Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

 Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước (Chủ trương, thành tựu, kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra)?

I/ CHỦ TRƯƠNG ĐÔI MỚI CỦA ĐẢNG:

 Dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu nước, anh dũng bất khuất, đã từng chiến thắng nhiều đế quốc phong kiến hung hãn. Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, phong trào yêu nước đã dấy lên hết sức mạnh mẽ như phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế; các phong trào Duy Tân, Đông Du, khởi nghĩa Yên Bái và hàng chục cuộc đấu tranh khác nữa đều bị thực dân Pháp thẳng tay đàn áp và thất bại. Điều đó chứng tỏ rằng, nhân dân giàu ta giàu lòng yêu nước, có truyền thống chống giặc ngoại xâm, sẵn sàng ủng hộ và tham gia các phong trào yêu nước; còn các bậc sĩ phu, các nhà lãnh đạo các phong trào chống thực dân Pháp đều có thừa trí dũng, không thiếu quyết tâm nhưng họ, cả giai cấp phong kiến và đại diện cho chế độ phong kiến, cả giai cấp tư sản và đại diện cho thế lực tư sản khi đó đều không tìm đường con đường phù hợp để cứu nước giải phóng dân tộc.

Hồ Chí Minh, người Việt Nam yêu nước tiên tiến đã tìm được con đường giải phóng dân tộc đúng đắn, phù hợp với nhu cầu phát triển của dân tộc Việt Nam và xu thế của thời đại. Người đã tiếp thu và phát triển học thuyết Mác- Lênin về cách mạng thuộc địa, xây dựng hệ thống lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tổ chức truyền bá lý luận đó vào Việt Nam, ra sức chuẩn bị về tư tưởng chính trị và tổ chức, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, vạch ra cương lĩnh chính trị đúng đắn nhằm dẫn đường cho dân tộc ta tiến lên trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do. Năm 1930- Người đã sáng lập ra Đảng Cộng Sản Việt Nam và xây dựng Cương lĩnh chính trị đầu tiên.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là một cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo theo con đường cách mạng Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử, nhuần nhuyễn quan điểm giai cấp và thấm đượm tinh thần dân tộc vì độc lập tự do, tiến hành cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng ruộng đất để đi tới xã hội cộng sản là tư tưởng cốt lõi của cương lĩnh này. Sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên xây dựng chủ nghãi xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Như vậy, ngay từ khi mới ra đời, đảng ta đã khẳng định mục tiêu đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử cách mạng Việt Nam. Từ khi có Đảng, đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành được mọi thắng lợi trong suốt 80 năm qua. Nhờ quán triệt mục Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, Đảng ta giải quyết đúng đắn những chiến lược và sách lược của cách mạng việt nam. Nhờ đó đã lãnh đạo cách mạng việt nam đạt những kỳ tích.

Thực hiện đường lối đổi mới.Đảng đã lãnh đạo thành công cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, một điển hình trong các dân tộc thuộc địa, tiếp tục lãnh đạo 2 cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, nhân dân ta đã đánh thắng 2 đế quốc Pháp và Mỹ, thống nhất đất nước; cả nước bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kỷ nguyên phát triển rực rở nhất trong lịch sử của dân tộc Việt Nam.

Trên nền tảng của những kết quả đó, mục tiêu chủ nghĩa xã hội không còn bị tách biệt bởi một “bức tường thành”. Bao trùm lên tất cả, cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân đã tạo nên những điều kiện vật chất và tinh thần để nước ta chuyển sang chặng đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Dân chủ chỉ có thể phát huy đầy đủ trong môi trường của chủ nghĩa xã hội, còn chủ nghĩa xã hội thì không thể nảy sinh và phát triển bên ngoài những thành tựu về dân chủ.

Trong bối cảnh và xu thế đó, sự khẳng định con đường lên tiến lên chủ nghĩa xã hội không chỉ đặt cách mạng nước ta vào đúng dòng chuyển động liên tục của lịch sử cách mạng, mà còn phù hợp với xu thế của loài người “đang trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội".

Chủ nghĩa xã hội gắn liền với độc lập dân tộc, không chỉ là mục tiêu lựa chọn mà đã thực sự thúc đẩy lịch sử dân tộc Việt Nam chuyển mình, là con đường dân tộc Việt Nam đã và đang đi từ đó và tiếp tục đi cho tới đích cuối cùng. Rõ ràng, sự lựa chọn mục tiêu độc lập dân tộc gắn chặt với chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân ta, xét về lôgíc là một tất yếu khách quan; xét về lịch sử, là hoàn toàn phù hợp với sự vận động của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; xét về nhu cầu, là hoàn toàn xuất phát từ điều kiện cụ thể của một nước thuộc địa, nửa phong kiến và nguyện vọng cháy bỏng của nhân dân Việt Nam; và xét về mặt xã hội, đó là một hệ giá trị cơ bản nhất quyết định sự phát triển của đất nước Việt Nam ta hôm nay và mai sau.

Đại hội VII kiên định sự nghiệp đổi mới theo con đường xã hội chủ nghĩa. Sau năm 1975, cả nước bắt tay vào xây dựng CNXH với những thuận lợi về tiềm năng con người, thiên nhiên, uy tín và địa vị của nước ta được nâng cao trên trường quốc tế. Tuy nhiên hậu quả chiến tranh quá nặng nề, sự chống phá của các thế lực thù địch đã cản trở rất nhiều công cuộc xây dựng đất nước.

Bên cạnh những thành tựu cực kỳ to lớn, khoảng thời gian 1976- 1986, Đảng ta mắc phải một số thiếu sót biểu hiện của chủ quan duy ý chí như chưa lường hết được những khó khăn, phức tạp của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nghèo; chưa đánh giá đúng quy mô và chiều sâu của những đảo lộn KT- XH sau chiến tranh; chưa thấy hết những khó khăn trong việc khắc phục những hạn chế yếu kém của công tác lãnh đạo, quản lý KT- XH của bộ máy của Đảng và Nhà nước; chưa tổng kết đánh giá để tìm ra giá trị lý luận và thực tiễn để đề ra chủ trương thích hợp cho gia đoạn cách mạng mới đã làm cho tình hình KT- XH rơi vào trì trệ khủng hoảng trầm trọng. Những thiếu sót đó, Ðảng ta đã phát hiện, và kể từ Ðại hội toàn quốc lần thứ VI (1986), đã khắc phục có hiệu quả trong công cuộc đổi mới. Sự khắc phục đó không phủ định mục tiêu xã hội chủ nghĩa, ngược lại chính nó đòi hỏi khẳng định dứt khoát mục tiêu đó và gắn bó hơn nữa nhiệm vụ cũng cố độc lập dân tộc, phát triển dân chủ vào định hướng xã hội chủ nghĩa trong từng biện pháp, trong mỗi chặng đường của cách mạng nước ta.

 Trong bối cảnh thế giới phức tạp của những năm 80, 90 của Thế kỷ XX, khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, Đảng ta vẫn kiên định con đường xã hội chủ nghĩa. Vì đó là con đường hợp quy luât phát triển của cách mạng Việt Nam để có một nước Việt Nam giàu mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh. Đối với đảng ta, đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn và xây dựng có hiệu quả hơn. Mở đầu thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã khẳng định “Toàn đảng toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một lòng, quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng tiếp tục thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Đổi mới là không xa rời các định hướng của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; vận dụng đúng đắn vào tình hình nước ta. Qua các kỳ Đại hội VII, VIII của Đảng cũng đã khẳng định Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là bài học xuyên suốt của quá trình cách mạng nước ta. Qua đến Đại hội IX, X, XI Đảng ta cũng nhấn mạnh những điều sâu sắc đó và khẳng định: “Trong quá trình đổi mới, phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội chính là mục tiêu cao cả, bất biến của toàn Đảng, toàn dân ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đấu tranh giành được độc lập dân tộc, từng bước quá độ dần lên chủ nghĩa xã hội. Hiện nay, chúng ta đang tiến hành đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là tiếp tục con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Đổi mới, vì thế, là quá trình vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chứ không phải là thay đổi mục tiêu.

Ðại hội toàn quốc lần thứ VIII của Ðảng khẳng định: “... đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là quan niệm đúng đắn hơn về chủ nghĩa xã hội và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình thức, bước đi và biện pháp phù hợp”.

Ðại hội toàn quốc lần thứ IX đã phát triển thêm và cụ thể hóa hơn những nội dung của đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam với những bước đi, hình thức để đạt được mục tiêu cụ thể hơn. Ðó là: “xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trãi qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ. Từ Ðại hội VIII của Ðảng năm 1996, đất nước ta đã chuyển sang chặng đường mới đẩy mạnh CNH- HĐH, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Trong chặng đường hiện nay còn phải tiếp tục hoàn thành một số nhiệm vụ của chặng đường trước”.

Với những quan điểm đổi mới có nguyên tắc đúng đắn, ngày càng phát triển và cụ thể hơn về mục tiêu, con đường, bước đi, hình thức,... của cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Ðảng ta đã tạo những động lực trí tuệ và niềm tin mới ngày càng vững chắc cho cả dân tộc ta, chung sức chung lòng đưa sự nghiệp cách mạng tới thắng lợi hoàn toàn.

II/  THÀNH TỰU VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM 25 NĂM ĐỔI MỚI:

Hơn 25 năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.

Chúng ta đã thực hiện thành công chặng đường đầu của công cuộc đổi mới, đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, đời sống nhân dân có nhiều thay đổi tích cực, sức mạnh quốc gia về mọi mặt được tăng cường, độc lập, tự chủ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ và bền vững hơn trong giai đoạn mới.

Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản.

Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.

Để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh CNH- HĐH gắn với kinh tế tri thức; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.

Ngoài ra chúng ta cũng sáng tỏ hơn về chặng đường, bước đi, về nội dung bỏ qua và khả năng bỏ qua chế độ tư bản, rõ hơn về các giải pháp thực hiện các mục tiêu, xác định phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sử dụng thành tựu khoa học- kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của các nước, kinh tế tri thức để có thể hoàn thành sớm mục tiêu đề ra.

Toàn bộ những thành tựu qua 25 năm đổi mới đất nước không thể có được và không thể giữ được nếu không có sự lãnh đạo của Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền Nhà nước nhân dân là tiền đề chính trị, là điều kiện tiên quyết để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính vì hiểu điều đó nên các thế lực thù địch luôn tập trung tấn công vào vai trò lãnh đạo của đảng. Để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững vai trò lãnh đạo của đảng cần đẩy mạnh chỉnh đốn đảng, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, nâng cao tầm trí tuệ, bản lĩnh ,sức chiến đấu của đảng, kiên định và bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Khuyết điểm, nguyên nhân: Bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta còn nhiều khuyết điểm và yếu kém: Tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Cơ chế, chính sách về văn hoá- xã hội chậm đổi mới; nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết tốt. Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt hạn chế. Tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân còn một số khâu chậm đổi mới. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng. Nhiều tổ chức cơ sở đảng thiếu sức chiến đấu và không đủ năng lực giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh. Công tác tư tưởng còn thiếu tính thuyết phục. Công tác lý luận chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi mới và thực tế đặt ra. Công tác tổ chức và cán bộ còn nhiều mặt yếu kém. Chất lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa đạt yêu cầu.

Có những khuyết điểm đó là do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, chủ yếu là những nguyên nhân chủ quan như: Tư duy của Đảng trên một số lĩnh vực chậm đổi mới; một số vấn đề ở tầm quan điểm, chủ trương lớn chậm làm rõ nên chưa đạt được sự thống nhất cao về nhận thức và thiếu dứt khoát trong hoạch định chính sách, chỉ đạo, điều hành. Sự chỉ đạo tổ chức thực hiện chưa tốt, nhất là trong ba lĩnh vực : xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tạo bước chuyển mạnh về phát triển nguồn nhân lực; đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị. Một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp yếu kém về phẩm chất, năng lực và tinh thần trách nhiệm, vừa thiếu tính tiên phong, gương mẫu, vừa không đủ trình độ, năng lực hoàn thành nhiệm vụ.

Bài học kinh nghiệm.

Từ thực tiễn 25 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta càng tích luỹ thêm nhiều kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý. Có thể rút ra một số bài học lớn sau đây :

Một là, trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào, phải kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đổi mới toàn diện, đồng bộ với những bước đi thích hợp. Tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn với chú trọng xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, giữ vững truyền thống và bản sắc văn hoá dân tộc. Mở rộng, phát huy dân chủ phải gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương và ý thức trách nhiệm của mỗi công dân, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và cả cộng đồng.

Hai là, phải thật sự coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền vững. Nâng cao chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng hợp lý, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. Tăng cường huy động các nguồn lực trong và ngoài nước, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả các nguồn lực để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Phát triển lực lượng sản xuất phải đồng thời xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp; củng cố và tăng cường các yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế.

Ba là, phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là trong tình hình kinh tế khó khăn, suy giảm; gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, củng cố quốc phòng, an ninh, tăng cường quan hệ đối ngoại, thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bốn là, đặc biệt chăm lo củng cố, xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Thật sự phát huy dân chủ đi đôi với giữ gìn kỷ luật, kỷ cương; giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tăng cường đoàn kết thống nhất, gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vững vàng về chính trị, tư tưởng, trong sáng về đạo đức, lối sống, có sức chiến đấu cao, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ; phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.

Năm là, trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo phải rất nhạy bén, kiên quyết, sáng tạo, bám sát thực tiễn đất nước; chú trọng công tác dự báo, kịp thời đề ra các giải pháp phù hợp với tình hình mới; tăng cường công tác tuyên truyền, tạo sự đồng thuận cao, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội.

Để khắc phục những hạn chế khuyết điểm trên nhằm đẩy mạnh quá trình CNH-HĐH theo hướng hiện đại, Đại hội XI đã đề ra mục tiêu tổng quát trong 2010-2015 là: “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau”.

III/ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA:

Hơn 20 năm đổi mới, "... nhân dân ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa... Tuy vậy, chúng ta cũng còn nhiều yếu kém và khuyết điểm. Không ít vấn đề nhận thức lý luận còn chưa đủ rõ..."đòi hỏi lý luận chính trị phải cắt nghĩa, định hướng. Hội nghị Trung ương 5 nêu rõ: "Công tác lý luận còn tình trạng lạc hậu trên một số mặt, chưa đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn đang vận động nhanh chóng, phong phú, phức tạp..."

1/ Về công tác lý luận:

- Về kinh tế thị trường, chưa hình thành được một khung lý luận vững chắc về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chưa xác định rõ và tạo được sự nhất trí cao về những đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Chưa nhận thức rõ về vị trí, vai trò và mối quan hệ giữa các nhân tố cấu thành chủ yếu của nền kinh tế thị trường: Nhà nước, thị trường và doanh nghiệp... Quan niệm về "bóc lột", về kinh tế tư bản, tư nhân vẫn chưa thật rõ. Tiêu chí và bước đi của công nghiệp hóa, hiện đại hóa chưa được xác định rành mạch, chậm cụ thể hóa mô hình, dẫn đến còn nhiều lúng túng trong thực hiện.

- Về văn hóa - xã hội, chưa có một quan niệm thống nhất về vấn đề xã hội hóa các hoạt động dịch vụ, về công bằng và bình đẳng, về sự phân hóa giàu nghèo ở nước ta.

    -Trên lĩnh vực hệ thống chính trị, lý luận chưa làm sáng tỏ "tính độc lập tương đối" của mỗi quyền, về sự chế ước lẫn nhau giữa các nhánh quyền lực; vấn đề kiểm tra giám sát quyền lực, bảo đảm quyền lực không bị tha hóa và bị lạm dụng; vấn đề chồng chéo, lạm quyền trong hoạt động của các cơ quan nhà nước; về cơ chế bảo đảm quyền kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với hoạt động của Nhà nước; về vai trò của Mặt trận, các đoàn thể chính trị...

- Trên lĩnh vực xây dựng đảng, lý luận về đảng cầm quyền trong điều kiện kinh tế thị trường, dân chủ hóa và mở cửa chưa được làm sáng tỏ. Cơ chế: "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ" cần phải được cụ thể hóa thì vận hành mới có hiệu quả.

Trước lúng túng về lý luận ở nhiều vấn đề mà Nghị quyết nêu, không ít cán bộ, đảng viên tỏ ra hoang mang. Trong khi đó, mặt trái của kinh tế thị trường làm biến dạng, thay đổi quan điểm sống, phai nhạt lý tưởng, tham những, tha hóa ở một bộ phận cán bộ, đảng viên.

Rõ ràng, có thực tình trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thay đổi nhận thức về hệ giá trị, chỉ chăm lo đến vấn đề kinh tế cụ thể mà không chú ý tới vấn đề lý luận chính trị. Họ coi đó là những gì xa vời, không thiết thực, nếu có, đó là việc của cấp trên, của các nhà lý luận. Thậm chí có người cho rằng chủ nghĩa xã hội đã có bề dày nhiều thập niên mà thực tế lại phát triển trì trệ, dẫn tới sụp đổ! Phải chăng lý luận của nó tức là chủ nghĩa xã hội khoa học có vấn đề? Đó là mộng tưởng của những người duy ý chí?.v.v. Nhiều người đã lớn tiếng công kích, xuyên tạc lý luận chính trị về chủ nghĩa xã hội và đi tới phủ nhận nó! Vì thế, tình trạng thiếu quan tâm, thậm chí hạ thấp sự cần thiết của lý luận chính trị trong cán bộ, đảng viên hiện nay là vô cùng nguy hiểm tới sự thống nhất nhận thức và hành động của chúng ta trong công cuộc đổi mới hiện nay.

2/ Về đổi mới lãnh đạo kinh tế trong giai đoạn hiện nay:

a- Mọi chủ trương chính sách tiếp tục đổi mới kinh tế phải coi ưu tiên số 1 là giải phóng lực lượng sản xuất và mọi nguồn lực, mọi tiềm năng của xã hội nhằm tất cả vì mục tiêu phát triển. Đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay bảo đảm cho kinh tế tăng trưởng nhanh, phát triển bền vững là nhiệm vụ chính trị trọng đại số 1, là nhiệm vụ trung tâm.

b- Lãnh đạo thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ song song: CNH, HĐH gắn liền với phát triển kinh tế tri thức và phát triển mạnh nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cần phải nhận thức sâu sắc rằng thành công của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước trước mắt, cũng như lâu dài không thể tách rời sự phát triển ngày càng hiện đại của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Do đo, một trong những vấn đề có tính “hạt nhân” của sự tiếp tục đổi mới lãnh đạo kinh tế của Đảng là đề ra và thực hiện được những chính sách kinh tế có tác động tích cực thúc đẩy mạnh nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng XHCN và thực hiện có hiệu quả các chính sách CNH, HĐH đất nước để từng bước thực hiện được mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

c- Phải giải quyết tốt mâu thuẫn giữa nguy cơ tụt hậu của nền kinh tế với yêu cầu bắt buộc phải tiến lên theo kịp các nước tiên tiến trên thế giới.

d- Ngăn chặn và đẩy lùi những nguy cơ tiềm ẩn có thể đưa nền kinh tế nước ta đi chệch định hướng XHCN.

e- Lãnh đạo phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước đi và từng chính sách phát triển. Vì đây là một đặc trưng của định hướng XHCN nền kinh tế thị trường ở nước ta, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội ta.

h- Nhanh chóng khắc phục nguy cơ tiềm ẩn suy thoái kinh tế do tác động của khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới, quyết tâm giảm tỷ lệ lạm phát và tăng giá xuống ở mức một con số; bảo đảm và nâng cao đời sống dân sinh cả về vật chất và tinh thần.

g- Nâng cao năng lực lãnh đạo kinh tế của Đảng, đặc biệt là những vấn đề sau đây:

- Nâng cao năng lực nắm vững các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của nước ta, đề ra những chủ trương, chính sách kinh tế đúng đắn, khai thác được tối đa những tiềm năng trong nước và ngoài nước cho sự nghiệp phát triển kinh tế và thực hiện thắng lợi nhiệm vụ CNH, HĐH đất nước trong từng thời kỳ phát triển của đất nước.

- Nâng cao năng lực lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo quần chúng nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, thực hiện thành công các chính sách đổi mới kinh tế trong bất cứ tình huống khó khăn nào./.

Để thực hiện mục tiêu đó cần triển khai các nhiệm vụ chủ yếu sau:

Một là, Ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, nâng cao chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững, nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; từng bước xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Hai là, Phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực; phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức. Tập trung giải quyết vấn đề việc làm và thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tạo bước tiến rõ rệt về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm tỉ lệ hộ nghèo; cải thiện điều kiện chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Tiếp tục xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Bảo vệ môi trường, chủ động phòng tránh thiên tai, ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu.

Ba là, Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; giữ vững ổn định chính trị - xã hội, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, trật tự an toàn xã hội; ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; triển khai đồng bộ, toàn diện, hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế.

Bốn là, Tiếp tục phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, chính quyền địa phương; đẩy mạnh cải cách hành chính và cải cách tư pháp; thực hiện có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.

Năm là, Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức; tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác cán bộ, kiểm tra, giám sát và tư tưởng; thường xuyên học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.

Tóm lại: Thực tiễn cho thấy, không có ĐCS Việt Nam thì không có công cuộc đổi mới, không có sự lãnh đạo sáng suốt của Ðảng Cộng sản Việt Nam thì không có được công cuộc đổi mới theo định hướng đúng đắn. Càng đổi mới, càng đổi mới sâu rộng thì càng cần tăng cường vai trò, chức năng lãnh đạo của Ðảng như Hiến pháp đã quy định. Không thể đổi mới thành công nếu không có sự lãnh đạo đúng đắn của Ðảng. Bản lĩnh, nghị lực và những kinh nghiệm dày dạn của Ðảng ta non một thế kỷ phải được thể hiện trong sự nghiệp lãnh đạo công cuộc đổi mới. Thời gian cũng cho thấy các thế lực thù địch chủ nghĩa xã hội không ngừng đả kích và xuyên tạc Ðảng Cộng sản Việt Nam. Và, các thế lực thù địch càng đả kích, xuyên tạc, thì chúng ta càng cần nâng cao vai trò và năng lực lãnh đạo của Ðảng đối với công cuộc đổi mới. Ðương nhiên chúng ta cần quán triệt điều mà chính Cương lĩnh của Ðảng cũng đã đề ra: Ðảng ta phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn, để xứng đáng với trọng trách lãnh đạo công cuộc đổi mới.  

Liên hệ địa phương:

Kết thúc nhiệm kỳ Đại hội XIII của tỉnh Đảng bộ, Đảng bộ và nhân dân Quảng trị đã thực hiện 20 năm sự nghiêp đổi mới của Đảng. Bức tranh toàn cảnh nền kinh tế-xã hội của tỉnh Quảng Trị bước vào sự nghiệp đổi mới và trước ngày tỉnh được lập lại là một nền kinh tế thuần nông, phương thức canh tác lạc hậu; công nghiệp hầu như không có gì; cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội vô cùng khó khăn, thiếu thốn; thu nhập đời sống của các tầng lớp nhân dân hết sức thấp kém.

    Hơn 20 năm tính từ ngày thành lập tỉnh, cùng cả nước trên con đường đổi mới, Quảng Trị đã đi lên, lập được những thành tựu nổi bật:

    Nông nghiệp phát triển khá toàn diện. Diện tích các loại cây trồng liên tục được mở rộng; năng suất, sản lượng không ngừng được nâng cao. Từ chỗ Trung ương phải trợ cấp lương thực, đến nay không những đảm bảo an ninh lương thực mà còn co cả sản phẩm hàng hoá bán ra ngoài địa bàn. Các loại cây công nghiệp ngắn ngày, dài ngày, đặc biệt cao su, hồ tiêu, cà phê đã phát triển thành các vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nuôi trồng thuỷ, hải sản phát triển khá.

    Công nghiệp những ngày đầu lập lại tỉnh chưa có gì đáng kể, đến nay đã được đầu tư phát triển đúng hướng, nhất là công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất chế biến nông-lâm-thuỷ sản, sản xuất hàng tiêu dùng…Giá trị sản xuất công nghiệp ngày càng cao, tỷ trọng đóng góp vào GDP có mức tăng trưởng đáng kể. Trên địa bàn toàn tỉnh đã hình thành các KCN như KCN Nam Đông Hà, Quán Ngang...

    Thương mại-Dịch vụ tiếp tục phát triển chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế của tỉnh. Cơ chế, chính sách đầu tư cho phát triển thương mại, dịch vụ, du lịch tiếp tục được đổi mới, bước dầu thu hút được nhiều dự án cho đầu tư phát triển, nhất là đối với khu kinh tế-thương mại đặc biệt Lao Bảo.

    Cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội từ chỗ thấp kém, thiếu thốn đến nay đã có nhiều tiến bộ vượt bậc, tạo tiền đề cơ bản cho phát triển thời kỳ trước mắt, chuẩn bị điều kiện cho bước phát triển những năm tiếp theo.

Sự nghiệp giáo dục-đào tạo được tiến bộ đáng trân trọng, mặt bằng dân trí được nâng cao. Văn hoá-xã hội với nhiều hoạt động thiết thực, đi vào chiều sâu tạo dựng được nền tảng phục vụ tốt cho sự nghiệp xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư tiếp tục phát triển, đảm bảo số lượng và chất lượng”. Công tác XĐGN, hỗ trợ nhà ở cho gia đình chính sách, hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số và các hộ nghèo thuộc các đối tượng khác trong xã hội, chính sách đối với các gia đình có công, thương binh, liệt sĩ, các bậc lão thành cách mạng, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt…được toàn xã hội quan tâm, tích cực thực hiện.

    Sự nghiệp y tế, công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân được đẩy mạnh. Các dịch bệnh nguy hiểm được phát hiện và dập tắt kịp thời góp phần đảm bảo sức khoẻ, an toàn tính mạng và tài sản nhân dân.

    Quốc phòng được củng cố tăng cường, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội luôn được giữ vững.

    Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, hoạt động của Chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể quần chúng được đẩy mạnh. Đoàn kết nội bộ có chuyển biến tích cực góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của các cấp chính quyền và vai trò của Mặt trận, đoàn thể nhân dân các cấp, tạo sự đồng thuận trong cộng đồng dân cư, biến thành sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ quê hương.

    Có được những thành tựu quan trọng 20 năm thực hiện đổi mới và 5 năm thực hiện Nghị quyết ĐH ĐB tỉnh lần thứ XIII, trước hết bắt nguồn từ đường lối đổi mới của Đảng, sự vận dụng đúng đắn của các cấp uỷ Đảng và sự nổ lực phấn đấu của cả HTCT và nhân dân toàn tỉnh, thường xuyên nêu cao ý chí tự lực, tự cường, phát huy nội lực, tận dụng tiềm năng lợi thế, vượt lên khó khăn, thách thức để đi lên. Bên cạnh đó, sự quan tâm lãnh đạo, sự đầu tư hỗ trợ thiết thực của Trung ương; sự chi viện giúp đỡ quý báu của Đảng bộ và nhân dân các tỉnh, thành trong cả nước; viện trợ của các tổ chức Quốc tế; sự quan tâm động viên về nhiều mặt của con em Quảng Trị đang sinh sống trên mọi miền đất nước luôn hướng về quê hương…tạo cho Đảng bộ và nhân dân Quảng Trị có thêm nguồn lực mới phấn đấu để sớm bắt kịp tiến trình phát triển của cả nước.

    Tuy vậy, từ xuất phát điểm thấp của nền kinh tế; thiên nhiên khắc nghiệt, địa bàn thiếu hấp dẫn thu hút đầu tư, và những hạn chế yếu kém trong quy hoạch chưa có tầm bao quát toàn diện; quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện quy hoạch còn có khuyết điểm; thiếu những doanh nghiệp có quy mô, có khả năng ảnh hưởng lớn và chi phối dẫn dắt; thiếu những doanh nhân giỏi; chất lượng lao động còn chưa đảm bảo yêu cầu phát triển, hội nhập; tâm lý e ngại đầu tư vốn để phát triển sản xuất kinh doanh còn phổ biến và tình trạng mất đoàn kết xảy ra đã ảnh hưởng phát triển kinh tế-xã hội trong những năm vừa qua.

    Mặc dù đến nay tỉnh Quảng Trị vẫn còn là tỉnh nghèo, nhưng nhìn toàn cảnh so với trước thời điểm thực hiện công cuộc đổi mới và ngày đầu mới lập lại tỉnh, Quảng Trị đã có những thay đổi to lớn và toàn diện. Những thành tựu đạt được trên đây có ý nghĩa cực kỳ quan trọng cả trước mắt cũng như lâu dài và đang tạo đà, tạo thế để Quảng Tị phát triển nhanh, bền vững, mở ra triển vọng và khả năng hội nhập kinh tế trong và ngoài nước.

Tóm lại :Thực tiễn cho thấy, không có Ðảng Cộng sản Việt Nam thì không có công cuộc đổi mới, không có sự lãnh đạo sáng suốt của Ðảng Cộng sản Việt Nam thì không có được công cuộc đổi mới theo định hướng đúng đắn. Càng đổi mới, càng đổi mới sâu rộng thì càng cần tăng cường vai trò, chức năng lãnh đạo của Ðảng như Hiến pháp đã quy định. Không thể đổi mới thành công nếu không có sự lãnh đạo đúng đắn của Ðảng. Bản lĩnh, nghị lực và những kinh nghiệm dày dạn của Ðảng ta non một thế kỷ phải được thể hiện trong sự nghiệp lãnh đạo công cuộc đổi mới. Thời gian cũng cho thấy các thế lực thù địch chủ nghĩa xã hội không ngừng đả kích và xuyên tạc Ðảng Cộng sản Việt Nam. Và, các thế lực thù địch càng đả kích, xuyên tạc, thì chúng ta càng cần nâng cao vai trò và năng lực lãnh đạo của Ðảng đối với công cuộc đổi mới. Ðương nhiên chúng ta cần quán triệt điều mà chính Cương lĩnh của Ðảng cũng đã đề ra: Ðảng ta phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn, để xứng đáng với trọng trách lãnh đạo công cuộc đổi mới. 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro