danh tuong tam quoc

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

trieu van

Triệu Vân (Zhao Yun) (168-229), tự là Tử Long người vùng Thường Sơn, là một vị tướng thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Quốc. Ông là người đã góp công lớn vào việc thành lập nhà Thục, với Lưu Bị là vị hoàng đế đầu tiên. Ông được phong chức Hổ uy Tướng quân và đứng thứ ba trong Ngũ Hổ Tướng của nhà Thục, bao gồm: Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Hoàng Trung và Mã Siêu.

Cuộc đời:

Triệu Vân sinh năm 168 tại huyện Chân Định, thuộc quận Thường Sơn (hiện nay là huyện Chính Định, tỉnh Hà Bắc, phía bắc Trung Quốc). Ông cao khoảng 1,92 m (gần 6,4 bộ), mày rậm mắt to, uy phong lẫm liệt, giỏi võ nghệ và có tài thao lược. Ông theo về với Công Tôn Toản trong một lần Triệu Vân cứu Công Tôn Toản thoát chết, một tướng quân cát cứ trong vùng vào khoảng cuối năm 191 hoặc đầu năm 192, với danh nghĩa thủ lĩnh một đội quân tình nguyện nhỏ. Trong năm 192, Triệu Vân được xếp dưới quyền trực thuộc của Lưu Bị, người mà khi ấy chỉ là bộ tướng của Công Tôn Toản, giữ chức Phiêu kỵ tướng quân. Lưu Bị có vài nghìn kỵ binh, và Triệu Vân được điều đến trong hàng ngũ này. Ngay sau đó, Triệu Vân từ bỏ Lưu Bị và Công Tôn Toản để về quê chịu tang anh trai. Triệu Vân lại theo về với Lưu Bị vào năm 200. Từ đó Triệu Vân quan hệ rất gắn bó với Lưu Bị. Tam Quốc Chí kể họ cùng ngủ chung một giường trong thời gian hai người ở tại Gia Thành. Trong khoảng thời gian đó, Lưu Bị phái Triệu Vân bí mật tuyển mộ thêm quân để tăng cường cho đội quân trực thuộc của Lưu Bị. Kể từ đây Triệu Vân chính thức bỏ Công Tôn Toản theo phò Lưu Bị.

Trường Bản Ba:

Năm 208, Lưu Bị giao tranh với Tào Tháo thất bại và bị đuổi chạy qua Trường Bản. Trong trận Trường Bản thì Triệu Vân đã liều mạng sống bảo vệ gia quyến Lưu Bị, cứu được con trai Lưu Bị là Lưu Thiện (A Đẩu), tạo nên điển tích Tử Long một ngựa cứu ấu chúa nổi tiếng đến ngày nay. Sau Đại chiến Xích Bích, Triệu Vân góp công lớn giúp Lưu Bị dành được phần nam Kinh Châu, và trở thành một trong những tướng lĩnh quan trọng trong tập đoàn Lưu Bị, được phong chức "đại tướng quân". Khi Lưu Bị dẫn quân vào Ích Châu (nay là tỉnh Tứ Xuyên), ông đã giao cho Triệu Vân phòng thủ căn cứ chính ở Công An (bây giờ thuộc tỉnh Hồ Bắc) với tư cách "lưu dẫn tư mã".

Bài thơ về Triệu Vân cứu chúa trong trận Đương Dương - Trường Bản:

Máu đỏ chan hòa áo giáp hồng

Đương Dương ai kẻ dám tranh hùng

Xưa nay cứu chúa xông trăm trận

Chỉ có Thường Sơn Triệu Tử Long

Cuối đời:

Năm 229, Triệu Vân bị bệnh mất ở Hán Trung, quân sĩ nước Thục vô cùng nuối tiếc. Ông được Lưu Thiện truy phong làm "Thuận Bình hầu" năm 261.

-> Được biết đến như một chiến binh vĩ đại, Triệu Vân hội tụ đủ các bản chất của những anh hùng trong thời đại ông.Trong đoạn Lưu Bị thoát khỏi mưu mô của Sái Mạo hay đoạn đòi lại A Đẩu trên sông..., Triệu Vân luôn tỏ rõ là người biết suy xét thiệt hơn, bỏ qua tư lợi cá nhân, vì sự nghiệp lớn. Điều này chúng ta vẫn thấy một vị đại tướng thường mắc phải như Quan Vũ, Quan Vũ đã hơi vì tự tôn cá nhân mà quên đi lợi ích của cả một tập thể, khiến nhiều lần mắc sai lầm, tệ hại nhất là đánh mất Kinh Châu và tự mình chết uổng mạng.

Triệu Vân võ công cao cường, thực ra ông còn đáng được ngưỡng mộ bởi tài thao lược khôn khéo, lòng trung thành tận tụy và tính cách thẳng thắn, sự dũng cảm phi thường. Chính Triệu Vân đã dám đứng ra can gián Lưu Bị tiến đánh Đông Ngô để trả thù bằng những lý do sáng suốt.

Lã Bố (chữ Hán: 呂布; ?-198), tự là Phụng Tiên, là tướng nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông đã tham gia cuộc chiến quân phiệt cuối thời Đông Hán và cuối cùng bị thất bại.Lã Bố người đất Cửu Nguyên, huyện Ngũ Nguyên thuộc Tinh châu (nay là thành phố Bao Đầu, Nội Mông Cổ ngày nay). Ông được biết tới chủ yếu qua tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung. Trong tiểu thuyết này Lã Bố được mô tả là một viên tướng hết sức dũng mãnh, chuyên sử dụng phương thiên họa kích. Người ta thường nói "Người có Lã Bố, ngựa có Xích Thố".

Từ khi còn trẻ, Lã Bố là người mạnh mẽ, kiêu dũng. Khi thứ sử Tinh châu là Đinh Nguyên lĩnh chức Kị đô úy đã bổ nhiệm Lã Bố làm chủ bạ, luôn coi ông là người thân tín.

Trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa, La Quán Trung kể rằng Đinh Nguyên nhận Lã Bố làm con nuôi

Năm 189, Hán Linh Đế qua đời, con là Thiếu Đế Lưu Biện lên nối ngôi. Ngoại thích Hà Tiến mưu trừ hoạn quan chuyên quyền, bèn triệu tập quân các trấn. Đinh Nguyên theo lệnh dẫn quân đến Lạc Dương, Lã Bố đi theo. Sau đó Hà Tiến bị hoạn quan giết, Viên Thiệu diệt hoạn quan. Một tướng khác được Hà Tiến triệu tập là Đổng Trác cũng tiến vào Lạc Dương, tranh chấp quyền lực. Viên Thiệu yếu thế phải bỏ chạy còn Đinh Nguyên dàn quân chống lại.

Lúc đó Đổng Trác dùng kế lấy lợi lộc dụ Lã Bố để ông phản lại Đinh Nguyên. Lã Bố nhận lời, nhân lúc Đinh Nguyên tin tưởng mình không phòng bị bèn bất ngờ giết chết Đinh Nguyên, mang toàn quân về hàng Đổng Trác.

Đổng Trác nhận Lã Bố làm con nuôi và bổ nhiệm làm Kị đô úy. Ông trở thành người phục vụ đắc lực cho Đổng Trác.

Nhờ sức khỏe hơn người, giỏi võ nghệ và cung tên, ông được mọi người gọi là Phi tướng quân. Sau đó ông được Đổng Trác phong làm Trung lang tướng, tước Đô đình hầu.

Viên Thiệu triệu tập chư hầu chống lại Đổng Trác. Tướng Tôn Kiên ở Ngô quận hưởng ứng, mang quân tấn công Trác. Đổng Trác sai Lã Bố và Hồ Chẩn ra đánh. Lã Bố và Hồ Chẩn bất hòa, vì vậy bị Tôn Kiên đánh bại phải rút chạy về. Đổng Trác mang vua Hiến Đế bỏ Lạc Dương chạy vào Tràng An, chỉ để bộ tướng Từ Anh và Ngưu Phụ ở lại chống giữ, còn Lã Bố đi theo vào Tràng An.

Do Đổng Trác tàn bạo, giết nhiều người và kết oán với nhiều người nên những lúc xuất hành và nghỉ ngơi thường dùng Lã Bố làm cảnh vệ. Tuy nhiên, Trác quen tính thô lỗ và nóng nảy, có lần Lã Bố đứng hầu có chút không vừa ý bèn chộp lấy cái kích phi vào ông. Lã Bố vội tránh cây kích và xin lỗi, Đổng Trác mới nguôi giận. Cũng từ đó Lã Bố hận thù Trác.

rong những lần được giao bảo vệ Trung các, Lã Bố thừa cơ quan hệ tình ái với người hầu của Đổng Trác. Ông rất lo sợ bị phát hiện[2][3].

Trong hàng ngũ các đại thần nhà Hán, Lã Bố được Tư đồ Vương Doãn - người đồng hương Tinh châu - quý mến. Ông tới nhà Vương Doãn thuật việc mình bị Đổng Trác phi kích. Vương Doãn vốn đang cùng Bộc xạ Sĩ Tôn Thụy mưu giết Trác, thấy Lã Bố như vậy bèn bàn mưu cùng hành sự. Ban đầu Lã Bố còn do dự vì ông đã nhận Đổng Trác làm cha nuôi, nhưng vì Vương Doãn lựa lời thuyết phục nên ông nghe theo.

Vương Doãn sai Sĩ Tôn Thụy thay mặt Hán Hiến Đế viết chiếu thư sai Lã Bố giết Đổng Trác. Tháng 4 âm lịch năm 192, Đổng Trác vào cung yết kiến vua Hiến Đế. Lã Bố trước đã lệnh cho thuộc tướng Lý Túc phục võ sĩ ở cửa Bắc Dịch chờ đợi, còn bản thân ông vẫn theo hộ vệ Đổng Trác. Khi Trác vừa vào, Lý Túc đâm luôn, nhưng Trác mặc giáp nên chỉ bị thương ngã ra đất. Trác chưa biết Lã Bố phản mình nên gọi Lã Bố đến cứu thì ông chạy thẳng tới đâm chết Trác.

Sau đó ông rút chiếu thư ra đọc, tuyên bố mình được lệnh của vua để giết Trác, vì vậy tướng sĩ dưới quyền Trác đều không dám chống lại.

Đầu năm 195, Tào Tháo quyết định thay đổi chiến thuật đánh Lã Bố, dương đông kích tây khiến Lã Bố mệt mỏi. Tào Tháo chia quân làm nhiều ngả, một mặt điều một cánh quân đi đánh Định Đào[6]. Lã Bố đi cứu; đến mùa hạ lại tấn công Cự Dã[7], bao vây hai tướng của Lã Bố là Tiết Lan và Lý Phong. Trần Cung và Lã Bố mang 1 vạn quân từ Định Đào đi cứu. Tào Tháo lợi dụng địa hình dùng kế mai phục đánh bại Lã Bố trên đường rồi thúc quân lấy Định Đào. Lã Bố và Trần Cung rút quân về Đông Mân. Tào Tháo hạ thành Cự Dã, giết chết Phong và Lan. Trong khi Lã Bố và Trần Cung còn lúng túng chưa biết cử động ra sao thì Tào Tháo đã điều các cánh quân đánh chiếm các thành trì nhỏ ở Duyện châu. Lã Bố nghe tin mấy thành xung quanh bị hạ, hoang mang tột độ bèn chạy về Từ châu theo Lưu Bị.

Việc Lã Bố vội vã rút lui khỏi Duyện châu khiến anh em Trương Mạc và Trương Siêu mất chỗ dựa. Họ Trương sau đó bị Tào Tháo đánh bại giết chết.

khuong duy

Khương Duy tự là Bá Ước (伯約), người huyện Ký, Thiên Thuỷ[1].

Cha ông là Khương Quýnh từng làm chức Công tào trong quận. Khi người Nhung và người Khương chống lại nhà Ngụy, Khương Quýnh bảo vệ cho thái thú và bị tử trận. Vì vậy nhà Ngụy phong cho ông làm chức Trung lang.

Cha mất sớm, Khương Duy sống với mẹ, say mê Kinh học của Trịnh Huyền, làm chức Thượng kê duyên (ghi chép) trong quận, sau đó ông được làm tùng sự.

Hàng ThụcNăm 228, Thừa tướng nhà Thục Hán là Gia Cát Lượng xuất quân bắc phạt, ra Kỳ Sơn lần thứ nhất. Thái thú Thiên Thuỷ là Mã Tuân dẫn ông cùng Lương Tự, Doãn Thưởng, Lương Kiều và thứ sử Ung châu là Quách Hoài đi tuần các nơi.

Nghe tin quân Thục đến Kỳ Sơn, Quách Hoài trở về Thượng Khuê phòng bị. Mã Tuân một mình ở lại Ký huyện xa xôi phía tây, thế cô, có ý lo sợ. Khương Duy khuyên Tuân về phòng thủ Ký huyện nhưng Tuân không nghe và có ý nghi ngờ Khương Duy, nói rằng:

Bọn các ngươi đều không đáng tin cậy!

Rồi Tuân nhân đêm tối bỏ chạy về Thượng Khuê với Quách Hoài. Khương Duy sau mới phát hiện ra, bèn chạy theo, nhưng đến nơi thì thành Thượng Khuê đóng cửa, không cho ông vào. Ông quay trở về Ký huyện thì Ký huyện cũng đóng cửa ngăn ông. Ông bèn chạy sang đầu hàng Gia Cát Lượng.

Thấy ông lại hàng, Gia Cát Lượng rất mừng. Nhưng sau đó Mã Tốc để mất Nhai Đình nên quân Thục phải triệt thoái. Khương Duy theo quân Thục về nước và lạc mất mẹ.

Gia Cát mến tài ông, phong làm Thương tào duyện, Phụng Nghĩa tướng quân, rồi Đan Dương đình hầu khi ông mới 27 tuổi (230). Trong thư gửi Trương Duệ, Gia Cát khen ngợi tài năng của ông:

"Khương Bá Ước là người trung thành, cần cù, suy nghĩ chín chắn... Người này đích thực là nhân vật xuất chúng về quân sự... Cái quý nhất là trong lòng anh ta vẫn còn nhà Hán..."

Trong thời gian Gia Cát Lượng ra Kỳ Sơn đánh Tào Ngụy những lần sau đó, Khương Duy đều tham gia chiến trận.

Học Trò Của Khổng Minh và cũng là quân sư chính thức sau này của Thục :Jiang Wei : Khương Duy vừa văn vừa võ thật đáng mặt anh hào chỉ tiếc có tài nhưng ko có đất dụng võ , xuất hiện sau thời của Khổng Minh tuy làm quân sư những vẫn bị Hoàng Hạo dèm pha khiến cho Lưu Thiền khó mà tin dùng, cuối cùng cũng bị chết 1 cách ko đáng, Deng Ai-Đặng Ngãi ko tin rằng Khương Duy lớn mật to gan tới nổi 1 năm mà dám hành quân cả chục trận nên mổ bụng của y ra thì quả thật gan của Khương Duy thật là lớn khiến cho Đặng Ngãi phải khiếp sợ.

hua chu~lưng to mười bản tay, tay cầm thanh đao lớn. Khi Tào Tháo sai Điển Vi đi đánh dẹp bọn dư đảng giặc khăn vàng ở Nhữ Nam và Dĩnh Xuyên thì trên đường truy kích giặc gặp Hứa Chử. Điển Vi thấy Hứa Chử bắt được bọn giặc cướp nhưng không giao nộp nên lao vào đánh Hứa Chử. Cả 2 đánh nhau hơn trăm hiệp nhưng bất phân thắng bại. Tào Tháo thấy Hứa Chử sức khỏe phi thường như vậy nên thích lắm bèn sai người dùng kế bắt sống rồi mời Hứa Chử theo phục vụ mình. Hứa Chủ vui vẻ nhận lời và được Tào Tháo phong làm đô úy, cho làm tướng hầu cận bên cạnh mình cùng với Điển Vi.

Từ đó, Hứa Chử bên cạnh Tào Tháo lập được nhiều công lớn và cùng Tào Tháo tham gia nhiều trận chiến lớn, được Tào Tháo so sánh như Phàn Khoái, một vị tướng nổi tiếng sống vào đầu đời Hán. Năm 200, Hứa Chử tham gia trận Quan Độ chống lại Viên Thiệu và tại đây ông dược Tào Tháo sai làm tiên phong tiến đánh hậu cần quân lương của Viên Thiệu tại Ô Sào. Thất bại ở Ô Sào dẫn đến thất bại hoàn toàn của Viên Thiệu ở trận Quan Độ.

Năm 208, Hứa Chử đi theo Tào Tháo đánh chiếm Kinh Châu và tham gia trận Xích Bích nhưng thất bại. Trên đường trở về Hứa Đô, Hứa Chử đã bảo vệ Tào Tháo và các mưu sĩ an toàn trước sự truy kích của quân Lưu Bị và quân Đông Ngô.

Năm 211, Mã Siêu dẫn 20 vạn quân tấn công Trường An báo thù cho cha. Tào Tháo dẫn quân đến ải Đồng Quan nghênh địch. Trong trận Đồng Quan khi Mã Siêu suýt bắt được Tào Tháo thì bị Hứa Chử xông ra ngăn lại rồi còn tuyên chiến với Mã Siêu và cả 2 đánh nhau 1 trận kinh hồn. Sau trận đó, ai cũng gọi Hứa Chử là "Hổ hầu".

Năm 215, Hứa Chử theo Tào Tháo đi đánh chiếm Hán Trung. Tại đây, Hứa Chử cũng lập nhiều công lớn, góp công giúp Tào Tháo lấy Hán Trung. Năm 219, Lưu Bị dẫn quân đánh Hán Trung, Hứa Chử cũng đi theo Tào Tháo đến bảo vệ Hán Trung nhưng thất bại.

Năm 220, Tào Tháo bệnh mất, Hứa Chử theo phục vụ con trai Tào Tháo là Tào Phi. Sau khi Tào Phi mất thì không còn thông tin gì về ông nữa ngoài việc sau này con trai ông là Hứa Nghi vì vi phạm quân lệnh nên bị Chung Hội xử chém năm 263.

quan binh

ăm 211, Lưu Bị nhận lời Lưu Chương vào Tây Xuyên để giúp Lưu Chương chống lại Trương Lỗ. Lưu Bị đem 5 vạn quân và 1 số tướng vào Tây Xuyên trong đó có Quan Bình. Tuy nhiên sau đó Lưu Bị và Lưu Chương có mâu thuẫn nên xảy ra chiến tranh giữa 2 người. Năm 213, Bàng Thống là quân sư của Lưu Bị bị tướng Thục là Trương Nhiệm bắn chết, Lưu Bị phải bảo Quan Bình đem thư cầu cứu về Kinh Châu giao cho Khổng Minh. Khổng Minh nhận được thư, bèn dẫn Trương Phi, Triệu Vân vào Tây Xuyên, giao Kinh Châu lại cho Quan Vũ và Quan Bình.

Năm 219, Ngô và Ngụy liên quân đánh Kinh Châu. Khổng Minh sai Quan Vũ và Quan Bình tấn công Phàn Thành của Tào Nhân để chống lại quân Ngụy. Quan Vũ chiếm được Tương Dương, sau đó lại tiêu diệt quân cứu viện của quân Ngụy do Vu Cấm, Bàng Đức chỉ huy kéo đến Phàn Thành. Tuy nhiên sau đó quân Ngô đánh úp Kinh Châu, Từ Hoảng kéo quân đến giải vây Phàn Thành đánh bại Quan Bình, khiến Quan Vũ phải kéo về Kinh Châu tuy nhiên Kinh Châu đã mất nên đến ở tạm Mạch Thành ( nay thuộc Hà Bắc). Sau đó Quan Vũ và Quan Bình trên đường chạy về Tây Xuyên bị quân Ngô bắt được, cả 2 cha con đều bị hành hình. Quan Bình mất năm 219, khi mất ông khoảng 29 tuổi.

cây quan bình xài như đại đao nhưng phần sau lại là chuôi kiếm

luu biKết nghĩa vườn đào

Lưu Bị tự là Huyền Đức, người huyện Trác (nay là huyện Trác, tỉnh Hà Bắc). Ông là con Lưu Hoằng, cháu Lưu Hùng, con cháu đời sau của Trung Sơn Tĩnh vương Lưu Thắng, con Hán Cảnh Đế Lưu Khải. Đến đời Lưu Bị, nghiệp nhà sa sút, đành dựa vào nghề đan giày, bện chiếu mà sống. Ông đọc sách mà không chịu dụng công, lại thích chơi chó cưỡi ngựa, thích nghe âm nhạc, nghiên cứu cách ăn mặc. Ông thích kết giao với người hào kiệt, cùng Quan Vũ, Trương Phi đối xử với nhau rất tốt. Ông nhờ tham gia trấn áp khởi nghĩa quân Khăn vàng mà nổi lên, từng theo Công Tôn Toản tham gia quân Quan Đông đánh Đổng Trác.

Không có đất cắm dùi

Lưu Bị trong thời gian trước khi gặp Khổng Minh thì phải đi nương nhờ nhiều người. Đầu tiên Lưu Bị mượn quân của Công Tôn Toản đến Từ Châu giúp Đào Khiêm chống lại Tào Tháo, Đào Khiêm mến tài, đức của Lưu Bị nên có ý nhượng Từ Châu cho Lưu Bị nhưng Lưu Bị không nhận và ra trấn giữ Tiểu Bái. Đào Khiêm bệnh mất, trước khi mất đã cầu xin Lưu Bị nhận Từ Châu. Lưu Bị bất đắc dĩ phải nhận. Sau đó Lữ Bố thua trận đến nương nhờ Lưu Bị, Lưu Bị muốn nhường Từ Châu cho Lữ Bố. Lữ Bố toan nhận nhưng thấy Quan Công, Trương Phi không hài lòng nên chối từ. Sau đó, nhân lúc Lưu Bị đánh Viên Thuật, giao Từ Châu lại cho Trương Phi, Lữ Bố đánh úp Từ Châu khiến Lưu Bị phải đến nương nhờ Tào Tháo, nhờ Tào Tháo giúp đánh lại Lữ Bố.

Tào Tháo đánh bại Lữ Bố ở thành Hạ Bì, thắt cổ Lữ Bố ở lầu Bạch Môn rồi dẫn Lưu Bị về triều đình ra mắt Hán Hiến Đế. Hán Hiến Đế xem trong gia phả rồi nhận Lưu Bị làm chú, từ đó Lưu Bị còn được gọi là Lưu Hoàng thúc. Hán Hiến Đế bị Tào Tháo ức hiếp nên viết tờ "Y đái chiếu" cho Đổng Thừa nhờ Đổng Thừa diệt Tào Tháo. Đổng Thừa liên kết với Lưu Bị và Mã Đằng. Lưu Bị sau đó xin Tào Tháo đi diệt Viên Thuật rồi trốn khỏi Tào Tháo. Tào Tháo đem quân đánh Lưu Bị, ba anh em Lưu, Quan, Trương thất tán mỗi người một nơi. Lưu Bị đến nương nhờ Viên Thiệu, sau Quan Vũ chém chết 2 tướng của Viên Thiệu là Nhan Lương, Văn Xú nên Lưu Bị suýt bị Viên Thiệu chém đầu. Sau đó ba anh em đoàn tụ, Lưu Bị đến nương nhờ Lưu Biểu sau đó Lưu Bị đồn trú ở Tân Dã, chiêu nạp hiền tài nghĩa sĩ, đi khắp nơi cầu hiền.

Năm 214, Lưu Bị giả vờ đến giúp đỡ Lưu Chương, là người cùng họ, nhưng đánh lén, chiếm lấy đất Thục. Từ đó ông có cả đất Kinh Châu và Ba Thục, trở thành một quyền lực lớn ở phía Tây, nhưng quân sư là Bàng Thống chết trong cuộc chiến.

Năm 219, quân Lưu Bị chiếm được Hán Trung, giết được Hạ Hầu Uyên, và tự xưng là Hán Trung Vương. Ông phong Ngũ Hổ Tướng gồm có: Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Mã Siêu và Hoàng Trung. Ngụy Diên được cho trấn thủ Hán Trung.

Năm 220, sau khi Tào Phi xưng đế (Ngụy Văn Đế), Lưu Bị tự lập làm hoàng đế, lấy quốc hiệu là Hán để kế tục nhà Hán (sử gọi là Thục Hán), đóng đô ở Thành Đô.

Liên minh Thục - Ngô có lẽ sẽ kéo dài và Thục sẽ không mất nếu như không xảy ra biến cố Tôn Quyền sai đại tướng Lã Mông đánh úp lấy Kinh Châu, chém Quan Vũ, khiến Lưu Bị nổi giận mang quân báo thù làm cho quan hệ liên hiệp giữa Tôn Quyền và Lưu Bị tan vỡ, chiến tranh Ngô-Thục nổ ra. Cũng bắt đầu từ đấy hễ Thục bị Ngụy tấn công thì Ngô không thèm dòm tới cũng như Ngô bị Ngụy xâm lăng thì Thục cũng không tiến sang đông. ("Sử Trung Quốc" của Nguyễn Hiến Lê).

Năm 221, Lưu Bị lấy danh nghĩa trả thù cho Quan Vũ, cất đại quân đánh Ngô, Tôn Quyền rất lo ngại nên sai Lục Tốn đứng ra chỉ huy. Trong trận Di Lăng, bị Lục Tốn đánh cho thua to. Năm sau, bị bệnh mất ở thành Bạch Đế (nay là huyện Phụng Tiết, Tứ Xuyên), hưởng thọ 62 tuổi. Ông được truy tôn là Hán Chiêu Liệt Hoàng đế. Con trưởng là Lưu Thiện lên kế vị, tức là Hán Hậu Chủ.

dien~ vi

Điển Vi quê ở Trần Lưu( Bính âm Dian Wei ) chua rõ năm sinh. Năm 189, Điển Vi theo thái thú Trương Mạc, sau vì lỡ tay giết người nên bỏ trốn sau về với Hạ Hầu Đôn, danh tướng của Tào Tháo. Sau Điển Vi được Hạ Hầu Đôn tiến cử cho Tào Tháo. Tào Tháo thấy Vi sức khỏe phi thường nên cho làm chức Trướng tiền đô úy, cho đi theo bảo vệ Tháo. Sau đó, Vi lập nhiều công trạng của Tháo nên được Tào Tháo rất tin tưởng.

Năm 197, Tào Tháo dẫn 15 vạn quân đánh Trương Tú ở Uyển Thành. Trương Tú đầu hàng. Sau vì Tào Tháo tư thông với thím dâu của Trương Tú nên Trương Tú tức giận bất ngờ đánh úp Tào Tháo. Tào Tháo tìm đường trốn. Nhờ có Điển Vi chặn cửa trước nên Tào Tháo mới thoát được. Sau đó Điển Vi hi sinh anh dũng. Tào Tháo rất thương tiếc Điển Vi nên khi về Hứa Đô, lập đền thờ Điển Vi và phong cho con trai Điển Vi là Điển Mãng chức Trung lang và nuôi dưỡng trong phủ.

tào tháo hám gái mà điền vi chết uổng

Điển Vi là một người khổng lồ về cả nghĩa đen và bóng ^^, Một hôm Điển Vi cãi nhau với bạn rùi lỡ tay giết chết anh ta^^ hoảng wá ông ta trốn vào rừng ^^ ngày ngày săn thú rừng bằng tay không ^^ sau này ông gặp dc Hạ Hầu Đôn và dc Hạ Hầu Dôn dưa tới gặp Tào Tháo ^^. Cao Cao thấy vóc dáng ông và muốn thử xem ông khỏe thế nào ^^ và nhận tiện cây cột cờ chính xoái của doang trại bị gió to là gãy đổ, mấy chục người lính loanh hoanh cố sức dựgn lại mà không nổi ^^, thế là Điển Vi một mình bảo mọi người tránh ra rùi dùng một tay nâng cột cờ và cắm lãi chỗ cũ ^^!. Tào Tháo hết sức kinh ngạt và hài lòng ^^ nên cho ông vào quân đội ^^!....

__________________

ton thuong huong

SunShangXiang : Tôn Thượng Hương con thứ ba của Tôn Kiên và cũng là em

gái duy nhất của Tôn Sách và Tôn Quyền ,từ nhỏ ham mê võ nghệ hơn cả hai anh của mình.Sau này mẹ của cô gặp gỡ được với Lưu Bị thấy Lưu Bị đức độ hơn người nên mến phục và gả Tôn Thượng Hương cho

Năm 209, Tôn Thượng Hương được gả cho Lưu Bị nhằm giữ vững mối hòa hiệp trong liên minh Ngô-Thục

đây chỉ là phần ngụy biên thực chất la do Lỗ Túc ra mưu cho Tôn thượng hương để mượn quân trong trận xích bích

sau này bà định mang con của lưu bị là lưu thiện Tuy nhiên đã bị Trương Phi và Triệu Vân chặn lại. Sau khi hai bên thương thuyết, Tôn Thượng Hương để lại Lưu Thiện về nước Ngô.

Kể từ đây hôn nhân giữa bà và Lưu Bị chấm dứt. Bà không bao giờ gặp lại Lưu Bị, và sử sách cũng không có nói gì đến chuyện bà tái giá.

chắc chán đời đi nam mô a di đà phật rồi

gia cat luong

Gia Cát Lượng (tiếng Hán: 诸葛亮; bính âm: Zhūge Liàng) (181-234) là vị quân sư và đại thần của nước Thục thời hậu Hán. Ông là một chính trị gia, nhà quân sự, học giả, . Trong quân sự, ông đã tạo ra các chiến thuật như: Bát trận đồ (Hình vẽ tám trận), Liên nỏ (Nỏ Liên Châu, tên bắn ra liên tục), Mộc ngưu lưu mã (trâu gỗ ngựa máy ). Tương truyền ông còn là người chế ra đèn trời (Khổng Minh đăng) và món bánh bao. Gia Cát Lượng được biết tới nhiều qua tác phẩm Tam Quốc Diễn Nghĩa.

Tiểu Sử

Gia Cát Lượng, tự là Khổng Minh, là người đất dương đô (nay thuộc tỉnh Sơn Đông) quận Lang Nha đời Thục Hán, sinh vào mùa Thu năm Tân Dậu (Tam Quốc), tự Khổng Minh, Gia Cát (諸葛) là một họ kép ít gặp. Ông mồ côi từ bé, thuở trẻ thường tự ví tài mình như Quản Trọng, Nhạc Nghị. Sau tị nạn sang Kinh Châu rồi đến ở đất Nam Dương thuộc vùng Long Trung, chỗ ở có trái núi Ngọa Long cương, nhân thế tự gọi là Ngọa Long tiên sinh, tự mình cày ruộng, thích làm ca từ theo khúc "Lương Phủ Ngâm".

Ông có 3 anh em, anh cả Gia Cát Cẩn làm quan bên Đông Ngô, em thứ là Gia Cát Quân không làm quan. Ông là người tài giỏi nhất nên người đời sau ví Lưu Bị được rồng trong số 3 người (Lưu, Tào, Tôn).

Tương truyền ông học giỏi một phần nhờ vợ là Hoàng Nguyệt Anh, một người rất xấu nhưng có tài năng, con gái của danh sĩ Hoàng Thừa Ngạn ở Nhữ Nam. Người đời mới có câu thơ:

Mạc học Khổng Minh trạch phụ

Chi đắc A Thừa xú nữ

Theo sách "Khổng Minh Gia Cát Lượng", chữ "Cát" trong họ Gia Cát của ông có nguồn gốc từ việc ông là dòng dõi của Cát Anh, một tướng theo Trần Thắng khởi nghĩa chống Tần. Cát Anh có công, bị Trần Thắng giết oan. Khi Hán Văn Đế lên ngôi đã sai người tìm dòng dõi Cát Anh và cấp đất Gia làm nơi ăn lộc. Một chi sau này lấy sang họ Gia Cát - ghép chữ "Cát" cũ và đất "Gia".

Sự nghiệp

Khi Lưu Bị ở Tân Dã, có đến Tư Mã Đức Tháo bàn việc thiên hạ. Tư Mã Đức Tháo có nói: "Bọn nho sinh đời nay chỉ là một phường tục sĩ, hạng tuấn kiệt chỉ có hai người, đó là Ngoạ Long và Phượng Sồ. Ngoạ Long tức Gia Cát Khổng Minh, Phượng Sồ tức Bàng Thống tự Sỹ Nguyên." Lưu Bị 3 lần thân đến Long Trung mời Khổng Minh ra giúp, tôn ông làm quân sư. Lúc bấy giờ là năm 208, Lưu Bị 47 tuổi, Gia Cát Lượng chỉ mới 27 tuổi.

Khổng Minh đã giúp Lưu Bị cùng với Tôn Quyền đánh bại Tào Tháo ở Xích Bích, lấy Kinh Châu, định hai Xuyen, dựng nước ở đất Thục, cùng với Ngụy ở phía bắc, Ngô ở phía đông làm thành thế chân vạc. Lưu Bị lên ngôi hoàng đế, Khổng Minh giữ chức Thừa tướng, một lòng khôi phục lại cơ nghiệp nhà Hán, phía đông hòa Tôn Quyền, phía nam bình Mạnh Hoạch.

Đền thờ Gia Cát Lượng

Mùa hạ năm 221, vừa lên ngôi, Lưu Bị đã muốn lấy lại Kinh Châu và tháng 7 năm đó, để trả thù cho Quan Vũ nên Lưu Bị đã tuyến bố tuyệt giao với Đông Ngô, đem đại quân tiến đánh Tôn Quyền. Lưu Bị đánh Đông Ngô là vi phạm sách lược "liên Ngô chống Tào" của Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng biết đánh Ngô hại nhiều hơn lợi nhưng không can ngăn nổi Lưu Bị nên dẫn đến bi thảm Hào Đình, thất bại ở Tỷ Quy.

Lưu Bị trước khi chết đã uỷ thác việc nước cho Gia Cát Lượng, nói rằng: "Tài năng của ông cao hơn Tào Phi (con trai Tào Tháo, lúc này là vua nước Ngụy) gấp 10 lần, nhất định có thể làm cho nước nhà ổn định, hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước. Nếu như Lưu Thiện con tôi không làm được gì, mong ông giúp đỡ còn như nó bất tài thực sự, ông có thể thay nó". Lưu Bị còn để lại di chúc bắt Lưu Thiện phải kính nể Gia Cát Lượng như cha đẻ.

Nhà vua Lưu Thiện mới 17 tuổi không có tài, Gia Cát Lượng phải lo lắng toàn cục, chỉnh đốn nội bộ và chấn chỉnh lực lượng. Dưới sự cai trị của ông, nước Thục dần dần mạnh lên. Sau khi trừ bỏ được những lo lắng trong nước, Gia Cát Lượng đã đem quân xuống phía nam để bình định bọn nổi loạn. Gia Cát Lượng ra quan không lâu đã bắt sống được Mạnh Hoạch. Ví dụ nổi tiếng về việc Gia Cát Lượng "chiếm lòng người" chính là việc 7 lần bắt, 7 lần tha Mạnh Hoạch, cho đến khi Mạnh Hoạch thực sự chịu phục.

Gia Cát Lượng Bắc phạt cả thảy là 7 năm, phát động 4 lần đánh nhau. Mấy lần xuất quân đều chưa giành được thắng lợi hoàn toàn do Lý Nghiêm trễ nải cấp lương nên giả truyền thánh chỉ, 2 lần khác do Lưu Thiện nghe lời dèm pha mà nửa chừng hạ chiếu lui quân.

Tháng 8 năm 234, do khó nhọc mà Gia Cát Lượng sinh bệnh rồi mất, lúc bấy giờ ông mới 54 tuổi, được phong tặng là Trung Vũ Hầu người đời thường gọi là Gia Cát Vũ Hầu. Ông được chôn tại ngọn núi Định Quân ở vùng Hán Trung. Ông mất mà vẫn không trung hưng được nhà Hán, nước vẫn ở thế chân vạc chia ba. Ba mươi năm sau khi ông mất, Lưu Thiện đầu hàng nước Ngụy, nước Thục bị diệt vong.

Suốt hai đời vua là Lưu Bị và Lưu Thiện, mọi việc chính trị, quân sự và kinh tế ở Thục đều do một tay Khổng Minh chủ trương và thi hành. Ông giỏi về binh thư binh pháp, có tài về nội trị, ngoại giao, được xem là văn võ kiêm toàn, tài đức lưỡng bị... nên được hậu thế gọi là "vạn đại quân sư", coi là một tấm gương sáng cho muôn thuở.

Lưu Bị tam cố thảo lư (Lưu Bị 3 lần đến lều cỏ)

Lưu Bị sau nhiều năm bôn ba vất vả vẫn không có nổi một mảnh đất cắm rùi phải nương nhở Lưu Biểu tại Kinh Châu. Nhưng ở đó không được bao lâu thì ông bị hai người em vợ của Lưu Biểu là Sái Trung, Sái Mạo li dán. Lưu Biểu sinh nghi nhiều lần định giết. Lưu Bị đành xin ở lại Tân Dã chiêu binh mãi mã chờ đợi thời cơ. Lưu Bị buồn bã đi dạo quanh thành Kinh Châu thì nghe được tiếng hát, lời lẽ bài hát khẳng khái, anh hùng. Ông hỏi ra thì là Nguyên Trực, Nguyên Trực trở thành quân sư cho Lưu Bị. Cùng năm đó, Tào Tháo sau khi tiêu diệt Viên Thiệu ổn định phương Bắc, Tào Tháo sai các tướng Đồng Nhân, Lý Điển, Lý Quán dẫn quân tiến đánh Kinh Châu thực chất là để tiêu diệt lực lượng của Lưu Bị. Nhờ sự giúp đỡ của Nguyên Trực, Lưu Bị đánh bại quân Tào.Lưu Bị nhận ra được sự cần thiết của các mưu sĩ trong việc tạo nghiệp chính điều đó đã thay đổi hoàn toàn chiến cuộc của Lưu Bị sau này. Tào Tháo bực tức muốn lôi kéo nhân tài khỏi Lưu Bị nên ra lệnh cho mẹ Nguyên Trực viết thư triệu về Hứu Đô. Nguyên Trực đau khổ từ giã Lưu Bị trước khi ra đi tiến cử Gia Cát Lượng hiện đang ở tại núi Ngọa Long. Thời đó bậc danh sĩ Kinh Châu lan truyền một câu:" Ngọa Long, Phượng Sầu hai người được một sẽ có thiên hạ!". Lưu Bị liền tới Ngọa Long Cương tham bái nhưng hai lần đầu không gặp mãi đến lần thứ ba mới gặp được nên mới có câu "Lưu Bị tham cố tảo lư". Lưu Bị được Lượng nói kế sách định quốc an bang vô cùng kính phục, muốn mời Gia Cát Lượng xuống núi mưu tính đại sự. Gia Cát Lượng thấy Lưu Bị thật tấm lòng cầu xin nên ông chấp nhận làm quân sư cho Lưu Bị năm đó Gia Cát Lượng mới có hai mươi bảy tuổi chính thức bước vào vũ đài chính trị.

Gia Cát Lượng bệnh mất ở Ngũ Trượng Nguyên và dùng kế giết Ngụy Diên

Khổng Minh sau khi thất bại trong việc tiêu diệt 2 cha con Tư Mã Ý ở Thượng Phương cốc cộng với thất bại của quân Đông Ngô nên ông lâm trọng bệnh ngất xỉu. Khi ông tỉnh dậy bảo Khương Duy ông không sống được lâu nữa, Khương Duy nghe vậy thất kinh khuyên ông dùng phép cầu thọ. Khổng Minh bèn bày đủ lễ vật, trên mặt đất thắp bảy ngọn đèn to, dưới thắp bốn mươi chín ngọn đèn nhỏ, phía trong để một cái đèn bổn mạng rồi cầu trời đất cho ông sống thêm 1 kỷ nữa để phục hưng nhà Hán. 7 ngày sau ông thấy ngọn đèn bổn mạng vẫn sáng thì cả mừng bỗng nghe bên ngoài có tiếng la ó thì thấy Ngụy Diên chạy vào báo có binh Ngụy kéo đến, chẳng may Ngụy Diên lật đật làm đổ ngọn đèn chủ tắt đi. Khỗng Minh bèn quăng gươm xuống đất mà than: "sống chết có mạng không sao cầu được". Khương Duy tức giận muốn chém Ngụy Diên nhưng Khổng Minh ngăn lại. Sau đó, Khổng Minh gọi Khương Duy lại truyền thụ 24 thiên binh thư do ông viết ra, dặn dò các tướng cẩn thận, viết di thư cho Hậu chúa Lưu Thiện rồi bày kế cho Dương Nghi khi ông chết đừng phát tang , hãy làm một cái hộp lớn , để ta ngồi trong, lấy bảy hạt gạt bỏ vào miệng ta, dưới chân để một ngọn đèn thật sáng, ba quân không được khóc lóc thì tướng tinh của ông sẽ không rớt làm cho Tư Mã Ý sẽ nghi sợ rồi cho hậu quân lui trước rồi cứ từng dinh mà rút dần. Nếu Tư Mã Ý dẫn quân đến thì đẩy xe có tượng gỗ của ông ra thì Tư Mã Ý thấy vậy tất sợ mà chạy. Lát sau, thượng thư Lý Phúc vào hỏi chuyện triều đình, Khổng Minh dặn dò nữa chừng thì qua đời, hưởng thọ 54 tuổi, bấy giờ là năm Kiến Hưng 12 ( 234).

Sau khi Khổng Minh mất, Ngụy Diên quả nhiên làm phản nhưng Khổng Minh đã tiên đoán trước nên bày kế cho Mã Đại chém chết Ngụy Diên. Quân Thục trở về Thành Đô, Hậu chúa Lưu Thiện cho mai táng Khổng Minh tại núi Ðịnh Quân như ý nguyện của ông rồi phong hàm ân cho Khổng Minh làm Trung Vũ Hầu, lập miếu nơi Miêu Dương. Con trai Khổng Minh là Gia Cát Chiêm thủ hiếu cư tang.

hoang trung

Hoàng Trung (黄忠, bính âm: Huáng Zhōng; Wade-Giles: Huang Chung), (148-220), là một vị tướng quân đội thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Quốc. Hoàng Trung được miêu tả là một lão tướng đã gần 60 tuổi nhưng sức địch muôn người, đã lập nhiều công lao cho Lưu Bị và là một trong Ngũ hổ tướng của quân Thục cùng Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân và Mã Siêu.

Cuộc đời:

Hoàng Trung, tự Hán Thăng (汉升), sinh năm 148, quê ở Nam Dương. Lúc đầu ông theo Lưu Biểu, cùng với Lưu Bàn (cháu Lưu Biểu) trấn thủ Trường Sa; về sau theo Hàn Huyền. Khi Lưu Bị đem quân đến lấy Kinh Châu, sai Quan Vũ đánh Trường Sa, chiếm được Trường Sa và tha không giết Hoàng Trung. Từ đó, Hoàng Trung theo về với Lưu Bị.

Năm 214, tướng Ngụy là Trương Cáp đem quân đến đánh cửa Hà Manh. Hoàng Trung và Nghiêm Nhan đem quân đánh, đẩy lùi được Trương Cáp và chiếm được núi Thiên Đăng là nơi trữ lương thảo của quân Tào.

Năm 217, Lưu Bị và Tào Tháo đánh nhau tại Hán Trung, Hoàng Trung chém chết Hạ Hầu Uyên, tướng tâm phúc của Tào Tháo tại núi Định Quân.

Năm 219, Lưu Bị lên làm vua, phong Hoàng Trung nằm trong Ngũ hổ tướng. Năm 220, Lưu Bị đem quân đánh Đông Ngô để trả thù cho Quan Vũ, Trương Phi. Hoàng Trung bị thương nặng, sau đó qua đời ở tuổi 72.

Trận chiến tại Thiên Đăng Sơn:

Hồi thứ 70, tướng Ngụy là Trương Cáp sau khi thất bại trước Trương Phi ở Ngõa Khẩu Ải được Tào Hồng cấp 5.000 quân đến đánh cửa Hà Manh. Tin báo về Thành Đô. Gia Cát Lượng dùng kế khích tướng Hoàng Trung. Hoàng Trung xin cùng lão tướng khác là Nghiêm Nhan ra trận. Lưu Bị đồng ý. Các tướng ai nấy đều cười khẩy.

Hoàng Trung muốn chiếm núi Thiên Đăng là nơi cất giữ lương thảo của quân Tào nên nghĩ ra một kế. Hoàng Trung giả vờ thua quân Tào mấy trận liền, rút về cửa ải. Huyền Đức lo lắng, hỏi Khổng Minh. Khổng Minh bảo là mẹo của Hoàng Trung để quân địch sinh kiêu. Các tướng không tin. Lưu Bị sai Lưu Phong ra tiếp ứng.

Đến canh 2, Hoàng Trung dẫn 5.000 quân từ cửa ải kéo xuống. Quân Tào không phòng bị nên thua lớn, chết không biết bao nhiêu mà kể. Hoàng Trung đuổi đến sáng, cướp lại được nhiều trại sau đó lại thúc quân đuổi theo. Quân Tào rút về núi Thiên Đăng. Sau đó quân Tào trở lại phản công nhưng thất bại. Hàn Hạo, Hạ Hầu Đức bị giết. Quân Tào bỏ núi Thiên Đăng chạy về núi Định Quân. Huyền Đức nhân dịp đó khởi binh đến đánh Hán Trung, thưởng cho Hoàng Trung, Nghiêm Nhan rồi sai Hoàng Trung và Pháp Chính đem quân đánh núi Định Quân

Cái chết của Hoàng Trung:

Năm 222, Lưu Bị dẫn 70 vạn đại quân đánh Đông Ngô để báo thù cho Quan Vũ, Trương Phi. 2 người con trai của Quan Vũ và Trương Phi là Quan Hưng và Trương Bào liên tiếp lập công nên Lưu Bị khen ngợi và bảo các tướng theo mình từ trước nay đã già cả hết, không còn làm được gì. Hoàng Trung nghe thế tức giận liền dẫn quân đến Di Lăng nghênh chiến quân Ngô. Hoàng Trung gặp Phan Chương, chém chết tướng Phan Chương là Sư Tịch, Phan Chương chống cự không nổi bỏ chạy. Quan Hưng, Trương Bào đến khen ngợi Hoàng Trung và khuyên ông quay về nhưng Hoàng Trung không nghe. Ðánh được vài hiệp, Phan Chương bỏ chạy, Hoàng Trung rượt theo, không ngờ bị Phan Chương bắn một mũi tên, Hoàng Trung né khỏi, rồi lại rượt theo nữa. Rượt được chừng vài dặm, xảy có tiếng chiêng trống nổi dậy, hai đạo binh mai phục ào tới, một phía là Chu Thái, một phía là Hàn Đương xông ra một lượt. Phía trước Phan Chương phủ vây Hoàng Trung vào giữa. Hoàng trung cố sức chống cự lại tiếp tục bị trúng tên, may nhờ có Quan Hưng, Trương Bào đến cứu. Lưu Bị nghe tin Hoàng Trung trọng thương thì đến thăm và nhận lỗi. Hoàng Trung bảo mình đã già, có chết cũng vừa, xin Lưu Bị bảo trọng long thể để chiếm Trung Nguyên. Đến nửa đêm, Hoàng Trung tắt thở. Lưu Bị đau buồn, sai đưa về Thành Đô chôn cất tử tế

tu ma y

Hoàng Trung (黄忠, bính âm: Huáng Zhōng; Wade-Giles: Huang Chung), (148-220), là một vị tướng quân đội thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Quốc. Hoàng Trung được miêu tả là một lão tướng đã gần 60 tuổi nhưng sức địch muôn người, đã lập nhiều công lao cho Lưu Bị và là một trong Ngũ hổ tướng của quân Thục cùng Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân và Mã Siêu.

Cuộc đời:

Hoàng Trung, tự Hán Thăng (汉升), sinh năm 148, quê ở Nam Dương. Lúc đầu ông theo Lưu Biểu, cùng với Lưu Bàn (cháu Lưu Biểu) trấn thủ Trường Sa; về sau theo Hàn Huyền. Khi Lưu Bị đem quân đến lấy Kinh Châu, sai Quan Vũ đánh Trường Sa, chiếm được Trường Sa và tha không giết Hoàng Trung. Từ đó, Hoàng Trung theo về với Lưu Bị.

Năm 214, tướng Ngụy là Trương Cáp đem quân đến đánh cửa Hà Manh. Hoàng Trung và Nghiêm Nhan đem quân đánh, đẩy lùi được Trương Cáp và chiếm được núi Thiên Đăng là nơi trữ lương thảo của quân Tào.

Năm 217, Lưu Bị và Tào Tháo đánh nhau tại Hán Trung, Hoàng Trung chém chết Hạ Hầu Uyên, tướng tâm phúc của Tào Tháo tại núi Định Quân.

Năm 219, Lưu Bị lên làm vua, phong Hoàng Trung nằm trong Ngũ hổ tướng. Năm 220, Lưu Bị đem quân đánh Đông Ngô để trả thù cho Quan Vũ, Trương Phi. Hoàng Trung bị thương nặng, sau đó qua đời ở tuổi 72.

Trận chiến tại Thiên Đăng Sơn:

Hồi thứ 70, tướng Ngụy là Trương Cáp sau khi thất bại trước Trương Phi ở Ngõa Khẩu Ải được Tào Hồng cấp 5.000 quân đến đánh cửa Hà Manh. Tin báo về Thành Đô. Gia Cát Lượng dùng kế khích tướng Hoàng Trung. Hoàng Trung xin cùng lão tướng khác là Nghiêm Nhan ra trận. Lưu Bị đồng ý. Các tướng ai nấy đều cười khẩy.

Hoàng Trung muốn chiếm núi Thiên Đăng là nơi cất giữ lương thảo của quân Tào nên nghĩ ra một kế. Hoàng Trung giả vờ thua quân Tào mấy trận liền, rút về cửa ải. Huyền Đức lo lắng, hỏi Khổng Minh. Khổng Minh bảo là mẹo của Hoàng Trung để quân địch sinh kiêu. Các tướng không tin. Lưu Bị sai Lưu Phong ra tiếp ứng.

Đến canh 2, Hoàng Trung dẫn 5.000 quân từ cửa ải kéo xuống. Quân Tào không phòng bị nên thua lớn, chết không biết bao nhiêu mà kể. Hoàng Trung đuổi đến sáng, cướp lại được nhiều trại sau đó lại thúc quân đuổi theo. Quân Tào rút về núi Thiên Đăng. Sau đó quân Tào trở lại phản công nhưng thất bại. Hàn Hạo, Hạ Hầu Đức bị giết. Quân Tào bỏ núi Thiên Đăng chạy về núi Định Quân. Huyền Đức nhân dịp đó khởi binh đến đánh Hán Trung, thưởng cho Hoàng Trung, Nghiêm Nhan rồi sai Hoàng Trung và Pháp Chính đem quân đánh núi Định Quân

Cái chết của Hoàng Trung:

Năm 222, Lưu Bị dẫn 70 vạn đại quân đánh Đông Ngô để báo thù cho Quan Vũ, Trương Phi. 2 người con trai của Quan Vũ và Trương Phi là Quan Hưng và Trương Bào liên tiếp lập công nên Lưu Bị khen ngợi và bảo các tướng theo mình từ trước nay đã già cả hết, không còn làm được gì. Hoàng Trung nghe thế tức giận liền dẫn quân đến Di Lăng nghênh chiến quân Ngô. Hoàng Trung gặp Phan Chương, chém chết tướng Phan Chương là Sư Tịch, Phan Chương chống cự không nổi bỏ chạy. Quan Hưng, Trương Bào đến khen ngợi Hoàng Trung và khuyên ông quay về nhưng Hoàng Trung không nghe. Ðánh được vài hiệp, Phan Chương bỏ chạy, Hoàng Trung rượt theo, không ngờ bị Phan Chương bắn một mũi tên, Hoàng Trung né khỏi, rồi lại rượt theo nữa. Rượt được chừng vài dặm, xảy có tiếng chiêng trống nổi dậy, hai đạo binh mai phục ào tới, một phía là Chu Thái, một phía là Hàn Đương xông ra một lượt. Phía trước Phan Chương phủ vây Hoàng Trung vào giữa. Hoàng trung cố sức chống cự lại tiếp tục bị trúng tên, may nhờ có Quan Hưng, Trương Bào đến cứu. Lưu Bị nghe tin Hoàng Trung trọng thương thì đến thăm và nhận lỗi. Hoàng Trung bảo mình đã già, có chết cũng vừa, xin Lưu Bị bảo trọng long thể để chiếm Trung Nguyên. Đến nửa đêm, Hoàng Trung tắt thở. Lưu Bị đau buồn, sai đưa về Thành Đô chôn cất tử tế

quan vu

Vân Trường quê ở Giải Lương, Hà Đông; mới buổi đầu xuất hiện đã ra dáng anh hào, về sau này cũng được La Quán Trung dành nhiều ưu ái. Người đời coi Quan Công là biểu tượng cho lòng trung thành và trượng nghĩa. Hồ Chí Minh trong "Tức cảnh" cũng có câu thơ khen ngợi khí tiết Quan Vũ rằng:

Cánh lá khéo in hình Dực Đức

Vầng hồng sáng mãi dạ Quan Công

Quan Vũ buổi lập danh đánh giặc Khăn Vàng đã làm người đời kính nể; sau bất đắc dĩ theo về với Tào Tháo nhưng "thân tại Tào doanh, tâm tại Hán", ông vẫn luôn một lòng hướng về Lưu Bị. Bỏ vinh hoa phú quý, Quan Công rước 2 chị dâu đi tìm Lưu Bị; trong lúc nghỉ đêm ông lại ngồi ngoài gác cửa, biết trọng lễ nghĩa thật làm người ta kính phục. Cho đến sau này, nhớ cái ơn của Tào Tháo mà Quan Vũ vượt ra quân lệnh tha cho Tào Tháo ở ngõ Hoa Dung càng làm hình ảnh ông trở nên đáng kính hơn. Nhưng phàm ở đời, anh hùng có dũng ắt sẽ kiêu, Quan Vũ cũng không ngoại lệ. Người ta sau này còn phê phán Quan Vũ nhiều vì thói kiêu căng để đến nỗi mất mạng về tay Lã Tử Minh đồng thời làm mất Kinh Châu, làm lung lay gốc rễ nhà Thục.

Nhắc đến Quan Vũ chắc còn phải tán tụng mãi những tích như chém Nhan Lương, Văn Xú; Quá ngũ quan, trảm lục tướng (qua năm ải, chém sáu tướng); Cạo xương chữa thuốc cùng Hoa Đà; dâng nước ngập 7 đạo quân Tào rồi bắt sống Bàng Đức; sau này lại hiển thánh vật chết Lã Mông. Ngoài ra, giang hồ còn đồn đại tích truyện Quan Công dưới trăng chém Điêu Thuyền nhưng chỉ là truyện ngoài chính sử Click here to view full size. Kỳ truyện kể rằng 3 anh em Lưu Quan Trương trừ được cái họa Lã Bố thì phải đối mặt với quyết định là làm gì với Điêu Thuyền, giết đi thì uổng quá vì nàng đẹp quá, nhưng cũng không ai lấy nàng làm thiếp được. Quan Vũ hiểu thấu tâm can những người trong cuộc, nhưng vì đại nghiệp không thể đi theo vết xe của Đồng Trác, Phụng Tiên được nữa nên phải dằn lòng mà giết Điêu Thuyền. Nhưng vẻ đẹp Điêu Thuyền quả thực là giáng phàm, Quan Vũ không thể nâng long đao lên được, bất giác buông rơi thanh uyển nguyệt. Đêm đó lại là đêm trăng, thanh long đao rơi xuống trúng vào cái bóng của Điêu Thuyền, ngờ đâu vì thế mà Điêu Thuyền cũng đầu lìa khỏi cổ. Mỹ nhân số một thời Hậu Hán đã bị chém như vậy đó! Truyện bịa đặt mà nghe sao như thật Click here to view full size Phạm Văn Bân trong "Tứ đại mỹ nhân" có 1 kết cục khác cho Điêu Thuyền, theo ông:

"Sau khi thành Hạ Bì thất thủ, Lữ Bố bị Tào Tháo giết, không biết tông tích của Ðiêu Thuyền ở đâu cả. Nàng chính là con rồng thiêng, chỉ lộ cái đầu, cái mình với đời mà không cho đời sau biết cái đuôi mình ẩn đi đâu hết! Có thế danh tiếng mới khỏi bị tổn thương."

Hình tượng Quan Vũ sau này được thần thánh hóa lên quá nhiều đến mức sùng bái thờ phụng; nhưng có một sự thật rằng khí cốt oai phong của "ông mặt đỏ râu dài", tay cầm thanh đao uyển nguyệt, cưỡi ngựa xích thố dưới lá cờ chữ Quan là hình ảnh đẹp nhất trong Ngũ hổ tướng của nhà Thục thời Tam Quốc Click here to view full size

Trương Phi

Dực Đức nước Yên buổi đầu chỉ là anh bán thịt ở Trác Quận nhưng đã thích kết giao hào kiệt; cho đến sau này, xuyên suốt trong Tam Quốc, Dực Đức có thể coi là người sống đúng với lòng mình nhất. Trương Phi sử dụng cây trượng "Bát điểm cương mâu", khi ra quân rất anh dũng. Chẳng thế đời sau đã vinh danh ông ngay sau trận mở màn với Trình Viễn Trí:

Anh hùng xuất trận buổi đầu tay,

Một thử xà mâu, một thử đao.

Khí tiết rạng ngời oai lực khét,

Chia ba thiên hạ rạng anh hào.

Trương Phi có lẽ được nhớ đến nhiều nhất qua trận Trường Bản với tiếng thét làm vỡ mật tướng Tào vẫn được truyền tụng mãi. Nhưng ngoài câu chuyện đó, người ta còn kính phục Trương Phi ở chữ trung và đức tính phục thiện. Tiêu biểu nhất là tích Hồi trống Cổ Thành khi Trương Phi thách Vân Trường trong 3 hồi trống chém chết tướng Tào. Hình ảnh Trương Phi "thẳng tay giục trống" sau này được khai thác rất nhiều trong các bộ phim dã sử và tuồng. Thế rồi ngay sau khi Quan Vũ một đao chém chết Sái Dương, Trương Phi không ngần ngại quỳ xuống xin anh tha tội. Trương Phi tuy kiêu dũng thiện chiến, sức mạnh hơn người nhưng bình sinh tính nóng như lửa, cũng vì thế mà sau này mạng vong bởi thủ hạ dưới quyền. Trương Phi chết rồi, tam anh chỉ còn một, chẳng trách Lưu Bị cũng không thọ lâu sau đó; Thục Hán suy từ đây

bang thongBàng Thống

Sĩ Nguyên là mưu sĩ tài ba trong Tam Quốc, nếu theo thiên hạ đồn đại thì Phượng Sồ có tài bình thiên hạ không kém gì Gia Cát. Chiến công lớn nhất của ông có lẽ là trong trận Xích Bích, khi trá hàng thuyết phục Tào Tháo lập trận liên hoàn lấy xích sắt nối các chiến thuyền lại, nhờ đó sau này kế hỏa công của Đông Ngô mới thành được. Bàng Thống về đầu quân làm quân sư lớn thứ hai cho Lưu Bị nhưng Lưu Bị thấy tướng mạo ông xấu xí mà có ý không muốn dùng, trước chỉ cho làm việc bàn giấy, sau mới trọng dụng ông trong cuộc chiến vào Tây Xuyên, nhưng đây cũng là lần chinh chiến cuối cùng trong đời Bàng Thống. Đúng như Tử Hư đạo nhân trước đó đã tiên đoán:

Một rồng , một phượng

Cùng vào Tây Xuyên

Phượng sa xuống đất

Rồng bay lên trời

Sĩ Nguyên chỉ vì cưỡi ngựa Đích Lư mà bị nhận nhầm là Lưu Bị, cuối cùng người ngựa đều bị tên bắn chết, ôm hận ở gò Lạc Phượng khi công danh chưa thành, đáng thương lắm thay! Phượng Sồ chết, Phục Long phải bỏ vị trí chấn thủ Kinh Châu để vào Tây Xuyên giúp Lưu Bị; Kinh Châu giao lại cho Quan Vũ. Nếu Quan Vũ chịu nghe theo lời Khổng Minh dặn "Bắc cự Tào Tháo, Đông hòa Tôn Quyền" thì chắc không đến nỗi sai lầm nối tiếp sai lầm khiến Thục Hán suy vong, nhưng đấy là chuyện về sau này.

Ngụy Diên

Nói đến Ngụy Diên ai cũng nghĩ đến con người phản trắc, những việc Ngụy Diên làm đúng là như vậy! Trước theo Hàn Huyền thì chém Hàn Huyền, về với Lưu Bị rồi thì cũng phản khi Gia Cát chết. Lúc thu phục được Ngụy Diên ở Trường Sa, Khổng Minh đã muốn chém y vì xem tướng Ngụy Diên biết là kẻ phản phúc nhưng Lưu Bị ngăn lại. Đến sau này, Khổng Minh lại tiếc cái sức của y mà giữ lại bên mình để đem đi chinh chiến phạt Ngụy. Ngụy Diên đúng là chiến tướng về sau này khi nhà Thục mất Quan Trương Triệu, tiếc là bản tính khó dời. Đến khi Khổng Minh dâng sao ở gò Ngũ Trượng, chính Ngụy Diên cũng là kẻ phá hoại Click here to view full size Khổng Minh chết rồi, Ngụy Diên làm phản, hống hách ngang ngược, đốt đường Sạn Đạo, tính chuyện cướp linh cữu rồi chiếm Hán Trung; ai dè bị Mã Đại y lời dặn Khổng Minh, nhân lúc Ngụy Diên bất cẩn mà một đao lấy mạng y, âu cũng là đáng đời cho y.

Chu Du

Công Cẩn theo Tôn Sách từ những ngày đầu khởi nghiệp, sau này lại một lòng thờ Tôn Quyền, người Giang Đông coi ông như khai quốc công thần. Ngoài nghiệp binh thư, Tam Quốc Chí miêu tả Chu Du còn có tài cầm, kỳ, thi, hoạ thiên bẩm, tiếc là bụng dạ hẹp hòi mà thôi. Chu Du thành danh kể từ sau trận Xích Bích đại thắng quân Tào, nhưng cũng từ đây mà ông lụi bại do gặp Khổng Minh.

Công Cẩn mất khi mới 36 tuổi, tiếc thay tuổi trẻ anh hùng, Giang Đông cũng mất đi chiến tướng cơ mưu số một.

Câu nói của Chu Du trước khi mất có lẽ quá nổi tiếng không ai không biết:

"Trời đã sinh Du, sao còn sinh Lượng"

Ông mất, Khổng Minh thân chinh sang Đông Ngô viếng tang, nửa là thật lòng, nửa có ý đùa bỡn, duy có Bàng Sĩ Nguyên là nhận ra thôi Click here to view full size

Lại nói nhà Ngô ngoài địa lợi có sông Trường Giang hiểm trở mà dễ phòng ngự khó tấn công, còn có dàn tướng rất thạo thuỷ chiến một dạ trung thành. Do điều kiện không cho phép, xin điểm qua một vài tướng tài của quân Đông Ngô.

Tào Tháo

Mạnh Đức xuất hiện trong Tam Quốc Chí cũng đường đột như lúc ông ra đi Click here to view full size Hồi 1 truyện chép khi Trương Lương, Trương Bảo bị Hoàng Phủ Tung và Chu Tuấn đánh thua chạy, giữa đường bị "một tướng mắt nhỏ, râu dài, mình cao bảy thước dẫn đầu đạo quân cắm toàn cờ đỏ" đổ ra đánh, chính là quan Kỵ Đô Úy, người Tiêu Quận, nước Bái, họ Tào tên Tháo. La Quán Trung cũng dành cho Tào Tháo rất nhiều trang viết về tuổi trẻ của ông. Mạnh Đức vốn là con của Hạ Hầu Tung, sau làm con nuôi Tào Đằng nên đổi họ, sinh thời chỉ ham săn bắn, xướng ca, tính tình thì mưu mô xảo quyệt. Hà Ngung, người ở Nam Dương, sau khi gặp Tào Tháo có nói: "Nhà Hán sắp mất, Tào Tháo sẽ là người an định thiên hạ vậy". Còn Hứa Thiệu ở miền Nam, xem tướng cho Mạnh Đức thì nói rằng: "Đời trị, ông là bầy tôi giỏi. Thời loạn, ông là kẻ gian hùng." Thế mới biết, Mạnh Đức sinh ra vào khi Hán mạt, đúng là như gặp thiên thời, cuộc đời ông sau này cũng có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong gần 1 thể kỷ 3 nước phân tranh.

Tào Tháo sau vì mưu giết Đổng Trác không thành mà phải chạy trốn, trên đường gặp Trần Cung, cảm mến tài năng Tào Tháo mà Trần Cung bỏ ấn từ quan để theo. Ai dè do quá đa nghi mà đôi bạn này đã giết cả nhà Lã Bá Sa, Tháo còn không hối hận bởi cho rằng:

Ta thà phụ người chứ không để người phụ ta.

Còn Cung thấy Tháo ác thế mới bỏ đi; hay cho Trần Cung Click here to view full size, trước thì đồng lòng giết mấy mạng nhà Lã Bá Sa, sau lại hối hận mà giữa đường bỏ dở. Đúng là sau này Trần Cung khó làm nên việc lớn, theo Lã Bố nhưng cũng không toàn tâm toàn ý; Tào Tháo phải gạt lệ mà chém ông ở lầu Bạch Môn. Còn Tào Tháo về đến quê nhà, dùng cả sản nghiệp gia đình mà gây dựng quân đội; cũng từ đây ông bắt đầu thu nhận các tướng tài mà sau này đều là rường cột của nhà Ngụy cả. Ông cũng là người phát hịch đi các sứ quân để hội lại chống Đổng Trác. Nhưng vì các lộ quân không ai đồng lòng, Tào Tháo buổi ra quân đại bại trong tay Lã Bố, ông lại đem quân về Dương Châu trấn thủ. Đến khi Tào Tháo thanh thế đã to định đón cha là Tào Tung về phụng dưỡng thì cha ông lại bị quân Trương Khải giết, vì thế mà Tào Tháo quyết tâm báo thù, muốn giết sạch quân dân Từ Châu để trả thù. Cũng do khinh suất mà ông suýt mất mạng trong tay Lã Bố ở Bộc Dương Click here to view full size. Về sau Tào Tháo trả cả vốn lẫn lại, phá Lã Bố ở Hợp Phì, chém Trần Cung, lại còn thu nhận được Trương Liêu làm tướng. Nhưng danh tiếng của ông thực sự vang lừng kể từ sau trận Quan Độ đại phá Viên Bản Sơ, cũng một tay ông bình đất Hà Bắc của Viên Thiệu.Từ khi Lưu Bị có Khổng Minh, Thục Hán mạnh lên trông thấy, trở thành vật cản lớn nhất cho Tào Tháo trong sự nghiệp thống nhất Trung Nguyên. Kể ra thì Tào Tháo thua nhiều hơn thắng, các trận đại chiến lớn như đồi Bác Vọng, thành Tân Dã, lửa thiêu Xích Bích, thủy chiến Phàn Thành; quân Ngụy đều bại cả. Những năm tháng cuối đời, Mạnh Đức luôn bị chuyện ma quỷ thần tiên làm cho thất kinh, lại không chịu cho Hoa Đà mổ đầu chữa bệnh. A Man đến khi chết thọ được 66 tuổi, hơn nửa đời người chinh chiến kiêu hùng cuối cùng cũng hết số. 5 đứa con của ông, ngoài Tào Ngang đã tử trận, 4 người kia cũng đều là tuấn kiệt cả. Đặc biệt là Tào Phi, sau này ông là người lập nên nhà Ngụy, hoàn thành tâm nguyện của cha là bình định 2 nhà Thục và Ngô.

Người đời có nhận định nhiều chiều về Tào Tháo, người nói ông là anh hùng, kẻ cho ông là gian tặc. Riêng người viết bài này cảm thấy rất kính trọng Tào Tháo, xem ông là anh hùng thời loạn, đến khi chết rồi cũng để lại nhiều kỳ tích cho đời, riêng như việc đi tìm mộ ông thôi cũng là 1 truyền kỳ rồi Click here to view full size

Dưới trướng Tào Mạnh Đức có thể nói là toàn nhân tài, thêm nữa lại một lòng trung thành. Điểm qua các danh tướng nhà Ngụy thấy ai cũng sức mạnh hơn người, đầy đủ tài thao lược cả.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#sooi