Đảo kho tàng

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

MỤC LỤC

CHƯƠNG 1 ...........................................................................................................................4

Tên giặc biển già đời ...............................................................4

CHƯƠNG 2 ...........................................................................................................................8

Hắc cẩu .....................................................................................8

CHƯƠNG 3 ......................................................................................................................... 12

Cái vết đen ............................................................................ 12

CHƯƠNG 4 ......................................................................................................................... 15

Cái hòm của viên chúa tàu .................................................. 15

CHƯƠNG 5 ......................................................................................................................... 18

Hết kiếp thằng mù ............................................................... 18

CHƯƠNG 6 ......................................................................................................................... 20

Giấy tờ của viên chúa tàu.................................................... 20

CHƯƠNG 7 ......................................................................................................................... 23

Tên bếp tàu ........................................................................... 23

CHƯƠNG 8 ......................................................................................................................... 27

Vấn đề khí giới và thuốc súng............................................. 27

CHƯƠNG 9 ......................................................................................................................... 30

Đi biển ................................................................................... 30

CHƯƠNG 10 ....................................................................................................................... 33

Những điều tôi nghe được khi nấp trong thùng lê ........... 33

CHƯƠNG 11 ....................................................................................................................... 36

Hội đồng quân sự.................................................................. 36

CHƯƠNG 12 ....................................................................................................................... 39

Bước chân lên đảo................................................................. 39

CHƯƠNG 13 ....................................................................................................................... 42

Người trong đảo .................................................................... 42

CHƯƠNG 14 ....................................................................................................................... 46

Cố thủ trên đảo ..................................................................... 46

CHƯƠNG 15 ....................................................................................................................... 51

Trong lô-cốt ........................................................................... 51

CHƯƠNG 16 ....................................................................................................................... 54

Xin-ve đi thương lượng ........................................................ 54

CHƯƠNG 17 ....................................................................................................................... 58

Trận đánh khu vực lô-cốt..................................................... 58

CHƯƠNG 18 ....................................................................................................................... 62

Lênh đênh trên biển............................................................. 62

CHƯƠNG 19 ....................................................................................................................... 65

Khi nước triều xuống ........................................................... 65

CHƯƠNG 20 ....................................................................................................................... 68

Chiếc thuyền độc mộc lênh đênh ........................................ 68

CHƯƠNG 21 ....................................................................................................................... 72

Tôi hạ lá cờ đen của giặc xuống .......................................... 72

CHƯƠNG 22 ....................................................................................................................... 76

Lão Han ................................................................................. 76

CHƯƠNG 23 ....................................................................................................................... 82

Đồng ăn tám.......................................................................... 82

CHƯƠNG 24 ....................................................................................................................... 86

Trong trại quân thù ............................................................. 86

CHƯƠNG 25 ....................................................................................................................... 92

Lại cái vết đen....................................................................... 92

CHƯƠNG 26 ....................................................................................................................... 97

Giữ đúng lời hứa................................................................... 97

CHƯƠNG 27 ..................................................................................................................... 103

Đi tìm nơi giấu của............................................................. 103

CHƯƠNG 28 ..................................................................................................................... 107

Tiếng hát trong lùm cây .................................................... 107

CHƯƠNG 29 ..................................................................................................................... 111

Một tay đầu têu thất thế ................................................... 111

CHƯƠNG 30 ..................................................................................................................... 116

Đoạn cuối............................................................................. 116

CHƯƠNG 1

TÊN GIẶC BIỂN GIÀ ĐỜI

Ngày ấy cha tôi còn đứng chủ quán cơm "Đô đốc Bin- bâu". Quán  cơm  dựng  ở  một  nơi  hẻo  lánh  trên  cửa  biển.  Hàng  ế  ẩm, khách thưa thớt, cảnh nhà túng quẫn. Cha tôi phần lo buồn, phần

ốm yếu khật khừ. Cha tôi có thể còn sống lâu nữa nếu không gặp

phải cái tên thủy thủ già ấy đến trọ. Tôi còn nhớ rõ như mới gặp

hắn hôm qua. Hắn nặng nề đi đến cửa, chiếc hòm đặt trên xe theo sau. Người hắn to lớn, vạm vỡ, nước da lưng sạm như gạch nung,

cái đuôi tóc trên đầu bết lại như keo lòng thòng trên cổ áo xanh đã hoen nhiều vết; tay hắn sần sùi; trên má có một vết sẹo chém dọc

xuống, trắng bệch trông đến bẩn. Tôi còn nhớ, hắn đứng đưa mắt

nhìn quanh cửa biển, miệng huýt sáo rồi cất tiếng hát bài hát cổ

của bọn thủy thủ, bài hát ấy về sau hắn hát luôn. Mười lăm thằng trên hòm người chết ỳ a, ỳ a... Be rượu "rum" say bét say be! Hắn

hát to, giọng ồ ồ cũ kỹ. Hát xong hắn cầm gậy gõ cửa. Cha tôi ra, hắn bảo đem một cốc rượu "rum", giọng rất cộc cằn. Hắn nhấm

nháp rượu ra vẻ một tay sành. Hắn chăm chú nhìn ra bờ biển dốc

ngược, nhìn vào cái biển cửa hàng rồi nói:

- Cái quán này thật là nơi thuận lợi. Đông khách không bác? Cha tôi trả lời:

- Thưa khách lắm.

- Cũng chỉ cần thế.

Nói  xong  hắn  gọi  người  phu  khuân  hòm  vào  nhà. Lát sau, hắn lại nói:

- Tôi nghỉ đây ít lâu. Tính tôi rất dễ dãi. Chỉ cần một ít rượu "rum", ít trứng và mỡ là đủ; với lại thỉnh thoảng ra đứng ngoài kia xem tàu chạy. Mà bác sẽ gọi tôi như thế nào nhỉ? Thôi cứ gọi là ông chúa tàu vậy. À thôi! Tôi biết cái điều bác đang lưỡng lự rồi! Này đây!

Nói thế, hắn quẳng ngay ba bốn đồng tiền vàng ra:

- Khi nào hết, bác cứ bảo tôi!

Hắn  nói  một  cách  thô  lỗ  và  rất  hách  dịch.  Tuy  ăn  vận  lôi thôi, nói năng cục cằn, nhưng coi bộ hắn không phải một thủy thủ thường.  Hắn  ra  dáng  một  viên  thuyền  trưởng  hay  phó  thuyền trưởng quen lối tác oai tác quái với kẻ dưới. Bình thường, tính hắn

rất trầm mặc. Suốt ngày hắn thơ thẩn ven bờ biển cao, tay cầm cái ống nhòm bằng đồng. Chiều tối, hắn về ngồi thu lu ở xó buồng bên cạnh đống lửa, uống rất nhiều rượu "rum" pha nước. Mỗi lần đi chơi về, hắn lại hỏi: có người thủy thủ nào đi qua đây không?

Mới  đầu,  chúng  tôi tưởng hắn muốn tìm người thân thuộc, nhưng sau mới biết hắn muốn tránh mặt bọn thủy thủ. Một hôm, hắn gọi tôi ra một nơi và dặn hễ nhìn thấy tên thủy thủ cụt một chân thì nhớ bảo ngay cho hắn biết; rồi hắn hẹn cứ mồng một đầu tháng hắn sẽ cho bốn xu. Thường đầu tháng, tôi phải đến nhắc hắn  cho  tiền,  và  mỗi  bận  như  thế  hắn  thở  phì  phì,  giương  mắt nhìn tôi làm tôi phải cúi mặt. Nhưng sau đấy, hắn lại đưa tiền cho

tôi và nhắc lại phải để ý tìm người thủy thủ cụt chân. Không nói

thì các bạn cũng biết cái hình ảnh anh lính thủy cụt chân này đến

ám ảnh tôi luôn. Trong những đêm bão tố, gió lay bốn góc nhà,

sóng gầm ven bến quanh bờ, tôi mơ thấy anh ta hiện ra thiên hình

vạn trạng. Lúc thấy chân anh cụt tới gối, lúc cụt đến bẹn, lúc chỉ

còn một chân mọc ở giữa ngực. Có đêm thấy anh ta nhảy qua rào

qua hố đuổi tôi, làm tôi sợ toát mồ hôi. Chỉ vì bốn xu mà phải chịu

những  cơn  sợ như  vậy, kể ra bốn xu cũng to quá. Tên chúa tàu uống nhiều rượu "rum" đến nỗi nhiều đêm hắn như lên cơn loạn

óc. Hắn ngồi hát những bài ca cổ man rợ. Có khi hắn gọi rượu, ép mọi  người  phải  uống  để  nghe  hắn  kể  chuyện  hay  hát  theo cùng

hắn. Mọi người run sợ phải cố hát theo. Nhiều lúc cả nhà ầm lên

những câu hát: ỳ a, ỳ a... Be rượu "rum" say bét say be! Khi thì

hắn đập bàn bắt mọi người ngồi im lặng. Lúc ấy hễ ai hỏi động đến hắn là hắn nổi cơn thịnh nộ. Chỉ đến khi say khướt, chân tay mềm rủn, hắn mới để khách ra về. Chuyện hắn kể rặt là những chuyện

khủng khiếp: nào thắt cổ nhục hình, nào bão biển, đảo Rùa, nào những chuyện kỳ quặc trên đất hoang thuộc xứ Tây Ban Nha. Cha

tôi lo buồn sợ mất khách vì hắn. Nhưng điều nguy hơn cả là hắn

cứ ở lần lữa ngày này qua ngày nọ đến nỗi tiền hắn đưa trả đã hết

từ lâu mà cha tôi cũng không có can đảm để hỏi hắn. Hễ đả động

đến là mắt hắn long lên, mũi hắn gầm gừ thở phì phò làm cha tôi

phải vội vã rút lui. Và mỗi bận như thế cha tôi lại vặn tay uất ức.

Những  lo  phiền  sợ  hãi  ấy  đã  làm  bệnh  tình  cha  tôi  thêm  trầm

trọng. Trong khi hắn ở trọ quán chúng tôi, hắn vẫn đội cái mũ ba

vành nhàu nát và cái áo xanh lem luốc vá víu trăm mảnh. Hắn chẳng bắt chuyện với ai sau lúc hắn tỉnh dậy. Cả đến cái hòm to của hắn cũng chẳng bao giờ thấy hắn mở. Có một lần hắn gặp tay

đối thủ. Lúc ấy cha tôi đang ốm nặng. Buổi trưa ấy, bác sĩ Ly- vơ- xây đến thăm bệnh cha tôi. Bác sĩ là người nhân từ có tiếng. Gặp những người nghèo khổ, ông hay giúp đỡ và có lúc chữa bệnh cho

họ không hề lấy một xu nhỏ. Riêng đối với gia đình tôi, ông là một

vị ân nhân. Xem xong bệnh cho cha tôi, ông sang phòng bên hút

thuốc. Anh chúa tàu đang ê a bài hát cũ: Mười lăm thằng trên

hòm người chết, ỳ a, ỳ a... Be rượu "rum" say bét say be! Ngoài bác

sĩ ra, bài hát này chẳng ai lạ tai hết. Hát xong, quen lệ hắn đập

tay xuống bàn quát mọi người im.

Mọi người đều nín thít. Riêng bác sĩ vẫn hút thuốc và vẫn ôn

tồn giảng cho một ông lão nghe cách trị bệnh tê thấp. Anh chúa

tàu trừng trừng nhìn bác sĩ, lại vỗ bàn, rồi quát lên bằng giọng tục

tĩu:

- Đằng ấy có câm mồm không? Bác sĩ nói:

- Ông bảo tôi phải không?

Khi anh chàng tục tằn kia bảo "phải", bác sĩ nói:

- Tôi nói với anh điều này: nếu anh cứ uống rượu "rum" mãi, thì đến phải tống anh đi nơi khác.

Cơn tức của tên giặc già thật đến ghê. Hắn đứng phắt dậy

rút soạt dao ra, lăm lăm chực đâm bác sĩ. Tôi lo cho bác sĩ quá.

Nhưng ông vẫn vững chãi, giọng vừa dõng dạc vừa bình tĩnh mà quả quyết:

- Nếu anh không cất dao vào, tôi quyết sẽ làm anh bị treo cổ trong phiên tòa đại hình sắp tới.

Tôi còn nhớ trông bác sĩ lúc này với gã kia thật khác nhau một  trời  một  vực.  Một  đằng  thì  đức  độ  khoan dung, hiền từ mà nghiêm nghị. Một đằng thì nanh ác, hung hăng như con thú dữ nhốt chuồng. Hai người đưa mắt gườm nhau. Rốt cục tên chúa tàu gằm mặt xuống, tra dao vào, ngồi xuống, làu bàu trong cổ họng. Bác sĩ nói:

- Bây giờ tôi mới biết trong quận này có một người như anh.

Tôi không chỉ làm thầy thuốc, tôi còn xử án nữa. Nếu bận sau còn

xảy ra việc gì, tôi sẽ ra lệnh bắt và đuổi anh ra khỏi đất này. Một

lát sau, bác sĩ lên ngựa. Từ đêm ấy và những đêm sau, tên chúa

tàu im như thóc.

CHƯƠNG 2

HẮC CẨU

Mùa đông năm ấy rất lạnh, tuyết to, bão lớn. Bệnh tình cha

tôi không còn hy vọng qua khỏi mùa đông. Tất cả công việc nhà

đều đổ vào vai hai mẹ con tôi, nên chúng tôi cũng không còn đâu

thì giờ rỗi để gặp ông khách khả ố ấy nữa. Tháng giêng, một buổi

sáng rét buốt, tuyết phủ trắng bến tàu, sóng vỗ nhẹ trên đá, mặt

trời vừa nhô lên đầu núi, chiếu sáng mặt biển xa. Viên chúa tàu dậy sớm hơn thường lệ. Hắn đi ra biển, con dao dài lủng lẳng, ống nhòm dưới nách, mũ hất ngược ra sau. Tôi nhớ khi hắn đi khuất

sau tảng đá, tôi còn nghe tiếng hắn thở phì phò gầm gừ như đương cơn tức. Lúc bấy giờ tôi đương lúi húi dọn cơm sáng sẵn để hắn về

ăn. Chợt cửa mở, một người lạ mặt bước vào. Mặt hắn xanh sạm, bàn tay trái cụt hai ngón. Hắn không giống người đi biển nhưng có

vẻ làm cho người ta phải nhớ đến biển. Hắn bảo hắn muốn dùng

"rum". Tôi sắp đi lấy thì hắn ra hiệu bảo tôi đến gần. Tôi dừng lại.

Hắn gọi:

- Lại đây chú bé! Lại gần đây! Rồi hắn hỏi:

- Bàn ăn này có phải của ông bạn Bin không?

Tôi bảo không biết ai tên là Bin, mà đây là bàn của người khách trọ thường gọi là ông chúa tàu.

- Phải,  phải!  Chúa  tàu  cũng  đúng!  Ông ta có cái sẹo ở má trái, tính ông ta vui đáo để, nhất là khi ông ấy say, phải không nào? Đúng đứt đi chứ lị! Thế ông Bin có nhà không?

- Đi vắng rồi.

- Đi đâu? Đi về lối nào?

Nhìn lối tôi chỉ xong, người khách lạ ngồi lại, mắt hau háu nhìn ra bến như mèo rình chuột. Vừa lúc tôi chạy ra đường, hắn

gọi giật ngay; tôi chưa kịp vào, hắn rủa một tiếng làm tôi mất hồn.

Khi tôi vào rồi, hắn trở lại nhã nhặn, vỗ vai tôi, khen tôi là đứa trẻ

ngoan và bảo hắn thích tôi lắm:

- Tao cũng có đứa con trai giống mày như đúc. Nhưng đã là con trai thì phải biết nghe lời, nghe không con? À đây rồi, ông Bin

đã về kia. Tao với mày hãy vào buồng nấp sau cửa này để cho ông

ta một mẻ hết vía chơi.

Nói thế rồi hắn lôi tôi vào buồng nấp sau cánh cửa bỏ ngỏ; hắn để tôi đứng sau lưng, tay hắn sờ vào chuôi dao sau áo. Một chốc, tên chúa tàu bước vào, đóng sầm cửa rồi bước thẳng lại bàn

ăn.

- Bin!

Người lạ lên tiếng gọi, cố lấy giọng cho to, cho dõng dạc. Viên chúa tàu quay lại. Mặt hắn biến sắc tái mét. Mắt hắn thất thần, người hắn bỗng chốc trở nên già sọm. Người lạ lại nói:

- Anh Bin, anh còn nhận ra người bạn cũ này chứ? Viên chúa tàu hổn hển thở phào một tiếng:

- Hắc Cẩu!

- Không Hắc Cẩu thì còn ai vào đây nữa. Chao! Anh Bin ơi!

Từ khi tôi mất hai ngón tay này, hai chúng ta đã gặp bao chuyện

trên đời!

Hắn vừa nói vừa giơ bàn tay trái cụt ngón ra. Viên chúa tàu

nói:

- Thôi! Anh đã tìm được tôi... Muốn gì nói đi!

- Bin, anh nói đúng! Để tôi bảo cậu bé đáng yêu này lấy cốc

"rum", rồi chúng ta sẽ nói chuyện với nhau như những người bạn cũ.

Khi tôi mang rượu vào, Hắc Cẩu bảo tôi ra và không được đứng nghe ở cửa. Tôi ra ngoài quầy, cố lắng tai nhưng chỉ nghe tiếng rì rầm, một vài tiếng chửi rủa của viên chúa tàu. Thốt nhiên

có tiếng bàn ghế đổ, tiếp theo là tiếng dao loảng xoảng rồi tiếng kêu thất thanh. Một chốc, tôi thấy Hắc Cẩu chạy ra, tên chúa tàu đuổi sát sau, vai Hắc Cẩu máu đổ ròng ròng. Đến cửa ngoài, viên chúa  tàu  giơ  dao chém bổ xuống nhưng lưỡi dao vướng vào tấm biển  hàng.  Hắc  Cẩu  thoát  ra  ngoài,  chạy  biến  mất  sau  gò.  Còn

viên chúa tàu giụi mắt đứng ngơ ngác rồi vào nhà. Hắn gọi tôi:

- Dim! Đem "rum" đây!

Hắn vừa nói vừa lảo đảo, tay dựa vào tường. Tôi bàng hoàng chạy đi lấy rượu. Bỗng nghe tiếng đánh thịch trong phòng. Tôi vào

thì đã thấy tên chúa tàu nằm dài sóng sượt, bất tỉnh nhân sự. Lúc

ấy mẹ tôi nghe tiếng chạy xuống. Chúng tôi nâng cao đầu hắn lên.

Mẹ tôi kêu:

- Ối giời! Khổ ơi là khổ! Lại còn bố mày ốm nằm liệt trên kia! Giữa lúc chúng tôi đang bối rối thì cánh cửa mở, bác sĩ Ly

bước vào. Trông thấy bác sĩ, chúng tôi mừng khôn xiết. Tôi vội nói:

- Thưa bác sĩ, không hiểu lão bị thương ở đâu mà chết cứng thế này.

Bác sĩ điềm nhiên bảo:

- Bị thương gì! Hắn lên chứng động kinh đấy. Giọng ông trở nên ân cần ấm cúng.

-  Còn  bà,  thôi  hãy  lên  với  ông  nhà;  đừng  để  ông  nhà  biết chuyện này. Tôi sẽ cố chạy chữa cho hắn. Nào cậu Dim! Đi lấy cái thau đây.

Khi tôi đem thau lại thì bác sĩ đã xắn cánh tay áo hắn lên. Trên cánh tay lực lưỡng có trổ nhiều dòng chữ:

“Thuận  buồm  xuôi  gió",  "Tai  qua  nạn  khỏi",  "Bin-  bôn cóc

cần".

Bác sĩ bảo:

- Cậu cầm lấy chậu thau. Nào thử xem máu anh này ra sao. Nói thế rồi bác sĩ cầm dao chích vào mạch máu hắn. Khi máu

chảy ra nhiều, hắn mới tỉnh dần và kêu lên:

- Hắc Cẩu đâu rồi?

- Chẳng có Hắc Cẩu đâu. Hắc Cẩu chỉ ở trong lương tâm của anh thôi!

Bác sĩ đáp.

- Anh uống quá nhiều "rum" nên mắc phải chứng kinh phong đấy. Và bây giờ, ông Bin- bôn...

- Tên ấy không phải tên tôi

Hắn vội nói. Bác sĩ bảo:

- Muốn tên gì cũng được. Tên ấy là tên một thằng cướp biển

mà tôi từng biết! Tôi chỉ khuyên anh một điều: một cốc rượu "rum"

chưa can gì, nhưng nếu cứ chén trong kéo chén ngoài thì có ngày anh đi đứt. Hiểu chưa? Thôi bây giờ anh cố gượng, tôi đưa anh lên buồng ngủ.

Khó nhọc lắm, chúng tôi mới vực được hắn lên giường. Hắn nằm thiêm thiếp.

Bác sĩ kéo tôi ra:

- Không hề gì đâu, tôi đã lấy khá nhiều máu ở cánh tay hắn

để hắn phải nằm yên ít lâu. Như thế cũng yên cho hắn mà cũng

yên cho gia đình cậu. Chỉ lên cơn một lần nữa là hắn đi đời.

CHƯƠNG 3

CÁI VẾT ĐEN

Một buổi trưa, tôi đến buồng viên chúa tàu, đem cho hắn ít thức ăn và thuốc

- sắc mặt hắn trông xanh xao và ngớ ngẩn. Hắn bảo tôi:

- Cậu Dim, bây giờ tôi chỉ còn mình cậu. Người ta khinh khi

tôi, chẳng ai thèm ngó đến tôi nữa. Cậu cũng biết tôi đối xử với cậu

thế nào. Tháng nào tôi cũng cho cậu bốn xu đấy... à này, cậu cho tôi xin một cốc rượu "rum" nào.

- Thầy thuốc đã dặn... Tôi chưa nói hết câu, hắn đã chửi rầm

lên:

- Bọn thầy thuốc thì biết cóc khô gì! Lão lang ấy hiểu thế nào

được bọn thủy thủ chúng tôi. Tôi đã từng vào những chốn nước sôi

lửa bỏng, đất nóng như lửa than và động như sóng cồn mà tôi sống được cũng chỉ nhờ uống "rum". Không có rượu "rum", tôi còn thua

cái  giẻ  rách.  Mẹ  kiếp,  cái  lão  lang  đểu  cáng!  Giọng  hắn  lại  trở thành van lơn:

- Cậu Dim, cậu thử nhìn ngón tay tôi run bắn thế này, chỉ vì không có một giọt rượu. Nếu cậu không cho tôi hớp rượu, tôi điên

lên bây giờ. Tôi đã thấy lão Phơ-linh đứng ở xó kia. Tôi đã nóng mắt lên rồi đây. Nào, cậu lấy cho tôi một cốc, nhanh lên, tôi sẽ cho cậu một đồng tiền vàng nước Ghi-nê.

Thấy hắn đưa tiền ra dử, tôi tức lộn ruột. Nhưng nghĩ đến cha đương bệnh nặng, cần yên tĩnh thuốc thang, sợ hắn làm ầm lên, tôi bảo:

-  Tôi  chỉ  cần  ông  trả  tiền  cơm  cho  đủ,  ngoài  ra  tôi  không thèm ngửa tay lấy một xu nào của ông cả. Tôi chỉ rót cho ông một

cốc rượu thôi, không được vòi thêm đấy!

Cốc rượu tôi đưa, hắn ực một hơi cạn ráo. Hắn bảo:

- Hà, đã thấy hơi dễ chịu! Cậu có biết thầy thuốc bảo tôi còn

phải nằm bao lâu không?

- Ít ra cũng một tuần lễ. Hắn kêu to:

- Chết mẹ! Một tuần lễ là không được rồi. Chẳng mấy chốc mà bọn nó sẽ gửi cái vết đen đến rồi!

Hắn cố chống tay ngồi dậy rồi lại ngã giụi xuống giường. Tôi

hỏi:

- Vết đen là cái gì?

- Đó là dấu hiệu báo trước. Bọn chúng mà gửi vết đen đến là

muốn đoạt lấy chiếc hòm của tôi đó. Bọn chúng toàn đồ chó má, chỉ muốn ăn cướp của người. Nếu chúng gửi vết đen đến, cậu cứ mượn

ngựa... mượn ngựa đến cái lão thầy thuốc... Cậu báo cho cái ông ấy

biết là cứ rình ở đây, sẽ tóm được hết cả lũ thủ hạ của lão Phơ-

linh. Khi xưa tôi là phó thuyền của lão ấy. Khi chết, lão đã chỉ cho một mình tôi biết cái chỗ ấy.

Hắn còn nói huyên thiên, tiếng nói cứ yếu dần, rồi hắn ngủ thiếp đi. Tôi đã định đi kể chuyện cho bác sĩ Ly nghe nhưng thốt nhiên cha tôi mất, mọi việc đành xếp lại. Lòng thương cha, việc tang  bận  rộn  làm  tôi  gần  như  quên  bẵng  tên  chúa  tàu  và cũng không sợ hắn như trước nữa. Có điều lạ là sáng hôm sau, hắn đã xuống nhà ăn cơm và uống nhiều rượu "rum" hơn mọi bận. Sức hắn mỗi ngày mỗi lụn dần, nhưng tính hung hãn vẫn như xưa.

Ngay sau hôm đưa đám cha tôi, tôi ra đứng trước cửa. Trời chiều, khí lạnh mịt mù, tình thương cha bùi ngùi trong dạ. Tôi chợt thấy trên đường cái một người đi lại. Tôi đoán chắc là người mù, vì hắn cầm gậy khua phía trước. Hắn đeo một miếng the xanh che kín mắt mũi, tuổi hắn già, hắn mặc cái áo đi biển cũ rích. Hắn dừng trước cửa quán, lên tiếng hỏi:

- Ông bà nào làm phúc bảo cho kẻ mù lòa này biết nơi này là

đâu?

Lòng thương nhớ cha tôi còn bổi hổi nên trông thấy kẻ tàn

tật, tôi bỗng chạnh lòng. Tôi vội bảo:

- Này ông già, đây là quán "Đô đốc Bin-bâu".

- Tôi nghe tiếng ai như tiếng một cậu bé... Cậu ơi! Cậu dắt hộ lão với...

Không ngần ngại, tôi đưa tay cho hắn cầm. Tên mù có giọng

nói ngọt xớt ấy liền bóp chặt tay tôi như kìm sắt. Tôi hoảng sợ cố

gỡ ra nhưng hắn kéo tôi lại gần bảo nhỏ:

- Đưa tao đến gặp viên chúa tàu!

- Thưa ông, tôi quả không dám.

Hắn cười khanh khách, vẻ chế giễu:

- Đưa tao vào ngay, không tao bẻ gãy tay bây giờ. Tôi định phân trần, hắn đã cướp lời:

- Không nói nữa, đi vào ngay!

Tôi không thấy tiếng ai độc ác, lạnh lùng và gớm ghiếc như tiếng tên mù ấy. Tôi đau thì ít mà sợ thì nhiều nên phải nghe lời hắn. Tay tên mù nắm chặt lấy tôi như bàn tay sắt. Tôi đưa hắn vào  chỗ  tên  giặc  già  đương  say  rượu  lừ  đừ.  Tên  chúa  tàu  thoạt thấy tên mù, hơi rượu "rum" bỗng bay mất. Hắn tỉnh hẳn, trố mắt

lên nhìn. Hắn cố đứng dậy nhưng không còn sức. Tên mù nói:

- Này anh Bin, hãy ngồi yên đấy. Việc đâu có đó. Cậu bé này, cầm lấy cổ tay trái ông Bin đưa lại gần tay phải tôi...

Tôi và cả viên chúa tàu đều tuân theo. Hắn trao cho viên chúa tàu một vật gì giấu trong tay hắn. Xong hắn buông tay ra; thoắt một cái, hắn đã ra ngoài và đến đường cái. Tôi nghe tiếng gậy lộc cộc xa dần. Một lúc sau, tên chúa tàu mới hoàn hồn và nhìn xuống tay. Hắn kêu to:

- Kỳ  hạn  chúng  cho  đến  mười  giờ!  Chúng  ta  còn  sáu  tiếng nữa... để lo liệu. Nói xong, hắn đứng dậy. Ngay lúc ấy người hắn chới với, hắn đưa tay lên kêu rú một tiếng rồi ngã vật xuống. Tôi chạy lại và gọi mẹ tôi. Nhưng không kịp! Hắn đã chết rồi.

CHƯƠNG 4

CÁI HÒM CỦA VIÊN CHÚA TÀU

Bấy giờ tôi mới nói những điều tôi biết cho mẹ tôi nghe. Hai

mẹ con tôi đương lâm vào cảnh ngộ rất khó khăn. Phần nợ của

viên chúa tàu đã làm chúng tôi sạt nghiệp, phần giặc cướp rình mò quanh nhà. Trong lúc nguy khốn này, tôi chỉ biết nghĩ đến bác sĩ

Ly. Tôi muốn đến báo với ông nhưng lại sợ để mẹ ở nhà một mình, ngộ xảy ra việc gì, lòng tôi không nỡ. Cuối cùng mẹ con tôi quyết

định  chạy  lên  xóm  bên  cầu  cứu.  Chúng  tôi  ra  đi  trong  lúc  nhá

nhem tối, sương mù lạnh buốt; cái xóm chỉ cách nhà tôi dăm trăm

mét, vậy mà mịt mù không thấy đâu cả! Đi được một đoạn, hai mẹ con  dừng  lại  lắng  nghe...  Nhưng  ngoài  tiếng  nước  vỗ,  tiếng  quạ kêu trong rừng, chẳng nghe thấy tiếng gì khác. Đến xóm thì vừa

lúc lên đèn. Tôi không quên được phút vui mừng khi trông thấy ánh đèn. Chúng tôi cầm chắc đến đây là có người cứu giúp. Nhưng

khi  nghe  đến  tên  tướng  cướp  Phơ-linh và đồng đảng của hắn là mọi  người  rụt  cổ.  Rút  cục  chỉ  có  người  chịu  đi  báo  với  ông  Ly,

nhưng không ai chịu đến giữ quán cơm với chúng tôi cả. Người ta

nói, bệnh sợ là bệnh hay lây. Nhưng sợ quá cũng hóa liều, thành

đánh bạo. Mẹ tôi bảo không muốn để đứa con vừa mồ côi cha phải mất một số tiền nợ. Mẹ tôi mượn một cái túi đựng tiền, rồi hai mẹ con dắt díu nhau trở về. Mặt trăng mới mọc chiếu hồng lớp sương

mù. Chúng tôi đi nhanh chân để khi trở lại, trăng chưa sáng. Đến nhà, đóng cửa xong mới thấy yên tâm. Mẹ tôi lấy nến đốt lên rồi

hai mẹ con dắt nhau vào phòng. Xác tên chúa tàu vẫn nằm ngửa như cũ. Mẹ tôi bảo nhỏ:

- Kéo cửa gỗ xuống con! Kẻo ở ngoài trông thấy.

Xong, mẹ tôi bảo phải lấy cái chìa khóa trong mình hắn. Tôi đánh bạo quỳ xuống... Cạnh tay hắn có một mảnh giấy tròn nhỏ, một mặt bôi đen. Tôi đoán ngay là cái vết đen. Mặt bên kia viết mấy chữ:

“Kỳ hạn cho anh đến 10 giờ đêm nay là hết".

Tôi nhìn lên cái đồng hồ cổ treo trên vách. Mới có 6 giờ. Mẹ

tôi giục:

- Dim! Tìm chìa khóa đi con!

Tôi lần túi hắn, hết túi này sang túi nọ, nhưng tôi thất vọng. Mẹ tôi bảo:

- Có khi hắn treo ở cổ.

Tôi  mò  lên  thì  thấy  cái  chìa  khóa  buộc  vào một đoạn dây, treo ngay ở cổ. Chúng tôi vội vã lên gác, vào thẳng gian phòng hắn ngủ, nơi hắn để chiếc hòm đồ khi mới đến. Chiếc hòm này cũng giống như trăm ngàn chiếc hòm khác của bọn thủy thủ. Trên mặt hòm có khắc một chữ "B" bằng sắt nung. Vừa mở nắp lên, thấy sặc mùi thuốc lá và hơi nhựa. Ở ngăn trên thấy có một bộ quần áo còn mới  nguyên. Ở dưới, các thứ để lộn xộn: một cái thước đo đường biển, vài cuộn thuốc lá, hai khẩu súng lục thật đẹp, một thoi bạc, một đồng hồ quả quít cổ, một ít đồ lặt vặt, phần nhiều là đồ nước ngoài, một cái com-pa, một đôi địa bàn vỏ đồng và năm sáu cái vỏ

ốc. Nói chung chẳng có vật gì quý giá. Ở dưới nữa, thấy có một cái

áo tơi đi biển đã bạc màu. Mẹ tôi sốt ruột, lôi cái áo ấy lên. Trong hòm chỉ còn một gói bọc vải sơn dầu hình như ở trong có gói giấy

má gì và một cái túi vải; chạm đến túi nghe tiếng loảng xoảng. Mẹ tôi nói:

-  Tao  sẽ  cho  bọn  bất  lương  thấy  rằng  tao  là  người  lương thiện.  Tao  chỉ  lấy  đủ  số  tiền  nợ,  không  thèm  lấy  thêm  một  xu nhỏ... Này, cầm lấy cái túi...

Mẹ tôi vốc tiền trong túi của hắn, vừa đếm vừa bỏ vào cái túi

tôi cầm. Trong túi hắn có đủ cả tiền các nước: Tiền vàng Tây Ban

Nha, tiền vàng Pháp, tiền Ghi-nê Anh, và còn nhiều thứ tiền khác nữa. Tiền Ghi-nê có ít, nhưng chỉ có thứ tiền ấy mới tính nợ được,

vì  thế đếm  tiền  vừa  lâu  vừa khó. Đang đếm tôi bỗng nghe tiếng gậy của thằng mù khua trên đường cái lạnh. Hắn đang đi lại gần.

Hắn  gõ  cửa  quán  mấy  cái.  Chúng  tôi  nghe  tiếng  vặn  quả  đấm,

tiếng then cửa lạch cạch rồi phút chốc trong ngoài yên lặng... Lại

nghe tiếng gậy lộc cộc trên đường xa dần rồi mất hẳn. Tôi nói:

- Mẹ ơi! Ta đem cả đi thôi.

Tuy sợ, nhưng mẹ tôi vẫn khí khái, nhất định không chịu lấy hơn số tiền nợ, mà cũng không chịu thiếu. Mẹ con đương giằng co

nhau thì thốt nghe có tiếng còi rúc ở phía đồi. Tôi vội vàng đứng

dậy, vừa nhặt cái gói vải sơn dầu vừa nói:

- Con lấy cái này cho đủ số tiền nợ.

Chúng tôi lần xuống, bỏ lại cây nến rồi mở cửa chạy ra ngoài. Sương  mù  tan  nhanh,  mặt  trăng  lồ  lộ  chiếu  sáng  trên  dãy  gò. Chúng tôi bước nhanh. Chưa được nửa đường, chúng tôi đã nghe thấy tiếng chân nhiều người đi lại; phía trước có một ngọn đèn lắc

lư. Chúng tôi biết ngay trong bọn nó có người xách đèn. Thốt nhiên mẹ tôi quỵ xuống nói như giối giăng:

-  Con  ơi!  Cầm  lấy  tiền  mà  chạy  đi  thôi...  Mẹ  đuối  sức  rồi, không bước được nữa.

May sao đã đến gần cầu. Trong gian nguy, sức tôi khỏe lên gấp bội. Tôi xốc nách, dìu mẹ tôi men theo bờ lạch, đến mãi dưới gầm cầu. Mẹ tôi thở hắt một tiếng rồi nằm vật ra. Chúng tôi chỉ cách hàng cơm một quãng ngắn.

CHƯƠNG 5

HẾT KIẾP THẰNG MÙ

Tuy tôi sợ nhưng tính tò mò của tôi lại mạnh hơn. Tôi bò lại nấp sau bụi, nhìn lên con đường trước cửa nhà. Tôi vừa ngồi xuống

thì bảy tám tên giặc ồ ạt chạy đến, tên cầm đèn đi đầu. Tuy trời sương mù, tôi cũng nhận ra tên mù đi giữa. Một lát, nghe tiếng hắn quát to:

- Phá cửa đi!

Cả bọn  kéo  ùa vào nhà, lão mù đứng ngoài, luôn mồm đốc thúc và chửi rủa. Thốt nhiên một tiếng kinh ngạc vọng ra:

- Lão Bin chết rồi! Nhưng tên mù quát:

- Đồ ngốc, cứ lục túi nó xem!

Rồi những tiếng kêu kinh ngạc ầm nhà. Từ gác trên một đứa thò đầu ra bảo:

- Piu ơi! Có kẻ đến trước lục tung cả rồi! Lão mù gầm lên:

- Có thấy cái ấy không?

- Có thấy tiền.

Lão Piu rống lên:

- Tiền thì làm cái đếch gì! Tao hỏi giấy tờ của lão Phơ-linh

kia!

- Chẳng có giấy tờ nào cả. Lão mù lại kêu to lên:

- Thôi, chính mấy đứa ở quán cơm lấy rồi! Chính thằng nhãi

con! Biết thế ông móc mắt nó cho sớm. Thôi chúng bay tản đi các ngả, tìm chúng ngay.

Một tên đứng gần cửa sổ bảo:

- Phải rồi! Đèn nó còn để đây.

Ngay lúc ấy, tiếng còi lúc nãy lại rúc lên hai lần. Tôi hiểu ngay là tiếng còi hiệu báo nguy của đồng đảng chúng. Tôi nghe lão Piu hét lớn:

- Còi mặc còi! Chúng bay chỉ là đồ ăn hại, đồ chó má! Cứ sục tìm chúng nó đi.

Nhưng bọn chúng vẫn ngần ngại. Lão mù lại chửi rầm lên:

- Lũ bay là đồ khốn kiếp! Của để trước miệng mà còn chần chừ! Chuyến này mà hỏng việc là tại chúng mày cả.

Một đứa trong bọn lên tiếng:

- Piu ơi! Đừng rống lên nữa! Cứ cầm lấy một ít tiền vàng đây mà xài!

Nghe  thế,  lão  mù  bỗng  hằm  hằm  tức  giận,  vung  gậy  đập chan chát vào bọn kia. Bọn chúng cũng chửi rủa lại. Nhờ trận ẩu

đả ấy, chúng tôi thoát nạn. Giữa khi ấy có tiếng ngựa phi dồn dập

ở đỉnh gò, rồi tiếp theo một tiếng súng nổ cạnh đấy. Có lẽ đó là

tiếng báo hiệu nguy nhất, vì tôi thấy bọn giặc vụt chạy tán loạn,

bỏ trơ lão mù lại một mình. Lão ta vung gậy quờ quạng, vừa chạy vừa kêu gọi bọn kia. Nhưng tiếng vó ngựa đã nện trên đỉnh gò và

phi xuống dưới ánh trăng. Lão mù bỗng như điên dại, chạy đâm thẳng ngay vào chân con ngựa đầu đàn đang phi tới. Lão chỉ kịp

kêu lên một tiếng. Bốn vó ngựa xéo lên mình lão, hất lão nằm úp

sấp mặt xuống đất. Tôi nhảy ra và nhận ra ngay những nhân viên

thuế quan đương kéo đến. Nhưng tất cả bọn giặc đã cao chạy xa bay. Thằng Piu thì đã chết thẳng cẳng. Mẹ tôi cũng đã tỉnh lại. Viên thanh tra hỏi tôi bọn chúng định cướp gì trong nhà. Tôi thuật

lại câu chuyện và nói:

- Tôi chắc không phải chúng kiếm tiền mà chính là chúng muốn tìm cái vật tôi đang giữ đây. Bây giờ tôi muốn trao cái này

lại cho bác sĩ Ly...

Viên thanh tra gật đầu tán thành ngay và chúng tôi cùng lên ngựa, đi nước kiệu về thẳng nhà bác sĩ Ly.

CHƯƠNG 6

GIẤY TỜ CỦA VIÊN CHÚA TÀU

Lúc chúng tôi đến nơi thì người đầy tớ gái cho biết bác sĩ đã xuống chơi với nhà quý tộc Chi-lô-nây và ngủ đêm ở đấy. Bác sĩ và ông Chi là hai người bạn thân tình. Theo lời bác sĩ thì ông Chi là một người hào hiệp, giàu lòng bác ái, hay cứu khốn phò nguy. Ông

ta chỉ thích đi săn và làm việc nghĩa. Đã có lần ông cho gọi tôi đến, hỏi han về sự học hành và xoa đầu tôi, bảo:

- Cháu là đứa trẻ thông minh. Cháu nên gắng học để sau này thành người có ích cho nước nhà.

Tôi  còn  nhớ  lần  ấy  ông  bảo  mang  lên  cho  tôi  một  đĩa  thịt chim và bắt tôi ăn cho kỳ hết mới nghe. Tuy đối với ông, tôi không thân bằng bác sĩ Ly, nhưng lòng tôi vẫn kính phục ông hết sức. Khi chúng tôi đến thì thấy hai ông đang ngồi hút thuốc lá cạnh lò sưởi.  Lần  này  tôi  mới  nhìn  được  ông Chi  rõ hơn.  Ông người cao lớn, nét mặt hiền từ nhưng cương nghị, lông mày đen sẫm, khi giương lên, khi cau lại, tỏ ra người nhanh trí và hơi kiêu kỳ. Ông ngồi  nghe  viên  thanh  tra  thương  chính  thuật  chuyện  một  cách thích thú. Thỉnh thoảng ông lại nhìn tôi, nửa như khen ngợi, nửa như khuyến khích. Khi viên thanh tra ra về, bác sĩ Ly đứng dậy

hỏi tôi:

- Cậu Dim, cái vật chúng muốn tìm là cái gì?

- Thưa ông, đây...

Tôi vừa nói vừa đưa cái gói bọc vải sơn dầu cho bác sĩ. Bác sĩ ngắm nghía, hình như muốn mở nhưng lại thôi. Ông Chi hỏi tôi:

- Chắc cậu đói lắm, phải không?

Không đợi tôi trả lời, ông đã gọi mang thức ăn ra. Lần này cũng lại một đĩa thịt chim ướp. Tôi đang đói bụng, ăn rất ngon lành.

Bác sĩ Ly đương ngồi trầm ngâm, tay mân mê cái gói vải sơn

dầu, bỗng ông hỏi ông Chi:

- Này, chắc ngài đã nghe nói đến tên Phơ-linh? Ông Chi đáp thực to:

- Lão Phơ-linh là tay trùm cướp khét tiếng, ai mà không biết! Bác sĩ Ly lại hỏi:

- Thế lão ấy có nhiều tiền của không?

Ông Chi lại nói to:

- Làm giặc, chả giết người kiếm tiền thì còn kiếm gì? Số tiền

lão kiếm được suốt một đời làm giặc cũng đủ cất một kho của lớn.

Dừng một lát, bác sĩ Ly lại hỏi:

- Giá thử trong cái gói này đây có đủ giấy má để tìm nơi lão

Phơ-linh giấu của, thì ngài định liệu thế nào?

- Thì chúng ta sẽ sửa soạn một chiếc tàu, đi lấy về thôi. Bác sĩ nói:

- Thôi được! Xin mời cậu Dim lại đây!

Khi tôi đến gần, bác sĩ đặt cái gói lên bàn rồi trịnh trọng nói:

- Cậu là người có công lấy được vật này. Nếu cậu ưng thuận, chúng ta sẽ cùng mở ra xem.

Không nói thì các bạn cũng biết, tôi đã vui vẻ gật đầu. Trong

gói có hai thứ: một quyển sổ của tên Piu ghi tiền cướp được, và một phong bì niêm kín, có dấu đóng. Thấy quyển sổ không có gì quan trọng, bác sĩ Ly liền mở đến phong bì. Trong đó có bản đồ một cái

đảo, có chia cả kinh tuyến, vĩ tuyến, các chỗ sâu, chỗ nông, tên núi,

tên bến, tên lạch và nơi đỗ tàu chắc chắn. Cái đảo chiều dài chín

dặm, ngang năm dặm, trông hình dáng như con rồng uốn. Đảo có

hai  bến  rất  kín,  ở giữa  có cái  gò tên  là Vọng  Viễn, có ghi nhiều dấu, có dấu mới ghi thêm. Tính ra thì có ba dấu chữ thập đỏ, hai ở phía bắc đảo và một về phía tây nam. Gần dấu này có mấy chữ

viết mực đỏ rất rõ:

“Phần chính kho của là ở nơi này". Đằng sau, có chú thêm, chữ cùng do một người viết:

“Cây to. Đồi con, gò Vọng Viễn, mũi đất về phía B.B.Đ. "Đảo Hình Người Đ.Đ.N. "Mười mét..." Rồi một số dòng chữ chú thích nữa, dưới ký: “P."

Tuy vắn tắt và khó hiểu như vậy, nhưng trông mặt hai ông rạng rỡ vui mừng. Bác sĩ kêu lên:

- Một kho của lớn sắp về tay chúng ta.

Từ lúc xem xong bản đồ, nét mặt ông Chi vốn trầm lặng bỗng

giờ đây mắt sáng long lanh, ông đứng lên nói một cách say sưa:

- Tôi thì tôi nghĩ một kho của phi nghĩa sắp trở thành một kho của có ý nghĩa. Một kho vàng nằm im vô dụng, giờ đây sắp được đem lên để làm sáng bao nhiêu khuôn mặt khổ nghèo.

Bác sĩ Ly gật gật đầu ra vẻ đồng tình, rồi vừa cười vừa nói:

- Thôi tha hồ ngài được toại nguyện bình sinh. Ngài có thể cứu tế cho trẻ mồ côi ba quận, chứ đừng nói một quận nhỏ bé này.

Ông Chi tiếp lời ngay:

- Còn ông, ông cũng tha hồ mở nhiều nhà thương làm phúc... Chợt bác sĩ quay lại phía tôi:

- Còn cậu Dim! Cậu là người có công đầu trong việc này, ý cậu thế nào? Cậu có đi với chúng tôi không?

Tôi lúng túng một lúc lâu rồi ấp úng trả lời:

- Tôi xin đi theo...

Bác sĩ Ly lại quay sang nói với ông Chi:

- Việc này rất hệ trọng, có thể nguy hiểm đến tính mạng như chơi, vì giấy tờ này không phải chỉ riêng chúng ta biết...

Ông Chi khảng khái đáp:

- Dù có phải nguy hiểm đến tính mạng tôi cũng không ân hận gì vì chúng ta đang làm một việc nghĩa...

Bác sĩ ngắt lời:

- Vì thế, tôi chỉ lo một người có thể làm lộ công việc. Ông Chi nói to:

- Kẻ ấy là ai, ông thử nói tên nó ra? Bác sĩ đáp:

- Chính ngài chứ ai nữa! Vì ngài hay bộp chộp. Ông Chi im lặng rồi nói khẽ:

- Ngài nói chí lý. Tôi xin giữ kín việc này.

CHƯƠNG 7

TÊN BẾP TÀU

Cuộc chuẩn bị vẫn kéo dài. Bác sĩ Ly và ông Chi đều đi lo công việc. Chỉ còn tôi ở lại nhà với lão Ri- đrus. Suốt ngày, tôi ngồi tưởng tượng đến tương lai với lòng chứa chan những ước mơ đẹp

đẽ. Khi thì tôi nghĩ đến những nhà thương đồ sộ mà bất kể nghèo

giàu, hễ ai vào đấy là đều được săn sóc chu đáo, không phải trả

một đồng xu nhỏ. Cái cảnh vì thiếu tiền thuốc mà phải chết dần chết mòn như cha tôi sẽ không còn nữa. Khi thì tôi tưởng tượng đến sự mừng rỡ của những đứa trẻ mồ côi nghèo đói được nuôi

dưỡng ăn học như con nhà giàu. Có những cảnh làm tôi xúc động đến  rớm  nước  mắt.  Có lúc  tôi  lại  say sưa mơ tưởng về biển: nào phong cảnh tuyệt vời của đảo, nào những thứ hoa thơm cỏ lạ, nào những chuyện phiêu lưu thần kỳ. Tôi ngồi hình dung lại bản đồ, nhớ các chỗ từng ly từng tí. Rồi một hôm, có phong thư của ông Chi gửi về báo tin công việc đã sắp đặt xong, bảo lão Ri và tôi thu xếp đến ngay và nhắn cả bác sĩ Ly tới gấp. Trong thư có nói rõ là ông đã tìm được một viên thuyền trưởng rất thạo nghề, chỉ phải

cái hay bẳn tính, và một thủy thủ cụt một chân tên là Xin-ve rất vừa ý. Người thủy thủ cụt chân này sẽ giữ chân đầu bếp dưới tàu.

Sáng hôm sau, lão Ri và tôi lên đường đi Brít- tôn. Tôi ghé lại nhà,

từ biệt mẹ tôi. Nhà cửa đã được ông Chi cho sửa sang lại và thuê

cho một người phụ việc, nên ra đi, tôi cũng yên lòng. Chiều hôm ấy chúng tôi lên xe ngựa. Sáng hôm sau, khi choàng mắt dậy đã thấy đến Brít- tôn. Chúng tôi phải đi bộ đến quán trọ đầu bến tàu, nơi

ông  Chi  ở tạm.  Khi đi qua bến, tôi được nhìn tận mắt rất nhiều tàu, đủ các cỡ, đủ các kiểu, thuộc đủ các nước. Trên tàu, thủy thủ vừa làm vừa hát. Trên một chiếc khác, nhiều người đánh đu trên ngọn cột buồm cao tít, bám vào sợi dây trông nhỏ như mạng nhện.

Tôi sống suốt đời gần biển mà chưa bao giờ có cái cảm giác được

gần biển như lần này. Tôi thấy nhiều tay thủy thủ già đeo khuyên

ở tai, râu mép xoắn tít, đuôi tóc sơn thõng xuống như đuôi cá. Tất

cả đối với tôi đều mới lạ, cả đến cái mùi nước mặn và mùi hắc ín.

Thế mà tôi lại sắp sửa được đánh bạn với họ, đi tìm một kho của ở

một hòn đảo xa lạ, đem về giúp đỡ cho bà con nghèo. Đương nghĩ

lan man thì tôi đã thấy ông Chi đứng ở cửa. Trông thấy tôi, ông bảo:

- Kìa cậu! Bác sĩ Ly cũng đã tới rồi. Thế là đủ mặt. Ngày mai

ta nhổ neo.

Nói xong, ông bảo tôi đưa thư đến cho Xin-ve ở quán rượu của  hắn.  Khi  tôi  đến  nơi  thì  cửa  hàng  đương  đông  nghịt  khách, phần nhiều là thủy thủ. Tôi còn đứng phân vân thì một người ở nhà trong đi ra. Thọat trông, tôi cũng biết ngay là Xin-ve. Chân trái hắn cụt đến gần háng, hắn phải cặp nạng mà đi lại, nhanh thoăn thoắt như con thoi. Hắn to lớn, lực lưỡng, nước da xám xịt, mặt mũi xấu xí nhưng trông tươi và linh lợi. Hắn tỏ ra vui tính. Hắn đi hết bàn nọ đến bàn kia, miệng huýt sáo, thỉnh thoảng lại

vỗ vai và bông đùa vài câu với những người khách thân. Thú thực

với các bạn, từ lúc đọc bức thư của ông Chi, tôi vẫn chột dạ, chỉ lo

tên cụt chân ấy lại chính là tên thủy thủ tôi đã rình ở quán cơm

nhà. Nhưng nhìn qua anh chủ quán đứng đắn và dễ có cảm tình này, tôi đủ yên bụng. Khi thấy tôi chìa bức thư của ông Chi ra, hình như hắn hơi giật mình.

- Chao ôi! Cậu là bạn đi tàu của tôi mà. Được biết cậu thật là mừng.

Nói xong, hắn bắt chặt tay tôi. Ngay lúc ấy, một người khách ngồi ở góc phòng thốt đứng dậy, bỏ ra. Thoáng nhìn, tôi đã nhận ra

tên giặc cụt hai ngón tay. Tôi vội kêu to:

- Hắc Cẩu! Bắt lấy nó! Xin-ve cũng quát to:

- Hắn chưa giả tiền... Ha-ri, tóm lấy nó!

Một người ngồi gần cửa đứng phắt dậy đuổi theo. Xin-ve lại

nói:

- Ngay đến ông hoàng vào đây uống rượu cũng phải giả tiền!

Hắn là ai thế cậu?

- Thưa ông, hắn là một tên giặc biển.

- Thế à? Mo-gan! Lại đây, anh vừa chén với nó phải không! Một tên thủy thủ già, tóc hoa râm, ngượng ngập bước đến. Xin-ve

hỏi tiếp, giọng khắc nghiệt:

- Này Mo-gan! Trước kia, anh chưa gặp hắn lần nào đấy chứ?

- Thưa ông, không! Xin-ve nói to:

- Phúc đời nhà anh đó! Nếu anh đã chơi với hạng người như thế thì anh đừng vác mặt đến quán tôi nữa!

Xong hắn quay lại nói riêng với tôi, bộ thân mật, làm tôi đến thích:

- Lão này thật thà như đếm. Chỉ phải cái tội hơi ngốc. Rồi hắn lại nói to:

- Hắc Cẩu! Chịu! Ờ, ờ! Hình như tôi có gặp đâu một lần, hắn

đi với một lão mù thì phải?

Tôi nói:

- Chính phải rồi, lão mù tên là Piu...

- Phải, phải, Piu!

Hắn nói coi bộ hớn hở.

- Ờ! Bộ nó trông rõ ra thằng đại bợm! Được! Lần này tóm được là tôi sẽ dìm nó xuống bến cho nó cạch đến già!

Vừa nói hắn vừa đấm bàn, nét mặt giận dữ, làm ai cũng phải

tin là thật. Lúc đầu thấy thằng Hắc Cẩu ở đây, tôi đã đâm nghi

Xin-ve, nhưng khi thấy tên đuổi theo hổn hển trở về tay không,

hắn chửi mắng vung lên, tôi lại cho hắn là người ngay thẳng. Hắn nói với tôi:

- Cậu xem đó, việc này tôi thật là bứt rứt. Rồi đây tôi biết ăn

nói thế nào với ông Chi? Thôi, nhờ cậu nói rõ cho ông ấy biết... Cậu

ít tuổi, nhưng cậu là người thông minh, tất cậu đã hiểu cho tôi.

Giá không vướng cái nạng này, tôi đã chạy bay tóm cổ nó về. Bây

giờ thì...

Nói đến đây, mắt hắn rầu rầu.

- Nhưng thôi, chúng ta cứ đến ông Chi trình cho ông biết.

Nói xong, hắn kéo tôi đi. Vừa đi, hắn vừa vui vẻ giảng giải cho tôi nghe về tàu bè, về đồ phụ tùng, về trọng tải, về tàu nước nọ nước kia. Thấy thế tôi cho hắn là một người bạn đi biển rất tốt. Khi chúng tôi đến nhà thì thấy bác sĩ Ly và ông Chi đương ngồi

uống bia. Hắn kể lại chuyện vừa xảy ra từ đầu đến cuối, không

thêm bớt một chút nào. Thỉnh thoảng hắn lại hỏi:

“Có phải thế không, cậu Dim?". Tôi cũng chỉ đành gật đầu. Nói xong hắn xin phép ra về. Ông Ly nhìn theo hắn, bảo:

- Tôi rất thích tên đầu bếp này. Ông Chi bảo:

- Tôi được một người giúp việc tận tâm như thế kể cũng may phúc. Chính hắn đã mộ cho tôi gần hết những thủy thủ trên tàu. Nói xong, ông rủ bác sĩ và tôi cùng đi xuống xem tàu.

CHƯƠNG 8

VẤN ĐỀ KHÍ GIỚI VÀ THUỐC SÚNG

Khi ba chúng tôi đến nơi thì viên phó thuyền ra đón. Xem ý ông Chi thì hình như ông đối với hắn thân hơn với viên thuyền trưởng. Ông này trông tướng người nghiêm khắc. Hình như trước mọi  việc  xếp  đặt  trên,  ông  đều  nhăn  nhó  không  hài  lòng.  Khi chúng tôi vừa bước vào phòng, ông nói ngay:

-  Thưa  ngài,  dù  có  mếch  lòng  ngài,  tôi  nghĩ  cũng  nên  nói thẳng là hơn. Tôi không yên tâm đối với cuộc đi này, tôi không ưa bọn thủy thủ ở đây, cả viên phó thuyền nữa.

Ông Chi đáp lại ra vẻ phật ý:

- Sao ông không nói không ưa luôn cả chiếc tàu này và cả chủ

nó?

Đến đây, bác sĩ Ly nói chen vào:

- Ấy khoan! Đừng nói thế, chẳng ích gì đâu! Bây giờ tôi xin

ông thuyền trưởng hãy nói rõ lý do vì sao ông không ưa cuộc đi này?

- Tôi đã nhận lời một cách bí mật, đảm nhiệm đưa chiếc tàu này đến nơi ngài định. Nhưng bây giờ tôi xét thấy mọi người trên tàu  đều  biết  rõ chuyện  ấy  hơn  tôi. Theo ý tôi, như thế là không xong!

- Ý tôi cũng vậy, như thế là không ổn. Bác sĩ nói.

- Sau nữa, tôi nghe người ta nói chúng ta đi tìm của. Mà ai nói? Chính miệng những người trên tàu nói! Đi tìm của là một việc

rất nguy hiểm. Đó là một vấn đề sinh tử.

- Điều ông nói, tôi xin nhận là đúng. Còn việc ông bảo ông không ưa bọn họ tí nào...

- Giá để tôi chọn, có lẽ lại hơn.

-  Ông  nói  có  lý.  Nhưng  vì  lẽ  gì  ông  không  ưa  cả  viên  phó

thuyền?

- Vì hắn ta tính lè nhè, hay đánh chén với bọn thủy thủ. Hắn không thể làm một viên phó thuyền đứng đắn được.

- Thế ông muốn thế nào, ông cứ nói thẳng đi.

- Bây giờ tôi muốn các ông xét lại việc này. Họ để khí giới và thuốc súng ở đầu mũi. Các ông có phòng kín đáo ở trong tàu, sao không để vào đấy? Đó là việc thứ nhất. Các ông có đem theo bốn

gia nhân thân tín, sao họ sắp xếp ở đằng mũi xa tít mà không để ở cạnh các ông? Đó là việc thứ hai. Còn một việc này: họ nói rằng các ông có một bản đồ chỉ nơi giấu của. Rồi ông nói về những dấu chữ thập trên bản đồ, cả các đường kinh tuyến, vĩ tuyến...

Bác sĩ Ly mỉm cười bảo:

- Cũng nên lo! Nhưng đừng nên lo quá xa. Đừng để con chuột

đẻ ra quả núi. Có nguy hiểm một tí cũng không sao, phải cứng rắn lên mới hay.

Lúc này ông Chi mới lên tiếng một cách miễn cưỡng:

- Thôi được, chúng tôi xin chiều theo ý ông, tùy ông bố trí xếp đặt lại trên tàu.

Khi viên thuyền trưởng cáo từ lui ra, bác sĩ bảo:

- Ông Chi này! Bây giờ tôi đã thấy là ông có được hai người giúp việc trung thành: lão này và gã Xin-ve đấy.

- Xin-ve thì được chứ thằng cha này thì chưa chắc! Bác sĩ nói:

- Để xem rồi mới biết.

Khi chúng tôi lên boong thì các thủy thủ đương khuân khí giới và thuốc súng theo sự chỉ dẫn của thuyền trưởng. Thật là một

sự thay đổi lớn trên tàu. Cách xếp đặt lại này rất hợp ý tôi. Giữa

lúc  ấy,  gã Xin-ve đáp thuyền đến. Hắn trèo lên tàu nhanh nhẹn

như vượn. Khi hắn thấy khuân dọn, hắn kêu to:

- A kìa! Làm gì thế người anh em? Một người nói:

- Chúng tôi phải khuân cả vũ khí đi nơi khác đây. Hắn lại kêu to:

- Rõ khổ! Đến nhỡ mất con nước buổi sáng thôi.

Viên thuyền trưởng lạnh lùng bảo:

- Đó là lệnh của tôi. Anh cứ xuống bếp mà làm việc.

- Vâng, vâng! Tôi đi đây! Tên đầu bếp vừa nói vừa chào qua loa rồi biến mất vào trong.

CHƯƠNG 9

ĐI BIỂN

Cả đêm bận rộn thu dọn, tôi mệt lả. Nhưng khi gần sáng, lúc sắp nhổ neo, tôi vẫn cố đứng trên boong. Điều gì với tôi cũng mới

lạ: từ tiếng còi rúc, tiếng lệnh truyền, đến những chấm đèn ló chạy

đi chạy lại. Một thủy thủ bảo:

- Bác bếp hát cho nghe một bài nào! Một tên khác nhắc:

- Bài hát cổ ấy!

- Được, được! Không phải nhắc!

Gã Xin-ve nói xong, cất giọng hát cái bài hát man rợ mà tôi nghe đã chán ngấy: Mười lăm thằng trên hòm người chết, ỳ a, ỳ

a... Đến tiếng "ỳ a" cuối cùng, cả bọn đều xô nhau đẩy trục. Trước cảnh ấy, tôi bồi hồi nhớ đến quán cơm nhà. Tôi tưởng như viên

chúa tàu khi xưa đang hét vang. Khi chiếc neo ướt đẫm đã treo

lủng lẳng đằng trước mũi, tàu bắt đầu giương buồm. Hai bên bến

lùi dần, tàu bắt đầu ra khơi đi tìm hòn đảo giấu vàng. Chuyến đi bình yên vô sự. Tàu tốt, thủy thủ thạo nghề, viên thuyền trưởng tỏ

ra  một  tay  cừ.  Nhưng  trước  khi  đến  đảo,  đã  xảy  ra  vài  chuyện đáng kể. Trước tiên là viên phó thuyền tỏ ra rất bậy bạ.  Ông ta

không có một chút uy tín trong đám thủy thủ. Tàu chạy được vài

ngày, ông trèo lên boong, rượu say bí tỉ. Chúng tôi 45 46 không

hiểu  ông  mò  đâu  ra  rượu.  Đó  là  điều bí mật. Và đã xảy ra việc này...

Một  đêm  sóng  to  gió  lớn,  ông  ta  đã  biến  mất  xuống  biển. Chẳng  ai  lạ  mà  cũng  chẳng  ai  thương  tiếc.  Trên  tàu  thành  ra thiếu một viên phó thuyền. Phải thăng chức phó thuyền cho một thủy thủ giỏi hơn cả tên là An-đe-sơn. Thêm có ông Chi đã từng đi biển nên cũng phụ vào. Lại còn một lão thủy thủ già tên là Han, một người mưu trí mà lịch lãm, có thể trông cậy được. Han là bạn thân  của  gã  Xin-ve.  Còn  gã Xin-ve  thì vẫn chống đầu nạng vào

nách, theo nhịp tàu lắc lư, đứng nấu ăn như đứng trên đất bằng.

Hắn chỉ dùng cái băng choàng qua cổ, đưa nạng qua lại đi thoăn

thoắt như người thường. Tất cả thủy thủ đều kính trọng hắn. Hắn

đối xử với mỗi người một cách và tỏ ra rất tốt bụng. Hắn giữ bếp

rất sạch, đĩa treo bóng nhoáng. Con vẹt trong lồng để vào một xó.

Đối với tôi, hắn hết sức tử tế. Thấy mặt tôi, hắn đã đon đả:

- Cậu Dim, lại đây! Chuyện gẫu với nhau một chút nào. Ngồi xuống đây. Tôi gọi con vẹt của tôi là Phơ-linh, tên cái lão hải tặc lừng tiếng ấy. Cậu xem Phơ-linh sắp nói chuyện với ta đấy! Gã vừa dứt lời, con vẹt liền nói liến thoắng:

- Đồng ăn tám! Đồng ăn tám!

- Thôi im đi!

Gã vừa nói vừa lấy đường trong túi cho chim ăn.

- Cậu ạ, con chim này nó thấy vô khối chuyện lạ. Nó học được câu ấy trong lúc người ta chia tiền.

Con vẹt vừa ăn đường vừa mổ vào lồng, vừa thề vừa rủa rất đanh ác. Gã lại bảo:

- Con chim già vô tội này cứ nguyền rủa như người vô đạo. Lạy Chúa!

Nói xong, gã đưa tay ra như làm dấu, khiến tôi tưởng gã là một người đạo đức không ai bằng. Trong khi đi đường, viên thuyền trưởng và ông Chi vẫn không ưa nhau ra mặt. Ông Chi rất chiều chuộng thủy thủ. Hễ có cuộc vui gì là cả bọn đều được uống nước chanh pha rượu mạnh. Có khi ông cho họ uống cả "rum". Biết được ngày sinh nhật một người nào đó, ông liền mở ngay một thùng trái

lê ở hầm tàu, ai ăn bao nhiêu tùy thích. Thấy thế, viên thuyền trưởng bảo bác sĩ:

- Làm như vậy chẳng hay ho gì, chỉ tổ làm cho họ hư!

Nhưng cái thùng lê này rất được việc cho chúng tôi. Các bạn

sẽ thấy có lẽ nhờ nó mà chúng tôi thoát chết. Số là ngày ấy tàu đã gần tới đích. Chậm lắm là sáng hôm sau đã trông thấy được đảo. Chiều hôm ấy, làm xong việc, tôi bỗng thấy thèm ăn lê. Tôi chạy

lên  boong.  Mọi  người  đều  đứng  đằng  mũi  ngóng  về  phía  đảo. Chung quanh không một tiếng động ngoài tiếng sóng vỗ mạn tàu

và tiếng anh chàng bẻ lái đương huýt sáo. Tôi chui tọt vào thùng

lê, nhưng sờ mãi không còn một quả. Ngồi trong thùng tối om, tàu

đưa lúc lắc, tôi thấy thu thú. Chợt có người ngồi phịch xuống cạnh

thùng.  Chiếc  thùng  lay  chuyển,  hình  như  có  người  tựa  vào.  Tôi

định bò ra thì liền nghe tiếng hắn nói với một người nào đó. Tôi nhận ngay ra tiếng của gã Xin-ve. Mới nghe vài ba câu đầu, tôi đã nhận  thấy  ngay  không  phải  câu  chuyện  thường...  Tôi  nằm  thu

mình trong thùng lắng nghe, phần sợ chúng biết, phần tò mò kích thích. Vì chỉ qua vài ba câu đầu ấy tôi đã hiểu rằng giờ đây tất cả

số phận của những người lương thiện trên tàu, tất cả hoài bão của chúng tôi đều trông vào tôi cả.

CHƯƠNG 10

NHỮNG ĐIỀU TÔI NGHE ĐƯỢC KHI NẤP TRONG THÙNG LÊ

Tiếng gã Xin-ve nói:

- Tôi mất cái chân này là khi tôi làm đầu mục cho lão Phơ- linh. Người cưa chân cho tôi là một tay mổ xẻ rất giỏi. Hắn học rộng,  biết  nhiều  chữ  la-tinh.  Nhưng  rút  cục  rồi  cũng  phải  phơi thây hắn ra ngoài nắng. Trước kia tôi đi với Phơ-linh, bây giờ thì

tôi đi riêng cho tôi. Thủ hạ cũ của Phơ-linh phần nhiều hiện ở trên tàu  này.  Làm  nghề  này  được  tiền  nhiều  nhưng  phải  biết  dành dụm. Cứ trông cái gương lão Piu. Hắn ăn tiêu như phá đến nỗi

phải đi ăn xin rồi phải chết dưới gầm cầu.

- Phải! Tiền ấy rút cục cũng chẳng dùng được việc gì. Một tiếng nói khác, nghe ra tiếng gã thủy thủ trẻ nhất trên tàu. Tiếng Xin-ve nói to:

- Chỉ thằng ngốc mới không được việc gì. Anh còn trẻ người nhưng anh rất thông minh, tôi vẫn coi anh như người già dặn nên mới ngỏ lời với anh... Các bạn thừa biết khi tôi nghe cái thằng giặc

già đểu cáng ấy nói với kẻ khác cũng dùng những giọng lưỡi như

đã nói với tôi thì tôi tức giận đến thế nào. Hắn lại nói tiếp:

-  Anh  xem  đó,  bọn  giang  hồ  mình  phải  gian  nan  nhiều, nhưng tiền cũng lắm. Khắp các nhà "băng" tôi đều có tiền gửi. Bây

giờ  tôi  cũng  đã  năm  mươi  tuổi  đầu  rồi  chớ  ít  ỏi  gì.  Tôi  định  đi chuyến này về là tìm nơi an cư lạc nghiệp, tận hưởng giàu sang.

Nhưng lúc đầu thì tôi cũng chỉ là tên thủy thủ thường như anh

thôi! Giọng tên kia có vẻ thán phục:

- Anh thật là một tay cừ khôi. Thế xong việc thì làm thế nào anh về được Brít-tôn? Gã Xin-ve cười khà khà:

- Đợi anh phải hỏi! Hiện giờ thì vợ tôi đã lấy tiền ở nhà băng,

đã bán sạch nhà cửa và đương trên đường đi theo tôi. Rồi giọng gã nói có vẻ mơn trớn, ân cần:

- Chỗ bạn giang hồ với nhau, tôi nói thật! Khi tôi còn làm

đầu  mục  dưới  trướng  lão  Phơ-linh, thì trong bọn với nhau cũng

chẳng tốt lành gì. Bây giờ dưới trướng tôi, anh có thể vững bụng được.

Tên thủy thủ trẻ nói:

- Tôi cũng thú thật, trước khi gặp anh, tôi chẳng ưa gì việc này, nhưng bây giờ anh có thể tin ở tôi được.

- Anh rõ là một gã thông minh có tâm huyết. Trong bọn tôi ít

có người như anh.

Xin-ve vừa nói vừa siết chặt tay tên kia làm rung chuyển cả thùng lê. Bây giờ tôi mới hiểu là hắn đương quyến rũ một người thủy thủ lương thiện. Hắn huýt khẽ một tiếng. Một người khác bước vào. Hắn lên tiếng:

- Đích khi nào cũng đúng hẹn.

Lại thêm một tiếng nói nữa, tôi nghe rõ giọng lão Han:

- Anh  Xin-ve,  tôi  chán  ngấy  cái  lão  thuyền  trưởng rồi. Lão không cho tôi lấy một hớp rượu. Anh còn đợi đến bao giờ mới hành

sự?

Xin-ve đáp:

- Đừng nóng mắt! Cứ làm theo lời tôi dặn. Bao giờ được thì tôi bảo.

Lão Han vừa khạc nhổ vừa càu nhàu:

- Bao giờ mới được chứ? Xin-ve nói to:

- Han! Cứ bao giờ, bao giờ mãi! Anh cũng thấy chứ? Lão quý

tộc với lão thầy thuốc cất giấu giấy tờ kho vàng ở đâu, có ma nào

biết! Còn thằng thuyền trưởng là tay đi biển thạo. Phải để cho bọn hắn lấy được của, tải hộ ta xuống tàu rồi mới khử chúng.

Đích hỏi:

- Dễ chừng chỉ có tên thuyền trưởng là đi biển thạo à? Xin-ve vội đáp:

-  Ừ,  các  bố  thạo  cho  tàu  chạy,  nhưng  chạy  về  đường  nào? Trong bọn ta ai là người thuộc đường? Các bố chắc chịu? Nếu làm theo ý tôi thì đợi lúc quay về, có gió nồm thì ta mới hạ thủ lão ấy.

Tôi biết các bố bây giờ chỉ háu ăn. Chính mắt tôi trông thấy nhiều

tay cừ khôi mà chết uổng mạng chỉ vì nóng ăn đấy.

Đích hỏi:

- Anh định khử họ như thế nào? Lão Han buột mồm:

- Chỉ có hai lối: một là bỏ họ lên đảo, hai là chặt họ ra từng

khúc.

sau.

Tên bếp tàu nói:

- Tôi ấy à? Tôi chỉ muốn tóm lấy lão Chi, vặn trái cổ lão ấy ra

Rồi hắn quay sang chuyện khác:

- Đích! Đi lại lấy một quả lê ăn cho đỡ khát.

Lúc ấy tôi chỉ muốn nhảy phóc một cái chạy nhoáng nhoàng

ra ngoài, nhưng may sao lão Han đã gạt đi:

- Thôi! Ăn lê làm quái gì! Lấy cốc "rum" cho nó đỡ nhạt mồm. Tên Xin-ve bảo:

- Đích! Cái chìa khóa đây. Anh đến chỗ thùng rượu mà lấy. Nhớ đừng quên khóa.

Tuy  run  sợ,  nhưng  tôi  vẫn  nhớ ngay  đến  viên  thuyền  phó. Ông ta đã bỏ mạng vì cái thìa khóa hầm rượu này. Khi tên Đích mang  rượu  đến  thì  một tia sáng rọi vào thùng chỗ tôi ngồi. Tôi ngẩng lên: trăng đã mọc lấp loáng trên đầu cột buồm sau và chiếu trắng cánh buồm. Ngay lúc ấy, nguời gác chòi kêu to:

- Đất liền kia rồi!

CHƯƠNG 11

HỘI ĐỒNG QUÂN SỰ

Mọi  người  rầm  rập  chạy  lên  boong.  Tôi  vội  chui  ra  khỏi thùng lê, lẩn sau cột buồm rồi đi vòng lại. Một dải sương mù đã

lên cao. Vừa lúc ấy vầng trăng cũng nhô lên. Xa xa về phía tây nam, hai cái gò thấp cách nhau chừng hai dặm; đằng sau một cái nữa cao hơn, đỉnh gò 53 54 còn khuất trong sương mù. Cả ba đều nhọn  như  hình  chóp  nón.  Tôi  nhìn  cảnh  ấy  như  trong  một  giấc chiêm bao. Tiếng ông thuyền trưởng hỏi:

- Có anh nào biết đảo này không? Gã Xin-ve lên tiếng ngay:

-  Có,  tôi  đã  đến  đó  khi  tôi  còn  làm  bếp  cho  một  chiếc  tàu buôn.

- Chỗ bỏ neo ở phía nam, sau cái đảo con phải không?

- Thưa ông phải. Người ta vẫn gọi đảo ấy là đảo Hình Người. Cái gò phía bắc gọi là gò Cột Cái. Còn cái gò lớn có mây phủ kia là

gò Vọng Viễn. Người ta gọi thế, vì ở trên ấy có thể trông xa trong khi thả neo để rửa tàu.

- Có bản đồ đây, anh xem thử có đúng không?

Khi cầm bản đồ, mắt Xin-ve long lanh, nhưng kịp trông màu giấy còn mới, gã phải thất vọng vì đó chỉ là bản sao lại. Tuy thất vọng, nhưng gã tinh khôn, không để lộ ra mặt. Gã bảo:

- Thưa ông! Chính phải! Vẽ khéo lắm!

Tôi rất lấy làm lạ về cử chỉ bình tĩnh của gã khi gã nhận có biết khu đảo. Thú thật lúc thấy gã lại gần tôi, tôi hơi rợn. Dĩ nhiên

là gã không biết tôi ngồi nấp trong thùng lê, nhưng tôi ghê sợ cái tính ác độc và cái sức mạnh đen tối của gã. Vì thế khi gã chạm đến

tay tôi, tôi rùng mình như chạm phải miệng rắn độc. Gã nói với tôi:

- Chà! Cái đảo này tuyệt đẹp! Trẻ tuổi như cậu mà lên chơi

đó thì thật sướng. Tha hồ mà trèo nhảy, thung thăng như con thỏ

rừng. Tôi được đến những chỗ này cũng thấy mình như trẻ ra. Khi nào có lên chơi thì bảo tôi, tôi có ít đồ ăn lót dạ cho cậu dùng.

Nói xong, hắn vỗ vai tôi rồi chống nạng đi xuống. Tôi thấy ông thuyền trưởng đứng nói chuyện với bác sĩ và ông Chi ở đằng

lái. Tôi không dám cắt đứt câu chuyện của ba ông. May sao bác sĩ

vừa thấy tôi đã vẫy lại, bảo tôi đi lấy cái tẩu thuốc. Đến gần, tôi

nói ngay:

- Tôi có nhiều chuyện cấp bách muốn báo với ba ông.

Nét mặt bác sĩ hơi khác, sau trở lại như thường. Ông nói to lên một cách tự nhiên:

- Cám ơn cậu Dim! Chỉ có thế!

Xong ông quay lại, chuyện trò với hai ông kia. Một chốc sau thuyền trưởng cho thổi còi tập hợp. Ông nói:

- Hỡi các bạn, chúng ta đã tới đích. Tất cả anh em đều làm tròn việc. Ông Chi có lòng tốt đem rượu cho anh em uống để mừng. Chúng tôi cũng sắp xuống phòng dưới uống với nhau vài cốc. Nếu

các anh đồng ý, chúng ta nên hoan hô cảm ơn ông Chi.

Mọi người đều hò reo vui vẻ. Ba ông xuống phòng. Lúc tôi bước vào thì ba người đương ngồi quanh bàn, trên có chai rượu và

vài chùm nho. Trông thấy tôi, ông Chi bảo ngay:

- Cậu Dim muốn nói gì, nói đi!

Tôi  vội  vàng  thụât  lại  những  lời  của  Xin-ve. Trong khi tôi nói, mọi người ngồi im phăng phắc, mắt dán vào tôi. Tôi nói xong, bác sĩ rót cho tôi một cốc rượu và giúi vào tay tôi rất nhiều nho. Cả

ba cùng nâng cốc uống mừng về sự quả cảm và nhanh trí của tôi. Uống xong, ông Chi nói trước:

-  Ông  thuyền  trưởng,  trước  nay  tôi  đối  với  ông  rất  không phải. Bây giờ tôi mới biết tôi lầm. Tôi quả là đồ ngốc.

- Tôi đây mới ngốc chứ! Cả một vụ âm mưu cướp tàu ở ngay dưới mắt tôi mà tôi không hề biết! Bây giờ thì tôi có mấy ý kiến xin phép tỏ bày...

- Vâng, ông cứ nói.

- Điều thứ nhất là chúng ta phải tiếp tục đi, vì nếu quay về

là lập tức chúng sẽ khởi loạn! Điều thứ hai là từ nay cho đến khi

tìm thấy của, ta còn có thời giờ chuẩn bị. Điều thứ ba là ta còn có những người trung thành. Bây giờ ta sẽ đợi cơ hội bất ngờ là hành động. Nếu ông thuận, tôi cứ việc cho tàu chạy nhưng sẽ bố trí đề

phòng!

Bác sĩ Ly nói:

- Cậu Dim có thể giúp ta được nhiều việc. Chúng không nghi cậu  mà cậu lại có óc nhận xét. Từ nay trở đi cậu nhớ luôn luôn theo sát lão Xin-ve.

Ông Chi nói thêm:

- Cậu Dim, cậu là một cậu bé rất gan dạ, chúng tôi hy vọng ở cậu nhiều.

Tôi nghe nói thế cũng thấy tự hào. Tôi mong có cơ hội là cố gắng làm theo lời dặn của bác sĩ Ly. Nhưng tự xét tôi cũng chẳng

tài cán gì, mà hiện nay, trong số bảy người của chúng tôi thì tôi lại

là một đứa trẻ! Như thế là chỉ có sáu người mà phải chống chọi với

mười chín tên lực lưỡng trong bọn chúng.

CHƯƠNG 12

BƯỚC CHÂN LÊN ĐẢO

Sáng hôm sau, đứng trên boong nhìn ra, tôi thấy cảnh tượng khu đảo khác hẳn. Những dãy núi phơn phớt màu xám chiếm gần

hết khu đảo. Lác đác có những dải cát vàng và những khóm thông cao. Tất cả một màu ảm đạm. Núi gò nhô hẳn lên phơi những tảng

đá trơ trụi. Cái nào cũng hình thù cổ quái. Gò Vọng Viễn là gò cao nhất trong đảo. Hình dáng nó cũng kỳ khôi, bốn bề dốc ngược, trên

đỉnh  như  bị  tiện  ngang,  trông  giống  cái  đế  một  pho  tượng.  Tàu

phải đi ngoắt ngoéo men theo đảo để đến cái lạch sau đảo Hình

Người. Neo vừa bỏ, một đàn chim đã bay vù lên, rồi cảnh vật trở

lại yên tĩnh. Chung quanh, rừng cây mọc um tùm. Bờ biển thấp,

những gò cao đằng xa trông từng bậc như bậc thang. Hai con sông

vẩn bùn chảy vào vũng ấy. Không một rẻo gió. Ngoài tiếng sóng vỗ

bờ cách xa nửa dặm, chẳng nghe tiếng gì khác nữa. Mùi thân cây

ruỗng thối và lá cây mục xông lên nồng nặc. Tôi thấy bác sĩ Ly cứ

khìn khịt mũi như người ngửi phải trứng thối...

Lúc  ấy  mặt  trời  nóng  bức.  Không  khí  trên  tàu  cũng  bừng bừng. Trong đám thủy thủ đã có nhiều dấu hiệu đáng lo ngại. Họ túm tụm với nhau từng đám, thầm thì to nhỏ. Mắt họ gườm gườm, mặt họ đầy sát khí. Việc nổi loạn đã rõ rệt. Nó bao phủ chúng tôi như cơn dông sắp đến. Tên Xin-ve có lẽ cũng nhận thấy thế nên hắn chạy lăng xăng cố lấy lời phải chăng khuyên nhủ mọi người. Lệnh vừa truyền, hắn đã xung phong làm trước. Có lúc hắn cố hát

to và bông đùa để làm khuây lãng nỗi uất ức của đồng bọn. Ông thuyền trưởng gặp riêng chúng tôi và bảo:

- Chúng ta bây giờ như ở vào cái thế của người cưỡi hổ. Nếu

tôi bắt họ tuân lệnh thì họ nổi xung ngay. Nếu im lặng, thì Xin-ve

tất sinh nghi. Bây giờ tôi định cho họ lên bờ nghỉ. Nếu họ đi, ta giữ

lấy  tàu.  Nhược  bằng  không  đi,  ta  giữ  lấy  mấy  gian  phòng  mà

chống cự. Nhưng muốn cho công việc được ổn thỏa, ta có thể trông

cậy vào một người.

Ông Chi hỏi ngay:

- Ai? Thuyền trưởng đáp:

- Thưa ông, Xin-ve! Chính hắn cũng muốn êm chuyện. Như

lời cậu Dim, hắn muốn đợi khi ta tìm xong của mới ra tay, nên hắn

có thể dàn xếp yên được.

Thế là kế hoạch bắt đầu được thực hiện. Những súng lục nạp đạn đều phân phối trong bọn chúng tôi. Những người thân tín như Hun-tơ,  Do-sơ,  lão  Ri  đều  được  biết  chuyện.  Họ  chẳng  hề  ngạc nhiên hay sợ sệt. Trái lại, họ tỏ ra rất bình tĩnh và gan dạ. Thật là một sự khích lệ. Ông thuyền trưởng lên boong tuyên bố cho phép thủy thủ lên bộ chơi. Trước khi mặt trời lặn sẽ bắn đại bác báo hiệu  về.  Nói  xong,  ông  bỏ  đi  xuống  để  cho  Xin-ve tự nhiên  trở thành người đứng ra chỉ huy công việc. Kết quả là có người ở lại và mười sáu người xuống thuyền đi chơi, trong đó có Xin-ve. Nhớ lời

bác sĩ Ly căn dặn là luôn luôn phải theo sát Xin-ve, tôi bỗng nảy

ra  ý định  xuống  thuyền  đi  theo  dõi Xin-ve. Tôi nghĩ rằng Xin-ve

chỉ để lại sáu người thì không thể chiếm tàu mà đi được. Tôi ở lại

tàu cũng bằng thừa. Cứ đi theo chúng xem sao. Thế là trong nháy mắt tôi lần xuống thuyền, ngồi thụp xuống. Kịp khi Xin-ve biết thì thuyền tôi đi trước đã cập bờ. Tôi nhảy tót lên lẩn vào bụi rậm, còn

nghe tiếng Xin-ve gọi với đằng sau:

“Dim, Dim!"

Lánh được Xin-ve, tôi khoan khoái lạ lùng. Cảnh lạ làm tôi

vui  mắt.  Rừng  ở  đây  liễu  mọc  chen  chúc,  lau  sậy  um  tùm.  Có những cây sên lùn tịt thấp lè tè như bụi rậm, cành xoắn lại, lá rậm sin sít như mạ xanh. Rắn bò lúc nhúc. Lần đầu trong đời, tôi

được nếm cái thú vị của người thám hiểm khi đặt bước lên miếng

đất hoang vu chưa có dấu chân người. Thốt nhiên, có tiếng động

trong khóm lau. Một con le, rồi cả đàn le bỗng bay vù lên, tiếng

kêu inh ỏi. Tiếp đó, tôi nghe rõ tiếng người. Tiếng ấy làm tôi hoảng

sợ vì tôi biết ngay là tiếng nói của gã Xin-ve. Tôi đã định bỏ chạy,

nhưng sau tôi nghĩ lại. Mình chưa làm tròn nhiệm vụ. Đã có gan

đi theo chúng, sao lại không có gan lại gần chúng để xem chúng làm gì? Thế là tôi bò lại chỗ có tiếng người, bò thật cẩn thận. Tôi thấy rõ Xin-ve và một người nữa trong bọn đang ngồi đối diện trên

bãi cỏ xanh. ánh nắng chiếu thẳng vào mặt hai người. Tiếng Xin-

ve đương nói:

- Có tin cậy anh lắm thì tôi mới cất công đến đây bảo với anh.

Giá phải người khác... anh thử nghĩ đối với họ tôi sẽ xử trí như thế

nào?

Người kia đáp lại, mặt đỏ gay, giọng khàn khàn, run run:

- Anh  Xin-ve! Tôi không ngờ anh lại đi theo bọn khốn nạn kia! Chẳng thà tôi chịu chặt tay còn hơn phải làm chuyện ấy.

Xin-ve bỗng chống nạng vụt đứng lên, đôi mắt ti hí sáng chói như mắt rắn độc rình mồi, hỏi gặng:

- Thế là anh nhất quyết không nhập bọn với tôi phải không? Người kia bỗng tức giận quát to:

- Xin-ve! Khi xưa anh là bạn của tôi. Từ nay tôi xin từ mặt anh ra. Nếu có giỏi, anh cứ giết tôi. Tôi thách anh đấy!

Nói xong, người kia bỏ đi. Xin-ve hét to một tiếng, nhấc cái nạng ở nách, nhặt một cành cây lao theo. Đầu cành cây trúng ngay giữa lưng người kia. Ông ta giơ hai tay lên, lảo đảo rồi ngã gục. Người đó chưa kịp nhỏm lên thì Xin-ve đã chạy lại, cưỡi lên, rút dao hạ thủ. Xong, con quỷ dữ ấy lại bình tĩnh đội mũ lên, chống nạng đi lững thững. Cảnh tượng xung quanh vẫn không thay đổi. Mặt trời vẫn thản nhiên chiếu xuống mặt hồ đương bốc hơi. Nhìn phong cảnh ấy, khó lòng mà tin rằng có một việc giết người rất tàn

ác vừa xảy ra. Tôi đưa tay xoa mắt, bàng hoàng cả người. Tôi bỗng muốn rời ngay, rời tức khắc cái nơi giết người gớm ghiếc này. Tôi

bò nhanh ra rừng rồi cắm đầu cắm cổ chạy.

CHƯƠNG 13

NGƯỜI TRONG ĐẢO

Đến  gần  một  cái  đầm,  tôi  đứng  dừng  lại.  Tôi  bỗng  thoáng thấy sau một gốc thông, có một vật gì nhảy nhanh lạ thường. Tôi

chỉ biết hình thù nó đen và lông lá. Sợ quá, tôi quay gót lui về phía tàu đỗ. Thoáng cái, cái bóng lúc nãy lại hiện ra, nó đi một vòng dài

rồi đến chặn ngang trước mặt tôi. Con quái vật ấy nhảy từ gốc cây

nọ qua gốc kia như một con nai. Hắn chạy hai chân như người. Mà quả là người thật. Tôi chợt nhớ có lần tôi đã nghe nói đến giống người ăn thịt người. Tôi định kêu cứu. Nhưng đã là người, thì chắc

cũng không đến nỗi như tên Xin-ve gớm ghiếc kia. Nghĩ thế tôi trở

lại  bình  tĩnh.  Vụt  nhớ  đến  khẩu  súng  lục  trong  mình,  tôi  đâm

vững dạ. Tôi quay về hắn, mạnh bạo tiến lại. Hắn cũng nhô ra,

bước lại phía tôi. Nhưng hắn hơi ngần ngại, lùi lại một lúc mới tiến lên. Rồi hắn bỗng quỳ xuống, giơ hai tay ra như van xin, làm

tôi vừa lạ lùng vừa bối rối. Tôi hỏi:

- Anh là ai?

- Tôi  là  Ben-gun. Tôi là kẻ khốn nạn đã ba năm nay chưa được gặp một người.

Tiếng hắn rè đặc như tiếng khóa gỉ. Mặt hắn trông cũng dễ

coi. Da hắn phơi nắng nên chỗ nào cũng cháy sém. Đôi mắt xanh

trên khuôn mặt đen mò. Hắn ăn mặc rách rưới lổ đổ như tổ ong.

Hắn  đính  vào  người  đủ  các  thứ  mảnh  buồm  cũ,  vải  sơn,  khuy đồng, dây rợ. Hắn đeo quanh mình một chiếc thắt lưng bằng da đã

cũ. Xem ra, trong bộ quần áo của hắn, thứ này còn lành lặn hơn cả. Tôi hỏi hắn:

- Anh ở đây đã ba năm rồi ư? Anh bị đắm tàu giạt vào đây phỏng?

- Không! Tôi bị đày. Người ta đày đọa tôi ở đây, tôi phải săn

dê, tìm quả, mò ốc hến để ăn. Này ông bạn ơi! Ông có miếng phó-

mát nào đấy không? Chắc không rồi! Lâu nay tôi chỉ mơ tưởng

được ăn miếng phó-mát. À quên! Tên anh là gì nhỉ?

- Dim!

- Dim, Dim!

Hắn nhắc lại, ra vẻ bằng lòng lắm.

- Anh Dim ạ! Nói ra thật xấu hổ. Anh trông tôi thế này, tất không đoán được tôi còn có mẹ già. Mẹ tôi là người ngoan đạo. Mà trước kia tôi cũng là đứa trẻ rất ngoan đạo. Tôi đọc kinh làu làu. Vậy mà bây giờ ra thế này. Thôi! Chính Chúa Trời đã phạt tôi ở đây. Ở trên hoang đảo này, tôi có thì giờ nghĩ kỹ rồi. Tôi sẽ tu tỉnh làm ăn...

Bỗng mặt hắn sa sầm, rồi hắn chỉ vào tôi và hỏi:

-  Anh  phải  nói  thật  cho  tôi  biết,  anh  có  phải  là  người  của

Phơ-linh không?

Tôi bỗng nảy ra một ý hay. Tôi chắc hắn có thể là một tay cộng tác tốt với chúng tôi. Tôi đáp:

- Tôi nói thật cho anh rõ: Phơ-linh chết rồi. Hiện chỉ còn mấy tên thủ hạ khốn nạn của lão ấy trên tàu chúng tôi thôi.

Hắn ấp úng hỏi:

- Thế có đứa nào cụt chân không? Tôi bảo:

- Xin-ve phải không?

Hắn nói như đuối hơi:

- Nếu Xin-ve sai anh lại đây thì tôi nguy mất.

Tôi thuật lại tất cả chuyện của chúng tôi cho hắn nghe. Mặt hắn tươi dần, rồi sau cùng hắn niềm nở vỗ vào vai tôi:

- Các anh đừng sợ. Xin các anh cứ tin cậy ở Ben này. Ben này

có thể giúp các anh gỡ chỗ bí. Nhưng không biết cái ông quý tộc

nhà anh có rộng lượng với kẻ này không?

Tôi bảo ông Chi là người rất hào hiệp và tôi cam đoan đảm bảo cho hắn. Hắn lại hỏi một cách láu lỉnh:

- Thế còn chuyến về? Tôi đáp:

- Anh nên nhớ ông ta là người lớn. Vả lại nếu trừ xong bọn

kia, chúng tôi cũng phải cần đến anh để cho tàu vào bến.

- À ra thế!

Nói xong, hắn có vẻ yên tâm hơn trước. Câu chuyện giữa Ben

và tôi dần dà làm tôi vỡ lẽ vì sao Ben lại sống ngoài đảo hoang vu

này. Chuyện đó như sau: Xưa kia Ben làm việc dưới tàu của lão Phơ-linh.  Một  hôm  Phơ-linh cho tàu chạy đến đảo này. Khi cập bến, lão bắt sáu tên thủ hạ đi chôn kho vàng của lão. Khi chôn

xong lão sợ bị tiết lộ, bèn giết hết sáu tên thủ hạ đó. Lúc đó Ben ở dưới tàu với Piu và Xin-ve. Piu lúc đó làm phó thuyền và Xin-ve làm đội trưởng. Ba năm sau, nhớ đến kho vàng, Ben cùng một số thủ  hạ  thuê  tàu  vượt  đến  đảo  này.  Họ  mưu  cùng  nhau tìm kho vàng của lão Phơ-linh để về làm giàu, nhưng tìm không ra. Bọn thủ hạ tức giận bỏ Ben lại đảo với một khẩu súng tay và một cái

thuổng. Ben nói:

- Anh cứ nói với nhà quý tộc rằng ba năm tôi ở đảo... cũng làm... ra trò đấy.

Nói đến đây, hắn béo tôi một cái ra ý thân mật. Tôi sốt ruột

bảo:

- Bây giờ làm thế nào anh giúp tôi xuống được tàu đây! Hắn nói:

- Kể cũng khó! À, tôi có một chiếc xuồng do tay tôi đóng lấy.

Tôi giấu nó dưới hốc đá trắng đầu kia... Kìa! Cái gì thế?

Thốt  nhiên  hắn  kêu  to  lên,  vì  lúc  ấy  mặt  trời  còn  cao  mà tiếng đại bác dưới tàu đã nổ vang làm rung động cả khu đảo.

- Đánh nhau rồi! Tôi cũng kêu to lên, rồi hấp tấp chạy về phía  tàu  đỗ.  Bên  cạnh  tôi,  Ben-gun khoác áo da dê bước nhanh thoăn thoắt. Một tiếng đại bác nữa. Một lúc lâu, có tiếng súng tay

nổ liên hồi. Trước mặt tôi, lá quốc kỳ phất phới trên một khu rừng. Ben-gun bỗng ngồi thụp xuống:

- Kìa! Bọn anh đã thắng rồi. Họ đã lên bờ chiếm cái khu đồn cũ của lão Phơ-linh kìa!

Tôi bảo:

- Thế thì phải đến ngay đấy mới được! Hắn nói:

- Không! Anh Dim ạ, anh tốt bụng nhưng anh còn ít tuổi.

Trước khi chưa gặp nhà quý tộc, tôi chưa đi với anh đến đó đâu.

Anh về nhớ nói cho người đến, mà phải mang theo cái gì làm tin.

Tôi hỏi:

- Nhưng gặp anh ở chỗ nào và vào lúc nào mới được chứ? Hắn đáp:

- Cứ đến chỗ cũ anh vừa gặp tôi, từ lúc mặt trời đứng bóng cho đến khi lặn, mà nhớ phải có cái gì làm tin đấy.

Hắn lại tiếp:

- Nếu bọn chúng mà lên đóng trên đảo thì thế nào tôi cũng tìm cách giết một vài tên để giúp bọn các anh và để các anh biết

lòng dạ ngay thật của tôi.

Hắn vừa nói đến đấy thì có một tiếng nổ dữ dội, rồi một viên đạn đại bác nổ oàng gần chỗ chúng tôi đứng. Hai chúng tôi mỗi người chạy một ngả.

CHƯƠNG 14

CỐ THỦ TRÊN ĐẢO

Kể từ lúc tôi đặt chân lên đảo, ở dưới tàu đã xảy ra nhiều chuyện. Sau đây là lời bác sĩ Ly thuật lại cho tôi nghe... Được tin

tôi đi lên đảo, bác sĩ Ly và đồng đội rất lo ngại cho số phận của tôi. Bác sĩ liền rủ Hun-tơ xuống một chiếc xuồng rồi vào bờ để dò la tình hình bọn cướp. Trong bờ có một dãy thuyền đỗ; có hai đứa ngồi trên hai chiếc thuyền hình như để canh giữ. Khi vào bờ, bác

sĩ chạy rón rén lại gần chỗ chúng buộc thuyền. Vừa đi chưa được

trăm  mét  đã  gặp  ngay  chiếc  lô cốt sừng sững trên một đỉnh gò.

Một dòng suối trong xanh chảy từ trên đỉnh xuống. Chiếc lô cốt này làm bằng gỗ rất kiên cố, có thể chứa được bốn mươi người. Bốn mặt đều có nhiều lỗ châu mai. Chung quanh lô cốt đã phát quang

một khu rộng. Ngoài ra lại có một hàng rào cao ngót hai mét. Nếu đóng cố thủ trong lô cốt thì rất yên trí: có thể bắn tỉa vào kẻ địch đến vây hãm như bắn gà rừng. Bác sĩ rất chú ý đến con suối, vì ở trên  tàu  nước  ngọt cũng đang thiếu. Thế là chỉ cần có đủ lương thực, khí giới là có thể cố thủ ở đây lâu được. Nghĩ thế, bác sĩ lập

tức trở về tàu. Ông Chi đương ngồi ủ rũ trong phòng, tự trách vì

sự sơ  suất  của  bản  thân  mà để cả bọn  phải gặp bước nguy nan. Nhưng sau khi nghe bác sĩ trình bày kế hoạch, ông phấn chấn hẳn lên. Theo nhận định của bác sĩ thì cần lên lô-cốt để cố thủ vì ở dưới

tàu cũng đã hết nước uống. Nếu ở dưới tàu mà ta ra mặt chống lại

thì thật không lợi vì bọn chúng có đặt hai tên canh giữ trên bờ.

Chúng có thể ra hiệu tập hợp nhanh chóng để bắn xuống tàu.

Hơn nữa nếu chiếc tàu này bị bọn giặc chiếm thì trong một thời  gian  nữa  sẽ  có  một  chiếc  tàu  khác đến đón về theo như kế hoạch đã dự định. Kế hoạch này bác sĩ đã giao cho một người thân

tín ở nhà. Trước khi ra đi, bác sĩ bảo lão Ri nấp trong đường hầm đằng mũi, cấp cho lão ba bốn khẩu súng để đứng trấn thủ. Hun-tơ

thì kéo chiếc xuồng con đến dưới cửa sổ tàu. Còn Do-sơ và bác sĩ

thì khuân đạn, súng, mấy túi bánh quy, dăm thùng thịt lợn ướp, một  thùng  rượu  và  hòm  thuốc  quý  của  bác  sĩ  xuống  thuyền.

Thuyền trưởng và ông Chi trấn trên boong tàu. Thuyền trưởng gọi

lão Han, tên cầm đầu sáu đứa còn lại, bảo:

- Này anh Han! Hai chúng tôi đây đều có súng nạp sẵn đạn. Nếu trong bọn anh, người nào xông lại đây, lập tức tôi bắn vỡ óc.

Cả  bọn  có  vẻ  hoang  mang,  một  đứa  trong  bọn  có  vẻ  ủ  dột hẳn. Cuối cùng bọn chúng bàn bạc rồi nhảy lên sàn tàu, định bọc

lối  sau  đánh  úp  lại.  Nhưng  khi  thấy  lão  Ri  đứng  trấn  ở  đường

hầm, chúng vội vã rút lui. Trong lúc ấy, khuân xong mọi vật xuống

thuyền, bác sĩ cùng Do-sơ chui qua cửa sổ trèo xuống. Lần đi này làm cho hai tên giặc canh trên bờ chú ý. Một đứa nhảy lên và biến mất.  Tải  xong  các  thứ vào lô-cốt,  bác  sĩ  để Do-sơ ở lại canh giữ.

Trước khi đi về tải chuyến cuối cùng, bác sĩ để thêm Hun-tơ ở lại

giữ  lô-cốt.  Bác  sĩ  vẫn  đi  bừa  vì  nghĩ  rằng  bọn  chúng  tuy  đông

nhưng ở trên tàu không một đứa nào có súng trường cả. Trước khi

chúng tiến đến gần để dùng súng lục, thì người của ông có thể đã bắn chết hàng tá. Trước khi xuống thuyền để đi chuyến cuối cùng, mỗi người chỉ giữ một khẩu súng trường và một con dao. Còn lại

khí giới và thuốc súng đều ném cả xuống biển. Trong lúc ở trên tàu, ông thuyền trưởng đã thấy rõ một đứa trong bọn hình như còn

bỡ  ngỡ  và  miễn  cưỡng  đi  theo  chúng.  Khi  sắp  xuống  thuyền, thuyền trưởng gọi to:

- Anh Grây, tôi bỏ tàu đây, tôi ra lệnh cho anh phải theo tôi ngay. Tôi biết anh vốn là người lương thiện. Đừng để lỡ cơ hội, tôi hạn cho anh trong nửa phút nữa.

Bên kia vẫn im lặng. Nhưng lời kêu gọi cuối cùng ấy đã có

kết quả. Vì bên kia bỗng có tiếng đấm đá, rồi Grây chạy ra, về với

bọn ông Ly. Nhưng chuyến đi cuối cùng này thật gian truân. Đồ nhiều, người đông mà xuồng thì nhỏ. Về phía lái, mép thuyền đã mấp mé mặt nước. Nước thủy triều lại đang dâng lên. Dòng nước

chảy rất mạnh cứ kéo phăng con thuyền ra khỏi con đường đã định

và trôi về phía dãy thuyền đỗ trên bờ của bọn giặc. Thuyền trưởng

bảo  cứ  cho  xuôi  theo  dòng  rồi  đi  ngược  lại.  Thốt  nhiên  thuyền

trưởng kêu lên:

- Khẩu đại bác!

Lúc này mấy ông mới chợt nhớ đã quên khuấy khẩu đại bác

đặt bên hông chiếc tàu. Khi nhìn lại sau thì thấy năm thằng giặc

kia đang xúm xít quanh khẩu súng lớn. Chúng đã cởi áo súng ra.

Grây bảo, giọng lo ngại:

- Thằng Han trước kia là tay bắn đại bác cho Phơ-linh.

Lúc này thuyền đã đi ngược men bờ nên quay mình về phía sau và trở thành một tấm bia rất tốt cho bọn chúng. Thằng Han đứng lắp đạn. Thuyền trưởng hỏi:

- Đây ai bắn giỏi? Bác sĩ đáp:

- Ông Chi đây chứ còn ai.

Thuyền trưởng bảo:

- Ông Chi! Ông hạ cho một đứa. Nếu hạ được thằng Han thì

tốt nhất. Nhưng bắn cho khéo, kẻo thuyền tròng trành, đắm bây

giờ. Ai nấy ngồi cho cân đi.

Ông Chi lạnh lùng nhìn cái bùi nhùi rồi giương súng bắn. Nhưng  thật  không  may.  Khi  ông  Chi  bắn  thằng  Han  vừa  cúi xuống. Viên đạn bay qua đầu hắn, trúng vào một đứa đứng sau. Một tiếng kêu rống lên rồi tiếp theo trên bờ cũng có nhiều tiếng kêu  khác.  Nhìn  về  phía  bờ,  bác  sĩ  thấy  bọn  giặc  đã  nhảy  cả  từ trong bụi ra. Trong khi ấy thuyền đã gần đến doi cát dài trên bờ. Nhưng đại bác của chúng lại sắp bắn. Thuyền trưởng chỉ kịp ra

lệnh:

“Ngồi  cho  vững!"  là  tiếng  súng  nổ.  Đó  là  tiếng  đại  bác  tôi nghe  nổ  lần  đầu  khi  tôi  ở  trên  đảo.  Quả  đại  bác  không  trúng thuyền, nhưng hơi gió tạt đã làm thuyền chìm xuống. Thuyền đắm đằng lái nhưng may chỗ này ở gần bờ nên nước đã cạn. Mọi người không ai can gì. Chỉ tai hại là lương thực chìm cả với ba khẩu súng  bị  ướt.  Chỉ  còn  hai  khẩu  súng  của  bác  sĩ  và  của  thuyền trưởng là còn dùng được. Cả bọn lóp ngóp lội vào bờ, bỏ lại chiếc thuyền cùng với một nửa số lương thực và thuốc súng. Đi được một lúc, đã nghe rõ tiếng nói của bọn giặc và tiếng chân chúng giẫm gãy cành khô khi chúng lách qua bụi rậm. Bác sĩ liền nghĩ đến

chuyện sắp phải đánh nhau nên vội bảo ông thuyền trưởng:

- Trong bọn ta, ông Chi bắn cừ nhất. Ông đưa súng của ông cho ông ấy. Súng ông ấy không dùng được nữa rồi.

Hai người trao súng cho nhau. Từ lúc bắt đầu giao chiến, ông Chi vẫn lạnh lùng như băng. Thấy Grây tay không, bác sĩ liền rút dao đưa cho hắn. Hắn nhổ nước bọt vào tay, cau mày, múa con dao

vù vù làm mọi người thêm yên bụng. Đi thêm vài chục bước, đã

thấy khu vực lô-cốt ở ngay trước mặt. Tốp của bác sĩ vừa đến hàng

rào thì đã thấy bảy tên giặc, đi đầu là An-đe-sơn, hò reo ầm ầm,

kéo lại. Không ai bảo ai, súng ở ngoài và súng ở trong lô-cốt cùng một  luc  nổ  vào  bọn  giặc.  Tuy  bốn  phát  súng  bắn  rời  rạc  nhưng cũng có một phát trúng, làm một tên giặc ngã quay lơ. Số còn lại

quay đầu chạy lẩn vào bụi. Cả tốp đi vòng hàng rào, đến xem tên giặc bị ngã. Hắn đã chết thẳng cẳng, viên đạn trúng ngay vào tim. Đương vui mừng thắng lợi, thì bỗng nghe tiếng đạn súng lục nổ trong lùm cây. Viên đạn bay vèo qua tai bác sĩ rồi thấy lão Ri lảo đảo ngã xoài trên đất. Ông Chi và bác sĩ nhanh nhẹn bắn trả ngay nhưng bọn chúng đã chạy mất. Bác sĩ đi lại nhìn vết thương thì biết ngay là khó lòng cứu chữa. Khi khiêng được lão Ri vào lô-cốt

thì lão đã tắt thở. Từ lúc xảy ra chuyện biến trên tàu cho đến khi

chết,  lão vẫn tỏ ra điềm tĩnh, gan lì. Lão đã đứng trấn ở đường

hầm trên tàu, hăng hái và dũng cảm như một người lính cảm tử. Lão  đã  lặng  lẽ  tuân  lệnh  một  cách  trung  thành,  không  do  dự. Trong bọn, lão là người lớn tuổi nhất và cũng lại là người hy sinh

trước nhất. Ông Chi quỳ ôm xác lão, khóc nức nở như một đứa trẻ. Trong khi ấy, ông thuyền trưởng người cứ dày cộm lên, đương lôi trong ngực và túi ra những đồ vật lủng củng: một lá quốc kỳ, một quyển kinh thánh, một cuộn thừng, một cái bút lông, một lọ mực, một quyển sổ và mấy gói thuốc lá. Ông đã tìm thấy ở quanh lô-cốt một  cây  thông  dài  bị  trốc  gốc.  Ông  cùng  Hun-tơ dựng gốc thông trụi ấy lên ở góc lô-cốt để làm thang. Ông trèo lên cắm cao lá cờ tổ quốc  trên  nóc lô-cốt. Hình như làm xong việc ấy, ông thấy trong người thoải mái và yên tâm hơn; ông bước vào nhà, bình tĩnh soát

lại lương thực. Ông bảo:

- Đây  là  mối  lo  nhất  của  chúng  ta.  Chúng ta mất mọi thứ trong chuyến sau, thật đáng tiếc! Khí giới, vật dụng thì đủ. Nhưng lương thực thì ít ỏi quá!

Giữa lúc ấy, một viên đạn đại bác bay vù qua nóc lô-cốt rồi

nổ ở trong rừng. Phát sau, chúng chỉnh lại trúng vào khu vực lô-

cốt, làm cát bụi bay mù, nhưng không thiệt hại gì cả. Ông Chi nói:

- Ông thuyền trưởng! Dưới tàu, chúng không thể thấy nóc lô-

cốt này. Có lẽ chỉ vì lá cờ đấy! Vậy ta nên hạ lá cờ đi thì hơn.

Ông thuyền trưởng kêu to:

- Hạ lá cờ đi à? Không! Thưa ông, không thể được!

Ông thuyền trưởng nói xong, mọi người xem ra đều đồng ý.

Vì lá cờ ấy không chỉ tiêu biểu cho chính nghĩa mà còn tỏ rõ cho

bọn cướp biết thái độ cương quyết của những người cố thủ trong lô- cốt là xem thường những phát đại bác của chúng...

Cả buổi chiều, chúng cứ bắn đì đụp vào khu vực lô-cốt nhưng không đâu vào đâu cả. Thuyền trưởng bảo Grây và Hun-tơ đi lấy lương thực ở trên chiếc thuyền chìm, vì lúc bấy giờ nước triều đã xuống từ lâu. Nhưng vô ích. Bọn giặc liều lĩnh đã xuống lấy trước. Tên Xin-ve đương đứng sau chỉ bảo, mỗi đứa có một súng trường. Chắc hẳn bọn chúng đã cất giấu đâu từ trước. Ông thuyền trưởng

thì đương ngồi ghi vào một quyển sổ. Bác sĩ Ly nhìn vào, thấy ở trang đầu mấy dòng chữ sau đây:

“Tôi,  thuyền  trưởng;  Ly-vơ-xây, thầy thuốc trên tàu; Grây, lính  thủy  đóng  đồ  mộc  trên  tàu,  Chi-lô-nây,  chủ  tàu;  Hun-tơ và

Do-sơ, thủ hạ thân tín của chủ tàu... Những người này đều đã tận tâm giữ tàu; lương thực chỉ còn dè xẻn được mười ngày; đã cắm quốc kỳ trên nóc lô-cốt;  Ri-đrus, người ở của ông chủ tàu, không phải thủy thủ, đã bị giặc giết; Dim, cậu bé thủy thủ tập sự..."

Đọc đến đây, bác sĩ sực nhớ đến tôi, và nỗi lo âu lại kéo đến. Thốt nhiên có tiếng người gọi trong rừng. Hun-tơ đang đứng cạnh nói:

- Có người gọi kìa! Cả bọn ùa ra, nhìn thấy tôi đang leo qua rào. Mọi người đều đứng im cảm động không nói nên lời.

CHƯƠNG 15

TRONG LÔ-CỐT

Không nói thì chắc các bạn cũng biết nỗi vui sướng của tôi

khi gặp lại bác sĩ Ly và đồng đội. Tôi thuật lại những việc đã xảy

ra cho tôi rồi nhìn quanh nhà. Chiếc lô-cốt này làm toàn bằng thân

cây thông ngòng ngoèo; cả mái nhà và tường vách đều bằng thân

cây cả. Lối đi vào có một cái cổng; dưới cổng, một dòng suối con

chảy vào một cái bể, trông cũng hơi lạ mắt. Ngoài cái sườn nhà ra chẳng còn một thứ gì khác. Ở một góc nhà còn một tảng đá dùng làm bếp và một cái rổ sắt đã han gỉ để đựng than hồng. Hai bên

sườn đồi và phía trong đồn, người ta đã phát quang các cây cối để

lấy gỗ làm nhà. Cứ nhìn những gốc cây bị chặt còn lại cũng đủ biết

những thân cây ấy to lớn dường nào. Mưa gió đã cạo sạch lớp đất

trên. Chỉ chỗ dòng suối là còn thấy rêu và những bụi cây cằn cỗi mọc. Gió đêm thổi qua các khe vách và phả bụi cát rắc đầy cả sàn nhà.  Cát  bay  vào  mắt  mũi,  mồm  miệng  và  thức  ăn.  Một  cái  lỗ

vuông  khoét  trên  mái  nhà  là  cái  ống  thông  khói  duy  nhất  của chúng tôi. Chỉ có một ít khói thoát ra lối ấy. Còn phần lớn khói bay cuộn trong nhà làm người nào cũng ho sù sụ và mắt mũi cay sè.

Đã thế lại thêm anh chàng Grây mặt mũi quấn băng vì bị thương trong lúc giao chiến; lại xác lão Ri vẫn chưa chôn còn nằm bên góc tường. Nếu cứ ngồi khoanh tay thì có lẽ chúng tôi sinh quẩn mất. Nhưng ông thuyền trưởng là người giàu kinh nghiệm. Ông gọi mọi người đến trước mặt, rồi ông phân đôi ra để canh gác.

Bác sĩ, Grây và tôi vào một tốp; ông Chi, Hun-tơ và Do-sơ vào một tốp khác. Tuy mọi người mệt lử nhưng chúng tôi phải chia nhau kẻ đi kiếm củi, người đi đào hố chôn lão Ri. Bác sĩ được phân công  nấu  bếp.  Còn  tôi  thì  đứng  canh  ở  cửa.  Riêng  ông  thuyền trưởng là đi xem xét đó đây, động viên tinh thần mọi người. Thỉnh thoảng ông làm giúp cho chúng tôi nữa. Tôi thấy bác sĩ chốc chốc

lại chạy ra ngoài cửa hít ít khí trời và cho mắt mũi đỡ khói hun. Mỗi bận ra đứng nghỉ, ông lại chuyện trò với tôi dăm ba câu. Ông

nói:

- Thuyền trưởng quả là một tay có tài. Khi tôi nói như thế

không phải chỉ là một câu khen suông đâu, cậu Dim ạ! Một lần

khác, ông ra đứng tựa cửa, không nói gì, như mải suy nghĩ. Một chốc ông nghiêng đầu nhìn tôi như đắn đo rồi hỏi:

- Cậu Dim, thằng Ben-gun ấy là người thế nào?

- Thưa ông, tôi không rõ, nhưng trông nó cũng không được bình thường lắm.

Bác sĩ đáp:

- Điều ấy thì chẳng cần phải nói. Cậu tính ba năm ở trên đảo này, tất không loạn óc cũng đâm ra ngớ ngẩn. Cậu bảo nó thèm ăn phó-mát phải không?

- Vâng. Nó bảo nó chỉ thèm có phó-mát. Bác sĩ lại nói:

- Chắc cậu đã trông thấy cái túi đựng thuốc lá của tôi. Lâu nay tôi không ăn thuốc chỉ vì trong túi, tôi có để một miếng phó- mát làm tại ý, ăn rất bổ. Tôi để dành cho Ben-gun đấy!

Trước lúc ăn cơm tối, chúng tôi đi chôn cất lão Ri. Khi hạ huyệt, chúng tôi đứng đầu trần trước gió, quanh thi hài của lão để vĩnh  biệt.  Chúng  tôi  đem  được  nhiều  củi  về  nhưng  ông  thuyền trưởng lắc đầu, vẫn chưa cho là đủ.  Ông bảo ngày mai phải làm một chuyến cật lực hơn nữa. Khi chúng tôi ăn xong và mỗi người

đã uống một cốc lớn rượu mạnh pha loãng, ba vị chỉ huy ngồi vào một góc, thảo luận kế hoạch sắp đến. Cuộc thảo luận hình như đi đến chỗ bế tắc. Lương thực ít ỏi quá, nếu cầm cự lâu thì có lẽ phải đầu hàng. Nhưng chúng tôi quyết tâm tiêu diệt cho kỳ hết bọn chúng, làm cho chúng phải hạ gối quy hàng, hoặc chúng phải rút chạy xuống dưới tàu. Trước kia tất cả chúng nó là mười chín tên, nhưng bây giờ chúng chỉ còn mười lăm thôi. Hai đứa bị thương. Thằng đứng gần khẩu đại bác đã bị ông Chi bắn, nếu nó không chết  tất  bị  thương  nặng...  Bây  giờ  chỉ  cần  lợi  dụng  mọi  cơ  hội thuận tiện để tiêu hao dần chúng và bảo vệ mình. Chúng tôi lại được hai bạn đồng minh quý viện trợ. Một là rượu "rum", hai là

khí hậu. Về rượu "rum" thì tuy chúng tôi ở xa chỗ giặc đóng non nửa  dặm,  ban  đêm  chúng  tôi  vẫn  nghe  thấy  tiếng  chúng  say  lè

nhè, gào thét hát hỏng đến khuya. Còn về khí hậu thì bác sĩ Ly

cam đoan rằng ở vào chỗ bùn lầy ấy, thiếu thuốc men, chỉ trong

vòng  một tuần là phần nửa bọn chúng sẽ ốm bẹp. Tôi bị mệt lả nhưng vơ vẩn mãi vẫn chưa ngủ được. Đến lúc ngủ thì ngủ say

như chết. Sáng ra khi nghe thấy tiếng nhộn nhịp ồn ào, tôi mới

bừng tỉnh dậy. Lúc ấy mọi người đều đã ăn sáng cả rồi và đã vác

được đến nửa đống củi. Tôi nghe có tiếng người nói to:

- Kìa, lá cờ trắng!

Rồi tiếp theo là những tiếng ngạc nhiên:

- Lạ kìa! Chính Xin-ve đích thân đến! Nghe câu này, tôi nhảy choàng xuống đất, giụi mắt và chạy lại dòm vào lỗ châu mai.

CHƯƠNG 16

XIN-VE ĐI THƯƠNG LƯỢNG

Nhìn ra, tôi thấy quả có hai người đứng sau phía hàng rào. Một người đương phất miếng vải trắng, còn một người chính là Xin-ve, đứng im như phỗng. Trời còn sớm lắm. Hôm ấy lại là cái hôm lạnh nhất từ lúc tôi bước chân lên đảo. Rét buốt thấu xương. Trời trong suốt, không gợn một tí mây. ánh nắng chiếu hồng trên

các ngọn cây. Tuy vậy, chỗ Xin-ve đứng với tên đồng đảng vẫn còn trong bóng tối. Lớp sương ở đầm bốc lên ban đêm còn chưa tan, vẫn là là trên mặt đất và che lấp chân hai tên giặc đến đầu gối. Cứ xem khí lạnh và sương mù này cũng biết đây là nơi rừng thiêng

nước độc. Ông thuyền trưởng bảo:

- Tất cả cứ ở lại trông. Để xem chúng giở trò gì. Rồi ông gọi hai tên giặc:

- Ai đi đó? Đứng lại, không tôi bắn! Xin-ve nói to:

- Tôi đến thương lượng đây... Ông thuyền trưởng nép mình cẩn thận vào cửa, hạ lệnh:

- Tổ bác sĩ Ly đứng vào vị trí. Bác sĩ phía bắc, cậu Dim phía đông, còn Grây phía tây. Tổ canh nạp đạn chuẩn bị. Nhanh lên và chú ý!

Xong ông quay lại bọn giặc:

- Các anh đến đây thương lượng điều gì? Lần này, tên cùng đi với Xin-ve lên tiếng:

- Thuyền trưởng Xin-ve muốn đến thương thuyết.

- Thuyền trưởng Xin-ve hả? Đây không biết người ấy... Chúng tôi nghe thuyền trưởng nói thêm:

- Thuyền trưởng, thật lạ lùng! Ai thăng chức cho mà nhanh

thế?

Xin-ve đáp:

-  Thưa  ông,  chúng  tôi  đó!  Anh  em  đã  bầu  tôi  làm  thuyền

trưởng sau khi ông đào ngũ. (Hắn nhấn mạnh chữ đào ngũ). Tất

cả bọn tôi sẵn sàng phục tùng các ông nếu chúng ta đi đến một thỏa thuận. Ông thuyền trưởng, trước hết xin ông nhận lời là sẽ để cho tôi ra khỏi đồn này được bình yên vô sự sau khi nói chuyện...

Ông thuyền trưởng nói:

- Này anh kia! Tôi chẳng muốn thương lượng với anh chút nào! Nhưng nếu anh muốn nói gì, cứ đến mà nói, có thế thôi. Còn nuốt lời hứa thì chỉ có bọn anh mới có thủ đoạn đê hèn ấy!

Xin-ve reo to, hớn hở:

- Thế là đủ rồi! Một lời ông nói ra là đủ. Tôi tin ông là người đứng đắn.

Chúng  tôi  thấy  tên  cầm  cờ  trắng  cố  giữ Xin-ve lại. Nhưng Xin-ve có vẻ chế giễu hắn. Xin-ve đến bên rào ném chiếc nạng vào trong trước rồi nhanh nhẹn leo qua. Lúc này, thú thật, mải nhìn quá  nên  tôi  bỏ  việc  canh  phòng.  Tôi  mò  lại  đứng  sau  lưng  ông thuyền  trưởng.  Ông ngồi trên bực cửa, tay chống cằm, mắt nhìn chăm chú vào dòng suối, miệng huýt sáo khe khẽ. Xin-ve trèo lên

đồi một cách khó nhọc. Đồi dốc, cây cối nằm ngổn ngang, đất cát

mềm lún, hắn chống nạng đi cứ lảo đảo. Nhưng hắn cố mãi rồi

cũng đến được. Hắn ăn mặc rất chỉnh tề: áo lam dài khuy đồng,

mũ đẹp có đính lon. Hắn nhã nhặn chào thuyền trưởng. Thuyền

trưởng ngẩng lên:

- Ngồi xuống đây! Hắn ra ý kêu ca:

- Ai lại để tôi ngồi đây? Sáng sớm thế này mà ngồi trên đất cát thì lạnh chết!

Thuyền trưởng đáp:

- Anh nói nghe mới chướng tai! Nếu anh lương thiện thì anh

đã ngồi chễm chệ trong chỗ làm bếp của anh rồi, có đâu phải ngồi

đây. Còn nếu anh lại muốn làm thuyền trưởng, làm một tên cướp thì có ngày người ta treo cổ anh.

- Thôi được, được!

Xin-ve trả lời và ngồi bệt xuống.

- Các ông ở chỗ này vừa tiện vừa đẹp. Kìa cậu Dim! Kìa bác

sĩ, xin có lời kính chào ngài. Các ông được sum họp đông đủ nơi

đây như một gia đình có hạnh phúc.

Thuyền trưởng ngắt lời:

- Nói gì cứ nói mau đi, mất thì giờ vô ích. Xin-ve đáp:

- Ông nói phải. Vậy ông hãy nghe tôi nói. Đêm qua các ông giỏi đấy. Bọn ông đã dùng gậy đập chết một người trong chúng tôi.

Bọn tôi nhiều người hoang mang; ngay cả tôi cũng phải rung động, điều ấy tôi không chối. Có lẽ vì thế mà tôi đến đây thương lượng với ông cũng nên. Nhưng ông nên nhớ, việc ấy chỉ làm được một lần. Chúng tôi sẽ biết canh phòng, chúng tôi sẽ biết đề phòng rượu "rum". Ông thuyền trưởng thản nhiên hỏi:

- Thế là sao?

Đối với thuyền trưởng, những điều trên hoàn toàn là bí ẩn. Nhưng  về  phần  tôi,  tôi  đã  hiểu.  Tôi  sực  nhớ  đến  những  lời  sau cùng của Ben-gun là hắn sẽ tìm cách giết bọn thủ hạ của Xin-ve để giúp chúng tôi. Chắc hắn có mò đến chỗ bọn giặc ngủ say? Nghĩ đến đây, tôi thấy trong bụng nở nang vì như thế bọn giặc chỉ còn

mười bốn đứa.

Xin-ve nói:

- Tôi xin nói thẳng. Bọn tôi muốn lấy kho của. Còn các ông chắc cũng muốn tính mạng vẹn toàn. Các ông có cái bản đồ phải không? Thôi tôi biết rồi, giấu cũng vô ích thôi! Bọn tôi muốn có cái bản đồ ấy.

Ông thuyền trưởng quát:

- Đừng đùa. Bọn anh muốn làm gì thì làm. Rồi tôi sẽ treo cổ bọn anh lên!

Tôi thấy Xin-ve hình như nhụt đi. Còn ông thuyền trưởng thì lặng lẽ cho thuốc vào tẩu. Chốc sau Xin-ve bảo:

- Ông hút thuốc, ông cho phép tôi cùng hút một thể cho vui.

Nói thế rồi hắn châm lửa hút thuốc. Hai người cứ thế ngồi

đối mặt nhau, lặng lẽ hút thuốc. Cảnh tượng ấy trông thật ngộ

nghĩnh.

Xin-ve lại nói:

- Thôi, ông biết điều nên giao cái bản đồ ấy cho tôi. Các ông đừng động đến bọn tôi, rồi tôi sẽ cho ông một trong hai điều kiện này. Một là, các ông cùng đi lấy của rồi xuống tàu với chúng tôi, chúng tôi sẽ đưa về tử tế. Hai là, nếu không có nghi ngại gì thì

chúng ta sẽ chia lương thực ra, các ông cứ ở lại đây. Tôi hứa nếu

gặp chiếc tàu nào, tôi sẽ bảo lại đây đón các ông. Như vậy chắc các

ông bằng lòng chứ? (Đến đây hắn dằn giọng) Tôi mong rằng tôi nói điều này không phải chỉ riêng với ông mà với tất cả mọi người có mặt ở đây. Bọn ông nên cân nhắc kỹ.

Thuyền trưởng đứng lên, xoa tàn thuốc lá dính tay rồi hỏi:

- Nói hết chưa? Xin-ve đáp:

- Hết rồi! Nếu các ông không nhận lời thì các ông chỉ nhận được những phát súng.

Ông thuyền trưởng nói:

- Được lắm! Bây giờ đến lượt tôi nói cho anh nghe. Nếu bọn anh biết điều đến đây từng người một bỏ khí giới quy hàng, khi về

tôi đảm bảo với các anh, các anh chỉ bị phạt tù. Nhược bằng các anh còn ngoan cố, tôi thề sẽ làm cho các anh bị treo cổ tất. Các anh

đừng  hòng  tìm  của  cải.  Các  anh  đừng  hòng  cho  tàu  chạy  được.

Không có mặt nào trong bọn anh cầm lái nổi! Các anh đã bị hãm

rồi. Tôi chỉ cần nói với anh từng ấy là đủ, mà đây là lần cuối cùng. Bận sau còn trông thấy mặt anh, tôi sẽ cho anh một phát súng vào xương sống. Thôi đứng dậy cút đi!

Xin-ve giận đến xanh sạm cả mặt. Hắn rống lên:

- Lại đây cho tôi vịn để đứng dậy đi về.

Chẳng  ai  nhúc  nhích.  Hắn  lẩm  bẩm  chửi  rủa rồi cố lết ra cổng, đánh đu vào cái cột, đứng lên. Hắn tức tối nhổ toẹt một bãi nước bọt vào dòng suối rồi đe dọa:

- Trước lúc một giờ, tôi sẽ làm cỏ cả cái lều này. Cười đi! Cứ cười đi! Trước lúc một giờ, các anh sẽ xuống chơi dưới âm phủ.

Hắn rủa một câu rất độc rồi chống nạng đi ra, cút thẳng.

CHƯƠNG 17

TRẬN ĐÁNH KHU VỰC LÔ-CỐT

Khi Xin-ve đi khuất, thuyền trưởng mới quay vào trong nhà. Ông thấy chỉ có Grây là còn đứng canh tại chỗ. Lần này là lần đầu, chúng tôi thấy ông nổi giận lôi đình. Ông hét lớn:

- Mọi người đứng vào vị trí!

Khi ai nấy đã chạy về vị trí, ông mới nghiêm khắc lên tiếng:

- Grây, tôi sẽ ghi công anh vào sổ, anh thật là một người thủy thủ chân chính, biết làm trọn nhiệm vụ. Ông Chi! ông làm tôi đến ngạc nhiên. Bác sĩ Ly! Tôi cứ ngỡ ông trước cũng là quân nhân... Nếu thế này, ông ở nhà còn hơn!

Mọi người vội vã tuân lệnh, im lặng nạp đạn, nhưng mặt mũi người nào cũng bẽn lẽn đỏ gay. Ông thuyền trưởng đứng nhìn một

lúc rồi nói:

- Các anh! Tôi đã nói khích cố ý để làm cho thằng Xin-ve nổi tức. Thế là ta đã dử hắn đến đây, ta có thì giờ bố trí trước để đối phó.  Chúng  ta  ít hơn bọn chúng, nhưng chúng ta ở trong lô-cốt, được lợi thế hơn. Nếu mọi người có kỷ luật, biết tuân lệnh, tôi dám chắc chúng ta sẽ nện cho chúng một trận thất điên bát đảo.

Nói xong, ông đi xem xét xung quanh, quan sát lại vị trí và kiểm tra từng người. Hai sườn lô-cốt, ở phía đông và phía tây chỉ

có hai lỗ châu mai; phía nam là phía cổng 89 90 có hai lỗ và phía bắc có năm lỗ. Chúng tôi bảy người nhưng có đến hai mươi khẩu

súng.  Chúng  tôi  xếp  củi lại thành bốn đống, làm thành bốn cái

bàn, mỗi cái ở ngay giữa mỗi phía. Trên mỗi bàn có để sẵn thuốc

đạn và bốn khẩu súng trường, nếu cần, những người chiến đấu có

thể  với  tay  lấy  được.  Ở  giữa  lô-cốt  để  một  dãy  dao  găm.  Ông

thuyền trưởng bảo:

- Tắt lửa đi! Trời cũng chả rét nữa. Đừng để khói xông vào mắt. Còn Dim, cậu chưa ăn sáng, đi lấy khẩu phần đi rồi đứng tại

vị trí mà ăn. Trong khi mọi người răm rắp tuân lệnh, ông sắp đặt

lại một lần nữa:

- Bác sĩ Ly hãy ra giữ cửa! Phải nhìn cho kỹ, đừng thò mình

ra ngoài. Phải đứng trong mà bắn qua cổng... Hun-tơ ra đứng phía

đông.  Do-sơ đứng phía tây. Đó... đứng đó được rồi! ông Chi, ông

bắn giỏi thì ra trấn góc bắc với Grây. Ở góc ấy có đến năm lỗ châu mai và là nơi hiểm yếu nhất. Nếu bọn chúng chiếm được góc ấy, chĩa súng qua bắn vào thì hỏng bét... Còn tôi với cậu Dim bắn tồi,

thì chúng ta đứng nạp đạn cho họ và họ cần việc gì thì giúp...

Quả  nhiên  như  lời  thuyền  trưởng,  chúng  tôi  thấy  hết  rét. Mặt trời nhô lên khỏi rặng cây, chiếu sáng chói chang trên bãi đất trống và làm tan đám sương mù trong nháy mắt. Chẳng mấy chốc,

đất  cát  khô  bỏng,  nhựa  trong  các  thân  cây  trong  lô-cốt  chảy  ra

nham nháp. Mọi người phải bỏ áo khoác, cởi cúc cổ áo sơ- mi và

xắn tay áo lên. Một giờ qua. Phút chờ đợi vừa bực bội vừa căng thẳng.  Mọi  người  đều  "mở mắt  mở tai",  tay  lăm  lăm  khẩu súng. Thuyền trưởng đứng giữa nhà, môi mím chặt, trán hằn lên những

vết nhăn. Thốt nhiên, Do-sơ giương súng bắn. Tiếng súng đầu tiên vừa nổ thì chung quanh lô-cốt hàng loạt súng bắn vào dồn dập. Nhưng không có viên đạn nào lọt vào trong. Sau lúc khói tan, nhìn

lại, các vách gỗ trong lô-cốt vẫn lành lặn y nguyên như cũ. Thuyền trưởng hỏi Do-sơ:

- Anh có bắn trúng tên giặc không? Do-sơ đáp:

- Thưa ông, chắc trúng!

Thuyền trưởng truyền lệnh:

- Dim! Nạp đạn cho anh ấy. Còn bác sĩ, ở phía ông, ông ước chừng có mấy đứa?

Bác sĩ đáp:

- Tôi biết chắc chắn là có ba phát súng bắn ở rừng vào. Tôi trông rõ ba tia lửa.

Thuyền trưởng nhắc lại:

- Ba... Còn ở phía ông Chi, ông thấy mấy?

Ở phía này không biết rõ được như ở các phía kia. Nhưng phía này nhiều giặc hơn cả. Ông Chi thì nói độ bảy tên, còn Grây

thì bảo tám, chín đứa. Rõ ràng là lực lượng chính chúng dồn về

phía  này  cả.  Còn  mấy  phía  kia  chúng  chỉ cốt làm phân tán, giữ

chân chúng tôi thôi. Biết thế nhưng thuyền trưởng vẫn không thay

đổi cách bố trí. Vì ông cho rằng nếu bọn địch vượt qua được hàng rào, chúng sẽ đến chiếm ngay những vị trí nào bỏ ngỏ và sẽ chĩa súng  bắn  vào  người  trong  lô-cốt  như  bắn  chuột.  Nhưng  lúc  ấy,

không ai còn kịp suy nghĩ. Thốt nhiên chúng tôi nghe cả loạt tiếng

hò reo, rồi thấy một toán giặc chạy xổ trong rừng ra, ồ ạt tiến về

phía lô-cốt. Ngay lúc ấy có hàng loạt đạn từ rừng bắn ra. Một phát

bắn trúng vào khẩu súng của bác sĩ làm gãy tan từng mảnh. Bọn giặc leo lên hàng rào nhanh nhẹn như đàn khỉ. Ông Chi và Grây bắn luôn tay, không ngớt. Ba đứa trong bọn chúng bị ngã: một đứa

ngã  lộn  vào  trong,  hai  đứa  bật  ra  ngoài.  Nhưng  một  đứa  xem chừng  sợ  nên  co  giò  chạy  biến  vào  rừng...  Còn  bốn  đứa  leo  qua được. Chúng chạy thẳng lại lô-cốt, hò hét vang ầm. Còn bảy tám đứa khác, có lẽ có nhiều súng dài nên đứng ngoài bắn yểm hộ và

hò reo trợ lực. Ở trong lô-cốt có bắn ra nhưng vì bắn vội nên không

trúng. Trong chớp mắt, bốn đứa đã leo lên đỉnh đồi và nhảy xổ lại

lô-cốt. Qua lỗ châu mai, thấy rõ thằng An-đe-sơn đương gào lớn:

- Tiến vào! Tất cả tiến vào!

Giữa lúc ấy một tên giặc giật được súng của Hun-tơ, chĩa qua

lỗ  châu  mai  bắn  một  phát  làm  Hun-tơ ngã vật ra. Một tên nữa chạy khom khom đến ngay cửa, múa dao xông vào chém bác sĩ. Trong lô-cốt đầy khói, nhờ thế chúng tôi chống đỡ có lợi hơn. Tiếng

thuyền trưởng oang oang:

- Ra ngoài, anh em! Dùng dao mà đánh! Tôi vớ một con dao trên đống củi. Một tên cướp cũng giật lấy một con dao và chém một nhát vào tay tôi. Tôi chỉ thấy tê tê ở tay rồi tôi vội nhảy ra ngoài. Trước mặt tôi, bác sĩ Ly đuổi theo một tên giặc và chém một nhát mạnh vào mặt hắn, làm hắn ngã vật xuống. Tiếng thuyền trưởng lại vang lên:

- Anh em ơi! Vòng quanh lô-cốt! Vòng quanh lô-cốt!

Nhưng tiếng ông nghe đã khang khác. Như cái máy, tôi theo lệnh chạy qua góc nhà. Được mấy bước, tôi gặp An-đe-sơn. Hắn giơ dao chém bổ xuống tôi. Tôi vội tránh nhưng trượt chân ngã lăn xuống dốc. Khi tôi ra khỏi lô-cốt là lúc tôi thấy một thằng đội mũ

đỏ,  miệng  ngậm  dao  đương  chân  trong  chân  ngoài  trên  bờ  rào. Nhưng trận đánh như đã kết thúc. Grây đã giết chết tên An-đe- sơn khi hắn giơ dao chém hụt tôi. Một tên nữa bị giết ở trước lỗ

châu mai khi hắn đang chĩa súng vào lô-cốt. Còn một tên bị bác sĩ

Ly chém chết. Số còn lại ném dao chạy vào rừng. Cả bọn rút chạy,

bỏ lại năm xác chết. Lúc này chúng tôi mới kiểm điểm lại phía mình. Hun-tơ nằm thoi thóp. Do-sơ bị một phát súng vào đầu đã

tắt thở. Còn thuyền trưởng thì bị thương. Thuyền trưởng hỏi:

- Chúng chạy cả rồi hả? Bác sĩ đáp:

- Thằng nào chạy được mới chạy. Còn năm đứa chết lăn kềnh ngoài kia. Thuyền trưởng kêu to:

- Năm đứa! Khá lắm! Bọn hắn mất năm, ta mất ba. Thế là chúng ta còn lại bốn chọi chín - như vậy chúng ta vẫn có cơ thắng được.

Nhưng thực ra, bọn giặc chỉ còn tám tên, vì tên bị ông Chi bắn  trên  tàu  chiều  hôm  ấy  đã  tắt  thở.  Việc  ấy  mãi  về  sau  này chúng tôi mới biết.

CHƯƠNG 18

LÊNH ĐÊNH TRÊN BIỂN

Từ phút ấy không thấy bóng một tên giặc nào lai vãng và cũng không thấy một phát đạn nào trong rừng bắn ra. Khu lô-cốt bây giờ thuộc về chúng tôi, chúng tôi yên trí săn sóc những người

bị thương và nấu cơm sáng. Hun-tơ sau đấy đã tắt thở. Còn vết

thương của thuyền trưởng tuy nặng nhưng không đến nỗi nguy

hiểm đến tính mạng. Phát súng của tên An-đe-sơn làm gãy xương ngực nhưng không chạm đến phổi. Phát thứ hai chỉ xé thịt ở bắp chân. Theo lời bác sĩ thì ông thuyền trưởng sẽ khỏi, nhưng cần

phải  tĩnh  dưỡng  và  tránh  cử  động  trong  dăm  tuần  lễ.  Còn  vết thương  của  tôi  chỉ  như  muỗi  đốt.  Bác  sĩ  chỉ  dán  vào đấy một lá thuốc cao rồi béo tai tôi một cái. Cơm sáng xong xuôi, ông Chi và bác sĩ ngồi bên cạnh thuyền trưởng bàn bạc. Các ông thảo luận xong thì đã quá trưa. Bác sĩ Ly đội mũ, cầm súng, giắt dao, bỏ bức bản đồ vào túi rồi rảo bước đi ra khỏi đồn. Grây đang hút thuốc,

thốt nhiên bỏ tẩu xuống, sững sờ nhìn theo bác sĩ.

Hắn nói:

- Lạ kia! Bác sĩ điên rồi chắc? Tôi đáp:

- Điên à? Đời nào. Bác sĩ là người còn bình tĩnh và sáng suốt nhất trong bọn ta.

Grây lại nói:

- Nếu ông ấy không điên, thì chính tôi điên mất. Tôi bảo:

- Tôi chắc bác sĩ có ý định gì đây. Chưa chừng bác sĩ đến gặp

Ben-gun đấy.

Về sau này, tôi mới biết dự đoán của tôi là đúng. Lúc này trong  lô-cốt  nóng  như  thiêu  như  đốt...  Bãi  cát  trên  đồi  bị  nóng bỏng hắt hơi nồng vào mặt mọi người. Tôi lo quét dọn trong ngoài

rồi đi rửa bát đĩa. Mồ hôi ướt đẫm, người như chín dừ. Nhìn thi

thể của Hun-tơ và Do-sơ nằm ở góc nhà, tôi thấy bụng nóng ran

lên. Tôi muốn làm một việc gì dù nguy hiểm đến đâu cũng không

từ nan để giết hết bọn giặc và gỡ cho bọn tôi ra khỏi cảnh này.

Khốn nỗi, tôi chỉ là đứa bé, đánh nhau cũng chẳng hơn ai. Tôi tự

xét  ở  đây  cũng  không giúp ích được gì lắm. Một ý định táo tợn bỗng thoáng qua đầu, tôi hăm hở đứng lên. Dự định của tôi là sẽ xuống dưới bãi cát ở mé đông, tìm tảng đá trắng mà Ben-gun đã

nói  để  xem  hắn  có  giấu  chiếc  thuyền  của  hắn  ở  đó  không.  Có thuyền  rồi,  tôi  sẽ  làm  cho  bọn  giặc  một  mẻ  kinh  hồn.  Lừa  lúc không ai để ý, nhân tiện lại đứng gần bị bánh quy, tôi liền thò tay vào bị, lấy bánh quy nhét đầy túi áo. Nếu gặp trở ngại gì, tôi sẽ không phải lo chết đói. Số bánh này có thể ăn hai hôm cũng chưa hết. Tôi mang theo hai khẩu súng lục; trong lưng tôi đã có bao thuốc súng và đạn rồi, như vậy là đủ khí giới để tự vệ. Nhưng làm

sao để ra đi? Tôi chắc, nếu nói ra thì chẳng một ai cho tôi đi cả. Tôi

đành  phải  dùng  lối  "đánh  lén",  thừa  lúc  mọi  người  vô  ý  tôi  sẽ

chuồn đi một mạch. Cái lối chuồn ấy thật là vô kỷ luật. Nhưng tôi

chỉ là một đứa trẻ, hễ thích là làm, chẳng cần phải suy tính thiệt

hơn gì cho lắm. Thế là thừa cơ hội lúc ông Chi và Grây đương lúi

húi thay băng cho thuyền trưởng, tôi nhảy phóc ra ngoài. Tôi chạy một mạch thẳng vào lùm cây. Lúc này, ông Chi có biết cũng không

gọi kịp. Tôi đi thẳng đến bờ biển phía đông. Tôi định men theo bãi cát ven biển để bọn chúng ở trên tàu khỏi trông thấy.

Trời đã về chiều. Nhưng mặt trời còn nóng gay gắt. Tôi đi len

lỏi trong rừng; xa xa nghe tiếng sóng vỗ bờ, tiếng lá cây xao động

và tiếng cành cây răng rắc. Những tiếng ấy cho tôi biết gió biển hôm nay thổi mạnh hơn mọi ngày. Chốc sau, những luồng gió lạnh thổi tới. Đi dăm bước nữa, tôi đã đến ven rừng. Trước mặt tôi là

chân  trời  vời  vợi,  một  dải  biển  xanh mênh mông, lấp lánh dưới nắng trời. Ở ven bờ, sóng đánh sủi bọt trắng xóa. Tôi đi dọc theo

bờ biển, lòng thấy vui vui. Tôi vui chân đi quá về phía nam, núp vào các bụi rậm, rồi bò thật cẩn thận đến dải đất cát. Trước mặt

tôi là nơi tàu đỗ, sau lưng tôi là biển. Gió biển đã lắng xuống. Một

làn gió nhẹ tiếp theo từ phía nam và phía đông nam thổi lại mang

theo  những  dải  sương  mù.  Chỗ  tàu  đậu,  nhờ  có  hòn  đảo  Hình Người che kín, vẫn yên lặng và âm thầm như hôm chúng tôi mới đến. Mặt biển như tấm gương trong; chiếc tàu in bóng rõ rệt từ

lườn tàu đến đầu cột buồm, có mang lá cờ đen của giặc. Trên một chiếc thuyền đỗ gần tàu, tôi nhận ra ngay Xin-ve ngồi ở phía sau,

đang trò chuyện với hai tên khác lưng tựa vào mép tàu. Một tên là

thằng đội mũ đỏ, cách đây vài giờ đã ngồi chân trong chân ngoài

trên  bờ  rào  lô-cốt.  Hình  như  chúng  đương  nói  cười  hỉ  hả.  Thốt nhiên  có  mấy  tiếng  kêu  khác  thường  và  ghê  rợn.  Nhưng  tôi  đã nhận ra ngay là tiếng con vẹt Phơ-linh của Xin-ve. Nhờ có bộ lông

bóng lộn của nó, tôi thấy nó đang đậu trên cổ tay chủ nó. Một lát sau chiếc thuyền kia đi thẳng vào bờ. Tên giặc mũ đỏ cùng tên bạn

nó ở trên tàu cũng đã chui vào đằng lái. Mặt trời đã lặn sau gò

Vọng Viễn. Sương mù chả mấy chốc đã dày đặc, bóng tối phủ dần.

Tôi biết nếu muốn tìm được chiếc thuyền của Ben-gun thì không

thể trì hoãn một phút. Tảng đá trắng lồ lộ sau bụi cây còn cách tôi

đến hai trăm mét. Tôi phải mất một thời gian khá lâu mới bò được đến đấy. Khi tay tôi sờ được vào mép đá gồ ghề thì trời đã tối mịt. Ngay phía trước, có một cái hồ nhỏ, cỏ phủ đầy chung quanh, đất

mấp mô và những lùm cây rậm che kín. Giữa hồ có dựng một cái

lều con bằng da dê như lều của những kẻ giang hồ. Tôi nhảy xuống

hồ, vén lều lên, thấy ngay chiếc thuyền của Ben-gun. Thuyền là

khúc gỗ đục nham nhở, trông rất thô kệch; trên thuyền trải một tấm da dê. Thuyền bé quá, ngay đối với tôi mà nó cũng còn bé, huống chi đối với thân hình một người lớn. Trong lòng thuyền, có

kê một cái ghế dài rất thấp, ở đằng mũi có hai mái chèo. Đây là một chiếc thuyền rất thô sơ, nhưng được cái rất nhẹ, mang đi đâu cũng tiện. Bây giờ có thuyền rồi, tôi mới nghĩ đến việc thực hiện kế hoạch của tôi. Tôi định nhân đêm tối, bơi thuyền ra tàu để dò xét.

Tôi chắc rằng, sau trận thua liểng xiểng hôm nay, bọn giặc sẽ rút

xuống tàu, giong ra biển. Tôi ngồi đợi cho trời tối hẳn. Tôi thọc tay

vào túi, lấy bánh ăn ngon lành. Đêm tối như thế này, rất lợi cho

tôi hành sự. Sương mù che kín bầu trời. Những tia sáng cuối cùng

của ban ngày còn sót lại đã tắt hẳn. Cả hòn đảo chìm trong bóng

tối mịt mù. Khi tôi vác thuyền lên vai, mò mẫm bước ra ngoài, tôi thấy ở nơi tàu đỗ chỉ còn hai chấm ánh sáng. Một chấm là đống

lửa cạnh đầm ở trên bờ, nơi bọn giặc đương vây quanh chè chén. Chấm kia là nơi tàu đậu. Lúc này, theo chiều nước thủy triều, tàu

đã quay lại, mũi tàu ngoảnh về phía tôi. Trên tàu, chỉ trong phòng

là có ánh sáng. Cái điểm sáng tôi thấy chỉ là do ánh sáng lọt qua

chiếc cửa sổ đằng lái, lờ mờ lên lớp sương mù đặc. Nước thủy triều

đã xuống từ lâu. Trước khi tới bờ biển, tôi phải lội qua một dải cát

dài ướt nhão nhớt, chân thụt đến mắt cá. Phải vất vả và khéo léo

lắm, tôi mới đặt được thuyền lên mặt nước.

CHƯƠNG 19

KHI NƯỚC TRIỀU XUỐNG

Đối với một người tầm vóc như tôi, chiếc thuyền độc mộc của Ben-gun thật là vừa vặn. Nó vừa chắc chắn lại vừa nhẹ, có thể đi trên mặt biển được. Chỉ tội là rất khó chèo. Muốn làm thế nào thì làm, nó cũng cứ lệch đường và quay tít như chong chóng. Chính Ben-gun cũng đã nói thuyền này rất khó sử dụng nếu không biết được những cái tật của nó. Thật vậy, rõ ràng là tôi chưa biết gì về chiếc thuyền này. Nó quay tứ phía, nhưng cái phía tôi muốn đi nó

lại không quay cho! Phần nhiều nó hay trôi ngang; tôi dám chắc nếu không gặp dòng nước cuốn không bao giờ tôi đi đến gần tàu

được. May sao chiếc tàu nằm đúng ngay giữa dòng. Cho nên dù

muốn chèo thế nào thì chèo, dòng nước vẫn cứ đưa chiếc thuyền

của tôi về hướng ấy. Chiếc tàu bỗng hiện ra lù lù trước mặt như một đám đen trong đêm tối. Dần dần, tôi trông rõ thân tàu và các

cột buồm. Càng đến gần, dòng nước càng chảy xiết. Chỉ thoáng cái,

tôi đã đến nơi và tiện tay, tôi vớ phải cái dây neo. Dây neo căng thẳng như dây cung.

Tôi chợt nghĩ ra nên cắt phăng cái dây neo để mặc chiếc tàu của chúng trôi lênh đênh ngoài biển nước đang chảy cuồn cuộn reo vang như con suối đổ. Chỉ cần một nhát dao là con tàu trôi băng theo dòng nước. Mọi việc tưởng dễ như trở bàn tay, nhưng tôi sực nghĩ ra: một dây neo căng thẳng thế này mà thốt nhiên bị đứt thì nguy hiểm chẳng khác gì vó ngựa đá lồng. Nếu tôi cố liều lĩnh cắt phăng dây neo, chắc thế nào cũng bị hất văng xuống biển. Nghĩ thế, tôi chùn tay lại. May sao trời cũng chiều người. Ngọn gió trước

kia hiu hiu thổi từ phía nam và phía đông nam lại, đến đêm lại

thổi về phía đông nam. Ngọn gió đổi chiều bỗng đẩy lùi con tàu

vào hẳn giữa dòng. Tôi như mở cờ trong bụng khi thấy sợi dây neo trong tay tôi bỗng chùng hẳn lại, bàn tay tôi nhúng xuống nước một hồi lâu. Thế là tôi quyết định hẳn. Tôi rút dao ra, dùng răng

mở dao rồi từ từ cắt hết sợi nọ đến sợi kia. Khi dây neo chỉ còn hai

sợi nữa, tôi dừng lại đợi con gió khác đến sẽ làm chùng lại. Lúc ấy

tôi mới tiện phăng đi. Suốt từ lúc đến gần tàu, tôi vẫn nghe tiếng

quát ầm ầm trong buồng tàu. Nhưng lúc đó tôi đang mải nghĩ đến

chuyện khác nên không để ý mấy. Bây giờ ngồi rỗi, tôi mới bắt đầu lắng  tai  chăm  chú  nghe.  Tôi  nhận  được  tiếng  lão  Han,  tên  lính pháo thủ đại bác của Phơ-linh. Còn tên kia chắc là tên giặc mũ đỏ.

Hai đứa đều có vẻ say bí tỉ. Tuy vậy chúng vẫn chén chú chén anh. Một đứa mở cửa sổ đằng sau tàu và ném vật gì xuống biển; tôi đoán là cái chai không. Nhưng không phải chúng chỉ có say mà thôi, chúng còn đang cãi vã nhau kịch liệt. Tiếng chửi rủa luôn mồm; thỉnh thoảng cơn giận dữ của chúng bốc lên làm tôi tưởng chừng  đến  phải  đấm  đá  nhau.  Nhưng  về  sau  tiếng  cãi  cọ  lắng xuống. Chỉ còn nghe thầm thì to nhỏ, rồi bỗng chốc, tiếng xô xát

lại bốc cao lên và cứ thế diễn đi diễn lại mãi không thôi. Trên bờ

đảo, lửa đốt sáng rực qua chòm lá cây. Văng vẳng đưa lại tiếng hát

của  một  đứa  trong  bọn  chúng  đang  hát  một  bài  hát  cổ  của  dân biển. Giọng hát buồn, ảo não, cứ đến cuối câu lại hạ xuống một giọng  trầm  não  nùng,  rồi  kéo  dài  lê thê như không bao giờ dứt.

Giọng hát chán nản buồn nhức xương này, tôi cho rất hợp tình hợp cảnh với bọn giặc vừa bị thất bại chua cay. Gió lại bắt đầu thổi. Chiếc tàu từ từ lùi lại. Sợi dây neo cứ chùng dần, chùng dần. Tôi

cố sức giáng một nhát dao cuối cùng, tiện phăng sợi dây neo làm

hai đoạn. Con tàu từ từ quay hết đầu nọ đến đầu kia trên dòng

nước. Chiếc thuyền của tôi nhè nhẹ xô vào đầu mũi con tàu. Tôi cố

quờ quạng chung quanh vì lúc nào chiếc thuyền độc mộc của tôi cũng  như  sắp  chìm  xuống  đáy  biển.  Tôi  không  thể  nào  giữ  cho thuyền khỏi sát vào thân tàu, nên tôi cứ đẩy nó đi lùi dần về đằng

lái. Cuối cùng tôi đẩy được thuyền ra xa tàu. Khi đẩy ra, tay tôi sờ phải một cái dây lòng thòng đằng sau lái.

Tôi bám lấy sợi dây. Đến bây giờ tôi cũng không hiểu tại sao

lúc ấy tôi lại vớ lấy đầu dây này. Có lẽ đó cũng là vì tình cờ mà thôi. Nhưng sau tôi thấy một đầu dây cột chặt vào tàu nên tôi nảy

ra một ý khác. Tính tò mò thúc giục làm tôi muốn thử ghé mắt nhòm qua cửa sổ xem trong ấy ra sao. Tôi níu tay lần sợi dây, đưa

thuyền đến sát bên tàu; tôi liền đánh đu rướn thẳng người lên;

như  vậy  tôi  có  thể  nhìn  thấy  nóc  tàu  và  một  phần  gian  phòng.

Trong khi ấy con tàu cùng chiếc thuyền độc mộc của tôi cặp kè trôi phăng phăng theo dòng nước đến tận ngang chỗ đống lửa của bọn giặc trên bờ. Sóng vỗ vào mạn tàu dào dạt. Thế mà sao bọn canh

trên tàu vẫn lặng lẽ thản nhiên. Thật là một điều lạ. Nhưng khi nhòm qua cửa sổ thì tôi đã vỡ lẽ. Tôi thấy lão Han và thằng mũ đỏ

đã ôm nhau đấm đá chí tử, thằng nọ đương bóp cổ thằng kia. Nhìn

xong tôi ngồi thụp xuống. Nhưng trong óc tôi vẫn ghi rõ hai bộ mặt

hung ác, đỏ như gấc, lửa giận bốc phừng phừng, đương hầm hè ôm

vật nhau dưới ngọn đèn dầu bốc khói. Tôi nhắm mắt lại để bớt

quáng  và cho  quen  với  bóng  tối. Tôi đương suy nghĩ, thốt nhiên

chiếc thuyền của tôi bị chao hẳn đi. Ngay lúc ấy nó trôi hẳn về phía khác như muốn đổi hướng. Bây giờ nó trôi nhanh gấp mấy

lúc trước. Tôi mở choàng mắt ra...

Chung quanh tôi biển cả ầm ĩ, trập trùng muôn ngàn lượn sóng lấp lánh lân tinh. Cách chỗ tôi vài sải, con tàu cũng đương có

vẻ ngần ngừ, chao đảo. Nhìn kỹ lại, tôi thấy chiếc tàu cũng trôi về phía nam. Ngoảnh lại đằng sau, trống ngực tôi đánh thình thịch.

Chính  sau tôi là đống lửa của bọn giặc trên bờ. Dòng nước chảy

theo hình thước thợ, kéo con tàu lẫn chiếc thuyền con của tôi lềnh

bềnh ào ạt đi ra biển cả. Thốt nhiên, chiếc tàu trước mặt tôi chao nghiêng  hẳn  đi  rồi  quật  sang  hướng  khác.  Lúc  ấy  tôi  mới  nghe thấy tiếng kêu ầm ĩ trên tàu. Nghe thấy tiếng giày nện thình thịch

trên chiếc thang đằng lái, tôi đoán hai thằng giặc đã thôi đánh nhau vì chúng đã nhận thấy sự nguy hiểm. Tôi nằm rạp xuống lòng thuyền, phó thác tấm thân cho sự rủi may. Tôi chắc rằng chỉ

đi xa một chút nữa, những lượn sóng cả bạc đầu sẽ nuốt trửng lấy chiếc thuyền con và chôn vùi tôi xuống đáy biển. Nghĩ đến chết, tôi không sợ lắm, nhưng sao trong người tôi cứ xao xuyến. Tôi nằm như vậy lâu lắm, mặc thuyền lênh đênh trên ngọn sóng. Sương mù

và nước biển làm áo quần tôi ướt đầm. Nhưng lúc ấy tôi chỉ nghĩ

đến chết; tôi chỉ đợi một đợt sóng sắp đến đưa tôi về gặp cha tôi.

Dần dần tôi mệt lả người. Sự lo sợ làm tâm hồn tôi mê mẩn. Về sau tôi ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Tôi mơ tưởng đến quê nhà, đến những người thân, đến cái quán cơm hẻo lánh trên cửa biển.

Tôi thấy bác sĩ Ly, ông Chi đương nhìn tôi vui vẻ. Tôi thấy tiền bạc

để đầy nhà và từng đoàn người nghèo khổ đang kéo đến. Họ đông,

đông vô kể. Đầu họ nhấp nhô, trập trùng, cuồn cuộn như sóng.

CHƯƠNG 20

CHIẾC THUYỀN ĐỘC MỘC LÊNH ĐÊNH

Khi tôi tỉnh dậy thì trời đã sáng bạch. Tôi thấy mình đương trôi lênh đênh ở phía nam hòn đảo. Mặt trời đã mọc nhưng còn khuất sau gò Vọng Viễn; gò ở sát biển và dốc gò dựng đứng. Ngọn

núi Cột Cái đằng mũi bến tàu ở ngay gần tôi. Bờ biển chỗ ấy cao

đến mười lăm, mười sáu mét, lởm chởm những tảng đá lớn.

Tôi chỉ còn cách bờ một phần tư dặm. Mới đầu tôi định bụng chèo thuyền đổ bộ lên đấy. Nhưng chẳng mấy chốc tôi phải gạt bỏ

cái ý định này đi. Ở chỗ ấy, ven biển nhấp nhô những mô đá nhọn hoắt. Từng đợt sóng lớn đổ vào ầm ầm, bọt tung trắng xóa. Nếu tôi

mạo hiểm cho thuyền cập vào, tất không tránh khỏi bị tan xác. Mà

dù có vào được bờ thì cũng chẳng thể leo lên được cái sườn núi đá

dốc đứng ấy. Lại thêm hàng chục con quái vật lổm nhổm bò hàng đàn trên những tảng đá thấp, mình trụi nhớp nháp, to tướng dị thường, vừa bò vừa sủa vang cả hốc đá. Về sau này tôi mới biết

những con vật ấy là giống "sư tử biển" rất hiền lành, chẳng cắn mổ

gì ai cả. Nhưng cứ trông cái hình thù cổ quái gớm ghiếc ấy cũng đủ

làm cho người ta phải thất đảm. Vì thế tôi nghĩ thà lênh đênh chết

đói  trên  mặt  biển  còn  hơn  phải  bước  chân vào đấy. Nhưng may mắn làm sao! Tôi trông thấy ở phía bắc cái doi đất có một bãi đất rộng. Nước thủy triều rút xuống để lộ một dải cát vàng. Quá về

phía bắc một tí, lại có một doi đất khác, thông mọc um tùm nhô ra tận mặt nước. Thế là tôi cố sức men theo dòng nước đáp vào chỗ

doi cát này. Mặt biển êm ả gợn sóng. Gió nam thổi nhẹ xuôi theo dòng nước. Nhờ sóng êm biển lặng, chiếc thuyền con của tôi lặng lẽ

xuôi  dòng.  Tôi  nằm  trong  lòng  thuyền,  liếc  mắt  nhìn  ra  ngoài.

Thỉnh thoảng lại thấy một ngọn sóng biếc nhô lên quá đầu. Nhưng

chiếc thuyền chỉ dồi lên một tí như có lò xo, rồi lại êm ả lướt qua, nhẹ như cánh chim. Một lúc sau, tôi đánh bạo nhổm dậy, cố chèo. Nhưng chỉ hơi nhích mình là chiếc thuyền tròng trành, muốn lật

úp. Nó chúi mũi xuống dưới chân sóng, làm tôi đến choáng váng cả người. Bọt sóng đánh tung cả vào người, làm tôi vừa bị ướt vừa

khiếp đảm. Tôi vội nằm xuống như cũ. Thuyền lại đi êm, dồi tôi từ

ngọn sóng này qua ngọn sóng khác. Như thế đủ biết không thể bắt

nó làm theo ý mình. Nhưng nếu không bơi được thì biết bao giờ mới cập bờ được? Lúc này tuy tôi rất lo sợ nhưng vẫn bình tĩnh, không hề rối trí. Trước hết tôi lấy chiếc mũ thủy thủ đội trên đầu

ra. Tôi tát cạn nước trong thuyền. Rồi tôi lại liếc mắt ra ngoài xem

xét tại sao chiếc thuyền lại có thể lướt sóng một cách bình yên như

vậy...

Tôi nhận thấy rằng mỗi ngọn sóng khi đứng trên bờ hay trên tàu nhìn xuống thì trông chẳng khác gì một khối nước trơn tuột. Đến khi nằm dưới chiếc thuyền con này nhìn lên thì nó lại giống như một rặng núi lởm chởm. Chiếc thuyền độc mộc của tôi cứ tự ý ngả nghiêng rồi lại lách vào những chỗ trũng thấp, tránh những chỗ ngọn cao và cứ thế len lỏi tìm đường vượt qua các làn sóng lớn.

Tôi tự nhủ:

“Được  lắm!  Cứ  nằm  yên  cho  khỏi  tròng  trành,  rồi  thỉnh thoảng, lợi dụng chỗ sóng êm, thò tay qua mép thuyền, chèo vài ba

cái để mau đến bến". Nghĩ xong tôi làm ngay. Thật là vừa nhọc vừa sốt ruột! Tuy vậy nhờ thế tôi tiến rất mau đến doi đất. Nhưng chẳng bao lâu thuyền đã trôi qua doi, đi về phía đông cách bờ đến

vài trăm mét. Có lúc thuyền trôi gần bờ. Tôi đã trông thấy được những ngọn cây xanh lung lay trước gió và tôi cầm chắc thế nào cũng giạt được vào bờ ở doi đất thứ hai. Nhưng cơn khát đến bất ngờ như cào như xé! Phần nắng ở trên giội xuống, phần nắng dưới mặt biển hắt lên, lại thêm áo quần thấm ướt rồi lại ráo, môi khô mặn chát cả muối biển. Tất cả các thứ ấy làm tôi thấy khát bỏng trong cổ họng và choáng váng cả đầu óc. Nhìn thấy các ngọn cây trên bờ, lòng tôi càng nôn nóng. Nhưng dòng nước biển cứ kéo tôi

ra xa mãi và giờ đây, trước mặt tôi là biển cả mênh mông. Nhưng một  cảnh  tượng  mới  vừa  hiện  ra,  làm  tôi  vội  vàng có ngay chủ

định. Ngay trước mặt tôi, cách non nửa dặm, con tàu đứng lù lù,

buồm giong tứ phía. Tôi nghĩ phen này chắc sẽ bị bọn giặc tóm

mất. Nhưng vì cơn khát đương cháy cổ họng, nên tôi cũng không biết  lúc  ấy  nên  vui  mừng  hay nên lo ngại? Còn đương suy nghĩ miên man, thì một hiện tượng bất ngờ làm tôi kinh ngạc, trố mắt

ra nhìn... Con tàu đang giong tất cả buồm lớn buồm nhỏ. Tấm vải trắng lấp lánh sáng ngời dưới ánh nắng. Tàu đang đi về phía tây bắc. Tôi đoán có lẽ giặc giong tàu chạy vòng quanh đảo để về đỗ lại

chỗ cũ. Nhưng một lúc sau, tàu quay dần dần về phía tây: tôi chắc

bọn giặc đã trông thấy tôi nên chúng định đuổi theo. Rồi về sau,

tôi thấy tàu đi vào giữa dòng nước, rồi lại hình như lững lờ không

biết đi ngả nào, cánh buồm ngả nghiêng rủ xuống. Tôi tự bảo:

“Rõ đồ ăn hại! Chắc bọn chúng bây giờ đang say như chết. Ta

có thể lợi dụng cơ hội tốt để dò xét tình hình". Trong khi ấy, chiếc

tàu cứ tự ý trôi, một mình, khi trôi theo luồng gió này, lúc lại trôi theo luồng gió khác. Sau cùng, tôi đoán là con tàu không ai cầm

lái. Nhưng nếu vậy thì người trên tàu đâu cả? Có lẽ bọn chúng đương  say  như  chết, hoặc giả chúng nó bỏ tàu, kéo đi nơi khác

chăng? Tôi nghĩ nếu leo lên được tàu, tôi có thể lái tàu về cho ông

thuyền trưởng. Lúc này dòng nước đưa con tàu và chiếc thuyền

của tôi cùng về phía nam, theo một tốc độ ngang nhau. Nhưng con tàu đi lúc thế này, lúc thế khác, thỉnh thoảng lại dừng lại nên tôi chắc nó không đi nhanh bằng chiếc thuyền con của tôi. Nếu tôi có

thể ngồi lên, chèo thêm một tí là có thể đuổi kịp con tàu. Cái ý định có tính chất mạo hiểm ấy làm tôi thích thú. Nghĩ đến thùng nước ngọt để ở sau lái con tàu, tôi lại càng phấn chấn bội phần. Tôi nhỏm dậy, liền bị ngay một làn nước tạt bắn vào người. Nhưng lần này cẩn thận và khôn khéo hơn, tôi đã chèo được. Có lúc, nước hắt vào  thuyền  nhiều  quá,  tôi  phải  dừng  tay  chèo  để  tát  nước  ra. Những lúc ấy trái tim tôi bổi hổi bồi hồi như con chim non. Nhưng dần  dần,  có  kinh  nghiệm,  tôi  lái  được  chiếc  thuyền  con  theo  ý mình. Nhưng đôi lúc, con sóng lớn lại xô vào mũi thuyền, nước bắn

tung tóe vào mắt mũi.

Cuối cùng, thuyền tôi đuổi theo kịp con tàu. Lúc ấy tôi đã trông thấy rõ được cái ánh đồng trên bánh lái không người điều khiển,  bóng  loáng dưới ánh mặt trời. Trên boong tàu vắng ngắt không thấy một bóng người. Tôi cầm chắc rằng chúng đã bỏ tàu để chuồn đi nơi khác. Nếu không thì chúng cũng say mèm, nằm chết

gí ở dưới hầm tàu. Như vậy tôi có thể nhốt chúng lại và sẽ làm chủ chiếc tàu. Nhưng mỗi bận con tàu dừng lại thì thật là tai hại. Vì mỗi lần như vậy, tất cả các cánh buồm đều bọc gió, rồi kéo tàu trôi phăng phăng. Nhưng lần này trời cũng lại chiều người. Gió bỗng ngớt trong vài giây. Tàu từ từ quay theo dòng nước, đưa đằng lái

về phía tôi. Tôi thấy cửa sổ vẫn còn mở toang, trên tàu ngọn đèn vẫn còn thắp đỏ giữa ban ngày. Cánh buồm to lủng lẳng như lá cờ

rủ. Lúc ấy tàu đứng im, mặc dầu dòng nước vẫn chảy. Con tàu chỉ

còn cách tôi độ một trăm sải thì gió lại bắt đầu thổi. Các lá buồm

bên trái căng phồng lên, con tàu lồng lên, sà hẳn xuống một bên,

rồi quay là là trên ngọn sóng như cánh chim én. Thoạt tiên trông

thấy thế, tôi đã thất vọng, nhưng sau đấy tôi tươi tỉnh hẳn lên: con

tàu trước mặt tôi đang quay hẳn lại, rồi quay một vòng, rồi lại quay lùi một vòng nữa. Cứ thế, con tàu nhích gần lại phía tôi... Tôi

đã có thể trông rõ sóng đánh sủi bọt trắng xóa ở mũi tàu. Đưa mắt nhìn lên, tôi bỗng thấy thân tàu to lớn mênh mông. Trong giây

phút ngắn ngủi này, tôi chợt hiểu rõ tất cả tình thế nguy nan: tính

mệnh tôi như trứng treo đầu đẳng. Số là con tàu vừa nhào xuống

theo một lượn sóng thì chiếc thuyền con của tôi ở đầu một ngọn khác cũng đương vùn vụt lao lại. Trong nháy mắt tôi đã liếc thấy

cái xà buộc buồm nằm ngang đằng mũi tàu ở ngay trên đầu tôi.

Tôi  vụt  đứng  ngay  dậy,  chân  dận  mạnh  vào  thuyền,  rún  mình nhảy lên. Tay tôi vừa vặn bám vào cái xà ngang buộc cánh buồm tam giác, còn chân thì lơ lửng giữa miếng ván và cái trụ. Trong lúc

đang hổn ha hổn hển treo lủng lẳng trên cánh buồm thì tôi nghe ở dưới có tiếng va đánh sầm, tôi biết là chiếc thuyền con của tôi đã đâm vào con tàu và tan ra từng mảnh. Thế là tôi đành phải ở lại trên tàu, không còn con đường nào tháo lui được nữa.

CHƯƠNG 21

TÔI HẠ LÁ CỜ ĐEN CỦA GIẶC XUỐNG

Tôi vừa bám được vào cái đòn buồm đằng mũi thì cánh buồm

vụt quay theo luồng gió khác, đập đùng đùng như tiếng đạn nổ.

Con tàu bị rung chuyển đến tận đáy. Một lát sau, cánh buồm quật

lên một lần cuối cùng rồi buông rủ xuống. Cánh buồm quay ngang

làm  tôi  xuýt  rơi  xuống  biển.  Tôi  vội  vàng  bò  men  theo  cái  đòn

ngang, rồi buông mình để rơi xuống boong tàu. Tôi ở trên sàn tàu đằng mũi, đứng đầu hướng gió. Cánh buồm to trước mặt vẫn căng thẳng che lấp, không cho tôi trông thấy một phần boong sau. Đằng

mũi chẳng thấy bóng một người nào. Sàn tàu không ai cọ rửa từ

khi bọn chúng nổi loạn. Trên sàn gỗ thấy đầy vết chân; một cái

chai  không  đã  gãy  cổ,  lăn  lông  lốc  từ  góc  này  đến  góc  nọ.  Thốt

nhiên tàu đi thẳng vào luồng gió mạnh. Sau lưng tôi, những cánh buồm đằng mũi chuyển động ầm ầm, tay lái kêu răng rắc, con tàu chồm lên dữ dội. Cùng lúc ấy, cánh buồm lớn trên cột cái quay về

sau, ròng rọc kêu rít lên, để lộ rõ cả khoảng boong sau lái. Hai tên canh tàu đều ở đấy cả. Tên giặc đội mũ đỏ nằm ngửa, cứng đờ như khúc  gỗ,  hai  tay  dang  thẳng  thành  hình  thập  ác,  mồm  há  hốc, trông thấy cả răng. Còn lão Han thì ngồi tựa vào bao lơn, đầu rũ xuống ngực, tay chống xuống sàn tàu, mặt mũi bơ phờ tái nhợt. Mỗi lượt tàu nghiêng ngả, tên giặc mũ đỏ bị xô từ góc này đến góc kia; nhưng có một điều khủng khiếp, là dù cho tàu có xô mạnh đến đâu, hắn vẫn nằm sải tay như cũ, hai hàm răng vẫn nhe ra. Tôi thấy trên sàn tàu chung quanh bọn chúng những vệt máu thẫm.

Tôi biết ngay chúng đã thịt lẫn nhau giữa cơn say điên loạn. Tôi đương mở to mắt ngạc nhiên nhìn cảnh tượng ấy thì trời bỗng im gió, con tàu lại đứng yên một chỗ. Lão Han vừa rên vừa cố quay người lại nhưng không gượng nổi, lão lại gục xuống. Những tiếng rền rĩ của hắn, cái mồm há hốc, quai hàm trễ xuống, tỏ ra hắn đau đớn đến cùng độ và đã kiệt sức. Trong một phút, tôi bỗng động lòng thương. Nhưng nhớ ngay lại những lời lão thốt ra mà tôi đã nghe được khi nấp trong thùng lê, tôi chẳng còn thương xót một tí

nào  nữa.  Tôi  bước  xuống  đằng  lái,  đến  ngay  trước  mặt  lão,  gọi

giọng chế giễu:

- Ông Han! Dậy đi! Hắn lờ đờ nhìn tôi, nhưng vì mệt quá nên cũng không thổ lộ được vẻ ngạc nhiên. Hắn chỉ rền rĩ được một tiếng:

“Rượu!". Tôi nhìn hắn và biết hắn không còn sức lực để cử động nữa. Tôi không muốn để mất thì giờ trong lúc này, nên rảo bước ra sau cái cột cái, tránh cánh buồm đương phơ phất trên mặt boong tàu. Tôi lần xuống cầu thang và bước vào buồng tàu. Cả một cảnh tượng hết sức hỗn độn bày ra trước mắt. Những tủ khóa đều

bị chúng nạy tung để tìm tấm bản đồ giấu của. Sàn tàu giây đầy

vết bùn. Chắc hẳn bọn giặc đã đi sục trong các vũng lầy chung quanh khu trại trên bờ của chúng, rồi xuống tụ tập ở đây để uống rượu và bàn bạc. Tôi đi vào trong buồng chứa rượu, thấy đã mất

nhiều thùng. Chúng đã phá ra gần hết. Chai không bỏ ngổn ngang chất đống. Chắc hẳn từ lúc nổi loạn đến giờ, không một đứa nào trong bọn chúng thoát được con bệnh ma men. Lục mãi, tôi mới tìm được cho lão Han một chai rượu đã uống dở; còn về phần tôi,

tôi tìm được bánh quy, ít mứt, một chùm nho lớn và một mẩu phó

mát. Tôi lại trèo lên boong, mang theo các thức ấy lên và đặt vào

đằng sau lái, cách xa chỗ lão Han ngồi. Xong tôi đến thùng nước ngọt, vục đầu vào uống từng ngụm ngon lành. Khi uống đủ rồi, tôi mới  đi  lại  đưa  rượu  cho  lão  Han.  Lão  nốc  một hơi dài, đặt chai

xuống rồi nói:

- Ối chà! Phải có rượu mới được! Tôi ngồi vào một chỗ, bắt đầu ăn.

Tôi hỏi lão:

- Bị thương có nặng lắm không? Lão làu bàu trong cổ họng:

- Nếu có cái anh bác sĩ ấy...  Ở  đây  thì  tôi  đã khỏi hẳn rồi. Nhưng... thật không may! Còn tên kia...

Lão vừa nói vừa chỉ tên mũ đỏ:

- Nó đã chết hẳn... à, còn cậu... cậu ở đâu mà đến được đây? Tôi đáp:

- Tôi đến đây để chiếm lấy chiếc tàu này. Ông Han, ông phải coi tôi như thuyền trưởng cho đến khi có lệnh mới.

Hắn nhìn tôi có vẻ cay độc nhưng vẫn im như hến. Mặt hắn

đã có sắc hồng tuy hắn còn yếu sức lắm. Mỗi lúc tàu nghiêng, hắn

lại ngã giúi giụi. Tôi lại bảo:

- Này ông Han, tôi không muốn thấy lá cờ kia ở trên tàu. Tôi xin phép hạ nó xuống. Thà không có gì hết vẫn còn hơn!

Tôi tránh cái cột ngang lủng lẳng ở cột buồm cái, rồi chạy ra chỗ treo cờ, hạ phăng cờ xuống, quẳng luôn xuống biển. Tôi kêu to lên, tay phất mũ:

- Thôi thế là hết đời thằng thuyền trưởng Xin-ve!

Lão Han vẫn quắc mắt, chăm chú nhìn tôi, nét mặt lầm lì. Lúc sau, lão lên tiếng:

- Ông thuyền trưởng Dim! Tôi chắc bây giờ ông cũng muốn vào bờ. Vậy ta thử nói chuyện với nhau xem!

- Được lắm! Nào ông cứ thử nói đi!

Nói xong, tôi lại tiếp tục ăn rất ngon miệng. Lão chỉ cái xác tên giặc rồi nói:

- Tên kia... hắn kéo buồm với tôi... định cho tàu quay về chỗ

cũ. Thế mà bây giờ... hắn đã chết thẳng cẳng! Vậy bây giờ... ai lái tàu về bến được? Còn... Ông, tôi đã rõ. Nếu tôi không chỉ vẽ, thì ông không thể làm được! Vậy ông hãy nghe lời tôi... Ông cho tôi ăn

uống và cho tôi một mảnh vải cũ, hay chiếc khăn mùi soa, để tôi băng bó vết thương. Tôi sẽ bảo cho ông cách lái... Tôi nghĩ, nói với nhau như vậy... là thực tình.

Tôi nói:

- Tôi muốn nói rõ với ông điều này... Tôi không muốn quay về chỗ tàu đỗ trước đây. Tôi muốn cho tàu vào đỗ ở bến tàu phía bắc, ông nghe rõ chưa?

Lão kêu to:

- Cái ấy đã hẳn... Tôi không đến nỗi ngốc đâu! Tôi đánh lừa một  tí  tẹo...  nhưng  ông  đã  khôn  hơn  tôi!  Bây  giờ...  có  phải  ông muốn tàu vào bến bắc không? Được, tôi xin nghe theo ông... Tôi sẽ giúp ông đưa tàu đến đấy... để rồi tôi bị treo cổ... Nhưng ông cứ tin

ở lời tôi hứa.

Tôi lại điều đình với lão lần nữa. Ba phút sau, con tàu theo

gió đã lướt men theo đảo. Chúng tôi có hy vọng vượt qua doi đất ở

phía bắc trước lúc đứng trưa và sẽ tới bến phía bắc khi nước còn

ròng. Như vậy, có thể yên tâm cập bến, không sợ nguy hiểm. Tôi

buộc tay lái lại rồi xuống phòng tàu mở lấy chiếc khăn lụa của mẹ

tôi cho. Tôi giúp lão Han buộc lại vết dao trên đùi đương há hốc

miệng. Khi đã ăn ít bánh và tợp vài hớp rượu lão đã khác hẳn, lão

trở lại tỉnh táo, ngồi thẳng lên và ăn nói đã dõng dạc hơn. Gió thổi hiu  hiu.  Chúng  tôi  thuận  buồm  xuôi  gió.  Con  tàu  lướt  phăng phăng trên sóng. Chẳng mấy chốc, tàu đã đi qua chỗ bờ biển cao,

đến chỗ doi đất có thông mọc um tùm. Rồi thoáng một cái, tàu lại lướt qua góc đồi lởm chởm đá ở khu đảo phía bắc. Tôi được chỉ huy chiếc  tàu,  lại  được  ngắm  cảnh  trời  quang  mây  tạnh.  Bao  nhiêu điều ấy làm tôi đến sướng mê. Bây giờ tôi lại có đủ thức ăn thức uống,  không  phải  lo  đói  khát.  Lúc  bỏ lô-cốt ra đi tôi vẫn rất ân hận, bây giờ đã đoạt lại được chiếc tàu, tôi tự thấy thật yên tâm.

Có lẽ tôi sẽ được mãn nguyện say sưa đến tột cùng, nếu không có cặp mắt của lão Han cứ nhìn vào tôi chòng chọc. Lão nhìn tôi một cách chế giễu, thỉnh thoảng lão trề môi ra cười. Cái cười của lão cũng  quái gở. Nó lộ vẻ vừa nhọc mệt, đau đớn, nhưng cũng vừa giảo quyệt, gian hùng. Cặp mắt lão cứ hau háu rình tôi trong từng

cử động.

CHƯƠNG 22

LÃO HAN

Thuận gió nên tàu chúng tôi đi nhanh về phía bắc. Chúng tôi

có thể cho tàu thẳng đến bến tàu phía bắc, nhưng vì không nghĩ

được cách làm thế nào bỏ neo và cho tàu đỗ trước lúc nước ròng, nên chúng tôi phải dừng lại đợi. Lão Han bày cho tôi cách làm cho tàu đứng lại. Tôi làm mãi mới được. Xong, tôi với lão ngồi đối mặt

nhau ăn bánh, không ai nói với ai một lời. Sau cùng lão nói, trên môi vẫn giữ cái lối cười đáng ngờ ấy:

- Thưa thuyền trưởng, tôi muốn ông vứt giùm cái xác của tên kia xuống biển. Để thế, trông nó không tiện!

Tôi bảo:

- Sức tôi không làm được việc ấy. Cứ để hắn nằm đấy cũng được, chẳng can hệ gì.

Lão Han vừa nháy mắt vừa nói:

- Chiếc tàu này là một tai họa. Cậu Dim này! Từ lúc tôi với cậu bước xuống chiếc tàu này ở bến Brít-tôn, kể ra đã có bao người

toi mạng! Tôi chưa bao giờ thấy cảnh bi đát như thế. Còn cái tên

kia, nó chết thẳng cẳng rồi! Tôi thì không được học hành thông

thái như cậu. Vậy cậu cho biết một người đã chết là chết hẳn, hay nó còn sống lại ở một nơi khác?

Tôi đáp bâng quơ:

- Biết đâu đấy! Biết đâu cái hồn của tên kia nó chẳng đương nhìn ông đấy!

Lão nói:

- Chao ôi! Nếu vậy thì giết người chỉ thêm nhọc xác, vì hồn

nó vẫn sống mà! Nhưng tôi cho cái hồn cũng không đáng sợ... Tuy

vậy, cậu nói rất phải. Bây giờ tôi nhờ cậu giúp cho một việc. Tôi

nhờ cậu xuống dưới phòng, lấy cho tôi một thứ... một thứ... Chà!

Rõ bực mình! Định nhờ một việc lại nhớ ra một việc khác. Cậu làm

ơn lấy cho tôi ít rượu vang, chứ cái thứ rượu mạnh này đã làm tôi

váng óc lên rồi! Lão nói ấp úng, không được tự nhiên lắm. Lão bảo

lão thích rượu vang hơn rượu mạnh, lại càng không thể tin được. Chẳng qua lão chỉ kiếm cớ thôi! Rõ ràng lão muốn cho tôi đi nơi khác, đừng ở trên boong tàu. Nhưng để làm gì? Tôi cố đoán nhưng

vẫn chưa hiểu được... Cặp mắt lão cứ tránh mắt tôi. Lúc nào lão cũng nhìn quanh nhìn quẩn, hết chỗ nọ đến chỗ kia. Khi thì lão nhìn lên trời, lúc lão lại nhìn xuống xác tên đồng bọn. Lúc nào lão cũng cố gượng cười như muốn che giấu một điều gì bối rối trong lòng. Dù cho là một đứa trẻ con khờ khạo đến đâu, tôi cũng biết được lão đương tính toán ngầm, tìm mưu kế để hại tôi. Tuy vậy,

tôi vẫn cứ tảng lờ như không biết. Vì tôi ở vào cái thế mạnh của tôi

lúc bấy giờ. Vả lại, với một kẻ ngờ nghệch như lão, tôi có thể che

giấu dễ dàng không cho lão biết là tôi ngờ vực. Với thái độ thản

nhiên, tôi hỏi lão ta:

- Rượu vang à? Cũng tốt đấy. Rượu trắng hay rượu đỏ? Thích thứ nào?

Lão đáp:

- Thứ nào cũng được! Đỏ hay trắng, với tôi cũng chỉ là một. Miễn sao cứ cho thứ ngon và nhiều vào...

Tôi nói:

- Thôi được, tôi sẽ mang lên cho ông một chai. Nhưng phải lâu lâu tí đấy. Tôi còn phải tìm.

Nói xong tôi bước xuống cầu thang, nện mạnh gót giày thật

ầm ĩ, rồi tôi cởi giày, cứ chân không chạy vào đường hầm, trèo lên

cầu thang đằng mũi, rồi thò đầu lên chỗ lái. Tôi biết lão ta không

ngờ tôi rình lão ở chỗ đó, nhưng tôi cũng hết sức thận trọng. Và rõ ràng những điều ngờ vực của tôi lúc nãy đối với lão thật quả là đúng...

Tôi thấy lão gắng gượng bò bê, cố cắn răng nhịn đau. Cứ mỗi một  cử  động  là  mặt  lão  nhăn  như  bị.  Nhưng  lão  vẫn  cứ  cố  bò nhanh  qua  boong  tàu.  Chưa  đầy  một  phút  lão  đã  bò  đến  gần những lỗ thông nước trên sàn. Lão thò tay vào một cuộn dây, móc

ra một con dao nhọn, máu dính bê bết tận chuôi. Lão ngắm con

dao một lúc, nghiến răng mím lợi, gại mũi dao vào tay xem có còn

sắc nhọn không, rồi vội vàng thủ vào trong áo; xong lão vội bò về ngồi chỗ cũ. Như vậy là lão Han đã có thể bò đi nơi này nơi nọ; bây

giờ lão lại có khí giới trong tay. Lão phải bỏ công lừa tôi đi khỏi để

lão làm việc này. Không nói thì cũng biết lão âm mưu định khử

tôi. Nhưng giết tôi xong thì lão sẽ làm những gì? Lão có ý định cố

bò lê từ bến phía bắc qua cả vũng lầy để về chỗ trại của bọn chúng

không? Hay là lão sẽ bắn đại bác để báo tin cho đồng bọn đến cứu?

Dù có đoán giỏi đến đâu cũng đành chịu. Tuy vậy, tôi có thể còn

tin cậy ở lão được một điểm, vì điểm này có lợi chung cho cả hai

người: ấy là phải bẻ lái cho tàu chạy. Lão và tôi đều muốn cho tàu

đỗ vào một nơi kín gió và chắc chắn, để rồi khi cần, có thể đưa tàu

ra cho chạy mà không phải khó khăn nguy hiểm. Từ đây cho đến

lúc ấy, tính mạng tôi còn có thể an toàn được. Tôi vừa đi vừa suy

nghĩ. Tôi chạy về phòng, đi giày vào, sờ vào chỗ để rượu, vớ đại lấy một  chai  rượu  vang. Xong đâu đấy tôi xách rượu lên boong. Tôi thấy lão Han vẫn ngồi gục đầu như cũ, mắt nhắm nghiền, làm như

lão  yếu  quá,  không  đủ  sức  chịu  nổi  ánh  sáng  mặt  trời.  Lão  mở choàng mắt ra nhìn rồi rút cuộn thuốc lá trong túi ra, nhờ tôi cắt cho lão một mẩu. Lão bảo:

- Nhờ cậu làm ơn cắt hộ cho tôi một mẩu thuốc, tôi không có dao. Mà dù cho có dao, tôi cũng không còn đủ sức mà cắt... Chà! Cậu Dim ơi! Không khéo tôi sẽ không thấy lại được mặt biển đây! Cậu cắt hộ cho tôi mẩu thuốc. Không dám phiền cậu nhiều đâu. Chỉ một lần này nữa thôi. Rồi tôi sẽ về với ông bà ông vải tôi. Tôi

đã thấy mình sắp gần đất xa trời rồi, không sai đâu!

Tôi bảo lão:

- Được! Để đấy tôi cắt cho. Nhưng nếu tôi mà như ông, nếu

đã thấy mình khó sống, thì tôi sẽ ăn năn sám hối.

Lão hỏi:

- Tại sao thế? Cậu hãy bảo tôi xem tại sao đã nào! Tôi nói to:

- Tại sao à? Thì ông đã tự lừa dối lương tâm ông, ông đã gây

ra bao tội ác, ông đã bội phản, ông đã giết người. Ông còn hỏi tại

sao nữa à? Ông hãy ăn năn sám hối đi để mà chuộc tội với Thượng

đế.

Tôi vừa nói với một giọng hào hứng đầy nhiệt tình, vừa nghĩ đến con dao vấy máu hắn đang giấu trong áo để định chọc tiết tôi. Còn lão, lão vẫn điềm nhiên tợp từng ngụm rượu, rồi nói với một

vẻ trịnh trọng khác thường:

- Đời tôi đã trải qua nhiều năm trời lênh đênh trên mặt biển,

tai đã từng nghe bao điều thiện, ác, hay, dở..., mắt đã từng trông

thấy lúc trời quang mây tạnh, bão táp mưa sa... Vậy tôi xin nói thật với cậu: làm điều thiện chẳng được chút lợi lộc gì! Theo ý tôi,

cứ nhanh tay giết trước chúng đi là tốt: những kẻ đã chết không làm hại ai được nữa!

Đến đây lão đổi giọng:

- Thôi! Đừng nói nhảm với nhau mãi nữa. Con nước đã lên kia. Vậy ông thuyền trưởng, ông hãy theo lệnh tôi đây. Chúng ta

cứ cho tàu đi thẳng một mạch cho xong việc. Thực ra thì chỉ còn

hai  dặm  nữa  là  đến  bến.  Nhưng  quãng  đường  này  rất  khó  đi.

Đường vào bến vừa hẹp vừa cạn. Gió xoay đủ chiều. Phải khéo tay lái lắm mới vào được.

Tôi dám nói tôi là một tay giúp việc đắc lực, và lão Han là một tay thủy thủ thạo nghề. Qua khỏi cửa sông là đất liền bọc ba bên bốn bề. Lão Han nhìn ra chung quanh, bảo:

- Nơi này xinh đẹp, lại vắng lặng, nên cho tàu vào. Tôi hỏi:

- Khi vào có thể bình yên, nhưng khi ra thì làm thế nào?

Lão giảng giải:

- Cậu cứ mang dây cột vào gốc thông kia, một đầu dây khác

thì cho vào trục. Đợi nước lên, ta xô vào kéo, tàu sẽ từ từ lùi ra.

Thôi! Bây giờ coi chừng đấy! Đã gần đến rồi! Đừng đi nhanh quá!

Về bên phải một tí! Thế, được rồi! Về bên phải! Nhè nhẹ chứ! Bây giờ lượn về bên trái, khe khẽ chứ!

Tôi đang chú ý lái tàu nên không lưu tâm đến lão Han như trước. Tôi sung sướng nhìn tàu rẽ nước tiến vào bến nên quên hẳn

sự nguy hiểm đang rình ở bên mình. Có lẽ vì tôi nghe thấy tiếng

động hay tôi thấy thấp thoáng bóng người; hay có lẽ vì bản năng

tự vệ, tự nhiên tôi quay đầu lại: lão Han đang bò lại gần tôi, tay phải cầm lăm lăm con dao nhọn. Khi hai luồng mắt giao nhau, cả

hai đều rú lên một tiếng. Tôi rú lên vì sợ hãi, còn lão rú lên vì sắp

vồ được mồi. Tôi vội né sang một bên, tràn tới trước. Tôi bỏ tay lái

ra, thanh gỗ bật mạnh lại, đánh vào giữa ngực lão làm lão dừng

hẳn lại. Khi lão định trí lại thì tôi đã thoát ra khỏi chỗ lão dồn tôi.

Và bây giờ, tôi có thể chạy khắp boong tàu để tránh lão. Tôi dừng

lại ở trước cột cái, lấy khẩu súng lục trong túi ra. Tuy lão đương

tiến lại gần, tôi vẫn bình tĩnh thong thả ngắm, rồi bóp cò. Cò mổ

xuống  nhưng  không  có  tiếng  nổ,  nước  biển  đã  làm  ướt  mất  bùi

nhùi! Tôi tự mắng tôi về sự cẩu thả ấy. Tại sao tôi không lo lắp đạn từ trước? Nếu tôi biết lo trước thì có đâu đến nỗi bây giờ phải

để  cho  lão  Han  đuổi  tôi  như  mèo  đuổi  chuột!  Tuy  đã  bị  thương nhưng lão còn nhanh nhẹn, tóc lão màu tro rơi lòa xòa trên mặt,

mặt lão đỏ tía lên vì vội vì tức. Tôi không kịp thử khẩu súng thứ

hai của tôi, nhưng biết trước là vô ích. Có một điều là tôi không

nên để cho lão đuổi mãi rồi bị dồn vào chỗ bí như lúc nãy. Đến lúc lão tóm được thì chỉ vài nhát dao là xong chuyện!

Tôi chống tay vào cột cái, đứng chờ lão đến. Thấy tôi định lẩn trốn, lão dừng lại, đứng rình tôi một lúc. Còn tôi, tôi vẫn thập thò định chạy. Thật không khác gì cái trò hú tim tôi vẫn chơi khi xưa,

có điều chưa bao giờ ngực tôi phập phồng đến thế! Nhưng lúc này quả  là  một  trò  chơi  trẻ con mà tôi nắm chắc phần thắng, vì lão

Han đã bị thương nặng. Giữa lúc tôi đang nghĩ như vậy thì con tàu

đâm sầm vào bãi cát, lật về một bên, làm mặt boong nghiêng hẳn,

nước ùa cả về bên cạnh bao lơn. Tôi và lão Han xô vào nhau và cùng ngã lăn chiêng xuống cạnh những lỗ tháo nước trên tàu. Xác

tên giặc mũ đỏ cũng lăn tuột vào chỗ đó. Tôi ngã lăn vào lão Han, đầu đập mạnh vào chân lão. Tuy đau điếng người, nhưng tôi đã

nhanh  chân  đứng  dậy  trước,  vì  lão  còn  vướng  cái  thây  ma.  Rồi

phải tìm ngay ra cách khác để tháo thân. Nhanh như chớp, tôi

bám vào dây buồm phía sau, leo thoăn thoắt lên không kịp thở. Khi đã ngồi đàng hoàng trên cột ngang rồi, tôi mới thở dốc. Nhờ nhanh chân nên tôi đã thoát chết. Khi lão Han vừa vung dao lên,

tôi đã leo vọt lên cao rồi. Con dao cắm phập ngay sát dưới chân tôi. Lão ở dưới trông lên, mồm há hốc, mặt ngây đờ như một pho tượng

gỗ. Bây giờ có thì giờ, tôi liền thay luôn đạn trong súng lục. Muốn chắc chắn hơn, tôi thay cả đạn cho khẩu kia. Thấy tôi làm như

vậy, lão Han cuống cuồng lên. Lão biết sắp sửa thất thế đến nơi;

lão chần chừ một chút rồi cố gắng bám vào dây buồm. Mồm lão

ngậm ngang con dao, tay lão lần lên chậm chạp, coi bộ rất khó nhọc. Thỉnh thoảng, vết thương bị đau nhói làm lão bật lên một tiếng rên. Khi lão leo lên được một phần ba đường dây thì tôi đã

nạp đạn xong vào hai khẩu súng. Tôi cầm mỗi tay một khẩu súng rồi bảo lão:

- Này ông Han! Nếu ông còn nhích lên một bước nữa, tôi sẽ cho ông một phát vỡ sọ!

Rồi tôi nói thêm, vừa nói vừa cười gằn:

- Ông cũng biết đấy! Kẻ đã chết không làm hại được ai đâu!

Lão  dừng lại, không dám leo nữa. Trông mặt lão cũng biết rằng lão đương suy nghĩ lung lắm. Nhưng lão nghĩ ngợi lâu quá, đến nỗi tôi phải bật cười. Cuối cùng, lão bỏ con dao ngậm trong mồm ra, nuốt nước bọt nhiều lần, rồi bắt đầu nói. Trong lúc nói,

nét mặt lão vẫn có cái gì như lưỡng lự băn khoăn:

- Cậu Dim! Tôi nghĩ rằng tôi với cậu, hai người đều gặp sự chẳng may! Tốt hơn hết là nên làm lành với nhau. Nếu tàu không nghiêng, tôi đã tóm được cậu. Nhưng rủi cho tôi quá! Bây giờ tôi đành phải chịu thua cậu vậy! Nhưng cậu hiểu cho. Một tay lão luyện già đời như tôi mà phải thua một đứa bé miệng còn hơi sữa như cậu, kể cũng nhục nhã!

Nghe lão nói, tôi thấy khoái cả người. Tôi đang dương dương

tự đắc như con gà chọi thì thốt nhiên, tôi thấy lão đưa tay về sau. Một vật gì lao vút đến như mũi tên xé gió. Tôi thấy đau nhói ở vai mình. Trong lúc thất thần ấy, và không định tâm một chút nào,

hai khẩu súng trong tay tôi bỗng nổ cùng một lúc và đều rơi xuống

cả! Không những chỉ có súng rơi mà tôi thấy cả lão Han cũng rú

lên một tiếng, rồi buông tay, ngã lộn đầu xuống nước.

CHƯƠNG 23

ĐỒNG ĂN TÁM

Tàu  đổ  nghiêng,  các  cột  buồm  cũng  đều  ngã  nghiêng  trên mặt nước. Tôi vẫn đang ở chót vót trên trục buồm ngang, trông xuống  thấy  rõ  mặt  nước  ở  phía  dưới  con  tàu.  Lúc  nãy,  lão  Han đứng thấp hơn nên đã ngã vào cái quãng giữa bao lơn tàu và tôi. Lão nhô lên mặt nước một lần nữa, người sủi đầy máu và bọt biển,

rồi chìm nghỉm. Lúc sau, khi mặt nước đã yên tĩnh, tôi thấy lão nằm còng queo dưới bóng chiếc tàu nghiêng. Vài ba con cá lội tung tăng quanh mình lão. Đôi khi mặt nước chao động, tưởng như lão cựa quậy chực đứng lên. Thật ra lão đã chết hẳn, vừa bị đạn, vừa

bị sặc nước. Trong lúc này, máu vẫn chảy ròng ròng trên lưng và

trên ngực tôi. Con dao nhọn cắm vào thịt tôi rát bỏng như một

miếng sắt nung đỏ. Tuy vậy nỗi đau đớn về thể xác không làm cho

tôi kinh sợ bằng việc nếu phải rơi xuống mặt biển xanh lè ở cạnh

cái xác lão Han ghê tởm! Ý nghĩ ấy làm tôi phải nhắm nghiền mắt

lại. Nhưng sau đấy, tôi định thần lại, tim bớt đập và trở lại bình tĩnh như thường. ý nghĩ đầu tiên của tôi là phải rút con dao ra. Chỉ nghĩ đến thế, tôi cũng đã rùng mình. Nhưng chính nhờ cái

rùng mình ấy mà tôi được thoát nạn. Con dao thật ra chỉ dính vào

tôi ở lớp da ngoài. Vì thế, tôi mới chỉ rùng mình, con dao đã bật ra

khỏi người. Tuy máu có túa ra nhiều hơn, nhưng lưỡi dao chỉ còn

găm mảnh áo của tôi vào cột buồm mà thôi! Tôi rứt mạnh ra và tụt xuống boong tàu... Đến nơi, tôi buộc lại vết thương. Tôi đưa mắt nhìn quanh. Bây giờ cả chiếc tàu đã về tay tôi. Tôi không muốn ở

trên tàu với cái xác anh hành khách ăn vạ này nữa.

Tôi nghĩ đến việc ném nốt tên mũ đỏ xuống biển. Xác hắn lăn

ra tận bao lơn, nằm sóng soài ở đó. Nhờ thế mà lôi nó đi thì cũng

dễ. Xác chết bây giờ đối với tôi quen rồi, cũng chẳng đáng sợ gì! Tôi kéo nó lên như kéo một bao cám, rồi lấy sức đẩy nó xuống biển. Hắn  đâm  sầm,  rơi  tõm  xuống,  cái  mũ  đỏ  bật  ra  ngoài  nổi  lềnh

bềnh trên mặt nước. Một lát sau, mặt nước trở lại yên tĩnh, tôi thấy xác hắn và xác lão Han nằm cạnh nhau. Hắn tuy trẻ tuổi

nhưng đầu đã hói. Hắn nằm đó, cái đầu hói gối lên đầu gối kẻ đã

giết hắn, một đàn cá lượn nhanh thoăn thoắt quanh mình hai tên

giặc biển. Lúc này, nước thủy triều đã xuống. Mặt trời sắp lặn. Bóng thông ngả dài trên mặt bến và in cả lên sàn tàu. Gió chiều

đã nổi. Tuy đã có ngọn núi hai đỉnh che gió, nhưng gió vẫn còn lồng vào trong các cánh buồm và làm dây buồm kêu cót két. Nhận

thấy  rõ  nguy  cơ,  tôi  vội  tháo  các  cánh  buồm  đầu  mũi,  kéo  tuột

xuống boong tàu. Nhưng còn cánh buồm to thì khó lòng mà tháo ra

được! Khi tàu nghiêng, đầu cột buồm đã ngả ra xa và một phần nhỏ cánh buồm đã bị nhúng nước. Như thế lại càng nguy hiểm. Nhưng buồm đương căng, nên tôi không dám động đến. Sau cùng

tôi  dùng  dao  cắt  các  dây  néo...  Đầu  cột  buồm  ngả  xuống,  cánh buồm phập phồng trên mặt nước. Tôi cố kéo nhưng không chuyển.

Mà sức tôi cũng chỉ đến đấy là cùng. Thôi cũng đành phó thác nó ở đấy rồi có ra sao thì ra. Lúc này, bóng đêm đã trùm cả vũng biển.

Trời đã bắt đầu lạnh. Nước thủy triều xuống nhanh. Chiếc tàu mỗi

lúc một nằm rạp xuống bờ biển. Tôi bò lên đằng trước tàu rồi dòm

xuống. Hình như chỗ này nước cạn. Tôi tụt dần xuống. Nước chỉ ngập đến lưng, mặt cát dưới chân tôi rắn chắc và gợn sóng. Tôi vui mừng lội một mạch lên bờ. Ngay lúc ấy, mặt trời đã tắt. Gió thổi

đìu hiu trong bóng tối, lướt qua những chòm cây thông nghiêng ngả trập trùng. Thế là sau khi một mình ra đi, tôi đã lại trở về, mà không phải về tay không. Chiếc tàu nằm đó, không còn một tên giặc nào ở trên, chỉ còn đợi chở chúng tôi ra biển. Bây giờ tôi chỉ mong chóng về đến lô-cốt để khoe công trạng của tôi cho mọi người biết. Có thể bị quở trách về việc bỏ trốn đi, nhưng tôi đã đoạt lại được chiếc tàu trên tay giặc. Kể ra cũng có thể lấy công chuộc tội. Nghĩ vậy, tôi càng nôn nóng muốn về ngay để gặp mặt mọi người.

Tôi nhớ lại rằng con sông con chảy xuống vũng biển tàu đỗ trước đây bắt nguồn từ trái núi hai ngọn, tôi vội chạy ngay về hướng ấy

để lội qua sông ở nơi đầu nguồn cho được cạn. Rừng không rậm

lắm, tôi đi men theo ven đồi; lúc sau tôi lội qua con sông nước ngập

đến bắp  chân. Thế là tôi đã đến gần chỗ gặp Ben-gun khi trước.

Tôi đi cẩn thận hơn, dò từng bước. Bây giờ đêm đã tối mò. Ra khỏi

chỗ đất trũng ở giữa hai ngọn núi, tôi thấy một tia sáng chiếu rọi

lên trời. Tôi đoán Ben-gun đương thổi cơm tối trên một bếp củi lửa

đỏ rực.

Nhưng bụng tôi rất lấy làm lạ về sự bất cẩn của hắn. ánh sáng bừng lên như thế, lẽ nào bọn Xin-ve đóng ở bên kia lại không trông thấy được? Bóng đêm mỗi lúc mỗi dày đặc. Đường càng khó

đi. Cảnh vật chung quanh bị nhòa trong bóng tối. Chỉ còn vài ngôi

sao thưa thớt lấp lánh trên cao. Thốt nhiên, ánh sáng tràn đến

quanh mình. Ngẩng lên, tôi thấy một vùng ánh sáng xanh lả lướt trên đỉnh gò Vọng Viễn, và lát sau, mặt trăng tròn vành vạnh đã nhô lên sau các thân cây. Hướng theo bóng trăng, tôi vội vã đi nốt

quãng đường còn lại, khi đi, khi chạy. Gần đến nơi, tôi đi thật cẩn thận, vì biết đâu một người trong bọn tôi lại chẳng lầm cho tôi một phát súng đến đi đời! Mặt trăng lên cao dần. ánh trăng chiếu lốm đốm qua cây lá. Ngay trước mặt tôi, thấp thoáng có ánh lửa hồng trong lùm cây. Ngọn lửa có lúc đỏ rực, có lúc tối sầm lại, hình như

lửa của một đống tro tàn chưa tắt hẳn. Đi đến chỗ trống, tôi nhìn

kỹ. Đằng góc phía tây, ánh trăng chiếu sáng rực rỡ. Cả khu lô-cốt còn chìm trong bóng tối. Một vài vệt ánh trăng chiếu ngang qua lô- cốt. Phía bên kia lô-cốt, một đống than hồng hiu hắt. Chung quanh

im lặng như tờ. Chỉ nghe tiếng gió thổi trong lá cây. Tôi đứng lại, vừa ngạc nhiên vừa lo sợ. Xưa nay không bao giờ chúng tôi đốt lửa

to. Lệnh ông thuyền trưởng là phải hết sức tiết kiệm củi. Tôi hồ nghi là có tai biến gì đã xảy ra trong lúc tôi đi vắng. Tôi đi vòng về

mé đông, và dò theo chỗ tối, tôi leo qua bờ rào. Muốn cho chắc dạ,

tôi  bò  nhẹ  nhàng  đến  góc  lô-cốt.  Nhưng  tôi  yên  tâm  ngay.  Tôi

khoan khoái lắng nghe tiếng ngáy đều đều của những người đồng

đội  đương  ngủ  yên  lành.  Giá  vào  lúc  khác  mà  nghe  thế,  tôi  đã

phàn  nàn  về  sự  canh  phòng  không  cẩn  mật,  nhưng  lúc  này  tôi

nghe  tiếng  ngáy  đều  đều  ấy  như  nghe  một  điệu  đàn  du  dương. Nhưng dù sao, canh gác như vậy thì cũng quá cẩu thả. Nếu bọn giặc đến thì không một người sống sót! Tôi tự nhủ:

“Ông thuyền trưởng vừa bị thương nằm xuống là đã ra thế rồi!" Tôi lấy làm hối là đã để các bạn lại trong cơn ngặt nghèo ít người  canh  gác.  Tôi  bò  vào  cửa.  Trong  nhà  tối  như  mực,  chẳng trông rõ vật gì. Tôi quờ quạng hai tay đằng trước, mò vào. Tôi định bụng bò vào ngủ chỗ mọi khi, để sáng mai dậy, thấy mặt tôi, mọi người  phải  một  mẻ  ngạc  nhiên.  Tôi  vấp  phải  cái  chân  của  một người đang ngủ; người ấy trở mình càu nhàu mấy tiếng trong cơn

mê rồi lại ngủ. Thốt nhiên, một tiếng nói the thé vang lên trong xó

tối:

- Đồng ăn tám, đồng ăn tám, đồng ăn tám, đồng ăn tám!

Tiếng ấy cứ kêu mãi, đều đều như tiếng cối xay. Thôi, đúng con vẹt của Xin-ve đây rồi! Nó canh gác còn giỏi hơn người. Thấy

tôi mò vào, nó đã kêu liến thoắng lên để báo động. Tôi còn đương

bối  rối  chưa  kịp  định  thần  lại,  thì mọi người trong nhà đã thức

choàng dậy, đứng phắt lên. Tiếp theo là tiếng Xin-ve quát lớn:

- Ai? Ai?

Tôi vội chạy bổ ra ngoài, chẳng may va phải một người khác.

Tôi lùi lại đằng sau thì lại rơi vào tay một kẻ khác, tên này đã ôm

chặt lấy tôi. Khi đã bắt được tôi rồi, Xin-ve gọi to:

- Đích! Đem đuốc lại đây. Một người chạy vụt ra ngoài, rồi đem ngay một bó đuốc sáng rực vào.

CHƯƠNG 24

TRONG TRẠI QUÂN THÙ

Ánh đuốc sáng rực chiếu rõ căn nhà, làm tôi thoáng nhìn qua

đã hoảng vía. Bọn giặc đã đánh chiếm được khu lô-cốt và cả lương

thực.  Thùng  rượu,  bánh,  mỡ,  thịt  muối  đều  còn  nguyên  chỗ  cũ. Điều làm tôi lo sợ nhất là không thấy tăm hơi một người nào bị bắt. Lúc bấy giờ tôi yên trí là tất cả bọn tôi đã bị giết rồi. Tôi hối

hận vô cùng. Lương tâm tôi cắn rứt vì đã bỏ đồn, không ở lại để cùng  anh  em  đồng  sinh  đồng  tử.  Trong lô-cốt,  có  tất  cả  sáu  tên giặc; chắc chúng chỉ còn sống vẻn vẹn có thế. Năm đứa đứng sừng sững  giữa  nhà,  có  lẽ  chúng  đương  say  vùi,  nhưng  đột  nhiên  bị đánh thức nên trông mặt thằng nào cũng đỏ ngầu, xì xị. Còn một thằng thì nằm chống cùi. Thằng này mặt mũi nhợt nhạt như người chết, cái băng buộc trên đầu hắn còn mới tinh. Tôi chắc tên này là

tên giặc bị thương chạy tuột vào rừng giữa hôm đánh nhau. Con

vẹt đang đứng rỉa lông trên vai gã Xin-ve. Gã trông nhợt nhạt và

nghiêm nghị hơn mọi lần. Gã vẫn mặc bộ quần áo dạ như hôm đến đồn thương lượng. Bộ quần áo bây giờ đã bẩn và bị gai móc rách nhiều chỗ. Gã nói:

- Kìa cậu Dim! Thật là trời run rủi! Tình cờ cậu đến thăm chúng tôi! Thật quý hóa! Nói thế rồi gã ngồi trên thùng rượu, cho thuốc lá vào tẩu xong, gã nói:

- Đích! Đưa mượn bó đuốc! Khi đã châm thuốc xong, gã lại

nói:

- Thôi được rồi! Cắm bó đuốc vào đống củi kia, rồi đi ngủ đi!

ông Dim đây là chỗ thân tình. Ông cũng chẳng bắt lỗi bắt phạt gì

các anh đâu mà sợ. Rồi gã quay lại bảo tôi, vừa nói vừa lấy tay ấn

thuốc trong tẩu:

- Còn cậu Dim! Cậu đến đây làm tôi vừa lo vừa mừng. Từ lúc gặp cậu lần đầu, tôi vẫn biết cậu là người láu lỉnh. Nhưng đến việc này thì tôi không ngờ được... Tôi đứng im không đáp một câu nào. Chúng nó để tôi đứng tựa vào vách. Tôi nhìn thẳng vào gã Xin-ve,

bề ngoài rất bạo dạn, nhưng trong ruột rối như tơ vò. Xin-ve ngồi

yên lặng, thở ra vài làn khói thuốc, rồi nói tiếp:

- Cậu Dim, cậu đã đến đây, tôi xin nói thật cho cậu nghe. Tôi vẫn thú cậu ở chỗ cậu là một người dũng cảm giống in như tôi thời

tôi  còn  niên  thiếu.  Tôi  vẫn  hằng  ao  ước  được  cậu  nhập  bọn  với chúng  tôi,  đồng  cam  cộng  khổ.  Vậy  đây  là  dịp  tốt.  Ông  thuyền

trưởng của cậu tuy là một tay thạo nghề nhưng quá nghiêm khắc.

Còn ông bác sĩ thì cũng đã xỉ vả cậu hết lời. Ông ta bảo cậu là một

thằng tồi, một thằng tệ bạc. Nói tóm lại, họ chán cậu rồi! Nếu cậu không lập riêng một phe - mà người đâu mà lập - thì chi bằng cậu

cứ nhập bọn quách với thằng Xin-ve này!

Tôi tự nhủ:

“Tốt lắm! Như vậy là cả bọn tôi còn sống..." Tuy tôi có tin một phần nào  ở lời Xin-ve về việc bác sĩ oán giận tôi khi tôi bỏ trốn, nhưng tôi không lo, mà lại rất vững bụng. Xin-ve lại bảo:

- Không nói thì cậu cũng biết, cậu đương ở trong tay bọn tôi. Nhưng tôi thích làm cho cậu vỡ lẽ phải trái hơn là dọa nạt. Nếu cậu thuận thì ở, mà không thích ở thì đi, cậu cứ cho biết!

Trong khi nói một cách mỉa mai như thế, gã đã lộ ngầm cái ý dọa giết tôi. Tôi hỏi gã, giọng run run:

- Tôi có phải trả lời ngay không? Gã bảo:

- Hãy khoan, hãy nghĩ cho kỹ đã... Không ai thúc giục cậu

đâu!

Dần dần tôi đâm ra bạo, tôi hỏi lại:

- Dù muốn theo ai đi nữa, thì các ông cũng phải cho tôi biết

sự thực: Tại sao các ông lại ở đây, và bọn tôi bây giờ ở đâu?

Một  tên giặc buột mồm định nói xen vào, nhưng Xin-ve đã quát im. Rồi gã dịu giọng nói:

- Sáng hôm qua, bác sĩ Ly cầm một lá cờ trắng đến chỗ chúng tôi và nói:

“Thuyền trưởng Xin-ve, ông đã bị họ phản. Tàu đã mất rồi!". Chắc bọn chúng tôi mải mê rượu chè nên mới sơ ý. Đến khi nhìn

lại thì ôi thôi, chiếc tàu đã biến đi đâu mất! Thật là xấu hổ và

nhục nhã. Bác sĩ bảo:

“Thôi, chúng ta thương lượng với nhau đi!" Thế là chúng tôi

thương lượng. Các ông ấy chịu nhường lại cho chúng tôi tất cả, cả

đồn, cả củi, cả thức ăn. Còn các ông ấy, các ông ấy kéo đi đâu thì có trời biết!

Gã ngồi bình tĩnh hút thuốc lá rồi lại tiếp:

-  Để  cho  cậu  yên  tâm,  tôi  cho  cậu  biết  là  cậu  không  dính dáng gì vào việc này cả. Khi tôi hỏi:

“Bên ông còn lại mấy người?" Bác sĩ đáp:

“Còn bốn, một bị thương. Còn thằng bé con thì tôi không biết

nó ở đâu. Thôi ở đâu thì ở, mặc xác nó!" Đấy, bác sĩ đã nói với tôi

như vậy đấy!

- Thế là hết?

- Phải, thế là hết!

- Bây giờ tôi phải chọn... chứ gì?

- Cậu cứ chọn, không sợ gì nữa!

Tôi bỗng đứng thẳng người lên, nói một mạch:

- Tôi không phải là thằng ngốc mà không hiểu được bọn ông định làm gì tôi! Nhưng gì thì gì, tôi cóc cần! Tôi phải nói với các ông  một  vài  điều.  Trước  hết  là  bọn  các  ông  đương  lâm  vào  thế nguy: tàu mất, của mất, người mất. Các ông hoàn toàn thất bại. Vậy ông có muốn biết ai gây ra những việc ấy không? Tôi, chính

tôi. Chính tôi đã ngồi nấp trong thùng lê, đã nghe các ông bàn bạc

và đã báo ngay cho bọn tôi. Chính tôi đã cắt dây buộc tàu. Chính

tôi đã giết chết hai thằng giữ tàu, và cũng chính tôi đã lái tàu giấu

vào một nơi kín mà bọn ông không một ai có thể biết được! Chính

tôi là người ở tay trên các ông, từ đầu đến cuối. Tôi coi các ông bất quá như ruồi muỗi mà thôi. Bây giờ, giết hay để là tùy ông! Nhưng

có một điều tôi muốn cho ông biết, là nếu ông không giết tôi thì tôi

sẽ quên tất cả việc đã qua. Khi ấy ra tòa, tôi sẽ hết sức cứu ông. Giết đi một cách vô ích hay để lại để sau này làm chứng cho khỏi

bị treo cổ, cái ấy là tùy ở ông! Tôi dừng lại, vì tôi nói đã muốn hụt hơi. Tôi lấy làm lạ về việc trong bọn chúng không có một đứa nào

nhúc nhích. Chúng đứng nhìn tôi như một đàn cừu. Khi ấy, tôi lại

nói:

- Ông Xin-ve! Tôi coi ông là người khá nhất ở đây. Nếu tôi có

việc gì, tôi nhờ ông nói hộ lại với bác sĩ Ly những việc tôi đã làm...

Xin-ve đáp lại, giọng gã rất lạ, không hiểu ý gã muốn mỉa mai tôi hay gã cảm phục trước thái độ can đảm của tôi:

- Tôi sẽ nhớ lời cậu dặn.

Ngay khi ấy, tên thủy thủ già tên là Mo-gan mà tôi đã gặp một lần trước đây ở trong hàng cơm của Xin-ve tại bến Brít- tôn

vội kêu to:

- Chính hắn! Chính hắn đã nhận ra thằng Hắc Cẩu... Một giọng khác kêu to:

-  Lại  cũng  chính  hắn  đánh  cắp  cái  bản  đồ  của  thằng  Bin! Quanh đi quẩn lại, chúng ta đều bị thằng nhãi con này đánh lừa!

- Đây... để tôi cho hắn nếm cái của này!

Mo-gan vừa nói vừa càu nhàu chửi. Hắn nhảy xổ lại, rút soạt dao  ra,  nhanh  nhẹn  như  một  thanh  niên  hai  mươi  tuổi.  Xin-ve quát to:

- Hãy khoan đã! Anh làm gì ở đây, Mo-gan? Bộ anh tưởng anh là thủ lĩnh ở đây hả! Anh cứ thử trái lệnh tôi, anh sẽ biết tay

tôi. Ba mươi năm trời nay, kẻ nào đã trêu vào tay này thảy đều

nát thây và đều làm mồi cho cá biển. Không thằng nào bướng với

tôi mà toàn mạng được đâu! Mo-gan, anh có thể tin lời tôi nói...

Mo-gan chùn lại, nhưng những tên khác vẫn xì xào. Một tên

nói:

- Mo-gan làm đúng đấy!

Một tên khác nói thêm vào:

- Tôi đã để người ta bắt nạt nhiều rồi! Thà tôi chịu chết treo

cổ còn hơn để cho họ bắt nạt tôi lần nữa.

Xin-ve ngồi ngả người trên thùng rượu, tay cầm tẩu thuốc lá. Hắn gầm rít lên:

- Nào, còn ai muốn nói cái gì nữa nào? Nói gì, cứ nói cho hết

đi! Các anh câm hả? Kẻ nào muốn gây chuyện với tôi, sẽ được biết

ngay... Tôi đã sống từng này tuổi đầu rồi mà còn để cho một thằng

say quèn làm nhục tôi à? Nào, tôi đợi đấy! Kẻ nào dám vác dao đến

thì tôi tuy què quặt, nhưng cũng quyết moi gan hắn ra xem thử to

hay nhỏ!

Không  một  tên  nào  dám  hó  hé. Xin-ve lại ngậm tẩu thuốc

vào mồm rồi nói:

- Các anh chỉ là đồ tồi! Khi nói đến chuyện đánh nhau, các anh chỉ biết rụt cổ lại! Các anh đã bầu tôi làm thuyền trưởng, vì

xét ra tôi hơn hẳn các anh, các anh phải tuân lệnh tôi chứ! Tôi bảo cho các anh biết, tôi rất mến thằng bé này. Thật là một đứa bé có

một không hai. Nó còn hơn cả bất kỳ một kẻ hèn nhát nào trong

bọn các anh: Kẻ nào động đến nó, coi chừng! Mọi người đều im thin

thít. Tôi vẫn đứng tựa vào tường, lòng hồi hộp nhưng cũng lóe lên một tia hy vọng. Xin-ve tựa lưng vào tường, hai tay khoanh trước ngực, miệng ngậm tẩu thuốc, thái độ bình tĩnh một cách lạ lùng.

Mắt hắn vẫn không rời bọn thủ hạ bướng bỉnh của hắn. Bọn kia

lùi dần về đằng góc lô-cốt, tiếng bàn bạc rì rầm. Thỉnh thoảng có

thằng ngóc đầu lên nhìn Xin-ve. ánh đuốc soi hồng nét mặt gân

guốc của chúng. Xin-ve nhổ toẹt một bãi nước bọt ra xa rồi nói:

- Có điều gì nói thì cứ nói đi! Không nói thì ngồi im! Một tên đáp lại:

- Xin lỗi ông, tôi xin nói. Ông đã phá luật. Bọn tôi đương bất bình đây. Bọn chúng tôi không muốn để ai bắt nạt. Chúng tôi có quyền của chúng tôi. Theo luật, chúng tôi có quyền bàn bạc với nhau. Xin lỗi ông, tôi vẫn nhận ông là thuyền trưởng của chúng tôi trong lúc này. Chúng tôi xin phép ra ngoài kia để họp một tí...

Nói xong, hắn lễ phép giơ tay lên chào rồi bước ra. Những đứa khác đều làm theo hắn. Cuối cùng, bọn chúng ra hết, bỏ lại Xin-ve với ngọn đuốc bập bùng. Xin-ve bỏ tẩu thuốc lá xuống, hạ giọng, nói chỉ vừa đủ tôi nghe:

- Này cậu Dim! Cậu thấy không? Suýt nữa chúng thịt cậu đấy! Nhưng tệ hơn nữa là chúng sẽ tra tấn hành hạ cậu... Giờ đây chúng lại sắp hất cẳng tôi đấy! Nhưng cậu nhớ cho, tôi sẽ không bỏ cậu. Thú thật khi cậu chưa nói, tôi chưa định cứu cậu đâu! Nhưng nghe cậu nói rồi, tôi tự nghĩ:

“Cậu Dim là người tin được! Bây giờ hãy cứu lấy Dim, sau này Dim sẽ cứu lại ta. Dim là chỗ dựa cuối cùng của ta mà ta cũng

là chỗ dựa của Dim. Hãy cứu lấy người làm chứng cho ta, sau này

nó sẽ cứu ta thoát chết".

Bắt đầu hiểu ra câu chuyện, tôi hỏi:

- Thế ông nghĩ thế nào?

- Tôi nghĩ, tôi đã thất bại hẳn rồi, tôi đã nản lắm rồi! Còn cái

bọn  kia  cũng  không có gì đáng ngại... Tôi sẽ hết sức cứu cậu ra

khỏi nanh vuốt của bọn chúng. Nhưng tôi cứu cậu, cậu phải cứu

lại tôi. Cậu đừng để cho thằng Xin-ve này phải bị treo cổ.

Nghe hắn nói, tôi rất bối rối. Làm thế nào mà cứu được một tên giặc già đầy tội ác như vậy khỏi chết được! Tôi đáp:

- Giúp được gì cho ông, tôi sẽ giúp...

- Đó là lời hứa danh dự của một người đứng đắn.

Nói xong, hắn tập tễnh đi châm thuốc hút, rồi trở lại nói:

-  Tôi  nói  thật  với  cậu.  Bây  giờ  tôi  đứng  về  phe  ông  Chi. Những việc cậu làm, tôi không cần hỏi. Nhưng tôi tin ở cậu. Tôi tin

ở sự nhận xét của tôi. Tôi biết người biết của. Chao ôi! Cậu còn trẻ lắm! Cậu và tôi, một già một trẻ, chúng ta còn làm được nhiều việc

to tát!

Hắn lấy ít rượu trong thùng ra uống. Rồi hắn nói:

- À cậu Dim, tiện đây tôi muốn hỏi cậu, tại sao bác sĩ Ly lại giao cho tôi bức bản đồ chỉ chỗ giấu kho vàng?

Thấy tôi ngạc nhiên, hắn nói lảng:

- Chắc có điều gì bí ẩn ở bên trong. Nhưng không biết điều lành hay điều dữ!

Nói xong hắn lại tợp một ngụm rượu. Rồi hắn lắc lư cái đầu tóc vàng bệch như đón đợi một điều gì không lành.

CHƯƠNG 25

LẠI CÁI VẾT ĐEN

Bọn  giặc  đứng  họp  ở  ngoài.  Thốt  nhiên  một  đứa  chạy  vào mượn bó đuốc. Xin-ve đồng ý. Tên kia xách đuốc ra, để lại chúng

tôi ngồi trong xó tối. Ngồi mãi tôi đi đến lỗ châu mai cạnh đấy, nhìn ra ngoài. Bọn chúng đứng họp ở góc đồi. Đống tro đã tàn. Một đứa đứng cầm bó đuốc vừa mang ra. Một đứa nữa quỳ ở giữa, tay cầm con dao lấp lánh. Những đứa khác đứng khom lưng nhìn vào

tên cầm dao. Tôi chỉ có thể nhìn thấy tên này đương cầm một cuốn

sách. Tôi đương tự hỏi, làm sao bọn chúng lại có cái của lạ ấy thì

tên quỳ giữa đã vụt đứng lên, rồi cả bọn kéo nhau vào. Tôi nói:

- Chúng vào rồi kìa! Xin-ve bảo:

- Cho chúng vào! Cho chúng cứ nắm đằng lưỡi, tôi còn giữ cái chuôi đây!

Khi  cánh  cửa  mở,  cả  bọn  ùa  vào;  chúng  đẩy  một  đứa  lên trước. Tên này rụt rè tiến lên từng bước một, tay phải nắm chặt đưa ra đằng trước. Xin-ve quát to:

- Cứ lại đây! Không ai ăn thịt anh đâu mà sợ!

Tên giặc bạo  dạn  bước  lại  gần,  giúi  vội  vào  tay Xin-ve một vật gì rồi vội bước lui về. Xin-ve cúi xuống nhìn rồi bảo:

- Cái vết đen! Tôi đã biết mà! Các anh muốn báo hiệu trước

để xử tội tôi. Các anh lấy giấy này ở đâu ra? Chết chửa! Các anh

đã xé giấy ở một quyển kinh thánh để làm cái vết đen. Thật là

điềm chẳng lành! Sao dại dột thế?

Mo-gan nói:

- Biết ngay mà! Tôi đã bảo mà! Xin-ve nói tiếp:

- Các anh đã làm thì các anh phải chịu lấy. Thằng ngốc nào

lại đưa quyển kinh thánh ra thế này? Một tiếng đáp:

- Đích đấy! Xin-ve hỏi:

- Thật Đích không? Thế thì cầu nguyện đi!

Nhưng đến đây, cái thằng mắt vàng tên là Giót đã đứng ra

nói:

- Thôi đừng nói phiếm nữa! Chúng tôi đã họp và đã gửi cho

ông cái vết đen. Ông cứ đọc đi rồi hãy nói chuyện.

Xin-ve đáp:

- À, anh Giót. Tính anh bao giờ cũng thích nhanh nhảu. Chữ anh viết ở giấy đây phải không? Chữ tốt lắm! Chà! Bây giờ anh trở nên một tay lỗi lạc trong anh em rồi. Có lẽ anh sẽ lên làm thuyền trưởng! Này, nhờ anh đưa hộ bó đuốc. Cái tẩu thuốc lá này cứ tắt luôn!

Giót nói:

- Thôi ông đừng có đùa nữa! Không ai phục ông đâu! Xin-ve trả lời một cách khinh bỉ:

- Anh nói như đứa con nít. Tôi bảo cho anh biết: bây giờ tôi vẫn là chủ của anh. Cái vết đen của anh chỉ đáng giá nửa đồng xu. Bao giờ các anh đưa lý lẽ ra rồi hẵng hay. Giót đáp:

- Lý lẽ đây: điều thứ nhất, ông đã làm cho việc tìm của này bị hỏng! Điều thứ hai, ông đã thả cho kẻ thù đi khỏi nơi này. Tại sao

họ đi? Có giời mà biết! Điều thứ ba, ông ngăn cản không cho chúng

tôi đuổi theo họ khi họ rút lui. Chao ôi! Chúng tôi đã rõ ông là

người  ăn  ở  hai  lòng. Và sau cùng, điều thứ tư, là chuyện thằng

nhãi con này...

Xin-ve hỏi một cách bình tĩnh:

- Có thế thôi, phải không? Giót đáp:

- Từng ấy cũng đủ quá rồi! Chúng tôi có bị treo cổ cũng chỉ vì cái lối đòn xóc hai đầu của ông!

- Được! Bây giờ các anh hãy nghe tôi trả lời. Các anh bảo tôi làm hỏng việc. Tất cả các anh ở đây đều biết dự định của tôi. Nếu

làm theo lời tôi nói thì bây giờ có phải mọi người đều không ai

thiệt mạng mà giàu sang phú quý rồi không? Nhưng ai gây ra tai

hại này? Ai bắt tôi phải bỏ dự định ấy? Ai nóng ăn làm hỏng việc?

Ai? Ai tước quyền thuyền trưởng của tôi trao cho tôi cái vết đen

giữa hôm lên bộ? Ai bắt tôi làm cái trò múa rối ấy? Chính An-đe-

sơn, lão Han và Giót chứ còn ai? Bây giờ trong ba đứa, chỉ còn hắn sống sót mà hắn còn lếu láo, dám khua môi múa mép ư?

Xin-ve ngừng lại. Nhìn sắc mặt tên Giót và cả bọn chúng, tôi biết lời nói của Xin-ve đã có hiệu quả. Mo-gan kêu lớn:

- Thế còn những điều khác, nói nốt đi! Xin-ve lau mồ hôi trán rồi nói tiếp:

- Còn cái điều về cậu bé này, tôi nói cho anh nghe... Cậu bé chả là con tin đó sao? Các anh có biết việc của chúng ta hỏng đến mức nào không? Chỉ vì ba tên khốn nạn ấy mà chẳng mấy chốc chúng ta đều bị treo cổ lên cả! Nghĩ đến chuyện ấy, có lúc tôi cứ đờ đẫn cả người. Trong lúc thập tử nhất sinh như vậy, thì bắt được cậu bé này. Thực là phúc lớn. Cậu ấy là vật bảo mạng cho chúng

ta. Thế mà các anh đòi giết nó đi. Không! Tôi không làm được việc

ấy! À còn điều thứ ba. Này tôi hỏi thật! Anh Dôn, đầu anh chưa vỡ

toạc đấy à? Cả anh Giót nữa! Cách đây sáu giờ, chả phải anh lên

cơn sốt run bần bật, mặt bây giờ vẫn còn vàng nghệ đấy không? Có

lẽ các anh không cần một ông thầy thuốc chính cống hằng ngày

đến thăm bệnh và cho thuốc các anh phỏng? Còn cái điểm thứ hai

vì sao tôi thỏa thuận điều đình với họ. Thế việc này chả phải chính

các anh đến quỳ gối trước mặt tôi, van xin tôi làm việc ấy cho các

anh, vì tinh thần các anh đã quá tan rã rồi không? Mà lúc ấy nếu

tôi không làm, các anh đã chết đói tất! Nhưng những việc nhỏ mọn

ấy cũng chẳng đáng kể đâu. Cái lý do chính là cái này đây!

Hắn  nói  thế,  rồi  ném  luôn  xuống  đất  một  mảnh  giấy.  Tôi nhận ra ngay đó là bức bản đồ màu giấy cũ đã ố vàng, trên có vạch

ba chữ thập đỏ mà tôi đã lấy ở dưới đáy hòm của tên Bin khi xưa.

Tại sao bác sĩ Ly lại giao cho hắn bức địa đồ ấy? Đó là điều tôi

không hiểu thấu...

Bức bản đồ vừa đưa ra đã làm bọn giặc ngạc nhiên đến hoa mắt! Chúng nhảy xổ vào tấm bản đồ như một lũ mèo vồ một con chuột nhắt. Rồi cái bản đồ được chuyền từ tay nọ sang tay kia, hết thằng này giật đến thằng khác giật; được xem tận mắt rồi, chúng

hò hét, chửi thề, rồi cười hí hửng với nhau như trẻ con, tưởng như

bọn chúng đã sờ thấy được vàng trong tay rồi, và đã chắc chắn

mang vàng lên tàu, ung dung đi ra khơi vậy... Một đứa nói:

-  Đúng  rồi!  Chính  bản  đồ  của  Phơ-linh,  chính  chữ  ký  của

Phơ-linh đây!

Giót nói:

- Tốt lắm! Vàng có đấy, nhưng tàu không có nữa thì lấy cái đếch gì mà mang đi?

Xin-ve quay lại nhảy xổ lên, quát to:

- Câm cái mồm đi, không có tôi vặn cổ bây giờ! Làm thế nào mang đi à? Cái đó, phải hỏi ở anh và cả bọn anh đã đánh mất chiếc

tàu ấy! Nhưng anh cũng chỉ là một thằng vô dụng thôi. Trí óc anh cũng chả hơn gì trí óc một con gián. Anh đã để mất tàu, anh còn nỏ

mồm hỏi một cách hỗn xược như thế hả? Thật quá lắm!

Mo-gan tỏ đồng tình:

- Xin-ve nói đúng đấy! Xin-ve bảo:

- Đúng đứt đi chứ lị! Bọn anh thì để mất tàu, còn tôi thì tìm

ra kho của. Như thế thì hỏi ai hơn ai? Thôi bây giờ tôi từ chức mẹ

nó đi cho xong. Mặc các anh muốn bầu ai làm thuyền trưởng thì

bầu! 155 156.

Tất cả đồng thanh kêu lớn:

- Xin-ve! Xin-ve vẫn làm thuyền trưởng! Xin-ve hỏi to:

- Thật thế chứ? Giót, thôi anh đợi lần khác vậy. Cũng may cho anh là tính tôi không hay thù vặt. Các bạn! Còn cái vết đen này, bây giờ nó còn giá trị gì nữa không? Vô ích chứ! Chỉ có Đích

đã làm hỏng quyển thánh kinh, nên nó sẽ tự mang lấy họa.

Đích lo lắng hỏi:

- Bây giờ phải làm thế nào?

Nói xong hắn cứ bo xo bắn xắn trong người. Xin-ve ném cho tôi mảnh giấy cầm ở tay và bảo:

- Cậu Dim! Tôi cho cậu xem cái của lạ này!

Đó  là  một  mẩu  giấy  có  một  mặt  trắng  vì  nó  ăn  vào  trang

cuối; còn mặt kia có vài câu sách kinh thánh. Trên mặt chữ in bị

than  xóa  lem  nhem.  Bên  mặt  giấy  trắng  có  mấy  chữ  "Trao  tận tay", cũng viết bằng than. Thế là câu chuyện đêm hôm ấy chấm dứt. Mọi người uống rượu rồi đi nằm. Tôi cứ nằm thao thức mãi

không chợp mắt được. Còn Xin-ve thì vẫn bình tĩnh đánh một giấc ngon lành.

CHƯƠNG 26

GIỮ ĐÚNG LỜI HỨA

Tôi  thức  dậy  lúc  mọi  người  cũng  vừa  tỉnh  giấc.  Ngay  tên canh gác đang mệt mỏi tựa lưng vào tường cũng vụt đứng thẳng

lên vì có một tiếng gọi sang sảng từ trong rừng ra:

- Ê! Các người ở trong lô-cốt! Bác sĩ đã đến đây!

Mà  quả  đúng  là  tiếng  bác  sĩ.  Nhận  ra  tiếng  ông,  tôi  nửa mừng nửa lo. Nhớ đến hành động vô kỷ luật của mình đã tự dấn thân vào vòng nguy hiểm để đến nỗi giờ đây phải sa vào tay bọn giặc, tôi thấy hổ thẹn, không dám nhìn ra hướng bác sĩ. Có lẽ bác

sĩ phải dậy từ khuya, vì lúc ông đến đây, trời mới hưng hửng sáng, sương mù trên đất còn che kín cả hai chân. Xin-ve cũng vừa tỉnh dậy. Gã tươi tỉnh nói to, dáng điệu từ tốn hiền hòa:

- Bác sĩ đấy à? Xin kính chào ngài! Ngài đến sớm quá. Nào, Giót, dậy chạy ra đỡ bác sĩ qua rào một tí!

Xin-ve đứng trên đỉnh đồi, một tay chống nạng, một tay dựa vào tường, điệu bộ hệt như khi hắn còn làm bếp tàu. Hắn lại nói:

-  Chúng  tôi  có  một  việc  này,  chắc  làm  cho  ngài  phải  ngạc nhiên. Chúng tôi mới có một người khách đến trọ, một cậu bé... hì, hì... cả đêm cậu ta ngủ khì bên cạnh tôi.

Lúc  ấy  bác  sĩ  đã  vào  trong  và  đang  đứng  gần  Xin-ve.  Tôi nghe tiếng bác sĩ hỏi, giọng khác hẳn:

- Dim phải không?

- Chính cậu Dim!

Bác sĩ dừng ngay lại, không nói một lời. Lát sau ông mới bảo:

-  Được,  được!  Nhiệm  vụ  trước  đã,  rồi  hãy  trò  chuyện  sau. Thôi, ta đi thăm người ốm đã.

Ông bước vào nhà và bắt đầu đi khám bệnh. Tuy ông biết đứng giữa bọn quỷ sống này, tính mạng của ông như nghìn cân

treo đầu sợi tóc, nhưng hình như ông không hề sợ chút nào! ông

nói chuyện với những tên giặc ốm chẳng khác gì đi thăm con bệnh

ở nhà. Tôi cho là thái độ của ông đã làm bọn chúng phải phục. Vì

tôi thấy bọn chúng đối với ông như không có chuyện gì đã xảy ra,

hình như ông vẫn là vị thầy thuốc của chúng khi còn ở trên tàu.

Ông bảo tên giặc trên đầu có buộc băng:

- Anh đã khá rồi! Từ xưa đến nay, với những người bị vết thương như anh, tôi thấy có lẽ chỉ có anh là thoát chết. Cái đầu anh có lẽ rắn hơn sắt. Thế nào Giót, khá chưa? Nước da anh còn xấu lắm! Anh đã uống thuốc chưa? Hắn đã uống chưa, các anh?

Mo-gan đáp:

- Thưa ông, hắn uống rồi ạ!

Bác sĩ lại nói, giọng vừa hài hước vừa thân mật:

- Các anh xem, từ khi tôi chữa bệnh cho các anh, tôi vẫn cố gắng, không để cho Tổ quốc mất một người dân nào, hay nói đúng hơn, tôi không để cho cái giá treo cổ kia làm mất đi một tội nhân nào!

Bọn giặc liếc mắt nhìn nhau, không dám hé răng nói lại một lời. Một đứa trong bọn nói:

- Đích nó cũng đang thấy trong mình khó ở... Bác sĩ đáp:

- Thế à? Đích, lại gần đây! Thè lưỡi ra xem nào. Lưỡi thế này mà! Lại sốt rét rồi đấy!

Mo-gan nói:

- Thôi phải rồi! Tại hắn xé sách kinh thánh đấy... Bác sĩ đáp:

- Tại, tại cái gì? Tại các anh đều là giống lừa! Các anh không biết thế nào là khí lành khí độc, thế nào là đất khô ráo với đất bùn thối rữa! Các anh còn khổ chán với cái bệnh sốt rừng này! Có ai đi chọn một vùng lầy mà ở không? Đến cả anh Xin-ve mà cũng khờ đến thế! Kể ra anh còn khá hơn bọn họ, nhưng tôi xem ra anh cũng chẳng biết một tí gì về phòng bệnh cả!

Khi bác sĩ chia thuốc uống cho mọi người, đứa nào cũng theo

lời ông dặn một cách ngoan ngoãn và khúm núm đến buồn cười!

Bác sĩ nói:

- Hôm nay thế là xong! Bây giờ tôi muốn nói với cậu bé này vài câu.

Tên Giót đứng ở ngoài đương khạc nhổ một thứ thuốc gì hình như đắng lắm. Nghe bác sĩ nói thế, hắn vội kêu to:

“Không được!"

Xin-ve vỗ tay xuống thùng rượu, quát lớn:

- Câm mồm ngay!

Rồi hắn quay lại bác sĩ, giọng ôn tồn:

- Thưa bác sĩ, tôi cũng đã nghĩ đến điều ấy! Tôi biết bác sĩ rất mến cậu bé này. Còn chúng tôi thì rất đội ơn bác sĩ đã rộng lòng săn sóc chữa bệnh cho chúng tôi. Chúng tôi rất tin ở bác sĩ. Bác sĩ đưa thuốc gì, chúng tôi cũng uống cả. Còn cậu Dim... cậu có hứa

với tôi một lời không? Tôi biết cậu tuy con nhà nghèo, nhưng khí khái như một người quân tử. Cậu có hứa với tôi là cậu không trốn

không?

Tôi vội hứa ngay là tôi không trốn. Xin-ve lại nói:

- Thưa bác sĩ, xin mời ngài cứ đi ra ngoài kia. Tôi sẽ dắt cậu

bé ra sau. Tôi nghĩ ngài có thể nói chuyện với cậu ấy qua bờ rào.

Thôi, kính chào ngài và xin gửi lời kính chúc ông Chi và thuyền

trưởng được mạnh.

Khi bác sĩ vừa bước ra khỏi, tất cả bọn giặc đứng lên nhao nhao phản đối. Chúng buộc cho Xin-ve tội bắt cá hai tay. Việc ấy

đã hiển nhiên quá! Nhưng Xin-ve quả là một tay gian hùng. Cuộc thắng hôm qua càng làm cho hắn vững dạ. Hắn chửi mắng bọn kia thậm tệ rồi ném bức bản đồ ra bảo:

- Ngốc ơi là ngốc! Của sắp đến tay rồi mà lại làm hỏng à? Lật lọng với họ bây giờ để rồi xôi hỏng bỏng không à? Tìm được của rồi

thì lật họ cũng không muộn... Bây giờ lão lang ấy muốn nói chuyện với cậu Dim, chứ lão muốn tôi hót cứt cho lão, tôi cũng hót!

Nói  xong,  hắn  ra  lệnh  nổi  lửa  nấu  ăn,  rồi  vịn  vào  vai  tôi chống nạng đi ra. Bọn chúng ngồi trơ lại đó, nửa tin nửa ngờ. Xin-

ve bảo tôi:

- Đi thong thả, thong thả chứ! Nếu chúng thấy ta đi vội là chúng nhảy xổ lại ngay!

Khi đến chỗ bác sĩ Ly, hắn đứng dừng lại, nói với bác sĩ:

- Thưa bác sĩ, cậu bé này sẽ nói lại với ngài việc tôi đã đưa tính mệnh tôi ra cứu cậu ta như thế nào. Thưa ngài, khi một kẻ phải cầm lái thuyền giữa cơn gió lớn như tôi, sống chết chỉ trong nháy  mắt,  tôi  xin  ngài  hãy  rủ  lòng  thương.  Ngài  nên  nhớ  rằng không phải chỉ có tính mệnh tôi mà còn cả tính mệnh cậu bé này nữa. Mong ngài cho tôi được hy vọng.

Xong hắn nói:

- Ngài là một người quân tử, chắc sau này ngài sẽ còn nhớ những  điều  gàn  dở  của  tôi,  nhưng  ngài  cũng  đừng  quên  những điều hay tôi đã làm. Bây giờ, tôi xin để ngài nói chuyện, mong ngài nhớ cho!

Nói xong hắn lùi xa ra phía sau, ngồi trên một khúc gỗ. Hắn vừa huýt sáo vừa liếc nhìn về phía tôi và phía bọn giặc trong đồn. Bác sĩ nói với tôi, giọng buồn rầu:

-  Cậu  Dim!  Thế  là  tự  cậu  gây  ra  cả!  Có  trời  biết  cho,  tôi không có lòng nào oán trách cậu đâu! Nhưng có một điều tôi phải nói.  Giá  ông  thuyền  trưởng  khỏe  mạnh,  có  lẽ  cậu  không  dám trốn... nhưng thừa lúc ông ta đau yếu mà cậu đi như vậy, thật là hèn!

Thú thật nghe bác sĩ nói đến câu ấy, tôi bỗng khóc rưng rức:

- Bác  sĩ  Ly  ơi!  Ông đừng làm tôi khổ nữa! Tôi đã khổ tâm nhiều  rồi!  Nếu  không  có Xin-ve thì tôi cũng đã liều chết với bọn chúng.  Tôi  chết  cũng  đáng  đời  thôi!  Nhưng  nếu  bọn  chúng  tra khảo tôi...

Bác sĩ ngắt lời, giọng đổi khác:

- Dim! Tôi không thể để cậu ở nơi này. Hãy nhảy ra đi, trốn

đi!

- Thưa bác sĩ, tôi đã hứa rồi. Bác sĩ nói to:

- Biết thế nhưng không có cách nào khác nữa. Dim! Tôi có

thể chịu tất cả nhục nhằn, khổ ải, nhưng tôi không thể để cậu ở đây được. Nhảy ngay đi! Nhảy một cái ra ngoài là ta biến ngay mà!

Tôi đáp:

- Không! Nếu ở địa vị tôi, chắc ông cũng không làm thế. Cả

ông Chi hay ông thuyền trưởng cũng vậy. Xin-ve đã tin ở tôi và tôi

đã hứa với hắn. Tôi phải giữ lời hứa. Nhưng ông hãy để tôi nói hết

đã. Tôi chỉ lo nếu chúng tra khảo tôi, có thể tôi làm lộ chỗ giấu tàu.

Nhờ may mắn, tôi đã đoạt lại được chiếc tàu, và bây giờ, hiện nó

nằm ở vùng bắc, bên bờ biển hướng nam. Đến khi nước ròng, chắc

nó nằm trên cát...

Bác sĩ ngạc nhiên kêu lên:

“Chiếc tàu?" Tôi vội thuật lại, bác sĩ chăm chú nghe. Xong ông bảo:

- Thế ra, cứ mỗi bước, cậu lại cứu sống chúng tôi? Cậu đã phát giác ra âm mưu bọn giặc, cậu đã tìm ra Ben-gun. Ô, Ben-gun, thật là một việc vô cùng to lớn. Rồi cậu lại lấy được chiếc tàu. Bây

giờ để mặc cậu nguy khốn ở đây, chả hóa ra lũ tôi tệ bạc lắm sao?

Nói đến đây, ông gọi to:

- Xin-ve! Xin-ve!

Khi hắn đến gần, ông bảo:

- Tôi khuyên anh điều này: chớ vội đi tìm kho của! Xin-ve đáp:

- Vâng, tôi xin cố theo lời ngài. Nhưng chắc ngài đã biết, có tìm  được  của  thì  tôi  và  cả  cậu  bé  này  mới  bảo  toàn  được  tính

mệnh.

Bác sĩ đáp:

- Nếu thế, tôi sẽ cho anh biết thêm một điều: phải hết sức đề phòng khi đi tìm kho của.

- Thưa ngài, ngài còn giữ ý với tôi nhiều quá! Vì sao ngài bỏ

cái đồn này? Vì sao ngài giao cho tôi bức bản đồ? Tôi thật mù tịt. Vậy mà tôi vẫn nhắm mắt đi theo ngài. Lần này thì tôi xin chịu. Nếu ngài không chịu nói rõ thêm, tôi xin bỏ cuộc.

Bác sĩ Ly có vẻ nghĩ ngợi, rồi nói:

- Không, tôi không thể và không có quyền nói rõ hơn. Anh hiểu cho. Nhưng tôi hứa với anh một điều này: nếu xong việc mà chúng ta được yên lành, tôi bảo đảm sẽ hết sức cứu anh...

Nét mặt Xin-ve tươi tỉnh hẳn lên. Bác sĩ lại nói:

- Đó là việc thứ nhất. Còn việc thứ hai là anh phải nhớ luôn

luôn giữ cậu Dim bên cạnh mình, khi nào có gì nguy cấp, anh cứ

gọi tôi, tôi sẽ đến cứu ngay. Tôi không nói hão đâu. Anh nhớ lấy! Thôi chào Dim!

Bác sĩ thò tay qua rào bắt tay tôi, nhìn Xin-ve gật đầu một cái rồi rảo bước vào rừng.

CHƯƠNG 27

ĐI TÌM NƠI GIẤU CỦA

Xin-ve bảo tôi:

- Nếu trước đây tôi đã cứu cậu thì vừa rồi cậu đã cứu lại tôi. Điều ấy tôi không bao giờ quên. Lúc nãy liếc mắt, tôi thấy bác sĩ bảo cậu trốn, và cậu đã lắc đầu không nghe. Cậu quả là người biết trọng danh dự. Từ khi tôi đánh đồn bị thất bại đến nay, cái cử chỉ

khí khái của cậu thật là một tia sáng để tôi hy vọng. Cậu Dim! Bây giờ đây chúng ta phải đi tìm kho của. Việc này chẳng thích chút  nào,  vì  lời  bác  sĩ  dặn,  tôi  còn  nhớ.  Bây  giờ  tôi  với  cậu  hai chúng ta phải sát cánh bên nhau để đề phòng mọi sự bất trắc nguy hiểm  có  thể  xảy  ra.  Như  thế  chúng  ta  mới  bảo  toàn  được  tính mệnh.

Lúc ấy, một tên đứng gần đống lửa gọi chúng tôi về ăn sáng. Chẳng  mấy  chốc,  cả  bọn  đã  ngồi  trên  bãi  cát  trước  nhà.

Chúng  đốt  một  đống  lửa  to  tướng,  nóng  đến  nỗi  không  lại  gần

được. Chẳng những củi mà ngay đến thức ăn, chúng cũng phung

phí bừa bãi. Tất cả bọn chỉ ăn hết một phần ba thức ăn. Một đứa

ném đồ ăn thừa vào lửa, nhe răng cười một cách ngô nghê. Trong

đời tôi, thật chưa bao giờ tôi thấy một bọn người vô hậu đến thế. Chúng chỉ biết được bữa nào xào bữa ấy, không hề nghĩ đến ngày mai...  Qua  cách  sống  bừa  bãi  của  chúng,  tôi  đã  nhận  thấy  tuy

chúng có thừa can đảm đánh nhau trong một trận nhưng chúng không thể đánh nhau lâu dài được. Ngay Xin-ve cũng ngồi điềm nhiên ăn, không có một lời khiển trách bọn chúng. Hắn nói:

- Các anh được thằng này lo việc cho, các anh sướng như tiên con! Bọn họ chiếm lại được chiếc tàu. Nhưng ta, ta sẽ tìm thấy của.

Hễ của đã nắm chắc trong tay rồi, ta sẽ tìm cho ra tàu. Lúc đó phần thắng sẽ về ta! Hắn vừa nói vừa nhai nhồm nhoàm, miệng

dính đầy mỡ. Hắn cố làm cho bọn kia tin tưởng và cũng để động

viên mình.

Hắn lại tiếp:

- Còn thằng bé "con tin" này, có lẽ lần này là lần cuối cùng nó được gặp bạn hữu của nó. Chính nhờ thế mà vừa rồi tôi đã biết được những điều tôi muốn biết. Thế là đủ rồi. Tôi sẽ dắt nó theo trong lúc đi tìm kho của. Vì chúng ta phải giữ nó để phòng lúc gặp nguy nan. Một khi vàng đã tải lên tàu rồi thì lúc ấy ta sẽ có cách

nói chuyện với cu cậu!

Bây giờ bọn giặc trông vui vẻ hơn trước, điều ấy không lấy gì làm lạ. Nhưng về phần tôi, tôi rất nghi ngại. Đối với một tên như Xin-ve, gió chiều nào xoay chiều ấy, hễ thấy vàng thì tối mắt, thật cũng khó mà tin hắn. Còn nếu hắn có giữ lời hứa thì khi xảy ra việc gì, hắn là một thằng thọt, tôi là một thằng bé, liệu chống đỡ làm sao được với năm tên lực lưỡng thế kia!

Lại còn bao nhiêu câu hỏi trong đầu óc về việc bọn tôi bỏ đồn, giao bức bản đồ... Ngay cái câu bác sĩ dặn Xin-ve "phải đề phòng

khi đi tìm của" cũng làm tôi nát óc! Cho nên bữa cơm ấy, tôi ăn

không thấy ngon, và khi bọn giặc rủ nhau đi tìm kho của, bụng tôi

càng lo ngay ngáy... Bọn chúng ra đi mang theo khí giới đầy đủ. Xin-ve đeo hai khẩu súng trường, lại thêm con dao cài ở thắt lưng

và hai khẩu súng lục trong hai túi áo. Trên vai hắn, con vẹt vẫn lảm nhảm nói những câu quái gở. Chúng nó lấy thừng buộc ngang

lưng tôi, rồi Xin-ve dắt tôi đi. Khi thì hắn cầm đầu thừng, khi thì

hắn cắn chặt vào hai hàm răng. Tôi bị dắt hệt như một con gấu

của phường hát. Những đứa khác thì đứa vác cuốc, đứa vác xẻng, những vật ấy chúng đã lấy từ trước ở trên tàu. Vài đứa nữa khiêng thịt, bánh và rượu để ăn trưa. Cả tên giặc bị vỡ đầu, đáng lý phải

nằm ở nhà, cũng cố gượng đi theo nốt. Tất cả kéo ra bờ biển. Ở đấy

đã  có  hai  chiếc  thuyền  đợi  sẵn.  Cả  bọn  chia  làm  hai  tốp, xuống

thuyền. Trong khi đi thuyền, bọn chúng bàn tán với nhau về bức

bản đồ. Cái gạch đỏ thì chỉ hướng không rõ. Còn những chữ ghi phía sau, không được rõ nghĩa cho lắm. Tôi nhớ những câu chữ ấy:

“Cây to. Đồi con, gò Vọng Viễn, mũi đất về phía B.B.Đ. "Đảo Hình  Người  Đ.Đ.N.  "Mười  mét..."  Cái  dấu  quan  trọng  nhất  để nhận đường là cây to. Nhưng ngay sát bến, trước mặt chúng tôi là một khu đồi cao, bắc giáp gò Vọng Viễn, nam giáp gò Cột Cái. Trên đỉnh đồi, thông mọc chi chít; có cây thấp, cây cao. Còn cái "cây to"

mà  lão  Phơ-linh đã chỉ, thì phải đến nơi, đem địa bàn ra ngắm

đúng hướng mới có thể biết được. Ngồi dưới thuyền, bọn giặc chỉ

trỏ lung tung. Xin-ve thì so vai lên và bảo:

-  Cứ  đợi  đến  nơi  hẵng  hay!  Đi  một  lúc  lâu,  chúng  cho  đỗ

thuyền vào cửa sông dưới gò Vọng Viễn. Chúng bắt đầu trèo lên

đồi về mé tay trái. Mới đầu gặp đất bùn nhão nhoẹt, nên đi rất chậm. Nhưng càng lên cao, đất càng rắn lại, cây cối bớt rậm rạp hơn. Đây là khu đẹp nhất trong đảo. Những dây rau rừng bò lan

bên cạnh những khóm cây rừng có hoa nở, thơm ngát. Giữa những chòm đậu khấu xanh um, nổi bật lên những thân cây thông đỏ sậm, bóng lá rườm rà. Không khí trong mát, ánh nắng chói chang, mùi hoa rừng dịu hắc. Cả bọn vui cười nhảy nhót chạy tỏa khắp nơi. Chỉ còn tôi và Xin-ve đi sau cùng. Tôi bị trói ngang lưng, còn Xin-ve  thì cứ ngoáy mãi đầu nạng xuống đất sỏi và thở phì phò. Thỉnh thoảng tôi phải đưa tay ra đỡ hắn để hắn khỏi trượt chân, ngã lăn xuống hố. Chúng tôi đi mãi đến nửa dặm mới tới chân đồi. Thình lình một tên đi đầu rú lên mấy tiếng khủng khiếp. Cả bọn cùng chạy ồ lên. Mo-gan ở phía đằng kia vừa chạy lại, vừa bảo:

- Nó ở tít trên cao kia. Của chôn đâu trên ấy mà rối rít lên

thế!

Quả nhiên, khi chúng tôi đến nơi, thì một cảnh tượng kinh

khủng  bày  ra  trước  mắt.  Dưới  gốc  một  cây  thông, một bộ xương người nằm dài, một vài mảnh áo quần còn lại lả tả trên đất. Cả

bọn đứng nhìn, rợn tóc gáy. Giót bạo dạn hơn, tiến đến gần xem mấy mảnh vải rồi bảo:

- Chính thứ áo dạ của bọn thủy thủ! Xin-ve nói như gắt:

- Cái ấy đã hẳn! Anh không thể mong thấy ở đây một ông cố đạo được! Nhưng bộ xương nằm thế kia là nghĩa lý gì?

Nhìn gần lại, bộ xương nằm quả không tự nhiên một chút nào. Hình người nằm thật ngay ngắn: hai chân duỗi thẳng, hai tay

giơ thẳng lên quá đầu, cùng chỉ vào một hướng. Xin-ve bảo:

- Ừ, có lẽ đấy! Kia là mũi đảo Hình Người, địa bàn đây, cứ nhìn theo hướng bộ xương thử nào... Mọi người nhìn vào địa bàn.

Bộ xương chỉ thẳng hướng khu đảo, địa bàn chỉ đúng hướng đông - đông nam.

Xin-ve kêu to:

- Thoạt trông, tôi đã ngờ bộ xương này lắm! Thôi, bộ xương này đúng là dấu chỉ hướng tìm của. Điều này làm tôi nghĩ tới Phơ- linh  mà lạnh toát cả người! Khi xưa, lão lên đây với sáu thằng.

Lão đã giết sạch, rồi lão kéo xác một thằng lại đây để thay cho địa

bàn. Bộ xương này dài thườn thượt. Thôi, chính là thằng An rồi!

Mo-gan, anh có nhớ thằng An không?

Mo-gan đáp:

- Có chứ! Tôi nhớ hắn còn nợ tiền tôi. Ngay khi lên đảo, hắn còn mượn tôi con dao.

Một đứa khác nói:

- Anh thử tìm bên cạnh hắn xem có còn con dao của anh thì lấy lại! Mo-gan tìm quanh đống xương, bảo:

- Chẳng  còn  vật  gì  cả!  Ngay  đến  túi  thuốc  cũng  chẳng  còn. Thế này thì lạ thật!

Xin-ve cũng gật đầu:

- Ừ,  lạ  thật!  Quả  là  một  điều  quái  gở.  Cái  lão Phơ-linh kể cũng tai ác! Nếu lão còn sống thì...

Mo-gan ngắt lời:

- Lão chết rồi! Một đứa khác bảo:

- Khi gần chết, lão vẫn còn gào rượu "rum". Có lúc lão hát: “Mười lăm thằng..." Đời lão chỉ biết có bài hát ấy!

Tiếng hát của lão nghe đến lạnh xương sống! Xin-ve cắt đứt câu chuyện:

-  Thôi  im  đi!  Nói  mãi  đến  lão  ta  làm  gì!  Lão  chết  là  hết. Người chết không hại được ai đâu! Các anh đừng sợ. Thôi, hãy đi đến đằng kia mà tìm của. Cả bọn lại đi lên. Tuy trời rất oi bức, nhưng cả bọn cứ xúm xít lại với nhau và thì thầm to nhỏ. Hình như chúng vẫn sợ cái hồn ma của tên chúa đảng vẫn còn lẩn quất đâu đây.

CHƯƠNG 28

TIẾNG HÁT TRONG LÙM CÂY

Phần thì sợ, phần cũng muốn để cho Xin-ve và tên giặc ốm nghỉ ngơi, nên cả bọn cùng ngồi lại trên một mô đất cao. Trước mặt chúng tôi, thấp thoáng qua cây là doi biển, sóng vỗ quanh bờ. Đằng sau là bến tàu và đảo Hình Người. Ngay trên đầu chỗ chúng

tôi ngồi là gò Vọng Viễn. Chỉ nghe tiếng sóng vỗ ghềnh đá và tiếng côn  trùng  rên  rỉ  trong  bụi  cây.  Không  một  bóng  người  qua  lại,

không một cánh buồm thấp thoáng ngoài khơi. Chung quanh đìu

hiu tịch mịch. Xin-ve ngồi xuống lật bản đồ ra xem rồi nói:

- Kìa, cái "đồi con của gò Vọng Viễn" chính là mũi đất dưới

kia rồi. Cái kho của đã trước mắt chúng ta. Bây giờ hãy ăn cho đỡ

đói đã!

Mo-gan càu nhàu:

- Tôi chẳng thấy đói! Chỉ nghĩ tới lão Phơ-linh là đã thấy mất ngon rồi...

Xin-ve đáp:

- Nhưng may cho anh, hắn đã chết ngoẻo rồi. Một tên khác run rẩy nói:

- Lão là con quỷ dữ! Lão chết thế nào được!

Từ lúc chúng trông thấy bộ xương, đầu óc chúng lúc nào cũng

bị cái hồn ma của lão Phơ-linh ám ảnh. Không đứa nào dám nói to.

Chúng chỉ thì thầm với nhau, vẻ sợ sệt.

Thốt nhiên, đằng bụi cây trước mặt có một giọng hát the thé, run  run  vẳng  lại,  bài  hát  này,  chúng  đã  thuộc  nhão:  Mười  lăm thằng trên hòm người chết, ỳ a, ỳ a... Bọn giặc ba hồn bảy vía lên mây. Cả sáu đứa mặt mày bỗng tái nhợt, run lẩy bẩy. Thằng thì nhảy chồm lên cuống cuồng, thằng thì quờ quạng bám vào người bên cạnh. Mo-gan bò lăn trên đất, mồm lắp bắp:

- Phơ-linh! Đích thị lão Phơ-linh!

Thốt nhiên tiếng hát im bặt, tưởng như có người bỗng lấy tay

bịt miệng kẻ hát. Giữa khoảng trời bao la, tôi nghe tiếng hát vọng

lại nhịp nhàng thánh thót. Vì thế, trông cử chỉ của bọn chúng, tôi

càng thấy lố bịch. Xin-ve môi nhợt nhạt, nói không ra hơi:

- Thôi đừng có hoảng hồn hoảng vía lên! Có chặt đầu tôi, tôi cũng bảo đó không phải lão Phơ-linh. Tôi chưa nhận ra được tiếng

ai, nhưng nhất định đó là người, chứ chẳng phải ma quỷ gì đâu!

Nói xong, hắn trở lại can đảm, sắc mặt hồng hào. Nhưng bọn

kia  vừa  định  thần  thì  cái  tiếng  lúc nãy lại vụt cất lên. Lần này

không phải tiếng hát mà là một thứ tiếng rên rỉ nghẹn ngào từ

hang núi sâu vọng lại:

- Đác Bi, Đác Bi, Đác Bi, Đác Bi! Rồi tiếp theo, một tiếng quát nhỏ:

- Mang rượu đây, Đác Bi!

Bọn  giặc  bỗng  đứng  sững  như  trời  trồng,  mắt  mở  trừng trừng, thao láo. Tiếng nói đã im từ lâu mà chúng vẫn còn đứng sững sờ, ngơ ngác. Một đứa nói hổn hển:

- Thôi chạy đi! Mo-gan rền rĩ:

- Đúng là những lời cuối cùng của lão!

Còn  Đích  thì  móc  quyển  kinh  thánh  ra,  hai  tay  nâng  tới trước.  Chỉ  có  Xin-ve  là  chưa  chịu  tin  hẳn.  Tuy  hắn  cũng  run, nhưng hắn vẫn cố sức nói to:

- Chúng ta đến đây để tìm cho ra của. Dù là người hay ma quỷ cũng không thể làm bọn ta chùn  bước!  Khi  lão  Phơ-linh còn sống, tôi cũng không hề sợ lão. Huống gì bây giờ, lão đã chết mọt xương, thì còn sợ cái đếch gì!

Nghe Xin-ve nói thế, bọn kia lại cho rằng Xin-ve đã buông lời

xấc láo, phạm đến vong linh người chết. Giá chạy được thì chúng

đã chạy rồi! Nhưng khốn nỗi, chúng sợ đến ríu chân. Đứa nào cũng

co rúm lại và xúm xít quanh Xin-ve. Xin-ve nói to:

- Ma à? Tôi cũng tin là có! Nhưng ma thì vô hình vô ảnh. Tại sao ở đây tiếng ma lại có tiếng vọng? Tôi chắc không phải!

Tên Giót hình như đã tỉnh ra, nối lời:

- Đúng thế! Xin-ve nói có lý. Tiếng ấy nếu là tiếng lão Phơ- linh thì sao lại nghe lanh lảnh? Hình như tiếng một kẻ nào ấy...

Thốt nhiên Xin-ve nói to:

- Thôi phải rồi! Tiếng thằng Ben-gun! Mo-gan cũng vội kêu lên:

- Đích thị tiếng thằng Ben-gun!

Giót nói:

- Ben-gun hay thằng nào đi nữa cũng đếch cần!

Thế là chỉ trong phút chốc, cả bọn đều trở lại tươi tỉnh. Mặt đứa nào đứa nấy trông hăm hở. Chúng lại vác thuổng cuốc lên vai, tiếp  tục  đi.  Tên  Giót  đi  trước,  tay  cầm  địa  bàn,  nhằm  đường  đi thẳng tới đảo Hình Người, chỉ còn thằng Đích là vẫn cầm quyển kinh ngơ ngác nhìn quanh. Khi leo lên đến đỉnh, đã thấy dễ đi hơn trước. Những gốc thông lớn bé mọc lưa thưa. Mặt trời chói lọi trên những khoảng đất trống. Càng đi chúng tôi càng đến gần cái đồi con của gò Vọng Viễn. Chúng tôi đi đến một cây to, rồi một cây to nữa, nhưng nhìn kỹ, tôi biết ngay đây không phải là cái cây đã vẽ trong bản đồ. Nhưng đến cây thứ ba thì thấy cây này cao hơn hẳn.

Bề  cao  của  nó  dễ  cũng  đến  hai  trăm  mét.  Thân  cây  màu  hung hung đỏ, to ước bằng một cái nhà con; tán lá phủ che kín cả một

quãng  đất  rộng  mênh  mông.  Nhưng  cái  thân  cây  khổng  lồ  ấy

không làm cho bọn giặc chú ý. Chúng chỉ lăm lăm nhìn vào cái kho

của đương chôn ở một chỗ nào đó dưới gốc cây. Nghĩ đến tiền của, mặt đứa nào cũng hồng hào lên, chúng quên cả những điều sợ hãi ban nãy. Mắt chúng long lanh, chân chúng bước thoăn thoắt, nhẹ

nhàng  như  bay  trên  mặt  đất.  Xin-ve  vừa  càu  nhàu  vừa  phóng nạng đi nhanh như con choi choi. Hắn vừa thở phì phò vừa chửi vung lên như một thằng điên đương lên cơn. Thỉnh thoảng thấy tôi

đi chậm, hắn giật mạnh cái dây thừng buộc ngang người tôi, mắt hắn lườm tôi một cái đến rợn gáy. Bây giờ hắn đã để lộ chân tướng của hắn một cách trắng trợn. Thoáng nhìn, tôi đã thấy ngay. Gần đến hố vàng, bao nhiêu điều cam kết trước, hắn đều quên cả. Tôi dám quả quyết rằng hắn đương tính khi chiếm xong kho của, sẽ tìm cho ra chiếc tàu, và sau khi đã giết hết tất cả những người

lương thiện trên đảo, hắn sẽ cho tàu rong khơi...

Bụng bồn chồn lo lắng nên tôi cứ vấp ngã luôn. Mỗi bận như

thế, Xin-ve lại giật mạnh đầu dây là lườm tôi một cách hung ác.

Khi gần đến nơi, Giót gọi to:

- Anh em ơi! Chạy mau lên thôi!

Mấy thằng đi đầu vội co giò chạy trước. Chạy được ngót mười thước, chúng dừng cả lại. Tôi nghe thấy tiếng bàn bạc lầm rầm. Xin-ve  cố rảo bước, ngoáy mãi đầu nạng xuống đất như một kẻ điên rồ. Đi một lúc thì tôi với hắn đã đến nơi. Trước mặt chúng tôi

có một cái hố to: vết đào đã lâu vì mép bờ bị nước mưa lở, và dưới đáy, cỏ mọc xanh rì. Trên mặt hố còn thấy một cán cuốc gãy đôi và những mảnh ván hòm rải rác. Sự thật đã quá rõ ràng: đống của đã

bị kẻ khác đào lên và cuỗm mất từ lâu!

CHƯƠNG 29

MỘT TAY ĐẦU TÊU THẤT THẾ

Thật là cả một sự thay đổi đột ngột, cả bọn đứng ngây người như phỗng đá. Chỉ một mình Xin-ve là còn tự chủ. Trước đây mấy phút, hắn cũng chăm chăm nghĩ đến kho tiền; và bỗng chốc trước mắt hắn, tất cả hy vọng đều sụp đổ. Nhưng hắn không hề rối trí. Hắn bình tĩnh, đổi ngay kế hoạch đối phó, không đợi cho bọn kia

kịp trở tay. Hắn bảo nhỏ tôi:

“Dim, cầm lấy cái này mà phòng thân". Hắn đưa cho tôi một khẩu súng lục đã nạp sẵn đạn. Rồi hắn kéo tôi lùi về phía bên kia miệng hố. Xong, hắn gật đầu ra hiệu cho tôi sẵn sàng phòng bị. Cử

chỉ hắn trở lại dịu dàng tử tế. Nghĩ đến sự tráo trở của hắn vừa rồi

tôi tức giận đến lộn ruột. Không nhịn được, tôi bảo nhỏ hắn:

“À,  ra  bây  giờ  ông  lại  muốn  quay  sang  phía  khác!"  Hắn không kịp đáp lại. Bọn giặc đã quát tháo ầm ĩ rồi nhảy ùa xuống

hố. Chúng lấy tay bới đất lung tung. Mo-gan tìm được một đồng tiền vàng. Đồng tiền vàng được chuyền từ tay kẻ này qua tay kẻ

khác. Đến lượt tên Giót, hắn cầm đồng tiền lên, đưa về phía Xin-ve

xỉa xói:

- Đây, kho tiền của bố mày đây, đồ chó đẻ! Xin-ve vẫn ngông nghênh đáp:

- Hãy cứ đào đi! Đào đi! Sẽ tìm được cái cóc khô đấy! Tên Giót gầm lên:

- Cái cóc khô hả! Anh em có nghe hắn nói gì không? Rõ ràng hắn là thằng phản bội!

Xin-ve đáp:

- Giót ơi! Mày lại muốn lên mặt thuyền trưởng đấy hả?

Nhưng  lần  này,  đứa  nào  cũng  về  cánh  với  tên  Giót.  Bọn chúng nhảy lên khỏi hố, mắt gườm gườm nhìn về phía chúng tôi.

Thế là đôi bên đều đứng ghìm nhau, không ai nói với ai một lời.

Một bên hai người, một bên năm người, giữa là một cái hố sâu.

Chẳng  một  ai  dám  gây  sự  trước.  Xin-ve  chống  nạng  đứng  ngay người, đưa mắt nhìn sang bọn kia một cách hết sức bình tĩnh. Về sau, tên Giót lên tiếng trước, bảo bốn tên kia:

- Anh em ơi! Bên chúng chỉ có hai. Một thằng già què với một thằng  trẻ  ranh.  Thằng  què  là  đứa  đã  lừa  phỉnh  chúng  ta,  còn thằng nhãi xấc láo kia, tôi muốn vặn cổ nó đây! Anh em ta còn đợi

gì mà không khử chúng đi?

Vừa nói xong, hắn giương súng lên chực bắn. Nhưng ngay

lúc ấy, ba phát đạn từ bụi rậm đã cùng bắn ra một lúc. Tên Giót

ngã nhào xuống hố. Tên giặc có buộc băng ở đầu thì quay như gà

ăn bọ xít, rồi ngã vật ra, quằn quại một lúc trên mặt đất. Còn ba

tên kia thấy thế liền quay đầu chạy thẳng một mạch. Bác sĩ Ly,

Grây và Ben-gun ở trong lùm cây bước ra, miệng súng trường hãy còn bốc khói. Vừa ra, bác sĩ đã hô to:

- Chạy mau! Chạy mau! Phải đến chiếm thuyền trước mới

được!

Tất cả chúng tôi đều chạy như bay như biến, chạy qua bụi bờ

gai  góc.  Xin-ve cũng tức tốc bám sát theo sau. Hắn gắng gượng một cách phi thường, dẫu người khỏe cũng không sánh kịp. Hắn

chống nạng nhảy cao vót, tưởng đến rách cả bắp thịt ở ngực. Tuy

vậy, hắn vẫn tụt lại sau. Hắn sắp đứt hơi ngã quỵ thì vừa may

chúng tôi đã dừng lại dưới chân đồi. Hắn gọi to:

- Bác sĩ Ly! Hãy trông kìa! Còn kịp chán...

Mà quả vậy, chúng tôi chẳng cần phải vội vội vàng vàng làm

gì cho nhọc sức. Nhìn lại, chúng tôi thấy trên một quả đồi trụi, ba

tên giặc sống sót đang chạy thẳng tới gò Cột Cái. Chúng tôi đã

chặn ngang đường, không cho chúng nó xuống được bến thuyền.

Cả  bốn  chúng  tôi  đều  ngồi  xuống  thở.  Xin-ve  thong  thả  lại  gần chúng tôi. Vừa lau mồ hôi, hắn vừa nói:

- Xin đa tạ bác sĩ đã vừa vặn cứu tôi và cậu Dim thoát chết! A! Anh đấy hả, Ben-gun?

Ben-gun vặn vẹo người như con lươn, bối rối đáp:

-  Vâng,  vâng,  Ben  đây!  Cảm  ơn  ông  hỏi  tôi.  Còn  ông,  ông mạnh khỏe đấy chứ?

Xin-ve nói khẽ với Ben-gun:

- Ai ngờ chính anh lại đi hại tôi!

Bác sĩ bảo Grây đi lấy một cái cuốc của bọn giặc bỏ lại trong khi chạy trốn. Còn chúng tôi thì thong thả đi xuống bến. Vừa đi,

bác sĩ vừa vắn tắt thuật qua câu chuyện xảy ra. Ai ngờ anh chàng

Ben-gun ngớ ngẩn kia lại là vai chính trong câu chuyện...

Số  là  trong  lúc  lang  thang  trên  đảo,  Ben-gun  đã  gặp  bộ xương người. Chính hắn đã lấy tất cả đồ đạc của người chết. Chính hắn đã tìm ra kho của và đã tự đào lấy. Cái cán cuốc gẫy là của hắn  vứt  lại.  Một  mình  hắn  đã  lịch  kịch  khuân  vác  lần  hồi  và chuyển được hết của cải dưới gốc thông to đem về hang của hắn ở trên núi hai ngọn. Hai tháng sau thì chiếc tàu của bác sĩ đến. Tất

cả những điều này hắn đã nói với bác sĩ ngay buổi chiều hôm bác

sĩ đến gặp hắn. Sáng hôm sau, khi thấy tàu đã mất, bác sĩ mới tìm

đến Xin-ve, giao cho hắn bức địa đồ. Bác sĩ nhường cho hắn tất cả lương thực, vì trong hang của Ben-gun đã có trữ rất nhiều thịt dê ướp  muối. Xin-ve  xin gì bác sĩ cũng cho, cốt để rút ra được khỏi

đồn một cách êm thấm. Nhóm của bác sĩ liền dời đến ở trên núi

hai ngọn; như vậy vừa tránh được bệnh sốt rét, vừa giữ gìn được

kho của... Còn về chuyện của tôi thì sáng nay, bác sĩ đã biết được

bọn giặc mò đi tìm kho của. Bác sĩ liền tức tốc chạy về hang, bảo Ben-gun và Grây đi theo. Ông Chi thì ở nhà coi sóc thuyền trưởng. Bác sĩ đã đi đường tắt để đến trước tại gốc cây to. Nhưng ông nhận

thấy bọn giặc đi mau hơn. Ông vội cho Ben-gun dùng tài đi nhanh, đến  trước  để  tùy  cơ  ứng  phó.  Ben-gun đã nghĩ ra cách lợi dụng lòng mê tín của đồng bọn, làm cho chúng một phen mất hồn. Nhờ

cái mưu kế thần tình ấy mà bác sĩ và Grây đã có đủ thì giờ đến kịp trước khi bọn giặc kéo đến.

Xin-ve bảo:

- Chao ôi! May phúc cho tôi là có cậu Dim bên cạnh. Nếu không, tôi có bị băm thây đi nữa thì chắc bác sĩ cũng chẳng thèm đoái hoài đến...

Bác sĩ vui vẻ trả lời:

- Chẳng thèm đoái hoài đến thật!

Lúc ấy chúng tôi vừa đến chỗ thuyền đỗ. Bác sĩ cầm cuốc phá tan đi một chiếc. Chúng tôi xuống cả một chiếc và cho thuyền đi về phía bắc. Đường đi xa độ tám, chín hải lý. Tuy mệt nhoài, Xin-ve

vẫn cầm lấy một mái chèo. Chẳng bao lâu chiếc thuyền vùn vụt

lướt trên mặt biển phẳng lì. Chúng tôi đi qua trước mặt hòn núi

hai ngọn. Trước cửa hang, chúng tôi đã thấy có một người đứng tựa vào khẩu súng trường. Đó là ông Chi. Chúng tôi lấy khăn tay

ra vẫy và reo mừng ba tiếng thật to. Xin-ve cũng hớn hở reo theo, nhiệt tình không kém. Đi được ba hải lý, chúng tôi ngạc nhiên vì

đã thấy chiếc tàu đương bập bềnh trên ngọn sóng. Ngọn thủy triều

đã dâng tàu lên. Nếu ở đây có gió và dòng nước mạnh như ở phía

nam, chưa chắc chúng tôi đã tìm thấy lại chiếc tàu. Chúng tôi xem

xét lại tàu, thấy không hư hỏng mấy. Chỉ thiệt có cánh buồm to.

Chúng tôi làm neo, buộc tàu lại rồi để Grây ở lại canh gác. Còn cả

bọn tiếp tục đi về hang của Ben-gun. Ông Chi ra tận cửa hang đón chúng  tôi.  Đối  với  tôi,  ông  Chi  tỏ ra  rất  thân  yêu  niềm  nở.  Ông không hề đả động đến chuyện tôi trốn đi. Thấy Xin-ve chào ông lễ

phép, ông bực tức bảo tên bếp tàu:

- Xin-ve! Anh thật là một thằng đểu giả, đốn mạt! Người ta

đã khuyên tôi không nên trừng trị anh. Tôi đã đồng ý. Nhưng...

Xin-ve lại cúi đầu chào ông Chi một lần nữa rất lễ phép:

- Tôi xin đội ơn ông nhiều... Ông Chi quát to:

- Tôi cấm anh không được cảm ơn tôi! Làm ơn với anh tức là làm trái với nhiệm vụ và lương tâm của tôi. Thôi, anh cút đi cho khỏi bẩn mắt tôi!

Ông Chi nói xong, quay gót cùng chúng tôi bước vào hang. Hang này rộng rãi và thoáng. Một con suối nhỏ chảy trên cát và một  ao  nước  trong  veo.  Ông thuyền trưởng đương nằm gần bên đống lửa. Trong cùng, qua ánh lửa lung linh, tôi thấy chất một đống tiền kếch xù và từng chồng vàng nén đồ sộ. Đó là kho của gom góp trong suốt cuộc đời đầy tội ác của tên tướng giặc Phơ-linh. Thấy tôi, ông thuyền trưởng nói:

- Cậu Dim! Vào đây. Cậu thật là một thiếu niên dũng cảm. Nhưng cũng khá vô kỷ luật! À! Xin-ve đấy à? Ai cho anh vào đây?

Xin-ve đáp:

- Thưa ông thuyền trưởng, tôi trở về với nhiệm vụ.

Thuyền  trưởng  chỉ  "à"  một  tiếng  rồi  không  nói  gì  nữa... Chiều hôm ấy, tôi ăn một bữa cơm ngon miệng lạ thường. Có đủ

mặt những người thân yêu, có món thịt dê ướp muối của Ben-gun,

lại có cả một chai rượu cũ, mới lấy ở tàu lên. Trong đời tôi, không

bao giờ tôi quên được cái phút vui sướng này. Còn Xin-ve thì vẫn ngồi đó. Tuy ngồi riêng một mình trong xó tối, nhưng hắn ăn uống xem ra cũng ngon lành như ai. Thấy chúng tôi vui, hắn cũng vui,

thấy chúng tôi cười, hắn cũng cười theo. Nói tóm lại, hắn lại trở về với cái lốt của tên bếp tàu hiền lành, khúm núm khi xưa.

CHƯƠNG 30

ĐOẠN CUỐI

Sáng  hôm  sau,  chúng  tôi  dậy  thật  sớm,  bắt  tay  vào  việc chuyển tiền và vàng xuống tàu. Công việc cũng khá nặng nhọc vì

từ hang đến chỗ tàu đậu cách xa hàng dặm. Đối với ba tên giặc sống sót, chúng tôi cũng không ngại lắm. Chỉ cần một người đứng canh trên đỉnh đồi để khi có biến, báo hiệu kịp, là đủ. Vả lại, tinh thần bọn chúng chắc cũng đã tan rã lắm rồi. Tất cả mọi người lớn đều chia nhau đi khuân tải và xếp vàng xuống tàu. Riêng tôi còn

bé, nên ở nhà giữ việc xếp các thứ tiền vàng vào bao. Thật là đủ

các loại các kiểu tiền hết sức lạ lùng, hiếm có. Nào tiền Anh, tiền Pháp, tiền Tây Ban Nha, tiền Bồ Đào Nha, tiền Ý, đúc đủ các hình vua  chúa  châu  Âu  trong  thế  kỷ  trước.  Lại  có  cả các  loại  tiền  á

Đông,  chạm  trổ  li  ti  hết  sức  kỳ  quặc.  Đồng  thì  tròn,  đồng  thì vuông, có đồng đục lỗ ở giữa như để đeo cổ. Còn nói đến số tiền thì nhiều hơn lá rừng, không sao đếm xuể. Tôi cúi nhặt đến mỏi cứng

cả lưng, đau điếng cả mấy đầu ngón tay. Công việc phải làm liên miên trong nhiều ngày mới xong... Tôi nhớ đâu như chiều hôm thứ

ba, bác sĩ Ly và tôi đương dạo chơi lững thững trên dốc đồi, thốt nhiên  chúng  tôi  nghe  văng  vẳng  những  tiếng  hát,  tiếng  gào  từ

trong bóng tối âm u dưới đồi đưa lại.

Bác sĩ nói:

- Đúng là tiếng của mấy tên giặc sống sót! Xin-ve đi sau cũng nối lời:

- Thưa bác sĩ, chúng nó đều đang say mềm cả đấy.

Từ hôm về ở với chúng tôi, Xin-ve vẫn cố tỏ ra hết sức mẫn cán, trung thành. Tuy bị khinh khi bạc đãi, hắn vẫn cố lăn mình vào chịu đựng. Hắn chịu nhẫn nhục đến mức làm tôi phải ngạc nhiên. Hắn cố xun xoe khúm núm, qụy lụy mọi người để mọi người thương. Tuy vậy, tất cả mọi người đều coi hắn như con chó ghẻ. Chỉ có Ben-gun là còn có ý nể hắn. Vì thế, hôm ấy thấy hắn chõ

vào câu chuyện, bác sĩ đã nói cộc lốc:

- Anh biết chúng say hay mê sảng nào?

Xin-ve đáp:

- Ngài nói chí lý! Say hay mê sảng thì cũng thế thôi! Bác sĩ cười khinh bỉ:

- Anh là giống người hay giống thú? Tôi nói cho anh biết, nếu

tôi rõ chúng đang lên cơn sốt mê sảng, tôi sẽ không ngần ngại tìm đến để chữa chạy cho chúng! Nghe tôi nói thế, anh ngạc nhiên lắm phải không?

Xin-ve nhăn nhở nói:

- Thưa ngài, ngài cho phép tôi nói, nếu ngài làm vậy, tôi e hoài mất cái thân thể quý báu của ngài. Bọn ấy không thể giữ lời hứa được. Dù chúng có muốn giữ cũng không giữ được đâu!

Bác sĩ ngắt lời:

- Tôi biết, chỉ có anh là người biết giữ lời...

Thế rồi một buổi sáng đẹp trời, chúng tôi kéo neo, cho tàu rời bến.  Trên  tàu  lại  phấp  phới  lá  cờ  Tổ  quốc,  lá  cờ  trước  đây  ông thuyền trưởng đã hiên ngang dựng trên nóc đồn. Có lẽ ba tên giặc vẫn bám sát theo chúng tôi mà chúng tôi không hay. Khi tàu đi gần sát mũi đất phía nam, chúng tôi thấy cả ba đứa đang đuổi theo, mỗi đứa lăm le một khẩu súng trên tay. Thấy tàu chạy mỗi

lúc một xa, một đứa trong bọn vụt quát to một tiếng và bắn theo

một  phát.  Viên  đạn  hắn  ngắm  đã  trúng  ngay  vào  đầu  Xin-ve.

Chúng tôi vội vã ngồi thụp xuống đằng sau bao lơn. Về sau, dòm

ra thì thấy chúng đã không còn ở trên bãi cát nữa... Khi chúng tôi

trông  lại  thì  Xin-ve đã nằm còng queo, chết hẳn. Thấy thế, Ben-

gun  và Grây thở ra một hơi dài khoan khoái như trút được một gánh  nặng  trên  vai.  Đó  là  sự  việc  cuối  cùng  đáng  nói trước khi

chúng tôi rời xa hẳn đảo. Bãi cát đằng sau chúng tôi dần dần biến mất. Đến trưa, ngọn 189 190 núi cao nhất trên đảo đã tụt xuống chân trời mênh mông xanh ngắt. Chung quanh tôi, biển rộng, trời cao.  Tôi  lâng  lâng  nhìn  ra  sóng  biển  nhấp  nhô  rồi  lại  nhìn  vào đống vàng để trong tàu. Bên tai tôi lại văng vẳng tiếng ông Chi sang sảng nói với bác sĩ Ly khi lần đầu xem bức bản đồ:

- Một kho vàng phi nghĩa sắp trở thành một kho vàng có ý nghĩa. Một kho vàng nằm im vô dụng... giờ đây được đem lên, để làm tươi sáng bao khuôn mặt khổ nghèo.

(Theo  bản  tiếng  Pháp  "L’ile  au  trésor"  của  nhà  xuất  bản

"G.P.s" Pa- ri, 1949)

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#kho