Đạo mộ bút ký - Quyển 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Đạo mộ bút ký – Quyển 2

Tác giả: Nam Phái Tam Thúc – 南派三叔

Chuyển ngữ: Thủy Đạm Nguyệt group

Thể loại: Bí ẩn, phiêu lưu mạo hiểm, kinh dị.

Nhà xuất bản: Hữu nghị Trung Quốc, Văn nghệ thời đại, Văn hóa Thượng Hải.

Tình trạng sáng tác: Đã hoàn thành.

Tình trạng bản edit: Đang làm tiếp phần 4.

.

Phần 3 – Tần Lĩnh thần thụ(秦岭神树)

Chương 1: Lão Dương ra tù

Editor: Biển

Beta: Thanh Du

*****

Chỉ vài chữ ngắn gọn lại thu hút toàn bộ sự chú ý của tôi.

“Cá ở chỗ tôi…”

Cá gì? Chẳng lẽ là Xà mi đồng ngư?

Theo hình vẽ khắc trên đá trong cổ mộ, ba con Đồng ngư kỳ lạ này có đầu đuôi nối liền với nhau, hiện giờ trong tay tôi đã có hai con, hẳn là còn một con Đồng ngư nữa đồng bộ với hai con này. Ý nghĩa của câu nói khó hiểu trên là gì? Không phải là muốn ám chỉ con cá cuối cùng đang nằm trong tay hắn đấy chứ?

Người đưa ra thông tin đã có tấm hình này, lại biết cả chuyện về Đồng ngư, liệu có phải là một trong số những người mất tích vào năm đó hay không?

Tôi cẩn thận xem qua trang web một lượt, thời gian đăng tin là hai năm trước. May mà trang web này chưa bị đóng cửa, không thì thông tin này chắc chắn đã sớm biến mất trên mạng rồi. Nhưng thông tin này ngoài một câu đó ra thì không có bất cứ chữ ký hay phương thức liên lạc nào khác.

Tôi cảm thấy có phần khó hiểu, nếu là tìm người sao lại không để lại cách thức liên lạc, thế này chẳng phải là phí công sao?

Tôi chuyển sang lục lọi trên Google, hy vọng có thể tìm được nhiều thông tin hơn, nhưng lục đi lục lại một hồi cũng chỉ tìm được duy nhất một tin  ấy.

Tôi không khỏi chán nản, song đây đã là phát hiện lớn lắm rồi, ít ra có thể chứng tỏ vẫn có người biết đến chuyện của 20 năm trước, vậy thì người này rốt cuộc là ai?

Không lâu sau, cơn bão chết tiệt kia cuối cùng cũng chịu tan. Ngày hôm sau, có tàu Quỳnh Sa xuất phát từ Thanh Lan thuộc Văn Xương ghé qua, chúng tôi thấy không thể chờ mãi ở đây, bèn thu dọn hành lý chuẩn bị trở về.

Trước lúc rời đi chúng tôi có đến quân y viện tìm A Ninh nhưng không thấy, hỏi bác sĩ mới biết mấy ngày trước, lúc cơn bão vẫn chưa dứt, có một người nước ngoài đội mưa bão đột ngột xuất hiện đón cô ấy đi rồi, ông ấy còn tưởng người đó đi cùng chúng tôi. Hơn nữa gió lớn làm đứt dây điện thoại, mà chỗ bọn họ thì không ai rảnh rỗi đi làm việc tốt nên cũng không thông báo cho chúng tôi.

Trong lòng tôi hiểu rõ, hẳn là người tiếp ứng của A Ninh trên đảo đã đưa cô ấy đi. Mấy ngày qua hòn đảo nhỏ này bị bão cô lập, dù chúng tôi có muốn ngăn cản cũng đành chịu.

Bàn Tử bực tức mắng mỏ, nói thế là quá dễ dàng cho cô ả rồi. Tôi thì không khỏi thở phào nhẹ nhõm, vì tôi vốn không biết nên xử trí cô ấy như thế nào cho phải, giết thì dĩ nhiên không được, cũng không thể nghiêm hình bức cung. Chuyện xảy ra thế này chính ra lại hợp ý tôi, đi thì đi đi, dù sao cô ta cũng đâu có làm gì được chúng tôi.

Có điều, hình như công ty của họ vào hải đấu không chỉ đơn giản là đi cứu người, rốt cuộc bọn họ có mục đích gì? Giữa chú Ba và bọn họ đã xảy ra chuyện gì? Những người còn lại hiện giờ ở đâu? Những bí mật còn bị che giấu không biết đến khi nào mới lộ ra khỏi mặt biển Tây Sa tĩnh mịch xanh thẳm.

Nói tóm lại, chúng tôi theo tàu Quỳnh Sa vòng về đại lục. Hai ngày sau, tại sân bay ở hải cảng, tôi chia tay với Muộn Du Bình và Bàn Tử, lên máy bay đi Hàng Châu. Cuộc sống hiện đại thật là thuận tiện, bốn tiếng đồng hồ sau tôi đã về đến nhà.

Hoạt động mạnh liên tục trong thời gian dài đã khiến tôi kiệt sức, mấy ngày sau đó tôi ngủ mê man, mỗi ngày chỉ thức dậy có một lần, đều là bị cơn đói đánh thức, sau đó vớ đại thứ gì đó trong tủ lạnh để bỏ bụng, ăn xong lại lăn ra ngủ, thấm thoắt đã qua hai tuần. Có người bạn còn tưởng tôi đã chết dí trong nhà bèn tìm đến, tôi mới chợt nhận ra mình đã nghỉ ngơi đủ rồi.

Ngủ quá nhiều nên cả người tôi đều khó chịu. Đầu tiên tôi gọi điện thoại cho Vương Minh hỏi về tình hình làm ăn của cửa hàng, ngoại trừ buôn bán ế ẩm ra thì tất cả bình thường. Thật ra thì buôn bán ế ẩm cũng là chuyện dễ hiểu, ông chủ đi vắng mà buôn may bán đắt mới là lạ. Sau đó tôi lại gọi cho cô Ba, bà Sáu, dượng Bảy, hễ là người thân thích có lui tới với chú Ba tôi đều hỏi qua một lượt, xem thử họ có biết hiện giờ chú Ba đang ở đâu không, nhưng đều không có kết quả. Cuối cùng tôi gọi đến cửa hàng của chú Ba, một cậu nhân viên của chú nhận điện thoại, tôi hỏi: “Chú Ba tôi đã trở lại chưa?”

Cậu ta chần chừ một chút mới đáp lời: “Ông Ba vẫn chưa trở lại, nhưng có một quái nhân tự xưng là anh em với cậu, hỏi chúng tôi cậu đang sống ở đâu. Tôi không biết lai lịch hắn như thế nào, nhưng trông hắn có vẻ gian gian, không giống người tốt nên tôi đã thay cậu đuổi hắn đi rồi. Trước khi hắn đi có để lại một số điện thoại, hay là cậu cứ gọi thử xem sao?”

Tôi ngẩn ra một chút, trong lòng cảm thấy kỳ lạ, tôi có rất nhiều bạn bè sơ giao ở các lĩnh vực khác nhau, nhưng biết tìm đến chỗ chú Ba để hỏi tin tôi thì cũng không được mấy người, suy nghĩ một chút bèn hỏi hắn: “Người đó bao nhiêu tuổi?”

“Tôi không nói chính xác được, đại khái chắc cũng tầm tầm tuổi cậu, nhìn qua có vẻ từng trải hơn cậu một chút, đầu tóc húi cua, mắt tam giác, mũi rất cao, có đeo kính, còn đeo một chiếc hoa tai, nhìn qua chẳng biết là Trung hay Tây, chẳng ra làm sao cả.”

“Chẳng ra làm sao cả?”, tôi lặp lại câu nói của cậu ta, thầm hỏi rốt cuộc đó là ai mới được chứ. Đang ngẫm nghĩ trong lòng bỗng dưng giật thót, bèn hỏi cậu nhân viên kia: “Người đó nói chuyện không được lưu loát lắm phải không?”

“Đúng, đúng, đúng…, chỉ mỗi một câu mà tên kia cà lăm đến mấy chục lần mới nói cho xong.”

Tôi đã biết đó là ai, trong lòng không khỏi vui sướng, vội ghi lại số điện thoại rồi gọi sang. Chỉ chốc lát sau đã nối máy được, từ đầu dây bên kia truyền lại một giọng nói nửa thân quen nửa xa lạ: “Ai… ai… ai đó?”

Tôi cười ha ha: “Tôi đập chết cậu bây giờ! Đến cả giọng tôi mà cũng không nhận ra là sao?”

Hắn lặng đi mất một lúc, sau đó phấn chấn hú lên vài tiếng, kêu to: “Ba… ba… ba năm không nghe cậu nói chuyện, tất nhiên là nghe… nghe không ra, cậu xem giọng của cậu đi, đúng là trưởng thành cả rồi.”

Sống mũi tôi cay cay, thật muốn rơi nước mắt, liền mắng: “Cậu còn mặt mũi nào mà nói tôi, mấy năm qua không thèm liên lạc thư từ với tôi lấy một lần, tôi còn tưởng cậu đã chết mất xác ở đâu rồi chứ!”

Ở đầu dây bên kia chính là lão Dương, tên thật của hắn là gì tôi đã quên mất rồi. Tôi với hắn là bạn nối khố cùng nhau lớn lên, chuyện gì cũng cùng nhau trải qua, có một thời gian còn thân thiết gắn bó với nhau như với chính bản thân mình vậy. Nhà hắn tương đối khó khăn, sau khi tốt nghiệp đại học không tìm được việc làm thì đến làm công trong cửa hàng của tôi. Đừng nghĩ hắn nói năng không lưu loát, thực ra miệng lưỡi lừa tình ngoại hạng, hai người ngưu tầm ngưu mã tầm mã, kinh doanh bát nháo cũng tự do tự tại sống qua ngày.

Không ngờ ba năm trước, tên nhóc này lại học thói xấu, theo một người anh họ ở Giang Tây đi Tần Lĩnh đổ đấu cho biết, kết quả là bị bắt. Ông anh họ trực tiếp lãnh án chung thân, còn hắn dựa vào miệng lưỡi dẻo quẹo của mình, tự biến mình thành một anh thanh niên lương thiện bị đám bất lương trong xã hội lừa bịp dụ dỗ, cuối cùng vớt vát chỉ phải ở tù có ba năm. Thời gian đầu tôi còn đi thăm hắn, nhưng tên nhóc này sĩ diện ngất trời, không thèm ra gặp tôi. Sau này tôi lại dọn nhà, cứ thế mà mất luôn liên lạc, không ngờ giờ hắn đã được ra tù.

Lại nói đến chuyện hắn đi đổ đấu, tôi cũng có trách nhiệm rất lớn. Từ nhỏ tôi vẫn luôn khoác lác trước mặt hắn rằng ông nội tôi lợi hại như thế nào, còn đem bảo bối của ông nội ra khoe với hắn, xem ra từ lúc đó hắn đã có ấn tượng rất sâu sắc về nghề này. Tên nhóc này gan to cùng mình, hồi còn nhỏ luôn là tôi gợi ý cho hắn gây chuyện rồi gặp rắc rối, nhưng tôi hoàn toàn không ngờ chuyện nguy hiểm chết người như thế mà hắn cũng dám đâm đầu vào làm.

Những điều tôi muốn nói với hắn suốt ba năm qua, đã bắt đầu thì không thể dừng lại được! Tôi nói cực kỳ khí thế, nói đến mỏi miệng, di động cũng đã nóng lên mà vẫn chưa thỏa lòng, mãi mới bảo hắn: “Mẹ nó, buổi tối cậu rảnh không, thằng bạn chí cốt này muốn mời cậu dùng cơm, chúng ta đi ra ngoài nhậu một trận cho thoải mái.”

Lão Dương cũng đang hào hứng, liền đáp: “Đương… đương nhiên rồi, ba năm qua ông đây chưa được đụng tới miếng thịt nào, lần này phải ăn cho thỏa thích!”

Chuyện này quyết định như vậy, tôi cũng hưng phấn đến ngủ không yên giấc, tắm rửa qua loa rồi dọn dẹp một vòng trong nhà, sau đó đến quán ăn trước chờ tên nhóc kia. Tôi nhìn một lượt thực đơn, món thịt nào cũng gọi lên một phần. Trời chưa kịp tối tên nhóc đó đã đến, tôi vừa nhìn, ơ hay, tên nhóc này cũng giỏi thật, ngồi tù ba năm mà còn mập ra cho được.

Hai người bạn cũ chúng tôi gặp lại, không nói hai lời đã thủ tiêu cả nửa bình rượu ngũ lương. Nhớ lại cuộc sống trước kia, lại nghĩ đến tình cảnh bây giờ đều không khỏi sụt sùi. Cứ uống đến lúc cơm no rượu say, chén dĩa trên bàn chất thành chồng cao ngất mới phát hiện những điều cần nói cũng đã nói hết cả rồi.

Khi đó tôi đã ngà ngà say, đầu óc trở nên lộn xộn, nghĩ đến chuyện hắn phạm tội năm đó, tôi ợ một tiếng, hỏi hắn: “Cậu nói thật cho tôi biết, mẹ nó chứ năm đó mấy người các cậu đổ được cái quái gì vậy? Ông anh họ ở Giang Tây của cậu sao lại phải lãnh án chung thân?”

Lời vừa thốt ra tôi lập tức hối hận, thầm nhủ sao lại hỏi chuyện này làm gì, lỡ như gợi lại chuyện buồn của hắn thì thật chẳng biết phải xử lý thế nào.

Không ngờ vừa nghe tôi hỏi vậy, mặt hắn đã lộ ra vẻ đắc ý, nghiến răng mà nói: “Thứ tớ đổ ra, hà hà, rất là ma quái, không… không phải là tôi không muốn nói cho cậu biết, mà cho dù tôi có nói thì cậu cũng không biết được.”

Tôi thấy hắn khinh thường mình liền nổi giận: “Cậu có thôi đi không, ông đây cũng không còn là thằng nhóc chẳng biết gì của ba năm trước nữa. Đường Tống Nguyên Minh Thanh, chỉ cần cậu nói ra hình dạng thì tôi sẽ biết ngay nó là thứ gì.”

Lão Dương thấy tôi nghiêm túc như thế, chỉ cười nói: “Nhìn… nhìn bộ dạng cậu kìa, còn nói cái gì mà Đường Tống Nguyên Minh Thanh nữa chứ!”, nói rồi hắn nhúng đầu đũa vào rượu, vẽ lên bàn một thứ có hình dạng kỳ lạ, “Cậu… cậu đã từng thấy thứ này chưa?”

Tôi say đến mắt mũi lờ đờ, nhìn mấy lần cũng không rõ, chỉ cảm thấy nó giống một thân cây, lại giống như một cây cột, liền mắng: “Cậu là con lừa chết tiệt, ngồi ba năm trong kỹ viện mà vẽ vời không đỡ hơn được tí nào, hình cậu vẽ nên gọi là gì cho phải? Là một cái chày gỗ á!”

Lão Dương nói: “Cậu… cậu… cậu nhìn lại cho kỹ đi! Mắt… mắt mũi như cậu cũng chỉ xứng xem loại hình vẽ cỡ này thôi!”

Tôi cẩn thận xem lại, thật sự là không nhìn ra nổi hình này vẽ cái quái gì, bèn vặc lại: “Có quỷ mới biết cậu vẽ thứ gì! Cậu nhìn mấy cái nhánh này đi, ý cậu là hoa văn ấy hả? Tôi trông cứ như cái chạc cây ấy, tóm lại cái hình vẽ cùi bắp này tôi nhìn không nhìn ra được!”

Lão Dương đắc ý cười, hạ giọng ra vẻ thần bí nói với tôi: “Cậu dám…dám nói, đây là một cái chạc cây, chạc cây bằng thanh đồng to cỡ cổ tay?”

Tôi vừa nghe liền ớ ra, hóa ra tên này dám đổ ra một một món đồ bằng thanh đồng, đúng là chán sống rồi mà, cho hắn lãnh án 3 năm đã là quá hời cho hắn rồi, tôi bèn nói: “Thứ này nặng lắm đó nha, những món nhỏ nhỏ cậu không đổ, lại đi đổ một món vừa to vừa quý như vậy, không phải là tự gọi người ta đến bắt mình sao?”

Hắn vỗ vỗ vai tôi, lột một củ khoai sọ nướng bỏ vào miệng, nói: “Cậu không ở đó nên không biết, chỗ kia không giống như tưởng tượng của cậu đâu, chuyện dài lắm.”

Tôi cũng có nghiên cứu chút ít về đồ đồng, cân nhắc hình vẽ thứ kia của hắn, chợt nhớ trước đó không lâu ở gò Tam Tinh có đào ra rất nhiều cây thanh đồng, cũng khá giống món này.

Gò Tam Tinh là di tích của nước Thục cổ, nghiêm túc mà nói đó không phải là phạm vi mà giới mua bán đồ cổ chúng tôi có thể rớ tới, vì niên đại quá xa, giá trị quá lớn, có hét giá bao nhiêu cũng không bị xem là đắt. Nếu chỗ lão Dương từng đến có thứ này cũng không biết đối với hắn là may hay rủi nữa.

Tôi liền nổi lên hứng thú với thứ đó, bèn hỏi hắn chuyện lúc ấy diễn ra như thế nào. Hắn uống cũng nhiều nên không thèm giấu diếm gì cả, kể hết từ đầu tới cuối cho tôi nghe.

Khi đó, bọn họ đi vào Tần Lĩnh đã hơn mười ngày, ngoại trừ rừng rậm ngút tầm mắt ra thì chẳng có thứ gì khác, coi như sắp rơi vào hoàn cảnh hết đạn cạn lương.

Lão Dương và anh họ hắn thật ra đều không có kiến thức cơ bản về trộm mộ, chỉ có nhiệt huyết tràn đầy. Lúc đó anh họ hắn đã nản chí ngã lòng muốn thoái lui, còn lão Dương thì vẫn kiên trì không chịu quay về.

Một ngày nọ, bọn họ lặn lội vào một khe núi khuất giữa núi non trùng điệp. Mấy ngày vừa qua họ không biết đã gặp được bao nhiêu khe núi như vậy, nhưng lúc ấy lão Dương lại phát hiện khe núi này có điểm khác biệt.

Nơi này không cao lắm so với mặt nước biển, nhiệt độ lại khá cao, cảnh vật lại vô cùng kỳ lạ. Ở trung tâm khe núi có một rừng đa già cỗi rộng kênh mông, chà, trong khu rừng đó không biết có đến bao nhiêu cây đa lớn hơn mười người ôm che khuất mặt trời, rễ đa bò đầy trên mặt đất, hầu như không còn chỗ trống để bước đi.

Anh họ lão Dương vừa nhìn cảnh đó liền cảm thấy có điểm không hợp lý, rừng đa quy mô lớn đến thế này không giống như được hình thành tự nhiên.

Nói về đất có câu châm ngôn, gọi là: “Hàm địa bất trường cao, nhật thượng cửu bát kiều, ngốc sơn bất mạo lâm, tất hữu sa nê đào”, tức là, cỏ cây sinh trưởng ở nơi không bình thường, dưới lòng đất hoặc bốn phía xung quanh ắt có vấn đề, thường là có cổ mộ.

Bộ rễ đa như rắn quấn vào nhau, cánh rừng này rậm rạp hơn rất nhiều so với rừng cây bình thường, chỉ sợ muốn vào cũng không dễ dàng gì. Nhưng ngẫm lại, đã đến được đây, chịu biết bao nhiêu khổ sở mà may mắn vẫn chưa thấy đâu anh họ lão Dương cũng không cam tâm, liền hạ quyết tâm dẫn lão Dương cùng tiến vào.

Bọn họ cứ đi thẳng vào bên trong, đi mãi đến khi trời ngả về chiều mới đến gần khoảng giữa khu rừng. Ở đó bốn phía văng vẳng tiếng cú đêm kêu liên tiếp không ngừng, bốn bề tối tăm u ám. Cả đám bật đèn pin, giảm tốc độ di chuyển để khỏi lạc đường.

Đúng lúc đó, anh họ lão Dương vấp phải cái gì đó, suýt nữa ngã nhào. Lão Dương vội đỡ lấy anh, xoay người nhìn lại mới thấy dưới gốc cây đa có thứ gì đó bị đám rễ quấn lấy thành một khối lồi lên khỏi mặt đất.

Bọn họ dùng rìu nhỏ gạt sạch mớ rễ đa bao phủ làm lộ ra thứ bên trong, rọi đèn pin thì thấy đó là một tượng người đá phủ đầy rêu xanh, nhìn quần áo và trang sức thì dường như là phong cách trước thời Lưỡng Hán, hoa văn Totem chạm nổi cực kỳ sắc nét.

Tượng người đá này xuất hiện khiến bọn họ lập tức hiểu ra, trong cánh rừng này thực sự có thứ gì đó tồn tại, lời cổ nhân nói quả không sai…

Bọn họ kiểm tra xung quanh tượng người đá, rất nhanh liền phát hiện dưới tầng lá đa rụng dày trên mặt đất là rất nhiều phiến đá lớn, dường như ẩn giấu di tích một con đường cổ. Tượng người đá được đặt ở bên rìa di tích thạch đạo cổ, giống như những kẻ canh giữ cho thạch đạo này.

Kết cấu như vậy có phải là thần đạo của hoàng lăng hay không? Lão Dương nhớ lại: lúc còn ở thôn nhỏ cách đây mấy chục dặm, có một ông già nói trong ngọn núi này chôn cất rất nhiều nhân vật thời Tây Tấn, lẽ nào sau bao nhiêu ngày khổ cực bọn họ đã thực sự gặp được?

Nếu đúng là như vậy, mấy ngày khổ sở vừa qua cũng thật đáng giá.

Hai anh em bàn bạc với nhau một chút, quyết định trước tiên cứ thử tìm kiếm dọc theo cổ đạo, nếu có cổ mộ gần đây, tất nhiên sẽ để lại dấu vết gì đó.

Bọn họ lặn lội theo cổ đạo thêm mấy giờ nữa, đi vào giải đất trung tâm khu rừng. Hai bên thạch đạo, bọn họ lại phát hiện được không ít di tích tượng người đá, cái thì nằm ngang trên thạch đạo, cái thì bị rễ cây quấn lấy, tất cả đều phủ đầy rêu xanh, dấu vết của thần đạo càng lúc càng rõ ràng.

Bọn lão Dương mừng thầm trong dạ, chân bước nhanh hơn. Chỉ kỳ lạ một nỗi, càng đi sâu vào cổ đạo, đám rễ cây lại càng dày đặc; cuối cùng bọn họ buộc phải chặt đứt rễ cây mới có thể vượt qua được, cứ như đám cây cối ở đây không muốn có người lạ vượt qua con đường này vậy.

Họ cứ miệt mài đi như thế đến quá nửa đêm, sức cùng lực kiệt mới thấy ánh trăng xuyên qua khe hở mấy tán cây trước mặt, dựa vào đó lão Dương ước chừng họ đã sắp đến cuối thạch đạo. Bọn họ leo qua một đống đá lớn, lại chặt đứt đám rễ cây cuối cùng, cuối cùng đã vượt qua khỏi rừng đa.

Dưới ánh trăng lấp loáng, một hố đá trông như kim tự tháp lật ngược xuất hiện ngay trước tầm mắt họ, rộng cỡ một sân bóng lớn, hình dạng giống như một cái đấu khổng lồ. Hố nằm chính giữa rừng rậm, bốn phía thành hố được tạo hình bậc thang, chừng một trăm bậc, hướng thẳng xuống đáy.

Lão Dương nhìn cảnh ấy mà choáng váng, hắn không sao tưởng tượng nổi nơi cuối thạch đạo lại là một di tích kiến trúc đồ sộ đến thế, chỉ cảm thấy tim đập rộn ràng, hai chân nhũn ra như muốn quỳ phục xuống lạy cái hố.

Nhưng tất nhiên đây không phải là cổ mộ, vậy rốt cuộc đây là đâu? Từ thời đại nào lưu lại?

Anh họ lão Dương dù có chút bản lĩnh thì nhìn thấy cảnh này cũng vô cùng khiếp sợ, nói với lão Dương: “Chỗ này chắc chắn có liên quan đến một loại nghi thứ cúng tế nào đó, nhìn qua giống như là một đàn tế, chúng ta mau xuống xem thử trong hố cúng tế có món minh khí nào không.”

Lúc này trăng đã lên, ánh trăng u ám lạ kỳ. Bọn họ mở đèn pin để khỏi bị vấp vào đám rễ ngổn ngang như rắn bò, mang theo tâm trạng lo lắng bất an bước xuống bậc thềm đá, tiến vào đáy hố.

Bốn phía xung quanh hố đều có rễ đa che phủ, nếu không lần theo cổ đạo thì dù có đi ngang qua ngay bên cạnh cũng không thể phát hiện ra nơi này. Những phiến đá ở mặt trong của hố đã nứt vỡ gần hết như những mảnh rời của bộ đồ chơi ghép hình, rất nhiều rễ cây chen ra từ trong đá rồi lại biến mất trong khe hở bên cạnh, cả di tích gần như đã bị phá hỏng thành một bộ mặt hoàn toàn khác hẳn.

Đáy hố cũng bị che phủ bởi một tầng cỏ dại thật dày, chỉ một vài chỗ mới lộ ra dấu vết của những phiến đá xanh.

Cỏ dại cao đến cả nửa thân người, bọn họ vừa dùng dao phát vừa tiến tới, không bao lâu đã đến trung tâm của tế đàn.

Giữa tế đàn là một giếng đất có vòng đá xếp xung quanh, giếng sâu chừng hơn mười mét, soi đèn xuống dưới cũng chỉ thấy toàn cỏ là cỏ. Bọn họ hạ dây thừng xuống đáy giếng, trước tiên là tìm kiếm xung quanh, không tìm được gì liền trực tiếp hạ xẻng Lạc Dương.

Xẻng thứ nhất hạ sâu đến mười lăm mét vẫn không chạm được gì, lão Dương rút ra, kiểm tra bùn đất trên xẻng thì thấy trong đó còn hòa lẫn tro than, giống như có một lượng lớn vật chất bị thiêu hủy, hơn nữa bên trong tro than còn có mảnh vụn của gốm sứ và ngọc.

Than đất trong bùn nhão là những gì còn sót lại sau khi thiêu hủy tế phẩm, trong những thứ bị thiêu hủy còn có đồ gốm và ngọc. Xem ra giếng đất này là nơi thiêu hủy tế phẩm cúng bái dành cho người chết vào thời đó, và không chỉ được sử dụng một hai lần.

Lão Dương đã bắt đầu không kiềm chế nổi sự hưng phấn của mình. Trong lịch sử, khi cúng bái người ta thường thiêu hủy một lượng lớn đồ đồng tinh xảo cùng với đồ ngọc; nếu có thể đào ra được một hai cái thì bọn họ sẽ thật sự phát tài.

Bọn họ bắt đầu dùng xẻng thay phiên nhau đào không biết mệt mỏi, chỉ chốc lát sau, ở độ sâu bảy mét so với đáy giếng, họ đào được một lượng lớn mảnh vỡ của đồ ngọc và đồ gốm, không sao đếm hết. Nào là ngọc miếng, ngọc viên, bình gốm, hũ gốm, hầu như thứ gì cũng có, nhanh chóng chất thành một đống.

Đáng tiếc là đa số đồ ngọc và đồ gốm đều đã bị hư hại, giá trị không cao, điều này khiến cho anh em lão Dương vô cùng thất vọng, mà thất vọng nhất là không tìm được đồ thanh đồng như họ nghĩ.

Họ vẫn chưa từ bỏ ý định, lại tiếp tục đào, rất nhanh đã đào sâu đến mười mét nhưng vẫn không tìm được thứ gì tốt. Mà hố đất đào thẳng xuống hơn mười mét là đã đến giới hạn, nếu còn đào xuống tiếp nữa, có nguy cơ cả đạo động sẽ sụp xuống, bọn họ không thể không ngừng lại.

Anh họ hắn khá là thận trọng, mới nói ta đào mãi vẫn không tìm được gì, chỉ sợ thời có cái đàn tế này người ta không dùng tế phẩm bằng thanh đồng, đừng đào nữa, hốt mớ đổ nát này về bán đi cũng đủ gỡ vốn, coi như chúng ta đi chuyến này xui xẻo vậy.

Nhưng lão Dương không cam lòng, mặc kệ ông anh họ nói gì, hắn vẫn muốn tiếp tục đào. Lão Dương để cho anh họ leo lên, còn mình thì đào thêm gần hai giờ nữa, sâu đến khoảng mười bốn mét, bỗng nhiên nghe keng một tiếng, xẻng của hắn đụng phải một khối kim loại.

Hai anh em liếc mắt nhìn nhau rồi đồng loạt nhìn xuống, phát hiện ngay giữa hố đất lộ ra một khối màu xanh thẫm.

Quả nhiên là có đồ thanh đồng. Lão Dương bỗng thấy hồi hộp, đến tay cũng run rẩy. Anh họ hắn reo lên vui sướng, vội quẳng xẻng đi rồi nhảy vào trong hố, hai người bắt đầu dùng tay đào thứ đó lên.

Rất nhanh, một thứ kỳ lạ xuất hiện ngay trước mắt hai người. Trông nó giống như một cây gậy bằng đồng, nhưng không biết cụ thể là gì. Bọn họ phải phủi sạch lớp than và đất bám bên ngoài mới nhìn ra nó là một nhánh cây tinh xảo được đúc bằng thanh đồng.

Hai anh em vui mừng khôn xiết, họ chưa từng được thấy qua thứ này, chắc chắn là rất đáng tiền. Hai người vội dùng tay đào vòng xung quanh để lấy thứ đó lên, nhưng đào xuống mấy mét vẫn không rút nó ra nổi. Tiếp đó họ đành dùng xẻng để đào, đào tiếp sáu bảy mét nữa vẫn chưa thấy được phần gốc của nhánh cây.

Lão Dương bắt đầu cảm thấy kỳ quái, hắn từng buôn bán đồ cổ một thời gian nên cũng biết rất hiếm có món đồ thanh đồng nào dài quá ba mét. Nhưng thứ ngay trước mắt hắn thì thật dị thường, ước chừng phải cao đến hai mươi mét, không biết còn chôn bao sâu dưới lớp bùn đất này.

Đạo động đã sâu gần hai mươi mét, còn cố đào sâu nữa chắc chắn sẽ sập, nhưng tay không trở về thật sự chẳng phải là chuyện dễ chịu gì. Hai người mờ mịt đứng ngây ra đó, không biết nên làm gì cho phải.

Cuối cùng, anh họ hắn nghĩ ra được một cách. Tại phần đất cách gốc của cây đồng khoảng hơn một mét, anh ta hạ xẻng Lạc Dương hướng xiên về phía cây đồng, sau đó tiếp tục nối thêm ống thép hạ xiên xuống, hạ một hơi đến gần mười mét, tiếng gõ ống bắt đầu trở nên nặng nề rồi không gõ thêm được nữa.

Lão Dương nói đến đó, nét mặt trở nên khó xử, bèn châm điếu thuốc hít vào một hơi dài, nói: “Vậy có nghĩa là phần chôn dưới đất của nhánh cây kia còn sâu trên mười mét, suy ra cả cây ít nhất phải cao đến ba mươi mét; một vật lớn như vậy, dù có đào ra được thì cũng không vác về nổi.”

Tôi nghe xong líu cả lưỡi, cảm thấy tên này cũng có khoa trương thêm ít nhiều. Ti Mẫu Mậu Đỉnh (1) khai quật được ở Hầu gia trang thôn Võ Quan, An Dương, Hà Nam là món đồ đồng lớn nhất cả nước, cũng chỉ cao hơn một mét. Thời đó muốn đúc một thứ lớn như vậy đã cần đến sức lực của gần hai ba trăm người, vậy cần đúc một cây thanh đồng cao hơn ba mươi mét chẳng phải là cần huy động đến hàng vạn người sao?

Nhưng thấy hắn nói nhiều như vậy tôi cũng không nỡ bẻ lại, bèn hỏi: “Vậy sau đó thì sao? Có tiếp tục đào xuống nữa không?”

Lão Dương nói: “Không, tôi còn định đào nữa, nhưng anh họ tôi lại đột nhiên nói thứ này có thể là thần vật, không chừng là mọc ra từ trong lòng đất, không thể đào được. Sau đó tôi lại nghĩ có tiếp tục đào nữa cũng không an toàn nên thôi… cậu thấy có lạ không? Tôi đoán gốc cây đó chỉ là  phần trên của một món đồ thanh đồng cực lớn, phần bên dưới có lẽ còn lớn hơn nữa; nếu đào hết ra, có lẽ sẽ chấn động cả thế giới.”

Tôi cảm thấy khó hiểu: “Vậy là cậu không mang được cây thanh đồng kia ra, thế sao lại bị tóm?”

Hắn đáp: “Chuyện này nói tiếp lại thấy kỳ lạ, khi ấy chúng tôi không cam lòng, đào tiếp mấy hố nữa ở chỗ khác, cuối cùng đào ra được một mớ bát gáo nồi chậu nguyên vẹn, sau khi ra khỏi Tần Lĩnh thì kiếm chỗ để tẩu tán. Nhưng anh họ tôi sau khi thấy vật kia thì thần kinh bắt đầu có vấn đề, vừa vào nội thành anh ấy đã nói oang oang cho người ta biết chuyện về nhánh cây thanh đồng. Dân vùng Tần Lĩnh xưa nay vốn có ác cảm đối với đám đào trộm mộ, tin đồn cũng lan truyền rất nhanh. Lúc chúng tôi vừa ra khỏi một tiệm đồ cổ, có mấy người nghe anh họ tôi nói lung tung, nhìn ra thân phận của hai anh em liền chạy đi tố giác! May mà anh công an đi bắt người là đồng hương của chúng tôi, thấy tôi còn trẻ nên bày vẽ cho tôi nói là “bị người ta lừa” mới gỡ được thành án ba năm. Còn anh họ tớ vốn cũng chỉ chịu án bốn năm năm thôi, ai ngờ ổng tự dưng nổi cơn điên, bao nhiêu chuyện đổ đấu từ trước đến giờ đều phun ra hết, cuối cùng lãnh án chung thân, thiếu chút nữa là dựa cột rồi.”

Tôi “Ồ” một tiếng: “Cậu làm nghề này bao lâu sao chẳng có tí kinh nghiệm nào, thế mà tôi còn tưởng cậu đem mấy món đồ đó về đến tận nhà chứ. Tôi đã nói với cậu không biết bao nhiêu lần rồi, đừng có tẩu tán minh khí ngay gần đó. Đã làm nghề không đàng hoàng rồi, lại còn nhằm ngay vào dân bản xứ, cái này gọi là quả báo nhãn tiền đó.”

Lão Dương thần bí cười: “Cũng… cũng không thể nói là tôi không vớ được… được gì, cậu xem thứ này đi… thế nào?”, nói rồi chỉ vào khuyên tai mình đang đeo!

——————————-

(1) Ti Mẫu Mậu Đỉnh là cái này:

Vô cùng xin lỗi vì đã ngâm dấm phần 3 này, lần lữa mãi đến giờ mới trình diện *dập đầu* từ giờ đến hết phần 3 mình sẽ cố gắng làm việc chăm chỉ mà, xin đừng chọi gạch :”<

Chương 2 – Chuông lục giác

Editor: Biển

Beta: Thanh Du

*****

Tôi chồm qua nhìn cho rõ, ánh mắt lập tức bị vật đó cuốn hút. Tôi còn kéo vành tai hắn đến trước mặt để xem cho kỹ, vừa nhìn rõ, không khỏi hít vào một hơi khí lạnh. Chiếc khuyên tai kia lớn bằng ngón tay út, hình dạng vuông vức nhìn sơ qua có lẽ ai cũng tưởng đó chỉ là loại khuyên tai rẻ tiền một đồng hai đôi mua ở quán ven đường; tôi phải nhìn kỹ mới phát hiện ra đây thực chất là một cái chuông lục giác.

Dù là hình dạng hay màu sắc, ngoại trừ chuyện cái này hơi nhỏ một chút ra thì khá giống với loại chuông tôi đã nhìn thấy trong động xác và trong ngôi mộ dưới đáy biển, có điều hoa văn trên đó hình như có hơi khác một chút.

Tôi lập tức tỉnh rượu đến quá nửa, hỏi hắn: “Cậu tìm đâu ra thứ đồ chơi này vậy?”

Hắn bị tôi kéo đến méo miệng, nổi sùng: “Mẹ nó, cậu… cậu… cậu uống nhiều quá rồi! Cậu có biết tôi… ghét nhất bị người khác kéo tai không, cậu còn… còn kéo nữa tôi sẽ xử cậu luôn đó!”

Tôi thấy mình có chút men rượu vào người thì ra tay cũng hơi thô bạo thật, vội thả tai hắn ra.

Hắn xoa xoa cái tai bị tôi kéo đến đỏ hồng, khóe miệng co giật: “Khỉ thật, cậu đúng là đồ thô lỗ, nhìn thấy đồ tốt cũng đâu cần phải mạnh tay như vậy, ôi cái lỗ tai đáng thương của tôi.”

Tôi không hơi đâu tranh luận với hắn, chỉ hỏi: “Nói mau, thứ này là sao, kiếm được từ đâu?”

Hắn cười hì hì, đắc ý nói: “Chưa từng thấy chứ gì, tôi nói cho cậu biết mà tức chết, thứ này tôi tìm được trong hố hiến tế đó, lấy từ trên người một cái bánh tông, sao nào? Cậu nhìn đi, sắc xanh lại pha đen, chính là đồ thanh đồng cổ thượng hạng, đảng cấp cao hơn hẳn mấy món đồ giả mà cậu đang bán.”

Tôi càng nghe càng rối: “Bánh tông cái gì? Chẳng phải cậu nói là chỉ đào ra được mấy cái nồi bát gáo chậu gì đó thôi sao? Sao lại lòi đâu ra một cái bánh tông nữa?”

Lão Dương còn tưởng tôi đang nghen tị với hắn, lại càng đắc ý: “Cái bánh tông kia quấn kín trong dây thừng, trông như cái kén tằm. Tôi đào ra được ở một hố đất khác, đại khái là người này lúc còn sống thân phận cũng khá cao, thứ này đeo… đeo trên tai cái bánh tông đó, tôi thấy vừa mắt bèn tháo xuống. Sao hả, cậu mắc chứng gì mà căng thẳng dữ vậy? Thứ này có lai… lai lịch thế nào? Có đáng tiền không?”

Đầu tôi rối tung, trăm ngàn ý nghĩ cùng nảy sinh một lượt. Tôi cau mày, thầm hỏi đó rốt cuộc là nơi nào? Loại chuông này xuất hiện ở đó, chẳng lẽ cái hố đá mà hắn kể có mối liên hệ với những chuyện mà tôi từng trải qua?

Lúc này lão Dương mới phát hiện ra điểm bất thường, kỳ quái hỏi: “Sao mặt mũi cậu nhăn nhó khó coi vậy? Dù thấy tôi có đồ tốt cũng đâu cần tỏ thái độ đó, nếu cậu thực sự thích thứ này thì để tôi tặng cậu luôn.”

Tôi nói: “Không phải, mẹ nó chứ, chẳng giấu gì cậu, cái khuyên tai của cậu không phải vật tầm thường. Tuy tôi không rõ lai lịch của nó nhưng đã từng thấy nó ở chỗ khác, chuyện là thế này…”

Tôi đem chuyện Lỗ Vương cung và chuyện trong hải đấu ra kể tóm tắt lại cho hắn nghe, đặc biệt nhấn mạnh đến mấy cái chuông kia, chỉ thấy sắc mặt hắn lúc trắng lúc xanh, tóm lại là mờ mịt.

Một lúc lâu sau hắn mới than: “Bà ngoại con ơi, tôi còn tưởng ba năm ngồi tù của tôi cũng đủ ớn cả đời rồi, ai ngờ đem ra so với chuyện của cậu thì chẳng là cái đinh gì hết. Cậu mà bị bắt thì chỉ có nước xử bắn thôi nha.”

Tôi thật không ngờ lại hắn lại hâm mộ mình đến thế, bèn nói: “Chuyện này thì có gì mà hay ho, nếu sớm biết đổ đấu phải khổ sở đến thế thì có đánh chết tôi cũng không bao giờ chui xuống đó.”, rồi chỉ vào tai hắn: “Cái chuông của cậu mới quái gở, chỉ cần rung lên lập tức khiến cho người nghe trở nên mê muội. Tôi không hiểu sao cậu đeo nó ngay bên tai mà đến giờ vẫn không việc gì?”

“Không đến nỗi quái gở như cậu nói chứ, để tôi lấy xuống cho cậu xem thử!”, nói đoạn liền tháo khuyên tai xuống.

Tôi soi chiếc khuyên tai dưới đèn, lại đưa lên mũi ngửi ngửi, lập tức hiểu rõ nguyên nhân, thì ra bên trong cái chuông này có rót nhựa thông nên không thể rung lên thành tiếng. Tôi lại cẩn thận xem xét cả hai mặt, càng xem càng thấy nó giống y hệt với cái tôi đã gặp trong cổ mộ.

Lão Dương thấy tôi lật qua lật lại xem tới xem lui, tưởng tôi thích thứ này bèn đeo lại vào tai rồi nói với tôi: “Nếu cậu thật sự thích nó thì ở chỗ đó vẫn còn vô khối, toàn là bánh tông vẫn còn nguyên đai nguyên kiện chưa bị ai phát hiện. Tôi đã đánh dấu đường đi, tụi mình có thể tìm đến lần nữa, nói không chừng còn có thứ bảo bối khác.”, nói rồi nhìn quanh bốn phía, hạ giọng, ra vẻ thần bí: “Nói thật, thằng bạn nối khố của cậu đang ở vào hoàn cảnh cực kì tệ hại, mấy ngày nay tôi tính quay lại đó làm thêm chuyến nữa.”

Tôi tưởng hắn đang nói đùa, liền đáp: “Thôi dẹp đi, tôi không muốn ăn cơm tù chung với cậu đâu. Mà cậu cũng đừng nghĩ đến chuyện đó nữa, cứ sống yên ổn là tốt rồi!”

Lão Dương nhích lại gần tôi, trịnh trọng nói khẽ: “Đừng…đừng nói thế, cậu nghĩ lại đi, cậu còn được gia đình lo… lo cho, muốn thế nào cũng được, còn tôi đã lãng phí mất ba năm rồi, giờ chỉ có hai bàn tay trắng, không thể không… không tính toán cho tương lai!”

Tôi nhìn vẻ mặt nghiêm túc của hắn không giống như nói đùa, liền mắng: “Cậu mơ à, mẹ nó chứ phí mất ba năm đi đóng gạch, tôi nói cho cậu biết, ra tù còn bị bắt lại coi như cố tình tái phạm, mà như thế là bị phạt nặng. Lỡ cậu sơ ý bị bắt lần nữa, không chừng người ta còn cho đi dựa cột luôn ấy chứ.”

“Nếu xui xẻo đến thế thì cũng đành chịu thôi.” lão Dương nói, “Tôi cũng đâu còn lựa chọn nào khác, túng quá hóa liều mới phải tính đến nước này. Tôi nghĩ kỹ rồi, đầu tiên ta đến Hàng Châu ở vài ngày, sau đó đi Tần Lĩnh,thế nào cũng phải đổ cho được mười mấy vạn. Hôm nay tôi tìm cậu cũng chính vì chuyện này, cậu là anh em tốt của tôi, mong cậu có thể đi cùng, đổ được thứ gì thì chúng ta chia nhau.”

Tôi nhìn vẻ mặt rầy rĩ của hắn mà nổi sùng: “Cái gì mà không còn lựa chọn nào khác, không phải cậu đang thiếu tiền đấy chứ? Thiếu bao nhiêu cứ nói, nể tình anh em tôi tính lãi cho cậu bằng 95% lãi suất cố định của ngân hàng trung ương thôi.”

(đồ gian thương =))))) tưởng ẻm bảo thiếu đâu tôi giúp phần nào, hóa ra là thiếu đâu tôi cho vay tính lãi =)))))))

Lão Dương đẩy tôi một cái, khinh khỉnh nói: “Cậu dẹp đi, cậu có bao nhiêu tài sản tôi còn không rõ sao. Hỏi vay cậu tám hay mười vạn cậu còn kham được, chứ nhiều hơn nữa cậu lấy đâu ra? Rõ thật là, còn làm bộ hào phóng.”

Tôi mắng: “Tám vạn mười vạn cậu còn chê ít, mẹ nó chứ cậu định làm gì? Phải lòng siêu sao à? Mẹ kiếp cậu ăn no rửng mỡ rồi vẽ thêm chuyện đấy hả, làm ơn chín chắn giùm một chút đi.”

Lão Dương nghe không lọt tai, chửi thề một tiếng, khoát tay nói: “Tôi muốn làm gì đâu liên quan đến cậu, cậu không có tiền thì thôi, đừng có lên mặt dạy đời tôi… thôi quên đi, anh em bọn mình lâu ngày gặp lại, có giúp hay không cũng chẳng vấn đề gì, đừng nhắc đến chuyện bực mình nữa.”, nói rồi rót rượu cho tôi.

Tôi thấy hắn khinh thường mình, men rượu bốc lên, nổi giận đùng đùng: “Tôi nói cậu nghe nè lão Dương, con mẹ nó, cậu đừng có khinh người quá đáng. Mấy năm nay tôi cũng có chút tiền dư dả, cậu nói thật cho tôi biết cậu cần bao nhiêu tiền, tôi lập tức đưa cho cậu!”

Hắn nhìn tôi, hơi rượu cũng bốc lên, nghiêm túc đứng dậy xòe bốn ngón tay huơ huơ trước mặt tôi: “Chừng này, cậu mà có thì tôi làm trâu cho cậu cưỡi cũng được.”

“Bốn mươi vạn?”, tôi hỏi, vậy cũng không nhiều lắm, hiện giờ bốn mươi vạn tưởng lớn chứ thực ra chẳng thấm vào đâu, “Không thành vấn đề, tôi đi lấy ngay, nhà tôi có đủ!”

Không ngờ hắn lại lắc lắc đầu: “Thêm một con số 0 nữa!”

“Bốn trăm vạn?”, tôi há hốc mồm, cả người lạnh toát, “Má ơi, tôi nể cậu rồi đó, con mẹ nó cậu cần từng ấy tiền làm cái khỉ gì?”

Lão Dương than một tiếng, đáp: “Cậu đừng hỏi nhiều, tóm lại là tôi đang thiếu chừng ấy tiền, cậu nói xem cậu có đào ra được nhiêu đó không?”

Bốn trăm vạn không phải là số tiền nhỏ, mặc dù trong buổi đấu giá thì một món đồ sứ vỡ bất kỳ cũng có thể chém tới hơn một ngàn vạn, nhưng phần nhiều là những thứ được mua đi bán lại nhiều lần. Sức mua trên thị trường có hạn, những thứ văn vật lấy lên từ đấu lần sang tay đầu tiên lợi nhuận thường không cao, thu về khoảng mười vạn là mừng lắm rồi, bốn trăm vạn này tôi thật sự không có.

Lão Dương thấy vẻ mặt hoang mang của tôi, biết tôi đang hoảng, bèn rót đầy cho tôi một chén rượu, còn nói: “Tôi biết ngay cậu không có mà. Nếu chỉ cần bốn mươi vạn thì tôi tìm tới cậu làm gì?”

Tôi nói: “Đừng quyết định sớm thế, để tôi giúp cậu đi hỏi vay mấy chỗ xem thế nào, người làm nghề này phất lên nhanh lắm, không chừng có thể lo liệu được. Nhưng cậu phải cho tôi biết cậu cần nhiều tiền như vậy làm gì?”

Lão Dương xoay đầu đi, hừ một tiếng: “Xoay sở cái quái gì chứ, cậu tính hỏi ai mà xoay sở, bạn bè cậu có ai là tôi không biết đâu, làm gì có ai kham nổi món tiền lớn như thế. Hơn nữa chuyện này tôi vẫn chưa thể nói cho cậu biết được, dù sao có bốn trăm vạn này là có thể giải quyết một việc lớn liên quan đến tính mạng tôi.”

Tôi thấy cũng phải, phần lớn bạn bè tôi đều là do lão Dương giới thiệu, thật sự không có mấy người dư dả để cho mượn. Còn hỏi ông già tôi ấy à, không chừng lão quỷ keo kiệt ấy còn bóp chết tôi ấy chứ, chuyện này đúng là không đơn giản chút nào.

Lão Dương vỗ vai tôi, dùng một giọng điệu vờ vịt mà nói: “Lão Ngô, vậy mới nói chúng ta đừng có vay tiền, bàn cách khác đi, tốt nhất là cậu chịu khó chịu khổ một chuyến, cùng tôi vượt qua trận gian nan này. Dù sao với cậu thì đây cũng không phải lần đầu tiên, cậu cũng đừng ngại. Suy cho cùng thì như thế chưa thể gọi là đổ đấu, chúng ta đến cái hố tuẫn táng kia, cậu giúp tôi kiểm tra cái nào đáng giá cái nào không, vậy chỉ gọi là nhặt của rơi thôi, đâu có phạm pháp. Cậu cứ coi như là đi du lịch một chuyến đi, bên đó non xanh nước biếc sơn nữ mỹ miều, cậu vẫn còn cô đơn chứ gì, cứ vào đó xem thử, không chừng còn lấy được một cô người Thái về làm vợ.”

(Chém chết lão Dương, dám xúi tiểu thụ nhà người ta đi lăng nhăng à =)))))))

Tôi không hơi đâu nghe hắn nói nhảm, lắc đầu: “Cậu nói đơn giản quá, chỗ tồi tàn cậu nói có thể kiếm được bốn trăm vạn sao? Nếu muốn làm một vụ lớn thì cậu phải tìm đến mộ thời Lưỡng Hán kìa, mà loại mộ đó thì người ta đã đổ hết lâu rồi, cậu có đi cũng chỉ phí công thôi.”

Lão Dương kiên nhẫn nói: “Trời đất, cậu nghĩ tôi là đồ ngốc à, chuyện này cậu chưa nghĩ thấu đâu. Tôi cho cậu biết, lần này tôi không quay lại chỗ cái hố cúng tế kia nữa. Lần trước đến đó với ông anh họ, ông ấy nói gần hố cúng tế chắc chắn có lăng mộ hoàng tộc cỡ lớn. Bây giờ tôi lấy đó làm mục tiêu, cậu cũng biết chút phong thủy, cứ đến đó xem thử, tôi nghĩ nhất định có thể tìm được!”

Tôi phớt lờ hắn: “Cổ mộ tôi lại càng không muốn, cậu đi mà tìm người khác.”

Lão Dương đẩy tôi một cái: “Lão Ngô, cậu không phải là anh em của tôi sao, nghĩ lại mà xem, nếu đi cùng tôi thứ nhất cậu có thể giúp tôi, thứ hai, cậu còn có dịp điều tra về chuyện của chú Ba cậu. Chuyện này ít nhiều liên quan đến chú Ba, coi như cậu không vì tôi thì cũng vì chính cậu, sao không đi thử một chuyến cho biết chứ?”

Hắn nhắc tới chuyện chiếc khuyên tai, tôi lại cảm thấy khó chịu. Hắn nói thế quả không sai, chuyện của chú Ba cứ mơ mơ hồ hồ, manh mối ít đến thảm thương, mà loại chuông này đã từng xuất hiện trong động xác gần Miếu Hạt Dưa lẫn hải đấu, hẳn là có liên quan rất mật thiết, nếu không nắm lấy cơ hội này chỉ sợ về sau muốn điều tra lại càng thêm khó khăn.

Nhưng nhớ lại hai chuyến đi vừa rồi, chân tôi lại bắt đầu muốn nhũn ra, giờ nhớ lại vẫn chưa hết sợ, hơn nữa leo núi còn vất vả đủ đường, tôi thật sự không muốn thử.

Tôi do dự mất vài phút, nghĩ đi nghĩ lại, nếu tôi không đi chuyến này thì chỉ sợ từ rày về sau không cách nào sống thanh thản được. Lão Dương hiếm khi năn nỉ tôi đến mức này, nếu còn tiếp tục từ chối, sau này cũng khó nhìn mặt nhau. Hay là cứ đồng ý trước rồi đến đó xem tình hình thế nào, nếu quả thật không kham nổi thì đến lúc đó đổi ý cũng được.

Chúng tôi vốn là hạng người mệnh phạm Thái Cực, rất hiếu kỳ đối với những chuyện bản thân không biết rõ. Tìm được cái cớ hợp lý rồi, tôi cũng vững tâm hơn hẳn.

Nghĩ thế tôi liền hạ quyết định, nói với lão Dương: “Được rồi, nếu cậu đã nói thế thì tôi sẽ đi cùng cậu một chuyến, nhưng trước hết cậu phải đưa khuyên tai cho tôi xem thử xem nó thuộc triều đại nào, có đáng tiền không. Nếu nó là đồ rẻ tiền, tức là chỗ kia không đáng để ta phí công, cậu còn phải tính kế khác.”

Lão Dương vừa nghe tôi đồng ý giúp hắn thì vui mừng khôn xiết, vội gật đầu lia lịa: “Được, cậu nói gì tôi nghe đó, tặng luôn cho cậu cũng được!”

Tôi nói: “Nhưng tôi đã cảnh báo trước rồi đó, nếu đã đi thì bất cứ chuyện gì cũng phải nghe lời tôi, muốn đánh rắm cũng phải báo trước với tôi một tiếng, đồng ý không?”

Tên nhóc này đã sớm bỏ lời tôi ngoài tai, hồn đã bay tuốt đến Tần Lĩnh luôn rồi, vừa rót rượu cho tôi vừa nịnh nọt: “Được rồi được rồi, chỉ cần đổ được bốn trăm vạn thì cậu chính là cha mẹ tái sinh của tôi. Đừng nói là không được đánh rắm, cậu muốn tôi hít rắm cũng không thành vấn đề!”

Hai chúng tôi sẵn men rượu liền thỏa thuận luôn chuyện này. Sau lại tán dóc đủ chuyện trên trời dưới đất, uống đến tận nửa đêm, say khướt nằm gục luôn xuống mặt bàn.

Một tháng sau đó, mỗi người chúng tôi đều có chuyện riêng cần xử lý. Những trang thiết bị chúng tôi mua trong chuyến đi Sơn Đông lần trước đã bị chôn vùi tại chỗ, phải mua mới toàn bộ. Tôi dựa vào kinh nghiệm từ hai chuyến đi vừa rồi liệt kê một số thứ ra giấy, để lão Dương chuẩn bị cho chu đáo.

Sau đó tôi dựa vào vài mối quan hệ chuẩn bị một ít thuốc men trong quân đội. Lúc đi Sơn Đông, bình nước mang theo thật sự quá nặng, tiêu hao thể lực khủng khiếp. Khe núi bên trong Tần Lĩnh có nhiều mạch suối ngầm, không cần mang theo quá nhiều nước, nhưng lại cần mang theo một ít thuốc tiêu chảy. Dạ dày đám dân thành thị chúng tôi chắc chắn không thích ứng nổi với nước suối thiên nhiên trong núi rồi.

Dặn dò xong tôi bay đi Tế Nam, đến chợ Anh Hùng sơn gặp lão Hải, đưa viên Ngư Nhãn Thạch của Bàn Tử cho ông ta xem thử.

Lão Hải thấy nó thì vui đến mức cười toe toét không ngậm miệng lại nổi: “Đại gia à, tôi đây buôn bán đồ cổ, thứ này hẳn là nên đem đến tiệm châu báu bảo bọn họ định giá thì hơn.”

Tôi nói: “Viên Ngư Nhãn Thạch này cũng là đồ cổ đó nha, ít nhất phải đến bốn trăm năm tuổi.”

Lão cười cười: “Tôi cũng biết vậy, thứ ngài lấy ra chắc chắn là đồ tốt. Có điều viên ngọc này nếu đính trên trâm cài tóc hay trên mũ thì quả là bảo bối, nhưng cậu lại chỉ có một viên ngọc không như vậy thì tôi biết làm thế nào? Cậu nói đây là đồ cổ người ta cũng không tin tưởng lắm đâu. Hay là thế này đi, tôi giúp cậu làm một cây trâm ngọc khảm viên Ngư Nhãn Thạch này lên, xem thử có bán được hay không? Tôi đưa cho cậu ít tiền đặt cọc, cậu cứ để đồ lại đây, người có con mắt tinh tường tự nhiên sẽ trả giá cao thôi.”

Lão chân thành nói vậy, tôi cũng không thừa thời gian mà đôi co qua lại với lão về chuyện này, đành cầm hai mươi lăm vạn tiền cọc ỉu xìu quay về Hàng Châu. Sau đó tôi đem chiếc khuyên tai lão Dương cho đi tìm một người bạn của ông nội, nhờ ông ấy xem thử lai lịch của chiếc chuông này thế nào, rốt cuộc có đáng giá để tôi lặn lội đường xa đi Thiểm Tây hành xác một chuyến hay không.

Ông cụ đó họ Tề, là một trong những người buôn đồ cổ sớm nhất ở Hàng Châu, hiện giờ có thể đứng ngang hàng với giáo sư cấp quốc gia, có chỗ ngồi danh dự trong nhiều trường đại học, đặc biệt ông ấy còn nghiên cứu khá nhiều về dân tộc thiểu số. Lúc đưa cái chuông kia ra, tôi phát hiện ông ấy nhìn nó chăm chăm, bàn tay nhận lấy chuông cũng run lên.

Ông Tề cầm lấy chuông đồng, xem xét nó suốt ba tiếng đồng hồ, lật ra sáu bảy cuốn sách dày cộm mới chịu ngẩng đầu lên. Tôi ngồi chờ bên cạnh đến gật gà gật gù, ông nhìn tôi, thờ dài: “Thật hổ thẹn, lão già này đã nghiên cứu về dân tộc thiểu số bao nhiêu năm mà vẫn chưa từng thấy qua vật này, Tiểu Tà, cháu nói rõ ràng cho ông biết, thứ này lấy từ đâu ra?”

Trước mặt người lớn tôi cũng không dám đáp lấy lệ, liền thêm mắm dặm muối lung tung kể thành một câu chuyện. Nhìn ông ấy nghe mà hai mắt sáng lên, tôi cảm thấy chuyện này có vẻ không đơn giản, bèn hỏi: “Ông à, thứ này có vấn đề gì sao?”

Ông lại thở dài, nói là dựa theo phân tích của mình, kỹ thuật làm nên chiếc chuông này nằm trong giai đoạn từ triều Hạ đến triều Tây Chu, hoa văn trên đó tên là

s

ong thân nhân diện văn xà

(hoa văn rắn mặt người hai thân)

, rất có khả năng thứ này có nguồn gốc từ một quốc gia thời cổ ở khu vực từ Thiểm Tây đến Hồ Bắc có tên gọi là “Xá Quốc”; mà quốc gia này đã đột nhiên biến mất từ hai ngàn năm trước.

Lịch sử của quốc gia này có khi rõ khi không, chỉ còn lại một ít thông tin được ghi chép vụn vặt trên thẻ tre cổ, vào khoảng đầu thời Tây Chu đột nhiên phát triển thịnh vượng, đến giữa thời Tây Chu lại bất ngờ mất tích không để lại dấu vết, cứ như đã biến mất trong rừng núi hoang sơ chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi chưa đến hai mươi năm.

Rất nhiều câu chuyện thần thoại đều có nhắc đến sự tồn tại của họ, trong Sơn Hải kinh cũng có một đoạn ghi chép rất dài, trong đó nhắc đến “Xà Quốc” nằm phía ngoài Tứ Xuyên, có lẽ chính là quốc gia này. Chữ Xá đọc chệch từ chữ Xà, dân tộc này thờ cúng một loại rắn mặt người hai thân như thần linh, nên trên rất nhiều thứ trang sức đều có hoa văn rắn hai thân.

Bây giờ hầu hết những người nghiên cứu lịch sử của quốc gia này cho rằng, “Xá Quốc” là hậu duệ của một nhóm người tách ra từ “Hoa Tư cổ quốc”, nhóm người này muốn đưa xã hội lúc ấy trở về chế độ mẫu hệ. Xá Quốc lấy hình vẽ rắn mặt người hai thân làm biểu tượng chủ yếu là vì “Hoa Tư cổ quốc” có truyền thuyết về “Phục Hy mặt người thân rắn”.

Bởi lẽ những tư liệu này đều lấy từ sách cổ và tài liệu khai quật được, cho nên quốc gia này có thực sự tồn tại hay không luôn là vấn đề gây tranh cãi trong giới học thức. Cái chuông này nếu đưa tới chợ đồ cổ, có lẽ sẽ không ai nhận ra giá trị của nó, nhưng đối với một số người có chút ít nghiên cứu chuyên môn thì lại là báu vật vô giá.

Tôi nghe nói thứ này ít được biết đến, trong lòng không khỏi hồi hộp. Nếu quả thật như vậy, cho dù chúng tôi có thể tìm đường vào cổ mộ đem đồ ra, chỉ sợ cũng không bán được giá cao, chuyến đi này e rằng chỉ phí công thôi.

Ông Tề thấy vẻ mặt của tôi liền hỏi có phải tôi gặp rắc rối gì không? Tôi biết ông là một thương nhân già dặn kinh nghiệm, bèn kể cho ông về tình cảnh của mình.

Ông suy nghĩ một lát, đầu tiên là mắng tôi một chặp, sau lại vỗ vỗ vai tôi, nói rằng nếu tôi muốn bán thứ này, ông có thể giúp tôi tìm được người mua giá cao, bốn trăm vạn hoàn toàn không thành vấn đề; có điều chuyện này tuyệt đối không được tiết lộ ra ngoài.

Nghe xong, tôi cũng ngầm hiểu được đại khái. Mẹ nó, ông già này xem ra cũng là dạng trùm trong đường dây ngầm, có lẽ đã hoạt động bí mật từ trước giải phóng. Nhưng đã có ông ấy nhận làm môi giới thì tôi cũng hoàn toàn yên tâm, vội gật đầu cảm ơn.

Trước khi rời khỏi chỗ ông Tề, tôi còn mang theo không ít tư liệu về Xá Quốc. Tôi tranh thủ giở ra xem trên taxi, thấy có rất nhiều hình chụp bích họa, trong số đó có một bức rất kỳ lạ, đó là hình ảnh nhiều người quỳ lạy trước một thân cây, xem chú giải bên cạnh thì hình như đây là hoạt động cúng tế vô cùng quan trọng của Xá Quốc, cúng tế một loại “cây Xà Thần”, truyền thuyết nói rằng chỉ cần hiến máu tươi cho loại cây này là có thể cầu được ước thấy, là một loại cây ước nguyện.

Cái cây này nhìn rất giống với hình lão Dương đã vẽ cho tôi xem, chẳng lẽ cây thanh đồng hắn đào thấy kia chính là biểu tượng của loại cây Xà Thần này?

Trong rất nhiều bức bích họa đều có hoa văn rắn mặt người, rõ ràng chính là nét đặc thù của Xá Quốc. Tôi không nhớ nổi loại chuông trong động xác gần Miếu Hạt Dưa và loại gặp trong huyệt mộ dưới đáy biển có hoa văn rắn mặt người hai thân trên đó không, nhưng xem hình dạng thì những cái chuông ở ba nơi này chắc hẳn có cùng một nguồn gốc, mà Xá Quốc thần bí này có thể là điểm mấu chốt.

Hai ngày sau, trên chuyến xe giường nằm đi Tây An, tôi và lão Dương nằm hai gường song song, vừa cắn hạt dưa vừa nói chuyện phiếm.

Tôi vốn định đi máy bay đến Tây An rồi tính tiếp, nhưng khổ nỗi tôi không được nể mặt như chú Ba, một bao lớn hàng cấm bị giữ lại ở cửa an ninh, cuối cùng đành phải ngồi ô tô, hơn nữa cũng chỉ có thể ngồi xe hãng tư nhân.

Để tiết kiệm chi phí vận chuyển, xe chạy lúc nhanh lúc chậm, ngoặt trái quẹo phải trên đường đèo, cứ lặp đi lặp lại đến phát chán. Tôi với lão Dương tán dóc đủ chuyện, nào là chỗ kia có thể có một ngôi mộ thời Hán, nơi nọ có thể có một cái lăng thời Đường, khiến cho lão Dương hận không thể nhảy luôn khỏi xe mà đào.

Nói chuyện với nhau một hồi, lão Dương hỏi tôi, sau khi vào xem cái hố ba năm trước hắn đã đến, có còn muốn đi chỗ nào khác nữa không. Suy cho cùng vào núi đâu phải chuyện chơi, nếu mang được nhiều đồ thì không nên lãng phí, nếu có thể tìm được lăng mộ khác quanh đó lại càng tốt hơn.

Thực ra từ sớm tôi đã có tính toán, khu vực phụ cận có khả năng nằm trong phạm vi Xà Quốc cổ đại, ngoài cổ mộ gần hố tuẫn táng hẳn là còn có những di tích khác, nếu có thể tìm được một hai cái, lấy vài món đồ đem về sẽ có ích rất nhiều đối với chuyện tôi muốn điều tra. Tôi âm thầm tính toán, không nói ra miệng, còn hay đùa với hắn: “Đừng có ham hố, mẹ nó chứ chưa chắc cậu còn nhớ đường, nếu không tìm thấy cái hố tuẫn táng kia, để xem cậu lo liệu thế nào.”

Lão Dương nhìn tôi cười mờ ám, nói hắn đã sớm để lại ký hiệu, tôi liền cười lớn: “Ba năm, ở cái nơi thâm sơn cùng cốc này thì ký hiệu nào lưu lại được ba năm chứ?”

Hắn cười ha hả đáp lời: “Cậu nhìn là biết ngay thôi, ký hiệu của tôi đừng nói là ba năm, có là ba mươi năm cũng vẫn còn nguyên.”

Tôi không biết hắn đánh dấu kiểu gì, cứ mặc kệ hắn, lại tán dóc một hồi rồi dần dần ngủ thiếp đi.

Sau khi đến Tây An, chúng tôi tìm một nhà khách nhỏ nghỉ qua đêm, dùng thử món cơm rang dưa chua ăn với canh phù dung đặc sản của địa phương, nhân tiện đi dạo chợ đêm, đi đến tận mười hai giờ, lão Dương lại thèm món cơm rang, gào rú đòi đến quầy bán hàng ăn đêm. Chúng tôi tùy tiện tìm một quán nhỏ ven đường ngồi xuống, gọi hai chai bia, vừa uống vừa ăn. Lúc này tôi cũng chẳng còn kiêng kỵ gì, thầm nhủ chúng tôi dùng khẩu âm phương Nam, người ở đây có nghe cũng không hiểu, mới vô tư bàn về chuyện đổ đấu ngày mai. Trò chuyện hăng say một hồi, chợt nghe ông già ngồi bên cạnh hỏi: “Hai cậu, muốn theo a đáp (*) đi buôn bán thổ sản không?”

(*) A đáp là phương ngữ Ôn Châu dùng trong xưng hô chỉ người đàn ông đáng tuổi ba mẹ, tương tự như chữ “chú” trong tiếng Việt.

Chương 3: Theo dõi

Editor: Nhôm

Beta: Thanh Du

 *****

Chúng tôi đang tán gẫu hăng say, hắn nói những câu không đầu không đuôi, giọng địa phương đặc sệt, mọi người nghe đều không hiểu. Lão Dương nghe vậy mới “A” một tiếng, hỏi: “A Đáp là nơi nào?”

Lão nhân kia thấy chúng tôi có vẻ không hiểu, liền thay đổi giọng từ tiếng địa phương sang tiếng phổ thông hỏi: “Ý của tôi là hai vị muốn đến nơi nào để buôn bán? Có phải đến lấy hàng thổ sản hay không?”

Tôi còn chẳng biết cái gì gọi là hàng thổ sản, hơn nữa người ở phía Nam tính tình lãnh đạm, ngoại trừ mấy thằng cha chào hàng thì không có mấy người lại tùy tiện bắt chuyện với khách qua đường. Nhất thời không biết đáp thế nào, cũng may có lão Dương nhanh trí, học theo điệu bộ của lão già kia, nói: “Tôi, chúng tôi tới đây du lịch, không có hứng thú với thổ sản. Ông là người bán hàng thổ sản phải không?”

Lão già kia cười ha hả, khoát tay với chúng tôi, trở về chỗ ngồi của mình. Hai người chúng tôi ù ù cạc cạc, chẳng hiểu chuyện gì, chợt nghe lão già ấy nhẹ giọng nói với mấy người ngồi cùng bàn: “Không sao đâu, hai đứa ngồi kia là thanh đầu thượng cương, ha ha, ta mắng chúng nó cũng không hiểu, không cần ra tay.”

Lão Dương nghe xong mặt liền biến sắc, hạ giọng bảo tôi mau đi. Tôi thấy khó hiểu, nhưng lại thấy vẻ mặt lão rất căng thẳng, đành bỏ lại mười đồng rồi bỏ đi với hắn. Tới một ngã rẽ, tôi vội hỏi lão Dương: “Sao lại phải đi? Rượu còn chưa uống hết một nửa.”

Lão lén lút nhìn trước ngó sau, đáp: “Ban…ban nãy lão già kia nói với tên ngồi cùng chúng ta là thanh…thanh đầu. Hồi tôi ngồi tù có nghe mấy người trước đây phiêu bạt giang hồ nói qua, ‘thượng cương’ chính là tiếng lóng vùng này ám chỉ việc trộm mộ, còn ‘thanh đầu’ ý bảo chúng ta không phải người qua đường. Bọn người này toàn thân tanh mùi bùn đất, chỉ sợ cũng là dân trong nghề, vừa rồi nghe chúng ta nói đến chuyện đổ đấu mới chạy qua nghe ngóng.”

Tôi cười, nói: “Vậy cũng đâu tới nỗi phải bỏ đi, binh đến tướng đỡ, nước dâng thì đất chặn. Giữa nơi đông người như vậy, bọn họ làm gì được chúng ta?”

Lão Dương vỗ vai tôi, bảo tôi không hiểu chuyện, chuyện trong hắc đạo khó mà nói cho rõ ràng được. Những lời chúng ta nói ra khi nãy, không chừng đã bị nghe thấy hết, cũng không rõ người nghe hiểu được mấy phần. Hiện giờ mộ tốt chỉ có thể gặp chứ không thể cầu, nếu bị bọn chúng theo dõi, coi chừng đêm dài lắm mộng.

Tôi biết lão Dương đã từng ở tù, chỉ sợ lại nghe bạn tù thêm mắm thêm muối kể đủ chuyện trên trời dưới bể, không buồn cãi nhau với hắn, chỉ gật đầu rồi cùng hắn quay về nhà trọ.

Hôm sau, chúng tôi đi bộ suốt bảy giờ đồng hồ, mỗi người mang 15kg cả trang bị lẫn lương khô, hướng về phía long mạch lớn nhất Trung Quốc.

Trước đây tôi đã từng tới Tần Lĩnh một vài lần, mỗi lần tới đều có hướng dẫn viên dẫn đi, chẳng biết đường này nên đi thế nào. Lần này còn đi theo lão Dương, ba năm trước hắn cũng chỉ đi theo đoàn. Đoàn đi như thế nào lần này hắn cũng phải đi đúng như thế, bằng không sẽ lạc đường.

Chúng tôi đi dọc theo đường cao tốc Tây Bảo, theo lộ trình thì ước chừng ba giờ nữa sẽ đến núi Thường Dương thuộc thành phố Bảo Kê, Thiểm Tây, sau đó lại chuyển hướng đến đầu nguồn sông Gia Lăng.

Đường tôi đi hàng ngày thường thường đều là đi thẳng về thẳng. Đường quốc lộ lên Bàn Sơn này thì khác, cứ năm giây có một khúc cua nhỏ, mười giây có một khúc cua lớn, đầu tôi dán chặt vào lưng ghế trước, chỉ cảm thấy lục phủ ngũ tạng lộn tùng phèo hết cả lên. Lão Dương lại càng tệ, đã ba năm hắn không đi xe, dọc đường đi đã muốn ngất xỉu, giờ tình hình lại càng nghiêm trọng, nôn ra mật xanh mật vàng, than thở: “Già rồi, già rồi, người già là giống vô dụng. Ba…..ba năm trước cũng đi con đường này, tôi còn đủ sức ngồi cãi nhau với đám đàn bà con gái, ai ngờ lần này mắt còn chả mở được.”

Tôi nói: “Con mẹ nó, cậu đừng có nhiều lời, còn bày đặt đường cao tốc thì không chịu đi, đòi đi đường Bàn Sơn (1) xoắn như cái ruột dê này, bây giờ hối hận cái rắm.”

Lão liền quay sang tôi khoát khoát tay, ý bảo đừng nói nữa, lão khó chịu lắm rồi.

Đúng lúc này bỗng có tiếng nổ lớn từ xa truyền tới, mạnh tới nỗi khiến cửa kính xe cũng phải rung chuyển, người trong xe bắt đầu hoảng hốt. Thò đầu ra khỏi cửa xe, tôi chỉ thấy ngọn núi đối diện bị phủ kín trong khói bụi. Lão Dương bị dọa cho nhảy dựng, vội hỏi: “Động….lại động đất sao?”

Người ngồi đằng trước dáng dấp trung niên quay lại cười, nói: “Hai vị từ nơi khác tới nên không biết, đấy là do có người nổ mộ, mùa này, suốt từ sáng đến tối luôn có hai đến ba vụ.”

Tôi ngạc nhiên: “Giữa ban ngày ban mặt ai lại có gan đi trộm mộ chứ?”

Hắn nhếch mép cười, lộ ra một miệng toàn răng vàng: “Ngọn núi đằng kia không giống bên này, cậu đừng nghĩ chẳng qua chỉ cách nhau một con sông Gia Lăng. Bên này chúng ta còn có đường Bàn Sơn, bên kia đến một con đường mòn còn chẳng có. Bây giờ mà báo cảnh sát thì họ cũng phải mất một ngày một đêm mới đuổi tới nơi, trừ phi mọc cánh bay qua, bằng không cũng đành phải trơ mắt mà nhìn.”

Tôi gật gật đầu, lưỡi líu hết lại: “Còn có chuyện này nữa sao?”

Người nọ nhìn tôi một lúc rồi cười nói: “Đây cũng coi như là điểm đặc sắc của chỗ chúng tôi, đặc biệt là vào mùa này, hai ngày trước còn bắt được một nhóm trộm. Mấy năm nay cổ mộ bị khai phá cạn kiệt nên ngày càng ít đi, trong núi sâu có thể vẫn còn, có điều đường quá khó đi, chính quyền cũng chỉ biết đứng nhìn. Vừa nãy có động lớn, e là dùng rất nhiều thuốc nổ.”

Tôi “à” một tiếng, quay đầu nhìn ra ngoài cửa sổ. Đây hẳn là một trong vô vàn nhánh núi Tần Lĩnh, nhìn về phía trước chỉ thấy một mảng rậm rạp um tùm, dưới tán cây rậm rạp đã xảy ra chuyện gì, căn bản không sao nhìn rõ.

Trước khi đến đây tôi đã từng tra qua tư liệu, núi Tần Lĩnh thuộc địa phận tỉnh Thiểm Tây, địa hình cao chót vót, hai phía đông – tây phân ra vô số nhánh núi. Núi non trùng điệp cùng thung lũng giao nhau thành từng hàng, vô số con sông chảy vòng quanh các nhánh núi. Tám trăm dặm Tần Xuyên xưa nay nổi tiếng là nơi tập trung nhiều văn vật cổ, đặc biệt là nơi sườn núi phía Bắc vẫn còn khá nhiều lăng mộ của vua chúa; những quan lại, quý nhân, phú hào được táng ở đây lại càng nhiều, cho nên nơi này từ lâu đã trở thành chốn để kẻ trộm mộ chen chân. Nào ngờ còn chưa đi sâu vào dãy Tần Lĩnh, đã có kẻ trắng trợn cho nổ mộ ngay bên ngoài, xem ra bây giờ tìm được một hai ngôi mộ đáng để ra tay cũng không phải là chuyện dễ.

Người địa phương kia thật nhiệt tình, chuyện vừa khơi ra đã thao thao không dứt. Hắn đưa chúng tôi một điếu thuốc, hỏi: “Hai người tới đây du lịch phải không? Muốn đi chỗ nào?”

Tôi đáp: “Tôi muốn đến núi Thái Bạch ngắm cảnh.” Hắn liền gật gật đầu, nói: “Hai người không đi du lịch theo đoàn thì không nên vào quá sâu. Đường đi trong núi này khúc khuỷu quanh co, không cẩn thận sẽ lạc đường, có cần tôi đi cùng một đoạn không? Nhà tôi ở trong một thôn nằm ngoài rìa khu bảo hộ, vòng qua hai ngọn núi là đến nơi. Cậu xem, bây giờ ra ngoài du lịch, tìm người hướng dẫn cũng là điều tất yếu phải không?”

Tôi vừa nghe đã đoán ra kẻ này ắt là một tay hướng dẫn hắc ám, dân trong núi toàn hạng to cao lực lưỡng, không chừng tụi nó kéo tôi đến bên khe núi lụi cho một dao thì đi đời. Nghĩ đến đây tôi vội lắc đầu nói: “Không cần, không cần, chúng tôi đã chuẩn bị cả rồi.”

Người nọ nói: “Cậu đừng vội từ chối, nơi này không giống những nơi khác, nơi đây rừng núi rậm rạp, hai người muốn tiến bừa vào trong núi sâu thì rất dễ gặp nguy hiểm, cậu cũng nên lo lắng đi. Tôi cũng có chút danh tiếng trong nghề dẫn đường ở vùng này, tuyệt đối không hù dọa hai người.”

Tôi nghe hắn nói cũng có chút thành khẩn, không tiện từ chối, đành nói lần này chúng tôi đến đây chủ yếu là muốn vào thôn của người dân tộc thiểu số trong núi. Theo kế hoạch thì trước tiên cứ ở tạm dưới chân núi vài ngày, cho nên cũng không vội tìm người dẫn đường, chờ khi nào muốn vào trong núi thì sẽ gọi hắn.

Hắn vội nói: “Ấy, đến sớm không bằng đến đúng lúc, đường này tôi đi nhiều rồi. Cậu muốn tới thôn người Dao gần nhất thì chí ít cũng phải vượt qua ngọn núi này.” Nói rồi hắn chỉ về rặng núi phía xa: “Kia là núi Xà Đầu, nơi cao nhất có độ cao hơn một nghìn mét so với mực nước biển, cả ngọn núi trông giống đầu con rắn nên mới gọi là núi Xà Đầu. Khách du lịch từ bốn phương tám hướng, nếu muốn đến được làng của người dân tộc, thì chỉ có cách đi bộ từng bước. Núi này đã vùi xác nhiều người, năm ngoái có mấy học viên trường nghệ thuật đi vào vẽ cây cối phong cảnh, đến giờ vẫn chưa thấy trở ra. Cậu nói xem, có cần người dẫn đường không?”

Tôi nhìn theo hướng hắn chỉ thì thấy núi Xà Đầu vắt ngang tầm mắt, xanh biếc một màu, đỉnh núi cao ngất khuất sau tầng mây. Cũng bởi điều kiện khí hậu mà ngọn núi quanh năm phủ trong sương mù, không thể nhìn rõ diện mạo, chỉ có thể miễn cưỡng nhìn thấy mặt quay về sông Gia Lăng. Đáng tiếc là quanh sông đều là vách đá dựng, thế núi dốc đứng, đến khỉ cũng chẳng leo lên nổi.

Đây đúng là “Vân hoành Tần Lĩnh gia hà tại? Tuyết ủng Lam Quan mã bất tiền.”

(Mây che Tần Lĩnh nhà chẳng thấy, tuyết phủ Lam Quan vó ngựa chùn).

  Đầu lưỡi tôi líu hết lại, thầm nghĩ vượt qua núi này có còn cơ hội sống sót không?

Xe đi thêm một giờ nữa, cuối cùng cũng tới chân núi Thái Bạch, tôi và lão Dương lảo đảo xuống xe. Đằng nào tên hướng dẫn kia cũng sẽ giới thiệu khách sạn cho chúng tôi, tôi nghĩ dù sao cũng đã đến địa bàn của hắn, không uống rượu mời tất phải uống rượu phạt, đành phải đi theo. Hắn dẫn chúng tôi tới quán trọ nhỏ của một gia đình nông dân, tôi thấy giá cả cũng vừa phải, xem ra người này thực sự nhiệt tình.

Đợi chúng tôi sắp xếp ổn thỏa chỗ nghỉ ngơi, hắn mới chắp tay cáo từ, trước khi đi còn để lại số điện thoại, nói khi lúc nào vào núi thì gọi cho hắn, hắn sẽ dẫn đường cho chúng tôi.

Chủ nhà trọ cũng rất nhiệt tình, họ làm cơm chiều rồi mời chúng tôi cùng ăn. Không tiện ăn chung với chủ nhà, tôi cáo lỗi rồi cùng lão Dương trở về phòng, tựa vào bệ cửa sổ, vừa ăn vừa xem bản đồ vùng này.

Tên hướng dẫn kia nói cũng không sai, muốn đi vào Tần Lĩnh từ hướng này thì phải vượt qua ngọn núi cao một nghìn thước so với mực nước biển, đây là điều hoàn toàn không ngờ tới. Với kinh nghiệm của chúng tôi, muốn tự mình đi vào núi chẳng khác nào tìm lấy cái chết. Nhưng nếu tìm tên hướng dẫn nọ để đưa chúng tôi vào thì đến lúc ra ắt cũng phải nhờ đến hắn. Bảo hắn chờ ở ngoài một hai ngày còn được, nhưng chúng tôi đi vào trong núi có thể phải mất cả tuần, khó mà khiến hắn không nghi ngờ.

Lần trước lão Dương đến đây, anh họ hắn có tìm một tay dẫn đường già dặn; nhưng bây giờ anh họ hắn đang ăn cơm tù, tay dẫn đường kia đương nhiên không thể tìm được nữa. Hắn cũng không ngờ mình sẽ đến đây lần thứ hai nên chẳng còn nhớ tí gì về sơn đạo, không thể dựa vào hắn được. Hỏi bà chủ nhà vẫn chẳng tìm được cách nào khác, bởi vì người sống trong thôn thường thường chỉ khi nào có phiên chợ mới ra khỏi cửa. Mà bọn họ muốn ra ngoài thì đều leo qua núi, xưa nay chưa từng nghe ai nhắc tới con đường tắt; xem ra muốn vượt ngọn núi này không phải chuyện đơn giản.

Đang cân nhắc xem nên làm thế nào, lão Dương bỗng vỗ tôi một cái, khẽ nói: “Lão Ngô, nhìn… nhìn kìa, người dưới đó là ai?”

Tôi liếc mắt qua cửa sổ, chỉ thấy dưới sân nhà trọ có năm người. Nhìn kĩ hơn thì bất ngờ nhận ra một trong năm người đó chính là lão già chúng tôi đã gặp ở quán nước ven đường ở Tây An.

Tôi thầm nhủ, thế quái nào mà nhóm này cũng tới đây, lẽ nào lão Dương nói đúng, bọn họ cũng đến đây để kiếm đường làm ăn?

Lão Dương vội kéo rèm che, chỉ chừa lại một khe hở nhỏ, khẽ khàng bảo tôi: “Mấy tên này cũng mang theo túi lớn túi nhỏ hệt như chúng ta, không phải chúng nghe được những chuyện bọn mình nói ở Tây An hôm trước rồi muốn đi theo chờ thời cơ ăn chặn đấy chứ?”

Tôi thấy bà chủ trọ vui vẻ ra đón bọn họ vào, lắc lắc đầu, nói: “Chắc không phải đâu, cậu xem họ thân thiết như vậy, có lẽ những người này là khách quen thường trọ lại ở đây. Nhà trọ ở vùng này không nhiều, chắc là chúng ta tình cờ chọn cùng chỗ với bọn họ thôi.” Nếu lão Dương nói đúng, họ cũng là dân đổ đấu thì chỗ này hẳn là điểm dừng chân cố định, e rằng mỗi lần đến đây làm ăn họ đều ở trọ lại chỗ này.

Lão Dương lo lắng nói: “Toi rồi, ở Tây An bọn họ đã nghe chúng ta nói chuyện, nếu để họ bắt gặp ở đây thì dễ bị chú ý lắm, hay là ta rời khỏi đây ngay trong đêm đi?”

Tôi suy nghĩ một chút, cảm thấy chuyện này không có gì phiền toái, ngược lại còn là một cơ hội tốt, lắc đầu nói: “Không. Đám người này chỉ là ruồi nhặng, trứng không ung thì chẳng đậu lại làm gì (*), họ tới đây chắc chắn có mục đích. Chúng ta đều không có kinh nghiệm, thay vì mò mẫm đi lung tung, chi bằng cứ theo bọn họ, không chừng lại thu được thứ gì hay ho, sau đó còn có thể theo họ vượt núi.”

(*) Lấy ý từ câu tục ngữ “Thương dăng bất trành vô phùng đích đản” tức là quả trứng nguyên lành không nứt vỡ thì ruồi nhặng chẳng thèm liếc mắt tới.

Lão Dương nói: “Đám người này toàn kẻ liều mạng, giết người không ghê tay. Đi theo bọn chúng lỡ bị phát hiện, không chừng còn bị thủ tiêu, như vậy có quá mạo hiểm không?”

Tôi bật cười, chế giễu hắn: “Cậu biến thành bà mụ từ khi nào vậy? Nơi này rừng sâu núi thẳm, sao có thể dễ dàng bị phát hiện? Vả lại chúng ta đâu phải lũ ngốc, bị phát hiện chẳng lẽ không biết đường chạy? Nếu cậu thật sự lo lắng, vậy trước hết ta cứ đi theo xem chúng có cảnh giác không đã. Nếu không theo được thì thôi, chúng ta cũng đâu có mất gì, phải không?”

Lão Dương nghe tôi nói vậy, nhất thời không phản bác được gì, đành phải gật đầu. Chúng tôi liền đi chuẩn bị đồ đạc thật kĩ càng, tránh cho ngày mai lại cuống. Tôi nhẩm tính mấy ngày nữa có thể sẽ tương đối vất vả, bèn đi đặt báo thức sớm, bảo lão Dương đừng làm chuyện gì nữa, lo mà nghỉ ngơi đi.

Do đi đường quá mệt mỏi nên vừa đặt lưng xuống là ngủ một mạch tới giữa trưa, hoàn toàn không nghe thấy tiếng chuông đồng hồ báo thức. Lúc tôi mở mắt thì mặt trời đã đứng bóng, liền giật mình tỉnh giấc, dựng lão Dương dậy. Xuống hỏi bà chủ trọ mới biết mấy người kia vừa xuất phát đi về hướng núi Xà Đầu, cũng may thời gian chưa quá lâu.

Hai người chúng tôi vội vàng chạy đi mua mấy cái bánh nướng làm lương khô rồi một đường hướng về phía ngọn núi, gấp rút đuổi theo bọn họ. Chạy ước chừng mười lăm phút, cuối cùng khi đến chân núi chúng tôi cũng đuổi kịp bọn họ.

———————————–

(1) Đường núi Bàn Sơn xoắn ruột mèo ~

Chương 4: Tiếp tục theo dõi

Edit: Hằng

Beta: Thanh Du

*****

Đám người kia sau khi mua vé thì đi thẳng vào khu sinh thái, chúng tôi cẩn thận bám theo, cách chúng một khoảng khá xa.

Khu sinh thái này không có lấy một bóng người, chúng tôi sợ bị phát hiện, đành phải bảo nhau chui vào bụi cỏ, da thịt bị tra tấn, bị hết lá cỏ sắc lại đến bụi cây thi nhau cứa vào, vừa ngứa lại vừa đau. Chỉ trong chốc lát, tôi đã cảm thấy khốn khổ vô cùng.

Vượt qua chân núi là coi như đã tiến vào phạm vi núi Xà Đầu. Nơi này có mấy điểm du lịch, đường đi đều lát đá, vì vậy đi lại không mấy khó khăn. Sơn đạo men theo thế núi, quanh co khúc khuỷu, dọc hai bên đường có khe suối róc rách cùng với rất nhiều khối đá khắc hình danh nhân, phong cảnh tuyệt đẹp, hiềm nỗi nhóm người này một mạch đi thẳng, không thèm ngừng chân lại ngắm cảnh, dường như không hề có chút hứng thú đối với cảnh sắc núi Tần Lĩnh.

Thể lực của tôi dạo gần đây không tệ, đi một mạch tới tận đây cũng không có cảm giác gì. Nhưng lão Dương kia vừa trải qua thời gian cải tạo trong tù, không mấy khi vận động, tim gan phèo phổi hoạt động không năng suất bằng tôi, chỉ chốc lát đã chịu hết nổi, bắt đầu phì phò thở dốc.

Đường lên núi càng lúc càng yên tĩnh, chúng tôi không dám nói một lời, ngậm miệng im re bám theo sau đoàn người nọ. Cho đến khi trời sập tối, trăng lên ngang trời, đám người kia mới dừng lại.

Chúng tôi tìm một bụi cây xa xa ngồi xuống, dõi theo bọn họ. Bỗng lão Dương đưa tay kéo kéo tôi, tôi quay đầu lại nhìn, thấy hắn tái mặt, vầng trán đẫm mồ hôi, mới biết hắn chịu không nổi nữa rồi, liền lấy cho hắn miếng nước rồi để hắn nghỉ ngơi cho thoải mái.

Lão Dương vừa thở vừa nói với tôi: “Lão… lão Ngô, tôi thấy ta theo họ đến đây được. . . được rồi, họ đổ được cái gì thì là của họ, ta đổ được là của ta, cứ đi nữa rồi lại thành ra tranh giành miếng ăn với nhau.”

Tôi cũng không khá khẩm hơn hắn là bao, nghe hắn nói vậy, trong lòng cực kỳ khó chịu, khẽ mắng: “Con mẹ nó, cậu mới chỉ ngồi tù có ba năm, sao đã thành một thằng vô dụng rồi? Đã theo đến đây còn bỏ, bao nhiêu khổ sở chúng ta phải chịu trên đường chẳng thành công cốc hết hay sao? Tốt nhất là cậu ngậm miệng lại cho tôi.”

Lão Dương lại nói: “Vậy cậu đoán xem còn phải bám theo chúng bao lâu nữa. . . bọn chúng dừng lại, có phải đã đến nơi rồi không?”

Tôi lại nhìn về phía đám ngưới kia, đáp: “Chưa, nơi này vẫn còn cách núi một khoảng khá xa, có thể chúng mệt mỏi muốn dừng chân nghỉ ngơi thôi. Cậu xem, họ nhóm lửa lên rồi, chắc hẳn là muốn qua đêm ở đây. Chúng ta cũng đừng lãng phí thời gian nữa, trước tiên cần lấp đầy cái bụng rồi đánh một giấc, xong xuôi có gì thì tính sau.”

Chúng tôi rốt cuộc cũng tìm được một chỗ khuất, kiếm rơm rạ trải qua loa. Tiếc rằng lúc này đã là nửa đêm, chúng tôi không thể nhóm lửa vì ánh sáng sẽ dễ dàng khiến kẻ khác phát hiện ra, đành để mặc quần áo ướt nhẹp mồ hôi dính chặt lên người, muốn hong cho khô cũng không được. Chỗ lương khô mang đáng lẽ phải nướng lại, mà giờ chỉ có thể ngồi nhai một đống nguội ngắt. Lão Dương than thở, luôn miệng oán trách tôi vì cái chủ ý ẩm ương này.

Tôi cũng hối hận không ngớt, trong lòng bắt đầu thấy khó chịu, nhưng những lời lão Dương cũng không lọt tai chút nào. Tôi thầm nghĩ, ta tới giúp mi mà mi còn ở đó nói nhảm, liền mắng lại: nếu có chút khổ sở thế này cũng không chịu nổi thì tốt nhất là quay về đi, bằng không có vào trong núi thì cũng trốn về thôi.

Lão Dương buồn bực hồi lâu, đột nhiên thốt lên: “Không xong rồi, lão Ngô, chúng ta bị động theo. . . theo dõi như vậy cũng đâu phải cách hay, không biết bọn họ có muốn vượt qua núi hay không. Nếu theo bọn họ hướng thẳng lên đỉnh núi, chui vào rừng rậm thì chúng ta tiêu đời.”

Ta nghe vậy cũng ngẩn ra, tự nhủ hắn nói cũng đúng, mình cứ đinh ninh đám người này muốn vượt núi, nhưng lỡ như họ không vượt núi, mà đi dạo lòng vòng xung quanh thì chẳng phải hai thằng tự nộp mạng cho chúng nó rồi sao?

Chuyện này thật khó xử, cũng không thể chui ra hỏi đám người đó được. Tôi nhìn về phía ánh lửa phía trước, đần người ra.

Lão Dương thấy tôi không đưa ra được phương án nào hữu dụng, thở dài một hơi, nghĩ ngợi ít lâu rồi nói trông cậy vào tôi chỉ tổ tiêu đời, dựa vào hắn vẫn hơn. Hắn định qua đó nghe lén mấy người kia nói chuyện, bọn họ sắp tiến vào núi, không thể không bàn bạc công chuyện được.

Tôi bị hắn huyên thuyên một hồi, rốt cuộc không không còn cách nào khác, đành phải đồng ý. Có điều để một mình hắn đi tôi không yên tâm, vì vậy cũng mò đi cùng hắn.

Rón ra rón rén đi tới, quả thật núi này yên tĩnh kinh khủng, chúng tôi đi chưa xa đã có thể nghe thấy tiếng nói truyền về. Lão Dương kéo tay tôi, ý bảo trốn ở đây được rồi, không cần phải tiến thêm nữa.

Tôi gật đầu, cả hai cùng ngồi xuống, ngưng thở, nghe tiếng bọn họ đang cười rất to. Có một chuyện nằm ngoài dự tính của chúng tôi, đó là lẫn trong đám đông ồn ào vẫn nghe ra được tiếng nói của hai người đậm chất Quảng Đông.

Chuyện này thật quái lạ, xưa nay tôi chưa từng nói người Quảng Đông cũng có hứng thú với mấy vụ này.

Bọn họ ở đó cười cười nói nói, chợt nghe một người thanh niên lên tiếng: “Thái thúc à, chú nhẩm tính xem nhóm ta còn phải đi bao lâu mữa mới tới nơi? Chân tôi hôm nay đã mỏi muốn rụng rời rồi.”

Một giọng nói khàn khàn đáp lời: “Ngày thường tao đã bảo mày chịu khó tu tâm dưỡng tính, ai mà ngờ con bà mày chỉ biết ăn chơi gái gú cờ bạc rượu chè, cắm mặt vào đôi gò mấy ả đàn bà, giờ đã biết thân chưa? Tao nói cho mày biết, muốn qua núi Xà Đầu này, đoạn có đường phải đi hết hai ngày, đến khi hết đường thì tao không dám chắc. Nếu mày chịu không nổi thì cút xuống núi ngay bây giờ cũng chưa muộn, đừng quẩn chân ông nữa.”

Người thanh niên kia hiển nhiên có chút e dè với Thái thúc, nói: “Gần đây tôi có hơi đổ đốn thật, nhưng chú yên tâm, vụ mua bán này nếu thành công thì bọn tôi không cần phải tới mấy hẻm núi kiểu này làm ăn nữa. Bọn tôi sẽ đi theo ông chủ Vương cùng ông chủ Lý tới Hồng Kông mở mang tầm mắt, cũng có thể thưởng thức cuộc sống của giới thượng lưu.”

Một người giọng Quảng Đông lên tiếng: “Được rồi được rồi, không sao cả, mọi người đừng cãi nhau. Chỉ cần mấy người tìm được đồ tốt, muốn bao nhiêu chúng ta sẽ có bấy nhiêu. Vụ làm ăn này coi như đổi đời, chỉ cần làm tốt thì tất cả mọi người có thể nghỉ ngơi thoải mái được rồi. Đến lúc đó hãy tới Hồng Kông rực rỡ xa hoa bậc nhất vung tay tiêu tiền từng xấp từng xấp, như thế dù có cực khổ chút xíu cũng đáng giá.”

Thái thúc lại nói: “Ông chủ Lý, ông đừng có ba hoa đắc chí như thế. Cái đấu này có nằm quanh đây không, chúng tôi chỉ biết dựa vào mấy lời đầu môi chót lưỡi của ông. Ông mà đưa tin giả, để chúng tôi toi công thì coi chừng.”

Ông chủ Lý đáp: “Ôi dào, tôi bảo này, ông đa nghi quá rồi. Chúng ta hợp tác với nhau bao lâu rồi, tôi chẳng qua chỉ hỏng việc có một lần, đâu cần để bụng đến tận bây giờ chứ. Thật lòng mà nói, lần này chỉ cần mọi người đặt chân đến được nơi đó thì sau này dù có là lăng mộ Tần Thủy Hoàng mọi người cũng không coi vào đâu.”

Thái thúc không thích nghe những lời khách sáo kiểu này, cười nhạt nói: “Lời này tất nhiên tôi không tin được rồi, ông cũng đừng chơi kiểu phóng ngựa trước pháo (*). Tuy chúng ta đúng là đã hợp tác lâu năm, nhưng tôi còn chưa được biết ông có được mớ tin tức này từ đâu. Dù sao thì đây cũng là lần cuối cùng, nếu ông không ngại, sao không nói ra cho các anh em tôi nghe chơi, coi như mở mang kiến thức.”

(*) Thành ngữ gốc “phóng mã hậu pháo” mang nghĩa chuyện qua rồi mới biết mà tìm cách phòng chống, gần nghĩa với “mất bò mới lo làm chuồng”. Tác giả đổi lại là “phóng mã tiền pháo” tức chuyện chưa xảy ra đã nói như đúng rồi, aka ăn bánh vẽ :))

“Đúng vậy đó, nói nghe coi!” Tên thanh niên kia lập tức chen miệng vào: “Ít ra sau này tôi còn có cái đem ba hoa với đám đàn bà.”

Ông chủ Lý cười dài một tiếng mới tiếp lời: “Haiz, hai người thật là. . .  nếu hai người thật sự muốn biết thì tôi kể lại cũng được, chỉ sợ nói ra không ai tin thôi.”

Chương 5:  Nghe lén

Edit: Dứa

Beta: Thanh Du

*****

Đám người kia im lặng hồi lâu mới nghe ông chủ Lý lên tiếng: “Chuyện này đáng ra tôi không nên kể cho người khác, có điều mọi người đã theo tôi lâu như vậy, cũng coi như là người một nhà rồi. Nếu mọi người muốn biết, tôi nghĩ có nói ra cũng không sao.”

Thanh niên kia trở nên hưng phấn: “Có khí khái lắm! Không giấu gì ông, chúng tôi quả thực vẫn còn đoán già đoán non, không biết ông có tuyệt kĩ gì mà một phát tìm được ngay cổ mộ đấy.”

Ông chủ Lý ngừng một chút, miễn cưỡng trả lời: “Chuyện đó cũng không phải bí mật gì, mọi sự tính ra đều liên quan tới tổ tiên tôi. Trong gia phả tôi có ghi lại một chuyện thế này, mọi người trước hết hãy nghe tôi kể qua đã.”

Ông chủ Lý bắt đầu kể một câu chuyện li kì:

Vào thời Bắc Ngụy, chiến tranh loạn lạc liên miên, một ngày không biết phải đánh bao nhiêu trận. Người lớn chết trận gần hết, ông tổ của lão mới sáu tuổi đã phải đi chăn trâu thuê, kiếm kế sinh nhai.

Năm ấy thôn bên phát sinh bạo loạn, triều đình phái quan binh đến trấn áp, mọi người trong thôn đều chạy nạn hết cả. Nhà họ không kịp chạy đi, đành nấp kín trong phòng. Bên ngoài chém chém giết giết đến mờ mịt đất trời, phải ba ngày sau mới hết.

Ông tổ của lão nơm nớp lo sợ, len lén ra ngoài xem sao, thấy xác người chất đầy mặt đất, lại có rất nhiều người vẫn còn thoi thóp. Bị dọa đến ngẩn cả người, ông vội chạy đi tìm trâu nhà mình, kết quả là trong chuồng trâu đâu chẳng thấy, lại thấy lù lù một người bị thương nằm lăn lóc trong đám rơm.

Kẻ kia vừa câm vừa điếc, vết thương đã nặng lắm rồi. Ông tổ lúc ấy tuổi còn nhỏ, làm sao phân biệt được đây là binh lính hay quân tạo phản, chỉ thấy người này sao mà đáng thương, mới mang nước cho hắn uống, còn lấy vải thô băng bó để cầm máu. Có điều hắn ta bị thương quá nặng, thành ra cầm cự chẳng được bao lâu. Trước khi chết người đó lấy ra một cuộn vải bố chi chít chữ, ra hiệu cho ông tổ của lão phải cất giữ thật cẩn thận.

Đáng tiếc nhà lão lúc ấy từ trên xuống dưới đều thất học, không ai hiểu được chữ viết trên đó. Qua tiết Đại Hàn năm ấy, lại thêm rất nhiều người chết cóng, người nhà liền mang súc vải ấy ra may áo bông.

Đến tuổi trưởng thành, ông tổ của lão tòng quân, chiến đấu dưới thời Nam Bắc triều đạt được những chiến công hiển hách,  về sau được cất nhắc tới chức giáo úy. Nhưng vì nhiều năm sống trong nghèo đói mà thời cuộc lại thay đổi quá nhanh nên khi ông tổ lão về già thì gia thế nhà lão bắt đầu lụn bại. Đến khi ông tổ lão qua đời, chỉ còn sót lại chiếc áo bông bồi táng.

Về sau gia tộc nhà lão còn trải qua nhiều phen thăng trầm, cho đến cuối triều nhà Thanh đã trở thành hào phú một vùng.  Trong một lần di dời mộ tổ, do mấy người công nhân không cẩn thận nên quan tài bị nghiêng làm thi cốt bên trong rơi xuống đất. Khi tẩy rửa hài cốt, ông nội lão phát hiện mọi thứ bên trong đều đã rữa nát hết, chỉ có mảnh vải bố bên trong chiếc áo bông chôn cùng là vẫn còn nguyên vẹn như cũ.

Ông nội lão cảm thấy chuyện này thật kì lạ, mới đem áo bông nhờ một người làm nghề buôn đồ cổ xem giúp. Người này vừa nhìn qua đã phát hiện áo bông này quả thực không phải vật tầm thường, những chữ viết trên đó chính là “ách văn”, tương truyền chỉ có người câm điếc mới hiểu được.

Ông chủ Lý nói tới đây thì ngừng lại, hỏi xung quanh: “Mọi người có biết tấm vài đó dùng để làm gì không?”

Mọi người im lặng suy nghĩ, rồi một giọng nói rất lạ vang lên: “Chuyện này tôi từng nghe qua, thời ấy Bắc Ngụy có một đội quân, tất cả đều là người câm điếc; đây hẳn là vật họ dùng để truyền thông tin cơ mật, chữ bên trên gọi là ách văn, người bình thường xem không hiểu được. Đây là tôi nghe người lớn trong nhà kể lại.”

Ông chủ Lý gật gù đáp: “Sư gia quả nhiên là sư gia, vậy chắc anh cũng biết nhiệm vụ của đội quân kia là gì chứ?”

Vị sư gia kia cười nói: “Tôi không biết rõ, nhưng nghe nói đội quân câm điếc này của Bắc Ngụy là noi theo đội quân Mô Kim hiệu úy của Tào Tháo, ngoài mặt là hộ vệ của hoàng đế, sau lưng lại làm nghề đổ đấu… Do họ câm điếc, mà ách văn thì ngoài họ ra không ai đọc được, thành ra những ngôi mộ họ từng khai phá chỉ có họ và hoàng đế biết. Hành tung của những người này tới nay vẫn là bí ẩn lớn.”

Nói tới đây, vị sư gia kia ngừng một chút rồi mới tiếp lời: “Ông chủ Lý, không lẽ ông muốn nói tấm vải kia chính là “hà mộc tập”?

Ông chủ Lý cười phá lên, đắc ý gật đầu: “Lợi hại, lợi hại, có sư gia ở đây, tôi có muốn gạt người cũng không được. Không sai, chính là nó!”

Sư gia hít một hơi khí lạnh, trả lời: “Thật khó lường, đồng nghiệp bất đồng mệnh, thì ra Lý gia nhờ thứ này mà phát tài.”

Thanh niên kia nghe không hiểu, hỏi lại sư gia: “Cái gọi là “hà mộc tập” đó thực ra gì? Sao lại liên quan đến cổ mộ?”

Sư gia đáp: “Tương truyền, sau khi quân câm điếc tìm được cổ mộ thì thường không vội đào ngay, mà chỉ ghi lại vị trí rồi dùng ngựa san bằng mặt đất, sau đó đổ một lớp sắt nóng chảy lên, sau này cần đến thì căn cứ vào những bản ghi chép này mà tìm lại. Người ta gọi chúng là ‘hà mộc tập’.”

Thanh niên kia giật mình nói: “Tôi hỏi này, nói vậy thông tin về mấy cái đấu chúng ta đã đổ đều từ đó mà ra? Oa, ông chủ Lý, ông cũng thật là, có thứ quý giá như vậy đúng ra phải chia sẻ với anh em chút ít chứ.”

Ông chủ Lý cười nói: “Vẫn chưa hết đâu, vật của tổ tiên không phải không dùng được. Mảnh vải trong quan tài cụ tổ tôi ghi lại vị trí của hai mươi bốn cổ mộ, cái này đã là cái cuối cùng rồi. Có điều ngôi mộ cuối cùng này ắt hẳn phải là ngôi mộ đáng giá nhất trong tất cả.”

Thanh niên kia lại hỏi: “Trên đó có ghi bên trong có gì không?”

Ông chủ Lý nhíu mày, lắc đầu đáp: “Không ghi chép gì cả, nhưng tấm vải đó có viết những thứ trong ngôi mộ này không phải thứ người thường có thể dùng, là cực phẩm trong cực phẩm, so với báu vật trong lăng mộ Tần Thủy Hoàng còn hơn vài phần. Tin tôi đi, tuyệt đối không sai đâu.”

Tôi với lão Dương nghe đến đó đã hiểu rõ, bọn họ vào đây quả nhiên có mục đích, chỉ là không nghĩ tới nội tình lại hay ho đến vậy. Lão Dương hỏi tôi: “Này, cậu… cậu bảo tên họ Lý này nói thật… thật hay dối? Trên đời này còn có lăng mộ nào có thể so sánh với lăng mộ Tần Thủy Hoàng ư?”

Tôi lắc đầu, trả lời: “Tôi không chắc, nhưng xem khẩu khí của lão, ít nhất cũng đúng đến năm phần. Ngày mai bọn họ chắc chắn sẽ vượt núi, chúng ta cứ đi theo là được.”

Lão Dương nói: “Chúng…chúng ta cứ bám theo họ đến cùng xem sao, mục tiêu lần này của bọn họ nhất định không nhỏ, chúng ta có nhặt phần thừa cũng đủ dùng rồi… Cái hố tuẫn táng kia, chúng ta đừng đi nữa.”

Hắn vì quá căng thẳng thành ra nói năng lắp ba lắp bắp, có mấy chữ nói ra nghe rõ mồn một, tôi thấy nguy đành vội vàng bịt miệng hắn lại, dỏng tai nghe ngóng động tĩnh đối phương. Nhưng đã muộn mất rồi, phía bên kia đột nhiên im bặt, hẳn là đã phát hiện xung quang có điểm bất thường.

Tôi và lão Dương nín thở, cố gắng không gây ra tiếng động nào, tim đập như nổi trống. Bọn họ cũng không nói lời nào, dường như cũng đang căng tai nghe ngóng xung quanh. Hai bên đều không lên tiếng, giằng co được một lúc thì lão già bên kia không chịu nổi nữa, ra lệnh: “Nhị Ma Tử (chính là thanh niên kia), bên kia hình như có tiếng động, sang đó xem thế nào!”

Lời vừa dứt, tôi liền nghe thấy hai tiếng lách cách lên đạn của súng lục, toàn thân lập tức đổ mồ hôi lạnh. Chết mẹ rồi, đám này quả nhiên là tội phạm, lần nãy lão Dương hại chết chúng tôi rồi!

Tôi quay đầu nhìn quanh bốn phía, nếu bỏ chạy bây giờ thì tám phần là thoát được, có điều về sau muốn tiếp tục theo dõi sẽ rất khó khăn. Nếu không chạy, tôi thật sự không dám chắc có thể trốn thoát khỏi tầm mắt cú vọ của họ không.

Đang do dự thì phía xa bỗng truyền đến những âm thanh ồn ào, tôi quay đầu về phía đó, thấy năm sáu ánh đèn pin đang tiến về phía chúng tôi, là đội tuần tra núi. Tôi nghe tiếng ông chú bên kia kêu lên khe khẽ: “Mẹ nó, chúng ta chạy mau!”. Nói xong họ dập lửa, mang đồ đạc chạy sâu vào rừng.

Lão Dương vừa rồi còn bị dọa chết khiếp, giờ thấy người ta chạy tự nhiên lại sốt ruột hỏi tôi: “Làm… làm sao bây giờ? Đuổi theo… theo hay không theo?”

Tôi cẩn thận thò đầu ra nhìn, thấy bọn họ đều không mang đèn pin, trong rừng tối đen không thấy một bóng người, bèn đáp: “Không được đâu, cậu xem trời tối đen như mực thế này, chúng ta đuổi theo không khéo còn vượt qua mặt họ. Giờ cứ nghỉ ngơi đã, ngày mai lần theo dấu chân họ sau. Họ không thể đi xa được, chắc chắn phải dừng lại nghỉ ở đâu đó chứ.”

Lão Dương trong lòng hồi hộp lo lắng nhưng cũng không có cách nào khác. Lúc này mấy người trong đội tuần tra đã tới rất gần rồi, nếu không mau đi chúng tôi cũng sẽ bị tóm. Tôi đành ngăn lão Dương đang lải nhải lại, lôi hắn về phía khu rừng lúc nãy đám người kia đi vào.

Chúng tôi sợ lạc nên không dám đi quá xa, đành trốn sau một lùm cây bụi. Qua một lúc, thấy ánh đèn pin xa dần, cả hai mới thở phào nhẹ nhõm.

Tôi nghĩ nghĩ rồi nói với lão Dương: “Trên đường đến đây, dân địa phương ai cũng nói thời gian này dân trộm mộ hoạt động mạnh, e là hoạt động tuần tra cũng được tăng cường, tôi nghĩ chúng ta đừng mong ngủ yên. Tốt nhất ta nên tìm chỗ trú tạm một đêm đã, sáng mai đi thẳng vào rừng luôn, hai người lạ bị bắt ở đây thì có mười cái miệng cũng không cãi được.”

Lão Dương gục gặc đầu, tôi khẽ đẩy hắn mới biết hắn đã gà gật từ lâu. Tôi thầm thở dài một tiếng, đắp thêm áo cho hắn, tự nhủ xem ra tối nay mình phải canh rồi. Tôi dựa vào gốc cây, mơ mơ màng màng một hồi rồi bất giác cũng chìm vào giấc mộng.

Hôm sau cả hai đều tỉnh dậy từ sớm, sau một đêm ngủ dưới gốc cây, đầu ai cũng toàn phân chim, thối đến mắc ói. Lão Dương chẳng để ý, thuận tay vò đầu một phát, lập tức đòi chạy đi tìm mấy người kia. Tôi chịu không nổi cảnh vác một đống phân chim trên đầu chạy qua chạy lại trong rừng, đành phải hi sinh nửa túi nước để rửa tạm.

Chúng tôi vội vã trở lại chỗ hôm qua, thầm mong trên mặt đất vẫn còn lưu lại dấu vết của đoàn người nọ, nhưng đi vài vòng luẩn quẩn mà đến cả đám tro tàn từ đống lửa tối qua cũng không tìm thấy. Lão Dương không bằng lòng, cứ lải nhải: “Cho nên mới nói… nói, hôm qua cứ đi… đi theo có hơn không, bây giờ cậu xem… xem đi, giờ thì hay rồi, cá đã nằm… nằm trên thớt mà còn để tuột… tuột mất.”

Tôi bực mình: “Cậu đừng ý kiến nữa được không, cậu xem nơi này chỉ có một con đường, bọn họ có thể đi đâu được chứ? Chúng ta cứ tiến lên phía trước, tôi không tin ta không tìm được.”

Chúng tôi men theo sơn đạo suốt một buổi sáng, đường cũng sắp hết mà chẳng thấy bóng dáng một ai. Phía trước là một vạt rừng rậm rạp, cây cối xoắn xuýt, cỏ dại tràn lan, hoàn toàn không có biển chỉ đường. Tôi thấy hơi e ngại, xem ra đoạn đường tiếp theo ngay cả đội tuần tra núi cũng không đi, giờ mới thực sự là vượt núi băng rừng. Phía trước mới là sơn đạo đúng nghĩa, không biết chúng tôi sẽ phải trèo qua bao nhiêu vách đá đây.

Trên đường đi không hề thấy dấu vết đốt lửa nào, tôi thầm thất vọng, mấy người đêm qua có lẽ là vội vã trốn đội tuần tra núi,  không dừng lại nghỉ ngơi mà đã vượt núi ngay trong đêm. Nếu thực sự là thế, cơ hội chúng tôi đuổi kịp bọn họ e rằng chỉ là con số 0 tròn trĩnh.

Tôi đứng chần chừ trước sơn đạo một lúc, cuối cùng quyết định. Sức người có hạn, cứ cho là mấy người này đã trốn đội tuần tra núi cả đêm, vậy thì ban ngày chắc chắn phải nghỉ ngơi. Hơn nữa ban đêm tốc độ phải chậm hơn ban ngày, bọn họ hẳn không cách chúng tôi bao xa. Chúng tôi vẫn có hy vọng đuổi kịp, chỉ là phải hết sức cẩn thận, không được để họ phát hiện.

Chúng tôi lấy dao găm quân dụng từ trong ba lô ra giắt bên hông, mỗi người chặt một nhánh cây làm gậy. Tần Lĩnh có rất nhiều thú dữ, lớn thì có hổ và gấu, nhỏ hơn thì có sói và lợn rừng, nếu xui xẻo gặp phải một hai con, chúng tôi chắc cũng đủ cho chúng no mấy bữa.

Lão Dương hỏi tôi, lỡ như tôi tính lầm, đuổi không kịp bọn họ thì sao? Tôi suy nghĩ một lát rồi đáp, căn cứ vào những tư liệu tôi thu thập được, trong núi không thiếu những túp lều tạm do người đi hái thuốc dựng lên, bên trong có đồ dùng nhà bếp, củi lửa và thịt khô hong khói. Nếu chúng tôi có thể tìm được một cái, tối hôm nay cứ nghỉ ngơi cho lại sức rồi mới quyết định sau.

Lão Dương nói: “Cậu phải tính cho kỹ, giờ chúng ta vẫn còn cơ hội quay lại, còn nếu đi… đi vào thì sao? Cậu nhìn… nhìn xem, xung quanh đến cả qu… quỷ còn không có,đến lúc lạc đường bên trong thì có hối cũng đã muộn. Đường vào đất Thục khó hơn lên trời (*), từ xưa người Trường An vào Thục, trong hơn ngàn năm đã có biết bao người tử nạn trong dãy núi dài mấy trăm dặm này, ban đêm không thiếu chuyện ma quái đâu.”

(*) “Thục đạo chi nan nan ư thướng thanh thiên” là một câu trong bài Thục đạo nan (đường vào Thục khó) của Lý Bạch ~

Tôi cười nhạo hắn: “Hùng tâm tráng chí vừa nãy đã bay đi đâu hết rồi? Mẹ nó chứ, cậu đúng là một thằng chỉ biết lý luận suông. Còn chưa vào đến trong núi mà đã kêu Thục đạo nan, được rồi, nếu cậu không dám đi thì hai ta về.”

Lão Dương cười nói: “Tôi nói trước để thử xem cậu có bao nhiêu quyết tâm thôi, xem ra Tiểu Ngô nhà chúng ta không còn là cậu thư sinh ngày nào nữa, đã trở thành lưu manh thực thụ rồi nha. Cậu yên tâm, tôi tuyệt đối không phải một thằng lý thuyết suông, đừng nói là Thục đạo nan, có là cẩu đạo nan tôi cũng không sợ.”

Chúng tôi vừa lấy nhánh cây đập vào những bụi rậm trước mặt vừa tiến sâu vào rừng, lấy ngọn núi phía xa làm mốc. Đau đầu ở chỗ, đường lên núi gập ghềnh khó đi, dưới chân cỏ mọc um tùm, trên đầu tán cây rậm rạp che khuất gần hết bầu trời, ánh nắng khó mà chiếu xuống được. Chúng tôi đi không biết bao lâu, chỉ thấy trời đất âm u, đường đi nhìn chỗ nào cũng thấy quen. Khi tôi bắt đầu hoài nghi có phải từ nãy tới giờ cả hai chỉ quanh quẩn một chỗ, hướng núi bỗng xoay thẳng lên trên, trước mặt chúng tôi xuất hiện một vách đá, trên mặt hiện ra một dãy sạn đạo không biết có từ khi nào.

(*) Sạn đạo: đường núi làm bằng cọc gỗ lát ván, thường dựng ở những nơi núi non hiểm trở.

Sạn đạo lâu năm không được sửa sang, bám đầy rêu xanh ẩm ướt, bên trên phủ kín hoa cỏ dại, dây leo quấn chẳng chịt, dường như đã lâu lắm không có người đi qua. Chúng tôi vừa dợm bước lên thì từ trong rừng cây bỗng có tiếng ai kêu lên: “Này, hai người đang làm gì đó?”
Tôi và lão Dương hoảng hốt quay đầu lại, chỉ thấy một nhóm người từ xa đi tới, thoạt nhìn trông giống người địa phương, nam có nữ có. Chắc họ cũng giống chúng tôi, muốn đến ngôi làng ở dãy núi bên kia đây mà.

Tôi không biết mình nên vui mừng hay là sợ hãi, mới đánh mắt sang lão Dương, ngầm bảo hắn len lén giấu con dao giắt bên thắt lưng đi, sau đó tiến về phía bọn họ tỏ vẻ thành khẩn: “Chào các anh chị, tôi là du khách phương xa muốn đến ngôi làng ở bên kia núi. Xin hỏi từ đây qua đó có còn xa lắm không?”
Một người phụ nữ mặc áo khoác đỏ nhìn tôi chăm chăm một hồi mới lên tiếng: “Ý anh là thôn chúng tôi? Anh lặn lội từ xa đến cái thôn tồi tàn của chúng tôi làm gì?”

Tôi nghĩ thầm, phụ nữ nơi này tinh thần cảnh giác cũng thật cao, đành bịa chuyện: “Tôi đến thăm một người, hai năm trước tôi từng ghé qua thôn các vị và được một cụ già tiếp đón. Giờ tôi muốn trở lại thăm cụ, có điều qua hai năm đã không còn nhớ rõ đường nữa.”
Người phụ nữ trung niên kia trừng mắt nhìn tôi: “Hừ, nhìn bộ dạng liên láo của anh, ai biết là có ý đồ gì? Người như các anh tôi đã gặp qua nhiều rồi, không phải bọn trộm mộ cũng là lũ săn trộm, muốn qua mặt tôi hả, chưa đủ trình độ đâu!”

Tôi bị mắng đến nghẹn họng, không biết đáp sao cho phải. Lão Dương đẩy tôi sang một bên, rút một trăm đồng chìa tới trước mặt người phụ nữ kia: “Nói… nói nhiều vô ích, cô nhìn thế nào mà nói chúng tôi giống dân trộm mộ, ăn nói lịch sự hơn chút đi. Đây… một… một trăm đồng là của cô, con mẹ nó, còn dám dài… dài dòng nửa câu, lão tử cho ăn bạt tai bây giờ!”

Trong nhóm có vài người đàn ông lực lưỡng, tôi nghe lão Dương nói thế, thầm than thôi nguy rồi; người miền núi tính tình thô lỗ, cậu còn dám ăn nói kiểu đó sao? Nghĩ rồi bèn lùi lại vài bước chuẩn bị chuồn. Ai ngờ người đàn ông đứng sau cô ta nhìn thấy số tiền đó liền nhận ngay, mỉm cười nói: “Đừng nóng, đừng nóng, vợ tôi nói đùa với hai người thôi. Muốn đến thôn chúng tôi hãy đi về bên trái, vượt qua đỉnh núi sẽ thấy một thác nước. Hai người cứ men theo dòng nước rồi sẽ đến thôn chúng tôi, đó là con đường tắt nhanh nhất để vượt núi.”

Lão Dương nhếch miệng: “Anh gạt tôi sao, nếu phải qua núi, trèo lên sạn đạo kia có phải nhanh hơn nhiều không?”

Người đàn ông đáp: “Sạn đạo kia chẳng biết làm từ bao giờ, nhiều năm qua không được tu sửa, giờ chẳng ai dám đi lên đó nữa rồi.”

Tôi nghe xong bụng đánh thót một cái, thầm nghĩ may mà gặp bọn họ. Vừa rồi chúng tôi hồ đồ, thiếu chút nữa là trèo lên đó rồi, lỡ như mắc kẹt lại trên đó thì đúng là dở khóc dở cười.

Người đó nhìn sắc trời: “Ai da, tôi nghĩ tối nay hai người cũng không đến nơi được đâu, kiểu gì cũng phải qua đêm trong núi. Con suối kia phân nhiều nhánh, nếu không quen đường dễ bị lạc lắm. Chi bằng thế này, chúng tôi sang bên kia cắt cỏ, hai người nếu không vội thì hãy chờ một lát, ngày mai hẵng theo chúng tôi về thôn. Đi cùng chúng tôi thì yên tâm là không việc gì.” Nói rồi anh ta còn xách đỡ đồ đạc cho tôi.

Tôi thấy anh ta quả thực nhiệt tình, xem ra không phải người xấu, trong lòng âm thầm tính toán. Nơi chúng tôi muốn đến là một khe sâu nằm phía bên kia núi Xà Đầu, tìm được đến đây đã mất đến ba ngày. Sức người có hạn, lương khô chúng tôi mang chỉ đủ dùng trong mười ngày, vượt núi rồi chắc chắn còn phải mua thêm vật dụng ở thôn bọn họ. Năm người đi trước đã mất dạng từ lâu, không chừng là rẽ đi ngả khác, khó khăn lắm mới gặp được mấy người này, không nên mạo hiểm để rồi lại đi lạc.

Tôi liếc mắt ra hiệu cho lão Dương, vội gật đầu đáp: “Người anh em, cảm ơn nhiều. Ta đi thôi!” rồi rút ra mấy điếu thuốc lá mời bọn họ.

Người phụ nữ kia còn muốn nói gì đó, người đàn ông liền liếc mắt một cái, cô ta đành im lặng, quay sang ngấm nguýt chúng tôi.

Phong tục vùng núi thường để đàn ông làm chủ nhà, phụ nữ không có địa vị gì đáng kể, chỉ cần ngoan ngoãn nghe lời đàn ông là được rồi, mấy người đàn bà này xem ra không làm gì được chúng tôi. Tôi thấy vẻ mặt của cô ta, trong lòng cười thầm.

Chúng tôi nhập bọn với họ, người đàn ông trung niên kia có vẻ là người lớn tuổi nhất, không cần làm nhiều. Lão Dương ra sức làm thân với anh ta, anh ta mới nói mình là bí thư của thôn này. Thôn anh ta vốn lạc hậu, tuy đã có điện nhưng giao thông không thuận lợi nên không phát triển nổi, giờ thanh niên đều ra ngoài tìm việc cả, việc nhà nông không ai đảm nhiệm, thành ra cán bộ như họ đều phải lội bộ mấy chục dặm đường núi ra đây cắt cỏ. Lưng anh ta còn có tật, làm không bao lâu đã phải nghỉ lấy sức.

Tôi vừa chuyện trò vừa cảm khái trong lòng, thì ra cuộc sống của họ cũng không dễ dàng.

Chúng tôi đi theo họ một đoạn, tới nơi thì họ bắt tay vào làm việc. Chúng tôi quan sát địa hình xung quanh, có điều nơi này thế núi không dốc lắm, không thể nhìn rõ cảnh tượng phía bên kia, chỉ thấy núi non nối đuôi nhau trải dài tít tắp, xanh ngắt một màu. Cái hố tuẫn táng theo lời lão Dương kể kia không biết nằm ở đâu giữa vùng núi non trùng điệp này đây?

Cỏ cắt xong thì trời cũng đã tối mịt, chúng tôi giúp họ cõng một bao cỏ lớn gần bằng thân người trên lưng, đi dưới trời chiều được khoảng một giờ thì sắc trời cũng dần dần tối đen. Đi thêm một quãng, bỗng tôi thấy nét mặt lão Dương biến đổi, mắt đảo bốn phía, liếc qua liếc lại.

Tôi hỏi hắn có chuyện gì, lão Dương nhỏ giọng đáp: “Đường này tôi đã đi qua, nếu tôi nhớ không lầm thì phía trước hẳn phải có chỗ trú chân.”

Quả nhiên đi một lúc nữa, phía trước xuất hiện một căn nhà gỗ do những người hái thuốc dựng nên. Lão Dương hưng phấn hẳn lên, đánh mắt sang phía tôi, ý nói thấy chưa, tôi nói cấm có sai. Người đàn ông kia đẩy cửa, quay đầu nói với chúng tôi: “Đêm nay chúng ta sẽ nghỉ lại ở đây, chỗ này có cả bếp đun, hai người có thể tự nấu nướng.”

Tôi theo họ vào bên trong, nhận ra căn nhà này có hai tầng, có cầu thang lên xuống; bên trên là một căn gác xép, không có vật dụng gia đình, chỉ trải đầy những mấy tấm ván lớn.  Chính giữa phòng có một cái hố đất, bên trong toàn bụi than, xem ra là để nhóm lửa sưởi ấm. Chúng tôi đặt đồ đạc xuống, ra ngoài tìm củi khô, nhanh chóng nhóm lửa lên. Sau đó chúng tôi lấy lương khô trong túi ra nướng lên ăn, đến khi ăn xong ngoài trời đã tối đen như mực, đâu đây văng vẳng tiếng dã thú vọng về.

Lão Dương châm thuốc, hỏi vị bí thư chi bộ đó là tiếng con gì. Anh ta lắc đầu nói không rõ, nơi này từ lâu đã không còn ai đi săn thú nữa, muốn biết phải tìm người già trong thôn. Còn đế thêm: “Buổi tối đàn ông chỉ được ngủ nửa giấc, lúc nào cũng phải có người canh chừng không cho lửa tắt, nếu không chỉ e dã thú bên ngoài sẽ lọt vào.”

Tôi không có ý kiến gì, hôm nay đi đường quả là mệt mỏi; cứ nghĩ trong vài tuần tới ngày nào cũng phải khổ sở thế này, tôi không khỏi hối hận vì sao lúc trước lại dại dột đồng ý đi với lão Dương, bèn quay sang hắn nói: “Để tôi gác ca cuối cùng cho, giờ cứ đánh một giấc đã, nửa đêm cậu nhớ gọi tôi thay ca.” Hắn nghe thế liền giãy nảy lên phản đối, nhưng tôi vì quá mệt đã nhanh chóng chìm vào mộng đẹp, chẳng nghe thấy gì nữa.

Tôi ngủ không sâu, cứ lăn qua lăn lại, đến hơn nửa đêm thì bỗng có ai đó lay lay người tôi. Tôi mở mắt, thấy mọi người đều đang ngủ, lão Dương nhìn quanh rồi khều nhẹ tôi một cái, nói khẽ: “Dậy, dậy mau.”

