đạo hồi-luật so sánh

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

ĐẠO HỒI

Charlie Nguyễn

Trong lịch sử thế giới, chưa từng có một tôn giáo nào bành trướng mộc cách mạnh mẽ và nhanh chóng cho bằng đạo Hồi. Từ một nhóm người du mục sống trong một ốc đảo heo hút giữa sa mạc Syro-Arabia dã man chóng biến thành những con người đầy quyền lực tung hoành từ Cân Đông đến Âu châu và từ Bắc Phi đến tận cá nước châu Á:

- Chỉ trong vòng 10 năm kể từ ngày giáo chủ Muhammad qua đời (632-642) quân Hồi giáo Ả rập đã chiếm trọn bán đảo Arabia (rộng gấp 8 lần Việt Nam), chiếm Iraq, Syria, Palestine, Ai cập và phía Tây nước Iran.

- Trong 2 năm (648-649) quân Hồi chiếm Carthage, Tunisia. Một điều làm cho cả thế giới kinh ngạc là lần đầu tiên người Ả-rập chiếm một nước Âu châu, đó là Hy-lạp.

- Thừa thắng xông lên, người Hồi giáo Ả-rập mở cuộc chiến tranh đánh Tâ-ban-nha. Sau 5 năm, người Hồi chiến thắng đã chiếm trọn nước Âu châu rộng lớn và nổi tiếng sùng đạo Công giáo nhất thời bấy giờ.

- Năm 712, quân Hồi giáo chiếm trọn Iran (Ba Tư) và dùng nước này làm bàn đạp tiến quân đánh chiếm các nước Trung Á ở phía nam nước Nga, chiếm vùng Bắc Âu rộng lớn (nay là Pakistan và Afghanistan) và xâm nhập phía Tây Trung quốc. Quân Hồi bị quân nhà Đường chận lại tại sông Talas nên phải rút về Trung Á.

Sự xuất hiện và bành truớng của đạo Hồi trong thế kỷ thứ 7 hung bạo dữ dội như cơn gío xoáy (tornado) khiến cho cả thế giới phải kinh hoàng.

Chúng ta thừ tìm hiểu những nguyên nhân nào đã khiến cho đạo Hồi có thể bành trướng với độ vũ bão như vậy. Các sử gia đã phân tích 3 nguyên nhân sau đây:

Nguyên nhân một: Qua nhiều năm sống trên các cánh đồng cỏ ở sa mạc Syro-Arabia, kiếp sống lang thang của những người Ả-rập càng ngày càng trở nên khó khăn về đất đai ngày càng trờ nên khô cằn. Từ thế kỷ thứ 6, bộ lạc Quraysh tổ tiên của Muhammad) có sáng kiến bỏ nghề du mục để chuyển sang nghề thương mại. Họ tổ chức các cuộc di buôn đường xa với những đoàn lữ hành (caravans) gồm hàng trăm người và rất nhiều ngựa, lạc đà để chờ hàng hóa lương thực, lều vải, vũ khí... Dần dần, thị trường ngày càng được mở rộng, nhu cầu thương mại gia tăng, những đoàn lữ hành có thể gia tăng lên tớn nhiều ngàn người.

Do nhu cầu cầu tự vệ, mọi người trong đoàn lữ hành đều phải học cưỡi ngựa, cưỡi lạc đà, luyện tập xử dụng cá thừ vũ khí như gươm giáo, cung tên, kể cả võ thuật và chiến thuật quân sự. Ngoài ra, họ học nói nhiều ngoại ngữ, học cả địa lý và phong tục tập quán của các nước lân cận để gia tăng khả năng giao dịch thương mại. trải qua nhiều thập niên, những thương gia (traders) Ả-rập trở thành những người đa tài, đa năng và đa hiệu. Họ chẳng những là những thương gia rành nghề mà còn là những quân nhân thiện chiến, kỷ luật và còn là những người lãnh đạo quần chúng.

Vào đầu thế kỷ 7, Mecca là thủ phủ của những người Quaraysh đã trở nên một trung tâm thương mại lớn nhất tại Trung Đông. Những người Quraysh không còn cái dáng dấp quê mùa nghèo khổ của thế kỷ trước nữa, trái lại họ đã trở thành những người văn minhgiầu có. Điều đó làm cho nhiều bộ lạc Ả-rập khác phải thèm muốn và cố gắng noi theo. Một trong những bộ lạc nổi tiếng hung dữ là bộ lạc Bedouins bắt chước bộ lạc Quaraysh đã bỏ nghề du mục và tham gia vào các đoàn caravans của Mecca.

Vào giữa thế kỷ 7, gặp cơ hội đạo Hồi phát triển, các bộ lạc Ả-rập, nhất là Quaraysh và Bedouin, đã nô nức nhập cuộc dùng tôn giáo làm phương tiện bành trướng lãnh thổ để thay đổi môi trường sống tại bán đảo Ả-rập đã quá cằn cỗi.

Nguyên nhân hai: Từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 7, toàn vùng Trung Đông và Bắc Phi bị hai đế quốc Byzantine và Sassanian thay phiên nhau thống trị: Đế quốc Byzantine là hậu thân của đế quốc La-mã, được đại đế Constantine thành lập năm 330, đặt thủ phủ tại hải cảng Byzantine của Hy-lạp. Từ đời Constantine (thế kỷ 4) đến đời hoàng đế cuối cùng của đế quốc Byzantine vào giữa thế kỷ 15, tất cả đều là những hoàng đế theo Ki-tô giáo Đông Phương (Eastern Christian Church) sau này trở thành Chính Thống giáo.

Đế quốc Sassanian là đế quốc Ba Tư, tồn tại 427 năm (từ 224-651). Các hoàng đế của đế quốc Sassanian đếu theo đạo Hỏa giáo (Zoroastrianism). Cả hai đế quốc nó trên đánh nhau liên miên suốt 4 thế kỷ, đến đầu thế kỷ 7 thì cả hai đế quốc này đều bị kiệt quệ tạo nên một khoảng trống quyền lực tại Trung Đông và Bắc Phi. Do đó, những đoàn kỵ binhcủa Hồi giáo Ả-rập đã tiến vào lãnh thồ của cả hai đế quốc này như tiến vào chỗ không người.

Nguyên nhân ba: Giáo lý đạo Hồi là sản phẩm của người Ả-rập nên được người Ả-rập đón nhận một cách dễ dàng và tự nhiên. Từ thời xa xưa, người Ả-rập đã chấp nhận niềm tin của Abraham, nghĩa là tin có Thiên Chúa (tiếng Ả-rập gọi là Allah) tin có Thiên đàng, Hỏa ngục, tin có thiên thần v.v... Chon nên người Ả-rập không coi Hồi giáo như một đạo ngoại lai mà là đạo cổ truyền của dân tộc. Văn thơ trong kinh Koran đối với người Ả-rập là những áng thơ văn tuyệt tác. Mỗi khi họ đọc kinh Koran là một dịp họ ngâm thơ, họ cảm thấy những vần thơ đó rất hấp dẫn vì rất hợp với khiếu thẩm mỹ văn chương của họ. Ý niệm thánh chiến (jihad) và ý niệm tử đạo hoàn toàn phù hợp với tâm lý vốn hung bạo của người Ả-rập vì họ rất quen thuộc với cuộc sống đầy bất trắc tại sa mạc, kinh Koran mộ tả thiên đàng rất hấp dẫn đối với các hiến binh trẻ tuổi: Sau khi chết trận, được coi như tử đạo, sẽ được Chúa cho lên thiên đàng để được hưởng đủ thứ lạc thú cho đến muôn đời. Lạc thú độc đáo nhất mà chỉ đạo Hồi mới có, đó là những người chết trận hoặc tử đạo đều được những cô gái trinh tuyệt đẹp đón tiếp và phục vụ lạc thú tình dục cho đến muôn đời vì mọi người ở thiên đàng đều trẻ mãi không già! Niềm tin đặc biệt này đã là một yếu tố tâm lý quan trọng khiến cho những gnười lính Hồi giáo trở thành những chiến sĩ rất dũng cảm trong các cuộc thành chiến. Chỉ vì cuồng tín, những đoàn quân Hồi giáo đã lập nên những chiến công oanh liệt như những kỳ tích vượt xa sự dự tưởng của mọi người.

Những cuộc chiến tranh mở rộng nước Chúa của Hồi giáo (Kingdom of Allah) từ ngày lập đạo tới nay có thể được chia ra làm hai thời kỳ:

- Thời kỳ I (từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 13): Đạo Hồi bành trướng và phát triển tạo thành một số quốc gia theo đạo Hồi, đứng đầu cộng đồng Hồi giáo là một vị vua được gọi là Caliph, có nghĩa là "người kế vị của giáo chủ Muhammad về phương diện thế quyền". Xin ghi thêm ở đây là đạo Hồi tin giáo chủ Muhammad là thiên sứ cuối cùng của Allah cho nên không một ai có quyền tự trị xưng là kẻ thừa kế của Ngài về phương diện thần quyền.

- Thời kỳ II (từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 20): Do những biến cố đặc biệt của thế giới đã đưa đến sự hình thành ba đế quốc Hồi giáo. Trước hết là sự xâm lăng của quân Mông Cổ chiếm nước Trung Đông và sau đó chiếm các nước Bắc Âu và nhiều nước Á châu khác tạo thành một đế quốc Mông Cổ rộng lớn. Từ cuối thế kỷ thứ 13, nhiều hoàng đế Mông Cổ theo đạo Hồi đã tạo nên đế quốc Hồi giáo Mughul (do chữ Mongol mà ra). Trong thế kỷ 15, tại Âu châu, người Thổ-nhĩ-kỳ Hồi giáo chế ra thuốc súng và lập ra binh chủng pháo binh đầu tiên trên thế giới. Dựa vào sức mạnh quân sự, người Thổ Hồi giáo xua quân đánh chiếm nhiều nước trên cả ba lục địa Âu, Á, Phi và lập nên đế quốc Ottoman. Cuối cùng, dân tộc Azerbaizan ở tây nam biển Caspian bỗng nhiên trở nên hùng mạnh vào đầu thế kỷ 16, cắt quân đánh chiếm nhiều nước Âu châu và Trung Đông tạo thành đế quốc Safavids theo giáo phái Shiite.

I. Thời kỳ cai trị của các Caliphs (từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 13):

A. Bốn người kế vị đầu tiên của Muhammad (632-661):

Danh từ Hồi giáo Ả-rập gọi chung cả bốn vị thừa kế đầu tiên của giáo chủ Muhammad là Rashidun. Họ được coi là 4 cột trụ của hồi giáo trong thời kỳ sơ khai. Họ đã lần lượt thay thế nhau trong 29 năm kể từ khi Muhammad qua đời, nhưng những việc làm của họ đã có những ảnh hưởng hết sức lớn lao cho sự tồn vong của đạo Hồi. Bốn vị đó là: Abu Bakr, Umar Khattab, Uthman Affan và Ali Talib.

1. Abu Bakr (632-634): Sau khi Muhammad qua đời, cộng đồng Hồi giáo non trẻ lâm vào tình trạng hỗn loạn vì không có lãnh đạo. Không một ai được đa số tín đồ Hồi giáo tín nhiệm bầu lên làm người kế vị Muhammad. Trước tình thế bế tắc đó, Abu Bakr tự động đứng lên dành quyền lãnh đạo. Ông là một thương gia giàu có và có uy tín bậc nhất ở Mecca. Ông đã nghiêm khắc ra hai lệnh cấm khẩn cấp để bảo vệ đạo Hồi và cộng đồng Hồi giáo:

- Tuyệt đối cấm không một tín đồ nào được rời bỏ cộng đồng Hồi giáo (Islamic Confederacy).

- Không một ai được tự xưng là tiên tri vì Muhammad là vị tiên tri cuối cùng của Thiên Chúa trên thế gian này.

Abu Bakr đã mau chóng phá tan các âm mưu chia rẽ cộng đồng Hồi giáo và chỉ sau 2 năm, toàn bán đảo Ả-rập đã theo đạo Hồi. Bán đảo Ả-rập rất rộng lớn, hiện được chia thành nhiều quốc gia độc lập: Saudi Arabia, yemen, Quatar, Omar và Emerite.

2. Umar Khattab (634-644): Sau khi Abu Bakr qua đời, Umar được bầu làm người kế vị (Caliph) cai quản cả một cộng đồng Hồi giáo rộng lớn trên toàn bán đảo Ả-rập. Umar là một thiên tài quân sự kiệt xuất trong lịch sử Hồi giáo. Ông đã ban hành trên toàn lãnh thổ Ả-rập những biện pháp sau đây:

- để bảo toàn lực lượng Hồi giáo, các bộ lạc trong cộng đồng đạo Hồi tuyệt đối không được đánh nhau.

- mọi người nam giới trong các bộ lạc trên toàn bán đảo Ả-rập đều là các binh sĩ, tất cả đều được huấn luyện quân sự và được sắp xếp thành các đơn vị quân đội. Umar tự xưng là "Tư lệnh của các tín đồ". Sau hai năm huấn luyện quân sự và được trang bị vũ khí đầy đủ, Umar bắt đầu mở mang nước Chúa bằng sức mạnh quân sự:

- năm 636, Umar đích thân chỉ huy quân Hồi giáo chiếm Iraq và Syria.

- năm 637, Umar chiếm toàn lãnh thổ của đế quốc Sassasian và chiếm thành phố lớn nhất của đế quốc Byzantine là Anatolia.

- năm 641, Umar chiếm toàn bộ các nước Bắc Phi gồm Ai-cập, Algeria, Tunisia và Maroc.

Một điều đáng chú ý là những đoàn quân Hồi giáo đã tiến chiếm những vùng đất xa xôi thuộc nhiều hướng khác nhau, nhưng vị chỉ huy tối cao là Umar vẫn đặt bản doanh ở Medina, một ốc đảo trong sa mạc Syro-Arabia. Ông chỉ huy các đoàn quân Hồi giáo trên những sa bàn và những bản đồ tại văn phòng của ông. Dưới sự lãnh đạo kiệt xuất của Umar trong 10 năm, Hồi giáo từ một tíao phái nhỏ ở sa mạx đã biến thành một đế quốc rộng lớn. Các tín đồ Hồi giáo cho đó là một phép lạ của Allah, trong khi Âu châu bắt đầu cảm thấy e ngại trước sự lớn mạnh của một tôn giáo mới. Họ gọi đạo Hồi là "đức tin bạo lực" (a violent faith) hoặc là một "tôn giáo quân phiệt" (a militaristic religion). Vào một ngày định mệnh trong tháng 11 năm 644, trong khi Umar đang cầu nguyện trong đền thờ tại Medina thì bị một tù binh người Ba Tư đâm chết.

3. Uthman (644-656) Uthman lá cánh tay mặt và phục vụ dưới trướng của Umar 10 năm. Uthman đã học hỏi được nhiều kinh nghiệm về tài thao lược quân sự của người tiền nhiệm. Vào lúc này, Hồi giáo là một quyền lực quân sự lớn ở trong vùng vì họ đã tịch thu được rất nhiều chiến lợi phẩm quân sự và tích luỹ được rất nhiều tài nguyên kinh tế dự trữ tại các vùng chiếm đóng. Dưới sự lãnh đạo tài ba của Uthman trong 12 năm, quân Hồi đã lập nên nhiều kỳ tích chưa từng thấy:

- Trước hết, quân Hồi chiếm Hy-lạp và nhiều nước phía đông Địa Trung Hải.

- Mấy năm sau, một cánh quân tiến về phía tây chiếm Libya.

- một cánh quân khác tiến về phía đông chiếm nước Âu châu Armenia, tiến vào miền Caucase của Nga. Trong khi đó một cánh quân khác tràn xuống phía nam đánh chiếm Bắc Ấn Độ (tức Afghanistan và Pakistan ngày nay).

Tới lúc này, Hồi giáo đã thành một đế quốc mênh mông kéo dài từ Âu sang Á tới Bắc Phi. Những quân lính Ả-rập Hồi giáo hầu hết đều đã xa nhà trên 10 năm, phần đông đều cảm thấy chán nản. Nhiều tướng lãnh Hồi giáo xa chủ tướng đã lâu nên cũng mất đi tình thân ban đầu.

Năm 656, một nhóm tướng và binh sĩ bất mãn đã bất thần trở về medina vây bắt và giết chết Uthman tại chỗ. Nhóm này đưa Ali talib lên làm vị Caliph thứ tư của Hồi giáo.

4. Ali Talib (656-662): Vụ sát hại Uthman để đưa Ali lên thay là một biến cố vô cùng ta hại cho Hồi giáo trong suốt nhiều thế kỷ qua và có thể còn kéo dài mãi mãi về sau. Ali là em họ và đồng thời là con rể của Muhammad. Khi vừa được bầu lên là Caliph, Ali đã gặp phải sự chống đối của Muawiyah là người nhà của uthman. Muawiyah lúc đó là quan toàn quyền Hồi giáo cai trị Syria lên tiếng chỉ trích Ali đã không trừng phạt kẻ sát hại Uthman. Ali mang quân đến đánh Muawiyah nhưng hai bên đánh nhau khá lâu không phân thắng bại nên phải ngưng chiến. Năm 662, Ali bị ám sát chết. Muawiyah tự cho mình là người đang nắm quyền lực quân sự mạnh nhất nên tự xưng là Caliph lãnh đạo cộng đồng Hồi giáo. Y tự ý dời thủ đô Hồi giáo từ Medina về Damacus lúc đó là thủ đô của Syria. Muawiyah mở đầu cho một triều đại Hồi giáo kéo dài tới 6 thế kỷ. Đó là triều đại Umayyad gồm những vị vua cai trị các nước Hồi giáo, tất cả đều tự xưng là Caliph (661-1250). Do đó, tất cả các vua Hồi giáo thuộc triều đại Umayyad đều được gọi chung là "Caliphate Rulers", có nghĩa là các nhà lãnh đạo cộng đồng với tư cách là người kế vị Muhammad.

Riêng cá nhân Muawiyah cai trị toàn bộ cộng đồng Hồi giáo rộng lớn trong 19 năm. Ông biến những gnuời theo ông thành một giai cấp quí tộc mới, nói đúng hơn là một giai cấp thống trị. Chủ thuyết của Muawiyah là cai trị dân bằng sức mạnh quân sự. Muawiyah chết vì bệnh năm 680.

Trong thời gian đó, những người Hồi giáo thân Ali đã lập ra một giáo phái mới là giáo phái Shiite. Số tín đồ Hồi giáo còn lại được gọi chung là Sunni, có nghĩa là 'đa số'. Năm 680, vua Yazid (con của Muawiyah) đến Medina chận bắt con trai của Ali là Husayn và giết nhiều người thuộc giáo phái Shiite. Năm sau, Yazid mang quân trở lại Medina (nơi ở cuối cùng của Muhammad) tàn phá và dìm thành phố thánh địa này trong biển máu. Để trả thù, giáo phái Shiite mang quân chiếm thánh địa Mecca và tàn phá nặng nề thành phố này. Từ đó đến nay, trải qua trên 13 thế kỷ, hai giáo phái Sunni và Shiite thường xuyên xung đột nhau nhiều trận đẫm máu. Số người tử trận cả hai bên có thể lên tới nhiều chục triệu người. Đây là một thảm họa lớn nhất trong lịch sử thế giới Hồi giáo.

II. Thời kỳ của những đế quốc Hồi giáo - từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 201.

1. Đế quốc Mughul: Mughul là tiếng phiên âm Ả-rập để gọi người Mông Cổ. Người sáng lập đế quốc Mông Cổ là Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan 1162-1227). Thoạt đầu ông thống nhất các bộ lạc du mục Mông Cổ vốn có tài cưỡi ngựa và bắn cung. Sau đó ông huấn luyện và tổ chức họ thành quân ngũ và biến họ thành những đoàn kỵ binh bách chiến bách thắng. Với đoàn quân hùng mạnh này, Thành Cát Tư Hãn đã lần lượt đánh chiếm nhiều nước từ Á sang Âu tới tận Trung Đông và Phi Châu. Luật tác chiến rất nổi tiếng của Thành Cát Tư Hãn là: hễ tới nơi nào ngoan ngoãn đầu hàng thì tha, bất cứ một thành phố hay làng mạc nào chống cự đều bị phá thành bình địa và tất cả mọi người dân không kể già trẻ lớn bé đều phải chết!

- Năm 1219, quân Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn đánh chiếm Thổ-nhĩ-kỳ. Vua Thổ cùng đoàn tuỳ tùng bỏ chạy bị quân Mông Cổ truy kích qua Iran tới tận Azerbaizan thì bị bắt. Quân Mông Cổ tới đâu đều để lại phía sau sự đổ nát hoang tàn.

- Năm 1231, hàng loạt các thành phố nổi tiếng của Hồi giáo như Baghdad, Bukhara, Damacus... đều bị đốt phá bình địa với những xác chết la liệt trên đường phố. Dân chúng sợ hãi lũ lượt kéo nhau chạy qua các nước lân cận.

- Năm 1255, Mông Cổ hoàn thành một đế quốc rộng lớn bao la gồm Trung Quốc, Cao Ly, ngoại Mông, hàng chục nước Trung Á và Bắc Ấn Độ, Syria, Palestine, Thổ-nhĩ-kỳ.

Nhưng một biến cố quan trọng đã xảy ra cho cả Hồi giáo lẫn Mông Cổ, đó là vào năm 1295, hoàng đế Mông Cổ Ghazan Khan theo đạo Hồi thuộc giáo phái Sunni. Từ đó về sau, các hoàng đế Mông Cổ đều theo đạo Hồi. Càng về sau, các quan và cả triều đình Mông Cổ trong đế quốc đều thành những tín đồ Hồi giáo thành tín. Các học sĩ Hồi giáo Ả-rập (Ulama) được trọng dụng, nhất là trong việc soạn thảo các bộ luật hình sự và dân sự phỏng theo luật Hồi giáo Sharia.

Hoàng đế Mông Cổ Timur Lenk đóng đô tại Thổ-nhĩ-kỳ xua quân đánh chiếm iran năm 1387, chiếm hải cảng Golden Horde của Nga năm 1395, chiếm Ấn Độ năm 1398, tàn phá thủ đô new Delhi và giết hàng chục ngàn tù binh Hindu tại đây. Năm 1400, Timur chiếm hai nước Iran và Iraq. Tại đây, Timur ra lệnh tàn sát hàng triệu người thuộc giáo phái Shiite. Vì quá say máu chiến thắng, năm 1404, Timur kéo quân ngược về phía Trung Á rồi vượt biên giới tiến đánh vào phía Tây Trung Quốc. Cuộc chiến kéo dài qua năm sau, Trung Quốc phản công giết quân Mông Cổ rất nhiều và bản thân Timur cũng bị tử trận trong năm 1405.

Những hoàng đế Mông Cổ kế tiếp chú trọng việc mở rộng đế quốc ở châu Á:

- năm 1478, đế quốc Mughul chiếm Indonesia và biến nước này thành nước Hồi giáo. Ngày nay, Indonesia là một nước đông dân nhất của thế giới đạo Hồi với trên 200 triệu dân.

- từ 1520 đến 1837, đế quốc Mughul cai trị toàn Ấn Độ (Ấn mang tên Mughul Empire of India). Hoàng đế Mông Cổ đóng đô tại new Dehli. Năm 1643, hoàng đế Mông Cổ cho xây ngôi mộ ở ngoại ô New Dehli rất nổi tiếng, đó là ngôi mộ Taj Mahal.

- năm 1747, đế quốc Mughul chiếm Afghanistan và cai trị nước này trong 100 năm.

Năm 1831, người Anh chiếm Ấn Độ và chấm dứt đế quốc Mughul trên lục địa châu Á.

2. Đế quốc Ottoman (1289-1924)

Danh từ Ottoman xuất phát từ tên của một bộ lạc du mục là Osman ở phía tây Thổ-nhĩ-kỳ. Bộ lạc này bắt đầu khởi binh từ năm 1280. Chỉ trong 9 năm, họ chiếm một vùng lãnh thổ rộng lớn gồm có Tây nam Á châu, Đông nam Âu châu và Đông bắc Phi châu. Họ gọi đế quốc của họ là Ottoman. Những người lãnh đạo đế quốc này theo đạo Hồi thuộc giáo phái Sunni. Họ chẳng những nổi tiếng về tài năng thao lược quân sự mà còn nổi tiếng về khả năng chính trị rất khéo léo của họ. Nhờ vậy, đế quốc Ottoman đã tồn tại qua 7 thế kỷ.

- năm 1389, quân Ottoman chiếm Albania và Kosovo, biến vùng này thành những nước theo Hồi giáo.

- năm 1444, quân Ottoman đánh tan Thập Tự quân của giáo hoàng La-mã tại Bulgaria.

- tháng 4/1453, quân Hồi giáo Ottoman xóa sổ đế quốc Ki-tô giáo Đông Phương và chiếm thủ đô của đế quốc này là thành phố Constantinople. Điểm son của Ottoman là sau khi chiếm Constantinole và nhiều thành phố của Byzantine, Ottoman công bố chính sách khoan dung tôn giáo đối với Do thái giáo và Ki-tô giáo. Nhờ vậy, trong nhiều thế kỷ sau, Ottoman đã mở rộng thương mại với các nước Âu châu Ki-tô giáo và trong lãnh thổ đế quốc không có một cuộc nổi loạn nào.

Tuy nhiên, đối với giáo phái Shiite, Ottoman có một chính sách quyết liệt không nhân nhượng.

- năm 1467, Ottoman công bố thánh chiến với giáo phái Shiite, các tín đồ Shiite trong đế quốc bị lùng giết.

- từ 1520 đến 1534, quân Ottoman chiếm Nam Tư và một phần của Âu châu tới thủ đô Vienne của Áo.

- năm 1605, Ottoman chiếm Romania, Hungaria, Ba-lan và Tiệp khắc. Tới lúc này, đế quốc Ottoman trở thành siêu cướng quốc tế.

Từ đầu thế kỷ 19, các cường quốc Âu châu (Anh, Pháp, Đức) bắt đầu xâm chiếm các phần đất của Ottoman và dồn đế quốc này vào chỗ suy tàn.

3. Đế quốc Safavids của giáo phái Shiite (1501-1779)

Thoạt đầu Safavids là một nhánh của giáo phái Shiite xuất phát tại nước Azerbaizan ở tây nam biển Caspian. Năm 1501, lãnh tự của giáo phái Safavids là Esmail khởi binh chiếm luôn cả nước Azerbaizan. Esmail tự xưng là "vua Hồi giáo" (Sha/ Sultan) và ra lệnh cho toàn dân phải theo đạo Hồi (giáo phái Shiite). Ít lâu sau, Esmail xua quân đánh chiếm cá c nước lân cận theo Chính Thống giáo là Armenia, Georgia và vùng núi Caucase của Nga. Trong thời gian chiếm đóng, quân Hồi Safavids đã giết hại rất nhiều người Chính Thống giáo. Riêng tại Armenia, số tín đồ Chính Thống giáo bị giết lên tới một triệu người. Sau đó, quân Safavids chuyển qua phía đông tấn công thành phố Anatolis để dằn mặt đế quốc Ottoman theo giáo phái Sunni. Nhóm nổi loạn ra lệnh cho cả nước Ba Tư phải theo Shiite, ai bất tuân lệnh đề bị giết. Tất cả các học sĩ (Ulamas) lãnh đạo giáo phái Sunni đều bị chém đầu, không sót một ai. Kể từ đó, nước Ba Tư trở thành một quốc gia toàn tòng theo giáo phái Shiite. các vua Hồi giáo Ba Tư được gọi là SHA, vừa là vua vừa là giáo chủ, phần đông đề cực đoan và hung dữ.

Phần đông các học sĩ Hồi giáo Ba Tư đều theo môn phái triết học thần bí (mystical philosophy) tóm tắt như sau: "Chính trị và tôn giáo là một, không thể tách rời. Mọi cải cách xã hội không thể vượt quá tư tưởng tôn giáo."

Với bản chất cuồng tín cực đoan cố hữu của giáo phái Shiite, nay lại có thêm chủ thuyết thần bí của cá Mullahs (học sĩ), giáo phái Shiite ngày càng trở nên cực đoan nguy hiểm. Họ luôn luôn có thái độ bất khoan dung với các tôn giáo khác, nhất là đối với giáo phái Hồi giáo Sunni, chiếm 80% dân số đạo Hồi.

Như đã trình bày trên đây, từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 20, trong thế giới Hồi giáo đã xuất hiện ba đế quốc riêng biệt và luôn tranh chấp với nhau. Cả ba đế quốc Hồi giáo đã được thành lập và suy tàn vào những thời điểm khác nhau:

- đế quốc Mughul thành lập đầu thế kỷ 13, suy tàn cuối thế kỷ 19.

- đế quốc Ottoman thành lập cuối thế kỷ 13, suy tàn cuối thế kỷ 20.

- đế quốc Safavids thành lập đầu thế kỷ 16, suy tàn trong thế kỷ 18.

Như vậy, hai đế quốc Hồi giáo lớn mạnh nhất là Ottoman và Mughul đã cùng tồn tại song hành và chia nhau thống trị thế giới Hồi giáo bao la trong 7 thế kỷ. Ít nhất là trong 200 năm, từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18, cả ba đế quốc Mughul, Ottoman và Safavids cùng tồn tại trong thế giới đạo Hồi.

Từ thế kỷ 18 trở đi, các nước Âu châu trở nên hùng cường mọi mặt đã đẩy lùi các đế quốc Hồi giáo đến chỗ suy tàn. Khởi đầu là nước Nga đánh tan quân Ottoman ở vùng Biển Đen năm 1774, chiếm lại Armenia và vùng núi Caucase. Năm 1792, Nga chiếm Georgia và Romania từ tay Ottoman.

Đều thế kỷ 19, Nga chiếm toàn bộ miền Trung Á gồm nhiều nước theo đạo Hồi thuộc đế quốc Mughul. (Sau cuộc cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, các nước Hồi giáo Trung Á đã biến thành các tiểu bang thuộc Liên Bang Sô Viết.)

- cũng trong đầu thế kỷ 19, Hòa Lan chiếm Indonenia và Mã-lai. Anh chiếm Ấn Dộ bao gồm cả một tiểu lục địa (sau 1947, Ấn Độ bị chia thành nhiều nước: Pakistan, Bagladesh, Tích Lan và Ấn Độ).

- cuối thế kỷ 19, Anh chiếm Ai Cập và Sudan. Pháp chiếm Algeria, Tunisia và Maroc.

- đầu thế kỷ 20, Ý chiếm Lybia. Anh và Pháp chiếm Palestine, Jordan, Iraq, Syria và Liban.

Tóm lại, từ đầu thế kỷ 20, chỉ ngoại trừ một nước duy nhất là Thổ-nhĩ-kỳ, còn lại toàn bộ thế giới Hồi giáo đều trở thành những thuộc địa của chủ nghĩa thực dân Âu châu.

lịch sử bành trướng và phát triển của đạo Hồi luôn luôn gắn liền với chiến tranh và bạo lực. Vì thế đạo Hồi nổi tiếng là "tôn giáo của lưỡi gươm" hoặc "tôn giáo quân phiệt". Kinh Thánh Koran của Hồi giáo được gọi là "Cuốn sách của tử thần" ( The Book of the death) và đức tin Hồi giáo là "đức tin hung bạo". Trong hơn một thế kỷ qua, thế giới Hời giáo đã bị Tây phương dồn vào thế suy kiệt mọi mặt. họ không còn con đường nào khác hơn là thực hiện chủ nghĩa khủng bố. Về hình thức thì ngày nay chiến tranh có khác với ngày xưa, nhưng về thực chất thì chủ nghĩa khủng bố cũng là một hình thái của chiến tranh và bạo lực. Chỉ khác một điều: chủ nghĩa khủng bố là hình thái chiến tranh của những kẻ đã bị dồn vào thế yếu nhưng buộc phải chiến đấu với kẻ thù lớn mạnh hơn mình để tồn tại.

Nhìn về tương lai, chúng ta khó đoán được cuộc hiến tranh khủng bố sẽ đưa nhân loại đi về đâu, nhưng nhìn về quá khứ chúng ta phải công nhận sức mạnh của Hồi giáo đã tạo nên nhiều thành tích quan trọng:

- trong thế kỷ 7, Hồi giáo Ả-rập tiêu diệt đế quốc Sassasian đã từng làm mư làm gió ở Trung Đông trong 10 thế kỷ trước đó.

- trong thế kỷ 15, Hồi giáo Thổ-nhĩ-kỳ tiêu diệt đế quốc Ki-tô giáo Byzantine (hậu thân của đế quốc La-mã) chân đứng sự bành trướng của Ki-tô giáo xuống bán đảo Ả-rập và Trung Đông.

Nói chung, sự xuất hiện và phát triển lớn mạnh của đạo Hồi đã tạo nên một đối trọng ngang ngửa với Ki-tô giáo và tựu chung Hồi giáo đã phá tan tham vọng bá chủ toàn cầu của đế quốc Vatican.

Sách tham khảo:

- Islam: World Religion, Matthew Gordon, Facts on File Inc. 2001

- The World's Religion, Ninian Smart, Cambridge Uni. 2nd ed. 1988

- Islam Today, Akbar Ahmed, Taurib Pub. 1999

Kinh Koran

Đối với đại khối các dân tộc Ả rập, nguyên bản bằng ngôn ngữ Arabic của kinh Koran là một kiệt tác phẩm thi văn. Kinh Koran không hẳn là một cuốn thơ trường thiên nhưng là một tác phẩm văn xuôi có vần có điệu (poetic rhyme prose) rất thích hợp với khẩu vị văn chương của những người du mục ở nơi hoang dã. Chính vì vậy mà kinh Koran đã mau chóng được truyền bá qua truyền khẩu rộng khắp bán đảo Ả rập (lớn gấp 8 lần Việt Nam).

Về phương diện tâm linh, kinh Koran là sự nối kết những dòng tư tưởng về một tôn giáo độc thần khởi đầu từ tổ phụ Abraham, qua Maisen (Moses) qua Jesus đến thiên sứ cuối cùng là Muhammad. Từ 2000 năm trước Công nguyên (TCN), những người Ả rập đã biết đến Thiên Chúa của Abraham mà họ gọi là Allah. Điều đó có nghĩa là họ đã thờ Allah từ 27 thế kỷ trước khi có Muhammad và đạo Hồi. Qua nhiều thế kỷ tiếp xúc với văn hóa Do thái, người Ả rập đã rất quen thuộc với các nhân vật của Kinh thánh Cựu ước. Từ thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ 7, người Ả rập tiếp xúc với những người Kitô giáo thuộc đế quốc Byzantine rộng lớn và từ những nước lân bang như Syria, Ai cập và Ethiopia... Mặc dù rất ít người Ả rập lúc đó theo Kitô giáo nhưng họ cũng không cảm thấy xa lạ với Jesus và Gioan Baotixita.

Đọc kinh Koran chúng ta sẽ thấy những nhân vật quan trọng của hai đạo Do thái và Kitô được Muhammad thường xuyên nhắc tới. Kinh Koran một tổng hợp kiến thức tôn giáo đã tiềm tàng sẵn trong đại khối dân tộc Ả rập. Sự tổng hợp đó được gọi là Islam, có nghĩa là sự tuân phục tuyệt đối vào Thiên Chúa. Người Trung quốc phiên âm "Islam" thành "Hui" (Hồi) và gọi đạo này là "Hui-jao", tức Hồi giáo. Kinh Koran trở thành Thánh kinh (the Holy Book) hoặc sách Mặc khải (Book of Revelation) của Hồi giáo.

Đáng lẽ ra đạo Do thái, đạo Kitô và đạo Hồi đều cùng thờ chung một Chúa thì phải có chung một Kinh thánh duy nhất mới phải. Trong thực tế, mỗi đạo đều có Thánh kinh riêng và đạo nào cũng tự cho Thánh kinh của mình mới là chân lý tuyệt đối. Cả ba đạo đều tự cho Thánh kinh của mình là những "Sách Mặc khải" :

- Kinh Torah (Cựu ước) được Thiên Chúa mặc khải cho thánh Maisen khoảng năm 1250 TCN trên núi Sinai.

- Các sách Tân ước / Phúc âm là các sách Thiên Chúa mặc khải cho thánh Phao lồ và bốn vị thánh sự: Mattew, mark, Luke và John trong thế kỷ thứ 1.

- Kinh Koran là sách Thiên Chúa mặc khải cho tiên tri Muhammad qua trung gian của thiên thần Gabriel trong 22 năm liên tục (610-632).

Trước khi có kinh Koran, người Ả rập có mặc cảm là một chủng tộc thiếu văn hóa và họ tỏ ra trọng nể người Do thái và Kitô. Cho nên, trong ngôn ngữ Ả rập có danh từ "Dhimmi" để gọi chung cho Do thái và Kitô. Danh từ này có nghĩa là "những người có sách Thánh kinh".

Sự xuất hiện kinh Koran vào đầu thế kỷ 7 đã đem lại cho dân tộc Ả rập một niềm tự hào vì từ nay họ có Thánh kinh viết bằng tiếng Ả rập. Họ đón nhận đạo Hồi là đạo của d6an tộc chứ không phải là đạo ngoại lai. Kinh Koran và đạo hồi là hai yếu tố quan trọng đem lại sự hưng khởi tinh thần và là chất keo văn hóa nối kết các bộ lạc Ả rập lại với nhau và biến đại khối Ả rập thành một lực lượng chính trị và quân sự hùng mạnh trong nhiều thế kỷ.

I. Công việc biên soạn kinh Koran.

Khác với Cựu ước được viết theo lối văn lịch sử kinh koran được viết theo lối văn kể chuyện thông thường (Oral recitation). Tổng cộng có 114 chương (suras/chapters) gồm 6616 câu thơ (verses).

Sự phân phối các câu thơ trong các chương không đều nhau: chương dài nhất có 287 câu thơ, chương ngắn nhất chỉ có 3 câu mà thôi. Mỗi câu thơ cũng dài ngắn bất thường: Câu thơ dài nhất chiếm tới nủa trang sách, câu ngắn nhất chỉ có 2 chữ!. Phần lớn kinh Koran (85 chương) được Muhammad viết tại Mecca, còn lại 29 chương viết tại Medina. Muhammad viết Koran trên lá cọ khô và trên những tấm da súc vật phơi khô.

Sau khi Muhammad chết vào năm 632, phần lớn các bản chép tay nói trên bị thất lạc hoặc phân tán rải rác nhiều nơi. Mọi người cảm thấy nguy cơ có thể làm cho cuốn Thánh kinh của họ bị tiêu vong nếu không gấp rút sưu tầm và thu hồi các nguyên bản của Muhammad. Sau đó, cần phải có người tài giỏi biên tập tất cả các nguyên bản thành một cuốn Thánh kinh duy nhất.

Để đáp ứng nhu cầu của các tín đồ Hồi giáo, người có thẩm quyền đầu tiên đứng ra lo việc này là Abu Bakr kế vị Muhammad (the first caliph) và cũng là vị vua Hồi giáo đầu tiên thống nhất bán đảo Ả rập để biến nơi này thành điểm xuất phát bành trướng Hồi giáo ra khắp thế giới. Abu Bakr giao cho một thanh niên 22 tuổi tên Zayd đi sưu tầm và gom góp các thủ bản của kinh Koran do Muhammad viết tập trung tại Medina. Công việc đang được tiến hành tốt đẹp thì Abu Bakr qua đời. Các tài liệu do Zayd thu thập đều được chuyển giao cho vị vua Hồi giáo kế nhiệm là Umar Khattab. Vị vua này là một nhà quân sự đại tài, chỉ trong 10 năm (634-644) đã mở rộng lãnh thổ của Hồi giáo ra toàn vùng Trung Đông và Bắc Phi. Vì quá mãi mê lo việc quân sự nên vị vua này đã bỏ quên công việc biên tập kinh Koran. Hậu quả nghiêm trọng là ở những địa phương khác nhau người ta truyền miệng những câu thơ của kinh Koran khác nhau và sự tranh cãi về tính trung thực của kinh Koran càng ngày càng trở nên gay gắt và hỗn loạn. Các cuộc tranh cãi này đã dẫn đến cuộc "thánh chiến" giữa hai phe Hồi giáo tại Nehavand, gây cảnh thịt rơi máu đổ trong 7 năm (650-657).

Vị vua kế nghiệp thứ ba (the third caliph) là Uthman (644-657) chú tâm đến việc phục hồi kinh Koran. năm 652, Uthman giao cho Zayd và ba người phụ tá nhiệm vụ biên tập các bản thảo của Muhammad thu hồi được thành một cuốn sách duy nhất. Sau 5 năm, nhóm biên tập của Zayd hoàn thành nhiệm vụ. Năm 657, tức 25 năm sau khi Muhammad qua đời, vua Uthman công bố bản kinh Koran do Zayd biên t6ạp và gọi nó là "MUSHAF" có nghĩa là "Kinh thánh chính thức của mọi người Hồi giáo".

Ban biên tập của Zayd chép cuốn Kinh thánh này thành 4 bản giống nhau để lưu trữ tại 4 thành phố: Medina Basra và Kufa (Iraq) và tại Damacus (Syria). Sau đó, Uthman ra lệnh tiêu huỷ toàn bộ các nản viết tay của Muhammad trên lá cọ và da thú vật. Công việc này tương tự như hành động của hoàng dế La mã Consatantine ra lệnh thiêu huỷ toàn bộ các sách thánh kinh và các di tích thật của Jesus sau Công đồng Nicea năm 325.

Do sự thiêu huỷ các bản viết tay của Muhammad theo lệnh của vua Uthman đã không được thi hành triệt để nên ngày nay người ta đã thu thập được 5 bản chính viết trên da súc vật:

- 2 bản hiện lưu trữ tại thư viện Taskhent ở Uzebekistan.

- 1 bản lưu trữ tại thư viện Tpokabi Thổ nhĩ kỳ.

- 1 bản tại bảo tàng viện London

- 1 bản mới tìm thấy tại Yemen năm 1979.

So sánh các bản chính nói trên với kinh Koran co Uthman công bố năm 657 người ta đã phát giác có nhiều sự khác biệt. Các học giả nghiên cứu về Hồi giáo xác nhận: Việc vua Uthman ra lệnh tiêu huỷ các bản viết tay của Muhammad là một tổn thất hết sức nặng nề cho Hồi giáo. Năm bản viết tay trên da súc vật mà ngành khảo cổ đã thu thập được cũng đủ xác minh một sự thật đáng buồn: Zayd và ban biên tập của ông ta có thể đã không thu thập đầy đủ các thủ bản của Muhammad, khi chép lại có thể đã bỏ sót một số câu thơ của kinh Koran và cuối cùng không có gì bảo đảm là Zayd và ban biên tập đã không tự ý sửa đổi kinh Koran theo ý riêng của mình.

Tuy nhiên, hầu hết các tín đồ Hồi giáo hiện nay đã không nêu lên những vấn đề nói trên. Họ vẫn tin rằng bản kinh Koran bằng tiếng Arabic do vua Uthman công bố năm 657 là kinh Koran do Thiên Chúa Allah mặc khải cho Muhammad.

II. Sơ lược nội dung kinh Koran

Những chương đầu tiên của kinh Koran nói về Thiên Chúa Allah với những đặc tính siêu việt của Ngài. Vì đạo Hồi là đạo Thiên Chúa thứ ba, xuất hiện sau đạo Do thái và đạo Kitô nên đạo Hồi đã in đậm những dấu ấn đức tin của hai đạo Thiên Chúa đàn anh. [Tôi đã trình bày vấn đề này đầy đủ trong bài "Ảnh hưởng thần học Do thái - Kitô trong đức tin Hồi giáo". Xin đọc "Thực Chất đạo Công giáo và các đạo Chúa", Giao Điểm xuất bản Xuân 2003, trang 201-232]. Ngoài Thiên Chúa ra, kinh Koran dạy phải tin có các thiên thần và ma quỉ (Satan), tin các sách Mặc khải của đạo Do thái và Kitô cùng các vị thiên sứ, tin có ngày tận thế và ngày phán xét cuối cùng, tin mọi kẻ chết đều được sống lại, tin có Thiên đàng, Hỏa ngục, tin mọi việc do Thiên Chúa Allah tiền định nhưng mọi người có ý chí tự do.

(Tất cả các điều này đã được trình bày đầy đủ qua 32 trang sách dẫn chiếu, vậy tôi xin miễn nhắc lại ở đây.)

Khác với Cựu ước và Tân ước chỉ đề cập đến vấn đề thiêng liêng hoặc lịch sử, kinh Koran đồng thời cũng là một bộ luật đầu tiên và cao nhất của Hồi giáo. Thí dụ:

- cấm cho vay nặng lãi (Koran 2:275)

- cấm ăn thịt heo, thịt đã cúng các thần khác, cấm ăn máu (tiết canh, huyết Koran 5:3)

- cấm cờ bạc (Koran 5:90)

- cấm săn bắn trong thời gian hành hương Mecca (Koran 5:93)

- phải ăn chay trong tháng Ramadan (Koran 2:182)

- phải rửa chân tay sạch sẽ trước khi cầu nguyện (K. 5:6)

- cấm giao hợp với đàn bà có tháng (K. 2:221)

Trước khi có kinh Koran, phụ nữ Ả rập giầu có thường lấy nhiều chồng và đa số là những người đàn ông trẻ khỏe. Kinh Koran khẳng định quyền ưu thắng của đàn ông (Koran 4:34) và chính thức bãi bỏ tục đa phu (polyandre). Bất cứ người đàn bà nào có chồng bị cáo buộc về tội ngoại tình đều bị đem ra cho công chúng ném đá đến chết (Koran 4:15).

Kinh Koran qui định án phạt hết sức nặng nề chống lại bất cứ ai bị kết án: "chống Thiên Chúa Allah" hoặc chống Thiên sứ Muhammad". Người đó sẽ bị đóng đinh vào thập giá hoặc bị chặt hết chân tay (Sura 5).

Tội trộm cũng có thể bị phạt rất nặng. Dù đàn ông hay đàn bà tuỳ theo nặng nhẹ nếu bị kết án về tội trộm sẽ bị chặt một tay hay hai tay (K. 5:3)

III. Những điều nên biết về HADITH, SUNNA và SHARIA

Vì lý do kinh Koran không phải là sách dễ đọc nên trong các xứ Hồi giáo, các tín đồ đọc kinh Koran đều cần có người hướng dẫn. Những người hướng dẫn không phải là tu sĩ nhưng là những người học thức chuyên nghiên cứu về kinh Koran. Những bài giảng của họ được gọi là HADITH, có nghĩa là một bài phúc trình (report). Qua nhiều thế kỷ, số bài phúc trình giảng giải về kinh Koran đạt tới con số rất lớn. Các học sĩ Hồi giáo chọn lựa các bài hay tập trung lại thành một cuốn sách gọi là SUNNA, có nghĩa l2 "Tuyển tập các phúc trình" (Collection of reports). Từ đó, sách SUNNA trở thành một cuốn sách bổ túc cho kinh Koran về mặt ín lý, giáo điều.

Các chính quyền của các nước Hồi giáo chiếu theo tinh thần và luật pháp nêu trong kinh Koran và sách SUNNA để làm ra bộ luật gọi là SHARIA. Danh từ này được dịch sang Anh ngữ là "Islam Holy Law", có nghĩa là "Thánh luật Hồi giáo".

Tất cả các sách SUNNA và SHARIA đã được hoàn thành vào cuối thế kỷ 9 và đã được viết thành nhiều bản khác nhau tại nhiều nơi khác nhau. Do vậy, các sách này chứa đựng nhiều điều mâu thuẫn, nhất là những giai thoại khác biệt nhau về cuộc đời và lời nói của giáo chủ Muhammad. Đây là một trong những nguyên nhân chính yếu gây ra tệ nạn phân hoá trong đạo Hồi: Giáo phái Sunni chỉ công nhận những Hadiths của Bukkhari. Giáo phái Shitite công nhận Hadiths của Kalayni và giáo phái Khariji chỉ công nhận của Ibn Habid. Giáo phái này kết án giáo phái kia là xuyên tạc hoặc giả mạo Thánh kinh Koran và gọi nhau là những kẻ tà đạo (mukhtalag)! Kết quả là những cuộc thánh chiến đẫm máu giữa các giáo phái này trong nhiều thế kỷ qua.

IV. Các bản dịch kinh Koran

Do nhu cầu truyền bá đạo Hồi trong 14 thế kỷ qua, đến nay kinh Koran đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Riêng một mình nhà xuất bản Tahrike Tarsile Qur'an, Inc. ở New york đả sư tập được trên 600 bản dịch khác nhau.

Lịch sử Hồi giáo ghi nhận bản dịch kinh Koran đầu tiên trên thế giới là bản dịch từ tiếng Ả rập sang tiếng La tinh do một người Ý tên là Peter Venerable thực hiện năm 1143. Điều đáng chú ý là bản dịch viết tay của ông hiện vẫn được lưu grữ tại tu viện Kluny (Ý). Đúng 300 năm sau, tức vào năm 1543, bản dịch viết tay duy nhất này được đem in và xuất bản tại Rome.

Nhờ có bản dịch kinh Koran bằng tiếng Latinh này Âu châu mới biết đến cuốn Kinh thánh của đạo Hồi.

- Năm 1616, tại Nuremburg xuất hiện kinh Koran bằng tiếng Hòa Lan dịch từ bản La tinh.

- Năm 1647, kinh Koran bằng tiếng Pháp được xuất bản tại paris cũng dịch từ bản La tinh.

- Năm 1776, tại Peterburg cuốn kinh Koran bằng Nga ngữ được xuất bản, dịch từ tiếng Pháp.

- Đầu thế kỷ 18, một người Anh tên là A. Ross dịch kinh Koran từ tiếng Pháp sang tiếng Anh và xuất bản lần đầu tại Mỹ năm 1737.

Cho tới nay, có nhiều bản dịch khác nhau bằng tiếng Anh. Mặc dù lối hành văn khác nhau, nhưng được xuất bản nhiều triệu cuốn một lúc nên giá bán rất rẻ. Phần lớn các bản kinh Koran được in ra dưới hình thức sách bỏ túi có giá bán thông thường là 5 Mỹ kim. Với giá này ai cũng có thể mua về đọc chơi hoặc để tham khảo. Số trang trung bình của sách loại này là 500 trang, chữ in cỡ nhỏ.

Bảy Cuộc Chiến Tranh Chống Hồi Giáo Của Những Đoàn Quân Chữ Thập

Charlie Nguyễn

Tiếng La-tinh CRUX có nghĩa là Thánh Giá hoặc Chữ Thập, biểu tượng của đạo Ki-tô. Từ chữ Crux phát sinh ra danh từ CRUSADE, có nghĩa là cuộc viễn chinh của đoàn quân Công giáo từ Âu Châu kéo qua các nước lân cận để tấn công những người Hồi giáo trong thời Trung cổ. Những người lính trong đoàn quân viễn chinh Công giaó này đều mang huy hiệu chữ thập ở phía trước ngực và phía sau lưng nên được gọi là Thập Tự Quân (Crusaders). Suốt trong hai thế kỷ 11 và 13 (1096- 1291) những đoàn quân Thập tự này đã gieo rắc biết bao kinh hoàng tang tóc cho những người Hồi giáo Ả-rập. Hình ảnh tàn bạo mang rợ của đoàn quân Công giáo Âu châu đã in sâu vào tim óc của thế giới Hồi giáo nói chung và của những người Hồi giáo Ả-rập nói riêng. Đến nỗi ngaỳ nay, người Hồi giáo đã đồng hóa Công giáo với chủ nghĩa thực dân đế quốc. Mỗi khi lên án hành động bành trướng bá quyền của Tây phương họ thường tố cáo hành vi đó là "Tân chiến tranh Thập tự" (Néo-Crusade).

Cổ nhân thường nói "ôn cố tri tân", chúng ta hãy coi lại lịch sử của hai thế kỷ chiến tranh đẩm máu do những đoàn quân chữ Thập Công giáo La-mã phát động chống những người Hồi giáo ở Trung đông trong hai thế kỳ 11 và 13. Những bài học lịch sử sẽ soi sáng cho chúng ta trong nhiều vấn đề thời cuộc hôm nay và cũng để hiểu thêm thực chất của một tôn giáo thường hay vỗ ngực tự xưng là đạo của "Công bằng Bác ái"!. Để trình bày về đề tài này, chúng tôi tham khảo các tài liệu sau đây:

• The Crusades, by Brenda Staleup, Green haven Press xuất bản 2000.

• The Oxford Illustrated History of Medieval Europe, by George Holmes, Oxford University press 1986.

• The Cross and the Crescent, by Malcoms Billing Sterling Publication 1988.

Nguyên Nhân Chiến Tranh.

Có hai nguyên nhân dẫn đến chiến tranh thảm khốc giữa hai tôn giáo anh em (fraternal faiths) kéo dài 195 năm và sự tranh chấp lãnh thổ giữa hai tôn giáo (nhưng thực chất cả hai đều là đế quốc).

I. Sự Xung Đột Về Giáo Lý

Mặc dầu kinh Koran là kinh thánh của đạo Hồi (Koran: The Muslim Gospel) công nhận Jesus là vị tiên tri đứng hàng thứ hai sau Muhammad, nhưng Koran phủ nhận tính cách thiêng liêng của Jesus. Koran gọi các phép lạ của Jesus là những trò học mót ở Babylon (magic and such things as come down at babylon) - Koran 2:102). Kinh Koran hoàn toàn phủ nhận tội tổ tông , hoàn toàn phủ nhận cái chết của Jesus trên thập giá. Koran khẳng định người Do thái không giết và không đóng đinh Jesus (The Jews killed him not, nor cruxified him - Koran 4:157).

Muhammad thù ghét Công giáo vì đạo này thờ ảnh tượng, vi phạm điều răng thứ hai của Maisen. Một điều nữa mà Muhammad ghét cay ghét đắng là thuyết Thiên Chúa ba ngôi của đạo Ki-tô. Đối với Muhammad, Ki-tô là đạo Đa thần giáo, đi ngược là chủ thuyết độc thần của tổ phụ Abraham. Hồi giáo và Do thái giáo là hai đạo độc thần đúng nghĩa vì chỉ thờ một Thiên Chúa Duy Nhất (Monotheist Religion = Only-One-God Religion). Công giáo La-mã thờ ảnh tượng, thờ ba Thiên Chúa, quá tôn sùng bà Maria và các thánh do họ tự phong... do đó Công giáo là một tà đạo đa thần chứ không phải là đạo Thiên Chúa đúng nghĩa.

Muhammad cũng ghét đạo Do thái vì Do thái gọi Thiên Chúa bằng số nhiều Elohim (số nhiều của El), đạo Hồi gọi Thiên Chúa bằng số ít. Danh từ El trong tiếng Ả-rập là Il. Đi liền với Il có chữ "ah" là một mạo tự (article) trong ngôn ngữ Ả-rập. Vì thế Il thành Il-ah. Khi chuyển sang Anh ngữ, các chữ I thành A, vì thế Il-ah thành ALLAH (cũng như Ibrahim trong tiếng Ả-rập đổi thành Abraham trong tiếng Anh).

Muhammad gọi chung những người thao đạo Do thái và Ki-tô giáo là "những tín đồ của các sách Thánh kinh" (The people/ the followers of the Books) hoặc gọi chung là "những kẻ không tin Thiên Chúa Allah" (The unbelievers). Riêng với các tín đồ Công giáo, Muhammad gọi là "những kẻ thời thần tượng" (The idolers).

Trong kinh Koran, Muhammad công khai kêu gọi các tín đồ Hồi giáo phải chiến đấu chống lại những kẻ theo đạo Do thái, đạo Ki-tô và tất cả những ai không tin theo đạo Hồi. Trong vùng kiểm soát của Hồi giáo, bất cứ một ai ngoại đạo phải nạp thuế thân và phải chấp nhận một địa vị thấp kém trong xã hội (Fight those who do not believe God and His Messenger, those who among the People of the Books, fight them until they personally pay tax on non-Muslims ackowledging their inferiority - Koran, Sura 9).

Những người Công giáo thờ ảnh tượng bị coi là hạng người dơ bẩn và bị cấm vào các đền thờ Hồi giáo (The idolers are nothing but unclean, so they shall not approach the sacred mosque - Koran 9:28). Các người Do thái và Ki-tô bị cấm không được xây nhà thờ mới hay sửa chữa nhà thờ cũ, cấm đeo thánh giá trước ngực, không được đọc kinh to tiếng và cấm ngặt rước kiệu trên đường phố. Người Ki-tô giáo bị coi là đa thần giáo có thể bị sát hại bất cứ lúc nào. Kinh Koran chương 9 câu 5 đã quy định: "Khi những tháng thánh qua đi, các ngươi hãy giết những kẻ đa thần bất cứ nơi nào bắt gặp chúng, hãy phục kích để bắt chúng" (When the sacred month have passed away then kill the polytheists wherever you saw them, take them captives and wait for them in every ambush - Koran Sura 9: verse 5).

Người Tây phương gọi những câu thơ nói trên là "những câu thơ của đao binh" (The verse of the swords). Trong thực tế, những câu thơ của kinh Koran đã tạo nên sự dũng mãnh của những đoàn quân Hồi giáo trong công cuộc mở mang nước Chúa Allah (The Kingdom of Allah). Chỉ trong một thế kỷ, đoàn quân Hồi giáo đã chiếm hết Bắc Phi, Trung Đông, một phần Âu Châu và tràn tới Trung Á, tới tận biên giới Trung Quốc. Nhưng đồng thời những câu thơ nói trên cũng đã gây hận thù sâu sắc giữa các tôn giáo anh em và cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến các cuộc thánh chiến.

II. Sự Tranh Chấp Lãnh Thổ Giữa Hai Tôn Giáo

Từ thế kỷ thứ nhất cho đến thế kỷ thứ 6, toàn vùng Bắc Phi và Trung Đông thuộc về lãnh thổ của các giáo phái Ki-tô. Nhưng đến đầu thế kỷ thứ 7, đạo Hồi xuất hiện với sự bành trướng với tốc độ vũ bão chưa từng thấy khiến cả thế giới phải ngạc nhiên.

Chỉ trong 10 năm kể từ khi Muhammad qua đời, quân Hồi chiếm trọn bán đảo Ả-rập bao la (bằng 4 lần tiểu bang Texas hoặc 8 lần Việt Nam) chiếm các nước Iraq, Syria, Palestine, Ai-cập và phía tây của nước Iran. Hai năm sau, quân Hồi chiếm Bắc Phi, Carthage và Hy-lạp.

Qua đầu thế kỷ thứ 8 (711-716) quân Hồi dám đánh chiếm một nước Âu châu nổi tiếng sùng đạo Công giáo, đó là nước Tây-ban-nha. Trong thời gian đó, kỵ binh Hồi giáo chiếm trọn Ba-tư (Iran) và từ đây xuất quân chiếm trọn các nước Trung Á ở phía nam nước Nga, chiếm trọn vùng Bắc Ấn (tức Pakistan va Afghanistan ngày nay) đánh qua biên giới Trung Quốc và đụng trận với quân nhà Đường trên sông Talas năm 751.

Ki-tô giáo bị mất rất nhiều đất và đồng thời cũng mất rất nhiều tín đồ. Tuy nhiên, trong thời gian đó đế quốc La-mã và Ki-tô giáo bị lâm vào tình trạng chia rẽ và suy yếu nên không dám thực hiện một hành vi trả đũa nào cả!

Qua đầu thế kỷ 11, Ki-tô giáo chia thành hai giáo phái vời hai giáo đô thù nghịch nhau. Đó là Công giáo La-mã (Roman Catholic) đóng đô tại Vatican và Giáo hội Chính thống giáo (The Eastern Orthodox Church) đóng đô tại Byzantine, còn được gọi là Constantinople tức Istambul, thủ đô của Thổ-nhĩ-kỳ ngày nay.

Năm1091, quân Hồi tấn công Byzantine. Hoàng đế Alexius Comnenus đứng đầu giáo hội Chính thống giáo tuy không ưa Công giáo nhưng cũng đành phải văn thư chính thức yêu cầu Giáo hoàng La-mã đem quân đến cứu giúp. Vatican lúc đó muốn giúp Vatican thì ít nhưng điều quan tâm hàng đầu là tái chiếm thánh địa Jerusalem để giáo dân toàn Âu Châu được tự do đến đó hành hương. Mối thù lớn nhất của dân Công giáo Âu Châu đối với đạo Hồi là trong thời gian chiếm đóng Jerusalem, quân Hồi đã triệt phá Nhà thờ Kính Mộ Chúa (Church of the Holy Sepulchure). Tội triệt phá nhà thờ Kính Mộ Chúa đã trở thành lý do chính cho cuộc thánh chiến trả thù của Công giáo. Lý do thứ hai được nêu lên là vụ người Hồi giáo hành hạ những người Công giáo Âu châu đi hành hương ở Jerusalem năm 1076. Những người di hành hương sống sót trở về Âu châu đã kể nhiều chuyện về sự ngược đãi của người Hồi khiến cho dân Âu châu rất phẩn nộ.

Tu sĩ Peter Hermit là người hết sức cuồng nhiệt vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở các nước Âu châu tham gia cuộc thánh chiến chống Hồi giáo. Các giáo dân Âu châu đa số thời đó đa số là những nông dân thất học và cuồng tín nhất là giới thanh thiếu niên, trong số đó có rất nhiều trẻ vị thành niên đã mù quáng ghi tên tham gia vào đoàn quân chữ thập. Lịch sử Âu châu đã gọi đoàn quân chữ thập này là "Đoàn quân nông dân" hoặc "Đoàn quân con nít" (Popular Crusade - The Children's Crusade). Vào thời kỳ đó, Âu châu đang ở trong bóng tối tinh thần (The Dark Age) nên từ vua tới dân, từ tu sĩ đến các bổn đạo, tất cả đều không có một sự hiểu biết nào về Hồi giáo, không có một chút kiến thức nào về tình hình chính trị xã hội và địa thế của các nước phương Đông. Sự thiển cận về kiến thức và tinh thần cuồng tín tôn giáo đã mau chóng biến việc tái chiếm Jerusalem khỏi tay quân Hồi thành một khát vọng thiêng liêng vô cùng cuồng nhiệt. Chẳng mấy chốc đã có hàng trăm ngàn nông dân ghi tên, trong số đó có ít nhất là 60.000 trẻ vị thành niên !

Cuộc Thập Tự Chiến Thứ Nhất (1096-1099)

Như trên đã trình bày, sự vận động cho cuộc viễn chinh đầu tiên của đoàn quân Thập tự khởi đầu từ những năm 1091 do sự cầu viện của hoàng đế Byzantine, nhưng mãi tới năm 1096, tức 5 năm sau mới thực hiện được.

Đoàn quân Thập tự gồm hàng trăm ngàn người được điều khiển bởi các hiệp sĩ chuyên nghiệp, xuất phát từ hai nước Ý và Pháp. Đoàng quân của Pháp chia làm hai nhánh: nhánh quân ở miền Bắc tập trung tại Normandie, nhánh quân ở miền Nam tập trung tại Toulouse. Cả hai nhánh này tiến quân thẳng tới Constantinople.

Trên đường hành quân, khi đi ngang qua đồng bằng sông Rhin, đoàn quân Thập tự của Pháp đã lùng bắt những người Do thái rồi đưa họ ra bãi hoang chém giết tập thể. Hiện nay tại những vùng đồng bằng sông Rhin thuộc nước Đức có nhiều nơi vẫn còn ghi dấu bằng những bia đá ghi tên những người Do thái bị sát hại trong dịp này.

Vào mùa thu năm 1096, một đạo quân thứ ba của Pháp tập trung tại Clairmont đi thẳng đến Rome để kết hợp với 50.000 quân Ý. Sau đó liên quân Pháp-Ý cũng kéo đến Constantinople. Vua và triều đình Byzantine vô cùng ngạc nhiên khi thấy đoàn quân Thập tự chỉ là một đám nông dân rách rưới bẩn thỉu và có quá nhiều trẻ vị thành niên ngơ ngác. Vua Byzantine lập tức ra lệnh cho quân đội ngăn chận không cho đoàn quân ô hợp này vào thành phố. Tuy nhiên, nhà vua cung cấp cho đoàn quân này số lương thực, lương thực và cho quân đội áp tống đám Thập tự quân này đến Boporus thuộc miền Nam Thổ-nhĩ-kỳ.

Trong lúc đoàn quân này trú đóng tại Boporus thì bị quân Hồi giáo Thổ-nhĩ-kỳ bất thần tấn công giết chết rất nhiều. Đoàn quân còn laị thì tiếp tục đi tới Anatolia, một thành phố thuộc phần đất Á châu của Thổ-nhĩ-kỳ rồi đến bao vây thành phố Hồi giáo Antioch ở phía cực nam nước Thổ. Trong lúc đang bao vây thành Antioch, đoàn Thập tự quân bất ngờ bị quân Hồi giáo Iraq kéo đến bao vây vòng ngoài từ ngày 21-10-1097 đến ngày 3-6-1098. Đoàn Thập tự quân bị kẹt ở giữa vì thành Antioch quá kiên cố không thể xâm nhập, trong khi đó đoàn quân Iraq lại quá hùng hậu nên Thập tự quân không thể phá được vòng vây. Sau hơn 5 tháng bị vây hãm quá chặt, Thập tự quân bị cạn hết lương thực nên bị chết đói rất nhiều. Cuối cùng, ngày 3-6-1098, đoàn quân Thập tự buộc lòng phải chấp nhận một trận quyết tử để mở đường máu phá vỡ vòng vây của quân Hồi giáo Iraq.

Đoàn quân chữ Thập tiếp tục lên đường trong hơn một năm mới tới được Jerusalem. tại thành phố thánh địa này lúc đó có rất ít quân Hồi phòng thủ nên đoàn quân Thập tự quân đã chiếm thành phố thánh địa một cách dễ dàng vào ngày 15-7-1099. Sau khi chiếm Jerusalem, Thập tự quân ra lệnh cấm người Hồi giáo không được leo lên tháp cao ở đền thờ để kêu gọi mọi người đọc kinh, không được ăn chay trong thánh Ramadan, không được xây đền thờ mới và cấm sửa chữa đền thờ cũ. Tất cả những tín đồ Công giáo cải sang đạo Hồi đều bị tử hình.

Chỉ trong vòng vài tuần lễ đầu chiếm đóng Jerusalem, đoàn Thập tự quân tàn sát những đàn ông Do thái và ngưởi Hồi giáo Ả-rập tổng cộng lên đến 30.000 người. Thánh địa của cả ba tôn giáo lớn biến thành một nhà xác khổng lồ. Lý do là số người chết nhiều hơn số quân số của Thập tự quân tại Jerusalem, và không có ai lo chuyện chôn người chết cả. Cho tới 5 tháng sau, các cống rãnh và các thung lũng ở jerusalem vẫn còn sặc mùi hôi thối của các xác chết.

