Phần 5 - Xà chiểu quỷ thành (Trung)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng




Chương 30. Rồng đến nhà tômEditor: Nga VũBeta: Cơm Nắm Nướng Chảo, Earl Panda...*****.

Về đến Hàng Châu rồi, thời tiết vẫn vô cùng lạnh giá.

Cửa hàng vẫn vắng tanh không khác gì ngày trước. Vương Minh thấy tôi trở về, một vẻ mệt đừ, thế nào mà mấy tích tắc đầu lại chẳng nhận ra tôi, còn tưởng tôi là khách hàng. Tôi cũng chỉ có thể cười khổ.

Kết quả cuộc thảo luận giữa tôi và mấy đứa bạn đã giáng cho tôi một đòn cực nặng, khiến tâm trạng tôi cứ rối bời không yên, lại không thể đi hỏi chú Ba lần nữa, kẻo ông cụ khốt đó lại chửi tôi chân trong chân ngoài. Sầu não trong lòng không chỗ trút, tôi đành ngày ngày nán lại trong cửa hàng, chơi cờ với ông chủ quầy đối diện. Lại nói năm nay nhiêu khê nhiễu sự, cả phố buôn bán chả khá khẩm tý nào, mọi người đều phải đổ thóc giống ra ăn, sống một cách vô công rồi nghề.

Nói tới thì kể cũng lạ. Những chuyện buồn phiền sau khi về Hàng Châu rồi tôi cũng ít nghĩ tới. Đại khái thành phố này bản thân nó vốn rất dễ khiến người ta thấy nhẹ lòng.

Có một khoảng thời gian dài tôi không gặp chú Ba. Bàn Tử có tìm tôi vài lần, nhờ tôi giải quyết mấy việc. Thằng cha này đúng là chả ở yên được, gia tài bạc triệu mà phung phí rõ nhanh, chả mấy chốc đã thấy bảo hết tiền. Hỏi ra thì mới biết là anh ta mở cửa hàng ở Bắc Kinh, liền tiêu mất gần sạch nhẵn rồi. Thời buổi này đúng là không giống trước kia nữa, ôm được một vạn là cả đời khỏi cần lo lắng. Có điều mấy người khách mở miệng toàn nói giọng Bắc Kinh mà anh ta mấy lần dẫn theo cũng đều đặn lấy không ít hàng, chắc hẳn mở rộng kinh doanh rồi thì buôn bán lãi lời cũng khá.

Bữa nay, tôi đang bị ông chủ cửa hàng kế bên chém giết đến mức chỉ còn lại một đôi mã, còn ngoan cố không chịu nhận thua, chuẩn bị cầm cự đến giờ cơm chiều là lại tìm cớ hoãn binh, thì chợt nghe có một kẻ vừa đi vừa luôn mồm mắng chửi suốt đến gần. Tôi ngẩng đầu nhìn lên thì hóa ra lại là Bàn Tử. Cha nội này làm ăn cũng khấm khá quá nhỉ.

Chủ cửa hàng bên cạnh đã từng làm ăn với Bàn Tử, không ít lần bắt bí anh ta, vừa thấy Bàn Tử đến liền chuồn mất. Tôi mừng húm vì khỏi phải thua tiền, liền hỏi xem anh ta cáu gắt cái gì.

Bàn Tử hùng hổ mắng mắng chửi chửi, hóa ra là mang hai cái bình sứ đến Hàng Châu, giữa đường bị vỡ mất một cái trên xe lửa, lại chả bắt đền được ai, chỉ có thể cáu gắt.

Tôi với anh ta quen biết đã lâu, chút chuyện tường tận về anh ta tôi cũng biết ít nhiều, bèn chế nhạo, cười anh ta không chịu ngồi máy bay mà cứ chen chúc trên xe lửa. Thế chả phải là bị chập mạch à?

Bàn Tử chửi: "Cậu thì biết cái *éo gì. Bây giờ máy bay họ làm gắt lắm đó. Tôi ở Phan Gia Viên cũng có tên có tuổi, được cớm người ta đặc biệt chăm sóc lắm đấy. Mấy năm nay họp hành quốc tế ở Bắc Kinh nhiều quá, giờ cứ vài ngày lại một trận càn quét. Bố mày có mỗi cái cửa hàng mà ngày nào cũng bị hành cho khốn khổ, hết mẹ cửa làm ăn. Chứ không á? Bất đắc dĩ lắm mới phải Nam tiến nhá. Giang Nam coi trọng buôn bán, đầu tư tiền vào mới hợp. Có điều con gái Hàng Châu các người hung dữ quá. Bàn gia nhà cậu trên xe lửa mãi mới lựa được chuyện phiếm để giải sầu, thế mà bị ăn một cú vêu mồm. Còn hàng họ của bố thì bị đập cho vỡ mẹ nó hết. Mẹ sư cha đứa nào bảo con gái Giang Nam là làm từ nước đấy? Bịp bố à, có mà là làm từ  axit sulphuric thì có."

Chuyện này Bàn Tử lải nhải rất nhiều lần rồi nên tôi biết nó thế nào. Trên xe lửa có một cô bé rõ là gầy. Bàn Tử thấy cô gái gầy như cái xác ve mà mặt còn bự phấn, mồm miệng lại văng ra mấy câu không được thanh lịch cho lắm, phàn nàn trong xe có mùi gì khó ngửi. Dĩ nhiên đây là tại chân Bàn Tử thối quá. Bàn Tử nghe xong lửa giận tích tụ, cũng bởi vì quá rỗi việc, mồm mép liền châm chọc cô ta, nói rằng cô em à, tôi thấy cô dung nhan xinh đẹp thật, mà cớ sao lại gầy gò như thế. Xem hai cái ống quần cô kìa, gió thổi qua là đũng quần bay phấp phới như đèn lồng, lắp vào bên trong hai cái cánh quạt, thì mẹ nó đánh rắm còn phát được luồng điện sức gió ấy chứ.

Câu này chưa nói dứt lời đã bị người ta văng cho một cái tát vỡ mồm. Tôi nghe xong cười hớn hở, bảo anh ta rằng người ta tha cho, không lôi anh đến đồn công an đã là tốt lắm rồi đấy. Anh biết không, trên đời này có một loại tội gọi là tội quấy rối, mà anh thì đã là kẻ tình nghi rồi đấy.

Bàn Tử còn loe mồm lên, nói với khuôn mặt đó á, ui da, bảo tôi quấy rối cô ta hả, cớm tuyệt đối sẽ không tin đâu. Tôi nhất định phải là người bị hại mới đúng.

Tôi bèn bày cho anh ta một cách, nói sau này anh không cần đích thân đưa đến nữa. Anh không biết trên đời này có thứ gọi là chuyển phát nhanh à? Anh đó, chỉ cần tự bỏ ít tiền ra, mở công ty chuyển phát nhanh, đút lót nhiều nhiều chút. Cái dịch vụ này vừa chạy, thì cứ từng trạm từng trạm, ở trên mỗi xe lại tống tiễn thêm vài món minh khí còn không phải dễ như ăn cháo là gì.

Bàn Tử riêng về phương diện kinh doanh là đồ chết não, nghe không hiểu những thứ phức tạp, cũng không tám được với tôi về khoản này. Anh ta thổn thức nói: "Nói tới tiền nong, Bàn gia nhà cậu chả bần tiện gì đâu, nhưng mấy tháng nay tôi thực sự đợi đến phát ngấy lên rồi. Cậu nói coi, tiền lời cứ thế mà tiêu, như vậy rất là vô nghĩa. Đám người chúng ta còn phải làm cái việc kia, đúng không? Đó mới gọi là chân lý cuộc đời. Phải rồi, Tam gia nhà cậu đó, gần đây còn gắp Lạt Ma không? Sao chả có tin tức gì vậy?"

Tôi liền bảo bản thân tôi cũng chẳng liên lạc gì. Cứ cảm giác như thể sau chuyện này, tôi với chú Ba đã có một khoảng cách. Chú không dám gặp tôi, mà tôi cũng không dám đi gặp chú. Thỉnh thoảng thấy mặt một lần cũng chẳng nói năng gì.

Bàn Tử cũng không để ý, chỉ bảo: "Phải mà còn có việc gì hay ho, thì nhớ san cho tôi với nhá. Mấy tháng nay xương cốt ngứa ngáy hết cả rồi."

Tôi nhủ thầm rằng anh nói đi nói lại, chẳng phải cũng vì tiền cả sao. Trong lòng thấy tức cười, tôi bèn nói: "Bàn Tử nhà anh, tính tình đúng là quái thật, nếu là nhiều tiền thì anh cũng có chứ không phải không, sao mà đến mức không đủ xài chứ?" Anh ta đáp: "Núi cao còn có núi cao hơn, hào kiệt ở Phan Gia Viên đông như ốc, nguyên một đám đại gia trá hình, có hàng xịn là toàn chặn cục gạch ém trong nhà đó. So với đám người ấy thì có mà ghen tức chết luôn. Thường nghe nói, người sống trên đời chỉ cần còn một hơi thở thì làm gì có chuyện tiền nhiều lại không muốn nhiều tiền hơn nữa chứ!"

Tôi cười vang ha hả, bảo đây mới đúng là lời nói thật.

Đang nói dở thì ngoài cửa hàng đột nhiên có người thò đầu vào, ngẩng mặt liền cười, hỏi: "Ông chủ, có mở cửa làm ăn không đấy......"

Bàn Tử đang gãi gãi cẳng chân, bèn ngước mắt lên nhìn người mới đến, kêu ối chà một tiếng rồi cười lạnh nói: "Là cô hả?"

Tôi ngoái lại nhìn, người đến hóa ra là A Ninh, bữa nay diện một cái áo thun hở rốn, xỏ quần bò, cảm giác khác xa với lúc ở trên biển. Tôi cũng có phần nhận không ra.

A Ninh với tôi chả có mấy khi liên lạc với nhau, tôi cũng đã từng nghe ngóng tin tức về người này, nhưng lại chẳng có thông tin gì. Hôm nay cô nàng đột nhiên đến tìm tôi, lại khiến tôi thấy bất ngờ hết sức.

A Ninh không thèm đếm xỉa gì đến Bàn Tử, trừng mắt liếc anh ta một cái, sau đó ưỡn ẹo lượn một vòng đầy quyến rũ quanh cửa hàng nhà tôi, rồi quay sang tôi nói: "Khá phết nhỉ, bày biện trông cổ kính lắm."

Tôi nghĩ bụng, tôi đây là kinh doanh đồ cổ đấy, thế chẳng nhẽ lai trang trí nội thất kiểu siêu thực à? Tôi cảnh giác hỏi: "Gớm chả mấy khi rồng đến nhà tôm. Cô tìm tôi có việc gì đấy?"

Cô nàng có phần thất vọng nhìn tôi một cái, đại khái là nhận ra thái độ của tôi, bèn ngập ngừng rồi đáp: "Anh đúng là thẳng thắn. Thế thì tôi cũng không khách sáo nữa. Tôi tới tìm anh để anh mời tôi ăn cơm, thế anh có mời không thì bảo?"

Chương 31. Manh mối mớiEditor: Yoo ChanBeta: Cơm Nắm Nướng Chảo, Earl Panda...*****.

Trong nhà hàng Lâu Ngoại Lâu ở Hàng Châu, tôi ngồi nhìn A Ninh xơi nốt miếng cá chua cuối cùng, thỏa mãn lau lau cái miệng nhỏ nhắn, bày ra một vẻ mặt ngây ngất mà bảo chúng tôi: "Đồ ăn ở Hàng Châu đúng là khá thật, mỗi tội hơi ngọt."

Cơn bực mình trong lòng tôi đã lên đến đỉnh điểm, nhưng lại không tiện bùng ra, chỉ đành nhếch nhếch mép xem như có cười, rồi vẫy tay gọi tính tiền.

Nói thật, là chỗ quen biết với nhau, có mời cô ta ăn một bữa cơm thì cũng chả phải chuyện gì to tát lắm, tôi cũng không phải loại người chưa từng dùng bữa với kẻ xa lạ bao giờ. Nhưng có một bữa cơm mà ăn uống cứ như cà phê nhỏ giọt trong phin ấy, mất đến những hai tiếng đồng hồ lận, cả buổi lại chẳng nói chẳng rằng lấy một câu, chỉ vừa ăn vừa nhìn chúng tôi rồi cười, thì quả thực là tôi hết chịu nổi.

Còn có Bàn Tử cũng bực mình không kém. Bàn Tử rất có thành kiến với cô ta, vốn đã định phủi đít bỏ đi rồi, nhưng mà tôi thật sự không muốn một mình xơi cơm với cô ả này, nên tôi cố sống cố chết kéo anh ta cùng vào nhà hàng. Giờ thì anh ta hối hận đến tím ruột bầm gan.

Hai đứa bọn tôi ăn chẳng được mấy miếng. Bàn Tử thì một mực ngồi đó uống rượu giải sầu. Mặt mũi cả hai đều sa sầm lại, cứng ngắc. Tôi âm thầm suy đoán xem cô ả này rốt cuộc tới tìm tôi làm gì, vừa nghĩ cách ứng phó, thậm chí cả cách làm sao để phòng tránh nếu lỡ ả ta đột ngột nhảy lên phi ám khí tôi cũng nghĩ luôn rồi.

Nhân viên phục vụ đến viết hóa đơn tổng, trông thấy ánh mắt bọn tôi thì cũng thành ra bực bội cảnh giác.

Cái loại thực khách ngồi cả hai tiếng đồng hồ không buồn trò chuyện, mặt mũi xám ngoét, ở Lâu Ngoại Lâu quả là ít gặp. Trông ánh mắt của cô phục vụ thì có lẽ cô ta đã cho rằng chúng tôi là đám cho vay nặng lãi rồi, còn cô gái vóc người xinh đẹp kia sau khi ăn xong sẽ bị tôi và Bàn Tử bán luôn vào nhà thổ.

Còn bản thân tôi thì lại cảm thấy mình như đứa học trò đến kì thi không thèm ôn tập, bỗng nhiên phát hiện thầy giáo đến thăm hỏi hai vị phụ huynh nhà mình, chẳng biết là phúc hay họa đây, chính là cái cảm giác nhấp nhổm không yên chờ thầy giáo nói vào câu chuyện đó đó. Tóm lại, cả đời tôi có bữa cơm này là ăn một cách bực bội nhất.

Nhân viên phục vụ đi xa rồi, Bàn Tử nhìn đồ ăn trên bàn cười khẩy một tiếng, hỏi: "Không ngờ cô cũng là kiểu người ăn thùng uống vại đấy nhỉ. Thế nào? Cô bán mạng làm việc cho công ty nhà cô như vậy, mà đến bữa cơm no công ty của các cô cũng không cho được cơ à?"

"Bọn tôi quanh năm suốt tháng ở ngoài bãi hoang, có cầm vàng thỏi theo thì cũng làm gì có gì tử tế mà ăn." A Ninh nhướn mày, "Cứ đem so với lương khô thì thứ gì ăn mà chả ngon."

Bàn Tử cười nhạt, liếc liếc tôi, đưa mắt ra hiệu một cái ý bảo tôi nói tiếp câu chuyện mà anh ta mới khơi lên.

Tôi 'khụ' một tiếng, cũng chả biết nói thế nào. Có điều A Ninh rõ ràng là đến tìm tôi, nếu để Bàn Tử giúp tôi hỏi chuyện thì nhất định là không phải phép. Vì thế tôi đành miễn cưỡng đương đầu với thử thách, hỏi A Ninh: "Cơm thì tôi cũng mời cô ăn rồi, có chuyện gì chúng ta cứ nói thẳng ra đi. Cô lần này tới tìm tôi, rốt cuộc là có chuyện gì?"

A Ninh bèn nhếch khóe môi mỉm cười: "Sao mà cứ hỏi mãi chuyện này thế? Chả nhẽ không có việc thì không đến tìm anh được à? "

Một cái nhếch miệng này chứa biết bao nhiêu quyến rũ lẳng lơ. Tôi thấy con mắt cô ta nhìn tôi đến mức sắp chảy nước ra rồi, trong ngực bỗng nghẹn ứ một cục, những muốn ói máu. Trong vô thức tôi quay sang nhìn Bàn Tử. Bàn Tử lại làm bộ như không nghe thấy, quay ngoắt mặt sang bên khác.

Tôi chỉ đành xoay đầu trở lại, chẳng biết phải hỏi tiếp như nào, bèn "ờ" một tiếng, nửa ngày nói chẳng nên câu, mặt mũi thoắt cái nghẹn đến đỏ lựng cả lên.

A Ninh thấy cái bộ dạng này của tôi, lúc đầu còn muốn khiêu khích xem tôi ứng phó thế nào, kết quả đợi cả nửa buổi vẫn chả thấy tôi nói năng gì, cô nàng đột nhiên cười phá lên, lắc đầu tức cười bảo: "Thật là hết cách bắt chẹt anh, chả biết có phải cái bộ dạng này là anh giả vờ ra không nữa. Thôi bỏ đi, không ghẹo anh nữa. Tôi đúng là tìm anh có việc đây."

Nói đoạn cô ta moi trong túi ra một cái bọc vuông vức rồi đưa cho tôi: "Đây là thứ công ty chúng tôi vừa nhận được. Có liên quan đến anh đấy. Anh xem thử đi."

Tôi xem thử thì thấy đó là một gói bưu phẩm. Áng chừng một chút, trong lòng tôi chợt cồn cào cả lên, đại khái đã biết nó là thứ quái gì rồi. Kích thước như thế, hình dạng như kia, lại thêm kinh nghiệm từ mấy ngày trước, thật sự là nào có khó đoán. Thế là tôi không tự chủ được mà đổ mồ hôi lạnh dầm dề.

Bàn Tử không biết rõ nội tình, thấy tôi ngây người ra đó liền giằng lấy cái gói, mở ra xem thì quả nhiên là hai cuộn băng ghi hình màu đen, hơn nữa cũng giống như hai cuộn băng chúng tôi nhận được ở Cát Lâm, đều là băng hình theo chuẩn cũ.

Tuy tôi đã đoán ra được rồi, nhưng khi đã được xác nhận hẳn hoi thì trong lòng vẫn hẫng một cái, tự hỏi chuyện này là thế nào vậy? Lẽ nào Muộn Du Bình không chỉ gửi hai cuộn băng? Cùng với đồ gửi cho tôi, còn có một phần khác gửi đến công ty A Ninh nữa? Hai cuộn băng này, phải chăng cũng có nội dung giống với hai cuộn băng mà chúng tôi đã nhận được?

Thằng cha này rốt cuộc muốn làm gì?

"Đây là thứ mấy ngày hôm trước được gửi đến trụ sở của công ty chúng tôi ở Thượng Hải. Vì người gửi tương đối đặc biệt, nên rất nhanh nó đã đến tay tôi." A Ninh nhìn tôi. "Sau khi xem xong tôi liền biết phải tới tìm anh một chuyến."

Bàn Tử đã nghe tôi kể về chuyện băng ghi hình, bây giờ cái vẻ mặt làm gì còn giữ được bí mật nữa, nhắm thẳng vào tôi nhấm nháy ra hiệu. Tôi lại 'khụ' một tiếng, ý bảo anh ta đừng có kích động như vậy, rồi nói với A Ninh: "Người gửi bưu kiện có cái gì đặc biệt thế? Nội dung trong băng là cái gì?"

A Ninh liếc xéo Bàn Tử một cái, như cười như không, quay sang tôi đáp: "Người gửi bưu kiện đúng là hết sức đặc biệt. Đợt chuyển phát nhanh này người gửi chính là....." Cô ta lấy trong túi ra một tờ hóa đơn chuyển phát nhanh, "Anh tự xem xem đó là ai."

Tôi thấy cô ả cứ nói kiểu che che đậy đậy như thế, trong lòng thầm nghĩ người gửi bưu kiện chắc là Trương Khởi Linh rồi. Gì chứ cái tay này thì lại chả đặc biệt hết cỡ. Tôi bây giờ còn có cảm giác chẳng hiểu anh ta rốt cuộc có tồn tại trên cõi đời này hay không nữa. Thế nhưng làm sao mà A Ninh lại biết hắn ta đặc biệt được cơ chứ?

Thế là tôi bèn nhận lấy. Bàn Tử lại thò đầu sang xem. Mới thoáng nhìn thấy là tôi đã sững cả người. Thứ ghi trên tờ hóa đơn kia, tên của người gửi đợt chuyển phát nhanh này, lại chính là Ngô Tà – tên họ của tôi.

"Cậu á?" Bàn Tử bên cạnh chẳng hiểu ra sao cả, bèn kêu lên.

Tôi lập tức lắc đầu, nói với A Ninh: "Tôi không có gửi! Cái này không phải tôi gửi đâu."

A Ninh gật đầu: "Chúng tôi cũng biết. Làm sao có khả năng anh gửi đồ cho chúng tôi được. Ngưởi gửi đồ ghi lên cái tên này, rõ ràng là để đảm bảo rằng đồ sẽ đến được tay tôi mà thôi."

Hứng thú của Bàn Tử bị khơi lên. Anh ta bèn hỏi A Ninh: "Ở trong quay gì ấy nhể?"

A Ninh đáp: "Thứ bên trong khá là quái đản. Tôi nghĩ các anh nên xem một chút, tự mình cảm nhận đi."

Sự ngờ vực trong lòng tôi đã bị dồn lên đến cao trào. Lúc này tôi quên cả phòng bị, buột miệng hỏi A Ninh: "Có phải có một cô gái cứ liên tục chải đầu không?"

A Ninh rõ ràng là không hiểu gì cả, liếc nhìn tôi một cái rồi lắc đầu trả lời: " Không phải. Thứ trong này, không biết có thể tính là người hay không nữa."

.

.

—————————–

Thím Ngô Tà tự nhận gu gái của mình là loli Hoàng Dung, thế mà có một con loli Hoàng Dung lù lù trước mặt thật thì lại ghét bỏ ra mặt =A= Quả nhiên đời trai của thím đã không còn cách nào cứu vãn nổi nữa rồi :v

Chương 32. Ngôi nhà cũ trong cuốn băng hình
Editor: Cơm Nắm Nướng ChảoBeta: Earl Panda...*****.

Mấy đầu máy video mua tại Cát Lâm tôi đã gửi bưu điện về để ở trong nhà. Vì không muốn A Ninh biết địa chỉ thật của mình () – tuy có khả năng cô ta đã sớm biết rồi – nên tôi phân công Vương Minh về nhà tôi lấy. Ở ngay gian trong của cửa hàng, sau khi cắm đầu máy xong, chúng tôi liền bật cuốn băng từ mới nhận trên chiếc TV nhỏ ở đây.

Băng từ vẫn là loại trắng đen không hề thay đổi. Đoạn nhiễu qua đi thì xuất hiện một gian phòng ở bày biện theo kiểu cũ. Lúc mới bắt đầu, tôi còn hơi giật mình, nhưng ngay sau đó liền phát hiện ra cách bài trí của căn phòng kia đã không còn giống như trong cuốn băng chúng tôi đã xem ở Cát Lâm, rõ ràng là địa điểm đã thay đổi. Không gian rộng lớn hơn nhiều, nội thất cũng khác hẳn, không biết là ở đâu.

Lúc ấy, khi ở Cát Lâm cùng với chú Ba xem xong hai cuộn băng từ kia, đoạn sau tất cả đều là muỗi, xem đi xem lại cũng không phát hiện được bất cứ đầu dây mối nhợ nào. Hiện giờ có cuốn băng từ mới, tôi thầm nghĩ bên trong chắc sẽ có manh mối, nên xem kỹ lưỡng hơn một chút.

Vương Minh pha trà rót nước cho mọi người. Bàn Tử không hề khách sáo, nằm xoài ra trên ghế dựa của tôi. Tôi đành ngồi sang một bên, sau đó đuổi Vương Minh ra ngoài trông hàng, lại còn phải giữ kẽ ráng sức duy trì một khoảng cách với A Ninh. Có điều lúc này A Ninh cũng nghiêm túc rồi, gương mặt lạnh tanh so với vẻ dí dỏm ban nãy cứ như hai người hoàn toàn khác hẳn.

Trong căn phòng đó rất tối, ở một bên có ánh sáng loang lổ chiếu vào. Theo hình dạng ánh sáng chiếu xuyên qua thì cửa sổ có phần giống loại song gỗ khắc hoa sử dụng cho kiểu nhà cũ thời Minh-Thanh, tuy nhiên hình ảnh là đen trắng nên nhìn không rõ lắm. Có thể thấy lúc này trong phòng không có người.

Bàn Tử nháy mắt với tôi, ngầm hỏi nội dung có giống cuộn băng ghi hình mà Muộn Du Bình gửi cho tôi không. Tôi thoáng lắc đầu ý bảo không phải. Anh ta để lộ vẻ mặt vô cùng bất ngờ rồi lại quay đầu chăm chú xem băng.

Có điều, một đoạn khoảng mười lăm phút sau hình ảnh vẫn không có gì thay đổi, chỉ là thỉnh thoảng nhiễu một phát làm chúng tôi giật mình thon thót.

Tôi từng có kinh nghiệm nên vẫn còn có thể chịu được. Bàn Tử thì đã không kiên nhẫn được nữa, bèn quay sang phía A Ninh: "Tôi bảo này Ninh tiểu thư, cô cầm nhầm băng rồi hả?"

A Ninh mặc kệ anh ta, chỉ nhìn tôi. Tôi thì lại nín thở, vì tôi biết cuộn băng này có lẽ cũng là băng hình giám sát, có ghi lại hình ảnh phòng ở không một bóng người cũng là cực kỳ bình thường. A Ninh đã muốn đưa cuộn băng từ này tới, thì chắc chắn không lâu sau nữa sẽ có một sự việc gì đó không tầm thường xảy ra trong cuốn băng.

Thấy tôi và A Ninh không nói câu nào, Bàn Tử cũng mất mặt, uống xong ngụm trà liền muốn ra ngoài. Tôi bèn ấn anh ta xuống, không để anh ta chuồn đi mất. Lúc bấy giờ anh ta mới chịu ngồi lại, nhưng cứ cào cào gãi gãi sồn sột hết chỗ nọ chỗ kia, rõ ràng là cực kỳ sốt ruột.

Tôi trong lòng ngấm ngầm bực dọc nhưng cũng không tiện bùng nổ, đành phải tập trung  tư tưởng hạ hỏa, tiếp tục theo dõi căn phòng trên TV. Bản thân tôi cũng có phần mất kiên nhẫn, thật muốn nhấn nút tua nhanh nó lên một chút.

Vừa đúng lúc đó, A Ninh đột nhiên ngồi ngay ngắn hẳn lên, ngoắc tay ra hiệu. Tôi cùng Bàn Tử lập tức cũng ngồi thẳng người, cẩn thận theo dõi màn hình.

Trên màn hình, trong phòng bỗng xuất hiện một cái bóng xám đang di chuyển từ trong bóng tối ra, động tác vô cùng kỳ quái, tốc độ đi cũng cực chậm, cứ như là say rượu.

Tôi nuốt ngụm nước miếng, trong lòng nảy ra vài suy đoán nhưng không biết có chính xác hay không. Lúc này tôi cũng căng thẳng hẳn lên.

Rất nhanh, cái bóng trắng trông rõ ràng hẳn. Đến khi nó di chuyển đến bên cửa sổ thì lúc bấy giờ tôi mới hiểu ra vì sao động tác của người này lại kỳ dị đến thế: đó là vì nó căn bản không phải đang đi, mà là đang bò trên mặt đất.

Người này không biết là nam hay nữ, chỉ thấy nó đầu bù tóc rối, quần áo mặc trên người trông cứ như áo liệm, bò trườn trên mặt đất một cách chậm chạp, đầy gian nan.

Mà điều làm tôi cảm thấy kỳ dị chính là tư thế bò trườn của nó trông cực kỳ quái đản. Nếu không phải là người có tật, thì hẳn là đã phải chịu một sự ngược đãi đến cực độ. Tôi từng xem một bản tin, trong đó nói ở một vùng nông thôn hẻo lánh có gã dân quê đem nhốt bà vợ thần kinh có vấn đề trong hầm ngầm, đợi đến khi bà vợ được thả ra thì đã không thể nào đi lại bình thường được nữa mà chỉ có thể bò thôi. Động tác của nó đúng là cho tôi loại cảm giác này.

Chúng tôi đều không lên tiếng, nhìn nó bò qua màn hình rồi lẳng lặng không một tiếng động mà biến mất ở đầu đằng kia. Sau đó, trước mắt chúng tôi, căn phòng lại trở về vẻ yên tĩnh bất động như cũ.

Toàn bộ quá trình chỉ dài hơn bảy phút tý tẹo, nhưng điều khiến người ta gần như phát điên chính là: không có âm thanh. Phải nhìn một người bò qua không chút tiếng động như vậy là một chuyện cực kỳ không thoải mái.

A Ninh ấn điều khiển từ xa, tua lại cuốn băng, sau đó tiếp tục phát một lần nữa. Sau đó, cô ta dừng hình ảnh lại rồi bảo chúng tôi: "Đoạn sau không cần xem nữa. Vấn đề là ở đây."

"Tóm lại là có ý gì thế hả?" Bàn Tử không hiểu đầu cua tai nheo gì, lên tiếng hỏi tôi, "Đồng chí Thiên Chân Vô Tà, người kia là ai vậy?"

"Tôi làm sao biết được!" Tôi buồn bực đáp. Vốn tôi cho rằng sẽ nhìn thấy Hoắc Linh xuất hiện lần nữa, ai dè lại không phải. Điều này càng khiến tôi thêm nghi ngờ. Nhìn cái dáng gù gù kia, nếu đúng thật là đồ do cùng một người gửi đi thì trên cuốn băng ghi hình có lẽ vẫn là Hoắc Linh. Lẽ nào lúc Hoắc Linh được ghi lại trong cuốn băng hình này thì đã già đến nỗi đứng cũng không nổi hay sao?

Bàn Tử lại quay sang hỏi A Ninh rốt cuộc đã có chuyện gì xảy ra. Đây là quay thứ gì vậy?

"Các anh cảm thấy mình đã thấy gì?" A Ninh hỏi lại chúng tôi.

"Cái đó còn phải hỏi sao? Đây không phải là một người bò qua trên sàn nhà trong một cái phòng hở?" Bàn Tử trả lời.

A Ninh không để ý tới anh ta mà nhìn tôi đầy thâm ý rồi hỏi: "Anh nói đi?" Dường như cô ta muốn nhìn ra cái gì đó từ trên người tôi vậy.

Tôi theo dõi vẻ mặt của A Ninh, khó hiểu hỏi: "Chẳng lẽ không phải à?"

Cô ta có phần ngờ vực, lại có vẻ hơi bất ngờ, nheo mắt: "Anh... vẫn không có cảm giác đặc biệt gì khác sao?"

Tôi chẳng hiểu gì cả, liền đưa mắt nhìn Bàn Tử. Bàn Tử thì nhìn chằm chằm vào cuốn băng ghi hình đang phát ra thanh âm "rè rè", lắc đầu: "Không thấy."

A Ninh chằm chặp nhìn tôi rất lâu rồi mới thở dài nói: "Thôi được rồi, chúng ta xem tiếp cuốn thứ hai. Tôi hy vọng các anh có thể chuẩn bị tâm lý thật tốt."

Nói xong thì cuốn băng từ thứ hai cũng được bỏ vào đầu máy. Lần này A Ninh không để chúng tôi xem từ đầu, mà bắt đầu tua nhanh cuộn băng. Đến tận thời điểm băng ghi được mười lăm phút, cô ta mới nhìn tôi nói: "Anh... tốt nhất là hít thở sâu một lát đi!"

Tôi bị cô ta nói thế thật đúng là có phần luống cuống. Bàn Tử thì sốt ruột nói: "Xem thường người ta hả? Cô cũng không dò la một chút, xem đồng chí Tiểu Ngô nhà ta đã trải qua những cảnh ngộ nào. Trèo lên núi tuyết, lặn xuống biển sâu, tôi còn không tin có thứ gì hù dọa được cậu ta, cô đừng có ở đấy mà vẽ vời ra thói đa sầu đa cảm của đám đàn bà con gái các cô nữa. Tiểu Ngô, cậu nói thử xem sao, cái lý lẽ này có đúng hay không vậy hả?"

Tôi mặc kệ lời anh ta nói, bảo A Ninh cứ bắt đầu đi. Ngồi ở phòng trong của cửa hàng nhà mình rồi, tôi cũng chẳng tin tôi sẽ phát hoảng đến mức chạy đi đâu được nữa.

A Ninh trừng mắt nhìn Bàn Tử. Băng ghi hình lại bắt đầu phát, hình ảnh vẫn là căn phòng ở kia, có điều màn hình máy quay có vẻ hơi rung rinh, hình như có người đang điều chỉnh nó. Rung được khoảng hai phút màn hình mới ngay ngắn lại. Tiếp theo, một khuôn mặt từ dưới màn hình ló lên.

Lúc mới đầu tiêu cự chưa được điều chỉnh tốt, áp sát quá gần nên nhìn không rõ lắm, nhưng tôi đã nhận ra người nọ không phải Hoắc Linh. Tiếp đó, khuôn mặt người nọ lại dịch chuyển ra sau, một người mặc áo liệm màu xám giống y lúc trước xuất hiện trên màn ảnh. Người đó run rẩy ngồi dưới đất, tóc tai rối bù nhưng với một vài cử động tôi vẫn nhìn thấy được mặt của nó.

Cùng lúc đó, Bàn Tử kinh ngạc kêu thét lên một tiếng, quay phắt đầu lại nhìn tôi, mà tôi cũng lập tức cảm giác được cơn ớn lạnh xộc thẳng từ sống lưng lên sau gáy mình, đồng thời há hốc cả miệng, tưởng như sắp ngộp thở đến nơi.

Trên màn hình, kẻ quay đầu bốn phía ngó nghiêng như người điên kia có gương mặt vô cùng quen thuộc. Tôi phải mất vài giây mới thừa nhận được: đó lại chính là bản thân mình!

Chương 33. Hoàn toàn rối loạn
Editor: Cơm Nắm Nướng ChảoBeta: Earl Panda...*****.

Ba người chúng tôi câm nín đủ mười phút đồng hồ, tất thảy đều im phăng phắc. Trong lúc đó Bàn Tử vẫn cứ nhìn tôi chằm chằm, nhưng không ai nói một câu nào.

A Ninh cho tạm dừng hình ảnh trên tivi lại. Trên khuôn hình đen trắng, hình ảnh đang dừng lại kia chính là khuôn mặt cực kỳ quen thuộc. Dưới mái đầu bù tóc rối đó là gương mặt mà mỗi ngày tôi đều nhìn thấy: khuôn mặt của chính mình. Mới nhìn một lần tôi đã có cảm giác kinh hoàng và quỷ dị đến thế, cho nên tôi không dám nhìn lại nữa.

Một lúc lâu sau, A Ninh mới lên tiếng. Cô ta khẽ nói: "Đây chính là nguyên nhân vì sao tôi nhất định phải tìm bằng được anh."

Tôi không nói câu nào, cũng không biết phải nói thế nào. Đầu óc tôi trống rỗng rồi, căn bản không biết nên phản ứng ra sao nữa.

Bàn Tử há hốc miệng, phát ra vài tiếng ú ớ vô nghĩa rồi mới nhả ra được một câu: "Tiểu Ngô, người đó là cậu hả?"

Tôi lắc đầu, cảm thấy từng cơn choáng váng ập tới, đầu óc hoàn toàn không sao suy nghĩ nổi nữa. Tôi nhéo mũi mình thật mạnh, xua xua tay với họ ý bảo bọn họ đừng hỏi tôi nữa, để cho tôi tỉnh táo lại một chút trước đã.

Bọn họ quả thực không nói lời nào nữa. Tôi hít mạnh mấy hơi thật sâu, gắng sức bình tĩnh trở lại rồi mới hỏi A Ninh: "Là từ đâu gửi đến thế?"

"Theo chữ ghi bên trên thì hẳn là từ Cách Nhĩ Mộc ở Thanh Hải gửi tới."

Tôi hít sâu một hơi, quả nhiên là từ cùng một nơi gửi đến. Xét về thời điểm quay cuốn băng này thì thấy cũng cùng một thời kỳ với hai cuốn băng quay Hoắc Linh kia, không quá gần với thời hiện đại bây giờ. Hai cuốn băng này cùng với hai cuốn băng mà tôi nhận được có lẽ có một mối quan hệ nào đó. Có thể loại bỏ khả năng đây là hai sự kiện độc lập rồi.

Nhưng trong đầu tôi nhớ mình chắc chắn chưa bao giờ trải qua chuyện mặc loại quần áo như vậy và bò trườn trong một ngôi nhà cổ. Điều này thật sự không thể tưởng tượng nổi, bản thân tôi rất khó mà tin được rằng người trên màn hình lại là chính mình. Nhất thời, tôi liền có cảm giác đây là một âm mưu.

"Ngoại trừ cái này, còn có manh mối nào khác hay không?" Tôi lại hỏi cô ta. Cô ta lắc đầu: "Đầu mối duy nhất chính là anh, cho nên tôi mới tới tìm anh."

Tôi cầm lên chiếc điều khiển từ xa, tua về rồi xem lại toàn bộ một lần nữa. Chiếc điều khiển bị tôi bóp đến mức kêu lên ken két. Nhìn thấy khoảnh khắc đặc tả trong chớp mắt đó, tôi dù đã có chuẩn bị tâm lý nhưng trong lòng vẫn bất chợt trầm xuống một chút.

Màn hình trắng đen tuy không rõ nhưng người bên trong tuyệt đối chính xác là tôi chứ không sai.

Bàn Tử vẫn còn muốn hỏi nữa nhưng bị A Ninh ngăn lại. Cô ta ra ngoài nói với Vương Minh một câu gì đó, cậu ta bèn đáp một tiếng rồi không lâu sau đó đã liền cầm một chai rượu quay trở lại. A Ninh hắt nước trà của tôi đi, rót cho tôi một chén rượu.

Tôi cười khổ một cái vẻ cảm kích, đón lấy rồi há miệng tợp một ngụm lớn. Vị cay đắng xộc vào khí quản khiến tôi lập tức ho sù sụ. Bàn Tử bên cạnh nhẹ giọng nói với tôi: "Cậu bình tĩnh một chút trước đã, đừng gấp. Chuyện này cũng không khó giải thích đâu. Trước tiên là cậu phải xác định đã, người kia thật sự không phải là cậu chứ hả?"

Tôi lắc đầu: "Người đó đảm bảo không phải là tôi."

"Vậy cậu có anh em gì không, bề ngoài trông rất giống cậu ấy?" Bàn Tử nhếch miệng hỏi tôi, "Không phải ông già cậu ở bên ngoài có này nọ gì đấy chứ—"

Tự tôi cũng cảm thấy nực cười. Đây chẳng phải là mấy tình tiết trong tiểu thuyết võ hiệp sao? Làm sao xảy ra trong thực tế được. Tôi cười khổ lắc đầu, lại hớp thêm một ngụm rượu lớn.

A Ninh quan sát tôi, nhìn một lúc thật lâu rồi mới nói: "Nếu không phải là anh, vậy anh có thể giải thích được đây là chuyện gì không?"

Tôi thầm nghĩ, cô hỏi tôi tôi biết hỏi ai, trong lòng đã rối bời đến nỗi không muốn đối đáp gì với cô ta nữa. Sự việc đã hoàn toàn ra ngoài khỏi phạm vi tôi có thể hiểu được, tạm thời tôi không thể dùng lý trí mà suy nghĩ được nữa. Điều chủ yếu nhất là, hễ mỗi khi tôi lần không ra được manh mối nào nữa thì đồng thời trong lòng lại cứ nảy lên một cảm giác kỳ quái, thế nhưng tôi lại không thể tóm được bất cứ đầu dây mối nhợ nào của cái cảm giác này. Điều này khiến cho tôi đặc biệt điên tiết.

Bàn Tử ngồi một bên lại nói: "Nếu vậy cũng không phải, thì chỉ có thể là người này đeo mặt nạ giả trang thành cậu... Xem ra, chả mấy khi lại có người đặc biệt yêu thích tướng mạo của cậu, cậu hẳn là phải thấy phê lắm. Thử nghĩ xem có phải người ta quay cuốn băng này tới phá cậu chơi không?"

Tôi thầm chửi một tiếng. Mặt nạ da người, nghe thì có vẻ là một cách giải thích tốt, nhưng cái thứ gọi là mặt nạ da người này, dùng để che giấu mặt thật biến thành người lạ thì rất dễ, chứ muốn hóa trang thành một người cụ thể hẳn hoi thì tương đối khó, có thể nói là gần như không có khả năng thực hiện được. Nếu có người muốn phỏng theo mặt mũi tôi làm một chiếc mặt nạ da người, thì phải cực kỳ quen thuộc cấu trúc khuôn mặt tôi mới được, hơn nữa còn phải hiểu rõ các loại vẻ mặt của tôi, nếu không, cho dù có làm được ra mặt nạ, chỉ cần người đeo cười hoặc mở miệng thì lập tức sẽ lộ tẩy ngay.

Hình ảnh trong cuốn băng ghi hình này nhất định là phải ấn chứa điều gì đó. Cho dù thật sự có người đeo mặt nạ phỏng theo tướng mạo tôi thì cũng sẽ xuất hiện một đống vấn đề lớn: tỷ như kẻ đó rốt cuộc là ai? Làm thế nào mà biết được tướng mạo của tôi? Đã dùng cái "mặt" của tôi vào việc gì? Tại sao lại xuất hiện trong băng ghi hình? Địa điểm trong băng ghi hình là chỗ nào? Rồi vào lúc nào thì ghi hình lại? Và có liên quan gì với cuốn băng ghi hình của Hoắc Linh?

Sự tình không hề đơn giản như vậy đâu.

Tôi thậm chí còn sinh ra ảo giác, tự hỏi hay là không phải người kia đeo mặt nạ da người, mà chính tôi mới là kẻ đeo mặt nạ da người đây?

Tôi sờ lên mặt mình, thế nào lại cứ muốn nhìn xem mình có phải Ngô Tà hay không. Thế nhưng miết lên có cảm giác đau, rõ ràng khuôn mặt tôi là thật, bản thân tôi cũng bật cười.

Cuốn băng quay Hoắc Linh, cùng với cuốn băng ghi hình "tôi" được gửi đến tay tôi và A Ninh dưới một cái tên Trương Khởi Linh và một cái tên Ngô Tà. Hành động đó dù sao cũng phải có ý nghĩa gì đó. Tất cả những chuyện không thể tưởng tượng nổi bỗng chốc đổ ụp cả xuống, cái cảm giác mà mãi tôi mới có thể thoát khỏi được – chính là chấp niệm đối với sự thật nằm sau lời nói dối của chú Ba – lại đột nhiên trào dâng trong lòng tôi.

Tối đến, vẫn ở Lâu Ngoại Lâu, tôi mời Bàn Tử ăn cơm, vẫn là ở cái bàn hồi trưa.

Cả buổi chiều tôi cứ một mực trầm mặc. A Ninh về sau đợi không nổi nữa, bèn để lại một chiếc điện thoại và địa chỉ rồi quay về khách sạn của mình. Cô ta nói tôi nếu có nghĩ ra cái gì thì hãy báo cho cô ta biết. Ngày mai cô ta lại tới nữa.

Tôi đoán rằng trong một buổi tối mình cũng sẽ chẳng nghĩ ra điều gì, nên cũng chỉ đáp qua loa vài tiếng rồi tống khứ cô ta đi. Bàn Tử vốn định về luôn tối hôm đó, thế nhưng lại xảy ra cái chuyện này, anh ta cũng có hứng thú nên chuẩn bị đợi tiếp vài ngày, để xem sự việc sẽ tiến triển ra sao. Chỗ anh ta ở là do tôi sắp xếp cho, mà buổi trưa lại chẳng ăn uống gì, bèn tiếp tục ở lại ăn chực cơm của tôi.

Cô phục vụ nọ thấy tôi và Bàn Tử lại tới nữa, nhưng cô gái kia lại không thấy đâu, có lẽ đã cho rằng cô gái ấy bị chúng tôi bán đi thật rồi, nên sắc mặt cứ có vẻ kỳ kỳ. Nếu là lúc bình thường thì chắc tôi đã giở trò trêu cô ta rồi, nhưng hiện giờ tôi thật sự chẳng còn lòng dạ nào nữa.

Cái lúc A Ninh vừa đi, Bàn Tử liền hỏi ngay tôi: "Tiểu Ngô, đám đàn bà con gái phắn rồi, rốt cuộc đã có chuyện gì, cậu nói đi được rồi đó?"

Tôi cũng vẫn nở nụ cười khổ với anh ta, nói tôi thật sự không biết, cũng chẳng phải tại có mặt A Ninh nên mới giả bộ lờ ngờ.

Bàn Tử làm ra vẻ không tin. Xem ra trong mắt anh ta, chú Ba tôi là trùm lừa đảo, còn tôi chí ít cũng phải là một con cáo con. Người ở trong cuốn băng ghi hình chắc chắn chính là tôi, còn tôi thì chắc chắn là có nỗi khổ tâm gì đó không nói ra được.

Tôi thật sự không muốn giải thích nữa, tiện mồm thề độc một câu, anh ta mới miễn cưỡng nửa tin nửa ngờ. Lúc này rượu và đồ nhắm đã dọn lên, Bàn Tử cũng tợp một chập rượu rồi lại hỏi tôi: "Tôi bảo Tiểu Ngô này, tôi thấy chuyện này không đơn giản đâu. Cậu không nói năng gì cả buổi chiều rồi, tóm lại là có nghĩ ra cái gì không vậy? Cậu không được gạt Bàn gia đâu nhé."

Tôi lắc đầu, cau mày bảo với anh ta: "Thật sự chẳng nghĩ ra được gì. Chuyện này tôi làm sao có thể nghĩ cho rõ ràng được cơ chứ, thậm chí phải bắt đầu nghĩ từ chỗ nào, tôi mẹ kiếp còn *éo biết. Hiện giờ chuyện duy nhất có thể nghĩ là cuộn băng này rốt cuộc do ai gửi tới thôi."

Lúc chiều tôi đã suy nghĩ rất lâu. Những điều khiến tôi lưu tâm, thứ nhất là, theo như nội dung nhìn thấy trên băng hình, "tôi" và Hoắc Linh đều giống nhau, đều biết biết đến sự tồn tại của chiếc máy quay, rõ ràng là "tôi" cũng không kháng cự lại cái vật kia.

Thứ hai là, cuốn băng của Hoắc Linh, thời gian ghi hình rõ ràng từ rất lâu rồi, có lẽ đã quay từ những năm 90 của thế kỷ 20. Nếu như hai cuốn băng đều được ghi từ cùng một thời kỳ, thì "tôi" trong cuốn băng kia của A Ninh có lẽ cũng sống ở thập niên 90, mà lúc đó thì tôi còn nhớ rành rành rằng mình vẫn đang học phổ thông. Không chỉ nói riêng rằng tôi không hề có ký ức về việc quay cuốn băng này, mà cho dù có thì hình dáng tôi cũng không giống như vậy. Tôi tuy là kẻ theo thuyết âm mưu, nhưng nếu như thời thơ ấu của tôi có gì giả dối, thì những bức ảnh chụp từ nhỏ tới lớn của tôi ở trong nhà phải giải thích thế nào? Mấy người học cùng tôi, bạn bè của tôi, thì lại phải giải thích thế nào?

Hiện giờ, xem ra chuyện tôi nghĩ không thông nhất chính là chuyện người gửi cuốn băng này cho A Ninh là ai, và mục đích của người đó là gì. Lẽ nào chỉ là muốn dọa rồ tôi một trận? Thật sự rất không có khả năng.

Bàn Tử vỗ vỗ tôi xem như an ủi, lại tự nói với chính mình: "Kẻ mạo danh cậu gửi đồ cho A Ninh ấy, có thể nào cũng là Tiểu Ca kia không?"

Tôi thở dài, lòng tự nhủ chuyện này ai mà biết được. Nhớ tới cách giải thích của A Ninh đối với cái tên ghi trên bưu phẩm, tôi lại nảy ra nghi vấn trong lòng. Nếu kiện hàng của A Ninh chỉ là dùng tên giả để gửi đi, thì có phải hai cuốn băng từ trên tay tôi cũng là dùng tên giả? Dùng tên của Trương Khởi Linh cũng là để cuộn băng đó có thể đến được tay tôi? Người gửi băng không phải là hắn ta, mà là một người hoàn toàn khác?

Dù sao tôi cũng cảm thấy thật sự hắn ta chẳng có lý do gì để mà gửi đi một thứ thế này cả. Băng ghi hình và hắn cũng chả hợp với nhau tý nào.

Tôi bèn hỏi Bàn Tử: "Phải rồi, đầu óc của Bàn Tử anh không giống như người khác. Anh nghĩ thử giúp tôi một tý, xem chuyện này có thể là thế nào đi. Phải dùng trực giác của anh ấy."

"Trực giác á?" Bàn Tử gãi đầu gãi tai, "Mẹ kiếp cậu không phải là muốn làm khó tôi đấy chứ? Bàn gia gần đây đến cả ảo giác còn không có, còn trực giác cái mẹ gì."

Tôi tự nhủ ờ cũng đúng, muốn Bàn Tử suy nghĩ chuyện này thì quả thật có phần thất sách. Dù sao anh ta và Muộn Du Bình đâu có quá quen thân, sự việc ở Tây Sa anh ta cũng không biết, ít ra là chẳng nắm được nhiều như tôi.