Chương 6:

Đào bới

Editor: Namichan

Beta: Thanh Du

*****

Tôi ngủ không ngon giấc, gần như là nửa tỉnh nửa mê bò dậy, trong lòng cảm thấy vô cùng bực bội. Vừa định mở miệng mắng người, hắn đã nhanh tay bịt miệng tôi lại, thì thào: “Yên nào! Đi theo tôi.”

Tôi chẳng hiểu mô tê gì cả, thấy vẻ mặt lo lắng của hắn bèn nhanh chóng khoác thêm áo rồi nhỏm dậy, hỏi: “Sao thế? Xảy ra chuyện gì rồi à?”

Lão Dương khẽ nói: “Theo tôi, tôi dẫn cậu đi xem thứ này.”

Tôi chăm chú nhìn hắn một hồi lâu, thầm nghĩ chuyện này thật kỳ quái. Nhưng nhìn vẻ mặt hắn không giống như đang đùa, tôi bèn mặc thêm áo khoác rồi cùng hắn lẻn ra khỏi phòng.

Bốn phía xung quanh cái chòi này đều là rừng rậm, lão Dương mở la bàn xác định phương hướng, lấy thêm cái xẻng gấp từ đống hành lý rồi bảo tôi đi theo mình.

Chúng tôi bật đèn pin, đi ngược chiều gió chừng mười phút đồng hồ thì hắn dừng lại, lấy cái xẻng cắm xuống vạt đất ngay dưới chân rồi nói: “Chính là chỗ này.”

Tôi cảm thấy chuyện này cực kỳ đáng ngờ, nhìn dáng vẻ hắn ta, đừng nói là đêm hôm khuya khoắt tự dưng nổi hứng muốn chạy tới đây trồng cây nha?

Thấy sắc mặt tôi sa sầm lại, hắn vội vàng giải thích: “Trước kia tôi với ông anh họ ra khỏi núi cũng qua đêm ở chỗ này. Nửa đêm hôm đó tôi phát hiện ổng lén lút chạy ra ngoài, không biết đi làm gì nên mới lén đi theo, kết quả phát hiện ổng chôn cái gì đó ở chỗ này. Nhưng tình hình khi ấy rất phức tạp, tôi cũng chẳng hơi đâu mà quan tâm đến ba cái chuyện vớ vẩn này, chỉ muốn rời ngọn núi này thật nhanh nên không thèm so đo gì. Bây giờ chợt nhớ ra mới cảm thấy tình cảnh lúc đó có chút bất thường.”

“Cậu có chắc là chỗ này không?” Tôi hỏi.

Hắn ta gật đầu, “Từ lúc ra khỏi cái động kia thì ông anh họ tôi cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn, không biết trúng cái tà khỉ gió gì nữa, tôi dám chắc ổng có chuyện gì muốn gạt mọi người. Vừa hay lần này quay lại đây, tôi định đào lên coi rốt cuộc ổng chôn cái gì. Cậu canh chừng giúp tôi nha!”

Tôi gật đầu, lão Dương bắt đầu hạ xẻng.

Đất ở nơi này không cứng lắm, nhưng những thôn dân kia ngủ cách chỗ này không xa, chẳng biết có bị đánh thức không. Vì thế lão Dương cứ đào ba nhát lại phải ngừng một chút để nghe ngóng động tĩnh xung quanh.

Hắn đào chừng nửa giờ thì tôi bắt đầu hoài nghi có phải hắn nhớ lộn chỗ rồi hay không. Bỗng lưỡi xẻng như đụng phải kim khí, phát ra một tiếng “keng” trong trẻo.

Hắn lập tức ngưng đào xới, cúi người xuống, lấy ra từ trong hố ra một vật có hình dáng giống cây côn.

Vật hình cây côn ấy lấm lem bùn đất nên tôi không đoán nổi nó là cái gì, nhưng theo trực giác thì có lẽ nó là một khúc xương. Lão Dương lau qua, mặt bỗng biến sắc, quay sang nói với tôi: “Con mẹ nó chứ, không ngờ lại là thứ này.”

Tôi lại gần nhìn cho kỹ, thấy đó là một khúc thanh đồng bám đầy rỉ sét màu xanh lục, dưới đế có vết gãy rất rõ ràng, xem ra là bị người ta cưa ra từ một vật làm bằng thanh đồng khác. Soi đèn pin nhìn kỹ, tôi thấy phía trên có hoa văn từa tựa như con rắn hai đầu. Có lẽ đây chính là đồ của “Xá tộc” gì đó mà ông giáo sư từng nhắc tới.

Lão Dương nói với tôi: “Đây chính là một nhánh của cây thanh đồng tôi đã nói với cậu, không ngờ ông anh họ tôi dám lén lút cưa nó xuống.”

Tôi nhíu mày. Có thể nói bọn họ là tầng lớp có phẩm cách tồi tệ nhất trong giới trộm mộ, tiếc thay cũng là tầng lớp đông nhất. Chỉ vì dăm ba đồng mà phá hư cả một tuyệt thế trân phẩm là chuyện bình thường như cân đường hộp sữa.

Lão Dương tiếp tục đào bới xem còn thứ gì bị vùi lấp nữa không, nhưng đào một hồi lâu vẫn chẳng thấy gì nên bắt đầu xúc đất lấp cái hố lại.

Chúng tôi lấy vải bố gói ghém nhánh cây thật cẩn thận rồi rón rén trở về, cũng may những người khác vẫn say ngủ sau một ngày lao động mệt nhọc. Hai chúng tôi không sao ngủ được nữa, hắn đành ngồi xuống đối diện tôi, bắt đầu bỏ thêm củi vào đống lửa.

Nhìn vẻ mặt hình sự thấp thoáng nét lo âu của lão Dương, tôi số ruột lên tiếng hỏi: “Trông cậu mấy ngày qua buồn vui thất thường, có chuyện gì khó nói phải không? Hay là mọc trĩ rồi?”

Lão Dương châm một điếu thuốc, thở dài: “Aizz, nếu đơn giản vậy thì tốt quá. Tôi cảm thấy chuyện này thật kì lạ , có vài việc nghĩ mãi không ra.”

Tôi không tiếp lời, lẳng lặng nghe hắn nói tiếp.

Lão Dương nói: “Chủ yếu là chuyện ông anh họ tôi thôi. Lúc tôi cùng ổng vào núi thì ổng vẫn rất bình thường, nhưng từ khi nhìn thấy cây thanh đồng thì tôi cảm giác ổng bắt đầu thay đổi. Ban đầu chẳng qua ổng có hơi chập mạch, nhưng dần dần tôi phát hiện ra hình như ổng càng ngày càng thất thường…”

Tôi hỏi: “Ý cậu là, việc ổng phát điên có liên quan tới thứ đồ chơi này?”

Lão Dương gật đầu: “Cậu xem, việc quái gì ổng phải lén cưa khúc cây này xuống rồi lại mang đi chôn chứ?”

Tôi nhìn khúc cây thanh đồng lão Dương đang xoay xoay trong tay, bỗng cảm thấy hình như đã trông thấy nó ở đâu rồi. Vội vàng lấy tập tài liệu mà giáo sư Vương đưa cho, lật đến trang có tấm ảnh thì thấy quả nhiên không sai. Đó là bức bích họa trên nham thạch trong một sơn động ở Tương Tây do giáo sĩ Thomas người Anh sao lại năm 1845, vẽ một vật thể trông giống như cái cây, Thomas còn chú thích thêm phía dưới rằng đây là “thần thụ” của thổ dân địa phương. Sau đó bản ghi chép này rơi vào tay giáo sư Vương, căn cứ vào miêu tả trong đó, ông ta cho rằng thần thụ này là một trong những nét văn hóa của Xà quốc, tượng trưng cho tính “thần” của đất đai và sinh sản.

Tôi lấy khúc cây thanh đồng ra so sánh, phát hiện ra nó là khúc cuối của một nhánh cây, chiếu theo tỷ lệ thì cái cây thanh đồng kia hẳn phải cao đến bảy tám chục mét. Nếu có thể khai quật hoàn chỉnh cây thanh đồng này thì chắc chắn sẽ gây chấn động toàn thế giới.

Tôi vỗ vỗ vai lão Dương, bảo hắn đừng suy nghĩ lung tung nữa. Nếu quả thật khúc cây này có vấn đề thì hắn đã sớm dở điên dở dại giống như ông anh họ kia rồi.

Chương 7: Mắc câu

Editor: Tiểu Phong Hoa

*****

Lặn lội suốt năm tiếng đồng hồ đằng đẵng, cuối cùng chúng tôi cũng vòng qua được núi Xà Đầu. Sau khi đặt chân được tới tiểu thôn đầu tiên dưới chân núi, chúng tôi rối rít cảm tạ người bí thư đã dẫn đường rồi chia tay đường ai nấy đi. Lão Dương hăng hái dẫn tôi đi tìm hộ lần trước đã cho lão tá túc bởi nơi này trước đây lão đã từng ghé qua.

Sơn thôn được xây dựa vào thế dốc của sườn núi, nhấp nhô những ngôi nhà dân bằng đá theo kiến trúc thời Minh, Thanh đã được hàng trăm năm tuổi, đường vào thôn trên dốc núi cũng lát toàn đá xanh. Đứng bên dưới nhìn lên, ngôi nhà trên đỉnh dốc cao hơn dưới chân dốc phải đến trăm mét. Một dòng suối nhỏ chảy men theo con rạch ven đường, dưới đáy tuyền một màu rêu xanh biếc. Tôi đảo mắt thăm dò, thấy tường bao của nhiều hộ dân ở đây thường xây lẫn gạch lấy từ những ngôi mộ có niên đại khác nhau, qua đó có thể thấy tập tục đào mộ lấy gạch đã xuất hiện rải rác từ thời xa xưa.

Chúng tôi tìm đến ngôi nhà lão Dương từng trọ mua một ít lương khô, tranh thủ dùng nước suối tắm rửa sạch sẽ, quần áo cũng giặt giũ rồi đem phơi nắng. Sau cùng trên mình cả hai chỉ còn cái quần đùi, đành ngồi luôn bên suối chụm đầu bàn bạc xem tiếp theo nên làm gì.

Muốn qua mặt năm người kia cũng không phải không có khả năng, kiểu gì chúng tôi cũng đã vượt núi suôn sẻ, nhưng trước mắt vẫn phải dựa vào ký hiệu của lão Dương để tìm ra địa điểm ba năm trước hắn đã tới.

Tôi tra hỏi một hồi để xem rốt cuộc lão để lại ký hiệu quỷ quái gì, liệu bây giờ còn không hay lão tự tin quá hóa nói liều. Lão Dương kể, khi đó hắn tìm đến địa đạo tuẫn táng phải vượt qua một địa điểm vô cùng kỳ bí tên là Giáp Tử Câu. Mọi người đa phần đều biết nơi này, đến được Giáp Tử Câu là đến được địa đạo. Chỉ có điều, Giáp Tử Câu cách sơn thôn này hơn bốn mươi cây số, tức là nằm sâu trong rừng.

Nghĩ lại thảm cảnh bi thống khi vào núi mà không có người dẫn đường, chúng tôi liền hỏi bí thư một người có khả năng đương đầu với hành trình gian nan trước mắt.

Viên bí thư gọi đứa con nhỏ, bảo nó dẫn chúng tôi đi tìm một lão thợ săn. Hai người chúng tôi theo chân một đứa trẻ trần như nhộng đi lòng vòng trong thôn mấy lượt, tới một căn nhà ngói hai tầng, nó bèn chỉ vào một ông già đang phơi nắng nói với chúng tôi: “Chính là ông Lưu đấy.”

Ông Lưu là người vùng khác, thời trẻ trốn việc tráng đinh mà lưu lạc rồi định cư luôn ở đây, lấy nghề săn bắn làm kế mưu sinh. Ông đã hơn tám mươi tuổi nhưng sức khỏe vẫn còn tốt, hầu như tất cả những người muốn vào rừng, từ đoàn khảo cổ cho đến dân trộm mộ đều phải nhờ ông dẫn đường, ông lão cũng vui vẻ giúp đỡ. Thứ nhất rút tiền phải lẹ, thứ hai địa vị phải cao, nghe chúng tôi trình bày ý định ông chẳng hề tỏ vẻ kinh ngạc, chỉ lắc đầu nói: “Không được, thời điểm này đi Giáp Tử Câu là hỏng.”

Tôi nghe vậy không khỏi chán nản, hỏi ông: “Vì sao không thể vào núi? Bây giờ đang là cuối thu, thời tiết mát mẻ săn thú rất thuận lợi. Lúc này không đi thì còn đi lúc nào?”

Ông gọi con ra rót trà cho tôi, đáp: “Mùa này trên núi tà khí dày đặc, ma quỷ quậy phá dữ lắm. Tôi tám mươi tuổi đầu rồi không lẽ còn đi lừa đứa trẻ ranh như cậu? Cho cậu hay, vùng Giáp Tử Câu đó kỳ thực chính là một đoạn đường núi của âm binh, cậu gặp chúng mà nhường đường thế nào cũng bị câu hồn hấp phách, tà ma quỷ quái vô cùng!”

Tôi chưa bao giờ tới đó đương nhiên làm sao biết được địa lý địa hình ra sao, nghe ông nói thế chỉ thấy buồn cười. Nhưng người già có quan điểm của người già, chúng tôi cũng không miễn cưỡng, năn nỉ kỳ kèo mãi cũng không có kết quả, chỉ hỏi lão kỹ càng về lộ trình.

Ông lão cho chúng tôi hay, từ thôn này tiến vào vùng núi non trùng điệp Tần Xuyên, theo hướng Tây mà đi, bảy ngày sau sẽ gặp một ngọn núi có tên Thiên Môn, hai bên đều là vách đá trơn trượt, leo lên là điều không tưởng nhưng trong núi có một khe đường kì lạ, hai người đi song song có thể băng qua, người ta thường gọi là “đường trời”, cũng chính là Giáp Tử Câu mà lão Dương nhắc tới. Tương truyền cuối thời Nam Bắc triều, ở nơi đó chứng kiến một đạo quân Bắc Ngụy thông qua đường núi vào Tần Xuyên. Đạo quân này cực kỳ bí hiểm, trong lúc hành quân ai nấy mặt lạnh như tiền không hề lên tiếng, cứ thế đi thẳng vào trong núi. Khi họ vừa đặt chân vào trong khe đường đó, đột nhiên đất trời rung chuyển, khe hở lớn bất ngờ khép kín, toàn bộ đội quân bị nuốt vào trong, từ đó về sau biệt tung biệt tích không thấy trở ra.

Thời nhà Thanh có mấy thầy phong thủy giúp một người giàu nứt đố đổ vách tìm mộ, vào núi hơn mười ngày, khi trở về chẳng còn ra hình người, một mực nói rằng hôm đó ở sơn môn có thác Hoàng tuyền thông tới Địa phủ, bọn họ thiếu chút nữa có đi mà không có về.

Ban đầu dân cư quanh núi còn bán tín bán nghi, nhưng càng về sau càng có nhiều người khẳng định ở rạch nước đó nghe thấy trên núi rành rành tiếng chiến mã chồm lên. Sự việc từ đó lan truyền mạnh mẽ, người ta xâu chuỗi các sự việc rồi cho rằng đó là âm binh từ thác Hoàng tuyền ra vào giữa hai giới âm dương. Bắc Ngụy quân thời Nam Bắc triều chính là một đạo quỷ binh từ dương gian trở về âm giới.

Ông lão còn nói chúng tôi có thể đi tới núi Thiên Môn, nhưng vùng đất phía sau núi là cực hạn chịu đựng của con người, bên trong cây cối thâm u rậm rạp có những thứ quái gở gì, không một ai biết. Phàm là người đặt chân đến đó, bất luận là Thát Tử quân của nhà Thanh hay bại binh thời Quốc Dân đảng đều bặt vô âm tín. Ông tuổi đã quá cao không thể dẫn chúng tôi đi được, người trong thôn cũng không ai dám cả gan. Nếu chúng tôi vẫn ngoan cố muốn đi, ông chỉ có thể chỉ đường. Theo chỉ dẫn của ông chắc chắn chỉ sau khoảng bảy tám ngày có thể đến nơi, nhưng có sự cố gì phát sinh thì ông ta nhất định không chịu trách nhiệm.

Bút ký của ông nội có ghi, trong quá trình tìm kiếm lăng mộ, phàm là vùng đất có truyền thuyết địa phương tường tận đến thế đều phải lưu ý. Tôi y lời, đặc biệt chú tâm đến những dặn dò của ông lão, trong lòng càng thêm nắm chắc địa điểm chúng tôi muốn tìm hẳn là chỉ ở quanh đây.

Chúng tôi cảm ơn ông lão rồi muốn ra về nhưng hình như ông lão bình thường rất ít khách viếng thăm, một mực giữ chúng tôi lại ăn cơm, phải ra sức từ chối. Ông lão hết cách đành dúi cho tôi một túi đầy đồ muối. Tôi ngại làm phiền người khác, đang muốn trả lại thì liếc thấy bên trong có thịt nướng. Cái bụng mấy ngày nay lấp toàn bằng lương khô dứt khoát biểu tình không chịu thiệt thòi, đành phải nhận.

Sau một ngày nghỉ ngơi chúng tôi bắt đầu lên đường. Giờ đây mục tiêu đã xác định, chúng tôi cứ trực chỉ hướng Bắc mà đi, cắn răng chịu khổ, trèo đèo lội suối, dứt khoát chui vào thám hiểm khu rừng nguyên sinh thần bí nhất Trung Quốc đại lục.

Dọc đường không có chuyện gì đáng nói, tôi cũng nghĩ chẳng cần ghi chép giấy trắng mực đen làm gì cho mệt. Sau bảy ngày, khi lão Dương chỉ lên phía những tán cây cao vút, tôi mới nhận thấy đỉnh núi Thiên Môn đã hiện ra tự lúc nào. Chúng tôi dừng lại chỉnh đốn, phát hiện bản thân chẳng khác dã nhân là bao.

Lão Dương chăm chú xem xét bốn phía một hồi, hớn hở thông báo chính là nơi này. Đi qua Giáp Tử Câu sang phía bên kia sẽ gặp một cái khe nhỏ nhưng rất sâu, đó cũng là địa điểm bọn họ phát hiện ra địa đạo tuẫn táng.

Tôi trèo lên một cây sam lớn, một tay bám vào thân cây, một tay cầm ống nhòm quan sát. Núi Thiên Sơn cao chọc trời, hình thế kỳ vĩ, thoạt nhìn vô cùng thâm u trùng điệp khiến quang cảnh rất kỳ quái. Có điều ngọn núi này không hề có dạng cánh cổng như tôi nghĩ, cái tên núi Thiên Môn không biết từ đâu mà ra. “Đường trời” ở chính giữa kia, lúc này nhìn lại chỉ tựa như một sợi chỉ đen nhỏ xíu.

Chúng tôi leo lên ngọn núi tiếp giáp với núi Thiên Môn, cứ thuận theo thế núi mà vừa đi vừa xem xét địa hình phía trước, gần chính Ngọ thì tới được chân núi Thiên Môn. Đoạn Giáp Tử Câu đầu tiên nhìn thấy giống như một đoạn đường núi bình thường đầy rẫy những đất đá rải rác.

Tần Lĩnh, nếu nói là một nơi kỳ diệu cũng không ngoa, đặc biệt ở thời điểm này vẫn chưa mở đường để khai thác du lịch, cảnh sắc thiên nhiên vô cùng đẹp đẽ. Dưới vách đá Thiên Môn ngẩng đầu nhìn lên, địa thế cực kỳ hùng vĩ nhưng hình dạng cũng bình thường, ở giữa có một khe núi hẹp giống như đá núi bị một thanh kiếm sắc bén bổ xuống mà thành. Dưới đáy khe núi này chính là Giáp Tử Câu. Địa hình núi rất cao nên nơi này sản sinh ra một “đường trời”, cảnh quan tách biệt hẳn với những dãy núi thấp còn lại. Phóng tầm mắt cao nữa có thể thấy tia sáng rất nhỏ từ trên đỉnh núi xa xôi, y như cả không gian bị ép vào thành một đoạn. Nếu không phải tận mắt chứng kiến làm sao có thể lĩnh hội dù chỉ một phần.

Trong Giáp Tử Câu, phía đáy đá núi lởm chởm trùng trùng điệp điệp, hai bên rải rác những dòng suối nhỏ trong vắt, rêu xanh bám đầy trên đá rất khó đi nhưng xem ra đường cũng không xa mấy, ánh sáng lại rõ ràng. Đoạn đầu đường này chưa lên cao nên bầu trời cũng chưa hẳn là “đường trời”, có lẽ nên gọi là “khoảng trời” thì hơn.

Lão Dương nhớ lại, muốn đi hết Giáp Tử Câu cũng phải mất một buổi chiều, hơn nữa càng vào sâu bên trong gió lùa càng lớn, mặt đất càng ẩm ướt, không tiện nhóm lửa. Chúng tôi quyết định dừng lại ngay gần điểm xuất phát, đốt một đống lửa trại ăn một bữa cơm trưa. Đồ ăn muối ông lão cho tôi đều bỏ vào nồi đem đun lên, cũng từa tựa như ăn lẩu. Dân miền núi khi nấu ăn rất chú trọng các loại gia vị, hương vị cũng không tệ nếu không muốn nói so với gặm lương khô thì ngon hơn vạn lần. Mấy hôm trước ăn uống phải chi li hà tiện, giờ cũng sắp đến nơi, có thể thả phanh một bữa, tôi và lão Dương ăn như hai con hổ đói, chẳng mấy chốc đã giải quyết sạch sành sanh cả đống thịt muối.

Tôi ăn còn chưa no, sực nhớ ra có một gói gà rừng ngâm măng. Đang muốn lôi ra ăn quách cho rồi nhưng sờ soạng một hồi vẫn không thấy đâu, hóa ra cả gói thịt to tướng đã không cánh mà bay.

Tôi tìm lại xung quanh một lượt vẫn chẳng thấy đâu, bực mình định hỏi lão Dương, đột nhiên hắn rống lên: “Chết dẫm, thằng nào phun hết cả xương vào cổ áo ta thế này???”

Tôi ngớ người, làm gì có chuyện đấy. Lúc tôi ăn, bao nhiêu xương xẩu đều nuốt hết, đâu có lãng phí đến mức để văng bừa văng bãi như thế.

Còn đang lấy làm lạ, một cục xương đã từ trên vách núi rơi xuống đất. Tôi ngẩng đầu lên liền bắt gặp mười mấy con khỉ lông vàng to tướng, chẳng biết từ khi nào đã tụ tập ở vách núi. Một con trong đó đang ôm gói gà rừng ngâm măng mà ăn, xem cách thức ăn của nó hẳn là đã đói đến mềm ruột, nuốt không còn một miếng.

Nó giải quyết nhanh gọn gói thịt xong xuôi bắt đầu bò xuống dưới, mắt chăm chú dán chặt vào ba lô của tôi.

Tôi thầm kêu không ổn, con khỉ chết tiệt này hẳn là cho rằng trong túi toàn là đồ ăn, âm mưu cướp lấy, mà như thế thì phiền phải biết. Còn đang tính cách, con khỉ kia đã kêu lên một hồi chói tai, trong chớp mắt, toàn bộ đám khỉ đều lao bổ về phía chúng tôi.

Chương 8 – Khỉ

Editor: Biển

*****

Con khỉ đầu đàn bự tổ chảng nhìn tôi, không ngừng há miệng nhe ra răng nanh trắng hếu, đồng thời phát ra những âm thanh mang tính đe dọa như đang muốn cảnh cáo chúng tôi.

Tôi và lão Dương mỗi người vội cầm lấy một thanh củi đang cháy khua liên tục, muốn ép mấy con khỉ đang định xông lên phải lùi lại, có một con hơi chậm liền bị tôi dí thanh củi cháy vào mông, đau quá ré lên, cắm đầu chạy ra thật xa.

Nhưng cùng lúc, có mấy con khỉ cực kỳ thông minh len lén tiến đến gần hành lý của chúng tôi, chờ đến khi tôi phát hiện ra thì đã trễ, mấy cái túi chống thấm lão Dương chưa kịp bỏ vào ba lô đã bị con khỉ nhỏ ôm chạy đi mất, tôi vừa thấy thế, thầm nhủ không ổn, vội bước tới giật lại. Nhưng tôi vừa bước lên, sau lưng đã có một con khỉ nhảy đến muốn chôm hành lý.

May mà đống hành lý của tôi nặng kinh khủng, nó kéo vài cái, thấy không có cách nào mang đi được nên thôi không kéo nữa mà thò tay vào định chôm chỉa đồ trong đó.

Tôi choáng váng mặt mày: mấy con khỉ này hành động cực kỳ chuyên nghiệp, nhìn kiểu tấn công người như thế này thì chắc chắn đây không phải lần đầu tiên. Tôi vốn cho rằng mấy con khỉ dù có thông minh mấy cũng phải có giới hạn, bây giờ xem ra, nếu coi cướp giật là một loại nghề nghiệp thì chúng tôi không thể so được với chúng.

Tôi chỉ mới phân tâm một chút, con khỉ đó đã lấy ra một cái hộp từ trong túi hành lý, tôi vừa nhìn liền thấy nguy to, đó là một hộp

lương khô

.Tôi mặc kệ không đuổi theo con khỉ kia nữa mà xoay người tung chân đá bay con khỉ này, sau đó nhét lại hộp lương khô vào túi.

Ngay lúc đó, trước mắt tôi ánh vàng chợt lóe, con khỉ đầu đàn đã nhảy bật lên, vươn bàn tay chụp thẳng vào mặt tôi. Tôi đã từng thấy cảnh một con khỉ bắt giết thỏ, móng vuốt của chúng sắc bén kinh khủng, nếu bị chụp trúng thì nát mặt còn gì.

Dưới tình thế cấp bách, tôi không kịp né tránh, đành phải đưa thanh củi cháy trong tay lên đỡ cánh tay liền bị nó cào ra một đường máu dài ngoằng, đau đến nhe răng, thanh củi cũng rớt khỏi tay.

Con khỉ đầu đàn vừa chạm đất đã lập tức phóng ngược lại, tôi không kịp nhặt thanh củi, buộc phải vội vàng tung chân đá tới, ngờ đâu nó lập tức ôm lấy chân tôi, thuận đà há mồm cạp luôn một phát.

Cú này thì miễn bàn, tôi đau muốn phát điên lên, liền vung tay đánh tới. Nó phản ứng rất nhanh, lập tức xoay người nhảy tách ra, chẳng biết ma xui quỷ khiến thế nào, tôi lại chụp được đuôi nó.

Đối với khỉ, đuôi là bộ phận vô cùng quan trọng, đang đánh nhau mà bị túm đuôi thì cũng coi như là bị phán án tử, nó lập tức luống cuống, rống lên một tiếng, liều mạng nhằm vào mặt tôi mà xông tới.

Tôi nổi lên sát tâm, khẽ nghiêng người tránh cú tấn công sau cùng của nó, sau đó nắm chặt cái đuôi quật mạnh xuống đất. Tôi đoán con khỉ này nhẹ nhất cũng phải đến bốn mươi cân, cú này dù không nguy hiểm đến tính mạng thì vẫn đủ đập cho nó bất tỉnh.

Nhưng con khỉ đầu đàn khỏe mạnh khác thường, lần này chính tôi cũng cảm thấy mình hơi mạnh tay, nhưng nó lại không hề hấn gì, còn rú lên định xông qua thêm lần nữa. Tôi bắt đầu luống cuống không biết phải làm sao, vội cố sức quăng thêm một cú, đập mạnh nó vào một thân cây. Cú này dùng sức quá mạnh, bàn tay không còn giữ nổi khiến nó bị văng ra xa mấy mét, nó lăn vài vòng rồi lập tức bật dậy leo lên cây.

Lão Dương tiếc mấy cái túi, vẫn còn đang đuổi theo mấy con khỉ giật đồ lúc nãy. Bọn chúng thấy con đầu đàn bị thất thế làm sao còn dám liều lĩnh, lập tức chạy tứ tán, nhưng chúng cũng không chạy xa mà tiếp tục làm ra vẻ đe dọa, lão Dương đuổi một con thì mấy con còn lại chạy theo đằng sau ném đá khiến cho hắn bực mình kinh khủng, cứ chạy tới chạy lui một hồi như vậy, hắn đã mệt muốn hụt hơi mà lại chẳng đánh được con khỉ nào.

Tôi thấy tình hình có vẻ không ổn, mấy con khỉ hoang dã này to xác đã đành, phản xạ lại nhanh nhẹn, phiền nhất là bọn nó không hề sợ người. Tôi đối phó với mỗi con đầu đàn thôi đã mệt muốn bở hơi tai rồi, nếu như có hai con nhảy lên tấn công cùng lúc, e rằng hôm nay chỉ có thể nhừ đòn tại nơi này. Hơn nữa, đám khỉ là chúa thù dai, không hiểu sao lần này chúng tôi lại đụng phải mấy con quái lông dà

y

này nữa, nếu không giải quyết triệt để chỉ sợ về sau không yên ổn được với chúng.

Lão Dương truy đuổi nửa ngày, kiệt sức thở hổn hển chạy về nói: “Không… không xong rồi, tụi nó chạy trốn nhanh quá, chúng ta đừng thèm chấp tụi nó nữa, cứ đi luôn cho rồi, mất thứ gì thì cứ coi như là tặng Sơn thần làm quà ra mắt là xong.”

Tôi thấy thật sự cũng không có cách nào. Đối phó với đám khỉ khoái chôm chỉa trong rừng già, chúng tôi hoàn toàn bó tay, lỡ như cứ dằng dai ở đây, biết đâu lại sinh ra tổn thất khác. Hơn nữa những thứ bị mất cũng không quá quan trọng, ví dụ như

ống huỳnh quang

thì chúng tôi có thể thay thế bằng đuốc chẳng hạn.

Vì thế tôi gật đầu với lão Dương: “Nói đúng lắm, trong này rất sâu, một khi trời tối đường lại cáng khó đi, nhưng mà, mẹ nó chứ tên nhóc cậu lo mà giữ đồ cho kỹ, đừng có để bị đám lông dày kia chôm chỉa nữa.”

Lão Dương nhớ tới chuyện vừa rồi, vẫn còn chưa nguôi giận liền khoát tay với tôi: “Được rồi, cậu đừng có nói nữa, sườn núi này đến đây là hết rồi.”

Hai người chúng tôi cột chặt ba lô, lớn tiếng hò hét xua đuổi bày khỉ rồi tiếp tục men theo con đường hẹp. Bầy khỉ thấy chúng tôi rời đi cứ tưởng là bọn tôi bỏ chạy liền nhao nhao nhảy lên hai bên vách núi đuổi theo, vừa đuổi vừa hú hét chế giễu chúng tôi. Lão Dương nghe thế nổi khùng, quay đầu mắng to: “Lũ lông dày chúng mày đừng có mà đắc ý, ông đây mà còn về được là ông bắt thịt hết cả đám chúng mày!”

Bầy khỉ thấy hắn gào to lại càng hăng say đuổi, đặc biệt là con đầu đàn, bày ra điệu bộ kẻ chiến thắng đuổi theo sát rạt, định nhân lúc tôi không chú ý mà xông lên. Lão Dương thấy thế nổi sùng, cúi xuống nhặt hòn đá ném ngay vào sống mũi nó, cú ném này khá nặng tay khiến cho nó rớt luôn khỏi vách đá.

Không ngờ đám khỉ này thẹn quá hóa giận, liền nhặt đất đá trên mặt đường ném ào ào về phía chúng tôi, chẳng mấy chốc đất đá bùn rủ nhau nhằm vào đầu tôi mà hạ cánh, may mà chẳng bị ai thấy, không thì tôi chỉ có nước đâm đầu tự sát luôn cho khỏi bị mất mặt.

Chúng tôi cắm đầu chạy như điên gần năm phút mới dừng lại, lúc này chúng tôi đã hoàn toàn tiến vào giữa khe núi, “khoảng trời” trên đầu giờ đã thành “vệt trời”, bởi vì khoảng cách vách núi hai bên thu hẹp lại rất nhiều, gây ra cảm giác như là hai đỉnh núi đang ép xuống khiến ngươi ta lạnh toát sống lưng, chỉ muốn rời khỏi nơi này ngay lập tức.

Xem ra lão Lưu nói không hề sai, tôi thầm nghĩ, nếu làm không xong thì khe núi này quả thật chính là đường dẫn xuống suối vàng.

Tiếp tục đi về phía trước, cảm giác này càng nặng nề, cứ theo đà này, nếu không phải đã hỏi thăm trước đó, ắt hẳn tôi sẽ nghĩ đến cuối cùng hai quả núi này sẽ nhập lại làm một.

Tôi nhớ lại những điều lão dẫn đường từng nói, nhớ đến truyền thuyết mà lão đã kể.

Truyền thuyết về âm binh tôi từng được nghe không ít lần, cũng không ít người nhàm chán đưa ra phỏng đoán, tương đối nổi tiếng trong số đó là Kinh Mã Tào của Giang Nam, truyền thuyết kể rằng Nam Man vương Mạnh Hoạch tìm người đào lên, địa danh đó đến bây giờ vẫn còn, vào mỗi mùa mưa dông đều nghe thấy truyền ra âm thanh vũ khí va chạm, giết chóc. Một chuyện nữa là về trận động đất ở Đường Sơn, chuyện này lại càng mơ hồ, nghe kể rằng có rất nhiều người đã nhìn thấy một đoàn xe ngựa dài dằng dặc chở theo mười vạn đầu lâu đi ra từ Đường Sơn, sau đó gặp phải đội vận chuyển của quân giải phóng vào thành phố cứu trợ, rồi vân vân gì nữa tôi không nhớ rõ.

Lão Dương còn kể thêm vài chuyện khác, rằng cái khe này từ khi hình thành tới giờ hầu như không có người qua lại, nhưng đến một gốc cỏ dại cũng không mọc nổi, giống như là ngày ngày đều có vó ngựa dẫm qua. Mấy năm trước có một người muốn xây dựng gì đó trong này, nhưng chỉ cần đội thi công vừa đến, ở đây liền có mưa to, lần nào cũng vậy. Mấy người lãnh đạo cũng không có cách nào, hơn nữa chỗ này cách khu dân cư thật sự quá xa nên đành thôi.

Chúng tôi tiếp tục đi sâu vào, càng đi càng thấy tĩnh lặng, không biết khe núi này dài bao nhiêu, càng đi sâu vào bên trong lại càng tối tăm, nhiệt độ cũng giảm dần, âm u vô cùng, lại có một cảm giác khó hiểu giống như là đang bị theo dõi. Hơn nữa không biết từ lúc nào, bầy khỉ không còn đuổi theo chúng tôi nữa, cả khe núi hầu như chìm trong im lặng đáng sợ, chỉ còn có tiếng gió rít cùng những âm thanh kỳ dị khó tả thành lời. Loại cảm giác này khiến chúng tôi vô cùng khó chịu.

Tôi cùng lão Dương mỗi người một chuyện, suy nghĩ nhanh chóng thay đổi, sự chú ý cũng dời đi chỗ khác, không còn bị không khí kỳ lạ trong khe núi này ảnh hưởng. Dù vậy tôi vẫn cảm thấy vô cùng bất an. Hơn nữa càng đi sâu vào, cảm giác đó lại càng rõ ràng, thậm chí có mấy lần tôi cảm thấy như vệt trời mỏng manh trên đầu chúng tôi có thể biến mất bất cứ lúc nào, chúng tôi sẽ vĩnh viễn bị vây khốn giữa bóng tối mịt mùng trong lòng núi lớn.

Tôi miên man suy nghĩ, cũng không biết đã đi được bao lâu, bỗng lão Dương ngay đằng trước tự nhiên dừng lại, tôi không kịp phản ứng nên va luôn vào lưng hắn, cú này đụng rất đau, tôi hơi cay cú bèn hỏi: “Lại chuyện gì nữa? Muốn dừng là dừng, cũng không chịu báo trước một tiếng.”

Hắn xoay đầu lại, mặt mũi tái mét, miệng mấp máy một hồi mới cà lăm được mấy chữ: “Lão Ngô, phía… phía trước có… có người…”

Tôi ngẩn ra, thầm hỏi “Người” gì chứ, khu dân cư gần nhất cũng cách chỗ này đến 40km, làm sao có người ở đây được, vội ló đầu qua xem thử. Vừa mới liếc qua, da đầu tôi lập tức tê dại, choáng váng đầu óc, suýt nữa cắn luôn cả lưỡi, khuỵu chân ngã bệt trên mặt đất.

Hóa ra giữa bóng râm của khe núi trước mặt, thật sự có bóng một “Người” nào đó, khuôn mặt khuất trong bóng tối, lẳng lặng nhìn chúng tôi.

Chương 9 – Người đá

Editor: Biển

*****

Ngây ngây ngẩn ngẩn cả đoạn đường, đột nhiên phát hiện đằng trước xuất hiện một người nào đó, chẳng mấy ai có thể kịp phản ứng.

Chúng tôi bất giác lùi về phía sau muốn giữ khoảng cách với người kia, nhưng nhất thời cả hai đều không nhấc nổi chân lên, chỉ cảm thấy kinh hoàng, thân thể cứng đờ ra.

Lão Dương can đảm hơn tôi một chút, hít vào một hơi thật sâu rồi hô to: “Ai… ai đó?”.

Người kia không hề phản ứng, cũng không nhúc nhích, giống hệt như một tảng đá.

Lão Dương hạ giọng hỏi tôi: “Cậu xem, sao hắn lại không thèm chú ý tới chúng ta? Lão Ngô, chẳng lẽ ông già Lưu kia nói đúng, gặp phải âm binh rồi sao?”

Một cơn gió lạnh thổi qua, tôi thoáng tỉnh táo lại, liền đáp: “Đừng hoảng, nếu là người thì không việc gì phải sợ, chờ chúng ta thấy rõ ràng hẵng nói!”, dứt lời tôi lấy đèn pin chiếu về phía đó.

“Người” kia mặc một bộ quần áo cổ quái, để lộ ra cánh tay màu xám trắng, đứng ngây ra giữa đường đi, trong bóng tối giữa khe núi âm u, nhìn có vẻ quỷ dị vô cùng. Đèn pin chiếu trên người kẻ đó, hắn lại không hề nhúc nhích.

Lúc này tôi lại phát hiện có chỗ bất thường.

Thì ra trên cơ thể người này bao phủ một lớp rêu xanh biếc.

Trừ rùa đen thì đúng ra chẳng có loài nào để cho rêu xanh mọc trên người mình mới phải chứ? Tôi nhìn kỹ lại mới thấy “Người” này không phải bằng xương bằng thịt mà dường như được điêu khắc nên từ đá, chỉ là người đá này được điêu khắc quá mức sinh động, trong cảnh tranh tối tranh sáng thế này rất dễ bị nhìn nhầm thành người thật.

Dù vậy tôi vẫn không cười nổi, người đá này được tạo hình quá sắc sảo điêu luyện, chạm khắc giống hệt như thật, dù chúng tôi đã nhìn ở khoảng cách rất gần vẫn có cảm giác sợ hãi, đầu đổ đầy mồ hôi lạnh.

Chờ nỗi sợ hãi qua đi, sau đó chúng tôi mới thấy nửa thân dưới của “Người đá” bị chôn trong đống đá vụn, có lẽ là do phần đá ở trên bị sạt lở, nó cũng bị rơi xuống theo. Tượng đá chỉ còn lại cổ, không có phần đầu. Tôi ngẩng nhìn lên quả nhiên thấy vách núi thẳng đứng bên trên có một khoảng khá rời rạc, chỉ có điều thế núi hơi nghiêng hình thành một góc chết, tôi không quan sát được tình hình thật sự là như thế nào.

Người đá để hai tay trần, không phải phong cách văn hóa của thời Hán, tôi đã phát hiện ra trên quần áo người này có điêu khắc hoa văn rắn hai đầu, kiểu cách quần áo tôi chưa từng được thấy, màu sắc đã bị phai đi ít nhiều, phần đầu bị khuyết, có lẽ là lúc ngã xuống bị đụng vỡ ra.

Quan sát một lượt, tôi khẳng định thứ này hẳn là tượng người đá bồi táng.

Tôi ngẩng nhìn lên trên, tượng người đá từ phía trên rớt xuống đây, xem ra bên trên hẳn là có gì đó.

Lão Dương vốn nóng nảy, không chờ cho tôi quan sát kỹ càng đã hấp tấp tìm đường bò lên. Tôi cũng theo hắn áp sát vào vách đá, từng chút một bò lên theo sườn dốc, rất nhanh đã lên được đến chỗ bị sụp xuống.

Phía trên dường như là một cái hố cạn được đục vào vách đá, có không ít người đá giống y hệt như thế đang quỳ lạy trong đó. Kỳ lạ một nỗi, những người đá này đều không có đầu, trên cổ có gắn đầu lâu, dùng bùn trát lại.

Tôi biết cái này gọi là tượng đầu người, ngày xưa, sau khi kết thúc chiến tranh, nếu đem cả cỗ thi thể về để tranh công thì quá nặng nên chỉ lấy đầu người, những cái đầu này đem gắn lên trên người đá để tuẫn táng thay cho người sống.

Ngoài ra còn có hình khắc đá khoảng thời đầu Tây Chu, nhưng hầu hết đã bị nước mưa rửa trôi không còn phân biệt được màu sắc nữa. Dưới đáy động có một bức tượng bán thân được điêu khắc dựa theo thế núi, phần cơ thể từ ngực đến đầu đã bị phá vỡ vụn, chỉ còn lại một bàn tay và nửa bả vai là còn nhìn ra được hình dạng.

Ở giữa vùng bị sạt lở có một cái hố cỡ bằng quả bóng rổ đen thăm thẳm, tôi dằn lại nỗi vui mừng khôn xiết, rọi thử đèn pin vào bên trong, liền thấy không gian trong đó rất rộng lớn.

Trực giác của tôi mách bảo rằng, đằng sau bức tượng người đá khổng lồ này có thể là một cổ mộ, hơn nữa rất có thể đây chính là mộ huyệt mà cái hố tuẫn táng kia cúng tế như lão Dương đã nói, chẳng qua không biết là cao nhân nào đã vào đó trước một chuyến rồi.

Nói như vậy, có thể đặt mộ ở đây, thân phận của chủ nhân ngôi mộ hẳn là vô cùng hiển hách. Nhưng người có thể đổ một cái đấu ở nơi như thế này lại càng là cao thủ trong cao thủ, dân trộm mộ bình thường dù có đi qua đi lại trong khe núi này đến mấy trăm lượt cũng tuyệt đối không thể nghĩ ra được ở trên đầu còn có cả một thế giới khác.

Tôi cùng lão Dương tính toán một hồi, quyết định cứ vào xem thử trước, dù sao mục tiêu cũng ở ngay gần đây, nếu trong này không có thứ gì thì chỉ cần quay trở ra thôi. Chúng tôi đi chuyến này, thấy động mà không chui vào quả là khó chịu chết được.

Hắn gầy hơn nên chui vào trước, cửa động này hơi cao, chân hắn không chạm đến đáy nên đành phải tựa trên vách đá. Tôi đưa đèn pin cho hắn, hắn vừa lấy rọi xuống liền mắng: “Khỉ thật, trong này có nước.”

Tôi ló đầu vào xem, bên trong là một thạch thất dạng mái vòm rất lớn, hẳn là được đào nên, trên đỉnh có vài dấu vết của hình khắc đá, mực nước trong này rất cao, gần lên đến sát mép phần mái vòm, có thể thấy được phía dưới mặt nước, vách tường bốn phía đều được đục thành nhiều hố cạn, bên trong đầy tượng người đá không đầu phủ đầy rêu xanh. Nước ở đây không biết là do nước mưa từ cửa động chảy vào tích lại hay vì nguyên nhân nào khác.

Lão Dương nói với tôi, lần trước hắn đến đây, tượng người đá kia chưa bị sụp xuống, vậy có nghĩa là, lỗ hổng này mới chỉ xuất hiện trong vòng ba năm gần đây, lượng nước này không thể nào là nước mưa tích lại được.

Tôi dặn hắn phải tuyệt đối cẩn thận, hắn lại ỷ vào mình bơi giỏi, buông tay nhảy xuống, lập tức nước liền ngập tới ngực, hắn hoảng hồn, cả người chới với.

Tôi nhìn mà líu cả lưỡi, mực nước ở đây có thể sâu quá đầu, bèn hỏi hắn: “Cậu thăm dò dưới đáy nước thử xem dưới đó là bùn hay là đá?”

Lão Dương nói: “Không chạm được tới đáy. Mẹ nó chứ, nước dưới này lạnh thấy bà luôn.”

Tôi lấy túi chống thấm ra bọc hai cái ba lô lại, một cái ném cho hắn, một cái đeo trên lưng, sau đó cẩn thận trượt xuống nước, lập tức một cảm giác lạnh toát truyền đến từ hai bàn chân khiến tôi run cầm cập.

Dười chân trống không, quả nhiên là rất sâu, tôi thầm nhủ, bởi vì ban đầu không hề ngờ tới chuyện phải hoạt động trong nước, tôi không chuẩn bị trang bị phù hợp nào, chúng tôi chỉ còn cách mở đèn pin bơi vào bên trong.

Mới bơi được vài sải đã thấy một cánh cửa đá mở ra ở phần trong cùng của vách tường.

Vì mực nước dâng khá cao nên phần cửa đá lộ ra vô cùng thấp, bên trong cửa là một thạch đạo đủ rộng cho hai chiếc xe vận tải cỡ lớn tối đen như mực, những nới ánh sáng đèn pin chiếu qua đều là vách đá màu xanh xám, có dấu vết đục đẽo thô sơ, có vài nơi xuất hiện hình khắc nhưng đa phần đều đã bị ăn mòn không còn nhìn ra được.

Bơi thẳng vào bên trong khoảng hơn mười mét, thạch đạo đột nhiên chuyển hướng một góc 90 độ. Tôi lại rọi thử đèn pin, phát hiện bên trong thật đáng sợ, không khỏi ngừng lại, chẳng dám xông bừa vào.

Thực ra thì, với tình hình hiện giờ, tiếp tục tiến vào bên trong là rất không sáng suốt, mực nước sâu như vậy, lại không nhìn được dưới nước có gì, điều này thực sự khiến cho người ta hoảng sợ. Nếu chút nữa mà có thứ gì trồi lên từ dưới nước, dù đó chỉ là một khúc gỗ thôi cũng đủ hù cho tôi chết khiếp rồi.

Lão Dương nhìn vách tường bốn phía, hỏi tôi: “Cậu có phát hiện ra không, ngôi mộ này tuy rằng rất lớn nhưng xây dựng lại rất thô sơ, cậu nhìn mấy tảng đá này đi, tảng nào tảng nấy đều nham nhở, hoàn toàn không hề được gia công chế tác, không phải nói là chủ nhân ngôi mộ này rất giàu có sao, mở được núi chẳng lẽ lại không có tiền trang hoàng sửa sang.”

Tôi nói: “Đây có thể là khu vực ngoài cùng của lăng mộ, cậu xem chỗ này có nhiều tượng người đá chưa hoàn thành như vậy, có thể chỉ là nơi những người thợ xây lăng điêu khắc đá thôi, vào sâu nữa có lẽ sẽ rõ ràng hơn.”

Chúng tôi tiếp tục tiến về phía trước, từ chỗ ngoặt bơi vào thêm được mấy phút liền nghe thấy từ bóng tối đằng trước truyền lại tiếng quẫy nước trầm trầm, giống như có thứ gì đó đang lặn dưới nước.

Tôi chụp tay lão Dương, lấy đèn trong tay hắn rọi về phía phát ra âm thanh, lập tức nhìn thấy ba vết nước hình tam giác đồng thời xuất hiện, nháy mắt đã chìm vào trong nước.

Tôi còn chưa kịp phản ứng gì, lão Dương đã hất tay tôi ra, quay đầu hét to một tiếng: “Chạy!”

Chương 10: Hucho Taimen (Triết La Khuê)

Editor: Tiểu Phong Hoa

*****

Lão Dương nói thế nhưng ở dưới mực nước sâu đến thế này, có mà chạy thoát đằng trời. Tôi quẫy nước mấy cái, đến khi quay đầu nhìn lại, vệt nước hình tam giác kia đã lao vọt về phía tôi nhanh như điện xẹt khiến mặt nước dềnh lên một làn sóng đục ngầu.

Tôi vội vã buộc chặt đèn pin vào cổ tay, rút con dao găm vẫn giắt nơi thắt lưng rồi trưng dụng luôn cả chiếc ba lô đang đeo trên lưng thành khiên. Trong lúc cuống cuồng tôi vẫn không ngừng gọi lão Dương ứng cứu, có điều gã này thoắt cái đã một đường bơi thẳng ra ngoài đến hơn mười mét.

Tôi ngấm ngầm lôi cả mấy mươi đời tổ tông nhà hắn ra nguyền rủa. Thứ quái vật phía sau đương nhiên không thèm chừa ra giây nào cho tôi nhẩn nha suy nghĩ, nháy mắt đã đâm bổ đến trước mặt.

Tôi chùn người xuống một chút, chuẩn bị sẵn tinh thần lãnh một cú đánh của quái vật. Vệt nước hình tam giác chỉ còn cách tôi chừng ba mét, không ngờ trên mặt nước lại đột ngột xuất hiện một đợt sóng, vệt nước thoáng cái đã biến mất tăm.

Nói thì chậm nhưng thực ra mọi việc chỉ trong vài khắc. Chưa kịp hoàn hồn, phía trước mắt tôi một đám bọt nước chợt nổ tung tóe đồng thời trên ngực chịu một luồng lực mạnh kinh khủng. Lần này thực sự nhanh đến mức không kịp trở tay. Tôi còn đang chẳng hiểu chuyện gì xảy ra đã sặc lên mũi một ngụm nước hôi thối, tối tăm cả mặt mũi.

Luồng lực này không những dìm tôi chìm nghỉm vào trong nước mà còn đẩy ngược tôi lại cả chục mét. Khi lặn xuống nước tôi không hề lấy hơi, giờ đã thiếu khí lắm rồi, nói là sức cùng lực kiệt cũng không ngoa. Cứ đà này bị ép xuống không thở được kiểu gì cũng đi đời nhà ma. Cùng đường, tôi nghiến răng, dao găm nãy giờ vẫn lăm lăm trong tay khua lung tung một hồi bỗng thấy chấn động, không biết đã đâm trung chỗ nào trên người nó. Quái vật bị đau quằn quại liên hồi trong nước, quật tôi văng ra đập đầu vào vách một cú mạnh đến choáng váng.

Nhưng nhát dao này xem ra đã cứu tôi một mạng. Luồng lực kia biến mất, ngực tôi cũng được thả lỏng.

Tôi biết nó đã nhả ra, vội vàng giãy dụa nhô đầu lên khỏi mặt nước hít lấy hít để không khí vào phổi rồi sờ sờ chiếc ba lô. Mẹ kiếp, không những rách toạc một nửa mà các thứ bên trong hầu như cũng rơi rớt sạch sẽ, may mà tôi chắn ba lô trước ngực không thì đã ra người thiên cổ từ lâu rồi. Thứ quái vật này cắn khiếp thật.

Tứ phía đều tối tăm mờ mịt, chỉ thấy luồng sáng rọi thẳng từ phía sau của chiếc đèn pin trên tay lão Dương. Nhưng ánh sáng mỏng manh đó đã chiếu không ra hình thù gì thì chớ, gặp nước lại phản quang càng khiến tầm nhìn tôi bị ảnh hưởng.

Tôi thở hổn hển một hồi, đầu óc dần tỉnh táo trở lại, lúc đó mới phát hiện ra dao găm đã không cánh mà bay, không biết trong biến cố vừa rồi đã rớt xuống nước hay là vẫn cắm trên người nó chưa rút ra. Tôi rên thầm trong lòng, giờ chỉ còn hai bàn tay trắng, ba lô cũng không được tích sự gì nữa rồi. Nếu quái vật lại đớp cho một miếng có khi bao nhiêu ruột gan đều lòi ra mất.

Tôi bèn nép sát người vào vách đá, chỗ này rất hẹp, cứ dán mình vào một bên như thế, muốn cắn tôi cũng chẳng dễ dàng gì đâu.

Sau trận vật lộn kịch liệt vừa rồi, tôi mơ hồ cảm thấy đó là một con cá khổng lồ, nhưng trong mỏ quặng kín mít này làm sao lại có cá được, hơn nữa kích thước lại to lớn bất thường, điều này thoạt nghĩ đã thấy không hợp tình hợp lý. Mà cho dù có thật, nó ăn gì mà sống? Chẳng lẽ gặm đá tảng?

Từ phía sau, lão Dương đã chạy tới, vừa nhìn thấy tôi đã gọi to: “Cậu không sao chứ? Tay chân có sứt mẻ miếng nào không?”

Tôi vội vàng cản hắn lại rồi ấn hắn dính luôn vào vách đá, thì thầm: “Đừng ra đây, thứ đó vẫn ở gần lắm.”

Hắn nghễnh ngãng không nghe được tôi nói gì, còn hỏi: “Không sao hả? Vừa rồi tớ đánh động muốn thu hút sự chú ý của nó, không ngờ nó lại không thèm…” Nói chưa dứt lời, người hắn đột nhiên nghiêng hẳn đi, thoắt cái đã bị lôi ngã lộn xuống nước, bọt nước văng tứ tung. Một cái đuôi cá to tướng quẫy vùng lên khỏi mặt nước, hắt cả vào mặt tôi.

Gay to rồi! Không hiểu lão Dương bị cắn vào chỗ nào, nếu trúng người thì đúng là nguy hiểm, dù Diêm Vương tha mạng thì bét cũng phải tàn phế.

Tôi sờ khắp cả người mà chẳng lần ra được một tấc sắt, sau cùng chỉ moi ra được một con dao mở hộp quân dụng. Chất thép rất tốt, của đáng tội con dao lại ngắn ngủn, đâm cả trăm nhát chưa chắc đã giết nổi một người. Nhưng hiện giờ cũng không phải lúc đứng ca cẩm, tôi hét lớn một tiếng rồi liều mình phi thân vào trong nước, bơi về hướng lão Dương.

Trận hỗn chiến dưới nước đang hồi quyết liệt, tôi chẳng nhìn thấy gì chỉ còn nước sờ soạng. Mới sờ được vài cái, mặt lại bị cái đuôi cá khổng lồ quật vào. Tôi bị một cú đập đến thất điên bát đảo, thân thể lộn mất mấy vòng, cổ như gãy rời ra rồi.

Lòng bàn tay tôi nóng bừng lên, gấp rút cắn chặt răng lao vọt lại. Trong lúc rối ren tôi ôm bừa lấy thứ quái vật nọ, cảm thấy như bị trượt đi trên lớp da trơn tuột toàn vảy. Tôi thầm nhủ cóc cần biết chỗ nào, cứ giơ dao lên đâm bừa một nhát.

Tuy là dao mở hộp nhưng lưỡi thép ngang lại vô cùng sắc bén. Con quái vật bị thương vặn vẹo điên cuồng, tôi không ôm nổi nữa, bị hất lên mặt nước. Nhưng lần này đã có kinh nghiệm, tôi nghiến răng nghiến lợi giữ chặt lấy chuôi dao. Lưỡi dao vẫn móc trong cơ thể quái vật, chỉ cần nó cố thoát thân, vết thương trên người nó sẽ càng bị rạch toác ra.

Lúc tôi thò đầu lên khỏi mặt nước, máu tươi đã nhuộm đỏ lòm cả một vùng nước vốn xanh biếc, hai thứ màu xanh đỏ hòa vào nhau trông thật tởm lợm. Tôi giơ tay lên nhìn liền nhận ra con dao mở hộp đã gấp lại từ bao giờ, lưỡi dao khi gấp quay ngược cắt một đường vào ngón tay đã ngâm lâu dưới nước đến trắng bệch của tôi. Có lẽ vừa rồi tôi đã quá tập trung tinh thần vào trận chiến mà không hề phát hiện.

Nhưng giờ không phải lúc suy nghĩ nhiều như vậy. Tôi vừa lấy lại chút bình tĩnh lội một bước về phía trước, thình lình từ dưới nước nhô lên một cái đầu cá khổng lồ, chỉ kịp nhìn thấy một khoang miệng đầy răng nhọn lởm chởm đâm bổ đến muốn táp vào đầu tôi. Trong lúc nguy cấp, tôi vội vàng ngửa người ra sau, con cá đang đà chồm vào, tôi lập tức bị dìm sâu xuống nước.

Tôi giãy dụa kịch liệt cốt tìm lấy một điểm tựa mà bám vào, chợt một người nắm lấy tay tôi, dồn sức lôi lên khỏi nước. Tôi ngẩng đầu, hóa ra là lão Dương, người ngợm máu me be bét đang thở khò khè.

“Sao rồi?” Tôi vội hỏi “Cậu bị cắn vào đâu?”

Hắn nhấc dưới nước lên nửa cái ba lô, nở nụ cười méo xệch. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Xem ra vì trong này quá chật chội, con cá có muốn tấn công chúng tôi cũng chỉ có thể tấn công vào phần ngực. Đúng là trong cái rủi có cái may.

Con cá rõ ràng rất đau đớn, không ngừng quằn quại khiến dòng nước trở nên đục ngầu, thỉnh thoảng lại va phải vách đá. Chúng tôi vẫn đề phòng, có điều không lâu sau, cái bụng của nó đã nổi lềnh phềnh mà phơi lên trời, hai vây vẫn hơi run rẩy nhưng xem ra chẳng còn sống được bao lâu.

Tôi kiên nhẫn chờ thêm một lúc, thấy nó đã cứng đơ rồi mới đánh bạo bơi tới.

Con cá ít nhất cũng phải dài đến hai mét rưỡi, đầu to tướng, khoang miệng mở ra phải lớn bằng cái chậu rửa mặt, bên trong toàn răng nhọn có móc. Điều kỳ quái là trên gáy nó còn có hoa văn nhìn rất lạ mắt cùng một con dao găm không chuôi cắm ở đó, không biết là do lão Dương hay tôi đâm vào.

Tôi lập tức nhận ra, đây là một con cá Hucho Taimen, một giống cá nước ngọt vô cùng tàn bạo. Nếu đúng là loại này thì con cá vẫn còn nhỏ chán. Lạ ở chỗ, giống cá đó chỉ ưa sống ở vùng nước lạnh, làm sao lại đến được nơi này và chui vào tận đây?

Còn đang ngờ vực chợt nghe lão Dương kêu: “Nhìn xem, đằng kia có bậc thang!”

Sau trận ác chiến vừa rồi, dường như con cá đã dẫn chúng tôi đi rất xa, xem chừng đã vào rất sâu trong thạch động. Tôi quay đầu lại, thấy ngay bên cạnh có mấy bậc thang nhô ra khỏi mặt nước, dẫn lên một khoảnh đất trống bằng phẳng, lia đèn pin qua còn có thể nhìn thấy vài bức bích họa.

Chúng tôi vừa rét run vừa ngứa ngáy toàn thân, chỉ muốn nhanh nhanh chóng chóng nghỉ ngơi cho hồi sức. Cả hai bàn bạc một lúc rồi quyết định tìm một chỗ khô ráo từ từ xử lý mấy vết thương.

Lão Dương đã lạnh cóng kinh khủng, không nói năng gì nữa, lẳng lặng tóm lấy quai hàm con cá mà lôi vào trong. Tôi lấy làm lạ, hỏi hắn mang con cá này đi làm gì. Hắn đáp: “Bỏ trang bị ra rồi nhét nó vào trong túi, cậu không biết thứ này sẽ giúp chúng ta phát tài thế nào đâu, kiểu gì tôi cũng phải mang nó ra bằng được!”

Tôi nghe xong chỉ còn biết lắc đầu. Ngăn hắn cũng không xong, đành phải giúp hắn một tay đẩy con cá về phía trước. Những bậc thang thẳng tắp, tôi leo dần lên, phía trên là một gian phòng đá chất đầy gỗ, ngoài ra còn có một con đường đá thông đến nơi khác. Bên trong tối đen như mực, nhưng cũng khá rộng rãi, có lẽ là nơi tạm chứa đất đá phế thải. Gỗ bên trong đã có phần mục ruỗng, bích họa trên bốn vách tường cũng rất đơn giản, hơn nữa còn có khuynh hướng trừu tượng. Người tôi đang khó chịu, chẳng còn tâm trí đâu mà ngắm nghía.

Chúng tôi cởi hết quần áo, lấy vài thanh gỗ mục nhóm lên một đống lửa để hong khô quần áo. Lão Dương chưa gì đã vội vàng rút đồ ra mổ bụng con cá, vừa mổ vừa bảo tôi: “Con cá này to như thế, vứt đi đúng là phí của giời. Chúng ta lóc thử vài miếng thịt ra ăn thử xem mùi vị thế nào.”

Tôi lấy từ trong nửa cái túi của lão Dương ra một ít thuốc, đầu tiên khử trùng ngón tay, sau đó mới cẩn thận băng kín lại, nói: “Cậu đi mà ăn. Nước bẩn như nước cống, con cá thì không rõ lai lịch, nó ăn gì uống gì cũng không biết, tớ chẳng dám liều mạng.”

Lão Dương lúc đó đã cắt dạ dày con cá, cắt một nhát mở phanh cả cái dạ dày. Một mùi tanh tưởi xộc lên khiến tôi ngạt thở suýt chết, kìm không được tính tò mò phải ngó một cái. Bên trong dạ dày con cá chảy ào ra những thứ thập cẩm đã nát nhừ cùng một khối tròn tròn, lăn vài vòng đến trước mặt tôi.

Tôi vừa nhìn thấy đã “A!” lên một tiếng.

Không ngờ đó lại là một cái đầu người.

———————-

Chú thích:

Cá Hucho Taimen

Là một giống cá ăn thịt thuộc họ cá hồi, thường được biết đến với tên Hucho Taimen hoặc cá hồiSiberia.

Dao mở đồ hộp: 

Chương 11: Đầu người

Editor: Biển
Beta: Miên Hoa Tử

~oOo~

Từ lúc chúng tôi vào núi đến giờ, trừ phần thịt rừng ông già dẫn đường đưa cho ra, thức ăn của chúng tôi toàn là lương khô khó nuốt, mà mớ thịt rừng còn chưa ăn được miếng nào đã bị đám khỉ phá hỏng, bây giờ vẫn còn thèm thuồng, lúc lão Dương nhắc đến cá, tôi dù ngoài miệng nói thôi, thực ra trong lòng đã bắt đầu nôn nao, lại còn tưởng tượng lại cảnh được ăn lẩu đầu cá trên biển lần trước.

Nhưng nhát dao chết tiệt này đã làm tan nát mộng đẹp của tôi. Tôi thấy hình ảnh cái đầu máu me be bét dính đầy dịch tiêu hóa kia trôi nổi giữa nồi lẩu đầu cá trong mộng, một cảm giác buôn nôn xông thẳng lên cổ họng, gần như muốn phun luôn ra ngoài.

Lão Dương ngày thường cũng gan lỳ, nói đến người chết, hắn dù chưa gặp đến ngàn người thì ít ra cũng được tám trăm, nhưng thấy tình cảnh như vậy cũng tái mặt, nửa ngày cũng chưa bình tĩnh lại được.

Cố nén ghê tởm, tôi dùng dao găm xoay ngược cái đầu lại, chỉ thấy lớp da trên mặt đã có dấu hiệu thối rữa, nhưng cái đầu hầu như vẫn còn tương đối nguyên vẹn, hẳn là mới bị nuốt cách đây không lâu, lúc con cá ăn cái đầu này chắc là có nhai vài cái khiến nó hơi bị biến dạng, tình trạng khuôn mặt hầu như không thể diễn tả bằng lời, cũng chẳng thể đoán ra được rốt cuộc là ai.

Người này vào bụng cá chưa được bao lâu, có thể nói là hắn chỉ vừa mới chết gần đây thôi.

Tôi một tay che mũi, một tay dùng dao găm gạt những thứ chảy ra từ bụng cá sang hai bên, muốn xem thử những bộ phận khác của người này ở đâu. Rất nhanh tôi đã tìm được bàn tay và một khối thịt, cũng đã bị ăn mòn ít nhiều, không cách nào đoán ra được thân phận quê quán của người này.

Tôi tiếp tục gạt thêm vài thứ nữa, liền tìm được hành lý của chúng tôi bị nó nuốt vào, đồ đạc bên trong bị lẫn cùng với đủ thứ bẩn thỉu trong bụng cá, trừ những thứ không thể vứt đi, tất cả còn lại đều bị ném sang một bên không thương tiếc. Lương khô tuy được cẩn thận bọc kín trong bao nilon, nhưng tôi thật sự không thể nào thuyết phục bản thân ăn cho nổi.

Bỗng nhiên, tôi nhìn thấy giữa đống nhầy nhụa có thứ gì đó màu đen, tôi còn chưa kịp lôi hết nó ra, lão Dương đã la lên: “Khỉ chứ, là ‘Phách tử liêu’.”

Tôi không biết Phách tử liêu là cái quái gì nên cho rằng đó lại là tiếng lóng hắn học được từ trong tù, bèn rút ra xem thử, hóa ra là một khẩu súng ngắn tự chế, loại súng này đã lỗi thời lắm rồi. Nó thực ra chính là súng săn đem cưa ngắn hai nòng rồi sửa phần báng súng thành kiểu của súng lục. Với hai nòng súng có thể bắn được hai lần, nhưng không tự đẩy vỏ đạn ra được, cần phải lấy vỏ đạn ra mới lắp được đạn mới vào, cho nên súng này đem ra đối phó với nhưng con thú nhỏ không có khả năng tấn công thì còn được, chứ gặp phải những con thú cỡ lớn, một phát mà không hạ gục được nó, chờ cho anh nạp xong đạn để bắn phát thứ hai thì cổ đã bị cắn đứt rồi. Mặt khác, khẩu súng này ở cự ly gần có uy lực khủng khiếp, nhưng vượt quá cự ly hai mươi mét thì đến chó cũng bắn không chết, thật ra thì không thể nào đem ra so sánh với súng lục chính thống được.

Tôi rút khẩu súng ra, chà xát lên mặt đất cho sạch hết những thứ dính trên đó rồi mới cầm lại xem. Mở nòng súng ra kiểm tra thì thấy bên trong có hai viên đạn, dưới báng súng có gắn một hộp đạn bằng sắt, bên trong có tám viên, bốn xanh bốn đỏ, không biết là loại đạn gì.

Có khả năng người này đến đây săn trộm, vô tình phát hiện ra động này nên muốn vào xem thử, kết quả là làm mồi cho cá. Khẩu súng này có thể là do lúc cá ăn thịt người thì nuốt vào theo, đúng thật là xui xẻo, ai mà ngờ cho được trong này lại có con cá ăn thịt người lớn đến vậy.

Súng là thứ tốt, vào lúc khẩn cấp có thể dùng để phòng thân, có điều đạn quá ít ỏi. Lão Dương sau khi đã moi ra hết trang bị của chúng tôi lại chọc ngoáy trong bụng cá một hồi nữa nhưng cũng chẳng tìm ra thêm được gì. Tôi nhìn cơ thể con cá, thấy ngoại trừ những vết thương do hai người bọn tôi gây ra còn có một vài vết đạn nhỏ, nghĩa là con cá này đã bị thương trước khi tấn công chúng tôi, chẳng qua nó chỉ trúng đạn ghém, lực sát thương quá nhỏ không thể gây cho nó vết thương chí mạng.

Lão Dương thấy con cá kỳ lạ, bèn hỏi tôi: “Lão Ngô, cậu nói xem ở chỗ này sao lại có cá ăn thịt người, hay là do có người nuôi nó ở trong này?”

Tôi nói với hắn: “Không phải đâu, tôi thấy dưới mặt nước trong thạch đạo này còn có dòng chảy khác nối liền với mạch nước ngầm ở gần đây, mà mạch nước ngầm vùng này thường hợp với sông Gia Lăng, con cá này hẳn là từ ngoài sông bơi vào đây.”

Lão Dương nói: “Không đúng, mấy ngàn năm trước làm gì có thiết bị lặn, bọn họ làm cách nào mà đào đường ngầm dưới nước được?”

Tôi thấy lão Dương rất có hứng thú với chuyện này, bèn giải thích: “Đây không phải là đào nên, tôi đoán là được hình thành từ sự biến đổi nào đó thôi.”

Hồi còn học kiến trúc tôi có có môn cơ học tự nhiên dạy về kết cấu địa chất. Trong đó có nhắc đến, do vận động tạo sơn vào đại Thái Cổ

(Liên đại Thái Cổ (Archean, Archaean, Archaeozoic, Archeozoic) là một liên đại địa chất diễn ra trước

 

liên đại Nguyên sinh (Proterozoic), kết thúc vào khoảng 2.500 triệu năm trước)

, bên trong các loại loại núi đá nham thạch thường xuất hiện các khoảng rỗng, gọi là nham mạch. Nếu nham mạch nối liền với khe núi, rất có khả năng tồn tại cả một hệ thống dòng chảy ngay trong lòng núi. Trong trường hợp đào hầm mỏ, nếu đào đến những chỗ đó thì có thể gặp phải sự cố nghiêm trọng, nhẹ thì phải bỏ một vài đoạn đường hầm, còn nặng thì tất cả bị nước dìm sạch.

Chỗ này là động khai thác đá, thường không được bố trí đường hầm thoát nước, bị nhấn chìm như thế này có thể cũng là do gặp phải sự cố như vậy.

Nhưng mà, từ đó chúng tôi có thể suy ra được, quy mô của động khai thác đá có thể lớn hơn rất nhiều so với những gì chúng tôi đã thấy, chẳng qua là vì bị ngập cả dưới nước nên có nhìn cũng chẳng thấy được bao nhiêu. Dùng đến nhiều đá như vậy, xem ra quy mô của cổ mộ chúng tôi đang tìm không thể nào là nhỏ được.

Chúng tôi đẩy cả xác cá lẫn đầu người vào trong nước, nhưng cái mùi kia quả thật là chịu không nổi, cả hai nghỉ ngơi không bao lâu, thấy quần áo đã tạm khô, chúng tôi chỉnh trang quần áo lại lần nữa, đem toàn bộ những thứ cần thiết cất vào trong túi rồi vội vàng xuất phát.

Lão Dương mở đèn pin dẫn đường phía trước, hai người một trước một sau đi sâu vào thạch đạo.

Bên trong cũng tối đen như mực, tượng người, động vật bằng đá nằm ngổn ngang trên đường, vách tường hai bên gồ ghề, vết nứt dày đặc, có đôi lúc còn có thể thấy phù điêu chạm khắc đá chưa được hoàn thành.

Mấy thứ này cái nào cái nấy đều rất lớn, tôi không khỏi thắc mắc những khối đá ở đây được vận chuyển đến cổ mộ như thế nào.

Dựa theo những tài liệu mà ông Tề đưa cho tôi, lãnh thổ của Xà quốc cũng không lớn, phần lớn là miền núi, sống chủ yếu dựa vào săn bắn, lực lượng sản xuất tương đối lạc hậu, hẳn là không có khả năng vận chuyển đá đến nơi xa xôi được. Để thuận lợi cho việc vận chuyển, cổ mộ hẳn là ở khá gần nơi này.

Cái động vừa nãy chúng tôi vào là do kẻ trộm mộ phá đá tạo thành, vậy có thể nói cửa ra của thạch động này hẳn là ở bên kia, chẳng lẽ chỉ đi qua một đoạn như vậy là đã tới được cửa vào lăng mộ?

Tuy nhiên cũng có không ít người vì che giấu vị trí mộ mà cố ý chuẩn bị vật liệu ở rất xa, nếu thật vậy thì chúng tôi cũng không thể chắc chắn được bao nhiêu.

Chúng tôi đi sâu vào trong khoảng chừng nửa giờ, bốn bề tối đen như mực, đèn trong tay lão Dương đã gần hết pin, bắt đầu mập mờ, tôi cũng đã cảm thấy mệt liền bảo hắn dừng lại thay pin, sẵn tiện làm điếu thuốc cho lên tinh thần.

Chúng tôi ngồi bệt trên mặt đất, đèn pin để ngay bên cạnh chiếu vào mấy bức tượng người giống hệt như thật. Lão Dương liền hỏi tôi: “Mấy bức tượng này, mỗi cái đều được điêu khắc giống hệt như thật, nhìn sợ chết được, cậu nói đây là thuộc triều đại nào? Sao mà đến một điểm đầu mối tôi cũng không thấy?”

Tôi cũng chẳng hiểu gì như hắn, lịch sử ngành điêu khắc của Trung Quốc có nguồn gốc sâu xa và được lưu truyền rộng rãi, từng có một khoảng thời gian dài dung hòa với kho tàng văn hóa của Ấn Độ cổ đại, nhưng chủ yếu là lấy thủ pháp tả thực để thể hiện lên tác phẩm. Trong trí nhớ của tôi, thủ pháp này đã từng xuất hiện một lần, đó chính là tượng binh mã trong lăng mộ Tần Thủy Hoàng, thế nhưng tượng đá ở đây hoàn toàn không giống với tượng binh mã, thật sự là rất khác biệt.

Hơn nữa trên người những tượng đá này đều có đặc điểm nổi bật là hoa văn rắn hai thân, nhất định là thuộc phạm vi văn hóa của Xá tộc cổ đại, cho dù đường hầm này có thuộc về cổ mộ chúng tôi muốn đến hay không thì hiện giờ chúng tôi cũng đã tiến vào lãnh thổ của Xà quốc cổ đại, tuyệt đối không sai.

Lão Dương nói nhiều kinh khủng, vừa hút thuốc vừa hỏi này hỏi nọ, tôi bị hỏi tối tăm mặt mũi, bèn bảo hắn đừng có cái gì cũng đè đầu tôi mà hỏi, tôi cũng đâu phải là dân khảo cổ, chúng tôi cứ việc lấy đồ rồi biến, còn nghiên cứu nọ kia thì cứ để cho mấy ông giáo sư già đi mà làm.

Sau khi thay pin, vừa đi được mấy bước liền thấy phía trước có ánh sáng phản xạ lại, quả nhiên đằng trước là một mặt thạch bích, cuối thạch đạo là một căn phòng đá cỡ vừa, bên trong có không ít tượng người đá không đầu vỡ vụn nằm ngổn ngang, bốn phía có đèn đá, giữa phòng có đặt một cỗ quan tài bằng đá.

Quan tài rất lớn, trên nắp quan có khắc hình rắn hai thân, hai thân rắn chia ra quấn chặt hai bên quan tài, nét điêu khắc vô cùng tinh tế, nhưng phần đuôi rắn rõ ràng vẫn chưa được hoàn thành, chỉ mới khắc ra vài nét cơ bản sơ sài.

Chiếu đèn pin lên thì thấy loại đá làm quan tài hiện lên một màu trắng hơi mờ giống như mỡ đặc, nắp quan không được đậy khít, để lộ ra một khe hở khoảng bằng cánh tay. Quan tài được đặt trên quan sàng, xung quanh không còn có bất cứ thứ gì.

Xem ra đây là một quan tài bồi táng, có thể là thừa ra sau khi nhập liệm, hoặc là chuẩn bị để dự phòng rồi vứt luôn trong này.

Nhưng sao thạch đạo dài như vậy lại chỉ thông đến nơi này, tôi thấy buồn bực vô kể, không thể như vậy được, chỗ này rõ ràng là nơi vứt sản phẩm không hoàn thiện, không hề có lối ra, hai đầu thạch đạo này đều bị chặn, chẳng lẽ đường vận chuyển đá chính là dòng chảy sâu dưới mặt nước chỗ chúng tôi đi qua ban nãy? Hoặc cũng có thể trong căn phòng đá này có lối đi bí mật?

Nếu cửa vào ở dưới nước thì không ổn tí nào, tôi thầm nghĩ như vậy.

Trong căn phòng đá này không có thứ gì là không kỳ quái cả, tôi với lão Dương xem xét xung quanh hết một lượt, cuối cùng chạy đến bên quan tài đá.

Lão Dương lần đầu tiên thấy quan tài, rất háo hức, đi vòng quanh hai vòng mới hỏi tôi: “Trong này có bánh tông không?”

Tôi suy nghĩ một chút rồi trả lời: “Không có đâu, trước giờ chưa từng nghe nói đến chuyện nhập liệm rồi lại tiếp tục điêu khắc quan tài, đây là quan tài rỗng.”

Lão Dương nhìn qua khe hở của quan tài, còn rọi đèn pin vào bên trong, nói: “Nhưng hình như có thứ gì đó được đặt trong này? Không tin cậu cứ lại đây mà xem.”

Tôi đi đến bên cạnh hắn, vừa nhìn sơ qua, quả nhiên qua khe hở của quan tài, tôi nhìn thấy một bóng đen nằm bên trong, nhưng đó là gì thì hoàn toàn không thể nhìn ra được.

Lão Dương thổi sạch lớp bụi trên nắp quan tài, gõ gõ vài cái, định đưa đèn pin vào trong khe hở để soi cho rõ, nhưng cái đèn pin chúng tôi mua có phần đầu quá lớn, thử cả nửa ngày cũng không nhét vào được, hắn hỏi: “Có muốn mở ra xem một chút không?”

Tôi cảm thấy có chút bất thường, trước đây mỗi lần mở quan tài luôn có người ở bên cạnh, mà mấy người đó toàn là dân kỳ cựu, bây giờ chỉ có một mình tôi, đến một chút tự tin cũng không có nổi, tôi lắc đầu: “Chuyện này có vẻ không bình thường, tôi có cảm giác không hay, đừng tùy tiện mở nó ra.”

Còn chưa dứt lời, lão Dương bỗng nhiên rụt tay lại lui về sau mấy bước, ngã bệt xuống đất, đèn pin văng khỏi tay lăn ra xa.

Tôi bị hắn làm cho giật mình, vừa định hỏi hắn có chuyện gì, tay đột nhiên lạnh ngắt. Tôi cúi xuống nhìn, chỉ thấy một bàn tay khô trắng bệch chẳng biết từ khi nào đã vươn ra khỏi khe hở của quan tài, nắm chặt cổ tay tôi.

Chương 12: Mạch nước ngầm

Edit: Hằng
Beta: Tiểu Điệp

******

Da đầu tôi nhất thời tê dại, toàn thân sởn gai ốc, liều mạng rút tay về như thể phát điên. Nhưng bàn tay khô kia mạnh kinh khủng, tôi không những không rút được tay ra, trái lại còn bị nó kéo thẳng vào trong quan tài.

Tôi hoảng sợ đến độ gần như mất hết lý trí, trong cơn hỗn loạn vội móc ra khẩu Phách tử liêu, muốn dùng nó đánh gãy cánh tay kia. Nhưng chưa kịp chờ tôi ra tay thì sau lưng đột nhiên vang lên tiếng ẩu đả, cổ tay cầm súng của tôi bị tóm chặt lấy.

Lúc đó tôi không biết cái gì đang giữ chặt tay mình, vừa hét lên vừa giãy dụa, không hiểu vì sao lại giãy bàn tay khô kia ra, liền đạp chân lên nắp quan tài, đẩy cả thứ đằng sau mình ngã nhào xuống mặt đất.

Hai người ngã lăn vài vòng trên đất. Tôi vừa biết  kẻ tập kích mình là con người, liền can đảm hơn hẳn, xoay người bật dậy vung tay chuẩn bị bóp cò.

Nhưng tôi còn chưa kịp thấy rõ người phía trước rốt cuộc là ai thì đột nhiên nghe thấy phạch một tiếng, không biết một luồng gió từ đâu ào tới đập mạnh một cú vào sau gáy, mắt tôi tối sầm lại, suýt chút nữa đã mê man bất tỉnh.

Tôi bị đánh ngã xuống đất, lập tức liền có ít nhất hai người tiến lên nắm lấy cánh tay tôi, xách tôi lên tha tới cạnh chiếc quan tài. Quay đầu nhìn lại, lão Dương cũng vừa bị tóm, còn bị trói gô vứt nằm chèo queo trên mặt đất.

Một người đứng sau dùng thắt lưng tôi trói tay tôi lại, đẩy tôi ngã nhào trên đất rồi dí súng vào đầu tôi. Lúc này tôi mới nhìn rõ bọn họ, đây chẳng phải chính là mấy kẻ chúng tôi đụng phải ở quán ven đường gần Tây An sao.

Mấy người này sao lại ở đây? Tôi âm thầm kinh ngạc. Lẽ nào bọn họ vẫn luôn chú ý đến chúng tôi như lời lão Dương nói, còn đi theo chúng tôi tới tận đây?

Hỏng bét rồi, đây toàn là dân giang hồ, rơi vào tay bọn họ chỉ e lành ít dữ nhiều, những nơi như thế này quả thực là địa điểm giết người tốt nhất, sợ rằng thi thể tới mấy trăm năm cũng chưa được ai phát hiện ra.

Mấy người kia trói chặt chúng tôi lại rồi vứt qua một bên, không đánh cũng chẳng giết mà chạy tới đẩy nắp quan tài chúng tôi vừa xem xét. Tôi cùng lão Dương liếc qua, cánh tay khô kia vẫn còn vắt vẻo bên ngoài quan tài, không khỏi xám mặt, sợ hãi kêu lên: “Các người định làm cái gì thế, bên trong có bánh tông đó! Thả nó ra thì tất cả chúng ta sẽ tiêu hết!”

Mấy người kia vừa nghe xong, sửng sốt một lúc rồi lập tức cười ầm lên, một tên thanh niên nói: “Bánh tông nào hả? Mày nhìn thật kỹ xem bên trong là cái gì đi!”

Vừa nói vừa dùng sức đẩy nắp quan tài, giữa lúc tôi cùng lão Dương ở cạnh bên hoảng hồn kêu to, nắp quan tài rầm một tiếng đã bị đẩy sang một bên, một ông lão gầy gò như nông dân lập tức ngồi dậy trong quan tài.

Tôi vừa nhìn đã muốn chửi thề, đó còn không phải là ông chú già kia sao? Lão ấy sao lại nằm trong quan tài? Nhưng lập tức hiểu ra liền, thật muốn vả cho chính mình mấy cái, mẹ nó, rốt cuộc lại để cho kẻ khác xỏ mũi dắt đi!

Ông lão đứng lên,  đút cánh tay quỷ khô quắt nhăn nheo trắng bệch như người chết kia vào trong túi áo, sau đó nhảy ra khỏi quan tài, đi tới trước mặt chúng tôi.

Tôi nhìn bàn tay lão, móng tay vàng khè, vừa dài lại vừa nhọn, bỗng nhiên nhớ tới một người bạn của ông nội khi tôi còn bé. Ông ấy từng bị bánh tông nắm chân, phải qua hơn chục ngày sau mới khỏe lại, nhưng từ đó về sau chân ông ấy dần dần teo rút lại, hình dạng khô héo, giống y hệt bàn tay của ông chú này.

Tôi thầm nghĩ trong bụng, tay của ông chú này bị như vậy còn không phải là do bị bánh tông nắm mà tạo thành sao? Bỗng hối hận vì sao vừa rồi mình không nghĩ đến chuyện này, nếu lúc nãy không bị dọa tới mức ấy thì giờ đây chúng tôi đâu thể dễ dàng bị bắt lại thế này.

Ông chú quan sát chúng tôi mấy lần, không nói gì, chỉ châm một điếu thuốc, dùng ngôn ngữ địa phương nói với người bên cạnh vài câu, mấy người kia nhìn chúng tôi một chút rồi gật đầu.

Tôi cho rằng có thể họ muốn gây bất lợi với chúng tôi, cả người không khỏi căng lên đề phòng, không ngờ bọn họ cũng chẳng thèm để ý đến bọn tôi nữa mà quay sang quây lấy cỗ quan tài. Ông chú kia chuyển sang dùng tiếng phổ thông nói với một người: “Ông chủ Vương, theo phương vị bát quái mà ông chủ Lý nói lúc ấy, chỗ này chính là mạch nước ngầm của lăng mộ, nhưng nơi này lại chẳng có gì, chuyện này là sao?”

Một gã trung niên mập mạp mệt mỏi ngồi xổm xuống, lấy từ trong người một cuốn sổ ghi chép ra xem rồi nói: “Không sai, chính là chỗ này, nhất định là sau khi niêm phong lại ngôi mộ, họ đã giấu kín lối vào, cửa ngầm chắc hẳn vẫn còn ở đâu đó trong này thôi.”

Ông chú nhìn chung quanh, lại hỏi một người khác cạnh đó: “Trợ lý Lương, cậu có nghiên cứu về vấn đề này, cậu thấy sao?”

Người kia đứng lẩn khuất trong bóng tối, tôi không thể nhìn rõ bộ dáng hắn ta, chỉ nghe  một giọng nói khá trẻ trung vang lên: “Tôi đã xem qua bản đồ của ông chủ Lý, hẳn là không sai, vừa rồi tôi đã xem qua nơi này, nếu thực sự có cửa ngầm, những chỗ khác không thể có, vậy thì nhất định chỉ có thể nằm ở quan sàng phía dưới.”

Bọn họ cúi đầu nhìn xuống bộ phận nhô ra bên dưới quan tài đá, ông lão dùng báng súng gõ gõ vài cái rồi nói: “Mở ra thế nào đây?”

Trợ lý Lương suy nghĩ một chút, lắc đầu: “không rõ lắm, thử đẩy ra xem.”

Ông lão đứng dậy, đi tới bên cạnh cậu thanh niên. Hai người ghé vai vào quan tài, dùng sức đẩy mạnh, rắc một tiếng, quan tài xê dịch khỏi vị trí một chút, để lộ ra một khe hở tối thui trong quan sàng bên dưới.

Những người khác cũng tiến lên giúp đỡ, bọn họ dồn sức đẩy vài cái, chiếc quan tài trống không trượt xuống một nửa, một lối vào rộng khoảng một mét hiện lên trước mắt chúng tôi.

Tôi rướn cổ nhìn, bên trong một mảnh tối đen như hũ, dường như có những bậc thềm đá vô cùng dốc dẫn thẳng xuống phía dưới. Tôi ngửi thấy được một thứ mùi kỳ lạ từ phía bên dưới xộc lên, có chút quen thuộc, nhưng lại không thể nhớ nổi đó là gì.

Tên thanh niên kia lấy chiếc đèn pin rọi xuống, đang muốn thò đầu vào nhìn, lại bị ông chú vươn tay ngăn cản, lão hất cằm về phía tôi rồi dùng thứ tiếng địa phương nói với bọn họ vài câu. Người thanh niên kia gật đầu, bước tới kéo lê tôi về phía mép động rồi cởi trói cho tôi, sau đó đẩy tôi về phía cửa động, ngoắc ngoắc khẩu súng đang chĩa vào đầu tôi, ý bảo tôi xuống trước.

Tôi vừa liếc liền nhận ra bọn họ vừa rồi không thủ tiêu chúng tôi ngay là vì nguyên do này đây, con đường hầm ở đây họ chưa từng đi qua, lại sợ có cơ quan, nên mới bắt chúng tôi đi trước dò mìn. Nhớ lúc lão Dương tới cầu tôi còn nói chuyến này coi như là đi du lịch, trong lòng nhất thời vô cùng hối hận, tại sao lại nghe lời hắn nói kia chứ, lần này xong đời thật rồi, tầng bên dưới tám chín phần có cơ quan, coi như chết chắc.

Tôi hoạt động cánh tay một lát, thầm nghĩ thôi thì cùng lắm liều mạng với họ, đằng nào cũng chết, nếu bên dưới đường ngầm không có cơ quan thì sau khi dò mìn còn có cơ hội sống sót, nhưng chưa chắc lúc nào cũng được may mắn như vậy, giờ liều mạng với họ không chừng vẫn còn một con đường sống. Lúc này lão Dương nháy mắt ra hiệu với tôi, khẽ nói: “Không có chuyện gì đâu, cứ xuống đi.”

Tôi bực bội, hắn có đi qua đâu mà biết sẽ không có chuyện gì, nhưng nhìn vẻ mặt hắn nghiêm túc giống như là  nắm chắc chín mười phần, cũng không đoán ra hắn đang tính toán gì, chỉ còn nước cầm theo đèn pin, hai tay chống vào bên vách, thật cẩn thận đưa chân xuống dò xét.

Tôi hít một hơi thật sâu, thử rọi đèn pin, phát hiện ra đây là một hành lang gần như thẳng tắp, sâu không thấy đáy, vách đá bốn bề không hiểu vì sao vô cùng ẩm ướt, bàn tay tựa vào có chút trơn trượt. Nhưng phía dưới không có nước, không biết hơi ẩm thấp này từ đâu mà ra nữa.

Tôi còn đang mải suy nghĩ, ông chú kia vỗ vỗ đầu tôi, đưa cho tôi một cái còi, nói: “Tới đáy rồi nhớ dùng cái còi này thổi vài tiếng, nửa giờ sau không thấy tiếng còi, tôi đây sẽ làm thịt người anh em của cậu.”

Tôi biết là lão sợ tôi trốn thoát, trong lòng cười khẩy một tiếng, nhận lấy cái còi rồi cúi đầu chui vào trong địa đạo.

Loại thềm đá dốc thẳng này vô cùng khó bước đi, lúc người ta làm cũng khá ẩu, bậc mỏng bậc dày, đa số chỉ có thể đặt vừa non nửa bàn chân. Tôi xuống được vài chục bước đã bắt đầu thở dốc, mũi chân bắt đầu đau. Ngẩng đầu nhìn lên, cửa đá bên trên đã biến thành một điểm sáng nho nhỏ, bốn bề tối đen như mực, tôi thấy thấp thoáng mấy bóng dáng mơ hồ lay động, rõ ràng là bọn họ vẫn không ngừng quan sát tôi.

Ban đầu tôi còn lo những thềm đá có thể ẩn chứa cơ quan, nên mỗi bước đi đều vô cùng cẩn trọng, nhưng càng hướng xuống dưới, tôi phát hiện ra con đường đá xây càng dần càng ẩu hơn, mỗi phiến thành từng khối riêng rẽ, xây dựng thủ công như vậy, chắn chắn không thể ẩn chứa cơ quan được.

Đi thêm một đoạn, góc độ đường hầm bắt đầu xuất hiện sự thay đổi, bậc thang cũng dễ đi hơn nhiều. Tôi còn thấy nham thạch trên đường biến thành màu nâu đỏ, khi có ánh sáng chiếu tới còn phản xạ lại vô số những tia sáng li ti.

Đây có lẽ là đá hoa cương, bên trong có lẫn mi-ca, vô cùng rắn chắc, bọn họ đổi hướng đào hầm có thể là vì muốn tránh tầng đá hoa cương này. Tới đây chắc hẳn đã tiến vào bên trong ngọn núi rồi.

Không biết từ lúc nào, bên dưới đường ngầm truyền đến tiếng nước chảy, vòng vo thêm một hồi, tiếng nước chảy vọng lại càng thêm rõ nét, nghe như âm thanh vang dội của vạn mã tung vó, nước nơi đây chắc hẳn chảy rất xiết.

Tôi nhìn đồng hồ, phát hiện ra bản thân cũng đã đi được gần 20 phút, cảm thấy nếu còn đi tiếp, tiếng còi có thể không truyền tới bên trên được nữa, bèn lấy ra thổi vài tiếng.

Thanh âm luẩn quẩn truyền đi, rất nhanh, bên trên cũng truyền đến tiếng còi hồi âm.

Tôi tiếp tục đi xuống, đoạn đường hầm phía trước khá là rộng rãi, cửa ra liền xuất hiện trong tầm mắt, một luồng gió mạnh đột nhiên ập tới, suýt chút nữa thổi bay cả tôi đi. Tôi chạy xuống thêm vài bước, bên tai bỗng vang lên tiếng nổ ầm, người đã thoát ra khỏi đường hầm đặt chân lên một bãi bồi, song song với đó, một mạch nước ngầm chảy xiết hiện ra trước mắt tôi.

Mạch nước ngầm này ước chừng rộng bằng cả một khoảng sân bóng rổ, trần đá cao tầm chừng hơn mười thước, hai bên trái phải thông suốt hút ngàn, không biết sẽ dẫn đi tới đâu. Trần sơn động không có thạch nhũ, nhưng đá tảng bốn phía giống như đã trải qua nhiều năm bào mòn, trở nên tròn trịa trơn bóng, tôi nhìn sơ qua kích thước của động này, biết chắc rằng nơi đây không thể do bàn tay con người tạo nên

Dòng nước chảy vô cùng xiết, vừa nãy ở trên tôi đã có thể nghe thấy được âm thanh ào ào nước chảy, bởi lẽ huyệt động nơi đây kết cấu tựa như một chiếc loa phóng thanh, khuếch đại tiếng nước chảy lên gấp bội. Tôi bước ra giữa dòng. Nhiệt độ của nước là khá cao, di chuyển có hơi khó, hơn nữa càng đi về phía trước mực nước càng sâu, mới đi mấy bước nước đã dâng gần đến đầu gối, tôi bèn vội vã lùi về.

Nơi này chắc hẳn là một nhánh nham mạch, giống hệt như mạch máu trong cơ thể con người, là mạch máu của núi lửa. Tôi nhìn về phía xung quanh, phát hiện hai bên mạch nước ngầm này có khuynh hướng thu lại, độ rộng từ từ giảm bớt, trên vách đá bên bờ trái dòng nước còn giăng đầy những dải xích.

Đang lúc cảm thấy kỳ quái, người thanh niên kia lặng lẽ từ trong chỗ tối đi ra, dẫm một chân vào trong nước rồi kêu to: “Mẹ nó chứ, nước nóng khủng khiếp!”

Tôi quay đầu lại nhìn, thấy một người trẻ tuổi khác cũng bước ra sau hắn, người này đeo một cặp kính, nhìn qua có vẻ nho nhã, chắc là vị trợ lý Lương kia, lúc hắn đến gần, tôi mới nhận ra người này cũng đã có chút tuổi tác, không còn trẻ như khi nhìn từ xa. Người thứ ba đi ra là lão Dương, phía sau còn có một người trung niên mập mạp nữa, đi cuối cùng là ông chú, tôi còn cho rằng phía sau chắc hẳn vẫn còn một người nữa, rốt cuộc lại không có ai, trong lòng hơi buồn bực, chẳng phải lúc họ vào núi có mang theo tất cả là năm người sao.

Mấy người bọn họ bật hết đèn pin lên, quét qua quét lại quanh dòng nham thạch, trợ lý Lương khẽ thốt lên một tiếng: “Tinh vi quá, thần đạo dẫn tới lăng mộ lại là một mạch nước ngầm, nếu không phải được tận mắt chứng kiến, chắc tôi sẽ chẳng bao giờ tin nổi mất.”

Người thanh niên kia lội xuống nước bước đi vài bước, nhíu mày quay lại, nói với mấy người kia: “Mẹ nó, nước sâu quá, ông chú, nơi này khó đi, không ổn đâu.”

Ông lão nhìn thoáng qua ông chủ Vương, hỏi: “ông chủ Vương, hiện tại nên đi thế nào đây, tấm bản đồ bảo bối kia của ông có viết thêm gì không?”

Ông chủ Vương thầm chửi lão ngu ngốc, nói: “Trên bản đồ có nhắc đến, bọn họ lần trước tới thăm dò lăng mộ, từng đặt hai sợi xích sắt ở dưới nước vậy nên chỉ cần mò được chúng, chúng ta có thể tìm thấy cửa vào địa cung.”

Rọi hết đèn pin xuống nước, quả nhiên thấy được một sợi xích sắt to bằng cổ tay dưới đáy nước. Ông lão kia kéo nó lên khỏi mặt nước, xem xét một chút rồi kêu lên: “Mẹ nó, có thật này.”

Tên thanh niên đi tới giật thử mấy cái, mãi cũng không thấy nhúc nhích, có chút bất an nhìn thoáng qua phía trước, nói: “Ông chú này, loại đường ngập nước này đi sợ không ổn lắm, vừa rồi ông chủ Lý chết thê thảm như vậy, nếu giờ gặp lại loại cá đó, chúng ta còn không phải đang tự dâng thịt của mình lên à.”

Trợ lý Lương nhúng tay vào nước nói: “Không có chuyện đó đâu, nước nơi này nóng như vậy, bên dưới nhất định là nguồn nước nóng, tuyệt đối không có cá, nếu có thì sớm muộn gì cũng bị luộc chín thôi, Nhị Ma Tử anh cũng đừng nghĩ ngợi nhiều quá.”

Nhị Ma Tử nhếch khóe miệng lên, tựa hồ không mấy tin tưởng hỏi lại: “Thật sao?”

Trợ lý Lương vỗ vỗ bờ vai hắn, toan mở miệng, đột nhiên vùng nước sau lưng Nhị Ma Tử sùng sục nổi lên bọt sóng, dường như chỉ trong nháy mắt, chúng tôi đã bị hất té xuống nước, cả người ướt đẫm. Tôi bối rối hoảng hốt đem đèn pin chiếu lại, chỉ thấy một cột nước lao lên khỏi bề mặt con sông, đụng phải trần động rồi mau chóng vỡ ra thành vô số những hạt mưa nóng hổi rơi xuống.

Trợ lý Lương sợ đến tái mặt, ngồi bệt trong nước phát run lên, chẳng biết có lỡ tè dầm ra quần không nữa. Ông chú kia không hổ là người đã từng trải, vừa đứng lên liền rút súng, quay sang trợ lý Lương hỏi to: “Con mẹ nó, cái thứ quái quỷ gì đây?”

Chương 13: Thác Hoàng tuyền

Editor: Rikatoji

Beta: Thanh Du

*****

 Mạch nước ngầm xối xả chảy xiết, nhiệt độ cực cao. Chúng tôi chắc mẩm trong nước không có loài sinh vật nào sống sót, không ngờ câu trước câu sau phía dưới đã có cột nước màu vàng đột nhiên phun vọt lên trên, hất hết cả đám vào vùng nước cạn.

Trong lúc hỗn loạn, tôi không tài nào thấy rõ Nhị Ma Tử vừa bị cột nước vọt tới hiện giờ ra sao, chỉ nghe Thái thúc lớn tiếng hỏi trợ lý Lương xem trong nước có thứ gì, nhưng người kia vốn đã sợ muốn tè ra quần, lắp bắp nói không thành tiếng, căn bản không thể trả lời ông ta. Tôi quay đầu nhìn lại, chỉ còn thấy một vùng bọt nước nhấp nhô, rốt cuộc là thứ gì đang ẩn mình dưới làn nước thì ngay cả hình dáng cũng không xác định nổi.

Cột nước kia phun lên tới trần động, được một lúc cũng không thấy có dấu hiệu suy yếu, ngược lại càng lúc càng thêm mãnh liệt khiến tôi liên tưởng tới loài cá kình ngoài biển khơi. Nhưng khe suối này làm sao có thể xuất hiện cá kình, nếu gặp chuyện quái đản đến thế thì tôi cũng đừng mong sống sót. Nhưng ngoại trừ cá kình ra, còn loài vật nào có thể gây ra chấn động lớn tới nhường ấy? Tôi lại nghĩ, có khi nào đó chính là loài cá trong truyền thuyết kia không. . . dài hơn hai mươi mét, đầu to như một chiếc xe tải, là cá Hucho Taimen trưởng thành? Trong lòng âm thầm oán thán, đầu năm nay bồ tát nhắm mắt hay sao mà để yêu ma quỷ quái xổng hết ra đường thế này, cái đấu này chỉ e cả đám không đủ sức mà đổ thôi.

Lúc này Nhị Ma Tử đột nhiên chới với nổi lên trên mặt nước, không biết vì sao toàn thân hắn đỏ phừng phừng, mới đi vài bước đã ngã quỵ trong nước, sau đó không thấy nhúc nhích gì nữa. Thái thúc không biết chuyện gì đã xảy ra, hung hăng đá tôi mấy cú, kêu tôi đi kéo hắn về.

Tôi âm thầm rủa xả lão là cái đồ rách việc, ngặt nỗi sau lưng còn có súng chĩa nên đành ngậm ngùi nhảy vào giữa đám bọt nước. Cột nước phun lên tới đỉnh rồi thi nhau trút xuống như mưa. Tôi bị nước đó bắn vào, lập tức phát hiện ra điểm bất thường. Nước này nóng như đã được đun sôi, dính vào người lập tức nổi mụn nước, trong lúc vội vã tôi chỉ biết kéo quần áo che chắn, tay còn lại quơ quơ tìm Nhị Ma Tử.

Nhưng khi vừa đụng vào người Nhị Ma Tử, cơn bỏng rát khiến tôi vội rụt tay lại, trong lòng hoảng sợ, mẹ nó, tên này bị luộc chín nhừ hết cứu nổi rồi.

Lúc này bỗng vang lên một tiếng nổ thật lớn, từ chỗ cột nước phun ra một luồng khí màu vàng, tôi vừa nhìn đã cảm thấy có điểm bất thường. Mẹ nó cái thứ này tuyệt đối không phải là cá, thông thường bất cứ loài sinh vật nào sống trong nước nóng cỡ này thì sớm muộn cũng bị luộc thành canh.

Lão Dương hướng về phía tôi hét lớn : “Con mẹ nó, cậu còn đứng ngây ra đó làm gì, không mau lặn xuống nước đi? Đây là lúc suối nước nóng phun cách quãng, bỏng chết người không đền mạng đâu.”

Cột nước này càng lúc càng lớn, những giọt nước nóng bỏng bắt đầu ào ào trút xuống như mưa. Tôi vội vàng lặn xuống con sông ngầm, mấy người còn lại bị nước mưa hắt bỏng không ngừng kêu la như heo bị chọc tiết, thấy tôi lặn xuống nước cũng vội vàng lặn xuống theo.

Suối nước nóng nhanh chóng hòa vào với mạch nước ngầm, nhiệt độ nước sông cũng tăng lên rất nhanh, một mạch lặn xuống cảm giác như rơi vào nồi cát nóng bỏng, toàn thân như bị thiêu đốt. Tôi bơi được vài mét mới thò đầu ra, quay lại nhìn thì thấy nước sông xung quanh đã bắt đầu sôi lên sùng sục, hơi nóng nhanh chóng lan tỏa, dường như cả mặt sông cũng bắt đầu bốc hơi nước ngùn ngụt, nếu không mau mau tìm chỗ cao mà leo lên, không khéo đời tôi cũng kết thúc y như Nhị Ma Tử mất.

Lúc này muốn quay lại  quãng đường hầm lúc vào là chuyện không tưởng, nhiệt độ nước phía bên kia cực cao, tưởng như sắp sôi lên sùng sục rồi, chỉ có một đường là trôi xuôi theo dòng nước. Tôi nhìn hướng nước chảy, trong lòng hối hận: lúc xuống nước lẽ ra nên đi ngược dòng, như vậy dòng chảy sẽ đẩy luồng nước nóng xuôi xuống. Bây giờ chúng tôi lại xuôi cùng luồng nước nóng, thân chìm trong nước mà đòi bơi nhanh hơn nước, quả đúng là chuyện nực cười.

Nhưng chuyện đã tới nước này, cũng không còn cách nào khác, chẳng lẽ lại ngồi yên chờ chết hay sao? Tôi gọi lão Dương, sau đó bơi lên phía trước dẫn đầu, mấy người phía sau thấy vậy cũng tự động bơi theo tôi.

Nương theo dòng chảy, trong chốc lát tôi đã bơi được mấy trăm mét, cho đến khi cảm thấy nhiệt độ của nước đã ổn định trở lại thì trong lòng mới thở phào nhẹ nhõm. Tôi quay đầu bơi ngửa, đồng thời lấy đèn pin ra chiếu một vòng, chỉ thấy lão Dương hướng về phía tôi liều mạng ngoắc tay, la lớn: “Mau dừng lại! Đằng trước. . . ”

Lời còn chưa dứt, bỗng hắn đột ngột đụng phải thứ gì, miệng đè vào trong nước, mấy chữ sau tôi không sao nghe được. Cùng lúc đó, tôi chợt nghe tiếng nước đổ ào ào, quay đầu nhìn lại chỉ thấy cách đó không xa có một đám bọt nước đang nổi lên ùng ục, chắc chắn ở đó phải có một triền dốc đứng. Dòng nước màu vàng chảy xuôi theo triền dốc, phía dưới vách đá truyền về tiếng thác đổ ào ào như sấm dội, đây nhất định phải là một thác nước cực lớn.

Tôi tức khắc ngây ra, tiêu rồi, giờ mình lao đầu xuống dưới mà được chết toàn thây mới là lạ. Đúng lúc đó lão Dương lại thò đầu ra, la lớn: “Mau dạt sang bên!” Nghe thế tôi mới bừng tỉnh, vội vàng bơi tạt vào mép nước, dùng sức bám trụ vách động, thân thể bị dòng nước cuốn đi khoảng 3-4 mét mới dừng lại. Tôi vừa định thả lỏng một hơi, đột nhiên lại bị trợ lý Lương vừa giãy giụa vừa thất thanh kêu cứu xô mạnh một cái, khiến tôi tuột tay, hai người cứ thế víu lấy nhau thành một cục trong làn nước xiết.

Lúc tôi thò được đầu ra khỏi mặt nước thì đã trôi gần tới thác, nhất thời không nghĩ được cách nào ứng phó cũng không đủ thời gian, tôi theo bản năng quơ quào loạn xạ hai tay, đột nhiên lại tóm được một đoạn xích sắt. Tôi cắn răng túm chặt lấy sợi xích, rốt cuộc thân thể cũng dừng lại trước thác nước, hai chân mấp mé bên bờ vực thẳm, phía dưới tiếng nước đổ ào ào, tối đen như hũ nút, không biết là sâu đến đâu.

Tôi còn đang mừng thầm vì mình lớn mạng, nào ngờ bên dưới đột nhiên có người hẩy hẩy chân tôi. Tôi lấy đèn pin chiếu lại, thì ra trợ lý Lương cũng đang ôm cứng lấy một sợi xích sắt khác và chân tôi thì đang dẫm lên chốc đầu hắn. Tôi dùng sức đạp mấy cái, gạt hắn qua một bên, đưa tay mò mẫm xung quanh, phát hiện dưới làn nước giăng rất nhiều xích sắt, đan xen lẫn nhau, tạo thành một hàng lan can ngăn lại mọi thứ trôi từ thượng du xuống. Có điều hiện giờ một vài đoạn xích đã bị đứt gãy, treo lơ lửng trước ngọn thác, trên bề mặt hàng “lan can” đã xuất hiện không ít lỗ hổng.

Lúc này lão Dương đã trôi đến chỗ tôi, tôi liền túm lấy tay hắn, kéo hắn lại gần, cùng lúc đó Thái thúc với lão mập ở đầu bên kia cũng bắt được một đoạn xích sắt và dừng lại. Thi thể Nhị Ma Tử trôi qua bên người chúng tôi, đến khi đụng phải xích sắt thì khựng lại rồi mắc kẹt giữa hai sợi xích. Lão Dương liền đưa tay qua mò mẫm rồi lấy hết mấy khẩu súng giắt trên thắt lưng hắn.

Tôi thấy hắn lấy được súng liền gắng gượng vươn tay ra khỏi mặt nước nhắm bắn Thái thúc, vội vàng giữ hắn lại mà mắng: “Con mẹ nó, cậu đang nghĩ cái quái gì thế, nòng súng dính nước, cậu muốn cướp cò hay sao!”

Lão Dương gào lên: “Không nhân lúc này mà bắn bỏ bọn họ, cậu nghĩ sau này chúng ta còn có cơ hội chắc.”

Tôi kéo hắn lại lần nữa, hét lớn: “Bây giờ cậu còn tâm trí nghĩ mấy chuyện này sao, mau nhìn đằng trước đi!”

Hắn quay đầu nhìn lại, chỉ thấy trước mắt hơi nước bốc lên ngùn ngụt, thì ra luồng nước sôi đã đuổi tới nơi. Luồng nước này dù đã chảy qua vài trăm mét cũng không thấy hạ nhiệt độ là bao, tôi ở cách đó hơn mười mét cũng có thể cảm nhận được hơi nóng phả vào người. Lão Dương thấy luồng nước ấy, khóc ròng nói: “Con mẹ nó, xưa nay mình vẫn khoái ăn lẩu dê (*), không ngờ hôm nay chính mình cũng bị đem đi làm lẩu.”

Tôi không muốn chết dễ dàng như thế, gấp gáp tới độ cắn chặt răng, thầm nghĩ mình phải làm gì bây giờ? Cơ hội để sinh tồn duy nhất hiện giờ chính là từ thác nước lao xuống, nhưng phía dưới là cái gì tôi cũng không rõ nữa; nếu thác quá cao thì chẳng khác gì đi nhảy lầu cả.

Trợ lý Lương treo lơ lửng bên dưới tôi đột nhiên lên tiếng: “Tôi có cách này!”

Tôi hỏi: “Cách gì? Nói mau!”

“Trước hết cậu cứ kéo tôi lên cái đã!” Trợ lý Lương kêu to, “Kéo tôi lên rồi tôi mới nói cho cậu biết được, nếu không thì cả hai chết chung.”

Tôi vội vàng đưa tay xuống kéo hắn lên, tay kia túm lấy cổ áo hắn: “Nói mau!”

Hắn túm chặt lấy sợi xích sắt, thoáng thấy dòng nước sôi sục đang ào ào xô tới, bất giác nuốt một ngụm nước miếng: “Lớp nước nóng nổi lên trên tầng nước lạnh, chúng ta chỉ cần lặn sâu xuống dưới chờ cho dòng nước nóng trôi qua là được, nếu có thể nín thở suốt quãng thời gian đó thì vẫn còn một con đường sống.”

Nghe thế tôi cũng không rảnh suy tính xem phương án này có khả thi không, nhanh chóng dúi hắn xuống, sau đó chính mình cũng lặn sâu vào nước, kéo theo cả sợi xích sắt.

Con sông ngầm này trông vậy mà khá sâu, tôi lặn xuống được chừng hai mét thì cảm giác nhiệt độ xung quanh đã giảm đi rất nhiều, lập tức ngưng thần tĩnh khí, chờ cho dòng nước nóng phía trên trôi đi.

Đúng lúc này, tay tôi đột ngột đụng trúng vật gì đó, giống như có thứ gì vướng vào xích sắt. Tôi bèn lấy đèn pin rọi thử, đột nhiên trông thấy phía sau sợi xích sắt nhô ra một khuôn mặt cực kỳ dữ tợn khiến tôi sợ đến ná thở, suýt chút nữa đã hít luôn cả nước vào trong phổi.

Xích sắt dưới nước quấn quanh một thi thể nát rữa, thịt trên người đã tã ra hết, hai hốc mắt trống rỗng trừng trừng nhìn thẳng vào tôi, trông hết sức dữ tợn. Tôi quan sát kỹ hơn, phát hiện trên người anh ta mặc trang phục leo núi mùa đông, sau lưng còn đeo theo một chiếc ba lô.

Thì ra người này là khách du lịch, nhưng sao lại trôi tới tận đây? Tôi ngậm đèn pin vào miệng (đây là loại đèn pin chuyên dụng cho người leo núi, trên tay cầm có linh kiện giúp người dùng điều khiển đèn bằng các bộ phận khác trên cơ thể), lục lọi người anh ta một lúc, chợt phát hiện ra mấy cây bút vẽ tả thực. Tiếp tục mở cái ba lô bị mắc vào hàng rào xích sắt, bên trong còn có khung vẽ cùng rất nhiều tuýp thuốc màu. Tôi chợt hiểu ra người này hẳn là một trong những sinh viên vào núi vẽ cây cối phong cảnh rồi mất tích mấy năm trước mà tay hướng dẫn viên du lịch có nhắc tới lúc ở trên xe.

Thi thể có lẽ là trôi từ vùng thượng du xuống, sau đó mắc kẹt lại đây. Đầu nguồn con sông hẳn là lộ ra khỏi mặt đất, số anh ta cũng thật đen đủi, không dưng lại chết ở nơi này.

Tôi ra sức lục lọi đồ vật bên trong, tuy không có thứ gì đặc biệt hữu dụng, nhưng dù sao cái ba lô của mình cũng vừa mất, có còn hơn không, bèn lấy nó đeo lên lưng.

Lúc này, nước sông bốn phía đã nóng dần lên, toàn thân tôi bắt đầu cảm thấy đau rát, bèn cắn chặt răng tiếp tục lặn sâu xuống.

Làn nước nóng bỏng thoáng chốc đã vây chặt lấy tôi, trong vài giây ngắn ngủi tôi lập tức ý thức được cách làm kia của trợ lý Lương căn bản không khả thi. Lượng nước sôi quá lớn, nếu không lặn sẽ chín nhừ người thì lặn xuống chí ít cũng phải chín đến bảy phần. Lão Dương khi nãy cũng lặn xuống cùng tôi, lúc này đã bỏng tới phát cuồng, co chân đá tôi một cú, chỉ chỉ về phía thác nước đằng kia, ý nói có lặn sâu trong nước cũng vô ích thôi, chi bằng cứ nhảy quách xuống đi cho thống khoái!

Tôi nhìn thoáng qua thi thể, trong lòng tự nhủ: người anh em, tôi sắp xuống với cậu ngay đây. Thế rồi một dòng nước sôi đột ngột xô tới, tôi cắn răng một cái, buông tay ra, theo dòng nước xiết trôi thẳng xuống triền dốc.

——————————————————

(*) Nguyên văn là xuyến dương nhục (

涮羊肉

) dịch nghĩa đơn giản thì là lẩu dê thôi. Nhưng dân Tàu nổi tiếng với văn hóa ẩm thực cầu kỳ, cho nên cùng là món lẩu dê, bên mình chỉ đơn giản là thịt dê thái mỏng nhúng nước dùng sôi, bên đó lại thái thịt dê miếng này miếng kia đều tăm tắp, ngấn mỡ trắng nổi lên giữa màu thịt đỏ, cuốn thành nhiều hình nhiều vẻ, vừa nhìn bụng đã sôi ùng ục. Vài hình ảnh cho mọi người thèm chơi :))

Chương 14: Hồ sâu

Editor: Rikatoji, Biển Bạc

Beta: Thanh Du

*****

      Tôi mơ mơ màng màng mở mắt, phát hiện ra mình đang nằm trên mặt đất, bốn bề tối đen như mực. Tôi sờ lại cổ tay, phát hiện chiếc đèn pin buộc trên đó chẳng biết đã rớt đi đằng nào.

Dưới lưng là một phiến bằng phẳng lạnh ngắt, bên tai dường như còn truyền tới tiếng nước chảy róc rách, đây là nơi nào vậy?

Tôi hít một hơi thật sâu, trí nhớ bắt đầu tái hiện lại từng chi tiết, thác nước, con suối sôi sục, thi thể kẹt trên xích sắt, bất chợt một tia sáng lóe lên, chuyện xảy ra khi nãy bỗng chốc ùa về trong tâm trí.

Hình như vừa rồi tôi theo dòng nước trôi thẳng xuống triền dốc, sau đó chìm xuống đáy đầm, nước trong đầm lạnh ngắt như băng, so với nước suối sôi sùng sục quả là cách biệt một trời một vực. Khoảnh khắc rơi vào trong nước, tôi cảm thấy mọi thanh âm xung quanh bỗng chốc câm bặt, sau đó thì không còn nhớ gì nữa. Có thể lúc ngã xuống đầu tôi đã đụng trúng thứ gì rồi ngất đi chăng? Rơi xuống nước từ độ cao vài chục mét, nếu tư thế không chuẩn thì có khác gì tông thẳng xuống nền xi măng đâu.

Tôi sờ lại thân thể, vẫn còn khá ẩm ướt, có lẽ sau khi rơi xuống khỏi con thác thì tôi lại tiếp tục bị dòng nước cuốn đến nơi này? Hay là tôi đã chết rồi, âm hồn hiện đang vất vưởng chốn âm tào địa phủ?

Tôi thử đứng dậy, vừa mới ngẩng đầu thì đột nhiên nghe “cộc” một tiếng, đầu tôi đụng phải thứ gì đó, đau tới nổ đom đóm mắt. Đưa tay lên sờ thử, tôi phát hiện ra hình như phía trên là một khối cứng đanh, trong lòng không khỏi cảm thấy kỳ lạ, nơi đây sao lại thấp thế này? Lẽ nào tôi đã trôi tới một khe nham thạch hoặc là kẹt lại dưới một tảng đá?

Tôi sờ soạng xung quanh một lượt mới biết mình đoán lầm, trong vòng một thước chỉ sờ thấy những tấm ván gỗ thô ráp, gõ thử thì phát hiện phía sau là ruột rỗng. Trong không gian chật hẹp, tôi chỉ có thể xoay người ở tư thế nằm, muốn nâng đầu hay duỗi vai đều không được.

Tôi thử nâng tấm ván gỗ phía trên để áng chừng xem nó dày khoảng bao nhiêu, chợt phát hiện ra nó có thể dịch chuyển được, bèn đẩy một cái. “Cạch” một tiếng, trong bóng đêm đen đặc bỗng lóe lên một tia sáng. Tôi thu đầu gối, nhẹ nhàng đẩy tấm ván sang một bên mà ngồi thẳng dậy, nào ngờ vừa nhìn ra bên ngoài đã không khỏi sửng sốt.

Đây là một căn phòng bằng cẩm thạch trắng, bốn góc phòng đều đốt đuốc sáng trưng. Tôi nhìn lên trần căn phòng thì thấy hai con mãng xà quấn chặt lấy nhau, mà bất ngờ nhất là tôi lại đang ngồi trong một cỗ quan tài, nắp quan tài đã bị tôi đẩy sang một bên.

Khỉ gió! Đây là cái chỗ quái quỷ nào vậy? Là ai nhốt tôi vào trong quan tài?

Tôi trèo ra khỏi quan tài, nhìn quanh bốn phía, trong lòng càng lúc càng thêm nghi hoặc. Căn phòng xây bằng cẩm thạch trắng, trên đỉnh có khắc mãng xà, rõ ràng vô cùng quen thuộc. Tôi ngẫm nghĩ một chút, chợt nhận ra nơi này xem chừng khá giống với mộ thất dưới đáy biển.

Chuyện này thật vô lý!

Dạo quanh căn phòng một lượt, tôi mới phát hiện ra chuyện kì quái vẫn chưa hết. Quần áo trên người tôi không biết từ khi nào đã đổi sang đồ lặn bằng cao su, không những thế còn là loại đồ lặn của những năm tám mươi. Trong lòng càng thêm nghi hoặc, mẹ nó, kiểu dáng lỗi thời như vậy không biết là từ kẽ đất nào nứt ra?

Tôi rút lấy một cây đuốc ở góc tường, bước ra khỏi cửa của mộ thất. Bên ngoài hiện ra một hành lang, tôi thoáng nhìn qua đã “A” lên một tiếng, trời ạ, vẫn là hành lang cẩm thạch dẫn thẳng tới ba cánh ngọc môn, thực sự giống y đúc với ngôi mộ dưới đáy biển.

Chuyện quái quỷ gì đang diễn ra thế này? Tại sao tôi lại quay trở lại đây? Da đầu tôi chợt run lên, suy nghĩ bắt đầu trở nên hỗn loạn, nơi này rốt cuộc là một mộ thất có kiến trúc giống với mộ thất dưới đáy biển, hay là tôi vốn chưa hề thoát khỏi mộ huyệt dưới đáy biển? Trời ơi, rốt cuộc là chuyện gì đang xảy ra với tôi đây?

Tôi nhéo má mình mấy cái, nâng cây đuốc cao hơn, cẩn thận quan sát xung quanh, nếu đây chỉ là một mộ thất hình dạng tương tự thôi thì chắc chắn phải có điểm gì đó khác biệt.

Trên hành lang có dựng một khung gỗ trông giống như giàn giáo, mặt trên có lót ván làm thành một cây cầu vượt sơ sài bắc qua hành lang, có thể tránh kích hoạt cơ quan, không biết do ai thiết kế. Tôi cẩn thận đặt chân lên, bước qua phía bên kia hành lang. Trong ngọc môn chính giữa hậu điện có ánh đuốc bập bùng, điện thờ phụ hai bên thì lại tối đen như mực.

Lúc này tôi mới chợt nhớ tới lão Dương. Hắn cùng tôi nhảy xuống thác nước, tôi rơi xuống đầm, hôn mê lâu như thế, hơn nữa còn đến một nơi không tưởng, chẳng biết giờ này hắn ra sao rồi?

Tôi vừa nghĩ vừa bước tới cánh cửa có ánh lửa truyền ra. Ánh lửa hắt ra từ khe hở dưới chân ngọc môn, xem ra rất sáng. Tới gần cửa, tôi nghe loáng thoáng bên trong có tiếng người vọng ra, vội vàng áp tai vào cửa, nghe được vài tiếng ho khan.

Tiếp theo có tiếng ai đó cất lên: “Làm sao đây? Không mở được quan tài?”

Một giọng nói khác chen vào, nghe có vẻ khó xử: “Tam Tỉnh nói tạm thời không nên động vào mấy thứ ở đây, chúng ta cứ nghe lời hắn thì hơn.”

Vừa nghe giọng nói của hai người kia, tôi liền ngẩn người. Người lên tiếng đầu tiên không ngờ lại là Muộn Du Bình, người thứ hai thì không nghe ra là ai. Hơn nữa bọn họ còn nhắc tới tên chú Ba, lẽ nào chú Ba đang ở nơi này?

Mà chuyện khiến tôi thực sự kinh ngạc lại diễn ra ngay sau đó, một giọng nói thứ ba lập tức cất lên: “Ngô Tam Tỉnh giờ còn đang ngủ, chúng ta chẳng qua chỉ mở ra xem chút xíu thì có chết ai, tôi ủng hộ Tiểu Trương.”

Tôi không hiểu hết những gì họ nói, nhưng không nghi ngờ gì nữa, người thứ ba này chắc chắn là con gái.

Những câu nói của bọn họ có ý gì đây? Nghe qua hình như là Muộn Du Bình muốn mở một cỗ quan tài, nhưng có người khác vì lời cảnh cáo của chú Ba mà tỏ ra do dự, sau đó lại có một người con gái đứng ra ủng hộ Muộn Du Bình. Tôi lập tức cảm thấy rối tinh rối mù, Muộn Du Bình chẳng lẽ đã tìm được chú Ba rồi sao?

Tôi vừa nghĩ vừa nằm úp sấp, mặt ghé sát vào khe cửa, muốn ngó qua xem người đang nói chuyện bên trong là ai. Đáng tiếc tầm nhìn của khe cửa có hạn, tôi chỉ trông thấy tấm lưng của một cô gái mặc bộ đồ lặn màu sắc giống hệt tôi, vóc dáng mảnh mai, mái tóc tết lại thành một bím dài.

Lúc này, tôi lại nghe giọng nói của người thứ tư: “Vậy thì tính sao với Tề Vũ đây? Tên nhóc này cũng quậy quá đi, giờ chẳng biết đã chui vào xó nào rồi, không lẽ chúng ta bỏ mặc hắn lại nơi này?”

Tôi nghe hắn nói thế, bỗng có chút bần thần. Tề Vũ, hình như cũng là một cái tên nằm ở phần đầu danh sách thành viên trong bút ký của chú Ba, khó trách tôi có cảm giác quen thuộc. Khoan đã, không phải vậy!

Tôi bỗng cảm thấy có gì đó rất bất thường. Tề Vũ, cái tên này đâu chỉ gợi cảm giác quen thuộc, mà giống như đã từng nghe đi nghe lại vô số lần, khiến lòng tôi nảy sinh một thứ cảm giác đặc biệt.

Lúc này, cô gái đứng cạnh khe cửa dời bước, trước mắt tôi xuất hiện khoảng trống. Tôi thấy Muộn Du Bình đang đứng cạnh một cỗ quan tài màu đen, cầm trong tay một cây xà beng, thoáng chút do dự, sau đó cô gái kia lại bước vào tầm nhìn của tôi. Tôi vừa nhác thấy gương mặt cô, tức khắc kinh ngạc đến độ suýt nữa đánh rơi cả cây đuốc đang cầm trên tay.

Người này chẳng phải là Văn Cẩm đó sao? Trời ạ, chuyện gì đang xảy ra thế này? Tuy tôi chưa gặp cô lần nào nhưng chú Ba lại có rất nhiều ảnh chụp cô, mỗi khi năm hết tết đến xem lại ảnh cũ, tôi thường xuyên nhìn thấy cô, cho nên chỉ cần liếc mắt một cái đã nhận ra ngay, tuyệt đối không sai vào đâu được.

Nỗi nghi hoặc trong lòng tôi đã dâng lên đến cực điểm, xém chút nữa là đẩy cửa bước vào trong. Đúng lúc này lại có một giọng nam lạ hoắc xen vào: “Ngôi mộ dưới đáy biển này lớn như vậy, chúng ta muốn tìm ra hắn nào có dễ, tôi thấy mình cứ kệ xác hắn đi thì hơn. Dọc đường đi chúng ta chỉ cần đánh kí hiệu, hắn thấy được tự nhiên sẽ tìm tới chỗ ta thôi. Tiểu Trương, chi bằng cậu cứ động thủ đi.”

Muộn Du Bình gật đầu, giơ xà beng lên chuẩn bị xuống tay. Chính lúc này, từ phối thất bên trái đột nhiên truyền tới tiếng nước xối xả, dọa cho tôi sợ đến hết hồn.

Người trong hậu điện nghe thế đều quay đầu lại, giọng nam kia liền hỏi: “Tiếng gì vậy, hình như là từ bên kia vách tường truyền tới!”

“Đi! Chúng ta mau đi xem!” Muộn Du Bình đặt xà beng xuống rồi chạy về phía cửa. Tôi thấy tình thế không ổn, vội vàng xoay người trốn vào căn phối thất bên phải, ném cây đuốc xuống đất rồi dẫm cho tắt ngóm, cũng vừa đúng lúc cả đoàn người chạy vào hậu điện, chui vào một cánh ngọc  môn bên cạnh. Tiếp đó liền có tiếng một cô gái hoảng hốt kêu lên: “Nhìn kìa, ở đây có một cái ao!”

Tôi nấp phía sau cánh cửa, trong lòng kinh ngạc tới cực độ. Chuyện xảy ra vừa rồi chẳng phải là những sự việc phát sinh sau khi chú Ba ngủ mà Trương Khởi Linh đã kể với tôi lúc trước hay sao? Nhưng tại sao nó lại xảy ra với tôi, không lẽ đây là ảo giác? Hay tôi đã thực sự phát điên rồi?

Bốn phía lại một lần nữa chìm vào bóng tối, tôi hít thật sâu vài hơi, muốn đi tìm cây đuốc mà thắp lại. Đúng lúc này, tôi bỗng phát hiện ra có người tay cầm ống đánh lửa bước xuống từ cây cầu vượt, len lén chuồn vào phối thất bên trái nằm sau ngọc môn rồi quét mắt nhìn vào bên trong. Tôi vừa nhìn thoáng qua lập tức nhận ra đó chính là chú Ba thời trẻ, trông chú tựa như đang vô cùng ảo não, đôi mày nhíu lại thật chặt.

Một lát sau, tiếng ồn ào của nhóm Trương Khởi Linh từ từ khuất xa, giờ này chắc hẳn bọn họ đang đi trên những bậc thang xoáy trôn ốc dẫn xuống đáy ao. Chú Ba dập tắt ống đánh lửa, nhanh chóng lẻn vào ngọc môn, tôi thấy thế thì sợ hết hồn, không cần bận tâm đây là ảo giác hay là trong mơ nữa, vội vã bám theo chú. Nhưng vừa chạm vào cánh cửa của phối thất bên trái, ló đầu ra tính nhòm trộm vào bên trong, bỗng dưng trước mắt thấp thoáng bóng người, chú Ba đã đột ngột phi ra từ sau cánh cửa, nhanh chóng bóp lấy cổ họng tôi, hạ giọng nói: “Thì ra là cậu theo dõi tôi!” Nói rồi cánh tay càng xiết chặt hơn vào yết hầu.

Trong lúc nguy cấp, tôi rất muốn hét lên thật to: “Chú Ba! Là cháu đây mà!” Nhưng có cố đến đâu cũng không thể thốt lên thành lời, chỉ còn cách ra sức gỡ từng ngón tay chú ra.