Cuộc chiến tranh thứ nhất của Thập tự quân Công giáo La-mã (The First Crusade) là một ấn tượng ghê tởm nhất đối với người Hồi giáo và Do thái giáo, và là một bài học kinh nghiệm nhớ đời cho toàn thế giới Hồi giáo về sự man rợ khủng khiếp của bọn tín đồ Công giáo cuồng tín.

Tuy nhiên, cũng do cuộc chiến tranh này mà người Âu châu đã có cơ hội hiểu biết về thế giới Ả-rập và Hồi giáo. Họ không ngờ thế giới Hồi giáo quá rộng lớn, bao trùm một vùng lãnh thổ từ Bắc Phi qua Âu châu tới tận Viễn Đông. Họ không ngờ Hồi giáo cũng là một nền văn minh, trong đó có nhiều bộ môn khoa học, toán học, triết học tiến bộ vượt xa Âu châu. Cũng từ đó, người Âu châu đã dần dần tự giác ngộ để tự giải thoát ra khỏi Thời đại Đen tối (The Dark Age).

Về thành tích giết người tàn bạo của Thập tự quân tại jerusalem trong những ngày đầu của cuộc thánh chiến hiện nay vẫn còn một chứng tích lịch sử độc đáo. Đó là bức thư của vị tướng tổng chỉ huy Thập tự quân gửi từ Jerusalem về Vatican để báo cáo các tin mừng chiến thắng lên Giáo hoàng Urban II. Bức thư này hiện được lưu trữ tại Văn khố của Tòa thánh. Trong thư có đoạn viết như sau: "Đức thánh cha có biết chúng con đã đối xử với kẻ thù của chúng ta ở Jerusalem ra sao không? Tại cổng thành Solomon và trong Đền thánh, đoàn kỵ binh của chúng con phải đi qua những cũng máu dơ bẩn của quân Hồi giáo Saracenes ngập cao đến đầu gối của những con ngựa". ('Deceptions and Myths of the Bible', by Lloyd Graham, trang 462).

Kết quả lớn nhất của cuộc viễn chinh đầu tiên của đoàn quân chữ thập là sự hình thành một vương quốc trực thuộc Vatican. Vương quốc này trải dài 800km dọc theo bờ biển Địa Trung Hải mang tên "Vương quốc La-tinh Jerusalem" (Latin Kingdom of Jerusalem) bao gồm: Hai tỉnh Antioch và Edessa ở phía đông nam Thổ-nhĩ-kỳ, nước Syria, nước Liban, xứ Judea và xứ Gallilee, trong đó có thành phố thánh địa Jerusalem.

Tòa thánh Vatican trực tiếp cai trị bằng cách phong vương cho người đứng đầu vương quốc này. Nhưng thay vì gọi là "vua" của vương quôc, toà thánh gọi là "Người bảo vệ Mộ Chúa" (Protector of the Holy Sepulchere). Vương quốc La-tinh Jerusalem tồn tại được 88 năm (từ 1099 đến 1187) qua 7 đời vua do Vatican chọn lựa và tấn phong. Trong 88 năm cai trị vương quốc Jerusalem, quân Thập tự đã tàn sát rất nhiều người Hồi giáo và Do thái giáo, bất kể họ là người già, phụ nữ hay trẻ em. Quân Thập tự cũng xây cất rất nhiều phaó đài và lâu đài phòng thủ kiên cố để bảo vệ vương quốc, đến nay vẫn còn những di tích lịch sử để lại tại các nước Trung Đông dọc theo bờ biển Địa Trung Hải.

Cuộc Thập Tự Chinh Thứ Hai (1147-1149)

Nguyên nhân dẫn đến cuộc Thập tự chinh thứ hai (The Second Crusade) là do biến cố quân Hồi giáo thuộc giáo phái Sunni từ các nước Ả-rập và Thổ-nhĩ-kỳ tấn công tái chiếm tỉnh Edessa thuộc Vương quốc La-tinh Jerusalem. Để thực hiện quyết tâm phục thù, Vatican ra lệnh cho vua Pháp là Louis VII và vua Ý là Conrad III phối hợp với nhau tổ chức cuộc Thập tự chinh thứ hai. Năm 1147, Liên quân Pháp-Ý trong đoàn quân chữ thập lên đướng đến Thổ-nhĩ-kỳ để chiếm lại Edessa nhưng đã hoàn toàn bị đánh bại. Tàn quân rút chạy về phía nam thuộc lãnh thổ Liban và Syria. Đến năm 1149, toàn bộ đám tàn quân này bị quân Hồi tiêu diệt tại Damacus (thủ đô Syria ngày nay).

Cuộc Thập Tự Chinh Thứ Ba (1190-1192)

Đối với Do thái giáo và Ki-tô giáo thì Jerusalem là thánh địa duy nhất củahọ. Đối với người Hồi giáo thì thánh địa quan trọng nhất là Mecca (thủ đô của nước Ả-rập Saudi). Thánh địa thứ hai là Medina, một thành phố cách thủ đô Mecca 250 dặm về phía bắc. Và Jerusalem là thánh địa thứ ba của Hồi giáo vì tương truyền rằng Muhammad đã lên trời từ thành phố này.

Quân Thập tự của Vatican chiếm Jerusalem năm 1096 là một kỷ niệm ô nhục và đau đớn cho thế giới Hồi giáo. Người Hồi giáo đã phải nuốt hận chịu đựng trong gần một thế kỷ mới có cơ hội phục thù. Cái nhân của cơ hội phục thù là sự xuất hiện của một nhân vật lừng danh thế giới, đó là vị tướng bách chiến bách thắng Saladin (1137-1193) gốc người Kurd theo giáo phái Sunni. Ông được dân Ai-cập và Syria tôn lên làm vua (Sultan). Nhân vật Saladin trở nên một nhân vật huyền thoại trong nhiều tác phẩm văn chương của các nước Âu châu thời đó. Quả thật, Saladin đã thu phục được nhân tâm của nhiều dân tộc theo đạo Hồi. Dưới sự lãnh đạo của ông, quân Hồi đã tái chiếm Jerusalem và nhiều phần đất khác của vương quốc La-tinh vào năm 1187. Toàn thế giới Hồi giáo Ả-rập vui mừng vì thánh địa thứ ba đã được tái chiếm và danh dự của Hồi giáo đã được phục hồi.

Nỗi vui mừng chiến thắng của Hồi giáo càng lớn bao nhiêu thì nỗi đau của Vatcian và Giáo hội Công giáo cáng thấm thía và ê chề bấy nhiêu. Do rút tỉa của những kinh nghiệm thất bại trước đây, lần này Vatican chuẩn bị chu đáo hơn với sự hội ý của ba ông vua đầy quyền lực tại Âu châu là vua Pháp, vua Đức và đặc biệt là vua Anh Richard I - người được mệnh danh là "Richard Trái tim Sư tử" (Richard The Lion-Hearted). Cũng xin nói thêm đây là Giáo hội Công giáo Anh tách rời khỏi giáo quyền Vatican do vua Henri VIII chủ xướng vào năm 1534. Trước đó, các vua Anh đều thần phục giáo quyền Vatican như hầu hết các vua khác ở Âu châu.

Cuộc Thập tự chinh thứ ba có tới 3 hoàng đế Âu châu điều khiển nên các sử gia thường gọi cuộc Thập tự chinh này là "Cuộc Thập tự chinh của các vua" (The Crusade of the Kings). Vua Anh đích thân điều khiển cuộc viễn chinh từ 1190 cho đến khi chiến dịch kết thúc vào năm 1191. Trong hai năm chinh chiến, đoàn quân chữ thập tái chiếm hầu hết lãnh thổ của Vương quốc La-tinh Jerusalem. Nhưng thành phố quan trọng nhất là thánh địa Jerusalem thì lại không chiếm được. Quân Hồi chận đứng đoàn quân chữ thập của Richard I tại thành phố Acre ở phía bắc Jerusalem. Trong thời gian trú đóng tại Acre (1191-1192) vua Anh Richard 'The Lion-Hearted' đã ra lệnh chém đầu tập thể trên 3000 người Hồi giáo Ả-rập. Vụ này đã đi vào lịch sử Hồi giáo như một bằng chứng về tội ác diệt chủng của Giáo hội Công giáo La-mã (The Cross and the Crescent, by Malcom Billing, trang 116). Hiện nay, tại thư viện Quốc gia của Pháp có lưu trữ một bức họa thời Trung Cổ vẽ cảnh vua Richard I ngồi trên khán đài chứng kiến đoàn quân thập tự chém đầu tập thể những người Hồi giáo.

Cuộc Thập Tự Chinh Thứ Tư (1201-1204)

Giáo hội Công giáo La-mã rất thù ghét Giáo hội Chính thống giáo là một giáo hội Ki-tô tách rời khỏi giáo quyền Vatican vào giữa thế kỷ 11. Trong thời gian thập tự quân chiếm đóng Jerusalem, các tín đồ đạo Chính thống ở Âu châu bị cấm không được hành hương đến thánh địa. Các giáo dân và tu sĩ đạo Chính thống tại Jerusalem đều bị ngược đãi tàn tệ. Đó chính là những lý do khiến cho hoàng đế Byzantine và Giáo hội Chính thống không thể ngồi yên trước sự lộng hành của Vatican. Để tránh bị lâm vào thế "lưỡng đầu thọ địch", hoàng đế Byzantine và Giáo hội Chính thống thương thuyết với vua Hồi giáo Thổ-nhĩ-kỳ, kết quả hai bên đạt tới việc ký kết hòa ước cam kết không gây chiến tranh xâm chiếm lẫn nhau.

Hòa ước Byzantine - Thổ-nhĩ-kỳ làm cho mối bất hòa giữa Vatican và Chính thống giáo càng trở nên sâu sắc. Bọn diều hâu ở Âu châu lúc đó là các hiệp sĩ (Knights) trong những nước Công giáo cuồng tín đã lập những kiến nghị yêu cầu tòa thánh Vatican phát động cuộc Thập tự chinh thứ tư để tiêu diệt đế quốc Byzantine và Chính thông giáo. Cuộc viễn chinh lần này được Vatican uỷ nhiệm cho các thủ lãnh hiệp sĩ Ý và Đức thực hiện.

Trên danh nghĩa, cuộc Thập tự chinh thứ tư nhằm trừng phạt Byzantine và Chính thống giáo nhưng mục tiêu chính là để tiêu diệt một đồng minh tương lai của Hồi giáo. Cuộc chiến kéo dài trong 3 năm từ 1201 đến 1204, đoàn quân thập tự chiếm trọn lãnh thổ đế quốc Byzantine. Vatican đặt tên cho lãnh thổ này là "Đế quốc La-tinh Constantinople". Vatican chia đế quốc này thành nhiều thái ấp (feuds) và phong chức lãnh chúa cho các hiệp sĩ có công để cai trị các thái ấp đó. Vatican đã biến toàn vùng đế quốc Byzantine xưa thành một xã hội phong kiến. Các lãnh chúa thu thuế của dân và trích ra một phần để nộp cho Vatican. Đế quốc La-tinh Constantinople tồn tại được 57 năm (1204-1261).

Cuộc Thập Tự Chinh Thứ Năm (1217-1221)

Cuộc Thập tự chinh thứ năm không có một nguyên nhân chính trị hay tôn giáo nào mà hoàn toàn do sự bốc đồng của vua Andrew nước Hungary. Hungary chì là một nước nhỏ nằm ở giữa châu Âu. Vua Andrew là người cuồng tín cà có quá nhiều ảo vọng quyền lực. Ông ta đã không lượng trước sức của mình, tự ý thành lập một đạo quân thập tự rồi kéo quân đến tấn công một nước xa xôi là Ai-cập. ông ta may mắn thành công trong việc chiếm thành phố Dannietta của Ai-cập. Người Ai-cập nhân danh Hồi giáo thương thuyết với Andrew là nếu nhà vua chịu trả lại thành phố Dannietta cho Ai-cập thì Hồi giáo sẽ trả lại Jerusalem cho Giáo hội Công giáo. Vua Andrew đã kiêu hãnh bác bỏ đề nghị này và kéo quân tiến đánh thủ đô Cairo của Ai-cập. Quân Hồi giáo Ai-cập hết sức phẩn nộ đã mãnh liệt phản công tiêu diệt hoàn toàn quân xâm lược của Andrew vào năm 1221.

Cuộc Thập Tự Chinh Thứ Sáu (1228-1229)

Cuộc Thập tự chinh lần này do Vatican giao cho vua Đức Frederic II thực hiện để trả thù cho Andrew. vatican đã cấp cho vua Frederic một ngân khoản rất lớn để võ trang thật hùng hậu cho đoàn quân thập tự. Tuy nhiên, vua Frederic là một nhà quân sự bất tài, đã phạm phải những lỗi lầm nghiêm trọng về chiến thuật nên toàn bộ đoàn quân chữ thập mới đặt chân lên đất Ai-cập đã bị tiêu diệt. Riêng bản thân vua Frederic II bị quân Hồi giáo Ai-cập bắt sống. Vatican đã phải trả một số tiền rất lớn để chuộc mạng cho Frederic, y được quân Hồi phóng thích cho về nước an toàn.

Cuộc Thập Tự Chinh Cuối Cùng (1248-1254)

Lý do dẫn đến cuộc Thập tự chinh thứ 7 là vụ quân Hồi định chiếm thánh địa Jerusalem vào năm 1244. Vatican trao nhiệm vụ tổ chức cuộc thánh chiến cho vua Pháp Louis IX. Nhà vua tuân lệnh và nhận tiền của Vatican chuẩn bị tổ chức cuộc viễn chinh thập tự lần thứ 7 trong vòng 4 năm.

Năm 1248, vua Louis IX đích thân chỉ huy cuộc viễn chinh , kéo quân qua các nước Syria, Liban, Palestine... đi tới đâu đều bị quân Hồi phục kích tấn công đến đó. Cuộc chiến dai dẳng không phân thắng bại, khiến binh sĩ vô cùng chán nản. Sáu năm sau, đoàn quân thập tự vẫn không tời được Jerusalem. Đến năm 1254, quân Hồi tổng phản công khắp nơi khiến cho đoàn quân thập tự của Louis IX phải bỏ chạy, những kẻ sống sót tìm đường trở lại Âu châu.

Đến năm 1291, quân Hồi chiếm lại tất cả những phần đất đã mất về tay đoàn quân chữ thập trước đây, chấm dứt hoàn toàn Vương quốc La-tinh Jerusalem sau 195 năm tồn tại. Cũng xin nói thêm ở đây là trong lịch sử các cuộc viễn chinh thập tự có hai vua Pháp tên Louis tham dự. Vua Louis VII bị thất bại nhục nhã trong cuộc thập tự chinh lần thứ hai (1147-1149) và vua Louis IX bị thất bại trong cuộc thập tự chinh cuối cùng (1248-1254). Tuy nhiên, Louis IX đã được lòng Vatican nên ông này đã được Vatican phong thánh. Vì thế, người Pháp không còn gọi Louis IX là vua nữa mà gọi là Saint Louis. Tên của ông đã được dùng để đặt tên cho một thành phố lớn tại Hoa Kỳ vì thành phố này có nhiều người Mỹ gốc Pháp.

Những Điều Đáng Ghi Nhớ Về Các Cuộc Thập Tự Chinh

1. Vấn đề có bao nhiêu cuộc Thập tự chinh?

Khi nghiên cứu về những cuộc viễn chinh của đoàn quân chữ thập thời Trung cổ, chúng ta sẽ gặp nhiều tài liệu sử học đưa ra những con số khác nhau về những cuộc chiến tranh của thập tự quân. Có tài liệu nói là 6 trận, có tài liệu nói 7, 8 hoặc nhiều hơn. Lý do chính yếu làm cho các sử gia bối rối không thể nêu lên con số chính xác về cuộc chiến của thập tự quân kéo dài gần 2 thế kỷ (195 năm). Trong thời gian dài dằng dặc đó đã xảy ra nhiều cuộc chuyển quân của thập tự quân giả dạng làm những đoàn người đi hành hương hoặc đoàn người đi buôn bán... nhưng sau đó vẫn có thể thực hiện được những cuộc tấn công vào quân Hồi giáo. Một điều phức tạp hơn nữa là sau thế kỷ II, nhiều giáo hội Công giáo Âu châu tách rời khỏi giáo quyền Vatican như Chính thống, Anh giáo và Tin Lành. Vatican tổ chức những đoàn quân cũng mang danh là Thập tự quân đi đàn áp những kẻ ly khai đó. Trường hợp rõ nét nhất là cuộc Thập tự chinh lần thứ tư (1201-1204) Vatican đánh chiếm hoàn toàn lãnh thổ đế quốc Byzantine của Chính thống giáo. vậy có nên coi cuộc Thập tự chinh này là một trong những cuộc thập tự chinh chống Hồi giáo hay không ? Nhiều sử gia trả lời là có vì mục tiêu chính của Vatican là triệt hạ một đồng minh mới của Hồi giáo.

2. Nhiều con cháu của Thập tự quân trở thành Hồi giáo

Những thập tự quân Âu châu đến Jerusalem trong cuộc viễn chinh đầu tiên năm 1096, sau mấy chục năm định cư tại đây họ dần dần hiểu được thực tại và tĩnh ngộ chứ không còn cuồng tín như trước. Vì tại Jerusalem không có phụ nữ Âu châu nên lính thập tự đều lấy vợ Ả-rập Hồi giáo. Từ thế hậ thứ hai, thứ ba trở đi, hầu hết con cháu của thập tự quân đều thành người Hồi giáo. Do đó, khi xảy ra cuộc thập tự chinh lần thứ hai (1147 tức 51 năm) và thập tự chinh lần thứ ba (1190, tức sau lần thứ nhất gần một thế kỷ) những con cháu của thập tự quân đợt đầu đã trở thành những người Âu lai Ả-rập Hồi giáo rất thù ghét những người Âu đến sau. Họ là những chiến sĩ Hồi giáo chống đối mãnh liệt nhất những đợt thập tự chinh 2 và 3.

3. Nạn buôn nô lệ

Các cuộc chiến tranh của thập tự quân tại Trung Đông đã làm cho tệ nạn buôn bán nộ lệ trở thành một kỹ nghệ phát đạt. cả hai phe Hồi giáo cũng như thập tự quân đều chú tâm bắt sống tù binh và bắt thường dân ở các vùng chiếm đóng để đem bán tại các chợ ở khắp miền Trung Đông. Các thiếu nữ đẹp luôn luôn là món hàng đắt giá nhất được các nhà giàu hoặc các quan quyền mua về làm tì thiếp hay nô lệ tình dục.

4. Giá máu quá đắt cho một chuyện hoang đường

Trong suốt năm 1095, Giáo hoàng Urban II đi khắp các nước Công giáo Âu châu kích động quần chúng tín đồ đầu quân tham gia đoàn quân thập tự hoặc đóng góp tiền bạc để tài trợ cho cuộc chiến thần thánh nhằm bảo vệ ngôi mộ của Chúa. Những "ngôi mộ của Chúa" chỉ là chuyện hão huyền vì nó chẳng bao giờ có. Nếu Chúa đã sống lại và lên trời thì làm gì có mộ của Chúa? Còn nếu Chúa đã bị quân La-mã đóng đinh trên thập giá thì theo luật của La-mã là mọi tử tội đã chết trên thấp giá phải bị vứt xác ra bãi hoang cho kên kên và chó hoang ăn thịt. Trong lịch sử La-mã tuyệt đối không có chuyện xác tử tội được trao cho người nhà đem về chôn cất tử tế ở trong mồ. Jesus bị quân La-mã xếp vào loại tử tội nguy hiểm chẳng lẽ lại được La-mã dành cho một đặc ân ngoại lệ duy nhất là trao cho người nhà đem về chôn trong mồ hay sao? Chuyện ngôi mộ của Jesus là một chuyện hão huyền của bọn đại bịp. Nhưng câu chuyện hão huyền ấy đã làm đổ máu của ba triệu người, trong số đó có ít nhất là 60 ngàn trẻ em.

Sử gia Lloyd M. Graham đã viết về vấn đề này như sau: "Chúng ta hãy quan tâm đến những cuộc chiến tranh của thập tự quân, đó là những cuộc chiến tranh khủng khiếp nhằm bảo vệ "ngôi mộ thánh của Chúa" mà nó chẳng bao giờ có, thế mà ba triệu người đã bị giết một cách vô ích, trong số đó có sáu mươi ngàn trẻ em" ('Deceptions and Myths of the Bible', trang 350).

Ba triệu sinh mạng là giá máu quá đắt mà nhân loại đã phải trả cho một chuyện hoang đường của tà đạo đa thần Công giáo La-mã. Ba triệu người đã tức tưởi chui xuống những nấm mồ có thật chỉ vì một nấm mồ không có thật của một người được mệnh danh là Chúa Cứu Thế !

Charlie Nguyễn

Thu 2002

Thiên Chúa giáo (Christianity) phát triển mạnh ở Đế quốc La Mã (Roman Empire), khi đế quốc này bị chia làm hai thì có hai trung tâm chính là Rome và Constantinople. Sự tranh giành quyền lực chính trị của hai nửa đế quốc này, cộng thêm những khác biệt về thần học, cụ thể là tranh cãi về mức độ quan trọng của từng ngôi trong ba ngôi: Cha, Con, Thánh Thần, Thánh Kinh (Bible) có bao nhiếu sách, sách nào là lời của Chúa sách nào không, v.v đến sự chia rẽ (Schism) Thiên Chúa Giáo thành Cơ Đốc Giáo , hay Công Giáo (Roman Catholic) ở Rome, và Chính Thống Giáo (Orthodox) ở Constantinople.

Một điều thú vị là Cơ Đốc giáo coi những dị biệt này không quan trọng lắm và vẫn muốn "hoà giải" với Orthodox, còn Orthodox thì coi đó là những bất đồng có tính nền tảng và đòi Cơ Đốc Giáo phải thay đổi rất nhiều thứ thì mới có thể nói chuyện "hoà hợp".

Orthodox về sau phát triển sang Nga và các nước Balkans. Một số nước như Armenia thì đã có Thiên Chúa Giáo từ rất lâu trước khi có sự phân chia.

Tin Lành là một nhánh của Công Giáo, tách ra khỏi Công Giáo trên cơ sở những khác biệt về thần học, như quan hệ với Chúa chỉ trên cơ sở Kinh Thánh, không cần giáo sỹ, không thờ Đức Bà Maria, không tin bà này sinh ra Chúa rồi mà vẫn đồng trinh(!), cũng như một số bất đồng về việc sách nào cấu thành Kinh Thánh.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro