câm, người ta gọi nàng là Á nương. 

Ông nghĩ thầm: 

– Á nương không thể nào là mẹ Phan Anh. Phan Anh năm nay đã ba mươi tuổi rồi. Còn Á nương, tuổi không quá bốn mươi. Như vậy chắc có điều gì gian dối đây. Đã vậy ta cứ giả vờ, rồi dò manh mối sau. 

Ông nói với Phan Anh: 

– Ta đã hứa với ngươi, thì phải thực hiện. Sáng mai ngươi theo ta về Trường-sa mà đón mẫu thân. 

Hàn Tú Anh hỏi Trần Năng: 

– Hùng phu nhân! Phu nhân vì nghĩa tử của tôi là Nghiêm Sơn, cứu tôi, tôi xin đa tạ thâm tình đó. Nhưng… nhưng con tôi là Kiến-Vũ thiên tử. Nó được anh hùng Lĩnh Nam trợ giúp đánh Thục. Nó trở mặt với các vị, các vị cũng trở mặt với nó. Tình thế thành thù nghịch. Phu nhân hãy nói thực. Phu nhân cứu tôi là vì Nghiêm Sơn hay vì Quang-Vũ? 

Phật Nguyệt đáp thay Trần Năng: 

– Hàn thái-hậu! Người hiểu lầm chúng tôi rồi. Cách nay mấy hôm, chính tôi đi thám thính Trường-sa mới biết âm mưu của Mã thái-hậu. Mã thái-hậu sai Trương Linh mang mật chỉ cho cháu là Mã Anh giết người. Vô tình chúng tôi biết truyện. Giữa đường thấy người hoạn nạn, ra tay. Chứ chúng tôi không hề vì Quang-Vũ hay vì Nghiêm đại ca. Ý thái-hậu nghĩ rằng, chúng tôi sẽ làm khó dễ thái-hậu, trả thù Quang-Vũ ư? Thái-hậu hiểu lầm chúng tôi rồi. Nếu chúng tôi muốn hại thái-hậu, thì chúng tôi đã để Phan Anh giết thái-hậu. Việc gì phải ra tay. Thái-hậu là mẹ Quang-Vũ, là nhũ mẫu Nghiêm đại-ca. Nhưng với việc Quang-Vũ phản chúng tôi, cả hai không liên hệ gì với nhau. 

Công-chúa Vĩnh Hòa hỏi Trưng Nhị: 

– Tôi là công-chúa, hai sư muội của tôi là quận-chúa nhà Đại-hán, được lĩnh Thượng-phương bảo kiếm trong tay. Chúng tôi hiện là kẻ thù của các vị, vậy các vị đối xử chúng tôi ra sao đây? 

Trưng Nhị phất tay, ôn tồn nói: 

– Công chúa là đệ tử của Khúc-giang ngũ-hiệp thì thuộc vai em của Trần đại ca, vai cháu của Khất đại-phu. So vai vế, chúng ta ngang nhau. Vậy chúng ta cùng con một nhà. Chúng tôi không coi công-chúa là kẻ thù đâu. 

Nàng nói với Hàn Tú Anh: 

– Bá mẫu, chúng cháu đây là hào kiệt Lĩnh Nam. Cùng Trần huynh kết nghĩa, tiếng là bằng hữu, nhưng tình thâm còn hơn cốt nhục. Bá mẫu được Trần-công, thân phụ Trần đại-ca cứu mạng một lần. Bá mẫu chắc là rõ tâm tính người Lĩnh Nam. Khi Trần-công biết bá mẫu bị Trường-sa vương-phi chủ mưu hạ sát. Người hiểu việc cứu bá mẫu sẽ kết thù oán với vương-phi. Nếu người ham muốn công danh phú quí hơn võ đạo, đã giết bá mẫu để phi tang. Thế mà Trần công lập tức từ bỏ quan chức, đẫn bá mẫu về Quế-lâm lánh nạn. Bấy giờ bá mẫu đương tuổi hai mươi, đẹp như một vị thiên tiên. Phàm người đàn ông nào cũng thế, thấy nữ sắc, dù chết cũng phải chiếm cho bằng được. Như Xích Mi chẳng hạn, thấy chánh thê hoàng-đế Cảnh-Thủy diễm lệ, tú nhã, y đành giết nghĩa huynh, làm phản, đoạt giai nhân. Thế mà trước bá mẫu, ở tuổi hai mươi, đẹp như vậy. Trần-công bỏ quan chức, dẫn bá mẫu đi trốn, không vì sắc đẹp mà vì võ đạo, vì đạo lý Lĩnh Nam. Trong thời gian ở với Trần-gia, trên dưới kính trọng bá mẫu, không một ai giám bờm xơm. Người Lĩnh Nam có câu Cha nào con ấy. Rau nào sâu ấy. Đời Trần-công thế nào, đời chúng cháu cũng thế. 

Trần Năng tiếp lời: 

– Trần-công vì võ đạo, đạo lý mà giúp bá mẫu. Huống hồ chúng cháu ngày nay đang kéo cờ đại nghĩa, phục hồi Lĩnh Nam, càng phải trọng đạo lý. Trần đại ca đối với chúng cháu không hề phân biệt Vương gia với thôn nữ. Vì vậy chúng cháu xả thân giúp Đại-ca đánh Thục. Sau chỉ vì Mã Thái-hậu muốn che dấu Quang-Vũ truyện bà cùng Trường-sa Thái phi giết bá mẫu, quyết hại Trần đại-ca. Vật cùng tất phản, uốn hóa quá cong. Chúng cháu vì sự nghiệp Lĩnh Nam mà chống Hán. Chứ chúng cháu không hề thù oán Quang-Vũ. 

Hàn Tú Anh cất tiếng ôn nhu nói với Trưng Nhị: 

– Trưng cô nương! Tôi biết cô nương phi thường bậc nhất đất Lĩnh Nam. Trong lần mang quân từ Lĩnh Nam sang đánh Thục. Nghiêm Sơn về thăm tôi. Y nói rất nhiều về cô nương. Y bảo rằng: Người Hán trọng nam khinh nữ, do vậy Trung nguyên không sản xuất được nữ lưu tài giỏi. Đất Lĩnh Nam thì nam cũng như nữ, nên nữ lưu anh hùng rất nhiều. Sau lần đánh Thục, y sẽ ban lệnh cho đất Lĩnh Nam trọng vọng nữ lưu. Y hỏi: Tại sao không có nữ huyện-úy, nữ huyện-lệnh, nữ thái-thú? Y là người thông đại, mới cử cô nương với Phương Dung, Vĩnh Hoa làm quân sư. Nhưng… nhưng… 

Bà nghẹn ngào, giọt lệ ứa ra nói: 

– Y chỉ vì trọng nghĩa, nghe lời tôi, đem thân đi cứu tiên-đế, tuy cứu không xong. Nhưng cũng mang được thi thể táng ở chỗ này. Y xả thân cứu Lưu Diễn, Lưu Tú, rồi kết nghĩa cùng Lưu Tú, một tay dựng lên nghiệp cho Lưu Tú thành Quang-Vũ. Chúng nó vừa là anh em nuôi vừa là anh em kết nghĩa. Khổ thay Quang-Vũ không biết chúng là anh em nuôi. Quang-Vũ không biết có tôi ở trên đời nầy. Nên mới ra cớ sự. Dù sao anh hùng Lĩnh Nam đã chống Quang-Vũ. Lĩnh Nam người tài như rừng, như biển, chắc chắn giang sơn Đại-hán khó bảo toàn. Cô nương! Cô nương bảo tôi phải làm sao để vẹn toàn cho cả hai đứa con của tôi? 

Trưng Nhị thở dài: 

– Bây giờ, chỉ có một đường cuối cùng: Bá mẫu đi Trường-an. Chúng tôi bảo vệ bá-mẫu khỏi bị Mã thái-hậu hại. Tôi giúp Quang-Vũ mẫu tử trùng phùng. Bá mẫu đứng giữa khuyên Quang-Vũ hoà hoãn với Nghiêm đại ca, trả Lĩnh Nam cho người Việt. Nếu Quang-Vũ thuận, hàng năm chúng tôi chịu tiến cống xưng thần. Bằng Quang-Vũ không thuận. Chúng tôi quyết đập tan cơ nghiệp nhà Hán, dựng lên một triều đại mới, yếu hèn, không còn uy lực đánh Lĩnh Nam nữa. 

Tiếng Trưng Nhị trong trẻo, vẻ mặt cương quyết, hùng khí tỏa ra như trăm ngàn đội quân gươm giáo đang sát phạt. Hàn Tú Anh từng trải việc đời. Bà biết Trưng Nhị nói thực. Nàng nói được là làm được. Phút chốc, bà cảm thấy mối nguy sắp xảy ra cho Quang-Vũ. Nhược bằng bà không về Lạc-dương khuyên can Quang-Vũ, thì giữa Lĩnh Nam với Trung-nguyên sẽ có chiến tranh. Quang-Vũ tuy có nhiều văn thần võ tướng theo phò, mà phiá sau còn Mã thái-hậu, với đồ đảng, lúc nào cũng chỉ muốn hại. Thêm vào đó, Thục với mấy chục vạn binh hùng. Sự an nguy của xã tắc một sớm một chiều sẽ đến. Đến như Tăng Giả Nan Đà, một người có tâm Bồ Đề, thoát khỏi cảnh tham, sân, si. Vượt ra ngoài vòng sinh tử, mà cũng không lên tiếng ngăn cản Trưng Nhị được một câu. 

Khúc-giang ngũ-hiệp, Trường-sa tam-anh nghe Trưng Nhị nói, hùng khí bốc dậy, họ nghĩ: Từ xưa đến giờ phàm người Lĩnh Nam, khi nghe đến thiên tử Trung-nguyên, là nghĩ đến thần phục. Lần đầu tiên họ nghe một cô gái Lĩnh Nam, đưa ra lời nói hùng tráng đe dọa hoàng-đế Trung-nguyên. Lời đe dọa đanh thép, hợp lý. 

Công chúa Vĩnh Hòa tiếp: 

– Trưng cô nương! Xin cô nương bớt khắt khe với Kiến Vũ thiên-tử. Vì thiên-tử không biết rõ thân phận mình với Lĩnh-nam vương mà ra. Chúng tôi với Khúc-giang ngũ-hiệp là chỗ thâm tình thầy trò. Tôi với hai quận-chúa xin hết sức mình, đứng làm trung gian phía Hán. Khúc-giang ngũ-hiệp, trung gian phía Lĩnh Nam. Chúng ta mau đi Lạc-dương thuyết phục thiên-tử. Không biết ý cô nương như thế nào? 

Trưng Nhị thấy đối phương xuống nước. Nàng gật đầu: 

– Được! Song tôi không phải hoàng-đế Lĩnh Nam. Cần có sự đồng ý của anh hùng Lĩnh Nam mới quyết định được truyện đó. Bây giờ xin mời tất cả quí vị ghé bản dinh quân Thục. Chúng tôi cử người hộ tống Hàn thái-hậu, công-chúa và hai quận-chúa đi Lạc-dương. Không chừng giờ này chúng tôi đã chiếm Trường-an, bao vây Lạc-dương rồi cũng nên. Đất Lĩnh Nam chúng tôi, mới chỉ mang theo một số anh hùng, chứ chưa xuất phát hết. Tại đây chúng tôi có: Sư-bá Lại Thế Cường lớn nhất rồi tới sư thúc Trần Năng, sau đến tôi, Hồ Đề, Lê Chân, Phật Nguyệt. Sáu chúng tôi, chỉ mấy ngày đánh chiếm phân nửa Ích-châu. Chiếm trọn Kinh-châu. Nếu mai này ngọn cờ chỉ xuống phía Nam, thì Nam-hải, Tượng-quận, Quế-lâm chỉ cần mấy ngày lập lại cố quốc. Quang-Vũ tưởng giết Trần Tự Sơn là anh hùng Lĩnh Nam như rắn mất đầu. Y lầm quá. Y giam Trần Tự Sơn, mà chỉ mấy ngày giang sơn đã nghiêng ngửa. Dù sau này có giết hết những người sang Trung-nguyên, thì còn những người ở quê nhà, sẽ phất cờ đòi lại đất cũ. Nào, mời thái-hậu, công-chúa, quận-chúa tới dinh Thục, chúng ta đi Trường-an. 

Hàn Tú Anh biết Trưng Nhị tuy nói rằng mời nhưng kỳ thực ra cầm chân bà với công chúa ở dinh Thục. Song tình thế khiến bà không thuận cũng không được.

Quận-chúa Lý Lan Anh chỉ Trương Linh: 

– Tên nầy là Việt kị hiệu úy Trương Linh. Y phản Hán, bất tuân lệnh Thượng-phương bảo kiếm, chúng tôi giết y, chắc Trưng cô nương không cấm cản? 

Tăng Giả Nan Đà chắp tay hướng Lý Lan Anh xá một xá: 

– Lý quận-chúa! Xin quận-chúa từ bi hỷ xả tha mạng cho Việt kị hiệu-úy. Trương tướng quân chẳng qua tuân chỉ của Mã thái-hậu mà thôi. Việc Mã Thái-hậu đối xử tàn tệ với Hàn thái-hậu, là oan nghiệp từ kiếp trước. Nếu bây giờ công chúa giết Trương tướng-quân, nghiệp chướng không trừ được. Oán hận càng chồng chất. 

Hàn Tú Anh hỏi: 

– Đại-sư! Xin Đại-sư giảng cho chúng tôi biết thế nào là Nghiệp chướng. Vì thú thực với Đại-sư, ngày hôm nay duyên may đưa nay, tôi mới được biết đạo Phật lần đầu. Những lời nói cao xa của Đại-sư, tôi hoàn toàn không hiểu. 

Tăng Giả Nan Đà đáp: 

– A Di Đà Phật! Thiện tai, thiện tai! Hàn thí-chủ, chữ Nghiệp tôi dịch từ tiếng Phạn Karma mà ra. Có thể dịch là Nhân quả nữa. Thuyết này hơi giống thuyết Định mệnh của Nho gia. Con người ở kiếp này do Thiện và Ác rạo ra từ kiếp trước. Trong kiếp trước, mình thường làm những việc lành bằng chính bản thân mình, bằng lời nói hay bằng ý tưởng thì cái Nghiệp đời nầy được cái Nhân đời trước theo giúp mình, ấy là Thiện Nghiệp. Nhược bằng đời trước mình làm những chuyện ác độc bằng thân, ngữ, ý, thì đời nay cái Nghiệp theo sát để trả mình bằng những tai vạ, khổ sở đây là Tội nghiệp. Do nghiệp xấu hay tốt mà chúng sinh được vào trong sáu cõi Tiên, Thần, Người, Ngạ quỉ, Súc sinh đó là Biệt Nghiệp. 

Trần Năng ngắt lời Tăng Giả Nan Đà: 

– Thưa sư phụ! Còn nếu như một số người cùng chung nhau làm ác sẽ thành Cộng nghiệp ác hoặc làm lành sẽ thành Cộng nghiệp thiện có đúng thế không?

Tăng Giả Nan Đà gật đầu: 

– Đúng vậy, Hùng phu nhân nghe ít mà giác ngộ thực nhiều. 

Hàn Tú Anh hỏi: 

– Không biết kiếp trước, tiên-đế nhà Đại-hán đã làm những gì, mà nay con cháu phải chịu nhiều tai nạn như vậy? 

Hồ Đề cười: 

– Hàn thái-hậu hỏi câu đó thực phải. Tôi không nói gì xa xôi. Chỉ ngay việc Cao Tổ nhà Hán dựng nghiệp do tam kiệt: Trương Lương, Tiêu Hà, Hàn Tín. Ngoài ra còn không biết bao nhiêu tướng sĩ xả thân giúp cho thành đại nghiệp. Sau khi đại nghiệp thành rồi, bản thân họ bị giết đã đành. Gia đình, họ hàng nhà họ cũng bất toàn nữa. Ác nghiệp nảy sinh từ đó mà ra. 

Tăng Giả Nan Đà chắp tay: 

– A Di Đà Phật! Thiện tai! Thiện tai! 

Trưng Nhị tiếp lời Hồ Đề: 

– Như thái-hậu thấy: Nhờ tam kiệt mà Cao Tổ thành đại nghiệp. Khi thành đại nghiệp Cao Tổ đối xử với tam-kiệt ra sao? Quan Thái-sử lệnh nhà Hán, Tư-mã Thiên chép: Trương Lương dĩ khứ, Tiêu Hà dĩ ngục, Hàn Tín dĩ trảm. Nghĩa là Trương Lương phải bỏ đi tu để thoát thân. Tiêu Hà bị giam vào ngục. Còn Hàn Tín bị giết cả ba họ. Đau đớn không? Tư-mã Thiên phê bình Hàn Tín: Hán đắc thiên hạ đại để do Tín vi công. Nghĩa là nhà Hán được thiên-hạ đều do công Hàn Tín. Cái ác nghiệp Cao Tổ nhà Hán gây ra từ đó chứ đâu? 

Lý Lan Anh suy nghĩ một lúc, hỏi: 

– Đại sư! Đại-sư nói về Luân hồi. Vậy có thể nào những người thời Cao Tổ lại đầu thai làm người đời nay không? 

Tăng Giả Nan Đà gật đầu: 

– Hẳn là thế! Bần tăng không thuộc Hán sử, không rõ cho lắm. 

Trưng Nhị tiếp: 

– Quận-chúa cứ tưởng tượng xem. Xưa Cao Tổ nhà Hán kết nghĩa với Sở Bá Vương, rồi bức Bá Vương tự tử ở Ô-giang. Thế thì có thể Xích Mi xưa kia là Hạng Vương đầu thai, giết Cảnh-Thủy hoàng-đế cùng Ngụy-công, Tấn công. Có thể Trần đại-ca kiếp trước là Cao Tổ. Quang-Vũ là Hàn Tín. Xưa Cao Tổ được Hàn Tín khuông phò, thành đại nghiệp rồi giết cả ba họ Tín. Thì nay một tay Trần đại-ca xây dựng đại nghiệp cho Quang-Vũ, rồi Quang-Vũ bị bắt giam.

Trần Năng nghĩ một lúc rồi tiếp: 

– Còn truyện Thích Cơ nữa. Lúc sinh tiền, Cao Tổ sủng ái Thích Cơ, muốn nhường ngôi cho con Thích Cơ là Triệu-vương Như Ý. Sau Trương Lương bày mưa cho thái-tử, được Cao Tổ truyền ngôi cho. Khi Cao Tổ băng hà rồi. Lã Thái-hậu bắt Thích Cơ khoét mắt, cắt lưỡi, gọt đầu, cắt gân chân tay, bỏ vào chuồng lợn. Bà đánh thuốc độc chết Triệu-vương Như Ý. Biết đâu Lã thái-hậu chẳng đầu thai làm Hàn thái-hậu. Thích Cơ chẳng đầu thai làm Mã thái hậu đòi nợ xưa. 

Mặt trời đã lên cao. Trưng Nhị nói với Trường-sa tam-anh: 

– Phiền ba vị trở về Trường-sa. Nắm lấy quân sĩ, bắt sống Mã Anh, tôi đem quân Thục đến tiếp viện với các vị. Cần nhất tránh đổ máu, giữ nguyên chủ lực quân sĩ. Vì chúng ta còn tiến đánh Linh-lăng. 

Hàn Bạch nói: 

– Trưng cô nương! Đô-úy của Linh-lăng là Hàn Đức, em ruột tôi. Chỉ cần một bức thư, Linh-lăng sẽ đổi chủ. Để tôi viết thư ngay. 

Hồ Đề hú lên một tiếng, đoàn Thần-hổ, Thần-báo cùng đứng dậy. Nàng vẫy tay, các Hổ tướng, Báo tướng, cầm gươm chỉ huy rút quân. 

Trưng Nhị rời Vương-sơn. Công-tôn Thiệu nghe nàng trở về vội ra đón. Trưng Nhị vào trướng, tường thuật sơ qua các chi tiết rồi nói: 

– Trường-sa, Linh-lăng coi như xong. Công-tôn vương-gia, bây giờ chúng ta tạm để Hàn Bạch trấn thủ Trường-sa, Hàn Đức trấn thủ Linh-lăng. Còn Vương Hồng, Chu Thanh đi các huyện an dân, cắt cử người của mình vào chức vụ mới. Chiếm quận Kinh-châu xong, việc cần thiết nhất là vương-gia phải đi an dân các mặt, chỉnh đốn quân mã. Bởi quân mã đều là quân Hán đầu hàng. Không cẩn thận, đại quân Hán từ Lạc-dương kéo tới chúng phản lại thì nguy tai. Sau khi chỉnh đốn, chúng ta tiến lên Nam-dương, Uất-lâm đánh về Lạc-dương. Trường-sa, Linh-lăng của Lĩnh Nam, tôi xin mượn binh Thục giúp đỡ. 

Sáng hôm sau Trưng Nhị thăng trướng. Các tướng sĩ tề tựu đông đủ. Nàng ra lệnh: 

– Trấn-đông tướng-quân Vũ Chu dẫn ba vạn quân đi tiên phong, có sư muội Hồ Đề, sư thúc Trần Năng trợ giúp tiến vào tiếp thu Trường-sa. Mang theo Phan Anh, Trần Nghi Gia. 

– Đô-đốc Phạm Sư dẫn năm vạn quân đi sau, có sư bá Lại Thế Cường, sư tỷ Lê Chân trợ giúp, đóng ở phía Đông. 

– Đại quân sẽ đi sau, đóng ở phía Bắc. 

Ba quân rộn rịp lên đường. Đây là lần ra quân đầu tiên của Lĩnh Nam sau khi được giải phóng. Đoàn tiên phong gần tới, trong thành khói bốc lên đen nghịt. Quân reo dậy đất. 

Vũ Chu nhiều kinh nghiệm chiến trường. Y nói với Trần Năng. 

– Hùng phu nhân, theo Trưng quân-sư, thì Tượng-quận tam-anh vào trong thành bắt Mã Anh, hạ cờ Hán xuống. Mà sao lại có tiếng quân reo, lửa cháy? Tôi nghi có biến bất lợi. Xin phu-nhân định liệu. 

Hồ Đề bàn: 

– Bất kể biến cố gì. Nếu cửa mở, ta cứ tiến thẳng vào thành. Còn cửa đóng, ta bao vây. Đợi đại quân đến, sẽ định liệu sau. 

Hồ Đề gọi Hoàng Hổ, Hắc Hổ lại dặn nhỏ mấy câu. Nàng gọi người giữ đội Thần-ưng trinh sát, thả chim ưng lên trời. Thần-ưng vỗ cánh bay bổng về hướng Trường Sa. Tới thành Trường-sa, bay lượn trên trời, nhào lên bổ xuống mấy lần. Hồ Đề quan sát một lúc nói: 

– Trong thành Trường-sa có biến. Quân sĩ đôi bên đang đánh nhau tại cửa Đông và Nam. Cửa Bắc không có quân phục.Vũ Chu dẫn quân đến cửa Bắc, quả nhiên không thấy quân sĩ trên vọng lầu. Hồ Đề lên tiếng gọi, trong thành không đáp lại. Vũ Chu cho dừng quân, nghe ngóng. 

Hồ Đề bàn: 

– Tôi cho voi phá cổng thành xem sao? 

Nàng cho voi tiến lên trước. Lấy ngọn giáo cho vòi cuốn lại. Nàng hú lên một tiếng, vòi voi phóng ra, chiếc giáo cắm ngập vào cửa thành. Cứ như thế một lúc, trên mười ngọn giáo xuyên trên cánh cửa. Nàng tuyền quân sĩ cột giây vào từng ngọn giáo, rồi cho voi kéo. Ầm một tiếng, cửa thành vỡ tung. Hồ Đề reo lên. Nàng xua đoàn Thần-hổ vào trước, đoàn Thần-báo vào sau. Vũ Chu truyền quân tiếp ứng. 

Vũ Chu tiến về phía cửa Đông, quả nhiên quân sĩ ở đây dàn ra hai bên đánh nhau. Tượng-quận tam-anh, đấu quyết liệt với ba tướng Hán. Võ công chúng không thua gì ba ông. Trần Năng tinh mắt, nàng nhận được Hàn Bạch đánh với Đức Hiệp, Vương Hồng đánh với Hoàng Đức, Chu Thanh đánh với Hàn Thái Tuế. Chúng là đệ tử đắc ý của Lê Đạo Sinh. Quân sĩ chia làm hai, hỗn chiến. 

Trần Năng nói với Vũ Chu: 

– Ba vị kia là Tượng-quận tam-anh. Phe chúng ta. Còn tên kia là Mã Anh. Chúng ta hãy giúp Tượng-quận tam-anh. 

Vũ Chu lệnh quân sĩ đánh bọc phía trái. Hồ Đề cho đội Thần-hổ bọc phía phải. Đội Thần-báo bọc phía sau. 

Vũ Chu quát lớn: 

– Hai bên dừng tay! 

Tượng-quận tam-anh nhảy lùi lại. Lệnh quân sĩ ngưng chiến. 

Vũ Chu chỉ Mã Anh nói: 

– Quân của ngươi đã bị bao vây tứ phía, đầu hàng đi là tốt, bằng không, ta hô một tiếng, đội Thần-hổ, Thần-báo xông vào ăn thịt các ngươi ngay. 

Mã Anh chỉ Vũ Chu nói: 

– Bọn Thục chúng bây thực hèn hạ. Dựa vào đám Lĩnh Nam đánh với ta. Ta vì tin người, bị Tượng-quận tam-anh đâm sau lưng. 

Trần Năng chỉ Đức Hiệp nói: 

– Đức Hiệp, Hoàng Đức, Hàn Thái Tuế, các sư đệ đi đâu đây? 

Từ trước giờ, ba người này coi Trần Năng chỉ ngang hàng với Tường Quy dù nàng là đệ tử của Trần Đại Sinh. Họ cho rằng, nàng mới nhập môn, công lực không được là bao. Họ vung tay, cũng đủ hạ nàng. Đức Hiệp hỏi: 

– Sư tỷ! Sư bá đâu? Tại sao sư tỷ lại ở đây? 

Trần Năng cười: 

– Sư phụ ta như tiên ông, nay đây mai đó, chữa bệnh cho người. Lão nhân gia không có ở đây. Còn ta ư? Ta chiếm Trường-sa. Trường-sa là đất Lĩnh Nam mà! 

Đức Hiệp lại hỏi: 

– Sư tỷ, ngươi đang cùng Lĩnh-nam vương đánh Thục, phù Hán, sao bây giờ lại phản Hán phù Thục vậy? 

Trần Năng cười: 

– Có gì mà không hiểu. Trước kia chúng ta giúp Hán, với mục đích đòi lại Lĩnh Nam. Bây giờ Hán nuốt lời, muốn đô hộ Lĩnh Nam muôn thủa. Thì chúng ta chống Hán. Ta mượn binh Thục chiếm lại đất tổ! 

Đức Hiệp cười: 

– Thì ra các ngươi đã phản Hán. Ta nói cho các ngươi biết. Kiến-Vũ Thiên-tử mới xuống chiếu hợp các quận Nam-hải, Quế-lâm, Tượng-quận thành Quảng-châu. Sư phụ ta được phong làm Thứ-sử Quảng-châu, tước Uy-viễn đình-hầu. Ta được phong làm Thái-thú Quế-lâm, sư đệ Vũ Nhật Thăng được phong Đô-úy giúp ta. Sư đệ Hoàng Đức được phong Thái-thú Nam-hải, sư đệ Ngô Tiến Huy làm Đô-úy Nam-hải. Sư đệ Vũ Hỷ làm Thái-thú Tượng-quận, sư đệ Hàn Thái Tuế làm Đô-úy Tượng quận. Chúng ta trên đường nhận chức, ghé thăm Thái-thú Mã Anh. Vừa gặp bọn tam-anh làm phản, chúng ta ra tay tiểu trừ. 

Vũ Chu không nói không rằng, phóng chưởng đánh Đức Hiệp. Đức Hiệp vung chưởng đỡ. Bùng một tiếng. Cả Đức Hiệp lẫn Vũ Chu đều lui trở lại hai bước. Đức Hiệp tự thị võ công mình cao nhất Lĩnh Nam, chỉ thua có sư phụ, sư bá và Đào Kỳ. Bây giờ, lần đầu tiên y mới gặp đối thủ. 

Còn Vũ Chu, y là cao thủ của phái Thiên-sơn. Võ công y còn cao hơn cả Công-tôn Thiệu, lần trước y thua Phật Nguyệt vì kiếm pháp của nàng ảo diệu, chứ không phục về công lực. Bây giờ đấu với Đức Hiệp, y mới biết ngoài gầm trời nầy, còn có gầm trời khác. 

Trần Năng nói: 

– Đức Hiệp, đáng lý ra, ngươi với ta cùng môn hộ, ta phải bênh vực ngươi. Nhưng ngươi đi theo bọn Hán, tàn hại dân Lĩnh Nam. Vì vậy ta đứng ngoài mặc ngươi với Vũ tướng quân tranh tài cao thấp. 

Mã Anh nói: 

– Ngoại trừ Tượng-quận tam-anh ra, nếu có người nào thắng được ba vị Thái-thú Đức Hiệp, Hoàng Đức và Hàn Thái Tuế, ta xin đầu hàng. 

Hồ Đề vỗ tay nói: 

– Được, ở đây ta có ba người: Vũ tướng quân, ta với Trần sư-tỷ. Chúng ta sẵn sàng đấu với ngươi. Nào trận thứ nhất, ta đấu với ai đây? 

Trần Năng, Vũ Chu đều biết Hồ Đề không phải đối thủ của bất cứ ngoài nào trong bọn Đức Hiệp. Trước đây Hồ Đềà giám cả gan đấu với Công-tôn Thiệu. Nàng dùng Thần-ưng, Thần-xà, Thần-phong mà thắng đối thủ. Bây giờ thấy nàng thách đấu với bọn Đức Hiệp, thì biết nàng có mưu kế gì chắc thắng, mới ra tay. Hai người không ngăn cản. 

Đức Hiệp đề phòng trước nói: 

– Điều kiện tiên quyết, không được dùng người khác trợ chiến, dù bằng lời nói, hay ám khí. 

Hồ Đề nói: 

– Được, nếu ta dùng người khác trợ chiến, coi như thua. 

Nói rồi nàng cầm roi da vùng lên quất vào mặt Đức Hiệp. Y không né tránh, giơ tay bắt roi. Roi da của Hồ Đề có đến 50 sợi, mỗi sợi có một cái móc câu bằng thép. Đức Hiệp đưa tay bắt, định giật mạnh đoạt roi. Hồ Đề buông tay. Cây roi bật mạnh cuốn lấy người y. Một đám phấn trắng từ cán roi tung bay mù mịt. Đức Hiệp không đề phòng, khi khám phá ra điều bất hảo đã trễ. Y hít phải phấn trắng, người say say. Mắt đau nhức, chịu không được, y đưa tay dụi mắt, càng thấy đau nhức hơn. Y còn đang luống cuống, Hồ Đề giật lấy roi, quất vào người. Hoàng Đức thấy sư huynh lâm nguy, phóng chưởng cứu. 

Trần Năng đứng sau Hồ Đề. Nàng thấy Hoàng Đức lâm chiến. Vội vận khí đẩy ra một chưởng, đánh vào lưng y, cứu Hồ Đề. 

Hoàng Đức thu chưởng về, đỡ chưởng của Trần Năng, nàng nhảy lui lại nói: 

– Sư đệ! Trận thứ nhất Đức Hiệp thua rồi. Vì ngươi nhảy vào trợ chiến. 

Hồ Đề cười nói với Đức Hiệp: 

– Vừa rồi ngươi tưởng ta phóng chất độc! Đâu có, đó chẳng qua là một chút phấn bột pha hồ tiêu. Ngươi bị trúng phấn hồ tiêu. Chẳng có gì nguy hiểm cả. Ha, ha, ngươi mắc mưu ta rồi. 

Đức Hiệp bị mắc mưu Hồ Đề không chối cãi được. Y đành lùi lại. 

Hoàng Đức bước ra nói: 

– Không biết vị nào sẽ đấu với ta? 

Trần Năng nói: 

– Sư đệ! Ta đấu với ngươi. 

Hoàng Đức cười: 

– Sư tỷ! Ngươi không phải là đối thủ của ta đâu. 

Trần Năng không nói, không rằng, phóng chưởng đánh liền. Hoàng Đức thấy chưởng lực của nàng hùng mạnh vô cùng, kinh ngạc, vung chưởng đỡ. Hai chưởng chạm vào nhau, cùng là chiêu Ác ngưu nan độ, Trần Năng thì đứng nguyên. Thái độ ung dung nhàn nhã. Còn Hoàng Đức bật lui lại hai bước. Mặt y tái nhợt. Y thấy rõ nội công của Trần Năng, bên trong dường như bao hàm một thứ âm nhu kỳ lạ, hóa giải công lực của y mất tăm mất tích. 

Y tự hỏi: 

– Con nhỏ nầy mới được sư bá thu làm đệ tử. Trong đại hội hồ Tây, công lực của y thị không hơn gì Tường Quy, Minh Châu, Chu Quang. Thế mà mới hơn một năm. Công lực thị đã đến mức ngang với ta là tại sao? Nội công của thị rõ ràng là nội công Tản-viên, mà sao lại có sức hóa giải công lực của ta? Ta nghe sư phụ nói: Sư bá với Đào Kỳ chế ra một thứ nội công mới. Cương nhu hợp nhất. Sư bá dùng nội công đó, thắng sư phụ trong đại hội Hồ Tây. Không lẽ con nhỏ nầy được sư bá dốc túi truyền cho? Dù sư bá có dốc túi truyền, cũng phải luyện tập hàng chục năm mới kết quả. Chứ có đâu mau như vậy? 

Từ khi Trần Năng được nghe kinh Lăng-già, Bát-nhã của Tăng Giả Nan Đà, nàng phối hợp Thiền của nhà Phật vào với nội công, công lực của nàng đã biến đổi thành một thứ nội công mới. Mấy hôm nay nàng chú tâm luyện lại. Dần dần đến trình độ tùy tâm xử dụng. Chiêu vừa rôi phát ra, giống như chiêu nàng đã đánh thắng vợ chồng Phan Anh. Vì vậy Hoàng Đức làm sao hiểu nổi? 

Hoàng Đức đoán già: Trước đây Trần Đại Sinh thắng sư phụ y là Lê Đại Sinh bằng một thứ nội công kỳ lạ, chắc Trần Năng xử dụng thứ nội công đó. Cho rằng công lực Trần Năng không được là bao, y phát chiêu Thanh ngưu ư hà chụp xuống đầu nàng. Trần Năng cũng phát chiêu Thanh ngưu ư hà đỡ. Lần nay nàng áp dụng Vô tướng, không tâm. Bình. Chưởng của Hoàng Đức dính liền vào chưởng của nàng. Hoàng Đức thấy chưởng lực của mình tuôn ra bao nhiêu, mất hết bấy nhiêu. Y kinh hãi, muốn thu trở về, nhưng không sao gỡ ra được nữa. Y nghiến răng dồn chân khí ra, càng dồn ra càng mất tích. 

Đức Hiệp đứng ngoài thấy sư đệ lâm nguy. Vung chưởng tấn công vào lưng Trần Năng. Trần Năng ung dung vung tay trái đỡ. Bộp môt tiếng, Đức Hiệp cảm thấy chân khí chạy nhộn nhạo, lồng ngực như muốn nổ tung. Y bật lùi đến ba bước mới ngừng lại được. 

Y suy nghĩ thực kỹ rồi mới ra hiệu cho Hàn Thái Tuế, hai người cùng vung chưởng tấn công một lúc. Trần Năng khoanh tay trái một cái, chưởng lực phát thành vòng tròn, cắt ngang chưởng lực hai người. Thế là chưởng của nàng dính vào chưởng của Đức Hiệp và Hàn Thái Tuế. 

Vũ Chu đứng ngoài kinh sợ đến ngẩn người ra. Vì trước đây y đã đấu chưởng với Trần Năng. Nàng chỉ chịu được hai chưởng của y muốn mất mạng. Thế mà nay, chưởng lực y ngang với Đức Hiệp. Tại sao Trần Năng có thể ung dung đấu với cả ba người. Y tự hỏi: Có phải ngày nọ Trần Năng nhường y hay không? Nếu không tại sao hôm đó nàng chịu lui bước. Mà hôm nay một mình đấu với ba cao thủ, cao thủ nào công lực cũng ngang với y. Hai bên đấu nội lực với nhau được một lúc, bọn Đức Hiệp choáng váng mặt mày, ngã ngồi xuống đất. 

Trần Năng thu chưởng về nói: 

– Các sư đệ đi đi thôi. Ta không muốn gà nhà bôi mặt đá nhau. 

Bọn Đức Hiệp quay lại. Mã Anh đã biến đâu mất. Còn quân Hán thì đầu hàng. Quân Thục chiếm thành rồi. 

Trần Năng chỉ ba con ngựa nói: 

– Các sư đệ, lên ngựa đi đi thôi. 

Hoàng Đức ra roi cho ngựa chạy. Y ngoái cổ lại hỏi: 

– Sư tỷ, võ công ngươi thắng chúng ta đâu có phải là võ công của Tản-viên? 

Trần Năng cười: 

– Đúng thì cũng đúng, mà sai thì cũng sai. 

Trưng Nhị đến trách Trần Năng: 

– Sư-thúc, ngươi thả ba tên đó ra, sau nay chúng ta tiến về Lĩnh Nam sẽ gặp khó khăn không ít. 

Trần Năng nói: 

– Sư phụ dặn: Bất cứ giá nào, cũng đừng giết người đồng môn, đừng để cho người ngoài giết người đồng môn trước mặt mình. Bản lĩnh ta đã vượt xa bọn chúng. Bắt chúng lúc nào mà chả được. 

Chiều hôm đó có tin Đô-úy Linh-lăng Hàn Đức, bắt giam thái-thú, làm chủ Linh-lăng. Các huyện thuộc Linh-lăng đều đầu hàng. Thế là chín quận Kinh-châu bình định xong. 

Tiếp thu Trường-sa, Hàn Bạch ra lệnh thả tất cả tù nhân. Ông bảo Phan Anh: 

– Đây, ta mở cửa thả hết tù nhân. Vậy ai là mẫu thân ngươi, ngươi đón về. 

Vợ chồng Phan Anh đứng trước cổng lao xá, chờ đến người cuối cùng ra khỏi. Y vẫn không tìm thấy mẹ. 

Hàn Bạch nhớ một điều bảo quân hầu: 

– Ngươi dẫn Á Nương ra đây cho ta. 

Quân hầu dẫn Á Nương ra. Phan Anh trông thấy Á Nương thì gọi lớn: 

– Tiểu Lan, ngươi đấy ư? 

Á Nương bay lâu nay câm, bây giờ mới lên tiếng: 

– Thái-tử, người vẫn còn sống ư? 

Hai người ôm lấy nhau mà khóc. Phan Anh hỏi: 

– Mẫu thân ta đâu? 

Tiểu Lan nói: 

– Hoàng-hậu được cung nữ giả trang chịu chết thay. Người bị giam trong tù mấy tháng, lâm bệnh mà thác. Nô tỳ đem xác chôn ở cửa Bắc. Thái tử muốn viếng mộ, tiểu tỳ xin dẫn đường. 

Phan Anh hỏi Hàn Bạch: 

– Hàn đại hiệp, tuy người này không phải mẫu thân của tôi, nhưng là tỳ nữ thân tín của nhà tôi. Y thị rất trung thành, giả câm bấy lâu. Mong đại hiệp cho tôi lĩnh y thị đi. 

Hàn Bạch gật đầu. Phan Anh cùng Tiểu Lan, và vợ lên ngựa ra đi. 

Trưng Nhị ghé tai Hồ Đề nói nhỏ mấy câu. Hồ Đề gật đầu, bước ra khỏi trướng. 

Tối hôm đó, cơm xong. Hồ Đề nói nhỏ với Trưng Nhị: 

– Chúng hiện đang ở hồ Động-đình, giữa hòn đảo nhỏ. 

Trưng Nhị gọi Trần Năng, Phật Nguyệt, Hồ Đề, Lê Chân cùng lên ngựa ra đi. Nàng nói dối Công-tôn Thiệu rằng: 

– Nhân khi vừa thắng Hán. Chị em chúng tôi ngao du phong cảnh, ngắm hoa dưới trăng. Vương-gia đừng bận tâm, chậm lắm sáng mai chúng tôi trở về. 

Tuy làm việc với nhau không lâu. Công-tôn Thiệu cũng biết mấy thiếu nữ Lĩnh Nam võ công cao cường, mưu lược kinh nhân, mà tính tình nhu nhã, thích cảnh đẹp. Huống chi hồ Động-đình là nơi phát tích ra hai vị Quốc-mẫu Lĩnh Nam. Giữa mùa xuân, trăm hoa đua nở, họ kéo nhau ngoạn cảnh cũng là sự thường. 

Ra khỏi thành Trường-sa, Lê Chân hỏi: 

– Trưng sư tỷ, chúng ta đi bắt Phan Anh phải không? 

Trưng Nhị gật đầu: 

– Người ta bảo Đông-triều nữ hiệp tính tình bề ngoài như bộc trực, mà sự thực bề trong thâm như biển quả đúng. Sao sư muội biết chúng ta đi bắt Phan Anh? 

Lê Chân cười: 

– Gì mà không biết. Ngay khi Phan Anh trả lời Khúc-giang ngũ-hiệp em đã thấy chỗ sơ hở lớn của y. Y nói rằng mẫu thân bị giam ở thành Trường-sa. Võ công y đâu có tầm thường, tại sao không vào nhà ngục cứu mẹ ra? Mẹ của Phan Anh tức vợ Xích Mi. Y thị là hoàng-hậu, chúng nhân ai cũng biết. Khi đánh Trường-sa, quân Hán bắt được thị, mà thị có thể cải trang cho kẻ khác chết thay là một điều vô lý. Thứ ba nữa vì cứu mẹ, y để ra mấy năm lên núi Vương-sơn rình mò bắt Hàn Tú Anh đổi lấy mẹ càng vô lý. Vụ án Hàn Tú Anh mới vỡ gần đây. Thực sự chỉ có đại ca Tự Sơn, Khất đại-phu Trần Năng biết. Làm sao y hay mà rình mò? Chính ngay Mã thái-hậu cũng chỉ nghi ngờ Tú Anh còn sống, chứ đâu có biết gì về bà? Thế rồi khi gặp Tiểu Lan, mắt hai người lộ vẻ xảo trá. 

Hồ Đề giật mình hỏi: 

– Lê sư tỷ biết rất rõ sao không nói ra? Để nguyên vậy, lỡ Phan Anh mưu đồ việc gì lớn bên trong thì sao? 

Lê Chân hứ lên một tiếng: 

– Bên cạnh chúng ta có Trưng Nhị, thâm cơ, viễn lự, việc gì chúng ta phải lo lắng làm chi. Khi Phan Anh và Tiểu Lan đi, Trưng sư tỷ chả đưa mắt cho Hồ sư tỷ. Sư tỷ hiểu ý sai Thần-ưng theo chúng là gì? Bây giờ Thần-ưng đã biết chỗ ẩn của vợ chồng Phan Anh, chúng ta cứ việc đến nơi dò xét, bắt được chúng chứ có khó gì đâu? Điều quan hệ là chúng ta cần điều tra xem Phan Anh rình rập ở lăng Trường-sa vương với mục đích gì? Y Cho Tiểu Lan nằm vùng ở lao xá Trường-sa làm gì? 

Trưng Nhị dặn: 

– Trong khi đấu chưởng với Phan Anh cũng như Tiểu Lan phải cẩn thận, chưởng của chúng là độc chưởng. Hôm trước Trần sư-thúc trúng độc chưởng Phan Anh, may nhờ vị Phật-gia Tăng Giả Nan Đà giúp đỡ mới trục được chất độc ra. 

Trần Năng tiếp: 

– Vị Phật-gia nầy thực từ bi, hỷ xả. Ông không trực tiếp dạy, mà chỉ đọc kinh giữa thinh không. Ai có duyên phước thì lĩnh hội được. 

Phật Nguyệt gật đầu: 

– Đúng đó. Như hôm đầu, trên hồ Động-đình, em có duyên hiểu được một vài khía cạnh của Thiền, áp dụng vào việc luyện kiếm. Kiếm pháp Long-biên là một kiếm pháp vô song. Nhưng có một khuyết điểm, khi xử dụng kiếm, trên một trăm chiêu trở đi, đầu óc mệt mỏi. Do vậy kém linh hoạt. Tăng Giả Nan Đà giảng cho em nghe về Tiền Duyên rồi dạy em cách trấn nhiếp tinh thần. Bây giờ em có thể xử dụng đến nghìn chiêu, đầu óc minh mẫn như thường. 

Trưng Nhị đáp: 

– Hôm trước ở lăng Trường-sa Định-vương. Ngài đọc lại những gì đã giảng cho chúng ta, toàn là đoạn đầu kinh Lăng-già, một đoạn kinh Bát Nhã. Tôi cũng học một thứ võ công, nội công với Trần sư-thúc. Mà chỉ Trần sư-thúc lĩnh hội được, áp dụng vào nội công, biến thành một thứ nội công khác hẳn. Nội công Tản-viên thiên về cương mãnh, đầy sát thủ ghê gớm. Bây giờ nội công của sư thúc biến thành một thứ nội công nhu hòa, chỉ hóa giải công lực đối phương mà thôi. Công lực sư thúc bây giờ đâu có thua gì Thái sư-thúc nữa? 

Phật Nguyệt hỏi: 

– Em nghe ở vùng Liêu-đông Trung-nguyên có một phái võ. Họ luyện công, chuyên để làm tiêu công lực người khác. Họ bị võ lâm Trung Nguyên thù ghét vô cùng. Không ngờ Tăng Giả Nan Đà cũng biết thứ đó. 

Trần Năng lắc đầu: 

– Không giống nhau chút nào cả. Nội công phái Liêu Đông dùng độc chất, làm tiêu công lực đối phương. Dù đối phương không tấn công mình. Còn nội công của Tăng Giả Nan Đà chỉ làm tiêu tan, hóa giải những gì đối thủ tấn công mình mà thôi. Nếu đối thủ không tấn công mình thì không sao. Như Phan Anh dùng độc chưởng đánh tôi, tôi vận công, đẩy ra ngoài, chứ không hại y. 

Hồi 27 Chả cá Lĩnh Nam

Năm người vừa ngắm cảnh, vừa đi về phía Bắc. Tới gần hồ Động-đình, Trưng Nhị nói: 

– Chúng ta lại được du ngoạn hồ lần nữa. Hôm trước chúng ta ngoạn cảnh Tam-sơn. Hôm nay chúng ta ngắm trăng trên hòn đảo nhỏ giữa hồ. Hôm trước chúng ta gặp Bồ-tát Tăng Giả Nan Đà, không biết hôm nay chúng ta gặp ai? 

Phật Nguyệt nhìn mặt hồ mênh mang trong đêm, nói: 

– Gặp Bồ-tát Tăng Giả Nan Đà là đại duyên, đại phúc của chúng ta. Ngài mang đến cho chúng ta lòng yêu thương vô bờ bến của đức Thế Tôn. Chúng ta biết về đời sống đã qua, đời sống hiện tại, đời sống tương lai. Còn hôm nay biết đâu chúng ta chẳng gặp ác quỉ. Trưng sư tỷ! Chúng ta học theo đức Thích Ca Mâu Ni: yêu và giác ngộ kẻ ác. 

Tất cả xuống chiến thuyền, đậu ở gành Tương-giang. Sa Giang từ trong thuyền bước ra chào đón. Trưng Nhị ra lệnh cho thuyền trưởng: 

– Người đưa thuyền về phía núi Tam-sơn cho ta. 

Trần Năng định lên tiếng hỏi tại sao lại đi về phía đó. Bỗng nàng ngước mặt nhìn lên trời và thấy đoàn Thần-ưng bay lượn trên đầu, hướng Tam Sơn. Nàng ngạc nhiên: Không lẽ sào huyệt bọn Phan Anh lại ở Tam Sơn? Hồ Động Đình vào tiết đầu Xuân, lất phất mấy hạt mưa phùn. Gió xuân thổi nhẹ nhẹ. Xa xa tiếng vạc ăn đêm vọng lại. Sóng mặt hồ vỗ rì rào. 

Sa Giang cầm ống tiêu thổi bài Tình Hận Trương Chi. Giọng trầm bổng véo von. Khi nức nở như tiếng Mỵ Châu khóc thầm. Khi thì lên cao, như Trương Chi ngồi trên thuyền cất giọng ca cho người yêu nghe. 

Hồ Đề hỏi Lê Chân: 

– Này Chân. Trước khi khởi hành chị thấy đói meo cả ruột. Em bảo xuống chiến thuyền, sẽ trổ tài làm mấy món ăn Việt. Bây giờ đói lè cả lưỡi rồi đó. Món ăn ở đâu? Phái Sài Sơn nhà em, nức tiếng thiên hạ về tài nấu ăn. Hồi gặp Đào Kỳ y nói: Em nấu món cá cho y ăn. Y muốn nuốt cả lưỡi vào. Hôm nay em cho ta ăn món gì đây? 

Lê Chân cười: 

– Chúng mình sang đây, ăn món Trung-nguyên mãi chán lắm rồi. Hôm nay em làm món Việt. Chúng ta vừa ăn, vừa ngắm mùa Xuân trên hồ Động Đình. Món em định làm là món Chả cá. 

Sa Giang cười khúc khích: 

– Em nhớ hôm gặp Tổ Sư là Thiên Sơn lão tiên. Người kể rằng cách đây hai chục năm. Người được đại ca Đặng Thi Sách làm chả cá theo lối Việt. Người vừa ăn, vừa uống rượu. Ngon quá, người ăn muốn vỡ bụng ra. 

Lê Chân hỏi thuyền trưởng: 

– Hồi chiều, ta dặn ngươi chuẩn bị mấy con cá sống. Nào, cá đâu đưa đây cho ta. 

Thuyền trưởng bưng ra một cái nại. Nại lưng nước. Trong có 4-5 con cá đang bơi. Lê Chân bắt cá lên xem. Nói: 

– Đây là cá chép. A, có cả cá rói nữa. Được! 15 con đủ rồi. Sa Giang, em làm phụ bếp với chị. Học lối làm chả cá Việt. Sau nay có dịp hầu hạ tổ sư, em làm dâng cho người. Nhất định người sẽ khen: Con bé Sa Giang giỏi quá. Hoa tay quá. Biết đâu người chẳng giữ em ở bên cạnh. Người là Tiên cụ em là Tiên cô. Sướng nhé. 

Sa Giang mơ màng: 

– Em muốn sau này theo các chị về thăm Lĩnh Nam. Thời gian đi cùng sư tỷ Trần Quốc. Người nói cho biết đạo Kinh-châu có Tây-vu thiên-ưng Lục tướng. Mãi hôm hội quân ở Dương-bình quan em mới được gặp. Sư bá Công-tôn Thiệu khen nức nở, khen không tiếc lời. Nào anh hùng, nào hào sảng, nào thông minh. Chỉ tiếc rằng sáu người không chịu học chữ, nếu không còn trở thành sáu đấng tài hoa. Em tiếp xúc với các vị sư ca ấy một lần, mà không bao giờ quên. Em chê các anh ấy không biết chữ. Các anh ấy nói: Khó gì, mỗi ngày học hai chục chữ. Một tháng 600 chữ. Ba tháng thì đọc được sách. Em không tin. Sún Rỗ đòi đánh cuộc. Cuộc rằng: nội trong ba tháng gặp lại, nếu Rỗ không đọc được sách, anh ấy phải theo hầu hạ em cả đời. Ngược lại anh ấy đủ chữ đọc Tôn Tử, Lục Thao, em phải về Lĩnh Nam đánh quân Hán với anh ấy. Chờ đến ngày Lĩnh Nam phục hồi mới được về quê cũ. 

Hồ Đề lắc đầu: 

– Vậy thì Sún Rỗ thua mất. 

Trưng Nhị lắc đầu: 

– Sa Giang thua rồi. Hèn gì hôm ở Dương-bình quan, suốt ngày chỉ thấy Lục Sún bám lấy chị Thiều Hoa, xin học chữ. Chị Thiều Hoa khen chúng nó chăm chỉ lắm. Học suốt đêm suốt ngày. Thôi Sa Giang, coi như em phải về Lĩnh Nam với chúng ta rồi. 

Sa Giang cười: 

– Em cũng muốn được thua cuộc. Dù chưa thua cuộc, em đã về Lĩnh Nam rồi. 

Hồ Đề hỏi: 

– Em về hồi nào? 

Sa Giang chỉ hồ Động Đình: 

– Hồ này không phải là đất Lĩnh Nam sao? 

Câu nói của Sa Giang làm mọi người vui không bút nào tả siết. Họ đang cầm quân trên đất Lĩnh Nam. Khác hẳn với cha anh họ, suốt 200 năm làm nô lệ. Thân phận như chó, như lợn. 

Lê Chân bảo Phật Nguyệt: 

– Kiếm thuật của em thần thông, thì khéo tay bậc nhất. Em bắt cá đánh vẩy, moi ruột, rửa sạch máu cho chị. 

Trung Nhị bật cười: 

– Em khen kiếm thuật Phật Nguyệt thần thông. Tưởng em nhờ Phật Nguyệt làm gì. Hóa ra để… đánh vẩy cá. Sau này xuống âm phủ, gặp Tổ-sư Lý Thân, ngài sẽ mắng: Con nhỏ Phật Nguyệt kia. Kiếm thuật của ta đâu phải để đánh vẩy cá. 

Phật Nguyệt cười: 

– Em sẽ cãi: Thưa Tổ sư, giết cá, kiếm con đỡ dơ bẩn hơn giết bọn tham quan. 

Lê Chân kéo mọi người về với món Chả Cá: 

– Còn Trần Năng, em rang lạc cho chị. Nhớ đảo cho đều. Không thì chỗ cháy, chỗ sống. Ăn mất mùi thơm. 

Nàng cầm đoạn tre tươi, đưa cho Sa Giang: 

– Sa Giang! Em đem ống tre này chẻ ra từng miếng nhỏ, vót tròn như những cái đũa. Tiếng Việt gọi là cái “Xiên”. Ta dùng xiên nướng cá. Xiên bằng gỗ, bằng tre, bằng nứa đều được cả. Xiên gỗ không ngon bằng xiên tre, xiên nứa. Gặp lửa, xiên tre chảy mồ hôi ra. Mồ hôi tre vừa mặn, vừa chát, vừa ngon ngọt, hợp với mùi thơm cá nướng, thành mùi vị đặc biệt. 

Lê Chân mở gói mang theo, bày ra đủ thứ: rau thì là, cà cuống, mắm tôm, bánh đa, bún và rau mùi. Nàng nói: 

– Tôi ra chợ Trường-sa xem thực phẩm có khác ở Giao-chỉ không. Thì ra đất Lĩnh Nam đâu đâu cũng thế. Này bánh đa, này mắm tôm, này cà cuống, này thì là, bày bún, này mùi, này nghệ.Cái gì cũng giống hệt Giao Chỉ. 

Miệng nói nàng cho nghệ vào cối dã nhỏ, để sang bên cạnh. Rồi nhặt thì là thái ra từng đoạn dài bằng đốt ngón tay. 

Phật Nguyệt đem cá vào: 

– Em làm cá xong. Bây giờ nướng hay sao? 

Lê Chân cười: 

– Đúng! Cá cắt ra từng miếng càng mỏng càng tốt. Lượn con dao, sao cắt ngang thớ cá. Bởi vậy ta mới nhờ em. 

Phật Nguyệt cầm con dao, đưa thoăn thoắt, cắt cá ra từng miếng mỏng. 

Trưng Nhị nhìn nhát dao của Phật Nguyệt, phì cười: 

– Cắt cá mà em cũng dùng kiếp pháp Long-biên à? Em lượn lưỡi dao hay thật. Ta không thể nào bằng. 

Lê Chân đem cá bóp lẫn với nghệ, hồ tiêu, xuyên vào mấy cái xiên tre. Sa Giang quạt than trên lò đỏ hồng. Lê Chân đem mấy xiên cá để lên nướng. Nàng lấy mỡ, bỏ vào cái niêu đất nhỏ, bảo Sa Giang: 

– Em đun mỡ cho thực sôi dùm chị. 

Nàng lấy chanh vắt vào mắm tôm, nhỏ mấy giọt cà cuống. Dùng đũa đánh sủi bọt lên. Để bát mắm tôm giữa bàn, nói lớn: 

– Mời các vị nhập tiệc. Chả cá phải ăn nóng. Ăn nguội mất cả ngon đi. 

Nàng cầm mấy xiên chả cá nóng. Dùng đũa gỡ ra trên cái đĩa lót đầy thì là. Miệng nói: 

– Các vị cẩn thận. Nếu không bị phỏng. 

Nàng cầm cái niêu, đựng mỡ sôi sục, tưới vào đĩa cá. Quả như lời nàng nói. Mỡ gặp cá nướng, nổ lép bép, bắn ra xung quanh. Thì là gặp mỡ sôi, tái đi liền. Lê Chân giảng: 

– Nào, một gắp bún, mấy cọng mùi, một miếng chả cá, thêm vào vài hột lạc rang. Múc mắm tôm chanh cà cuống đổ vào là đủ vị. 

Mùi cá nướng, mùi thì là, mùi mắm tôm cà cuống thơm điếc mũi. Hồ Đề ở rừng, ít được ăn cá. Bây giờ được ăn món đặc biệt, nàng cầm đũa gắp. Miệng hít hà: 

– Trời ơi! Các cụ nhà mình ăn uống khôn thực. 

Lê Chân cản lại: 

– Khoan, phải cho vào vài củ lạc rang, một miếng bánh đa nướng. Cá là vật âm hàn, cần có thì là, hồ tiêu, nghệ là những thức dương nhiệt. Như vậy mới bớt tanh. Mùi thơm của cá nướng, của gia vị, hợp với cà cuống thành một mùi hỗn hợp khó tả. Còn cá thì mềm, thêm bánh đa, lạc rang dòn. Đây là tinh hoa về ăn uống của người Việt. Nào, mời các vị. 

Cử toạ ăn đến đâu, Lê Chân nướng cá đến đó. Sa Giang thông minh. Nàng cầm bút ghi vào tờ giấy cất đi, sợ sau nầy quên mất một chi tiết rất uổng. 

Lê Chân dặn Sa Giang: 

– Về cá. Em nhớ phải là cá có vẩy. Chứ cá không vẩy, ăn hết ngon. Cá vẩy trắng ngon hơn cá vẩy đen, vẩy xanh, vẩy vàng. 

Bữa ăn vừa tàn, thuyền trưởng bước vào hỏi: 

– Thưa quân sư, Thần-ưng đổi hướng. Xin quân sư ban lệnh. 

Trưng Nhị nhìn ra ngoài quan sát. Thuyền đang đi về phía Bắc. Thần ưng đổi chiều, hướng phía Tây Bắc. Trưng Nhị ra lệnh cho thuyền trưởng đổi hướng. Cứ theo dấu Thần-ưng mà đi. Một lát, xa xa hiện ra một đảo nhỏ. Trên đảo, leo lét ánh đèn. 

Trưng Nhị dặn thuyền trưởng: 

– Người neo ở đây. Thả mủng xuống. Chúng ta cần vào đảo kia. Khi thấy ta phóng hoả hiệu ra lệnh, thì người ghé thuyền đón chúng ta. 

Sáu người xuống cái mủng nhỏ chèo vào bờ. Bấy giờ đã vào đầu tháng hai. Trời tối đen như mực, xòe bàn tay ra không nhìn thấy. Cái mủng chở sáu người vào đảo. Trưng Nhị ra hiệu, cả sáu người đều nhảy lên bờ. Đây là hòn đảo nhỏ, chiều dài chưa quá hai trăm trượng. Giữa đảo có lâu đài nguy nga, đứng lù lù trong đêm. Hồ Đề tinh mắt quan sát một lượt. Nói: 

– Chà lâu đài có đến 6 nóc, chồng lên nhau. Không biết ai ở đây? 

Trong ngôi nhà, đèn đuốc sáng chưng chiếu ra. Nhiều tiếng động, tiếng nói vọng lại. Trưng Nhị dặn Trần Năng: 

– Tôi với Hồ Đề đột nhập phía trước. Phật Nguyệt với sư thúc đột nhập phía sau, nhất thiết không nên dùng võ. Còn Sa Giang, Lê Chân núp ở ngoài này coi chừng cái mủng, điều khiến Thần-ưng phòng địch tấn công cướp chiến thuyền. 

Trưng Nhị, Hồ Đề men theo các bụi cây trong đảo tiến tới sát lâu đài. Trong nhà có nhiều tiếng nói vọng ra. Hai người vọt lên mái nhà. Khẽ gỡ ngói dòm xuống. Bất giác cả hai cùng giật bắn người lên: Trong căn phòng rộng lớn, ở giữa có cái ghế cực lớn, Lê Đạo Sinh ngồi đó. Bên cạnh là vợ chồng Phan Anh, Trần Nghi Gia, Đức Hiệp, Hoàng Đức, Hàn Thái Tuế. Phía sau còn Tô Định, Tô Phương, Tiểu Lan. Cạnh Tiểu Lan một lão già râu tóc bạc trắng, mặt mũi hồng hào, với hai thiếu nữ, một mặc áo hồng, một mặc áo xanh. 

Trưng Nhị ngẩn người ra tự hỏi thầm: Thái sư thúc Lê Đạo Sinh với Tô Định là người triều Hán, thì đúng rồi. Nhưng tại sao lại có Phan Anh ở nay? Y là kẻ thù của Hán kia mà? 

Bỗng nghe Lê Đạo Sinh lên tiếng: 

– Tình hình nguy ngập lắm rồi. Quân Thục đã chiếm được chín quận Kinh-châu, Đông-xuyên, đang đánh Thiên-thủy. Tôi nghe tin còn hai đạo nữa, một đạo tiến theo ngả Tà-cốc, một đạo tiến theo ngã Tí-ngọ đến Trường-an. Mà dường như giờ này thiên-tử chưa biết thì phải. 

Phan Anh nói: 

– Lê hầu còn chưa biết. Một đạo nữa do Đinh Đại thống lĩnh, xuất khỏi đất Thục bằng đường Độ-khẩu trở về chiếm trọn Lĩnh Nam. 

Lê Đạo Sinh nghe Phan Anh nói, y bật lên tiếng kêu: 

– Chà! Nguy quá! Tôi mới nhận chiếu chỉ làm Thứ-sử Quảng-châu gồm ba quận Nam-hải, Tượng-quận, Quế-lâm. Các đệ tử của tôi đều chưa kịp tới nhận chức Thái-thú Quế-lâm, Nam-hải, Tượng-quận, mà giặc đã đem quân trở về. Không biết Trần Đạt, Ngô Huệ có giữ nổi Vĩnh Nhân không? 

Phan Anh lắc đầu: 

– Không giữ nổi. Trần, Ngô là người Hán, đặt dưới quyền chỉ huy của thái thú Tượng-quận. Sau đặt dưới quyền Đào Kỳ. Đào Kỳ thấy Kim-sa giang, Nhã-giang, Dân-giang, bên này do Tượng-quận, bên kia do Ích-châu, thành ra thiếu thống nhất trong việc phòng vệ. Y hợp hai khu, thành huyện Độ-khẩu, cắt cử người Việt làm huyện-lệnh, huyện-úy. Khi Lĩnh Nam phản Hán, Đinh Đại cho Đinh Công Thắng mang đạo Giao-chỉ về trước, tiếp theo Triệu Anh Vũ mang đạo Cửu-chân, Minh Giang mang đạo Quế-lâm. Cuối cùng Đào Hiển Hiệu mang đạo Tượng-quận. Hiển Hiệu mời Trần Huệ, Ngô Đạt tới họp. Tuyên bố phản Hán phục Việt. Trần Huệ, Ngô Đạt phản đối. Hiển Hiệu thản nhiên để cho cả hai ra về. Hai người mang bản bộ quân mã chống Đào Hiển Hiệu, bị đạo quân Thục, do Vương Lộc chỉ huy đánh úp. Hai người đã bị giết hại. 

Phan Anh tiếp: 

– Trong sáu đạo quân của Lĩnh Nam, hiện 5 đạo đã trở về đóng tại Tượng-quận, Quế-lâm, Nam-hải. Còn đạo Nhật-nam, do Lại Thế Cường chỉ huy, trấn đóng Trường-sa, Linh-lăng. 

Lê Đạo Sinh hỏi: 

– Trường-sa, Linh-lăng thuộc Kinh-châu. Tuy trước kia là đất Lĩnh Nam. Không hiểu Thục có chịu trả cho Lĩnh Nam không? 

Phan Anh lắc đầu: 

– Điều đó tôi không biết. 

Lão già râu tóc bạc trắng hỏi: 

– Bây giờ chúng ta phái tìm hiểu xem ý đồ chúng thế nào. Một là Thục tiến chiếm Quang-trung, Đồng-quan, Kinh-châu rồi ngừng lại. Mặt khác Trưng Nhị, Đào Kỳ trở về chiếm Lĩnh Nam. Hoặc chúng chiếm Kinh-châu tiến lên đánh Nam-dương. Mặt kia chiếm Trường-an sau đó hai mặt Nam-dương, Trường-an liệu có tiến về uy hiếp Lac-dương không? 

Tô Định hỏi: 

– Nếu trường hợp thứ nhất xảy ra. Lê-hầu phản ứng như thế nào? 

Lê Đạo Sinh đáp: 

– Nếu trường hợp thứ nhất xảy ra. Quả giũa Thục với bọn Trưng Nhị, Đào Kỳ ước hẹn với nhau chia ba thiên hạ. Thục chiếm Ích-châu, Đông-xuyên, Quang-trung, Kinh-châu. Đạo Hán-trung sẽ dừng lại ở Trường-an, lập ra một nước nữa. Chúng ta tâu với thiên-tử dồn binh xuống phía Nam, qua ngã Uất-lâm, Thương-ngô đánh Trưng Nhị. 

Phan Anh nói: 

– Không được. Nếu thiên tử dồn quân xuống cứu sáu quận Lĩnh Nam thì Thục thừa cơ tiên chiếm Lạc-dương bằng hai ngả Đồng-quan, Nam-dương. Bởi vậy tôi mới nói Thục với Trưng Nhị lập thành thế chân vạc, đối phó với Hán. Phương Dung, Trưng Nhị có tài dùng binh không thua gì Nghiêm Sơn. Họ giúp Thục chiếm Hán-trung, Trường-an, Kinh-châu, để cầm chân toàn bộ quân Hán. Trong khi đó họ có thì giờ mang quân trở về Lĩnh Nam. 

Đức Hiệp nói: 

– Quân Lĩnh Nam toàn người Hán. Liệu họ có nghe lệnh Trưng Nhị không? 

Phan Anh gật đầu: 

– Trước khi đánh Thục, Phương Dung đã chuẩn bị sẵn: Tất cả tướng sĩ, binh lính Hán bị tổn thất. Chúng bổ sung bằng người Việt. Vì vậy trong sáu đạo quân Lĩnh Nam, hầu hết từ cấp lữ, sư, quân đều là người Việt. Tuy vậy Trưng Nhị còn lo ngại quân Hán nổi loạn. Chúng giúp Thục đánh Hán. Thục chặn phía trước. Phía sau họ có thời giờ thay đối quân Hán bằng quân Việt. Họ còn cẩn thận đến độ: Vẫn dùng cờ Hán, vẫn nhân danh Lĩnh-nam vương, để an lòng bọn quan lại Hán cấp nhỏ. Tôi nghĩ ít ra trong vòng một tháng nữa, họ mới hạ cờ Hán, bắt giam các quan Hán. Thế là xong. 

Lê Đạo Sinh thở dài: 

– Nếu trường hợp thứ nhì xảy ra. Chúng quyết ăn thua, chiếm Trung-nguyên, chúng ta phải quay về tiêu diệt đạo quân Đinh Đại. Sau đó đánh vào phía Nam Thục qua Độ-khẩu, chiếm lại Trường-sa, Linh-lăng. 

Phan Anh lắc đầu: 

– Như vậy thì Lạc-dương nguy mất. 

Lê Đạo Sinh cười đầy vẻ khoái trá. 

– Không sao đâu. Bấy giờ Công-tôn Tư, Công-tôn Khôi, Công-tôn Thiệu đang trấn thủ ở ngoài. Thì bên trong chúng ta chỉ trở tay một cái, đất Tây-xuyên, Đông-xuyên trở về nhà Hán. Bọn viễn chinh mất đường về. 

Nghe đến đây Trưng Nhị ớn da gà. Vì hồi anh hùng Lĩnh Nam đánh Thục Công-tôn Tư cầm quân ở ngoài. Công-tôn Thi dựa thế mẹ là Tây-cung quí phi được Lê Đạo Sinh trợ giúp, mưu với các quan. Dự định phế trưởng, lập thứ. Đám Lê Đạo Sinh nắm được tình hình Thục. Lỡ mai này, Điền Sầm, Vương Nguyên, Tạ Phong, Công-tôn Khôi, Công-tôn Thiệu, Công-tôn Tư đang sống chết ngoài mặt trận. Chúng giúp Công-tôn Thi làm phản ở Thành-đô, thì Thục không còn nữa. Nguy hiểm thực. 

Nàng nhớ ra một điều: 

– Các đạo quân của ta tiến ra Độ-khẩu, Kinh-châu, Tý-ngọ, Tà-cốc, Thiên-thủy. Đến các tướng lĩnh cao cấp của Thục cũng không biết, tại sao Lê Đạo Sinh biết? Thì ra Công-tôn Thi làm gian tế cho Hán. 

Lê Đạo Sinh hỏi Phan Anh: 

– Thế nào Phan-hầu, ngươi cho ta biết về tin tức Hàn Tú Anh đi! 

Phan Anh đứng lên kể sơ lược lại mọi diễn biến trên Vương-sơn. 

Tô Định hỏi: 

– Thái hậu mật chỉ cho chúng ta ba việc. Thứ nhất tìm hiểu xem Hàn Tú Anh còn sống hay đã chết. Nếu chết rồi thì thôi. Nếu y thị còn sống phải tìm cho ra. Thứ nhì có đúng Hàn Tú Anh là nhũ mẫu của Trần Tự Sơn không? Trần Tự Sơn có phải là con trai của Uy-viễn tướng quân Trần Kim Bằng không? Thứ ba, bắt sống được Hàn Tú Anh mang về Lạc-dương cho Thái-hậu phát lạc. Ai làm xong một điều được phong hầu. Ai làm xong hai điều được phong hầu và lĩnh chức thái-thú. Ai làm được cả ba điều được lĩnh chức thứ-sử, phong hầu. Phan huynh đệ, ngươi tốn công theo dõi, tìm được hai điều, ta mừng cho ngươi. Nhưng có điều ngươi không bắt nổi Hàn Tú Anh. Thực đáng tiếc. 

Phan Anh đáp: 

– Tôi đã cố gắng hết sức mình mà không làm xong. Thứ nhất, tôi không địch nổi Trường-sa tam anh. Thứ nhì, tôi không địch nổi một trong Khúc-giang ngũ hiệp. Thứ ba, hai vợ chồng tôi cũng không địch nổi Trần Năng. 

Lê Đạo Sinh nhăn mặt: 

– Trần Năng là đệ tử của sư huynh ta. Y thị mới được thu nhận gần đây. Võ công tầm thường, có gì đâu mà Phan-hầu bảo không địch nổi. Ta không tin điều đó. 

Phan Anh biện luận: 

– Dù tôi có thắng được bằng ấy người chăng nữa cũng bị người Tây-trúc, hiện diện ngăn cản. Người này không biết võ công, nhưng nội công cao không biết đâu mà lường được. Lại thêm Trưng Nhị, Phật Nguyệt, Hồ Đề đều có mặt với đội Thần báo, Thần-hổ đến mấy trăm con. Tôi phải trăm khôn nghìn khéo mới thoát chết, đến đây. 

Đức Hiệp cũng nói theo: 

– Sư phụ! Võ công Trần Năng cao không biết đâu mà lường. Ba đứa chúng con đấu với sư tỷ cũng bại. Sư tỷ dùng một thứ nội công gì kỳ lạ. Hoá giải công lực của ba đứa chúng con. 

Lê Đại Sinh bảo vợ chồng Phan Anh: 

– Bây giờ người hãy diễn lại từng chiêu thức của Trần Năng đấu với người cho ta xem nào! 

Trần Nghi Gia đứng lên diễn lại từng chiêu thức một của Trần Năng. Cho đến lúc y thị bị đánh văng lên cao rồi Phan Anh nhảy vào vòng chiến. Lê Đạo Sinh trầm ngâm không nói gì. Tiếp theo Phan Anh diễn lại từng chiêu đấu với Trần Năng, lúc Trần Năng trúng độc ra sao, rồi nàng đẩy được chất độc ra ngoài thế nào. Tiếp theo hai vợ chồng cùng đấu cho đến lúc kiệt lực. 

Lê Đạo Sinh lắc đầu: 

– Ta không tin điều nầy. Nội công căn bản của Trần Năng là nội công Tản Viên. Tại sao y lại pha lẫn nội công của phái Liêu-đông vào, làm tiêu tan công lực người khác. Nội công phái Liêu-đông phải tập ít nhất hai mươi năm mới có kết quả. Y thị từng ấy tuổi, làm sao có công lực ấy. 

Trưng Nhị nghe Lê Đạo Sinh bàn luận, cười thầm: 

– Lê thái sư-thúc võ công tuy cao. Nhưng kiến thức không bằng Trần Nhất Gia. Trần Nhất Gia tìm thấy nội công Phật gia là thứ đại từ bi, không hại người. Khi người đánh ta hóa giải. Còn nội công của phái Liêu-đông dùng tấn công, hại người. Hai thức khác hẳn nhau. 

Trần Nghi Gia ngồi im, bây giờ mới thêm vào: 

– Theo như Trưng Nhị nói. Thì chỉ nội một vài ngày nữa là Hàn Tú Anh sẽ được đưa đến Trường-an, Lạc-dương yết kiến hoàng-thượng. Đi theo Tú Anh có công-chúa Vĩnh-Hòa với Triệu, Chu quận chúa. Hộ tống thì tôi chưa biết rằng ai. Tôi đoán Khúc-giang ngũ hiệp cũng đi theo. 

Lê Đạo Sinh trầm ngầm: 

– Khúc-giang ngũ hiệp võ công không phải tầm thường. Nhất, nhì, tam gia võ công suýt soát với ta. Đó là điều khó khăn. Ở đây có Đức Hiệp, Hoàng Đức, Hàn Thái Tuế, Tô thái-thú, Phan hầu phụ với ta thì là bảy. Hà, chúng ta chỉ đủ cầm cự ngang tay với Khúc-giang ngũ hiệp. Nếu Trưng Nhị cho thêm người đi theo nữa, thì thực khó khăn. 

Phan Anh chỉ vào lão gia râu tóc bạc phơ nói: 

– Vì vậy tôi mới mời thái sư phụ cùng với hai sư tỷ giúp sức. 

Trần Nghi Gia giới thiệu: 

– Thái sư phụ họ Mao trên Đông Các, hiện là đệ nhất cao nhân phái Trường-bạch. Còn hai vị sư tỷ, một vị là Tiêu Hồng Hoa, một vị là Văn Thanh Hoa. Tuy là đệ tử của sư bá tôi, nhưng võ công do Thái sư phụ tôi truyền dậy. 

Lê Đạo Sinh cầm trái táo khô hướng vào Văn Thanh Hoa búng đến vèo một cái. Trái táo quay tròn, kêu thành những tiếng vo vo liên tiếp hướng vào Thanh Hoa. Khi sắp tới người Thanh Hoa, tự nhiên bật ngang đối chiều trúng vào thành ghế nàng ngồi đến cách một tiếng. Thành ghế bị xuyên thủng một lỗ. Hột táo dư lực trúng vào tường kêu lên một tiếng bộp. Văn Thanh Hoa thản nhiên không phản ứng, chắp tay hướng Lê Đạo Sinh. 

– Đa tạ Lục-trúc tiên sinh nhẹ tay. 

Lê Đạo Sinh gật đầu: 

– Định lực cô nương cao lắm. Thực không hổ là đệ tử danh gia. 

Lê Đạo Sinh dùng kình lực búng hột táo là một tuyệt kỹ của phái Tản-viên. Chính giữa trận đánh Kiếm-các, Khất đại phu dùng để cứu Quế Hoa, Quỳnh Hoa trong lúc giao tranh với Thục. Đào Kỳ cũng đã dùng để đe dọa Quang-Vũ. Trưng Nhị là người phái Tản-viên, nàng không lạ gì với thủ pháp nầy. Còn đối với Thanh Hoa. Y thị nhìn qua, đã biết Lê Đạo Sinh không chủ tâm tấn công mình. Nàng ngồi yên không phản ứng, điều này làm Trưng Nhị tự thấy không thể bằng được. 

Lê Đạo Sinh lại búng vèo một cái nữa. Bốn trái táo quay tròn hướng vào Tiêu Hồng Hoa. Hồng Hoa co ngón tay chỏ phóng ra bốn chỉ liền. Bốn chỉ trúng vào bốn trái táo kêu thành bốn tiếng kịch nhẹ nhàng. Bốn trái táo rơi xuống. 

Lê Đạo Sinh buộc miệng khen: 

– Nội công âm nhu của cô nương tuyệt cao. 

Ngoài này Trưng Nhị thấy vậy cũng sững sờ, nghĩ thầm: 

– Kình lực dương cương của Lê sư thúc bắn ra như vậy. Chỉ có Thái sư thúc Khất đại-phu với Đào tam đệ có thể hóa giải nổi. Thế mà Tiêu Hồng Hoa dùng chỉ lực âm nhu chống lại dễ dàng như không. Thì nội công âm nhu của y thị cao không biết đâu mà lường. 

Lê Đạo Sinh vỗ tay: 

– Tuyệt hảo! Công lực hai vị cô nương cao đến trình độ này, e vượt xa bọn đệ tử của lão phu. Như vậy chúng ta có đủ lực lượng bắt Hàn Tú Anh. Nào, ta định thế này: Tô thái-thú cùng công tử trở về Giao-chỉ. Khi về tới nơi phải giết hết tất cả người của Nghiêm Sơn. Rồi xuất quân đánh các trang ấp theo Nghiêm. Đợi chúng tôi tiêu diệt đạo quân Đinh Đại, rồi mới đem quân về chiếm Mê-linh, Cửu-chân, Đông-triều, Đăng-châu. 

Y quay lại tiếp: 

– Về việc bắt Hàn Tú Anh. Phan hầu với phu nhân trở về Trường-sa làm cách nào xin Trưng Nhị theo đoàn hộ tống Hàn Tú Anh. Trên đường đi dùng thuốc mê bỏ vào cơm canh cho chúng ăn. Khi chúng, bị trúng độc rồi, chúng ta đồng xuất hiện bắt hết. Trường hợp chúng không trúng độc, khi qua Nam-dương, chúng ta bất thần xuất hiện bắt Hàn Tú Anh. Cần chia người ra tấn công: Ở đây Mao tiên sinh võ công đệ nhất sẽ cùng hai vị cô nương Hồng Hoa, Thanh Hoa, Phan hầu và tôi cầm chân Khúc-giang ngũ hiệp. Phan phu nhân cầm chân Trần Năng. Trong khi đó, Đức Hiệp, Hoàng Đức và Hàn Thái tuế cướp Hàn Tú Anh với hai quận chúa chạy trước. Trên đường rút, chúng ta đặt nhiều cạm bẫy, cùng cung thủ phục sẵn. Như vậy chúng có đuổi theo cũng không kịp. 

Trần Nghi Gia nói: 

– Tôi sợ Trần Năng lợi hại vô cùng. Lỡ ra Phật Nguyệt đi theo nữa thì thực khó khăn. Hiện trong chúng ta không ai địch nổi kiếm pháp của nàng. 

Lê Đạo Sinh cười: 

– Phan phu nhân đừng quá lo sợ, chúng ta chỉ cầm cự, cho bọn Đức Hiệp ra tay, chứ cần thắng họ đâu? 

Phan Anh lưỡng lự hỏi: 

– Trưng Nhị thông minh, tinh tế vô cùng. Sợ chúng tôi trở về, y thị biết thì mất mạng như chơi. 

Đức Hiệp cười: 

– Trưng Nhị là một đệ tử bậc dưới chúng tôi. Sư phụ thị còn không hơn được chúng tôi, thì y thị có gì đáng sợ? Vả lại chúng ta họp nhau khẩn cấp thế này, y thị làm sao biết được. 

Phan Anh khẽ gật đầu, rồi chỉ sang phòng phía trái: 

– Mời quí vị sang phòng bên cạnh chúng ta uống rượu đã. 

Phan Anh mời Mao Đông Các vào ghế chủ tọa, kế đó là Lê Đạo Sinh, Thanh, Hồng Hoa rồi tới đám đệ tử Lê Đạo Sinh. 

Cha con Tô Định lấy cớ khẩn cấp phải trở về Giao-chỉ, từ tạ lên đường. 

Lê Đạo Sinh cầm chung đưa lên nói: 

– Nào chúng ta cùng uống chung rượu này, để mừng Phan hầu lĩnh chức thứ-sử Giao-chỉ. Giữa Giao-châu và Quảng-châu hợp tác, chống bọn phản tặc Lĩnh Nam. 

Mọi người uống cạn chung, đặt xuống bàn, bỗng bẹt, bẹt. Năm, sáu, bảy bãi phân chim từ nóc nhà rơi xuống đúng vào giữa chén ăn của mọi người. Mùi hôi thúi nồng nặc. 

Lê Đạo Sinh nhìn lên nóc nhà: Trên cây sà ngang có đến mươi con chim ưng đậu đó từ hồi nào. Kỳ diệu ở chỗ mỗi con ị trúng vào chén uống rượu, không trật ra ngoài. Phân từ cao xuống, bắng tung tóe ra bàn. 

Lê hỏi Phan Anh: 

– Phan hầu! Những con chim ưng này do Phan hầu nuôi phải không? 

Phan Anh lắc đầu: 

– Không phải. Trên đảo không nuôi bất cứ một loại thú vật nào. Tuy nhiên hồ có rất nhiều chim. Song mấy con chim này lớn quá, tôi chưa từng thấy xuất hiện bao giờ. 

Y lên tiếng gọi. Một nữ tỳ bước vào đứng chờ lệnh. Y hỏi: 

– Chiều nay khi chuẩn bị bày tiệc, người có thấy những con chim ưng này không? 

Nữ tỳ lắc dầu: 

– Tiểu tỳ không rõ. Tiểu tỳ không chú ý. 

Bỗng đám chim ưng lại cùng ị một lượt nữa, phân rơi xuống đầy bàn tiệc. Phan Anh đổ quạu, y nhảy vèo lên, khoằm tay làm trảo chụp bắt một chim ưng. Nhưng cả đàn chim ưng đồng bay ra ngoài cửa sổ vỗ cánh cất lên cao, biến vào đêm tối. 

Mao Đông Các nhăn mặt nói: 

– Phan Anh, cháu cẩn thận. Dường như những con chim ưng này có người điều khiển, chứ không phải chim hoang đâu. Đã do người điều khiển, thì cuộc họp chúng ta có thể bị lộ mất rồi. 

Phan Anh luôn miệng cáo lỗi. Y mời khách sang phòng khác. Truyền nữ tỳ bày lại tiệc. 

Tới phòng khách, trên bàn có tờ giấy. Y cầm lên coi, mặt tái nhợt. Y đứng chết trân như trời trồng. Mao Đông Các hỏi: 

– Cái gì vậy? 

Phan Anh đưa tờ giấy cho Mao. Mao cầm lên. Trên tờ giấy viết mấy chữ. Nét mực còn ướt chưa khô: 

Trần Năng, Trưng Nhị, Hồ Đề, Phật Nguyệt, Lê Chân, Sa Giang bái kiến. 

Mao Đông Các nổi giận: 

– Chúng chạy chưa xa đâu, mau đuổi theo. 

Cả bọn ra khỏi phòng. Kịp thấy bên ngoài có chiếc mủng, đang chèo về phiá chiến thuyền. 

Phan Anh gọi gia nhân, sai lấy thuyền, cả bọn nhảy xuống, đồng chèo đuổi theo. Lê Đạo Sinh miệng hô gia nhân chèo thuyền, nói: 

– Phải bắt cho được sáu đứa này, để chúng nó thoát thân, bao nhiêu kế hoạch bị lộ hết. 

Chiếc mủng ngoài khơi đã áp vào chiến thuyền. Thủy thủ đồng loại kéo buồm lên, hướng về phía Nam. Người trên chiến thuyền dường như không biết bị đuối theo. Nên thuyền vẫn trôi thong thả. Trên thuyền vọng lại tiếng tiêu, tiếng đàn réo rắt. 

Lê Đạo Sinh thúc gia nhân chèo thực mau. Chỉ lát sau thuyền của y đã đuổi gần kịp chiến thuyền. Bây giờ y mới nhìn rõ đó là chiến thuyền của Hán. Trên cột treo cờ Lĩnh Nam. 

Bất thình lình có tiếng kêu chóe ngay trên đầu. Rồi vèo một cái như có vật gì bay qua. Bốn tên gia nhân chèo thuyền rú lên những tiếng đau đớn, buông chèo ngã lộn xuống hồ. Bấy giờ mọi người mới chịu nhìn rõ, trên bầu trời co ù một đàn mười con chim ưng bay lượn uy hiếp. Vừa rồi bốn con bổ xuống tấn công gia nhân. Vì đêm tối, không ai phát hiện ra trước. 

Phan Anh cùng vợ cúi xuống vớt bọn gia nhân lên. Tên nào đầu cũng bị một vết thương, máu chảy đầm đìa. Phan Anh nghiến răng nói: 

– Chúng ta chèo thực mau, bắt cho được Trưng Nhị, báo thù. 

Nhưng càng chèo mau bao nhiêu. Chiến thuyền cũng chạy mau bấy nhiêu. Đuổi được hơn giờ, đã thấy bờ phía Nam. Lê Đạo Sinh nói: 

– Phan hầu, chúng ta trở về đi thôi. Đuổi nữa gặp thủy quân Thục, e cả bọn bị bắt hết. 

Phan Anh tỉnh ngộ, ra lệnh thuyền quay trở về. Lê Đạo Sinh than: 

– Tại sao chúng ta họp như vậy mà Trưng Nhị biết được? Ôi thôi tất cả những gì chúng ta bàn, chúng đều biết cả rồi. Chúng ta mau mau rút khỏi đây. Nếu không, thủy quân của chúng tới bây giờ, chạy đâu cho thoát? 

Thuyền quay mũi trở về, chiến thuyền cũng trở mũi đuổi theo. Phan Anh nói hỏi Lê Đạo Sinh: 

– Lê tiên-sinh, chúng quay trở lại là thế nào? 

Lê Đạo Sinh đoán không ra. Y nói: 

– Mặc chúng, ta cứ trở về đảo. Nếu chúng theo ta, cho chúng theo. Dụ chúng rời xa thủy quân. Chúng ta lên chiến thuyền bắt chúng. 

Nhưng chiến thuyền chỉ theo một quãng rồi buông neo giữa hồ. Bọn Phan Anh trở đảo, cùng lên bờ. Thì thấy như có gì khác lạ. Y dẫn đường cả bọn vượt qua khu vườn vào nhà. Trước cửa nhà, hai người lực lưỡng cầm dao trong tư thế canh gác. Y quát hỏi: 

– Các ngươi là ai? Tại sao dám đột nhập vào dinh thự của ta? 

Một thiếu nữ xinh đẹp, mặc quần áo lụa trắng, chắp tay hướng Phan Anh, Lê Đại Sinh nói: 

– Phan hầu, Lê hầu bớt giận. Phan hầu nói rằng tại sao chúng tôi dám đột nhập dinh thự ư? Người lầm rồi, người đã là thứ-sử, mang tước hầu nhà Đại-hán, thì phải biết tất cả của cải trong gầm trời này đều của thiên-tử chứ? Của thiên-tử, hay của thái-hậu cũng thế. 

Ngưng một lát, nàng tiếp: 

– Thái hậu giá lâm bất thần, người có chỉ dụ: Mời Phan-hầu, Lê-hầu vào triều kiến. Còn tất cả phải ở ngoài. 

Phan Anh, Lê Đạo Sinh tần ngần một lát, cùng nhìn nhau hội ý, rồi theo thiếu nữ tiến vào đại sảnh. Trong đại sảnh đèn đuốc sáng choang. Giữa có chiếc ghế lớn, trên ghế một thiếu phụ trang phục theo lối cung nga cực kỳ diễm lệ ngồi. Tư thái ung dung nhàn nhã. 

Phan Anh nhận ra thiếu phụ ngồi giữa là Hàn Tú Anh. Ba thiếu nữ là công-chúa Vĩnh-Hoà, quận chúa Lan Anh và Thúy Phượng. Xung quanh có Khúc-giang ngũ-hiệp, Trường-sa tam anh, Trưng Nhị, Trần Năng. Không thiếu người nào. Công-chúa Vĩnh Hòa cất tiếng: 

– Phan-hầu, người là thần tử nhà Đại-hán, tại sao thấy thái-hậu không quì xuống 

Hàn Tú Anh cất tiếng ôn nhu: 

– Bình nam đại tướng quân Phan Anh. Chinh-thảo đại tướng quân Lê Đạo Sinh các vị là thần tử nhà Đại-hán, tại sao thấy ta không chịu hành lễ? Đến chúa của ngươi là Quang-Vũ, thấy ta còn phải quì gối. Các ngươi đã là cái gì mà cứng đầu? Hay là các ngươi chỉ biết Mã thái-hậu? Các ngươi tưởng ta không tru di tam tộc các ngươi được chăng? 

Một liều ba bảy cũng liều. Phan Anh nói lớn: 

– Ngươi là ai, mà dám lớn lối? Ta chỉ biết có Mã thái-hậu mà thôi. Ta không biết ngươi. 

Lê Đạo Sinh thấy tình thế nguy cấp, y nghĩ: Chỉ có cách bắt sống Hàn Tú Anh, uy hiếp y thị, mới mong thoát khỏi nơi đây. 

Nguyên khi núp ở trên mái ngói. Trưng Nhị nghe bọn Lê Đạo Sinh, Phan Anh bàn truyện bắt Hàn Tú Anh. Nàng bảo Hồ Đề sai Thần-ưng mang thư về bản doanh cho Công-tôn Thiệu, dặn dò mọi truyện. Công-tôn Thiệu cho mời Hàn Tú Anh, công-chúa Vĩnh Hòa, Khúc-giang ngũ-hiệp xuống chiến thuyền, hướng đảo. Khi chiến thuyền đi rồi, Hồ Đề cho Thần-ưng nhập vào dinh thự Phan Anh chọc phá chúng. Quả nhiên Phan Anh trúng kế, đuổi theo nàng với Sa Giang. Trong khi đó, Trưng Nhị cùng Khúc-giang ngũ hiệp chiếm đảo. Mời Hàn Tú Anh vào đại sảnh đường ngồi. Bọn Phan Anh trở về. Đảo bị chiếm, đang từ vai chủ biến thành khách. 

Y biết đã bị Thủy quân vây. Vừa nghĩ, y vừa tiến đến trước mặt Hàn Tú Anh, quì gối đập trán xuống: 

– Thần, Lê Đạo Sinh, thứ-sử Quảng-châu, lĩnh Chinh-thảo đại tướng quân xin tham kiến thái-hậu. Chúc thái-hậu trường thọ, an khang. 

Hàn Tú Anh vẫy tay: 

– Miễn lễ. 

Lê Đạo Sinh liếc Phan Anh ra hiệu. Phan Anh cũng quì xuống hành lễ, rồi đứng sang một bên. 

Lê Chân nói: 

– Lê-hầu, Phan-hầu, các ngươi bất tất phải lo sợ. Các ngươi đã biết Hàn thái-hậu là sinh mẫu hoàng-thượng. Nếu các vị phò tá người về Lạc-dương hội kiến với hoàng-thượng. Hoàng-thượng nhất định hoan hỉ các vị, thăng chức lớn hơn nữa cho các vị. Hàn thái-hậu hài lòng, trong lúc mẫu tử trùng trùng, tất người nói gì tất thiên-tử cũng nghe. Người xin thiên-tử phong chức tước gì mà chẳng được. 

Nàng nhìn Hàn Tú Anh nói: 

– Còn các vị theo Mã thái-hậu, nội việc hại Hàn thái-hậu không xong. Các vị cũng bị Mã thái-hậu chặt đầu. Chứ đừng nói gì đến chuyện khác. Dù Mã thái-hậu không giết các vị. Nguyên việc các vị mưu hại Hàn thái-hậu, sẽ bị tru di tam tộc chứ không phải chuyện thường. 

Lê Đạo-Sinh, Phan Anh cùng nhìn nhau, công nhận Lê Chân nói đúng. 

Công chúa Vĩnh Hòa nói tiếp: 

– Ngày mai, chúng ta lên đường đi Trường-an, để thái-hậu với hoàng-thượng, mẫu tử trùng phùng. Ta hứa bảo tấu cho Lê hầu, Phan hầu giữ nguyên chức vị cũ. 

Trần Năng đến trướcmặt Lê Đạo Sinh hành lễ: 

– Đệ tử là Trần Năng xin tham kiến sư thúc. Gần đây sư thúc có được mạnh khỏe không? 

Lê Đạo Sinh hỏi: 

– Sư phụ ngươi đâu. 

Trần Năng đáp: 

– Sư phụ cháu hiện ở Trường-an, nhưng cháu không rõ người ở trong quân Hán hay quân Thục. Chẳng hay sư thúc muốn gặp sư phụ cháu có việc gì? 

Lê Đạo Sinh thở dài: 

–Ta nghe Đức Hiệp, Hoàng Đức nói rằng trong trận giao tranh ở Trường-sa, ngươi dùng một thứ nội công tà ma của phái Liêu-đông, làm tiêu tan công lực chúng. Ta cần chất vấn sư phụ ngươi, tại sao để đệ tử đi vào con đường tà đạo như vậy? 

Trưng Nhị đáp thay Trần Năng: 

– Thái sư thúc, ngươi lầm rồi. Nội công mà Trần sư thúc học được là một thứ nội công chính đại quang minh bậc nhất thế gian. Đó là Thiền-công của nhà Phật. Đức Phật là đấng chí tôn, là đấng đại từ, đại bi, là đấng đại giác ngộ. Đạo của Ngài giải thoát cho lục đạo là Thiên, A Tu La, Người, Địa Ngục, Ngạ quỉ, Súc sinh. Đạo của Ngài không phải giải thoát cho thế giới nayầy, mà còn giải thoát cho muôn ngàn thế giới khác. So về chính đạo, đệ tử e rằng nội công Tản-viên nhà ta cũng không thể nào chính đại quang minh hơn. 

Hoàng Đức giận dữ nói tiếp: 

– Trưng Nhị, ngươi nổi danh Tản-viên song phượng, thông minh, nghĩa hiệp mà ngươi dám nói láo như vậy sao? Rõ ràng hôm trước, trong thành Trường-sa. Chúng ta đấu với Trần Năng. Bị y thị dùng nội công tà ma Liêu-đông làm tan hết công lực của chúng ta. Mà ngươi còn bịa đặt rằng đó là Thiền-công Phật gia ư? 

Trần Nhất Gia xem vào: 

– Hoàng thái-thú là đệ tử danh gia, sao không biết phân biệt rõ ràng. Này nhé, nội công tà ma của phái Liêu-đông khi tấn công người, thì truyền độc chất cùng nội lực của mình vào cơ thế đối phương, làm nội lực đối phương tiêu tan. Đối phương sẽ bị tàn tật, dù muốn luyện công lại cũng không được nữa. Có phải thế không? 

Hoàng Đức gật đầu: 

– Đúng thế. Nhưng nội công của Trần sư tỷ có khác gì đâu? Cũng tiêu tan công lực của chúng tôi vậy. Nếu không thế sao sư tỷ mới được sư bá nhận có ba năm, mà đã thắng hai chúng tôi có đến trên 25 năm công lực? 

Trần Nhất Gia cười: 

– Sai rồi! Thiền công Hùng phu nhân, chỉ hóa giải luồng chân khí tấn công vào người mình mà thôi. Cho nên khi hai vị thu nội lực lại, không tấn công Hùng phu nhân nữa, thì người khỏe mạnh như thường. Chứ có bị tàn tật đâu? Chính tà khác nhau ở chỗ đó. 

Trưng Nhị đứng nghe hai bên biện luận, nàng mỉm cười xen vào: 

– Sư-thúc chưa đến nỗi già, mà sao lẩn thẩn vậy? Từ xưa giờ, việc luyện võ thành công nhiều hay ít một là nhờ minh sư, hai là nhờ chăm chỉ ba là nhờ duyên may hay gọi là ngộ tính. Như sư tổ nhận tới tám đệ tử, thế mà chỉ có ba người trở thành cao nhân, đó là thái sư phụ của đệ tử sau đó đến Trần thái sư thúc và Lê thái sư thúc. 

Nàng chỉ vào Trần Năng: 

– Còn sư thúc nay tuy mới nhập môn. Nhưng nhờ có minh sư, lại có đức chăm chỉ và nhất là ngộ tính thực cao, tiến mau như vậy thì có gì lạ? 

Trần Nhất Gia tiếp: 

– Khởi đầu trận đấu ở Vương-sơn, Hùng phu nhân với Phan phu nhân công lực một mười một chín. Sau nhờ vị Phật gia Tăng Giả Nan Đà đọc kinh Phật. Hùng phu nhân vừa chiến đấu vừa suy nghĩ cao sâu mà giác ngộ. Áp dụng vào việc vận khí, nên chỉ một lát sau thắng Phan phu nhân. 

Ông quay lại hỏi Trần Nghi Gia: 

– Tôi nói có đúng không? 

Trần Nghi Gia đáp: 

– Trần Nhất Hiệp nói đúng đó. Ba chiêu đầu, tôi trội hơn Hùng phu nhân một chút. Chỉ vì ông già đen thui đọc mấy câu thơ không ra thơ, văn chẳng ra văn, Hùng phu nhân không những đánh bại phu quân tôi. Còn đẩy được chất độc ra ngoài. 

Trần Nhất Gia hướng vào Lê Đạo Sinh: 

– Phan hầu phu phụ võ công cao hơn quí hiền đồ đôi chút. Thế mà cả hai người cùng đấu với Hùng phu nhân một lúc. Một bên dùng nội công Dương-cương của phái Khúc-giang nhà tôi, một bên dùng nội công Âm-nhu của phái Trường-bạch. Dồn Hùng phu nhân đến chỗ nguy, rồi chính vị Phật gia lại đọc kinh Phật. Hiện siện tại Vương-sơn hôm đó có hai mươi bảy người, thế mà không ai hiểu gì cả. Chỉ có mình Hùng phu nhân giác ngộ, nhờ vậy đánh bại được Phan hầu phu phụ. 

Lê Đạo Sinh vẫn chưa tin: 

– Như thế thì chính ông Đồng Đen Tây-trúc kia đã truyền nội công tâm pháp tà ma của y cho Trần Năng chứ có gì khác lạ đâu? 

Lê Đạo Sinh nhìn Trần Năng rồi y vận sức phát một chưởng đánh vào đỉnh đầu nàng. Thấy sư thúc phát chưởng. Trần Năng không dám chậm trễ, hít hơi vận không tâm, lui lại một bước, phát lực theo Bát Nhã la mật, vung tay đẩy ra một chưởng. Bịch một tiếng, nàng nhảy lùi lại ba bước để giữ thế, hóa giải được kình lực của Lê Đạo Sinh. 

Lê Đạo Sinh thấy mình đánh Trần Năng một chưởng, nàng vung chưởng đỡ, đúng là chưởng pháp Tản-viên. Nhưng không thấy có gió lộng, rồi hai chưởng đụng nhau. Kình lực của ông bị hóa giải mất tăm mất tích. Bây giờ ông mới tin nội lực của Trần Năng chính đại quang minh, chân khí phát ra là của phái Tản-viên. Nhưng biến thành Âm nhu mềm mại, làm mất những gì y đánh ra. Chứ không phải thứ nội lực tà môn của phái Liêu-đông, làm hại nội lực người khác. Y biết mình lầm, gật đầu: 

– Ta lầm! Nội lực này ngươi học ở đâu vậy? 

Trần Năng đáp: 

– Của hòa thượng Tăng Giả Nan Đà. Ngài là Phật tử Tây-trúc mới qua Trung-nguyên. 

Công-chúa Vĩnh Hòa hướng vào Lê Đạo Sinh: 

– Lê thứ sử, trước khi đến đây. Tôi đã cho người phi ngựa lưu tinh về Trường-an tâu với thiên-tử về việc Hàn thái-hậu. Có lẽ giờ này thiên-tử nhận được biểu rồi cũng nên. Chắc chắn người sẽ ngự giá đi đón thái-hậu. Tôi thấy tiên-sinh là bậc kỳ tài, không nỡ để tiên-sinh mang họa, mới nhờ Trưng cô nương xếp đặt, cứu tiên sinh. Giúp tiên sinh được triều kiến thái-hậu. 

Lê Đạo Sinh nghe Vĩnh Hòa nói, bất giác y hoảng kinh. Vì từ đầu đến cuối, y được Mã thái-hậu thâu dụng. Bà dùng áp lực bắt Tam-công tâu Quang-Vũ phong cho y chức thứ-sử Quảng-châu lĩnh Chinh-thảo đại tướng quân. Các đệ tử lĩnh thái-thú, đô-úy. Cuối cùng bà ra lệnh phải bắt cho được nữ khâm phạm là Hàn Tú Anh. Bây giờ y biết rõ Hàn Tú Anh là mẹ đẻ Quang-Vũ. Hàn Tú Anh sắp trùng phùng với con, tất giữa hai thái-hậu có cuộc tương tranh. Thất bại chắc chắn về Mã thái-hậu. Y là người của Mã thái-hậu sai đi hại Hàn thái-hậu. Tất không thoát khỏi tội. Ôi thôi bao nhiêu dự định, công danh đều hóa thành giấc mộng. Bây giờ được công-chúa Vĩnh Hòa nói thẳng cho y biết mọi sự. Y nghĩ: Mình đáng chết thực. Suýt nữa mình bắt Hàn thái-hậu làm áp lực với bọn Trưng Nhị thả thầy trò mình ra. Mình tuy thoát được. Nhưng công danh phú quí đều ra mây khói. 

Trưng Nhị là người thông minh tuyệt đỉnh. Nàng đọc được những ý nghĩ của Lê Đại Sinh. Đợi cho y bớt bàng hoàng. Nàng nói tiếp: 

– Lê thái sư thúc! Mã thái-hậu đưa thái sư-thúc vào chỗ chết. Thái sư-thúc có biết không? 

Lê Đạo Sinh lắc đầu: 

– Làm gì có chuyện đó? 

Trưng Nhị mỉm cười: 

– Trời ơi! Sư phụ cháu thường nói: Thái sư thúc là người trông rộng nhìn xa, mà sao chuyện nay lại không thấy? Mã thái hậu cho người mời thái sư-thúc làm quan với bà, chứ có phải với triều Hán đâu? Rồi người sai thái sư thúc đi hại Hàn thái-hậu. Việc thành thì Quang-Vũ tru di tam tộc thái sư thúc. Việc không thành, thái sư thúc cũng sẽ bị Mã thái-hậu giết để bịt miệng. 

Lê Đạo Sinh nghe đến đó, nhìn các đệ tử rùng mình. 

Sa Giang đứng cạnh, xen vào: 

– Lê tiên sinh! Tiểu nữ muốn thưa với tiên-sinh một vài câu. Mong tiên-sinh rộng lượng cho phép. 

Từ lúc trở lại đảo. Lê Đạo Sinh gặp Sa Giang. Nàng lễ phép tiếp khách ngoài cửa. Ông cho rằng nàng là người Hán, chắc bà con thân thích với Hàn thái-hậu, chứ không phải người Lĩnh Nam. Giọng ông khách sáo: 

– Được cô nương cứ nói: 

Sa Giang mỉm cười: 

– Tiểu nữ nghe nói tiên-sinh cùng các đệ tử mở võ đài ở Lạc-dương, mà được Mã thái-hậu thu dùng. Sau đó phong cho tước Uy-viễn đình hầu. Này Lê tiên sinh! Luật triều Hán soạn thảo từ đời Cao-Tổ, định rõ ràng rằng: Muốn có phong hầu phải ở một trong hai điều kiện: Hoàng thân quốc thích, hoặc có công trận lớn lao. 

Sa Giang nói đến đây, Hàn Tú Anh, Khúc-giang ngũ hiệp đều gật đầu đồng ý. Nàng tiếp: 

– Xưa kia đại tướng Lý Quảng trọn đời đánh Đông dẹp Bắc cũng không được phong hầu. Đến như Mã Viện, cháu ruột của thái-hậu, trí dũng song toàn, vào sinh ra tử nhiều lần. Đến nay cũng vẫn là đại tướng. Thế mà Lê tiên sinh chưa vào triều kiến thiên-tử, được phong hầu ngay, là lẽ gì vậy? 

Nghe Sa Giang nói, Lê Đại Sinh biết việc ông và các đệ tử được phong chức tước dễ dàng bên trong còn có điều gì bí ẩn, mà ông không biết. 

Sa Giang tiếp: 

– Chiếu chỉ phong cho Tiên-sinh là chiếu chỉ giả. Do bọn ngoại thích của thái-hậu tạo ra, chứ quân hàm nhà Hán làm gì có tước Uy-viễn đình hầu? Làm gì có chức Chinh-thảo đại tướng quân? Làm gì có Quảng-châu mà phong cho ngươi chức thứ-sử Quảng-châu? Chẳng qua họ chỉ dùng tiên-sinh hại Hàn thái-hậu. Sau vụ này, dù thành dù bại, họ cũng giết tiên-sinh. Sự việc rõ ràng vậy, mà tiên sinh không thấy sao? Khổ quá! Tiên sinh vì chút công danh, để thần minh bị che lấp đi. Thực đáng tiếc. 

Trần Tứ Gia vốn nhiều mưu, ông tiếp: 

– Lê tiên sinh ơi! Dù chức tước ấy có thực chăng nữa. Cũng chỉ đưa Tiên-sinh vào chỗ chết thôi, vì sao vậy? Quảng-châu gồm có ba quận Nam-hải, Tượng-quận, Quế-lâm. Thái-thú, huyện-lệnh, huyện-úy, tướng sĩ là chân tay của Lĩnh-nam vương. Họ đều là anh hùng Lĩnh Nam. Sáu đạo quân tinh nhuệ, do các cao thủ võ lâm Lĩnh Nam chỉ huy. Tổng số trên ba chục vạn người. Mạnh đến như Thục. Tài ba như Đặng Vũ, Tương đương cửu hùng, còn bị thua họ. Thử hỏi tiên-sinh với mấy cao đồ. Thân cô, thế cô, tuy tiên-sinh có bản lĩnh nghiêng trời, liệu có làm gì được không? 

Trần Tứ Gia cười: 

– Vì vậy chức tước tiên-sinh với các cao đồ. Chẳng qua là cái mồi nhử tiên-sinh hại Hàn thái-hậu. Hại rồi, họ giết tiên-sinh. Giả như tiên-sinh có ngây thơ xuống nhận chức. Chẳng ai trao quyền cho tiên sinh. Các thái-thú địa phương, xuất thân võ lâm, đời tặng cho họ danh hiệu: Hợp phố lục hiệp, họ chẳng ngại ngùng gì, cho quân vây bắt tiên-sinh chặt đầu. 

Mồ hôi Lê Đạo Sinh toát ra như tắm. Y nhìn các đệ tử ngớ ngẩn không biết nói sao. Hàn Tú Anh nói: 

– Lê tiên-sinh! Ta sẽ vì tiên-sinh, mà làm cho tước hầu, chức thứ-sử của tiên-sinh trở thành chính thức. Quang-Vũ, Nghiêm Sơn chúng cùng đều là con ta cả. Tiên sinh yên tâm, ta bảo gì chúng phải nghe. 

Lê Đạo Sinh tiến tới trước mặt Hàn Tú Anh, rập đầu xuống đất lạy đủ tám lạy, nói: 

– Thần là Lê Đạo Sinh, xin kính cẩn đa tạ hồng ân của thái-hậu. 

Đám Đức Hiệp cùng rập đầu tạ ơn theo, rồi đứng sang một bên. 

Phan Anh cười ha hải nói: 

– Lê tiên-sinh! Ngươi mắc mưu Trưng Nhị rồi. Trưng Nhị đưa một kỹ nữ ra, mạo xưng sinh mẫu hoàng-thượng. Ngươi cũng tin ư? Nếu Hàn Tú Anh là thái-hậu, sao còn kết cấu với bọn phản tặc Lĩnh Nam như Trưng Nhị, Trần Năng, Phật Nguyệt? Chính bọn này đã giúp Thục chiếm chín quận Kinh-châu. Nếu Tú Anh thật sự là thái-hậu, thân thế cao quí biết bao, đời nào bà phản con mình là thiên-tử? 

Công chúa Vĩnh Hòa quát: 

– Phan Anh! Ngươi là con của phản tặc Xích Mi. Trung thần nhà Đại-hán có thể gọi anh hùng Lĩnh Nam là phản tặc. Còn ngươi, thì không đủ tư cách nói năng vô phép. Truyện nhà Đại-hán, truyện Mã thái-hậu, Hàn thái-hậu và truyện Lĩnh Nam là hai vấn đề khác biệt. Thiên-tử với Lĩnh-nam vương đều là con của Hàn thái-hậu. Ta là công-chúa, phải biết chuyện nhà của ta chứ? Còn mi, xuất thân con tên giặc ghê tởm Xích Mi. Tán tận lương tâm, giết nghĩa huynh, hãm chị dâu. Kiến-Vũ thiên-tử đã treo giải thưởng cho ai bắt, hoặc giết mi được thọ tước vạn hộ hầu. Không hiểu sao Mã thái-hậu lại dùng mi. Ta chắc có điều gì bí ẩn ở trong. 

Trưng Nhị nói với Phan Anh: 

– Xích tiểu vương! Hôm ở núi Vương-sơn ngươi bịa ra chuyện mẫu thân bị giam ở Trường-sa hầu thoát thân. Ta nghĩ, giữa Lĩnh Nam với người không thù, không oán, lờ đi. Song ngươi để nhiều sơ hở quá. Ngươi ẩn ở làng Trường-sa hơn ba năm, dối rằng nhận lệnh Mã thái-hậu bắt Hàn thái-hậu. Ngươi quên mất một điều: Truyện Hàn thái-hậu mới lộ ra trong vòng nửa năm nay. Đến Mã thái-hậu còn không biết Hàn thái-hậu tại thế hay đã qua đời, làm sao ra lệnh cho ngươi phục bắt? Lại nữa, ngươi không thích công danh, phú quí. Xưa kia, Xích Mi phong ngươi làm Đông cung thái-tử. Ngươi còn từ chối. Thì nay không lẽ chỉ vì chức vạn-hộ hầu, ngươi đi giết Hàn thái-hậu? Tôi nghĩ chắc có gì bí ẩn ở đây. 

Phật Nguyệt xen vào: 

– Xích vương gia. Tôi tìm ra rồi. Vương gia phục ở lăng Trường-sa vương vì một mưu đồ khác lớn hơn tước vạn hộ-hầu. Có đúng thế không? Chả vậy mà hôm ở trên đồi Vương-sơn. Bồ tát Tăng Giả Nan Đà khuyên ngươi nên bỏ lòng tham. Ngươi nghe lời khuyên, mặt tái đi. Ta biết ngươi mưu đồ gì rồi. 

Thình lình Phan Anh, Trần Nghi Gia cùng vọt người lên hướng vào Hàn Tú Anh chụp bà. Hiện diện có võ công cao như Khúc Giang ngũ hiệp, Lê Đạo Sinh, Phật Nguyệt, Trần Năng, Trưng Nhị, muốn ra tay nhưng đứng xa quá, không phản ứng kịp. Họ đồng lên tiếng quát: 

– Ngừng tay! 

– Không được hại người! 

Nhưng không kịp. Hai vợ chồng Phan Anh đã chụp đến trước ngực Hàn Tú Anh rồi. Mọi người nhắm mắt lại không dám nhìn cảnh người đẹp như bà bị giết chết. 

Đức Hiệp, Hoàng Đức thấy vậy vội phát chưởng đánh vào người vợ chồng Phan Anh. Bùng, bùng hai tiếng. Đức Hiệp, Hoàng Đức lảo đảo lui lại đến hai bước. Oẹ một tiếng khạc ra búng máu. 

Vợ chồng Phan Anh lại vọt người lên tấn công Hà thái-hậu hai chưởng cực kỳ hùng hậu. Mọi người la hoảng lên. Thình lình một rồi hai, rồi ba, rồi bốn sợi giây từ sau Hồ Đề bay đến lao vào lưng vợ chồng Phan Anh. Hai người thấy sợi giây không kình lực. Vận sức vào lưng chịu đòn. Quyết giết Hàn Tú Anh. Không ngờ sợi giây quấn chặt lấy hai tay, hai chân vào thân hình. Vợ chồng Phan Anh ngã vật xuống trước mặt Hàn Tú Anh. Chúng cố dãy dụa để thoát. Sợi dây càng siết chặt. Không ai hiểu Hồ Đề dùng thứ ám khí gì mà kỳ lạ như vậy. 

Hồ Đề đứng trước Hàn Tú Anh, miệng cười khanh khách: 

– Hàn thái-hậu đừng sợ, có tôi đây! 

Bấy giờ mọi người mới nhìn vợ chồng Phan Anh. Họ đều nổi da gà lên một lượt. Vì hai vợ chồng Phan Anh bị mấy con trăn bằng cổ tay quấn lấy chân, tay, cổ không sao thoát được. 

Nguyên Hồ Đề đã được Trưng Nhị dặn trước rằng: Trong cuộc dọ thám nay có nhiều hung hiểm. Hồ Đề mang theo hai cái túi lớn. Bốn cái túi nhỏ trong đựng nào trăn, nào rắn độc, nào bò cạp, nào nhện. Không thiếu thứ gì. 

Khi thấy vợ chồng Phan Anh xuất chiêu hại Hàn Tú Anh. Biết mình có ra tay ngăn cản cũng vô ích. Nàng mở miệng túi, huýt sáo. Mấy con trăn theo lệnh chủ, vọt ra, quấn vợ chồng Phan Anh lại. Mấy con rắn lục xanh óng ánh, thì trườn qua trườn lại trên người chúng. 

Hồ Đề cười lớn: 

– Phan Anh. Bây giờ ta huýt sáo một tiếng, những con rắn nhỏ này sẽ cắn vợ chồng ngươi. Sau mười ngày đau đớn, chết đi sống lại. Các ngươi trở thành điên khùng. Bấy giờ các ngươi hóa ra con thú hoang, đi đến đâu người ta chạy đến đó. Người Lĩnh Nam chúng ta có câu: Đời cha ăn mặn, đời con khát nước. Cha mi giết Cảnh-Thủy hoàng-đế, triệu, Tấn công. Ngày nay ngươi phải lãnh hậu quả nầy. 

Thình lình, thấp thoáng một cái. Hai cái bóng, một đỏ, một xanh phóng đến trước mặt Hồ Đề. Người chưa tới, chưởng đã tới, tấn công nàng. Chưởng lực hùng hậu vô cùng. Hồ Đề kinh hoảng vung chưởng lên đỡ, nhưng không kịp nữa. Hai bóng kia đã biến chưởng thành trảo, chụp được nàng. 

Mọi người nhận ra là Tiêu Hồng Hoa và Văn Thanh Hoa. Hai người đứng gần Hồ Đề nhất, ra tay khống chế nàng, cứu vợ chồng Phan Anh. Tiêu Hồng Hoa để tay lên đầu nàng nói: 

– Ngươi có thu trăn, rắn lại không? Nếu chậm trễ, ta nhả chưởng lực, đầu người vỡ ra từng miếng nhỏ. 

Biến cố xẩy ra bất ngờ. Khúc-giang ngũ hiệp, Phật Nguyệt đang nói chuyện ở cuối phòng, xa quá, không cứu ứng được. Còn thầy trò Lê Đạo Sinh lại không có cảm tình với Hồ Đề. Chúng thản nhiên đứng nhìn. 

Hồ Đề là thiếu nữ ương ngạnh, bởi từ năm mười bảy tuổi, nàng được bầu thống lĩnh 72 động Tây-vu, rất can đảm. Nàng hỏi: 

– Nếu ta không tha vợ chồng Phan Anh, các ngươi giết ta hẳn? Lầm rồi! Tại đây, bọn ngươi có hàng trăm kẻ hầu, nữ tỳ, đầu bếp, thuyền phu, bị chúng ta bắt. Nếu các ngươi dám đụng đến một sợi tóc của ta. Người phe ta sẽ băm vằm các ngươi ra như băm chả. 

Hồng Hoa, Thanh Hoa nhìn nhau, chưa biết phản ứng ra sao. Thì Choác, choác mấy tiếng. Ngũ ưng từ nóc nhà vút xuống tấn công hai nàng. Bởi ngũ ưng đi đâu cũng được Hồ Đề mang theo. Chúng thấy Hồ Đề bị khống chế thì thông hiểu, khi nàng nheo mắt một cái, chúng hiểu nàng gặp nạn, tức tốc nhào xuống cứu chủ. Hồng Hoa, Thanh Hoa bị chúng mổ vào đầu đau quá, vội buông Hồ Đề đánh Thần-ưng. Hồ Đề nhân đó nhảy lùi lại bên Trưng Nhị. Hồng Hoa thấy Hồ Đề vượt thoát, phóng chưởng đánh theo. Trưng Nhị xuất chưởng đỡ. Bịch một tiếng, Hồng Hoa đứng nguyên, tư thế rất ung dung. Còn Trưng Nhị bật lùi đến hai bước. Khí huyết trong người nàng muốn nổ tung lồng ngực. Chưởng lực Hồng Hoa Âm nhu, bao hàm sát thủ ghê người, mùi hôi tanh bốc ra nồng nặc. Chưởng này cùng loại chưởng Phan Anh đấu với Trần Năng hôm trước. Có điều nội lực mạnh hơn nhiều. Cánh tay nàng dường như tê dại. 

Hồng Hoa cười: 

– Tưởng Trưng Nhị tài ba thế nào, hóa ra chỉ có vậy thôi sao? Hãy đỡ chưởng thứ nhì của ta. 

Hồi 28 Đoái thương muôn dặm tử phần, Hồn quê theo ngọn mây tần xa xa.

(Kiều)

Hồng Hoa hít một hơi, vận khí, lùi lại hai bước, rồi phóng chưởng. Trưng Nhị biết chưởng này không tầm thường, vội phát chiêu Lưỡng Ngưu tranh phong trong Phục Ngưu Thần Chưởng đỡ. Chưởng của nàng gió lộng ào ào, làm những người công lực yếu trong phòng muốn nghẹt thở. Bịch một tiếng, chưởng của Trưng Nhị bị mất tích, người nàng bay vọt về sau. Là người cực kỳ thông minh, kinh nghiệm chiến đấu có thừa. Còn ở trên không nàng dã hít một hơi chân khí. Lộn người hai vòng, hóa giải chưởng lực đối thủ. Thực tế nàng bị Hồng Hoa đánh bại. Người ngoài nhìn tưởng nàng xử dụng chiêu thức đặc biệt. Cử tọa chỉ có thầy trò Lê Đạo Sinh với Trần Năng biết nàng bại mà thôi. Vì họ cùng môn phái, cùng xử dụng một thứ võ công. Lê Đại Sinh khâm phục, nghĩ: 

- Con nhỏ này là đồ tôn sư huynh ta. Võ công thua xa bọn Đức Hiệp, Vũ Hỷ. Từ trước đến giờ, ta không hiểu sao nó lại nổi tiếng khắp Lĩnh Nam. Thì ra nó thông minh, biết biến hóa. 

Là người thông minh, mẫn tiệp. Lê Đạo Sinh học văn, học võ đều thành. Xưa sư phụ ông thu chín đệ tử. Chỉ có ba người thành đại nghiệp. Người thứ nhất, đại sư huynh, Trưng Đại Minh, ông nội Trưng Nhị. Sau được truyền chức chưởng môn phái Tản Viên. Người thứ nhì, nổi danh đạo đức, y đạo là Trần Đại Sinh. Người thứ ba là Lê. Muốn trở thành Thái-sơn Bắc-đẩu võ lâm. Lê đã thành công. Ngồi ở ngôi vị Thái-sơn Bắc-đẩu, nhìn sang giới quan lại, Lê muốn làm quan lớn, đạt được chức đô-úy, cầm quân vùng Giao-chỉ. Nhưng với chức đô-úy Lê bị thái-thú sai khiến, Lê muốn làm thái-thú. 

Lê có tính hiếu thắng kỳ lạ, trái hẳn với Đào Thế Kiệt. Lê muốn bất cứ điều gì cũng phải đạt được. Điều Lê nghĩ, việc Lê làm, Lê đều tự cho là phải. Ai làm trái Lê, cản trở Lê, đều là kẻ thù của Lê hết. Tất cả cái xấu của Lê là của kẻ thù. Tất cả cái tốt của kẻ thù là của Lê. Lê nhất tâm, nhất trí đào tạo mười đệ tử. Trong khi đào tạo, Lê bắt họ chịu kỷ luật thực khắc khe. Ngược lại họ nhận được bản lĩnh vô địch. Họ chỉ cần tuân lệnh Lê là đủ. Ngoài ra, họ muốn giết người, cướp của, hãm hiếp ai, Lê cũng nhắm mắt lờ đi. Khi con người được luật pháp, luân lý kềm chế, trở lại với vị trí tính thiện của họ. Còn cứ để tự do, thú tính ngày phát triển. Các đệ tử của Lê, ở trong hoàn cảnh đó. 

Dưới mắt Lê, Nguyễn Thành Công, Đặng Thi Kế cho đến Đặng Thi Sách, Trưng Nhị đều là người bất tài, bất chính, vô hạnh, vì họ làm trái với Lê. Lê thấy họ nối tiếng, dân chúng kính phục, Lê ghen lồng lộn, hại họ. Lê có biết đâu họ nổi tiếng vì có tấc lòng son đối với Lĩnh Nam. 

Hồng Hoa, Trưng Nhị lại xông vào đấu với nhau chưởng nữa. Trưng Nhị xuất chiêu Ngưu tẩu như phi. Còn Hồng Hoa xuất một chiêu rất thô kệch, không có gió. Chưởng chưa ra, mà mồ hôi nồng nặc truyền khắp phòng. Trưng Nhị biết đây là Huyền-âm độc chưởng. Nàng thấy Phan Anh xử dụng đấu với Trần Năng. Khúc-giang ngũ hiệp nói rằng: Nội công tâm pháp Huyền-âm độc chưởng, gốc ở Long-biên, đường đường, chính chính, nhưng đã hợp với ngũ độc. Nên trong cái chính có cái tà đi theo hại người. 

Cách đây hơn hai trăm năm. Vạn tín-hầu Lý Thân thống lĩnh đệ tử Âu-Lạc sang Hàm-dương đấu với võ sĩ Trung-nguyên. Trong ngày đầu thì chống đỡ tìm hiểu chiêu thức địch. Tối về nghiên cứu các thế phá, hôm sau phản công. Sau khi đại thắng võ lâm Trung-nguyên. Ngài cùng đệ tử tổng hợp các chiêu thức sáng chế thành một hệ thống mới. Từ đó, ngài tìm ra một lối luyện công âm-nhu khắc chế dương-cương. Đặt trên nguyên tắc Dĩ nhu, chế cương. Sau này Đồ Thư cùng võ sĩ Tần Thủy Hoàng sang đánh Lĩnh Nam bị lạc bại, từ trần. Khi rời Trung-nguyên, Lý Thân để lại một đệ tử là Trần Mạnh Chi, làm Nội giám hiệu-úy. Mạnh Chi lấy vợ Trung-nguyên, sinh con, đẻ cháu lập ra phái Trường-bạch. Trường-bạch sơn là vùng núi nhiều côn trùng độc. Các đệ tử phải chống chất độc, lâu ngày thành ra kỹ thuật của môn phái. Đến đời thứ năm. Trong môn phái có biến chuyển lớn. Một đệ tử họ Phan có kẻ thù bắt giam, tra khảo. Đòi khai cách luyện nội công Âm-nhu. Y không chịu. Kẻ thù cho Rắn, Rết, Nhện, Tầm và Bò Cạp, đốt. Nhờ bản lĩnh kháng độc sẵn có, y không bị độc chất làm hại. Một đêm sau khi vận công. Y giật mạnh tay, gông cùm vỡ tan. Y tĩnh ngộ ra rằng chính nhờ trong lúc vận khí chống độc. Nọc độc hợp với chân khí thành một thứ nội lực mới. Mạnh vô cùng. 

Y rời nhà tù, đánh phá tổng đàn đối phương. Đối phương bị trúng chưởng của y lập tức bị đau đớn khủng khiếp rồi chết. Y trở về phụ mệnh sư phụ: kể cho sư phụ nghe mọi chuyện. Sư phụ y, giòng dõi Trần Mạnh Chi. Bảo y dùng chưởng lực đánh thử vào thú vật, y ngoan ngoãn tuân theo. Con vật đau đớn, nổi điên mà chết. Sư phụ y thấy vậy cho là tà phái âm độc, khuyên y bỏ đừng luyện tiếp. 

Một ngày kia, ông khám phá ra y vẫn bí mật luyện độc công. Ông trục xuất Phan khỏi môn phái. Y nổi giận giết sư phụ, chiếm lấy chức chưởng một. Từ đấy phái Trường-bạch thành phái Huyền-âm độc chưởng. Khắp Trung-nguyên ai nghe tiếng cũng kinh hồn táng đởm. Đến đời thứ ba, chưởng môn là Phan Sùng, võ công lừng danh thiên hạ. Kết huynh đệ với Lưu Huyền, tức Cảnh-Thủy hoàng đế. 

Phan Sùng một lần nhìn thấy hoàng-hậu của Cảnh-Thủy, đem lòng say đắm. Y hại ba người anh kết nghĩa Lưu Huyền, Lý Diệt, Chu Huy, xưng vương. Tướng sĩ nhiều người không phục, bỏ y theo phò Lưu Diễn. Lưu Diễn chết. Họ theo Lưu Tú tức Quang-Vũ. Trong trận đánh Trường-sa, Phan Sùng chết giữa loạn quân. Toàn gia bị tru lục. Phái Trường-bạch bị truy lùng rất gắt. 

Hôm Phan Anh đại chiến với Trần Năng, bị Khúc-giang ngũ hiệp nhận diện được. Bây giờ sào huyệt chót của y bị bại lộ. Anh hùng còn phát giác ra tông tích đại ma đầu Mao Đông Các. Mao nổi danh cùng thời với Thiên-sơn lão tiên, Trần Đại Sinh, Nguyễn Phan. Y tung hoành thiên hạ, không úy kị ai. Thiên-sơn lão tiên viết thư khuyên y. Y không hối cãi, còn viết thư thách ngài đến tổng đàn phái Trường-bạch giao đấu, với một trong ba sư huynh đệ của y. 

Thiên-sơn lão tiên là đại anh hùng, đại hiệp sĩ. Ngài viết thư mời Trần Đại Sinh, Nguyễn Phan từ Lĩnh Nam sang, cùng trừ mối họa võ lâm. Mao Đông Các thấy Thiên-sơn lão tiên xuất hiện cùng với hai cao nhân Lĩnh Nam, y vẫn không coi vào đâu. Trận đầu, y đấu ngang tay với ông. Trận thứ nhì sư huynh của y bị Trần Đại Sinh dùng Phục Ngưu Thần Chưởng đánh chết. Ngược lại, ông trúng Huyền-âm độc chưởng. Trận thứ ba, sư thúc của y đấu với Nguyễn Phan. Không đầy một trăm hiệp, ông dùng Long-biên kiếm pháp giết chết. Nguyễn Phan muốn trừ dứt mối họa cho võ lâm. Ông giết luôn y. Đoạt thuốc giải cứu Trần Đại Sinh. Không ngờ, y giả chết. Bây giờ tái xuất hiện. 

Truyện nầy, Trưng Nhị được Khất đại-phu thuật cho nghe từ lâu. Nàng đã có ý niệm về Huyền-âm độc chưởng. 

Trưng Nhị biết chưởng Hồng Hoa lợi hại, nhưng nàng là người can đảm, hít một hơi chân khí, lên đinh-tấn, tay trái bắt quyết, tay phải ra chiêu Ngưu ngọa ủ sơn trong Phục Ngưu thần chưởng đỡ. Chưởng phóng ào ào chụp xuống người Hồng Hoa. Nhưng chưởng mới đi được nửa chừng. Trưng Nhị thấy có bàn tay để vào lưng mình. Một luồng chân khí theo tay lan khắp cơ thể. Chưởng của nàng đang dương-cương, biến sang nhu hòa, mạnh như trời long đất lở. Vừa lúc đó chạm vào chưởng Hồng Hoa. Bịch một tiếng, kình lực Hồng Hoa mất tăm mất tích. Y thị lảo đảo, lùi lại mấy bước. Mặt tái mét, đứng run run như người sốt rét. 

Mọi người đều ngạc nhiên. Vì hai chưởng đầu, Trưng Nhị kém xa Hồng Hoa. Không ngờ chưởng thứ hai, nàng thắng dễ dàng như vậy. Trưng Nhị nhìn về sau, thì ra người để tay lên lưng mình là Trần Năng. Nguyên hôm đấu võ ở Vương-sơn, Trần Năng nghe Tăng Giả Nan Đà nói rằng: 

– Người tập Thiền cao, có thể dùng chân khí của mình truyền vào người bệnh nhân, chữa bệnh cho họ. 

Nàng là đệ tử Khất đại-phu, rất giỏi y khoa. Nàng đã áp dụng chữa bệnh cho binh sĩ, đều kết quả. Bây giờ thấy Trưng Nhị đấu với Hồng Hoa, nàng nghĩ: Mình với Trưng Nhị cùng môn phái Tản-viên, có thể tiếp chân khí cho nhau. Vì vậy Trần Năng mới chuyền chân khí giúp Trưng Nhị, quả nhiên thành công. 

Hiện diện trong phòng có hàng trăm người. Chỉ mình Trần Năng. Trưng Nhị biết mà thôi. 

Trưng Nhị hỏi Hồng Hoa: 

– Tiêu sư tỷ, ngươi thấy thế nào? 

Hồng Hoa hít một hơi vận chân khí. Chân khí bị tuyệt, vận không ra. Người nàng bải hoải, như sau một cơn đau kịch liệt. Văn Thanh Hoa thấy em đấu với Trưng Nhị, hai chưởng của Trưng Nhị đang từ cương biến sang nhu, làm tan biến chưởng của đối thủ. Nàng hỏi sư muội: 

– Sư muội! Cái gì đã xảy ra? 

Tiêu Hồng Hoa lắc đầu: 

– Không rõ nữa, công lực của em gần như mất hết. 

Mặt nàng nhăn nhó, tỏ ra gặp bất tường. Văn Thanh Hoa nhìn Mao Đông Các hỏi ý kiến. Mao Đông Các gật đầu. Nàng tiến tới trước Trưng Nhị chắp tay nói:

– Tiểu muội Văn Thanh Hoa. Xin được lĩnh giáo mấy cao chiêu của Tản-viên song phượng, Lĩnh Nam. 

Trưng Nhị mỉm cười: 

– Văn sư tỷ với tôi không thù, không oán, việc gì phải hao tốn nguyên khí? Tại sao chúng ta không kết bạn, mà lại phải đánh nhau? Vừa rồi Tiêu sư tỷ ra tay tấn công Hồ sư muội. Tôi mới phải đỡ đòn dùm, chứ có muốn gây thù chuốc oán đâu. 

Văn Thanh Hoa chỉ vợ chồng Phan Anh: 

– Đã không thù oán. Tôi lớn mật dám xin Hồ sư tỷ tha cho vợ chồng Phan Anh hiền đệ. Chúng tôi cảm ơn đại đức của sư tỷ. 

Hồ Đề cười: 

– Vợ chồng Phan Anh khi không tấn công người. Tôi vì cứu người mà ra lệnh cho Thần-xà cắn lại. Chứ tôi muốn giết, thì những con rắn độc của tôi đã táp vợ chồng Phan sư huynh từ đầu. Chứ đâu còn đến nay? 

Nàng húyt sáo một tiếng, mấy con trăn buông vợ chồng Phan Anh ra. Vợ chồng Phan Anh mặt tái mét lùi lại, hỏi Mao Đông Các: 

– Thái sư phụ, xin Thái-sư phụ định liệu. 

Mao Đông Các thấy sự bất hảo, hướng vào Lê Đạo Sinh: 

– Lê hầu, ngươi định phản Hán triều để theo Thục chăng? 

Lê Đạo Sinh mỉm cười: 

– Lão phu đã quyết định. Không can thiệp vào sự tranh giành trong nội cung nhà Hán. Mã thái-hậu cũng thế, Hàn thái-hậu cũng vậy, xin Mao tiên-sinh miễn cho lão phu việc phải quyết định theo Mã hay theo Hàn. 

Mao Đông Các hướng vào Trưng Nhị nói: 

– Ngôi nhà này của tổ tiên họ Phan. Xin mời các vị rời khỏi nay cho. 

Quận chúa Lý Lan Anh chí vào Phan Anh: 

– Y là khâm phạm của triều đình. Hoàng thượng treo thưởng cho ai bắt được tông tộc họ Phan được phong vạn-hộ hầu. Tài sản của chúng cũng sẽ bị tịch thu, ban thưởng cho người bắt. Vợ chồng hắn xâm phạm Hàn thái-hậu lần này là lần thứ nhì, không thể tha được. Lê tiên sinh, xin tiên-sinh ra tay cho. 

Lê Đạo Sinh là người xảo quyệt. Y tính toán: Ở đây võ công Mao Đông Các có lẽ ngang với ta. Ta có bốn đệ tử võ công cao. Như vậy nếu xảy ra động thủ, ta đánh với Mao Đông Các. Bốn đệ tử của ta kém vợ chồng Phan Anh một chút. Vạn nhất động thủ, bên phía chúng còn Tiêu Hồng Hoa, Văn Thanh Hoa. Bên ta thua là chắc. Vì vậy y nhìn Trần Năng, Trưng Nhị, lên tiếng: 

– Trần Năng! Sư thúc có lệnh: Ngươi bắt vợ chồng Phan Anh cho ta. 

Bản tính Trần Năng lí lắc, cứng đầu. Đến sư phụ nàng là Khất đại phu, nàng còn dám đùa vui. Huống hồ Lê Đạo Sinh. Nàng nói: 

– Sư thúc, quận chúa bảo sư thúc bắt giặc lập công với triều Hán, chứ đâu có bảo cháu? Trước nay cháu đã vì nhà Hán vào sinh ra tử, đánh Xuyên-khẩu, Bạch-đế và hoàng-thành của Thục, rốt cục cũng thành hư vô. Cháu không muốn lập công nữa. Xin sư thúc ra tay cho. 

Lý Lan Anh bước đến trước mặt Khúc-giang ngũ-hiệp chắp tay nói: 

– Sư phụ, sư thúc. Xin các vị vì hiệp nghĩa đúng ra chủ trì công đạo. Đệ tử muôn vàn đội ơn. 

Nói rồi nàng thụp xuống đất lậy, nước mắt đầm đìa. 

Trần Ngũ Gia phất tay không cho nàng quì. Một luồng kình lực đỡ nàng dậy. Ông nhìn sư huynh: 

– Đại sư huynh, trước khi rời núi, chúng ta đã hẹn trước phải làm việc này để nêu cao nghĩa hiệp. 

Trần Nhất Gia lắc đầu: 

– Không nên! Sư đệ, chúng ta đã hứa tha cho Phan Anh trên đồi Vương-sơn. Thì không thể nuốt lời. Việc làm vô luân phi nghĩa cúa Xích Mi, đưa đến kết quả cả giòng họ bị tru diệt, như vậy đủ rồi. Vả lại, hôm ở trên đồi, vị Phật-gia Tăng Giả Nan Đà chẳng giảng cho chúng ta nghe về nghiệp chướng đó ư? Khi nghịch cảnh đã xảy ra, nên buông xuôi, chẳng nên chối trả. Nếu chúng ta vì Cảnh-Thủy hoàng đế giết tuyệt giòng họ Phan, thì xưa Cao-tổ nhà Hán giết tuyệt giòng họ Kình Bố, Bành Việt, Hàn Tín, ai trả thù cho họ đây? 

Tự nhiên trong góc phòng có tiếng tiêu dìu dặt, thê lương thổi lên, làm mọi người quên đi cảnh chém giết trước mắt họ. Họ cùng hướng nhìn về đó, thấy một thiếu nữ nhỏ tuổi, xinh đẹp, đang cầm ống tiêu đưa lên miệng mà thổi bài Hận Ô-giang, tác phẩm của Tư-mã Tương Như đời Tiền Hán. Nhân ông đi qua Ô-giang, sáng tác, diễn tả mối hận mất nước của Hạng Võ. Đâu đó lại có tiếng xên hòa nhịp theo tiếng tiêu. Mọi người đổ mắt nhìn, thì ra Lê Chân. 

Nguyên Lê Chân, đệ tử phái Sài-sơn, rất giỏi âm nhạc. Nàng thấy Sa Giang thối tiêu, thì rút kiếm ra, lấy mũi tiêu đánh vào lưỡi kiếm, âm thanh vang lên, giống như tiếng xênh đánh nhịp. Tiếng nhạc dìu dặt, trầm bổng cúa hai thiếu nữ có bàn tay tiên, uốn nắn âm thanh, làm cho mọi người đều buồn man mác. Rồi như không tự chủ được. Hàn Tú Anh, công chúa Vĩnh-Hoà cũng lấy đàn ra hòa nhịp. Hàn Tú Anh đánh đàn Tỳ bà, Vĩnh Hòa đánh đàn Cầm. Thế là bốn người như say, như tỉnh, ru hồn mọi người vào giấc mộng. 

Bản nhạc vừa dứt, Sa Giang bước ra hướng vào Mao Đông Các hỏi: 

– Mao lão tiên sinh, tiểu nữ muốn thỉnh giáo tiên-sinh một truyện, không biết có được hay không? 

Đông Các đang ngồi nhắm mắt dưỡng thần, không nói một câu. Những người có mặt tại đó, trừ Khúc-giang ngũ-hiệp, Trần Năng, Trưng Nhị đã được Khất đại phu kể cho nghe, nên biết thân thế y. Còn lại, họ không biết y là ai. Cứ như lời Phan Anh nói, y là thái sư-phụ của hắn. Như vậy Mao là sư phụ Xích Mi. Chỉ nghĩ đến điều nay, cũng đủ làm cho mọi người rùng mình kinh hãi. 

Trước đây Phan Sùng cầm gươm theo Lưu Huyền khởi binh, bản lĩnh nghiêng trời lệch đất. Cao thủ của Vương Mãng đối trận với y, chỉ một hai chiêu mất mạng như chơi. Trong trận đánh cuối cùng, Nghiêm Sơn thống lĩnh quân đội vây y. Dù quân sĩ của y đã bị giết hết. Y vẫn vượt được vòng vây chạy trốn. Nghiêm Sơn xua đạo cung thủ vây. Y vừa đánh vừa chạy. Trên người bị đến hơn trăm mũi tên, mà vẫn không ngã. Cuối cùng, y kiệt lực, rơi kiếm, vẫn cố thoát lên núi. Lúc tướng Hán là Đặng Vũ đuổi tới nơi, thấy thây y vập nát, nằm bên sườn núi, liền cắt đầu đem về nộp cho Nghiêm Sơn. 

Thế mà người ngồi đây là sư phụ của y, thì công lực cao thâm không biết đến đâu mà lường. Cứ vào lời giới thiệu của Phan Anh, hai thiếu nữ Văn Thanh Hoa, Tiêu Hồng Hoa tuy là đồ tôn, nhưng bản lĩnh do chính Mao Đông Các truyền thụ, nên cao hơn vợ chồng Phan Anh một bực. 

Bản lĩnh vợ chồng Phan Anh đâu có tầm thường, lúc chúng bắt Hàn Tú Anh, Hoàng Đức, Đức Hiệp là cao thủ bậc nhất nhì Lĩnh Nam, đối chưởng với chúng hai chưởng đã phải phun máu ra. Rồi Hồng Hoa đối chưởng với Trưng Nhị, chỉ hai chưởng đủ làm Trưng Nhị lạc bại, thì bản lĩnh Hồng Hoa còn cao hơn vợ chồng Phan Anh là thực, chứ không phải chỉ qua lời Phan Anh. 

Khi thấy Sa Giang hỏi Mao Đông Các, thì biết có gì bí ẩn, tất cả im lặng nghe cuộc đối thoại: 

Mao Đông các mở mắt nhìn Sa Giang: 

– Tiểu cô nương, ta coi thân thủ cô nương rõ ràng người phái Thiên-sơn. Tại sao lại đi với những người Lĩnh Nam? Cô nương là ai? 

Nghe Mao Đông Các hỏi, Sa Giang giật mình, vì lão già nầy chỉ nhìn dáng đi của nàng đã biết rõ môn hộ, kiến thức của lão quả thực vô song. Sa Giang cười lễ phép: 

– Kiến thức Mao tiên-sinh thực hơn người. Tiểu nữ họ Vương tên Sa Giang. Không những tiểu nữ thuộc phái Thiên-sơn, mà còn là con gái của một trong Thiên-sơn thất hiệp. 

Mao Đông Các gật đầu: 

– Thì ra cô nương là ái nữ của Thiên-sơn cầm tiên, hèn chi tiếng tiêu không ru người ta vào giấc mộng. Lão phu nghe dường như người đời tặng cho cô nương đại danh Thiên-sơn tiên tử có đúng không? Cô nương còn nhỏ tuổi, đã nổi danh thiên hạ rồi. Cô nương muốn hỏi lão phu điều gì, cứ nói ra. 

Sa Giang cười: 

– Tiểu nữ nghe nói, phái Trường-bạch dạy đệ tử luyện độc chưởng, nhưng chỉ dạy đánh người, mà không dạy cách giải độc cho người. Thuốc giải độc chỉ một mình người chưởng môn biết cách điều chế mà thôi. Không rõ tiên-sinh có biết chế không? Tiểu nữ dám cả gan xin tiên-sinh ba viên cứu một người. 

Mao Đông Các mở to mắt nhìn Sa Giang: 

– Cô nương cần xin thuốc cứu ai? 

Sa Giang chỉ vào Đức Hiệp: 

– Cháu muốn xin thuốc chữa cho vị tiên sinh đây. Ban nãy người đối chưởng với Phan Anh, đã bị Phan Anh đẩy ngũ độc vào người. Hiện giờ chưa sao, nhưng chỉ một giờ sau, sẽ đau đớn đến chết đi sống lại. 

Nghe Sa Giang nói, Đức Hiệp đưa tay lên nhìn, quả thấy bàn tay ẩn hiện màu xanh. Y đưa tay trái lên sờ thấy tê tê. Mặt y tái mét. Trưng Nhị đã đối với Hồng Hoa ba chưởng, bất giác nàng cũng rùng mình, đưa tay lên nhìn, thấy tay vẫn như thường mới yên tâm. 

Mao Đông Các lắc đầu: 

– Lão phu chỉ biết đánh người, mà không biết cứu người. Còn chuyện giữa Phan Anh với Đức Hiệp có liên quan gì tới cô nương đâu? 

Sa Giang chỉ vào Hồng Hoa: 

– Có chứ, sao lại không. Vị tỷ tỷ nầy đẹp như tiên, cháu trông thấy mà lòng còn xao xuyến. Chính tỷ tỷ đây cũng bị trúng Huyền-âm chưởng, sau mấy giờ, cũng đau đớn rồi da bị phồng lên, chảy nước vàng, bảy bảy bốn mươi chin ngày sau sẽ chết. Một giai nhân tuyệt thế mà chết như vậy chẳng đáng thương xót ư? 

Hồng Hoa nghe nói, đưa tay lên nhìn, tay nàng cũng ẩn hiện màu tím nhạt thì thất kinh hồn vía, đứng nhìn tay mình mà ngẩn ra. 

Hồng Hoa chỉ vào mặt Trưng Nhị: 

– Mi tự hào là anh hùng Lĩnh Nam, danh môn chính phái, mà mi cũng luyện Ngũ-độc chưởng? 

Sa Giang vẫy tay, lắc đầu: 

– Hồng sư tỷ lầm rồi. Trưng sư tỷ thuộc phái Tản-viên, võ công đường đường chính chính. Trưng sư tỷ lại là anh hùng đương thời, đâu có dùng thứ võ công độc ác nầy? Chẳng qua, Tiêu sư tỷ tự hại mình mà thôi. 

Tiêu Hồng Hoa ngạc nhiên: 

– Ta hại ta? 

Sa Giang gật đầu: 

– Sư tỷ quên rằng: dùng độc chưởng đánh người, thì chất độc theo chân khí nhập vào cơ thể đối phương. Nhưng khi gặp phải người nội công cao hơn mình, chất độc phóng ra đánh người, bị đẩy trở lại thân thể mình. Phàm người bị Huyền-âm độc chưởng của phái Trường-bạch đánh vào, một giờ sau, đau đớn vô cùng. Cơn đầu hơn giờ, rồi sau đó cách ngày lên cơn một lần. Nếu không được thuốc giải độc, sau 49 ngày kiệt lực mà chết. Còn người bị đẩy ngược chất độc trở về, da sẽ phồng lên, nước vàng ri rỉ chảy ra, đau đớn cùng cực, 49 ngày sau cũng chết. 

Sa Giang chỉ vào Trưng Nhị: 

– Văn sư tỷ đánh Trưng sư tỷ ba chưởng. Hai chưởng đầu, độc chất nhập cơ thể Trưng sư tỷ. Sang đến chiêu thứ ba. Trưng sư tỷ có nội lực mạnh hơn, đẩy chất độc trở lại người Văn sư tỷ. Chứ Trưng sư tỷ làm gì biết độc chưởng mà đánh người. 

Trưng Nhị nhìn Trần Năng tỏ ý cám ơn, vì nếu nàng không được Trần Năng trợ lực thì đã bị trúng độc rồi. 

Lê Đạo Sinh cũng hướng vào Mao Đông Các nói: 

– Mao Tiên Sinh, tại hạ dám xin tiên sinh ban thuốc giả cho xá đồ. 

Mao Đông Các lắc đầu: 

– Lão phu hoàn toàn không có thuốc giải. Tuy nhiên muốn cứu lệnh đồ cũng dễ thôi. Chỉ cần lệnh đồ trung thành với Mã thái-hậu, thuốc giải sẽ có ngay. Còn không thì… Ha… Ha, trừ khi ngươi thắng được ta. 

Lê Đạo Sinh lắc mình một cái, tới bên Mao Đông Các, y phóng chưởng đánh Mao. 

Lê Đạo Sinh là đệ nhất kỳ nhân Lĩnh Nam. Võ công của y hiện thời chỉ thua Khất đại phu với Đào Kỳ một chút. Y lại kinh nghiệm nhiều, biết võ công Mao Đông Các cao, nên y ra chiêu cực kỳ dũng mãnh. Chưởng lực của Lê Đạo Sinh làm căn nhà rung rinh như gặp bão. Sa Giang lui lại đứng sau Trần Năng. Còn Khúc-giang ngũ hiệp đứng trước Hàn Tú Anh và Vĩnh Hòa công chúa hóa giải áp lực. 

Mao Đông Các bật người dậy, tay phát chưởng đỡ. Binh một tiếng, trong phòng, ghế, bàn cùng bật lộn xuống đất. Cả hai cùng lùi lại một bước. Mao Đông Các râu tóc dựng ngược mặt mũi đỏ gay. Còn Lê Đạo Sinh mặt tái mét. 

Mao Đông Các cười nhạt: 

– Không ngờ chưởng lực của Lĩnh Nam hùng hậu đến bậc nầy. Lê tiên sinh, tiếp chưởng của ta. 

Mao Đông Các bước trái ba bước, phóng một chưởng. Chưởng phong cực kỳ dũng mãnh. Lê Đạo Sinh thấy chưởng lực đối phương bao hàm Âm Dương, sát thủ ghê người, mùi tanh nồng nặc, biết rằng một sống, một chết. Y vội vận hết công lực phát chiêu Ngưu hổ tranh phong trong Phục Ngưu thần chưởng, là một chiêu Dương cương bậc nhất của phái Tản-viên. Hai chưởng gặp nhau. Binh một tiếng. Bàn ghế trong đại sảnh bị áp lực của chưởng phong vỡ, văng tứ tán. Mấy Thần-ưng bị chưởng lực hất bay khỏi nhà. Sa Giang, Hồ Đề, Lê Chân những người công lực thấp, tuy đứng sau Trần Năng, Phật Nguyệt, được hai người phát chưởng hóa giải áp lực, mà vẫn tức lồng ngực. Còn Khúc-giang ngũ hiệp đứng trước Hàn Tú Anh và công-chúa Vĩnh Hòa, họ cùng phát chưởng mới hóa giải áp lực, che chở được. 

Vừa đối với nhau hai chưởng, Lê Đạo Sinh thấy mình khó thắng Mao, vội lui lại chắp tay: 

– Đắc tội! Xin Mao tiên sinh ban thuốc giải độc cho tiện đồ, đế khỏi mất hòa khí giữa chúng ta. 

Trưng Nhị nghĩ: Dù sao Đức Hiệp cũng là người của phái Tản-viên. Tuy y nghe theo sư phụ, đi vào đường tà. Tôn chỉ của phái Tản-viên đời đời là dù trong nhà lầm lỗi đến đâu, cũng phải bảo vệ, không để cho người ngoài sát hại. Nàng tiến lên cầm tay Đức Hiệp xem qua, thấy đã biến màu tím xanh. 

Nàng nói với Mao Đông Các: 

– Mao tiên sinh, võ công ngươi tuy cao thực. Song ở đây còn có Lê thái sư thúc của tại hạ, còn có Khúc-giang ngũ hiệp, sư tỷ Phật Nguyệt. Nếu bọn tại hạ cùng ra tay thì Mao tiên sinh nghĩ sao? Liệu ngươi có cứu được hai vị Tiêu, Văn sư tỷ rời khỏi đây không? Lại còn hơn trăm người nhà họ Phan trên đảo nầy đều bị tại hạ bắt giữ nữa. Ngươi mau đưa thuốc giải đi. 

Đức Hiệp đưa mắt nhìn Trưng Nhị, gật đầu. Tỏ ý cám ơn. 

Mao Đông Các vẫn lầm lỳ: 

– Ta không có thuốc giải. 

Trưng Nhị cười: 

– Thế thì được. Tại hạ xin tạm giữ vợ chồng Phan Anh cùng Tiêu, Văn sư tỷ ở đây, đợi lão gia mang thuốc đến cứu sư thúc Đức Hiệp và Tiêu sư tỷ. Nếu lão gia đến trễ, sư thúc Đức-Hiệp có chết, cũng được vợ chồng Phan thái tử cùng chết làm bạn cho vui. Lại thêm Tiêu, Văn nhị vị sư tỷ đẹp thế nầy cùng chết cũng chẳng thú lắm sao? 

Mao Đông Các ngẫm nghĩ một lát rồi móc trong bọc ra cái túi vải. Y mở cái túi vải, vẫy Hồng Hoa, Đức Hiệp nói: 

– Được, các ngươi lại đây. 

Y móc trong túi ra hai viên thuốc, màu hồng. Búng tay một cái hai viên thuốc hướng hai người bay tới rất chậm, nhưng kình lực mạnh vô cùng. Đức Hiệp, Hồng Hoa xòa tay ra bắt, viên thuốc chạm vào tay hai người tan ra thành bụi. Đám bụi hồng nhập vào tay hai người biến mất. 

Mao Đông Các nói: 

– Đây không phải thuốc giải, mà chỉ là thuốc cầm chừng không cho chất độc phát tác. Sau 49 ngày nếu không có thuốc giải, các ngươi mới bị chất độc hành hạ. Vậy trong 49 ngày đó, ta sẽ kiếm thuốc giải về cho các ngươi. 

Bây giờ mọi người mới biết thuốc giải là do Mao Đông Các dùng thủ kình bắn ra, viên thuốc quay với tốc độ cực mạnh, khi gặp bàn tay Đức Hiệp, Hồng Hoa thì vỡ tan và nhập vào trong da. 

Mao Đông Các vừa cất túi thuốc vào bọc. Thì y cảm thấy có điều gì khác lạ, như người đánh trộm dưới chân. Y vội vọt người lên cao tránh, cúi xuống nhìn, thấy bị ba con rắn lục bám vào chân. Y biết thứ rắn này chỉ Lĩnh Nam mới có, nếu chúng cắn phải thì chết lập tức. Còn lơ lửng trên không, y dùng tay búng vào mấy con rắn nhỏ. Nhưng mấy con rắn như có linh tính, đã nhảy vọt khỏi chân, chui vào trong áo Đông Các. Đông Các hoảng kinh buông túi thuốc, hai tay đập vào áo giết rắn. Thì ba con rắn nhảy khỏi người y bò xuống đất, chạy lại phía Hồ Đề, chui vào trong cái túi vải của nàng. Trong khi đó một Thần-ưng từ trên cao kêu đến choác một tiếng, lao tới táp túi thuốc, rồi bay lại đậu trên vai Hồ Đề. 

Nói thì chậm, chứ diễn biến thực mau. Từ lúc Mao Đông Các nhảy lên, búng rắn, đập rắn, buông túi thuốc, Thần-ưng tha túi thuốc, chỉ thoáng một cái. Trong sảnh đường, người nghiêm trang nhất là Hàn Tú Anh, công chúa Vĩnh Hòa và Trưng Nhị, cũng phải bật cười về tài nghịch ngợm của Hồ Đề. Nguyên từ ngày Trưng Nhị gặp Hồ Đề trong trận tranh chức Thống-lĩnh 36 động Nam Mê-linh, hai người như có một cái gì hợp tính nhau. Trưng Nhị mưu trí, bác học, nghiêm trang. Còn Hồ Đề ít học, hào sảng như nam tử, còn tính tình nghịch ngợm không biết đâu mà lường. Trên đường từ Giao-chỉ sang Trung-nguyên, hai người cưỡi cùng một con voi trắng, có ngà chéo nhau, càng thân hơn. Trưng Nhị đang phân vân không biết giải quyết truyện Đức Hiệp ra sao, Hồ Đề đã ra tay. Mọi người đều cười ồ lên, khiến Mao Đông Các bực mình. Y nhìn Hồ Đề quát: 

– Lại cũng mi nữa. Hãy đưa túi thuốc đây, nếu không đừng trách ta. 

Hồ Đề huýt sáo một tiếng, Thần-ưng bay tới táp túi thuốc, bay khỏi sảnh đường, vọt lên nền trời mất hút. Hồ Đề xòe tay nói: 

– Tiên sinh thứ lỗi, con ác điểu chắc đói quá, táp túi thuốc mang đi mất rồi. 

Mao Đông Các nhảy vèo lại phía Hồ Đề chụp nàng. Hồ Đề hoảng kinh, nhảy tới sau Phật Nguyệt núp. Mao Đông Các thấy Phật Nguyệt còn trẻ, có ý khinh thường. Y xuất trảo chụp nàng. Phật Nguyệt rút kiếm chĩa về trước. Mũi kiếm chỉ đúng tim Mao Đông Các. Nếu người y tiếp tục vọt tới, thì kiếm sẽ xuyên qua tim. Kinh hoảng, y uốn cong người đi. Hai tay phát chưởng đẩy vào kiếm của nàng. Phật Nguyệt đẩy Hồ Đề sang bên cạnh. Còn nàng bước xéo về trái hai bước. Kiếm chiêu vẫn đâm vào giữa ngực Mao Đông Các. 

Thanh Hoa đứng ngoài, thấy Thái sư phụ sắp mất mạng, vội rút kiếm đánh vào sau lưng Phật Nguyệt. Phật Nguyệt thu kiếm về. Chỉ thấy ánh thép loé lên, râu tóc Mao Đông Các rơi lả tả. Thanh Hoa kêu thét lên một tiếng, kiếm rơi xuống đất. Y thị lùi lại, tay trái ôm cườm tay phải, máu chảy ròng ròng. 

Mao Đông Các tuy suýt mất mạng. Y vẫn không ngưng. Lợi dụng Phật Nguyệt, Hồ Đề đứng cách nhau xa, tay phải y phóng chưởng đánh Phật Nguyệt. Tay trái chụp Hồ Đề. 

Có tiếng quát: 

– Ngừng tay. 

Nguyên khi thấy Hồ Đề trêu Mao Đông Các, Khúc-giang ngũ hiệp đã chuẩn bị trước. Nên thấy nàng bị Mao Đông Các tấn công thì Tứ và Ngũ Gia đồng xuất thủ. Mao Đông Các còn lơ lửng trên không, đã phát hai chưởng đỡ chưởng của Tứ Gia, Ngũ Gia. Binh một tiếng, người y bật lui trở lại. Trong khi Tứ Gia, Ngũ Gia cũng thấy chân tay muốn tê liệt, khí huyết đảo lộn. 

Mao Đông Các cười nhạt: 

– Khúc-giang ngũ hiệp vang danh thiên hạ, mà hai người đánh một sao? 

Tứ Gia cười: 

– Bọn anh em tại hạ chỉ vô tình xuất thủ cứu người, chứ không phải xuất thủ đánh tiên sinh. Mong tiên sinh thứ lỗi cho. 

Vừa rồi, y xuýt mất mạng về kiếm pháp Long-biên của Phật Nguyệt. Qua một chưởng, Mao Đông Các thấy Tứ Gia, Ngũ Gia công lực không kém y là bao. Thế thì Nhất, Nhị Gia có lẽ công lực còn cao hơn y. Y thở dài nói với Hồng Hoa, Thanh Hoa, vợ chồng Phan Anh: 

– Ta đi đây. Ta sẽ trở lại cứu các ngươi sau. 

Thấp thoáng một cái, y đã biến khỏi sảnh đường. Hồ Đề gọi Thần-ưng lấy túi thuốc đưa Trần Năng nói: 

– Sư tỷ, không biết bên trong có những gì? 

Trần Năng mở túi thuốc ra thấy bên trong có 5 túi nhỏ, mỗi túi đựng một thứ thuốc màu sắc khác nhau: Vàng, trắng, đen, xanh, và đỏ. Trần Năng tuy là đệ tử của Khất đại-phu, nhưng nàng không phân biệt được đó là những thứ thuốc gì. Nàng cầm lấy bỏ vào bọc nói: 

– Trong năm thứ nầy, thứ màu đỏ có thể cầm cự được Huyền-âm độc chưởng. Ta cứ tạm giữ lấy để cứu Đức Hiệp sư đệ. Đợi gặp sư phụ, sẽ hỏi về bốn thứ thuốc kia. 

Trưng Nhị thấy trời đã khuya, nàng nói với Hàn Tú Anh: 

– Xin bá mẫu cùng công-chúa ở lại trên đảo. Thái sư thúc của cháu võ công vô địch thiên hạ. Người cùng các sư thúc hộ giá bá-mẫu thì không còn sợ gì nữa. Cháu đã truyền lệnh cho một hải đội đem 40 chiến thuyền đóng xung quanh bảo vệ đảo. Trên trời lúc nào cũng có Thần-ưng bay lượn canh phòng. Dù cho con chuột, con mèo muốn đột nhập đảo cũng không được. 

Nghe Trưng Nhị nói với Hàn Tú Anh. Lê Đạo Sinh chửi thầm trong bụng: 

– Con nhỏ nầy đúng là đồ mất dạy. Bề ngoài nó làm như tử tế với ta. Sự thực nó cho Thủy-quân, Thần-ưng cầm tù ta. Thôi! Ta đã đến nước nầy, đành nín nhịn cho qua. 

Trưng Nhị truyền lệnh đem vợ chồng Phan Anh, Hồng Hoa, Thanh Hoa, cùng đám tôi tớ trên đảo lên thuyền. Trần Năng truyền trói tất cả lại, giam dưới khoang. Lúc trói đến Á Nương, nàng chú ý thấy y thị nháy mắt ra hiệu. Trần Năng truyền giải tù nhân xuống dưới khoang. Hỏi Á Nương: 

– Không biết bà có điều chi bà muốn nói với tôi? 

Á Nương trả lời bằng tiếng Việt: 

– Cô nương! Tôi muốn lĩnh giáo mấy chiêu võ công cao siêu của cô nương. 

Dứt lời, bà vung chưởng đánh liền. Chưởng phong hùng hậu không thể tưởng tượng được. Trưng Nhị, Trần Năng cùng bật lên tiếng kinh hoàng. Vì chiêu đó là chiêu Song ngưu qui gia. Một chiêu khó xử dụng nhất trong 36 chiêu Phục Ngưu Thần Chưởng. 

Á Nương vừa nói, đã xuất chiêu. Trần Năng chỉ biết vọt người lên cao tránh thế chưởng hiểm ác. Á Nương chuyển chưởng từ dưới lên cao thành chiêu Lưỡng ngưu tranh phong. Trần Năng hoảng hốt chụm hai tay lại đánh vào chưởng của nàng... Bốn chưởng gặp nhau, cùng một thứ nội công Dương-cương. Cùng là Phục Ngưu thần chưởng. Thế mạnh như thác đổ. Ầm một tiếng. Trần Năng bay vọt lên cao. Nàng đá gió một cái, thân hình bay vọt về cuối thuyền. Á Nương di chuyển theo, cung tay xuất chiêu Tứ Ngưu phân thi. Đây là chiêu đánh thẳng vào giữa rồi hai tay tỏa ra hai phía. Trần Năng vẫn còn ở trên không, hoảng hốt, vận Thiền-công, đánh vào giữa chưởng của Á Nương. Á Nương thu chưởng về, nhảy lùi lại bốn bước. Bà cười gằn: 

– Cô nương! Tôi muốn lĩnh giáo võ công cao siêu của cô nương. Tức võ công Tản-viên. Chứ không muốn đấu với Thiền-công. 

Trần Năng, Trưng Nhị thấy Á Nương nói tiếng địa phương Giao-chỉ, chữ lĩnh giáo nàng nói thành nĩnh ráo. Chữ cao siêu nàng nói thành cao thiêu. Từ nội công, đến chiêu số, đều thuộc võ công Tản-viên. Công lực mạnh không thể tưởng được. Có lẽ cao hơn Phong-châu song quái, Đức Hiệp nhiều. Chỉ kém Khất đại-phu, Đào Kỳ một chút mà thôi. 

Trong đầu óc Trưng Nhị, nảy ra không biết bao nhiêu nghi vấn: Với công lực, chiêu thứ thế này, thì Á Nương không phải là người học lóm. Có lẽ bà là đệ tử bản môn. Bà là ai, mà sao mình không biết? Nàng liền lễ phép nói: 

– Tiểu bối xin bà cho biết phương danh? 

Á Nương không trả lời, vung chưởng đánh nữa. Chưởng không có gió, cũng không có lực. Chiêu thức rất tầm thường. Trưng Nhị, Trần Năng cùng bật lên tiếng kêu: 

– Ái chà! 

– Ối trời! 

Nguyên trong phái Tản-viên, có một bài quyền rất thô kệch, trái với nguyên tắc võ học, gồm 36 chiêu, do tổ sư đời thứ 20 đặt ra. Mục đích để đệ tử môn phái gặp nhau, biết rõ vai vế của nhau: 

Á Nương đánh đến nửa chừng, ngưng lại hỏi: 

– Các ngươi đã hiểu chưa? 

Trưng Nhị biết đây là cao nhân bản phái. Võ công cao hơn cả Nguyễn Thành Công, Đặng Thi Kế nhiều. Nàng nghĩ nát óc, mà không tìm ra bà là ai. 

Trưng Nhị lễ phép hơn: 

– Xin tiền bối dạy cho ít câu. 

Á Nương cười nhạt, hít một hơi, vung chưởng hướng cột buồm. Cột buồm lớn như vậy, gãy đến ầm một cái. Bà cười: 

– Các ngươi không nhận được ta ư? Thôi, các ngươi cứ giam ta lại như tù nhân. Ta không thèm nhìn mặt các ngươi nữa. 

Trần Năng nói: 

– Tiền bối không dạy cho mấy câu, làm sao tiểu-bối hiểu được. 

Á Nương cười nhạt mấy tiếng, thủng thỉnh xuống khoang thuyền giam tù nhân. Bà nhắm mắt dưỡng thần. 

Trần Năng hỏi Trưng Nhị: 

– Trưng Nhị! Tôi mới nhập môn sau. Không biết nhiều về nhân vật bản phái. Bà nầy là ai? Công lực mạnh đến như vậy? 

Trưng Nhị đáp: 

Trưng Nhị đáp: 

– Có lẽ Á Nương vai vế ngang với sư thúc. Giả sử có Trưng Trắc hay Đặng Thi Sách ở đây, thì họ biết được. Ít ra Á Nương cũng là đệ tử của thái sư phụ, hoặc của thái sư thúc Lê Đạo Sinh. Hành tung của bà thực kỳ bí. Bà là người Giao-chỉ, sang đây từ hồi nào, mà làm tỳ nữ cho Xích Mi? Thực khó hiểu. Tại sao bà ẩn thân ở trong nhà tù Trường-sa? 

Khúc-giang ngũ hiệp quan sát hành tung của Á Nương từ đầu đến cuối. Họ có năm người, nghe rộng, biết nhiều, mà cũng lắc đầu, không hiểu Á Nương là ai. 

Trần Tứ Gia nói: 

– Tôi Nghi Á Nương chỉ muốn báo cho hai vị biết: Bà là người nhà. Bà đang làm việc gì bí ẩn, có lợi cho Lĩnh Nam, vì hoàn cảnh, không tiện nói ra. Vậy các vị cứ giả giam bà như những người khác là hơn hết. 

Trần Năng gật đầu: 

Trần Nhất Gia hỏi: 

– Trưng Nhị! Tại sao cháu biết sào huyệt của Phan Anh trên đảo mà bố trí cuộc bao vây? 

Trưng Nhị cười: 

– Khi vợ chồng Phan Anh đánh nhau với Trần sư thúc bị thua, y giả tự tử, y là người xảo quyệt. Vì y biết đánh không lại Trần sư-thúc. Hàn thái-hậu được cứu thoát, thì vợ chồng y khó toàn tính mạng, y phịa ra chuyện bắt Hàn thái-hậu để cứu mẹ. Y đem chữ hiếu ra làm động lòng Ngũ-hiệp và Tượng-quận tam anh quả nhiên các vị mắc mưu mà tha cho y. 

Trần Tứ Gia gật đầu: 

– Tôi nghĩ ra rồi, khi vợ chồng y vung kiếm lên tự tử, cùi chỏ hơi rung động, đó là chúng giả tự tử, rồi chờ kiếm sát tới cổ thì ngưng lại. Không ngờ vị Phật-gia ra tay cứu, để cho y hoàn thành việc lừa chúng ta. 

Trưng Nhị chỉ Sa Giang nói: 

– Không phải mình tiểu-nữ khám phá ra âm mưu của vợ chồng Phan Anh, mà tiểu sư muội đây cũng khám phá ra. Này nhé Phan Anh nói rằng bắt Hàn thái hậu để được tước vạn-hộ hầu với một trăm ngàn lượng vàng, rồi sau khi bị đánh bại y lại nói rằng để cứu mẹ bị tù tại Trường-sa. Mà theo Tượng-quận tam anh thì không còn một tù nhân nào của đám phản loạn Xích Mi cả. Cuối cùng vợ chồng y xin cho Á Nương ra khỏi nhà ngục. Á Nương tuổi chưa tới bốn mươi, Phan Anh tuổi trên ba mươi làm sao có thể là mẹ con được, nên y giả nhận là tỳ nữ của mẹ để lãnh ra. Tượng quận tam anh đã biết Á Nương giả câm để mưu đồ một chuyện gì trong thành Trường-sa, nhưng chưa tìm ra. Vì một lời hứa, các ông để Á Nương ra đi. Kỳ thực Á Nương là Tiểu Lan. Lúc bọn Phan Anh rời Trường-sa, tiểu nữ cho Thần-ưng theo dõi. Chính Thần-ưng đã dẫn bọn tiểu nữ tới đây. 

Trần Nhất Gia cảm động nói: 

– Người ta đồn Trưng Trắc, Trưng Nhị là loại rồng loại phượng quả không sai. Lưu manh đến như Phan Anh mà cũng không qua mặt được. Bọn Lê Đạo Sinh đang hùng hổ, làm tôi tớ Mã thái-hậu, chỉ một cuộc xếp đặt, chúng trở về với Hàn thái-hậu. Nhưng lão phu có đôi lời muốn bàn, Trưng Nhị phải làm sao để họ trở về Lĩnh Nam, mới vẹn toàn. 

Sáng hôm sau, mọi người trở về thành Trường-sa. Trưng Nhị hợp các anh hùng Lĩnh Nam bàn việc. Nhóm Lê Đạo Sinh không được mời tham dự, bị coi như thần tử nhà Hán. 

Mọi người đề cử Trần Nhất Gia chủ tọa, vì ông lớn tuổi, nổi tiếng đạo đức nhất. Ông khẳng khái không từ chối, bước lên bàn chủ tọa ngồi. Lê Chân là người đọc sách, từ trước đến giờ nàng giữ cuốn sổ nhật ký ghi chép mọi biến chuyển từ khi rời Lĩnh Nam đến giờ. Nàng đứng lên trình bày chi tiết mọi biến chuyển, cho tới đêm đại chiến trên hồ Động-đình. Bấy giờ Khúc-giang ngũ-hiệp, Tượng-quận tam anh mới biết trong khi họ lưu lạc giang hồ, đám anh hùng Giao-chỉ, Cửu-chân, Nhật-nam đã làm những chuyện kinh thiên động địa.

Lại Thế Cường đứng lên bàn: 

– Kế hoạch chúng ta như sau: Một là chuẩn bị nổi dậy ở Giao-chỉ, Cửu-chân, Nhật-nam. Việc này do Đặng Thi Sách, Trưng Trắc, Nguyễn Tam Trinh, Nguyễn Trát, Đào Thế Kiệt, Đào Thế Hùng, cùng các môn phái, đảm trách, tạm coi như xong. Vì ba quận này vẫn còn chế độ Lạc-hầu, Lạc-tướng. Các Lạc-hầu, Lạc-tướng đều một lòng phục quốc. Chúng ta chỉ phất cờ là xong. Hai là chiếm lại ba quận Nam-hải, Tượng-quận, Quế-lâm. Việc này cũng không hẳn khó, vì tuy không còn chế độ Lạc-hầu, Lạc-tướng. Nhưng các thái-thú, đô-sát, đô-úy đều là người Việt. Mới đây Quang-Vũ hạ chiếu chỉ cách chức Nghiêm Sơn. Cử Lê Đạo Sinh làm thứ-sử Quảng-châu. Phong cho các đệ tử y làm thái-thú, đô-úy ba quận Nam-hải, Quế-lâm, Tượng-quận. Lê chưa lên đường nhậm chức, thì các thái-thú đã được chúng tôi thông báo, nên tách rời khỏi chế độ triều Hán. Họ giữ vững cương thổ. Các đạo quân tòng chinh Trung-nguyên trở về, đóng rải rác khắp ba quận, đề phòng quân Quang-Vũ đánh xuống phía Nam. 

Lê Chân tiếp: 

– Đạo Kinh-châu tuy chúng ta thành công, nhưng khi khởi hành từ Dương-bình quan chỉ có Trưng Nhị, Trần Năng, Hồ Đề, Phật Nguyệt, sư bá và cháu, tức có sáu người. Nay thêm Khúc-giang Ngũ hiệp với Tượng-quận tam anh là 14 người. Bây giờ chúng ta làm gì? Kéo quân trở về Lĩnh Nam hay đánh ngược lên Nam-dương? 

Hàn Bạch góp ý kiến: 

– Lão phu có ý kiến như thế này. Ở đây chúng ta cứ để Trưng cô nương điều động như cũ, không biết ý kiến các vị thế nào? 

Khi Hàn Bạch đưa ra câu này chủ ý hỏi Khúc-giang ngũ hiệp. Bởi có ba nhóm. Nhóm từ Lĩnh Nam qua thì Trưng Nhị vẫn điều khiển rồi. Thêm ý kiến Hàn Bạch nữa, là nhóm Tượng quận đã đồng ý. Chỉ chờ nhóm Khúc-giang mà thôi. 

Trần Nhất Gia là người anh hùng hào sảng. Ông nắm được sự việc, nói với Trưng Nhị: 

– Trưng Nhị, cháu tuy nhỏ vai, nhỏ tuổi, nhưng từ mưu trí, đến điều binh khiển tướng bọn ta không bằng cháu được. Vậy nhất thiết, chúng ta sẵn sàng tuân lệnh cháu. 

Trưng Nhị có hùng tâm, đại lược. Nàng khẳng khái nói: 

– Sư thúc dạy thế, cháu xin tuân lệnh. 

Nàng hướng vào mọi người nói: 

– Tượng-quận anh hùng nghĩa sĩ rất nhiều. Nhưng chưa có ai hợp nhất họ lại được. Ở đây sư bá Hàn Bạch là người đã cầm quân quen, hiểu cách tổ chức của người Hán, xin Hàn sư bá, Vương sư bá trở về Tượng-quận, kết hợp anh hùng nghĩa sĩ rồi ngày 15 tháng 3 chúng ta đại hội ở núi Tam-sơn, hồ Động-đình, để cùng bàn chuyện khởi nghĩa. Riêng sư bá Chu Thanh, trấn thủ Trường-sa, Linh-lăng, điều luyện sĩ tốt, chờ khi khởi sự thì tiến về Quế-lâm, Nam-hải. 

Chu Thanh hỏi: 

– Liệu Công-tôn Thuật có cho tôi trấn giữ hai quận nầy không? 

Trưng Nhị cười: 

– Chúng ta chiếm Kinh-châu từ tay Hán cho Thục do mưu kế, chứ không phải do đánh chiếm, lòng người còn chưa phục. Cho nên Công-tôn Thiệu sợ Hán đánh từ phía Nam lên. Nay tôi giữ lại hai thành này, do sư bá trấn giữ, Công-tôn Thiệu cầu mà không được. 

Trần Nhất Gia nghe Trưng Nhị bàn chuyện. Ông gật đầu liên tiếp tỏ vẻ khâm phục. Trước đây ông chỉ nghe tiếng Trưng Nhị, từ hôm gặp nhau ở Vương-sơn đến giờ. Ông thấy tất cả năm anh em của ông võ công tuy cao, nhưng việc điều binh khiển tướng, việc ước tính chuyện thiên hạ còn thua cả Sa Giang, Hồ Đề chứ đừng nói gì so với Trưng Nhị. 

Trưng Nhị hướng vào Khúc Giang Ngũ hiệp: 

– Còn Ngũ sư bá xin về Nam-hải, kết hợp anh hùng hào kiệt, chuẩn bị sẵn. Đợi sau đại hội Động-đình hồ, chúng ta tiến quân về, sẽ có nội ứng ở trong. Chỉ một trận lấy được Nam-hải. Sư bá nhớ ngày hội là 15 tháng 3 trên núi Tam-sơn. 

Nàng nói với mọi người: 

– Còn lại đội Thần-hổ, Thần-báo, chúng ta giao cho sư bá Chu Thanh, trấn thủ Linh-lăng, Trường-sa. 

Nàng hướng vào Trần Năng: 

– Sư thúc cùng với Sa Giang lên đường đi Trường-an, thông báo mọi sự cho sư tỷ Hoàng Thiều Hoa. Ước hẹn đại hội hồ Động-đình ngày 15 tháng ba. Sư thúc nhớ hỏi thái sư thúc về thuốc trị Huyền-âm độc chưởng. 

Nàng nói với Lê Chân: 

– Sư muội Lê Chân, Hồ Đề cùng tôi theo sư bá Lại Thế Cường đánh Nam-dương làm cho Quang-Vũ thất kinh hồn vía. Có vậy, y mới bỏ Trường-an chạy. Hoàng sư tỷ thừa thế chiếm Quan-Trung. 

Nàng nói với Phật Nguyệt: 

– Sư tỷ đi theo Hàn Tú Anh về Lạc-dương. Tôi cử Lê thái sư thúc cùng ba đệ tử của người theo hộ tống. Xin sư tỷ nhớ một điều: chú ý hành tung của Lê thái sư thúc, nếu người có gì thì ra tay ngay. Vì chỉ có sư tỷ mới khống chế được thái sư thúc mà thôi. Đức Hiệp hiện bị trúng Huyền-âm độc chưởng. Thuốc giải trong tay chúng tôi, sư tỷ có thể dùng áp lực bắt y tuân theo lệnh mình được. Vợ chồng Phan Anh, Hồng Hoa, Thanh Hoa tôi giao cho sư bá giữ ở Trường-sa làm con tin. 

Phân định xong, nàng gặp Công-tôn Thiệu. Công-tôn Thiệu đã được thông báo việc chiếm Linh-lăng, Trường-sa trọn vẹn, các huyện đều đầu hàng. Chu Thanh đã cử huyện-lệnh, huyện-úy mới. 

Các tướng sĩ tề tựu đủ. Công-tôn Thiệu đưa mắt cho Lữ Vi, Sa Giang và các tướng, đồng loạt đứng dậy hướng vào anh hùng Lĩnh Nam chắp tay: 

– Toàn thế phái Thiên-sơn và sĩ dân Thục kính cẩn tri ơn anh hùng Lĩnh Nam giúp đỡ chúng tôi đã chiếm lại Thục, lại được thêm Kinh-châu. 

Trần Nhất Gia là người lớn tuổi nhất trong đám, đứng lên nói: 

– Bước đầu chúng tôi giúp các vị, sau này chúng tôi cử sự, cũng nhờ các vị giúp đỡ. 

Công-tôn Thiệu chắp tay nói: 

– Khi Lĩnh Nam khởi sự, toàn thế phái Thiên-sơn, xin đem hết tâm trí, tài năng đền ơn đền đáp nghĩa cử. 

Ông nói với các tướng: 

– Khi rời đất Thục ra đây, hoàng-thượng cho phép ta được toàn quyền thăng chức, tước cho các tướng tới tước hầu. Vì vậy, hôm nay xin đại diện hoàng-thượng, thăng chức tước cho các huynh đệ. 

Sau đó ông thăng cho bảy ngườì tước hầu, làm thái-thú bảy quận. 

Ông hướng vào Vũ Chu: 

– Vũ sư đệ. Ngươi với ta là chỗ sư huynh đệ trong môn phái. Ngươi lại trẻ, võ công cao cường, ta phong ngươi là Trấn-đông tướng quân, tước Động-đình hầu, lĩnh Thứ-sử Kinh-châu. Nhưng ta đặt ngươi dưới quyền điều động của sư huynh Chu Thanh, chuẩn bị sĩ tốt, khởi nghĩa ở Lĩnh Nam, vậy ngươi phải cư xử cho khéo. 

Ông quay lại nói với đô-đốc Phạm Sử: 

– Phạm sư đệ, ta phong ngươi làm thái-thú Giang-lăng. Lĩnh chức đô-đốc tước Quế-dương hầu. Ngươi được đặt dưới quyền sư huynh Chu Thanh, để thao luyện binh mã, chuẩn bị khởi nghĩa ở Lĩnh Nam. Nhất thiết mọi việc phải theo Chu sư huynh. 

Ông truyền thăng tất cả các tướng sĩ lên một bậc. Mở rộng cửa nhà tù, đại xá thiên hạ. Phàm những ai có tội đều xóa bỏ hết. Ai có ruộng đất tài sản bị triều Hán tịch thu được trả lại. 

Ngày hôm sau đại quân tiến lên đánh Nam-dương. Trưng Nhị viết bài hịch, kể tội Quang-Vũ, phổ biến trong dân chúng, nói rõ Thục tiến quân về chiếm Lạc-dương, diệt Quang-Vũ. 

Đại quân lên đường, Trưng Nhị cùng Hồ Đề cắt cử Thủy-quân đóng giữ hòn đảo của Phan Anh. 

Giữa lúc hai người chuẩn bị lên đường, Thần-ưng bay về báo cho biết Mao Đông Các đang dùng thuyền, vòng xuống phía Tây, trở lại Trường-sa. Trưng Nhị bàn với Lê Chân: 

– Mao Đông Các trở lại Trường-sa, chắc định cứu bọn đồ tôn khỏi nhà tù. Như vậy rõ ràng y có thuốc giải độc trong tay, chứ không phải đi tìm đâu xa nữa. Chúng ta phải tìm hiểu bằng nầy vấn đề: Một là Tiểu Lan tức Á Nương ẩn ở thành Trường-sa làm gì? Tại sao Phan Anh không vào thành cứu y thị ra, mà phải nhờ Hàn Bạch thả ra? Mao Đông Các, Phan Anh theo Mã thái-hậu với mục đích gì? Chắc chắn không phải vì công danh. Vì dù sao Mã thái-hậu cũng không thể phong chức tước cho nhóm đồng môn của Xích Mi được. 

Trưng Nhị, Lê Chân, Hồ Đề trở lại thành Trường-sa. Chu Thanh, Vũ Chu nghe tin vội vàng ra đón. Trưng Nhị vào thành, thuật vấn đề cho hai người nghe. 

Vũ Chu nói: 

– Vậy chúng ta có thể theo dõi xem âm mưu trường kỳ mai phục của nhóm Trường-bạch trong triều đình nhà Hán với mục đích gì? 

Trưng Nhị ghé tai Vũ Chu dặn dò mấy câu, rồi nàng cùng với Hồ Đề chờ trời tối, ẩn thân trên một ngọn cây quan sát. Đến canh hai, Thần-ưng tuần tiểu đâm bổ xuống khi nhà lao, thì biết rằng Mao Đông Các đã đột nhập khi nhà tù. Vũ Chu chuẩn bị một lối đi đặc biệt cho Trưng Nhị với Hồ Đề vào nhà lao. Ẩn thân nghe ngóng tình hình. 

Hai người vào nhà tù ẩn mấy khắc, đã thấy một bóng người, thân pháp nhanh không thể tưởng tượng được vượt tường vào trong. Trưng Nhị nhận ra Mao. Dường như y đã vào đây nhiều lần. Nên các khúc quẹo, ngã rẽ y không dừng lại. Y nghe ngóng một lúc rồi huýt sáo. Có tiếng huýt sáo đáp lại từ phòng giam của Phan Anh. Lập tức y vọt tới cửa, hỏi: 

– Anh nhi! Ngươi đấy hả? Hồng Nhi, Thanh Nhi, Gia Nhi đâu? 

– Mấy hôm trước thì giam riêng. Không hiểu sao họ giam chung. Họ đối xử tử tế lắm. Cho ăn uống đầy đủ, lại cho giường chiếu nằm, cùng nước tắm nữa. Có điều chân tay bị xích bằng xích sắt. 

Mao Đông Các tiến lại trước cửa phòng. Y khẽ vung tay một cái, cánh cửa nhà tù bật ra. Y lọt vào trong. Y cầm xích sắt lên xem rồi nói: 

– Xích thép thế nay không cắt đứt được rồi. Ta để đây cho ngươi hai thanh trủy thủ, mỗi ngày ngươi vận sức cắt dần, chỉ cần cố gắng hai ngày là xích sắt đứt. 

Mao Đông Các móc trong bọc ra bốn viên thuốc, bỏ vào miệng Hồng Hoa nói: 

– Hồng Nhi, con nuốt vào đi. 

Hồng Hoa nuốt cả bốn viên. Mao Đông Các cười: 

– Bọn lĩnh Nam ngu như lợn. Năm viên thuốc năm màu, để khử năm thứ độc. Con nên nhớ rằng ngũ độc là nọc rắn, rết, nhện, tằm, bò cạp. Nọc rắn nhập tâm. Tâm thuộc hỏa, thuốc màu đỏ. Vì vậy thuốc giải màu đỏ. Nọc rết nhập phế. Phế thuộc Kim, thuốc màu trắng. Vì vậy thuốc giải màu trắng. Nọc bò cạp nhập can. Can thuộc mộc, thuốc màu xanh. Thuốc giải màu xanh. Nọc nhện nhập tỳ. Tỳ thuộc thổ, thuộc màu vàng. Thuốc giải màu vàng. Nọc tầm nhập thạân. Thận thuộc thủy thuốc màu đen. Thuốc giải màu đen: 

Ngưng một lúc Mao tiếp: 

– Đợi các người rời khỏi đây. Ta bảo cho tên Đức Hiệp biết. Nếu y chịu qui phục ta. Ta sẽ trao thuốc giải cho nó. 

Trần Nghi Gia nói: 

– Mã thái-hậu dùng chúng ta để kiềm chế anh hùng thiên hạ, thực đúng. Người nào trúng độc chưởng rồi, chỉ có cách cúi đầu tuân theo mệnh lệnh chúng ta. Cứ 360 ngày lại được uống một viên thuốc chống độc. Quần thần nhà Hán phải cúi đầu tuân lệnh Mã thái-hậu. 

Phan Anh nói: 

– Còn thái-hậu lại phải tuân lệnh chúng ta. Chẳng mấy chốc nữa, chúng ta lấy lại đại nghiệp của phụ hoàng cháu. 

Mao Đông Các hỏi Tiểu Lan tức Á Nương: 

– Còn chuyện đó thế nào, ngươi nói đi. 

Tiểu Lan lắc đầu: 

– Lão gia, xin lão gia cứu cháu ra khỏi đây. Cháu mới nói. 

Mao Đông Các cười nhạt: 

– Mi không tin ta ư? 

Tiểu Lan lắc đầu: 

– Không phải vậy. Nói ra ở đây, sợ lộ chuyện. Tường có mạch, vách có tai. Chỗ chôn cất kho tàng đó lão gia đã biết rõ rồi. Còn làm cách nào đào lên nô tỳ giữ trong tay. Từ khi Phan vương-gia qua đời. Nô tỳ chịu không biết bao nhiêu cay đắng, ẩn ở Trường-sa. Nay đã tìm được manh mối mọi sự. Xin nói để lão gia biết, cả Ngọc-tỷ truyền quốc cũng nằm trong tay cháu. 

Phan Anh hỏi: 

– Dì Thiếu Lan, có thực thế không? 

Á Nương nói: 

– Sao không thực. Hồi Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, bà thái-hậu cầm ngọc tỷ đập y, bị mẻ mất một góc. Vương Mãng đã dùng vàng bịt góc đó lại. Chi tiết nay chỉ mình tiểu tỳ biết mà thôi. 

Mao Đông Các cật vấn một lúc Á Nương cũng nhất định không nói. Y giơ tay vỗ khẽ vào vai Á Nương. Nàng kêu lên một tiếng Ái chà đầy vẻ đau đớn. 

Mao Đông Các cười khẩy: 

– Nếu ngươi không chịu nói. Ta nhả chướng lực. Ngươi bị trúng ngũ độc. Xem ngươi có chịu nói ra không? Ngươi mau khai đi, ta sẽ cho thuốc giải. 

Á Nương nghiến răng. Tỏ ý cương quyết: 

– Tiểu tỳ hầu cạnh Vương gia bao năm, được Vương gia tín nhiệm, cho biết mọi sự. Vì vậy không phải bất cứ ai tiểu tỳ cũng nói. Lão tiên sinh muốn giết thì cứ giết đi. Tiểu tỳ không sợ đâu, dù đau chết cũng không nói ra. 

Phan Anh hỏi: 

– Ta là con trưởng của người. Không lẽ A Di cũng không cho ta biết sao? 

Á Nương lắc đầu: 

– Thái tử là người thừa kế của vương-gia. Đương nhiên tiểu tỳ phải nói. Có điều thái-tử lại đi cúi đầu thần phục Quang-Vũ, kẻ thù cúa vương-gia, thì làm sao… làm sao tiểu tỳ nói được? 

Hồi 29 Ngọc tỷ truyền quốc

Phan Anh thở dài: 

– A Di không hiểu ta cũng phải. Bấy lâu nay ra dấu A Di. Bây giờ nói ra cũng không muộn. Ta nói cho A Di biết một điều tối mật: Phụ hoàng ta vẫn còn sống. 

Tiểu Lan kinh ngạc: 

– Thực sao? 

Phan Anh quả quyết: 

– Sau trận đánh Trường-sa, ai cũng tưởng phụ hoàng băng hà. Sự thực người vẫn còn sống trên thế gian này. 

Tiểu Lan ngạc nhiên: 

– Hoàng thượng vẫn còn tại thế à? Tiểu tỳ không tin. Không thể như thế được. Hiện hoàng thượng ở đâu. 

Phan Anh đáp: 

– Trận đánh Trường-sa, phụ vương ta võ công cao gấp bội Nghiêm Sơn. Nhưng Nghiêm dùng binh giỏi hơn. Người bị bại. Người lên núi, cho một tên quân mặc quần áo của người. Người đánh y chết. Thân thể nát bấy. Vì vậy Đặng Vũ đuổi tới, nghĩ rằng phụ vương ta đã qua đời. Kỳ thực người vẫn ở ẩn trong Hoàng cung Lạc-dương. 

Tiểu Lan ngơ ngác: 

– Sao lại ẩn ở Lạc-dương? 

Phan Anh đáp: 

– Người thử nghĩ coi, phụ vương ta ở ẩn để tránh con mắt truy lùng của Quang-Vũ, ngay tại Hoàng cung ai còn nghi ngờ? 

Phan Anh ngừng một lát tiếp: 

– Hành tung của phụ vương ta, không ai biết được. Ta là con, mà gặp cũng rất khó khăn, nữa là người khác. Phụ vương ta khống chế Mã thái hậu. Dùng Mã thái-hậu áp đảo Tam-công, triều đình. Người cử Trần Lữ đầu quân theo Đặng Vũ. Dùng độc chưởng khống chế y. Người cử Tạ Thanh Minh đầu quân với Tần-vương Lưu Nghi ở Trường-an, dọ biết tình hình. Một ngày kia, chúng ta áp chế được quần thần nhà Hán. Nếu A Di nói cho ta biết việc đó, thì đại sự lo gì không xong? 

Tiểu Lan lắc đầu: 

– Đợi diện kiến hoàng-thượng, tiểu tỳ mới nói. Tiểu tỳ nhất quyết không đổi ý. Tiểu tỳ cũng không tin Mao lão gia. Tiểu tỳ chỉ nói với thái-tử mà thôi. Thái tử ơi! Khi nào thoát khỏi đây. Tiểu tỳ sẽ nói với thái-tử. 

Mao Đông Các cười: 

– Có vậy mà ngươi cũng hẹp hòi. Ta là thái sư phụ của thái-tử, mà ngươi cũng không tin sao? Thôi được ta đi ra, để ngươi nói với thái-tử. 

Mao Đông Các móc trong bọc ra năm viên thuốc đưa cho Phan Anh: 

– Đây là thuốc giải, nếu thị nói rồi thái-tử cho thị uống. 

Nói rồi y đi ra. 

Tiểu Lan nói vào tai Phan Anh: 

– Hoàng-thượng bị Mao lão giết chết từ năm năm rồi. Việc đó tiểu tỳ biết hết. Thái tử chỉ biết hoàng-thượng băng hà, mà không biết nguyên do tại sao phải không? 

Phan Anh lắc đầu: 

– Ta không tin. 

Tiểu Lan nói với Phan Anh: 

– Thái tử! Ngươi đã biết cách đây hơn ngàn năm, Chu Võ Vương phạt Trụ, thu được kho tàng đầy vàng bạc châu báu, cất dấu ở trong cung. Nhà Chu trải tám trăm năm, các chư hầu tiến cống không biết bao nhiêu mà kể. Vàng ngọc truyền đến cuối đời Chu gom góp lại thành kho tàng lớn. Kho tàng ngọc truyền đến cuối đời Chu gom góp lại thành bảy nước, lại thu thêm được châu báu. Tần bại, Hạng Vũ vào Hàm-dương trước, lấy được. Sở bị diệt. Kho tàng thuộc Lưu Bang. Lưu Bang đem chôn ở một nơi thực bí mật. Rồi suốt đời Hán, của cải súc tích được bao nhiêu, lại cũng đem chôn cùng vào một chỗ với kho tàng, mà không sao biết chỗ. Khi hoàng-thượng đánh Vương Mãng, nô tỳ theo hầu. May mắn tìm được hộp đựng Ngọc-tỷ truyền quốc, dưới cái giếng sâu. Dưới đáy hộp có tấm bản đồ ghi chú nơi chôn kho tàng. Hoàng thượng không ngờ Mao Đông Các phản hoàng-thượng. Lão tiên sinh này báo tin cho Mã Thái Hậu biết. Mã-hậu thuyết phục Mao lão-gia phản hoàng-thượng, để độc chiếm kho tàng một mình. Mao lão gia nghe theo. 

Phan Anh hỏi: 

– Mao lão tiên sinh là thái sư phụ ta. Tại sao người lại phản phụ hoàng ta? 

Tiểu Lan thở dài: 

– Điều đó dễ hiểu lắm. Trường-sa vương trước kia chỉ sủng ái Hàn Tú Anh. Vì vậy Mã Vương-phi buồn rầu, cô độc. Không hiểu cơ duyên nào đó, Mao lão-gia gặp Mã vương-phi. Hai người trở thành tình nhân. Trường-sa vương bị Vương Mãng giết chết. Mao lão gia cứu Vương phi ra ngoài thôn dã ở ẩn. Chờ tới khi Quang-Vũ trung hưng, cho người tìm Mã vương-phi vào cung. Phong làm thái-hậu. Mao lão gia theo Mã thái-hậu về Lạc-dương. Thỉnh thoảng lão gia thăm hoàng-thượng. Hoàng thượng nhờ Mao lão gia đào kho tàng. Mao lão gia nhận lời. Không ngờ trong lúc ân ái mặn nồng với Mã thái-hậu, Mao lão gia nói ra hết. Tiểu tỳ còn biết rõ: Mao lão gia với Mã thái-hậu có hai người con gái. Thái-tử có biết hai cô gái đó ở đâu không? 

Phan Anh lắc đầu: 

– Ta không biết. Hai đứa trẻ đó hiện ở đâu? 

Tiểu Lan chỉ vào Hồng Hoa, Thanh Hoa: 

– Là hai vị cô nương nầy. 

Tiểu Lan tiếp: 

– Mã thái-hậu thụ thai, dấu kín, sinh đẻ xong, đưa ra ngoài cho Mao lão gia nuôi. Vì vậy thái-tử thấy, Hồng Hoa, Thanh Hoa tuy họ khác nhau, mà mặt giống nhau như hai giọt nước. Mao lão gia hiện giả làm vệ sĩ trong cung, đi lại với Mã thái-hậu. Mã thái-hậu khám phá ra chuyện Nghiêm Sơn là con nuôi Hàn thái-hậu, bà muốn nhờ tay Mao lão-gia giết Hàn thái-hậu, sau giết Quang-Vũ để cho Mao lão gia lên làm hoàng đế. 

Tiểu Lan buồn bã tiếp: 

– Hoàng thượng bại trận Trường-sa. Lúc quân tan, thế cùng, tiểu-tỳ ở bên cạnh, hoàng-thượng dặn tiểu tỳ giả câm, ẩn trong thành, trông coi chỗ cất Ngọc-tỷ truyền quốc với bản đồ kho tàng. Vì vậy tiểu tỳ mới cố sống đến ngày nay. 

Phan Anh hỏi: 

– Từ hồi đến giờ. Phụ-hoàng có liên lạc với ngươi không? 

Tiểu Lan đáp: 

– Có. Cứ mấy tháng một lần. Người tự rạch mặt cho thành sẹo. Người đến Lạc-dương đầu quân làm thị vệ. Từ đấy người ở ẩn trong cung, dùng độc chưởng kiềm chế quần thần. Cho đến một ngày kia. Hoàng-thượng kiềm chế Mã thái-hậu. Không ngờ Mã thái-hậu không sợ độc chưởng, vì bà được Mao lão gia dạy cách chế thuốc giải. Bà vờ sợ hãi, rồi nhờ Mao lão-gia giết Hoàng-thượng. 

Phan Anh hỏi: 

– Ngươi có biết di thể phụ-hoàng ta chôn ở đâu không? 

Tiểu Lan đáp: 

– Dĩ nhiên là biết. Chính tiểu tỳ đem người chôn ở ngoài thành Lạc-dương. 

Hồng Hoa xem vào: 

– Tiểu Lan, truyện có thực hay không? 

Tiểu Lan cười: 

– Thực hay không thì cô nương tự biết. Cô nương là đệ tử của Mao lão gia. Tức khâm phạm của triều đình, sao lại được lão gia bí mật dẫn vào cung triều kiến thái-hậu? Tại sao Mã thái-hậu lại yêu thương hai vị cô nương như vậy? 

Hông Hoa, Thanh Hoa nhớ lại một đêm, hai nàng được thái sư phụ dẫn vào cung yết kiến Mã thái-hậu. Mã thái-hậu ôm lấy hai nàng, nước mắt trào ra, rồi tặng cho hai nàng không biết bao nhiêu vàng bạc châu báu. Từ đó cứ mỗi tháng một lần, hai nàng nhập cung yết kiến Mã thái-hậu. Hai nàng nhớ lại: Cứ mỗi lần hỏi thái sư phụ, cha mẹ là ai, Mao Đông Các đều lắc đầu không trả lời. Thì ra thái sư phụ là cha hai nàng. Còn Mã thái-hậu là Mẫu-thân. Việc đời thực lắm éo le. 

Tiểu Lan nói với Phan Anh: 

– Đợi ra khỏi nơi đây, tiểu tỳ sẽ nói cho thái-tử biết rõ chỗ cất Ngọc tỷ. 

Bỗng một bóng nhảy vào cười rộ lên: 

– Phan Anh, Tiểu Lan! Đáng lẽ ta không giết các ngươi. Nhưng chuyện bí mật của ta, các ngươi đã biết rồi, ta phải ra tay. 

Mao Đông Các, thò tay vào bọc rút ra cây búa. Y vung lên một cái, xích trói Hồng Hoa, Thanh Hoa đứt rời ra. Y hướng vào Tiểu Lan phóng một chưởng. Nhanh như chớp Tiểu Lan lăn người ra xa tránh khỏi chưởng đó. Thân pháp bà nhanh không thể tưởng tượng được. Ngoài sự ước đoán của Mao Đông Các. Mao Đông Các cười gằn: 

– Thì ra ngươi cũng biết võ? Võ công ngươi là võ công Lĩnh Nam. 

Tiểu Lan đứng thẳng người dậy cười: 

– Mao Đông Các! Ngươi có mắt như mù! Ta họ Trần, tên Thiếu Lan, người phái Tản-viên đất Lĩnh Nam. Ta chủ trương phản Hán phục Việt, khởi binh phục quốc. Chẳng may mất thế, bị người Hán bắt làm nô tỳ. Ta theo Xích Mi, xúi Xích Mi tàn hại nhà Hán, khiến Trung-nguyên loạn lạc. Có thế Lĩnh Nam ta mới nổi lên đuổi người Hán dễ dàng. Ta đâu có phải thứ nữ tỳ hèn hạ. 

Mao Đông Các lại vung chưởng tấn công Thiếu Lan. Thiếu Lan nhảy sang phải tránh, rồi phản công. Chưởng của bà chưa phát ra hết, gió lộng ào ào. Bình một tiếng đánh trúng ngực Mao Đông Các. Mao đông Các không phòng bị, trúng một chưởng như trời giáng. Người y lảo đảo, ngã ngồi xuống. Thiếu Lan phóng tiếp chưởng thứ nhì. Hồng Hoa, Thanh Hoa quát lên, tấn công vào hai bên. Thiếu Lan đẩy chưởng của Hồng Hoa vào Thanh Hoa, lùi lại tấn công Mao Đông Các. Mao đã phục hồi được sức lực. Hai người tái diễn cuộc đấu. 

Trưng Nhị đứng ngoài kinh ngạc: 

– Võ công Trần Thiếu Lan mạnh muốn hơn Lê Đạo Sinh, chỉ kém Khất đại-phu với Đào Kỳ. Vậy nàng là đệ tử của ai trong bản phái? 

Thình lình Mao Đông Các nhảy ra khỏi nhà tù. Tay y liệng một vật tròn vào trong. Tia lửa lóe ra như chớp. Một tiếng nổ kinh hồn phát ra. 

Trưng Nhị la lên: 

– Gian tế, gian tế, bắt gian tế mau. 

Lập tức các nơi trống chiêng đánh vang lên. Mao Đông Các vội cùng với Hồng Hoa, Thanh Hoa vọt mình ra khỏi nhà ngục. Vừa ra khỏi, thì đã thấy đèn đuốc sáng trưng. Bên ngoài nhà ngục, quân sĩ đã dàn ra từ bao giờ. Mao Đông Các cùng Hồng Hoa, Thanh Hoa vung chưởng tấn công, họ chỉ nhô lên thụp xuống mấy cái, đã mất tích vào đêm tối. 

Vũ Chu tiến tới trước Trưng Nhị nói: 

– Tiểu tướng bất lực để gian tế chạy thoát, mong quân sư trị tội. 

Trưng Nhị cười: 

– Vũ Thứ-sử! Tất cả chúng ta đây, không ai là đối thủ của một trong hai người con gái đó. Chứ đừng nói là đối thủ của lão già. Cứ để chúng chạy, chúng không thoát khỏi tay tôi đâu. 

Trưng Nhị vào nhà tù, thấy Tiểu Lan chỉ còn thoi thóp thở. Nàng sai mở còng cho vợ chồng Phan Anh, nói: 

– Phan thái-tử, ngươi đi thôi. Nếu ngươi muốn về Lạc Dương giết Mã thái-hậu trả thù cho cha mẹ, môn hộ thì cứ đi. Thiếu Lan có tôi chiếu cố. 

Phan Anh cúi lạy Thiếu Lan, vái Trưng Nhị nói: 

– Trưng cô nương, kẻ thù của kẻ thù là bạn ta. Cô nương với chúng tôi, cũng như Quang Vũ đều có chung kẻ thù là Mã thái-hậu với Mao Đông Các. Vậy chúng ta là bạn. Bọn chúng tôi đi đây. 

Hai người hú lên một tiếng, phóng mình vào đêm tối. 

Trưng Nhị lại bên Thiếu Lan, cầm mạch, thấy khi có khi không. Bỗng Thiếu Lan mở mắt ra nhìn Trưng Nhị. Nàng nói bằng tiếng Việt: 

– Trưng Nhị! Ngươi có phải là Trưng Nhị không? 

Trưng Nhị đáp: 

– Đúng! Đệ tử là Trưng Nhị đây. 

Thiếu Lan nói: 

– Những người biết tiếng Việt ở đây có thể tin được không? 

Trưng Nhị quả quyết: 

– Ở đây chỉ có ba người. Một là đệ tử. Hai là Lê Chân ba là Hồ Đề. Tất cả đều đáng tín nhiệm. 

Thiếu Lan nói: 

– Trưng Nhị! Ngươi mau bồng ta vào căn phòng cũ của ta. Ta có cái này cần trao cho ngươi. Nếu không e trễ mất. 

Máu miệng bà lại ri rỉ chảy ra. Người bà run lên bần bật. Hồ Đề tính mau mắn, bồng Thiếu Lan rời ngục, trở về căn phòng cũ của bà. Bà nói: 

– Hồ Đề cô nương. Cô nương có Thần-ưng, mau gọi chúng đến gác xung quanh cẩn thận. Lê cô nương gác cửa ngoài, cầm kiếm đứng canh. Còn cháu Trưng Nhị ở đây. Ta trao cho cháu một vật tối quan trọng. 

Hồ Đề huýt sáo gọi Thần-ưng, rồi cầm kiếm đứng gác cạnh Trưng Nhị. Thiếu Lan mệt nhọc, thở phều phào: 

– Cháu ơi! Ta họ Trần. Cha ta tên Trần Đại Sinh, thường được đời gọi là Khất đại-phu. 

Trưng Nhị, Lê Chân kêu lên ngạc nhiên: 

– Úi cha! Thì ra sư thúc là con của thái sư thúc đây à? Hèn gì võ công người cao gần ngang với thái sư-thúc. 

Thiếu Lan tiếp: 

– Ta tên Trần Thiếu Lan. Cha ta chỉ có một mình ta. Lớn lên người gả ta cho đệ tử của người là Trần Anh. Chúng ta có với nhau hai đứa con gái sinh đôi là Quế Hoa, Quỳnh Hoa. Chúng ta gửi con cho người nuôi dùm, để chuyên tâm lo phục quốc. Thất bại, chồng ta tuẫn quốc. Ta bị cầm tù đưa sang Trung-nguyên làm cung nữ của Trường-sa vương. Ta thừa dịp trốn đi, theo Xích Mi. Ta dùng đủ cách khích Xích Mi làm loạn Trung-nguyên, hầu anh hùng Lĩnh Nam có thể phục quốc. 

Thiếu Lan thở một lát rồi nói: 

– Khi Xích Mi chết. Ta đang giữ Ngọc Tỷ và bản đồ kho vàng. Từ đấy để tránh sự săn đuổi của phái Trường-bạch. Ta giả câm ở thành Trường-sa coi việc nấu ăn cho tù nhân. Ta theo dõi, biết mọi điều diễn biến ở Giao-chỉ. Ta nghe cha và hai con ta đang theo quân đánh Thục. Hy vọng đạo quân đó qua đây, ta làm nội ứng chiếm thành. Không ngờ… không ngờ Mao Đông Các và Phan Anh tìm được tông tích ta. 

Nàng mỉm cười tiếp: 

– Ta sắp chết rồi! Trưng Nhị nói với cha ta hãy trả thù cho ta. Ban nãy ta nói chỗ cất Ngọc-tỷ cho Phan Anh, Nghi Gia là nói láo. Ta bảo Ngọc-tỷ cất dưới nền nhà của điện Vị-ương. Mục đích đưa Phan Anh với Mao Đông Các chém giết nhau. Chứ thực sự ta vẫn giữ bên mình, đâu có rời ta? 

Trưng Nhị ngạc nhiên, vì hôm ở trên hồ Động-đình nàng bắt được Thiếu Lan, đã cho khám xét thật kỹ, đâu còn gì mà bảo Ngọc-tỷ? 

Thiếu Lan bảo Trưng Nhị: 

– Ta chết đến nơi rồi. Hãy đưa cho ta con dao nhỏ. 

Hồ Đề đưa con dao cho Thiếu Lan, bà cầm lấy đâm vào bụng, rạch ra một cái thực dài. 

Hồ Đề, Trưng Nhị tuyệt không ngờ Thiếu Lan làm vậy. Hai người muốn cản thì đã muộn. Thiếu Lan mổ bụng, moi ra cái bọc vải. Bà mở bọc vải ra, bên trong có một vật bằng ngọc khá lớn. Bà đưa cho Trưng Nhị: 

– Đây, Ngọc-tỷ truyền quốc đây. Cháu hãy cầm lấy tùy tiện xử dụng. Còn miếng vải này, vẽ sơ đồ nơi chôn cất kho tàng. Cháu cùng các anh hùng Lĩnh Nam đào lên, dùng vào việc phục quốc. 

Trưng Nhị cầm lấy miếng vải, gấp lại bỏ vào bọc. Nàng ngắm nghía Ngọc-tỷ, thấy vuông vức, bốn cạnh, mỗi cạnh bốn tấc. Mặt ấn có khắc tám chữ triện :

Thụ mệnh vu thiên, thọ ký vĩnh xương. 

Thiếu Lan nói: 

– Nguyên đời Sở vương, có người thợ ngọc là Biện Hòa, đi qua núi Kỳ-sơn, thấy phụng đậu trên tảng đá mà gáy. Biện Hòa đem tảng đá về, đập ra bên trong tìm được khối ngọc lớn, dâng cho vua Sở. Sau ngọc đó về tay Tần Thủy Hoàng. Đời Tần Thủy Hoàng năm thứ 25, thừa tướng Lý Tư chính tay viết 8 chữ trên vào phiến ngọc, sai khắc thành ấn. Niên hiệu thứ hai mươi tám đời Tần Thủy Hoàng, nhân nhà vua du hồ Động Đình gặp sóng lên, thuyền muốn chìm. Nhà vua sai ném ấn ngọc xuống hồ, sóng tự nhiên im. Niên hiệu thứ 38 Tần Thủy Hoàng qua Hoa-âm gặp dị nhân đem dâng cái hộp. Mở ra thấy cái ấn này. Sau con Thủy Hoàng là Tử Anh dâng cho Cao-tổ nhà Hán. Nhà Hán dùng làm Ngọc-tỷ truyền quốc. Đến đời Hán Bình Đế, Vương Mãng cướp ngôi. Y sai Vương Tam, Tô Hiến vào cung đoạt ấn. Bà Hiếu-nguyên hoàng thái-hậu cầm ấn ném Vương Mãng, Ngọc tỷ mẻ một góc. Xích Mi lấy lại của Vương Mãng, y dùng vàng bịt lại góc bị bể. Xích Mi giao cho ta giữ. Y đâu có biết ta ghi lòng phục quốc, chiếm Ngọc Tỷ và bản đồ kho tàng. Bây giờ các ngươi hãy giữ Ngọc-tỷ, đào kho tàng lên, làm phương tiện phục hồi Lĩnh Nam. 

Đến đó Thiếu Lan, thở hắt ra một cái, rồi nước mắt chảy ròng ròng. Bên cạnh nàng, tiếng sáo tỉ tê như khóc như than cho người liệt nữ bạc mệnh của Lê Chân thổi lên trong đêm trường tịch mịch. 

Trưng Nhị sai chôn cất Thiếu Lan thật cẩn thận bên ghềnh sông Tương-giang đổ vào hồ Động-đình. Khắc trên mộ: 

Liệt nữ Lĩnh Nam Trần Thiếu Lan chi mộ. 

Sau khi giành được độc lập, phục hồi Lĩnh Nam, Trưng đế phong cho Trần Thiếu Lan: Anh thư bảo quốc, diệu tài, đại lược, linh-ứng công chúa. Và cho cất đền thờ. Dân chúng quanh vùng cầu gì được nấy. 

Chú giải 

Sau này các sứ thần Đại Việt đời Đinh, Lê, Lý, Trần nhân đi qua Động-đình hồ đều có ghé miểu thắp hương, tưởng nhớ người Việt-nữ có tấc lòng với tổ quốc. Trước đền thờ, một tấm bia đá đề: 

Lĩnh Nam liệt nữ, Bảo quốc anh thư miếu. 

Trải qua các đời Đinh, Lê, Lý, Trần, Trương Phụ thu ngọc phả mang về Kim-lăng (1407). Vì vậy không biết đời Lê, Nguyễn, các sử gia Đại Việt có còn tế lễ như những đời trước không? 

Đầu năm 1981, cuối năm Canh Thân, thuật giả từ Paris đi Bắc-kinh. Đổi máy bay từ Bắc-kinh đi Trường-sa tìm di tích về anh hùng Lĩnh Nam, đã tìm được di tích của bà. Trong một cuốn sách nói về tỉnh Hồ-nam, có đoạn ghi : 

“Miếu thờ liệt nữ Lĩnh Nam Trần Thiếu Lan ở ghềnh sông Tương-giang. Hồi cách mạng văn hóa bị phá hủy. Nay chỉ còn cái nền”. 

Thuật giả thuê xe đến cửa Tương-giang, lần mò hỏi thăm dân chúng. Họ chỉ vào khu đất bằng phẳng, cách bờ sông khoảng hai trăm thước, đó là một khu vườn. Tôi nói với chủ vườn rằng: Ngôi mộ, miếu của một vị tổ cô xa đời. Chúng tôi ở ngoại quốc, trở về thăm mộ người. 

Chủ vườn vui vẻ, hướng dẫn thuật giả ra xem mộ. Mộ xây bằng đá ong. Trải bao thỏ lặn ác tà bị sứt mẻ, nhưng vẫn còn nguyên. Bia trên mộ không còn nữa. Chủ vườn cho biết, hồi Cách Mạng Văn Hoá, bọn Vệ binh đỏ kéo đến đập phá miếu, gỡ tấm bia trên mộ mang đi mất. Còn tảng đá dùng làm bệ thờ trên ghi sắc phong của Trưng Đế, nặng quá, bọn chúng để lại. 

Thuật giả tới cạnh tảng đá, trên còn lờ mờ đọc được: 

“ ….bảo quốc,linh ứng….”. 

Hồi năm 1981, du khách tới Trung-quốc, muốn chụp hình, quay phim, phải xin phép rất khó khăn. Thành ra thuật giả muốn chụp hình kỷ niệm, mà không được. Thuật giả cũng muốn tu bổ mộ bà nhưng vì thời gian ở Trường-sa giới hạn, và còn phải xin phép với nhiều thủ tục nên không kịp. Sau này bạn đọc có ai muốn viếng mộ ngài xin theo chỉ dẫn nói trên, tất vẫn còn thấy mộ. 

Sa Giang đã thuật về cuộc chiến Kinh Châu cho Phương Dung nghe xong. 

Phương Dung nghe Sa Giang kể truyện, nàng hỏi: 

– Sư muội, thế sư thúc Trần Năng đâu? 

Sa Giang nói: 

– Khi rời Trường-sa được ít dặm, bọn tiểu muội gặp Tăng Giả Nan Đà. Ngài muốn đến Trường-an cùng với bọn tiểu muội. Bọn tiểu muội thấy mình đã có tiên ông Khất đại-phu, thêm một vị Bồ-tát sẽ vui lắm. Vì vậy trên đường đi chúng em có thêm ngài. Ngài chỉ ăn hoa quả như chim không ăn cá thịt. Sư tỷ, không ai ngờ ngài ăn uống như vậy mà công lực cao dường ấy. Suốt dọc đường ngài giảng thiền cho Trần sư tỷ nghe. Em chẳng hiểu gì cả. Ngài giảng những gì nào là Nhân ngã tứ tướng rồi giảng kinh Lăng-già, Kim-cang. Em nghe câu hiểu câu không. Còn Trần sư tỷ thì khoan khoái trong lòng. Trần sư tỷ nói, nhờ có ngài dạy dỗ, mà trên đường từ Trường-sa về đây, công lực của sư tỷ cao gấp bội. Trần sư tỷ bảo em đi trước gặp sư tỷ trình bày mọi sự. Không biết bao giờ Trần sư-tỷ với vị Bồ-tát sẽ đến. 

Bỗng tiếng Trần Năng nói vọng lại: 

– Bồ-tát và Trần sư tỷ đến từ lâu rồi. Sư muội khỏi lo lắng nữa. 

Phương Dung là người cực kỳ thông minh. Tuy nàng chưa biết Phật-giáo. Chỉ nghe Sa Giang kể, nàng đã biết được một phần nào cách xưng hô với Tăng Giả Nan Đà. Nàng chắp tay hướng ngài hành lễ: 

– A Di Đà Phật. Đệ tử Phương Dung, kính cẩn tham kiến Bồ-tát. 

Nàng nhìn ngài: Nước da đen bóng, đầu không tóc. Lưng quấn tấm cà sa mầu đại hồng. Khuôn mặt cười mà không cười. Ánh mắt chiếu ra vẻ từ bi. Chỉ nhìn đã thấy ấm áp dễ chịu: 

Tăng Giả Nan Đà đáp lễ Phương Dung: 

– A Di Đà Phật! Đại phúc. Đào phu nhân sao lại muốn khóc thế kia? 

Phương Dung giật mình. Quả thực nàng gặp hai thất bại: Thiều Hoa bị bắt, không hiểu tình trạng ra sao. Đó là thất bại thứ nhất. Thứ nhì, Tiên-yên nữ hiệp bị trúng Huyền-âm độc chưởng, đau đớn chết đi sống lại. Hiện đang nằm hấp hối. Nàng bó tay, không biết làm cách nào chữa trị. 

Phương Dung chắp tay: 

– Bạch Bồ-tát. Đệ tử quả đang có mối ưu phiền trong lòng không nguôi. Vì vậy không ngăn cấm được nước mắt. Mong Bồ-tát hóa giải cho. 

Tăng Giả Nan Đà mở to mắt nhìn Phương Dung. Ngài không ngờ một thiếu nữ trẻ xinh đẹp nhu mì, gặp ngài lần đầu đã biết cách xưng hô như những Phật-tử chính tông thuận thành. 

Phương Dung là người cực kỳ thông minh, chỉ nghe Sa Giang thuật truyện, nàng đã ghi nhớ được một số thuật ngữ trong nhà Phật, đem ra ứng dụng, khiến cho vị Bồ-tát phải ngạc nhiên. 

Lục Sún nghe tin Sa Giang đến. Chúng ào vào trướng Phương Dung gặp nàng. Giữa Sa Giang với Lục Sún tuổi ngang nhau. Gặp nhau là đùa giỡn vui vẻ. 

Sún Lé nói: 

– Nầy chị Sa Giang! Chị thua cuộc rồi đấy nhé! Bọn nầy đã đọc được sách binh thư rồi! 

Phương Dung hỏi: 

– Thua cuộc gì vậy? 

Sún Rỗ nói: 

– Chị Sa Giang chê bọn chúng em không biết chữ chẳng khác gì mù. Chúng em nói học chữ không khó. Chị Sa Giang đánh cuộc với em rằng: Trong vòng sáu tháng, nếu chúng em học chữ đến trình độ đọc được sách. Thì chị ấy phải về Lĩnh Nam phản Hán phục Việt với bọn em. Ngược lại bọn em thua cuộc, thì cả đời phải làm nô bộc cho chị ấy. 

Phương Dung cười với Sa Giang: 

– Sư muội! Em thua rồi. Từ hôm rời Dương-bình quan, chị ngạc nhiên tại sao Lục Sún lại chăm học chữ thế. Thì ra vì muốn thắng cuộc. 

Sa Giang e thẹn: 

– Trong thâm tâm em muốn được thua, để về Lĩnh Nam chống bọn Hán bốn chân. Sau nầy lịch sử Lĩnh Nam ghi: Niên hiệu Lĩnh Nam thứ… con gái người Hán tên Vương Sa Giang, đến Giao-chỉ, diệt bọn tham quan người Hán. 

Sún Cao trầm ngâm hỏi Tăng Giả Nan Đà: 

– Sư phụ! Có cách nào cháu chịu chết thay cho sư bá Tiên-yên không? 

Tăng Giả Nan Đà nói: 

– Tất cả đều là nghịch cảnh. Nghịch cảnh đã bày ra trước mắt thì phải chấp nhận. Muốn giải nghịch cảnh ấy phải trở về với mình. Tự lòng mình giải lấy, chứ không thể nhờ người khác được 

Phương Dung nghe Tăng Giả Nan Đà nói một câu, bên trong bao hàm nhiều ý nghĩa cao siêu, nàng chỉ hiểu đại khái: Việc bày ra trước mắt ngoài ý muốn. Mỗi số phận con người đều bị những cái ngoài ý muốn đó. Phải chấp nhận. Còn buồn, vui do chính mình phải tháo bỏ ra, mới thoát được. Nàng cung kính mời ngài vào doanh, đem trái cây, hai tay cung kính dâng lên. 

– Đệ tử thành tâm cúng dường. Mong Bồ-tát thu dụng cho. 

Tăng Giả Nan Đà hai tay tiếp mâm trái cây, đáp: 

– Thực là đại duyên. 

Tiếng Tiên-yên nữ hiệp đau đớn, rên rỉ ở trong trướng vọng ra. 

Trần Năng hỏi: 

– Ai đau đớn vậy? 

Phương Dung thở dài: 

– Sư bá Trần Thị Phương Chi. 

Trần Năng vào trướng. Người Tiên-yên nữ hiệp vàng vọt, chỉ còn xương bọc da, đang nằm vận công chống với cơn đau. Nàng cầm tay bà chẩn mạch. Mặt thất sắc nói: 

– Sư tỷ đã giao chiến với người phái Trường-bạch ư? 

Phương Dung gật đầu, kể chuyện Trần Lữ và Tạ Thành Minh. Trần Năng cũng kể chuyện Phan Anh, Trần Nghi Gia và Mao Đông Các. Nàng móc trong bọc ra một túi thuốc đưa cho Phương Dung: 

– Túi thuốc này lấy được từ người Mao Đông Các. Chả biết có dùng được không? Nếu là thuốc giả, cho sư tỷ dùng thì tối nguy. Giá có sư phụ ở đây, người phân biệt được ngay. 

Sún Lé ngồi đó nói: 

– Có gì khó đâu, chúng ta có hàng vạn tù binh Hán, lấy thuốc này cho chúng uống. Nếu là thuốc độc thì chúng chết. Còn chúng không chết thì là thuốc giải, đem cho sư bá uống. 

Tăng Giả Nan Đà chắp tay: 

– A Di Đà Phật! Tội quá, tội quá! Cứu một mạng, giết một mạng như vậy cũnh như không. Thôi để bần tăng uống thử thuốc nầy cho. 

Tiên-yên nữ hiệp đã bớt đau, tỉnh dậy. Bà nghe thấy nói vậy, lắc đầu: 

– Xin Bồ-tát đừng làm thế. Tiểu nữ không tiêu thụ được ân đức này đâu. 

Tăng Giả Nan Đà bảo Tiên-yên nữ hiệp: 

– Mời thí chủ hãy ngồi kiết già theo bần tăng, để bần tăng nói về đạo của Đức Thế Tôn cho thí chủ nghe. 

Tiên-yên nữ hiệp ngồi theo ngài. Ngài giảng về tiểu sử đức Phật. Sau đó ngài tiếp: 

– Phàm người theo đạo Đức Thế Tôn, thì lăn mình vào mệnh hổ đói, xẻo thịt cho chim ưng ăn cũng không ngại. Đào phu nhân, đưa thuốc cho bần tăng. 

Lời nói của ngài uy nghiêm quá. Phương Dung không chống được. Nàng đưa túi thuốc cho ngài. 

Ngài lấy viên thuốc màu đỏ định bỏ vào miệng. Phương Dung thấy vậy lòng đầy bất nhẫn. Nàng chụp viên thuốc trong tay ngài. Tay nàng chạm vô bàn tay ngài. Nàng giật bắn người lên, vì một kình lực nhu hòa truyền vào người nàng. Tuy lấy được thuốc, nhưng người nàng bị rung động mạnh. 

Tăng Giả Nan Đà khoan thai giảng giải: 

– Để bần tăng nói cho Đào phu nhân nghe. Phàm người theo đạo Đức Thế Tôn, dù nhảy vào miệng cọp đói, xẻo thịt cho chim ăn cũng không từ. 

Phương Dung thấy ngài chưa bỏ thuốc vào miệng. Nàng tìm cách kéo dài thời gian, may ra đoạt lại viên thuốc. Nàng khẩn khoản nói: 

– Đại sư, đệ tử thật ngu tối, chưa từng nghe biết tại sao người theo đạo Phật, lại tự nguyện nhảy vào miệng cọp, xẻo thịt cho chim ưng ăn? 

Trên mặt Tăng Giả Nan Đà thoáng hiện ra nét vui mừng: 

– Đào phu nhân đã hỏi. Bần tăng xin vì phu nhân mà nói về pháp của Phật. Người tu đạo, nguyện nhảy vào miệng cọp đói, xẻ thịt cho chim ưng ăn được chép trong kinh Hiền-ngu. Câu truyện như thế này: 

"Khoảng cách thời gian lúc Đức Thích Ca tại thế vô số kiếp. Ở Châu Diêm Phù Đề có một ông vua tên Ma Ha La Đàn Na, cai trị ba nghìn nước nhỏ, vua có ba con trai. Người thứ nhất tên Ma Ha Phù Na Bình. Người thứ nhì tên Ma Ha Đề Bà. Người thứ ba tên Ma Ha Tát Đoá. 

Người con thứ ba, có tính phúc đức, rộng lòng từ bi quảng đại, chí khí cao cả, hiền hậu hiếu thảo, thương dân, giúp vật. Một hôm vua dẫn hoàng hậu, thứ phi, cung nga và cả ba con vào rừng chơi. Nhân lúc nhà vua nằm nghỉ dưới gốc cây. Ba hoàng tử cùng nhau dạo bước. Tới khu rừng bên cạnh, thấy một con cọp mẹ và hai con cọp con. Cả ba gầy gò, chỉ còn da bọc xương, nằm thoi thóp thở. Chứng tỏ cả ba mẹ con cùng đói quá, kiệt sức. Cọp mẹ định ăn thịt hai con. Thấy thế Thái-tử Ma Ha Tát Đóa nói với hai anh: 

– Các anh nhìn kìa! Cọp mẹ đói quá, đang muốn ăn thịt con, phải có súc vật máu nóng, giết thịt đem cho nó ăn. 

Thái-tử Ma Ha Tát Đoá nghĩ: Ta sống thác trong bao kiếp đến nay. Bỏ thân cũng đã nhiều. Song trọng những thân ấy chỉ gây thêm tội nghiệp tham, sân, si chứ chưa từng đem thân ấy làm lợi cho chúng sinh. Tại sao không đem thân này đổi lấy trí tuệ từ bi bất diệt? 

Nghĩ là làm. Thái-tử để hai anh đi trước. Còn mình chậm lại, rồi lui về sau. Ngài gieo mình vào miệng cho cọp ăn thịt. Cọp đói lâu ngày mất hết nghị lực, run rẩy không há mồm ăn được. Thái-tử dùng cây nhọn đâm cổ cho máu phọt vào miệng cọp. Ba mẹ con cọp liếm máu, dần dần có sức tỉnh dậy, cùng ăn thịt Thái-tử. Phút chốc chỉ còn lại mấy khúc xương. 

Hai người anh dạo chơi một lúc, không thấy em, bèn quay trở lại thì chỉ còn thấy cái đầu và đống xương trên mặt đất. Hai ngài vội vàng báo cho vua và hoàng hậu. Ngài thương xót con vô cùng, khóc lóc thảm thiết. Còn thái-tử sau khi thác, hồn được sinh về cõi trời, tự nghĩ rằng: Ta được phép thiên nhãn, coi năm cõi như vật trên bàn tay. Chắc đời trước ta làm phúc gì, nay mới được như vậy. 

Vị thái-tử đó là một trong những tiền thân của đức phật Thích Ca Mâu Ni vậy.

Trong khi Tăng Giả Nan Đà thuyết pháp, các anh hùng Lĩnh Nam hiện diện có Tiên-yên nữ hiệp, Phương Dung, Lục Sún. Tám người say mê theo dõi. Ngài thuật xong nói: 

– Vì vậy, nay bần tăng chỉ thử nuốt viên thuốc, chưa hẳn là thuốc độc. Dù có là thuốc độc cũng không bằng gieo mình vào miệng cọp đói. 

Trong lòng Sún Cao tự nhiên mở rộng, một ý nghĩ thoáng qua, nó kính cẩn chắp tay lễ Tăng Giả Nan Đà: 

– Kính bạch Hoà-thượng. Nếu như đệ tử thấy một người bị rắn cắn. Đệ tử biết nếu để lâu, người đó sẽ chết. Đệ tử nguyện hút máu độc, cứu người như thế có nằm trong đạo lý Phật-gia không? 

Tăng Giả Nan Đà liếc nhìn Sún Cao, ngài gật đầu: 

– A Di Đà Phật. Tiểu thí chú có ngộ tính thực cao. Nếu tiểu thí chủ hút nọc độc cứu người đã có hạnh Bồ-tát rồi. Trường hợp tiểu thí chủ biết rằng hút nọc cứu người, mình sẽ chết, mà vẫn hút, quả thực tiểu thí chủ có trái tim Bồ-tát, thành Phật vậy. 

Sún Lé chắp tay hỏi: 

– Bạch sư phụ, còn chuyện xẻo thịt cho chim ăn nguồn gốc thế nào? Xin sư phụ từ bi dạy cho chúng đệ tử. 

Tăng Giả Nan Đà khoan thai giảng: 

– Tích nầy cũng lấy trong kinh Hiền-ngu. Chuyện như sau: 

"Lại cũng trong thời quá khứ, tại cõi Diêm Phù Đề này, có một vị vua tên Thi Tỳ, ở thành Đề Bà Bạc Đề. Lúc đó nước mạnh, dân giầu. Nhà vua thống trị tám vạn bốn ngàn nước nhỏ, sáu muôn núi sông. Nhà vua có hai muôn cung tần, thể nữ, năm trăm hoàng tử, một vạn đại thần. Vua có hạnh từ bi, thương dân như con. 

Bấy giờ trên trời, vua Đế Thích gặp lúc năm đức ly thân, sắp tới ngày chết. Khí sắc ông âu sầu. Ông Tỳ Thủ Yết Ma thấy thế hỏi rằng: 

– Tâu bệ hạ. Hồi này thần thấy khí sắc bệ hạ kém xưa nhiều lắm. Chẳng hay có chuyện chi? Xin nói cho hạ thần được rõ. 

Vua Đế Thích đáp: 

– Khanh không biết hay sao? Hoa trên đầu ta héo. Triệu chứng chết đã xuất hiện. Mạng sống không còn là bao. Hiện nay ở thế gian không có giáo pháp Như Lai, ta biết qui hương về đâu, nên buồn. 

Ông Thủ Yết Ma tâu rằng: 

– Hiện nay ở thế gian, Châu Diêm Phù Đề có một ông vua tự theo hạnh Bồ-tát, tên là Thi Tỳ, tâm ý vững bền tinh tiến lắm. Vị vua đó sau sẽ thành Phật. Xin bệ hạ tới đó qui y, thì lai sinh sẽ được đầy ý nguyện, hay tôn vinh trên cõi nhân, thiên hoặc xuất thế gian. 

Vua Đế Thích phán: 

– Nếu quả như khanh nói, thực may cho ta lắm. Tuy nhiên ta phải thử xem thực hư thế nào đã. Vậy khanh hóa làm chim bồ câu. Ta hóa làm chim ưng. Khanh bay trước, ta bay sau. Khi tới nơi khanh bay vào lòng nhà vua, xin nhà vua cứu. Ta đến sau, đòi trả bồ câu để ăn thịt. Xem nhà vua giải quyết ra sao? 

Tỳ Thủ Yết Ma tâu: 

– Bồ Tát là người từ bi, phúc đức, chúng ta nên cúng đàn, trợ giúp. Chẳng nên làm những sự đau khổ đến Bồ-tát. 

Vua Đế Thích liền đọc bài kệ: 

Ngã diệc phi ác tâm, 

Như trân báo ứng thí, 

Dĩ thử thí Bồ Tát, 

Tri vi chí thành phủ. 

(Ta vốn chẳng ác tâm, 

Muốn thử bồ tát xem, 

Là vàng thực hay giả? 

Chí thành đâu có sao?) 

Vua Đế Thích đọc xong, Tỳ Thủ Yết Ma hóa làm bồ câu bay trước. Vua Đế Thích hóa làm chim ưng bay theo. Tới nơi, bồ câu bay thẳng vào lòng vua Thi Tỳ tỏ vẻ sợ hãi. Chim ưng bay theo sau đứng ở trên điện nói: 

– Tâu bệ hạ! Xin ngài trả lại cho tôi con chim bồ câu kia. 

Vua Tỳ Thử đáp: 

– Trả cho ngươi ăn thịt ư? Ta có nguyện cứu tế muôn loài, nó đã lại đây cầu cứu ta. Ta không trả đâu. Trả có khác gì giết chết nó. 

– Tâu bệ hạ. Ngài tự nói cứu muôn loài, mà cứu nó, ắt tôi chết đói. Tôi không phải là một trong muôn loài sao? Cứu một mạng, mà giết một mạng cũng như không. 

Nhà vua thấy chim ưng nói có lý. Ngài nghĩ bây giờ ta lấy thịt loài khác cho chim ưng ăn. Giết một con vật, để cứu con bồ câu thì cũng vô ích. Chi bằng ta cắt thịt ta cho nó ăn là hay hơn hết. 

Ngài cầm dao cắt một miếng thịt đùi, đưa cho chim ưng: 

– Đây ngươi ăn miếng thịt của ta thay cho bồ câu. 

Chim ưng không đồng ý: 

– Tâu bệ hạ, theo lẽ công bằng, thì ngài phải đem cân ra. Để bồ câu một bên, thịt ngài một bên. Thịt ngài và thịt chim phải bằng nhau mới được. 

Vua làm theo. Bắt đầu ngài để một miếng, vẫn không bằng. Rồi hai miếng, ba miếng… cho đến hết hai bắp vế vẫn không bằng. Ngài quyết định đứng lên cân. Bấy giờ trới đất tự nhiên chuyển động sáu lần, thân thể nhà vua lành lặn như cũ. Vua Thi Tỳ chính là một tiền kiếp của đức Phật Thích Ca Mâu Ni vậy. 

Sún Cao đến bên Phương Dung mở túi, lấy viên thuốc đỏ cầm ra xem. Nó nói với Tăng Giả: 

– Đại-sư! Đệ tử nguyện uống viên thuốc này thử xem. Nếu đệ tử chết thì là thuốc độc. Còn đệ tử sống, thì là thuốc chữa bệnh, có thể dùng cứu bao nhiêu người khác đang khổ vì Huyền-âm độc chưởng. 

Nói rồi bỏ viên thuốc vào miệng. Mọi người cùng bật thành tiếng kêu thất thanh. Nhưng đã trễ. Trần Quế Hoa từ ngoài bước vào, vung tay phóng một Lĩnh-nam chỉ. Véo một tiếng, chỉ trúng viên thuốc. Viên thuốc bay vọt khỏi tay Sún Cao, trúng vào viên đá kêu đến cách một tiếng, vỡ tan tành. 

Tăng Giả Nan Đà gật đầu: 

– Tiểu thí chủ! Ngươi có tâm Bồ-đề, thực đáng quí thay. Song việc này nên để bần tăng làm. Đào phu nhân, đưa thuốc cho bần tăng. 

Phương Dung đưa túi thuốc cho ngài. Ngài cầm lấy, bỏ viên màu đỏ vào miệng nhai, rồi nhắm mắt nhập định. Một lát sau, trên đầu ngài có khói trắng bốc lên, mồ hôi xuất ra dầm dề. Mặt ngài tái mét. Trần Năng hoảng sợ, đưa tay bắt mạch ngài, thấy một luồng điện cực mạnh, nhu hòa đẩy tay nàng ra. Trần Năng sợ quá vội thu tay lại. 

Ngài ngồi một lúc mới mở mắt ra, gương mặt lại hồng hào như thường. Ngài nói với Phương Dung: 

– Đào Phu nhân, thuốc này cực độc, dùng không được. Dùng thì cơn đau trấn tĩnh, nhưng sau đó người sẽ mất hết năng tính nhân từ. 

Ngài trao thuốc cho Trần Năng nói: 

– Hùng phu nhân, hôm ở lăng Trường-sa, bần tăng đọc kinh Phật để hóa giải độc chất trong người phu nhân. Hôm nay bần tăng lại dùng kinh Phật hoá giải chất độc của Tiên-yên nữ hiệp đây. 

Ngài nói với Tiên-yên nữ hiệp: 

– Bần tăng xin vì thí chủ nói về nguồn gốc pháp môn Thiền của nhà Phật. Pháp môn Thiền bao gồm mấy chữ: 

Giáo ngoại biệt truyền, 

Bất lập văn tự, 

Trực chỉ chân tâm, 

Kiến tính thành Phật. 

Không lập văn tự, vì Thiền không có một nguyên tắc nào cả. Nếu có nguyên tắc thì không phải là Thiền. Người tu Thiền phải tự mình trở lại với chân tâm mình, thoát ra ngoài Nhân, Ngã tứ tướng, tự mình giác ngộ mà thành Phật. 

Ngài ngừng lại một lúc nói: 

– Người đầu tiên được Phật tổ truyền tâm ấn là ngài Ma Ha Ca Diếp. Một hôm Phật tổ lên đài Linh-sơn thuyết pháp. Pháp hội có đến mấy trăm ngàn người chờ nghe. Ngài lên đài tay cầm bông hoa, miệng mỉm cười. Pháp hội không ai hiểu ý Phật. Chỉ có ngài Ma Ha Ca Diếp hiểu ý, mỉm cười đáp lại. Phật tổ nói: Ta có nhãn tăng chính pháp, diệu tâm Bồ Đề, vô pháp vô tướng, nay truyền cho Ma Ha Ca Diếp. 

Nhãn tâm chính pháp là chính pháp chứa trong đôi mắt Phật vậy. Kể từ ngài Ma Ha Ca Diếp, truyền tâm ấn đến đời bần tăng là đời thứ tám. 

Tiếp theo ngài giảng về phép Thiền định, làm thế nào bỏ ra ngoài được Nhân ngã tứ tướng. Bỏ ra ngoài được cái Vọng Tâm, để xóa bỏ đi hết những gì trong con người. 

Tiên-yên nữ hiệp nghe đến đâu, tỉnh đến đó, mồ hôi bà xuất dầm dề. 

Tăng Giả Nan Đà tiếp: 

– Bây giờ thí chủ hãy hít một luồng khí, tưởng tượng luồng khí đó như sợi tơ vàng vào mũi, rồi vào cổ, xuống Phế, Tâm, qua Tỳ, Vị. 

Ngài nói đến đâu, Tiên-yên nữ hiệp làm theo đến đó. 

Ngài tiếp: 

– Bây giờ chí chủ chuyển chân khí từ Tỳ, Vị, tỏa ra ngoài da. 

Tiên-yên nữ hiệp làm theo lời ngài, một lát da căng như mặt trống rất khó chịu, miệng đắng, lưỡi nhạt, chân tay run run, rồi các đồ vật trong phòng quay tròn, bà cảm thấy như mình bị dốc ngược. Tuy nhiên Tiên-yên nữ hiệp là người tính khí quật cường, nhất định nghiến răng không kêu than. Bên cạnh bà Tăng Giả Nan Đà vẫn đọc kinh Phật: 

….Thị chư pháp không tướng, 

bất sinh bất diệt, 

bất cấu bất tịnh, 

bất tăng bất giảm. 

Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức. 

Vô nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý. 

Vô sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp. 

Vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới, 

vô vô minh diệt, vô vô minh tận. 

Nãi chí vô lão, tử tận. Vô khổ, tập, diệt, đạo. 

Vô trí diệt vô đắc... 

Trần Năng nhận ra ngài đang đọc đoạn giữa bài kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh. Ngày nọ nàng được ngài giảng đoạn đầu kinh Lăng-già, giác ngộ mà thắng được Trần Gia Nghi. Rồi ngài giảng đoạn đầu bài kinh Bát Nhã, nàng áp dụng vào vận khí mà thắng Phan Anh. Sau đó ngài giảng tiếp đoạn kinh Lăng-già mà đẩy được chất độc của Huyền-âm thần chưởng ra ngoài. Cho nên bây giờ nghe ngài đọc đoạn sau của kinh Bát Nhã, thì nàng hiểu liền. Nàng xếp chân ngồi kiết già, vận khí. 

Ngài giảng: 

- Bát nhã ba la mật đa tâm kinh là pháp môn của Thiền Tông nhà Phật. Đức Phật giảng cho đệ tử của ngài là ngài Xá Lợi Phất. Kinh Bát Nhã lấy chữ Không làm căn bản. Trong kinh Kim-cang Phật dạy đệ tử là ngài Tu Bồ Đề rằng: Nhược hữu Bồ Tát... Nghĩa là nếu có vị Bồ Tát nào thấy Tướng ta của ngài, rồi thấy Tướng của người rồi thấy Tướng của chúng sinh, tức chẳng phải Bồ Tát. Tại sao vậy? Khi đã có Ngã tướng, liền có Nhân tướng. Đối với Ngã tướng, Nhân tướng chẳng phải chỉ có một người, mà có nhiều người, do vậy có Chúng sinh tướng. Nói thì nhiều chứ thực sự ra phải bỏ ngã tướng thì tự nhiên bỏ được hết các tướng khác. 

Phật dạy rằng: Các pháp đều không có tướng. Đã không có thì làm sao sinh? Làm sao diệt, làm sao dơ bẩn, làm sao tăng? Làm sao giảm? Cho nên trong thế gian nầy Ngũ uẩn đều không. Ngũ uẩn là gì? Tức là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành Thức. 

Cho nên nhập Thiền, phải bỏ mọi sắc giới hình ảnh ra ngoài tức vô nhãn rồi không chú ý đến âm thanh tức vô Nhĩ. Không ngửi thấy mùi gì nữa thành vô tị, không chú ý đến mùi vị là vô Thiệt. Khi bỏ ra ngoài được ngũ uẩn, thì ý tưởng không còn nữa, cái thân cũng biến mất. Đến trình độ nầy thì không có sắc, không có thanh, không có hương, không có vị, không có súc nữa. Như vậy con người đi đến không còn già, chết tức không còn khổ nữa. 

Lúc đầu Tiên-yên nữ hiệp chống trả cơn đau, không chú ý được lời giảng của ngài. Nhưng có một câu lọt vào ta bà Bỏ ra ngoài mắt, tai, mũi, lưỡi và thân ý. Bà nghĩ: Nếu bỏ ra ngoài được như vậy thì con người chết rồi còn gì? Chết rồi thì hết đau đớn nữa. Nghĩ vậy bà thử không chú ý đến màu sắc, bà thấy dễ dàng quá. Bà bỏ ra ngoài âm thanh cũng dễ dàng quá. Bà bỏ hết cả sáu thứ ra ngoài. Quả bà không biết gì nữa. Thế nhưng trong khi bỏ ra như vậy, ý thức giới vẫn làm việc, chân khí vẫn luân lưu trong người bà. Trong cơn mê mê tỉnh tỉnh bà nghe tiếng giảng sang sảng của Tăng Giả Nan Đà. Nghe đến đâu bà áp dụng đến đó. Khi ngài ngưng giảng. Bà từ từ tỉnh dậy, mở mắt ra, thấy mồ hôi mình xuất đầm đìa ướt hết y phục. Mồ hôi tanh hôi không thể tưởng tượng được bốc ra. 

Cơn đau đớn kinh khiếp giảm. Chân tay có thể cử động được. Tăng Giả Nan Đà lên tiếng: 

– A Di Đà Phật, thí chủ hãy vận khí qua mũi, xuống cổ, vào Phế, Tâm, đưa tới Tỳ, Vị. Rồi, thí chủ đưa xuống Đại-trường, Thận, Tiểu-trường. Rồi, tiếp tục đưa xuống đùi, đầu gối, bàn chân. Sau đẩy ra ngoài. 

Tiên-yên nữ hiệp làm theo, thấy mùi tanh tiết ra ở chân bốc lên nồng nặc. 

Cứ thế, bà tiếp tục vận khí suốt ngày, đến chiều, bà mới ngưng lại để nghỉ ngơi. Bà vận khí cho đến khuya, thấy không còn trở ngại gì khác nữa. Tiên-yên nữ hiệp đứng dậy, thấy người khỏe mạnh khác thường, cái đau đớn không còn nữa. Bà biết vị Bồ-tát dạy Thiền để chữa bệnh cho mình. Bà quì xuống chắp tay hành lễ: 

– Sư phụ! Tạ ơn đại đức sư phụ đã cứu đệ tử. 

Tăng Giả Nan Đà tủm tỉm cười: 

– Cũng là túc duyên tiền kiếp cả đó thôi. Thí chủ tiếp tục luyện thêm ba ngày, thì chất độc tống ra ngoài hết sạch. 

Ba hôm sau Tiên-yên nữ hiệp đã đẩy được chất độc ra ngoài. Bà bước ra sân trướng dạo chơi. Trong khi đi, bà tập bỏ ra ngoài nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý, nhưng vẫn vừa đi vừa nhìn cảnh vật một cách mơ hồ. Trong mơ hồ bà đụng phải một cây lớn. Bà giật mình, cung tay đẩy mạnh vào cây. Khiến cây rung động lên thật mạnh, âm thanh trầm trầm chuyển đi vang dội cả một vùng. Bà kinh hãi nghĩ: 

– Sao công lực ta biến thành âm nhu mạnh thế này ? 

Bà chắp tay thử vận khí Tứ đại giai không đập mạnh vào cây. Cây to bằng bắp chân, kêu đến rắc một cái, từ từ đổ xuống. Có tiếng hoan hô: 

– Công lực sư tỷ đến thế này thì không ai bì được nữa rồi. 

Bà quay lại thì ra sư đệ Đặng Đường Hoàn. Đặng Đường Hoàn nổi tiếng chưởng lực mạnh nhất Lĩnh Nam, chỉ thua có hai người là Khất đại-phu và Lê Đạo Sinh, sau nầy thêm vào Đào Kỳ. Ông hít hơi vận khí phát một chưởng đánh vào cây khác, bằng bắp chân. Rầm, cây gãy đôi từ từ đổ xuống. Ông bảo Tiên-yên nữ hiệp: 

– Sư tỷ đánh vào gốc cây còn lại xem sao? 

Tiên-yên nữ hiệp vận khí theo Vô nhãn tướng, phóng một chưởng. Rắc, gốc cây đã được tiện đứt bằng phẳng như bị chặt một nhát dao rất ngọt. 

Đặng Đường Hoàn chắp tay: 

– Sư tỷ, chưởng lực của sư tỷ mạnh dường nầy, bây giờ nếu gặp Trần Lữ, sư tỷ có thể trả thù được rồi đấy. 

Tăng Giả Nan Đà từ xa đến: 

– A Di Đà Phật. Tiên-yên nữ hiệp có thể chấp nhận cho bần tăng một lời hứa chăng? 

Tiên yên nữ hiệp chắp tay: 

– Sư phụ cứ dạy, đệ tử nguyện theo. 

Tăng Giả Nan Đà nói: 

– Nếu sau này nữ hiệp gặp Trần Lữ, đừng hại y. Nữ hiệp hãy dùng những gì của nhà Phật hóa giải hết chất độc trong người y. Như vậy thí chủ cứu được nhiều người. Đại phúc đến với thí chủ. 

Chiều hôm đó Phương Dung được thám mã cho biết: 

– Quang-Vũ cử Ngô Hán cầm quân mặt Đồng-quan chống Thục. Còn Đặng Vũ giữ Nam-dương. Mã Viện đem quân phòng vùng Uất-lâm, Thương-ngô. 

Phương Dung nói với Công-tôn Tư: 

– Quang-Vũ rút khỏi Trường-an. Quân Hán còn chưa đầy mười vạn, so với quân Thục trên ba mươi vạn. Thái-tử chỉ giơ tay một cái là lấy được các thành trì xung quanh. 

Nàng chỉ lên bản đồ tiếp: 

– Sau khi lấy xong Quan-trung. Thái-tử chỉnh bị quân mã mấy năm sau chiếm Trung-nguyên. Chúng tôi rời đây về Lĩnh Nam phục quốc. Thái-tử phải cẩn thận, nếu không Hán đánh về phía sau Thái-tử. Chúng tôi sẽ theo sát Quang-Vũ. 

Công-tôn Tư, Tề-vương Tạ Phong sai làm tiệc tiễn đưa anh hùng Lĩnh Nam. Trong bữa tiệc, Sa Giang ngồi cạnh Công-tôn Tư nói nhỏ: 

– Sư huynh, tiểu muội được phụ thân chấp thuận cho theo Trưng Nhị. Tiểu muội không ở bên đại ca được. Vậy tiểu muội có đôi lời thưa riêng với đại ca. 

Rồi nàng thuật lại chi tiết lời nói của Lê Đạo Sinh, Mao Đông Các về việc Công-tôn Thi liên lạc với Hán, chính y làm gian tế của Hán. Cuối cùng nàng kết luận: 

– Giặc ngoài dễ đánh. Giặc trong khó trị. Mong sư huynh đề phòng. Anh em thực. Nhưng khi họ trở mặt, e trở tay không kịp. Sư huynh chắc không quên vụ Thái-tử Lịch Sanh chết oan? 

Công-tôn Tư cảm động: 

–Đa tạ sư muội. Ta sẽ nhớ kỹ lời sư muội. 

Phương Dung họp anh hùng Lĩnh Nam. Nàng đứng lên nói: 

– Hoàng sư tỷ bị bắt, chúng ta phải cứu ngay. Vậy những vị sau đây sẽ cùng tôi đi cứu Hoàng sư tỷ: Sư bá Trần Công Minh, Đặng Đường Hoàn, Tiên-yên nữ hiệp, Cao Cảnh Minh, Cao Cảnh Sơn, sư thúc Trần Năng, sư tỷ Giao Chi, sư muội Trần Quốc. Tất cả còn lại do sư bá Lương Hồng Châu, Đinh Công Thắng chỉ huy, đến hồ Động-đình chờ trước. 

Lục Sún hỏi: 

– Bọn chúng em đi đường nào? 

Phương Dung đáp: 

– Lục Sún đi Lạc-dương. 

Sa Giang hỏi: 

– Em đi cứu Hoàng sư tỷ hay đi hồ Động-đình? 

Phương Dung đáp: 

– Sư muội dẫn đường phái đoàn đi hồ Động-đình, để họ hỏi bỡ ngỡ. 

Phương Dung cho mọi người hóa trang làm binh lính Hán, đi Lạc-dương. Việc giả binh Hán rất dễ dàng, vì Phương Dung có đủ thẻ bài của tất cả các đạo quân Hán. Chỉ ba ngày sau, mọi người đã tới Lạc-dương. Lạc-dương là kinh đô mới của Quang-Vũ. Dân cư đông đúc. Nhà cửa mọc lên như nấm. 

Phương Dung an trí Lục Sún với đội Thần-ưng ở núi Bắc-mang. Nàng dặn các Sún không cho chim bay lượn nhiều, sợ thám mã Hán biết, e gặp khó khăn. Nàng nói với Đặng Đường Hoàn: 

– Sư bá tạm ở núi Bắc-mang cùng với Giao Chi, Giao long nữ, cai quản bọn Lục Sún với đội Thần-ưng. Chúng ta dùng Thần-ưng liên lạc với nhau. Việc trước mắt là dọ thám xem chúng giam Hoàng sư tỷ ở đâu? Khất đại phu với Đào tam lang đã làm gì? 

Lục Sún dầu sao cũng là đám thiếu niên, tính nhạy cảm. Từ hôm theo quân tòng chinh đến giờ, chúng đi với Trưng Nhị, Hồ Đề, Lê Chân. Trần Năng và Phật Nguyệt. Trong năm người, nhiều tình cảm nhất là Trưng Nhị với Phật Nguyệt. Nhưng họ không có thì giờ săn sóc chúng. Khi đổi mặt trận. Chúng theo đạo Trường-an, sống gần Hoàng Thiều Hoa nhiều nhất. Hoàng Thiều Hoa tuy chưa có con. Song nàng có kinh nghiệm chăm sóc cho Đào Kỳ, nên biết tâm lý Lục Sún. Vì vậy chị em sống bên nhau giữa chốn ba quân, mà tình ý thâm trọng. Từ hôm nàng bị bắt, Lục Sún khóc mấy ngày, rồi bản tính quật cường nổi dậy, chúng bàn định cách cứu Thiều Hoa, Phương Dung chưa cho chúng đi. Chúng nhất định đòi đi ngay. Phương Dung đem quân luật ra bắt chúng phải ở núi Bắc-mang. Bề ngoài chúng tuân lệnh. Trong lòng chúng phản đối. 

Sún Rỗ kêu lên: 

– Bất công, em phản đối sư tỷ Phương Dung. Đi cứu Hoàng sư tỷ mà không cho Lục Sún đi là cớ gì? Nếu vậy Lục Sún sẽ đi riêng. Lục Sún vào hoàng cung bắt sống hoàng-hậu, công-chúa, thái-tử... đem đổi cho Quang-Vũ lấy Hoàng sư tỷ. Nếu Quang-Vũ làm Hoàng sư tỷ đau đớn, Lục Sún cũng làm người của Quang-Vũ như vậy. 

Trần Năng an ủi Lục Sún: 

– Các sư đệ ngoan ngoãn mới được. Đây là kinh đô Lạc-dương. Nếu Lục Sún làm ồn lên chỉ nguyên mấy vạn thị-vệ cũng đã giết hết chúng ta, còn ai cứu Hoàng sư tỷ nữa? 

Trần Công Minh vốn tính nóng nảy quát mắng: 

– Lục Sún không được ồn ào. Phải tuân lệnh sư tỷ Phương Dung, nếu không phải đòn. 

Tâm lý trẻ con bao giờ cũng thế. Khi thấy điều gì không vừa ý, chúng phản đối một cách tự nhiên. Người lớn cần giải thích cho chúng đúng lý, chúng mới chịu tuân theo. Còn dùng uy quyền, áp lực chúng nín chịu, nhưng rồi khi vắng mặt người lớn chúng sẽ hành xử theo ý chúng. Lục Sún thấy sư bá quát mắng. Chúng nhìn nhau, không nói gì, nhưng trong lòng nổi lên một cơn giông tố. 

Chúng đợi cho Phương Dung cùng mọi người đi rồi, lấy mắt ra hiệu cho nhau, cùng lên chỏm núi hội nghị. Nguyên Lục Sún xuất thân là những trẻ mồ côi, cha mẹ chúng bị người Hán giết chết. Chúng bơ vơ, được Hồ Đề đem về nuôi nấng, dạy dỗ từ nhỏ. Chúng chơi với nhau thân như ruột thịt, nghịch ngợm không biết đâu mà lường. 

Sau khi ngồi xuống sáu tảng đá khác nhau, Sún Lé nói: 

– Hoàng sư tỷ bị Quang-Vũ bắt đi đã lâu không có tin tức gì. Bây giờ chúng ta cho Thần-ưng trinh sát đi tìm xem sư tỷ bị giam ở đâu? Vậy chúng ta cùng vào thành Lạc-dương một lúc. 

Sún Rỗ tiếp: 

– Sư tỷ Phương Dung có mang theo năm Thần-ưng đưa tin. Vậy chúng ta thấy chúng bay lượn ở đâu, tránh chỗ đó, không thể để sư tỷ bắt được. Sư tỷ bắt được, sẽ đuổi chúng ta trở lại đây mất. Không chừng còn bị phạt nữa là khác. 

Sún Cao hỏi: 

– Từ đây vào thành Lạc-dương cũng hơi xa. Chúng ta phải dùng ngựa mà đi. Vào thành rồi chúng ta mới dọ thám. Nhưng chúng ta lấy tiền đâu trả nhà trọ, mua cơm ăn? Chúng ta học nói tiếng Hán, nhưng giọng nói của chúng ta là giọng Trường-sa. Hay chúng ta phải giả làm ăn mày để bọn Hán không biết. 

Sún Lé lắc đầu: 

– Giả ăn mày thế nào được? Chúng ta đi ngựa mà giả ăn mày ư? Bây giờ chúng ta lấy những bộ quần áo đẹp Hoàng sư tỷ may cho mặc vào. Người Hán thấy chúng ta ăn mặc đẹp, cưỡi ngựa, đeo ngọc đầy người tưởng chúng ta là con vua chúa mới thú. 

Nó lấy tay nải, moi ra cái túi, mở miệng túi: Trong túi đầy ngọc trai ngọc bích, hồng ngọc, vàng bạc không thiếu gì. Nguyên hôm đánh thành Ngọc-đế, chiếm được kho tàng Thục. Trưng Nhị chở về Lĩnh Nam. Sún Lé nhanh tay, bốc lấy một ít cho vào túi. Nó có ý định rằng về Lĩnh Nam làm quà cho bạn bè. Bây giờ nó đưa ra, làm các Sún khác reo hò mừng rỡ. 

Lục Sún cũng như Hồ Đề, đi đâu cũng đều mang theo mỗi người vài con trăn, mấy con rắn, rết, bò cạp, nhện thực độc phòng thân. Trong 600 Thần-ưng của Lục Sún, chúng cũng luyện một đội đặc biệt hai chục Thần-ưng cực kỳ tinh khôn, để hộ vệ. Trong hai chục Thần-ưng nầy. Hồ Đề mang theo mười con, còn lại mười lúc nào chúng cũng mang theo bên cạnh, để sai vặt. Khi thì đưa thư, khi thì hái hoa quả, khi thì phơi quần áo. 

Sún Hô bàn: 

– Bây giờ chúng ta cứ ngoan ngoãn ăn cơm rồi đi ngủ. Đợi trời gần sáng hãy lấy ngựa đi. Như vậy sư bá Đặng Đường Hoàn không biết đã đành, đến sư tỷ Giao Long cũng không ngờ tới. 

Chúng ăn cơm rồi mắc võng, leo lên ngủ. Tới nửa đêm, Sún Lé thức giấc trước. Nó đánh thức từng đứa một, lén lấy ngựa ra đi. Trời gần sáng tới thành Lạc-dương, vừa đúng lúc thành mở cửa. Chúng cưỡi ngựa ngao du khắp phố phường. Lần đầu tiên chúng được đi chơi trong một thành phố náo nhiệt như vậy. Cái gì đối với chúng cũng hay cũng lạ hết. Trong khi chúng đi, trên trời mười con Thần-ưng cứ là là trên cao. Gặp cây nào đậu cây ấy. Đi đến trưa, chúng bắt đầu đói. Sún Lé bàn: 

– Chúng ta vào tửu lầu đánh chén một bữa đã, rồi sẽ tìm cách sai Thần-ưng đi dò tin tức Hoàng sư-tỷ. 

Sún Rỗ hỏi: 

– Phải đem vàng đi đổi tiền đã? 

Sún Lé móc trong túi ra một nén vàng: 

– Không cần, cứ đưa cái này ra, nhà hàng sẽ đổi tiền cho mình. 

Bốn đứa tìm đến một tửu lầu, nhà hàng thấy sáu thiếu niên trang phục sang trọng. Lưng đeo cung tên, bảo kiếm, tưởng rằng thiếu niên con quan lớn. Họ sai tửu bảo chạy ra đón. Tửu bảo chia nhau đứa cầm cương, dắt ngựa ra sau cho ăn cỏ. Đứa cúi rạp người xuống mời Lục Sún. 

Khi khởi hành từ Lĩnh Nam, Hồ Đề cho Lục Sún mặc theo lối người rừng. Trông rất quê kệch. Từ ngày bọn Lục Sún theo Hoàng Thiều Hoa đến giờ. Nàng ra lệnh may cho chúng mỗi đứa hàng chục bộ quần áo sang trọng. Thiều Hoa từng là đệ tử yêu của Đào Thế kiệt, nàng sống trong nhung lụa đã quen. Sau này làm vợ Nghiêm Sơn, một vị Lĩnh-nam công, uy quyền bao la, muốn gì được nấy, nàng sống nếp sống đài các đã lâu. Nàng đánh cho mỗi Sún mấy cái vòng chân, đeo vàng, ngọc đầy người, khiến bọn tửu bảo trông thấy tưởng chúng là con nhà vương tôn, đưa chúng lên bàn chưng hoa rất đẹp. 

Chủ nhân tửu quán đến khoanh tay hỏi: 

– Không biết các vị công tử dùng gì? 

Sún Cao rành về ăn uống. Nó đã ăn với Hoàng Thiều Hoa, nên biết món ăn ngon. Nó nói: 

– Trước hết cho tôi sáu bát Vi-yến nấu với trứng gà. Sau đó cho sáu con cá-chép chưng thập-cẩm, sáu con gà nướng ngũ-vị hương, mười hai con bồ-câu quay dòn. Trái cây có thứ nào tươi tốt nhất, đắt nhất mang ra đây. 

Sáu đứa ngồi ăn uống giữa tửu lầu lớn nhất kinh đô Lạc-dương, nghênh ngang coi thiên hạ bằng nửa con mắt. Ăn nửa chừng, có tiếng hô: 

– Tránh ra, nhường chỗ cho các quan lớn. 

Bọn Lục Sún chú ý nhìn: năm quân nhân Hán, mặc theo lối Thị-vệ hoàng cung, rồi cùng ngồi vào bàn gần đấy. Lát sau thêm một nho sinh tới nữa là sáu. Một Thị-vệ mặc quần áo đội-trưởng, gọi chủ quán lại gần hỏi: 

– Bọn trẻ con nào vậy? 

Chủ quán đáp khẽ: 

– Không rõ! Sáu vị công tử cùng cỡi ngựa đến đây. Thấy cách phục sức, tôi đoán họ là vương tôn, công tử chứ không phải thường. Họ kêu toàn món ăn rất đắt tiền. 

Người đó nói sẽ: 

– Ngoài bọn sáu người ra, tuyệt đối không cho ai lên lầu này nữa nghe! 

Chủ quán cúi rạp người xuống tỏ ý vâng lệnh. Sún Lé nói khẽ bằng tiếng Việt: 

– Này! Chúng mày không được lên tiếng. Để tao muốn làm gì thì làm nghe, nếu không lộ mặt nạ hết. 

Nói rồi nó gọi chủ quán: 

– Cho ra một bình rượu thực ngon lên đây. 

Chủ quán hơi ngạc nhiên đôi chút, rồi cũng đưa lên một bình rượu lớn. Sún Lé cầm bình rượu lại bàn của sáu người Hán. Nó đến bên đội-trưởng cúi đầu chào nói: 

– Bọn tiểu đệ nhân ngày xuân, muốn kính mời quí huynh một chung rượu lạt, gọi là duyên may gặp gỡ giữa đường. Mong quí vị không chê bọn tiểu đệ hủ lậu quê mùa. 

Đội trưởng bọn thị vệ hơi bỡ ngỡ. Y nhìn thấy Sún Lé đeo vàng, ngọc, đầu để tóc dài, nước da đen, trông rắn rỏi khỏe mạnh, có thiện cảm. Y nói: 

– Đa tạ tiểu huynh đệ. Chúng tôi xin nhận. 

Sún Lé cầm bình rượu rót ra từng chung mời bọn họ uống. Nho sinh uống rồi hỏi: 

– Chẳng hay các tiểu huynh đệ là công tử của vị vương tôn đại thần nào vậy?

Sún Lé cười: 

– Bọn tiểu đệ họ Lưu, đều ở Trường-sa. Bọn tiểu đệ về đây chúc mừng sinh nhật một người. Thú thực trông thấy các vị đại ca, bọn đệ cảm tình lắm. Nhưng tiểu đệ không dám nói người mà bọn tiểu đệ chúc mừng sinh nhật. 

Bọn thị vệ nghe vậy, đoán bọn trẻ nầy là con cháu bậc vương tôn. Vì chúng biết Quang-Vũ sinh trưởng ở Trường-sa. Bề trên chúng họ Lưu thì đúng là quốc thích rồi. 

Sún Lé hỏi đội trưởng: 

– Chẳng hay quí tính các đại huynh đây là gì? Hiện thuộc cơ đội nào trong hoàng-cung? 

Đội trưởng thấy Sún Lé hỏi đúng khuôn phép, càng tin đây là đám vương-tôn thực. Y nói: 

– Tiểu huynh họ Mã tên Huy. Còn năm vị này thuộc đội Thị-vệ hầu cận thái-hậu. 

Sún Lé cười: 

– Thì ra đại huynh là ngoại thích đây. Chắc đại huynh con cháu của Mã thái-hậu hẳn. Còn bốn vị đại huynh đây chắc ở Trường-an mới về? 

Rồi hắn ta nói với chủ quán: 

– Tất cả tiền cơm, rượu của sáu vị, tính về ta. 

Mã Huy tuyệt không ngờ, đứa trẻ này lại hào hoa như vậy. Y nói mấy câu cám ơn, rồi giới thiệu: 

– Năm vị Thị-vệ này quả mới từ Trường-an về. Suốt mấy ngày qua các vị phải trông coi một tù nhân. Hôm nay mới được rảnh rỗi ra đây uống rượu. 

Sún Lé giật mình nghĩ: 

– Binh Thục bị Hán bắt rất nhiều. Đều giữ ở Đồng-quan. Vậy tù nhân mà năm thị vệ gác này là ai? Không lẽ là Hoàng sư tỷ? 

Nó lại gọi thực nhiều rượu, gọi cả năm Sún lại. Mỗi đứa thay nhau mời một tuần rượu. Bọn thị vệ uống đủ sáu tuần rượu, đã bắt đầu ngà ngà say. 

Một tên nói: 

– Mã đội trưởng! Thú thực từ ngày tôi ra đời đến giờ, chưa bao giờ thấy một người đẹp đến như người này. Hoàng-thượng lệnh chúng tôi giữ nàng, cấm không được hành hạ. Dường như ngài định tuyển nàng làm chánh cung nương nương thì phải. Chứ sao nàng là tù nhân, mà được cung phụng đủ thứ như vậy? 

Sún Lé giật mình, biết rằng tù nhân mà chúng giữ đúng là Hoàng Thiều Hoa rồi. Nó lờ đi làm như không biết, chỉ vào bức tranh Tây Thi treo trên tường hỏi: 

– Đại huynh! Người đàn bà đó có đẹp bằng Tây Thi không? 

Tên Thị-vệ cười: 

– Đẹp gấp vạn lần. Võ công nàng cao vô cùng. Chúng ta được lệnh phải xích nàng rất cẩn thận. 

Sún Lé lắc đầu: 

– Tôi không tin trên đời có người đẹp hơn bức tranh Tây Thi kia. Này đại huynh, người cho chúng tôi nhìn một cái, nếu quả thật như đại huynh nói đẹp hơn tranh Tây Thi tôi sẽ tặng đại huynh vật này. 

Nó thò tay vào bọc, móc ra một chuỗi ngọc trai đến mấy trăm hột. Nguyên chuỗi ngọc này nó lấy trong kho tàng tại thành Bạch-đế, nó cất giữ tới nay mới đưa ra. 

Tên thị vệ lắc đầu: 

– Chúng ta dù có đến một ngàn cái đầu cũng không dám cho các chú coi. Vì người này hiện giữ ở phủ Hoài-nam vương phía Đông thành. 

Hồi 30 Thiên địa hữu chính khí. (Văn Thiên Tường)

Nghĩa là: 

Trong trời đất, vốn sẵn có chính khí.

Sún Lé làm mặt khẩn khoản: 

– Có khó gì, đại huynh bảo tôi là tiểu thái-giám. Được sai đến hầu hạ vương-phi, còn ai dám thắc mắc nữa? 

Đội trưởng Mã Huy cười: 

– Các chú còn nhỏ tuổi mà cũng thích nhìn giai nhân à? Chú nói đúng! Mã thái-hậu thường sai cung-nữ, thái-giám đưa thức ăn tới cho vương-phi. Nếu chú giả làm thái-giám thì được. Gần đây có tiệm bán quần áo thái giám. Để tôi mua cho chú một bộ mặc. Đố ai dám nghi ngờ nữa? Người đẹp bị giam ở phủ Hoài-nam vương. Mọi liên lạc với vương phủ, do thái-hậu quyết định: Nào là cử thị-vệ canh gác. Sai cung-nga, thái-giám hầu hạ. Cho đến cơm nước hàng ngày, cũng mang từ hoàng-cung sang. Nàng ta làm phản triều đình bị cầm tù. Khắp thành Lạc-dương ai cũng biết, đâu có gì bí mật mà sợ. 

Thấy chuỗi ngọc có uy lực biến Mã Huy từ tên thị-vệ mẫn cán, thành tên thị vệ dễ sai. Sún Lé được thể, móc trong túi ra bốn viên ngọc thạch màu xanh biếc. Nó trao tận tay cho bốn tên thị-vệ còn lại nói: 

– Đây là món quà nhỏ tặng các đại ca. Tôi nói thực cho các đại ca nghe cũng không sao. Chúng tôi là quốc thích, được tập ấm. Đại ca giúp chúng tôi coi mặt người đàn bà ít có trên đời này một lần cho thỏa chí, tôi rất đội ơn. 

Mã Huy nói: 

– Nếu vậy chỉ mình chú em coi thôi à? 

Sún Lé gật đầu: 

– Tụi kia nó chỉ thích ăn, nô đùa, một mình tôi tính phong lưu thích coi mà thôi. 

Nó quay lại nói với năm Sún: 

– Chúng mầy ở lại đây chờ tao. Tao đi một lát, sẽ về ngay. 

Nó móc túi quăng lại mấy thỏi vàng cho Sún Rỗ, dặn: 

– Cầm lấy mà trả tiền cơm, rượu. Nhớ tặng cho tửu bảo ít tiền nghe. 

Nó gọi tửu bảo lấy ngựa. Trước khi lên đường, nó nhét vào tay tửu bảo một nén bạc. Thời bấy giờ một nén bạc ăn 1800 đồng tiền. Lương tửu bảo mỗi tháng khoảng năm chục đồng là cao. Tửu bảo tự nhiên được một món phát tài lớn, cúi rạp người xuống tạ ơn nó. Mã Huy thấy Lục Sún còn nhỏ tuổi, trong người đầy vàng ngọc. Tin rằng chúng là công tử, vương tôn. Không nghi ngờ nữa. 

Sún Lé lên ngựa, theo bọn Mã Huy. Đến phía đông thành, chúng dẫn Sún Lé vào một dinh uy nghi, rộng lớn. Nhìn lên thấy chữ Hoài-nam vương phủ, nó nghĩ thầm: Hoài-nam vương tên Lưu Quang được đời tôn hiệu Thái-sơn thần kiếm. Hiện là Tướng quốc, coi hết quân đội trong tay. Trước đây ông đấu kiếm với sư tỷ Phật-Nguyệt bị thua. Trong trận đánh Trường-an, ta thấy ông một lần, tất ông cũng thấy ta. Nay gặp lại vị tất ông đã nhận ra, dù sao cũng cần tránh mặt ông, để khỏi lôi thôi. Với bản lĩnh của ông, dù trăn, dù rắn, dù Thần-ưng, cũng không địch lại. 

Đi qua ba lần cổng, mới vào hẳn trong dinh. Phủ Hoài-nam vương rộng lớn uy nghi, không kém gì hoàng-thành của vua. Mã Huy dẫn nó đến dãy nhà thứ chín, đi ra phía sau. Chỉ vào một căn nhà lớn, phía trước cái hồ nhỏ. Trong vườn trồng hoa, nói: 

– Người đẹp bị giữ trong đó. Lát nữa có người mang đồ ăn tới cho nàng. Ta bảo họ để chú mang vào. Chú tha hồ mà nhìn. 

Sún Lé ngạc nhiên: 

– Giai nhân là tù binh, sao không bị giam ở nhà ngục, mà giữ trong khu vực sang trọng thế này. 

Mã Huy cười: 

– Chú không biết đấy thôi. Người đẹp là Vương phi của Lĩnh-nam vương. Lĩnh-nam vương vốn bạn của hoàng-thượng. Không hiểu sao mới đây vương chống hoàng-thượng bị hoàng-thượng bắt giam. Vương-phi mang quân đánh Trường-an, cũng bị bắt. Hoàng thượng muốn giữ vương-phi, dường như để trao đổi với Thục hay Lĩnh Nam. 

Hai người ngồi nói chuyện đến trưa, có hai cung-nga, ba thái-giám đến. Chúng mang theo hai cái quả. Một cung nga nói: 

– Mã đội trưởng. Thái-hậu truyền đem cơm cho Lĩnh-nam vương-phi ăn. 

Mã Huy bảo: 

– Các ngươi cứ để đó. Sẽ có người mang vào cho vương phi. 

Bọn cung-nga, thái-giám để hai cái quả lại, rồi ra đi. 

Mã Huy bảo Sún Lé: 

– Phía trong còn hai lần cửa, đều có cung-nga ngồi chầu, để vương-phi sai bảo. Chú giả làm thái-giám, đưa cơm cho vương-phi. Chú đứng cạnh hầu vương-phi ăn cơm, tha hồ nhìn no mắt. Vương phi ăn xong, chú bưng bát dĩa ra. 

Sún Lé vâng dạ, bưng mâm cơm, rẽ mành mành bước vào, qua hai lần cửa đều có cung nga ngồi chầu chực. Vào đến cửa thứ ba, là một căn phòng lớn, trang trí hoa lệ. Nó liếc nhìn xem Thiều Hoa ở đâu, mà không thấy. Phía cuối phòng còn lần cửa nữa. Nó đoán: 

– Chắc Hoàng sư tỷ ở trong đó. Ta cứ đứng đây chờ. Lát sau sư-tỷ ra ăn cơm. Thình lình ta lên tiếng. Làm sư tỷ giật mình chơi. 

Một lát sau, có tiếng thở dài não ruột. Tiếng dép lẹp kẹp từ phòng trong ra. Hoàng Thiều Hoa mặc bộ quần áo lụa vàng rất đẹp, mặt nàng bơ phờ, tóc rối, tay chân bị khoá bằng xích sắt lớn, nàng ngơ ngẩn xuất thần, tưởng Sún Lé là tiểu thái giám. Nàng vẫy tay: 

– Ngươi mang cơm ra đi, ta không ăn đâu. 

Nói rồi nàng ngồi xuống bàn. Sún Lé đến phía sau nàng. Nó ghé miệng sát vào tai nói nhỏ bằng tiếng Việt: 

– Nếu sư tỷ không ăn thì em ăn một mình. Em đói lè lưỡi ra rồi đây. 

Thiều Hoa giật bắn mình quay lại, thấy Sún Lé nàng suýt kêu thành tiếng. Nàng vừa mừng vừa cảm động, ôm lấy đầu nó, không nói lên lời. 

Sún Lé nói: 

– Chúng em đến cứu sư tỷ. Sư tỷ thấy Lục Sún ghê chưa? 

Hoàng Thiều Hoa lắc đầu: 

– Khó lắm. Ở đây chúng canh phòng rất nghiêm ngặt, con chim bay ra cũng không lọt, làm sao thoát ra? Sư đệ làm cách nào lọt vào trong nầy? 

Sún Lé cười: 

– Lục Sún là con cháu Phù-đổng Thiên-vương. Làm gì mà chẳng thành công. Thôi chúng ta trốn đi ngay. Không bị lộ bây giờ. 

Nó móc trong bọc ra một cái búa bổ củi loại nhỏ, định chặt xích khóa chân tay cho Thiều Hoa: 

– Em chặt xích, rồi gọi Thần-ưng nó tới đánh thị-vệ. Sư tỷ với em nhân đó trốn ra ngoài. 

Thiều Hoa lắc đầu: 

– Không được đâu. Đây là dinh của Hoài-nam vương. Cao thủ đông như kiến cỏ, trong đó có cả Tương-dương cửu hùng, Ngũ-phương thần kiếm. Chỉ cần hô một tiếng, chúng kéo đến, em mất mạng, mà sư tỷ cũng không thoát được. Vô ích. 

Thiều Hoa hỏi tình hình bên ngoài. Sún Lé kể hết những gì đã xảy ra, nhất là những điều Sa Giang nói về mặt trận Kinh-châu. Thiều Hoa nghe mặt tươi hẳn lên. Nàng bảo Sún Lé: 

– Thế là Lĩnh Nam được phục hồi. Mọi việc coi như xong. Sư đệ, dù ta có chết cũng vui lòng. Bây giờ sư đệ hãy ra ngoài, tìm sư tỷ Phương Dung, bàn kế hoạch cứu ta thì hơn. 

Nghe đến tên Phương Dung, Sún Lé chột dạ, cúi mặt làm thinh. 

Hoàng Thiều Hoa thấy có gì khác lạ hỏi: 

– Sao? Em muốn chị trốn chạy ngay à? 

Nguyên Phương Dung cầm quyền quân sư, nàng luôn duy trì kỷ luật với bộn Lục Sún. Lục Sún là sáu đứa trẻ ở trên rừng, sống tự do đã quen. Muốn gì là làm. Phương Dung thường phải khắt khe với chúng. Mỗi khi nàng ra lệnh. Không cho chúng có ý kiến. Bắt thi hành đã. Sau khi thi hành xong mới được thắc mắc. Bây giờ Phương Dung an trí chúng ở núi Bắc-mang. Đang đêm chúng trốn đi thế này, chắc chắn nàng sẽ hỏi tội, trách phạt chúng. Thế mà Thiều Hoa bảo chúng trở về bàn với Phương Dung! Thấy Sún Lé ấp úng không trả lời, Thiều Hoa hỏi qua tin tức Trần Tự Sơn, Đào Kỳ. Sún Lé lắc đầu nói: 

– Em không rõ. Tất cả mọi người mới tới Lạc-dương, đi thám thính ngay. Không biết từ hồi ấy đến giờ, Trần đại ca, Đào đại ca đã làm gì ở đâu? Họ đã tìm được thuốc giải Huyền-âm độc chưởng chưa? Họ đi tìm Hàn Tú Anh để bảo vệ, thì không thấy. Còn đạo Kinh-châu không tìm, lại gặp. Họ lo tìm cách lấy thuốc giải cứu sư bá Tiên-yên, thì Bồ-tát Tăng Giả Nan Đà đã truyền Thiền Công, để sư bá tự giải độc. 

Hoàng Thiều Hoa hỏi: 

– Sư tỷ Trưng Nhị triệu tập anh hùng đại hội ở hồ Động-đình vào ngày 15 tháng 3, đại cáo việc phục hồi Lĩnh Nam. Vậy chỉ các anh hùng tòng chinh hay tất cả anh hùng trong nước tham dự? 

Sún Lé đáp: 

– Triệu tập hết. Mục đích đại hội là: Đọc di chiếu của vua An-Dương, đại-cáo phục quốc. Ban hành chính sách đại cương của Lĩnh Nam. Cử Trần đại ca làm hoàng-đế. Như vậy chị là hoàng-hậu Lĩnh Nam. Không biết bọn em sẽ làm gì? Tiểu vương Tây-vu chăng? 

Hoàng Thiều Hoa xoa đầu nó: 

– Chị biết Trần đại-ca không làm hoàng-đế Lĩnh Nam đâu. Chiếu chỉ của vua An-Dương nói rõ: Con cháu Phương-chính hầu suất lĩnh anh hùng, con dân Lĩnh Nam phục quốc. Khi nước phục hồi rồi, lập tức đại hội, cử người tuấn kiệt lên làm hoàng-đế. Tuyệt đối Trần đại-ca không được làm vua. 

Sún Lé gật đầu tỏ ý thông hiểu: 

– Sau đó Trần đại-ca với sư tỷ làm gì? 

Thiều Hoa lơ đễnh nhìn vần trời xuân, ánh nắng ban mai ấm áp, nói: 

– Ngao du thắng cảnh. Còn các em định làm gì? 

Sún Lé lắc đầu: 

– Từ bé, sư tỷ Hồ Đề dạy chúng em phục quốc. Lúc nào cũng nghĩ đến đánh đuổi giặc Hán. Bây giờ chả biết làm gì? Chắc bọn em trở về Tây-vu nuôi thú vật. Ở đó vui lắm. 

Thiều Hoa tát yêu nó: 

– Lĩnh Nam phục hồi. Chưa chắc Quang-Vũ để cho chúng ta yên. Chị nghĩ hoàng-đế Lĩnh Nam sẽ phong cho các em làm đại tướng quân, trấn thủ vùng Trường-sa, Nam-hải, phòng quân Hán. 

Sún Lé đã lớn. Từ hôm gặp Hoàng Thiều Hoa chúng được nàng dạy đọc sách. Chúng đọc đủ thứ binh thư của Thục, của Hán về luyện quân, xung phong, hãm trận. Tư tưởng của chúng đã trưởng thành. Chúng nhận chân được lời nói của Thiều Hoa. Sún Lé nói: 

– Trước kia, sư tỷ Trưng Nhị chuyên đem việc cử bọn em làm đại-tướng ra dọa, chúng em sợ mất vía. Bây giờ ngược lại, chúng em nghĩ những vị như Khất đại-phu, Nguyễn Trát, Nguyễn Tam Trinh mai đây sẽ già. Bọn con nít Trần Quốc, Sa Giang, Lục Sún lớn lên, phải đảm nhiệm việc quốc gia đại sự. À, em nói cho sư tỷ nghe: Chúng em đánh cuộc với Sa Giang. Cô ấy thua, tình nguyện về Lĩnh Nam với bọn em. Dường như giữa thằng Sún Rỗ với Sa Giang có tình ý với nhau. Chúng em biết, mà không dám trêu thằng Rỗ. 

Thiều Hoa biết Lục Sún đã lớn, bắt đầu biết yêu. Nàng mỉm cười: 

– Sa Giang nhu mì, lãng mạn. Sún Rỗ hào sảng cương quyết. Hai đứa mà thành vợ chồng thì tuyệt. 

Thình lình có tiếng hô uy nghiêm: 

– Thánh thiên tử giá lâm. 

Sún Lé hoảng kinh, nó mở túi đeo lưng, lấy một con trăn dài vung lên. Con trăn quấn vào cây xà nhà. Nó giật mạnh một cái. Người vọt lên cao. Nó nằm ép vào cây xà nhà ẩn thân. 

Quang Vũ đẩy cửa bước vào cùng với Hoài-nam vương Lưu Quang, Đặng Vũ, Mã Vũ. Lưu Quang hô: 

– Xin Lĩnh-nam vương phi tiếp thánh giá. 

Hoàng Thiều Hoa vẫn ngồi im bên mâm cơm, lơ đãng nhìn Quang-Vũ. Nàng cất tiếng nói: 

– Lưu Tú, người bắt được ra thì đem giết quách đi cho rồi. Ngươi giữ ta ở đây làm gì? Trước kia đại ca Tự Sơn với ngươi kết nghĩa huynh đệ. Nay ân đoạn, nghĩa tuyệt, không còn gì nữa. 

Quang-Vũ cười: 

– Vương phi nên biết rằng ngươi là nữ tướng làm phản. Ta bắt được, đương nhiên giết chết. Ta thấy nàng có sắc đẹp nghiêng nước ta vì thương hoa, tiếc ngọc, không nỡ giết. Ta giữ ngươi ở đây, chu cấp đủ tiện nghi. Ngươi ở tù mà sướng hơn hồi làm Lĩnh-nam vương phi. 

Hoàng Thiều-Hoa không ngờ Quang-Vũ nói câu đó. Nàng đưa mắt nhìn, thấy ánh mắt Quang-Vũ tiết ra tia lửa dục thèm thuồng, như muốn ăn tươi nuốt sống nàng. Quang-Vũ vẫy tay một cái. Lưu Quang và các tướng ra ngoài. Trong phòng chỉ còn Đặng Vũ với Quang-Vũ. 

Đặng Vũ nói: 

– Vương-phi có biết tại sao hoàng-thượng không giết vương-phi, ngược lại đối xử tử tế như thế này không? 

Hoàng Thiều Hoa lắc đầu: 

– Ta không biết. Bản tính y xưa nay lật lường, không tử tế với bất cứ ai. Ngay mẹ đẻ, y còn không nhận. Nay y đối xử tử tế với ta, chẳng qua y mưu đồ việc gì có lợi cho y mà thôi. Nhược bằng y thực tâm tử tế với ta, đã không khoá tay ta như thế này. 

Quang-Vũ đưa mắt nhìn Đặng Vũ: 

– Ngươi mở khóa cho Vương-phi. 

Đặng Vũ tâu: 

– Không nên, người này võ công rất cao. Mở xiềng ra, thần e y thị phạm giá rất khó đối phó. 

Quang-Vũ vẫn ra hiệu cho Đặng Vũ mở xiềng. Đặng Vũ cầm chìa khóa mở khóa chân, khóa tay cho Thiều Hoa, rồi đứng sang bên cạnh. 

Quang-Vũ cầm bình trà nóng, rót ra hai cái chung nói: 

– Trẫm mời vương-phi uống trà. 

Thiều Hoa cầm chung trà đưa lên miệng uống, nói: 

– Cám ơn ngươi. 

Quang-Vũ thở dài: 

– Nàng có biết trong người trẫm, có giòng máu hùng tài của đức Cao Tổ lại có giòng máu phong nhã của tiên-đế cùng thái-hậu không? 

Thiều Hoa gật đầu: 

– Dĩ nhiên ta biết chứ. Ta biết người, hơn người biết ta nữa. Phụ thân người tuy là Trường-sa vương, vẫn còn biết làm thơ, trốn ra ngoài thành hòa mình với kỹ nữ. Ông đã chiếm được lòng Hàn Tú Anh. Ta hỏi ngươi Hàn thái-hậu hiện tình ra sao? 

Quang-Vũ hỏi: 

– Nàng hỏi làm gì? Hàn thái-hậu có liên hệ gì tới người? 

Mắt phượng sắc như dao cau, Thiều Hoa liếc nhìn Quang-Vũ: 

– Thiên kinh, địa nghĩa. Cái đạo trị dân khắp thiên hạ, lấy chữ hiếu làm đầu. Có hiếu, mới có trung. Có trung anh hùng thiên hạ mới đem tính mạng ra giúp ngươi. Ngươi có mẹ, mẹ con xa nhau từ nhỏ. Hàn thái-hậu hy sinh cho ngươi biết bao nhiêu mà kể. Không có bà sai chồng ta đi cứu ngươi. Liệu hôm nay ngươi có còn sống được hay không? Giờ đây, bà bị không biết bao nhiêu cao thủ của Mã thái-hậu theo tìm giết. Ngươi thản nhiên ngồi hưởng lạc. 

Quang-Vũ cười lớn: 

– Ta là con đẻ, Tự Sơn là con nuôi. Ta bận quốc sự. Để Tự Sơn bảo vệ cho bà là đủ. Hôm ở điện Vị-ương, Tự Sơn nói với ta, y dẫn Khất đại-phu, Đô Dương, Đào Kỳ bảo vệ bà. Chỉ vẫn một Đào Kỳ, bất cứ cao thủ nào cũng không phạm đến bà được. Nàng đừng lo. 

Thiều-Hoa biết Quang-Vũ là đứa bất hiếu. Có nói nhiều cũng vô ích. Hỏi: 

– Ngươi cướp Tường Quy của Trương Minh Đức, rồi giết y. Ngươi tưởng ta cũng như Chu Tường Qui chăng? 

Quang-Vũ gật đầu: 

– Đúng đó. Hôm đối trận với nàng ở Trường-an. Ta thấy dung nhan nàng, hồn phách ta như biến mất. Ta ra lệnh cho Tương-dương cửu hùng bắt sống nàng. Hai người trong bọn họ bị mất mạng, ta suýt chết. Ta nghĩ, giá ta đổi cả giang sơn này để được nàng, ta cũng không tiếc. Vì vậy, ta vào đây bầy tỏ chân tình. Ta sẽ phong người làm chánh cung nương nương, cùng ta trọn hưởng vinh hoa phú quí. 

Thiều Hoa cười nhạt: 

– Ngươi là giống cầm thú! Vô liêm sỉ! Ngươi cướp vợ của tên Thị-vệ nhỏ bé Trương Minh Đức. Nhẫn tâm giết y để bịt miệng. Bây giờ ngươi lại muốn cưỡng ép ta. Ngươi biết ta là gái có chồng. Chồng ta là nghĩa đệ của ngươi. Ngươi thật như loài cầm thú. Ta nói cho ngươi biết, dù chết ta cũng thủ tiết với Tự Sơn đại ca. Ngươi đừng nhiều lời vô ích. 

Nghĩ đến công lao của chồng, vào sinh ra tử. Một tay gầy dựng nghiệp cho Quang-Vũ, bị y trở mặt. Nàng phóng một chưởng vào người Quang-Vũ. Nàng biết bên ngoài có nhiều nhiều cao thủ. Nếu phóng một chiêu không giết được y thì hỏng bét. Vì vậy nàng xuất chiêu Loa thành nguyệt ảnh của sư phụ dậy. Kình lực mạnh không thể tưởng tượng được. Đặng Vũ đứng cạnh, y hoảng kinh vung chưởng đỡ. Binh một tiếng, người y bật tung trở lại phía sau. Đụng vào tường đánh ầm một cái. 

Đúng ra với bản lĩnh học của Đào Thế Kiệt nàng không phải là đối thủ của Đặng Vũ. Bản lĩnh của Vũ ngang với Chu Bá, Đức Hiệp, kém Trần Tự Sơn, Đô Dương một bậc. Nhưng từ sau đại hội Hồ Tây. Nàng được Đào Kỳ dạy thêm. Hiện bản lĩnh nàng cao hơn Trần Tự Sơn nhiều. Trong đám nữ lưu Lĩnh Nam, nàng chỉ thua Nam-hải, Tiên-yên nữ hiệp mà thôi. Công lực nàng cao hơn Võ Phương Anh, Trưng Trắc, Trưng Nhị. Hơn nữa võ công Cửu-chân, khắc chế võ công Trung-nguyên, nên Vũ mới bị lạc bại. 

Nàng phóng chiêu thứ nhì vào người Quang-Vũ. Chưởng phong ào ào. Quang-Vũ kinh hãi là lên: 

– Mệnh ta hết rồi! 

Vừa lúc đó, một cái bóng xẹt cửa bước vào, vung chưởng đỡ đòn cho y. Người đó là Mã Vũ. Binh một tiếng vang dội, Thiều Hoa bật lùi đến hai bước. 

Còn Mã Vũ đứng nguyên. Thiều Hoa đã lấy lại được bình tĩnh. Nàng nghĩ: 

– Ta thà đấu chưởng với bọn chúng mà chết. Còn hơn để cho Quang-Vũ phạm đến ta. 

Nàng hít hơi, phóng một chưởng nữa. Chưởng phong ào ào tuôn ra. Đó là lớp thứ nhất của chiêu Hải triều lãng đãng. Mã Vũ tiến lên, đánh vào giữa chưởng của nàng. Binh một tiếng, cả hai lùi lại. 

Quang Vũ, Đặng Vũ cùng kêu lên một tiếng kinh ngạc: 

– Ủa! 

Vì bản lĩnh Mã Vũ ngang với Phùng Dị, Sầm Bành, mà cũng không thắng được Thiều Hoa. Chính Thiều Hoa cũng ngạc nhiên không ít. 

Chiêu này, do Thục An-Dương Vương chế ra, trước khi tự tử. Ngài nghĩ đến năm biến cố trong đời mình: Thửơ thiếu niên được bầu làm chúa vùng Tây-vu. Cử binh Tây-vu đánh vua Hùng. Suất lĩnh anh hùng đánh tan năm chục vạn quân Tần, giết Đồ Thư. Chế nỏ thần, đánh Triệu Đà. Cuối cùng vì nhẹ dạ, vì không biết dậy con, để mất nước. Trước cái thất bại, khí uất bốc lên, không chỗ phát tiết, mới chế ra năm lớp của chiêu Hải triều lãng đãng. 

Hoàn cảnh Thiều Hoa cũng gần như ngài: Suốt đời cũng chống chủ trương thần phục nhà Hán, lập đại công, xin Quang-Vũ phục hồi Lĩnh Nam. Quang-Vũ đã không cho thì chớ, còn bắt giam chồng. Nàng cầm quân đánh y, bị bắt cầm tù. Y còn dám vào tù buông lơi chọc ghẹo. Vì vậy lớp thứ nhất phát ra mạnh không thể tưởng tượng được. 

Mã Vũ chưa kịp phản ứng, Thiều Hoa phát lớp thứ nhì. Mã Vũ tiến lên vận đủ mười thành công lực đỡ. Binh một tiếng nữa, đồ đạc trong phòng bay ngổn ngang. Mã Vũ lui lại một bước. Đặng Vũ, Quang-Vũ bật lui khỏi phòng. Thiều Hoa phát lớp thứ ba. Chưởng chưa ra, mà gió lộng ào ào. Mã Vũ kinh hoàng, lui lại, vừa lúc đó Hoài-nam vương bước vào cùng vận súc đỡ với Mã Vũ. Binh, Thiều Hoa cảm thấy như trời long đất lở. Nàng lui lại ba bước. Còn Hoài-nam vương. Mã Vũ rung động toàn người. 

Thiều Hoa định phóng lớp thứ tư. Thì có tiếng hô: 

– Khoan! Xin Vương-phi bớt giận. 

Năm người cùng xuất hiện. Họ là Ngũ-phương thần kiếm. 

Hoàng Thiều Hoa thấy Ngũ-phương thần kiếm, nói mát: 

– Trước đây Ngũ kiếm bị nạn. Đào tiểu sư đệ của tôi cứu Ngũ kiếm. Ngũ kiếm nói rằng: Sau nầy Đào gia muốn gì Ngũ kiếm nguyện tuân theo. Thế mà trong trận đánh Trường-an. Ngũ kiếm trợ giúp Quang-Vũ bắt tôi. Hôm nay giữa lúc Quang-Vũ định xâm phạm tiết hạnh tôi. Mã Vũ, Lưu Quang hai người đánh một. Ngũ kiếm còn trợ giúp chúng, thế thì cái hiệp, cái nghĩa để đâu? 

Hoàng Kiếm chắp tay thi lễ với mọi người, đáp: 

– Vương phi bớt giận. Chúng tôi cần tới đây, nêu cao cái nghĩa trong thiên hạ. Chúng tôi là năm anh em ở Quan-trung, dấy nghĩa phù Cảnh-Thủy hoàng-đế, diệt Vương Mãng. Đó là việc nghĩa. Triều đình cử chúng tôi sang Lĩnh Nam xét việc Vương-gia, xem có đúng Vương-gia phản triều Hán không? Chúng tôi thấy rằng không. Triều Hán muốn chúng tôi làm khó dễ Vương-gia. Ngược lại chúng tôi giúp Vương-gia, giúp dân Việt phục hồi đất nước. Đó là hiệp. Chúng tôi cùng Tiên-yên nữ hiệp về Trường-an xét tội quần thần nhà Hán. Giữa lúc Thục đánh Hán. Trong con mắt chúng tôi, Thục là giặc. Chúng tôi đánh Thục. 

Bạch Kiếm tiếp: 

– Chúng tôi đến dinh Hoài-nam vương, cứu vương-phi. Gặp giữa lúc vương-phi đấu cùng Hoài-nam vương, Mã Vũ, chúng tôi phải can. Vương-phi nhớ dùm: Không phải người Hán nào cũng là Tô Định, là Mã thái-hậu. Chúng tôi giúp dân Việt. Tại đây có hai người cảm tình với Lĩnh Nam là Bô-lỗ đại tướng quân Mã Vũ và Hoài-nam vương. Vì vậy thấy vương-phi xuất chiêu đấu với họ. Tôi sợ hai bên tổn nguyên khí, hại đến tình Hán-Việt. Mới lên tiếng cản vương-phi. 

Thiều Hoa lui lại, chắp tay xá: 

– Tôi nói quá lời. Mong Ngũ kiếm rộng dung. 

Hoàng Kiếm nói với Quang-Vũ: 

– Lĩnh-nam vương với bệ hạ có kết tình huynh đệ. Tình ấy đã tuyệt ở điện Vị-ương. Đó là chuyện cũ. Còn một tình nữa không tuyệt được: Đó là tình con một mẹ. Bệ hạ là con Hàn thái-hậu. Lĩnh-nam vương là con nuôi. Hai vị là anh em. Có đúng vậy không? 

Quang-Vũ gật đầu: 

– Đúng thế! 

Hoàng Kiếm cười nhạt: 

– Đạo Quân, Thần, Phụ, Tử của đức Khổng Tử là giềng mối cho nhà Đại-hán. Lĩnh-nam vương-phi là em dâu của bệ hạ. Sao bệ hạ lại vào đây trêu ghẹo người? Vua không giữ đạo, mong gì có bề tôi trung lương? 

Mặt Quang-Vũ tái nhợt nhạt. Y nhìn Mã Vũ, Đặng Vũ, Hoài-nam vương, thấy nét mặt của họ hiện ra vẻ đồng ý với lời kết tội của Hoàng Kiếm. Y là người xảo quyệt, quyết đoán mau lẹ. Y nói: 

– Trẫm biết lỗi. Cổ nhân nói: Hữu quá tắc cải. Nghĩa là gặp việc sai thì sửa đổi. 

Quang-Vũ liếc mắt nhìn Thiều Hoa, rồi cùng bọn Hoài-nam vương ra ngoài. Ngũ-phương thần kiếm nói với Thiều Hoa: 

– Thưa vương-phi, tôi sẽ tìm đủ cách, bắt triều Hán thả Vương phi ra. Nếu họ không tha. Tôi sẽ cứu vương-phi. 

Ngũ kiếm chắp tay xá Thiều Hoa, ra ngoài. 

Họ ra khỏi một lát thì Mã Huy bước vào hỏi Thiều Hoa: 

– Tâu vương-phi, viên thái-giám nhỏ vào hầu vương-phi đâu rồi. 

Hoàng Thiều Hoa đáp: 

– Y đã đi ra cùng với Quang-Vũ rồi. 

Mã Huy kinh hoảng vội chạy ra ngoài. 

Sún Lé từ trên cao nhảy xuống. Nó cươi khì khì: 

– Súyt nữa sư tỷ giết được Quang-Vũ. 

Nó lấy cơm cho Thiều Hoa ăn. Thiều Hoa vừa dụng võ, có hơi đói, nàng ăn rất ngon lành. Ăn xong nàng giục Sún Lé: 

– Em ra ngoài bàn kế cùng sư tỷ Phương Dung cứu chị mau. 

Sún Lé lắc đầu: 

– Nếu em là sư tỷ, em sẽ giả vờ ưng Quang-Vũ, rồi lợi dụng lúc gần y với thái-hậu, vung chưởng giết chết cả hai, có phải được việc không? Vậy thế nào Quang-Vũ cũng đến nữa, sư tỷ giả bộ ưng đi nghe. 

Vừa lúc đó có tiếng hô lớn: 

– Thái-hậu giá lâm. 

Sún Lé chui tuốt vào gầm giường. Ngoài cửa một mệnh phụ và mấy thị-vệ bước vào, đội trưởng thị-vệ Mã Huy quì xuống khấu đầu: 

– Tiểu nhân Mã Huy xin tiếp thánh giá thái-hậu. 

Người mệnh phụ, tức Mã thái-hậu vẫy tay: 

– Ngươi ra ngoài canh gác. Nếu không có lệnh của ta, tuyệt đối, không cho bất cứ ai vào. 

Mã Huy ra ngoài, trong lòng hồi hộp. Y sợ lỡ Mã thái-hậu khám phá ra Sún Lé e cái đầu y không còn. 

Mã thái-hậu cùng với hai người con gái, một thị-vệ già vào phòng. 

Hoàng Thiều Hoa ngồi trên giường, lơ đãng nhìn đi chỗ khác. 

Gã Thị-vệ già nói lớn: 

– Thái-hậu giá lâm. Xin Lĩnh-nam vương-phi tiếp giá. 

Hoàng Thiều Hoa nhìn ra, thấy một thiếu phụ tuổi năm mươi, dáng người đậm đà, phục sức sang trọng. Nàng thản nhiên: 

– Phải chăng bà là Mã thái-hậu. 

Mã thái-hậu gật đầu: 

– Còn ngươi có phải Lĩnh-nam vương phi, tên Hoàng Thiều Hoa chăng? 

Thiều Hoa gật đầu: 

– Bà đoán chỉ đúng một nửa. Tôi đúng tên Hoàng Thiều Hoa, nhưng không còn là Lĩnh-nam vương-phi nữa. 

Mã thái-hậu ngắm nhìn nàng từ chân tới đầu, rồi gật gù: 

– Đẹp thực! Trên đời này ta chưa từng thấy ai đẹp hơn. Thảo nào công-chúa Vĩnh Hòa đẹp như vậy. Ta định gả cho Nghiêm Sơn, y nhất định từ chối để cưới cô. Cô quả là người có phúc. 

Hoàng Thiều Hoa thản nhiên không nói gì, mặc mụ tán tụng. Tên thị-vệ già thấy chân tay Thiều Hoa không mang xiềng xích, y e ngại nhắc chừng Mã thái-hậu: 

– Tâu thái-hậu, Lĩnh-nam vương phi đẹp sắc nước hương trời. Trông bề ngoài thì ôn nhu văn nha như thế này, nhưng võ công không phải tầm thường. Rất ít người địch lại vương-phi. Trước kia, hồi còn là khuê các tiểu thư, võ công của vương-phi không bằng vương-gia. Nhưng sau nhờ sư đệ Đào Kỳ chỉ dẫn thêm. Hiện nay võ công vương-phi cao hơn vương-gia một bậc. 

Mã thái-hậu gật đầu: 

– Ta nghe Hoài-nam vương nói, trong trận đánh Thục. vương-phi đấu chưởng với Vương Phúc ngang tay. Thế thì ta e rằng võ công vương-phi còn cao hơn Phục-ba tướng quân Mã Viện. Trong trận đánh Trường-an, Tương-dương cửu hùng võ công dường ấy, tả xung hữu đột, thiệt mạng mất hai người mới bắt được nàng. Hoàng thượng cũng suýt mất mạng. 

Mã thái-hậu ngừng lại nhìn Thiều Hoa: 

– Ta đến đây muốn thương lượng với vương-phi một chuyện. 

Hoàng Thiều Hoa cười nhạt: 

– Còn thương lượng gì nữa? Ta là tướng ra trận, bị ngươi bắt được, chỉ có chết mà thôi. Ngươi mau đem ta chém quách cho rồi. 

Tên thị-vệ già vung tay phóng một chưởng êm nhẹ vào cái ghế bằng gỗ lim cứng như đá. Cái ghế vỡ tan ra từng mảnh, mà không bật thành tiếng kêu. Y nói: 

– Giết ngươi thì dễ quá rồi. Ta nói cho ngươi hay. Nếu ngươi biết điều nghe lời thái-hậu, ta để ngươi yên. Bằng không ta giết chết ngươi, rồi lột quần áo, mang đi phơi ở khắp các chợ cho thiên hạ xem. 

Hoàng Thiều Hoa tánh tình nhu nhã. Nhưng nàng là đệ tử yêu của Đào Thế Kiệt, nổi tiếng Cửu-chân song-kiệt, được giáo huấn võ đạo rất chu đáo, coi việc phục quốc đại sự làm lẽ chính. Còn mọi sự bỏ ra ngoài. 

Nàng cười lớn: 

– Cứ coi thân thủ của ngươi, thì võ công không đứng hạng nhất, cũng đứng hạng nhì đất Trung-nguyên. Ta thấy cái gì là Thái-sơn thần kiếm, Tương-dương cửu hùng, Ngũ-phương thần kiếm… e rằng không phải đối thú của ngươi. Vừa rồi ngươi phát ra một chưởng, kình lực âm nhu tỏ ra đường đường chính chính. Mà tại so trong cái chính đó lại có cái tà? Vì ta thấy cái mùi tanh bốc ra nồng nặc. Chưởng của ngươi dường như Huyền-âm độc chưởng phải không? Ngươi là người thế nào đối với Xích Mi, Trần Lữ, Tạ Thanh Minh? Còn ngươi đe giết ta, lột quần áo đem phơi ở chợ ư? Hừ, cái lối hành sự hèn mạt như vậy của triều Hán đã có từ lâu rồi. Lã thái-hâïu chả từng tàn ác với Thích Cơ gấp mấy lần đó sao? Ta không sợ đâu. 

Tên thị-vệ già nhìn Mã thái-hậu, nhìn hai thiếu nữ đi theo, trong con mắt lộ vẻ khâm phục. Y cười nhạt: 

– Lĩnh-nam vương phi quả không hổ là gái Việt, kiến thức quảng bác. Vương-phi đã động thủ với Trần Lữ và Tạ Thành Minh rồi phải không? Vương-phi thấy võ công của họ thế nào? 

Hoàng Thiều Hoa vẫn nói giọng ôn nhu: 

– Võ công bọn chúng thua ngươi rất xa. Dường như chúng ở dưới ngươi một vai. Vậy ngươi là sư bá, sư thúc của chúng phải không? Cả hai tên đều đã giao đấu với tiểu sư đệ ta. Chúng chỉ chịu được một chưởng. Độc chất bị tiểu sư đệ ta đẩy ngược trở về. Chúng suýt mất mạng. Ta nghe nói, phái Trường-bạch nhà ngươi còn một tôn sư võ học, họ Mao tên Đông Các, sư phụ của Phan Sùng. Không lẽ là ngươi? 

Tên Thị-vệ già gật đầu: 

– Đa tại Lĩnh-nam vương phi quá khen. Theo vương-phi thì võ công Đào Kỳ với ta, ai cao ai thấp. 

Hoàng Thiều Hoa lắc đầu: 

– Ta không biết. Vì nội công ngươi với sư đệ ta cùng một nguồn gốc. Cả hai luyện tới chỗ tối cao. Giữa cái tối cao, làm sao mà phân biệt được? Có điều ngươi thua xa mấy nhân vật khác. 

Mao Đông Các lắc đầu: 

– Không lẽ trên đời nầy còn có người võ công cao hơn ta với Đào Kỳ? 

Hoàng Thiều Hoa mỉm cười: 

– Tại sao lại không? Ngươi quên mất câu Cao nhân tắc hữu cao nhân trị hay sao? Nếu ngươi gặp kiếm pháp của Phật Nguyệt, Phương Dung hay Nguyễn Phan tiên sinh liệu ngươi có dám cho rằng mình vô địch nữa không? Còn một vị người Tây-trúc nữa tên Tăng Giả Nan Đà, chắc ngươi nghe Phan Anh kể rồi chứ? Liệu nội công ngươi có bằng ngài hay không? 

Hoàng Thiều Hoa nhìn hai thiếu nữ đứng cạnh Mao Đông Các. 

– Hai vị cô nương đây phải chăng là Hồng Hoa, Thanh Hoa. Hai cô rất thâm tình với ngươi và thái-hậu? 

Câu hỏi nầy làm Mao Đông Các và Mã thái-hậu giật mình nhìn nhau. Cả hai cùng như muốn nói với nhau: 

– Điều bí mật này loan truyền mau lẹ thực. Trần Thiếu Lan tức Á Nương mới tiết lộ gần đây, nghĩa là cùng thời gian Hoàng Thiều Hoa bị bắt. Tại sao nàng cũng biết? Như vậy không phải chỉ mình Thiếu Lan biết chuyện này mà còn nhiều người biết. 

Mối ẩn tình giữa Mã thái-hậu với Mao Đông Các chỉ có một mình Trần Thiếu Lan biết. Trần Thiếu Lan tiết lộ cho vợ chồng Phan Anh cùng anh hùng Lĩnh Nam theo đạo quân Kinh-châu biết mà thôi. Ngờ đâu Sa Giang, Trần Năng đến Trường-an thuật chuyện cho nhóm anh hùng Lĩnh Nam đạo Trường-an nghe. Bọn Lục Sún cũng biết rõ. Vừa rồi trong lúc gặp Hoàng Thiều Hoa, Sún Lé kể sơ lược cho nàng nghe. Vì vậy nàng thuận miệng nói ra, khiến Mã thái-hậu với Mao Đông Các cùng rùng mình kinh hãi. 

Nguyên sau khi rời khỏi Trường-sa, Mao Đông Các cùng hai con gái Hồng Hoa, Thanh Hoa khẩn cấp về Trường-an gặp Mã thái-hậu. Họ báo cho bà biết, mọi chuyện đa bại lộ. Ngày một ngày hai Hàn Tú Anh cũng được đưa về Lạc-dương gặp Quang-Vũ. Mã thái-hậu không tin lời Mao Đông Các. Bà muốn biết chắc mọi sự, mới hỏi phe đảng của bà đi theo Quang-Vũ. Ngờ đâu chúng lại biết rất ít. Bà nghe nói, Quang-Vũ bắt được vợ của Nghiêm Sơn là Hoàng Thiều Hoa, giao cho Hoài-nam vương giam giữ. Bà đích thân thẩm vấn nàng cho rõ đầu đuôi, hầu ứng phó kịp thời. Bây giờ, Thiều Hoa vô tình nói một câu, làm cả bà và Mao Đông Các đồng kinh hoàng. Mao Đông Các hỏi: 

– Tại sao ngươi biết võ công của ta xuất thân chính phái? 

Hoàng Thiều Hoa là đệ tử phái Cửu-chân, sư phụ nàng đã dạy, kẻ thù có hay thì cũng phải công nhận hay. Bạn hữu có dở, cũng phải nhận dở. Chứ đừng lấy cái dở của mình mà bảo của quân thù, đừng lấy cái hay của quân thù mà bảo của mình. Nàng nói: 

– Tại sao ngươi biết võ công của ta xuất thân chính phái? 

Hoàng Thiều Hoa là đệ tử phái Cửu-chân, sư phụ nàng đã dạy, kẻ thù có hay thì cũng phải công nhận hay. Bạn hữu có dở, cũng phải nhận dở. Chứ đừng lấy cái dở của mình mà bảo của quân thù, đừng lấy cái hay của quân thù mà bảo của mình. Nàng nói: 

– Trước kia Vạn-tín hầu Lý Thân để lại một đệ tử tên Trần Mạnh Chi làm vũ-vệ hiệu-uý cho Tần Thủy Hoàng. Trần tiên sinh lấy vợ Trung-nguyên lập ra phái Trường-bạch. Các ngươi là hậu duệ cúa Vạn-tín hầu, không lấy võ đạo làm việc giúp đời, lại đi luyện độc chưởng hại người. Ngươi uổng là đệ nhất cao nhân đương thời, mà lại đi làm chức thị vệ nhỏ bé cho thái-hậu. Tiếc ơi là tiếc. 

Mao Đông Các cười nhạt: 

– Cứ như vương-phi, ta phải làm chức gì mới xứng đáng? 

Hoàng Thiều Hoa nhìn y một lát rồi nói: 

– Bằng vào võ công, ngươi phải là một đại tướng quân, trấn thủ biên cương. Nếu ngươi có kiến thức, biết điều khiển ba quân, phải ở vào địa vị như trượng phu ta. 

Mao Đông Các nhìn Mã thái-hậu: 

– Thái-hậu có nghe vương-phi nói không? Lĩnh-nam vương phi quả có con mắt tinh đời. Vương-phi xứng đáng tri kỷ của ta. 

Ngừng một chút lão lại nói với thái-hậu: 

– Lão phu xin để thái-hậu nói chuyện với vương-phi. 

Thiều Hoa thấy Mao Đông Các xưng Lão phu với Mã thái-hậu, nàng không ngạc nhiên, bởi họ là già nhân ngãi, non vợ chồng. 

Mã thái-hậu phất tay một cái, Mao Đông Các, Hồng Hoa, Thanh Hoa lui ra ngoài. Trong phòng chỉ còn lại bà với Thiều Hoa. 

Hoàng Thiều Hoa nhìn Mã thái-hậu, hỏi: 

– Bà cho vệ sĩ ra ngoài, không sợ tôi dùng võ với bà ư? 

Mã thái-hậu lắc đầu: 

– Ta nghe nói Lĩnh-nam vương-phi là người biết xử sự. Giữa ta với ngươi không thù, không oán. Tại sao ngươi lại dùng võ công với ta? 

Hoàng Thiều Hoa cười: 

– Bà lầm rồi! Mã Thúy Hoa với Hoàng Thiều Hoa thì không thù không oán. Còn giữa Mã thái-hậu với cô gái Việt Hoàng Thiều Hoa thù oán chồng chất cao như núi Thái-sơn, rộng như biển Đông. 

Mã thái-hậu ngạc nhiên: 

– Ta muốn nghe vương-phi nói. 

Hoàng Thiều Hoa ngồi nghiêm chỉnh nói: 

– Trước khi vào truyện, xin bà đừng gọi tôi là Lĩnh-nam vương-phi nữa. Bởi phu quân của tôi đã bẻ kiếm, đoạn tuyệt ân nghĩa với Lưu Tú. Người không còn là Lĩnh-nam vương, tôi cũng không còn là Lĩnh-nam vương phi. Tôi nói chuyện với bà là một thiếu phụ Lĩnh Nam đối thoại với một thiếu phụ Hán. Tôi không còn gọi bà là thái-hậu, không còn gọi Quang-Vũ là hoàng-thượng, vì chúng tôi không phải là thần tử nhà Hán. Tôi, Hoàng Thiều Hoa, đệ tử Đào-hầu đất Cửu-chân, thuộc giòng dõi An-Dương vương. Chúng tôi đang muốn phục hồi Lĩnh Nam trong tay người Hán. Bà là thái-hậu của người Hán, bà muốn vĩnh viễn chiếm nước tôi, đó là một điều khiến bà với tôi thành thù hận. Thứ nhì bà dùng tiền bạc, mua chuộc bá quan, sai cao thủ đi các nơi hại chồng tôi. Hại nhũ mẫu của chồng tôi. Đó là hai điều oán. Thứ ba, hiện tôi bị người Hán của bà cầm tù, đó là ba điều thù hận. Cả ba điều, chủ động đều do phía bà gây ra. Nếu tôi vung tay phóng chưởng giết bà. Dù Mao Đông Các, với hai con của bà có bản lĩnh nghiêng trời lệch đất cũng không cản trở kịp. 

Từ hôm bị bắt làm tù binh. Hoàng Thiều Hoa được đối đãi cực kỳ tử tế. Vì mối phẫn hận chồng chất không chỗ phát tiết. Bây giờ nghe Mã thái-hậu nói bằng giọng khinh thường mình. Mối phẫn hận như lửa gặp gió, bốc lên ngùn ngụt. Nàng nhìn Mã thái-hậu, rồi bất thình lình bước về trước vận khí phóng chưởng định giết bà cho hả giận. Song bản tính ôn nhu, khí khái không muốn đánh người không có võ. Nàng nhấc bổng bà lên, tay kia phóng chưởng vào cái ghế bằng gỗ lim bà đang ngồi. Bình một tiếng, cái ghế gỗ lim bị đánh bể tan tành. Chưởng của nàng là Thiết-kình phi-chưởng, cực kỳ cương mãnh. 

Mao Đông Các nghe tiếng ghế vỡ, vội chạy vào. Thì nàng đã để thái-hậu ngồi xuống chiếc ghế khác. Mã thái-hậu kinh hồn động phách. Bà không bao giờ ngờ một cô gái nhu mì, yểu điệu thế kia mà lại có chưởng lực mạnh dường ấy! Bà vốn kinh nghiệm, thông minh, thấy nàng chỉ đánh vỡ ghế, biết nàng làm vậy để phát tiết mối giận. Bà vẫy tay cho Mao Đông Các ra ngoài: 

– Vương phi biểu diễn chưởng lực cho ta coi, chứ không có gì khác lạ, các người ra ngoài đi. 

Bà nói với Hoàng Thiều Hoa: 

– Chưởng lực của vương-phi thực dũng mãnh, có lẽ còn hơn vương-gia nữa. Ta vào đây để thương lượng một điều, lợi cả hai bên. Một bên Lĩnh Nam, một bên là ta. Vương-phi hãy kiên nhẫn ngồi nghe. 

Hoàng Thiều Hoa bản tính nhu hòa, nàng bảo: 

– Tôi xin nghe lời bà. 

Mã thái-hậu hỏi: 

– Khi ngươi kết hôn với Nghiêm Sơn. Ngươi có biết Nghiêm Sơn là người Việt không? 

Hoàng Thiều Hoa lắc đầu: 

– Tôi gặp Tự Sơn trong trận đánh giữa quân Hán với tráng đinh của Đào trang. Tôi nhận kết hôn với Tự Sơn vì thấy ở Tự Sơn một con người hào sảng, anh hùng, nghĩa khí. Tự Sơn đúng mẫu người giống như sư phụ tôi. Gốc tôi mồ côi từ nhỏ. Được sư phụ đem về nuôi dưỡng, dậy dỗ, thương yêu hơn con đẻ. Do vậy, sư phụ trong con mắt tôi là một ông thần. Cho nên những gì giống người, tôi đều khâm phục hết. Tôi kết hôn với chàng vì lẽ đó. Mãi về sau Tự Sơn mới cho tôi biết nguồn gốc của chàng. Tôi càng kính yêu chàng hơn. 

Mã thái-hậu gật đầu: 

– Thế nghĩa là Tự Sơn có chí phục quốc trước khi lấy cô, chứ không phải y lấy cô rồi, do cô thuyết phục, y mới phản Hán, phục Việt? 

Hoàng Thiều Hoa không nghĩ đến điều đó, nên khi bị hỏi, nàng bâng khuâng không trả lời. Suy nghĩ một lúc nàng mới nói: 

– Tự Sơn có chí phục quốc từ nhỏ. Phụ thân chàng là Phấn-uy đại tướng quân của Trường-sa vương. Ông là cháu bảy đời Phương-chính hầu Trần Tự Minh, Tể tướng Thục. Khi An-Dương vương tuẫn quốc. Ngài truyền chiếu chỉ nhường ngôi cho con trưởng Phương-chính hầu, lo phục quốc. Đến đời thân phụ chàng, ông cải tên họ, làm quan với Hán. Trước khi từ trần, ông đưa di chiếu phục quốc cho chàng. Dặn bằng mọi giá phục hồi Lĩnh Nam. 

Ngưng một lát nàng tiếp: 

– Công việc chàng cứu Lưu Tú, giúp y khởi binh, không quan hệ gì đến phục quốc cả. Cho đến khi chàng được phong Lĩnh-nam công, lúc mới nhân chức tước của mình, đồng tình với anh hùng Lĩnh Nam trong việc phục quốc. Mà dù… chàng có được phong Tần-vương, Triệu-vương, chàng cũng ban hành chính sách rộng rãi. Mưu hạnh phúc cho dân. 

Nàng thở dài nói: 

– Đúng ra chúng tôi khởi binh phản Hán từ lâu. Ngặt vì chàng cản trở. Chàng nghĩ rằng, Lĩnh Nam quá xa với Trung-nguyên. Triều Hán cho Lĩnh Nam phục hồi. Hàng năm Lĩnh Nam tiến cống, chẳng hơn triều đình cử sang một bọn tham quan hại dân sao? Chàng tổ chức đại hội Tây-hồ, đưa anh hùng sang cầu phong. Giữa lúc sắp lên đường, Quang-Vũ phong chàng làm Lĩnh-nam vương, cầm quân đánh Thục. Chàng yêu cầu anh hùng Lĩnh Nam đánh giúp Hán, lập công. Đợi sau khi diệt Thục, cầu xin phục hồi đất nước sẽ dễ dàng hơn. Chàng khuyên anh hùng Lĩnh Nam không nên khởi binh. Khởi binh ắt có chiến tranh, trăm họ điêu linh. Đó là đường lối của chàng. Anh hùng Lĩnh Nam nghe chàng. 

Mã thái-hậu gật đầu: 

– Theo Tự Sơn, như vậy y có thể vẹn tình huynh đệ với Quang-Vũ, trọn tình với cô và với bạn hữu Lĩnh Nam? 

Hoàng Thiều Hoa gật đầu: 

– Đại thể như thế. Chàng không muốn chiến tranh xảy ra, người Hán chết, người Việt chết vô ích. Chàng không muốn giữa đồng bào, giữa bạn hữu Lĩnh Nam với bạn hữu Trung-nguyên giết nhau. Chàng cũng không muốn công danh phú quí. Chàng định sau khi xong mọi việc, thì họp anh hùng Lĩnh Nam lại để họ bầu lấy một người thống lĩnh. Trước đây An-Dương vương đã được huynh đệ bầu lên một lần. Hiềm vì bấy giờ chưa có nguyên tắc rõ ràng, để ngài làm vua quá lâu. Bây giờ anh hùng các nơi sẽ lập ra cơ chế, như người nào được bầu làm thống lĩnh, chỉ được ngồi tại vị từ năm tới mười năm mà thôi. 

Mã thái-hậu kinh ngạc: 

– Cô nói thêm chi tiết được không? 

Hoàng Thiều Hoa tiếp: 

– Đất Lĩnh Nam chúng tôi không có dân chúng sống rải rác. Họ đều ở trong các trang, ấp động. Mỗi nơi có một Lạc-hầu, Lạc-tướng cai trị. Tự Sơn định rằng trong sáu vùng Quế-lâm, Tượng-quận, Giao-chỉ, Cửu-chân, Nhật-nam. Cứ mấy chục trang ấp sẽ bầu một vị Lạc-công coi về cai trị, một Lạc-tướng coi về quân sự an ninh. Các Lạc-công, Lạc-tướng bầu lấy một vị Vương để cai trị một vùng. Lĩnh Nam có sáu vị Vương. Sáu vị Vương đó đặt dưới quyền Hoàng-đế Lĩnh Nam. Hoàng đế do toàn thể Lạc-hầu, Lạc-tướng, Lạc-công, Vương-gia bầu. Sáu năm một lần. 

Mã thái-hậu đứng lên đi đi lại lại, một lúc sau mới nói: 

– Chính vì điều đó mà hoàng-thượng, tam-công các vị vương thân đại thần họp nhau hơn tháng tìm đường lối đối phó. Cuối cùng đưa ra phương cách bắt giam, giết Nghiêm Sơn. 

Bà chắp tay vào nhau, tỏ vẻ lo sợ, nói: 

– Cô có biết tại sao không? Muôn ngàn lần cô không biết. Khi chưa gặp cô, ta hoàn toàn không hiểu cô. Cô cũng hoàn toàn không hiểu ta. Ai cũng chỉ biết đến cái lợi cho mình. Ta đâu có biết đến những điều cô thù hận ta như cô vừa kể. Cô cũng không biết những điều ta sợ hãi người Lĩnh Nam. Ta hỏi cô điều nầy nhé: Khi Tần Thủy Hoàng thống nhất thiên hạ, sức mạnh như nghiêng trời lệch đất. Thế mà hắn sai Đồ Thư mang tới 500,000 quân sang đánh Lĩnh Nam. Trải qua mấy năm, chiếm được Nam-hải, Quế-lâm và Tượng-quận, với đồng không nhà trống. Cuối cùng Đồ Thư bị giết, toàn quân bị diệt. Bấy giờ dân số Lĩnh Nam bất quá hơn ba triệu người là cùng. Anh tài chia rẽ, kẻ theo Văn-Lang, người theo Âu-Lạc, mà còn mạnh thế… 

Hoàng Thiều Hoa tuy không nhiều mưu trí như Trưng Trắc, Trưng Nhị, Phương Dung, hay Vĩnh Hoa, nhưng kiến thức nàng rất rộng. Đến đây nàng hiểu ra ngay, nói với Mã thái-hậu: 

– Phải rồi. Sau Triệu Đà tài tuy chẳng là bao, lại không được lòng dân. Thế mà y mang quân đánh Trường-sa. Làm Trường-sa vương vỡ mật kinh hồn. Huống hồ nay đất Lĩnh Nam, nhân tài như lá trên rừng, như nước dưới biển. Người người quyết tâm, ngày ngày mong phục quốc. Rồi lại tổ chức một cơ chế được lòng dân, thì có thể quay lên phía Bắc xưng hùng chiếm Trung-nguyên. Vì vậy mà Hán ra tay trước. Có phải thế không? 

Mã thái-hậu gật đầu: 

– Đúng như vậy. Cho nên dù Nghiêm Sơn xin một con ngựa, một thanh gươm tiêu dao tự tại, Quang-Vũ vẫn không cho là thế. Vì thả Nghiêm ra, Nghiêm trở về Lĩnh Nam không thần phục nữa. Y thù hận Hán, thì Trung-nguyên nguy mất. Do thế chúng ta chịu tiếng vong ân bội nghĩa với Nghiêm Sơn còn hơn sau nầy sẽ có cái họa lớn xẩy ra. 

Hoàng Thiều Hoa thở dài: 

– Bây giờ tôi hiểu bà, hiểu Quang-Vũ. Thì ra bà hiểu tôi hơn tôi hiểu bà. Bà tự thị rằng khi nói ra sự thực, tôi sẽ hết thù hằn bà, cho nên bà mới ngồi đây một mình với tôi. Tôi khâm phục bà, tôi tiếp tục gọi bà là thái-hậu… Thưa thái-hậu, ban nãy bà muốn cùng tôi bàn chuyện lợi ích hai bên. Bây giờ xin bà cho biết. 

Mã thái-hậu đứng lên khép cửa lại, nói: 

– Ngươi coi ta là thái-hậu nhà Hán. Ta lại coi ngươi là vương-phi của Lĩnh-nam vương. Này vương-phi, những gì ngươi với ta thỏa thuận, liệu Lĩnh-nam vương có thuận hay không? 

Hoàng Thiều Hoa suy nghĩ, đắn đo rồi nói: 

– Từ ngày tôi là vợ của chàng, tình yêu như nước sông Hoàng-hà. Chàng nói gì tôi cũng thuận. Tôi nói gì chàng cũng nghe. Nếu thái-hậu tin tôi, thì cứ nói.

Mã thái-hậu thở dài: 

– Ta là thái-hậu của nhà Hán. Uy quyền hơn Quang-Vũ, quần thần, vương tôn đều tuân phục. Song lúc nào cũng lo sợ, không yên. Về tình yêu, trước kia tiên-đế chỉ sủng ái Hàn Tú Anh chứ không ngó ngàng gì đến ta. Còn Vương-phi thì diễm phúc không ai bì kịp. Lĩnh-nam vương chỉ sủng ái một mình Vương-phi. Chuyện Quang-Vũ không phải con ta, vương-phi đã rõ. Ta bỏ không biết bao nhiêu tiền của thu phục cao thủ, khống chế quần thần, hầu phòng việc tiết lộ. Ta sai nhiều cao thủ đi giết Hàn Tú Anh. Đến nay ta tuyệt vọng. Chính Lê Đạo Sinh cũng phản ta. Công-chúa Vĩnh-Hòa thượng biểu tâu với hoàng-thượng về Hàn Tú Anh. Bọn họ đang trên đường về Lạc-dương triều kiến với Quang-Vũ. Quang-Vũ cũng biết việc này do chính Lĩnh-nam vương thuật lại tại điện Vị-ương ở Trường-an. Khi Hàn Tú Anh trùng phùng với Quang-Vũ, mạng ta khó toàn… 

Hoàng Thiều Hoa phất tay, tỏ ra lời nói của thái-hậu không đúng, nàng ngắt lời thái-hậu: 

– Thái-hậu luận sai rồi. Quang-Vũ tuy không do thái-hậu sinh ra, nhưng y cũng do thái-hậu nuôi dưỡng. Dù thế nào chăng nữa, không đời nào y dám bất hiếu với thái-hậu. Thái-hậu là chánh-phi của tiên-đế. Y dám hại thái-hậu ư? Tôi tin rằng y không dám. Huống hồ những người tuân phục thái-hậu trong triều rất nhiều. 

Mã thái-hậu ngắt lời: 

– Cô lại tự tin rồi! Cô quên mất chuyện giữa ta với Mao Đông Các, Hồng Hoa, Thanh Hoa sao? Dù không có chuyện Hàn Tú Anh, Quang-Vũ cũng sẽ giết chết chúng ta. Vì vậy chúng ta không thể ngồi im để bị bắt. 

Hoàng Thiều Hoa hiểu ngay, Mã thái-hậu muốn phía Lĩnh Nam giúp sức, tổ chức đảo chánh. Có thể giết Quang-Vũ, đưa Mao Đông Các hay một ấu quân lên thay. Đây là chuyện mà chính ngay những người trông rộng nhìn xa như Trưng Nhị, Phương Dung cũng không ngờ tới. Nàng biết thế, nói thẳng vào đề:

– Vậy ý muốn của thái-hậu như thế nào cứ xin nói ra. 

Mã Thái-hậu nói: 

– Lượng tiểu phi quân tử, vô độc bất trượng phu. Phàm người anh hùng phải bỏ cái tiểu tiết. Tôi định nhờ phía Lĩnh Nam ám sát Quang-Vũ. Tôi đưa một ấu quân lên thay. Trong thời gian đó, tôi nắm lấy quyền bính rồi sẽ liệu. 

Hoàng Thiều Hoa đã đoán trước được ý của Mã thái-hậu. Nàng không ngạc nhiên lắm: 

– Nếu phía Lĩnh Nam giúp thái-hậu giết y, thái-hậu sẽ giúp chúng tôi điều gì gọi là có qua có lại? 

Mã thái-hậu nhìn vào mắt Hoàng Thiều Hoa: 

– Điều thứ nhất, chúng tôi trả Lĩnh Nam cho người Lĩnh Nam. Sau này không bao giờ đem quân xuống đánh. Đời đời Trung-nguyên, Lĩnh Nam sơn hà hai nước không xâm phạm của nhau. 

Trông bề ngoài, Hoàng Thiều Hoa, người ta chí thấy vẻ văn nhu ôn nhã, nét thanh tao, đẹp tuyệt trần. Ai cũng tưởng nàng dễ lung lạc, dễ thuyết phục. Ngược lại, nàng minh mẫn, uy nghi. Trên đời ngoài sư phụ, sư mẫu ra chỉ có Đào Kỳ, nói gì nàng cũng nghe. Vì Đào Kỳ vừa là tiểu sư đệ, vừa là người hợp tính, gần gũi, lại hiểu nàng nhất. Nàng chiều theo ý tiểu sư đệ như chiều một đứa con. Còn lại ngay Trần Tự Sơn tuy nàng thuận theo thực, nhưng vẫn giữ cái lý chính của nàng, là phục hồi Lĩnh Nam. Mã thái-hậu thấy bề ngoài nàng như vậy. Bà đưa ra cái bẫy cài nàng. Nàng biết liền, trả lời: 

– Thái hậu nói như vậy không công bằng. Chúng tôi xuất mã giết Quang-Vũ cho thái-hậu, để thái-hậu đoạt giang sơn vào tay. Sự thực thái-hậu cũng làm được vậy. Thái-hậu không dám làm, vì làm sẽ bị anh hùng thiên hạ chống đối, phải nhờ đến chúng tôi. Có điều thái-hậu bảo trả Lĩnh Nam cho người Lĩnh Nam, điều nầy hứa cũng như không. Vì đất Lĩnh Nam hiện nay đã nằm trong tay chúng tôi. Giải đất Trung-nguyên còn chưa vững. Trường-an thất thủ. Công-tôn Tư sắp tiến về Đồng-quan. Kinh-châu đã về tay Thục. Đại quân đang đánh vào Nam-dương. Nếu chúng tôi từ Lĩnh Nam kéo về chia đôi giang sơn nhà Hán cũng dễ thôi. Việc gì chúng tôi phải chờ thái-hậu trả đất Lĩnh Nam cho chúng tôi? Có một điều duy nhất lời hứa đời đời không xâm phạm lẫn nhau còn tạm nghe lọt tai. 

Mã thái-hậu không ngờ mình già đời, mà kiến thức không bằng một cô gái trẻ. Bà tự bào chữa: 

– Nếu giết Quang-Vũ, Trung-nguyên đại loạn, đó là dịp tốt cho Lĩnh Nam chứ sao? 

Hoàng Thiều Hoa gật đầu: 

– Đối với thái-hậu, tôi là vương-phi của Lĩnh-nam vương. Nhưng đối với anh hùng Lĩnh Nam, địa vị tôi còn kém sư phụ tôi xa. Sư phụ tôi lại kém Trưng Nhị, Phương Dung, Vĩnh Hoa, Lại Thế Cường, Cao Cảnh Minh rất nhiều. Các điều thái-hậu nói, tôi phải bàn với phu quân của tôi. Sau đó bàn với anh hùng Lĩnh Nam. Phu quân tôi không phải ông vua có toàn quyền như Quang-Vũ, mà là một trong những anh hùng họp nhau phục quốc mà thôi. 

Ngưng một lúc nàng nói: 

– Phu quân tôi với Quang-Vũ tuy đã ân đoạn nghĩa tuyệt. Mà bảo giết Quang-Vũ, tôi e người không chịu đâu. Người thà để Quang-Vũ phụ mình. Chứ người không nỡ phụ Quang-Vũ. Thôi được, tôi nhận lời thái-hậu. Đợi tôi gặp phu quân. Tôi sẽ nói với người. 

Mã thái-hậu đứng dậy: 

– Được, chúng ta cứ như thế mà làm. Ta đi đây. Ta tìm cách thả vương-phi ra, để tương kiến với vương-gia. 

Bà đứng lên đi ra ngoài. 

Đợi bà ra ngoài rồi, Sún Lé mới chui ra. Nó nhe răng cười hì hì. Vừa lúc đó Mã Huy vào, vẫy tay gọi nó: 

– Chú em đi ra mau. 

Hoàng Thiều Hoa phất tay: 

– Này Mã đội-trưởng, ta thấy chú bé nầy hợp mắt quá, muốn lưu chú ấy lại đây. Vậy ngươi để chú ấy ở với ta. 

Mã Huy lắc đầu: 

– Vương-phi xét cho. Tiểu nhân thực không dám tuân lệnh vương-phi. 

Hoàng Thiều Hoa lách mình một cái. Nàng dùng thế trảo chụp Mã Huy. Y trầm người tránh, nhưng tay nàng như con trạch lướt theo, túm lấy vai y. Y hoảng sợ phóng chưởng đánh vào bụng nàng. Nàng hít hơi chịu đòn, không đưa tay đỡ. Binh một tiếng, người Mã Huy bay vọt trở lại đụng vào cửa. Y nằm chết giấc, do phóng chưởng đánh nàng, bị chân khí phản ứng khiến y bị thương. Hoàng Thiều Hoa dẫm chân lên ngực y nói: 

– Mã thái-hậu cùng ta thỏa thuận nhiều việc quốc gia đại sự. Người còn sai mở khoá cho ta. Ta thấy chú bé này dễ thương, xin ngươi cho chú ấy ở lại đây hầu ta. Chú sẽ là người liên lạc giữa ta với thái-hậu. Ngươi ở ngoài chắc đã nghe chúng ta nói chuyện, thế mà ngươi dám chống lại chỉ dụ của thái-hậu ư? Quân nầy to gan thực. Ta mà nhả chân khí ngực ngươi bể nát, tim gan tan tành, ngươi có biết không? 

Mã Huy kinh hoàng nói: 

– Tiểu nhân đắc tội, xin vương-phi đại xá. 

Hoàng Thiều Hoa đã ở với Trần Tự Sơn lâu ngày. Nàng hiểu biết hết những lề lối uẩn khúc trong quan trường. Nàng dọa Mã Huy: 

– Mã thái-hậu sai ngươi canh ta, để hầu hạ ta. Vậy nhất thiết những gì ngài đến thăm ta, ngươi không được tiết lộ với ai, dù rằng với hoàng-thượng. Nếu ngươi tiết lộ ra ngoài, thái-hậu sẽ tru di tam tộc ngươi. Bây giờ ngươi dẫn chú bé nầy ra ngoài đi. 

Hoàng Thiều Hoa ghé tai Sún Lé dặn nó mấy câu. Nó đi ra. Mã Huy nghe phong phanh chuyện Mã thái-hậu không phải mẹ đẻ Quang-Vũ. Bà còn thu phục rất nhiều cao thủ, hành sự bí mật. Ai trái ý một chút là mất mạng như chơi. Bây giờ theo Thiều Hoa nói, Lục Sún sẽ là người liên lạc giữa Lĩnh-nam vương-phi và thái-hậu. Y có cái tội ăn hối lộ, dẫn Sún Lé vào gặp Thiều Hoa. Nếu tội này tới tai thái-hậu thì y bị tru di tam tộc, nghĩ đến điều đó mồ hôi y toát ra như tắm.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro