Đạo đức công chức trong nền công vụ ở nước ta

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Đạo đức công chức trong nền công vụ ở nước ta: quan điểm, thực trạng, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra có tính Giải pháp ?

Trong bất cứ thời kỳ nào của cách mạng Việt Nam cán bộ, công chức (CB,CC) luôn là vấn đề trọng yếu, giữ vị trí đặc biệt quan trọng đối với công tác xây dựng Đảng  và thành công của sự nghiệp cách mạng. Theo chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn (2001-2010) của Chính phủ để phát triển đất nước được thực hiện trên 4 lĩnh vực: Cải cách thể chế, cải cách tổ chức bộ máy, xây dựng và phát triển đội ngũ CB,CC, cải cách tài chính công. Trong 4 lĩnh vực này, muốn thực hiện phải thông con người, mà cụ thể ở đây là đội ngũ CB,CC, bộ máy hành chính có hiện đại đến đâu, thủ tục hành chính có hợp lý mấy mà đội ngũ CB,CC “đuối tầm” thì cũng không thực hiện được. Để công cuộc cải cách hành chính đạt được kết quả tốt, thúc đẩy phát triển kinh tế thì việc quan trọng đầu tiên là xây dựng được đội ngũ CB,CC có cơ cấu hợp lý, chuyên nghiệp hiện đại, tuyệt đại đa số CB,CC có phẩm chất đạo đức tốt và đủ năng lực thi hành nhiệm vụ công vụ, tận tụy phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước và phục vụ nhân dân.

Đạo đức với nghĩalà một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và giữa những cộng đồng người khác nhau

Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.

Đạo đức công chức là phạm trù phản ánh các quan hệ giữa người với người trong hoạt động công vụ, trước hết gắn liền với những người làm việc trong bộ máy  hành chính nhà nước nói chug. Ở nước ta đó là những cán bộ, công chức, viên chức do Nhà nước quản lý. Đạo đức công chức được xã hội đánh giá qua hành vi thái độ của cán bộ, công chức, viên chức khi thi hành c.vụ

Công vụ là một loại lao động xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực và tính pháp lý được thực thi bởi đội ngũ công chức, nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước trong quá trình  quản lý toàn diện các mặt của đời sống xã hội.

Luật CBCC năm 2008  (Điều 2): “hoạt động công vụ của cán bộ, công chức là việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức theo quy định của luật này và các quy định khác có liên quan”. Như vậy, công vụ là hoạt động thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật.

Khác với các loại hoạt động thông thường, công vụ là hoạt động dựa trên cơ sở sử dụng quyền lực nhà nước. Hoạt động công vụ là hoạt động có tổ chức và tuân thủ những quy chế bắt buộc, theo trật tự có tính thứ bậc chặt chẽ, chính quy, hiện đại và liên tục. Hoạt động công vụ là hoạt động mà ở đó những quan hệ đạo đức thể hiện quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội trên cơ sở hướng tới sự tiến bộ.

Quan niệm về đạo đức cán bộ công chức ở VN hiện nay:  

Điều 15 Luật Công chức quy định: “Cán bộ công chức phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư trong hoạt động công vụ”. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng Cần, Kiệm, Liêm, Chính là nền tảng của đạo đức mới, là phẩm chất hàng đầu của đạo đức cách mạng. Đạo đức còn là sự thống nhất trong suy nghĩ, lời nói, việc làm của cán bọ công chức. Bốn đức tính này là nền tảng cơ bản để trở thành một con người có đạo đức, cơ bản đến mức, “thiếu một đức thì không thành người” và Bác luôn coi đạo đức là gốc, là nền tảng của người cán bộ cách mạng. Cần: tức là siêng năng, cần cù, mẫn cán với công việc, là làm đủ số thời gian nhà nước quy định. Đồng thời, Cần cũng có nghĩa là công việc của ngày nào phải làm xong trong ngày ấy, “việc hôm nay chớ để ngày mại”; Kiệm: “là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ của dân, của nước, của bản thân mình; tiết kiệm từ cái to tới cái nhỏ”; Liêm: người công chức phải thực sự rũ bỏ lòng tham, không chỉ đối với tiền bạc, vật chất mà cả với những danh vọng, địa vị, chức tước; Chính: có nghĩa là “ngay thẳng, là đứng đắn, chính trực. Đối với mình không tự cao tự đại; đối với người không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá, lừa lọc; luôn giữ thái độ chân thành khiêm tốn, đoàn kết. Như vậy, đạo đức công chức vừa mang tính pháp lý vừa mang tính nhân văn.

CBCC không những phải đáp ứng yêu cầu về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ mà còn phải đáp ứng yêu cầu về phẩm chất đạo đức. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy những cán bộ công chức có tâm mà không có tài rồi sẽ mang tâm lý chán nản, không còn nhiệt huyết đổi mới và đấu tranh chống tiêu cực bởi lẽ “lực bất tòng tâm”. Họ cần được cung cấp kiến thức và bồi dưỡng năng lực để trở thành những nhân tố đủ sức kiểm soát và định hướng những cán bộ công chức có tài mà không có tâm.

Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay đòi hỏi bên cạnh những phẩm chất đạo đức truyền thống cần có tinh thần học hỏi, tích lũy kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn, kỹ năng cộng tác làm việc. Chính vì vậy tiêu chí đánh giá đạo đức cán bộ công chức hiện nay phải là tính hiệu quả trong thực thi công vụ. Tính hiệu quả được lượng hóa thông qua những công việc đã làm được, những công việc dự kiến sẽ làm …

* Thực trạng đạo đức đội ngũ cán bộ công chức trong nền công vụ nước ta hiện nay

Trước hết, cần khẳng định đại bộ phận đội ngũ cán bộ, công chức của chúng ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, cố gắng thực hiện và phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ, giữ vững đạo đức, phẩm chất cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm, chấp hành sự phân công của tổ chức, lối sống lành mạnh, giản dị, gắn bó với nhân dân. Mặc dù gặp nhiều khó khăn và chịu tác động phức tạp trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhưng đội ngũ cán bộ, công chức đã góp phần đóng vai trò quyết định trong những thành tựu của sự nghiệp đổi mới đất nước.

Tuy nhiên, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức, kể cả một số cán bộ, đảng viên cao cấp thiếu tu dưỡng, rèn luyện bản thân, phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí, kém ý thức tổ chức kỷ luật, tha hóa về đạo đức, lối sống. Một bộ phận cán bộ, công chức né tránh, thiếu bản lĩnh đấu tranh với những hành vi quan liêu, tham nhũng, tiêu cực; phát ngôn và làm việc tùy tiện gây mất đoàn kết nội bộ; chưa thực sự lấy việc phục vụ nhân dân làm mục tiêu hàng đầu, làm thước đo chủ yếu nhất cho mức độ và kết quả thực hiện nhiệm vụ của mình. Quan hệ của họ với nhân dân thậm chí còn mang dấu ấn cai trị theo kiểu ban phát, thiếu bình đẳng, thiếu tôn trọng. Từ đó, dẫn đến tình trạng quan liêu, cửa quyền, hách dịch, sách nhiễu nhân dân, lợi dụng chức trách, thẩm quyền được giao phó để nhận hối lộ, tham nhũng, buôn lậu, làm biến dạng những giá trị và tiêu chuẩn đích thực của người cán bộ, rơi vào chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng. Tại Đại hội X nêu: "tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ công chức diễn ra nghiêm trọng”. Đại hội XI “tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn và đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biễn phức tạp”.

Đáng chú ý là số lượng cán bộ, công chức bị xử lý kỷ luật và truy cứu trách nhiệm hình sự, trong đó có cả cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước trong những năm gần đây ngày càng tăng. Điều đó đang làm xói mòn bản chất cách mạng của đội ngũ cán bộ, công chức, làm suy giảm uy tín của Đảng và niềm tin của nhân dân đối với chế độ.

 * Nguyên nhân: Tình trạng suy thoái về đạo đức lối sống trên chủ yếu là do các nguyên nhân:

Một là: trong điều kiện mới, một bộ phận cán bộ, đảng viên mắc chủ nghĩa cá nhân, sống buông thả, thiếu  tu dưỡng rèn luyện, trong khi sự giáo dục, quản lý, kiểm tra của các tổ chức đảng, trước hết là các chi bộ và cấp uỷ lại lỏng lẻo.

Hai là: Nhiều cơ quan, đơn vị, nhiều tổ chức Đảng coi nhẹ công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ đảng viên, thiếu những hình thức, biện pháp quản lý, kiểm tra việc rèn luyện của c.bộ, đ.viên; xử lý chưa kịp thời, nghiêm minh khi có vi phạm.

Ba là: trong điều kiện một đảng cầm quyền, một số cán bộ, đảng viên "cơ hội" không chịu rèn luyện phẩm chất của người cộng sản đã biến "quyền lực thành lợi ích vật chất cá nhân, sống trên dân, xa cách dân.

Bốn là: mặt trái của cơ chế thị trường và mở cửa đang hàng ngày, hàng giờ tác động đến tư tưởng tình cảm của cán bộ đảng viên trong khi chế độ chính sách đãi ngộ, nhất là chính sách tiền lương của cán bộ công chức còn nhiều bất cập.

Năm là: các thế lực thù địch ráo riết thực hiện chiến lược diễn biến hoà bình, bằng mọi âm mưu thủ đoạn tinh vi và thâm độc: dùng tiền bạc, gái đẹp... làm tha hoá cán bộ đảng viên, hòng thực hiện những âm mưu, ý đồ thâm độc của chúng.

         Hiện nay, nâng cao chất lượng mọi mặt cho đội ngũ cán bộ, công chức các cấp của Đảng và Nhà nước là một yêu cầu cấp thiết; trước mắt và chủ yếu cần tập trung nâng cao hơn nữa về phẩm chất chính trị, đạo đức, phẩm chất cách mạng và năng lực hoạt động thực tiễn.

Phương hướng để rèn luyện đạo đức công chức là:

Không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, không ngừng học tập để nâng cao trình độ và năng lực thực thi công vụ; luôn bám sát vấn đề thực tiễn, vận dụng lý luận vào thực tiễn; thường xuyên tổng kết, rút kinh nghiệm và không ngừng nâng cao kỷ năng hoạt động; Rèn luyện bản lĩnh và kỷ năng lãnh đạo; xây dựng hành vi ứng xử văn hóa, tận tụy phục vụ nhân dân.

* Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao đạo đức công chức ở nước ta hiện nay

Thứ nhất, xây dựng chuẩn mực nhằm cụ thể hoá nguyên tắc đạo đức công chức

Hiện nay, những giá trị về đạo đức công vụ trong cơ quan hành chính nhà nước mới chỉ mang tính thủ tục hoặc như những tập quán tiến bộ được xã hội thừa nhận, mà chưa mang tính bắt buộc chung, chưa thực sự trở thành căn cứ pháp lý để quy định cụ thể về hành vi của mỗi cán bộ, công chức trong khi thi hành công vụ. Trên thực tế, các cơ quan công quyền vẫn còn gây nhiều khó dễ cho người dân, mặc dù đã tiến hành cải cách hành chính trong nhiều năm. Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng đó là vấn đề đạo đức và trách nhiệm công chức chưa được luật pháp hoá chặt chẽ, đầy đủ.

 Đối với đội ngũ cán bộ, công chức, cần:

- Không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng;

- Không ngừng học tập nâng cao trình độ, năng lực, chịu học, biết học và học có hiệu quả;

- Luôn bám sát thực tiễn, vận dụng kiến thức vào thực tiễn;

- Kiên trì tích luỹ kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng công tác;

- Rèn luyện bản lĩnh và năng lực lãnh đạo, quản lý, khả năng hợp tác, tổ chức thực hiện và sự chịu trách nhiệm;

- Kiên trì cuộc đấu tranh chống lại dốt nát, nghèo đói, thói hư, tật xấu, nhất là sự lười biếng, sự đố kỵ, sự tham nhũng, cửa quyền, quan liêu, cách sống buông thả và sa đoạ; biết sống khỏe, sống vui, sống hạnh phúc.

Đối với nhà nước và các cơ quan nhà nước:

Một là, xây dựng và hoàn thiện quy chế công vụ, đạo đức công vụ thông qua hệ thống pháp luật và các văn bản pháp quy của các cơ quan nhà nước cho từng loại, từng chức danh công chức. Cụ thể hoá những giá trị đạo đức, như lòng trung thành, cần, kiệm, liêm, chính,... thành những chuẩn mực cụ thể trong hành vi công vụ, trong những bối cảnh và quan hệ xác định.

Hai là, xây dựng và hoàn thiện cơ chế dân chủ bằng những quy định và chuẩn mực pháp luật, tạo điều kiện để nhân dân tham gia xây dựng và giám sát hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức và cơ quan nhà nước.

Ba là, xây dựng và hoàn thiện quy chế đánh giá cán bộ, công chức (quy trình đánh giá, nội dung đánh giá) theo hướng công khai, dân chủ, có sự tham gia của dư luận xã hội và công dân.

Bốn là, xây dựng quy chế về cam kết và lời thề công vụ của cán bộ, công chức khi được bổ nhiệm.

Năm là, đầu tư nghiên cứu về đạo đức công vụ; về những giá trị, lý tưởng đạo đức công vụ để từng bước cụ thể hoá nó thành những chuẩn mực pháp luật, nhất là đẩy mạnh nghiên cứu đạo đức công vụ trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.

Thứ hai, tạo môi trường xã hội lành mạnh, điều kiện làm việc tốt nhất và chế độ đãi ngộ công chức thoả đáng để thu hút người có tài, có đức

Để nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của công chức, cần một môi trường xã hội thân thiện, công bằng, bình đẳng, chân thành, đánh giá khách quan và chính xác năng lực, phẩm chất của mỗi thành viên trong cơ quan, đơn vị và sử dụng đúng năng lực của họ. Bên cạnh đó, cần có chế độ, chính sách đãi ngộ phù hợp với cán bộ công chức dựa trên nguyên tắc về sự công bằng giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa quyền lợi và trách nhiệm. 

Thứ ba, nêu cao tinh thần tự tu dưỡng đạo đức gắn với cơ chế kiểm tra, giám sát của cơ quan, đoàn thể và nhân dân

Nêu cao tính “tự luật” (tự giác tuân theo kỷ luật) của đạo đức. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh việc “phê bình và tự phê bình”; vì vậy, cần hướng sự giáo dục thành quá trình tự giáo dục, tự rèn luyện, tự tu dưỡng của công chức. Đó cũng là điều kiện để chuyển văn hoá đạo đức xã hội thành văn hoá đạo đức cá nhân trong việc hiện thực hoá lý tưởng đạo đức.

Người công chức cần biết tự đánh giá về hành vi đạo đức của mình, nhận thức đúng đắn về cương vị công tác cũng như trách nhiệm đạo đức của mình, không bán rẻ danh dự vì những hư danh và những đồng tiền bất chính. Chỉ có nâng cao tính “tự luật”, phát huy tinh thần “phê bình và tự phê bình” mới có thể làm cho quy phạm xã hội bên ngoài chuyển hoá thành ý chí và hành động tự giác của mỗi công chức, mới nghiêm khắc với bản thân mình, làm chủ bản thân, khiêm tốn học hỏi; thực sự làm cho sự tu dưỡng trở thành yêu cầu nội tại của bản thân, từng bước hoàn thiện mình theo lý tưởng đạo đức.

Rèn luyện đạo đức là một quá trình khó khăn, lâu dài, thậm chí phải mài dũa, trau dồi suốt đời. Mọi cán bộ công chức từ mới đến cũ, từ già đến trẻ, từ cấp thấp đến cấp cao đều phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức công chức. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: đạo đức cách mạng không phải tự nhiên có được, mà nó là kết quả của cả một quá trình khổ luyện, phấn đấu không ngừng: “Ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.

Nâng cao đạo đức công chức là một nội dung quan trọng trong mục tiêu xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh. Để thực hiện nhiệm vụ đó, cần có một hệ thống giải pháp đồng bộ, toàn diện và có tính khả thi. Bồi dưỡng và nâng cao đạo đức công chức trước hết là trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi công chức; đồng thời, là kết quả tổng hợp từ nỗ lực chung của các cơ quan nhà nước, các tổ chức đoàn thể và của toàn xã hội./

Các biện pháp nêu trên đều quan trọng và có mối liên hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại và bổ sung cho nhau. Cho nên trong quá trình tổ chức thực hiện, tuyệt đối không được coi nhẹ hoặc đề cao một biện pháp nào. Nâng cao chất lượng toàn diện về phẩm chất, năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức của Đảng và Nhà nước ta hiện nay, để họ có đủ đức, tài là điều kiện quyết định để góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH,HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, vì dân giầu, nước mạnh, xã hội dân chủ công bằng, văn minh.

Liên hệ thực tiễn

Xác định rõ vai trò quyết định của đội ngũ cán bộ công chức cơ sở trong quá trình phát triển của địa phương, tỉnh Quảng Trị đã chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức về đạo đức công chức, về trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, quản lý nhà nước và kinh nghiệm thực tiễn.

Trên cơ sở kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hàng năm đã được UBND tỉnh phê duyệt, từ năm 2001 đến nay các ngành, địa phương đã tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cho 33.900 lượt cán bộ, công chức, viên chức (công chức hành chính cấp tỉnh, cấp huyện: 5.224 lượt; viên chức sự nghiệp cấp tỉnh, cấp huyện: 17.232 lượt; cán bộ, công chức cấp xã, phường, thị trấn: 11.522 lượt).

Nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức chủ yếu là nhằm mục đích nâng cao kiến thức tổng hợp và năng lực tư duy gắn liền với giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức cho cán bộ. Lấy tiêu chuẩn cán bộ làm căn cứ xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng. Tùy thuộc vào trình độ, năng lực và phẩm chất chính trị của cán bộ, UBND tỉnh chỉ đạo Sở Nội vụ, phối hợp với các cơ sở đào tạo trong và ngoài tỉnh tổ chức đào tạo cho cán bộ, công chức, viên chức sát với yêu cầu nhiệm vụ được giao.

Song song với đó là ban hành hệ thống cơ chế, chính sách, lộ trình để sàng lọc cán bộ, tạo điều kiện cho những người có đủ sức khỏe, năng lực và phẩm chất phát huy hết sở trường của mình. Việc thực hiện chính sách đối với cán bộ dân tộc thiểu số đã và đang động viên khuyến khích được cán bộ yên tâm công tác, gắn bó với công việc, có động cơ phấn đấu, trau dồi nâng cao năng lực mọi mặt. Đồng thời tỉnh cũng rất chú ý đến việc quy hoạch cán bộ để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, tạo ra nguồn cán bộ là người dân tộc thiểu số đông đảo hơn, đa dạng hơn trên các lĩnh vực với trình độ ngày càng được nâng cao hơn... 

Hạn chế:  Công tác đào tạo, bồi dưỡng từng lúc, từng nơi chưa thực hiện theo quy hoạch, còn có tư tưởng chạy theo bằng cấp, chưa chú ý đến năng lực, trình độ chuyên môn thực sự của cán bộ và yêu cầu của công việc. Nội dung giáo trình và phương pháp đào tạo chậm được đổi mới, đôi khi chưa sát với yêu cầu nhiệm vụ của cán bộ, công chức.

Chính sách khuyến khích đối với cán bộ, công chức, viên chức được cử đi đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển hiện nay chưa thật sự khuyến khích so với yêu cầu cuộc sống còn quá thấp, cho nên cán bộ không yên tâm học tập và công tác. Công tác đánh giá cán bộ đôi khi còn nặng về cảm tính, thiếu những tiêu chí cụ thể để lượng hoá được hiệu quả làm việc của cán bộ, công chức.

Trong giai đoạn tới, để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu xây dựng Quảng Trị thoát khỏi nhóm tỉnh nghèo của cả nước, tỉnh Quảng Trị xác định tập trung đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, đặc biệt là cán bộ chủ chốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất và năng lực, bảo đảm về tiêu chuẩn, cơ cấu dân tộc, trình độ, tính kế thừa giữa các thế hệ nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro