dang vien vvvvv

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

PHẤN ĐẤU TRỞ THÀNH ĐẢNG VIÊN

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

MỞ ĐẦU

KẾT NẠP ĐẢNG VIÊN LÀ MỘT QUY LUẬT PHÁT TRIỂN CỦA ĐẢNG

1- Cơ sở lý luận

+ Đảng ta là một tổ chức chính trị - xã hội, giống như mọi cơ thể sống khác cũng không ngừng vận động và phát triển. Trong quá trình đó, Đảng đòi hỏi bổ sung thêm những nhân tố mới thay thế những nhân tố cũ. Mác-Ăngghen khẳng định: Phong trào vô sản trải qua những bước phát triển khác nhau thường có những người không đi xa hơn được nữa phải lùi lại phía sau (những người đã cố gắng hết sức nhưng tuổi đời tăng, sức khoẻ, trình độ chững lại, không phát triển được) và có những phần tử thoái hoá, biến chất bị thải loại ra khỏi Đảng.

2- Cơ sở thực tiễn

+ Nhiệm vụ cách mạng ngày càng nặng nề đòi hỏi Đảng phải tự nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo. Do vậy, phải được bổ sung năng lực, trí tuệ.

+ Bối cảnh hiện nay:

- CNXH lâm vào khủng hoảng.

- Thực trạng đội ngũ đảng viên của ta: tuổi bình quân cao, trình độ năng lực hạn chế, đòi hỏi phải kết nạp những đảng viên trẻ, khoẻ, có trình độ, đủ sức đáp ứng yêu cầu mới.

Như vậy, kết nạp đảng viên mới là quy luật vận động và phát triển của Đảng ta.

Việc kết nạp đảng viên phải có những điều kiện, yêu cầu phấn đấu nhất định để bảo đảm cho Đảng được bổ sung nguồn sinh lực dồi dào, khoẻ khoắn, giữ vững ngọn cờ lãnh đạo mà dân tộc đã trao.

I- MỘT SỐ KHÁI NIỆM

1- Tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam: "Là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc Việt nam; theo chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; là lực lượng lãnh đạo Nhà nước" (Hiến pháp 1992).

2- Người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam: Là chiến sĩ trong đội tiền phong của giai cấp công nhân, suốt đời phấn đấu cho lý tưởng của Đảng, vì một nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; thực hiện thành công CNXH, cuối cùng là CNCS ở Việt Nam.

II- ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC XÉT KẾT NẠP VÀO ĐẢNG CSVN

Điểm 2, Điều I, Điều lệ ĐCSVN quy định: "Công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, thừa nhận và tự nguyện: thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên hoạt động trong một tổ chức cơ sở Đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm đều có thể được xét để kết nạp vào Đảng".

Quy định trên bao gồm 3 điều kiện:

- Là công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên.

- Thừa nhận và tự nguyện thực hiện: Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, Tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên.

- Qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm.

1- Công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên

* Công dân Việt Nam: Là người có quốc tịch Việt nam (Điều 49 - Hiến pháp 1992)

- Tại sao phải là công dân VN? Vì: Chỉ có công dân VN mới được hưởng quyền và phải thực hiện các nghĩa vụ công dân theo Hiến pháp và pháp luật VN. Đây là đòi hỏi về địa vị pháp lý và nhân cách công dân của người xin vào Đảng.

* Từ 18 tuổi trở lên: Có đủ sức khoẻ, năng lực và trình độ cần thiết, có ý thức trách nhiệm về mọi suy nghĩ, hành động của mình.

(Trước: Tính cả năm sinh là một tuổi hoặc tính từ khi bước sang tuổi 18 vẫn được chấp nhận. Nay: Tròn 18 tuổi trở lên).

- Không quy định hạn trên vì công tác phát triển Đảng coi trọng yêu cầu về giác ngộ lý tưởng, phẩm chất chính trị, kiến thức và năng lực hành động. Tuy nhiên do tuổi đời bình quân của đảng viên hiện nay khá cao (45 tuổi, tỉ lệ đảng viên hưu trí: 23%) nên yêu cầu phải trẻ hoá đội ngũ, chú trọng phát triển Đảng trong thanh niên.

2- Thừa nhận và tự nguyện thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên; hoạt động trong một tổ chức cơ sở Đảng

Đây là điều kiện phân định rõ ranh giới giữa đảng viên với quần chúng tích cực ngoài Đảng.

a- Thừa nhận (nhận thức) - tự nguyện thực hiện (hành động thực tế, thước đo nhận thức tư tưởng, ý thức phấn đấu của người vào Đảng):

- Điều kiện này xuất phát từ vị trí, vai trò của người đảng viên: làm cách mạng, lãnh đạo và vận động nhân dân thực hiện đường lối chình trị của Đảng. Vì vậy, khác với công dân, đảng viên phải thừa nhận và thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên; hoạt động trong một tổ chức cơ sở Đảng.

- Yêu cầu của điều kiện này: người vào Đảng phải có quan điểm, lập trường chính trị đúng đắn, giác ngộ mục đích, lý tưởng của Đảng, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ đảng viên - phải có trình độ và sự tin cậy về chính trị.

* Cương lĩnh chính trị: "Nói lên tất cả những điều mà Đảng muốn đạt được và vì mục đích gì mà Đảng đấu tranh". Đó là cơ sở thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng, là ngọn cờ tập hợp, cổ vũ các lực lượng xã hội phấn đấu cho lý tưởng mà Đảng đã chỉ ra.

* Điều lệ Đảng: Văn bản xác định tôn chỉ, mục đích, hệ tư tưởng, các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động, cơ cấu tổ chức, bộ máy của Đảng, quy định trách nhiệm, nghĩa vụ, quyển hạn của đảng viên và của tổ chức các cấp của Đảng.

* Tiêu chuẩn, nhiệm vụ đảng viên: Là những chuẩn mực cơ bản về phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực. Là cơ sở phân định ranh giới giữa đảng viên và quần chúng tích cực ngoài Đảng, cơ sở để tiến hành mọi mặt công tác đảng viên, giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng.

Đảng viên phải có nghĩa vụ chấp hành trên cơ sở tự nguyện thừa nhận.

* Tiêu chuẩn đảng viên:

- Là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân:

+ Tiên phong:

- Về mặt thực tiễn: Là bộ phận kiên quyết nhất, luôn đi đầu, biết lôi kéo, cuốn hút quần chúng.

- Về mặt lý luận: Mác: Họ hơn hẳn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản.

+ Liên hệ:

- Ưu: Hiện nay, đảng viên chiếm 3,12% dân số (2,4 triệu): Vững vàng về chính trị, kiên định CN Mác-Lê nin và tư tưởng HCM; trong đổi mới đang hình thành một đội ngũ đảng viên có năng lực, phẩm chất, tư duy mới, bắt kịp yêu cầu của thời đại.

- Nhược: Một bộ phận hoang mang, dao động, thiếu tiền phong, gương mẫu.

- Suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng:

+ Đảng: đội tiên phong của giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với mục tiêu đấu tranh: giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động, xoá áp bức bóc lột, xây dựng CNCS mà giai đoạn đầu là CNXH.

+ Đảng viên: tế bào cấu thành nên tổ chức Đảng, nên phải phấn đấu cho mục đích đó. Sự nghiệp của giai cấp công nhân là lâu dài, bền bỉ - cần phải phấn đấu suốt đời.

- Đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân. Mác: "giai cấp công nhân chỉ có thể tự giải phóng mình đồng thời với giải phóng toàn thể nhân dân lao động".

Đảng không chỉ đại biểu cho quyền lợi của giai cấp công nhân mà còn đại biểu cho quyền lợi của nhân dân lao động. Lợi ích của giai cấp công nhân gắn bó máu thịt với lợi ích nhân dân lao động và ở Việt Nam: gắn bó máu thịt với lợi ích dân tộc. Do đó, lợi ích đảng viên gắn bó với lợi ích dân tộc, giai cấp và nhân dân lao động - " nước lên thuyền lên".

- Chấp hành nghiêm Cương lĩnh, Điều lệ, Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước:

+ Đảng viên phải gương mẫu, tiền phong để lôi cuốn quần chúng "Đảng viên đi trước, làng nước theo sau".

- Có lao động, không bóc lột, hoàn thành nhiệm vụ được giao:

Cách mạng vô sản là cách mạng triệt để, "cách mạng đến nơi": Thủ tiêu chế độ bóc lột.

Nay: trong thời kỳ quá độ: chấp nhận xã hội còn bóc lột nhưng về quan điểm, lập trường: phát triển kinh tế tư bản tư nhân không phải là mục đích mà là phương tiện. Đảng viên tham gia làm kinh tế phải vững lập trường, nhằm giải quyết việc làm, làm giàu cho xã hội.

- Đạo đức. lối sống lành mạnh, gắn bó với nhân dân: Sống, làm việc trong lòng nhân dân, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng.

- Phục tùng tổ chức, kỷ luật, giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng: Đây là quy luật làm cho Đảng thật sự thống nhất, có sức mạnh.

* 19 điều đảng viên không được làm: (tài liệu)

b- Hoạt động trong một tổ chức cơ sở Đảng:

Tại sao? Lê nin trong "Một bước tiến, hai bước lùi" đã đấu tranh kiên quyết cho tiêu chuẩn này, Người lý giải: "Nếu không sẽ làm cho Đảng rơi vào tình trạng mọi phần tử cơ hội, ăn không ngồi rồi, mọi giáo sư, học sinh trung học đều tự xưng mình là đảng viên cả".

- Mặt khác, phải ở trong một tổ chức thì Đảng mới có thể kiểm tra, theo dõi, giám sát được.

3- Qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm (điều kiện thực tiễn)

- Tại sao phải được nhân dân tín nhiệm?

+ Bản chất giai cấp công nhân của Đảng: gắn bó mật thiết với nhân dân, không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân.

+ Nhân dân cũng gắn bó máu thịt với Đảng, tích cực tham gia xây dựng Đảng.

Vì vậy, phải được nhân dân tín nhiệm thì mới có thể hoàn thành nhiệm vụ, sứ mệnh lịch sử của người đảng viên: vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

- Làm thế nào để được nhân dân tín nhiệm?

+ Gương mẫu:

- Chấp hành chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

- Đóng góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới.

- Nêu gương về đạo đức.

- Có năng lực sáng tạo.

+ Kiên trì rèn luyện không ngừng trong thực tiễn:

" Ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong"

" Lửa thử vàng, gian nan thử sức"

Thực tiễn là thước đo chính xác nhất đối với phẩm chất con người, là chỗ dựa tin cậy để nhân dân lựa chọn, giới thiệu.

Sự đánh giá trung thực, khách quan của nhân dân là cơ sở tin cậy để Đảng xem xét, kết nạp.

Đây là ba điều kiện cần thiết để Đảng xem xét kết nạp người vào Đảng.

II- ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC XÉT KẾT NẠP VÀO ĐẢNG CSVN

Điểm 2, Điều I, Điều lệ ĐCSVN quy định: "Công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, thừa nhận và tự nguyện: thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên hoạt động trong một tổ chức cơ sở Đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm đều có thể được xét để kết nạp vào Đảng".

Quy định trên bao gồm 3 điều kiện:

- Là công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên.

- Thừa nhận và tự nguyện thực hiện: Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, Tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên.

- Qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm.

1- Công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên

* Công dân Việt Nam: Là người có quốc tịch Việt nam (Điều 49 - Hiến pháp 1992)

- Tại sao phải là công dân VN? Vì: Chỉ có công dân VN mới được hưởng quyền và phải thực hiện các nghĩa vụ công dân theo Hiến pháp và pháp luật VN. Đây là đòi hỏi về địa vị pháp lý và nhân cách công dân của người xin vào Đảng.

* Từ 18 tuổi trở lên: Có đủ sức khoẻ, năng lực và trình độ cần thiết, có ý thức trách nhiệm về mọi suy nghĩ, hành động của mình.

(Trước: Tính cả năm sinh là một tuổi hoặc tính từ khi bước sang tuổi 18 vẫn được chấp nhận. Nay: Tròn 18 tuổi trở lên).

- Không quy định hạn trên vì công tác phát triển Đảng coi trọng yêu cầu về giác ngộ lý tưởng, phẩm chất chính trị, kiến thức và năng lực hành động. Tuy nhiên do tuổi đời bình quân của đảng viên hiện nay khá cao (45 tuổi, tỉ lệ đảng viên hưu trí: 23%) nên yêu cầu phải trẻ hoá đội ngũ, chú trọng phát triển Đảng trong thanh niên.

2- Thừa nhận và tự nguyện thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên; hoạt động trong một tổ chức cơ sở Đảng

Đây là điều kiện phân định rõ ranh giới giữa đảng viên với quần chúng tích cực ngoài Đảng.

a- Thừa nhận (nhận thức) - tự nguyện thực hiện (hành động thực tế, thước đo nhận thức tư tưởng, ý thức phấn đấu của người vào Đảng):

- Điều kiện này xuất phát từ vị trí, vai trò của người đảng viên: làm cách mạng, lãnh đạo và vận động nhân dân thực hiện đường lối chình trị của Đảng. Vì vậy, khác với công dân, đảng viên phải thừa nhận và thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên; hoạt động trong một tổ chức cơ sở Đảng.

- Yêu cầu của điều kiện này: người vào Đảng phải có quan điểm, lập trường chính trị đúng đắn, giác ngộ mục đích, lý tưởng của Đảng, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ đảng viên - phải có trình độ và sự tin cậy về chính trị.

* Cương lĩnh chính trị: "Nói lên tất cả những điều mà Đảng muốn đạt được và vì mục đích gì mà Đảng đấu tranh". Đó là cơ sở thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng, là ngọn cờ tập hợp, cổ vũ các lực lượng xã hội phấn đấu cho lý tưởng mà Đảng đã chỉ ra.

* Điều lệ Đảng: Văn bản xác định tôn chỉ, mục đích, hệ tư tưởng, các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động, cơ cấu tổ chức, bộ máy của Đảng, quy định trách nhiệm, nghĩa vụ, quyển hạn của đảng viên và của tổ chức các cấp của Đảng.

* Tiêu chuẩn, nhiệm vụ đảng viên: Là những chuẩn mực cơ bản về phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực. Là cơ sở phân định ranh giới giữa đảng viên và quần chúng tích cực ngoài Đảng, cơ sở để tiến hành mọi mặt công tác đảng viên, giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng.

Đảng viên phải có nghĩa vụ chấp hành trên cơ sở tự nguyện thừa nhận.

* Tiêu chuẩn đảng viên:

- Là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân:

+ Tiên phong:

- Về mặt thực tiễn: Là bộ phận kiên quyết nhất, luôn đi đầu, biết lôi kéo, cuốn hút quần chúng.

- Về mặt lý luận: Mác: Họ hơn hẳn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản.

+ Liên hệ:

- Ưu: Hiện nay, đảng viên chiếm 3,12% dân số (2,4 triệu): Vững vàng về chính trị, kiên định CN Mác-Lê nin và tư tưởng HCM; trong đổi mới đang hình thành một đội ngũ đảng viên có năng lực, phẩm chất, tư duy mới, bắt kịp yêu cầu của thời đại.

- Nhược: Một bộ phận hoang mang, dao động, thiếu tiền phong, gương mẫu.

- Suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng:

+ Đảng: đội tiên phong của giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với mục tiêu đấu tranh: giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động, xoá áp bức bóc lột, xây dựng CNCS mà giai đoạn đầu là CNXH.

+ Đảng viên: tế bào cấu thành nên tổ chức Đảng, nên phải phấn đấu cho mục đích đó. Sự nghiệp của giai cấp công nhân là lâu dài, bền bỉ - cần phải phấn đấu suốt đời.

- Đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân. Mác: "giai cấp công nhân chỉ có thể tự giải phóng mình đồng thời với giải phóng toàn thể nhân dân lao động".

Đảng không chỉ đại biểu cho quyền lợi của giai cấp công nhân mà còn đại biểu cho quyền lợi của nhân dân lao động. Lợi ích của giai cấp công nhân gắn bó máu thịt với lợi ích nhân dân lao động và ở Việt Nam: gắn bó máu thịt với lợi ích dân tộc. Do đó, lợi ích đảng viên gắn bó với lợi ích dân tộc, giai cấp và nhân dân lao động - " nước lên thuyền lên".

- Chấp hành nghiêm Cương lĩnh, Điều lệ, Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước:

+ Đảng viên phải gương mẫu, tiền phong để lôi cuốn quần chúng "Đảng viên đi trước, làng nước theo sau".

- Có lao động, không bóc lột, hoàn thành nhiệm vụ được giao:

Cách mạng vô sản là cách mạng triệt để, "cách mạng đến nơi": Thủ tiêu chế độ bóc lột.

Nay: trong thời kỳ quá độ: chấp nhận xã hội còn bóc lột nhưng về quan điểm, lập trường: phát triển kinh tế tư bản tư nhân không phải là mục đích mà là phương tiện. Đảng viên tham gia làm kinh tế phải vững lập trường, nhằm giải quyết việc làm, làm giàu cho xã hội.

- Đạo đức. lối sống lành mạnh, gắn bó với nhân dân: Sống, làm việc trong lòng nhân dân, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng.

- Phục tùng tổ chức, kỷ luật, giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng: Đây là quy luật làm cho Đảng thật sự thống nhất, có sức mạnh.

* 19 điều đảng viên không được làm: (tài liệu)

b- Hoạt động trong một tổ chức cơ sở Đảng:

Tại sao? Lê nin trong "Một bước tiến, hai bước lùi" đã đấu tranh kiên quyết cho tiêu chuẩn này, Người lý giải: "Nếu không sẽ làm cho Đảng rơi vào tình trạng mọi phần tử cơ hội, ăn không ngồi rồi, mọi giáo sư, học sinh trung học đều tự xưng mình là đảng viên cả".

- Mặt khác, phải ở trong một tổ chức thì Đảng mới có thể kiểm tra, theo dõi, giám sát được.

3- Qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm (điều kiện thực tiễn)

- Tại sao phải được nhân dân tín nhiệm?

+ Bản chất giai cấp công nhân của Đảng: gắn bó mật thiết với nhân dân, không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân.

+ Nhân dân cũng gắn bó máu thịt với Đảng, tích cực tham gia xây dựng Đảng.

Vì vậy, phải được nhân dân tín nhiệm thì mới có thể hoàn thành nhiệm vụ, sứ mệnh lịch sử của người đảng viên: vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

- Làm thế nào để được nhân dân tín nhiệm?

+ Gương mẫu:

- Chấp hành chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

- Đóng góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới.

- Nêu gương về đạo đức.

- Có năng lực sáng tạo.

+ Kiên trì rèn luyện không ngừng trong thực tiễn:

" Ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong"

" Lửa thử vàng, gian nan thử sức"

Thực tiễn là thước đo chính xác nhất đối với phẩm chất con người, là chỗ dựa tin cậy để nhân dân lựa chọn, giới thiệu.

Sự đánh giá trung thực, khách quan của nhân dân là cơ sở tin cậy để Đảng xem xét, kết nạp.

Đây là ba điều kiện cần thiết để Đảng xem xét kết nạp người vào Đảng.

III- PHẤN ĐẤU TRỞ THÀNH ĐẢNG VIÊN ĐCSVN

Căn cứ vào những điều kiện trên, cần Làm gì? Phấn đầu như thế nào?

1- Xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn

* Động cơ vào Đảng:

- Động cơ: Cái có tác dụng thúc đẩy người ta suy nghĩ, hành động.

- Động cơ vào Đảng: trả lời câu hỏi: Tại sao vào Đảng? Vào Đảng để làm gì?

+ Để hết lòng, hết sức phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, làm tròn nhiệm vụ của người đảng viên. Bác Hồ khuyên: "Nếu sợ không phục vụ được nhân dân, phục vụ được cách mạng thì đừng vào hay là khoan hãy vào Đảng".

Sứ mệnh của Đảng: Đoàn kết, lãnh đạo nhân dân đấu tranh cho độc lập dân tộc, CNXH.

+ Nay, trong công cuộc đổi mới: Đảng vẫn kiên định mục tiêu "Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Đây là cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc dưới nhiều hình thức.

- Thực hiện CNH-HĐH theo định hướng XHCN, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển.

- Thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức bất công.

- Đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những tư tưởng, hành động sai trái, tiêu cực.

- Đấu tranh làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch.

- Bảo vệ độc lập dân tộc.

Bác Hồ: "Chỉ tiếc là không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa".

* Làm thế nào để xây dựng động cơ đúng đắn khi vào Đảng?

Động cơ đúng đắn là điều có ý nghĩa quyết định vì: Đảng chỉ kết nạp những người giác ngộ về mục đích, lý tưởng cách mạng. Không thu nhận những người mang động cơ lệch lạc, thiếu trong sáng, nhất là không để những kẻ cơ hội lọt vào Đảng.

- Cần hiểu bản chất, mục đích của Đảng: Độc lập dân tộc ....văn minh"

- Thể hiện nhận thức bằng việc làm cụ thể: hoàn thành nhiệm vụ được giao, thường xuyên trau dồi tư cách đạo đức, đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, vụ lợi.

- Mọi lúc, mọi nơi, cả trong lời nói việc làm đều nghĩ đến làm lợi cho Đảng, cho dân.

* Liên hệ:

- Trước ma lực của đồng tiền và sự chống phá của các thế lực thù địch, biết bao người vẫn nêu cao lý tưởng sống, chiến đấu vì hạnh phúc của nhân dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân. Chúng ta tự hào vì trong bất cứ tình huống nào Đảng ta vẫn không ngừng trưởng thành, lớn mạnh. (Trước, trong và sau khi giành chính quyền, lãnh đạo hai cuộc kháng chiến và công cuộc đổi mới; khi Liên Xô -Đông Âu sụp đổ, VN vẫn kiêu hãnh ngẩng cao đầu; những nhân tố mới trong đổi mới...)

- Tồn tại:

Một bộ phận những người vào Đảng với động cơ thiếu trong sáng:

Những kẻ cơ hội vào Đảng vì lợi ích cá nhân: để thăng quan tiến chức, tìm kiếm danh vọng, địa vị, thu hái lợi lộc.

Những kẻ phản động vào Đảng để "leo cao, chui sâu" phá hoại Đảng từ bên trong.

2- Rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng

* Bản lĩnh chính trị: Là tính kiên điịnh mục tiêu, lý tưởng đã lựa chọn (trong bất kỳ tình huống nào cũng không dao động, giảm sút niềm tin và ý chí chiến đấu).

- Khí tiết của người cách mạng: Giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục. Độc lập, sáng tạo, không thụ động, trì trệ.

* Bản lĩnh chính trị thể hiện:

- Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.

- Lấy CN Mác - Lê nin, tư tưởng HCM làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động.

- ĐCSVN là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam (không chấp nhận đa nguyên, đa Đảng).

- Nhà nước là của dân, do dân, vì dân.

- Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng.

- Độc lập, sáng tạo, không thụ động, trì trệ.

* Muốn có bản lĩnh chính trị:

- Phải thường xuyên rèn luyện trong thực tế hoạt động.

- Đứng vững trên lập trường, quan điểm của Đảng, giữ vững niềm tin vào con đường mà Đảng, Bác Hồ đã lựa chọn.

- Phấn đấu góp phần xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

- Trong khó khăn thử thách không nao núng tinh thần, không mất phương hướng về chính trị.

- Tỏ thái độ, chính kiến rõ ràng, không mập mờ, "ba phải".

* Đạo đức cách mạng: Nói tóm tắt thì đạo đức cách mạng là: "Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất".

Phẩm chất đạo đức theo tư tưởng HCM:

- Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.

- Yêu thương con người, sống có tình, có nghĩa: Trong di chúc, 3 năm (1965 - 1968 ) người chỉ thêm có 1 dòng: " Phải có tình đồng chí yêu thương lẫn nhau".

- "Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư": Theo HCM đây là "tứ đức" của con người.

+ Cần: siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai.

+ Kiệm: Không xa xỉ hoang phí nhưng không bủn xỉn.

+ Liêm: Là trong sạch, không tham lam.

+ Chính: Không tà, ngay thẳng, thẳng thắn, đứng đắn.

"Trời có 4 mùa: Xuân - Hạ - Thu - Đông

Đất có 4 phương: Đông - Tây - Nam - Bắc

Người có 4 đức: Cần - Kiệm - Liêm - Chính

Thiếu một mùa thì không thành trời

Thiếu một phương thì không thành đất

Thiếu một đức thì không thành người"

+ Chí công vô tư: ham làm những việc ích nước, lợi dân, không ham địa vị, công danh, vinh hoa phú quý.

- Có tinh thần Quốc tế cao cả, trong sáng.

* Rèn luyện đạo đức cách mạng:

- Tại sao phải rèn luyện đạo đức cách mạng?

+ Trong lãnh đạo cách mạng, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi mà quan hệ lợi ích len lỏi vào mọi ngõ ngách của đời sống xã hội thì vấn đề này phải đặt lên hàng đầu. Nếu không sẽ mất cán bộ, sự thoái hoá biến chất của đảng viên làm xói mòn lòng tin của nhân dân với Đảng.

+ Đạo đức cách mạng là "cái gốc" của người cách mạng: "Cũng như sông có nguồn thì mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân".

"Không phải chúng ta cứ dán lên trán hai chữ Cộng sản mà dân yêu, dân quý, quần chúng chỉ yêu quý những người có tư cách đạo đức".

- Làm gì ?

+ Đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết: "Mình vì mọi người, mọi người vì mình", đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân.

+ Bền bỉ rèn luyện hàng ngày: "Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống, nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong".

Việc gì có lợi cho cách mạng, cho nhân dân thì khó mấy, kể cả hy sinh cũng làm. Việc gì có hại cho cách mạng, cho nhân dân thì nhỏ mấy cũng hết sức tránh.

Nay: đạo đức cách mạng là tự nguyện tự giác góp sức làm giàu cho đất nước, không tính toán thiệt hơn với Đảng, chống: cơ hội, thực dụng, coi đồng tiền là tất cả, lợi dụng sơ hở của cơ chế, chính sách để tham nhũng, làm giàu phi pháp...

Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là phủ nhận vai trò, lợi ích cá nhân mà tôn trọng những lợi ích chính đáng .

3- Nâng cao năng lực hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao

" Hoàn thành tốt" thể hiện vai trò gương mẫu, tiên phong của đảng viên.

- Để trở thành đảng viên: được giao nhiệm vụ gì phải hoàn thành tốt, có chất lượng, hiệu quả.

- Để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao:

+ Có nhiệt tình cách mạng (tinh thần hăng hái, quyết tâm cao).

+ Có đủ năng lực cần thiết, trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Muốn vậy phải tích cực học tập, nâng cao học vấn, trình độ am hiểu KHCN, tránh tụt hậu về trí tuệ.

+ Đồng thời với nâng cao trí tuệ phải nâng cao năng lực thực tiễn: Ứng dụng kiến thức vào thực tế công tác, năng động sáng tạo.

Tóm lại: phải không ngừng học tập, học đi đôi với hành.

- Liên hệ : + Thực tế nhiều mặt của ta còn hạn chế, tình trạng "Học giả, chạy theo bằng cấp..." còn tồn tại phổ biến, kỹ năng ứng dụng công nghệ mới còn hạn chế.

+ Không có kiến thức, không có năng lực mọi mặt, nhiều chủ trương của Đảng không đi được vào cuộc sống.

+ Đảng không thể châm chước, hạ thấp yêu cầu kết nạp những người lười học, học cốt lấy bằng, làm việc cầm chừng không thể hiện được tính tiên phong.

4- Gắn bó với tập thể, với nhân dân, tích cực tham gia hoạt động đoàn thể, công tác xã hội.

- Gắn bó máu thịt với nhân dân là truyền thống, là bản chất của Đảng.

- Chỉ có hoạt động trong công tác đoàn thể mới có điều kiện đến với Đảng.

- Công tác xã hội, đoàn thể là môi trường để rèn luyện phấn đấu.

* Yêu cầu:

+ Gắn bó với đồng nghiệp, bạn bè nơi công tác, bà con nơi cư trú (quý trọng, thông cảm, quan tâm giúp đỡ lẫn nhau).

+ Hoà mình với quần chúng nhưng không hùa theo những suy nghĩ, việc làm sai. Đề cao trách nhiệm vận động mọi người đoàn kết thực hiện tốt những mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng.

+ Nhiệt tình tham gia sinh hoạt và các hoạt động đoàn thể.

+ Sẵn sàng, tự nguyện tham gia các hoạt động xã hội: Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây...

Cơ sở và tiền đề để đến với Đảng là cơ hội tốt để tiến bộ trưởng thành về chính trị, xây dựng tín nhiệm với nhân dân để phấn đấu trở thành đảng viên.

5- Tích cực tham gia xây dựng Đảng ở cơ sở

Không chỉ thừa nhận, tôn trọng và chấp hành mọi sự lãnh đạo của Đảng mà còn phải tích cực tham gia xây dựng Đảng. Đó là trách nhiệm của chúng ta.

- Mỗi chúng ta đều gắn bó với một tổ chức. Do đó, xây dựng Đảng trước hết là xây dựng Đảng ở cơ sở, đơn vị mình. Điều đó thể hiện ý thức chính trị vì: tổ chức Đảng vững mạnh là nhân tố đảm bảo cho cơ sở không ngừng đổi mới và phát triển theo định hướng XHCN.

* Làm gì?

- Bằng sự hiểu biết và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của mình tham gia đóng góp ý kiến để tổ chức cơ sở Đảng đề ra nghiên cứu, chủ trương sát đúng; đưa chủ trương, chính sách của Đảng vào thực tiễn; phát triển nâng hiệu quả sản xuất, kinh doanh, công tác, nâng cao đời sống nhân dân.

- Nêu cao tinh thần chủ động sáng tạo, nỗ lực phấn đấu đưa Nghị quyết của Đảng vào thực tiễn: Nhất là về phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân, đẩy lùi những biểu hiện tiêu cực.

Kịp thời phản ánh những vấn đề nảy sinh, đề xuất những giải pháp giải quyết hoặc điều chỉnh bổ sung.

- Thường xuyên góp ý, phê bình, thẳng thắn đấu tranh, không lảng tránh, bao che, giám sát cán bộ.

Xác lập động cơ vào Đảng đúng đắn từ sự giác ngộ sâu sắc, mục đích lý tưởng của Đảng, mỗi chúng ta cần tự giác, nỗ lực phấn đấu trong đấu tranh thực tiễn sẽ trở thành đảng viên, người chiến sĩ tiên phong trong đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam.

Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam

Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc triệu tập các đại biểu cộng sản Việt Nam ngày 3 tháng 2 năm 1930 tại Hồng Kông, trên cơ sở thống nhất ba tổ chức cộng sản tại Đông Dương

• Đông Dương Cộng sản Đảng

• An Nam Cộng sản Đảng

• Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội

Thành viên từ một nhóm thứ ba tên là Đông Dương Cộng sản Liên đoàn không kịp có mặt). Hội nghị hợp nhất này diễn ra tại căn nhà của một công nhân ở bán đảo Cửu Long (Kowloon) thuộc Hồng Kông từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 2 năm 1930, đúng vào dịp Tết năm Canh Ngọ. Tham dự Hội nghị có 2 đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng (Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh), 2 đại biểu An Nam Cộng sản Đảng (Nguyên Thiệu và Châu Vǎn Liêm) và 2 đại biểu ở nước ngoài (có Nguyễn Ái Quốc, đại biểu của Quốc tế Cộng sản). Hội nghị quyết định thành lập một tổ chức cộng sản duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua một số văn kiện quan trọng như: Chính cương vắn tắt, Sách lược, Điều lệ vắn tắt của Đảng, Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng. Ngày 24 tháng 2 năm 1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn chính thức gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương, họp tại Hồng Kông tháng 10 năm 1930, tên của đảng này đổi thành Đảng Cộng sản Đông Dương theo yêu cầu của Quốc tế thứ ba (Quốc tế Cộng sản) và Trần Phú được bầu làm Tổng Bí thư đầu tiên.

Vừa ra đời, Đảng đã lãnh đạo phong trào nổi dậy 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô-viết Nghệ Tĩnh. Phong trào này bị thất bại và Đảng Cộng sản Đông Dương bị tổn thất nặng nề vì khủng bố trắng của Pháp.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ I được bí mật tổ chức tại Ma Cao vào năm 1935 nhằm củng cố lại tổ chức đảng, thông qua các điều lệ, bầu Ban chấp hành Trung ương gồm 13 ủy viên.

Đồng thời, một đại hội của Cộng sản Quốc tế thứ ba tại Moskva đã thông qua chính sách dùng mặt trận dân tộc chống phát xít và chỉ đạo những phong trào cộng sản trên thế giới hợp tác với những lực lượng chống phát xít bất kể đường lối của những lực lượng này có theo chủ nghĩa xã hội hay không để bảo vệ hòa bình chứ chưa đặt nhiệm vụ trước mắt là lật đổ chủ nghĩa tư bản. Việc này đòi hỏi Đảng Cộng sản Đông Dương phải xem các chính đảng dân tộc tại Đông Dương là đồng minh. Đảng đã tạm bỏ khẩu hiệu "đánh đổ đế quốc Pháp" và "tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày" mà lập Mặt trận Nhân dân Phản đế Đông Dương.

Khi Thế chiến thứ hai bùng nổ, chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương lại đàn áp mạnh tay, Đảng đã chuyển hướng, coi giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu và lập ra Mặt trận Việt Minh. Thông qua mặt trận này, Đảng đã lãnh đạo nhân dân giành chính quyền tại Việt Nam, được biết đến với tên gọi Cách mạng tháng Tám.

Ngày 11 tháng 11 năm 1945, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán để giấu sự liên hệ cộng sản, núp dưới tên gọi Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương và những hoạt động của đảng này được trộn chung với những hoạt động của Việt Minh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu tại Đại hội III.Đảng này được lập lại với tên gọi Đảng Lao Động Việt Nam vào năm 1951 tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II tại Tuyên Quang. Đại hội này được diễn ra trong vùng lãnh thổ miền bắc Việt Nam do Việt Minh kiểm soát trong lúc diễn ra Chiến tranh Đông Dương lần thứ I. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III được tổ chức tại Hà Nội vào năm 1960 chính thức hoá công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa tại miền Bắc, tức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc đó và đồng thời tiến hành cách mạng tại miền Nam. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, được tổ chức vào năm 1976 sau khi chấm dứt Chiến tranh Việt Nam, đảng này được đổi tên lại thành Đảng Cộng sản Việt Nam.

(nguồn thuvienkhoahoc.com)

Rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng - Một nội dung quan trọng trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.

Khi chuẩn bị những điều kiện để thành lập Đảng, năm 1927, trong tác phẩm Đường cách mệnh, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đề lên trang đầu Tư cách một người cách mệnh, và nhấn mạnh sự: cần kiệm, cả quyết sửa lỗi mình, vị công vong tư, không hiếu danh, không kiêu ngạo, nói thì phải làm, giữ chủ nghĩa cho vững, ít lòng tham muốn về vật chất... Trải qua 30 năm Đảng lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng ta là đạo đức, là văn minh. Trước khi đi xa, Người yêu cầu Đảng phải thường xuyên nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân.

Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta luôn nhấn mạnh nhiệm vụ giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Về nâng cao chất lượng đảng viên, Nghị quyết Đại hội X của Đảng yêu cầu: "lấy đạo đức làm gốc, đồng thời bồi dưỡng về kiến thức, trí tuệ, năng lực để làm tròn nhiệm vụ người lãnh đạo, người đi tiên phong trong các lĩnh vực công tác được giao"(1). Như vậy, giáo dục, rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng hàng đầu trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa đòi hỏi xây dựng hoàn chỉnh cả cơ sở hạ tầng quan hệ kinh tế, lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng chính trị, pháp luật, tư tưởng, đạo đức. Nhất thiết phải hình thành và phát triển đạo đức mới, đạo đức của giai cấp vô sản cách mạng. Đạo đức cộng sản góp phần vào sự nghiệp sáng tạo chế độ mới, chế độ xã hội chủ nghĩa. V.I.Lê-nin cho rằng: "Đạo đức đó là những gì góp phần phá hủy xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới..."(2).

Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 3-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, chủ nghĩa thực dân "đã dùng mọi thủ đoạn hòng hủ hóa dân tộc chúng ta bằng những thói xấu, lười biếng, gian giảo, tham ô và những thói xấu khác. Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập"(3). Người cũng đã sớm nhận thấy những biểu hiện thoái hóa, biến chất trong một số đảng viên, cán bộ nắm bộ máy chính quyền. Trong thư gửi ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, ngày 17-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ những lầm lỗi chính là: trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo.

Đảng ta là một đảng cách mạng, một đảng vì dân, vì nước. Mọi việc làm tốt hay xấu của đảng viên đều ảnh hưởng đến sự nghiệp cách mạng của giai cấp, của dân tộc, cuộc sống của nhân dân. "Đảng viên và cán bộ cũng là người. Ai cũng có tính tốt và tính xấu. Song đã hiểu biết, đã tình nguyện vào một Đảng vì dân, vì nước, đã là một người cách mạng thì phải cố gắng phát triển những tính tốt và sửa bỏ những tính xấu. Vì tính xấu của một người thường chỉ có hại cho người đó; còn tính xấu của một đảng viên, một cán bộ, sẽ có hại đến Đảng, có hại đến nhân dân"(4).

Năm 1947, trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập nội dung đạo đức cách mạng. Người nhấn mạnh năm điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng bào. Nghĩa là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy, không có việc gì phải giấu Đảng. Trí là vì không có việc tư túi nó làm mù quáng, cho nên đầu óc trong sạch, sáng suốt. Dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan làm. Thấy khuyết điểm có gan sửa chữa. Liêm là không tham địa vị, không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Hồ Chí Minh khẳng định "Đó là đạo đức cách mạng. Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người". Người nhấn mạnh: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không thể lãnh đạo được nhân dân"(5).

Cùng với việc giáo dục, nâng cao đạo đức cách mạng cho đảng viên, cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở mọi người tránh xa mọi thói hư tật xấu. Người cho rằng, những người có thói hư tật xấu là do chủ nghĩa cá nhân. "Chủ nghĩa cá nhân là như một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm"(6). Do chủ nghĩa cá nhân mà mắc vào bệnh: tham lam, lười biếng, kiêu ngạo, hiếu danh, thiếu kỷ luật, óc hẹp hòi, óc địa phương, óc lãnh tụ và những bệnh khác như "hữu danh vô thực", kéo bè kéo cánh, bệnh cận thị không trông xa thấy rộng, bệnh "cá nhân", v.v...

Trước lúc đi xa, trong bài Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân đăng báo Nhân Dân ngày 3-2-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở trong Đảng ta bên cạnh rất nhiều đảng viên tốt vẫn "còn có một số ít cán bộ, đảng viên mà đạo đức, phẩm chất còn thấp kém". Họ mang nặng chủ nghĩa cá nhân. "Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành. Họ tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu mệnh lệnh. Họ không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến bộ". "Cũng do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân"(7).

Ở mỗi thời kỳ đấu tranh cách mạng, những nội dung cơ bản đó lại được cụ thể hóa sát hợp với yêu cầu do nhiệm vụ chính trị đặt ra. Vấn đề đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên không chỉ là vấn đề riêng của mỗi cá nhân mà ngày càng trở thành nội dung quan trọng trong xây dựng Đảng, nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền.

Công cuộc đổi mới toàn diện và sâu sắc do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ 1986 đặt ra những yêu cầu rất cao về năng lực lãnh đạo và phẩm chất đạo đức của mỗi tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên. Phải khẳng định rằng, đa số cán bộ, đảng viên của Đảng hoạt động trong hệ thống chính trị và mọi lĩnh vực đã đáp ứng nhiệm vụ của sự nghiệp đổi mới. Đó là một trong những nguồn gốc làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới.

Tuy nhiên, Đảng ta cũng sớm nhận thấy rằng, trong điều kiện cơ chế thị trường, kinh tế nhiều thành phần, mở cửa với bên ngoài, cán bộ, đảng viên hằng ngày, hằng giờ chịu sự tác động của nhiều nhân tố phức tạp, kể cả sự chống phá của các thế lực thù địch, vấn đề giữ vững bản chất giai cấp công nhân và phẩm chất, đạo đức cộng sản đứng trước những thách thức mới. Đứng trước bước chuyển này Đảng cũng chưa chú ý đúng mức vấn đề giáo dục, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức đối với cán bộ, đảng viên. "Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng bản thân, phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí, kém ý thức tổ chức kỷ luật, sa đọa về đạo đức và lối sống. Một số thoái hóa về chính trị, tuy rất ít nhưng hoạt động của họ gây hậu quả hết sức xấu"(8). Đại hội IX của Đảng (4-2001) cũng thẳng thắn chỉ ra rằng: "Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng. Nạn tham nhũng kéo dài trong bộ máy của hệ thống chính trị và trong nhiều tổ chức kinh tế là một nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta. Tình trạng lãng phí, quan liêu còn khá phổ biến"(9). Nghị quyết Đại hội X của Đảng đánh giá: Cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa đạt yêu cầu và nêu rõ: "Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng"(10).

Tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên trong những năm đổi mới đã được các Đại hội Đảng và Hội nghị Trung ương nhìn nhận một cách thẳng thắn, nghiêm túc. Có thể quy lại ba nguyên nhân chính của tình trạng đó. Một là, do tác động của nhiều nhân tố phức tạp trong điều kiện của nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế thị trường, mở cửa với bên ngoài. Hai là, công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên của các tổ chức đảng chưa được chú ý đúng mức, thậm chí còn buông lỏng. Ba là, không ít cán bộ, đảng viên mang nặng chủ nghĩa cá nhân, không chịu tu dưỡng, rèn luyện về đạo đức, lối sống.

Để chặn đứng đà suy thoái về đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, một mặt, phải chủ động phòng ngừa những tác động tiêu cực từ bên ngoài; mặt khác, chủ yếu và quan trọng và phải tăng cường công tác giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên và mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự nghiêm túc tự rèn luyện, tự mình nâng cao đạo đức cách mạng.

Đạo đức cách mạng chứa đựng nội dung lớn, căn bản và hoàn toàn có thể thực hiện tốt nếu mỗi người chú trọng tu dưỡng rèn luyện. Tuân theo những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng ta trong công cuộc đổi mới, có thể hiểu đạo đức cách mạng hiện nay trên mấy điểm chính sau đây:

- Tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu hết sức mình cho sự thắng lợi, sự phát triển của công cuộc đổi mới vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

- Hết lòng, hết sức phục vụ sự nghiệp của Đảng, của Tổ quốc và nhân dân, trung với nước, hiếu với dân, đặt lợi ích của cách mạng, của đất nước và nhân dân lên trên lợi ích của cá nhân, theo nguyên tắc "Dĩ công vị thương".

- Thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Không tham nhũng, xâm phạm tài sản của Nhà nước và nhân dân, không lãng phí. Chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, cương lĩnh, kỷ luật của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.

- Ra sức học tập, rèn luyện không ngừng nâng cao trình độ, năng lực công tác, giữ gìn lối sống trong sạch, lành mạnh. Đề cao tự phê bình và phê bình nhằm góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị vững mạnh.

- Gương mẫu trong mọi việc, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, đoàn kết, thân ái, nêu cao tinh thần thương yêu đồng chí, thương yêu nhân dân.

Để không ngừng nâng cao đạo đức cách mạng trong cán bộ, đảng viên, có thể và cần phải tập trung thực hiện một số giải pháp chủ yếu:

Thứ nhất, phải coi trọng nhiệm vụ giáo dục cho cán bộ, đảng viên về đạo đức, phẩm chất, lối sống. Nếu trong xã hội, trong hệ thống nhà trường phổ thông và đại học phải coi trọng giáo dục luân lý, đạo đức cho mọi tầng lớp, cho thế hệ trẻ, thì trong Đảng và bộ máy hệ thống chính trị phải đặc biệt chú trọng giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Trong hệ thống trường đào tạo cán bộ của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân nhất thiết phải có môn học về đạo đức cách mạng. Đồng thời, cần tăng cường giáo dục cán bộ, đảng viên qua sinh hoạt ở tổ chức đảng. Trong sinh hoạt chi bộ và cấp ủy không chỉ có phần đánh giá công việc, mà còn phải kiểm điểm, đánh giá về đạo đức cán bộ. "Các tổ chức đảng phải thường xuyên giáo dục, rèn luyện, quản lý đảng viên, kể cả đảng viên là cán bộ cao cấp"(11). Nghị quyết Trung ương sáu (lần 2) khóa VIII, nhấn mạnh: Các tổ chức đảng phải thường xuyên giáo dục, quản lý, kiểm tra cán bộ, đảng viên về đạo đức, lối sống. Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh việc tăng cường công tác giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Nghị quyết Đại hội X của Đảng cũng nêu rõ, cần làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, quản lý và giám sát đảng viên.

Thứ hai , tăng cường vai trò, hiệu lực của kỷ luật Đảng và pháp luật của Nhà nước, tập trung chỉ đạo đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí có hiệu quả. Tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là một vấn nạn gây nhức nhối trong xã hội hiện nay. Những tệ nạn đó vừa vi phạm luật pháp của Nhà nước, vừa là những hành vi vô đạo đức. Nhà nước đã từng ban hành pháp lệnh và phát triển thành luật phòng ngừa và chống tham nhũng, lập ra các cơ quan chống tham nhũng. Nghị quyết Trung ương sáu (lần 2) khóa VIII xác định rõ: "Các cấp ủy đảng và người đứng đầu các cấp, các ngành từ trung ương đến cơ sở phải chịu trách nhiệm chống tham nhũng ở nơi mình phụ trách. Bộ Chính trị phân công một số ủy viên Bộ Chính trị, các cấp ủy phân công ủy viên Ban Thường vụ trực tiếp chỉ đạo chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Khi xảy ra tham nhũng, lãng phí và các hiện tượng tiêu cực ở địa phương, ngành, cơ quan, đơn vị mình phụ trách thì tùy theo mức độ và tính chất vi phạm của vụ việc mà xem xét hình thức kỷ luật đối với cấp ủy và người đứng đầu về chế độ trách nhiệm". "Cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp cùng với các cơ quan thanh tra, điều tra, kiểm sát, tòa án phải nắm chắc tình hình và khẩn trương kiểm tra, kết luận, xử lý kịp thời đúng pháp luật những đơn tố cáo về đạo đức, lối sống tiêu cực của cấp ủy viên và người đứng đầu các cơ quan, trước hết đối với Ủy viên Trung ương, trưởng ban, bộ trưởng, bí thư cấp ủy, chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị"(12). Đó là những biện pháp rất cần thiết và mạnh mẽ cần được thực hiện triệt để.

Thứ ba, cần tăng cường tuyên truyền, học tập những tấm gương về đạo đức cách mạng, xây dựng, bồi đắp cái tốt, cái đúng trong hành vi đạo đức, biểu dương người tốt, việc tốt, lên án cái xấu, cái ác một cách cụ thể. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ nói nhiều về đạo đức của người cách mạng mà bản thân cuộc đời và sự nghiệp của Người là tấm gương đạo đức cách mạng trong sáng và cao đẹp. Cần phải xây dựng kế hoạch tuyên truyền, học tập đạo đức Hồ Chí Minh. Cần phải nhận thức rằng, đạo đức của Bác không phải là cái gì cao siêu, xa vời, chỉ để chiêm ngưỡng, ca ngợi, mà đạo đức đó rất thiết thực, cụ thể, mọi người đều có thể học tập và làm theo. Nhiều tấm gương trong sáng về đạo đức cách mạng của các đồng chí lãnh đạo các chiến sĩ cách mạng qua các thời kỳ cần được tuyên truyền học tập. Tấm gương Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc và biết bao đồng chí khác là biểu hiện chủ nghĩa anh hùng cách mạng và đạo đức cao đẹp không chỉ thế hệ trẻ mà mọi cán bộ, đảng viên cần phải đọc, suy ngẫm và hành động cho xứng đáng. Trong công cuộc đổi mới cũng có rất nhiều cán bộ, đảng viên tiêu biểu, nêu cao đạo đức, thật sự vì nước, vì dân. Trong sinh hoạt đảng, đoàn thể, cơ quan, trường học, đơn vị kinh tế, tổ chức xã hội cần nêu gương và học tập những tấm gương tiêu biểu đó. Cần có nhiều cuốn sách viết về những "người tốt, việc tốt". Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh và cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng rất quan tâm đến sách "người tốt, việc tốt". Các phương tiện thông tin đại chúng cũng cần tăng cường hơn chuyên mục về những tấm gương đạo đức cách mạng trong quá khứ và hiện tại. Phải tập trung động viên, cổ vũ cái tốt, cái đúng, cái cao thượng để đẩy lùi cái xấu, cái sai, cái thấp hèn.

Dân tộc Việt Nam là dân tộc có truyền thống văn hiến. Ngoài yếu tố về văn hóa, học thức, trí tuệ, biết sống đẹp, ưa chuộng và tôn vinh cái đẹp, văn hiến còn hàm chứa giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Cũng cần tổng kết làm rõ những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc để quảng bá trong mọi tầng lớp xã hội, làm cho xã hội ngày càng trong sạch, lành mạnh. Bác Hồ căn dặn: phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải thấm nhuần đạo đức cách mạng. Đạo đức trong xã hội và đạo đức cách mạng trong Đảng có ảnh hưởng trực tiếp lẫn nhau. Giữ gìn đạo đức tốt trong Đảng có ảnh hưởng trực tiếp tới đạo đức trong xã hội và ngược lại. Mục tiêu phấn đấu của Đảng và nhân dân ta là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng văn minh, xã hội văn minh nghĩa là giữ gìn, bồi dưỡng đạo đức thật tốt đẹp. Một công dân, một cán bộ, đảng viên có văn hóa nghĩa là phải có đạo đức cao đẹp. Vì thế, việc rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân là một nội dung quan trọng trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, cũng là nội dung quan trọng trong cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" mà toàn Đảng, toàn dân ta đang tiến hành.

Sáng , 8-1-2009, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh đã tổ chức Hội thảo "Tổng kết Chỉ thị 12-CT/TW trong công tác nghiên cứu, giảng dạy vấn đề nhân quyền". Nhiều nhà khoa học của các cơ quan nghiên cứu, một số cơ quan thông tấn báo chí đã tham dự Hội thảo.

Các báo cáo tham luận tại Hội thảo đều khẳng định, Chỉ thị 12/TW về "Vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta" đã bước đầu nêu lên một số quan điểm cơ bản về vấn đề nhân quyền và chủ trương của Đảng trong việc bảo vệ và đấu tranh trên lĩnh vực nhân quyền ở nước ta hiện nay. Các quan điểm được nêu trong Chỉ thị nhìn chung phù hợp với cách tiếp cận nhân quyền của các nước đang phát triển, giúp định hướng trong hoạt động chung của tất cả các cấp, các ngành, các địa phương, cả trong hoạt động đối nội và đối ngoại.

Một số nội dung chính được các đại biểu tập trung thảo luận là:

1. Những kết quả đã đạt được trong nghiên cứu quyền con người ở Việt Nam

Một là, đã làm rõ tính tất yếu phải bảo đảm quyền con người ở nước ta. Các công trình nghiên cứu ở mức độ nhất định, đã làm sáng tỏ việc bảo đảm nhân quyền ở Việt Nam xuất phát từ mục tiêu của công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từ bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa.

Hai là, làm rõ nội dung quyền con người ở nước ta. Các công trình nghiên cứu ở những mức độ nhất định, đã làm rõ các quyền: Quyền con người trước hết là quyền công dân của một nước độc lập, tự do; Quyền về chính trị là quyền được làm chủ xã hội, tham gia quản lý nhà nước, tự do đi bầu cử và không đi bầu cử, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng...; quyền dân sự là quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp, quyền có của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và các tài sản khác...; quyền làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước, đối với gia đình và cộng đồng; quyền kinh tế là quyền của người có vốn (tức quyền của người chủ), được tự do kinh doanh trong lĩnh vực, ngành nghề mà pháp luật không cấm, tự do khởi nghiệp, thuê người làm công, tổ chức và quản lý các hoạt động kinh tế thu lợi nhuận, là quyền của người lao động được nhận tiền lương, được hưởng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo mức đóng góp của mình; quyền văn hoá, là quyền được học tập để nâng cao kiến thức...; quyền xã hội, quyền về an sinh xã hội, quyền được sống, được mưu cầu hạnh phúc, quyền được bảo đảm mức sống tối thiểu của con người theo khả năng của đất nước, của dân tộc, của gia đình, quyền được sống trong môi trường xanh, sạch, đẹp; quyền bà mẹ, trẻ em được chăm sóc, quyền con người được giúp đỡ khi gặp khó khăn, khi gặp tai nạn, khi tuổi già...

Ba là, đã làm rõ quyền của mỗi người phải gắn với quyền của cộng đồng và quyền của toàn dân tộc, quyền của mỗi người gắn với chủ quyền quốc gia, với nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bốn là, đã làm rõ quyền của con người phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, văn hoá và truyền thống văn hoá dân tộc.

Năm là, công tác nghiên cứu đã cung cấp những cơ sở lý luận để thể chế hoá quyền con người ngày càng đầy đủ hơn. Từ khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, đặc biệt là từ khi ban hành Hiến pháp mới vào năm 1992, Nhà nước đã ban hành hơn 13.000 văn bản pháp luật các loại, trong đó có khoảng 60 bộ luật và luật, trên 120 pháp lệnh, gần 850 văn bản của Chính phủ và trên 3000 văn bản của các bộ, ngành.

Sáu là, công tác nghiên cứu đã cung cấp những cơ sở lý luận - thực tiễn cho cuộc đấu tranh nhằm bảo vệ và bảo đảm thực hiện quyền con người ở Việt Nam; thiết lập, mở rộng quan hệ hợp tác với các tổ chức quốc tế trên lĩnh vực nghiên cứu khoa học và giáo dục về quyền con người.

2. Những thành tựu đạt được trong công tác giáo dục quyền con người

Trên cơ sở nắm vững các quan điểm, chủ trương cơ bản của Đảng, Nhà nước ta về vấn đề quyền con người, công tác giáo dục đã từng bước xây dựng chương trình, nội dung giáo trình giảng dạy và tuyên truyền, giáo dục phù hợp đối với từng loại đối tượng khác nhau, như: cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, công nhân, nông dân, trí thức, văn nghệ sĩ, đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào vùng tôn giáo v.v..

3. Những kinh nghiệm rút ra để thực hiện tốt hơn nữa việc thực hiện quyền con người ở Việt Nam

Thứ nhất, phải tiếp tục quán triệt quan điểm, chủ trương cơ bản của Đảng, Nhà nước ta về vấn đề nhân quyền theo tinh thần Chỉ thị 12-CT/TW và Nghị quyết 41-CT/TTg về vấn đề nhân quyền.

Thứ hai, trong công tác nghiên cứu, giáo dục về nhân quyền cần có sự phối hợp về tổ chức, quản lý để có thể triển khai một cách ổn định, hệ thống và bài bản, đặc biệt là trong việc bồi dưỡng cho những người trực tiếp làm công tác này có tư tưởng chính trị vững vàng, có chuyên môn tốt và am hiểu vấn đề nhân quyền trong nước và quốc tế; chỉ nhờ đó, họ mới có thể chủ động tiến hành ***g ghép vấn đề bảo đảm thực hiện nhân quyền với nội dung các chuyên đề giảng dạy,tuyêntuyền,giáo dục của họ.

Thứ ba, phải kết hợp đồng bộ công tác nghiên cứu, giáo dục về nhân quyền với công tác nghiên cứu, giáo dục về dân chủ, dân tộc, tôn giáo, giới, pháp luật.Vì đây là những vấn đề nhạy cảm chính trị, đặc biệt là mang tính nhân đạo, tính pháp quyền cao.

Thứ tư, phải chủ động, tích cực tham gia vào các hoạt động hợp tác quốc tế để có thêm các nguồn lực cho công tác nghiên cứu, giáo dục về nhân quyền, và để đối thoại về nhân quyền nhằm giúp các bạn quốc tế hiểu rõ hơn về thành tựu mà Việt Nam đã đạt được trong việc bảo vệ quyền con người./.

Tư duy mới về giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản

Tư duy mới về giai cấp công nhân chính là làm rõ khả năng và yêu cầu của giai cấp công nhân hiện đại; đồng thời, khẳng định tính trí tuệ, tính hiện đại của chính đảng giai cấp công nhân. Trên cơ sở nhận thức đúng bản chất và xu thế phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam ngày nay, Đảng có chủ trương thích hợp để tiếp tục nâng cao chất lượng giai cấp công nhân, bảo đảm cho họ xứng đáng với vai trò lãnh đạo trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội hiện đại.

1 - Vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử vào nghiên cứu sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản, C. Mác đã phát hiện ra vai trò lịch sử của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh cách mạng xóa bỏ chế độ tư bản và xây dựng chế độ xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Trong cuộc đấu tranh cách mạng vì sứ mệnh lịch sử đó, giai cấp công nhân chuyển từ giai cấp "tự mình" thành giai cấp "vì mình", phong trào công nhân phát triển từ tự phát đến tự giác khi tổ chức ra đội tiên phong của mình - các Đảng Cộng sản (có thể với những tên gọi khác nhau ở những nước khác nhau, đôi khi ngay trong một nước).

Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười Nga đầu thế kỷ XX đã mở ra thời đại quá độ của xã hội loài người từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Tiếp đó là sự hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới vào giữa thế kỷ XX. Hệ thống này đã ảnh hưởng tích cực đến đời sống nhân loại trong nhiều thập niên sau. Điều đó chứng minh cho phát hiện đúng đắn của C.Mác về vai trò lịch sử của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ XX, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở nhiều nước và sự thoái trào của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên thế giới đã dẫn đến việc xét lại vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và thời đại quá độ của xã hội loài người lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

Tôi cho rằng, trong tình hình hiện nay, chúng ta cần tiếp tục khẳng định luận điểm của C.Mác về vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, nhưng cũng cần có tư duy mới về giai cấp công nhân. Bởi vì, trong mấy trăm năm, kể từ khi giai cấp công nhân ra đời đến nay, xã hội loài người trải qua biết bao biến cố to lớn, cả những bước ngoặt có tính thời đại, như Cách mạng Tháng Mười Nga và sự phát triển của văn minh nhân loại từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ. Chủ nghĩa tư bản không còn là chủ nghĩa tư bản cổ điển mà đã phát triển thành chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa tư bản hiện đại. Giai cấp công nhân cũng thay đổi rất nhiều, khác hẳn giai cấp công nhân ở thế kỷ XIX, từng được Ph.Ăng-ghen mô tả trong tác phẩm "Tình cảnh giai cấp công nhân Anh".

Như chúng ta đã biết, những luận điểm của C. Mác về giai cấp công nhân được đưa ra trong điều kiện của văn minh công nghiệp. Những thành tựu mới của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại từ giữa thế kỷ XX, tiếp đó là cuộc cách mạng tin học, đã dần dần đưa nhân loại từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ, đánh dấu bước phát triển nhảy vọt chưa từng có của lực lượng sản xuất trong lịch sử nhân loại. Do vậy, tư duy mới về giai cấp công nhân phải là tư duy về giai cấp công nhân trong điều kiện của văn minh trí tuệ.

Quan điểm xuất phát nêu trên có căn cứ khoa học từ chủ nghĩa Mác hay thuộc loại quan điểm tư sản "duy lực lượng sản xuất"? Ai cũng biết, luận điểm của C. Mác về sự gắn bó giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất khác hẳn luận điểm còn phiến diện trước đó chỉ thấy hoặc nhấn mạnh một chiều vai trò của lực lượng sản xuất. C.Mác luôn luôn khẳng định vai trò quyết định của lực lượng sản xuất trong mối quan hệ với quan hệ sản xuất. Ông cho rằng, sự chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác nhất thiết phải trải qua đấu tranh cách mạng của những giai cấp cách mạng, nhưng nhân tố quyết định nhất vẫn là bước nhảy vọt mới về chất của lực lượng sản xuất. Ông từng nói đại ý: máy hơi nước đẻ ra nhà tư bản. Nhân đây tôi muốn nói thêm, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu là do nhiều nguyên nhân trực tiếp, nhưng nguồn gốc sâu xa là sự lạc hậu, bất cập của chủ nghĩa xã hội mô hình cũ và của ban lãnh đạo ở các nước này trước sự phát triển mới của văn minh nhân loại.

2 - Những thành tựu của chủ nghĩa tư bản, nhất là của chủ nghĩa tư bản hiện đại, gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất từ văn minh nông nghiệp sang văn minh công nghiệp, rồi từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ. Đến nay, những thành tựu đó đã làm thay đổi rất nhiều chế độ tư bản, giai cấp tư sản, giai cấp công nhân và các tầng lớp dân cư trong hầu hết các quốc gia - dân tộc.

Sự phát triển của lực lượng sản xuất từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ dần dần làm thay đổi căn bản cơ cấu các ngành nghề kinh tế - kỹ thuật, và từ đó, hình thành dần một giai cấp công nhân mới, rõ nhất là ở các nước tư bản phát triển. Cơ cấu GDP của các nước tư bản phát triển không còn như trước đây, mà đã thay đổi hẳn theo hướng: ngành dịch vụ chiếm tỉ trọng ngày càng lớn, đến 60%, ngành công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 30% - 40%, ngành nông nghiệp chỉ chiếm 2%. Về cơ cấu giai cấp công nhân, từ năm 1961 đến năm 1968, ở Anh, công nhân công nghiệp giảm 44%, ở Pháp giảm 30%, ở Thụy Sĩ giảm 24%, ở Cộng hòa liên bang Đức giảm 18% (1).

Nói đến giai cấp công nhân trước đây, chúng ta thường nghĩ nhiều đến những người lao động chân tay hơn là những người lao động trí óc; chủ yếu nói đến công nhân "áo xanh", ít nói đến công nhân "áo vàng" (kỹ thuật viên); còn công nhân "áo trắng" hay "công nhân cổ cồn" (kỹ sư) thì cho rằng, họ thuộc tầng lớp công nhân quý tộc, gắn bó chặt chẽ với giai cấp tư sản và là cơ sở xã hội của chủ nghĩa cải lương trong phong trào công nhân. Ngày nay, đã xuất hiện và phát triển ngày càng nhiều lực lượng công nhân được trí thức hóa, những công nhân "áo vàng" và công nhân "áo trắng", trong khi lực lượng công nhân "áo xanh" ngày càng giảm dần, như ở Mỹ, năm 2000 chỉ còn 10%. ở một số nước, công nhân có trình độ đại học chiếm đến 80%.

Ngày nay, những thành tựu của cách mạng tin học - tin học hóa đã mở rộng ra phạm vi toàn cầu và dẫn đến sự ra đời của "internet hóa". Điều quan trọng là, những thành tựu của cách mạng tin học ngày càng xâm nhập sâu vào mọi hoạt động của đời sống xã hội, nhất là trong sản xuất, kinh doanh, làm hình thành dần kinh tế tri thức. Những thành tựu đó đánh dấu một giai đoạn mới của cách mạng tin học và bắt đầu mở ra kỷ nguyên thông tin. Vai trò của khoa học - công nghệ, của lao động trí óc đối với phát triển kinh tế, xã hội ngày càng tăng; khoa học - công nghệ đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, đúng như tiên đoán của C.Mác.

Tình hình đó khiến cho một số nhà tư tưởng tư sản vội đưa ra luận điểm "quyền lực thuộc về trí tuệ" để che đậy bản chất của vấn đề. Thực chất, quyền lực vẫn thuộc về tư bản. Vì vậy, cần nhắc lại: nói đổi mới tư duy về giai cấp công nhân, nói về giai cấp công nhân trong điều kiện của văn minh trí tuệ, chính là nhằm làm rõ khả năng và yêu cầu của giai cấp công nhân hiện đại trong sứ mệnh lịch sử xóa bỏ và vượt qua chủ nghĩa tư bản hiện đại, thiết lập chủ nghĩa xã hội hiện đại. Như vậy, tư duy mới về giai cấp công nhân hiện đại gắn liền với tư duy mới về chủ nghĩa xã hội hiện đại.

Nói về giai cấp công nhân trong điều kiện của văn minh trí tuệ chính là làm rõ khả năng và yêu cầu của giai cấp công nhân hiện đại trong sứ mệnh lịch sử xóa bỏ và vượt qua chủ nghĩa tư bản hiện đại, thiết lập chủ nghĩa xã hội hiện đại. Trong thời đại ngày nay, bản chất giai cấp của Đảng Cộng sản vẫn chỉ có thể là bản chất giai cấp của giai cấp công nhân; cơ sở chính trị - xã hội của Đảng Cộng sản phải là giai cấp công nhân trong quá trình phát triển từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ; tư duy mới về giai cấp công nhân phải gắn liền với tư duy mới về chủ nghĩa xã hội hiện đại.

Đương nhiên, vẫn có sự phát triển không đều giữa các nền kinh tế của các nước. Xét về tổng thể, loài người vẫn đang quá độ từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ, nghĩa là quá trình công nghiệp hóa còn đang diễn ra. Ở các nước phát triển, đã kết thúc giai đoạn công nghiệp hóa cổ điển, chuyển sang giai đoạn công nghiệp hóa hiện đại và tiếp cận ngày càng sâu văn minh trí tuệ (có thể hay không coi quá trình kết thúc của công nghiệp hóa hiện đại cũng là sự khởi đầu của văn minh trí tuệ). Còn ở những nước chậm và đang phát triển, quá trình công nghiệp hóa diễn ra có phần còn trong giai đoạn công nghiệp hóa cổ điển, đồng thời tiếp cận dần giai đoạn công nghiệp hóa hiện đại và một số thành tựu của kỷ nguyên tin học, của văn minh trí tuệ. Tất nhiên, cơ cấu các ngành nghề kinh tế - kỹ thuật và tình hình giai cấp công nhân ở những nước này không giống ở những nước phát triển.

Ở nước ta, sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, qua mấy chục năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tiến hành chiến tranh giành độc lập hoàn toàn, thống nhất đất nước và tiến lên chủ nghĩa xã hội trên cả nước, nền kinh tế căn bản vẫn là một nền kinh tế nông nghiệp, nhiều phần lạc hậu, cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội có được xây dựng bước đầu nhưng chưa được bao nhiêu. Trong sự nghiệp đổi mới, sau khi thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nước ta bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn với phát triển kinh tế tri thức. Theo chủ trương của Đảng, đến năm 2020, nước ta mới căn bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Xét về quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, nước ta còn đang trong cuộc cách mạng công nghiệp, có phần còn ở giai đoạn công nghiệp hóa cổ điển, nhưng cố gắng "đi tắt, đón đầu", tiến vào giai đoạn công nghiệp hóa hiện đại và tiếp cận kỷ nguyên thông tin, bước đầu xây dựng kinh tế tri thức. Cơ cấu ngành nghề kinh tế - kỹ thuật dần dần có sự chuyển đổi theo hướng: tăng dần dịch vụ và công nghiệp, thu hẹp dần nông nghiệp. Hiện nay, lao động nông nghiệp đóng góp khoảng 20% GDP cả nước; đến năm 2020, có thể giảm xuống còn 10% (đương nhiên, giá trị tuyệt đối vẫn tăng), có nghĩa là khi đó dịch vụ và công nghiệp có thể lên tới 80% - 90%(2). Điểm đáng chú ý là, những thành tựu của cách mạng tin học đang xâm nhập nhiều vào hầu hết các lĩnh vực kinh tế, nhất là các lĩnh vực bưu chính - viễn thông, ngân hàng, hàng không, nông nghiệp, dịch vụ. Công nghệ thông tin đang trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tốc độ tăng trưởng hằng năm vào loại cao nhất và đóng góp ngày càng nhiều vào GDP cả nước. Từ đó, dần dần hình thành một cơ cấu đội ngũ lao động và công nhân mới ở nước ta.

Nghiên cứu sự phát triển của cách mạng tin học, của lao động trí óc trong điều kiện của kỷ nguyên thông tin, của kinh tế tri thức, đã có ý kiến về sự xuất hiện những "công nhân tri thức" (knowledge labour) trong văn minh trí tuệ và phân biệt những công nhân này với những "công nhân trí thức" (intellectual labour) trong văn minh công nghiệp (3). Có lẽ nên dịch "knowledge labour" là "lao động tri thức", còn "intellectual labour" là "lao động trí óc". Sự phân biệt giữa "công nhân tri thức" và "công nhân trí thức" có thể làm rõ sự phát triển mới của công nhân trong kinh tế tri thức. Nhưng có lẽ cả "lao động tri thức", "lao động trí óc", cùng một bộ phận tầng lớp trí thức gia nhập hàng ngũ giai cấp công nhân và bộ phận lao động chân tay (còn chiếm tỷ trọng lớn, nhất là ở nông thôn) dần dần được đào tạo theo yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ ngày càng phát triển trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiếp cận cách mạng thông tin. Tất cả các lực lượng lao động đó hợp thành một quá trình lịch sử trí thức hóa giai cấp công nhân, đưa giai cấp công nhân ở nước ta từng bước trở thành giai cấp công nhân của văn minh trí tuệ. Đó cũng là quá trình "trí thức hóa công nông" và "công nông hóa trí thức", như dự đoán thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

3 - Trong "Phê phán Cương lĩnh Gô-ta", C. Mác đã đưa ra luận điểm: một khi lao động được giải phóng thì tất cả mọi người đều trở thành công nhân. Chắc ai cũng hiểu, nói lao động được giải phóng ở đây, trước hết là được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột. Nhưng tôi nghĩ, nên hiểu thêm là, được giải phóng khỏi lao động cơ bắp, nặng nhọc, chuyển dần sang lao động trí óc là chính; cả hai công cuộc giải phóng đó phải hỗ trợ và tạo điều kiện cho nhau, thống nhất với nhau. Đó chính là sự thống nhất và tác động qua lại một cách biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất mà lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định. Như vậy cũng có nghĩa là, khi ấy giai cấp công nhân sẽ không còn tồn tại như một giai cấp riêng nữa, mà dần dần hòa mình vào dân tộc trong một hình thái kinh tế - xã hội mới thay thế chủ nghĩa tư bản hiện đại.

Quá trình giải phóng lao động, tiến tới "tất cả mọi người đều trở thành công nhân" đang diễn ra từng bước ngay trong lòng chủ nghĩa tư bản hiện đại, cuối cùng cũng phải trải qua đấu tranh cách mạng dưới hình thức này hay hình thức khác. Quá trình đó cũng đang diễn ra ở nhiều nước đang phát triển như nước ta, khi biết tiếp cận nhanh ***ng những thành tựu mới nhất của khoa học - công nghệ, phát triển kinh tế tri thức trong văn minh trí tuệ, gắn liền với việc xử lý đúng đắn những vấn đề về quan hệ sản xuất, hướng tới một xã hội tốt đẹp hơn.

4 - Giai cấp cách mạng muốn trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng thì, về mặt khách quan, phải đại biểu cho phương thức sản xuất mới, và về mặt chủ quan, phải tổ chức ra đội tiên phong - chính đảng, của giai cấp mình. Đội tiên phong của giai cấp phải là bộ phận trí tuệ nhất, tiêu biểu cho trí tuệ của giai cấp và thời đại. Điều đó đúng với các giai cấp cách mạng trước đây cũng như với giai cấp công nhân ngày nay. Cần lưu ý thêm, điều đó dễ dẫn đến sự ngộ nhận rằng, lãnh đạo cách mạng phải là các tầng lớp trí thức chứ không phải là các giai cấp cách mạng trong lịch sử. ở đây không nói đến động cơ chính trị của những người muốn cắm "tấm biển chỉ đường của trí tuệ" để bác bỏ vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, phủ nhận yêu cầu trí tuệ của đội tiên phong là rất sai lầm. Đội tiên phong - chính đảng của giai cấp cách mạng, là bộ phận lao động trí thức đặc biệt của giai cấp đó chứ không phải là tầng lớp trí thức nói chung trong xã hội.

Đội tiên phong của giai cấp công nhân hiện đại nhất thiết phải là bộ phận trí tuệ nhất của giai cấp, của thời đại mới. Phải tiếp cận những thành tựu mới nhất của văn minh nhân loại, kết hợp với sự phân tích khoa học, trên cơ sở của phép biện chứng mác-xít, những điều kiện của thế giới ngày nay đang chịu sự tác động của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Từ đó, đề ra cương lĩnh, chiến lược, sách lược phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của quốc gia - dân tộc để từng bước tìm con đường giải phóng, vượt qua chủ nghĩa tư bản hiện đại, xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện đại.

Trong thời đại ngày nay, bản chất giai cấp của Đảng Cộng sản vẫn chỉ có thể là bản chất giai cấp của giai cấp công nhân; cơ sở chính trị - xã hội chủ yếu của Đảng Cộng sản phải là giai cấp công nhân trong quá trình phát triển từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ; tư duy mới về giai cấp công nhân phải gắn liền với tư duy mới về chủ nghĩa xã hội hiện đại. Có thể nói, một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự lạc hậu, bất cập trước đây của Đảng Cộng sản ở một số nước tư bản phát triển là do không nhận thức được điều này. Bởi vậy, ở đó, Đảng Cộng sản dần dần mất cơ sở chính trị - xã hội cần có của mình, gắn liền với những cương lĩnh ngày càng xa rời cuộc sống. Giai cấp công nhân hiện đại, nhân dân lao động không thấy được con đường đi tới một xã hội tốt đẹp hơn, mà đôi khi mất phương hướng và dường như kỳ vọng vào một tương lai nào đó trong lòng chủ nghĩa tư bản hiện đại, khi ở đó xuất hiện và phát triển dần một số yếu tố của xã hội mới, nhưng đội tiên phong của giai cấp công nhân hiện đại đã không nhận ra để làm sinh sôi nảy nở.

Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân Việt Nam, là Đảng của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam. Bởi nhiều lẽ: Đảng là con đẻ của hai phong trào: phong trào công nhân và phong trào yêu nước (chứ không chỉ là con đẻ của phong trào công nhân như ở những nước tư bản). Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, trong đó đặt nhiệm vụ dân tộc lên trên và lên trước, coi nhiệm vụ dân tộc là tiền đề, điều kiện tiên quyết và là cơ sở để hoàn thành nhiệm vụ giai cấp, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng động viên sức mạnh toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, coi cách mạng xã hội chủ nghĩa không chỉ là nhiệm vụ giai cấp mà còn là nhiệm vụ dân tộc, định hướng cho nhiệm vụ dân tộc, bảo đảm độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc triệt để, đưa dân tộc bỏ qua thời đại dân tộc tư sản, tiến vào thời đại dân tộc xã hội chủ nghĩa.

Là Đảng của giai cấp công nhân, trước hết Đảng phải hiểu giai cấp công nhân và dựa vào giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân Việt Nam ngày nay đã thay đổi rất nhiều (như trên đã phân tích), đang phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, phát triển trong sự phân hóa thường xuyên - một sự phân hóa tích cực. Đó là sự phân hóa trong cơ cấu ngành nghề kinh tế - kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất; trong cơ cấu thành phần kinh tế, xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất; trong phân công lao động xã hội.

Nhận thức đúng bản chất và xu thế phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam ngày nay, trên cơ sở đó, có chủ trương, chính sách thích hợp để tiếp tục mở rộng đội ngũ và nâng cao chất lượng giai cấp công nhân, khiến cho nó xứng đáng với vai trò lãnh đạo trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội hiện đại, đó là yêu cầu đầu tiên và cũng là quan trọng nhất của đội tiên phong. Chúng ta thường nói, giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp của giai cấp công nhân. Vậy bản chất đó là gì? Nó có phải là cái gì trừu tượng và bất biến không? Hay phải có những nội dung và yêu cầu cụ thể nhằm thể hiện bản chất đó? Trong bản chất đó, cái gì không thể thay đổi và cái gì cần phải phát triển? Không thể nói giữ vững và tăng cường được bản chất của giai cấp công nhân khi không hoàn thành những nhiệm vụ chính trị, kinh tế có tính chất thực tiễn cách mạng của nó.

Là Đảng của dân tộc, Đảng phải hiểu sâu sắc dân tộc mình, từ quá khứ, hiện tại đến tương lai, cũng như lịch sử, đất nước, con người và đặc biệt là bản sắc văn hóa, bởi bản sắc văn hóa là đặc trưng quan trọng nhất của dân tộc. Đảng phải tổ chức, động viên và phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc, của tất cả các dân tộc họp thành đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Phải đổi mới tư duy về chủ nghĩa xã hội, tìm tòi, thể nghiệm con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện đại mang bản sắc dân tộc Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chủ nghĩa xã hội phải được ăn sâu, bám rễ trong lòng dân tộc, đưa dân tộc Việt Nam đi vào thời đại dân tộc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, Đảng phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế trong điều kiện nền kinh tế thế giới ngày càng đi sâu vào toàn cầu hóa tư bản chủ nghĩa.

Là Đảng cầm quyền, Đảng phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ, nhằm xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và bảo đảm mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân.

Độc lập dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh

Tư tưởng về độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia là nét nổi bật trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Lịch sử nước ta đã ghi đậm những trang đấu tranh hào hùng giành và giữ nền độc lập thiêng liêng của Tổ quốc. Từ thế kỷ thứ V, Lý Bí lãnh đạo nhân dân ta đánh đuổi giặc Lương.

Thế kỷ XI, Lý Thường Kiệt đã tuyên bố Việt Nam không phải là thuộc quốc của phương Bắc mà là một quốc gia có chủ quyền. Tiếp đó, thế kỷ XV Nguyễn Trãi một lần nữa khẳng định về chủ quyền của Đại Việt khi viết: "Như nước Đại Việt ta từ trước/ Vốn xưng nền văn hiến đã lâu/ Cõi bờ sông núi đã chia/ Phong tục Bắc Nam cũng khác..."(Bình Ngô Đại Cáo).

Đến thời đại Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc là niềm khát khao cháy bỏng, là mục tiêu trước hết của cách mạng Việt Nam, và là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của cả dân tộc. Người sớm nhận ra hạn chế của con đường cứu nước của các bậc tiền bối và Người mong muốn tìm ra con đường cứu nước, đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành lại nền độc lập dân tộc đã bị mất vào tay giặc Pháp. Và cũng chính mục tiêu giành lại độc lập dân tộc đã đưa Người đến với chủ nghĩa Mác-Lênin - đến với chân lý của thời đại. Từ yêu nước chân chính, Hồ Chí Minh đã trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam. Đây là bước nhảy vọt, một sự thay đổi về chất trong tư tưởng và lập trường chính trị của Người. Bước chuyển đó phù hợp với trào lưu tiến bộ của thời đại và lôi cuốn cả lớp người Việt Nam yêu nước đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin.

T rong những năm ở Liên Xô, với những hiểu biết sâu sắc về tình hình thế giới và đặc điểm cách mạng Việt Nam, Người kiên trì bảo vệ các quan điểm của mình về vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc. Tư tưởng này của Người đã nêu ra trong Chính cương vắn tắt do Người soạn thảo được thông qua tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước đã xác định rõ mục tiêu chính trị của Đảng là: "Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập". Theo Người, giành độc lập dân tộc là mục tiêu trước hết và bao trùm của cách mạng Việt Nam.

Khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra và đi vào giai đoạn quyết liệt, Người thấy đây là thời cơ cho Việt Nam giành độc lập. Đầu năm 1941, Hồ Chí Minh về nước, chủ trì Hội nghị Trung ương 8, chủ trương "giương cao hơn nữa ngọn cờ giải phóng dân tộc", chỉ đạo chuyển hướng chiến lược của Đảng, đặt vấn đề giải phóng dân tộc cao hơn hết. Trong Thư Kính cáo đồng bào, Người chỉ rõ: "Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy" (Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 3, tr.198). Sau đó, Người cùng Trung ương Đảng chuẩn bị mọi mặt để khi thời cơ đến sẽ phát động toàn dân tộc nổi dậy giành chính quyền. Giữa tháng Tám năm 1945, Nhật đầu hàng Đồng minh vô điều kiện, thời cơ "ngàn năm có một" xuất hiện, ý chí của Hồ Chí Minh và cũng là ý chí toàn dân tộc "Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập". Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945 trước hàng chục vạn đồng bào tại quảng trường Ba Đình, Hồ Chí Minh long trọng tuyên bố với quốc dân và thế giới về nền độc lập của Việt Nam: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập.

Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".

Tháng 9/1945, thực dân Pháp đem theo quân Anh gây hấn ở Nam Bộ hòng cướp nước ta một lần nữa - vận mệnh đất nước như "ngàn cân treo sợi tóc", Trung ương Đảng, Chính phủ ra chỉ thị Kháng chiến, kiến quốc khẳng định "cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng... Khẩu hiệu vẫn là: "Dân tộc trên hết", "Tổ quốc trên hết". "Kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lăng, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng". Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là kháng chiến và kiến quốc. Chính nhờ có tư duy đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa kháng chiến vừa kiến quốc, biết nhân nhượng có nguyên tắc mà nhân dân ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ và củng cố chính quyền cách mạng, chuẩn bị các điều kiện cho cuộc kháng chiến lâu dài. Người nói: "Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước" (Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến). Mặc dù Người biết rất rõ rằng chiến tranh sẽ mang lại tổn thất, song trước dã tâm và hành động xâm lược của kẻ thù, để giữ vững độc lập dân tộc cần phải sử dụng chiến tranh, và đó là cuộc chiến tranh nhân dân, mang tính chất toàn dân toàn diện, trường kỳ và chính nghĩa, một cuộc chiến tranh của một dân tộc đứng lên chống lại thực dân Pháp xâm lược để bảo vệ nền độc lập của dân tộc.

Khi đế quốc Mỹ leo thang mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, ngày 17/7/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi chống Mĩ cứu nước, Người khẳng định: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do". Đó là chân lí của thời đại, là ý chí và lẽ sống, của dân tộc Việt Nam. Đáp lại Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đã dấy lên các phong trào thi đua yêu nước, nở rộ các hành động anh hùng cách mạng, chịu đựng gian khổ, kiên cường chiến đấu sáng tạo, làm thất bại các loại chiến tranh của đế quốc Mỹ và cuối cùng buộc chúng phải ký Hiệp định Pari, với cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, rút quân viễn chinh về nước. Với tư tưởng "Không có gì quý hơn độc lập tư do" của Người, quân và dân ta đã đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược tàn ác nhất, quy mô lớn nhất của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Theo Hồ Chí Minh, có độc lập dân tộc mới có điều kiện mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Nước mất độc lập thì nhân dân cũng phải chịu kiếp ngựa trâu. Do đó phải kiên quyết giành độc lập dân tộc. Khi đã có độc lập thì phải kiên quyết giữ, kể cả việc phải sử dụng phương thức không mong muốn là chiến tranh. Và khi đã có độc lập dân tộc phải từng bước mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho đồng bào.

Thế giới đang đổi thay nhanh ***ng và có nhiều tác động tới đất nước ta. Tình hình mới hiện nay đang đặt ra cho chúng ta yêu cầu cần phải nhận thức và giải quyết thật tốt nhiệm vụ bảo vệ độc lập dân tộc. Rõ ràng là, độc lập không đồng nghĩa với cô lập, đóng cửa. Trong lịch sử đã có những thời kỳ một số nước để bảo vệ độc lập dân tộc đã thực hiện việc "bế quan tỏa cảng", không quan hệ với nước khác, nhưng kết cục của chính sách đó là tự làm suy yếu mình. Do đó độc lập ở đây với nghĩa là không lệ thuộc vào bên ngoài, là cân bằng được các mối quan hệ: quan hệ đối ngoại, quan hệ kinh tế, quan hệ chính trị, quan hệ văn hóa... Trong bối cảnh toàn cầu hóa với sự đan xen phức tạp của các mối quan hệ quốc tế đòi hỏi kiên quyết giữ vững độc lập dân tộc. Trên cơ sở độc lập và không ngừng mở rộng quan hệ về kinh tế xây dựng nền chính trị độc lập, đòi hỏi chúng ta phải tỉnh táo, sáng suốt và có đối sách thích hợp, chủ động. Trong kháng chiến chống thực dân, đế quốc, với quan điểm "Nếu không có thực lực thì ta chỉ là khí cụ trong tay kẻ khác, dầu kẻ đó là bạn đồng minh của ta vậy", Hồ Chí Minh và Đảng ta đã rất chú trọng xây dựng thực lực cho cách mạng, để dựa vào đó mà chống lại kẻ thù. Ngoài ra, Người còn kêu gọi sự giúp đỡ của bè bạn quôc tế ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Do đó, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của ta, như Hồ Chí Minh chỉ rõ, chính phủ Mỹ không chỉ chịu sự đấu tranh quyết liệt của nhân dân ta mà còn vấp phải sự chống đối ngay tại nước Mỹ là phong trào phản chiến của nhân dân tiến bộ Mỹ. Hồ Chí Minh đã nêu ra nguyên tắc cơ bản trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam là "Làm bạn với mọi nước dân chủ và không gây thù oán với ai". Chính vì vậy, theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc gắn liền với tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế. Và bản thân Hồ Chí Minh đã làm hết sức mình để mở rộng quan hệ giữa Việt Nam với bè bạn quốc tế.

Trong giai đoạn hiện nay, để giữ vững độc lập dân tộc, chúng ta quyết tâm thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo thực lực, sức mạnh thực sự để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời tranh thủ, tận dụng các nguồn lực từ bên ngoài cùng với việc phát huy tối đa nội lực nhằm phát triển đất nước. Thường xuyên và không ngừng củng cố tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm động lực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Để làm được điều này cần giải quyết một cách hài hòa lợi ích giữa các nhóm người và các vùng đất nước. Riêng ở vùng biên giới, vùng sâu, vùng xa, nơi có đa số đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống đã và đang đặt ra những vấn đề cấp bách trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Đây là vùng "phên dậu" của đất nước, có địa hình hiểm trở, phức tạp, dân cư thưa thớt, là nơi có trình độ kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục... kém phát triển, nhiều hủ tục còn tồn tại, ảnh hưởng tới công cuộc phát triển kinh tế văn hóa và quốc phòng an ninh. Các thế lực thù địch đã và đang tìm mọi cách phá hoại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta, gây chia rẽ, ly khai dân tộc, ảnh hưởng tới sự toàn vẹn và thống nhất của đất nước. Quan tâm giữ gìn sự ổn định ở biên giới, ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số là tiền đề cho sự ổn định và phát triển của đất nước. Xưa, cha ông ta đã có nhiều phương sách để giữ vững biên cương. Các vua nhà Lý đã gả các công chúa cho các tù trưởng để gắn kết họ với triều đình. Lê Lợi đã nhắc nhở: "Biên phòng hảo vị trù phương lược. Xã tắc ưng tu kế cửu an" (Biên phòng cần có phương lược tốt/ Giữ nước nên có kế dài lâu). Ngày nay, để giữ nước nhất thiết Đảng và Nhà nước phải quan tâm về mọi mặt đối với vùng có vị trí chiến lược này. Mối quan hệ biện chứng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số là: an dân để giữ nước và giữ nước để an dân. Chỉ có không ngừng nâng cao đời sống vật chất và đời sống tinh thần của đồng bào đi đôi với tuyên truyền, giáo dục mới làm cho đồng bào tin Đảng, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, chống lại sự phá hoại của các thế lực thù địch. Phải quán triệt sâu sắc quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là phải biết dựa vào dân, xây dựng lực lượng của dân đi đôi với phát triển lực lượng chuyên trách trong bảo vệ Tổ quốc, huy động toàn dân tham gia bảo vệ biên giới, phát huy uy tín của người cao tuổi, của các già làng, trưởng bản ở vùng đồng bào dân tộc trong việc bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia.

Phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế cho đồng bào các dân tộc thiểu số không chỉ có ý nghĩa ở việc cải thiện và nâng cao đời sống đồng bào, mà còn có ý nghĩa trong việc bảo vệ và giữ gìn độc lập và chủ quyền của Tổ quốc, bảo đảm sự ổn định và phát triển của cả quốc gia dân tộc.

Quán triệt quan điểm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới

Thắng lợi vĩ đại của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, được đánh dấu bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đã kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và cũng là kết thúc cuộc kháng chiến lâu dài 30 năm chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của nhân dân ta. Với chiến thắng vẻ vang này, nhân dân ta đã hoàn toàn thoát khỏi ách thống trị, nô dịch của các đế quốc to, hoàn toàn thoát khỏi họa đất nước bị chia cắt, hoàn thành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, đưa nhân dân cả nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập tự do, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội; đưa vị thế của nước ta, dân tộc ta lên một tầm cao mới trên thế giới.

Hơn ba mươi ba mùa xuân đã trôi qua, kể từ thời khắc lịch sử trọng đại đó (30-4-1975), hôm nay nhìn lại càng thấy thấm thía, soi vào thực tiễn đất nước càng thấy cần quán triệt sâu sắc hơn nữa quan điểm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.

1. Bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và toàn dân

Thuật ngữ bảo vệ Tổ quốc đã được sử dụng ngay khi Pháp gây hấn ở Nam bộ năm 1946, Bác Hồ đã kêu gọi: Tổ quốc lâm nguy, chúng ta phải đứng cả dậy, tất cả quốc dân Việt Nam phải đứng cả dậy bảo vệ Tổ quốc .

Trải qua các giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn luôn có quan điểm đúng đắn về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc "Trong khi đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta không một chút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc". Tuy nhiên, trong thời gian dài cho đến những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, bảo vệ Tổ quốc vẫn chủ yếu gắn với nội dung bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và bằng các phương thức đấu tranh quân sự- vũ trang là chính. Do đó, trong xã hội dần hình thành nhận thức: lực lượng vũ trang mà trực tiếp là quân đội - Bộ Quốc phòng là chủ thể bảo vệ Tổ quốc .

Từ khi "chiến tranh lạnh" kết thúc với sự sụp đổ các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô và Đông Âu đã làm cho nhận thức của chúng ta về nội dung của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa có sự phát triển đáng kể. Nghị quyết Trung ương 8 khoá IX và Văn kiện Đại hội X Đảng ta đã khẳng định: Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Luận điểm trên đã chỉ rõ vai trò chủ thể trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc với cơ chế: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, đó là nhận thức mới về cơ chế bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới, trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI.

2. Độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; hệ thống chính trị - xã hội xã hội chủ nghĩa; lợi ích quốc gia, dân tộc là đối tượng và phạm vi bảo vệ của chiến lược bảo vệ Tổ quốc

Từ tổng kết thực tiễn, nhất là hơn 20 năm đổi mới, tư duy về bảo vệ Tổ quốc của chúng ta đã có một bước chuyển quan trọng, Đảng ta khẳng định: "Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc. Quan điểm trên của Đảng ta đã nêu bật những vấn đề cốt lõi của chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa: là bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa với tính cách một quốc gia có chủ quyền, với một cộng đồng dân tộc có nền văn hoá lâu đời được quốc tế công nhận, là thành viên của Liên hợp quốc và nhiều tổ chức quốc tế khác; là bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa với tính cách một quan hệ chính trị, một thể chế chính trị - xã hội - xã hội chủ nghĩa được Bác Hồ và toàn dân lựa chọn, và là một xã hội phù hợp sự phát triển khách quan của tiến trình lịch sử; là bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa với tính cách một quốc gia đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đang chuyển đổi và đang chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập dân tộc. Cả ba mặt nêu trên tạo thành một chỉnh thể thống nhất vừa phản ánh tính vĩnh hằng của Tổ quốc xét về mặt tự nhiên đất nước, con người; vừa phản ánh tính xã hội - chính trị trong tiến trình phát triển lịch sử. Làm cho thuật ngữ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa lần đầu tiên được nhận thức và trình bày một cách khoa học, hoàn chỉnh, có thể coi đây là một trong những đóng góp quý báu vào kho tàng lý luận của của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.

3. Sức mạnh tổng hợp là nguồn lực to lớn để bảo vệ Tổ quốc

Về nội dung của sức mạnh tổng hợp trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Đảng ta khẳng định: Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh của lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân với sức mạnh của lực lượng và thế trận an ninh nhân dân. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng và an ninh, quốc phòng và an ninh với kinh tế trong các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Phối hợp hoạt động quốc phòng và an ninh với hoạt động đối ngoại.

Phát huy sức mạnh tổng hợp là bài học kinh nghiệm truyền thống của dân tộc ta, đã được Đảng ta vận dụng một cách sáng tạo trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, trải qua các giai đoạn lịch sử khác nhau và ngày nay đã trở thành những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo về việc xác định những nội dung của sức mạnh bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩ: Đó là phát huy sức mạnh tổng hợp của nguồn lực nội sinh, của khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam; của cả hệ thống chính trị xã hội xã hội chủ nghĩa, do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo; của tiềm lực và thế trận quốc phòng và an ninh; của sự kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng và an ninh trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch xây dựng, phát triển đất nước. Đó là phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nguồn lực bên trong và bên ngoài, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; kết hợp hoạt động quốc phòng và an ninh với hoạt động đối ngoại. Với quan điểm toàn diện và sâu sắc về sức mạnh tổng hợp trên đây của Đảng ta, mở ra khả năng rộng lớn, khai thác triệt để các nguồn lực bao gồm cả nguồn lực vật chất và tinh thần, cả nguồn lực hiện có và tiềm tàng, cả nguồn lực kết tinh của quá khứ và nguồn lực mới của tương lai cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

4. Gắn kết hai nhiệm vụ chiến lược là một trong những quan điểm cơ bản của chiến lược bảo vệ Tổ quốc

Trong Nghị quyết Trung ương 8 khoá IX và Văn kiện Đại hội X, Đảng ta đã khẳng định kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng và an ninh là một nội dung của đường lối kinh tế, là một trong năm quan điểm phát triển kinh tế - xã hội và là một trong những nguồn lực của sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là một bước tiến quan trọng, là kết quả hoạt động thực tiễn, tìm tòi, phát hiện và vận dụng quy luật của Đảng ta trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những luận điểm về kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng và an ninh được nêu trên là dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn sâu sắc.

Việc xác định mục tiêu kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng và an ninh cũng được điều chỉnh cho phù hợp, trước hết là nhằm khai thác, sử dụng nguồn lực tổng hợp của quốc gia có hiệu quả để thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với yêu cầu đan xen và gắn kết với nhau rất cao tăng cường quốc phòng - an ninh đã trở thành một trong những mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.

Về phương thức kết hợp, Đảng ta đã xác định phải kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng và an ninh, quốc phòng và an ninh với kinh tế trong các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội phối hợp hoạt động quốc phòng và an ninh với hoạt động đối ngoại. Đến Đại hội X của Đảng lại nhấn mạnh: phải kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường sức mạnh quốc phòng - an ninh trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng của đất nước. Đây cũng là phương thức phản ánh quan điểm về sức mạnh tổng hợp trong việc kết hợp mọi nguồn lực cho sự nghiệp quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc.

Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế khách quan, Đảng ta đã thể hiện quan điểm khai thác sức mạnh thời đại, tận dụng tối đa nguồn lực bên ngoài nhằm tăng cường quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Trong quan hệ đối ngoại, nhất là quan hệ kinh tế đối ngoại, thu hút đầu tư nước ngoài chúng ta không chỉ có thách thức mà còn có thời cơ thực hiện chiến lược "đan xen lợi ích" với các nước có lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

5. Đảng lãnh đạo sự nghiệp quốc phòng - an ninh - bảo vệ Tổ quốc theo nguyên tắc tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt

Lần đầu tiên trong văn kiện của mình, Đảng ta xác định nguyên tắc lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với sự nghiệp quốc phòng - an ninh. Nếu như trước đây, nguyên tắc lãnh đạo nói trên chỉ được áp dụng đối với quân đội nhân dân và công an nhân dân thì ngày nay, Đảng ta mở rộng phạm vi áp dụng nguyên tắc nói trên đối với toàn bộ các lực lượng vũ trang và với cả sự nghiệp quốc phòng - an ninh của đất nước. Tư duy mới nói trên của Đảng là kết quả của sự tổng kết lý luận và thực tiễn của quá trình lãnh đạo toàn dân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nhất là sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong hơn 20 năm đổi mới.

Xuất phát từ luận điểm cho rằng sự nghiệp quốc phòng - an ninh là bộ phận trọng yếu trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nội dung, phạm vi của quốc phòng - an ninh ngày nay đang có xu hướng mở rộng hơn so với quan niệm trước đây. Với chức năng bảo vệ tổ quốc, quốc phòng - an ninh ngày càng thâm nhập sâu vào các lĩnh vực khác nhau trong quá trình xây dựng đất nước tạo nên những phạm trù mới phản ánh sự đan kết trong các lĩnh vực hoạt động đa dạng của đời sống xã hội như an ninh kinh tế, an ninh văn hoá, an ninh môi trường, an ninh tài chính, an ninh lương thực, an ninh thông tin... Do đó, trong xây dựng đã chứa đựng yếu tố bảo vệ, các công trình xây dựng không chỉ là đối tượng bảo vệ của quốc phòng - an ninh mà còn là điều kiện, phương tiện bảo vệ của quốc phòng - an ninh thông qua chiến lược đan xen lợi ích với các nước trong quan hệ kinh tế đối ngoại; quốc phòng - an ninh vững mạnh sẽ trở thành nhân tố góp phần quan trọng bảo đảm cho đất nước phát triển ổn định, nhanh và bền vững.

Để giữ vững và phát huy thành quả cách mạng, tăng cường quốc phòng - an ninh bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa chúng ta có thể và cần phải quan tâm hơn đến một số giải pháp:

Một là, cụ thể hoá việc mở rộng phạm vi áp dụng nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với các lực lượng quốc phòng - an ninh - bảo vệ Tổ quốc, nhất là nội dung của nguyên tắc lãnh đạo trực tiếp, toàn diện đối với lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên, an ninh nhân dân, phòng thủ dân sự.

Hai là, nâng cao năng lực và phong cách lãnh đạo của các tổ chức Đảng và đảng viên (trước hết là cán bộ chỉ huy) đối với công tác quốc phòng - an ninh thông qua đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ đảng, cán bộ chỉ huy nhằm đáp ứng nhu cầu của nhiệm vụ quốc phòng - an ninh - bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.

Ba là, tăng cường hiệu lực tham mưu của các cơ quan tham mưu về lãnh đạo và chỉ huy công tác quốc phòng - an ninh, đổi mới công tác nghiên cứu dự báo chiến lược "không để bị động, bất ngờ" như Đại hội X của Đảng đã xác định.

Bốn là, chuẩn bị tốt cả tinh thần và lực lượng để tham gia gìn giữ hoà bình quốc tế như tuyên bố gần đây của Bộ Ngoại giao nước ta./.

Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 25/7/2008 của Ban Chấp hành Trung ương về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, một trong những nhân tố quan trọng quyết định tương lai, vận mệnh dân tộc; là lực lượng chủ yếu trên nhiều lĩnh vực, đảm nhiệm những công việc đòi hỏi hy sinh, gian khổ, sức khỏe và sáng tạo. Thanh niên là độ tuổi sung sức nhất về thể chất và phát triển trí tuệ, luôn năng động, sáng tạo, muốn tự khẳng định mình. Song, do còn trẻ, thiếu kinh nghiệm nên thanh niên cần được sự giúp đỡ, chăm lo của các thế hệ đi trước và toàn xã hội.

Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng ta luôn đề cao vai trò, vị trí của thanh niên, xác định thanh niên là lực lượng xung kích cách mạng, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là đội dự bị tin cậy của Đảng; công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc. Đồng thời, Đảng đã đề ra nhiều chủ trương giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, tổ chức thanh niên thành lực lượng hùng hậu, trung thành, kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Qua mỗi thời kỳ, dù bất cứ hoàn cảnh nào các thế hệ thanh niên đều hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử của mình.

Trước yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và sự biến đổi nhanh ***ng của tình hình thanh niên, đòi hỏi phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên nhằm chăm lo, bồi dưỡng và phát huy cao nhất vai trò, sức mạnh của thanh niên trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

I- TÌNH HÌNH THANH NIÊN VÀ CÔNG TÁC THANH NIÊN

Sau hơn 20 năm đổi mới và phát triển đất nước, nhất là sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII) tình hình thanh niên có những chuyển biến mạnh mẽ, đan xen cả những yếu tố tích cực và tiêu cực, trong đó yếu tố tích cực giữ vai trò chủ đạo.

Một trong những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước là đã xây dựng được thế hệ thanh niên thời kỳ mới có đạo đức, nhân cách, tri thức, sức khỏe, tư duy năng động và hành động sáng tạo; tiếp nối truyền thống hào hùng của Đảng và dân tộc, nêu cao lòng yêu nước, ý thức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; không ngại khó khăn, gian khổ, tình nguyện vì cộng đồng; có trách nhiệm với gia đình, xã hội; có ý chí vươn lên trong học tập. lao động, lập thân, lập nghiệp, làm giàu chính đáng, quyết tâm đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu; mong muốn được tin tưởng, được cống hiến cho đất nuớc, có việc làm, thu nhập ổn định, đời sống văn hoá tinh thần lành mạnh phong phú, môi trường sống an toàn. Dù còn nhiều tâm trạng khác nhau, song đa số thanh niên luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và phát triển của đất nước.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII) là một chủ trương quan trọng có tính quyết định, làm chuyển biến mạnh mẽ tình hình thanh niên, công tác đoàn và phong trào thanh niên. Các cấp ủy đảng đã lãnh đạo hệ thống chính trị, toàn xã hội thực hiện tốt hơn công tác thanh niên và chăm lo xây dựng Đoàn. Nhà nước đã ban hành Luật Thanh niên, Chiến lược phát triển thanh niên và nhiều chính sách về công tác thanh niên, tạo điều kiện, cơ hội cho thanh niên rèn luyện cống hiến trưởng thành. Công tác đoàn và phong trào thanh niên từng bước phát triển, mặt trận đoàn kết, tập hợp thanh niên được mở rộng, số thanh niên trở thành đoàn viên, đảng viên ngày càng tăng. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, gia đình, nhà trường và xã hội đối với thanh niên, công tác thanh niên đã có chuyển biến tích cực.

Tuy nhiên,một bộ phận thanh niên sống thiếu lý tưởng, giảm sút niềm tin, ít quan tâm tới tình hình đất nước, thiếu ý thức chấp hành pháp luật, sống thực dụng, xa rời truyền thống văn hóa dân tộc. Học vấn của một bộ phận thanh niên nhất là thanh niên nông thôn, thanh niên dân tộc thiểu số còn thấp; nhiều thanh niên thiếu kiến thức và kỹ năng trong hội nhập quốc tế. Tính độc lập, chủ động, sáng tạo, năng lực thực hành sau đào tạo của thanh niên còn yếu, chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Tình trạng tội phạm và tệ nạn xã hội trong thanh niên đang gia tăng và diễn biến ngày càng phức tạp. Tỉ lệ thanh niên nhiễm HIV/AIDS còn cao.

Một số cấp ủy đảng chưa quan tâm đúng mức lãnh đạo công tác thanh niên; việc đôn đốc, kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng về công tác thanh niên không thường xuyên, kịp thời; công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ trẻ chưa thực sự được coi trọng; chưa làm tốt công tác phát triển đảng trong thanh niên. Nhà nước chậm thể chế hoá và triển khai thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng về công tác thanh niên; thiếu những chính sách nhất quán, đồng bộ, lâu dài đối với thanh niên; chưa có chính sách cụ thể để bồi dưỡng, đào tạo, sử dụng tài năng trẻ, việc thực hiện Chiến lược phát triển thanh niên còn hạn chế. Nhiều bộ, ngành, địa phương chưa làm tốt trách nhiệm chăm lo, bồi dưỡng, phát huy thanh niên thuộc lĩnh vực được phân công. Việc đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam chưa theo kịp sự phát triển của tình hình thanh niên; khả năng chi phối và ảnh hưởng của Đoàn, Hội trong thanh niên chưa sâu rộng, tỉ lệ tập hợp thanh niên thấp, tính tiên phong; gương mẫu của cán bộ đoàn, hội và đoàn viên, hội viên chưa cao. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhiều địa phương chưa phối hợp chặt chẽ, chưa tạo được sức mạnh tổng hợp trong công tác thanh niên tác thanh niên sự kết hợp giữa gia đình - nhà trường - xã hội trong giáo dục thanh niên còn hạn chế.

Những hạn chế, yếu kém nêu trên có nhiều nguyên nhân, song chủ yếu là do:

- Nhận thức của một bộ phận không ít cấp uỷ đảng cán bộ, đảng viên về thanh niên và công tác thanh niên chưa đầy đủ, nhiều mặt còn khoán trắng cho Đoàn; tổ chức chỉ đạo thiếu tập trung; đánh giá thanh niên còn theo kinh nghiệm, cảm tính, gia trưởng, thiếu tin tưởng thanh niên; một bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất không là tấm gương để thanh niên học tập và noi theo. Một bộ phận gia đình ít quan tâm, thiếu giáo dục và nêu gương đối với con cháu.

- Quản lý nhà nước về công tác thanh niên còn nhiều bất cập; bộ máy quản lý nhà nước về công tác thanh niên và cơ chế phối hợp liên ngành trong công tác thanh niên chưa rõ ràng. Chưa gắn kết mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh với mục tiêu phát triển thanh niên.

- Công tác giáo dục - đào tạo, dạy nghề, giải quyết việc làm, phòng, chống tệ nạn xã hội, hoạt động văn hoá, thể thao, báo chí, xuất bản có nhiều khuyết điểm, yếu kém nhưng chậm khắc phục đã ảnh hưởng không nhỏ đến các thế hệ thanh niên.

- Công tác giáo dục, ngăn ngừa và đấu tranh với những tác động, lôi kéo thanh niên của các thế lực thù địch, sự truyền bá lối sống nước ngoài không phù hợp với truyền thống văn hoá dân tộc còn nhiều yếu kém, thậm chí bị buông lỏng.

- Việc quản lý, tập hợp thanh niên trong tình hình mới khó khăn hơn. Điều kiện, phương tiện hoạt động của Đoàn, Hội, chính sách cho cán bộ đoàn, nhất là cán bộ đoàn cơ sở còn bất cập. Năng lực, trình độ của không ít cán bộ đoàn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế; khả năng tập hợp, tổ chức phong trào thanh niên trong công tác thanh niên còn hạn chế.

II- QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO, MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC THANH NIÊN THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

1- Quan điểm chỉ đạo

- Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thanh niên được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con người. Chăm lo, phát triển,thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển vững bền của đất nước.

- Chăm lo, bồi dưỡng, giáo dục thanh niên thành lớp người "vừa hồng vừa chuyên" theo tư tưởng Hồ Chí Minh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quan trọng của Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, gia đình, nhà trường và xã hội.

- Đảng lãnh đạo công tác thanh niên và trực tiếp lãnh đạo Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Xây dựng Đoàn vững mạnh là nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, là xây dựng Đảng trước một bước. Đảng đề ra đường lối, chủ trương định hướng cho thanh niên hành động, xác định các chuẩn mực cho thanh niên phấn đấu; xây dựng các tấm gương điển hình tiêu biểu cho thanh niên học tập và noi theo.

- Nhà nước quản lý thanh niên và công tác thanh niên; thể chế hoá đường lối, chủ truơng của Đảng về thanh niên và công tác thanh niên thành pháp luật chính sách, chiến lược, chương trình hành động và cụ thể hoá trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh hằng năm của các cấp, các ngành.

- Sự nỗ lực học tập, rèn luyện và phấn đấu không ngừng của thanh niên theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là yếu tố quan trọng để xây dựng thế hệ thanh niên thời kỳ mới. Mở rộng mặt trận đoàn kết, tập hợp thanh niên là nội dung quan trọng của công tác đoàn để giáo dục, bồi dưỡng, động viên và phát huy vai trò thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

2- Mục tiêu

Mục tiêu chung

Tiếp tục xây dựng thế hệ thanh niên Việt Nam giàu lòng yêu nước, tự cường dân tộc; kiên định lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có đạo đức cách mạng, ý thức chấp hành pháp luật, sống có văn hoá, vì cộng đồng; có năng lực, bản lĩnh trong hội nhập quốc tế; có sức khỏe, tri thức, kỹ năng và tác phong công nghiệp trong lao động tập thể, trở thành những công dân tốt của đất nước. Cổ vũ thanh niên nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão lớn, xung kích, sáng tạo, làm chủ khoa học - công nghệ tiên tiến, vươn lên ngang tầm thời đại. Hình thành một lớp thanh niên ưu tú trên mọi lĩnh vực, kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc; phấn đấu cho mục tiêu ''dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh''; góp phần to lớn vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, sánh vai cùng các nước tiên tiến trên thế giới. Đảng, Nhà nước và toàn xã hội chăm lo, tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để thanh niên rèn luyện, cống hiến và trưởng thành; được học tập, có việc làm, nâng cao thu nhập, có đời sống văn hoá, tinh thần lành mạnh.

Mục tiêu cụ thể trong những năm trước mắt, trọng tâm từ nay đến năm 2010 là:

Nâng cao nhận thức chính trị, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho thanh niên, nhất là học sinh, sinh viên. Tập trung giáo dục, định hướng, cổ vũ thanh niên thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" tạo chuyển biến thực sự trong đạo đức, lối sống và hành động của thanh niên.

- Xây dựng môi trường xã hội lành mạnh để thanh niên rèn luyện, phấn đấu và trưởng thành. Nâng cao năng lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về công tác thanh niên trong thời kỳ mới. Tập trung nguồn lực, thực hiện thành công Chiến lược thanh niên đến năm 20l0.

- Có chính sách mang tính đột phá trong đào tạo nguồn nhân lực trẻ chất lượng cao đáp ứng quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với giải quyết việc làm, tăng thu nhập, hưởng thụ văn hoá, vui chơi, giải trí của thanh niên.

- Tạo bước chuyển biến mới về chất lượng tổ chức và hoạt động của Đoàn, Hội; phát triển các loại hình tổ chức tập hợp thanh niên nhằm tăng tỷ lệ thanh niên được tập hợp; thu hẹp cơ sở yếu kém, tăng tỉ lệ thanh niên vào Đoàn, Hội. Xây dựng đội ngũ cán bộ đoàn, hội, nhất là cán bộ chuyên trách có phẩm chất đạo đức, trình độ, năng lực, gương mẫu, có khả năng vận động, đoàn kết, tập hợp thanh niên. Bảo đảm đủ số lượng cán bộ đoàn chuyên trách theo quy định, ít nhất 70% đội ngũ cán bộ đoàn chuyên trách trong độ tuổi thanh niên.

- Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên từ đoàn viên, phấn đấu đạt tỉ lệ ít nhất 70% đảng viên mới được kết nạp từ đoàn viên. Bố trí, sử dụng cán bộ trẻ có đủ tiêu chuẩn về phẩm chất và năng lực nhằm tăng nhanh tỉ lệ cán bộ trẻ trong cơ cấu các cơ cơ quan lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể từ Trung ương đến các cấp ở địa phương so với hiện nay.

3- Nhiệm vụ và giải pháp

3.1- Tăng cường giáo dục lý tưởng, đạo đức cách mạng, lối sống văn hóa, ý thức công dân để hình thành thế hệ thanh niên có phẩm chất tốt đẹp, có khí phách và quyết tâm hành động thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá

- Đầu tư hơn nữa công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về thanh niên và công tác thanh niên trong tình hình mới; dự báo xu hướng phát triển, nhận thức, thái độ của thanh niên để có luận cứ khoa học, thực tiễn, kịp thời đề ra các chủ trương, chính sách giáo dục, bồi dưỡng thanh niên trở thành lực lượng to lớn, xung kích trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

- Đổi mới nội dung và phương thức giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tăng cường giáo dục truyền thống văn hóa, lịch sử của Đảng và dân tộc, lý tưởng cách mạng cho thanh niên. Coi trọng giáo dục thanh niên trong hoạt động thực tiễn và các phong trào thi đua yêu nước.

- Xây dựng chuẩn mực đạo đức và định hướng giá trị mới cho thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ động hơn công tác chính trị, tư tưởng; nắm bắt và dự báo tình hình tư tưởng thanh niên; kịp thời đấu tranh, tuyên truyền làm rõ các âm mưu, luận điệu sai trái, giúp thanh niên hiểu và tích cực đấu tranh với âm mưu "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch.

- Bảo đảm tính chính trị, sự định hướng của Đảng làm phong phú và sâu sắc hơn các nội dung giáo dục, nhất là về lý tuởng, đạo đức lối sống, trong hoạt động báo chí xuất bản, văn hoá, văn nghệ hướng thanh niên vươn tới giá trị chân - thiện - mỹ. Chấn chỉnh, đổi mới hoạt động và quản lý báo chí, xuất bản nói chung nhất là báo chí, xuất bản trong hệ thống Đoàn, Hội, thực sự là phương tiện hữu hiệu giáo dục thanh niên.

- Mọi cấp uỷ đảng, nhất là người đứng đầu thường xuyên nắm tình hình định hướng và kiểm tra việc thực hiện công tác thanh niên; phân công đảng viên phụ trách công tác Đoàn, Hội; lãnh đạo Đảng, Chính quyền các cấp định kỳ gặp gỡ, đối thoại với thanh niên. Kết quả công tác thanh niên, công tác đoàn và phong trào thanh niên là một tiêu chí đánh giá, xếp loại tổ chức cơ sở đảng hằng năm. Mỗi đảng viên phải là tấm gương sáng cho thanh niên noi theo.

3.2- Đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, tạo cơ hội cho mọi thanh niên được học tập, không ngừng nâng cao trình anh, có tri thức và kỹ năng, vươn lên ngang tầm với thanh niên các nước tiên tiến trên thế giới.

Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản ly nội dung, phương pháp dậy và học; xây dụng một số cơ sở giáo dục - đào tạo đạt trình độ quốc tế; khuyến khích thành lập các cơ sở đào tạo nước ngoài tại Việt Nam đối với một số ngành, lĩnh vực cần thiết đáp ứng sự nghiệp phát triển đất nước. Xác định rõ mục tiêu đào tạo từng cấp học, bảo đảm giáo dục toàn diện về đức - trí - thể - mỹ nhằm hình thành lớp thanh niên có đủ bản lĩnh và năng lực, có tri thức và kỹ năng vươn lên ngang tầng với thanh niên các nước tiên tiến. Xây dựng cho thanh niên ý thức tự học, học tập suốt đời, phương pháp tu duy sáng tạo, độc lập, khả năng làm việc tập thể, kỹ năng thích nghi và tự tin trong cuộc sông.

- Tạo cơ hội cho thanh niên được thụ hưởng chính sách giáo dục, chú trọng tới nữ thanh niên, thanh niên dân tộc thiểu số, thanh niên nông thôn, thanh niên khuyết tật. Sớm có biện pháp khắc phục tình trạng bỏ học trong thanh thiếu thi. Phấn đấu hoàn thành phổ cập bậc trung học cơ sở cho thanh niên. Mở rộng chính sách tín dụng ưu đãi cho thanh niên vay để học tập trong các cơ sở đào tạo sau giáo dục phổ thông.

- Tạo điều kiện thuận lợi cho thanh niên học tập ở nước ngoài bằng nhiều nguồn lực khác nhau. Nhà nước dành ngân sách thoả đáng để lựa chọn sinh viên giỏi, cán bộ trẻ có năng lực để đưa đi đào tạo ở các nước phát triển. Quản lý, giúp đỡ thanh niên học tập ở nước ngoài. Chú trọng công tác tư vấn, lựa chọn ngành học; bố trí, sử dụng có hiệu quả số thanh niên du học về nước.

3.3- Nâng cao chất lượng lao động trẻ, giải quyết việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho thanh niên.

- Huy động nhiều nguồn lực xã hội, đầu tư ngân sách thoả đáng để đẩy mạnh dạy nghề, phổ cập sơ cấp nghề cho thanh niên. Hoàn thiện chính sách đào tạo nghề, giải quyết việc làm; có chính sách tín dụng ưu đãi cho các cơ sở dạy nghề, đặc biệt các nghề kỹ thuật cao; đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng dịch vụ thị trường lao động; tín dụng ưu đãi cho thanh niên vay tạo việc làm, lập nghiệp; khuyến khích thanh niên đi lao động có thời hạn ở nước ngoài.

-Xây dựng chiến lược truyền thông quốc gia về định hướng nghề nghiệp, việc làm cho thanh niên. Bảo đảm cơ cấu hợp lý trong đào tạo công nhân kỹ thuật, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học.

- Tập trung đào tạo hình thành nguồn nhân lực khoa học - công nghệ có chất lượng cao, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ mới đáp ứng yêu cầu của kinh tế tri thức, tạo mũi nhọn phát triển kinh tế, góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tập trung dạy nghề cho thanh niên nông thôn, bộ đội xuất ngũ, thanh niên dân tộc thiểu số. Khuyến khích đào tạo nghề tại doanh nghiệp, cơ sở sản xuất. Chú trọng giáo dục ý thức kỹ, thuật kỹ năng lao động, tay nghề cho thanh niên đi lao động có thời hạn ở nước ngoài; đồng thời có biện pháp quản lý, giáo dục, giúp đỡ số thanh niên này.

- Tạo môi trường thuận lơi để các thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuầt tạo việc làm mới và tăng thu nhập cho thanh niên, cải thiện đời sống. Phát triển thị trường lao động lành mạnh, năng động. Khuyến khích thanh niên làm giàu chính đáng. Nhà nước hỗ trợ để chuyển giao tiến bộ khoa học - kỹ thuật, tổ chức sản xuất kinh doanh cho thanh niên nông thôn; biểu dương, tôn vinh thanh niên làm kinh tế giỏi. Phát huy thế mạnh lao động nông nghiệp để đưa đi lao động ở mộ số quốc gia có địa bàn phù hợp.

3.4- Xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, tạo điều kiện cho thanh niên nâng cao đời sổng văn hoá tinh thần, phát triển toàndiện

- Đẩy mạnh thực hịên cuộc vận động ''Xây dựng, chỉnh đốn Đảng", "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh'' gắn với xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất, vi phạm pháp luật, tạo môi trường chính trị và đạo đức lành mạnh củng cố niềm tin cho thanh niên. Tập trung giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, tạo chuyển biến trong phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội (nhất là ma tuý, mại dâm, mê tín dị đoan), an toàn giao thông bảo vệ môi trường sống..., góp phần xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, hình thành lôí sống văn hoá trong thanh niên.

- Khuyến khích, tạo điều kiện để các cơ quan văn hoá, văn học nghệ thuật, xuất bản, báo chí sáng tác và phổ biến nhiều công trình, tác phẩm có giá trị cao để giáo dục thế hệ trẻ. Tăng cường quản lý văn hoá, xử lý nghiêm các sai phạm, kịp thời ngăn chặn các sản phẩm không lành mạnh tác động xấu đến thanh niên, nhất là qua Internet và các phương tiện thông tin đại chúng khác. Sớm hoàn thiện quy hoạch mạng lưới và từng bước xây dựng các trung tâm hoạt động thanh thiếu nhi, trung tâm sinh hoạt dã ngoại, nhà thiếu nhi trong toàn quốc. Sớm có chính sách để các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng các thiết chế văn hoá-thể thao, phát triển các loại hình giải trí lành mạnh cho thanh niên.

- Đẩy mạnh các hoạt động giáo dục về vai trò, trách nhiệm của thanh niên trong nâng cao chất lượng dân số, hôn nhân và xây dựng gia đình hạnh phúc, biết chăm lo và nâng cao sức khoẻ bản thân. Chú trọng giáo dục tiền hôn nhân, kiến thức và kinh ngiệm sống cho thanh niên. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chiến lược, chương trình mục tiêu quốc gia về dân số, chăm sóc sức khoẻ, phòng, chống HIV/AIDS, trong đó tập trung là đối tượng thanh niên.

- Đầu tư, đổi mới nội dung giáo dục thể chất trong nhà trường. Đẩy mạnh xã hội hoá các phong trào thể dục, thể thao quần chúng, huy động và tạo điều kiện để thanh niên luyện tập thể dục, thể thao, rèn luyện sức khoẻ.

3.5- Coi trọng hơn nữa việc trọng dụng tàinăng trẻ,tạo bước chuyển có tính đột phá trong bố trí và sử dụng cán bộ trẻ trên tất cả các lĩnh vực

- Tạo cơ chế chính sách công bằng, thuận lợi để mọi tài năng trẻ đều được tham gia phát triển đất nước; bố trí cán bộ trẻ có tài năng đảm nhận các nhiệm vụ quan trọng, phù hợp trong hệ thống chính trị, nâng cao tỉ lệ cán bộ trẻ trong các cơ quan lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành. Tạo bước đột phát trong việc bố trí, sử dụng cán bộ trẻ cán bộ trong độ tuổi thanh niên ở tất cả các cấp, coi đây là một nội dung quan trọng về công tác cán bộ của Đảng để lựa chọn cán bộ lãnh đạo cho tương lai.

- Xác định tiêu chí và phương pháp khoa học để phát hiện, theo dõi quá trình phát triển các tài năng trẻ, nhất là số học sinh, sinh viên xuất sắc, cá nhân điển hình trong các phong trào thanh niên. Xây dựng chương trình đào tạo thích hợp để hình thành đội ngũ tài năng trẻ trên mọi lĩnh vực, đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

- Có chính sách sử dụng và đãi ngộ hợp lý để thu hút tài năng trẻ đang học tập, công tác, sinh sống ở nước ngoài tham gia phát triển đất nước.

3.6- Xây dựng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh vững mạnh thưc sự là trường học xã hội chủ nghĩa của thanh niên, đội dự bị tin cậy của Đảng

- Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, xây dựng Đoàn thực sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thu hẹp nhanh các cơ sở đoàn yếu kém. Nâng cao sức hấp dẫn các phong trào thanh niên do Đoàn tổ chức, qua đó tạo môi trường giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện, khơi dậy và phát huy tính xung kích của tuổi trẻ, xây dựng các điển hình thanh niên tiên tiến, chăm lo lợi ích chính đáng của thanh niên; phát hiện, lựa chọn đoàn viên ưu tú để bồi dưỡng tạo nguồn kết nạp đảng viên và đào tạo cán bộ trẻ.

Bảo đảm vai trò nòng cốt của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong xây dựng Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Hội Sinh viên Việt Nam vững mạnh; đổi mới phương thức vận động, đa dạng hoá các loại hình tập hợp để thu hút rộng rãi các đối tượng thanh niên. Tăng cường xây dựng lực lượng thanh niên nòng cốt để thành lập tổ chức cơ sở của Đoàn, Hội ở mọi lĩnh vực.

- Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đoàn các cấp thực sự có trình độ năng lực, nhiệt tình, có khả năng vận động quần chúng, độ tuổi sát với tuổi thanh niên, thực sự tiêu biểu trong thanh niên. Ban hành quy chế cán bộ đoàn, xác đinh rõ trách nhiệm các cấp uỷ đảng trong phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, luân chuyển cán bộ đoàn. Thực hiện định biên cán bộ đoàn chuyên trách khối cơ quan hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp. Xây dựng Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam nằm trong hệ thống đại học quốc dân và trường Đoàn các khu vực thực sự trở thành trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đoàn.

- Tạo mọi điều kiện để Đoàn huy động, tổ chức cho thanh niên tham gia thực hiện các nhiệm vụ, chương trình phát triển kinh tế - xã hôi.

- Chăm lo xây dựng Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh, tích cực, bảo vệ, chăm sóc, giáo dục thiếu niên, nhi đồng. Coi trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác thiếu nhi, chuẩn hóa tổng phụ trách Đội, phụ trách thiếu nhi trong các trường tiểu học, trung học cơ sở, nhà thiếu nhi.

- Có nội dung, phương thức vận động phù hợp để tập hợp thanh niên đang học tập, lao động ở nước ngoài, thanh niên Việt kiều; cung cấp kịp thời các thông tin về tình hình đất nước, có các hình thức hỗ trợ kịp thời, động viên thanh niên không ngừng học tập, lao động, hướng về Tổ quốc.

- Tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ với các tổ chức thanh niên các nước trong khu vực và thế giới, cùng phấn đấu cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Tích cực hợp tác trên mọi lĩnh vực với các tổ chức thanh niên tiến bộ trên thế gỉới.

3.7 Tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, tổ chức kinh tế- xã hội và gia đình, phối hợp giáo dục, bồi dưỡng, phát huy thanh niên

- Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong công tác thanh niên, mỗi đoàn thể phải có chương trình cụ thể về công tác thanh niên, quy chế phối hợp hoạt động với Đoàn và các tổ chức thanh niên, chú trọng công tác nữ thanh niên; phân công cán bộ làm công tác thanh niên; vận động đoàn viên, hội viên thuộc đoàn thể mình tham gia tập hợp, giáo dục thanh thiếu nhi; tham gia kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính sách liên quan đến thanh niên và công tác thanh niên.

- Phối hợp chặt chẽ giữa các đoàn thể nhân dân các bậc lão thành cách mạng, các nhà hoạt động văn hóa xã hội, nhân sĩ, trí thức, Anh hùng lực lượng vũ trang, Anh hùng lao động, doanh nghiệp và gia đình với Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chi Minh để chăm lo giáo dục, xây dựng ước mơ, hoài bão, bồi dưỡng và phát huy thanh niên.

- Đề cao trách nhiệm của gia đình trong giáo dục, quản lý thanh niên, xây dựng gia đình hạnh phúc, là môi trường quan trọng hình thành nhân cách, giáo dục ý thức công dân, giữ gìn và phát huy truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc cho thanh thiếu nhi. Biểu dương các gia đình nuôi dạy con tốt, phê phán các gia đình không làm tốt nghĩa vụ giáo dục, quản lý con em. Gia đình tạo điều kiện, động viên con em là thanh niên tham gia hoạt động xã hội và cống hiến cho đất nước.

3.8- Phát huy sự nỗ lực phấn đấu của mỗi thanh niên trong học tập, lao động và cuộc sống; không ngững rèn luyện đạo đức, lối sống, hoàn thiện nhân cách trở thành công dân hữu ích, thành viên tốt trong gia đình, tích cực đóng góp cho sự phát triển của đất nước

- Mỗi thanh niên phải luôn rèn luyện, phấn đấu, vươn lên trong học tập, lao động và cuộc sống; nhận thức rõ vị trí, vai trò, thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của thanh niên với Tổ quốc; tích cực tham gia sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa góp phần xây dựng nước Việt Nam "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" và cho chính tương lai của thanh niên.

- Thanh niên luôn chủ động và không ngừng học tập, nâng cao trình độ, kiến thức chuyên môn, tay nghề; cần cù, chịu khó, sáng tạo, có tác phong công nghiệp trong lao động; vươn lên lập thân, lập nghiệp, làm giàu chính đáng.

- Thanh niên phải thường xuyên rèn luyện đạo đức, lối sống, nếp sống văn minh, giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc; có thái độ và hành vi úng xử cao đẹp trong tình bạn, tình yêu; yêu thương con người, chăm lo hạnh phúc gia đình; kính trọng ông bà, cha mẹ, thầy, cô giáo và người lớn tuổi; tích cực rèn luyên, nâng cao sức khỏe, trở thành công dân hữu ích, thành viên tốt của gia đình; hăng hái tham gia các hoạt động cộng đồng.

- Thanh niên luôn xung kích, tình nguyện, sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; đảm nhận những việc khó khăn, gian khổ khi Đảng, Tổ quốc và nhân đân yêu cầu.

3.9- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên và công tác thanh niên.

- Củng cố kiện toàn Uỷ ban Quốc gia về thanh niên Việt Nam đủ mạnh và giao cho Uỷ ban một số nhiệm vụ, quyền hạn để tham mưu cho Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác thanh niên. Các bộ, ngành và uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh niên theo lĩnh vực, địa bàn và theo sự phân công phân cấp của Chính phủ. Thành lập Hội đồng công tác thanh niên ở các tỉnh, thành phố, trực thuộc Trung ương làm nhiệm vụ tham mưu cho Uỷ ban nhân nhân tỉnh , thành phố thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh niên Chính phủ chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức thực hiện mô hình này.

- Xác định chỉ số về thanh niên và công tác thanh niên trong chỉ số thống kê quốc gia, trong chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các ngành, các cấp

- Tăng cường vai trò giám sát và phản biện xã hội của Đoàn, các tổ chức thanh niên đối với việc xây dựng và tổ chức thực hiện các chủ trương chính sách về thanh niên, công tác thanh niên.

- Thực hiện tốt Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, tạo điểu kiện để thiếu nhi phát triển toàn diện, trở thành những thanh niên tốt.

- Tập trung chỉ đạo để hoàn thành các mục tiêu trong Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam đến năm 2010; xây dưng Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam đến năm 2020, gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; cụ thể hóa các chủ trương của đảng trong giáo dục, bồi dưỡng phát huy thanh niên.

- Sửa đổi, bổ sung Luật Thanh niên phù hợp với tình hình mới. Ban hành Luật Việc làm. Sớm ban hành cơ chế, chính sách để giải quyết chỗ ở, nơi sinh hoạt văn hóa, thể thao cho thanh niên làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế xuất và học sinh, sinh viên đang học tập.

III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN

1- Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ đạo cụ thể hoá nội đung, phương hướng công tác thanh niên thành các đề án và chỉ đạo xây dựng ban hành các quy định, quy chế, hướng dẫn để thực hiện.

2- Các tỉnh uỷ, thành uỷ, các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng uỷ trực thuộc Trung ương tổ chức nghiên cứu, quán triệt và xây dựng chương trình hành động, kế hoạch thực hiện Nghị quyết phù hợp với tình hình, đặc điểm của ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị.

3- Đảng đoàn Quốc hội chỉ đạo rà soát bổ sung sửa đổi và ban hành mới một số văn bản pháp luật có liên quan tới thanh niên và công tác thanh niên.

4- Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo việc cụ thể hoá nội dung công tác thanh niên thành chính sách cụ thể; xây dựng chương trình hành động, chỉ đạo các bộ, ngành, các địa phương thực hiện. Củng cố, kiện toàn Uỷ ban Quốc gia về thanh niên Việt Nam; xác định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan tham mưu quản lý nhà nước về công tác thanh niên ở các bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

5 - Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân xây dựng chương trình hành động, tổ chức, quán triệt, thực hiện Nghị quyết này trong đoàn viên, hội viên, các tầng lớp nhân dân.

6- Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì , phối hợp với Ban Bí thư Trung ương Đoàn và các cơ quan liên quan ở Trung ương hướng dẫn việc nghiên cứu, học tập nội dung Nghị quyết, tuyên truyền quá trình thực hiện Nghị quyết này.

7- Ban Dân vận Trung ương và Ban Bí thư Trung ương Đoàn chủ trì, phối hợp với các ban, cơ quan đảng ở Trung ương hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc việc triển khai thực hiện Nghị quyết, định kỳ báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ban Chấp hành Trung ương.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro