Đằng tiên bắc ngạo 1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

HỒI THỨ NHẤT

Thăng Long có bốn cổng thành. Cửa Diệu Đức phía Bắc là nơi gần như dành riêng cho quan lại, Vương tôn công tử, niêm yết bảng văn, đón tiếp sứ giả. Cửa Quảng Phúc ở phía Tây là nơi ngày tháng vang vang vó ngựa và những đoàn quân rầm rập thường xuyên ra vào tập luyện, diễu võ giương oai. Còn cửa Đại Hưng chỉ tấp nập với những đoàn quân xuôi Nam hay quan lại các nơi về Kinh làm người ta chú ý. Riêng phía cửa Đông Hoa mới đúng là nơi đô thị, chợ búa náo nhiệt. Từ cầu Đông thị đến bến sông Thao phố xá như bát úp, còn bến thuyền lúc nào cũng tấp nập. Thuyền buôn các nơi đến kinh đô đều đậu ở đây.

Bến thuyền trải dài mút mắt và dọc theo bờ sông hàng quán, khách điếm, chợ búa, người qua kẻ lại chen chúc đủ hạng người, từ kẻ áo gấm quạt lông, cỡi ngựa, đi xe, ngồi kiệu đến hàng hóa và con người cũng vậy, có thể nói là thượng vàng hạ cám thứ gì cũng có.

Nằm ngay góc con đường đê dọc theo bờ sông và con lộ chính vào cửa thành là một tửu quán không có bảng hiệu. Có lẽ do vị trí, hay những điểm đặc biệt của tửu quán mà chủ nhân không cần phải treo bảng. Tuy nhiên, mọi người, ai đã đến phía Đông thành, thì phải biết quán Tư Bụng. Quán Tư Bụng nổi tiếng gắn liền với cửa Đông Hoa, với cầu Đông thị... cho dù hai danh xưng thanh tục khác nhau. Quán Tư Bụng nổi tiếng không phải chỉ vì nó đã chiếm một khoảnh đất khá rộng ngay ngã ba quan yếu, sân sau có thể chứa cả hàng trăm con ngựa, có mấy gian nhà rộng cho công nhân ăn ở, hay tầng trên cất bằng gỗ, trống trải bốn mặt, hàng trăm thực khách có thể ngồi uống rượu, ngắm cảnh thuyền buồm xuôi ngược trên sông, mà đặc điểm của quán Tu Bụng là có thể tiếp đãi, thoả mãn với tất cả mọi hạng thực khách, mọi túi tiền. Khách của quán Tư Bụng có thể là anh xe kéo ghé vào lấy một con vịt quay, con gà luộc, đĩa thịt heo..., rượu gạo, rượu ngô ở những chiếc bàn kê dài theo ba hàng hiên rộng, thì khách sang lại có thể vào nhà, lên sân thượng kêu sơn hào hải vị, bồ đào, mỹ tửu, muốn gì cũng có. Và tất cả thức ăn, thức uống của quán Tư Bụng đều làm cho khách mọi hạng đều vừa lòng.

Quán Tư Bụng nổi tiếng vì đặc điểm như vậy. Quán Tư Bụng, còn có người gọi là quán Mụ Tư Bụng, nhưng không ai hiểu vì sao tửu quán có tên này. Có lẽ mấy đời trước, người khai sinh ra và xây ra quán là một người đàng ông hay đàn bà mập ú, với cái bụng núng na núng nính những mỡ và mỡ... Và có lẽ chỉ chủ quán mới biết ông hay bà Tư Bụng bây giờ, vào lúc Hồ Quý Ly đang nắm tất cả quyền lực trị nước trong tay, đang muốn soán ngôi lại là một người đang ông phương phi, cốt cách. Chủ quán ít có mặt ở quán, nhưng khi nào ông ta xuất hiện và chào hỏi mọi người, thì hầu như tất cả mọi hạng thực khách đều dành cho ông ta một sự kính trọng đặc biệt gọi là Phạm tiên sinh. Nghe nói Phạm tiên sinh từng thi đỗ cập đệ lúc còn rất trẻ, nhưng không chịu ra làm quan, và dù văn hay chữ tốt, ông cũng không đặt cho tửu quán của mình một cái tên thanh lịch, ý nghĩa nào, vẫn để mọi người gọi cái tên Tư Bụng. Cái tên đã đi vào lòng mọi người.

Quán Tư Bụng hiện diện lâu đời ở cửa Đông Hoa, không ai biết nó có mặt từ lúc nào và vì thế nó đã chứng kiến hết tất cả những biến động lớn lao và dồn dập của Thăng Long trong mấy chục năm gần đây.

Khởi đầu cho những chuỗi biến động là một ngày đầu xuân, ngày hai mươi bốn tháng giêng, năm Long Khánh thứ năm, ban ngày bỗng dưng trời tối như om mực, mọi người phải đốt đèn đuốc để đi lại, mua bán. Linh thiêng hay trùng hợp? Ngày hôm ấy, trên mười vạn quân chinh phạt Chiêm Thành bị tiêu diệt khi tiến vào thành Đồ Bàn và ông vua trẻ Duệ Tông, ông vua Đại việt đầu tiên và cũng là cuối cùng tử trận trên đất Chiêm Thành.

Từ cái ngày đen tối ấy, hai lần Thăng Long bị quân Chiêm dẫm nát, bắt người, cướp của như đi vào chỗ không người, người dân sống trong nơm nớp lo âu. Hết bị nạn Chiêm Thành, Thăng Long lại phải chứng kiến những cảnh đói khổ, bần cùng. Năm này hạn hán, năm nọ lụt to, năm kia giặc Su Ôn chiếm cứ và rồi liên tiếp hàng năm phải mở rộng cửa Diệu Đức để đón tiếp những phái đoàn nhà Minh sang sách nhiễu, đòi hỏi, nay gọi quân lương mai đòi phương vật. Ông Thái thượng hoàng Nghệ Tông tiếp tục sống dai, đã giúp cho Quý Ly thêm lông thêm cánh, giết hại con cháu của chính mình và những bậc trung thần. Khi ông vua già này biết được thế nguy, muốn học theo sách Lưu Bị ký thác ấu chúa cũng u mê không biết rõ Quý Ly chẳng phải là Gia Cát Lượng! Nghệ Tông mất trong một đêm đông lạnh lẽo, và sau đó bầu trời mây đen che kín liên tiếp mấy ngày, báo hiệu nhà Trần đã bước sang thời kỳ tang chế thực sự của nó.

Thành Thăng Long trong mùa đông u ám năm nay đã nhận lấy cái tên mới là Đông đô, những gia đình quan lại, lính tráng thu hút sức mua bán lớn nhất của Thăng Long người đi kẻ ở, lo lắng, hoang mang. Biến đổi lớn lao này đã làm mọi người, ngay cả những nhân công, đầu bếp, hầu bàn của quán Tư Bụng cũng uể oải hẳn ra. Thường thì gà gáy sáng, trong quán đã lên đèn khắp nơi, chuẩn bị mở đầu cho một ngày làm việc mới, và trời chưa sáng, những kẻ không nhà ngủ nhờ nơi hàng hiên đã bị xua đuổi đi nơi khác. Nhưng mấy ngày qua, trời sáng hẳn công nhân quán Tư Bụng mới rục rịch mở cửa và những kẻ có nhiệm vụ kê bàn chung quanh ba hàng hiên dài không cần phải xua đuổi ai, những người có kiếp sống khốn khổ này đã thức giấc, tự động thu vén để ra đường cho một ngày mới của mình. Sáng hôm ấy, gió bấc từ dòng sông thổi lên lạnh như cắt da xé thịt, quán Tư Bụng còn mở cửa muộn hơn, nhưng khi Trần Tứ người công nhân trẻ bày bàn ghế ở hiên Tây đã ngạc nhiên thấy một người còn nằm trong chiếc chăn rách nát, hắn bực bội lấy chân đá mạnh quát tháo : "Mặt trời đã lên còn nằm vạ hay sao?"

Cái đá mạnh không làm người trong chăn nhúc nhích. Trần Tứ thêm bực bội cúi xuống giật mạnh chiếc chăn. Hắn thấy dưới nền nhà một thân hình ốm o, tóc xoã che kín mặt mày năm bất động. Hắn đá vào chân người nằm mấy cái nữa vẫn không thấy nhúc nhích. Trần Tư chăm chú nhìn làn da xanh mét qua lớp áo rách rồi hốt hoảng chạy vào trong kêu réo : "Có người chết ngoài hàng hiên! Có người chết!"

Nghe hô hoán vài người công nhân trong quán vội vã bước ra. Họ xúm lại nhìn xác chết, nhưng không biết phải làm gì. Một người đàn bà lên tiếng : "Chắc bị chết cóng! Tội nghiệp quá! Chạy kêu Đoàn Tổng quản xem ông dạy thế nào? Nó đã lỡ nằm chết ở đây chúng ta đâu có thể mang đi ném chỗ nào cho được! Dù sao cũng là con người mà!"

Trần Tứ vội chạy đi kêu lão tổng quản, người thay mặt chủ nhân điều hành quán Tư Bụng. Trần Tứ mới khuất vào bên trong, trước cổng xuất hiện một cỗ kiệu màu xanh. Thấy cỗ kiệu, người đàn bà kêu lên : " May quá! Chủ nhân đến kìa!"

Phạm tiên sinh khoảng năm sáu mươi, râu ba chòm lốm đốm bạc, mặc áo lụa đen, bước xuống kiệu, mau mắn : "Thím Năm! Việc gì đó?"

"Thưa tiên sinh, có người nằm chết cóng ở đây!"

Phạm tiên sinh không chút hốt hoảng : "Ồ! Tội nghiệp nhỉ!"

Ông ta bước vội vào hàng hiên, những người công nhân giãn ra nhường chỗ cho chủ nhân. Nhìn kẻ bạc phước nằm co rút trên manh chiếu rách, áo quần te tua không che kín thân thể, Phạm tiên sinh thở dài. Ông định ra lệnh cho công nhân mua một chiếc hòm cho xác chết, tống táng làm phước, đôi mắt ông ta chợt nhìn thấy nằm dài theo xác chết một cây gậy mây to hơn ngón chân cái, lóng rất ngắn, mỗi lóng chỉ độ vài đốt ngón tay, nổi màu đen bóng, nhưng cũng có nhiều vết như bị gươm đao chém phải.

Cây gậy làm Phạm tiên sinh cau mày, rồi vội ngồi xuống lật xác chết lên đưa tay sờ mũi, sờ ngực. Được Phạm tiên sinh lật qua, mọi người mới thấy xác chết là một thiếu niên độ mười sáu, mười bảy tuổi và họ cũng rất ngạc nhiên, Phạm tiên sinh không nề dơ bẩn, rụt cây gậy để lên người thiếu niên rồi bồng ngay lên và nôn nóng hỏi đám công nhân : " Ai trong các ngươi nhà có căn phòng trống?"

Trần Tứ lanh miệng : "Nhà thím Năm có phòng cô Lan mới về quê."

Không chờ người đàn bà cho biết có đồng ý hay không, Phạm tiên Sinh bước đi ngay và hối người đàn bà : "Thím đi theo chỉ cho ta căn phòng ấy, còn các ngươi thì vào trong kêu người nấu ngay một tô cháo nóng, cho gừng nhiều vào và mang gấp đến cho ta."

Nghe chủ sai khiến, người đàn bà hơi một chút ngần ngừ rồi bôn bả chạy theo và vượt qua mặt Phạm tiên sinh. Khu nhà ở của công nhân quán Tư Bụng mái tranh vách đất, nhưng có mấy chục căn như một xóm nhỏ, nằm sau sân tửu quán, ngăn cách bởi một hàng dương liễu xanh và ra vào có một cánh cổng cây nặng nề. Mụ Năm xăng xái chạy trước chủ nhân, vì biết mình phải mở cánh cổng này cho ông chủ và đưa ông ta đến căn nhà mình, một căn nhà hẻo lánh nằm sau bờ ao của khu dành riêng cho nữ nhân, lại cũng có một hàng dâu tre và một cánh cổng phân biệt với khu nam nhân và người có gia đình.

Mụ Năm vừa đi vừa chạy, vì Phạm tiên sinh bồng thiếu niên đi rất nhanh. Khi đến căn nhà của mình, mụ đã thở hổn hà hổn hển, và rất ngạc nhiên không ngờ Phạm tiên sinh thân thể văn nhược, tuổi đã lớn nhưng bồng một người, đi nhanh như vậy mà không tỏ ra có chút gì mệt nhọc.

Phạm tiên sinh đặt thiếu niên lên chiếc giường gỗ nhỏ, bảo mụ Năm : "Thím đi đốt cho tôi một chậu lửa than."

Khi mụ Năm đi khỏi, Phạm tiên sinh hít một hơi chân khí, rồi đôi bàn tay bắt đầu chà xát lên thân thể thiếu niên. Một lúc sau gã rên ư ử và mở mắt. Phạm tiên sinh dừng tay mỉm cười thân thiện : "Cậu đã thoát chết rồi đấy."

Thiếu niên mấp máy môi, thều thào : "Đa tạ đại bá!"

Câu nói văn vẻ của cậu bé làm Phạm tiên sinh cảm thấy những gì mình nghi ngờ là đúng. Ông cầm cây gậy mây để bên cạnh thiếu niên, kéo tấm chăn đắp cho và với giọng chí tình : "Lão phu chưa biết tiểu hữu là ai, gặp hoàn cảnh hung hiểm nào mà đến nông nổi này, nhưng cứ yên tâm nằm đây tịnh dưỡng cho đến khi khoẻ hẳn. Tiểu hữu bị đói lạnh lâu ngày, ngoài ăn uống, cũng phải uống thêm vài thang thuốc nữa mới hoàn toàn bình phục."

Đôi mắt thiếu niên chợt đỏ heo vì xúc động, Phạm tiên sinh cầm cây gậy mây của mình lên tay, và hình như ông ta tình khuyến khích thêm lòng cầu sinh của người thiếu niên : "Thân thể thụ chi phụ mẫu, bất cảm huỷ thương hiếu chi thủy giả. Tiểu hữu không nên ngại ngùng sự giúp đỡ của người khác. Có khoẻ mạnh mới chu toàn được sự hiếu thảo của mình với chu đấng sinh thành, không nói là còn có thể tiến lên sống xứng đáng là một đấng trượng phu trong tương lai. Tiểu hữu nghỉ ngơi, một hai ngày sau lão phu trở lại sẽ chuyện vãn nhiều hơn."

Phạm tiên sinh bước ra khỏi phòng dặn dò người đàn bà chủ nhà : " Lão phu sẽ nói cho tổng quản biết thím phải ở nhà năm ngày để săn sóc cho cậu ấy. Thím phải tận tình săn sóc cho tôi. Sáng nay chỉ cho ăn cháo, trưa cho ăn cháo tiếp và chiều có thể cho ăn cơm được. Đồ ăn lão phu sẽ bảo người trong tửu quán mang đến cho thím và cậu ấy. Thuốc khi có người mang đến, thím cứ đổ ba bát nước, sắc còn một bát là được."

Người đàn bà xuýt xoa : "Chủ nhân thật nhân từ không ai bằng. Cậu ấy thật có phước lớn gặp được ngài."

Tiếng Phạm tiên sinh nghiêm nghị : "Trong ba ngày cậu ấy không bình phục, tôi sẽ hỏi tội thím đấy!"

"Dạ! Tiểu nhân đâu dám không hết lòng..."

Và mụ Năm cau mày : "Sao lâu quá chưa ai mang cháo tới vậy kìa?"

Tiếng Trần Tứ ngoài ngõ : "Có rồi đây"

Phạm tiên sinh : "Nếu cậu ấy không ngồi lên nổi, thím đút cho cậu ấy. Con bệnh này lão phu hoàn toàn giao cho thím."

Thím Năm đón lấy tô cháo từ tay Trần Tứ, nhìn bóng Phạm tiên sinh khuất sau hàng dâu, cảm khái : "Chủ nhân thật là một người nhân hậu."

Trần Tứ : "Việc này ai mà không biết. Thằng nhỏ này cũng có phước rất lớn. Thôi thì thím cố mà chăm sóc cho nó để đức cho con cháu!"

"Tổ bà mi! Ta có con cháu gì đâu mà mi nói thế?"

Trần Tứ cười : "Cô Lan chẳng phải là cháu thím hay sao? Thím gả cô Lan cho tôi thì chúng tôi coi thím như mẹ, cũng là con cháu thím vậy!"

Thím Năm mắng : "Cái mặt mi khi không có nó thi miệng như bôi mỡ, còn thấy nó thì lấm la lấm lét... Để đấy mà nó chịu ấy mi."

Trần Tứ hỏi : "Cô Lan có đọc chữ được không thím Năm?"

"Ngươi mà viết được hay sao mà hỏi?"

"Thì cháu nhờ người viết hộ."

Thím Năm mắng : "Nó biết ngươi nhờ người viết, thì nó lại càng chẳng đọc. Hừ! Ta nói cho mà biết, nó không học được chữ nghĩa bao nhiêu nhưng múa roi đi quyền thì nó không thua đàn ông. Ngươi liệu hồn đấy!"

Trần Tứ le lưỡi : "Thế thì kiếp này Tứ này đành sống cảnh thầm yêu trộm nhớ!"

"Cũng chữ nghĩa văn hoa lắm đấy! Thôi để ta đem cháo vào cho cậu ấy. Ngươi không cút đi coi chừng lão Đoàn sẽ mắng cho một trận."

Thím Năm không để Trần Tứ có cơ hội nói thêm, bà bưng tô cháo còn nóng đem vào phòng cho thiếu niên. Trong ánh sáng lờ mờ, bà thấy gã đang nằm bất động ngó lên mái nhà, hai hàng nước mắt chảy dài, bà cảm thấy thương hại cho gã, dịu dàng : "Cậu thoát chết là may mắn lắm. Có thể ngồi dậy nổi không? Hãy ăn tô cháo cho mau lại sức."

Gã thiếu niên gạt hàng nước mắt : "Cám ơn thím! Cháu có thể ngồi dậy được."

Bà ta chạy ra nhà sau và đem vào một chiếc khăn nóng : "Sẵn có nước nóng để tôi lau so mặt mũi cho cậu."

Không đợi gã thiếu niên bằng lòng hay không, bà ta ngồi xuống giường lau tay chân, mặt mày cho cậu ta. Khuôn mặt ốm đói, lem luốc được chiếc khăn nước nóng lau qua làm bà Năm ngừng tay, bà đang chú ý đến cặp lông mày lưỡi kiếm thật dài và đôi hàng lông mi cũng thật dài và cong vút trên hai cặp mắt to đen của thiếu niên. Bà ta ngắm gã và khen : "Cậu mập mạp ra một chút, tóc tai chải gỡ sạch sẽ thì đúng là một thiếu niên đẹp trai. Cậu được bao nhiêu tuổi rồi?"

"Dạ cháu năm nay mười lăm tuổi."

"Trời đất! Cậu da bọc xương, nhưng cao tồng ngồng những tưởng là mười sáu, mười bảy rồi kia chứ. Nhìn tướng mạo và cậu mau lớn thế này hẳn cũng con nhà khá giả."

Không chờ gã thiếu niên đang húp cháo trả lời. Bà Năm lại mau miệng xuýt xoa : "Thời buổi hỗn vua hỗn quan, người ta giết chóc nhau như cơm bữa, nhiều nhà quan quyền tán gia bại sản là chuyện thường. Thôi cậu đừng buồn nữa. Đại nạn không chết sẽ có phước lớn."

Thiếu niên : "Cám ơn thím Năm."

Gã đưa cái tô không lại cho bà Năm, bà ta như muốn nói chuyện tiếp nhưng thấy gã có vẻ uể oải, nên đứng lên : "Cậu nghỉ một chút. Ồ! Tôi đã thổi chậu lửa cho cậu để tôi bưng vào cho ấm."

Thiếu niên : "Được đắp chăn như thế này cháu đã cảm thấy ấm áp lắm rồi thím Năm không cần phải mệt nhọc vì cháu."

Bà Năm : "Ta phải làm theo lời dặn của tiên sinh, nếu không ông ta lại quở trách.". Bà Năm khuất sau cánh cửa, một lúc sau khệ nệ mang vào phòng một lò lửa hồng. Bà thấy thiếu niên nhắm mắt nên không nói thêm lời nào nữa. Khi rời khỏi phòng bà ta đóng nhẹ cánh cửa lại để cho căn phòng thêm ấm áp. Trong căn phòng nhỏ khép kín với một lò than to, giây lát thấy nóng, thiếu niên gỡ chăn ra và ngủ thiếp.

Tô cháo, căn phòng ấm và giấc ngủ làm thiếu niên cảm thấy khoẻ hẳn ra khi thức giấc. Đã quen với đói rét, nhưng bây giờ gã cảm thấy đói và mũi gã đang nghe mùi thơm thoang thoảng của thịt thà hành tiêu trong căn nhà càng cảm thấy đói hơn. Thiếu niên không phải chờ lâu, thím Năm đẩy cửa bước vào. Cửa mở rộng, mùi thơm của gừng, của hành, của thịt tạt vào làm gã tự nhiên phải hít một hơi mạnh vào lồng phổi. Thím Năm cười : "Tôi định vào đánh thức cậu dậy. Cậu đã dậy để tôi đem cháo vào cho cậu."

Thiêu niên nuốt nước bọt, nhưng gượng gạo : "Thím đã cho ăn, hay để cháu tự đi lấy khỏi làm phiền thím."

Thím Năm xua tay : "Ông chủ từ xưa nay rất nhân từ, luôn luôn giúp đỡ mọi người, nhưng hình như ông đặc biệt quan tâm đến cậu. Nếu không đích thân ẵm cậu từ tửu quán về đây cũng như ông ta cũng không còn ngại ngùng phải đến khu nhà nữ công nhân bọn tôi. Cậu muốn đền ơn thì cố ăn khỏe vào, cậu khỏe ra tôi cũng được chủ nhân khen thưởng.". Bà ta vừa dứt lời, trở ra nhà ngoài và mang vào một khay có ba chén cháo thịt bốc khói nghi ngút.

Thiếu niên ngồi vội dậy hai tay run run đưa ra định đỡ lấy, nhưng thím Năm đặt khay cháo trên chiếc bàn nhỏ : "Tôi nghĩ nếu cậu ngồi dậy được thì ngồi lên ghế mà ăn có lẽ thoải mái hơn."

Gã thiếu niên gần như có một sức mạnh nào kéo tới, tụt nhanh xuống giường và cắm cúi vào những chén cháo trên khay. Gã vừa thổi vừa ăn, thím Năm thấy trán và người gã đổ mồ hôi lấm tấm. Nhìn gã thiếu niên đang cắm cúi ăn, thím nghĩ thầm công của mình đã lo cho gã sẽ mạnh như thần, đâu cần phải uống thuốc, nhưng ông chủ của thím đã cho người mang thuốc tới và thím đang phải sắc! Dù sao phục dịch gã thiếu niên này thím cũng không lỗ lãi. So với một ngày làm trong tửu quán công việc phục dịch gã nhẹ nhàng hơn nhiều mà ông chủ còn hứa thưởng công bội hậu.

Thiếu niên ăn xong mấy chén cháo thở phào : "Chưa bao giờ cháu được ăn ngon như thế này! Cảm ơn thím Năm nhiều lắm."

Thím Năm tò mò dò hỏi : "Cậu từ đâu tới và tên là gì vậy?"

Thiếu niên ngân ngừ giây lát : "Cháu người lộ Tam giang, tên là Tích Nhân.".

Tích Nhân cười buồn : "Gia phụ muốn cháu lớn lên làm một người biết tu nhân tích đức, thế nhưng cháu đang sống nhờ vào lòng nhân từ của mọi người."

Thím Năm an ủi : "Cuộc đời cậu còn dài kia mà! Sao cậu lại lưu lạc thế này?"

Tích Nhân xa vắng : "Cha mẹ cháu đều mất và không còn ai là người thân thích."

"Tội nghiệp cậu quá. Nhưng cậu còn trẻ thì lo gì!"

Tích Nhân lại dò hỏi thím Năm về Phạm tiên sinh : "Phải chăng Phạm tiên sinh thường cứu giúp những người cùng khổ?"

"Ồ! Tiên sinh rất nhân hậu, mỗi tháng ông thường trích một ngân khoản của tửu quán để bố thí. Ông ta đối đãi với người ăn kẻ ở cũng vô cùng nhân ái. Ta đây, nếu không nhờ ông thu dụng thì hôm nay không biết phải sống như thế nào."

"Tiên sinh đã từng tử tế với ai như đối với cháu không?"

"Ta chưa thấy, nhưng biết đâu cậu là thiếu niên đầu tiên nằm chết cóng nơi hàng hiên tửu quán. Ba năm trước có một lão ăn mày nằm chết ở hàng hiên, sau khi báo quan, tiên sinh đã cho mua hòm chôn cất tử tế."

"Tiên sinh đúng là người nhân hậu."

Thím Năm : "Ta đi sắc thuốc cho cậu. Ta nghĩ trong người cậu rất nhiều chấy rận. Sau khi uống thuốc phải tắm rửa, ta thay mền chiếu đem đi giặt kẻo con Lan của ta nó về nó lại trách cứ ta. Ta nghĩ, thay vì nằm trong phòng cháu gái của ta, cậu có thể tạm nằm ở tấm ván phòng trước, đóng cửa lại đủ ấm."

Tích Nhân : "Thím cho cháu nằm nơi đâu cũng được. Xin lỗi đã làm phiền thím quá nhiều."

"Ta giúp cậu vì lệnh của Phạm tiên sinh, cậu không phải cứ mỗi chút là cám ơn ta.". Bà ta cười : "Cậu cám ơn, mai sau nếu Phạm tiên sinh nhận cậu làm con hay làm rể thì mong cậu giúp lại ta."

Thím Năm ra ngoài, bấy giờ Tích Nhân mới để ý đến căn phòng nhỏ của cô gái tên Lan. Phòng tuy đơn sơ, nhỏ bé nhưng mọi thứ đều sạch sẽ, gọn ghẽ. Tích Nhân tự dưng cảm thấy có lỗi với cô gái chủ nhân và hy vọng cô ta sẽ chẳng bao giờ biết trên chiếc giường của cô ta, thân hình dơ bẩn, chấy rận của mình đã từng nằm trên đó. Tuy vậy, ngồi trên ghế một lúc Tích Nhân lại muốn ngả lưng. Mấy năm nay chưa bao giờ được biết đến cái giường là gì, Tích Nhân thèm được nằm.

Đã được ngủ một giấc từ sáng đến trưa nên muốn ngủ cũng không ngủ được, Tích Nhân trăn trở mãi và bất ngờ tay đụng phải một cái gì trên thành giường sát vách, một tiếng cắc vang lên và chiếc chiếu bị đẩy cao lên khoảng nửa gang tay. Ngạc nhiên, Tích Nhân kéo chiếu xa xem thì đó là một cái hộc nhỏ bên trong có một cây kiếm dài, da bao kiếm đã lên màu đen và cán kiếm cũng lên màu đen bóng. Nằm trên đầu cán kiếm là một gói vải đen. Tích Nhân mở ra xem bên trong là cuộn giấy da vàng thếch. Biết đây là bảo kiếm và kiếm quyết của nhà cô gái, Tích Nhân không dám tò mò thêm nữa mà vội đẩy lại. Khi đẩy cái nắp đậy lại, Tích Nhân cũng nghe một tiếng cắc và nắp cái hộp dài nhỏ ngụy trang thành giường liền lặn không biết chỗ nào để có thể mở lại nữa.

Phát hiện tình cờ làm Tích Nhân cau mày, và vội nằm xuống, nhắm mắt. Bên ngoài, xen tiếng gió thổi vi vút, là bước chân người đàn bà tên Năm đi qua, đi lại xê dịch, lục đục trong căn nhà. Không hiểu giả vờ hay ngủ thật, khi người đàn bà tên Năm vào phòng, bà ta phải lay mấy lần Tích Nhân mới mở mắt. Trên chiếc bàn nhỏ bà Năm đã để tô thuốc còn bốc hơi : "Cậu dậy uống thuốc."

Tích Nhân ngồi lên dụi mắt, ngái ngủ : "Đa tạ thím. Nhưng cháu muốn đi... Một chút.". "Bệnh mà đòi đi đâu?"

"Dạ... Dạ đi... Sau khi ngủ dậy ấy mà!". Thím Năm cười : "Mẹ! Đi tè thì nói đi tè, ấp a ấp úng ai mà biết đi đâu!"

Nhưng thím chần chừ : "Cậu chưa mặc áo quần đủ ấm, ra ngoài bị nhiễm hàn, chủ nhân lại trách mắng. Thôi để ta đem cái chậu vào cho cậu."

"Không cần đâu thím Năm! Cháu bị đói lủi mấy ngày cộng với cái lạnh quá sức mới ra nông nỗi. Hôm nay cháu được ăn hai lần cháo, nhất là cháo thịt nữa, thì gió nào cháu cũng có thể chịu được."

"Ừ! Cậu theo ta đi qua cửa nhà bếp sẽ ít bị lạnh hơn."

Tích Nhân xuống giường, theo chân thím Năm. Xuống dưới bếp Tích Nhân thấy một nồi nước to trên bếp lửa và một thùng gỗ lớn chứa nước. Trên chiếc bàn dưới bếp, có mấy miếng thịt tươi, rau cải và mấy gói thuốc. Thím Năm đẩy tấm phên che cửa bếp bảo Tích Nhân : "Cậu có thể tưới lên bụi tre."

"Cháu có thể đẩy tấm phên trở vào, thím không phải chờ cháu."

Một ngày ăn hai lần cháo nước trong người khá nhiều, sau khi rùng mình sảng khoái, Tích Nhân chui trở lại nhà bếp và rón rén như con mèo bước lại bên chiếc bàn mở vội một gói thuốc ra xem. Lướt qua những vị thuốc, Tích Nhân nhanh chóng gói lại rồi chậm chạp trở lại phòng, ngồi xuống ghế bưng tô thuốc đưa lên môi.

Thím Năm trở lại, trên tay có một bộ áo quần đều là vải ngự hàn rất tốt. Cậu uống thuốc xong, chờ nước sôi đi tắm rửa rồi mới thay.

Một người bần cùng nhưng Tích Nhân nhìn bộ đồ trên tay thím Năm cũng không có gì mừng rỡ lắm, mà buồn bã : "Bộ đồ đẹp đẽ cho lắm cháu mặc một thời gian thì cũng rách nát tả tơi thôi."

Thím Năm : "Nhất ẩm nhất trác giai do tiền định. Mai sau thế nào ai biết cho cậu, nhưng hôm nay cậu gặp vận hên thì cứ hưởng cái vận hên của mình."

Tích Nhân cười : "Và thím đang là bà tiên đem cái hên vận này cho cháu."

"Phạm tiên sinh mới là ông tiên biến phép cho cậu, còn tôi chỉ là kẻ làm theo lệnh ông tiên ấy mà thôi."

"Nhưng thím cũng là bà tiên nhân từ, vì nếu thím không muốn giúp cho cháu, thì ông ta cũng có biết được đâu!"

"Tôi thấy cậu cũng đáng thương, đáng giúp, nhưng với Phạm tiên sinh, những gì mà ông đã đích thân sai bảo, ai làm không đến nơi đến chốn sẽ biết ngay."

"Thím là một người rất thành thật."

"Cậu uống thuốc xong, một lúc sau sẽ đi tắm, thay áo quần."

"Cháu tuân lệnh thím."

Như sự sắp xếp của thím Năm, Tích Nhân đã được trụng tóc trong một nồi nước sôi để giết chấy, được ngâm mình trong thùng nước tắm ấm áp. Bộ áo quần rách đầy rận bị thím Năm vứt đi. Sau khi tắm rửa, chải gỡ, thay y phục, thím Năm nhìn Tích Nhân khen ngợi rối rít : "Cậu là một thiếu niên rất đẹp trai. Vài ba bữa nên da nên thịt một chút khó có con nhà quan quý nào bì được cậu."

Bà ta nhìn hàm răng trắng của Tích Nhân : "Hàm răng cậu cũng đều như hạt bắp. Nếu còn ở đây tôi bảo con bé Lan nó nhuộm cho cậu, thì cũng đẹp không khác gì hàm răng của nó."

"Lan tỷ tỷ đẹp lắm phải không?"

"Cậu còn nhỏ hỏi con gái người ta đẹp xấu làm gì? Ta đã trải chiếu trên tấm ván và Phạm tiên sinh cũng đã sai Trần Tứ mang đến cho cậu một chiếc chăn bông mới, cậu có thể ra đó nằm nghỉ."

"Để cháu giúp thím giặt giũ lại giường chiếu cho Lan tỷ."

"Cậu nằm hay ngồi yên trên ván cho ta là được. Nhớ lại con Lan có thể trở về trong ngày mai, ta đã chạy đi nhờ Tổng quản xin phép Phạm tiên sinh đưa cậu ra nhà ngoài mà trong lòng rất lo âu bị la mắng. Cũng may là ông ta đồng ý."

Thím Năm cười : "Cậu chỉ nằm trên giường nó hơn nửa ngày, ta nghĩ ta đem chiếu mền ra ngoài đập cho bay đi bụi đất và chấy rận của cậu dính trên đó là được rồi. Có giặt giũ bây giờ cũng không khô kịp."

"Lan đại tỷ khó tính lắm phải không?"

"Nó cũng rất thương người, chỉ có điều là nó không chịu được dơ bẩn."

"Lan tỷ là cháu ruột phải không? Kêu thím bằng gì?"

Thím Năm có vẻ hãnh diện : "Bằng cô. Ta là em cha nó."

Khi phát hiện bí mật của chiếc giường, Tích Nhân không thể nghĩ một người đàn bà chân chất như thím Năm lại có thể là cô ruột của một cô gái có giấu một cây kiếm quý trên giường nằm. Nhưng thím Năm đã quả quyết như vậy, Tích Nhân không tin không được.

Trong khi thím Năm đem chiếu mền của cháu gái ra ngoài sân đập giũ, Tích Nhân ở trong nhà tháo miếng giẻ bao cây gậy mây đen của mình ra. Cây gậy mây này không phải hoàn toàn bằng mây, mà cán gậy, cái cán bật ra, Tích Nhân lấy một cuộn giấy da dê mỏng trong cán gậy giấu vào áo của mình, còn cây gậy thì vứt xuống gầm ván nằm.

Chiều hôm đó được thím Năm cho ăn một bữa cơm ngon với thịt xào cải và đậu kho. Trong lúc ăn cơm với thím Năm, Tích Nhân lại dò hỏi về người giúp đỡ mình : "Phạm tiên sinh ở gần đây không thím?"

"Ồ! Ông ta ở trong kinh thành, nghe nói nhà cửa rất đồ sộ, nhưng trong nhà lại chỉ có năm ba người làm việc. Ông ta nhân hậu khôn cùng nhưng lại không được trời hậu đãi đường con cháu. Chỉ có một người con trai duy nhất bị tử trận, vợ tiên sinh cũng quá vãng hơn mươi năm qua, hiện tiên sinh chỉ sống với người cháu gái của mình, nghe đâu khoảng mười lăm tuổi. Tiểu thư chưa bao giờ được tiên sinh cho đến quán nên không ai biết tiểu thư thế nào."

"Tại sao vậy thím?"

Thím Năm le lưỡi : "Ta làm sao biết, hoàn cảnh tiên sinh ta cũng chỉ nghe những người làm xầm xì với nhau vậy thôi."

Tích Nhân cau mày : "Kỳ lạ nhỉ! Một tửu quán nổi tiếng của nhà mình mà tiểu thư không bao giờ lai vãng cũng là việc lạ."

Thím Năm nuốt miếng cơm : "Cậu hỏi ta buột miệng nói cho nghe, mai sau nếu ra đường mà nói ta nói như thế này, thế kia về gia đình chủ nhân là câu hại ta đấy nhé. Đoàn tổng quản luôn luôn dặn chúng là chủ nhân là người nhân ái, có lòng với nước, với dân, ưu thời, mẫn thế nhưng ông ta có việc gia đình không mấy vui, mọi người đừng bao giờ làm cho ông ta buồn lòng."

Tích Nhân : "Tiểu điệt.. Ồ, cháu đã nhờ tiên sinh và thím Năm cứu mạng, cháu nhất định không bao giờ làm thím buồn lòng."

Thím Năm : "Cậu coi bộ đã khoẻ nhiều rồi. Ăn xong nằm nghỉ, ta chạy ra xem quán có bận rộn không giúp mọi người một tay."

"Thím được cho nghỉ làm mà!"

"Chúng ta, những người làm công cho quán Tư Bụng coi nhau như anh chị em, coi quán như nhà của mình, ta rảnh rỗi mà người khác làm nhiều hơn ta cũng cảm thấy có lỗi với họ."

Thím Năm dọn dẹp chén đĩa, thắp lên phòng hắn một cây đèn dầu rồi tiếng bước chân của bà xa dần ngoài ngõ.

Trong phòng không còn ai, Tích Nhân lấy cuốn giấy da dê trong người ra đọc và xem xét những hình vẽ một cách chăm chỉ. Tích Nhân đọc qua một lần, bỏ lại vào áo nằm xuống ván nhắm mắt lại. Sau đó ngồi dậy đọc qua một lần nữa rồi xuống bếp, bới bếp lửa của thím Năm mới vùi tro ra ném tập sách da dê mỏng vào bếp than.

Khi tập sách bốc cháy, Tích Nhân đôi mắt đầy lệ quỳ gối : "Gia gia và mẫu thân dưới suối vàng tha thứ cho con đã huỷ đi bí kíp. Phạm tiên sinh đã cứu sống và rất tử tế với hài nhi, nhưng hài nhi thấy ông ta dùng một cây hắc đằng làm gậy. Hài nhi sợ e rằng ông đã nhìn ra cây hắc Đằng Tiên của ngoại tổ và nếu ông có lòng nào con sợ rằng con khó có thể giữ gìn được nó. Bí kíp đã huỷ nhưng tất cả mọi ghi chép đều ở trong đầu con, con sẽ tìm ra ngoại tổ để chữa bệnh, tập luyện võ công và con quyết không để cho kẻ thù có thể sống ung dung với tội ác của chúng."

Cuốn sách da dê đã cháy hết, Tích Nhân vùi tro lại và lên ván nằm nhắm mắt như cố ôn lại lần nữa những gì đã ghi chép trong quyển Đằng Tiên bí kíp và khi đã khuya, thím Năm trở về, mới ngủ thiếp đi.

Đã thành thói quen, trời chưa sáng thím Năm đã dậy dù hôm nay bà ta chưa phải đi làm việc. Sự lục đục của thím Năm dưới bếp vẫn không làm Tích Nhân thức giấc, cậu ta ngủ rất say, mãi khi mặt trời lên cao và thím Năm đã sẵn sàng cho bữa cháo sáng, lại lay gọi mới ú ớ mở mặt.

Thím Năm nhổ miếng trầu ra hàng hiên, cười : "Nếu không nghe cậu thở, tôi lại tưởng cậu chết cóng như hôm qua."

Tích Nhân cũng dụi mắt cười với thím : "Hôm qua cháu chết vì lạnh và đói, còn hôm nay cháu ngủ không còn biết trời trăng vì lâu quá chưa bao giờ cháu được ăn no và ngủ ấm như hôm nay."

"Ta sợ cháo nguội mất ngon nên gọi cậu dậy. Tổ tiên ta trước kia là Tàu, ta ăn cháo bông với dưa hay hột vịt muối đã quen, ta không hiểu cậu sẽ ngon miệng không nhưng buổi sáng ta chẳng biết nấu món nào khác. Nếu cậu không thích, ta chạy ra quán lấy cho cái bánh bao, tô mì hay cái bánh chưng cũng được."

Tích Nhân thở dài : "Thím Năm tưởng cháu là công tử hay sao? Mấy năm nay đó là những món ăn mà cháu chỉ được ăn khi nằm mơ."

Thím Năm vui vẻ : "Vậy thì cậu đi súc miệng rồi ăn cháo đi. Trưa cậu muốn gì ở quán ta ra lấy cho."

"Nếu nói món ăn ở quán thì thứ gì mà cháu chẳng thích, thím muốn cho thứ gì thì cháu ăn thứ ấy."

Thím Năm nghiêm nghị : "Chẳng phải ta cho mà chủ nhân cho cậu. Ngày hôm qua chủ nhân dạy ta nấu các món ăn nhẹ cho cậu, còn hôm nay thì cậu có thể ăn những gì cậu muốn. Tửu quán có luật cho những người làm chúng ta là khi ở trong quán, ngoài những món sơn trân hải vị quá đắt đỏ mà vương tôn công tử mới có thể thưởng thức ra, muốn ăn gì cũng được, nhưng tuyệt đối không được mang về nhà dù là thức ăn thừa. Ta được giao nhiệm vụ săn sóc cậu nên từ hôm nay ta có thể ra quán lấy bất cứ món gì cậu muốn. Không biết cậu được chủ nhân ân đãi bao nhiêu ngày, ta nghĩ cậu cũng không nên quá câu chấp. Chủ nhân muốn cậu khoẻ mạnh, thì cậu ăn uống cho khoái khẩu trong vài bữa cũng chẳng làm cho chủ nhân phải để ý tới."

Tích Nhân chân thành : "Cháu chỉ sợ mình quá lợi dụng lòng tốt của Phạm tiên sinh, nhưng cháu nghĩ nấu nướng cũng bất tiện cho thím, thành ra thím muốn cho cháu ăn gì ở trên quán mang về cũng được. Với cháu tất cả đều là những thức ăn mà lâu lắm cháu chưa từng được ăn."

"Ừ! Thôi để rồi ta liệu lo cho cậu."

Tích Nhân ra sân rửa mặt, làm vệ sinh, rồi ăn một lúc hai bát cháo to. Thím Năm căn dặn gã ở nhà đừng ra ngoài trời để nhiễm thêm bệnh, rồi xách nón đi ra quán Tư Bụng.

Ở nhà một mình, nằm ngồi cũng chán, Tích Nhân muốn vào trong phòng cô gái tên Lan lấy quyển sách của cô ta để đọc xem là sách gì, võ công gì, nhưng rồi lại thấy mình xem trộm vật sở hữu của người khác là điều không nên không phải và dặn lòng không bao giờ làm việc này. Không muốn xem trộm sách, Tích Nhân thấy thì giờ nhàm chán nên tập một số động tác hít thở. Liên tiếp mấy giờ Tích Nhân lập đi lập lại chỉ mười mấy thế, tất cả đều nhẹ nhàng. Có thế lúc đầu hai chân đứng thẳng ngang vai, hai tay để ngang đan điền, hai lòng bàn tay hướng thiên hít vào một hơi dài, sau đó hai bàn tay từ từ đưa lên cao và thở ra, có thế đứng trung bình tấn, hai tay để ngang hông, khi thở ra dang tay trái về bên phải. Những thế luyện tập hít thở nhẹ nhàng tưởng không lấy gì mệt nhọc, nhưng khi Tích Nhân tập mười mấy thế khác nhau trán lấm tấm mồ hôi.

Buổi trưa thím Năm mang về một giỏ thức ăn, một thố mì nóng, hai chiếc bánh, còn một số gói lá, bà ta vui vẻ : "Chủ nhân gởi lời thăm cậu. Ông nói trong ba ngày cậu uống hết ba thang thuốc còn lại, ngày ăn ba bữa thì sẽ mạnh lại như thần và sẽ ra tửu quán gặp ông ta."

Thím Năm để thố mì và hai cái bánh trên bàn cho Tích Nhân : "Ta mang về một con cá hấp, một con gà nướng chiều nay chúng ta cùng ăn cơm. Con nhỏ Lan rất thích gà nướng."

"Lan đại tỷ chiều nay về?"

"Nó nói về trong ngày hôm nay. Bây giờ chưa có mặt thì chiều thế nào cũng về tới."

Tích Nhân ăn xong, xuống bếp thấy thím Năm quạt lửa sắc thuốc nói : "Việc này cháu làm được, hay là thím đi nghỉ để cháu làm cho."

Thím Năm thấy hắn đi đứng vững chải, không khách sáo : "Phạm tiên sinh dặn cứ đổ vào ấm ba chén nước, sắc còn một nếu cậu làm được thì ta đi qua hàng xóm một lúc rồi lấy một ít nước để con Lan về nó dùng."

Tích Nhân sắc thuốc và uống thuốc xong, cảm thấy thời giờ buồn chán lại tập những thế hít thở của mình. Trong lúc hắn đang chú tâm luyện tập thì cửa mở.

Cô gái, Tích Nhân nghĩ ngay rằng cô ta là cháu thím Năm, trạc mười bảy, mười tám tuổi, vai mang một cái túi nhỏ, tóc thắt bím thả trước ngực, môi hồng, răng đen hạt huyền, cặp mắt to đen, thân hình cân đối, trong chiếc váy nâu mộc mạc, tuy nước da sạm nắng vẫn nhìn thấy được nhan sắc mặn mà. Cô gái thấy có người trong nhà tỏ vẻ ngạc nhiên và khó chịu : "Ngươi là ai? Sao lại ở trong nhà ta?"

Tích Nhân vòng tay thi lễ : "Tiểu đệ... Ơ! Em là Tích Nhân vì đói rét nên Phạm tiên sinh và thím Năm có lòng nhân cứu giúp đưa về đây ở tạm."

Cô gái nhìn Tích Nhân từ đầu xuống chân, lớn tiếng : "Ngươi ăn mặc bảnh bao như công tử thế kia mà bị đói rét sao? Hừ!..."

Cô gái đang vặn hỏi thì thím Năm bước vào cửa : "Cậu ấy không nói láo đâu. Phạm tiên sinh đưa cậu ấy về đây cứu sống và mới mua quần áo cho cậu ấy đấy."

Được sự xác nhận của thím Năm nhưng cô gái vẫn cau có : "Tại sao Phạm tiên sinh không đưa gã đến nhà khác, khu đàn ông hay những nhà có gia đình mà lại đến đây?"

Thím Năm : "Tại tên Trần Tứ lẻo mép, khi tiên sinh hỏi nhà ai có phòng trống thì nó đã nói là nhà chúng ta, còn Phạm tiên sinh vì nôn nóng cứu Tích Nhân đang chết cóng nên không quan tâm tới điều gi khác."

Cô gái càu nhàu : "Tên Trần Tứ này thật đáng ghét!"

Cô gái hiểu ra Tích Nhân không phải vô cớ đến nhà mình, càu nhàu tên Trần Tứ một câu rồi vào phòng mình.

Tình cờ phát hiện thanh kiếm quý giấu bên thành giường cô gái, Tích Nhân hiểu cô ta không muốn có người lạ mặt ở trong nhà là điều dĩ nhiên. Tuy nhiên cũng không khỏi cảm thấy rất buồn và tủi thân.

Thím Năm có lẽ thấy sự áy náy này, nói nhỏ vào tai : "Cậu đừng để tâm, Lan nhi cũng rất giàu long nhân ái, một hai hôm nó sẽ thân mật với cậu ngay."

Thím Năm an ủi hắn câu này rồi vội đi vào phòng và đóng chặt cửa lại. Bà ta và cô gái xầm xì nói chuyện với nhau, Tích Nhân không nghe được hết nội dung, nhưng thỉnh thoảng nghe tiếng thím Năm la khẽ hay nhắc lại những tiếng tiểu thư và ngược lại cô gái khi lớn tiếng không có vẻ gì thím Năm như người cô ruột của mình.

Cử chỉ của thím Năm và cô gái làm Tích Nhân buồn tủi một phần, một phần thấy họ có nhiều chuyện cần phải thảo luận với nhau và sự hiện diện của mình là một sự trở ngại, nên Tích Nhân cúi xuống ván lấy cây gậy mây mở cửa bước ra ngoài. Dù gió đông lạnh lẽo, nhưng đang mặc bộ đồ mới và dưới chân cũng có đôi giày vải, Tích Nhân không cảm thấy lạnh lắm, lần bước đi ra bờ sông.

Bến thuyền vào buổi chiều đông lạnh lẽo vẫn đông đảo, chiếc rời bến, chiếc cập bờ, người lên kẻ xuống, tiếng hô hoán, thúc hối nhau inh ỏi, và cả tiếng chưởi rủa tục tằn. Lần bước theo bến thuyền một lúc lâu, Tích Nhân đến gốc cây đa mọc doi ra bờ sông, nơi này hơi vắng vẻ, có lẽ vì cảnh sắc âm u của nó. Dưới chân gốc cây người ta vất bình vôi bể thành đống, có người lập một chiếc miếu nhỏ đóng bằng ván trên thân cây và dù hương tàn khói lạnh nó cũng tạo cho gốc đa trở thành một nơi có chút huyền bí, ít người lai vãng khi trời đã về chiều.

Tích Nhân ngồi xuống một nhánh rễ to của cây đa nổi lên trên mặt đất bên cạnh một ổ rơm nhỏ thở dài : "Gốc đa ơi gốc đa, hai đêm rồi ta đã không nằm đây. Dù có lạnh ta vẫn cảm thấy thoải mái nhiều hơn nằm trong nhà của người ta ngươi có biết không? Ngươi cũng biết không, mấy ngày liên tiếp ta không xin được đồng nào, cũng không ai cho ta chút gì để ăn, thành ra đêm kia ta nằm chết cóng trên hàng hiên quán Tư Bụng! May mà ông chủ, Phạm tiên sinh đã cứu và hai ngày nay ta đã được ăn no mặc ấm. Tuy vậy, ta cũng không thể ở lâu hơn được. Ngày mai ta phải tạ ơn người ta rồi ra đi, ta cũng sẽ không trở về đây với ngươi nữa mà phải đi lên tận niềm Bắc xa xôi để tìm ngoại tổ ta."

Tích Nhân nhấc những chiếc bình vôi bể bên cạnh ổ rơm để sang một bên, nhấc hơn mười mấy cái như vậy mới lấy ra một cái bình tròn và rút một gói vải. Nếu ai nhìn thấy những vật trong gói vải không thể nào ngờ gã thiếu niên suýt chết đói lại có nhiều ngọc ngà vàng bạc như vậy. Tích Nhân lấy ba viên ngọc và mấy miếng vàng, vài đỉnh bạc bỏ vào áo còn tiền đồng thì ngồi ném từng miếng xuống sông : " Mẫu thân! Người vừa bị nội thương trầm trọng vừa dẫn hài nhi bôn ba trốn tránh thù nhân, tìm thuốc trị bệnh cho hài nhi, khi không thể chịu đựng được nữa phải theo gia gia, vẫn để lại cho hài nhi một số tiền mà không phải làm gì đi nữa hài nhi vẫn thể có thể sống cho đến khi khôn lớn. Nhưng mẫu thân đâu ngờ đứa con mười mấy tuổi của mẫu thân mỗi khi lấy một đỉnh bạc đi đổi tiền để mua thức ăn chẳng những không lấy được tiền mà còn bị một trận đòn thừa sống thiếu chết. Mấy lần như vậy hài nhi chẳng còn dám nghĩ đến việc đem bạc đi đổi nữa. Năm ngoái đói quá, hài nhi đành liều đem một đỉnh bạc đi đổi, lão tiệm bạc này cũng nhân đạo không đổ tội ăn cắp để giật của hài nhi như người khác mà cho hài nhi hơn hai quan tiền! Hà! Không ngờ ngày hôm sau người ta chỉ dùng tiền thông bảo, ai dùng tiền đồng thì bị bắt phạt, tù tội, thì từ đó đến nay đã hơn năm, đứa con của mẫu thân đành phải làm kiếp ăn mày, đầu đường xó chợ."

Tích Nhân cười chua chát : " Nếu hài nhi đem những đỉnh vàng, đỉnh bạc này ra cho người ta thấy được thì hài nhi chỉ chịu thêm những trận đòn chí tử mà không bao giờ dám đánh trả! Làm thân côi cút không cha không mẹ trong thời đại nhiễu nhương này thật là khổ sở trăm bề!"

Ném hết những đồng tiền đồng và bạc vụn xuống sông, Tích Nhân đứng lên cúi đầu với cây đa : "Đa tạ lão gia gia đã che mưa che nắng dỗ ta giấc ngủ bình yên hơn năm qua. Ngày mai ta phải ra đi. Đường lên Công Mẫu sơn đầy dẫy lam sơn chướng khí, độc xà, hổ báo.. mẫu thân căn dặn chờ tìm Chu sư bá ở quán Tư Bụng, hàng năm ông ta thường đến đây thưởng thức món ăn Thăng Long uống rượu, nhưng ta chờ đợi đã hơn một năm qua mà chẳng thấy người nào râu quai nón, mắt to, đen như Trương Phi mà mẫu thân đã tả. Ông Phạm tiên sinh tốt bụng cứu ta mới đây biết đâu là anh em hay cũng có bà con gì với lão Phạm Cự Luận, mưu sĩ thân tín của Quý Ly và nếu vậy ta khó lòng thoát chết!"

Tích Nhân dấu cây gậy dưới ổ rơm rồi thong thả trở về nhà thím Năm. Lúc bấy giờ vẫn chưa khuya lắm. Gõ cửa một lúc không nghe tiếng thím Năm hay cô gái mở cửa, Tích Nhân đẩy cửa vào nhà chân tay chợt bủn rủn. Trong nhà đồ vật đổ ngổn ngang, thím Năm máu me đầy người nằm sóng soài dưới đất chết tự bao giờ. Ngọn đèn dầu leo lét trên bàn giúp cho Tích Nhân thấy bà ta bị một lưỡi kiếm hay đường đao thật bén và mạnh chém phăng đứt cả bả vai và lồng ngực.

Hốt hoảng giây lát Tích Nhân lấy lại bình tỉnh, rồi cảm thấy tức giận đẩy cửa phòng cô gái bước vào. Định ninh cô ta là thủ phạm, nhưng bước vào phòng, Tích Nhân thấy mọi thứ đều bị lật tung cả lên, áo quần, tiền bạc vung vãi khắp nơi. Chạy vào phòng thím Năm, Tích Nhân cũng thấy tình trạng như trong phòng cô gái.

Suy nghĩ giây lát, Tích Nhân qua phòng cô gái sờ mó theo thành giường và cuối cùng cũng đã tìm ra cách làm cho miếng ván bật ra. Trong hộp gỗ nhỏ ngụy trang ở thành giường, cây kiếm và cuốn sách bọc vải vẫn còn. Rút thanh kiếm khỏi vỏ Tích Nhân nghe hơi lạnh tuôn ra, lưỡi sắt bén, kiếm mỏng mà nặng chình chịch, hai bên chạm hình rồng lượn theo mây rất sống động.

"Đây có lẽ là thanh Vân Long kiếm từng nghe nói!"

Rất muốn lấy cây kiếm, nhưng biết mình chẳng có võ công cao, mang theo chỉ gây tai họa nên Tích Nhân lấy quyển sách cho vào áo, và tự nói : "Vân Long kiếm! Không ngờ cô gái và thím Năm có liên hệ với Vân Long kiếm phái, một môn phái lừng danh ở Đại lý và trung nguyên từ mấy trăm năm trước."

Tích Nhân bỏ kiếm lại trong hộp, đóng lại và nói như nói với thím Năm hay cô gái trước mặt : "Có bảo kiếm mà không biết sử dụng thì cũng chẳng hơn thanh kiếm thường là bao nhiêu. Nếu kẻ gian đến đây giết người vì bảo kiếm và kiếm phổ, thì Tích Nhân tạm giữ kiếm phổ, không để chúng được toại nguyện. Sau này cô gái còn sống và gặp lại, Tích Nhân này sẽ trả lại cho cô ta."

Trên nền phòng, giường chiếu cô gái đó đây năm bảy tờ giấy bạc con rồng, con lân, con phượng, những đồng bạc mà Tích Nhân chỉ nghe nói chứ chưa bao giờ được nhìn thấy. Tích Nhân lượm số bạc giấy, cả những tờ mười đồng, ba mươi đồng đều lấy hết cho vào áo.

Ra phòng ngoài, Tích Nhân quỳ gối trước xác thím Năm : "Cảm tạ thím đã săn sóc cháu trong hai ngày qua, sau này biết ai là kẻ hại thím cháu nhất định trả thù cho thím."

Lấy ra một đỉnh vàng đặt bên cạnh thím Năm, Tích Nhân nói : "Hy vọng số vàng này cũng đủ cho số tiền mà cháu lấy trong phòng Lan tỷ và cất giữ để đi đường, cũng như tỏ chút lòng, giúp trả chi phí tống táng mà Phạm tiên sinh sẽ lo cho thím."

Lạy thêm ba lạy, Tích Nhân nhẹ mở cửa ra ngoài. Người trong khu nhà dành cho nữ nhân độc thân có lẽ đều còn đang làm việc ở quán Tư Bụng nên nhà nào cũng cửa đóng, tối om không đèn đuốc. Tích Nhân chui giậu tre ra ngoài đồng, băng lau lách ra bờ sông đến chỗ gốc đa lấy cây gậy, rồi men theo bờ sông mà đi, đến nửa khuya, gặp một chiếc thuyền câu cột dựa bờ, Tích Nhân ngó quanh rồi lên thuyền tháo giây, cầm chèo bơi sang bờ Bắc. Nước sông Thao qua mùa đông đã cạn nhiều nhưng vẫn là con sông rộng lớn mênh mông, sóng gió ba đào, Tích Nhân bặm môi cố sức chèo, nhưng sức yếu cũng không phải là người biết bơi nên thuyền cứ trôi vùn vụt theo giòng nước và mãi đến sáng hôm sau mới tấp được vào một nơi lau sậy um tùm. Tích Nhân cột thuyền vào một bụi lau, nhưng nghĩ lại thấy đây là điều sơ hở, dễ làm cho người ta chú ý nên tháo ra và đẩy ghe ra sông cho trôi đi. Chờ chiếc thuyền câu trôi đi thật xa, Tích Nhân băng lau sậy nhắm hướng Bắc mà đi.

Khuya hôm đó Trần Tứ sau khi làm việc xong, định lợi dụng thăm hỏi Tích Nhân đến nhà thím Năm để gặp cô gái rồi thấy sự tình đã hô hoán lên. Đoàn tổng quản nghi ngờ Tích Nhân đã giết bà ta nhưng đã khuya ông ta không thể báo cho Phạm tiên sinh. Buổi sáng hôm sau Phạm tiên sinh và giáp quan dẫn lính đến. Sau khi quan sát mọi thứ trong nhà, biết cô gái tên Lan chiều hôm qua cũng đã về nhà, nhiều người trong quán Tư Bụng cũng biết cô ta có chút ít võ nghệ nên Phạm tiên sinh góp ý với viên quản giáp việc giết người có hai kẻ đáng nghi ngờ là cô gái tên là Đoàn Nhã Lan và cậu bé ăn xin không biết tên.

Quản giáp báo lên huyện quan, huyện báo lên phủ thông tư đi các nơi truy tầm hai kẻ nghi can. Đêm đến Phạm tiên sinh mặc đồ dạ hành bí mật đến nhà thím Năm, ông đã xem xét tỉ mỉ mọi ngã ngách để hy vọng biết hung thủ là ai, nhưng ông ta cũng không tìm thấy trong thành giường của Đoàn Nhã Lan có cây kiếm quý. Tìm không ra manh mối nào Phạm tiên sinh thở dài : "Không biết thằng bé bây giờ ở đâu? Cây gậy ta không nhìn kỹ, nhưng nhất định là cây Đằng Tiên của lão nhân gia, người đã cứu giúp ta khi đi du lãm bị rắn độc cắn và sa xuống hố gãy xương ở núi Tam Thanh. Ông ta đã cứu ta thoát chết, chữa lành chân gãy và truyền cho một ít nội công tâm pháp và tiên pháp phòng thân cũng kể như sư phụ. Gặp cậu bé, hy vọng nếu là con cháu của lão nhân gia thì tận tình giúp đỡ, đào tạo và gả Thanh Thanh cho để đền ơn muôn một. Không ngờ bây giờ không biết cậu ta ở đâu! Với đường kiếm giết hại bà Năm thì không thể nào là cậu ấy được! Nhưng cậu ta mất tích thì trước cửa quan không thể không coi là người bị nghi ngờ. Xin trời phù hộ cho cậu ta bình an."

Tích Nhân đã nghi ngờ và bỏ đi là một điều sai lầm. Phạm tiên sinh tên là Phạm Thừa Du, từng đậu tiến sĩ cập đệ, không bà con liên hệ gì với Phạm Cự Luận, mà kết giao với những người có lòng trung quân ái quốc, nhưng riêng Phạm Thừa Du khi thấy thế nước đã quá đảo điên, ngay Tư Đồ Trần Nguyên Đán, một người tông thất có tài hưng bang kiến quốc mà cũng chỉ lo nghĩ đường bảo toàn, từ quan ở ẩn, làm sui gia để mua lòng Quý Ly, bảo vệ tương lai con cháu, thì Phạm Thừa Du không quan tâm đến thời thế nữa, chỉ lo duy trì quán Tư Bụng, làm việc nghĩa, tế khốn cứu bần. Sau khi con trai và vợ qua đời, Phạm Thừa Du càng xa lánh bạn bè, gác tất cả thế sự ngoài tai. Hồ Quý Ly đã từng cho người theo dõi, thấy ông ta chẳng chịu giao thiệp với ai, đóng cửa từ khách, hàng ngày dạy cháu, thăm hoa nên không còn chú ý.

Hồi 2 : Gần Gũi Nữ Nhân

Tích Nhân qua sông băng lau cỏ nhắm hướng Bắc tìm ra đường lộ, đang vạch lau lách mà đi, tình cờ thấy một ổ chim có sáu bảy trứng, không biết ổ chim gì, trứng to như trứng gà. Từ chiều hôm đến sáng mệt nhoài và chưa ăn uống, Tích Nhân đập hút ba trứng rồi la thầm ra đường lúc này có phải để cho Phạm tiên sinh dễ dàng tìm thấy hay sao? Thế là Tích Nhân ngó quanh tìm cây cao và đổi hướng đi đến đó. Đến gốc cây Tích Nhân đẩy rạp lau cỏ xuống làm chỗ nằm, tỏ vẻ khoái chí :

- Ta có thể ở đây tìm trứng, săn chim, bắt cá mà ăn. Trốn tránh vài ngày là thượng sách. Hơn nữa, mang theo trong người một quyển kiếm phổ là thêm nguy hiểm, chi bằng đọc cho thuộc, mai sau còn sống có gặp cô gái tên Lan kia truyền lại cho nàng cũng không có gì có lỗi.

Tích Nhân nằm xuống cỏ lấy quyển sách ra đọc và rất lý thú vì quyển sách mỏng, chữ viết nhỏ nhưng đồ hình thì rất rõ ràng, ngoài bảy mươi hai đường Vân Long kiếm pháp, còn có Càn Long thần công.

Tích Nhân đọc qua quyển bí kíp thở dài :

- Không ngờ cô gái tên Lan kia lại có lai lịch lớn như vậy. Theo mẫu thân kể lại, chùa Vân Long năm xưa là chùa trấn quốc của Đại Lý, sau khi Đoàn Trí Hưng đầu hàng nhà Nguyên, con cháu chạy tứ tán, thì có lẽ cô gái là cháu chắt gì đó của hoàng gia họ Đoàn. Đáng tiếc, Càn Long thần công chí dương chí cương, nam nhân thuần dương cũng phải tốn năm sáu chục năm mới luyện thành, còn phụ nữ tập luyện chẳng tiến bộ đã đành mà sẽ mất hết nữ tính. Cô gái kia đúng là có báu vật mà chính mình không thể sử dụng được. Bây giờ ta không ngạc nhiên nữa và hiểu ra vì sao cô ta lại có ngôn ngữ và cử chỉ không được dịu dàng mà một người con gái xinh đẹp như cô ta phải có.

Tích Nhân đọc đi, đọc lại, khi thì nhắm mắt nằm im lặng. Chiều đến, cậu bẻ bứt một đống cỏ lau, để ý đến đến những con chim le le, vịt nước bay đáp chung quanh, ăn sống ba quả trứng còn lại, rồi lấy sách gối đầu, lấy lau cỏ phủ lên người nằm lăn ra ngủ. Thật trớ trêu, Tích Nhân mới nhắm mắt một lúc trời đổ mưa phải choàng dậy. Mưa mỗi lúc một lớn, Tích Nhân ướt hết mình mẩy nên lấy những đồng bạc giấy kẹp vào quyển sách giấu vào ngực và ngồi cúi đầu chịu trận. Những giọt mưa lạnh như cắt thấm ướt da thịt làm Tích Nhân run lên cầm cập và suy nghĩ ngày mai phải đi tìm chỗ trú ngụ, một căn nhà hoang, một căn miếu cũ để nằm qua đêm tốt hơn là ở dưới gốc cây.

Không đợi sáng, mưa còn rả rích, Tích Nhân cảm thấy quá lạnh. Hai hàm răng tự động đánh nhau cầm cập, tay chân tê cóng run rẩy nên quyết định đứng lên băng mưa mà đi, dù sao đi đứng sẽ bớt lạnh hơn ngồi một chỗ. Đêm tối như bưng, chung quanh lau sậy, cỏ dại cao ngập đầu, Tích Nhân như con thú hoang lạc, một tay chống gậy, một tay run rẩy vẹt lau cỏ lần bước! Đi một lúc đến được một nơi trống trải và thấy xa xa có ánh lửa, vui mừng nhắm hướng đi tới.

Đường đi bấy giờ không còn lau sậy ngập đầu, nhưng cỏ cũng cao quá gối, có nơi cồn, có chỗ rạch, Tích Nhân vấp té không biết bao nhiêu lần, sức lực càng thấy kiệt quệ, tay chân như không nhấc nổi, nhưng mỗi lần như vậy Tích Nhân lại cắn răng cố sức ngoi ngóp bò lên đi tiếp, mình mẩy đầu tóc lấm lem. Cuối cùng cũng lê lết đến được một túp lều tranh xiêu vẹo trên một cồn đất cao, trước cửa có người đã chất cây đốt lửa, lửa còn cháy âm ỉ và còn phảng phất mùi thịt nướng, nhưng chung quanh và trong lều không thấy có ai. Tích Nhân đẩy những khúc gỗ lại bên nhau cho ngọn lửa bốc lên để sưởi ấm. Qua ánh lửa, lại thấy dưới mặt đất vung vãi đó đây, chỗ này một cánh gà, chỗ kia một đùi chó dù đã có người ăn, gặm qua nhưng vẫn còn chút ít thịt. Quá đói, Tích Nhân gom góp những mẫu xương vứt đó đây lại chùi bụi đất lên áo rồi vừa ăn, vừa sưởi ấm, và bấy giờ tai Tích Nhân cũng nghe tiếng gà gáy sáng từ xa vẳng tới. Quá mệt mỏi, gặm hết những mẫu xương vun, Tích Nhân dựa lưng vào vách và ngủ gục lúc nào không hay biết.

Tích Nhân phải nhảy nhỏm vùng dậy vì một ngọn roi quất sả lên người, vừa mở mắt một ngọn roi thứ hai đã bổ lên đầu. Tích Nhân lăn tròn tránh được ngọn roi thứ ba, nhìn lại người đánh mình là một ông già độ năm sáu mươi và nghe ông ta la hét :

- Thì ra ăn cắp gà chó trong xóm mấy bữa nay là ngươi! Con ai coi bộ áo quần lành lặn mà trộm đạo thế này, ta phải bắt ngươi về cho hàng xóm xét xử.

Biết mình bị nghi oan, nhưng nghĩ khó lòng biện bạch, Tích Nhân bốc cây gậy lên vùng chạy, vừa chạy vừa la :

- Cháu không phải là người trong xóm cụ. Một mình cháu làm sao bắt chó cho được? Cụ nghĩ lại có đúng không? Bắt chó đem ra đây làm thịt phải có một bọn ba bốn đứa mới có thể làm được!

Ông cụ rượt theo :

- Ta bắt tại trận ngươi còn chối! Xóm ta lâu nay bình yên đâu có trộm cắp gì, thế mà mấy hôm nay hết người này bị mất gà đến kẻ kia mất chó! Bắt được ngươi sẽ tìm ra đồng bọn của ngươi.

Tích Nhân nhắm con đường nhỏ, chạy thục mạng, vừa chạy vừa la, con ông già cũng vừa đuổi theo vừa la hét. Thấy khó chạy thoát với ông lão, Tích Nhân dừng chân đứng lại, cầm gậy thủ thế, làm bộ mặt cứng rắn :

- Tôi thấy ông hiểu lầm nên bỏ chạy chứ không phải sợ ông đâu. Có ngon thì xông tới nữa tôi sẽ cho biết tay!

Ông lão vốn là một người cùng khổ trong xóm phải ra chỗ hoang vu dựng lều phát đất làm rẫy, thấy Tích Nhân ốm tong và tưởng là kẻ trộm muốn bắt về xóm lập công, nhưng khi hắn quay lại quyết ăn thua đủ, và nhìn lại hắn dù thân hình ốm tong nhưng cao nghều, mặt mày bùn đất loang lổ, cầm cây gậy đen thui, lão nghĩ mình nhào tới có đánh bắt được tên trộm trước mặt thì nó cũng đánh lại mình sưng đầu, sưng tay nên chùn lại :

- Hừ! Ngươi ăn trộm còn dám đánh lại ta?

Tích Nhân nghiêm giọng :

- Tôi không có ăn trộm. Ông đã vô cớ đánh tôi hai roi, tôi bỏ chạy ông còn đuổi theo, thì tôi phải tự vệ vậy! Chung quanh đây chẳng có ai, ông chẳng có ai giúp thì đừng nghĩ đến chuyện bắt tôi.

Tích Nhân bỗng tung mình lên cao, cây gậy tung ra mấy đòn vùn vụt, hạ chân xuống đất cười :

- Ông thấy võ nghệ tôi cũng đủ dùng để phòng thân đấy chứ!

Ông cụ, từ nhỏ đến lớn chăm chỉ trên những mảnh đất, sống với con trâu, cái cuốc, trời đông lạnh mà vẫn phải mặc áo cụt, quần đùi, thấy Tích Nhân có võ nghệ như vậy thì ngán sợ, quay lưng bỏ đi nói với lại một câu cho đỡ tức :

- Có võ nghệ để đi bắt gà bắt chó à! Hừ! Nghĩ lại cũng chẳng phải gà chó gì của ta! Ngươi đi đi!

Ông cụ bỏ đi, Tích Nhân nhìn quanh chẳng biết mình đang ở chổ nào, không hiểu phải đi về đâu để ra đường lộ nên lại gọi ông lão lại :

- Lão trượng! Xin lão trượng đừng giận, cháu không phải là người ở gần đây để ăn trộm gà chó trong xóm lão trượng. Thấy lão trượng tức giận quá mới vô phép như vậy mà thôi. Cháu người Quốc Oai, đến Đông đô thăm viếng. Hôm qua đi chơi thuyền mê mãi, thuyền bị lật mới trôi dạt tới đây, khi băng qua rặng lau, thấy lều của lão trượng có ánh lửa nên mới tới trốn lạnh mà thôi. Nếu lão trượng giúp cháu, chỉ đường đi ra quan lộ, cháu sẽ đền ơn xưng đáng.

Ông lão quay lại :

- Ừ nhỉ! Nghe tiếng nói của cậu không phải là người vùng này. Có thể bọn bắt gà bắt chó là bọn du côn ở làng dưới không chừng! Xin lỗi đã đánh cậu mấy roi. Cậu muốn ra đường lộ, cứ lối mòn này, qua khỏi mấy cái gò đất, rẽ vào con đường chênh chếch về phía Tây, qua cánh đồng sẽ tới xóm tôi. Xóm tôi cheo leo giữa ruộng và đầm lầy chỉ có ba chục nóc gia nên cũng không có đường sá gì nhiều. Từ xóm tôi theo con đường đê độ vài dặm, đến rừng tre, qua khỏi rừng tre là chợ và đường quan lộ. Từ đó cậu có thể hỏi thêm đường.

Tích Nhân cung tay :

- Cảm tạ lão trượng chỉ dẫn. Mùa đông giá rét lão trượng phải ra lều làm việc, áo cụt quần ngắn chắc lão trượng cũng không khá giả gì, cháu xin tăng lão trượng chút ít để tỏ lòng biết ơn.

Nói xong Tích Nhân cho tay vào túi lấy ra một đỉnh bạc xuống đường, rồi cấm cổ chạy. Ông lão nhìn đỉnh bạc sáng lấp lánh nằm trên lối mòn, mồm há hốc không tin nổi mắt mình. Ông ta tiến lại cầm đỉnh bạc lên sững sờ và cảm động nhìn Tích Nhân đang chạy mỗi lúc mỗi lúc mỗi xa và khuất lấp sau các hàng cây, bụi cỏ.

Chạy được một lúc thấy bên đường có một hồ nước nhỏ, dù biết xuống nước cũng như mặc bộ áo ướt sẽ rất lạnh, nhưng bộ đồ đang mặc cũng chẳng phải khô khan gì mà bùn đất dính đầy, nên Tích Nhân dừng chân, để quyển sách da trong có tiền giấy trên bờ cỏ, cởi quần áo ra giặt và rửa sơ mình mẩy, mặt mũi.

Mặc lại bộ đồ ướt, cơn lạnh lại làm hai hàm răng đánh nhau cầm cập, Tích Nhân khum người theo con đường mòn giữa hai bờ cỏ dại cây thưa chạy khập khểnh về phía trước. Qua khỏi mấy cồn cây cao có cái ngã ba, nhưng vì cơn lạnh, vừa chạy vừa run không để ý nên vẫn theo con đường trước mặt.

Khi ra đồng trống thấy xóm làng nằm về chênh chếch về hướng Tây, nhưng cũng thấy phía trước có mái nhà, hàng tre nên không đổi hướng dù thấy con đường bây giờ rất nhỏ, cây cỏ mọc cao tới đầu, lan ra gần che kín một ngã quẹo của con đường che khuất bởi cỏ cao và một bụi cây, Tích Nhân suýt đụng một người. Đấy là một nữ nhân. Vừa chợt thấy có người và cũng thấy cả đôi mông trắng tròn của nữ nhân sau bụi cây, Tích Nhân nhảy thối lui lại. Còn nữ nhân thì hấp tấp phủ váy đứng dậy, đỏ mặt la :

- Tiểu quỷ ngươi ở đâu tới vậy?

Tích Nhân lấy tay chỉ phía mình từ đó đi tới, ngỏ lời xin lỗi :

- Cây bụi che khuất không nhìn thấy, không nhìn thấy gì cả xin đại tỷ tha thứ cho.

Nữ nhân chợt cười :

- Ai mà biết ngươi thấy hay không thấy!

Tích Nhân nhắm mắt :

- Thật tình chẳng thấy gì cả.

Nữ nhân quát trong tiếng cười khúc khích :

- Thôi đi đi, chẳng lẽ đứng ì ra đấy?

Tích Nhân bịt mũi rón rén đi qua. Nữ nhân ngồi xuống đường trở lại và một giây sau đứng dậy đi theo, gọi Tích Nhân :

- Cậu kia! Ngươi là ai? Từ đâu tới đây vậy?

Tích Nhân dừng chân, quan sát nữ nhân, thấy đó là một cô gái hay thiếu phụ độ trên hai mươi tuổi, nước da trắng ngà, mắt phượng mày ngài, môi hồng răng trắng, Tích Nhân không ngờ nơi hoang dã lại có một người xinh đẹp như vậy.

- Dạ, em là Tích Nhân, bị đắm thuyền hôm qua, bò được lên bờ rồi theo đường này đến đây định hỏi thăm đường ra quan lộ.

- Ngươi lễ phép lắm đấy! Sông nước mùa này bị đắm thuyền mà còn sống là may mắn lắm! Người ngươi ướt hết thế kia không lạnh sao?

- Em đang lạnh muốn chết đây chứ, nhưng giữa chốn hoang vu đành phải cố chịu.

Cô gái tỏ lòng thương hại:

- Nếu vậy vào nhà ta hơ lửa cho khô áo quần rồi mới đi. Từ đây ra chợ tới mấy dặm, ngươi mặc áo quần ướt sẽ bị bệnh!

- Đại tỷ có lòng như vậy thì quý hoá quá. Tích Nhân đợi, lách mình nhường đường cho cô gái đi trước rồi rảo bước theo sau.

Nhà cô gái nằm riêng biệt trong một khu vườn rộng, có hàng tre bao quanh và trong vườn trồng nhiều cây ăn trái, cách xóm nhà mấy chục nóc gia ở phía Tây một cánh đồng cỏ ngập nước độ trên nửa dặm. Trước cửa là hàng dậu trúc cắt xén quá đầu. Cửa cổng là những thanh gỗ đóng lại với nhau. Giữa một nơi heo hút đồng lầy mông quạnh, một ngôi nhà như thế này cũng nói lên sự khá giả của chủ nhân. Cô gái đẩy cổng, hai con chó to lớn nằm trước sân thấy người lạ nhỏm lên sủa inh ỏi, cô ta phải la mắng mấy lần mới cụp đuôi lại nằm yên.

Ngôi nhà của cô gái có hai căn riêng biệt. Căn nhà lớn ba gian hai chái, vách đất, lợp ngói, tương đối rộng lớn, và có vẻ cổ kính, các cánh cửa lớn, cửa sổ đều bằng gỗ và khép kín. Căn nhà bên cạnh lợp tranh, cất tụt về phía sau và cách nhau một khoảng sân rộng.

Cô gái mở cánh cửa giữa căn nhà lớn :

- Ngươi vào trong ván ngồi nghĩ. Ta xuống bếp thổi lửa lên cho.

Tích Nhân đã lạnh quá không khách sáo bước vào nhà trốn gió. Ngồi trên ván Tích Nhân nhìn quanh thấy trong nhà có hai bàn thờ, bàn thờ giữa nhà chiếm gần nửa căn, bàn thờ trên đầu bộ ván còn thắp hương, treo khăn tang, bên cạnh cắm một cây trường thương và trên vách tường treo một cây cung.

Một lúc cô gái từ nhà trong bước ra :

- Lửa đã cháy, ngươi theo ta xuống bếp mà sưởi ấm.

Gian nhà bếp của cô gái lẽ chiếm hết một phần ba căn thứ hai nên khá rộng. Bên trong, ngoài giàn bếp được xây lên cao vừa ngươi đứng, còn có bàn ghế, tủ chén... lửa trong bếp đang cháy và cô gái cũng bắc trên đó một nồi cháo, bảo :

- Ngươi đứng bên cạnh bếp hơ lửa, muốn thì cởi áo ra hong cho mau khô, vừa sưởi vừa canh chừng nồi cháo để ăn. Ta nghĩ ngươi rất đói.

- Đại tỷ tử tế quá.

- Giúp người, trời giúp lại mình. Gia gia và trượng phu của ta bao giờ cũng dạy thế.

- Đại huynh đi vắng?

Thiếu phụ thở dài :

- Kiệt huynh mất đã ba năm qua.

- Ồ! Xin lỗi đại tẩu.

- Sao lại xin lỗi ta?

- Nhắc lại chuyện buồn cho đại tẩu.

- Ngươi nói chuyện thật dễ thương. Ta tên Hà, ngươi cứ gọi ta là chị Hà. Cháo ta đã bỏ gia vị trước rồi, có cá kho trên bàn ngươi tự nhiên, ta ra ngoài cho gà, cho lợn ăn và làm vườn.

Tích Nhân thấy thiếu phụ bước đi gọn ghẽ, biết nàng ta có võ công. Tích Nhân chờ cháo chín, lấy bát múc vừa thổi vừa ăn. Bụng được no người được sưởi cảm thấy khoẻ hẳn ra. Ăn no, Tích Nhân không thấy thiếu phụ trở vào, cởi áo hơ, áo khô lấy choàng quanh người, hong quần. Khi cả hai đều khô ráo, Tích Nhân đẩy cửa ra ngoài. Nghe tiếng động ở phía sau vườn, Tích Nhân bước ra thấy thiếu phụ tên Hà đang lom khom nhổ cỏ mấy luống rau. Xa trong vườn nhiều cây trái Tích Nhân thấy có một căn nhà nhỏ, cất theo kiểu nhà sàn, có lẽ là nhà kho hay lẫm lúa. Gần đó có một chuồng lợn ba bốn con. Nghe bước chân hắn, thiếu phụ không ngưng tay làm việc mà hỏi :

- Cậu đã ăn cháo chưa? Muốn đi phải không?

Tích Nhân :

- Cảm ơn đại tẩu đã giúp đỡ, tiểu đệ xin cáo từ.

Thiếu phụ ngưng tay đứng lên :

- Cậu phải đi thì ta ra mở cửa cổng cho. Cứ theo con đường trước cửa nhà đi qua khỏi xóm, theo con đê mà đi sẽ đến chợ.

Tích Nhân :

- Xin được biết rõ phương danh của đại tẩu để ghi nhớ trong lòng.

- Ta tên Hà, Hoàng thu Hà, cố phu là Trần Kiệt, người giang hồ gọi là thiết thương Trần Kiệt.

- Nhờ Trần đại tẩu chiếu cố mà tiểu đệ mới không còn thấy lạnh như cắt da nữa.

Thiếu phụ quan sát Tích Nhân từ chân lên đầu :

- Ta thấy ngươi ốm tong teo, nước da xanh mét hình như là đói bệnh lâu ngày!

Tích Nhân thở dài:

- Tiểu đệ không giấu gì đại tẩu, cha mẹ tiểu đệ mất sớm, tiểu đệ sống rày đây mai đó, đói khát bất thường. Hôm qua ở cửa Đông thành bị người hà hiếp, đánh cắp một chiếc thuyền câu đào tẩu rồi sóng nước xô dạt đến đây.

- Thì ra vậy!

- Ngươi định đi đâu?

- Tiểu đệ định đi lên phủ Lạng Sơn tìm người thân.

Thiếu phụ lộ vẻ mừng :

- Ồ! Ta cũng vốn người phủ Lạng sơn, người thân ngươi là ai, ở nơi nào?

- Tiểu đệ chỉ nhớ mẫu thân dặn đi tìm người cậu là Chu Tích Cương, nhưng không biết ở đâu.

Thiếu phụ lẩm bẩm :

- Chu Tích Cương! Hình như ta có nghe qua cái tên này. Lạ nhỉ! Ta chẳng biết là ai, nhưng cái tên thật là quen.

Thiếu phụ bỗng đề nghị :

- Đường lên đất Lạng mùa này nguy hiểm khôn cùng. Hay là ngươi ở lại đây! Ta đang định hết mùa đông này trở về nhà thăm cha mẹ. Là goá phụ lại để một nam nhân trong nhà cũng có thể gây ra dị nghị, nhưng ngươi chỉ đáng em ta. Người trong thôn xóm quanh đây chân chất, hầu hết là người làm ruộng cho nhà ta, ai có hỏi ta bảo ngươi là em đến thăm thì chẳng ai để ý.

Thiếu phụ cười :

- Thật ra gia gia ta có tới mười hai người con gái, mà chẳng có người con trai nào.

Tích Nhân ngần ngừ :

- Tiểu đệ cảm thấy trong người còn quá yếu đuối, rất muốn có chỗ ở tạm một thời gian cho hoàn toàn bình phục, nhưng chỉ sợ bất tiện cho đại tẩu. Hình như trong nhà chỉ có một mình đại tẩu.

Thiếu phụ cười :

- Ngươi còn.. con nít mà biết e ngại như đã lớn! Trong nhà còn có vợ chồng lão Tam, nô bộc của cha chồng ta. Ta mới cho họ đi thăm con ở kinh thành khoảng mười ngày nên mới vắng vẻ như vầy.

Thiếu phụ tiếp lời :

- Nếu ngươi thấy mình đã là thanh niên, ở chung với một goá phụ sẽ bị tai tiếng, thì ta chẳng dám giữ ngươi, còn nếu ngươi thấy mình còn trẻ, chỉ đáng em út ta thì cứ tự nhiên ở lại sang xuân ngươi có thể cùng đi với ta cho có bạn.

Thiếu phụ tiếp lời :

- Ta ở đây vò võ một mình. Có ngươi hàng ngày chuyện vãn cũng khuất lấp nỗi buồn của ta. Kiệt huynh mất ta như người xa lạ ở một nơi như thế này.

Lời nói chí tình làm Tích Nhân mềm lòng :

- Trần đại tẩu đã có lời như vậy, Tích Nhân đang lúc hoàn cảnh khó khăn xin làm phiền đại tẩu.

Thiếu phụ :

- Mười hai chị em chúng ta ai cũng muốn có một người em trai. Ta là người thứ tám, Vân Thao, em út của ta nay mười bốn. Ngươi ở lại làm nghĩa đệ của ta, ta sẽ đem ngươi về làm mai gả nó cho ngươi. Từ nay gọi ta là Hà tỷ tỷ, hay chị Hà cho quen miệng, còn ta gọi ngươi là Nhân đệ.

- Cảm ơn Hà tỷ.

- Cảm ơn cái gì? Cảm ơn vì ta định làm mai Vân Thao cho ngươi?

Tích Nhân cả thẹn :

- Cảm ơn vì lòng tốt của Hà tỷ tỷ...

- Nhân đệ ngoan ngoãn lắm. Để ta vào dọn phòng, nếu có mệt thì Nhân đệ nghỉ ngơi.

Tích Nhân vào nhà, nghe Thu Hà dọn dẹp trong căn phòng phía Tây, hỏi :

- Tiểu đệ có thể phụ được gì không?

Thu Hà vui vẻ :

- Chẳng việc gì làm, cứ vài ngày lão Tam cũng vào lau quét nên bây giờ chỉ lau sơ lại bàn, tủ, thay chiếu và mang màn gối cho Nhân đệ là xong. Ta hy vọng Nhân đệ không cho căn phòng này chật hẹp.

Tích Nhân cười buồn :

- Đã mấy năm rồi tiểu đệ chẳng biết cái phòng và cái giường ra sao cả.

Thu Hà bước ra thân mật :

- Tội nghiệp không! Từ nay hy vọng hiền đệ không phải bị khổ nữa.

- Đa tạ tỷ tỷ.

Thu Hà sang phòng mình mang chiếu mới, màn gối sang sắp xếp cho ngay ngắn rồi ra bảo :

- Nhân đệ phải tự nhiên mới được. Ta xuất thân là con nhà võ và là người của núi rừng nên rất tự nhiên, không giả dối. Gia gia ta là Thần thương Hoàng Mật, Kiệt huynh là đệ tử của gia gia ta.

Tích Nhân cười :

- Tiểu đệ chỉ sợ có được người nghĩa tỷ rồi vòi vĩnh làm tỷ tỷ tức giận mà thôi.

- Nhất ngôn ký xuất! Hiền đệ nghỉ ngơi đi, ta đi nấu bữa cơm kỷ niệm ngày chị em ta quen biết nhau.

Thu Hà ra ngoài, Tích Nhân vào phòng nằm xuống giường, đắp chăn rồi thấy hai mí mắt cứng đơ, sụp xuống.

Tích Nhân đang đau xót tột cùng trong giấc mơ thường ngày của mình, hắn đang ú ớ, lăn lộn, kêu khóc và khi bị lay dậy, vừa choàng mở mắt, tung chăn ngồi lên, ôm chần lấy người đàn bà đang đứng bên cạnh giường. Kêu lớn :

- Mẫu thân! Mẫu thân đừng bỏ hài nhi.

Thu Hà đã chuẩn bị cơm trưa vào kêu, thấy Tích Nhân đang mơ ngủ lay hắn dậy, không ngờ bị hắn ôm lấy. Là một goá phụ trẻ, trong khi Tích Nhân thân thể đã cao lêu nghêu, nên bất chợt bị ôm và bị gục mặt lên người mình, làm nàng cảm thấy bủn rủn, tay chân như không còn sức, ngã ngồi xuống giường. Nàng tức giận tung chưởng lên đánh xuống đầu hắn, nhưng bàn tay dừng lại vì nghe hắn thổn thức trong tiếng kêu thương rất chân thành. Nàng để hắn ôm rồi từ tốn:

- Nhân đệ tỉnh đi, ta đây chứ chẳng phải mẫu thân của Nhân đệ.

Tích Nhân vẫn nghẹn ngào, Thu Hà thở dài :

- Nhân đệ nhớ mẹ thì cứ khóc đi, khóc đi sẽ vơi hết nỗi khổ trong lòng. Tỷ tỷ...

Trong giấc mơ nhớ mẹ, nửa tỉnh, nửa mê Tích Nhân đã ôm Thu Hà, tưởng như ôm ghì lại hình ảnh mẹ, nhưng tiếng nói của nàng cũng liền đưa hắn trở lại thực tại, và hiểu ra mình đã có cử chỉ đáng trách, vội vàng lau nước mắt đứng lên, dụi mắt, khom người tạ lỗi :

- Tỷ tỷ tha lỗi cho tiểu đệ...

Thu Hà đứng lên :

- Đi! Đi ăn cơm đi... Hiền đệ chỉ nhớ mẹ mà! Có gì đâu!

Tích Nhân đi theo Thu Hà, chợt thấy có chút ngượng ngùng vì cử chỉ của mình, còn Thu Hà có lẽ vì cũng trải qua giây phút một goá phụ bất ngờ bị đánh thức những cảm giác sâu xa, nên cũng thẹn thầm, vì thế Tích Nhân im lặng đi theo, còn nàng thì vội vàng đi trước.

Xuống bếp, Tích Nhân thấy bàn ăn có gà nướng, cơm trắng, cá kho... Năm bảy món. Nhìn bàn ăn Tích Nhân đã nuốt nước miếng, nhưng Thu Hà bấy giờ tỏ ra không vồn vã mà đứng quay mặt vào bếp. Tích Nhân cảm thấy mình có tội nhưng chẳng biết phải làm sao. Căn nhà bếp chợt có chút nặng nề và mất tự nhiên. Giây phút nặng nề trôi, Tích Nhân lấy hết can đảm cúi đầu :

- Tỷ tỷ... Xin tỷ tỷ tha lỗi cho tiểu đệ.

Thu Hà đứng yên, hắn lên tiếng van xin lần nữa, bấy giờ Thu Hà mới quay lại cười. Qua ánh lửa, Tích Nhân thấy nàng đẹp tuyệt vời.

Thu Hà bắt gặp ánh mắt của hắn, buột miệng :

- Ngươi!

Tích Nhân cũng bất thần buột miệng :

- Tỷ tỷ đẹp quá!

Thấy hắn khen mình một cách chân thật, trong lòng khoan khoái, Thu Hà cười như hoa nở, bước lại lấy tay bẹo má :

- Còn nhớ mẹ khóc lên khóc xuống, mà cũng biết đẹp, xấu... Này ngồi xuống ăn cơm.

Nàng kéo ghế cho hắn, Tích Nhân lại cung tay :

- Xin mời tỷ tỷ.

Thu Hà ngồi xuống ghế phá lên cười :

- Ngươi ngộ thật! Có lúc như thằng bé lên năm sáu còn khóc nhè, có lúc như ông đồ Nho.

Tích Nhân ngồi xuống buồn bã :

- Tiểu đệ nay đã mười lăm, chỉ vì không còn cha mẹ, lưu lạc đó đây nên chưa được nên người.

Thu Hà ngưng cười, gắp thức ăn cho hắn :

- Hiền đệ xem thử thức ăn ta làm có ngon không?

Tích Nhân :

- Xin mời tỷ tỷ.

Thu Hà rót rượu :

- Gia đình ta trong bữa ăn đều có uống rượu thành quen, nhỏ lớn đều uống rượu. Nhân đệ uống rượu được không?

- Tiểu đệ chưa bao giờ uống.

Nàng rót cho Tích Nhân một chút, khuyến khích :

- Rượu ngô của gia đình họ Hoàng ta đặc chế không tệ lắm. Nhân đệ nếu muốn có thể một chút.

Tích Nhân đưa chén rượu lên môi, chưa uống đã sặc. Nhưng rồi bậm môi uống liền một hơi.

Thu Hà cười :

- Nhân đệ cũng can đảm đấy! Trời lạnh uống được chút rượu cũng rất tốt cho sức khỏe.

Tích Nhân nghe tai và người nóng bừng, bậm gan cầm đũa, ăn được chén cơm, cảm thấy dễ chịu hơn.

Thấy Thu Hà ăn thịt, uống liền hai chén rượu, Tích Nhân hỏi :

- Tỷ tỷ thích uống rượu lắm phải không?

- Uống một hai chén trước khi ăn cơm đã là tập tục của nhà ta, nhưng uống để say sưa thì ta chưa bao giờ.

- Tỷ tỷ biết võ công?

- Ta đã giới thiệu với hiền đệ, gia gia ta có tiếng là Thần thương, dạy thương pháp, quyền pháp cho nhiều học trò. Có người gọi gia gia ta là trại Nhạc Phi vì cho rằng thương pháp của ông không thua thương pháp của Nhạc Phi đời Tống. Dù con gái nhưng ta cũng phải biết chút đỉnh công phu của phụ thân mình chứ! Ngươi không ngoan ngoãn ta sẽ lấy thương mà đánh!

Tích Nhân :

- Phụ thân và mẫu thân của tiểu đệ đều biết võ nghệ, nhưng từ bé cho đến khi gia đình bị kẻ thù làm hại, gia gia và mẫu thân tiểu đệ chỉ bắt tiểu đệ học văn. Ông bảo phải biết đạo làm người trước rồi mới học võ sau, có võ mà không có chữ nghĩa thánh hiền, trí tuệ thì chỉ làm một võ phu lỗ mãng. Võ mà không có văn thì không bao giờ đạt được tinh tuý của võ học. Vì quan điểm của phụ thân mà bây giờ tiểu đệ chỉ biết vài chiêu phòng thân.

- Ta nghĩ thân phụ hiền đệ nói đúng. Không được học chữ như ta, nếu có một kỳ thư bí kíp gì trước mắt cũng chẳng biết đâu nghiên cứu. Từ nhỏ đến lớn ta sống trong đầy đủ, nhưng ta vẫn thấy thiếu cái gì đó và có lẽ đấy là chữ nghĩa. Văn tự ta chỉ biết đọc và viết tên của mình. Ồ! Hay là ta dạy Nhân đệ thương pháp nhà ta, còn Nhân đệ thì dạy lại ta chữ nghĩa. Hai ta học lẫn nhau.

Tích Nhân vui thích :

- Nếu vậy thì hay biết mấy! Chúng ta cứ như vậy, vài năm sau sau chúng ta sẽ là một cặp... văn võ song toàn.

Thu Hà đỏ mặt :

- Cái gì chúng ta là một cặp...

Tích Nhân cả thẹn lắp bắp :

- Một cặp chị em, tỷ đệ...

Thu Hà liếc mắt :

- Nhân đệ chắc vì có học chữ nên miệng lưỡi hơi... lém lỉnh!

Tích Nhân tưởng Thu Hà chê trách, bối rối cúi đầu xuống bàn. Thu Hà :

- Ta chỉ đùa một chút mà Nhân đệ giận hay sao?

Tích Nhân lắp bắp :

- Tiểu đệ nào dám giận tỷ tỷ.

Thu Hà lại hỏi : "Nhân đệ thấy ta có phần giống bá mẫu hay sao mà lúc nãy tưởng ta là người?"

Tích Nhân trầm ngâm :

- Lúc ấy tiểu đệ ở trong cơn mơ rồi hoảng hốt mà thôi. Tỷ tỷ không có chút gì giống mẫu thân tiểu đệ dù cả hai đều đẹp. Tỷ tỷ đầy nét vui tươi, tràn đầy sức sống, thì mẫu thân tiểu đệ lúc nào đôi mắt cũng có chút u buồn lo lắng. Mẫu thân thân thể mảnh mai, răng đen hạt huyền, đầu chít khăn the, thích mặt áo lụa trắng, ít nói, nghiêm nghị với mọi người, nhưng với tiểu đệ thì hết lòng chiều chuộng. Lúc bé học viết, bà luôn đặt tiểu đệ trong lòng nắm tay chỉ dạy, lúc nào cũng âu yếm cưng yêu, khi nào tiểu đệ buồn bực chuyện gì, thì bà ôm vào lòng vuốt ve an ủi. Bà chiều chuộng tiểu đệ đến nhiều lúc gia gia tiểu đệ cũng tỏ ra khó chịu, vì thế mà khi tỷ tỷ nắm tay tiểu đệ lay dậy, thì tưởng tỷ tỷ là mẫu thân.

Thu Hà :

- Ta chưa được làm mẹ, nhưng chắc người mẹ nào khi có con cũng thương con như vậy. Và tiếp lời :

- Nhân đệ có thể kể cho ta nghe hoàn cảnh của mình?

Tích Nhân trầm ngâm, Thu Hà :

- Nếu Nhân đệ thấy có điều gì khó nói, thì tỷ tỷ cũng không tò mò nữa.

Tích Nhân thở dài :

- Chẳng có điều gì mà tiểu đệ không muốn nói với tỷ tỷ. Mới gặp nhưng tiểu đệ thấy như rất thân quen và tỷ tỷ là người đáng cho tiểu đệ tin cậy. Chỉ có điều trước khi mẫu thân mất căn dặn tiểu đệ không được tiết lộ mình là con ai nếu chưa học thành một thân võ công tuyệt thế.

Thu Hà :

- Đã có lời dặn của bá mẫu, Nhân đệ không nên làm trái.

Cơm nước xong, Tích Nhân phụ với Thu Hà dọn dẹp, sau đó nàng lấy thước ra đo khuôn khổ người hắn :

- Nhân đệ có một bộ đồ không có gì thay đổi, để ta may thêm cho Nhân đệ.

- Phiền tỷ tỷ quá!

Thu Hà nghiêm nghị :

- Đã coi ta là tỷ tỷ, thì đừng khách sáo nữa.

Tích Nhân không dám nói thêm lời nào, để nàng đo người, nhưng nhắc nhở :

- Tiểu đệ bị đói lâu ngày nên thân thể chỉ có da bọc xương, nếu được ăn no thì...

- Có mập cũng mười hôm, nửa tháng. Tuy nhiên, Nhân đệ không phải lo, ta cắt rộng chút. Hôm nào Nhân đệ hoàn toàn mập mạnh, chúng ta ra chợ, ta sẽ mua sắm cho Nhân đệ.

Tích Nhân lấy mấy viên ngọc, các thỏi vàng bạc và số tiền giấy trong áo đưa cho Thu Hà :

- Số tiền này mẫu thân tiểu đệ để lại cho đệ phòng thân, nay được tỷ tỷ cho ăn cho mặc, xin tỷ tỷ giữ lấy giùm cho tiểu đệ.

Thu Hà nhìn số vàng bạc châu ngọc :

- Ồ! Không ngờ Nhân đệ giàu như thế này! Đã mang cả một khối tài sản trong người sao lại đói khát?

Tích Nhân thuật lại những cảnh mình đi đổi bạc lấy tiền chẳng những bị mất bạc mà còn bị đánh đập như thế nào, sau đó hàng ngày phải ăn xin, ngủ gốc đa, hoàn toàn suýt bị chết đói chết lạnh, được Phạm tiên sinh giúp đỡ và gia đình thím Năm bị giết, rồi sợ mang họa cướp thuyền câu đi trốn cho nàng nghe.

Câu chuyện hắn khá dài nên cả hai đã ngồi xuống thềm hiên, Thu Hà nghe câu chuyện đời hắn, thương hại đến giọng nói trở nên nghèn nghẹn :

- Tội nghiệp cho hiền đệ!

Nàng đặt tay lên vai hắn :

- Ta cũng không hiểu sao khi gặp Nhân đệ thấy rất mến. Còn Nhân đệ cũng chẳng biết nhiều gì về ta lại tin tưởng đem hết vàng bạc giao cho ta. Có lẽ hai chị em chúng ta có duyên từ kiếp trước. Từ nay, ta coi Nhân đệ là người thân nhất trên đời của mình. Ta hy vọng Nhân đệ cũng vậy.

Tích Nhân chợt rơi nước mắt :

- Người thân nhất trên đời của tiểu đệ bây giờ là tỷ tỷ.

Thu Hà :

- Hiền đệ ngoan! Ta giữ giùm số vàng bạc và châu ngọc này cho Nhân đệ, khi nào Nhân đệ ra đi ta sẽ giao lại.

Tích Nhân :

- Tiểu đệ hy vọng từ nay tỷ đệ chúng ta đi đâu cũng có nhau.

Nghe hắn nói Thu Hà lòng rung động, buông rơi bàn tay mình trên vai hắn xuống, nàng ngước nhìn lên đám mây đang bay trên trời, dấu tiếng thở dài, rồi đứng lên :

- Nhân đệ về phòng nghỉ, hay ra ngoài vườn chơi, tỷ tỷ đi may áo cho hiền đệ.

Thu Hà bước vội về phòng nàng. Tích Nhân ngồi buồn một mình trong giây lát rồi về phòng, lấy quyển bí kíp Vân Long phái ra đọc thêm cho thuộc.

Mấy ngày ở với Thu Hà, chữ nghĩa, hình ảnh quyển bí kíp cấp nằm hết trong đầu Tích Nhân. Vì nghĩ nó là vật sở hữu của cô cháu thím Năm, biến phải tùng quyền, chỉ lấy theo để kẻ gian khỏi đắc chí, mai sau nghi chép trả lại cho chủ như đã hứa, nên Tích Nhân không chia xẻ với Thu Hà, sau khi ghi nhớ hết, đem ra gò xé đốt.

Được ăn no mặc ấm, ban ngày luyện tập thương pháp vài giờ được giãn gân, giãn cốt, thân thể Tích Nhân như thay đổi hàng ngày. Một bữa Thu Hà nhìn hắn đăm đăm buột miệng :

- Nhân đệ lớn lên sẽ là một mỹ mạo nam tử.

Mỗi đêm, sau khi chỉ Thu Hà đọc và viết chữ, Tích Nhân đã học thuộc hai quyển bí kíp võ công, nhưng khi về phòng lại không ngồi tĩnh tọa tập luyện nội công theo tâm pháp tối thượng mà vẫn tập mười mấy thế động tác điều kinh ích khí mà thôi. Khi học võ của Thu Hà, Tích Nhân thấy thương pháp chú trọng nhiều về chiêu thức vũ bão và sức mạnh ngoại công, không phải là võ công thượng thừa, nên lơ là và nếu bị Thu Hà quở trách, hay có ý không vui vì sự lơ đễnh của mình thì Tích Nhân mới cố gắng sử dụng ngọn trường thương đúng theo ý của nàng và được ngay, làm Thu Hà rất vui thích.

Trong những ngày sống vui vẻ ấy, một hôm Tích Nhân được Thu Hà kể cho biết phụ thân Trần Kiệt, chồng nàng, là Trần Pha, lúc còn trai trẻ làm nghề đi buôn. Đem vải vóc, đồ sứ lên miền ngược bán, mua lông thú và thịt rừng khô đem về miền xuôi, quen thân với gia gia nàng. Lúc đã có tiền, Trần Pha mua ruộng đất mộ dân canh tác, đất cát chung quanh nhà hiện nay là của ông ta. Trần Pha lấy vợ, người vợ lớn sinh một trai là Trần Tấn. Khi Trần Tấn lên mười, Trần Pha tìm danh sư là thần quyền Nguyễn Sư Đề chỉ dạy. Vợ mất, Trần Pha tục huyền, người vợ kế sinh Trần Kiệt, lên mười tuổi Trần Kiệt cũng tỏ ra thích võ nghệ nên Trần Pha đem lên Hoàng gia trang ở chân núi Nhị Thanh bái phụ thân nàng làm sư phụ. Khi Trần Kiệt lên hai mươi lăm và nàng lên mười sáu, phụ thân nàng đã chọn nàng để gả cho Trần Kiệt. Ngày cưới chờ mãi không thấy cha mẹ Trần Kiệt lên tới, sợ lỡ giờ lành, phụ thân nàng đã cho cử hành hôn lễ. Họ tận hưởng được tình duyên chỉ được ba ngày, thì tin dữ bay đến. Cha mẹ Trần Kiệt trên đường đem sính lễ dự lễ cưới của con bị bọn cướp núi Cấm Sơn giết chết.

Nghe tin đau xót Trần Kiệt đành phải gạt nước mắt, từ giã nàng theo chân người nô bộc Trần Tam trở về tìm xác cha mẹ. Trước khi cha mẹ Trần Kiệt bị cướp giết, người anh cả là Trần Tấn cũng đã bị Quý Ly cho người sát hại vì trung thành với danh tướng Nguyễn Đa Phương, con trai của Nguyễn Sư Đề.

Sau khi an táng song thân, Trần Kiệt tìm bọn cướp trả thù. Thiết thương Trần Kiệt nổi tiếng giang hồ vì đã làm cho bọn cướp khiêng oai khiếp vía. Trong khi tìm đánh bọn cướp trả thù, Trần Kiệt đã gởi thư xin nàng chấp nhận cho hai vợ chồng không gặp nhau trong ba năm. Biết mình không phải Liễu Hạ Huệ thì phải tránh, gặp người vợ mới cưới xinh đẹp như nàng, anh ta khó có thể giữ được lễ đạo làm con lúc con tang cha mẹ. Nàng không muốn chấp nhận đề nghị của Trần Kiệt đi nữa thì cũng không biết đâu mà tìm. Vì đã mang phận con dâu, nàng cũng để tang cha mẹ chồng, và khi tang cha me chồng chưa mãn, thì nàng đã phải nhận tin đau đớn: Thiết thương Trần Kiệt đã bị giết ở Lạng Giang. Hung thủ không rõ là ai. Và, ba năm qua nàng đã phải từ vùng rừng núi xa xôi, về chỗ đồng cỏ lầy lội này để tang và hương khói cho gia đình chồng.

Khi kể những gì đã trải qua trong cuộc đời, Thu Hà não nuột :

- Hồng nhan bạc mệnh! Tỷ tỷ rất thương yêu Trần đại ca và Trần đại ca cũng vậy, nhưng chỉ vài ngày thật sự vợ chồng bên nhau, thì Trần đại ca đã ra người thiên cổ.

Tích Nhân an ủi :

- Tỷ tỷ hết lòng với Trần đại ca, linh hồn anh hẳn cũng rất an ủi. Đã mãn tang, tỷ tỷ nên lo nghĩ đến những ngày tháng còn lại của mình.

Thu Hà thở dài :

- Ở đây ta buồn thật, ba năm qua ta chưa được một lần cỡi ngựa đi săn, nhảy múa ca hát bên ngọn lửa hồng, nhưng cũng an ủi nghĩ rằng có Kiệt huynh bên ta. Ta định mùa xuân này trở về Nhị Thanh vài tháng rồi trở lại đây sống cho hết cuộc đời bên bàn thờ Kiệt huynh.

Tích Nhân nắm tay nàng cản ngăn một cách cương quyết :

- Không! Tỷ tỷ không thể làm vậy! Tỷ tỷ còn trẻ, chưa có con với Trần đại ca. Tỷ tỷ không thể chôn vùi cuộc đời ở một nơi mình không thích. Tiểu đệ.. Tiểu đệ không thể để tỷ tỷ sống trong sự buồn rầu như thế này!

Tích Nhân trở nên tha thiết :

- Tiểu đệ sẽ không rời xa tỷ tỷ! Lớn lên tiểu đệ sẽ săn sóc cho tỷ tỷ!

Sự thiết tha của hắn làm Thu Hà rùng mình, nhưng nàng cười :

- Lúc hiền đệ lớn lên ta đã thành bà già mất rồi.

- Không! Tỷ tỷ không già, mà có sao đi nữa thì tiểu đệ cũng vẫn thương yêu tỷ tỷ.

Thu Hà bẹo má hắn :

- Ông mãnh này! Con nít mà đã bạo gan bạo miệng!

Bị mắng cưng là con nít, nhưng Tích Nhân phật lòng, lớn tiếng :

- Tiểu đệ đã mười lăm tuổi!

Thu Hà cười ngặt nghẽo :

- Ừ! Hiền đệ đã là trang tu mi nam tử rồi đấy, một nam tử hán mười bốn, mười lăm tuổi!

Bị cười nhạo, Tích Nhân đỏ mặt, chạy về phòng, buổi chiều không chịu dậy ăn cơm, Thu Hà phải vào phòng năn nỉ :

- Nhân đệ tha lỗi cho tỷ tỷ. Ra ăn cơm, tỷ tỷ chờ hiền đệ đói lắm rồi.

Xây mặt vào vách, Tích Nhân dấm dẳng :

- Tiểu đệ không đói.

Thu Hà ngồi xuống giường, vuốt vai hắn :

- Nhân đệ giận tức bụng nên không đói! Hết giận sẽ đói ngay. Nào! Đừng giận tỷ tỷ nữa!

Tích Nhân xoay lại nắm chặt tay Thu Hà, thiết tha :

- Tỷ tỷ hứa đừng gọi tiểu đệ là con nít nữa và hứa từ nay để tiểu đệ suốt đời được sống bên tỷ tỷ!

Ánh mắt van lơn, chân thành và tha thiết của hắn làm Thu Hà rúng động, nàng sững sờ nhìn hắn, rồi ánh mắt của nàng trở nên thẫn thờ và nàng chợt gục lên người hắn khóc :

- Ta không biết! Ta không hiểu ta như thế nào nữa! Tại sao Nhân đệ đến đây với ta lại để Nhân đệ ở đây! Ta.. ta..

Thu Hà gục mặt lên người, ôm lấy mình, Tích Nhân nghe cả toàn thân rung động trong một cảm giác mới lạ chưa từng có, và như một người lớn, hắn ôm chặt lấy nàng :

- Tại vì tỷ tỷ và tiểu đệ mới thật sự có duyên nợ với nhau.

Hắn biết nói, hắn biết tận hưởng cái cảm giác mới lạ đang ôm một nữ nhân, một người mà hắn thấy không ai đẹp bằng, nụ cười ánh mắt của nàng làm hắn thẩn thờ, vắng nàng giây phút hắn thấy bồn chồn, nhưng hắn chẳng biết làm gì khác ngoài ôm thật chặt. Nằm trong cánh tay hắn một lúc, bị hắn ôm muốn nghẹt thở, Thu Hà cắn mạnh vào má hắn, chống tay ngồi lên, thẹn thùng :

- Oan gia! Chịu đi ăn cơm chưa?

Tích Nhân sờ má, luyến tiếc :

- Tiểu đệ muốn được ôm tỷ tỷ một lúc nữa...

Thu Hà đỏ mặt đứng dậy bỏ đi, Tích Nhân lẽo đẽo theo sau. Trong bữa cơm cả hai đều ngượng ngập, nhưng bốn mắt khi nhìn nhau lại chứa chan một tình cảm khác lạ, và buổi tối khi dạy Thu Hà viết chữ, lúc Tích Nhân nắm tay bàn tay trắng trẻo để giúp cho nét bút của nàng, bàn tay của hắn trở nên run run và Thu Hà cũng cảm thấy như điện giật, nhưng rồi hai bàn tay của họ lại nắm chặt nhau và hai thân hình cũng kéo lại bên nhau. Tuy nhiên, hai con chó ngoài sân bỗng sủa ran, và Thu Hà đẩy hắn ra :

- Để ta xem vì sao hai con đại hoàng và hắc hoàng bỗng dưng lại sủa như vậy?

Thu Hà mở cửa ra ngoài, Tích Nhân cảm thấy hụt hẫng, thẫn thờ tiếc nuối giây phút vừa qua. Đang thẫn thờ tiếc nuối, nghe hai con chó, sau lời la mắng của Thu Hà lại sủa dữ dội hơn, rồi Thu Hà đi nhanh vào :

- Có người đến đây! Không hiểu họ là ai?

Thu Hà bước vào phòng hấp tấp dặn hắn :

- Nhân đệ vào phòng trốn xuống gầm giường, có gì đừng ra ngoài nguy hiểm. Chúng có tới sáu bảy người và đều là kẻ võ công, Nhân đệ ra ngoài ta không thể chiếu cố nổi.

Thu Hà từ phòng mình trở ra rút cây thiết thương bên cạnh bàn thờ Trần Kiệt, thì cánh cửa lớn bị đá tung ra. Tích Nhân được Thu Hà căn dặn, nhưng hắn đâu có thể trốn như nàng bảo, về phòng cũng vội cầm cây Đằng Tiên, bước ra.

Trước cửa dưới ánh sáng bốn cây đuốc do bốn đại hán lực lưỡng cầm giơ cao, là ba người trung niên mang kiếm, người đứng thấp lùn, mặt choắt, râu lơ thơ thấy Thu Hà cầm thiết thương chuẩn bị ứng chiến, bên cạnh nàng là Tích Nhân dù mặt còn con nít nhưng cũng cao lớn, liền cả cười :

- Hà! Hà! Nghe nói Bát tiểu thơ dung nhan tuyệt thế cũng rất phong hoa nay gặp mới biết. Hà! Trong lúc đến nhà chồng cũ thu huê lợi cũng đem trai tơ về nhà!

Tích Nhân tức giận quát :

- Lão là ai dám hỗn láo với tỷ tỷ ta!

Lão lùn lại cười :

- Ta chưa từng nghe lão Hoàng Mật có con trai bao giờ! Tỷ tỷ đệ đệ của các ngươi là thứ gì đây?

Thu Hà lên tiếng :

- Xin cho biết các hạ là ai? Thù oán gì với ta?

Lão lùn hừ lớn:

- Trần Kiệt đã giết hại nhiều anh em của ta, nó đã bị ta giết, nhưng ngươi cũng không thể sống.

Lão lại thở dài :

- Đêm nay thế nào ngươi cũng phải chết nên ta cũng cho biết tại sao ta tới đây để ngươi chết khỏi làm con ma hồ đồ. Mấy năm ngay ta cũng nể lão Hoàng Mật và biết ngươi cũng không tha thiết gì việc trả thù cho Trần Kiệt nên để ngươi sống yên ổn. Tuy nhiên, vợ chồng lão Tam đã lặn lội đi tìm ta, nhờ ta giết ngươi. Lão Tam biết ngươi cũng chẳng chung tình gì với chủ nhân của lão, nhưng mỗi năm ngươi thu tất cả huê lợi và cũng chẳng có ân huệ gì đặc biệt cho lão. Ngươi chết, nhà Trần Kiệt không còn ai là con cháu thừa hưởng, Trần Tam thoát cái nợ đời là ngươi và có thể chiếm hết ruộng đất, rồi mỗi năm đóng góp cho ta, nên ta đành phải mắc tội với lão Hoàng Mật.

Thu Hà nhìn lão lùn, mặt chợt biến sắc :

- Lão là thiên thủ kiếm Đinh Hưng! Các ngươi là Thiên Thủ tam kiếm.

Lão lùn cổ cười đắc ý :

- Con bé nhà ngươi nhãn quan cũng khá lắm! Đã biết chúng ta là ai, thì cũng nên tự xử để ta khỏi phải ra tay!

Thu Hà biết mình không phải là đối thủ của Thiên Thủ tam kiếm, liền bất ngờ đá vào cánh cửa rồi kéo tay Tích Nhân chạy vào phòng mình, nàng rút một gói vải nhỏ dưới gối rồi kéo Tích Nhân chạy ra nhà sau vừa hối thúc :

- Nhân đệ băng qua vườn vạch tre chạy trước đi, không đi nhanh sẽ chết uổng mạng.

Tích Nhân lắc đầu, cương quyết :

- Sống cùng sống, chết cùng chết. Tiểu đệ nhất quyết không rời xa tỷ tỷ.

Trong giây phút nguy hiểm, lời nói của Tích Nhân làm Thu Hà cảm động nắm chặt tay hắn.

Bọn Đinh Hưng cả cười :

- Trước khi chết bát tiểu thư lại có được thêm một tiểu tử chung tình.

Thu Hà và Tích Nhân ra tới sân thì vách nhà bị người xô ngã xuống và ba anh em Đinh Hưng đã chia nhau ba góc bao vây họ. Bốn gã cầm đuốc cũng nhanh nhẹn chạy ra. Thấy không còn đường chạy, Thu Hà chưa biết phải làm sao, thì Tích Nhân gỡ tay nàng, quơ cây gậy bước lên, cả cười :

- Ba lão họ Đinh kia! Các ngươi tưởng với ba mươi sáu thế thiên thủ kiếm của các ngươi, muốn giết ai thì giết được hay sao?

Bốn tên cầm đuốc khi băng vào nhà đã châm lửa đốt nhà. Lửa trong nhà, bốn bó đuốc làm cho cả sân sau sáng như ban ngày, nghe Tích Nhân cười nói, lão Đinh Hưng mới thật sự chú ý đến hắn rồi đôi mắt bị thu hút vào cây gậy mây đen thui, ngắn ngủn trong tay hắn. Cây gậy mây làm mắt lão như bị thôi miên, tiếng nói chợt trở nên e dè :

- Ngươi là ai? Tại sao lại...

Tích Nhân :

- Ta hiện là chủ nhân của cây hắc Đằng Tiên này! Trước đây các ngươi đã được sư phụ ta tha chết một lần, hứa ăn năn hối cải. Thế nhưng hôm nay lại đốt nhà giết người là cớ làm sao?

Lão nhị của Thiên Thủ tam kiếm là Đinh Khai âm trầm :

- Dù mi là chủ nhân hắc Đằng Tiên đi nữa, nhưng chỉ là một cậu bé miệng còn hôi sữa thì đã làm gì được ai!

Trong ánh sáng nhà cháy và đuốc soi, Tích Nhân bước tới lão Đinh Khai, bước chân rất nhẹ nhàng, thân pháp cũng không phải nhanh như sao sa chớp giật, nhưng lão Đinh Khai bị hắn đánh ngay vào má một tát tai, rồi trở về chổ cũ mà lão không thể tránh né.

Đánh Đinh Khai xong, Tích Nhân nghiêm giọng :

- Hắc Đằng Tiên trong tay ai người ấy là chưởng môn Đằng Tiên phái. Ta cũng như sư phụ ta, không bao giờ muốn giết người. Các ngươi đi đi, từ nay ăn năn hối cải hay là buộc ta phải ra tay phế bỏ võ công. Hai đường tùy các ngươi quyết định. Vừa rồi nếu ta không tát vào mặt ngươi mà khả kình lực lên huyệt bách hội ngươi có thể tránh được không?

Thân thủ thần kỳ của hắn làm cho bọn Đinh Hưng hoảng sợ. Đinh Hưng cũng thấy hắn còn trẻ nghĩ công lực không bao nhiêu, nhưng mắt thấy thân thủ kỳ dị, sợ nếu mạo hiểm mà Tích Nhân là người có công lực thật sự thì mình bị phế bỏ võ công, sống không bằng chết, mạo hiểm như vậy cũng chẳng lợi gì, nên nhân hắn nói, bèn cung tay :

- Đã từng được Đằng Tiên lão nhân gia tha mạng, không biết tiểu hiệp là ai, nhưng có hắc Đằng Tiên trong tay, thì Thiên Thủ tam kiếm nay chẳng dám không tuân.

Đinh Hưng khoát tay, phi thân qua nóc nhà đang bắt đầu bốc lửa. Hai anh em lão cũng phi thân theo anh, còn bốn tên tráng hán cầm đuốc vội băng vườn chạy đi.

Có lẽ là một góa phụ còn quá trẻ, lúc gặp gỡ Tích Nhân, Thu Hà đã phải trải qua giây phút thật ngượng ngập. Nàng đã cầm giữ hắn ở lại, và sau đó những cử chỉ vô tình của hắn, thân mật giữa nàng và hắn đã đánh thức làn da thớ thịt của nàng, làm nàng trải qua những giây phút thẫn thờ. Sống trong thời đại người con gái mười hai mười ba có thể bị gả lấy chồng rồi về nhà phải bế chồng đi chơi cũng làm Thu Hà thấy giữa hắn và nàng cũng chẳng có gì ngăn cách vì tuổi tác và nhất là nàng biết, dù Tích Nhân còn bé nhưng chỉ trong vài năm nữa, hắn sẽ là một thanh niên mả cả bản, cả châu của nàng chẳng ai có thể có dung mạo bì sánh kịp nên khi nhìn thấy sự chí tình của hắn, tha thiết của hắn nàng đã rung động thật sự, đã ngã vào vòng tay của hắn và thầm xây lâu đài hạnh phúc cho ngày mai, trong vài năm tới.

Thiên Thủ tam kiếm lừng danh giang hồ, ngay phụ thân nàng là Thần thương Hoàng Mật cũng chưa dám đối đầu, thế mà người yêu bé nhỏ, nàng yên trí chẳng biết võ công lại có thể tát vào mặt dễ dàng như tát đứa trẻ, mắng cho ít câu thì mất hồn chạy đi ngay, như vậy võ công của Tích Nhân trên đời nay có ai bằng? Nghĩ như vậy, Thu Hà tưởng như cao xanh đã thương nghĩ đến mình, đem người cao thủ tuyệt thế này đến cho mình. Tuy nhiên, nghĩ lại nàng liền trở nên tức giận và thẳng tay tát Tích Nhân :

- Ngươi là tên dối gạt!

Cái tát với tất cả sự tức giận của nàng làm Tích Nhân liểng xiểng, hắn gượng đứng lại được, thấy Thu Hà phóng đi liền chạy theo.

Từ ngôi nhà đơn độc như cù lao của Thu Hà đến xóm chỉ có một con đường duy nhất, vừa nhỏ hẹp, vừa hang ổ, Thu Hà võ công không cao, nhưng là người có tập luyện võ công nên nàng chạy như bay, còn Tích Nhân thì thật sự chỉ tập cái vỏ bề ngoài vài chiêu tuyệt thế để phòng thân lúc nguy cấp, nên trong đêm tối, hắn té lên, té xuống không biết mấy lần và khi hắn bị té nhào xuống đám ruộng sâu, ướt hết mình mẩy, trèo được lên bờ thì không còn thấy Thu Hà nữa.

Biết không còn đuổi kịp nàng, Tích Nhân ngồi bệt xuống bên đường, nghĩ đến ân tình của Thu Hà trong những ngày qua, hắn càng lúc càng thấy đau khổ, nghẹn ngào :

- Hà tỷ tỷ sao nàng lại bỏ đi! Gặp được tỷ tỷ tiểu đệ thấy mình vô cùng may mắn, nhưng mong được từ nay sống mãi cùng tỷ tỷ, bầu bạn mãi mãi bên nhau. Thế nhưng.. Tỷ tỷ bỏ đi, tiểu đệ không màng trở lại cảnh đời côi cút, nhưng rồi từ nay, nỗi nhớ nhung đối với tỷ tỷ làm sao nguôi được!

Khi bọn tam kiếm đến đốt nhà Thu Hà đêm cũng đã khuya, nhưng trên xóm vẫn còn vài người lớn tuổi nhìn thấy ngọn lửa, họ hô hoán, kêu gọi trai tráng thức dậy mang thùng gàu đi chữa cháy. Thu Hà chạy lên phía xóm, người trong xóm rủ nhau đi chữa lữa chạy xuống nhà nàng và khi đôi mắt cũng nhạt nhoà dòng lệ tủi tức của Thu Hà nhìn thấy phía trước có người, tưởng bọn tam kiếm liền quay ngược lại. Trở lại con đường cũ thấy Tích Nhân ngồi than thở, thốt ra bao giờ lời thương nhớ đối với mình, Thu Hà mủi lòng bật khóc thành tiếng, nhào tới ôm hắn :

- Nhân đệ!

Thu Hà khóc vì cảm động, thì Tích Nhân mừng vui ôm chặt lấy nàng :

- Tỷ tỷ đã trở lại! Tỷ tỷ không bỏ tiểu đệ nữa. Tỷ tỷ hãy hứa từ nay đừng xa tiểu đệ nữa.

Thu Hà siết chặt hắn :

- Vâng! Từ nay chúng ta không bao giờ xa nhau, rời nhau nửa bước. Chết sống có nhau.

Nhưng rồi, nghe bước chân đến gần nàng kéo hắn lên :

- Chạy! Chạy mau lên bọn chúng tới rồi kìa.

Trước nhà nàng có hai con đường một con đường lớn lên xóm, ra chợ, một con đường đến những cái gò cao phía bờ sông. Con đường này rất nhỏ, nên tới đây thì Thu Hà đẩy hắn lên trước. Tích Nhân lại sợ nàng ở lại nên không chạy.

Thu Hà thúc hối :

- Chạy nhanh lên!

Sự giằng co ở ngã ba này cho Tích Nhân cơ hội, nhìn thấy số người từ phía xóm chạy tới, có đèn đuốc và rất đông. Hắn nắm tay Thu Hà chỉ :

- Không phải bọn tam kiếm đâu, dân làng đấy!

Thu Hà thấy dân làng, đưa tay lên ngực :

- Tỷ tỷ chẳng còn hồn phách gì, thấy người đã sợ.

Người dân trong xóm chạy tới không ai bảo ai, thi nhau múc nước dập lửa. Mùa đông khi trời lạnh lẽo, hay mưa gió, mọi thứ đều ẩm ướt nên ngọn lửa không lan nhanh. Tuy nhiên thôn dân chạy tới cũng chỉ có thể giữ được căn nhà tranh cho Thu Hà, còn căn nhà ngói to rộng thì đã bị thiêu sập cả. Ngọn lửa đã hoàn toàn bị dập tắt, thôn dân kéo tới Thu Hà, một ông lão lên tiếng :

- Xin lỗi phu nhân, chúng tôi đến hơi trể thành ra căn từ đường...

Thu Hà nhanh nhảu :

- Quý bác đã không nề nguy hiểm đến cứu, còn giữ được căn nhà dưới là may mắn lắm rồi.

Một người lên tiếng :

- Tại sao nhà cháy vậy, thưa phu nhân?

Thu Hà thở dài :

- Bọn cướp muốn đến giết ta đã đốt.

Nghe nói đến cướp, đánh người nông dân tỏ ra sợ hãi. Thu Hà trấn an :

- Phu quân ta đã đánh giết bọn cướp của giết người từ kinh thành cho tới biên giới, hôm nay bọn chúng tìm đến ta trả thù, nhưng chúng chẳng làm gì được ta, đã bị đuổi chạy thì chẳng dám đến nữa đâu.

Một cụ già :

- Nghe nói phu nhân xuất thân từ gia đình võ nghệ tuyệt luân. Có phu nhân ở đây chúng tôi cũng được che chở.

Thu Hà cười :

- Võ nghệ ta chẳng che chở được ai đâu, nhưng quý hương thân không phải lo. Bọn cướp này không phải tầm thường, chúng sẽ không làm hại những người tay lấm chân bùn, chỉ mong ăn được no, mặc được ấm như quý bà con đâu. Chúng tới chỉ vì ta, nay mai ta rời khỏi chỗ này, thì chúng chẳng bao giờ để ý nơi này nữa.

- Phu nhân đi đâu? Nghe nói phu nhân sẽ suốt đời thủ tiết và định ở đây suốt đời kia mà!

Trước kia khác, nay khác. Bọn cướp không để yên cho ta, thì ta phải về Khâu Ôn để nương tựa với gia đình. Nhà ta đông người ai cũng có võ nghệ có thể che chở cho ta một thời gian.

Thôn dân nghe nàng nói chí lý, không hỏi thêm nữa. Bọn Thiên Thủ tam kiếm vì đinh ninh nàng thế nào cũng bị giết nên đã cho biết vợ chồng lão nô bộc Trần Tam đã năn nỉ chúng ra tay, hòng chiếm hết tài sản, nên lúc này Thu Hà liền nảy ra ý nghĩ và nói với thôn dân :

- Bắt đầu ngày mai quý vị ở nhà vài ngày, không ai được đi vào đầm hay xuống ruộng. Ai ở xa thì người nhà mau đi kêu về. Trong vài bữa nữa ta phải đi về Khâu Ôn. Trước khi đi, ta muốn giảm tiền thuê tất cả đất đai của gia đình ta lại cho các ngươi. Tất cả những bằng khoán thuê canh ta sẽ thu lại, rồi chiếu theo đó ta sẽ viết giấy tờ theo điều kiện mới. Ta và phu quân ta không con không cái nên ta nghĩ cần để cho các ngươi được no đủ hơn, tích đức về sau.

Nghe Thu Hà tuyên bố, thôn dân không tin ở tai mình, họ há hốc mồm kinh ngạc. Thu Hà phân công :

- Bác Tấn, bác Cựu, bác Hoài... những bác lớn tuổi, hiểu rõ tình trạng tốt xấu của ruộng đất họ Trần xóm Đầm này, bắt đầu ngày mai giúp ta ý kiến trong việc phân phối lại ruộng đất. Bây giờ về xóm, các bác phân công cho người sáng mai ra chợ mua giấy, bút, thức ăn, rượu ngon về cho ta.

Nàng lấy trong người ra vài tờ bạc giấy con rồng đưa cho một cụ già :

- Bác Năm Tấn giữ giùm việc phân công này cho ta.

Ông già tên Tấn run run :

- Nếu phu nhân đã quyết định ban ơn trời biển cho mọi người, thì chút nhỏ mọn này phu nhân đâu cần phải..

Thu Hà nhét tiền vào tay bác Tấn nói :

- Ta quyết định chỉ ở lại đây trong ba ngày. Ba ngày này mọi người sẽ bận rộn và vui chơi. Ngày mai những vị trai tráng đến đây chặt tre, cắt lá che một cái rạp lớn. Mấy con heo trong chuồng, tất cả gà vịt sẽ được xẻ thịt. Kho lúa, nếp xay giã cho mọi người cùng ăn và chia nhau đem về nhà. Trong khi đó chúng ta cùng tính toán chia ruộng đất cho được công bằng, rồi mời xã quan đến đây thị chứng.

Đám nông dân nghe nàng nói chẳng dám phát biểu lời nào. Thu Hà lại nói :

- Con đại hoàng và đại hắc rất trung thành với ta bị cướp giết chết. Ta muốn nhờ vài người trong các ngươi đem ra ngoài vườn chôn cất giùm rồi giải tán, ngày mai chia nhau làm việc.

Hai trong số nông dân còn trẻ đưa mắt cho nhau rồi nhanh nhẹn kéo hai con chó ra sau vườn. Một cụ lão giọng cảm xúc :

- Ơn đức của phu nhân thật là trời bể. Nhà bị cháy, không biết đêm nay phu nhân có màn chiếu gì không để chúng tôi lo liệu.

Thu Hà :

- Căn nhà dưới chưa cháy, vợ chồng lão Tam không có ở đây, và lão cũng chẳng bao giờ trở lại nữa nên ta có thể dùng tạm trong thời gian mấy ngày còn lại, quý vị không phải lo cho ta.

Thu Hà kéo tay Tích Nhân đứng ra :

- Trước khi mọi người về xóm, ta muốn giới thiệu đến quý vị người hiền đệ của ta. Nhờ Tích Nhân hiền đệ tiếp tay mà đêm nay chị em ta mới đuổi được bọn cướp. Ngày mai hiền đệ của ta sẽ lo viết tất cả giấy tờ thay đổi điều kiện thuê canh cho các ngươi.

Tích Nhân vòng tay :

- Xin Kính chào chư vị.

Thấy Tích Nhân lúc này mập mạp ra, thân hình trở nên cao lớn nhưng khuôn mặt vẫn còn non choẹt nên không ai có ý nghĩ nghi ngờ gì, đều tin tưởng là em của Thu Hà, và cùng cung kính :

- Xin chào công tử.

Thu Hà :

- Đã khuya lắm rồi, bà con để lại ta một hai cây đèn rồi về nhà ngơi nghỉ.

Khi mọi người đã đi hết, Thu Hà âu yếm xoa má Tích Nhân hỏi :

- Ta đánh Nhân đệ có đau không? Nãy giờ mặc áo quần ướt hẳn lạnh lắm! Chúng ta vào nhà.

Căn nhà tranh của nàng, một khúc là nhà bếp, một khúc là nơi ngủ của vợ chồng lão nô Trần Tam và nhà kho màn chiếu, áo quần. Thu Hà lấy màn chiếu vào phòng lão Trần Tam thay đổi. Trong phòng có một bộ ván nhưng chỉ một miếng quá nhỏ còn cái giường thì khá rộng. Miếng ván không có chiếu trải vừa, Thu Hà chỉ thay màn chiếu trên chiếc giường. Nàng đưa cho Tích Nhân một bộ đồ :

- Đây là đồ cũ của ta, Nhân đệ thay tạm, mặc áo quần ướt sẽ bệnh.

Nàng ôm màn chiếu của vợ chồng Trần Tam ra ngoài, Tích Nhân thay đồ. Khi Thu Hà trở lại, nàng nhìn hắn cười :

- Trông Nhân đệ mặc váy cũng giống như một cô gái đẹp.

- Tỷ tỷ lại chọc ghẹo tiểu đệ rồi!

Thu Hà lấy bộ đồ ướt :

- Nhân đệ lên ván ngủ đi, ta giặt sơ bộ đồ này để ngày mai cho khô.

Tích Nhân theo nàng :

- Để tiểu đệ múc nước cho tỷ tỷ.

Thu Hà hong bộ quần áo của hắn trong nhà bếp, hỏi :

- Nhân đệ có đói không?

Tích Nhân lắc đầu, nói :

- Đã khuya, tỷ tỷ nên đi nghỉ. Ngày mai thế nào người trong xóm cũng tới sớm.

Thu Hà trở nên chần chừ :

- Tích đệ đi nghỉ trước đi. Ta còn có việc trong giây lát.

- Tỷ tỷ chưa chịu nghỉ, thì tiểu đệ đâu có thể nghỉ được.

- Nhân đệ có làm gì đâu?

- Đứng bên cạnh tỷ tỷ.

Thu Hà bật cười :

- Thôi! Đi nghỉ đi ông mãnh!

Nàng nắm tay hắn kéo đi, khi vào phòng, nàng trở nên ngượng ngập. Nhưng rồi nàng sờ tay lên má hắn :

- Có đau không?

Tích Nhân nắm bàn tay của nàng :

- Có đau đi nữa mà tỷ tỷ quan tâm thì tiểu đệ cũng không thấy đau chút nào.

Thu Hà dựa vào hắn :

- Có thật vậy không? Có thật thương ta hay không?

- Nếu tim gan của tiểu đệ được mổ ra, thì tỷ tỷ thấy ở đâu cũng là hình bóng tỷ tỷ.

Thu Hà kéo hắn ngồi xuống giường, dựa đầu lên vai thì thào :

- Con tim ta bây giờ cũng chỉ có Nhân đệ. Ta chỉ là một bà goá, ta nhất tâm theo Nhân đệ nên không ngại gì cả. Nằm trên ván không có chiếu sẽ lạnh, Nhân đệ có thể nằm với ta chuộc lại lỗi đã đánh Nhân đệ.

Cả hai ngã xuống giường. Những vòng tay ôm chặt nhau. Tích Nhân đê mê trong sự ấm áp kỳ diệu chưa bao giờ trải qua. Lần đầu tiên hắn nhận những nụ hôn của một người khác phái, và cũng biết thưởng thức cái khoái cảm được hôn lên làn da, khuôn mặt thơm tho. Hắn mờ mờ hình như còn phải làm điều gì tiếp theo, nhưng chẳng dám làm gì khác ngoài việc ôm ấp và hôn hít cho đến khi Thu Hà cắn lên má hắn :

- Ngủ đi ông mãnh! Chỉ biết làm cho người ta nhột!

Thu Hà quay mặt vào tường, Tích Nhân nằm im, muốn để Thu Hà ngủ nhưng không thể nào ngủ được, một lúc hắn gọi khe khẽ :

- Tỷ tỷ!

Nghe Thu Hà thở đều như đã ngủ, Tích Nhân thở dài. Hắn không biết tại sao thở dài. Nhưng sau khi hắn thở dài, Thu Hà quay người lại ôm lấy hắn cười khúc khích :

- Sao Nhân đệ không ngủ?

- Tiểu đệ cũng không biết nữa!

- Ấm ức điều gì mới không ngủ được chứ!

- Thế thì tỷ tỷ có ấm ức điều gì không?

Thu Hà dụi đầu vào ngực hắn, nũng nịu :

- Không, nhưng tại vì Nhân đệ không ngủ nên ta cũng không ngủ được.

Hơi thở thơm tho, thân hình mềm mại, ấm áp của Thu Hà lại làm Tích Nhân cảm thấy người nóng lên, hắn ôm chặt lấy nàng.

- Làm được gì mà ôm chặt vâỵ ?

Vì lời nói khiêu khích, hay bản chất tự nhiên của con người, Tích Nhân lần này đã gục xuống người Thu Hà những nụ hôn bất tận. Thu Hà như cố tình, lần lần cởi bỏ một cách khuyến khích đẩy đưa và hắn đã biết gục xuống vùng ngực no tròn. Cả hai đều đang mặc váy, Tích Nhân tạm thời mặc váy của Thu Hà, những chiếc váy dễ bị kéo lên, đạp xuống, da thịt đôi chân, những phần nhạy cảm quấn quít kích thích nhau. Thu Hà đụng chạm với sự căng cứng và nóng bỏng của hắn, hứng khởi thấy hắn không còn con nít nữa, đưa người hắn lên, bấu chặt lưng hắn, vít đầu hắn xuống, nôn nao chờ đợi giây phút kỳ diệu nhất. Giây phút hắn thật sự làm người đàn ông của nàng. Thế nhưng trong giây phút mà người nào cũng chỉ còn biết làm theo bản năng, thì Tích Nhân bỗng rùng mình, hắn ngã xuống giường, mồ hôi toát ra.

Thu Hà hốt hoảng, ngồi rột dậy :

- Nhân đệ! Việc gì vậy?

Tích Nhân khó nhọc, hơi thở đứt đoạn :

- Xin lỗi tỷ tỷ, tiểu đệ hồ đồ suýt làm hại đến tỷ tỷ!

Thu Hà thở ra:

- Nhân đệ bị gì? Nghĩ gì vậy?

Tích Nhân kéo nàng xuống, ôm lấy nàng thở dài não nuột :

- Tỷ tỷ sẽ là người yêu muôn thuở của tiểu đệ, nhưng chúng ta không thể vượt qua vòng lễ giáo. Hơn nữa tiểu đệ có nỗi khổ tâm vô tận.

Thu Hà khóc :

- Có phải Nhân đệ có coi thường ta không? Ta là một gái goá không có gì phải giữ gìn, hay phải nghĩ đến lễ giáo gì đó của người kinh thành, của bọn hủ Nho. Ta thấy Nhân đệ thương ta thật sự và ta cũng vậy, thì ta là người của Nhân đệ, lúc nào cũng được, khi nào cũng được!

Tích Nhân ôm chặt nàng :

- Tiểu đệ có phước lớn mới được tỷ tỷ thương yêu, và tỷ tỷ là bà tiên của tiểu đệ, nhưng tiểu đệ không thể làm hại tỷ tỷ.

- Cái gì làm hại ta? Điều gì làm hại ta? Thu Hà thổn thức.

Tích Nhân thở dài :

- Tiểu đệ mất thân đồng trinh, thì không thể nào hoàn thành Thái Ất thần công. Phải luyện thành thần công để trả thù cha mẹ là lời hứa của tiểu đệ đối với mẫu thân... Hỡi ôi!...

Thu Hà tức giận :

- À! Thì ra Nhân đệ cần giữ thân đồng trinh để tập thần công gì đó! Nhân đệ nghĩ đến Nhân đệ mà thôi!

Tích Nhân chợt ôm chặt lấy nàng, gục mặt khóc :

- Tiểu đệ bị mắc chứng thiếu âm tuyệt mạch, không thể sống lâu! Mất thân đồng trinh sớm càng mau chết sớm!

Hắn cố nuốt sự đau khổ xuống, thở dài :

- Tiểu đệ không sợ chết. Được bên cạnh tỷ tỷ, được sống vui vẻ với tỷ tỷ vài năm rồi chết là diễm phúc của tiểu đệ. Nhưng còn tỷ tỷ thì sao? Hỡi ôi! Không chữa được bệnh thì cũng không làm sao luyện Thái Ất thần công cho được. Nhưng mẫu thân tiểu đệ đã căn dặn và mong muốn tiểu đệ phải cố sống, phải luyện thành công lực.

Tiếng khóc xót xa, lời than thiết tha đau khổ của hắn làm Thu Hà không còn thây tủi thân, xấu hổ nữa, nàng thở ra ôm hắn an ủi :

- Không ngờ Nhân đệ lại khốn khổ thế này. Nhân đệ đừng buồn nữa. Con người ai cũng có số mạng. Nhân đệ không có tướng chết sớm đâu. Tỷ tỷ hiểu được nỗi khổ của Nhân đệ thì còn thương Nhân đệ hơn.

Tích Nhân :

- Tiểu đệ... Gặp tỷ tỷ thì thần hồn mê mẩn.. Không còn biết nghĩ gì cả, không nhớ hoàn cảnh của mình, rồi làm cho tỷ tỷ phải lo lắng và có thể sẽ đau khổ sau này, tiểu đệ thật áy náy.

- Nhân đệ đừng nói nữa! Đêm nay ta đã tự coi ta là vợ Nhân đệ, có phúc cùng hưởng, có hoạ cùng chia. Bệnh Nhân đệ chữa được cũng tốt, tuyệt chứng không thể chữa trị thì cũng không sao. Trời đã đẩy đưa hai ta gặp nhau, thương nhau, có được bao lâu, ở được bao lâu với nhau cũng là hạnh phúc mà nguyệt lão ban cho.

Những lời quyết liệt của Thu Hà làm cho Tích Nhân dạt dào cảm động, hắn ôm chặt, vùi đầu xuống nàng :

- Ngoài mẫu thân, tỷ tỷ là người tiểu đệ thương kính nhất. Tiểu đệ lỡ si mê để làm tỷ tỷ phải buồn phiền, lo lắng xin tỷ tỷ tha thứ. Tiểu đệ nghĩ mình có sống cũng không có ý nghĩa gì.

Đáp lại, Thu Hà cũng nằm xuống ôm chặt hắn :

- Ta hiểu Nhân đệ yêu ta. Ánh mắt ngẩn ngơ, si dại của Nhân đệ đã làm ta xao xuyến, rồi cũng thương yêu Nhân đệ vài giây ta cũng đã nhớ nhung. Chúng ta đã thương nhau, thì dù hoàn cảnh nào, ta vĩnh viễn không ra rời Nhân đệ..

Nàng thở dài :

- Hỡi ơi! Phải chăng mạng ta không thể nào tìm được một cuộc sống vợ chồng hạnh phúc như người khác? Ta và Kiệt huynh chỉ thật sự ăn ở với nhau vài ngày, còn với Nhân đệ thì... hạnh phúc của ta phải chăng chỉ là được nhìn và ôm ấp Nhân đệ mà thôi?

Lời than não nuột của Thu Hà làm Tích Nhân xúc động. Hắn cảm thấy hắn si mê Thu Hà rồi để nàng biết ra hoàn cảnh của mình phải xót xa lấy làm ân hận.

Hắn nghĩ hắn có gần gũi nàng mà chết sớm vài năm thì đã sao! Bệnh thiếu âm tuyệt mạch của hắn là tuyệt chứng, chưa hẳn đã gặp kỳ duyên chữa khỏi, thì nghĩ gì đến việc giữ thân đồng trinh luyện tập thần công?

Hắn vuốt ve Thu Hà :

- Tiểu đệ chỉ sợ tỷ tỷ lại chịu cảnh sớm góa phụ lần nữa mà thôi, còn tiểu đệ.. Tiểu đệ không nghĩ gì nữa.

Thu Hà :

- Ta cũng không màng, nếu Nhân đệ không chữa được bệnh, ta cũng sẽ chết theo Nhân đệ.

Nàng gục mặt xuống cổ hắn, chân thành :

- Khi thấy Kiệt huynh, ta cũng thấy Kiệt huynh là một người xứng đáng làm trượng phu của mình, nhưng ta chưa từng có cảm giác xa nhau vài phút là nhớ nhung như đối với Nhân đệ.

Tâm trạng chết sớm vài năm cũng chẳng sao của Tích Nhân, hay lời chân thành của Thu Hà, hay hơi thở thơm tho của nàng trên cổ hắn, làm cho Tích Nhân nâng nàng lên hôn tới tấp lên khuôn mặt còn hoen đọng nước mắt và bàn tay của hắn cũng lần lần vuốt ve bờ lưng ấm mát của nàng rồi thì ghì sát nàng còn dữ dội hơn trước đó. Thu Hà ngạc nhiên trước cử chỉ của hắn, nhưng rồi nàng nghĩ cuộc đời nàng sẽ sống cùng sống, chết cùng với hắn nên nàng cũng hưởng ứng, khuyến khích hắn nhiều hơn, những gì trên người của cả hai lần này hoàn toàn cởi bỏ và Tích Nhân chỉ còn biết tận hưởng cái cảm giác đê mê. Tuy nhiên, trong lúc hắn sắp tìm được cái cảm giác đi sâu vào thân thể của nàng, Thu Hà hốt hoảng giữ hắn lại, đẩy hắn xuống :

- Nhân đệ! Không, không được!

Tích Nhân ngơ ngác:

- Tỷ tỷ!

Thu Hà ôm hắn thở dài :

- Nếu Nhân đệ thật sự có bệnh mất thân đồng trinh phải chết sớm, thì chúng ta phải lo chữa bệnh cho Nhân đệ đã.

Tích Nhân không bằng lòng :

- Nhưng chứng bệnh của tiểu đệ chưa hẳn chữa được!

- Dù sao cũng tìm danh y trước đã. Mai sau nếu có danh y mà vì chúng ta không tự chế trong ngày hôm nay để không thể chữa chứng bệnh của Nhân đệ, ta nghĩ hai ta có ôm nhau xuống suối vàng, cũng khó nhìn mặt mẫu thân hiền đệ. Bà ta sẽ không nhận ta làm con dâu.

Nghe Thu Hà nhắc đến mẫu thân, Tích Nhân nghe như một luồng điện lạnh chạy khắp người.

Thu Hà :

- Trời cũng sắp sáng rồi, chúng ta ngủ đi. Nếu Nhân đệ thấy nằm bên ta không thể ngủ được, thì lấy chăn lên ván mà ngủ.

Tích Nhân thở dài :

- Bây giờ lên ván tiểu đệ cũng chưa hẳn ngủ được.

Thu Hà vỗ về :

- Ân ái... nửa vời, tỷ tỷ cũng có vui gì, nhưng... tỷ tỷ quyết định phải tận sức chữa bệnh cho Nhân đệ đã. Nếu chúng ta thấy tuyệt vọng, thì lúc đó mới không nghĩ gì nữa.

- Tỷ tỷ đã có lòng lo cho tiểu đệ như vậy, thì tiểu đệ cũng đâu thể...

Hắn nói nhỏ :

- Cho tiểu đệ ngủ chung giường với tỷ tỷ, tiểu đệ sẽ tự chế...

Thu Hà cũng thì thào :

- Ta cũng không muốn nằm xa Nhân đệ, nhưng từ nay chúng ta âu yếm nhau, cũng giúp nhau tự chế.

Thu Hà mặc lại áo quần, nằm lăn vào bên trong :

- Nhân đệ ngủ đi. Cấm không được táy máy nữa!

Tích Nhân cũng lui cui trong cái váy của Thu Hà lên người, xoay lại đặt tay lên người nàng. Thu Hà nắm bàn tay của hắn giữ yên :

- Ngủ đi Nhân đệ, không nằm yên ta đuổi lên ván.

Tích Nhân ôm Thu Hà nằm im thin thít, khi nghe hơi thở của nàng đều đều, hắn cũng không thể nào chợp mắt cho đến khi nghe bên ngoài thôn dân đã đến.

Trong ba ngày liền tiếp, heo gà trong nhà Thu Hà đều được làm thịt cho thôn dân ăn uống. Tích Nhân viết giấy tờ theo đó người thuê chỉ trả cho nàng hai mươi phần trăm huê lợi mỗi năm bằng tiền, thay vì bốn chục như trước, rồi rước xã quan đến chứng nhận chữ ký. Nàng đã để một mẫu ruộng tốt và khu vườn nhà cho hội đồng trưởng lão trong xóm phụ trách lấy hoa lợi hương khói cho gia đình chồng mà không đòi hỏi phải chia huê lợi. Nhìn sự vui sướng của thôn dân, Thu Hà và Tích Nhân dù bận rộn nhưng cũng vô cùng vui vẻ.

Hồi 3 : Biết Rõ Chân Tình

Buổi trưa hôm đó, ở khu vực ngã ba của hai đường quan lộ đi lên miền Bắc và Đông Bắc, một cặp nam nữ xuất hiện. Cả hai ăn mặc đơn sơ, không mang hành lý. Người nữ tay cầm một cây trường thương, còn nam tay cầm một cây gậy ngắn. Vóc dáng cả hai tương tự nhau, nhưng người nam mặt mũi còn non choẹt, trong khi đó, người nữ có vẻ rất chững chạc. Khu vực này có nhiều mã trường, cũng có nhiều khách điếm, tửu quán, cửa hàng. Cặp nam nữ đã dừng chân giây lát có vẻ lưỡng lự trước cổng một vài khách điếm sang trọng, nhưng rồi cuối cùng họ vào khách điếm Bắc Hành, một khách điếm thuộc hạng trung bình.

Chưởng quỹ có lẽ thấy họ ăn mặc đơn giản, áo quần cũ kỹ bước vào không thèm bước ra khỏi chỗ ngồi chào đón, nhưng khi người nữ đến trước chỗ ngồi của lão lên tiếng hỏi thuê phòng, lão nhìn người nữ nhíu mày rồi vội vã đứng đón đả :

- Kính chào Hoàng tiểu thư! Thất lễ! Thất lễ!...

Người con gái có vẻ ngạc nhiên:

- Sao ông lại biết ta?

Chưởng quỹ cung kính :

- Nữ nhân xinh đẹp ra đường dám mang thiết thương bên mình, có ai ngoài thập nhị tỷ muội của Hoàng gia trang kia chứ! Tiểu nhân ngồi ở khách điếm này trên mười năm, việc giang hồ cũng nghe qua chút ít, không đến nỗi thô lậu.

Ông ta như chợt nhớ ra chi tiết hơn :

- Tiểu nhân... chắc có lẽ tiểu thư là Trần phu nhân!

Thu Hà hơi khó chịu, nhưng phải gật đầu :

- Đúng là ta. Ta muốn mướn hai căn phòng cho đêm nay.

Và nàng cũng nói thêm :

- Hai phòng này phải ở kế nhau.

Chưởng quỹ xun xoe :

- Trần phu nhân đã dạy thì tiểu nhân phải sắp xếp ngay.

Sinh trưởng trong một gia đình võ học, hiểu nhiều việc giang hồ nên Thu Hà lấy ra một đồng bạc con Lân đưa cho chưởng quỹ :

- Khỏi cần phải thối lại.

Chưởng quỹ cầm tiền :

- Đa tạ phu nhân hậu ái... nhưng... nhưng.

- Chẳng lẽ không đủ hay sao?

- Thưa phu nhân, trước đây thì thật là hậu hỉ. Nếu phu nhân là người nhà quan thì tiểu nhân cũng chẳng dám hó hé. Nhưng ở chổ thân tình tiểu nhân không dám giấu giếm..

Chưởng quỹ nhỏ giọng :

- Đồng Thông Bảo hội sao chẳng ai muốn dùng, vì thế đối với quan quyền thì bá tánh nuốt lòng trao đổi theo giá cũ, mà trao đổi với nhau thì vật giá đã tự động tăng lên gấp hai gấp ba lần.

Thu Hà lấy thêm đồng nữa :

- Bấy lâu nay ta chẳng ra ngoài nên không biết gì cả. Chưởng quỹ coi lại đủ không?

- Đủ! Đủ lắm! Đa ta phu nhân...

Thu Hà nói :

- Lấy cho ta hai căn phòng tốt nhất, yên tĩnh nhất, bảo tiểu nhị mang cây thiết thương lên phòng trước, còn chúng ta đi mua sắm chiều tối sẽ về.

Thu Hà dựng cây thiết thương bên bàn chưởng quỹ rồi nắm tay Tích Nhân ra đi, cử chỉ quá thân mật của nàng đối với Tích Nhân làm lão chưởng quỹ nhìn theo hơi cau mày, như lấy làm lạ lùng.

Thu Hà ngoài mua sắm áo quần cho nàng và cho Tích Nhân, còn mua quà tặng cho cha, mấy bà mẹ, mười mấy người chị em, anh em rể, người thân, sư huynh, sư đệ... Tích Nhân và nàng mang không xuể, phải thuê một người vác hộ. Họ ghé chỗ này, đến chỗ kia để mua sắm mãi đến chiều tối mới về tới khách điếm.

Đưa đồ đạc vào phòng, Tích Nhân hỏi :

- Làm sao chúng ta mang đi cho hết?

Thu Hà :

- Mấy năm mới trở về nhà chẳng lẽ không có quà gì biếu mọi người... Làm cho Nhân đệ phải đi cả buổi, ta thật áy náy.

- Ồ! Tiểu đệ được đi với tỷ tỷ nhìn ngắm đồ đạc rất là vui thích. Chỉ không hiểu làm sao hai ta mang đi cho hết mà thôi!

- Ngày mai chúng ta mua hai con ngựa. Mỗi con mang theo một nửa là xong ngay!

- Tiểu đệ chưa biết cỡi ngựa.

- Ồ! Như vậy thì chúng ta phải ở lại đây mười ngày, nửa tháng, tập cho Nhân đệ cỡi ngựa thành thục rồi mới khởi hành.

Tích Nhân :

- Hai ta cỡi chung một con, một con mang quà tặng có được không?

- Hai người chung một con ngựa chỉ trong trường hợp nguy cấp mà thôi. Mỗi con ngựa chỉ gắn được một chiếc yên. Hơn nữa... không quen cỡi ngựa không thể đi đường trường và dù sao ngồi chung một ngựa cũng sẽ làm cho người ta chú ý.

- Như vậy thì phải làm phiền tỷ tỷ.

Thu Hà lấy bộ võ phục mới đưa cho Tích Nhân :

- Nhân đệ đi tắm rửa thay đồ rồi hai ta đi ăn tối. Ở đây cũng xa kinh thành, nhưng cũng còn đậm đà hương vị kinh thành chúng ta phải tận hưởng.

Khách điếm thưa khách, nhưng Tích Nhân đến khu nam nhân cũng phải chờ một lúc mới có chỗ cho mình tắm rửa. Khi trở về phòng, mặc bộ võ phục Thu Hà mua cho, soi lên gương đồng thấy mình như lớn và oai phong hẳn ra. Khi qua phòng Thu Hà thấy nàng đã gọn ghẽ trong bộ võ phục, áo lụa trắng, quần lụa đen, thắt lưng gấm đỏ, đầu bịt khăn lụa đen làm nổi bật những đường nét thân thể và khuôn mặt trắng hồng của nàng, trông xinh đẹp vô cùng. Thấy hắn nhìn mình không chớp mắt, Thu Hà cười :

- Nhân đệ thấy ta thế nào?

Tích Nhân ngồi xuống giường :

- Tiểu đệ bây giờ chẳng muốn đi ăn chút nào!

- Sao vậy? Nhân đệ đi cả ngày thấy mỏi mệt?

Tích Nhân mỉm cười :

- Tiểu đệ chỉ muốn ngồi đây ngắm Hà tỷ.

Thu Hà bĩu môi :

- Ta nghe Nhân đệ đang sôi bụng!

- Trước đây mấy giây thì đói, nhưng bây giờ tỷ tỷ đây sẽ thấy tiểu đệ đã no nê.

Thu Hà bước lại gần, bẹo má hắn :

- Nhân đệ đã biết nói chuyện với nữ nhân rồi đấy! Từ nay tỷ tỷ phải để ý đến Nhân đệ hơn.

Tích Nhân kéo nàng xuống ôm lấy :

- Tỷ tỷ càng để ý thì càng thấy trong lòng trong tim tiểu đệ chỉ có người tỷ tỷ hoa nhường nguyệt thẹn này.

Thu Hà hôn nhẹ hắn :

- Miệng lưỡi Nhân đệ làm ta vui thích, nhưng...

- Nhưng cái gì?

Thu Hà nheo mắt :

- Nhưng cũng bắt đầu lo lắng vì coi bộ Nhân đệ đã biết ghẹo nguyệt trêu hoa.

Tích Nhân hôn lên đôi mắt nàng :

- Biết gì đi nữa, cũng chỉ biết có mình tỷ tỷ, phu nhân của ta.

Đôi mắt hắn si đắm nhìn xuống Thu Hà làm nàng phải nhắm mắt lại, vùi đầu lên cổ hắn trốn tránh, nhưng khi nàng được kéo nằm xuống giường liền chống tay ngồi dậy, véo vào cánh tay hắn :

- Hư! Đi ăn kẻo khuya mất!

Nàng đi ra cửa, Tích Nhân lấy tay chà chỗ véo cho bớt đau, hít một hơi chân khí lấy lại sự thanh thản rồi ra theo. Cách khách điếm Bắc Hành vài trăm trượng là tửu quán Lạc Phúc. Đây là một tửu quán mà chủ nhân mở ra nhằm thu hút những khách thương giàu có hay thế gia vọng tộc, công tử quyền quý từ các vùng phía Bắc đến kinh đô Thăng Long mà bấy giờ đang được gọi là Đông đô.

Nằm trong một khu vườn rộng cây cao bóng cả nhưng không um tùm, quán cất trên nền đá, vách gỗ chạm trổ công phu, bên trên lợp, ngói âm dương tạo cho quán xứng đáng là một nơi vừa sang trọng, vừa trang nhã. Đặc biệt trong những ngày lạnh lẽo các cánh cửa đều đóng kín như hôm nay, thì trong quán thắp toàn đèn sáp ong, chủ quán đốt lửa trên một chiếc vạc sành to giữa nhà, ngọn lửa nhẹ nhàng toả ra mùi thơm thoang thoảng. Mỗi năm chủ quán đã nhờ những người ở miền núi cao tải đến cho mình hàng xe lõi cây thông để làm củi. Ngoài lõi cây thông để phía dưới, bên trên là cây hay rễ mẫu đơn, nhờ khung cảnh, nhờ cách đốt lửa này, hay rượu Xương bồ đặc chế có thơm mùi hoa, những đĩa dồi, những đĩa thịt cầy, thịt dê, thịt nai thơm phức mà quán Lạc Phúc còn lôi cuốn nhiều thi nhân, nho sinh, quan chức từ kinh thành, đi đò lại lội tìm sang để thưởng thức.

Thu Hà và Tích Nhân hôm nay đều ăn vận gấm vóc, gái trông hoa nhường nguyệt thẹn, trai đúng là thiếu niên tài tuấn anh hùng nên bước vào quán cũng được đón tiếp niềm nở. Tuy nhiên, vì chỉ có hai người nên tiểu bảo phải mời họ đến một chiếc bàn nhỏ ở trong góc.

Tích Nhân tưởng Thu Hà sành sỏi quán xá và ăn uống lắm, nhưng khi ngồi xuống bàn hắn thấy nàng cũng có vẻ lạc lõng trong không khí của quán Lạc Phúc, khi tiểu bảo hỏi : ''Tiểu thư và công tử muốn uống rượu thứ nào, dùng sơn trân hay hải vị để tiểu nhân chuẩn bị.'' thì Thu Hà ngập ngừng, chẳng biết trả lời như thế nào, phải đưa mắt nhìn Tích Nhân. Là một thiếu niên phải sống đời ăn xin, suýt chết đói, nhưng cả năm chỉ lê la quanh quán Tư Bụng cũng lại là một tửu quán nổi tiếng và nghĩ rằng Thu Hà sống ở vùng núi non, chắc chắn thích thịt rừng hơn cá sông, cá biển nên Tích Nhân chững chạc :

- Có Nữ nhi hồng?

Tiểu bảo mồm mép :

- Nằm trên đường vào kinh, chủ nhân lại quen biết lớn, nên Nữ nhi hồng của chủ quán không bao giờ thiếu. Năm qua có phái bộ nhà Minh ghé vào đã khen Nữ nhi hồng của bản quán còn ngon hơn ở bên nước họ. Tuy nhiên, đa số thực khách đến đây đều muốn uống rượu Lạc Phúc, nhất là những ngày đông lạnh lẽo như thế này.

Tích Nhân chững chạc :

- Vậy thì cho ta một cân Lạc Phúc hâm nóng, một ít khô nai khai vị và sau đó chúng ta muốn dùng thịt rừng. Chỉ có hai chị em nên nhà ngươi nấu cho chúng ta ba món từng được coi là đắc ý nhất của Lạc Phúc mà thôi.

Tích Nhân lấy một tờ bạc vẽ mây, phù vân thông bảo cho tiểu bảo :

- Nhà ngươi lo chu đáo ta sẽ thưởng thêm.

Thời bấy giờ, tờ bạc vẽ mây có giá một tiền, mà ba chục quan tiền có thể mua một mẫu ruộng tốt, nên Tích Nhân cho tiểu bảo như vậy là rất hậu hĩ.

Mới chào hỏi đã được thưởng, nên tiểu bảo hết lòng phục dịch. Rượu ngon, thịt ngon, không khí ấm cúng đã làm cho cả hai cảm thấy càng uống càng ngon miệng, càng nồng ánh mắt cho nhau và khi trả tiền ra cửa người ta đã thấy bước chân của họ xiêu vẹo, ra ngoài sân họ dựa vào nhau, nắm tay nhau bước đi ngã tới ngã lui. Thực khách đến quán Lạc Phúc ra về trong lạc thú men say là chuyên thường tình, thế nhưng khi Thu Hà và Tích Nhân đứng lên ra quán, đã có một người khách, một người khách ngồi đơn độc ở phía góc ngoài đã chú ý nhìn theo họ không chớp mắt và sau đó cũng trả tiền rồi đứng lên đi ngay.

Rượu đã làm cho con người mất hết sáng suốt, khả năng đề phòng khi biết Tích Nhân bị bệnh, Thu Hà đã quyết tâm phải chữa trị cho người yêu, và Tích Nhân cũng không phải là phường háo sắc nên có nằm chung với nhau đi nữa họ chỉ âu yếm nhau giây lát rồi mạnh ai nấy ngủ. Hôm nay, họ mướn hai phòng để ngủ riêng, thế nhưng khi nắm tay nhau về đến phòng của Thu Hà, Tích Nhân đã ngã xuống bên nàng, hai thân hình ôm chầm lấy nhau. Cậu thiếu niên Tích Nhân không còn tâm trí nào nghĩ đến những lời mẹ dặn đến sống chết của chứng bệnh bẩm sinh, đến Thái Ất thần công phải giữ tấm thân đồng trinh mới có thể luyện thành, hắn chỉ còn biết cảm giác mê ly trong bàn tay bấu xé, thân hình hừng hực của Thu Hà. Còn nàng hình như cũng cảm thấy đêm đông mà người quá nóng nực, khuyến khích đưa đẩy bàn tay của hắn... Cả hai không còn chút gì để áy náy, để tự chế như đã hứa với nhau mà chỉ còn làm theo tính năng con người.

Nửa khuya hôm đó Thu Hà sụt sùi tự trách, Tích Nhân an ủi nàng, nhưng tự trong thâm tâm cũng tự trách chính mình, cảm thấy mình là người con bất hiếu. Hắn an ủi cho Thu Hà ngưng tiếng khóc tự trách của nàng, nhưng trong lòng hắn cũng tự khóc thầm.

Cả hai cùng tự trách, nhưng cả hai cùng thấy rằng, đã như vậy thì đến đâu hay đến đó, và khi Thu Hà ôm hắn tỉ tê : ''Tỷ tỷ hy vọng ta sẽ có một đứa con với Nhân đệ...''. Nàng không muốn nói thêm lỡ Nhân đệ có bề gì, ta cũng còn một đứa con, thì Tích Nhân cũng chỉ còn nghĩ hãy tận hưởng hạnh phúc với người yêu.

Sáng hôm sau, mặt trời lên cao họ mới uể oải thức giấc. Và gần đến trưa họ mới đưa nhau ra khỏi phòng. Sau khi Thu Hà báo cho chưởng quỹ biết mình phải ở lại trong mười hôm nữa và trả tiền thì họ đi ăn trưa ở quán Lạc Phúc, lần này họ chỉ dùng mỗi người một chén rượu. Sau đó đến mã trường Gia Viễn mua hai con ngựa tốt và Thu Hà đưa Tích Nhân đến khoảng đất trống của mã trường dạy cỡi ngựa. Tích Nhân ngạc nhiên tại sao chỉ cỡi ngựa mà phải ở lại mười ngày, nhưng khi thấy điều khiển ngựa thì không khó, mà đôi mông của mình ê ẩm như thế nào sau mấy giờ trên yên ngựa mới thấy thời gian mà Thu Hà đưa ra không phải là quá nhiều. Tối ấy, đôi mông ê ẩm của Tích Nhân được bàn tay êm ái của Thu Hà thoa bóp bằng thuốc rượu mà nàng phải đi mua ở một hàng bán thuốc.

Những ngày êm ả qua mau, Tích Nhân bấy giờ đã điều khiển ngựa thuần thục từ nước kiệu đến nước phi, biết cho ngựa phóng qua chướng ngại và ngừng ngựa kịp thời nếu trên đường đi có chướng ngại. Theo lời Thu Hà, đường lên phủ Lạng núi non hiểm trở, nhất là mùa đông càng nguy hiểm nên đã là kỵ mã thì phải hành nghề, nếu không sẽ tự mình chuốc họa.

Sáng hôm ấy gió vẫn lạnh, nhưng bầu trời không một chút mây đen, Thu Hà và Tích Nhân chất quà biếu lên lưng ngựa giã từ khách điếm Bắc Hành. Chưởng quỹ biết nàng là goá phụ, thấy Tích Nhân còn trẻ, cả hai xưng chị em, tỷ đệ, nhưng mướn hai phòng mà thực sự chỉ dùng có một, ông hiểu sự liên hệ của họ không phải chị em bình thường, chung chạ ra ngoài lễ giáo nên có chút coi thường trong lòng, nhưng mỗi ngày ông ta nhận được một số tiền hậu hĩ nên lúc nào cũng tỏ ra vồn vã và khi họ giã từ ông ta cũng hết lời cảm ơn, cầu chúc thượng lộ bình an căn dặn khi nào trở về hãy đến khách điếm ông ta.

Trên đường đi có lúc lỏng buông tay khấu, hai ngựa kề vai, có lúc ra roi đuổi nhau, rồi dừng chân bên đường nghỉ ngơi ăn bánh uống nước. Đến những nơi có cảnh đẹp đưa nhau đi ngắm, như đến huyện lỵ Tiên Du nghe nói trên núi Lạn Kha có muôn thú đá, bàn cờ bằng đá, là nơi năm xưa Vương Chất, Từ Thức gặp tiên, họ ở lại một ngày đưa nhau đi dạo. Vừa đi vừa thưởng thức cảnh sắc non sông, vừa hưởng tình nồng ấm, cả hai đều thấy hành trình của họ thật không gì vui thú bằng và cũng không trông mong đi mau đến nơi đến chốn. Tuy nhiên, dù vui chơi như thế nào khi nào thấy trời về chiều Thu Hà cũng phải tìm một khách điếm ở nơi đông đảo hay có lính quan phòng trú ngụ. Theo lời giải thích của nàng như vậy mới an toàn. Đề phòng trộm cướp. Vừa đi vừa dung dăng dung dẻ như vậy, bốn ngày sau, lúc trời về chiều họ cũng đến thị trấn Xương Giang. Đây là một thị trấn lớn nhất ở khu vực miền Bắc lộ Kinh bắc.

Như thường lệ, họ ghé khách điếm sang trọng nhất ở đây là khách điếm Hòa Lạc. Trong khi cùng Thu Hà đứng chờ tiểu bảo mang hành lý vào trong cho mình, một cô gái từ trong khách điếm chạy ra mừng rỡ :

- Bát tỷ! Tiểu muội và các mọi người chờ Bát tỷ muốn rụng mắt!

Thu Hà cau mày hỏi nhanh :

- Gia gia đâu?

- Gia gia đã sang Trung Nguyên có việc. Nhận thư của Bát tỷ, Đại nương nương và đại tỷ phu đã phái tứ, ngũ, lục, thất tỷ phu, Lưu sư ca, Mã sư ca...

Tích Nhân thấy cô gái mừng rỡ đón Thu Hà khoảng mười bốn, mười lăm tuổi, rất giống nàng, nhưng đôi mắt to tròn đen lay láy, má lún đồng tiền trông rất thơ ngây duyên dáng. Tích Nhân đoán cô gái là Vân Thao. Vân Thao thấy Thu Hà không mấy vui vẻ chú ý lời nói của mình dậm chân trách :

- Bát tỷ sao lại cứ cau mày với tiểu muội?

Thu Hà bấy giờ mới cười :

- Gặp thập muội ta mừng lắm, nhưng ta muốn gặp gia gia mà người không đến nên thất vọng!

Vân Thao bấy giờ nắm tay Thu Hà cười lại :

- Gặp lại Lưu sư ca không mừng sao?

Thu Hà vội giằng tay Vân Thao nói :

- Để ta giới thiệu Nhân đệ với Thao muội! Nhân đệ với ta ý hợp tâm đầu... Nên cũng có thể nói trượng phu của ta và là Bát tỷ phu của Thao muội.

Vân Thao nhìn Tích Nhân với ánh mắt ngạc nhiên, nàng thấy Tích Nhân nhỏ hơn chị mình quá nhiều, nhưng cũng thầm công nhận hắn là một thiếu niên anh tuấn... Hình như có điều gì không mấy ổn thoả trong lòng, Vân Thao ấp úng :

- Chẳng lẽ như vậy sao bát tỷ?

Thu Hà lớn tiếng :

- Chuyện chung thân đại sự của ta chẳng lẽ đùa với ngươi. Vào thông báo với mọi người, ta và Nhân đệ sẽ vào sau.

Vân Thao chạy đi, Thu Hà nhìn Tích Nhân :

- Ta sợ đi vào vùng rừng núi sẽ gặp trộm cướp, hay bọn Đinh Hưng dò biết Nhân đệ không biết võ công chận đánh trả thù. Hơn nữa muốn cho gia gia ta biết sớm việc chung thân đại sự của ta nên mới có thư mời người đến đây...

Tích Nhân hơi tự hỏi tại sao Thu Hà nhờ người tiếp ứng mà hắn hoàn toàn không hay biết, nhưng nghe nàng nói thấy cũng không có gì quan trọng nên nói:

- Tiểu đệ nghĩ tỷ tỷ biết lo xa như vậy cũng tốt.

Nàng ngần ngừ giây lát :

- Lưu sư ca từ lâu để ý đến ta và gia gia ta cũng muốn sau khi mãn tang Kiệt huynh gả ta cho hắn, nhưng duyên trời đưa đẩy ta gặp Nhân đệ và chúng ta... dù chưa chính thức cũng nên nghĩa vợ chồng. Ta mong Nhân đệ không vì việc này mà khó chịu.

- Tiểu đệ đâu thể vì việc như vậy mà khó chịu, chỉ sợ Lưu sư ca của nàng khó chịu với ta mà thôi.

- Ta mong Nhân đệ hiểu ta là được, còn Lưu sư ca thì phải hiểu hoàn cảnh của mình.

Nàng chân thành :

- Thực sự nếu Nhân đệ không xuất hiện, thì ta cũng chưa hẳn chịu lấy Lưu sư ca vì lòng ta vẫn không thể quên Kiệt huynh. Ta đã định suốt đời ở vậy, nhưng gặp Nhân đệ thì ta chỉ còn biết Nhân đệ và tha thiết yêu Nhân đệ.

Tích Nhân nắm tay nàng :

- Tiểu đệ hiểu tình yêu của Hà tỷ, lòng tiểu đệ đối với Hà tỷ như thế nào nàng cũng rõ. Không điều gì có thể làm cho tình cảm của chúng ta sứt mẻ.

Thu Hà nắm chặt bàn tay của hắn :

- Có lời Nhân đệ ta như trút hết được lo lắng trong lòng.

Nàng thở dài :

- Những ngày qua, ta sợ về Hoàng gia trang có người nói này nói khác đến tai Nhân đệ, rồi xảy ra nghi ngờ, ghen tuông thì ta sẽ khốn khổ khôn cùng.

- Tiểu đệ thật lòng yêu tỷ tỷ và biết tỷ tỷ cũng vậy, nếu vì lời người này người kia làm vẩn đục tình cảm chúng ta, thì tiểu đệ đâu còn xứng đáng với lòng thương yêu của tỷ tỷ, và cũng đâu xứng đáng là một người quang minh lỗi lạc.

Thu Hà vui vẻ :

- Đa tạ... Phu quân. Chúng ta vào trong kẻo họ chờ đợi.

Vào khách điếm, Thu Hà và Tích Nhân được tiểu nhị dẫn đến một căn phòng rộng, nơi mà những thương buôn thường thuê để gặp gỡ trao đổi, hay những gia đình lớn, bang hội mượn để gặp mặt khi ở chung trong khách điếm. Vào phòng Thu Hà cung tay :

- Kính chào chư vị tỷ phu, Lưu sư ca, Mã sư ca.

Và quay lại một thanh niên cỡ hai mươi tuổi cười :

- Chào Nông sư điệt...

Trong phòng, quây quanh một chiếc bàn gỗ vuông, đầu bàn một người đàn ông vạm vỡ, độ bốn mươi tuổi, sắc mặt rắn rỏi, râu quai nón, đầu bịt khăn đen, áo da thú ngắn tay, đệ lộ hai cánh tay bấp thịt nổi cồn cộm. Bên trái, ba người đàn ông cũng mặc áo da thú ngắn tay đầu bịt khăn đen, một người má hóp, râu lưa thưa, một người mặt vuông, da ngăm, một người mặt đen có một vết sẹo dài trên má. Tuổi tác của họ độ bốn mươi, ba mươi lăm, ba mươi sáu. Bên hữu, ngoài cô bé Vân Thao, ba người cũng cách ăn mặc giống nhau, ba người độ ba mươi, một người độ hai lăm, hai sáu và người mà Thu Hà gọi là Nông sư đệ độ hai mươi tuổi. Theo cách ngồi trong phòng, tuổi tác và sự chào hỏi của Thu Hà, Tích Nhân thấy người Lưu sư ca của nàng tướng mạo thanh lịch, mặt trắng răng đen, mày rậm, nếu cặp mắt lớn hơn một chút thì đúng là một trang mỹ mạo. Người trong phòng nghe Thu Hà chào hỏi, nhưng hầu như tất cả mọi cặp mắt đều nhìn chăm chú vào Tích Nhân. Tích Nhân thấy người ngồi giữa cũng chú ý đến cây gậy trên tay mình. Biết họ là người của Thu Hà, Tích Nhân cũng vòng tay xá :

- Tiểu đệ là Tích Nhân tham kiến chư đại huynh.

Người ngồi chủ tọa, thấy hắn cung kính chào hỏi mới đứng lên :

- Chào tiểu hiệp! Đã là người thân của Bát muội, thì cũng là người nhà, xin mời ngồi..

Thu Hà nắm lấy tay Tích Nhân, dõng dạc :

- Theo gia pháp họ Hoàng nhà ta, góa phụ có thể tự chọn người mình thương mến để đi thêm bước nữa. Gia gia không có mặt ở đây để ta bẩm báo và xin người chấp nhận quyết định của ta, nhưng gặp Tứ, Ngũ, Lục, Thất tỷ phu và các sư ca, sư đệ đến đón hôm nay ta xin thông báo, Nhân đệ là người ta yêu thương và sẽ là trượng phu của ta.

Người con gái miền núi có tục nghĩ sao nói vậy. Đối với tình trai gái không rụt rè, e ấp nên không làm cho ai ngạc nhiên đối với thông báo của Thu Hà. Tuy nhiên nhiều cặp mắt đã vô tình hướng về người đàn ông ngồi bên hữu Tứ tỷ phu của nàng mà Tích Nhân đã nghĩ ngay là người sư ca họ Lưu. Tích Nhân thấy người này nghe Thu Hà thông báo, sắc mặt tái mét, đôi mắt nhìn Tích Nhân toé lửa, nhưng hắn lấy lại ngay sự bình tĩnh và cười khẩy :

- Theo quy luật của Hoàng gia thôn, nếu hai người đàn ông cùng yêu thích một người đàn bà họ phải được tỷ đấu với nhau để phân hơn kém.

????thiếu

Có lẽ vì có tâm cầu sống và có lẽ cũng đã có những ngày ăn uống thừa thải, sức khỏe hiện thay đổi nhiều, Tích Nhân tiếp tục mò mẫm, theo lòng suối mà đi. Khi trợt chân ngã quỵ chống tay ngồi dậy, khi sợ hãi vì tiếng hú của khỉ vượn, cọp kêu... hay tiếng chim bất chợt giật mình vỗ cánh, Tích Nhân ngồi thu mình giây lát rồi đi tiếp. Với Tích Nhân hiện giờ cọp, rắn rết, ma quỷ... đều không nguy hiểm bằng con người!

Khi tiếng chim buổi sáng bắt đầu trỗi những điệu nhạc du dương, và ánh sáng le lói xua tan màn đêm, Tích Nhân thấy mình đang ở trong một con suối, nước quá gối, lòng nước rộng hơn trượng, hai bờ đá thẳng đứng cao quá đầu, cây cối gai góc rậm rạp che phủ thành vòm bên trên nhìn lên không thấy bầu trời. Suốt đêm ngâm mình dưới nước, Tích Nhân muốn tìm một nơi khô ráo để nằm nghỉ, nhưng chẳng thấy nơi nào trống trải cả, đành men theo con suối đi tiếp.

Đi một lúc nữa Tích Nhân mới cảm thấy nước dưới chân âm ấm, và nhớ là suốt đêm chạy trốn có mệt mỏi sợ hãi, nhưng chỉ rét cóng lúc mới rớt xuống nước, còn bò lết đi được một lúc sau thì hầu như chẳng thấy lạnh lẽo nữa, thì ra dòng nước suối là dòng nước nóng. Dọc hai bờ suối gai góc, cây cối giăng mắt chằng chịt nên khi gặp một phiến đá bằng phẳng trong lòng suối, Tích Nhân bèn nằm lăn ra để nghỉ mệt. Có lẽ bây giờ cũng đã trưa, qua vòm cây lá bên trên Tích Nhân không nhìn rõ bầu trời xanh hay mù đục, nhưng có thể nhìn thấy ánh sáng dọi chiếu xuyên qua kẽ lá và khi thấy được ánh sáng, Tích Nhân cũng thấy trên những cành cây, tàn lá, có những con vật đang nhẹ nhàng trườn mình qua lại, có những con bám chặt trên thân cây, cuộn mình nằm yên. Những con vật mà Tích Nhân nằm ngửa nhìn lên thấy rõ là rắn, rất nhiều loại rắn...

Xà Khê! Tích Nhân nghe Bế Thiệu nhắc đến hai tiếng Xà Khê, hay khe rắn là một trong những vùng ác địa ở Đại Việt, ít ai dám héo lánh tới. Con đường từ Kinh thành lên trấn Lạng chỉ đi băng qua gần khu Xà Khê nhưng mỗi khi đi qua lại, từ thương buôn đến quân lính đều phải đi ban ngày và phải mang theo nào cây xun, cây ngải, hùng hoàng kỵ rắn để đề phòng bất trắc. Đi sâu vào Xà Khê chỉ hạng chuyên dùng độc nổi tiếng và những cao thủ thượng thừa trên giang hồ.

Thấy rắn khắp trên cây và nhớ hai tiếng Xà Khê, Tích Nhân vô cùng sợ hãi, nghĩ rằng cả đêm mình đã đi theo con suối mà không gặp rắn, thì cứ bò theo con suối, có dòng nước nóng ấm rắn sẽ không làm nguy hại, và phải thoát nhanh ra khỏi chỗ ác hại này. Tích Nhân lại rón rén bò xuống nước, rồi len lén, nhẹ nhàng lội theo dòng nước đi tiếp.

Cuối cùng Tích Nhân cũng ra khỏi dòng suối nhỏ hai bờ cây cao che phủ, đến một nơi quang đãng, một thung lũng nhỏ. Con suối đổ vào hồ nước độ vài mẫu giữa thung lũng đang bốc hơi như sương mù. Ra đến thung lũng Tích Nhân càng cảm thấy sợ hãi hơn vì khắp nơi, cây nhỏ có rắn nhỏ, cây lớn có rắn lớn và trên mặt đất cũng lúc nhúc rắn bò. Ôi! Có thể nói đây là một thung lũng rắn.

Tích Nhân không thể nào biết mình đã lọt vào xà động. Một nơi mà từ xưa đến nay chưa ai dám đặt chân vào. Khi thoát khỏi bao vải, sợ người đuổi bắt Tích Nhân lần mò theo khe suối mà đi. Vì đêm tối, tâm trạng nặng nề lo sợ và đau khổ, Tích Nhân mãi đi, không để ý, không nhìn thấy gì, nếu thấy càng đi xuôi theo dòng nước càng gặp nhiều rắn và khi dòng suối chảy vào một hang ngầm dài vài chục trượng và chung quanh miệng hang đu đầy những rắn thì dù có gan bằng trời cũng chẳng bao giờ dám đi tiếp và lọt vào xà động như bây giờ. Sở dĩ loài rắn trong Xà Khê không con nào ngăn trở hay làm hại Tích Nhân thứ nhất là vì người hắn đang mang đầy nọc độc của kiến. Nọc độc của kiến không giết Tích Nhân, nhưng làm cho người hắn sưng vù tiết ra mùi hôi của loài kiến quen thuộc trong khu vực Xà Khê. Ngoài cả người hắn không khác gì ổ kiến, vì mò theo lòng suối mà đi, rắn không nằm dưới nước nên Tích Nhân đã không đạp nhầm hay quơ trúng rắn, một điểm nữa là thông thường loài vật dù độc hại và hung dữ đến đâu chúng thì chúng cũng nằm yên và đó là trường hợp Tích Nhân.

Tích Nhân bấy giờ chỉ sợ con người theo đuổi, hoàn toàn vô ý với rắn, cho nên loài rắn cũng chẳng buồn để ý đến hắn. Khi Tích Nhân nhìn thấy và lo sợ, thì rắn trong động cũng hình như phát hiện có người xâm nhập vào lãnh thổ của chúng. Khe nước đi vào thung lũng hai bờ không còn cao nữa mà chỉ độ hơn thước nên khi rắn lần lần kéo tới, thì Tích Nhân chỉ có con đường duy nhất là chạy vào hồ, và nước trong hồ không đủ sức nóng làm phỏng người, nhưng khá nóng nên rắn chỉ kéo tới rồi nằm chung quanh, có con cất đầu, có con quẫy đuôi, nhưng không con nào lội xuống nước để tấn công Tích Nhân.

Vào hồ nước Tích Nhân thấy giữa hồ có một cù lao đá rộng độ vài trượng, trên cù lao có cây cỏ ra hoa màu đỏ và lá màu tím thẫm. Thấy chung quanh hồ rắn đầy dẫy nhưng chúng không bò xuống nước, Tích Nhân nghĩ rằng cù lao đá giữa hồ nước là nơi an toàn có thể ngồi hay nằm nghỉ ngơi.

Tích Nhân lội ra cù lao, nước trong hồ có chỗ sâu đến cổ, ra gần cù lao hơn, Tích Nhân thấy nước nóng hơn, nhưng cũng cạn dần và đến sát cù lao thì chỉ sâu đến bụng. Trèo lên cù lao, Tích Nhân thấy giữa ở giữa cồn đá lại có một giếng nước mấy thước chỉ có đá trắng không cây cỏ nào mọc được. Sờ lên đá Tích Nhân thấy rất nóng và nghĩ rằng nước trong ao nhỏ giữa cù lao cũng nóng nhiều so với nước trong hồ. Thấy gần mép cù lao có một miếng đá cao vài thước bề mặt bằng phẳng đủ một người nằm và mặt đá sờ lên chỉ âm ấm, Tích Nhân bèn trèo lên nằm nghỉ.

Trải qua bao nhọc nhằn, đau đớn và không giây phút chợp mắt, vừa nằm giây lát Tích Nhân đã ngủ vùi và khi giật mình thức giấc trời đã vào đêm. Sau một giấc ngủ say, Tích Nhân thấy người khoẻ khoắn, những nhức nhối ngứa ngáy vì kiến cắn trên da thịt chỉ còn cảm giác tê ngứa, nhưng bụng lại đói cồn cào. Nhìn vào trong rừng chung quanh thung lũng, chung quanh hồ nước. Tích Nhân thấy cả rừng cây, bờ hồ, bờ cỏ muôn ngàn đốm ánh sáng nhấp nháy lóng lánh khi ẩn khi hiện trông đẹp tuyệt vời nhưng biết đó là mắt rắn. Khắp nơi đều rắn, hắn nghĩ nếu không thể thoát khỏi nơi này chỉ có cách ăn rắn mới sống được. Nhưng rắn bầy rắn lũ như thế làm sao có thể bắt được một con mà không nguy hiểm?

Đói quá, Tích Nhân mò bức một chiếc lá cỏ tím mọc ven cù lao, đưa lên miệng nhai thử thấy cay và đắng vô cùng, hắn vứt ngay chiếc lá nhưng đã thấy miệng rát bỏng biết ý nghĩ ăn lá cây đỡ đói nữa.

Tích Nhân thầm tính có lẽ hắn bị bắt, bị đem đi và trốn thoát đến giờ này đã hai ngày hai đêm. Tính ra thời gian, Tích Nhân càng cảm thấy đói hơn nữa, nhưng đành ngồi một nơi ôm bụng chịu đựng. Ngồi một lúc, Tích Nhân lại nghĩ đến cái ngủ. Ngủ có thể quên được đói, nhưng bụng đói cồn cào Tích Nhân lại không thể nào ngủ được và cứ phải ngồi lên rồi nằm xuống.

Cuối cùng Tích Nhân ngồi lên ôm bụng thở dài, và khi vô tình nhìn quẩn quanh, Tích Nhân chú ý bờ đá quanh chiếc giếng nhỏ phát ra một thứ ánh sáng lờ mờ và nước dưới giếng hình như gợn sóng phản chiếu ánh sáng nhấp nháy lên xuống, vòng vèo trông rất đẹp. Tò mò, Tích Nhân cởi áo quần cột hai bàn chân rón rén đến xem và thấy trong giếng có một con rắn trắng như tuyết dài hơn thước, to bằng ngón chân cái, đang lượn lờ lên xuống qua lại. Có lẽ đã sống rất bình yên trong giếng chưa bị ai hay con thú nào rượt bắt nên Tích Nhân đến miệng giếng ngồi xuống, con rắn trắng vẫn không để ý, vẫn bình thản lượn lờ.

Nhìn thấy con rắn, cặp lông mày lưỡi kiếm của Tích Nhân cau lại, đôi mắt hiện ra nỗi vui mừng rồi nhanh chóng lừa khi con rắn lượn lên vừa tầm tay liền chụp bắt. Con rắn bất ngờ bị bắt, vùng vẫy lấy thân quấn chặt lên tay Tích Nhân, nhưng hắn cũng liền đưa cổ rắn lên miệng cắn mạnh. Sau khi hút hết máu, Tích Nhân ăn cả da thịt con rắn, chỉ phun ra ngoài những mẫu xương sống của nó.

Tích Nhân đã hút máu, ăn sống con rắn trắng không phải vì đói mà xuất thân từ gia đình võ học, có học qua y thuật và cũng biết mình bị bệnh thất âm tuyệt mạch, may ra chỉ có những hãn thế kỳ trân dị thảo như thiên niên tuyết sâm, thiên niên hà thủ ô, linh chi ngàn năm và máu huyết của Bạch Long xà mới có thể chữa khỏi. Bạch Long là một loại rắn không độc, da thịt thơm ngon, ngoài công năng chữa bách bệnh, nó còn có tác dụng bồi tăng công lực cho người luyện tập võ công. Chỉ có người có nhiều duyên phước mới gặp được Bạch Long, không ai dụng tâm đi tìm mà có thể gặp nó, bởi vì nó không phải sống ở một nơi có những điều kiện đặc biệt nào. Nó có thể lang thang ở khe rạch nơi đồng ruộng khó phân biệt với rắn nước tầm thường, nó cũng có thể sống trong rừng sâu, suối thẳm, đồng cỏ hoang vu không người lai vãng. Nó cũng có thể hiện diện ở miền lạnh giá, thì cũng có thể có mặt ở nơi quanh năm nắng ráo.

Tích Nhân biết giống rắn tiểu Bạch Long có thể chữa bệnh bẩm sinh của mình, nhưng không biết khi con rắn phải sống trong một đầm nước nóng, thân thể và máu huyết của nó tính lại cực âm, chí hàn nên chỉ trong giây lát sau, Tích Nhân nghe trong bụng lạnh ngắt, từng luồng khí lạnh xông ra đơn điền toả vào kinh mạch và thân thể bắt đầu tê cứng ngã nhào xuống nước. Nước nóng làm chân tay Tích Nhân có thể cử động được nhưng vẫn thấy lạnh phải run cầm cập, ngoài cái lạnh từ xương thịt mình như bị trương lên, mạch máu như muốn vỡ vô cùng đau đớn khó chịu. Cử động theo phản ứng tự nhiên, Tích Nhân đứng trong giếng nước nhảy lên nhảy xuống như con choi choi, nước bắn tung toé, và khi những hạt nước rơi xuống mặt đá thì bốc hơi lên. Buổi sáng hôm ấy, nếu có ai ở xà động thì không thể thấy hòn cù lao đá nữa vì đã bị hơi nước che phủ.

Thấy nhảy lên nhảy xuống làm dễ chịu hơn, Tích Nhân vừa nhảy vừa vung tay đánh lui đánh tới... Cho đến khi mặt trời lên hai sào, Tích Nhân cảm thấy sự căng nức của da thịt bớt đi phần nào, thì hắn cũng nghe một tiếng hú dài lảnh lót và giây lát sau trong đám hơi nước mịt mù của cù lao đá, xuất hiện một người áo quần đen, mặt mày tay chân che kín bằng vải đen. Bóng đen nếu không có bộ ngực và mái tóc đen huyền óng ả thả xuống quá lưng thì khó biết là nam hay nữ.

Nữ nhân che kín tay chân mặt mày xuất hiện trên cù lao thấy Tích Nhân đang ở trong giếng nước thì tức giận gầm lên nắm cổ Tích Nhân xách lên quăng mạnh. Thần lực của nữ nhân thật kinh khiếp, thân thể của Tích Nhân không phải là nhẹ nhưng nữ nhân xách và quăng lên cao cả trượng, may mắn là rớt xuống hồ nước, nếu không thì đã gẫy hết xương cốt. Nữ nhân nhìn xuống giếng nước nóng không thấy con Bạch Long lại tức giận gầm lên lần nữa, phi thân ra hồ chụp đầu Tích Nhân mang lại cù lao. Tích Nhân khi ra giếng nước đã cỡi áo quần quấn đạp dưới đáy giếng, bây giờ trần truồng như nhộng. Tuy nhiên nữ nhân hình như không chút ngại ngùng, ném hắn xuống mặt đá, nữ nhân cầm cổ tay hắn xem mạch, cặp mắt long lên ác độc, và rút trong người một con trủy thủ đen tuyển. Thấy nữ nhân muốn giết mình, Tích Nhân quát hỏi :

- Ngươi là ai? Có thù oán gì với Nhân mổ?

Nữ nhân không trả lời búng ra một luồng chỉ lực cách không điểm huyệt hắn rồi ngồi xuống dí mũi trủy thủ vào động mạch cổ tay hắn. Tích Nhân nhắm mắt thở dài, hiểu ra rằng nữ nhân biết hắn đã ăn thịt con Bạch Long nên bây giờ lại muốn uống máu của hắn. Tích Nhân nhắm mắt chờ chết. Tuy nhiên, khi mũi dao kề lên động mạch cổ tay Tích Nhân, thì nữ nhân lại dừng tay và hai bàn tay lại sờ sẫm, nắn bóp lên những khớp xương, các kinh huyệt trên người hắn, ngay cả vùng xương thiêng của hắn nữ nhân cũng không ngại ngùng. Thấy nữ nhân làm điều kỳ lạ, Tích Nhân mở mắt định quát mắng, nhưng bàn tay của nữ nhân nhanh nhẹn vô cùng, hắn vừa mở mắt, thì nữ nhân đã lật úp hắn lại, lướt qua xương vai, xương sống và sau đó hú lên một tiếng lảnh lót, tiếng hú không phải người, không phải vượn, cao bổng, kéo dài và bằng một động tác dụng lực kỳ lạ, nữ nhân chỉ nắm cổ tay của hắn nhưng có thể đưa hắn lên cao vừa đẩy thân thể của hắn lên vai mình, hú dài một tiếng nữa, phóng đi.

Tích Nhân đã từng nghe mẫu thân kể đến võ công thượng đẳng của ngoại tổ mình, cũng như của những cao thủ thượng thặng ở Đại Việt và Trung nguyên năm xưa còn truyền tụng lại như thuật kinh công có thể đi trên mặt nước, lướt trên đầu ngọn cây ngọn cỏ, đầu ngón tay có thể phóng ra chỉ kình làm tan bia vỡ đá, chưởng tung có thể tụ khí đánh ra như sấm sét, v. v... nhưng chưa bao giờ thấy. Hôm nay, qua nữ nhân áo đen, Tích Nhân đã chứng kiến việc búng ngón tay từ xa có thể điểm huyệt, dùng kinh công lướt qua mặt hồ và sau đó bay lướt qua đầu ngọn cây mà đi không khác gì chim bằng.

Không hiểu nữ nhân là ai, thù hay bạn đối với mình, nhưng nằm trên vai nữ nhân, nghe gió lùa qua hai tai phần phật, mở mắt thấy cây cỏ nằm rạp lại phía sau, Tích Nhân kính phục võ công của nữ nhân vô cùng và phân vân không hiểu ngoại tổ của mình, một kỳ nhân thế ngoại của Đại Việt hiện nay, võ công có hơn được nữ nhân đang bắt mình hay không? Hắn cũng thầm ao ước mong sao mình có được võ công như nữ nhân này.

Nữ nhân đi như tên bắn, nhưng Tích Nhân nằm trên vai lại thấy êm ái dễ chịu không giống như trước đây bị tên Đèo Căn bỏ trong bao vác chạy, xốc lên xốc xuống khổ sở vô cùng.

Tích Nhân không hiểu có phải dùng khinh công như vậy, cứ vài giờ phải điều tức một lúc hay không? Nữ nhân phi hành độ vài giờ, ném Tích Nhân xuống đất, tìm chỗ ngồi điều tức độ nửa giờ, rồi đi tiếp. Khuya hôm đó đến một bờ suối, nữ nhân ném Tích Nhân xuống, đi vào rừng, lúc sau mang về một con gà, quơ một số cây khô chất lại thành đống. Nữ nhân không dùng đá đánh lửa như mọi người mà bàn tay nắm nhánh cây trong giây lát, nhánh cây bốc cháy. Nữ nhân mồi lửa, để con gà bên cạnh, búng tay cách không giải huyệt cho Tích Nhân, không nói nửa lời bỏ đi đến một hòn đá cách đó vài trượng ngồi quay lưng lại điều tức.

Trong người các luồng hàn khí vẫn còn, ở giữa rừng khuya, không mảnh vải che thân, vừa lạnh vừa đói, dù nữ nhân không nói lời nào, nhưng cử chỉ cho Tích Nhân biết hắn có thể nướng gà để ăn và sưởi ấm nên liền lại bên đống lửa, xỏ con gà lên một cành cây hơ nướng. Gà chín, không biết nữ nhân lớn nhỏ thế nào hắn gọi :

- Gà đã chín, đại tỷ có thể lại ăn.

Không thấy trả lời, Tích Nhân lại gọi lớn :

- Mời cô nương dùng gà.

Nữ nhân vẫn im lặng, hắn nghĩ nữ nhân có võ công rất cao, phải là người lớn tuổi, lễ phép :

- Kính mời tiền bối dùng gà.

Hỏi mấy lần nữ nhân cũng chẳng thèm ư hử, Tích Nhân cũng ngại mình đang trần truồng nên cũng không dám mang lại gần mời mọc. Ngần ngừ giây lát, bụng quá đói Tích Nhân không khách sáo nữa. Ăn no, ngồi dựa gốc cây hơ lửa rồi ngủ quên lúc nào chẳng hay. Khi thức giấc thấy mình đã đang nằm trên vai nữ nhân.

Nữ nhân cõng hắn, lúc đi lúc nghỉ nhưng thuỷ chung cũng với tốc độ không thua ngựa phi nước kiệu suốt ngày hôm sau. Đến nửa đêm nữ nhân hú lên một tiếng dài không khác gi vượn, nhưng âm vang lại lồng lộng bất tận và Tích Nhân thấy tốc độ khinh thân còn nhanh hơn nữa, băng trên ngọn cây lướt nhanh lên một hòn núi thật cao, khoảng hơn giờ sau, đến một bờ vực, nữ nhân một tay nắm chân Tích Nhân, một tay nắm một sợi dây dài, tung mình xuống bên dưới, khi dừng lại nữ nhân nghiêng vai hất Tích Nhân xuống mặt đá.

Bị ném xuống mặt đá đau đớn vô cùng, Tích Nhân tức giận chưa kịp lên tiếng mắng chửi, thì nữ nhân biến mất, giây lát sau trở lại với cây đèn sáp. Ánh đèn cho Tích Nhân thấy mình đang ở trong một động đá rộng vài trượng vuông. Nữ nhân thần bí đặt cây đèn sáp, một cuốn sách da đen lên trên một tảng đá hình vuông giống như chiếc bàn nhỏ, rồi phóng ra ngoài, không biết đi đâu. Trong khi nữ nhân phóng mình đi thì cũng phóng chỉ kình vô hình giải hết các huyệt đạo của hắn.

Tay chân được cử động, sự lạnh lẽo do khi âm hàn trong người xung ra cũng giảm rất nhiều, không hiểu nữ nhân sao lại đặt cây đèn và quyển sách lại làm gì, Tích Nhân bước lại xem.

Quyển sách đen là những trang sách bằng da dê, có lẽ chỉ nửa quyển, phía sau không có bìa, trang đầu có bốn chữ lớn : Huyền Âm khí công, bên cạnh có kẹp một lá thư nhỏ mới viết chữ còn thơm mùi mực, nét chữ tuyệt đẹp : "Ngươi mang tuyệt chứng thất âm tuyệt mạch là người trăm năm khó tìm để có thể luyện thành Huyền Âm chân khí. Ngươi ăn con tiểu Bạch Long, trong người hiện đã có chân khí tương đương với mười năm công lực. Hẹn cho ngươi ba năm phải luyện thành Huyền Âm khí công này. Nếu người không dốc tâm dốc chí hoàn thành, đả thông sinh tử huyền quan thì ta không giết ngươi, ngươi cũng không thể sống thêm vì tuyệt chứng của ngươi. Hừ! Ngươi còn nhỏ mà đã sắc dục quá độ, con tiểu Bạch Long chỉ có thể giúp ngươi thọ thêm được ba năm..."

Tích Nhân đọc lá thư của nữ nhân để lại thở dài. Sau khi mất thân đồng trinh với Thu Hà, tự biết mình không còn sống lâu, hy vọng mong manh này chỉ là ảo vọng, nên hết lòng thương yêu, chiều chuộng Thu Hà và cũng thầm tính khi về nhà nàng, có chỗ ở ổn định dù nàng có con với mình hay không, cũng sẽ viết lại Thái Ất thần công và Đằng Tiên bí pháp lưu lại cho nàng... Thế nhưng hắn đã vô tình mà nghe được sự thực phũ phàng. Đau khổ hối hận khôn xiết, thì cũng cùng lúc bị giành giật, bắt giữ, muốn chết đi cho rảnh, và trong lúc tuyệt vọng lại thấy thêm sinh lộ. Lá thư của nữ nhân nói hắn không thể sống quá ba năm nếu không luyện thành Huyền Âm chân khí là hoàn toàn không ngoa, bởi phụ thân và mẫu thân của hắn từng đã dồn hết tâm huyết nghiên cứu sách vở y dược cổ kim đã không tìm ra môn thuốc nào có thể trị dứt tuyệt chứng của hắn. Ngoại tổ của hắn một kỳ nhân võ học cũng đã vì hắn mà lặn lội sang trung nguyên định lên tận Tuyết sơn, Trường bạch sơm tìm thiên niên tuyết sâm và cũng thăm dò để tìm ra một bí cấp võ công có thể trị được tuyết chứng của hắn.

Ngoại tổ của hắn ra đi, biết chuyến đi của mình nguy hiểm và cũng không muốn võ lâm Trung nguyên chú ý, biết lai lịch nên lưu lại cây Đằng Tiên cho mẫu thân của hắn cất giữ, hẹn ba năm sau sẽ trở về động thất ở Công Mẫu Sơn, nơi mà lúc nhỏ hắn rất thích thú với dòng suối mát lạnh quanh năm, những quả đào tiên to tròn ngọt ngào không thể tìm ra nơi nào có được, và hắn cũng từng nói ra ước mơ, nếu có chết muốn được chôn cạnh mộ ngoại tổ mẫu trong vườn tiên đào.

Qua lá thư của nữ nhân che kín tay chân mặt mày, hắn biết mình may mắn ăn được con Bạch Long, lại có cuốn Huyền Âm bí kíp và có thời gian ba năm để có thể vừa cứu mạng vừa có thể trở thành một cao thủ thượng thừa nên không biết nữ nhân là ai, trẻ hay già, thù hay bạn, Tích Nhân cũng nghĩ nữ nhân là người đem đến cho mình cơ hội, là người cứu mạng của mình nên quỳ gối :

- Không hiểu phải gọi ân nhân bằng bà hay cô, tiền bối hay đại tỷ, Tích Nhân cúi đầu lạy ba lạy tạ ơn cứu mạng và chỉ cho con đường sống. Tích Nhân quyết không để ân nhân phải thất vọng. Trong ba năm nếu không luyện thành Huyền Âm khí công ân nhân không giết, Tích Nhân cũng sẽ tự huỷ cái thân vô dụng của mình.

Rập đầu lạy xong ba lạy, Tích Nhân không đợi ngày mai, lật bí kíp ra đọc và bắt đầu tư thế luyện tập tầng công lực thứ nhất.

Buổi sáng, ánh nắng vàng dịu tuyệt đẹp chiếu dọi vào cửa động, Tích Nhân xả công bước ra ngoài mới thấy mình đang ở trong một hang động nằm cheo leo giữa bờ vực thẳm, nhìn xuống bên dưới sương mờ dày đặc không biết sâu bao nhiêu trượng, ngước mắt nhìn lên thẳng tắp tới mây, nếu không phải là người có khinh công cao tuyệt thì không thể nào đi đâu được.

Nhìn thấy địa thế bí hiểm như thế Tích Nhân tự hỏi phải chăng nữ nhân mang mình đến đây để bỏ cho chết đói chết khát? Nhớ lại trong đêm nữ nhân đã đi giây lát và trở lại với cây đèn sáp liền vào trong xem thử. Chú ý kỹ, Tích Nhân mới thấy vách phía trong có một hang nhỏ vừa người đi chỉ vì có một phiến đá che phía trước nên khó nhận ra. Bên trong cửa hang tối om, nhưng vì muốn khám phá Tích Nhân vẫn lách mình vào trong. Mò mẫm đi một lúc Tích Nhân thấy phía trước có ánh sáng yếu ớt và đến một căn động tương đối lớn hơn động bên ngoài, lòng động sáng lờ mờ nhờ ánh sáng xuyên qua kẽ hở của vách đá chiếu xuống. Qua ánh sáng lờ mờ ấy, Tích Nhân thấy vách đá phía sau có nước rỏ lách tách và giữa động có để mấy giỏ mình tinh, củ nâu, đậu lạc, hạt trái cây, mấy hũ mật ong, muối và cạnh đấy, trên có một hòn đá hơi bằng phẳng có để mấy cây đèn sáp ong còn nguyên.

Thấy có khoai, có nước, Tích Nhân yên trí không còn lo nghĩ gi nữa, chỉ tập trung vào việc luyện tập võ công. Khi đói nhai sống đậu lạc, mình tinh và hạt trái cây uống nước, khi buồn ngủ nằm ngay xuống sàn đá mà ngủ, còn tất cả thì giờ thì tập trung luyện công. Mấy tháng sau khi số khoai, đậu trong động gần hết, nữ nhân che kín vải đen xuất hiện mang đến một số táo khô, thịt khô, ít bộ quần áo và cũng không nói tiếng nào, chụp mạch môn hắn thăm dò công phu rồi đu dây đi ngay.

Ngày qua tháng lại Tích Nhân miệt mài luyện công, vài tháng nữ nhân lại đem thức ăn đến. Mỗi lần nữ nhân trở lại, vì bây giờ đã được có áo quần ăn mặc nên Tích Nhân không còn ngại ngùng, tỏ ra rất mừng, hỏi han chào đón, muốn được chuyện trò với nữ nhân giây lát, nhưng nữ nhân cũng không bao giờ lên tiếng.

Qua hết năm thứ hai, Tích Nhân đã luyện đến tầng thứ bảy của Huyền Âm chân khí, nữ nhân xuất hiện, lần này không mang theo khoai củ cho hắn nữa mà chỉ có một sợi dây gai to dài. Sau khi cột sợi dây vào hòn đá to giữa động, nữ nhân ném sợi dây xuống vực rồi nắm tay hắn kéo ra ngoài. Nữ nhân cầm sợi dây tuột xuống vực, ra dấu hắn làm theo. Tích Nhân ngoan ngoãn làm theo ý muốn của nữ nhân. Qua khỏi vùng khối đá suốt ngày bao phủ, Tích Nhân thấy đáy vực là một thung lũng nhỏ bao quanh bởi những vách đá thẳng tắp, trong thung lũng có cỏ cây, chim chóc và giữa thung lũng có một hồ nước rộng vài chục trượng, nước xanh ngắt. Nữ nhân ra dấu cho hắn đi theo, bứt mấy lá rau xanh quanh hồ ra dấu bảo hắn ăn. Tích Nhân ăn thử lá rau thấy nhân nhẩn đắng, nhưng lại nuốt xuống cổ thấy ngọt. Nữ nhân lại lăng không chụp xuống nước bắt ngay được một con cá lớn đưa cho Tích Nhân xem rồi ném xuống hồ trở lại.

Nữ nhân là người câm, Tích Nhân nghĩ như vậy nên hỏi :

- Phải chăng đại tỷ muốn từ nay tiểu đệ xuống đây tự tìm lấy thức ăn?

Nữ nhân gật đầu, rồi phăng giây đi lên trên động ngay. Khi Tích Nhân đu giây lên tới động đá trở lại nữ nhân đã mất dạng, sợi giây từ trên núi xuống nữ nhân cũng không lưu lại. Tích Nhân vào động thấy có mảnh giấy để lại : "Trong hai năm ngươi luyện được bảy tầng Huyền Âm khí công chứng tỏ thông minh và chuyên cần lắm. Ta rất vừa ý. Ba tầng còn lại khó khăn hơn nhiều và ngươi chỉ còn hơn năm nữa để quyết định mạng sống của ngươi. Hãy cố gắng. Ta có việc quan trọng phải vắng mặt một thời gian lâu. Từ nay ngươi tự lo liệu lấy. Luyện thành công lực để trị tuyệt chứng Huyền Âm chưởng pháp và Huyền Âm chỉ sau khi ta trở về và ngươi không còn là gã yểu tử nữa thì ta sẽ giúp ngươi luyện tập... biến ngươi trở thành một tuyệt đại cao thủ trên chốn giang hồ.."

Hồi 5 : Lại Khóc Biệt Ly

Hơn hai năm nữ nhân áo trùm kín thân thể như khối vải đen không nói lời nào, nhưng đều đặn cung cấp thức ăn. Dù nữ nhân không nói một lời nhưng đã nhiều khi hắn bắt gặp ánh mắt thiện cảm và khuyến khích, Tích Nhân thấy nữ nhân rất quan tâm cho mình, đến mạng sống của mình nên lòng vừa tri ân vừa kính mến. Tích Nhân biết rõ muốn hoàn thành một môn công nội công thượng thừa đến trình độ đả thông sinh tử huyền quan, người có căn cơ trung bình phải tốn vài chục năm tôi luyện. Ông ngoại hắn khi rời khỏi núi đã trên năm mươi tuổi, tốn ba chục năm để hoàn thành Thái Ất thần công. Nghĩ lại nữ nhân đã chọn một nơi ở giữa trời đất để hắn có thể dành hết thì giờ tập luyện không bị phân tâm là đã tính toán, đã quan tâm tới hắn rất nhiều. Hôm nay nhận lá thư dặn dò đầy quan tâm của nàng, Tích Nhân càng thêm cảm động, tự hứa không để phung phí giây phút nào trong việc luyện công.

Từ lúc nữ nhân lưu lại sợi dây, Tích Nhân một hai ngày lại đu dây xuống đáy vực bắt cá nướng ăn. Tuy nhiên sau đó Tích Nhân thấy tảng đá dưới một gốc cây to bên bờ hồ bằng phẳng ngồi luyện công rất tốt nên ở luôn dưới đáy vực, chỉ khi nào mưa gió mới lên trên động.

o0o

Thời gian thấm thoát trôi, trong gần ba năm dù ăn uống thiếu thốn nhưng thân thể Tích Nhân cao to như thổi, mấy bộ áo quần nữ nhân mang đến không mặc được, và Tích Nhân cũng không còn cảm thấy khí hậu ảnh hưởng đến mình, trời càng lạnh càng thấy khoẻ, luyện công nhanh hơn, lại ở giữa chốn hoang dã một mình nên cũng cảm thấy không cần đến quần áo.

Lại gần một năm nữa trôi qua, Tích Nhân đã luyện đến tầng thứ chín Huyền Âm chân khí, và tràn đầy hy vọng sẽ hoàn thành Huyền Âm thần công trước thời hạn. Một hôm đang ngồi luyện công, Tích Nhân thấy một áp lực rất lớn từ bên trên sa xuống rất nhanh, vội vàng xả công và giây phút sau một con Bạch Ưng rất lớn rơi xuống hồ lông lá, nước bắn lên tung toé. Rớt xuống nước con ưng cố vùng vẫy, nhưng mỗi lần vùng vẫy lại bị chìm xuống nước. Tích Nhân vội vàng bơi xuống hồ. Con ưng thấy hắn lội ra càng vùng vẫy, cố chạy, Tích Nhân kêu lên :

- Bạch Ưng ngoan! Hãy để ta giúp ngươi một tay, Ta không làm hại ngươi đâu.

Tích Nhân lội đến gần, con Bạch Ưng dùng mỏ mổ lia để tự vệ, Tích Nhân tránh né và tiếp tục vỗ về :

- Ta chỉ giúp ngươi vào bờ mà thôi, nhất định không làm hại ngươi. Hãy ngoan ngoãn... hãy ngoan ngoãn.

Không hiểu vì đã kiệt sức, hay vì tương liên với lòng tốt của Tích Nhân, một lúc sau con Bạch Ưng nằm im. Tích Nhân bợ tay dưới bụng đưa vào bờ, quan sát thấy nó bị gãy một cánh và một chân. Tích Nhân để lên tảng đá bẻ mấy cành cây nhỏ, tước vỏ cây làm chỉ cặp lại chân và cánh cho nó. Dưới vực có nhiều hoa cỏ lạ nhưng Tích Nhân không biết thứ nào có công dụng trị xương gãy nên chỉ cặp mấy cành cây hy vọng xương không bị đung đưa sẽ tự lành. Từ lúc có con chim ưng bị thương sa xuống vực, Tích Nhân ngoài bắt cá cho mình ăn còn nuôi con ưng nữa. Ngày tháng đã làm cho con ưng và hắn thân quen nhau, mỗi khi cho ăn, Tích Nhân cũng vuốt ve tâm sự, coi như một người bạn thân.

Loài vật mau lành, hơn tháng sau con ưng có thể đi đứng bình thường và cũng thỉnh thoảng chạy lấy trớn để bay. Có khi nó bay ngang hồ bắt cá cho nó và cho Tích Nhân. Tích Nhân không muốn con chim đi mất, nhưng cũng muốn nó mau trở lại đời sống bình thường. Nhiều khi Tích Nhân bồng nó thảy lên cao để thử xem nó có lấy trớn mà bay cao được không. Tuy rất quan tâm đến con ưng, nhưng hằng ngày phải bỏ hết tạp niệm để luyện công, Tích Nhân cũng không có thì giờ chú ý chơi đùa với nó nhiều. Một chiều nọ, sau khi xả công Tích Nhân nhìn quanh không thấy con ưng đâu nữa, biết nó đã hoàn toàn bình phục và dời khỏi nơi tù túng, hắn mừng cho con ưng, nhưng cũng cảm thấy như mất mát một thứ gì rất lớn, nhìn trời thở dài. Như thường lệ, Tích Nhân lấy ít cành cây thổi lửa, bắt cá nướng. Trong lúc cá vừa chín, thì không khí chao động, con ưng từ trên cao đáp xuống. Tích Nhân mừng rỡ chạy ra đón, ôm lấy Bạch Ưng mừng rối rít :

- Tiểu ưng, thì ra ngươi cũng con nhớ đến ta. Hay lắm! Ngươi đi đâu thì đi nhưng đừng bỏ ta nhé!

Thấy miệng Bạch Ưng ngậm một con thiềm thừ to bằng ba ngón tay da bóng bẩy đỏ như lửa, Tích Nhân bảo :

- Ngươi thích ăn thịt thiềm thừ? Ngươi đã có đồ ăn thì ta không phải lo cho ngươi nữa!

Tuy nhiên, con ưng không nuốt con thiềm thừ mà nhả ra trên tay hắn như có ý đấy là thức ăn mang về cho hắn. Tích Nhân cầm con thiềm thừ đưa lại miệng ưng, nó lại tìm bàn tay của Tích Nhân đặt trở lại. Thấy cử chỉ của con ưng, Tích Nhân tươi cười :

- Tiểu ưng đã muốn ta ăn con thiềm thừ này, thì thôi ta cũng chiều ngươi vậy!

Hắn đưa lên lửa nướng, nhưng Bạch Ưng quạt mạnh đôi cánh làm lửa bay tung tóe và tắt ngấm. Nhìn cử chỉ con Bạch Ưng, Tích Nhân nghĩ Bạch Ưng có thể là con vật thông linh, mang con thiềm thừ về cho hắn, có lẽ biết là vật hiếm quý, có thể cũng không khác gì con rắn bạch trắng tiểu Bạch Long, người dùng nó có thể tăng thêm công lực và muốn mình ăn sống nên ngần ngừ giây lát rồi bỏ con thiềm thừ vào miệng, nhắm mắt nhai đại. Chiều ý Bạch Ưng, nhai sống con thiềm thừ, Tích Nhân tưởng tanh tưởi lắm nhưng ngược lại nghe như có mùi thơm kỳ lạ và rất ngon ngọt. Hắn vuốt ve lưng Bạch Ưng khen :

- Đa tạ tiểu ưng, đã cho ta một món ăn lạ khoái khẩu.

Ăn xong con thiềm thừ và con cá mới nướng, Tích Nhân vuốt ve Bạch Ưng, dăn bảo từ nay có đi đâu thì đi, thỉnh thoảng trở về bầu bạn với mình cho vui. Và khi trời tối, Bạch Ưng bay lên đọt cây còn hắn ngồi lại chuẩn bị điều tức tiếp tục luyện công, thì bấy giờ lại thấy từ đan điền một luồng nhiệt khí từ từ bung ra.

Hắn đang luyện Huyền Âm khí, trong người chỉ có luồng khí âm hàn chu lưu trong thân thể, bây giờ trong người lại có thêm làn khí nóng, lần lần hai luồng khí một nóng một lạnh xung đột nhau làm hắn thấy máu huyết nhộn nhạo. Nghe triệu chứng trong người, Tích Nhân la thầm, Bạch Ưng thông linh đã mang về cho hắn một con thiềm thừ vô cùng hiếm quý, người luyện võ có thể tăng thêm công lực không khác gì Bạch Long, nhưng lại có tính chí dương. Luồng khí chí dương của thiềm thừ phát sinh rất mạnh. Tích Nhân nhờ thân thể thích ứng do tuyệt chứng thất âm tuyệt mạch, rồi lại may mắn ăn con tiểu Bạch Long, vì thế luyện Huyền Âm chân khí mau tiến bộ hơn người thường gấp mấy lần và đã luyện qua tầng thứ chín, chân khí trong người rất dồi dào, nhưng vận công để chống lại luồng khí nóng phát sinh trong thân thể chẳng những không thể trấn áp được mà càng làm cho hai luồng khí nóng lạnh xung đột nhau dữ dội, mỗi khi vận công trấn áp kinh mạch như muốn vỡ bung ra, khắp người đau đớn, lúc nóng, lúc lạnh khó chịu vô cùng.

Thân thể vật vã trong đau đớn, Tích Nhân nghĩ tình trạng của mình không có cao thủ tuyệt thế như nữ nhân bao kín mặt mày giúp đỡ thì chỉ còn nằm chờ chết. Nghĩ đến chết, Tích Nhân xót xa nhớ lời dặn dò của thân mẫu, ân hận suýt có tội lớn vì sớm gần nữ sắc, cảm thấy an ủi được may mắn ăn tiểu Bạch Long, luyện Huyền Âm chân khí sắp thành tựu để tự cứu được mạng, thì lại gặp chuyện không may!

Tuy nhiên nghĩ đến thân mẫu, đến tâm nguyện của mình Tích Nhân đã nhớ đến Thái Ất thần công, một môn nội công âm dương kiêm bị và nhớ lời chỉ dẫn triệu chứng hai khí nóng lạnh có thể xung đột nhau khi luyện tầng thứ chín, không khác gì tình trạng của mình hiện nay. Tích Nhân phân vân một lúc, không hiểu đường đột dùng bí quyết của tầng thứ chín Thái Ất thần công có nguy hiểm gì không, nhưng rồi thân thể càng lúc càng đau nhức, nóng lạnh khổ sở liên miên bèn mạo hiểm ngồi theo tư thế và chiếu theo yếu quyết để mong dung nạp hai luồng khí nóng lạnh trong người.

Cố gắng giây lát Tích Nhân thấy khí huyết có thể điều khiển theo tâm trí của mình, mừng rỡ bỏ hết tạp niệm, tập trung tinh thần và quên hết ngoại cảnh chung quanh. Trải qua ba đêm hai ngày, khi Tích Nhân xả công cảm thấy chân khí trong người đầy dẫy, thân thể thoải mái vô cùng, biết mình đã bất ngờ mà có thể hoàn thành Thái Ất thần công, một môn tuyệt học mà cả ngoại tổ của mình cũng phải tốn gần bốn chục năm mới hoàn thành, mừng rỡ khôn cùng. Tuy nhiên, vẫn phân vân không biết hiểu điều suy nghĩ của mình có đúng hay không? Tích Nhân vận công phóng một chưởng đánh vào một tảng đá to gần đó, tảng đá tức thời dưới chưởng lực của hắn vỡ thành hàng trăm mảnh.

Được sống và hoàn thành Thái Ất thần công một cách không ngờ, Tích Nhân vui sướng nhảy tung trong thung lũng. Ban ngày con Bạch Ưng đã bay đi, nếu không Tích Nhân đã ôm vuốt ve nó tỏ lời cảm tạ.

Nghĩ mình phải ăn mừng một bữa thịnh soạn, Tích Nhân đu dây lên thạch động, lần đu này thấy mình chỉ giựt nhẹ sợi dây mà thân thể đã có thể bay lên cả trượng và lên tới thạch động chỉ trong giây lát.

Lấy một ít muối, Tích Nhân xuống đáy vực, tìm một con cá thật to làm sạch, ướp rồi mới nướng. Đang ăn thì Bạch Ưng trở về, Tích Nhân mừng rỡ chạy tới ôm lấy :

- Đa tạ tiểu ưng... Nhờ ngươi mà ta đã luyện hoàn thành Thái Ất thần công của ngoại tổ ta.

Bạch Ưng để cho hắn ôm, rồi nhả lên tay hắn một trái mật, không biết là mật con gì nhưng Tích Nhân nghe còn nóng. Ăn con ếch đỏ như lửa của Bạch Ưng, Tích Nhân tưởng họa lại đắc phúc nên lần này thấy quả mật không ngại ngùng :

- Tiểu ưng, ta biết ngươi đã sống rất lâu, thông linh không khác gì người. Từ nay, ngươi cho thứ gì ta cũng ăn, không bao giờ từ chối.

Và Tích Nhân không ngại ngùng đem lại suối rửa sơ và nuốt quả mật. Có lẽ quả mật chỉ có tác dụng bổ khí điều nguyên bình thường mà không phải thần dược hãn thế như tiểu Bạch Long, hoả thiềm thừ nên Tích Nhân không thấy phát sinh kỳ tích gì.

Suốt buổi chiều hôm đó, Tích Nhân chơi đùa với Bạch Ưng và cũng lần đầu tiên phát hiện Bạch Ưng có một nội lực rất hùng hậu, mỗi khi vỗ hai cánh phát ra một luồng lực đạo rất mạnh và cho rằng Bạch Ưng thông linh tìm ăn nhiều vật kỳ bảo nên mới có khí lực vậy.

Như thường lệ, khi màn đêm làm đáy vực tối đen, Bạch Ưng phóng lên cây, còn Tích Nhân thì dù luyện thành Thái Ất thần công nhưng nghĩ lại lời dặn của nữ nhân phải hoàn thành Huyền Âm chân công mới có thể trị tuyệt chứng thất âm tuyệt mạch của mình nên lại ngồi xuống đá để tiếp tục.

Khi bắt đầu tập lớp thứ mười của Huyền Âm chân công, Tích Nhân nhận thấy khó khăn vô cùng, mỗi khi luồng chân âm chuyển động, thì khí chân dương cũng phát sinh, buộc hắn phải bỏ dở để theo đường lối Thái Ất thần công dụng hoà chúng, không thể nào tiếp tục dẫn khí đơn thuần theo lối Huyền Âm như trước. Cố gắng vài lần không được, Tích Nhân chán nản, nằm xuống đá ngủ.

Buổi sáng thức giấc, thung lũng vắng vẻ, Bạch Ưng đã đi tìm thức ăn bay lượn trong bầu trời của nó, một mình không biết làm gì, Tích Nhân lại thử tập lại tầng thứ mười của Huyền Âm thần công. Với hắn hiện giờ, nếu không hoàn thành Huyền Âm chân khí, đả thông sinh tử huyền quan, thì mấy năm chịu mọi khổ sở trong lòng động và dưới đáy vực sâu một mình một bóng chỉ là công vô dụng. Nghĩ vậy, Tích Nhân dặn lòng quyết tâm dù cho khí dương cương có phát động ngăn trở đi nữa cũng phải hoàn thành lớp thứ mười Huyền Âm thần công.

Sự ngoan cố của Tích Nhân tạo ra một hiện tượng kỳ dị, chung quanh người phát ra một luồng khí trắng như sương rất lạnh, trước còn nhẹ nhàng sau dày đặc, che khuất thân thể của hắn, một lúc sau luồng khí lạnh thu lần lại rồi thân thể hắn lại bốc ra làn khí nóng, liên tiếp thay đổi. Tích Nhân không nhìn thấy hiện tượng này, trì chí chịu đựng khổ sở, vẫn ngồi yên không động, dù có lúc người nóng như lửa, đổ mồ hôi, có khi cảm thấy như ở trong tuyết giá, lạnh run.

Trong lúc quyết liệt phải luyện tầng cuối cùng của Huyền Âm chân khí, mà hai khí âm dương trong người đã luyện qua Thái Ất thần công nên có tính tương sanh, âm thịnh sinh dương, dương thịnh sanh âm làm cho chân khí trong người mau chóng phát sinh, không điều khiển được có thể làm Tích Nhân bể kinh mạch mà chết.

Vận số hắn còn dài, trong lúc nguy hiểm nữ nhân bao che mặt mày đã trở về, từ trên thạch động đu dây xuống. Lúc nữ nhân đến gần Tích Nhân lại là lúc luồng khí bao quanh thân thể Tích Nhân chuyển sang màu trắng đục, đứng cách cả mấy thước cũng nghe hơi lạnh.

Nữ nhân nhìn tình trạng của Tích Nhân, ánh mắt bộc lộ sự mừng rỡ vô hạn. Nữ nhân chờ cho làn hơi lạnh tỏa quanh người Tích Nhân vừa nhạt liền nhanh tay điểm các yếu huyệt sau lưng hắn, rồi ngồi xuống, xé vải bao tay, áp hai bàn tay lông lá đen như tay vượn lên hai huyệt mệnh môn và đại truy của hắn.

Tích Nhân bị nữ nhân điểm huyệt, nhưng trong lúc chân khí trong người hỗn loạn nên không hay biết, và nữ nhân cũng không biết vì chân khí trong người hắn đang lúc như nước triều dâng, xung phá khắp nơi nên các yếu huyệt vừa bị điểm liền được giải khai. Tấu xảo, lúc nữ nhân áo đen ngồi áp hai tay lên huyệt đạo của Tích Nhân cũng vừa lúc Tích Nhân thấy khó có thể chịu đựng để tiếp tục luyện tầng thứ mười Huyền Âm chân khí nữa, nên quay trở lại cách vận công Thái Ất để mong dung hòa trở lại chân khí trong người.

Hai luồng khí âm dương trong người hắn lúc này gần như cuồn cuộn, liên tiếp thúc đẩy nhau, Tích Nhân dồn hết định lực, ý niệm hướng dẫn nhưng gần như vô dụng, đang than thầm không biết phải làm sao, thì thấy chân khí thoát nhanh qua hai huyệt mệnh môn, và đại truy, thân thể dễ chịu dần, mừng rỡ liền chú tâm theo khẩu quyết Thái Ất.

Khi Tích Nhân định tâm dồn hết ý chí trong cách hướng dẫn chân khí theo Thái Ất, nữ nhân áo đen ngồi sau lưng Tích Nhân bỗng thấy chân khí của hắn không còn thu hút được qua hai tay mình nữa. Và trong lúc nữ nhân phân vân chưa biết làm sao thì Bạch Ưng trở về, nó liệng qua lại vài lần lao mình xuống như mũi tên mổ mạnh lên huyệt bách hội của nữ nhân.

Là một cao thủ võ lâm thuộc hàng thượng đẳng, nhưng trong lúc bất ngờ, hai tay đặt lên lưng Tích Nhân bị hút chặt, nữ nhân đã không tránh được chiếc mỏ nhọn cứng như sắc của Bạch Ưng. Bách hội là nơi hội tụ thần khí con người, bách hội bị thương, người luyện võ không còn cách gì vận dụng công lực theo ý được nữa. Nữ nhân không còn vận công được, hai bàn tay dính chặt lên huyệt đạo Tích Nhân và chân khí trong người lại theo hai bàn tay chuyền qua người hắn. Hiểu tình trạng nguy hiểm của minh, hai mắt nữ nhân tức giận như muốn nẩy lửa, nhưng đành thúc thủ.

Tích Nhân điều hợp được hai khí âm dương trong người, thì lại thấy có hai luồng khí tràn qua mệnh môn và đại truy đưa vào kinh mạch nên tiếp tục chiếu theo yết quyết để dung hoà chúng. Thời gian tiếp tục trôi, hết ngày sang đêm luồng chân khí đầy dẫy trong người Tích Nhân theo khẩu quyết Thái Ất đã đả thông tất cả kinh mạch, chân khí lần lượt xuyên qua các huyệt vĩ lư, tỳ lư, và ngọc lư, khai thông hai mạch nhâm đốc... đạt mức tam hoa tụ đỉnh, một kỳ tích chưa từng có Thái Ất thần công. Theo Thái Ất bí kíp, Thái Ất thần công là một môn nội công âm dương kiêm bị, tốn rất nhiều thời gian, người luyện qua tầng thứ chín kể như đã hoàn thành. Sự tập luyện tiếp tục kéo dài, hai khí âm dương tương sanh làm cho chân khí ngày càng dồi dào sẽ lần lượt xung phá tam hoa, đạt đến cảnh giới tối cao tam điền quy nguyên, khí thần hợp nhất. Thời gian không ấn định, nhưng thường thì luyện đến tầng thứ chín con người đã già, ít ai còn kiên nhẫn để đạt cảnh giới cuối cùng như Tích Nhân hiện giờ.

Trưa hôm sau, Tích Nhân thấy chân khí vận dụng dễ dàng, tuỳ ý lưu chuyển, thân thể thoải mái tưởng chừng thoát thai hoán cốt, xả công đứng lên, thì nghe sau lưng nữ nhân che kín mặt mày ngã bịch xuống đá.

Trong lúc hoàn toàn quên hết ngoại cảnh chú tâm vào việc luyện công, Tích Nhân không biết nữ nhân trở về và ngồi sau lưng hắn. Thấy nữ nhân trong tình trạng này hắn hốt hoảng :

- Đại tỷ!

Hắn vội ngồi xuống đỡ nữ nhân lên. Thấy nữ nhân yếu ớt, nghĩ lại mình đang ở trong tình cảnh ngặt nghèo nhưng được sống, phải chăng nữ nhân đã vì mình mà tốn hao công lực mới đến nỗi này, Tích Nhân cảm động rơi lệ :

- Phải chăng đại tỷ vì giúp tiểu đệ mà lâm cảnh thế này? Tiểu đệ thật đáng chết!

Hắn mếu máo :

- Đại tỷ võ công cao cường, hãy chỉ tiểu đệ làm cách nào để phục hồi công lực lại cho đại tỷ?

Nữ nhân thở dài não nuột rồi bập bẹ một cách khó khăn :

- Ngươi... ngươi hãy... đi đi. Hãy...đi ngay đi...

Tích Nhân cương quyết :

- Đại tỷ là ân nhân cứu mạng của Tích Nhân này, trong tình trạng của đại tỷ hiện nay, Tích Nhân dù chết cũng không đi đâu nửa bước.

Tiếng nói đầy chân tình của hắn lại làm nữ nhân thở dài rồi nói, lần này âm thang gọn gàng hơn :

- Ngươi không giúp cho ta được gì đâu! Ta... năn nỉ ngươi... giúp ta... là đừng ở đây nữa.

Tích Nhân quỳ gối, khóc :

- Dù trước đến giờ đại tỷ luôn luôn lạnh nhạt, thuỷ chung không một lời nói nào, nhưng Tích Nhân còn được sống đến ngày hôm nay cũng nhờ ơn đại tỷ. Nay đại tỷ gặp nạn nỡ nào không để Tích Nhân lo lắng cho đại tỷ?

Hắn khóc, hắn năn nỉ, nữ nhân vẫn im lặng, một lúc sau thở than :

- Thì ra ngươi là một kẻ rất chí tình, chí thiết nhưng tình trạng ta bây giờ ngươi có muốn giúp cũng không giúp gì được nữa. Ta không muốn ai thấy ta, nhất là lúc ta sắp chết, nên ta chỉ muốn ngươi đi khỏi đây ngay và đừng bao giờ quay trở lại.

Nữ nhân nằng nặc đòi hắn phải đi ngay, Tích Nhân không hiểu tại sao, nhưng rồi nhớ lại nữ nhân lúc nào cũng che kín toàn thân, phải chăng nữ nhân quá xấu xí và không muốn ai nhìn thấy sự xấu xí của mình?

Tích Nhân cương quyết :

- Đại tỷ võ công cái thế, nhất định nghĩ ra phương pháp và chỉ bảo cho Tích Nhân cách phụ giúp cho đại tỷ. Tích Nhân ngu muội, nhưng bảo Tích Nhân chết ngay còn hơn. Tích Nhân không biết đại tỷ là người thế nào, đẹp xấu ra sao, tính tình thế nào, nhưng Tích Nhân không còn ai thân thích, đại tỷ là người cứu mạng, xin được cho Tích Nhân coi đại tỷ là người thân nhất của mình, có họa cùng chịu, có phước cùng hưởng. Con ngươi đối với nhau chỉ ở tấm lòng, còn những việc khác có gì quan trọng? Nếu đại tỷ còn cố chấp xua đuổi Tích Nhân, thì Tích Nhân sẽ đập đầu lên tảng đá này...

Nữ nhân im lặng một lúc lâu, than thở :

- Không ngờ ta lại gặp một người chí tình và cố chấp như ngươi. Thôi được! Ta không đòi ngươi đi nữa...

Tích Nhân mừng rỡ, lau nước mắt, vui sướng nhảy cỡn :

- Đa tạ đại tỷ... Đa tạ đại tỷ.

Nhìn cử chỉ vui vẻ của hắn, ánh mắt nữ nhân biểu lộ sự cảm xúc rất mạnh, nhưng liền nhắm mắt, trách :

- Ngươi chẳng ăn mặc gì cả!

Nghe nữ nhân trách, Tích Nhân nhìn lại mình hoảng hốt, ngồi sụp xuống núp sau hòn đá. Nữ nhân cười nhẹ, tiếng cười đầu tiên mà Tích Nhân nghe được. Sau tiếng cười, nữ nhân bảo :

- Lúc ta đem ngươi về đây cũng khác gì bây giờ! Ta thấy áo quần ngươi vất bừa bãi trong thạch động, thân thể ngươi thay đổi, nhưng cũng có thể dùng để che đậy phần nào.

Tích Nhân nghe nói vội phóng chạy. Hắn chưa luyện khinh công nhưng nội lực hùng hậu, mỗi cái phóng chân đưa thân hình về phía trước như tên bắn và khi đu sợi dây cũng nhanh không khác khỉ vượn.

Nữ nhân nhìn Tích Nhân thở dài :

- Ôi! Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên! Ta suốt đời mưu cầu rồi trở nên công dã tràng! Kẻ thừa hưởng là hắn! Phải chăng kiếp trước ta có nợ nần gì với gã tiểu tử nầy?

Tích Nhân lên thạch động, lấy chiếc áo choàng quanh người rồi xuống ngay.

- Đại tỷ có thể chỉ dẫn Tích Nhân cách phục hồi công lực cho đại tỷ?

Nữ nhân quan sắt hắn từ đầu đến chân, khen ngợi :

- Ngươi đã trở thành một trang nam tử, công lực đã đến mức tam hoa tụ đỉnh, võ lâm khó có ai sánh bằng, mừng cho ngươi.

Tích Nhân cung tay :

- Cũng nhờ ơn đại tỷ.

Nhưng hắn rụt rè :

- Tích Nhân đã không thể luyện thành tầng thứ mười Huyền Âm thần công. Tích Nhân có chết vì tuyệt chứng của mình cũng không sao. Chỉ xấu hổ là không hoàn thành lời căn dặn của đại tỷ.

Nữ nhân có vẻ thương hại :

- Rõ là ngốc tử. Ngươi đã có công lực như bây giờ, nhâm đốc khai thông còn lo tuyệt chứng gì nữa?

Và hỏi :

- Nhưng ngươi đã luyện môn nội công gì?

- Bạch Ưng cho Tích Nhân một con thiềm thừ màu đỏ, sau khi ăn xong trong người phát sinh một luồng khí nóng càng lúc càng lớn mạnh, người lúc nóng lúc lạnh quá khổ sở, chẳng lẽ chờ chết, đánh liều áp dụng đường lối Thái Ất thần công thử xem có dung hòa được không? May mắn là đã dung hòa được.

- Phải chăng hôm qua ngươi cũng vận dụng Thái Ất thần công?

- Sợ không thành công tầng thứ mười thì không thể trị được tuyệt chứng, và đại tỷ quở trách nên đã cố gắng luyện. Không ngờ khi khí Huyền Âm lưu chuyển được vài vòng, thí khí dương cương lại phát sinh rất mạnh... Hai luồng khí nóng lạnh mỗi lúc mỗi mạnh hơn, xung đột nhau dữ dội, nếu đại tỷ không trở về kịp thời thì Tích Nhân có lẽ đã chết...

Nữ nhân nhắm mắt giây lâu :

- Ngươi là một người có duyên phúc không ai bằng. Con tiểu Bạch Long ta nuôi dưỡng ngươi vô tình mà hưởng, Hồng Hoả Thiềm Thừ vật ngàn năm khó tìm người riêng ở một nơi mà tới miệng. Lục Dương chân khí trong người ta cũng tương đương với ba chục năm hỏa hầu cũng đã gom hết vào người người.

Tích Nhân nghe nói sụp gối :

- Vì Tích Nhân mà đại tỷ mất hết công lực! Tích Nhân không biết làm sao đền đáp. Đại tỷ nếu biết phương cách thu lại công lực xin thực hiện, Tích Nhân dù chết cũng không ngại.

Nữ nhân thở dài :

- Ta không còn công lực để vận công thu hút chân khí của ngươi. Trước đây ta bị độc thương trầm trọng, tạm thời dùng công lực bản thân khống chế, khi mất công lực chất độc đã lan vào xương, dù ngươi có truyền lại công lực cho ta, ta cũng không còn sống bao lâu nữa. Như vậy, chấp nhận lòng tốt cũng chỉ làm cho võ lâm mất đi một kỳ tài một cách vô ích mà thôi.

Nữ nhân nhìn hắn :

- Ngươi không cần phải áy náy với ta. Thật sự ta đem ngươi về đây bảo ngươi luyện Huyền Âm thần công cũng không phải ý tốt muốn cứu mạng ngươi mà chỉ muốn lợi dụng để thu lấy khí hàn âm giúp ta trở lại nhân dạng mà thôi. Hôm nay nếu ta không bị hại, thì ngươi cũng chỉ là một người ở đây đợi chết!

Nghe nữ nhân nói, Tích Nhân thất vọng, nhưng nghĩ lại dù gì mình cũng mang ơn nữ nhân. Nếu không gặp nữ nhân, thì giờ đây đã là nắm xương trong mộ, nên cũng cứ nhiệt tình :

- Tích Nhân không mấy tin lời đại tỷ, nhưng dù đại tỷ có ý gì đi nữa, Tích Nhân còn sống đến ngày hôm nay cũng nhờ đại tỷ. Tích Nhân ngu muội, nhưng biết có cách gì phục hồi công lực cho đại tỷ thì dù phải mất mạng Tích Nhân cũng không từ nan.

Nhiệt tình của hắn làm nữ nhân cảm động, nhắm mắt giây lát như dằn cảm xúc rồi hỏi :

- Ngươi có chịu làm nghĩa tử của ta?

- Chẳng lẽ đại tỷ...

Nữ nhân u buồn :

- Nếu ta là một cô gái bình thường có chồng lúc mười lăm mười sáu thì con của ta cũng phải ở trạc tuổi ngươi.

Tích Nhân rất tôn trọng mẫu thân mình, tự hỏi hôm nay nhận một người đàn bà khác làm mẹ có xúc phạm đến thân mẫu mình hay không, lấy làm khó nghĩ. Nữ nhân thấy hắn chần chừ, thở dài.

- Ta muốn thành toàn cho ngươi vì cũng muốn nhờ ngươi giúp ta vài việc quan trọng. Nhưng ngươi thấy khó khăn thì thôi!

Tích Nhân vội quỳ gối :

- Không hiểu đại tỷ muốn dạy Tích Nhân làm việc gì, nhưng dù khó thế nào Tích Nhân cũng sẽ cố hết sức mình. Mẫu thân mất sớm trong đau khổ nên Tích Nhân không thể gọi ai khác là mẹ. Xin đại tỷ tha thứ cho. Tích Nhân xin bái đại tỷ làm sư phụ hay nghĩa tỷ. Dù danh xưng gì, từ nay cũng cúc cung phụng dưỡng như người thân thương nhất của mình.

Nữ nhân im lặng giây lâu:

- Ta muốn thành toàn võ công cho ngươi, nhưng những ngày sắp đến, ta sẽ hoàn toàn bất lực, ngươi phải chăm lo cho ta không tránh khỏi đụng chạm, bỏ đi ngăn cách nam nữ bất thân. Ngoài danh nghĩa con lo cho mẹ thì khó có danh nghĩa nào làm cho ta không áy náy. Nhưng thôi, ta cứ coi ngươi như nghĩa đệ.

Tích Nhân mừng rỡ :

- Đa tạ đại tỷ.

Lúc ấy Bạch Ưng trở về mang theo một trái mật rắn rất lớn cho Tích Nhân, Tích Nhân vuốt ve Bạch Ưng chỉ nữ nhân :

- Đây là nghĩa tỷ của ta, từ nay tiểu ưng cũng phải thân thiện với người. Kiếm món ngon vật lạ quí đem về cho người dùng.

Bạch Ưng nhìn nữ nhân gật đầu, rồi bay lên cây. Nữ nhân khen ngợi :

- Con Bạch Ưng này thông linh quá chừng, có nội lực hùng hậu, biết cách tấn công người khác, có lẽ đã từng có cao nhân nuôi dưỡng. Sau này người ra giang hố có nó đi theo sẽ là một trợ thủ đáng kể.

Tích Nhân rửa quả mật dâng cho nữ nhân :

- Xin đại tỷ dùng quả mật này, có lẽ nó cũng rất hiếm quý.

- Ngươi đúng là đứa em tốt, nhưng ta chưa muốn ngươi nhìn thấy hình thù kỳ dị của ta, ngươi hãy nuốt đi.

- Đại tỷ có sự kỵ thì để tiểu đệ đi ra xa một chút.

- Thôi, để ta xem khi thấy mặt mũi gớm ghiếc của ta ngươi có còn can đảm nhận ta làm đại tỷ nữa hay không?

Nữ nhân đưa tay kéo bỏ bao che mặt, đôi mắt thật sắc nhìn Tích Nhân. Khi nữ nhân đưa tay lên, Tích Nhân đã thấy bàn tay lông lá đen thui như tay vượn, và nữ nhân kéo bỏ khăn che mặt vượn, mặt khỉ, kỳ dị vô cùng.

Tích Nhân nhìn đăm đăm nữ nhân, hiểu vì sao nữ nhân phải che kín cả người. Đàn bà ai không quý sắc đẹp? Nữ nhân có vóc dáng, mái tóc đẹp vô cùng, không ngờ mặt mày lại kỳ dị như vậy. Với mặt mày thân thể như vậy nữ nhân đã phải chịu đựng biết bao nhiêu đau khổ? Tự nhiên Tích Nhân cảm thấy thương nữ nhân vô cùng, quỳ gối ôm lấy bà :

- Đại tỷ, mong người đừng quan tâm tới ngoại hình. Biết đại tỷ đau khổ thế này tiểu đệ càng thương quý đại tỷ hơn.

Nữ nhân cảm động, sa lệ nghẹn ngào hai tay ôm lấy đầu hắn :

- Ngươi.., ngươi thật là đứa em... rất tốt.

Bà ngừng giây lát rồi tiếp :

- Ngươi đã có nội lực không ai bằng, nhưng chưa học biết quyền chưởng, khinh công, kiêm pháp... để thật sự trở thành một cao thủ. Ta muốn sống thêm một thời gian ngắn nữa để chỉ điểm cho ngươi...

Tích Nhân từ nhỏ sống trong tình thương yêu của mẹ, nay nữ nhân đề nghị nhận làm con, không muốn xúc phạm đến mẹ ruột, nên chỉ nhận làm nghĩa tỷ, nhưng trân quý nữ nhân vô cùng, hắn vui sướng :

- Đại tỷ đã có cách để duy trì mạng sống, thì hãy sống mãi, cố sống mãi với tiểu đệ...

Nữ nhân than thở :

- Hỡi ơi! Mấy chục năm ta chỉ sống trong cô độc. Độc lai độc vãng. Hôm nay ta mới biết ra con ngươi ở đời có người thân, được trong tình thương yêu là hạnh phúc vô giá trên đời!

Bà ta thở dài :

- Có lẽ ta có thể sống được vài tháng, nhưng ngươi sẽ khổ sở vô cùng. Âm Dương Tý Ngọ cốt sẽ lần lần làm gân cốt ta bạc nhược. Ta sẽ không khác gì một người bệnh không nhấc chân tay, hàng ngày phải nhờ chân khí của ngươi hộ trì kinh mạch, trấn áp chất độc. Hàng ngày vào giờ tý, giờ ngọ, thân thể ta lạnh run, nóng sốt, ngươi ngoài dùng chân khí trấn áp còn phải sưởi ấm, quạt mát cho ta, không hiểu ngươi có chịu nổi khổ cực hay không?

- Dù làm bất cứ việc gì mà đại tỷ được sống, thì dầu sôi lửa bỏng, tiểu đệ cũng không ngại, huống chi mấy việc tầm thường ấy!

Hắn hỏi :

- Chất độc trong người đại tỷ là gì? Có thuốc gì để trị dứt?

- Ngoài thuốc giải của Ngũ độc giáo ra không có thuốc gì. Hơn nữa, ta bất ngờ mất hết công lực, chất độc đã lan ra, khó còn có cơ cứu vãn. Thì giờ chúng ta không nhiều, không nên nghĩ chuyện viễn vông nữa. Bây giờ ta chỉ ngươi cách truyền công hộ trì kinh mạch cho ta và giờ tý giúp ta chịu đựng cơn nóng rét.

Tích Nhân chú ý lắng nghe nữ nhân giải nghĩa về kinh mạch, cách vận công đưa nội lực của mình vào kinh mạch người khác ra sao, nhất nhất Tích Nhân ghi nhớ, và sau đó thực hành ngay. Song song với việc đưa chân khí vào kinh mạch nữ nhân, hắn cũng vận công biến nội lực thành khí nóng hay lạnh toát ra khỏi cơ thể để sưởi ấm hay làm mát dịu lại thân thể của bà ta.

Sau giây phút thực hành, nữ nhân vừa ý :

- Xem ra ta có thể đủ thời gian truyền lại hết võ nghệ cho ngươi.

Bà ta nói tiếp :

- Hiện giờ ta còn khỏe, để ta nói cho hiền đệ biết ta là ai, vì sao có hình dạng gớm ghiếc thế này và nguyên nhân nào ta đã đưa hiền đệ về đây. Sau khi ta mất hiền đệ cũng phải thay ta hoàn thành vài công việc còn dang dở.

- Tiểu đệ cung kinh nghe đại tỷ.

Nữ nhân hắng giọng :

" Ta tên là Trần Kỳ Anh, vốn là tam công chúa của Hán vương Trần Hữu Lượng. Khoảng bốn chục năm trước gia gia ta đã cùng với các lộ anh hùng của Minh giáo khởi binh chống quân Nguyên. Gia gia ta chiếm cứ cả vùng tây nam Trung nguyên, bao gồm các đất Cán, Hồ, Quảng, binh lực hàng trăm vạn, xưng đế ở Thái Thạch. Để thống nhất lực lượng nghĩa quân và thống nhất Trung nguyên, gia gia ta cử đại binh đánh Chu Nguyên Chương cũng là một lực lượng Minh giáo chiếm cứ vùng Giang Triết. Chẳng may trong trận chiến sinh tử ở hồ Thẩm Dương, gia gia bị tên mà thác, binh lực tan vỡ. Các tướng đã tôn anh ta lên làm vua chạy về Vũ Xương. Sau trận chiến Thẩm Dương quân lực của chúng ta gần như tan vỡ nên Chu Nguyên Chương thừa thắng tiến đánh, và không thể nào chống cự nổi. Lúc bấy giờ ta mới sinh ra và mẫu thân ta đã ký thác cho một võ sĩ trung thành là Phó Đổng. Phó tướng quân đã mang ta sang Đại Việt ẩn tránh. Chúng ta tạm ở trong các thị trấn một thời gian, hoà đồng với người Việt để không ai biết tung tích.

Bảy năm sau, Phó tướng quân đưa ta lên một thạch động kể rõ gia thế, yêu cầu ta dốc hết tâm trí luyện tập võ công để sau này liên lạc lại với các tướng lãnh đang ẩn náu, con cháu họ đang lưu lạc để hưng khởi lại Hán triều. Gia gia và mẫu thân ta đều xuất thân từ võ lâm, nên trong lúc có binh lực trong tay cũng đã gom tụ nhiều bí cấp, kỳ trân dị thảo giúp cho người tập võ mau tiến bộ. Bộ bí kíp võ công mà mẫu thân ta giao cho Phó tướng quân là Lục Dương thần công của Thiếu Lâm, khinh công Vân Long tam hiện của Thiên Long tự, kiếm pháp của Võ Đương, Côn Luân, Thanh Thành, Hoa Sơn, Nga Mi và ngay cả bổng pháp của Khất bang.... Nhờ những thứ kỳ dược giúp tăng chân khí, sau mười năm luyện tập, dù chưa qua hết tầng thứ mười Lục Dương công, ta đã trở thành một cao thủ khó tìm địch thủ.

Sau ấy ta cùng Phó Đồng qua đất Hồ Quảng cùng với một số cao thủ của Hán quân năm xưa như Tô Khang, Trương Địch, Bành Quan, Mã khởi... thành lập Phượng Hoàng bang. Trong lúc chúng ta phát triển thế lực, thì một số cao thủ từng theo Thục vương Minh Ngọc Trân cũng thành lập Di Lặc hội. Một số cao thủ Minh giáo năm xưa cũng oán hận Chu Nguyên Chương là một tín đồ trước theo Minh giáo khởi nghĩa, nhưng rồi khi có thế lực lại phản giáo, giết chết giáo Minh vương Hàn lâm Nhi. Khi thống nhất đất nước, thành lập triều đình đổi quốc hiệu Đại Minh nhưng thực chất không những hoàn toàn bỏ ngoài tai tôn chỉ Minh giáo, mà còn tìm cách làm tan rã thế lực Minh giáo, tán sát cao thủ của giáo phái này nên buộc họ phải trốn tránh và bí mật thành lập Bạch Liên Giáo. Ở vùng Ngô Việt, những cao thủ của Trương Sĩ Thành, cũng lẫn lộn thay tên đổi họ trà trộn và phát triển Hải xà bang. Cao thủ của Đại Lý năm xưa muốn phục quốc nhưng cũng thành lập Thiên long hội... Nhưng Phượng Hoàng Bang, Bạch Liên Hội và Di Lặc Hội là ba thế lực đông người mạnh của nhất."

Trần Kỳ Anh cười mỉa mai :

"Cùng một lúc muốn chống lại bọn 'Chu Cẩu', nhưng chưa làm làm cho tay chân họ Chu rụng một sợi lông, thì chúng ta tìm cách thống lĩnh, thu tóm lẫn nhau. Do sự xung đột xảy ra thường xuyên, cao thủ giao đấu liên tiếp, ta mới biết công lực của mình còn thua giáo chủ Bạch Liên Giáo rất xa, nên quyết tâm phải hoàn thành Lục Dương thần công. Ta giao hết mọi việc cho Phó Đồng và bốn vị 'tứ đại tướng : Tô, Trương, Bành, Mã' về đây ẩn cư. Không may, trong lúc ta đang vận khí ở giai đoạn khó khăn nhất của tầng thứ mười Lục Dương công, Phó Đồng đến bất ngờ. Ông ta bị thương nặng, vào thạch động gặp ta kêu lên một tiếng 'công chúa' thống thiết rồi ngã ra chết. Vì xúc động, chân khí đi ngược đường, ta cũng ngã ra bất tỉnh.

"Tỉnh dậy ta đem Phó tướng quân về Tổng đàn Phượng Hoàng bang mới biết chúng ta bị Di lặc hội, phối hợp với Ngũ độc giáo tấn công. Để bảo toàn lực lượng, Phó tổng quản đã liều mình tử chiến. Trong Phượng Hoàng bang, ông ta là người có võ công cao nhất, cũng cùng luyện Lục Dương thần công như ta, nhưng ông có hỏa hầu cao hơn và nhiều kinh nghiệm chiến đấu hơn.

"Ta đi tìm Di lặc hội và Ngũ độc giáo trả thù cho Phó tướng quân, ông không khác gì nghĩa phụ của ta. Ta cũng cố luyện thêm Lục Dương công, nhưng từ ngày chân khí đi ngược ngã ra bất tỉnh, Lục Dương công của ta chẳng những không tiến bộ mà người ta sau đó ngứa ngáy khó chịu rồi lông đen mọc ra khắp mình mẩy. Ta từ một cô gái được truyền tụng là Phượng Hoàng Tiên Tử, trở thành người không dám gặp ai, để ai thấy mặt, và tiếng nói của ta cũng cứng dần. Ta từ người lần lần biến thành vượn!"

Nghe Kỳ Anh kể tới đây, Tích Nhân xúc động, ôm lấy vai bà kêu lên nghẹn ngào :

- Đại tỷ!

Kỳ Anh cảm nhận được sự xúc động của hắn, nắm chặt tay hắn như thầm tỏ lời cảm ơn, rồi kể tiếp :

"Là một con người ai cam tâm để cả thân thể mọc đầy lông lá không khác khỉ vượn, nhất là một cô gái như ta. Ta ra lệnh cho bang chúng Phượng Hoàng bang ngừng hoạt động, rút vào bóng tối, tập võ công, còn ta lo chữa chứng bệnh lạ của mình. Ta tự nghiên cứu, biết những võ công của Phật môn, người luyện phải từ từ mà tiến, không thể nôn nóng, đã để chân khí chạy ngược đường đó là một nguyên nhân. Nguyên nhân thứ hai, ta là nữ nhân lại tập luyện khí thuần dương đã làm cho con người thay đổi nhưng chỉ chưa nhìn thấy! Tóm lại, khí cương dương là nguyên nhân chính thay đổi nhân dạng của ta, muốn chữa trị, thân thể ta phải thu hút được khí chân âm, hay dùng kỳ bảo gì có theo đường hướng luyện khí dung hóa nó mới trở về nhân dạng.

"Ta điều tra biết Ngũ độc giáo đã có thể nuôi một giống rắn rất hiếm quý ít khi tìm được là giống tiểu Bạch Long để tăng nguyên khí cho người luyện võ. Và đó là bảo vật trấn sơn của họ. Thân thể của Bạch Long kỳ đặc ở chỗ là sống trong điều kiện lạnh lẽo thì ai may ăn được, thân thể sẽ thụ đắc trên mười năm công lực chí dương, ngược lại sẽ thụ đắc được khí chân âm. Ta đã đánh cắp được con Bạch Long của Ngũ độc giáo, nhưng trong lúc bỏ chạy bị trúng tý ngọ hồn trâm của giáo chủ Ngũ Độc.

"Trước đây để đi tìm vật chí âm, ta đã từng biết qua Xà Khê và xà động ở Đại Việt, nên cướp được Bạch Long, ta bôn ba đến xà động và tập cho Bạch Long quen sống trong nước nóng. Ta trồng tử diệp thảo, một loại cỏ độc khắp hòn cù lao đá giữa hồ, nó chẳng những xua đuổi rắn rết không dám lên cù lao, mà người thường bước chân tới cũng bị trúng độc mà chết. Tiểu Bạch Long phải sống trong điều kiện mới ba năm mới phát sinh hiệu dụng ta cần, vì thế sau khi bố trí, ta lại về Hồ Quảng, liên lạc với bang chúng khuyến khích họ luyện công, lẩn quanh tổng đàn Ngũ độc giáo để tìm thuốc giải. Khi bị trúng Âm Dương Tý Ngọ cốt, ta phải cố sức chạy, độc ở trong người quá lâu nên không cách gì vận công trục xuất ra ngoài. Ta chỉ dồn chúng vào một chỗ, ngăn chận không cho lây lan. Vì luôn luôn phải dùng một phần công lực để khống chế chất độc, không dám kịch chiến với cao thủ nên mấy năm ta cũng chưa thể gần gũi giáo chủ Ngũ độc giáo để lấy thuốc giải như ý muốn."

Nữ nhân cười : "Không ngờ trời xui khiến ta tốn bao tâm huyết cho con Bạch Long, ngươi không biết ở đâu mò tới và dùng nó. Ta giận điên người, muốn ăn thịt uống máu của ngươi, nhưng lại sớm phát hiện ngươi bị chứng thất âm tuyệt mạch, một tuyệt chứng nhưng là điều kiện trăm năm khó gặp để luyện Huyền Âm thần công, một bí cấp ta đã tốn nhiều năm trời điều tra và mới lên tận Huyền Âm cung ở trường bạch sơn đánh cắp. Biết ngươi có điều kiện tốt như vậy, thay vì giết ngươi, ta đã mang ngươi về đây để ngươi luyện Huyền Âm công. Dĩ nhiên không phải muốn cứu mạng ngươi, mà mong sử dụng ngươi, để khi ngươi vừa hoàn thành, thì ta thu hút Huyền Âm chân khí trong người của người. Bây giờ ngươi đã hiểu âm mưu ác độc của ta chưa?"

Tích Nhân thở dài :

- Đại tỷ ở trong một hoàn cảnh bắt buộc phải như vậy. Nghe đại tỷ kể lại, tiểu đệ chẳng những không chút hờn oán nào mà lại thấy ân hận, và thương đại tỷ hơn. Hiện giờ không biết phải làm sao để đền bù cho đại tỷ. Nếu được, Tích Nhân dù chết cũng chẳng từ nan.

- Trong cõi u minh có những sắp xếp mà con người không hiểu được. Ngươi đến xà động, bị ta dùng luyện Huyền Âm khí công mà lại hoàn thành Thái Ất thần công đều đâu phải ý ngươi mà hoàn toàn như do đất trời xui khiến. Có lẽ kiếp trước ta đã mang nợ nần gì với ngươi nên kiếp này phải trả.

- Kiếp này không trả được, tiểu đệ cũng nguyện kiếp sau sẽ trả hết ân nghĩa mà đại tỷ đã ban cho.

Rồi Tích Nhân nhiệt thành :

- Không hiểu có tiền kiếp hay không, nhưng từ lúc gặp đại tỷ, dù lạnh nhạt, hất hủi, nhưng tiểu đệ lúc nào cũng cảm nhận có cái gì thân thiết một cách kỳ lạ đối với đại tỷ, như thân thương tự bao giờ...

Kỳ Anh :

- Thật vậy sao? Ừ nhỉ! Ta định lợi dụng ngươi, nhưng ta cũng thấy ngươi có cái gì thật đặc biệt, đi đâu ta cũng... phân vân vì ngươi.

Tích Nhân reo lên :

- Nhất định tiền kiếp đại tỷ và tiểu đệ không phải là mẹ con, anh em, thì cũng...

Kỳ Anh :

- Hừ! Ngươi đã suýt nói bậy rồi!

Kỳ Anh la hắn dứt tiếng thì thân thể run lên, hối hắn :

- Có lẽ đã giờ tý.

Tích Nhân vội vàng truyền công lực cho bà ta. Khi Kỳ Anh qua cơn nóng lạnh, Tích Nhân chân thành :

- Thạch động cũng vậy mà ở đây cũng vậy, không có chỗ nào có thể để đại tỷ có thể nằm nghỉ mà không bị khí lạnh xâm nhập. Xin đại tỷ dựa vào người tiểu đệ mà ngủ. Đại tỷ phải ngủ mới được.

Kỳ Anh thở dài, rồi dựa vào ngực hắn. Khi Kỳ Anh thở đều, Tích Nhân nhìn mặt mày tay chân Kỳ Anh càng thương cảm, hắn không chút động đậy, suốt đêm ngồi vận khí để sưởi ấm giấc ngủ của bà.

Kỳ Anh ngủ một giấc bình thản cho đến sáng. Mở mắt thấy Tích Nhân vẫn ngồi yên, bà cảm động :

- Nhân đệ!. Chỉ hai tiếng nhưng chứa đầy thương yêu, thân thiết.

Tích Nhân cũng mở mắt ân cần :

- Đại tỷ thấy trong người thế nào?

- Ta cảm thấy rất khoẻ. Nhưng ngươi chắc cả đêm không ngủ, hãy điều tức giây lát đi.

Kỳ Anh chống tay ngồi lên, nhưng mới bước xuống tảng đá xiêu xiêu ngã. Tích Nhân vội đỡ bà :

- Đai tỷ muốn đi đâu?

- Ta cần một chỗ vắng vẻ.

Tích Nhân ngơ ngác :

- Đại tỷ có ai đâu ngoài đại tỷ và tiểu đệ?

- Thật là ngốc tử, con người mới ngủ dậy ai mà chẳng phải...

Tích Nhân vỡ lẽ :

- Tiểu đệ đúng là ngốc!

Biết Kỳ Anh muốn đi đâu, Tích Nhân đỡ bà đến một bờ cỏ cao rồi đi tránh. Khi thấy Kỳ Anh loạng choạng đứng lên thì trở lại dìu bà.

Từ đó, những giờ tý, ngọ Tích Nhân vận công hộ trì kinh mạch, ban đêm làm chỗ tựa cho Kỳ Anh ngủ. Ngược lại, ngoài lúc Tích Nhân phải ngủ giây lát, nướng cá cho hai ngươi ăn, đưa mật rắn hay trái cây Bạch Ưng mang về cho Kỳ Anh dùng, còn tất cả thì giờ Kỳ Anh ngồi dựa thân cây chỉ hắn thu phát công lực, vận khí truyền âm, chưởng chỉ, khinh công, kiếm pháp các môn phái võ lâm Trung nguyên.

Vì Kỳ Anh cử động khó khăn, chiêu thức bà ta phải dùng lời nói diễn tả nhiều hơn biểu diễn cho Tích Nhân xem nên sự hấp thụ của Tích Nhân rất chậm chạp. Tuy vậy Kỳ Anh hết lời khen ngợi và vui mừng. Vì theo bà sự tiến bộ của Tích Nhân cũng nhanh hơn dự định. Thời gian qua mau, sức khỏe Kỳ Anh càng ngày càng yếu, sự hướng dẫn của bà cũng chậm lại và sự đi đứng của bà không còn như trước, Tích Nhân phải bồng mỗi khi cần di chuyển. Một điều Tích Nhân cũng nhận thấy, khi Kỳ Anh càng mất sức, thì lông lá trên mặt trên tay của bà ta cũng hình như rụng dần. Một hôm ngứa ngáy khắp toàn thân, bà ta không muốn nói với Tích Nhân, nhưng rồi tối đó không thể không bật ra tiếng rên rỉ.

Tích Nhân lo sợ :

- Đại tỷ cảm thấy như thế nào? chuyện gì xảy ra?

Kỳ Anh hổn hển :

- Ta đang ngứa, ngứa như nứt da, xé thịt... Có phải đã quá dơ bẩn hay không, ngươi tìm cách.... tìm cách đưa ta xuống hồ cho ta tắm rửa một chút xem thử có bớt không?

Hiện giờ Kỳ Anh đã không còn cử động chân tay nữa, đi đâu Tích Nhân phải bồng bà ta, và ngay cả phải nhắm mắt để giúp Kỳ Anh cởi bỏ giải quyết những cần thiết của thân thể, thì làm sao để bà ta có thể tự tắm rửa được?

Tích Nhân xem Kỳ Anh không khác chị ruột, có nghĩ đến những bất tiện giữa nam nữ cách biệt, nhưng cũng cho rằng dù phải làm thế nào đi nữa mà lòng chân chính, thì cũng chẳng có gì phải uý kỵ. Nghĩ vậy, Tích Nhân không ngại ngùng, bồng Kỳ Anh lội xuống hồ, một tay đỡ bà, nhắm mắt, cởi bỏ áo quần của bà ta. Kỳ Anh có chút hốt hoảng, nhưng rồi bà ta cũng thấy rằng không còn cách gì khác. Người nghĩa đệ đã khoáng đạt biến phải tùng quyền, thì tại sao mình lại câu chấp?

Tích Nhân tắm cho Kỳ Anh, bồng bà lên đặt ngồi dựa gốc cây, xuống hồ giặt giũ bộ quần áo bà đã mặc quá lâu cho sạch rồi nhắm mắt lên bờ mặc lại cho bà. Sau đó truyền chân khí, vận dụng sức nóng trong thân thể bốc ra sưởi ấm bà.

Kỳ Anh dựa lên người Tích Nhân, mắt ứa lệ, nhiều câu hỏi đặt ra trong đầu, không hiểu giữa mình và Tích Nhân thật sự tiền duyên nghiệp chướng như thế nào? Tuy nhiên Kỳ Anh cũng thấy rằng những ngày bên hắn dù trở thành một người bất lực, chịu nhiều khổ sở của thân thể, nhưng cũng cảm nhận những cảm giác êm ái thân thương kỳ diệu, những niềm vui chưa bao giờ có. Kỳ Anh chìm vào giấc ngủ với nụ cười trên môi.

Sáng dậy, khi Kỳ Anh vẫn còn ngủ, Tích Nhân cúi xuống nhìn người đại tỷ, không tin ở mắt mình. Khuôn mặt của Kỳ Anh hôm nay đây đó vẫn còn một ít lông đen đúa, có chỗ ửng đỏ nhưng khuông mặt của bà đã hiện rõ khuôn mặt của một giai nhân. Tích Nhân không tin ở mắt mình, nhưng nhắm mắt mở ra vẫn thấy không có gì thay đổi.

Kỳ Anh mở mắt, như thường lệ gọi :

- Nhân đệ!

Tích Nhân như cái máy :

- Đại tỷ!

Kỳ Anh thấy ngay ánh mắt của hắn :

- Ngươi nhìn ta có vẻ kỳ lạ?

Tích Nhân bồng Kỳ Anh ra bờ hồ :

- Đại tỷ nhìn xuống nước xem, thì hiểu tại sao tiểu đệ đã không thể không nhìn đại tỷ.

Kỳ Anh nhìn mặt mình dưới nước, nhìn hai bàn tay và cánh tay rồi bảo Tích Nhân :

- Ngươi cho ta xem hai chân ta như thế nào?

Tích Nhân vén ống quần bà lên. Kỳ Anh nhìn bắp chân mình vẫn còn đầy lông, nhung có lẽ cũng đã rụng nhiều, đôi mắt chợt rơi lệ :

- Có lẽ trước khi ta chết, ta có thể trở lại làm người.

Tích Nhân :

- Đại tỷ chắc chắn là một tuyệt thế giai nhân.

Kỳ Anh thở dài :

- Ta cũng chẳng đẹp gì lắm đâu. Nhất là trải qua bao nhiêu thời gian phải sống dưới hình dạng không khác gì khỉ vượn.

Từ hôm đó, người Kỳ Anh tiếp tục ngứa ngáy. Có khi Tích Nhân gãi, chà xát cho bà, có khi Tích Nhân bồng bà đi tắm. Mỗi ngày lông trên người Kỳ Anh rụng thêm một ít, da của Kỳ Anh sau khi rụng lông, đỏ và sần sùi, nên những khi tắm cho nàng, Tích Nhân cũng không mảy may có cảm giác ngại ngùng.

Một buổi sáng, sau khi tắm cho Kỳ Anh trong đêm, Tích Nhân mở mắt thấy người nằm tựa lên ngực mình là một cô gái, một tuyết thế giai nhân. Khuôn mặt trắng như trứng gà bóc, đôi môi không thoa son mà đỏ hồng, lông mi cong vút. Hai bàn tay bỏ xuôi theo thân người cũng chẳng khác ngọc ngà. Tích Nhân không thể tưởng tượng Kỳ Anh trẻ như vậy và đẹp như vậy. Tích Nhân lúc nào cũng trân trọng Kỳ Anh, trong lòng không bao giờ có chút tà niệm dù gãi hay tắm rửa lên da thịt, nhưng sáng hôm ấy hắn chợt thấy lòng bâng khuâng, phải nhắm mắt không dám nhìn lâu, ngồi im nín thở cho đến khi Kỳ Anh thức giấc và gọi tên hắn như thường ngày.

Tích Nhân nhắm mắt, thở dài :

- Người ta ca tụng Hằng Nga nơi nguyệt điện, hay Tây Thi, Dương Quí Phi ngày xưa, tiểu đệ không những người đó có đẹp như Đại tỷ hay không?

Kỳ Anh ngạc nhiên :

- Nhân đệ nói gì vậy?

Tích Nhân không trả lời, lại bồng ba lên ra hồ nước :

- Đại tỷ nhìn xuống hồ nước sẽ hiểu lời tiểu đệ nói.

Kỳ Anh nhìn xuống mặt hồ, nhìn hai bàn tay mình, rồi bảo hắn :

- Ngươi cho ta xem những nơi khác trên người ta như thế nào?

Tích Nhân lại vén ống quần bà lên. Kỳ Anh nhìn bắp chân mình, bấy giờ đã trắng nuốt như ngó ngọc, lại nghẹn ngào :

- Ta đã hoàn toàn thật sự làm lại con người.

Tích Nhân ngờ vực :

- Đại tỷ trông chỉ độ trên hai mươi, cũng không lớn hớn tiểu đệ là bao, nhưng sao lại bảo mình đáng tuổi...

Kỳ Anh :

- Ta cũng không ngờ! Ta từ người biến thành vượn ở lúc vừa hai mươi ba tuổi. Hôm nay ta hoàn toàn trở lại hình dạng con người thì cũng giống như lúc hai mươi ba tuổi của năm xưa. Bây giờ ta thật vui, nhưng...

Kỳ Anh nhắm mắt thở dài :

- Có lẽ một vài hôm nữa, ngươi đưa ta lên thạch động. Ta cảm thấy trong người đã yếu rất nhiều.

Tích Nhân :

- Lên thạch động lúc nào cũng được. Nếu tỷ tỷ muốn tiểu đệ đưa đi ngay.

- Ừ! Nếu đi bây giờ cũng được.

- Đại tỷ không cần tiểu đệ đưa đi...

- Ngươi cứ giúp ta như mọi ngày, sau đó đưa ta lên thạch động.

Tích Nhân đã phải bồng và giúp Kỳ Anh việc bài tiết hàng ngày, nhưng hôm nay hắn chợt cảm thấy hơi khó khăn, hình như phải lấy hết can đảm. Có lẽ bàn tay run run của hắn cũng làm cho Kỳ Anh cảm nhận một cảm giác kỳ lạ, đôi má cũng chợt ửng hồng.

Đưa Kỳ Anh lên thạch động, bà ta bảo Tích Nhân để mình xuống nền, đẩy tảng đá như chiếc bàn giữa động sang một bên. Tích Nhân làm theo lời thấy dưới tảng đá một cái hầm lớn, bên trong để bốn cái hộp, Kỳ Anh bảo hắn đem hết ra ngoài.

Tích Nhân lại bồng kỳ Anh lên, đặt bà ta ngồi dựa lên người mình.

- Đại tỷ nhìn xem có thiếu thứ gì không?

- Dĩ nhiên là không. Không ai biết nơi đây ngoài ta, Phó tướng quân đã chết, và ngươi. Những gì ngươi mới đem ra là tài sản quan trọng nhất của Phượng Hoàng bang và của ta. Bốn cái rương này, rương thứ nhất đựng sách vở. Tất cả đều là võ công bí kíp, từ nay ta mong ngươi bảo quản sử dụng cho đúng. Chọn nhân tài có căn cơ đức độ mà truyền thụ. Hộp thứ hai để Phượng Hoàng ngọc lệnh bài và danh sách bang chúng. Phượng Hoàng ngọc lệnh là lệnh bài của bang chủ Phượng Hoàng bang, bang chúng thấy nó như thấy bang chủ. Đáng lẽ ta phải trịnh trọng thắp bàn hương án hai tay truyền lại cho ngươi, nhưng tay chân ta đã bất động...

Tích Nhân biết kỳ Anh đang trối trăn, xúc động ôm bà bật khóc :

- Đại tỷ! chẳng lẽ... đại tỷ trối trăn với tiểu đệ!

Đôi mắt trong trẻo, tinh anh của Kỳ Anh cũng long lạnh giọt lệ, nhưng rồi cười nhẹ :

- Ngươi đã là một thanh niên to lớn mà mỗi chút mỗi khóc hay sao? Ta đã chết đâu? Có thể cũng còn phiền ngươi thêm vài ngày nữa.

Tích Nhân nói trong tiếng nấc nghẹn :

- Nhưng tiểu đệ cảm thấy...

Hắn bồng bà đứng lên :

- Tiểu đệ đưa đại tỷ đi khỏi nơi nầy, tìm thần y điều trị.

Kỳ Anh gắt :

- Ngươi điên rồi hay sao? Ngươi cũng biết mạng ta chỉ còn ngày giờ hay sao? Ta đã bảo không có thần y nào có thể cứu chữa nổi.

Nghe Kỳ Anh lớn tiếng rồi thở hổn hển, Tích Nhân vội bồng bà trở lại, ngồi xuống sàn dựa lưng vào vách đá, nước mắt lã chã tuôn rơi.

Kỳ Anh nhẹ nhàng :

- Ngươi truyền một ít chân khí cho ta. Ta có thể sống thêm vài ngày, nhưng những ngày này ta chỉ hoàn toàn sống vào chân khí của ngươi.

Tích Nhân đặt Kỳ Anh xuống nền đá để bà dựa vào mình thúc đẩy chân khí vào người bà. Kỳ Anh :

- Ta chết khi đã có thể nhìn thấy mình trở lại hình dáng con người và cũng được chết bên cạnh một người thương quí ta chân thành, ta vô cùng mãn nguyện. Sinh ly tử biệt là chuyện thường của đời người. Ngươi là nam nhi đại trượng phu, không nên hở một chút là rơi lệ. Ta mong những ngày còn lại của ta được vui và nhìn thấy ngươi vui vẻ.

Tích Nhân nuốt nước mắt, vừa chuyền chân khí, vừa bồng Kỳ Anh lên :

- Tiểu đệ đưa tỷ tỷ ra ngoài, ra khỏi khu vực này để tỷ tỷ có thể nhìn thấy cảnh đẹp thiên nhiên.

Kỳ Anh mỉm cười :

- Ngươi muốn đưa ta đến đâu thì đi, nhưng thạch động này phải là chỗ đưa ta trở về.

Tích Nhân ra thạch động, một tay kẹp Kỳ Anh, một tay đu dây lên đầu núi. Dù tay kẹp một người nhưng đôi chân đạp lên thành đá phóng lên, tay chụp sợi dây, Tích Nhân nhanh nhẹn không khác con vượn phóng mình lên cây. Đặt chân xuống đầu núi hắn vội lấy hai tay bồng Kỳ Anh và hỏi :

- Đại tỷ có mệt không?

Kỳ Anh mỉm cười, nụ cười làm đôi mắt Tích Nhân ngơ ngẩn :

- Ta không mệt mà vui vì thấy khinh công Nhân đệ giang hồ hiện nay không ai qua được.

- Tất cả đều nhờ đại tỷ chỉ điểm. Tích Nhân nói như cái máy, nhưng đôi mắt như bị khuôn mặt, cặp mắt và đôi môi Kỳ Anh thôi miên.

Bắt gặp ánh mắt của hắn, đôi má Kỳ Anh ửng hồng làm cho nàng càng xinh đẹp, và Tích Nhân như cái máy, như miếng kim loại trước cục nam châm cúi xuống nàng. Kỳ Anh kêu lên :

- Nhân đệ! Ngươi...

Tích Nhân rùng mình, ngồi xuống đất, lắc đầu mấy cái cho bình tĩnh, lấy tay đánh vào má mình :

- Tiểu đệ thật vô lễ, thật hồ đồ...

Tích Nhân tự đánh đến tát thứ ba, thì Kỳ Anh kêu lên :

- Đừng điên nữa! Dừng lại đi!

Tích Nhân dừng đánh thở dài:

- Tha lỗi cho tiểu đệ! Tiểu đệ chẳng phải kinh mạn, nhưng tỷ tỷ...

- Ngươi thấy ta đẹp lắm phải không?

Tích Nhân thở dài :

- Tiểu đệ không hiểu Tây Thi, Dương Quí Phi năm xưa như thế nào, nhưng tỷ tỷ là một người mà tiểu đệ chưa thấy ai đẹp bằng. Một người như tỷ tỷ thì nam nhân dù gỗ đá cũng bị thu hút. Tiểu đệ cũng vậy.

Kỳ Anh nhìn hắn :

- Có lẽ ngươi là một tên háo sắc. Khi gặp ngươi ta xem gân cốt kinh mạch đã biết người còn con nít mà đã mất thân đồng trinh.

Tích Nhân chợt buồn :

- Có thể tỷ tỷ nói đúng. Tiểu đệ là một tên háo sắc. Chính vì thế mà suýt chết sớm vì bị nữ nhân lợi dụng.

- Người lợi dụng ngươi xinh đẹp lắm phải không?

- Nếu so với tỷ tỷ thì không khác gì gà so với phượng, nhưng lúc đó tiểu đệ tưởng nàng là tiên trên đời, và tốt với tiểu đệ không ai bằng.

- Thật vậy sao?

Tích Nhân cười buồn, kể lại mình là một đứa trẻ cha mẹ chết sớm như thế nào, sống khổ cực ra sao, gặp Thu Hà nhìn ra cây Đằng Tiên, sắp mưu lợi dụng như thế nào nhất nhất kể lại cho Kỳ Anh nghe. Nàng cảm động :

- Ta không ngờ Nhân đệ trải qua nhiều đắng cay như thế. Nhưng trong cõi mênh mông hẳn có sự xắp xếp nào đó, nên cũng vì thế mà Nhân đệ dùng con Bạch Long và gặp ta.

Nàng nhắm mắt :

- Ta mãi tự hỏi duyên nghiệp giữa ta và Nhân đệ như thế nào? Tuổi của ta lớn hơn Nhân đệ rất nhiều. Nhưng từ nhỏ đến lớn chưa một người đàn ông nào ta để vào mắt. Lúc ta gặp Nhân đệ thì Nhân đệ hoàn toàn loã lồ, và ta vác Nhân đệ đi cả ngàn dặm đường. Lúc ấy ta không có ý nghĩ gì, nhưng sau này lại cứ mãi có ấn tượng. Phải chăng vì ấn tượng này mà ta không cắn lưỡi tự sát khi mất hết công lực và cũng không hận thù Nhân đệ. Khi ta hoàn toàn bất lực, thì Nhân đệ là người đàn ông bồng ẵm, tắm rửa cho ta. Hỡi ơi! Nếu nói ta không có những rung cảm nào qua sự đụng chạm với Nhân đệ thì thật dối mình, nhưng thừa nhận thì thật là tội lỗi... xấu hổ!

Tích Nhân ôm ghì Kỳ Anh cúi xuống nàng trong xúc cảm :

- Tỷ tỷ! Chúng ta không dối minh nữa! Tỷ tỷ là Phượng Hoàng Tiên Tử hai mươi ba tuổi, còn tiểu đệ đã hai mươi.

Kỳ Anh thở dài :

- Ta thật sự lớn tuổi hơn Nhân đệ rất nhiều. Hố cách biệt không thể nào còn san phẳng. Hơn nữa ta là người... sắp chết! Nhân đệ lại nói chuyên yêu đương với người sắp chết để làm gì? Tình cảm, sự rung động của mỗi chúng ta thật sự như thế nào mình tự biết chẳng hay hơn? Ta muốn những ngày còn lại, ta và Nhân đệ thật vui vẻ với nhau.

Kỳ Anh nhắm mắt, tiếng nói nhỏ lại :

- Nhân đệ đã bồng ẫm vuốt ve, đêm ngày ta trong cánh tay Nhân đệ, thì còn ngại, tiếc gì với Nhân đệ nữa? Chỉ tiếc ta không thể làm gì hơn cho Nhân đệ... Ôi! Ta sắp chết mới biết sự gần gũi giữa người nam và người nữ có những kỳ diệu là thường.

Tích Nhân cúi xuống đôi môi đang chờ đợi của Kỳ Anh, và thân thể bất động của nàng run nhẹ trong cánh tay hắn.

Từ hôm đó, Tích Nhân bồng Kỳ Anh lúc ngồi trên đỉnh núi đón mây, nhìn trời đất bao la, núi rừng trùng điệp. Lúc đưa nàng xuống suối, lên sườn núi hái hoa kết lên tóc nàng. Họ có những ngày thật vô cùng hạnh phúc, nhưng chỉ được năm sáu ngày thi Kỳ Anh yếu hẳn, nàng bảo hắn đưa nàng về thạch động.

Lúc này, giữa họ không còn có những uý kỵ, Tích Nhân tiếp chân khí cho nàng qua huyệt Khí Hải để Kỳ Anh có thể nằm nhìn được khuôn mặt của hắn.

Thấy hắn lại rơi lệ, Kỳ Anh khuyên nhủ :

- Duyên nợ hai ta kết thúc như thế này càng tốt đẹp. Ta có sống nữa cũng không thể làm người yêu trọn đời trọn kiếp với Nhân đệ. Những ngày qua, ta cảm thấy ngập tràn hạnh phúc. Ta như một cô gái hai mươi ba tuổi vừa biết yêu lần đầu và cũng được yêu. Ta sống thêm nữa chỉ làm cho chúng ta đau khổ.

Tích Nhân bật khóc :

- Tiểu đệ thật không cam tâm! Vì dù tiểu đệ có chết để tỷ tỷ sống, thì tiểu đệ cũng cam lòng. Tiểu đệ còn ngu muội, nếu còn cách gì để tỷ tỷ có thể kéo dài thêm thời gian xin hãy bảo cho tiểu đệ biết. Tỷ tỷ nói đi, đừng giấu tiểu đệ nữa!

Kỳ Anh cũng sa lệ :

- Ta muốn được cử động giây lát, được lau nước mắt, được ôm Nhân đệ trong giây lát, nhưng ta không làm được. Bây giờ ta rất muốn sống, sống thật sự mạnh khỏe trong vài bữa, được thật sự làm vợ Nhân đệ, nhưng...

Tích Nhân một tay chuyền chân khí, một tay ép nàng vào ngực mình, lớn tiếng trong tận cùng xót xa :

- Trời hỡi! Chẳng lẽ người nào thật sự yêu thương tiểu đệ đều phải chết tức tưởi? Trước kia là mẫu thân tiểu đệ, bây giờ là tỷ tỷ!! Tiểu đệ không thể nào quên cái chết của mẫu thân, thì hôm nay tiểu đệ cũng sẽ không bao giờ quên tỷ tỷ. Hãy cố sống thêm với tiểu đệ. Một giờ, một phút cũng là quí giá vô cùng. Tỷ tỷ mất, tiểu đệ vĩnh viễn không yêu bất cứ một người nào khác. Tiểu đệ sẽ sống mãi với hình ảnh của tỷ tỷ. Nàng là đại tỷ vô vàn trân trọng, nàng là tỷ tỷ vô vàn thương yêu, nàng là người yêu không ai có thể thay thế... Tỷ tỷ chết, tiểu đệ trọn đời sẽ chỉ sống với hình ảnh tỷ tỷ!

Trong xúc động tột cùng, Kỳ Anh đang mềm như bún bỗng như có một sức mạnh thần diệu nào đưa tới, hai cánh tay nàng tự nhiên vươn ra ôm lấy cổ hắn :

- Nhân đệ!

Và nàng bật khóc, tiếng khóc mừng vui. Tiếng kêu chất chứa yêu thương tận cùng, tiếng khóc cảm động của Kỳ Anh, và vòng tay của nàng làm Tích Nhân cúi xuống nàng trong cảm xúc tột cùng :

- Anh tỷ!

Và hắn mừng rỡ :

- Anh tỷ! nàng đã có thể cử động! Đôi tay của nàng! Nàng có thể cử động! Nàng sẽ sống mãi!

Hắn bồng nàng đứng lên nhảy cỡn, vẻ mặt hân hoan, vui sướng tọt cùng. Nhìn sự vui mừng của hắn Kỳ Anh càng cảm động, nàng úp mặt lên vai hắn, cũng vui mừng :

- Ôi! Ta thật sự có thể ôm được Nhân đệ! Trời đất thật thương ta.

Vòng tay của nàng ôm chặt hắn hơn. Tích Nhân hớn hở bồng Kỳ Anh, vừa la vừa reo một lúc rồi đặt nàng xuống :

- Tỷ tỷ xem mình có thể đứng không nào?

Hắn đặt Kỳ Anh xuống, hy vọng nàng có thể đứng, như đôi tay nàng có thể cử động, nhưng không, đôi tay nàng vừa rời khỏi cổ hắn, thì cả thân người cũng lại như trước, không có chút sức lực nào, liền ngã ngửa. Nếu Tích Nhân không nhanh tay chụp lại, thì nàng đã đập đầu xuống đá.

Tích Nhân ôm Kỳ Anh trở lại, mặt tràn đầy thất vọng. Kỳ Anh thở dài :

- Nhân đệ đừng hy vọng nữa! Người ta thường nói đến sức mạnh tinh thần, phản xạ vô thức. Sức mạnh tinh thần có thể làm cho con người có những phần ứng bất ngờ. Trong lúc quá cảm xúc trước tình yêu của Nhân đệ, con người ta đã có một phản ứng không ngờ như vậy. Đấy chỉ là giây phút nhất thời mà thôi.

Tích Nhân chìm đắm trong sự suy nghĩ, lẩm bẩm: sức mạnh tinh thần... phản xạ vô thức! sức mạnh tinh thần... Hắn la lên :

- Phải chăng khi cảm xúc, tỷ tỷ quên mình, không biết mình bị chất độc khống chế thì tay chân cử động được? Như vậy phải chăng chất độc đã khống chế tư tưởng của tỷ tỷ hơn là nó có tác dụng làm cho gân cốt không hoạt động?

- Ta không biết về chất độc nhiều, chỉ biết Âm dương tý ngọ làm gân cốt mềm nhũn như nhuyễn cân tán. Tuy nhiên, nhuyễn cân tán chỉ ảnh hưởng trên con người một thời gian, còn âm dương tý ngọ làm cho người nóng lạnh và yếu dần cho tới chết. Tình trạng của ta hơn mấy tháng nay như thế nào Nhân đệ đã rõ.

Nàng thở dài :

- Nhân đệ đừng mang theo ảo tưởng nữa.

Tích Nhân chìm đắm suy tư và bỗng cúi xuống Kỳ Anh. Hắn cúi xuống, mở tung và say đắm hôn lên những vùng mẫn cảm của nàng. Người Kỳ Anh như nóng lên, con tim đập nhanh hơn... Tích Nhân chờ đợi một phản ứng nào đó của nàng. Có thể nàng ôm lấy hắn hưởng ứng, hay có thể nàng vùng lên tát cho hắn một tát tai vì cho rằng hắn đang mạo phạm... thế nhưng tay chân Kỳ Anh vẫn không nhúc nhích.

Tích Nhân không thấy một phản ứng nào lại ồm nàng khóc :

- Tỷ tỷ...

- Ta hiểu Nhân đệ muốn làm gì! Ta cũng muốn ôm lấy Nhân đệ. Hơn lúc nào hết ta muốn ta khỏe mạnh để được hiến dâng và đón nhận sự đê mê của tình yêu... nhưng số ta là như vậy!

Nàng não nuột :

- Nhưng như vậy cũng hay hơn để sau này Nhân đệ khỏi phải áy náy... hay khó quên..

- Chẳng lẽ đến lúc này tỷ tỷ vẫn không hiểu tình yêu của tiểu đệ? Giữa hai ta như có cái gì thiêng liêng gắng bó nhau từ bao nhiêu đời trước. Nếu tỷ tỷ đi đứng khỏe mạnh được, chúng ta ở đây trọn đời trọn kiếp, hay làm đôi chim hạc nội mây ngàn, thì đó là những ngày vui sướng và hạnh phúc nhất của tiểu đệ..

- Ta hiểu, ta đang được an ủi và đang được sống trong những giờ phút hạnh phúc nhất... nhưng ta cũng cảm thấy thân thể ta, từ trong xương đang lạnh ra và lạnh dần...

Tích Nhân vội thúc chân khí vào người nàng.

- Hãy để ta được nhìn Nhân đệ.

Tích Nhân thay đổi vị trí để tay lên huyệt khí hải của Kỳ Anh. Nàng nhìn khuôn mặt hắn :

- Đáng tiếc, ta không có khả năng để chải tóc, cạo râu cho Nhân đệ, dù tóc tai bù xù, râu ria tua tủa nhưng Nhân đệ là một trang mỹ mạo nam tử. Sau này ra giang hồ, không biết bao nhiêu cô gái sẽ mê mệt vì Nhân đệ!

- Nhưng từ hôm nay, tiểu đệ chí sống với hình ảnh của tỷ tỷ. Không có ai có thể thay thế tỷ tỷ.

- Đừng như vậy! Ta muốn Nhân đệ có người săn sóc. Một trong bốn chiếc rương là vàng ngọc. Đó không phải là tài sản của Phượng Hoàng bang, mà là của mẫu thân ta để lại cho ta. Sau này, Nhân đệ hãy thay ta tặng lại cho người Nhân đệ yêu thương.

Tích Nhân xót xa :

- Tỷ tỷ lại trối trăn?

- Hãy để ta nói, cũng không hẳn là lời trối trăn trước khi mất, mà nói để Nhân đệ nhớ :

"Sau khi ta mất, Nhân đệ thay ta nhận chức bang chủ Phượng Hoàng bang, chiếu cố cho bang chúng. Suy nghĩ cho cùng ta thấy việc tạo binh lực để lật đổ nhà Minh thành hay bại chưa biết ra sao nhưng sẽ gây ra không biết bao nhiêu tang tóc cho dân chúng, nên khi thay ta, Nhân đệ đừng để cho bang chúng bị cẩm y vệ Minh triều, Bạch liên giáo đàn áp, hướng dẫn chúng hành hiệp trượng nghĩa, tạo danh dự và tìm chỗ đứng xứng đáng trong võ lâm. Không nên nghĩ chuyện tranh bá đồ vương nữa. Sau này Nhân đệ không muốn làm bang chủ, tìm người có căn cơ, đức độ truyền Lục Dương thần công và võ công trấn bang cho hắn. Nhân đệ có thể hứa với ta?"

- Tiểu đệ xin hứa.

Kỳ Anh tiếp lời :

- Giang hồ vô cùng hiểm ác, trước đây ta cũng chủ trương lấy hiểm ác đối phó với hiểm ác, nhưng nghĩ lại ta cũng từng giết oan nhiều người, vì vậy xông pha giang hồ Nhân đệ không nên quá yếu mềm để bị người lừa gạt, nhưng cũng không nên tự thị võ công gây ân oán khắp nơi. Với tính tình của Nhân đệ, ta lo dễ bị lừa gạt hơn là trở nên một hung thần. Nhân đệ dễ bị yếu lòng, nhất là với phụ nữ. Hãy nhớ, phụ nữ càng đẹp lòng dạ càng khó lường, ta mong Nhân đệ sau này luôn luôn cẩn trọng.

Tích Nhân :

- Tiểu đệ đã từng bị phụ nữ lừa gạt nên sẽ luôn luôn ghi nhớ lời Anh tỷ.

Kỳ Anh nhìn đăm đăm khuôn mặt hắn :

- Tích Nhân là một nam nhân mà nữ nhân có lẽ ai cũng ưa thích. Ta mong Nhân đệ cẩn trọng sau này. Đừng nói với ai, bất cứ ai chúng ta đã có những giây phút thân ái thế này. Hoàn cảnh kỳ lạ, mối tình kỳ lạ của chúng ta không ai hiểu được. Nói ra chỉ gây phiền não cho Nhân đệ và cũng làm cho bang chúng Phượng Hoàng bang và giang hồ dị nghị. Giải thích sự ra đi của ta cũng không nói đến việc biến thành dã nhân, khỉ vượn... làm gì! Bảo với họ ta luyện công bị tẩu hỏa nhập ma mà mất...

Nàng lại dặn thêm hắn :

- Nhân đệ đang có nội lực trong gian hồ hiện nay không ai bằng. Nhưng quyền chưởng, kiếm chiêu vì ta bị bệnh và Nhân đệ cũng đã dành thì giờ rất nhiều săn sóc cho ta nên chưa học được nhiều, sau khi ta mất, hãy dẹp sự thương tiếc, cố nghiên cứu các bí kíp và tập luyện cho thuần thục trước khi rời khỏi nơi đây...

Đôi mắt Kỳ Anh sáng lên như muốn thu hút hình ảnh hắn và tâm trí, rồi nhắm mắt. Đôi mắt Trần Kỳ Anh nhắm lại, và giây lát sau Tích Nhân thấy chân khí của mình không thể đưa vào người nàng được nữa.

Tích Nhân ôm chặt Kỳ Anh, không còn rơi được giọt nước mắt nào.

Dù sao cũng không thể ôm mãi một xác chết. Mấy hôm sau Tích Nhân dọn dẹp sạch sẽ thạch động phía sau, đem Kỳ Anh đặt ngay ngắn trên một tảng đá, rồi bịt kín lối ra vào.

=======

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#quoctrung