Còn đang giãy dụa, tôi chợt nghe một giọng nói cất lên: “Lão Ngô, tỉnh mau, cậu gặp ác mộng đấy à?”

Tôi giật mình một cái, đột nhiên trước mắt tối sầm, mọi thứ xung quanh cũng đột ngột biến mất, trước mắt là một khoảng mờ mịt mông lung, lại thấy lão Dương đang lay tôi tỉnh lại.

Thì ra chỉ là một giấc mộng thôi sao? Tôi cười gượng một tiếng, vuốt vuốt cổ mình rồi ngồi thẳng dậy. Quay đầu nhìn lại, tôi phát hiện ra mình đang nằm trên một ghềnh đá, ngay cạnh là đầm nước. Tiếng thác đổ ào ào vẫn còn vang vọng bên tai nhưng tôi không thấy thác nước đâu cả, trên ghềnh đá vẫn còn một đống lửa đang bập bùng cháy. Lão Dương đang đỡ lấy tôi, thuận miệng hỏi xem tôi có làm sao không.

Tôi phẩy tay nói không sao đâu, sau đó đưa tay nhéo mũi mình mấy cái, trong lòng cảm thấy vô cùng nghi hoặc. Tại sao mình lại có một giấc mơ kỳ quái như vậy chứ, chẳng lẽ là do ngày nghĩ vơ vẩn, đêm đến nằm mơ?

*chuẩn dzồi, cái này gọi là ngày nhớ đêm mong đây mà. Ban ngày nhớ anh riết rồi đêm đến mơ thấy anh luôn =)))))* 

Lão Dương đem bình nước qua cho tôi, tôi hớp lấy một ngụm rồi nhìn quanh bốn phía, sau đó khàn giọng hỏi hắn: “Đây là đâu thế? Vừa rồi tôi bị sao vậy?”

Lão Dương nói:  “Chỗ này là bên bờ cái đầm dưới chân thác, con thác ở về phía đằng kia. Vừa rồi lúc rơi xuống nước cậu đã ngất đi, tôi phải giữ chặt lắm cậu mới không bị dòng chảy ngầm dưới chân thác cuốn xuống đáy nước. Cậu cũng nên tạ ơn tôi mới phải đạo, giờ tay chân tôi mỏi rã rời ra rồi, muốn nhấc cũng nhấc không nổi.”

Tôi lầm bầm chửi rủa hắn một tiếng rồi thử đứng dậy, thấy thân thể không có gì đáng ngại mới mệt nhọc di chuyển vài bước rồi quan sát bốn phía xung quanh. Ánh sáng từ đống lửa soi rọi một bãi đá không lớn hình trăng lưỡi liềm. Một bên là đầm nước đen kịt diện tích cực lớn, từ trên đỉnh hang có vô số thạch nhũ sần sùi to bằng bắp chân buông xuống mặt nước, hình thành nên các trụ đá muôn hình muôn vẻ. Mà xung quanh mép nước cũng có vô số hang động đá vôi, lớn thì bằng cái huyệt, nhỏ thì chỉ bằng lỗ chuột chui, cái nào cái nấy sâu hun hút, cái nhô lên cao, cái chìm dưới nước, từ những hang động ấy nước ngầm không ngừng hút vào chảy ra, nhìn toàn cảnh thì thấy đây rõ ràng là một hồ ngầm đặc trưng của địa hình hang động đá vôi.

Tôi biết loại địa hình này thường được hình thành vào kỷ Băng hà đệ tứ, trải qua hơn vạn năm từ từ mở rộng mới đạt tới quy mô như hiện giờ. Những hang động có niên đại xa xôi hơn cả lịch sử loài người ấy không ngờ lại xuất hiện ngay trong núi Thiên Môn.

Trên bãi cạn ngoại trừ hai người chúng tôi ra còn có vô số những nhánh cây lẫn rác rưởi dạt vào, lão Dương kéo chúng lên hong khô, đống lửa kia cũng dùng mấy thứ này mà nhóm lên. Nhiệt độ đầm nước thấp kinh người, nếu không có đống lửa này chỉ e tôi đã chết cóng mất rồi.

Tôi nghĩ tới nhóm người Thái thúc, bèn hỏi lão Dương: “Những người còn lại ra sao rồi?”

Lão Dương nói: “Mấy con rùa đó chỉ e không được may mắn như chúng ta, từ lúc rơi xuống nước tôi cũng chẳng thấy bọn họ đâu nữa, còn không rõ họ có nhảy xuống hay không. Tôi nghĩ nếu bọn họ cũng nhảy xuống như chúng ta, thì một là trôi dạt vào chỗ nào đó, hai là đã đi chầu hà bá cả rồi.” Dừng lại một chút rồi tiếp lời: “Nhưng tình hình hai ta cũng chẳng khá hơn là mấy, trang bị mất hết, sắp tới không biết đi theo lối nào mới phải. Cậu nhìn nơi này xem, ngóc ngách nhiều vô số kể, loại động này nổi tiếng phức tạp chẳng khác gì mê cung, muốn tìm lối thoát là chuyện cực khó.”

Tôi cân nhắc một chút, nhìn qua có thể ước lượng những hang động đá vôi nhô lên khỏi mặt nước đủ lớn để đi lại được đại khái có khoảng bảy tám cái, tính cả những cái hang khuất trong bóng tối thì còn nhiều hơn, mới nói: “ Vừa rồi tôi có nghe tên mập người Quảng Đông kia nói, muốn đi qua khu động đá vôi này cần phải tìm được xích sắt người cổ đại dùng để dẫn đường. Những đoạn xích sắt này đều chìm sâu dưới làn nước, một đầu nằm phía cuối mật đạo, đầu kia chắc hẳn phải nằm trong đầm nước này, nếu ta tìm được thì có thể lần theo nó tiến vào cổ mộ.”

Lão Dương nhíu mày đắn đo suy nghĩ rồi nói: “Nói đến xích sắt tôi lại nhớ tới chuyện này. Cậu biết không, trong nháy mắt rơi xuống, đầu óc tôi bỗng dưng tỉnh táo trở lại, thoáng cái đã chìm xuống tầm sáu bảy mét dưới mặt nước. Dưới đáy nước con mẹ nó tất cả đều là tượng đá hình đầu người mà chúng ta  nhìn thấy dọc theo thạch đạo, trong chớp mắt hình như tôi còn thấy một sợi xích sắt vắt ngang dưới nước. Nhưng nói cho cậu biết, sợi xích ấy không thông tới một trong những động đá vôi kia, mà xuyên thẳng vào dòng nước xiết dưới chân con thác.”

Tôi nghe xong không khỏi sửng sốt, làm sao có thể chứ, nếu đúng như lời lão Dương nói thì cửa vào thông với cổ mộ không lẽ lại ẩn trong dòng nước xiết phía sau con thác?

Tôi nghe tiếng thác nước đổ ào ào cách đó không xa, nhớ lại tình cảnh khi chúng tôi rơi xuống nước, trong đầu chợt lóe lên tia sáng, quay sang nói với Lão Dương: “Vậy thì đúng rồi, nếu tôi đoán không lầm thì cổ mộ này có lẽ không xây trên ‘dương thế’ của chúng ta, mà ẩn giấu dưới âm tào địa phủ. . .”

Địa ngục!

Lão Dương nghe tôi nói thế, không rõ tôi có ý gì. Bị ngữ khí lạnh lùng của tôi thu hút, hắn bèn thấp giọng hỏi: “Cậu nói nhăng nói cuội gì vậy, làm sao có chuyện đó được?”

Tôi lắc đầu hỏi lại: “Cậu còn nhớ ông già họ Lưu trong thôn đã nói gì với chúng ta không, thác nước Hoàng tuyền cổ được một vị đạo sĩ triều Thanh nhắc đến và truyền thuyết về âm binh vạn mã di chuyển trong núi ấy?”

Lão Dương gật đầu nói: “Dĩ nhiên là nhớ chứ, ông ta nói trong lòng núi Thiên Môn có một thác nước Hoàng tuyền, thác nước này chính là lối đi nối liền hai cõi âm dương, lúc ấy chẳng phải cậu đã nói đấy chỉ là mê tín thôi sao?”

Tôi đáp lại: “Không, bây giờ xem ra những lời đó không phải là mê tín, chẳng qua chúng ta hiểu lầm ý tứ của người xưa thôi. Cậu nhớ lại đi, vừa rồi chúng ta rơi từ trên thác nước xuống, do có mạch nước nóng nên nước trong thác nhuộm một sắc vàng rất kỳ dị, nếu tôi đoán không lầm thì đó chính là thác nước ‘Hoàng tuyền’.”

Lão Dương suy nghĩ một chút rồi nói: “Hình như là thế, nhưng không thể đâu, chỉ những người từng đi vào trong núi và tận mắt chứng kiến quang cảnh này mới biết được chuyện về thác nước. Nhưng địa hình nơi đây phức tạp, người bình thường không phải ai cũng có thể tiến vào.” Nói tới đây, hình như chính hắn cũng nhận ra điều gì, bèn kêu to: “Con mẹ nó, không lẽ gã thầy phong thủy triều Thanh trong truyền thuyết kia cũng là đồng nghiệp với chúng ta?”

Tôi gật đầu đồng ý, khen đểu: “Hóa ra cậu vẫn còn biết suy luận.”

Lão Dương tràn đầy hưng phấn: “Vậy là rõ rồi, cậu có nghĩ phần lớn truyền thuyết về âm binh bắt đầu lưu truyền từ triều Thanh, phải chăng đều từ miệng mấy gã thầy phong thủy cố ý phát tán ra ngoài?”

Tôi gật đầu: “Rất có thể là như thế, có điều hiện giờ chúng ta không cần để ý tới chuyện này. Cậu nhớ lại xem, trong truyền thuyết còn có một câu ‘thác nước Hoàng tuyền là lối đi nối liền hai cõi âm dương’, cậu nghĩ xem xích sắt thông ra phía sau thác nước, vậy mặt sau thác nước ắt hẳn phải có lối đi thông tới cổ mộ. Nói cách khác, chẳng phải cổ mộ kia đặt ở âm phủ hay sao?”

Sắc mặt lão Dương trở nên khó coi, nói: “Không thể nào, cậu đừng dọa tôi. Nếu nơi đó thực sự là âm tào địa phủ, chúng ta đi vào đó chẳng phải là cầm chắc cái chết hay sao?”

Tôi mắng hắn một tiếng rồi nói: “Dốt, chuyện như thế mà cậu cũng tin được à. Cậu nghĩ xem, nếu mấy gã thầy phong thủy kia mà là đồng nghiệp với chúng ta, thì lời họ nói không thể lí giải theo kiểu thẳng tưng như thế được. Tôi nghĩ câu nói này có thể hiểu theo hai nghĩa, thứ nhất, có thể đó là một câu tiếng lóng đương thời, ám chỉ thác nước này chính là lối đi thông giữa cổ mộ với thế giới bên ngoài; thứ hai, có lẽ bọn họ đã nhìn thấy cảnh tượng gì đó trong động đá vôi phía sau thác nước, cảnh tượng ấy khiến họ nghĩ rằng mình đã bước vào âm tào địa phủ. ”

Tôi thoáng dừng chân, tiếp lời: “Nếu là ý thứ hai, vậy chúng ta phải chuẩn bị tâm lý cho thật vững đi, cảnh tượng trong đó e rằng sẽ rất kinh khủng đấy. . .”

Lão Dương trầm mặc một lúc mới nói: “Hay là chúng ta quay về đi…”

Tôi lắc đầu, vất vả lắm mới đến được đây, không vào xem thử một lần cho biết thì tiếc lắm. Hơn nữa, thác nước này to lớn hùng vĩ, làm sao mà leo ngược lên trên được, hang đá vôi bốn bề lại là chốn cửu tử nhất sinh, bây giờ chỉ có một đường là đi vào cổ mộ rồi tìm lối thoát ra ngoài mới là lựa chọn sáng suốt.

Lão Dương không thuyết phục được tôi nên đành phải nghe theo, chúng tôi vừa nghỉ ngơi vừa bắt đầu kiểm tra trang bị xem còn sót lại những món gì.

Vũ khí thì chúng tôi hiện có Phách tử liêu và khẩu súng lục TT-33 (*) lão Dương lấy thêm được từ chỗ Nhị Ma Tử, về mặt hỏa lực hẳn là không thành vấn đề. Mặt khác, tôi mở cái ba lô lấy được từ thi thể dưới nước kia, tìm thấy trong đó một ít đồ hộp không biết đã quá hạn hay chưa, có cả rượu trắng, bình nước, găng tay, còn có một lượng lớn cọ và màu vẽ.

(*) Nguyên văn là

托卡列夫手

, một loại súng của Nga cải tiến từ TT-30, về sau Trung Quốc bê mẫu súng này về sản xuất hàng loạt và đến giờ vẫn còn dùng.

Lão Dương thấy mấy thứ đó chẳng dùng vào việc gì được nên định ném đi cho nhẹ. Tôi vội nói, rượu có thể chống lạnh, màu vẽ có thể dùng để đánh dấu đường đi, găng tay cũng có lúc phải dùng đến, nói chung không có gì là thừa thãi cả, giữ lại hết vẫn hơn.

Xem đi xét lại một hồi tôi mới nhận ra chuyện đau đầu nhất lúc này chính là chúng tôi không có thiết bị chiếu sáng. Đèn của lão Dương đã cạn sạch pin, của tôi thì không biết đã rơi mất từ lúc nào, lát nữa bơi dưới nước mà phải chiếu sáng bằng đuốc thì thật sự không ổn.

Lão Dương cầm súng tiến lên mấy bước, nhìn bốn bề tối tăm, nói: “Giờ chỉ còn một cách, chúng ta gom đống củi này lại, châm cho lửa cháy thật lớn, sau đó nương theo ánh lửa mà bơi qua bên kia, nếu như bơi không tới thì cũng có thể theo ánh lửa mà bơi về, cậu thấy thế nào.”

Tôi suy nghĩ một chút, biết đây là biện pháp khả thi duy nhất, bèn nói: “Được rồi, bọn mình cứ thử đánh cuộc một lần xem sao.”

Chúng tôi cởi quần áo nhét hết vào trong ba lô, sau đó lại dùng găng tay và gậy gỗ làm thành mấy cây đuốc ngắn bỏ trong ngăn không thấm nước của ba lô, tiếp đó lại đốt lên một đống lửa lớn. Khi đã ấm người rồi, hai chúng tôi nhảy xuống đầm, bắt đầu lần theo tiếng nước mà bơi về phía dòng thác.

Nước lạnh đến tê tái, chỉ mới bơi được vài sải tôi đã cảm thấy toàn bộ nhiệt lượng trên người đều bị hút đi hết, cũng may mà gần đây tôi có hơi mập ra, không đến nỗi chưa chi đã tê cóng người.

Bơi chừng năm phút, tiếng nước dần dần trở nên rõ ràng, hai chúng tôi dừng lại, vừa giữ thăng bằng trong nước vừa lắng nghe động tĩnh từ bốn phía, muốn xác định đúng phương hướng rồi mới bơi tiếp.

Lúc này, cách chỗ chúng tôi không xa có thứ gì đó lao xao trên mặt nước, chúng tôi vội quay đầu lại, nhưng chỗ này đã cách đống lửa quá xa nên không thể nhìn được gì.

Lão Dương rút khẩu TT-33 ra, vẩy khô nước trong nòng rồi cảnh giác giương cao súng nhìn quanh bốn phía, hỏi: “Lão Ngô, dưới này chắc không có con cá Hucho Taimen nào chứ?”

Tôi lạnh sống lưng, sực nghĩ vùng nước dưới này rộng lớn, nếu thực sự có cá ăn thịt người thì chúng tôi đã toi mạng từ đời nào rồi. Vừa định bảo không có, cách đó không xa lại truyền đến tiếng nước cực kỳ rõ ràng, tôi chợt cảm thấy bất an, bèn nói: “Tớ không biết, nói gì thì nói chúng ta cũng mau bơi đi thôi, loại cá này sợ tiếng ồn, chúng ta càng đến gần thác nước thì càng an toàn.”

Hai chúng tôi lập tức sải tay tiếp tục bơi về hướng thác nước, lúc này ánh lửa phía sau càng lúc càng yếu ớt, chỉ còn là một đốm sáng nhỏ. Chúng tôi đành phải kiên trì cùng nhau tiến về phía trước trong bóng tối mịt mùng.

Chỉ chốc lát sau, dòng nước dần dần chảy xiết, chúng tôi đã đến gần khu vực thác nước đổ xuống. Chúng tôi dốc sức bơi nhưng tốc độ lại càng ngày càng chậm, bơi rất khó khăn, tôi nghiến răng muốn đạp nước lao về phía trước nhưng vài lần đều không thành.

Thể lực tiêu hao từng chút một, nghĩ đến tình cảnh bị dòng nước đẩy ngược trở về, lòng tôi nóng như lửa đốt. Lúc này lão Dương gọi to, nói rằng cứ bơi kiểu này thì chắc chắn không qua nổi, phía trước là vùng nước xoáy ngay dưới chân con thác, bên trong toàn là xoáy nước lớn nhỏ đủ kiểu, nếu muốn vượt qua bắt buộc phải lặn xuống đáy đầm rồi từ từ bơi qua phía dưới các dòng xoáy.

Nói xong hắn liền ngụp đầu lặn sâu vào trong nước. Tôi cũng bắt chước hắn cố gắng lặn sâu xuống mấy mét. Xuống đến đáy hồ, chợt thấy đằng trước có một khoảng sáng trắng chập chờn.

Tôi nhận ra ánh sáng ấy chính là từ cái đèn pin không thấm nước của mình, trong lòng thầm nhủ đồ mua mất hơn một ngàn đồng có khác, quả nhiên là hàng xịn, đến giờ vẫn còn sáng, vội dồn sức bơi về phía đó.

Dưới đáy hồ không có bất cứ một sinh vật gì, trong vùng sáng trắng tôi nhìn thấy rất nhiều tượng người đá sắp xếp ngay ngắn bên dưới, phần đầu người đã rữa nát ra hết chỉ còn lại sọ trắng có cái đã long ra, có cái vẫn dính chặt trên cổ tượng. Giữa đáy hồ thấp thoáng một bệ đá, trên đó hình như có một khối thi thể bọc vải trắng đang lửng lơ trong nước.

Nhưng đèn pin mới chính là mối quan tâm lớn nhất của tôi lúc này. Tôi nhìn qua vài lần rồi chẳng để ý đến nữa mà lách người vào giữa những bức tượng, bám lấy thân thể cố định của chúng rồi mới dần dần hướng về phía đèn pin.

Đúng lúc tôi vừa tiến lại gần nó, một luồng nước bỗng nhiên ập đến từ sau lưng. Tôi biết có chuyện không ổn, lập tức đề phòng, nhưng không sao ngờ được mình sẽ bị thứ gì đó đụng mạnh vào người. Trước mắt thoáng thấy một bóng trắng hiện lên va trúng vào tay tôi, cánh tay đang bám chặt tượng đá không còn trụ nổi, thoáng cái buông lỏng, cả người liền bị đẩy lên phía trên.

Tôi biết tình hình không ổn, trong chớp mắt đã bị đẩy vào trung tâm của vùng nước xoáy phía trên. Lực đẩy tôi lên trên đột nhiên thay đổi phương hướng, ném tôi lệch sang một bên khiến tôi chỉ kịp kêu lên một tiếng rồi nhanh chóng rơi vào hỗn loạn, bị dòng nước xoay vòng vòng một hồi, cuối cùng cũng chẳng còn kiểm soát được cơ thể mình nữa.

Trong lúc lộn xộn tôi không biết mình đã bị cuốn đi bao nhiêu vòng, chỉ thấy cái bóng trắng hiện lên trước mắt vài lần nhưng không nhìn ra đó là cái gì.

Ý thức nhanh chóng trở nên mơ hồ, tôi còn tưởng mình đã chết chắc rồi, nào ngờ đúng lúc đó lưng tôi bị thứ gì đó táng mạnh vào. Cơn đau giúp tôi tỉnh táo lại, vội vàng quơ tay về phía sau, vừa hay tóm được sợi xích sắt mà lão Dương nói.

Cuối cùng tôi bỏ qua cái đèn pin, kéo sợi xích, cố gắng bò dọc theo nó đến đầu bên kia, trong chốc lát đã tới dưới chân thác nước. Nhưng lúc này tôi đã hết hơi, chỉ cảm thấy một luồng áp lực ngàn cân trút lên đầu ép tôi xuống tận đáy hồ, bò đi chưa đến hai mét đã không còn nhúc nhích gì được nữa.

Lão Dương từ đằng sau bơi đến, chụp lấy tay tôi kéo lên trên. Chúng tôi vừa níu sợi xích vừa giẫm đạp lung tung lên đám tượng đá, cuối cùng cũng vượt qua vùng chân thác nước. Tôi thấy áp lực trên đầu đột nhiên giảm bớt, liền nổi lên mặt nước há miệng thở dốc, hoa mắt chóng mặt.

Bốn bề tối đen như mực, chỉ nghe tiếng thở dốc của lão Dương, hắn ho khan vài tiếng rồi hỏi tôi: “Không sao chứ? Hình như chúng ta đã vượt qua được rồi.”

Tôi cũng ho mấy tiếng đáp lại: “Mau đốt lửa lên xem, nước trong hồ này lạ lắm, chỉ sợ dưới đó có thứ gì không sạch sẽ.”

Lão Dương đánh bật lửa tanh tách muốn quan sát cảnh tượng bốn phía, nhưng xung quanh bắn đầy bọt nước, lửa vừa lóe lên đã tắt ngóm.

Chúng tôi mò mẫm bơi vào phía trong, bỗng bên tai tôi lại nghe âm thanh giống như tiếng nước đã từng nghe bên ngoài con thác, lúc này đã ở rất gần, giống như cách tôi hai ba mét có thứ gì đó đang bơi lội.

“Cẩn thận đấy!”, tôi nhớ đến cái bóng trắng đã đụng vào mình dưới nước, lập tức trở nên căng thẳng, vội nói với lão Dương: “Hình như quanh đây có…”, lời còn chưa dứt, tôi đột nhiên cảm thấy có một bàn tay trơn ướt lạnh lẽo đặt nhẹ lên vai mình.

Tôi sợ quá thét lên, thầm hỏi rốt cuộc đây là thứ gì, chẳng lẽ lại là tượng đầu người dưới nước sống lại? Theo bản năng, tôi lộn người một vòng trong nước, đạp mạnh vào vật đằng sau đẩy nó ra xa, sau đó cố gắng ngoi lên gọi lão Dương thật to: “Mẹ nó, dưới nước có quỷ! Bật lửa lên mau!”

Lão Dương đã đánh bật lửa, thấy tôi hoảng sợ vội đưa bật lửa sang phía tôi. Không đưa qua thì thôi, vừa có ánh sáng soi đến, da đầu cả hai chúng tôi lập tức tê rần, sợ đến đứng tim. Chỉ thấy từ dưới mặt nước sau lưng tôi trồi lên một cái đầu trắng bệch đang nhìn mình trừng trừng với vẻ mặt hết sức dữ tợn.

Chúng tôi hoảng sợ, vội bơi lùi lại một chút, lão Dương cuống quít muốn rút súng ra nhưng lại bị kẹt không tài nào rút ra được.

Kẻ đó trợn trừng cặp mắt trắng dã, miệng mấp máy như muốn nói điều gì, sau đó bỗng dưng bổ nhào về phía tôi. Tôi hét to một tiếng muốn bỏ chạy, nhưng lại phát hiện không còn đường lui nữa, đầu kẻ đó lập tức đè lên người tôi.

Tôi gào thét như điên, cố gắng đẩy “nó” ra xa, lại bị “nó” cố sống cố chết ôm chặt cứng. Trong cơn hỗn loạn, tôi chợt nghe kẻ đó ghé tai mình nói rành mạch một câu: “Cứu… mạng…”

Tôi sửng sốt, tay chân cũng đờ ra, đầu óc choáng váng, thầm nghĩ quỷ nước sao lại đi kêu cứu mạng? Vội đỡ cái đầu kia lên, gạt tóc hắn ra hai bên nhìn cho rõ, nhìn rõ rồi thì thiếu điều hộc máu.

Lạy chúa! Có phải là quỷ nước gì đâu, đây chẳng phải là gã trợ lý Lương trong đám người kia sao.

Gã đã kiệt sức, cặp mắt trợn trắng muốn ngất đi, chẳng trách sắc mặt lại tái mét đến thế này. Tôi nhanh chóng vòng ra sau lưng gã, đỡ gã lên đồng thời gọi lão Dương đến giúp một tay.

Lão Dương đến gần, nhìn qua là nhận ra hắn ngay, cau có hỏi: “Mẹ kiếp, sao tên này lại ở đây? Hắn vào bằng cách nào thế?”

Tôi đáp: “Có khả năng tên này rơi xuống đây một mình, không dám tự tung tự tác nên đành âm thầm theo dõi chúng ta, thấy chúng ta xuống nước hắn cứ tưởng đã tìm được đường ra ngoài mới cùng theo xuống. Chẳng qua hắn không thể ngờ chúng ta lại muốn đến một nơi nguy hiểm như vậy.”, tiếng nước tôi nghe thấy dọc đường tới đây xem ra chính là của gã.

Trợ lý Lương còn đeo ba lô, thứ đó thấm nước tăng trọng lượng kéo theo gã chìm xuống, lão Dương vội vàng tháo nó ra khỏi người gã rồi hỏi tôi: “Chúng ta làm gì với tên này bây giờ? Hắn là đồng bọn của đám người kia, mang theo có sợ rước thêm phiền phức không?”

Tôi cũng thấy nhức đầu, nhưng có phiền phức đến đâu cũng phải mang theo, đâu thể để mặc gã chết chìm ở đây được, bèn nói: “Bây giờ cũng chẳng còn cách nào khác, thôi ta cứ tìm chỗ lên bờ đã rồi xử lý hắn sau.”

Chúng tôi chỉnh lại tư thế, bơi vào bờ thêm vài mét, bên dưới bỗng xuất hiện một thềm đá khá rộng, từ dưới đáy lên đến mặt nước khoảng mười bậc, phần nhô lên trên lại kéo dài hơn mười bậc nữa. Chúng tôi từ từ tiến lại gần, sau đó đạp lên từng bậc thang, bước ra khỏi hồ nước.

Tôi mệt mỏi rã rời, liền ngã người xuống bậc thang há miệng thở dốc. Lão Dương bên cạnh lại phấn chấn lạ thường, lấy cây đuốc đã chuẩn bị lúc nãy ra, tẩm thêm rượu trắng rồi châm lửa, bốn phía tức khắc sáng bừng lên.

Tôi ngoảnh đầu quan sát xung quanh, hóa ra cái gọi là cửa thông đến Địa phủ chẳng qua chỉ là một hang động đá vôi ẩn đằng sau thác nước. Cái hang này không lớn không nhỏ, xem ra là hang tự nhiên, nhưng ở vài chỗ có dấu vết tu sửa do con người để lại.

Tận cùng dãy bậc thang là một thạch đài bằng đá vân xanh, bốn phía còn có bốn cột đá khắc đầy hoa văn hình chim thú, giữa thạch đài có đặt một cái bình siêu bự hình dạng kì quái làm bằng thanh đồng, trông giống như một cái hồ lô khổng lồ cao hơn tôi cả một cái đầu, lốm đốm hoen rỉ, trên mặt đều là hoa văn rắn hai thân và hoạt động cúng tế.

Đây là một đàn tế, tôi thầm nghĩ, Xá tộc coi trọng việc cúng tế chứ không nặng về chuyện chôn cất. Vật này xuất hiện ở đây, xem ra mình đã đến rất gần cổ mộ rồi.

Chúng tôi bước lên thạch đài, để gã trợ lý Lương nằm trên mặt đất cùng với ba lô, sau đó xem xét phía bên kia thạch đài. Ở đó có một dãy bậc thang đá rộng rãi uốn lượn dẫn xuống sâu bên trong hang động này, ước chừng hơn trăm bậc, ánh sáng từ cây đuốc không thể chiếu tới đáy động nên không ai biết được có thứ gì đang chờ mình bên dưới. Tôi nói với lão Dương: “Nếu đây là đường vào Địa phủ thì chỗ này chính là Quỷ môn quan, bên dưới chỉ e chính là mười tám tầng địa ngục, cậu có sợ không?”

Lão Dương chỉ vào trợ lý Lương ngay bên cạnh, nói: “Sợ khỉ gì, tớ chỉ hận không thể mau mau bước xuống thôi, nhưng còn gã này thì giải quyết thế nào đây?”

Cửa vào cổ mộ đã gần đến thế, tôi và lão Dương đều sốt ruột muốn lập tức xuống đó xem thử, thế mà lại vướng phải thằng cha họ Lương này, nói sao cũng không thể bỏ mặc gã lai được nên đành đập cho gã tỉnh trước rồi tính sau.

Chúng tôi lột đồ gã ra, sau đó lấy rượu trắng dội lên, sắc mặt gã nhanh chóng dịu lại. Lão Dương vạch mắt hắn ra nhìn rồi hỏi: “Này, có nói chuyện được không đó?”

Trợ lý Lương dần dần khôi phục lại ý thức, biết đã lọt vào tay chúng tôi, bất đắc dĩ gật đầu, ho khan một tiếng.

Lão Dương nói: “Anh đừng sợ, bọn tôi không giống như đám người mấy anh đâu, sẽ không bắt anh phải làm gì hết. Nhưng bọn tôi cũng muốn đảm bảo an toàn của bản thân, cho nên anh cố mà thành thật một chút, chúng tôi sẽ mang anh theo vào, bằng không bắn bỏ luôn tại chỗ, hiểu chưa?”

Trợ lý Lương gật gật đầu, mở miệng định nói gì đó rồi lại nói không nên lời.

Lão Dương lại trút thêm mấy ngụm rượu vào miệng gã đến khi gã ho sặc sụa mới thôi, sau đó rút dây lưng ra trói gã thật chặt, còn nói với tôi: “Tớ vẫn không yên tâm, mấy tên này toàn là dân xóm liều, cứ trói hắn lại đã rồi tính sau.”

Trợ lý Lương cũng chẳng còn hới sức đâu mà chống cự, để mặc lão Dương trói gô gã lại. Chúng tôi thấy gã không có gì đáng ngại mới đỡ dậy để cho gã dẫn đầu, ba người đi đến bên kia thạch đài, bước lên những bậc thang đá dẫn thẳng xuống dưới.

Thật ra thì người Xá quốc không am hiểu về chế tạo cơ quan hay kỹ thuật tinh xảo, nhưng vì cẩn thận, chúng tôi phải mất rất nhiều thời gian mới đi hết hơn trăm bậc thang này, cuối cùng trước mặt chúng tôi hiện lên một bãi đất bằng, xem ra đã đến đáy hang.

Cuối những bậc thang là một cây cầu đá đen kịt nhẵn bóng, tiếp đó là một vách đá.

Loại địa hình này, có thể là do các mạch nước ngầm chảy trong nham mạch dưới lòng đất nơi đây thực chất có kết cấu hình bậc thang hướng xuống dưới, cộng thêm một ít vận động địa chất ở vùng núi này, tạo ra một loạt các vết đứt gãy địa tầng mà hình thành nên.

Dưới vách đá là một khoảng không tối đen sâu hun hút, không thể nhìn thấy được gì.

Chúng tôi nhìn mà phát rầu, nếu có đèn pin thì tốt rồi, lúc này chúng tôi chỉ có một cây đuốc nhỏ thì làm sao mà thấy được bên dưới có gì? Lão Dương hỏi tôi làm sao bây giờ, có cần ném luôn cây đuốc xuống không. Tôi nói vậy sao được, ném đuốc đi rồi cả bọn xuống đó kiểu gì?

Lúc này trợ lý Lương mới thều thào nói: “Hai cậu, trong… trong ba lô của tôi có súng báo hiệu…”

Lão Dương vội lục trong ba lô của hắn, quả nhiên tìm được một khẩu, liền ngạc nhiên nhìn trợ lý Lương: “Chà, anh cũng khá lắm đó, rất biết hợp tác nha.”

Tôi kiểm tra sơ qua, thấy súng báo hiệu không có vấn đề gì, bèn mở chốt an toàn sau đó nhắm vào phần trên vách đá, bắn ra một quả pháo sáng.

Ánh sáng bừng lên rọi sáng một vùng rộng lớn, trong nháy mắt cả sơn động hiện lên rõ ràng ngay trước mắt tôi.

Chúng tôi nhìn xuống dưới, cả ba người lập tức ngây ra tại chỗ.

Mới đầu tôi vẫn chưa nhận ra mình đã nhìn thấy thứ gì, đến khi nhận ra lập tức ngớ người, miệng há hốc, gần như không dám tin vào mắt mình.

Trợ lý Lương đi đằng trước vốn đang kiệt sức, vừa thấy khung cảnh phía dưới bước chân đã lảo đảo, suýt chút nữa là ngã nhào xuống đất, lão Dương cũng tái mặt, bất giác lùi lại một bước.

Dưới vách đá mười mấy mét là một hang động thiên nhiên rất lớn, bên trong chất đầy ắp thứ gì đó trông giống như củi khô, nhìn kỹ lại mới biết hóa ra toàn là xương cốt, lớp này nối tiếp lớp kia, có chỗ còn chồng chất lên thành đống lớn, đếm sơ sơ cũng phải được hơn vạn bộ xương.

“Đây… đây là chỗ quái quỷ nào vậy!”, tôi hoảng hồn nói, “Trời đất ơi, đây chẳng phải một hố chôn tập thể sao?”

Chẳng trách mấy ông thầy phong thủy thường nói mình có thể nhìn thấy âm phủ, cảnh tượng này quả thực khiến người ta chấn động, dẫu là ai nhìn thấy chắc chắn đều liên tưởng đến khung cảnh dưới địa ngục!

Nhưng không hiểu vì sao tôi lại cảm thấy cảnh tượng trước mắt trông vô cùng quen thuộc, hình như đã từng gặp qua ở đâu đó? Tôi nhíu mày cố gắng hồi tưởng, đột nhiên trong tâm trí hiện lên một hình ảnh tương tự, phải rồi! Cái động xác gần Miếu Hạt Dưa ở Sơn Đông chẳng phải rất giống với nơi này sao?

Suy nghĩ của tôi thoáng chốc rối bời, cảm giác như cổ họng nghẹn đắng, nói không nên lời. Nơi này quả nhiên có liên quan tới động xác gần Miếu Hạt Dưa ở Sơn Đông! Cái động xác kia có một cỗ quan tài thủy tinh treo trên vách đá còn có một nữ thi áo trắng tóc dài chấm đất, nơi này chẳng biết có hay không?

Tôi vội vàng nhìn khắp xung quanh, lúc này pháo sáng đã rơi xuống cuối quãng hành lang quanh co. Trong khoảnh khắc ánh sáng vụt tắt, tôi thấy loáng thoáng giữa đống thi thể hình như có thứ gì đó rất lạ.

Chương 15: Nghỉ ngơi

Editor: Biển Bạc


Beta: Tiểu Điệp

♥♥♥

Lão Dương nạp thêm pháo sáng, hướng về phía quả ban nãy vừa xịt, bắn thêm một phát, lần nữa chiếu sáng khu vực bên đó. Tôi nhận ra đó là một khoảnh đất trống không có bất cứ một thi thể nào chiếm cả trung tâm huyệt động, rộng tầm hai mươi, ba mươi mét vuông. Ánh sáng từ quả pháo không đủ để tôi có thể nhìn rõ khu vực này có gì đặc biệt không, chỉ có thể khẳng định rằng khoảnh đất trống đấy trũng xuống phía dưới, chắc là một cái hố.

Lúc này lão Dương đã bình tĩnh lại, chỉ vào cái hố kia, nói rằng hố tuẫn táng ba năm trước hắn nhìn thấy khá giống với nơi này, ở giữa cũng có một khoảng đất trống như vậy, chạc cây thanh đồng mà bọn họ có đào thế nào cũng không đến được gốc chính là ở giữa cái hố này.

Ánh sáng từ quả pháo bắt đầu lụi dần, huyệt động lại chìm vào bóng tối. Lão Dương còn định nạp thêm một viên nữa nhưng bị tôi ngăn lại. Những gì cần thấy cũng đã thấy rồi, không cần phung phí.

Hắn lại hỏi tôi: “Làm sao bây giờ? Náo loạn cả nửa ngày, hóa ra Âm phủ chính là chỗ như thế này sao, nói không chừng đây cũng là một nơi cúng tế, chúng ta có nhất thiết phải xuống không?”

Tôi suy nghĩ một chút rồi nói: “‘Hà mộc tập’ của ông chủ Lý có nói trong đấu có đồ tốt hẳn là không sai, chúng ta theo xích sắt đến chỗ này, về lộ trình coi như không có vấn đề. Tôi thấy thứ hắn nói đến ở ngay bên dưới, chỗ khả nghi nhất chính là khoảng đất trống giữa đám thi thể, tôi nghĩ hay là chúng ta qua đó xem thử… Nhưng mà từ xưa đến nay, những nơi tích tụ xác chết luôn là nơi ma quái nhất, chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng cho tình huống tệ nhất có thể xảy ra.”

Tôi vốn định nhắc đến chuyện đã gặp phải ở Sơn Đông, nghĩ lại, hai người kia nghe mà không bị hù chết mới là lạ, vì thế đành nói khác đi.

Lão Dương hoàn toàn không muốn xuống đó, nhưng người đề nghị tới đây chính là hắn, bây giờ không thể rút lui, đành phải bất đắc dĩ gật đầu.

Tôi nhớ lại cảnh tượng nhìn thấy ban nãy, muốn tới được khoảng đất trống kia bắt buộc phải xuống dưới vách đá, băng qua đám thi thể, từ cầu đá chỗ chúng tôi đứng đến chỗ mảnh đất bằng phẳng kia khoảng chừng hai trăm mét, hẳn là không phải vấn đề lớn. Vấn đề ở đây là làm thế nào để leo xuống được vách đá cao mười mấy mét này. Chúng tôi không có dây thừng, tay không đi xuống thì không có khả năng, có lẽ cần phải bàn bạc kĩ hơn.

Còn vấn đề nữa là dưới đó có bánh tông hay không, bên dưới chắc cũng không có nhiều thi thể được bảo tồn nguyên vẹn, đại đa số đã khô queo hoặc trở thành xương khô. Nhưng ban nãy lúc bắn pháo sáng, tôi thấy có rất nhiều thi thể có nét mặt vô cùng dữ tợn, hoàn toàn vượt ra khỏi giới hạn biểu hiện cảm xúc của người bình thường, không biết là vì sao.

Đang cân nhắc, bỗng dưng có tiếng người té ngã.

Tôi quay lại nhìn, chỉ thấy trợ lý Lương đang rón ra rón rén lui về phía thềm đá.

Lão Dương lập tức giơ súng lên đe dọa hắn, quát: “Dám đi bước nữa tao đánh gãy chân mày rồi bỏ lại đây luôn.”

Trợ lý Lương vừa nghe tiếng hắn liền sợ hãi bỏ chạy. Lão Dương liền bắn một phát lên trời, tiếng súng chát chúa lập tức vang vọng khắp hang động.

Trợ lý Lương nghe tiếng súng sợ tới mức cứng đờ người, rụt cổ xoay người nói: “Đừng  nổ súng! Đừng nổ súng! Tôi không chạy nữa.”

Lão Dương mắng: “Quỷ mới tin mày. Biết điều thì ngồi yên một chỗ. Nếu dám chạy lần nữa, tao bắn!”

Trợ lý Lương tiu nghỉu quay lại ngồi xuống bên cạnh chúng tôi, vẻ mặt cầu xin, nói: “Hai vị tiểu ca, các cậu thấy đấy, tôi chỉ là một phần tử trí thức đi theo lão thái  kiếm miếng cơm ăn, lừa gạt mấy vị khách Quảng Đông chút chút, nếu xét ra thì cũng chỉ là tòng phạm, hay là các cậu tha cho tôi đi. Bây giờ hai cậu muốn đi làm ăn lớn, tôi thì trói gà không chặt, có đi theo cũng chỉ làm vướng víu, lỡ như tay chân vụng về làm vạ lây đến các cậu cũng không hay.”

Lão Dương thấy tay gã vẫn còn giữ chặt cái balo kia liền không khỏi tức giận, lấy súng chỉ chỉ vào hắn, nói: “Mày nghĩ bọn tao muốn mang mày theo chắc, mày muốn bọn tao bỏ qua cũng được, cứ để cái ba lô đó lại rồi muốn đi đâu thì đi.”

Trợ lý Lương nhìn cái ba lô, khó xử nói: “Nhưng túi này là của tôi… Người ta có câu, là quân tử…” Lão Dương giơ súng trong tay, nói: “Tao không phải quân tử, tao là súc sinh, đừng có nói lý lẽ với tao.”

Tôi thấy trợ lý Lương cũng rất có bản lĩnh, nếu bây giờ để gã đi, lỡ như gã gặp được bọn lão Thái thì khác nào chúng tôi tự tăng thêm cho mình một kẻ địch, giữ lại có khi còn có tác dụng. Tôi ngăn lão Dương nói tiếp, quay về phía trợ lý Dương nói: “Tình cảnh chúng ta bây giờ chẳng mấy khả quan, anh mà đi một mình, cho dù anh còn nguyên trang thiết bị, nhưng không có kinh nghiệm thì cũng đừng mong thoát ra được. Hay là thế này, anh  cùng chúng tôi xuống đó xem thử, nếu có đồ tốt, lão Thái chia cho anh bao nhiêu thì chúng tôi cũng sẽ chia bấy nhiêu, ba người cùng cùng nhau hành động, khả năng sống sót sẽ cao hơn. Anh xem nơi này âm khí ngút trời, nếu có gặp phải cô hồn dã quỷ, chẳng ai cứu nổi anh.”

Lão Dương lập tức tiếp lời: “Nếu không muốn đi cùng cũng được thôi, những thứ nên để lại thì để lại, quần áo cũng cởi ra…”

Hắn nghe tôi nói sẽ được chia một phần minh khí, nhất thời lộ vẻ dao động, đã thế còn bị lão Dương hù dọa, vội nói: “Đừng đừng, chuyện này có thể thương lượng. Nếu hai vị để mắt tới tôi, tôi cũng không tiện từ chối. Thực ra vốn hiểu biết của tôi có phối hợp cùng kinh nghiệm của hai cậu, quả là quần anh hội tụ.”

Tôi vừa nghe liền cảm thấy thằng cha này như ngọn cỏ đầu tường, nghiêng nghiêng ngả ngả, gió chiều nào theo chiều ấy, trong lòng cảm thấy buồn cười. Ông nội nói đúng, lòng người hiểm ác, trên cái thế giới này, dạng người gì cũng có.

Chúng tôi lấy lại cái ba lô của trợ lý Lương, đổ hết đồ bên trong ra, tìm xem có cái gì hữu dụng không, đại loại kiểu như dây thừng hay đèn pin. Nhưng trong túi hắn chỉ có đồ ăn cùng quần áo. Hắn nói mọi trang bị quan trọng đều ở chỗ ông nội cùng hai tên mặt rỗ. Súng báo hiệu của hắn cũng chỉ dùng để cầu cứu khi bị tách đoàn.

Không có dây thừng, muốn xuống vách núi này chắc chắn phải học bích hổ du tường. Nơi này dốc đứng như vậy, cũng không biết có thích hợp để leo trèo không. Tôi châm một cái pháo hoa lạnh* lên, phóng thẳng về phía vách núi. Theo ánh sáng rọi xuống, tôi thấy cũng có khá nhiều chỗ có thể đặt chân, nếu có như cái gì để chiếu sáng lâu lâu một chút, việc đi xuống cũng không quá khó khăn.

*pháo hoa lạnh: nhiệt độ của pháo chỉ tầm 30-35*, ít làm tổn thương thân thể hơn pháo hoa thường

Bây giờ ở bên ngoài cũng tầm mười một giờ tối, trên suốt đường đi chúng tôi chưa hề nghỉ ngơi, khuya hôm nay chẳng còn sức đâu mà cố nữa, bèn quyết định nghỉ ngơi cho khỏe, tranh thủ xử lý vết thương, đợi ngày mai hẵng xuống đó. Bằng không cứ với tình trạng mệt mỏi này mà mò xuống, lỡ có chuyện gì xảy ra sẽ không ứng phó được.

Lão Thái cùng cái tên mập người Quảng Đông kia hiện giờ sống chết ra sao chưa rõ. Trong tay bọn họ còn có hai khẩu súng. Bây giờ có va chạm chắc không tránh khỏi đánh nhau. Cũng cần phải đề phòng.

Tôi muốn hỏi trợ lý Lương lai lịch của bọn họ nhưng nghĩ lại, bây giờ không phải thời điểm thích hợp. Quan hệ của chúng tôi bây giờ căng thẳng như vậy, gã chắc chắn sẽ không chịu nói, chờ đến lúc gã lơ là hãy hỏi, khi đấy mới có thể biết được sự thật.

Tôi nói ra suy nghĩ của mình cho lão Dương nghe, hắn gật đầu tỏ vẻ đồng ý, nhưng vẫn còn nói: “Con mẹ nó, nơi này là nơi quái nào, bên dưới nhiều thi thể như vậy, hay là chúng ta đi lên đi, lên chỗ đài cúng tế mà nghỉ ngơi.”

Tôi cũng nghĩ như vậy, liền bước lên thềm đá, trở lại nơi tế đàn.

Lão Dương đốt lửa thêm lần nữa, lấy một cái hũ trống múc chút nước vào đặt lên lửa đun, bỏ thêm một ít lương khô vào nấu mềm ra rồi ăn. Mọi người ăn xong lại ăn thêm một ít socola để tăng lượng đường trong máu.

Lão Dương ăn xong thì buồn ngủ. Tôi bảo bọn họ đi ngủ trước còn mình lo canh lửa. Lão Dương bảo nơi này cũng không có dã thú, không cần phải cẩn thận như thế. Tôi nói thầm với hắn, tôi chủ yếu là muốn canh chừng gã trợ lý Lương kia. Loại người này nhìn qua thì là người hèn nhát, bình thường thâm tàng bất lộ. Trong lúc chúng ta đang ngủ có khi hắn lại để lộ ra bộ mặt thật của mình.

Lão Dương nói: “Sao cậu phải lo, ta đập hắn ngất xỉu là được.”

Tôi vội xua tay, nếu đánh ngất thì thật là phiền phức.

Lão Dương cứ thế đi ngủ. Tôi lấy Phách tử liêu vốn giấu trong quần áo ra, mở chốt bảo hiểm rồi giắt vào dây lưng. Sau đó đun một chút nước để rửa miệng vết thương. Lúc ở thác nước, tay tôi bị phỏng nặng. Nếu xử lý không tốt chắc chắn sẽ bị nhiễm trùng.

Chờ xử lý xong vết thương, tôi đánh thức lão Dương rồi mới đi ngủ. Giấc ngủ không hề thoải mái, cả người đau nhức, miệng vết thương vừa ngứa lại vừa đau. Lúc tỉnh lại mới biết mình chỉ ngủ có năm tiếng, toàn thân khó chịu, đến cả cái mũi cũng tắc tịt.

Lão Dương đun nước cho tôi rửa mặt, cảm giác có khá hơn một chút. Lúc ăn sáng, tôi thấy trợ lý Lương không còn vẻ mặt đề phòng như ngày hôm qua liền nói bóng gió về lai lịch của bọn lão thái.

Trợ lý Lương vốn đã biết tên chúng tôi, hắn nhìn tôi, nghe ra được ý tứ, chớp mắt nói: “Tiểu Ngô ca, bây giờ chúng ta đã là một nhóm, tôi cũng không giấu gì cậu. Lúc chúng tôi đến đây có năm người, trong đó chỉ có lão Thái với Nhị Ma Tử là dân trong nghề, tôi chỉ đi theo ông chủ Vương với ông chủ Lý tới, thứ nhất muốn xem tiên hóa*  được khai quật như thế nào, thứ hai là hai ông chủ muốn tôi lựa ra những thứ đáng tiền nhất trong cổ mộ lấy tra trước. Cho nên nói thật thì tôi cũng chỉ là người chịu thiệt thôi.”

* tiên hóa: ám chỉ đồ vật bằng vàng ròng.

Lão Dương nghe vậy liền hỏi hắn: “Kì quái. Ban nãy tôi chỉ thấy có bốn người. Đào đâu ra người thứ năm?”

Trợ lý Lương nói: “Người anh nói đến chính là ông chủ Lý, lúc chúng tôi theo đường hầm đi xuống, ông ấy đến chỗ một hồ nước rửa mặt, cuối cùng lúc chúng tôi phát hiện ra, đầu ông ta đã bị thứ gì đó trong nước cắn đi mắt…”

Tôi với lão Dương đang ăn vội bịt mồm hắn lại, chuyện sau đấy ai cũng biết, nói ra chúng tôi ăn không vào.

Tôi đoán hắn có sao nói vậy, thầm nhủ tên này coi như là thức thời, lại thừa cơ hỏi hắn về hoàn cảnh hai ông chủ kia.

Trợ lý Lương đứng lên, nói: “Hai ông chủ đó đấy, không nói thì coi như không biết, nói ra chỉ e các vị lai nhảy dựng hết lên. Họ không phải dân buôn đồ cổ bình thường, hai cậu từ từ nghe tôi kể chi tiết…”

—————————————–

Chương 16: Trèo

Editor: Dứa

Beta: Thanh Du

*****

Trợ lý Lương lập tức ngưng bữa, kể giản lược cho chúng tôi nghe hoàn cảnh của hai người nọ.

Hai ông chủ Quảng Đông kia, người họ Vương tên là Vương Kỳ, người họ Lý tên là Lý Tỳ Bà, cả hai đều là dân Phật Sơn (*), trong giới đồ cổ địa phương rất có tiếng tăm, trong đó xuất thân của Lý Tỳ Bà thì chúng tôi đã biết, lão phất lên hoàn toàn nhờ “hà mộc tập” ghi chép vị trí một lượng lớn các cổ mộ.

(*) Phật Sơn: Tên một địa khu hành chính cấp thị thuộc tỉnh Quảng Đông.

Tôi biết điều này vì tôi với lão Dương từng trộm nghe lão nói chuyện, có điều tất cả chỉ là lời nói phiến diện một chiều, không biết trong đó có mấy phần bốc phét. Bây giờ nghe trợ lý Lương nói vậy, lời nói chân thực, xem ra chuyện này cũng khá đáng tin.

Gia thế của Vương Kỳ không hiển hách như Lý Tỳ Bà nhưng lại có phần chân thực hơn, nghề mà tổ tiên người này làm gọi là “triều phụng”.

“Triều phụng” là gì? Triều phụng chính là người làm thuê trong các hiệu cầm đồ, ngồi trên quầy cao, công việc của họ là xác định thật giả rồi định giá đồ vật thật nhanh chóng.

Trong đó, người phụ trách thẩm định các vật phẩm cao cấp và quản lý công việc hằng ngày được gọi là đại triều phụng. Đại triều phụng trong những hiệu cầm đồ lớn có thể nói là những người có nhiều hiểu biết về bảo vật nhất trên đời, những chuyện kì lạ cổ quái đều đã gặp qua. Tổ tiên của Vương Kỳ tên Vương Hiến Sơ, chính là một đại triều phụng nổi tiếng như thế. Những năm cuối đời, ông viết một cuốn bút ký lấy tên là “Cổ dục trai kỳ kiếp dư lục”, đáng được xếp vào hàng kì thư, bên trong liệt kê tất cả những vật có thể coi là kỳ trân dị bảo mà ông đã từng thấy, mỗi vật đều có ghi chú rõ ràng kèm theo đánh giá của ông. Quyển sách này trong giới khảo cổ có giá trị tham khảo rất lớn.

Trình độ văn hóa của Vương Kỳ không cao, nhưng trí nhớ của ông ta lại thuộc hạng siêu phàm, cuốn “cổ dục trai kỳ kiếp dư lục” ông ta đọc đi đọc lại, bất giác thuộc lòng không sót một chữ. Có lần nọ tại một hội chợ trên phố, ông ta thấy một con sư tử bằng bạch ngọc rất giống với những ghi chép về một loại hộp đựng đồ trong “cổ dục trai kỳ kiếp dư lục”. Vương Kỳ liền thể hiện trước mặt mọi người, làm theo ghi chép trong sách, mang con sư tử bỏ vào nước trà, không lâu sau miệng sư tử mở ra, để lộ một miếng vàng lá. Từ đó danh tiếng của Vương Kỳ lên nhanh như diều gặp gió, không gì cản nổi.

Về phần hai người kia bắt tay với nhau từ khi nào thì trợ lý Lương không nói rõ, cũng đúng thôi, ông ta chỉ là trợ lý nên những việc này cũng không tiện hỏi.

Nghe đến đó tôi hỏi trợ lý Lương, tại sao lần này hai người đó lại muốn đích thân tới đây? Họ sống an nhàn sung sướng đã quen, cớ sao lại khăng khăng đòi đi chịu khổ?

Lão Dương nói: “Có gì lạ đâu, cái này gọi là “rảnh rỗi sinh nông nổi”, là vung tiền qua cửa sổ chứ gì nữa. Với kẻ có tiền thì tiền dẫu nhiều cũng không khẳng định được bản than là ai giữa đời, cái họ muốn là đi tìm giá trị cuộc sống của mình. Có người sở hữu gia tài bạc triệu mà vẫn ra ngoài xin ăn đó thôi, chẳng có gì đáng ngạc nhiên.”

Trợ lý Lương cười ha hả: “Ban đầu tôi cũng cho là thế, nhưng sau lại thấy không phải. Lần này cả hai rất kiên quyết, tôi đoán đằng sau chuyện này có ẩn tình chi đó, mà chìa khóa nằm ngay trong cổ mộ.”

Tôi hỏi hắn: “Đúng rồi trợ lý Lương, anh đã từng xem qua “hà mộc tập” đúng không, vậy vào trong thác nước rồi thì tiếp theo chúng ta phải đi như thế nào?”

Anh ta liếc mắt nhìn tôi: “Này, “hà mộc tập” đó là bảo bối của Lý Tỳ Bà đấy, chúng tôi chỉ được nhìn qua ghi chép của lão vài lần sau khi xong việc. Nội dung trong sách tôi cũng xem được khá nhiều, nhưng riêng phần ghi chép về cổ mộ này thì lại chưa hề rờ vào. Quyển sách kia về sau lại nằm trong tay lão Vương, chúng tôi không được tiếp cận. Có điều xét tình hình hôm qua, xem ra lối vào cổ mộ nằm ngay bên dưới đống thi thể kia.”

Trợ lý Lương đã nói không biết, chúng tôi cũng chỉ còn cách tin tưởng anh ta. Ăn xong điểm tâm, chúng tôi đeo ba lô lên, tôi cởi trói cho trợ lý Lương, buộc áo bên hông, thắt chặt dây giày. Ba người chuẩn bị xong xuôi rồi bước lên cầu đá, việc đầu tiên là thử đi xuống bên dưới xem sao.

Buồn cười nhất ở chỗ, trong ba người tôi lại là kẻ có thể lực tốt nhất, thành ra tôi phải cầm đuốc. Nhớ lần trước vào Lỗ Vương Cung, tôi hoàn toàn chỉ là gánh nặng cho cả đoàn, bây giờ đã đảm đương trách nhiệm quan trọng như thế này rồi, nghĩ lại chính mình cũng thấy bất ngờ.

Nói vậy chứ ở vào tình cảnh này tôi cũng biết không nên mở lời, chúng tôi bước từng bước thật chậm xuống vách núi, hướng về đáy động đen thăm thẳm bên dưới.

Đường đi vô cùng hiểm trở, mấy lần tôi suýt nữa đã trượt chân lăn xuống vách núi. Tuy nhiên nơi này nhìn thì cao chót vót nhưng cũng không khó leo là mấy, chỉ cần can đảm và cẩn trọng, con gái cũng xuống được đó thôi, có điều hơi mất thời gian một chút.

Xuống được một nửa thì chân trợ lý Lương đã mỏi rã rời, xem ra anh ta không quen đi đường núi. Mất thêm nửa tiếng đồng hồ nữa, chân của tôi mới chạm được đến đáy động.

Những thi thể trên mặt đất ngùn ngụt toát ra một cảm giác đáng sợ khó nói nên lời. Đây hẳn là những nô lệ hay tù binh bị mang đi tuẫn táng, thi thể quanh năm suốt tháng nằm trong hang động âm u ẩm thấp không thấy ánh mặt trời, xương cốt đều phủ một lớp nấm đen xì, không khí ngập tràn mùi ẩm mốc. Nhiều thi thể đã không còn nguyên vẹn, nét mặt dữ tợn, thậm chí tôi còn phát hiện một số thi thể hình như răng nanh dài hơn bình thường.

Tôi đỡ trợ lý Trương từ trên vách núi xuống, anh ta tập tễnh giẫm ngay phải một cái đầu lâu, làm thủng một lỗ trên khung sọ vốn đã mục nát, may mà tôi kịp níu lại mới không ngã xuống. Vất vả lắm anh ta mới đứng vững được, lau mồ hôi trên trán: “Thật xin lỗi, hai người thấy rồi đó, tôi từ nhỏ đã lắm bệnh, ra gió là ốm ngay. Với tình hình gân cốt tôi thế này, lần đổ đấu này chỉ sợ là lần cuối cùng rồi.”

Tôi an ủi anh ta vài câu rồi giương cao đuốc soi bốn phía, tính toán đường đi.

Thi thể chất chồng như núi, giữa những đống xác người có một lối đi nhỏ thẳng tắp dẫn về phía trước. Ánh lửa không thể chiếu xa, chúng tôi chỉ có thể quan sát trong vòng mười thước, xa hơn nữa thì không thấy gì cả. Có điều khi còn ở trên vách núi chúng tôi đã quan sát kĩ càng, con đường này nối liền với bãi đất trống kia, xem ra cứ đi thẳng là sẽ đến đích.

Trợ lý Lương quả thực là mệt gần chết rồi, có lết cũng không lết nổi. Tôi để anh ta ngồi nghỉ lấy sức, tranh thủ xem xét một vòng đám thi thể này.

Chúng tôi đi loanh quanh vài vòng, lát sau thấy trợ lý Lương biến sắc, bèn hỏi: “Sao, anh phát hiện ra chuyện gì à?”

Anh ta nói: “Nơi này hình như có môt số thi thể không phải là người, kết cấu xương sọ rất lạ.”

Tôi nổi cả da gà da vịt, không lẽ đó là xương cốt của cương thi sau khi xảy ra thi biến? Tôi vội hỏi anh ta, đây không phải người thì là gì?

Trợ lý Lương trả lời: “Bây giờ tôi vẫn chưa rõ, muốn biết phải nghiên cứu kĩ hơn, tốt nhất là tìm được thi thể nào chưa thối rữa hết ấy, không biết giữa đám xác người chồng chất này có không nữa. Hai người muốn xem qua không?”

Lão Dương hít một ngụm khí lạnh: “Anh nói nghe thì dễ lắm, thi thể ở đây âm khí nặng nề, chắc chắn có dấu hiệu của thi biến. Lỡ đen đủi moi ra một cái bánh tông, chúng ta không mang móng lừa đen, anh thì chẳng đánh đấm được gì, không chừng cả ba đều nằm lại dưới này luôn đấy.”

Tôi cũng nghĩ như lão Dương, gật đầu đồng tình: “Ừm, chúng tôi không cần nghiên cứu gì hết.”

Trợ lý Lương xem ra cũng có nghe qua mấy chuyện bánh tông này nọ, gật đầu: “Tôi nói vậy thôi, chứ bảo tôi làm tôi cũng không dám đâu.”

Tôi thấy cây đuốc cháy đã lâu, lửa không duy trì được bao nhiêu thời gian nữa, đuốc mà tắt lúc này thì toi mạng như chơi. Ở đây muốn tìm ra nguồn sáng là gần như vô vọng, trường hợp xấu nhất là chúng tôi phải lần mò theo đám thi thể này mà tìm đường ra. Thế nên cả bọn không nấn ná lâu, nghỉ một lát là giục nhau lên đường ngay.

Chúng tôi đi dọc theo con đường phía trước, hai bên thi thể chất chồng, tôi thấy giữa đám thi thể còn có rất nhiều tượng đá thì tạm thời yên tâm. Đáy huyệt động là đất đen, chuyện này thật khiến người ta kinh ngạc, đi lại trên đó cũng không được vững lắm. Cứ nghĩ tới chuyện những thứ đen đen này đều do xác chết thối rữa mà thành, tôi chợt cảm thấy một cơn ớn lạnh truyền lên từ lòng bàn chân.

Đi được một lát, ngọn lửa cứ lụi dần, phạm vi chiếu sáng thu hẹp lại, chúng tôi guồng chân đi nhanh hơn, bắt đầu chạy chầm chậm về phía trước. Đi được một lát tôi cảm thấy quái lạ, từ vách núi nhìn xuống, khoảng cách từ nơi này đến miệng hố chỉ khoảng hai trăm thước, với tốc độ thế này thì lâu nhất cũng chỉ mất năm phút là tới, sao chúng tôi đi gần một khắc (*) rồi vẫn chưa thấy bóng dáng cái miệng hố kia? Không lẽ do xung quanh tối quá, cả ba đã rẽ nhầm sang lối nào rồi?

(*) Đơn vị đo thời gian cổ, một khắc bằng 15 phút.

Chúng tôi cứ miệt mài chạy về phía trước, mọi thứ vẫn như cũ, trước sau đều chỉ thấy xương cốt chất thành gò, phía xa là một mảng đen ngòm. Tôi chửi thầm, xem ra lần này tính sai rồi, thật không ngờ xuống dưới này tầm nhìn hạn chế, trước sau đều đen ngòm như nhau, không biết đã chạy đến xó nào rồi.

Lúc này trợ lý Lương chịu không nổi nữa, vừa thở hổn hển vừa níu tôi lại, nói: “Tiểu Ngô ca,… đừng … chạy nữa…vô ích thôi… Không chừng…. chúng ta trúng kế rồi.”

Chương 17: Thi trận

Editor: Dứa


Beta: Tiểu Điệp

 ¤¤¤

Chúng tôi chạy cả nửa ngày, đầu váng mắt hoa mà vẫn chưa thấy đích, trong lòng sớm đã nảy sinh nghi ngờ, nay nghe trợ lý Lương nói thế, lão Dương liền dừng lại hỏi: “Anh Lương, anh nói trúng kế là sao?”

Trợ lý Lương vừa xoa ngực vừa chỉ xuống đất: “Hai người xem, cái đầu lâu  này nhìn có quen không?”

Tôi nghe vậy bèn nâng cây đuốc, quả nhiên trên mặt đất có một cái đầu lâu thủng mất một lỗ, hệt như cái đầu lâu trợ lý Lương đã giẫm lên lúc mới nhảy từ vách núi xuống. Tôi cảm thấy không ổn, quay lại xem thử, quả nhiên phía bên kia chính là vách núi.

Lão Dương nhìn bốn phía, bực tức nói: “Lão Ngô, cậu dẫn đường kiểu gì vậy, đây chẳng phải nơi xuất phát lúc đầu sao?”

Tôi cũng tức giận trả lời: “Làm sao tôi biết được, nơi này chỗ nào trông cũng như nhau, con mẹ nó, chúng ta đi không chú ý, không biết có phải là rẽ nhầm chỗ nào mà quay lại đây rồi không.”

Trợ lý Lương điều chỉnh lại hô hấp, khoát tay nói với chúng tôi: “Không phải, hai người không để ý rồi, tôi nhớ rõ mồn một là con đường mòn này thẳng tắp, không cõ chỗ rẽ nào cả. Chuyện này thực sự không đơn giản, nếu tôi không nhầm, chúng ta có lẽ đã bị thứ gì đó đánh lừa.”

Lão Dương biết manh mối có vấn đề, mặt trắng bệch ra: “Hỏng rồi, có khi nào oan hồn của những thi thể này vì bảo vệ thánh địa của họ mà không cho chúng ta đến chỗ bãi đất trống kia không?”

Tôi thầm cười khổ, nơi này toàn là thi thể, âm khí tích tụ cả ngàn năm, nói là không có ma quỷ thì chắc chẳng ai tin. Trợ lý Lương suy nghĩ một chút rồi lại lắc lắc đầu: “Tôi nghĩ cũng không phải đâu. Trên người tôi có đeo linh vật, nếu mơ hồ thì cũng chỉ có các cậu, tôi tuyệt đối không vấn đề gì.”

Tôi biết người này thực sự có hiểu biết, liền hỏi: “Trợ lý Lương, về mặt này anh hẳn phải hiểu rõ hơn chúng tôi, anh nghĩ đây là tình huống gì? Cây đuốc này không duy trì được bao lâu nữa, đợi khi đuốc tắt thì thực sự là kêu trời không thấu kêu đất không hay đấy, mau mau nghĩ biện pháp gì đi.”

Trợ lý Lương nói: “Theo tôi thấy,  chúng ta đi một vòng luẩn quẩn là vì cách sắp xếp thi thể ở nơi này có vấn đề. Mấy ngàn bộ xương cốt đặt khắp nơi, ở giữa rất có thể bày bố kỳ môn dịch thuật, biến cả động này thành một mê cung. Cậu cũng biết ngày xưa Gia Cát Lượng lập trận đồ, chỉ cần chục phiến đá mà vây hãm được hơn mười vạn đại quân, huống chi nơi này là cả ngàn bộ xương vây lấy ba chúng ta, chẳng phải dễ như ăn sáng hay sao?”

Chuyện xưa Gia Cát Lượng bày trận tại bến Ngư Phúc bên bờ Trường Giang để chặn quân truy đuổi của Lục Tốn

(1)

 thì tôi và lão Dương đều biết, có điều miêu tả trong tiểu thuyết làm sao không khoa trương khuếch đại thêm chứ, tôi không tin lắm là mấy tảng đá lại có uy lực lớn như thế, nếu vậy thì còn cần xe tăng đại pháo làm gì?

Lão Dương cũng không tin, nói: “Trợ lý Lương à, anh đừng mang mấy chuyện lấy ra lừa gạt đám ông chủ ở Quảng Đông để lừa chúng tôi đi, chuyện Bát trận đồ tôi đọc trong Binh thư không giống với những gì anh vừa nói. Hơn nữa lúc nãy chúng ta đã quan sát từ trên vách đá, xương cốt chỗ này loạn xì ngầu cả lên, không hề giống như có sắp xếp sẵn, thế thì làm sao lại có thể vây được chúng ta dưới này? Lẽ nào đám thi thể này biết đi?”

Nói vừa dứt câu, lão Dương như sực nhớ ra chuyện gì, vội vã che miệng nhìn bốn phía: “Đại cát đại lợi, trẻ con chưa hiểu chuyện, các vị không nên chấp nhặt.”

Trợ lý Lương nói: “Không phải vậy, lúc ở trên quan sát xuống chỉ là nhìn sơ qua, trong quãng thời gian ngắn như thế, cậu có thể nhớ kỹ hết đường đi lối lại trong đám thi thể này không? Xuống dưới này tối mờ tối mịt, chỉ cần một bộ xương hơi chệch đi một chút là có thể thay đổi đường đi của chúng ta, khiến cả bọn chệch qua một lối rẽ đã được thiết kế sẵn, rồi không biết lúc nào đã quay lại chỗ cũ rồi. Hai vị đều là những người từng trải, tôi cũng không muốn nói nhiều, tài trí của người xưa không thể xem thường được.”

Tôi thấy trợ lý Lương nói có lý nhưng cũng không tin hẳn, nói sao thì nói, nơi này chắc chắn phải có điều gì bí ẩn, muốn đến bãi đất kia chỉ sợ không phải chuyện đơn giản, liền hỏi anh ta có ý kiến gì không.

Trợ lý Lương thở dài: “Không phải tôi khoe khoang, đây thực sự là một trận pháp, nếu không có gì bất ngờ thì vẫn có thể phá giải được dễ như trở bàn tay. Có điều việc này rất tốn thời gian, chỉ sợ cây đuốc không duy trì nổi đến lúc đó. Hơn nữa tôi cho rằng chúng ta còn có chuyện quan trọng hơn phải quyết định trước.”

Tôi hiểu ý của anh ta, vấn đề của chúng tôi không phải là phá trận pháp này thế nào, mà là phải đối phó với hoàn cảnh trước mắt ra sao. Tiến không được, lùi cũng không xong, lần này may mắn về lại được chỗ cũ, lần tiếp theo đi chẳng biết sẽ dẫn đến đâu, đến khi ngọn đuốc tắt rồi, trước không chỗ trú sau không chỗ ngủ, không mệt mỏi đến chết mới là lạ.

Kỳ thực phương pháp phá trận tốt nhất chính là đạp lên đám thi thể mà đi, có điều không ai đề ra cả.

Giằng co một lúc, ngọn lửa trên cây đuốc kêu vài tiếng, lụi dần đi. Lão Dương nhìn cây đuốc, đột ngột kêu lên: “Con mẹ nó, ta nghĩ ra rồi, cứ cho một mồi lửa, đốt sạch hết đám thi thể này là xong!”

Tôi nghe tên lúc thông minh lúc lại ngốc không chịu được này nói chuyện, cái chủ kiến dở hơi như thế mà cũng nói ra được, liền mắng: “Xương cốt nơi này đều gần hóa thạch cả rồi, cậu đốt có cháy nổi không? Hơn nữa thiêu hết chỗ này cũng là tự tử luôn đấy, không chết cháy cũng chết ngạt, quên ngay cho tôi! Tôi nghĩ thế này, tôi cầm đuốc đi trước, hai người ở sau quan sát, nếu thấy ánh lửa đi chệch hướng thì báo cho tôi dừng lại, chúng ta sẽ biết được vấn đề nằm ở chỗ nào.”

Lão Dương nói: “Không được, lỡ nửa đường đuốc tắt, một mình cậu sao giải quyết được, mà cũng không ai tới đó cứu cậu được. Lúc này chúng ta tuyệt đối không thể tách ra.”

(1)     Theo “Tam Quốc diễn nghĩa” hồi thứ 84, do sai lầm của Chúa Thục Lưu Bị nóng lòng trả thù cho Quan Công, đại tướng Đông Ngô là Lục Tốn đã phá tan quân Thục, đốt cháy doanh trại liên tiếp 700 dặm và dẫn quân truy kích về hướng Tây. Khi gần đến bến Ngư Phúc, Lục Tốn thấy phía trước có một luồng sát khí xông thẳng lên trời, bèn dừng ngựa bảo bộ tướng “Phía trước chắc có mai phục, không được khinh địch”, rồi cho lui quân, bày thành trận thế, cho thám mã đi thám sát. Quân về báo không có gì cả, Tốn không tin, xuống ngựa lên núi nhìn xuống, sát khí lại xông lên, cho quân đi do thám lần nữa vẫn là phía trước không người. Lục Tốn do dự, sai người thân tín đi xem xét kỹ, kết quả là bên bờ sông có xếp 8, 9 đống đá lớn mà thôi, không một bóng người.

Lục Tốn cưỡi ngựa lên sườn núi xem thạch trận, thấy đá xếp bốn phương tám hướng, đều có cổng, có cửa, bèn cười nói: “Đây là tà thuật làm mê hoặc người, có ích gì đâu”, rồi xuống núi dẫn quân xông thẳng vào trong trận xem xét. Bộ tướng thưa “Trời đã tối, xin đô đốc trở về”, “Tốn vừa muốn lui, hốt nhiên cuồng phong nổi dậy, trong chớp mắt cát chạy đá bay, mịt mù trời đất. Chỉ thấy quái thạch sừng sững, đan chéo như gươm, đất dựng dọc ngang, trùng trùng như núi, sóng dâng gào thét như tiếng trống dậy gươm khua. Lục Tốn kinh hoàng nói: “Ta trúng kế Gia Cát Lượng rồi!”, muốn quay trở về, đã bít lối ra. Nếu lúc ấy không có nhạc phụ của Gia Cát Lượng là Hoàng Thừa Ngạn chỉ đường dẫn lối ra khỏi trận thì chắc Lục Tốn cùng quân lính đã bị bị vây khốn trong trận đồ đó.

(Theo wikipedia.)

Chương 18: Ma thổi đèn

Editor: Biển

Beta: Thanh Du

*****

Ngọn đuốc tắt ngóm, không gian vốn tranh tối tranh sáng bỗng dưng tối đen như mực. Tôi sợ đến nỗi toàn thân toát mồ hôi lạnh, cây đuốc suýt nữa tuột tay rơi luôn xuống đất.

Trợ lý  Lương còn nhát hơn tôi, lập tức hét lên, nhanh chân bỏ chạy. Chạy được vài bước bỗng nghe “bịch” một tiếng, chắc là đụng phải vật gì, đau quá mà khóc ầm lên.

Tôi lấy bật lửa châm lại ngọn đuốc soi soi cây đuốc, thấy phần trên ngọn đuốc vẫn chưa cháy hết, không hiểu sao lửa lại tự dưng vụt tắt. Có khi nào là do gió thổi? Nhưng trong cái hang này thì lấy đâu ra gió?

Lão Dương hả hê nói: “Lão Ngô, tay nghề của cậu chẳng ra sao cả. Ngọn đuốc này cũng quá tệ, nói tắt là tắt

,

hại tôi nhảy dựng lên”

Tôi mắng: “Mẹ nó cậu lắm mồm vừa thôi, rảnh rỗi cười nhạo tôi sao không đi xem trợ lý Lương thế nào, đừng để hắn ngã vào đống xác chết.” Nói rồi tôi châm lại cây đuốc, vừa giương cao đã thấy trợ lý Lương đang ngã lên một bộ hài cốt, xương cốt tức khắc vỡ vụn ra.

Tôi vội tới gần đỡ gã dậy, chỉ thấy mặt gã tái nhợt, xem ra đã sợ hãi đến cực độ rồi. Lão Dương vỗ vai gã: “Sư gia, anh đùa chúng tôi à? Lá gan bé như thế này mà còn muốn vào đấu.”

Trợ lý Lương thấy ngọn đuốc đã được châm lại mới thở phào: “Hai…..hai người đừng hiểu nhầm, không phải tôi sợ bóng tối mà do ban nãy, con mẹ nó, cứ như có thứ gì đó thổi một hơi lạnh ngắt sau gáy tôi. Tôi cứ nghĩ là có bánh tông nhào ra, sợ đến hết hồn.”

Lão Dương cười to: “Khí lạnh gì cơ? Tôi thấy có mà mồ hôi lạnh từ cổ anh toát ra thì có, bánh tông ở sau lưng người không cắn cho một phát mà còn thổi khí, mẹ nó chứ, ông nghĩ bánh tông đều là tiểu thư khuê các hay  sao?”

Tôi cũng nói: “Đúng đó trợ lý Lương, anh nên bình tĩnh một chút đi, đừng thần hồn nát thần tính.”

Trợ lý Lương thấy chúng tôi không tin liền nổi nóng, ho khan một tiếng: “Hai…..hai anh nhất định phải tin tôi. Vừa rồi chắc chắn có người đứng sau gáy tôi thổi khí, mẹ nó chứ cảm giác thật rợn gai ốc. Tôi thấy nơi này không chỉ có ba chúng ta, nhất định còn có thứ khác nữa.”

Tôi nhìn vẻ mặt của gã, lại nhớ tới ngọn đuốc ban nãy tự nhiên tắt ngúm, bỗng cảm thấy lời của trợ lý Lương cũng không phải bịa đặt hoàn toàn. Cây đuốc không thể mang so với ngọn nến, phần đầu nếu chưa bị đốt rụi thì rất khó tắt, chuyện xảy ra vừa rồi nhất định là có vấn đề. Hơn nữa ở một nơi thế này, người ta cũng nên cẩn thận một chút.

Nghĩ vậy, tôi liền liếc mắt ra hiệu với lão Dương, ý bảo mình cứ đi xem cho chắc ăn. Hắn gật đầu, chúng tôi liền rút súng ra, một trước một sau tiến về chỗ trợ lý Lương đứng lúc nãy.

Chỗ trợ lý Lương đứng ban nãy, cách chưa đến một mét về phía sau là một khối tượng đá, phần đầu đã khô quắt, tuyệt đối không thể thổi khí được. Nơi duy nhất có thể ẩn nấp chính là ngay sau lưng người đá.

Tôi và lão Dương cẩn thận bước qua, trước hết dùng ngọn đuốc thăm dò một chút sau đó nghiêng đầu liếc qua, chỉ sợ có thứ gì đó lao đến, sau đó lão Dương nhảy bổ ra, kêu to: “Giơ tay lên.”

Rốt cuộc không có chuyện gì xảy ra, mặt sau người đá cũng trống không.

Tôi thở phào, tự nhủ trợ lý Lương quả đúng là thần hồn nát thần tính. Nhưng cũng không thể trách gã được, trong tình huống như vừa rồi, lại ở một nơi chưa từng biết đến, sợ hãi là điều khó tránh khỏi. Nghĩ lại cái hồi còn ở trong Lỗ Vương Cung, chẳng phải tôi cũng giống hệt gã hay sao, lá gan quả thật là thứ cần phải qua rèn luyện mới có được.

Lão Dương chán ngán liếc tôi một cái, lắc lắc đầu. Chúng tôi xoay người, vừa định cất súng thì đột nhiên nghe một tiếng “xì”, ngọn đuốc trên tay tôi lại tắt.

Tôi ngớ người ra, sao lại thế này? Lửa tắt quá bất ngờ. Ngay lúc ấy trong bóng tối mịt mùng phía sau, lão Dương bỗng kêu to: “Chết tiệt! Lão Ngô cẩn thận! Nơi này thực sự có thứ khác! Mau đốt đuốc lên!”

Tôi lập tức tỉnh táo trở lại, vội mò tìm bật lửa, nhưng chưa kịp chạm vào thì sau lưng đã cảm thấy lạnh ngắt, một luồng kình phong ập đến nhanh như chớp. Trong lòng thầm nhủ không xong rồi, trong cảnh tối lửa tắt đèn tôi không thể nhìn ra đó là cái gì, vội cúi thấp người xuống. Luồng gió vụt qua sát rạt trên đầu, dưới chân cũng lảo đảo, tôi ngã nhào xuống đất.

Cú ngã không quá đau, có điều tôi lại đụng vào làm mấy người đá bên cạnh nghiêng ngả rầm rầm, không biết có thứ gì rơi trúng mặt tôi. Bất chấp cảm giác buồn nôn, tôi vội vàng đánh bật lửa, mau chóng châm lại ngọn đuốc.

Đuốc vừa sáng lên, chỉ thấy lão Dương và trợ lý Lương nằm úp sấp trên mặt đất, mặt mũi vàng chạch. Trợ lý Lương đã sợ tới mức hồ đồ, luôn mồm niệm “A di đà phật”.

Lão Dương vẫn chưa hết sợ, nói với tôi: “Mau soi qua đây, con mẹ nó, ban nãy rốt cuộc là cái gì? Sao lại nhanh như như chớp thế?”

Tôi cắn chặt răng đứng dậy, huơ ngọn đuốc một vòng, phát hiện xung quanh ngoài mấy người đá bị chúng tôi đụng ngã ra thì chẳng có gì khác lạ, ngay cả dấu chân cũng không hề in lại. Nỗi sợ hãi trong lòng tôi bắt đầu bùng lên, luồng gió vừa rồi lướt qua nhanh như chớp, có thể cảm thấy đối phương đã đến rất gần, nhưng nơi này đá tảng lăn lóc, thi thể ngổn ngang, trong lúc chờ lửa sang lên, không gian xung quanh là một khoảng tối đen, cho dù có chạy trốn nhanh đến mấy cũng không thể không lưu lại chút dấu vết nào. Tôi nghĩ đi nghĩ lại, móa, không lẽ chúng tôi vừa gặp quỷ?

Ngọn đuốc tắt hai lần, chẳng lẽ con quỷ này muốn học theo ma thổi đèn, xem cây đuốc của tôi như ngọn nến? Mẹ nó chứ ma mãnh gì mà chẳng có đạo đức nghề nghiệp, có muốn thổi cũng đừng đi thổi đuốc chứ.

Tôi hạ ngọn đuốc hạ xuống ngang vai để khỏi bị thổi tắt bất ngờ nữa, sau đó đỡ trợ lý Lương đứng lên. Gã này đã sợ nhũn cả người, có kéo thế nào cũng không đứng dậy nổi, cứ như bùn nhão vậy. Tôi kéo hai lần, thực sự là không đứng nổi, lão Dương cũng hết cách đành bước tới giáng liền hai tát.

Tôi sợ hắn mạnh tay, vội vàng ngăn hắn lại, lúc này trợ lý Lương đã có phản ứng, nhìn quanh bốn phía rồi gào khóc: “Ối mẹ ơi là mẹ ơi! Mẹ bảo con lắm chuyện, cứ ngoan ngoãn ở nhà là được rồi, học theo người ta đi đổ đấu làm gì; bây giờ thì xong đời rồi, con chết nơi đất khách quê người…”

Lão Dương thấy gã còn chưa chịu ngừng lại, vội bịt miệng gã lại, mắng: “Đã chịu thôi chưa, bằng này tuổi đầu rồi còn không biết xấu hổ, còn làm ồn nữa thì bọn tôi bỏ anh lại đây cho tự trèo lên nhá.”

Trợ lý Lương không kiềm chế được cảm xúc, bị chúng tôi hù một trận, lập tức lau mặt, không dám gào khóc nữa. Lão Dương quay đầu hỏi ta: “Lão Ngô, vừa rồi là cái gì cậu có thấy rõ không? Có phải bánh tông không?”

Tôi lắc lắc tay với hắn, nói: “Không phải, cậu xem chúng ta đánh trực diện mà ngay cả một cọng lông của đối phương cũng không nhìn thấy, bánh tông không thể nhanh đến thế được.”

Lão Dương nói với tôi: “Cậu xem nơi này bao nhiêu xác chết, dù nói không có bánh tông cũng chẳng ai tin. Tôi nghe nói bánh tông cũng phân cấp bậc, không khéo lần này chúng ta đụng phải bánh tông cao thủ khinh công.”

Tôi không muốn tranh cãi với hắn, bèn đi đến chỗ trợ lý Lương, gạt gạt mấy khối thi thể bên cạnh, dùng súng hất những thứ bên trong ra, nhìn hắn nói: “Nơi này ẩm ướt, đa số các thi thể chỉ còn lại xương cốt, bên trên còn phủ nấm mốc, thứ này tuyệt đối không thể là cương thi được. Tôi dám lấy đầu mình ra đảm bảo.”

Trợ lý Lương cuối cùng cũng trấn tĩnh lại, bước xuống, nhăn mũi nói: “Hai vị tiểu ca, đó có phải là bánh tông hay không chẳng liên quan gì tới chúng ta, tôi thấy bây giờ tranh thủ còn có cây đuốc, chúng ta nhanh chóng leo lên trên vách núi đi, chuyện này để sau hẵng tính.”

Tôi biết hắn không chịu đựng nổi nữa, bắt đầu muốn rút lui, liền vỗ vỗ vai hắn, giải thích rằng hiện tại địch ở trong tối ta ở ngoài sáng. Nếu bây giờ đi lên vách núi, không chừng thứ đó lại xông đến, lúc đó chúng ta có muốn tránh cũng không được, chỉ có thể xuống âm tào địa phủ khóc cho Diêm Vương nghe. Cho nên trước khi mọi chuyện rõ ràng, không nên hành động thiếu suy nghĩ.

Lão Dương nói: “Lão Ngô nói đúng. Bây giờ chúng ta còn có súng, cho dù có bánh tông thật, hai ta cũng không sợ.”

Trợ lý Lương nước mũi ròng ròng, thẳng thừng lắc đầu: “Tiểu ca, cậu đừng an ủi tôi. Chúng ta chỉ có hai khẩu súng, đụng tới bánh tông là chết chắc rồi. Chỉ sợ muốn giữ toàn thây cũng khó.”

Tôi chưa từng thực sự đụng độ với bánh tông, không biết súng có bắn xuyên qua được không, nhưng nếu là cơ thể bằng xương bằng thịt, tôi không tin nó lại cứng hơn đạn được.

Nghĩ đến đây, sắc mặt của tôi dịu xuống, không còn căng thẳng như trước nữa. Nghĩ lại, tôi cảm thấy có chờ ở đây cũng không phải cách hay, tốt hơn hết là đi về phía trước, nếu không còn đường thì giẫm lên thi thể mà đi, dù sao tình hình bây giờ cũng khiến chúng tôi va phải không ít thi thể, chẳng có gì phải sợ. Còn về đạo đức thì ngay cái mạng nhỏ của mình còn khó giữ nên tôi cũng không ngần ngại quẳng nó ra khỏi đầu.

Lão Dương nghe thế cũng hiểu được bây giờ không còn cách nào khác, lập tức đỡ trợ lý Lương dậy, lên đạn cho súng. Vẫn là lão Dương đi đầu, tôi đoạn hậu, ba người cắn chặt răng, theo con đường nhỏ tiếp tục tiến vào sâu trong thi trận.

Dấu vết chúng tôi đi qua lúc nãy vẫn còn lưu lại, tôi nhớ có mấy chỗ lão Dương cố tình tạo ra mấy dấu chân trên mặt đất, liền theo những dấu vết đó mà đi, quả nhiên không thấy có bất cứ lối rẽ nào. Càng đi tôi càng thấy có gì đó bất thường, tại sao các thi thể ở đây mục rữa không đều? Có thi thể đã thối rữa đến mức xương cốt nát vụn, nhưng một số vẫn còn nguyên da thịt, vừa định bảo bọn họ dừng lại nhìn kĩ xem, bỗng ‘rắc’ một tiếng, một bộ xương trên mặt đất đột nhiên tản rời ra, đầu lâu lăn sang một bên. Tôi hoảng hồn, vừa mới quay đầu lại chợt nghe ‘xì’ một tiếng, cây đuốc trên tay lần thứ ba vụt tắt.

Rút kinh nghiệm từ lần trước, tôi lập tức ngồi thụp xuống. Lúc này chợt nghe bên cạnh có tiếng ồn ào, lão Dương kêu to: “Tiên sư nó! Tôi bắt được nó rồi!”

Chương 19: Câu chuyện của những bộ xương.

Editor: Biển


Beta: Tiểu Điệp

*****

Hắn còn chưa dứt lời, tôi không biết bị ai đá vào ngay giữa mặt, suýt nữa thì ngất đi. Ngay sau đó tôi liền nghe thấy một chuỗi tiếng xương cốt bị nghiền nát vang lên liên tiếp, không hiểu đã xảy ra chuyện gì. Trong lúc hoảng loạn, tôi vội vã châm đuốc định thần nhìn lại, chỉ thấy lão Dương đang vật lộn với thứ gì đó, cả hai hầu như đã lăn vào trong đống xác chết, cả một dãy xương cốt bị đè cho gãy vụn, sọ người lăn lóc trên mặt đất.

Tôi vội vàng chạy đến hỗ trợ, nhưng căn bản là chẳng giúp được gì, thứ kia tuy không lớn lắm nhưng lại khỏe khủng khiếp, thể trọng hơn nửa tạ của lão Dương đè lên cũng không khống chế nổi nó, hai cơ thể cuộn vào một chỗ đánh đấm loạn xị, tôi hoàn toàn không tiếp cận được. Hơn nữa chỉ cần đến gần một chút liền họa vô đơn chí bị đá cho một phát, tôi thử vài lần đều không thể xen vào giữa cuộc vật lộn, chỉ có thể bất lực đứng ngoài làm khán giả.

Không lâu sau, lão Dương hầu như không còn cầm cự nổi, mấy lần thứ kia suýt vùng thoát ra được, tôi thấy cứ tiếp tục thế này thì không ổn, bèn kéo theo trợ lý Lương, hai người một trên một dưới nhào lên trên người lão Dương, đè ép cả hắn lẫn thứ kia. Lão Dương không ngờ được tôi sẽ dùng đến chiêu này, hắn bị đè đến mức không thở nổi, vội vàng gào lên: “Mẹ nó mấy người vừa phải thôi chứ! Cột sống ông đây sắp gãy rồi!”

Tôi giữ chặt lão Dương, dùng hết sức nặng của cả ba người đè lên thứ kia, đến khi thấy không còn động tĩnh gì mới hỏi hắn: “Thế nào? Nó chết chưa?”

Lão Dương nghiến răng gằn từng tiếng một: “Ai biết! Có điều nếu cậu mà còn không mau xuống thì người chết sẽ là tớ!”

Tôi thấy mặt hắn đã đỏ bừng, vội vàng buông ra, lão Dương xoay người nhổm dậy, thở mạnh một hơi, nói với tôi: “Cậu… con mẹ nó cậu ra tay cũng dã man quá chừng, đừng tưởng vẫn còn phong độ như ngày xưa có bị bảy tám người nằm đè lên cũng không sao, may mà cột sống ông đây chắc chắn, không thì đã bán thân bất toại luôn rồi!”

Tôi nói cậu lắm mồm gì chứ, nếu không phải tại cậu không bắt được thứ kia, tớ việc gì phải lớn bằng này tuổi rồi còn chơi trò xếp chồng tháp người chứ? Thắt lưng cậu gãy, mẹ nó chứ tớ cũng chẳng thoải mái gì hơn đâu.

Lão Dương nghe vậy, vừa xoa thắt lưng vừa mắng tôi vô lương tâm, tôi không thèm để ý tới hắn mà quay sang nói với trợ lý Lương: “Nói cho cùng, thứ kia rốt cuộc là cái gì, tại sao nó nhỏ như vậy mà sức lực lại kinh người đến thế, phải kiểm tra cho thật kỹ.”

Nghe tôi nói vậy, cả bọn lấy lại tinh thần quay đầu sang nhìn, chỉ thấy trong đống xương có một mớ lông lá xồm xàm màu xám lớn gần bằng một con linh miêu, nó bị chúng tôi đè bẹp, vẫn còn đang nằm run rẩy.

Lão Dương lấy một khúc xương đùi lật thứ kia lên, chúng tôi vừa nhìn, khỉ chứ! Làm náo loạn một trận tưng bừng, hóa ra lại là một con chuột bự. Ba chúng tôi trố mắt nhìn nhau rồi bật cười, bảo sao lúc nãy không cách nào tìm được kẻ đánh lén, hóa ra là vì nguyên nhân này. Đám chuột tấn công chúng tôi xong hẳn là lủi trốn vào hốc mắt của mấy cái sọ người nên chẳng thấy tung tích đâu, đám ngớ ngẩn chúng tôi lại cứ tưởng rằng đã gặp phải quỷ, thật đúng là tự mình dọa mình.

Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, tôi vẫn cảm thấy không ổn, mẹ nó chứ, con chuột này cũng quá lớn, không biết là cái giống gì, biết đâu lại là loại ăn xác chết mà lớn lên, cũng chẳng rõ trong động này còn có bao nhiêu con như thế nữa, nếu lỡ gặp phải một bầy thì chắc chắn là chúng tôi lãnh đủ.

Lão Dương cùng chung suy nghĩ với tôi, nụ cười vừa tắt sắc mặt lập tức thay đổi, hắn nói: “Không ổn, con chuột đầu đàn này bị chúng ta đè chết, không biết con cháu nó có đi tìm chúng ta tính sổ không nữa. Tớ thấy tốt nhất là chúng ta rời khỏi đây ngay, không nên ở lại hiện trường.”

Tôi gật gật đầu tỏ vẻ đồng ý, lão Dương xoay người bước đi, chưa được mấy bước hắn đột nhiên hỏi: “Á, toi rồi… phải đi về bên nào đây?”

Tôi ngẩng nhìn lên, cả bọn vừa trải qua một trận hỗn chiến, lăn qua lăn lại, chỗ này thì sau trước như nhau, bây giờ đã không thể phân biệt được đâu là hướng chúng tôi đến và đâu là hướng chúng tôi muốn đi nữa rồi.

Tuy rằng trong lòng tôi có chút cảm giác có thể mang máng nhận ra phương hướng chính xác, nhưng cảm giác này rất nhạt, tôi hầu như không thể khẳng định cảm nhận của mình là đúng hay sai, chỉ hơi chần chừ do dự một chút, cảm giác ấy liền biến mất không dấu vết.

Lão Dương nhìn tới nhìn lui cả chục lần, thấy đúng là chẳng có cách nào bèn nói với tôi: “Thôi vậy, chúng ta dẹp đám tay chân này ra băng qua chỗ này đi.”

Tôi quan sát một hồi vẫn cảm thấy có gì đó không ổn, định hỏi ý kiến của trợ lý Lương, quay sang nhìn thì thấy gã hoàn toàn không hề nghe chúng tôi nói gì mà đang cẩn thận thu dọn lại những hài cốt vương vãi trên mặt đất

Tôi thầm thấy kỳ lạ, liền kéo lão Dương lại, cả hai đến xem thử gã đang làm cái gì.

Một phen người chuột đại chiến làm vạ lây đến hơn mười cỗ thi thể. Những thi thể này đã sớm mủn ra như đất rồi nên chỉ cần chạm vào thôi là đã nát vụn, hầu hết đều vỡ ra thành những mảnh nhỏ nằm lộn xộn trên mặt đất. Không hiểu vì sao trợ lý Lương lại nhặt từng khúc xương còn chưa vỡ vụn để sang một bên.

Hầu hết những bộ xương này đều không còn nguyên vẹn, đại khái là bị mấy con chuột bự kia đem ra làm dụng cụ mài răng, bề mặt gồ ghề, có mấy khối đã không thể phân biệt được đó là phần nào trên cơ thể.

Lão Dương thấy trợ lý Lương đang trầm tư suy nghĩ liền nổi lên tò mò, bèn hỏi gã: “Anh trợ lý, anh đang tính làm toán đó à?”

Trợ lý Lương ngẩn ra một chút, sau đó xoay đầu lại nói với tôi: “Thật không ngờ đàn chuột này kéo đến đây phá rối lại tình cờ giúp tôi phát hiện ra một bí mật rất lớn.”

Tôi thấy hai mắt gã sáng lên, phấn chấn lạ kỳ, trong lòng tôi càng thấy quái dị, đống xương cốt này thì có thể ẩn giấu bí mật gì?

Trợ lý Lương bảo chúng tôi ngồi xuống, đưa một khúc xương cho chúng tôi, hỏi: “Hai cậu nhìn đi, có phát hiện ra được điều gì không?”

Tôi cùng lão Dương nhìn nhau, không biết gã đang định giở trò gì, lão Dương nở một nụ cười quái đản nói với gã: “Đây không phải là anh đang chế nhạo chúng tôi sao, bọn tôi đi đổ đồ của người chết chứ có đi đổ người chết đâu, anh cứ nói thẳng ra đi, nói cho mau rồi chúng ta rời khỏi đây gấp.”

Trợ lý Lương ngượng ngùng cười: “Tại tôi quá vui mừng, không để ý đến lời nói, các cậu đừng quan tâm, cứ để tôi nói ra những suy luận của mình đã, à… các cậu nhìn chỗ này của khúc xương xem, nhìn cho kỹ đi.”

Tôi nhận lấy khúc xương cẩn thận quan sát, chỉ thấy chỗ gã nói đến có một lỗ hổng trơn nhẵn, miệng lỗ hổng cùng màu với xương, niên đại chắc cũng đã khá xa, nhưng trợ lý Lương đưa tôi xem thứ này để làm gì thì tôi nghĩ không ra.

Thấy vẻ mặt đầy nghi ngờ của tôi, trợ lý Lương nói: “Không nhìn ra cũng không sao, để tôi nói cho các cậu, đây là xương đòn (xương quai xanh), nó ở chỗ này.”, gã chỉ vào cổ mình rồi tiếp, “Lỗ hổng trên này chính là vết thương cũ trên xương được tạo thành trước khi chết, cậu xem, miệng lỗ rất bén, không có dấu hiệu liền lại của xương, chứng tỏ thời gian có vết thương này rất gần với thời gian tử vong.”

Lão Dương nghe đến đó, còn tưởng là chuyện gì, liền mất kiên nhẫn nói: “Chuyện này mà gọi là bí mật gì chứ, xương cốt bị thương thì đúng là đáng thương thật, nhưng mà chúng ta mau đi thôi, đuốc gần tàn rồi.”

Trợ lý Lương vội khoát tay nói: “Cho tôi ba phút nữa, sẽ nói xong ngay!”

Tôi thấy gã vô cùng hào hứng, không nói cho rõ ràng chắc chắn sẽ không chịu thôi, lão Dương càng hối thúc ngược lại càng làm mất thêm thời gian, tôi vội đưa mắt ra hiệu cho lão Dương đừng có xen vào rồi quay nói với trợ lý Lương: “Cứ mặc kệ hắn, anh nói đi.”

Gã nuốt nước bọt, nói: “Vừa nói đến đâu nhỉ, à, vết thương này xuất hiện rất gần với thời gian tử vong, tôi có thể kết luận đại khái là vết thương đó chính là nguyên nhân gây nên cái chết. Vết thương ở vị trí như vậy có lẽ là do bị người ta dùng dao cắt đứt phần động mạch cổ ngay phía trên xương đòn, vì hạ dao quá nhanh nên cắt trúng vào xương.”

Tôi nghe thế buồn bực hỏi: “Theo như anh nói thì chủ nhân của khúc xương này bị người ta cắt cổ chết à!”

Trợ lý Lương nở nụ cười quái dị, lắc lắc đầu: “Không chỉ có khúc xương này, toàn bộ thi thể ở đây đều có cùng nguyên nhân tử vong. Cậu xem, riêng ở đây có bảy khúc xương đòn, bên trên đều có vết cắt như vậy, mà thông thường ngày xưa nếu cúng tế bằng người sống đều là bắt người bị hiến tế quỳ gối, tiếp đó thầy tế đứng đằng sau một dao cắt đứt yết hầu. Thế nhưng những người ở đây lại bị cắt họng từ phía trước, cho nên tôi có cảm giác phần lớn những người ở đây không phải là bị tế sống mà là chết trận.”

Trợ lý Lương nói xong liền nhìn tôi với đôi mắt sáng rực. Tôi bị gã nhìn đến sởn gai ốc, tự hỏi sao gã lại như vậy, chết trận thì là chết trận thôi, cũng đâu cần phải phấn khởi tới mức này, vội hỏi gã: “Trợ lý Lương, bí mật lớn mà anh nói chính là điều này?”

Gã tỏ vẻ thần bí: “Không phải, không phải, đây mới chỉ là phần mở đầu của bí mật thôi, điều tiếp theo tôi muốn nói mới là vấn đề chính.”

Nói rồi gã lấy ra một thứ từ trong đống thi thể vỡ vụn, nói với tôi: “Bí mật lớn ấy ẩn giấu bên trong vật này.”

Tôi cầm lên quan sát, đó là một mảnh của thứ gì đó rất khó hình dung, dường như là nón hay một bộ phận nào đó của áo giáp. Có điều thứ này không phải là xương cốt thì tất nhiên chính là minh khí. Tôi cầm lên soi kỹ dưới ánh đuốc, kinh ngạc thốt lên: “Là một mảnh giáp bằng thanh đồng?”

Trợ lý Lương gật đầu: “Không sai.”

Lúc này, không biết là do bị gã trợ lý thần kinh bất bình thường ở ngay bên cạnh tác động hay là do trực giác của chính mình mà tôi mơ hồ cảm thấy chuyện gã đang nói đến có thể  ẩn chứa một sự thật kinh thiên động địa nào đó, nhất thời cả người toát mồ hôi lạnh.

Trợ lý Lương nói tiếp: “Đây là kiểu áo giáp chỉ xuất hiện vào thời Hậu Hán (947-950, Trung Quốc), cậu xem mảnh này khồng hề có lớp lót trong, đây là áo giáp dành cho mùa hè, người này chết vào khoảng thời gian đó, còn nữa, kỳ lạ nhất là thứ này”, gã cẩn thận gỡ ra một mảnh nhỏ gì đó từ miếng áo giáp, “cậu xem đi, mảnh nhỏ này dù không bắt mắt nhưng lại chính là mấu chốt, cậu Ngô, cậu là người có hiểu biết, vừa nhìn chắc hẳn đã nhận ra đây là thứ gì.”

Cả người tôi gần như lạnh toát, vừa quan sát theo lời gã liền hiểu ra, mảnh nhỏ kia chẳng phải gì khác mà chính là một mảnh tơ lụa, có lẽ là nó bị dán lên áo giáp lúc thi thể thối rữa.

Những thứ đó là đồ của người Hán, sao lại xuất hiện trong hố bồi táng của người Xá đã tuyệt tích hàng ngàn năm trước?

Trợ lý Lương nhìn ra xung quanh, nói: “Nếu tôi đoán không nhầm, đây thật ra không phải là hố tuẫn táng mà là một bãi chiến trường, thi thể ở dưới này có hai phe, một bên là những người canh giữ cổ mộ, một bên là quân đội người Hán.”

Chương 20 – Hỏa Long trận

Editor: Biển

Beta: Thanh Du

Tôi chợt nhớ lại truyền thuyết về Giáp Tử Câu, đội quân đã biến mất trong núi chính là đội quân câm lặng của Bắc Ngụy, trong lòng đã rõ ràng hơn phân nửa. Gọi là trầm mặc, thực chất đó là đội quân do một nhóm người câm điếc hợp thành, có thể cũng chính là ‘Bất ngôn kỵ’ thời Bắc Ngụy mà trợ lý Lương đã nhắc đến. Những binh sĩ này tuyệt đối không để lộ bí mật nên hoàng đế mới để bọn họ đi làm những nhiệm vụ không hề vẻ vang, ví dụ như trộm mộ.

Một ngàn năm trước, hậu duệ Xà quốc dần dần biến mất do kết hôn cùng dòng máu Hán tộc ngoại lai, nhưng trong sơn động này vẫn còn lại một nhóm người Xà quốc canh giữ lăng mộ của vị tù trưởng nào đó, không ngừng sinh sôi nảy nở, không hiểu vì nguyên do gì đội quân Bắc Ngụy kia lại biết trong núi có một lăng mộ như thế.

Quân đội người Hán tiến vào nơi này, phá tan những động đá vôi ngoắt ngoéo như mê cung, đi sâu vào hố tuẫn táng. Người dân Xà quốc thề sống chết kháng cự, tiếc thay dẫu sao họ cũng không phải là đối thủ của Bất ngôn kỵ được trang bị đầy đủ, cuối cùng bị tàn sát gần hết.

Có thể khẳng định đa số những thi thể ở đây là của người Xá, chúng tôi đi lang thang trong này có thể là do những oan hồn vẫn còn ở lại giữ lăng mộ tổ tiên tụ họp lại để ngăn cản những kẻ xâm lược là chúng tôi tới gần.

Chuyện này cũng thật khó xử, đã đến đây rồi chẳng lẽ lại quay về, chấp nhận một chuyến trắng tay? Tôi không cam lòng chút nào, nhưng nếu quả thật có quỷ hồn quấy phá thì chúng tôi coi như nắm chắc phần bại.

Cây đuốc dần tàn, chập chờn vài bận, ngọn lửa chỉ còn leo lét như ngọn nến.

Lúc nào lão Dương không còn hối thúc chúng tôi nữa, bởi hắn biết dùng cách thông thường thì không sao đến được cửa mộ, cho dù có quỷ hay không thì cây đuốc cũng không cầm cự được lâu hơn nữa.

Trợ lý Lương nói: “Nếu đây đúng là chiến trường thì những thi thể kia sẽ không thể bị ai sắp đặt, cũng có nghĩa chỗ này chẳng phải thi trận gì sất. Tôi đoán là chúng ta thật sự đã bị quỷ che mắt, đây chắc là quỷ dựng tường, hai người có biết cách nào để vượt qua không?”

Lão Dương bất dắc dĩ thở dài: “Ông anh họ ở Sơn Tây của tôi có nói, gặp phải chuyện này cứ lấy tơ hồng cột vào chân trái là có thể thoát ra. Nhưng trên người cả bọn chẳng có thứ gì màu hồng cả, hay là chúng ta dùng chính máu mình để nhuộm?”

Tôi gạt đi: “Cái đó không cần thiết, nơi này mà có mùi máu dù sao cũng không phải chuyện tốt lành gì, chúng ta nghĩ cách khác đi.”

Trợ lý Lương nói: “Đúng rồi, tôi có nghe thầy tôi nói quỷ dựng tường nhất định phải ở trong bóng tối, chẳng phải chúng ta còn pháo sáng đó sao? Cứ bắn ra một viên rồi chạy đi một đoạn, tôi thấy vậy còn tốt hơn dung đuốc, ít nhất sẽ không bị mê hoặc.”

Tôi thấy cũng có lý, chỉ cần xác định rõ nơi mình muốn đến thì bất cứ thứ gì cũng không mê hoặc được chúng tôi. Vì thế tôi nháy mắt ra hiệu với lão Dương.

Lão Dương thở dài lấy súng báo hiệu ra, nói: “Quá lãng phí.”, dứt lời liền nâng tay bắn một phát hướng lên trên.

Pháo sáng hệt như một dải sao băng bay vút lên cao, tôi vô thức ngẩng đầu nhìn theo chờ giây phút nó cháy sáng rực rỡ, không ngờ dải sao băng vừa bay lên đã nghe bụp một tiếng, bắn ngược trở lại, rớt thẳng xuống dưới.

Tôi thấy thế ơ lên một tiếng, thầm nhủ hôm nay cậu ta mắc chứng gì vậy, không nhớ mình đang ở trong sơn động hay sao mà lại bắn pháo sáng lên trên như thế, pháo còn chưa kịp cháy đã đụng phải trần động rồi.

Pháo sáng nhanh chóng rơi xuống dưới, gần đến mặt đất mới cháy bùng lên. Đây là loại pháo sáng Photpho pentoxit

(P2O5)

vẫn thường được các đội thám hiểm sử dụng, có thể cháy sáng khoảng 50s, khi bắt đầu cháy nhiệt độ rất cao. Tôi vừa thấy khoảng cách giữa đạn pháo và mặt đất đã biết chuyện không ổn, quả nhiên nó vừa rơi xuống vài giây, mặt đất bên dưới đã lập tức bắt lửa.

Tôi đá lão Dương một cú, mắng hắn óc đậu phụ, cũng may ở đây chỉ toàn xương với cốt, không thì sau chuyến này chúng tôi còn phải quay ngược lại đây lo cứu hỏa. Còn chưa nói hết câu, trợ lý Lương đã đập đập tay tôi la lớn: Hai vị gia gia, lần này toi thật rồi!

Tôi nhìn lại, chỉ thấy nơi nhen nhóm một ngọn lửa nhỏ ban nãy đột nhiên cháy bùng lên thành một bức tường lửa. Càng khó tin hơn nữa là, bức tường lửa này đang lan nhanh theo con đường mòn giữa những đống xác chết với tốc độ kinh người, trong nháy mắt chỉ còn thấy một con hỏa long trườn đi trên mặt đất trong sơn động tối đen như mực, trườn tới đâu đám xương cốt hai bên đường mòn đều phát ra tiếng nổ giòn giã tới đó.

Trợ lý Lương thấy cảnh này, mặt mũi tái mét, vội vàng ngồi xuống bốc một ít đất lên ngửi thử, sau đó la lớn: Dầu hỏa! Trong bùn có tưới dầu hỏa!

Tôi nghe vậy thì cực kỳ hoảng sợ, tức khắc ngồi xuống kiểm tra lớp đất nền, thấy quả đúng là như thế, vội bảo lão Dương tắt đuốc đi. Trong lòng tôi vô cùng sợ hãi, không ngờ trong thi trận này còn ẩn giấu một chiêu lợi hại đến thế, chỉ e những cư dân cổ ở đây vì bảo vệ thứ gì đó trong cổ mộ mà đã bố trí nên phòng tuyến cuối cùng này, tiếc rằng lúc ấy chưa kịp dùng đến, bây giờ lại bị chúng tôi kích hoạt. Chúng tôi vào đến tận đây mà vẫn chưa xảy ra chuyện gì thật đúng là kỳ tích, nếu vừa rồi sơ ý đánh rơi cây đuốc xuống đất thì chúng tôi đã bị đốt thành than rồi.

Con Hỏa long ở đằng xa không một phút ngơi nghỉ, chẳng biết từ khi nào đã chia ra thành hai nhánh, ngọn lửa bùng lên cao hơn cả thân người, trong nháy mắt đã chiếu sáng bừng cả hang động. Tôi vừa liếc mắt qua đã có thể nhìn rõ bố cục nơi này, chỉ thấy đường lối trong thi trân đều thông với nhau, ở một nơi chật hẹp thế này thì cũng coi như chúng đã hợp lại làm một. Con hỏa long này sớm muộn gì cũng sẽ cháy đến nơi chúng tôi đang đứng, nhất định phải tránh đi chỗ khác.

Tôi lo lắng nhìn khắp xung quanh, chợt thấy khoảnh đất trũng kia hóa ra chỉ cách chúng tôi chừng mười mét về bên trái, từ nơi chúng tôi đứng đến chỗ cái hố đã bùng lên một bức tường lửa nhưng phần đất bên trong lại không hề bốc cháy, có lẽ là một nơi lánh nạn khá tốt. Lúc này con hỏa long đã bắt đầu trườn về phía chúng tôi, không còn thời gian lo lắng nữa, tôi hét lớn: Đừng có đứng đần mặt ra ở đây nữa, có cái hố bên kia kìa! Mẹ nó cứ nhảy vào đó đã rồi tính sau!

Hai người kia vội vã đạp lên đám thi thể, lao thẳng về phía khoảnh đất trống. Tôi cũng không ngờ mình lại có năng khiếu chạy vượt rào, chỉ một bước đã nhảy qua đầu mấy bức tượng đá, vài giây sau đã đối mặt với bức tường lửa, một luồng khí nóng hầm hập tức khắc phả vào mặt.

Tôi vốn định thuận đà lao luôn qua tường lửa cho khí thế, nhưng vừa tiến lại gần đã ngửi thấy mùi tóc cháy khét lẹt, bước chân thoáng chần chừ muốn dừng lại, nhưng quán tính lại quá lớn, có muốn dừng cũng không được, tôi đành phải hét lớn một tiếng rồi nhắm mắt nhảy qua. May mà tốc độ khá nhanh, tôi vừa cảm thấy lửa liếm lên người mình bỏng rát thì đã ngã xuống đất rồi. Tôi lăn một vòng dập tắt hết lửa trên quần áo, ngay sau đó lão Dương và trợ lý Lương cũng vọt tới, lăn lộn nhiệt tình để dập lửa.

Bấy giờ tôi đã hiểu vì sao mặt đất nơi đây lại hơi trũng xuống, thì ra lớp đất trên mặt đã bị người ta xúc đổ đi. Tôi lăn hết một vòng vẫn chưa kịp nhìn kỹ, lão Dương đã kêu gào thảm thiết lăn đến ngay bên cạnh.

Tôi vội cởi áo khoác giúp hắn dập lửa trên người rồi đỡ hắn dậy, thấy hắn không sao cả, chỉ có lông mi là bị đốt trụi. Ngoảnh đầu lại thì thấy trợ lý Lương vẫn không ngừng lăn lộn, lửa trên người vẫn cháy mạnh, tôi thầm nghĩ có lẽ là do vừa rồi gã ngã xuống đất nên quần áo dính dầu hỏa, lửa không tắt được là phải. Tôi vội vàng đè gã xuống, dùng đất phủ lên người gã dập lửa.

Trợ lý Lương gào khóc thảm thiết, cả người nghi ngút khói trắng. Tôi với lão Dương lột đồ hắn ra, chỉ thấy trên lưng có vài chỗ đã muốn cháy đen, cũng may lúc nãy mồ hôi lạnh toát ra khá nhiều nên cũng đỡ được một chút, nhìn chung không đến nỗi nghiêm trọng. Tôi mở bình nước, giội hết nửa bình lên lưng gã để hạ nhiệt độ, sau đó mới ngẩng lên quan sát tình hình bốn phía.

Khoảnh đất trống chúng tôi đang đứng đã bị tường lửa cô lập, bên ngoài rối tinh rối mù, hơi nóng tạt qua khiến cho toàn bộ lông tóc trên người đều phát ra tiếng xèo xèo, vô số xương cốt không ngừng vỡ vụn ra do hơi nóng làm không khí bên trong giãn nở, những mảnh xương vỡ bị hất tung lên giữa chừng không. Tôi nhìn thoáng qua đã biết tình hình không thể cứu vãn, động xác bị thiêu hủy hoàn toàn, chỉ chút nữa thôi không chừng không khí trong khoảnh đất trũng này cũng bị đốt sạch, đến lúc đó không bị hầm chết cũng bị bỏng chết.

Đang lúc muốn phát điên, lão Dương bỗng kéo tôi, kêu to: “Lớn chuyện rồi, mau…mau rút súng, bị lão Diêm vương chỉ đích danh rồi!

Tôi không biết hắn có ý gì, vừa quay lại đã thấy sáu bảy con chuột bự bị lửa nóng hun đến phát điên, lao qua tường lửa nhằm thẳng mặt tôi định cắn. Tôi cúi người né tránh, lão Dương không chờ cho chúng xông tới lần nữa, bắn một phát đánh bay một con, còn tôi dùng cây đuốc đã tắt làm vũ khí đập mấy con nhảy đến văng ra chỗ khác. Cùng lúc đó hơn chục con nữa phóng qua nhanh như chớp, tôi đứng quá gần nên bị cào mấy vết trên lưng, lập tức ngã lăn trên mặt đất. Lão Dương lại bắn thêm mấy phát súng nữa đẩy bọn chúng lùi lại, tôi ngẩng đầu nhìn lên, ôi mèn ơi, phía ngoài tường lửa chuột lớn chuột nhỏ rủ nhau bu lại, mấy cặp mắt bị lửa hun đến đỏ rực đang nhìn chúng tôi đắm đuối.

Tôi thầm than không xong rồi, mấy con chuột đã nhảy vào bị tiếng súng của lão Dương làm cho kinh sợ không dám đến gần, nhưng đám chuột ở bên ngoài thấy khoảnh đất chúng tôi đang đứng không bị bốc cháy tất nhiên sẽ liều mạng nhảy qua, số lượng sẽ càng lúc càng tăng, đến khi chúng phát hiện ra sự áp đảo về số lượng tất nhiên sẽ đồng loạt xông lên gặm chúng tôi chỉ chừa lại xương trắng.

Tôi thấy cứ liều mạng bám trụ thì không nên chút nào, bèn kéo lão Dương lại, bảo hắn tạm thời cứ mặc kệ lũ chuột, quan trọng nhất là tìm cách thoát khỏi đây. Đúng lúc ấy lại nghe tiếng trợ lý Lương gọi to: “Ở đây có một đạo động!”

Chúng tôi nhìn lại mới thấy giữa hố đất có một cái động nhỏ rất khó phát hiện, không biết là do ai đào nên. Lão Dương rút hộp đạn ra kiểm tra rồi đưa súng cho tôi, sau đó cõng trợ lý Lương lên hướng thẳng về phía đạo động. Tôi một tay cầm súng ngắn, một tay giữ Phách tử liêu đi theo phía sau hắn.

Chưa được vài bước, mấy con chuột gần nhất đột nhiên rít lên một tiếng, phóng tới như chớp. Tôi nâng tay bắn liền bốn phát đạn, trúng được ba con, hai con khác đã muốn bổ nhào vào mặt tôi. Không còn cách nào khác tôi đành dùng đến Phách tử liêu, chỉ nghe một tiếng nổ thật lớn vang lên, hai con chuột bị nát bấy giữa chừng không.

Chương 21 – Tần Lĩnh thần thụ

Editor: Biển

Beta: 

天真教主

Bởi vì tôi dùng Phách tử liêu bằng tay trái, hơn nữa sức giật của loại súng này mạnh khủng khiếp, chỉ sau một phát súng mà gan bàn tay tôi đã tê dại, cánh tay cũng không nâng lên nổi nữa. Nhưng cũng may nhờ vào tiếng nổ kinh người mà đến lão Dương cũng sợ đến mức gần như lảo đảo, mấy con chuột lập tức lùi lại không dám tấn công bừa nữa.

Tôi biết đây chính là cơ hội liền vội vã hối thúc lão Dương đi nhanh lên, Phách tử liêu có uy lực rất lớn ở khoảng cách gần nhưng số lượng đạn có hạn, cho dù một phát bắn chết mười con đi nữa cũng chẳng thấm tháp vào đâu. Vả lại phát đạn tiếp theo không biết có được hiệu quả tốt như vừa rồi không nữa.

Trong lúc suy nghĩ cả bọn đã lui vào giữa hố đất, tôi thử nhìn xuống, trên mặt đất quả nhiên có một cửa động tối đen sâu thăm thẳm, còn lờ mờ thấy được mấy lớp gạch đá phía dưới. Lão Dương ra sức nhét trợ lý Lương vào trong động, bàn tay đang nắm lưng áo vừa buông ra, trợ lý Lương liền rơi xuống dưới, sau đó hắn cũng nghiêng người, hai tay chống đất nhảy xuống.

Tôi đi sau bọc hậu, nghe lão Dương lớn tiếng gọi mình từ bên trong liền làm theo hắn chống một tay nhảy vào trong động.

Xuống chưa được nửa người hai chân đã chạm đất. Tôi đánh bật lửa quan sát, lão Dương đang lo lắng chờ tôi ở bên dưới, trợ lý Lương nằm bẹp một bên chẳng biết sống chết thế nào.

Tôi giao bật lửa cho lão Dương để hắn tìm thứ gì đó chiếu sáng, mình thì lo lấy những vũ khí trên mặt đất chèn vào lỗ hổng ngăn cho lũ chuột khỏi chui vào.

Lão Dương châm mấy cây đuốc trên bốn bức tường mộ thất, xung quanh vừa được chiếu rọi liền phát hiện ra nơi này rõ ràng là một thạch thất mang đậm phong cách Xà quốc, bốn phía đều là khoáng thạch dựng thành tường, trên đó là bích họa sặc sỡ đủ màu sắc, trên trần được khảm gạch xanh, chỉ là vì quá ẩm thấp nên hầu như nhìn đâu cũng thấy toàn là dấu vết của nấm mốc.

Thạch thất rất nhỏ, ngoài vũ khí và một vài loại dụng cụ ra thì không có vật bồi táng nào khác. Giữa thạch thất không có quan tài nhưng trên sàn có dấu vết cho thấy rằng đã từng có quan tài được đặt ở đó.

Ngoài ra không thấy hành lang thông với chỗ khác, tôi vừa nhìn sơ qua một lượt liền không nén nổi mà tự hỏi, chẳng lẽ cái cổ mộ mà bao nhiêu người ngoài kia đã bỏ cả tính mạng ra để bảo vệ chính là căn phòng đá trống không mắc dịch này sao?

Hơi nóng từ phía trên dần lan xuống mang theo cảm giác ngột ngạt, màu sắc của những bức bích họa trên tường nhờ hơi nóng mà bỗng chốc trở nên tươi sáng vô cùng khiến cho người ta không dám nhìn thẳng vào. Trong thâm tâm chúng tôi đều biết, trốn ở dưới này tuy có thể tạm thời bảo toàn tính mạng nhưng lại không phải là biện pháp lâu dài.

Tôi uống vài ngụm nước, sau đó kiểm tra xem thử trợ lý Lương thế nào. Sờ đến trán gã mới phát hiện cả người gã nóng rực, hơi thở mong manh, có triệu chứng sốt cao. Tôi vội đổ hết nửa bình nước còn lại lên người gã, lão Dương thì bấm mạnh vào nhân trung, cuối cùng cũng lay được gã tỉnh lại.

Lũ chuột bên ngoài đã nổi điên, vây quanh cửa động mà ra sức gào rít cố gắng xông vào, tiếc là ở đó nhét đầy vũ khí và dụng cụ sắc bén bằng thanh đồng, bọn chúng không cách nào chui qua được.

Lão Dương dạo vài vòng xung quanh không thấy có lối ra, liền hỏi tôi chỗ này có thể có lối đi bí mật nào không? Nếu thật sự không có, chuyến này chúng tôi bị sấy thành người khô cả mất.

Tôi nhìn ra bốn phía, nơi này quá hẹp, vừa nhìn đã thấy ngay là hầu như không có chỗ nào có thể lắp đặt cơ quan, vừa định nói không có khả năng, bỗng nghe rắc một tiếng, cửa đạo động bị sụp xuống một mảng, có con chuột thậm chí gặm nát cả một viên gạch, chui thẳng vào trong khe hở, tiếc là cái đầu quá lớn nên bị kẹt lại giữa hai viên gạch.

Lũ chuột không gặm nổi thanh đồng liền chuyển sang tấn công mấy viên gạch xanh ngay bên cạnh. Tôi thầm than không xong, gạch xanh tuy rằng khá rắn chắc nhưng vẫn không thể so với kim loại được, lũ chuột mà liều mạng gặm thì nói không chừng gạch cũng bị cắn vụn ra hết.

Tôi lấy một thanh giáo dài đẩy con chuột kia lui lại, sau đó gọi lão Dương đến giúp một tay, hắn vội cởi áo ngoài rồi dùng vũ khí đưa lên nhét vào trong khe hở chỗ cửa động.

Nhưng mà cái áo đó cũng chẳng thấm vào đâu, chưa được bao lâu đã bị con chuột kia gặm ra một lỗ lớn, ngay sau đó hơn mười con chuột liền theo thân giáo chạy xuống.

Chúng tôi vội vàng buông tay. Mấy con chuột kia xuống đến mặt đất lại không hề tấn công chúng tôi mà chạy thẳng đến một góc tường.

Lão Dương thấy vậy lập tức hiểu ra, kêu to: “Lão Ngô, bọn chúng đang tìm lối thoát! Mau đi theo!”

Chúng tôi vội đi qua mới thấy chân tường bên đó có một hang chuột rất khó nhận ra, quỳ xuống xem thử, bên kia tường hình như là một khoảng trống không.

Lão Dương không nói một lời, vớ lấy một cái chùy bằng đồng trên mặt đất, huơ một vòng phang thẳng vào bức tường đó. Cây chùy giáng xuống khiến cho tường đá bị vỡ ra một mảng, trên tường xuất hiện một lỗ hổng lớn bằng đầu người, chúng tôi nhìn qua đó thấy phía sau còn có một thạch thất khác.

“Khỉ chứ, hóa ra lối đi bí mật ở đây là phải đập tường ra mới thấy!”, lão Dương kêu lên, lại giáng thêm mấy chùy nửa mở rộng lỗ hổng ra, sau đó hai người chúng tôi khiêng trợ lý Lương lên rồi bò qua phía bên kia.

Thạch thất bên kia tường hoàn toàn không có trang trí bày biện gì, ở giữa có một cái giếng khoan hình vuông dẫn xuống khoảng tối sâu thăm thẳm phía dưới, bên trong không có nước, lũ chuột không hề chậm lại mà trực tiếp nhảy luôn vào trong đó.

Từ phía sau truyền đến âm thanh gạch bị nứt vỡ, nhìn lại mới biết hóa ra lớp chì gắn kết giữa những viên gạch đã bị mềm ra, mộ thất này sẽ nhanh chóng sụp xuống, tôi và lão Dương cùng hạ quyết tâm, chết thì chết thôi, cả hai nghiến răng theo lũ chuột nhảy vào trong giếng.

Giếng có độ dốc rất nhỏ, chúng tôi trượt xuống một hơi, sau đó nặng nề văng ra lăn một vòng trên mặt đất bằng phẳng. Sực nhớ đến lão Dương và trợ lý Lương ở ngay phía sau, tôi lập tức lăn qua bên cạnh, quả nhiên lão Dương hạ mông đúng vào chỗ tôi vừa rời khỏi, tiếp đó trợ lý Lương rơi ngay trên người hắn đè cho hắn kêu la oai oái.

Phía trên vang lên một tiếng nổ, sau đó là chấn động dữ dội, mộ thất cuối cùng đã bị lửa thiêu sụp, những tảng đá nóng đỏ rơi ầm ầm xuống miệng giếng chỗ chúng tôi vừa đứng.

Lão Dương ngồi dậy hỏi tôi: “Đây là đâu?”

Tôi giơ cây đuốc hắn lấy từ chỗ mộ thất vừa rồi ra quan sát xung quanh, vẫn là vách giếng hình vuông, chỉ là đổi qua hướng ngang mà thôi, liền đáp: “Là đường thoát nước của cổ mộ, một bộ phận của hệ thống thoát nước.”

Lão Dương nhìn những đường hầm rối rắm bốn bề, hỏi: “Vậy chúng ta đi hướng nào bây giờ?”

Tôi nhìn hắn, thầm nói sao tôi biết được, lúc này mấy con chuột trượt xuống từ phía trên nhảy khỏi vai lão Dương rồi lập tức chạy vào thông đạo phía trước.

Tôi giật mình vội nói: “Đi theo chúng!”, dứt lời liền cất bước đuổi theo.

Lũ chuột chạy rất nhanh, chẳng bao lâu đã dẫn chúng tôi qua mấy khúc ngoặt, bọn tôi gần như không theo kịp chúng nó, ba chân bốn cẳng cố gắng đuổi sát phía sau, gắng gượng chừng hơn mười phút, chợt có một trận gió nhẹ thổi tới, lũ chuột thoáng cái đã biến mất. Tôi còn chưa hiểu chuyện gì đã xảy ra, chân đã bước hụt vào khoảng không, gần như là lăn ra khỏi đường hầm thoát nước.

Tôi không biết tình hình ngoài này ra sao, liền xoay người đứng dậy, lúc này bọn lão Dương cũng văng ra, bốn bề tối đen như mực, tôi vội châm đuốc lên chiếu sáng.

Bốn phía trở nên sáng sủa, hóa ra nơi đây không phải mộ thất mà là dưới đáy của một cái giếng sâu rất lớn hình tròn, đường kính khoảng hơn sáu mươi mét, đáy trũng thành một cái hố sâu. Tường đá xung quanh đều có giá đèn, tôi liền đốt lên vài chỗ cho có thêm ánh sáng.

Trên vách tường của giếng còn có dấu vết đào bới rất rõ ràng, dễ dàng nhận ra cái giếng này là do con người tạo nên, chỉ là họ đào sâu như vậy để làm gì? Chẳng lẽ đây cũng là một bộ phận của động khai thác đá phía trên?

Tôi còn thoáng thấy ở giữa hố có dựng một cái cây gì đó rất lớn, tiếc là ánh sáng không đủ nên không thể nhìn thấy rõ ràng. Nhiệt độ ở đây rất cao, một luồng hơi nóng bỏng từ phía trên thổi xuống khiến cho ai cũng đau đầu choáng váng, ngay cả đứng cũng còn không vững.

Tôi giơ cao ngọn đuốc, bảo lão Dương cõng trợ lý Lương đi vào trong hố, có ánh sáng từ cây đuốc, mọi thứ bên trong trở nên thật rõ ràng.

Trong hố toàn là tượng đá đầu người như chúng tôi đã thấy ở bên ngoài, khoảng chừng đến trăm, đầu người ở trên đều đã khô đét. Giữa hố dựng thẳng một cái cây bằng thanh đồng có đường kính khoảng mười mét, mới nhìn qua còn tưởng đó là một bức tường cong bằng đồng cao chót vót.

Gốc cây thanh đồng cắm vào khối đá ở đáy hố giống như là từ đó mọc ra, làm cho nham thạch ở bốn phía nứt ra rất nhiều khe nhỏ.

Trên cây thanh đồng còn có rất nhiều khúc cây đồng nhỏ đủ kích cỡ rất giống với khúc cây mà lão Dương mang theo, nhìn rất dày đặc, ước chừng không dưới một ngàn cây, lên cao hơn còn nhiều nữa. Cả cây thanh đồng giống như một gốc cây to mọc ra từ trong tảng đá, cành nhánh sum suê, cắm sâu vào đất.

Trợ lý Lương thấy thế mà lạnh cả người, gã leo xuống khỏi lưng lão Dương, nói: “Những người tạo nên chỗ này chắc chắn là muốn đào cây thanh đồng này ra, các cậu xem dấu vết đào bới bên trên đi, thậm chí đã đào đến chân núi vẫn chưa thấy được tận cùng, không biết cái cây thanh đồng này còn cắm sâu tới mức nào nữa.”

Lòng tôi cũng phát lạnh, một thứ đồ bằng kim loại to lớn nhường này đã hoàn toàn vượt ra khỏi trình độ luyện kim của thời kỳ đó, người dân Xá tộc không thể có được kỹ thuật như vậy. Nhưng nếu không phải là bọn họ thì ai mới là người đã tạo nên cây thanh đồng này? Chẳng lẽ là nó mọc lên từ Địa Ngục?

Lúc này trợ lý Lương đột ngột vỗ tôi một cái, tôi quay sang thì thấy lão Dương, người vẫn luôn im lặng nãy giờ, đang nhìn chằm chằm vào cây thanh đồng, bước thẳng đến đó.

Chương 22 – Tiếp tục trèo

Editor: Tiểu Phong Hoa

Beta: Tiểu Điệp

*****

Tôi nhìn sắc mặt lão Dương có vẻ không ổn, trong lòng thầm cảm thấy bất thường vội kêu to tên hắn. Lão Dương bị tôi làm giật bắn mình, lập tức phản ứng lại, sợ đến run rẩy mà đứng khựng tại chỗ.

Hai chúng tôi vội lao tới, truy hỏi hắn vừa rồi định làm trò gì.

Lão Dương nhìn nhìn cái cây rồi lại quay sang nhìn nhìn chúng tôi, dè dặt đáp: “Tớ cũng không biết nữa, quái đản thật, ban nãy thoáng nhìn thấy cái cây này đã có cảm giác quen thuộc lắm, bỗng nhiên muốn…leo lên.”

Leo lên? Tôi ngờ vực nhìn lão Dương, ngẩng đầu nhìn cây, tự thắc mắc tên này đâu phải khỉ, kiểu gì mà thấy cây lại muốn trèo lên liền hỏi hắn: “Hay là cậu bị khí thế hoành tráng của nó cuốn hút? Người ta nhìn thấy thứ gì cao cao thường cũng sinh hứng leo trèo mà.”

Lão Dương lắc lắc đầu: “Tớ chịu thôi!”

Trợ lý Lương ngắm nghía cây Thanh đồng, nói: “Cây này lớn như vậy, chắc chắn có điểm quỷ quái. Trong lúc quan sát chúng ta phải cực kỳ thận trọng, cố gắng đừng chạm vào nó.”

Lão Dương gật đầu tỏ vẻ đồng tình, tôi giơ cao bó đuốc, tiến lại gần bộ rễ của thanh đồng đại thụ.

Cây thanh đồng là văn vật vô cùng hiếm gặp, theo trí nhớ của tôi, trừ lần khai quật được ở gò Tam Tinh, những nơi khác hầu như chưa từng có. Tôi xem phóng sự chỉ hiểu được đôi chút, về vấn đề nguồn gốc của thứ này, giới khảo cổ cũng không có kết luận chắc chắn, giả thuyết thì vô số.

Từ khoảng cách gần có thể phát hiện trên mặt cây thanh đồng không được trơn nhẵn cho lắm mà khắc chi chít những bức họa hình rắn hai thân, tượng trưng cho thần tính của cây thanh đồng.

Trợ lý Lương nhìn hồi mới nói với tôi: “Kích thước khổng lồ thế này chưa biết chừng là đồ cúng tế, rơi vào khoảng thời Thương – Chu gì đó, nhưng cụ thể ở thời điểm hiến tế có tác dụng thế nào thì đã quá cổ xưa, vượt quá phạm vi kiến thức của tôi rồi.”

Điều đó cũng giống những lời ông già ngày trước nói cho tôi, nhưng khoảng thời Thương – Chu, nhà Thương kéo dài hơn sáu trăm năm, nhà Chu cũng đến năm trăm hai mươi hai năm, cộng vào cũng lên tới hơn một ngàn một trăm năm. Dao động quanh con số đó, cứ cho là lên xuống tầm bốn trăm năm cũng đã chiếm một nửa những gì sử sách Trung Quốc có ghi lại, những phán đoán thế này thì thà đừng nói còn hơn.

Tôi hỏi gã ta xem liệu có thể xác định chính xác rốt cuộc là thuộc giai đoạn nào ở thời Thương – Chu hay không.

Trợ lý Lương than rằng gã cũng bó tay không còn cách nào khác: “Thứ này mắt thường sao có thể nhìn rõ được, tôi tài hèn chỉ võ đoán cho cậu mà thôi. Cậu nhìn thử xem, những nốt gỉ này đều ngả màu xám đen, rất có thể là thiếc thanh đồng là một chủng loại trong số chì thiếc thanh đồng và chì thanh đồng. Khả năng rơi vào thời Tây Chu là lớn nhất, đại khái khoảng 50%, 50% còn lại kia tôi cũng không biết nói sao. Quy tắc của chúng ta cậu cũng thừa hiểu rồi, tôi chỉ biết được đến thế thôi, nói sâu hơn nữa thì tôi chịu thôi.”

Chế tác đồ cổ cũng có một đường ranh giới phân chia giữa các triều đại, một lượng lớn đồ cổ đều xuất hiện sau thời nhà Tống, trước thời nhà Đường không có mấy, thời Thương – Chu lại càng hiếm hoi. Nhận thức trong nghiệp vụ đối với những thứ này rất ít ỏi, như trợ lý Lương đã là rất khá rồi, còn giỏi hơn tôi nhiều.

Tôi nghe gã ta nói đến thế rồi mà vẫn chẳng có tí khái niệm gì, đành hỏi: “Vậy nếu dựa theo thời Tây Chu thì anh có thể nhận định thêm một chút được không? Trình độ của công nghệ Thanh đồng Tây Chu, trên lý thuyết có thể tạo ra thứ này hay không?”

Trợ lý Lương đáp: “Vấn đề này tôi lại càng không trả lời được, tôi chỉ biết vào thời điểm đó, trước khi chế tác đồ thanh đồng phải làm đào phạm (khuôn đúc để đúc đồ gốm sứ), theo lý mà nói chỉ cần làm được đào phạm, thì tất nhiên đúc được thành phẩm. Có điều vật này quá lớn, e rằng vận dụng công nghệ truyền thống sẽ không tài nào chế được.”

Lão Dương hỏi gã: “Trợ lý, ông nói thứ này có thể là di tích của nền văn minh thời tiền sử, nhưng tôi đọc báo có biết được rằng, mấy triệu năm trước đào mỏ còn chẳng ra nổi một tấc sắt, vật này lớn đến thế, “người” thời đó chắc không làm nổi đâu nhỉ?”

Trợ lý Lương lắc đầu: “Hai ông lớn ạ, về chuyện này thì bản thân tôi đây cảm thấy cũng không hẳn vậy, trước Công nguyên một nghìn năm cho đến khoảng đầu Công nguyên trong lịch sử được người ta xưng tụng là thời đại kỳ tích, đã kiến tạo được vô số kỳ quan tưởng như bất khả thi, như Vạn lý trường thành, Kim tự tháp, lăng mộ Tần Thủy Hoàng, vườn treo Babylon. Các cậu bảo không thể chế ra được cây Thanh đồng, điều đó rất khó khẳng định. Tổ tiên chúng ta khi đó đã biết đúc đồ thanh đồng, chỉ cần Hoàng đế hạ lệnh một tiếng, dân chúng dù cực khổ đến mấy cũng phải thi hành, dù mất vài chục năm nhưng cũng không phải không có khả năng.”

Trợ lý Lương nói cũng có lý, nhưng thời đó ngành luyện kim còn chưa phát triển, kiếm đâu ra nhiều thanh đồng như vậy mà sử dụng? Tần Thủy Hoàng thu hết binh khí trong thiên hạ mới chỉ đúc được mười hai bức tượng đồng, một thân cây này có thể đổi ra hàng trăm bức chứ không đùa, lượng Thanh đồng khổng lồ như thế ở đâu ra?

Tôi nghĩ đi nghĩ lại vẫn không sao lí giải được, nhưng trái lại đột nhiên nhớ ra một sự việc. Hồi chúng tôi nghe lỏm Lý Tỳ Bà nói chuyện, nghe lão nói rằng đồ trong cổ mộ này còn ngon hơn cả đồ trong lăng Tần Thủy Hoàng, nhưng chúng tôi suốt dọc đường mò mẫm xuống đây mãi chẳng thấy có cái của nợ gì hay ho, đi đến đường cùng rồi may ra được cây đồng này an ủi, nhưng bọn tôi cũng đâu phải dân nhặt đồng nát.

Có điều cái cây này cũng đáng giá một ngàn đồ đồng nát, đủ sống phủ phê cả đời đấy…

Trong ‘Hà mộc tập’ của lão nhất định có viết gì đó khiến lão phải cố sống cố chết tìm đến đây. Lão là loại người đã từng thấy qua vô số bảo vật, thứ có thể làm lão phải thốt ra câu đấy chắc chắn không tầm thường chút nào. Nhưng đó là cái gì? Và ở đâu?

Theo lý, đáng ra ở đây hoặc là trong cả cổ mộ, hoặc là trong trung tâm thần tích chắc phải có đồ tốt, cũng có thể là ở gần chỗ này. Nhưng ngoài cái cây này, tôi dám đảm bảo chẳng có thứ gì đáng cho người như ông chủ Lý để mắt tới.

Khoan đã nào…Cây…?

Tôi chợt nảy ra một ý, ngẩng đầu lên nhìn rồi nghĩ thầm: Có khi nào thứ đồ hấp dẫn lão lại giấu trên cây thanh đồng này không?

Cây thanh đồng lớn như thế, đối với người dân Xà quốc thời cổ đại mà nói đúng là công trình cực kỳ đồ sộ, có thể nói là thần tích, khó đảm bảo rằng đế vương của bọn họ sẽ không đem lăng mộ của chính mình xây dựng tại nơi gần thần tích nhất. Nếu nói đây đúng là một cổ mộ thật, thì quan tài của chủ mộ cùng tất cả các loại minh khí rất có thể đang ở trên cây.

Tôi nói thử suy nghĩ của mình với hai người kia, bọn họ đều cho là rất có lý. Tôi hỏi họ, đã như vậy liệu có nên trèo lên không?

Lão Dương đương nhiên đồng tình ngay: “Đã đến tận đây rồi thì trèo thêm một tí cũng chẳng chết ai. Cây này bên trên có rất nhiều mấu, cũng y hệt như leo thang thôi, không tốn sức lắm đâu.”

Tôi cũng không quan tâm lắm, có điều trợ lý Dương vừa bị bỏng, thể lực cũng cạn kiệt rồi, nếu bắt gã leo cây nữa chỉ e cái mạng cũng khó giữ. Chẳng may gã gục giữa chừng chúng tôi lại phải trông nom, còn phiền phức hơn.

Tôi quay đầu định bảo gã cứ ngồi dưới chờ, hai người chúng tôi lên là đủ, nhưng lại thấy trợ lý Lương xoa xoa mặt rồi vỗ tôi một cái: “Không sao hết, đã tới cửa cuối cùng rồi, kiểu gì tôi cũng phải đi xem thử.”

Tôi xem gã có vẻ kiên quyết lắm, biết rằng khuyên thêm cũng bằng thừa, không cần tốn công vô ích, vì thế liền lẳng nhanh ba lô lên vai, giơ bó đuốc nói với lão Dương: “Chúng ta đi tiếp thôi.”

Lão Dương móc trong túi ra một đôi găng tay đeo vào, ngay sau đó đặt chân lên chạc cây đầu tiên, bắt đầu leo lên. Tôi và trợ lý Lương làm theo động tác hắn, ở phía sau cứ theo trình tự bước chân của hắn mà leo một mạch.

Mật độ những chạc cây không quá thưa cũng không quá mau, trèo lên tương đối thuận tay, lão Dương vừa đi vừa nhắc nhở chúng tôi phải chú ý, không được sơ suất mà bước hụt ra ngoài.

Dán mình vào vỏ cây thanh đồng tôi càng nhìn càng thấy rõ ràng. Những nhánh cây mọc ra đều giống như đúc từ cùng một khối với thân cây, những điểm nối cực kỳ hoàn chỉnh không một chút tì vết, không có bất cứ mối hàn nào. Chỉ có một điều làm tôi hơi thất vọng, chính là hình rắn hai thân trên đó khắc quá sâu, tưởng chừng chạm cả vào lõi sâu nhất của thân cây. Tôi nhìn mãi mà không ra trong đó có gì.

Do động tác phải cẩn thận từng li từng tí, chỉ một chốc sau mồ hôi chúng tôi đã nhỏ tong tỏng, ai nấy thở phì phò như trâu. Tôi ngoái nhìn xuống dưới, nhận ra đã không thấy mặt đất đâu nữa, chỉ còn ánh sáng lờ mờ tỏa ra từ hỏa đàn bên cạnh cổng, trông qua chẳng khác gì một vực thẳm không đáy.

Đi được một quãng, sức trợ lý Lương đã chịu không nổi nữa, tôi bèn gọi lão Dương dừng lại, ra hiệu cho hắn đừng nóng vội, để trợ lý Lương nghỉ ngơi một chút.

Trợ lý Lương như được đại xá, liền lập tức ngồi phịch xuống. Gã đã mệt đến mức sắp ngã đến nơi, mồ hôi đầm đìa, chân không ngừng run rẩy, cơ hồ đứng cũng không vững. Tôi ngồi xuống trên chạc cây, hai chân phải lơ lửng giữa không trung thoạt chẳng vững chắc chút nào. Đến nghỉ mà cũng khổ như vậy.

Lão Dương thấy tình hình chúng tôi căng quá liền quăng cho một ít lương khô để có cái mà nhai, nói: “Nhìn mấy người thế này không xong rồi, muốn lên đỉnh còn phải tới hơn trăm mét nữa, sức đuối như vậy có khi phải lê lết ở đây mất một đêm. Ê lão Ngô, nếu không thì cậu với tớ tán chuyện tí cho thư giãn?”

Tôi mệt đến độ mở miệng ra còn thấy ngại, mắng hắn: “Biến, cậu thì không mệt chắc?! Xem cẳng chân thì run như cầy sấy thế kia, cậu thích tán chuyện thì cứ tự biên tự diễn đi, ông đây không dư sức!”

Lão Dương cắn một miếng bánh bột ngô: “Nói thì nói chứ sao, có điều cậu trả lời cho tớ một câu này đã. Lão Ngô, cậu thử phát biểu xem, chúng ta phát hiện ra thứ này mà thông tri với chính phủ thì có được lấy tên mà đặt cho nó không nhỉ?”

Đối với vấn đề này thì đúng là tôi hoàn toàn mù tịt, liền quay lại nhìn trợ lý Lương. Trợ lý Lương thở hổn hển khoát tay: “Dương gia này, anh đã bao giờ nghe nói tới những đồ cổ như ‘Đỉnh vuông Vương Nhị mặt rỗ’ hay ‘Cốc ba chân Triệu Thổ Căn’ chưa? Từ trước đến giờ những người phát hiện ra quốc bảo hầu hết đều là nông dân hoặc công nhân xây dựng, anh phải lấy luôn tên bọn họ mà đặt. Như thế cũng có cái hay. Chúng ta tất nhiên là không có ý kỳ thị nhân dân lao động, nhưng tên của người Trung Quốc không giống tên nước ngoài, cứ thế mà mang ra đặt anh không thấy nghe có vẻ rất bần cùng sao?”

Lão Dương ngẫm nghĩ thấy cũng có lý, lại hỏi tiếp: “Nhưng ít nhất cũng phải cho chúng ta cái quyền đặt tên đúng không? Các hòn đảo khi được phát hiện chẳng phải lấy luôn tên người đầu tiên phát kiến mà đặt à?”

Trợ lý Lương đáp: “Đúng là có quy ước như vậy, có điều tôi chưa nghiên cứu bao giờ.”

Tôi bảo lão Dương: “Hỏi cái này làm gì, tiền cậu còn chưa kiếm ra đã lại lên cơn thèm hốt cả danh lẫn lợi rồi rồi. Cậu ngồi thử ngẫm lại xem một người không liên quan thì mò tới chỗ này chơi không ngắm cảnh chắc? Cậu đang giở trò gì đưa mắt nhìn qua cũng biết.”

Lão Dương nói: “Tớ thấy thứ này ngắm cũng hay hay, cậu nói xem cái cột đồng to như vậy đặt tên gì thì hợp? Hai người cũng nghĩ thử đi, về sau chúng ta mang ra khoe khoang còn thống nhất cách nói.”

Cái suy nghĩ chán chết đó làm tôi thấy phát nhảm chẳng muốn động đến thêm nữa liền nói với hắn: “Tính ra thì cậu là người đầu tiên phát hiện, cho cậu đặt đấy. Tôi đối với cậu tốt đến thế là cùng.”

Lão Dương ngẩng đầu ngắm nghía: “Tớ vừa nhìn thấy vật này trong đầu đã nảy ra một cái tên, đặt cái cột này là ‘Ngã ái nhất điều sài’

(*)

, nghe thế nào?”

(*)Tên của giang hồ đệ nhất xuân dược trong phim Lộc Đỉnh Ký chi Thần Long Giáo, có Châu Tinh Trì 

Tôi nổi khùng: “Cậu lậm phim chưởng quá rồi đúng không? Cậu ‘ái nhất điều sài’, đặt tên này ra ngoài đảm bảo sẽ bị sét đánh chết!”

Lão Dương bật cười, trợ lý Lương cũng lắc đầu cười. Có một chút thời khắc vui vẻ này, ai ai cũng được thư giãn.

Chúng tôi ăn xong đều hồi sức được kha khá, lão Dương liền giục giã tiếp tục leo lên. Tôi vừa nhấc chân định đi bỗng thấy là lạ, nhìn kỹ thì thấy…Ấy, hỏa đàn bên cạnh cửa đã tắt ngấm từ khi nào rồi?

Lão Dương nhíu mày: “Chắc là gió trong này thổi tắt chứ gì?”

Tôi lắc đầu đáp không phải, hỏa đàn lớn như vậy, so với cái tôi làm chuyên nghiệp hơn vạn lần, gió không thể thổi tắt được. Trừ khi bên dưới đã xảy ra chuyện bất thường.

Đang nghĩ ngợi bỗng cả cây đồng chấn động, tuy rất nhẹ nhưng vẫn giống như có gì đó đụng phải. Trợ lý Lương hít một hơi khí lạnh, vội hỏi sao lại thế này.

Lão Dương ra hiệu cho chúng tôi chớ có lên tiếng, sau đó khum tay thành hình loa áp vào vách cây, vừa nghe xong đã biến hẳn sắc mặt: “Bỏ mẹ rồi, hình như có gì đang trèo lên thì phải!”

Chương 23: Vết rách

Editor: Dứa

Beta: Tiểu Điệp

Tôi chợt thấy căng thằng, nhớ tới mấy người kia, từ khi bọn tôi ngã xuống thác nước  vẫn không thấy tin tức gì của họ, chẳng lẽ là họ đã tới được đây rồi? Thế cũng không đúng, Hỏa Long trận bên ngoài còn lâu mới tắt, mộ thất cũng đã sập, họ hẳn chưa thể đến nơi này được. Thứ hai, nếu họ muốn đi lên thì phải có gì đó để chiếu sáng, đuốc thì đã tắt rồi, phía dưới lại không thấy ánh đèn pin, họ làm sao mà lên được.

Thế thì thứ đang tiến đến là cái gì?

Tôi nghĩ tới đó mà toàn thân đổ mồ hôi lạnh. Chúng tôi đang cách mặt đất hơn mười mét, không gian di chuyển hạn hẹp, không tiện cử động mạnh, giờ mà gặp chuyện bất ngờ, thật lòng tôi cũng không biết phải ứng phó làm sao.

Lão Dương ném cho tôi một ánh mắt, ý bảo tiên hạ thủ vi cường

 (ra tay trước thì chiếm được lợi thế)

, chúng ta xuống đó trước xem sao. Tôi khoát tay ý bảo cậu ta bình tĩnh, bây giờ địch trong tối, ta ngoài sáng, không thể manh động. Nếu thực sự là đám người kia mò lên, giờ chúng tôi mà xuống ắt không tránh khỏi một trận ác chiến, súng đạn không có mắt, khoảng cách gần như vậy chắc chắn sẽ lưỡng bại câu thương 

(cả hai bên đều chịu thiệt)

.

Nghĩ vậy, tôi bỗng nảy ra một kế hoạch, lập tức cởi dây lưng, buộc bó đuốc vào một nhánh cây gần đó, còn mình cùng lão Dương và trợ lý Lương nấp vào một chỗ ánh sáng không chiếu tới được.

Mấy người phía dưới nhìn lên chỗ chúng tôi chỉ có thể thấy ánh đuốc mà thôi, nếu như giờ chúng tôi cũng trốn vào chỗ tối sẽ có thể phản khách thành chủ 

(từ bị động trở thành chủ động) 

khiến họ trở tay không kịp.

Cả ba đều nín thở, lấy tay làm thành ống nghe úp vào vách đồng, có thể cảm nhận được một thứ rung động nhè nhẹ từ xa truyền đến, gấp gáp và hỗn loạn, giống như có rất nhiều móng tay đang gãi vào những đường vân trên thân cây. Tôi càng nghe càng thấy không ổn, bọn người kia chỉ có hai tên, đâu thể phát ra âm thanh dày đặc như vậy được, không lẽ là bọn chuột dưới kia theo lên?

Tôi thật hối hận lúc nãy đã không xử lý cái đạo động kia cho tốt, lòng thầm chửi một tiếng, chuyển súng sang tay phải, lão Dương phía trên cũng đã lên đạn, cả hai đã sẵn sàng để tấn công bất cứ lúc nào.

Người ở dưới di chuyển rất nhanh, không chút do dự, thoắt cái đã gần áp sát chỗ chúng tôi. Tuy nhiên hắn ta lại chưa tiến vào phạm vi chiếu sáng của ngọn đuốc, tôi chỉ có thể thấy được hình dạng mờ mờ, vừa giống vừa không giống bóng người. Tôi căng thẳng đến mức lòng bàn tay ướt đẫm mồ hôi, chỉ vài giây ngắn ngủi này mà tưởng như thời gian đã ngừng hẳn lại.

Bỗng nhiên sắc mặt lão Dương ở dưới cùng trở nên vô cùng kinh khủn, hét lớn: “Mẹ nó! Leo lên! Mau leo lên!” Chưa đợi hắn dứt lời, trợ lý Lương như cũng thấy được gì đó, kêu lên một tiếng thảm thiết đầy kinh hãi, cả hai như thấy quỷ, vội vội vàng vàng leo lên trên.

Tôi không biết bọn họ cuối cùng là thấy thứ khủng bố gì, theo bản năng quay xuống nhìn, chỉ thấy có gì đó mờ mờ đang di chuyển trong bóng tối. Lão Dương ngoái lại thấy tôi vẫn đứng im, gào lên: “Tiểu Ngô, cậu còn đứng đần mặt ở đó làm cái mẹ gì hả, chạy mau!”

Tôi thấy sắc mặt tái nhợt của hắn, bụng đánh thót một cái, thôi thì mặc kệ cái gì đang xảy ra, tôi rút bó đuốc, mím môi mím lợi leo lên.

Tôi cũng bị hai người kia ảnh hưởng, trong lòng vô cùng căng thẳng, lại chẳng biết bên dưới là thứ gì, càng leo lên càng cảm thấy ớn lạnh cả người, càng thấy ớn lạnh cả người lại càng leo nhanh hơn, cuối cùng rơi vào trạng thái gần như điên cuồng, chỉ thấy da đầu run lên, toàn thân cứng ngắc, trong đầu chỉ tâm tâm niệm niệm là phải đi theo bọn họ, ngoài ra chẳng nghĩ được gì nữa.

Tầm năm phút sau, trợ lý Lương phía trên tôi cuối cùng cũng dừng lại. Tôi leo lên chỗ hắn mới phát hiện, không phải hắn dừng để nghỉ mà là vì đã kiệt sức rồi, mặt cắt không còn giọt máu, xem ra đã quá sức chịu đựng.

Mồ hôi hắn tuôn như mưa, thấy tôi vẫn đang trèo lên, bèn túm lấy cổ chân tôi: “Chờ… chờ một chút! Đừng… đừng bỏ tôi lại! Tôi… tôi chỉ nghỉ một chút thôi, rồi lại leo lên với cậu!”

Tôi bị anh ta níu lại, thấy chân mềm nhũn ra không còn chút lực nào, dường như không tuân theo sự điều khiển của tôi nữa, bắt đầu run lẩy bẩy.

Leo trèo từ nãy tới giờ đều là hoạt động cường độ rất cao trong hoàn cảnh cấp bách, cơ thể đã sớm không chịu đựng được, lúc này tôi đang trên đà leo lên, rất tốn sức, chẳng kịp suy nghĩ gì nhiều. Bây giờ đã lỡ dừng lại rồi, cơ thể lập tức mất khống chế, có cố gắng đến đâu cũng bó tay.

Lòng tôi nóng như lửa đốt mà lại chẳng biết làm sao, nhìn lên vùng tối đen phía trên chưa biết còn cao bao nhiêu nữa, không tránh được rùng mình, tự hỏi còn phải trèo tới ngày tháng năm nào đây. Mà tới đỉnh rồi thì sao, còn phải đánh một trận hoành tráng, lúc đó cả người nhũn như con chi chi, sợ rằng đến cây súng còn không nhấc nổi. Nghĩ đến đây tim tôi dằn mạnh một cái, thuận tay đưa cây đuốc cho trợ lý Lương, rút súng chĩa xuống dưới, nói với anh ta: “Đi cái rắm! Mẹ nó chứ, tôi cũng đếch đi được nữa rồi, quên đi, mặc kệ bên dưới là thứ gì, ông đây liều mạng với mày!”

Trợ lý Lương nghe tôi nói thế, mặt méo cả lại, tưởng như sẽ xỉu ngay tại trận, một phát rớt thằng xuống dưới. Tôi nhanh tay đỡ lấy hắn, nhìn chung quanh mới phát hiện không thấy lão Dương, bèn hỏi: “Lão Dương đâu? Ở trên hay ở dưới chúng ta?”

Trợ lý Lương đến mở miệng cũng không nổi, khoát khoát tay chỉ xuống dưới.

Tôi nhớ rõ lúc nãy chúng tôi leo một mạch như điên, lão Dương thấy tôi cầm đuốc bèn đi bọc hậu cho tôi, vậy tức là hắn vẫn còn ở dưới. liền vội vàng bảo trợ lý Lương lấy cây đuốc soi thử. Ánh sáng vừa chiếu tới nơi tôi đã bị dọa đến thất hồn lạc phách, bên dưới có một người, bộ dạng như khỉ đang dựa vào thân cây thanh đồng, vô cảm nhìn chúng tôi.

 Gương mặt người này cũng từa tựa như lũ nhóc choai choai bình thường, ngũ quan như thể tượng đá, không có chút hơi người nào. Lúc trợ lý Lương đưa cây đuốc xuống soi, hắn bỗng nhiên hơi lùi về phía sau, hình như là sợ lửa. Nhưng trên khuôn mặt vô cảm kia lại hiện lên nét cười như có như không, quỷ dị đến tột đỉnh.

Tôi nhìn gương mặt ấy mà sợ run cả người, thầm nghĩ lão Dương vẫn còn ở dưới, giờ lại chắng thấy tăm hơi, không lẽ đã xảy ra chuyện? Nhưng tôi lập tức nghĩ tới chuyện hắn vẫn có súng trong tay, nếu gặp chuyện không lẽ lại không nổ súng, mà tôi thì từ nãy tới giờ không nghe thấy tiếng súng, có lẽ hắn đã nấp ở đâu đó rồi cũng nên.

Trợ lý Lương vừa nhìn thấy kẻ kia thì hồn vía đã rủ nhau leo tuốt lên mây, rú lên một tiếng quái dị rồi lại ba chân bốn cẳng bò lên trên, tôi muốn ngăn mà không kịp, quay đầu nhìn xuống phía dưới thì lại phát hiện gương mặt bự chảng của con quái kia đã gần áp sát chỗ tôi.

Lúc nãy nhìn từ xa còn tàm tạm, giờ là zoom cận cảnh khuôn mặt kia đang nhăn nhở cười gần chân mình, làm gì có ai không hoảng hốt cho được. Trong lúc rối trí, tôi theo phản xạ bóp cò súng, chỉ nghe một tiếng “đoàng”, họng súng khạc ra một ngọn lửa, phóng thẳng vào giữa mặt quái nhân kia.

Súng nổ cự ly gần, đạn sắt găm nát khuôn mặt của hắn, đồng thời hất hắn rơi khỏi cây thanh đồng, rơi vào bóng tối phía dưới.

Tôi không ngờ súng lục lại hiệu quả như vậy, thở phào nhẹ nhõm, đang định leo lên kéo trợ  lý Lương lại, đột nhiên từ chỗ quái nhân kia vừa rơi xuống lại xuất hiện thêm hai khuôn mặt lớn trắng bệch khác. Tôi luống cuống bóp cò hai cái, nhưng cả hai lần đều không bắn được, mới nhớ ra súng này chỉ còn hai viên đạn thôi, muốn bắn tiếp thì phải nạp đạn.

Nhưng trong tình cảnh này làm gì có thời gian cho tôi thong thả nhét đạn vào chứ, tôi vừa mở hộp đạn ra, một bàn tay đã chộp ngay lấy bả vai tôi. Tôi giật mình quay lại, thấy một gương mặt khổng lồ đang dán sát vào mũi, mới biết một tên trong đám quái nhân kia đã mò tới sau lưng mình tự lúc nào.

Trợ lý Lương đã mang cây đuốc đi khá xa rồi, không gian quanh tôi lại mờ mịt trở lại, thành ra tôi không thể nhìn rõ ngũ quan của kẻ nọ, đành phải chó cùng rứt giậu, liều mạng đi lên.

Lần này tôi dùng toàn lực, chẳng ngờ mặt của hắn lại cứng như đá vậy, đầu tôi đập vào nghe ông một tiếng, suýt chút nữa tuột tay rơi thẳng xuống. Chợt nghe tiếng lão Dương kêu lên: “Tránh ra!”, rồi lại “đoàng” một tiếng, viên đạt sượt qua đầu tôi đập vào nhành cây bằng đồng bên cạnh, bắn ra tia lửa tung tóe.

Tôi bị chấn động đến gần mê man, vội vàng lui sang một bên, sờ lên mặt thấy ươn ướt mới hoảng hồn, hóa ra áp suất của viên đạn lúc nãy đã rạch một đường trên mặt tôi. 

(Sẹo là chiến tích của người đàn ông =))*lăn lộn*)

Lão Dương phía dưới tiếp tục nổ súng, đạn bắn tán loạn, lửa tóe khắp nơi, có điều chẳng viên nào trúng mục tiêu

(-,-)

, toàn bộ đều đập vào thân đồng, thậm chí có vài viên còn bắn ngược trở lại, bay tới bay lui như mấy viên bi trước mắt tôi.

Tôi chẳng còn tâm trí nào để tâm đến đám quái vật kia, chỉ lo tránh trái tránh phải, lòng chửi loạn cả lên, lão Dương này bắn súng thật tệ,còn tiếp tục như thế này không khéo hôm nay chết trong tay hắn!

Có điều mấy viên đạn ấy đã cho tôi chút thời gian xoay xở. Bọn quái nhân kia có vẻ sợ súng, lui lại phía sau cả, tôi thừa cơ lấy ra hai viên đạn lắp vào hộp đạn, lên nòng, bắn thẳng vào mặt tên quái gần nhất, hất hắn rơi khỏi thân cây.

Tôi giải được mối nguy trước mắt, quay xuống nhìn qua chỗ lão Dương, phát hiện thêm một đống quái đang mò tới, ít nhất cũng phải có đến mười cái mặt bự chảng. Bọn nó hình như thích tôi lắm thì phải, gần như đồng thời xông lên, nhè vào tôi mà tấn công như thể bị ma nhập.

Tôi thấy thế mà hết hồn, thực sự không hiểu nổi đây là thể loại gì nữa, nhìn thân thể thì giống người, có điều làm gì có người nào lại có tướng leo cây giống hệt khỉ núi thế này. Hơn nữa đầu của đám quái vật này to như vậy, hoàn toàn không phải kích cỡ người thường. Có điều nếu không phải người thì đây là thứ quái quỷ gì chứ?

Trong nháy mắt đã có hai tên quái nhảy tới cạnh tôi, một tên kéo chân, một tên đè cổ tôi xuống, tôi biết không kịp nạp đạn nữa, đành lấy báng súng làm vũ khí, đánh mạnh vào mặt tên quái vật.

Tôi vốn định đánh tên quái này văng xuống đất, ai dè nó chỉ hơi ngửa đầu ra sau một chút rồi lại cúi xuống chỗ tôi. Tôi chợt nhận ra, giữa khuôn mặt to lớn kia, “rắc” một tiếng, xuất hiện một vết rách.

Chương 24: Ngã chết

Editor: Biển
Beta: Tiểu Điệp

********

Tôi thoáng sững sờ, thầm hỏi đây là chuyện gì, sao mà mặt lại có thể bị rạn nứt? Da mặt có thể khô đến mức đó sao? Không để tôi kịp nhìn kỹ, con quái vật phía dưới đang nắm chân tôi đột nhiên kéo giằng một cái khiến tôi lảo đảo. Thứ này mạnh kinh khủng, tôi hoàn toàn không có cách nào đấu sức với nó, đành phải theo đà kéo nhảy xuống, ngay sau đó một tay chụp lấy chạc cây thanh đồng bên cạnh, một tay dí súng vào cổ họng con quái vật bóp cò một phát, chỉ nghe đoàng một tiếng, đầu nó đã bị nổ tanh bành.

Mỗi lần sử dụng khẩu súng này đều rất khó khăn, sức giật khủng khiếp thiếu điều hất tôi văng khỏi chạc cây, tôi phải nghiến chặt răng mới giữ được cả người lẫn súng. Cái xác không đầu ở bên cạnh bị lực đẩy hất ra khỏi cây thanh đồng, nhưng tay của nó vẫn còn giữ chặt chân tôi, nguyên cái xác treo lơ lửng dưới chân kéo ghì tôi xuống dưới.

Một tay tôi không thể chịu nổi trọng lượng của cả hai cơ thể, đành cố tìm một chạc cây có thể nhảy xuống rồi mới tìm cách hất cái xác kia ra. Lúc này con quái vật bị tôi đánh nứt mặt đột nhiên đổi hướng quay xuống, chụp lấy cổ tôi kéo lên trên. Cổ tôi như bị vòng kim cô khóa chặt, một chút không khí cũng không hít vào được, mặt mũi đỏ bừng. Trong tình thế cấp bách, tôi vung Phách tử liêu lên đập luôn vào mặt nó mấy cái.

Tôi ra tay rất mạnh, mấy cú đó nếu táng lên mặt người bình thường thì đảm bảo mặt mũi biến dạng. Con quái kia bị tôi đánh cho đơ người, lắc đầu lia lịa muốn tránh né. Một cú phang cật lực của tôi rơi ngay vào cái khe trên mặt nó. Con quái vật rú lên một tiếng, đột nhiên buông tôi ra rồi nhảy lên chạc cây phía trên, điên cuồng ôm lấy mặt mình.

Tôi mất điểm tựa, toàn bộ sức nặng lại đổ lên cánh tay. Tôi không còn trụ nổi nữa, tuột tay rơi xuống chừng hơn một mét, vội ôm chặt lấy một chạc cây thanh đồng để dừng lại. Ngẩng nhìn lên chỉ thấy khuôn mặt của con quái vật kia đã hoàn toàn bị vỡ vụn bóc ra thành nhiều mảnh nhỏ màu trắng như váng sữa rơi xuống.

Rất nhanh, tất cả những mảnh nhỏ màu trắng đã rơi xuống toàn bộ. Tôi đón được một mảnh, không ngờ đó lại là đá, chẳng lẽ những người này đều là tượng cả sao? Ngẩng lên nhìn lại thì thấy sau khi mặt đá rớt ra, bên trong vẫn còn có một khuôn mặt lông vàng rậm rạp.

Tôi nhìn kỹ khuôn mặt đó, đột nhiên hiểu ra, liền quay xuống dưới hét lớn: “Lão Dương! Tôi biết cái đám chết tiệt này là gì rồi, mẹ nó chứ tụi này là khỉ, toàn là khỉ bự!”

Lão Dương ở trong bóng tối bên dưới, không thấy rõ được hắn đang thế nào, chỉ nghe hắn trả lời: “Khỉ ông nội cậu ấy! Làm gì có khỉ nào mà mặt người, chẳng lẽ là khỉ thành tinh!”

Tôi hét lớn: “Đó không phải là mặt người mà là mặt nạ! Mấy con khỉ này đeo mặt nạ người bằng đá!”

Lão Dương đã bò lên từ bóng tối bên dưới, quần áo trên người đã bị xé thành từng mảnh, hắn nói to với tôi: “Là gì kệ cha nó! Khỉ thì sao, cậu đánh thắng được bọn nó à?”

Tôi nhìn xuống bên dưới hắn, thấy có những bóng đen nhấp nhổm, không biết là có đến bao nhiêu con khỉ đeo mặt nạ đang đuổi theo. Tôi lại leo lên vào mét nữa ròi mở băng đạn ra kiểm tra, đạn màu đỏ đã dùng hết, chỉ còn lại mấy viên màu lam, đại khái không phải là thiết sa đạn, mà là loại đạn thép như viên bi, loại này ở cự ly xa uy lực không tệ, nhưng vẫn không thể bằng loại đạn thiết sa tác dụng tương đương như pháo kia được. Tôi vừa thấy mấy con khỉ leo lên, hai tay liền giữ chặt báng súng bắn liên tiếp hai phát xuống dưới.

Đạn bi thép văng ra ngoài, uy lực giảm đi nhiều nhưng lại phát huy phạm vi sát thương rất lớn, mấy con khỉ gần nhất bị trúng đạn máu me be bét, đằng xa cũng không ít con bị thương, nếu có thể bắn liền năm phát, tôi thậm chí có thể xử lý toàn bộ đám này.

Bầy khỉ dường như đã khiếp sợ uy lực của Phách tử liêu, cả lũ giảm tốc độ tiếp cận rồi chuyển qua nối gót lão Dương đuổi theo trợ lý Lương. Con khỉ bị tôi đánh vỡ mặt nạ đã bắt đầu biết sợ, nhe răng hăm dọa chúng tôi rồi phóng như bay sang một bên lẩn trốn. lão Dương ngơ ngác nhìn tôi, hỏi: “Mẹ nó chứ, đúng là khỉ, đây là chuyện gì vậy?”

Tôi cũng cảm thấy vô cùng kỳ quái, những cái mặt nạ kia là do ai đeo lên cho chúng? Vì lý do gì mà phải đeo như vậy? Trên mặt nạ không thấy có lỗ mắt, cũng không có phần miệng, vậy thì bình thường bọn chúng sống như thế nào?

Trợ lý Lương đã kéo chúng tôi xuống hơn mười mét, lúc này đang gục ở một bên thở dốc. Chúng tôi nhanh chóng leo sang chỗ gã mới thấy khuôn mặt gã vô cùng hoảng hốt, may mà chỗ này chạc cây dày đặc, cả người gã vướng lại đây không đến nỗi bị rơi xuống, cây đuốc rơi bên dưới gã một chút, kẹt lại giữa một chạc ba.

Lão Dương với qua lấy cây đuốc, một tay vung lên đánh vỡ mặt một con khỉ, súng ngắn đã hoàn toàn hết đạn, hắn định tiện tay ném luôn, nhưng đưa lên nửa chừng lại thấy tiếc, cuối cùng nhét nó trở lại thắt lưng, sau đó huơ huơ đuốc xuống dưới, định dùng ngọn lửa đẩy lùi đám khỉ. Bầy khỉ quả nhiên có hơi sợ hãi, cây đuốc huơ đến đâu thì chúng lùi lại đến đó, nhưng đuốc vừa chuyển sang chỗ khác là chúng liền xông lại, hoàn toàn không cho chúng tôi kịp thở.

Lão Dương đứng vung vẩy nửa ngày, chẳng những không đuổi được chúng đi mà vòng vây lại ngày càng xiết chặt. Tôi kéo kéo trợ lý Lương, gã bây giờ giống như đống bùn nhão không động đậy gì được, lão Dương kêu to: “Mặc kệ hắn, trụ không nổi nữa rồi, rút lui!”

Tôi gấp đến cuống cả lên, thật muốn cho trợ lý Lương một đạp để gã rơi xuống luôn cho rồi, nhưng tên này cũng chẳng phảo là kẻ hung ác, lúc này tôi thực sự không làm vậy được. Tôi đỡ gã lên, cố gắng kéo về phía trước một chút, nhưng ngược lại, mông gã bị trượt khỏi hai chạc cây rơi xuống, tình huống càng trở nên tệ hại.

Lão Dương dùng cây đuốc đuổi được một con khỉ ra xa, lớn giọng mắng tôi: “Chết tiệt! Rốt cuộc là cậu đang làm cái khỉ gì, tên này cũng chả cùng nhóm với chúng ta, nếu mọi chuyện suôn sẻ, nói không chừng hắn đã đem cậu đi làm thịt luôn rồi, mẹ nó chứ cậu đừng có ở đó mà bày trò ưu đãi tù binh.”

Tôi nạp thêm đạn, lại bắn thêm hai phát, hai tiếng nổ vang lên, đánh bay năm con khỉ, cả bầy bị đẩy lùi gần chục mét, sau đó tôi bỏ nốt hai viên đạn cuối cùng vào, vừa định bắn luôn rồi tính, đột nhiên trợ lý Lương chụp lấy tay tôi, thều thào nói: “Bọn chúng sợ lửa, đạn tín hiệu…”

Tôi nghe vậy liền sực tỉnh, lão Dương phản ứng rất nhanh, xoay tay rút ngay súng báo hiệu ra, nhìn tôi hỏi: “Bắn thế nào bây giờ, có trực tiếp bắn xuống cũng vô dụng!”

Tôi giật lấy súng báo hiệu, nhắm vào tường đá đối diện rồi bắn, đạn tín hiệu nhanh như chớp bay đập vào tảng đá cách xa mấy chục mét rồi bắn ngược trở về đập vào cây thanh đồng, cứ dội đi dội lại hai ba lần như vậy rồi bất ngờ bùng sáng lên ngay giữa bầy khỉ, nhiệt độ cực cao lập tức thiêu cho cả bầy chạy tán loạn. Tôi không để cho quả đầu tiên kịp tắt, lại bắn tiếp viên đạn thứ hai, lập tức cả không gian chìm trong màn ánh sáng trắng chói lòa.

Lão Dương bị chói đến hoa mắt, suýt nữa thì ngã xuống, tôi kéo đầu hắn qua một bên, hét to: “Đừng nhìn! Khoảng cách quá gần, ánh sáng này còn gắt hơn ánh sáng hàn điện trăm lần, sẽ bị bỏng võng mạc đấy!”

Cả ba đồng thời nhắm mắt lại, nhưng vẫn có thể cảm giác được ánh sáng chói lòa dường như xuyên suốt qua cả mi mắt. Bầy khỉ bị ánh sáng dọa cho điên loạn, chúng tôi chỉ nghe một trận hỗn loạn xảy ra phía dưới, cùng với mùi da thịt bị cháy khét.

Cũng chẳng biết qua bao lâu, luồng ánh sáng bỏng rát mới dịu lại. Tôi nheo nheo mắt cố hé nhìn xuống phía dưới, bầy khỉ đã chạy mất, đôi mắt tôi bị chói đến phát bỏng, nhìn mọi thứ chỉ có thể thấy được mờ mờ, lão Dương lại càng thảm, nước mắt chảy ròng ròng, phải lấy tay dụi liên tục, còn trợ lý Lương đã hoàn toàn hôn mê bất tỉnh, nếu không phải nhờ tôi giữ cổ áo gã thì gã đã rớt xuống luôn rồi.

Tôi không thấy bầy khỉ đâu liền thở phào nhẹ nhõm, cũng không biết là bọn chúng sợ nhiệt độ cao hay là sợ kiểu ánh sáng mạnh như thế này nữa, nếu vừa nãy bọn chúng nhìn thẳng vào nguồn sáng, đảm bảo hết tám chín phần là bọn nó bị mù luôn rồi, không có chuyện dễ dàng khôi phục trong dăm bữa nửa tháng. Nghĩ vậy tôi liền thở phào nhẹ nhõm, lo lay tỉnh trợ lý Lương. Tôi xốc ngang cánh tay đỡ người gã dậy định kéo lên trên, nhưng tên này thật sự đúng là phế vật, tôi chỉ có thể dìu được gã đứng dậy, còn muốn đưa gã rời khỏi vị trí hiện tại thì hoàn toàn hết cách.

Sau khi để gã ngồi lại vững vàng, tôi quay sang kiểm tra lão Dương, hắn nheo mắt, vừa chửi thề vừa nhổ nước bọt, nhưng cuối cùng vẫn có thể nhìn thấy, hắn nói với tôi: “Con mẹ nó, bắn cũng không thèm nói trước một tiếng, tôi mà bị mù thì tôi liều mạng với cậu.”

Tôi mắng lại: “Mẹ nó chứ, cậu còn mặt mũi mà nói à, có biết tôi vừa cứu mạng cậu không? Hơn nữa cậu có mù đâu.”

Lão Dương nhìn nhìn xuống phía dưới: “Đừng nói nữa, trò này đúng là hữu hiệu, đám khỉ bỏ chạy hay chết cháy cả rồi?”

Tôi nói với hắn có lẽ chết cháy là không có khả năng, chắc là tạm thời bị đẩy lùi, nói không chừng còn có thể leo lên nữa, nhưng nếu chúng ta đã tìm ra cách đối phó với chúng thì cũng không cần phải sợ nữa, đạn tín hiệu vẫn còn mấy phát, cũng đủ đối phó thêm vài lần.

Những cái mặt nạ mà đám khỉ này đeo được làm rất tinh tế, điêu khắc quả là rất giống người thật, chẳng lẽ lại có quan hệ với những pho tượng chúng ta đã nhìn thấy trên vách núi sao? Nhưng vì sao bọn chúng lại tấn công chúng ta?

Thật ra trước kia tôi có xem qua một quyển sách, nói rằng có một nền văn minh cổ đại hay huấn luyện những con tinh tinh để canh phòng giếng mỏ, sau khi nền văn mình cổ đại ấy bị hủy diệt, những con tinh tinh lớn đó lại đem những nội dung huấn luyện giết chóc mà chúng đã học được ra truyền lại cho đời kế tiếp, cứ như vậy cho đến mấy ngàn năm sau, hậu duệ của những con tinh tinh đó vẫn canh phòng giếng mỏ như cũ, thành ra những đội thám hiểm đi đến những nơi ấy để thăm dò hầu như bị giết sạch.

Nhưng những con khỉ này tất nhiên không thông minh bằng loài tinh tinh lớn, lẽ ra không thể làm được chuyện có mức độ khó cao như vậy. Tôi vốn định hỏi trợ lý Lương, nhưng vừa nhìn đến sắc mặt gã thì biết có hỏi cũng uổng công, người này đã hoàn toàn rơi vào khủng hoảng mất rồi, nếu còn không được nghỉ ngơi, e rằng gã sẽ phát điên luôn mất.

Chúng tôi đợi ở đó gần mười mấy phút, cuối cùng không thấy có con khỉ nào xuất hiện bên dưới nữa mới thở phào nhẹ nhõm. Lão Dương lấy ra một ít thức ăn đưa cho chúng tôi nhưng bị từ chối, vấn đề bây giờ không phải là đói mà là nghỉ ngơi không đủ, coi như cậu trực tiếp cho tôi ăn đường glucose tôi cũng không cách nào lết đi cho nổi.

Tôi dựa người trên mấy chạc cây, gối đầu trên ba lô, chỉ một thoáng liền thấy buồn ngủ, lão Dương với trợ lý Lương thì mơ mơ màng màng chẳng hơi đâu mà nói gì đến tôi. Ngay vào lúc tôi sắp ngủ thì bất thình lình có âm thanh va chạm liên tiếp từ phía trên truyền xuống, đồng thời cả cây thanh đồng rung mạnh từng hồi giống như có một con quái vật khổng lồ đang từ từ bò xuống.

Tôi thầm than thôi xong rồi, chỉ sợ lúc nãy đối phó với bầy khỉ đã lỡ đụng chạm đến thành phần nguy hiểm nào đó, chẳng lẽ lại là “Hộ Pháp” từ trên đó xuống sao? Đang không biết nên trốn vào đâu, đột nhiên có một bóng đen hạ xuống nhanh như chớp, rơi mạnh vào giữa chạc cây, một dòng dịch thể tanh hôi bắn lên mặt tôi.

Cú va chạm này vô cùng mạnh, cả cây thanh đồng đều bị chấn động, tôi còn suýt nữa bị ngã xuống, cả ba chúng tôi đều bị dọa cho hết hồn hết vía, một hồi lâu sau mới kịp phản ứng.

Lão Dương là người lấy lại bình tĩnh sớm nhất, hắn giơ cao cây đuốc soi cho chúng tôi qua xem là thứ gì rơi xuống. Chúng tôi đến gần quan sát mới thấy, không ngờ đó là một người bị kẹt lại giữa chạc cây, cơ thể méo mó vô cùng mất tự nhiên, ánh mắt trợn to, mặt mũi đẫm máu, xương sườn lòi cả ra ngoài, vừa nhìn liền biết là chết vì bị ngã từ trên cao xuống.

Lão Dương đưa cây đuốc đến gần mặt người chết, bỗng nhiên kêu lên: “Khỉ chứ, là con rùa già họ Thái kia. Hóa ra cha này vẫn đi phía trước chúng ta, chẳng trách không thấy bọn họ đâu cả!”

Trợ lý Lương run rẩy đi qua, quan sát một lượt, lại đè lên ngực xác chết, máu liền trào ra từ miệng và mũi, gã thờ dài nói: “Chết vì ngã từ trên cao xuống, nội tạng nát hết cả rồi, sao lại bất cẩn để bị ngã như vậy?”

Tôi nhìn xuống phần chân, xương cốt đã lòi ra ngoài, cả cơ thể méo mó kỳ dị, chắc là do lúc rơi xuống bị va liên tục vào mấy cành cây đồng thau nên mới thành như vậy. Trợ lý Lương lại ấn lên tay chân xác chết, chợt gã hít vào một hơi lạnh: “Hai cậu, xem ra bên trên không phải là cao bình thường, các cậu nhìn lão Thái xem, toàn bộ xương ống đều gãy vụn, nếu không phải rơi từ độ cao hàng trăm mét xuống thì cũng chẳng thể thành ra như vậy được.”

Tôi không khỏi âm thầm than khổ, vừa rồi cả bọn cứ cắm đầu cắm cổ mà leo, lên đến đây chắc cũng được khoảng năm sáu chục mét đã mệt rũ người ra kiểu này, nếu phía trên thực sự cao đến vậy thì làm sao mà leo cho nổi. Mà dù cho có leo lên được thì e rằng cũng đã đuối sức, làm không xong thì cũng sẽ dập thành mười tám khúc giống như ông chú này vậy.

Nghĩ đến đó, tôi và trợ lý Lương đều lộ ra vẻ mặt khổ sở.

Lão Dương chẳng hề nhìn thấy con đường phía trước mù mịt ra sao, thấy hai người như vậy liền vỗ vai tôi, rằng cho dù có mấy trăm mét, đường ngang thì cũng chỉ chạy vài giây là xong, chẳng qua bây giờ bị dựng lên thôi, có gì đáng lo đâu. Tôi nói dẹp cha cậu đi cho rồi, nói như cậu thì Everest chỉ cao có 8848 mét, cậu đạp xe đạp nửa giờ thì lên luôn đến đỉnh rồi! Bây giờ không phải là chúng ta chống lại lực ma sát mà là lực hấp dẫn của trái đất, biết không?

Lão Dương khoát tay với tôi tỏ vẻ không muốn tranh luận nữa, nói rồi đi qua tháo ba lô lên lưng lão Thái kia lôi hết đồ đạc bên trong ra ngoài xem thử có thứ gì chúng tôi có thể sử dụng không. Vừa nhìn qua liền mừng như điên, trong nhóm của trợ lý Lương, ông chú này với tên thanh niên gọi là Nhị Ma Tử kia là người mang những trang bị quan trọng, hầu hết thứ  gì cũng có, đạn súng ngắn, vài ngòi nổ, súng tín hiệu, dây thừng, mừng nhất là đã tìm được một cái đèn pin, khỉ chứ, nhớ lại tình cảnh cứ nơm nớp lo sợ cây đuốc bị tắt trong Thiên quan động lúc nãy, tôi thật muốn ôm hôn cái đèn pin này mấy cái, công nghệ hiện đại đúng là tuyệt vời.

Lão Dương đổi băng đạn, sắp xếp lại những thứ khác rồi mang lên lưng, nói với chúng tôi: “Đám lông dày kia chắc chắn vẫn còn ở bên dưới, chỗ này không thể ở lâu, chúng ta đừng nghỉ ngơi nữa, phải lập tức leo lên thôi, Thái Sơn các vị cũng từng leo qua rồi, 1300 mét đi đi về về chẳng phải cũng chỉ trong một ngày thôi sao? Không có gì cả, cứ coi như là đi tham quan du lịch đi.”

Sắc mặt trợ lý Lương có hơi tốt hơn một chút, gượng cười một tiếng, lấy hai ngón tay làm bộ bước đi, nói: “Anh Dương này… Thái Sơn là đi bộ lên, cứ xài chân là đến nơi, còn chúng ta bây giờ là từ hướng thẳng đứng, như vậy làm sao có thể nói là giống nhau được? Hơn nữa kia là phong cảnh nên thơ, nào là hải vân rồi thì quái thạch, còn ở đây có gì đâu.”

Lão Dương đá đá vào thân cây thanh đồng, nói: “Mẹ nó chứ, ông đây chỉ là ví von thôi, cây thanh đồng này tuy rằng thua xa phong cảnh Thái Sơn nhưng ít ra nó cũng rất đồ sộ đúng không, hai quý ngài chịu khó một chút đi, đừng nhụt chí, thành công đã ở ngay trước mắt, mau mau thu xếp một chút rồi cả bọn nghiến răng nghiến lợi leo một hơi lên trên đỉnh, chắc chắn sẽ là cảnh đẹp.”

Tôi xoa bóp cái chân đã bắt đầu sưng lên, nói với hắn rằng không phải là không muốn nghiến răng mà thực sự chẳng còn cách nào khác, còn cố mà nghiến nữa thì răng cũng lòi ra khỏi cằm luôn. Tôi còn có thể gắng gượng được một chút chứ trợ lý Lương bây giờ chỉ còn lại nửa cái mạng, thay vì vội vàng tranh thủ mấy phút, tôi thấy nghỉ ngơi đầy đủ còn có hiệu quả hơn.

Trợ lý Lương cảm kích nhìn tôi, lão Dương thở dài, nói thôi được rồi, nhưng mà phải bỏ thi thể của ông chú kia xuống dưới, để ở trên này nhìn rất khó chịu

Tôi thấy khuôn mặt ông ta méo mó, bộ dạng chết không nhắm mắt, trong lòng cũng chẳng cảm thấy gì, nhưng hai con ngươi muốn rớt ra khỏi hốc măt kia đúng là có hơi đáng sợ, lúc này cũng chả cần đếm xỉa gì tới chuyện có đạo đức hay không, tôi cùng lão Dương định nâng thi thể lên khỏi chạc cây.

Từ trên cao rơi xuống, giữa đường sẽ va chạm với không ít những cành của cây thanh đồng, không bị rớt thẳng xuống đất nát bét thành một đống cũng coi như là còn may mắn rồi. Lúc tôi nâng cái xác lên mới thấy trợ lý Lương nói quả không sai, cả thi thể mềm nhũn, giống như là toàn bộ xương cốt đều bị nát vụn. Vừa mới động đến, một lượng lớn máu từ trong xác chết liền chảy ra, men theo chạc cây chảy vào những hoa văn trên cây thanhh đồng, sau đó lại chảy dọc theo giữa những hoa văn xuống phía dưới.

Tôi và trợ lý Lương cùng lúc phát hiện ra chuyện này, cả hai đều lặng đi. Trợ lý Lương ra hiệu cho chúng tôi dừng lại, mở đèn pin rọi vào những khe rãnh, sau đó nhìn sang chạc cây thanh đồng, nói: “Hai cậu, tôi đã biết đại khái cây thanh đồng này dùng để làm gì rồi!”

Chương 25. Lễ hiến tế

Editor: Earl Panda
Beta: Tiểu Điệp

********

Tôi với lão Dương nghe hắn nói thế, liền đồng thanh hỏi xem hắn nghĩra gì rồi. Hắn gãi đầu gãi tai, bảo: “Tôi chỉ đoán đại khái vậy thôi. Có khả năng ngọn đồng thụ này không phải là điểm mấu chốt, những khe rãnh trên mặt cây này có thể là dùng để tập trung nước lại, ví như nước mưa, máu hoặc sương đêm gì đó.”

Lão Dương liền hỏi hắn: “Có phải là giống như ngày xưa người ta gom sương đêm lại để pha trà dâng lên vua không? Thế thì nói làm gì? Toàn là nước không nguồn gốc(*) cả.”

(*) nguyên là “vô căn thủy”: hay còn gọi là thiên thủy, ám chỉ những loại nước rơi từ trên trời xuống như mưa, tuyết, sương, vân vân.

Trợ lý Lương lấy cây bút máy cạo ra một ít vết cặn màu đen trong rãnh. Đã trải qua hàng nghìn năm, không biết liệu những vết cặn này có phải chính là máu của tổ tiên đã khô cứng lại không, hay chỉ là nước mưa lắng đọng. Hắn nhìn mấy nhánh cây, nói: “Cậu trông, phía dưới những cành cây này có cái gì đó trông như lưỡi lê lấy máu, thông với giữa con rắn hai thân, hẳn là nhánh cây này có công dụng gì đó với đàn tế thờ. Khả năng là nó có liên quan đến huyết tế.”

Tôi không hiểu lắm, nên trợ lý Lương đành nói rõ hơn về những khe rãnh này vì sao lại có liên quan đến huyết tế, và cách thức tiến hành huyết tế.

Trợ lý Lương nói, thời Tây Chu, lễ hiến tế tuy không tàn bạo bằng thời nhà Thương, nhưng việc hiến tế người sống là khó tránh khỏi, cái gọi là điểm khác nhau giữa hai thời chỉ là ở cách giết người mà thôi. Ví dụ như, hiến tế cho thần thổ địa thì đem người chôn sống, hiến tế cho thần lửa thì thiêu sống, còn hiến tế cho hà bá thì quẳng xuống sông.

Ở đây, một cây thanh đồng đại thụ cao ngút trời như thế này có khả năng là loại thần thụ Phù Tang nhược mộc hoặc cây thần thờ Phục Hy(**), những loại thần thường phải dùng huyết tế.

(*) Nguyên văn là “câu mang”. Mình tra trên baike thấy bảo nó là mộc thần Phục Hy trong thần thoại Trung Quốc. Còn Phù tang nhược mộc thì là cái cây dâu lớn mọc ở đông hải, là nơi mặt trời mọc lên trong thần thoại.

Vừa rồi, máu của lão Thái chảy dọc theo cành cây thanh đồng, rồi vào giữa con rắn hai thân trên cây, rồi chảy thẳng xuống dưới. Nếu không phải vì đã có thiết kế sẵn thì máu không thể chảy một cách trơn tru như vậy được. Hơn nữa, trên bề mặt cành cây thanh đồng này có các dấu vết rất giống như lưỡi lê, như vậy là đã rõ, nơi này chắc chắn chỉ dùng để chuẩn bị tiến hành huyết tế.

Gọi là huyết tế, vì đại đa số lượng máu đều thấm hết vào đất. Lúc tế lễ, vật tế bị những nhánh cây thanh đồng đâm xuyên qua người mà chết, máu từ thi thể bị rút hết ra, chảy xuống rãnh giữa hai thân xà. Nếu máu không nửa đường đông lại thì sẽ chảy xuống tận rễ cây thanh đồng chôn sâu dưới lớp nham thạch, tượng trưng cho việc lấy máu kính dâng lên thánh thần.

Nói ví von lên, thì các rãnh hoa văn trên cây tựa như các ống dẫn máu trong phòng giải phẫu, thi thể là bệnh nhân, máu chảy ra từ xác đọng lại dù là nhiều hay ít thì cuối cùng vẫn theo ống dẫn máu chảy xuống các ống nước ngầm bên dưới. Chỉ khác cái, ở đây các ống dẫn máu được làm hoa văn nhìn cứ như đồ để trang trí. Hẳn đó là lý do vì sao ở trên các con rắn hai thân đều có các rãnh được khắc rất sâu, không hợp với chuẩn mực thường thấy.

Những lễ hiến tế có quy mô lớn và tàn nhẫn như vậy, cho dù có là đất nước cường thịnh giàu có đến bao nhiêu đi chăng nữa cũng không dám tiến hành thường xuyên. Vì vậy, các ghi chép trong những sách cổ về điều này cũng chỉ toàn những thứ lẻ tẻ vụn vặt, chứ còn cụ thể quá trình ra sao, cần bao nhiều vật tế, không một ai có thể biết được.

Tôi nghe trợ lý Lương nói mà không khỏi nể phục trước trí tuệ của người xưa, đồng thời cũng cảm thấy có phần thất vọng. Một công trình vĩ đại như vậy lại chỉ là một công cụ giết người hàng loạt, thật là ngu xuẩn hết mức. Cứ nghĩ đến việc trên cành cây kia có biết bao nhiêu nô lệ đã bị đóng đinh treo lên đó, máu đổ xuống theo những khe rãnh, biến cả thân cây thành một cái cột đẫm máu, tôi lại thấy rùng mình như thể có khí lạnh đến thấu xương tỏa ra từ các rãnh trên thân cây thanh đồng.

Hơi chột dạ, tôi bèn nói với lão Dương: “Chúng ta đi nhanh lên tí đi, không chờ chốc nữa máu của lão Thái chảy xuống dưới, cái cây thần kia lại tưởng có người đến hiến tế, các cụ thánh thần trồi lên biến bọn mình thành vật tế thì tiêu.”

Lão Dương vốn không thèm để tâm đến lời của trợ lý Lương, liền nói với tôi: “Cậu đừng có tin lời hắn làm gì. Trung Hoa dân quốc thời đó móc đâu ra lắm dân số đến thế cho cậu đồ sát cơ chứ. Tôi thấy, số máu bị nghẽn ở đây là máu heo máu dê thì có, mà nói không chừng, mình bò lên trên chút nữa là thấy đặc sản thịt heo khô nghìn năm cắm ở trển á. Huống hồ, cho dù vật tế đó có là người đi chăng nữa, khi người đã chết thì máu sẽ đông rất nhanh, cậu yên tâm đi, ở trên này cao như vậy, máu làm sao mà trôi xuống tận dưới được? Hơn nữa, máu cậu á, có mà khiến các cụ phát tởm chứ ai thèm vào. Ngày xưa người ta sống gần gũi với thiên nhiên, toàn ăn rau cỏ tươi tốt không thuốc trừ sâu, toàn uống nước trong lành mát lạnh không ô nhiễm, thế nên máu người ta còn có chút vị ngọt. Chứ còn cậu, máu chảy ra, khẳng định các cụ uống vào là ngộ độc thực phẩm, tiêu chảy với táo bón ngay lập tức, thế nên mới nói đây toàn trò bịp cả.”

Tôi nghe xong gân trên trán trồi lên ầm ầm, không khỏi mở miệng mắng: “Tôi nhổ vào, cái gì mà máu tôi có độc hả? Mẹ nó cứ phải vả vào mồm thì cậu mới yên được à?”

Trợ lý Lương trông tôi nổi cáu liền giảng hòa: “Hai vị, cần phải biết xem xét thời thế nha, với tình hình hiện giờ mà còn nói đùa được. Mấy người có cảm thấy những cái cành cây này càng ngày càng xen dày đặc không? Nếu cứ thế này thì hẳn sẽ khó leo lên trên.”

Lão Dương nói: “Ở đây vốn cành cây lỉa chỉa chỗ dày chỗ thưa, phải là càng dày càng tốt chứ, ông anh tính bảo càng thưa càng tốt, tốt nhất là mỗi cành cây cách nhau hai mét đi, thế thì có mà chúng ta xếp đè lên nhau mà leo lên à?”

Tôi bảo lão Dương: “Cậu đừng có mà kết luận vội. Tôi thấy nó cũng không ổn lắm đâu, cậu bật đèn pin lên xem thử xem.”

Lúc mới leo lên trên, chúng tôi vẫn dùng đuốc để chiếu sáng, vì cái đèn trong túi của lão Thái không còn dư dả pin gì cho cam nên chúng tôi không muốn lãng phí. Thế nhưng, giờ muốn soi rõ vật ở xa thì không dùng đuốc được.

Lão Dương bật đèn pin, chiếu ánh sáng lên trên. Chỉ thấy trên đỉnh đầu chúng tôi là những nhánh cây thanh đồng càng ngày càng đan xen dày đặc, mới chỉ lên có bảy, tám mét mà trông đã um tùm kín mít như bụi gai, nếu muốn tiếp tục leo lên nữa thì chỉ còn cách đổi hướng, đi ngược ra phía ngoài, sau đó dẫm lên đầu nhọn của các nhánh cây mà bò lên. Tuy nhiên, làm như vậy còn nguy hiểm hơn cả việc bám sát thân cây thanh đồng mà trèo lên rất nhiều.

Chuyện đã đến nước này, thì phía trước có là hang hùm hang gấu tôi cũng muốn xông pha. Lão Dương bảo chúng tôi đứng yên tại chỗ, rồi hắn bò ra các nhánh cây bên ngoài trước, sau đó ném một đầu sợi dây thừng kiếm được từ chỗ lão Thái xuống dưới. Tôi với trợ lý Lương nắm lấy sợi dây, theo đó trèo lên.

Nhìn qua nhìn lại, tình hình đã không còn giống như lúc ở phía dưới trông lên nữa. Các nhánh cây thanh đồng xen nhau dày đặc đến mức không còn chỗ để chen tay vào. Tôi leo được một đoạn, bụng thầm nhủ, thảo nào lão Thái lại dễ ngã xuống đến vậy, trông chiều hướng này đây, càng đi lên nữa càng ít chỗ để đặt chân, chỉ cần không cẩn thận, hoặc bị gió lùa mạnh một cái, là được xuống dưới kia nhắm rượu với lão Thái ngay.

Lúc này lão Dương leo rất nhanh, tôi chẳng còn hơi sức đâu mà đi gọi hắn nữa, chỉ có thể vừa lấy lại tinh thần, vừa gắng không để bị tụt lại phía sau, đồng thời luôn luôn tự nhắc nhở bản thân cẩn thận kẻo trượt chân ngã. Cây đuốc lúc này không được sử dụng nữa, vì căn bản chẳng ai còn rảnh tay để mà vừa cầm vừa leo. Tôi đành dập tắt đuốc rồi đeo ở bên hông mình.

Địa hình đoạn đường này vô cùng nguy hiểm nên hầu như không một ai dám mở mồm nói năng gì. Rất nhanh, dưới ánh sáng đèn pin, tôi chợt phát hiện vách tường đá xung quanh cây thanh đồng bắt đầu thay đổi. Những thạch nhũ thiên nhiên xuất hiện cùng với muối mỏ hòa tan, hiển nhiên quy mô nơi này đã vượt quá khả năng kiến tạo của con người, quãng hang động trên này hẳn là hình thành hoàn toàn tự nhiên.

Càng đi, vách tường đá càng thu hẹp lại. Tôi nhìn thấy trên hai bên vách đá bắt đầu xuất hiện nhiều hang, hốc lớn nhỏ khác nhau, cũng không sâu lắm, vừa đủ nhìn thấy đáy. Bên trong các hang, hốc có chứa mấy cái gì đó, khi chiếu đèn pin lên sẽ có những phản ứng nhất định. Điều này khiến tôi thấy bất an, nhưng vách đá cách chúng tôi những hơn mười mét, kể cả cho dù có chuyện gì xấu, tôi cũng không tin là nó có thể gây ảnh hưởng được đến chúng tôi.

Tôi mải chú ý đến mấy cái hang hốc trên vách đá, không để ý lão Dương với trợ lý Lương ở phía trên đã dừng lại tự lúc nào. Mãi cho đến khi va đúng vào mông trợ lý Lương tôi mới giật mình ngẩng lên nhìn, chỉ thấy trên đó xuất hiện rất nhiều con khỉ đeo mặt nạ, giống bọn khỉ mà chúng tôi lúc trước gặp ở dưới kia.

Nhìn kỹ lần nữa, tôi mới phát hiện ra những con khỉ này đều đã chết. Xác khỉ bị gió nóng sấy cho khô quắt, méo mó kì dị. Tay chân mắc cả vào các cành cây đan xen dày đặc nên xác mới không bị rơi xuống. Cả thảy có hơn mười xác khỉ – mà kỳ quái thay, xác đã khô quắt rồi nhưng mặt nạ vẫn không bị rớt ra – yên lặng đứng đó nhìn chúng tôi chằm chằm, tựa như chúng có thể bất thình lình sống lại bất cứ lúc nào.

Chúng tôi chầm chậm tiến lại gần, chú ý quan sát những thứ kỳ quái này.

Cơ thể bọn khỉ dường như bị mắc một loại bệnh ngoài da nào đó, lông tóc phần lớn bị bóc ra, để lộ lớp da màu xám trắng trông khá giống với da người, thế nhưng khi nhìn kĩ lại thấy các vết lốm đốm rất rõ ràng. Vóc dáng những con khỉ này khoảng cỡ bằng một đứa trẻ mười lăm, mười sáu tuổi (đương nhiên là không tính Diêu Minh 

(Yao Ming =]])

 rồi ), hoặc có thể lớn hơn một chút, tôi không chắc lắm. Trong cái tình huống như thế này, tôi còn hơi đâu mà nhìn người đoán chiều cao.

Mặt nạ của bọn khỉ nhìn qua thì là làm bằng đá, được mài một cách vô cùng hoàn hảo, hoàn hảo đến mức tôi còn nghi là nó được làm bằng gốm sứ. Đến xem chỗ mặt nạ gắn vào mặt bọn khỉ mới thấy, cái mặt nạ này dường như đã được in hẳn vào thịt, hẳn là dùng một phương pháp đẫm máu nào đó, khiến mặt nạ lẫn da thịt dính lẫn lộn cả vào nhau.

Xác khỉ phần lớn đều còn nguyên vẹn, còn lại một số ít chỉ có tay với chân. Đại khái là do thời gian đã quá lâu năm, xác khô quắt đến mức tự nhiên vỡ vụn.

Trợ lý Lương ngăn chúng tôi leo lên trước. Hắn chỉ vào một cái xác khô, nói: “Chờ một chút, tôi thấy tư thế mấy con khỉ này có hơi kỳ dị, hình như đã thấy ở đâu rồi thì phải, đợi tôi đến nhìn kỹ xem sao.”

Lão Dương nói với hắn: “Ông anh lắm chuyện nó vừa vừa thôi, cái gì cũng hết xem rồi ngắm. Làm ơn cẩn thận chút cho tôi nhờ, coi chừng lát nữa mấy con khỉ kia nó ngứa mắt ông thì bỏ xừ!”

Trợ lý Lương không để ý đến lời của lão Dương, rón rén đến gần một cái xác khỉ gần nhất, cầm lấy cái mặt nạ của nó. Da mặt khô quắt lập tức rạn nứt, trợ lý Lương nhẹ nhõm kéo cả cái mặt nạ xuống. Hắn dí lại gần bộ mặt của cái xác khô nhìn ngó một lúc, rồi quay đầu nói với chúng tôi: “Hai…vị, cái này… hình như không phải là khỉ, đây là… mặt người a.”

Chương 26. Li cổ

Editor: Earl Panda
Beta: Tiểu Điệp

********

Hai con mắt của cái xác đã bị phân hủy tiêu đi mất, chỉ còn lại hai hốc mắt tối om. Miệng xác mở lớn đến mức khó tin, lộ ra hàm răng thiếu lỗ chỗ. Bộ mặt vì khô quắt nên biến dạng méo mó, trông rất dữ tợn, khiến không ai dám nhìn thẳng vào. Mà dựa vào hàm răng là có thể thấy, cái xác khô này không phải là xác khỉ, mà chính là xác người không chệch đi đâu được!

Lão Dương ngây người một lúc, nói: “Thế này là sao? Lão Ngô, cậu vừa mới nói nó là khỉ cơ mà? Này… cái này… là người nha.”

Tôi cũng lắp bắp: “Tôi… tôi cũng chẳng biết. Vừa nãy tôi đánh rớt cái mặt nạ, rõ ràng là khỉ mà, một con khỉ lông vàng hẳn hoi cơ. Này… này… Giời ạ, đúng là điên cái đầu.” Tôi vò đầu bứt tóc cố gắng nhớ lại xem có phải lúc ấy vì sáng tối mập mờ quá nên mắt mình nhìn lộn hay không.

Bỗng nhiên, trợ lý Lương khoát tay, ý bảo tôi đừng chạm vào thi thể. Sau đó, hắn cẩn thận đứng thẳng người lên, lật mặt sau của cái mặt nạ ra nhìn. Tôi thấy đằng sau chiếc mặt nạ, ở vị trí miệng có gồ lên những hình xoắn ốc to bằng nắm tay, trông như vỏ ốc sên, bên trên lại có một lỗ nhỏ. Trợ lý Lương cầm chiếc mặt nạ ướm thử vào mặt mình, sau đó quay đầu nói với chúng tôi: “Cái mặt nạ này hình như phải há miệng ra mới đeo lên được.”

Lão Dương ngạc nhiên nói: “Gắn vào miệng á? Tức là nhét cả một cái cục vô miệng cho tắc thở á? Vầy khó chịu chết.”

Tôi trông mấy cái xác khô mồm ngoác ra rất rộng, bèn nói với trợ lý Lương: “Lẽ nào mấy cái vỏ ốc sên này có gì kỳ lạ chăng, anh thử đập vỡ nó ra xem. Cái mặt nạ này độ dài vừa đủ cho mặt một con khỉ, nếu gắn vào miệng thì chỗ mắt lại bị che khuất mất. Chắc chắn là có cách gì đó khác đấy.”

Trợ lý Lương nghe vậy bèn chọc chiếc bút máy vào bên trong cái lỗ nhỏ, cố sức cạy ra. Cái “vỏ ốc sên” tức thì vỡ vụn, để lộ bên trong có một khúc gì đó dài dài trông như cái càng cua. Trợ lý Lương liền cạy nó ra thì phát hiện đó là một loại sâu bọ kỳ lạ chưa thấy ở đâu bao giờ, đã bị hóa thạch, chỉ cần dùng lực mạnh một chút là đứt thành nhiều đoạn ngay.

“Xem ra, cái mặt nạ này không phải là do tự nguyện đeo lên đâu.” Trợ lý Lương cau mày nói. “Cơ mà thứ này chắc chắn là đồ nhân tạo. Hai người nhìn hoa văn ở mặt trong cái mặt nạ mà xem, hoa văn này khá giống với hoa văn trên con rắn hai thân trên cây, rõ ràng là người đúc cái mặt nạ này với người đúc ra cây thanh đồng có liên quan mật thiết với nhau.”

Lão Dương cầm lấy cái mặt nạ, hứng chí nhìn ngắm đến nửa ngày, nói: “Này hay đây là con sâu cụ từ thời Tây Chu, không chừng đến giờ đã tuyệt chủng rồi, chẳng trách chúng ta không nhận ra là phải. Ai da, mấy người nhìn coi nè, con sâu này chỉ còn có một nửa.”

Nói xong, hắn nhìn chúng tôi, hỏi: “Thế nửa còn lại ở chỗ nào nhỉ?”

Con sâu nằm cuộn tròn trên phần gồ lên để gắn vào miệng của cái mặt nạ. Như vậy, nửa còn lại của con sâu chỉ nằm ở một nơi. Tôi nghĩ vậy, rồi vô thức nhìn vào cái miệng đang há to của cái xác khô, quả nhiên thấy trong khoang miệng tối om có một nửa con sâu đang bám trên đầu lưỡi. Con sâu khô quắt cắm vào yết hầu cái xác, dường như đang chui vào trong. Vì thi thể bị rữa hết thịt trông rất giống với con sâu hóa thạch, nên nếu không để ý kỹ thì sẽ nhầm tưởng con sâu này là phần lưỡi của thi thể.

Trợ lý Lương thấy thế, chợt biến sắc, kêu lên: “Mau ném đi, ném đi! Ôi ông giời của tôi ơi, nhanh ném nó đi! Cái mặt nạ đó có khi là vật thể sống đấy!” Nói xong hắn vung tay hất văng cái mặt nạ trong tay lão Dương ra. Chiếc mặt nạ nhanh chóng rơi vào trong bóng tối, đập vào các nhánh cây, bốp một tiếng, vỡ nát.

Lão Dương giật mình kinh hoảng, thiếu chút nữa trượt chân rơi tòm xuống luôn, liền gào lên hỏi hắn có phải bị thần kinh hay không, cái quái gì mà mặt nạ là vật thể sống cơ chứ?

Trợ lý Lương khụ một tiếng, hình như là đang hối hận. Hắn vò đầu bứt tai, nhíu mày nói: “Thật hổ thẹn, sao tôi lại ngu đến thế kia chứ, thế mà trước đây không nghĩ ra… Cây đồng thụ này, cách hiến tế này, nói rõ chúng nhất định không phải là tác phẩm của người Hán chúng ta, ôi chao, tôi đúng là ngu ngốc mà, ngu đến hết nói nổi luôn!”

“Ông đang lảm nhảm cái mẹ gì thế?”, lão Dương phát cáu, “Cái gì mà ngu ngốc, liên quan chó gì đến cái mặt nạ? Có gì cứ nói thẳng toẹt ra đi xem nào!”

Trợ lý Lương khoát tay áo, nói: “Không phải, anh kiên nhẫn nghe tôi nói hết cái nào, chuyện này phải kể từ đầu cơ, à mà, biết nói thế nào nhỉ? Kia phải bắt đầu từ chuyện huyết tế chúng ta vừa mới nói…”

Hóa ra, loại cúng tế bằng máu này chủ yếu phổ biến ở các dân tộc thiểu số thời Tây Chu, tất nhiên là khác với các dân tộc thiểu số thời hiện đại bây giờ. Người dân của các dân tộc thiểu số này hầu hết đều đã biến mất, có lẽ là đã nhập với người Hán. Một lễ huyết tế với quy mô lớn như vậy, trong chính sử của người Hán không có ghi chép lại, nhưng trong vài di chỉ còn sót lại của một số dân tộc ít người thì có lẻ tẻ nhắc đến. Đáng tiếc, bởi vì ngôn ngữ chữ viết thất truyền đã lâu, nên tư liệu tỉ mỉ về loại huyết tế này lại càng coi như không có.

Mà, các thánh địa để thờ cúng của các dân tộc thiểu số này đều rất linh thiêng, không chỉ có người canh gác cẩn mật mà đồng thời còn có thể được tế sư nào đó phù phép, bảo vệ thần linh không bị người ngoài quấy rầy. Tương truyền, quá trình phù phép cực kỳ thần bí, loại dị thuật này lưu truyền cho đến tận bây giờ, được thần thánh hóa lên thành một thứ cổ thuật vạn năng không gì không làm được y như trong tiểu thuyết.

Trợ lý Lương còn nói, cổ thuật bắt đầu phân chia từ thời Ngụy Tấn Nam Bắc triều, đến thời tống lại chia ra một lần nữa. Cổ thuật thời trước Tần cực kỳ lợi hại, lợi hại đến mức cũng giống như mấy cái siêu năng lực trong truyện tranh thời bây giờ vậy. Tuy nhiên, cổ thuật này chủ yếu dựa vào sâu bọ, nên có một thời kỳ, nó được gọi là mãnh trùng thuật. Những chiếc mặt nạ mà bọn khỉ và xác khô đeo này rất bí hiểm, có khả năng đó là kết quả của loại cổ thuật từ thời xa xưa này.

Hắn bảo, hắn từng nghe nói đến một loại cổ thuật, gọi là Li cổ, có thể khiến người ta trở nên hiếu chiến. Mà hóa thạch con sâu đang cắm vào yết hầu ở mặt sau chiếc mặt nạ kia có thể chính là nguyên hình của Li cổ từ thời xưa. Có khả năng loại sâu này gây ảnh hưởng đến hệ thần kinh của động vật, khiến động vật trở nên hiếu chiến, tấn công người lạ. Thế nên, khi bị tôi đánh cho rớt vỡ mặt nạ, mấy con khỉ liền khôi phục bản tính, theo bản năng bỏ chạy khỏi chúng tôi.

Li cổ có thể sinh sôi nảy nở trong cơ thể của vật chủ, đợi khi vật chủ chết đi, chúng liền bám vào một chỗ nào đó, ví dụ như là mặt sau cái mặt nạ này chẳng hạn, chờ vật chủ kế tiếp tới gần, rồi bằng cách nào đó kí sinh trên người vật chủ.

Cái xác khô này, không chừng là một người thợ săn đến đây săn bắn, vô tình đụng phải Li cổ đang trong trạng thái ngủ đông, kết quả là bị cái tà thuật cổ xưa này cho lãnh đủ.

Tất nhiên, chưa ai tìm ra được bất cứ một tài liệu nào ghi chép về cái của Li cổ gì gì đó đó này, cũng chẳng biết có đúng sự thực hay không, chỉ có điều, trong mặt nạ này có hóa thạch con sâu đang thâm nhập vào yết hầu người, thôi thì chả biết thực hay hư, nhưng chắc chắn đây không phải chuyện bình thường, cứ phòng bị cẩn thận là tốt nhất.

Nghe trợ lý Lương nói vậy, toàn thân tôi nổi da gà da vịt. Thực ra, trong mấy tư liệu mà ông Tề ổng có đưa cho tôi cũng có nhắc đến những chuyện tương tự, thế nhưng lúc đó tôi chỉ xem qua loa, bụng bảo dạ rằng này đây có phải phim truyện chiều thứ bảy của điện ảnh nước nhà đâu, nào ngờ, bây giờ mới ngộ ra, phim khoa học viễn tưởng của Mỹ cũng còn phải học hỏi kĩ thuật của tổ tông nhà ta chán, thật không biết nên khóc hay nên cười nữa.

Quay đầu nhìn lại, cái thây khô quắt quỷ dị vẫn đứng im không nhúc nhích như cũ, chiếc mặt nạ trắng bệch tự tiếu phi tiếu, tựa hồ đang liếm môi chờ chúng tôi xáp đến gần.

Lão Dương sắc mặt có chút khó coi, nói thầm hỏi trợ lý Lương: “Nghe ông anh nói cũng kinh khủng quá đi à, vậy giả sử bị cái con Li cổ này nó dính vô người, lập tức lôi nó ra thì vẫn sống phải không? Không tai họa ngầm phải không?”

Trợ lý Lương nói: “Tôi cũng chẳng biết. Li cổ rất khó giải, tôi nghĩ, nếu một khi đi bị nó dính vào người thì chắc chắn không chỉ đơn giản là lôi nó ra là xong đâu. Loại chuyện này, chúng ta vẫn cứ đề phòng thì tốt hơn, cứ cố gắng tránh xa những cái xác khô này là được. Lão Thái trước cũng là trượt chân ngã từ nơi này xuống, lão là người từng trải như vậy, có khi lại không phải là do trượt chân đâu. Phải cẩn thận một chút.”

Lão Dương nhíu màu, cứ như là muốn nói cái gì, nhưng lại không nói thành lời được. Tôi liền hỏi hắn, với tình hình này thì còn phải trèo đến lúc nào nữa đây, nhỡ chẳng may phía trên các nhánh cây cũng dày đặc thế này thì có mà leo cho đến khi chết vì mệt cũng không lên được tới đỉnh. Lão Dương bảo tôi rằng, may ra thì phía trên nó có thể sẽ thưa bớt. Lúc hắn leo tay chỉ có một cái đèn pin bé xiu xiu, chiếu sáng rất kém, nên không để ý thấy những xác khô này, cũng không có con khỉ nào bất ngờ đánh úp hắn. Với lại, giờ hắn cũng chả biết mình đang ở cái chỗ quái nào, nhưng dù sao thì, các cụ dạy “tự cổ Hoa Sơn nhất căn trụ”(*), xưa nay lên Hoa Sơn chỉ có một cái rễ cột to oành, cứ leo lên riết cũng không bắn sang nơi khác được đâu.

(*) Nguyên gốc là “tự cổ Hoa Sơn nhất điều lộ”, tức là: xưa nay lên Hoa Sơn chỉ có một con đường, chẻ Dương đã tùy cơ ứng biến mà chém câu của cổ nhân người ta cho hợp hoàn cảnh (lên Hoa Sơn chỉ có một cái cột để mà bám mà leo) =))))))

Tôi cảm thấy nơi này không thích hợp để ở lâu, liền bảo bọn họ trước tiên cứ qua một đoạn này đã rồi hẵng tính tiếp. Đứng cùng chỗ với trợ lý Lương còn có một ông chủ béo nữa, ông này rất có khả năng sẽ leo lên trước chúng tôi. Nếu mà ông ta lên tới trên đỉnh trước thì sẽ hơi bị phiền phức. Nhỡ đâu có phục kích, ba chúng tôi không chừng sẽ chết không rõ ràng.

Lão Dương nói: “Nói có lý, cậu chờ một chút, tôi đi đốt ít pháo sáng, để xem trên ấy nó có phục kích gì không.” Nói xong hắn lôi ra khẩu súng báo hiệu, chỉa lên phía trên, bắn một đường thẳng tắp.

Đạn tín hiệu bay lên, không nghe tiếng chạm tới đỉnh, lòng tôi nôn nao một trận hồi hộp. Loại đạn này tối thiểu phải lên đến được hai trăm mét, vầy tức là còn phải leo ít nhất hai trăm mét nữa, ha hả, này thật là nản muốn chết quá đi.

Đạn tín hiệu cháy bùng, nhìn lên trước, quả nhiên là phía trên một đoạn không xa nữa các cành cây cũng càng thưa thớt lỏng lẻo dần, không hiểu vì sao lại thiết kế như vậy. Hơn nữa, nhìn cao lên nữa, phạm vi hai trăm mét không phải là giới hạn, tôi còn có thể thấy một vài thứ nữa, tuy là không sao nói được nó là cái gì.

Đạn tín hiệu rơi xuống, lão Dương nhìn kỹ một lúc, rồi nói: “Xem ra ông chủ mập Quảng Đông kia không có phục kích ở phía trên, nói không chừng chỉ có mình lão Thái còn sống nhăn răng mà chạy đến đây, dù sao thì cái đám quan tài trận bên ngoài kia nom chẳng khả quan gì mấy… A, này, cái gì thế kia?”

Khi đạn tín hiệu rơi xuống cách khoảng hơn sáu mươi mét, chúng tôi chợt nhìn thấy cái gì đó gồ ghề nổi lên trên một đoạn thân cây thanh đồng. Nhìn kỹ, tôi tức thì cảm thấy sau ót tê rần rần, mồ hôi lạnh ứa ra tận lòng bàn chân: cách cả bọn chừng mười mét, trên thân cây thanh đồng trồi lên một bộ mặt. Không, phải nói đó là một chiếc mặt nạ hình dạng rất quỷ dị.

Chương 27: Lăng không

Editor: Dứa

Beta: Tiểu Điệp Nhi

 ♥♥♥

Pháo hiệu tiếp tục rơi xuống, lướt qua khu vực này, chợt thấy cả một vùng xung quanh chuyển động tránh đường cho quả cầu nóng sáng, nhìn qua giống hệt một rừng côn trùng mặt người lúc nhúc.

Đây hẳn là li cổ mà trợ lý Lương đã nhắc đến, người xưa nuôi dưỡng chúng trong những chiếc mặt nạ đặc biệt, không ngờ đã sinh sôi nảy nở tới mức này. Lúc đầu tôi còn bán tín bán nghi, ai ngờ nhanh như vậy đã đụng phải nguyên một đoàn thế này.

Chúng bám chi chít vào những khe nứt trên cây Thanh Đồng, khi ánh sáng lướt qua thì bày ra vô vàn biểu tình khác nhau, có đau đớn, có u buồn, có dữ tợn, có cả cười âm hiểm… Tôi chưa bao giờ thấy qua cảnh tượng nào quỷ dị như thế, lông tơ trên người dựng đứng cả lên.

Trợ lý Lương lúc nãy giải thích hùng hồn lắm, giờ tận mắt thấy thứ này rồi cũng lắp bắp, run rẩy nói với tôi: “Hai… hai vị tiểu ca, mấy thứ đó đều còn sống cả, li cổ còn bám ngay phía dưới đó, chúng ta làm sao bây giờ, sao mà đi qua được?”

“Đừng hoảng hốt,” lão Dương nói, “Anh xem, bọn chúng có phản ứng với pháo hiệu, chứng tỏ chúng là loài sợ ánh sáng và nhiệt độ, chúng ta đốt đuốc rồi từ từ tiến tới, bọn chúng chắc không dám đụng vào chúng ta đâu.”

Tôi lắc đầu: “Không thể chắc chắn như vậy được, pháo hiệu có độ sáng và độ nóng rất cao, tất nhiên bọn chúng sẽ sợ, còn cây đuốc thì không được như thế. Cậu đừng quên đám khỉ lúc nãy, thấy pháo hiệu thì bỏ chạy, còn khi cậu dùng đuốc dọa thì bọn chúng lại chỉ lùi ra sau một chút mà thôi. Tôi chỉ sợ cậu đốt đuốc trèo lên chẳng những không qua được mà còn dẫn bọn chúng đến bao vây chúng ta, lúc đó muốn thoát cũng khó.”

“Vậy cậu nói giờ phải làm sao?” Lão Dương hỏi tôi, “Cậu nghĩ ra phương án gì rồi?”

Tôi đáp: “Phương án thực sự thì tôi không có, chỉ là có một cách mới nghĩ ra, không biết có thực hiện được không.”

Lão Dương sốt ruột: “Tôi biết cậu nhiều mưu ma chước quỷ, có gì cứ nói luôn đi.”

Tôi chỉ vách núi đá cách đó hơn hai chục thước: “Trực tiếp tiến lên như vậy rất nguy hiểm, nếu như lời trợ lý Lương nói là đúng, lũ bọ kia chắc chắn có cách leo lên mặt chúng ta. Trực tiếp xông vào đó chẳng khác nào ôm bom cảm tử, chi bằng đi đường vòng. Cậu có cách nào giúp chúng ta tới được chỗ vách đá đó không, trên đó có nhiều hõm đá nên không khó đi lắm, chúng ta cũng có thể nghỉ ngơi đôi chút.”

Lão Dương nhìn hướng tay tôi chỉ, kêu lên: “Này… Xa thế? Tới đó sao?”

Tôi gật đầu, ra hiệu: “Tôi mới nghĩ ra cách này thôi, không phải chúng ta có dây thừng sao? Cậu xem thử đủ dài hay không, nếu không đủ thì chỉ còn cách leo xuống thôi, lần sau xách súng phun lửa tới.”

Lão Dương tháo cuộn dây thừng bên hông ra, thứ này vốn là hàng chôm được trên người lão Thái, bên trên có nhãn U.aa. Đây là loại dây thừng leo núi tốt nhất thế giới, là thứ bộ đội đặc chủng thường sử dụng, xem ra bọn họ cũng đầu tư bộn tiền vào trang bị chứ chơi à.

Lần trước đi Lỗ Vương cung tôi có giúp chú Ba chuẩn bị tư trang hành lý, tìm hiểu qua không ít thông tin, thế nên tôi biết, loại dây thừng này nếu đường kính thân trên 10 mm có thể chịu được sức nặng lên đến ba tấn (dù là lực tác động đột ngột), thừa sức chịu được trọng lượng của ba người chúng tôi.

Sức chịu đựng thì đủ, chỉ không biết độ dài có đủ không thôi. Lão Dương bung dây ra xem xét, không khỏi than một tiếng, độ dài sợi dây chỉ hơn mười thước, còn thiếu một đoạn khá dài mới tới được bên kia.

“Làm sao đây?”, lão Dương hỏi tôi, “Có nối thêm thắt lưng của chúng ta cũng không đủ.”

Tôi vân vê sợi thừng, chợt phát hiện đây là loại thừng bện đôi 16 mm, nhanh trí nói: “Không cần lo. Chúng ta tước đôi sợi thừng này ra, nối vào làm một là được.”

“Tiểu Ngô ca, được thật chứ? Dây thừng mỏng như vậy không sợ đứt sao?” Trợ lý Lương nói: “Cậu xem, sợi thừng này còn mỏng hơn cọng bún, dù có vội mấy thì cũng đừng kích động nha.”

“Tạp chí nước ngoài đều nói thế cả, chắc cũng không đến nỗi lừa chúng ta đâu.”

Tôi tước lớp lưới bảo vệ bên ngoài dây thừng, lôi ra một sợi dây nilon mỏng tang, tự mình nuốt một ngụm nước bọt. Con mẹ nó, thực sự mỏng đến phát sợ, theo lẽ thường sợi dây mỏng cỡ đó không tài nào chịu nổi trọng lượng của ba người chúng tôi. Nhưng mà tài liệu nước ngoài quả thực có nói, dây nilon chịu lực đường kính 8 mm có thể dùng làm thang dây leo núi, chỉ cần không tác động lên đó lực kéo quá mạnh thì dây không dễ đứt. Tuy nhiên, sử dụng loại thừng này có độ nguy hiểm nhất định, do đó bình thường vẫn dùng hai sợi bện vào nhau. Chúng tôi giờ chỉ dùng một, chắc phải cầu Trời khấn Phật thương tình cho.

Thôi thì cứ tin tưởng công nghệ cao đi, tôi nghĩ, dù sao cũng không đến nỗi xui xẻo vậy chứ?

Tôi đưa sợi thừng đã được nối chặt cho lão Dương, hắn lôi từ ba lô ra một cái ấm nước, thắt một nút thủy thủ thật chắc vào đó làm quả nặng, dùng sức ném về hướng đối diện, sau vài lần thất bại cũng quấn được vào một măng đá phía bên kia. Chúng tôi kéo thử, sợi thừng căng như dây đàn, vô cùng chắc chắn.

“Được rồi,” Lão Dương nói, “Mẹ kiếp, cuối cũng cùng được. Này lão Ngô, dây thừng thì không nói, nhưng lỡ măng đá bên kia không chắc chắn thì sao?”

“Tôi không biết.” Tôi nói, thầm nghĩ nếu tảng đá kia không chắc chắn, tôi đại khái sẽ văng trở lại chỗ Thanh Đồng thụ này, tốt số chút thìđâm thẳng vào thân cây, nửa sống nửa chết, còn xui xẻo thì trực tiếp rớt vào chỗ mấy chạc cây, bị đâm chi chít như cái sàng.

Đầu dây bên này được buộc vào một nhánh cây Thanh Đồng, lão Dương thắt một nút rất đặc biệt, khi chúng tôi đi qua rồi có thể từ bên đó tháo nút buộc bên này. Tôi nhìn cái nút phức tạp đó đến hoa cả mắt, hỏi hắn học được ở đâu, hắn nói là trong tù.

Chuẩn bị đâu ra đấy rồi tôi kéo kéo sợi thừng, xác định cả hai đầu đều chắc chắn mới bảo họ đi trước đi. Đáp lại tôi là sự bất động của cả hai, tôi quay lại nhìn, thấy bọn họ dùng ánh mắt có-chết-ông-đây-cũng-không-làm-người-đầu-tiên nhìn lại tôi. Đương nhiên, người dám đi đầu tiên trên sợi dây mỏng manh như thế cần một lá gan vô cùng lớn. Tôi nói hai lần nữa, hai người kia vẫn lắc đầu, tôi thầm mắng một tiếng, bất chấp khó khăn xông pha đầu tiên.

Trước khi đi, tôi lần lượt đưa phách tử liêu và ba lô cho lão Dương và trợ lý Lương, cố gắng giảm trọng lượng trên người hết mức có thể, mấy thứ này có thể buộc vào đầu dây bên này, đợi lát nữa lão Dương biểu diễn màn cách không cởinút thì lôi luôn chúng nó qua, kéo lên là được. Lão Dương ở lại bên này cũng không an tâm, lén lấy súng của hắn đưa cho tôi, giữa đường lỡ có phát sinh chuyện gì cũng còn có cái mà xoay xở.

Tôi cảm thán một tiếng, rất có cảm giác của chiến sĩ “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”, vỗ vỗ vai hai người, quay đầu lại bước lên sợi dây.

Chân vừa đặt lên sợi thừng,trong chốc lát thần kinh tôi cũng căng ra như sợi dây bên dưới, nhắm mắt nghiến răng chờ đợi tiếng đứt thật ngọt. Không ngờ sợi dây này thực sự không hề bị đứt, chỉ phát ra thanh âm kẽo kẹt vô cùng khó chịu từ hai đầu dây bị buộc chặt.

Lòng tôi kêu gào đừng nhìn xuống, nhưng mắt vẫn không tự chủ được liếc một cái, ông trời ơi! Tôi rên một tiếng, lập tức quay đầu, nhắm mắt niệm A di đà Phật!

Lão Dương kêu lên: “Ê lão Ngô, cậu còn dùng dằng ở đó làm gì? Đi mau đi, càng đợi lâu càng nguy hiểm!”

Tôi ân cần hỏi thăm tổ tông tám đời nhà hắn, hít sâu một hơi, động tay chân bắt đầu di chuyển. Loại thừng này có độ co dãn nhất định, sau mỗi bước đi đều rung lắc vô cùng dữ dội, tôi trèo kiểu này vô cùng nguy hiểm, hơn nữa sợi dây lại quá nhỏ, nắm đau tay kinh khủng, chỉ lát sau đã thấy có chút lực bất tòng tâm. Càng về sau đầu óc tôi lại càng trống rỗng, chẳng biết mình làm sao mà đến được bên kia nữa, chân nhũn cả ra, vừa chạm tới măng đá đã ôm chặt lấy, thở hồng hộc.

Tôi mang theo cây đuốc sang bên này, đốt lên rồi cắm nó qua một bên, lại nhìn về chỗ bọn lão Dương, thấy trợ lý Lương đang leo lên sợi dây, răng đánh cầm cập vào nhau. Lão Dương ở phía sau giữ chặt anh ta, bảo đừng đi vội, rồi nói tôi trước hết xem xét tình hình bên đó đã, nếu leo lên không được hay có gì nguy hiểm thì có thể tiết kiệm chút sức lực.

Tôi xem xét mấy cái hang chung quanh, tất cả chỉ cao cỡ nửa thân người, chắc là nhân tạo, có điều trải qua mấy ngàn năm xâm thực, bên trên xuất hiện không ít thạch nhũ vừa thành hình, không khí trong hang rất ẩm ướt. Những cái hang ở đây có lẽ có liên quan tới công trình đúc cây đại thụ khổng lồ năm đó.

Tôi nhìn lên trên, mấy hang này cách nhau khoảng ba bốn thước, tuy trèo lên khá cách quãng nhưng cũng không quá khó khăn. Phía trong nham động trống không, chẳng có gì nguy hiểm, vừa rồi ở trên cây nhìn qua còn thấy bên trong có thứ gì đó, giờ mới biết chỉ là ảo giác. Nơi này quá thiếu sáng, thành ra thần kinh không tránh khỏi có hơi mẫn cảm.

Tôi vừa an ủi chính mình vừa xác nhận, sau đó hất đầu ra dấu cho lão Dương.

Lão Dương vỗ vỗ trợ lý Lương bảo đi trước, anh ta lấy tay xoa mặt mình, bò lên dây đi về phía tôi.

Xem trợ lý Lương đi dây thừng quả là khảo nghiệm thần kinh con người, quá trình thế nào tôi vẫn là không nên nói ra thì hơn, mười phút sau tôi nói chung cũng giơ tay ra kéo được vị sư phụ mồ hôi ướt đẫm kia qua hẳn chỗ mình.

Lão Dương đi sau cùng. Hắn hít một hơi sâu, buộc đèn pin vào tay, kiểm tra lại nút buộc bên kia một lần nữa rồi mới bò lên sợi thừng. Hắn bò rất nhanh, mới đó mà đã đi được một nửa đoạn đường, chợt đầu dây buộc vào măng đá bên này phát ra một âm thanh kì quái. Cả ba chúng tôi đều bất động, lão Dương mặt tái mét liếc nhìn tôi, tôi quay đầu lại nhìn, tim nhảy lên tận họng – trên măng đá xuất hiện một vết nứt!

Xúi quẩy thật! Tôi quay đầu lại: “Nhanh lên! Nơi này không ở lâu được!”

Tôi gọi vài tiếng, lão Dương lại chẳng hề nhúc nhích, ngoắc ngoắc tôi rồi lui về phía sau, vừa lùi vừa ra dấu với tôi, ý bảo tôi cũng quay về ngay.

Làm gì đó? Tôi nghĩ một chút, lòng tự nhiên dâng lên dự cảm không lành…

Lão Dương liều mạng chỉ lên trên đầu chúng tôi, lí nhí nói: “Chạy mau…”

Trợ lý Lương và tôi khó hiểu ngẩng đầu lên, lập tức sợ đến ngây dại.

Vách nham thạch lúc nãy còn trống không giờ đã nhung nhúc toàn mặt nạ người, cả đám chuyển động loạn xạ, vừa kêu rít vừa tràn đến chỗ chúng tôi như thủy triều dâng. Từ dưới nhìn lên cứ như có hàng ngàn người đang vây quanh chúng tôi vậy.

Tôi lúc này thực sự muốn tự tát mình một cái, mẹ ơi ngu quá đi mất, trên cây có li cổ thì vì quái gì trên vách đá lại không có? Lần này chết chắc rồi, chẳng lẽ kết cục của tôi chính là trở thành thể loại giống như lũ khỉ kia, biến thành thây khô ở chỗ này? Chẳng bằng bây giờ nhảy xuống quách, chết cho thoải mái.

Lão Dương nhìn chúng tôi đứng đực ra, kêu to: “Còn ngẩn ngơ cái gì! Quay lại bên này ngay, cắt dây thừng!”

Tôi nghe thấy liền phản ứng ngay, chạy lại chỗ măng đá, dùng sức nhảy lên sợi dây, lực tác động quá mạnh khiến sợi dây chùng hẳn xuống, măng đá liên tiếp phát ra những âm thanh rạn nứt khiến người ta sởn gai ốc. Chưa đợi tôi nắm chắc, trợ lý Lương đã nhảy lên theo, sợi dây dãn ra tới hơn mười centimet, căng tới cực hạn. Tôi lập tức nghe được thứ thanh âm vô cùng không may, rồi roẹt một tiếng, loại dây thừng tốt nhất thế giới cuối cùng cũng không chịu được nữa, đứt đôi.

Dây thừng 8 mm quả nhiên không chịu được trọng lượng của ba người, sau một tiếng giòn vang, nhánh cây Thanh Đồng buộc dây bị đứt đoạn, chúng tôi cứ như đang đu dây, vẽ trong không trung một đường cong thật lớn rồi đâm sầm vào một vách đá, bị tông đến thất điên bát đảo, chút nữa hộc máu.

Lão Dương ở dưới cùng bị va chạm mạnh nhất, trong chốc lát không nắm chặt sợi dây liền trượt thẳng xuống, phải cuống quít bám vào một khe hở giữa mấy tảng đá bên cạnh mới dừng lại được. Tôi với trợ lý Lương cũng chẳng khá khẩm hơn, đầu tôi sượt qua một mỏm đá, rách một mảng lớn, máu tươi đầm đìa. Trợ lý Lương ở ngay dưới tôi, chịu đựng không nổi, sợi dây trong tay tuột ra, thế là rơi thẳng xuống. May mà ở dưới có lão Dương túm lại, chứ không thì toi rồi.

Măng đá phía trên liên tục phát ra âm thanh rạn nứt, có thể gãy bất cứ lúc nào, tôi nhanh tay bám vào nhũ đá bên cạnh, nhảy qua kéo trợ lý Lương lên. Trợ lý Lương sợ đến mất hồn, vừa lên tới nơi đã mở miệng nói cảm ơn,có điều lời còn chưa dứt, một chiếc mặt nạ từ phía trên rớt xuống, chụp lấy mặt anh ta.

Trong nháy mắt, tôi như nhìn thấy dưới lớp mặt nạ kia nhung nhúc những con bọ đang giơ móng vuốt. Trợ lý Lương kêu lên một tiếng thảm thiết, muốn dùng tay che lại nhưng đã muộn, mặt nạ đã dính lên rồi. Trợ lý Lương liều mạng muốn kéo ra, có điều thứ kia hệt như được dán lên mặt anh ta vậy, cứ kéo ra được một chút lại dính trở lại ngay. Tôi định giúp một tay, khổ nỗi anh ta cứ như nổi điên mà khua khoắng chân tay loạn xạ cả lên, chưa kịp lại gần đã bị hất ra mất. Tôi phải nắm lấy sợi dây, đu lại gần chỗ lão Dương mới miễn cưỡng đứng vững được.

Tôi nhìn vực sâu thăm thẳm dưới chân, thầm chửi một tiếng, định trở lên giúp trợ lý Lương. Ai dè vừa ngẩng đầu, một vật gì đen đen to bằng bàn tay bất thình lình giáng từ trên trời xuống, ụp thẳng vào mặt tôi. Trước mắt tôi tối sầm lại, không nhìn được gì, chỉ cảm thấy có vài con bọ lông lá đang chui thẳng vào miệng. 

(*câm nín* Anhơighêquáđi~~~)

Trong lúc bối rối, tôi đưa một tay nắm lấy kẽ hở trên vách đá, một tay bóc cái mặt nạ trên mặt ra, cố ngậm miệng cho chặt để lũ gớm ghiếc kia không chui vào. Ai ngờ mới kéo một chút mặt nạ đã tự bong ra, tôi nhanh tay ném đi, chẳng dè lại vừa khéo trúng ngay mông lão Dương. Hắn chửi to một tiếng, cuống quít dùng chuôi súng gạt phăng thứ gớm ghiếc ấy.

Tôi chậm rãi thở ra, vừa quay đầu đã thấy bốn năm con li cổ nhảy tới sát sàn sạt. Tôi sợ đến phát run, nâng súng bắn bốn phát nhưng căn bản vẫn không có tác dụng, lập tức lại có hơn mười con hùng dũng lao lên. Tôi với lão Dương đang lui xuống dưới chợt nghe tiếng kêu thảm thiết, ngẩng lên nhìn thì thấy trợ lý Lương đã gặp họa tới nơi, trên người bám đầy li cổ. Anh ta la hét giãy dụa muốn thoát khỏi đám bọ trên người, có điều vừa phủi đi được con này thì lại một đám khác nhảy bổ tới ngay.

Tôi vừa lui về phía sau vừa xả súng, hết đạn rồi mà tình hình chẳng khá lên được bao nhiêu. Li cổ vẫn ùn ùn tràn tới như thủy triều, vây lấy chúng tôi từ hai phía, quay đầu nhìn thì vách đá bốn phía đã bám kín mấy thứ buồn nôn kì dị kia. Chúng va chạm vào nhau, trong chốc lát không gian chung quanh tràn ngập thứ tiếng động quỷ quái khiến đầu người ta muốn nứt tung ra, mới phân tâm một chút thôi đã thấy mấy con bọ nhảy thẳng vào mặt, không cẩn thận là dính chưởng như chơi.

Chúng tôi vẫn tiếp tục lùi xuống, có điều không nhanh bằng lũ bọ ấy, chẳng mấy chốc xung quanh đã bị bao vây chật cứng. Trong lúc tưởng như đã tuyệt vọng, lão Dương nổ súng. Phách tử liêu nổ giòn một tiếng tan quét sạch một mảng li cổ trên đỉnh đầu chúng tôi, mấy chiếc mặt nạ gần đấy vỡ nát, vụn trắng lả tả rơi xuống như tuyết.

Nhưng chưa đến một giây sau, chỗ trống vừa tạo ra trên vách đá đã nhanh chóng được lấp đầy bằng một đám li cổ khác. Lão Dương thấy cách này vô dụng, nhanh chóng lấy áo trùm kín đầu, hét với tôi: “Lão Ngô! Tôi yểm trợ cậu, mau mau bịt miệng lại rồi đi lấy cây đuốc đi!”

Tôi ngẩng lên nhìn, cây đuốc vẫn còn ở nguyên vị trí lúc nãy tôi thuận tay gắn vào, khu vực xung quanh không thấy li cổ, hẳn là bọn chúng sợ lửa. Chỉ có điều giữa tôi và cây đuốc lúc này là trùng trùng điệp điệp li cổ, cơ bản không tài nào qua nổi. Tôi hét lại với lão Dương: “Để tôi bọc lót cho, cậu đi đi!”

“Tôi không được! Cậu chịu khó một chút đi!” Lão Dương vừa kêu lớn vừa dùng phách tử liêu đập loạn xạ. “Mẹ kiếp, thực là cóc có gì hay ho!”

Tôi nhìn lũ bọ, lòng thoáng run rẩy. Đám li cổ này thực ra không phải lợi hại gì lắm, có điều số lượng quá đông, lại có lớp mặt nạ cứng bảo vệ, thành ra khó mà giết hết, hơn nữa bọn chúng là thứ còn tồn tại sinh trưởng được sau tận mấy nghìn năm. Thật khó mà tưởng tượng ra được, thời ấy vì bảo vệ cây đồng này mà cổ nhân nghĩ ra biết bao thứ kì dị đến thế.

Lão Dương lại thoát khỏi một đám li cổ nữa, định trèo lại gần chỗ tôi, nhưng vừa ngẩng lên nhìn tôi một phát, hắn đã ngây người ra: “Lão Ngô, sao cậu lại thế này?”

Tôi nhìn hắn đứng đực ra, mấy con li cổ trên vai đang nhăm nhe chui vào trong lớp áo, hét lên: “Cái gì mà ‘sao lại thế này’? Cẩn thận!”

Lão Dương lúc này mới phản ứng, cuống quít phủi đám li cổ trên vai đi, sau đó nói với tôi: “Lão Ngô, tôi nói cậu… cậu không phát hiện ra sao? Không bình thường chút nào!”

“Cái gì không bình thường?” Tôi kéo hắn qua, sốt ruột gào lên: “Đợi cái gì nữa, nói toẹt ra xem nào!” 

(;_______;)

“Cậu xem, trên người cậu không có con li cổ nào! Sao chúng lại không leo lên người cậu? Sao lại có chuyện đó được!”

Tôi cúi đầu nhìn, a lên một tiếng, nhìn qua trợ lý Lương và lão Dương, trên người cả hai bám đầy li cổ, phủi mãi không hết, tôi thì lại chẳng dính lấy một con.

Tôi chợt thấy hơi hồi hộp, nghĩ lại thì trừ lúc nãy bị một con rơi vào mặt ra, chẳng có con quái nào bò lên người tôi nữa cả. Vừa rồi tôi loạn hết cả lên thành ra không phát hiện, lại còn nghĩ mình vận khí không tồi, giờ xem ra có chỗ không thích hợp. Tôi nhìn xung quanh mới thấy bọn li cổ kia đúng là có bò tới chỗ tôi thật, nhưng gần tới nơi rồi thì lại đột ngột chuyển sang hướng khác, tránh tôi như tránh cây đuốc vậy.

“Sao lại thế này?” Tôi tự thấy kì quái, bèn chạy tới quơ lấy một chiếc mặt nạ gần đó, tay còn chưa chạm tới nơi, một mảng li cổ vội vàng lùi răm rắp ra sau.

Tôi nhìn lão Dương, lão Dương nhìn tôi, bốn mắt nhìn nhau trân trối. Hắn kêu lên: “Ông nội tôi ơi, một chiêu này thật lợi hại! Tay cậu không dính cái gì đấy chứ, nhìn thử xem!”

Tôi đưa tay lên ngó. Ngoài từng mảng máu đọng lại từ vết thương lúc nãy cộng với lớp đất bẩn ra, tay tôi cũng chẳng có gì bất thường cả.

Thật là lạ, bọn chúng vì sao lại sợ tôi? Không lẽ loài ký sinh trùng cũng biết lựa chọn?

Tôi nhìn bọn li cổ lùi ra sau, nhớ lại màn Muộn Du Bình đẩy lùi lũ bọ ăn xác, trong đầu hiện ra dấu hỏi to đùng.

Từ từ, không lẽ là… máu?

Làm sao có thể, chẳng lẽ đám bọ hung hãn tàn bạo này lại sợ máu của người thường là tôi?

Tôi nghi nghi hoặc hoặc nhìn tay mình, đầu óc rối cả lên, chuyện gì cũng không hiểu.

Lão Dương bên kia sắp không chống đỡ được, tôi như phản xạ duỗi tay về phía hắn thử xem sao. Chuyện xảy ra tiếp theo khiến tôi chỉ biết nghẹn họng mà trố mắt ra nhìn: đám li cổ đang bám trên người lão Dương cứ như gián gặp phải thuốc diệt côn trùng, từng con từng con lùi lại phía sau, hệt như lần nọ đám bọ ăn xác kia thấy máu của Muộn Du Bình vậy.

“Không phải chứ!” Cằm tôi đã rớt xuống đất, lòng thầm nghĩ không cần phải nể mặt tôi đến vậy chứ.

Lão Dương không hiểu mô tê gì, cứ kêu gào phải trèo lên lấy cây đuốc, tôi vỗ vỗ vai hắn nói: “Từ từ đã, cậu xem, hình như có chút không thích hợp.”

Nói xong tôi đưa tay ra, đi vài bước về phía trợ lý Lương đang run lẩy bẩy bên kia, chỉ vài bước thôi, đám li cổ quanh đó đồng loạt lùi ra hệt như triều xuống. Tiếng động do mấy chiếc mặt nạ răm rắp chạm vào nhau phát ra đột nhiên nhiễu loạn, thay vào đó là thứ thanh âm chi chi hoảng hốt.

Lão Dương trợn mắt há mồm nhìn tôi như thể thấy quái vật, tôi không để ý tới hắn, trèo lên trên, tiến lên giơ tay trước mặt trợ lý Lương. Chiếc mặt nạ đột ngột co rúm lại, tôi nhanh tay bắt lấy, dùng sức giật nó ra khỏi mặt anh ta, tiện thể giật ra một thứ gì nhầy nhụa trông giống “đầu lưỡi”. Trợ lý Lương lúc này đã rơi vào trạng thái nửa tỉnh nửa mê, “đầu lưỡi” kia mới rời khỏi yết hầu một phát, anh ta liền bật người nôn mửa, nôn đến một thân dơ hầy.

Li cổ trong tay kịch liệt giãy dụa làm tôi gần như tuột tay tới nơi, hơn nữa cái thứ “đầu lưỡi” kia thực sự rất tởm, tôi đành đập mạnh nó lên tảng đá gần đó, nước xanh lè dính đầy lên tay.

Đám li cổ bên cạnh đã lùi ra nhưng không lùi xa, chúng tạo thành một vòng vây thật lớn quanh chúng tôi, lại còn không ngừng thu hẹp lại. Lão Dương nhanh chân đi lấy cây đuốc về quét một vòng, đẩy bọn chúng ra xa một chút. Lúc này trợ lý Lương ho lên hai tiếng, xem ra sắp tỉnh, lão Dương thì đã đi lấy cái ấm nước để thu phần dây thừng còn thừa. Tiếc là thực phẩm và những trang bị khác của chúng tôi vẫn còn ở trong hai cái ba lô treo trên cây bên kia, không biết có cách lấy lại được không nữa.

Tôi đổ chút nước vào lòng bàn tay, đang dấp dấp môi cho trợ lý Lương thì lão Dương trở lại. Vừa nhìn thấy tôi, hai hàng nước mắt của hắn tuôn ra ròng ròng, tôi vừa trông qua đã trợn tròn hai mắt, vội vàng chạy tới lôi hắn sang một bên. Thần kinh lão Dương đã căng thẳng trong một thời gian dài, rất dễ bị kích động, tôi phải ra sức trấn an hắn là chúng ta có cây đuốc đây, bọn chúng không dám tới đâu, để hắn thả lỏng một chút, chứ không hắn phát khùng lên mất. Lão Dương nhìn đám li cổ không dám tới gần mới thở dài nhẹ nhõm, kéo cây đuốc lại giữa chúng tôi, hỏi: “Lão Ngô, chuyện này là sao, từ lúc nào mà cậu trở nên “trâu bò” như vậy hả? Cũng không chịu thể hiện sớm nữa, bắt cả bọn chật vật như thế này.”

Tôi nhìn tay mình, lắc lắc đầu: “Mẹ nó, tôi còn không biết nữa là, cứ tưởng nằm mơ chứ.”

Lão Dương nhìn máu dính trên tay tôi, quệt quệt vài đường, cũng không tin lắm chuyện tôi siêu nhân như thế, hỏi tôi: “Lúc nãy trên đường đi cậu có dính phải thứ gì không? Cậu cẩn thận ngẫm lại xem… Không chừng là đụng phải thứ gì khắc tinh của bọn mặt nạ này mà không biết đó.”

Tôi ngồi nghĩ lại, cái gì tôi chạm qua thì họ cũng chạm qua rồi, chỉ có máu của tôi là họ chưa đụng vào thôi, nhưng mà chuyện này không có khả năng… Nếu máu tôi thực sự lợi hại như vậy, hồi ở Lỗ Vương cung tôi đã phát uy rồi, đâu có chuyện lãng phí cả đống máu như thế… Chẳng lẽ lúc đó dính phải máu người ta nên giờ còn công dụng, không phải đâu – tôi lắc đầu, gạt phắt ý nghĩ đó đi.

Trợ lý Lương tỉnh lại, nghe chúng tôi nói chuyện mới hỏi xảy ra việc gì, anh ta bị mặt nạ che mắt, chẳng thấy được gì cả. Lão Dương lại có ý bắt chẹt tôi, mới nói với trợ lý Lương: “Anh biết không, lúc nãy lão Ngô của chúng ta uy phong như thế này này…”

Trợ lý Lương nghe hắn nói, kêu lên một tiếng, hỏi tôi: “Tiểu Ngô ca, cậu nghĩ lại xem, có phải cậu từng nếm qua một thứ màu đen, to khoảng chừng này…”

 ———————————–

Beta lải nhải:

 Beta cái chương này quả thực muốn phá ra cười =)) Đọc cái màn đuổi li cổ của em Tà mà mềnh chỉ nghĩ tới một từ: X – mèn cmnr =))))))))))))))

Ai da mà thôi thôi, nói vào chuyện chính ♥

Thông báo cho mọi người một tin mừng là bé Tà siêu nhân nhà mình đã có một suất chắc chắn vào vòng trong của Shounen Tournament 2012 do VNS tổ chức với số phiếu cao thứ 3 trên poll *clap clap* tuy số phiếu thực thì còn phải chờ kết quả kiểm phiếu mới rõ, nhưng kết quả tạm thời này cũng đủ cho chúng ta ăn no ngủ kĩ chờ đến bảng của Tiểu Ca và Tiểu Hoa. 1 ngày (và bao nhiêu ngày trước đó) tranh giành tem, huy động vote đủ kiểu đã được đền đáp xứng đáng, chương này coi như thay mặt nhà Thủy Đạm Nguyệt gửi lời cám ơn chân thành tới các bạn fan gơ Đạo mộ yêu quý của nhà mình ♥ Đọc giải trí lấy sức chiến đấu cho Tiểu Ca và Tiểu Hoa những ngày kế tiếp nhé ♥♥

Chương 28: Kỳ Lân Kiệt

 Editor: Cassie Woonie
Beta: Tiểu Điệp

♥ω♥

Tôi vốn đang kinh ngạc, hắn lại đột ngột hỏi như thế, nhất thời không nghĩ ra được gì, lắc lắc đầu nói: “Lớn như vậy á? Hình như là chưa ăn bao giờ thì phải, nói thế nào nhỉ? Trợ lý Lương, anh rốt cuộc muốn nói đến cái gì vậy?”

Trợ lý Lương quệt lấy một ít máu của tôi, chăm chú quan sát rồi nói: “Vừa rồi nghe kể lại tình hình, tôi chợt nhớ ra một chuyện. Trước kia tôi từng nghe một vị tiên sinh nói rằng trên đời này có một thứ trông như mảnh giáp màu đen, người nào ăn nó máu có thể trừ tà, cả côn trùng cũng không dám đến gần, là một loại thuốc bắc vô cùng hiếm thấy. Cậu thử nghĩ kỹ lại xem đã từng ăn cái gì tương tự chưa?”

Tôi à lên một tiếng, mảnh giáp màu đen ? Thuốc bắc? Đúng thật là làm khó tôi rồi, dạo gần đây có quá nhiều chuyện xảy ra, ăn uống lúc nào cũng vội vội vàng vàng, cũng chưa từng mắc bệnh gì, nên tôi cũng chẳng để ý tới việc bản thân đã ăn thứ gì cho lắm, bây giờ đột nhiên hỏi thật sự chẳng nhớ được cái gì hết.

Lão Dương cười giễu tôi: “Ông đây chỉ nghe nói rằng máu chó đen, máu gà trống có thể trừ tà, quả thật không nghĩ đến là lão Ngô nhà chúng ta cũng có bản lĩnh này. Chuyện này tốt nhất là cậu đừng có để lộ ra ngoài nghe chưa, nếu không khắp nơi người người tìm cậu xin máu, chẳng mấy chốc mà cậu thành cái xác khô đấy nhá.” Nói xong lại phá lên cười lớn.

Tôi mắng: “Con mẹ nó cậu có thể tích chút công đức cho cái miệng cậu không vậy? Cái gì mà chó với gà! Tôi cho cậu biết, máu người từ xưa đã là thứ có thể trừ tà rất tốt, đặc biệt là máu của tử tù, trên pháp trường còn có người nhờ pháp y trám máu vào vải trắng rồi buộc lên xà nhà. Không hiểu đừng có ăn nói lung tung.”

Lão Dương thấy tôi có vẻ giận, đắc ý cười to hơn, mới cười được hai tiếng, đột nhiên kêu lên “Ôi… ”, đứng dậy vuốt vuốt lưng, khóe miệng run run. Đại khái là do vết thương lúc trước, bây giờ vừa cười cho đã đời khiến cho cơn đau lại nhói lên.

Tôi rủa thầm rõ đáng đời, không thèm để ý tới hắn nữa, quay sang trợ lý Lương: “Anh phải nói cho rõ ràng để tôi còn hình dung được cụ thể một chút chứ. Màu đen, hình mảnh giáp, thứ như thế nhiều lắm. Nó có đặc điểm gì nổi bật không?”

Trợ lý Lương nhăn mày suy nghĩ rồi ngượng ngùng nói: “Bản thân tôi cũng chưa từng nhìn thấy tận mắt, chỉ là nghe người khác nói đến từ khá lâu rồi, mấy thứ đặc thù gì đó thực sự không nghĩ ra.”

Tôi nghe thế không khỏi thất vọng thở dài.

Trợ lý Lương cười cười: “Tiểu ca, cậu đừng để ý quá như thế, cũng không phải chuyện gì xấu cả. Vừa rồi nếu không có cậu chẳng phải tất cả chúng ta đã xong đời rồi sao. Tôi thấy đây là số mệnh đã được định trước rồi. Cậu nghĩ mà xem sau này mà đi đổ đấu, có khả năng này đụng thứ gì cũng không lo không hạ được nha.”

Tôi nghe xong cũng chẳng thấy có hứng thú gì, chỉ mới đi được một đoạn đường mà đã thành như thế này, phải nói số tôi quá xui. Sau này mà còn muốn đi đổ đấu, chắc là lúc đó chết chắc. Tôi ngẩng đầu lên nói với bọn họ: “Mà nói đi cũng phải nói lại, bây giờ không thể làm xét nghiệm, không thể biết có đúng là máu tôi có tác dụng thật hay không, nếu không phải thì phiền lắm. Nhân cơ hội này tốt nhất chúng ta nên đi nhanh lên một chút, qua ải này rồi hãy nói.”

Trợ lý Lương vốn định tiếp tục nghỉ ngơi, nhưng lại nhìn thấy đám cổ trùng vẫn đanmớig rục rịch ẩn núp tứ phía, đành đồng ý với ý kiến của tôi. Chúng tôi lại nhích người bò được mấy bước, lão Dương đột nhiên túm lấy tay tôi khiến tôi dừng lại, giọng khàn khàn: “Chờ… Chờ một chút!”

Tôi quay đầu lại nhìn, thấy sắc mặt hắn trắng bệch, trán lấm tấm mồ hôi, vẻ mặt rõ ràng không ổn chút nào. Tim tôi đập thịch một cái, vội vã hỏi hắn làm sao vậy?

Lão Dương một tay bám vào nham thạch, một tay vuốt vuốt sau lưng, nghiến răng nói: “Tôi cũng không biết làm sao, vừa rồi mới cười một tiếng, lưng liền đau muốn chết, có thể vừa rồi lúc sợi dây đứt bị va đập mạnh làm tổn thương gân rồi, cậu xem thử coi, sao mà đau khiếp thế này, chẳng còn chút sức lực nào hết.”

Vừa rồi sau khi dây thừng đứt lìa thực sự lực va chạm không nhẹ, tôi đã sớm cảm thấy đau nhức khắp mình mẩy, nhưng vừa rồi tình huống nguy cấp, không có thời gian lo lắng nọ kia, bây giờ căng thẳng tạm trùng xuống, những vết thương này lại bắt đầu phát tác. Lão Dương ở đoạn dây dưới cùng, bị va đập mạnh hơn chúng tôi nhiều, không biết có bị gãy xương chỗ nào không.

Tôi bảo hắn đừng có cử động, vén áo hắn lên, thấy phía sau lưng ở vị trí xương sườn thứ ba chỉ có một vệt máu đọng, nhưng mà bị lõm xuống một chút, tôi thuận tay ấn xuống một cái, hắn đột nhiên rống lên như lợn bị chọc tiết, oằn lưng ra sau, tưởng chừng như muốn đụng ngã chết tôi.

Tôi thầm rủa không hay rồi, bị thương thế này xem ra không nhẹ, động một chút mà đã đau như vậy chẳng lẽ gãy xương thật?

Lão Dương mặt nhăn mày nhó gượng dậy, khó khăn quay đầu lại hỏi tôi tình hình thế nào. Tôi cau mày, không biết nói sao với hắn cho phải, đành bảo: “Nội thương thế này không biết chắc được, mà cậu lại đau như vậy, chúng ta không thể đi tiếp được. Xương cốt đã suýt gãy lại còn vận động quá mức, không thể nói đùa được đâu. Phải tìm chỗ nào bằng phẳng một chút để kiểm tra cẩn thận xem sao.”

Lão Dương một lòng muốn đi tiếp, nhăn mặt cố gắng đứng dậy, cắn răng nói: “Kiểm tra cẩn thận thì miễn đi, đèn pin và đuốc của chúng ta cũng không thể duy trì trong thời gian dài được, lên được trên kia rồi nói sau.”

Trợ lý Lương nhìn lưng của hắn, lắc đầu nói: “Không được, Dương ca, tiểu Ngô ca nói đúng đấy, lưng anh bị biến dạng rồi, nhất định phải xem xét kỹ, nếu gãy xương thật thì phải xử lý ngay, nếu không thì đoạn xương gãy sẽ đâm vào lồng ngực, lúc đó thì xong đời, vấn đề này tôi cũng có biết qua loa một chút, hiện tại chúng ta cũng không còn cách đích bao xa nữa, dừng lại một chút cũng không sao đâu.”

