đàn hương hình- mạc ngôn

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Trong quá trình sáng tác tiểu thuyết này, mỗi khi bạn bè hỏi tôi viết những gì trong đó, tôi ấp úng, cảm thấy khó trả lời. Cho đến khi sửa xong bản thảo nộp Ban Biên tập, như cất được gánh nặng, nghỉ ngơi hai ngày liền, tôi chợt hiểu ra rằng, cái mà tôi viết trong truyện thực ra là âm thanh. Mỗi chương của phần ĐẦU PHỤNG và ĐUÔI BEO đều dùng phương thức nhân vật tự thuật, như TRIỆU GIÁP NÓI NGÔNG, TIỀN ĐINH GIẬN ĐỜI, TÔN BÍNH GIẢNG KỊCH; Phần BỤNG HEO, bề ngoài tưởng như từ một góc độ nào đó nhìn vào mà viết, thực ra là ghi lại phương thức ca vịnh để thuật lại một thời kỳ lịch sử có tính truyền kỳ, suy cho cùng, cũng vẫn là âm thanh. Mà nguyên nhân ban đầu, sớm nhất cho việc cấu tứ, sáng tác bộ tiểu thuyết, cũng là do âm thanh. Cách đây hai mươi năm, khi tôi mới bước vào con đường sáng tác, có hai loại âm thanh luôn xuất hiện bất chợt trường ý thức tôi. Chúng như hai con hồ ly tinh đẹp mê hồn bám riết tôi, khiến tôi rạo rực không yên. Loại âm thanh thứ nhất tiết tấu phân minh, đầy sức mạnh, màu sắc nhiêm chỉnh pha trộn giữa đen và xanh lam, có sức nặng của sắt thép, có băng giá của khí hậu. Đó là tiếng tàu hỏa, tiếng tàu hỏa chạy hàng trăm năm trên con đường sắt Giao – Tế cổ lỗ. Kể từ khi tôi biết nhớ, mỗi khi trời u ám là có thể nghe thấy tiếng còi xe lửa như tiếng bò rống, trầm đục, dài lê thê, trườn vào trong thôn, chui vào các căn buồng, lôi chúng tôi ra khỏi giấc ngủ. Tiếp liền sau đó là tiếng lanh canh như băng vỡ khi xe lửa chạy trên cầu sắt sông Giao. Tiếng còi, tiếng xe lửa chạy trên cầu sắt và bầu trời u ám gắn liền với nhau, gắn liền với tuổi thơ cô đơn và đói rách của tôi. Mỗi khi tôi bị cái âm thanh xình xịch ấy đánh thức trong đêm, truyền thuyết về xe lửa và đường sắt được kể lại từ những cái miệng răng cón tăm tắp hay đã móm, lại sống dậy trong đầu tôi. Chúng xuất hiện dưới hình thức âm thanh rồi mới đến hình ảnh, hình ảnh là bổ sung và chú thích cho âm thanh, hoặc giả là liên tưởng của âm thanh. Tôi đã nghe thấy, sau đó nhìn thấy trước sau năm 1990, khi ấy ông bà còn đang tuổi bú tí, trên cánh đồng cách thôn xóm chừng hai mươi dặm, kỹ sư đường sắt người Đức vác dụng cụ đo đạc mà nghe nói trên đó gắn rất nhiều gương nhỏ, cùng đám công nhân người Trung Quốc đầu để tóc bím, vai vác cọc bằng gỗ hòe, cắm mốc xây dựng con đường sắt Giao – Tế. Sau đó lại có nhiều lính Đức cắt hết bím tóc của những thanh niên trai tráng Trung Quốc, lót dưới tà vẹt đường sắt. Người đàn ông mà mất bím tóc liền trở thành tàn phế, chẳng khác pho tượng gỗ! Sau đó, lính Đức lại dùng la chở rất nhiều con trai Trung Quốc đến một bí mật ở Thanh Đảo, dùng kéo sửa lưỡi để học tiếng Đức, nhằm đào tạo nhân tài cho việc quản lý đường sắt sau này. Phải khẳng rằng, đó là đồn nhảm, vì rằng sau này tôi có hỏi ông Viện trưởng Viện Goethe của Đức: Trẻ con Trung Quốc học tiếng Đức có cần gọt lưỡi không? Ông ta trả lời nghiêm chỉnh: Cần. Rồi ông cười như nắc nẻ, có ý bảo điều tôi hỏi là hoang đường. Nhưng trong những năm tháng dài đặc, tôi đã rất tin vào những truyền thuyết đó. Chúng tôi gọi những kẻ biết ngoại ngữ là “Những kẻ gọt lưỡi”. Trong đầu tôi, đoàn la chở những trẻ em bị bắt đi học tiếng Đức dài dằng dặc trên con đường sống trâu lầy lội, uốn lượn trên sông Giao. Trên lưng con là thồ hai giỏ, mỗi giỏ một bé trai. Đại đội lính Đức hộ tống đoàn la. Phía sau đoàn la là đội ngũ các bà mẹ nước mắt giàn giụa, tiếng khóc bi thảm vang động cả một vùng. Nghe nói người anh em họ xa của tôi là một trong những đứa trẻ bị bắt đi Thanh Đảo học tiếng Đức, sau này trở thành Kế toán trưởng Đường sắt Giao – Tế, lương năm là ba vạn đồng tiền ngoại. Ngay anh chàng Trương Tiểu Lục chỉ là chân sai vặt, cũng xây được ở quê một ngôi nhà kiểu đại gia! Trong đầu tôi còn nghe thấy âm thanh, còn nhìn thấy hình ảnh sau: Một con rồng to lớn tiềm ẩn trong lòng đất đang rên rỉ vì đường sắt đè trên lưng. Nó cố gồng mình lên, đường sắt chỗ ấy bị uốn cong, rồi đoàn tàu bị lật. Nếu người Đức vùng Đông Bắc Cao Mật quê tôi sẽ trở thành kinh đô, rồng vặn mình tất nhiên là lật tàu, nhưng long mạch cũng đứt, phong thủy của cả vùng bị hủy hoại. Tôi còn nghe Thanh Thủy truyền thuyết như sau: Đường sắt vừa thông xe, mấy vị hảo hán vùng Đông Bắc Cao Mật cho rằng xe lửa thì cũng là một động vật to đùng, chắc cũng ăn rau cỏ như ngựa. Thế là các vị nảy ra sáng kiến, rải rơm và đậu đen thành một con đường rẽ, định dụ xe lửa xuống đầm cho chết đuối! Kết quả là xe lửa không mắc mưu các vị. Về sau, từ miệng một nhân vật làm công việc đốt lò trên xe lửa, các vị mới biết mình mất oan bao nhiêu là rơm rạ và đậu đen! Nhưng vừa chấm dứt chuyện hoang đường này thì lại phát sinh chuyện hoang đường khác: Anh thợ lò nói trên bảo các vị rằng, nồi súp de trên tàu được đúc bằng vàng khối nguyên chất, nếu không thì sao chịu nổi lửa rừng rực quanh năm? Các vị tin sái cổ, vì ai cũng biết câu tục ngữ: “Vàng thật không sợ lửa”. Để bù đắp số rơm rạ, đậu đen lãng phí lần trước, các vị gỡ bỏ một thanh ray, thế là đầu tàu bị lật. Khi vác đồ nghề chui vào nồi súp de, các vị mới ngả ngữa: Một nửa lạng vàng cũng không có!… Tuy cái thôn nhỏ của tôi chỉ cách đường sắt Giao – Tế hai mươi dặm đường chim bay, nhưng mãi năm tôi mười sáu tuổi, một đêm cùng các bạn, lần đầu tiên tôi tiếp cận đường sắt, khiếp đảm nhìn đoàn tàu lướt qua, gào thét như một con quái vật! Con mắt ở đầu tàu sáng rợn người, tiếng ầm ầm để lại một ấn tượng khủng khiếp trong tôi, nay vẫn không thể quên. Tuy sau này tôi thường xuyên đi tàu hỏa, nhưng tôi thấy tàu hỏa bây giờ khác hoàn toàn con tàu mà tôi trông thấy ở Đông Bắc Cao Mật hồi tuổi thiếu niên, càng không giống con tàu nghe kể lúc tôi ở tuổi nhi đồng. Con tàu ở tuổi nhi đồng là một động vật, có sinh mạng hẳn hoi. Con tàu này sau này là con tàu cơ khí, không có hồn! Loại âm thanh thứ hai là hí kịch Miêu Xoang, thịnh hành ở vùng Đông Bắc Cao Mật. Loại này hát giọng ai, rất buồn, nhất là vai nữ, hoàn toàn là tiếng than khóc của những người phụ nữ bị áp bức. Ơû vùng Đông Bắc Cao Mật, bất kể già trẻ nam nữ, ai cũng biết hát Miêu Xoang. Làn điệu trầm bổng, ai oán thê lương của Miêu Xoang gần như di truyền, không cần học mà ai cũng nắm vững. Chuyện kể rằng, có một bà già vốn quê vùng Đông Bắc Cao Mật theo con đi làm ăn xa mãi tận Quan Đông, lúc ốm sắp chết, có người bà con quê nhà đem đến một băng nhạc Miêu Xoang. Người con trai mở băng cho mẹ nghe. Khi điệu làn thảm của Miêu Xoang nổi lên, bà mẹ ngồi phắt dậy, mắt long lanh, mặt tươi hớn hở. Nghe hết băng nhạc, bà nằm dài ra, đi luôn. Hồi nhỏ, tôi thường theo các anh lớn tuổi đuổi theo ma trơi khi đi xem hát ở thôn bên. Đom đóm bay đầy trời, lửa ma trơi và lửa đom đóm lẫn lộn. Từ nơi rất xa vọng lại tiếng thét của con cáo và tiếng gầm của tàu hỏa. Tôi thường xuyên trông thấy những người đàn bà đẹp mặc áo đỏ hoặc áo trắng ngồi khóc bên đường, tiếng khóc nỉ non, y như giọng Miêu Xoang. Chúng tôi biết họ biến từ cáo, đừng có trêu vào họ, đành đi vòng đường khác. Nghe hát nhiều nên họ thuộc lời, chỗ nào quên thì tự đặt lời mà hát. Lớn tuổi hơn một chút thì làm chân sai vặt, hoặc sám những vai phụ trong đoàn kịch của thôn, khi đó là diễn kịch cách mạng, vai của tôi không là gián điệp A thì là thổ phỉ B. Sau “Cách mạng văn hóa” có sự nới lỏng đôi chút, ngoài các vở kịch mẫu, cho phép tự biên tự diễn. Vở Miêu Xoang “ĐÀN HƯƠNG HÌNH” ra đời trong hoàn cảnh ấy. Thực ra, thời kỳ cuối Thanh đầu Trung Hoa Dân Quốc, chuyện Tôn Bính chống Đức đã được các nghệ nhân Miêu Xoang đưa lên sâu khấu. một số nghệ nhân già vẫn còn nhớ đôi đoạn. Tôi phát huy sở trường diễn kịch cương của mình, cùng một ông chú bên hàng xóm – Ông này một chữ bẻ làm đôi không biết, nhưng đàn giỏi hát hay, xuất khẩu thành chương – biên soạn vở ĐÀN HƯƠNG HÌNH gồm chín cảnh. Một thầy giáo tiểu học thuộc phái hữu đã giúp đỡ tôi rất nhiều. Tôi cùng các bạn lần đầu đi xem xe lửa, là đi “thể nghiệm cuộc sống”. Lời thoại của Đàn Hương Hình trong tiểu thuyết là tôi lấy từ kịch bản Đàn Hương Hình sau nhiều lần chủnh lý, sữa chữa có tính chuyên nghiệp. Sau đó, tôi đi công tác thoát ly, tình cảm với Miêu Xoang lắng xuống vì công việc bộn bề và vì cuộc sống khó khăn. Còn Miêu Xoang, loại kịch nghệ từng giáo hóa tâm linh người dân vùng Đông Bắc Cao Mật thì ngày càng thưa vắng, đoàn kịch chuyên nghiệp thì chỉ còn một, nhưng hoạt động thì quá ít, những thanh niên mới lớn thì không thích. Mùa xuân năm 1986 tôi về thăm nhà, khi bước ra khỏi cửa soát vé, một điệu Miêu Xoang mê hồn cất lên từ một quán cơm nhỏ gần sân ga. Sân ga không một bóng người, làn điệu thê lương của Miêu Xoang quyện với tiếng còi tàu xé tai khiến tôi rạo rực. Tôi cảm thấy, xe lửa và Miêu Xoang, hai loại âm thanh quyện vào tuổi ấu thơ của như những hạt giống gieo trong tâm khảm tôi, sẽ nảy mầm, lớn lên thành cây đại thụ, thành tác phẩm quan trọng của tôi. Mùa thu năm 1996, tôi viết ĐÀN HƯƠNG HÌNH. Tôi viết khoảng năm vạn chữ xoay quanh truyền thuyết thần kỳ về xe lửa và đường sắt, sau một thời gian xem lại, thấy đậm mùi hiện thực ảo, vậy là phải cân nhắc lại rấy nhiều tình tiết hấp dẫn vì mang hơi hướng ma quái, đành bỏ. Cuối cùng, phải giảm nhẹ âm thanh xe lửa và đường sắt, nổi bật âm thanh Miêu Xoang. Tuy làm vậy là yếu đi tính phong phú của tác phẩm, nhưng bảo tồn khá đậm chất dân gian, tôi sẵn sàng hy sinh để giữ lấy nét thuần túy trong phong cách Trung Quốc. Miêu Xoang không được sánh vai cùng ca kịch Ý Đại Lợi, múc lê Nga La Tư trong miếu đường nghệ thuật. Cũng vậy, tiểu thuyết này của tôi chưa chắc được những đọc giả yêu thích văn nghệ phương Tây, nhất là những đọc giả khó tính, thưởng thức. Miêu Xoang chỉ diễn ngoài trời cho quần chúng lao khổ xem, cũng vậy, tác phẩm này chỉ được những đọc giả có thái độ thân thiện và gần gũi với văn hóa dân gian, thưởng thức. Có lẽ, tiểu thuyết này nên tìm người có chất giọng khàn đọc to lên cho xung quanh nghe, đây là cách đọc bằng nghe, là cách toàn bộ con người tham dự vào việc đọc. Để thích hợp với cách đọc có tính quảng trường đó, cái lối đọc bằng tai đó, tôi cố ý sử dụng nhiều văn vần, hí kịch hóa các thủ đoạn tự sự, để đạt hiệu quả thông thoáng, khoa trương và giàu hình ảnh. Nghệ thuật vừa kể vừa hát trong dân gian từng là cơ sở của tiểu thuyết. Ngày nay, khi mà tiểu thuyết từ một loại hình nghệ thuật tầm thường, dần trở thành trang nhã chốn miếu đường, khi mà văn hóa phương Tây áp đảo tính truyền kỳ của văn hóa dân gian, thì ĐÀN HƯƠNG HÌNH xem ra không phải sách thời thượng. ĐÀN HƯƠNG HÌNH là một bước lùi có ý thức của tôi, chỉ tiếc là tôi lùi chưa đúng vào chỗ của nó. Cuối cùng, tôi rất cảm ơn anh Giả Bình Ao đề tên sách cho tôi, cảm ơn tấm lòng của anh cách đây mười lăm năm, giơ cao tấm biển viết chữ “Mạc Ngôn”, đón tôi ở ga xe lửa Tây An, khiến mọi người chung quanh sợ đến nỗi im như thóc mục.
chương 1a
Mặt trời mọc, đỏ hồng. Như lửa cháy trời đông! Vịnh Giao Châu đầy đường lính Đức (Mắt xanh mũi lõ có biết không?) Ủi đồng san ruộng làm đường sắt Phá mả đào hồ (Có ức không?) Cha tui dẫn người ra chống lại Đánh nhau suốt buổi, pháo đì đùng (Tai ù đặc) Kẻ thù chạm trán, mắt đỏ đọc! Dao lia, búa bổ, đinh ba đâm, Ngổn ngang người chết đếm không xuể (Eo ơi, sợ!) Sau đó Cha tui bị giam đại lao Nam Bố chồng tui được lệnh hành hình Dùng cọc gỗ đàn hương xiên cha tui như người ta xiên chả (Cha ơi là cha!) Miêu Xoang “Đàn hương hình – Đại bi điệu”Sáng hôm ấy, bố chồng tui là Triệu Giáp có nằm mơ cũng không thể nghĩ rằng, bảy hôm sau, lão sẽ chết dưới tay tui, chết như một con chó trung thành với chức phận. Tui cũng không nghĩ rằng, đàn bà con gái mà dám cầm dao giết bố chồng. Tui càng không thể ngờ, cách đây nữa năm, bố chồng xuất hiện như từ trên trời rơi xuống, lại là một tên đao phủ giết người như ngóe. Lão đội mũ quả dưa có tua đỏ, áo chùng, tay lần tràn hạt đi đi lại lại trong sân. Những lúc ấy, lão giống một ông viên ngoại, càng giống hơn một ông già con cháu đầy đàn. Nhưng lão không phải là một ông viên ngoại, càng không phải ông già khả kính. Lão là tên đao phủ hạng nhất của bộ hình ở kinh thành, là lưỡi dao bén của triều Đại Thanh, là một cao thủ chặt đầu người, một chuyên gia tinh thông các hình phạt tàn khốc của mọi thời đại, lại còn bảo sung vào đấy những phát minh sáng tạo của lão. Lão làm ở bộ hình bốn mươi năm, số đầu người lão đã chặt, theo lời lão, còn nhiều hơn số dưa hấu của vùng Cao Mật trong một năm. Đêm hôm ấy, tui không thể chợp mắt, trăn trở trên giường suốt. Cha đẻ tui là Tôn Bính bị quan huyện Tiền Đinh – cái tên qua sông đấm b. cho sóng ấy – bắt giam vào đại lao. Tệ mấy thì cũng vẫn là cha, ruột rối như tơ vò, tui không ngủ được. Càng mất ngủ càng rầu ruột, càng rầu ruột càng mất ngủ. Tôi nghe ngoài cũi – nơi những con vật sắp bị giết thịt – tiếng chó sủa eng éc, tiếng lợn kêu gâu gâu. Lợn mà kêu tiếng chó, chó lại kêu tiếng lợn! Sắp chết tới nơi chúng còn giả tiếng của nhau! Chó eng éc thì vẫn là chó, lợn gâu gâu thì vẫn là lợn, cha đẻ tuy không yêu, nhưng vẫn là cha! Eng éc, gâu gâu, ồn quá! Chúng biết chúng đã gần kề cái chết, cha tui cũng đã gần kề cái chết. Linh cảm của loài vật nhạy hơn con người. Chúng ngửi thấy mùi máu trong sân nhà tui. Chúng trông thấy từng đàn từng lũ âm hồn chó lợn vật vờ đi dưới ánh trăng. Chúng hiểu rằng, sáng tinh mơ ngày mai, khi trời hửng thì cũng chính là lúc chúng xuống chầu Diêm vương. Chúng kêu gào thê thảm trước khi chết. Còn cha thì sao? Cha làm gì trong ngục? Eng éc chăng? Gâu gâu chăng? Hay là cha đang hát điệu Miêu Xoang? Tui nghe bọn ngục tốt nói, trong nhà lao bọ chó vơ được cả nắm, còn giòi bọ thì béo nung núc như hạt đỗ! Cha ơi cha! Cha đang sống yên lành thi tai họa như từ trên trời rơi xuống, hất cha rơi vào trong ngục, ôi cha của tôi!… Dao trắng đâm vào, dao đỏ rút ra, chồng tui Giáp Con đứng đầu bảng trong nghề mổ lợn giết chó, tiếng tâm lừng lẫy vùng Cao Mật. Hắn to cao, đầu hói quá nữa, cằm nhẵn thín, ban ngày vật và vật vờ, ban đêm như cây gỗ mục. Từ khi lấy hắn tới nay, hắn nhiều lần kể cho tui nghe câu chuyện về chiếc râu hổ mà mẹ hắn nói cho hắn biết. Sau đó, không hiểu có thằng cha mất dạy nào đó mớm cho, một tối, hắn đồi tui kiếm một chiếc râu hổ xoan xoan, mầu vàng kim, ngậm vào miệng là có thể nhìn thấy tướng mạo gốc của mọi người. Anh chàng ngốc này đêm đêm bám dính lấy tôi như vây cá, không còn cách nào khác, đành phải kiếm cho hắn một chiếc. Thằng ngốc nằm cuộn tròn ở đuôi giường, ngáy, nghiến răng, và nói mê: cha cha cha, xem xem xem, gãi gãi gãi, sướng… rơn… Rầu ruột quá! Tôi co chân đạp hắn một cái. Hắn trở mình, miệng chóp chép như đang nhai miếng gì ngon lắm, sau đó lại tiếp tục nói mê, lại ngáy, lại nghiến răng trèo trẹo. Đành vậy cứ để cho hắn ngủ. Tui ngồi dậy, tựa lưng vào tường lạnh toát, nhìn ra ngoài cửa sổ. Aùnh trăng như nước trùm lên cảnh vật. Những con chó bị nhốt trong cũi, mắt lóe sáng mầu ngọc bích, giống những chấm đèn lồng, một chấm hai chấm ba chấm… nhấp nháy nhấp nháy, cả một đám. Một con trùng đơn côi, cất giọng thê thảm kêu ri rỉ. Những người tuần đêm đi ủng đế gỗ, bước những bước chân chắc chắn trên mặt đường lát đá xanh tiếng mõ cốc cốc, tiếng thanh là phèng phèng, canh ba rồi. Canh ba, đêm khuya vắng, cả trấn đã ngủ say, tui không ngủ, lợn không ngủ, chó không ngủ, cha tui cũng không ngủ. “Cọt… cọt…cọt”, chuột đang gặm hòm gỗ. Tui vớ cái chổi quăng về phía nó. Con chuột bỏ chạy. Lúc này, tui nghe thấy từ buồng bố chồng vọng lại một tiếng động khẽ, rồi tiếng hạt đậu lăn trên mặt bàn. Sau đó tui hiểu rằng không phải lão đếm hạt đậu, mà đếm đầu người, mỗi hạt đậu là một đầu người! Đồ ôn dịch! Ngay khi ngủ lão cũng nhớ đầng người mà lão chặt! Đúng là đồ ôn dịch!… Tui thấy lão giơ cao thanh đao đầu quỉ chém vào ót cha tui. Đầu cha tui lăn lông lốc trên đường phố, một lũ trẻ chạy theo để đá. Để trách bị đá, đầu cha tui nhảy lóc cóc lên bật thềm rồi lăn vào trong sân nhà tui. Cái đầu cha tui quanh quẫn trong sân, con chó chạy theo chỉ rình đớp, nhưng đầu cha tui rất có kinh nghiệm, mấy bận chó sắp đớp trúng liền bị đuôi sam lúc nàu duỗi thẳng như một ngọn roi quật vào mắt, lại thoát. Đầu cha tui lăn lóc trong sân, một con nòng nọc bơi trong nước, cái đuôi sam dính sau ót, đó là đuôi của con nòng nọc… Tiếng mõ và thanh la của canh tư kéo tui ra khỏi mộng mị. Mồ hôi đầy mình, tui như một quả tim, một đống những quả tim đập loạn xạ. Bố chồng tui vẫn đang đếm những hạt đậu, lão già, giờ tui mới hiểu sao mọi người sợ lão. Người lão thoát ra một làn khí, lạnh, rất xa vẫn cảm nhận được. Căn buồng hướng tây mà mới có nửa năm đã lạnh lẽo như nhà mồ, mèo cũng không dám chui vào bắt chuột. Tui không dám vào căn buồng, bước chân vào là nổi da gà. Những lúc rỗi rãi, Tiểu Giáp vào buồng chơi, vào là xoắn lấy ông bố của hắn đòi kể chuyện, chẳng khác một đứa trẻ lên ba. Ngày tam phục, hắn dứt khoát ở lì trong buồng bố, không thèm về nhà ngủ cùng tui, hắn coi bố là vợ, và tui là bố hắn. Đề phòng thịt không bán hết bị ôi, hắn treo thịt lên đầu thượng lương, ai bải hắn ngốc? Ai bảo hắn không ngốc? Đôi khi bố chồng ra phố, chó dữ mấy cũng rúc trong xó nhà, ư ử như bị chọc tiết. Huyền thoại về lão càng li kì. Người ta nói rằng lão sờ vào cây liễu trên phố, cây liễu rung lên bần bật, lá thảng thốt xào xạc. Tôi nghĩ tới Tôn Bính cha tôi. Cha ơi, lần này thì to chuyện rồi, chẳng khác An Lộc Sơn tằng tịu với Quí phi nương nương, chẳng khác Trần Giảo Kim cướp mất hoàng cương của vua Tuỳ, lành ít dữ nhiều, khó mà sống sót! Tui nghĩ tới quan lớn Tiền Đinh, tiến sĩ xuất thân, ngũ phẩm tri huyện hàm tri phủ, quan phụ mẫu, cha nuôi của tuii, cái đồ tráo trở khôn như rận! Tục ngữ có câu, đánh chó ngó chùa! Oâng không nể mặt con gái nuôi ba năm trên giường hầu hạ ông, cũng không nhớ đã uống bao nhiêu bình hoàng tửu hâm nóng, ăn bao nhiêu bát thịt cầy béo, nghe bao nhiêu khúc Miêu Xoang! Rượu nồng, thịt béo, con gái nuôi nằm têng hênh trên giường, thưa ông lớn, tui hầu hạ ông, khiến ông khoan khoái hơn đương kim Hoàng thượng! Tui đem tấm thân nuột nà hơn lụa Tô Châu, ngọt hơn dưa mật vùng Quan Đông, để ông tận hưởng bao nhiêu lần đắc đạo, bao nhiêu lần lên tiên! Vậy mà vì sao ông không tha chatui một lần? Vì sao ông cấu kết với bọn giặc Đức bắt giữ cha tui, đốt phá làng mạc bọn tui? Nếu biết ông là người bạc tình bạc nghĩa, thì chẳng thà tui đổ rượu xuống vại nước tiểu, quẳng thịt chó cho lợn ăn, hát cho bức tường nghe, tấm thân tui chẳng thà cho chó nó đ… Một đợt mõ dồn dập, trời đã sáng. Tui bước xuống giường, mặc quần áo mới, lấy nước rửa mặt, thoa phấn tô son, xức tóc bằng dầu quế. Tui vớt từ trong nồi chiếc đùi chó đã ninh dừ, gói lại bằng là sen khô, bỏ vào làn rồi xách làn đi ra cổng, đối mặt với vầng trăng đã ngả về tây, men theo con đường lát đá xanh, lên huyện dò động tĩnh. Từ khi cha tui bị giam, ngày nào tui cũng lên, nhưng không sao gặp được quan huyện! Tiền Đinh, đồ giòi bọ, ngày thường không đem rượu thịt lên là ông lại sai thằng khốn Xuân Sinh xuống ngục, giờ thì ông trách mặt, không gặp tui. Oâng còn cho trạm gác trước cổng đường. Thường ngày, lính hoả mai, lính cung mỏ của ông trông thấy tui là vồn vã, chỉ thiếu nước quì xuống mà bái tui, vậy mà bây giờ chúnh vênh mặt lên, ra oai với tui. Oâng lại còn cho bốn tên lính Đức bồng súng tây đứng trước nha môn, tui xách làn đi qua, chúng dám chĩa súng vào ngực tui. Mặt chúng hầm hầm, răng nghiến ken két, xem ra không phải chuyện đùa! Tiền Đinh, nhà ngươi là Hán gian thông lưng với nước ngoài, bà mà nổi điên lên, bà sẽ về tận kinh thành tố cáo nhà ngươi! Bà tố ngươi ăn quịt thịt chó, tố cáo ngươi chiếm đoạt gái có chồng! Tiền Đinh, bà sẽ liều thân như chẳng có, lột cái mã bên ngoài của nhà ngươi, bắt ngươi lộ ngyên hình kẻ bạc tình! Tui khoác làn, rời cổng huyện vì chẳng biết làm gì hơn, nghe thấy tiếng cười nhạt của bọn sâu bọ đang đứng gác sau lưng. Thằng Hổ kia, mi là đồ vong ơn bội nghĩa! Mi đã quên cái cảnh mi và lão già cha mi quì xuống lại bà rồi sao? Nếu không có bà nói cho một câu, thì cái đồ bán giầy cỏ nghèo rớt mồng tơi như mi làm sao được bổ sung vào đội hỏa mai của huyện? Lại còn thằng Thuận, mi là tên ăn mài, mùa đông tháng giá rúc vào bếp lò để khỏi chết cóng, không có bà xin cho mi thì mạc kiếp cũng không thể trở thành cung thủ! Vì chuyện của bọn mi mà bà phải cho Tuần kiểm Lý Kim Báo hôn miệng sờ mông, cho Điển sử Tô Lan Thông sờ mông hôn miệng, vậy mà các ngươi dám cười nhạo bà. Bọn chó mà các ngươi xem người chẳng vỡ, đợi khi công việc hòm hòm, bà sẽ xé xác các ngươi ra! Bỏ lại cái chuyện chết tiệt sau lưng, tôi men theo con đường lát đá xanh, về nhà. Cha ơi, cha chẳng bao giờ là con người đứng đắn, bỏ rơi một lúc bốn năm chục con người! Sao cha không lo cho tốt cái gánh hát của cha, mà đi khắp hang cùng ngõ hẻm, hát về những đế vương khanh tướng, sắm những vai tài tử giai nhân, lường gạt những gái trai mê hát, kiếm những đồng tiền nhỏ tiền to, ăn những thịt mèo thối chó thiu, uống những rượu mầu vàng màu trắng, ăn đủ rồi thì đi tìm đám bạn cầy bạn cáo của cha mà tán gẫu ngủ nhè, mà tận hưởng phúc to phúc nhỏ, sống những ngày như phật như tiên. Vậy mà chá cứ muốn chơi trội, phát ngôn bừa bãi, nói những câu mà bọn cường đạo cũng không dám nói, làm những việc mà những lũ cướp đường cũng không dám làm, để đến nỗi mất lòng bọn sai nha, chọc giận quan tri huyện, gậy đánh nát mông cũng không chịu phục, tranh hơn với người bị vặt hết râu, cha như con gà sống cộc như con tuấn mã bị xén trụi lông đuôi; không hát nữa, cha mở quán trà, thế cũng tốt, sống cuộc đời yên ổn. Ai dè cha gia pháp không nghiêm, để dì bé lang thang đây đó, đã xẩy ra tai họa khôn lường. Bị sờ soạng thì đã bị rồi, cha không rán nhịn, để làm tròn bổn phận người dân, có phúc mới bị thiệt thòi, nhịn nhục mới được yên thân. Vậy là cha đánh tên kỹ sư Đức, gây ra tai họa tày đình. Người Đức ư, Hoàng thượng còn sợ, vậy mà cha không sợ! Tai họa ư, cả trấn tắm máu, hai mươi bảy nhân mạng đi tong, trong đó có dì và hai em. Thế mà vẫn chửa thôi, cha còn đi Lỗ Nam kết giao với nghĩa hòa quyền, trở về lập thần đàn, dựng cờ tạo phản, tụ tập một ngàn binh mã, súng ống vác vai, đạo thương kẹp nách, phá đường sắt, đốt lán trại, giết lính Tây, anh hùng thật đấy! Rốt cuộc, thôn xóm tan hoang, dân làng chết chóc, bản thân cha bị giam trong ngục, thương tích đầy mình… Ơi cha, cha ăn mỡ lợn hơi nhiều nên sinh lẩm cẩm!tà ma nào đã ám vào cha? Hồn vía cha đã bị con hồ li tinh nào bắt mất? Thì cứ cho là người Đức làm đường sắt phá hoại phong thủy, tắc nghẹn long mạch vùng Cao Mật, nhưng là của cả vùng, đâu phải phong thủy, long mạch riêng nhà mình, cha cầm đầu để làm gì? Vậy là xong, họ nhằm bắn khởi xướng, đánh rắn phải giập đầu!Vậy là đúng như câu “Mọi người ăn cả, tội riêng một mình”. Cha ơi, chuyện to rồi, kinh động triều đình các vương quốc nổi giận. Nghe nói Tuần phủ đại nhân Viên Thế Khải đêm qua đi kiệu bát cống về huyện. Tổng đốc Giao – Aùo Caclôt cũng cưỡi con ngựa tây cao lớn, vai khoác súng Môde xộc thẳng vào công đường. Lính lệ Hồ Râu đứng gác ở cổng định ngăn lại, liền bị tên giặc vụt một roi, vành tai rành tai rách đôi! Cha ơi, chuyến này cầm chắc là không thoát rồi, cái đầu tròn xoay của cha chắn bị bêu trên mảng tường chữ bát để thị chúng! Cho dù đại nhâm Tiền Đinh có nể mặt con mà tha cho cha, thì Viên Thế Khải đại nhân cũng không chịu tha; cho dù Viên Thế Khải đại nhân muốn tha cho cha, thì tổng đốc Giao – Aùo Caclôt cũng không chịu tha! Cha ơi, số phận của cha chỉ trông mong vào ông trời! Tui nghĩ ngợi lung tung, men theo con đường lát đá xanh, hối hả đi về phía mặt trời mọc, ánh sáng một mầu hồng. Trong làn, chiếc đùi chó tỏa mùi thơm hấp dẫn. Mặt đường máu đọng từng vũng. Tâm thần bất định, tui như trông thấy đầu cha tui lăn lông lốc trên đường, vừa lăn vừa hát. Miêu Xoang là làn điệu hớp hồn phụ nữ, vốn không thật nổi tiếng, nhưng cha tui với chất giọng lạ lùng, đã biến nó thành d7ua mật, đã làm mê mẫn biết bao nhiêu phụ nữ vùng Cao Mật! Người mẹ đã quá cố của tui, mà mê cái giọng khàn khàn mà lấy cha tui. Mẹ tui đẹp nổi tiếng. Oâng cử nhân họ Đỗ từng cầu hôn nhưng mẹ tui không ưng, chỉ ưng mỗi cha tui – một két hát nghèo rớt mồng tơi!… Lão đầy tớ nhà Đỗ cử nhân có biệt hiệu là Chu Điếc gánh một gánh đầy nước đi tới. Lão gò lưng tôm, vươn dài cổ cò đỏ ửng, mảng tóc lơ thơ trên đầu bạc trắng, mồ hôi trên mặt lấp lánh. Lão thở hồng hộc, hối hả bước những bước dài, nước trong thùng sánh ra, rỏ giọt thành chuỗi trên đường. Cha ơi, con chợt trông thấy đầu của cha trong thùng nước. Nước trong thùng biến thành mầu hồng của máu. Con ngửi thấy mùi tanh nồng, cái mùi tanh tanh khăn khẳn thường thấy mỗi khi chồng con phanh bụng lợn hoặc chó. Lão Chu Điếc không ngờ rằng, bảy ngày sau đó, trong khi lão nghe hát Miêu Xoang ở pháp trường – nơi hành hình cha tui, lão bị giặc Đức dùng súng trường bắn lòi ruột, khúc ruột lòi ra ngoài in hệt một con lươn! Khi lách qua tui để vượt lên, lão cố ngửng cái đầu lên, nhìn tui cười khẩy. Một lão điếc đặc, người như chiếc gỗ mục mà dám cười khẩy với con, cha ơi, chắc là cha chết mất! Kể gì Tiền Đinh, ngay cả Hoàng thượng mà cố đến đây thì cha cũng không thoát khỏi tử hình! Nản thì có nản, nhưng quyết không chịu thua, còn nước còn tát. Tui đoán, giờ này quan lớn Tiền đang cùng Viên đại nhân đến rừ Tế Nam và Caclôt đến từ Thanh Đảo đang xài a phiến, đợi hai người kia về rồi, tui sẽ lẻn vào nha môn, chỉ cần để ông huyện thấy mặt, là tui sẽ có cách khiến ông ta ngoan ngoãn vâng lời. Khi ấy thì không có quan lớn Tiền nào hết, mà chỉ có anh cu Tiền! Cha ơi, con chỉ sợ họ giải thẳng cha về kinh, nếu vậy thì vô phương cứu chữa! Chỉ cần thi hàng án ở ngay tại huyện, con sẽ có cách đối phó với họ. Con sẽ kiếm một thằng ăn mài thế mạng cho cha, mập mờ đánh lận con đen, con sẽ đánh tráo! Cha, cứ nghĩ đến chuyệ cha đã tình phụ mẹ, con chẳng muốn cứu cha làm gì, để cha chết sớm ngày nào hay ngày ấy, khỏi làm hại những người phụ nữ khác. Nhưng dù sao cha vẫn là cha của con, không có trời thì không có đất, không có trứng thì không có gà, không có tình tiết thì không có kịch, không có cha thì không có con, quần áo có thể thay, nhưng cha thì chỉ có một, không thể đổi cha này lấy cha khác! Trước mặt là miếu Bà Cô, có bệnh vái tứ phương, tui phải vào thắp hương xin người phù hộ, xin người hiển linh ra tay tế độ, chuyển dữ thành lành. Trong miếu tối mò, tui chẳng nhìn thấy gì, chỉ nghe thấy tiếng vỗ cách, có thể là con dơi, cũng có thể là chim én. Đúng là chim én. Mắt tui quen dần với bóng tối, tui nhìn thấy trước tượng Bà Cô có hơn một chục ăn mài nằm ngổn ngang. Mùi nước tiểu, mùi cơm thiu nồng nặc khiến tôi choáng váng, chỉ muốn nôn ẹo. Bà Cô tôn kính mà ở cùng với lũ mèo hoang thì tội quá! Chúng chẳng khác đàn rắn mồng năm, vươn dài người rồi lồm cồm bò dậy, đứa nọ nối tiếp đứa kia. Bang chủ Tám Chu râu bạc quá nửa, mắt kèm nhèm, nhíu mũi nhăn mày nhìn tui, nhổ một bãi nước bọt, quát: - Xui rồi xui rồi xui rồi, sáng sớm gặp ngay con thỏ cái! Đám lâu la của lão, cũng bắt chước nhổ nước bọt, đồng thanh gào lên: - Xui rồi xui rồi xui rồi, sáng sớm gặp ngay con thỏ cái! Một con khỉ đít đỏ nhanh như chớp nhảy lên vai tui khiến tui giật thót. Không đợi tui kiệp ngoảnh lại, nó thọt tay vào làn chộp luôn cái đùi chó rồi nhảy phát lên hương án, nhảy bước nữa lên vai Bà Cô, chiếc xích ở cổ kêu lanh canh, đuôi biến thành chiếc chổi quét bụi tung mù mịt, khiến tui ngứa mũi chỉ muốn hắt xì hơi. Con khỉ chết tiệt, tên súc sinh mang hình người, nó ngồi chồm hỗm trên vai Bà Cô nhai ngấu nghiến cái đùi chó, tay đầy mỡ bôi khắp miệng Bà Cô. Bà Cô cũng không quở mắng, khuân mặt rất đỗi hiền từ. Bà Cô không trị nỗi con khỉ, thì làm sao cứu được cha tui? Cha ơi là cha, cha là gan có tía, chuột nhắt dám phủ lạc đà, dám làm những chuyện tày đình! Thái hậu đương triều – Từ Hi lão Phật gia cũng biết tên cha; Đại đế Uyliêm của nước Đức cũng đã nghe sự tích của cha. Một thảo dân, một két hát kiếm miếng cơm chín như cha mà nỗi tiếng đến mức ấy thì không uổng đã sống ở đời, đúng như câu trong vở hát “Thà một chút huy hoàng rồi chợt mắt, còn hơn le lói suốt trăm năm”. Cha ơi, cha đi hát đã nữa đời người, chuyên sắm những vai người khác, lần này thì cha sắm vai của cha, diễn tích của cha – diễn cho chính mình! Lũ ăn mài xúm quanh tui, đứa chìa bàn tay bẩn thỉu gớm ghiếc, đứa ưỡn cái bụng đầy sẹo, chúng la chúng hét, chúng hát chúng cười, ồn ào như chợ vỡ. - Làm ơn đi, làm ơn, chị Tây Thi Thịt Cầy. Chị thí cho hai đồng nhỏ, chị thu về hai đồng vàng!… Chị không cho, tui cũng không cần, nhưng rồi quả báo sẽ tới gần! Trong tiếng ồm ào ma quái, bọn chết dẫm ấy, đứa véo đùi tui, đứa cấu mông tui, đứa sờ ti tui, chúng chớp thời cơ đục nước béo cò! Tui định bỏ chạy, chúng khóa tay, chúng ôm eo giữ tui lại. Tui chồm về phía Tám Chu: - Tám Chu, Tám Chu, hôm nay bà liều mạng với nhà ngươi! Tám chu nhặt chiếc gậy nhỏ bằng trúc chọc nhẹ vào đầu gối tui. Tui khuỵu xuống. Tám Chu cười khẩy, nói: - Mỡ đến miệng mèo, không ăn cũng phí! Các con, quan lớn Tiền ăn nặc thì bọn bây ăn vạc xương vậy! Bọn ăn mày ùa tới đè tui xuống, thoát cái đã lột quần tui ra. Trong lúc nguy cấp, tui nói: - Tám Chu, đồ chó đẻ, mượn gió bẻ măng không phải là trang hảo hán. Oâng có biết, cha tui bị Tiền Đinh bắt giam, đang chuẩn bị hành quyết không? Tám Chu nhướng cặp mắt toét, hỏi: - Cha cô là ai? Tui nói: - Tám Chu, ông mê ngủ hay sao thế? Cả nước Trung Quốc điều biết cha tui là ai, chỉ có ông là không! Cha tui là Tôn Bính, người Cao Mật, Tôn Bính hát Miêu Xoang, Tôn Bính phá đường sắt, Tôn Bính lãnh đạo dân làng chống giặc Đức! Tám Chu vội vàng ngồi dậy, chấp tay trước ngực vái lia lịa, miệng nói: - Thưa cô, đắc tội, tôi không biết, xin bỏ qua cho! Tôi chỉ biết Tiền Đinh là cha nuôi của cô, mà không biết Tôn Bính là cha đẻ của cô. Tiền Đinh là tên đốn mạt. Tôn Bính là bậc anh hùng! Cha cô là con người kiên cường, dám đối mặt với giặc Đức, bọn tôi khâm phục! Khi nào cần tới bọn tôi, xin cô cứ sai bảo, lạy cô tha tội đi! Bọn ăn mày nhất loại quì lại, dập đầu rõ kêu, trán dính đầy đất. Chúng đồng thanh: Chúc cô vạn phúc! Chúc cô vạn phúc! Con khỉ đang ngồi vắt vẻo trên vai tượng Bà Cô cũng quăng vội cái đùi chó ăn dở, tụt xuống khấu đầu như người, nhăn nhăn nhở nhở khiến ai cũng bật cười. Tám Chu nói: - Các con, ngày mai liếm con cầy thật béo mang tới nhà cô. Tui vội bảo: - Thôi thôi, không cần như thế. Tám Chu nói: - Xin cô đừng làm khách, bọn trẻ của tôi bắt chó còn dễ hơn bắt rận trên cạo quần. Bọn ăn mày cười hì hì, đứa thì răng vàng khè, đứa thì khuyết răng, miệng há hốc. Tui chợt cảm thấy chúng trất đáng yêu. Cuộc sống bần hàn của chúng vậy mà vui. Nắng hồng ấm áp rọi qua cửa ra vào, rọi trên những gương mặt đang cười củ lũ ăn mày. Mũi tui cay xè, nước mắt trào ra. Tám Chu nói: - Cô có cần bọn tôi đi cướp nhà lao không? Tui bảo không cần. Cha tui không phải án thường. Gác ngục không chỉ bọn lính lệ của huyện, mà còn có một bọn lính tây do Caclôt điều đến. Tám Chu nói: - Bảy Hầu đâu, dạo qua một lượt, có tin gì về báo ngay! Bảy Hầu nói: - Tuân lệnh! Cậu ta cầm lấy thanh la trước tượng Bà Cô, khoác túi lên vai, huýt sáo gọi: Bé ngoan, đi cùng ba! Con khỉ nhảy tót lên vai cậu. Bảy Hầu gõ thanh la, miệng hát nghêu ngao, ra đi. Tui ngước nhìn lên tượng Bà Cô bằng đất, toàn thân là nước sơn cũ kỹ, nhưng khuân mặt như mâm bạc thì có nước – Bà Cô đổ mồ hôi! Bà Cô hiển linh! Bà Cô hiển linh! Xin Bà phù hộ cho bố tui! Tui trở về nhà, trong lòng chứa chan hi vọng. Gíap Con đã dậy, đang mài dao trong sân. Anh chàng nhìn tui cười cười, tỏ ra thân thiết và tình cảm. Tui cũng cười cười nhìn anh chàng, cũng tỏ ra thân thiết và tình cảm. Anh chàng dùng tay gại gại lưỡi dao, hình như cảm thấy chưa sắc, lại cắm cúi mài tiếp, soạt… soạt. Gíap Con chỉ mặc mỗi quần lót, nửa người trên ở trần, lưng beo eo gấu, đám lông đen trên ngực. Tôi bước vào buồng chính, thấy bố chồng ngồi trên ghế thái sư bằng gỗ đàn hương khảm trai đem từ kinh thành về, đang nhắm mắt dưỡng thần, tay lần tràn hạt bằng gỗ đàn hương, miệng lẩm bẩm, không hiểu đang tụng kinh hay chửa ai. Trong phòng tối mờ mờ, ánh nắng lọt qua khe cửa, in từng vệt trên nền nhà. Một vệt sáng như ánh vàng ánh bạc rọi thẳng vào mặt lão, khuôn mặt gầy guộc, mắt trũng sâu, dưới cái mũi cao cao là cái miệng mím chặt in hệt một viết chém bằng dao. Môi trên mỏng dính và cái cằm dài nhẵn thín không một sợi râu,chẵng trách người ta đồn rằng, lão là thái giám bỏ chạy từ kinh thành về đây. Tóc lão đã thưa, phải độn thêm một nắm chỉ đen mới tết được một đuôi sam nho nhỏ. Lão hé mắt, cái nhìn lạnh như băng chiếu thẳng vào người tui. Tui vấn an lão: “Cha dậy rồi ạ?” Lão gật đầu, tiếp tục lần tràng hạt. Quen lệ mấy tháng nay, tui lấy lược sừng chải đầu, bện đuôi sam cho bố chồng. Việc này vốn là của người hầu nhưng mà tui không mướn người hầu. Con dâu không nên chải đầu cho bố chồng, người ta trông thấy dị nghị chết! Nhưng vì tui có việc cầu cứu lão, lão để tui chải đầu thì tui chải đầu cho lão. Thực ra, thói quen này là do tui tạo ra. Hồi lão mới về, một buổi sáng, lão vụng về cầm cây lược gãy tự chải đầu, Giáp Con giúp lão để tỏ ra hiếu thuận, vừa chải vừa nói: - Cha à, đầu con tóc ít, nghe mẹ nói hồi nhỏ con bị mạch lươn, tóc bị sẹo lấn hết. Đầu cha cũng ít tóc, chắc cũng do mạch lươn, phải không cha? Giáp Con vụng chân vụng tay, lão già nghiến răng nghiến lợi, nói chịu tội sống mới cho ông con chải đầu hộ, nói có phúc phận mới được Giáp Con nhổ tóc như nhổ lông lợn! Hôm ấy, tui vừa từ chỗ quan lớn Tiền trở về, trong lòng đang vui. Để hai cha con lão phấn khởi, tui nói: “Cha à, để con chải đầu cho cha!”. Tui chải cho lão cái đầu thật mượt, lại độn chỉ thâm tết cho lão cái đuôi sam to tướng. Xong xuôi, tui đưa cái gương tới trước mặt lão. Lão nắn vuốt cái đuôi sam nửa thật nửa giả, một giọt nước mắt ứa ra từ hốc mắt đen ngòm. Giọt nước mắt hi hữu. Giáp Con sờ hốc mắt cha hỏi: “Cha khóc à?” Bố chồng tui lắc đầu: - Đương kim Hoàng Thái Hậu có một thái giám chuyên chải đầu, nhưng Thái Hậu không dùng, mà chỉ thích Tổng quản Lý Liên Anh chải đầu cho mình. Bố chồng nói vậy, tui không hiểu đầu cua tai nheo ra làm sao cả. Giáp Con nghe tới Bắc Kinh thì mê tít, xoắn xuýt đòi kể chuyện. Cha anh ta không kể, lấy trong bọc tờ ngân phiếu đưa cho tui, nói: - Con dâu này, con đi mua mấy thước vải tây mà may quần áo. Cả dạo này con vất vả vì cha rồi! Hôm sau, tui còn đang ngủ thì Giáp Con đánh thức tui dậy. Anh làm gì vậy? – Tui khó chịu hỏi. Giáp Con bò bò: - Dậy, dậy! Cha đang đợi chải đầu cho cha. Tui ngớ ra, bực không thể tả, đúng là mở ra thì dễ, khép lại mới khó. Lão coi mình là thứ gì? Đồ khốn, nhà người không phải là Từ Hi Thái Hậu, ta cũng không phải Đại Tổng quản Lý Liên Anh! Cái mớ tóc hoa rầm mềm oặt hôi rình của nhà ngươi, ta chải cho một lần cũng đã phúc tồ tám đời nhà ngươi rồi! Quen mui thấy mùi ăn mãi! Nhà ngươi cứ tưởng cho ta một ngân phiếu năm lượng bạc thì muốn sai lúc nào thì sai hay sao? Ngươi không nghĩ rằng ngươi là ai? Ngươi cũng không nghĩ rằng ta là ai? Tui giận cành hông bước xuống giường, định nói mấy câu thật độc địa để lão đỡ làm tàng. Nhưng tui chưa kịp mở miệng, lão ngước nhìn cái tấm đan phía trên cửa ra vào, lẩm bẩm như chỉ nói cho một mình lão nghe: - Không biết ai chải đầu cho tri huyện Cao Mật? Tui cảm thấy ớn lạnh toàn thân, cảm thấy lão già trước mặt tôi dứt khoát không phải con người, mà là một con quỉ biết tàng hình, nếu không thì làm sao biết tui chải đầu cho quan lớn Tiền. Nói đoạn, lão đột nhiên ngồi thẳng lên, ngẩng cao đầu, ánh mắt thâm hiểm như xuyên qua người tui. Cơn giận của tui tan biến. Tui ngoan ngoãn vòng qua phía sau chải mớ lông tóc như lông chó của lão. Trong khi chải tóc cho lão, tui lại nhớ tới bộ tóc đen mượt thơm thơm của cha nuôi: sờ nắn cái đuôi sam bé tí như đuôi lừa của lão, tui lại nhớ tới cái đuôi sam nặng trẫm tay, thơm mùi da thịt và như biết cử động của cha nuôi. Cha nuôi dùng đuôi sam quét lên người tui, từ đỉnh đầu tới gót chân, khiến tui nao1ng ran khắp người, các lỗ chân lông điều rỉ nước. Phải chải thôi, không còn cách nào khác, đã gieo gió thì phải gặt bão! Mỗi khi tui chải đầu, là cha nuôi lại sờ soạng tui, và thường thì chưa chải đầu xong, tui và cha nuôi đã dính chặt vào nhau. Tui không tin là lão già này không động lòng, lão già, chỉ cần lão dám trèo lên, tui đảm bảo lão chỉ có lên mà không có xuống. Khi đó, lão sẽ ngoan ngoãn vâng lời tui. Khi đó tui vẫn chải đầu cho lão, chải cái gáo dừa cho lão! Người ta đồn rằng trong bọc lão có mười lạng ngân phiếu, sớm muộn tui cũng bắt lão phải xì ra! Tui mong lão trèo lên, nhưng lão già rất đằm tính, đến nay vẫn chưa trèo. Tui không tin trên đời có thứ mèo chê mỡ, lão già, để ta xem lão có thể trụ được bao lâu! Tui gỡ bím tóc, dùng lược chải lọn tóc lơ thơ của lão. Sáng nay, động tác của tui cực kỳ nhẹ nhàng. Tui cố nén cảm giác ghê tởm,m dùng ngón tay út gãi gãi dái tai lão, ngực tì vào gáy lão, nói , cha ơi, cha đẻ của con bị quan phủ bắt giam, cha từng ở kinh đô, quen biết rộng, xin cha hãy bảo lãnh cho cha con! Lão già không nói nửa lời, không phản ứng gì. Tui không biết lão không điếc, lão đang giả câm giả điếc đấy thôi. Tui xoa bóp hai bờ vai lão, nhắc lại câu vừa rồi, lão vẫn im như thóc. Bỗng ánh nắng rọi thẳng vào dãy cúc áo vàng choé trên áo chùng của lão, rọi trên đôi bàn tay nhỏ xíu đang lần tràn hạt. Hai bàn tay vừa trắng vừa mập, hoàn toàn không hợp với tính cách và tuổi tác của lão. Dao kề cổ bắt phải xin thì tui cũng không thể tin rằng đây là hai bàn tay chuyên cầm đại đao chặt đầu người! Trước khi tui không dám tin, bây giờ vẫn nửa tin nửa ngờ. Tui càng ép chặt người tui vào lão, phụng phịu: cha ơi, cha đẻ của con phạm lỗi, cha từng ở kinh đô, quen nhiều biết rộng, cha bày cách giúp con! Tui day day bờ vai lão, bầu vú nặng trịch của tui nghỉ ngơi trên gáy lão, miệng tui tung ra hàng ngần những câu nũng nịu. Với quan lớn Tiền thì thủ đoạn trên đã khiến quan bủn rủn tay chân, tôi bảo sao làm vậy. Nhưng với cái lão chết tiệt này cứ trơ như đá vững như đồng, dù cặp vú mềm mại của tui rập rình trên cổ lão, mặc cho những lời đường mật của tui liên tục rót vào tai lão, lão cũng chẳng nói chẳng rằng. Đột nhiên, tui thấy đôi bàn tay dừng lại, hình như khẻ run rẩy. Tui mừng thầm, lão già, không nhịn được nữa phải không? Sức mấy mà cưỡng lại! Ta không tin nhà ngươi không móc ngân phiếu đưa cho ta, không tin nhà ngươi còn đưa chuyện riêng tư giữa ta với quan lớn Tiền để huy hiếp ta. “Cha ơi, cha tìm cách giúp con mấy!” Tui đứng đằng sau lão mà uốn éo, gạ gẫm lão. Chợt tui nghe thấy một tiếng cười, tiếng cười mà như tiếng gào của con mèo hoang trong một đêm tối trời, khiến tui sợ toát mồ hôi, các ý nghĩ tan biến. Lão có còn là người không mà giọng cười như thế? Không, lão không phải con người, lão là quỉ! Lão cũng không phải bố chồng tui. Tui lấy Giáp Con đã hơn mười năm, chưa bao giờ nghe nói có một bố chồng ở kinh thành. Giáp Con con chưa bao giờ nói đã đành, hàng xóm láng giềng cũng chưa bao giờ nói. Lão có thể là tất cả, nhưng không thể là bố chồng tui. Khuôn mặt lão hoàn toàn không giống khuôn mặt chồng tui. Đồ ôn dịch, chắc chắn nhà ngươi là con mèo rừng đã thành tinh? Người khác sợ bọn yêu ma quỉ quái chứ ta không sợ! Trong chuồng có một con chó mực, lát nữa Giáp Con sẽ làm thịt, tui sẽ đỗ chậu máu chó lên đầu lão, bắt lão hiện nguyên hình! Hôm tết thanh minh trời mưa phùn, những đám mây chì rối như bông gòn, lười nhác chuyển động giữa trời và đất. Sáng tinh mơ, tui len lỏi trong đám gái trai ăn mặc diêm dúa, ra khỏi cửa Nam. Hôm đó, tui cầm chiếc dù giấy vẽ tích Hứa Tiên du ngoạn trên hồ gặp bạch xà, chiếc cặp con bướm khuôn gọn mái tóc đen mượt. Tôi thoa nhẹ một lớp phấn trắng lên mặt, phấn hồng lên hai gò má, chấm một nốt ruồi duyên giữa hai lông mày, môi tô thắm mầu hoa anh đào. Tui mặc chiếc áo cánh mầu hồng bằng vải ngoại, chiếc quần mầu hồ thuỷ cũng bằng vải ngoại. Người ngoại quốc rất xấu, nhưng vải ngoại thì rất đẹp. Tui đi đôi giầy bằng đoạn xanh thêu cặp uyên ương đang bơi giữa đầm sen. Chẳng phải các người chê chân tui to đấy sao? Tui đi đôi giầy loại đó đề các người ngắm chân tui to hay nhỏ. Tui ngắm mình trong chiếc gương tráng thuỷ ngân. Trong gương là một mỹ nhân, người đẹp ngời ngợi. Tui cũng mê tui, cứ gì cánh đàn ông. Tui xót xa trong lòng vì chuyện cha đẻ, nhưng cha nuôi đã nói, rằng trong lòng càng đau thì ngoài mặt thì càng phải tươi, không nên đưa cái bộ mặt ủ dột cho người ta nhìn ngắm. Được thôi được thôi, cứ ngắm cứ ngắm, hôm nay bà phải so tài cao thấp với đám phụ nữ trong thành Cao Mật, nào là tiểu thư nhà ông Cử, nào thiên kim tiểu thư phủ Hàn Lâm, tất tật điều không bén gót tui. Cái yếu của tui là hai bàn chân to, chỉ trách mẹ tui mất sớm không kịp bó chân cho tui, tui rất buồn khi nhắc tới chuyện này. Nhưng cha nuôi của tui lại rất thích bàn chân to, tức là bàn chân bình thường, chân bình thường thì cái thú mới trọn vẹn. Khi ở trên người tui, ông rất thích tui dùng gót chân gõ lên cặp mông của ông. Khi tui gõ, ông kêu toáng lên: “Vàng bạc là chân to, rủi ro là chân bé!…” Khi đó, mặc dù cha tui đã lập thần đàn ở vùng đông bắc Cao Mật, chuẩn bị một phen sống mái với bọn Đức; mặc dù cha tui rất phiền lòng về chuyện của cha đẻ tui, hai mươi bảy nhân mạng khiến ông rầu rĩ, nhưng trong thành vẫn còn là cảnh tượng thanh bình. Aùn mạng cẩy ra ở vùng Đông Bắc, nhưng hầu như không liên quan tới trăm họ trong thành. Quan lớn Tiền cha nuôi tui sai người trồng năm cây cột bằng gỗ sam ở phía dưới ngoài cửa Nam, chỗ bãi luyện ngựa, làm một cây đu co chót vót, trai gái toàn thành kéo đến tự tập xung quanh, gáu trang điểm lè loẹt, trai biếm tóc đen mượt như nhung. Từng đợt tiếùng reo hò, từng trận cười hỉ hả. Tiếng reo tiếng cười xen lẫn tiếng rao: Kẹo bạch nha đây!… Phá sa đây!… Cụp dù lại, tui nhập vào đám người đưa mắt nhìn khắp lượt, trông thấy tiểu thư họ Tề, có a hoàn dìu hai bên. Tiểu thư họ Tề có tài văn chương thơ phú, quần là áo lượt, trâm ngọc đầy đầu, chỉ tiếc mặt cô dài như mặt ngựa, trên mảnh đất nhiễm phèn trắng bợt ấy mọc lên hai túm cỏ khô. Đó là lông mày của cô. Tôi còn trông thấy thiên kim tiểu thư nhà Hàn lâm họ Cơ có bốn thị nữ theo hầu. Nghe đồn cô ta là một cao thủ trong hội họa, chơi được các loại đàn, chỉ tiếc cô ta mũi nhỏ mắt nhỏ tai nhỏ, in hệt một con chó mắt lồi như mắt cóc. Từ trong ngõ phấn son ùa ra những cô điếm. Các cô đi du xuân, cười cười nói nói, nhí nhảnh nghịch ngợm như lũ khỉ. Trông trước ngó sau đủ rồi, tui ngẫng cao đầu, vênh váo đi lên. Đám choai choai sinh sau đẻ muộn cứ dán mắt vào tui, ngắm từ đầu xuống chân rồi từ chân lên đầu, miệng há hốc. Tui mỉm cười, bụng hả hê. Các con, mở mắt ra mà nhìn, rồi về nhà mà tơ tưởng! Bà hôm nay mở lượng hải hà, cho các ngươi ngắm cho đã mắt. Đám choai choai ngẩn ra hồi lâu, rồi như chợt tỉnh “ồ” lên một tiếng như sấm nổ lúc trời quang, sau đó tranh nhau gào toáng lên: - Tây Thi thịt cầy, mỹ nương Cao Mật! Xem kìa, hãy xem người ta mặt thoa da phấn, thắt đáy lưng ông, cổ cao ba ngấn, tiên hạc đôi chân! Nhìn nửa người trên, thèm muốn mà chết! Nhìn nửa người dưới, sợ hãi mà gục, chỉ mỗi quan Tiền là quái đản, thích nàng Tiên chân to. Đừng nói nữa, rừng có mạch vách có tai! Người ta nghe thấy giải lên huyện, lãnh bốn mươi gậy, tan xương nát thịt! Bọn bây nói nhăng nói cụi gì thì hôm nay bà cũng không giận. Cha nuôi thích là được, bọn bây xá kể gì! Bà đến đây để chơi đu, không phải nghe bọn bay nói bậy. Bọn bay ngoài miệng nói xấu bà, nhưng trong lòng chỉ hận nỗi không được uống nước tiểu của bà! Lúc này đu đang rỗi, hai dây thừng to đung đưa dưới mưa phùn, đợi tui trèo lên. Tui quẳng chiếc dù ra phía sau, cũng không rõ chàng trai nào trợ giúp, tui như con cá chép đã vọt lên mặt nước, hai tay tóm lấy hai bên dây thừng, vươn người vọt lên lần nữa, hai bàn chân đã đặt trên bàn đế. Các ngươi đã thấy bàn chân to lợi hại thế nào chưa? Tui nói to: - Các con, hãy mở mắt mà nhìn, bà sẽ trổ tài cho các con xem, để biết đánh đu thì phải như thế nào! … Vừa nãy có mật con nhỏ không biết là con nhà ai mà vụng về, lại vừa béo vừa đen, mặt cô nàng còn đen hơn than, cặp mông to hơn lồng bàn, chân to hơn cột nhà cháy, người ngợm như thế mà cũng leo lên cây đu! Cây đu là cái gì? Là sân khấu cho người ta biểu diễn, là trưng bầy tấm thân, khoe khoang khuân mặt, là chiếc bánh dập dềnh trên sóng, là ăn chơi nhảy múa, là nơi để đám phụ nữa nũng nịu làm duyên. Vì sao cha nuôi tui cho dựng cây đu trên bãi ngựa? Oâng ấy yêu dân chăng? Xì! cóc phải. Nói thật, đó là món quà ông tặng tui nhân dịp tết thanh minh. Các người có tin hay không? Không tin thì đi hỏi ông ấy. Chiềi tối qua tui đem thịt chó đến cho ông, sau cuộc mây mưa, ông ôm eo tui mà bảo: “Trái tim bé nhỏ, con yêu của ta! Mai là tết thanh minh, cha nuôi dựng cho con cây đu ở ngoài cửa Nam. Cha nuôi biết con đã từng luyện đao thương, con hãy hé lộ đôi chân, không chấn động được tĩnh Sơn Đông thì chấn động vùng Cao Mật cho ta! Để đám dân đen biết rằng, con gái nuôi quan Tiền là Hoa Mộc Lan, hào kiệt trong phái nữ! Để mọi người hiểu rằng, chân to đẹp hơn chân nhỏ. Oâng Tiền muốn sửa đổi phong tục, phụ nữ Cao Mật sẽ không bó chân nữa!”. Tui nói, cha nuôi à, vì chuyện cha đẻ của tui mà cha nuôi không vui, cha nuôi đảm đương gánh nặng bảo vệ cha đẻ tui. Cha nuôi không vui, tui cũng không lòng dạ nào mà vui thú. Cha nuôi cảm động hôn chân tui, nói: - Mi Nương, trái tim của ta! Cha nuôi muốn nhân dịp tết thanh minh xua đuổi sự rủi ro trong huyện, người đã chết thì không thể sống lại, nhưng người còn sống thì phải vui lên. Mình khóc khóc mếu mếu, không ai thật lòng cảm thông với mình, nhiều người còn cười nhạo mình. Nếu mình cứng rắn lên, đứng thẳng lên, tỏ ra mạnh mẽ hơn họ, họ sẽ phục mình. Những người viết sách, viết kịch sẽ đưa mình vào sách, đưa mình lên sân khấu. Mi Nương trổ tài trên cây đu đi, khoảng mười năm sau, biết đâu lại có vở Miêu Xoang: Mi Mương đại náo cây đu! - Thưa cha nuôi, việc khác thì Mi Nương không rành – Tui dùng chân vuốt ve bộ râu của cha nuôi nói – Nhưng đánh đu thì chắc chắn không để cha nuôi phải hổ thẹn. Tui bám hai dây đu bằng hai tay, nhún nhấp mông, chân hơi khuỵu xuống, các ngón chân bấm trên bàn đạp, đưa mông về đằng sau, lại nhún chân khuỵu mông bấm bàn đạp, lại ưỡn ngực ngẩng đầu dướn hai chân. Cái chốt ngang bằng sắt của vây đu kêu kên kẹt. Đu đã bay lên, càng bay càng cao, càng bay càng nhanh, càng bay càng mạnh, dây đu thẳng băng, gió rít ù ù, vòng sắt trên then ngang rít rợn người. Tui cảm thấy lâng lâng như lên cõi tiên, đôi cánh chim đã biến thành cánh tay của tui, ngực tui mọc đầy lông vũ. Tui đu lên tầm cao nhất, người tui như bay, trong lòng rộn ràng như sóng vỗ, như thuỷ triều lúc dềnh lên lúc xuống thấp, như ngọn sóng đuổi nhau, bọt trắng dồn bọt trắng, cá lớn đuổi cá bé, cá bé đuổi tôm tép, ào ào ào… cao cao… cao nữa… Người tui đã nằm ngang trên tầm cao nhất, mặt tui đã chạm vào bụng chim en bay đến góp vui. Tui nằm trên một tấm nệm êm êm, đan bằng gió nhẹ mựa phùn. Đu lên điểm cao nhất, tui cắn lấy một bông hoa của cây cổ thụ, phía dưới ồ lên tán thưởng… Du dương quá, thư thái quá, đắc đạo rồi, thành tiên rồi… Tiếo đó, để cho đê vỡ, cho thủy triều lui, sóng níu sóng, cá lớn dắt cá bé, cá bé dồn tôm tép, đu hạ thấp rồi vút lên cao, dây đu thẳng căng, người tui song song với mặt đất, mắt tui nhìn mảnh đất mầu vàng tươi và những mầm non xanh biết, miệng tui ngậm bông hoa hạnh, mùi thơm thoang thoảng vương trong mũi. Tui đùa giỡn trên cây đu. Dưới đất là đám choai choai, đám lưu manh vắt mũi chưa sạch, bọn độc thân chưa lập gia đình, tất cả đều hoá rồ. Tui bay lên, chúng “ồ”, bay bay xuống, chúng “á”; “ồ” bay đi, “à” bay lại, mưa phùn đủ làm ẩm áo, ngọt ngào, mằn mặn, gió thổi phồng áo sống, mưa thấm ướt trước ngực, trong lòng cảm thấy đã thỏa. Tuy trong nhà đang có chuyện, nhưng con gái đi lấy chồng như nước đã đổ đi, vậy cha tự lo liệu công việc của cha, từ nay con phải sống những ngày cho con! Con, trong nhà thì có người chồng thật thà trung hậu che chắn nắng mưa; ngoài thì kết bạn với người vừa có quyền vừa có thế, vừa đa tình vừa đa cảm; thích rượu thì uống rượu, thích thịt thì ăn thịt; dám khóc dám cười dám chơi bời dám quậy phá, chẳng ai dám làm gì tui. Đó là phúc, cái phúc mà mẹ tui cơ cực cả đời người ăn chay niệm phật mà có, cái phúc mà số tui được hưởng. Cảm ơn trời, cảm ơn Hoàng thượng và Thái hậu, cảm ơn cha nuôi Tiền đại nhân, cảm ơn Tiểu Giáp dở dở ương ương… Cảm ơn cây gậy của Quan lớn Tiến chuyên dùng cho tui… Đó là bảo bối không dễ mà có trong trời đất, là thuốc của tui. Tui cảm ơn bà mệnh phụ phía sau công đường không lộ mặt, bà không thể sinh nở, khuyên chồng lấy nàng hầu nhưng quan lớn Tiền không nghe. Tục ngữ có câu: Nước đầy thì tràn, trăng tròn rồi khuyết, người vui chuyện gở, cho vui tranh phân. Trong lúc tui khoe tài ở đám đu, thì cha đẻ Tôn Bính cầm đầu nhân dân vùng Đông Bắc vác thuổng cuốc đinh ba, cầm đòn gánh chàng nạng, bao vây lán trại của bọn Đức đang làm đường sắt, đập chết hai tên bắt sống ba tên. Họ lột hết quần áo bọn bị trói vào cây hòe, đổ nước tiểu lên đầu chúng. Họ nhổ tất cả các cọc mốc đem đốt, họ móc đường ray quẳng xuống sông, họ gở tà vẹt đem về làm chuồng lợn. Họ còn thiêu trụi các lán trại. Tui cho đu lên hết độ cao, tầm nhìn vượt ra ngoài tường thành, nhìn thấy mài nhà lô xô như bát úp. Tui nhìn thấy con đường lát đá xanh trước cổng huyện, nhìn thấy nơi ở của cha nuôi, những dãy nhà cao to trùng điệp. Tui trông thấy chiếc kiệu lớn bốn người khiêng của cha nuôi đã ra khỏi nghi môn, tên lính lệ mũ đỏ áo trắng gõ thanh la đi trước dẹp đường, theo sau là hai hàng nha dịch, điều mũ đỏ áo trắng, giương cao cờ biển, sau đó mới tới cỗ kiệu. Hai hộ vệ dắt đao bên mình, tay vịn đòn khênh tiến lên theo nhịp chuyển động của kiệu. Theo sao kiệu là thư biện của sáu phòng. Sau ba hôi thanh la, cùng với tiếng hô oai nghiêm của các nha dịch, bọn phu kệu cất bước chạy gằn, thoăn thoắt như gắn lò xo ở gối. Chiếc kiệu rập rình, nhấp nhô như con thuyền lướt trên sóng nước. Tầm nhìn của tui vượt qua huyện thành về phía đông bắc, con đường sắt của Đức chạy từ Thanh Đảo, đã biến thành con rết không lồ bị đập bể sọ, đang quằn quại. Một đám đông đen ngòm dày đặc trên cách đồng chớm xuân mầu xanh nhạt, phất cờ, những lá cờ mầu sắc pha tạp, ùn ùn kéo về phía đường sắt. Lúc này tui chưa biết đó là chatui đang cầm đầu đám người chống đối, nếu biết, tui không còn bụng dạ nào tiếp tục cuộc chơi. Tui trông thấy phía đường sắt từng cột khói bốc lên như những cây to biết cử động, rồi những tiếng nổ nặng nề rất nhanh dội tới. Đội nghi trượng của cha nuôi ngày càng tới gần, đã tiếp cận cửa Nam. Tiếng thanh la còn rõ hơn, tiếng hô càng trầm hùng hơn, những lá cờ ủ rũ dưới mưa, y hệt những tấm da chó rướm máu. Tui trông thấy mồ hôi lấm tấm trên mặt, nghe tiếng thở nặng nhọc của bọn phu khiêng kiệu. Người đi đường đều dừng lại cúi đầu, không một ai dám nói to hoặc một cử chỉ khác thường. Những con chó dữ nổi tiếng của nhà Đỗ Giải Nguyên cũng im thin thít, có thể thấy cái uy của cha nuôi, ngay súc vật cũng không dám nhờn. Tui trong lòng rạo rực, trong tim như có cái bếp lò, trên bếp hâm bình rượu. Cha nuôi thân yêu của tui, tui nhớ Người cháy ruột cháy gan! Hãy hoà Người vào trong bình rượu! Tui dùng hết sức đu lên thật cao, để qua rèm cha nuôi trông thấy tấm thân yêu kiều của tui. Từ trên cây đu, tui trông thấy đoàn người phía xa dày đặc như một đám mây đen cuồn cuộn, không thể phân biệt đàn ông đàn bà, người già người trẻ, nhìn không ra ai là Cột ai là Kèo, nhưng mấy ngọn cờ đại của họ thì rực rỡ khiến tui hoa mắt! Họ í ới gọi nhau, kỳ thực tui hoàn toàn không nghe rõ tiếng gọi, mà chỉ phỏng đoán. Cha đẻ tui xuất thân két hát Miêu Xoang, tổ sư đời thứ hai của làn điệu này. Miêu Xoang vốn là một làn điệu dân gian, cha đẻ tui đã nâng tầm nó lên, trở thành một loại hình kịch nghệ nỗi tiếng cả vùng rộng lớn, phía bắc đến phủ Lai Châu, phía nam đến Phủ Đăng Châu, tổng cộng mười tám huyện. Tôn Bính hát Miêu Xoang, phụ nữ lệ chảy tràn. Oâng vốn là người thích hò la. Nay dẫn đầu đám quân, ông không hò hét sao được? Để không bỏ sót cảnh này, để được nhìn thêm lúc nữa, tui đưa đu lên thật cao. Những kẻ ngu ngốc đứng dưới cứ tưởng tui biểu diễn cho chúng xem. Chúng hoa chân múa tay, hò hét như điên. Hôm ấy tui mặc đồ mỏng, lại thêm mồ hôi ướt đẫm – Cha nuôi tui bảo mồ hôi tui thơm mùi hoa hồng. Tui huy động bằng hết những bảo bối trên người, cái mông tròn lẳn vổng ra sau, bộ ngực xinh xinh nhô ra trước, cho bọn háo sắc thèm rỏ rãi! Gió lạnh luồn trong áo, xoáy tròn trong nách tui. Tiếng gió mưa tiếng hoa đào xòe cách, cánh đào đẫm nước mưa. Tiếng hò tiếng hét của nha dịch, tiếng lanh canh của vòng sắt, tiếng rao hàng của dân bán dạo, tiếng nghé ọ của con nghé… tất cả quyện vào nhau. Một cái tết thanh minh ồn ào, một mồng ba tháng Ba rực lửa. Tại khu mộc ở góc tây nam, mấy bà già tóc bạc phơ đang hoá vàng. Một con lốc nhỏ quyện khói dựng đứng trên khu mộ, trông giống những cây bạch dương xám xịt xung quanh. Đội nghi trượng của cha nuôi ra khỏi cửa Nam, những người xem đánh đu đều quay lại nhìn. Quan huyện đến rồi! Có người kêu lên. Đội nghi trương của cha nuôi lượn một dòng quanh giáo trường, bọn nha dịch lên gân lên cốt, ngực ưỡn mắt tròn xoe. Cha nuôi, qua bức rèm trúc, tui trông thấy chiếc mũ đội trên đầu và khuân mặt hình chữ điền hồng hào của cha, trông thấy bô râu với những sợi thẳng và cứng như thép, nhúng vào nước không rối. Bộ râu của ông là chìa khóa, khóa chặt trái tim ông và tui, là sợi tơ hồng của ông Nguyệt lão, không có bộ râu của ông và bộ râu của cha đẻ tui, thì ông tìm đâu ra cô con nuôi ngon lành như tui? Bọn nha dịch ra oai, thực ra chính là cha nuôi tui ra oai, thấy đã dủ, liền hạ kiệu xuống bên rìa giáo trường. Phía tây giáo trường là vườn hoa đào nở rộ, cây nọ nối tiếp cây kia, trong màn mưa mông lung, trông như những cụm khói. Một nha dịch đao cài thắt lưng tiến lên vén rèm, cha nuôi bước xuống kiệu. Mũ cánh chuồn đội ngay ngắn trên đầu, cha nuôi phải phủi phủi tay áo, rồi chắp tay trước ngực, cha xá mộ xá, cất giọng sang sảng: “Thưa các phụ lão, các con dân, chúc ăn tết vui vẻ!” Cha nuôi, ông chỉ giỏi vờ vĩnh! Nhớ lại những lúc ông đùa với tui ở Tây Hoa sảnh, tui không nhịn được cười! Nghĩ tới nỗi khổ mà ông phải chịu trong mùa xuân năm nay, tui bất giác chỉ muốn khóc. Tui dừng đu, tay vịn thừng đứng trên bàn đạp, miệng hé mở, mắt đắm đuối nhìn cha nuôi làm trò, trong lòng rộn lên bao nỗi ngọt bùi cay đắng! Cha nuôi hiểu dụ: - Bản quan xưa nay vẫn khuyến khích trồng đào… Cà nhắc cà nhót đi theo sau cha nuôi tui là viên xã trưởng thành Nam, lão nói to: - Quan tri huyện nhân tết xuân mưa phùn, trồng một cây phiên đào để làm gương cho dân chúng noi theo… Cha nuôi liếc xéo viên xã trưởng một cái tỏ ý không bằng lòng về cái tội nói leo, ông nói tiếp: - Hỡi các con dân, các ngươi hãy trồng đào trước nhà trước cửa, vườn trước vườn sau, “bớt chuyện gẫu bát phố, nên đọc sách, trồng đào”. Chỉ mươi năm là cùng, huyện Cao Mật sẽ có những ngày tươi đẹp. “Nghìn vạn cây đào hoa nở rộ, muôn dân tận hưởng khúc âu ca” Cha nuôi ngâm xong hai câu thơ, liền cầm xẻng xúc đất, lưỡi xẻng chạm một hòn cuội, tóe lửa. Đúng lúc đó, tên sai vặt Xuân Sinh lăn tới như một quả bóng. Hắn quấn quít vừa nói vừa thở: - Bẩm quan lớn, hỏng rồi, hỏng rồi!… Cha nuôi nghiêm giọng hỏi: - Chuyện gì mà hỏng? Xuân Sinh nói: - Bọn dân đen ở vùng đông bắc làm phản… Cha nuôi quẳng cái xẻng xuống, phủ tay áo, chui luôn vào trong kiệu chạy như bay, bọn nha dịch thất thểu chạy theo như chó nhà có tang. Tui đứng trên đu, đưa mắt nhìn theo đội nghi trượng, trong lòng buồn rầu không kể xiết. Cha đẻ ơi, cha làm cái tết mất vui rồi. Tôi thẫn thờ nhảy xuống, lách vào đám đông ồn ào nhốn nháo, cắn răng chịu đựng bọn trai tơ đục nước béo cò, nghĩ là mình nên vào vườn đào ngắm hoa hay về nhà luộc thịt chó. Đang phân vân thì Giáp Con từ xó xỉnh nào vụt hiện ra trước mặt tui, mặt đỏ gay, mắt trợn trừng trợn trạc, miệng lắp bắp: - Bố tớ, bố tớ về rồi! Quái quỉ thật! Tự dưng tòi ra ông bố chồng. Bố anh chết rồi kia mà? Chẳng phải đã hơn hai mươi năm nay không có tin gì về bố anh đấy sao? Giáp Con toát mồ hôi hột, vẫn tiếng được tiếng mất: - Về rồi, đúng là về rồi!

hết: 

I-Chương 1(a)

I-Chương 1(b)

MỊ NƯƠNG KỂ KỂ

Tui cùng Giáp Con hộc tốc chạy về nhà. Trên đường về, tui rất bật mình, hỏi Giáp Con đâu tự dưng tòi ra một ông bố? Cầm chắc là một tên cha căng chú kiết nào giở trò bịp, để tui xem hắn từ đâu tới, được thôi, bà mà nổi điên lên, đầu tiên là đánh gãy chân, sau đó lôi lên huyện, bất kể phải trái nện luôn hai trăm gậy cho nát mông ra, vãi cứt vãi đái ra, xem hắn còn dám xưng xưng là bố người ta nữa thôi! Trên đường, gặp bất cứ ai, Giáp Con cũng níu lại, vẻ thần bí: “Bố tớ về rồi”. Họ ngớ ra, không hiểu đầu cua tai nheo làm sao, thì Giáp Con gào toáng lên: - Tớ có bố rồi! Chưa về tới nơi, tui đã trông thấy một cỗ xe kiệu đỗ bên ngoài cổng nhà tui, dân phố xúm xít chung quanh. Mấy đứa trẻ đầu để chỏm luồn lách giữa đám người. kéo xe là một con ngựa mầu tía, béo núc ních. Một lớp bụi dầy bám trên xe, chứng tỏ đã đi một quảng đường dài. Mọi người nhìn tui bằng con mắt kỳ quặc, ánh mắt lấp lóe như ma trơi ngoài nghĩa trang. Bà Ngô chủ hiệu tạp hóa, vờ vĩnh ngõ lời chúc mừng: “Xin mừng anh chị, đúng là có phúc ắt có phần, thần tài chỉ yêu người giàu sang! Đã ăn không hết mà nay lại có một ông bố từ trên trời rơi xuống, lưng giắt hàng vạn quan tiền! Chị Hai Triệu này, lợn béo vào nhà, của cải dôi ra, đại hỉ rồi!”. Tui liếc xéo người đàn bà miệng loe như ống nhổ, bảo, bà Ngô này, bà cứ ngoác cái miệng lảm nhảm cái gì thế? Nếu nhà bà thiếu bố thì đón ông ta về, tui không tiếc mảy may! Bà ta cười hì hì, nói: - Chị nói thật không đấy? Tôi nói, thật thế, đứa nào không đón ông ta đi, thì nó là con la, bố lừa mẹ ngựa! Giáp Con giận dữ ngắt ngang lời tui: - Đứa nào dám cướp bố tớ, tớ đập chết! Cặp má bánh đúc của bà Ngô vụt đỏ lựng. Người đàn bà hay ngồi lê đôi mách, đơm đặt chuyện thiên hạ biết tui thân với quan lớn Tiền thì sinh lòng ghen ghét, thậm chí rất cay cú. Bị tui chửi vỗ mặt, Giáp Con lại bồi thêm một chưởng, mụ cụt hứng bỏ đi, miệng lảm nhảm những gì nghe không rõ. Tui bước lên bậc tam cấp bằng đá, quay lại nói với mọi người, thưa các vị hàng xóm láng giềng, vị nào muốn xem thì xin mời vào, không vào thì cút đi cho tui nhờ, đừng có đứng đực ra đấy! Mọi người lặng lẽ giải tán. Tui biết họ, ngoài miệng thì nịnh nọt tui bằng những lời đường mật, nhưng sau lưng thì nghiến răng nghiến lợi, chỉ mong tui nghèo xác nghèo xơ, phải đi hát rong độ nhật. Với bọn này thì chẳng cần nể nang, chẳng cần khách khí làm gì! Vào trong sân, tui gào lên rõ to, thần linh nào gián trần thế nhỉ? Cho tui chiêm ngưỡng một tí nào! Tui nghĩ bụng, không mềm mỏng vội, bố thật hay bố hảo thì cũng phải cho một đòn phủ đầu để lão biết tay, sau này khỏi tác oai tác phúc với con này! Tui trông thấy một chiếc ghế Thái sư bằng gỗ đàn hương quang dầu mầu huyết dụ kê ở giữa sân, một ông lão khó đăm đăm, đuôi sam bé tí trên đầu, đang lúi húi lau bụi trên ghế. Thực ra, chiếc ghế đã sạch bong, lẽ ra không cần lau chùi nữa. Nghe tui nói vậy, lão chậm rãi đứng lên, quay lại nhìn tui một thoáng, ánh mắt sắc lạnh. Mẹ ơi, cặp mắt gian giảo nằm sâu trong hốc mắt sắc như dao mổ lơn của Giáp Con! Giáp Con lon ton chạy đến trước mặt cha, nhệch miệng cười ngơ ngẩn, giới thiệu: - Bố, đây là vợ con, mẹ cưới cho con đấy! Lão già cũng không thèm nhìn lại tui một cái cho tử tế, miệng ừ ào mà tui không hiểu lão nói gì. Người đánh xe sau khi đã ăn uống no nê ở quán cơm lão Vương Thăng bên kia đường, cầm roi trở lại nhà tui, cáo từ. Lão già rút tờ ngân phiếu trong bọc đưa cho anh ta, chấp tay trước ngực vái liền mấy vái: - Người anh em, đi đường bình yên! Chui cha, lão già đặc giọng Bắc Kinh, cũng phát âm chuẩn như quan lớn Tiền, không khác nhau là mấy. Người đánh xe sau khi liếc qua tờ ngân phiếu, nét mặt sầu khổ bổng tươi rói. Anh cuối rạp liền ba cái, miệng tuôn hàng tràng như đánh rắm: - Cảm ơn lão gia, cảm ơn lão gia, cảm ơn lão gia!… Chà, lão già quả đáng gờm, có vẻ một tài chủ lắm bạc nhiều tiền! Cái vật cồm cộm bên trong áo chùng, ắt hẳn là ngân phiếu. Nghìen lượng hay vạn lượng? Được lắm, thời buổi này ai cho sữa người đó là mẹ, ai cho tiền người ấy là cha. Tui phủ phục trước mặt lão, dập đầu một cái rõ kêu, nói như hát: - Con chào cha! Giáp Con thấy tui quì lạy cũng vội quì xuống, dập đầu đánh “cốp” một cái, không nói gì, chỉ cười ngây ngô. Lão già không ngờ tui dùng đại lễ để chào lão nên lão có vẻ lúng túng đôi chút. Lão chìa hai tay ra – tui ngạc nhiên đến sững sờ khi trông thấy đôi bàn tay của lão – làm như định nâng tui dậy, nhưng không, lão không nâng tui, cũng không nâng Giáp Con, mà chỉ nói: - Miễn lễ, miễn lễ, người nhà không nên khách khí! Tui mất hứng, buộc phải đứng lên. Giáp Con cũng đứng dậy theo tui. Lão thò tay vào trong bọc, tui mừng thầm, tưởng lão lấy ngân phiếu cho tui. Mò mẫm hồi lâu, lão lấy ra một vật xinh xinh mầu cách trả giơ ra trước mặt tui, nói: - Lần đầu gặp mặt, chẳng có gì thưởng cho con, cầm cái này mà chơi! Tui đón lấy cái đồ chơi, bắt chước lão, nói người nhà không nên khách khí. Cái đồ chơi nằng nặng, mềm nhũn, mầu xanh cánh tả trông thích mắt. Tui ngủ cùng quan lớn Tiền đã mấy năm, biết khá nhiều vật phẩm văn hóa, không đến nỗi quê mùa quá. Tui biết đây là vật quí, nhưng không biết nó là cái gì? Giáp Con dẩu môi nhìn cha, có vẻ tủi thân. Lão cười cười, bảo. Giáp Con nghe theo, cúi xuống. Lão già đeo vào cổ Giáp Con chuỗi hạt mầu sắc óng ả, xâu bằng chỉ đỏ. Tui nhận ra đó là chuỗi hạt cầu phước, bất giác bĩu môi nghĩ thầm, lão già, lão cho rằng con trai lão mới một trăm ngày tuổi chắc! Về sau, tui đưa cái quà ra mắt của bố chồng cho cha nuôi xem. Cha nuôi bảo đó là cái bào tay dùng khi bắn cung, làm bằng ngọc phỉ thúy, quý hơn vàng, chỉ hoàng thân quốc thích, vương công quí tộc mới có báu vật này. Cha nuôi tay trái mân mê núm vú tui, tay phải nghịch nghịch cái bao tay, luôn miệng khen: “Của quí của quí của quí, đúng là của quí!” Tui bảo, cha nuôi thích nó thì biếu cha. Cha nuôi nói: “Không dám không dám, người quân tử không chiếm đoạt tình yêu của người khác”. Tui bảo, phụ nữ như tui, yêu cái bao tay để làm gì? Cha nuôi vẫn lựa lời thoái thác, tui bảo, nếu cha không nhận thì tui xé nát nó. Cha nuôi vội nói: “Chao ôi, nàng đừng xé, ta nhận vậy”. Cha nuôi đeo cái bao tay, giơ ngang tầm mắt ngắm nghía, quên cả công việc quan trọng là sờ vú tui. Sau đó cha nuôi đeo vào cổ tui cái tượng Bồ tát bằng ngọc. Tui mừng quá đỗi, ::145i1::y mới là thứ dành cho phụ nữ! Tui vuốt râu cha nuôi, nói lời cảm ơn. Cha nuôi vật tui ra, cưỡi tui như cưỡi lên con ngựa của cha, vừa thở vừa nói: - Mi Nương, Mi Nương, ta phải đi tìm hiểu xem bố chồng Mi Nương là con người như thế nào? Trong khi bố chồng tui cười nhạt đầy nham hiểm, chiếc ghế thái sư và chuổi hạt bằng gỗ đàn hương trong tay bố chồng đột nhiên tỏa mùi thơm gắt khiến tui đầu váng mắt hoa, ruột gan như lữa đốt. Lão không thèm quan tâm cha tui sống hay chết, không mảy may xúc động trước tình cảm của tui, lão run rẫy đứng lên, quẳng chuỗi hạt – vật bất li thân của lão, mắt lão tóe lữa. Cái gì làm lão xúc động đến như thế? Cái gì làm lão lo lắng đến như thế? Lão giơ hai bàn tay nhỏ xúi như tay loài yêu quái, miệng rên lên hừ hừ, mắt nhìn tui không chớp, nét hung dữ trong con mắt tan biến, lão van vỉ: - Rửa tay… rửa tay! Tui múc hai gáo nước lạnh trong ang, đổ vào chậu đồng, trông thấy lão vội vội vàng vàng ngâm tay trong nước, tui nghe thấy tiếng răng nghiến ken két trong miệng lão, không đoán được cảm giác của lão như thế nào. Tui trông thấy hai bàn tay của lão đỏ ửng lên như than hồng, những ngón tay nuột nà co quắp như móng vuốt của con gà trống. Tui hốt hoảng khi thấy tay lão như thép nung đỏ, nước trong chậu đồng phát ra tiếng lóc bóc, sùi bọt, bốc hơi. Kỳ quặc thật! Lần đầu tiên, tui được chứng kiến chuyện kỳ lạ như thế này! Lão già ngâm tay trong nước lạnh chắc khoan khoái lắm, hãy nhìn khuôn mặt lão: mắt lim dim, hít không khí vào qua kẻ răng, giữ hơi một lúc lâu mới thở ra. Rõ ràng là cách thở của anh nghiện. Đã nghiện chưa, đồ con lừa! Không ngờ lão có cái trò quỉ quái này, con yêu già! Thoải mái lắm rồi, lão giơ hai tay nước rớt tong tỏng, trở lại ghế thái sư, khác chăng là lúc này lão không nhắm mắt nữa, mà là mở mắt nhìn trân trân hai bàn tay, nhìn những giọt nước rớt từ đầu ngón tay xuống đất. Lão thư giản toàn thân, gân cốt chùng xuống, thỏa mãn cao độ. Cha nuôi cũng vừa như thế trên mình tui… Khi đó tui vẫn chưa biết lão là tên đao phủ khét tiếng. Tui cứ chăm chăm vào số ngân phiếu giắt trong người lão. Tui dịu dàng bảo lão: - Cha ơi, hình như con đấm bóp hầu cha, cha thấy dễ chịu lắm. Cái mạng nhỏ nhoi của cha đẻ con không đêm nay thì sáng mai đi đức, dù sao cũng là xui gia, cha tính cách giúp con. Cha cứ từ từ mà nghĩ, để con nấu cháo huyết cha dùng. Tui múc nước giếng vo gạo, cảm giác trống trải vẫn đeo đẳng trong lòng. Tui nhìn lên mái đao miếu Thành hoàng, một đàn chim câu mầu xám đang rủ rỉ, chúng đậu ken khít nhau, chẳng hiểu đang bàn bạc gì đó. Ngoài đường lát đá xanh rộn lên tiếng vó ngựa: một toáng lính Đức đi qua. Qua khe hở, tui thấy chúng đội mũ hình ống có cắm lông chim. Tui giật mình, tim đập rộn lên, linh cảm thấy sự có mặt của bọn Đức liên quan đến chuyện cha tui. Tiểu Giáp mài xong dao, đang sắp xếp đồ nghề. Anh chàng cầm cây gậy bằng gỗ bạch lạp, một đầu có móc sắt, lôi một con lợn đen ra khỏi chuồng. Cái móc ở đầu gậy móc vào hàm dưới con lợn, có kêu thảm thiết, lông gáy dựng ngược, gúm người cố trằn lại, chân sau và mông miết trên mặt đất, mắt đỏ ngầu những tia máu. Nhưng nó không cưỡng nổi sức mạnh như thần của Giáp Con. Anh chàng chỉ cần nhún thấp một tí, vận sức ra tay, bàn chân như bàn cuốc từng bước từng bước lún sâu đến ba tấc, lôi con lợn ra, móng lợn cày đất thành rãnh, chẳng khác cày ruộng. Nói lại thì chậm, lúc làm thì nhanh, Giáp Con đã kéo được con lợn đến trước bàn mổ. Một tay ghìm móc, tay kia tóm đuôi lợn, anh chàng “hự” một tiếng đứng thẳng lên, nhấc bổng con lợn lên bàn mổ. Con lợn bị choáng quên cả chống cự, chỉ há miệng mà kêu, bốn chân thẳng đuỗn. Giáp Con mở cái móc quăng hẳn một bên, thuận tay cầm lấy con dao chọc tiết sắc như nước để trong chậu sành, rồi gần như không cần tính toán, anh chàng đâm một nhác vào cổ con lợn, đường dao đi ngọt như đâm vào tảng đậu phụ, ấn thêm một nhát nữa, lưỡi dao rồi cả cán dao lút sâu trong cổ lợn. Tiếng kêu im bặt, chỉ còn tiếng nấc cục, rồi tiếng nấc cục cũng không còn. Con lợn run rẩy, chân run, da run, đám lông cũng run. Giáp Con rút dao ra, lật nghiên con lợn để chỗ cắt tiết chiếu thẳng vào chậu hứng ở phía dưới. Một dòng máu nóng vuột ra, loang loáng mầu đỏ tươi, phun thẳng xuống chậu. Sân nhà tui chỉ rộng chừng nửa mẫu, phần thì kê chuồn lợn chuồng chó, phần thì trồng nguyệt quế mẫu đơn, phần làm dàn leo cho nhục quế, phần để chum vại chai lọ, phần làm bếp để nồi niêu xoong chảo, bỗng chốc sặc sụa mùi máu tanh nồng. Bọn nhặng xanh lập tức kéo đến, chúng quả thính mũi! Hai tên công sai đầu đội nón mầu đỏ, nhăn nhúm như lỗ trôn, mặc quần áo lính lệ mầu đen, thắt lưng xanh rộng bản, chân đi ủng hai mảnh đế mềm, bên hông giắt yêu đao, đẩy cổng nhà tui bước vào. Tui nhận ra chúng. Chúng thuộc đội truy bắt, là những tên có đôi chân chạy nhanh hơn thỏ. Biết mặt nhưng chẳng biết tên. Vì rằng cha tui đang bị giam trong đại lào, tui đang cần nhờ vả, nên tui cố làm ra vẻ tươi cười. Nếu là bình thường, bà đâu thèm để mắt tới chúng mày những tên hại nước hại dân, những tên cáo mượn oai hùm! Chúng cũng gật gật đầu, trên khuân mặt thiết bì cũng cố nhếch một nụ cười. Nhưng ngay lập tức nụ cười vụt tắt, một tên thò tay trong bọc lấy ra một cái thẻ mầu đen giơ lên vẫy vẫy, nghiêm trọng nói: - Theo lệnh quan lớn Tiền, cho gọi Triệu Giáp lên huyện hỏi chuyện! Giáp Con cầm cây dao dính đầy máu lợn chạy ra, khúm núm: - Thưa các ông lính, có chuyện gì thế ạ? Hai tên công sai mặt lạnh như tiền, hỏi: - Anh là Triệu Giáp? - Tui là Giáp Con. Triệu Giáp là cha tui - Giáp Con nói. - Cha anh đâu?- Tên công sai khệnh khạng hỏi. Giáp Con nói: - Cha tui đang ở trong nhà. - Bảo cha anh đi theo bọn ta – Tên công sai nói. Tui lạ gì bản mặt bọn nha sai, điên tiết quát: - Bố chồng tui không bao giờ ra khỏi cổng, chưa bao giờ ra khỏi cửa, vậy đã phạm tội gì? Thấy tui nổi giận, bọn sai nha vội nặng ra một vẻ mặt tội nghiệp, nói: - Chị Hai Triệu, bọn tôi quan cứ lệnh lính cứ truyền, còn bố chồng chị phạm tội hay không thì làm sao bọn tôi biết được? - Hẵng gượm, có phải hai ông mời bố tui đi nhậu? - Giáp Con tò mò hỏi. - Bọn ta làm sao biết được? – hai tên công sai lắc đầu, bỗng chúng mỉm cười bí hiểm, nói – Có lẽ, hình như mời đi nhắm rượu với thịt chó! Dĩ nhiên là tui hiểu bọn khốn khiếp này nói vậy có nghĩa gì? Chúng đang nói về quan hệ giữa tui và cha nuôi Tiền. Anh chàng ngốc Giáp Con làm sao mà hiểu được? Tiểu Giáp phấn khởi chạy ù vào trong nhà. Tui cũng vào theo. Tiền Đinh, quân chó đẻ, ông đang giở trò gì vậy? Ông bắt giam cha đẻ tui, lại lánh mặt không tiếp tui; sáng tinh mơ đã sai lính đến bắt bố chồng tui. Phen này thì lôi thôi to rồi! Một bố đẻ, một bố chồng, một bố nuôi, ba ông bố chạm trán tại công đường! Tui từng diễn tích “Tam đường hội thẩm”, chưa bao giờ thấy “Tam ông hội thẩm”! trừ phi cái đồ khốn nhà ông không cho tui gặp, nếu gặp được, tui sẽ hỏi ông định giở trò gì? Giáp Con lấy tay áo chùi mồ hôi trên mặt, giọng hối hà: - Cha ơi có chuyện vui đây này! Quan huyện mời cha đi uống rượu ăn thịt chó! Bố chồng tui ngồi ngay ngắn, hai bàn tay nhỏ xíu trắng bợt đặt trên tay vịn của ghế. Lão nhắm mắt không nói gì, chẳng rõ lão bình tĩnh thật hay giả vờ? - Cha, cha nói gì đi chứ! Các ông lính đang đợi cha ở ngoài sân kìa! - Giáp Con sốt ruột giục – Cha cho con đi cùng được không? Con muốn biết công đường như thế nào? Vợ con thường xuyên tới đó, nhưng nó không cho con đi theo… Tui vội ngắt lời anh ngố, nói: - Con trai cha đoán mò. Ai mời cha đi uống rượu? Chúng đến bắt cha đấy! Cha có sai phạm gì không? Bố chồng tui lười nhác mở mắt, thở dài nói, dù phạm tội cũng chẳng qua giơ đầu chịu báng, có gì lạ! Cho họ vào. Giáp Con ngoảnh ra ngoài, gọi to: - Nghe rõ chưa? Bố tui cho gọi các ông vào! Bố chồng tui mỉm cười: - Con khá lắm, cứ phải gắn như thế! Giáp con chạy ra sân bảo hai tên công sai: - Các ông có biết vợ tui rất thân với quan huyện không? - Thằng ngốc! – Bố chồng tui lắc đầu than thở, ánh mắt sắc như mũi dùi chĩa thẳng vào mặt tui. Tui thấy hai tên công sai cười đểu, gạt Giáp Con sang một bên, tay đặt trên cán dao, vếnh váo bước vào trong nhà. Bố chồng hé mắt, cái nhìn sắc lạnh lướt qua hai tên công sai, vẻ khinh miệt. Rồi lão ngữa mặt nhìn lên tấm đan phía trên cửa buồn, không cần biết sự hiện diện của hai tên công sai. Hai tên công sai đưa mắt nhìn nhau hơi lúng túng. Một tên hỏi giọng hách dịch: - Ông là Triệu Giáp phải không? Bố chồng tui đang ngủ say. - Bố tui cao tuổi, tai nghễnh ngãng – Giáp Con nói – Các ông nói to lên! Tên công sai cao giọng hỏi: - Triệu Giáp, phụng mệnh quan lớn Tiền, mời ông lên huyện với chúng tôi! Bố chồng tui vẫn ngữa mặt, dài giọng nói: - Về bảo quan lớn Tiền các ông, nói rằng Triệu Giáp chân yếu tay mềm, không thể thực hiện lệnh của ông lớn! Hai tên công sai lại đưa mắt nhìn nhau lần nữa, một tên bất cười khùng khục, nét mặt đầy mỉa mai: - Hay là để quan lớn Tiền đem kiệu đón ông lên huyện! Bố chồng tui nói: - Tốt nhất là như vậy! - Được lắm! Oâng cứ đợi đấy, quan lớn Tiền sẽ cho kiệu đến khiên ông đi! Hai tên công sai vừa cười vừa bước ra khỏi nhà. Ra đến sân chúng tui cười càng to hơn. Giáp Con theo chúng ra sân, vênh váo: - Ai cũng sợ các ông, cha tui thì không! Hai tên công sai nhìn Giáp Con, lại cười một hồi nữa rồi khệnh khạng ra về, miệng vẫn cười. Tiếng cười của chúng từ ngoài phố lọt vào tai tui. Tui hiểu vì sao chúng cười, bố chồng tui cũng hiểu vì sao chúng cười! Giáp Con đi vào buồng, ấm ức: - Sao chúng lại cười hở cha? Chúng uống phải nước đái bà điên hở cha? Con nghe Hoàng Trọc nói, uống phải nước đái bà điên thì cười suốt! Chắc chắn chúng đã uống phải nước đái bà điên rồi! Hẳn thế rồi! Nhưng mà chúng uống phải nước đái bà điên nào nhỉ? Bố chồng tui rõ ràng là nói với tui chứ không phải với Giáp Con: - Con ơi, con người ta không nên đánh giá mình quá thấp! Đây là chân lý đến tận cuối đời cha mới nhận ra. Tri huyệ Cao Mật dù xuất thân con nhà võ, cũng chẳng qua chỉ là một tên quan ngũ phẩm, đội mũ chóp thủy tinh! Và cho dù vợ lão là cháu ngoại Tăng Quốc Phiên thì “Phượng hoàng thất thế thua xa đàn gà”! bố mày đây chưa khi nào làm quan, nhưng đã chém rụng hàng soạt loại đầu đội mũ chóp đỏ! Còn như thủ cấp của bọn danh môn quí tộc rụng dưới lưỡi dao bố mày thì phải chất đầy hai sọt! Tiểu Giápnhe răng há miệng, không biết anh chàng có hiểu được ý tứ trong câu nói của ông bố, còn tui thì hiểu hết. Mấy năm thân cận với ông Tiền, tui học hỏi được nhiều điều, hiểu biết thêm nhiều. Nghe bố chồng nói vậy, tui toát mồ hôi, khắp người nổi da gà. Mặt tui không còn sắc máu. Nửa năm trở lại đây, những lời đồn thổi về bố tui rất nhiếu, tất nhiên là tới tai tui. Tui đánh bạo hỏi: - Thưa cha, cha làm nghề đó thật à? Bố chồng giương cặp mắt diều nhìn đóng đinh vào tui, nhấn từng tiếng, in hệt thả rơi những viên bi sắt: “Nghề… nào… cũng… có… trạng… nguyên…!” Biếi ai nói câu đó không? Đây là câu cửa miệng, ai cũng biết. - Không – Lão nói – Có một người nói với ta câu ấy! Có biết ai không? Tui đành lắc đầu. Bố chồng rời khỏi ghế thái sư, hai tay nâng chuỗi hạt – mùi thơm gắt của gỗ đàn hương lại toả khắp gian phòng. Khuôn mặt quắt của lão như dát vàng, lão thốt lên với một thái độ vừa kênh kiệu vừa thành kính, vừa mang vẻ hàm ơn: - Từ Hi Hoàng Thái Hậu! Hôm tết thanh minh trời mưa phùn, những đám mây chì rối như bông gòn, lười nhác chuyển động giữa trời và đất. Sáng tinh mơ, tui len lỏi trong đám gái trai ăn mặc diêm dúa, ra khỏi cửa Nam. Hôm đó, tui cầm chiếc dù giấy vẽ tích Hứa Tiên du ngoạn trên hồ gặp bạch xà, chiếc cặp con bướm khuôn gọn mái tóc đen mượt. Tôi thoa nhẹ một lớp phấn trắng lên mặt, phấn hồng lên hai gò má, chấm một nốt ruồi duyên giữa hai lông mày, môi tô thắm mầu hoa anh đào. Tui mặc chiếc áo cánh mầu hồng bằng vải ngoại, chiếc quần mầu hồ thuỷ cũng bằng vải ngoại. Người ngoại quốc rất xấu, nhưng vải ngoại thì rất đẹp. Tui đi đôi giầy bằng đoạn xanh thêu cặp uyên ương đang bơi giữa đầm sen. Chẳng phải các người chê chân tui to đấy sao? Tui đi đôi giầy loại đó đề các người ngắm chân tui to hay nhỏ. Tui ngắm mình trong chiếc gương tráng thuỷ ngân. Trong gương là một mỹ nhân, người đẹp ngời ngợi. Tui cũng mê tui, cứ gì cánh đàn ông. Tui xót xa trong lòng vì chuyện cha đẻ, nhưng cha nuôi đã nói, rằng trong lòng càng đau thì ngoài mặt thì càng phải tươi, không nên đưa cái bộ mặt ủ dột cho người ta nhìn ngắm. Được thôi được thôi, cứ ngắm cứ ngắm, hôm nay bà phải so tài cao thấp với đám phụ nữ trong thành Cao Mật, nào là tiểu thư nhà ông Cử, nào thiên kim tiểu thư phủ Hàn Lâm, tất tật điều không bén gót tui. Cái yếu của tui là hai bàn chân to, chỉ trách mẹ tui mất sớm không kịp bó chân cho tui, tui rất buồn khi nhắc tới chuyện này. Nhưng cha nuôi của tui lại rất thích bàn chân to, tức là bàn chân bình thường, chân bình thường thì cái thú mới trọn vẹn. Khi ở trên người tui, ông rất thích tui dùng gót chân gõ lên cặp mông của ông. Khi tui gõ, ông kêu toáng lên: “Vàng bạc là chân to, rủi ro là chân bé!…” Khi đó, mặc dù cha tui đã lập thần đàn ở vùng đông bắc Cao Mật, chuẩn bị một phen sống mái với bọn Đức; mặc dù cha tui rất phiền lòng về chuyện của cha đẻ tui, hai mươi bảy nhân mạng khiến ông rầu rĩ, nhưng trong thành vẫn còn là cảnh tượng thanh bình. Aùn mạng cẩy ra ở vùng Đông Bắc, nhưng hầu như không liên quan tới trăm họ trong thành. Quan lớn Tiền cha nuôi tui sai người trồng năm cây cột bằng gỗ sam ở phía dưới ngoài cửa Nam, chỗ bãi luyện ngựa, làm một cây đu co chót vót, trai gái toàn thành kéo đến tự tập xung quanh, gáu trang điểm lè loẹt, trai biếm tóc đen mượt như nhung. Từng đợt tiếùng reo hò, từng trận cười hỉ hả. Tiếng reo tiếng cười xen lẫn tiếng rao: Kẹo bạch nha đây!… Phá sa đây!… Cụp dù lại, tui nhập vào đám người đưa mắt nhìn khắp lượt, trông thấy tiểu thư họ Tề, có a hoàn dìu hai bên. Tiểu thư họ Tề có tài văn chương thơ phú, quần là áo lượt, trâm ngọc đầy đầu, chỉ tiếc mặt cô dài như mặt ngựa, trên mảnh đất nhiễm phèn trắng bợt ấy mọc lên hai túm cỏ khô. Đó là lông mày của cô. Tôi còn trông thấy thiên kim tiểu thư nhà Hàn lâm họ Cơ có bốn thị nữ theo hầu. Nghe đồn cô ta là một cao thủ trong hội họa, chơi được các loại đàn, chỉ tiếc cô ta mũi nhỏ mắt nhỏ tai nhỏ, in hệt một con chó mắt lồi như mắt cóc. Từ trong ngõ phấn son ùa ra những cô điếm. Các cô đi du xuân, cười cười nói nói, nhí nhảnh nghịch ngợm như lũ khỉ. Trông trước ngó sau đủ rồi, tui ngẫng cao đầu, vênh váo đi lên. Đám choai choai sinh sau đẻ muộn cứ dán mắt vào tui, ngắm từ đầu xuống chân rồi từ chân lên đầu, miệng há hốc. Tui mỉm cười, bụng hả hê. Các con, mở mắt ra mà nhìn, rồi về nhà mà tơ tưởng! Bà hôm nay mở lượng hải hà, cho các ngươi ngắm cho đã mắt. Đám choai choai ngẩn ra hồi lâu, rồi như chợt tỉnh “ồ” lên một tiếng như sấm nổ lúc trời quang, sau đó tranh nhau gào toáng lên: - Tây Thi thịt cầy, mỹ nương Cao Mật! Xem kìa, hãy xem người ta mặt thoa da phấn, thắt đáy lưng ông, cổ cao ba ngấn, tiên hạc đôi chân! Nhìn nửa người trên, thèm muốn mà chết! Nhìn nửa người dưới, sợ hãi mà gục, chỉ mỗi quan Tiền là quái đản, thích nàng Tiên chân to. Đừng nói nữa, rừng có mạch vách có tai! Người ta nghe thấy giải lên huyện, lãnh bốn mươi gậy, tan xương nát thịt! Bọn bây nói nhăng nói cụi gì thì hôm nay bà cũng không giận. Cha nuôi thích là được, bọn bây xá kể gì! Bà đến đây để chơi đu, không phải nghe bọn bay nói bậy. Bọn bay ngoài miệng nói xấu bà, nhưng trong lòng chỉ hận nỗi không được uống nước tiểu của bà! Lúc này đu đang rỗi, hai dây thừng to đung đưa dưới mưa phùn, đợi tui trèo lên. Tui quẳng chiếc dù ra phía sau, cũng không rõ chàng trai nào trợ giúp, tui như con cá chép đã vọt lên mặt nước, hai tay tóm lấy hai bên dây thừng, vươn người vọt lên lần nữa, hai bàn chân đã đặt trên bàn đế. Các ngươi đã thấy bàn chân to lợi hại thế nào chưa? Tui nói to: - Các con, hãy mở mắt mà nhìn, bà sẽ trổ tài cho các con xem, để biết đánh đu thì phải như thế nào! … Vừa nãy có mật con nhỏ không biết là con nhà ai mà vụng về, lại vừa béo vừa đen, mặt cô nàng còn đen hơn than, cặp mông to hơn lồng bàn, chân to hơn cột nhà cháy, người ngợm như thế mà cũng leo lên cây đu! Cây đu là cái gì? Là sân khấu cho người ta biểu diễn, là trưng bầy tấm thân, khoe khoang khuân mặt, là chiếc bánh dập dềnh trên sóng, là ăn chơi nhảy múa, là nơi để đám phụ nữa nũng nịu làm duyên. Vì sao cha nuôi tui cho dựng cây đu trên bãi ngựa? Oâng ấy yêu dân chăng? Xì! cóc phải. Nói thật, đó là món quà ông tặng tui nhân dịp tết thanh minh. Các người có tin hay không? Không tin thì đi hỏi ông ấy. Chiềi tối qua tui đem thịt chó đến cho ông, sau cuộc mây mưa, ông ôm eo tui mà bảo: “Trái tim bé nhỏ, con yêu của ta! Mai là tết thanh minh, cha nuôi dựng cho con cây đu ở ngoài cửa Nam. Cha nuôi biết con đã từng luyện đao thương, con hãy hé lộ đôi chân, không chấn động được tĩnh Sơn Đông thì chấn động vùng Cao Mật cho ta! Để đám dân đen biết rằng, con gái nuôi quan Tiền là Hoa Mộc Lan, hào kiệt trong phái nữ! Để mọi người hiểu rằng, chân to đẹp hơn chân nhỏ. Oâng Tiền muốn sửa đổi phong tục, phụ nữ Cao Mật sẽ không bó chân nữa!”. Tui nói, cha nuôi à, vì chuyện cha đẻ của tui mà cha nuôi không vui, cha nuôi đảm đương gánh nặng bảo vệ cha đẻ tui. Cha nuôi không vui, tui cũng không lòng dạ nào mà vui thú. Cha nuôi cảm động hôn chân tui, nói: - Mi Nương, trái tim của ta! Cha nuôi muốn nhân dịp tết thanh minh xua đuổi sự rủi ro trong huyện, người đã chết thì không thể sống lại, nhưng người còn sống thì phải vui lên. Mình khóc khóc mếu mếu, không ai thật lòng cảm thông với mình, nhiều người còn cười nhạo mình. Nếu mình cứng rắn lên, đứng thẳng lên, tỏ ra mạnh mẽ hơn họ, họ sẽ phục mình. Những người viết sách, viết kịch sẽ đưa mình vào sách, đưa mình lên sân khấu. Mi Nương trổ tài trên cây đu đi, khoảng mười năm sau, biết đâu lại có vở Miêu Xoang: Mi Mương đại náo cây đu! - Thưa cha nuôi, việc khác thì Mi Nương không rành – Tui dùng chân vuốt ve bộ râu của cha nuôi nói – Nhưng đánh đu thì chắc chắn không để cha nuôi phải hổ thẹn. Tui bám hai dây đu bằng hai tay, nhún nhấp mông, chân hơi khuỵu xuống, các ngón chân bấm trên bàn đạp, đưa mông về đằng sau, lại nhún chân khuỵu mông bấm bàn đạp, lại ưỡn ngực ngẩng đầu dướn hai chân. Cái chốt ngang bằng sắt của vây đu kêu kên kẹt. Đu đã bay lên, càng bay càng cao, càng bay càng nhanh, càng bay càng mạnh, dây đu thẳng băng, gió rít ù ù, vòng sắt trên then ngang rít rợn người. Tui cảm thấy lâng lâng như lên cõi tiên, đôi cánh chim đã biến thành cánh tay của tui, ngực tui mọc đầy lông vũ. Tui đu lên tầm cao nhất, người tui như bay, trong lòng rộn ràng như sóng vỗ, như thuỷ triều lúc dềnh lên lúc xuống thấp, như ngọn sóng đuổi nhau, bọt trắng dồn bọt trắng, cá lớn đuổi cá bé, cá bé đuổi tôm tép, ào ào ào… cao cao… cao nữa… Người tui đã nằm ngang trên tầm cao nhất, mặt tui đã chạm vào bụng chim en bay đến góp vui. Tui nằm trên một tấm nệm êm êm, đan bằng gió nhẹ mựa phùn. Đu lên điểm cao nhất, tui cắn lấy một bông hoa của cây cổ thụ, phía dưới ồ lên tán thưởng… Du dương quá, thư thái quá, đắc đạo rồi, thành tiên rồi… Tiếo đó, để cho đê vỡ, cho thủy triều lui, sóng níu sóng, cá lớn dắt cá bé, cá bé dồn tôm tép, đu hạ thấp rồi vút lên cao, dây đu thẳng căng, người tui song song với mặt đất, mắt tui nhìn mảnh đất mầu vàng tươi và những mầm non xanh biết, miệng tui ngậm bông hoa hạnh, mùi thơm thoang thoảng vương trong mũi. Tui đùa giỡn trên cây đu. Dưới đất là đám choai choai, đám lưu manh vắt mũi chưa sạch, bọn độc thân chưa lập gia đình, tất cả đều hoá rồ. Tui bay lên, chúng “ồ”, bay bay xuống, chúng “á”; “ồ” bay đi, “à” bay lại, mưa phùn đủ làm ẩm áo, ngọt ngào, mằn mặn, gió thổi phồng áo sống, mưa thấm ướt trước ngực, trong lòng cảm thấy đã thỏa. Tuy trong nhà đang có chuyện, nhưng con gái đi lấy chồng như nước đã đổ đi, vậy cha tự lo liệu công việc của cha, từ nay con phải sống những ngày cho con! Con, trong nhà thì có người chồng thật thà trung hậu che chắn nắng mưa; ngoài thì kết bạn với người vừa có quyền vừa có thế, vừa đa tình vừa đa cảm; thích rượu thì uống rượu, thích thịt thì ăn thịt; dám khóc dám cười dám chơi bời dám quậy phá, chẳng ai dám làm gì tui. Đó là phúc, cái phúc mà mẹ tui cơ cực cả đời người ăn chay niệm phật mà có, cái phúc mà số tui được hưởng. Cảm ơn trời, cảm ơn Hoàng thượng và Thái hậu, cảm ơn cha nuôi Tiền đại nhân, cảm ơn Tiểu Giáp dở dở ương ương… Cảm ơn cây gậy của Quan lớn Tiến chuyên dùng cho tui… Đó là bảo bối không dễ mà có trong trời đất, là thuốc của tui. Tui cảm ơn bà mệnh phụ phía sau công đường không lộ mặt, bà không thể sinh nở, khuyên chồng lấy nàng hầu nhưng quan lớn Tiền không nghe. Tục ngữ có câu: Nước đầy thì tràn, trăng tròn rồi khuyết, người vui chuyện gở, cho vui tranh phân. Trong lúc tui khoe tài ở đám đu, thì cha đẻ Tôn Bính cầm đầu nhân dân vùng Đông Bắc vác thuổng cuốc đinh ba, cầm đòn gánh chàng nạng, bao vây lán trại của bọn Đức đang làm đường sắt, đập chết hai tên bắt sống ba tên. Họ lột hết quần áo bọn bị trói vào cây hòe, đổ nước tiểu lên đầu chúng. Họ nhổ tất cả các cọc mốc đem đốt, họ móc đường ray quẳng xuống sông, họ gở tà vẹt đem về làm chuồng lợn. Họ còn thiêu trụi các lán trại. Tui cho đu lên hết độ cao, tầm nhìn vượt ra ngoài tường thành, nhìn thấy mài nhà lô xô như bát úp. Tui nhìn thấy con đường lát đá xanh trước cổng huyện, nhìn thấy nơi ở của cha nuôi, những dãy nhà cao to trùng điệp. Tui trông thấy chiếc kiệu lớn bốn người khiêng của cha nuôi đã ra khỏi nghi môn, tên lính lệ mũ đỏ áo trắng gõ thanh la đi trước dẹp đường, theo sau là hai hàng nha dịch, điều mũ đỏ áo trắng, giương cao cờ biển, sau đó mới tới cỗ kiệu. Hai hộ vệ dắt đao bên mình, tay vịn đòn khênh tiến lên theo nhịp chuyển động của kiệu. Theo sao kiệu là thư biện của sáu phòng. Sau ba hôi thanh la, cùng với tiếng hô oai nghiêm của các nha dịch, bọn phu kệu cất bước chạy gằn, thoăn thoắt như gắn lò xo ở gối. Chiếc kiệu rập rình, nhấp nhô như con thuyền lướt trên sóng nước. Tầm nhìn của tui vượt qua huyện thành về phía đông bắc, con đường sắt của Đức chạy từ Thanh Đảo, đã biến thành con rết không lồ bị đập bể sọ, đang quằn quại. Một đám đông đen ngòm dày đặc trên cách đồng chớm xuân mầu xanh nhạt, phất cờ, những lá cờ mầu sắc pha tạp, ùn ùn kéo về phía đường sắt. Lúc này tui chưa biết đó là chatui đang cầm đầu đám người chống đối, nếu biết, tui không còn bụng dạ nào tiếp tục cuộc chơi. Tui trông thấy phía đường sắt từng cột khói bốc lên như những cây to biết cử động, rồi những tiếng nổ nặng nề rất nhanh dội tới. Đội nghi trượng của cha nuôi ngày càng tới gần, đã tiếp cận cửa Nam. Tiếng thanh la còn rõ hơn, tiếng hô càng trầm hùng hơn, những lá cờ ủ rũ dưới mưa, y hệt những tấm da chó rướm máu. Tui trông thấy mồ hôi lấm tấm trên mặt, nghe tiếng thở nặng nhọc của bọn phu khiêng kiệu. Người đi đường đều dừng lại cúi đầu, không một ai dám nói to hoặc một cử chỉ khác thường. Những con chó dữ nổi tiếng của nhà Đỗ Giải Nguyên cũng im thin thít, có thể thấy cái uy của cha nuôi, ngay súc vật cũng không dám nhờn. Tui trong lòng rạo rực, trong tim như có cái bếp lò, trên bếp hâm bình rượu. Cha nuôi thân yêu của tui, tui nhớ Người cháy ruột cháy gan! Hãy hoà Người vào trong bình rượu! Tui dùng hết sức đu lên thật cao, để qua rèm cha nuôi trông thấy tấm thân yêu kiều của tui. Từ trên cây đu, tui trông thấy đoàn người phía xa dày đặc như một đám mây đen cuồn cuộn, không thể phân biệt đàn ông đàn bà, người già người trẻ, nhìn không ra ai là Cột ai là Kèo, nhưng mấy ngọn cờ đại của họ thì rực rỡ khiến tui hoa mắt! Họ í ới gọi nhau, kỳ thực tui hoàn toàn không nghe rõ tiếng gọi, mà chỉ phỏng đoán. Cha đẻ tui xuất thân két hát Miêu Xoang, tổ sư đời thứ hai của làn điệu này. Miêu Xoang vốn là một làn điệu dân gian, cha đẻ tui đã nâng tầm nó lên, trở thành một loại hình kịch nghệ nỗi tiếng cả vùng rộng lớn, phía bắc đến phủ Lai Châu, phía nam đến Phủ Đăng Châu, tổng cộng mười tám huyện. Tôn Bính hát Miêu Xoang, phụ nữ lệ chảy tràn. Oâng vốn là người thích hò la. Nay dẫn đầu đám quân, ông không hò hét sao được? Để không bỏ sót cảnh này, để được nhìn thêm lúc nữa, tui đưa đu lên thật cao. Những kẻ ngu ngốc đứng dưới cứ tưởng tui biểu diễn cho chúng xem. Chúng hoa chân múa tay, hò hét như điên. Hôm ấy tui mặc đồ mỏng, lại thêm mồ hôi ướt đẫm – Cha nuôi tui bảo mồ hôi tui thơm mùi hoa hồng. Tui huy động bằng hết những bảo bối trên người, cái mông tròn lẳn vổng ra sau, bộ ngực xinh xinh nhô ra trước, cho bọn háo sắc thèm rỏ rãi! Gió lạnh luồn trong áo, xoáy tròn trong nách tui. Tiếng gió mưa tiếng hoa đào xòe cách, cánh đào đẫm nước mưa. Tiếng hò tiếng hét của nha dịch, tiếng lanh canh của vòng sắt, tiếng rao hàng của dân bán dạo, tiếng nghé ọ của con nghé… tất cả quyện vào nhau. Một cái tết thanh minh ồn ào, một mồng ba tháng Ba rực lửa. Tại khu mộc ở góc tây nam, mấy bà già tóc bạc phơ đang hoá vàng. Một con lốc nhỏ quyện khói dựng đứng trên khu mộ, trông giống những cây bạch dương xám xịt xung quanh. Đội nghi trượng của cha nuôi ra khỏi cửa Nam, những người xem đánh đu đều quay lại nhìn. Quan huyện đến rồi! Có người kêu lên. Đội nghi trương của cha nuôi lượn một dòng quanh giáo trường, bọn nha dịch lên gân lên cốt, ngực ưỡn mắt tròn xoe. Cha nuôi, qua bức rèm trúc, tui trông thấy chiếc mũ đội trên đầu và khuân mặt hình chữ điền hồng hào của cha, trông thấy bô râu với những sợi thẳng và cứng như thép, nhúng vào nước không rối. Bộ râu của ông là chìa khóa, khóa chặt trái tim ông và tui, là sợi tơ hồng của ông Nguyệt lão, không có bộ râu của ông và bộ râu của cha đẻ tui, thì ông tìm đâu ra cô con nuôi ngon lành như tui? Bọn nha dịch ra oai, thực ra chính là cha nuôi tui ra oai, thấy đã dủ, liền hạ kiệu xuống bên rìa giáo trường. Phía tây giáo trường là vườn hoa đào nở rộ, cây nọ nối tiếp cây kia, trong màn mưa mông lung, trông như những cụm khói. Một nha dịch đao cài thắt lưng tiến lên vén rèm, cha nuôi bước xuống kiệu. Mũ cánh chuồn đội ngay ngắn trên đầu, cha nuôi phải phủi phủi tay áo, rồi chắp tay trước ngực, cha xá mộ xá, cất giọng sang sảng: “Thưa các phụ lão, các con dân, chúc ăn tết vui vẻ!” Cha nuôi, ông chỉ giỏi vờ vĩnh! Nhớ lại những lúc ông đùa với tui ở Tây Hoa sảnh, tui không nhịn được cười! Nghĩ tới nỗi khổ mà ông phải chịu trong mùa xuân năm nay, tui bất giác chỉ muốn khóc. Tui dừng đu, tay vịn thừng đứng trên bàn đạp, miệng hé mở, mắt đắm đuối nhìn cha nuôi làm trò, trong lòng rộn lên bao nỗi ngọt bùi cay đắng! Cha nuôi hiểu dụ: - Bản quan xưa nay vẫn khuyến khích trồng đào… Cà nhắc cà nhót đi theo sau cha nuôi tui là viên xã trưởng thành Nam, lão nói to: - Quan tri huyện nhân tết xuân mưa phùn, trồng một cây phiên đào để làm gương cho dân chúng noi theo… Cha nuôi liếc xéo viên xã trưởng một cái tỏ ý không bằng lòng về cái tội nói leo, ông nói tiếp: - Hỡi các con dân, các ngươi hãy trồng đào trước nhà trước cửa, vườn trước vườn sau, “bớt chuyện gẫu bát phố, nên đọc sách, trồng đào”. Chỉ mươi năm là cùng, huyện Cao Mật sẽ có những ngày tươi đẹp. “Nghìn vạn cây đào hoa nở rộ, muôn dân tận hưởng khúc âu ca” Cha nuôi ngâm xong hai câu thơ, liền cầm xẻng xúc đất, lưỡi xẻng chạm một hòn cuội, tóe lửa. Đúng lúc đó, tên sai vặt Xuân Sinh lăn tới như một quả bóng. Hắn quấn quít vừa nói vừa thở: - Bẩm quan lớn, hỏng rồi, hỏng rồi!… Cha nuôi nghiêm giọng hỏi: - Chuyện gì mà hỏng? Xuân Sinh nói: - Bọn dân đen ở vùng đông bắc làm phản… Cha nuôi quẳng cái xẻng xuống, phủ tay áo, chui luôn vào trong kiệu chạy như bay, bọn nha dịch thất thểu chạy theo như chó nhà có tang. Tui đứng trên đu, đưa mắt nhìn theo đội nghi trượng, trong lòng buồn rầu không kể xiết. Cha đẻ ơi, cha làm cái tết mất vui rồi. Tôi thẫn thờ nhảy xuống, lách vào đám đông ồn ào nhốn nháo, cắn răng chịu đựng bọn trai tơ đục nước béo cò, nghĩ là mình nên vào vườn đào ngắm hoa hay về nhà luộc thịt chó. Đang phân vân thì Giáp Con từ xó xỉnh nào vụt hiện ra trước mặt tui, mặt đỏ gay, mắt trợn trừng trợn trạc, miệng lắp bắp: - Bố tớ, bố tớ về rồi! Quái quỉ thật! Tự dưng tòi ra ông bố chồng. Bố anh chết rồi kia mà? Chẳng phải đã hơn hai mươi năm nay không có tin gì về bố anh đấy sao? Giáp Con toát mồ hôi hột, vẫn tiếng được tiếng mất: - Về rồi, đúng là về rồi! Tui cùng Giáp Con hộc tốc chạy về nhà. Trên đường về, tui rất bật mình, hỏi Giáp Con đâu tự dưng tòi ra một ông bố? Cầm chắc là một tên cha căng chú kiết nào giở trò bịp, để tui xem hắn từ đâu tới, được thôi, bà mà nổi điên lên, đầu tiên là đánh gãy chân, sau đó lôi lên huyện, bất kể phải trái nện luôn hai trăm gậy cho nát mông ra, vãi cứt vãi đái ra, xem hắn còn dám xưng xưng là bố người ta nữa thôi! Trên đường, gặp bất cứ ai, Giáp Con cũng níu lại, vẻ thần bí: “Bố tớ về rồi”. Họ ngớ ra, không hiểu đầu cua tai nheo làm sao, thì Giáp Con gào toáng lên: - Tớ có bố rồi! Chưa về tới nơi, tui đã trông thấy một cỗ xe kiệu đỗ bên ngoài cổng nhà tui, dân phố xúm xít chung quanh. Mấy đứa trẻ đầu để chỏm luồn lách giữa đám người. kéo xe là một con ngựa mầu tía, béo núc ních. Một lớp bụi dầy bám trên xe, chứng tỏ đã đi một quảng đường dài. Mọi người nhìn tui bằng con mắt kỳ quặc, ánh mắt lấp lóe như ma trơi ngoài nghĩa trang. Bà Ngô chủ hiệu tạp hóa, vờ vĩnh ngõ lời chúc mừng: “Xin mừng anh chị, đúng là có phúc ắt có phần, thần tài chỉ yêu người giàu sang! Đã ăn không hết mà nay lại có một ông bố từ trên trời rơi xuống, lưng giắt hàng vạn quan tiền! Chị Hai Triệu này, lợn béo vào nhà, của cải dôi ra, đại hỉ rồi!”. Tui liếc xéo người đàn bà miệng loe như ống nhổ, bảo, bà Ngô này, bà cứ ngoác cái miệng lảm nhảm cái gì thế? Nếu nhà bà thiếu bố thì đón ông ta về, tui không tiếc mảy may! Bà ta cười hì hì, nói: - Chị nói thật không đấy? Tôi nói, thật thế, đứa nào không đón ông ta đi, thì nó là con la, bố lừa mẹ ngựa! Giáp Con giận dữ ngắt ngang lời tui: - Đứa nào dám cướp bố tớ, tớ đập chết! Cặp má bánh đúc của bà Ngô vụt đỏ lựng. Người đàn bà hay ngồi lê đôi mách, đơm đặt chuyện thiên hạ biết tui thân với quan lớn Tiền thì sinh lòng ghen ghét, thậm chí rất cay cú. Bị tui chửi vỗ mặt, Giáp Con lại bồi thêm một chưởng, mụ cụt hứng bỏ đi, miệng lảm nhảm những gì nghe không rõ. Tui bước lên bậc tam cấp bằng đá, quay lại nói với mọi người, thưa các vị hàng xóm láng giềng, vị nào muốn xem thì xin mời vào, không vào thì cút đi cho tui nhờ, đừng có đứng đực ra đấy! Mọi người lặng lẽ giải tán. Tui biết họ, ngoài miệng thì nịnh nọt tui bằng những lời đường mật, nhưng sau lưng thì nghiến răng nghiến lợi, chỉ mong tui nghèo xác nghèo xơ, phải đi hát rong độ nhật. Với bọn này thì chẳng cần nể nang, chẳng cần khách khí làm gì! Vào trong sân, tui gào lên rõ to, thần linh nào gián trần thế nhỉ? Cho tui chiêm ngưỡng một tí nào! Tui nghĩ bụng, không mềm mỏng vội, bố thật hay bố hảo thì cũng phải cho một đòn phủ đầu để lão biết tay, sau này khỏi tác oai tác phúc với con này! Tui trông thấy một chiếc ghế Thái sư bằng gỗ đàn hương quang dầu mầu huyết dụ kê ở giữa sân, một ông lão khó đăm đăm, đuôi sam bé tí trên đầu, đang lúi húi lau bụi trên ghế. Thực ra, chiếc ghế đã sạch bong, lẽ ra không cần lau chùi nữa. Nghe tui nói vậy, lão chậm rãi đứng lên, quay lại nhìn tui một thoáng, ánh mắt sắc lạnh. Mẹ ơi, cặp mắt gian giảo nằm sâu trong hốc mắt sắc như dao mổ lơn của Giáp Con! Giáp Con lon ton chạy đến trước mặt cha, nhệch miệng cười ngơ ngẩn, giới thiệu: - Bố, đây là vợ con, mẹ cưới cho con đấy! Lão già cũng không thèm nhìn lại tui một cái cho tử tế, miệng ừ ào mà tui không hiểu lão nói gì. Người đánh xe sau khi đã ăn uống no nê ở quán cơm lão Vương Thăng bên kia đường, cầm roi trở lại nhà tui, cáo từ. Lão già rút tờ ngân phiếu trong bọc đưa cho anh ta, chấp tay trước ngực vái liền mấy vái: - Người anh em, đi đường bình yên! Chui cha, lão già đặc giọng Bắc Kinh, cũng phát âm chuẩn như quan lớn Tiền, không khác nhau là mấy. Người đánh xe sau khi liếc qua tờ ngân phiếu, nét mặt sầu khổ bổng tươi rói. Anh cuối rạp liền ba cái, miệng tuôn hàng tràng như đánh rắm: - Cảm ơn lão gia, cảm ơn lão gia, cảm ơn lão gia!… Chà, lão già quả đáng gờm, có vẻ một tài chủ lắm bạc nhiều tiền! Cái vật cồm cộm bên trong áo chùng, ắt hẳn là ngân phiếu. Nghìen lượng hay vạn lượng? Được lắm, thời buổi này ai cho sữa người đó là mẹ, ai cho tiền người ấy là cha. Tui phủ phục trước mặt lão, dập đầu một cái rõ kêu, nói như hát: - Con chào cha! Giáp Con thấy tui quì lạy cũng vội quì xuống, dập đầu đánh “cốp” một cái, không nói gì, chỉ cười ngây ngô. Lão già không ngờ tui dùng đại lễ để chào lão nên lão có vẻ lúng túng đôi chút. Lão chìa hai tay ra – tui ngạc nhiên đến sững sờ khi trông thấy đôi bàn tay của lão – làm như định nâng tui dậy, nhưng không, lão không nâng tui, cũng không nâng Giáp Con, mà chỉ nói: - Miễn lễ, miễn lễ, người nhà không nên khách khí! Tui mất hứng, buộc phải đứng lên. Giáp Con cũng đứng dậy theo tui. Lão thò tay vào trong bọc, tui mừng thầm, tưởng lão lấy ngân phiếu cho tui. Mò mẫm hồi lâu, lão lấy ra một vật xinh xinh mầu cách trả giơ ra trước mặt tui, nói: - Lần đầu gặp mặt, chẳng có gì thưởng cho con, cầm cái này mà chơi! Tui đón lấy cái đồ chơi, bắt chước lão, nói người nhà không nên khách khí. Cái đồ chơi nằng nặng, mềm nhũn, mầu xanh cánh tả trông thích mắt. Tui ngủ cùng quan lớn Tiền đã mấy năm, biết khá nhiều vật phẩm văn hóa, không đến nỗi quê mùa quá. Tui biết đây là vật quí, nhưng không biết nó là cái gì? Giáp Con dẩu môi nhìn cha, có vẻ tủi thân. Lão cười cười, bảo. Giáp Con nghe theo, cúi xuống. Lão già đeo vào cổ Giáp Con chuỗi hạt mầu sắc óng ả, xâu bằng chỉ đỏ. Tui nhận ra đó là chuỗi hạt cầu phước, bất giác bĩu môi nghĩ thầm, lão già, lão cho rằng con trai lão mới một trăm ngày tuổi chắc! Về sau, tui đưa cái quà ra mắt của bố chồng cho cha nuôi xem. Cha nuôi bảo đó là cái bào tay dùng khi bắn cung, làm bằng ngọc phỉ thúy, quý hơn vàng, chỉ hoàng thân quốc thích, vương công quí tộc mới có báu vật này. Cha nuôi tay trái mân mê núm vú tui, tay phải nghịch nghịch cái bao tay, luôn miệng khen: “Của quí của quí của quí, đúng là của quí!” Tui bảo, cha nuôi thích nó thì biếu cha. Cha nuôi nói: “Không dám không dám, người quân tử không chiếm đoạt tình yêu của người khác”. Tui bảo, phụ nữ như tui, yêu cái bao tay để làm gì? Cha nuôi vẫn lựa lời thoái thác, tui bảo, nếu cha không nhận thì tui xé nát nó. Cha nuôi vội nói: “Chao ôi, nàng đừng xé, ta nhận vậy”. Cha nuôi đeo cái bao tay, giơ ngang tầm mắt ngắm nghía, quên cả công việc quan trọng là sờ vú tui. Sau đó cha nuôi đeo vào cổ tui cái tượng Bồ tát bằng ngọc. Tui mừng quá đỗi, ::145i1::y mới là thứ dành cho phụ nữ! Tui vuốt râu cha nuôi, nói lời cảm ơn. Cha nuôi vật tui ra, cưỡi tui như cưỡi lên con ngựa của cha, vừa thở vừa nói: - Mi Nương, Mi Nương, ta phải đi tìm hiểu xem bố chồng Mi Nương là con người như thế nào? Trong khi bố chồng tui cười nhạt đầy nham hiểm, chiếc ghế thái sư và chuổi hạt bằng gỗ đàn hương trong tay bố chồng đột nhiên tỏa mùi thơm gắt khiến tui đầu váng mắt hoa, ruột gan như lữa đốt. Lão không thèm quan tâm cha tui sống hay chết, không mảy may xúc động trước tình cảm của tui, lão run rẫy đứng lên, quẳng chuỗi hạt – vật bất li thân của lão, mắt lão tóe lữa. Cái gì làm lão xúc động đến như thế? Cái gì làm lão lo lắng đến như thế? Lão giơ hai bàn tay nhỏ xúi như tay loài yêu quái, miệng rên lên hừ hừ, mắt nhìn tui không chớp, nét hung dữ trong con mắt tan biến, lão van vỉ: - Rửa tay… rửa tay! Tui múc hai gáo nước lạnh trong ang, đổ vào chậu đồng, trông thấy lão vội vội vàng vàng ngâm tay trong nước, tui nghe thấy tiếng răng nghiến ken két trong miệng lão, không đoán được cảm giác của lão như thế nào. Tui trông thấy hai bàn tay của lão đỏ ửng lên như than hồng, những ngón tay nuột nà co quắp như móng vuốt của con gà trống. Tui hốt hoảng khi thấy tay lão như thép nung đỏ, nước trong chậu đồng phát ra tiếng lóc bóc, sùi bọt, bốc hơi. Kỳ quặc thật! Lần đầu tiên, tui được chứng kiến chuyện kỳ lạ như thế này! Lão già ngâm tay trong nước lạnh chắc khoan khoái lắm, hãy nhìn khuôn mặt lão: mắt lim dim, hít không khí vào qua kẻ răng, giữ hơi một lúc lâu mới thở ra. Rõ ràng là cách thở của anh nghiện. Đã nghiện chưa, đồ con lừa! Không ngờ lão có cái trò quỉ quái này, con yêu già! Thoải mái lắm rồi, lão giơ hai tay nước rớt tong tỏng, trở lại ghế thái sư, khác chăng là lúc này lão không nhắm mắt nữa, mà là mở mắt nhìn trân trân hai bàn tay, nhìn những giọt nước rớt từ đầu ngón tay xuống đất. Lão thư giản toàn thân, gân cốt chùng xuống, thỏa mãn cao độ. Cha nuôi cũng vừa như thế trên mình tui… Khi đó tui vẫn chưa biết lão là tên đao phủ khét tiếng. Tui cứ chăm chăm vào số ngân phiếu giắt trong người lão. Tui dịu dàng bảo lão: - Cha ơi, hình như con đấm bóp hầu cha, cha thấy dễ chịu lắm. Cái mạng nhỏ nhoi của cha đẻ con không đêm nay thì sáng mai đi đức, dù sao cũng là xui gia, cha tính cách giúp con. Cha cứ từ từ mà nghĩ, để con nấu cháo huyết cha dùng. Tui múc nước giếng vo gạo, cảm giác trống trải vẫn đeo đẳng trong lòng. Tui nhìn lên mái đao miếu Thành hoàng, một đàn chim câu mầu xám đang rủ rỉ, chúng đậu ken khít nhau, chẳng hiểu đang bàn bạc gì đó. Ngoài đường lát đá xanh rộn lên tiếng vó ngựa: một toáng lính Đức đi qua. Qua khe hở, tui thấy chúng đội mũ hình ống có cắm lông chim. Tui giật mình, tim đập rộn lên, linh cảm thấy sự có mặt của bọn Đức liên quan đến chuyện cha tui. Tiểu Giáp mài xong dao, đang sắp xếp đồ nghề. Anh chàng cầm cây gậy bằng gỗ bạch lạp, một đầu có móc sắt, lôi một con lợn đen ra khỏi chuồng. Cái móc ở đầu gậy móc vào hàm dưới con lợn, có kêu thảm thiết, lông gáy dựng ngược, gúm người cố trằn lại, chân sau và mông miết trên mặt đất, mắt đỏ ngầu những tia máu. Nhưng nó không cưỡng nổi sức mạnh như thần của Giáp Con. Anh chàng chỉ cần nhún thấp một tí, vận sức ra tay, bàn chân như bàn cuốc từng bước từng bước lún sâu đến ba tấc, lôi con lợn ra, móng lợn cày đất thành rãnh, chẳng khác cày ruộng. Nói lại thì chậm, lúc làm thì nhanh, Giáp Con đã kéo được con lợn đến trước bàn mổ. Một tay ghìm móc, tay kia tóm đuôi lợn, anh chàng “hự” một tiếng đứng thẳng lên, nhấc bổng con lợn lên bàn mổ. Con lợn bị choáng quên cả chống cự, chỉ há miệng mà kêu, bốn chân thẳng đuỗn. Giáp Con mở cái móc quăng hẳn một bên, thuận tay cầm lấy con dao chọc tiết sắc như nước để trong chậu sành, rồi gần như không cần tính toán, anh chàng đâm một nhác vào cổ con lợn, đường dao đi ngọt như đâm vào tảng đậu phụ, ấn thêm một nhát nữa, lưỡi dao rồi cả cán dao lút sâu trong cổ lợn. Tiếng kêu im bặt, chỉ còn tiếng nấc cục, rồi tiếng nấc cục cũng không còn. Con lợn run rẩy, chân run, da run, đám lông cũng run. Giáp Con rút dao ra, lật nghiên con lợn để chỗ cắt tiết chiếu thẳng vào chậu hứng ở phía dưới. Một dòng máu nóng vuột ra, loang loáng mầu đỏ tươi, phun thẳng xuống chậu. Sân nhà tui chỉ rộng chừng nửa mẫu, phần thì kê chuồn lợn chuồng chó, phần thì trồng nguyệt quế mẫu đơn, phần làm dàn leo cho nhục quế, phần để chum vại chai lọ, phần làm bếp để nồi niêu xoong chảo, bỗng chốc sặc sụa mùi máu tanh nồng. Bọn nhặng xanh lập tức kéo đến, chúng quả thính mũi! Hai tên công sai đầu đội nón mầu đỏ, nhăn nhúm như lỗ trôn, mặc quần áo lính lệ mầu đen, thắt lưng xanh rộng bản, chân đi ủng hai mảnh đế mềm, bên hông giắt yêu đao, đẩy cổng nhà tui bước vào. Tui nhận ra chúng. Chúng thuộc đội truy bắt, là những tên có đôi chân chạy nhanh hơn thỏ. Biết mặt nhưng chẳng biết tên. Vì rằng cha tui đang bị giam trong đại lào, tui đang cần nhờ vả, nên tui cố làm ra vẻ tươi cười. Nếu là bình thường, bà đâu thèm để mắt tới chúng mày những tên hại nước hại dân, những tên cáo mượn oai hùm! Chúng cũng gật gật đầu, trên khuân mặt thiết bì cũng cố nhếch một nụ cười. Nhưng ngay lập tức nụ cười vụt tắt, một tên thò tay trong bọc lấy ra một cái thẻ mầu đen giơ lên vẫy vẫy, nghiêm trọng nói: - Theo lệnh quan lớn Tiền, cho gọi Triệu Giáp lên huyện hỏi chuyện! Giáp Con cầm cây dao dính đầy máu lợn chạy ra, khúm núm: - Thưa các ông lính, có chuyện gì thế ạ? Hai tên công sai mặt lạnh như tiền, hỏi: - Anh là Triệu Giáp? - Tui là Giáp Con. Triệu Giáp là cha tui - Giáp Con nói. - Cha anh đâu?- Tên công sai khệnh khạng hỏi. Giáp Con nói: - Cha tui đang ở trong nhà. - Bảo cha anh đi theo bọn ta – Tên công sai nói. Tui lạ gì bản mặt bọn nha sai, điên tiết quát: - Bố chồng tui không bao giờ ra khỏi cổng, chưa bao giờ ra khỏi cửa, vậy đã phạm tội gì? Thấy tui nổi giận, bọn sai nha vội nặng ra một vẻ mặt tội nghiệp, nói: - Chị Hai Triệu, bọn tôi quan cứ lệnh lính cứ truyền, còn bố chồng chị phạm tội hay không thì làm sao bọn tôi biết được? - Hẵng gượm, có phải hai ông mời bố tui đi nhậu? - Giáp Con tò mò hỏi. - Bọn ta làm sao biết được? – hai tên công sai lắc đầu, bỗng chúng mỉm cười bí hiểm, nói – Có lẽ, hình như mời đi nhắm rượu với thịt chó! Dĩ nhiên là tui hiểu bọn khốn khiếp này nói vậy có nghĩa gì? Chúng đang nói về quan hệ giữa tui và cha nuôi Tiền. Anh chàng ngốc Giáp Con làm sao mà hiểu được? Tiểu Giáp phấn khởi chạy ù vào trong nhà. Tui cũng vào theo. Tiền Đinh, quân chó đẻ, ông đang giở trò gì vậy? Ông bắt giam cha đẻ tui, lại lánh mặt không tiếp tui; sáng tinh mơ đã sai lính đến bắt bố chồng tui. Phen này thì lôi thôi to rồi! Một bố đẻ, một bố chồng, một bố nuôi, ba ông bố chạm trán tại công đường! Tui từng diễn tích “Tam đường hội thẩm”, chưa bao giờ thấy “Tam ông hội thẩm”! trừ phi cái đồ khốn nhà ông không cho tui gặp, nếu gặp được, tui sẽ hỏi ông định giở trò gì? Giáp Con lấy tay áo chùi mồ hôi trên mặt, giọng hối hà: - Cha ơi có chuyện vui đây này! Quan huyện mời cha đi uống rượu ăn thịt chó! Bố chồng tui ngồi ngay ngắn, hai bàn tay nhỏ xíu trắng bợt đặt trên tay vịn của ghế. Lão nhắm mắt không nói gì, chẳng rõ lão bình tĩnh thật hay giả vờ? - Cha, cha nói gì đi chứ! Các ông lính đang đợi cha ở ngoài sân kìa! - Giáp Con sốt ruột giục – Cha cho con đi cùng được không? Con muốn biết công đường như thế nào? Vợ con thường xuyên tới đó, nhưng nó không cho con đi theo… Tui vội ngắt lời anh ngố, nói: - Con trai cha đoán mò. Ai mời cha đi uống rượu? Chúng đến bắt cha đấy! Cha có sai phạm gì không? Bố chồng tui lười nhác mở mắt, thở dài nói, dù phạm tội cũng chẳng qua giơ đầu chịu báng, có gì lạ! Cho họ vào. Giáp Con ngoảnh ra ngoài, gọi to: - Nghe rõ chưa? Bố tui cho gọi các ông vào! Bố chồng tui mỉm cười: - Con khá lắm, cứ phải gắn như thế! Giáp con chạy ra sân bảo hai tên công sai: - Các ông có biết vợ tui rất thân với quan huyện không? - Thằng ngốc! – Bố chồng tui lắc đầu than thở, ánh mắt sắc như mũi dùi chĩa thẳng vào mặt tui. Tui thấy hai tên công sai cười đểu, gạt Giáp Con sang một bên, tay đặt trên cán dao, vếnh váo bước vào trong nhà. Bố chồng hé mắt, cái nhìn sắc lạnh lướt qua hai tên công sai, vẻ khinh miệt. Rồi lão ngữa mặt nhìn lên tấm đan phía trên cửa buồn, không cần biết sự hiện diện của hai tên công sai. Hai tên công sai đưa mắt nhìn nhau hơi lúng túng. Một tên hỏi giọng hách dịch: - Ông là Triệu Giáp phải không? Bố chồng tui đang ngủ say. - Bố tui cao tuổi, tai nghễnh ngãng – Giáp Con nói – Các ông nói to lên! Tên công sai cao giọng hỏi: - Triệu Giáp, phụng mệnh quan lớn Tiền, mời ông lên huyện với chúng tôi! Bố chồng tui vẫn ngữa mặt, dài giọng nói: - Về bảo quan lớn Tiền các ông, nói rằng Triệu Giáp chân yếu tay mềm, không thể thực hiện lệnh của ông lớn! Hai tên công sai lại đưa mắt nhìn nhau lần nữa, một tên bất cười khùng khục, nét mặt đầy mỉa mai: - Hay là để quan lớn Tiền đem kiệu đón ông lên huyện! Bố chồng tui nói: - Tốt nhất là như vậy! - Được lắm! Oâng cứ đợi đấy, quan lớn Tiền sẽ cho kiệu đến khiên ông đi! Hai tên công sai vừa cười vừa bước ra khỏi nhà. Ra đến sân chúng tui cười càng to hơn. Giáp Con theo chúng ra sân, vênh váo: - Ai cũng sợ các ông, cha tui thì không! Hai tên công sai nhìn Giáp Con, lại cười một hồi nữa rồi khệnh khạng ra về, miệng vẫn cười. Tiếng cười của chúng từ ngoài phố lọt vào tai tui. Tui hiểu vì sao chúng cười, bố chồng tui cũng hiểu vì sao chúng cười! Giáp Con đi vào buồng, ấm ức: - Sao chúng lại cười hở cha? Chúng uống phải nước đái bà điên hở cha? Con nghe Hoàng Trọc nói, uống phải nước đái bà điên thì cười suốt! Chắc chắn chúng đã uống phải nước đái bà điên rồi! Hẳn thế rồi! Nhưng mà chúng uống phải nước đái bà điên nào nhỉ? Bố chồng tui rõ ràng là nói với tui chứ không phải với Giáp Con: - Con ơi, con người ta không nên đánh giá mình quá thấp! Đây là chân lý đến tận cuối đời cha mới nhận ra. Tri huyệ Cao Mật dù xuất thân con nhà võ, cũng chẳng qua chỉ là một tên quan ngũ phẩm, đội mũ chóp thủy tinh! Và cho dù vợ lão là cháu ngoại Tăng Quốc Phiên thì “Phượng hoàng thất thế thua xa đàn gà”! bố mày đây chưa khi nào làm quan, nhưng đã chém rụng hàng soạt loại đầu đội mũ chóp đỏ! Còn như thủ cấp của bọn danh môn quí tộc rụng dưới lưỡi dao bố mày thì phải chất đầy hai sọt! Tiểu Giápnhe răng há miệng, không biết anh chàng có hiểu được ý tứ trong câu nói của ông bố, còn tui thì hiểu hết. Mấy năm thân cận với ông Tiền, tui học hỏi được nhiều điều, hiểu biết thêm nhiều. Nghe bố chồng nói vậy, tui toát mồ hôi, khắp người nổi da gà. Mặt tui không còn sắc máu. Nửa năm trở lại đây, những lời đồn thổi về bố tui rất nhiếu, tất nhiên là tới tai tui. Tui đánh bạo hỏi: - Thưa cha, cha làm nghề đó thật à? Bố chồng giương cặp mắt diều nhìn đóng đinh vào tui, nhấn từng tiếng, in hệt thả rơi những viên bi sắt: “Nghề… nào… cũng… có… trạng… nguyên…!” Biếi ai nói câu đó không? Đây là câu cửa miệng, ai cũng biết. - Không – Lão nói – Có một người nói với ta câu ấy! Có biết ai không? Tui đành lắc đầu. Bố chồng rời khỏi ghế thái sư, hai tay nâng chuỗi hạt – mùi thơm gắt của gỗ đàn hương lại toả khắp gian phòng. Khuôn mặt quắt của lão như dát vàng, lão thốt lên với một thái độ vừa kênh kiệu vừa thành kính, vừa mang vẻ hàm ơn: - Từ Hi Hoàng Thái Hậu!

I-Chương 2

TRIỆU GIÁP NÓI NGÔNG

Có câu rằng: Nam Tào giữ sổ tử Bắc Đẩu giữ sổ sinh. Người tùy vương pháp, cỏ tuỳ gió, Nhâm tâm là sắt, phép quan nung. Đá dù cứng mấy, sợ trùy nện! (Nói thật khi đã về đến nhà) Ta vốn là đao phủ số một nhà Đại Thanh Bộ Hình ta nổi danh! (Đi mà hỏi xem có đúng không?) Quan lại Bộ Hình thay xoành xoạch Tít mù mù tít đèn kéo quân! Duy Triệu Giáp ta đây trụ vững Vì nước giết người, lập kỳ công! Chém đầu như bổ dưa, róc thịt như róc mía! Bông không gói được lửa Tuyết không giấu được người! Vậy ta mở toang cửa Nói cho thiên hạ nghe! Miêu Xoang. “Đàn hương hình – Tẩu mã điệu”Cô con dâu đàng điếm của ta, cô tròn mắt làm gì? Không sợ nổ con ngươi sao? Bố chồng cô đúng là làm nghề ấy, từ năm mười bảy tuổi chém ngang lưng tên giữ kho đánh cắp bạc, đến năm sáu mươi tuổi tùng xẻo tên thích khách định giết đại nhân Viên Thế Khải, loại cơm này ta ăn vừa chẵn bốn mươi bốn năm! Sao cô vẫn còn trợn mắt? Người trợn mắt ta thấy đã quá nhiều, mà trợn là trợn thật sự kia, đừng nói tụi bây chưa nhìn thấy, ngay cả tỉnh Sơn Đông cũng chưa có ai nhìn thấy! Đừng nói để tụi bay nhìn thấy, chỉ kể lại cho tụi bay nghe cũng sợ vãi đái ra rồi! Năm Hàn Phong thứ Mười, một tên thái giám sâu mọt ở kho súng săn trong Đại nội dám lấy cắp khẩu súng săn của nhà vua. Khẩu súng này là của Nữ Sa hoàng tặng vua Hàm Phong. Nó không phải khẩu súng thông thường, mà là khẩu súng thần. Nòng vàng, lẫy cò bằng bạc, báng bằng gỗ đàn hương gắn bảy viên kim cương, mỗi viên to bằng hột lạc. Súng này bắn đạn bạc, trên trời bắn phượng hoàng, dưới đất bắn kỳ lân. Từ thời Bàn Cổ khai thiên lập địa đến nay, loại này chỉ độc một khẩu, không có khẩu thứ hai. Tên thái giám thấy nhà vua ốm đau luôn, trí nhớ giảm sút, liền bán trộm khẩu súng, nghe nói được ba ngàn lượng bạc, mua cho bố hắn một điền trang. Hắn bị ma ám nên quên béng một đạo lý cơ bản. Đó là, phần lớn những hoàng đế đều là chân long thiên tử, mà chân long thiên tử thì thông minh hơn người, xét việc như thần. Vua Hàm Phong lại càng lạ. Đôi mắt rồng của nhà vua minh xét mọi việc chân tơ kẽ tóc, ban ngày không khác gì mắt thường, nhưng đêm đến là sáng rực, đọc sách, viết chữ đều không cần đèn. Lại nói chớm đông năm ấy, nhà vua muốn đi săn, chỉ đích danh khẩu thất tinh phải đem theo. Tên Mọt quýnh lên, nói năng lung tung trước mặt Hoàng thượng, lúc thì bảo khẩu súng bị con hồ ly đánh cắp, khi lại bảo con thần ưng tha mất. Vua Hàm Phong cả giận, giao tên Mọt cho Ty Thận Hình chuyên thụ lý các thái giám, hạch tội: Ty Thận Hình vừa động thủ là tên Mọt có gì khai hết, nhà vua giận đến nỗi mắt tóe lửa, nhảy dựng lên trong điện Kim Loan: - Tên Mọt, Trẫm đ. Vào tổ tông tám đời nhà ngươi! Nhà ngươi dám vuốt râu cọp! To gan! Dám ăn cắp ngay trong nhà Trẫm! Phải cho ngươi biết thế nào là lợi hại, để không uổng Trẫm ở ngôi vua! Vua Hàm Phong quyết định chọn một hình phạt cựa kỳ tàn khốc để trừng trị tên Mọt, qua đó, răn đe những người khác. Nhà vua truyền Ty Thận Hình tâu lên tất cả các loại hình phạt. Mấy thái giám chuyên trách ở Ty Thận Hình giới thiệu từng loại như giới thiệu món ăn lên nhà vua, tựu trung vẫn là đánh bằng gậy, kẹp chả, bó giò, bao tải trôi sông, năm ngựa phanh thây, chặt làm tám khúc… Nghe xong Hoàng thượng lắc đầu, chê tầm thường, cũ rích, đã nhàm. Hoàng thượng bảo, các người nên hỏi các chuyên gia ở Bộ Hình. Nhà vua khẩu dụ, lệnh cho Ngục Aùp Tư của Bộ Hình phải nghĩ ra một hình phạt thật tàn khốc. Khi đó, Thượng thư Bộ Hình là Vương đại nhân sau khi nhận thánh chỉ, lập tức gặp Già Dư ngay trong đêm. Già Dư là ai? Là ân sư của ta. Tất nhiên là đàn ông. Vậy tại sao gọi là Già? Đó là cách xưng hô của người trong nghề. Triều Thanh, Ngục Aùp Tư thuộc Bộ Hình, có bốn đao phủ nhưng không trong biên chế. Trong bốn người này, người cao tuổi nhất, có kinh nghiệm nhất, tay nghề giỏi nhất, được gọi là Già. Còn ba người kia, căn cứ vào kinh nghiệm và tay nghề, lần lượt có tên dì Cả, dì Hai, dì Uùt. Tháng nhiều việc làm không xuể thì thuê người giúp việc tạm thời. Người giúp việc được gọi là Cháu Ngoại. Ta bắt đầu công việc từ Cháu Ngoại, rồi từng bước trở thành Già. Dễ ợt phải không? Không dễ chút nào! Ta làm Già ở Bộ Hình chẵn ba mươi năm. Các quan Thượng Thư, Thị Lang thay đổi như đèn kéo quân, chỉ mỗi chức Già là vững như bàn thạch! Thiên hạ coi thường nghề của bọn ta. nhưng một khi làm cái nghề này thì coi khinh tất cả mọi người, cũng như tụi bay khinh bọn chó lợn trong chuồng tụi bay vậy! Lại nói Thượng Thư Vương đại nhân triệu tập Già Dư và bố bọn bay đến phòng văn thư để bàn. Bố năm ấy hai mươi tuổi, vừa được thăng từ dì Hai lên dì Cả. Sủng ái đặc biệt mới được đề bạt phá lệ như thế. Già Dư bảo ta: - Tiểu Giáp này, sư phụ khi được để bạt dì Cả thì đã ngoài bốn mươi. Chú còn ít tuổi, mới hai mươi mà đã làm dì Cả, đúng là cao lương tháng Sáu, lớn nhanh như thổi! Bớt nói chuyện phiếm, Vương đại nhân nói: - Hoàng thượng có chỉ dụ, yêu cầu Bộ Hình ta nghĩ ra một hình phạt tân kỳ để trừng phạt tên thái giám đánh cắp khẩu súng săn. Các ông là chuyên gia, hãy suy nghĩ kỹ, khỏi phụ ân sâu của Hoàng thượng, khỏi mất mặt Bộ Hình ta! Già Dư trầm ngâm hồi lâu, nói: - Bẩm đại nhân, kẻ mọn này đoán rằng, Hoàng thượng hận tên Mọt là hận hắn không ngươi. Ta phải lựa theo ý ấy mà gia hình ở mắt tên Mọt. Vương đại nhân nói: - Đúng lắm, vậy cách nào hay nhất, nói mau lên! Già Dư nói: - Có hai loại hình phạt tên là “Đại Diêm vương”, còn gọi là “Hai rồng vờn ngọc”, chẳng biết có dùng được không? Vương đại nhân nói: - Nói ngay xem nào! Già Dư miêu tả rất kỹ cách gia hình của loại hình phạt “Đại Diêm vương”. Nghe đoạn, Vương đại nhân mặt mày hớn hở, nói: - Ông về trước chuẩn bị. Bản quan tâu lên Hoàng thượng phê chuẩn. Già Dư nói: - Chế tạo “Đai Diêm vương” cực kỳ phiền phức, chỉ riêng cái đai thép, cứng không được, mềm cũng không được, phải là loại thép dẻo cao cấp. Các thợ rèn ở kinh thành này không ai luyện loại thép này. Mong đại nhân thư thư cho ít ngày, kẻ hèn mọn này sẽ cùng đồ đệ tự làm lấy. Chỗ kẻ hèn không có thứ gì, công cụ máy móc cũng không nhưng sẽ nhặt nhạnh chắp vá để sử dụng. Mong đại nhân làm ơn xuất cho ít bác để kẻ hèn mua nguyên liệu… Vương đại nhân cười nhạt: - Các ông bán thịt săn cho người ta làm thuốc, hàng năm kiếm chác không ít đâu! Già Dư hốt hoảng quì mọp dưới đất, bố tụi bay cũng quì theo. Già Dư nói: - Không cái gì qua được mắt đại nhân, có điều chế tác “Đai Diêm vương” là việc công… Vương đại nhân nói: - Đứng dậy, bảo quan xuất cho các ông hai trăm lượng bạc – thầy trò ông kiếm được một trăm lượng trong đó – Các ông gắng sức mà làm cho tốt, quyết không để sơ suất. Thái giám trong cung phạm tội, xưa nay đều do Ty Thận Hình chịu trách nhiệm thi hành án phạt. Hoàng thượng giao nhiệm vụ này cho Bộ Hình phá lệ, chứng tỏ Hoàng thượng quan tâm Bộ Hình, coi trọng Bộ Hình, ơn đức như trời biển! Các ông phải hết sức cẩn trọng, làm cho tốt để Hoàng thượng vui lòng thì mới dễ bề ăn nói; công việc mà dở ẹt khiến Hoàng thượng rầu lòng, biển hiệu Bộ Hình mà bị đập bể thì coi chừng cái đầu của các ông! Ta cùng Già Dư kinh hoàng thất thố khi nhận nhiệm vụ vẻ vang này, vui nổ trời khi nhận bạc, đến ngõ Thợ Rèn phía nam chùa Hộ Quốc đặt rèn một đai thép theo thiết kế, lại đến đường Lừa Ngựa mua da trâu chưa thuộc, thuê cắt thành sợi rồi bện thừng, lồng vào đai thép. Tính hết nước hết cái, chưa đến bốn lượng, dôi ra hơn một trăm chín mươi sáu lượng, mua một vòng vàng tặng vợ bé của đại nhân nuôi giấu tại ngõ Tinh Linh, hết hai mươi lượng, còn dư một trăm bảy mươi sáu lượng, dì Hai và dì Uùt du chia sáu lượng, Già Dư bỏ túi một trăm lượng, còn lại bảy mươi lượng là của bố tụi bay. Với số bạc này, bố tụi bay về quê mua ngôi nhà này, nhân tiện cưới luôn mẹ tụi bay. Nếu như không có chuyện tên Mọt đánh cắp khẩu súng, thì bố tụi bay dứt khoát không có chuyện về quê, về quê cũng không có tiền mua nhà, cưới vợ; không lấy vợ thì không có mày là con, tất nhiên cũng không có mày là con dâu! Tụi bay hiểu vì sao ta kể chuyện tên Mọt cho nghe rồi chứ? Sự việc bao giờ cũng phải có đầu có cuối, vụ án tên Mọt là cội nguồn của chuyện tụi bay. Trước hôm hành hình một ngày, Vương đại nhân vẫn chưa yên tâm, cho điệu một tử tù àn chưa chung thẩm lên công đường để bọn ta diễn tập “Đai Diêm vương”. Ta cùng Già Dư theo lệnh của Vương đại nhân, lồng chiếc đai thép vào đầu tên tử tù xấu số, hắn kêu toáng lên: - Thưa ông, con chưa bị bác lời khai, sao lại đem con ra hành hình? Vương đại nhân nói: - Tất cả vì Hoàng thượng! Làm đi! Quá trình hành hình rất đơn giản, đại khái hút tàn một tẩu thuốc, tên phạm phọt óc, chết liền. - Cài của này kinh khủng thật! Nhưng chết nhanh quá. Hoàng thượng phí bao tâm cơ để bọn ta lựa chọn hình phạt, không chỉ bắt tên Mọt chịu tội, mà bắt hắn phải chết khổ chết sở, đau khổ cùng cực rồi mới chết, mục đích là giết gà dọa khỉ, để bọn thái giám lấy đó làm gương! Vậy mà các ông: Lồng vào, xiết chặt, bốp, xong! Đơn giản như giết con thỏ! Có thể như vậy được chăng? Bản chức yêu cầu các ông phải kéo dài thời gian thụ hình, chí ít cũng phải một giờ, phải hấp dẫn hơn xem kịch. Các ông phải hiểu rằng, trong cung nuôi mấy ban hát, riêng đào kép cũng đã mấy ngàn người, các trò trong thiên hạ họ đã diễn cả rồi. Muốn thằng Mọt chảy cạn mồ hôi mới chết, các ông cũng phải mồ hôi đầm đìa, không được vậy thì không thể chứng minh được trình độ của Bộ Hình ta và giá trị của “Đai Diêm vương”! Vương đại nhân lại chọn một tử tù khác để bọn ta tiếp tục diễn tập. Tên này đầu to như gốc cây liễu, kích cỡ “Đai Diêm vương” hơi nhỏ, phải làm như thợ đánh đai thùng, loay hoay mãi mới chụp được vào đầu hắn. Vương đại nhân không vui, giọng lạnh nhạt: - Hai trăm lượng bạc để các ông nặn ra cái đồ chơi như thế này hả? Chỉ một câu đã khiến ta sợ toát mồ hôi. Già Dư còn tương đối bình tĩnh, nhưng sau đó cũng run lẩy bẩy. Lần này diễn tập thành công, hành hạ chẵn một giờ, bắt tên to đầu đau khổ cùng cực mới được chết! Vương đại nhân nét mặt tươi tỉnh. Đứng trước hai cái xác trên sảnh đường, ngài bảo bọn ta: - Về đi, sửa soạn đồ nghề cho cẩn thận, đoạn thừng nào dính máu thì bỏ, thay đoạn mới. Lau chùi cái đai cho sạch, tốt nhất nên sơn cho nó một lớp sơn mỏng. Quần áo các ông cũng phải giặt sạch để Hoàng thượng và mọi người trong cung thấy được phong độ của Bộ Hình ta. Nói đi nói lại cũng chỉ một ý. Đó chỉ là cho phép thành công, không cho phép thất bại. Nếu các ông để xảy ra sai sót, biểu hiện Bộ Hình bị đập nát thì đai này sẽ chụp lên đầu các ông! Ngày hôm sau, khi gà gáy lần thứ hai, bọn ta đã dậy. Vào cung thì hành án là việc quan trọng, không ai ngủ được! Già Dư là con người từng trải vậy mà cứ trở mình xoành xoạch, khoảng nửa giờ lại lồm cồm bò dậy đi tiểu vào cái bô để trên cửa sổ, đái xong lại hút thuốc vặt. Dì Hai và dì Uùt nổi lửa thổi cơm, bố tụi bay lại cầm lấy “Đai Diêm vương” kiểm tra lần nữa, khi đã tin chắc không có gì sai lệch, mới chuyển cho Già Dư kiểm tra lần cuối. Già Dư sờ nắn từng tấc trên cái đai, gật đầu, lấy ba thước vải điều gói lại rồi cung kính đặt lên bàn thờ tổ. Ông tổ nghề này là Cao Đào, một bậc đại hiền, một trang anh kiệt thời Tam Hoàng Ngũ Đế, suýt chút nữa kế vị ngôi vua của Đại Vũ. Các loại hình phạt hiện nay là do ông tổ chế định ra. Sư phụ của ta nói rằng, sư tổ giết người không dùng đao, chỉ dùng mắt, nhìn vào gáy phạm nhân rồi lướt ngang một cái, đầu phạm nhân đã rơi xuống đất! Ông tổ Cao Đào mắt phượng mày ngài, mặt đỏ như táo chín, ánh mắt sáng như sao, râu ba chòm, tướng mạo như Quan Công đời Tam Quốc. Già Dư nói, Quan Công chính là hóa thân của tổ sư Cao Đào. Aên quấy quá vài miếng cơm rồi súc miệng cọ răng, rửa tay rửa mặt. Dì Hai và dì Uùt giúp ta và Già Dư mặc quần áo mới, đội mũ nỉ màu đỏ. Dí Uùt nịnh: - Sư phụ sư huynh y hệt hai chú rể! Già Dư lườm dì Uùt, sợ hắn nói nhiều. Nghề này có qui củ riêng, trước và trong khi thực hiện bản án, nghiêm cấm cười đùa. Một câu nói lỡ, lỡ miệng phạm húy là rước hồn ma về nhà. Ơû bãi hành hình Thái Thị Khẩu thường bất chợt nổi cơn lốc. Tụi bay có hiểu vì sao không? Không phải lốc, đó là những oan hồn! Già Dư lấy trong làn ra một bó hương quí, nhẹ nhàng rút ba nén, run run châm lửa từ cây nến trên bàn thờ tổ, rồi cắm vào lư hương. Già Dư quì xuống. Ba anh em ta cũng quì theo. Già Dư hạ giọng khấn: - Kính cáo sư tổ, hôm nay vào cung thi hành án, công việc vô cùng quan trọng, xin sư tổ phù hộ độ trì cho các con mọi bề suôn sẻ! Các con khấu đầu lạy sư tổ! Già Dư khấu đầu, trán đập nền gạch kêu côm cốp. Bọn ta cũng khấu đầu, trán đập nền gạch kêu côm cốp. Mặt sư tổ đỏ hồng trong ánh nến. Bọn ta khấu đầu chín cái rồi đứng lên cùng sư phụ, lùi về sau ba bước. Dì Hai chạy ra ngoài, bê vào một cái liễn men xanh. Dì Uùt chạy ra ngoài, cầm chân xách vào con gà trống cưỡng trắng, mào đen. Dì Uùt đặt liễn trước hương án, quì một bên. Dì Uùt quì trước hương án, tay trái cầm đầu, tay phải cầm chân gà, căng cổ con gà ra. Dì Hai cầm con dao lá liễu trong liễn, nhằm cổ con gà khứa gọn một nhát. Thoạt đầu chưa thấy có máu, bọn ta giật thót tim – cắt tiết gà mà không chảy máu là cái điềm thi hành án không thuận – nhưng ngay sau đó, dòng máu đỏ sẫm vọt ra, chảy tong tong xuống liễn. Giống gà trắng màu đen huyết mạch cường, mỗi khi thi hành trọng án, bọn ta lại mua một con về giết. Lát sau, máu đã cạn, hai sư đệ dâng liễn huyết lên bàn thờ, rồi vái một vái bước giật lùi ra sau. Ta bước lên theo sau Già Dư, quỳ xuống lạy ba lạy, rồi bắt chước Già Dư, giơ ngón tay trỏ và ngón giữa quệt máu gà trong liễn bôi lên mặt từng vệt dài như hóa trang lên sân khấu. Tiết gà rất nóng, má ta ngứa ran. Máu một con gà có thể bôi đủ hai khuôn mặt, còn thừa thì bôi hai tay. Lúc này, mặt ta và mặt Già Dư đều đỏ như mặt sư tổ. Vì sao phải bôi máu gà lên mặt? Vì phải bảo đảm bọn ta với sư tổ là một, cũng là để bọn tà ma quỉ quái biết rằng, bọn ta là đệ tử của sư tổ Cao Đào, khi thi hành án, bọn ta không phải là con người, mà là thần linh, là phép nước. Rửa tay xong xuôi, ta và Già Dư ngồi yên vị trên ghế băng, đợi lệnh vào cung. Mặt trời vừa nhô lên, lũ quạ đã kêu ầm ĩ trên cây hòa cổ thụ giữa sân. Từ nhà lao dành cho trọng án có tiếng gào khóc của một nữ tử tù phạm tội mưu sát chồng. Mỗi ngày khóc một lần, khóc trời khóc đất khóc con, tâm trí đã không bình thường. Bố tụi bay còn trẻ, ngồi một lúc đã cảm thấy ngứa ngáy không yên. Nhìn trộm sang Già Dư, ngồi yên như bụt. Bố tụi bay bắt chước Già Dư, bình tâm tĩnh khí, ổn định tinh thần. Máu gà trên mặt đã khô, cồm cộm, màu sắc như quả sơn tra bọc đường. Ta có cảm giác như bị bó chặt trong lần áo giáp và mặt nạ, trong lòng tự nhiên đâm hoảng, như cùng Già Dư đi trong đường hầm tối tăm, đi miết không tìm được lối ra. Ngục Aùp Tư Lang Trung Tào đại nhân dẫn bọn ta đến trước hai cỗ kiệu nhỏ có rèm xanh, ra hiệu bọn ta lên kiệu. Được trọng vọng bất ngờ, bố tụi bay sợ tái mặt. Cho đến khi ấy, bố tụi bay chưa được ngồi kiệu lần nào! Nhìn sang Già Dư, thấy Già cũng đang đứng như trời trồng, miệng há hốc, không hiểu định khóc hay muốn hắt hơi. Một công công cằm nhẵn thín đứng bên kiệu, cất giọng the thé bảo bọn ta: - Sao đấy? Chê kiệu nhỏ phải không? Ta và Già Dư vẫn không dám lên kiệu, đưa mắt nhìn Tào đại nhân. Tào đại nhân nói: - Không phải là trọng vọng bọn ngươi, mà sợ điều tiếng thị phi! Lên kiệu mau, còn đứng đực ra đấy làm gì? Đúng là… Bốn phu kiệu đều là thái giám cằm nhẵn thín, đứng trước và sau kiệu, hai tay khoang trước ngực, thái độ khinh người ra mặt. Bị khinh rẻ, ta bạo dạn hẳn lên. Bọn thái giám thối tha, đ. bà các người, hôm nay ông nhờ tên Mọt mà được ngồi kiệu! Ta bước lên hai bước, vén rèm chui vào. Già Dư cũng lên kiệu dành cho Già. Kiệu rời mặt đất, ngất ngưởng tiến lên. bố tụi bay nghe rõ tên thái giám khiêng kiệu rủa khẽ: - Thằng đao phủ uống no máu người, nặng như cối đá! Thường ngày hắn khiêng các nương nương hoặc phi tần, nằm mơ cũng không nghĩ rằng phải khiêng một đao phủ. Bố tụi bay phởn quá, cố ý cựa quậy, khiến bọn thái giám khiêng kiệu bước loạng choạng. Kiệu chưa ra khỏi sân Bộ Hình, chợt có tiếng dì Uùt gọi to: - Già ơi, Già! Già quên “Đai Diêm vương” đây này! Bo tụi bay như có tiếng sét đánh trong đầu, mắt nảy đom đóm, mồ hôi nhỏ giọt. Ta lăn ra khỏi kiệu, đón lấy “Đai Diêm vương” từ tay dì Uùt, một cảm giác khó tả, không thể nói thành lời. Già Dư cũng đã ra khỏi kiệu, trên mặt cũng đầm đìa mồ hôi, hai chân tranh trưởng. Nếu không có dì Uùt chắc chắn vạ tày đình! Tào đại nhân chửi: - Đ. mẹ các ngươi! Làm quan quên triện, thợ may quên kéo! Bố tụi bay vốn định nhấm nháp cái thú được ngồi kiệu, nhưng để xảy ra chuyện này nên mất hứng, ngồi thu lu một góc như con khỉ, không dám trêu chọc bọn thái giám phu kiệu nữa. Không rõ đi được bao lâu thì nghe một tiếng “kịch”, kiệu dừng. Đầu óc quay cuồng, ta chui ra, ngước nhìn lầu son gác tía hoa cả mắt! Ta lom khom theo sau Già Dư, tay bê “Đai Diêm vương”, Già Dư đi theo viên thái giám, vào cung. Rẽ ngang rẽ dọc năm lần bảy lượt mới đến một sân rộng. Trên sân là một đám toàn những cằm nhẵn thín, mặc quần áo màu lông lạc đà, đội mũ quả dưa màu đen. Tên Mọt ăn trộm súng đã bị trói vào một chiếc cột. Đó là một chàng trai tuấn tú, nho nhã, thoạt nhìn như cô gái. Đôi mắt tuyệt đẹp: Hai mí, lông mi cong vút, nhãn cầu long lanh như có nước, đen láy như quả nho chín. Thật đáng tiếc, bố tụi bay nghĩ, đáng tiếc cho một chàng trai đẹp đẽ như thế mà bị thiến đi bộ tam sự, đưa vào cung làm thái giám! Bố mẹ hắn không tiếc con mình hay sao? Một khán đài tạm thời được dựng lên trước cột hành hình, khoảng giữa kê một dãy ghế tựa chạm trổ, bằng gỗ đàn hương. Chiếc ghế chính giữa to rộng hơn những chiếc khác, trải đệm màu vàng thêu rồng phượng, chắc hẳn là ghế của đức Kim thượng. Bố tụi bay còn trông thấy Vương đại nhân Bộ Hình ta, Thị Lang Thiết đại nhân, lại còn không biết bao nhiêu là quan viên, chóp mũ gắn kim cương có, gắn san hô có, tất cả đứng nghiêm, tay buông thõng, không một tiếng ho. Khung cảnh trong cung quả thật khác thường, yên lặng, yên lặng tới mức bố tụi bay tim đập loạn xạ. Chỉ lũ chim sẽ đậu dưới mái ngói lưu ly là không cần biết trời cao đấy dày, cứ chiêm chiếp mà kêu, cứ gọi nhau í ới. Đột nhiên, một thái giám tóc trắng như cước, nét mặt hồng hào đứng trên khán đài từ lâu, dài giọng hô: - Hoàng thượng giá lâm… Cả một mảng mũ xanh trước khán đài đột nhiên lún thấp xuống, chỉ nghe rõ tiếng phủi tay áo nhất loạt kêu đánh “soạt”, trong chớp mắt, quan viên sáu Bộ và các cung nữ, thái giám đều quì mọp dưới đất. Bố tụi bay cũng toan quì xuống cùng mọi người, nhưng cảm thấy như có ai đá vào chân. Nhìn sang thấy Già Dư mắt sáng quắc, đầu ngẩng cao, đứng như trời trồng bên cột, y hệt một pho tượng đá. Ta trấn tĩnh lại, chợt nhớ những qui định trong nghề. Triều đại nào cũng vậy, khi đao phủ đã bôi tiết gà lên mặt thì hắn không còn là người, mà tượng trưng cho phép nước tôn nghiêm, thần thánh. Bọn ta không phải quì, ngay cả trước mặt đức Kim thượng cũng vậy. Bắt chước Già Dư, bố tụi bay cũng đứng nghiêm, ưỡn ngực thót bụng, như một tượng đá. Niềm vinh dự này, con ơi, đừng nói gì cái xó Cao Mật này, ngay cả tỉnh Sơn Đông oai nghiêm, cả triều đình Đại Thanh hùng vĩ, cũng không có người thứ ba được hưởng. Tiếng đàn sáo nhã nhạc đã tới gần. Theo sau tiếng nhạc du dương, xuất hiện giữa hai bên tường cao, là đội nghi trượng của nhà vua. Đi đầu, hai thái giám trang phục màu lông lạc đà, tay bê lư trầm có nắp hình con nghê, một làn khói xanh nhẹ nhàng bay lên, khói này xộc thẳng vào mũi, khiến người ngửi phải lúc tỉnh như sáo, lúc mê mẩn hồ đồ. Sau hai thái giám là đội nhã nhạc của nhà vua, sau đội nhạc lại là hai hàng thái giám cầm cờ lọng, đỏ đỏ vàng vàng cả một mảng. Sau nữa là tám ngự tiền thị vệ cầm thương đao kiếm kích, phủ việt mâu qua. Sau đó mới đến cỗ kiệu Kiên Dư màu vàng chóe của nhà vua, do hai thái giám lực lưỡng kiệu trên vai. Hoàng đế nhà Đai Thanh ngồi thẳng đuỗn trên kiệu. Hai bên phía sau kiệu có hai cung nữ cầm quạt lông chim công che nắng cho nhà vua. Sau nữa là đám quần là áo lượt của mấy chục tuyệt sắc giai nhân, tất nhiên đó là những hậu, phi của nhà vua, rồng rắn như một con đập nhỏ màu sắc rực rỡ. Sau đám hậu, phi còn kéo theo một cái đuôi dài nữa. Về sau, nghe Già Dư nói, công việc tiến hành ở trong cung, nên đội nghi trượng của nhà vua có sự tinh giản đáng kể, nếu đủ lễ bộ thì dài như một thần long, thấy đầu không thấy đuôi! Riêng đại kiệu của nhà vua, cũng đã sử dụng sáu mươi tư phu kiệu! Các thái giám đã được huấn luyện thành thục, rất nhanh ai về vị trí người ấy. Hoàng thượng và các hậu, phi đã ngồi vào ghế trên khán đài. Hoàng đế Hàm Phong mặc áo hoàng bào, đầu đội kim quan, chỉ cách bọn ta khoảng một trượng. Bố tụi bay nhìn Hoàng thượng không chớp. Nhà vua khuôn mặt gầy, sống mũi rất cao, mắt trái to hơn mắt phải, miệng rộng răng trắng, môi trên để hàng ria con kiến, dưới cằm nuôi bộ râu dê, trên má có mấy nốt ruồi đen nhạt. Nhà vua ho luôn miệng, nhổ đờm liên tục vào âu vàng do một cung nữ túc trực bên cạnh. Hai bên nhà vua, ngồi xòe như hai cánh chim phượng, là hơn chục nương nương mũ cao tầng cài hoa đại đóa màu sắc rực rỡ, tua kim tuyến rủ trước ngực. Các nương nương đều mặt hoa da phấn, trên người tỏa hương. Người ngồi bên phải Hoàng thượng có khuôn mặt dài, má phấn môi son, đẹp như tiên nữ giáng trần. Là ai biết không? Nói ra tụi bay giật mình: Chính là đương kim Hoàng Thái hậu Từ Hi! Tranh thủ lúc Hoàng thượng nhổ đờm, viên thái giám đứng oai nghiêm trên khán đài, khẽ phẩy nhẹ cái phất trần như đuổi ruồi, lập tức các quan, các cung nữ và thái giám hô lớn: - Thánh thượng vạn tuế vạn tuế vạn vạn tuế! Bố tụi bay giờ mới rõ, những người phía dưới tuy cúi đầu không dám ngẩng lên, kỳ thực họ vẫn liếc trộm lên khán đài, quan sát động tĩnh. Nhà vua vừa ho vừa nói: - Các khanh bình thân! Các quan khấu đầu cùng hô: - Tạ ơn Hoàng thượng. Rồi tất cả dập đầu lần nữa, phủi tay áo nhổm dậy, khom người đứng sang hai bên. Thượng thư Bộ Hình Vương đại nhân bước ra khỏi hàng, phủi tay áo quì xuống khấu đầu, tiếng sang sảng: - Thần thượng thư Bộ Hình tuân lệnh Hoàng thượng sai người tạo tác “Đai Diêm vương” và chọn hai đao phủ siêu hạng đem hình cụ vào cung, tâu Bệ hạ định đoạt. - Biết rồi, bình thân! Vương đại nhân khấu đầu tạ ơn, lui sang một bên. Lúc này Hoàng thượng nói câu gì đó, tiếng thì thào nghe không rõ, hiển nhiên là khí lực không đủ, vì Hoàng thượng mắc bệnh lao. Trên khán đài, viên thái giám dài giọng, nói như hát: - Hoàng thượng có chỉ, Thượng thư Bộ Hình Vương Thụy dâng “Đai Diêm vương” để Hoàng thượng ngự lãm. Vương đại nhân chạy gằn đến trước mặt bố tụi bay, giật lấy “Đai Diêm vương” bên ngoài bọc vải đỏ, bê bằng cả hai tay như bê nồi nước sôi, thận trọng nhích tới trước khán đài, quì xuống nâng lên quá đỉnh đầu. Viên thái giám bước tới đón “Đai Diêm vương” đặt xuống kỷ trước mặt Hoàng thượng, giở các lớp vải lộ hình cụ ra. “Đai Diêm vương” sáng lấp lóa, uy nghi lẫm liệt. Tuy không tốn kém là bao, nhưng bố tụi bay đã bỏ vào đấy rất nhiều công sức. Khi mới chế tác xong, trông nó lem nhem xấu xí, bố tụi bay lấy giấy ráp đánh suốt ba ngày, thế là nó trở nên bóng lộn! Aên không bảy mươi lượng cũng đáng! Hoàng thượng giơ ngón tay gầy guộc, có móng vàng khè chạm nhẹ vào “Đai Diêm vương”. Không hiểu nó nóng hay lạnh mà ngón tay vàng ngọc của nhà vua rụt ngay lại. Ta lại nghe thấy nhà vua nói câu gì đó, viên thái giám bê cái hình cụ đưa đến trước mặt từng người để các nương nương xem. Các mệ cũng bắt chước Hoàng thượng, dùng ngón tay nhọn như búp măng chạm một cái, người thì làm ra vẻ hãi, người tỉnh khô mặt lạnh như tiền. Cuối cùng, viên thái giám trả “Đai Diêm vương” cho Vương đại nhân. Vương đại nhân cung kính nhận lại hình cụ, lom khom bước giật lùi về chỗ bố tụi bay, trả lại “Đai Diêm vương”. Trên khán đài, viên thái giám ghé tai Hoàng thượng nói câu gì đó, ta trông thấy Hoàng thượng gật đầu. Viên thái giám bước ra phía trước, nói như hát: - Hoàng thượng có chỉ, hành hình tên đại nghịch! Tên Mọt bị trói ở cột gào khóc: - Hoàng thượng, xin Hoàng thượng mở lòng nhân đức tha cho mạng chó của nô tài… Từ nay, nô tài không dám thế nữa! Lúc này, các thị vệ trên dưới khán đài đều đứng cả dậy. Tên Mọt mặt vàng như nghệ, môi trắng bợt, mắt chớp lia lịa. Hắn không kêu gào nữa, vãi đái ra quần, khẽ thỉnh cầu bọn ta: “Xin các ông là gọn cho, người anh em xuống âm tào địa phủ sẽ nhớ công ơn trời biển của các ông!” Bọn ta còn lòng dạ nào nghe hắn lải nhải? Bọn ta gan cóc tía cũng không dám thỏa mãn yêu cầu của hắn! Xiết cổ bằng thừng, hắn thì sướng nhưng bọn ta thì toi! Dù Hoàng thượng có tha cho bọn ta, thì Vương đại nhân cũng không tha! Hốt hoảng giở đồ nghề ra, ta cùng Già Dư khênh “Đai Diêm vương” cái của này sau khi chạm tay nhà vua và các nương nương bỗng trở nên nặng hơn, mỗi người cầm một đầu dây thừng da trâu, thực hiện các động tác như kế hoạch đã sắp đặt, trước hết trình diện Hoàng thượng và các nương nương, sau đó là các vương công đại thần, cuối cùng là các thái giám và cung nữ. Như trên sân khấu, Thận Hình Tu đại thái giám Trần công công cùng Thượng thu Bộ Hình Vương đại nhân ra hiệu với nhau bằng mắt, hô to: - Thi hành án! Đúng là ông trời có mắt, cái đai sáng quắc chụp vừa vặn vào đầu tên Mọt, y như đã được đo cẩn thận từ trước, khi xiết ít mất sức. Hai con mắt của hắn rất khớp với hai lỗ trên đai. Chụp xong, ta và Già Dư mỗi người lùi hai bước, kéo căng dây da trâu trong tay, tên Mọt vẫn lải nhải: “Các ông… làm gọn hộ tôi…”. Lúc này còn bụng dạ nào suy nghĩ về đề nghị của tên Mọt. Bố tụi bay nhìn Già Dư, Già Dư nhìn bố tụi bay, không nói mà rất hiểu nhau, cùng gật đầu khẽ. Già Dư khẽ nhếch mép cười, đây là thói quen của Già mỗi khi thi hành án, Già là một đao phủ nho nhã. Nụ cười mỉm là tín hiệu hành động. Cơ bắp trên tay bố tụi bay căng lên, vận độ năm phần sức thì dừng lại – người không biết nghề thì không thể phát hiện có chuyện căng lại dừng, vì không thấy dây thừng chùng lại, tên Mọt rú lên một tiếng chói tai, hơn cả tiếng sói trong vườn thù. Bọn ta biết Hoàng thượng và các nương nương rất thích tiếng rú như thế này, nên kéo căng một cái lại dừng, căng một cái lại dừng, đây không phải là giết người, đây là nhạc sư vào loại cao thủ, đang tạo ra âm hưởng đắm say lòng người! Hôm ấy là ngày thu phân, trời trong xanh, nắng vàng như mật, tường đỏ ngói lưu ly xung quanh rực rỡ màu châu ngọc, có thể ví đất trời như được phản chiếu qua một tấm gương lớn. Đột nhiên ta ngửi thấy mùi thối, biết ngay thằng Mọt bĩnh ra quần. Ta liếc trộm lên khán đài, thấy nhà vua mắt tròn xoe, mặt đỏ như vàng ở nhiệt độ nung chảy. Các nương nương, người mặt xám như tro, người miệng há hốc. Nhìn sang các vương công đại thần, người nào cũng như rũ xuống, không dám thở mạnh. Các thái giám, cung nữ dập đầu lạy tạ như tế sao, mấy người yếu bóng vía thì đã ngất xỉu. Ta và Già Dư lại nhìn nhau, cùng hiểu rằng đã đến lúc kết thúc, không nên để mùi xú uế ảnh hưởng tới Hoàng thượng và các nương nương. Bố tụi bay đã nhìn thấy mấy nương nương lấy khăn tay che miệng. Mũi họ thính hơn mũi Hoàng thượng. Hoàng thượng hít tỵ yên, khứu giác kém đi nhiều. Phải kết thúc nhanh, lỡ chẳng may gió tạt mùi lên chỗ Hoàng thượng thì tai vạ! Tên Mọt như thằng chết trương, thối khẳn, chứ không phải cái mùi ta thường thấy. Bố tụi bay rất buồn nôn nhưng không được phép. Nếu mình nôn thì tất cả mọi người đều nôn, hình phạt này thất bại hoàn toàn. Đi tong cái mạng nhỏ nhoi của bố tụi bay và Già Dư là chuyện nhỏ, bị lột cái mũ cánh chuồn trên đầu Vương đại nhân cũng không phải là chuyện lớn, mà ảnh hưởng đến sức khỏe Hoàng thượng mới thực sự quan trọng. Bố tụi bay đã nghĩ ra điều này. Già Dư chắc nghĩ ra từ lâu. Tần trò này kết thúc được rồi. Thế là bọn ta vận sức căng đều, cái đai xiết chặt từng li một, đầu thằng nhỏ xấu số thắt lại như quả đầu bê. Thằng nhỏ đã cãn mồ hôi từ lâu, giờ đây rỉ ra một chất như mỡ cá, vừa tanh vừa khẳn vượt xa thứ bĩnh trong quần. Cón một chút sức lực cuối cùng, thằng nhỏ rú lên một tiếng. Bố tụi bay giết người đã quen mà vẫn thấy thảm quá! Mình đồng da sắt cũng chịu không thấu “Đai Diêm vương”, đến như ma đầu Tôn Ngộ Không dao chém không đứt, giáo đâm không thủng, bốn mươi chín ngày trong lò luyện đan của Thái Thượng Lão Quân vẫn không chịu đầu hàng, vậy mà không cưỡng nổi câu thần chú khẩn cô nhi! Thực ra, cái tinh diệu của “Đai Diêm vương” là ở hai mắt của phạm nhân. Bố tụi bay ngả người ra phía sau, qua sợi thừng, cảm thấy thằng Mọt run bần bật trên tay mình. Tiếc cho cặp mắt! Cặp mắt như biết nói, như hớp lấy hồn vía của các bà các cô, từ trong hốc mắt lòi dần ra ngoài, đen có, trắng có, đỏ có, càng lồi càng to, y hệt hai quả trứng gà chui ra từ trôn gà mái, chui ra… chui ra… “bụp” một tiếng, liền đó “bụp” tiếng nữa, hai con ngươi của tên Mọt treo lủng lẳng dưới “Đai Diêm vương”! Bố tụi bay và Già Dư chờ đợi kết cục này. Bọn ta căn cứ vào trình tự đã thiết kế, kéo dài thời gian thực hiện, xiết chặt từng tí một, từ từ căng dần lên, rồi vào thời điểm then chốt, xiết mạnh một cái, con ngươi bật bay ra ngoài. Cho đến giờ phút này, bố tụi bay và Già Dư mới thở phào như cất được gánh nặng. Mổ hôi túa ra không rõ từ khi nào, lưng áo ướt đẫm. Mồ hôi hòa tan tiết gà bôi trên mặt chảy từng vệt xuống cổ, thoạt trông tưởng vỡ đầu chảy máu. Đó là bố tụi bay trông mặt Già Dư để biết mặt mình là như thế. Tên Mọt vẫn chưa tắt thở nhưng đã ngất lịm, không khác gì đã chết. Đầu hắn bị vỡ, óc và bọt máu màu hồng tràn qua kẽ nứt chảy ra ngoài. Bố tụi bay nghe thấy tiếng nôn ọe từ khán đài vọng xuống. Một quan lớn chỏm mũ đầu đỏ ngã cắm đầu xuống đất, mũ lăn đi rất xa. Khi ấy ta và Già Dư cùng hô to: - Aùn đã thi hành, mời đại nhân nghiệm thu! Thượng thư Bộ Hình Vương đại nhân cầm góc vạt áo bào che mặt, ngoảnh nhìn về phía bọn ta một thoáng, rồi quay lên phía khán đài đứng nghiêm, dang tay, phủi tay áo, phủ phục, tâu lên: - Aùn đã thi hành, xin Hoàng thượng nghiệm thu! Nhà vua ho rũ rượi hồi lâu, sau đó phán bảo Harry người trên và dưới khán đài: - Các ngươi thấy cả rồi chư? Nó là tấm gương cho các ngươi! Nhà vua không nói ta, nhưng mọi người đều ngeh rõ mồn một. Nghe nói câu trên của nhà vua là dành cho các thái giám và cung nữ, nhưng các quan viên sáu Bộ, các vương công đại thần như bị đánh gãy chân, nhất loạt khuỵu xuống, dập đầu lạy tạ như tế sao, người cảm tạ ơn vua, kẻ hô vạn tuế, loạn cả lên! Ta và Già Dư được dịp nhìn thấu bản chất của các quan! Hoàng thượng đứng dậy, viên thái giám hô to: - Khởi giá hồi cung! Các nương nương về cùng Hoàng thượng. Các thái giám cũng về nốt. Còn lại là các đại thần rũ rượi như cục nước mũi và tên Mọt như một con hổ. Bố tụi bay hai chân mỏi dừ, mắt nảy đom đóm, nếu như không có Già Dư dìu đi, chắc chắn bố tụi bay sẽ ngã xuống bên cạnh thi thể thằng Mọt, trước khi Hoàng thượng lên kiệu về cung. Tụi bay còn trợn mắt nhìn ta nữa thôi? Ta nói cả nửa buổi để các ngươi hiểu rằng, vì sao bố tụi bay dám nổi dóa với bọn công sai. Một thằng Huyện Lệnh nhãi nhép, một chức quan to bằng hạt vừng, sai hai thằng chó săn đến truyền lệnh gọi ta! Kiêu kỳ bắc bậc quá đấy! Bố tụi bay lúc chưa đầy hai mươi tuổi đã đảm đương công việc động trời trước mặt đức Kim thượng Hàm Phong và Từ Hi Hoàng Thái Hậu. Sau đó, từ trong cung vọt ra lời vàng ngọc của Hoàng thượng: - Bọn đao phủ của Bộ Hình hành sự tinh thông! Trình tự, lớp lang, đầu cuối, căng dịu… đâu ra đấy! Trẫm được xem một vở diễn hay! Vương đại nhân được gia phong Thái tử Thiếu Bảo. Thăng quan tấn tước, vui vẻ trong lòng, Ngài thưởng cho Già Dư và ta bốn tấm lụa điều. Con đi hỏi cái tên họ Tiền, hỏi xem hắn đã nhìn thấy long nhan của vua Hàm Phong chưa? Chưa. Ngay cả long nhan đương kim Hoàng thượng Quang Tự cũng chưa! Hắn đã nhìn thấy phượng nhan của đương kim Hoàng Thái Hậu cũng chưa. Do vậy bố tụi bay dám khoe mẽ trước mặt hắn. Ta đoán rằng, chỉ lát nữa, tri huyện Cao Mật Tiền Đinh sẽ đích thân đến mời ta. không phải cá nhân hắn mời ta, mà Viên đại nhân trên tỉnh sai hắn đến mời ta. Viên đại nhân thì ta đã mấy lần gặp mặt, ta đã giúp ngài làm một việc, làm rất gọn, rất đẹp mắt! Viên đại nhân vui lòng, thưởng cho ta một hộp lớn bánh cuốn thừng của Thiên Tân. Ta về quê đã nửa năm không đi đâu cả, tụi bay đừng nghĩ rằng ta là cây gỗ mục! Kỳ thực, ta biết tuốt mà làm ra vẻ hồ đồ. Lòng ta là một tấm gương, soi rõ từng chân tơ kẽ tóc cái thế giới này. Cô con dâu hiền của ta, những trò trộm gà bắt chó của con không che được mắt ta được đâu. Con trai bất lực, không thể trách con dâu ăn mảnh, đàn bà mà lại, tuổi trẻ mà lại! Trẻ ngứa nghề, không coi là tật. Cha đẻ của con làm phản bị tống giam đại lao, chuyện động trời này, ta biết. Ông là trọng phạm mà người Đức chỉ đích danh, nòi gì Cao Mật, ngay cả Sơn Đông cũng không ai dám thả ông ra. Vì vậy, ông chết là cái chắc! Đại nhân Viên Thế Khải là một sói chúa, giết một mạng người đối với ông ta chẳng khác dẫm chết một con giòi! Ông ta đang được người ngoại quốc tin dùng, đương kim Hoàng Thái Hậu cũng phải dựa vào ông ta để ổn định thời cuộc. Ta đoan chắc rằng, ông ấy sẽ mượn tính mạng cha con để diễn một tấn trò, vừa cho người Đức xem, vừa cho dân chúng Cao Mật và tỉnh Sơn Đông xem, cảnh báo họ yên phận làm ăn, không được giết người, không được làm giặc. Người Đức làm đường sắt thì triều đình đã chấp thuận, liên quan gì đến cha con? Vậy là “Mình làm mình chịu!” Đừng nói con không cứu nổi, mà Tri huyện Tiền Đinh cũng không cứu nổi cha con. Con trai của ta, giờ đây là lúc cha con ta xuất đầu lộ diện. Bố con vốn định rửa tay gác kiếm, ẩn tính mai danh, chết già ở nơi thôn dã này, nhưng ông trời không chịu. Sáng nay, đôi tay này đột nhiên nóng ran, ta hiểu rằng, công việc của ta vẫn chưa xong. Đây là ý trời, không cách nào tránh né. Con dâu này, con khóc cũng không ích gì, hận cũng không ích gì, ta chịu ơn trời biển của đương kim Hoàng Thái Hậu, không nhúng tay vào thì có lỗi với triều đình! Ta không giết cha con thì người khác giết! Để cái bọn bất thành nhân dạng giết ông ấy, chẳng thà để ta giết còn hơn! Người ta có câu: “Thân này ví xẻ làm ba”, ta sẽ trổ tài, để ông ấy chết một cái chết oanh liệt, sử sách lưu danh. Con trai của ta, cha cũng muốn giúp con có nghề chính đáng, để hàng xóm láng giềng mở mắt ra! Họ chẳng rất khinh thường con đấy sao? Vậy được, ta phải cho họ hiểu rằng, đao phủ cũng là một nghề. Nghề này, người đứng đắn không làm, kẻ lười nhác không làm nổi! Nghề này đại biểu cho tinh khí thần của triều đình. Nghề này mà phát triển, thì triều đình hưng thịnh; nghề này tiêu điều thì khí số của triều đình cũng hết! Con trai, nhân lúc kiệu của quan lớn Tiền chưa đến, cha nói đôi điều về việc nhà mình, hôm nay không nói, chỉ sợ sau này không còn dịp nào để nói nữa. Năm bố con mười tuổi, ông nội con bị dịch tả. Sáng mắc, trưa chết. Năm đó ở Cao Mật sáng nào cũng có người chết, nhà nào cũng có tiếng khóc. Hàng xóm không đỡ đần được nhau, nhà nào có người chết, nhà ấy chôn cất lấy. Ta và bà nội con, nói vầy hơi khó nghe, lôi ông ra bãi tha ma như lôi một con chó chết, đắp điếm qua quít cho xong. Ta và bà nội vừa quay lưng, một đàn chó hoang đã xông tới, chỉ bới vài cái đã lôi được xác ông lên. Ta nhặt gạch vỡ xông tới định liều mạng, chúng giương những cặp mắt đỏ ngầu, nhe hàm răng trắng nhởn, chĩa vào ta mà sủa. Chúng ăn thịt người chết, béo mẫm, cơ bắp cuồn cuộn, con nào cũng khỏe và dữ như hổ. Bà nội ngăn ta, bảo: - Con ơi, đâu chỉ riêng cha con, đành để chúng ăn thôi! Ta biết, một người đánh không lại cả đàn chó dại, đành đứng đấy mà nhìn lũ chó, miếng thứ nhất xé tan quần áo ông nội con, miếng thứ hai xơi gọn da thịt, miếng thứ ba chén sạch ruột gan tim phổi, miếng thứ tư nhai xương rau ráu. Sau đó năm năm, vùng Cao Mật lại phát sinh bệnh thương hàn, bà nội con sáng bị, trưa tắt thở. Lần này, ta đặt xác bà nội giữa đống rơm, châm lửa đốt. Từ đó, bố con cơ khổ lênh đênh không nơi nương tựa, ban ngày chiếc gậy cùng cái muỗng, xin ăn từng nhà. Tối đến rúc vào đống cỏ, chui vào bầu lò, tiện đâu ngủ đấy. Khi đó, ăn mày trẻ con như ta có hàng đàn, xin được miếng ăn đâu có dễ! Có hôm gõ cửa hơn trăm nhà mà không kiếm nổi mẩu dưa héo. Chết đói đến nơi, bố con chợ nhớ bà nội con lúc sinh thời có lần nói rằng, bà có người anh em họ làm công sai ở một phủ lớn ngoài kinh thành, cuộc sống không đến nỗi, thường gửi tiền cho bà. Vậy là bố con quyết định lên kinh đô tìm ông ta. Dọc đường xin ăn, đôi khi phụ giúp thiên hạ làm vài việc vặt, cứ như vậy khi đi khi nghỉ, bữa đói bữa no, rồi cũng đến được kinh đô. Bố con theo bọn buôn rượu, vào Bắc Kinh bằng cổng Sùng Văn. Nhớ mang máng bà nội nói ông ta là lính ở đại đường Bộ Hình, bèn hỏi thăm đường đến Lục Bộ Khẩu, rồi tìm đến Bộ Hình. Hai ông kính vai hùm lưng gấu đứng gác ngoài cổng. Bố con lân la lại gần, liền bị một ông dùng sống dao gạt bắn đến hơn một trượng. Trăm núi nghìn sông mới đến được đây, tất nhiên không thể bỏ cuộc, bèn suốt ngày lượn lờ ngoài cổng Bộ Hình. Phố Bộ Hình hai bên có mấy nhà hàng, nào là “Tụ Tiêu Lâu”, nào là “Hiền Nhân Cư”, đều rất đàng hoàng, khách khứa nhộn nhịp, giờ cao điểm, ngựa xe xếp hàng chật cứng hai bên đường, mùi thức ăn tỏa dài theo phố, thơm điếc mũi! Cũng có mấy quán nhỏ bán điểm tâm: Bánh bao, thịt nướng, bánh xèo, óc đậu… Không nghĩ rằng trong thành Bắc Kinh lại có nhiều món ăn ngon đến thế, chẳng trách ai cũng muốn về Bắc Kinh. Bố con chịu khổ từ tấm bé, biết tìm việc mà làm, thường giúp những người làm công trong nhà hàng một số việc vặt, đổi lấy bát cơm ăn. Bắc Kinh đất rộng người đông, xin ăn dễ hơn ở Cao Mật. Những ông chủ giàu có thường gọi rất nhiều món, nhưng chỉ đụng đũa đôi chút rồi bỏ, không ăn. Cơm thừa canh cặn cũng đủ bố con no bụng. No rồi, tìm nơi chân tường khuất gió đánh một giấc. Dưới nắng ấm, bố cảm nhận được gân cốt mình đang lớn lên, năm sau bố con đã cao hơn năm trước một cái đầu, chẳng khác cây lúa gặp mưa xuân! Giữa lúc bố con đang thỏa mãn với cuộc sống vô tư của một anh chàng hành khất thì đột nhiên tình thế thay đổi hẳn: Một lũ ăn mày đánh bố gần chết. Cầm đầu bọn chúng là tên Chột, hắn hỏng một mắt, con mắt còn lại sáng lạ lùng, vết sẹo chém bằng dao chạy dài trên mặt, trông phát khiếp! Hắn nói: - Thằng súc sinh, mày chui ra từ xó xỉnh nào mà dám khua khoắng trên địa bàn của ông? Còn trông thấy mày lảng vảng ở phố này, ông sẽ đánh què cái chân chó của mày, sẽ móc đuôi hai con mắt chó của mày! Nửa đêm, bố con gắng gượng mãi mới bò được ra khỏi rãnh nước bẩn, thu mình trong một xó tối, người đau như giần, bụng lép kẹp sôi ùng ục. Ta cảm thấy cái chết đã gần kề. Đúng lúc ấy, ta mơ màng nhìn thấy bà nội đứng trước mặt, bảo: - Con đừng buồn, vận may của con sắp đến rồi! Ta vội mở mắt. Không thấy gì hết! Chỉ nghe gió thu hiu hắt rì rào trên những ngọn cây và tiếng ri rỉ của mấy con dế sắp chết cóng. Còn nữa, cả một bầu trời đầy sao hấp háy nhìn ta. nhưng hễ nhắm mắt là ta lại thấy bà nội đứng trước mặt, bảo rằng vận may sắp đến với ta, còn mở mắt thì lại không thấy gì cả. Sáng sớm hôm sau, mặt trời đỏ rực, nhuốm hồng những giọt sương long lanh trên cỏ, trông thật đẹp mắt! Đàn quạ kêu ầm ĩ, bay về phía nam kinh thành. Về sau, tự nhiên ta hiểu, sáng sớm đàn quạ bay về hướng đó để làm gì? Ta đói không chịu nổi, muốn xin chút gì dằn bụng nhưng lại sợ tên Chột. Chợt trông thấy cái đống than bên đường có cái thân của cây cải bẹ, liền ra nhặt về chỗ chân tường, ngồi nhai rau ráu. Đang ăn ngon lành, ta thấy có đến mười mấy con ngựa xuất phát từ sân Bộ Hình, trên lưng là những lính dõng quần áo nẹp đỏ, phi nước kiệu trên con đường mới đắp vằng đất da ban màu vàng xỉn. Các lính dõng của mình cài yêu dao, tay cầm roi ngựa, gặp người vụt người, gặp chó đánh chó, cái phố lớn như vậy mà toắt cái trở nên vắng tanh. Lát sau, một chiếc xe tù bằng gỗ, từ sân Bộ Hình chạy ra. Con la kéo xe tù rất gầy, sống lưng nhọn như sống dao, chân gầy như que củi. Xe tù chở một phạm tóc xõa, khuôn mặt mờ nhạt, mắt mũi không rõ. Xe lắc lư trên đường, trục khô dầu, rít kin kít. Dẫn đường cho xe tù là mấy lính kỵ mã khi nãy, sau đám kỵ mã là hơn chục lính thổi tù và. Tiềng tù và thì không thể hình dung nổi, tì… tì… như đàn trâu khóc. Phía sau xe tù, là một nhúm quan viên mặc triều phục, người to béo đi giữa để ria chữ bát, trông như ria dởm dán bằng keo. Phía sau các quan viên, lại là mười mấy kỵ mã. Đi kèm hai bên xe tù là hai người mặc quần áo màu đen, thắt lưng to bản, đầu đội mũ đỏ, tay cầm đại đao. Hai người sắc mặt đỏ gắt – khi ấy ta chưa biết họ bôi máu gà lên mặt – bước chân nhẹ nhàng không một tiếng động. Bố tụi bay nhìn họ không chớp, phong độ của họ làm ta mê mẩn! Khi ấy ta nghĩ, bao giờ mình có được cái dáng đi ấy nhỉ? Chợt ta nghe có tiếng bà nội nói sau lưng: - Con ơi, cậu con đấy! Ta lập tức quay lại, sau lưng là bức tường màu xám, không có ai cả. Nhưng ta biết bà nội đã hiển linh. Thế là ta gào lên: “Cậu ơi!” Cùng lúc ấy như có ai đẩy mạnh ta một cái, ta mất đà, lao về phía xe tù. Đúng là không biết trời cao đất dày! Các quan viên và đám lính kỵ mã ngớ ra. Một con ngựa giật mình cất cao hai vó trước hí vang, tên lính kỵ văng xuống đất. Ta nhào đến trước mặt hai người áo đen tay cầm đại đao, vừa khóc vừa nói: “Cậu ơi, thế là cháu đã tìm thấy cậu!”… Nỗi niềm bấy lâu nay chất chứa trong lòng khiến ta trào nước mắt. Hai người áo đen cầm đại đao cũng ngẩn người ra. Ta thấy họ đưa mắt nhìn nhau, người nọ như có ý hỏi người kia: “Ông là cậu thằng ăn mày này à?” Hai người áo đen chưa kịp có phản ứng gì, đám lính kỵ đã hoàn hồn vung đao vung kiếm hè nhau xông tới vây quanh ta, kiếm quang lấp lóa trên đầu ta. Một bàn tay vạm vỡ chộp lấy cổ ta nhấc bổng lên, ta có cảm giác như xương cổ mình gãy vụn, ta giẫy giũa trên tay họ, miệng gào to: “Cậu ơi, cậu!”… Rồi ta bị quẳng xuống đất, đè chết tươi một con nhái. Miệng ta vập phải đống phân ngựa còn nóng hổi. Phía sau xe tù, một người to béo mặt đen, đội mũ triều thiên chóp bạc bằng pha lê màu lam, áo bào thêu con báo trắng trước ngực, ngồi ngay ngắn trên lưng con tuấn mã. Ta hiểu đây là ông quan to. Một lính dõng khuỵu một chân thưa lên: - Bẩm đại nhân, một thằng ăn mày ạ! Hai lính dõng điệu ta đến trước mặt đại quan, một tên ghìm tóc bắt ta ngẩng lên để đại quan xem mặt. Ông quan béo nhìn ta một thoáng, xì một cái, chửi: - Thằng ăn mày ngu xuẩn! Xéo! Tên lính dõng thưa lên một tiếng, rồi cầm tay ta lôi sang bên kia đường, dúi ta một cái, chửi: “Cút mẹ mày đi!”. Người ta bay theo tiếng chửi, rơi tõm xuống rãnh bùn, nước thối hoắc. Bố tụi bay loay hoay mãi mới mò được lên bờ, mắt không mở được, tối mò. Ta vơ nắm cỏ khô lau bùn đất trên mặt. Lúc mở được mắt ra, con đường đất ba dan bụi tung mù mịt, đội hành quyết đã đi về hướng nam. Ta nhìn theo mà cảm thấy trong lòng ngao ngán. Lúc này, lời bà nội lại văng vẳng bên tai: “Con nên đi xem! Người ấy là cậu con đấy!”. Ta nhìn quanh, tìm bà nội. Chỉ thấy con đường đất màu vàng, bãi phân ngựa đang bốc hơi và những con chim sẻ nghiêng đầu, mắt bé tí đen láy, đang nổ thức ăn trong đống phân ngựa. Không thấy bà nội đâu cả! “Mẹ ơi!”… Ta buồn quá, cất tiếng khóc, tiếng khóc dài lê thê như cái rãnh nước bẩn chạy dọc theo bên đường. Ta nhớ bà nội, oán bà nội. Mẹ ơi, mẹ bảo con đến nhận mặt cậu, nhưng ai là cậu của con? Người ta xách cô con lên như xách mèo xách chó, rồi quẳng con xuống cái rãnh thối, suýt nữa cái mạng của con không còn! Lẽ nào mẹ không nhìn thấy? Mẹ ơi, mẹ có linh thiêng thì đưa đường chỉ lối, giúp con thoát khỏi bể khổ. Nếu mẹ không thiêng thì đừng nói gì nữa, dù phải cạp đất mà ăn, con trai cũng không cần mẹ lo toan! Nhưng bà nội tụi bay không nghe, cứ vo ve như con nhặng sau tai ta: - Con đi mà xem, người ấy là cậu của con! Vậy là bố tụi bay chạy như điên, đuổi theo đội hành quyết. Chỉ khi chạy thật nhanh, bà nội mới chịu ngậm miệng. Hễ chạy chậm là tiếng rủ rỉ bên tai lại vang lên. phải chạy thật nhanh mới thoát cái tiếng ấy, dù rằng, rất có thể lại bị quẳng xuống rãnh lần nữa. Ta đuổi theo đội hành quyết, ra khỏi cửa Tuyên Vũ, chạy miết trên con đường sống trâu đầy ổ gà, nước đọng thành vũng. Đây là lần đầu ta chạy trên con đường nổi tiếng trong thiên hạ, giờ đây nó in những vết chân của ta. Cảnh quan ngoại thành tiêu điều, không được như nội thành. Hai bên đường nhà cửa thấp lè tè, xen kẽ những vạt rau xanh: cải thìa, cải bẹ, củ cải; riêng đậu ván thì thân, lá đã khô héo trên giàn. Có mấy người đang lom khom trên những ruộng rau, họ không quan tâm nhiều đến đội hành quyết, người ngó qua một thoáng, người cắm cúi làm, không ngẩng đầu lên. Gần đến pháp trường, con đường sống trâu chui tụt vào bãi rộng mênh mông, chính giữa là cái bệ cao, có rất nhiều người vô công rỗi nghề xúm quanh. Trong đám đông có một số là ăn mày, trong đó có tên Chột, thì ra đây cũng là địa bàn của hắn. bọn lính thúc ngựa dàn thành đội hình. Hai đao phủ rất phong độ nói trên mở xe, lôi phạm xuống. Phạm có lẽ gãy chân, đi cà nhắc khiến ta tưởng đến củ hành bị héo. Đao phủ dìu phạm lên bục, nhưng vừa buông tay, anh ra lại rũ xuống, chẳng khác người không xương! Những người đứng vây quanh xì xào, họ không bằng lòng thái độ hèn nhát của người tử tù. Đồ giẻ rách! Quân hèn! Đứng thẳng lên xem nào! Hát bài gì đi! Được mọi người cổ vũ, tên phạm khe khẽ cựa quậy, động đậy từng cơ bắp, từng cái xương cực kỳ khó khăn. Mọi người lên tiếng động viên anh ta. Anh ta chống tay ngồi lên rồi vươn người đứng dậy nhưng lập tức hai chân lại khuỵu xuống. Đám người xem kêu to: Anh kia, anh kia! Nói đôi lời gì đó đi! Chẳng hạn câu “Chém rơi đầu hôm nay, hai mươi năm sau lại là một hảo hán!”. Nhưng người tử tù, trái lại, nhếch miệng khóc òa, sau đó gào lên: “Trời ơi, oan cho tôi quá!”. Những người đến xem ắng họng, đứng im như phỗng, nhìn lên bục. Hai đao phủ thần thái vẫn như cũ. Lúc này, âm hồn bà nội lại xì xào sau tai ta: “Gọi đi con, mau lên! Người ấy là cậu con!”. Bà nội hối thúc ta, càng lúc càng cao giọng, điệu bộ càng gay gắt, luồng khí lạnh phả thẳng vào gáy ta, nếu ta không gọi, chắc chắn sẽ bị bà bóp cổ. Không còn cách nào khác, ta chấp nhận để bọn lính dõng hung hãn chém bể đầu, gọi thật to: “Cậu ơi!”. Chỉ trong một thoáng, các cặp mắt đều dồn về phía ta. Ánh mắt quan giám trảm, ánh mắt bọn lính dõng, ánh mắt bọn vô công rỗi nghề, tất tật ta quên hết, chỉ mỗi ánh mắt người tử tù là ta suốt đời không thể nào quên! Người tử tù ngẩng đầu lên, giương cặp mắt sưng húp vì bọng máu che khuất, nhìn ta, tia mắt như hai mũi tên màu đỏ, nhanh như chớp bắn rụng ta. Lúc này, viên quan giám sát thi hành án hô lớn: “Đến giờ rồi!”. Cùng với tiếng hô là tiếng tù và bi tráng nổi lên, những lính dõng cũng chụm miệng huýt sáo lanh lảnh. Một đao phủ cầm đuôi sam của người tử tù kéo mạnh về đằng trước để cổ người tử tù vươn dài ra. Người đao phủ kia dùng cánh tay nâng đao, hơi vặn mình sang phải, rồi thoắt cái xoay người sang trái, “phập”, ánh đao sáng trắng cùng với tiếng rú nửa chừng, đao phủ phía trước đã giơ cao cái đầu của người tử tù. Đao phủ hạ thủ cùng đao phủ cộng sự, xếp hàng, hô lớn: - Mời đại nhân nghiệm hình! Viên quan to béo mặt đen vẫn ngồi trên mình ngựa, phẩy tay một cái như vẫy chào cái đầu, rồi giật cương quay ngựa rời pháp trường. Lúc này, những người đến xem hành hình cất tiếng reo hò, bọn ăn mày tranh nhau chạy đến chỗ cái bục, đợi lột quần áo người tử tù. Nửa cổ còn lại của người tù bỗng duỗi thẳng, máu vọt ra có vòi, còn thân hình thì ngã úp sấp, y hệt cái vò rượu bị đổ. Cuối cùng thì ta cũng hiểu, quan giám trảm không phải cậu ta, đao phủ cũng không phải cậu ta, bọn lính dõng cũng không phải cậu ta. Người tù bị chém đầu mới là cậu ta. Đêm ấy, bố tụi bay chọn một cây liễu mọc nghiêng, cởi dây làm thòng lọng buộc lên cây liễu rồi chui đầu vào. Cha chết rồi, mẹ chết rồi, người cậu có thể nhờ vả thì bị người ta chặt đầu rồi, bố tụi bay tứ cố vô thân, không nơi nương tựa, chết quách cho rảnh! Sắp sờ được mũi Diêm vương thì một bàn tay vạm vỡ đỡ lấy đít bố. Chính là người đã chém đầu cậu của bố! Ông dẫn ta đến một quán cơm, gọi bát canh đậu phụ nấu với đầu cá, bảo ta ăn. Ta ăn, ông không ăn, chỉ lặng lẽ ngồi nhìn ta. Người chạy bàn đưa đến một tách trà, ông cũng không uống. Ta ăn no, ợ hơi nhìn ông. Ông bảo: - Ta là bạn thân của cậu con. Nếu con bằng lòng, hãy làm đồ đệ của ta! Tư thế lúc ban ngày của ông tái hiện trước mắt ta: trước tiên, người đứng thẳng, sau đó nhanh chóng xoay sang phải, cánh tay phải như cầm nửa vầng trăng, “phập”, cái đầu của ông cậu giơ cao cùng với tiếng kêu oan nửa chừng tắt lịm… Bà nội lại thì thầm bên tai: “Con ơi, mau quì xuống lạy sư phụ đi!”. Ta quì xuống lạy sư phụ, mắt ầng ậng nước. Thực ra, ông cậu sống hay chết ta không quan tâm, ta chỉ quan tâm bản thân ta. Nước mắt lưng tròng, ta không nghĩ rằng giấc mộng ban ngày lại biến thành hiện thực nhanh đến thế. Ta cũng muốn trở thành một đao phủ giết người không chớp mắt. Mặt họ lạnh như tiền mà cứ tỏa sáng trong giấc mơ của ta. Con ơi, sư phụ chính là Già Dư, người mà ta kể cho con nghe đã hàng trăm lần. Sau đó, Già bảo ta, Già cùng ngục tốt – cậu ta, kết nghĩa anh em. Cậu ta phạm tội, chết dưới tay sư phụ, đúng là con tạo xoay vần! “Phập” một nhát, nhanh hơn gió. Già Dư nói, khi rơi xuống, cái đầu cậu bảo ông: - Anh ơi, cháu em đấy, chăm nom nó hộ em!

GIÁP CON LẢM NHẢM

Tớ họ Triệu, tên Giáp Con Tinh mơ đã dậy, cười rất ròn. (Ngốc mà lại!) Tớ mơ thấy hổ trắng Hổ trắng mặc áo chẽn đỏ, Đít vổng đuôi to. (Ha ha ha) Đuôi to đuôi to đuôi to Hổ trắng và tớ đấu tay bo (Ngoác miệng phô hàm răng trắng nhởn) Hổ định xơi tớ chắc? Hổ bảo: Lợn béo dê mập ăn không hết Cớ gì phải ăn một anh ngốc? Không xơi thì đến có việc gì? Hổ bảo: Anh phát rồ vì sợi râu hổ Tui đến giơ mép cho anh nhổ. (Ha ha ha, ngốc sở ngốc khổ!) Miêu Xoang “Đàn hương hình – Oa oa xoang”.Miu miu, chưa vội mở mồm nói, hãy học tiếng mèo kêu. Mẹ tớ bảo, ria mép hổ có nhiều sợi, trong đó sợi dài nhất quí giá vô ngần. Người nào có được sợi ria đó giắt trong người, có thể nhìn thấy bản tướng của người khác. Mẹ tớ bảo, con người sống ở trên đời đều do con vật đầu thai mà sinh ra. Nếu ai có cái râu hổ quí giá kia, thì trong con mắt người đó không bao giờ có con người. Trên phố, trong ngõ, nơi quán rượu, trong nhà tắm toàn là trâu ngựa chó mèo tuốt tuột! Mẹ kể, có một người lúc ở Quan Đông đập chết một con hổ, lấy được cái râu quí đó, sợ mất, lấy vải bọc ba lượt bên trong, ba lượt bên ngoài, lại còn khâu vào bên trong lần lót áo bông. Về đến nhà, bà mẹ hỏi: “Con ơi, con ở Quan Đông bấy nhiêu năm, chắc là giàu có rồi?” Anh chàng vênh váo, nói: “Giàu thì chưa giàu, nhưng con được một báu vật”. Anh ta vừa nói vừa tháo chỉ lấy ra cái gói vải, mở từng lớp lấy chiếc râu hổ cho mẹ xem. Nhưng khi ngẩng đầu lên thì không thấy bà mẹ đâu cả, chỉ thấy một con chó già, mắt kèm nhèm. Sợ quá, anh ta bỏ chạy, giữa sân đụng phải một con ngựa già một cú như trời giáng. Anh ta trông thấy con ngựa miệng ngậm tẩu, đang rít thuốc xèo xèo, lỗ mũi phả ra từng làn khói trắng. Sợ đến suýt ngất xỉu, anh ta định vọt qua tường bỏ chạy, con ngựa già gọi đúng tên cúng cơm của anh: “Tiểu Bảo đấy phải không? Thằng ôn, không nhận ra bố đẻ à?”. Anh ta biết, những trò vè này đều do chiếc râu hổ gây ra, nên vội gói lại giấu vào nơi kín đáo, lúc này anh mới thấy bố không phải ngựa, mẹ không phải chó. Ngay khi ngủ, tớ cũng muốn có chiếc râu hổ đó. Miu miu, gặp ai tớ cũng nói về chiếc râu hổ, gặp ai tớ cũng hỏi làm thế nào để có được chiếc râu hổ. Có người bảo tớ lên Đông Bắc, vào rừng mà tìm râu hổ. Tớ định đi, nhưng lại không muốn xa vợ. Có chiếc râu đó thì hay biết mấy! Tớ vừa kê xong phản thịt trên phố thì trông thấy một con lợn đực to đùng đầu đội mũ quả dưa bằng sa tanh màu đen, mình mặc áo chùng, tay xách lồng chim họa mi ngất ngưởng đi tới, gọi to: - Giáp Con, cho hai cân thịt lợn, loại ngũ hoa ấy! Rõ ràng là một con lợn, nhưng nghe giọng nói, tớ nhận ra đó là ông già Lý ở Lý Thạch trai, bố đẻ ông tú tài học rộng, người cùng phố, ai đã gặp đều sinh lòng kính nể. Người nào không kính nể, ông lên giọng than: “Cá không ăn muối cá ươn rồi!”. Nào ai biết bản tướng của ông lại là con lợn đực! Ngay bản thân ông cũng không biết mình là lợn, chỉ tớ biết. Nhưng nếu ông bảo là lợn, ông sẽ nện vỡ đầu tớ bằng gậy đầu rồng. Lợn chưa đi khỏi thì một bà ngỗng trắng dùng cánh xách làn trúc lạch bạch đi tới. Đến trước phản thịt của tớ, bà ta lườm tớ như thể từ lâu đã có mối thâm thù, nói: Giáp Con, đồ dã man! Thịt chó nấu đông hôm qua bán cho ta, có một cái móng tay! Cậu không treo đầu chó bán thịt người đấy chư? – Bà ta quay lại bảo ông lợn đen – Nghe rõ chưa nào? đêm hôm kia, nhà họ Trịnh đánh chết tươi con dâu, khắp người không còn một chỗ lành lặn, thảm quá! – Nói xong, ngỗng trắng quay lại nói với tớ: - Cắt cho bác hai cân thịt chó, đổi món một tí. Tớ nghĩ bụng, mụ già thối thây này, mụ là cái thá gì? Mụ là ngỗng cái chỉ đáng đem nấu đông, cho chừa cái thói lắm điều! Nếu như có một chiếc râu hổ như thế thì hay biết mấy! Buổi chiều hôm đó mưa to, ông Hà ngồi uống rượu trong quán. Ông nhọn miệng lộ hầu, mắt tinh ranh đảo như chớp, chắc chắn bản tướng là con khỉ đột. Tớ lại nói với ông về chuyện chiếc râu hổ. Tớ nói, bác Hà, bác hiểu nhiều biết rộng, chắc có nghe nói về chiếc râu hổ? Bác biết làm thế nào để kiếm được nó? Ông ta cười, bảo tớ: - Giáp ơi là Giáp, cậu ngố quá đấy! Cậu bán thịt ở đây, còn vợ cậu thì đang ở đâu? - Vợ tui đem thịt chó đến chỗ quan lớn Tiền – cha nuôi của cô ấy. Ông Hà nói: - Ta thấy đem thịt người đến thì có. Vợ cậu trắng nõn, thịt thơm phải biết! - Bác đừng đùa, nhà tui chỉ bán thịt lợn, thịt chó, có đâu thịt người mà bán? Vả lại, Tiền đại nhân không phải là hổ, sao lại ăn thịt vợ tui? Nếu ông ấy ăn thịt vợ tui thì đã ăn từ lâu rồi, vợ tui đâu còn sống đến giờ. Ông Hà mỉm cười ranh mãnh: - Tiền đại nhân không phải là bạch hổ, mà là thanh long. Vợ cậu là bạch hổ. Bác Hà lại nói lung tung rồi! Bác lại không có cái râu hổ, làm sao nhìn thấy bản tướng của Tiền đại nhân và vợ tui? Bác Hà nói: - Cậu ngốc, rót cho ta bát rượu, ta sẽ chỉ cho cậu nơi có chiếc râu hổ. Tớ vội rót cho ông ta một bát rượu đầy có ngọn, giục ông ta nói mau. Ông bảo, cậu biết đấy, đó là của quí, bán được nhiều tiền lắm. Tớ bảo, tui muốn có cái râu hổ không phải để bán lấy tiền, mà để chơi. Bác thử nghĩ, cầm cái râu hổ trong tay đi trên phố, trông thấy bọn súc vật áo quần mũ mãng nói tiếng người, hay thật đấy! Ông Hà hỏi: - Cậu thật tình muốn có cái râu hổ chứ? Thậ, rất muốn, ngay cả khi ngủ cũng mê thấy nó. Vậy được, cậu hãy thái cho ta một đĩa thịt, ta sẽ mách cho cậu. Bác Hà, chỉ cần bác cho biết kiếm cái râu hổ ấy ở đâu, bác ăn hết cả con chó tui cũng không lấy tiền, một xu cũng không lấy. Tớ thái thịt chó cho ông ta, rồi nhìn ông, chờ đợi. Ông Hà khoan thai nhấp từng ngụm rượu, nhai từng miếng thịt, nói chậm rãi: Cậu ngố cần cái râu hổ thật à? Bác Hà, rượu thịt tui đã cho bác rồi, nếu không mách là bác lừa tui, về nhà tui sẽ mách vợ tui, khinh tui thì được chứ khinh vợ tui thì khó đấy! Vợ tui chỉ một cái dẩu mỏ là bác bị lôi lên huyện, gậy nện tới tấp với mông! Ông Hà thấy tui đưa vợ ra, vội bảo: - Cậu Giáp, cậu Giáp thân mến, ta sẽ mách cho cậu, nhưng cậu phải thề, không nói ta bảo cậu, ngay cả với vợ cậu cũng vậy. Nếu không, dù có, râu hổ cũng mất thiêng! - Được được! Tui sẽ không nói với bất cứ ai, kể cả vợ. Thề rằng, tui mà nói với ai thì vợ tui sẽ đau bụng. Ông Hà nói, mẹ cái thằng! Thề với thốt gì thế? Vợ cậu đau bụng thì liên quan gì đến cậu? Sao lại không liên quan? Vợ tui đau bụng thì tui đau xót lắm, tui buồn đến phát khóc! Ông Hà nói: - Vậy ta cho cậu biết nhé – Ông ta nhìn ra phố như sợ có ai nghe thấy. Mưa rào rào, nước giọt gianh chảy như một tấm rèm màu trắng. Tớ giục, ông ta bảo: - Cẩn thận vẫn hơn, để người khác nghe thấy là không lấy được râu hổ. Ông chồm người qua bàn, ghé sát cái miệng nóng hôi hổi vào tai tớ, thì thào: - Vợ cậu ngày nào cũng đến nhà Tiền đại nhân. Giường của ngài có trải tấm da hổ. Đã có da hổ, lo gì không có râu hổ? Hãy nhớ cho kỹ, cậu nhờ vợ cậu lấy cho một sợi loăn xoăn màu vàng kim, sợi ấy mới thiêng! Những sợi khác không thiêng. Khi vợ tớ đưa thịt trở về, trời tối đen như mực. Sao giờ đằng ấy mới về? Hắn vừa cười vừa nói: “Anh đại ngốc ơi, em phải cho ngài ăn từng miếng cho đến hết. Với lại, trời mưa chóng tối. Sao anh không châm đèn?”. Đằng ấy không thêu thùa, tớ không đọc sách, thắp đèn để làm gì? Hắn bảo: “Anh Giáp tính toán ra phết! Giàu nghèo chi một đọi đèn, huống hồ nhà mình không nghèo! Cha nuôi nói rồi, từ năm nay trở đi, sẽ miễn thuế cho mình. Anh cứ yên tâm đốt đèn lên”. Tớ đánh lửa châm vào đĩa đèn dầu lạc, hắn lấy trâm cài đầu khêu bấc đèn, căn buồng sáng lên như dịp Tết. Dưới ánh đèn mặt hắn đỏ hồng, mắt long lanh như vừa uống nửa cân rượu. Đằng ấy uống rượu phải không? Hắn nói: “Mũi thính như mũi mèo đói ấy! Cha nuôi sợ đi đường lạnh, đưa chỗ rượu thừa trong be cho uống… Đừng quay lại, em thay quần áo bị ướt đây”. Thay làm gì, chui luôn vào chăn có hơn không! “Ý hay đấy!” – Hắn cười khúc khích: “Ai dám bảo Giáp Con nhà ta ngốc? Khôn ra phết!”. Hắn cởi quần áo, vứt từng cái vào chậu giặt, trắng phau như con lệch vừa lên khỏi mặt nước, nhảy một phát lên giường, nhào một cái chui luôn vào chăn. Tớ cũng tụt quần, mông trần như khỉ chui vào theo. Hắn cuộn chăn quanh người, bảo: “Anh đừng quấy rầy em. Làm lụng suốt ngày, xương cốt như muốn long ra!”. Tớ không quấy đằng ấy, nhưng đằng ấy phải kiếm cho tớ cái râu hổ. Hắn cười rúc rích: “Anh ngố, kiếm râu hổ cho anh ở đâu?”. Hôm nay có người bảo tớ, đằng ấy có thể kiếm được râu hổ. “Ai bảo anh?” Không cần biết là ai bảo. Tớ cần một sợi loăn xoăn, phần đầu có màu hoàng kim. Hắn đỏ bừng mặt, rủa: “Thằng mất dạy nào bày cho anh đấy? Em phải lột da nó làm trống! Đứa nào lỡm anh, đứa nào?”. Đằng ấy có giết tớ cũng chẳng nói. Tớ đã lấy bụng đằng ấy ra thề rồi! Tớ thề là nếu tớ để lộ ra thì bụng đằng ấy đau! Hắn lắc đầu: “Anh ngố, mẹ anh trêu anh cho vui đấy. Anh thử nghĩ, làm gì có chuyện ấy trên đời!” Ai cũng đánh lừa được tớ, vậy mẹ tớ đánh lừa tớ làm gì? Tớ muốn có cái râu hổ đó cả nửa đời người rồi. Tớ van đằng ấy hãy kiếm cho tớ một cái. Hắn nổi cáu, thở phì phì: “Kiếm đâu bây giờ, lại còn loăn xoăn nữa… Anh ngố, anh là thằng đại ngố!”. Người ta bảo, trên giường Tiền đại nhân có tấm da hổ, có da là có râu. Hắn thở dài đánh thượt, nói: “Giáp Con, Giáp Con, em nói gì với anh bây giờ?” Tớ van đằng ấy, kiếm cho tớ một cái, nếu không, tớ không cho đằng ấy đi đưa thịt chó nữa. Người ta bảo đằng ấy đưa thịt người. Hắn nghiến răng nghiến lợi, nói: “Lại thằng nào nói vậy?” Đằng ấy không cần biết là ai nói, chỉ biết là có người nói như thế. Hắn bảo: “Được thôi, em sẽ kiếm cho anh một sợi, còn bây giờ thì đừng quấy nữa”. Giáp Con nhệch miệng ra cười. Tối hôm sau, quả nhiên vợ tớ đem về cho tớ một chiếc râu hổ. Hắn nhét vào tay tớ một cái lông màu vàng kim, bảo: “Đây rồi, đừng để nó bay mất!” Rồi hắn cười rũ ra. Tớ giữ khư khư cái râu hổ đó, trống ngực đập thình thịch. Cả đời mong nó, không ngờ lại kiếm được dễ dàng đến thế! tớ ngắm nghía vật báu trong tay, quả nhiên nó cong queo, phía đầu màu vàng y như ông Hà nói. Cầm sợi lông trong tay, tớ cảm thấy cổ tay tê tê, báu vật có khác, nặng ra phết! Hắn che miệng, vừa cười vừa nói: “Soi xem nào, xem em là phượng hoàng hay là chim sẻ?” Ông Hà nói đằng ấy là bạch hổ! Mặt hắn biến sắc, giận dữ quát: “Quả nhiên là cái lão chết tiệt ấy chõ mõm vào! Mai bảo cha nuôi tóm lão lên huyện nện cho hai trăm gậy, cho lão nếm mùi “quả roi”! Tớ cầm sợi râu hổ, đăm đăm nhìn vợ tớ dưới ánh đèn. Tim tớ đập loạn xạ, cổ tay run lên. Trời ạ, con rất muốn nhìn thấy bản tướng của vợ con. Hắn là hóa thân của con vật nào nhỉ? Lợn, chó, thỏ, dê, cáo, nhím? Con vật nào cũng được, nhưng đừng là rắn. Từ bé tớ đã sợ rắn, lớn lên càng sợ, giẫm phải cái nùi rơm, tớ gật bắn mình cao ba thước. Mẹ tớ bảo, rắn thường biến thành người đẹp, đa phần các cô gái đẹp là do rắn biến thành! Anh chàng nào ngủ cùng người đẹp vốn là rắn biến thành, sớm muộn sẽ bị hút hết não tủy. Xin trời phù hộ, vợ con là gì biến thành cũng được, cóc nhái, thạch sùng cũng được, nhưng đừng có là rắn. Nếu là rắn thì con xin nhặt nhạnh đồ nghề, chạy không ngoái cổ! Vợ tớ cố ý khêu bất thật cao, hoa đèn to như hoa thạch lựu, căn buồng sáng trưng! Tóc hắn đen nhánh như được bôi một lớp dầu. Trán hắn bóng lộn, có thể so với bụng ông Di Lặc. Lông mày cong cong như hai lá liễu. Mũi hắn trắng ngà như được đẽo gọt từ ngó sen, cặp mắt long lanh, con ngươi như trái nho chín chìm trong lòng trắng trứng. Miệng hắn hơi rộng, môi không tô son mà đỏ, hai mép cong vắt như củ mã thầy. Tớ nhìn mỏi mắt mà không thấy vợ tớ là hóa thân của con vật nào! Vợ tớ bĩu môi, hỏi mỉa: - Có thấy gì không? Em từ con vật nào biến thành? Nói đi chứ! Tớ lắc đầu, bâng khuâng, trả lời không nhìn thấy gì. Bảo bối này trong tay tớ sao lại trở nên mất thiêng? Hắn giơ một ngón tay dí vào đầu tớ, nói: - Anh bị ma ám rồi! Sợi lông đã hủy hoại cuộc đời anh. Mẹ anh chẳng qua kể chuyện cho vui, còn anh thì lại cho đó là thực. Giờ còn tin nữa hay thôi? Tớ lắc đầu, nói đằng ấy không đúng! Mẹ tớ không bao giờ lừa tớ. Ai cũng có thể lừa tớ, riêng mẹ tớ thì không. - Vậy sao anh cầm râu hổ trong tay, lại không nhìn thấy em từ con vật nào biến thành? – Hắn nói. Em không cần râu hổ cũng biết kiếp trước anh là con lợn, một con lợn ngu xuẩn to đùng! Tớ hiểu hắn đang kiếm cách chửi tớ, không có râu hổ trong tay thì hắn không thể nhìn thấy bản tướng của tớ là lợn. Nhưng vì sao tớ có râu hổ trong tay lại không nhìn thấy bản tướng của hắn? Vật báu này tại sao không linh nghiệm nữa? Thôi, hỏng rồi! Bác Hà nói rằng, nếu gọi tên nó ra thì nó sẽ mất thiêng. Vừa nãy mình lỡ miệng gọi tên nó. Cực ơi là cực! Ngu quá, cái vật báu mãi mới kiếm được, hỏng mất rồi! Tớ đứng ngây ra, tay vẫn cầm cái râu hổ, nước mắt đầm đìa. Thấy tớ khóc, vợ tớ thở dài, nói: - Chẳng biết khi nào anh hết ngố? Hắn nhổm dậy, cướp lấy chiếc râu hổ trong tay tớ, thổi phù một cái, chiếc râu hổ bay mất tăm. Ôi, báu vật của tớ…! Tớ òa khóc. Hắn quàng cổ tớ, dỗ dành: - Thôi, thôi, đừng ngốc nữa! Để em ôm anh ngủ một giấc! Tớ vùng vẫy thoát ra. Ôi, râu hổ của tớ, râu hổ của tớ! Tớ giơ cả hai tay sờ soạng trên chiếu tìm chiếc râu hổ. Tớ hận hắn, tớ căm hắn! Trả đây, trả đây! Đền tớ đây! Tớ vừa khóc, vừa chửi, vừa tìm chiếc râu. Hắn đứng im như phỗng nhìn tớ, hết lắc đầu lại thở dài. Cuối cùng, hắn nói, không phải tìm nữa, đây rồi! Tớ mừng ra mặt, đâu? Hắn dùng ngón trỏ và ngón cái kẹp chặt sợi râu hổ loăn xoăn, đầu sợi màu vàng kim, thả vào tay tớ, bảo, giữ cẩn thận, đừng để mất lần nữa lại oán em! Tớ cầm chắc sợi râu, dù không thiêng nhưng vẫn là báu vật! Nhưng sao nó lại không thiêng nữa nhỉ? Thử lần nữa xem nào. Tớ lại nhìn như đóng đinh vào vợ, nghĩ bụng, chỉ cần nó vẫn thiêng, vợ tớ là rắn cũng được. Nhưng vợ tớ vẫn vợ tớ, chẳng là con gì cả! Vợ tớ bảo: - Anh ngố, nghe em nói đây, câu chuyện mẹ anh kể, mẹ em cũng đã kể cho em nghe. Bà nói, không phải lúc nào cai râu hổ cũng thiêng, chỉ những lúc nguy cấp nó mới thiêng. Nếu không, phiền phức không để đâu cho hết. Đâu đâu cũng toàn là súc vật, sống thế nào được? Em bảo này, anh cất kỹ cái bảo bối ấy đi, thì nó mới thiêng. Đằng ấy nói thật chứ, không lừa tớ chứ? Hắn gật đầu: - Anh là người chồng thân yêu của em, em nỡ lòng nào lừa dối anh! Tớ tin lời hắn, tìm miếng vải điều bọc cái râu hổ lại, cuốn chỉ xung quanh không biết bao nhiêu vòng rồi nhét vào kẽ nứt trên tường, giấu kỹ. Bố tớ ghê gớm thật, dám đuổi thẳng cổ hai tên công sai do Tiền đại nhân phái đến. Bố tớ chưa biết Tiền đại nhân ghê gớm như thế nào, nhưng tớ thì tớ biết. Tiểu Khuê người phường Đông Quan nhổ nước bọt vào kiệu của ông ta, liền bị hai tên công sai xích tay bằng xích sắt, lôi đi. Nửa tháng sau, bố Tiểu Khuê nhờ được người đứng ra bảo lãnh, bán đi hai mẫu ruộng mới chuộc được Tiểu Khuê ra, nhưng anh ta đã chân dài chân ngắn đi cà nhắc, ngón chân bấm đất vẽ thành một dấu phẩy. Mọi người gọi anh ta là Tây, vì những dấy phẩy vẽ trên đường giống như chữ Tây. Từ đó, hễ ai trước mặt Tiểu Khuê nhắc đến Tiền đại nhân, là anh ta ngất xỉu, sùi bọt mép. Tiểu Khuê đã nếm mùi lợi hại của Tiền đại nhân, nói gì nhổ nước bọt vào kiệu, mà chỉ cần trông thấy kiệu của Tiền đại nhân là anh ta ôm đầu chạy trốn. Bố, chuyện hôm nay của bố hơi rắc rối đấy! Những chuyện khác thì con ngốc, nhưng chuyện của Tiền đại nhân thì con không ngốc chút nào. Tuy rằng vợ con là con nuôi của ông ta, nhưng ông ta thuộc loại mặt sắt đen sì, bắt luôn cả bố vợ con là người không tranh hơn kém với ai, thì làm sao ông ta tha cho bố? Có điều, tớ cũng đã thấy, bố tớ chẳng phải tay vừa. Bố tớ không phải bố đậu phụ, mà là bố kim cương. Bố tớ là dân từng trải ở kinh thành, đầu người rụng dưới lưỡi đao của bố phải lấy xe mà chở, dùng thuyền mà tải. Bố tớ đọ với quan lớn Tiền thì đúng là cuộc đọ sức giữa rồng và hổ, chưa biết mèo nào cắn mỉu nào! Trong lúc cấp bách như thế này, tớ chợt nhớ tới chiếc râu hổ. Thực ra, tớ chưa lúc nào dám quên báu vật của tớ. Vợ tớ bảo nó là bùa hộ mệnh cho tớ, giắt nó trong người là chuyển dữ hóa lành! Tớ vội trèo lên giường lấy cái gói vải trong kẽ tường, mở ra cầm cái râu lên, cảm thấy nó đang cựa quậy trong tay y như cái nọc con ong mật, cắm vào lòng bàn tay. Một con bạch xà mình to bằng cái thùng gánh nước đứng trước giường, vươn đầu về phía tớ, lưỡi màu đỏ tía, miệng đỏ chót, tứ đó phát ra tiếng nói của vợ: - Giáp Con, anh định làm gì vậy? Trời ơi, rõ ràng ông trời biết con sợ rắn, vậy mà ông cứ bắt vợ con phải là rắn. Bản tướng vợ tớ là bạch xà, vậy mà tớ ngủ cùng hắn mười mấy năm, không biết hắn là rắn. “Bạch xà truyện”, nhớ ra rồi, năm xưa vợ tớ trong ban hát từng sắm vai Bạch Xà, tớ trở thành Hứa Tiên. Sao hắn chưa hút não tủy của mình nhỉ? Vợ tớ chưa phải là con rắn hoàn chỉnh, chỉ cái đầu là rắn, còn lại vẫn là người: chân, tay, hai vú và tóc trên đầu. Nhưng như vậy cũng đã đủ khiến tớ chết khiếp! Tớ vứt cái râu cầm bỏng tay đi. Chỉ một thoáng vậy thôi, mà khắp người đổ mồ hôi đầm đìa. Vợ nhìn tớ cười nhạt. Vừa thấy bản tướng của hắn, nên giờ đây tớ cảm thấy hắn xa lạ nên hơi sợ. Con bạch xà béo núc ẩn trong mình hắn, sẵn sàng phá vỡ cái vỏ mỏng tang chui ra bất cứ lúc nào. Có lẽ hắn biết tớ đã nhìn rõ bản tướng của hắn, nên nụ cười trên mặt hắn có vẻ giả tạo và gượng gạo. Hắn hỏi: - Anh nhìn thấy chưa? Em do con gì biến thành? Đột nhiên, ánh mắt hắn trở nên thâm hiểm, hai con mắt tuyệt đẹp trở nên vừa xấu vừa dữ, đúng là mắt của loài rắn! Tờ cười gượng để che giấu sợ hãi. Môi tớ run, da mặt như có kiến bò, chắc chắn là bị hắn phun nọc độc. Tớ lắp bắp: - Không thấy, không thấy gì cả!… - Anh nói dối – Hắn lạnh lùng nói. – Chắc chắn là anh đã nhìn thấy cái gì – Hắn thở ra một luồng khí lạnh và tanh tưởi, đúng là hơi thở của rắn, phả vào mặt tớ. - Nói thật đi, em là con vật nào biến thành? Nụ cười kỳ quặc đọng trên mặt hắn, những gì như vẩy lấp lánh dưới da mặt hắn. tớ không thể nói thật. Nói thật là tự hại mình. Bình thường tớ là thằng ngốc, nhưng lúc này tớ không ngốc chút nào, tớ chẳng nhìn thấy gì cả, thật đấy! Anh không bịp nổi em đâu, Giáp Con, anh không biết nói dối, mặt anh đỏ lên rồi kìa, mồ hôi túa ra rồi. Nói mau, em là con hồ ly hay là con chuột chù? Nếu không, em là con lươn trắng! Lươn trắng là chị em họ với rắn trắng, sát nút rồi, đang bủa vây mình đây! Tớ quyết không bị mắc lừa, trừ phi hắn tự nhận mình là rắn, còn tớ thì không bao giờ ngốc nghếch nói ra cái điều ấy. Nếu tớ bảo tớ trông thấy hắn là rắn, thì lập tức hắn hiện nguyên hình, ngoác miệng rộng bằng cái chậu nuốt chửng mình! Không, hắn biết tớ có dao, tớ sẽ rạch bụng chui ra, hắn cũng không sống nổi. Hắn sẽ khoan thủng đầu tớ một lỗ bằng cái răng có nọc độc cứng như cái mỏ của con gõ kiến, sau đó hắn sẽ hút cạn óc tớ. Hút cạn óc xong, hắn hút tiếp tủy của tớ, rồi sau đó hút máu tớ, biến tớ thành một cái túi da bọc xương! Đừng có mà nằm mơ! Đằng ấy có dùng kìm cũng đừng hòng cạy được miệng tớ! Mẹ tớ đã khuyên tớ: ba không, hỏi gì cũng không biết, thần tiên cũng chịu phép! Thật mà, chẳng nhìn thấy gì cả! Bỗng hắn thay đổi nét mặt, bật cười khanh khách. Cùng với tiếng cười, phần rắn trên mặt ít đi, phần người nhiều lên, cơ bản đã là hình người. Thân hình mềm mại, hắn trườn ra cửa, ngoảnh đầu bảo, anh đem theo bảo bối, soi xem ông bố bốn mươi bốn năm chặt đầu người của anh là do con vật nào biến thành? Em đoán ông là con rắn độc, chắc chắn là như thế! Lại nhắc đến rắn! Tớ biết hắn giở trò vừa ăn cướp, vừa la làng, mẹo vặt ấy làm sao đánh lừa được tớ! Tớ nhét báu vật vào khe tường. Giờ đây, tớ hối hận vì được báu vật. Con người ta biết in ít thôi thì tốt, càng biết nhiều càng khổ, nhất là đừng biết gì về bản tướng của con người, biết rồi khó mà tiếp tục sống! Tớ đã trông thấy bản tướng của vợ tớ, hắn có tốt đến mấy cũng không còn là vợ nữa. Không biết hắn là do một con rắn biến thành, tớ có thể thích thú ôm hắn mà ngủ. Biết là rắn rồi, làm sao còn dám ôm mà ngủ? tớ không dám thấy bản tướng của bố tớ. Người thân chẳng còn ai, vợ thì là một con rắn, chỉ còn mỗi bố. Giấu xong vật báu, tớ trở lại phòng lớn. Cảnh tượng trước mắt khiến tớ giật thót. Trời ạ, một con báo đen gầy guộc, ngồi chồm hổm trên cái ghế thái sư bằng gỗ đàn hương của bố tớ. Con báo liếc nhìn tớ, ánh mắt rất quen thuộc đối với tớ. Tớ biết, con báo đen này là bản tướng của bố tớ. Báo đen há cái miệng rộng, động đậy hàm ria, nói: - Con trai, bây giờ thì con đã biết, bố con là tên đao phủ hạng nhất của triều Thanh, được đương kim Hoàng Thái Hậu ban thưởng! Tay nghề của ta không được thất truyền! Tớ sợ run lên. Trời ạ, chuyện gì thế này? Chuyện mẹ tớ kể về cái anh người Quan Đông ấy sau khi giấu kỹ cái râu hổ, lại nhìn thấy bản tướng của bố mẹ là người, bố anh không phải là ngựa, mẹ anh không phải là chó nữa. Còn tớ thì đã giấu kỹ chiếc râu hổ, vậy tại sao bố tớ vẫn là con báo đen? Chắc chắn tớ bị hoa mắt, hoặc giả hơi của báu vật dính ở tay, vẫn thiêng? Chịu đựng vợ rắn đã quá đủ, thêm một ông bố báo đen, mạch sống của tớ thế là tắc tị! Tớ hoảng hốt chạy ra sân, múc một thùng nước giếng rửa tay, rửa mặt thật kỹ, cuối cùng, nhúng hẳn đầu vào nước. Hôm nay, mới sáng sớm mà đã bao nhiêu là chuyện, làm cho đầu tớ phình ra, mong rằng nhúng nước nó sẽ bé lại như cũ. Rửa ráy xong, tớ trở lại phòng lớn, vẫn thấy con báo đen ngồi trên ghế thái sư bằng gỗ đàn hương chứ không phải bố tớ. Con báo nhìn tớ bằng ánh mắt khinh thường, có ý rẻ rúng tớ là một thằng nửa người nửa gợm. Con báo đội mũ quả dưa có tua đỏ che cái đầu có mái tóc lởm chởm, hai tai mọc đầy lông, luôn cảnh giác dựng đứng hai bên mũ. Vài chục sợi ria cứng như dây thép, chĩa sang hai bên mép như ngạnh trê, cái lưỡi đầy gai rất linh hoạt, hết liếm mép lại liếm mũi “roạt… roạt” rồi há miệng đỏ lòm ra ngáp. Con báo mặc áo dài, bên ngoài khoác áo chẽn hoa. Hai chân thò ra khỏi tay áo dài đầy vuốt có những u đệm dày cộp, trông vừa quái đản vừa tức cười, khiến tớ vừa buồn cười vừa muốn khóc. Hai bàn chân còn lần tràng hạt nhoay nhoáy nữa chứ! Mẹ tớ từng bảo, hổ lần tràng hạt giả làm người hiền! Còn báo đen lần tràng thì sao? Tớ nhẹ nhàng bước giật lùi, thực tình tớ muốn bỏ chạy. Vợ là bạch xà, bố là báo đen, rõ ràng không thể ở cái nhà này! Trong hai người, chỉ cần một người thú tính nổi lên là tớ lãnh đủ. Dù họ còn nghĩ tới tình xưa nghĩa cũ không nỡ ăn thịt tớ, nhưng sống mà cứ nơm nớp thì sao sống được? Tớ nặn ra bộ mặt tươi cười để họ khỏi nghi. Một khi họ đã nghi, tớ sẽ chạy không thoát! Lão báo đen tuy không còn trẻ, nhưng hai chân sau bắt chéo trên ghế thái sư còn săn lắm, có vẻ sức bật còn tốt, chỉ cần một cú nhún, lão vọt cao hàng trượng là ít. Hàm răng lão tuy đã già nhưng hai răng nanh thì vẫn như răng cưa thép, khẽ bập một phát là đứt họng tớ. Cho dù tớ thoát khỏi lão báo đen, thì con bạch xà kia cũng không tha tớ. Mẹ tớ đã bảo, rắn mà thành tinh, thì bằng nửa con rồng, chạy nhanh như gió, hơn cả ngựa long câu. Mẹ tớ đã tận mắt trông thấy một con rắn to bằng bắp tay, dài bằng chiếc đòn gánh, rượt đuổi một con hươu nhỏ trên đồng cỏ. Con hươn nhảy vùn vụt, nhanh như tên bắn. Còn con rắn thì sao? Nửa thân trên thẳng đứng, cỏ hai bên rẽ ra rào rào, kết cục là con rắn nuốt chửng con hươu! Vợ tớ to bằng cái thùng gánh nước, hẳn phải to gấp nhiều lần con rắn mẹ tớ kể. Tớ có chạy nhanh hơn thỏ cũng không lại tốc độ vùn vụt của hắn. - Giáp Con, định đi đâu vậy? Một giọng khàn khàn vang lên sau lưng tớ. Tớ ngoảnh lại, báo đen hai chân trước tì lên tay vịn của ghế, hai chân sau chồm hổm trên nền gạch màu xanh nhạt, nhìn tớ bằng cặp mắt nảy lửa. Trời ạ, lão báo đen đang trong tư thế nhảy vọt, cú nhảy của lão mèng nhất cũng đến giữa sân. Giáp ơi Giáp, đừng cuống! Tớ tự nhủ, đánh bạo cười hì hì, vừa cười vừa nói, bố, con ra cửa hàng bán thịt, thịt còn tươi thì vừa nặng cân vừa đẹp mã. Báo đen cười nhạt: - Con ơi, con chuẩn bị chuyền nghề, cũng vẫn là “giết”, nhưng giết lợn thì lụn bại, giết người thì nên người! Tớ vẫn bước giật lùi, nói, đúng đấy bố ạ, từ nay con không giết lợn nữa, con sẽ học bố cách giết người. Lúc này con bạch xà ngỏng đầu lên, những vẩy to bằng đồng tiền lấp lánh trên cổ, khiếp quá! Cạch cạch cạch, tiếng cười của hắn lổn nhổn như gà đẻ trứng. Hắn nói: - Giáp Con, anh nhìn rõ chưa? Bố anh là hóa thân của con vật nào? Sói, hổ hay rắn độc? Tớ trông thấy cái cổ đầy vẩy bạc của hắn thoắt cái vươn dài ra, áo hồng quần lục trên người hắn đổi màu như da kỳ đà. Hắn giương cặp nanh nhọn hoắt, gần như chạm vào mặt tớ. Mẹ ơi, tớ kinh hoàng vội nhảy giật lùi. Rồi thì trong tai vang lên một tiếng bụp, mắt nảy đom đóm, tớ sùi bọt mép, ngất xỉu… Về sau, hắn bảo tớ mắc chứng động kinh, bậy, tớ chưa bao giờ bị choáng, nói gì đến động kinh! Rõ ràng là tớ sợ hắn, cứ lùi, lùi mãi, ngã ngửa, gáy đập phải ngưỡng cửa, trên ngưỡng có một cái đinh. Cái đinh đâm thủng đầu tớ, thế thôi. Tớ nghe từ nơi rất xa, có một phụ nữ gọi tớ: - Giáp Con, Giáp Con… không rõ là tiếng mẹ hay tiếng vợ tớ. Tớ cảm thấy đau đầu kinh khủng, muốn mở mắt ra nhưng hai mi dính chặt không mở được. Tớ ngửi thấy mùi thơm, tiếp đó, lại ngửi thấy mùi cỏ úa, tiếp đó lại ngửi thấy mùi thum thủm của lòng lợn luộc. Rất cố chấp, tiếng gọi cứ rót vào tai tớ: - Anh Giáp ơi, anh Giáp! Bỗng một khối nước lạnh giội thẳng lên đầu tớ, lập tức tớ tỉnh lại. Tớ mở mắt, thoạt tiên thấy các màu xanh đỏ tím vàng như màu sắc cầu vồng bay loạn xạ. Tiếp theo, mắt chói vì ánh nắng, rồi nhìn thấy một khuôn mặt trái xoan bự phấn cúi sát mặt tớ. Đó là khuôn mặt vợ tớ. Tớ nghe hắn nói: - Anh Giáp, anh làm em sợ quá! Tớ thấy bàn tay hắn đẫm mồ hôi. Hắn cố sức kéo tớ khỏi vũng nước. Đầu ong ong, tớ hỏi, đây là đâu? Hắn đáp: - Ngốc ạ, còn ở đâu nữa? Nhà mình đấy thôi! Nhà mình, tớ nhíu mày đau khổ, chợt nhớ lại tất cả. Trời ơi, tớ không cần cái râu hổ ấy nữa, không cần nữa. Tớ sẽ ném nó vào lửa. Hắn cười nhạt, ghé sát tai tớ thì thầm: Ngốc ơi là ngốc, anh tưởng nó là râu hổ thật à? Nó là cái lông trên người em. Tớ lắc đầu, đầu đau, đau khủng khiếp! Không phải, trên người đằng ấy làm gì có cái lông như thế? Mà dù cái lông ấy là của đằng ấy, thì sao cầm nó, tớ vẫn nhìn được bản tướng của đằng ấy? Khi không cầm nó trong tay, tớ vẫn nhìn được bản tướng của bố tớ? Hắn tò mò hỏi: - Vậy anh nhìn thấy em là con gì? Tớ nhìn khuôn mặt trắng trẻo, nhìn chân nhìn tay hắn, ngó sang ông bố hình người dáng báo trên ghế thái sư, y như vừa tỉnh giấc mơ. Có lẽ tớ nằm mơ, mơ thấy đằng ấy là một con rắn, mơ thấy bố tớ là một con báo đen. Hắn cười bí hiểm: - Có lẽ em là con rắn! Kỳ thực em đúng là một con rắn! – Mặt hắn bỗng dài ra, mắt xanh lè – Nếu là rắn – hắn nói, giọng hằn học – em chui luôn vào bụng anh. Mặt hắn càng dài ra, những vẩy lấp lánh trên cổ lại xuất hiện. Tớ vội bưng mặt, gào to: - Đằng ấy không phải là rắn, đằng ấy là người! Giữa lúc ấy, cổng nhà tớ bật tung. Tớ trông thấy hai tên công sai hồi nãy bị bố tớ xua đuổi, giờ đã là hai con sói xám quần áo hẳn hoi, tay tì đốc gươm, chia nhau đứng hai bên cổng. Tớ bị choáng vì sợ, vội nhắm tịt mắt, hy vọng dùng cách đó để cứu mình ra khỏi cơn ác mộng. Khi mở mắt ra, thấy về cơ bản mặt họ đã là mặt người, nhưng tay họ mọc đầy lông dài màu xám, ngón cong như lưỡi câu, tớ đau xót mà nghĩ rằng, cái lông trên người vợ tớ lợi hại hơn nhiều chiếc râu hổ thần thông quảng đại kia! Chiếc râu hổ thì khi anh nắm chặt, nó mới phát huy thần lực, còn cái lông của vợ tớ chỉ cần sờ vào nó, là ma lực của nó đã bám dính lấy anh, cho dù anh giấu kỹ nó hay vứt bỏ nó, anh còn nhớ nó hay đã quên nó! Sau khi hai tên công sai đứng gác hai bên cổng, cỗ kiệu bốn người khiêng đã hạ xuống mặt đường đá xanh, ngay trước cổng nhà tớ. Bốn phu kiệu, tất nhiên bản tướng của họ là lừa, tuy đôi tai đã giấu trong chiếc mũ ống, nhưng điệu bộ của họ thì thật độc đáo: chân trước vịn đò kiệu, mép sùi bọt trắng, thở phì phò. Xem ra, họ chạy nước rút thì phải, bụi bám đầy ủng. Viên thơ lại họ Điêu phụ trách hình danh – người ta gọii lão là Viên Phu tử, bản tướng của lão là con nhím mõm nhọn – giơ vuốt trước màu phấn hồng vén góc rèm lên. Tớ nhận ra đó là kiệu của Tiền đại nhân. Tiểu Khuê nhổ nước bọt vào cái kiệu này mà gặp đại họa. Tớ biết, người sắp chui ra khỏi kiệu chính là Tiền đại nhân, bố nuôi của vợ tớ. Lý ra, bố nuôi của vợ cũng là bố nuôi của tớ. Tớ rất muốn đi thăm ông ấy, nhưng vợ tớ chết thì chết không chịu. Có trời chứng giám, quan lớn Tiền đối xử không bạc với nhà tớ, đã miễn thuế cho nhà tớ mấy năm rồi. Nhưng ông lớn không nên vì một bãi nước bọt mà đánh thằng Khuê gãy chân, thằng Khuê là bạn tốt của tớ. Nó bảo, anh ngố Giáp này, ông lớn Tiền cho anh cái mũ màu lục, sao không đội? Tớ về nhà hỏi vợ, vợ ơi vợ, thằng Khuê nói là quan lớn Tiền cho tớ cái mũ màu lục, nó thế nào? Sao đằng ấy không cho tớ xem? Hắn mắng tớ: - Anh ngốc, Khuê là thằng mất dạy, không cho anh chơi với nó nữa! Anh còn với nó là em không ôm anh ngủ nữa đâu. Sau đó chưa đầy ba hôm, thằng Khuê bị đánh gãy chân. Vì một bãi nước bọt mà đánh gãy chân người ta, quan lớn Tiền kể cũng hơi ác, hôm nay đến đây, để xem ông là giống vật nào biến thành? Tớ trông thấy cái đầu hổ trắng to bằng gốc liễu thò ra ngoài kiệu. Trời ạ, thì ra quan lớn Tiền là do hổ biến thành. Thảo nào mẹ tớ bảo, nhà vua là do rồng biến thành, quan to là do hổ biến thành. Bạch hổ đội mũ màu lam, mặc quan phục màu đỏ, ngực thêu hai quái điểu màu trắng, chim không phải chim, vịt không phải vịt. Ông bề thế hơn bố tớ, ông là con hổ béo, bố tớ là con báo gầy. Ông mặt trắng như mâm bột, bố tớ đen như hòn than. Ông xuống kiệu, khệnh khạng bước vào cổng, đúng là dáng đi của hổ! Lão nhím chạy vượt lên, lớn tiếng thông báo: - Tri huyện Tiền đại nhân đã tới! Lão hổ và tớ chạm trán, lão vằn mắt nhìn tớ, tớ sợ quá nhắm mắt lại, chỉ nghe thấy tiếng lão: - Triệu Tiểu Giáp phải không? Tớ vội khom người trả lời vâng, kẻ hèn mọn này là Giáp Con. Nhân lúc tớ nhắm mắt, lão đã giấu được một nửa bản tướng của lão, chỉ còn cái đuôi vẫn thò vạt áo sau, kéo lê dưới đất, bám đầy bụi và nước bẩn, thể nào cũng dụ bọn nhặng xanh đến cho mà xem! Vừa nghĩ như vậy, lũ nhặng đậu trên tường đã bay lên vù vù, xông tới. Chúng đậu trên đuôi, cả trên mũ, tay áo, cổ áo của ông lớn. Ông lớn giọng hòa nhã: - Giáp Con, vào báo có bản quan tới gặp. Tớ bảo, mời quan lớn cứ vào, bố tui biết cắn người đấy! Viên thơ lại vội thu hồi bản tướng nhím của lão, trợn mắt quát: - Tiểu Giáp to gan! Dám không vâng lời quan lớn, mau vào gọi cha ngươi ra đây! Quan lớn Tiền giơ tay ngăn cơn thịnh nộ của viên thơ lại, khom người bước vào trong nhà. Tớ vội vào theo để xem giây phút gặp gỡ giữa hổ và báo. Tớ rất muốn họ lập tức trở thành kẻ thù của nhau, gầm gừ, dựng lông gáy lên, tia mắt xanh biếc, răng trắng nhởn. Hổ trắng nhìn chằm chằm báo đen, báo đen nhìn chằm chằm hổ trắng; hổ trắng lượn quanh báo đen, báo đen lượn quanh hổ trắng, không bên nào chịu lép. Mẹ tớ bảo, nói chung thú dữ vào trận, con nào cũng gầm ghè diệu võ giương oai, trước tiên áp đảo đối phương bằng khí thế. Chỉ cần một bên tỏ ra khiếp nhược, cụp tai, kẹp đuôi giữa hai chân, mắt nhìn xuống thấp, là bên kia ào lên ngoạm vài miếng là quị. Chỉ sợ hai bên đều căng, không ai nhường ai, chắc chắn không thoát khỏi một cuộc ác chiến. Không đánh không hay, ác chiến mới hay. Tớ rất mong bố tớ và Tiền đại nhân nổ ra cuộc chiến giữa hổ và báo, không ai nhường ai. Tớ trông thấy họ vờn quanh nhau, càng vờn càng nhanh, bố như một làn khói đen, Tiền đại nhân như một làn khói trắng, từ trong nhà chuyển ra ngoài sân, từ trong sân chuyển ra ngoài đường, xoay tít hoa cả mắt, xoắn lại thành con quay, cuối cùng, hai bên nhập làm một, trong đen có trắng, cuộn thành một quả trứng; trong trắng có đen, bện thành sợi dây thừng. Từ đông cuộn sang tây, từ nam cuộn lên bắc, lúc cuộn lên mái nhà, lúc cuộn xuống giếng sâu. Bỗng một tiếng “ngoao” vang lên như trời long đất lở, cuối cùng, được thua đã được trờ đất định đoạt. Tớ trông thấy con hổ trắng và con báo đen cách nhau hơn một trượng, ngồi kiểu chó chực, thè lưỡi liếm vết thương bên vai. Cuộc chiến giữa hổ báo, tớ xem mà đầu váng mắt hoa, thót tim thót bụng, mồ hôi cùng mình. Nhưng vẫn chưa phân thắng bại. Lúc hai người xoắn lấy nhau, tớ rất muốn giúp bố một tay, nhưng không sao thực hiện được. Tiền đại nhân căm giận nhìn bố tớ, trên mặt nở nụ cười khinh miệt. Bố tớ căm giận nhìn Tiền đại nhân , trên mặt nở nụ cười khinh miệt. Bố tớ thật sự coi khinh viên tri huyện, kẻ đã đánh thằng Khuê sống dở chết dở. Bố tớ thật sự là báo, là lừa, là trâu! Hai người ánh mắt giao nhau, như gươm đao chạm nhau tóe lửa, “lốp bốp” tàn lửa bắn vào mặt tớ, phỏng lên mấy chỗ. Hai người đấu mắt, không ai chịu nhìn đi nơi khác. Tim tớ cứ thập thò ở cổ, há miệng là nó vọt ra, rơi xuống đất biến thành thỏ đồng cụp đuôi chạy trốn, chạy ra khỏi sân, chạy trên đường phố, chó đuổi theo, thỏ chạy càng nhanh, chạy đến dốc Nam, dừng lại ăn cỏ. Cỏ gì? Cỏ mật, ăn thật no, ăn thật nhiều, ăn bấy nhiêu, rồi quay lại. Tớ trông thấy hai vị hổ báo đang lên gân, móng vuốt từ từ giương ra, nhảy xổ vào nhau, xoắn chặt lấy nhau bất cứ lúc nào. Giữa lúc gay cấn đó, vợ tớ từ buồng trong bước ra, hương thơm sực nức, nụ cười trên mặt như đóa hoa hồng, lớp cánh lớp đài nở bung từng đợt. Eo hắn xoắn lại xoắn, mềm như sợi dây thừng. Bản tướng của hắn chỉ lộ ra một thoáng, rồi lại lẩn sau lớp da vừa trắng vừa mịn vừa thơm vừa ngọt. Vợ tớ õng ẹo, quì xuống, cất giọng ngọt hơn mật, chua hơn dấm: - Dân nữ Tôn Mi Nương bái kiến tri huyện đại nhân! Vợ tớ vừa quì xuống, lập tức quan lớn Tiền nhũn ra. Ngài liếc ngang, bắt chước tiếng ho của con sơn dương bị trúng phong “khậc khậc khậc, khậc khậc khậc”, rõ ràng là giả vờ, tớ tuy ngố, nhưng vẫn nhận ra. Liếc sang chỗ vợ tớ, ngài không dám nhìn thẳng, không dám ngừng lại lâu, cái nhìn lấm lét, nhảy cóc như bọ ngựa va phải bức tường. Mặt ngài co rúm trông thật thảm hại, không hiểu vì ngượng hay vì sợ. Ngài nói như liên thanh “Miễn lễ miễn lễ, đứng dậy đứng dậy”. Vợ tớ đứng lên, nói: - Nghe tin quan lớn bắt cha tui giam trong đại lao, được người Tay ban thưởng hậu hĩ, tui đã chuẩn bị rượu thịt đến mừng quan lớn. Tiền đại nhân cười gượng, ậm ừ một lúc mới trả miếng: - Bản quan ăn lộc triều đình, đâu dám không tận tâm với chức vụ. Vợ tớ cười ngặt nghẽo, rồi không kiêng nể gì cả, tiến tới tóm lấy bộ râu đen của quan lớn Tiền, giật giật cái đuôi sam to tướng của ngài – sao mẹ tớ không cho tớ một cái đuôi sam to to một tí – rồi lại bậy bạ đến mức vòng ra sau ghế đàn hương, giật giật cái đuôi sam bé tí của bố tớ. Hắn nói: - Hai ông, một người là cha nuôi, một người là cha chồng. Cha nuôi bắt cha đẻ tui, sai cha chồng giết cha đẻ tui. Cha nuôi cha chồng ơi, tính mạng cha đẻ tui nằm trong hai tay vị đấy. Vợ tớ nói xong câu ấy liền chạy đến xó nhà ho khan. Tớ thương vợ, con cón chạy tới đấm lưng cho hắn. Tớ hỏi, vợ ơi, có phải họ làm đằng ấy giận đến phát ốm phải không? Hắn đứng thẳng lên, nước mắt giàn giụa, giận dữ quát tớ: - Đồ ngốc, lại còn hỏi? Bà đã có thai, sẽ đẻ cho nhà ngươi một của nợ nối dõi tông đường! Vợ tớ, miệng chửi tớ, nhưng mắt thì lại nhìn Tiền đại nhân. Bố tớ vẫn ngước nhìn nóc nhà, có lẽ tìm lũ thạch sùng béo múp thường xuyên xuất hiện ở đó. Tiền đại nhân cứ xê dịch đít một cách không tự nhiên, y như đứa trẻ mót ỉa. Tớ trông thấy tóc ông ta ướt đẫm mồ hôi. Thơ lại Điêu tiến lên, vái một vái, nói: - Ông lớn, hãy làm việc công đã, Viên đại nhân đang đợi trả lời ở công đường. Quan lớn Tiền lấy tay áo lau mồ hôi trên mặt, sửa lại chòm râu bị vợ tớ làm rối, bắt chước tiếng sơn dương ho một hồi, rồi mặt lạnh như tiền, cực chẳng đã chắp tay xá một xá, nói: - Nếu hạ quan không lầm thì ngài chính là “Già” Triệu Giáp tiếng tăm lừng lẫy! Bố tớ đứng dậy, tay vẫn lần tràng hạt, kiêu hãnh: - Tiểu dân Triệu Giáp trong tay có chuỗi tràng hạt bằng gỗ đàn hương do Hoàng Thái Hậu đích thân trao tặng, nên không thể quì lạy quan phụ mẫu! Nói xong, bố tớ giơ cao chuỗi hạt bằng gỗ đàn hương nặng như những viên bi sắt lên khỏi đầu, hình như đang chờ đợi điều gì đó. Quan lớn Tiền lùi lại một bước, đứng nghiêm, phủi tay áo, quì sụp xuống, trán chạm đất, nói như khóc: - Thần Huyện lệnh Cao Mật Tiền Đinh chúc Hoàng Thái Hậu sống lâu muôn tuổi! Quan lớn Tiền chúc xong, đứng dậy, nói: - Không phải hạ quan đến quấy rối ngài, mà Tuần phủ Sơn Đông Viên đại nhân có lời mời. Bố tớ không quan tâm lời giải thích của Tiền đại nhân, tay lần tràng hạt, mắt nhìn con thạch sùng trên trần nhà, nói: - Thưa quan lớn, chiếc ghế đàn hương tiểu dân đang ngồi là của đương kim Hoàng thượng thưởng cho tiểu dân, theo qui định trong quan trường, thấy vật như thấy nhà vua vậy. Sắc mặt Tiền đại nhân thoắt cái đỏ hơn cả màu gỗ đàn hương, xem ra ông ta rất cáu, nhưng cố kiềm chế. Bố tớ cũng quá quắt, bắt ông lớn lạy một lần đã đảo lộn càn khôn, xóa nhòa trên dưới! Vậy mà còn bắt lạy hai lần! Bố, vừa phải thôi bố ạ. Mẹ tớ bảo, quan xa, bản nha thì gần, vua to thật đấy, nhưng xa tít mù tắp, quan huyện thì nhỏ, nhưng ở ngay trước mặt. Ông ấy chỉ kiếm một cái cớ là bố con mình lãnh đủ, bố, quan lớn Tiền không phải là cây đèn đã cạn dầu. Con đã kể với bố chuyện thằng Khuê chỉ nhổ một bãi nước bọt vào kiệu của ông ta mà bị đánh gãy đùi rồi. Quan lớn Tiền cố rặn ra một nụ cười nhợt nhạt trên khuôn mặt hầm hầm, nói: Hạ quan học vấn nông cạn, nhưng ít nhiều đã đọc những sách kinh điển… Xưa nay, ở Trung Quốc cũng như ở nước ngoài, không có vị Hoàng đế nào nhường ghế của mình cho người khác, càng không có chuyện đem ghế thưởng cho một tên đao phủ! Già Triệu, ông có nói dóc không đấy? Ông có bạo gan quá không đấy? Sao ông không nói, Hoàng thượng đem cơ đồ ba trăm năm, giang sơn mười vạn dặm nhà Đại Thanh tặng ông có hơn không? Ông sử dụng cây đao ở Bộ Hình bấy nhiêu năm, lẽ ra cũng nên biết đôi chút điển luật của nhà nước, hạ quan xin hỏi, bịa chuyện thánh chỉ, ngụy tạo thánh vật, đem điều tiếng đổ lên đầu Hoàng Thái Hậu và Hoàng Thượng, theo luật phải trị tội gi? Lăng trì hay chém ngang lưng? Giết cả nhà hay giết cả họ? Bố ơi là bố, mới sáng nứt mắt mà đã nói xằng, họa lớn rồi! Tớ kinh hồn bạt vía, vội quì xuống xin. Tớ nói, Tiền đại nhân, bố tui đắc tội với ngài, ngài có róc thịt đem cho chó ăn cũng đáng. Nhưng vợ chồng tui không làm gì để ngài tức giận, mong ngài nới tay đừng giết cả nhà tui. Nếu ngài giết cả nhà tui, thì lấy ai đem rượu đem thịt cho ngài. Lại nữa, vợ tui vừa nói đã có thai, giết cả nhà thì đợi đẻ xong hãy giết, phải không ạ? Thơ lại Điêu ngắt lời: Triệu Tiểu Giáp lẩm cẩm quá đấy. Đã giết cả nhà thì nhổ cỏ phải nhổ cả gốc, một mống cũng không còn, lẽ nào còn để cho anh một người nối dõi! Bố tớ đến trước mặt, đá cho tớ một cái, mắng: “Cút, cái đồ bị thịt! Lúc không có việc thì hiếu thuận đâu ra đấy, vậy mà khi nguy cấp thì chỉ là đồ bỏ đi!” Chửi xong, bố quay lại nói với Tiền đại nhân: “Thưa quan lớn, nếu ngài hoài nghi tôi bịa đặt, bịp bợm người đời, thì sao ngài không vào Kinh hỏi Hoàng Thái Hậu và Hoàng thượng? Nếu ngại xa xôi cách trở, chi bằng ngài về huyện hỏi Viên đại nhân, chắc hẳn ông ta nhận biết chiếc ghế này”. Lời bố mát nước thối đá, Tiền đại nhân ắng họng. Ngài nhắm mắt thở dài một tiếng, mở mắt nói: “Thôi, hạ quan hiểu biết nông cạn, mong Già Triệu đừng cười!” Ngài xá một xá, phủi tay áo, quì xuống dập đầu một cái thật kêu, gầm lên như chửi nhau ngoài phố: “Thần Cao Mật Huyện lệnh Tiền Đinh kính chúc Hoàng đế của thần sống lâu muôi tuổi!” Hai bàn tay nhỏ bé lần tràng hạt của bố run lên, vẻ đắc ý không giấu được qua cặp mắt. Quan lớn Tiền đứng dậy, vừa cười vừa nói: - Già Triệu, nhà vua còn thưởng cho bác vật nào nữa không? Một lần cũng là lạy, hai lần cũng là lạy, ba bốn lần cũng lạy! Bố tớ cười: - Quan lớn đừng giận, đây là phép tắc của triều đình. Tiền đại nhân nói: - Nếu không còn gì nữa, mời Già đi cùng hạ quan. Viên đại nhân cùng Tổng đốc Caclôt đang kính cẩn đợi Già Triệu ở công đường huyện. Bố tớ nói: - Cảm phiền đại nhân cho người khiêng cái ghế này đi. Tôi muốn để Viên đại nhân phân biệt thật giả. Tiền đại nhân lưỡng lự giây lát rồi khoát tay, nói: - Được! Bay đâu? Hai tên công sai hóa thân từ sói khênh chiếc ghế tựa c%

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#giang