Lão Dương còn muốn đôi co với hắn một hai câu, nhưng hình như thật sự là quá đau, khóe miệng nhếch lên lại biến thành rên rỉ, tôi thấy bên cạnh có cái động nhỏ tương đối bằng phẳng, nháy mắt với trợ lý Lương, hai người không nói thêm nữa mà lẳng lặng dìu lão Dương đặt xuống chỗ tốt nhất trong động. Tôi cầm cây đuốc cắm ở cửa động để tránh cho lũ cổ trùng bò vào.

Cái động này ước chừng sâu khoảng bảy, tám mét, cao không đến một mét, bởi vì quanh năm ánh mặt trời không rọi tới được, không khí lại vô cùng ẩm ướt, có một tầng nham trên vách đá bị nấm mốc ăn mòn lấm tấm. Dường như có một chút dấu vết sinh hoạt của con người, nhưng mà cũng không rõ ràng cho lắm. Đi sâu vào độ năm, sáu mét có thể nhìn thấy đáy huyệt động là một khối nham thạch thô ráp. Còn lại chẳng có gì nữa.

Tôi xem xét một chút, thấy không có gì nguy hiểm, mới thu cây súng lại. Trợ lý Lương dùng phách tử liêu làm vật cố định, dùng sợi dây buộc vào lưng lão Dương, sắc mặt lão mới dịu lại một chút. Tôi chợt nghĩ, người này không giống chỉ làm trợ lý, cái gì cũng biết. Xem ra lần sau nếu có đổ đấu, nhất định cũng phải tìm nhân tài như vậy.

Trợ lý Lương vừa xong việc tôi liền sà vào hỏi hắn tình hình thế nào rồi, hắn hạ giọng nói với tôi: “Xương chắc là không gãy, nhưng khẳng định bị rạn rồi, tôi mới cố định tạm thời cho cậu ta, chắc là không đau nữa, nhưng mà tiểu Ngô ca, cậu tốt nhất phải khuyên bạn của cậu, đã bị như vậy rồi tuyệt đối không thể tiếp tục trèo lên trên được đâu.”

Tôi thấy trợ lý Lương liếc mắt một cái, biết hắn có ẩn ý gì đó, đại khái là khuyên chúng tôi nên đi xuống. Dọc đường đi hắn ám chỉ cho tôi cũng không phải một hai lần, hơn nữa, mạo hiểm như vậy đối với hắn mà nói quả thật vô cùng miễn cưỡng, tôi thấy hắn đã sớm có ý định thoái lui rồi, nhưng bởi lão Dương quá kiên trì mà không nói ra được. Nay hắn đã tìm được một cái cớ, đương nhiên phải tranh thủ cơ hội nói ra rồi.

Nhưng nếu vậy thì tôi cũng không biết có nên tin tưởng vào lời nói của hắn về thương thế của lão Dương hay không đây.

Trợ lý Lương thấy tôi còn hoài nghi, lập tức nói: “Tiểu Ngô ca, mặc dù tôi không chung đường với các cậu, nhưng tất cả đều là người trên giang hồ, có một số việc tôi không đời nào giả bộ ngớ ngẩn để lừa gạt. Tự cậu cũng biết, nói thật, cậu nhìn xem hiện tại bộ dạng chúng ta như vậy, nếu vẫn tiếp tục đi lên, chỉ sợ ngay lúc này sẽ chết ở đây mất.”

Tôi nhìn thoáng qua lão Dương, thấy hắn còn đang cố gắng chịu đau, không để ý đến chúng tôi đang nói gì, vì thế tôi vỗ vỗ bả vai trợ lý Lương, nhẹ giọng nói  với hắn: “Chuyện này tôi còn muốn xem tình hình thế nào đã, anh cũng đi nghỉ ngơi, bây giờ nói cũng không phải lúc. Cho dù là muốn đi xuống, cũng phải nghỉ ngơi đủ rồi mới đi được.”

Trợ lý Lương thở dài một tiếng, dựa vào một bên, xoa xoa bắp đùi của mình, không lên tiếng nữa. Tôi cũng ngồi xuống kiểm tra mấy thứ đồ còn lại, day day huyệt thái dương, bắt đầu suy nghĩ những lời của trợ lý Lương.

Tôi vốn cũng chẳng có hứng thú lắm với Lý Tỳ Bà. Trước kia nếu muốn tôi bỏ cuộc, tôi cũng sẽ không có ý kiến gì. Nhưng bây giờ đã thiên tân vạn khổ trèo lên tới đây, đến lúc này mới nói bỏ cuộc, quả thật có chút không cam lòng, có cảm giác lâm trận rồi lại lùi bước. Nhưng tôi cũng hiểu rõ, trợ lý Lương nói không phải không có lý, hiện tại chúng tôi một người gãy xương, một người thể trạng vốn không ổn định, mà ngay cả bản thân tôi cũng đã đến cực hạn, nếu như còn cố chấp muốn trèo lên, thật sự là hành động không sáng suốt.

Nhưng nếu cứ như vậy, để thuyết phục lão Dương vẫn là rất khó. Dù sao tôi và hắn mới là người cùng hội cùng thuyền, bây giờ lại  hợp tác với người ngoài để đối phó hắn, không chừng sau này đến bạn bè cũng không được nữa. Hơn nữa trợ lý Lương này nhìn qua có vẻ rất vô dụng nhưng vẫn là người từng trải trên giang hồ, không chừng hắn đang muốn tách chúng tôi ra, nếu cứ theo ý kiến của hắn mà đi có thể sẽ rơi vào bẫy của hắn, quả thật là tiến thoái lưỡng nan.

Nghĩ đi nghĩ lại vẫn không nghĩ ra được gì, tôi quyết định không nghĩ nữa, đến đâu hay tới đó vậy.

Tôi quay đầu lại xem hai người, trợ lý Lương đã ngủ rồi, hắn đã quá mệt mỏi, ngủ còn ngáy khò khè nữa. Lão Dương cũng lim dim, nhưng mà ngủ không sâu, đại khái là do vết thương trên lưng. Cái hang nhỏ này tuy rằng ẩm ướt lạnh lẽo, nhưng so với treo ngược ở bên ngoài vẫn thoải mái hơn nhiều, tôi thấy bọn họ ngủ ngon như vậy, tự nhiên mệt mỏi cũng kéo tới, mặc dù tự nhủ trong lòng rằng bản thân không được ngủ, nhưng lại ngủ mất tiêu lúc nào không biết.

Giấc ngủ này quả là cực kỳ sảng khoái, nhưng khi tỉnh lại chỉ thấy toàn thân mềm nhũn, một loại cảm giác đau nhức khắp người. Lúc này cây đuốc đã vô cùng yếu ớt, chắc chắn tôi đã ngủ rất lâu. Ló đầu ra ngoài nhìn thử, cổ trùng đã không thấy đâu nữa, chỉ có vài con vẫn còn thập thò ngoài đó.

Tôi nhẹ nhàng thở ra, bật đèn pin soi về phía trước, từ nơi này nhìn lên, tôi đoán chúng tôi chỉ còn cách đỉnh cây đồng khoảng ba bốn giờ mà thôi, đồ đạc ở trên đó, có thể nói là lấy được khá dễ dàng, bây giờ mà đi xuống thật sự có chút đáng tiếc.

Lão Dương còn chưa tỉnh dậy, nhưng sắc mặt bình ổn, chắc đã khá lên nhiều. Tôi quay đầu sang trợ lý Lương muốn đánh thức hắn, bàn bạc bước kế tiếp nên làm sao bây giờ, vừa nhìn, chợt phát hiện mới vừa rồi hắn còn nằm ở cái chỗ kia, bây giờ đã không thấy đâu nữa.

“Uhm?” Tôi hơi sửng sốt một chút, lấy đèn pin chiếu sâu vào trong sơn động cũng không thấy tung tích của hắn, tự nhủ người đi đâu mất rồi? Lúc này, tôi bỗng không thấy cây phách tử liêu vốn làm cố định vết thương cho lão Dương đâu cả, lập tức toàn thân đổ mồ hôi lạnh, một chuỗi dự cảm không lành ồ ạt kéo tới, vội sờ sờ bên hông mình, quả nhiên súng của tôi cũng mất rồi.

“Khốn kiếp!” Tôi mắng to một tiếng, thật sự không nghĩ tới hắn lại là loại người như vậy, lén trộm súng của tôi trong lúc tôi đang ngủ! Nhưng mà, tại sao hắn không lấy luôn cả đèn pin, không có công cụ chiếu sáng, hắn hành động thế nào được? Tôi lòng như lửa đốt, cũng không suy nghĩ cẩn thận, vớ lấy cây đuốc muốn đi ra ngoài đuổi theo hắn, người này khá chậm chạp, nếu như đi chưa lâu, tuyệt đối có thể đuổi kịp.

Vừa mới bước tới cửa động, tôi còn chưa biết là hắn đi lên hay đi xuống, trước mắt đột nhiên lại lóa lên một tia ánh sáng. Một tốp bóng đen từ phía trên đáp xuống, đạp một cước vào ngực tôi. Tôi chỉ cảm thấy một luồng khí dâng lên, cả người ngã vào trong động. Sau khi ngã xuống đất, tôi cắn răng muốn đứng lên, nhưng cằm lại bị giáng cho một cú, lần này vô cùng đau, tôi cơ hồ muốn ngất xỉu, đang mơ mơ màng màng, chợt thấy một gã béo miệng ngậm điếu thuốc tiến vào động, tay cầm một khẩu súng ngắn, trợ lý Lương mặt mày tái mét theo sau hắn.

Tôi nhìn thoáng qua liền nhận ra kẻ mập mạp kia, chính là một trong hai ông chủ tiệm đồ cổ Quảng Đông, hình như là họ Vương thì phải. Hắn chĩa súng về phía tôi, để tôi bước sang một bên, quay đầu lại nói với trợ lý Lương: “Lão Lương, đó chính là người đã ăn Kỳ Lân Kiệt sao?”

Chương 29. Tiếp cận

Editor: Tiểu Phong Hoa
Beta: Earl Panda

.

********

.

Trợ lý Lương hất hất hàm về phía tôi, vẻ mặt đầy khinh bỉ. Tôi rủa thầm trong miệng, đúng là loại ăn cây táo rào cây sung. Trên đường đi ông đây cũng coi như có ơn với ngươi, không ngờ ngươi lại trở mặt như trở bàn tay thế này. Sớm biết có ngày hôm nay ông đây đã đá ngươi lại, tránh di họa về sau rồi.

Lão béo lôi từ trong ba lô ra một ít chất đốt rắn, nhóm lửa lên. Nhiên liệu này thường dùng khi leo núi tuyết, vừa có thể thắp sáng, vừa có thể sưởi ấm. Cả sơn động lập tức sáng bừng lên. Xong xuôi đâu đấy, gã lại ném cho tôi mấy thanh lương khô trong khi họng súng trường đen ngòm vẫn lăm lăm chĩa về phía tôi.

Cầm lương khô trong tay mà tôi ngẩn cả mặt, trong lòng chẳng hiểu chuyện gì đang xảy ra liền thảy trả lương khô cho lão: “Giờ mạng bọn tôi nằm trong tay các người, muốn giết thì giết quách đi, nhiều lời vô ích!”

Trợ lý Lương nhếch mép cười, quay sang lão béo: “Đấy, tôi đã nói rồi mà, đúng là thanh niên trẻ tuổi có khác, vẫn còn chưa rõ được tình cảnh của mình là gì đâu.”

Ông chủ Vương lắc đầu, lại ném lương khô cho tôi: “Này chú em, tuổi còn trẻ mà đã phiêu bạt giang hồ, đáng ra đầu óc mày phải nhanh nhạy một chút chứ. Tao đã cho mày đồ ăn tức là sẽ không hại đến mấy thằng ranh chúng mày. Thái độ này mà gặp phải mấy thằng cha nóng tính, coi như chú mày đút đầu vào chỗ chết rồi.”

Người này nếu so với lão Thái thì phong cách khác hẳn nhau, lão kia chỉ nhìn qua cũng đủ nhận ra chính là loại giết người không ghê tay. Lão béo đây có vẻ hiền hòa thân thiết, khiến người ta cảm thấy thư thái hơn. Có điều cú đá lúc nãy của lão ta rất có lực, chắc chắn một người buôn đồ cổ bình thường không thể làm được. Tôi nghĩ mãi không ra rốt cuộc thân phận thực sự của lão ta là gì.

Ông chủ Vương dường như nhận ra sự nghi ngờ trong ánh mắt tôi liền rít mạnh một hơi thuốc, đoạn nói tiếp :”Tao tất nhiên không giống bọn lão Thái, tao là người làm ăn. Nơi thương trường không có bằng hữu vĩnh viễn, cũng không có kẻ thù vĩnh viễn.”

Trợ lý Lương ngắt lời: “Ông chủ Vương, tốt nhất ông nên nói toạc ra đi, đầu óc hai đứa nhóc này không thông minh lắm đâu. Thằng họ Ngô còn dễ nói, chứ chờ thằng nhãi đang ngủ kia tỉnh dậy sẽ vất vả hơn đấy.”

Ông chủ Vương bật cười, bảo tôi: “Được, người ngay không dối trá, tao lật bài ra luôn. Tao chỉ kinh doanh, không thích động đao động kiếm. Tình huống hiện giờ bọn mày đều rõ cả, cho dù không rơi vào tay tao, chúng mày cũng khó lòng trở ra. Lão Thái đã chết rồi, đối phó với chúng mày cũng chẳng còn gì thú vị nữa. Mày nghĩ cho kỹ xem, có muốn hợp tác cùng tao không. Tao đảm bảo mấy thằng bây vừa nhàn thân, vừa trúng quả lớn.”

Đây chẳng phải mấy lời tôi từng nói với trợ lý Lương sao? Mẹ nó chứ, chỉ qua mấy tiếng đồng hồ mà tôi đã thành kẻ thất thế, đúng là trời đất đảo điên hết rồi.

Thấy mặt tôi cứng đơ, lão ta vẩy vẩy điếu thuốc: “Chú mày không đồng ý cũng không sao, tao sẽ cung cấp thêm trang bị, chúng mày cứ thoải mái tự nhiên mà đi xuống dưới. Nhưng xem ra đầu óc chú mày cũng hạn hẹp thật, vác theo một thằng thương binh dặt dẹo thế này, đi thế nào được?”

Lão ta nói không phải không đúng, tôi cũng thấy lòng rúng động. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, lão có trang bị vũ khí đầy người, sao còn muốn hợp tác với tôi làm gì? Hệt như phô của cải ra mời người ta bâu vào kiếm lời vậy. Chắc chắn là có âm mưu rồi. Bọn họ rặt một đám dân giang hồ gian trá xảo quyệt, mọi người đều thấy trợ lý Lương đi cùng chúng tôi cả một chặng đường dài lúc nào cũng treo bộ mặt ton hót ra sao, đến khi có cơ hội, thấy chúng tôi không hề đề phòng tức thì đảo khách thành chủ. So với bọn họ chúng tôi quả nhiên còn quá non nớt, bọn họ có muốn hợp tác chắc chắn có mục đích.

Ý nghĩ xẹt qua trong đầu, tôi đã nung nấu một kế hoạch trong lòng. Điều kiện bọn họ đưa ra trước mắt tôi cứ đáp ứng giống như khi trợ lý Lương ngoan ngoãn đi theo chúng tôi vậy, sau này mới tính đường đào tẩu. Huống hồ lời lão ta nói cũng không sai, muốn đưa lão Dương xuống bình an cần thêm ít nhất một người trợ giúp, tôi đây chỉ có một thân một mình, sẽ vô cùng khó khăn. Hai người kia khinh thường tôi ra mặt thế kia đúng là giẫm vào vết xe đổ của tôi lúc trước, chắc chắn tôi sẽ tìm được cơ hội đảo khách thành chủ, chí ít cũng cướp được một khẩu súng.

Nghĩ tới đây, sắc mặt tôi dịu xuống, giả bộ do dự hỏi lão ta: “Được, xem ra các ông nói cũng có tình có lý, có thể tôi sẽ hợp tác cùng các ông. Nhưng trước hết hãy giải thích cho tôi, các ông cần đến tôi làm gì?”

Ông chủ Vương thở phào nhẹ nhõm, nháy mắt với trợ lý Lương một cái. Rồi lão ta vỗ vai tôi bảo: “Kẻ thức thời là trang tuấn kiệt, anh bạn trẻ họ Ngô ạ, cậu đã gật đầu thì chúng ta xem như người một nhà. Tôi cũng sẽ không giấu diếm cậu điều gì nữa mà sẽ nói tuốt ra luôn, có điều hơi dài dòng văn tự một chút, chúng ta vừa ăn vừa từ từ trò chuyện, thế nào?”

Nhìn điệu bộ xán lại gần của lão ta mà máu tôi sôi lên ùng ục, chỉ muốn bóp chết tươi lão già này ngay lập tức, nhưng ngoảnh lại thấy nòng súng trong tay ông chủ Vương vẫn hằm hè chĩa vào phía mình thì đành nén giận, nở nụ cười gượng gạo: “Cứ nói.”

Trợ lý Lương ngắm nghía vỏ cây Thanh Đồng: “Nói đến thứ này thì vô cùng khó lường. Căn cứ theo những thông tin trong “Hà Mộc Tập” thì lần đầu tiên phát hiện ra cây đồng này là thời Bắc Ngụy, năm Cao Tổ Hiếu Văn hoàng đế thứ mười ba.”

Sau khi Lý Tỳ Bà chết, chỉ trong một thời gian ngắn, trợ lý Lương đã cẩn thận nghiên cứu toàn bộ các phần của “Hà Mộc Tập” qua một lượt. “Hà Mộc Tập” là một loại ghi chép rất tùy ý, có chỗ dùng ngôn ngữ của người câm, có chỗ lại dùng chữ Hán, lại còn có một vài phần ngắn sử dụng thứ kí tự không ai hiểu nổi. Đoạn liên quan đến vật này đa phần viết bằng ngôn ngữ của người câm. Hiện tại trong cả đại lục, chỉ có chưa đầy hai mươi người có thể đọc được loại ngôn ngữ này. Trợ lý Lương chính là một trong số đó.

Những chuyện ghi chép bằng chữ của người câm, tổng cộng có ba sự kiện chính:

Sự kiện thứ nhất là vào thời Bắc Ngụy, năm Cao Tổ Hiếu Văn hoàng đế thứ mười ba, tại khu vực mỏ quặng ở núi Thái Bạch có một viên giám sát báo rằng, có một thợ mỏ phát hiện ra một cây cột Thanh Đồng cổ, gốc dường như chôn sâu vào trong núi. Không có bất cứ dấu hiệu nào, cũng như không thể hiểu nổi phần trong đất của cây cột đó dài bao nhiêu.

Vụ này cũng gây nên một đợt sóng gió ở địa phương. Có người nói đây là cây cột có linh tính, anh càng đào xuống càng thấy nó dài, vĩnh viễn cũng không thấy đầu. Có người bảo đây là chuôi rìu của ông Bàn Cổ thời khai thiên lập địa, kiên trì có thể đào được cả cái rìu ra. Thậm chí có ông thầy phong thủy còn khăng khăng đây là đinh của Ngọc Hoàng đại đế đóng xuống, ghim chặt long mạch của Tần Lĩnh lại, nếu không con địa long này sẽ bay lên trời. Cây trụ này cắm sâu tám trăm dặm, nhất định không được đào lên. Nếu đào lên, toàn cõi Trung Quốc sẽ gặp điều xúi quẩy.

Ít lâu sau, một đạo quân câm điếc nhận được mật lệnh liền lên núi Thái Bạch xác định xem truyền thuyết là thực hay hư, nhưng chính đạo quân này lại mất tích một cách li kỳ (có khi bị chính những người dân địa phương giữ lăng giết sạch cũng nên). Bốn tháng sau, một đạo quân khác lại nhận được mật lệnh, chính họ đã tìm ra cây Thanh Đồng rồi dẫn theo ba nghìn tử tù, cho chúng tiếp quản núi Thái Bạch. Bọn họ niêm phong cả tòa núi, hạ trại rồi tiếp tục đào bới.

Sự kiện thứ hai là vào mùa xuân năm Bắc Ngụy Cao Tổ Hiếu Văn hoàng đế thứ mười tám đã đào liên tục trong vòng bốn năm ba tháng. Ba nghìn tử tù đã thông đến tận hang đá vôi hiện tại chúng tôi đang đứng, nhưng đào đến sát chân núi vẫn không thể tìm ra rễ của cây đồng, trái lại tìm được một chiếc tráp đá vân rồng rỗng bên trong. Hình như bên trong có chứa một vật, nhưng hoàn toàn không có kẽ hở, loay hoay mãi cũng không tài nào mở được. Bọn họ không dám làm liều, đành dâng chiếc tráp vào cung.

Sự kiện thứ ba khá ngắn gọn. Cuối năm Bắc Ngụy Cao Tổ Hiếu Văn hoàng đế thứ mười tám, trong “Hà Mộc Tập” có ghi, hoàng đế ban thưởng, phong tước nhị phẩm, mỗi người được thưởng hai trăm kim, toàn bộ quân đoàn mở tiệc khao quân. Đến lúc say xỉn, chủ nhân “Hà Mộc Tập” cùng mấy binh sĩ tinh anh đầu óc đã nửa mê nửa tỉnh, đánh cược với nhau xem ai dám trèo lên cây Thanh Đồng cổ thụ kia.

(chép tới đây thì bên dưới sử dụng một thứ ngôn ngữ hoàn toàn kỳ quái, không biết có dụng ý đặc biệt gì không. Trợ lý Lương không thể hiểu được, thật đáng tiếc.)

Trợ lý Lương bảo chúng tôi chỉ có ông chủ Lý Tỳ Bà có thể hiểu loại ngôn ngữ này, nhưng khi hắn hỏi thì lão ta khóa chặt miệng không hé một lời, bí ẩn vô cùng. Không biết là có nguyên do gì.

Phần cuối “Hà Mộc Tập” có một đoạn chữ Hán ghi lại quá trình trèo. Nếu tính từ vị trí hiện tại của chúng tôi hướng lên trên thì sẽ có một sạn đạo vây bởi vách núi đá. Đó là sạn đạo xây dựng dành cho hoàng đế đến kiểm tra, đáng tiếc gần lên đỉnh không hiểu sao không thể xây lên thêm được nữa, hơn nữa, trong quá trình xây lại còn có người ngã xuống vực một cách bí hiểm.

Chúng tôi ra khỏi hang động thấp đó. Ông chủ Vương đưa cho tôi một cái ống nhòm, tự tay bật đèn pin chiếu sáng cho tôi. Sau khi điều chỉnh tiêu cự, quả nhiên tôi nhìn thấy trên mặt đất cách mình một khoảng không xa có một đoạn sạn đạo bằng gỗ dựng trên vách đá, lượn vài vòng hướng về phía trước. Đèn pin của chúng tôi nguồn hơi yếu, không thể chiếu xa nên lúc nãy không hề phát hiện ra.

Ông chủ Vương có ý rằng, nếu leo thẳng bằng sạn đạo kia sẽ có thể tiết kiệm rất nhiều công sức. Có điều, trên sạn đạo chắc chắn tồn tại những điều kỳ quái. Trợ lý Lương là thư sinh trói gà không chặt, đánh đấm đương nhiên mù tịt. Tốt nhất là để cho hắn ở lại nghiên cứu, hai người chúng tôi đi là đủ.

Tôi thì không lạc quan đến thế. Dí mắt vào ống nhòm mãi tôi vẫn không thể nào nhận ra hình thù của sạn đạo. Ánh sáng nơi này mù mịt vô cùng, hơn nữa bên cạnh sạn đạo còn có những sợi rễ cây chằng chịt quấn vào, hoàn toàn không hề giống với những sạn đạo dựng bằng thép trong những khu du lịch tôi đã từng đi qua. “Hà Mộc Tập” viết vào thời Nam Bắc triều, tới nay đã trải qua hàng ngàn năm, sạn đạo này không biết đã hoàn thành hay chưa, có chắc chắn hay không lại càng không biết.

Ông chủ Vương nói công trình xây dựng năm đó là để hoàng đế ngự lãm, hoàn toàn không phải thứ làm tạm bợ nên sẽ được thiết kế và thi công rất kỹ lưỡng. Hiện nay còn tồn tại rất nhiều công trình kiến trúc cổ thời Hán, tất cả đều trong tình trạng bền vững nên lão ta cho rằng vấn đề không mấy to tát. Nếu thực sự không xong, chúng tôi còn có một cơ số dây thừng, cộng thêm sạn đạo kia thì việc leo lên chỉ là chuyện nhỏ.

Lão nói vô cùng dứt khoát, không để người khác xen miệng vào được câu nào. Tôi chửi thầm trong bụng, đành nén lòng mà ngậm tăm. Quay sang bàn bạc với trợ lý Lương, quyết định cho tôi nghỉ ngơi thêm chừng mười lăm phút, sau đó lão béo dẫn tôi đi lên, trợ lý Lương và lão Dương ở lại.

Chợp mắt được một lúc tôi cũng thấy khỏe lên nhiều, lại ăn thêm chút thức ăn. Ông chủ Vương cũng ngồi xuống, dùng tiếng Quảng Đông tán dóc với trợ lý Lương. Tôi không hiểu được hoàn toàn, nhưng đại khái cũng biết họ đang nói chuyện có liên quan đến Kỳ Lân Kiệt mà lão béo kia từng nhắc tới. Đối với việc này, trong lòng tôi cũng hơi thắc mắc, liền tự nhủ giờ quan hệ giữa tôi và bọn họ cũng đã dịu đi ít nhiều, đây lại là thời cơ để hỏi cho rõ ràng. Tôi liền hỏi trợ lý Lương xem Kỳ Lân kiệt rốt cuộc là thứ gì, có nguy hại hay không.

Trợ lý Lương đáp: “Cậu không cần lo lắng. Khi đó tôi không kể hết sự tình cho các cậu chẳng qua là để nắm đằng chuôi, đề phòng khi các cậu chuồn mất thì còn có cơ hội lật ngược tình thế. Giờ chúng ta đã chính thức liên minh, tôi sẽ nói cho tâm tư cậu khỏi khó chịu.”

Kỳ Lân kiệt chính là máu kỳ lân đông kết thành cục, là một vị thuốc Đông y vô cùng quý giá. Nhưng nó hoàn toàn không phải máu kỳ lân thật mà là nhựa của một loại thực vật. Thứ cây này có tên là Kỳ Lân Huyết Đằng, còn có cách gọi khác là Huyết Xà Đằng, chủ yếu mọc ở phía Nam.

Kỳ Lân kiệt lưu giữ càng lâu càng có công hiệu. Ban đầu nó chỉ có công dụng bình thường là dùng làm thuốc, nhưng trong Đông y còn có một cách sử dụng không mấy phổ biến, đó là để xông lên thi thể. Thời cổ đại, một số dân tộc thiểu số hoặc trong một vài sơn thôn có tập tục đặt một khối Kỳ Lân kiệt trên rốn của thi thể rồi nhập liệm. Cách làm này có thể loại bỏ âm khí của thi thể, dù thối rữa nhưng cũng không sinh ra giòi bọ.

Kỳ Lân kiệt lâu dần sẽ từ màu đỏ sậm biến thành màu đen. Tuổi càng lớn màu đen càng trầm. Đến một thời điểm nhất định, tính chất sẽ biến đổi, nuốt vào sẽ tan ra. Sau khi người sử dụng, côn trùng không thể lại gần, mùa hè ngay cả muỗi cũng không dám đốt.

Tất nhiên là truyền thuyết này trợ lý Lương cũng chỉ nghe người khác kể lại, hôm nay lần đầu tận mắt nhìn thấy mới bắt đầu tin có chuyện như vậy thật. Về phần có tác dụng phụ hay không thì chẳng hề có ghi chép gì cả. Nhưng thông thường độc tính của thuốc Đông y rất thấp, hắn cũng khiến tôi bớt lo: “Nhân nói đến chuyện này, tôi thấy rắc rối nhất vẫn là đám cổ trùng. Thời điểm ghi chép trong “Hà Mộc Tập” không hề tồn tại thứ mặt nạ như thế này, không thể khẳng định được là người xưa bày nghi trận hay không, chỉ biết rằng họ đã động thủ giết chết hàng ngàn mạng người bên ngoài. Khi hai người đi lên hãy cố gắng cẩn thận, không được phép sơ suất.”

Chúng tôi nghỉ một lúc, lão Dương vẫn chưa tỉnh, lão béo bèn tháo trang bị xuống cho tôi. Tôi đầu đeo đèn pin, lưng mang dây thừng, hướng về phía sạn đạo mà xuất phát.

Nhìn qua thì quãng đường đến sạn đạo không hề xa, nhưng trên thực tế thì luôn khác hẳn, khoảng cách thật sự xa hơn rất nhiều. Chúng tôi dự định khoảng một giờ sẽ lên đến đỉnh, kết quả là nửa giờ sau mới lết được tới phía dưới sạn đạo.

Lúc này tôi phát hiện ra, lão béo nói không sai chút nào. Sạn đạo được bảo tồn cực kỳ tốt, không hẳn vì xây dựng cho hoàng đế nên chắc chắn đến thế mà là do đang trong giai đoạn sửa chữa, bên ngoài được bao quanh bằng một lớp hành lang bằng trúc phủ sơn. Chất liệu này chống ẩm rất tốt, trải qua xâm thực mấy trăm năm mà vẫn rắn chắc vô cùng. Khi bước lên, tôi còn có thể nghe thấy những tiếng cót két dẻo dai.

Nơi này có vẻ gần sát với bề mặt trái đất, bên vách đá dựng đứng rủ xuống vô số rễ cây, giống hệt như những cây leo cuốn vào lan can. Có cả những đoạn rễ khổng lồ, thoạt nhìn y hệt bộ xúc tu của bạch tuộc che kín cả sạn đạo. Càng lên cao những thứ này càng lắm, khiến đường trở nên rất khó đi. Vài đoạn bị cả bộ rễ bao bọc bên trong không còn chỗ đặt chân lên, đành phải rút dao ra chặt bớt mở đường hoặc lồm cồm trèo qua.

Rễ cây ăn xuống rất sâu khiến các tầng nham thạch đều đã rạn vỡ hết. Chốc chốc đất đá lại rào rào rơi xuống, chúng tôi tay thì ôm đầu, chân thì rón rén bước trên sạn đạo, đi thì đi được đấy nhưng trong lòng thấy khổ sở không để đâu cho hết.

Chúng tôi đi rất chăm chú, không để ý tới đã lên cao được bao nhiêu vòng thì phía trước sạn đạo bỗng xuất hiện một cái hố khổng lồ, chắc đường kính phải đến mười mét. Có lẽ cái hố đó là do nham thạch bị phá vỡ sụp xuống mà thành. Tôi căn thử khoảng cách rồi quay đầu lại nói với ông chủ Vương: “Bó tay rồi. Muốn vượt qua phải dùng dây thừng.”

Từ lúc xuất phát chúng tôi đã đi liên tục gần một tiếng đồng hồ, nhưng nhìn xuống mới thấy quãng đường đi được chẳng đáng là bao. Xem ra còn khuya mới lên được đến ngọn cây, đừng nói là trong vòng một giờ ngắn ngủi. Đi nhanh nên tốn sức vô cùng, chúng tôi đành nghỉ ngơi một lúc. Hang động vừa rộng vừa trơn tru này bên trong lại vừa âm u vừa ẩm ướt, đi được có quãng ngắn ngắn đó thôi mà quần áo tôi đã đầm đìa mồ hôi, dính chặt vào người khó chịu muốn chết. Khoảng nửa tiếng nữa mà không thoát khỏi cái đống ướt sũng này chắc tôi lăn ra ốm mất, phải nghĩ cách sưởi ấm mới được.

Chúng tôi tìm một chùm rễ cây phủ bên trên sạn đạo, ông chủ Vương lấy nhiên liệu ra rồi lại lấy dao găm cắm vào cây. Tôi cởi quần áo, đầu tiên hong khô đồ lót sau đó mới ăn qua quýt một chút. Ông chủ Vương mặt mũi rất nghiêm trọng, vừa nói chuyện với tôi vừa rọi đèn mỏ vào cây đồng ở phía đối diện. Săm soi một hồi, lão ta nói: “Cậu xem kìa, từ đây đã có thể nhìn thấy ngọn. Trên đó là cái gì vậy?”

Tôi cầm ống nhòm lên ngắm. Trên cao cách khoảng mười mét là ngọn của cây đồng, những rễ cây rủ xuống theo vách động gần như che kín hết một vùng, cố gắng lắm mới có thể nhìn thấy được. Bộ rễ chùm cực kỳ lớn, một lượng lớn rễ con quấn chặt vào cây đồng. Nếu bên trong thực sự có thứ gì đó thì cũng không thể rõ được.

Sạn đạo bao quanh vách động hướng lên trên còn xa hơn nhiều so với ngọn cây đồng. Về điểm này có vẻ không giống nội dung trong “Hà Mộc Tập” cho lắm. Trải qua biết bao thời gian đào bới, cây đồng nặng nề này càng lúc càng có xu hướng chìm sâu xuống tầng nham thạch, sau hàng trăm năm đã gần chạm tới sạn đạo.

Bộ rễ trùm xuống ngọn cây rất có thể là của cây đa mà chúng tôi nhìn thấy từ đỉnh núi Kim Ngư khi mới đặt chân đến đây. Cây đa đó rất lớn, hơn chục người vòng tay ôm không xuể, đám rễ cây kia xem ra còn đồ sộ hơn cành lá rậm rạp. Chúng giống như những móng vuốt quỷ trắng bệch, cũng từa tựa một đám vải vóc tả tơi vắt bừa ra đó. Có lúc tôi lại cảm giác chúng như một bàn tay khổng lồ đang tóm lấy thân cây đồng lôi ra khỏi chốn âm ty địa ngục, có lúc giống như tô-tem khổng lồ hình một con cự mãng hóa thạch ngàn năm, khiến người ta nổi cả da gà da vịt.

Tôi đang nhìn say sưa, bỗng nghe thấy giọng lão béo vang lên bên tai: “Rễ cây um tùm như vậy, chắc chắn tầng đá này chính là lớp đất bề mặt. Hang động này là hang tự nhiên, người xưa khi hiến tế không thể đục xuyên núi được. Phía trên nhất định có một hệ thống hang động thông ra bên ngoài. Nếu việc bất thành, chúng ta cũng không cần theo đường cũ để về đâu.”

Tôi thấy lão ta nói cũng có lý mà như mở cờ trong bụng, không đi đường cũ đúng là phúc đức ba đời. Nhưng hang động này quá rộng, chắc chắn không phải nơi tốt lành gì. Muốn thoát ra khỏi đây phải phụ thuộc vào nhiều điều kiện khác nữa.  Ông chủ Vương đẩy tôi: “Ngọn cây thì là như vậy, nhưng cậu nhìn đi, trong mớ rễ kia hình như có một bức tượng đồng. Có điều xa quá, tầm nhìn hạn chế, chúng ta kiếm chỗ nào nhìn cho rõ xem.”

Tôi nhìn theo hướng lão ta chỉ tới ngọn cây, phát hiện ra trong đám rễ chằng chịt hình như có hai cánh tay đúc bằng thanh đồng. Ở Giáp Tử Câu chúng tôi đã từng nhìn thấy một pho tượng cổ hoa lá cành rất giống pho này, nhưng khuôn mặt tượng đã bị mấy tên trộm mộ cho nổ nát bét. Lúc đó tôi bỗng có linh cảm khuôn mặt đó chắc chắn không bình thường, giờ nhìn kỹ mới thấy rõ hình dạng của cái thứ này.

Chương 30: Lối cũ

Edit: Dứa

Beta: Earl Panda

**********

Theo lý mà nói, muốn xem mặt bức tượng kia không khó, có điều chúng tôi đang từ dưới nhìn lên, ở góc độ này dù có đứng chỗ nào đi nữa cũng không thể thấy rõ được. Chuyện này khiến tôi thất vọng, cảm giác bất an đối với pho tượng lại càng tăng lên.

Ông chủ Vương hình như cũng có chung cảm giác với tôi, càng muốn nhìn càng nhìn không rõ, sốt ruột tới độ mặt mũi xanh mét cả ra. Chúng tôi đổi chỗ nhìn mấy lần đều không được, cuối cùng quyết định trước hết cứ đi qua chỗ sạn đạo(*) sập xuống này đã. Vách đá nơi này toàn là rễ cây, đứng trên đó không có mấy khó khăn, bên dưới còn có mấy lớp sạn đạo nữa, có rơi xuống cũng không chết được, chẳng việc gì phải sợ.

Chúng tôi quay lại rìa đoạn sạn đạo đã bị sập cạnh đó, ông chủ Vương kiểm tra độ chắc của sợi rễ buông xuống gần đó, dùng cuốc đa năng móc vào, nhanh nhẹn leo lên trên vách đá. Tôi một bên dùng đèn pin chiếu sáng cho lão ta, một bên thầm nguyền rủa cho ổng lộn cổ xuống, có điều nhìn lão ta thế mà thân thủ không xoàng chút nào, loáng cái đã sang đến bên kia, bước lên sạn đạo.

Lão quay lại ném cuốc đa năng cho tôi, sau đó lật đật chạy tới trước, chắc là sốt ruột muốn xem thử bức tượng kia rốt cuộc là thứ gì. Tôi bật ngọn đèn gắn trên đầu, bắt chước ổng leo lên vách đá, một tay dùng cuốc đa năng làm điểm tựa, tay kia bám theo những sợi rễ mà tiến tới. Mấy sợi rễ này không biết đã bao nhiêu năm tuổi, sờ lên cứng hệt như đá, không giống thứ còn sống. Những đường vân bên trên giống như lớp vảy trên thân động vật, nếu không nhìn kĩ rất dễ nhầm là hóa thạch sinh vật cổ.

Tôi cẩn thận di chuyển từng chút một, mới được nửa đường đã nghe lão già Vương bên kia kêu lên: “Nhanh sang đây mà xem, ở chỗ này nhìn rất rõ, phía trong lớp rễ cây kia có một… một pho tượng! Không biết là tạc thành hình thù gì nữa.”

Tôi nghe lão ta nói, cắn răng dùng cả tay lẫn chân bám vào một sợi rễ, đu sang phía bên kia, sau đó bật đèn pin đuổi theo. Lão ta đã leo đến tầng sạn đạo thứ ba, dùng ống nhòm xem xét đám rễ cây Thanh Đồng. Tôi nhìn theo hướng ngắm của ổng, vì góc độ khác nhau nên mặc dù thấy được bên trong đám rễ có thứ gì đó, nhưng cụ thể là gì thì không nhìn rõ.

Tôi thở hồng hộc đuổi theo sau, nhận ống nhòm từ tay lão ta, lúc đó mới quan sát rõ, bên trong đám rễ uốn éo như mãng xà kia lộ ra những cánh tay bằng đồng đã rỉ sét. Xét số lượng, xem ra trong đó có ít nhất bốn pho tượng quay về bốn hướng. Dựa vào phần lộ ra ngoài cũng không cách nào phán đoán chuẩn xác được cái này có phải cùng một khuôn mẫu khắc ra hay không, những bộ phận khác đều bị vùi sâu bên trong rễ cây, nhìn sơ qua thì thấy kích thước của nó khá lớn, đại khái không hơn kém mấy so với khối đá chúng tôi đã thấy trên sườn núi.

“Chỗ tốt” mà lão Dương nói hẳn không phải là mớ rễ cây khủng bố kia rồi,  vậy hẳn phải là thứ được đám rễ ấy bao quanh. Nhưng dù cho mấy pho tượng đó có giá trị tới mấy thì chúng tôi cũng không tài nào mang đi nổi, hẳn là bên kia phải có chuyện gì kì lạ mà chúng tôi không biết, có đứng ở bên này tới Tết cũng không tài nào hiểu ra được, nhất định phải sang đó xem sao.

Chúng tôi tiếp tục đi trên sạn đạo, càng đến cuối hang động càng rộng ra, khoảng cách giữa cây Thanh Đồng và vách đá ngày một thu hẹp, chúng tôi cũng mỗi lúc một quan sát được rõ hơn. Hóa ra trên đỉnh cây có một đài hiến tế hình tròn, bốn phía có bốn bức tượng đồng kia trấn giữ.  Chúng tôi vốn nghĩ đổi hướng nhìn là có thể thấy mặt của mấy pho tượng đó, có điều càng lên cao càng thất vọng, tất cả đều bị giấu kín trong lớp rễ kia, muốn thấy rõ ràng sợ là chỉ có một cách: chặt đám rễ đó đi.

Chúng tôi đi tới đoạn sạn đạo song song với đài hiến tế kia, ông chủ Vương đứng lại quan sát một lát, nói với tôi: “Bốn pho tương đặt ở bốn góc, chứng tỏ ở giữa phải còn thứ gì nữa. Nếu chúng ta có trang bị ở đây có thể leo lên trên, dùng đèn pha chiếu sang cho rõ ràng, tiếc là tất cả đều rơi xuống thác nước hết rồi. Không còn cách nào nữa, cậu thanh niên à, chúng ta buộc phải sang đó thôi.” Nói rồi lão ta tháo lấy phần lưỡi của cuốc đa năng uốn thành hình móc câu, buộc vào dây thừng làm thành một sợi dây neo, sau đó xoay sợi dây vài vòng như cao bồi rồi ném sang bờ bên kia.

Lưỡi cuốc vạch một đường parabol trên không trung, móc vào một rễ cây ở đài hiến tế đối diện, quấn vài vòng dây thừng lên đó. Ông chủ Vương kéo căng sợi dây làm phần rễ bên kia hơi chuyển động, một đám sâu xám quái gở theo chỗ hở giữa những sợi rễ tràn ra, nhanh chóng tỏa ra bốn phía.

Ông chủ Vương nhíu mày nói: “Cậu thanh niên, lần này cậu đi trước đi!”

Tôi biết tỏng là lão ta kiêng kị đám sâu nọ, đành chửi thầm một câu trong bụng, quan sát một lúc thì thấy khoảng cách từ bên này sang bên kia gần hơn khoảng cách chúng tôi vừa mới leo qua lúc nãy, chắc chẳng có việc gì đâu. Tôi bèn gật đầu, bám vào sợi dây.

Bò được một đoạn, tôi không khỏi khâm phục ông chủ Vương. Dây thừng này được giăng rất tốt, tạo thành một đường chếch xuống dưới sáu mươi độ, chỉ cần dùng hai chân kẹp lấy sợi dây là sẽ tự nhiên tiến tới, chẳng tốn mấy công sức. Tôi thuận lợi trượt thẳng về phía trước, tới gần phần rễ cây trên đài hiến tế thì chụp lấy, dừng lại.

Ông chủ Vương bên kia ra hiệu với tôi, ý bảo tôi xem xét tình hình bên đó trước. Tôi nhìn thấy một đám sâu xám, chúng không phải li cổ mà trông giống ấu trùng của loài ve, nhiều thì có nhiều nhưng xem ra chẳng nguy hại gì. Tôi đuổi bọn chúng đi, quay lại ra hiệu cho ông chủ Vương, lão ta dùng đèn pin chiếu quanh quất một lúc, thấy rõ là không có sâu mới bò lên sợi dây.

Rễ cây nơi này lớn gấp hai ba lần bắp đùi tôi, quấn loạn thành một khối, chỗ nào mấy sợi rễ tiếp xúc với nhau thì gần như đã dính liền thành một, chỗ nào không tiếp xúc thì tạo thành một khoảng trống lớn bằng một thân người. Năm tháng trôi qua, cả một vùng cây mọc lẫn vào nhau, những khoang trống bên trong thông với nhau tỏa ra bốn phía. Hiện tượng này là bình thường ở những cây đa rừng, có nơi cả vạt rừng, thậm chí cả cánh rừng đa mọc dính vào nhau, những động cây nối liền liên tu bất tận, có lối vào mà không có lối ra, ma quái hơn cả những khu rừng quỷ.

Chúng tôi quan sát một vòng quanh đám rễ, nhận ra những cái cây này tuổi đã lớn lắm rồi, quây kín lấy nơi đây, hoàn toàn không thể nhìn thấy bên dưới. Đám rễ cây thì có làm thế nào cũng không suy suyển, thực là bó tay. Im lặng một lát, ông chủ Vương nói có thể theo những khoang rỗng bên trong cây để xuống dưới quan sát, chúng tôi cứ chia nhau ra, lần lượt xem xét từng khoang một, ắt sẽ thấy được.

Tôi thấy chuyện này cũng không phải không khả thi, có điều lão ta chẳng hề bàn bạc thảo luận gì với tôi cả, chỉ khoát tay bảo tôi tiến hành đi.

Tôi có cảm giác người này vô cùng thô lỗ, hơi giống Vương Bàn Tử tôi đã gặp trước đây, nghĩ thầm chẳng lẽ hai người là họ hàng? Có điều Bàn Tử mà tôi biết là người rất đáng mến, tính tình dễ chịu, còn lão già này thì trái ngược hoàn toàn.

Rễ cây mọc chồng chéo lên nhau như một nấm mồ, dùng đèn pin chiếu vào bên trong khoang rỗng cũng không thấy gì cả. Chúng tôi mất nửa ngày, làm đến mướt mồ hôi cũng chẳng quan sát được gì sất. Thắt lưng tôi nhức nhối vì hoạt động mạnh, đau đến toát mồ hôi lạnh toàn thân.

Cả hai không còn cách nào nữa, ông chủ Vương nhìn tôi, đột nhiên chửi ầm lên: “Tổ sư nó, chẳng lẽ Lý Tỳ Bà dám giỡn mặt ta!”

Tôi cũng thầm nghi hoặc, nếu nơi này quả thực không có gì cả, tại sao lão Dương lại cường điệu lên như thế? Hắn hẳn sẽ không giỡn nhảm như thế này, vậy thì vấn đề là ở chỗ chúng tôi, rốt cuộc là chúng tôi đã bỏ sót chỗ nào?

Hai chúng tôi không nói câu nào, chỉ lặng im suy nghĩ. Tôi nghĩ lão Dương đã nói dối tôi suốt dọc đường đi, mặc kệ là có tính toán bí ẩn gì, chủ đích vẫn là muốn dụ tôi đến nơi này, vậy mà khi đến đây rồi thì lại chẳng thấy gì hết. Mà cái việc gọi là không thể cho tôi biết, hoặc là có cho tôi biết cũng chẳng làm được gì kia, rốt cuộc là việc gì? Giờ thì chẳng nhìn ra một tí gì cả.

Tôi đang thần người ra thì ông chủ Vương đột nhiên đẩy đẩy vai tôi, tôi quay lại định hỏi, lão ta lại ra hiệu im lặng.

Tôi thấy khó hiểu, còn lão ta thì khoát tay, cẩn thận kéo tôi ngồi xuống, chăm chú lắng nghe tiếng động bên trong lớp rễ…

Tôi lập tức nín thở, nghiêng tai lắng nghe. Nơi này không có tiếng gió thổi, giữa không gian rộng lớn tịch mịch, áp tai vào rễ cây có thể nghe thấy âm thanh “Híc… Híc… Híc…” rất nhỏ truyền ra từ bên trong, nghe giống tiếng răng va lập cập của người bị lạnh cóng.

Âm thanh này không lớn, phải chú ý mới có thể nghe được, lại rất có âm luật, không giống tiếng huyết thi, bọn sâu bò trong đám rễ đương nhiên cũng không thể phát ra âm thanh như thế được.

Ông chủ Vương nhỏ giọng nói: “Những âm thanh này vang lên rất đều đặn, cứ như tiếng hòa thượng gõ mõ ấy, xem ra là âm thanh hoạt động của cơ quan nào đấy. Dưới này chắc chắn phải có một thứ gì đó, nhưng không biết là còn sống hay đã chết thôi.“

Mồ hôi mẹ mồ hôi con túa ra đầy đầu tôi, trong rễ cây mấy ngàn năm tuổi này có người đang rên rỉ, có thể nào là gặp thụ yêu rồi không? Tôi vừa định mở miệng thì ông chủ Vương dùng tay ngăn lại, lão ta lắc lắc đầu, giơ súng lên, mở chốt an toàn, ra dấu bảo tôi đi theo rồi rón rén đi về phía phát ra tiếng động. Chúng tôi đi đến động rễ bên cạnh, phát hiện âm thanh là từ đây truyền ra, ông chủ Vương mở đèn pin chiếu vào bên trong, âm thanh im bặt.

Lão ta liếc nhìn tôi: “Phải rồi, hẳn là nơi này, trong ‘Hà mộc tập’ có nói từ đây có thể đi vào bên trong. “

Tôi nhíu mày nói: “Động rễ nơi này phức tạp quá, phức tạp hơn hẳn so với hệ thống động đá vôi rộng rãi ngoài kia, hơn nữa chúng ta không biết những ống đồng này có rỗng ruột hay không, tùy tiện vào đó quá nguy hiểm.”

Lão ta gật gật đầu: “Đúng vậy, cho nên hai chúng ta không thể cùng vào một lúc được, phải có người đi trước dò đường.”

Tôi thầm giật mình, đừng nói là lão ta sẽ bắt tôi đi trước nữa đó chứ.

Thấy tôi do dự, lão nhấc khẩu súng, nhẹ giọng nói: “Tôi béo lắm, cậu đi trước, tôi đi sau chiếu đèn cho cậu, đừng lo, không xảy ra chuyện gì đâu.” Nói rồi lão ta đẩy tôi tiến về phía trong động.

Tôi cúi đầu nhìn xuống phía dưới đen đặc, quay lại thì bắt gặp ánh mắt gay gắt của ổng, khuôn mặt âm u đầy tử khí. Tôi cắn chặt răng, không thể làm gì khác ngoài mang ngọn đèn gắn trên đầu, một lần nữa đóng vai vật thí mạng. Đang định đi vào thì lão ta kéo tôi lại, đưa cho tôi một cái bộ đàm nho nhỏ, nói: “Nếu bên trong quá sâu thì dùng thứ này. Thôi đi đi, cậu là thanh niên trẻ tuổi tài cao tương lai xán lạn mà~.”

Tôi chửi thầm trong lòng, cầm lấy bộ đàm nghiên cứu cách sử dụng, sau đó bỏ vào túi: “Ông chủ Vương, người ngay thẳng không ăn nói vòng vo, tôi đây là đi liều mạng cho ông, không lẽ ông không cho tôi thứ vũ khí phòng thân nào sao? Vạn nhất tôi bị mắc kẹt ở bên trong, ai đảm bảo ông sẽ không giở trò? Không đưa súng cũng được, ít ra cũng phải có đao kiếm gì chứ?”

Ông chủ Vương đề phòng liếc tôi một cái, đại khái cảm thấy lời tôi nói cũng có lý, mới miễn cưỡng cúi xuống rút từ trong giày của mình ra một thanh dao găm nhỏ quăng cho tôi, nhìn tôi cười xòa: “Cậu xem, tôi già cả lú lẫn, quên trước quên sau thôi.”

Tôi chụp lấy con dao, phát hiện đây là loại dao cán dài chuyên dùng để bào da. Tự nhủ méo mó có còn hơn không, tôi chửi một tiếng, cúi đầu tiến vào trong động. Mùi ẩm mốc từ bên trong xộc ra, tôi mang mặt nạ phòng độc, tiếp tục tiến vào bên trong.

Trong động rất ẩm ướt, vỏ rễ không cứng như bên ngoài mà lại rất mềm, còn có rất nhiều loại nấm không biết tên mọc tràn lan, hàng đàn ấu trùng ve bị tôi làm cho hoảng sợ, chạy trốn tứ tung. Tôi đi được một đoạn thì khựng lại, phía trước xuất hiện đến mấy lối rẽ, nên đi hướng nào?

Nhìn kỹ thì một trong mấy ngã rẽ đó có dấu hiệu, chắc là do người đi trước vẽ lên, mặc kệ, tôi cứ đi theo con đường đã được đánh dấu đó, được mấy mét nữa, phía trước đột nhiên biến mất, nửa thân trên đã nhô ra bên ngoài.

Nửa thân trên của tôi vướng ở cửa động, tôi bật ngọn đèn trên đầu, quan sát một vòng xung quanh. Nơi này là một không động thấp bé, bên trong có một cái bàn được bện bằng rễ cây. Kỳ thực nơi này được bao bọc bên trong đám rễ kia, lại ở chốn heo hút, tôi không hiểu nổi vì sao lại xuất hiện thứ này, bỗng nhiên phát hiện bên trong đám rễ có một phiến đá lộ ra.

Nhìn kỹ, đó là một thạch quách 

(quan quách làm bằng đá)

thật lớn, phía dưới là quan sàng cũng bị đám rễ cây quấn chặt. Dựa vào khoảng cách tôi đã đi mà đoán, nơi này có lẽ chính là trung tâm của đài hiến tế, là nơi có thứ chúng tôi muốn tìm.

Tôi bò đến bên cạnh chỗ thạch quách lộ ra, lúc này mới thấy rõ, thứ này không phải lớn bình thường mà phải gần bằng một cái container di động, trên nắp quan quách và lớp đồng trên cây có khắc một vòng song thân xà

(hình con rắn hai thân)

. Những nơi khác gần như đã dính liền vào lớp rễ, hoàn toàn không thấy được có gì trên đó.

Ông chủ Vương ở bên ngoài hét to hai tiếng, tôi đi là đi mất dạng, chẳng thấy động tĩnh gì, lão ta cho là tôi đã vào được bên trong cây đồng, hỏi qua bộ đàm: “Cậu thanh niên, bên trong có gì?”

“Có một cái quan quách!” Tôi trả lời, chật vật tìm một chỗ ngồi xuống, nằm úp sấp mãi thật là oải.

“Quan quách? Có nhận ra là của ai không?”

Tôi mắng: “Tôi biết thế quái nào được, có điều muốn đưa nó vào đây không phải chuyện dễ, có thể huy động nhiều nhân lực như vậy, nhiều khả năng nằm trong này chính là chủ nhân của cây thanh đồng.” Đặt quan quách của mình ở đây, phải chăng người này cho rằng lúc ra đi  có thể an nghỉ gần thiên cung một chút? Không biết là ai mà lại bạo tay như thế.

Tôi xem đến phía sau, nắp và thân của quách dường như không được đóng chặt, có một sợi rễ len vào bên trong, nâng nắp quách lên một chút. Tôi thấy kì lạ, a lên một tiếng.

Ông chủ Vương nghe thấy, sốt ruột hỏi: “Có chuyện gì thế?”

“Quan quách này… nắp đóng không chặt.” Tôi nói, nhìn khe hở kia. Chẳng lẽ lúc nhập liệm không chu đáo, để cho rễ cây len vào?

Tôi nghĩ một hồi, cho rằng cũng có thể, ban đầu là rễ nhỏ len vào, sau không ngừng sinh trưởng mới nâng nắp quách lên. Rễ cây chung quanh đây mọc lổn ngổn, nói không chừng đã bọc kín quan quách này, từng lớp từng lớp cứng như thế, chúng tôi hay bọn người kia dù có thể chém đứt, cũng không biết tới ngày nào tháng nào mới moi ra được.

Tôi đến bên kẽ hở chiếu đèn vào dò xét, bên trong dường như trống không, tối âm u, ánh sáng chiếu vào như bị màn đêm nuốt chửng lấy, không thấy gì hết.

Xưa nay giới khảo cổ vẫn cho rằng loại quan quách đặt ở giữa quách là phiền toái nhất.  Quan quách chính quy đều là vách quan kê sát với vách quách, nhiều nhất cũng chỉ cách nhau độ một li. Quan quách này lại không như thế, không gian bên trong tương đối lớn, vô cùng quái lạ, không biết là vì điều gì. Theo tập tục mộ táng thời Tây Chu, cho dù là hoàng thân quốc thích cũng không sử dụng hình thức khoa trương như thế này. Xem ra trợ lý Lương nói đúng, đây hẳn là mộ của một vị phiên vương, hơn nữa thế lực quốc gia này không hề yếu, ít ra cũng phải ngang bằng với Tây Chu thời đó.

Tôi cầm bộ đàm, nói: “Quan quách này trống không, bên trong không rõ có thứ gì, đèn quan sát của tôi quá mờ so với đèn pin của ông, ông có thể vào được, nơi này an toàn.” Tôi nói xong liền di chuyển tới cửa động lúc nãy, tự nhủ chỉ cần nhà ngươi thò đầu ra, ông đây sẽ khóa chặt lấy luôn cái đầu của ngươi,  xem ngươi xoay sở ra sao.

Bộ đàm phát ra vài tiếng nhiễu sóng, lẫn trong đó có vài tiếng nói, tôi nghe không rõ.

“Cái gì?” Tôi hỏi lại.

Xen lẫn giữa những tiếng nhiễu sóng rè rè là những âm thanh gì đó rất kỳ quái, rất ồn ào, hoàn toàn không thể nghe rõ.

————-

(*) Sạn đạo: là con đường nhỏ dùng bắc qua những nơi hiểm trở như vách núi, khe núi…, có thể làm bằng gỗ hoặc chỉ là đường đất.

Chương 31: Màn sương ma quái

Edit: Dứa

Beta: Earl Panda

~0O0~

Trong không gian chật hẹp u ám, bên cạnh có một cái quan quách nằm sờ sờ, đột nhiên từ trong bộ đàm lại truyền tới âm thanh quỷ mị, lúc thì như tiếng ai kêu khóc, lúc thì như tiếng ai run rẩy tụng niệm gì đó, thực sự khiến cho tôi dựng cả tóc gáy. Tôi vội vàng giảm âm lượng, vỗ vỗ mấy cái xem có chuyện gì không.

Đây là bộ đàm chuyên sản xuất để phục vụ cho quân đội, vỏ ngoài bằng plastic, có thể sử dụng trong những môi trường khắc nghiệt nhất, theo lý sẽ không dễ bị trục trặc như thế. Tôi bật tắt vài lần, âm thanh kia biến mất, từ loa phát ra tiếng rè đứt quãng, giống như có tiếng ai đó gọi, nhưng lại không thể nghe rõ câu chữ. Tôi thử gọi to vài tiếng nhưng không thấy trả lời, chỉnh tại tần số cũng chẳng khá hơn.

Tôi từng vọc qua mấy thứ đồ điện nên biết, âm thanh này không phải do hỏng hóc vật lý mà là do bị nhiễu sóng. Nguyên nhân thì có cả tá, từ lớn như điểm đen trên Mặt trời phát nổ (*) cho đến nhỏ như bị ảnh hưởng bởi thiết bị điện gia dụng, kiểu nào thì cũng gây ra hậu quả như nhau. Tôi bây giờ ở sâu bên trong lòng đất, mấy thứ điểm đen gì đó hẳn không tác động tới được, mà ở trong hang động mênh mông giữa nơi rừng già bạt ngàn này cũng chẳng đào đâu ra thiết bị điện, vậy rốt cuộc là bị thứ gì ảnh hưởng?

Tôi cầm bộ đàm đi lòng vòng xung quanh tìm nguồn gây nhiễu, cuối cùng phát hiện, càng mang bộ đàm đến gần quan quách ở giữa thì tiếng ồn càng lớn, nếu đi xa ra thì tiếng ồn sẽ nhỏ lại bớt, thật là quái lạ. Chẳng lẽ nguyên nhân gây nhiễu nằm bên trong sao? Tôi cẩn thận đưa bộ đàm vào khe hở giữa vách quan và vách quách, trong giây lát, tiếng ồn ào đột nhiên bùng lên dữ dội, hệt như có ai bên trong gào lên thảm thiết. Tôi sợ tới mức suýt nữa buông tay làm rơi bộ đàm trong đấy luôn.

Tôi nghĩ thầm không hay rồi, hẳn là bên trong quan quách có thứ gì đó đang phát ra một luồng sóng điện từ quái dị, chuyện này đúng là không tưởng tượng nổi, là hiện tượng tự nhiên, hay là có điều gì khác thường?

Tôi biết thực vật có thể phát ra sóng tín hiệu yếu, hơn nữa tùy vào điều kiện môi trường mà các loại sóng phát ra không giống nhau. Lấy ví dụ như khi phát nhạc êm dịu trong vườn cây và khi dùng dao cắt thực vật chẳng hạn, sóng tín hiệu chúng phát ra ở hai trường hợp này là hai loại hoàn toàn tương phản, đó được gọi là ngôn ngữ của thực vật. Tuy nhiên các sóng này rất yếu, nếu không có thiết bị chuyên dụng thì còn không thể phát hiện ra chứ đừng nói là có thể dùng bộ đàm thu được.

Hoặc ở một số tình huống đặc biệt, trong điều kiện tự nhiên đặc thù có thể sinh ra một loại sóng nhiễu rất mạnh, ví dụ như đêm trước động đất hay thời điểm núi lửa phun trào, có điều loại sóng này có tính gây hại chứ không ôn hòa như thế này.

Tôi nhìn quan quách rất lớn kia, nghĩ tới một lý do hiếm gặp nhưng không phải không có khả năng: gần hiện trường những vụ thảm sát hoặc những nghĩa địa lớn thường xuyên có sóng điện lạ quấy nhiễu không dứt. Có người cho rằng đó là năng lượng sinh ra trong quá trình phân hủy thi thể, có người lại nói đó là tín hiệu do một lượng lớn âm hồn phát ra. Sóng điện từ mạnh như thế này, phải chăng là do thi thể bên trong quan quách gây ra?

Nơi này vô cùng u ám, những rễ đa già cỗi trắng bợt dưới ánh đèn trông giống hệt những bộ xương rắn kì dị, khiến cho người ta chợt thấy nhộn nhạo, hệt như có thứ gì bên trong chiếc quan quách kia đang điên cuồng giục tôi bước vào. Tôi rợn hết cả người, vội vội vàng vàng tắt bộ đàm đi.

Xung quanh im lặng rồi, tôi liền thấy choáng váng, có lẽ vì không khí nơi này quá ẩm thấp, lại còn có những mùi khó chịu nên tôi bắt đầu thiếu dưỡng khí. Nhận ra tình cảnh hiện tại, tôi chợt thấy lạnh cả người, trong suốt quãng đường vào đây tôi không hề cảm giác được việc này.

Ông chủ Vương bên ngoài cứ gào liên hồi, chắc là không nghe được câu trả lời của tôi, tới lúc cấp bách thì tiếng kêu của lão đã bị ba vòng cây cối ngoài kia chặn lại gần hết, đến chỗ tôi chỉ còn là những âm thanh xa xăm, cứ như người đang vùi dưới mười lớp chăn nghe tiếng ai đó nói chuyện bên ngoài vậy, hầu như không nghe được gì cả.

Vừa rồi tôi còn tính việc lừa ông chủ Vương vào đây để khống chế lão, giờ thì nghĩ khác đi rồi, trước tiên là phải thoát được ra ngoài đã. Nơi này tà khí quá nặng, ở lại lâu khiến người ta không thoải mái chút nào. Phần lớn là do chỉ đi một mình, nếu có hai ba người ở bên cạnh lúc này, tôi hẳn đã bình tĩnh hơn.

Nghĩ tới rồi lại nghĩ lui, bệnh do dự tái phát, mãi mà tôi chưa quyết định được phải làm thế nào. Ông chủ Vương bên ngoài chắc gọi mãi mà không thấy tôi đáp trả, tôi chỉ nghe thấy lão ta chửi vài câu rồi không nói gì nữa, chắc là lão ta cũng không biết lúc này phải làm thế nào. Xem tình hình của ổng lúc này hẳn là không dám vào đây xem thử đâu. Loại người giang hồ thế này đối với mọi người lúc nào cũng thích cậy mạnh, nhưng đến những nơi quỷ quái như thế này, lại nghe nói bên trong có quan quách, theo bản năng vẫn thấy sợ hãi. Quan tài, quan quách là biểu tượng cho cái chết, không tiền bạc hay sức mạnh nào khống chế nổi, là quyền uy không một ai có khả năng lay động, điều này nếu không phải là dân đổ đấu thực sự thì không thể lĩnh hội được.

Mải mê đuổi theo dòng suy nghĩ, chợt tôi lại nghe thấy âm thanh thều thào “Híc… Híc… Híc…” vang lên từ nơi nào không rõ, so với lúc còn ở bên ngoài thì nghe rõ hơn nhiều.

Bây giờ nghe kĩ mới thấy, âm thanh ấy giống như tiếng bước chân người mang guốc gỗ đi trên nền đá, nhưng tiếng động cứ đều đều không đổi, nghe không giống đang đi qua đi lại, mà giống… đang đứng một chỗ nhảy lên nhảy xuống.

Thanh âm này cứ cách một khoảng ngắn lại đều đặn vang lên, trong khung cảnh im ắng nơi này, quả thực là dọa người ta sợ đến mất hồn mất vía. Lúc nãy tôi đã hoảng lắm rồi, bây giờ lại nghe thấy lần nữa, âm thanh ấy cứ như một loại bùa đòi mạng, trái tim tôi cứ run lên từng hồi theo tiết tấu của nó.

Chợt tôi cảm thấy có điều kì dị, cớ sao tôi lại sợ hãi đến vậy nhỉ, tôi đã không còn chết nhát như thế này từ lâu rồi. Trấn định lại một chút, tôi tháo mặt nạ phòng độc của mình ra, hít thở không khí chung quanh. Theo lý thuyết, mặt nạ phòng độc có thể lọc bỏ những loại quái khí có hại cho cơ thể con người, nghĩa là không khí chúng ta hít thở qua lớp mặt nạ này đã được xử lý rồi. Bình thường khí độc được lọc bỏ hoàn toàn, nhưng trong những trường hợp đặc biệt vẫn có những loại khí độc len qua được lớp mặt nạ phòng độc và gây trúng độc cho cơ thể.

Không khí ở nơi này rất kích thích đối với niêm mạc mũi, tôi vừa hít một hơi đã hắt xì, cả người đổ mồ hôi lạnh, vội vã mang lại mặt nạ vào.

Tôi lắng nghe một lát nữa, xác định được âm thanh kia không phải từ nơi khác vọng tới, theo tôi phán đoán phương hướng thì có vẻ tiếng động phát ra từ chính bên trong chiếc quan quách bằng đá kia.

Tôi đổ mồ hôi đầm đìa, một tay để sẵn tại chuôi dao găm, trườn lại gần khe hở kia để nghe cho rõ. Hiềm nỗi tiếng tim tôi đập cứ mỗi lúc một lớn hơn

 (=.=)

, chắc đợi tới lúc tôi lại gần chỗ hé ra ở nắp quan quách thì tim cũng vọt ra ngoài mất rồi.

Tôi biết bản thân bị không gian nơi này gây sức ép, lúc trước cứ ngỡ đã hết rồi, bây giờ xem ra vẫn còn. Một trong những điều tối kị lúc này là tưởng tượng vớ vẩn, tôi vừa tự nhắc nhở mình vừa tập trung tinh thần mường tượng cảnh bốn phía đột nhiên sáng bừng lên, không còn tối tăm như trước nữa, lại hít sâu mấy cái, ngăn trái tim tiếp tục đánh lô tô trong lồng ngực. Tôi thở dài, tập trung lắng nghe xem rốt cuộc đây là âm thanh gì.

Ngay lúc đó âm thanh đột nhiên dừng hẳn, bốn phía lại lặng ngắt như tờ. Tôi cứng ngắc cả người, thình lình cảm thấy thứ gì vừa chạm vào vai mình!

Đầu tôi tê dại, mắt tối cả đi, điên cuồng quay lại quơ dao một phát, đèn pin lập tức đụng vào một rễ cây, tắt ngóm, xung quanh tối đen như mực. Ngay sau đó tay tôi bị thứ gì nắm lấy kéo mạnh về phía sau, tôi sợ đến mức không còn tự chủ được nữa, gào to một tiếng, dùng hết sức bình sinh vùng vẫy để quay người lại. Nhánh rễ phía dưới tôi chưa hoàn toàn sừng hóa hết liền gãy đánh rắc, cả người tôi đột nhiên lún xuống, tôi và thứ đằng sau cùng rơi vào một hố nông.

Tôi vừa ngã xuống đã nghe phía sau có tiếng mắng: “Con mẹ mày!” Sau đó đèn pin sáng lên, ông chủ Vương vừa đè nghiến tôi xuống 

(O__O)

 vừa chiếu đèn thẳng vào mắt tôi, chói đến độ tôi tưởng mình sắp mù. Tôi giơ tay lên định che mắt thì lão ta giáng cho tôi một tát không nể nang gì, mũi tôi lành lạnh, rồi một dòng máu chầm chậm chảy ra. 

(Tà của em…)

Đánh tôi xong lão ta còn hung hãn chửi: “Thằng mất nết, dám giở trò với tao à,cho mày chết!”

Tôi liền hiểu ra mọi chuyện, lão già mập Quảng Đông chó chết này thế mà cũng có gan lén mò vào đây Có lẽ thấy tôi không có phản ứng gì, cộng thêm việc trước đó tôi từng giở trò với lão ta, nên lão ta trong bụng có chút kiêng dè tôi, sợ bị tôi giở quẻ lần nữa. Vì thế dĩ nhiên lão ta không dám bật đèn pin mà chỉ len lén tiến đến gần, gặp đúng lúc tôi đang tập trung nghe ngóng thử âm thanh quái quỷ kia, kết quả suýt chút nữa ăn một dao của tôi, thế là lão ta nhầm tưởng tôi có ý định giết lão.

Tôi muốn giải thích, nhưng lão ta lại đang đè ngay cổ tôi, thành thử tôi chẳng nói được tiếng nào. Lão có vẻ giận quá hóa rồ, tát tôi thêm một phát đến ù cả tai. Tôi bực lắm rồi, thầm chửi mẹ cha nhà mày, cứ đùng đùng nhào vào đánh người như thế, cơ bản là đâu xem tao ra gì đâu hả. Chúng tôi lại lăn đi, cứ đấm đá qua lại cho tới khi lăn tới gần khe hở nơi quan quách. Lão ta khỏe hơn tôi nên chiếm được thế thượng phong, đè tôi xuống định bóp cổ tôi, nào ngờ nơi này thấp bé, lão vừa ngẩng đầu đã va ngay vào một rễ cây, đau đến sửng sốt. Tôi thừa cơ đạp mạnh vào háng lão ta, hất lão lăn qua một bên, rồi giật lấy đèn trên tay lão, lại đánh vào đầu lão một phát nữa cho hôn mê bất tỉnh.

Tôi ngồi đè trên người lão khiến lão không nhúc nhích gì được. Sau đó lấy đèn pin soi xem thì phát hiện lão ta không mang theo súng, có thể là sợ bên trong chật hẹp, súng cướp cò tự bắn phải chính mình thì toi. Tôi lần mò trên người lão định tìm dao găm thì đột nhiên lão dùng đầu đập mạnh vào đầu tôi, mạnh đến nỗi tôi nổ cả đom đóm mắt, vội vội vàng vàng lăn qua một bên, đề phòng lại bị tấn công lần nữa. Óc não tôi chắc phải phọt qua lỗ mũi mất rồi.

Ông chủ Vương đứng lên, người dính toàn vụn rễ và nấm mốc, tức giận đến mức mặt mũi méo mó cả đi, hơi thở hổn hển, mắt long sòng sọc. Tôi biết lão ta động sát khí, những kẻ lăn lộn lập nghiệp trên giang hồ như thế này, để có được ngày hôm nay hẳn phải có sát tâm rất nặng, hở một chút là đã nghĩ ngay cách dồn đối phương vào chỗ chết. Xem ra hôm nay thực sự phải một mất một còn với lão ta rồi.

Lão ta hít thở vài cái, rút dao găm từ bên hông ra, một tay chắp sau lưng lao thẳng về phía tôi. Dao của tôi chỉ dài một nửa so với của lão, dù có đâm được lão cũng chẳng trúng phải chỗ nguy hiểm nào, đành phải dùng đèn pin làm vũ khí chiếu thẳng vào mắt lão. Có điều lão mập này quá hung hãn, cơ bản không thèm để ý đến tôi, một bên né khỏi luồng ánh sáng, một bên vọt lại gần tôi nhanh như chảo chớp, vung dao hướng về phía cổ tôi, tôi nghiêng đầu né được, tay trái chộp lấy tay lão, tay phải tắt đèn pin đi.

Mắt lão ta vốn đang quen với ánh sáng mạnh, đột nhiên ánh sáng vụt tắt, theo bản năng liền khựng lại một chút. Tôi nhớ lại vị trí đầu của lão ta, liền cầm đèn pin vung tay đánh một cú thật lực. Chỉ nghe một tiếng rên phát ra, đèn pin lập tức sáng lên. Tôi rọi sang xem thì thấy lão ta bị tôi đánh cho một miệng đầy máu, nằm sóng xoài, hình như đã ngất đi.

Tôi không biết lão ta là giả vờ hay là ngất đi thật, bèn lấy chân đá ổng lại gần khe hở kia, nếu là giả vờ nhất định lão phải có phản ứng, nếu không sẽ rơi vào bên trong quan quách. Tôi lại đạp tiếp vài cái nữa, hai chân lão ta trượt vào bên trong, nhưng đến giữa ngực thì vướng lại. Tôi lại tới gần đạp thêm phát nữa, cho lão ta vào hẳn bên trong luôn đi.

Ông chủ Vương mềm oặt như con cá chết trượt vào bên trong quan quách, tôi vừa thở phào, nghĩ thầm quả nhiên lão ta hôn mê thật thì đột nhiên một cánh tay mập ú thò ra từ bên trong khe hở, nắm lấy chân tôi lôi tuột vào trong.

Lần này quả thực là bất ngờ đến độ không kịp trở tay, tôi vừa thả lỏng một chút đã thấy trước mắt hoa lên, cả người đã lọt vào bên trong quan quách. Tôi thầm kêu thôi toi rồi, chuyện này quả thực trước nay chưa từng gặp, tôi hoảng loạn quờ tay ra xung quanh muốn nắm lấy thứ gì đó, kết quả là chẳng túm được gì, cứ thế rơi thẳng vào trong bóng tối!

Ông chủ Vương lôi thẳng tôi vào, lúc đầu tôi cứ tưởng quan quách này cao cỡ một thân người, giờ vào trong rồi mới biết không phải thế, nơi này có một đường lõm, xem ra là đường vào bên trong thân cây đồng. Tôi trượt thêm vài ba mét mông mới yên vị trên một thứ gì đó, đau ê cả răng. Ông chủ Vương kia cũng thả lỏng tay, hình như muốn bò lên.

Tôi dùng đèn pin rọi bốn phía xem thử lão có ở gần mình hay không, phát hiện xung quanh toàn sương mù trắng đục dày đặc, ngoài bán kính nửa mét chẳng thấy được gì nữa.

Tôi đứng lên, dùng đèn pin huơ huơ xung quanh nhưng đều không chạm phải bất cứ vật gì. Nơi này sương dày như vậy ông chủ Vương rơi vào bên trong hẳn cũng không thấy được gì, có lẽ là đang nấp bên trong đám sương này đi.

Tôi lấy làm lạ, ở nơi này sao lại có nhiều sương mù như thế, nói là huân hương ngàn năm không tan cũng khó mà tin được. Tôi dùng tay quạt vài cái, lớp sương này giống hệt như nước, theo động tác quạt của tôi có thể quan sát được luồng chuyển động của không khí.

Tôi không nhìn thấy ở giữa quan quách có cái gì, cũng không có gan vào xem, trước hết chỉ có thể đứng nhìn, nhìn về phía trước cũng không thấy gì hết. Rễ cây men theo khe hở chui vào bên trong cũng không phát triển lộn xộn mà chỉ bò sát theo đáy và vách tường bên trong quan quách, bên trên mọc đầy những sợi li ti, động vào là rớt lả tả, xem ra là một loại nấm mốc nào đó.

Phần vách bên trong quan quách không bị rễ cây che phủ lộ ra một ít hoa văn chạm nổi, tôi nhìn qua đã nhận ra đây là một phần đồ án, phong cách giống như bốn pho tượng bên ngoài kia , tuy nhiên phần lớn bức phù điêu đã bị rễ cây che khuất. Lưỡi dao săn của tôi lại quá mỏng, dùng để cắt lớp rễ cây này e là không được, tôi chỉ cắt được một phần rễ mới sau này, còn lớp rễ lâu năm đã cứng lại như đá kia thì không tài nào suy suyển nổi, cắt rễ cây mà như cắt đá, cuối cùng chỉ lóc được một miếng vỏ trắng toát.

Tuy vậy tôi vẫn hiểu được một phần nội dung, đây hẳn là tình cảnh lúc cây thanh đồng được xây dựng, trên đó có khắc hình người mặc y phục kiểu vạt chéo. Tôi còn bất ngờ phát hiện ra ở trên đó mô tả Thanh Đồng thụ là từng đoạn, xem ra công trình đồ sộ này không phải được xây dựng liền mạch, có thể là trải qua nhiều thế hệ, mỗi thế hệ xây dựng một phần, cuối cùng mới hình thành tác phẩm nghệ thuật vĩ đại này.

Phù điêu rất nhiều, nhưng tôi không dám tùy tiện đi lại, xem xong một khúc bên này, tôi đột nhiên quay lại nhìn vào lớp sương mù, chỉ cảm thấy có một nỗi sợ hãi khó hiểu ập tới, bèn men theo lớp rễ cây định quay về chỗ cũ.

Kì quái ở chỗ lớp rễ trông có vẻ rất dễ để trèo lên, nhưng tôi thử hai lần đều trượt lại xuống dưới, hệt như trên băng. Tôi sờ vào sợi rễ, phát hiện lớp nấm mốc phía trên vô cùng trắng mịn, hệt như dầu bôi trơn, xem ra nếu muốn một mình leo lên không dễ chút nào.

Tôi lấy lại bình tĩnh, suy nghĩ xem nên làm thế nào, xem ra phải dọn sạch lớp nấm phía trên mới leo lên nổi, hoặc dùng dao cắm vào leo lên, mà cũng không biết có được không nữa.

Giữa lúc tôi đang phân vân như thế, “Híc… Híc… Híc…” , âm thanh quái dị ấy đột nhiên lại vang lên, lúc này là ở sau lưng tôi, rất gần.

——————

(*) Những điểm đen trên mặt trời nom như bóng của các lỗ sâu trên đĩa mặt trời màu trắng, có nhiều kích cỡ khác nhau, từ to cho đến nhỏ. Người ta có thể nhìn thấy những điểm đen này vào bất cứ ngày nào lúc trời sáng. Các nhà khoa học dường như tin rằng các vết đen đó có bản chất điện vì một vài hiệu ứng của nó tạo ra. Một nhà thiên văn đã chứng tỏ rằng đó là những “cơn bão xoáy” của các chất điện từ đã nổ bùng ra bề mặt Mặt Trời. Từng cặp có dạng những hình ống hình chữ U. Các vết đen hay sự phóng các năng lượng điện từ đã phóng ra nhưng “tia âm điện tử” ra ngoài không gian. Một số electron này lọt vào khí quyển Trái Đất đã gây ra nhiều hiệu ứng điện trên Trái Đất.

—————

Chương 32: Đánh lén

Editor:

 Earl Panda

Beta:

 Bánh Ú đại nhân.

*******

Thứ âm thanh quỷ dị đã dẫn dắt bọn tôi vào đây đột nhiên vang lên ngay sau lưng tôi, tuy không lớn, nhưng trong quan quách yên ắng vô cùng nên âm thanh đó nghe không khác gì sét đánh ngang tai. Tôi nghe mà toàn thân run lẩy bẩy, căng thẳng đến toát mồ hôi lạnh.

Quan quách này chiều dài khoảng sáu, bảy mét, bảo dài cũng không hẳn, bảo ngắn cũng không đúng. Nghe âm thanh kia mà đoán thì có lẽ nơi phát ra tiếng động cách tôi không quá một mét, gần như là dán sát sau lưng, khoảng cách vừa đủ để với đến bả vai tôi. Cứ từng tiếng từng tiếng “Híc…híc…” vang lên theo quy luật, nghe như tiếng mu bàn tay gõ lên cửa gỗ. Một cơn ớn lạnh chạy dọc từ gáy thẳng xuống đến gót chân tôi.

Tức khắc toàn thân tôi cứng đờ không nhúc nhích nổi. Tôi thoáng phân vân xem có nên quay đầu lại nhìn không, hay là cứ giả vờ như không nghe thấy gì, không để ý đến nữa. Nhưng ngay sau đó tôi nghĩ lại, dở khóc dở cười cắn lưỡi tự nhủ: phải ráng bình tĩnh, lúc này không còn cách nào khác, chỉ có thể đối mặt, sợ hãi và kiếm cớ bây giờ thì chỉ có đường chết.

Đương lúc tôi còn đấu tranh tinh thần, thứ âm thanh ma quái kia vẫn vang lên đều đều không nhanh không chậm, không vọng lại gần, cũng không dãn ra xa. Tôi hít sâu một hơi, cắn răng nắm chặt con dao, từ từ quay đầu lại, nhìn xem rốt cuộc nó là cái gì.

Nhưng tôi vừa quay đầu thì âm thanh kỳ quái kia cũng đột nhiên ngừng lại. Tôi nhìn chăm chú, nhưng giữa màn sương màu xám tro ở đằng sau lưng tôi lại chẳng có gì khác. Nhìn về hướng âm thanh ban nãy vừa phát ra cũng chỉ thấy một khoảng không tăm tối mịt mù, chẳng qua bị hành động của tôi làm nhiễu loạn nên xuất hiện vài luồng khí quỷ dị, nhưng rồi lại tan biến rất nhanh, trở về bình thường như lúc ban đầu.

Tôi nuốt nước bọt, bỗng thấy hơi bất ngờ, liền lấy đèn pin rọi khắp bốn phía, nhưng cũng không thấy có gì khác thường, cứ như âm thanh đó chưa từng cất lên vậy.

Vừa nãy âm thanh đó ở gần tôi đến vậy, tôi nghe vô cùng rõ ràng, chắc chắn không phải ảo giác, lúc tôi quay người cũng mất không đến một giây, cho dù âm thanh đó có là do vật gì di chuyển được phát ra thì cũng không thể biến mất nhanh đến vậy. Lẽ nào, âm thanh đó phát ra từ nơi khác? Hay do tôi đoán nhầm?

Tôi vô thức dò dẫm bước từng bước lên phía trước, định đi tìm nơi phát ra âm thanh kia. Đột nhiên, từ lớp sương bên cạnh tôi có một bóng người bổ nhào ra. Tôi mắt tinh như ranh, vừa lúc nhắm thấy cái bóng xuất hiện, tôi vội vàng cúi xuống. Người nọ không bắt được tôi, nhưng lại xô tôi ngã nhào xuống đất. Tôi lăn một vòng trên đất. Ngoảnh lại, thấy người vừa xô tôi có vóc dáng mập mạp, chính là người đã đẩy tôi vào đây – ông chủ Vương.

Tôi chửi bậy một tiếng, rút con dao săn ra, tính duyên này dứt tình với lão luôn, không ngờ, chớp mắt cái mà lão ta đã trốn vào trong đám sương, ngay cả cái bóng cũng không thấy nữa.

Tôi không khỏi khinh thường mà nhổ mấy bãi nước bọt. Vừa nãy trong lúc vật lộn, hẳn là lão đã làm rớt dao của mình rồi nên mới e ngại con dao săn nhỏ trong tay tôi, không dám chính diện ra mặt tấn công mà trốn trong đám sương, chờ tôi tới gần mới đánh lén bất ngờ. Thật không giống cái bộ dạng kiêu ngạo lúc đầu chút nào. Tay này đích thị là một tên tiểu nhân con mẹ nó rồi.

Cơ mà, nói đi cũng phải nói lại, tình hình ở trong này kì quái như thế, lá gan của lão ta cũng không phải to bình thường đâu. Phải là tôi, tay không đèn pin, tay không vũ khí, chắc tôi đã rúc vào góc nào đó mà run lập cập rồi, chứ đâu dám đi đánh lén người khác. Hơn nữa, chỗ này sương mù dày đặc như nước, rất dễ nhận biết được những thứ di chuyển được. Vì vậy, lão ta biết không dễ dành đánh lén tôi thành công được, nên mới cẩn trọng hơn, chứ không vừa nãy tôi đã có thể đánh ngã được lão ta rồi.

Tôi nghĩ đến đây lại thấy kỳ lạ. Nếu vậy, cái nguồn gốc của âm than quái dị kia nếu ở trong quan quách mà chuyển động thì sẽ phải có động tĩnh gì đó chớ, ấy thế mà, khi tôi quay đầu lại, đám sương vẫn chẳng có gì khác thường, không có vẻ như là có vật gì di chuyển trong đó. Lẽ nào nó lại không có hình dạng gì? Lẽ nào nó là ma chăng?

Tôi vừa cảnh giác phòng ngừa ông chủ Vương đánh lén lần hai, vừa lồm cồm bò dậy. Không gian trong quan quách này không quá rộng, ban nãy vừa bị ngã chẳng biết lăn đến đâu rồi, phải nhanh nhanh lùi đến mép, nghĩ cách bò lên trên thôi.

Toàn bộ chỗ này không lớn lắm. Nhìn xung quanh bốn phía tôi có thể thấy mình đang ở gần trung tâm quan quách. Xuyên qua lớp sương mù, tôi nhìn thấy ở phần trung tâm có một cái gì đó, chỉ thấy bóng mờ mờ nhạt nhạt, hình như là rất nhiều sợi dây nối từ trên đỉnh quan quách xuống tận tới đáy. Tôi còn tưởng đó là mấy nhánh rễ khí của các cành cây mọc trên đỉnh buông rủ xuống, nên đi đến phía trước, lấy đèn pin chiếu vào mới vỡ lẽ ra là không phải. Những thứ đó đều là những sợi xích thanh đồng to cỡ bằng cổ tay người, mọc đầy những nấm và bị quấn chặt bởi những sợi rễ chùm của cây đa, thẳng suốt từ trên đỉnh xuống dưới. Tuy nhiên, sợi xích sắt trông có vẻ như chỉ gắn cố định ở trên đỉnh quan quách cho đến giữa quách, còn phía dưới thì không có bất cứ một thứ gì buộc vào vậy.

Cái quan quách bằng đá này nói là lớn, nhưng thực ra là nhỏ, khi khai quật nóc mộ của các quý tộc thời Tây Hán và thời Ngũ Đại đều có. Thứ này gọi là quan quách, nhưng thực chất phải gọi là phòng quách 

(cái quách to bằng cả căn phòng nhỏ)

 mới hợp lý. Nếu căn cứ vào mộ thổ táng thì quan tài hẳn là phải đặt ở giữa phòng quách này cùng với những của cải bồi táng, bên trong lớp phòng quách bằng đá còn phải lèn chặt đến mười mấy lớp quách gỗ, suốt từ tít trong cho đến mép quách.

Tôi bước đi vài bước, dựa theo kích thước quan quách, chí ít cũng có thể thấy hình dáng cơ bản của quan tài trong. Thế nhưng, giờ thấy những rễ cây và xích đồng, trên mặt đất lại không có đồ vật gì cả, lẽ nào bên trong cái quan quách này rỗng tuếch? Vậy tiếng động kỳ lạ kia là từ đâu tới? Cái thứ quỷ dị làm nhiễu sóng bộ đàm là ở đâu ra?

Tôi sửng sốt hồi lâu, lại bước lên phía trước từng bước một, muốn đến xem liệu có phải sợi xích thanh đồng khóa chặt chiếc quan tài để giữ cái gì đó còn sống không. Tôi vừa bước ra, bỗng nhiên dưới chân hẫng một cái, cả người ngã chúi xuống dưới. Tôi vội nhanh tay túm lấy sợi xích đồng, trượt dài xuống mấy mét mới dừng lại được, sợ đến toát mồ hôi lạnh.

Chuyện gì xảy ra thế? Thế mẹ nào mà phía dưới lại không có gì vậy? Tôi sợ hãi, soi đèn pin chiếu xuống dưới, nhìn không thấy mặt đất đâu cả mà chỉ thấy sương dày đặc. Chân giẫm xuống, giẫm vào sương chứ không có cái gì cả, hình như là có cái hố lõm xuống rất sâu.

Đúng là kỳ quặc, tôi nghĩ. Bên trong cái phòng quách này có gắn với đài tế tự trên đỉnh cây thanh đồng, ở chính giữa quách thì không có gì, có lẽ là giống với phương pháp quách đa tầng đa lớp ở thời Chiến quốc. Ở giữa phòng quách này còn có một cái hố lõm xuống, gọi là giếng quan, ở phía dưới mới là quan vị

(vị trí đặt quan tài)

 thật. Không biết cái giếng quan này nó sâu bao nhiêu, thật là nguy hiểm, nếu như vừa nãy mà ngã xuống, không chừng gãy đầu gãy cổ chết như chơi.

Còn những sợi xích thanh đồng này, có lẽ là một thiết bị quan trọng dùng để đưa quan tài xuống dưới cái giếng quan này, quan tài chứa thi thể hẳn là ở ngay phía dưới chân tôi đây.

Đang nghĩ ngợi, bỗng nhiên đám sương bên cạnh náo động, ông chủ Vương vọt ra từ trong đó, cầm trong tay thứ vũ khí nào đó, đánh thẳng về phía tôi. Ở đây sương dày như thế, có lẽ lão ta nhìn thấy ánh đèn pin nên mới đoán được vị trí của tôi. Tôi vừa nhìn thấy không ổn, liền theo bản năng hét to: “Đừng! Mau dừng lại!”

Nhưng đã muộn. Chỉ nghe ông chủ Vương kêu “A!” một tiếng, chân giẫm vào khoảng không, thoáng cái lão ta đã ngã tụt xuống dưới. Tôi cảm thấy sợi xích đồng chấn động mạnh, hẳn là do lão ta đã túm được, cùng lúc đó, chỗ tay bám lấy sợi xích của tôi phát ra tiếng lục cục, cơ thể bắt đầu trượt xuống dưới.

Tôi quay lại nhìn, hóa ra là đám nấm mốc rêu xanh trên xích đồng bị tay của tôi đè ép thành chất lỏng sền sệt màu trắng, khiến cho sợi xích đồng trơn như được bôi một lớp dầu mỡ. Tôi thầm kêu than không ổn, vội vàng dùng con dao săn định cắm chặt vào lỗ hổng trên dây xích, thế nhưng lưỡi dao lại chen vào không lọt mà mắc vào những rễ cây ở trong. Tôi cố sức vặn xoắn con dao vào đám rễ cây, bấy giờ cơ thể mới ngừng trượt xuống. Lúc này, tôi đã trượt xuống dưới ít nhất là mười mét, tiến vào bên trong giếng quan trong cột cây thanh đồng.

Ông chủ Vương đầu đầy máu, vắt vẻo trên sợi xích thanh đồng ngay phía dưới tôi, cách tôi chừng một bàn chân. Lão ta cũng giữ không được sợi dây xích, đành dùng chiếc dây lưng bằng da xỏ qua lỗ hổng trên sợi xích để bám vào mới miễn cường không bị tụt xuống được. Tôi lấy đèn pin rọi vào lão ta, lão quay đầu vừa chửi vừa né ánh sáng chói mắt.

Tôi thấy tạm thời lão ta không uy hiếp gì đến tôi, nên phải đi xem xét tình hình cái giếng quan trước đã. Thân cây thanh đồng trong ngoài đều như nhau, có khắc sâu những khe rãnh con rắn hai thân, những đường hoa văn chạy dọc theo rễ cây từ trên trườn xuống dưới. Sương ở đây loãng hơn phía trên rất nhiều, tôi nhìn xung quanh một vòng, xem xem cái giếng quan ở trung tâm phòng quanh này rộng bao nhiêu. Nếu nó quá lớn, tôi chỉ e leo ra ngoài sẽ là một vấn đề lớn.

Giếng quan có hình chữ nhật, dài khoảng bốn mét, rộng hai mét, đặt vừa đủ một chiếc quan tài rộng. Tôi với tay ra, sờ lấy vách tường giếng quan, không biết có phải do đám sương kia không mà ở đây không có nhiều nấm ký sinh, chỉ thấy rễ cây vốn có. Không khí bên trong giếng quan cứ lửng lơ một mùi vị khác thường, có thể là do bên ngoài sương dày đặc khiến bên trong mặt nạ phòng độc bắt đầu bị ẩm, hiệu quả giảm xuống. Tôi có thể ngửi thấy cái mùi kỳ lạ đó càng ngày càng nồng, bay thẳng vào mũi tôi. Bởi vậy, xem ra, ông chủ Vương nhất định cũng không chịu nổi.

Nhìn xuống dưới, tôi lấy làm kinh hãi. Sợi xích vẫn cứ buông xuống cho đến khi chìm hẳn vào bóng tối, đèn pin còn không chiếu đến được, vô cùng sâu. Từ nơi này nhìn xuống dưới, toàn bộ giếng quan sâu vô cùng, có cảm giác như nó cứ sâu xuống mãi mãi, không có đáy.

Không thể nào? Tôi nghĩ, trong bụng có một loại cảm giác, lẽ nào cả cái cây thanh đồng này đều rỗng ruột hết, chúng tôi đã bò lên trên phải hơn ba trăm mét là ít, rễ cây thanh đồng này còn đi vào lòng đất sâu đến đâu không biết, nếu như là rỗng ruột thật, thì dưới đáy tận cùng rút cục là cái gì? Tâm trái đất? Địa ngục? Rễ cây to lớn hình trụ rỗng ruột, cắm ở đây liệu có ý nghĩa gì không?

Ông chủ Vương thấy thế cũng vô cùng ngạc nhiên, hai người đều không nói lời nào, ngoắc nhau nhìn xuống dưới. Bỗng nhiên, “Híc…híc…”, hai tiếng vang lên, cái âm thanh âm u kỳ quặc này đột nhiên vang lên khắp bốn phía xung quanh chúng tôi!

Tôi với ông chủ Vương nhìn nhau, ánh mắt cả hai đều đổ dồn với phía bóng tối đen đặc ở dưới. Tiếng động này, đương nhiên là phát ra từ dưới vực sâu thăm thẳm này truyền lại.

Chương 33: Hòa giải

 Edit: Earl Panda

Beta: Thanh Du

*****

Đứng từ chỗ này nghe ra, thấy tiếng động này có chút khác thường, lại có tiếng vang vọng lại, dường như là từ một nơi rất sâu phía dưới truyền lên. Theo nhịp điệu của nó, tôi có thể cảm nhận rõ ràng sợi xích thanh đồng đang hơi hơi rung động, giống như đầu kia sợi xích được đính vào động mạch của một người khổng lồ vậy.

Cảnh này khiến tôi không kìm được mà rùng mình ớn lạnh một cái. Tôi không cảm nhận được tí gió nào từ dưới thổi lên, mà hai người chúng tôi bám vào cũng không đủ để khiến sợi xích đồng nặng nề kia rung lắc dữ dội đến thế. Vậy thì, dưới bóng đêm sâu thẳm kia có thứ gì đã lay động sợi xích thanh đồng?

Ông chủ Vương trầm tư lẳng lặng lắng nghe. Lão ta chưa bao giờ trải qua mấy loại chuyện này, đáng ra phải sợ hãi hơn tôi mới đúng, ấy thế mà trông vẻ mặt lão ta lại bình tĩnh khác thường, hình như đang suy đoán chuyện gì đó.

Căng thẳng một hồi lâu, cuối cùng tiếng động cũng dừng, sợi xích đồng không còn rung lắc nữa. Tôi bất giác thở phào một hơi nhẹ nhõm, người cũng suýt nữa lả xuống theo sợi xích luôn.

Ông chủ Vương vẫn không hề có phản ứng, chỉ im lặng suy nghĩ hồi lâu rồi rút ra một điếu thuốc, châm lửa, hút mạnh một hơi. Sau đó lão ta móc từ trong túi ra một cây gậy huỳnh quang nhỏ, lắc lắc hai cái khiến cây gậy dần dần phát sáng.

Tôi không hiểu lão ta định giở trò gì, nên chỉ lạnh lùng liếc nhìn. Cho đến khi cây gậy huỳnh quang sáng hẳn lên, lão ta đột nhiên ném nó xuôi theo sợi xích thanh đồng, ánh sáng xanh lục phát ra từ cây gậy xoay tròn rồi rơi xuống phía dưới.

Chùm sáng màu xanh càng lúc càng nhỏ dần, rồi nhanh chóng biến mất khỏi tầm nhìn. Tôi nghĩ nó sẽ rơi mãi rơi mãi cho đến khi tan biến vào bóng tối thì đột nhiên, ở chính ranh giới giữa nhìn-thấy-được và không-nhìn-thấy-được, cây gậy huỳnh quang đập phải một vật gì đó đánh “bốp” một tiếng, văng ra một bên vách tường thanh đồng rồi lại rớt xuống, trong nháy mắt đã biến mất dạng.

Cách sợi xích thanh đồng khoảng khoảng năm mươi, sáu mươi mét về phía dưới quả thực có treo thứ gì đó. Ánh sáng từ cây gậy huỳnh quang quá yếu nên tôi chỉ kịp nhìn ra vài đường nét mơ hồ, hình như là một cỗ quan tài thủy tinh lấp loáng ánh vàng, cũng có thể là loại quan tài bằng thương thạch thông thường. (một loại đá có màu vàng, nửa trong suốt).

Ông chủ Vương ngẩng đầu nhìn tôi thách thức, rồi bất ngờ buông tay khỏi chiếc dây lưng, vừa bật lửa, vừa trượt xuống phía dưới. Rất nhanh sau đó, lão ta chìm hẳn vào trong bóng tối, chỉ còn thấy một đốm lửa leo lắt càng ngày càng thu nhỏ.

Tôi thoáng cân nhắc, không hiểu vì sao bỗng dưng cảm thấy bất an. Ông chủ Vương dường như đã tính toán hết mọi chuyện từ trước, lão ta biết nhiều loại vật phẩm kỳ dị, phải chăng đã đoán ra vật bên dưới là gì nên mới nhanh chân chạy đi thủ luôn? Tôi chợt nhớ lại chuyện lão Dương đã kể lúc trước nên nhịn không nổi, vả lại, tôi cũng không cam lòng cứ thế rơi vào tay lão ta, liền vội vàng rút con dao săn rồi bám theo lão ta, trượt xuống phía dưới.

Càng xuống sâu tốc độ trượt càng nhanh, những rễ cây quấn chằng chịt cũng không còn nữa. Đến quãng sau, tốc độ của chúng tôi bắt đầu chậm lại. Chỉ trong khoảng mười giây mà tôi đã tụt xuống độ sâu vừa ước lượng ban nãy. Tôi thấy đốm lửa phía dưới chợt dừng lại, vội kẹp chặt hai chân vào sợi xích để dừng theo.

Cúi đầu nhìn xuống, tôi thấy ông chủ Vương đã đến đoạn cuối cùng của sợi xích, dưới đó vài mét chính là nơi cây gậy huỳnh quang va đập vào. Lão ta nằm sấp, dùng bật lửa chiếu sáng, nhưng ánh sáng quá yếu ớt nên không thể nhìn rõ hình dạng tổng thể của thứ này, chỉ thấy một khối thủy tinh màu vàng treo lơ lửng giữa không trung.

Tôi bật đèn pin, rọi xuống. Dưới ánh sáng cường độ mạnh từ chiếc đèn pin, vật này mới bắt đầu hiện ra rõ ràng.

Ngoài dự đoán của tôi, vật treo phía dưới sợi xích thanh đồng không phải thương thạch quan, cũng không phải chỉ là một cỗ quan tài con con, mà là một khối đá hổ phách trong suốt cực lớn có hình quan tài, xem ra được hình thành từ tự nhiên. Ánh sáng đèn pin từ trên rọi xuống khiến ánh vàng tỏa ra khắp bốn phía như ánh ngọc lưu ly, chỉ cần hơi dịch chuyển góc độ đèn pin một chút là thứ ánh sáng lung linh huyền ảo ấy sẽ phản chiếu khắp không gian, thực là một cảnh tượng lộng lẫy huy hoàng đến mức khó tưởng tượng.

Từ trên vòm hang rủ xuống bốn sợi xích thanh đồng được đúc chìm vào trong khối hổ phách. Nhìn xuyên qua lớp hổ phách có thể thấy một bóng người mơ hồ màu đen, căng mắt ra mới miễn cưỡng phân biệt được đầu với vai, mà hai bờ vai lại nhô cao như hai cái bướu lạc đà. Cái bóng cuộn cả người lại, tư thế nằm giống như thai nhi trong bụng mẹ.

Tôi từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến giờ chưa từng nhìn thấy thứ gì tương tự nên chỉ biết ngẩn tò te mà nhìn, nói không nên lời. Ngược lại ông chủ Vương có vẻ bình tĩnh khác thường, lão ta quan sát thoáng qua rồi trượt xuống dưới, tính giẫm lên khối hổ phách để thăm dò. Tôi thấy thế bèn cuống quýt kêu lên: “Đừng!”

Ông chủ Vương quay đầu lại, nhìn tôi một cách khó hiểu.

Tôi bèn nói: “Trước đây tôi chưa bao giờ nhìn thấy một khối hổ phách lớn đến vậy, có khi là cặn nhựa thông cũng nên. Ông mà giẫm lên, coi chừng nó vỡ ra đấy.”

Ông chủ Vương nhìn tôi cười khinh bỉ, nói: “Chú mày thì biết gì? Hổ phách cái con khỉ, đây là thi kiển (1), là bào thai hóa thạch đấy.” Dứt lời lão ta đã nhảy lên luôn. Cái gọi là thi kiển này cũng thật chắc chắn, chỉ thoáng lay động rồi nhanh chóng ổn định như cũ.

Tôi thấy lão ta vẫn không sao, bèn không cam tâm bị bỏ lại đằng sau, liền thả chân nhảy xuống bề mặt khối hổ phách chứa bào thai hóa thạch, đồng thời giơ con dao săn lên tính tra vào vỏ sau lưng, miễn khỏi cảnh tay dao tay đèn lỉnh kỉnh khó hoạt động.

Không ngờ ông chủ Vương lại hiểu nhầm, thấy tôi nhảy xuống lại cảnh giác khom lưng, rút sợi dây thắt lưng ngoắc trước ngực ra, làm bộ chuẩn bị đánh nhau. Mà tôi thấy thế lại càng sợ, con dao săn vốn định tra ra sau lưng nay lại quơ lên.

Trong chốc lát, bầu không khí trở nên căng thẳng cực độ, không một ai dám nhúc nhích, vì cả hai đều biết, ở cái nơi quỷ quái này, chỉ cần hơi sơ suất một chút thôi, bị người ta đạp cho một cước là xong đời. Bên dưới là vực sâu vạn trượng, cho dù anh có khỏe đến đâu, có hung hãn cỡ nào, thì rớt xuống cũng đi đời nhà ma chỉ trong tích tắc.

Ông chủ Vương dù sao vẫn là người chốn giang hồ, cầm được thì buông cũng được, nên chỉ giằng co một chốc lão ta đã khoát tay áo, nói với tôi: “Này chàng trai, đã đến nước này thì tôi đành lui một bước vậy, chúng ta tội gì phải đồng quy vu tận chứ. Lỡ có một người chết, người còn lại cũng chẳng được lợi gì, nơi này không thể một mình leo lên được.”

Tôi nhìn lên đỉnh đầu, thấy lão nói cũng không sai. Ở đây, muốn leo lên trên, chí ít cũng cần hai người hỗ trợ lẫn nhau. Vậy là chừng nào vẫn còn ở lại dưới này, có lẽ lão ta sẽ không dám đụng đến tôi, bằng không lão ta sẽ còn chết thảm hơn nhiều. Nhưng người này cực kì xảo quyệt, tốt nhất không nên quá tin tưởng.

Tôi từ từ đặt con dao săn xuống, thủ thế làm bộ hòa giải, đồng thời tóm tắt sơ lược lại chuyện cái bộ đàm nhiễu sóng, tạo một cái cớ cho cho hai bên cùng xuống thang. Dẫu sao vừa rồi tôi cũng đã hạ sát tâm, lão ta không thể dễ dàng nới lỏng cảnh giác được.

Ông chủ Vương lôi bộ đàm của mình ra, bán tin bán nghi bật lên, quả nhiên từ bên trong phát ra một loạt tiếng ồn với âm lượng cao vút, nghe cực kỳ chói tai, giống như tiếng người gào thét đến xé họng vậy. Ông chủ Vương hết hồn, vội vàng tắt bộ đàm đi, mở miệng chửi: “Mẹ kiếp.”

Tôi cũng sợ chết khiếp đi được, ở đây nhất định đã gần với nguồn gây nhiễu lắm rồi nên âm thanh mới chói tai đến vậy. Tôi không ngờ trên đời này lại có thứ âm thanh đáng sợ đến thế, nếu nghe thêm vài giây nữa, có khi tôi mất trí mà nhảy luôn xuống vực cũng không biết chừng.

Ông chủ Vương cầm lấy thắt lưng buộc lại lên người, nói: “Lần này tôi tính toán sai rồi. Cậu cũng biết, chúng ta lăn lộn chốn giang hồ, không để tâm một chút thì không xong đâu.” Lão ta chỉa chỉa vào cái cục sưng vù trên mặt, “Chàng trai, cậu ra tay cũng không nhẹ đâu. Chúng ta lần này coi như huề, thù oán cá nhân cứ để sau khi ra ngoài hẵng tính, sao nào?”

Tôi âm thầm cười khẩy, vừa rồi ông chủ Vương bộc lộ bản tính, tôi đoán lão ta đã sớm dự định sau khi ra ngoài sẽ giết chúng tôi diệt khẩu, giờ nói mấy câu này chẳng qua là kế hoãn binh. Có điều bây giờ hai bên vẫn cần lợi dụng lẫn nhau, nên tôi gật đầu, ném cái đèn pin về phía lão ta cho cân bằng.

Tôi với lão ta tạm thời hòa giải, nhưng tôi cũng không dám tiếp cận lão ta quá gần như trước, để khỏi có người “lỡ tay” đẩy tôi một phát rơi tòm xuống dưới. Lão ta hiển nhiên cũng lo chung một mối như tôi, hai người ngầm hiểu trong lòng nhưng miệng không nói, lẳng lặng vừa đề phòng đối phương, vừa cẩn thận ngồi xổm xuống xem xét kĩ càng cái bào thai hóa thạch dưới chân.

Trên bào thai hóa thạch có rất nhiều hoa văn hình thành tự nhiên, độ trong cũng không cao, nên từ bên ngoài không thể nhìn thấy cái xác bên trong được. Muốn nhìn, phải quét bằng tia X-quang hoặc đập vỡ lớp hóa thạch bên ngoài. Nhưng kỳ quái nhất phải nói đến bóng người bên trong lớp hóa thạch. Đây chắc chắn là một thi thể, có điều cái thi thể này hình dạng rất quái dị, nhìn thế nào cũng không giống người.

———————————————————-

(1)

    

Thi kiển: Nhau thai thiếu tháng tẩm thuốc Đông y, chôn xuống đất xong sẽ đóng cứng lại.

Chương 34: Giả thiết lớn mật, cẩn thận tìm chứng cứ

Edit: Namichan

Beta: Earl Panda

*****

Cách đây mấy năm, ở vùng Xuyên Nam và Nội Mông cũng đào được thi kiển, nhưng đều là loại lớn như chậu rửa mặt, có chút giống ngọc, lại có chút giống hổ phách, bên trong có bọc xác động vật nhỏ hoặc xác trẻ con khô quắt, hiếm khi có người trưởng thành. Mấy thứ này đều là vật bồi táng khai quật được, chẳng ai biết đã được làm ra bằng cách nào.

Căn cứ theo sách cổ ghi lại, có thể là vào thời Tiên Tần, các phương sĩ

(thời xưa dùng để gọi những người cầu tiên học đạo)

đã dùng vật này làm nguyên liệu để luyện đan. Họ đem phụ nữ mang thai thiếu tháng ngâm vào nước thuốc cho đến chết, cho vào một các vạc rồi chôn xuống đất tròn mười bảy năm mới đào lên, khi đó thai nhi trong bụng sẽ biến thành thi kiển. Lớp bên ngoài là nhau thai hóa thạch, người ta nhìn thấy có màu hổ phách, kỳ thật đó chính là nước ối bên trong đông lại mà thành. Cũng có người nói, đây là một loại kỹ thuật chống thi thể phân hủy, dùng hỗn hợp thuốc đông y và nhựa cây đặc biệt bao lấy thi thể, giữ cho thi thể không bị mất nước.

Tôi đã từng nghe nói qua về sự tồn tại của thứ này, nhưng giá trị của nó quá lớn nên tới tận bây giờ vẫn chưa có mối nào qua tay. Tuy hôm nay được nhìn thấy tận mắt nhưng cũng chẳng biết nên xử lý nó như thế nào, hơn nữa vì không khí giữa tôi và ông chủ Vương đã dịu đi đôi chút nên tôi liền thử dò hỏi lão vài vấn đề.

Ông chủ Vương kể cho tôi, năm xưa ông cố của lão ta từng một thời giàu có hiển hách ở Hồng Kông, đã thấy qua một ít bảo vật của đám nhà giàu Nhật Bản di cư sang vì chiến tranh loạn lạc, trong đó có thi kiển hổ phách.

Thi kiển có lớn có nhỏ, thứ bên trong cũng chẳng cái nào giống cái nào, có cái nhìn như xác côn trùng bọc trong hổ phách bình thường, nhưng lại có cái bên trong chứa xác người.

Ông cố lão từng gặp một cái thi kiển khiến ông ta nhớ mãi không quên. Bên trong cái thi kiển đó là một cô bé chừng mười sáu mười bảy tuổi mặc váy đỏ, đôi mắt nhắm lại như đang ngủ thiếp đi, trông rất sống động.

Ông nhìn mà cảm thấy cô bé đó thật đáng thương, thừa dịp chủ nhân của nó không chú ý bèn lén mang đi đốt. Khi đó đang chiến tranh loạn lạc nên người chủ cũng chẳng phát hiện ra. Không ngờ, buổi tối hôm đó ông nằm mộng, mộng thấy cô bé váy đỏ đến tìm mình dập đầu nói cảm ơn.

Sau này ông chủ Vương làm nghề buôn đồ cổ cũng từng gặp qua thi kiển, nhưng mà loại lớn như thứ trước mắt đây, thậm chí còn chẳng nhìn rõ bên trong là vật gì thì vẫn là lần đầu tiên trông thấy.

Tôi cảm thấy có hơi bất ngờ, không lẽ thứ mà Lý Tỳ Bà nói “Hoàn hảo hơn cả lăng mộ Tần Thủy Hoàng” chính là chỉ thứ này? Không phải chứ? Cho dù đây cũng là vật hết sức hiếm thấy nhưng làm gì khoa trương đến mức “Hoàn hảo hơn cả lăng mộ Tần Thủy Hoàng” được.

Ngay cả ông chủ Vương cũng cảm thấy kỳ quái, nhưng lão ta tin tưởng những gì ghi trong “Hà Mộc Tập” là không sai, bèn ngồi xổm xuống, cẩn thận dán mắt lên lớp ngoài hổ phách. Muốn nhìn rõ bên trong có chứa thứ minh khí gì không phải là không thể, chỉ cần đun chảy lớp hổ phách bên ngoài là xong.

Nơi này được cố định chỉ bằng một sợi xích thanh đồng, tôi với lão không thể đồng thời đứng cùng một bên được, nếu không sẽ mất thăng bằng khiến cả hai thằng toi mạng như chơi. Bởi vậy tôi chỉ có thể đợi ngay tại chỗ, vịn vào sợi xích, nhìn xem có thu hoạch được gì không.

Ông chủ Vương nhìn kỹ từ trên xuống dưới mấy lần nhưng vẫn không phát hiện được gì, chỉ nói bên trong hổ phách tựa hồ có một tầng chất lỏng lưu động, ảnh hưởng tới độ trong suốt. Bên trong trừ bỏ cái bóng đen, không nhìn ra được thứ gì khác.

Lại nhìn bốn bề xung quanh, phía dưới là vực thẳm đem ngòm như mực, không có bất cứ dấu vết nào cho thấy có thể bò xuống. Đây là đỉnh cây thanh đồng, thứ thần bí trong quan tài chính là một khối hổ phách.

Hai người chúng tôi đều rơi vào im lặng, một câu cũng chẳng nói. Tuy khối hổ phách này rất đáng giá, nhưng nó nặng chết khiếp, chỉ dựa vào sức hai người chúng tôi làm sao mang đi nổi. Mọi thứ thuộc về nơi này chẳng có chút ý nghĩa nào đối với chúng tôi. Tôi thì thây kệ, nhưng đám người đi cùng ông chủ Vương trên đường tới đây đã chết gần hết rồi, đương nhiên ông ta vô cùng buồn bực.

Im lặng hồi lâu, tôi cảm thấy vấn đề mấu chốt vẫn nằm trong lời nói của Lý Tỳ Bà, bèn hỏi ông chủ Vương, trên đường đi tới đây Lý Tỳ Bà có tiết lộ điều gì không? Xem tính cách Lý Tỳ Bà thì cũng chẳng phải là loại người giỏi giữ mồm giữ miệng gì, chắc là có đôi lúc vô tình buột miệng nói hớ gì đó cũng nên.

Vẻ mặt ông chủ Vương hơi biến đổi, nói: “Mắt nhìn người của cậu chuẩn không cần chỉnh, đúng là Lý Tỳ Bà không phải người giỏi giữ mồm, có điều lần này đúng là quái lạ, một đường tới đây hắn giữ mồm miệng kín như bưng. Tôi chỉ nhớ hắn cứ nói với chúng tôi rằng đến đây rồi thì muốn gì cũng có, bảo là không cần lo lắng quá, còn lại chẳng nói gì thêm. Hắn là người thích chơi trò chủ nghĩa thần bí, thường xuyên chỉ nói qua loa đại khái như vậy với chúng tôi.”

Chỉ cần đến nơi đây, muốn cái gì cũng có.

Tôi lẩm nhẩm vài lần, trong lòng cảm thấy kỳ quái. Câu nói đó rất lạ lùng, dường như có hàm chứa ý gì đó.

Nghĩ đi nghĩ lại, trong đầu tôi bỗng nhiên nảy lên vài ý nghĩ, ai nha một tiếng, thầm nghĩ: “Chẳng lẽ là thế?”

Ông chủ Vương trông thấy nét mặt tôi nhất thời trở nên cổ quái, khó hiểu nhìn tôi, không biết tôi đang nghĩ cái gì.

Tôi hưng phấn cào cào tóc, luồng suy nghĩ trong đầu nhanh chóng xoay chuyển: Lý Tỳ Bà nói là đến nơi đây, những lời này có nghĩa khác, có lẽ bọn họ đều hiểu lầm ý của hắn rồi. Mấu chốt là ở chữ “đến” kia, nói đúng hơn, mấu chốt không phải là các anh sẽ lấy được thứ gì, mà trước tiên phải đến chỗ kia. Đến được rồi, các anh muốn cái gì thì sẽ có cái đó!!

Còn nhớ trong mớ tư liệu lão Tề đưa cho tôi có một tấm ảnh chụp bức bích họa được vẽ trên vách động. Trong ảnh là một cây thanh đồng, có rất nhiều hoa văn nom giống hình người đang quỳ lạy dưới tàng cây. Rất nhiều người cho rằng đó là cảnh cổ nhân cầu cúng cho vụ mùa bội thu, bên trong tấm ảnh cũng chụp một số chữ tượng hình, nội dung đúng là bọn họ đang cầu nguyện. Phần ghi chép phía trên nói chỉ cần cổ nhân hiến máu tươi và cầu nguyện với cây thanh đồng, nguyện vọng của họ ắt sẽ thành hiện thực.

Nói vầy có vẻ mê tín, nhưng mà vừa nghĩ tới câu nói của Lý Tỳ Bà thì tôi không khỏi liên tưởng hai chuyện đó với nhau.

Lẽ nào mục đích của Lý Tỳ Bà khi tới nơi đây chính là vì tin tưởng cây thanh đồng này thực sự có năng lực biến ước mơ thành hiện thực?

Tôi đột nhiên muốn cười nhưng lại cười không nổi. Nếu đúng như thế thì đây quả món hời cực lớn, trong thiên hạ dù là lợi ích gì đi chăng nữa cũng không đáng giá bằng một phần tỷ của món hời này. Nhưng chuyện này căn bản không thể nào xảy ra, nếu mục đích của hắn đúng là như thế thì thật ngoài sức tưởng tượng. Với lại, hắn đương nhiên không thể nói rõ ràng, nếu nói toẹt ra thì ai mà dám theo hắn mò tới đây chứ.

Tôi nói suy nghĩ của mình cho ông chủ Vương, nhưng thật ngạc nhiên, sau khi nghe xong, lão ta chẳng những không cảm thấy nực cười mà dường như còn nhớ ra điều gì đó, nói: “Không đúng, cũng không thể nói như vậy được, hình như thật sự có khả năng đó á.”

Tôi a một tiếng, trong lòng tự nhủ đúng thế quái nào được, bèn hỏi lão làm sao có thể?

Lão ta nói: “Chính là ban nãy, lúc hai người chúng ta té từ trên xuống, tôi vừa rơi xuống đất, sợ bị cậu đánh lén nên lập tức chạy vào giữa đám sương mù. Khi đó tôi cũng nhìn thấy mấy sợi xích thanh đồng này, nhưng lúc tôi băng qua sợi xích ở giữa lại không rơi xuống, đất dưới chân là thật. Nhưng tới lần thứ hai tôi đánh lén cậu, không ngờ chân dẫm vào khoảng không, bên dưới đã có một cái động. Lúc đó tôi cứ đinh ninh mình bị sương mù che mắt mới nhìn nhầm nên cũng chẳng để ý, bây giờ ngẫm lại thật giống như động này xuất hiện từ trong hư vô.”

“Ý ông là sao?” Tôi hỏi.

Lão nói: “Ý tôi là, lần đầu tiên dẫm lên chỗ đó, tôi cứ nghĩ phía dưới hẳn phải có một hầm mộ, nhưng đương nhiên khi dẫm lên thì không có. Mà tới lần thứ hai, không biết cái hầm mộ này từ đâu chui ra. Đó có tính là nguyện vọng của tôi được thực hiện không?”

Tôi hoài nghi nhìn lão, trong lòng tự nhủ chuyện vô lý đùng đùng như thế làm sao mà xảy ra được? Không lẽ lúc đó lão ta bị tôi đánh đến hôn mê, giờ chập mất cái dây thần kinh nào rồi?

Ông chủ Vương thấy tôi không tin, bèn nói: “Thật mà, hèn chi tôi cứ thấy quái quái, “Hà Mộc Tập” chưa từng sai chỗ nào, nếu như chỗ tốt mà Lý Tỳ Bà nói chính là nơi đây, xem hắn tự tin cỡ đó, nói không chừng khả năng này là thật.”

Tôi cau mày, vẫn không tin. Xét theo tâm lý học, câu nói kia của Lý Tỳ Bà có ý là —— chỉ cần tới chỗ này, tiềm thức của các anh có thể bị ảnh hưởng bởi cảnh vật xung quanh, khiến cho tất cả tưởng tượng trong tiềm thức đều biến thành thực thể.

Cứ cho là như thế, nhưng nếu cây thanh đồng thật sự có năng lực ấy, không lẽ tất cả những gì chúng tôi đang thấy chỉ là sản phẩm do chúng tôi tưởng tượng ra hay sao. Vậy thì cây thanh đồng này không phải như thế, sơn động này không phải như thế, và cả đống thi thể nơi này hóa ra cũng không phải như thế.

Nếu chủ nhân của “Hà Mộc Tập” năm xưa lúc leo lên, hoặc nhờ tra hỏi người dân Xá quốc trước kia mà biết được cây thanh đồng này có sức mạnh “vật chất hóa” như thần tiên, chắc hẳn Lý Tỳ Bà cũng biết loại sức mạnh đó nên mới kích động đám người kia mò tới đây.

Nếu như lấy đó làm nền tảng suy luận thì có thể giải thích lời của Lý Tỳ Bà, nhưng những thứ khác lại loạn như mớ bòng bong. Nếu trong đây là thế giới mà tiềm thức lẫn thực tế đan xen vào nhau, vậy rốt cuộc nguyên hình của cây thanh đồng là cái dạng khỉ gì?

Chuyện như vầy phải chăng quá mức cổ quái? Rốt cuộc có thể xảy ra được không?

Lúc chúng tôi bò lên, rất nhiều thứ, tỷ như đám khỉ mang mặt nạ Ly cổ, khoảng trống trên vách đá, nói không chừng đều là tự chúng tôi thực thể hóa mà ra.

Loại năng lực này mới nhìn qua ai mà chẳng chết mê, nhưng khi tôi cẩn thận suy nghĩ lại cảm thấy quá mức khủng khiếp. Trí tưởng tượng của con người là vô hạn, ví như anh có thứ năng lực này, sau khi xem xong một bộ phim kinh dị, nói không chừng lại thấy cái thây trong phim đang treo lủng lẳng trên quạt trần ngay sau lưng, máu tươi chảy ròng ròng. Hoặc khi anh đi qua nghĩa địa, nói không chừng…

May ra có người đã học qua tâm lý học, ở một trình độ nhất định mới khống chế nổi loại năng lực này, như thế chẳng phải có thể khống chế được cả thế giới hay sao. Chờ một chút —— không đúng, tôi chợt nghĩ tới điều gì đó.

Bọn lão Dương đã đào ra một nhánh cây thanh đồng, chiếu theo tấm ảnh thì cũng là một nhánh của cây ước nguyện này. Ông anh họ hắn lén mang nhánh cây kia ra ngoài, biết đâu đã nhìn ra sức mạnh của cây này? Nhưng tại sao ổng lại dở điên dở dại? Mà bây giờ nhánh cây đang ở trong tay lão Dương, có khi nào hắn cũng biết nội tình trong mớ bòng bong này không?

Tôi dòm cái cây bên cạnh, chợt nghĩ, nếu suy đoán này đúng, chẳng phải bây giờ tôi có thể xin cây này ban cho một điều ước sao, ước tôi có thể biết hết mọi chuyện đã xảy ra. Nhưng ngay sau đó tôi liền cười xòa, sao có thể chứ, tôi vẫn tin thứ trước mặt mình chẳng qua chỉ là một khối đồng xanh thiệt bự mà thôi ——

Nghĩ tới đây, tôi bất chợt cảm thấy có gì đó khác thường, những suy nghĩ liên tiếp ùa vào trong đầu. Dưới bụng chợt thót lên một cái, tôi vội quay phắt đầu lại, nhìn ông chủ Vương chằm chằm.

Chương 35: Không thể khống chế

Edit: Cốc Vũ

Beta: Earl Panda

~0O0~

Nhớ lúc trước trợ lý Lương có nói với chúng tôi ông chủ Vương là một kẻ thô kệch, từ nhỏ đã sống trên giang hồ, trình độ văn hóa rất kém. Thứ duy nhất lão có thể khoe với thiên hạ chính là thứ mà tổ tiên lão đã truyền lại: “Kiếp Dư Lục”. Một người như vậy mà lúc nãy khi tôi giải thích cho lão nghe về tiềm thức, lão lại có thể hiểu ngay được, còn đưa ra ví dụ minh họa, chứng tỏ lão dù ít dù nhiều cũng có hiểu biết về tâm lý học.

Vừa rồi tôi cảm thấy có gì đó kỳ lạ nhưng rồi không để ý nữa, cứ đinh ninh chắc đây chỉ là chuyện trùng hợp mà thôi.

Có lẽ ông chủ Vương cũng là một người tao nhã, dù sống giữa muôn trùng hãm hại lừa lọc mà vẫn dành thời gian nghiên cứu tâm lý, muốn làm xã hội đen thì cũng phải là xã hội đen có trình độ văn hóa. Nhưng trông lão đích thị cái dạng thô lỗ bặm trợn, giả thiết này là không hợp lý.

Nghĩ đến đây tôi lại bất giác liếc về phía ông chủ Vương, bỗng dưng có một dự cảm kỳ lạ dấy lên trong lòng —— người trước mặt tôi đây có thật là ông chủ Vương không?

Lão ta đang nhăn trán suy nghĩ về cái ý tưởng ban nãy tôi đưa ra, nghĩ đến xuất thần, nhất thời không nhận ra tôi đang nhìn lão với ánh mắt khác lạ. Tôi nhân cơ hội đánh giá dáng vẻ, quần áo của lão và cả rất nhiều chi tiết trên người lão nữa.

Cho đến giờ tôi vẫn chưa có ấn tượng gì nhiều với ông chủ Vương này. Đầu tiên là lão ta rất ít nói chuyện phiếm, thứ hai, hành động của lão cũng không có gì đặc biệt. Lúc trước khi trèo lên cây thanh đồng tôi cũng chỉ thấy lão một hai lần, bây giờ không nhớ nổi để mà phán đoán thật giả.

Nhưng vừa nghĩ lại, tôi cảm thấy bản thân đã phát hiện ra một vấn đề, chỉ là không dám khẳng định.

Để xác thực suy nghĩ của mình, tôi đột nhiên giả vờ nhìn thấy gì đó, phất phất tay trước mặt lão, khẽ gọi: “Ông chủ Vương!”

Lão lập tức quay đầu sang, hỏi: “Gì thế?”

“Đừng nhúc nhích!” Tôi thủ thế, lão không dám động đậy thật, còn bản thân tôi cẩn thận từng bước chầm chậm đi tới.

Lão ta rất căng thẳng, lo lắng nhìn tôi, tưởng trên vai mình dính cái gì, nghiêng mắt nhìn nhìn. Tôi bước đến ấn ấn vào ngực lão, thầm “Ai da~” một tiếng, lập tức thu tay lại.

Lão ta không hiểu nổi tôi làm cái quỷ gì, khẽ hỏi: “Làm cái gì vậy? Xảy ra chuyện gì à?”

Trong lòng tôi lúc này đã nắm chắc mấy phần, nhìn lão một cái rồi nói: “Tôi cảm thấy quần áo của ông rất lạ, ông mua ở đâu thế?”

Ông chủ Vương nhìn tôi như nhìn thằng thần kinh, bật cười: “Cậu có nhầm lẫn gì không, sao tự nhiên lại hỏi tôi câu này.”

Tôi nói: “Không nhầm chút nào đâu, ông chủ Vương. Mấy tháng trước, lần đầu tiên tôi đi đổ đấu, chú tôi bảo tôi đi mua đồ. Khi đó tôi cũng muốn mua bộ quần áo leo núi này của ông, nhưng sau đó lại thôi không mua nữa, ông biết tại sao không? Tại vì… loại quần áo này có hai cái túi ở trước ngực thoáng nhìn thì rất lớn, nhưng thật ra lại là giả, nó chỉ dùng để trang trí. Lúc đó tôi nghĩ quần áo đi thám hiểm đương nhiên càng nhiều túi càng tốt nên đã mua một cái loại khác.”

Ông chủ Vương sờ sờ hai cái túi trước ngực, mặt hơi hơi biến sắc.

Tôi phủi tay, khẽ nói: “Cho nên tôi mới cảm thấy kỳ quái, vừa rồi cái gậy huỳnh quang của ông, còn cả thuốc lá nữa, rốt cuộc là móc từ đâu ra vậy, hả ông chủ Vương?” Một tia sáng chợt lóe lên trong đầu tôi, tôi cơ hồ bật ra tiếng: “Hay là —— hay tôi phải gọi ông là lão Dương mới đúng đây?”

Ông chủ Vương ngơ ngác nhìn tôi, một lúc lâu sau lão chợt phì cười, cơ thể mập mạp kia bắt đầu co rút lại, cứ như một quả khinh khí đột nhiên bị chọc thủng mà xẹp xuống vậy.

Tôi thấy vẻ ngoài của ông chủ Vương biến đổi từng chút một, dần dần biến thành khuôn mặt của lão Dương, thầm khẳng định mình đã đoán đúng rồi.

Cuối cùng thân hình hắn cũng thả lỏng, thở dài nói: “Ngô Tà không hổ là Ngô Tà, đệch mợ từ nhỏ cũng chỉ có cậu chơi xỏ tôi, tôi khó mà lừa được cậu một lần, đều bị cậu vạch trần hết cả.”

Tôi lạnh lùng nhìn hắn, hỏi: “Bớt nói nhảm đi, cậu đang chơi trò gì ở đây thế?”

Hắn cười khổ một cái, khoát tay: “Nghe tôi giải thích, nghe tôi giải thích đã, ai da! Tôi cũng biết chuyện này không thể dễ dàng lừa cậu được.”

Thấy tôi không tiếp lời hắn mới lên tiếng: “Mục đích của tôi không phải lừa cậu, nhưng không còn cách nào khác. Đợi lát nữa nghe tôi giải thích xong, cậu sẽ biết tôi bất đắc dĩ mới phải làm thế.”

Tôi thấy hắn tùy ý kiểm soát ngoại hình của mình, thậm chí có thể sử dụng khả năng này ngoài sức tưởng tượng của tôi, suy ra hắn đã biết một số chuyện ở đây. Mục đích cả bọn mò đến cái chỗ này chắc chắn không phải là vì tiền, bởi vì một khi đã có năng lực này rồi thì tiền không còn là vấn đề nữa.

Nhưng với khả năng có thể nói là vô địch này rồi, hắn còn có chuyện gì cầu mà không được nữa, sao phải mò đến cái nơi quỷ quái này? Chẳng lẽ có năng lực này rồi vẫn chưa đủ?

Dẫu sao thì giờ đây tôi đã có thể khẳng định, lúc trước hắn một mực nhờ cậy tôi chính là một cái bẫy có chủ đích mà tôi cứ thế ung dung rơi vào. Nói cách khác bây giờ hắn lại sắp bắt đầu nói láo, tưởng tôi còn tin tưởng hắn như trước nữa sao? Cái con rùa chết tiệt này, nếu tôi khống chế được năng lực kia, tôi nhất định sẽ biến hắn thành con heo.

Lão Dương thấy nét mặt tôi biến đổi, biết rõ dù bên ngoài tôi vẫn tỏ ra bình thản nhưng kỳ thực trong lòng đã phát hỏa đến cực độ, nhất thời chẳng biết làm gì để dập tắt lửa giận của tôi, chỉ đành im lặng đứng nhìn.

Ngây người một hồi, hắn đột nhiên thở dài, cứ như đã suy nghĩ thông suốt điều gì đó, liền móc từ cái túi trước ngực ra một tấm hình, nói: “Cậu xem cái này đi rồi tôi sẽ giải thích cho cậu.”

Tôi cầm lấy tấm hình: người trong hình là mẹ hắn, mái đầu đã điểm hoa râm vì một đời vất vả. Xem ra chuyện lão Dương phải ngồi tù mấy năm đã giáng cho bà một cú sốc lớn. Mẹ hắn lúc còn trẻ rất đẹp, đối xử với chúng tôi cũng rất tốt. Chúng tôi đều gọi bà là dì Xinh Đẹp. Cha tôi và tôi mỗi năm đều đến thăm bà mấy lần.

Tôi không biết hắn cầm theo tấm hình này ra ngoài làm gì, nói: “Cậu có ý gì vậy?”

Hắn thở dài, chán nản cười khẩy: “Tôi không phải đã nói tôi cần tiền sao? Thật ra tôi lừa cậu đấy, mục đích tôi tới chỗ này là vì mẹ tôi. Mẹ tôi trong lúc tôi ngồi tù… đã đi rồi.”

Tôi à lên một tiếng, dùng ánh mắt vô cùng hoài nghi nhìn hắn, nhíu mày hỏi: “Mẹ cậu… qua đời rồi?”

Hắn im lặng gật gật đầu, nói: “Ngay sau ngày ra tù, tôi vội vàng về nhà, muốn cho mẹ tôi một sự bất ngờ. Nhưng đúng lúc tôi đẩy cửa phòng ra thì ngửi thấy một mùi hôi thối nồng nặc. Mẹ tôi gục trên máy may không nhúc nhích. Tôi cho là bệnh tim của bà ấy tái phát, lập tức chạy đến đỡ bà. Lúc tôi đỡ bà dậy, cậu biết con mẹ nó tôi nhìn thấy gì không?!”

Lão Dương nhắm mắt lại, thống khổ rên rỉ: “Mặt của bà… bị dính luôn trên máy may, kéo một cái mà toàn bộ bị rách ra hết, ôi trời ơi —— “

Tôi không biết mẹ hắn đã qua đời, nhất thời không biết phản ứng thế nào mới phải, chỉ biết đứng trân trân nhìn hắn. Lão Dương là người vô cùng hiếu thuận, hắn tuyệt đối sẽ không lôi chuyện mẹ hắn ra mà nói chơi.

Hắn xoa xoa trán, lại nói: “Sau khi làm lễ khâm liệm cho mẹ tôi xong, một mình tôi ở trong căn phòng trống không, nhất thời không biết nên làm gì. Tôi cũng không dám ngủ, vừa nằm xuống là lại thấy hình ảnh mặt mẹ tôi bị dính vào máy may. Cứ như vậy chín ngày liền, tôi đã đói bụng muốn chết, nghĩ thầm không bằng chết đói luôn cho rồi. Nhưng đúng lúc này, đột nhiên tôi liền ngửi thấy mùi thơm từ trong phòng bếp bay ra, thật giống như có người ở đó nấu thức ăn. Tôi qua đó xem, thấy mẹ tôi tự nhiên lại xuất hiện, thấy tôi đến còn nói: chờ một chút, xong ngay đây.”

Tôi nghe đến đó liền ý thức được chuyện gì đang xảy ra.

Lão Dương tiếp tục nói: “Lúc đầu tôi còn tưởng do mình nhớ mẹ muốn điên lên rồi nên mới xuất hiện ảo giác. Sau đó, tôi dần dần phát hiện có cái gì đó không đúng. Đây không phải là ảo giác. Không chỉ có tôi, ngay cả người bán thức ăn cũng nhìn thấy mẹ tôi. Lúc đó tôi biết rằng mẹ tôi đã thật sự trở lại, bà quả thật giống hệt với trước kia, ngay cả mùi vị thức ăn bà nấu cũng không khác xưa.

“Nếu là người khác có thể sẽ nghĩ mình gặp quỷ, nhưng tôi thì không. Tôi bắt đầu suy nghĩ chuyện này là sao đây? Dần dần tôi bắt đầu phát hiện, tình cảnh này có cái gì đó không ổn mà tôi không sao diễn tả bằng lời, nhưng lại không tìm được điểm mấu chốt. Cho đến một hôm, tôi ngồi xem TV suốt đêm, kết quả là gì cậu có đoán được không? Đêm hôm đó đột ngột bị cắt điện, cả khu chỉ nhà tôi là có điện, tất cả thiết bị điện dù không có điện vẫn mở được như thường, thậm chí không cần cắm phích.

“Tôi không biết chuyện gì đang xảy ra nữa. Lúc này, anh họ tôi gửi cho tôi một phong thư, trong thư anh nói anh cũng gặp phải chuyện tương tự. Lúc đó tôi hiểu được một phần, rằng chuyện này và cái cây thanh đồng kia chắc liên quan đến nhau.

“Tôi xem rất nhiều sách, biết được cái cây này có thể chính là Hứa Nguyện Xà Thần Thụ mà cổ nhân nhắc đến. Năng lực này của tôi có thể chính là từ cây thanh đồng mà ra. Lúc đầu tôi rất phấn khởi, tưởng mình sẽ phát tài. Nhưng đến khi tôi nghiên cứu kỹ hơn năng lực này, đồng thời sau khi bắt đầu có thể khống chế được nó, đã xuất hiện vấn đề.

“Một khi cậu dùng ý nghĩ để điều khiển năng lực này, nếu như cậu không thể gạt bỏ tạp niệm, rất nhiều thứ sẽ trở nên hỗn loạn, sẽ hỏng bét hết. Cho nên có một ngày, lúc tôi thức dậy, nhìn thấy mẹ tôi ngồi quay lưng lại ở bàn may, vừa nhìn thấy bà ngồi trước máy may, tôi đã sợ run, rón ra rón rén đi tới, cậu biết tôi nhìn thấy gì không, ôi trời ơi, mẹ tôi… mặt của bà…”

Tay lão Dương khua khoắng nhiều động tác, nhưng rồi thật sự không nói thêm được câu nào nữa, lén thở dài vài tiếng.

Tôi nghe xong trong lòng thầm cảm thấy lạnh cả người, thật sự không cách nào tưởng tượng tình cảnh khi đó đáng sợ đến mức nào.

Lão Dương thất thần từ trong người lần ra được một điếu thuốc lá bỏ vào miệng, không cần đến bật lửa đầu điếu thuốc đã đỏ rực. Hắn hít một hơi thật mạnh, nói tiếp: “Bắt đầu từ lúc đó, tôi ý thức được loại năng lực này kinh khủng đến thế nào. Nhưng tôi không cam lòng, tôi rất muốn mẹ tôi quay về. Cho nên tôi phải tìm một người nữa tới đây, tìm một người biết mẹ tôi, lại là người có tâm hồn vô cùng trong sạch, chính là cậu, lão Ngô. Đồng thời, tôi còn phải tiêu trừ hết năng lực này của mình.”

Tôi không nghĩ lão Dương vì chuyện này mà đến đây, nói: “Nhưng mà, lão Dương, chuyện này hình như là đi ngược lại ý trời, người chết không thể sống lại.”

Hắn nói: “Lão Ngô, tôi cũng không phải kẻ quá tham lam. Tôi chỉ muốn ba năm, chỉ cần được sống bình an cùng mẹ tôi ba năm nữa thôi. Cậu đã nhiều lần đến nhà tôi, lẽ nào cậu đành lòng nhìn mẹ tôi chết trong cô đơn như vậy sao?”

Tôi thở dài, nghĩ nếu như mẹ của hắn thật sự sống lại, liệu tôi có còn dám đến nhà hắn nữa hay không. Cây thanh đồng này không biết kẻ nào đã dựng lên thẳng đứng ở nơi đây, thậm chí còn có năng lực ma quái. Cái người này, rốt cuộc có được tính là người không đây.

Nghĩ nửa ngày, tôi lắc lắc đầu: “Chuyện này tôi không làm được đâu. Lão Dương, mẹ cậu đã chết, bà đã về với đất rồi, cậu…  cậu hãy để cho bà đi đi, không nên cứ giữ bà như vậy.”

Lão Dương cười cười: “Từ từ đã, lão Ngô, cậu không hiểu. Chuyện này chẳng liên quan gì đến chuyện cậu có muốn giúp tôi hay không, cũng là lý do tại sao tôi không nói với cậu mục đích chúng ta đến đây. Bây giờ tôi nghĩ mục đích của mình đã đạt được rồi.”

Tôi không hiểu hắn nói gì, hỏi: “Ý cậu là sao?”

Hắn giơ giơ tay, nói: “Thì cậu cứ thử một lần xem cậu có thể cụ thể hóa ra được thứ gì đó không.”

Tôi không biết hắn muốn làm gì, nhìn xuống hai tay mình, trong lòng thầm tưởng tượng ra hình dạng một tảng đá, cố gắng dùng ý niệm của mình thực thể hóa nó. Nhưng mà dùng sức hồi lâu, trên tay vẫn trống không. Không nghi ngờ chút nào, năng lực này rất khó sử dụng. Người bình thường rất khó khống chế tiềm thức của bản thân.

Lão Dương có chút đắc ý nói với tôi: “Cậu xem, loại năng lực này, khi cậu cố gắng làm gì đó thì nhất định không hữu dụng. Nếu không thì vừa rồi lúc đói bụng hẳn là sẽ có vịt nướng bay tới rồi. Chỉ có một số tình huống nhất định nó mới xuất hiện, khó khăn vô cùng. Lão Ngô, năng lực này chỉ có thể hướng dẫn mà không cách nào sử dụng, cho dù có qua huấn luyện đi chăng nữa cũng vô cùng khó khăn. Ví như nếu cậu muốn biến ra thứ phức tạp như cái TV ở chỗ này thì có tưởng tượng cỡ nào cũng không ra.”

Tôi nhìn hắn, “Ý cậu muốn nói khả năng này thụ động? Cần một người hướng dẫn tâm lý?”

Hắn gật đầu, “Đúng, ví như tôi vừa rồi nói với cậu những lời đó là để hướng dẫn những suy nghĩ trong não cậu  hiện thực hóa ra một người ngồi trong nhà tôi cách đây cả trăm dặm.”

Tôi ngây người nhìn hắn, nói: “Vô lý, con mẹ nó cậu cho là tôi thực sự cái gì cũng tin sao?”

Lão Dương lắc lắc đầu, đúng lúc đó đột nhiên cây thanh đồng và khối hổ phách chấn động mạnh một cái. Hai người chúng tôi bị trượt chân, thiếu chút nữa đã ngã xuống. Vội vàng túm lấy dây xích bên cạnh cây đồng, cúi đầu xuống nhìn chỉ thấy dưới chân chúng tôi là vực thẳm, giống như có thứ gì đó đang quằn quại. Mỗi lần nó ngọ nguậy, cây thanh đồng lại bị rung lắc dữ dội tựa như động đất, đứng cũng không vững.

Tôi túm chặt dây xích trên cây thanh đồng, cảm thấy kỳ lạ, trong đầu nghĩ ra một chuyện, quay đầu lại hỏi lão Dương: “Đúng rồi, lúc nãy có những âm thanh kỳ quái “Híc híc híc” ấy, có phải cũng do cậu hiện thực hóa ra không vậy?”

Lão Dương cũng nghi ngờ nhìn nhìn phía dưới, gật đầu nói: “Đúng vậy, tôi dùng âm thanh này để dụ cậu vào bên trong, sau đó tôi đứng bên ngoài đánh ngất ông chủ Vương. Cái vô tuyến điện kia quấy nhiễu, chẳng qua là không muốn để cho cậu nghe thấy tiếng tôi và ông chủ Vương đánh nhau thôi.”

Tôi nhíu mày, kêu lên: “Nếu thế không biết chấn động này là do cái gì gây ra?”

Lão Dương cũng đổi sắc mặt, nói: “Tôi cũng không biết, nhưng mà lão Ngô này, khi nhìn thấy cây thanh đồng ấn tượng đầu tiên của cậu là gì?”

Tôi vừa nghe hắn nói như vậy, đột nhiên sợ run cả người, “Tôi nghĩ… là nó thông đến Địa ngục…” Vừa nói vừa nhìn xuống phía dưới, “Không thể nào, cậu không định nói… cái thứ này… là…”

Lão Dương đá mạnh tôi một cước, kêu to: “Đồ ngốc, đừng có hoang tưởng!”

Vừa dứt lời, một con mắt khổng lồ hiện ra trong bóng đêm đen như mực bên dưới, con ngươi màu tím híp lại thành một đường ti hí quái quỷ, trông như mắt mèo.

Chương 36: Sụp đổ

Edit: Thương Lang

Beta: Thanh Du

~0O0~

Con mắt lớn bên dưới nhanh chóng tiếp cận, tình hình hỗn loạn, toàn thân cây thanh đồng càng thêm rung lắc dữ dội. Tôi cũng không nhìn rõ nó leo lên bằng cách nào, chỉ biết ấn theo tốc độ này thì không đến mười phút nữa chúng tôi chắc chắn sẽ phải đối mặt với một trận đại chiến.

Lão Dương tái xanh mặt, quay sang oán trách tôi, “Rốt cuộc cậu tưởng tượng ra cái quỷ gì vậy hả?”

Tôi vội kêu oan, “Thề có trời chứng giám, đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy thứ này, nếu có nửa lời dối trá sẽ bị thiên lôi đánh chết.””

Hắn thấy tôi quả quyết như vậy thì ngẩn người, “Vô lý, không phải cậu thì là ai?”

Lúc này cũng không thể phỏng đoán gì hơn, tôi bảo hắn bớt nói nhảm đi, mau mau nghĩ cách, bị trừng đi trừng lại như vậy cũng chẳng dễ chịu gì.

Hắn nói, “Không cần lo lắng thái quá, chỉ là một con mắt chứ có gì ghê gớm đâu, chẳng lẽ cậu sợ nó dùng mí mắt kẹp chết chúng ta? Chờ nó leo lên đây ông đá phát mù luôn.”

Lời còn chưa dứt, thình lình một xúc tu khổng lồ trông như xúc tu bạch tuộc cuốn lên, trong nháy mắt đã quét qua khối hổ phách. Hai chúng tôi xoay một vòng trên không trung, cuối cùng đập vào vách thanh đồng. Khối hổ phách lập tức vỡ toang thành trăm mảnh, thi thể bên trong cũng nứt toác, rơi xuống theo những mảnh vụn hổ phách như thiên nữ tán hoa.

Hai người chúng tôi chớp lấy thời cơ cuối cùng, túm chặt dây xích thanh đồng mới may mắn thoát khỏi hiểm nguy không sứt mẻ gì, nhưng đầu óc cũng quay cuồng choáng váng. Tôi gào lên với lão Dương: “Trò đùa này quá đáng lắm rồi, không phải cậu có năng lực biến đổi sao? Mau biến ra một khẩu đại pháo, bắn nát cái thứ quái quỷ kia đi.”

Lão Dương quát to: “Má nó, cậu còn lảm nhảm cái gì vậy! Làm gì có chuyện dễ dàng như thế? Chạy mau!”

Chúng tôi không nhiều lời nữa, nhanh chóng men theo dây xích thanh đồng mà trèo lên. Mới được vài bước, đột nhiên cảm giác trên tay trơn tuột, sức lực cũng bắt đầu cạn kiệt. Tôi lập tức nghĩ đến loại thực vật trơn nhẵn mọc trên rễ cây trước đó, trong lòng hoảng hốt. Thôi hỏng rồi, chẳng lẽ mình phải chết ở đây?

Chợt lão Dương nhấc tay một cái, cảm giác trơn tuột trong lòng bàn tay tôi nháy mắt đã biến mất. Hắn leo trèo nhanh nhẹn như khỉ, còn kéo tôi theo. Tôi nhất thời không nắm vững, suýt nữa đã tuột tay, bèn mở miệng trách cứ, “Cậu có bản lĩnh như vậy, sao không biến hẳn ra cái thang có hơn không?”

Hắn gắt: “Lạy bố, bố đừng có lắm lời nữa cho con nhờ!!!”

Hai chúng tôi cắn răng trèo vào quan thất. Sương mù phía trên đã tan đi hết, tôi tính nhân cơ hội này xem qua mấy tấm phù điêu khác. Lão Dương nói cậu đừng có nhìn nữa, giờ là lúc nào rồi, nói đoạn vội vàng kéo tôi trèo lên tường quách. Đột nhiên, xúc tua kia nhanh như chớp cuộn lên từ dưới thông đạo, chớp mắt đã bật tung tảng đá lớn chặn trên đỉnh quách thất. Lực va chạm cực lớn, đến cả những rễ cây cứng như sắt cũng bị đập cho nát bấy, nhất thời cả cây thanh đồng chấn động mạnh, nhìn đâu cũng thấy những rễ cây, vỏ cây mục nát hòa cùng tro bụi bay mù mịt. Cả tảng lớn rễ cây đột nhiên vỡ tung thành nhiều mảnh nhỏ như những viên đạn bắn ra khắp bốn phía, đập vào sạn đạo, phá sụp một mảng lớn. Chúng tôi đang nằm sấp trên một rễ cây trơn trượt, lần này cả hai đều bị quăng ra khỏi quách thất, ngã sấp trên đài hiến tế.

Xúc tua kia sau khi lao ra khỏi cây thanh đồng thì không rút vào nữa mà cứ quét loạn xạ khắp bốn phía, đập cho mấy pho tượng thanh đồng xung quanh biến thành dị dạng. Tôi và lão Dương chật vật cúi đầu né tránh, lão Dương chỉ chỉ sạn đạo nói mau xuống thôi, cứ ở trên này thì chết chắc rồi. Tôi chợt nhớ đến ông chủ Vương bị lão Dương đánh ngất bên ngoài, thầm nghĩ mặc dù lão là loại khốn nạn nhưng cũng chưa đến mức tội ác tày trời, không thể cứ bỏ mặc lão như thế được, bèn vội vã quay đầu tìm kiếm. Nhưng nhìn quanh quất mãi mà không thấy, chẳng lẽ lão ta đã bị những mảnh rễ cây bắn ra từ vụ nổ vừa nãy đẩy đi đâu mất rồi?

Rễ cây bốn phía đã bị bật tận gốc, chỉ còn sót lại vài mảnh vụn trên đài hiến tế . Lão Dương thấy tôi quay qua quay lại nhìn xung quanh bèn đá tôi một cái, bảo tôi mau nhìn lên trên. Tôi vừa ngẩng đầu lên đã thấy một phiến đá bự chảng xé toạc không trung rơi xuống, vội cuống cuồng chạy. Lão Dương lộn một vòng, khoác lên lưng cái ba lô đang vướng trên một gốc cây đổ, sau đó hai người chúng tôi nhảy vọt lên bám vào dây thừng dùng làm cầu dây trước đó.

Chúng tôi vừa nắm lấy dây thừng, phiến đá phía sau đã rơi xuống đập mạnh lên đài hiến tế, vỡ thành trăm mảnh, tạo ra thanh âm đinh tai nhức óc. Dây thừng chúng tôi đang nắm cũng theo đó mà rung lên giống như dây đàn dương cầm, cơ hồ khó có thể chống đỡ được sức nặng này.

Quay đầu nhìn lại cái rễ cây chúng tôi đã quăng móc câu để trèo lên khi nãy thì thấy phần đầu của nó đã nối gót theo những rễ đa quấn quanh quan tài bay mất, chỉ còn lại một phần con con ít đến thảm hại. Bị thể trọng của chúng tôi níu xuống, móc câu cứ trực trượt ra ngoài, có vẻ như sẽ không còn chống đỡ được bao lâu nữa.

Tôi ngày càng cảm thấy bất an, bèn quay đầu gọi lão Dương mau leo lên, bằng không chúng ta sẽ theo chân lão Thái luôn đó! Lão Dương nghe thế liền giáng cho tôi một cái tát thật mạnh, mạnh đến mức khiến lỗ tai tôi ong ong.

Tôi mắng to: “Mẹ kiếp, cậu nghiện đánh người hả?”

Lão Dương gào lên: “Không đánh cậu sao được, cậu làm chủ đầu óc mình đi, tuyệt đối đừng nghĩ bậy nghĩ bạ gì nữa.”

Tôi cũng gào lại: “ Tôi nghĩ bậy hồi nào?”

Lời còn chưa dứt, chợt nghe một tiếng “Uỳnh” thật lớn vang lên. Chúng tôi quay lại nhìn, chỉ thấy toàn bộ quách thất đột nhiên gồ lên, các vết nứt dần dần xuất hiện. Một con rắn lớn màu đen nhô đầu ra, xúc tua kia chính là đuôi rắn. Đó là một con cự xà có một mắt, vảy rắn rất nhỏ, nhìn lướt qua lại thấy giống một con giun cỡ bự hơn.

Độc nhãn cự xà vừa chui ra, con mắt lớn đã ngay lập tức đảo về phía chúng tôi. Lão Dương thấy tình thế không ổn, đột nhiên rút từ sau lưng tôi ra một thanh liệp đao 

(đao dùng để đi săn)

 dài, vung lên chém đứt dây thừng. Chúng tôi chao qua khoảng không thành một đường cong như Tarzan, cuối cùng va vào một bên sạn đạo. Lần này tôi đã có chút kinh nghiệm, lập tức lộn một vòng, lực va đập đã giảm đi đáng kể.

Lão Dương vừa rơi xuống đất đã nhanh nhẹn rút ra từ bên cạnh ba lô một khẩu súng ngắn, bắn một phát vào mắt cự xà. Viên đạn khoét một lỗ hổng lớn trên thân cự xà khiến nó xà đau đớn cuộn mình, cái đuôi quét qua phá hủy toàn bộ dải sạn đạo trên đầu chúng tôi.

Lão Dương né một mảnh gỗ nhỏ rơi xuống đầu, đứng lên đối mặt với con rắn kia, vừa nổ súng vừa kéo tôi chạy đi. Tôi biết loại súng này chỉ nạp được năm viên đạn, nhưng cầm trong tay lão Dương thì đạn cứ liên tiếp bắn ra như nước chảy, căn bản không cần nạp.

Đáng tiếc kích cỡ của súng này vẫn còn quá nhỏ, con rắn sau khi bị bắn phát đầu tiên, đến giờ đã có kinh nghiệm, bắt đầu quấn tròn lại, dùng thân thể bảo vệ lấy mắt mình. Đạn bắn ra đều trúng đuôi nó cả, vảy của nó giống như một loại thiết giáp, làm gì cũng vô dụng.

Tôi thấy dùng súng không ăn thua với nó liền hô hào lão Dương mau chạy, hai người cứ thế chạy thẳng tới chỗ sạn đạo bị đứt quãng. Tôi vừa định trèo lên vách đá, lão Dương đã giữ chặt lấy tôi, nói: “Đã đến nước này rồi còn muốn trèo lên?” Nói đoạn kéo tôi nhảy xuống. Chúng tôi trượt theo mặt vỡ của sạn đạo nhảy xuống tầng sạn đạo kế tiếp, chợt nghe những tấm ván gỗ kêu răng rắc liên hồi. Ván gỗ mỏng manh làm sao có thể chịu được va đập mạnh như vậy, lập tức vỡ thành nhiều mảnh. Chúng tôi rơi xuyên xuống, lại phá vỡ một tầng sạn đạo nữa, rốt cuộc ngã lăn trên tầng sạn đạo cuối cùng.

Lần rơi này va đập rất mạnh, lúc tôi ngồi dậy được thì máu tươi đã trào đầy miệng mũi. Lão Dương kéo tôi đứng dậy, hỏi: “Xem ra dự đoán ban đầu của chúng ta đã quá lạc quan rồi, cậu không sao chứ?”

Tôi chỉ cảm thấy trời đất quay cuồng, cũng không biết đã trả lời hắn những gì. Chợt thấy cự xà màu đen chớp mắt đã bò xuống theo cây thanh đồng, lão Dương nói: “Đánh thì không lại, trốn cũng không thoát, thôi thì cứ tìm một cái hang mà chui tạm vào đã.”

Tôi nhìn xuống dưới, sâu thêm chút nữa đã không còn sạn đạo, chỉ còn chi chít những hang nhỏ giống cái hang chúng tôi từng nghỉ ngơi trước đó. Con rắn kia bự quá khổ, chúng tôi cứ chui bừa vào một trong số đó cũng có thể tránh tạm một lát rồi từ từ nghĩ đối sách.

Lão Dương sốt ruột lôi kéo tôi trèo xuống, rồi chui vào một cái hang rộng chưa đến một thước. Còn chưa kịp đi sâu vào bên trong, bất thình lình con mắt lớn của cự xà đã xuất hiện ngay trước cửa động, chăm chú ngắm nghía chúng tôi, sau đó lao bổ tới, định nhào vào trong.

Lão Dương bắn mấy phát súng, muốn ép nó lui xuống, nhưng viên đạn bắn vào đầu rắn chỉ làm tróc vài cái vảy, chẳng có tí hiệu quả thiết thực nào.

Cái đầu của hắc xà trông giống một chiếc xe tải cồng kềnh, thử vài lần cũng không chui vào được. Đột nhiên nó vung đầu, đập mạnh vào cửa hang khiến cho đất đá rơi tán loạn. Chúng tôi nhanh chóng chạy vào sâu bên trong, chỉ mong những tảng đá rơi xuống sẽ chặn mất đường vào.

Cự xà thấy chúng tôi lui vào trong hang thì nổi cơn thịnh nộ, tiếp tục đập đầu vào cửa hang. Toàn hang chấn động, chỉ nghe tiếng nham thạch rạn nứt từ ngoài cửa truyền tới ngay trên đỉnh đầu.

Đá ở đây là đá basalt (1), bị khai phá quá mức để tạo thông đạo nên không còn kiên cố như trước, trải qua va đập đã phá vỡ thế cân bằng mong manh bên trong nham thạch. Lúc này giữa các khe hở đã xảy ra phản ứng dây chuyền, một cái khe đột nhiên xuất hiện ngay trên đầu chúng tôi. Lão Dương thấy tình thế không ổn, vội kéo tôi lui vào tận đáy động. Tôi chưa hết kinh hoàng, mới lui vài bước vào trong đã nghe một chuỗi tiếng nổ vang lên liên tiếp, cát bụi bay mờ mắt, đá vụn văng khắp nơi, không sao giữ được bình tĩnh.

Theo bản năng, tôi cuộn người, hai tay đưa lên bảo vệ đầu. Những tảng đá từ bên trên trút xuống như mưa, trút lên người, lên lưng, không sót chỗ nào. Đang lúc hoảng loạn, lão Dương bỗng nhiên giữ chặt lấy tôi, kéo tôi về phía hắn; cùng lúc ấy tôi nghe một tiếng vang thật lớn, một tảng đá to như cái bàn làm việc cỡ lớn sụp xuống, bịt kín cửa động.

Con rắn đen chết tiệt đó chẳng những không chui được vào hang mà bóng dáng chúng tôi nó cũng chẳng nhìn thấy, nhưng vẫn cứng đầu chưa muốn từ bỏ ý định, lại tiếp tục đập hơn mười lần. Đất đá không ngừng rơi xuống, vách tường bốn phía cũng bắt đầu xuất hiện các vết nứt.

Lão Dương nói: “Cứ tiếp tục như thế cũng không phải cách hay, e rằng con quái này không giết được chúng ta sẽ không chịu buông tha đâu. Đợi nó đụng thêm vài cái nữa thì núi cũng phải sụp.”

Tôi quay đầu lại, chúng tôi đã lui đến điểm tận cùng của hang, không thể lui thêm được nữa. Nếu hang này sụp thêm chút nữa, e là thần tiên cũng không cứu được chúng tôi.

Giờ đã tới đường cùng, dù có thuốc nổ đi nữa thì trong không gian nhỏ hẹp này cũng không thể sử dụng. Nhìn vết nứt bốn phía từng chút từng chút một kéo dài rộng ra, lòng tôi nóng như lửa đốt.

Đúng lúc này, một cái khe toác ra, một đoạn tường đá không chịu nổi chấn động, ào ào sụp xuống. Chúng tôi ép sát người vào vách tường, khó khăn lắm mới giữ được toàn thân nguyên lành, lại thấy phía sau đoạn tường đá sụp xuống xuất hiện một cái hang.

Tôi mừng rỡ trong lòng, thầm nghĩ trời không tiệt đường người, nhất định là  nham thạch ở giữa hai cái hang vỡ nát, tạo thành một thạch đạo. Nghĩ đoạn vội quay đầu gọi lão Dương, định bò vào trong.

Nào ngờ, lão Dương lập tức chặn ngay trước mặt tôi, “Không thể vào đó.”

__________

(1)   Đá basalt: hay còn gọi là đá bazan là loại đá macma màu xám hay màu đen, hình thành do macma phun trào ra từ miệng núi lửa rồi nguội đi.

Chương 37: Nhật ký

Edit: Đậu Hũ

~0O0~

Hang động sắp sụp xuống, bất kể đá lớn đá nhỏ đều nhè đầu tôi mà đáp, chậm chân một giây là có nguy cơ chôn thây dưới hàng đống đá. Lâm vào tình cảnh này,  trước mắt có đường thoát đã tốt lắm rồi, làm gì còn sức mà quan tâm đến chuyện khác. Tôi bèn kéo tay hắn mà gào tướng lên: “Không thể cái con khỉ, không vào đó chẳng lẽ ở ngoài này chờ chết?”

Lão Dương nói: “Tình hình trong đó thế nào chưa rõ, cậu xem xét kĩ rồi tính sau!”

Tôi bảo hắn: “Thời gian đâu mà suy tính nhiều, cậu xem tình hình bây giờ, dù bên trong có là đầm rồng hang hổ cũng phải đâm đầu vào.” Dứt lời liền lôi hắn chui vào trong động.

Lão Dương kiên quyết giằng tay lại, không cho tôi kéo hắn vào, nói: “Cậu làm ơn nghe tôi một lần được không, động này thực sự không thể vào được!”

Nói xong còn muốn lôi tôi ra ngoài, tôi nổi cáu, vừa định hỏi hắn bộ muốn ở ngoài chờ chết à, bỗng một tảng đá đột ngột sụp xuống, tôi vội vã buông tay, cả hai đều ngã ngửa. Tảng đá “rầm” một tiếng  chắn ngang giữa chúng tôi, trong chớp mắt đã lấp kín cửa hang.

Tôi sợ mất mật, vội kêu to hỏi hắn có sao không, hồi lâu mới nghe tiếng hắn rên rỉ trả lời: “Không sao hết, mẹ kiếp đầu bị đập một cú thôi. Bên này vẫn chưa sụp, bên cậu thế nào?”

Tôi báo cho hắn biết tôi cũng không việc gì, rồi thuận tay đẩy tảng đá thật mạnh, nhưng tảng đá chẳng thèm nhúc nhích tí gì. Biết là đường về đã bị chặn, tôi bèn quan sát khắp bốn phía chung quanh. Ban đầu tôi còn tưởng đây là một cái hang trên vách đá, đầu kia ắt là cửa ra, nhưng bây giờ nhìn lại thì thấy đây là một không gian kín mít, chật như hũ nút. Có lẽ nó là một khe nứt tự nhiên trong núi, mà trông còn có vẻ quen quen.

Đạp lên đống đá vụn đi lại vài bước, tôi chợt ngộ ra, nơi này vốn dĩ cũng là một hang động hình thành sau vụ sạt lở, có điều vụ sạt lở này đã xảy ra được vài năm nên những thứ đáng phải sập cũng đã sập cả, trên mặt đất toàn là đá vụn.

Lúc nãy tôi còn ngạc nhiên vì sao con cự xà kia lại mạnh đến thế,  quẫy đập có mấy cái đã khiến cả tầng đá cứng rắn vỡ nát tan hoang. Bây giờ nghĩ lại mới vỡ lẽ, thì ra nơi này trước kia đã từng sạt lở một lần, sự cố vừa rồi tất nhiên sẽ gây ra tác động rất lớn tới các tầng đá xung quanh. Cho nên những khối nham thạch đó bề ngoài nhìn qua có vẻ chắc chắn nhưng thực ra bên trong đã rạn nứt từ lâu, chỉ cần bị con cự xà đập vài cú là bung bét cả, sập xuống tạo thành một thông đạo thế này.

Tôi quan sát phía trên đỉnh đầu, phát hiện nơi này là khe hở giữa hai khối đá lớn bị đổ xuống, xếp vừa khít với nhau, trông chắc chắn vô cùng, dù cho bên ngoài vẫn bị đập phá ầm ầm thì trong này cũng chỉ có bụi đất rơi xuống.

Con cự xà kia đã dần dần đuối sức, vùng vẫy mỗi lúc một yếu hơn, cuối cùng cũng chịu nằm yên.

Hồn vía còn chưa tìm lại hết, tôi chợt nhớ ban nãy lão Dương còn kéo tay tôi, nếu tôi không buông ra đúng lúc thì giờ này chắc đã thành một cái bánh thịt rồi. Bực bội mà không có chỗ xả, tôi từ đằng sau tảng đá nổi sùng mắng ra: “Vừa nãy cậu uống lộn cái thuốc quái quỷ gì thế? Suýt nữa đã hại chết người ta rồi.”

Lão Dương bị tảng đá chặn bên ngoài, không sao vào được, cũng nói vọng vào: “Tôi uống lộn thuốc cái gì chứ, sao cậu không nói bản thân mình trái tính trái nết đi, bây giờ thì hay rồi, phải làm sao đây?”

Tôi bới bới mấy tảng đá, nhìn thấy ánh đèn pin của lão Dương chiếu vào qua khe hở của mấy tảng đá. Có điều khối đá lớn nhất ít ra cũng to bằng cả cái bàn bát tiên, trong khi khe hở lại có hạn, tôi có thể vươn tay ra ngoài, nhưng chắc chắn không thể chui lọt cả người ra được.

Tôi lấy cục đá gõ gõ vài cái,  cũng rơi ra vài mảnh vụn. Hai loại đá có độ cứng giống nhau, phải vất vả lắm mới đập vỡ được. Lão Dương thấy mớ đá dăm trên đầu lại bắt đầu rơi xuống, vội kêu tôi ngừng tay, nói: “Cậu nhẹ tay một chút, còn gõ nữa không khéo nơi này sập xuống mất.”

Tôi bảo: “Vươn cổ ăn một đao, rụt cổ cũng dính một đao, không bị đè chết thì cũng đói chết, còn cân nhắc cái gì nữa.”

Lão Dương nói: “Khoan đã, chúng ta còn chưa tới đường cùng, cậu nhìn quanh bốn phía xem, nếu phát hiện ra thứ gì đặc biệt thì nói với tôi ngay.”

Tôi ngó quanh quất một vòng, nơi này tối như hũ nút, trong tầm nhìn chỉ thấy đá vụn, bèn bảo hắn trong này chẳng có gì cả.

Nghe xong hắn im lặng một lúc, hỏi: “Không có gì thật chứ? Cậu cứ tìm kỹ lại đi.”

Tôi bảo: “Tôi lừa cậu làm gì, trong này chật như lỗ mũi, có thứ gì đã đập vào mắt ngay rồi.”

Lão Dương nói: “Được rồi, cậu xem lại cẩn thận lần nữa, tôi cũng ra đằng trước tìm thử xem có phải cái khe này bị lấp kín thật không. Biết đâu lại tìm được khe hở nào đó đủ để thoát ra ngoài.”

Nói rồi ánh đèn trên tay hắn cũng dời đi. Tôi tựa vào tảng đá nghỉ ngơi một chút rồi bò vào phía trong khe nứt, nhìn quanh quất lần nữa. Chỉ thấy trong này quả thực không có lối ra, khối đá trên đầu chí ít cũng nặng vài tấn, bị nhốt ở nơi này e là trong vòng một năm sẽ không cách nào ra được.

Lại tiến vào sâu hơn, vẫn không có đường. Đang định quay lại, chợt thấy trên vách đá dường như có hình vẽ gì đó, tôi vội tiến lại gần nhìn xem.

Thoạt đầu, tôi còn tưởng đó là mấy bức bích họa hang động nguệch ngoạc, trông rất nguyên sơ, có thể là do những người đúc ra cây thanh đồng ngày trước lưu lại. Nhìn kỹ hơn mới thấy không phải, trên bức vẽ nguệch ngoạc đó là một chiếc máy bay cùng vài chữ cái tiếng Anh, đây là tác phẩm của người hiện đại.

Ai lại đi làm mấy chuyện này ở trong đây chứ? Tôi cảm thấy vô cùng nghi hoặc.

Phân nửa bức họa đã bị chôn vùi trong đống đá lổn nhổn dưới chân, tôi dọn dẹp mấy tảng đá, muốn xem thử rốt cuộc là hình vẽ những thứ gì. Sau khi dời một tảng đá lớn, chợt xuất hiện một đống vải đen kịt rách nát, trông như là mảnh vụn của quần áo.

Tôi kéo mớ vải xuống, một cái xác khô quắt đã rữa nát đến tận xương cốt lù lù hiện ra. Nhìn bản tay chới với xòe ra của người chết thì có lẽ anh ta muốn bò ra khỏi đống đá vụn, cuối cùng kiệt sức mà chết.

Tôi giật thót tim, suýt nữa đã la ầm lên, trong bụng thầm nhủ nơi này sao lại chôn người chết? Không lẽ người này bị chôn sống khi động sụp xuống? Mà người này là ai?

Tôi tiếp tục dỡ đống đá, trong chốc lát một khối thi thể đã hiện ra. Xác chết đã hoàn toàn thối rữa, xem ra chôn ở đây cũng đã được một thời gian. Quần áo trên người đã mục nát, quan sát chất liệu cũng không thể đoán được màu sắc ban đầu, nhưng nhìn lá bùa hộ mệnh đeo trên cổ anh ta có thể suy đoán người này ắt hẳn cũng giống như chúng tôi, đều là đến đây đổ đấu.

Nhớ tới khối thi thể tôi nhìn thấy lúc ở dưới đáy thác nước kia, tình trạng phân hủy cũng không khác lắm so với người này, có lẽ cả hai cùng chung một đoàn, quả đúng là người chết vì tiền, chim chết vì mồi, kết cục của hai người này biết đâu lại chính là kết cục của tôi.

Tôi tiếp tục đào bới, đào cả thi thể hoàn chỉnh ra, lại tìm được một cái ba lô nát đến không thể nát hơn, bên trong hầu như trống rỗng, chỉ còn một dúm cặn bã màu đen, chẳng biết là thứ gì phân hủy thành. Lộn trái túi ra, từ trong lớp vải lót rơi ra một quyển sổ ghi chép.

Quyển sổ nát đến mức sắp rời ra từng tờ, may mà chất giấy tốt, chữ viết bằng bút bi xanh trên mặt vẫn còn nhìn rõ. Tôi nhặt lên xem xét, trang đầu cuốn sổ có ghi vài địa chỉ và số điện thoại. Lật đến mấy trang sau, tôi chợt sửng sốt, ở đây có mấy dòng nhật ký, xem ngày đầu tiên thì hình như là ghi chép từ ba năm trước.

Nét chữ trong quyển nhật ký có vẻ khá non nớt, hẳn đây không phải là người đọc thông viết thạo, mỗi phần nhật ký chỉ dài chừng trăm chữ. Tôi lật vội vài tờ, thấy lạnh cả sống lưng.

Theo như nhật ký ghi lại, người này hẳn là đã đến đây từ ba năm trước. Trong nhật ký không miêu tả hành trình của anh ta, mà chỉ bắt đầu từ khi anh ta bị kẹt trong hang động này, tuy nội dung phía sau thỉnh thoảng có nhắc đến những việc anh ta từng trải qua khi trước.

Đoàn của bọn họ có lẽ tổng cộng khoảng mười tám người, bởi vì một đoạn trong đó có nói “mười tám người chỉ còn lại một mình tôi”. Bên trong còn kể, bọn họ không đến bằng lối chúng tôi đã đi qua mà đến từ rừng đa trên đỉnh núi, qua một cái hốc rất lớn bị rễ cây bao bọc chằng chịt.

Đó chính là khu rừng đa mà lão Dương đã nhắc đến, chúng tôi không có cơ hội vào đó, nào ngờ bên trong còn có thứ kỳ lạ như vậy, nếu sớm biết đã không cần phí công chịu nhiều trắc trở như thế.

Nhưng xem đến phần sau, tôi lại thấy mình thật may mắn mới không đi con đường kia. Bởi theo như trong này ghi lại, con đường bọn họ đi xuống vô cùng nguy hiểm, mười tám người đi vào đến lúc ra chỉ còn lại sáu, toàn bộ những người khác đều tử nạn trên đường.

Phỏng chừng cái hốc cây kia hẳn là nằm ở giữa rừng, chính là cây đa đại thụ mười mấy người ôm không hết mà lão Dương đã kể, một cây đa đã rậm như cả cụm rừng, mảnh rừng kia rốt cuộc là do nhiều gốc đa hợp thành hay chỉ là một gốc, hiện giờ cũng không rõ nữa. Hành trình của những người này sau khi xuống hẳn là trái ngược với chúng tôi: chúng tôi trực tiếp leo lên từ gốc cây thanh đồng, còn bọn họ là rơi thẳng xuống ngọn cây.

Ngoài dự liệu của tôi chính là, người này còn kể bọn họ không phát hiện được gì trên đài hiến tế, bèn theo sạn đạo từ bốn phía đi xuống. Dưới chân sạn đạo chìm trong làn nước giống như một cái đầm sâu, màu nước xanh biếc, hoàn toàn không nhìn thấy đáy.

Bọn họ nhảy vào trong đầm, phát hiện ra nước rất sâu, không có thiết bị thì không thể lặn xuống. Mà thiết bị lặn bọn họ mang theo lại quá nhỏ, sau khi thử lặn xuống không được thì đành phải bỏ cuộc. Sáu người nổi lên mặt nước, vừa nhìn đã giật mình.

Thì ra trong lúc bọn họ lặn xuống, mực nước rút đi rất nhanh, đến khi trồi lên, chỗ sạn đạo mà họ để vật dụng trang bị đã cách xa tới sáu, bảy mét. Bọn họ không nghĩ tới tình huống này, tất cả dây thừng đều để trong túi, không mang theo bên người, cả đám ai nấy đều hoảng sợ.

Mực nước nhanh chóng hạ xuống, bọn họ chia hai nhóm, một leo lên cây thanh đồng, một chạy vào những cái hang lộ ra trên vách động. Chủ nhân quyển nhật ký, lúc ấy đã chui vào cái hang nơi tôi đang đứng, nhưng thật không may, hắn vào hang chưa bao lâu, từ trong nước bỗng chui ra một con mãng xà lớn trông như con rồng đen bò lên cây thanh đồng đuổi theo nhóm kia. Hắn chỉ nghe tiếng đồng bọn gào thét thảm thiết cùng với tiếng súng nổ, sợ hãi trốn riết trong động không dám ra ngoài.

Trong tai nạn bất ngờ không kịp đề phòng này, tất cả đồng bọn của hắn đều bỏ mạng. Có một người trong lúc giằng co với con đại mãng xà, trước khi chết đã kịp kích hoạt thuốc nổ. Bọn họ vốn chuẩn bị phá núi đào mộ nên mang theo rất nhiều thuốc nổ, nháy mắt đã nổ đến long trời lở đất, ngay cái hang hắn ẩn thân cũng bị sóng xung kích đánh sụp.

Chủ nhân cuốn nhật ký bị chấn động tạm thời hôn mê bất tỉnh, khi mở mắt ra liền phát hiện mình đã bị nhốt kín. Hắn đoán rằng vụ nổ này dữ dội như thế, người ở bên ngoài nhất định chẳng còn ai sống sót. Mục đích trộm mộ ban đầu hỏng bét không nói làm gì , ngay cả hy vọng nhỏ nhoi có người đến cứu viện cũng không thể trở thành sự thực, nhất thời cảm thấy nản lòng thoái chí.

Nội dung tiếp theo bắt đầu nhàm chán dần.

Hắn bị vây khốn trong khe núi ròng rã bảy ngày, đồ ăn mang theo bên người không nhiều lắm, thoáng cái đã hết. Hắn vừa đói vừa khát, đèn cũng hết pin, chìm trong bóng tối vô tận hắn biết mình đã sắp tới số. Nhớ tới mẹ già không ai chăm sóc, hắn không khỏi đau lòng muốn chết.

Lại thêm vài ngày trôi qua, cơn đói khát khiến thần trí hắn trở nên bất ổn. Một hôm hắn tỉnh lại, cũng không biết khi ấy là khi nào, chỉ cảm thấy khát khô cổ họng. Trong cơn bấn loạn, hắn cầm lấy bình nước đã cạn từ lâu ra sức hút mạnh mấy cái, chính lúc đó kỳ tích đã xảy ra, trong bình đột nhiên tuôn ra dòng nước trong mát ngọt lành. Hắn cũng không biết tại sao lại thế, cứ tham lam uống ừng ực đến mười mấy phút đồng hồ, nước cũng không thấy vơi đi chút nào.

Hắn cho là mình đang nằm mơ, thầm nhủ mình nhất định sắp chết mới thấy ảo giác, vậy cứ dứt khoát chết đi là xong. Lại nghĩ nếu đây thật sự là mơ, trong túi biết đâu vẫn còn thức ăn, sờ sờ thử, quả nhiên túi thức ăn đã đầy ắp. Hắn mừng rỡ, dốc sức ăn uống bạt mạng, suýt nữa đã nghẹn chết.

Dần dần hắn phát hiện đây không phải là mơ, thoạt đầu hắn còn tưởng Thượng Đế hiển linh đến cứu giúp mình, nhưng càng về sau càng thấy không đúng. Cuối cùng hắn phát hiện, tất cả những thứ được sản sinh ra có liên hệ nhất định với suy nghĩ của hắn, nhưng cũng không phải là thử trăm lần trúng cả trăm. Ví dụ như khi hắn thực lòng thèm ăn món nào đó, món ấy cũng sẽ không xuất hiện, nhưng khi hắn tiện tay sờ đến bao thức ăn lại thường chạm phải món mình thích, tuy rằng trong bao chẳng có thứ gì cả.

Hắn bắt đầu có kế hoạch phân tích, làm thực nghiệm với suy nghĩ của mình, dần dần hắn phát hiện bản thân có năng lực hiện thực hóa. Đoạn này hắn viết rất nhiều, quá trình thực nghiệm vô cùng phức tạp, cuối cùng hắn cũng không rút ra kết luận rằng mình có năng lực hiện thực hóa, mà cho rằng mình đã trở thành một “Thượng Đế hồ đồ”.

Bức họa trên tảng đá cũng được vẽ trong khoảng thời gian này, hẳn là vào thời điểm hắn chán đời muốn giải khuây.

Cuối cuốn nhật ký, hắn nói muốn dùng thứ năng lực này để thoát khỏi đây, nếu thành công, hắn có thể ra ngoài làm một kẻ siêu phàm, nếu thất bại, hắn sẽ chết ở chỗ này. Tôi không biết rốt cuộc hắn đã tiến hành thực nghiệm gì, dù sao xem ra hắn cũng đã thất bại.

Có điều nếu để một kẻ mang năng lực này đến xã hội hiện tại thì không biết là chuyện tốt hay xấu.

Nhìn thi thể này, lại nghĩ đến tình cảnh của mình, tôi không khỏi cảm thấy lạnh người. Xung quanh tôi chẳng có gì để ăn, e rằng không thể chống đỡ đến bảy ngày; mà cho dù có thức ăn, bị nhốt trong này mãi thì thà rằng chết đi còn sướng hơn.

Tôi buông nhật ký, lại lục lọi trong túi của thi thể, tìm được một cái điện thoại di động đã hết pin từ lâu, tôi liền vứt sang một bên. Ngoài ra còn thấy một cái ví, bên trong có một ít tiền, lòng thầm nghĩ thứ gì cũng đã phân hủy hết, chỉ có tiền là không, kể cũng nực cười.

Trong ví tiền còn có chứng minh thư của người này, tôi giở ra, định xem thử gã quỷ xui xẻo này tên là gì. Bật đèn pin lên liếc qua một cái, ảnh chụp đã phai mờ gần hết, nhưng tên vẫn còn rõ ràng, gọi là “Giải Tử Dương”.

Cái họ này rất hiếm thấy, người chết trong ngôi mộ dưới đáy biển Giải Liên Hoàn cũng mang họ này. Tôi xem ngày sinh mới biết anh ta còn khá trẻ, cảm thấy thật đáng tiếc.

Đột nhiên sau lưng tôi lóe lên ánh đèn pin, lão Dương đã quay lại, từ phía sau tảng đá hỏi vọng vào: “Lão Ngô! Cậu đang xem gì đó?”

Chương 38: Chân tướng

Edit: Cốc Vũ

Beta: Thanh Du

~0O0~

Tôi đang xem chứng minh thư của thi thể, lão Dương đột nhiên hỏi tôi một câu làm tôi giật nảy mình, chỉ trả lời qua loa một tiếng rồi tiếp tục xem xét những thứ trong tay.

Nhìn thoáng qua cuốn nhật kí vắn tắt này, có thể thấy người đàn ông kia đã đến đây từ ba năm trước. Ba năm trước cũng là thời điểm nhóm của lão Dương lần đầu tiên đến đây, có khi nào anh ta cũng thuộc nhóm ấy? Tôi nghĩ kĩ một chút lại thấy không đúng, mặc dù những chuyện ghi trong nhật kí và những gì lão Dương kể có chỗ ăn khớp, nhưng phần lớn lại không giống, chắc hẳn họ thuộc hai nhóm khác nhau.

Nhưng không hiểu vì sao, tôi luôn cảm thấy cái tên Giải Tử Dương này rất quen. Họ Giải tương đối ít gặp, lại cùng tên nữa thì càng hiếm, tôi đã nghe thấy ở đâu mới được chứ?

Tôi cẩn thận nhớ lại, nhưng gần đây xảy ra rất nhiều chuyện kỳ quái, đầu óc tự nhiên kém minh mẫn, nghĩ tới nghĩ lui cũng chẳng hiểu rõ thêm chút nào.

Tiếp tuc lục lọi đồ đạc của thi thể mà chẳng phát hiện thêm thứ gì, tôi bèn gấp cuốn nhật kí lại, đợi khi nào có dịp thì mở ra xem lại.

Lão Dương thấy tôi ngồi một chỗ không nói tiếng nào, sợ tôi xảy ra chuyện gì, bèn đằng hắng gọi tôi một tiếng. Tôi quay đầu lại nhìn, chỉ thấy nửa khuôn mặt hắn đang dán vào khe hở, con mắt cứ nhìn đăm đăm vào thứ nằm trong tay tôi. Có điều vị trí của tảng đá và nơi tôi đứng tạo thành một góc chết, chỉ tôi mới nhìn thấy hắn còn hắn không thấy được tôi; bất chơt tôi cảm thấy bộ dạng hắn rất ư kì quái, cứ như hận không thể chui vào trong này vậy.

Tôi thầm rủa một tiếng, thầm nghĩ tên tiểu tử nhà ngươi vừa rồi thà chết chứ không chịu chui vào, giờ lại hối hận sao? Tôi nói: “Đừng có lộn xộn, tôi tìm được thứ này thú vị lắm, đang xem.”

Lão Dương nhíu nhíu chân mày, vội hỏi: “Tìm thấy cái gì thế?”

Tôi kể cho hắn nghe chuyện phát hiện ra thi thể, thở dài nói với hắn: “Kết cục của người này có lẽ cũng chính là kết cục của chúng ta, nếu không tìm được đường thoát, chỉ e chúng ta còn chết nhanh hơn hắn ta nữa. Nhưng tôi cảm thấy tên hắn quen tai lắm nha, cậu có nhớ trong số bạn học của chúng ta có ai mang tên này không?”

Nói rồi tôi lùi lại gần một khối cự thạch bên cạnh, tính nhét giấy tờ của người kia qua khe hở cho lão Dương xem. Nhưng khi tôi ngẩng đầu lên lại đột nhiên phát hiện gương mặt hắn trắng nhợt không còn giọt máu, cứ thế nhìn chằm chằm vào tôi.

Trong lòng tôi bỗng xuất hiện cảm giác khác thường, nên nói sao đây? Sao bỗng dưng hắn lại có nét mặt đó, lẽ nào hồi nhỏ chúng tôi thực sự có một bạn học tên Giải Tử Dương?

Nhắm mắt lại suy nghĩ thật kĩ, nhưng nghĩ mãi cũng không ra. Thời buổi này tình người bạc bẽo, bạn học đại học chưa chắc đã nhận ra nhau, chuyện hồi nhỏ lại càng khó nhớ nổi. Tôi thấy lão Dương lặng thinh, lại cúi đầu xuống xem dãy số trong chứng minh thư, nói: “Thực sự tôi không thể nhớ ra, nhưng người này bằng tuổi chúng ta mà…”

Mới nói đến đây, dường như có một tia chớp xẹt qua đầu óc tôi, khiến tôi ngẩn người.

Giải Tử Dương, Giải Tử Dương, Giải Tử Dương, Giải Tử Dương!

Cái tên này vốn chẳng xa lạ gì, chính là tên cúng cơm của lão Dương!

Da đầu tôi bất giác co giật, cẩn thận nhìn lại ngày sinh của người kia trong chứng minh thư, vừa nhìn đã choáng váng. Trời ơi, đây đúng là sinh nhật lão Dương, nhưng mà… Làm sao có thể chứ. Chứng minh thư này… chẳng lẽ là của lão Dương?

Cũng có nghĩa là, cái khối thi thể đã thối rữa đến tận xương kia chính là lão Dương…

Nhưng mà không đúng, nếu ba năm trước lão Dương đã chết ở trong này, vậy thì kẻ đang đứng nhìn tôi sau tảng đá kia là ai?

Cổ tôi cứng đờ, chầm chậm ngoái đầu y như một cái máy, nhìn nửa khuôn mặt lộ ra sau khe hở của tảng đá, bỗng dưng có cảm giác sợ hãi mơ hồ. Khuôn mặt lão Dương dưới ánh đèn pin lấp lóe mang đầy nét quỷ dị, xem ra còn có vài phần giống con cự xà đen thui ngoài kia.

Tôi bất giác lùi dần vào trong động, không dám lại gần tảng đá kia nữa. Lão Dương vẫn không hề nhúc nhích, chỉ trừng trừng nhìn tôi, còn tôi cũng lặng thinh như một pho tượng đá.

Với tính tình của hắn, nhìn thấy bộ dạng này của tôi, nhất định sẽ mắng tôi như mắng con mắng cháu. Nhưng cái vẻ mặt kia của hắn… chẳng lẽ là vì thân phận bại lộ nên không biết phản ứng ra sao?

Lúc này trong lòng tôi càng thêm hoài nghi cái người bên ngoài kia, tuy rằng diện mạo tính tình đúng là giống lão Dương, nhưng có thể không phải lão Dương thật. Những chuyện xảy ra từ khi tôi rời Hàng Châu đến đây bất giác tái hiện trong đầu như một luồng điện xẹt: tôi thấy rõ mồn một những lời nói dối, những câu mập mờ, nhất là những gì hắn nói với tôi trên đỉnh cây thanh đồng; giờ đây những điểm nghi ngờ đã bắt đầu sáng tỏ từng chút từng chút một.

Tôi luôn luôn cho rằng lòng dạ của lão Dương không thể thâm sâu như vậy. Thứ nhất với quan hệ giữa tôi với hắn, hắn căn bản không cần lừa gạt tôi; thứ hai khi hắn nói những lời dối trá, lúc nào cũng tỏ ra hết sức chân thành, nếu không phải tính tôi quá cẩn thận thì căn bản không thể phát hiện ra. Nhưng nói đi cũng phải nói lại, người này thực sự quá giống lão Dương, tôi không thể tìm ra điểm nào sơ hở. Trong lòng tôi đã trăm mối hoài nghi nhưng vẫn cứ cho là vì tính cách của hắn thay đổi, không ngờ hắn căn bản không phải lão Dương.

Đúng lúc này, “lão Dương” rốt cuộc đã chịu mở miệng, hắn lùi lại phía sau một chút, nói với tôi: “Lão Ngô, vừa rồi tôi không muốn để cậu vào đó nhưng cậu một mực không nghe, chỉ có thể trách bản thân cậu quá cố chấp. Cậu không nghe người ta nói sao? Có một số chuyện, hiểu quá rõ chưa chắc đã tốt.”

Lòng tôi trùng xuống, thầm nghĩ hắn ta quả nhiên có vấn đề, nhưng ngoài mặt vẫn cố giữ cho giọng nói không run rẩy, hỏi hắn: “Ngươi không phải lão Dương… Vậy ngươi rốt cuộc là ai?”

Lão Dương bỗng nhiên nở một nụ cười cổ quái: “Ta là ai ư? Ta chính là lão Dương, là Giải Tử Dương từ nhỏ đã lớn lên bên ngươi, sau lại ngồi tù ba năm. Nếu ngươi không tin, có thể đi điều tra lý lịch của ta.”

Tôi cười lạnh một tiếng: “Nói láo, thi thể của lão Dương ở ngay bên cạnh ta, hắn đã chết ba năm rồi, làm sao ra ngoài mà ngồi tù được? Mẹ kiếp, rốt cuộc ngươi là ai?”

Nửa khuôn mặt của “lão Dương” lại vô thanh vô tức xuất hiện nơi khe hở của nham thạch, nở nụ cười đáng sợ: “ Không sai, hắn quả thực đã chết ba năm, nhưng ta còn đang sống, có gì khác nhau đâu?”

Tôi thấy vẻ mặt của hắn, đột nhiên mơ hồ nhận ra điều gì, nhíu mày suy nghĩ, miệng bỗng nhiên há hốc, lắp bắp nói: “Chết tiệt, ngươi không phải người! Ngươi… chẳng lẽ là do hắn hiện thực hóa mà thành…?”

“Lão Dương” lạnh lùng hừ một tiếng, nói: “Sao ngươi không nói là chính ta đã hiện thực hóa ra hắn chứ? Ai mà biết được? Ta và hắn giống nhau như đúc, sao ngươi biết người nào có trước người nào có sau?”

Tôi cơ hồ không khống chế nổi chính mình, nhặt một hòn đá nhằm thẳng vào hắn mà ném. Hắn nhanh nhẹn né được, còn nói thêm: “Lão Ngô, quả thật ta và hắn giống nhau như đúc, ngươi không cần để ý đâu.” Tôi hét lớn: “Đương nhiên là khác nhau chứ, ai mà biết dùng cái năng lực hiện thực hóa kia sẽ tạo ra thứ gì.”

“Lão Dương” đột nhiên trầm lặng, sắc mặt trở nên rất khó coi, cứ thế nhìn tôi chằm chằm một hồi, bỗng dữ tợn gằn từng tiếng: “Mẹ kiếp chó má nhà ngươi! Ông đây chính là lão Dương, ngươi và hắn chẳng qua chỉ là một thứ hàng hóa, đừng có trách ta.”

Trong lòng tôi có dự cảm không lành, bỗng thấy một nòng súng lách qua khe hở chĩa thẳng vào mình. Tôi vội vàng xoay người nấp vào góc chết, “lão Dương” bắn một phát trúng vào phiến đá, tạo thành một vệt cắt lớn, rồi tiếp tục quay súng vào góc chết nơi tôi đứng mà bóp cò, viên đạn cơ hồ sượt qua cổ tôi.

Không gian trong khe núi này thực sự quá nhỏ, cho dù có góc chết cũng không thể che chắn toàn bộ cơ thể. Tôi thấy tình thế này có gì đó không ổn, vội tắt đèn pin đang cầm trong tay, khiến hắn không thấy được mình. Hắn cuống cuồng bắn mấy phát đều trượt, tôi bèn xoay người vọt tới bên cạnh tảng nham thạch, nhặt một khối đá nện cật lực vào nòng súng, mới nện vài cái nòng súng của hắn đã bị bẻ cong đến 90 độ.

“Lão Dương” không thể rút súng ra khỏi khe hở được, tức giận chửi rủa, tôi cười lạnh nói: “Giống nhau như đúc cái nỗi gì, lão Dương mà ta biết không đời nào nổ súng về phía ta, mẹ kiếp ngươi chỉ là hàng rởm thôi!” Từ khi “lão Dương” nói với tôi về chuyện hiện thực hóa ra người sống, trong lòng vẫn tôi vẫn có chút khúc mắc, luôn luôn cảm thấy cây thanh đồng ngàn năm được đặt ở nơi này không thể không có mục đích gì được. thứ sinh vật do loại năng lực khủng khiếp này tạo ra liệu có phải là người bình thường? Có đúng là giống chúng tôi như đúc không? Hay là một loài yêu quái nào đó?

Hiện giờ tuy không biết “người” này có giống chúng tôi hay không, nhưng rõ ràng hắn biết bản thân mình là do hiện thực hóa mà thành; không hiểu vì sao tôi bắt đầu cảm thấy mọi chuyện đang chuyển biến xấu đi.

“Lão Dương” chửi nhau với tôi một hồi, bỗng nhớ đến điều gì, đột nhiên im lặng. Tiếp đó hắn tắt đèn pin, trong khoảnh khắc toàn bộ không gian tối sầm lại, bóng đêm vô tận đổ xuống, ở trong khe núi nhỏ hẹp không một tia sáng này tôi lại càng cảm thấy nặng nề khác thường.

Tôi đề phòng hắn giở trò quỷ, bèn lùi vào góc chết trốn thật kỹ, chợt nghe hắn nói: “Lão Ngô, tôi nhớ trước đây cậu rất sợ chỗ tối tăm, bây giờ có còn sợ nữa không? Nhưng sợ đến đâu thì cậu cũng tuyệt đối không được nghĩ linh tinh, phải nhớ cho kỹ những lời tôi nói với cậu ban nãy. Ở đây nếu cậu cứ nghĩ lung tung, không chừng vừa bật đèn lên trước mắt đã lù lù một khuôn mặt người chết đó nha.”

Tôi thầm mắng chết tiệt, hắn ta rõ ràng muốn lợi dụng nỗi sợ bóng tối của tôi để hiện thực hóa ra thứ quái vật gì đó đây mà.

Trong lòng tôi tự nhủ mình tuyệt đối không thể để hắn đắc ý, nhưng nỗi sợ hãi trong lòng lại dần dần lớn lên. Vừa rồi hắn nói chỉ cần bật đèn pin sẽ thấy một khuôn mặt người chết hiện lên ngay trước mắt, khiến dây thần kinh của tôi lập tức căng như dây đàn. Tôi bỗng cảm thấy ngay trước mắt mình, chỉ cách có vài li, dường như xuất hiện thứ gì đó: hơi thở nóng hổi của tôi phả vào vật kia rồi tản trở lại mặt tôi mang theo mùi tanh hôi khó chịu.

Không linh nghiệm đến thế chứ? Tôi nghĩ, theo như biểu hiện lúc trước của “lão Dương” thì năng lực hiện thực hóa rất khó kiểm soát, nếu không vừa rồi chúng tôi đã không phải chật vật đối phó với con cự xà kia; theo lẽ đó một con quái vật không thể dễ dàng mà biến ra được.

Đây chỉ là ảo giác, tôi tự trấn an bản thân. Mình tuyệt đối không được mắc mưu hắn ta, trong một cái hầm tối om lại kín mít như thế này thì sợ hãi là chuyện đương nhiên.

Tôi hít sâu một hơi, bỗng nhiên cảm thấy mặt mình hơi hơi ẩm ướt giống như có thứ gì đó lạnh như băng trườn qua. Toàn thân tôi đổ mồ hôi lạnh, cơ hồ són tiểu ra quần, cẩn thận sờ lên ngực cũng thấy trái tim đập loạn, thân thể mềm nhũn ra. Con mẹ nó, xem ra hắn nói không sai, trong bóng tối quả nhiên vừa có thứ gì đó xuất hiện.

Tôi không dám bật đèn pin, người từ từ lui về phía sau, dựa lưng vào vách tường đá. Nhưng vừa mới dựa lưng, tôi lập tức phát hiện ra đây không phải bức tường đá ban đầu, mà hình như là vảy xếp từng mảng… Tôi thậm chí còn có thể cảm nhận được cơ thịt dưới lớp vảy đang nhấp nhô chuyển động.

Trời ạ, tôi đang nghĩ ngợi lung tung cái gì đây, sao tự nhiên sau lưng lại có vảy? Tôi vội vàng nhắm tịt hai mắt, nắm thật chắc đèn pin trong tay, vừa định bật lên thì đột nhiên nghe “lão Dương” ra vẻ sợ hãi kêu lên: “Lão Ngô, sao không bật đèn pin lên? Để tôi soi giùm cậu nhé!”

Khi đèn pin của hắn bật sáng, đập vào mắt tôi là thứ đang kề sát chóp mũi. Một cái đầu mãng xà bự chảng đang ngóc lên, thân thể lớn bằng cái thùng nước của nó cuộn tròn quanh huyệt động, lớp nham thạch sau lưng và trên đỉnh đầu tôi nhanh chóng biến thành lớp tường vảy, đen như bảo thạch. Bị đèn pin của lão Dương chiếu đến, lớp vảy bốn phía giần giật, thân thể nó chậm rãi ma sát, phát ra tiếng rào rào khiến người ta dựng tóc gáy.

————————————————————–

Chương 39: Nến Cửu Âm

Editor: Bảo Di

Beta: Thanh Du

~0O0~

Đầu lưỡi to lớn đang dán chặt vào mũi tôi, in đầy trong mắt là những vảy màu nhu động. Tôi không biết diễn tả sự chấn động này với người khác như thế nào, trong thoáng chốc trái tim dường như ngừng đập, toàn thân cứng đờ như đá.

Lần đầu tiên nhận thức được sức mạnh to lớn của loại năng lực này trong thực tế đã khiến cho nỗi hoài nghi trong lòng tôi bị xóa sạch một cách triệt để. Nhưng con mãng xà đen khổng lồ này lại quá mức chân thật, từ những phiến vảy cho đến mùi vị trong không khí, và cả tiếng cọ sát vang vọng khắp nơi, tất cả đều không chút khả nghi. Tôi quả thực không tưởng tượng nổi con vật này làm sao có thể xuất hiện đột ngột như thế, nếu vừa nãy đèn còn sáng, chẳng lẽ nó lại “ầm” một tiếng biến ra từ hư vô?

“Lão Dương” còn đứng bên ngoài la hét gì đó, tôi cũng không hơi đâu để ý đến hắn, chỉ cảm thấy ánh mắt của loài bò sát này đang quẩn quanh trên thân thể mình không chút thiện cảm. Khe nứt giữa vách đá này đã nhỏ thì chớ, giờ lại đột nhiên xuất hiện một con mãng xà khổng lồ trông y như một con hắc long, chút không gian để tập thể dục cũng không còn nữa. Giờ chỉ cần con mãng xà kia tùy tiện quay đầu sang đây há miệng một cái là tôi đi đời nhà ma.

Trong lòng tôi nhanh như chớp nảy ra toan tính: khứu giác và thị giác của con mãng xà kia rất nhanh nhạy, không lý nào không nhìn thấy tôi, giờ chỉ còn hy vọng nó không cảm thấy hứng thú với người có hình thể như tôi. Mãng xà sẽ không săn những con mồi quá nhỏ, tôi chỉ cần ngồi bất động, không làm nó hoang mang thì nhiều khả năng nó sẽ bỏ mặc tôi, nhưng lỡ như chiêu này cũng vô dụng thì thật sự là bó tay rồi.

Tôi nuốt một ngụm nước bọt, cố gắng ngăn chính mình phát run. Cái lưỡi khổng lồ của mãng xà liếm sượt qua bên tai tôi, lưu lại một vệt nước bọt cực kỳ khó ngửi, nhưng may mắn thay nó chỉ ngẩng đầu chăm chú nhìn tôi một lát, sau đó quay đầu hướng về nguồn sáng tỏa ra từ đèn pin của lão Dương phía sau tảng đá.

“Lão Dương” vốn đang ẩn náu sau tảng cự thạch chặn ngay miệng hang, thấy con mãng xà không tấn công tôi mà ngược lại quay đầu ngó về phía mình tỏ ý thăm dò, ngay lập tức cảm thấy tình hình không ổn. Chắn giữ miệng hang là một tảng cự thạch nhưng cũng chỉ lớn bằng cái đầu của con mãng xà khổng lồ này, căn bản không ngăn được nó. Tôi nghe tiếng lão Dương chửi thề rồi luống cuống lui về phía sau tảng đá, “cạch” một tiếng đèn pin đã tắt ngóm.

Bốn bề phút chốc chìm vào đêm đen, hai con mắt vàng khè của mãng xà phát ra ánh huỳnh quang trong bóng tối. Tôi vẫn không dám thở mạnh, mơ hồ thấy con mãng xà nhẹ nhàng húc hai cái, thấy tảng đá không có động tĩnh gì, đột nhiên rụt cái cổ lại, bày ra tư thế tấn công.

Tôi nhớ lại động tác mãng xà vồ mồi trên tivi, lập tức hiểu ra tiếp theo sẽ xảy ra chuyện gì. Trong phút chốc, cổ con mãng xà rụt lại rồi bắn ra ngoài như một viên đạn, chỉ nghe một âm thanh trầm thấp vang lên, cả khe núi chấn động dữ dội, tảng cự thạch chắn ngang cửa bị hất bay lên như một con diều giấy. Tôi nghe tiếng “Lão Dương” hét thảm, tiếp theo đó là tiếng va đập liên hồi của những tảng đá vọng lại.

Tuy biết rằng người bên ngoài không phải lão Dương thật sự, nhưng tiếng hét bi thảm đó cũng khiến cho lòng tôi bất giác hoảng hốt. Con mãng xà phát hiện phía sau tảng đá trống rỗng, nhưng do đầu nó quá lớn, không làm sao chui ra được. Thân thể cuộn tròn của nó cứ không ngừng vùng vẫy, tôi phải vất vả tránh trái né phải mới không bị nó cuốn đi theo, bằng không nếu để lớp vảy của nó kẹp lại từ hai phía thì xương cốt trăm phần trăm sẽ đứt rời từng đoạn.

Sau mấy lần thử nghiệm không thành, con mãng xà bắt đầu bực bội, bèn ngóc đầu lên húc vào lớp tường đá gần cửa động. Thân hình con mãng xà cuốn lại trông đã vô cùng đáng sợ, giờ đây nó lại còn múa may như một con rồng, nhìn vào càng thấy đồ sộ khác thường. Lát sau lớp tường đá đã bị nó húc thủng, cửa hang được nới rộng, mãng xà ra sức xoay một cái chui đầu ra ngoài, vảy của nó cọ sát lên vách động khiến cho cả khối đá bị dồn ép đến nứt toác.

Mãng xà sau nhiều lần cố gắng đã đẩy được tảng đá chắn trước mặt ra ngoài, tôi cũng theo đó thoát ra, thấy “lão Dương” đang nằm trong đống đá vụn, cơ hồ toàn bộ thân thể đều bị đá đè lên, hơi thở hết sức mong manh. Nhìn thấy tôi, hắn ho khan vài tiếng như muốn nói điều gì, nhưng miệng vừa mở máu đã theo khóe môi chảy xuống.

Tôi kiểm tra thương tích của hắn, thử di chuyển mấy tảng đá, nhưng vừa liếc mắt đã thấy nửa thân dưới của hắn bị nghiền đến nát vụn, thật sự không nỡ nhìn. Tôi thở dài, hỏi hắn: “Ngươi…… Ngươi còn gì muốn nhắn lại nữa không?”

Hắn liếc qua tôi một cái, nghiến răng kéo từ trong khe đá ra cái ba lô hắn lấy được của ông chủ Vương rồi ném cho tôi.

Tôi nhận lấy ba lô, trong lòng ngổn ngang trăm mối tơ vò. Hắn ho khan mấy cái, phun ra rất nhiều máu, sau đó cũng không nói thêm gì nữa, nhắm nghiền hai mắt.

Tôi dừng một chút, muốn hỏi xem ngày hôm nay hắn rốt cuộc đã trải qua những chuyện gì. Chợt nghe một tiếng nổ “Uỳnh”, toàn sơn động rung chuyển mãnh liệt. Tôi ngồi còn không vững, lảo đảo ngã vào vách đá, trên đỉnh đầu lại nghe liên tiếp những tiếng đá bị nứt vỡ kéo dài.

Tôi giật mình kinh hãi, trong lòng thầm nhủ chẳng lẽ con cự xà bên ngoài lại bắt đầu đập phá tanh banh rồi sao, liền vội vã khom lưng bò ra khỏi động. Đúng lúc này “lão Dương” đột nhiên khàn khàn kêu một tiếng:“Lão Ngô!”

Tôi thoáng ngây người, không biết hắn còn muốn nhắn nhủ gì nữa. Quay đầu nhìn lại, chỉ thấy hắn há miệng, còn chưa kịp nói lời nào thì bỗng nhiên khoảng đất chỗ hắn đang nằm sụp xuống, những tảng đá đè bên trên bỗng rơi xuống ào ào như thác, trong tích tắc hắn biến mất dưới đống đá vụn giống như lún vào một vũng bùn sâu.

Lòng tôi bàng hoàng kinh hãi, mơ hồ cảm thấy tim mình đau như xé. Nhưng trong tình thế này cũng không còn thời gian mà điều hòa cảm xúc, tôi lăn vài vòng tránh những tảng đá rơi xuống, lựa thời cơ vọt ra khỏi động, nào ngờ sắp thoát ra rồi lại có một bóng đen đâm sầm tới. Tôi vội vã lăn sang bên cạnh, cái bóng đen đụng vào vách đá làm rung chuyển cả khối núi, đá vụn bay tán loạn. Bỗng trên thân núi nứt ra một cái khe, bắt nguồn từ chỗ tôi đang đứng kéo dài xuống dưới.

Cú va chạm quá mức mãnh liệt khiến tôi không khỏi cảm thấy quái lạ, chẳng lẽ con mãng xà này chán sống rồi? Quay đầu nhìn lại mới biết không phải như thế, chỉ thấy con mãng xà đen khổng lồ kia và con cự xà vảy nhỏ bò ra từ thân cây thanh đồng đang quấn chặt lấy nhau, giao chiến đến khó phân thắng bại. Con cự xà vảy nhỏ này lớn hơn rất nhiều so với con mãng xà kia, nhưng đánh nhau nãy giờ vẫn không hề chiếm được thế thượng phong, hơn nữa cả hai con đều màu đen, nhất thời cũng không phân biệt nổi con này với con kia, chỉ thấy hai luồng lốc xoáy màu đen không ngừng quấn lấy nhau trên cây thanh đồng, cái đuôi quất loạn xạ khiến măng đá thạch nhũ bốn phía bay tán loạn lên như đạn pháo.

Tôi chưa từng chứng kiến cảnh tượng nào đáng sợ đến vậy, chỉ biết ngây người ra mà nhìn. Bỗng một cái cái đuôi quất thẳng xuống ngay sát chân tôi, cả tảng đá nơi tôi đang đứng bị quất vỡ tan thành từng mảnh nhỏ. Dưới tình thế cấp bách tôi gấp gáp với tay ra khắp xung quanh, lại không ngờ mấy tảng đá bên cạnh đều đã bị đập cho lung lay, trong thoáng chốc tôi không kịp bấu víu, thân thể liền ngã xuống vực sâu hun hút bên dưới.

Trong vài phút đồng hồ mà đã mấy lần trải qua ranh giới sinh tử, lần này tôi không kịp phản ứng, chỉ biết hét to một tiếng. Chợt nghe bên tai có tiếng nước ào ào, tiếp theo toàn thân mát lạnh, xung quanh bỗng chìm trong tĩnh lặng, thân thể cứ thế ngã vào trong nước.

Mẹ kiếp, nước ở đâu ra mới được chứ?

Tôi cứ thế chìm xuống mặt nước sâu đến sáu bảy mét mới ngừng lại được, tư thế khi nhảy xuống nước căn bản không thể điều chỉnh. Chợt nghe tiếng răng rắc ở cổ, không biết đã gãy gập chưa. Cả người không còn chút khí lực nào, thân thể cứ thế chìm sâu trong nước.

Đúng lúc tưởng chừng mình đã chết chắc, bỗng có một bóng người bơi tới từ phía sau lưng, nâng đỡ tôi, ôm tôi trồi lên mặt nước.

Tôi quay đầu nhìn lại, thì ra là trợ lý Lương vẫn trốn trong hang động bên dưới. Chắc hẳn anh ta thấy mực nước không ngừng dâng lên nên buộc phải chui ra, thấy có người rơi xuống nước bèn bơi tới kéo lên.

Lên đến mặt nước, tôi quét mắt một vòng, chỉ thấy vực sâu chúng tôi bò lên khi nãy không biết từ bao giờ đã biến thành đầm nước. Trong đầm nước chảy thành dòng, không rõ là từ chỗ nào tuôn vào, mực nước vẫn đang dâng lên rất nhanh.

Tôi nhìn quanh bốn phía, thầm nhủ trong lòng có lẽ ba năm trước khi bọn họ tới đây thì nơi này là một đầm nước, chính vì thế mà họ đã không thể trở về.

Tôi bơi còn giỏi hơn trợ lý Lương, sau khi kéo tôi lên thì chính anh ta cũng mất hết khí lực, cứ chìm thẳng xuống nước. Tôi kéo anh ta đến bên cạnh cây thanh đồng, cũng không muốn so đo chuyện trước kia với anh ta nữa, chỉ hỏi: “Ở đây đã xảy ra chuyện gì?”

Trợ lý Lương ho khan vài tiếng rồi mới đáp: “Ngoài kia chắc chắn vừa có một trận mưa tạo thành cơn lũ quét, đây là hiện tượng thường thấy vào mùa này. Dòng lũ sẽ chảy xuống con sông ngầm mà chúng ta đã nương theo khi tiến vào đây, con sông kia chắc chắn phải thông với mấy cái hang động trong này. Cơn lũ khiến mực nước sông dâng lên, đẩy nước sông chảy ngược vào trong động! Chỉ cần cơn lũ quét qua đi, mực nước sẽ hạ xuống ngay thôi.”

Trong lòng tôi thầm mắng một tiếng, giờ chưa biết phải thoát ra bằng đường nào mà còn nói mấy chuyện tào lao vô bổ. Lại ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy bóng dáng một cuộn màu đen khổng lồ vẫn còn quấn nhau đánh nhau hăng say, trong lòng thầm nghĩ ai da, giờ hai con rắn đã ẩu đả đến mức này, đợi lát nữa chúng nó rơi xuống nước chẳng phải nơi đây sẽ biến thành đầm rồng hang hổ chân chính hay sao, chúng tôi còn không bị giày vò đến chết à?

Còn chưa nghĩ xong, bên tai chợt nghe một tiếng rít dài. Mãng xà đen khổng lồ đã gục ngã, rơi thẳng xuống nước, trong chốc lát bọt nước đã văng tứ tán, đầm nước không quá rộng dâng trào mãnh liệt giống như một nồi nước sôi.

Ngay sau đó con cự xà cũng bò xuống theo cây thanh đồng, trợ lý Lương nhìn thấy đôi mắt màu tím cỡ bự của nó thì hoảng sợ tới mức cả người chìm hẳn xuống nước. Tôi kéo anh ta lên, anh ta vẫn còn run run: “Trời ạ! Thứ này sao lại xuất hiện ở đây? Nó…… Nó là Nến Cửu Âm (1) đó!”

Tôi cảm thấy cái tên này sao mà quen quen, bèn kéo anh ta núp sau cây thanh đồng, hỏi cặn kẽ sự tình.

Trợ lý Lương cắn đầu lưỡi thì thầm: “Nến Cửu Âm chính là rồng, thời xưa còn gọi là Nến Rồng, thực chất là một loài rắn độc cực lớn sống ở thời cổ đại. Đời vua Thuấn người ta bắt thứ này để lấy mỡ làm nến chiếu sáng, mấy ngàn năm trước đã tuyệt chủng, tại sao trong này vẫn còn một con sống sót chứ?”

Tôi chưa bao giờ nghe câu chuyện này, lập tức cảm thấy quái lạ. Nếu đã là loài vật tôi không biết thì làm sao có thể tưởng tượng ra được, không lẽ trong cái cây thanh đồng cổ thụ này thật sự có một con rắn độc khổng lồ còn sống sót từ thời viễn cổ?

Trợ lý Lương tiếp lời: “Con Nến Cửu Âm này lớn đến thế, không biết đã sống bao nhiêu năm. Anh có để ý không, nhìn từ chỗ này chỉ có thể thấy một con mắt của nó, mắt của Nến Cửu Âm từ khi sinh ra đã nằm ngang như vậy rồi. Con mắt mà anh đang nhìn thấy hẳn là bản nhãn

(mắt chính)

, ngoài ra còn có một con mắt khác mọc phía trên tên là âm nhãn. Truyền thuyết ngàn năm nói rằng âm nhãn của Nến Cửu Âm nối liền với địa ngục, chỉ cần bị nó liếc một cái người đó lập tức bị ác quỷ nhập tràng, lâu ngày sẽ biến thành quái vật đầu người mình rắn.”

Tôi chợt nhớ tới nét biểu cảm giống y như rắn độc của lão Dương, trong lòng bất giác ớn lạnh, bèn quay đầu len lén nhìn trộm, may mà Nến Cửu Âm hoàn toàn không chú ý đến chúng tôi. Tôi có cảm giác dòng chảy dưới đầm nước trở nên cực kỳ hỗn loạn, biết con mãng xà đen khổng lồ vẫn còn dưới đó, Nến Cửu Âm nhìn chằm chằm xuống nước, có lẽ do sợ mãng xà kia đột ngột tập kích.

Mực nước cứ không ngừng dâng lên, chúng tôi càng ngày càng tới gần Nến Cửu Âm. Trợ lý Lương cực kỳ căng thẳng, tôi thì tranh thủ quan sát phía trên đầu. Trên đỉnh cái hang này hẳn là có một lối thoát, chỉ cần mực nước dâng lên đủ cao, chúng tôi có thể theo lối đó mà thoát ra ngoài. Có điều không biết mực nước còn dâng cao đến đâu, dù sao nơi này cũng rất gần đỉnh núi, khi đi qua trận địa thiên quan tôi để ý thấy quan tài không có dấu vết bị thấm nước, điều đó chứng tỏ mực nước không thể dâng cao hơn nơi đặt quan tài. Tôi không thể biết chính xác nước sẽ dừng ở đâu, đành phải chờ xem nó dâng cao bao nhiêu thì hay bấy nhiêu.

Tôi khẽ khàng nói lại suy nghĩ của mình với trợ lý Lương nhưng anh ta hoàn toàn không để ý. Đúng lúc này chợt thấy mấy cái mặt nạ màu trắng nổi lên khỏi mặt nước, đó là xác của loài li cổ. Lòng tôi đột nhiên cảm thấy bất an, bèn cầm lên một cái xem xét, chỉ thấy khoang miệng của nó trống rỗng, con sâu bên trong đã không thấy đâu nữa.

“Mẹ kiếp!” Tôi chửi thề một tiếng, đột nhiên hiểu ra vì sao con mãng xà kia cứ trốn riết trong nước mãi không chịu nổi lên. Tôi bật đèn pin chiếu thử xuống nước, chỉ thấy vô số con sâu trông giống như chân cua, một số đeo mặt nạ, số còn lại chỉ có xác trần. Đám sâu này đồng loạt bám vào thân thể con mãng xà đen kia như những con đỉa, phủ trắng cả một mảng đáy nước. Con mãng xà đen ngửa bụng lên trời, thân thể vẫn không ngừng lăn lộn, nhưng rõ ràng nó không sao đuổi những con sâu này đi được. Nó đập người vào tảng đá, mặt nạ của mấy con sâu bị cọ sát mà rơi xuống nhưng thân sâu vẫn bám chặt trên người nó, trông cổ quái dị thường.

Có mấy con sâu không có chỗ bám chân, đành bơi bơi vòng quanh thân rắn, động tác vô cùng nhanh nhẹn. Thật không may, vừa nhìn thấy ánh đèn pin trong tay tôi, đám sâu đột nhiên bảo nhau ngừng lại hết, sau đó nhanh chóng dứt ra khỏi con mãng xà. Tôi còn chưa kịp phản ứng thì trước mắt đã hoa lên, cả đám sâu nhào tới toan bao vây lấy tôi, trông như một đàn cá biển khổng lồ.

Đám sâu này bơi cực nhanh, tôi vừa thấy tình hình bất ổn thì đã không kịp phản ứng nữa. Dưới tình thế cấp bách, tôi lui về phía sau, cắn mạnh lên lòng bàn tay mình một cái. Chính bản thân tôi cũng không hiểu vì sao mình lại tự cắn một cách dứt khoát như vậy, chỉ thấy máu tươi tuôn ra ào ào, tôi vẫy vẫy tay mình trong nước để máu tan đều.

Hình như đám sâu sợ máu của tôi, vừa nhào tới trước mặt tôi đã tản ra xa, không dám lại gần. Đàn sâu màu trắng vây trước mặt tôi thành một bức tường kín, tôi thậm chí còn mơ hồ cảm thấy chúng nó xếp thành hình giống như mặt người.

Trợ lý Lương sợ khiếp vía, không nói nên lời, một mực tìm cách trèo lên cây thanh đồng. Tôi biết ở lì trong nước cũng không phải kế lâu dài, bèn thò đầu lên mặt nước. Ngoảnh đầu nhìn lại, Nến Cửu Âm đã phát hiện ra chúng tôi, cái đầu rắn khổng lồ đang quay về phía này. Con mắt màu tím của nó đã nhắm lại, thay vào đó là một con mắt đỏ ngầu như máu không biết đã mở ra từ khi nào, nhìn chằm chằm vào chúng tôi đầy vẻ oán độc.

———————————————————————-

(1)

    

Nến Cửu Âm: Vì là loài rắn trong truyền thuyết nên em nó có rất nhiều phiên bản.

Chương 40: Thoát ra

Editor: Biển Bạc

Beta: Earl Panda

~0O0~

Con mắt đỏ ngầu ấy giăng đầy tơ máu phập phồng, trông ma quái dị thường. Tôi vừa nhìn vào lập tức cảm thấy linh hồn mình như bị hút ra, đầu óc quay cuồng choáng váng và buồn nôn khủng khiếp, vội xoay mặt đi chỗ khác.

Trợ lý Lương thì cứ như bị trúng tà, mắt nhìn chằm chằm vào 

huyết nhãn

 kia, không hề nhúc nhích, tôi gọi anh ta hai tiếng mà chẳng hề có phản ứng gì.

Trợ lý Lương từng nói “Nến Cửu Âm” là con mắt quỷ dẫn lối đến địa ngục, tôi dám chắc có gì đó bất thường, vội lấy tay vốc nước dội về phía anh ta.

Không biết có phải do Nến Cửu Âm đột ngột tiến về phía trước để thăm dò hay không, vốc nước kia xui xẻo thế nào lại chẳng tạt lên người trợ lý Lương mà ập xuống đầu nó.

Nến Cửu Âm bị vốc nước làm cho hoảng hồn, liền nhắm mắt lại, đầu rắn rụt về phía sau, chuẩn bị phát động tấn công. Tôi nhanh chóng nấp sau cây thanh đồng, đầu rắn liền đập vào thân cây, khiến mấy cành cây cong oằn cả lại. Lúc này, tôi chợt nhớ tới cái ba lô đã lấy ở chỗ “lão Dương”, bên trong có thể có vũ khí gì đó, vội vàng lật ba lô ra trước mặt.

Trong ba lô của hắn chắc chắn không có súng, nhưng tôi nhớ có vài cái ngòi nổ mà bọn hắn vốn dùng để phá tường mộ, lúc này tôi tay không tấc sắt, có thứ gì đó đủ sức gây uy hiếp cũng tốt.

Nến Cửu Âm trườn mình vòng qua cây thanh đồng rồi quay ngược trở lại, tôi vừa di chuyển để tránh khỏi tầm mắt nó, vừa bò lên trên, tay cầm ba lô bắt đầu lục lọi.

Trong ba lô có đủ thứ đồ linh tinh, tôi lôi hết thức ăn ra ném xuống nước, đến khi lấy ra được thứ mà tôi nghĩ là ngòi nổ mới ngớ người ra. Mẹ nó chứ, lúc nãy chỉ xem qua loa, giờ mới biết cái bó đó hóa ra lại là một mớ nến màu đen.

Lúc này con rắn đã bò đến gần, thấy tôi, nó lại ngẩng cổ lên bày ra tư thế tấn công.

Tốc độ tấn công trung bình của rắn chỉ chừng một phần tư giây, con này dù có hơi to xác một tẹo nhưng xem ra cũng chẳng chậm hơn là mấy. Tôi vừa thấy chỉ cần chần chờ thêm một giây nữa thôi là xong đời, vội xách ba lô nhảy thẳng vào trong nước.

Nhưng tôi rơi xuống vẫn quá chậm, một bóng đen chợt nháng lên, con rắn phóng ra đớp lấy tôi ngay trên không, sau đó thân rắn cuộn lại định quấn lấy tôi.

Tôi sờ soạng lung tung trong túi, đột nhiên mò được khẩu súng báo hiệu của mấy người kia, nhất thời tay chân luống cuống, liền bóp cò theo bản năng, ba lô bị bắn thủng một lỗ lớn. Trong lúc hỗn loạn tôi cũng không biết có phải đạn tín hiệu đã phát nổ trong miệng rắn hay không, chỉ cảm thấy gan bàn tay nóng lên, sau đó trời đất quay cuồng.

Tôi rơi tòm xuống nước, lúc trồi lên đã thấy đạn tín hiệu đang cháy sáng chói lòa trong miệng con Nến Cửu Âm. Không khí tràn ngập mùi sáp, hơn nữa, không hiểu vì sao toàn thân nó cũng bắt đầu bốc khói.

Mỡ trong cơ thể loài rắn này cực kì dễ cháy, nếu không người xưa đã chẳng đi săn chúng về để làm nến, nhưng không ngờ lại dễ cháy đến mức này, rốt cuộc thứ đang chảy trong cơ thể nó là chất gì đây?

Nến Cửu Âm đau đớn điên cuồng, không còn chú ý đến bọn tôi nữa. Nó quằn quại không ngừng, cái đuôi khổng lồ đập vào vách đá, trên đó liền xuất hiện một khe nứt lớn. Nó lại quật thêm vài cú, từ khe nứt lớn bắt đầu xuất hiện nhiều khe nứt nhỏ hơn lan rộng ra, cả ngọn núi không ngừng rạn nứt, dường như hang động có thể sụp đổ bất cứ lúc nào.

Tôi không biết Nến Cửu Âm có chết dễ dàng như vậy hay không nên vẫn tiếp tục lục lọi trong ba lô, thấy không còn gì hữu dụng mới ném nó xuống nước. Đột nhiên dòng nước bắt đầu chảy xiết, nước đầm ồ ạt tuôn qua cái khe bị Nến Cửu Âm phá vỡ.

Hệ thống hang động trong lòng núi này chằng chịt dễ sợ, xem tình hình này thì khối núi đằng sau khe nứt cũng đã bị xuyên thủng mất rồi, không biết nước sẽ thoát ra ở nơi nào. Cuối cùng, tôi thoáng nhìn một lượt xung quanh cây cổ thụ thanh đồng tìm trợ lý Lương, nhưng chẳng thấy anh ta đâu cả, chỉ thấy trên mấy tảng đá bắt đầu xuất hiện những dòng nước phun ra ầm ầm rồi đổ sụp xuống từng khối đá lớn. Nến Cửu Âm càng nổi điên mà vùng vẫy loạn xạ, tôi vội vàng lùi về phía sau một đoạn, ngay lập tức bị dòng nước cuốn vào trong khe nứt.

Khe nứt rất sâu, bên trong tối đen như mực, vì đây là khe nứt do sụt lở mà thành nên vách đá bên trong rất lộn xộn lắt léo, tạo nên không ít xoáy nước. Tôi quay cuồng va chạm tung tung beng cũng miễn cưỡng cảm thấy mình đang bơi về phía trước.

Lòng vòng khoảng mười mấy phút, tôi bỗng có cảm giác rơi tự do, sau đó thân thể rơi vào trong nước, vội vùng vẫy ngoi lên. Lúc này mới phát hiện mình đã bị dòng nước đẩy đến chỗ con sông ngầm ban đầu. Dòng nước ở đây chảy xiết hơn rất nhiều so với lúc đầu chúng tôi nhìn thấy, hẳn là giống như trợ lý Lương từng nói, bên ngoài đã có một trận mưa lớn.

Tuy dòng nước chỗ này chảy rất xiết nhưng không có nhiều xoáy nước như trong khe đá ban nãy, hơn nữa nhiệt độ nước cũng khá ấm, tôi gắng gượng cũng có thể điều khiển được tay chân mình, trong bụng bắt đầu nhẩm tính đến tình huống tiếp theo.

Mạch nước ngầm này chảy từ trên cao xuống, không biết chảy đến tận đâu, nếu dẫn sâu xuống mấy chục mét thì tôi cũng hết ý kiến. Nhưng dựa theo phương hướng ban đầu, nếu không có nhiều thay đổi, tôi đoán là mình sẽ bị đẩy đến nhánh sông chúng tôi đã vượt qua khi mới đến đây .

Tất nhiên điều kiện tiên quyết là đường đi phải thẳng tắp suôn sẻ. Tôi căng thẳng nhìn về phía trước, chỉ e sẽ xuất hiện một nhánh rẽ nào đó. Bất chợt, tôi thấy trên vách đá của con sông ngầm thấp thoáng có hình khắc gì đó.

Nhìn tình trạng bào mòn của vách đá, có thể thấy con sông ngầm ở đây có tuổi đời tương đương với ngọn núi này, những hình vẽ trên đó chắc hẳn đã được khắc lên từ rất lâu rồi. Tôi tranh thủ ôm lấy một nhũ đá mọc xuống từ trên đỉnh để dừng lại. Vừa dùng đèn pin rọi lên, tôi lập tức sợ đến ngây người.

Tất cả hình khắc trên vách đá hai bên sông ngầm đều giống hệt những thứ chúng tôi đã nhìn thấy trong quan tài trên ngọn cây thanh đồng. Những hình khắc nối tiếp tạo thành một bức tranh dài, có vài chỗ đã phai mờ nhưng phần lớn vẫn còn nguyên vẹn, đường nét điêu khắc tinh xảo, hoa văn thanh thoát, mỗi bức mỗi vẻ đều sống động như thật.

Tôi thoáng nhìn qua, chỉ biết rằng những hình khắc này miêu tả quá trình tế lễ cây thanh đồng của dân tộc thiểu số thời cổ đại, cảnh tượng trong đó vô cùng sinh động. Có một tấm phù điêu khắc họa hình ảnh cái cây thanh đồng khổng lồ kia treo đầy thi thể nô lệ, máu của họ xuôi theo nhưng đường rãnh trên thân cây rồi hợp thành dòng mà chảy xuống dưới. Có một tấm lại là hình ảnh người ta ném xác nô lệ vào trong cây thanh đồng.

Phần lớn phù điêu ngập trong nước, phần chân hầu như đã bị nước xói mòn, xem ra lúc chạm khắc những bức vẽ này nơi đây không hề ngập nước.

Theo như những hình khắc nơi đây, lễ tế cây thanh đồng có quy mô rất lớn. Tôi ngắm nghía hết một lượt, càng xem càng cảm thấy kỳ lạ, có vài cảnh được miêu tả trên phù điêu lại không hề giống cảnh cúng tế khiến tôi không tài nào hiểu nổi.

Trong đó có một bức phù điêu mô tả cảnh người xưa đem rót một ít chất lỏng gì đó vào thân cây thanh đồng. Trong những bức tiếp theo, có một thứ nhìn giống hệt như con “Nến Cửu Âm” vừa nãy trườn ra từ trong cây thanh đồng, sau đó, rất nhiều người ăn mặc như những chiến binh mang cung tên giáo mác bao vây xung quanh nó, rõ ràng đây là một cuộc đi săn.

Dựa theo những gì tôi biết thì cây thanh đồng này hẳn là một loại biểu tượng thần quyền đặc biệt vào thời cổ xưa, còn “Nến Cửu Âm” trong cây thanh đồng kia được coi là một loại Rồng vào thời xưa. Trong một vài bản ghi chép, “Nến Cửu Âm” thậm chí còn được sáng ngang với Bàn Cổ 

(nhân vật khai thiên lập địa trong truyện thần thoại Trung Quốc)

, nên được người ta xem như thần thú mà cúng bái, nhưng nếu là thế tại sao những người ở đây lại săn nó chứ?

Tôi lại tiếp tục quan sát, hy vọng có thể tìm ra câu trả lời. Tiếp đó là một vài bức hình mô tả những nghi thức, tôi thấy tất cả những người cổ đại ấy đều mang mặt nạ, khuôn mặt đờ đẫn, nhưng giữa mỗi một tấm phù điêu luôn có một người được điêu khắc cực kỳ vạm vỡ. Nhìn dáng vẻ và phục sức của người này, tôi có thể khẳng định anh ta chính là thủ lĩnh của bọn họ, hơn nữa người này còn là nguyên bản của pho tượng mà tôi đã nhìn thấy ở vách núi giữa Giáp Tử Câu.

Phần đầu của pho tượng đã bị phá vỡ, lúc ấy tôi cảm thấy có gì đó không hợp lý, nhưng đi một mạch đến tận đây vẫn không thấy phần đầu của người này đâu cả, bây giờ đã có thể quan sát kỹ lưỡng.

Tôi ôm chặt phần chóp nhũ đá, tiến gần đến phần nham thạch phía trên, phủi sạch những vết bẩn trên đó rồi quan sát.

Hình ảnh người thủ lĩnh trong bức phù điêu gần như lớn gấp đôi những người khác, giống như một người khổng lồ. Nếu suy nghĩ vừa rồi của tôi là đúng, những hình khắc ở đây đều dựa theo tỉ lệ thực thì vị thủ lĩnh kia có lẽ thực sự rất cao lớn.

Nhưng thật kì lạ, trong toàn bộ những tấm phù điêu này, trên cổ người thủ lĩnh đều mọc một cái đầu rắn, trông không giống như mang mặt nạ hay gì đó tương tự.

Mặc dù tôi có kiến thức căn bản về khảo cổ, nhưng để đánh giá vấn đề này cần có kinh nghiệm và hiểu biết sâu rộng. Mà tôi thì chẳng có manh mối gì cả, chỉ biết là xét theo ý nghĩa của bề mặt những tấm phù điêu này, tôi cảm thấy suy đoán lúc đó của trợ lý Lương dường như có chút sai sót. Cây thanh đồng này không đơn giản chỉ dùng để tế lễ, mà còn là nơi tiến hành một nghi thức săn bắn nào đó, những nô lệ bị hy sinh kia có thể chính là mồi nhử để dẫn dụ “Nến Cửu Âm” chui lên khỏi lòng đất.

Không rõ thân cây thanh đồng mọc sâu đến đâu, con “Nếu Cửu Âm” hẳn là sống tít dưới lòng đất, làm sao nó có thể tồn tại dưới độ sâu như vậy không phải là chuyện tôi có thể nghiên cứu được. Tôi chỉ tò mò không biết vì sao những người thời cổ đó lại tổ chức một cuộc săn “Nến Cửu Âm” rầm rộ đến như thế?

Những hình khắc trên vách đá không cho tôi câu trả lời. Hình ảnh cuối cùng tôi nhìn thấy chỉ là quang cảnh một buổi lễ long trọng, còn “Nến Cửu Âm” sau khi bị bắt được xử lý như thế nào cũng không thấy khắc ra.

Đã nắm được điểm then chốt, tôi thấy mực nước vẫn có chiều hướng dâng cao lên, đành phải buông tay tiếp tục trôi xuôi theo dòng chảy.

Chiếu sáng một hồi lâu, ánh đèn pin đã dần dần yếu đi, cuối cùng yếu đến mức hoàn toàn không thấy gì nữa. Tôi đành dứt khoát tắt đi, thuận theo dòng chảy mà di chuyển trong bóng tối.

Khoảng thời gian này trải qua vô cùng khó khăn, đã mấy lần tôi rơi xuống vài thác nước nhỏ, tuy không nguy hiểm đến tính mạng nhưng khó tránh va đập đến bầm tím mặt mũi. Khoảng hơn một giờ sau, tôi không còn biết xung quanh mình là gì nữa, cũng không biết mình muốn đi đến đâu.

Tôi bắt đầu cảm thấy tuyệt vọng, cũng không biết vừa rồi mình có đổi hướng hay lọt vào chỗ rẽ nào hay không, nếu như phán đoán sai lầm, nói không chừng bây giờ tôi đang bị cuốn vào con sông ngầm sâu vô tận, cũng không biết con sông này thông đến tận đâu, chẳng lẽ nó dẫn tới tầng đất sâu thẳm nơi “Nến Cửu Âm” sinh sống?

Đó rốt cuộc là nơi nào, suy cho cùng, không chừng lại là một lăng mộ đế vương nào đó nằm sâu bên dưới con sông ngầm, đó cũng là một ý kiến hay.

Ngay vào lúc tôi còn đang miên man suy nghĩ, đột nhiên nhìn thấy phía trước lóe lên một tia sáng. Toàn thân tôi chấn động, liền đó bên tai nghe tiếng nước chảy ầm ầm, tôi âm thầm mừng rỡ, biết phía trước nhất định có lối thoát. Đã mười mấy tiếng đồng hồ không được nhìn thấy ánh sáng tự nhiên, tôi quẳng đèn pin đi rồi bơi về phía trước.

Tôi bơi rất nhanh, chỉ vài phút sau trước mắt đã lóe sáng, sau đó là một mảng chói lòa, tôi không còn nhìn thấy gì nữa. Trong lòng tôi gào thét, đấy là do thị giác không kịp thích nghi sau một thời gian dài không nhìn thấy ánh sáng. Nhưng ngay trong khoảnh khắc ấy, một cảm giác quen thuộc truyền đến từ bên dưới.

Lại là rơi tự do! Lại là một thác nước!

Hơn nữa, dựa vào sức nước chảy cùng với âm thanh từ bên dưới truyền lên, thác nước này chắn chắn không hề nhỏ. Không biết chờ tôi bên dưới là gì, nếu tôi cụng đầu chết vì nước quá nông thì thật quá oan uổng.

Bên tai tôi hàng trăm thứ âm thanh gào thét, trong chớp mắt, thị lực vẫn chưa kịp hồi phục, tôi đã ngã cắm đầu vào trong nước.

Trong khoảnh khắc tôi vừa duỗi tay ra, bàn tay đã chạm phải một tảng đá. Không xong rồi, nước quá nông! Tôi vừa mới nhận ra điều này thì đầu đã đập vào thứ gì đó, trước mắt tối sầm, không còn biết trời trăng gì nữa.

——————————————————————————

Phần 4: Vân Đỉnh thiên cung (Thượng)

顶天宫

Chương 1. Tin tức mới

Editor: Earl Panda

Beta: Thanh Du

~0O0~

Tôi hôn mê suốt ba ngày ròng rã, đến khi tỉnh lại đã thấy mình nằm trong bệnh viện. Khi vừa mở mắt ra tôi chẳng nhớ được gì, chỉ cảm thấy đất trời cứ xoay mòng mòng, không ngừng nôn mửa, đầu óc choáng váng.

Hai ngày sau, bệnh tình của tôi mới dần dần khá lên một chút, thế nhưng khả năng phát âm đã hoàn toàn biến mất. Dù tôi cố gắng nói cái gì đi chăng nữa, âm thanh phát ra cũng chỉ là những tiếng kêu quái gở. Tôi còn tưởng đầu óc mình bị va đập quá mạnh gây ảnh hưởng đến hệ thần kinh ngôn ngữ nên cực kỳ lo lắng, nhưng bác sĩ lại nói đây chỉ là di chứng do não bị chấn động mạnh mà thôi. Mãi cho đến ngày thứ tư, tôi mới có thể miễn cưỡng mở miệng hỏi bác sĩ xem tôi đang ở nơi nào. Bác sĩ nói đây là bệnh viện hội Chữ Thập Đỏ ở Bi Lâm, Tây An. Tôi được mấy người cảnh sát khiêng về, cụ thể tình trạng lúc họ phát hiện ra tôi thế nào thì bác sĩ cũng không rõ, chỉ nói đại khái là tôi bị gãy những mười hai cái xương, hẳn là do ngã từ trên cao xuống.

Ngực và tay trái của tôi bọc đầy thạch cao cho nên tôi cũng chẳng biết mình bị thương nặng đến mức nào. Nghe bác sĩ kể, tôi mới hay mạng mình vẫn còn lớn lắm. Tôi hỏi, lúc nào mới có thể xuất viện, bác sĩ chỉ nhìn tôi cười cười, nói trong vòng mười ngày nửa tháng tôi đừng hòng xuống giường.

Đến tối, người cảnh sát đã mang tôi về đây đến thăm tôi, mang theo cả một giỏ hoa quả. Tôi lại hỏi câu cũ. Giống như bác sĩ, anh ta cũng không biết trả lời ra sao, chỉ nói có mấy người thôn dân ở Lam Điền tìm thấy tôi bên bờ một con suối. Khi ấy tôi được đặt nằm trên một cái bè trúc, những vết thương trên người đã được sơ cứu. Bác sĩ còn bảo, nếu lúc ấy không được sơ cứu, tôi đã chết từ đời thuở nào rồi.

Tôi lấy làm lạ. Những ký ức cuối cùng của tôi là khi chìm vào đáy nước, theo logic thì cùng lắm cũng chỉ nằm vật ra bên bờ sông thôi, sao lại nằm trên bè trúc được cơ chứ? Thứ hai, Lam Điền là vùng cách Giáp Tử Câu phải đến bảy mươi tám mươi dặm đường, chẳng nhẽ, bọn tôi đi men theo con đường dưới lòng sông, bất giác đã đi cả một quãng dài như vậy rồi sao?

Tôi ậm ừ chém bừa cái lý do một mình lên núi chơi sảy chân rơi xuống vực, nói ngàn vạn lần tạ ơn người cảnh sát đã cứu tôi về, sau đó lôi điện thoại ra gọi Vương Minh ngay lập tức. Nhắn cậu ta đến Tây An một chuyến, mang theo ít tiền với quần áo cho tôi. Ngày hôm sau Vương Minh đến nơi, tôi lấy tiền thanh toán viện phí với thuốc men, sau đó mua một chiếc di động và một cái laptop.

Tôi hỏi Vương Minh mấy chuyện làm ăn gần đây thế nào. Cậu ta nói, không có gì quan trọng, chỉ có cha tôi đang ráo riết tìm tôi. Tôi nghĩ chắc là lâu lắm rồi không liên lạc gì nên ông cụ lo lắng. Vì thế tôi báo về nhà một cái tin bình an, nhưng lúc đó cha tôi lại không có nhà. Tôi nói chuyện với mẹ vài câu, tiện hỏi về chú Ba, nhưng lại chẳng có tin tức gì.

Xem ra mọi thứ vẫn y nguyên như trước khi tôi tới đây. Tôi cảm thán một tiếng.

Vài ngày tiếp theo, trong khi đang buồn chán muốn chết, tôi chợt nhớ đến lão Dương. Trong lòng lại chua xót, tôi bèn ngồi trên giường bệnh, lấy bộ trang phục leo núi đã nát tươm mà tôi mặc lúc rơi xuống núi ra, tìm cuốn sổ nhật ký của lão Dương. Cuốn nhật ký vẫn còn đó nhưng đã bị thấm nước nên chẳng còn nhìn rõ chữ gì. Tôi ráng căng mắt ra đọc một hồi. Vẫn chẳng đọc được gì, tôi đành lấy điện thoại, lên mạng giết thời gian.

Tôi tìm kiếm rất nhiều tư liệu, nhưng thông tin về đồ cổ ở trên mạng không nhiều. Tôi miêu tả sơ lược lại hình dáng cây thanh đồng trong đầu, gửi cho vài người bạn xem, một lát sau nhận được hồi âm, đa số đều không biết đó là thứ gì. Hơn nữa, bọn họ nghe miêu tả của tôi cũng không tin, chỉ có vài email là thu hút tôi nhất.

Trong số đó có một email từ Mỹ gửi tới, là một người bạn của cha tôi. Trò chuyện với tôi một hồi, ông ta viết trong mail rằng có một loại cây thanh đồng gọi là “Sáo trụ” bởi hình dạng nó trông như một cây sáo – loại sáo thời cổ. Năm 1984, người ta  đã phát hiện ra một cây như thế ở một khu mỏ tại Phàn Chi Hoa, nhưng không lớn như tôi miêu tả, chỉ dài có một đoạn, phần cắm sâu dưới lòng đất cũng đã hoàn toàn rỉ sét.

Cho đến giờ vẫn chưa có một tài liệu lịch sử nào cho biết thứ này dùng để làm gì, tuy nhiên căn cứ vào Sơn Hải kinh và những tài liệu chép lại từ truyện thơ của một số dân tộc thiểu số, thứ này với “Địa long (rắn)” thời cổ có liên quan đến nhau.

“Nến Cửu Âm” hẳn là một loại rắn sinh sống dưới lòng đất sâu, do quá nhiều năm chui rúc trong khe đá chật hẹp sâu hoắm, không có cơ hội nhìn thẳng cho nên con mắt bị biến đổi giống như cá thờn bơn vậy. Người xưa lấy máu tươi để dụ nó chui lên từ dưới lòng đất, sau đó bắn chết, làm thành đèn nến. Nghe thì thật đáng trách, nhưng vào thời đó nguồn sáng lâu dài là một thứ cực kỳ quý giá, đặc biệt với những người sinh sống về đêm hoặc phải sống trong những hang động quanh năm tối đen như hũ nút.

Tôi thấy ông ta phân tích cũng có vẻ hợp lý, có điều tôi không hiểu nổi vì sao hễ động đến cái “trụ” kia là lập tức xuất hiện loại năng lực vừa kỳ diệu lại vừa khủng khiếp ấy. Tôi gửi hồi âm, hỏi xem trong lịch sử đã từng xảy ra những chuyện kỳ lạ tương tự hay chưa?

Ông ta gửi hồi âm nói vẫn còn một quyển sách đã hư hại nhiều, đó là quyển bút ký dạng tiểu thuyết, bên trong ghi chép lại một sự việc đã xảy ra vào năm Càn Long thời nhà Thanh. Năm đó ở một khu mỏ vùng Tây An đã đào được một cái hộp có hoa văn hình rồng bằng đá xanh trắng. Hoàng đế Càn Long mở ra xem, ngay tối hôm đó đã bí mật triệu mấy vị đại thần vào cung, luận bàn đến khuya. Sau đó, cung Càn Thanh cháy. Mấy vị đại thần kia, ngoại trừ một người rất nổi danh ra, còn đâu toàn bộ đều không được chết già mà đều bị giết một cách thần bí.

Tôi xem khoảng thời gian, đại khái cũng trùng với thời gian sự việc được ghi lại trong “Hà mộc tập” của Lý Tỳ Bà, hẳn là hai chuyện này có liên quan với nhau. Xem chừng người cuối cùng đào ra hộp hoa văn hình rồng đá trắng xanh và những người biết chuyện này đều đã bị diệt khẩu, hoàng đế hạ quyết tâm lớn đến thế chỉ để bảo vệ một bí mật, cái hộp hoa văn hình rồng đá trắng kia rốt cuộc là thứ gì? Liệu có liên quan đến lai lịch của cây cổ thụ thanh đồng không?

Tôi lại gửi mail hỏi ý kiến ông ta lần nữa, ông ta chỉ hồi âm đúng một câu: muốn biết phải đào sâu thêm nữa mới được.

Tôi cười khổ một tiếng, biết đây là việc khó khả thi. Ai mà biết cái cây kia còn mọc sâu đến đâu chứ, biết đâu năm đó người đúc ra thứ này phải mất đến mấy thế kỷ, cho dù muốn đào cũng chẳng biết đào đến bao giờ mới xong.

Còn một email khác là của chú Hai gửi tôi. Chú bảo, khi dân tộc thiểu số kia bị ảnh hưởng bởi văn hóa và phong cách trang trí thời Tây Chu thì giao lưu giữa các dân tộc rất hạn hẹp. Hơn nữa, cách thức liên lạc và chuyển phát thông tin thời đó rất kém phát triển, nên hẳn là có một thời kì bị trì trệ. Nói cách khác, thời gian tôi phỏng đoán dễ chừng là quá sớm, dựa theo quy luật chung, khi dân tộc thiểu số kia phát triển thì ở Trung nguyên hẳn đã sang cuối thời Tần rồi.

Vào thời gian đó, hầu như mọi hoạt động của dân tộc thiểu số này đều na ná việc thi công lăng mộ Tần Thủy Hoàng. Bọn họ đi săn Nến Cửu Âm có thể là để tinh luyện “Mỡ rồng”, mục đích hẳn cũng tương tự với việc luyện đan tiến cống hoàng đế. Hơn nữa, khi thăm dò cả khu, giống như lăng Tần Thủy Hoàng, tầng dưới cùng có vị thế đứng đầu và cũng có vật thể kim loại khổng lồ. Theo lý mà nói, kỹ thuật luyện kim thời đó chưa đủ để hoàn thành một công trình vĩ đại như thế. Người thi công hẳn phải là người ngoại lai, đến từ một dân tộc có trình độ kỹ thuật luyện kim đặc biệt phát triển.

Chú Hai là fan trung thành của Tần Thủy Hoàng, cái gì chú cũng chém thành chuyện được, tôi không cho suy đoán của chú là đúng.

Một tháng sau, tôi xuất viện. Về đến nhà, dọn dẹp một chút, tôi mới bắt đầu điều chỉnh lại tâm tình của mình. Trở về sinh hoạt bình thường một lần nữa. Tôi dọn lại cái hòm thư đầy ứ đến mức suýt bung ra, xếp riêng một số tạp chí và báo giấy, thế rồi tôi tìm được một phong thư chuyển phát nhanh không kí tên.

“Lão Ngô,

Có đoán ra tôi là ai không?

Phải, tôi chưa chết. Hay cũng có thể nói, tôi vẫn còn sống.

Rất xin lỗi vì đã lôi cậu vào mớ rắc rối này, nhưng dù sao cậu cũng là người tôi tin tưởng nhất, tôi không còn lựa chọn nào khác.

Bây giờ mọi chuyện đều đã xong xuôi cả rồi. Quan hệ của chúng ta, chắc cũng phải kết thúc ở đó thôi. Tôi rất vui vì được làm bạn với cậu, nhưng bây giờ đã chẳng còn gì là quan trọng nữa.

Cậu rất muốn biết ba năm trước đã xảy ra chuyện gì phải không?

Ba năm trước, tôi với mấy thằng bạn đến Tần Lĩnh làm ăn. Chúng tôi đã căn cứ vào truyền thuyết của dân bản xứ, tìm ra hang động dưới gốc cây đa trên đỉnh núi. Bọn tôi bàn tính với nhau, chuẩn bị mạo hiểm chui xuống thăm dò bên dưới. Toàn bộ quá trình cậu đã biết rồi, cho đến khi tôi bị nhốt trong hốc đá.

Lúc ấy, tôi đã vô cùng tuyệt vọng. Tuy tôi không chết ngay lập tức, nhưng sự sống đối với tôi là một điều hết sức đáng sợ. Vĩnh viễn sống trong một xó chật hẹp, trong một hốc đá tối đen nằm sâu trong núi lớn, vĩnh viễn không có ngày thoát ra. Nỗi đau đớn khổ sở này, chắc cậu cũng đã nếm thử rồi.

Tôi nằm trong bóng tối suốt bốn tháng, bốn tháng ấy trôi qua không khác gì địa ngục. Nhưng trong khoảng thời gian này, tôi đã suy nghĩ không ngừng và rồi nhận ra loại năng lực này có liên hệ với tiềm thức. Ví dụ như, tôi muốn mở một cánh cửa trên tảng đá, tôi phải thuyết phục được bản thân mình tin rằng trên tảng đá có một cánh cửa, bằng không dù có nghĩ đến nát óc thì cửa cũng không xuất hiện.

Con người sao có thể lừa dối được tiềm thức của mình. Cho nên, muốn sử dụng năng lực này thì nhất định phải có sự dẫn dắt, cái này rất khó. Tôi đã nói với cậu rồi, nếu quá trình dẫn dắt thất bại hoặc xuất hiện sai sót thì sẽ chẳng thể tưởng tượng nổi thứ cậu đã hiện thực hóa ra là gì, cực kỳ đáng sợ.

Tôi không ngừng cố gắng, dần dần cũng nắm được một vài bí quyết. Thế nhưng trong lúc đó, tôi lại phát hiện loại năng lực này sẽ dần dần suy giảm theo thời gian, cuối cùng hoàn toàn biến mất. Cảm giác này rất rõ ràng, giống như thân thể dần dần cảm thấy rã rời vậy. Tôi hiểu rằng nếu không mau mau tìm được cách thoát ra ngoài, rất có thể mình sẽ bỏ mạng nơi đây.

Tôi rơi vào đường cùng, quyết định thử dùng năng lực này phục chế một bản sao của chính mình. Không ngờ thử nghiệm lại thành công, chính tôi cũng thấy hoảng sợ, thoáng cái tôi bỗng phát hiện ra mình đã ở bên ngoài sơn động.

Khi ấy, tôi không hề ý thức được tôi chỉ là bản phục chế, bởi lẽ tôi và bản thể đều sở hữu những ký ức giống hệt nhau. Cho nên khi hắn ta gọi tôi, tôi hoàn toàn không thừa nhận tôi chỉ là bản phục chế. Hắn bắt đầu chửi tôi, nói tôi muốn thay thế hắn tồn tại trên thế giới này, nói muốn tôi biến mất. Tôi rất sợ hãi, tôi đã nghĩ người trong động kia hẳn là quái vật, nên mặc cho bản thể của mình kêu khóc trong ấy, tôi đã tìm thuốc nổ, khiến hang động này hoàn toàn sụp xuống.

Trên thực tế, tôi đích xác biết mình chỉ là bản phục chế, nhưng sâu trong tiềm thức tôi lại không muốn tin vào chuyện này. Cho nên tôi đã rơi vào tình trạng tổn hại nặng nề, tôi tự tay giết chính bản thể của mình, sau đó lại tự ám thị mình rằng tôi chỉ giết đi một kẻ thay thế.

Năng lực mà cây thanh đồng tạo ra có thời gian rất ngắn. Bởi vậy tôi đã bẻ một cành cây thanh đồng, dùng năng lực để thoát ra từ dưới chân cây thanh đồng. Tôi đã mang theo một bộ phận của cây thanh đồng để có thể sử dụng năng lực đó lâu hơn một chút, như vậy tôi mới có thể trốn ra đến thế giới bên ngoài. Về sau thực tế đã chứng minh suy nghĩ của tôi là chính xác, tôi ra đến bên ngoài, nơi chúng tôi đã đào đường vào trước đây. Tôi lại sợ mấy cành cây Thanh đồng chỉa ra dễ bắt mắt nên đem chôn nó vào lòng đất, sau đó trở lại Tây An tìm nơi bán cành thanh đồng đã bẻ.

Đáng tiếc khi đang trao đổi, tôi lại bị cảnh sát chìm bắt tại một hàng đồ cổ. Chuyện sau đó cậu đã biết rồi, khi về đến nhà thì mẹ tôi đã mất. Việc này, tôi không lừa cậu.

Còn một việc nữa tôi phải nói cho cậu biết, sử dụng loại năng lực này không phải không có cái giá của nó. Trí nhớ của tôi sau đó rất kém, có nhiều việc phải ghi lại thì mới nhớ nổi, đó chính là di chứng của việc sử dụng năng lực này. Trên đường đi tôi vốn dàn xếp cho cậu rất tốt, khiến cậu vô tình giúp tôi hoàn thành chuyến thám hiểm này, nhưng tiếc là chuyện ba năm gần đây tôi đã quên rất nhiều, thậm chí ngày đó thoát ra bằng cách nào tôi cũng không còn nhớ rõ ràng, cho nên sơ hở chồng chất. Tôi đoán nếu sử dụng nó thêm hai ba năm nữa, tôi sẽ mất đi toàn bộ ký ức.

Trên người cậu cũng có loại năng lực kỳ lạ này. Tôi không rõ cậu có bị ảnh hưởng hay không, nhưng cậu phải chú ý cẩn thận. Theo tính toán của tôi, loại năng lực này có lẽ sẽ lưu lại trên người cậu rất nhiều năm, nhưng cực kì yếu, hầu như không gây cảm giác gì.

Lão Dương.”

Tôi xem hết phong thư rồi thở phào một cái, không biết nói gì cho phải. Trong thư còn có một tấm ảnh chụp, đó là hình của hắn và mẹ đang ngồi bên bàn, phía sau là biển rộng, có lẽ là đi ra nước ngoài. Mẹ hắn vẫn còn rất đẹp, tuổi còn trẻ, đứng chung với hắn trái lại trông giống một đôi tình lữ hơn. Tôi nhìn đi nhìn lại vẫn thấy trên gương mặt người mẹ có một luồng yêu khí, một vẻ dữ tợn không sao tả rõ được, chắc là do ảnh hưởng tâm lý.

Thời gian cứ thế trôi qua, không biết mùa đông đã đến tự bao giờ. Tôi rúc trong phòng điều hòa, lười biếng ngủ gà gật suốt cả buổi chiều. Nằm trên ghế dựa trong nội đường “Tây linh ấn xã”, hai chân lạnh như băng, tôi chẳng biết làm gì, đang nửa tỉnh nửa mơ bỗng Vương Minh bước vào báo: “Lão đại, có người tìm.”

Bấy giờ tôi mới miễn cưỡng phản ứng, ngáp một cái, bụng bảo dạ đã vào tiết Tam cửu thiên[1] rồi mà cũng có kẻ đến tiệm đồ cổ, sao mà nhiệt tình dữ. Mà thôi, dù gì cũng là chuyện làm ăn, tôi đứng lên, xoa nắn mặt mày, chấn chỉnh tinh thần rồi đi ra ngoài.

([1] tiết Tam Cửu Thiên: thời điểm lạnh nhất trong mùa đông.)

Điều hòa của phòng ngoài công suất khá nhỏ, một cơn gió lạnh thổi qua khiến tôi bất giác rùng mình. Người tới thì ra là cô bé thủ hạ của chú Hải ở Tế Nam, đang run bần bật giữa tiết trời đông lạnh. Tôi thầm nghĩ chắc con bé mang chi phiếu đến cho mình đây, trong lòng ấm lên một tí, liền gọi Vương Minh pha ấm trà. Tôi hỏi han: “Sao rồi nhóc, chú Hải kêu nhóc tới hả?”

Cô nhóc tên Tần Hải Đình, là thân thích của chú Hải, mới mười bảy tuổi đã là một tay sành sỏi trong giới đồ cổ. Nó gật gật đầu, đáp: “Ôi mẹ ơi, sao Hàng Châu còn lạnh hơn cả phương bắc bọn em nữa hả giời.”

Vương Minh cười bảo: “Phía nam tiết trời khô ráo nên đã rét là rét buốt, hơn nữa Tế Nam cũng không được tính là phương Bắc nha.”

Tôi nhìn Tần Hải Đình răng đánh lộp cộp, liền kéo cô bé vào nhà trong. Bên trong có điều hòa ấm áp, lại đưa thêm cho nó một túi giữ nhiệt, rồi hỏi: “Nhóc mày cũng sợ lạnh ghê, sao rồi, ấm lên tí nào chưa?”

Cô bé uống liền mấy hớp trà nóng, rồi ngồi trong phòng duỗi tay duỗi chân, “Khá hơn chút rồi. Người ta bảo Hàng Châu đẹp thế này đẹp thế kia, chú em chẳng cho tới mà em còn cố giành đi, nào ngờ lại lạnh cắt da thế này. Ai da, từ giờ về sau đừng hòng bảo em tới đây lần nữa.”

Tôi hỏi: “Thế chú nhà mày sai mày đến đây làm gì? Sao không gọi điện báo trước một tiếng.”

Tần Hải Đình cởi khăn quàng cổ xuống, móc một cái phong bì từ trong cái ví da, nói: “Đương nhiên là có chính sự, nè, tiền mặt, chi phiếu đủ cả. Tiền bán miếng Ngư nhãn thạch đó.”

Quả nhiên đúng như tôi dự đoán. Lúc nhận tiền tôi đếm lại một lần, không thừa không thiếu đồng nào mới bỏ vào túi áo, nói: “Thay anh cám ơn chú nha.”

Cô bé lại lấy ra một tấm thiếp mời, đưa cho tôi: “Mai mốt chú Hải nhà em sẽ đến Hàng Châu tham gia một hội giám định đồ cổ. Chú bảo anh cũng đi theo luôn, có chuyện quan trọng cần bàn với anh.”

Tôi hỏi: “Mai mốt? Anh không chắc là lúc ấy sẽ rảnh đâu. Sao không nói chuyện trên điện thoại luôn mà phải thần bí thế?” Thực ra là vì tôi không muốn đi. Giám định đồ cổ là công việc rất ngán ngẩm, đối với người trong nghề chẳng qua chỉ là mấy lão già tán chuyện phiếm với nhau thôi, chứ thực chất làm quái gì có lắm điển cố điển tích đến thế. Đồ thật hay giả chỉ cần liếc mắt một cái là biết ngay rồi.

Tần Hải Đình xáp lại gần, hạ giọng thì thầm vào tai tôi: “Chú em bảo, chuyện này có liên quan đến con xà mi đồng ngư kia, không đi là hối hận đó.”

————————————————————

Vâng đến đây là phần 3 chính thức ngưng rồi, kế tiếp nhóm có làm phần 8 hay không vẫn còn chưa quyết. Trước khi tạm ngưng, mình xin tặng những ai từng có cảm tình với lão Dương nông rân ngố tàu một đoạn hội thoại nảy ra trong cơn hớn của edit và beta chương này. Fan Bình Tà đừng trách hai đứa mình thay lòng đổi dạ, lòng người đâu phải vàng đá mà đòi trơ lì với thời gian *trấm nước mắt* *né dép*

Mèo: đọc xong chương này vẫn chả hiểu lão Dương là cái giống gì :))

Gấu: =))))) là bản sao của lão Dương thật =))))

mà cũng chả hiểu giống gì nữa

Mèo: ý là cấu tạo sinh học của lão có giống người thường không í

Gấu: chắc lão là con ma =)))))))))

Mèo: biết lão là con ma cô vẫn cứ ship hả =))

Gấu: ship chuyện tềnh ma x người BE máo chó thú vị lớm mà

Mèo: =))) tôi thì tôi vẫn cứ ấn tượng chi tiết em Tà phát hiện ra lão là hàng nhái, giãy nảy lên đòi chia tay

lão thì cứ một mực “tui vẫn là lão Dương của cậu đây mà, chỉ cần cậu quên gã người thật kia đi là chúng ta lại vui vẻ với nhao như trước”

Gấu: =)))))))))))))

thật nà máo chó =)))))))))))))))

Mèo: mà em Tà bị thương những chỗ nào nhể

*tưởng tượng cảnh sơ cứu*

Gấu: *phụt máo mũi*

Mèo: nghe nói nước bọt người có tác dung chữa thương tốt lắm đúng ko

Gấu: *v*

nghe nói thế

bị rách da toàn liếm liếm phát là ngưng chảy máo ngay à

Mèo: thảo nào chóng lành thế

Gấu: lại còn là nước bọt của con ma *v*

=))))))))))

chắc là thần kỳ hơn nước bọt người thường

Mèo: chúng mình đang nghĩ đi đâu đây =)))

Gấu: =)))))))))

chúng mình đang hớn Dương Tà =))))))))

Mèo: tuôi phải trích đoạn hội thoại này đem dán xuống cuối chương 1 phần 4 =))

Gấu: =)))))))))

dán đi =))

hãy cùng tuyên truyền cp máo chóa Dương Tà nào

———————————————————-

Vâng, tóm lại là nhiệt liệt chào mừng bạn đến với đạo Dương Tà ạ, đạo này rất rộng lượng, bạn có thể ship thêm Bình Tà Hoa Tà cũng không sao hết, chỉ cần để dành một góc trong tim cho lão Dương nông rân nói lắp là được rồi. Anh ấy cũng chói lóa thua gì các giai khác trong truyện đâu :”>

Chương 2. Pháo hoa năm mới 2007

Editor: Earl Panda

Beta: Thanh Du

~0O0~

Quan hệ của tôi với lão Hải chẳng tốt đẹp đến mức không giấu nhau điều gì. Bình thường thỉnh thoảng cũng cùng nhau làm ăn vài mối, khi mới quen biết sơ sơ tôi gọi ông ta một tiếng “chú” cho ông ta chút thể diện. Thế mà bây giờ tự dưng ông ta muốn tiếp cận tôi thì quả là có vấn đề. Nghĩ thì thế, nhưng tôi không biểu lộ ra ngoài trước mặt cô nhóc kia. Thuận miệng đáp, tôi hỏi: “Sao thế? Ổng tra được tin tức gì à?”

Tần Hải Đình cười xấu xa: “Chú em bảo, đến lúc đó hẵng nói anh nghe, em cũng chẳng biết là chuyện gì xảy ra đâu, xin đừng dò hỏi nữa.”

Tôi chửi thầmmột tiếng trong bụng, cái lão già gian thương này hẳn là muốn lợi dụng kiếm chác gì đó đây.

Sang ngày thứ ba, quả nhiên lão Hải đến nơi. Tôi đón ông ta từ bến tàu hỏa, dẫn ông ta ra đường lớn tìm quán rượu. Lúc ở trên xe, tôi hỏi ông ta rốt cục đã nghe ngóng được tin tức gì, ổng mà dám lừa gạt tôi, nhất định tôi sẽ không tha cho ổng.

Lão Hải lạnh đến run lập cập cả người, nói: “Phép vua còn thua lệ làng, trên địa bàn của cậu tui sao dám lừa cậu cái gì. Cơ mà chúng ta đừng nói chuyện ở chỗ này, tui sắp chết cóng rồi đây.”

Tôi đưa ông ta đến một quán rượu, cất hành lý, tìm một bàn ngồi xuống. Sau đó gọi bình rượu nóng, uống mấy chén lót dạ, cuối cùng cũng ấm người lên được một chút.

Tôi nhìn ông ta nốc rượu ừng ực, biết ông ta no nê rồi, mới hỏi: “Được rồi, đã ăn uống no say, bây giờ thì nói đi, rốt cục ông đã tra ra chuyện gì rồi?”

Ông ta chép chép miệng, cười hì hì, rồi lấy từ trong túi hành lý ra một xấp giấy, vỗ vỗ lên bàn: “Xem cái này đi.”

Tôi cầm lên xem. Đó là một tờ báo cũ đã ố vàng, xem ngày tháng mới biết nó xuất bản năm 1974. Trên đó có dấu khoanh tròn một mẩu tin, là một bức ảnh đen trắng. Tuy nhìn không rõ cho lắm, nhưng tôi vẫn nhận ra trên ảnh chụp là một con xà mi đồng ngư, xung quanh còn có nhiều văn vật lẻ tẻ khác, hình như là một loại Phật châu tràng hạt gì đó.

Tuy nhiên hình dáng con cá này không giống với cái tôi có và cái của chú Ba. Đường vào ngôi mộ dưới đáy biển đặt một pho tượng, trên trán tượng chạm khắc một phù điêu hình ba con cá, con này hẳn là con nằm trên cùng của bức phù điêu. Nói vậy, tức là cả ba con cá này đều có thật. Tôi hỏi lão Hải: “Sao ông tìm được tờ báo này vậy? Đằng sau có bí ẩn gì chăng?”

Lão Hải nói: “Trong nhóm tui gần đây có một ông chủ lớn chuyên mua bán báo chí cũ, cậu biết đấy, kẻ có tiền muốn gì mà chả được. Cậu xem, đây là báo văn hóa Quảng Tây năm 74. Hắn muốn tui tìm đủ số báo từ tháng giêng đến tháng mười hai, tui phải lặn lội suốt hai tháng trời mới gom góp đủ đấy. Mấy hôm gần đây cần phải giao hàng, lúc kiểm tra lại, vừa nhìn lướt qua lại thấy ngay bản tin này. Cậu nói xem có khéo không cơ chứ? Tờ báo này ra năm 74, sang năm 75 là ngừng rồi, rất hiếm trên thị trường nha. Số cậu may thật đấy, tui mà không để ý chút nữa là xong hết luôn đó.”

Tôi liếc xuống nhìn chăm chú, phía dưới ảnh chụp là một mẩu tin ngắn dài khoảng ba trăm chữ, đại ý cá này tìm được ở Quảng Tây, trong một tòa tháp của một ngôi chùa Phật. Trải qua năm tháng mài mòn, đến một ngày ngọn tháp kia tự nhiên sụp xuống, lúc thu dọn đống phế tích người ta phát hiện ra một địa cung bên dưới. Trong địa cung có mấy quyển kinh thư đã ngấm nước nát rữa gần hết cùng một rương báu vật, trong rương lại chỉ có duy nhất con cá này. Các chuyên gia suy đoán rằng nó là di vật của tăng nhân nửa cuối thời Bắc Tống.

Bắc Tống? Tôi châm một điếu thuốc, dựa người vào ghế, trong lòng âm thầm suy tính. Giống xà mi đồng ngư này, con thứ nhất xuất hiện trong hầm mộ chư hầu cuối thời Chiến quốc, con thứ hai tìm thấy ở ngôi mộ dưới đáy biển thời cuối Nguyên đầu Minh, con thứ ba lại xuất hiện trong địa cung một ngôi Phật tháp thời Bắc Tống. Thế quái nào mà không gian thời gian lại chẳng liên quan gì đến nhau thế này.

Tôi lật giở mấy trang khác của tờ báo mới biết chỉ có mỗi mẩu tin về con xà mi đồng ngư thôi, nội dung còn lại cũng chẳng có gì mới mẻ. Tôi vẫn không biết gì về con cá này cả, nghĩ cũng thấy phiền muộn, bèn đứng lên.

Lão Hải nhìn vẻ mặt của tôi, mở lời: “Cậu đừng nhụt chí, tui còn nói chưa xong. Câu chuyện phía sau mới là đặc sắc nè.”

Tôi nhíu mày: “Là sao? Lẽ nào tờ báo này còn có thể moi móc biến hóa ra thêm thông tin gì nữa à?”

Lão Hải gật đầu, nói: “Ây dà, nếu có mỗi chuyện tờ báo thôi thì tui cần gì một thân một mình lết xác đến Hàng Châu tìm cậu, đúng không? Chuyện này ấy, còn phải kể từ lúc bắt đầu. Được rồi, cậu cũng đã qua lại quen biết nhiều, vậy có biết một người gọi là Trần Bì A Tứ không?”

Tôi nghe xong khẽ giật mình. Trần Bì A Tứ là một thổ phu tử nổi danh ở Trường Sa năm xưa, một tay sành sỏi, nhân vật tầm cỡ trong giới cùng với ông nội tôi. Nghe nói hiện giờ đã hơn chín mươi tuổi, kể từ khi mắt bị mù mười năm về trước đã không còn xuất hiện nữa, không rõ sống chết ra sao, chỉ biết ông nội tôi vẫn hay nhắc đến tên người này, có lẽ danh tiếng vẫn còn rất oách.

Có điều người này lại không giống với ông nội tôi. Ông ta là kẻ sống dựa vào lưỡi đao, không chỉ đơn giản trộm mộ thôi, mà bất cứ chuyện phóng hỏa giết người gì, miễn là có tiền, ông ta đều nhúng tay vào. Vì vậy thời trước giải phóng, người ta vẫn thường gọi ông ta là Thế Đầu A Tứ, ý nói ông ta giết người dễ như cạo đầu cắt tóc vậy, không hề do dự chút nào.

Nghe lão Hải nhắc tên người này, tôi có hơi bất ngờ. Bởi lẽ người này không phải nhân vật lớn cùng thời với bọn tôi, cho đến bây giờ tôi còn chưa gặp ông ta lần nào, chẳng nhẽ con cá này lại có liên quan đến ông ta? Câu chuyện phía sau xà mi đồng ngư, cho dù không liên quan đến tôi, nhưng chắc chắn cũng đáng để nghe kể một lần.

Lão Hải thấy tôi im lặng không nói câu nào, tưởng tôi không biết, bèn tiếp: “Chuyện của Trần Tứ gia cậu không biết cũng phải, ông ta vốn không phải người cùng thế hệ với chúng ta. Nhưng tui phải nói cậu hay, con xà mi đồng ngư trong tờ báo này là do chính tay ông ta lấy từ trong địa cung Phật tháp ra đấy. Sự tình không hề đơn giản như trong tờ báo nói đâu.” Nói đoạn ông ta liền kể lại chuyện năm xưa, có giản lược đi đôi chút.

Hóa ra năm 1974, Trần Bì A Tứ cũng đã gần sáu mươi tuổi. Khi ấy mắt của ông ta còn chưa bị mù, mà đó lại là thời kỳ mười năm loạn lạc. Do năm xưa, trước giải phóng, ông ta đã từng làm trung đội trưởng trong quân của Quốc Dân Đảng, sau lại có mấy năm làm thổ phỉ, cho nên thân phận ông ta là bất hợp pháp, chỉ cần bắt được là có quyền giết ngay tại chỗ. Vì vậy, ông ta chỉ có thể hoạt động tại vùng dân tộc thiểu số ở Quảng Tây, ngay cả thị trấn cũng không dám tiến vào nửa bước.

Vào đầu những năm Tứ cựu[1], rất nhiều di tích cổ đã bị đập phá gần hết. Trần Bì A Tứ đi qua rất nhiều địa phương ở Quảng Tây, bởi vì Quảng Tây thời cổ không được coi là thuộc Trung Nguyên, cũng không có mấy cổ mộ, cho nên trong suốt những năm đó, ông ta có thể nói là sống cũng hiền lành, trung thực. Nào ngờ năm ấy khi ông ta vừa kéo xe đòn chở hàng qua chốt kiểm kê lại tình cờ nói chuyện phiếm với mấy người dân tộc Mèo. Mấy người đó uống rất nhiều, có nhắc đến chuyện tòa tháp của ngôi chùa trong núi Con Mèo đã sụp, gây ra tiếng động rất lớn, cả nền đất cũng sụt xuống, lún thành một cái hố sâu hút. Đêm tòa tháp bị sụp, nhiều người còn nghe được tiếng kêu thảm thiết rất kỳ dị.

Trần Bì A Tứ nghe vậy thì lấy làm lạ, ông ta đã đến núi Con Mèo rất nhiều lần, ngôi chùa ở đó được tu sửa vô cùng kiên cố, sao lại có chuyện tòa tháp chùa bị sụp được? Hỏi ra tỉ mỉ mới hay, tòa tháp này cũng không hẳn là ở trên núi Con Mèo, mà nằm ngay ở rìa trung tâm của một ngọn núi gọi là “Núi Phật nằm”. Nơi này rất kỳ quái, bốn phía xung quanh đều là xóm làng, nhưng chính giữa lại là một vùng lòng chảo diện tích chừng hơn mười km vuông, độ cao so với mực nước biển rất thấp, bên trong cây cối rậm rạp, tán cây che phủ toàn bộ bầu trời. Thôn xóm nằm trên vách núi, rừng cây ở dưới vách núi, khoảng cách chênh lệch chỉ hơn một trăm mét nhưng lại là hai thế giới hoàn toàn khác nhau. Hơn nữa cũng không có đường từ thôn xóm xuống phía dưới, muốn xuống vùng trũng này chỉ có cách dùng dây thừng đu xuống.

Dân bản xứ nói chắc chắn là có đường vào vùng lòng chảo này, nhưng vì cây cối ở đây quá rậm rạp, đi lại khó khăn. Trước đây người Mèo thường xuống đó để săn thú và hái thuốc, nhưng thường những người vào trong đều biến mất một cách kỳ lạ, cho nên nếu không có việc quan trọng thì chẳng ai muốn xuống dưới đó làm gì.

Tháp cổ kia được xây dựng đúng ở nơi này. Gần như nằm ở ngay trung tâm của vùng lòng chảo, bình thường mọi người đứng từ trên vách núi trông xuống chỉ có thể nhìn thấy xa xa mái nhọn của ngọn tháp nhô lên giữa các tán cây rậm rạp. Hơn nữa, ngọn tháp bị cây cối dây leo bám đầy, phần bên dưới không thể nhìn rõ được. Người Mèo nói hơn mười đời trước đã biết nơi này có một ngọn tháp, thế nhưng không ai nghĩ đến việc trèo xuống dưới đó xem, cho đến giờ đã thành thông lệ rồi. Một ngày gần đây bỗng dưng có tiếng nổ lớn, chạy ra nhìn đã không còn thấy mái nhọn của ngọn tháp nữa, bấy giờ mới biết nó bị sụp. Về phần ngôi tháp cổ này, dân bản xứ có rất nhiều giai thoại. Theo lời một người già kể lại, ngôi tháp cổ này trước đây do một cao tăng xây nên, dùng để trấn yêu, giờ tháp sụp, yêu quái sẽ tràn ra ngoài làm điều ác. Tiếng gào thét thảm thiết quái lạ kia chính là tiếng yêu quái giãy giụa thoát khỏi kết giới.

Trần Bì A Tứ nghe xong cảm thấy cực kì hào hứng. Ông ta mơ hồ có cảm giác vị trí của ngọn tháp và tiếng kêu mà người Mèo nghe thấy lúc nửa đêm kia có vẻ không hợp lý. Hễ là kiểu người như ông ta đều có trực giác rất lạ, có thể suy ra được thông tin từ lời kể của người khác, cộng thêm một chút bản năng nữa. Về điểm này, ở thế hệ chúng tôi khó mà tìm được một người như thế.

Trần Bì A Tứ suy nghĩ một lúc, rồi quyết định đi xem xét thêm.

Quảng Tây núi non trùng điệp, có thể nói là đứng đầu cả nước. Trong đó, núi Con Mèo có địa thế quan trọng: dãy núi vắt ngang qua ba huyện Hưng An, Tư Nguyên, Long Thắng; là đầu nguồn của ba nhánh sông Ly Giang, Tư Giang, Tầm Giang, và kế tiếp đó là hai hệ sông lớn Trường Giang, Châu Giang. Nơi này có rừng nhiệt đới nguyên sơ rất rộng lớn, trong đó có ngọn núi lớn nhất chính là cao điểm Lão Sơn, là nơi năm xưa Hồng quân Trung Quốc từng trường chinh đánh địch 

(Việt :’<)

. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, nhiều máy bay ném bom của đội Phi Hổ đến viện trợ đã mất tích một cách bí ẩn ở đây, vì vậy nơi này còn có nhiều lời đồn thổi ma quái.

Trần Bì A Tứ đi qua nhiều con đường vòng vèo trắc trở mới đến được một ngôi làng trong núi Phật Nằm. Đứng trên một mô đất cao, nhìn xuống vùng đất trũng ở giữa với núi non bao bọc xung quanh, mẹ kiếp, ngọn tháp kia còn lớn hơn cả những gì ông ta đã tưởng tượng. Tháp sụp đè lên làm đổ gãy nhiều cây cối, cho nên giữa cả một vùng rừng rậm xanh mướt tự dưng xuất hiện một khoảnh trống trơn. Đứng trên núi Phật Nằm không thể nhìn thấy vùng đất trống đó có gì, thế nhưng Trần Bì A Tứ vừa nhìn đã gần như phát hiện ngay ở vùng tháp bị sụp đó cây cối đều bị lún xuống đất, trông rất lộn xộn. Xem ra bên dưới ngọn tháp quả nhiên còn có thứ gì đó, hơn nữa, nó còn lớn hơn cả ngọn tháp.

Tôi nghe đến đây đã biết đó chính là “Kính Nhi Cung”. Kính Nhi Cung là tiếng địa phương của người Trường Sa trước giải phóng gọi những kiến trúc nằm dưới lòng đất với quy mô và cấu trúc giống hệt như trên mặt đất, trông giống một cái bóng phản chiếu của tòa nhà xuống mặt hồ vậy, trên dưới hai đầu đều đối xứng nhau chằn chặn.

Kính Nhi Cung, Bắc phái còn gọi là Thoi Âm Dương, ý chỉ tổng thể kiến trúc giống như một con thoi cắm trên mặt đất, một đầu là cõi âm, một đầu là dương gian. Có điều, ngôi cổ mộ hoặc công trình cổ này cực kỳ hiếm, bởi vì đa phần các di tích trên mặt đất đều đã bị phá hủy cả. Do vậy, cách nói này từ mười năm trước Giải Phóng đã không còn được ai sử dụng.

Trần Bì A Tứ chỉ cần nhìn cây cối thay đổi dần theo thứ tự là biết ngay thứ được chôn phía dưới chính là Kính Nhi Cung. Khả năng phán đoán bậc này, nếu không phải là một người có bề dày kinh nghiệm thì không thể nào làm được. Tôi không khỏi thầm than một tiếng, rồi định thần lại, tiếp tục nghe lão Hải kể chuyện.

Lòng tham nổi lên, Trần Bì A Tứ đã hạ quyết tâm. Địa cung bên dưới Phật tháp chỉ có thể có ba loại: xá lợi, kim thân của cao tăng nào đó, hoặc là kinh Phật với số lượng khổng lồ. Cái gì cũng đều vô giá cả.

Tuy nhiên, ông ta lại không phải người địa phương, hoạt động ở vùng này không thuận tiện. Thứ nhất, ông ta thân phận đặc biệt, xuất thân không tốt, thứ hai, thời đó hai tộc người Mèo và người Hán vẫn còn đang tranh chấp không ngừng, mấy ngôi làng ở đây đều là của người Mèo, nếu đi bậy vào có thể sẽ khiến người khác nghi ngờ.

Cân nhắc hết lần này đến lần khác, cuối cùng ông ta nghĩ ra được một kế sách. Ông ta bỏ nhiều tiền thuê một người Mèo địa phương dẫn đường, tự xưng mình là cán bộ trí thức lão thành từ bên ngoài về đây chi viện cho vùng biên giới[2], cách đây không lâu có một học trò của mình bị ngã xuống vách núi này. Người Mèo tính tình chất phác, không rành sự đời, nào có biết đây chỉ là quỷ kế. Anh ta vừa nghe có người bị ngã xuống núi, đã lập tức thông báo cho cả làng. Những thanh niên trai tráng người Mèo hò nhau buộc dây thừng vào một cái gùi, thả Trần Bì A Tứ cùng vài người thanh niên đi theo hỗ trợ lần lượt xuống vách núi.

Theo trí nhớ của Trần Bì A Tứ, lúc đi xuống hơn trăm mét vực này giống như là đang bước chân xuống âm tào địa phủ. Vách núi vô cùng hiểm trở, thể trọng của người khiến mấy sợi thừng căng sít, đặt mông ngồi trong gùi, chỉ cần một ngọn gió thổi qua là cả người lại bồng bềnh xoay tròn như con quay, cực kỳ chông chênh. Cho đến khi ông ta đi qua tầng tầng tán cây dày đặc, xuống tận đáy rừng sâu, thì cũng chỉ còn lại nửa cái mạng.

Dưới tán rừng rậm u ám tối tăm hầu như không thấy ánh mặt trời, trong không khí lại lởn vởn mùi khí metan. Ở đây cây cối có rất nhiều loại, nhưng xuất hiện nhiều nhất vẫn là rêu xanh. Bùn đất rất xốp, gần như không thể đứng thẳng được.

Sau khi xuống đến nơi, Trần Bì A Tứ giả bộ mình bị kiệt sức (thực ra là sợ quá nên giấu thôi), ra một chỗ mà ngồi thở dốc. Thủ lĩnh người Mèo trông ông ta không còn trẻ nữa, có thể nói là sắp thành lão già đến nơi rồi, nên cứ để ông ta ngồi đó chờ, còn mình thì đốt đuốc cùng những người khác lùng sục, tìm kiếm theo phương hướng mà ông ta đã chỉ.

Khi đám người vừa đi khỏi, Trần Bì A Tứ lập tức móc ra một cái la bàn, dựa theo vị trí đã ghi nhớ trước đó, chui vào sâu trong khu rừng thẳm. Ông ta ước lượng, khu rừng này tương đối rộng, người Mèo muốn đi hết cũng mất cả buổi tối, với bản lĩnh cả ông ta, hẳn chừng đó thời gian cũng đủ để tìm được lối vào Kính Nhi Cung rồi quay về chỗ cũ. Chỉ có một điều đáng tiếc là lúc này ông ta lại không có đầy đủ trang bị cần thiết, có thể vào đến nơi hay không còn phải xem phúc phận ông ta thế nào đã.

Lơ ngơ đi trong rừng suốt bốn tiếng đồng hồ, dựa vào la bàn cộng với tính quyết đoán có được từ bao nhiêu năm lăn lộn vào nam ra bắc, Trần Bì A Tứ cuối cùng cũng đến được vùng núi Phật Nằm trong kế hoạch, hay cũng chính là một tòa tháp bốn cạnh – di tích của ngôi chùa xưa.

Càng bước sâu vào trong, Trần Bì A Tứ càng thấy nhiều những mái hiên trơ trọi hay các bức tường đổ nát, hiển nhiên kiến trúc cổ ở đây đã chẳng còn sót lại chút gì, chỉ còn lại một ít nền với tường vỡ, hòa lẫn cùng với thảm thực vật dày đặc ở nơi đây, không thể nhìn rõ kiến trúc ban đầu là gì. Tuy nhiên xem quy mô thì ngôi chùa này phải có diện tích vô cùng rộng, ngọn tháp kia bị đổ ắt phải chiếm một khoảng đất rất lớn, nhưng đứng từ nơi đây vẫn khó lòng thấy rõ được vị trí cụ thể của nó ở đâu.

Trần Bì A Tứ đã không còn trẻ, đi loanh quanh hồi lâu cũng bắt đầu nhụt chí. Đang định ngồi xuống nghỉ ngơi, bỗng trước mắt lóe lên một cái, ông ta thấy trong bụi cỏ bên cạnh một mặt tường vẫn còn nguyên vẹn đặt một cái bao. Cái bao ấy bỗng dưng khe khẽ động đậy, bên trong bao hình như còn bọc thứ gì đó. Trần Bì A Tứ giật mình hoảng sợ, nhảy bật ra ngoài, đồng thời bắn một viên đạn sắt về phía cái bao. Đến khi nhìn lại, chỉ thấy trong cái bao nơi vách tường đầy dây leo có một thi thể người Mèo đã khô quắt. Thế nhưng, phần bụng thi thể không biết vì sao lại hơi hơi động đậy, như thể bên trong có thứ gì đó đang quẫy đạp.

Chú thích.

[1] Tứ cựu: hay còn gọi là “Diệt bốn cái cũ”, khẩu hiệu đấu tranh trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa. Bốn điều cần diệt là “tư duy cũ”, “văn hóa cũ”, “thói quen cũ” và “phong tục cũ”.

[2] Sinh viên/ cán bộ Đảng được cử về miền biên cương giúp xây dựng, kiến thiết cuộc sống, dạy học, vv trong thời kỳ sau Giải Phóng. Giống như VN mình sau Giải Phóng cũng có thời kỳ vận động các phần tử trí thức lên Tây Bắc xây dựng cuộc sống mới ấy mà =]]]]]]]

———————————————

Chương 3. Kính Nhi Cung.

Editor: Earl Panda

Beta: Thanh Du

~0O0~

Đối với Trần Bì A Tứ, gặp người chết là chuyện hết sức bình thường. Không phải xác ướp bánh tông mò ra từ cổ mộ thì cũng là kẻ xấu số do chính ông ta giết hại, đếm sơ sơ cũng không hết. Ông ta quay ra nhìn thấy cái xác, tinh thần liền thả lỏng, bụng nhủ thầm chả biết thằng quỷ xui xẻo nào lại lăn ra chết ở chỗ này, đã thành con mực khô rồi mà còn đi hù dọa người ta.

Tuy nghĩ vậy nhưng Trần Bì A Tứ tay vẫn kẹp một viên đạn sắt. Tuyệt chiêu tay không bắn đạn sắt ông ta đã khổ luyện từ bé, đến giờ có thể nói là bách phát bách trúng, hơn nữa, viên đạn ông ta búng ra bay đi với tốc độ cực nhanh, người thường có lẽ còn chưa kịp nhìn thấy động tác của ông ta thì đã bị bắn cho mù mắt luôn rồi.

Nhìn trang phục của thi thể người Mèo này, có thể chắc chắn anh ta đã chết không mười năm thì cũng phải đôi ba năm rồi. Về cơ bản, quần áo đều đã mục nát hết, chẳng qua phần lớn thi thể bị mấy loại cây họ dương xỉ, ba địa[1] và rong rêu mục bao phủ nên phục sức đặc trưng của người Mèo vẫn còn khá nguyên vẹn. Nhưng trải qua bao nhiêu năm dầm mưa dãi nắng như thế, không hiểu sao thi thể này vẫn chưa bị phân hủy hết, mà trông chỉ như bị hao đi chút nước thôi?

Phần bụng thi thể vẫn còn hơi cử động, Trần Bì A Tứ càng nhìn càng thấy quái lạ. Ông ta là người có cách hành sự đặc biệt. Ví như nếu là tôi lúc ấy thì chắc chắn đã quay đầu bỏ chạy từ lâu rồi, nhưng Trần Bì A Tứ từ nhỏ đã tôn thờ câu “tiên hạ thủ vi cường”, ông ta trong đầu vừa nghĩ, tay đã “Bụp bụp bụp” búng ra ba viên đạn, cả ba viên đều nhắm vào trúng vùng bụng của thi thể, trong lòng nghĩ, mặc kệ mày là cái quái gì, cứ đánh chết đã rồi tính.

Lực bắn của viên đạn sắt cực mạnh, hầu như khiến thi thể bị đánh nát làm hai nửa. Nửa người dưới vừa tách ra, Trần Bì A Tứ tức thì nhìn thấy bên trong trào ra một loại chất nhầy màu vàng không biết tên, bọc bên ngoài một lượng trứng rất lớn. Không ít trứng đã được ấp nở, biến thành một đống sâu màu trắng giãy dụa trong chất nhầy. Nhìn thoáng qua, trông nó có vẻ giống một thứ mà ông ta vô cùng quen thuộc: tổ ong. Ngay sau đó, từ vết thủng trên thi thể người túa ra một đàn ong địa hoàng[2].

Trần Bì A Tứ chửi một tiếng, trong bụng thầm than thật xui xẻo, hóa ra là ong địa hoàng làm tổ trong thi thể này. Nọc của ong địa hoàng có độc tính rất mạnh, lại cực kỳ hung dữ, đúng là số ông ta quá đen.

Mắt trông thấy ong địa hoàng bắt đầu túa ra thành cả một màn sương đen đặc, Trần Bì A Tứ bỗng cái khó ló cái khôn, lôi từ trong ba lô đồ tùy thân ra một cái xẻng gấp của quân giải phóng, xúc một xẻng đầy đất bùn ẩm, hất mạnh lên vết thủng của thi thể hòng lấp hết đám ong địa hoàng đang ào ào túa ra, sau đó xoay người bỏ chạy.

Đám ong địa hoàng đã ở bên ngoài liền ùa lên, ông ta vừa dùng quần áo đập liên tục, lại vừa chạy loạn không cần nhìn phương hướng. May mà ban nãy nhanh tay xúc một xẻng đất bùn nên mới chỉ mất có mấy cái túi. Chờ đến khi ông ta dừng lại để thở gấp, phủi phủi mấy con ong địa hoàng còn bám lại trên người, nhìn quanh quất thì không biết mình đã chạy đến nơi nào rồi.

Trần Bì A Tứ rút mấy con ong đã kịp đâm vào người mình, cơn đau buốt ập đến khiến ông ta phải nghiến răng. Trong bụng vẫn thấy quái lạ, tại sao trong xác chết lại có ong địa hoàng làm tổ nhỉ? Loài ong độc này thường sống dưới lòng đất, giống như loài kiến vậy. Vào sâu trong rừng mưa Quảng Tây, đôi khi còn có thể nhìn thấy hàng đống tổ ong nhấp nhô như những ngọn đồi con con. Người đi đường không biết, lại tưởng tổ kiến, đào lên tìm kiến, thế là trong khi anh ta còn chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra thì đã bị đàn ong xâu xé đến mức biến thành một quả bóng gai.

Ở mảnh đất Vân Nam, Quảng Tây này, đối với kiến thức về côn trùng sâu bọ thì người thường cũng không hiểu biết nhiều, Trần Bì A Tứ chỉ có thể tự trách số mình quá xui. Ông ta vừa tự xử lý vết thương, vừa quan sát xung quanh. Sau khi leo lên một gò núi, ông ta bỗng ngây ngẩn cả người.

Chỉ thấy một ngọn tháp bằng đá rất lớn sụp xuống ngay trước mặt, dưới chân gò núi mà ông ta đang đứng. Có vẻ như thân tháp vốn có sáu cạnh đều nhau (không thể thấy rõ được), đồ sộ hùng vĩ, xà rộng, mái xen mái[3]. Dùng dao gạt hết lớp rêu xanh và cây leo quấn trên bề mặt ra, ông ta mới thấy trên thân tháp có khắc những bức phù điêu bằng đá vô cùng tinh tế. Tuy nhiên, tòa tháp này rõ ràng đã từng bị thiêu hủy, cho nên tất cả các bộ phận còn lại của tòa tháp đều có những vết cháy sém màu đen, có thể vụ cháy chỉ là do tai nạn.

Toàn bộ thân tháp, nóc tháp và chóp tháp[4] đều rạn nứt cả, sau cơn sụt lún đã đổ vỡ thành nhiều khối đá lớn. Thân tháp quá nặng, một phần của tháp lún hẳn xuống lớp bùn đất của khu rừng mưa. Từ dưới chân tháp, cây cối chen nhau mọc lên nhiều không kể xiết.

Trần Bì A Tứ mình đầy kinh nghiệm, biết loại tháp này gồm có địa cung, chân tháp, thân tháp, đỉnh tháp và chóp tháp cấu tạo nên. Chóp tháp nằm ở nơi cao nhất của ngọn tháp, trên chóp có tu di tọa, ngưỡng liên, phúc bát, tương luân và bảo châu[5]. Phía trên tương luân còn có bảo lọng, viên quang, ngưỡng nguyệt[6] và bảo châu. Nói chung, trên đỉnh tháp này hẳn là có một thứ gì đó như châu ngọc, cực kì có giá trị.

Ông ta đi dọc theo thân tháp, đến bên cạnh chóp tháp. Có lẽ khi bị đổ, chóp tháp đã đụng trúng phải một cây Vân sam cao lớn, kết quả là chưa rơi xuống đất đã gãy, đầu chóp cắm ngập vào đất, tu di tọa thì vỡ vụn. Trần Bì A Tứ xem xét mức độ hư hại, xác định bảo châu chắc chắn giờ đã biến thành “bảo bánh” rồi, chả còn giá trị gì nữa.

Ông ta lại đi xuống phía chân tháp, ở đây có một phần của đoạn tháp vẫn còn nguyên vẹn. Bò vào thì chỉ thấy bên trong toàn đá vụn, phía dưới chắc chắn có địa cung. Đáng tiếc, đường xuống địa cung đã bị phong kín ngay từ khi bảo tháp được dựng nên, hơn nữa, tháp sụp xuống khiến cả tấn gạch đá vùi lấp mất đường xuống, chỉ với một cái xẻng, muốn đào đến địa cung có khi phải mất nửa năm là ít.

Trần Bì A Tứ nhìn la bàn, lúc xuống dưới này đã là chạng vạng, sắc trời u ám, còn giờ đây trăng đã treo đỉnh đầu. Mình không mang đuốc, mà giờ đã đi xa như vậy, chẳng biết phải về đường nào, xem ra phải giả vờ bị lạc đường rồi chờ người Mèo đến cứu thôi. Nghĩ đoạn, ông ta kiếm một cành cây gãy và ít lá khô, nhóm một đống lửa trại nhằm thu hút sự chú ý của người khác, còn mình thì lại chui vào chân tháp, bò lên nơi cao nhất để trông ra bốn phía xem mình đang ở nơi nào.

Căn cứ vào hình ảnh núi Phật Nằm khi nhìn từ trên cao xuống, cộng với phán đoán của riêng mình, vị trí lúc này của ông ta hẳn là nơi cây cối mọc lộn xộn nhất. Mặt đất ở đây hình như hơi trũng hơn so với bốn phía xung quanh một chút, đó là vì cửa địa cung bị đất tạp (đất bụi từ kiến trúc, đất bụi theo thời gian) vùi lấp mất, cũng là vì khí hậu đặc trưng của Quảng Tây khiến các tầng đất chứa nhiều nước, không rắn chắc. Hơi nước càng thấm vào sâu, bùn đất ở dưới càng hình thành nhiều bọt khí, có một lực lớn tác động lên là cả tầng bùn đất đó sụp lún xuống như đập bẹp một cái bánh bao không nhân.

Như vậy, Trần Bì A Tứ lập tức rút ra hai kết luận. Thứ nhất, địa cung này lớn, nhưng không sâu, giờ chỉ cần không quá hai mươi phút là đào xuống đến nơi. Thứ hai, bùn đất này tương đối xốp, sẽ không làm tiêu hao quá nhiều sức lực.

Lúc này, ông ta liền lâm vào do dự, rốt cuộc có nên vào địa cung này rồi hẵng trở ra hay không. Thực ra, để sau này hẵng quay lại đây cũng không phải chuyện khó khăn. Nhưng Trần Bì A Tứ, cũng như tất cả những tên trộm mộ khác, một khi đã biết rõ dưới đó có gì thì tuyệt đối không thể kìm được lòng hiếu kỳ.

Cuối cùng, ông ta cắn răng một cái, nghĩ bụng thôi kệ mẹ nó, nghĩ nhiều làm gì, thứ dưới lòng đất này ông đây đã thèm muốn rồi, lát nữa đám người Mèo mọi rợ kia mà tìm được đến đây, ông giết hết rồi ném vào địa cung thì có mà trời biết đất biết không ai biết.

Trần Bì A Tứ lấy cái xẻng gấp ra. Ông ta không mang theo xẻng Lạc Dương, cũng không có cách nào để định vị, với lại Phật tháp này suy cho cũng cũng là của hiếm. Bên trong không có quan tài, cũng không có thứ của nợ gì nhảy xổ ra, cho nên ông ta dựa vào trực giác, bắt đầu đào một lối vào ngay sát chân tháp.

Rất nhanh, ông ta đã chạm đến nóc địa cung. Nóc địa cung lại không dùng đá tảng xây nên, mà dùng cả thân cây cắt thành những khối vuông đều chằn chặn, đắp lên làm nóc. Ông ta mừng quýnh, dùng cưa khoét một góc khúc gỗ, tức thì khúc gỗ mục nát liền rơi vào bên trong địa cung, không lâu sau vọng lên tiếng vang. Ông ta liền cuống quít lấy đèn pin ra, soi vào bên trong.

Kính Nhi Cung quả đúng như tên, mặt trên có bao nhiêu tầng tháp, mặt dưới có từng ấy tầng địa cung, cho nên địa cung này cực kỳ sâu. Từ trên cao nhìn xuống, ở giữa mỗi tầng không có sàn gác, chỉ thấy phía dưới đen kịt, tối như hũ nút.

Đèn pin chiếu xuống chỉ thấy những làn sương trăng trắng, chẳng biết bên dưới là cái gì.

Trần Bì A Tứ nhớ đến lời của mấy người Mèo nói, phần dưới tháp để trấn giữ yêu quái, cũng không khỏi có chút lo lắng. Tuy nhiên, lo lắng qua mau, hiện tại chỉ có nhiệt huyết dâng tràn. Ngay lập tức, ông ta liền cảm thấy không khí trong địa cung không thành vấn đề. Ông ta móc hai chân vào khúc gỗ trên nóc đỉnh, xoay người treo ngược thân mình như một cái lưỡi câu, đầu hướng xuống lòng địa cung, sức nặng toàn thân đều dồn cả vào hai chân.

Sau khi treo người xuống, trước tiên, ông ta chỉnh lại tư thế một chút, rồi chiếu đèn pin lên vòm trần bằng gỗ của địa cung. Loại địa cung kiểu này bố trí rất nhiều cơ quan, cách thức có phần giống cổ mộ, có lẽ chứa rất nhiều trang sức. Trần Bì A Tứ chiếu đèn pin một vòng, chợt phát hiện trên trần gỗ của địa cung có khắc một lượng kinh văn đồ sộ.

Kinh văn khắc vào gỗ, quét lên một lớp sơn son, chính là chữ Phạn. Trần Bì A Tứ chữ Hán còn chả biết nhiều, kinh văn gì gì đó đương nhiên là xem không hiểu.

Thế nhưng, bản năng cho ông ta biết đây quả thực là thứ để trấn ma hay hàng yêu gì đó, trong lòng không khỏi thầm than, không biết cái địa cung này để phong ấn thứ gì đây?

Nhìn xuống dưới nữa, ông ta mới thấy rõ hơn. Mỗi một tầng đều có một vòng tường bao quanh nhô lên cao, từ trên nhìn xuống, từng tầng từng tầng xếp đều nhau trông như một cái bậc thang khổng lồ. Mỗi tầng đều có những bức tượng La Hán mặc tăng bào màu đen kích cỡ như nhau, màu sắc sặc sỡ, vô cùng tinh xảo. Tất cả các pho tượng đều cúi đầu, nhìn xuống dưới đáy địa cung tối mịt. Toàn bộ địa cung tổng cộng có hơn mười tầng, mỗi tầng đặt đầy các bức tượng La Hán với đủ loại động tác, tư thế, phỏng chừng phải hơn trăm pho.

Trần Bì A Tứ nhìn những bức tượng La Hán này, trong lòng cực kì căng thẳng, nhưng lại không rõ mình đang sợ hãi cái gì, trong đầu không khỏi nảy lên ý định lùi bước.

Chiếc đèn pin trong tay lại tiếp tục di chuyển, ông ta muốn nhìn xem ngoài mấy bức tượng La Hán thì còn gì nữa không. Lúc này, đột nhiên tay ông ta cứng đờ, ánh sáng từ đèn pin dừng lại, chiếu thẳng vào một vị trí.

Cách ông ta chừng sáu bảy tầng, ở một vòng tường nhô lên cao, có một bức tượng La Hán vô cùng quái gở. Bức tượng La Hán này hoàn toàn không giống mấy bức tượng khác, khuôn mặt không nhìn xuống dưới địa cung mà lại ngẩng đầu lên, mặt đối mặt thẳng với Trần Bì A Tứ, chòng chọc theo dõi ánh mắt đang nhìn khắp xung quanh của ông ta. Ánh đèn pin vừa chiếu tới, khuôn mặt trắng bệch dữ tợn lập tức hiện ra, nếu không phải bức tượng đứng im không nhúc nhích gì thì xém chút nữa ông ta còn tưởng mình gặp ma quỷ rồi.

Trần Bì A Tứ sợ đến lạnh cả xương sống, trong phút chốc không dám động đậy gì nữa, hai chân cũng như nhũn ra, người bắt đầu trượt xuống.

Nói đến ma quỷ, Trần Bì A Tứ thật ra không sợ gì cả. Ông ta đã giết quá nhiều người, có thể nói là tội ác tày trời, sao vẫn chưa thấy con ma nào hiện về báo thù? Tuy nhiên, ở cái thời của ông ta, ít nhiều cũng bị ảnh hưởng bởi tư tưởng mê tín dị đoan. Trần Bì A Tứ cho rằng, mình có thể hồ đồ suốt nhiều năm như vậy, âu cũng là do tổ tiên phù hộ.

(Con người, chung quy cũng đều có một phần tín ngưỡng, người hành nghề bất chính[7] thì bái Quan Công. Trong giới trộm mộ, người Bắc phái bái thần Chung Quỳ, Nam phái thì không, nhưng ở Trường Sa có người giải thích rằng, người Nam phái đã từng có thời bái lạy Hoàng Vương.

Hoàng Vương là gì? Hoàng Vương, hay Hoàng Sào, “Mãn thành tận đái hoàng kim giáp”, chính vị này. Vì sao lại bái người này? Nghe các bậc trưởng bối nói, có nhiều lý do. Thứ nhất, người này có thể nói là kẻ giết người hạng nhất. Dân gian lưu truyền: Hoàng Sào giết tám trăm vạn (8 triệu) người, đều là những người tai kiếp mệnh khó thoát. Tức là ý gì?  Chính là ý, ông ta giết người là giết có chỉ tiêu, có mức độ, không giết hết tám trăm vạn thì không hoàn thành nhiệm vụ. Ngoài ra, không biết là tiểu thuyết nào viết, hay chính là truyền thuyết dân gian Trung Quốc nói quá lên, rằng Hoàng Sào chính là La Hán Mục-kiền-liên (không phải Dịch Kiến Liên) chuyển thế, vị này đã vì cứu mẹ mình khỏi địa ngục mà giải phóng mất tám trăm vạn ngạ quỷ, vì vậy, Phật Tổ để ngài chuyển thế, giết tám trăm vạn người đền bù cho địa ngục. Nói cách khác, ngài trở về là thay Phật Tổ tuyển dụng nhân công lao động =]])

Một pho tượng ngẩng mặt ông ta cũng không sợ gì, thế nhưng, khuôn mặt ấy khéo làm sao lại đối diện ngay với mặt ông ta, ông ta cảm thấy có nét gì đó quái lạ. Lẽ nào ngay lúc xây địa cung, người thiết kế đã đoán được vị trí ông ta đào xuống, bèn sắp xếp bức tượng như thế để dọa ông ta sợ mất mật chơi?

.

.

Chú thích.

[1] ba địa: một loại thực vật họ bách, tên khoa học là Sabina procumbens.

[2] ong địa hoàng: một loại ong thuộc tỉnh Quảng Đông, loại này chủ yếu chia ra làm hai giống. Một giống gọi là “ong quỷ đầu” vì phần bụng eo có màu đen, hung dữ, độc tính rất mạnh. Loại còn lại là “ong hoàng yêu” vì phần bụng eo màu vàng, không chỉ hung dữ và độc tính rất mạnh mà còn có thể làm tổ ở trên mặt đất nữa. Loại trong truyện nhắc đến chính là loại ong hoàng yêu này.

[3] nguyên là “mật diêm”: một loại tháp Phật với các mái hiên xếp lớp, đa số thường xây với kết cấu bằng đá.

[4] chóp tháp (nguyên là “tháp sát”), là thứ để trang trí, nằm ở trên chóp cao nhất của Phật tháp.

[5] Trong hình, bắt đầu tính từ chóp tháp trở lên trên: tu di tọa ~> ngưỡng liên ~> phúc bát ~> tương luân ~> ngưỡng nguyệt ~> bảo châu.

[6] Bảo lọng là cái lọng quý:

Viên quang là viên luân kim quang trên đầu Phật. Ở đây nó mang nghĩa là đồ trang trí hình tròn vòng trên chóp tháp trông như viên quang.

Ngưỡng nguyệt là bộ phận hình trăng lưỡi liềm hướng lên trời của chóp tháp.

[7] nguyên văn là “ngoại bát hành”, thời cổ đại có ba trăm sáu mươi nghề, thì “ngoài bát hành” không thuộc nghề nào trong số này, không thuộc loại nghề nghiệp đứng đắn, không thuộc loại công nông binh học thương. “Ngoại bát hành” gồm có: kim điểm, khất cái, cướp đường, ăn trộm, đổ đấu, sơn tặc, lĩnh hỏa, thải thủy, xưng là “ngũ hành tam gia”. Kim điểm là bọn tướng số, đổ đấu là bọn trộm mộ, sơn tặc mánh khóe bịp người, lĩnh hỏa thông thạo thuật dùng cổ/ trùng độc, thải thủy làm quan kỹ.

Chương 4 – Hơn một người

Editor: Phoebe Irene

Beta: Thanh Du

~0O0~

Trần Bì A Tứ càng nghĩ càng thấy sợ, nhưng ông ta đã ở tuổi năm mươi gần sáu, kinh nghiệm sành sỏi chừng ấy năm đương nhiên tôi không thể so sánh. Sau sợ hãi chắc chắn sẽ là yếu đuối, ông ta tự nhủ đồ con lừa, nhìn cái gì mà nhìn, thế rồi tay nhanh như chớp lấy ra mấy viên đạn sắt, hai chân dùng lực cố định cơ thể, bắn đoàng đoàng hai phát đánh thẳng vào bức tượng La Hán mặt trắng ngước lên nhìn trời kia.

Tôi đã nói rồi đó, phương châm sống của Trần Bì A Tứ chính là tiên hạ thủ vi cường, những lời này ông nội tôi đã nhắc đi nhắc lại không dưới một lần. Có thể nói trên giang hồ vốn là như thế, đạo lý này tưởng chừng đơn giản nhưng lại vô cùng hữu dụng. Hai viên đạn sắt bắn ra không hề nương tay, bỗng nghe hai tiếng trầm đục, thì ra đã bắn trúng mắt pho tượng La Hán mặt trắng kia, vừa bắn trúng hai hốc mắt đã vỡ toác, còn viên đạn thì bật ra ngoài, rơi xuống đáy Kính Nhi Cung.

Nếu đó là người thật đảm bảo đã bị đánh mù, qua đó đủ thấy chiêu thức này tàn độc cỡ nào. Pho tượng La Hán kia tuy làm bằng đất nung cũng không chịu được va đập mạnh như thế, sau va chạm hai con mắt của La Hán đã thành hai cái hố sâu, thoạt nhìn thì thấy trống rỗng quái đản, nhưng cảm giác so với vừa rồi đã đỡ hơn rất nhiều.

Trần Bì A Tứ thở phào một hơi, trong lòng cười khẩy, thầm nghĩ mấy cha hoà thượng thối này, cái gì mà tứ đại giai không chứ, chẳng phải cũng chỉ suốt ngày ru rú trong đây bày trò quỷ để hù người sao. Nghĩ rồi lấy ra một cái vuốt thằn lằn, một đầu móc lên khung gỗ của trần cung, một đầu nối liền với sợi dây thừng đơn bằng da hải tượng buộc trên mắt cá chân rồi thả mình xuống, sợi dây đàn hồi cứ thế giãn dần ra. Dùng dây da hải tượng là kinh niệm mà Trần Bì A Tứ đúc kết ra được sau nhiều năm trộm mộ, khả năng chịu lực của nó chỉ đứng sau dây thép, hơn nữa còn có thể kéo giãn. Vả lại Trần Bì A Tứ có vóc dáng thấp bé gầy gò, cuốn dây này quanh eo cũng chỉ mất hơn mười vòng, mặc quần áo lên rồi chẳng ai nhìn ra được nữa, có khả năng đối phó với độ sâu trên dưới mười mét.

Có điều Kính Nhi Cung này đâu chỉ sâu hơn mười mét, Trần Bì A Tứ thả hết cuộn dây thì vẫn còn cách đáy cung một khoảng rất xa.

Nhưng theo những gì ông ta thấy khi hạ xuống, đã có thể nhìn được hình dạng những thứ bên dưới. Nền đáy cung hình như làm bằng cẩm thạch, trải qua nhiều năm địa chấn cộng với bong tróc tự nhiên nên bên trên rải rác vô số mảnh vụn, chính giữa đáy cung là một toà bảo tháp nhỏ xíu màu trắng không biết làm từ ngọc thạch hay là ngà voi, phía trên che một tấm “Bảo trướng” bằng sa mỏng gần như trong suốt cho nên không thể nhìn rõ bảo tháp mà chỉ thấy một màu trăng trắng mơ hồ.

Trần Bì A Tứ không hiểu biết nhiều lắm về những thứ như Phật tháp hay phù đồ, cái này liên quan tới thế hệ dân không biết chữ thời trước giải phóng. Thổ phu tử ở Trường Sa có một câu châm ngôn: Vạn hộ hầu (1) không sánh bằng phù đồ, chính là ám chỉ của báu trong mấy cái địa cung dưới tháp Phật thường thường còn xa xỉ hơn lăng mộ của vạn hộ hầu. Trần Bì A Tứ tuy đã nghe qua câu này nhưng tiếp thu không đủ sâu sắc, nếu đổi lại là tôi thì lúc đó đã đoán ra thứ trước mặt mình là gì.

Bảo tháp nhỏ xíu dưới đó chắc chắn là bát trùng bảo hàm chứa xá lợi Phật, chính là một bộ tám hộp chiếc này chứa chiếc kia, đây là đồ chuyên dụng của nhà Phật. Hơn nữa xá lợi trong đó chính là ba nghìn thế giới cùng lục đạo luân hồi, tạm thời chưa cần biết nằm trong đó có thật sự là Phật cốt không hay chỉ là cốt mô phỏng từ ngọc thạch, chỉ cần biết nó là bát trùng bảo hàm thì trời ơi… Giá trị của món này nhất định không thể tính toán.

Tôi nghe đến đó thì cảm thấy có điểm đáng ngờ, nếu quả thực Trần Bì A Tứ đã trộm Bát trùng bảo hàm ra từ trong địa cung, vậy thì tại sao những thứ này lại xuất hiện trên mặt báo? Chẳng lẽ lúc ấy ông ta chỉ cách bảo vật trong gang tấc, lại vì lý do nào khác mà buông tha? Dựa vào tính cách của hạng người này thì chuyện như thế không thể xảy ra được.

Lão Hải không thấy tôi đang thất thần, cứ thế thao thao bất tuyệt, có điều cách ông ta kể rất dài dòng. Tôi cũng không chen vào nổi, đành phải tiếp tục nghe ông ta chém gió.

Sau khi Trần Bì A Tứ nhìn thấy bảo tháp, tuy còn chưa rõ dưới đó là thứ gì, nhưng chắc chắn cũng không quá tệ. Bây giờ chỉ cần xuống được dưới đó hiển nhiên sẽ bội thu, nhưng vấn đề là làm sao mà xuống.

Chỉ tiếc ông ta không mang theo đầy đủ dây thừng, sớm biết thế này chi bằng vừa rồi cứ lui về đã, chuẩn bị chu đáo hẵng quan lại, cũng không đến nỗi rơi vào cảnh tiến thoái lưỡng nan thế này.

Ông ta lại chiếu đèn pin khắp xung quanh, trong lòng kinh hãi, không khỏi thầm kêu thôi chết mịa nó rồi.

Hoá ra đáy cung không phải đất vàng mà là một ụ đất rất lớn, vừa nhìn qua đã biết đó vốn là một cái tổ ong địa hoàng.

Nhìn theo hướng ụ đất, có thể thấy trên vách địa cung có một cửa đá cao khoảng nửa thân người, trổ ra ở vị khí rất khuất, ụ đất chính là từ nơi này tiến vào “sinh trưởng”.

Xem ra bốn phía của Kính Nhi Cung này còn phải phụ thuộc vào kiến trúc trên mặt đất, hơn nữa rất có thể cũng không hề bị phong kín, kết quả là khiến nơi này trở thành một sơn trang nghỉ dưỡng đông ấm hè mát cho lũ côn trùng. Từ nơi này nhìn xuống, tổ ong cũng không lớn lắm, chỉ e phần nấp sau cánh cửa kia mới thật sự kinh khủng. Cũng khó trách tổ ong này xây được lớn như thế, nơi đây là một công trình nhân tạo ngầm dưới lòng đất, mưa gió không lọt, quả là một “địa bàn tốt”, xem ra mấy lão ong trong tổ ong này cũng biết xem phong thuỷ.

May mà vừa rồi khi cưa thanh xà gỗ lấy đường xuống, thanh xà rơi vào khoảng giữa mấy bức tượng La Hán chứ không đụng trúng tổ côn trùng, nếu không lúc đó trông ông ta có khác gì xâu lạp xường treo lủng lẳng, có muốn trốn cũng không kịp, bị lũ ong này bu kín, chỉ e sẽ bị người đời sau đem ra làm trò cười thiên cổ.

Nhưng cứ thế này thì cũng phiền toái, chỉ cần chân vừa chạm đất, dù anh rón rén đến thế nào thì di chuyển một toà tiểu tháp trong không gian nhỏ như thế cũng không thể không kinh động đến bọn ong đất kia.

Trần Bì A Tứ cân nhắc sơ qua cũng hiểu rõ không thể đi xuống, nếu muốn lấy đồ ra thì chỉ còn một cách.

Đến đây không thể không nhắc tới lai lịch của Trần Bì A Tứ, người này thuở nhỏ lớn lên trong một làng chài ở vùng duyên hải Chiết Giang, khi người Nhật đánh đến nơi mới chạy nạn tới Trường Sa, thế nên ông ta dùng phương ngữ Trường Sa không trôi chảy chút nào. Nhưng Trần Bì A Tứ lại cực kì thông minh, từ thời xưa thổ phu tử có tục không truyền nghề cho người tỉnh khác, ông ta là một trường hợp rất hiếm hoi.

Thời gian Trần Bì A Tứ ở Hải Diêm đã luyện được một tuyệt chiêu, chính là bắt cua trên bãi bùn. Dĩ nhiên không phải dùng tay bắt, vật Trần Bì A Tứ dùng để bắt cua có tên là “Cửu trảo câu”.

Thứ này cũng giống như phi hổ trảo trong phim võ hiệp hay tam câu trảo thường được bộ đội đặc chủng dùng để leo vách núi. Nhưng loại móng vuốt này lại có tới chín móc, sắp xếp rất khít thành một vòng tròn khép kín, khi bắt cua thường sẽ lấy dây thừng cột vào phần chuôi móc, khi thấy cua ló đầu lên khỏi bãi bùn thì vung ra, một lần móc được một con cua. Sau đó kéo thêm một cái, con cua sẽ bay ngược về chui tọt vào giỏ.

Theo ghi chép trong bản bút ký của ông nội tôi, công phu này có thể chính xác tới mức người sử dụng nó khi vung ra có thể câu về một quả trứng gà cách mình 20m mà không hề làm nó rơi vỡ, quả thực rất thần kỳ. Nếu xa hơn có thể dùng gậy để vung ra, cũng sẽ vô cùng chính xác.

Trần Bì A Tứ lúc này không nghĩ ra cách nào khả thi, đành phải cắn răng quyết định thể hiện bản lĩnh nhà nghề. Đầu tiên ông ta đu vào chỗ mấy bức tượng La Hán, men theo đó mà từ từ leo xuống dưới. Đến khoảng cách hợp lý, Tràn Bì A Tứ lấy cửu trảo câu ra, vung đầu móc xuống dưới, vẽ lên một vòng cung nhỏ. Móc câu đã móc vào bảo trướng, cũng may vật này rất nhẹ, không giống với đá xanh thường thấy. Trần Bì A Tứ vung tay một cái hất bảo trướng lên, đáp xuống đầu một bức tượng La Hán. Lại thay đổi lực đạo trên tay một chút, móc câu lập tức thoát ra quay về chính chủ.

Kế tiếp là phải gỡ bỏ tháp ngọc thạch hay ngà voi gì đó đi. Có điều không biết nó là vật liệu gì nhưng dùng cửu trảo câu không tài nào kéo lên được, Trần Bì A Tứ vung cửu trảo câu móc lấy tháp báu, giật vài cái cũng không hề thấy nó xê dịch chút nào.

Kiểu này không nửa tấn thì cũng tới năm trăm cân, Trần Bì A Tứ chửi thầm một tiếng.

Ông ta đưa đèn pin quét qua thân tháp, nhìn đến chân tháp thì thấy có bốn cây cột nhỏ. Tháp này tất nhiên là một bản mô phỏng của cái tháp trên đỉnh đã sập, cấu trúc cũng không khác biệt cho lắm, bốn cây cột chống đỡ toàn bộ trọng lượng thân tháp. Bảo hàm nằm chính giữa mấy cây cột, chẳng qua là do góc độ chưa chính xác, nếu câu cẩn thận hơn thì vẫn có thể kéo lên được.

Lúc này Trần Bì A Tứ đã rất sốt ruột, ông ta đoán chừng từ lúc xuống đây cũng đã được bốn giờ. Vừa rồi loáng thoáng còn nghe thấy tiếng cười, không chừng mấy người Mèo kia đã đến gần chỗ này, không còn nhiều thời gian nghĩ cách nữa rồi.

Trần Bì A Tứ định thần lại, máu dồn lên não, ác tâm cũng bắt đầu trỗi dậy, lại vung tay “đoàng, đoàng” bắn ra hai viên đạn sắt. Viên đạn bắn trúng cây cột nhỏ dưới đáy tháp, cây cột tức khắc vỡ ra. Sau đó ông ta thả người nhảy một cái, hạ xuống một bên mép tháp, vừa yên vị lập tức mượn lực rơi của mình khiến cho tháp nghiêng sang một hướng. Hai cây cột hai bên đột nhiên phải chịu thêm lực, tức khắc gãy gập. Tháp cứ thế sụp xuống, thân tháp và nền tháp nứt bung ra.

Trần Bì A Tứ bám trên đỉnh tháp nên khống chế được lực độ, tháp nặng nên tốc độ nghiêng cũng chậm. Cho đến khi Trần Bì A Tứ nhìn thấy một góc của bảo hàm đã lộ ra dưới đáy tháp, bèn vung cửu trảo câu, thoáng cái đã kéo nó lên dễ dàng. Sau đó thu lại móc câu rồi vung ra lần nữa, móc vào một bức tượng La Hán, định giữ thăng bằng cho mình.

Những động tác này chỉ diễn ra trong ba giây, nhưng ông ta không ngờ bức tượng La Hán kia không chịu nổi sức nặng của mình và thân tháp, mới kéo một cái, tượng La Hán bắt đầu lung lay, liền đó rơi từ trên tường xuống.

Phía dưới chân hầu như chỗ nào cũng có tổ ong, nếu cứ thế này mà ngã xuống chẳng khác nào ngã thẳng vào giữa đàn ong, chỉ e khó lòng thoát chết.

Trong chớp mắt Trần Bì A Tứ dùng hết khí lực kéo tượng La Hán về phía mình, một tay ném bát trùng bảo hàm vào không trung, sau đó đổi tay nhanh như chớp, dễ dàng đỡ được tượng La Hán. Nhưng rốt cuộc ông ta lẫn không thoát, đỉnh bảo tháp đã đập mạnh vào vách tường địa cung, xô thêm nhiều tượng La Hán rơi xuống.

Lúc này Trần Bì A Tứ đã không còn kỹ xảo gì để thi triển nữa, ông ta chỉ còn biết trơ mắt nhìn một đống tượng La Hán rơi trúng tổ ong địa hoàng, tức khắc bụi đất nổi lên bốn phía, tổ ong hầu hết đều bị đập cho vỡ nát tan tành.

Trong lúc hỗn loạn ông ta đành quẳng bức tượng La Hán trong tay đi, đỡ lấy bảo hàm. Theo phản xạ ông ta chiếu đèn pin vào cái tổ ong kia theo phản xạ, trong lòng thầm nhủ thôi số mình đen, coi như đi tong cái mạng già này rồi. Thân nam nhi không chết trên chiến trường lại chết dưới địa cung, thật là ứng với lời dạy của tổ tông mà.

Đèn pin vừa chiếu qua, cái khe kia lại không có một bầy ong vàng túa ra ào ào như ông ta từng tưởng tượng, ngược lại tổ ong bên trong lại khô ráo không đọng chút hơi nước, có vẻ đây là một tổ ong đã bị bỏ hoang.

Nhưng điều khiến cho ông ta lạnh người là bên trong khe có một khối gì đó tối đen, trông như một cái tổ được xây khi đám ong tiến vào, không biết là xác người chết hay là xác động vật.

Ông ta nhảy xuống đó xem xét thì thấy đó là một pho tượng La Hán kiểu dáng tương tự những bức tượng La Hán ở đây, đã rơi vỡ thành vài mảnh, xem ra nó đã rơi xuống đây từ khi tổ ong chưa hình thành, kết quả là để cái ụ đó tiến vào.

Trần Bì A Tứ ngẩng đầu nhìn lên, vừa rồi khi nhảy xuống tuy không mấy để ý, nhưng ông ta cảm thấy hình như không có chỗ nào khuyết đi một bức tượng La Hán ngồi, vậy bức tượng này rơi xuống từ đâu mới được chứ?

———————————————————————

(1) Thời xưa phong hầu sẽ kèm theo “thực ấp”, tức là một số hộ dân giao hẳn cho người này cai quản và thu thuế. Vạn hộ hầu = tước hầu thu thuế của 1 vạn hộ, đây là con số rất lớn, trong lịch sử số người được phong hầu lên đến 1 vạn hộ rất hiếm nên vạn hộ hầu là người cực kì giàu có.

—————————————————————–

Không liên quan: Thơ của bạn tặng BV nhân dịp xuất bản Bút ký khoét đất ~~~

Mở trang Bút ký khoét đất ra
Đập ngay vào mắt: tiên cô Tà
Anh Bình Kín Miệng như hũ nút
Tên mập thường quen thói ba hoa
Ma nước ai ngờ trang tuyệt sắc
Cổ đao lấp loáng tựa sao sa
Cũng may ông nội còn nguyên vẹn
Hậu bối khỏi kêu lão cún già

Chương 5: Khởi đầu đầy hoang mang

Editor: Cơm Nắm Nướng Chảo

Beta: Thanh Du

~0O0~

Lúc này cả địa cung chìm trong bóng tối mịt mùng, nhìn lên theo quầng sáng đèn pin loang lổ chiếu ra chỉ thấy nơi nơi đều là những vị La Hán đang trông xuống, hàng trăm cặp mắt chằm chặp dõi theo Trần Bì A Tứ. Do nguồn sáng di động, tròng mắt La Hán thấp thoáng lộ ra vẻ dữ tợn, làm bầu không khí trong chốc lát đã trở nên hết sức quỷ dị.

Trần Bì A Tứ lại chửi thề vài câu “con lừa trọc”

(1)

, bụng bảo dạ nhất định những gã hòa thượng kia cố ý lừa mình. Nhưng lúc này ông ta cũng chẳng còn tâm trí đâu mà quản được nhiều như vậy, bèn tìm thêm vài vòng nữa, nhưng tìm mãi vẫn không phát hiện ra khuyết mất một pho tượng chỗ nào.

Bỗng trong đầu lóe lên một ý nghĩ, Trần Bì A Tứ đã dần dần nắm được vấn đề nằm ở đâu, tay cầm đèn pin cũng dời về vị trí pho tượng La Hán mặt trắng ngước nhìn trời đã bị ông ta đập vỡ hai mắt. Chỉ có pho tượng La Hán này rõ ràng là không giống những pho khác, vấn đề hẳn phải nằm ở đây. Có khả năng kẻ nào đó đã đẩy vị La Hán này xuống từ trên kia, sau đó thế chỗ bằng vị La Hán mặt trắng ngước mặt nhìn trời này, cho nên chỉ có mình pho tượng La Hán này khác biệt với những pho tượng còn lại. Tiên sư cha, sao lại có đứa rỗi hơi tự dưng giở trò này làm cái quái gì không biết? Hơn nữa còn có thể đoán biết chính xác vị trí mình nhảy xuống để xoay đầu pho tượng hướng vào đó, không phải người trong cuộc thì làm sao có thể? Chẳng lẽ chuyến đi này của mình đã chậm chân hơn kẻ khác? Nơi đây đã có kẻ đến trước, lại còn bố trí sẵn những thứ này để chọc phá mình sao?

Trần Bì A Tứ rọi đèn pin lên thân hình phốp pháp của vị La Hán mặt trắng kia, rồi lại áng chừng  Bát trùng bảo hàm nặng trịch trên tay. Nếu quả thực đã có kẻ đến trước thì làm gì có chuyện hắn không cuỗm cả thứ này theo chứ. Chưa khoắng sạch mà đã bỏ đi là điều không thể, nhất định mình đã lo bò trắng răng rồi. Đây chẳng qua là cái bẫy cho mấy con lừa trọc đó cài sẵn để đánh lạc hướng suy nghĩ của người ta thôi.

Trần Bì A Tứ thả lỏng tinh thần. Tuổi không còn trẻ, lại phải trải qua một phen quăng quật như vậy, ông ta đã sắp tới cực hạn rồi. Ông ta ho khan vài tiếng, định bụng rời ánh đèn pin khỏi pho tượng La Hán kia, rọi ra bốn phía để xem làm thế nào dùng ít sức nhất mà trở về được. Chính vào lúc đó, một cảnh tượng khiến người ta khiếp vía đã xảy ra.

Trong tích tắc ánh đèn pin rời khỏi pho tượng La Hán kia, Trần Bì A Tứ đột nhiên nhìn thấy cái mặt trắng bệch nọ bất thình lình vọt ra!

Đèn pin rời đi quá nhanh nên cảnh tượng này chỉ vụt qua rồi biến mất, nhưng Trần Bì A Tứ lại thấy rất rõ ràng. Ông ta không phải loại người không tin vào mắt mình, lập tức cảm thấy đầu óc muốn vỡ tung, xém chút nữa đã ngã ngồi trên mặt đất. Nhanh như chớp giật, Trần Bì A Tứ thét lớn một tiếng tiếp thêm can đảm cho chính mình rồi trở tay một cái, một loạt đạn sắt bắn ra như nã súng liên thanh.

Ông ta dựa vào vị trí mình đã ghi nhớ ban nãy mà liên tục búng ra mười mấy viên đạn. Những viên đạn đó bắn tới bắn lui tứ phía trên đỉnh đầu khiến Trần Bì A Tứ còn tưởng pho tượng La Hán mặt trắng tựa như yêu quái kia đã nhảy xuống đến nơi. Trong lúc bối rối làm loạn trận tuyến, ông ta rút khẩu Vương Bát Hạp Tử 

(2)

 cũ mèm thời trai tráng kia ra.

Ông ta hoảng sợ thật sự rồi. Khẩu súng này từ vài năm sau giải phóng đã không được đụng đến lần nào nữa, đúng hơn là ông ta không dám tùy tiện rút ra. Lúc này cầm lấy nó, dẫu biết là vô dụng nhưng chí ít cũng tăng thêm dũng khí, tức là ông ta thật sự là đã hoảng đến không còn tỉnh táo nữa rồi.

Thì anh nói xem, làm cái nghề đào cát có mấy thập niên thôi, cơ hội đụng phải các loại bánh tông đã ít lại càng thêm ít. Trường hợp thế này, cho dù có mặt ông nội tôi ở đó thì cũng khó mà ứng phó nổi. Trần Bì A Tứ tuy cũng là kẻ già đầu trong đám lão làng, thế nhưng kinh nghiệm chủ yếu chỉ gói gọn trong những cuộc đấu đá sinh tử với người sống, chứ hễ đụng phải những chuyện nằm ngoài khả năng tiếp nhận của mình thì vẫn hoảng sợ như thường thôi.

Đang lúc hoảng loạn, ông ta lại liếc thấy cánh cửa đá thấp khuất tầm nhìn kia. Lúc này mà leo lên theo đạo động để quay lạithì là chuyện không tưởng rồi, vẫn nên tìm đường khác mà chuồn thì hơn.

Trần Bì A Tứ khom lưng chui qua cánh cửa thấp tè thì thấy một gian phòng đá. Tổ ong địa hoàng bự như một cái sườn núi mọc ra từ trên tường, quy mô không hề nhỏ, khiến ông ta không thể nhìn rõ trong căn phòng đá này vốn bày biện những gì. Chạy được vài bước thì chân mắc phải tổ ong, lập tức ngã dập mặt xuống đất. Đèn pin văng ra rõ xa mà ông ta cũng chẳng buồn nhặt, chỉ ôm chặt khẩu súng vọt về phía trước.

Qua căn phòng đá là đến một con đường dài, thoạt nhìn phải dài đến mười mấy mét, phía cuối đường là cửa chính của địa cung đang phát ra một vầng ánh lửa thật mỏng manh, hẳn là có cái gì chặn ở lối ra. Ông ta cắn răng bước thấp bước cao, cũng không biết mình đã dẫm đạp lên thứ gì nữa. Địa thế cuối cùng cũng bắt đầu hướng lên, Trần Bì A Tứ lại chạy thêm mười mấy bước nữa, trong lúc đầu váng mắt hoa chỉ mong tới được chỗ ánh lửa kia thì đầu ông ta đột nhiên đụng phải thứ gì đó. Chỉ nghe một loạt những tiếng va chạm đổ vỡ vang lên, ông đã thoát ra ngoài, ngã lăn quay trên đất.

Bên ngoài hừng hực ánh lửa, Trần Bì A Tứ đứng lên liếc nhìn bốn phía, phát hiện mình chui từ một đoạn tường đổ ra đây. Ông ta còn chưa hết kinh ngạc vì phát hiện ra cửa vào bí mật của phù đồ địa cung thì ra lại nằm sau một bức tường thì đã bị mấy người Mèo kề dao vào cổ, đồng thời vật ông ta nắm trong tay cũng bị tước mất.

Trần Bì A Tứ cũng đã sức cùng lực kiệt không còn phản kháng nổi, vừa thấy bất ổn bèn lảo đảo chạy, mới được vài bước đã bị người ta đạp một phát vào khoeo chân, phải quỳ rạp trên mặt đất, ngẩng đầu lên thì thấy mấy tên trai tráng người Mèo bị mình lừa xuống dưới này đang giơ đuốc bao vây lấy mình. Vị thủ lĩnh cầm đầu có phần tức giận, nhìn hắn chằm chặp. Xem ra bọn họ tìm kiếm một vòng mà chẳng phát hiện được gì nên đã biết mình bị lừa rồi.

Vị thủ lĩnh người Mèo đưa mắt nhìn Bát trùng bảo hàm vừa lấy được từ tay hắn, rồi lại liếc sang cái động ngầm tối thui trong đoạn tường đổ, dĩ nhiên trong bụng đã hiểu được căn nguyên chuyện này, trên mặt bèn lộ ra vẻ chán ghét. Y quay sang một tên trong đám người Mèo, làm động tác che hai mắt lại, rồi dùng tiếng Mèo nói vài câu. Trần Bì A Tứ hổn hển thở gấp, đây cũng không phải giả vờ, nhưng để lừa kẻ khác nên ông ta có cường điệu thêm lên, còn không ngừng ho khan. Nhưng vừa nhìn đến động tác của người Mèo kia, trong lòng ông ta chợt lạnh buốt. Ông ta đã sinh sống ở Quảng Tây bao nhiêu năm trời nên thừa biết là họ muốn móc mắt mình ra.

Tên người Mèo vâng lệnh gật đầu, bẻ một loại lá cỏ sắc nhọn mọc bên đường rồi ngồi xổm xuống trước mặt ông ta, dùng tiếng Mèo hỏi ông ta một câu. Trần Bì A Tứ liên tục xua tay, ra vẻ như mình hụt hơi lắm. Người Mèo kia thấy ông ta mệt lử thì nhìn nhau, không biết làm sao cho phải. Mấy người Mèo khác lại tò mò về chỗ ông ta chui ra, bèn đốt đuốc thò đầu nghiêng ngó bên trong.

Trần Bì A Tứ cù cưa được vài phút rồi mà vẫn không thấy bức tượng La Hán mặt trắng trông như yêu quái kia đuổi ra đến nơi, không khỏi nảy sinh thắc mắc. Lúc này ông ta đã hồi phục được một phần thể lực, thấy hai người Mèo tiến đến muốn giữ lấy tay mình cũng đủ biết nếu còn không phản kháng thì coi như xong đời. Ông ta bèn nhếch mép một cái, bắn ra một loạt đạn sắt, một loạt tiếng đoành đoành đoành đoành vang lên, trong nháy mắt đã đánh rơi toàn bộ đuốc ở đó xuống đất.

Đám người Mèo phút chốc kinh hãi không biết phải làm thế nào. Trần Bì A Tứ cười lạnh một tiếng, sát ý nổi lên, một cước đá ngã lăn tên người Mèo đang đứng trước mặt, đồng thời xoay một tay rút khẩu Vương Bát Hạp Tử, những muốn giết người. Nhưng đúng lúc đó ông ta chợt nghe gió lạnh thổi vù một tiếng, bàn tay mình đã mát lạnh, sờ thử một cái thì thấy đầu ngón tay đặt lên cò súng đã không còn nữa.

Trần Bì A Tứ nào từng nếm qua thiệt hại như thế bao giờ, trong lòng hốt hoảng. Chẳng chờ ông ta kịp phản ứng, một luồng gió lạnh lại thổi tới, Trần Bì A Tứ chỉ kịp nhìn thấy con ngươi lãnh đạm của vị thủ lĩnh người Mèo kia cùng với hình xăm kỳ lân nhảy múa trên thân y. 

(hả hả hả :v Bình Tử thối anh làm gì ở đây :v)

 Đó là cảnh tượng cuối cùng mà ông ta chứng kiến, vì một giây sau đã bị một nhát dao chém mù. Con dao quắm của vị thủ lĩnh người Mèo từ con mắt trái của ông ta bổ ngang vào, vạch đứt đôi xương mũi, cắt ngang qua mắt phải rồi phá ra, hai con mắt ông ta lập tức mù hẳn.

Thôi xong, gặp phải đồng nghiệp rồi. Trần Bì A Tứ thầm thở dài, ngã nhào trên mặt đất, đau đớn ngất đi.

Lão Hải kể tiếp: “Mấy người Mèo kia cuối cùng cũng không giết ông ta, mà chỉ đem Trần Bì A Tứ cùng Bát trùng bảo hàm kia giao cho đội dân phòng địa phương. Vừa may ông ta có một người chiến hữu từ hồi khởi nghĩa ở đó mấy năm phụ trách dân phòng địa phương bảo lãnh cho, nhờ đó mới không bị xử bắn, có điều mắt vẫn cứ mù. Sau này chiếc hộp kia được đưa đến bảo tàng, người ở đó vừa nghe liền phái nhân viên đến hiện trường xem xét, cũng chẳng biết có kết quả hay không. Có điều khi chiếc hộp kia được mở ra thì thấy tầng cuối cùng chẳng phải xá lợi gì sất, mà là con cá đồng này.” Ông ta gõ gõ lên tờ báo, “Chẳng trách chuyện này trở thành một đòn trời giáng sấm sét. Trần Tứ gia sau khi biết chuyện thì chửi ầm lên, nói mình đã bị nguời ta giỡn mặt. Cái hộp đó có lẽ từ mấy đời trước đã bị người ta mở ra lấy mất thứ bên trong rồi. “

Trong lúc nghe lão Hải kể chuyện xưa, tôi bất tri bất giác đã uống thêm một chén rượu rồi nên có hơi chuếnh choáng, bèn hỏi: “Ông ta dựa vào đâu mà nói thế?”

Lão Hải vừa mút con ốc vặn vừa nói: “Tôi biết đâu được đấy. Trần Bì A Tứ sau đó lại đi tu ở một ngôi chùa Quảng Tây, chuyện này tôi phải nhờ đến mối quan hệ cũ mới hỏi thăm được đấy, anh bạn trẻ. Tin tức này không dễ moi ra đâu, cậu sau này có mối nào hời cũng đừng rẻ rúng lão già này đấy nhé.”

Tôi chửi thầm một tiếng, bụng bảo dạ biết ngay lão đốn mạt này chẳng đời nào tốt đến thế mà. Xem ra ông ta cũng chỉ muốn lôi kéo tôi, tạo thêm mối quan hệ mà thôi. Biết ông ta đã cạn thông tin, tôi lại hỏi lần này ông đến Hàng Châu tham dự buổi đấu giá kia để làm gì.

Lão Hải giải quyết nốt con ốc vặn cuối cùng rồi chép chép miệng nói: “Năm đó loạn lạc liên miên, con cá này không biết đã lưu lạc đến nơi nào. Giờ hòa bình rồi nên rốt cuộc cũng có người mang nó ra đấu giá. Tôi vẫn hay tham gia hội đấu giá như cơm bữa, trong nghề cũng có chút ít danh tiếng nên bọn họ chịu chi phong bao dày và phát thiệp mời cho tôi. Cậu nhìn mà xem, con cá này cũng nằm trong danh sách hàng đấu giá đấy, tôi thấy cậu có vẻ hứng thú với nó nên tiện thể chuẩn bị cho cậu tấm thiệp mời thôi. Chẳng cần biết có hữu dụng hay không, cứ đi xem ai muốn mua con cá này cũng là chuyện tốt mà.”

Tôi liếc một cái lên cột giá khởi điểm, 1000 vạn hả, có dở hơi mới bỏ tiền ra mua. Trên tay tôi cầm những hai con, nếu có người mua thì chẳng phải được đến 2000 vạn sao. Thời nay mấy ông tổ chức bán đấu giá cũng lăng xê món hàng quá đáng đi, chí ít cũng phải làm sao cho người ta tin tưởng chứ.

Tin tức của lão Hải mặc dù hay ho nhưng lại không phải chuyện tôi muốn biết, nhất thời không biết nói tiếp cái gì nữa. Hai người chúng tôi đều tự châm lấy một điều thuốc mà ngẫm nghĩ chuyện của mình. Nhân viên phục vụ thấy chúng tôi cứ ì ra không chịu đi, muốn chạy đến dọn bàn, tôi lại chuyển sang ân cần hỏi han lão Hải về mấy chuyện làm ăn linh tinh này nọ. Lão Hải cũng nói mấy câu muốn theo tôi xuống đấu mở mang kiến thức gì đó, cũng chẳng nhìn ra ông ta có thật lòng hay không. Tôi bảo hay là thôi đi, chính tôi đây còn chẳng định chui xuống lần nữa, ông đã già cả yếu đuối rồi thì đừng có dính dáng vào nghề này, miễn cho tự rước phiền toái vào thân, rồi lại liên lụy cả đến tôi.

Rượu tôi cũng đã uống được kha khá, bèn hỏi lão Hải lấy thiệp mời rồi bảo ông ta về nghỉ ngơi trước. Tối đến, Tần Hải Đình mè nheo đòi ra ngoài chơi, tôi là thổ địa ở đây nên từ chối cũng chẳng tiện, đành phải lái xe dẫn bọn họ đi loanh quanh mấy vòng, ăn vài món bình dân. Có điều thời tiết thật sự rất lạnh nên bọn họ cũng đòi về ngủ sớm.

Tôi lái xe về đến nhà, còn chưa lên gác đã đột ngột cảm thấy trong nhà chỉ có bốn bức tường thì thật lạnh lẽo vô cùng. Trước đây tôi chưa từng có loại cảm giác này bao giờ nên chỉ thấy kỳ lạ, không lẽ mấy lần trải nghiệm vừa qua đã khiến tôi thay đổi nhiều đến thế hay sao? Nghĩ lại thì chính mình cũng cảm thấy buồn cười, thế là tôi bèn lái xe đến thẳng quán chú Hai uống chén trà khuya.

Ngồi trong quán vừa uống trà vừa xem bút ký của ông nội, tôi vừa nghĩ đến những chuyện đã xảy ra, vẫn chỉ cảm thấy đầu óc mịt mờ. Cái chính là ba con cá này đâu có thuộc cùng một triều đại, hơn nữa vị trí địa lý cũng cách xa nhau. Tạm thời chưa tính đến công dụng của ba con cá này, chỉ riêng vị trí khai quật của chúng đã không để lại một chút manh mối nào cho người ta suy luận rồi.

Người xưa làm những chuyện này này tất phải có mục đích, bằng không thì trận địa này quá lớn, người thường sao có thể bày ra được. Tôi suy đi tính lại một hồi, cảm thấy mấu chốt chính là không biết mục đích thật sự của kẻ kia; chỉ cần biết được mục đích thì đã có vô số phương hướng để điều tra rồi.

Giá ông nội còn sống có phải tốt hơn không? Tôi thở dài. Không thì có chú Ba ở đây cũng được, ít nhất còn có người cùng bàn bạc. Hiện giờ tôi có mỗi một mình, chỉ biết nghĩ đi nghĩ lại mấy vấn đề này, đến mức bắt đầu phát ngấy lên.

Bỗng tôi ngửi thấy mùi gì khét lẹt, cúi đầu nhìn xuống thì thấy trong tờ tạp chí mình mượn đọc có in một trang bản đồ du lịch Trung Quốc. Ban nãy tôi vừa nghĩ vừa cầm điếu thuốc chỉ trỏ bên trên, vô ý châm thủng ba cái lỗ ở vị trí ba địa phương kia, đến khi tôi kịp phản ứng thì đã trễ. Tôi vội vàng dụi điếu thuốc, nhìn quanh quất bốn phía, thấy người phục vụ còn chưa chú ý đến trò phá hoại của mình thì không khỏi thở phào nhẹ nhõm.

Chú Hai tôi tuy là người thân trong nhà, nhưng tính tình rất gàn dở, làm hư đồ đạc của chú là chú sẽ trở mặt ngay. Đặc biệt là mấy cuốn tạp chí ở chỗ này, mỗi cuốn đều vô cùng quý giá, là đồ chú sưu tầm được, làm hư thì chú lại càng chửi cho đến mấy năm trời cũng chưa chịu tha ấy chứ.

Tôi giả vờ như chưa có chuyện gì, trả tạp chí lại. Vừa mới buông tay đã có một lão già cầm lên, đứng đó giở ra xem. Tôi lo ông ta sẽ phát hiện ra mình làm hỏng sách nên chẳng dám đi xa, đành ngồi phịch xuống ghế salon, nhìn ông già kia lật lật đến đúng cái trang bị tôi phá hỏng còn nóng hôi hổi, vừa nhìn thấy, không khỏi ừm một tiếng.

Nguy rồi! Tôi nghe vậy thì biết mình đã bị phát hiện, đang chuẩn bị đánh bài chuồn thì chợt thấy ông ta khẽ cười: “Ai lại châm ra thế phong thủy ở trong này vậy, thật thất đức mà.”

____________

Chú thích

1. Con lừa trọc

 là từ dùng để miệt thị các nhà sư. Lý do là vì thời xưa nhà sư vân du bốn phương thường dắt lừa đi xin bố thí ( nhà Phật gọi là hóa duyên), nhưng cũng có một số kẻ lợi dụng danh nghĩa của người xuất gia, cũng dắt lừa đi dối gạt thiên hạ, người ta mới dùng từ “con lừa trọc” để chửi họ, lâu dần biến thành từ ngữ xấu để miệt thị nhà sư

2. Vương Bát Hạp Tử:

 là loại súng lục cơ bản được trang bị cho bộ binh Nhật Bản trong Thế chiến II, thiết kế bên ngoài hơi giống súng lục Ruger P08 của Đức.

Loại súng này sử dụng đạn 8mm, độ chính xác và lực sát thương tương đối cao, tuy nhiên lực xuyên thấu lại thấp, nghe nói dùng 5 lớp chăn bông là đã chặn được đạn =”)))))

Ngoài ra loại súng này cần được chăm sóc bảo quản cẩn thận mới bắn tốt được, nếu không rất dễ bị kẹt đạn.

Chương 6: Đáp án đơn giản

Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Giọng nói của ông lão này sang sảng, mang ngữ điệu Trường Sa, cộng thêm nội dung câu nói khiến tôi không khỏi ngạc nhiên. Tôi âm thầm đánh giá ông già này, tướng mạo trông rất lạ, tuổi chừng hơn bảy mươi, người hơi gầy, vóc dáng trung bình, giữa chân mày có điểm tối. Lão mặc một chiếc áo bông cũ đã hơi nhàu, mắt kính dày như đít chai, đoán chừng cũng mù dở, cách ăn mặc này không giống những khách hàng khác trong quán. Có điều trong quán trà của chú Hai không hiếm cao nhân nên người bán hàng cũng không thấy lạ, dạo gần đây kiểu người nào mà chẳng gặp.

Tôi im lặng theo dõi hành động của lão, chỉ thấy lão cầm lấy quyển sách kia, chắp tay sau lưng trở về chỗ ngồi. Sống lưng lão thẳng tắp, bước đi nhanh nhẹn, nếu không phải người luyện võ thì trước kia nhất định đã từng đi lính. Chỗ lão ngồi còn có vài người đều đã cao tuổi, họ đang nói chuyện phiếm với nhau, vừa thấy người này trở về đều lộ ra vẻ cung kính, rõ ràng lão ta là người đứng đầu. Tôi lén bưng tách trà đi qua chỗ đám người nọ, ngồi phía sau bọn họ, vểnh tai lên nghe ngóng xem ông già kia nói gì. Ban đầu mấy ông lão bàn luận gì đó về hội cổ phiếu, nghe chẳng có gì hay ho, nửa giờ sau ông già kia nghĩ đến cuốn tạo chí mình đang cầm trên tay mới mở miệng: “Phải rồi rồi, lại đây nào, tôi cho các ông xem một chuyện thú vị”.

Nói rồi lão trải tờ tạp chí ra bàn, giở đến đúng trang tôi đã làm cháy sém. Tôi thấy vậy lập tức hiểu ra người này hẳn phải biết chuyện gì đó, lập tức nín thở nghe ông già kia nói: “Các ông xem tấm bản đồ này có gì đặc biệt? Coi như đố các ông đó.” Mấy ông lão xúm lại xem, nhao nhao mỗi người một ý. Không biết cái bản đồ bị thuốc lá châm mấy lỗ này có nào đặc biệt mà mấy ông già kia được dịp chém gió, thậm chí có người còn nói cái gì mà tạo thế chân vạc nữa. Ông già kia chỉ khẽ lắc đầu, tất cả đều không đúng.

Tôi nghe thế thì ruột gan cũng bắt đầu ngứa ngáy, trong lòng chỉ thầm mong lão nói ra đáp án, chứ tôi cũng đầu hàng luôn rồi. Thấy không ai nói đúng, lão già cười lên ha hả rồi đột nhiên hạ giọng nói ra một câu mà tôi không sao nghe ra được. Mấy ông già kia lập tức trở nên kích động, rồi tranh nhau xem lại tờ tạp chí.

Tôi thoáng cảm thấy buồn bực trong lòng, sao không dưng lão lại dùng phương ngữ cơ chứ, chẳng lẽ tôi không có duyên được biết chuyện này sao? Đám người kia xem xét hồi lâu đều ồ lên một tiếng như chợt hiểu ra điều gì, ruột gan tôi nóng như lửa đốt, chỉ mong bọn họ bàn luận mấy câu để tôi nhìn ra manh mối. Dựa vào khả năng của tôi, chỉ cần biết chút manh mối là có thể hình dung đại khái rồi.

Ai mà ngờ, ngay sau đó cả đám người này đều dùng cái phương ngữ kì quái kia để nói chuyện với nhau. Tôi chăm chú nghe một hồi, chỉ có thể xác định đó không phải là tiếng Hán. Móa nó chứ, mấy lão già kia rốt cuộc là người từ đâu tới?

Tôi nghe một lúc rồi không theo nổi nữa, đầu óc bắt đầu ong ong, tự nhủ các người không muốn nói cho ta nghe chứ gì, mợ nó đã thế ta đích thân đến hỏi các người xem các người làm gì được ta nào. Nghĩ sao làm vậy, tôi đứng lên đi về phía họ, đóng vai một thiếu niên hiếu học, hỏi: “Xin hỏi các vị đây là người phương nào? Sao tôi chưa nghe thấy thứ ngôn ngữ lạ lùng này ở đâu nhỉ?”.

Hành động này ở Hàng Châu là cực kì đường đột, không giống như ở Bắc Kinh, người trong quán trà ít nhiều đều biết nhau. Tôi vừa nói xong, ngay lập tức đã cảm thấy hối hận, thầm nhủ không phải họ sẽ nhìn mình khinh khỉnh đấy chứ.

Không ngờ mấy lão già kia đều ngây người ra một lúc rồi phá lên cười, lão già cầm cuốn tạp chí nói: “Anh bạn trẻ, cậu nghe không hiểu cũng là bình thường, đây là tiếng người Mèo cổ, cả nước chưa tới ngàn người nói được thứ tiếng này.” Tôi ngỡ ngàng hỏi lại: “Các vị đây đều là người Mèo sao? Tôi thấy không giống lắm nha.”

Mấy ông lão lại cười rộ lên, cũng không buồn đáp lời, tôi thấy mấy người này đều ăn nói lưu loát, cũng không phải người vùng này, biết đâu mình có thể hỏi ra điều gì, bèn thuận miệng hỏi luôn: “Xin các vị đừng cười, vừa nãy tôi nghe lão thái gia đây nói cái gì mà bố cục phong thủy, bản đồ kia do tôi làm cháy, chẳng lẽ lại cháy thành hình dạng gì thú vị sao?” Lão già kia nhìn tôi từ đầu đến chân rồi nói: “Anh bạn trẻ cũng có hứng thú với thuật phong thủy sao? Môn học này chưa chắc cậu đã hiểu nổi đâu.”

“Tôi có thể hiểu mà!” Tôi chỉ hận không thể quỳ xuống liếm chân lão cho lão mau mau khai ra. “Nếu không cũng mong ngài chỉ giáo cho tôi được mở mang tầm mắt!” Lão nhìn sang mấy người khác cười cười rồi đáp: “Thực ra cũng không có gì, cậu xem, cậu châm thủng ba chỗ, vị trí đều rất đặc biệt. Giờ hãy nối liền ba điểm này rồi xoay ngang nó ra rồi nói xem cậu nhìn thấy gì?” Tôi cầm lấy tờ tạp chí, vừa nhìn vào bỗng lạnh cả người, “Đây là!” Tôi há hốc miệng.

Bắt đầu từ lăng mộ trong núi Mông Sơn thời Tây Chu kéo qua địa cung phù đồ trên núi Phật Nằm ở Quảng Tây rồi đến ngôi mộ dưới đáy biển Tây Sa, tức là địa điểm phát hiện ra ba con Xà mi đồng ngư. Nối ba điểm này lại, cùng với đường ven biển Trung Quốc tạo thành một hình dạng vô cùng quen thuộc, nhìn kỹ thì thấy kia rõ ràng là một con rồng ẩn hiện! Tôi hận không thể tự vả mình một cái, thầm nhủ, Ngô Tà mày thật là ngu dốt! Sao không chịu đánh dấu trên bản đồ, chỉ chú tâm đến chuyện mấy di tích kia không cùng niên đại mà không thèm để ý đến mối liên hệ giữa vị trí của chúng chứ.

Ông già kia thấy tôi sửng sốt thì biết tôi đã nhìn ra manh mối, tỏ vẻ tán thưởng: “Là một thế ‘Xuất thủy long’ không được rõ ràng, nói cho dễ nghe là ‘Tiềm long xuất hải’, tuy nhiên thế cục này vẫn còn thiếu cái đầu rồng”. Nói rồi lão cầm điếu thuốc của mình, châm lên tờ tạp chí vào đúng vị trí núi Trường Bạch.

Tờ tạp chí xèo xèo bốc khói, tôi không kịp phản ứng, đờ người ra mất một lúc rồi vội hỏi lão: “Này~ này, sư phụ, thế cục này có ý nghĩa gì?” Ông già cười ha hả, “Cậu xem, cái này gọi là nhìn ngang là đỉnh núi, dựng dọc thành dãy núi’ cậu xem mấy điểm này, hợp với mạch của các dãy núi Trường Bạch, Tần Lĩnh, hệ thống núi Nghi Mông, núi Côn Lôn hướng thẳng xuống đất, được gọi là thiên long áp vĩ 

(nghìn con rồng chụm đuôi vào nhau)

. Một số long mạch dưới lòng đất của TQ liên kết với nhau, tất cả đều hợp thành phong thủyTrên toàn chiều dài long mạch, những nơi linh khí hội tụ nhiều không kể xiết, những điểm cậu châm lên đều là những vị trí mấu chốt, hay còn gọi là bảo nhãn. Bởi lẽ những long mạch này một đầu nằm dưới nước, một đầu lộ ra trên bờ nên mới gọi là “xuất thủy long”.

Tuy nhiên cách xem Đại đầu phong thủy này có thực dụng hay không thì không rõ. Cách dùng phong thủy để nhìn ra long mạch khá là trừu tượng, gọi là Đại đầu long, thời xưa người ta dùng nó để bói toán, suy đoán vận thế thiên hạ, thành Bắc Kinh cũng xác định vị trí dựa vào cách này. Còn cách xem phong thủy để tìm nơi xây lăng mộ cho các hoàng đế thì lại là một mảng quá rộng, tôi cũng chỉ hiểu sơ sơ thôi. Nói đến bậc thầy trong nghề thì phải kể tên Uông Tàng Hải sống vào đầu thời Minh, đại đầu phong thủy chính là sở trường của ông ta”.

Tôi nghe đến đó thì sáng mắt ra, cảm thấy thất khiếu đều đã thông suốt. Tất cả những điều trước đây tôi không nghĩ ra lần lượt tái hiện trong đầu, vì sao chuông lục giác xuất hiện ở động xác trong núi Ngũ Phần Lĩnh bên ngoài Lỗ vương cung lại cũng tìm thấy trong ngôi mộ dưới đáy biển, vì sao trong ngôi mộ thời Tây Chu lại có chiếc hộp mật mã tinh xảo đến thế, vì sao xá lợi Phật cốt trong Kính Nhi Cung ở Quảng Tây lại biến thành Xà mi đồng ngư, lí do rất đơn giản, bởi vì Uông Tàng Hải đều đã đi qua những nơi này.

Bảo nhãn trong thế ‘Xuất thủy long’ thông thường đều là vị trí tụ tập linh khí của toàn bộ long mạch, thường thì ở những nơi đó đều có xây dựng công trình kiến trúc hoặc lăng mộ. Tuy hiện giờ tôi chưa biết ông ta đặt Xà mi đồng ngư vào những bảo nhãn này nhằm dụng ý gì, nhưng theo lý thuyết phong thủy thông thường thì toàn bộ mạch phong thủy đại long đầu này đều được sắp đặt chỉ vì “đầu rồng” trên núi Trường Bạch. Bố trí tất cả những điều này đều là vì Vân Đỉnh thiên cung, khó trách ông ta say sưa đến thế, dành nhiều tâm huyết đến thế.

Cung điện dưới trùng trùng tuyết phủ kia rốt cuộc là nơi an táng của ai?

Ông già thấy tôi ngơ ngẩn cũng không biết tôi đang nghĩ gì, bèn kêu mấy người khác đứng dậy, nhét tạp chí tới vào trong tay tôi rồi vẫy phục vụ tới tính tiền. Trong lúc xuất thần tôi không kịp phản ứng, đến khi nhớ ra mình phải hỏi cách liên lạc thì lão đã rời khỏi quán trà. Tôi vội vã đuổi theo, vừa hay lại thấy hắn tháo kính xuống. Liếc qua ánh mắt và hình dạng ngũ quan của lão, tim tôi khẽ lạc một nhịp, đứng sững một chỗ.

Một vết thương cực kì đáng sợ bắt nguồn từ khóe mắt của lão, cắt ngang qua mũi rồi kéo dài đến tận khóe mắt bên kia. Sống mũi có một chỗ lõm xuống, tựa như bị vật gì đó bén sắc cắt qua. Tôi nhìn thấy ánh mắt của lão đã sợ đến nỗi quên cả đuổi theo, thành ra để đám người kia lên xe đi mất. Tôi nghĩ lại thấy lão già này từ cách nói chuyện đã không tầm thường, hơn nữa khí huyết tràn đầy, rất có thể lão chính là người lão Hải hôm nay nhắc tới – Trần Bì A Tứ!

Lúc nãy vào bữa cơm mới vừa nhắc tới hắn, vậy mà giờ đã đụng mặt ngay trong quán trà, kể cũng khéo quá đi. Tôi ngẫm nghĩ một lát, lão Hải không dưng lại đường đột tới Hàng Châu kể cho tôi mấy chuyện này, không lẽ lão già này có mối liên hệ ngầm với lão Hải? Bày ra mấy việc này mục đích cuối cùng là muốn dụ tôi vào cuộc? Lão già này xem ra có vẻ xảo trá, phải đề phòng mới được.

Tôi thầm rủa trong lòng, lại không biết trò diễn này sẽ dẫn tới đâu, lòng tràn đầy nghi hoặc. Nhớ lại câu chuyện lão Hải đã kể, không phải lão già này đã mù rồi sao? Làm sao còn nhìn được nữa, lại còn nói chuyện rất có khí thế, nhìn chẳng giống ông lão 90 tuổi chút nào. Có điều nghĩ thông suốt được thế cục Đại đầu tiềm long, trong lòng đã dễ chịu hơn nhiều, cảm giác u ám trước kia cũng bất giác tan biến. Tôi bèn đứng lên tính tiền rồi quay về nhà thoải mái đánh một giấc ngon.

Tỉnh dậy vào giữa trưa ngày hôm sau, tôi vừa nhìn thấy cái thiếp mời đã chửi mẹ kiếp, thế là xong. Tôi gọi điện ngay cho lão Hải, ông ta cũng không nói gì nhiều, chỉ nói con cá kia không có ai mua cả. Trong lòng tôi đắc chí, thầm nghĩ chỉ có kẻ ngốc mới đi mua thứ này. Lại chuyện phiếm thêm vài câu nữa, thấy lão Hải bên kia có vẻ rất bận, xem ra đang mua khá nhiều đồ, tôi cũng không nói dông dài nữa.

Buổi chiều tôi không muốn đến cửa hàng, chỉ muốn ra quán trà đợi người kia. Không ngờ cửa tiệm của chú Ba lại gọi điện tới, nói có người tìm tôi.

Trong lòng tôi thầm nghĩ không phải lão Dương đó chứ, vội tất tả lái xe tới. Vừa vào trong tiệm đã thấy một người ngồi trên ghế sô pha dành cho khách, tôi chợt thấy mắt mình cay cay, nước mắt thiếu điều rơi lã chã, lập tức gọi to: “Phan Tử!”

Chương 7: Phan Tử

Editor: Biển

Beta: Thanh Du

~0O0~

Tôi với Phan Tử ngồi trong cửa hàng của chú Ba cả một buổi chiều, kể nhau nghe vài điều về tình hình bản thân.

Thì ra từ trước khi tôi đi Hải Nam, Phan Tử đã dần dần khôi phục ý thức, nhưng rồi tôi đi vội quá, chỉ để lại bệnh viện số điện thoại di động nên sau khi tôi rời bến thì đương nhiên không tìm được.

Thể chất Phan Tử rất tốt, hồi phục cực kì nhanh, dù vậy anh vẫn phải nằm trên giường cả tháng, đến khi có thể xuống giường tìm gặp bọn tôi thì chẳng liên hệ nổi với mống nào. Tính ra lúc đó chắc là tôi đang ở Thiểm Tây, còn chú Ba thì khỏi phải nói, cả thế giới đều đang tìm ổng.

Tôi thấy trên tay Phan Tử quấn một dải lụa đen, liền hỏi anh làm sao vậy? Anh nói Đại Khuê cũng từng là anh em, chết đi còn chưa nổi bảy ngày, mang nó dù sao cũng nhẹ lòng đôi chút. Anh nhắc đến chuyện cũ làm tôi nhớ lại khoảng thời gian đi Sơn Đông, trong lòng không khỏi nghẹn ngào, suy cho cùng chuyến đi đó cũng do tôi khơi mào mà ra, nếu lúc đó không nhiều chuyện đưa sách lụa cho chú Ba xem thì tình cảnh mọi người giờ đây đã khác nhiều rồi.

Phan Tử thấy sắc mặt tôi thay đổi cũng đoán ra tôi đang nghĩ gì, liền vỗ vai tôi nói: “Cậu Ba, chúng ta đã làm cái nghề này thì có một số chuyện muốn tránh cũng không thoát, đâu thể trách ai được.”

Tôi thở dài, thầm nhủ anh nói thì dễ lắm, người hại chết Đại Khuê cũng đâu phải anh.

Xúc động một hồi, tôi lại kể cho Phan Tử nghe mấy chuyện xảy ra gần đây, anh càng nghe càng mặt nhăn mày nhíu, sau khi nghe suy đoán của chúng tôi liền biến sắc, lắc đầu bảo anh và chú Ba đã quen biết bao nhiêu năm, anh dám chắc chú Ba tuyệt đối không phải là loại người này, bảo tôi đừng có nghe người ta nói vớ vẩn.

Phan Tử đi theo chú Ba nhiều năm, cảm tình sâu đậm, có vài điều tất nhiên không thể tin nổi. Tôi bèn lảng sang chuyện khác, hỏi anh có dự tính gì không.

Phan Tử ngẫm nghĩ một hồi, nói mình vốn định quay về Trường Sa tiếp tục kiếm cơm, công việc làm ăn của chú Ba đều ở đó cả, người làm mình đều quen biết hết, trở về không sợ không có chuyện gì làm. Bây giờ nghe tôi nói vậy, anh cảm thấy chuyện này không hề đơn giản, e rằng phải tiếp tục điều tra cho rõ ràng mới có thể yên tâm.

Tôi gật đầu, tuy chuyện này về cơ bản tôi đều đã điều tra qua, nhưng Phan Tử với chú Ba có quan hệ không tầm thường, giữa họ có nhiều chuyện tôi không biết, nếu anh chịu đi điều tra thì không còn gì tốt hơn.

Phan Tử gọi mấy cuộc điện thoại, bên kia cũng bảo anh cứ ngồi chờ tin tức. Tôi nghĩ chắc phải chờ đến dăm bữa nửa tháng, không ngờ chỉ năm phút sau đã có người gọi lại. Phan Tử nghe xong, cau mày nói với tôi: “Cậu Ba, e rằng cậu phải đi với tôi một chuyến.”

Tôi ngẩn người, thầm hỏi thế này là sao, không phải là có chuyện gì xảy ra đấy chứ.

Phan Tử nói tiếp: “Ông Ba tìm một người ở Trường Sa, có để lại lời nhắn cho cậu, nhưng bên đó bảo tôi đưa cậu sang để họ trực tiếp nói chuyện.”

“Chú Ba nhắn lại với tôi?”, tôi gần như bật dậy, bên phía Trường Sa không phải tôi chưa từng liên lạc, nhưng sao đến bây giờ vẫn chưa có ai cho tôi biết chuyện này?

Phan Tử tỏ ra vô cùng nghiêm túc, không nói gì thêm, chỉ bảo tôi: “Bên đó gấp lắm, cậu thấy thế nào, bao giờ mới có thể xuất phát?”

Anh có vẻ rất sốt ruột, tôi mơ hồ cảm thấy sự tình không đơn giản nhưng cũng không ngờ anh lại vội tới mức này. Kết quả là ngay tối hôm đó chúng tôi nhanh chóng lên tàu hỏa sơn xanh (1) đi Trường Sa, không kịp nhắn lại câu nào.

Lên tàu rồi tôi mới hỏi Phan Tử, nếu đã vội sao không đi luôn máy bay mà còn ngồi tàu hỏa, có nực cười không cơ chứ?

Phan Tử có vẻ hoảng hốt, chỉ vỗ vỗ vai tôi nói chút nữa sẽ biết. Tôi thấy trán anh túa mồ hôi thì càng cảm thấy kỳ lạ, thầm hỏi rốt cuộc anh đang căng thẳng vì chuyện gì chứ.

Tàu hỏa xuất phát từ Hàng Châu, đầu tiên dừng lại một ga khác cũng thuộc Hàng Châu. Còn ba giờ nữa là đến ga Kim Hoa, tôi đã bắt đầu mất kiên nhẫn, muốn hỏi cho ra lẽ, nào ngờ đúng lúc ấy tàu hỏa bỗng đột ngột dừng bánh.

Tàu hỏa xanh tạm thời dừng bánh là chuyện rất bình thường, lúc mua vé tôi đã nghĩ khoảng cách xa như vậy, anh không đi máy bay thì chí ít cũng phải là tàu tốc hành, ai đời cứ khăng khăng đi tàu hỏa xanh đến cái ghế ngồi cũng ê mông, nhưng Phan Tử căn bản không quan tâm đến chuyện này. Bây giờ tàu bị dừng, trong lòng tôi có phần hả hê – anh vội chứ gì, giờ tàu tạm dừng, cho anh vội chết luôn!

Không ngờ tàu vừa dừng bánh, Phan Tử liền đập tôi một cái, ý bảo đi theo mình. Tôi đứng lên định hỏi hắn đi đâu, kết quả anh đột nhiên xoay người nhảy ra qua cửa sổ tàu.

Tôi nhìn sang, chết tiệt, anh làm cái trò gì thế? Người trên tàu thấy vậy cũng giật nảy mình, đều đứng lên ngó. Phan Tử ở bên ngoài kêu to: “Cậu Ba còn chần chừ gì nữa, mau xuống đây!”

Tôi nhìn quanh bốn phía, tất cả mọi người đều ngó mình chằm chặp, thầm nhủ kiểu này ngày mai mình lại được lên trang nhất báo thành phố chứ chả chơi, cắn răng một cái rồi cũng xoay người nhảy ra ngoài.

Tàu hỏa khá cao, lúc nhảy xuống tôi bị mất thăng bằng, ngã vào bên vệ đường, Phan Tử bèn đỡ tôi dậy rồi kéo tôi chạy đi.

Một hơi chạy băng qua đồng, leo lên bờ ruộng sau đó lại vòng ra đường lớn, ở đó đã có sẵn một chiếc Pica đứng chờ chúng tôi. Phan Tử kéo tôi vào trong, thế rồi xe lập tức nổ máy.

Tôi mệt đến đứt hơi, đến khi xe chạy ra tỉnh lộ mới bình ổn trở lại, bèn mắng: “Con mẹ nó anh làm gì mà hấp tấp vậy.”

Phan Tử cũng mệt hết hơi, nhìn bộ dạng của tôi, cười nói: “Cậu đừng nóng, đây cũng là lần đầu tiên tôi phải chật vật như vậy mà. Tổ sư, chả biết đã rút dây động rừng khi nào nữa, không biết có cắt đuôi nổi không.”

Nói rồi anh ngó về phía sau, chỉ thấy một vùng tối đen, hình như không có ai đuổi theo.

Tôi nghe không hiểu, xem chừng việc này anh đều đã lên kế hoạch, vội hỏi anh có chuyện gì xảy ra thế. Anh châm một điếu thuốc, dùng tiếng Trường Sa nói: 

“Trên tàu có chim bồ câu (*), ông Ba đi vắng, Trường Sa rối như canh hẹ, đám người hoạt động ngầm (*)  chỉ chờ trời sáng (*) là lộ mặt.”

(Những chỗ (*) đều là tiếng lóng của Trường Sa, mình dịch thoáng, nghĩa cả đoạn thì tác giả đã giải thích bên dưới)

Lời này ý là trên tàu hỏa có cảnh sát, chú Ba tôi không có mặt ở Trường Sa, việc làm ăn bên đó cũng rối tung beng lên, chỉ e có người bên cảnh sát trà trộn vào đám người làm.

Khi nói chuyện, ánh mắt anh không ngừng liếc qua người lái xe. Tôi hiểu ra người này chỉ là quơ tạm trên đường, không nên để lộ nhiều tin tức thành ra cũng không hỏi gì thêm. Trong lòng lại ngổn ngang trăm mối, thầm nhủ bây giờ mình đã thành cái thể loại gì đây, không phải tù trốn trại à.

Ông nội con ơi, năm đó rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Mấy tháng trước tôi còn là một anh tiểu thương, bỗng chốc biến thành trộm mộ đi giao lưu văn hóa với bánh tông cũng không nói làm gì, bây giờ thì thành một tên đào tẩu, cuộc đời thật là kịch tính quá đi mà…

Xe đến một huyện thành nhỏ gần Kim Hoa, chúng tôi xuống xe trả tiền. Phan Tử đưa tôi đi mua mấy bộ đồ nhỏ hơn 1 size có phần lỗi mốt để thay, soi vào gương trông giản dị hơn trước. Sau đó lại chạy đến nhà ga, mua vé chuyến tàu chúng tôi vừa nhảy xuống lúc nãy, tàu bị tạm dừng nên đến bây giờ mới tới ga.

Chúng tôi lại lên tàu, lần này mua vé giường nằm. Phan Tử nhìn toa hành khách, rõ ràng đã nhẹ nhõm hơn, nói: “Lũ cớm vừa rồi hẳn là đã xuống ở ga Kim Hoa, giờ này hai đầu tỉnh lộ cao tốc đều có chốt chặn, bọn họ tuyệt đối sẽ không lường được chúng ta lại lên tàu một lần nữa.”

Lần đầu tiên trong đời tôi trở thành kẻ trốn chạy, tay chân cũng luýnh quýnh không biết phải làm sao, căng thẳng đến phát run. Tôi khẽ hỏi: “Rốt cuộc chuyện này là sao? Tại sao chúng ta đi lại bị cảnh sát theo dõi? Tôi cũng không làm gì… A, không phải, phải nói những chuyện tôi làm đáng lẽ ra người bình thường sẽ không thể phát hiện ra mới đúng chứ?”

“Tôi cũng không rõ”, Phan Tử nói, “Xế chiều tôi gọi điện cho quỹ tín dụng đen của chúng ta bên Trường Sa, kết quả ông chủ bên kia nghe ra giọng tôi bèn nói đúng hai câu. Một là bảo tôi lập tức mang cậu đến Trường Sa, ông Ba có chuyện nhắn lại; hai là Trường Sa xảy ra chuyện, bảo chúng ta cẩn thận với cảnh sát, sau đó dập máy luôn. Ông chủ này là bạn làm ăn ba mươi năm với ông Ba, tuyệt đối có thể tin tưởng. Tôi nghĩ mình không quen ở Hàng Châu, ở lâu tất sinh chuyện, gì thì gì cứ về Trường Sa trước rồi tính sau.”

Anh thấy tôi lo lắng, lại an ủi: “Tôi vừa lên xe đã phát hiện ngay ra mấy người mặc thường phục, liền liên hệ với một người bạn, nhờ hắn gọi một chiếc xe bám sát theo tàu. Vừa nãy tàu tạm dừng, tôi thấy lái xe đánh tín hiệu, biết có cơ hội mới kéo cậu xuống theo. Nhìn tên lái xe kia dọc đường không nói một lời, xem ra cũng là quơ đại trên đường, trước mặt loại người này cậu không thể nói quá nhiều.

Có điều lũ cớm đó không truy bắt chúng ta chứng tỏ chúng ta cũng không liên quan nhiều đến chuyện ở Trường Sa, bên phía Trường Sa hẳn đã có vài tên đầu sỏ bị tóm, còn chúng ta chỉ là hạng tôm tép. Những việc cậu làm không liên quan đến chuyện lần này đâu nên cậu cũng chẳng việc gì phải sợ, cùng lắm mình chỉ dính vào tội tiêu thụ hàng cấm thôi.”

Nghe thế tôi cũng nhẹ nhõm hơn chút ít, vừa định nói cám ơn trời đất, không ngờ anh lại tiếp: “Ở Trường Sa nếu xảy ra chuyện thì lần theo đống dây mơ rễ má, ông Ba nhất định không thoát khỏi liên can. Ông chủ bên kia lại không chịu nói cho rõ ràng, mẹ kiếp cũng không biết rốt cuộc là có chuyện gì nữa? Thật ra mấy năm nay chúng ta đã hạn chế hoạt động lắm rồi, hầu như chưa từng đích thân xuống đất, chuyện trước kia cũng không thể làm lớn tới mức này được, thật sự là không tài nào nghĩ ra.”

“Vậy bây giờ anh tính sao?”, tôi bèn dò hỏi, ai mà muốn bỏ mạng nơi đất khách chứ.

Phan Tử nói: “Chúng ta không thể đi thẳng một mạch đến Trường Sa được, ra khỏi Chiết Giang mình sẽ xuống xe rồi bắt xe buýt đường dài đến ngọn núi gần Trường Sa. Ông Ba có vài địa điểm thu mua đồ cổ ngoài đó, đến nơi sẽ có người đón, chờ một lúc ông chủ quỹ kia sẽ đến.”

Tôi gật đầu, lúc này tàu hỏa lại dừng, bắt đầu đón thêm khách. Gian giường nằm của chúng tôi có thêm một người mới đến, Phan Tử nháy mắt ra hiệu, tôi lập tức nói lảng sang chuyện khác.

Tán dóc một hồi, tôi vô tình đề cập tới chuyện Trần Bì A Tứ. Danh tiếng ông ta vang dội khắp Trường Sa, Phan Tử cũng đã từng nghe, liền nói:  “Người này cũng có công việc làm ăn riêng của mình, nghe nói sau khi bị mù lão không tự mình ra tay nữa. Sau cách mạng văn hóa, lão có thu mấy đồ đệ để giúp việc buôn bán đồ cổ với người ngoại quốc. Kẻ này rất nham hiểm, mấy tên đồ đệ đầu tiên theo lão hầu như đã bị xử bắn cả rồi mà lão còn thong dong tại ngoại, tin đồn về lão vô số, tốt nhất cứ nên giữ khoảng cách thì hơn.”

Tôi nhớ đến dáng vẻ của Trần Bì A Tứ, rõ ràng trông không giống người mù, lại càng cảm thấy kỳ quái.

Chúng tôi dựa theo kế hoạch của Phan Tử, chật vật mấy lần cũng đến được vùng núi Phúc Thọ phụ cận Trường Sa, nơi đó quả nhiên tuyệt vời, phong cảnh dọc đường đẹp mê ly, Phan Tử sống ở đây mấy năm, nhìn mãi cũng thành quen. Chúng tôi vào chợ tạp hóa trên trấn, nhìn qua cứ như chỗ hội họp của mấy tay nằm vùng thời xưa, quẹo đông quẹo tây, cuối cùng đến một cửa hàng vừa nhìn là biết chả làm ăn gì được. Bề ngoài là một cửa hàng bán máy tính cũ, đẩy bức tường bên trong ra thì đến một gian nhỏ, vào sâu bên trong bắt đầu rộng rãi sáng sủa hơn, do hai gian mặt tiền của cửa hiệu dựa lưng vào nhau tạo nên một hành lang đủ rộng cho hai người đi song song, bên trên phủ vải che mưa, hai bên tường là hàng loạt giá trưng bày, trên giá đều là minh khí mới ra lò.

Có vài người đang đứng xem hàng, người quản lý nhận ra Phan Tử liền buông đồ trên tay chạy lại túm lấy anh mà hỏi: “Sao bây giờ mới đến? Mọi thứ đã chuẩn bị đầy đủ, bao giờ các anh xuất phát?”

“Mọi thứ? Thứ gì cơ?”, Phan Tử ngẩn người, vẻ mặt mù mờ.

Người kia cũng ngây ra: “Anh không biết gì sao?”

Phan Tử quay lại nhìn tôi, tôi trừng mắt nhìn lại, thầm nói ở trên địa bàn của anh mà anh nhìn tôi làm khỉ gì? Anh liền quay lại hỏi: “Chuẩn bị cái gì?”

Người kia trả lời: “Ông Ba bảo thu xếp trang bị cho năm người, có việc phải làm. Anh không biết sao?”

———————————————-

(1) Nguyên văn

绿皮火车

, đây là loại tàu hỏa cũ và sắp bị đào thải ở Trung Quốc, giá vé cũng rất rẻ.

Chương 8: Đội hình mới

Editor: Cơm Nắm Nướng Chảo

Beta: Thanh Du

~0O0~

Phan Tử cau mày nói: “Sao tôi lại không biết gì hết? Ông Ba về rồi à? Ổng dặn lại lúc nào?”

Người nọ nhìn vẻ mặt của hai đứa chúng tôi, còn tưởng Phan Tử đang đùa với mình, nhún vai cười nói: “Bớt giả nai với tôi đi, đồ chuẩn bị cho anh hết mà anh không biết tí gì sao?”

Phan Tử phát cáu chửi một tiếng: “Tôi lừa cậu làm quái gì? Ông Ba nói sao, bảo thế từ lúc nào?”

Người kia ngắm nghía chúng tôi một lượt nữa mới hiểu ra chúng tôi thật sự không biết, cũng cảm thấy kỳ quặc, bèn nói: “Chi tiết chuyện này thế nào tôi không rõ, tôi cũng chỉ nghe ông Sở chủ quỹ tín dụng đen dặn lại thôi. Ông ấy đang ở ngay phía sau, các anh qua đó mà hỏi.”

Phan Tử rầu rĩ rên lên một tiếng, dẫn tôi đi xuyên qua cái ngách nọ. Cuối ngách có cánh cửa sắt không khóa, đẩy cửa ra là thấy ngay một văn phòng bày biện sơ sài. Trong phòng, trên chiếc salon dành cho khách kê ở một bên, tôi thấy một gã trung niên đầu trọc mặt mũi bóng nhẫy đang ngồi hút thuốc. Thấy chúng tôi tiến vào, gã quăng điếu thuốc xuống đất, lấy chân di di rồi đứng lên.

Phan Tử lên tiếng chào hỏi, “Anh Sở”, thái độ thoắt cái đã trở nên cung kính. Tôi lập tức ý thức được rằng đây nhất định là người được chú Ba tôi nhờ chuyển lời nhắn nhủ.

Gã quan sát Phan Tử rồi lại nhìn sang tôi, lên giọng: “Sao bây giờ mới đến, tôi đã chờ các chú hai ngày rồi đấy.”

Phan Tử kể lại một lượt những chuyện trên đường, rồi không đợi gã phản ứng đã vội vàng hỏi luôn: “Anh Sở, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, không lẽ chúng tôi lỡ tay chọc phải đám số má (

*

) rồi sao?”

(*) Tiếng lóng chỉ cảnh sát.

Gã họ Sở đáp lại không nhanh không chậm: “Tạm thời đừng hoảng, không có chuyện gì đâu. Đây là ý của ông Ba nhà chú, ông ấy bảo anh nhả ra một ít tin tức về hoạt động mua bán từ mấy năm trước, kích động bọn số má một tý, giờ này ở tổ nhà nó (

*

) đã lập đội điều tra chuyên án rồi. Anh cũng không biết ông ấy có dụng ý gì, nhưng xem ra ông ấy đang bố trí chướng ngại để ngáng chân một bọn người khác.”

(*) Ý chỉ sở cảnh sát.

“Một bọn người khác?”

“Đúng, chỉ vì một chiêu này mà giờ toàn bộ thị trường đồ cổ đều bị liên lụy. Phàm là người có quan hệ làm ăn với ông Ba nhà chú đều bị giám sát hết, vì thế kẻ nào không nhanh tay chuẩn bị từ trước thì bây giờ sẽ hoạt động cực kỳ khó khăn. Ông Ba nhà chú đang giúp các chú tranh thủ thời gian đó.”

Tôi nhìn nhìn Phan Tử, xem ra anh cũng không hiểu lắm những lời gã đầu trọc này nói: “Thời gian gì cơ?”

Đầu trọc nhún vai, ý muốn nói chính gã cũng chẳng biết. “Chú Ba cậu lão luyện giang hồ rồi, chiêu thức của ông ấy tôi làm sao đoán nổi.”

Phan Tử hỏi tiếp: “Vừa rồi tôi có nghe Cửu Tứ ở bên ngoài bảo cái gì mà trang bị đã sẵn sàng rồi, nói là do ngài bố trí, chuyện này là sao vậy?”

Gã họ Sở đáp: “Nãy anh nói rồi đấy, chỉ cần anh nhả tin tức ra một cái thì người làm nghề này muốn triển khai bất cứ hoạt động nào cũng cực kì khó khăn. Cho nên ông Ba nhà chú mới dặn anh trước khi tiết lộ thông tin phải làm xong xuôi mọi việc đã. Vì vậy anh phải mua sắm trang bị cho sớm, nếu giờ này mới đi thì dân chợ đen chẳng ai dám ra tay, đến một cái đầu xẻng cũng đừng hòng mua được.”

Tôi hỏi: “Nhưng mấy thứ trang bị đó mua để làm gì? Chúng em có định đánh quả gì đâu?”

Gã họ Sở đáp: “Đây chính là nguyên nhân ông Ba nhờ tôi nhắn lại với cậu,” ông ta bảo chúng tôi ngồi xuống, “Thật ra những trang bị này ban đầu không tính phần cậu đâu. Nói cách khác là ông ấy chuẩn bị năm phần trang bị, trong đó có một suất cho bản thân mình.”

Gã ngắt quãng một chút rồi tiếp: “Có điều lúc ông ấy gọi điện thoại cho tôi cũng từng bảo, chuyện ông ấy làm không phải chỉ có mình ông ấy nhắm đến mà còn có kẻ khác tranh giành. Đối phương cũng không phải loại hết xí quách, cho nên nếu ông ấy không về được thì phần trang bị này cứ để cậu dùng. Dù thế nào đi chăng nữa thì việc của ông ấy cậu cũng phải tiếp tục làm, không thể để cho bọn người kia qua mặt được.”

Một nhóm người khác ư? Tôi đột nhiên nghĩ tới công ty của A Ninh. Lẽ nào những gì chú Ba sắp đặt cho bọn họ trong cái đấu dưới đáy biển đều vì nguyên nhân này?

Phan Tử cũng hỏi: “Ông Ba có nói bọn người khác kia là ai không?”

Đầu trọc lắc đầu, trả lời: “Không nói, nhưng anh nghĩ giờ này ông Ba dễ chừng đã lọt vào tay bọn chúng lắm, bằng không ông ấy đã sớm xuất hiện rồi. Chỉ tiếc hiện giờ chúng ta mù mờ không rõ chuyện gì cả, bằng không anh nghĩ dù đối phương có lai lịch hoành tráng hơn thì chúng ta cũng chưa đến nỗi rơi vào thế bí.”

Tôi thầm than một tiếng ‘ôi chao’, tay đầu trọc lại tiếp: “Nơi các chú phải đến là rặng Hoành Sơn thuộc dãy Trường Bạch ở Cát Lâm. Địa điểm cụ thể chỉ đánh dấu bằng tọa độ, nhưng anh đã chuẩn bị người dẫn đường bản xứ để đưa các chú đi rồi.”

Nói đến núi Trường Bạch, giai đoạn này toàn bộ ký ức liên quan đến núi Trường Bạch đối với chúng tôi chỉ có Vân Đỉnh Thiên Cung của Uông Tàng Hải. Không còn nghi ngờ gì nữa, đâu đó trong rặng núi Hoành Sơn hẳn phải là nơi đặt Vân Đỉnh Thiên Cung.

Nhưng tại sao tôi lại phải đến đó chứ? Vô duyên vô cớ mà tôi lại phải đến một nơi tôi không hề hiểu rõ, lại còn vào giữa mùa đông ư?

Gã đầu trọc thấy mặt mày tôi đã sắp xanh lét như tàu lá chuối thì đột nhiên thở dài: “Nói thật chính tôi cũng hoang mang lắm, nhưng tôi đã cân nhắc cẩn thận rồi. Con đường duy nhất các cậu có thể đi hiện giờ là bám theo kế hoạch ông Ba đã chuẩn bị sẵn, như thế mới có thể tìm được manh mối. Bằng không tôi e là chú Ba cậu không qua nổi ải này mất.”

Phan Tử vỗ vỗ tôi, ngoảnh lại hỏi tiếp: “Vậy theo kế hoạch của ông Ba, bước tiếp theo chúng tôi phải làm sao đây?”

Gã đầu trọc đáp: “Các chú có tổng cộng năm người, đầu tiên hãy lên tàu hỏa đi Cát Lâm, hành lý chúng tôi sẽ có cách gửi qua bên kia, cơ bản là đã đến nơi hết rồi đó.”

Tôi và Phan Tử đưa mắt nhìn nhau một cái. Cát Lâm, vậy xem ra không bò lên núi tuyết là không được rồi.

Gã đầu trọc nói mình sẽ phụ trách hết những vấn đề lặt vặt cho hành trình của chúng tôi, nên chúng tôi khỏi phải lo gì cả, chỉ cần vác xác đi thôi, trên đường nhớ chú ý đừng để bị cánh sát bám đuôi là được. Thời gian chuẩn bị sẽ rất gấp gáp, sau một đêm nghỉ lại ở Trường Sa, ngày mai sẽ đưa thẳng chúng tôi lên xe lửa, từ vé xe cho đến đồ dùng vệ sinh cá nhân đều được gói ghém chuẩn bị xong xuôi cả rồi. Kế hoạch chi tiết thế nào ba người kia đều biết rõ, có thắc mắc gì ngày mai cứ việc hỏi họ là được.

Năng lực tổ chức của gã đầu trọc này mạnh đến không ngờ. Chú Ba nhờ gã đến chuyển lời, kế hoạch đề ra lúc này e rằng đã được chuẩn bị trước một thời gian khá lâu rồi. Không biết rốt cuộc mục đích của gã là gì đây?

Chúng tôi lại hỏi thêm vài vấn đề, gã đầu trọc cũng chỉ biết một chứ chẳng biết hai. Có điều theo giọng điệu của gã có thể thấy sự sắp xếp của chú Ba thật sự là hoàn hảo không một kẽ hở, đây mới là lúc để người lão luyện thể hiện khả năng.

Theo đường cũ trở ra, tôi thấy cửa hàng bên ngoài có rất nhiều màn hình máy tính cũ được vận chuyển đến. Phan Tử nói cho tôi biết minh khí được giấu ở bên trong để vận chuyển đấy, đi qua các cửa khẩu cứ đóng vào như vậy là không tra ra nổi đâu. Chuyện vận chuyển trang bị của chúng tôi đến Cát Lâm mà tay đầu trọc kia nói, có lẽ cũng thông qua cách thức này.

Ở đây Phan Tử là dân anh chị địa phương, chập tối tôi cùng anh đi ăn món sủi cảo Trường Sa. Tôi đến Trường Sa không phải mới một hai lần, cũng không còn thấy lạ miệng ngon lành nữa. Chúng tôi vừa ăn vừa thảo luận tin tức hôm nay tay đầu trọc tuồn cho, Phan Tử ngẫm nghĩ nửa ngày rồi nói với tôi: “Cậu Ba, về chuyện cậu kể với tôi ấy, tôi đã nghĩ kĩ rồi. Cái công ty tài nguyên gì gì đó chuẩn bị cho các cậu đi Tây Sa kia có vẻ khả nghi lắm, mẹ kiếp cậu bảo cái bọn người khác mà ông Ba nói có khi nào chính là bọn họ không?”

Tôi đáp: “Tôi đã nghĩ thế từ đầu rồi, có điều tôi cảm thấy vấn đề không phải ở công ty đó, mà ở kẻ đứng sau lưng nó cơ. Chúng ta cũng đừng nghĩ nữa, dù sao đến bên kia rồi chúng ta không đi tìm bọn chúng, bọn chúng cũng sẽ tìm đến tận cửa. Mà cái gã họ Sở kia có thể tin được không đấy?”

Phan Tử bèn bảo: “Cậu Ba, cậu đừng xem Phan Tử tôi như thằng lính quèn, tôi nhìn người chuẩn lắm đấy, người này cậu cứ yên tâm tuyệt đối đi. Chẳng qua tôi vẫn còn lo, ông ta nói có năm người cùng đi, không biết ba người kia là hạng người gì.”

Tôi an ủi: “Chú Ba sắp xếp thì sẽ không sao đâu.”

Phan Tử lắc đầu: “Khó nói lắm, ông Ba thường nói nhìn người phải nhìn đủ 365 ngày, thiếu một ngày cũng không được.

(Hả? Chú giống anh Điệp Y dữ vậy chú Ba :v :v :v )

 Đã là người thì sẽ thay đổi, chỉ cần một tuần cậu không nhìn đến người ta, chưa biết chừng người ta đã tính kế hại cậu rồi đấy. Đặc biệt là mấy kẻ vô văn hóa trong đám đồng đạo của chúng ta, nói khó nghe một chút thì, mẹ kiếp mỗi tay lại chẳng nợ những mấy mạng người, tâm địa thì hung ác, đến mẹ ruột còn có thể đem chôn xuống đất. Ông Ba mất tích đã lâu, đám người làm ở đây đảm bảo đã thay lòng đổi dạ rồi.”

Tôi bèn bảo anh yêu cầu cao quá cũng không đáp ứng nổi, chúng ta cứ được đến đâu hay đến đó thôi.

Buổi tối ngoài đường trời trở lạnh, ăn xong chúng tôi nhất trí về ngủ trong căn phòng Phan Tử ở lúc trước. Sáng sớm thức dậy ăn điểm tâm xong thì xe của gã đầu trọc cũng tới đón chúng tôi. Tôi đứng xa xa xốc hành lý cá nhân lên lưng, nhìn vào trong xe, phát hiện ra trên ghế đã có người ngồi.

Nhìn kĩ hơn thì thấy đó là một ông già, người này mặt mũi trông rất quen, hình như tôi đã gặp ở đâu đó rồi, hơn nữa còn mới gặp gần đây thôi.

Tôi cũng không hề để ý, vừa cười cười nói nói với Phan Tử vừa bước lại gần, tới nơi mới nhìn một cái đã muốn lịm cả người đi.

Ông già kia, cứ xem hình thể và bộ trang phục quái gở thì chẳng phải ai khác, mà chính là người tôi đã gặp tại quán trà của chú Hai ở Hàng Châu – Trần Bì A Tứ!

Tôi há hốc miệng, cổ gần như cứng ngắc, thầm hỏi ông ta ngồi trong xe làm gì? Không lẽ lão già này cũng là một trong năm người? Sao có thể vô lý đùng đùng vậy chứ?

Phan Tử lúc này cũng đã nhìn thấy, lúng búng một tiếng, mặt cũng không giấu được vẻ kinh ngạc.

Gã đầu trọc gọi chúng tôi, bảo đi nhanh lên, chúng tôi ù ù cạc cạc bước lên xe. Phan Tử có quen Trần Bì A Tứ, đánh tiếng bắt chuyện với lão. Lão già kia đang nhắm mắt nghỉ ngơi, chỉ khẽ gật đầu. Phan Tử lập tức chuyển hướng sang tay đầu trọc đang lái xe, nhe răng dùng khẩu hình hỏi gã sao lại thành thế này?

Gã đầu trọc cười cười ra vẻ bất đắc dĩ, dùng khẩu hình trả lời mình cũng không biết, chính ông Ba đã sắp xếp như vậy đấy.

Không thể nào, tôi thầm nhủ. Lão già chết bầm này chẳng phải là một lão mù sao, hơn nữa số tuổi còn lớn hơn cả tôi lẫn Phan Tử cộng lại. Chú Ba đang chơi cái trò mèo gì đây?

Chúng tôi tiến vào nhà ga với tâm trạng thấp thỏm không yên. Trong lòng tôi âm thầm suy tính, người đầu tiên chú Ba an bài cho chúng tôi lại là một lão già đã ngót trăm tuổi, vậy người thứ hai là hạng người gì thật khó đoán quá, chẳng có gì chắc chắn đó không phải một phụ nữ bụng chửa vượt mặt, hoặc là một kẻ tàn phế ngồi xe lăn. 

(trí tưởng tượng phong phú quá =)))

Không lẽ chú Ba lại muốn thử thách tấm lòng thơm thảo của chúng tôi sao?

May thay Trần Bì A Tứ thân thể vẫn còn rất cường tráng, chắp tay sau lưng bước xuống xe. Gã đầu trọc cư xử cực kỳ cung kính với ông ta, giúp ông ta mang hành lý. Để dễ bề ứng biến, chúng tôi vẫn chọn loại giường nằm hạng bét, một phòng ngủ được tới sáu người, vừa vặn còn một giường để đặt hành lý.

Tới phòng mình, tôi thò đầu vào trong ngó nghiêng, chưa chi đã trông thấy một gã béo đang gặm mỳ tôm. Nhìn thấy tôi, hắn nhướng mày kinh ngạc hỏi: “Má nó chứ, lại là cậu à?”

Tôi lập tức thấy đầu phát nhức lên… ruột gan cũng muốn rụng ra, trong lòng tự hỏi không biết chú Ba làm thế nào mà tìm được hắn, chẳng lẽ ổng vẫn giữ nguyên đội hình trước kia sao? Tôi lập tức chuyển hướng đến cái giường phía trên Bàn Tử, quả nhiên bắt gặp một đôi mắt hững hờ không có lấy nửa điểm xao động cũng đang nhìn lại tôi.

Tôi thở phào nhẹ nhõm. Hũ Nút (*) nheo mắt ngó tôi một cái rồi lại quay đầu ngủ tiếp.

(*) *Chú giải của beta* Tên chính thức của anh là Bình Kín Miệng, để thuần Việt hơn nữa, dân dã hơn nữa, từ đây mình sẽ dịch ra là Hũ Nút.

Chương 9: 

Cửu Long Đài Thi

Editor: Cơm Nắm Nướng Chảo

Beta: Thanh Du

~0O0~

*Lời beta* ban đầu ham hố thuần Việt, Ctrl + R cả chương từ Muộn Du Bình thành Hũ Nút xong mới bắt đầu beta, nhưng chính mình đọc cũng thấy thốn thốn, đến chữ Hũ Nút thứ 4, 5 gì đấy thì hết chịu nổi. Không muốn tẩu hỏa nhập ma thêm nữa nên mình sẽ trả lại tên cho anh ~~~ Thật sự rất khâm phục định lực cao siêu của BTV BV khi đọc cả quyển truyện dài 700 trang với “Bình Kín Miệng” đập vào mắt liên tục “thắp nhang, vái*

Ê-đuyếch-tờ: Cô dở òm, đang vui mà cắt cái xoẹt, sao không để thêm mấy bữa nữa cho náo nhiệt =”)))))) Tui thấy cái tên Hũ Nút còn hot hơn cả H văn, bữa giờ câu được cả đống comm kìa =”)))))))

 ~0O0~

Tay đầu trọc bố trí cho chúng tôi đi theo tuyến đường du lịch, trước hết xuất phát từ Trường Sa đến Sơn Hải Quan, sau đó đổi tàu đi Đôn Hóa, cả hành trình đều ngồi tàu hỏa, tổng cộng mất khoảng hai ngày đường, vượt qua gần ba ngàn cây số. Trong khoảng thời gian này chúng tôi chẳng có việc gì để làm, chỉ biết giết thì giờ bằng một cái điện thoại di động và vài tờ tạp chí.

Tôi đưa chi phiếu bán viên Ngư nhãn thạch kia cho Bàn Tử, hắn liền nhìn tôi bằng con mắt hồ hởi. Thấy tâm trạng hắn khá tốt, tôi bèn vụng trộm hỏi xem vì sao hắn lại tới nơi này.

Bàn Tử bèn đáp, dấn thân vào cái nghiệp này rồi, có một số vụ không tụ tập nhau lại thì không thể làm được. Tỷ như có những đấu lớn nằm tít trong rừng xanh núi đỏ, một mình anh tuyệt đối xử lý không xong. Thứ nhất phải mang quá nhiều trang bị cần thiết, mỗi người có mỗi một cái lưng, cõng làm sao cho xuể. Thứ hai, hàng tốt nếu quá nhiều, anh một thân một mình cũng chẳng khuân hết được ra. Mà kết cấu trong những cổ mộ kiểu này thường cực kỳ hiểm ác, đổ một lần may mắn còn mạng trở ra là đã tốt lắm rồi, còn muốn mạo hiểm chui vào thêm hai ba lần nữa ư, chỉ e là không ai muốn. Cho nên nếu gặp những cái đấu như thế thì sẽ có một người đứng lên cầm đầu, thời xưa gọi là “Tróc đấu”, còn thời Dân Quốc tiếng lóng trong nghề gọi là “gắp Lạt Ma”.

Cái trò này giống với nghề làm thầu khoán bây giờ, nhận việc vào tay rồi tự mình tìm công nhân điện nước để làm. Hồi mới giải phóng các đội khảo cổ cũng dùng cách tương tự để chiêu mộ kỳ nhân dị sĩ.

Lần này người “gắp Lạt Ma” chính là đầu trọc. Gã đầu trọc kia quan hệ rất rộng, quen một người bạn của Bàn Tử làm cò đất(*) ở Bắc Kinh. Rất nhiều mối của Bàn Tử đều do người bạn làm cò đất này chắp nối cho, thế là dây mơ rễ má một hồi, Bàn Tử dính vào vụ này. Về phần tình hình cụ thể, theo như thông lệ, chưa đến nơi hành sự, người “gắp Lạt Ma” chưa cần phải lộ diện, bằng không lỡ để cho người ta biết sớm thì dễ dẫn tới đấu đá nội bộ. Vì thế nên khi tôi hỏi về tình hình của chú Ba, Bàn Tử lắc đầu quầy quậy, nói: “Con bà nó chứ, cậu còn hỏi tôi à? Bàn gia đây nếu biết vụ này có liên quan đến lão chú Ba chó má nhà cậu thì có chi đậm hơn nữa ông cũng éo làm đâu.”

(Gắp Lạt Ma cầm đầu một vụ đổ đấu lớn, nhưng ko quen biết rộng trong giới trộm mộ, hoặc quen biết rộng, nhưng vẫn cần chiêu mộ nhiều kỳ nhân dị sĩ hơn, thì tìm qua trung gian là thổ biều tử (aka cò đất). Cò đất lăn lộn lâu trong giới, quen biết rộng, một thằng còquen được dăm chục thằng cò khác, thằng cò khác lại quen đến dăm chục thằng khác nữa, cứ thế, tạo thành mạng lưới rộng, có thể dễ dàng với được đến những kỳ nhân dị sĩ ởnhững hang cũng ngõ hẻm hơn, chiêu mộ về cho cuộc đổ đấu lớn đầy nguy hiểm : D Nói chung, muốn đi đổ đấu lớn mà ko biết chiêu mộ ai sành đổ đấu, hãy tìm đến cò đất =))~)

Tôi thầm thở dài, tự nhủ tên Muộn Du Bình kia dĩ nhiên cũng là do gã đầu trọc liên hệ, xem ra sẽ chẳng hỏi han được gì nốt. Ở đây người hiểu rõ tình hình nhất, ngoại trừ tôi và Phan Tử, chắc cũng chỉ còn Trần Bì A Tứ mà thôi.

Muộn Du Bình trước sau như một vẫn lầm lầm lì lì, chẳng thèm chào hỏi tôi lấy một tiếng, cứ ở nguyên một chỗ mà ngủ gà ngủ gật. Tôi muốn ra vẻ ân cần mà tâm sự hàn huyên với hắn, nói được vài câu lại phát hiện hắn căn bản chẳng để vào tai. Bàn Tử bảo tôi đừng phí hơi nữa, từ lúc lên tàu hắn vẫn ngủ suốt như thế đấy.

Sau khi tàu chuyển bánh, tôi cùng với Bàn Tử và Phan Tử tụ lại một chỗ chơi spades (*), đánh bài giết thời gian. Tôi vừa chơi vừa suy xét về Trần Bì A Tứ. Lão già này sau khi lên xe vẫn chưa hé răng câu nào, Phan Tử sáp tới làm thân lão cũng chỉ “ừ” một tiếng, tàu vừa chạy là cứ thế chuồn ra ngoài, đến giờ vẫn chưa trở lại. Bàn Tử còn hỏi nhỏ tôi: “Lão già này là ai đấy, làm gì cứ như đang úp bài chờ ù thế?”

(Là trò này nè: http://www.games.com/game/masque-publishing/spades, cơ mà ngộkhông biết đánh á~ 囧)

Phan Tử hạ giọng kể cho Bàn Tử ít chuyện về Trần Bì A Tứ. Bàn Tử nghe nói lão đã hơn chín chục cái xuân xanh thì mặt mũi xám ngoét: “Anh đừng  bảo tôi là lão già ôn dịch này cũng đòi theo chúng ta lên núi đấy nhé. Nếu đúng là như thế thì đợi đến chỗ vắng vẻ tôi đưa lão đi tiêu hủy trước cho nhân đạo, đừng hòng đứa nào cản nổi. Dù sao để lão đi vào thì cũng chỉ có đường chết thôi.”

Phan Tử vội vàng bịt miệng hắn lại, nói nhỏ: “Mẹ kiếp anh bơn bớt lời đi. Lão khọm kia tinh lắm đấy, để lão nghe thấy thì còn chưa đến nơi lão đã cho anh tiêu đời rồi.”

Tôi nhớ lại chút ít về Trần Bì A Tứ. Lúc trong quán trà lão tạo cho tôi cảm giác như một bậc thầy cao thâm khó lường về văn hóa quốc gia, có một đám người phải trái vây quanh. Với thế lực và tài nghệ của hạng người này, hơn nữa tuổi đã kề miệng hố, sao lại một thân một mình đi “gắp Lạt Ma”? Không sợ bị chúng tôi hại sao?

Tôi nhắc chuyện này với Phan Tử thì hắn cười nói: “Cậu lại không hiểu rồi. Chúng ta hiện tại đều là Lạt Ma do ông Ba gắp tới, cho dù là chú tiểu hay sư trụ trì thì cũng phải để ông Ba gắp hết, đây là luật giang hồ. Lão muốn húp chung chén canh này thì phải làm theo luật, với địa vị của lão đại để là không còn cách nào khác.” Anh ngẫm nghĩ rồi lại nói tiếp: “Có điều chúng ta vẫn phải cẩn thận với lão già này. Ngoài mặt thì lão chỉ có một mình, kỳ thật hạng người như lão đảm bảo là đã cài cắm bè đảng tứ phía rồi.”

Bàn Tử nghe xong liền chửi: “Bố đếch hiểu nổi nữa, ông Ba nhà các anh gọi loại người như thế ra làm cái gì? Chẳng phải không dưng rước lo vào người sao? Nếu kẻ này đã tai quái như vậy, tôi thấy chúng ta nên tiên hạ thủ vi cường, hoặc trói lại hoặc là xử phắt luôn.”

Phan Tử mắt nhìn cánh cửa, miệng nói: “Tôi cảnh cáo anh không được làm bậy đâu đấy. Ông Ba kéo người này đến nhất định là có dụng ý, chúng ta cũng phải nể mặt lão. Dù sao lão cũng kề miệng hố rồi, hồi trẻ có lợi hại mấy cũng chẳng ăn thua, đến lúc đó nếu thật sự muốn —- ui da!”

Anh còn chưa dứt lời, cánh tay của Muộn Du Bình đã bất thình lình thò xuống từ giường trên, tóm lấy bả vai Phan Tử. Hắn dùng sức rõ mạnh, bóp chặt đến nỗi anh ta suýt nữa đã kêu lên.

Phan Tử đau đến nghiến răng, nửa câu sau cùng chưa kịp nói ra. Chúng tôi đều sững lại một giây, Phan Tử vốn chẳng có cái thiện cảm chết tiệt gì với Muộn Du Bình, vừa định cự nự thì cửa đã kêu đánh kẹt một tiếng, Trần Bì A Tứ lừng lững bước vào.

Chúng tôi liếc mắt nhìn nhau, vội cúi đầu tiếp tục chơi bài, cứ như hồi đi học bị bắt quả tang quay cóp trong phòng thi.

Lão già ngó qua chúng tôi, cũng chẳng buồn mở miệng, lẳng lặng leo lên giường mình, không biết có ngủ hay không.

Có lão ở đây, chúng tôi cũng không dám bàn bạc chuyện gì nữa, đành phải tập trung đánh bài. Thời gian cứ chầm chậm trôi, gần nửa đêm hôm sau tàu của chúng tôi cập ga Sơn Hải Quan.

Sơn Hải Quan là thiên hạ đệ nhất quan (*), có điều cũng chỉ là cảnh quan nhân tạo, phần lớn được trùng tu vào năm 1986. Chuyến tàu chúng tôi phải chuyển sang còn hai giờ nữa mới vào ga, Bàn Tử hỏi có muốn đi thăm quan không, tôi bèn bảo đã nửa đêm về sáng rồi, trời lại chẳng có trăng, xem cái con khỉ biển ấy. Vì vậy mấy người chúng tôi hòa vào đám đông người tứ xứ cũng đổi tàu như mình, đi về phía phòng chờ của nhà ga.

(Sơn Hải Quan ở đây là một cửa ải chính của Vạn Lý Trường Thành, đã được xếp hạng di tích lịch sử bậc nhất. Cửa ải này trước đây trấn giữa Trung Nguyên và vùng đất của các dân tộc du mục như Khiết Đan, Nữ Chân, Mãn Châu. Hiện nay nó là một thắng cảnh thuộc quận Sơn Hải Quan, tỉnh Hà Bắc – theo wikipedia)

Bữa nay lại đúng vào đêm trước ngày dân tình lũ lượt kéo về quê ăn Tết, người đã đông lắm rồi, bên trong nhà ga bốc mùi khó ngửi, đủ mọi loại người ở lại qua đêm, có kẻ còn cuốn chăn ngủ trên mặt đất. Chúng tôi nhón chân theo dòng người tiến vào, chỉ sợ dẫm phải người ta.

Người quá đông, đi lại lộn xộn, chẳng mấy chốc mấy người chúng tôi đã rã đám. Muộn Du Bình và Trần Bì A Tứ đứng cách chúng tôi khá xa, Bàn Tử bị mấy người dẫm chân, đứng tại chỗ chửi bới. Tôi đang định bảo bọn họ chớ để bị phân tán, giơ tay lên cho họ nhìn thấy vị trí của tôi thì đã bị Phan Tử níu lại, kéo tôi ngồi thụp xuống.

Tôi còn lơ ngơ chưa hiểu, chợt nghe anh nói: “Có cớm đấy, chú ý một chút.”

Nghe vậy tôi vội vàng ngồi bừa xuống đất, trái phải cơ man là người. Tôi liếc qua khóe mắt xem thử thì thấy ngoài cửa lớn có mấy tay cảnh sát mặc đồng phục đang tra xét giấy tờ cùng vài gã dân phòng.

Tôi cúi đầu nói nhỏ bằng tiếng Hàng Châu với Phan Tử: “Có sao đâu, ở Hàng Châu cũng thường xuyên như thế, kiểm tra giấy tờ thôi mà. Chúng ta chẳng mang vũ khí trên người, cũng không bị truy nã, có gì phải sợ?”

Phan Tử hất hàm về phía mấy gã đàn ông mặt mũi bình thường trong đám người, nói: “Đó mới chỉ là bọn gác cửa thôi, lũ mặc thường phục núp trong đám đông mới đang tìm người. Cúi đầu xuống, đừng để chúng nó nhận ra.”

Tôi lập tức ngẩng đầu lên nhanh như chớp, liếc qua một cái. Giữa mấy tên kia hình như còn kẹp một kẻ trông khá quen mặt. Kẻ đó nhìn quanh quất về phía chúng tôi. Tôi còn định quan sát cẩn thận hơn thì hắn đã giãy nảy lên, chỉ thẳng vào tôi hét lớn: “Kia kìa!”

Thấy trên tay người kia còn mang còng, ruột gan tôi bỗng rớt bộp xuống. Nhìn kỹ lại người nọ, cái đệt, chẳng phải là Sở đầu trọc sao? Mới có hai ngày không gặp, sao đã thành chỉ điểm cho cớm rồi?!

“Mẹ, dẫn dẫn cái kít!” Phan Tử chửi toáng lên, kéo tôi bật dậy bỏ chạy, một đám cớm chìm đằng sau dồn sức đuổi theo hô lớn: “Đứng lại!”

Chúng tôi bổ nháo bổ nhào trèo qua mấy hàng ghế, cố sức rẽ đám người mà chạy. Phan Tử xô đẩy tiến thẳng một đường, người ta đều nhốn nháo dạt sang hai bên, nhưng đến phiên tôi thì nhoáng cái đã bị những người đó bao vây lại. Tôi âm thầm gào thét trong lòng, cái khỉ biển gì thế này, bộ trông tôi dễ bắt nạt đến thế sao?

(ớ hớ hớ hớ lại còn phải hỏi cơ đấy –3–)

Ngó thấy phía trước mình đã bị vây kín, đám cớm đằng sau cũng sắp đuổi tới nơi, bất thình lình tôi nghe đánh ‘rốp’ một cái, bóng đèn neon trên trần sảnh đợi đột nhiên vỡ vụn, mọi người hốt hoảng nhảy dựng lên, ngay sau đó lại ‘rốp’ một tiếng vỡ thêm chiếc nữa. Tôi thừa cơ khom lưng luồn qua giữa hai người, luồn tới lách lui trong đám đông, tính đường chen ra cửa lớn.

Bất thình lình, tôi bị một người giữ lại kéo sang bên, nhìn kĩ thì hóa ra là Phan Tử. Anh hất đầu một cái, ý bảo chúng tôi hãy chuồn ra phía đường ray.

Đèn neon trên đầu rốp rốp rốp liên tục vỡ nát, phòng chờ càng lúc càng tối, vụn thủy tinh rơi thẳng xuống đầu. Trong chốc lát tiếng người ồn ào, tiếng trẻ con gào khóc, tiếng kêu la sợ hãi xoắn vào nhau thành một mớ hỗn loạn. Rất nhiều người chen chúc ra cửa, chúng tôi cũng theo dòng người luồn ra.

Từ xa tôi đã trông thấy Bàn Tử vẫy tay ra hiệu với chúng tôi. Tôi lại gần hắn, vừa định hỏi Muộn Du Bình đâu rồi thì tên kia đã thình lình xuất hiện như oan hồn. Bàn Tử hỏi Phan Tử: “Cái đũa gắp Lạt Ma nhà anh bị cớm bẻ gẫy rồi, giờ phải tính sao?”

Phan Tử chửi một tiếng: “Đồ chó đẻ đốn mạt, chưa gì đã bán đứng chúng ta, người thời nay mẹ kiếp đúng là đéo tin được đứa nào, có dịp tôi phải đập chết gã mới được!”

Bàn Tử hỏi tiếp: “Giờ hăng máu cũng có ích gì? Anh nói xem, giờ ta tính sao đây?”

Phan Tử gãi đầu, anh cũng chẳng biết giờ phải làm sao mới ổn, lại nhìn về phía tôi. Tôi vừa định mở miệng oán thán thì Muộn Du Bình đã vỗ vai chúng tôi một cái rồi lên tiếng: “Đi theo lão già đó.”

Chúng tôi nhìn theo ánh mắt hắn, thấy Trần Bì A Tứ đang đứng cách đó không xa nhìn chúng tôi, bên cạnh lão còn có mấy gã trung niên chẳng biết chui từ đâu ra.

Muộn Du Bình lập tức tiến về phía lão. Bấy giờ chúng tôi cũng chẳng còn cách nào mà bàn bạc nữa, đành phải bấm bụng qua đó cùng hắn. Trần Bì A Tứ thấy chúng tôi đi tới, bèn ra dấu cho mấy người bên cạnh. Những người kia thoắt cái lại tản ra, trà trộn trong đám đông, bản thân lão cũng quay đầu lẩn vào giữa đoàn người.

Chúng tôi nhờ đám đông che chắn, rốt cuộc cũng trốn khỏi ga Sơn Hải Quan, mò mẫm đến được một xó trong công viên. Chúng tôi dừng lại, đưa mắt nhìn nhau, sắc mặt ai nấy đều bất ổn. Trận này thật đúng là xuất quân bất lợi, cứ ngỡ dựa theo kế hoạch của tay đầu trọc là cả đám có thể đến đích mà khỏi phải động não. Chẳng ngờ còn chưa đến hai ngày, gã đầu trọc thế mà đã bị bắt, đã thế còn đích thân dẫn đường cho cớm đến tóm cả bọn. Tình nghĩa thì như thế, còn đi lại suốt ba mươi năm trời, xem ra con mắt nhìn người của chú Ba cũng chẳng có gì hơn người ta.

Chúng tôi ngồi xổm trong bụi cỏ nghỉ ngơi một lát. Trần Bì A Tứ nhìn chúng tôi chòng chọc, đột ngột cất lên một tiếng cười lạnh, nói bằng cái cổ họng khản đặc: “Dựa vào mấy đứa chúng bay mà muốn đi đào Cửu Long đài thi quan của hoàng đế Đông Hạ ấy hả? Ngô Tam Tỉnh già quá hóa lú rồi sao?”

Chương 10: Thôn Doanh Sơn

Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Trong lòng chúng tôi vốn đã khó chịu, tự dưng bị mắng một câu như vậy lại càng thêm bực bội. Bàn Tử ‘Hừ!’ một tiếng, chửi ầm lên: “Lão già, ông nói thế là sai rồi, chuyện này liên quan quái gì đến chúng tôi, rõ ràng là mắt nhìn người của cái ông Ba gì gì kia có vấn đề, mẹ kiếp việc này sao có thể trách chúng tôi? Ông đây lăn lộn giang hồ bao lâu, đây là lần đầu tiên bị cớm đuổi cho cong mông lên chạy thế này, thật là tức chết đi được.”

Tôi thấy hắn nói có phần quá đáng bèn chạy tới can, nháy mắt ra hiệu. Phan Tử không thích người khác nói xấu chú Ba, một hai câu còn có thể nhẫn nhịn bỏ qua, tốt nhất không nên nói thêm nữa kẻo xảy ra đánh lộn.

Bàn Tử coi như cũng nể mặt tôi, bèn ngậm miệng lại, rít một điếu thuốc lá rồi hậm hực thổi phù một làn khói. Phan Tử quay sang hỏi Trần Bì A Tứ: “Cụ Trần à, chúng ta trước đây kể như đã từng qua lại, giờ cũng không phải lúc phê bình chúng tôi. Ở đây ngài là trưởng bối, bây giờ chiếc đũa gắp Lạt Ma đã gãy, ngài nói xem nên làm gì mới phải? Chúng tôi sẽ nghe theo ngài cả.”

Bàn Tử trừng mắt, xem chừng lại muốn gào lên: Tại sao phải nghe theo lão ta? Tôi biết Phan Tử hẳn đã có kế hoạch nên ra hiệu cho hắn đừng có nói gì cả, vội vàng kéo Bàn Tử lại, vỗ vỗ lưng kêu hắn bình tĩnh.

Trần Bì A Tứ nheo mắt quan sát Phan Tử một lượt, im lặng hồi lâu rồi cất tiếng: “Xem ra ngươi cũng biết chút phép tắc, thôi thì ta sẽ chỉ bảo cho tụi bay vài câu. Giờ không thể đi tàu hỏa được, ta đã sắp xếp một chiếc xe khác, nếu muốn tới nơi thì đợi lát nữa theo ta lên xe, còn nếu không chịu thì ai đến từ đâu tự động mà cút về chỗ đó! Nhưng ta nói trước với tụi bay, lần này đi tới nơi đó không phải chuyện đơn giản đâu. Trước kia Ngô Tam Tỉnh đến tìm ta, chính là muốn lão gia ta dạy dỗ tụi bay. Trên đời này, ngoại trừ ta, chỉ e không còn người thứ hai có thể đi vào vùng đất kia nữa.”

Bàn Tử cười khẩy, “Xí! Lão già kia đừng có dọa rồ nhau, trên đời này còn có thứ gì Bàn gia ta chưa từng thấy? Nói cho lão biết, mấy người bọn ta từng lên trời hái trăng, xuống biển bắt rùa, đến bô nước tiểu của Ngọc Hoàng đại đế chúng ta cũng từng đi đổ, không phải chỉ là một cỗ Cửu Long đài thi quan thôi sao, có gì ghê gớm chứ? Ông đây hồi trước chỉ cần vỗ một cái là bánh tông trong quan tài cũng phải nhảy ra. Còn người này, ông có biết cậu ta là ai không? Chính là cháu nội của Trường Sa Cẩu vương, nhớ hồi còn ở Sơn Đông…”

Tôi vội vã véo Bàn Tử một cái, cười xòa nói: “Ngài đừng nghe hắn nói linh tinh, người này nói một câu thì nửa câu đáng quẳng vào nhà xí rồi.”

Trần Bì A Tứ quay sang nhìn tôi rồi nói: “Ngươi không cần phủ nhận, ta đã biết ngươi là cháu nội Ngô Lão Cẩu rồi. Rượu mừng đầy tháng của cha ngươi ta đã từng uống rồi, tính ra ngươi cũng nên gọi ta một tiếng ông mới phải.”

Ngô Lão Cẩu là danh xưng thân mật mà người trong nghề gọi ông nội tôi, ông có kể với tôi mình từng qua lại với người này, quả nhiên là không sai.

Tôi vội vã gật đầu, ngàn vạn thứ có thể đâm thông, mỗi mông ngựa là vững như tường đồng (1), nghĩ thế bèn kêu một tiếng: “Ông Tư.”

Trần Bì A Tứ nghe thế bèn cười một tiếng cổ quái, cũng không biết có ẩn ý gì. Phan Tử hỏi: “Cụ Trần, bây giờ chúng ta làm gì đây? Tìm một chỗ nghỉ chân trước, hay là…”

Chưa dứt lời thì từ xa đã truyền đến hai tiếng còi ô tô một dài một ngắn, Trần Bì A Tứ nói: “Xe của ta đến rồi, muốn đi hay về các ngươi tự mình cân nhắc cho kĩ. Nếu muốn lên núi thì hãy theo ta lên xe.” Nói xong liền đứng thẳng dậy, bước về phía tiếng còi ô tô vang lên inh ỏi.

Chúng tôi cũng chưa vội đi theo ngay, chờ lão ta đi xa mới quay sang nhìn nhau. Phan Tử nhỏ giọng: “Lão khọm này đã sớm chuẩn bị sẵn cứ như biết trước chúng ta ở đây ắt gặp rắc rối, tôi dám khảng định chính lão bán đứng gã đầu trọc kia. Hiện giờ người tiếp ứng bên Đôn Hóa chắc chắn đã không còn nữa, cũng đừng trông mong trang bị sớm được mang đến, muốn nắm rõ tình hình bây giờ thì mẹ kiếp chúng ta kiểu gì cũng phải đi theo lão. Chiêu này của lão thật hiểm, nhưng bất luận thế nào, chuyện ông Ba dặn dò tôi nhất định phải làm cho xong. Các người có đi hay không thì tự mình quyết định.” Phan Tử nói rồi lập tức đứng lên, đuổi theo Trần Bì A Tứ.

Muộn Du Bình liếc tôi và Bàn Tử một cái, rồi cũng đứng lên đi theo Phan Tử.

Phút chốc chỉ còn lại tôi với Bàn Tử. Tôi nhìn Bàn Tử, Bàn Tử cũng nhìn lại tôi, cuối cùng Bàn Tử cất tiếng: “Phải rồi, Cửu Long đài thi quan của hoàng đế Đông Hạ mà lão ta vừa nhắc đến là cái gì vậy?” Tôi lắc đầu, đáp: “Tôi cũng không biết.” Bàn Tử miết chặt điếu thuốc, ngẫm nghĩ rồi nói: ” Vậy chi bằng chúng ta đuổi theo rồi hỏi lão cho rõ nhỉ?” Tôi bật cười một tiếng, gật đầu, rồi hai người cùng đứng lên nối gót Phan Tử và Muộn Du Bình.

Đám người trung niên đi theo Trần Bì A Tứ mà chúng tôi gặp ở nhà ga quả nhiên là tay chân lão ta đã cài cắm sẵn từ trước, thu xếp xe cũng chính là bọn họ. Một chiếc xe tải Giải Phóng chạy tới đón chúng tôi, cả đám leo vào thùng xe, bên ngoài chồng hàng hóa lên ngụy trang. Xe đi một mạch đến Sơn Hải Quan, lên tỉnh lộ, thẳng hướng Nhị Đạo Bạch Hà. (2)

Trên đường đi tôi ngủ mê man không biết trời trăng gì, khi tỉnh lại đã là giữa trưa ngày hôm sau. Ô tô không tiện lợi như tàu hỏa, mới đi được hơn nửa ngày lộ trình mà nhiệt độ nơi này đã thấp hơn Hàng Châu rất nhiều. Mặc dù thùng xe có mui bằng vải buồm che chắn nhưng gió vẫn luồn vào trong, khiến tôi lạnh phát run. Trần Bì A Tứ quấn mình trong chiếc áo bành tô quân đội, có mấy lần vô ý lộ ra dáng vẻ của một cụ già, nhưng biểu cảm này chớp mắt đã biến mất. Trong lòng tôi thầm than, quả nhiên cũng đã có tuổi rồi, không biết một lão già đã ở tuổi tri thiên mệnh (*) như thế còn có mưu đồ gì nữa.

(Cái này chắc nhiều người biết nhưng cứ chú thích cho chắc. Luận Ngữ có câu “Tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mệnh”, ổng đã chín mươi nhưng mà người xưa chết sớm, Luận Ngữ chỉ viết đến tuổi năm mươi nên tri thiên mệnh coi như là già lắm rồi.)

Chúng tôi cùng nhau bàn bạc cách leo núi, theo như tin tức mà Trần Bì A Tứ nhận được từ gã đầu trọc thì đến Đôn Hóa rồi chúng tôi sẽ đi ô tô hướng về Nhị Đạo Bạch Hà, ở đó sẽ có dân bản địa dẫn đường cùng với trang bị đã chuẩn bị sẵn. Sau đấy chúng tôi lại tìm đến một thôn nhỏ nằm kế bên Lật Tử Câu, đến đó gã sẽ nói cho chúng tôi biết mục đích chuyến đi rồi dẫn đường cho chúng tôi tìm tới mục tiêu, còn sau đó tìm kiếm thế nào, xuất nhập ra sao lại là việc của chúng tôi.

Hiện giờ chúng tôi chắc chắn không thể đến Lật Tử Câu bởi cớm rất có thể đã đặt chốt ở đó, hơn nữa nơi đó cũng rất gần Nhị Đạo Bạch Hà. Chúng tôi nhìn nhau, quyết định không ghé qua Lật Tử Câu nữa mà đi thẳng vào. Mé trong còn có mấy thôn, phải đi đến hết đường mới thôi.

Chúng tôi không rõ gã đầu trọc rốt cuộc biết được bao nhiêu thông tin về vị trí của thiên cung, giờ gã không có ở đây, mọi việc tự nhiên cũng khó khăn hơn nhiều. Dãy Trường Bạch rất đồ sộ, lại có một phần nằm trong lãnh thổ Triều Tiên, nếu phải lần mò từng tấc một e rằng không khả thi. Nhưng chúng tôi suy đoán, nếu kế hoạch cũ là tới Lật Tử Câu thì đích đến tất nhiên phải ở quanh đó. Chúng tôi trở ra theo con đường cũ, đầu tiên là tới mấy sơn thôn gần đó dò đường, tiện thể hỏi thăm tin tức, hẳn sẽ có thu hoạch.

Mọi chuyện cứ theo kế hoạch mà tiến hành. Cuối cùng khi tới Nhị Đạo Bạch Hà, người của Trần Bì A Tứ bắt đầu giở trang bị ra. Tôi nghĩ bây giờ trên khắp cả nước đều kiểm tra gắt gao, mấy người này sao lại thần thông quảng đại như vậy chứ. Nào ngờ mở ra thì xém ngất xỉu luôn, nghĩ bụng đây là trang bị cái khỉ biển gì chứ, không xẻng không súng ống, nhìn lại xem thứ gì chiếm chỗ nhất thì ra là mấy hộp băng vệ sinh Whisper, ngoài ra còn có dây thừng, mấy đồ linh tinh, sô cô la, một túi to toàn ớt, chậu rửa mặt… toàn là mấy vật dụng sinh hoạt hàng ngày.

Bàn Tử thắc mắc sao lại thế này, không lẽ chúng ta đang đi phát vật dụng bảo hộ lao động cho phụ nữ hay sao. Trần Bì A Tứ chỉ đáp khi nào cần dùng đến tự dưng ngươi sẽ biết những thứ này để làm gì.

Bốn ngày sau, chúng tôi tiến vào khu rừng trong núi Hoành Sơn để đến thôn Doanh Sơn. Xe tải đi được vào đây đúng là kì tích, có vài đoạn cách mép đường chừng ba mươi phân thôi là vực sâu vạn trượng, chỉ cần lái xe sơ sẩy một chút là cả đám chúng tôi thịt nát xương tan ngay. Đến nơi rồi, hỏi dân bản xứ mới biết nơi này ngày trước từng có một trạm gác của biên phòng, về sau mới bị bỏ. Vậy nên đường mới được làm tới chỗ này, bằng không chỉ có cách dùng xe trượt tuyết mới vào được đây. Cũng vì có con đường mòn nên nơi này thỉnh thoảng lại có vài du khách đi phượt, người dân trong thôn cũng quen với việc có người nơi khác thường xuyên lui tới.

Cùng theo chúng tôi tới đây có thêm ba người của Trần Bì A Tứ. Một người tên Lang Phong, chính là lái xe; một người cao to đeo kính gọi là Hoa hòa thượng(*), có điều trên người toàn sẹo từ những vết đao chém. Ngoài ra còn có một người hơn ba mươi, có vẻ nhỏ tuổi nhất, trên đường đi cứ huyên thuyên không ngừng, tên là Diệp Thành.

(Hoa hòa thượng Lỗ Trí Thâm là một nhân vật trong truyện Thủy Hử. Người này hình xăm vẽ kín người nên có biệt danh là Hoa hòa thượng. Còn anh Hoa hòa thượng trong này người cũng chi chít hoa văn, nhưng là hoa văn từ sẹo đao chém =”)) )

Chúng tôi xuống xe, nhìn khắp bốn phương đều là núi tuyết. Tôi âm thầm tìm kiếm cảnh núi tương tự với bức tranh trong ngôi mộ dưới đáy biển mà tôi còn lưu trong trí nhớ, nhưng rõ ràng nơi tôi đứng không chuẩn, nhìn ngọn núi tuyết nào cũng thấy từa tựa nhau cả.

Trần Bì A Tứ nói tầm long thì dễ, điểm huyệt mới là khó. Trong “Táng kinh” cũng nói, ba năm tầm long mười năm điểm huyệt, xác định một long mạch phải mất tối thiểu ba năm nhưng muốn tìm bảo nhãn phải mất đến mười năm. Đây là một quá trình cực kì chặt chẽ, nếu chúng tôi đã biết đầu rồng ở Hoành Sơn thì chỉ cần đi vào trong núi là tự nhiên sẽ tìm ra vị trí của bảo nhãn. Vấn đề là làm sao vào được trong núi? Vùng này không giống như những nơi khác, núi tuyết rất cao, bình thường thợ săn sẽ không đặt chân tới nơi này, người đào sâm cũng không thể leo đến đỉnh núi tuyết, muốn tìm một người dẫn đường e rằng không dễ.

Trong thôn không có nhà khách, không tìm được chỗ nghỉ chân chúng tôi đành phải tới gõ cửa ủy ban thôn. Bí thư chi bộ của thôn rất nhiệt tình, cho chúng tôi ở tạm gian nhà của người gác rừng đang bỏ trống. Chúng tôi thu xếp trả tiền nong đầy đủ, ở lại trong thôn vài ngày, thuê mấy con ngựa tốt. Sau nhiều lần vất vả, cuối cùng cũng tìm được ở địa phương một người Triều Tiên là lính xuất ngũ tên Thuận Tử đồng ý dẫn đường.

Người này cho hay, người bình thường sẽ không bao giờ lên núi tuyết bởi vì gió tuyết khôn lường, đường đi mỗi ngày một khác, hơn nữa lên đó cũng chẳng có gì hay, chỉ có bọn họ từng ở trong quân ngũ, những lúc đi tuần tra bắt buộc phải lên. Vài ngọn núi quanh đây hắn đều biết đường lên, cho nên nếu chúng tôi thực sự muốn đi thì hắn có thể dẫn đường, nhưng khi tiến vào vùng đất phủ tuyết phải tuyệt đối nghe lời hắn.

Chúng tôi thương lượng giá cả hợp lí, cuối cùng cũng thỏa thuận xong. Sau đó cả đám chỉnh đốn lại trang bị, mua thêm một đống đồ theo như yêu cầu của Thuận Tử, thế rồi đoàn chúng tôi chín người cùng mười bốn con ngựa lũ lượt tiến sâu vào trong khu rừng.

Phong cảnh trên núi Trường Bạch rất đẹp, qua mỗi đoạn đưa mắt nhìn lại đều thấy cảnh quan biến đổi. Núi cao khiến lòng người lãnh đạm, chúng tôi cũng không để ý nhiều đến cảnh sắc rừng rậm bốn bề bởi tất cả tinh lực đều tập trung để giữ cho mình không ngã xuống khỏi lưng ngựa, nhưng thỉnh thoảng liếc nhìn khung cảnh hùng vĩ của vòm trời và ngọn núi vẫn khiến người ta trào dâng những cảm xúc khó tả.

Núi Trường Bạch đã từng là núi lửa nên có rất nhiều suối nước nóng và hồ núi lửa nhỏ. Từ thôn Doanh Sơn tiến vào rừng, dọc theo con đường núi của công nhân, đi lên bốn giờ sẽ đến hồ A Cái Tây, người Triều Tiên gọi nó là hồ “Cô Nương”. Mặt hồ phẳng lặng không một gợn sóng, soi bóng cả dãy núi Trường Bạch xuống làn nước trong như gương.

Để Thuận Tử nghĩ chúng tôi là khách du lịch, đoàn cũng dừng lại bên hồ chụp ảnh, sau đó mới tiếp tục xuất phát. Đoạn đường chúng tôi vừa đi là phần chân dãy núi, càng đi vào sâu núi càng thêm dốc. Cuối cùng chúng tôi phát hiện mình đang đi trên sườn núi dốc 60 độ, cây cối ở nơi này đều thẳng tắp nhưng mặt đất lại nghiêng, mỗi bước đi đều vô cùng mạo hiểm. Thuận Tử nói cho chúng tôi biết tít trên đó vẫn còn một thôn bỏ hoang, chính là nơi đặt trạm gác biên phòng. Thôn này bây giờ không có người ở, đêm đầu tiên chúng tôi sẽ nghỉ chân ở đó, đến ngày mai đoàn sẽ qua vùng đất tuyết phủ.

Lúc này, hồ A Cái Tây đã nằm dưới chân chúng tôi, đứng từ trên nhìn xuống, mặt hồ ban nãy mênh mang là thế mà giờ đây trông chỉ như một cái ao nhỏ. Đúng lúc này, chúng tôi phát hiện ra còn một đoàn ngựa thồ khác xuất hiện ở ven hồ, nhân số vượt xa đoàn mình rất nhiều.

Mọi người đều cảm thấy bất ngờ, Bàn Tử lấy ống nhòm ra, nhìn xuống phía dưới rồi đưa cho chúng tôi, nói: “Chúng ta gặp phiền phức rồi đây.”

——————————————————-


(1) Nguyên văn: Thiên xuyên vạn xuyên mã thí bất xuyên. Mã thí ở đây nghĩa là mông ngựa, trong cụm từ “vuốt mông ngựa”, ám chỉ chiêu nịnh hót lấy lòng. Cả câu trên có nghĩa là ngàn vạn cách có thể thất bại, chứ nịnh bợ luôn luôn là vô địch, vì ai mà chả thích nghe nịnh hót =”))))))


(2) Nhị Đạo Bạch Hà: khu vực nằm ở ven rìa phía nam khu tự trị An Đồ của người dân tộc Triều Tiên, ngay dưới chân dãy núi Trường Bạch, giáp ranh với cả nước Triều Tiên lẫn thành phố Đôn Hóa. Triều Tiên ở đây là dân tộc thiểu số sinh sống ở các tỉnh Hắc Long Giang, Cát Lâm và Liêu Ninh.

Chương 11: Cảnh khốn đốn

Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Tôi vừa thúc ngựa tiến lên, vừa nhìn theo hướng Bàn Tử chỉ. Xuyên qua đám cây cối lưa thưa tôi thấy ven hồ có khoảng ba mươi người và hơn năm mươi ngựa đang tụ tập rất đông vui, là một đoàn ngựa thồ rất lớn. Những người đó đang dựng trại ven hồ, có vẻ muốn nghỉ chân qua đêm ngay bên bờ hồ này. Trong đám người có một cô gái đang mở thứ gì đó giống như rada ra điều chỉnh thử. Tôi nhìn qua ống nhòm, nhận ra cô gái kia không phải ai khác, mà chính là A Ninh ở Hải Nam.

Tôi chửi thề một tiếng, cô ả cũng đến nơi này chứng tỏ những gì chúng tôi suy đoán đều đúng. Người dây dưa với chú Ba chỉ e đúng là họ, không biết công ty mò thuyền vét bùn này đi vào đất liền làm gì.

Hoa hòa thượng thấy đoàn ngựa thồ dưới núi, sắc mặt liền thay đổi, nhỏ giọng hỏi Trần Bì A Tứ phải làm sao bây giờ.

Trần Bì A Tứ liếc mắt một cái, cười khinh khỉnh: “Tới đúng lúc lắm, chứng tỏ chúng ta không đi nhầm đường. Cứ tiếp tục đi thôi, mặc xác bọn chúng.”

Tôi lấy ống nhòm nhìn kĩ từng người một nhưng không thấy chú Ba đâu cả. Có điều nếu chú Ba rơi vào tay bọn họ, e là sẽ không dược tự do đi lại, có khi nào đang bị nhốt trong mấy cái lều vải kia chăng? Điều khiến tôi cảm thấy không thoải mái chính là một nửa số người dưới kia hình như đều đeo súng trường K-56 (1) trên lưng, ngoài ra tôi còn thấy cả điện thoại vệ tinh và rất nhiều thiết bị hiện đại khác. Bàn Tử thấy súng phát thèm, đốp lại Trần Bì A Tứ: “Này lão già, ông cứ nói không mua súng, giờ hãy xem người ta vai vác súng, đạn lên nòng đuổi theo tới đây, nếu xảy ra va chạm thì đối phó kiểu gì? Hay là định lấy chậu rửa mặt làm khiên, dùng băng vệ sinh mà đánh bọn họ?”

Trần Bì A Tứ liếc Bàn Tử một cái, lắc lắc đầu rồi cười nói:”Làm nghề này xưa nay chúng ta chưa bao giờ dựa vào nhân số, đến vùng núi tuyết ngươi sẽ biết đi theo ta là lựa chọn chính xác.”

Khi trao đổi với nhau chúng tôi đều dùng phương ngữ, Thuận Tử không thạo tiếng Hán nên không nghe ra được. Tuy nhiên Thuận Tử dẫn đường đã nhiều năm, cũng biết khách nói chuyện thì đừng nghe, nghe nhiều quá không chừng người ta giết mình diệt khẩu.

Chúng tôi tiếp tục hướng lên phía trên, cho đến khi trước mắt xuất hiện mấy căn nhà gỗ tồi tàn có cửa sắt, bên trên còn viết khẩu hiệu: “Lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc là bất khả xâm phạm.”

Thuận Tử cho chúng tôi biết đây là trạm tiếp tế cho những trận đánh tiền tiêu. Sau cuộc hội đàm đa phương, mấy trạm gác ở đây đều chuyển đi cả, nơi này trở nên hoang phế. Mấy trạm gác trên vùng tuyết cũng không còn ai nữa, nếu chúng tôi cứ đi lên mãi thì sẽ có cơ hội được thấy.

Màn đêm buông xuống, chúng tôi ở tạm trong này một đêm, sáng sớm hôm sau thức dậy bèn gấp rút lên đường. Thuận Tử đã cảm thấy kỳ quặc, hiếm có khách du lịch nào lại bạt mạng như chúng tôi, nhưng dù gì cũng đã nhận tiền nên vẫn thuận theo.

Khi chúng tôi thức dậy thì tuyết cũng bắt đầu rơi, nhiệt độ không khí đột ngột hạ xuống. Người miền nam rất khó có thể thích ứng với thời tiết này, ngoại trừ Bàn Tử và Diệp Thành, những người khác không khỏi cảm thấy thân thể mình đông cứng.

Cứ đi mãi rồi cũng tiến vào vùng núi phủ tuyết, chúng tôi rốt cuộc đã thấy tuyết đọng trên mặt đất. Ban đầu lớp tuyết còn mỏng, càng lên cao càng dày, cây cối ngày càng ít, các loại đá tảng lại nhiều thêm, Trần Bì A Tứ nói đó là dấu vết của một công trình đã được xây dựng ở đây.

Đến giữa trưa thì bốn phía xung quanh chúng tôi bao phủ trong một màu trắng xóa, lớp tuyết trên mặt đất dày đến độ phủ kín cả lối đi, tất cả chỉ biết đi theo Thuận Tử cưỡi ngựa ở phía trước dẫn đường.

Đúng lúc này bỗng nổi lên một trận gió to, Thuận Tử quan sát đám mây rồi hỏi nhóm chúng tôi hay là hôm nay chỉ đi đến đây thôi? Xem chừng sẽ có gió to, núi tuyết đã hơi nghiêng ngả rồi, tiếp tục đi lên có thể sẽ gặp nguy hiểm.

Trần Bì A Tứ lập tức khoát tay, bảo hắn cứ từ từ. Chúng tôi dừng lại nghỉ ngơi, ăn chút lương khô, vài người thì ngắm phong cảnh xung quanh.

Chúng tôi đang ở trên lưng chừng một ngọn núi thấp, có thể nhìn thấy cánh rừng nơi chúng tôi bắt đầu tiến vào. Lão dõi mắt nhìn ra xa rồi chỉ vào một dải đất trũng, nói với chúng tôi. “Thời cổ khi xây lăng mộ người ta thường lấy vật liệu tại chỗ, ngươi xem mảng rừng kia rõ ràng thưa thớt hơn những cánh rừng gần đó rất nhiều, trăm năm trước chắc chắn là có người phát quang cây mà thành. Vả lại dọc đường tới đây chúng ta đi đứng hơi vất vả nhưng không có chướng ngại gì đặc biệt khó qua, gần đây chắc chắn từng có một công trình cổ đại, thế núi ở đây từng có người tu sửa. Chúng ta đã đi đúng hướng rồi, phải tiếp tục hướng lên cao nữa.”

Diệp Thành hỏi: “Lão gia, dãy núi này có hơn mười ngọn đều bắt đầu từ đây đi lên, chúng ta tìm kiểu gì bây giờ?”

Trần Bì A Tứ nói: “Cứ vừa đi vừa quan sát, đầu rồng hẳn phải có điểm đặc biệt. Chỗ địa mạch ngắt quãng chính là long huyệt, nơi này nhiều núi nhưng địa mạch chỉ có một, chúng ta đang đi dọc địa mạch, không sợ không đến nơi, cùng lắm là mất nhiều thời gian thôi.”

Tôi nhìn theo hướng nhìn của Trần Bì A Tứ, chỉ thấy từng mảng từng mảng cây cối, trông chẳng có gì khác nhau, trong lòng không khỏi cảm thấy xấu hổ.

Quay đầu nhìn Muộn Du Bình, tôi đã thấy hắn chăm chú nhìn lên núi tuyết phía trước; đôi mày khẽ nhíu lại, tựa như đang lo lắng điều gì. Tôi biết chắc hỏi hắn bây giờ cũng như không, bèn xoay người tìm Bàn Tử nói chuyện phiếm.

Thuận Tử nghe chúng tôi nói muốn đi tiếp lên trên, bèn thở dài, lắc đầu nói nếu muốn lên cao hơn nữa sẽ không thể cưỡi ngựa, phải dùng đến xe trượt tuyết kéo bằng ngựa. Núi Trường Bạch vào mùa đông thật ra lại là nơi giao thông thuận lợi nhất, ngoại trừ những khi có bão tuyết, bình thường dùng ngựa kéo xe trượt tuyết là có thể đến bất kì nơi nào ngựa còn đi được. Nhưng một khi gió nổi lên thì chúng tôi tuyệt đối phải nghe lời hắn, hắn nói quay lại là quay lại, tuyệt đối không được có ý kiến.

Chúng tôi đều gật đầu đồng ý, lập tức dỡ hết hành lí xuống, đặt lên xe trượt tuyết. Chuẩn bị xong xuôi, Thuận Tử hô lớn rồi quất roi thúc con ngựa của mình đi trước dẫn đường, ngựa chúng tôi tự động theo sau, cả đoàn người lướt đi như bay trên đất tuyết .

Vừa mới ngồi vào xe trượt tuyết tôi cảm thấy rất thích thú, cái này cũng giống như đi bằng xe chó kéo vậy. Nhưng chỉ lát sau, không biết có phải vì gió lớn hay ngồi trên xe trượt không thể nhúc nhích mà tứ chi đều lạnh run lên, thân thể cứ như mất hết tri giác. Vì đây là đường núi nên ngựa chạy không được êm, cứ xóc nảy liên tục. Bàn Tử vì quá nặng nên mấy lần bị lật xe, ngã dúi vào đống tuyết làm chúng tôi cũng lại phải dừng lại chờ.

Chúng tôi cứ chạy mãi như thế cho đến khi màn đêm dần buông, gió càng lúc càng mạnh, ngựa chạy ngày càng chậm. Chúng tôi phải đeo kính chắn gió mới có thể nhìn rõ phía trước, khắp nơi đã trắng xóa một màu không biết là tuyết rơi trên trời xuống hay là tuyết lở trên núi xuống. Tiếng gió thổi vù vù bên tai, muốn nói một câu thôi mà mới mở miệng ra gió lạnh đã thốc thẳng vào vòm họng, nói theo cách của Bàn Tử là mấy câu chửi thề cũng muốn đông cứng lại trong cổ họng rồi.

Chạy một hồi lâu, cuối cùng con ngựa dẫn đầu của Thuận Tử cũng dừng lại. Tôi mơ hồ thấy có gì đó không ổn, bây giờ mới 2h chiều, sao trời đã xám xịt như tro rồi? Chúng tôi chạy ngược gió, nhanh chóng bắt kịp Thuận Tử, chỉ thấy hắn vừa xoa xoa cổ vừa quan sát bốn phía, mặt nhăn mày nhó.

Chúng tôi vây lấy Thuận Tử hỏi hắn xem có chuyện gì, hắn tặc lưỡi một cái: “Gió to quá, hơn nữa nơi này hình như đã xảy ra tuyết lở, nhìn không giống lần trước tôi đi qua. Còn nữa, mọi người nhìn xem, trước mặt toàn là tuyết từ trên núi lở xuống, vừa dày vừa xốp, tiến lên một bước là tuyết ngập đến tận bụng ngựa, lũ ngựa không chịu đi qua đâu. Loại tuyết này bên trong còn có bọt khí, rất dễ sụp xuống, cực kì nguy hiểm, nếu đi tiếp sẽ không thể tụ tập cùng nhau.”

“Vậy phải làm gì bây giờ?” Phan Tử nhìn trời, “Xem chừng thời tiết hôm nay không tốt, có nên quay về không?”

Thuận Tử hết nhìn bầu trời lại nhìn sang chúng tôi, nói: “Cũng chưa chắc, nhưng một khi gió nổi lên thì phải ít nhất hai ngày hai đêm mới tạm ngừng, nếu chúng ta cứ ở lì lại đây thì chỉ có con đường chết. Không xa về phía trước có một trạm gác biên phòng bỏ hoang, chúng ta có thể vào đó tránh gió tuyết. Tôi thấy bây giờ có muốn quay lại cũng không kịp nữa rồi, chỉ còn cách đi bộ qua đó thôi.”

Bàn Tử đè chặt cái mũ che tai trên đầu, nhón chân tiến thử một bước, kết quả bị lún vào tuyết đến đùi. Hắn chật vật nhích lên từng bước, chửi thề: “Con bà nó chứ, cứ như hành xác.”

Chúng tôi xỏ giày đi tuyết vào chân, ngược gió mà kéo xe trượt ngập sâu trong tuyết, chật vật tiến lên. Chỗ này là đầu ngọn gió, nằm chính giữa hai sườn núi, gió rất lớn chả trách sao có tuyết lở. Chúng tôi hướng về phía đầu ngọn gió, Thuận Tử nói cứ đi khoảng một tiếng nữa sẽ tới trạm gác, nhưng lại không tính tới chuyện chúng tôi đang ì ạch tiến lên như rùa. Mà hình như Thuận Tử đã nhầm đường, chúng tôi đi hơn 6 tiếng, đến khi trời chạng vạng vẫn không thấy bóng dáng cái trạm gác kia đâu.

Thuận Tử bối rối đi qua đi lại, bỗng “Ai da!” một tiếng: “Xong rồi, tôi biết trạm gác ở đâu rồi!”

Chúng tôi vây quanh, thấy sắc mặt hắn cực kì khó coi: “Sao tôi lại không nghĩ ra chứ, chỗ này vừa có tuyết lở, hẳn là trạm gác bị tuyết vùi mất rồi. Có khi nó nằm ngay dưới chân chúng ta cũng nên, bảo sao tìm nửa ngày trời mà không thấy!”

Phan Tử thở dài, nói một câu, dựa theo khẩu hình chính là: “Mẹ cái đất chết tiệt này!”

Bàn Tử gào lớn hỏi Thuận Tử: “Vậy bây giờ tính sao? Ngựa thì không có, lẽ nào chúng ta phải chết ở đây sao?”

Thuận Tử chỉ chỉ về phía trước: “Còn một hi vọng cuối cùng, tôi nhớ gần đây có một suối nước nóng nằm trong một sườn núi, nhiệt độ rất cao. Nếu có thể đến đó, chúng ta có thể ăn lương khô sống tạm vài ngày, suối nước nóng kia tương đối cao, chắc vẫn chưa bị tuyết vùi. Chẳng may tìm không được thì chỉ còn cách dựa vào ý chí sinh tồn, từng bước từng bước một mà quay về.

“Anh có dám chắc chắn không đó?” Bàn Tử bắt đầu không tin tưởng Thuận Tử.

Thuận Tử gật đầu: “Lần này tuyệt đối không sai, nếu không tìm được suối nước nóng thì anh cứ trừ tiền công của tôi.”

Tôi cười khổ trong lòng. Con mẹ nhà anh chứ, nếu thực sự phải trừ tiền công của anh thì chỉ e đến kiếp sau chúng tôi mới có cơ hội.

Mọi người đeo lên vẻ mặt như đưa đám, theo Thuận Tử tiến lên trên. Càng đi trời càng tối, Thuận Tử lấy dây thừng ra buộc vào từng người chúng tôi. Do tầm nhìn bị hạn chế, không thấy rõ người, gọi cũng không nghe tiếng nên chỉ còn cách dùng dây thừng mới có thể tập hợp chúng tôi lại một chỗ.

Tôi đi mãi đi mãi cho tới khi mắt hoa lên, không thể nhìn rõ được nữa. Người phía trước càng lúc càng xa, người đằng sau càng lúc càng tụt lại. Tôi nhìn trước nhìn sau đều không thấy bóng người, trong lòng trống rỗng, thầm nghĩ phải chăng lên núi vào lúc này là một sai lầm, không lẽ mình phải bỏ mạng ở đây? Không đâu, bước đi của Thuận Tử vẫn rất ổn định, tuy tôi không nhìn thấy hắn nhưng có thể cảm nhận được hướng đi của sợi dây thừng truyền lại rất kiên định, hẳn là đã quen đứng vững trong gió tuyết, chắc đi theo hắn sẽ không sao đâu.

Tôi vừa tự an ủi mình vừa tiếp tục tiến về phía trước, chợt thấy trong màn tuyết trước mặt xuất hiện một bóng đen mờ mờ ảo ảo, thoạt nhìn không thể nhận ra là ai. Đi được vài bước, bóng đen kia đột ngột nghiêng ngả rồi ngã nhào xuống tuyết. Tôi vội vàng chạy tới xem xét, thì ra người gục xuống tuyết đó chính là Thuận Tử.

Muộn Du Bình từ phía sau cũng vừa đuổi kịp, thấy đó là Thuận Tử bèn nhanh chóng đỡ hắn đứng lên. Chúng tôi khoác vai Thuận Tử rồi kéo mạnh dây thừng để những người khác nhanh chóng tập trung lại.

Bàn Tử vừa nhìn thấy Thuận Tử, nét mặt đã trở nên vô cùng cổ quái, hét lớn: “Con mẹ nhà hắn làm dẫn đường kiểu gì vậy? Không biết đường cũng chưa nói, đằng đây chúng ta còn chưa ngất hắn đã xỉu rồi. Chúng ta biết làm sao bây giờ?” Hắn còn định mắng tiếp nhưng nửa câu sau đã bị một cơn gió vừa thổi tới cuốn đi mất.

Tôi phóng mắt nhìn ra xung quanh, trời đất ơi, tình hình bây giờ đã không kiểm soát được nữa rồi. Gió dữ cuốn theo vô vàn bông tuyết đập vào nham thạch, vờn quanh chúng tôi, cách một mét đã không thấy gì, đến cả những dấu chân cũ của chúng tôi cũng bị gió thổi bay biến. Chúng tôi không thể phân biệt  phương hướng, mỗi khi gió dữ thổi qua, đến đầu cũng không ngẩng lên nổi, bây giờ mà đứng lên sẽ bị gió thổi bay mất.

Mặt mũi ai nấy đều trắng tái, mắt Trần Bì A Tứ còn nổi cộm lên, xem ra lão già này gặp phải hoàn cảnh khắc nghiệt cực độ đã rơi vào trạng thái nửa hôn mê rồi. Nếu Thuận Tử không ngã xuống thì chắc lão cũng không thể chịu đựng lâu hơn nữa.

Phan Tử nói: “Chúng ta không thể đứng đây chờ chết, suối nước nóng có lẽ ở ngay gần đây thôi. Chúng ta sẽ nối thêm dây thừng, tản ra tìm kiếm, ai tìm được thì kéo dây thừng làm tín hiệu.”

Mọi người tản ra xung quanh, tôi cũng không biết mình đang đi về hướng nào, mới đi vài bước đã hoa mắt chóng mặt, cảm giác tê dại theo tứ chi truyền khắp thân thể. Trước đây tôi xem rất nhiều phim đều nói ở trên núi tuyết, người ta càng đi sẽ càng nguy khốn, lỡ ngủ quên thì sẽ vĩnh viễn không bao giờ tỉnh lại. Có người còn sinh ra vô vàn ảo giác, ví dụ như trước mặt hiện lên bát cơm nóng hổi chẳng hạn.

Tôi ra sức nhắc nhở bản thân phải tỉnh táo, nhưng lại không thể kiên trì cho nổi. Mỗi bước đi là mắt giống như đeo thêm một khối chì, nặng nề đến nỗi chỉ chực cụp xuống.

Đúng vào lúc ai nấy tưởng chừng mất hết hi vọng, đột nhiên lại nghe Bàn Tử kêu lên một tiếng, do gió quá mạnh nên không nghe rõ hắn kêu cái gì. Tôi nhìn lại, chỉ thấy bóng hắn thoắt cái đã biến mất. Muộn Du Bình lập tức quay đầu, phái hiện dây thừng trên mắt đất đột ngột bị kéo mạnh, mặt lập tức biến sắc, thét to: “Không xong rồi! Mau cởi dây thừng, có người thụt xuống hố tuyết!”

Lời còn chưa dứt, tuyết dưới chân hắn đã đột ngột sụp xuống, cả người hắn bị dây thừng kéo vào hố tuyết, kế đến là tôi – người đứng gần hắn nhất. Chúng tôi bị Bàn Tử kéo vào trong tuyết từng người một giống như một chùm nho, cứ lăn lông lốc không biết bao lâu mới dừng lại.

Mắt tôi bị tuyết bịt kín, không tài nào mở ra được, chỉ nghe tiếng Phan Tử bảo mọi người đừng nhúc nhích. Anh ở cuối dây thừng, đợi anh bò xuống rồi tính sau.

Đúng lúc này, đột nhiên nghe tiếng Diệp Thành kêu lên: “Khoan đã! Tiên sư nó, đừng ai đi xuống, trong đống tuyết kia có cái gì vậy?”

———————————————

(1) Nguyên văn là “五六式步枪”

Chương 12: Bách túc long

Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Tôi vuốt vội mấy hạt tuyết bám trên mí mắt xuống, nhất thời không biết mình đang ở đâu, chỉ cảm thấy lưng hình như va phải đá nhọn; Diệp Thành ở phía dưới đang kêu gào.

Tôi lấy lại bình tĩnh, theo bản năng nhìn xuống xem Diệp Thành đang sợ hãi cái gì. Nhìn kĩ thì phát hiện chúng tôi đang ở bên mặt của một sườn núi dốc đứng lởm chởm đá, cách chân dốc chừng năm, sáu mét, sợi dây thừng buộc ở thắt lưng mắc vào một khối đá giúp chúng tôi không tiếp tục lăn xuống. Đáy dốc toàn là đá tảng và tuyết lở theo khi chúng tôi ngã xuống đây, trong đống tuyết lộ ra mấy cái chân khẳng khiu đen đúa dài ngoằng.

Tôi suýt nghẹt thở, bất giác dán chặt lưng vào tảng đá phía sau. Dịch tầm mắt lên phía trên đống chân, lấp ló bên dưới lớp tuyết dày là một vật gì đó màu đen đang cuộn tròn, kích cỡ tương đương cái thùng đựng nước, trên thân thể nhiều đốt phủ kín vảy, một phần giấu trong tuyết, một phần lộ ra ngoài. Thoạt nhìn tôi còn tưởng đó là một con rắn đang ngủ đông, nhìn kĩ lại thì thấy từa tựa con rết. Thứ này kề sát tảng đá, không hề động đậy, chẳng biết còn sống hay đã chết, không thấy đầu đuôi, cũng chẳng rõ nó dài bao nhiêu nữa.

Trong lòng tôi cảm thấy kì lạ, nơi này đã là vùng núi phủ tuyết, bình thường rất hiếm gặp sinh vật sống, đây rốt cuộc là cái giống gì? Nhìn cái đầu cùng với đống chân trông như chân rết của nó, bản năng khiến tôi nảy sinh cảm giác không thoải mái.

Phan Tử khăng khăng đòi xuống xem, Diệp Thành thì luôn mồm la oai oái. Bàn Tử cũng thấy thứ nằm bên dưới, bèn vơ một nắm tuyết cạnh mình vo tròn thành khối cầu rồi ném bốp một cái vào gáy Diệp Thành, nhỏ giọng mắng: “Đệch mợ anh be bé cái mồm cho tôi nhờ, muốn đánh thức nó hả?”

Tôi xem xét bốn phía, nơi này hẳn là một khe núi nhỏ bị tuyết lở lấp kín, do thế đá quá lộn xộn nên tích tụ khá nhiều bọt khí. Vừa nãy Bàn Tử đã giẫm phải lớp tuyết mỏng manh, kích phát phản ứng dây chuyền khiến cả tầng tuyết sụp xuống, kết quả là cả đám đều bị hắn kéo ngã theo. Lớp tuyết bên trên vẫn không ngừng sạt lở, nhiều khi sụp xuống rồi mà tuyết xung quanh cứ tiếp tục chảy xuống giống như cát trên sa mạc, chẳng mấy chốc đã chôn vùi nơi bị sập một lần nữa, quá trình này chỉ xảy ra trong chớp mắt. Rất nhiều đoàn thám hiểm núi cao vì thế mà tổn thất quân số, trong vài giây ngắn ngủi cả nhóm đã hoàn toàn biến mất. May cho chúng tôi là tuyết xung quanh có vẻ rắn chắc, cũng có thể do chúng tôi dùng dây thừng buộc cả đám lại với nhau.

Nơi này khuất gió, cơn cuồng phong vào đây rõ ràng đã yếu đi nhiều, không còn lạnh buốt như vừa nãy. Tôi thoải mái hít thở vài hơi, cẩn thận ngồi xổm, nhích xuống dưới vài bước. Nơi này tuy dốc đứng nhưng mặt ngoài sườn núi đều là đá vụn gồ ghề, có tảng to bằng cái xe tải, có viên chỉ nhỏ như quả bóng bàn, leo trèo rất tiện, lên xuống đều không quá khó khăn.

Phan Tử và Muộn Du Bình đã tháo dây thừng, do đứng cách chân dốc không xa nên hai người bọn họ nhảy ào ào xuống, kéo theo cả tuyết. Rơi xuống rồi, họ lăn vài vòng đến tận chân dốc để giảm dư chấn. Hai người rón rén đứng lên, một trước một sau chạm vào vật màu đen kia, khiến tim chúng tôi tưởng chừng nhảy vọt lên cổ họng.

Đi được vài bước, Muộn Du Bình và Phan Tử đểu duỗi thẳng lưng, rõ ràng đã trấn tĩnh lại. Phan Tử liếc Muộn Du Bình một cái, nhún vai rồi ra hiệu cho chúng tôi xuống theo.

Trong khi mọi người còn đang nghi hoặc, Bàn Tử đã cởi dây thừng lăn xuống. Muộn Du Bình gạt lớp tuyết đọng lên thạch điêu trên mặt đất, thì ra đó là hình một con rồng nằm phủ phục trên đá được chạm lên một tảng đá đen. Thạch điêu này chạm khắc vô cùng sinh động, nếu vùi sâu trong tuyết thì quả là không thể nhìn ra.

Chúng tôi cũng lục tục kéo nhau xuống. Trần Bì A Tứ nhìn thấy thạch điêu, sắc mặt lập tức biến đổi. Lão không đứng nổi, phải nhờ Hoa hòa thượng đỡ mình đến trước thạch điêu mài từ đá núi, bắt đầu lần mò. Con rồng này có vài điểm khác biệt so những con rồng bình thường, dưới thân nó khắc vô số chân trông như chân rết, rõ ràng không phải là tác phẩm điêu khắc của trung nguyên, có lẽ là dị bản hình rồng của một dân tộc du mục nào đó quanh vùng này.

Bàn Tử hỏi tôi: “Sao con rồng này xấu như ma thế, trông giống côn trùng hơn là giống rồng. Nhìn qua là thấy tà khí ngút trời rồi, còn không đẹp bằng hình rồng khắc trên tường cố cung, hay đây là bản khắc hỏng?”

Hoa hòa thượng đáp: “Không biết thì đừng có nói bậy. Đây là Bách túc long (1), không phải Bàn long (2), những họa tiết hình rồng của nước Đông Hạ thời kì đầu đều có dạng này. Ngày xửa ngày xưa, vào thời viễn cổ, rồng Trung Quốc mang nhiều hình dạng khác xa bây giờ, thậm chí còn có hình rồng mũi heo, cỡ này vẫn chưa phải là quái đản đâu”. Rồng Trung Quốc đã trải qua một khoảng thời gian tiến hóa rất dài, ban đầu rồng vốn là loài bò sát dưới đất, tiện tay ghép một cái đầu thú với thân rắn là ta có con rồng. Lúc ấy mỗi bộ lạc đều có đồ đằng rồng của riêng mình, họ phát triển theo những chiều hướng khác biệt thành ra hình dạng rồng cũng không giống nhau. Sau này văn hóa của người Hán lưu truyền rộng rãi, văn hóa Di, Hạ (3) cũng hợp lại với nhau, hình dạng con rồng của người Hán mới dần hòa trộn với rồng của các dân tộc thiểu số. Đến cuối cùng, rồng từng bước thống nhất lại thành hình dạng Bàn long như bây giờ.

Con Bách túc long này chính là hợp thể của rồng và rết, không hiểu vì sao nhưng nhìn một cái thân rồng bình thường mọc ra một đống chân rết, chẳng những không thể hiện được sự uy vũ mà ngược lại còn khiến cho người ta nảy sinh cảm giác cực kì khó chịu, cảm thấy có phần quỷ dị.

Bàn Tử nghe Hoa hòa thượng giới thiệu xong liền cười nói: “Mặt Sẹo (4) à, thật không ngờ anh cũng đầy bụng chữ nghĩa nha. Tảng đá này hẳn là của cái nước Đông Hạ đó hả?”

Hoa hòa thượng ngắm nghía thạch điêu rồi lại ngẩng đầu nhìn sườn núi phía trên, ngờ vực nói: “Phải, có điều không biết khối đá khắc hình rồng này là từ đâu tới?”

Lúc này trời đã tối đen, chúng tôi đều bật đèn pin, một tay cầm đèn một tay gạt hết lớp tuyết phủ trên phiến đá kia xuống. Bấy giờ mới phát hiện ra đó là một khối đá bằng khổng lồ cao năm mét rộng ba mét, một mặt tựa vào sườn núi lởm chởm đá. Khối đá này cực kì bằng phẳng, lại còn đen tuyền một màu, không giống chất đá xung quanh chút nào.

Tôi xem xét chỗ nứt trên khối đá, nói: “Có thể khối đá này từ bên trên sụt xuống, ông Tư nói không sai, đích đến của chúng ta vẫn còn xa tít trên kia. Mọi người xem, con rồng này hình thể không cân đối, đây gọi là song long hí châu, vậy thạch điêu này có lẽ vẫn còn một phần nữa, thông thường sẽ khắc trên cửa đá, hai mặt như một.”

Trần Bì A Tứ ho khan một tiếng, cất giọng yếu ớt: “Nói láo! Hiểu biết nông cạn mà cũng đòi khua môi múa mép. Cửa đá cái đầu mi, khối đá này chính là phong thạch của mộ đạo.”

Nói rồi lão chỉ chỉ vào miệng rồng, Hoa hòa thượng lập tức đi tới, thò tay vào miệng rồng kéo mạnh một cái, nhưng chỉ kéo ra được một sợi xích sắt màu đen to cỡ cổ tay. Bàn Tử thấy thế liền nói: “Ai dà, thôi xong, ruột rồng cũng bị anh lôi ra cả rồi.”

Trần Bì A Tứ tiếp: “Lúc niêm phong mộ thất người ta dùng sợi mã liệm (5) này để kéo khối phong thạch kia, chứng tỏ đây là mặt quay vào trong.”

Tôi bị lão mắng đến đỏ mặt, giả bộ nhìn quanh: ” A, đúng là cháu nhầm rồi, nhưng tại sao phong thạch lại xuất hiện ở chỗ này chứ?”

Hoa hòa thượng dùng sức kéo mạnh sợi xích sắt nhưng tảng đá vẫn trơ ra không suy suyển. Nét mặt Trần Bì A Tứ cũng hiện lên tia nghi hoặc, lão lắc đầu, ngẩng cổ nhìn lên trên. Trong lòng tôi thầm than một tiếng, biết rõ lão đang lo lắng điều gì. Nếu khối phong thạch này từ trên kia rơi xuống, chẳng phải là minh chứng cho thấy mộ đạo phía trên đã bị phá hủy nghiêm trọng rồi sao? Chúng tôi dù có tìm ra nó thì chắc gì đã vào được?

Trên đầu bão tuyết vẫn đang thét gào, bầu trời đen kịt hẳn đã vào đêm. Tôi nhìn quanh quất, không biết trận bão tuyết này còn kéo dài bao lâu nữa.

Phát hiện ra khối thạch điêu này, mọi người càng thêm tin tưởng mình sẽ tìm ra thiên cung, nhưng tôi cũng không biết mình nên phấn chấn hay là chán nản. Hoa hòa thượng chụp lại thạch điêu, Trần Bì A Tứ đã khôi phục lại tinh thần, dặn chúng tôi trước tiên phải giữ gìn đồ đạc cá nhân cho kĩ, mệt mỏi thì nên nghỉ ngơi một lát. Nơi này vừa hay lại khuất gió, muốn làm gì thì cũng phải đợi gió ngừng rồi tính sau.

Chúng tôi bỏ trang bị ra kiểm tra lại, còn Hoa hòa thượng đi chăm sóc người bị thương kia. Tôi vừa lôi ra mấy thứ đồ thì hắn đã chạy tới bảo phiền phức rồi, Thuận Tử hình như không còn phản ứng.

Chúng tôi lay lay Thuận Tử, lắc thử đầu hắn. Hắn chỉ có thể trì trệ “A~” một tiếng, ý thức mơ hồ, vừa nhìn qua đã biết thân thể bị mất nhiệt.

“Chúng ta mau đốt lửa lên, bằng không hắn không chịu đựng nổi nữa đâu” Phan Tử lại gần, “Đã ngủ bấy lâu vẫn chưa chịu tỉnh lại.”

Tôi nhìn quanh quất bốn phía, căn bản không đào đâu ra củi, nếu muốn nhóm lửa có lẽ phải đốt xe trượt tuyết. Nhưng mà lên núi tuyết cần mang theo rất nhiều trang bị, không có xe trượt tuyết, chặng đường về sao chỉ e không thể đi tiếp.

Hoa hòa thượng nhìn Trần Bì A Tứ, rõ ràng không dám tự quyết. Trần Bì A Tứ sắc mặt cũng tái mét, không biết vì lạnh hay vì lý do nào khác, nhíu mày nói: “Tạm thời không thể để hắn chết, ta còn có chuyện phải hỏi.”

Tôi thở phào nhẹ nhõm, Hoa hòa thượng bèn dỡ đồ đạc trên xe trượt tuyết xuống, chuẩn bị lấy gỗ nhóm lửa. Nhưng giờ này xe trượt tuyết cũng bị tuyết thấm ướt, không biết có còn bắt lửa nữa không.

Trong cơn lo lắng, tôi bất chợt ngửi thấy một mùi giống như lưu huỳnh, mùi này không biết từ nơi nào xộc tới khiến tôi giật nảy mình. Hoa hòa thượng ra hiệu đừng nhúc nhích, còn bản thân mình thì đứng lên, cẩn thận nghe ngóng. Những người khác cũng đồng thời ngửi thấy mùi này, ai nấy đều dừng hết những việc đang làm. Bàn Tử hít sâu một hơi, nói: “Các đồng chí, hình như có mùi của suối nước nóng!”

Trần Bì A Tứ đưa mắt ra hiệu cho Diệp Thành và Lang Phong, ý bảo bọn họ ra ngoài tìm kiếm. Bàn Tử đeo ba lô lên tỏ ý cũng muốn đi, kết quả là cả ba đều bị Phan Tử cản lại. Bàn Tử hỏi: “Chuyện gì?”, Phan Tử hất cằm về phía Muộn Du Bình: “Các anh vội cái gì chứ, đừng quên chúng ta có cao thủ.”

Lúc này Muộn Du Bình đã cúi người xuống, dùng hai ngón tay dài khác thường của mình lần mò tảng đá dưới chân, bỗng “A?” một tiếng rồi chuyển hướng sang khối phong thạch khắc hình Bách túc long.

Chúng tôi vòng ra mặt trước khối đá Bách túc long, trước đó chỗ này hoàn toàn không có mùi gì, bây giờ lại ngửi thấy mùi lưu huỳnh hết sức rõ ràng. Muộn Du Bình sờ lên đầu rồng, lại nhìn ra đằng sau khối đá, bàn tay đặt lên đầu rồng thả ra rồi lại ấn xuống, nói: “Lạ thật, phía sau cái đầu rồng này trống không.”

—————————————————


(1) Bách túc long: nghĩa đen là rồng trăm chân

(1)     Bàn long: có nghĩa “rồng cuộn”, chỉ hình rồng hiện tại của Trung Quốc:

(3) Di là từ người Hán dùng để chỉ các dân tộc sống phía bắc Trung Quốc, Hạ trong Hoa Hạ, chỉ người Hán.


(4) Nguyên văn nick name của ổng là “Đao ba” là nghĩa là sẹo do bị đao chém. Vì khắp người Hoa hòa thượng đầy sẹo Bàn Tử gọi ổng ta là Đao ba huynh, và để hưởng ứng phong trào thuần Việt mình sẽ để là anh Mặt Sẹo (tên Mặt Sẹo cũng dễ thương mà ~~~)

(5) Mã liệm:

 Chương 13: Khe nứt

Editor: Cơm Nắm Nướng Chảo

Beta: Thanh Du

~0O0~

Trường Bạch là một dãy núi lửa đã ngủ đông, căn cứ vào tài liệu lịch sử thì lần phun trào quy mô nhỏ gần đây nhất của nó hẳn đã kết thúc từ 1000 năm trước. Hiện giờ tuy núi lửa đã yên tĩnh trở lại nhưng những nguồn địa nhiệt quanh nó vẫn đặc biệt dồi dào, vô số khe nứt địa chất và miệng phun dung nham từ thời kỳ hoạt động vẫn còn duy trì nhiệt độ cực cao. Phía sau khối phong thạch Bàn long này không chừng còn đè lên một khe đất bốc hơi nóng, vì thế mới toát ra mùi lưu huỳnh.

Chuyện này đối với chúng tôi chắc chắn là một tin tốt lành. Trong hoàn cảnh này, có được nguồn nhiệt ổn định đương nhiên là tiết kiệm hơn hẳn so với đốt một đống lửa. Thế nhưng lại vướng tảng phong thạch Bàn long vĩ đại màu đen chèn chặt bên trên, liếc qua đủ biết phải nặng đến hơn mười tấn, chúng tôi lại không có bất kì thiết bị phá đá nào, muốn lật nó sang một bên quả là hơi khó.

Bàn Tử thuộc phái hành động, hăng hái vung tay kêu gọi chúng tôi cùng khuân tảng đá lên, có vài người cũng bước tới nhấc thử mấy cái. Nhưng cả đám ra sức khiêng tới nỗi đầu tóc nhễ nhại mồ hôi, mặt đỏ đến mang tai mà tảng đá vẫn không mảy may suy suyển.

Bàn Tử thở hổn hển, than vãn: “Không được rồi bố già ơi. Tôi đã bảo trang bị của chúng ta không dùng được rồi mà, bố xem giá lúc này có ít thuốc nổ thì tốt quá.”

Hoa hòa thượng đáp, anh không biết thì đừng có nói lung tung, ông cụ nhà này qua cầu còn nhiều hơn anh đi đường đấy. Không mang thuốc nổ là đúng rồi, anh nói coi giờ chúng ta đang ở dưới đáy khe, trên đỉnh đầu tuyết phủ trắng xóa, anh cứ thử đào bừa cái lỗ, chôn xuống quả mìn rồi cho nổ, chờ đám tuyết đọng bên trên chấn động sụt xuống xem có bị chôn sống ngay không.

Bàn Tử cứng họng, đúng lúc đó tôi lại thoáng thấy mép dưới của phiến đá Bàn long còn kẹp rất nhiều khối đá to nhỏ không đều, nảy ra một ý, bèn bảo bọn họ: “Có lẽ không cần dùng thuốc nổ đâu, để tôi thử xem.”

Nói rồi tôi lấy từ trong hành lý ra một chiếc búa đục đá, đến bên cạnh khối phong thạch Bàn long, cẩn thận kiểm tra mấy khối đá lớn bên dưới rồi nhắm chuẩn vào một tảng trong số đó mà khỏ một búa. Khối đá kia một mặt đã phải chịu sức nặng hơn mười tấn, nay lại phải nhận thêm nhát búa thốc từ bên sườn của tôi, tức khắc nứt ra một kẽ nhỏ. Tiếp đó là những tiếng đá nghiến vào nhau rào rạo liên hồi, tảng phong thạch Bàn long phía trên vì lực chống đột ngột biến đổi mà bắt đầu trượt xuống theo vách núi đá.

Chúng tôi gấp gáp lùi về phía sau, phiến phong thạch Bàn long trượt xuống vài tấc lại bắt đầu nghiêng ngả. Thế nhưng phiến đá kia thật sự quá nặng, chỉ trượt khỏi vị trí một chút đã ngừng lại. Nhưng như thế cũng đủ để chúng tôi nhìn thấy phía sau tảng phong thạch lộ ra một khe nứt nằm trên vách núi.

Khe đá này rộng vừa một đầu người, cố ép mình cũng có thể chui qua. Nhìn mép động thì thấy đường đứt gãy của nham thạch vẫn còn nguyên trạng, không có dấu vết đục đẽo của con người, mùi lưu huỳnh từ trong đó phả ra từng đợt.

Bàn Tử vặn đèn pin sáng lên, thò tay chiếu vào xem thử rồi quay đầu lại nói: “Trong này ấm lắm, mỗi tội góc độ thì quá khó đỡ, chẳng chiếu đến cái gì cả. Với lại, tường đá bên trong hình như còn viết chữ.”

“Viết cái gì vậy?” Tôi hỏi.

Bàn Tử nheo mắt nhìn cẩn thận một lát rồi đáp: “Đọc không nổi, mẹ kiếp chẳng biết nó viết cái của nợ gì.”

Nói rồi hắn lại định khom lưng chui vào, có điều Bàn Tử quả thực quá mập, hang động này hiển nhiên không vừa với hắn, cố nhét người vào mấy lần vẫn không được. Rốt cuộc hắn phải cởi tấm áo khoác bên ngoài ra mới miễn cưỡng chui lọt.

Trần Bì A Tứ lại bảo Diệp Thành, Lang Phong và Phan Tử ở lại bên ngoài, có gì còn tiếp ứng, còn chúng tôi theo sau Bàn Tử tiến vào trong khe hở.

Đây là một kẽ đá nứt ra do vận động tạo núi, đi vào rồi mới phát hiện nó đột ngột dốc thẳng xuống dưới, bên trong tối om om, xem ra khe này rất sâu, chỉ e nó thông thẳng vào trong lòng núi.

Không gian ngoài miệng khe nứt hơi chật, hai người không thể sóng vai cùng vào, hơn nữa trong khe rất khó đi, dưới chân toàn là những khối đá lớn góc cạnh lởm chởm. Mùi lưu huỳnh trong hang phải nói là nồng nặc, nhiệt độ ít nhất cũng tầm 30 độ C, đến cả đá cũng nóng rẫy lên.

Chúng tôi dùng cả chân lẫn tay nhích lên vài bước, Bàn Tử lấy đèn pin chiếu sáng một bên, bảo: “Các anh xem, đây là chữ gì?”

Tôi quay đầu sang, thấy đám chữ không được khắc lên vách khe nứt mà chạm trên một khối đá nằm ngang lẫn trong đống đá lộn xộn dưới đáy. Đây toàn là những chữ lạ lùng, có phần giống tiếng Trung, lại hơi na ná chữ Hàn, chạm khắc không theo thứ tự gì cả.

Hoa hòa thượng sáp lại gần nhìn thử rồi khẳng định: “Đây là chữ của người Nữ Chân(*).”

(Nữ Chân chính là dân tộc của hoàng thất nhà Thanh, vốn họ thuộc một nhóm các bộ tộc du mục sống tại vùng Mãn Châu – nay là đông nam Nga và đông bắc Trung Quốc – và miền bắc Triều Tiên, cũng tức là sát với dãy Trường Bạch Sơn trong truyện. Trong quá khứ họ từng thành lập nhà Kim, xung đột với triều Tống cho đến khi bị liên minh Tống và bộ tộc Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn diệt quốc. Sau này họ lại nổi lên xâm chiếm toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc của nhà Minh và lập ra triều Thanh, cũng chính là vương triều cuối cùng của giai cấp phong kiến Trung Hoa.)

“Nó viết cái gì thế?” Bàn Tử hỏi.

Hoa hòa thượng đáp: “Chờ chút, tôi đâu phải siêu nhân, phải xem kỹ mới biết được. Để tôi chép lại đã.”

Chúng tôi chờ một lát cho Hoa hòa thượng chép xong những chữ này vào sổ. Rồi Bàn Tử dẫn đầu, chúng tôi lại xếp thành hàng ngũ, tiếp tục đi sâu vào trong động.

Nói là đi, chứ thực ra dùng tay còn nhiều hơn chân. Toàn bộ khe nứt cơ hồ đều nghiêng 30 độ xuống dưới, lại không có bậc thang, gần như phải bò xuống. Bên trong khúc rộng khúc hẹp chỗ thấp chỗ cao, có nhiều nơi phải thụp người xuống mới luồn qua được.

Điểm duy nhất khiến người ta thoải mái là trong này ấm áp hơn rất nhiều, chúng tôi bò mãi cũng bắt đầu đổ mồ hôi, đành phải tháo bớt nút quần nút áo. Đúng lúc đó Bàn Tử lên tiếng: “Bố già ơi, phiến phong thạch chặn ngoài kẽ nứt kia hình như không phải ngẫu nhiên đúng không?”

Trần Bì A Tứ ậm ừ nói: “Phá núi xây lăng thường lấy vật liệu tại chỗ, bên ngoài nhiều đá vụn như thế, hẳn đây chính là công trường khai thác đá để xây lăng mộ. Khe nứt này dễ chừng bọn họ đã phát hiện ra trong khi lấy đá, không hiểu sao cuối cùng lại dùng phong thạch chặn lại.”

Còn chưa xuống đến 100 mét, mùi lưu huỳnh đã ngày càng nồng, nham thạch càng lúc càng đen, cũng bắt đầu phản chiếu ánh ngọc lóng lánh bảy màu, đó là dấu vết để lại sau khi đá mica bị nhiệt độ cao nung chảy. Tôi kêu úi cha một tiếng, trong lòng thầm nghĩ đây chắc là miệng phun dung nham của núi lửa rồi. Trường Bạch là ngọn núi lửa ngủ đông, lỡ như nó đột ngột tỉnh giấc, nham thạch nóng chảy từ trong lòng núi phun ra thì chúng tôi chết là cái chắc.

Tôi đang nghĩ ngợi lung tung, bỗng hai người đi đầu đoàn ngừng lại, chiếu đèn pin về phía trước. Thì ra khe nứt đằng trước đột ngột thu hẹp lại, đá vụn ngổn ngang, chỉ chừa ra một khe hở bé tý có thể chui xuống dưới.

Tôi ngồi thụp xuống, chiếu đèn pin vào bên trong. Nơi đây do khe nứt sụp xuống hình thành, không gian bên trong rất nhỏ, kiểu này chắc phải nằm hẳn xuống mới trườn vào được.

Trần Bì A Tứ nhìn thấy miệng cái khe, biết ngay với thể lực của mình thì đừng hòng bò vào nổi. Bàn bạc một lát, tôi bảo Hoa hòa thượng ở lại chờ chúng tôi với lão, còn tôi, Bàn Tử và Muộn Du Bình thì tiếp tục chui vào xem bên trong còn có thứ gì.

Chúng tôi cởi áo ngoài, cố giảm hết cỡ kích thước cơ thể mình. Lần này chúng tôi để Muộn Du Bình đi đầu, ba người lần lượt trườn xuống, từng tý từng tý một luồn dần vào cái khe kia.

Tôi cho rằng chỗ bị sụp xuống chỉ là một đoạn ngắn, cứ bò về phía trước vài bước khắc có lối ra. Nếu đúng là như thế thì chúng tôi có thể quay về kịp thời, ai dè cái khe này dài khiếp, bò mãi bò mãi vẫn chưa hết đường, quả là vượt quá dự liệu.

Những tảng đá trong khe đều sắc nhọn khác thường, mới bò được vài bước quần áo trên người tôi đã bị móc rách vài chỗ. Nham thạch đè ép phổi tôi, cộng thêm nhiệt độ ngày càng tăng khiến tôi dần dần cảm thấy khó thở.

Bàn Tử đi sau cũng có cảm giác giống tôi, bèn níu chân tôi lại, nói: “Không xong, thành phần không khí ở đây hình như có vấn đề, chúng ta chưa thăm dò đã tiến vào thế này là quá liều lĩnh.”

Tôi muốn ngoảnh lại nhìn nhưng không gian quá chật chội, thật sự không cách nào làm được. Nghĩ bụng nãy giờ đã trườn được một đoạn khá xa, quay lại thì cũng tiếc, hơn nữa tình hình hiện tại như vầy, chỉ e bò lại còn khốn khổ hơn bò đi, vì vậy tôi nói: “Tiến thêm vài bước nữa đi, nếu còn chưa đến đáy thì chúng ta lại lui ra ngoài.”

Bàn Tử ậm ừ. Đúng lúc này, Muộn Du Bình ở đằng trước bất chợt kêu lên một tiếng: “Hửm?”

Tôi quay đầu lại nhìn về phía trước thì thấy đằng đó trống trơn, Muộn Du Bình mới nãy còn chặn trước mặt tôi giờ đã không thấy đâu nữa, chỉ để lại cái khe nứt tối om om, chẳng biết thông đến tận đâu.

Từ lúc nghe thấy tiếng Muộn Du Bình cho đến khi phát hiện ra hắn biến mất ngay trước mắt tôi, tuyệt đối không quá năm giây. Cho dù có là một con chuột thì trong hoàn cảnh này cũng không thể nào biến mất trước mặt tôi nhanh đến thế, huống chi là một con người.

Tôi lập tức cảm thấy có gì không ổn, vô thức lùi lại một bước, định nhìn lại cho cẩn thận. Bỗng vụt một cái, lại thấy Muộn Du Bình hiện ra lù lù ngay trước mặt mình.

Bàn Tử bò sát phía sau, thấy tôi lùi một bước thì hốt hoảng khựng lại, lên tiếng hỏi: “Có chuyện gì vậy?”

Nhất thời tôi cũng mù mờ chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì, bèn trả lời lấy lệ: “Không… không có gì đâu.”

Muộn Du Bình hình như cũng không biết chuyện kỳ dị vừa xảy ra với mình. Hắn dừng lại một lát, gọi chúng tôi một tiếng rồi bắt đầu tăng tốc trườn về phía trước.

Dù hắn thoắt ẩn thoắt hiện chỉ trong tích tắc nhưng tôi vẫn cảm nhận được hết sức rõ ràng. Tuy nhiên nhìn vào cảnh tượng trước mắt, bỗng dưng tôi lại không thể chắc chắn một trăm phần trăm. Trong lòng tôi cực kỳ hoang mang, lẽ nào là do không khí trong này khiến tôi sinh ảo giác?

Nhưng tình hình không cho phép tôi cân nhắc nhiều. Bàn Tử đằng sau kéo chân tôi thúc giục, tôi đành ôm cảm giác bực bội bò thêm một quãng. Lúc bò qua cái đoạn Muộn Du Bình vừa biến mất kia, tôi đặc biệt chú ý quan sát xung quanh nhưng không thấy bất kì chỗ lõm hay cái gì tương tự có thể khiến tôi sinh ra ảo giác, trong lòng mơ hồ dấy lên cảm giác bất an.

Qua khúc này lại đi thêm tầm mười phút nữa, Muộn Du Bình bất chợt thả lỏng, cả người rướn ra ngoài dò xét. Tôi thấy trước mặt trở nên rộng rãi, biết rằng đã đến lối ra.

Phần cuối của khe nứt là một đống lớn đá ngổn ngang. Sau khi leo ra, Muộn Du Bình bẻ vài khúc gậy huỳnh quang ném ra tứ phía, ánh sáng ấm áp màu vàng lan tỏa khắp không gian. Tôi quay đầu lại nhìn, nhận thấy đây hẳn là chỗ rộng rãi nhất của cả cái khe nứt trong lòng núi này, chiều rộng cỡ bốn năm chiếc xe bảy chỗ hiệu Kim Bôi, chiều dài đại khái bằng nửa sân bóng rổ, bên dưới lổn nhổn toàn đá vụn lớn có nhỏ có, đều là bị hoạt động địa chất xảy ra vào thời điểm hình thành cái khe này lắc cho vỡ xuống.

Bàn Tử điều chỉnh quầng sáng của đèn pin chiếu rộng ra, quan sát bốn phía rồi nói: “Quái lạ, chỗ này mà còn có bích họa. Xem ra chúng ta không phải những người đầu tiên tới đây rồi.”

Chúng tôi bước tới, phát hiện trên vách khe đúng là có bức bích họa lớn nhiều màu sắc. Nhưng tình trạng bảo tồn của bức bích họa này cực kỳ kém, màu sắc nhạt phai, đường nét bên trên phải cố gắng lắm mới nhìn ra nó na ná hình vẽ Thiên nữ phi thiên.

Những người tiến vào đây đã lấy một phiến đá vĩ đại bít cửa, bên trong lại còn có bích họa. Đây rốt cuộc là nơi nào? Một lần nữa, tôi lại cảm thấy hoang mang.

Quanh quẩn vài vòng, chúng tôi phát hiện ra vài miệng suối nước nóng giữa lớp đá vụn, tuy cái nào cũng rất nông, nhưng bốc lên hơi nóng hôi hổi hấp dẫn không sao tả xiết. Tuy nhiên, chúng tôi lại không phát hiện ra dấu vết cho thấy có những người khác đã từng hoạt động ở đây.

Từ sâu bên trong khe nứt thỉnh thoảng phả ra những luồng gió nóng bỏng. Tôi qua đó chiếu đèn vào trong, khe này sâu không thấy đáy, chẳng biết nó còn thông đến tận đâu.

Sau khi trao đổi ý kiến, chúng tôi thống nhất không phải vào sâu thêm nữa, đây đã là chỗ tránh bão tuyết lý tưởng rồi. Bàn Tử kiểm tra không khí, thấy không có vấn đề gì quá lớn, bèn thắp ngọn đèn bão lên duy trì ánh sáng. Muộn Du Bình lại bò qua cái khe nhỏ hẹp đã đưa chúng tôi tới đây, ra báo cho những người ở bên ngoài.

Lát sau Hoa hòa thượng và Diệp Thành đã lần lượt chui vào, Thuận Tử cũng được Phan Tử kéo đến nơi. Tôi lập tức kiểm tra bệnh tình của Thuận Tử, nhận ra nhờ hơi ấm trong này mà sắc mặt hắn đã bắt đầu hồng hào hơn, nhưng tay chân vẫn lạnh ngắt, không biết còn có thể cố gắng chống đỡ hay không.

Suốt quãng đường lên đây đều do Thuận Tử dẫn chúng tôi đi, nếu hắn chết thì cũng chưa đến nỗi không đi nổi nữa, nhưng tóm lại sẽ rất khó khăn. Hơn nữa tôi cũng rất quý mến người này nên thật sự không muốn một người vô tội như thế lại phải bỏ mạng vì chúng tôi.

Hoa hòa thượng kiểm tra nhịp tim và mạch đập của hắn, sau đó lại bảo tôi tránh ra, dấp nước nóng đẫm chiếc khăn mặt rồi đặt trên tảng đá cho nguội bớt, sau đó dùng nó lau người cho Thuận Tử, đợi đến khi toàn thân hắn được chà xát đến đỏ lựng lên rồi mới tưới lên người hắn chút nước nóng. Thuận Tử bắt đầu ho khan dữ dội, mí mắt co giật.

Chúng tôi thở dài nhẹ nhõm, Hoa hòa thượng nói: “Xong rồi, hắn không chết được đâu.”

Bầu không khí dịu đi, Bàn Tử và Diệp Thành đều lấy thuốc lá ra hút. Lúc này Trần Bì A Tứ cũng được Phan Tử đỡ vào.

Trải qua lần biến cố liên tiếp này, chúng tôi lâm vào tình trạng kiệt sức, cũng chẳng còn hơi đâu mà nói chuyện nữa, ai nấy đều tự tìm một chỗ thoải mái mà ngả lưng xuống.

Tuyết trên người vì nhiệt độ thay đổi mà tan thành nước, quần áo giày dép bắt đầu thấm hơi ẩm, chúng tôi phải lột quần áo ra phơi lên mấy tảng đá khô. Diệp Thành lấy đồ hộp nén nhỏ ra, ném vào suối nước nóng ngâm một lát rồi phân phát cho mọi người.

Tôi vừa ăn vừa cùng Hoa hòa thượng ngắm bức bích họa vừa phát hiện ban nãy. Chỗ này rõ ràng là do thiên nhiên tạo thành, hơn nữa không gian lại hẹp, tại sao phải vẽ bích họa làm gì? Việc Muộn Du Bình đột nhiên biến mất ngay trước mắt tôi vừa rồi, cùng với tảng đá vĩ đại chắn ngang cửa động đã cho tôi một cảm giác rất bất thường.

Người làm việc với đồ cổ luôn cảm thấy cực kì hứng thú với những vật truyền lại một lượng thông tin lớn như bích họa và phù điêu. Những người khác thấy chúng tôi chăm chú nhìn, cũng dần dần bước tới.

Nhưng trên tấm bích họa này lại không chứa nhiều thông tin cho lắm. Hình Thiên Nữ Phi Thiên được vẽ lên tường ở nhiều nơi trong cung đình hoa lệ hay in lên đồ thờ cúng chỉ để thể hiện những màn ca múa tưng bừng mừng cảnh thái bình thịnh vượng, chứ thực tế chẳng có ý nghĩa gì. Tấm bích họa tàn tạ này nhiều khả năng cũng chỉ là vật tương tự, có mặt tại đây lại toàn những người thường xuyên ra vào cổ mộ, nhìn nhiều phát nhàm, liếc qua đã chẳng có hứng xem xét gì nữa.

Trên đoạn đường tới đây tôi đã đổ mồ hôi đầm đìa, đầu ngón chân tê cóng, đau đến dại đi. Đúng lúc tôi đang định về chỗ, ngồi xoa bóp mấy đầu ngón chân thì lại nghe Bàn Tử chắt lưỡi một tiếng, chìa ngón cái ra, bắt đầu cậy bức bích họa.

Tôi bèn hỏi hắn làm sao thế, thứ này tuy không có giá trị nhưng dù gì cũng là di vật của người xưa, anh không thế phá hoại nó chứ.

Bàn Tử trả lời: “Cậu lảm nhảm cái gì đấy, móng tay tôi mà không có giá à? Đồ đạc bình thường tôi có thèm bóc bao giờ đâu. Cậu tự qua đây mà xem, bích họa này có hai tầng đấy!”

“Hai tầng á?” Tôi hửm một tiếng, nhíu mày, trong lòng tự hỏi thế nghĩa là sao?

Mọi người bắt đầu chụm lại, tới xem rốt cuộc hắn đang nói gì. Hắn chìa đầu ngón tay cho chúng tôi xem, chỉ thấy trên đó dính lại chất chu sa màu đỏ bị cạo ra. Nhìn lại vị trí trước mặt hắn, quả nhiên trong góc bức bích họa có một khoảng đường nét không hề liên quan đến xung quanh, thứ được vẽ cũng không giống. Chẳng qua chỗ này nằm hơi khuất, nếu không nhờ Bàn Tử tinh mắt, chúng tôi tuyệt đối không thể nhìn ra.

Điều này chứng tỏ đã có người vẽ chồng một tầng lên trên tấm bích họa gốc, che khuất hình vẽ ban đầu bằng hình vẽ này.

Tầng phía trên do phơi ngoài không khí, lâu dần tróc ra, để lộ bích họa đằng sau, chuyện này cũng thường xảy ra đối với tranh sơn dầu.

Bàn Tử tiếp tục lấy ngón tay lần lần trên bức bích họa, phát hiện ra tầng ngoài cùng này hình như cũng chưa được thi công hoàn thiện, cho nên Bàn Tử vừa cạo đại một cái đã có thể cào rụng lớp màu bên ngoài một cách đơn giản. Bằng không nếu như làm đủ thao tác, bích họa từ thời Đường trở đi đều phủ lên một lớp vật liệu trong suốt đặc thù; tầng này giống như lớp sơn bảo vệ hình vẽ, khiến cho nó không dễ bay màu, cũng không dễ tróc ra.

Đôi mày Trần Bì A Tứ nhíu lại thật chặt. Rất nhanh chóng, một mảng bích họa lớn cỡ cái chậu rửa mặt đã bị lột xuống, trên bức họa đằng sau xuất hiện nửa cỗ xe ngựa được vẽ với năm màu. Chủ nhân cỗ xe ngựa này là một người đàn ông phốp pháp, phục sức trên người ông ta tôi chưa thấy bao giờ.

Đây là loại bích họa tự sự, tôi bỗng nhiên cảm thấy hồi hộp.

Rõ ràng đã có người vẽ lên đây một tấm bích họa tự sự trước, nhưng vì nguyên nhân nào đó lại dùng một bức họa khác thay thế hết sức vội vàng, hơn nữa có lẽ do thời gian cấp bách nên không thể làm nốt thao tác cuối cùng để hoàn thành tấm bích họa bên ngoài này.

Trần Bì A Tứ ngắm nghía tấm bích họa này, lại nhìn quanh quất một vòng rồi nói với chúng tôi: “Thứ này… có liên quan tới thiên cung. Bóc toàn bộ mặt tường ra đi, để xem bức họa bên trong kể lại chuyện gì.”

Tôi đã muốn ra tay từ khuya rồi, bèn từ một đầu khác chìa móng tay ra, cẩn thận làm việc, bóc đi lớp bích họa trên tường đá.

Bức họa bong ra từng mảng lớn, chỉ trong chốc lát, một cuộn tranh khí thế hào hùng, màu sắc tươi đẹp đã dần dần trải ra trước mắt chúng tôi…

_______________

Bạn Cơm Nắm: Thiên nữ phi thiên chỉ là cô tiên bay lên giời thôi ()

Chương 14: Hai lớp bích họa

Editor: Biển,  Cơm Nắm Nướng Chảo

Beta: Thanh Du

~0O0~

 Bốn phía yên tĩnh đến rợn người, ngọn đèn bão được treo lên vách đá để tăng cường độ sáng, ánh đèn nhợt nhạt chiếu lên tầng nham thạch cho người ta cảm giác thần bí cổ xưa.

Màu sắc tấm bích họa vô cùng rực rỡ, chủ yếu dùng sắc đỏ tươi như máu, dưới ánh sáng chập chờn lại trở nên lấp lánh, dường như cả khối nham thạch đang ứa máu tươi. Bích họa ẩn giấu bên dưới một lớp phẩm màu khác lại được bảo tồn tốt đến nhường này, thật là không sao tưởng tượng nổi.

Nhưng nội dung tấm bích họa mới khiến chúng tôi thực sự kinh ngạc, những gì được vẽ trên đó rất khó diễn tả bằng lời. Tấm bích họa được chia làm hai phần, ghi lại hai sự kiện khác nhau nhưng khi ghép chung một chỗ trông vẫn rất hoàn chỉnh, đẹp đến lung linh huyền ảo.

Hoa hòa thượng thấy hai mắt tôi sáng rực lên thì lẩm bẩm: “Đây là cảnh tượng cuộc chiến giữa hoàng đế Vạn Nô của Đông Hạ và người Mông Cổ, cậu nhìn người này đi, xem ra y chính là Vạn Nô vương, đây rất có thể là trận chiến diệt nước  Đông Hạ trong truyền thuyết.”

Hiểu biết của tôi về Đông Hạ vô cùng hạn hẹp, những người khác hiển nhiên cũng không hơn gì, ai nấy đều yên lặng nghe ông ta nói tiếp.

Ông ta đi đi lại lại vừa trầm trồ thán phục, vừa ngắm nghía hình vẽ trước mặt rồi chỉ tay vào một vị trí trên bức bích họa, nơi có rất nhiều binh lính vai mang khôi giáp và da tê tê, nói: “Đây là quân Vạn Nô vương”, lại chỉ vào kỵ binh bên kia: “Còn đây là lính Mông Cổ, các cậu xem, nhân số hơn xa quân Đông Hạ đến mấy lần, rõ ràng là một cuộc chiến không hề cân sức.”

Tôi nhìn theo hướng ông ta chỉ, thấy tên bay tán loạn đá bắn tứ tung, Bàn Tử nhìn một hồi chẳng hiểu sao lại cảm thấy kỳ lạ, liền hỏi: “Vì sao quân Đông Hạ người nào người nấy mặt mũi trông như phụ nữ thế này?”

Tôi cũng thấy lạ, chẳng lẽ người Đông Hạ lại để phụ nữ ra trận đánh nhau sao? Nếu thế thì không mất nước cũng uổng. Hoa hòa thượng đáp: “Không phải, đây là một trong những đặc trưng của bích họa Đông Hạ, những người cậu nhìn thấy đều thanh tú mỹ miều, tôi cũng từng tra trong điển cố ra vài hiện tượng kỳ quái, hình như những ai đã từng tiếp xúc với người Đông Hạ đều nói ở Đông Hạ không thấy người già, dân nước này đều ở độ tuổi rất trẻ. Dân Triều Tiên thì kể rằng người Đông Hạ đến lúc chết vẫn giữ được dung mạo trẻ trung.” *Đây là lí do anh Bình không bị lão hóa đó hả…*

Bàn Tử cau mày, dường như không thể nghĩ ra tại sao lại có chuyện như thế, tôi cảm thấy điều này có thể liên quan đến tập tục của một vài dân tộc thiểu số, có những tộc người không cho phép người già gặp khách. Tôi không quan tâm lắm, lại cùng mọi người tiếp tục xem xét.

Hoa hòa thượng lại chỉ tới phần thứ hai của bích họa, nói: “Phần này mô tả lại diễn biến trận đánh. Các cậu xem, người Đông Hạ lấy một chọi ba, cuối cùng lần lượt bị người Mông Cổ bắn chết, trận chiến này rốt cuộc biến thành một trận thảm sát.”

Trên bích họa dùng rất nhiều mảng đỏ để diễn tả sự thảm khốc của chiến tranh, mang đến cảm giác rất thật, dường như như tôi đang được tận mắt chứng kiến từng nhóm từng nhóm quân Đông Hạ ngã vào vũng máu, kỵ binh Mông Cổ giẫm đạp lên thi thể của họ, bắt đầu thiêu hủy nhà cửa, tàn sát đàn ông.

Phần thứ ba của bích họa bị che khuất sau một tảng đá lớn, chúng tôi không thể dời đi nhưng có thể đoán biết nội dung của nó là phần kế tiếp hai bức kia.

Lúc này tôi bỗng cảm thấy ngờ vực, bèn nói chen vào: “Không đúng, cái nước Đông Hạ này chẳng phải đã bị người Mông Cổ tiêu diệt từ đời tám hoánh rồi sao? Tôi thấy trong tài liệu có nói bọn họ tồn tại được hơn bảy mươi năm, lại chinh chiến liên miên, nếu bảo Vân Đỉnh Thiên Cung là do bọn họ xây nên thì với điều kiện thời đó, một quốc gia nhỏ làm sao có thể xây dựng một lăng mộ quy mô hoành tráng nhường này?”

Tôi vừa dứt lời đã có nhiều người tỏ vẻ đồng tình, Đông Hạ là nhà nước xuất hiện trong thời gian rất ngắn ở vùng Cát Lâm và Hắc Long Giang khi Nữ Chân diệt quốc, theo trí nhớ của tôi thì hoàng đế khai quốc Vạn Nô vương thậm chí còn không kịp truyền ngôi cho đời sau đã bị người Mông Cổ vòng qua Triều Tiên tiêu diệt. Đó chính là thời kỳ Mông Cổ hùng mạnh nhất, gặp thần giết thần gặp phật giết phật, cảnh tượng được mô tả trên bích họa nếu đúng là trận quyết chiến kia, với tính cách của người Mông Cổ, họ hẳn phải bị tàn sát sạch sẽ mới đúng.

Mà thời đó sức sản xuất của các bộ tộc Nữ Chân rất yếu kém, không thể huy động quá nhiều nhân công, dù không bị diệt quốc đi chăng nữa thì căn bản cũng không thể xây dựng nên một lăng mộ hoành tráng nhường này.

Theo lời Trần Bì A Tứ thì trong Vân Đỉnh Thiên Cung thật sự chôn cất hoàng đế Đông Hạ, chuyện này nghĩ sao cũng thấy thật hoang đường, bởi lẽ bọn họ không có đủ thời gian cũng như thực lực.

Càng vô lý hơn, nếu dựa theo những thứ chúng tôi đã nhìn thấy trong ngôi mộ dưới đáy biển mà suy đoán thì tòa lăng mộ trong truyền thuyết này hẳn là do Uông Tàng Hải xây dựng, như vậy thời gian thi công có lẽ vào cuối triều Nguyên, khi đó nước Đông Hạ đã bị tiêu diệt từ hàng trăm năm trước, đào đâu ra hoàng đế Đông Hạ để mà chôn cất chứ.

Chúng tôi đều đưa mắt về phía Trần Bì A Tứ, lão chính là người nói ra câu hoàng dế Đông Hạ được táng trong Vân Đỉnh Thiên Cung, nhưng bây giờ xem xét lại thì dường như giả thiết này hoàn toàn sụp đổ.

Trần Bì A Tứ biết chúng tôi đang nghĩ gì, mặt mũi lạnh tanh liếc qua bích họa, cười nhạt một tiếng rồi nhìn sang Hoa hòa thượng: “Nếu các người không tin, vậy thì hòa thượng, anh nói cho bọn họ biết đi.”

Hoa hòa thượng dạ một tiếng rồi quay sang chúng tôi cười nói: “Tôi biết các cậu đang hoài nghi điều gì, và tôi dám chắc các cậu đều nghĩ sai cả rồi. Những tài liệu viết về Đông Hạ mà các cậu đã xem hầu hết đều được suy ra từ mấy cuốn sách cổ không còn nguyên vẹn. Trên thực tế tài liệu về nước Đông Hạ còn lưu lại thật sự quá ít ỏi, ở nước ngoài người ta thậm chí còn không thừa nhận đã từng có một quốc gia như vậy tồn tại, cho nên thông tin các cậu thấy bây giờ thực ra cũng rất khó đánh giá độ chính xác.”

Bàn Tử nói: “Nếu đã thế thì ông dựa vào đâu mà khẳng định tài liệu của ông là đúng.”

Hoa hòa thượng trả lời: “Bởi vì tài liệu của chúng tôi trực quan hơn.” Ông ta móc một tấm lụa trắng từ trong túi áo lót, trải ra trước mắt chúng tôi. Tôi vừa nhìn thấy, ruột gan bỗng chốc rơi tuột xuống.

Không ngờ thứ đó chính là con Xà mi đồng ngư trong buổi bán đấu giá.

Tại sao nó lại nằm trong tay bọn họ, chẳng phải đã nói là không có người mua sao? Tôi nhíu mày, đột nhiên hiểu ra.

Đã không có người mua, mà cá lại nằm trong tay Trần Bì A Tứ, vậy lẽ nào Trần Bì A Tứ chính là người bán?

Toàn thân tôi run rẩy, cố gắng giữ thân thể ổn định, không để cho bản thân lộ ra vẻ mặt quá mức kinh ngạc. Thế nhưng lòng mề đã xoắn thành một cục, vô số câu hỏi bùng nổ trong đầu, nhất thời cũng không biết mình đang sợ hãi hay là  hưng phấn, chỉ thấy tay chân đột ngột lạnh ngắt như bị rút máu.

Hoa hòa thượng không hề để ý đến nét mặt của tôi, tiếp lời: “Loại cá đồng này là một biến thể của rồng, cụ nhà chúng tôi nhờ cơ duyên xảo hợp mới lấy được, tôi tin chắc người chế tác ra nó phải biết rõ nội tình nước Đông Hạ. Lạ nhất là người này sử dụng thủ pháp vô cùng khéo léo để lưu lại một đoạn thông tin tuyệt mật trên thân cá, các cậu xem đi.”

Ông ta đưa con cá lại gần đèn bão, những mảnh vẩy cá mạ vàng phản chiếu ánh kim lấp lánh, in lên bức bích họa vô vàn điểm sáng li ti. Hoa hòa thượng dịch chuyển thân cá, những điểm sáng bắt đầu biến đổi, dần dần lại hóa thành những con chữ lốm đốm.

“Bí mật nằm ở đây, trên vẩy cá này tổng cộng ẩn giấu bốn mươi bảy chữ Nữ Chân.”

Trong lòng tôi a lên một tiếng, thầm nhủ hóa ra còn có thứ kỹ xảo này. Tôi nắm chặt hai con Xà mi đồng ngư trong túi, lắp bắp hỏi ông ta: “Nó…nó viết cái gì vậy?”

“Vì tư liệu trên con cá không hoàn chỉnh nên tôi còn chưa giải mã được hết. Nhưng tôi có thể khẳng định, người làm ra con cá này muốn ghi lại vài chuyện mà không muốn người ta phát hiện ra, lưu giữ lịch sử chân thực của Đông Hạ.” Hoa hòa thượng nói có phần đắc ý, “Thật ra trước khi nhìn thấy vật này, căn cứ vào rất nhiều dấu vết để lại, tôi đã suy đoán rằng nhà nước Đông Hạ chắc chắn từng tồn tại, có điều họ đã rút sâu vào núi lớn, vả lại không biết dựa vào điều gì mà một nhà nước nhỏ bé yếu ớt như thế vẫn đứng vững vàng giữa một bên là Mông Cổ hùng mạnh vô song, một bên là Triều Tiên như hổ đói rình mồi trong suốt mấy trăm năm. Tôi từng nghiên cứu ghi chép của Cao Ly (tên cũ của Triều Tiên), mãi cho đến trước khi nhà Minh thành lập, còn có người đào sâm bắt gặp những kẻ ăn mặc kỳ quái hoạt động ở chỗ này. Tôi nghĩ đó là một bộ phận dân cư còn sót lại của nước Đông Hạ.”

Ông ta lại chỉ vào con cá, nói tiếp: “Những mẩu ghi chép vụn vặt trong này đã chứng minh cách nghĩ của tôi là đúng. Nước Đông Hạ sau khi quyết chiến với Mông Cổ đã lui đến biên giới giữa Cát Lâm và Triều Tiên, vẫn náu mình tồn tại suốt mấy trăm năm, tổng cộng có mười bốn vị hoàng đế. Mông Cổ và Triều Tiên không dưới một lần muốn tiêu diệt đất nước bé nhỏ này, nhưng vì một lý do kỳ lạ mà tất cả đều thất bại.”

“Lý do gì?” Phan Tử hỏi: “Hòa thượng, anh nói chuyện thẳng thắn chút được không?”

Hoa hòa thượng nhún vai: “Tôi không biết. Tư liệu trên con cá kia không đầy đủ, đảm bảo còn có vật khác ghi lại phần còn thiếu. Nhưng căn cứ vào những chữ trong tay, tôi dám nói nước Đông Hạ đứng vững được hẳn là vì đã có những chuyện vô cùng ly kỳ xảy ra, còn nội dung phía sau thế nào thì chịu. Chúng tôi vẫn luôn muốn tìm, nhưng tiếc thay ông cụ nhà chúng tôi đã lùng sục bao nhiêu năm vẫn không thấy những phần khác đâu cả.” Ông ta ngừng một lát rồi lại nói: “Các cậu có biết câu cuối cùng trong đống chữ Nữ Chân này nói gì không?”

Tôi thầm nghĩ tụi này biết thế quái nào được, Diệp Thành đã tiếp lời: “Là gì?”

Hoa hòa thượng nhìn chúng tôi rồi bảo: “Trên này viết, Vạn Nô Vương của các triều đại đều không phải là người.”

“Không phải người thì là cái quái gì?” Bàn Tử thốt lên.

Hoa hòa thượng cất con cá đi: “Trên này viết, bọn họ đều là một loại quái vật từ dưới lòng đất bò ra!”

Không phải chứ, tôi nghĩ thầm. Mọi người nhìn nhau, xem chừng trong lòng đều đã hơi rờn rợn. Diệp Thành lại hỏi: “Cũng không thể nói như thế được, hay ý họ muốn ví hoàng đế với rồng, chứ không phải người phàm?”

“Tôi vốn cũng nghĩ người này chỉ muốn dùng lối ví von chân long thiên tử vậy thôi, nhưng sau này nghiên cứu thêm mới phát hiện người này khả năng chỉ muốn ghi lại một vài bí mật, khách quan hơn so với ghi chép lịch sử của Đông Hạ, nên hẳn là sẽ không dùng ngôn ngữ cung kính vậy đâu. Hơn nữa, nếu sự thực đúng như lời anh nói thì hãy tưởng tượng mà xem, giả sử anh chúc thọ hoàng đế mà vừa mào đầu đã nhả một câu: bệ hạ, ngài thật không phải người, chỉ e câu thứ hai chưa nói ra anh đã bị lôi đi lăng trì rồi. Làm gì có ai viết kì cục như vậy.” Ông ta cười khó hiểu: “Hơn nữa câu sau cùng viết cực kỳ rõ ràng, cực kỳ khiếm nhã, tôi vẫn canh cánh trong lòng. Nếu ta tìm được những phần khác thì hẳn là sẽ giải mã được rốt cuộc những lời này có ý nghĩa gì.”

Bàn Tử và Muộn Du Bình đều biết kỳ thật hai con cá đồng còn lại hiện giờ đang ở trong tay tôi, nhưng vì thận trọng nên bọn họ đều không lên tiếng. Tôi bóp chặt cá đồng trong túi áo, đột nhiên cảm thấy chúng trở nên nặng trĩu.

Nhất thời tôi cũng không biết mình có nên lấy hai con cá này ra không. Thực ra hai con cá này đối với tôi cũng chẳng có ý nghĩa gì. Tôi không đọc được chữ Nữ Chân, có xem cũng chẳng hiểu cóc khô gì sất. Nhhưng nếu giao cho bọn họ thì tôi lại thấy không ổn chút nào.

Phan Tử nhìn chằm chằm vào tấm bích họa, lẩm bẩm với chính mình rằng người được cho là Vạn Nô vương trên bích họa kia trông cũng giống người chứ nào có vẻ gì là quái vật. Bàn Tử vỗ vỗ anh, nói với Hoa hòa thượng: “Anh Mặt Sẹo, tôi bảo này, anh giải mã cái quái gì, chúng ta là người thực dụng, đừng ra vẻ phần tử trí thức, đến lúc quan tài mở ra thì là người hay chó khắc rõ ràng ngay thôi.”

Hoa hòa thượng cười cười lên tiếng: “Ý tôi là, biết người biết ta vẫn hơn.”

“Có điều, thằng vẽ bích họa không dưng lại vẽ mấy cái này ở đây làm quái gì nhỉ?” Bàn Tử hỏi: “Để nhắc mình khỏi quên nợ nước thù nhà à?”

Hoa hòa thượng lắc đầu, hiển nhiên cũng không hiểu rõ lắm. Tôi ngẫm nghĩ rồi nói: “Có khi là muốn hoàn thành bích họa ở đây rồi dỡ cả khối đá xuống, còn không thì chắc là vẽ để giết thời gian thôi. Anh xem trong này ấm áp, có lẽ lúc đó thợ thuyền cũng vào đây nghỉ ngơi mà.”

Chẳng ai thèm tin tôi. Hoa hòa thượng bắt đầu chụp lại mấy thứ này để lưu lại làm tư liệu.

Chúng tôi nghỉ ngơi đã đủ, dần dần hồi phục tinh thần, bắt đầu cắt lượt nghỉ ngơi. Trần Bì A Tứ lại cử người của lão thay phiên ra canh bên ngoài, chừng nào tuyết ngừng rơi thì bò vào báo cho chúng tôi, còn chúng tôi bắt đầu thay phiên nhau ngủ.

Khi tôi tỉnh giấc thì Thuận Tử cũng vừa tỉnh lại, không ngừng xin lỗi chúng tôi. Bàn Tử không thèm quan tâm đến hắn, tôi lấy đồ cho hắn ăn, lại bảo anh cứ nghỉ ngơi cho khỏe, tôi còn phải nhờ anh tiếp tục dẫn lên mà.

Trong này không có mặt trời mặt trăng thay nhau chiếu sáng, cũng chẳng biết thời gian đã qua bao lâu, đại khái là chờ hai ba ngày thì tuyết rốt cuộc cũng ngừng rơi. Chúng tôi lục tục leo ra khỏi cái khe, bên ngoài đã trời quang mây tạnh, xung quanh là một thế giới bao la trắng xóa.

Sửa soạn lại trang bị mới phát hiện mấy ngày nay chúng tôi đã ăn quá nhiều,  đoán chừng nếu không có tiếp tế thì chưa đi đến đích đã cạn sạch lương thực. Hỏi Thuận Tử xem có cách nào không, hắn nói đã lên vùng núi phủ tuyết thì bó tay rồi, bằng không phải quay trở về, hoặc là phân phối đồ ăn ra, chịu khó nhịn bớt một chút.

Lúc ở trong khe nứt, Trần Bì A Tứ đã dạy chúng tôi rất nhiều mánh lới sử dụng trên núi tuyết, ví dụ như dùng băng vệ sinh làm lót giày có thể hút mồ hôi, giữ cho bàn chân khô ráo, toàn thân ấm áp. Chúng tôi làm theo cách của lão, quả thật không tồi, có điều chính mình cũng thấy  chướng, cứ nghĩ nếu vào cổ mộ rồi vứt lại mấy thứ này trong đó, vài năm sau có đội khảo cổ đào ra, nhìn thấy cái của nợ này nằm chình ình bên cạnh quan tài thì không biết sẽ có vẻ mặt gì. 

*Êm vái cả nón trí tưởng tượng phong cmn phú của bạn Tà =))*

Chúng tôi dùng dây thừng leo lên sườn dốc mà mình đã ngã xuống, thấy trên mặt đất chi chít những dấu chân ngựa mới tinh. Bàn Tử ngồi thụp xuống xem xét rồi nói: “Đám người A Ninh kia xem ra đã vượt qua chúng ta, giờ đang ở tít đằng trước rồi.”

Chúng tôi không nói thêm lời nào, đeo kính chắn gió rồi gấp rút lên đường. Hai giờ sau, trên một sườn núi, chúng tôi thấy đội của A Ninh. Bọn họ hiển nhiên cũng chịu tổn thất rất lớn, ba mươi người giờ chỉ còn có hai mươi, số ngựa cũng bị rút xuống một nửa, nhìn toét mắt cũng không thấy tăm hơi chú Ba tôi đâu.

Chúng tôi bắt đầu lẳng lặng ẩn nấp, quan sát bọn họ. Tôi thấy A Ninh nâng ống nhòm chăm chú nhìn về một phía, muốn trông theo hướng cô ả đang nhìn nên cũng nheo mắt lại.

Chỉ thấy ngoài xa, không biết là trong màn tuyết hay mây mù, đứng sừng sững một ngọn núi tuyết lớn, hợp thành một thể với những mạch núi khác, lại cao chót vót đên bất thường. Đó chính là ngọn núi tuyết tôi từng thấy trong ngôi mộ dưới đáy biến sâu, hình dáng của nó dường như không khác mấy so với trong hình vẽ.

“Đúng chỗ này rồi.” Tôi thầm nhủ trong lòng, chỉ vào ngọn núi kia, ngoảnh đầu lại hỏi Thuận Tử: “Kia là núi gì? Làm sao qua đó bây giờ?”

Thuận Tử đưa tay lên che nắng, vừa nhìn đã biến sắc: “Thì ra các anh muốn đến đấy à?! Chỗ kia không đi được đâu!”

***Hoàn Phần 4***

***~~~~~Hoàn Quyển 2~~~~~***

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#bíẩn