Nói đến Muộn Du Bình, thì liệu tôi có được tính là hiểu thấu người này không nhỉ? Tôi vừa nhấp một ngụm rượu vừa suy nghĩ.

Cảm giác tổng thể mà Muộn Du Bình tạo cho tôi là người này không hề giống một con người, mà tựa như một ký hiệu cực đơn giản. Trong trí óc tôi, ngoại trừ mấy lần hắn ta cứu tôi kia, hình như những lúc khác tôi nhìn đến thì đều thấy hắn đang ngủ. Thậm chí tôi còn không có lấy mảy may đầu mối nào để suy luận về tính cách của hắn ta.

Nếu là người bình thường thì luôn luôn có thể phán đoán được tính nết của họ thông qua giọng điệu nói chuyện hoặc là vài cử chỉ vô thức, nhưng mà hắn ta thì lúc nào cũng nói ít đến mức đáng thương, lại chẳng hề có cử chỉ vô thức nào cả, đích xác là một kẻ chẳng hề làm bất cứ việc gì thừa thãi. Chỉ cần hắn ta có động tác là y như rằng có chuyện gì đó xảy ra. Đây cũng là lý do vì sao rất nhiều lần hễ cứ thấy hắn ta biến sắc là tất cả mọi người đều bắt đầu toát hết cả mồ hôi hột.

Tôi ngẫm nghĩ rồi lại nói với Bàn Tử: "Vậy khỏi cần trực giác, anh nói thử xem, đối với vấn đề này anh có cảm giác gì, có chỗ nào bất ổn không? Một tẹo thôi cũng được, góp sức giúp tôi một tí."

Bàn Tử liền thở dài bảo tôi: "Mẹ nó chứ, cậu đúng là làm mất mặt giai cấp vô sản chúng ta. Cảm giác thì tôi không có, cơ mà chỗ bất ổn thì thực ra là có một cái đấy. Lúc cậu vừa nói ban nãy tôi đã để ý thấy có một chi tiết nhỏ, không biết cậu có từng chú ý hay không?"

"Chi tiết gì vậy?" Tôi hỏi anh ta.

"Chẳng phải cậu đã nói rằng băng hình Tiểu Ca gửi cho cậu kia, có những hai cuốn còn gì? Trong đó một cuốn là cô gái kia chải đầu, cuốn còn lại là băng trắng, chẳng có cái gì cả."

Tôi gật đầu, đúng là như thế thật.

Bàn Tử lại nói: "Cái này mẹ kiếp thật bất thường. Nếu là băng trắng thì hắn gửi cho cậu làm quái gì? Cái này chẳng phải vô lý à? Thế quái nào hắn lại không gửi luôn mỗi cái cuộn thứ nhất là xong ấy, cần phải gom hai cuộn lại làm gì?"

Tôi thở dài. Lúc trước tôi cũng từng suy xét vấn đề này, nhưng mà cả câu chuyện cực kỳ khó tưởng tượng nổi, cho nên những phương diện không hợp lý nhỏ nhặt này tôi chẳng có sức mà cẩn thận nghiền ngẫm. Lúc đó cảm thấy đối phương hẳn phải có dụng ý khác, chỉ có điều tôi cũng không hiểu dụng ý của họ mà thôi.

Bàn Tử nghe xong chỉ lắc đầu, bảo rằng không đúng: "Vấn đề này nếu như theo suy nghĩ của cậu như vậy thì cũng quá là bế tắc. Chúng ta đang sống trong thế giới thực tế, đây không phải là truyện thần tiên, chẳng có nhẽ gì mà lại xảy ra chuyện không đầu không đuôi như vậy được. Tôi thấy chúng ta có lẽ đã hơi phức tạp hóa vấn đề quá mức rồi. Có lẽ đối phương gửi cái băng hình này đi, lại với lý do cực kỳ đơn giản."

Tôi trong đầu có chút suy nghĩ phản đối, nhưng lại không muốn nghĩ nưa, liền cứ để anh ta nói ra nhận xét của mình.

Bàn Tử bảo: "Cũng chẳng phải là nhận xét, tôi chỉ thấy cách suy luận vấn đề của cậu không đúng, hình như là bị người ta xoay cho rối lên rồi. Chúng ta thử nghĩ thẳng vào vấn đề một chút, đối phương gửi hai cuốn băng từ cho cậu, một cuốn có nội dung, một cuốn không có gì. Nói cách khác là có một cuốn hoàn toàn không gửi cũng được, mà đối phương thế nào lại vẫn cứ gửi đi, có đúng không?"

Tôi gật đầu. Bàn Tử nói tiếp: "Thế là chết mẹ rồi đấy. Xét tổng thể thì như vậy là rất bình thường, nhưng vì cái tên người gửi băng từ nên lại làm cho cậu cảm thấy không thể hiểu nổi. Chúng ta chủ quan cho rằng cha đó làm bất cứ chuyện gì có lẽ cũng đều có thâm ý cả. Nhưng mà mẹ nó, nếu không nghĩ như vậy, giả sử cái đứa gửi đồ kia chỉ là người bình thường, cậu cho rằng người bình thường trong tình huống này liệu có thể làm như vậy hay không? Tôi thì nghĩ là kiểu gì cũng không thể. Nếu là tôi gửi băng từ cho cậu, tôi làm quái gì mà phải kèm thêm một cuộn băng trắng rồi mới gửi đi? Thế này chẳng phải quá bệnh sao? Tôi thấy ở đây đảm bảo là có ẩn ý. Cậu nghĩ kỹ xem có phải là hợp lý không."

Tôi khẽ gật đầu. Bàn Tử vĩnh viễn làm cho người ta vui mừng kinh ngạc. Đúng là vấn đề này tôi đã không đào sâu suy nghĩ như vậy. Tôi dựa vào ghế suy ngẫm lời của Bàn Tử, rơi vào trầm tư.

Một người bình thường, ở trong tình huống như thế nào thì sẽ dùng cách này để gửi đồ? Một cuốn băng ghi hình có nội dung rồi lại kèm thêm một cuốn băng ghi hình không có nội dung, gói chung lại như vậy là có dụng ý gì?

Không nên phức tạp hóa vấn đề! Tôi tự dặn chính mình, dùng trực giác suy nghĩ, ngẫm lại xem trước kia lúc mượn băng ghi hình, trong tình huống như thế nào thì bản thân mình sẽ làm như vậy?

Vừa nghĩ thì quả đúng là chợt nhớ đến một việc trước kia. Tôi thầm giật nảy mình, cảm thấy hình như đúng là có một hồi nào đó mình cũng đã từng làm chuyện tương tự.

Bàn Tử đang xơi thịt Đông Pha (thịt ba chỉ kho nhừ kiểu Tô Đông Pha -东坡肉) ở một bên, thấy bộ dạng tôi như vậy bèn hỏi: "Thế nào? Nghĩ ra cái gì rồi hả?"

Tôi ngoẹo đầu bảo anh ta đừng ồn ào, trong lòng nghiền ngẫm chuyện ban nãy mình vừa nghĩ ra. Nghĩ đi nghĩ lại, hồi ức trước kia cũng xuất hiện. Tôi lầm bầm một tiếng, đột nhiên trong chốc lát đã ý thức được chuyện là thế nào. Tôi vùng đứng lên, bảo với Bàn Tử: "Cái đệch, hóa ra đơn giản như vậy! Đừng ăn nữa! Chúng ta về luôn đi!" Nói xong tôi vọt thẳng ra ngoài.

Bàn Tử mới ngoạm hết có nửa đĩa thịt, suýt nữa thì phun ra, gào lên: "Lại không ăn? Buổi trưa cũng không ăn! Mẹ nhà cậu mời khách cái kiểu này đấy à?"

Tôi đang vội quay về để chứng thực suy đoán của mình, bèn quay đầu lại bảo với anh ta: "Thế thì anh ăn xong hẵng qua."

Bàn Tử xoay một vòng tại chỗ cũng chẳng cách nào giữ được tôi, đành phải chạy theo, trước khi đi còn quát lên với bồi bàn: "Bàn đồ ăn này cấm được dọn! Bàn gia trở về còn ăn tiếp. Mẹ nó bố kiểm tra rồi đấy, thiếu cái rễ hành thôi là bố về bố đập nát biển hiệu nhà chúng mày ra!" Nói đoạn liền theo tôi ra cửa.

.

Chương 34. Bí mật thật sự của băng ghi hình
Editor: Cơm Nắm Nướng ChảoBeta: Earl Panda...*****.

Lâu Ngoại Lâu cách cửa hàng của tôi không xa, tôi bèn vội vã chạy bộ trở về. Vương Minh tan tầm vào lúc năm giờ mười lăm phút. Cậu này thuộc  loại tuyệt đối không ở lại thêm nửa phút nên cửa đã khóa từ lâu. Tôi bèn mở khóa chui tọt vào phòng trong. Cuộn băng A Ninh mang đến cô ta đã lấy về rồi, tôi liền lục ra hai cuốn băng khác của mình. Bàn Tử bám sát theo sau, tiến đến giúp tôi cắm điện.

Thế nhưng ý định của tôi không phải lần nữa xem lại cuốn băng, mà lục lọi ngăn kéo lấy ra một chiếc tuốc-nơ-vít.

Bàn Tử thấy vậy thì chẳng hiểu mô tê gì cả, bèn hỏi tôi định làm gì đấy. Tôi trong lòng nhộn nhạo hết cả rồi nên cũng không buồn trả lời anh ta nữa mà bắt đầu tháo tung cuốn băng từ ra.

Nếu như suy đoán của tôi không sai thì vấn đề này thật đơn con mẹ nó giản quá mức, thậm chí chính bản thân tôi cũng đã làm rất nhiều lần.

Hai cuộn băng từ, trong đó một cuốn lại là băng trắng. Như vậy nói lên rằng, nội dung bên trong cuốn băng căn bản không quan trọng. Thứ đối phương muốn gửi cho tôi chính là bản thân cuốn băng ghi hình chứ không phải để chúng tôi xem nội dung bên trong, cho nên bên trong chỉ là băng trắng, hoặc cho dù có hình ảnh thì cũng chẳng liên quan một tý nào. Vậy người đó gửi cuốn băng đến, chỉ có một lý do, một lý do đơn giản đến không thể đơn giản hơn, mà phỏng đoán của tôi cũng có thể kiểm chứng cực kỳ dễ dàng.

Trước kia, hồi còn học trung học, thứ này tôi cũng từng mó máy không ít rồi nên việc mở nó không khó chút nào, chỉ như một cộng một bằng hai. Tôi tách cuốn băng ra, sau đó cẩn thận cầm một bên lên, run rẩy. Bàn Tử đang đứng cạnh xem liền kêu lên một tiếng kinh ngạc.

Mặt trong của cuốn băng ghi hình, ở một bên phần vỏ nhựa plastic quả nhiên có dán một thứ.

"Con bà nó gấu quá đi mất, sao cậu nghĩ ra được thế?" Bàn Tử kinh ngạc hỏi.

Tôi nhếch mép, nhưng cũng không cười nổi, phát cho anh ta một cái: "Là anh nghĩ ra đấy chứ". Kéo vật kia ra xem xét, tôi lại "ui chao" lên một tiếng, chỉ cảm thấy ruột gan quặn hết cả lên.

Đó là một tờ giấy viết thư, mặt trên có mười mấy chữ viết rất ngoáy.

Tỉnh Thanh Hải, thành phố Cách Nhĩ Mộc, đường Côn Luân, ngõ Đức Nhi Tham, số 349-5.

Người biết chữ nhìn một lần là hiểu: đó là một địa chỉ ở thành phố Cách Nhĩ Mộc.

"Choáng chưa." Tôi bất giác học theo lối nói Bắc Kinh, lau lau cái trán đẫm mồ hôi, trong lòng sinh ra một cảm giác hớn hở. Mãi rồi tôi cũng đoán trúng được một chuyện, hóa ra đúng là tại tự mình nghĩ phức tạp quá lên thật.

Trò này đúng là một mũi tên trúng những hai con chim. Thứ nhất là có thể bảo vệ món đồ này không bị phá hỏng trên quãng đường vận chuyển dài. Thứ hai là, nếu thứ này có bị người ta chặn được, thì trong lúc nhất thời đối phương sẽ không nghĩ tới còn có đồ giấu ở bên trong. Đặc biệt là nếu như nội dung cuốn băng ghi hình kia đủ để lôi kéo sự chú ý của kẻ ăn chặn nó.

Trong lòng đã sáng tỏ, tôi có thể khẳng định rằng kẻ ăn chặn cuốn băng mà đối phương phải đề phòng nọ chính là chú Ba. Bởi vì chí có chú Ba mới hoảng hốt khi xem nội dung cuốn băng. Sự thật đúng là như thế. Chú thực sự đã bị nội dung bên trong cuốn băng lôi kéo toàn bộ sự chú ý.

Vấn đề này chỉ cần suy đoán một chút là sẽ thấy rất rõ ràng. Bởi vì nếu người ta gửi bưu điện thẳng tới địa chỉ này, dựa theo tình huống lúc đó thì món đồ này tất nhiên sẽ lọt vào tay chú Ba, giống y như phần bản sao sách lụa Chiến Quốc hồi mới đầu.

Nghĩ thông mấy điểm này rồi, tôi liền cảm thấy nhẹ nhõm thoải mái cực kỳ, lập tức tiếp tục mở tung cuốn băng từ còn lại ra. Bên trong cuốn băng này không phải giấy, mà là một cái chìa khóa bằng đồng thau cũ kỹ, hơn nữa còn là loại khóa 480 thịnh hành từ thập kỷ 80 của thế kỷ trước.

Lấy cái chìa khóa ra, tôi phát hiện thấy chiếc chìa khóa này có phần cũ kỹ lắm rồi, lớp đồng bên ngoài hóa đen hết cả. Phía đuôi chìa khóa có dán một miếng băng dính, bên trên viết một hàng chữ số mờ nhạt: 306.

"Xem ra đối phương muốn mời cậu sang đó." Bàn Tử đứng bên cạnh bèn nói, "Đến cả phòng cũng đặt sẵn cho cậu rồi."

Chương 35. Thiệp mời từ địa ngục
Editor: Cơm Nắm Nướng ChảoBeta: Earl Panda...*****

Tôi nhìn nhìn dòng địa chỉ kia và chiếc chìa khóa mà sững sờ tại chỗ. Bàn Tử nói đúng. Vừa rồi tôi cũng nghĩ đến chuyện này. Xem ra người gửi cuốn băng hình quả thật muốn tôi tìm đến đó. Chiếc chìa khóa này có lẽ là chìa khóa cửa của nơi có địa chỉ ghi ở đây. Kiểu này xem ra dù tôi có đến thì đối phương có khả năng sẽ không ở nhà, người ta là muốn tội tự vào thăm quan hả?

Tôi đột nhiên nảy ra một ý niệm kỳ quái. Không lẽ căn phòng ở kia là nhà của Tiểu Ca? Hắn biết bản thân mình không trở về được, mới nhờ người đem chìa khóa nhà mình gửi cho tôi? Coi như là để lại tài sản cho tôi hả?

Nếu quả thật như thế, vậy tôi cũng nên đến nhà hắn đi, còn có thể hiểu thêm về quá khứ của hắn nữa. Có điều chuyện này nghĩ thế nào cũng quá là không có khả năng...

Ngoài ra, nói vậy thì hai cuốn băng từ của A Ninh kia lẽ nào cũng đính kèm thứ gì bên trong?

Đêm hôm đó tôi trằn trọc khó ngủ, ghé vào mép giường hút thuốc hết điếu này lại đến điếu khác. Thường thì chỉ có những lúc buồn bực tôi mới hút một điếu, nhưng lần này có hút bao nhiêu cũng vô dụng, vẫn thấy khó chịu trong lòng.

Ngồi nhớ lại toàn bộ sự việc, bắt đầu từ lúc tôi mới nhận được cuốn băng hình, đến lúc này khi đã phát hiện được món đồ ở bên trong, thời gian mới chỉ có mấy tháng thôi, nhưng mỗi lần thêm một phát hiện lại làm cho mọi việc trở nên càng thêm mù mờ rối rắm, càng thêm phức tạp hơn.

Thực ra, tuy bí mật của cuốn băng ghi hình đã bị tôi phát hiện, nhưng điều thực sự khiến tôi hoang mang bực dọc vẫn là nội dung ở trong băng. Bất kể đối phương muốn dùng nội dung trong đó để che giấu cái gì, hay chỉ là tiện tay nhặt lên hai cuốn băng, thì nội dung đó chắc chắn vẫn sẽ thu hút toàn bộ sự chú ý của người xem. Mà những nội dung này lại không thể nào làm giả được. Kiểu người như hắn thì không thể nào mà lại quen thuộc với cách ghi hình vào băng được. Vậy thì cuốn băng này hắn lấy được từ đâu?

Băng ghi hình loại đó, tôi có thể khẳng định không chỉ có vài cuốn thế này. Dựa theo dung lượng thời gian của băng thì để ghi hình đủ một ngày phải cần trên dưới tám cuốn. Băng gửi cho tôi một cuốn là băng trắng, một cuốn có nội dung, điều này chứng tỏ đối phương lúc lấy băng ghi hình có rất nhiều lựa chọn. Chuyện đó ít nhất cũng nói lên rằng có khả năng ở nơi đó vẫn còn những cuộn băng ghi hình khác.

Trong băng "Hoắc Linh" và "tôi" tự giám sát hành động của bản thân, tất nhiên phải có mục đích bất đắc dĩ chứ không phải chỉ để đùa cho vui.

Mà đương nhiên thứ khiến tôi để ý nhất vẫn là hai cuốn băng của A Ninh. Tôi vẫn khăng khăng tự xem mình là người ngoài cuộc, một mực tự nhận rằng mình chỉ là kẻ ăn theo nói leo, tự bám theo chú Ba, lần đầu tiên là vì tính hấp tấp của mình, lần thứ hai là vì tình thế bắt buộc, lần thứ ba là vì ù ù cạc cạc nghe theo người ta sắp xếp. Mỗi một lần, chỉ cần nói một tiếng "không" thì sẽ chẳng bao giờ có việc gì dính dáng đến tôi, cho nên sự việc bỗng nhiên đột ngột phát triển đến mức dường như cả tôi cũng bị liên luy vào, tôi thật sự là có chút mất phương hướng.

Có điều lời nhắc nhở của Bàn Tử lúc này khiến tôi như người vừa ngộ đạo. Tôi đã cảm thấy cách suy nghĩ của mình dường như đã quá mức phức tạp rồi. Có lẽ đúng là vì mình có thói quen phức tạp hóa vấn đề lên như vậy nên mới khiến cho sự việc vốn cực kỳ đơn giản trở nên phức tạp. Có lẽ vốn bản thân mọi việc cũng chỉ giống như chuyện này, chẳng rối rắm một tý nào cả.

Tôi nghĩ rất nhiều, lúc này lại nhớ tới lời "Lý Chìm Xuồng" nói với tôi hôm đó, rằng chuyện này có lẽ liên quan đến tôi nhiều dữ lắm. Cứ nghĩ mà xem, chú Ba đã phải vắt óc bày mưu lừa gạt tôi, nếu chú không muốn tôi can dự vào chuyện này, thì tại sao lại muốn cho tôi theo lên núi tuyết? Lời nói của "Lý Chìm Xuồng" thật có lý vô cùng.

(thực ra là Lý Trầm Chu nhưng beta thích vui thú nhân sinh nên làm trò con bò một tí ( ̄▿ ̄))

Tôi lại hồi tưởng về quá khứ của mình. Trong ký ức của tôi quả thật là không có bất cứ một tẹo chi tiết nào có khả năng khiến bản thân tôi dây dưa dính dáng gì vào cái vụ này hết. Hồi còn bé, cha tôi là một người bình thường mờ nhạt, hễ có việc gì cũng đều gánh vác vì gia đình. Ông nội tôi làm mưa làm gió một phương, giữ vai trò trụ cột trong nhà. Chú Hai thì đạo mạo kiệm lời, chú Ba thì chơi bời lêu lổng, hư đốn cứng đầu khó dạy bảo. Hết thảy tập hợp lại trở thành ký ức tuổi thơ của tôi. Bọn họ tuy tính tình khác nhau nhưng đều đối xử với tôi rất tốt . Ngay cả chú Hai cũng chỉ khi nhìn thấy tôi mới nở nụ cười với thằng cháu ruột này.

Có thể nói tuổi thơ của tôi tuy không phải hạnh phúc ngập tràn, nhưng có lẽ cũng giống như thời thơ ấu của những người cùng tuổi, chẳng hề có chỗ nào đặc biệt.

Rồi lại đến mấy năm gọi là đại học này, lại càng bình thường đến cực điểm, ký ức cũng càng thêm rõ ràng hơn. Thật sự là tôi chưa từng trải qua chuyện ăn mặc y như người chết rồi bò qua bò lại trong một căn phòng tăm tối bao giờ.

Tôi mất ngủ cả một buổi tối, cứ chong chong nhìn lên trần nhà cho đến tận hừng đông mà nghĩ quàng nghĩ xiên, càng nghĩ lại càng buồn bực. Toàn bộ mọi chuyện cứ như một tấm lưới bủa vây giăng kín chụp lấy tôi, bất kể tôi chạy đến chỗ nào cũng đều chỉ có thể nhìn thấy vô số lỗ hổng mà lại không sao chạy thoát vì những mắt lưới vướng víu cản đường.

Cục diện thành ra thế này cũng là do tính cách của tôi quyết định. Cái loại tính cách tuy do dự nhưng vẫn không chịu từ bỏ của tôi đã khiến sự việc càng phát triển thì càng phức tạp. Có lẽ khi suy luận vấn đề tôi đừng nên bị động như thế, có những lúc không cần cứ phải chờ người khác cung cấp manh mối cho anh thì anh mới chịu suy xét vấn đề. Làm như thế, manh mối người ta đưa cho anh một là không biết được thật hay giả, hai là sẽ luôn gây ra nhiều nhiễu loạn không đúng lúc.

Nghĩ tới đây, tôi đột nhiên cau mày nhớ tới lời khuyên mà đám bạn đưa ra với tôi vào lúc sắp chia tay. Cậu ta bảo: "Nguyên nhân khiến sự việc trở nên rắc rối phức tạp như vậy cũng là vì cậu cứ cố chấp muốn lấy được đáp án từ chỗ chú Ba cậu. Cậu nên nghĩ rằng, nếu chú Ba cậu đã lừa gạt cậu rồi thì tức là chắc chắn ông ta không muốn để cậu biết bất cứ chuyện gì, như vậy chú Ba cậu sẽ không có khả năng nói thật với cậu nữa. Dối trá lại kéo theo dối trá, cậu càng hỏi thì chỉ càng khiến bản thân cảm thấy bất cứ điều gì trên đời cũng chẳng còn đáng tin, thông tin sẽ càng lúc càng loạn xạ xà ngầu. Nếu cậu muốn tìm ra chân tướng sự việc, chi bằng tự mình tìm đáp án đi. Ví dụ như đội thám hiểm cậu nói đó có mười người hay mười một người, cậu cứ tra trong tài liệu có liên quan vào năm đó ấy. Tóm lại, muốn phân biệt được lời chú Ba cậu nói  là thật hay giả, có nhiều cách lắm."

Giờ này ngẫm lại, quả thực cậu ta nói không sai.

Được rồi! Tôi tự nhủ với chính mình, mẹ kiếp, nếu vấn đề này đã liên quan đến chính tôi, thì tôi đây thực sự cũng cóc thèm tin ai nữa. Lần này tôi sẽ không nói với bất cứ ai, tự mình đi Cách Nhĩ Mộc điều tra xem đây rốt  cuộc là có chuyện gì xảy ra."

Chương 36. Tòa nhà ma
Editor: Cơm Nắm Nướng ChảoBeta: Earl Panda...*****

Không làm thì thôi chứ đã làm thì đừng lề mề. Ngày hôm sau tôi liền lên kế hoạch đi luôn Cách Nhĩ Mộc.

Vì vùng đó tôi chưa từng đến bao giờ, nên tôi tìm người bạn làm ở công ty du lịch hỏi thăm xem tuyến đường đi lại như thế nào. Người bạn này bảo với tôi rằng, vì không có tuyến bay thẳng đến Cách Nhĩ Mộc nên tôi chỉ có thể xuống sân bay Song Lưu ở Thành Đô trước, sau đó tiếp tục đổi máy bay. Vé máy bay thì cứ để cậu ấy lo, thậm chí đặt phòng khách sạn tại địa phương cũng OK hết. Tôi liền để cậu này giúp tôi xử lý. Vì nơi đó cũng không phải nói đi là đi ngay được nên tôi đặt vé chuyến bay hai ngày sau.

Lần này không phải đi đổ đấu mà chỉ là lượn vài vòng trong thành phố Cách Nhĩ Mộc, hơn nữa cũng không ở lại lâu lắm nên tôi chỉ mang theo vài bộ đồ lót và một ít tiền mặt, gom hết lại nhồi vào một cái ba lô mà vẫn còn thừa chỗ.

Cùng ngày hôm đó Bàn Tử về Bắc Kinh, tôi cũng không đả động gì đến chuyện này với anh ta. Nếu đã quyết định sẽ không nói với ai rồi, vậy Bàn Tử cũng không phải là ngoại lệ.

Trong thời gian hai ngày này, tôi dặn dò Vương Minh, bảo cậu ta quản lý chuyện cửa hàng, rồi mập mờ thông báo với gia đình một chút, lại sắp xếp một vài mối quan hệ. Hai ngày sau tôi lên máy bay.

Suốt đường đi tôi ngủ thẳng một mạch, đến sân bay Song Lưu ở Thành Đô[] thì ngủ đã đời con mắt rồi, trong mấy giờ bay đi Cách Nhĩ Mộc tôi bèn suy nghĩ về vụ việc ngay trên máy bay luôn. Hơn tám giờ tối hôm đó tôi mới đặt chân đến thành phố Cách Nhĩ Mộc, vốn được mệnh danh là "Cao nguyên khách sạn".

Nơi đây là một thành phố huyền thoại. Trong tiếng Tạng cái tên Cách Nhĩ Mộc có nghĩa là "nơi sông ngòi giăng kín". Tuy rằng trên suốt đường bay chỉ thấy toàn sa mạc, nhưng cũng có thể tưởng tượng được hình dạng của thành phố vào thời điểm cái tên đó ra đời. Trên máy bay tôi xem mấy tài liệu, thấy nói rằng thành phố này do "cha đẻ của con đường Thanh Tạng"[] là tướng quân Mộ Sinh Trung, năm đó đã đưa khu lều bạt của những công binh tu sửa con đường Thanh Tạng vào lập đồn đóng ở đây, sau đó liền trở thành một thành phố. Thành phố mới có hơn 50 năm lịch sử, trước kia vô cùng phồn thịnh nhưng sau này địa vị dần dần bị thay thế bởi Lhasa, vì cả thành phố nằm ở vị trí tương đối không thuận tiện.

Sau khi máy bay hạ cánh, kẻ vô cùng mất mặt là tôi liền gặp phản ứng cao nguyên[3], ngất xỉu luôn ngay tại chỗ cửa ra của phi trường trong khoảng hai ba giây. Cái cảm giác này không giống như hồi tôi hôn mê vì kiệt sức ở Tần Lĩnh, mà là một loại cảm giác giống như cả thế giới chạy vụt ra xa khỏi mình, nhoáng cái mọi cảnh vật đều tối sầm lại, sau đó thì tôi gục xuống hôn đất. Cũng may hai ba giây sau tôi lập tức tỉnh lại, thấy mình lúc này đang nằm thẳng cẳng trên mặt đất rồi. Điều càng mất mặt hơn nữa là lúc tôi đi mua thuốc mới biết hóa ra mình đang ở trên cao nguyên Thanh Tạng. Tôi chưa thuộc địa lý Trung Hoa, thế mà lại không biết Cách Nhĩ Mộc nằm ở cao nguyên Thanh Tạng! Báo hại người bán thuốc còn tưởng rằng tôi lên nhầm máy bay.

Sau khi vào một quán trà Tây Tạng mua một chén trà bơ 5 xu uống ực hết với thuốc, tôi bèn đến nhà nghỉ mà cậu bạn đã sắp xếp, bố trí ổn thỏa chỗ ở. Sau đó, bất chấp cái đầu đau như búa bổ, tôi vẫn tiếp tục hành trình không ngừng nghỉ, lên thẳng một chiếc taxi, lấy tờ địa chỉ kia ra bảo tài xế đưa tôi đến đó.

Nhưng bác tài xem địa chỉ xong lập tức lắc đầu nói rằng chỗ ấy là một cái ngõ rất chật, xe hơi không lái vào được đâu. Khu vực đó toàn là nhà ở cũ kỹ, đường xá chật chội lắm. Anh ta có thể đưa tôi đến địa điểm gần đó, cách một con đường, còn sâu hơn nữa ở bên trong thì tôi phải tự mình vào mà hỏi.

Tôi nghe xong cũng đồng ý, bảo anh ta cứ lái đi. Không lâu sau tôi đã tới khu nhà cũ của thành phố.

Bác tài bảo cho tôi hay rằng Cách Nhĩ Mộc là thành phố mới được xây dựng, đường xá bình thường đều rộng rãi. Năm đó khu nhà cũ cũng được mở rộng vô số lần, nhưng khắp nơi đâu đâu cũng có những khu nhà nhỏ nhỏ như vậy, lại do vị trí bất tiện nên vẫn cứ để lại y nguyên.  Những ngôi nhà trệt này phần lớn đều được xây vào những năm 60, 70 của thế kỷ trước, bên trong toàn bị cơi nới trái phép. Địa chỉ tôi tìm cũng nằm ở một con hẻm nhỏ trong số đó.

Lúc tôi xuống xe đã là những phút cuối cùng của hoàng hôn. Bóng tối sầm sì ụp xuống, lấm tấm những vệt nắng chiều dần tàn. Tôi ngẩng đầu nhìn lên, trong chỗ khuất sáng chỉ thấy một dãy dài những chiếc bóng đen sì của những ngôi nhà lợp ngói. Chỗ này toàn là nhà tập thể kiểu quân đội[4] xây từ nhưng năm 60, 70 của thế kỷ trước. Giờ này nhìn sang, khu nhà cũ hiện lên có vẻ đặc biệt huyền bí.

Bước vào nhìn thử bốn phía tôi mới phát hiện ra chỗ này kỳ thực cũng không thể gọi là "khu" nữa, mà chẳng qua là vài đoạn phố cũ còn sót lại sau khi mở rộng đô thị. Những kiến trúc này một là không có giá trị văn hóa, hai là không được kiểm tra sửa chữa định kỳ nên trông có phần chông chênh sắp đổ, chắc cũng chẳng trụ lại trong cõi người được bao lâu nữa. Mà trong khu phố cũ này cũng chẳng có bao nhiêu người sinh sống, chỉ thấy lèo tèo vài tiệm cắt tóc nhồi nhét giữa những tòa nhà. Mớ dây điện đen sì sì vắt ngang qua các căn nhà cũ kỹ xen lẫn với ánh đèn màu của tiệm cắt tóc, tạo ra một cảm giác khá là quái gở.

Tôi tạt ngang tạt dọc trong đó ước chừng hai giờ đồng hồ, đi tới đi lui làm cho cô em(*)trong tiệm cắt tóc còn tưởng tôi muốn ăn vụng mà chẳng có gan, còn mở cửa nhìn tôi cười cười. Nhưng quả thật đúng như bác tài taxi đã nói, đường xá nơi đây quá hỗn loạn, rất nhiều gõ nhỏ là do cơi nới trái phép mà ra, đến cả cái bảng tên đường còn không có thì hỏi thăm người ta cũng chẳng ăn thua. Mấy người cán bộ công nhân viên từ bên ngoài vào cũng đều lắc đầu cười thông cảm, đại loại tỏ ý bọn họ cũng chẳng biết chỗ đó ở đâu.
(*Nguyên văn là "tiểu thư", ý chỉ gái bao. Quán này là dạng quán gội đầu "thanh nữ" =")))))

Có địa chỉ hẳn hoi mà vẫn không tìm được, đây là lần đầu tiên tôi gặp phải loại chuyện này. Tôi vừa đi vừa cười khổ, cảm thấy sự đời thật là phong phú quá. Đúng vào lúc tôi đã vòng đi vòng lại đến váng cả đầu thì từ phía sau một chiếc xe lôi(**) mui vàng trờ tới. Anh xe lôi hỏi tôi có muốn lên xe không? Tôi cuốc bộ cũng mệt lắm rồi, bèn yên vị trên xe cho anh ta chở đi lòng vòng.
(** loại xe giống xích-lô nhưng chỗ khách ngồi ở đằng sau người lái. Loại xe này trước kia khá thịnh hành ở Sài Gòn, nhưng giờ chắc cũng tuyệt chủng rồi, mấy lần mình vào không thấy nữa ;;___;; )

Anh xe lôi người dân tộc Hán, đoán chừng hồi trước cũng từ miền Nam lên, thấy tôi nói giọng Nam thì hay chuyện hơn hẳn. Anh ta nói với tôi mình là người Tô Bắc (phía bắc Tô Châu), họ Dương nên người ta gọi là Nhị Dương. Anh ta đạp xe lôi ở đây đã mười hai năm rồi, hỏi tôi muốn đến chỗ nào chơi, thích giá cao hay giá thấp, kiểu Hán hay kiểu Tạng. Mấy cô em bé nhỏ người Duy Ngô Nhĩ anh ta đều biết cả, đi trọn gói còn làm quả giảm giá 20%. Nếu cái đó không hợp khẩu vị, thì du lịch anh ta cũng chơi tuốt. Cách  Nhĩ Mộc không có danh lam thắng cảnh di tích gì, nhưng xung quanh sa mạc Gobi có cảnh đẹp nào nổi tiếng anh ta đều biết hết.

Tôi cười thầm, tự nhủ rằng nếu cha anh đặt cho anh cái tên ba chữ thì anh có thể đổi tên thành Hằng Nguyên Tường rồi đấy. Có điều nghe anh ta nói đến đây, tôi trong lòng giật nảy, thầm nghĩ mấy anh xe lôi này bươn chải ở đây nhiều năm rồi, phố lớn ngõ nhỏ phần lớn đều đã thuộc nằm lòng, sao tôi không hỏi thêm vài câu, biết đâu lại moi được ra chút gì từ miệng anh ta ấy chứ.
(Hằng Nguyên Tường là một thương hiệu kinh doanh đủ mọi thứ trên đời, ai mua gì cũng bán, ai bán gì cũng mua. Đống chỉ DMC nhà bạn quá nửa khả năng cũng xuất phát từ Hằng Nguyên Tường ;;____;; )

Vì vậy tôi liền đưa địa chỉ cho anh ta xem, hỏi anh ta có biết cái chỗ này hay không.

Vốn cũng chẳng ôm bao nhiêu hy vọng, nhưng tôi vừa hỏi xong thì "Hằng Nguyên Tường" liền gật đầu nói là biết. Nói xong anh ta liền nhấn bàn đạp, chỉ trong chốc lát đã đạp đến một con ngõ nhỏ vô cùng hẻo lánh.

Hai bên đường là nhà cửa cũ kỹ, dưới ánh đèn đường vàng vọt gần như chẳng có người qua lại. Lúc anh ta dừng hẳn xe thật thì tôi sợ phát khiếp, cứ tưởng mình bị bắt cóc rồi. Anh ta thấy bộ dạng tôi như vậy cũng cứ cười mãi, bảo với tôi rằng đã đến chỗ tôi muốn tìm rồi.

Tôi ngẩng đầu nhìn lên thì thấy đó là một tòa nhà ba tầng và một sân. Dưới ánh đèn đường, tòa nhà nhìn vào tối om om, chỉ có thể thấy tường bao bên ngoài, bên trong tựa hồ chẳng có lấy một ai. Cả căn nhà toát ra quỷ khí âm u.

Tôi ớ ra, hỏi anh phu xe xem đây rốt cuộc là chỗ nào. Anh ta nói: chỗ này hồi năm 60 của thế kỷ trước là trại an dưỡng của giải phóng quân, đã bỏ hoang từ rất lâu rồi.

.

.

—–

Chú thích.

Btw, Cách Nhĩ Mộc tên tiếng Anh là Golmud, nếu ai có nhu cầu tìm hiểu thêm về những hình ảnh của nó :">~

[1] Sân bay Song Lưu là một cảng hàng không quốc tế lớn nằm ở phía bắc Thành Đô, Tứ Xuyên.

[2] Con đường Thanh Tạng là con đường cắt qua toàn bộ cao nguyên Thanh Tạng, là một phần của quốc lộ 109, khởi đầu từ Tây Ninh ở phía đông tỉnh Thanh Hải, kéo dài đến thủ phủ của Tây Tạng là Lhasa. Con đường này chủ yếu do công binh xây dựng, do tướng Mộ Sinh Trung phụ trách, thông xe vào tháng 12 năm 1954.

[3] Phản ứng cao nguyên là phản ứng xảy ra khi cơ thể chưa kịp thích nghi với lượng oxy thiếu hụt trong môi trường không khí loãng của cao nguyên, triệu chứng gồm: đau đầu, thở dốc, huyết áp tăng, chóng mặt, chảy máu cam.

[4] Là một loại nhà tập thể đặc trưng giành cho quân nhân Trung Quốc vào thời kì đó, gồm một tòa nhà xây vuông vức đơn giản, có khoảng vài ba tầng, mỗi tầng gồm độ hơn chục phòng, nhà tắm và nhà xí dùng chung cho toàn khu.

Chương 37. Phòng 306
Editor: Cơm Nắm Nướng ChảoBeta: Earl Panda...*****

Tôi xuống xe trả tiền, đứng ngoài cổng đối diện với tấm biển số nhà đã mờ tịt, phát hiện ra địa chỉ trên tờ giấy chính xác là ở đây, trong lòng có phần sợ hãi. Tôi tự nhủ, đây chẳng phải là cái loại nhà ma không người ở mà hồi bé chúng tôi thường đến thám hiểm sao, thế quái nào mà lại có người muốn tôi đến cái nơi như thế này cơ chứ? Bên trong còn có người ở nữa à?

Anh xe lôi vẫn còn đang đếm chỗ tiền lẻ tôi trả. Tôi bèn quay đầu lại hỏi anh ta, người sống trong này là ai thế?

Anh xe lôi chỉ lắc đầu, bảo rằng anh ta cũng không rõ lắm. Anh ta chỉ biết đây là trại an dưỡng được xây dựng từ những năm 60 của thế kỷ trước. Cách Nhĩ Mộc là thành phố nhà binh, rất đông sĩ quan quân đội, rất nhiều quan chức lãnh đạo thường xuyên đến đây thị sát. Trại an dưỡng này là dành cho các vị lãnh đạo thời ấy đến ở. Vào giữa những năm 80 thì trại an dưỡng này bị hủy bỏ, đem sửa đi làm thành nhà hát kịch, cho nên anh ta cũng đã từng đến đây rồi. Thời bấy giờ ở Hà Đông Hà Tây cũng có mấy nơi giống thế, tôi còn khá may mắn mới gặp được anh ta đấy, chứ nếu chẳng may vớ phải mấy tay xe lôi từ miền Bắc tới thì đảm bảo chẳng tìm thấy chỗ này đâu.

Tôi nghe xong nửa tin nửa ngờ. Anh xe lôi đi rồi, cả con đường chỉ còn mỗi mình tôi. Tôi ngó nghiêng trái phải hai bên, thấy tối mò như hũ nút, chỉ có trước cửa tòa nhà này mới có một ngọn đèn đường tù mù thì cảm thấy có hơi hoảng. Nhưng mà nghĩ lại thì bản thân mình đến cả cổ mộ còn từng mò xuống lúc quá nửa đêm, chỗ này có mỗi cái tòa nhà cũ thì sợ sệt nỗi gì, bèn lập tức đẩy cửa nhà mà vào.

Bên ngoài tòa nhà có tường bao, cửa vào là cửa vòm, cánh cửa là một phiến gỗ lim,  không có vòng gõ cửa. Đẩy thử vài cái thì phát hiện sau cửa có khóa sắt, không mở ra được. Có điều chút trở ngại đó không làm khó được tôi đâu. Tôi nhìn quanh quẩn một vòng rồi tới chỗ cột đèn, leo vài phát lên trên rồi phi qua bờ tường vây. Đây là bản lĩnh phá phách ngày bé tôi luyện được, xem ra còn chưa đến nỗi lụt nghề.

Khoảng sân bên trong toàn là cỏ dại, nhảy xuống rồi mới thấy nó được lát gạch xanh, nhưng bị cỏ dại mọc um tùm xen giữa các kẽ hở. Trong sân còn có một cái cây to đã chết queo, đổ rạp vào một bên tường nhà.

Bước đến trước tòa nhà nhỏ, tôi mở bật lửa ra soi sáng mới thấy rõ được cái sự hoang tàn của nó. Song cửa được trạm trổ hoa văn, có điều cũng đã rã rời, khắp nơi mạng nhện chăng kín dọc ngang, cửa ra vào dùng khóa sắt móc chặt, dán giấy niêm phong.

Tôi giật một cánh cửa sổ xuống, cẩn thận hết sức mà bò vào. Bên trong cũng được lát gạch xanh, bụi bặm đóng cả một tầng dày. Đằng sau cánh cửa là một đại sảnh gần như trống trơn chẳng có đồ đạc gì cả. Tôi giơ cao cái bật lửa, cẩn thận soi một vòng thì chợt thấy có chút quen quen, vừa nhớ lại mồ hôi lạnh liền túa ra.

Đại sảnh này chính là chỗ ở trong băng ghi hình của A Ninh, nơi mà "tôi" bò lết trên sàn nhà.

Đến đúng chỗ rồi đấy, tôi tự bảo với chính mình. Tôi đứng vào góc độ của máy quay phim ở trong băng ghi hình nhìn thử, những viên gạch xanh kia, những cánh cửa khắc hoa này, góc độ giống y như đúc. Tôi càng lúc càng khẳng định được suy đoán của mình, trong lòng sinh ra một loại cảm giác vừa hoảng sợ vừa hưng phấn.

Đi tiếp vào trong thì thấy ngay bên trái của đại sảnh có một chiếc cầu thang xoắn ốc bằng gỗ, là loại rất đơn giản, nhưng tốt xấu gì cũng là cầu thang xoắn ốc, thông lên lầu hai. Tôi rón ra rón rén lại gần, ngước nhìn lên trên lầu thì thấy phía trên cầu thang cũng là một màn đen bao phủ, không có chút ánh sáng nào.

Tôi móc chiếc chìa khóa ra từ trong túi. Phòng 306, vậy thì hẳn là ở lầu ba.

Chỗ này ít nhiều gì cũng có chút khác thường. Tôi cúi đầu chiếu sáng mấy bậc cầu thang, phát hiện thấy trên bậc cầu thang bụi bám dày đặc, thế nhưng trong đám bụi vẫn có thể thấy một ít dấu chân, rõ ràng là ở đây vẫn có người đi lại.

Tôi nhẹ nhàng đặt chân bước lên bậc cầu thang, làm phát ra âm thanh kẽo kẹt, nhưng hẳn là nó vẫn có thể chịu được sức nặng của tôi. Tôi cắn răng cẩn thận từng chút một đi lên phía trên.

Trên lầu tối đen như hũ nút, còn thêm cái thứ tiếng kèn kẹt của gỗ cọ vào nhau, khiến cho tôi thấy hơi hoang mang hoảng hốt. Nhưng chỗ này dù sao cũng không bằng cổ mộ, thần kinh tôi vẫn còn cầm cự được.

Cứ đi thẳng lên trên, đến tầng hai tôi liền phát hiện ra hành lang dẫn vào đó đã bị người ta dùng xi-măng trát kín. Không hề có cửa, bị bịt kín hết toàn bộ rồi. Dựa vào không gian dưới lầu thì có thể thấy phía sau tường xi măng có lẽ còn có rất nhiều phòng. Hình như là để cách ly mới dựng lên nên thợ đổ xi măng làm rất ẩu.

Tôi sờ lên vách tường, cảm thấy có điểm kỳ quái. Chẳng lẽ kết cấu của tòa nhà này gặp vấn đề nên mới phải gia cố chỗ này lại sao?

Có điều có thấy kỳ quái cũng chẳng làm được gì. Lúc này tôi cũng không thừa hơi mà nghĩ những vấn đề này nữa, bèn tiếp tục lên đến tầng ba. Thứ tôi nhìn thấy chính là một dãy hành lang đen kịt. Hai bên hành lang đều là phòng ở, nhưng dưới tất cả những khe cửa đều không lộ ra chút ánh sáng nào, hẳn là không có người, mà trong không khí nồng nặc một thứ mùi cực kỳ khó ngửi do nấm mốc tỏa ra.

Tôi tập trung tinh thần bình tĩnh lại, cẩn thận từng bước tiến vào hành lang. Lách qua từng đám mạng nhện, tôi thấy trên những cánh cửa phòng kia có gắn các tấm biển sơn số phòng đã bị bụi bặm phủ kín. Tôi bèn đọc một loạt, có chút cảm giác mình cứ như nhân vật chính trong mấy bộ phim kinh dị Âu Mỹ. Không lâu sau, tôi đã đến trước cửa căn phòng thứ hai đếm từ phía trong ra. Tôi giơ chiếc bật lửa đã nóng rẫy, chiếu lên cánh cửa, liền thấy trên bậu cửa có một cái biển số cực kỳ mờ nhạt: 306.

Trong một tích tắc kia tôi bắt đầu muốn gõ cửa, nghĩ lại thì thấy thật nực cười, vì vậy tôi do dự trước cánh cửa một chút rồi móc chiếc chìa khóa ra. Tôi cắm chìa vào lỗ khóa trên cửa xoay liền một vòng. "Loạch xoạch" một cái, theo tiếng bản lề ma sát chói tai, cánh cửa bị tôi nhẹ nhàng đẩy mở vào trong.

Gian phòng này không lớn, bên trong tối mò mò, bước vào liền thấy mùi nấm mốc trong phòng cực nặng. Đầu tiên tôi mở hé cửa nhìn vào thăm dò, thấy phía bên kia phòng có lẽ là có cửa sổ nữa, vì ánh đèn đường bên ngoài chiếu tận vào bên trong, phác ra những đường nét đại khái của căn phòng, Trong phòng, phía sát tường hình như bày biện rất nhiều đồ gia dụng, đèn đường từ bên ngoài hắt ánh sáng vào tạo ra những cái bóng mờ mờ nên không phân biệt được rõ ràng. Chỉ có điều vừa nhìn là biết không có người ở.

Tôi hít một hơi thật sâu, cẩn thận dò dẫm bước vào, giơ cao cái bật lửa nóng rẫy. Dưới ánh lửa yếu ớt, mọi vật ở khắp bốn phía đều rõ ràng hẳn lên.

Đây là một phòng ngủ đơn. Tôi nhìn thấy một chiếc giường nhỏ kê trong góc, mùi mốc meo là từ chiếc giường này tỏa ra. Lại gần xem, tôi phát hiện chăn chiếu trên giường đã rữa nát đen sì hết cả rồi, bốc mùi cực kỳ khó ngửi. Chăn mền phồng lên, mới thoáng nhìn còn tưởng bên trong còn bọc một người chết. Có điều nhìn kỹ lại thì thấy chỉ là hình dạng của chăn thôi.

Bên cạnh giường có một cái bàn viết, là loại cũ rích như chiếc bàn học hồi tôi còn mài đũng quần ở trường cấp một ấy. Trên mặt bàn là một ít đồ bỏ đi, vải thô, mấy tờ giấy loại và một ít mảng vôi trắng từ trần nhà rơi xuống, mọi thứ đều đóng bụi cả tảng.

Cạnh bàn làm việc là một cái tủ to tướng, rộng phải đến ba bốn mét, còn cao hơn cả tôi. Ván gỗ bên trên có lẽ vì ẩm nên nở ra, cánh cửa tủ bị cong vênh hết cả rồi. Ngẩng đầu nhìn lên trên thì có thể thấy ở trên cái tủ, chỗ tiếp giáp với trần phòng, có một đống lớn những đốm than đá và nước đọng, hiển nhiên là vào ngày mưa thì chỗ đó sẽ bị rỉ nước.

Xem ra nơi này hoang phế đã lâu rồi. Rách nát đến mức này thì chắc cũng phải ngoài năm năm. Có điều căn phòng tuy cũ kỹ nhưng cũng chỉ cũ một cách bình thường. Người gửi băng ghi hình câu kéo tôi đến đây làm gì không biết nữa? Người ta nghĩ tôi sẽ tìm được thông tin gì trong cái phòng này cơ chứ?

Lúc này tâm trạng bồn chồn bất an cũng dần dần bình ổn trở lại cùng khả năng thích nghi với hoàn cảnh của tôi. Tôi thả cái bật lửa xuống mặt bàn, trước hết bắt đầu tìm ngăn kéo của cái bàn viết kia, mở từng ngăn từng ngăn ra một. Có điều bên trong cơ bản đều rỗng không, có mỗi hai ngăn lót báo cũ bên trong, đều mốc meo hết cả, tôi cũng chẳng dám đụng vào.

Không phải trong ngăn kéo thì chẳng lẽ trên giường? Tôi đến cạnh giường, trước hết xem dưới gậm, thấy toàn là mạng nhện chứ chả có cái gì. Sau đó tôi đến đằng kia lôi ra một cái ngăn kéo, dùng làm dụng cụ để khều đống chăn màn dính bết thành cục xuống. Thế nhưng khều khều vài cái thì từ đống chăn tứa ra nước đen nhớp nháp. Bên trong thì ra lại còn có côn trùng, mùi nấm mốc xông lên nồng nặc. Tôi mắc ói đến suýt nữa thì nôn.

Thật không dễ dàng mới tời được hết đống chăn màn này xuống đất mà lại chẳng phát hiện được cái gì. Thật ra vừa khếu mấy cái tôi cũng ý thức được bên trong chả có gì đâu. Ai lại đem đồ vật nào giấu ở cái chỗ buồn nôn thế chứ.

Cả hai chỗ này đều không có, vậy thì chỉ còn lại cái tủ tường to bự, mỗi tội cái tủ này lại có khóa. Tuy cánh cửa tủ đã vênh lên rồi, nhưng mà muốn mở cái tủ này tôi vẫn cần bỏ ra chút sức lực, hơn nữa không có dụng cụ cũng chẳng được.

Tôi lại không mang theo thứ gì trong tay, đành phải tìm kiếm ngay tại hiện trường, rốt cuộc cũng tìm được một thứ ở trên bệ cửa sổ. Đó là cái then cài cửa sổ kiểu cũ, có thể rút ra được. Tuy nó rỉ ngoét ra rồi nhưng then cài cửa hồi xưa ruột đúc đặc, còn bền lắm. Tôi rút lấy một cái dùng làm đòn bẩy, cắm vào khe cửa cong vếu kia, nạy khe hở ra một khoảng đủ để thò ngón tay vào. Sau đó lấy một chân chống lên một mặt, đưa tay với vào cái khe, dùng sức bẻ ra ngoài. Cánh cửa phát ra tiếng cọ sát đáng sợ, bị tôi kéo đến cong véo cả lên, tiếp theo phát ra những tiếng gãy rạn rầm rĩ, cả tấm gỗ cứ như vậy mà gãy đôi ra. Bụi bặm tích trên cửa bay tung tóe, mù mịt đến nỗi tôi không mở nổi mắt.

Vì trong tòa nhà khá yên tĩnh nên những tiếng động tôi gây ra nghe đặc biệt kinh người. Trong khoảnh khắc cánh cửa gãy lìa ra, âm thanh chói tai đó cũng làm tôi sợ đến nỗi cả người đầm đìa mồ hôi lạnh, một lúc lâu sau mới hoàn hồn. Sau đó tôi cầm lấy bật lửa, chiếu vào bên trong tủ.

Trong tủ tường có cái gì, tôi không có một chút dự đoán nào cả, chỉ thấy khả năng lớn nhất vẫn là chẳng có thứ gì đâu, cho nên cũng không chuẩn bị đầy đủ tinh thần cho lắm. Nhưng mà vừa chiếu vào một cái, tôi liền bị dọa một cú kinh hoàng.

Trong tủ tường đúng là trống trơn chẳng có cái gì, nhưng tấm gỗ lưng tủ dựa vào tường đã không cánh mà bay, để lộ ra bức tường xi măng bị cái tủ che khuất. Mà trên bức tường xi măng kia có một cái cổng tò vò tối hun hút, nối với một đường cầu thang dẫn xuống phía dưới, chẳng biết là thông tới nơi nào.

Chương 38. Manh mối
Editor: Cơm Nắm Nướng ChảoBeta: Earl Panda...*****

Tôi cảm thấy càng lúc càng quái đản. Rõ ràng ở đây có một cái cửa ngầm, có người dùng một cái tủ mất lưng để che nó lại, chỉ cần mở cái tủ này ra là có thể thấy cửa ngầm phía sau rồi. Biện pháp này chưa được tính là cao tay, nhưng hay ở chỗ tiện bố trí, hơn nữa lại dễ ra vào.

Thế nhưng tại sao ở nơi đây lại có cái kiểu kiến trúc như thế này cơ chứ? Vậy xem ra cái trại an dưỡng này không đơn giản rồi. Chỗ này trước kia rốt cuộc được dùng để làm gì? Không biết dưới chân cầu thang xi măng kia là một nơi như thế nào đây?

Tôi nhìn chiếc chìa khóa trong tay. Rõ ràng đối phương đã gửi chìa khóa gian phòng này cho tôi tức là đã nghĩ đến chuyện tôi sẽ phát hiện lối cửa ngầm này. Như vậy, có lẽ dưới đó có đáp án.

Tôi lau lau mồ hôi lạnh trên đầu, bước vào trong tủ, chui xuống cửa ngầm, lập tức thấy một thứ mùi kỳ quái từ dưới kia xộc tới.

Tôi xoay đầu chờ cho đám mùi nồng nặc nhất đó bay qua, sau đó thích ứng một lát, rồi dùng bật lửa rọi xuống.

Cầu thang sâu không thấy đáy, hơn nữa còn có khúc ngoặt, rõ ràng là khá dài, không biết thông xuống tầng hai hay tầng một.

Nhìn xuống cầu thang, nghĩ đến giờ đã là nửa đêm mà thân tôi thì ở trong một cái nhà ma, lại còn phát hiện ra một cái đường ngầm không biết đã được bố trí từ bao giờ, trong lòng tôi không khỏi có phần hoảng sợ. Nhưng dù sao tôi cũng là thằng từng xuống đấu. Ở những chỗ thế này, tôi biết bên ngoài là đường cái và tiệm cắt tóc, trong lòng tự nhiên sẽ có phần bình tĩnh hơn một tẹo.

Tôi chỉ do dự trong một thoáng là lấy lại được bình tình. Một tay cẩn thận hết sức giơ bật lửa, khom người đi vào trong cái cổng tò vò kia, tôi men theo cầu thang đi xuống phía dưới.

Nếu đã đến nước này rồi thì thứ đối phương chỉ đường cho tôi tìm kiếm dĩ nhiên sẽ ở ngay bên dưới cái cầu thang này. Giờ mà tôi rụt chân lại thì cũng chẳng hay. Đã đi tới tận Cách Nhĩ Mộc, tất nhiên là tôi muốn nhìn xem mục đích của đối phương rốt cuộc là cái gì.

Mới đi được vài bước, tôi đã nhận thấy một thứ cảm giác âm u lạnh lẽo khó tả truyền đến từ bóng tối dưới cầu thang, lạnh lẽo đến mức làm cho người ta chưa rét mà đã run lẩy bẩy. Tôi hà hơi một cái, liền phát hiện thấy sương trắng bay ra từ trong miệng. Như vậy thì nhiệt độ dưới đó xem ra thực sự rất thấp.

Nhìn theo ánh sáng của bật lửa, tôi thấy hai bên cầu thang đều là vách tường xi măng trát thô chưa hoàn thiện. Xi măng là loại xi măng cát vàng, loại dùng trong quân đội vào thập kỷ 60 của thế kỷ trước. Trên đó còn có thể nhìn thấy mờ mờ một ít biểu ngữ quét sơn đỏ, đều đã bay màu đến nỗi chỉ còn đọc ra được mấy nét. Trên trần cầu thang còn có thể thấy dây điện rủ xuống, bị mạng nhện bao kín nên nhìn vào cứ y như một bầy rắn.

So với đám gạch xanh và ngói nhà mồ trong mộ cổ thì những thứ này đã là thân quen lắm rồi. Tôi vừa ám thị bản thân vừa cố hết sức thả lỏng thần kinh. Tuy rằng như thế, tôi vẫn cứ tưởng như dưới chỗ ngoặt của những bậc cầu thang tối tăm này sẽ có thứ gì đó thò mặt ra. Cảm giác sợ đến xương sống mọc gai này thực ra lại chẳng kém tý nào so với khi ở trong cổ mộ.

Rất nhanh, tôi đã xuống hết đoạn cầu thang thứ nhất. Cầu thang ngoặt một cái rồi lại tiếp tục đi xuống. Bước chân tôi phát ra những tiếng vang nghe dựng cả lông tóc. Tôi thử cảm nhận độ cao một lát, thấy chỗ này đã là tầng hai rồi, chính là tầng nhà bị tường xi măng bịt kín kia. Thế nhưng ở đây cũng không có bất kỳ cái cổng tò vò nào, bốn phía vẫn bị bịt kín xi măng, rõ ràng lối ra không phải ở đây.

Xem ra không liên quan đến cái tầng hai kia rồi. Tôi thầm nghĩ rồi hít thật sâu một hơi cái thứ không khí nặng mùi, lại tiếp tục xuống thêm một tầng nữa.

Vẫn là tình trạng như vậy, lối ra không nằm ở tầng một. Cầu thang tiếp tục ngoặt một cái rồi dốc xuống, vẫn tối như bưng không hề nhìn thấy đáy.

Bên dưới là xuống quá mặt đất rồi, tôi thầm nhủ. Lúc này trong lòng tôi xuất hiện một ý nghĩ: lẽ nào cầu thang này thông đến tầng ngầm sao?

Không lẽ nơi này trước kia được dùng để xây công sự ngầm của quân đội?

Tôi vẫn còn nhớ rõ ở Hàng Châu có dinh thự 704 nổi tiếng, cũng được xây dưới danh nghĩa trại an dưỡng, nhưng thật ra kiến trúc bên trong lại đặc kiểu quân sự, thần bí cực kỳ. Nghe nói dưới lòng đất còn có một công trình khổng lồ dùng để đối phó khi ở trong tình huống khẩn cấp.

Có điều nhìn cánh cửa ngầm ở đây thì lại cảm thấy không giống cho lắm. Cửa ngầm này chỉ là một cái cổng tò vò sơ sài. Nếu là lối vào công sự ngầm được thiết lập đặc biệt cho quân đội thì ít nhất cũng phải là cửa sắt chứ.

Tôi vừa đi vừa nghĩ lan man, tiếp tục bước xuống dưới. Chẳng biết là do nhiệt độ hạ thấp hay do cảm giác sinh ra từ mồ hôi lạnh, tôi bỗng nhiên thấy rét vô cùng, hai hàm va vào nhau lập cập đến rớt cao răng. Tôi nghiến răng nghiến lợi xuống tiếp thêm một tầng nữa. Cầu thang đến chỗ này thì dừng lại, lối ra ở ngay trước mặt. Tôi cẩn thận từng tý một mà bước ra ngoài, phát hiện không gian bên ngoài dường như rất rộng.

Tôi giơ bật lửa lên chiếu sáng hai bên lối ra, phát hiện thấy đây là một tầng hầm được gia cố thêm bằng xi măng. Dưới này vô cùng đơn sơ, ẩm sì ẩm sịt, sàn nhà lát gạch xanh, bốn bề thì trống huyếch trống hoác.

Chỗ này chắc chắn không phải công sự ngầm của quân đội rồi, tôi tự xác định trong lòng như vậy. Xem mẫu xi măng này và gạch xanh trên sàn thì thấy cứ y như loại hầm ngầm đại đội sản xuất ở vùng nông thôn xây dựng tạm lên ấy. Tay nghề xây dựng cái nơi này quá sơ sài, không thể là do lính công binh chuyên nghiệp xây được.

Đây là đâu? Không lẽ thật sự chỉ là cái hầm ngầm? Muộn Du Bình mời tôi đến để xem dưa cải hắn muối ăn có ngon hay không ấy hả? (-_-...)

Tôi bị chính ý nghĩ của mình chọc cười, bước tiếp về phía trung tâm của cái hầm này. Đi chưa được vài bước tôi đã láng máng nhìn thấy chính giữa hầm ngầm có một cái bóng khổng lồ nằm ngang trên mặt đất, trông kỳ quặc vô cùng.

Tôi bước về phía cái bóng kia, dùng bật lửa soi thử một cái, người liền cứng đờ lại. Chỉ thấy chính giữa hầm ngầm này đặt một cỗ quan tài cổ khổng lồ đen nhánh.

Chương 39. Kế hoạch
Editor: Cơm Nắm Nướng ChảoBeta: Earl Panda...*****

Ánh sáng bật lửa cực kỳ yếu ớt, chiếu xa được hai ba mét đã là khá lắm rồi. Dưới cái kiểu ánh sáng như thế mà bất thình lình đập vào mắt một cái quan tài, tôi lại càng sợ đến nhảy dựng cả lên.

Sau khi kịp phản ứng, tôi liền cảm thấy vô cùng kỳ quái, thật sự là chưa gặp cái thể loại này bao giờ. Mẹ nó chứ thế đéo nào mà ở đây lại có một cỗ quan tài, hơn nữa lại còn là quan tài cổ?
(xin lỗi không censored, beta muốn tự sướng tên chung cư ( ̄▿ ̄))

Một tòa nhà xây vào những năm sáu mươi bảy mươi của thế kỷ 20, một trại an dưỡng cho các vị lãnh đạo nghỉ ngơi, mà lại có công trình bí mật dưới lòng đất. Nói ra nghe đã thấy khó tin rồi. Bây giờ ở cái chỗ này lại còn xuất hiện một cỗ quan tài nữa, thế thì thật là ly kỳ quá sức tưởng tượng. Kẻ trong quan tài là ai? Chẳng lẽ là sĩ quan quân đội năm đó chết ở đây sao?

Tôi quay ra nhìn sau lưng. Cầu thang lúc đến ngay ở đằng sau, không đến mức tìm không thấy, tôi bèn vững dạ chạy qua xem cỗ quan tài.

Từ xa nhìn lại thì đã biết đây không phải quan tài của người hiện đại. Quan tài màu sắc đen nhánh, được đặt nằm ngang dưới đất ở chính giữa tầng hầm trông thật giống một cái ụ đá hẹp dài khổng lồ. Hình dạng kích cỡ kiểu đó thì đây hẳn là lớp quan quách(*), mà từ thời Dân Quốc trở đi là quan tài đã không còn có quách nữa rồi. Nhìn hình thức cỗ quan tài này thì thấy có lẽ cũng có lịch sử tương đối, ít nhất cũng phải trên sáu trăm năm. Hơn nữa xét kích cỡ thì chỉ sợ nó không phải loại dành cho nhà thường dân, mà ít nhất cũng phải là người có danh vọng mới được dùng.
(*quách nghĩa là một lớp nữa bọc bên ngoài áo quan đặt người chết. Ngày nay quan tài hiện đại không còn quách nữa, nhưng ví dụ sau khi hỏa thiêu bốc xương cốt vào trong một cái tiểu sành chẳng hạn, có gia đình vẫn yêu cầu đặt tiểu sành vào trong 1 quách đá, cho nên mình vẫn thấy ở Văn Điển người ta bán cả quách đá đấy *ngoáy mũi* =..=)

Tôi lại gần sờ thử một cái, thấy mặt trên có hoa văn tinh tế, lạnh buốt thấu xương. Hình như quan tài bằng đá, nhưng không biết là loại đá gì. Vừa sờ vào một cái, lớp bụi đóng thành tầng trên quan tài đã bị tôi vạch vài vết, để lộ một vài mảng hoa văn nho nhỏ.

Tôi cầm bật lửa tới gần cẩn thận xem xét thì thấy trên nắp quan tài có dấu vết từng bị đục đẽo phá hoại. Khe hở giữa nắp và thân quách cũng có dấu vết bị xà beng nạy vào. Hiển nhiên tôi không thể nào là người đầu tiên phát hiện ra bộ quan quách cực lớn này. Có kẻ đã từng muốn nạy nó ra. Tôi từng có kinh nghiệm rồi, cho nên đối với chuyện này tôi đặc biệt mẫn cảm.

Một cỗ quan tài cổ không thể nào lại vô duyên vô cớ xuất hiện trong hầm ngầm của một công trình hiện đại. Nhất định đã phải có người đưa bộ quan quách này vào đây, mà không biết nguyên nhân là gì.

Nhiệt độ trong hầm ngầm vô cùng thấp. Hơi thở gấp gáp của tôi dần dần bình lặng lại, tôi ra sức thả lỏng để hạ bớt nhịp tim đang nhảy bình bịch. Suốt dọc đường xuống đây tôi đã  trải qua một sự căng thẳng cực độ. Mặc dù bản thân đã kiềm chế nỗi sợ, nhưng trong lòng vẫn khá là không thoải mái. Vừa hít thật sâu, tôi vừa bắt đầu suy nghĩ.

Có người đã gửi băng ghi hình, địa chỉ và chìa khóa, kéo tôi vào cái trại an dưỡng cũ nát này, dẫn dắt tôi phát hiện ra cái cửa ngầm kia. Sau khi đi qua cầu thang phía sau cửa ngầm tôi liền phát hiện căn phòng dưới đất, mà trong hầm ngầm còn đặt một cỗ quan tài đá.

Chuyện này đã vượt ra khỏi phạm vi của bất cứ trò đùa quái ác nào. Liệu có phải đối phương muốn báo cho tôi biết, rằng trong trại an dưỡng này đã từng xảy ra một số sự việc nào đó ly kỳ ngoài sức tưởng tượng không?

Xem ra, đằng sau tầng lầu bị bịt kín cùng với tầng ngầm này, và cả cỗ quan tài đá nữa, nhất định phải có cả một câu chuyện tương đối phức tạp.

Tôi đẩy mạnh nắp quan tài đá một cái, dĩ nhiên là không dùng sức quá lớn. Tôi chỉ muốn thử xem có đẩy nó ra được hay không một tý tẹo thôi. Cũng may mà y như phán đoán của tôi, cỗ quan tài đá vẫn trơ trơ bất động, rõ ràng không có dụng cụ thì tôi không thể mở nó ra được.

Tôi thở phào một hơi. Ở dưới chỗ này mà mở nắp áo quan, hơn nữa còn chỉ có một mình, tôi chưa từng có kinh nghiệm nào hết, mở không nổi thì cũng chẳng cần cứng đầu cứng cổ tự ép mình làm chi.

Lại quan sát kỹ một lần các chi tiết trên cỗ quan tài đá, thấy không có gì đáng chú ý, tôi liền bỏ qua bộ quan tài bằng đá này để đi tiếp. Bước thẳng đến phía cuối hầm ngầm, tôi lại thấy một cái cửa sắt nhỏ, rất thấp. Tôi đẩy cửa đi vào, đằng sau là một dãy hành lang.

Tôi chỉ đi vài bước thì liền phát hiện kiến trúc ở đây giống hệt trên lầu: một dãy hành lang, hai bền đều là phòng ở. Chỉ có điều dãy hàng lang này kéo dài một mạch không có điểm cuối, hình như thông đến một chỗ khác nữa, mà phòng hai bên hành lang đều không có cánh cửa, hết sức sơ sài.

Tôi cầm bật lửa đi vào gian phòng thứ nhất, soi thử thì thấy hai cái bàn làm việc dựa vào tường kê ở một bên, xung quanh có mấy cái tủ hồ sơ, trên tường dán đầy mấy thứ linh tinh, dưới mặt đất và trên mặt bàn bừa bộn những giấy tờ.

Chỗ này hình như là một phòng làm việc. Tôi lại càng thấy quái lạ. Vì sao phòng làm việc lại bố trí dưới lòng đất? Làm thế này cũng quá quái đản đi. Trong hầm ngầm dưới đất, một bên là quan tài đá, một bên là phòng làm việc. Lẽ nào hồi đó nơi này là nhà tang lễ của Cách Nhĩ Mộc hả?

Tôi vừa buồn bực vừa đi đến cạnh bàn làm việc, định xem xem trên bàn có manh mối gì không.

Tiến lại nhìn thử, tôi chợt giật mình sửng sốt. Không hiểu sao mà nhìn cách sắp xếp trên chiếc bàn làm việc này, trong lòng tôi lại nảy ra một cảm giác khác thường, dường như tôi đã bắt gặp cái bàn làm việc này ở chỗ nào rồi.

Giơ cao chiếc bật lửa, tôi nhớ lại một lát, rồi thoáng chốc đã phải hít vào đầy một hơi khí lạnh. Tôi lập tức nhận được ra ngay rằng căn phòng này chính là gian phòng mà Hoắc Linh đã quay trong cuốn băng ghi hình nọ!

Cách bày biện trên bàn làm việc, cảm giác về sàn nhà và tường đều giống y như đúc. Tôi đến bên chiếc bàn làm việc, thậm chí còn thấy được tấm gương cô ấy dùng để chải đầu, vẫn còn đặt ở đúng vị trí trong băng ghi hình.

Bỗng chốc tim tôi nhảy dựng lên vì kinh hoàng. Tôi vội vàng hít sâu một hơi, kiềm chế cảm xúc của bản thân, cảm giác quỷ quái trong lòng đã dâng lên đến đỉnh điểm.

Lúc xem băng ghi hình của Hoắc Linh, tôi vẫn chỉ cho rằng cô ấy ở trong một khu dân cư nào đó. Thật không ngờ ấy vậy mà nơi đó lại là trong tầng hầm của một trại an dưỡng thế này, hơn nữa tôi lại còn tìm đến tận đây nữa chứ. Vậy thì rõ ràng những điều này đều có thật. Nội dung được ghi lại trong băng ghi hình là có thật.

Năm đó Hoắc Linh ở ngay tại chỗ này, dùng máy quay phim ghi hình lại chính mình. Cô ta ngồi ở đây không ngừng chải đầu, mà "tôi", rất có thể cũng đã thực sự bò qua đại sảnh ở tầng trên.

Trong tích tắc, trong mắt tôi thậm chí còn xuất hiện ảo ảnh của cô ấy. Tôi và thế giới của cô như chồng chéo lên nhau. Những hình ảnh trong băng ghi hình nhoáng lên một lát ngay trước mắt tôi.

Nhưng đây rốt cuộc là đã xảy ra chuyện gì? Một cô gái trong hầm ngầm bí mật của một trại an dưỡng, cứ chải đầu không ngừng, và một người trông giống hệt tôi thì bò lết như kẻ tàn tật trên hành lang của trại an dưỡng. Những chuyện này đều đã thật sự xảy ra, hơn nữa còn bị ghi hình lại. Rốt cuộc đó là vì mục đích gì? Bên trong cái trại an dưỡng nằm ngoài màn ảnh này, rốt cuộc đã từng xảy ra chuyện gì?

Đầu óc đã hơi đờ đẫn, tôi bắt đầu thấy chóng mặt hoa mắt. Hiển nhiên người gửi băng ghi hình cho tôi đúng là có mục đích lôi kéo tôi đến xem gian phòng này. Thế nhưng sau khi nhìn thấy rồi, ngược lại những ngờ vực trong tôi lại càng tăng thêm, cảm thấy mình dường như đang ghép lại một bức tranh xếp hình toàn chỗ trống, hoàn toàn không biết phải bắt đầu sắp xếp từ đâu.

Lại hít sâu vài hơi một lần nữa, tôi trấn tĩnh một lát, sau đó cầm bật lửa bắt đầu quan sát bốn phía chung quanh. Tôi phải xem xét nơi này một chút, để xem còn có manh mối gì không.

Chương 40. Đạo Mộ Bút Ký
(Sổ tay trộm mộ)
Editor: Cơm Nắm Nướng ChảoBeta: Earl Panda...*****

Đây là hầm ngầm trong một trại an dưỡng bí ẩn. Ngay tại nơi này, một người phụ nữ bí ấn đã làm ra một số hành động ngoài sức tưởng tượng. Như thế thì, một khi cô ta đã từng sống ở đây, vậy kiểu gì cũng sẽ để lại đầu dây mối nhợ nào đó. Nếu có thể tìm ra một tẹo manh mối thôi, thì có lẽ sẽ hiểu rõ chân tướng sự việc hơn một chút. Cho dù có toàn là một mớ tài liệu vô dụng đi chăng nữa thì từ đó tôi vẫn có thể biết được cuộc sống và trạng thái tinh thần của cô ấy vào thời điểm đó thế nào.

Tất cả những chuyện đã xảy ra trong trại an dưỡng này, tôi gần như không biết lấy mảy may.  Vì thế tất cả mọi manh mối đối với tôi đều quan trọng hết.

Tôi bắt đầu lục lọi. Chỉ cần là thứ có thể xem thì kiểu gì tôi cũng phải nhìn một cái.

Trần của tầng hầm này rất thấp. Cơ thể tôi chui trong cái xó này phải chịu cảm giác bị đè nén, thế nhưng vì vậy mà ánh sáng của chiếc bật lửa tương đối phát huy tác dụng, có thể chiếu được ra rất xa. Tôi nhìn sơ sơ bốn phía, quyết định bắt đầu điều tra từ chỗ này.

Trong những hình ảnh đen trắng nhòe nhoẹt của băng ghi hình, tôi không thể nào tự do quan sát toàn cảnh căn phòng một cách tỉ mỉ, nhưng giờ thì có thể rồi, mà những thứ được xem lại còn trực quan hơn nữa. Trước hết tôi tưởng tượng ra dáng vẻ chải đầu của Hoắc Linh, khá là khủng khiếp. Tôi vội lắc đầu để phân tán tư tưởng.

Trong tay tôi là một chiếc Zippo (bật lửa xăng) có thể cháy sáng liên tục, nhưng đã bỏng rẫy đến nỗi tôi chỉ cần nhích lên trên miết một cái để bật mà cũng miết hết nổi luôn. Tôi bèn tìmtrên bàn một miếng giẻ rách, bọc nó lại rồi dùng tiếp.

Dưới ánh lửa yếu ớt, trước tiên tôi quan sát vách tường. Gian phòng này vách tường bồn bề đều quét vôi trắng, hiện giờ cũng bị bụi bặm phủ kín. Trên mặt tường bên cạnh cửa ra vào có đóng đinh một thanh gỗ tròn cắm mấy cái móc. Đó là nơi dùng để treo quần áo. Bên dưới thanh gỗ có dán giấy báo,  đề phòng quần áo mắc bên trên cọ phải vôi tường. Đi qua thanh gỗ tròn lại đến một cái tủ mất cánh. Đây là chỗ Hoắc Linh thay y phục, nhưng giờ bên trong đã chẳng còn lại gì. Lúc tôi đến gần để xem thì phát hiện cái tủ cứ như bị thứ gì đó cào phải, toàn những vết khía rất sâu.

Lại nhìn sang tường bên cạnh, chẳng có cái gì cả, chỉ có dây điện chăng bên trên, tất cả đều đã bạc phếch. Một bên còn có một chiếc cổng tò vò thông sang phòng bên cạnh, không biết đã chẳng bịt kín từ lúc xây, hay là về sau mới bị người ta đập ra. Gian phòng bên đó trống không.

Đối diện với tủ là bàn làm việc, hai chiếc kê song song với nhau, bên trên bày đầy đồ đạc, hình như toàn là mấy tờ báo và mấy thứ đồ bỏ đi mà tôi trông không rõ lắm. Trên vách tường cạnh bàn làm việc dán một đống giấy, đều đã phủ đầy bụi.

Tôi thổi bay đám bụi, đọc qua từng tờ từng tờ một thì phát hiện thấy nội dung các tờ giấy được dán trên tường cực kỳ lẻ tẻ vụn vặt. Tôi thấy hóa đơn tiền điện vào thập kỷ 90 của thế kỷ trước, vài ba dãy số tiện tay viết xuống, chẳng có ý nghĩa gì. Mấy thứ giấy tờ này gần như đã dính tịt lại hòa làm một với mặt tường. Có lẽ đây đều là giấy ghi nhớ để tiện ghi chú khi nghe điện thoại, vì tôi nhớ rõ điện thoại để ở vị trí này. Có điều bây giờ nó đã không còn nữa, chỉ sót lại có một đoạn dây điện thoại mà thôi.

Những thứ này không thể cho tôi bất cứ một thông tin gì. Tôi chỉ biết được rằng lúc sống ở đây cô ấy có sử dụng điện. Tôi thở dài, sau đó bắt đầu lục lọi những văn bản trên bàn.

Những tờ giấy kia đều ngập trong lớp bụi, khẽ động vào là mù mịt cả lên. Tôi cũng không để ý nhiều như vậy, cứ lật mở từng tờ từng tờ một. Giấy bên trong đã mủn cả rồi, có mấy con du diên rất nhỏ bị tôi quấy nhiễu liền hoảng sợ bò ra. Có điều cái thứ này so với lũ tuyết mao tử ở núi Trường Bạch thì chỉ đáng xách dép thôi. Tôi lại nhanh chóng lật lật giấy tờ, rút ra từ bên trong mấy quyển sổ.

Lấy ra rồi tôi liền run lên một chốc, phát hiện ra đây hình như là giấy viết bản thảo đóng quyển loại lớn(*), trước đây khi chưa có máy vi tính thì toàn dùng nó để viết bản thảo. Ở bên trên đã có chữ gì đó.
(* Là loại giấy chia sẵn từng ô để tiện đếm chữ khi viết bản thảo, mỗi chữ được viết vào một ô.)

Tôi lật ra, đọc trang đầu tiên. Trên đó có ba hàng chữ:

Phòng sau 2-3
Số thứ tự 012-053
Loại: 20, 939, 45

Thế này nghĩa là thế nào? Tôi tự nhủ, hình như là số thứ tự hồ sơ gì đó. Lẽ nào là tài liệu hoặc sách cổ chép tay gì đó sao?

Giở qua trang đầu tiên, vừa nhìn, tôi liền phát hiện ra là không phải: trên trang thứ hai thế mà lại có một bức tranh, vẽ bằng bút bi. Hơn nữa nét bút khá ẩu, nhìn sơ qua không sao biết được là vẽ cái gì.

Tôi lấy lại bình tĩnh rồi tỉ mỉ phân tích, mất năm sáu phút đồng hồ mới nhìn ra được là bức tranh này là vẽ một nhân vật thời cổ đại. Chỉ có điều, người vẽ rõ ràng không thạo việc vẽ vời, nhân vật này bị vẽ thành gần như biến dạng, nhìn vào thấy quỷ dị vô cùng. Nhân vật cổ đại kia trông chẳng giống người, trái lại còn giống y một con hồ ly mõm dài.

Xung quanh nhân vật này còn vẽ rất nhiều đường cong khó tưởng tượng cực kỳ. Sau khi tôi nhìn ra cái thứ quỷ quái kia là một người rồi, ý nghĩa nhân văn của mấy đường cong này cũng rõ ràng hơn, hẳn là bối cảnh đằng sau nhân vật được vẽ kia, có thể là non nước miếu mạo cây cỏ gì đấy.

Tôi không khỏi bật cười, tự nhủ cái gì thế này, không lẽ đây là tranh phác họa của Hoắc Linh à? Cô này sở thích cũng phong phú quá nhỉ.

Lại giở qua, rồi liên tục lật tiếp ba bốn mươi trang, toàn bộ đều là những hình vẽ như vậy. Không có nội dung bằng chữ, tôi liền bỏ qua. Lại xem đến một quyển khác thì thấy cũng giống thế, ngoại trừ nội dung trên trang đầu tiên không giống ra, bên trong đều là những hình vẽ chắng khác nhau là mấy. Tôi chẳng biết nó là cái gì, bèn xếp chồng vào một bên, tiếp tục giở những giấy tờ kia. Kết quả là bên  dưới cũng không có gì, chỉ phát hiện bên trong có mấy nùi gì đó na ná giống giẻ lau, ngay cả một tờ giấy có nội dung, lục khắp nơi mà cũng không tìm thấy.

Tôi chửi một tiếng, tự nhủ xem ra lúc bọn họ rời khỏi đây, có khả năng là đem hết những thứ có chứa thông tin đi rồi.

Có điều tôi vẫn không bỏ cuộc. Tôi không tin ai đó lại có thể mang đi sạch bách không chừa lại chút gì. Tôi ngồi vào vị trí Hoắc Linh chải đầu, nghỉ ngơi một lát rồi kéo ngăn bàn trước mặt ra, định xem trong ngăn có cái gì.

Đó là loại bàn làm việc có ngăn. Tôi kéo cái ngăn lớn nhất dưới mặt bàn một cái, liền cảm thấy mình có cửa rồi. Mẹ kiếp cái ngăn kéo này thế mà lại bị khóa cơ đấy, hơn nữa cảm giác còn nặng chình chịch nữa.

Bình thường dọn nhà xong rồi, chẳng ai đem đồ dùng trong nhà khóa lại, hơn nữa cảm giác này cho thấy bên trong có thể có đồ vật. Tôi phấn chấn hẳn lên. Loại khóa này sao có thể làm khó được tôi. Tôi đứng dậy, bẻ một cái móc treo áo sau cửa, cắm vào khe ngăn kéo rồi dùng sức đè xuống, chốc lát đã đè cho khe ngăn kéo mở rộng. Lẫy khóa tuột ra, tôi kéo một cái liền đưa được cái ngăn ra ngoài.

Cầm lấy bật lửa rọi một cái, tôi kêu lên một tiếng "Yes!". Trong ngăn kéo quả nhiên chất đầy đồ đạc. Tôi đặt bật lửa sang bên cạnh ngăn kéo rồi bắt đầu tìm kiếm.

Đây nhất định là ngăn kéo của phụ nữ, bên trong lẫn lộn rất nhiều đồ linh tinh, rất lộn xộn, rõ ràng là lúc rời khỏi đây những thứ còn dùng được đã bị mang đi hết rồi. Đồ đạc còn lại gồm một cây lược gỗ, hộp đồ trang điểm nhỏ trông như cái bánh hồi những năm 90, một chồng bự tạp chí "Điện ảnh thời nay". Những cuốn tạp chí cũ này đã có từ rất lâu rồi, tôi nhớ hồi bé mình còn lấy đọc như văn hóa phẩm đồi trụy đấy. Ngoài ra trong ngăn kéo còn có loại cặp tóc bằng sắt màu đen và rất nhiều phong bì trống rỗng cùng với một quyển album cũng trống không như thế.

Số lượng phong bì rất nhiều nhưng đều chưa từng được sử dụng. Tôi vô cùng kiên nhẫn mở từng phong từng phong ra xem, bên trong chẳng hề có cái gì. Trong cuốn album cũng không có ảnh chụp, có thể thấy vốn nó cũng từng chứa ảnh đấy nhưng đã bị rút hết ra rồi.

Tiếp theo tôi lại lật mấy quyển tạp chí cũ này, giở từng tờ từng trang một cách cực kỳ tỉ mỉ. Thế nhưng vẫn không có phát hiện gì như cũ.

Tôi đổ phịch xuống ghế, cũng chẳng để ý tới bụi bặm bên trên, liền dựa ngay vào đó, có phần mệt mỏi nhìn cái bàn đối diện qua ánh sáng bật lửa lờ mờ. Bốn bề tối đen như mực, yên tĩnh muốn chết, trong lòng tôi cũng thất vọng muốn chết. Rõ ràng là nếu chỗ này thuộc về Hoắc Linh thì người phụ nữ này tương đối kỹ tính,  hơn nữa lại còn cố ý không để lại manh mối.

Sự lạnh lẽo khắp bốn phía đã ập xuống "chăm sóc" tôi. Tôi nghiến răng nghiến lợi, không thể bỏ cuộc được. Mẹ kiếp, định luật của Roger đã nói rồi(**), không thể nào không còn thứ gì sót lại được! Tôi nhất định sẽ phát hiện ra được cái gì đó!  Tôi tự cổ vũ bản thân một lần nữa, tuy trong lòng đã có vài phần tuyệt vọng. Tôi đóng mạnh từng cái từng cái ngăn kéo về chỗ cũ, đứng dậy nhìn chiếc bàn làm việc phía đối diện.
(** Huân tước Roger Penrose, một nhà toán học, triết học và vật lý học người Anh. Định luật Roger nói trên đượcu phát biểu như sau: "Hễ là những chuyện đã từng xảy ra, nhất định sẽ để lại dấu vết". Bác này có vẻ cũng đóng vai trò khá lớn trong những nghiên cứu về vật lý vũ trụ, thuyết tương đối rộng, vật lý lượng tử và cách dùng nó để giải thích những hiện tượng siêu nhiên như ma quỷ hay linh hồn =..=)

Bàn đối diện không có ghế để ngồi, tôi liền khom người xuống, phát hiện chiếc ngăn kéo lớn nhất ở giữa đang bị khóa. Thế này thì có hơi kỳ quái. Tôi bổn cũ soạn lại, nạy cái ngăn kéo đó ra.

Tôi hoàn toàn tưởng rằng mình sẽ lại thấy một cảnh tượng giống như ban nãy, phải tự mình lục tìm manh mối giữa một đống rác rưởi bỏ đi. Nhưng vượt quá dự liệu của tôi, lúc này, khi rút ngăn kéo ra xem thì lại thấy bên trong cực kỳ sạch sẽ, trống trơng chẳng có gì, chỉ có một chiếc phong bì lớn vỏ vàng được đặt ở chính giữa. Chiếc phong bì căng phồng, lớn cỡ khổ giấy A4, được đặt ngay ngắn ở đó cứ như là cố tình sắp xếp như thế để chờ tôi đến xem vậy.

"Ơ", trong lòng tôi giật nẩy lên. Ý thức được điều gì, tôi lập tức cầm nó lên xem xét.

Đây là loại phong bì bảo hiểm lao động thời kỳ cuối những năm 80 của thế kỷ 20. Mặt trên còn có chân dung Mao Trạch Đông đã bợt màu. Sờ thử một cái, tôi thấy thứ đồ gì đó ở bên trong rất dày, mỗi tội đã bị ẩm hết, sờ lên xù xì những lông, cảm giác cứ mềm mềm nát nát. Trên phong bì không có bất cứ chữ nào.

Tôi thấy vậy là có cửa rồi, vội vàng lật phong bì lại, thọc tay vào bên trong, sau đó móc ra một quyển sổ tay công tác cũ cỡ bằng quyển tạp chí.

Tôi sững sờ một lát, lật trang bìa ra liền phát hiện trên trang đầu tiên của cuốn sổ tay có một đoạn chữ viết bằng bút máy theo thể chữ Hành, nét bút vô cùng thanh tú:

Tôi không biết cô cậu là ai trong số ba người. Nhưng dù có là ai thì thời điểm cô cậu tới đây phát hiện ra phong thư này, tôi tin rằng các người cũng đã vướng vào chuyện đó.

Băng ghi hình là thủ tục bảo hiểm cuối cùng mà chúng tôi bố trí. Băng hình được gửi đi, tức là người trong băng ghi hình đã không thể nào liên lạc được với tôi. Như vậy, cũng tức là tôi đã chết, hoặc là "nó" đã phát hiện ra tôi, cho nên tôi đã rời khỏi thành phố này.

Bất kể là thuộc tình huống nào, nó đều có nghĩa là khả năng không lâu nữa tôi sẽ rời khỏi nhân thế. Cho nên băng ghi hình sẽ chỉ dẫn cho các người đến đây, để các người thấy được cuốn sổ ghi chép này.

Trong cuốn sổ tay này có ghi lại tâm huyết và kinh nghiệm hơn mười năm nghiên cứu của chúng tôi. Tôi để nó lại cho các người. Các người có thể từ đó biết được những thứ các người muốn biết.

Có điều, tôi cũng phải nhắc nhở các người rằng: nội dung bên trong có liên quan đến một bí mật khổng lồ. Tôi đã từng thề phải mang theo những điều này xuống mộ, nhưng rốt cuộc vẫn không thể tuân thủ lời hứa của chính mình. Những bí mật này, sau khi xem xong họa phúc khó lường. Các người phải tự lo lấy thân mình cho tốt.

Trần Văn Cẩm

Tháng Chín năm 1995

________________________________

Editor tâm sự:

Đến đây, hẳn đã có một số bạn chú ý đến cái tên chương: Đạo Mộ Bút Ký. Chúng mình cố tình không dịch cái tên này, mặc dù sử dụng cụm từ "sổ tay trộm mộ" có vẻ phù hợp hơn cho tập tài liệu Trần Văn Cẩm cố tình để lại cho Ngô Tà: một bản sao từ cuốn sổ tay công tác của cô ấy. Lý do ư? Đơn giản thôi, vì từ chương này trở đi, cánh cửa thực sự dẫn tới những bí ẩn của Đạo Mộ Bút Ký mới được mở ra. Cùng với những lời "lật tẩy" chú Ba của anh bạn Lý Trầm Chu, những ghi chép trong sổ tay của Văn Cẩm là thứ lật lại toàn bộ cục diện bàn cờ, từng bước đặt chúng ta vào một mê cung mới: tầng mê cung thực sự của Đạo Mộ Bút Ký, nơi để chúng ta thấm thía câu nói mà các bạn fan Đạo Mộ "bên kia" hay nhắc: nhân tâm còn khủng khiếp hơn quỷ thần.

Và mình rất mừng vì rốt cuộc nhóm cũng lết được tới ngày này ="))))))) Dạo gần đây chúng mình hơi bận (cũng vì Đạo Mộ cả thôi, nhưng công việc ở 1 "chiến tuyến" khác), 1 chương truyện lại dài ra, nên có thể thời gian tới bọn mình sẽ update chậm hơn. Các bạn chịu khó chờ vậy nhé :")

Cảm ơn các bạn vẫn ủng hộ chung cư nhà mìnhtừ trước tới giờ :")

Chương 41. Sổ tay của Văn Cẩm
Editor: Cơm Nắm Nướng ChảoBeta: Earl Panda..Ask the beta: thưc ra chương này là editor mới đúng :'PMấy chương trước đã có bạn hỏi là "sao Ngô Tà không mang điện thoại di động vào trại an dưỡng mà lại dùng bật lửa Zippo". Mình xin được trả lời luôn là dạo Tam Thúc viết đến chỗ này thì điện thoại di động nó ko được phổ biến như bây giờ đâu các bạn ạ, vả lại hồi đó cũng chỉ có loại màn hình mono như Nokia 1100 thôi, ko phải LCD đâu, cũng ko có chức năng đèn pin. Đến cái điện thoại hường huệ của Hoa chảnh chó trùm bằng trộm mộ phần 7 mới xuất hiện, màn hình cũng là mono hết. Trò bản thường xuyên chơi là trò Rắn đó =")))))  Điện thoại ấy mà mang vào nhà ma hay mang đi trộm mộ thì chiếu sáng cũng chả được là bao, cho nên túm cái quần lại, trong Đạo Mộ các bạn hãy cứ coi như Zippo là nhất đi nhé =")))))))))).*****

Đọc xong dòng chữ này, tôi phải hít thật sâu một hơi, nỗi kinh hoảng trong lòng quả thực đã không cách nào hình dung nổi.

Nhưng nội dung của đoạn văn này không phải thứ làm tôi kinh ngạc nhất. Nói thật, trong tích tắc nhìn thấy cuốn sổ ghi chép kia, tôi cũng đã nghĩ đến việc có lẽ mình sẽ đọc được nội dung như vậy rồi. Điều khiến hơi thở tôi bị bóp nghẹt trong nháy mắt chính là dòng chữ ký kia cơ.

"Trần Văn Cẩm!"

Trời ạ, tôi thật sự không thể ngờ thứ này lại là do cô ấy để lại. Nói vậy thì người gửi cuốn băng ghi hình cho tôi, lôi kéo tôi tới đây, cũng chính là cô ấy?

Điều này thật sự là một bước ngoặt bất ngờ, khiến người ta thật không sao hiểu nổi. Tuy rằng chú Ba chưa từng nhắc đến bất cứ tin tức gì về cô ấy, nhưng trong quan niệm của tôi, cô hẳn đã chết ở đâu đó rồi, sao lại có thể đột ngột xuất hiện trong thời điểm này được, hơn nữa còn dẫn tôi đến tận đây?

Còn nữa, chỉ trong có một đoạn văn ngắn ngủn này lại chứa đựng quá nhiều thông tin. Cái gì mà ba người? Là ba người nào? "Nó" là thứ gì? "Chúng tôi" là chỉ ai, lẽ nào lại là nhóm người ở Tây Sa? "Nghiên cứu" gì? "Bí mật"  gì?

Vô số suy nghĩ chợt nảy lên trong đầu tôi, nhưng tôi không kịp suy xét một ý nào. Tôi lấy lại bình tĩnh rồi lập tức lật cuốn sổ tay đọc tiếp phần sau.

Cuốn sổ tay này rất dày, có chừng hai sáu, hai bảy trang chi chít chữ, toàn là những hàng chữ lít nhít viết sít nhau, nét bút cực kỳ nắn nót và còn có rất nhiều hình vẽ. Hình như đó là một cuốn sổ tay công tác.

Tôi đặt bật lửa lên mép cái ngăn kéo vừa được lôi ra, rồi chính mình thì ngồi trên mặt đất, lập tức tập trung tinh thần đọc cuốn sổ.

Vừa mở ra trang đầu tiên nằm ngay phía sau trang bìa trong, tôi lập tức chấn động. Trên trang giấy tôi nhìn thấy một bức tranh rất kỳ quái, được vẽ vô cùng tỉ mỉ.

Bức vẽ này chỉ được tạo nên bởi bảy nét, sáu đường cong uốn lượn và một vòng tròn không ngay ngắn. Tôi chỉ cần nhớ lại một chút liền nhận ra ngay đây là thứ mà chú Ba đã miêu tả lại cho tôi: chính là cái đồ hình đã được giải mã từ sách lụa Chiến Quốc  kia.

Tôi vô cùng kinh ngạc. Xem ra nhóm của Văn Cẩm cũng ghê gớm phết đây, có thể lấy được cả cái đồ hình cực kỳ khó xơi này cơ đấy. Nói vậy thì cô ấy cũng từng có hứng thú với cái đồ hình này.

Thế nhưng, khác với bản vẽ phác chú Ba cho tôi xem, bức họa lần này lại có đánh dấu ở trên. Tôi vừa xem liền toát mồ hôi lạnh đầy người. Chỉ thấy sáu đường cong nọ, bên trên mỗi cái lại có một chấm đen, có cảm giác dường như đây chính là điều chú Ba đã nói với tôi: tấm bản đồ sao kia xếp đúng vị trí với đường thẳng mà chọn ra sáu vì tinh tú. Song, ở trên bốn cái chấm đen đó, tôi lại nhìn thấy mấy con chữ nhỏ.

Từ trên xuống dưới là:

Núi Trường Bạch – Vân Đỉnh Thiên Cung
Miếu Hạt Dưa – Thất Tinh Lỗ Vương Cung
Ngọn Phật Nằm – Phật tháp Thiên Quan Tự
Sa Đầu Tiêu – Mộ thuyền chìm đáy biển

Tôi đọc xong liền hít một hơi lạnh, bụng dạ bấn loạn mất vài giây. Trong chốc lát, như người vừa ngộ đạo, tôi lập tức sáng tỏ cái thứ mình vừa nhìn thấy đây là cái gì.

Choáng, thật quá choáng! Lẽ nào những đường cong trên đồ hình này lại chính là bản vẽ hướng chạy của từng mạch núi nằm trong đại long mạch mà Uông Tàng Hải đã định ra?

Cẩn thận quan sát những đường cong, tôi liền phát hiện quả đúng là như vậy. Bởi vì không đặt trên bản đồ mà nhìn, cho nên tôi căn bản không sao liên tưởng sáu đường vẽ này đến điều đó, mà chỉ thấy chúng trông như những đường gân lá hay bản đồ phân bố sông ngòi. Nhưng bây giờ, vừa nhìn một cái, tôi đã lập tức nhận ra đây kỳ thật là một con "rồng". Sáu đường cong này chính là đầu rồng, đuôi rồng và tứ chi của rồng! Mỗi nét vẽ đều là một mạch núi, mà cái điểm bên trên đường cong, lại chính là bảo nhãn trên mạch núi.

Đây vốn không phải bản đồ sao gì đó như lời Cầu Đức Khảo nói mà!

Trong chốc lát toàn thân tôi lạnh toát, ý thức được điều gì đã xảy ra. Cái đuệch, còn không phải chính Cầu Đức Khảo cố ý đánh lạc hướng? Còn không phải cái lão yêu tinh này lừa chú Ba sao?!

Lại nhìn đến hai đường cong không có chữ. Tôi lập tức phát hiện bên trên chúng cũng có chấm đen, có điều bên cạnh ghi toàn dấu chấm hỏi. Dĩ nhiên mấy cái này cũng có thể là những long mạch trong Đại phong thủy, có điều vị trí của long nhãn trên long mạch thì không biết rõ.

Cú đánh liên hoàn từ trên trời giáng xuống này khiến tôi lúng túng không biết phải làm sao. Tôi thật sự không ngờ mở cuốn sổ tay này ra một cái liền ăn ngay mấy cú knock out như thế. Tôi lập tức khép quyển sổ lại, hít một hơi thật sâu, nhưng mà tay tôi vẫn phát run lên. Tôi nhớ tới lời nói trên trang bìa kia: "nội dung bên trong có liên quan đến một vài bí mật khổng lồ". Tôi tự nhủ: cô không nên cứ thế kích thích người ta ngay tại trang đầu tiên như vậy chứ!

Thế nhưng, sự kinh hãi đó rất nhanh đã bị cảm giác mừng như điên thay thế. Tôi nghiến răng vỗ vỗ ngực, xóa tan cảm giác nghẹt thở đó đi, lại mở cuốn sổ tay ra lần nữa.

Quan sát kỹ bức vẽ, lúc bấy giờ, tôi thấy được một điểm còn then chốt hơn tất cả.

Chỉ thấy ngoài sáu đường cong ra, có một khoảng giấy trống ở giữa do sáu nét vẽ uốn lượn quây tròn xung quanh, bên trong vòng tròn đó cũng có một dấu chấm đen. Chấm đen này không nằm trên đường cong nào cả, đứng độc lập lẻ loi ở vị trí có lẽ là trung tâm của toàn bộ hình vẽ.

Mà bên cạnh chấm đen này cũng có một hàng chữ nhỏ: Sài Đạt Mộc – Tháp Mộc Đà

Thứ này thì tôi xem không hiểu, nhưng bên dưới dòng chữ nhỏ này bị gạch một đường rất sâu, còn có hai ba dấu chấm hỏi. Rõ ràng là trên tấm bản đồ này thì điểm đó mới là quan trọng nhất. Hơn nữa, trong lúc vẽ, Văn Cẩm có nghi vấn gì đó, cho nên mới vừa nghĩ vừa điền mấy dấu chấm hỏi kia.

Dựa theo kinh nghiệm từ những chỗ bên cạnh thì dấu chấm này có lẽ cũng biểu thị cho một địa điểm. Sài Đạt Mộc? Tháp Mộc Đà? Lẽ nào đó cũng là một ngôi mộ cổ sao? Tôi tự hỏi vì sao điểm này lại nằm ngoài những đường cong kia chứ?

Lập tức, tôi bỗng ý thức được rằng những gì mà Văn Cẩm biết còn nhiều hơn chúng tôi rất nhiều. Xem ra cuốn sổ tay này có thể giải đáp cho tôi khá là nhiều nghi vấn đây. Nghĩ đoạn, tôi lập tức lại lật sổ tay xem nội dung phần tiếp theo.

Nội dung sau đó đều là những đoạn chữ viết xen lẫn với nhiều hình vẽ. Chữ viết bên trên cũng cực kỳ nắn nót, ghi chép rất có trật tự, thế nhưng cỡ chữ nhỏ quá, dưới ánh sáng có phần yếu ớt của chiếc bật lửa, muốn đọc phải cực kỳ cố sức.

Tôi lấy lại bình tĩnh, tập trung tinh thần chăm chú đọc, vừa đọc vừa thấy cảm thấy mối ngờ vực ngày một dâng lên, đồng thời cũng cảm thấy thất vọng ngày một nhiều. Đợi đến khi xem xong, những nghi hoặc và thất vọng của tôi đã lên đến đỉnh điểm. Tôi đờ ra tại chỗ, cảm giác trong lòng thật quá khó hình dung.

Nội dung trong toàn bộ cuốn sổ tay đại khái có thể chia làm ba phần, gồm hơn mười nghìn chữ, đều là biên bản công tác dưới dạng nhật ký, ghi chép cực kỳ rườm rà, nhưng dựa theo nội dung trong đó mà phân ra thì đại khái có thể chia làm ba phần.

Phần thứ nhất là ghi chép từ ngày mùng 2 tháng Tư năm 1990 đến ngày 6 tháng Ba năm 1991. Vì không thể chép lại cả cuốn sổ tay ở đây nên tôi chỉ có thể tóm tắt và cũng gạn lọc ra những chương mục quan trọng nhất để cho rõ ràng hơn.

Nội dung của phần thứ nhất như sau:

Ngày 2 tháng Tư năm 1990

Chúng tôi đem phần lớn những đồ sứ trong huyệt mộ dưới đáy biển ra tiến hành đánh số và phân loại một lượt, sao chép lại tất cả đồ sứ ở đó, đồng thời so sánh với bích họa, hy vọng có thể tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của Uông Tàng Hải.  Thông qua so sánh như vậy, chúng tôi quả thực đã phát hiện được một vài qui luật: được ghi lại trên bích họa là những chuyện trong cuộc sống của ông ta, còn nội dung vẽ trên đồ sứ là quá trình xây dựng công trình của ông ta. Điều này có thể chứng minh từ các nhóm nội dung mà chúng tôi đã phân loại. Ví dụ như: tiến vào nước Đông Hạ  – xây dựng Vân Đỉnh Thiên Cung, được Chu Nguyên Chương phong thưởng – thiết kế hoàng cung thời Minh, đều đã tìm thấy hình vẽ thể hiện. Hơn nữa, dựa theo thứ tự trong mộ thất, có thể phân chia thứ tự trước sau của những khoảng thời gian này rất dễ dàng, hơn nữa từng cái đều phù hợp.

Dựa theo phương thức suy đoán như vậy, những bích họa này đều ghi chép lại công lao hiển hách của bậc thầy phong thủy Uông Tàng Hải. Nội dung được ghi chép lại đều tương ứng với những tác phẩm của ông ta. Còn những việc mà đối với người khác là quan trọng, ví như cưới vợ, săn bắn, thì không thấy ghi lại bất cứ điều gì. Tôi gọi cái này là "Thuyết tương đối họ Uông".

——————————

Ngày 6 tháng Tư năm 1990

Hôm nay "Thuyết tương đối họ Uông" vấp phải một vấn đề hóc búa. Trong tấm bích họa cuối cùng của Uông Tàng Hải, chúng tôi phát hiện một đoạn nội dung thế này:

(Bên dưới là một bức phác thảo, đoán là vẽ tấm bích họa. Tôi bắt gặp hình vẽ trong này mới nhớ tới ban nãy lục bàn cũng trông thấy mấy thứ vẽ vời như trẻ con kia, hóa ra đều là hình bọn họ sao lại bích họa.)

Nội dung bức phác thảo rất khó miêu tả bởi vì trình vẽ quá lởm. Tôi chỉ có thể đại khái nhìn ra nó na ná cảnh tượng một vị quan to quyền quý nào đó tiễn biệt một người khác. Bối cảnh là cửa một cung điện rất lớn, ở bốn phía có các loại động vật như "lạc đà lừa ngựa" xếp thành hàng ngang ngay ngắn chỉnh tề, đương nhiên là bị vẽ cho thành chó với chuột hết một loạt. Tôi hiểu rõ tranh sơn thủy và tranh thú vật thời cổ đại, về mảng kiến thức này tôi đã được đào tạo rất kỹ càng và chặt chẽ, cho nên từ hình dạng và bút pháp tôi có thể đoán ra những động vật hình thù dị hợm này thật ra hẳn phải là ngựa hoặc lạc đà. Đằng sau cửa cung, người hầu kẻ hạ đứng hàng đàn, xếp thành đội hình long trọng. Có thể thấy, trong bức họa là một cảnh tượng khá hoành tráng.

Phía sau còn có hai ba trang toàn hình vẽ. Tôi không có hứng thú xem nên bỏ qua toàn bộ, đọc luôn nội dung phần sau.

Những gì ghi lại trên tấm bích họa này hẳn phải là sự việc xảy ra sau khi Uông Tàng Hải sáu mươi tám tuổi. Lúc đó ông ta đã hoàn thành công trình cuối cùng của mình, mà nội dung trên tấm bích họa này đại khái nói rằng ông đã nhận lệnh của hoàng đế, xuất phát đến một nơi, một kiểu hoạt động tương tự như đi sứ sang nước ngoài vậy. Cấu trúc của tấm bích họa này rõ ràng là mô phỏng theo bích họa thời Đường, vẽ cảnh Đường Huyền Trang đi Tây Vực, vô cùng kỳ lạ. Nhưng mà chúng tôi đã lật xem tất cả đồ sứ ở đây ra, từ đầu đến cuối vẫn không phát hiện được bất cứ hình vẽ nào có khả năng là tương ứng với nó.

Có người nói có thể đây là sự kiện cuối cùng trong cuộc đời ông ta cho nên không có bất cứ một tác phẩm tương ứng nào. Nhưng cũng có người lại khăng khăng cho rằng người như Uông Tàng Hải làm gì có ngoại lệ kiểu này. Không có hình vẽ trên sứ tương ứng thì khả năng là có ẩn ý hoặc nguyên nhân đặc biệt nào đó. Hoặc có thể, tác phẩm đó của ông ta đã được khắc vào một chỗ nào khác chẳng hạn.

Quả thật sau này tiếp tục nghiên cứu thì phát hiện vài năm cuối cùng của Uông Tàng Hải kia cực kỳ thần bí, hoàn toàn không được viết lại trên bất cứ tư liệu lịch sử nào. Trong cả cuộc đời ông ta, có thể nói, quãng thời gian ngắn cuối cùng này là một khoảng trắng.

Trong vài năm đó, rốt cuộc ông ta đã ở đâu, làm gì? Đây là một câu hỏi hóc búa.

——————————

Ngày 6 tháng Mười Hai năm 1990

Suốt mấy tháng này, chúng tôi vẫn luôn điều tra hành tung của Uông Tàng Hải trong mấy năm cuối đời. Cuối cùng cũng đã có manh mối. Chúng tôi phát hiện ra rằng, sau công trình cuối cùng, có một lần Uông Tàng Hải đã tháp tùng hoàng đế đi bái tế núi ở Trường Bạch Sơn, từ đó về sau không có bất kỳ ghi chép bằng văn tự nào nữa.

Núi Trường Bạch, lẽ nào ông ta đã đi vào trong núi sao? Chúng tôi cực kỳ hoài nghi.

————————-

Ngày 7 tháng Mười Hai năm 1990

Đến đây thì không tra cứu thêm được nữa. Chúng tôi thay đổi phương hướng, bắt đầu bắt tay vào tìm hiểu từ phía vị hoàng đế kia. Trong Minh Chí có ghi chép kỹ càng việc đi về của các sứ đoàn và các dịp đại điển. Chúng tôi muốn từ đó tìm ra lần đại điển được miêu tả trên bích họa của Uông Tàng Hải, hoặc là ghi chép về chuyện ông ta đi sứ nước ngoài.
(* Minh Chí là tài liệu lịch sử Minh triều liệt kê từng sự kiện theo lối chép sử chính thống, đại điển là các dịp lễ trọng đại có sự tham gia của vua chúa và hoàng tộc )

Kết quả lại khiến chúng tôi kinh ngạc vô cùng. Chúng tôi phát hiện ra rằng, trước khi hoàng đế chết hai năm, tổng cộng có bảy lần đại điển, trong đó sáu lần đều rất bình thường, nhưng lại có một lần rất kỳ quái, ghi chép hết sức đơn giản và không có bất cứ chú giải nào.

"Năm Hồng Vũ thứ hai mươi chín, xưởng vệ bốn mươi sáu người, binh sĩ mười hai người, lừa ngựa một trăm hai mươi sáu con, trân châu mười đấu, hoàng kim ba mươi cân, đi sứ Tháp Mộc Đà. "

Đại điển và đi sứ, đây là hai sự kiện duy nhất được ghi lại đầy đủ. Nhưng bản ghi chép này lại không đề rõ viên quan đi sứ lúc bấy giờ. Mà điều khiến người ta thấy kỳ quái nhất là: Tháp Mộc Đà là nơi nào?

Là một nước sao? Trong chính sử không có bất cứ ghi chép nào cả. Có điều cũng rất có khả năng, vì ở vào khoảng thời Minh, ở hai khu vực Đông Nam Á và Tây Vực có vô số những nước nhỏ. Đây có lẽ là một trong số những tiểu quốc đó. Thế nhưng Uông Tàng Hải lại làm đặc sứ đến một tiểu quốc ư? Điều này có hơi kỳ quái. Với tuổi tác của ông ta thì đâu có thích hợp lặn lội đường trường.

————————-

Ngày 11 tháng Hai năm 1991

Tiếp tục tiến hành điều tra, trong lúc đó chúng tôi đã tiến hành thảo luận hai lần.

(Ở giữa là mười trang viết lan man, toàn thảo luận và suy đoán, nhưng sau đó đều được chứng minh là sai, cho nên đã bị gạch bỏ.)

Bởi vì sử liệu triều Minh đã trải qua một lần đại nạn vào thời nhà Thanh(triều đại sau lên nắm quyền cho tiêu hủy các loại văn bản lịch sử của triều đại trước, chuyện thường ngày ở huyện há ┐( ̄ヮ ̄)┌ ), cho nên lúc này điều tra rất khó khăn, rất lâu mà vẫn không có kết quả, về sau lại phải chuyển hướng điều tra mới giải quyết được một vấn đề. Chúng tôi so sánh những đồ vật mang theo tới "Tháp Mộc Đà", liền phát hiện chủng loại lễ vật cho thấy đây là một quốc gia Tây Vực, hơn nữa số lượng và hình thức tặng phẩm xem ra khá thấp, thế nhưng lừa ngựa lại rất nhiều. Đây thoạt nhìn thì giống như một thương đội chứ không phải là đoàn đặc sứ.

————————-

Ngày 6 tháng Ba năm 1991

Hoàn toàn không có manh mối, điểm đột phá cũng không tìm thấy nữa. Nghiên cứu trì trệ không có tiến bộ, tâm trạng mọi người đều không tốt.

Đây là đoạn thứ nhất, rõ ràng trước đoạn này hẳn còn phải có nội dung, nhưng đằng trước lại không phát hiện dấu vết của những trang bị xé. Xem ra đây không phải là một cuốn sổ tay đơn độc. Đây là một cuốn trong một bộ sổ tay.

Đoạn thứ nhất miêu tả, trong lúc bọn họ nghiên cứu về Uông Tàng Hải thì phát hiện ra "Tháp Mộc Đà", sau đó lại nghiên cứu "Tháp Mộc Đà", cuối cùng nghiên cứu bị đình trệ. Quá trình là như vậy. Từ một đoạn nội dung này có thể thấy được rất nhiều điều. Bọn họ đang nghiên cứu bích họa và đồ sứ trong huyệt mộ dưới đáy biển. Hơn nữa, xem ra nghiên cứu còn cực kỳ chính thống và quy củ, là qui trình khảo cổ kinh điển. (Quá trình tra cứu tư liệu kiểu này có vẻ cực kỳ tẻ nhạt, nhưng lại là phương thức nghiên cứu chủ yếu hằng này của người làm công tác khảo cổ. Khảo cổ chính là khai quật – phục chế – tra cứu). Nhưng vào năm chú Ba ra đi thì căn bản không có điều kiện như thế này. Mộ dưới biển của Uông Tàng Hải lớn là thế, chỉ lèo tèo có mỗi vài người như vậy thì biết phải làm bao lâu mới có thể sao chép lại toàn bộ đồ vật trong huyệt mộ đây? Như vậy, bọn họ đã bắt đầu làm công việc này từ lúc nào?

Đây là một manh mối rất lớn. Có điều tôi không có sức nghiền ngẫm, nên lại đọc tiếp. Lúc đó tôi cho rằng đằng sau sẽ là đoạn kế tiếp của quá trình đó, thế nhưng sau đoạn ngày 6 tháng Ba năm 1991 này, lại xuất hiện một hiện tượng khiến tôi nghi hoặc.

Từ sau một đoạn này có khoảng sáu trang nội dung, đều kể về chuyện thu thập tư liệu, phần này sẽ lược bỏ. Tiếp tục giở về phía sau, lại là một đoạn nhật ký công tác, thời gian lại nhảy tới ngày 19 tháng Một năm 1993.

Sau này nhìn lại nội dung ghi chép trong đó, bạn sẽ phát hiện thấy đã có sự khác biệt tương đối lớn so với phần trước. Nội dung đoạn này là vào ngày mười chín tháng Một năm 1993, thẳng đến tận ngày 8 tháng Hai năm 1995, khoảng cách thời gian từng đoạn khá lớn, thế nhưng những thứ được ghi chép lại không nhiều. Nội dung như sau:

Ngày 19 tháng Một năm 1993

Qua lần thảo luận trước, chuyện của Uông Tàng Hải đã rõ ràng hẳn lên. Xem ra việc ông ta tới Tháp Mộc Đà thực sự có liên quan đến sự kiện hoàng đế tế bái núi Trường Bạch. Có lẽ ông ta trở về Vân Đỉnh Thiên cung, sau đó mới lên đường đến Tháp Mộc Đà. Tháp Mộc Đà này tất nhiên có liên quan đến tình cảnh trong núi Trường Bạch.

————————-

Ngày 18 tháng Tư  năm 1993

Dựa vào bích họa, chúng tôi đã sắp xếp lại ba tuyến đường dẫn đến Vân Đỉnh Thiên Cung. Chúng tôi quyết định trước hết sẽ đi núi Trường Bạch, tìm hiểu đến tận cùng.

————————-

Ngày 30 tháng Năm năm 1993

Tiến vào phạm vi núi Trường Bạch, thời tiết rất tệ.

(Sau đó đại khái có hơn mười trang ghi chép về việc di chuyển trong tuyết như kiểu tiểu thuyết thám hiểm, cũng giống như khi chúng tôi đến Vân Đỉnh Thiên Cung, cho đến tận đoạn tiến vào trong.)

Ngày 15 tháng Sáu năm 1993

Đã mất liên lạc với bọn họ. Hai người chúng tôi tiếp tục tiến lên.

————————-

Ngày 17 tháng Sáu năm 1993

Chúng tôi chạm đích Vân Đỉnh Thiên Cung. Tình hình cực kỳ không ổn, những người khác có khả năng lành ít dữ nhiều. Chúng tôi cũng không có thời gian do dự. Chúng tôi quyết định tiến vào cửa thanh đồng, xem thử bên trong rốt cuộc là chỗ như thế nào.

————————-

Ngày 18 tháng Sáu năm 1993, có vẻ như, tôi đã nhìn thấy Chung Cực!
(Chung cực nghĩa là Tận Cùng)

(Từ đoạn này về sau ở giữa bị ngắt quãng, không có bất cứ nội dung nào. Tiếp theo là đoạn cuối cùng của nhật ký. Hiển nhiên, suốt thời gian một năm rưỡi cô ấy không hề ghi chép thứ gì.)

Điều cuối cùng được viết lại là:

Ngày 8 tháng Hai năm 1995

Chúng tôi bắt đầu lên kế hoạch tìm kiếm Tháp Mộc Đà. Tất thảy những thứ này rốt cuộc là chuyện gì, tôi nhất định phải làm cho rõ ràng.

Đây là phần thứ hai. Đến đây có tổng cộng khoảng ba mươi trang nội dung. Điều dễ thấy nhất, đó là giữa phần thứ nhất và phần thứ hai có những mấy năm nội dung để trống. Tới phần thứ hai thì nhảy luôn vào hành trình của họ đến Vân Đỉnh Thiên Cung. Đọc đến đây, trong lòng tôi đã làm rõ được một nghi vấn: xem ra tại Vân Đỉnh Thiên Cung, những người chết trong đống vàng có lẽ chính là nhóm người bọn họ. Hơn nữa xem xét đồ vật mà bọn họ mang theo và những gì Văn Cẩm tiết lộ với chúng ta ở đây, thì có lẽ đó cũng chính là nhóm người trước kia ở Tây Sa rồi.

Nói vậy thì dường như bọn họ không hề gặp phải tình cảnh đặc biệt quẫn bách gì khác, hơn nữa hình như sinh hoạt còn khá thoải mái nữa? Có điều mấy chuyện này chỉ là thứ yếu. Điều làm cho tôi khiếp sợ là, hiển nhiên Văn Cẩm cũng đã phát hiện ra cánh cửa thanh đồng kia, hơn nữa cô ấy còn đi vào đó rồi.

"Tôi đã nhìn thấy Chung Cực!" Tôi đọc đến đoạn này liền toát mồ hôi lạnh đầm đìa, lòng tự nhủ đây là ý gì thế này, cái thứ Chung Cực này biểu thị cho cái gì?

Xem xét thời gian ghi chép thì thấy sau khi cô ấy vào đó, dường như trong suốt một năm rưỡi không hề viết bất cứ cái gì vào nhật ký. Chuyện đó không phù hợp với tính cách của cô ấy. Tôi cảm thấy cực kỳ có khả năng là cô ấy đã nhìn thấy cái gì đó đằng sau cánh cửa thanh đồng, cho nên mới quá mức khiếp sợ, không còn đầu óc đâu mà nghĩ đến sổ tay gì hết.

Nhìn chung, cảm giác lớn nhất mà phần thứ hai để lại cho tôi, đó là Tháp Mộc Đà kia có lẽ có liên quan rất chặt chẽ với cánh cửa thanh đồng. Sau khi Văn Cẩm bước vào cửa thanh đồng thì mới nhen nhóm ý định đi tìm "Tháp Mộc Đà" này.

Tiếp về sau là đoạn thứ ba. Phần này đặc biệt dài, nhưng khoảng cách thời gian rất ngắn, từ ngày 8 tháng Hai năm 1995 đến ngày 8 tháng Sáu năm 1995, trong đó xem ra chỉ có một đoạn là đáng nói.

Ngày tám tháng Hai năm 1995

Căn cứ vào tấm bản đồ long mạch kia, chúng tôi đã có thể xác định được vị trí của Tháp Mộc Đà. Chúng tôi chuẩn bị tiến hành một lần khảo sát, hy vọng trong lần khảo sát này sẽ có thể phát hiện đáp án của một loạt câu đố kia. Phải nói thật là tôi thực sự không ngờ, đằng sau chuyện này lại có nhiều sự tình đến như vậy. Nếu như thứ tôi chứng kiến sau cánh cửa thanh đồng là thực, thì toàn bộ chuyện này quả thật quá đáng sợ.

Nội dung sau đó kể về hành trình bọn họ đi đến nơi gọi là "Tháp Mộc Đà" kia. Xem miêu tả trong đó thì "Tháp Mộc Đà" hẳn là một ốc đảo trong sa mạc. Văn Cẩm đi theo một đoàn lạc đà, vào năm 1993 thì xuất phát từ Đôn Hoàng, tiến vào Sài Đạt Mộc, bắt đầu chặng đường này.

Bọn họ được một người phụ nữ gọi là Định Chủ Trác Mã dẫn đường, bắt đầu tiến vào sa mạc. Sau đó, ở một núi đá, bọn họ chia tay với người đó, đi vào chỗ gọi là "Tháp Mộc Đà". Bên trong ốc đảo kia dường như cực kỳ hung hiểm, trên đường đi chết không ít người, còn thấy trên bản đồ hành trình ở sổ tay có rất nhiều ký hiệu nguy hiểm. Cuối cùng, bọn họ tới được Tháp Mộc Đà, có điều cô ấy lại phát sinh mâu thuẫn với một người khác, rốt cuộc chưa đi đến đích đã trở về.

Tôi đọc lướt rất nhanh nội dung này một lần, cũng không xem kỹ. Từ sau những nội dung ấy là khoảng trắng, không còn gì khác. Phần nội dung này có khoảng ba mươi trang, ghi chép cực kỳ kỹ càng, có một lượng lớn bản đồ hành trình cùng với những mô tả về tổn hại của thiết bị và thời tiết các loại.

Trong toàn bộ cuốn sổ tay căn bản không hề viết về việc bọn họ làm thế nào có được các thông tin, hoặc là điều tra như thế nào, cũng không nhắc gì đến việc bọn họ mất tích ở Tây Sa, hay chuyện ở trại an dưỡng này. Tất cả thông tin bên trong đều có liên quan đến "Tháp Mộc Đà" kia, chiếm hết gần một nửa độ dài, toàn là phân tích về những thứ mà Thiết Diện Sinh Uông Tàng Hải để lại, hơn nữa từ đó phát hiện ra phương hướng liên quan đến "Tháp Mộc Đà". Mà trên hết, điều khiến tôi rất để ý chính là ba đoạn nội dung này rõ ràng đều bị ngắt quãng ở giữa, có cảm giác dường như cuốn sổ tay này từng bị người ta xé ra đóng lại thành quyển mới, hoặc chỉ là bản sao chép.

Tôi dùng sức kéo căng khe hở giữa các trang, phát hiện không hề có bất cứ dấu vết đóng lại hay vết giấy rách nào. Đây là một cuốn sổ tay nguyên vẹn. Như vậy tức là cuốn sổ tay này có thể là một bản Văn Cẩm chép lại. Dường như cô ấy đã chọn một vài nội dung về Tháp Mộc Đà trong sổ gốc, sao chép rồi tập hợp chúng vào một cuốn sổ tay khác.

Tại sao cô ấy phải làm vậy cơ chứ? Đây cũng là một chuyện khó lòng tưởng tượng nổi. Vì sao nhóm người này lại luôn luôn thần thần bí bí như vậy? Không lẽ trong những nội dung khác của sổ tay có những điều cô ấy không muốn để cho người khác biết sao?

Hơn nữa, xem cuốn sổ tay này thì thấy có một cảm giác rất rõ ràng, dường như chính nó muốn tôi biết rằng "Tháp Mộc Đà" này là địa điểm cực kỳ quan trọng, tựa như muốn tôi tìm đến nơi đó.

Nghi vấn trong lòng nhiều không kể xiết, trong một lúc cũng không lần ra được manh mối gì, tôi day day thái dương, lật cuốn sổ tay trở lại, chuẩn bị đọc lại tỉ mỉ từ đầu để còn cẩn thận suy nghĩ xem có rút ra được chút đầu mối gì không. Thế nhưng đúng lúc này cái bật lửa trước mắt lại tối sầm đi. Ngọn lửa đã dần tàn lụi, ánh sáng ảm đạm.

Tôi nhớ ra cái bật lửa này đã dùng một lúc khá lâu rồi, có lẽ là sắp tắt, vì vậy tôi định lôi đống báo chí và cả ngăn kéo ra nhóm lửa, xếp thành một đống lửa luôn, như vậy sẽ không đến mức lát nữa mình phải sờ soạng trong bóng tối khi mà bật lửa không còn dùng được. Vì vậy tôi cầm cái bật lửa, đứng lên, giãn gân giãn cốt một lát.

Đúng lúc đó, tôi chợt cảm thấy có gì đó rất không hợp lý, trong này hình như có chỗ nào đó không giống như hồi nãy. Tôi dứt khoát giơ cao bật lửa, định nhìn một chút xem có phải ảo giác hay không. Vụ này không nhìn còn khá, chứ nhìn xong tôi bị dọa thiếu điều chết ngỏm luôn. Chỉ thấy ở cái bàn đối diện không biết từ lúc nào đã xuất hiện một "người". Người này ngồi trên chiếc ghế tôi vừa ngồi ban nãy, nhìn vào trong cái gương kia, đang chải đầu.

Chương 42. Bóng tốiEditor: Cơm Nắm Nướng ChảoBeta: Earl Panda...*****

"Người" này thân hình thật quái dị. Tuy rằng ánh sáng bật lửa lờ mờ chỉ có thể chiếu ra được một cái bóng xam xám hình thù không toàn vẹn, nhưng tôi vẫn có thể thấy hình dạng cái cổ của nó hơi quai quái. Cái cảm giác này, nói quá lên một chút, đó là cảm thấy dường như nó không cần phải đứng lên mà vẫn có thể dí sát mặt vào tôi được ấy.

Nó ngồi trên chiếc ghế dựa mà tôi ngồi ban nãy, hai cánh tay dài khẳng khiu trượt trượt bên đầu, động tác quỷ quái lạ thường. Tôi sững sờ một chốc mới nhận ra là nó đang chải tóc. Bấy giờ tôi liền lạnh toát cả người, toàn thân nổi da gà.

Trong một gian hầm ngầm hoang phế hơn mười năm thế này, đột nhiên lại nhìn thấy một người chải đầu trong bóng tối. Cái động tác đó, hơn nữa lại trong cái hoàn cảnh này, nếu là người bình thường thì e là sẽ chết cứng tại chỗ vì sợ luôn.

Tôi vừa toát mồ hôi lạnh vừa cảm thấy quái lạ. Đây là ai vậy? Đã xuất hiện từ lúc nào? Từ khi phát hiện ra cuốn sổ tay đến lúc tôi ngồi xuống đọc, tối đa cũng chỉ có hai mươi phút đồng hồ, đồ chó đẻ nhà nó đã ngồi lù lù đối diện với tôi từ bao giờ? Tại sao tôi lại hoàn toàn không phát hiện ra gì cả... Hơn nữa, nơi đây là trong hầm ngầm bí mật của một tòa nhà bị bỏ hoang, tại sao lại có người khác ở đây được?

Lại còn cái động tác kỳ quái này nữa. Nó ngồi trên ghế dựa, nhìn vào tấm gương của Hoắc Linh, lại còn chải đầu, khiến tôi không thể không nghĩ: lẽ nào Hoắc Linh không đi cùng với những người khác... "Người" này là Hoắc Linh ư?

Mồ hôi lạnh của tôi tuôn ra như suối. Cũng may mà tôi thần kinh thép hơn xưa nhiều rồi. Mặc dù không thể nào hiểu nổi chuyện gì đang xảy ra thế kia, nhưng cơ thể tôi vẫn vô thức phản ứng lại. Tôi theo phản xạ có điều kiện lùi về phía sau vài bước, hai mắt nhìn thẳng vào đối phương, thần kinh căng lên cảnh giác.

Nếu đây mà là trong phim truyền hình thì hẳn mọi việc sẽ như này: tôi dáng vẻ đầy kinh hoàng, kẻ nấp trong bóng tối kia sẽ cười ba tiếng ha ha ha, sau đó đạo diễn sẽ cho quay một cảnh đặc tả, hoặc là quay cảnh kẻ đó rút một khẩu súng ngắn ra, nói: "Bất ngờ lắm phải không, ngài Bond Tà." Thế nhưng đây không phải là phim ảnh. Từ lúc tôi lùi ra sau, người nọ vẫn không nhúc nhích, vẫn máy móc rập khuôn động tác chải đầu. Cùng với từng bước lùi của tôi, ánh sáng bật lửa chập chờn càng yếu ớt dần, khoảng cách cũng càng ngày càng xa. Người nọ chìm vào trong bóng tối, sắp không nhìn thấy nữa rồi.

Lùi thẳng chừng năm sáu bước, tôi bắt đầu cảm thấy có chút an toàn, liền dừng lại lấy hết cam đảm hỏi một câu: "Ai đó?"

Sau khi xuống căn phòng dưới đất tôi gần như không hề lên tiếng câu nào, lúc này bật thốt ra, âm thanh khàn khàn gần như không giống với giọng tôi nữa, tự nghe mà còn tự giật mình đánh thót một cái. Có điều, trong căn phòng dưới tầng ngầm yên tĩnh đến nỗi cây kim rơi xuống đất cũng còn nghe thấy được này, giọng nói khàn khàn của tôi vang lên vẫn cực kỳ rõ ràng.

Nhưng sau khi tôi hỏi, đối phương vẫn không hề có phản ứng gì. Từ chỗ bàn làm việc đằng kia không có bất cứ âm thanh nào vang lên, cứ như là tôi đang nói chuyện với không khí.

Đồ chó đẻ, dọa rồ tao hả? Tôi chửi thầm, có hơi sợ thật rồi. Ngẫm lại vừa nãy nhìn thấy hình dáng quái gở của người nọ, tôi đã tự nhủ rằng có khi nào cái thứ đó chẳng phải con người hay không?

Không thể nào, không thể nào đâu, tôi tự phản đối chính mình. Nếu ở trong cổ mộ thì còn có thể, chứ đây là tòa nhà hiện đại cơ mà, làm sao mà có thứ đó thò ra được, ở đây làm gì có quan tài... Đợi đã đợi đã, sai rồi! Cái đuệch, ở đây có quan tài mà.

Đầu tôi nổ đánh đùng một tiếng, thầm nhủ không lẽ đó chính là bánh tông trong cái quan tài hồi nãy?

Tôi vội vã lắc đầu, ráng sức hổn hển hít thở mấy hơi để làm mình bình tĩnh lại.

Việc này không có khả năng đâu. Có lý nào mà vừa đụng phải quan tài là đã có bánh tông bò ngay ra chứ. Nếu thế thật thì chẳng phải những người làm ở nhà tang lễ đều phải thi đỗ chứng chỉ Mao Sơn thuật sĩ hết cả hay sao?

Đúng thời khắc này, trong đầu tôi chợt nảy ra một ý nghĩ: liệu có phải chính người này đã gửi băng ghi hình cho tôi? Rồi chờ tôi ở chỗ này?

Theo như cuốn sổ tay tôi vừa xem hồi nãy, thì người đã dàn xếp vụ gửi băng hình chính là Văn Cẩm. Nhưng trên thực tế thì không thể xác định chắc chắn cô ấy chính là người gửi băng hình được, biết đâu cô ta đã cử người khác làm việc đó thì sao.

Đến đây thì tôi cảm thấy giả thiết này rất có khả năng đấy. Kiểu phòng ngầm dưới đất này người bình thường không thể biết được, nhất định phải hiểu rõ sự tình thì mới có thể vào đây. Biết đâu người gửi băng vẫn ở gần đây chờ tôi, thấy tôi trèo vào nhà thì cũng vào cùng. Nghĩ vậy, tôi có phần vững dạ hơn đôi chút. Tôi cố lấy can đảm, bụng bảo dạ nếu là người sống thì khỏi phải sợ rồi. Vì thế tôi nhíu mày, đưa cái bật lửa ra đằng trước nhìn xem đó rốt cuộc là ai.

Tôi cẩn thận từng li từng tý, dò dẫm đi lên hai ba bước. Tôi có thể loáng thoáng thấy cái bàn làm việc kia rồi. Thế nhưng vừa nhìn một cái tôi liền sợ đến nhảy dựng cả lên. "Người" ngồi ở chỗ kia đã không thấy đâu nữa.

Tôi nheo mắt lại nhìn cho cẩn thận, xác định đúng là không thấy nữa. Trên ghế không hề có người. Trong lòng tôi nổi lên nghi hoặc. Tôi tự nhủ không lẽ hồi nãy mình nhìn nhầm rồi sao? Ảo giác chăng?

Không thể nào. Cái thứ nhìn mà toát cả mồ hôi lạnh ra ấy, tôi tuyệt đối không có khả năng nhìn nhầm. Tôi lập tức căng thẳng hẳn lên, vội vàng giơ cao chiếc bật lửa soi ra khắp bốn phía.

Thế nhưng lúc tôi giơ nó lên cao động tác lại quá mạnh. Ngọn lửa phừng lên một cái rồi tắt ngúm.

Bốn bề lập tức tối như hũ nút, giơ tay không nhìn thấy ngón. Trong này một chút ánh sáng cũng không có, hoàn toàn chìm trong bóng tối. Bụng dạ tôi liền quặn lên, không thèm để ý đến chuyện đầu bật lửa còn đang nóng bỏng muốn chết, vội vàng bật vài cái đánh lửa.

Nhưng mà cứ đánh hoài đánh mãi, thứ này nó vẫn không thèm hợp tác, có đánh thế nào cũng không cháy lên được mà chỉ thấy mấy tia lửa văng tóe ra, cực kỳ chói mắt trong cái hầm ngầm tối đen như mực này. Tôi nhận ra có lẽ nhiên liệu đã cạn rồi.

Tôi tự nhủ thôi chết mọe nó rồi. Nhìn xung quanh tối đến mức giơ tay không thấy ngón, một dự cảm cực kỳ xấu liền dâng lên. Tôi nhét cuốn sổ tay vào túi, chuẩn bị lùi ra sau vài bước, lần mò đến cửa ra vào thì đột nhiên nghe thấy trên đỉnh đầu có một tiếng xì xào, cứ như  có một người phụ nữ đang cười.

.

——————–

Đuệch mợ Bond Tà, chịu hết nổi rồi =))))))))))))))))))))))))))

Chương 43. Biến cố kinh hoàngEditor: Cơm Nắm Nướng ChảoBeta: Earl Panda.
Đôi lời nhắn nhủ:
Tình hình là hàng lại lên trong lúc yêm ở công ty vắt giò lên cổ chạy đủ chỉ tiêu "xuất hàng" nên đành nhắn ở đây cho nó nổi bật . (Vâng dạo này lịch của yêm là ra về lúc 9h đêm TT____TT ) Cũng chẳng có gì đâu, chỉ là đôi dòng thông báo cho mấy thým hủ chuẩn bị khăn giấy với vài bịch máu. Chương sau tối lửa tắt đèn rồi các thým ạ ="))
..*****

Bình thường tôi không hút thuốc lá, chỉ có những lúc vô cùng buồn bực mới rít vài ba hơi, cho nên cái bật lửa này từ khi mua đến giờ tôi chưa từng bơm thêm nhiên liệu lần nào. Lúc này nó lại đột nhiên tắt làm tôi sợ đến tái mét cả mặt. Ở cái nơi như thế này mà không có ánh sáng thì thật là quá khủng khiếp.

Đúng lúc đang nghĩ xem phải làm sao thì tôi chợt nghe tiếng lao xao ở trên đầu, cứ như tiếng phụ nữ đang cười.

Tôi thoắt cái lạnh hết cả gáy. Căn phòng ngầm này rất thấp, trần phòng tôi chỉ cần giơ tay rồi nhảy lên là chạm đến. Tuy không nhìn thấy được gì, tôi vẫn theo phản xạ có điều kiện mà ngẩng đầu nhìn lên trên.

Vừa ngẩng lên một cái, tôi vẫn chẳng nhìn thấy gì nhưng lại cảm thấy có gì đó mượt mượt lông lông rủ xuống mặt mình. Tôi tiện tay quờ một cái, rồi thì ruột gan cứng đờ ra luôn. Tôi phát hiện ra đó chính là một đám tóc, hơn nữa lại còn ẩm ướt dính nhớp.

Từ sau vụ ngôi mộ đáy biển, tôi cực kỳ bài xích tóc ướt. Giờ đây tôi cảm thấy phát ớn đến tận cổ, cứ như nuốt phải chuột không bằng. Tôi mau chóng hạ thấp người xuống, giơ tay áo lên lau hết thứ dính trên mặt đi, đồng thời thân thể cũng bước lùi sang bên cạnh, ngẩng đầu liều mạng nhìn trừng trừng cái trần nhà đen thùi lùi.

Tối quá. Tôi hoàn toàn không thể tưởng tượng nổi lại tối tăm đến thế. Nỗi sợ hãi lập tức trào dâng trong lòng tôi. Tôi tự hỏi có chuyện gì thế này, trên trần nhà lại có một phụ nữ sao? Lẽ nào là cái người ban nãy giờ đã treo trên trần rồi? Bố đệt, có thể thế được cơ à? Không lẽ nó là thằn lằn chắc?

Sự việc càng lúc càng bất thường. Tôi sờ sờ thứ dinh dính trong tay, ngửi thử một cái, liền thấy một thứ mùi kỳ quái. Trong chốc lát tôi không nhớ nổi đã từng ngửi được mùi này ở đâu, nhưng giống như phản xạ có điều kiện, trong lòng tôi nảy sinh một linh cảm chẳng lành.

Đúng lúc này, cái tiếng cười lao xao kia lại vang lên, nghe cứ thấy như là từ trên trần nhà vọng xuống chỗ tôi. Tôi lập tức lại lùi ra sau vài bước, "bịch" một cái đụng phải chiếc bàn làm việc. Trong căn phòng ngầm yên tĩnh, tiếng động ấy vang lên như sấm nổ, bản thân tôi nghe mà cũng phát khiếp đến nỗi đầm đìa mồ hôi lạnh.

Khi tôi đứng được cho vững thì đã không còn nghe thấy âm thanh kia nữa. Tôi càng lúc càng căng thẳng, mà không phải là kiểu căng thẳng bình thường. Chẳng biết vì sao mà toàn thân tôi bắt đầu run lẩy bẩy, dường như trong tiềm thức tôi đã dự cảm được chuyện gì đó cực kỳ đáng sợ sắp xảy ra. Tiếp đó, tôi bỗng cảm thấy sau gáy ngứa râm ran, cứ như có thứ gì thõng xuống ở phía sau đầu tôi vậy.

Tôi nắm lấy cái bật lửa, không nhịn nổi nữa, run như con cầy sấy mà quay đầu lại, dùng hết sức lực đánh viên đá lửa lên.

Roẹt một tiếng, tia lửa tóe ra, rồi trước mắt lại là một màn đen kịt. Nhưng cảnh tượng kia đã khắc rõ như in vào trong óc tôi.

Cấm Bà! Tôi lập tức biết ngay tại sao cơ thể mình lại có cái phản ứng này rồi. Chó má thật, trong này có một con Cấm Bà!

Đầu óc tôi bỗng trống rỗng, tỉnh táo cái mẹ gì đều bay biến sạch sẽ hết. Tôi thét lên một tiếng quái đản rồi bỏ chạy như điên, mặc kệ hết tất cả, lao thẳng vào trong bóng tối. Trong đầu tôi chỉ còn một ý nghĩ, chính là phải chạy ngay ra khỏi chốn này.

Chưa chạy được bao nhiêu bước, thật sự đấy, cả người tôi đã đâm sầm vào vách tường. Cú lao đó có lực va chạm như của kẻ đâm đầu vào tường tự sát. "Bịch" một tiếng, tôi ngã ngửa ra trên đất, lúc đứng lên thì chợt nghe trên đỉnh đầu có tiếng "leng keng leng keng" xộc thẳng đến chỗ tôi. Mặc kệ lỗ mũi mình ròng ròng máu, tôi bò dậy theo cảm giác tìm cái cổng tò vò ban nãy vừa đi vào, lần nữa lao vọt đến đó.

Lần này thì tôi đã khôn ra rồi. Tôi duỗi tay ra đằng trước, một mạch sờ soạng rồi xông ra ngoài, dựa vào trí nhớ mà vọt đến hành lang, sau đó lần theo tường phi tới lối ra, rồi lại xông vào trong bóng tối, sờ soạng loạn xạ muốn tìm đến đầu cầu thang.

Thế nhưng trong một nơi tối om mà muốn lần ra cái cổng tò vò kia thì thật quá khó khăn. Tôi sờ soạng cả buổi mà đến cái vách tường còn chẳng sờ thấy. Lần lần mò mò, tôi đột nhiên vấp phải cái gì đó, gần như ngã sấp xuống. Tôi quờ quạng ra đằng trước một lát, nhoài người lên, lập tức liền biết ngay là mình đã vấp phải cỗ quan tài bằng đá.

Tôi tỳ vào cỗ quan tài đá, muốn đứng dậy, nhưng trong lúc tay sờ loạn xạ trên nắp quan tài, tôi đột nhiên cảm thấy không ổn, quan tài đá này hình như đã có gì thay đổi rồi. Tôi sờ thử thêm một lát liền phát hiện: thì ra nắp bộ quan quách đá đã bị người ta dịch đi một khoảng nhỏ, tay tôi lại sờ đúng lỗ hổng trên đó.

Cỗ quan tài đá này sao lại bị mở ra được? Trong khoảnh khắc nghi vấn này đã nảy sinh trong đầu óc tôi. Thế nhưng lúc này đầu tôi đã rối thành một mớ bòng bong rồi, chỉ thấy choáng váng một trận, tôi cũng không rảnh mà lo đến vấn đề này nữa. Thoắt cái tôi đã đứng dậy, tiếp tục sờ soạng đi lên phía trước.

Đúng vào lúc đó, bỗng nhiên bên cạnh có thứ gì động đậy một cái. Thần kinh tôi căng thẳng đến cực hạn, gần như bị dọa cho chết khiếp rồi, vừa định giật mình né ra thì bỗng một bàn tay duỗi tới, lập tức miệng tôi bị người ta bịt chặt, cơ thể cũng bị người ta kẹp cứng không thể nhúc nhích.

Tôi ra sức giãy giụa vài cái. Thứ đang ghìm chặt tôi sức lực quá lớn, tôi không thể nhúc nhích nổi dù chỉ một ly. Cùng lúc đó, tôi chợt nghe bên tai có người khẽ quát: "Đừng cử động!"

Tôi vừa nghe liền kinh hãi, lập tức thôi không giãy giụa, trong lòng gần như phát nổ tanh bành.

Tuy chỉ vẻn vẹn có ba tiếng, nhưng nghe xong tôi vẫn nhận ra được ngay người nói là ai!

Đó ấy vậy mà lại là tiếng của Muộn Du Bình.

.

================

Bị Cấm bà phi lễ một lần, cơ thể liền nhớ như in luôn -3-|||
Vầy là Cấm Bà thì phi lễ bạn Tà, Văn Cẩm thì có liên hệ với bạn Bình. Kẻ trồng bông bách hợp như cháu phải làm gì (Д')・゜・。

Chương 44. Trùng phùngEditor: Cơm Nắm Nướng ChảoBeta: Earl Panda.Note: Chương này ngâm lâu ủ kỹ đọc từ tốn mới cảm thấy đủ mắc ói các bác ợ щ(Дщ) Chương này các bác sẽ được thấy bức chân dung một con đàn bà chanh chua đanh đá nhưng thoắt cái đổi mặt dịu dàng nhỏ nhẹ trước mặt người tình cùng với một con Tsun chúa rõ thiên vị người ta rồi mà còn ra vẻ щ(Дщ)Nhân tiện, chắc các biết các bài diễn văn cám ơn bất hủ đã chính thức confirmed "truyền thuyết 370" của Béo rồi, tui tò mò vẻ mặt của "người đàn ông quan trọng nhất đời" Béo năm ấy như thế nào khi đọc bộ truyện này lắm щ(Дщ)..*****

Trong tích tắc tôi liền nhận ra ngay giọng nói kia. Tôi vốn nên phải có vô số những phản ứng, như nghi hoặc, giận dữ, kinh ngạc, khó tin, hoảng sợ, vân vân... Nhưng trên thực tế đầu óc tôi lại trắng xóa.

Ở nơi này, nghe được giọng hắn thật sự là điều tôi không thể ngờ tới. Trong suy nghĩ của tôi, vào lúc này, Muộn Du Bình có thể ở bất cứ nơi nào trên đời, thậm chí kể cả không còn trên thế giới này, nhưng hắn tuyệt đối không có lý do gì để xuất hiện ở đây hết.

Chính xác! Hắn tại sao lại ở chỗ này? Hắn làm gì ở đây?

Lẽ nào người gửi băng ghi hình lại thật sự là hắn? Hắn ẩn núp ở đây sao?

Hay là cũng giống như tôi, hắn cũng vì truy đuổi theo đầu mối nào đó mà tìm đến?

Sau khi đầu óc rỗng tuếch ra, vô số nghi vấn lại ập đến như thủy triều, trong chốc lát tôi không sao suy nghĩ gì được nữa. Đồng thời, trong đầu tôi lại hiện ra cảnh hắn đi vào trong cánh cửa thanh đồng. Một luồng cảm xúc tức thì trào dâng, tôi thật muốn lập tức níu chặt lấy hắn, bấu lấy cổ hắn hỏi cho rõ ràng: đồ của nợ kia rốt cuộc anh đang làm trò quỷ gì thế hả???

Thế nhưng sự thật lại là hắn đang bịt kín miệng tôi (âm mưu biến tôi thành cái bình kín miệng như hắn – xin lỗi không troll không được ="))))))) ). Trong bóng tối, tôi một tiếng rên cũng không rên lên nổi, ngọ ngoậy cũng không nổi. Hơn nữa, tôi còn cảm thấy rất rõ ràng là hắn vẫn tiếp tục dùng sức, hoàn toàn không có ý định buông lỏng mà cứ muốn ghì siết tôi như vậy. Điều này khiến tôi rất không thoải mái. Tôi lại dùng sức quẫy người một cái, hắn bèn ép sát càng chặt hơn. Tôi suýt nữa thì không thở nổi.

Đúng lúc này tôi lại nghe thấy cánh cửa gỗ mới vừa được mình đóng lại kia phát ra một tiếng kéét~ cực kỳ chói tai, bị cái gì đó đẩy ra.

Thứ kia ra rồi. Tôi hít sâu một hơi, lập tức yên lặng, nén lại hơi thở, không vùng vẫy nữa, tập trung cảm nhận động tĩnh khác thường trong bóng tối.

Thoắt một cái, cả gian phòng yên tĩnh vô cùng. Không bị âm thanh của chính mình làm nhiễu nữa, tôi liền nghe thấy thật nhiều tiếng động. Đó là tiếng hít thở vô cùng nhỏ, gần sát ngay cạnh đầu tôi.

Đây là tiếng hít thở của Muộn Du Bình. Mẹ kiếp, hắn còn sống. Lúc đó chứng kiến hắn đi vào trong cửa thanh đồng, tôi còn tưởng hắn chết chắc rồi, đã tiến vào trong địa ngục mất rồi.

Muộn Du Bình có lẽ đã thấy tôi bình tĩnh lại rồi, bàn tay đang ghì chặt lấy tôi liền hơi hơi nới lỏng, nhưng vẫn không hề có ý định buông ra như cũ. Rất nhanh, khắp bốn phía liền trở nên yên tĩnh đến nỗi còn nghe thấy được cả từng nhịp đập của trái tim mình.

Cứ đứng im như tượng thạch cao vậy, chẳng biết cầm cự được bao lâu, tôi chợt nghe thấy những tiếng lép nhép cực kỳ quái gở vang lên từ phía cửa.

Lại một lát sau, không còn nghe thấy bất cứ tiếng động gì nữa, bàn tay bịt miệng tôi mới hoàn toàn nới lỏng. Bất thình lình, trước mắt tôi hoa lên một cái, là hỏa chiết tử(*) đã được thắp sáng.

(* Này không liên quan lắm, nhưng hồi nhỏ mình coi chuyện Nguyễn Tuân thấy bên mình ngày xưa cũng có món đồ giống hỏa chiết tử, gọi là 'hồng', cũng là thứ cho dân trộm đạo đào tường khoét vách sử dụng. Khi thắp cái này lên người ta không gọi là thắp sáng mà kêu 'bật hồng', như một dạng tiếng lóng. Ở đây lan man chút thôi, chớ bạn đọc lâu năm bên blog chung cư chắc cũng đã biết hỏa chiết tử là gì rồi, nên mình ko chú thích nữa đâu :"3)

Tôi phải mất thời gian khá lâu mới thích ứng được, nheo mắt lại nhìn xem, khuôn mặt quen thuộc kia cuối cùng cũng hiện ra rõ ràng trước mặt tôi.

Muộn Du Bình gần như không khác chút nào so với lúc hắn biến mất mấy tháng trước. Điểm khác biệt duy nhất là trên mặt hắn thế mà lại mọc chân râu. Tôi cảm thấy vô cùng bất ngờ, nhìn kỹ lại mới phát hiện đó không phải chân râu, mà đó là bụi bặm dính lên mặt hắn thôi.

Đầu óc tôi bây giờ hoàn toàn tắc tị, chỉ biết ngây người ra nhìn hắn, mấy vấn đề lúc trước nghĩ tới đều quên hết sạch, nhất thời không biết nói năng chi. Mà hắn thì hình như chẳng thèm để ý gì đến tôi, chỉ thờ ơ liếc mắt nhìn tôi một cả, chẳng hỏi han gì, rồi cẩn thận khom lưng đến bên cạnh cánh cửa kia, dùng hỏa chiết tử soi vào trong cửa, sau đó liền đóng nó lại.

Đóng cửa xong hắn đứng bật dậy, giơ hỏa chiết tử soi lên trần phòng, bắt đầu tìm kiếm thứ gì đó. Tôi giận sôi hết cả ruột gan, mấy lần muốn xông ra xỉa xói mấy câu nhưng đều bị hắn dùng tay ra hiệu chặn lại.

Cái động tác đó có lực mạnh và tốc độ cực nhanh, khiến tôi cảm thấy thời gian đang rất gấp rồi, mà hành động của hắn tôi lại chẳng hiểu gì cả, đành liếc mắt nhìn theo ánh lửa của hắn.

Hỏa chiết tử không sáng lắm, nhưng trong bóng tối như thế này, cộng với sự liên tưởng của bản thân, tôi lập tức hiểu rõ được tình cảnh trong căn phòng này.

Lúc đi vào tôi không chú ý đến trần của phòng ngầm, giờ ngẩng đầu lên liền phát hiện trên đó toàn là những đường ống, giống hệt như bãi để xe ô tô thời hiện đại. Những đường ống này đều được quét một lớp sơn xám bạc phếch. Có thể thấy chỗ này từng được tân trang nhiều lần, dưới lớp sơn còn có lần sơn cũ. Nóc phòng phủ vôi trắng, lớp vôi được quét bên ngoài gạch gần như đã tróc ra từng mảng, để lộ từng đoạn từng đoạn gạch trần. Xem ra con Cấm Bà kia chính là theo đường này mà bò vào.

Bảo sao ở nơi này lại có cái thứ đó, hóa ra cái đệch con mọe nó chứ chính là chui từ đây ra chứ đâu.

Muộn Du Bình nhìn khắp một lượt, trông rất cẩn thận nhưng động tác cực nhanh nên nửa chừng hỏa chiết tử tắt mất. Hắn lại nhanh chóng thắp một cái khác lên, xác định không có thứ gì nấp ở đó. Thế rồi hắn quay lại trước mặt tôi.

"Không ra cùng." Hắn nhìn cánh cửa kia nói khẽ.

Tất cả mọi câu hỏi mọi thắc mắc nén nghẹn trong tôi gần như muốn nổ lanh tanh bành mà phọt ra hết đằng miệng rồi. Nhưng không ngờ hắn vừa quay đầu về phía tôi, liền ra dấu bảo tôi nhỏ giọng thôi. Tiếp đó hắn hỏi một câu nhẹ như gió: "Cậu tới đây làm gì?"

Tôi lập tức máu xông lên não, muốn nhảy dựng lên bóp hắn chết tươi luôn, trong lòng gầm rú tiên sư bố nhà anh cái đồ mặt thớt! Anh hỏi tôi ấy hả, bố đây còn chưa hỏi anh đây này! Tưởng tôi rảnh háng lắm nên tự đến đây à? Nếu không phải vì mấy cuốn băng ghi hình kia, có đánh chết bố cũng đéo thèm đến chỗ này đâu!

Tôi nghiến răng những muốn nổi trận lôi đình văng đủ thứ tục tĩu ra luôn, nhưng nhìn đến mặt hắn tôi lại không sao thoải mái văng vãi các kiểu như khi ở cùng với Bàn Tử được. Những lời thô tục kia không có chỗ văng ra, nghẹn đến suýt nữa khiến tôi nội thương. Tôi cắn răng nhịn xuống hồi lâu mới trả lời được: "Nói ra dài lắm. Anh... sao lại ở trong này? Mà đây rốt cuộc là chỗ nào? Anh anh anh... lúc đó, không phải đã vào cánh cửa kia rồi sao? Mẹ kiếp ở đây là có chuyện gì xảy ra thế?"

Thực sự khó khăn lắm mới nói ra được mấy câu hỏi này. Trong đầu tôi đã rối thành một mớ bòng bong rồi, cũng không biết phải nói sao mới có thể sắp xếp những câu hỏi này cho hợp lý được.

"Nói ra dài lắm." Muộn Du Bình chẳng biết căn bản là không muốn trả lời hay là đang đánh trống lảng. Lúc tôi nêu câu hỏi thì sự chú ý của hắn đã được ném về phía cỗ quan tài đá khổng lồ kia rồi. Tôi nhìn một chút, quả đúng là nắp quách đá đã bị đẩy ra để lộ một khe hở lớn, nhưng bên trong tối om nên chẳng biết có cái gì.

Tôi sợ nhất là lúc hắn như thế này. Còn nhớ trước kia, hễ cứ có vấn đề nào mấu chốt mà tôi hỏi đến là y như rằng hắn sẽ bày cái vẻ này ra, tức thì tôi lại không muốn truy hỏi thêm nữa. Thế nhưng tôi còn chưa mở miệng thì Muộn Du Bình đã vẫy tay một cái với tôi, lại bảo tôi đừng nói nữa, quay đầu nhìn vào trong quan quách.

Động tác này tôi đã quá quen thuộc. Tuy không biết xảy ra chuyện gì, nhưng tôi lập tức ngậm miệng theo phản xạ, cũng đến gần nhìn vào cỗ quan tài. Nhờ Muộn Du Bình đưa hỏa chiết tử đến, tôi mới loáng thoáng thấy bên trong. Ấy thế mà, trong quan tài lại trống rỗng. Tôi thấy đáy cỗ quan tài đá sạch như lau như li chẳng có đồ đạc gì, nhưng quái gở chính là, dưới đáy quan tài ấy lại có một cái cửa hang.

Tôi đang tò mò thì chợt nghe thấy từ trong hang truyền ra một vài tiếng động rất nhỏ, cẩn thận lắng tai cũng không nghe ra được cái gì. Chỉ trong chốc lát, đột nhiên một cánh tay liền thò ra từ trong hang, một người như con cá chạch tuồn ra từ cửa hang chật hẹp kia, sau đó xoay người một cái vọt ra theo khe hở ở nắp quan tài, uyển chuyển đáp xuống trước mặt chúng tôi.

Tôi sợ đến nhảy dựng cả lên. Chỉ thấy người nọ sau khi tiếp đất thì chùi mồ hôi lạnh trên đầu một lát, liếc nhìn Muộn Du Bình, tiếp đó giơ lên món đồ trong tay, khẽ nói: "Đã vào tay."

Người kia tựa hồ chỉ đợi chính lúc này, vỗ tôi một cái rồi nói khẽ: "Đi thôi!"

Tôi đi theo bọn họ, cẩn thận từng chút nhón mũi chân rón ra rón rén theo đường cũ quay lên. Nhưng mới sải bước được hai ba bậc cầu thang đã nghe cửa phía sau mở đánh két một tiếng.

Người phía trước liền chửi một câu, bắt đầu vùng chạy. Tôi lập tức bám theo, một mạch chạy như điên, lăn lê bò toài mà xông ra ngoài. Xông thẳng ra cái sân nhỏ rồi phi qua tường bao, chúng tôi mới thở phào nhẹ nhõm.

Tôi mệt mỏi thở hồng hộc. Thế nhưng hai người kia căn bản không định dừng lại, sau khi phi xuống liền chạy trối chết ra ngoài, bỏ mặc luôn tôi ở đó. Tôi tự nhủ lần này anh đừng hòng thoát khỏi tôi nhá, rồi vội vã đuổi theo.

Lại là chạy thục mạng, chạy thẳng ra khỏi khu phố cũ. Đột nhiên một chiếc xe mười sáu chỗ từ trong bóng tối vọt ra. Cửa xe lập tức bật mở, hai người kia tiến đến nhảy tọt vào. Chiếc xe kia vốn không định đợi tôi, cửa xe muốn đóng sập luôn lại, nhưng không biết là do ai giữ lại một thoáng, tôi mới cố kiết nhảy lên được.

Tôi thở không ra hơi. Lần chạy trốn này quả thực là tối tăm mặt mũi. Lên xe rồi tôi liền tê liệt, gục tại chỗ nhắm mắt hớp vài ngụm không khí mới tỉnh được ra.

Lập tức tôi liền nhìn bốn phía, nhìn xong thì choáng váng. Chiếc xe này bên trong chật kín người, hơn nữa toàn bộ đều đang dùng một cái vẻ mặt đểu giả như cười mà không phải cười để nhìn tôi. Vả lại, điều khiến tôi không thể tưởng tượng được nhất, đó là trên xe có rất nhiều người tôi biết. Tôi liếc một cái liền thấy mấy gương mặt cực kỳ quen thuộc.

Trời ạ, tất cả đều là đám may mắn sống sót từ trong Vân Đỉnh Thiên Cung kia đi ra chứ ai! Đội của A Ninh, cái đám Tây Tàu lẫn lộn, chúng tôi đã ở Cát Lâm cùng nhau lăn lộn đã lâu rồi.

Thấy vẻ mặt kinh ngạc của tôi, mấy người tôi đã qua lại đến nhẵn mặt kia liền nở nụ cười. Một người Caucasus dùng thứ tiếng Trung sứt sẹo nói với tôi: "Siêu Nhân Ngô (SuperWu là ngoại hiệu A Ninh đặt cho tôi), hữu duyên thiên lý lai tương kiến." Tiếp đó tôi thấy A Ninh ló đầu ra từ sau một băng ghế ngồi, nhìn tôi một cách cực kỳ kinh ngạc.

(Caucasus: ngày xưa các cụ hay gọi là Cáp-ca-dơ, giờ gọi là gì mình cũng chệu. Nó chính là khu vực dãy Kavkaz giữa Nga với Trung Đông đó.)

Tôi nhìn nhìn Muộn Du Bình, lại nhìn nhìn người ban nãy chui ra từ trong cỗ quan tài đá. Đó là một thanh niên lạ mặt mang kính râm. Hai người bọn họ đều không hề thở gấp, cũng đang nhìn lại tôi. Đột nhiên tôi cảm thấy bấn loạn quá, bèn hỏi bọn họ: "Cái đám khỉ gió này, ai có thể nói cho tôi biết rốt cuộc là có chuyện gì xảy ra không hả?"

A Ninh liền nói: "Chuyện này nên hỏi anh mới đúng chứ, sao anh lại ở trong phòng ngầm?"

Chiếc xe mười sáu chỗ chạy thẳng một lèo qua nội thành Cách Nhĩ Mộc, chẳng mấy chốc đã vọt vào sa mạc. Mà tôi ngồi trong xe, ngoài cửa sổ tối mịt nên chẳng biết gì về chuyện này.

Trên đường đi, tôi và A Ninh nói một câu chuyện dài, cùng kể lại câu chuyện của cả hai bên.

Hóa ra A Ninh phát hiện thấy địa chỉ và chìa khóa trong băng ghi hình. Rõ ràng trong "ba người" được nhắc đến trong cuốn sổ tay của Văn Cẩm, có một người chính là cô ta. Sau khi cô ta phát hiện bí mật này thì lập tức phân chia hai tuyến công tác. Một mặt cho người đến nơi này dò tìm địa chỉ, một mặt thân chinh đến Hàng Châu để dò xét tôi. Cô ta muốn xem tôi rốt cuộc có biết bí mật trong băng ghi hình này hay không.

Nhưng điều mà cô ta thật sự không ngờ chính là kỳ thật tôi cũng nhận được cuộn băng như vậy. Hơn nữa, sau khi cô ta tìm đến, tôi đã nhanh chóng xuất phát đi Cách Nhĩ Mộc, thậm chí đã tìm được tòa nhà ma kia gần như cùng lúc với họ.

(Cũng may tôi lần này hành động thật sự mau lẹ sáng suốt, chứ không thì đảm bảo là đã chẳng sờ được tới cuốn sổ tay kia rồi. Nghĩ lại tôi liền thấy sợ, có điều cũng có chút vui vẻ. Tôi sờ lên cuốn sổ tay trong túi áo. Đây là lần đầu tiên tôi tự mình hành động mà giành được thành quả lớn như thế. Xem ra ông nội quả nhiên nói đúng, làm chuyện gì cũng phải chủ động mới tốt.)

Lúc sau tôi lại hỏi A Ninh đã có chuyện gì với Muộn Du Bình thế, tại sao bọn họ lại ở cùng với nhau vậy. A Ninh liền cười nói: "Sao vậy? Chú Ba anh mời được, bọn tôi mời không được chắc? Hai vị này trông thế mà yết giá công khai đấy. Hiện tại bọn họ là cố vấn của chúng tôi."

Vừa nói xong thì gã kính đen liền nhếch môi cười, khoát tay với tôi.

"Cố vấn?" Nhắc đến cố vấn tôi cũng nhớ đến Bàn Tử, tự nhủ A Ninh lần này đã có kinh nghiệm, mời được người đáng tin cậy rồi. Có điều Muộn Du Bình mà lại thành cố vấn của A Ninh ấy hả? Cảm giác thật quái lạ, tôi thấy mình như bị phản bội.

Lúc này người Caucasus ngồi một bên liền nói: "Đừng nghe cô này nói linh tinh. Hai vị đây bây giờ là đồng sự hợp tác cùng chúng tôi, do ông chủ của chúng tôi trực tiếp cử đến đấy. Ninh chỉ là phụ tá thôi. Hiện giờ hành động chủ yếu đều do bọn họ phụ trách, chúng tôi chỉ lo phần thông tin và tiếp ứng. Chuyện này tương đối an toàn. Ông chủ nói về sau việc chuyên nghiệp thì cứ phải để dân chuyên nghiệp làm."

Đây là do ở Vân Đỉnh chết nhiều người quá. Tôi nhớ lại tình hình lúc đó, bèn hỏi: "Tất cả mọi việc là thế nào thế? Nội dung băng ghi hình, còn có con Cấm Bà ở bên trong, các anh có manh mối gì không?"

Chuyện này cả mấy người liền lắc đầu, hơn nữa ánh mắt đều ném cả về phía Muộn Du Bình và Hắc Nhãn Kính. A Ninh liền trừng mắt nhìn bọn họ, sau lại liếc về phía tôi một lát, rồi nói: "Tình hình cụ thể chúng tôi cũng không rõ lắm, có lẽ cũng không biết nhiều hơn cậu là mấy đâu. Chúng tôi bây giờ đang hành động theo lời bọn họ. Hai anh bạn này khó nói chuyện lắm."

Nghe những chuyện này xong, tôi liền quay sang Muộn Du Bình. Lúc này kìm nén không được nữa, tôi nhất định phải hỏi hắn cho rõ ràng ra, bắt hắn phải nói cho tôi biết rốt cuộc là đã xảy ra chuyện gì.

Thế nhưng chẳng đợi tôi chuẩn bị sẵn sàng, khoang xe đột nhiên bắt đầu rung lên. Bác tài người dân tộc Tạng hô một tiếng, tất cả mọi người bắt đầu lấy hành lý của mình.

Tiếp đó xe chạy chậm dần rồi dừng hẳn, cửa xe bị xô bật mạnh ra. Bên ngoài đã có thể nhìn thấy một tia sáng ban mai. Luồng gió trên bãi sa mạc lạnh cóng ùa đến dữ dội.

Tôi bị đẩy xuống xe, sau đó liền được chứng kiến một cảnh tượng khiến tôi phải trợn mắt há mồm. Hơn mười chiếc Land Rover xếp thành một hàng đậu trên sa mạc, một lượng lớn đồ đạc chồng chất trên mặt đất, lửa trại từng đống, đâu đâu cũng thấy toàn là người mặc áo ba-đờ-xuy, còn có rất nhiều người nằm trong túi ngủ, ăng-ten vệ tinh to tổ bố và đèn măng-sông chiếu sáng dựng một bên.

Chỗ này trông cứ như bãi tập kết của đám bạn chơi xe vậy, nhưng nhìn kỹ thì biết ngay không phải. Tất cả các xe ở đây đều được sơn một kiểu thống nhất, trên cửa xe đều có một logo hình san hô sừng hươu thùy tròn xoay quanh tâm, vừa nhìn đã biết là tài sản của công ty A Ninh.

Thấy chúng tôi đổ bộ xuống, rất nhiều người chạy tới vây quanh. Chẳng biết A Ninh nói gì với họ mà có rất nhiều người reo hò ầm lên.

Cảnh tượng này khiến tôi vô cùng hốt hoảng. Tôi túm lấy anh bạn người Caucasus đang vỗ tay ăn mừng với người khác, hỏi anh ta đang làm gì?

Anh chàng người Caucasus vỗ vỗ tôi: "Anh bạn à, chúng ta sắp đi 'Tháp Mộc Đà' rồi đó."

.

.

————

Chuyên mục chuyện vui giờ G ಥ⌣ಥ

Trong chương này có một đoạn đồng chí Ngô chửi đồng chí Trương là 龟毛, cái này thì cũng chẳng có gì, cho đến khi tìm được một đoạn giải nghĩa đầy-mùi-uất-hận-kích-động của một bạn trên mạng, khá điên cuồng, khá hường phấn, khá tsun, khá cuteo, cảm thấy có phần hợp hợp, thiết nghĩ dịch qua loa ra các bác đọc trong buổi trà dư tửu hậu cho dzui (ノ ̄ω ̄)ノ

龟毛男 đặc biệt là để chỉ cái loại đàn ông suốt ngày lo trước lo sau, sợ được sợ mất, không bao giờ quyết định được cái vấn đề gì. Thế này không được, thế kia không xong, mỗi lần cái tên 龟毛男 quyết định vấn đề gì đều chậm như rùa bò, người ta đi uống hết một bữa trà chiều về rồi mà hắn vẫn chưa quyết định xong. Trong từ điển của 龟毛男 không hề có cái gì là "mùa xuân" hết. 龟毛男 mặt mũi thì vĩnh viễn NOTHING, cô gái nào thích hắn thì có mà là người sao Hỏa hết! Cho dù bạn có đẹp nghiêng thùng đổ nước, đẹp đến hoa gặp hoa nở xe gặp xe chở đến mấy, thì 龟毛男 vẫn lù lù bất động, thủ thân như ngọc. 龟毛男 không phải bị yếu sinh lý, chỉ là quá ù lỳ: lúc cần tỏ tình thì bị mất trí nhớ, lúc cần hôn môi thì nhổ toèn toẹt mấy bãi đờm, lúc cần sung sức thì cứ như bị thiếu máu, lúc cần lên giường thì mượn lý do đi nhà xí mà chạy. 龟毛男 không 龟毛 thì thôi, một khi đã 龟毛 là kinh hồn khiếp vía, 龟毛 đâu thắng đó, không gì cản nổi!

Mà điểm chết người chính là 龟毛男 thường có ánh mắt chết người và sự dịu dàng chết tiệt!!

Chương 45. Nơi tập kếtEditor: Yoo ChanBeta: Cơm Nắm Nướng Chảo, Earl Panda.Note: Tèn ten phúc lợi đêm Giáng Sinhhhhhhhhh!~~~ Nằm trong sê ri hint đập vỡ mặt các chương 4x gần đây, với chương 45 này bà con sẽ được chứng kiến cảnh kẻ-nào-đấy đã bị vạch trần bộ mặt thật, lộ ra nguyên hình là một con TSUN chúa to bự chảng ヾ(*⌒ヮ⌒*)ゞ  Thiếu nữ bánh chuối đã bị kích thích, nổi cơn lôi đình quyết định một mực đeo bám con Tsun bự (¯¯)Rồi, tung hường đã xong, giờ vô chính sự. Hôm nay xin thông báo với bà con 2 tin, một tin tốt và một tin hơi xấu. 川'・ω・'川 Tin tốt là hôm nay, sau bao ngày tháng cuối cùng cũng nhảy ổ được cái chương 45 này 川'・ω・'川Tin hơi buồn là từ chương này trở đi chúng iem mạn phép sẽ tạm ngưng trong một thời gian.  Một là vì hàng tồn các chương trong kho đã chính thức cạn kiệt. Hai là, như các bác đã biết, độ này chúng iem đang cày cuốc chiến đấu với ĐMBK ở một mặt trận khác, để tập trung lương thảo và binh lực cho mặt trận này, chúng iem sẽ tạm ngưng update chương mới phần 5 này. Mong các bác thông cảm, không thông cảm cũng đành chịu ( (ミ'ω'ミ))Iem xin hết V(=^・ω・^=)v.Kem đánh răng: Suốt bao lâu nay mong ước được đổi tên thằng Hắc gấu chó thành Kính Dâm, à nhầm, Kính Râm cuối cùng cũng thành hiện thực rồi (¯¯)..*****.

Tôi nghe mà trợn mắt há mồm. Mới đây thấy tên địa điểm này được nhắc đến trong sổ tay của Văn Cẩm, mà sao giờ bọn họ cũng sắp tới đó rồi. Trong chốc lát tôi không kịp phản ứng gì. Hơn nữa bọn họ chắc hẳn chưa từng đọc được quyển sổ tay của Văn Cẩm đâu, vậy cớ sao lại biết đến sự tồn tại của nơi này chứ?

"Sao thế?" Anh chàng người Caucasus thấy vẻ mặt tôi kỳ quái, bèn hỏi thăm: "Sao tự nhiên mặt mũi trắng bệch ra thế kia?"

"Không có gì. Mới rồi bị dọa đó mà." Tôi lập tức che đậy một câu, rồi làm bộ như lạ lùng lắm, vừa bám theo anh ta vừa hỏi: "Tháp Mộc Đà là chỗ nào? Các anh tới đó làm gì thế?"

"Tháp Mộc Đà hả? Cái này nói ra dài lắm," Anh chàng Caucasus nhìn nhìn A Ninh đi phía trước một chút rồi nhỏ giọng bảo tôi: "Để lát nữa tôi kể cho nghe. Chúng ta đi xem xem hai vị Tiểu ca kia mang từ trong ấy ra thứ gì trước đã."

Tôi thấy ánh mắt anh ta nhìn tôi, hình như A Ninh không cho anh ta kể những chuyện này thì phải. Thế là tôi cũng ngầm hiểu trong lòng, cũng không gặng hỏi nữa.

Người trong khu tập kết cứ chạy qua chạy lại báo tin cho nhau, mấy người đang say giấc nồng trong túi ngủ đều bị đánh thức dậy. Chúng tôi đành phải cẩn thận luồn lách qua đám túi ngủ ngọ nguậy, đi một mạch theo nhóm A Ninh.

Cả khu tập kết thật là lớn, bao trọn cả cái bãi tập trung xe Land Rover1 ở ven đường nữa. Phía sau còn có một mảng toàn lều bạt, trong đó mái lều tròn lớn nhất đường kính phải tới bốn-năm mét, hẳn là do dân bản xứ dựng lên, bên trên còn có chữ Tạng đánh dấu, hình như là bảng giá thuê trọ. A Ninh dẫn chúng tôi vào. Trong lều rất ấm. Tôi thấy bên mép lều có đốt một lò than có ống khói nhỏ, trên nền đất trải lớp thảm lông dày nhiều màu sặc sỡ. Sau này tôi mới biết thứ đó gọi là "len lông cừu thô", hiện giờ là thứ tương đối xa xỉ. Ngoài ra còn có rất nhiều đồ gỗ gia dụng kiểu dân tộc Tạng ngày xưa, cùng với một số túi vải không dệt(*) ràng thành từng bó chưa được tháo ra.

(*) vải không dệt (Non woven fabric): có cấu tạo từ các hạt nhựa tổng hợp và một số thành phần tái chế tùy theo mục đích sử dụng, sau đó kéo thành các sợi và liên kết với nhau bằng dung môi hóa chân hay nhiệt cơ khí tạo thành những tấm vải nhẹ và xốp.

Cả căn lều thật ấm cúng dễ chịu. A Ninh ngồi xuống thảm trải sàn. Một người Tạng tiến đến, hình như là chủ lều, rót trà bơ cho mỗi người bọn tôi. Tôi bèn ngồi xuống quan sát những người này một chút.

Kẻ khiến tôi phát cáu nhất chính là Muộn Du Bình. Tên này ngồi ngay đối diện tôi, thế mà lại chẳng thèm nhìn tôi lấy một cái, chỉ tựa vào một đống chăn chiên bự rồi lập tức nhắm mắt nghỉ ngơi. Đám người trên xe ban nãy không đến hết cả đây, mà chỉ có một số người tôi không quen biết, làm tôi cũng không được tự nhiên cho lắm. Trong số những người này, tôi chỉ biết mỗi Ô Lão Tứ và anh chàng người Caucasus, còn lại đều là những khuôn mặt lạ hoắc.

Những người đó lục tục ổn định chỗ ngồi. A Ninh liền lấy thứ mà Hắc Nhãn Kính vừa đem ra từ tòa nhà ma lên, đặt xuống cái bàn thấp trước mặt chúng tôi.

Đó là một cái hộp dẹt bằng gỗ lim, sau khi mở ra thì thấy bên trong là một chiếc mâm sứ Thanh Hoa đã tàn tạ. Mảng mâm bên trái bị khuyết mất một miếng to cỡ bàn tay.

Bên dưới cỗ quan tài đá nọ chắc chắn phải có một khoảng trống, như vậy xem ra chiếc mâm sứ này vốn được đặt ở trong khoảng trống đó. Đây là cái gì vậy? Vì sao nhóm Muộn Du Bình lại đi trộm thứ này về? Tôi không khỏi có chút hiếu kỳ.

Đúng lúc tôi đang định rướn cổ về phía chiếc mâm sứ để nhìn, thì đột nhiên lúc này lại có hai người từ bên ngoài bước vào lều. Đó là một cụ bà người Tạng đầu tóc bạc phơ, và một phụ nữ trung niên cũng là người dân tộc Tạng. Bà cụ người cũng gầy còm hom hem giống Trần Bì A Tứ, ước chừng cũng quá bảy mươi rồi, có điều trông vẫn khá quắc thước, ánh mắt rất sắc bén. Còn người phụ nữ trung niên kia thì trái lại diện mạo cũng như một người Tạng bình thường. Hai người bọn họ vừa bước vào thì bầu không khí trong cả lều bạt đột nhiên biến đổi. Ngoại trừ Kính Râm và Muộn Du Bình, những người khác đều không kìm được mà ngồi thẳng cả người lên, quay về phía bọn họ, nhất là với bà cụ nọ. Thậm chí còn có hai người còn hành lễ với bà. Dường như địa vị của bà lão người Tạng này ở đây khá là cao.

Bà cụ cũng đáp lễ,  rồi lại thoáng đánh giá chúng tôi một chút, đặc biệt là tôi. Có lẽ vì thấy tôi lạ nên bà ta nhìn nhiều thêm mấy lần, rồi mới ngồi xuống. A Ninh liền kính cẩn cầm mâm sứ kia lên đưa cho bà ta rồi lễ phép hỏi: " Nữ Lạt Ma, ngài xem xem, thứ năm đó ngài thấy có phải vật này không?"

Nói xong thì lập tức có người phiên dịch sang tiếng Tạng. Bà cụ nghe xong bèn đón lấy chiếc mâm sứ, bắt đầu ngắm nghía, xem được vài lần liền không ngừng gật đầu, đồng thời nói liến thoắng cái gì đó bằng tiếng Tạng. Người phiên dịch bắt đầu dịch ngược lại lời bà cụ vừa nói, mấy người bọn họ liền bắt đầu trò chuyện với nhau.

Bọn họ đối đáp ngắt quãng, người phiên dịch thì không chỉ trình độ tiếng Tạng làng nhàng mà chết dở hơn nữa là tiếng Trung hình như cũng chẳng ra sao, cứ ngắc nga ngắc ngứ. Tôi căng tai ra mà nghe nhưng cũng chả nghe ra gì cả, bèn nhỏ giọng hỏi Ô Lão Tứ bên cạnh xem bà cụ này là ai thế.

Ô Lão Tứ không trả lời tôi, nhưng tay Kính Râm ngồi cạnh đã lên tiếng. Hắn thì thào nói với tôi: "Bà ấy tên là Định Chủ Trác Mã, là người dẫn đường cho Văn Cẩm năm xưa đó."

Tôi nghe thấy cái tên này thì "A" lên một tiếng, lập tức đã hiểu ra không ít, cũng thầm kinh  ngạc vì sự thần thông quảng đại của công ty A Ninh. Bọn họ không chỉ biết tháp Mộc Đà mà còn biết là có người dẫn đường này nữa. Nói vậy thì A Ninh hẳn là phải biết chuyện về Văn Cẩm rồi đúng không?

Tôi đọc cuốn sổ tay của Văn Cẩm thì hiểu là bọn họ xuất phát từ Đôn Hoàng, tiến vào quá khu vực trung tâm của Sài Đạt Mộc. Cô ấy quả thực cũng có đề cập tới việc bọn họ đã mời một phụ nữ dân tộc Tạng làm người dẫn đường. Tôi không khỏi sờ lên cuốn sổ tay trong túi áo, thầm hỏi thế này là sao nhỉ? Lẽ nào còn có người khác đã từng đọc cuốn sổ tay này hay sao?

Có điều, tôi vẫn nhớ rằng trong sổ tay của Văn Cẩm cũng có nói người phụ nữ dẫn đường này còn chưa đưa họ vào sâu trong thung lũng lắm. Sau khi qua khỏi khu Đại Sài Đán, tiến vào khu vực Sát Nhĩ Hãn (hồ muối Qarhan), người phụ nữ dẫn đường này cũng không tìm được đường đi tiếp nữa. Trên thực tế là cũng chẳng có bất cứ đường nào để mà tìm. Cuối cùng, bọn họ đành chia tay với người dẫn đường trước một ngọn núi muối, tự mình xuất phát đi sâu vào trong hơn nữa. Thung lũng Sài Đạt Mộc rộng hơn 240.000 kilomet vuông, hành trình cuối cùng của bọn họ đã đi ròng rã mất ba tuần, kết cục là đã đi tới nơi nào thì không ai nói rõ được.

Xem ra, nếu bọn họ muốn tới Tháp Mộc Đà thì e bà cụ này cũng không thể đem đến cho nhóm của A Ninh sự giúp đỡ hữu dụng nào, nhiều lắm cũng chỉ có thể dẫn bọn họ tới nơi chia tay với đội của Văn Cẩm năm ấy.

Tôi còn đang nghĩ ngợi thì cuộc đối thoại giữa A Ninh và Định Chủ Trác Mã đã kết thúc. Chào theo nghi lễ xong, người phụ nữ trung niên liền đỡ bà cụ ra ngoài. Có một vài người nghe không hiểu liền hỏi xem tình hình sao rồi. A Ninh đã không dấu nổi nét cười trên gương mặt, phấn khởi nói: "Quả không sai! Bà ấy nói đúng là cái đĩa này rồi. Đây chính là thứ mà Trần Văn Cẩm năm xưa đã đưa cho bà ấy xem. Bà ấy nói có chiếc đĩa này, bà có thể dẫn nhóm chúng ta tìm được cửa núi năm đó."

Đám người liền bắt đầu xôn xao. Kính Râm lại hỏi: "Khi nào thì xuất phát?"

A Ninh đứng lên, nói với bọn họ: "Hôm nay, mười hai giờ trưa, tất cả mọi người cùng xuất phát." Nói xong, những người khác cũng đều đứng cả lên, định đi ra ngoài.

Lúc này, gã đeo kính râm đó lại hỏi: "Còn cậu ta thì thế nào? "

Nói đoạn liền trỏ vào tôi.

Nhóm A Ninh bèn ngoảnh hết cả lại về phía tôi. Hình như vừa rồi bọn họ đã quên khuấy mất rằng tôi vẫn còn lù lù ở đây. Mấy người bọn họ đều sửng sốt một hồi lâu. Tôi thì nhìn A Ninh chằm chằm, để xem cô ta sẽ nói thế nào.

Chẳng ngờ A Ninh  cũng không để ý gì nhiều, ngẫm nghĩ một tí rồi mới chỉ vào Muộn Du Bình ngồi một bên, bảo với Kính Râm: "Anh ta rước về thì anh ta đi mà chăm". Nói xong liền dẫn người đi ra ngoài mất. Trong lều bạt chỉ còn lại hai người là tên Kính Râm và Muộn Du Bình.

Kính Râm cười ruồi hai tiếng, cũng tựa người vào đống chăn chiên, châm thuốc hút, rồi ngồi đó mà nhìn Muộn Du Bình, nói: "Tôi đã nói là anh mua dây buộc mình rồi mà. Ban nãy đừng cho cậu ta lên xe thì không được chắc? Giờ anh bảo phải làm thế nào đây?"

Muộn Du Bình ngẩng đầu lên, thờ ơ liếc nhìn tôi một cái, rồi thở dài với vẻ rất bất đắc dĩ,\ nói với tôi: "Cậu về đi. Ở đây không có chuyện của cậu. Đừng vào trại an dưỡng kia nữa. Thứ bên trong nguy hiểm lắm."

Tôi nhìn hắn, trong lòng cực kì không vui.

Nói thật ra thì tôi cũng nào có muốn đến cái chỗ rắm chó kia làm gì. Tôi cũng chả biết nhóm A Ninh vì sao lại phải đến cái nơi đó nữa. Hiện giờ tôi chỉ muốn biết, rằng rốt cuộc Muộn Du Bình đã làm cái gì ở Vân Đỉnh Thiên Cung kia. Cảnh tượng khủng khiếp mà tôi chứng kiến đó, rốt cuộc là thế nào vậy.

Thế là tôi bèn đáp: "Muốn tôi quay về cũng được thôi. Tôi chỉ muốn hỏi anh mấy vấn đề."

Muộn Du Bình vẫn nhìn tôi bằng ánh mắt lãnh đạm, lắc đầu nói: "Chuyện của tôi cậu không thể hiểu được đâu. Hơn nữa, có một số chuyện, tôi cũng đang đi tìm đáp án." Nói xong hắn cũng đứng lên, đi thẳng ra ngoài lều mà không thèm ngoái lại lấy một lần.

Tôi tức đến run bắn cả người, suýt nữa thì hộc cả máu. Nhìn cái bóng lưng hắn mà tôi thật chỉ muốn nhào lên bóp chết hắn cho rồi.

Tên Kính Râm kia cũng thở dài, đến bên cạnh vỗ vỗ tôi rồi bảo: "Ở đây có xe buýt, ba tiếng đồng hồ là về tới thành phố rồi. Đi đường bình an nhé."

Nói xong, anh ta cũng ra khỏi lều bạt. Trong lều chỉ còn một mình tôi. Quang cảnh bỗng trở nên lặng ngắt.

Tôi cảm thấy thật tẽn tò, cảm giác như mình bị xem thường, thậm chí còn là bị vứt bỏ, khó chịu vô cùng. Thái độ vừa rồi của đám người A Ninh, Muộn Du Bình và Kính Râm đó quả thực chẳng khác nào coi tôi là cái thằng ất ơ có cũng được không có cũng chả sao. Thái độ đó còn khiến người ta bị tổn thương nhiều hơn là xỉ vả nhục mạ hay căm ghét oán giận.

Thế nhưng vấn đề mà Kính Râm nói là thực.

Nghĩ thử mà xem, nhóm của A Ninh phải lên đường. Tôi là được bọn họ cứu ra từ ngôi nhà ma kia. Đó là một tình huống bất ngờ, cho nên họ căn bản không hề chuẩn bị phương án sắp xếp nào cho tôi cả, mà họ cũng không có trách nhiệm phải giải thích gì cho tôi hết. Tôi đương nhiên là nên về.

Nhưng mà tôi thực sự không cam lòng. Nhìn mọi người đi lại tấp nập ngoài lều bạt, công tác chuẩn bị khí thế ngút trời, tôi nhìn cũng thấy máu sôi lên sùng sục. Tôi nghĩ, trở về rồi thì mình có thể làm gì đây? Người gửi đồ là Văn Cẩm thì sớm đã đi trước tôi một bước rồi. Người này có thể trốn tránh suốt hai mươi năm ròng, đến mức chú Ba giở đủ ngón nghề vẫn chẳng lần ra tung tích, thì tôi còn biết tìm kiếm thế nào? Lẽ nào tôi lại phải giống như chú Ba, vì một câu đố mà bỏ ra ba mươi năm để tìm cô ấy hay sao? Không có chuyện đó đâu.

Chuyện đã xảy ra trong trại an dưỡng mập mờ không rõ đầu đuôi, lại hoàn toàn chẳng có lấy một tẹo manh mối nào. Cuốn sổ tay Văn Cẩm lưu lại cũng liên tục nhắc đến cái chỗ "Tháp Mộc Đà" nọ. Mà giờ đây, nhóm người bên ngoài sắp xuất phát tới đó, còn tôi lại phải chuẩn bị mua vé ngồi xe buýt về nhà.

Manh mối duy nhất của toàn bộ câu chuyện, hiện tại chỉ còn lại cuốn sổ trong túi áo của tôi. Mà nội dung trong cuốn sổ dường như cứ một mực ngầm gợi ý rằng tôi phải tới Tháp Mộc Đà thì mới có thể biết chút gì đó.

Tôi nên làm gì bây giờ? Quay về Cách Nhĩ Mộc thì tôi có thể làm được cái gì chứ? Chẳng làm được gì sất.

"Đã làm việc thì phải chủ động."

Bỗng nhiên bên tai tôi vang lên câu nói này của ông nội. Sau đó tôi sờ sờ cuốn sổ tay trong túi áo, nghĩ tới những gì trải qua ở Cách Nhĩ Mộc lần này, hoàn toàn là nhờ tôi hành động nhanh mà lại quyết đoán nên mới giành được thời cơ trước.

Được rồi. Tôi lập tức đưa ra một quyết định. Mẹ kiếp, Muộn Du Bình, đừng có mà hợm hĩnh. Anh đi được thì Ngô Tà tôi đây cũng đi được. Lần này tôi cứ đi theo đấy! Tôi bèn đứng lên, bước lại chỗ A Ninh đang chuẩn bị hành lý bên ngoài rồi hỏi cô ta: "Cô có còn thừa trang bị không?"

A Ninh đang kiểm kê lại số lương khô của mình, nghe tôi đột nhiên hỏi thế liền kinh ngạc vô cùng: "Thừa trang bị á? Anh muốn làm gì?"

Tôi nhún vai, có phần không biết phải mở miệng thế nào: "Tôi muốn tham gia. Tôi muốn nhập đội. Tôi cũng phải đi Tháp Mộc Đà!"

" Tham gia cái đầu anh ấy!" A Ninh bật cười, quay đi không thèm để ý tới tôi. Thế nhưng tôi vẫn tiếp tục nhìn cô ta, nói: "Tôi có thể giúp các cô đó. Cứ ngẫm lại hồi còn ở trong Vân Đỉnh Thiên Cung mà xem."

A Ninh ngẩng đầu lên, sắc mặt thay đổi. Cô ta nhìn ánh mắt của tôi rồi mỉm cười một cái: "Anh nghiêm túc thật à?"

Tôi gật đầu. Cô nàng liền chỉ vào xe trang bị ở bên: "Cứ tha hồ lấy. Đúng mười hai giờ xuất phát. Đến trễ không đợi đâu đấy."

Chương 46. Xuất phát
Editor: Yoo ChanBeta: Cơm Nắm Nướng ChảoQuà mừng mãn hạn đơi (──)
Tui đã trở lại sau thời kỳ cắm trại triền miên trên công ty
và đương nhiên cũng là 1 thời kỳ quằn quại với 1 thứ nát be nát bét =")))))))Mờ thôi chuyện qua rồi ko nói. Lâu lắm mới phẹt ra đc 1 chương. Mọi người từ từ đọc nha (*'')".*****.Quà

Đội xe Jeep chạy như bay trên sa mạc mênh mông không bờ bến. Khí hậu khô không khốc, khoảng cách giữa các xe được giữ khá xa để tránh bụi vàng từ xe trước tung lên mù mịt đầy trời.

Tôi ngồi trong xe nhìn ra ngoài cửa sổ, nghĩ lại quyết định lúc trước, chẳng làm biết thế có đúng hay không, chứ giờ này lại thấy hình như hơi bị liều quá mức rồi. Có điều hiện tại tôi đã bước chân lên tàu cướp biển, cũng chẳng còn mặt mũi nào mà nuốt lời nữa.

Trước lúc lên đường kế hoạch của A Ninh đã được phổ biến cho tôi. Tôi phát hiện ra nó hoàn toàn dựa theo tuyến đường của Văn Cẩm năm đó, xuất phát từ Đôn Hoàng, qua Đại Sài Đán mà tiến vào khu vực Sát Nhĩ Hãn, từ đó rời khỏi đường quốc lộ, tiến vào khu vực không có dân cư của lòng chảo Sài Đạt Mộc. Tiếp theo là do Định Chủ Trác Mã dẫn đường, đưa cả đội tới nơi mà bà đã chia tay với đoàn thám hiểm năm ấy.

Tuyến đường này gần như giống hệt ghi ghép của Văn Cẩm trong cuốn sổ tay. Tôi liền thấy bực dọc hết sức. Rốt cuộc cô ta moi từ đâu ra những thông tin này cơ chứ? Rõ ràng cô ta đã biết đến Tháp Mộc Đà, biết Định Chủ Trác Mã, biết cả tuyến lữ hành, thoạt nhìn cứ như cô ta đã từng đọc cuốn sổ tay ấy. Thế nhưng sổ tay đang nằm trong túi áo của tôi cơ mà.

Đoàn xe bổ sung vật tư dọc đường, chẳng mấy chốc đã tới Đôn Hoàng theo kế hoạch. Có người nói cho tôi biết rằng tuyến đường trước khi vào tới khu vực Sát Nhĩ Hãn còn khá giống tuyến đường đi phượt, vẫn tương đối an toàn.

Suốt cả đường đi, những sống phong thực (1) dọc hai bên khiến tôi thấm thía sự hoang vu của sa mạc. Cái kiểu cuối đất cùng trời mênh mông không bờ bến này khiến cảm giác bị ruồng bỏ trong con người ta dâng lên mãnh liệt. Lúc mới đầu cảm giác đó còn được xoa dịu đôi chút bởi rất nhiều những điểm dân cư nay đã trở thành phế tích, nhưng đến khi chúng tôi rời khỏi Đôn Hoàng, đi lên đường quốc lộ Sát Nhĩ Hãn, nhanh chóng phi thẳng vào bãi sa mạc, thì không còn cách nào xua tan được nó nữa. Loại cảm giác sinh ra do chạy xe liên tục mười mấy tiếng đồng hồ mà cảnh sắc xung quanh vẫn hầu như không đổi này thực sự khiến người ta ngộp thở. Được cái là đội hình của A Ninh đông khủng khiếp, lúc hạ trại náo nhiệt ồn ào, ít nhiều cũng khiến cho trong lòng chúng tôi thoải mái được phần nào.

Tôi và anh chàng người Caucasus nọ cùng ngồi một xe. Anh ta cùng một tài xế người Tạng thay phiên nhau lái. Trên đường đi, tôi liền đưa mấy vấn đề này ra hỏi xem anh ta có thể trả lời hay không.

Anh chàng người Caucasus cũng thoải mái giải đáp. Nghe xong, tôi mới thấy hóa ra mình đã phức tạp hóa vấn đề quá lên. Tôi vốn cứ cho rằng phải đọc được cuốn sổ thì mới biết đến tháp Mộc Đà, đến Định Chủ Trác Mã và tuyến lữ hành. Thực ra hoàn toàn không phải như thế. Biện pháp đầu tiên A Ninh áp dụng khi nhận được cuốn băng hình là điều tra công ty chuyển phát nhanh đã gửi bưu kiện nọ. Từ những gì người trong công ty chuyển phát nhanh đó nhớ ra, bọn họ tìm được người gửi: đó chính là Định Chủ Trác Mã.

Sau đó là điều tra sâu thêm một chút, cầm bưu kiện đến, vừa hỏi một cái thì mấy thứ như Tháp Mộc Đà, người dẫn đường, lộ trình, đều tra được hết. Kế hoạch hiện tại cũng đều được lập ra từ thông tin của Định Chủ Trác Mã cung cấp.

Nghe xong tôi mới thấy nhẹ nhõm. Nếu nói vậy thì nội dung nửa trước trong phần thứ ba ở cuốn sổ tay của Văn Cẩm là không quan trọng. Phần quan trọng là đoạn sau khi bọn họ chia tay Định Chủ Trác Mã, tiến vào Tháp Mộc Đà kia cơ. Tiếc là đoạn đó tôi lại xem không kỹ, nhất định phải tìm cơ hội lén đọc lại một lần mới được.

Sau đó, anh chàng người Caucasus lại nói với tôi rằng anh ta biết chuyện về tháp Mộc Đà.

Anh ta nói cho tôi biết rằng, thực ra tìm được Định Chủ Trác Mã rồi thì mời biết được quan niệm này về Tháp Mộc Đà. Căn cứ vào những mẩu đối thoại của đoàn người Văn Cẩm khi ấy mà Định Chủ Trác Mã nghe được, thì hình như đó là trạm dừng cuối cùng của Uông Tàng Hải. Về phần nó ở chỗ nào thì chính nhóm Văn Cẩm cũng không biết, đành phải đi tìm.

Tuy nhiên, Định Chủ Trác Mã sau đó dựa vào những kiến thức và trải nghiệm trên đường đi mà nảy ra suy đoán của riêng mình. Bà ta phát hiện thấy Tháp Mộc Đà mà nhóm Văn Cẩm đi tìm, chính là Tây Vương Mẫu quốc trong truyền thuyết của bọn họ ở vùng này. Theo cách nói của dân bản xứ thì nơi đó có lẽ thường được gọi là Tháp Nhĩ Mộc Ti Đa, nghĩa là "quỷ thành trong mưa". Sau khi phát hiện thấy điều này bà ta cũng rất sợ hãi, nên giả bộ tìm không thấy đường rồi chia tay bọn họ.

"Tây Vương Mẫu Quốc?" Tôi nghe xong cũng hết hồn, "Đó chẳng phải thứ trong thần thoại sao?"

"Thật ra không phải đâu. Tây Vương Mẫu Quốc có tồn tại thật đấy, mà còn vương quốc cổ đại trong lịch sử từ rất xa xưa nữa cơ. Thời kì Hoàng Đế đã có truyền thuyết đó. Tây Vương Mẫu chính là nữ vương của đất nước này. Hồ Thanh Hải trong tiếng người Khương gọi là "xích tuyết giáp mẫu", giáp mẫu là "mẹ đứng đầu", ý chỉ Vương Mẫu. Chúng tôi cho rằng nơi đó chính là Giao Trì của Vương Mẫu, mà tháp Nhĩ Mộc này chính là thủ phủ của quốc gia thuộc về Vương Mẫu. Tây Vương Mẫu trong truyền thuyết Tây Vực đại diện cho sức mạnh của thần linh. Trong những truyền thuyết mà Định Chủ Trác Mã được nghe từ thưở bé, tòa thành này chỉ xuất hiện trong những cơn mưa lớn, hễ nhìn thấy nó thì sẽ bị cướp đi đôi mắt, trở thành mù lòa, cho nên bà ta cực kỳ sợ hãi."
(Khương là một dân tộc thiểu số thời cổ sống ở tỉnh Thanh Hải và các tỉnh lân cận thuộc TQ. Giao Trì là nơi ở của Tây Vương Mẫu trong thần thoại)

"Vậy ý của anh là, thứ mà giờ chúng ta đi tìm, thực ra chính là cố đô của Tây Vương Mẫu Quốc?"

"Có thể nói như vậy. Căn cứ vào những phân tích tư liệu khảo cổ hiện có, nhất là mấy năm gần đây, sự tồn tại của Tây Vương mẫu đã được chứng minh là có thật." Gã Caucasus nói, "Trên thực tế, nếu Tháp Mộc Đà nằm trong lòng chảo Sài Đạt Mộc, thì có thể khẳng định nó chính là một phần của Tây Vương Mẫu Quốc. Hiện giờ tuy nói là tìm kiếm Tháp Mộc Đà, thực ra chính là đi tìm di tích của Tây Vương Mẫu Quốc. Mà cậu phải biết thế này: không phải chúng ta đi tìm Tây Vương Mẫu Quốc, mà thứ chúng ta tìm được, tự khắc sẽ trở thành Tây Vương Mẫu Quốc. Đây chính là cuộc thám hiểm khảo cổ."

Tôi nghe xong liền cười khổ. Tây Vương Mẫu? Tôi nhớ rằng thứ đó nào phải mặt hàng dễ chọc vào. Uông Tàng Hải đi sứ lần cuối cùng, chính là đến Tây Vương Mẫu Quốc đó. Nói vậy đủ hiểu chưa?

Ngẫm nghĩ một chút, tôi lại nhớ đến truyền thuyết Hậu Nghệ cầu thuốc trường sinh, bụng nói có khi nào Uông Tàng Hải khi đó cũng là đi tìm thuốc? Cảm thấy thật là phi lý, tôi liền lắc đầu vứt bỏ ý nghĩ này, không suy luận thêm nữa.

Sau đó tôi tính toán ngồi trên xe lục trang bị lấy từ chỗ A Ninh ra một chút. Công ty bọn họ có trang phục đặc biệt, chứ quần áo của tôi mà đi trong sa mạc thì ban ngày sẽ chết vì nắng thiêu, ban đêm sẽ chết vì rét cóng, cho nên tôi bèn thay trang phục sa mạc ngay ở trong xe. Lúc mặc vào tôi cũng rất bất ngờ, phát hiện ra trên thắt lưng của bộ đồ, thế nào lại cũng có dãy số 02200059.

Tôi bèn hỏi tay người Caucasus đây là dãy số gì, thì anh ta bảo đó là số mã vạch của công ty bọn họ. Ông chủ của họ rất say mê con số này, nghe đâu nó cũng được dịch ra từ phần sách lụa Chiến Quốc.

Tôi trong lòng ngập tràn kinh ngạc, nhớ tới mật mã trên chiếc hộp trong Thất Tinh Lỗ Vương, tự nhủ thầm rằng có phải mấy chữ số này có ý nghĩa gì đặc biệt không?

Hai ngày sau đó, chúng tôi đi sâu vào trong lòng sa mạc. Land Rover tốc độ cực kỳ cao, chỉ với thời gian hai ngày này, chúng tôi đã vào đến lòng chảo Sài Đạt Mộc.

Người bên A Ninh rất cởi mở. Mấy lần hạ trại, những người trước đây từng ở Cát Lâm với tôi sinh hoạt cùng nhau rất ổn, những người khác cũng bắt đầu làm quen với tôi. Tính cách của tôi như vậy, cũng tương đối dễ ở chung với người khác. Thế cho nên ít nhất cũng có một điểm tốt, là tôi cũng không cần cả ngày đối diện với cái bản mặt lạnh tanh vô cảm của Muộn Du Bình. Mà hắn hình như căn bản cũng chả thèm để ý gì đến tôi.

Điều này kỳ thực cũng có chút khác thường. Bởi vì trong những lần tiếp xúc trước đây, Muộn Du Bình tuy vẫn không dễ ở chung như vậy, nhưng cũng không đến nỗi có cảm giác xa lạ như lúc này. Tôi cứ thấy như hắn đang kiêng dè điều gì đó. Ngược lại, cái gã Kính Râm thì hình như rất hứng thú với tôi, cứ tìm tôi nói chuyện.

Sau khi xe tiến vào sa mạc, rất nhanh chóng rời xa đường quốc lộ. Định Chủ Trác Mã bắt đầu dẫn đường. Bà đi cùng người con dâu và một cậu trai, ngồi cùng một xe A Ninh, dẫn đầu cả đoàn. Tôi cũng không biết tình hình của bọn họ, chỉ biết là từ lúc bà cụ nọ dẫn đường, đường xe chạy bắt đầu trở nên khó đi, chẳng phải bãi đá dăm thì cũng là lòng sông cạn. Ngay lập tức, trong đội hình tiếng oán than dậy đất.

Định Chủ Trác Mã giải thích rằng muốn đến cửa núi năm đó bà nhìn thấy, thì đầu tiên phải tìm được một cái thôn. Hành trình của bọn họ năm đó bắt đầu chính từ cái thôn kia. Ngựa và lạc đà của văn cẩm đều mua ở trong thôn. Giờ có khả năng thôn này đã bị bỏ hoang, nhưng chắc vẫn còn tàn tích, tìm được nó thì mói có thể tiến hành bước tiếp theo.

Trí nhớ của bà cụ vẫn tương đối tốt. Quả thật đến lúc nhá nhem tối thì chúng tôi tới được thôn nhỏ tên là "Lan Thác". Trong thôn vậy mà vẫn có người ở, bốn hộ gia đình, nhân số ba mươi mấy người.

Phát hiện này khiến chúng tôi mừng phát điên. Thứ nhất là khả năng của bà cụ đã được chứng minh, hai là mọi chuyện diễn biến thuận lợi. Vả lại sau một thời gian dài tiến vào sa mạc, thấy một chỗ có đông người tụ tập thì luôn đặc biệt vui vẻ. Lúc ấy, sắc trời đã tối, chúng tôi liền quyết định hạ trại tại thôn này.

Đáng tiếc một điều, lúc vào thôn cũng là lúc xảy ra sự cố. Một chiếc xe bị lật nhào xuống rãnh phong thực, người trên xe không việc gì nhưng xe lại bị hỏng. Lúc này chúng tôi đã cách quốc lộ gần nhất một khoảng tương đối xa, không thể có được bất cứ sự trợ giúp nào. Điều này có nghĩa là phải để một xe khác ở lại hỗ trợ.

Sau sự kiện này, A Ninh bắt đầu để lộ tâm sự nặng nề. Đêm hôm đó chúng tôi nghỉ ngơi bên chiếc xe hỏng nọ, A Ninh bèn nói với chúng tôi về sự lo lắng của mình. Cô nàng có phần lo ngại, vì mặc dù đã chuẩn bị xe việt dã hạng nhất, nhưng điều kiện xung quanh thật sự là quá ác liệt đi. Nếu không thể tìm được cửa núi trong thời gian ngắn thì mấy con xe này nhất định sẽ hỏng dần từng chiếc. Có những hỏng hóc mang vào xưởng sửa chữa thì chỉ là chuyện nhỏ nhưng tại đây thì vẫn khiến xe tê liệt như thường.

Mà bọn họ sẽ tiến vào càng sâu trong lòng chảo. Xe bị bỏ lại cùng với người trên xe có thể vì không được cứu viện đúng lúc mà phải chịu nguy hiểm bên trong sa mạc.

Xe và lạc đà rốt cuộc khác nhau ở chỗ đó. Vết thương của lạc đà sẽ tự lành, vết thương nhỏ thì cũng không ảnh hưởng đến việc đi tiếp, nhưng những chiếc xe công nghệ cao này chỉ cần xảy ra chút sự cố, liền trở nên yếu ớt đến đau lòng người ta. Mấy cỗ xe này rốt cuộc cũng chỉ là xe dân dụng, không nồi đồng cối đá như xe quân dụng được.

Thế nhưng đây cũng không phải là do A Ninh tính toán sai lầm, vì trong thời buổi hiện đại ngày nay thì không thể để một đội hình gần 50 người cưỡi lạc đà tiến vào Sài Đạt Mộc được. Thứ nhất là vì không thể tìm được nhiều lạc đà như vậy trong một chốc một lát. Năm mươi con người, lại còn thêm số lạc đà để thồ hành lý và và lạc đà dự bị nữa, khả năng phải cần đến gần trăm con. Đội lạc đà vĩ đại đến vậy quá là bắt mắt, chắc chắn sẽ bị chính phủ chú ý.

Vị kỹ sư cơ khí theo đoàn thì nói với cô nàng rằng không cần phải lo bò trắng răng như vậy. Với tốc độ của Land Rover thì lòng chảo Sài Đạt Mộc cũng không phải là nơi ghê gớm gì. Cách đây hai mươi năm, Sài Đạt Mộc còn có thể giống với sa mạc Taklimakan , là biển chết chóc ai ai cũng sợ. Nhưng giờ thì chỉ cần mất chừng mười mấy tiếng đồng hồ là có thể vượt qua nửa khu vực đã được khai phá, trong đó có rất nhiều căn cứ thăm dò, khu công nghiệp, thế nên cũng không cần phải lo lắng như vậy.

Tuy nhiên câu nói này lập tức bị cậu cháu của Định Chủ Trác Mã bác bỏ. Anh chàng tên là Trát Tây này bảo rằng chúng tôi đã quá tin tưởng vào sức mạnh của máy móc rồi. Sài Đạt Mộc tuy rằng đã bị chinh phục, nhưng vùng an toàn chỉ giới hạn trong những chỗ mà mạng lưới đường quốc lộ bao quát được, cùng lắm chỉ chiếm khoảng 2% diện tích lòng chảo, khu vực 98% diện tích còn lại toàn bộ đều là sa mạc, đầm lầy, mỏ muối lộ thiên. Chúng ta đây có hơn chục chiếc xe với không đầy năm chục con người, đối với vùng đất ăn tươi nuốt sống sinh mạng cả mấy ngàn mấy vạn năm nay mà nói, thì chả là cái thá gì.

Cậu ta nói rằng cứ coi như đi dọc theo tuyến đường du lịch được tính là ít nguy hiểm nhất, hàng năm vẫn có người chết vì lạc đường hoặc gặp tai nạn, chưa kể chúng ta hiện tại còn đang chuẩn bị đi vào khu vực không người.

Cậu ta còn bảo, những người trước đây anh ta gặp đều là khách du lịch, đặt mục tiêu là đi xuyên qua lòng chảo. Những người này sẽ không ở lại trong lòng chảo quá hai ngày, mà mục đích của chúng tôi bây giờ lại là tìm kiếm bên trong lòng chảo. Nói vậy nghĩa là lộ trình của chúng tôi không có điểm cuối, đi vòng vèo trong sa mạc như thế là chuyện kiêng kỵ lớn nhất của dân du mục địa phương, cho nên lo lắng củA Ninh tiểu thư không phải là không có lí. Mọi chuyện cứ nên cẩn thận thì tốt hơn.

Lời nói của Trát Tây khiến chúng tôi im bặt. A Ninh suy nghĩ rất lâu rồi hỏi Trát Tây: "Vậy anh có đề xuất gì cho chúng tôi không?"

Trát Tây lắc đầu đáp: nếu các vị đã muốn vào Sài Đạt Mộc, vậy thì đừng có mạo hiểm treo tính mạng lơ lửng trên dây. Từ xưa đến nay vẫn là như thế.

Cách nói của Trát Tây tóm lại vẫn có chút cảm giác dọa nạt người nghe. Lúc trước tôi từng nghe người ta bảo rằng Trát Tây cực kỳ phẫn nộ khi bà cậu ta đồng ý dẫn đường cho chúng tôi. Cậu ta cho rằng chuyện này quá sức nguy hiểm, mà nhóm A Ninh còn dùng tiền tài để thuyết phục bà nội anh ta, là một loại nghiệp chướng. Chúng tôi đã mang hiểm nguy và tội nghiệt đổ lên đầu bà nội anh ta. Thế nhưng cụ bà Định Chủ Trác Mã kia thì ngược lại, rất kiên quyết. Trong gia đình người dân tộc Tạng, địa vị của bà nội là cực kỳ cao, Trát Tây chẳng còn cách nào, đành phải đi theo trông chừng. Bởi thế nên suốt dọc đường anh ta căn bản chưa hề tỏ ra hòa nhã với chúng tôi, cũng chẳng nói được câu nào tử tế.

Dù rằng như thế, nhưng ở trong cái thôn giữa sa mạc chỉ lèo tèo vài nóc nhà gạch mộc thấp tè này, giữa đêm sa mạc gió lạnh thổi buốt xương, nhìn đống lửa bập bùng, đầu lại ngẫm nghĩ đếm khoảng cách giữa chúng tôi và thế giới văn minh bây giờ, tôi vẫn thấy không rét mà run.

Cậu ta nói xong rồi, chúng tôi cũng chẳng còn hào hứng bàn soạn thêm gì nữa. Mấy con người ngồi im lìm bên đống lửa một hồi lâu, rồi lần lượt lục tục chui vào nghỉ ngơi trong túi ngủ. Sáng mai chúng tôi sẽ xuất phát, A Ninh không cho dựng lều bạt, mà toàn trải túi ngủ ngoài trời. Nơi này buổi tối nhiệt độ có khi sẽ xuống dưới 0, nên chúng tôi đều nấp phía sau những gờ đất cao, kề sát vào đống lửa để sưởi ấm.

Nằm xuống chỗ đó, tôi lại cảm thấy có rất nhiều người cũng không ngủ được. Bốn bề là tiếng gió mang theo những lời rì rầm nhỏ to. Cũng khó trách. Đây có lẽ là nơi cuối cùng có tên trên bản đồ trước khi tiến vào Sài Đạt Mộc. Loại chuyện nhỏ này, lão luyện rồi thì dĩ nhiên chẳng thèm quan tâm nữa, nhưng trong đội hình có một bộ phận lớn là người địa phương được mời tới, vào lúc này đương nhên sẽ có chút kích động.

Tôi cũng chẳng biết mình đã lão luyện rồi hay chỉ là lính mới, chỉ giương mắt ngắm trời, nhận ra bầu trời ở đây gần mặt đất quá, những chòm sao nhìn cũng rõ hơn nhiều. Tôi sống ở phương Nam, thành người lớn rồi, cũng đã lâu không còn dịp thấy cảnh sao giăng kín trời. Giờ này nhìn dòng sông Ngân rực rỡ vắt ngang trời rõ ràng thế kia, không khỏi hết cả buồn ngủ.

Có điều, đường dài bôn ba bao giờ cũng có tác dụng. Sau một hồi ồn ào, những âm thanh bốn phía cũng dần lắng xuống,

Nhóm A Ninh có cắt người gác đêm. Vì người đông nên mấy việc khổ sai này chủ yếu là do những người bản xứ được thuê tới đảm nhiệm, vậy nên cũng không đến lượt chúng tôi. Tuy nhiên vì nơi này vẫn còn trong thôn xóm nên cũng không phải cảnh giác quá mức. Trát Tây cũng đã nói chỉ có ở gần Khả Khả Tây Lý mới có thể xuất hiện dã thú cỡ lớn. Còn ở đây cây cỏ thưa thớt đến nỗi chuột cũng không thèm mò tới, nói gì đến dã thú ăn thịt, cho nên tôi cũng không nghe thấy tiếng người gác đêm tán dóc với nhau, xem chừng chắc họ cũng đã ngủ rồi. Trong tiếng gió tôi mơ hồ nghe thấy vài tiếng động vật kêu, nhưng tôi cũng không để ý mấy. Chúng tôi ngủ ở chỗ chính giữa nhất trong cả khu tập kết, lỡ có bị ăn thịt, thì cũng chẳng tới lượt chúng tôi.

Tôi vừa nghĩ vậy vừa ngắm nhìn trời đêm. Cũng chẳng biết đã bao lâu, vào lúc tôi cũng buồn ngủ, đang mơ mơ màng màng thì đột nhiên cảm thấy như có người tới trước mặt mình. Tôi sợ run cả người, tỉnh lại thì thấy hóa ra là Trát Tây.

Tôi bị cậu ta dọa cho hết hồn, vội ngồi dậy định nói thì cậu ta đã ngồi xuống bịt miệng tôi lại, nhỏ giọng nói: "Đừng lên tiếng. Theo tôi. Bà tôi muốn gặp anh."

________________________

1. Sống phong thực: nguyên văn là địa hình Nhã Đan: một loại địa hình phong thực điển hình – địa hình bị bào mòn bởi gió – còn được gọi là rãnh phong thực hoặc sống phong thực."Nhã Đan" là tiếng của dân tộc Duy Ngô Nhĩ – một dân tộc thiểu số ở vùng Tân Cương TQ, ý chỉ những gò đất bất ngờ nổi lên.

2. Sa mạc Taklamakan (Takelamagan Shamo, 塔克拉玛干沙漠, Tháp Khắc Lạp Mã Can sa mạc), cũng gọi là Taklimakan, là một sa mạc tại Trung Á, trong khu vực thuộc Khu tự trị dân tộc Duy Ngô Nhĩ Tân Cương của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Nó có ranh giới là dãy núi Côn Lôn ở phía nam, dãy núi Pamir và Thiên Sơn ở phía tây và phía bắc.

Taklamakan được biết đến như là một trong các sa mạc lớn nhất trên thế giới, đứng hàng thứ 15 về kích thước trong số các sa mạc lớn nhất không ở vùng cực của thế giới. Nó bao phủ một diện tích 270.000 km² của lòng chảo Tarim, dài khoảng 1.000 km và rộng khoảng 400 km. Ở rìa phía bắc và phía nam của sa mạc này là hai nhánh của Con đường tơ lụa do các lữ khách đã tìm kiếm ra để tránh vùng đất hoang khô cằn – theo wikipedia.

Vầy là hết 1 chương dài kinh khủng =")))))) Chương sau là đến cuộc hẹn hò nửa đêm bên đống lửa, mặc dù nó chả lỡn mợn gì ="))))) Có tí xíu hint giữa Tiểu Ca và.... Văn Cẩm ="))))) Thím nào thích "nữ chính" có thể hóng đoạn này ="))))))))))

Chương 47. Lời nhắn của Văn Cẩm
Editor: EarlPanda —-Hết hàng tồn rồi giờ phải tự thân vận động, tự công tự thụ thế này (¬_¬) May được cái chương tâm linh tương thông, đồng cảm vãi nên gõ một lèo 3 tiếng là xong à~ ('')ノ..*****.

.

Định Chủ Trác Mã muốn gặp tôi á?

Tôi nhìn Trát Tây ngơ ngác chẳng hiểu gì cả, bởi lẽ tôi với cụ bà kia đã nói chuyện với nhau được câu nào đâu, cũng chưa hề giao lưu tiếp xúc gì cả. Thậm chí tôi cũng chả mấy khi nhìn thấy bà, sao tự dưng bà ấy lại muốn gặp tôi được?

Thế nhưng vẻ mặt của Trát Tây rất nghiêm túc, bừng bừng khí thế không cho phép một lời phản đối nào, cứ như thể bà nội cậu ta muốn gặp anh, anh mà dám không đi gặp thì chính là tội chết vậy. Cậu ta nhìn tôi có chút quái quái, rồi khẽ nói: "Xin anh hãy đi theo tôi, có chuyện rất quan trọng."

Tôi ngẩn ra một chút, nhìn vẻ mặt của cậu ta mà cảm thấy không thể nào cự tuyệt nổi, cuối cùng không còn cách nào khác, tôi đành gật đầu, đứng lên. Cậu ta liền quay người, ý bảo tôi đi theo cậu ta.

Nơi Định Chủ Trác Mã nghỉ ngơi cách nơi ở của chúng tôi rất xa, cách nguyên một bãi đậu xe, chắc là chê bọn tôi ầm ĩ quá đây mà. Tôi đi chừng hai trăm mét mới đến được chỗ đống lửa trại của bọn họ. Tôi thấy Định Chủ Trác Mã và cô con dâu vẫn chưa đi ngủ, bọn họ đang ngồi bên đống lửa, trên mặt đất trải một tấm chăn chiên rất dày, lửa cháy rất vượng. Ngoài hai người họ còn có một người nữa cũng đang ngồi trên tấm chăn chiên bên đống lửa. Tôi tiến lại gần, vừa nhìn liền lấy làm kinh ngạc: hóa ra đó không phải ai xa lạ mà chính là Muộn Du Bình!

Muộn Du Bình quay lưng về phía tôi nên tôi không thể nhìn thấy vẻ mặt hắn ta, thế nhưng dưới ánh lửa bập bùng, tôi lại nhìn thấy nét mặt của Định Chủ Trác Mã toát lên một vẻ âm hiểm. Tôi chẳng hiểu ra làm sao, bèn đến bên đống lửa, bụng bảo dạ thật quái lạ quá đi mất, bà cụ này đêm hôm tự dưng lại lén tìm bọn tôi tới để làm gì nhỉ?

Trát Tây khoát tay ra hiệu mời tôi ngồi xuống. Cô con dâu của bà cụ liền bưng lên cho tôi một tách trà bơ, tôi liền cảm ơn rồi nhận lấy. Liếc mắt nhìn sang Muộn Du Bình bên cạnh, tôi phát hiện thấy hắn cũng đang liếc mắt nhìn tôi, ánh mắt dường như lóe lên một tia ngạc nhiên.

Sau đó, Trát Tây thoáng nhìn về hướng lều trại sau lưng bọn tôi, dùng tiếng Tạng khẽ nói thầm gì đó với Định Chủ Trác Mã. Bà cụ liền gật đầu, rồi đột nhiên mở miệng nói tiếng phổ thông với chúng tôi, khẩu âm rất nặng: "Ở chỗ ta có một lời nhắn, gửi cho hai anh."

Tôi với Muộn Du Bình không nói lời nào. Kỳ thực, tôi có hơi ù ù cạc cạc, tự nhủ không biết là lời nhắn của ai đây nhỉ? Có điều, Muộn Du Bình chả có biểu hiện gì cả, chỉ cúi đầu uống trà. Tôi cảm thấy không tiện hỏi cho lắm, thôi cứ ngồi nghe là được.

Định Chủ Trác Mã liếc nhìn chúng tôi, lại nói: "Người nhờ ta truyền lời nhắn này, là Trần Văn Cẩm, ta tin hai anh đều quen cả. Cô ấy nhờ ta truyền lại cho các anh một câu."

Tôi vừa nghe xong liền ngây ngẩn cả người. Mới đầu còn tưởng mình nghe lộn, vừa định hỏi thì Định Chủ Trác Mã lại nói tiếp: "Lúc Trần Văn Cẩm nhờ ta gửi băng ghi hình thì cũng đã dự liệu đến tình huống này rồi. Nếu các anh dựa theo nội dung cuốn sổ tay mà tìm vào Tháp Mộc Đà, vậy thì, cô ấy sẽ để ta truyền lại lời nhắn cho các anh rằng, cô ấy đang ở điểm đến chờ các anh trong một thời gian đấy. Chẳng qua," Trát Tây cầm đồng hồ đeo tay giơ ra trước mặt Định Chủ Trác Mã. Bà nhìn thoáng qua, nói tiếp, "Thời gian của các anh không còn nhiều lắm đâu. Nếu như trong vòng mười ngày mà cô ấy không chờ được các anh, cô ấy sẽ tự đi vào trong. Các anh liệu mà mau mau đi."

Tôi ngu cả người ra, tự hỏi thế này là thế nào đây? Điểm đến? Vắn Cẩm đang ở Tháp Mộc Đà chờ bọn tôi? Cái này... Não tôi lập tức tắc tị, quay ra liếc Muộn Du Bình, trời ơi khủng khiếp quá, khuôn mặt Muộn Du Bình cũng đầy vẻ kinh ngạc!

Chẳng qua cũng chỉ có mấy giây sau, vẻ mặt của hắn lại trở về bình thường. Hắn ngẩng đầu lên nhìn Định Chủ Trác Mã, hỏi: "Cô ấy nói những lời này với bà lúc nào?"

Định Chủ Trác Mã lạnh lùng đáp: "Ta chỉ truyền lời nhắn, còn cái khác, hết thảy đều không biết, mà các anh cũng đừng hỏi, ở đây, tai vách mạch rừng." Lời vừa dứt, tất cả chúng tôi đều theo phản xạ quay ra nhìn quanh quất.

Muộn Du Bình hơi nhíu mày, lại hỏi: "Cô ấy còn khỏe không?"

Định Chủ Trác Mã nở một nụ cười hơi quái dị: "Nếu anh tới kịp, khắc sẽ biết." Nói đoạn, bà khoát tay, cô con dâu bên cạnh liền đỡ bà đứng lên, đi về phía lều của mình. Xem chừng là muốn trở về đây.

Tôi đứng lên, định ngăn bà ấy thì bị Trát Tây cản lại. Cậu ta lắc đầu, ý nói vô ích thôi.

Có điều, đúng lúc này, Định Chủ Trác Mã lại quay đầu, nói với bọn tôi: "Phải rồi, còn có một câu nữa, ta quên mất không truyền đạt lại."

Chúng tôi đều ngẩng đầu lên nhìn bà, bà liền nói: "Cô ấy còn muốn ta nói cho các anh rằng, "nó", đang ở ngay bên cạnh các anh, các anh phải cẩn thận."

Nói đoạn, bà lại tiếp tục xoay người vào trong lều của mình, để lại tôi và Muộn Du Bình ngẩn người ngồi trước đống lửa trại.

Tôi nhìn Muộn Du Bình, nhưng hắn lại đang nhìn lửa, chẳng biết đang nghĩ cái gì. Tôi liền hỏi hắn: "Rốt cuộc thế này là thế nào vậy? Sao lời nhắn này lại dành cho hai người chúng ta?"

Hắn không trả lời, chỉ nhắm hai mắt lại, rồi định đứng lên.

Tôi thấy hắn thái độ như vậy, trong nháy mắt hàng trăm câu hỏi lại xông thẳng lên não, tôi có chút không thể kiềm chế nổi nữa, lập tức đè hắn ta lại, gắt: "Anh không được đi!"

Hắn quay đầu, bình thản nhìn tôi, rồi cũng không đi nữa mà ngồi xuống, nhìn tôi.

Hành vi của tên này rất khác thường, tôi còn tưởng hắn sẽ mặc kệ mà nghênh ngang bỏ đi chứ. Giờ ngay bản thân tôi cũng ngẩn ra một lúc, không biết nói gì cho phải. Hắn nhìn tôi, hỏi: "Cậu có chuyện gì?"

Tôi nghe xong, lửa giận trong bụng cháy càng lớn, bèn nói: "Tôi có chuyện muốn hỏi anh, anh không được trốn tránh nữa, anh nhất định phải nói cho tôi biết."

Hắn quay lại, nhìn lửa một lúc, nói: "Tôi sẽ không trả lời."

Tôi lập tức nổi cơn tam bành, gắt lên: "Cái đệch mẹ vì sao chứ?? Anh có cái gì không thể nói ra? Anh đùa giỡn bọn tôi một hồi, rồi ngay cả một cái lý do cũng không nhả ra được, anh coi bọn tôi ra cái gì hả?"

Hắn ta bèn quay ngoắt đầu lại nhìn tôi, sắc mặt trở nên vô cùng lạnh lẽo: "Cậu không cảm thấy mình rất kỳ lạ à? Chuyện của tôi, vì sao phải nói cho cậu biết?"

Tôi lập tức nghẹn lời, ớ một tiếng quanh co. Nghĩ bụng thì đúng vậy thật, đây là chuyện của hắn, hắn hoàn toàn chẳng việc gì phải kể cho tôi.

Bầu không khí trở nên rất ngượng nghịu, tôi cũng không biết phải nói sao cho phải.

Im lặng một hồi lâu, Muộn Du Bình uống một ngụm trà bơ đã nguội lạnh, bỗng nói với tôi: "Ngô Tà, cậu theo đến đây để làm gì? Kỳ thực, cậu không nên cuốn vào chuyện này, chú Ba cậu đã vì cậu mà làm không ít chuyện rồi. Vũng bùn này, không phải thứ cậu lội được."

Tôi bỗng ngẩn người một lúc, vô thức nhẩm đếm. Ba mươi chín chữ, hắn thế mà nhả ra được một câu dài như thế, thật quá hiếm có. Tôi nhìn vẻ mặt của hắn một lúc, nhưng cũng không nhìn ra được cái gì.

"Tôi cũng đâu có muốn thế. Thực ra yêu cầu của tôi đơn giản lắm mà, tôi chỉ cần biết chuyện này là thế nào thôi, tôi liền thỏa mãn ngay, thế nhưng hết lần này đến lần khác mọi người đều không cho tôi biết, tôi không muốn lội vũng bùn này cũng không được."

Muộn Du Bình nhìn tôi nói: "Vậy cậu có từng nghĩ tới, vì sao bọn họ không cho cậu biết chân tướng sự việc này không?"

Tôi nhìn ánh mắt Muộn Du Bình, bỗng phát hiện ra hắn đang nói chuyện với tôi hết sức nghiêm túc, không khỏi giật mình, thầm nhủ cái tên này uống lộn thuốc rồi chắc.

Chẳng qua nghĩ thì nghĩ thế, chứ chính lúc này đây có lẽ hắn ta có thể nói ra cho tôi được chút gì đây. Tôi lập tức nghiêm mặt lại, lắc đầu: "Chưa từng nghĩ tới, cũng chẳng biết phải nghĩ đi đâu nữa."

Hắn thản nhiên nói: "Kỳ thực, có đôi khi nói dối một người, chính là vì muốn bảo vệ người đó. Có một số sự thật, có thể người đó không tài nào tiếp nhận nổi."

"Có tiếp nhận nổi hay không phải do chính người đó quyết định." Tôi nói, "Có lẽ, người đó không muốn anh bảo vệ, người đó lại muốn chết một cách sảng khoái thì sao? Anh có hiểu cái cảm giác đau khổ khi mà mình không biết một cái gì hết không hả?"

Muộn Du Bình trầm mặc. Hai người im lặng một lúc, rồi hắn nói với tôi: "Tôi hiểu." Sau đó, hắn nhìn tôi, "Hơn nữa, còn hiểu rõ hơn cậu. Với tôi, những chuyện tôi muốn biết, hẵng còn nhiều hơn cậu rất nhiều. Thế nhưng, tôi không giống cậu, có người để mà túm lấy hỏi."

Tôi liền nhớ ra, hắn từng bị mất đi trí nhớ. Tự dưng tôi muốn tát cho mình một cái lật mặt, tự nhủ bảo so bì cái gì với hắn thì so, ai đời lại đi so bì cái này.

Hắn lại nói tiếp: "Tôi là một người không có quá khứ lẫn tương lai, tất cả những việc tôi làm, chỉ là muốn tìm mối liên hệ giữa tôi với thế giới này. Tôi từ đâu tới, vì sao tôi lại ở đây?" Hắn nhìn tay của mình, thản nhiên nói, "Cậu có thể tưởng tượng được không, một người như tôi vậy, nếu bỗng biến mất trên thế giới này, sẽ không một ai phát hiện ra, như thể tôi vốn chưa bao giờ tồn tại trên đời này vậy, không còn một chút dấu vết nào cả? Đôi khi tôi nhìn vào trong gương, thường thấy hoài nghi, liệu tôi có đang tồn tại thật hay không, hay chỉ là ảo ảnh của một con người?"

Tôi nói không nên lời, suy nghĩ một lúc rồi mới đáp: "Không đến mức cường điệu như anh nói thế đâu. Nếu như anh biến mất, chí ít vẫn còn tôi phát hiện ra."

Hắn lắc đầu, không biết là có ý gì, vừa đứng lên vừa nói với tôi: "Chuyện của tôi, có lẽ đến một ngày nào đó tôi biết được đáp án, tôi sẽ kể cho cậu nghe. Thế nhưng chuyện của cậu, túm tôi hỏi cũng không có đáp án. Hiện giờ, tất cả đối với tôi mà nói, cũng đều là bí ẩn cả. Tôi nghĩ, những câu đố của cậu đã quá đủ rồi, không cần nhiều hơn nữa." Nói rồi liền quay bước đi về.

"Ít nhất anh có thể nói cho tôi biết một việc được không?" Tôi kêu lên.

Hắn dừng lại, quay đầu, nhìn tôi.

"Vì sao anh lại trà trộn đi vào bên trong cửa Thanh đồng?" Tôi hỏi.

Hắn nghe xong, suy nghĩ một chút, nói: "Tôi chỉ là làm lại việc mà Uông Tàng Hải năm xưa đã làm."

"Vậy anh ở trong đó đã thấy cái gì?" Tôi hỏi, "Đằng sau cánh cửa khổng lồ đó, rốt cuộc là cái gì?"

Hắn quay đầu, phủi phủi những hạt cái dính trên người, nói với tôi: "Ở trong đó, tôi đã thấy kết cục. Kết cục của tất cả vạn vật."

"Kết cục?" Tôi chả hiểu cái mô tê gì cả, còn muốn hỏi thêm. Hắn liền nhìn tôi khẽ mỉm cười, xua tay ý bảo tôi đừng hỏi, chỉ nói với tôi rằng: "Ngoài ra, tôi là người đứng ở bên cậu." Nói rồi liền thong thả bước đi xa, chỉ còn lại một mình tôi. Tôi gục xuống cát, cảm thấy đau đầu vô cùng.

Chương 48. Tiếp tục xuất phát.Editor: EarlPanda —-Chương này đáng ra không phải là của Mị _..*****

..Sáng sớm ngày hôm sau, đoàn xe lại tiếp tục xuất phát.

Rời khỏi thôn nhỏ tên Lan Thác, đoàn xe tiếp tục đi vào sâu trong hoang mạc Gobi, chính là khu vực không có bất cứ cái gì trên bản đồ. Nói cách khác, nơi đấy không có đến cả một con đường nhỏ nhất có xe chạy qua lại, bên dưới bánh xe kia là mặt đất mà vài chục năm, thậm chí trên trăm năm, cũng không hề có dấu chân người. Tình trạng đường xá, có lẽ đúng hơn là tình trạng địa hình càng thêm hỏng bét, cái gọi là xe chạy việt dã mà đi trên kiểu đường này cũng phải lo nơm nớp, bởi vì anh sẽ chẳng biết bên dưới lớp cát kia liệu có vùi đá tảng hay hố sâu hay không. Mà Định Chủ Trác Mã còn phải dựa vào đá phong hóa và lũng sông mới có thể tìm được các dấu hiệu của tuyến đường ngày trước, điều này khiến đoàn xe buộc phải đi trên con sườn dốc dựa sát vào đá núi.

Mặt trời chói chang giữa bầu không, cộng thêm dọc đường xóc nảy vô cùng, khiến tinh thần hăng hái khi mới bắt đầu của mọi người hầu như bị dập tắt hết, từng người từng người một bị mặt trời hun nóng đến héo quắt cả người. Mới đầu còn có người rồ ga phóng cho thật nhanh, về sau tất cả đều ngoan ngoãn xếp thành hàng mà chạy hết.

Trong các hoạt động thám hiểm và khảo sát địa chất, thực ra, thám hiểm sa mạc hoàn toàn khác với thám hiểm rừng rậm hay thám hiểm đáy biển, dưới đáy biển và trong rừng rậm đều có một lượng lớn những tài nguyên có thể tận dụng được, nói cách khác, chỉ cần anh có đủ các kỹ năng sinh tồn thì anh có thể sinh tồn ở hai nơi này rất lâu. Nhưng ở sa mạc thì hoàn toàn ngược lại. Ở đây, chỉ có toàn cát là cát, cho dù anh có ba đầu sáu tay đến mấy cũng không thể nào một mình tìm được thứ gì đó có thể giúp anh sinh tồn ở giữa sa mạc nổi. Đây chính là nguyên nhân vì sao sa mạc Gobi được gọi là "vùng đất tử thần" vậy. Bọn A Ninh là lần đầu tiên đi vào một nơi như thế, kinh nghiệm không có, vỡ mộng kiểu này là chuyện đương nhiên.

Tôi cũng bị phơi nắng đến mức ngây ngất cả người, nhìn cát vàng cuồn cuộn bên ngoài, bắt đầu có ý định rút lui. Thế nhưng lời nhắn cho tôi với Muộn Du Bình của Định Chủ Trác Mã hôm qua khiến tôi phải ép mình hạ quyết tâm. Nhớ đến chuyện xảy ra đêm qua, tôi cảm thấy một áp lực vô hình đang đè lên mình.

"Nó" đang ở ngay trong số các anh.

Nó là ai?

Trong cuốn sổ tay của Văn Cẩm đã rất nhiều lần đề cập đến việc phải liên tục trốn tránh khỏi "nó" trong suốt hai mươi năm, cái "nó" này rốt cục là cái gì? Mà điểm khiến tôi lưu ý chính là, vì sao phải là "nó", mà không phải "hắn ta/ cô ta"? Lẽ nào cái "nó" đang ở ngay trong số chúng tôi đây, lại chẳng phải là người? Suy đoán này thực sự khiến người ta cảm thấy khó chịu.

Mới bắt đầu tuyến đường đi vào khu vực không người qua lại, chúng tôi men theo một con sông cạn mà đi. Hóa ra, bồn địa Sài Đạt Mộc không phải là nơi những dòng sông tụ lại. Phần lớn các con sông đều bắt nguồn từ núi tuyết Đường Cổ Lạp và Côn Lôn, tuy nhiên, trong mười năm gần đây khí hậu đã có sự thay đổi, nhiều con sông lớn còn bị lấp dưới đất chứ đừng nó là những nhánh sông nhỏ. Chúng tôi đi dưới đáy con sông cạn, nhìn thấy nơi nơi toàn là những cây cỏ ngải cao quá nửa người, phỏng chừng ở đây đã hai ba năm rồi không có nước, thêm mấy năm nữa, con sông này rồi cũng sẽ biến mất.

Đi ba ngày nữa là chúng tôi sẽ đến cuối đường sông, hoang mạc sẽ biến thành sa mạc. Có điều, sa mạc ở bồn địa Sài Đạt Mộc cũng không lớn, chúng giống như những vệt màu loang lổ tô điểm thêm cho vùng trung tâm bồn địa. Bình thường người dân chăn nuôi không ai vào sa mạc cả, bởi trong đó có ma quỷ, hơn nữa, trong đó cũng chẳng có cỏ cho dê bò ăn. Định Chủ Trác Mã nói, bao quanh vùng sa mạc này chính là cửa ngọn núi muối mà năm đó bà đã chia tay với nhóm người Văn Cẩm. Chỗ đó có một tảng đá lớn rất kỳ lạ, trông giống như một cái cổng thành khổng lồ, rất dễ tìm. Tiếp tục đi vào trong sẽ là nơi tụ hội của sa mạc, hồ, hồ muối cạn, tất cả những thứ này nuốt chửng lẫn nhau, địa hình mỗi ngày một thay đổi, một người dẫn đường kinh nghiệm dày dạn nhất cũng không dám tiến vào đây.

Có điều bọn A Ninh mang theo GPS, vì vậy về điểm ấy bọn họ không lo lắng cho lắm, cho dù Trát Tây cứ một mực nhắc nhở bọn họ rằng vào đến trong máy móc đều sẽ bị hỏng hết. Nhất là dưới sự chênh lệch nhiệt độ trong ngày lên đến hơn năm mươi độ của hoang mạc Gobi.

Men theo đường sông cạn được hai ngày, có gió lớn nổi lên. Nếu là ở giữa sa mạc thì chắc chắn đây là loại gió chết người, nhưng may mà khi ở hoang mạc đây, nó chỉ có thể hất tung lên một đám cát vàng khổng lồ. Đoàn xe chúng tôi mỗi xe phải cách nhau lên đến trên trăm mét, tầm nhìn hầu như bằng không, vận tốc xe cũng hãm đến mức thấp nhất, lại phải chống chọi với gió giật suốt cả ngày, xe với lái xe đều đã đến cực hạn rồi. Cái gì cũng không nhìn thấy, cái gì cũng không nghe thấy, vô tuyến điện không liên lạc được, cũng không thể bật lên được nữa.

Anh chàng Caucasus vẫn chưa từ bỏ ý định, nhưng về sau đó, chúng tôi không thể nào xác định được xe có đang chạy hay không, hoặc là, xe đang chạy về hướng nào nữa rồi, cuối cùng anh ta đành phải dừng xe lại, quay đầu xe sang bên ngược chiều gió để tránh cát bụi theo gió luồn vào trong động cơ, chờ hết cơn gió lớn này.

Xe bị gió vần vò đến mức như đang lắc lư, cát đập vào cửa sổ nghe rầm rập, chúng tôi lại không biết giờ tình hình của các xe khác như thế nào, cái cảm giác lúc này thật khiếp sợ vô cùng. Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ, chỉ thấy một màu đen kịt túa ra, đủ biết rằng bên ngoài kia là cát bụi dày đặc chứ không phải là do trời sập tối, thế nhưng thật chẳng có cách nào xoay sở cả.

Ngồi trong xe chờ hơn mười phút, gió đột nhiên lại càng lớn hơn, tôi cảm thấy cả xe cứ rung lên bần bật, giống như là sắp bay lên trời vậy.

Anh chàng Caucasus vẻ mặt khiếp sợ, quay sang nhìn tôi nói: "Trước đây cậu có gặp phải tình huống như thế này không?"

Tôi thầm nghĩ gặp thế đếch nào được, nhìn vẻ mặt kinh hoàng của anh ta, đành phải an ủi, bảo rằng anh cứ yên tâm, sức nặng của một con Land Rover chắc chắn có thể bảo vệ chúng ta. Ấy thế mà lời vừa dứt, đột nhiên "Rầm" một tiếng cực lớn, hình như có vật gì đập vào chiếc Land Rover vậy, khiến cả cái xe hơi rung lên, còi báo động rú lên ầm ĩ.

Tôi cứ tưởng là xe đằng sau không nhìn thấy đường nên đâm phải chúng tôi, liền vội vàng dán mắt vào cửa kính xe. Anh người Caucasus cũng sáp đến gần mà nhìn.

Ở bên ngoài, màn đen lại càng thêm dày đặc, nhưng vì cát bụi là thể rắn, nên khi thổi qua một vật gì đó sẽ hiện lên khung hình đại khái, với lại nếu có xe cũng có thể nhìn thấy đèn xe từ xa.

Thế nhưng nhìn ra ngoài lại không thấy bất cứ ánh đèn xe nào, tôi đang lấy làm lạ, anh chàng Caucasus bỗng kêu lên một tiếng quái lạ, túm lấy tôi quay ra sau nhìn. Tôi quay đầu, nhìn thấy bên ngoài một cánh cửa sổ xe khác, trong màn cát bụi, không biết tự lúc nào, xuất hiện một cái bóng rất kỳ lạ.

Cái bóng đen ngoài cửa sổ xe mờ mờ không rõ, nhưng rõ ràng là ở rất gần cửa sổ xe, nheo mắt cố nhìn thì thấy đó hình như là một bóng người. Nhưng ở giữa cơn gió lớn như vậy sao lại có người ở bên ngoài, vậy có khác gì tự sát đâu?

Chúng tôi còn chưa kịp kinh ngạc, cái bóng liền di chuyển, dường như đang sờ sờ cửa sổ xe muốn tìm cách để mở ra. Có điều Land Rover rất kín, hắn ta sờ soạng cả ngày giời cũng không tìm được khe nào mà cậy, sau đó, chúng tôi liền thấy một khuôn mặt dán sát lên kính cửa xe. Đèn trong xe chiếu rõ thấy kính chắn gió của hắn ta.

Tôi lập tức nhận ra đó là loại kính chắn gió mà bọn A Ninh phân phát, bấy giờ mới thở phào nhẹ nhõm, tự nhủ cái thằng phải gió này là đứa nào, gió lớn vậy tự dưng xuống xe làm cái khỉ gì không biết?  Chẳng lẽ chính là xe của hắn ta vừa đâm phải xe chúng tôi?

Người ở ngoài cửa sổ cũng nhìn thấy bọn tôi trong xe, bắt đầu gõ gõ cửa sổ, chỉ vào cửa xe, hình như là muốn chúng tôi ra ngoài gấp. Tôi nhìn thời tiết bên ngoài, nghĩ bụng bố mày mặc xác!

Còn chưa nghĩ xong, bỗng ở cửa sổ xe bên kia cũng xuất hiện một bóng người đeo kính chắn gió, người này bật đèn, cũng gõ cửa sổ xe, cả hai đều gõ rất dồn dập.

Tôi bắt đầu cảm thấy không ổn, dường như là có chuyện gì đó xảy ra, có lẽ bọn họ muốn chúng tôi xuống xe giúp đỡ. Vì vậy, tôi cũng kiếm lấy một áo choàng và kính chắn gió, đeo lên, còn anh người Caucasus lấy ra hai cái đèn mở, bật sáng sẵn rồi đưa cho tôi.

Hai người bọn tôi hít một hơi thật sâu, gắng sức mở cửa xe. Trong nháy mắt, cát bụi liền thốc mạnh vào. Tôi tuy đã chuẩn bị sẵn rồi, nhưng vẫn bị gió đột ngột thốc cho bay trở lại vào trong xe, phải chèn chân ở cửa thì cửa xe mới không bị đóng sập lại. Tôi một lần nữa dùng hết sức bình sinh, cúi thấp đầu mới chui được được ra ngoài, được người ở ngoài đỡ lấy kéo ra. Còn anh chàng Caucasus bị ngã đập thẳng xuống đất luôn, tiếng chửi thề của anh lập tức bị gió tạt ra hơn mười mấy mét liền. Khắp bốn phía toàn là tiếng gió thổi lẫn tiếng hạt cát ma sát cứ thế đập vào màng nhĩ, thứ tiếng này nghe thì không quá vang, nhưng lại lấn át hết tất cả các âm thanh khác, bao gồm cả tiếng hít thở của mấy người chúng tôi.

Chân vừa chạm xuống hoang mạc, tôi liền cảm thấy có điểm gì không đúng, sao mặt đất lại cao lên thế nhỉ? Tôi gắng sức khom người lại để không bị gió thổi ngã, dùng đèn mỏ chiếu về phía chiếc xe của mình, vừa nhìn liền trợn ngược cả mắt: mẹ kiếp, phân nửa bánh xe thì ngập trong cát, thân xe thì vẹo đến ba mươi độ, bệ đặt chân của xe thì đã chìm sâu trong cát, hơn nữa, chiếc xe còn đang dần dần lún xuống, có lẽ ở đây có một hố cát chảy. Thảo nào khởi động xe mãi mà không đi được.

Không có xe, chúng tôi coi như xong đời. Tôi cuống quá, vội vàng muốn nhấc xe lên, nhưng khi vừa giẫm lên vùng cát sát mép xe thì dường như có một lực nào đó kéo chân tôi xuống, giống như một cái xoáy nước vậy, thế là tôi bèn vội vàng rút chân lên, lùi ra sau. Người vừa gõ cửa sổ chúng tôi thấy thế liền kéo tôi ra, dùng tay ra hiệu cho tôi một cách khó khăn, rằng xe này hết cách cứu rồi, chúng ta phải bỏ xe ở đây thôi, nếu không sẽ bị vùi trong cát.

Anh này che người rất kín, mồm miệng đều bị áo choàng che kín cả, tôi biết anh ta cùng lúc đó cũng đang nói rất to, nhưng tôi lại chẳng nghe thấy gì cả. Tôi không biết anh ta là ai, nhưng điều mà anh ta đang dùng động tác để biểu đạt kia quả là sự thực. Vì vậy, tôi bèn gật đầu, lại lấy tay ra hiệu hỏi xem anh ta đi đâu bây giờ? Anh ta liền chỉ vào thùng xe phía sau, bảo tôi lấy hết những đồ dùng được ra, sau đó, anh ta làm một động tác cả hai tay cùng vươn ra phía trước.

Động tác này có nghĩa là lặn xuống nước trong thủ ngữ, có ý là lục lọi, tìm kiếm. Xem ra còn rất nhiều xe nếu người ta không ra ngoài thì chắc chắn vẫn còn chưa biết xe mình đã sụt hố cát chảy, chúng tôi phải đi tìm họ để báo cho bọn họ biết, nếu không những chiếc Land Rover này sẽ trở thành những chiếc quan tài sắt thép trị giá trăm triệu của họ.

Tôi gật đầu với người kia, ra hiệu OK, rồi mở thùng xe lấy ra những trang thiết bị quan trọng. Tôi phải khom lưng suốt cứ như một tên gù mới hoàn thành cái công việc đơn giản này. Lúc ấy, thực ra hai tai tôi đã tê rần cả lên rồi, khắp xung quanh như thể không một tiếng động gì, tĩnh lặng vô cùng, cảm giác giống như đang xem một bộ phim câm, một bộ phim câm 3D.

Đóng thùng xe lại, tôi mới thấy trên cửa xe phía sau bị lõm hẳn xuống một vết, giống như bị một con quái vật khổng lồ đập cho một phát vậy. Tôi nhớ đến lần chấn động lúc nãy, liền dùng đèn mỏ chiếu khắp bốn phía xung quanh, nhưng không nhìn thấy cái gì cả, chỉ thấy bóng anh chàng người Caucasus đang giục tôi đi mau.

Tôi trấn định lại tinh thần, nghĩ bụng có lẽ đó chỉ là do một tảng đá bị gió thổi đập phải thôi, rồi co quắp người lại đi về phía sau theo mấy cái bóng người kia.

Đi được chừng mười mấy mét mà tôi cảm giác cứ như đã đi được tám mấy mét, hoặc có lẽ là còn xa hơn nữa, chúng tôi liền thấy đèn chiếc xe tiếp theo. Đầu xe này đã vểnh cả lên rồi. Chúng tôi đi tới, nhảy lên trên mui xe, thấy người trong xe đã chạy cả ra rồi. Chúng tôi lại đi về phía sau thêm hơn mười mét nữa mới tìm thấy bọn họ, có một người bị rơi mất kính chắn gió, cát bay đầy cả vào mắt, đau quá liền kêu tướng lên. Chúng tôi vây quanh người này làm thành một bức tường chắn gió, dùng khăn mặt che kín lấy mắt anh ta.

Chúng tôi đỡ anh ta đứng lên, tiếp tục đi. Rất nhanh sau đó lại tìm được một chiếc xe, trong xe có ba tên đang đánh bài. Bọn tôi nhảy chồm chồm trên nóc xe cả ngày trời mà mấy tên này vẫn chẳng thèm có phản ứng gì, cuối cùng, tôi phải dùng một tảng đá đập nứt kính cửa xe của bọn họ, lúc này, xe đã chìm một nửa rồi.

Sau khi đưa bọn họ ra ngoài, gió đã mạnh đến nỗi mấy hòn đá trên mặt đất cũng bị gió tốc lên, có mấy viên đá cứng đạn thỉnh thoảng lại bay xẹt qua trước mặt bọn tôi, bị đập trúng là xong đời. Có một người bị đá bay trúng vào kính chắn gió, mũi đầm đìa máu. Có người bèn dùng tay ra hiệu rằng thế này không xong rồi, đi lại bây giờ quá nguy hiểm, chúng tôi không còn cách nào khác đành tạm thời ngừng việc tìm kiếm, nằm sấp xuống tránh né trận mưa đá này.

Có mấy người lấy vài vật cứng rắn nào đó từ trong túi trang bị, tôi thì lấy ra một cái hộp cơm inox úp lên mặt, còn anh chàng Caucasus thì lấy ra một quyển Kinh thánh. Thế nhưng còn chưa kịp sắp xếp cái gì thì gió đã cuốn lấy lật tung trang sách ra, nhoáng cái tất cả trang giấy đều tướp ra thành giấy vụn rồi biến mất luôn, trong tay anh ta chỉ còn lại một cái bìa sách đen sì.

Tôi cười anh ta ha hả, gào tướng cả cổ họng lên: "Quyển sách của anh chắc chắn là sách lậu rồi!" Lời chưa dứt, một viên đá liệng thẳng vào cái hộp cơm của tôi, tóe lửa tứ phía. Cái hộp cơm vốn chỉ có tác dụng đựng cơm ăn thôi, cho nên chả mấy mà tôi đã không thể giữ nổi được nữa, cái hộp cơm liền văng mất tiêu.

Tôi sợ chết khiếp, nếu bị đá đập trúng đầu thì có mà máu phun tung tóe, tôi chỉ có thể ôm chặt đầu, áp sát mình vào mặt đất.

Lúc này, đột nhiên bốn phía sáng bừng lên, một tia chớp nóng rẫy bất chợt bay lên từ phía bên cạnh chúng tôi. Chúng tôi đều bị dọa cho khiếp vía, tôi nghĩ bụng ôi cái đệch, thứ gì mà nhanh đến vậy?! Tôi còn chưa kịp phản ứng, phía trước lại có ba tia chớp lóe lên, bay về hướng chúng tôi, vừa vặn sượt qua người bọn tôi. Liền đó tôi ngửi thấy một mùi quen thuộc, đó là mùi magie bị đốt cháy ở nhiệt độ cao. Tôi lập tức nhận ra đó là thứ gì: đạn tín hiệu.

Tôi không khỏi giận dữ, nhủ thầm không biết cái thằng phải gió nào, cái thằng con lợn nào lại bắn đạn tín hiệu trong cái thời tiết này, lại còn ở nơi đầu gió nữa hả? Sợ gió thổi không chết bọn tôi nên phải bắn phát cho cả đám chết cháy hả? Một quả cầu lửa nhiệt độ lên đến hàng nghìn độ C bắn đi với tốc độ 160km/h, trúng phát là tèo luôn.

Thế nhưng nghĩ lại, liền thấy không đúng lắm, nhóm người này đều là người đã qua huấn luyện đầy đủ, sao có thể làm xằng làm bậy được. Trong thám hiểm, bắn đạn tín hiệu là một phương thức liên lạc chỉ sử dụng trong những tình huống nguy cấp, bởi phạm vi chiếu sáng của nó rất rộng, tiêu hao nhiều đạn dược, bình thường chỉ trong tình huống vô cùng nguy hiểm hoặc đối tượng cần liên lạc cách quá xa thì mới sử dụng. Trong điều kiện tự nhiên ác liệt như bây giờ mà bọn họ lại sử dụng đạn tín hiệu, vậy chắc hẳn ở phía trước kia đã xảy ra chuyện gì rồi.

Tôi liếc mắt nhìn mọi người khắp xung quanh, bọn họ cũng nghĩ giống như tôi vậy. Tôi liền giơ tay ra hiệu, để ba người không bị thương đứng lên, đi đến chỗ đó xem có việc gì. Nếu người ta cần giúp đỡ hoặc có ai đó bị thương, không chừng sẽ giúp được một tay.

Tuy nhiên, đây không phải việc muốn làm là làm hay chủ nghĩa anh hùng cá nhân được, tôi vừa lóp ngóp đứng lên thì bị một viên đá bắn trúng vào vai, bọn tôi đều phải lấy ba lô chắn phía trước làm khiên, chỉnh lại la bàn, sau đó đi về phía có đạn tín hiệu bắn lên ban nãy. Đồng thời còn phải đề phòng nhỡ lại có đạn tín hiệu đột nhiên bắn tới.

Đi được một lúc, chúng tôi cũng không biết mình có đi lệch hướng hay không nữa, có điều, đi được chừng hơn trăm mét thì gặp được ba chiếc xe quây vào cùng một chỗ. Thế nhưng trong xe không hề có người, người đã bỏ đi từ lâu. Chúng tôi tìm khắp xung quanh mấy chiếc xe, cũng không thấy ai cả, vậy mà các trang thiết bị trong xe lại vẫn còn nguyên.

Xe đang bị lún hố cát, chúng tôi mở thùng xe, thầm nghĩ ít nhất thì cũng phải lấy hết mấy đồ cứu thương gì đó ra đã. Ngay khi đang định chui vào trong xe thì lại có ánh sáng đạn tín hiệu lóe lên, từ nơi cách chúng tôi rất xa. Ánh sáng vừa chợt lóe, chúng tôi nhận thấy nơi bắn đạn tín hiệu lại ở bên trái bọn tôi, cách đây cũng không đến nỗi quá xa. Xem ra chúng tôi quả thực là đã đi lệch hướng. Hoặc là người bắn đạn tín hiệu đã di chuyển.

Chúng tôi đeo trang bị lên lưng, tuy rằng đã mệt lắm rồi, nhưng gió cứ thổi thế này thì cũng không đến mức thổi ngã bọn tôi được, chúng tôi vẫn có thể bước đi một cách ổn định, đi về phía có đạn tín hiệu bắn ra. Đi mãi, đi mãi, chúng tôi bỗng kinh ngạc nhìn thấy, ở phía trước kia, trong cát bụi cuồn cuộn, xuất hiện một cái bóng hình khổng lồ.

Trong cơn cuồng phong, chúng tôi đều khom lưng, dìu lẫn nhau đi xuyên qua màn sương đặc toàn cát, nhìn cái bóng khổng lồ kia mà tất cả đều cảm thấy vô cùng bất ngờ, trong phút chốc liền quên mất có nên tiếp tục tiến bước hay không.

Anh chàng người Caucasus bên cạnh giơ tay ra hiệu, hỏi tôi đó là thứ gì vậy. Anh chàng này tư duy rất theo quán tính: anh ta đang ở Trung Quốc, mà tôi là người Trung Quốc, vậy hễ cứ ở Trung Quốc mà đụng phải cái gì thì phải chạy đi hỏi tôi mới được.

Tôi lắc đầu bảo anh ta đừng ngớ ngẩn, trong đầu tôi cũng không nắm được gì đâu.

Nói chung là, không còn nghi ngờ gì nữa, ở phía trước cách chúng tôi khoảng chưa đến hai trăm mét kia, nếu như không phải là một ông Ultraman béo phì tuổi trung niên thì hẳn là một ngọn núi đá khổng lồ. Đây là thứ mà ai cũng nghĩ tới đầu tiên, thế nhưng suốt trên đường đến đây đều là đất bằng phẳng cả, đâu có thấy ngọn núi đá nào mà to lớn đến thế này?

Núi đá này từ đâu chui ra vậy? Chẳng lẽ là bọn tôi bị lơ đễnh tập thể cả rồi nên lúc trước không nhìn thấy? Tôi tự nhủ, biết điều này là không thể rồi, bởi vì suốt đường đi, việc đầu tiên quan trọng nhất là bọn tôi phải đi tìm núi đá như thế này, bởi chúng tôi cần nơi râm mát để nghỉ ngơi, bóng của những núi đá như thế này là nơi nghỉ ngơi tuyệt vời mà bất cứ đội thám hiểm nào cũng sẽ lựa chọn. Mà thông thường thì, những ngọn núi đá trơ trọi kiểu này trên sa mạc không có nhiều, cho nên nếu mà nó xuất hiện thì chắc chắn chúng tôi sẽ chú ý thấy.

Có điều, bây giờ không lo nghĩ được nhiều đến thế. Có một ngọn núi đá lớn như vậy, quả thực là một nơi tránh gió quá tốt, đạn tín hiệu kia có lẽ chính là để cho chúng tôi tìm được nơi tránh gió đây.

Tôi bắt đầu chạy về phía ngọn núi đá kia, rất nhanh tôi liền cảm thấy được rõ ràng: càng tới gần núi đá gió càng giảm, sức lực càng dùng càng tăng, chạy được phân nửa quãng đường tôi đã thấy phía trước có năm, sáu ánh đèn lóe sáng phát ra từ những ngọn đèn mỏ.

Tôi mừng rỡ như điên, chạy điên cuồng về phía ngọn đèn, hứng lấy cơn cuồng phong, một bước nông một bước sâu mà chạy vọt đến. Nhưng chạy rất lâu, rất lâu mà ngọn đèn kia dường như vẫn không lại gần tôi một chút nào, mẹ kiếp hóa ra là ở xa đến thế, tôi nghĩ thầm. Lúc ấy cũng sức cùng lực kiệt rồi, bèn chạy chậm lại, gọi mấy người bên cạnh chậm lại chờ một chút, bởi tôi cảm thấy có điều gì đó không ổn.

Thế nhưng tôi vừa quay đầu nhìn lại, không khỏi choáng váng cả người. Bên cạnh tôi làm gì có người nào, xung quanh chỉ có cát bụi cuồn cuộn cùng bóng đêm vô tận.

Chương 49. Lạc đường
Editor: EarlPanda —-Tui bị ảo giác viết nhầm Ngô Tà nặng 60kg mà ko thím nào đọc thấy ngứa ass nhắc tui sửa sai à? (¬_¬) Các thím quên đồng chí Ngô cao to đẹp trai cao những 1m82 sao, nặng 60 ký có mà con cá mắm à  (¬_¬)1 cân Trung Quốc = 1/2 kg ..*****

Gió ở đây không còn dữ dội như vừa rồi nữa. Gió cuồn cuộn khắp bốn phía, phía trước chắc chắn là có thứ gì đó chắn gió lại, nhưng còn hai người vừa chạy cùng tôi thì đi đâu cả rồi? Tôi chạy đâu có nhanh, thế mà cũng tụt lại phía sau được ư? Hay là bị đá bay táng trúng, ngã mẹ nó luôn ở đằng sau rồi?

Tôi giơ cao chiếc đèn mỏ chiếu khắp xung quanh mà vẫn không thấy bất cứ một bóng người nào, tôi không khỏi có chút hối hận khi nãy quá tập trung về một hướng mà không chú ý đến tình hình xung quanh mình. Có điều, đi lại trong gió lớn như thế này, thực ra xung quanh cũng chẳng có gì để chú ý, tiếng gió thổi quá lớn nên chẳng nghe thấy được gì, mà tất cả tinh thần và thể lực đểu phải dồn hết cả vào mục tiêu trước mắt và thăng bằng cơ thể.

Nhoáng cái đã bị bỏ lại một mình, trong một chớp mắt tôi vẫn còn cảm thấy được một nỗi sợ hãi dâng lên, nhưng rất nhanh đã bị tôi xua tan mất. Tôi nghỉ ngơi một chút, hổn hển hít thở mấy hơi, sau đó tiếp tục đi về phía trước. Bây giờ tôi không thể quay lại tìm bọn họ được nữa, tôi đã mất cảm giác về phương hướng rồi, nếu quay lại sẽ chẳng biết đi đến đâu nữa, vì vậy biện pháp tốt nhất là đi về phía trước.

Tôi vứt bớt một ba lô trang bị đi, thứ này thật sự là nặng quá đi mất. Đồ nghề thám hiểm của người nước ngoài cá nhân hóa lắm, có lần tôi còn thấy có người mang theo một cái khung ảnh vợ của mình to như cái khiên, hay một quyển sách cỡ cái tablet vậy. Tôi lười vác giùm bọn họ lắm rồi, bèn trang bị nhẹ nhàng rồi tiếp tục chạy về phía ngọn đèn nọ.

Thế nhưng dù tôi có chạy đến cỡ nào ngọn đèn kia vẫn cứ ở xa tít mù tắp, cứ như thể tôi chẳng đến gần thêm được tí gì. Tôi thở hồng hộc. nghĩ muốn bỏ cuộc rồi, nhưng vẫn thấy không cam lòng. Lại chạy tiếp, chạy mãi, ngọn đèn phía trước liền hoa hết cả lên.

Ngay khi tôi sắp mất đi tri giác mà té nhào xuống đất thì bỗng nhiên, có người nào đó chợt kéo tôi lại. Tôi đã kiệt sức rồi, bọn họ kéo một cái tôi liền khuỵu xuống đất. Ngẩng đầu nhìn, qua một lớp kính chắn gió, tôi nhận ra đôi mắt của hai người kia. Một người là Muộn Du Bình, người còn lại là tên Kính Râm, kính chắn gió của tên này cũng màu đen nốt. Hai người kia vội vàng kéo tôi đi sang một hướng khác.

Tôi giãy khỏi bọn họ, chỉ vào phía trước, muốn nói rằng ở đó có nơi tránh gió.

Nhưng khi tôi vừa nhìn lại liền ngây ra, phía trước không thấy gì cả, ngọn đèn lúc nọ đã biến mất, ở đó chỉ có bóng tối mịt mùng, ngay cả cái bóng khổng lồ kia cũng không thấy đâu nữa.

Muộn Du Bình và Kính Râm không thèm để ý đến tôi, một mạch kéo lê tôi đi. Lúc bấy giờ tôi nhìn thấy khẩu súng tín hiệu trong tay tên Kính Râm. Hai người này khỏe khủng khiếp, tôi nặng gần chín mươi cân mà cũng bị bọn họ xách đi thoăn thoắt. Rất nhanh, tôi dần tỉnh lại, bắt đầu đạp chân lên mặt đất, ý rằng tôi có thể tự chạy được.

Bọn họ thả tôi ra, tôi lập tức hối hận ngay. Hai người kia chạy quá nhanh, muốn đuổi theo phải dồn hết cả hơi sức mà chạy. Tôi cắn răng chạy như điên, chạy một mạch, chạy đủ hai mươi phút, trước mắt tôi cuối cùng chỉ còn lại hai cái bóng của hai người nọ. Tôi hoảng hốt, biết bọn tôi đã chạy đến bờ sông rồi. Trèo lên được một đồi đất, hai bóng người phía trước đã không thấy tăm hơi.

Tôi gào toáng lên chờ tôi với, dưới chân lại đột nhiên vấp một cái, ngã lộn tùng phèo xuống dưới sườn dốc. Tôi vùng vẫy đứng lên, nhổ hết bùn đất trong mồm ra, nhìn khắp bốn phía xung quanh. Thì ra bên dưới sườn dốc này là một con rãnh sâu, trong rãnh toàn là người, tất cả đều co lại trong rãnh để tránh cơn cuồng phong. Thấy tôi ngã xuống, cả đám bèn ngẩng đầu nhìn tôi.

Chúng tôi co người lại dưới đáy rãnh, cát bụi cuồn cuộn lướt qua trên đầu chúng tôi. Hoang mạc Gobi không phải lúc nào cũng bằng phẳng, đặc biệt là ở những nơi từng có con sông chảy qua. Hai bên bờ sông có rất nhiều những con rạch nhỏ ngập nước mỗi khi thủy triều lên, những vết sẹo trên bề mặt hoang mạc này không quá sâu nhưng cũng phải cỡ hai, ba mét, thế là đã đủ cho chúng tôi tránh gió rồi.

Tôi đã sức cùng lực kiệt, có mấy người chạy đến đưa tôi xuống đáy con rạch. Hóa ra ở chếch bên trong con rạch này còn có một cái ao trũng rất lớn, có lẽ ở đây từng có một cây hồ dương lớn, cây hồ dương này sau khi bị đổ, bộ rễ của nó gãy lìa tạo thành một cái hố, lâu dần bị nước xối vào bào mòn nên mới hình thành cái ao trũng này. Thân cây hồ dương đã bị chôn vùi dưới đáy con rạch, chỉ có thể nhìn thấy một phần nhỏ nhô lên. Tất cả mọi người đều lui vào trong ao trũng này, còn đốt một bếp lò không khói để sưởi ấm, bên trong không có một chút gió nào.

Tôi bị người ta kéo vào trong. Ao trũng rất nông, cũng không cao lắm, ở bên trong đã chật chội lắm rồi, bọn họ co vào nhường cho tôi một chỗ, lại có một người khác đưa nước cho tôi. Nơi này là góc chết gió không thổi đến được, cho nên nói gì cũng có thể nghe thấy, thế nhưng tai tôi vẫn còn chưa thích ứng được, nhất thời không nghe thấy nổi bọn họ đang nói cái gì.

Uống mấy ngụm nước xong tôi mới cảm thấy khá hơn. Tôi tháo kính chắn gió ra, không khỏi bùi ngùi: xứ Trung Hoa này thiếu gì nơi tốt đẹp, thế đếch nào hết lần này đến lần khác tôi cứ đâm đầu vào những nơi như thế này?

Có điều, gió như vậy ở Sài Đạt Mộc chưa được tính là hiếm, cũng chưa phải mùa gió đáng sợ nhất ở đây. Trước đây tôi từng xem qua một số phim tài liệu về khảo sát địa chất ở bồn địa Sài Đạt Mộc, lúc đó đội khảo sát đang dựng lều thì gặp phải gió mùa, kết quả cả đám người đều bị thổi tung lên trời như mấy con diều, đồ đạc trong nháy mắt liền bị thổi bay ra xa cả chục mét. Chỉ có điều tôi cảm thấy rất kỳ lạ, vì sao Định Chủ Trác Mã lại không cảnh báo chúng tôi về điều này? Gió mùa trên hoang mạc Gobi rất rõ ràng, đừng nói là một bà già, chỉ cần là người sống ở đây một khoảng thời gian là có thể tự mò ra được quy luật của gió rồi.

Vả lại, chẳng biết gió này bao giờ mới chịu ngừng. Bình thường nghe người trên hoang mạc nói, ở nơi như thế này một năm chỉ có hai mùa gió, mỗi mùa phải đến nửa năm, một khi gió đã nổi là sẽ thổi không ngừng. Nếu cứ kéo dài như vậy, chúng tôi coi như xong đời.

Muộn Du Bình và Kính Râm chẳng mấy chốc lại đi ngoài, hẳn là đi tìm những người khác. Những người ở đây rõ ràng đều đã khiếp sợ vô cùng, chẳng có mấy ai nói chuyện, tất cả đều co rúm người lại một chỗ. Tôi thầm cảm thấy tức cười, nghĩ bụng còn tưởng bọn họ cũng giống như Indiana Jones chứ, hóa ra cũng chẳng ăn thua gì. Có điều tôi liền nhận ra chân của mình cũng không ngừng run rẩy, không thể đứng lên nổi.

Người đưa nước cho tôi uống hỏi tôi có sao không, có bị bầm tím chỗ nào không? Tôi lắc đầu đáp tôi không sao.

Thực ra, ký ức của tôi về một chuyến mạo hiểm trong bão tuyết trên núi Trường Bạch kia hẵng còn mới mẻ, như bây giờ là đã hơn hồi đó rồi, cuối cùng cũng có thể xem như là được nghỉ ngơi thư thái một chút, chí ít chúng tôi còn có chỗ ẩn náu, cũng không phải lo bị chết cóng.

Sau khi nghỉ ngơi một lúc, tôi mới có thể quan sát khắp mọi người trong ao trũng này một lượt, lại không thấy A Ninh đâu. Ba người Định Chủ Trác Mã, cô con dâu và Trát Tây ở tít bên trong cùng của cái ao trũng, Ô Lão Tứ cũng ở đây, nhân số không nhiều lắm, xem ra đa số mọi người vẫn còn ở bên ngoài, cũng không thấy anh chàng Caucasus đâu.

Đội ngũ này nhân số nhiều lắm, tôi thầm nghĩ, bọn A Ninh chắc hẳn vẫn đang ở bên ngoài tìm kiếm. Nhiều người đến vậy, cho dù bọn Muộn Du Bình có ba đầu sáu tay cũng chẳng thể lo hết được. Cũng may đây còn chưa phải ở trong sa mạc, nếu không, chỉ e là mấy người bọn tôi đều chết chắc rồi.

Ba giờ sau, gió mới chậm lại một chút, mới đầu bọn Muộn Du Bình thỉnh thoảng còn có thể đưa được vài người trở về, về sau bọn họ cũng kiệt sức, không ra ngoài nữa. Tất cả chúng tôi chui vào bên trong, nằm mê man, mãi cho đến khi sắc trời tối sụp xuống thật, bấy giờ mới quả thực là tối đen như mực. Tiếng gió thổi bên ngoài như tiếng ác quỷ gầm thét, mới đầu còn khiến người ta khó chịu, về sau thì chỉ cảm thấy buồn ngủ.

Tôi đã chuẩn bị sẵn việc gác đêm, cũng không có gì đáng ngạc nhiên, thực ra có nhiều người đã ngủ từ lâu. Có người mạo hiểm xông ra ngoài gió cát, lấy ít thức ăn trong các ba lô hành lý xếp chất đống ở bên ngoài. Chúng tôi phân chia thức ăn, ăn qua loa một ít, tôi liền ngả mình xuống cát vàng mà ngủ thiếp đi.

Không biết ngủ được bao lâu, khi tỉnh lại thì gió đã nhỏ đi nhiều. Đây là một dấu hiệu tốt. Tôi thấy đa số mọi người vẫn còn đang ngủ, Trát Tây ngồi trên chỗ cửa chui vào ao trũng, có lẽ là đang gác đêm. Ở đây không an ổn cho lắm, trên đỉnh đầu chúng tôi không phải là đá, mà là đất bùn khô nứt cùng cát đá, cho nên thỉnh thoảng lại có cát từ phía trên lọt xuống. Lúc tôi ngủ đã ăn cả một miệng toàn cát, cảm giác rất khó chịu, cho nên tôi phun cát phì phì vừa đi ra đến bên cạnh Trát Tây.

Tôi không có ý định tìm Trát Tây để nói chuyện phiếm. Trát Tây không phải loại người dễ sống chung, có lẽ cậu ta có tâm lý đề phòng với chúng tôi, mà tôi thì không phải cái loại người rảnh háng đi đem mặt nóng úp vào mông lạnh làm gì, cho nên cậu ta có thái độ mấy tôi cũng chẳng để tâm. Tôi đi tới bên cạnh cậu ta, chỉ là vì muốn hít mấy hớp khí trong lành, đổi chỗ ngủ.

Có điều, khi tôi vừa đến chỗ đó, chợt nghe bên ngoài có tiếng động, sau đó thấy ở ngoài có ánh sáng đèn mỏ, hình như có người nào ở ngoài.

Tôi lấy làm lạ, hỏi Trát Tây có chuyện gì thế? Trát Tây đưa cho tôi một điếu thuốc lá[1], nói A Ninh đã về, gió đã nhẹ bớt, bọn họ gọi người ra ngoài tìm những người khác, tiện thể xem xe cộ thế nào.

Tôi nghĩ đến chiếc xe bị cát lún, trong lòng cũng có chút lo lắng. Bão cát lớn đến vậy, không biết mấy chiếc xe này còn có thể chạy được không nữa. Hơn nữa, tôi khá là lo cho anh chàng người Caucasus nọ, không biết anh đã về chưa. Thế là tôi bèn đeo kính chắn gió lên, khoác áo choàng, đi ra ngoài xem, định đi hỏi thăm tình hình một chút.

Vừa đi ra ngoài, tôi liền thở phào một cái. Gió ở bên ngoài còn nhẹ hơn so với trong tưởng tượng của tôi, xem ra gió đầu đã qua rồi, trong không khí không còn nhiều cát bụi nữa. Tôi kéo áo choàng xuống, hít mấy hơi đầy lồng ngực cái bầu không khí mát rượi nơi hoang mạc, sau đó đi về phía có ánh đèn mỏ.

Đó là hướng phía lòng sông. Tôi đi xuống đó, đến bên mấy người bọn họ.

Bọn họ đang kiểm tra một chiếc xe. Chiếc xe này đã ngập trong hố cát, chỉ còn chừa lại cái mũi xe. A Ninh tay cầm bộ đàm, sốt ruột điều chỉnh tần số.

Tôi hỏi bọn họ: "Sao rồi?"

Một người lắc đầu, chỉ nói một câu: "Thê ly tử tán."

Tôi ù ù cạc cạc, không hiểu anh này nói vậy là có ý gì cho lắm, vì vậy bèn nhìn về phía A Ninh.

Cô ta nhìn tôi, cười rất miễn cường, đi tới giải thích: "Vừa rồi Định Chủ Trác Mã nói, rất có thể gió sẽ lại nổi lên lần nữa, chúng ta phải mau chóng tìm một nơi có thể tránh gió tốt. Có điều, xe của chúng ta đều bị cát lún cả, có mấy chiếc chắn chắn là hỏng rồi, những chiếc xe khác chỉ sợ cũng không thể khởi động được, cần phải sửa lại." Cô ta dừng lại một chút, "Phiền toái nhất chính là, có bốn người không tìm thấy được. Có lẽ khi nãy nổi gió họ bị lạc đường, chúng tôi vừa đi một vòng tìm mà không thấy."

Tôi hỏi mấy người đó gồm những ai, A Ninh nói đó là anh chàng người Caucasus kia và ba người còn lại tôi không quen biết.

Khi anh chàng người Caucasus mất tích là ở cùng với tôi, tôi liền chỉ hướng cho bọn họ, hỏi bọn họ đã tìm ở vùng đó chưa. A Ninh bèn gật đầu, nói đã tìm khắp các vùng xung quanh rồi, những người này chắc chắn còn đi xa hơn cô ta nghĩ.

Tôi thở dài, an ủi cô ta mấy câu, bảo cô đừng lo lắng. Những người này đều có GPS, hơn nữa, gió lớn như vậy, chắc chắn không thể đi xa được. Bây giờ vẫn còn có gió, tầm nhìn không quá rõ ràng, đợi đến rạng sáng lại tìm thì tiện hơn.

Cô ta cắn môi gật đầu nhưng vẻ mặt không thay đổi gì, làm tôi cảm thấy có chút không ổn. Tôi cũng không biết gì về hoang mạc Gobi, bây giờ không biết sắp xảy ra chuyện gì nữa, cho nên không còn cách nào khác ngoài im miệng lại.

Chúng tôi gắng sức mở cửa hai chiếc xe, lấy hết trang bị bên trong ra, sau đó bọn họ còn định đi tìm thêm một chiếc xe nữa, tôi chỉ biết chạy theo sau.

Lúc này tôi phát hiện ra xe bị lún xuống ở giữa lòng sông, dường như không phải do cát lún thường nhắc đến trong tiểu thuyết, mà là mặt đất ở dưới đáy lòng sông kia bị sụt xuống, cả xe bị rơi xuống dưới, cho nên mới không bị ngập quá nóc xe. Có người nói với tôi, đó là do lớp vỏ muối bị vỡ vụn. Nhiều nơi ở bên dưới hoang mạc này có rất nhiều lớp vỏ muối[2]. Nơi này vốn là lòng sông, trước kia khi sông vẫn còn nước, đáy sông vô cùng phức tạp, có một lượng lớn các chất tích tụ ở dưới. Khi khô hạn, vỏ muối kết tinh để lại rất nhiều khe hở, cho nên, ở nơi lòng sông này có những vùng có kết cấu như một miếng pho-mát, không chịu được sức ép. Như vậy là chúng tôi đã đỗ xe ở sai chỗ rồi.

Tôi lấy làm lạ, nói: "Nhưng suốt dọc đường chúng ta đều đi trên lòng sông này, đâu có xảy ra chuyện gì?"

Người kia đáp: "Đó là bởi vì con đường sông trước đó chúng ta đi đã khô cạn từ rất lâu rất lâu về trước rồi, còn đường sông ngay dưới chân chúng ta đây cùng lắm mới chỉ khô cạn được khoảng nửa năm. Cậu có thấy ở đây gần như không có một cọng cỏ hay một bụi cây nào không?"

Tôi giật mình nhìn xung quanh, quả là vậy, bốn phía đều trơ trụi, ngay cả một cây saxaul[3] cũng không mọc nổi.

Người kia nói với tôi: "Bây giờ chúng ta hẳn là đang đi về phía thượng du con sông này. Ở đầu nguồn con sông này chắc chắn phải có một ngọn núi cao, nếu sông không bị đổi dòng thì ở gần con sông này nhất định sẽ có thành cổ hoặc di tích gì đó, như vậy có nghĩa là bà lão người Tạng kia cũng không phải chỉ đường bậy bạ gì. Lúc đầu tôi còn tưởng bà già này là kẻ lừa đảo cơ đấy."

Tôi nhìn anh ta chỉ tay về phía thượng du con sông, trên hoang mạc bằng phẳng dường như quả thật có một điểm gì đó. Nhớ đến bóng đen khổng lồ giữa cơn gió lớn nọ, tôi vẫn có cảm giác đó không phải là ảo giác của tôi.

Đến nửa đêm, chúng tôi tìm thấy được toàn bộ xe của mình, sau đó chất hết hành lý lên xe. Bình minh lên, mọi người lần lượt tỉnh giấc, A Ninh bắt đầu phân chia các công việc: người thì sửa xe, người thì đi tìm những người khác.

Tôi cùng với mấy người đi tìm xe tối hôm trước thì đi kiếm chút gì đó ăn, sau đó chui vào túi ngủ ngủ bù. Chúng tôi mệt mỏi rã rời, ngủ một lần là ngủ đến tận khi mặt trời ngả về tây.

Khi tỉnh lại, gió đã hoàn toàn ngừng hẳn. Không còn cát bay nữa, hiệu suất làm việc của mọi người lại càng tăng cao: có mấy chiếc xe đã được sửa xong, chỉ còn chờ xuất phát; các loại đồ dùng trang bị đã được sắp xếp lại, cất ở trong xe.

A Ninh đã không ngủ một ngày một đêm, đến giờ vẫn đang không ngừng nghe bộ đàm. Muộn Du Bình và tên Kính Râm kia cũng không có ở đây, đi hỏi thăm thì được biết, hai người họ vẫn đang ở bên ngoài đi tìm bốn người bị mất tích.

Tôi nghe xong liền cảm thấy lo lắng. Đã một ngày một đêm rồi, vậy mà vẫn không tìm được bốn người nọ, chẳng phải bọn họ có GPS đấy sao? Hay lẽ nào lại đúng như lời Trát Tây nói, thứ này không thể dùng được trong hoang mạc?

Tôi lấy từ trong ba lô ra một ít lương khô, vừa ăn vừa đến chỗ A Ninh hỏi tình hình cụ thể.

A Ninh cau mày, hai vành mắt đều đã thâm sì, trông có vẻ rất tiều tụy, tôi hỏi cô cô cũng chẳng có tâm tư đâu mà trả lời tôi, vẫn liên tục nói chuyện qua bộ đàm với người đang đi tìm ở bên ngoài. Bọn họ nói chuyện bằng tiếng Anh, tôi nghe loáng thoáng cũng biết đó không phải là tin tốt gì.

Tôi hỏi cô ta có cần tôi ra ngoài đi tìm nữa không, cô ta lắc đầu, nói rằng không cần đâu, cô đã cử ba nhóm người ra ngoài tìm, đã đi đến lần thứ ba rồi, tôi có đi cũng chỉ vô dụng. Rồi cô ta lại bảo tôi đi thu dọn ít đồ, bọn Trát Tây đã tìm thấy một tòa thành ma ở cách đây khoảng hai mươi kilomet phía trước, một lúc nữa chúng tôi sẽ đi đến đó nghỉ ngơi, kẻo buổi tối trời sẽ nổi gió.

Tôi thấy cô ta đã vò đầu bứt tai lắm rồi, cũng không muốn làm phiền thêm nữa, bèn đi ra chỗ nhóm người đang sửa xe, giúp bọn họ lấy dụng cụ.

Khoảng nửa tiếng sau, Trát Tây từ phía lòng sông phía xa xa trở về, nói với chúng tôi rằng trời sắp nổi gió rồi, đường chân trời phía trước đã nổi cát bụi mù mịt, chúng ta phải mau đi thôi, nếu không công sức sửa chữa xe cộ nãy giờ sẽ đổ sông đổ bể mất.

Chúng tôi lập tức chuẩn bị, rất nhanh đã chuẩn bị xong. Bởi vì thiếu xe, cho nên những xe nào chưa sửa xong thì được kéo đi ở đằng sau. Tôi ngồi cùng xe với mấy người Tạng, lên đường đi về phía nơi mặt trời khuất núi phía xa xa.

Đi giữa hoang mạc Gobi mênh mông này khoảng chừng hai mươi phút, nơi mặt trời lặn phía trước dần xuất hiện những bóng hình núi đá bị phong hóa của dạng địa hình Yardang[4], từng ngọn núi đá nhô lên trên mặt đất bằng. Từ trong bộ đàm vang lên tiếng của Trát Tây chỉ hướng đi cho chúng tôi, chẳng mấy chốc, một "tòa thành" to lớn liền xuất hiện trước tầm mắt.

Đó chính là nơi tránh gió mà Trát Tây đã chọn, chúng tôi bèn đi thẳng đến đó. Khi đến gần, ngước nhìn lên mới thấy, hóa ra đó là một ngọn núi đá hình dáng giống như một cái bánh bao, đằng sau nó là cả một khoảng lớn lố nhố đầy những tảng đá núi bị phong hóa của địa hình Yardang, trông như những pháo đài phòng thủ của một tòa thành vậy.

Tòa thành ma này còn có tên là phong thành, do ở đây rất nhiều những tảng đá lớn ở đây bị gió bào mòn, tạo thành một dạng địa hình vô cùng đặc biệt: trải dài trong cả một khu vực lớn rải rác những mỏm núi đá hình thù kỳ lạ, dễ khiến người ta liên tưởng đến những chuyện ma quỷ; hơn nữa, do sự phân bố của các mỏm núi đá nên khi gió thổi qua sẽ vang lên những tiếng động nghe như tiếng gào khóc thảm thiết, vì vậy nó mới được gọi là tòa thành ma. Dạng địa hình này rất phổ biến trên các hoang mạc. Trước đây tôi từng đi tham quan ở Tân Cương cho nên lần này thấy vậy cũng không lấy gì làm kỳ lạ.

Chúng tôi dừng chân bên dưới một mỏm núi đá bằng phẳn ở bên ngoài "tòa thành". Trát Tây nhảy xuống trước rồi gọi to, chúng tôi bắt đầu xuống xe lục tục hạ trại. Hai tiếng sau, quả nhiên trời bắt đầu nổi gió, chẳng mấy chốc cát bụi mù mịt che kín cả bầu trời. Giống như hôm qua, gió thổi mãi đến tận nửa đêm mới dần dần dịu lại.

Gió quá lớn, ma quỷ trong thành gào khóc thảm thiết, chẳng ai có thể ngủ nổi. Gió nhỏ dần, mọi người mới dần dần thiếp đi. Có hai người do ban ngày đã ngủ nên giờ phải gác đêm, hai người này cảm thấy rất hứng thú với những ma quỷ trong tòa thành kia, thấy tôi và Trát Tây vẫn chưa ngủ bèn đi ra ngoài chụp ảnh. Trát Tây nhắc nhở bọn họ phải cẩn thận một chút, đừng đi vào bên trong, rất dễ lạc đường.

Tôi buổi sáng đã ngủ đủ, bây giờ hẵng còn tỉnh như sáo. A Ninh đang vắt óc suy nghĩ cách tìm người vào ngày hôm sau, tay vẫn cầm khư khư cái bộ đàm. Xem ra, nếu không tìm được mấy người kia thì A Ninh sẽ không chịu đi nghỉ ngơi.

Tôi đi đến khuyên cô đi ngủ một lúc, còn chưa nói được mấy câu, bỗng có tiếng người ở bên ngoài kêu to: "Bác sĩ! Bác sĩ!"

Bác sĩ của đội A Ninh là một ông béo mập, lúc này ông ta cũng không ngủ mà đang đọc sách, nghe thấy tiếng người gọi liền ngồi dậy. Chúng tôi cũng nhìn về phía tiếng gọi, liền nghe bên đó có tiếng gọi: "Mau tới đây! Tìm được A K rồi!"

A K là một trong bốn người mất tích. Chúng tôi vừa nghe liền giật cả mình, vội vã chạy tới bên đó. Chúng tôi nhìn thấy ở đó có hai người đi chụp ảnh tòa thành ma lúc nãy, đang đứng trên một gò đất vẫy tay với chúng tôi. Chạy đến nhìn xem, chỉ thấy trên gò đất này có một cái hố rất to, trong hố có người đang nằm. Đó chính là A K.

Bác sĩ hồng hộc chạy đến, nhảy xuống hố, sờ soạng một lúc rồi kêu to: "Còn sống."

Có mấy người luống cuống nhảy xuống hố khiêng người bị nạn lên. Bác sĩ kêu bọn họ khiêng anh ta vào trong lều.

Cảnh tượng rất hỗn loạn. Trát Tây cõng người nọ chạy về lều, tôi bị đẩy sang một bên. Nhìn cái hố kia một lúc, rồi lại nhìn về hướng chúng tôi đi tới đây, nghĩ bụng trời ạ, sao người này lại có thể ngã lộn cổ ở đây, nơi này cách nơi chúng tôi đỗ xe hôm qua những hơn hai mươi cây số, chưa kể lúc đó còn bị ngược gió nữa. Chẳng lẽ anh ta đi ngược gió mà tới đây sao?

Quay trở lại căn lều y tế, do được bác sĩ cấp cứu kịp thời, chẳng mấy chốc mà anh A K nọ đã được cứu về. Bác sĩ thở phào nhẹ nhõm, nói rằng anh ta chỉ bị kiệt sức mà té xỉu thôi. Bác sĩ châm cứu cho anh một cái, anh liền tỉnh lại.

Sau khi anh tỉnh lại, chúng tôi bèn hỏi anh đã gặp phải chuyện gì. Anh ta đáp, anh cũng chẳng biết có chuyện gì xảy ra nữa, anh cứ đi miết, đi mãi một hồi lâu, liền thấy trước mặt có một cái bóng, anh tưởng rằng ở đó có núi đá bèn đi thẳng về phía đó, cuối cùng đi mãi đi mãi, chẳng biết đi được bao lâu, liền bị ngã xuống hố. Nói rồi anh ta hỏi: "Ôi, thế Lão Cao với hai người khác đã về được chưa?"

Lão Cao chính là anh chàng người Caucasus nọ. Tôi nghe anh ta nói về cái bóng liền âm thầm giật mình, định nhờ anh ta kể lại chi tiết. Thế nhưng A Ninh vừa nghe anh ta hỏi về Lão Cao lập tức hỏi lại anh vì sao lại hỏi như thế, có phải anh đã gặp bọn họ rồi không.

Anh ta đáp: "Lúc đó bọn họ ở ngay phía trước tôi, tôi gọi thế nào họ cũng không quay đầu lại. Nghĩ lại thì chắc là do đi ngược gió nên bọn họ không nghe thấy, sau đó tôi bị ngã rồi ngất đi. Sao thế, bọn họ chưa về à?"

A Ninh kinh ngạc nói: "Ý anh là trước khi anh ngất đi vẫn còn nhìn thấy bọn họ?"

A K gật đầu. A Ninh quay đầu, nói với tôi: "Anh nghe thấy không? Nơi tìm thấy Lão K là bên ngoài tòa thành ma, phía trước chính là thành ma, như vậy, chắc hẳn bọn họ đã vào thành rồi! Chẳng trách chúng ta tìm mãi cũng không tìm thấy họ."

Đôi mắt cô lập tức sáng bừng lên, vỗ tay ý bảo chúng tôi đi ra ngoài. Chúng tôi ra khỏi lều y tế, bàn bạc một hồi, A Ninh khăng khăng muốn đi vào trong thành ma tìm kiếm.

Không biết những người này đã xảy ra chuyện gì, đi ngược gió suốt hơn hai mươi cây số, Lão K thì bị té xỉu ở bên ngoài, người ở trong thành có lẽ cũng đã sức cùng lực kiệt rồi, phải mau chóng tìm được bọn họ, như vậy chúng tôi mới an tâm hơn được.

Tôi hào hứng gật đầu đồng ý. Chúng tôi lập tức sắp xếp đội ngũ, có nhiều người giờ vẫn đang ngủ thì không đánh thức họ dậy, chỉ có ba người gồm ông bác sĩ, tôi và A Ninh đi vào trước xem xét một vòng. Những người còn lại thì để chừng hai tiếng nữa hẵng gọi họ dậy cùng vào.

Nói xong, chúng tôi liền đi chuẩn bị ngay. Khi vừa mới xách ba lô lên, Trát Tây bỗng đi tới, nói: "Chờ một chút, bà tôi nói, các anh không được vào đó."

Chương 50. Tòa thành ma
Editor: EarlPanda —-Tui... lại sắp đến thời kỳ vắt giò lên cổ chạy deadline liên tục trong một tháng trời rồi.... TvT.*****..

A Ninh lấy làm lạ, hỏi: "Vì sao?"

Trát Tây bèn nói: "Bà nội tôi nói, trước mặt mấy người đây là một tòa thành ma quỷ, chứ không phải điểm du lịch đâu. Khoảng địa hình Yardang này rộng phải đến tám mươi bảy ki lô mét vuông, mênh mông vô cùng. Cảnh quan bên trong đều rất nguyên sơ, không có bất kỳ biển chỉ đường nào, buổi tối mà vào đây thì cực kỳ dễ lạc đường. Hơn nữa, có người còn nói, trong này có cơ man là cát lún, năm 1997 cả một đội khảo sát địa chất đã mất tích ở đó, hồi ấy có biết bao nhiêu người đi tìm mà vẫn không thấy. Về sau, năm 1999, trời nổi gió lớn, một nhóm nhiếp ảnh gia khi đến đây chụp ảnh đã phát hiện ra hai cái xác khô quắt trong một hố cát, những người còn lại vẫn chưa tìm thấy."

A Ninh nghe xong liền lắc đầu, nói: "Cậu không phải lo, bọn tôi có mang theo GPS. Nếu theo lời cậu nói, địa hình nơi này phức tạp đến vậy thì chúng tôi càng phải đi vào trong, nếu đợi đến sáng mới đi tìm, không chừng bọn họ sẽ xảy ra chuyện mất."

Nói rồi, cô vẫn không nghe lời cảnh báo của Trát Tây mà gọi vài người tới, vặn đèn pin, định tiếp tục chuẩn bị tiến vào trong tòa thành.

Tôi nghĩ lời cô ta nói cũng có lý. Từ trước tới giờ Trát Tây toàn sắm vai nguy hiểm, mở mồm câu nào giật gân câu ấy, giờ lời cậu ta nói ra đương nhiên A Ninh sẽ không hoàn toàn tin tưởng. Hơn nữa, phong cách của người Tây là lấy con người làm gốc, bảo bọn họ phải bỏ rơi ba người đồng đội kia, đối với họ chẳng khác nào tự tay giết bạn mình cả, vì vậy không còn cách nào khác đành đưa ra quyết định này.

Tôi đương nhiên là muốn cùng đi theo, bởi ba người kia khi mất tích đều ở cùng với tôi. Dù nhiều dù ít, tôi cũng phải bỏ công bỏ sức ra một chút, bằng không nhỡ ba người kia quả thực gặp điều bất trắc gì thì tôi cũng không thể yên giấc được.

Trát Tây còn muốn nói gì đó, chợt Định Chủ Trác Mã ở bên liền quát một tiếng. Bà ta lắc đầu, ý bảo Trát Tây đừng nói nữa, sau đó nói liến thoắng với Trát Tây mấy câu tiếng Tạng.

Lập tức Trát Tây lộ ra vẻ mặt khó hiểu, nhưng dáng vẻ của Định Chủ Trác Mã rất kiên quyết. Trác Tây còn muốn kháng nghị nữa, nhưng Định Chủ Trác Mã liền mắng một tiếng, cậu ta không dám nói gì thêm nữa. Trát Tây gật đầu với Định Chủ Trác Mã, lùi trở về, vẻ mặt buồn bực mà nói với chúng tôi: "Mấy người gặp may đấy, bà nội tôi bảo tôi đưa mấy người vào trong." Nói rồi cậu ta vặn đèn pin, đến chỗ hành lý của mình, bắt đầu sắp xếp đồ đạc.

Tôi không nghe hiểu tiếng Tạng, bèn hỏi A Ninh xem bà lão kia nói gì thế. A Ninh cũng lắc đầu, bảo nhỏ tiếng quá cô cũng không nghe rõ, hình như là nói "nhận tiền của người ta thì giúp người ta trừ tai họa" đại loại thế thì phải.

Tôi thầm thấy tức cười, quay đầu thoáng nhìn Định Chủ Trác Mã. Bà cụ này đã quay trở về lều của mình, xem ra không có vẻ gì là lo lắng cả.

Trát Tây dọn dẹp sắp xếp lại trang bị một lượt, bỏ lại hết tất cả những đồ không cần thiết, mang theo đầy đủ nước và lương khô, còn có cả súng tín hiệu nữa. Sau đó đánh thức tài xế dậy, nói với ông ta ý định của chúng tôi, rồi để ông ta chờ ở bên ngoài chuẩn bị tiếp ứng. Nếu thấy chúng tôi ở trong bắn đạn tín hiệu lên thì tuyệt đối không vào trong, ở ngoài bắn đạn tín hiệu chỉ phương hướng cho chúng tôi. Nếu như bọn tôi vẫn không ra, thì đợi trời sáng mọi người hẵng vào trong tìm, chúng tôi sẽ để lại ký hiệu ven đường đi.

Người tài xế kia mơ mơ màng màng gật đầu ưng thuận. Bốn người chúng tôi sắp xếp một chút, sau đó Trát Tây xị mặt đi đầu, mấy người chúng tôi quay về phía lối vào thành ma sau lưng mà bắt đầu xuất phát.

Nơi chúng tôi tránh gió là ở sát ranh giới với tòa thành ma, đằng sau ngọn núi đá cao lớn nơi chúng tôi hạ trại là một sườn dốc kéo dài thẳng xuống dưới, ở phía cuối chính là mỏm núi đá trông như một tòa pháo đài mà tôi đã nhìn thấy trong bão cát, có lẽ đây là một mỏm núi đá khá cao nằm trong vùng thành ma.

Trên đường xuống dốc, Trát Tây dùng những hòn đá vụn đắp thành những đống đá A rập(*) đánh dấu hướng đi cho người đi sau. Cậu ta nói, suốt dọc đường đi, mỗi khi cần rẽ trái rẽ phải gì đó thì đắp một đống đá ở đó, sau này khi đang đi thẳng mà gặp đống đá của mình thì không được tiếp tục tiến bước nữa, nếu đi tiếp sẽ lại thành đi vòng vèo. Đây là mốc đánh dấu của cậu ta.

Chúng tôi nghe thấy có lý, nói không thành vấn đề.

Rất nhanh chúng tôi đã đến lối vào thành. Tiến vào trong tòa thành ma, quang cảnh bốn phía bắt đầu trở nên kỳ dị. Ngước mắt nhìn trông, dưới ánh trăng vằng vặc thấy cơ man những mỏm núi đá tối đen như mực nổi lên trên nền cát sỏi của hoang mạc, do ánh sáng mập mờ không nhìn rõ. Khi chiếu đèn pin qua mới có thể thấy những rãnh phong hóa do gió cát bào mòn hết sức rõ ràng trên bề mặt núi đá. Dưới màn trời tối mịt, một số ít những nơi ánh trăng có thể chiếu đến trông trắng lợt ảm đạm vô cùng, khiến tôi có cảm giác dường như đang bước đi trên mặt trăng.

Tôi nhìn ngắm cảnh vật suốt dọc đường, cố gắng nhớ lại những kiến thức địa chất học năm xưa đã học ở trường, nhưng đã quên sạch mất rồi. Chỉ biết vùng địa hình Yardang này bị phong hóa chưa lâu, đa phần địa thế tương đối thấp, thời gian núi đá và gò đất hình thành không dài nên mức độ phong hóa không nghiêm trọng. Vì thế, ở đây phần lớn đều là những núi đá và gò đất vô cùng cao lớn.

Trong tình cảnh đó, chúng tôi chỉ có thể đi xuyên qua các khe núi xen kẽ giữa những núi đá và gò đất, không thể thoải mái trèo lên trên các gò đất mà đi như ở những vùng thành ma khác. Có điều, ở kiểu địa hình này, các khe núi không hề bằng phẳng, nơi thì cao vượt lên trên mặt cát sỏi của hoang mạc, nơi thấp thì ở tít sâu dưới lớp cát hoang mạc. Theo địa chất học, nhưng ngọn núi đá này thực ra là đỉnh của hệ thống núi chìm bên dưới hoang mạc, đừng thấy nó chỉ cao có mười mấy mét mà nhầm, có khi dưới chân chúng tôi đây còn ẩn chứa cả một hệ thống núi đá cao đến cả chục ki lô mét nữa. Những rặng núi ngầm dưới lớp cát hoang mạc này đều là các nhánh của hệ thống núi Côn Lôn. Theo lý thuyết mà nói, chúng tôi bây giờ cũng là đang bước đi trên núi Côn Lôn.

Chẳng qua, tôi không có thời gian suy nghĩ nhiều đến những vấn đề học thuật này. Khi tiến vào trong được khoảng hai, ba ki lô mét, A Ninh bắt đầu dùng bộ đàm gọi. Còn bọn tôi thì lớn tiếng hô hoán, hi vọng ba người kia nghe được tiếng của chúng tôi mà đáp lại.

Ở giữa chốn thành ma vắng vẻ, tiếng gọi của chúng tôi lập tức bị vọng lại vô số lần, tiếng vọng vang lên chồng chéo nhau, có thể truyền đi rất xa. Xa xa mà nghe thì cảm thấy vô cùng quái gở, cứ như là tiếng quỷ khóc vang vọng lại từ cõi u minh.

Cứ như vậy, chúng tôi vừa đi vừa gọi, tìm được đủ ba tiếng đồng hồ thì cũng là lúc tiến vào rất sâu bên trong thành ma rồi. Chiếu đèn pin ra khắp bốn phía núi đá, mắt cũng hoa hết cả lên, mồm cũng đã kêu gọi đến mỏi cả rồi. Thế nhưng vẫn chẳng thấy bóng dáng nhóm người anh Caucasus đâu, cũng không có bất kỳ tiếng trả lời nào. Đáp lại tiếng gọi của chúng tôi chỉ có tiếng vọng của chính chúng tôi cùng với tiếng gió thổi hiu hiu.

Chúng tôi dừng lại nghỉ ngơi. A Ninh hỏi Trát Tây, dựa vào kinh nghiệm của cậu ta, phải tìm kiếm bằng cách nào mới tốt nhất đây?

Trát Tây lắc đầu: "Cũng chỉ có mỗi cách như mấy người vẫn làm đây thôi. Chúng ta bây giờ đi được khoảng bảy ki lô mét, nếu là tính theo đường thẳng thì là một quãng đường rất dài rồi. Thế nhưng thực ra chúng ta đã vô thức đi vòng vèo từ lâu, nhìn la bàn xem, bây giờ chúng ta đang đi theo hướng vòng về đấy. Con người ở nơi này cũng giống như con kiến, sẽ vô thức mà đi theo hình chữ S. Vì thế mới nói, bây giờ tôi chỉ có thể bảo đảm đưa mọi người ra ngoài thôi, việc tìm người tôi không có cách nào cả... Mấy người đó ngồi im một chỗ thì còn tốt, chứ bọn họ mà cũng đang mò mẫm tìm đường, vậy, cô nói xem, xác suất để hai nhóm người gặp được nhau trong một mê cung rộng tám mươi ki lô mét vuông là bao nhiêu?"

A Ninh không hài lòng với câu trả lời này, cau mày nói: "Mấy người các cậu trước đây không có ai từng bị lạc đường à?"

Trát Tây đang đắp một đống đá, không ngẩng đầu lên mà lắc đầu nói: "Chúng tôi không vào trong nơi này vào buổi tối."

Nói rồi cậu ta thở dài, không biết là có ý gì.

A Ninh nhìn vẻ mặt của mấy chúng tôi, cổ vũ vài câu, nói chúng tôi không nên nản chí. Chẳng qua hiển nhiên là không có tác dụng cho lắm. Chúng tôi rút ra mấy điếu thuốc, xốc lại tinh thần, tiếp tục bước đi.

Thế nhưng vẫn chẳng có tiến triển gì như chúng tôi kỳ vọng. Lại vừa kêu gọi vừa bước đi, cũng không biết là đã đi bao lâu rồi nữa, trong lúc đó đã dừng lại nghỉ ngơi dược bốn lần, Trát Tây đã đắp được không dưới ba mươi đống đá rồi, nhưng ngay cả một bóng người vẫn không thấy, cũng không có bất kỳ tiếng đáp lại nào. Dường như bên trong tòa thành ma vắng vẻ này đã nuốt chửng hết tất cả mọi tiếng gọi của chúng tôi.

Mà điều khiến tôi cảm thấy đáng sợ rõ ràng là, trước giờ đi mãi mà chúng tôi chưa từng đụng phải bất kỳ đống đá nào của Trát Tây, chứng tỏ chúng tôi vẫn còn đang tiến về phía trước. Tòa thành ma này thật sự là thâm sâu không thể lường được, không biết bên trong này còn có bao nhiêu chặng đường nữa đây.

Tiếp tục tiến bước, chúng tôi đi vào trong một hẻm núi kẹp giữa hai ngọn núi đá. Đến dưới chân một tảng đá lớn, thật sự là không thể đi tiếp nổi nữa, đành phải dừng lại nghỉ ngơi lần thứ sáu.

Lúc này chúng tôi đều đã khản giọng hết cả, không thể gọi to được nữa. Chúng tôi ừng ực uống từng ngụm nước lớn, tất cả mọi người đều mất giọng, đầu óc có chút trống rỗng.

Im lặng một lúc lâu, ông bác sĩ kia bỗng nói: "Có khi nào tòa thành ma này thật sự có ma quỷ chăng? Bọn họ đã bị ma quỷ bắt đi mất rồi?"

Lời này thốt ra rất đột ngột, chúng tôi đều sửng sốt một hồi. Trát Tây lườm ông ta một cái, bảo ông ta chớ có nói nhảm. Người Tạng tương đối truyền thống, nghe những lời như thế này cảm thấy khá khó chịu.

"Ma quỷ thì chắc chắn không có, người cũng chắc chắn là ở trong này." Một lúc sau, Trát Tây uống một ngụm nước cho nhuận giọng, vừa từ tốn nói: "Chỉ là không biết tình huống bây giờ là như thế nào thôi."

Mọi người lại im lặng, mỗi người đều có suy nghĩ của riêng mình. Trên thực tế, tôi biết bây giờ hy vọng trong lòng chúng tôi đều rất mong manh, lúc vừa mới vào đây, tôi còn ngỡ xác suất tìm được bọn họ rất lớn, chí ít thì cũng phải tìm thấy được chút ít dấu vết nào đó. Thế nhưng bây giờ, hoàn toàn chẳng có cách gì cả.

Nghỉ ngơi một hồi lâu, A Ninh nhìn đồng hồ đeo tay một cái rồi đứng lên, kêu chúng tôi chuẩn bị tiếp tục xuất phát. Chúng tôi đều theo phản xạ có điều kiện mà đứng lên, hít một hơi thật sâu, chuẩn bị xốc lại tinh thần, tiếp tục hò hét.

Vào đúng lúc đó, mấy người bọn tôi nghe thấy từ trong bộ đàm của A Ninh vang lên một tiếng người la hét. Tiếng tĩnh điện vô cùng lớn, rất chói tai, không nghe rõ là đang nói cái gì.

Bốn bề vốn im lặng như tờ, đột nhiên lại nảy ra cái tiếng động này làm chúng tôi sợ hết hồn, lập tức quay sang nhìn bộ đàm của A Ninh.

A Ninh cũng ngẩn người ra, vài giây sau mới phản ứng lại đứng, vội vàng cầm lấy bộ đàm đưa lên nghe cho kỹ.

Tiếng động kia lại một lần nữa vang lên, tiếng tĩnh điện rất chói tai, nhưng có thể nghe rõ là tiếng gọi của một người.

"Bọn họ ở ngay gần đây!" Chúng tôi kinh ngạc kêu lên. A Ninh gần như nhảy dựng cả lên.

Với địa hình của thành ma, bộ đàm hầu như không có tác dụng gì mấy, chỉ khi ở trong một khoảng cách rất gần mới có thể thu được tín hiệu. Suốt dọc đường A Ninh đều điều chỉnh thử bộ đàm xem có thu được tín hiệu gì không, nhưng không có kết quả gì, giờ đây tín hiệu đột nhiên là vang lên, hiển nhiên là bộ đàm của đối phương đang ở rất gần đây.

Chúng tôi âm thầm thở phào một cái. A Ninh lập tức bắt đầu xoay vặn điều chỉnh tần số, giọng nói kia mới bắt đầu rõ ràng hơn, thế nhưng vẫn không nghe ra được là đang nói cái gì. Sau đó, cô ta kêu to vào bộ đàm: "Tôi là đội trưởng, chúng tôi đang đến tìm các anh, các anh đang ở hướng nào?"

Đáp lại là một chuỗi âm thanh liên tiếp khó mà diễn tả được, tiếng nhiễu sóng rất nhiều, nhưng ngữ điệu có thay đổi, rõ ràng là đối phương đã nghe được tiếng gọi của chúng tôi.

Những uể oải vừa rồi liền bị quét sạch, ông bác sĩ hét to một tiếng "Yes!". Tôi cũng lấy bộ đàm của mình ra, vỗ vỗ, điều chỉnh một chút, nhìn xem máy móc có vấn đề gì không. Rất nhanh sau đó tôi cũng nghe được âm thanh nọ, cũng vẫn là tiếng ầm ĩ xì xèo như vậy.

A Ninh lại gọi một lần nữa, lúc này đây, âm thanh nọ mới rõ ràng hơn một chút. Mấy người chúng tôi vẫn cố gắng lắng nghe, hy vọng có thể nghe thấy rõ đối phương đang nói cái gì.

Nghe một hồi, tôi liền phát hiện ra có gì đó không ổn. Người bên kia bộ đàm hình như không phải là đang nói chuyện. Cái ngữ điệu giọng nói này vô cùng kỳ quái, rất khó hình dung, nghe thật kỹ thì thấy hình như là tiếng một người đang cười khẩy một cách đầy oán độc.

(*) người A rập cổ đại khi đi lại trong sa mạc thì dùng những đống đá này thay cho biển chỉ đường, để cho người đi sau khi đi sâu vào sa mạc hay khu vực thành ma không bị lạc đường.

Chương 51. Tiếng gọi của ma quỷ.
Editor: EarlPanda —-Mị đang buồn _(:3 JZ)\_.*****..

Tôi "hở" một tiếng, cảm thấy có gì không ổn, lại dỏng tai lắng nghe, mà càng nghe lại càng cảm thấy dường như đây không phải tiếng người nói chuyện. Tuy không dám khẳng định chắc chắn, nhưng nghe thì rất giống tiếng cười.

Mấy người kia cũng nhận ra được điều này. A Ninh liền ngừng kêu gọi. Chúng tôi nhìn nhau, ai nấy đều có vẻ kinh ngạc vô cùng.

Ông bác sĩ nói: "Thế này là sao thế? Sao bọn họ lại đang... cười? Có phải là do nghe thấy tiếng chúng ta nên vui quá không?"

Trát Tây liền vặn lại: "Lúc vui ông cũng cười như vậy hả?"

Vẻ mặt A Ninh cũng đầy nghi hoặc. Cô ta không hô hoán nữa mà tiếp tục điều chỉnh bộ đàm, muốn nghe rõ âm thanh trong bộ đàm hơn chút nữa.

Nhưng thử chỉnh mãi mà vẫn không có tác dụng gì. Có điều, âm thanh nọ lại vang lên mấy phút nữa. Cả bọn liền dán tai vào nghe, càng nghe càng thêm rõ, thực là rất giống tiếng cười gằn, nghe có vẻ vô cùng oán độc, vốn không thể nào là từ một người bình thường phát ra, mà như là từ một kẻ tâm thần thì đúng hơn. Nhưng nghe kỹ hơn nữa, lại cảm thấy dường như bên cạnh tiếng cười kia còn có một tiếng động khác nữa, tiếng động này rất nhỏ. Hai loại tiếng động này hòa vào nhau, giữa khung cảnh nơi tòa thành ma mang đầy màu sắc ma quái khủng khiếp khiến người nghe vào cảm thấy khá là quỷ dị.

Nghe một tiếng cười khẩy rõ ràng không có ý tốt gì, tôi thấy rất khó chịu. Ngay cả tên mặt cứ lạnh như tiền suốt dọc đường đi – Trát Tây bây giờ cũng phải khiếp sợ, mặt mũi trắng bệch, nuốt nước bọt, nói: "Sao thế này? Cười gì khó nghe bỏ mẹ đi được."

A Ninh ra hiệu bảo cậu ta đừng nói gì, rồi dí sát bộ đàm vào tai mình, lại nghe một lúc nữa mới nói: "Đây hình như không phải tiếng của con người!"

"Cô chớ nói lung tung!" Ông bác sĩ kêu lên: "Không phải người chẳng lẽ là quỷ?"

"Mọi người nghe kỹ mà xem." A Ninh bảo chúng tôi lại gần: "Tiếng động này có tần suất rất nhanh, hơn nữa, âm điệu cứ bình bình. Đã kêu liên tục đến năm phút rồi, ông thử cười như thế này suốt năm phút liền cho tôi nghe xem nào?"

Tôi vừa nghe liền thấy có lý, lại hỏi: "Thế đây là tiếng gì vậy?"

"Với tần suất thế này chắc là tiếng động của máy móc, ví dụ như tiếng do đồng hồ đeo tay bị dí sát vào bộ đàm chẳng hạn. Có điều nghe kỹ thì thấy âm thanh này tần suất không đều, cũng có thể là do có người đang dùng móng tay liên tục cào vào ống nói bộ đàm." A Ninh làm mẫu thử một chút, "Cộng thêm tiếng tĩnh điện nữa, sẽ thành ra cái tiếng này."

"Dùng móng tay cào vào ống nói bộ đàm, vì sao bọn họ phải làm vậy?" Bác sĩ nói: "Sao không lớn tiếng kêu lên, như thế biết đâu không cần bộ đàm chúng ta vẫn có thể nghe thấy."

Ông ta vừa nói xong, sắc mặt của Trát Tây và A Ninh cũng thay đổi. Tôi bỗng nhiên nhận ra được điều gì, nói: "Có thể bọn họ đang ở tình thế không thể kêu to được, cũng không thể nói chuyện, chỉ có thể dùng cách thức này để liên lạc với chúng ta."

"Hố cát! Bọn họ đang bị chôn trong hố cát!" Trát Tây kêu lên: "Có lẽ đã bị lún xuống chỉ còn chừa cái đầu. Trong tình cảnh đó, đánh rắm một cái thôi cũng đủ chìm xuống rồi!"

"Chó thật!" Chúng tôi liền căng thẳng, lập tức đứng hết dậy, nhìn bốn phía tối om. Lòng tự hỏi rốt cuộc họ đang ở nơi nào.

Lúc này A Ninh vẫn tương đối giữ bình tĩnh, cô ta vỗ tay một cái nhắc chúng tôi đừng hoảng loạn: "Bình tĩnh bình tĩnh, bọn họ vẫn có thể phát tín hiệu đi chứng tỏ bây giờ tạm thời họ vẫn an toàn, chúng ta có thể thu được tín hiệu, chứng tỏ bộ đàm bọn họ chắc chắn đang ở gần đây, chúng ta nên nhanh chóng tìm đến thôi."

"Tuy nói là gần, nhưng cái 'gần đây' cũng rộng lớn lắm đó. Biết tìm thế nào?"

A Ninh bảo chúng tôi đi theo, bắt đầu cầm bộ đàm đi quanh bốn phía, tìm hướng tín hiệu truyền tới.

Tôi vừa nhìn mới thấy đúng thật, sao tôi lại không nghĩ ra nhỉ, uổng công mang tiếng là người có ăn có học. Ở địa hình như thế này, nếu có thể thu được tín hiệu vô tuyến điện thì chắc chắn là ở xung quanh có địa hình hình khuyết nhiễu xạ sóng, hơn nữa, độ mạnh yếu của sóng vô tuyến có liên quan mật thiết với khoảng cách, cho nên có thể thông qua mức độ tiếp xúc sóng vô tuyến để phán đoán xem ta có đang đến gần mục tiêu hay không.

Chúng tôi lập tức đi theo sau. Đi được một vòng mới phát hiện tín hiệu kêu vang nhất là ở một nơi sâu trong một hẻm núi, rõ ràng nguồn phát tín hiệu là ở trong hẻm núi đó. A Ninh gọi to một tiếng, chúng tôi liền nhanh chóng chạy vào bên trong, đồng thời lôi hết đèn pin ra chiếu sáng. Trát Tây kêu to: "Cẩn thận dưới chân!"

Chúng tôi không để ý được nhiều vậy, chỉ biết vừa chạy vừa tìm, chẳng mấy chốc mà đã chạy hết hẻm núi, trước mặt chúng tôi xuất hiện một gò đất rất lớn hình bán nguyệt chặn lối đi, cao chừng năm mươi mét, trông giống một mặt cánh buồm khổng lồ, vừa cao vừa dốc, nhìn qua thì thấy không thể trèo qua đây được.

Người hiểu biết về bộ đàm vừa nhìn qua là hiểu ra ngay, địa hình như vậy là nơi tín hiệu vô tuyến yếu nhất, yếu không khác gì khi ở tít trong thung lũng trong núi lớn. Nhưng khi chúng tôi nhìn vào bộ đàm, tiếng động kia vẫn hết sức rõ ràng, không yếu bớt chút nào. Như vậy có thể nói, thứ phát tín hiệu kia chắc chắn nằm trong vòng 110 mét xung quanh gò đất hình bán nguyệt này.

"Là ở đây sao?" Chúng tôi ai nấy đều toát mồ hôi lạnh, cứ có cảm giác không ổn, bởi nơi này chỉ cần chiếu đèn pin qua là nhìn thấy hết toàn bộ, đến một bóng ma cũng chẳng có.

"Lẽ nào đã chìm xuống dưới rồi?" Trong lòng tôi xuất hiện một ý nghĩ chẳng lành.

A Ninh lắc đầu, bởi vì tiếng động vang lên trong bộ đàm kia vẫn rất to rõ. Cô ta liền gọi chúng tôi một tiếng, bảo chia nhau ra đi tìm.

Chúng tôi tản ra, cẩn thận tìm kiếm các dấu vết trên mặt đất. Rất nhanh sau đó, Trát Tây liền kêu lên, có phát hiện, chúng tôi lập tức tiến tới, nhìn thấy trên mặt đất có những dấu chân rất lộn xộn. Không phải của chúng tôi.

Chúng tôi lập tức lần theo dấu chân đi về phía trước tìm kiếm. Dấu chân in trên mặt cát vô cùng rõ ràng, từ đó có thể thấy đó là ba người. Chúng tôi đi theo dấu chân đi được hơn mười mét, đến dưới chân gò đất, dấu chân bất chợt ngừng lại ở đó. Không có dấu chân rẽ hướng vào đâu đó, cũng không có dấu vết hố cát.

"Đệch, hay là đi vào trong gò đất rồi?" Trát Tây tặc lưỡi nói.

"Không phải!" A Ninh lộ ra vẻ mặt không thể tưởng tượng nổi. Cổ ta ngẩng đầu nhìn về phía gò đất, phía trên đó tối om om, không nhìn thấy bất cứ thứ gì cả. "Bọn họ leo lên rồi."

Đây mới là lạ. Cả bọn đều sửng sốt, ngẩng đầu nhìn lên trên, chỉ thấy nơi gò đất khuất bóng là một khoảng tối đen, một màu đen thuần như một tấm màn đen khổng lồ. Đèn pin của chúng tôi chiếu lên trên, nhưng bởi vì gò đất này cao quá, ánh sáng đèn pin không thể chiếu sáng được hết toàn cảnh.

Bọn họ lên đó làm gì? Lẽ nào trên gò đất này có thứ gì chăng?

Lúc này, A Ninh bảo chúng tôi lùi ra phía sau, sau đó lôi khẩu súng báo hiệu ra, bắn lên trời một phát.

Đạn tín hiệu nóng rực bay lên giữa không trung, sau đó nổ tung, khắp nơi sáng trưng như ban ngày. Trong nháy mắt đó, toàn bộ cảnh tượng ẩn trong bóng đen vừa rồi lập tức hiện ra.

Tất cả chúng tôi nhìn khắp xung quanh, đùng một cái mà sáng trưng như thế này, mắt chúng tôi vẫn chưa kịp thích ứng, không nhìn được rõ ràng. Bỗng nghe tiếng A Ninh cả kinh kêu lên: "Ôi trời!"

Chúng tôi vội vàng nheo mắt lại, ngẩng đầu nhìn lên giữa lưng chừng không trung, dưới ánh sáng chói của đạn tín hiệu, chúng tôi nhìn thấy ở giữa sườn gò đất khổng lồ hình bán nguyệt có khảm một vật thể nào đó rất lớn, vật thể đó một nửa chôn trong gò đất, một nửa nhô ra vắt ngang giữa không trung.

Chương 52. Thuyền đắm trong biển cát
Editor: EarlPanda Đang đứng đái mà bỗng nghe bên cạnh có tiếng cười lạnh thì là cái cảm giác gì? :v.*****..

Trong mấy chục giây đạn tín hiệu ấy, toàn bộ chúng tôi đều khiếp sợ đến ngây người. Tất cả mọi người nhìn vật khổng lồ kia, đầu óc trống rỗng. Mãi cho đến khi đạn tín hiệu tắt, chúng tôi mới tỉnh lại được, lập tức tất cả ánh đèn pin đều dồn về phía vật đó.

Những chùm tia sáng lẻ tẻ không thể soi sáng được toàn bộ vật kia. Dưới ánh sáng đèn pin, chúng tôi chỉ có thể biết ở chỗ đó có thứ gì đó, nhưng ngước lên chỉ thấy mờ mờ không rõ. Nếu không phải vừa rồi có ánh sáng đạn tín hiệu soi ra được hình dáng thì chỉ với với đèn pin soi qua, chúng tôi chắc chắn sẽ không chú ý đến có gì khác thường. Mà chúng tôi đứng từ dưới nhìn lên, cũng thực không nhìn rõ nổi.

"Đấy là cái gì?" Trát Tây lẩm bẩm.

Không ai có thể nói ra được đó là cái gì, tôi chỉ có thể xác định, đó là xác của một vật thể nào đó bằng gỗ, chỉ là, không biết là xác của vật gì. Thoạt nhìn thì trông giống một bộ quan tài khổng lồ, nhưng nhìn kỹ lại thấy hình dáng không giống lắm, hình như là xác của một tòa kiến trúc nào đó. Nhưng tôi chưa bao giờ nhìn thấy một công trình kiến trúc nào có hình dạng cổ quái đến vậy.

"Trèo lên xem tí đi!" Không biết ai nói câu này, chúng tôi mới tỉnh lại được. Mấy người này đã liền muốn trèo lên sườn dốc rồi, tôi vội vàng cản họ lại, nói: "Đừng làm bậy, bình tĩnh một chút. Chỗ này cao đến thế, hơn nữa còn là một gò đất, không phải cứ trèo đại lên là lên được, nếu có gì bất trắc thì hỏng bét."

A Ninh cũng gật đầu nói: "Đúng, hoàn toàn không tìm thấy ba người kia, cả ở dưới này chúng ta cũng đã tìm rồi, vẫn không có phát hiện bất cứ đầu mối gì, như vậy, rất có khả năng là bọn họ ở phía trên, mà giờ một chút động tĩnh cũng chẳng có, nhất định là có vấn đề. Không chừng, phía trên này có nguy hiểm gì, chúng ta phải cẩn thận. Hay là để tôi lên trước xem một chút, nếu ổn, mọi người cùng lên."

Nói rồi, cô ta giắt đèn pin vào một bên hông, để bọn tôi chiếu sáng còn cô thì tự mình chuẩn bị trèo lên.

Bấy giờ, Trát Tây liền ngăn cô ta lại, nói: "Đừng động, để tôi tới, chuyện này để đàn bà con gái làm coi sao được. Gò đất kiểu này trước đây tôi trèo lên nhiều lần rồi, chắc chắn có kinh nghiệm hơn so với chị." Nói đoạn, cậu ta cũng không chờ A Ninh đáp lại, liền miệng cắn dao găm, nhảy lên gò đất, sau đó dùng dao găm thay cuốc chim leo núi, bắt đầu leo lên trước.

Động tác cậu ta rất nhanh, thoăn thoắt cứ như một con khỉ. Chúng tôi chiếu đèn pin cho cậu ta, hầu như chẳng mất tí công sức gì. Chúng tôi nhìn cậu ta rầm rập trèo đến phía dưới vật thể khổng lồ kia. Cậu ta tìm một chỗ đứng vững, rồi quay ra làm một động tác tay với bọn tôi, ý rằng không khó trèo lắm đâu. Sau đó, cậu ta lấy đèn pin chiếu cái vật kia.

Đứng ở dưới, chúng tôi chỉ có thể nhìn thấy động tác cậu ta, chứ không thấy cậu ta chiếu ánh sáng nhìn ra vật gì, trống ngực đập dồn. Ông bác sĩ hỏi: "Đó là gì thế?'

"Tôi không biết." Tiếng Trát Tây vọng xuống dưới. Tôi nhìn thấy cậu ta ở trên cao gãi đầu gãi tai, phun ra một câu tiếng Tạng, sau đó nói: "Trời ơi, đây... hình như là một con thuyền đấy!"

"Thuyền?" Chúng tôi nhìn nhau. Trát Tây lập tức kêu lên: "Thật là thuyền! Mấy người trèo lên đây mà xem."

Cậu ta vừa nói xong, A Ninh liền trèo lên. Tôi cũng vụng về đi theo A Ninh. Ông bác sĩ quá béo, trèo được một tí lại trượt xuống. Chúng tôi đành để ông ta đợi ở dưới, đừng làm bậy cái gì, kẻo tí ngã chết thì toi đời, sau đó mới trèo đến chỗ Trát Tây.

Đất ở sườn dốc này quả thực không khó trèo. Có hơi dốc chút, tuy rằng đất rất xốp, nhưng bề mặt không bằng phẳng, có rất nhiều chỗ để đặt chân. Chúng tôi học theo Trát Tây, dùng dao găm làm cuốc chim leo núi, thoăn thoắt chả mấy chốc mà đã đến gần.

Tôi dùng cả tay lẫn chân leo đến bên cạnh Trát Tây. Phía trên này rất lạnh. Tôi giẫm lên mấy gờ đất nhô ra, trượt một chút rồi mới đứng vững gót chân, sau đó nhìn về phía vật kia. Thế nhưng nó vẫn cách tôi quá xa, tầm nhìn cũng bị Trát Tây che mất, không thấy rõ lắm thứ kia có thật là thuyền hay không.

Tôi dịch sang một chút, chừa cho mình một vị trí, bấy giờ mới nhìn rõ. Dưới ánh đèn pin của Trát Tây, một vật đổ nát từ cổ xưa ghim vào trong gò đất, chỉ nhô ra phân nửa, một nửa còn lại cắm vào sâu trong lòng gò đất, nhìn hình dạng, quả đúng là một con thuyền đắm thời cổ đại.

A Ninh đốt một quả pháo lạnh, hướng lên trên phía con thuyền đắm. Lúc này bốn phía đã sáng bừng lên, tôi phát hiện mức độ tàn tạ của con thuyền đắm này đã rất rõ ràng, gần như rữa ra hòa cùng với bùn đất, đã bị carbon hóa. Ở một bên thuyền gỗ còn có một vết nứt cực lớn, bên trong hình như trống không. Tôi có thể thấy trong đó có bùn, nhưng ở nơi sâu nhất thì tối đen, không nhìn thấy gì cả.

Tôi quay đầu nhìn địa hình xung quanh, nghĩ thầm đây chính là một phát hiện lớn. Nơi này trước đây chắc là một con sông cổ, con thuyền đắm này bị đắm ở con sông cổ này, rồi bị chôn vùn trong nước bùn. Không ngờ bãi bể nương dâu, con sông cổ đại giờ lại biến thành sa mạc, hơn nữa, gò đất chôn vùi con thuyền đắm này lại cao hơn mặt đất nhiều đến thế.

A Ninh leo đến bên con thuyền cổ, soi đèn pin vào trong khe nứt, liền soi thấy ở trong có một lượng lớn bùn và thứ gì đó vùi trong bùn. Trong đống bùn đó, còn có thể thấy rất nhiều những bình gốm sứ và các đồ vật cùng loại khác nữa.

A Ninh nói: "Có lẽ đây là một con tàu chở hàng đi Tây Vực buôn bán, những thứ này là hàng hóa của họ, đây thực là một phát hiện chấn động, hiện nay vốn có rất nhiều người nhận định rằng Tây Vực không có vận tải đường thủy."

Thời cổ đại, nơi đây là một trong mười bảy con đường tơ lụy đầy hung hiểm, mà các quốc gia Tây Vực lại phân bố ở trên mảnh đất hoang vu này. Nơi đây là dải đất trung gian để giao dịch giữa nền văn minh A Rập và văn minh Trung Hoa. Xưa kia, trên vô số những dòng sông này cực kỳ phồn thịnh náo nhiệt, không biết bao nhiêu là vải vóc tơ lụa đã đi qua những con sông này để chuyển đến phương Tây. Có người nói, hoàng thất các nước Tây Vực còn có thể ăn cả dưa hấu của Trung Nguyên. Thuở ấy, những con sông ở đây thay đổi khôn lường, không ít những đội thương buôn bị mắc cạn hoặc đắm tàu vì sông cổ đổi dòng. Ở sâu trong sa mạc này ít nhất cũng phải có hơn một ngàn con thuyền đắm bị vùi lấp dưới tầng cát, nhưng bởi vì sa mạc thay đổi quá nhiều lần, cho nên gần như không thể nào tìm được chúng, không ngờ ở nơi đây lại có một chiếc thuyền.

Ông bác sĩ đứng dưới không nhìn thấy gì, sốt ruột kêu to: "Thấy gì thế? Ba người kia có phải ở trên đó không?"

Trát Tây gọi với xuống mấy tiếng trả lời, ông bác sĩ lại nói cái gì đó nghe không rõ.

Lúc này, tôi bỗng nghĩ đến anh chàng Caucasus nọ. Có lẽ bọn họ cũng là bởi nhìn thấy con thuyền đắm này, sau đó mới trèo lên trên kiểm tra xem. Đã tìm hết phía dưới cả rồi mà không phát hiện ra người nào cả, vậy bọn họ chắc hẳn ở phía trên. Thế nhưng liếc nhìn vách đá bốn phía cũng chẳng thấy một ai, không biết ba người này đã đi đến nơi nào rồi.

Các vách đá ở đây, ngoại trừ con tàu đắm ra thì không có nơi nào có thể trú ẩn, lẽ nào ba người kia ở bên trong con thuyền?

Lúc này, ánh trăng bị mây đen che khuất, thoáng cái, bốn phía càng thêm tăm tối, mấy người chúng tôi tìm được một vị trí đứng vững. Tôi bảo A Ninh mở bộ đàm, tìm vị trí tín hiệu.

A Ninh lấy bộ đàm ra, vừa bật lên, tiếng động kia lại váng lên, vô cùng rõ ràng. Cô ta vung tay một cái, tín hiệu cũng không khác lắm. Sau đó, Trát Tây chỉ chỉ vào con thuyền, bảo cô ta nhắm vào con thuyền cổ thử xem. A Ninh với người đến, vừa đến gần khe nứt trên thân con thuyền cổ, chúng tôi tức khắc liền nghe thấy tiếng động vang lên cực kỳ rõ ràng từ bộ đàm.

Bọn tôi nhìn nhau, ai nầy đều cảm thấy không thể tin nổi. Xem ra, tín hiệu thực sự là từ bên trong con thuyền cổ này phát ra.

Trát Tây nhìn vào trong cái khe một chút, nói: "Đúng là gặp ma rồi, chẳng lẽ ba người kia lại ngu ngốc đi trèo vào trong này?"

Cái khe rất rộng, quả thực con người có thể trèo vào, chỉ là không gian bên trong không biết có thể đủ cho cả bọn họ hay không. Chúng tôi chiếu đèn pin vào trong, thấy con thuyền này cực kỳ sâu, ở tận cùng bên trong tối đen. Tôi gọi mấy tiếng, nhưng không có ai đáp lại.

"Làm sao bây giờ?"

"Có lẽ là bọn họ đi vào rồi, nhưng rồi lại đi ra, bộ đàm bị rơi lại ở bên trong." A Ninh nói, "Cũng có thể bọn họ ở trong đó gặp bất trắc gì đó."

"Tiếng động này phát ra thế nào?" Tôi hỏi.

"Cái này không ai có thể trả lời được, có điều, cứ vào trong xem ắt biết." A Ninh nháy mắt với tôi, nói rồi bỏ ba lô trên lưng xuống, có lẽ ý là muốn tôi chui vào trong xem cùng cô ta.

Trát Tây là người dẫn đường, phải giữ sức cho cậu ta. Ở đây chỉ có tôi và A Ninh thể hình tương đối bình thường, tôi cũng không thể từ chối được. Cô ta cởi áo khoác, cắn dao găm, sau đó khom lưng bò vào khe nứt trước.

Đi vào trong, bùn bám trên thuyền không ngừng rơi xuống, cũng may thân thuyền khá chắc chắn. Sau khi tiến vào, A Ninh ngừng lại vài giây, trụ vững một chút, rồi Trát Tây bèn đưa đèn pin vào trong cho cô nàng. Sau đó tôi cũng cởi áo khoác, trèo vào.

Khe nứt này vừa đủ để tôi có thể chui vào, có điều, bên trong rộng rãi hơn so với tưởng tượng của tôi. Tôi lóng ngóng chui vào, phát hiện bên trong là một thế giới toàn bùn với đất, trên đỉnh đầu rặt những bùn khô, không thể nào ngồi xuống, chỉ có thể nằm rạp xuống mà bò. Không gian trong khoang thuyền vốn rất rộng, nhưng bây giờ thì chất đầy toàn bùn đất, kỳ thực, bọn tôi đang ở ngay trong một hang động bằng bùn.

A Ninh bật bộ đàm, lúc này tiếng động nghe như tiếng cười lạnh liền vang lên rõ ràng. Tiếng động này ở nơi đây cực kỳ vang dội. Nhìn trong khoang thuyền chỉ có tối om om một khoảng, tim tôi như bay lên cuống họng. Rốt cuộc là cái gì mới phát ra được tiếng động như vậy chứ?

A Ninh ở trong, dùng tư thế trườn nghiêng, chính là tư thế bộ đội cầm súng trườn bò. Cô ta dùng một tay đẩy người lên trước, tay kia cầm đèn pin chiếu sáng khắp xung quanh. Tôi cũng thở hổn hển bắt chước động tác của cô ta, cũng bắt đầu lấy đèn pin chiếu sáng đống bùn khắp bốn phía. Thực sự tất cả toàn là bùn với bùn, ngoài một ít phiến gỗ thỉnh thoảng có thấy găm trong bùn, tôi cảm thấy mình như đang trong một trận tác chiến dưới đường hầm vậy.

Nhất định sau khi thuyền đắm, những bùn đất này đã tràn vào trong thông qua khe vỡ trên thuyền. Ngay lúc đó có lẽ thuyền còn chưa chìm nghỉm hoàn toàn, cho nên bùn không ngập cả khoang thuyền. Phía dưới lớp bùn này có lẽ toàn là hàng hóa thời xưa, không biết là cái gì.

Bò vào bên trong chừng bảy, tám mét, chúng tôi có thể trực tiếp nghe thấy tiếng động kỳ quái này rồi. Không nghe qua bộ đàm, tiếng động này nghe có hơi khác một chút, là từ nơi tận cùng bên trong khoang thuyền vọng lại, rất khẽ. A Ninh dừng lại, tắt bộ đàm, rồi bò về phía tiếng động vang lên.

Tôi hơi giữ vững khoảng cách với cô ta, chừa khoảng không gian cho cô ta có thể lùi. Bò chưa được mấy bước, A Ninh liền kinh hô một tiếng, dừng lại. Tôi cũng vội vã bò đến, từ bên cạnh cô ta thò đầu ra nhìn, liền thấy trên sàn tàu bị bùn đất đắp kín ở cuối khoang thuyền có một hang động to cỡ mặt bàn tròn, hình như là bị sụt lở mà ra. Bên dưới đó vẫn có không gian, dùng đèn pin chiếu xuống, phía dưới lộn xộn bừa bãi, toàn là những khối đất từ bên trên sụt xuống, có một người bị vùi trong đó, chỉ lộ ra nửa người trên.

Tôi chiếu đèn pin vào một cái, lập tức nhận ra đó là một trong ba người mất tích. Trên mặt anh ta toàn là bùn, xanh mét, không biết là chết hay sống. Tiếng cười lạnh kia chính là từ bên dưới đống đất này vọng lên.

"Đúng là ở bên trong!" Tôi kêu to, thầm nghĩ đám người này đùa cũng quá trớn rồi. Tôi vừa gọi vừa lách lên trước, muốn xuống dưới đó đào anh ta lên.

Không ngờ khi tôi vừa gọi, tiếng cười lạnh kia lập tức tắt lịm đi, toàn bộ khoang thuyền bỗng dưng im bặt.

Tự dưng lặng thinh thế này làm tôi sợ hết hồn, tay chân bất giác khựng lại.

Sau đó tôi nghĩ, vừa rồi chúng tôi đã thảo luận, tiếng động này là tín hiệu cầu cứu của bọn họ, hiển nhiên có người đã nghe được tiếng tôi gọi cho nên bèn ngừng phát tín hiệu. Có hai khả năng: một là, anh ta cho rằng cứu viện đã đến rồi, không cần phải tiếp tục phát ra tiếng động này để thu hút chúng tôi nữa; hai là, anh ta nghe thấy tiếng chúng tôi đến, tinh thần liền thả lỏng, mất đi ý thức.

Dù là khả năng nào thì chúng tôi cũng phải đào anh ta ra, nhất là với khả năng thứ hai. Tôi biết rất nhiều trường hợp, người cầu cứu ngay một khắc trước khi được cứu liền mất ý chí sinh tồn mà thất bại trong gang tấc.

A Ninh và tôi có cùng suy nghĩ. Cô ta để tôi chiếu sáng, còn bản thân thì bò qua đó, sau đó thận trọng xoay người, trượt vào trong hang động kia. Tôi đi theo sau, A Ninh bảo tôi đừng xuống, ở trên tiếp ứng.

Trát Tây ở ngoài nghe thấy tiếng tôi kêu, bèn gọi to hỏi chúng tôi xem tình huống bên trong sao rồi. Tôi bảo cậu ta chờ chút, tôi nhìn rõ một chút nữa rồi nói.

Ở vị trí này lại càng nhìn thấy rõ ràng hơn. Bên dưới cửa động chắc là tầng hầm kho hàng của con thuyền cổ, hoặc gọi là khoang đáy. Khoang đáy thường dùng để đặt những vật dễ bị hư hại, bởi vì ở dưới đáy không rung lắc dữ dội như ở trên. Không gian trong khoang đáy không lớn, bên trong cũng toàn là bùn đất, thế nhưng mức độ bị ăn mòn ít hơn so với tôi tính. Tôi cơ bản có thể tưởng tượng ra đây là bên trong con thuyền, có thể thấy dưới lớp đất bùn hỗn tạp này có rất nhiều bình lọ gốm sứ, chắc là hàng hóa, không biết trong ấy đựng gì.

A Ninh trượt xuống dưới xong lập tức gạt hết đất trên người người nọ ra, sau đó đặt tay lên cổ anh ta, xem mạch đập.

Tôi vội hỏi: "Sao rồi?"

A Ninh rõ ràng là run rẩy một chút, rồi quay ra lắc đầu nhìn tôi, ý bảo không được rồi.

Tôi thở dài. A Ninh bắt đầu đào đất, rất nhanh đã đào được người kia lên, sau đó cố sức kéo anh ta sang một bên. Lúc này tôi liền phát hiện ra, bên trong khối đất vừa đào ra kia lại còn một người khác nữa. Tôi nhìn thấy tóc và một cánh tay, A Ninh vẫn tiếp tục đào xới, nhưng người này bị chôn vùi khá sâu. Cô ta đào mãi một hồi lâu mà vẫn khá hơn.

Tôi thực sự không nhìn nổi nữa, bèn nhảy xuống giúp. Tôi sờ vào tay người kia một cái, trong lòng liền trầm xuống, biết đây không phải đùa nữa rồi, cánh tay của người kia lạnh ngắt. Đã chết.

Chúng tôi dùng sức chín trâu hai hổ mới đào anh ta lên được, cũng kéo sang một bên. Ở phía dưới người này, tôi lại nhìn thấy gương mặt tái lợt của anh Caucasus. Cơ thể anh ta co rúm, hai mắt trợn trừng, tay duỗi ra phía trước, nắm chặt lấy bộ đàm, vẫn duy trì tư thế cứng ngắc như vậy, hình như là muốn từ trong trèo ra ngoài.

Xem ra người phát tín hiệu chính là anh ta. Tôi nhìn thấy cái bộ đàm kia, nghĩ thầm.

Tôi lôi anh ta ra, A Ninh liền sờ cổ anh ta, biến sắc: "Còn sống!" Nói rồi lập tức cởi quần áo anh Caucasus ra, rồi xoa bóp tim phổi, đồng thời kêu to với tôi: "Bảo Trát Tây, nói bác sĩ chuẩn bị cấp cứu, có người nghẹt thở vì bị chôn sống." Nói rồi tiếp tục hô hấp nhân tạo cho anh Caucasus.

Tôi vội vã đứng lên gọi to với bên ngoài. Trát Tây nghe xong, cũng lập tức kêu ông bác sĩ đứng dưới gò đất. Tôi quay đầu, liền thấy anh người Caucasus co giật một chút, người co rụt lại, đồng thời bắt đầu nôn mửa, tức là hô hấp đã khôi phục lại.

"Anh lên giúp!" A Ninh nói với tôi với vẻ đanh thép, giọng nói tuy rất bình thường, nhưng tràn đầy uy nghiêm.

Tôi sửng sốt một chút, tự dưng bị thần thái này của cô nàng làm giật mình, như phản xạ có điều kiện, tôi lập tức làm theo lời cô. Sau đó, A Ninh nhanh chóng cởi áo quần của mình, buộc vào thân người anh Caucasus, làm một cái cáng cứu thương đơn giản, sau đó ném tay áo cho tôi, bảo tôi ra sức kéo.

Tôi ở phía trên, cắn răng cố hết sức kéo mạnh, cô ở dưới khiêng lên, đưa anh Caucasus lên trên. Sau đó, tôi cứ thế lùi về sau, gắng sức đưa anh ta đến khe nứt của con thuyền đắm.

Ở bên ngoài, Trát Tây đang chuẩn bị. Anh Caucasus vừa được đẩy ra ngoài, Trát Tây liền cõng cả một anh chàng Caucasus cao to lồng ngồng lên lưng, dùng thắt lưng buộc chặt, rồi leo xuống dưới. Tôi mệt quá, vừa đỡ A Ninh đi ra, vừa thở phì phò đi theo, bảo vệ Trát Tây, trèo xuống dưới từng chút từng chút một.

Dốc hết sức bình sinh, nhiều lần thấy Trát Tây suýt té ngã, may mà cậu ta phản ứng nhanh, mỗi lần nghiêng ngả đều có thể dùng dao găm trụ vững lại được. Vất vả lắm mới trèo được xuống đất, bác sĩ đã chuẩn bị xong hết, chúng tôi đưa anh Caucasus đặt lên nền đất, bác sĩ lập tức chuẩn bị cấp cứu.

Thế nhưng, khi xé mở áo của anh Caucasus, đột nhiên anh ta co quắp, túm lấy áo bác sĩ kéo xuống. Chúng tôi vội vã đè anh ta lại. Bác sĩ vạch áo khoác anh ta ra, tôi lập tức lên cơn buồn nôn. Chỉ thấy, bên dưới lớp áo khoác giữ âm của anh toàn toàn là máu thịt bê bết, có lẽ là ngoại thương.

Bác sĩ dùng kéo cắt lớp áo lót anh ta ra, kéo miếng vải lên để cầm máu thì ông ta kêu một tiếng "Trời ạ!". Lúc này, tôi gần như sắp nôn mửa. Chỉ thấy, trên bụng anh Caucasus lỗ chỗ toàn là những lỗ máu rất nhỏ, không chảy nhiều máu, lỗ máu cũng rất nhỏ, nhưng lại có quá nhiều lỗ, ước chừng phải hai mươi, ba mươi cái.

"Đây là vết thương gì vậy?" Trát Tây hỏi.

Bác sĩ lắc đầu: "Không biết, hình như là... bị cái gì đâm vào, đường kính tương đương cái tua vít vậy. Có điều, sao áo lại không bị rách? Hai người ở hiện trường có để ý tới không?"

Chúng tôi đều lắc đầu, kỳ thực, lúc đó hỗn loạn như thế, chúng tôi quả thực không chú ý đến bụng của anh ta. Nhưng quần áo anh ta rõ ràng không bị rách, điều này chúng tôi có thể khẳng định. Chắc hẳn không phải là ngoại thương do bị sụt lở tạo thành.

Giờ cũng không suy nghĩ được nhiều vậy. Bác sĩ bèn bảo chúng tôi giúp đè anh ta lại, trước kiểm tra qua một chút, rồi tiêm cho anh ta một mũi, cuối cùng lấy túi oxy ra cho anh ta thở. Có lẽ do tác dụng của mũi tiêm nọ, anh Caucasus dần dần yên tĩnh lại.

Làm xong những thứ này, toàn thân chúng tôi đã toàn mồ hôi. Bác sĩ lau mồ hôi, chúng tôi thì ngồi nghĩ cách. Người này bây giờ quá yếu ớt, chúng tôi không thể đưa anh ta ra ngoài, thế nhưng phần lớn thiết bị đều ở trên xe bên ngoài rồi, cần chuyển vào đây. Ngoài ra, còn cần lều bạt và túi ngủ để giữ ấm cho anh ta, chờ anh ta ổn lại thì mới đưa ra ngoài được.

Ở đây chỉ có Trát Tây là biết cách xem những đống đá ký hiệu, cậu ta bèn nói để cậu ta đi lấy đồ, tiện thể gọi thêm người đến hỗ trợ. Chúng tôi đi một đường tới đây tốn rất nhiều thời gian, có điều đi ra ngoài thì nhanh hơn nhiều. Tôi nói, tôi đi cùng cậu ta, cậu ta lại bảo không cần, cậu ta đi một mình thì nhanh hơn, tôi ở chỗ này chăm nom.

Nói rồi, cậu ta liền chạy ra. Bác sĩ cởi áo của A Ninh trên người anh Caucasus ra, trả lại cho cô, sau đó lấy chăn giữ ấm trong ba lô trên lưng, đắp ấm cho mấy phần cơ thể quan trọng của anh Caucasus.

Tôi nhóm lò không khói, tăng độ lửa lên, rồi đặt qua một bên, cho vài người sưởi ấm, cùng lúc đó tôi lấy rượu trắng, mấy thứ này cũng là dùng để chống đỡ cái lạnh. Chúng tôi vừa toát đầy mồ hôi, buổi tối ở sa mạc khá lạnh, rất dễ mắc bệnh.

Lửa nhóm lên, chiếu sáng khắp bốn phía, chẳng mấy chốc đã ấm lên. Bác sĩ tiếp tục xử lý vết thương trên người anh Caucasus. Tôi với A Ninh lùi qua một bên, mệt mỏi suốt mấy tiếng đồng hồ lập tức trỗi dậy. Tôi ngồi trên một tảng đá lớn uống nước, A Ninh đắp thêm áo, hai chúng tôi mặt mũi toàn đất bùn, trông cực kỳ chật vật. Tôi nhìn cô cười khổ một tiếng, lại thấy cô ta nét mặt uể oải đến ngồi dựa vào gò đất, hí hoáy nghịch bộ đàm, có vẻ khá ủ rũ.

Tôi nhớ tới lúc nãy cô ta khí thế bừng bừng, nghĩ thầm đúng là không dễ dàng gì. Cô ta một thân đàn bà con gái, lại có thể lão luyện trong những tình cảnh như thế này, nghĩ đến phỏng chừng cũng là bức bách mà thành. Nghĩ xem một cô gái sao mà phải dũng mãnh đến cỡ này, đúng là có chút xót xa.

Có điều, nhắc đến cũng thấy kỳ quái. Trông cô ta cũng không giống dạng thiếu tiền, đi làm những việc này cũng không thấy cô ta vui vẻ gì. Rốt cuộc cô ta vì sao mà phải bán mạng cho Cầu Đức Khảo đây? Không những thế còn liều mạng đến cỡ này, thực sự không nghĩ ra nổi, sau này có cơ hội phải đi hỏi thăm xem sao.

Uống mấy ngụm nước liền mắc tiểu, vì thế tôi bèn đi vòng ra sau gò đất đi giải quyết, nhóm người này trong sa mạc cũng toàn thế, tôi cũng quen rồi.

Đang đứng đái, bỗng tôi nghe thấy từ một tảng đá ở bên cạnh chợt vang lên một tiếng cười lạnh quái dị, tiếng động đó hoàn toàn không khác gì với tiếng động trước nghe trong bộ đàm, tức thì khiến toàn thân tôi lạnh ngắt. Tôi quay phắt đầu nhìn tảng đá kia, tự nhủ sao vẫn nghe thấy cái âm thanh này thế, có phải là ảo giác nghe lầm rồi hay chăng?

Chương 53. Vò Tây Vương Mẫu
Editor: EarlPanda Mị đã về đây, Mị về đây. Mị không chơi game nữa, cố gắng lấp hố, nỗ lực mỗi ngày ít nhất 5 nghìn chữ..*****

.Hơn một tiếng vừa nãy cũng nghe thấy suốt cái tín hiệu như tiếng cười lạnh oán độc này, đầu tôi hình như đã quen với âm thanh này rồi, đến lúc ở trong thuyền tự dưng lại yên tĩnh, tôi đã cảm thấy có hơi không quen. Không biết tại sao, bây giờ tôi nghe thấy cũng âm thanh ấy vang lên trong bóng tối ở khắp chung quanh, âm thanh này làm tôi cứ có cảm giác không ổn, bây giờ lại nghe thấy, trong lòng thấy cực kỳ dị thường.

Tuy rằng cảm giác cũng có thể là nghe nhầm, nhưng ở cái nơi như thế này, không nên nghĩ cái gì cũng tuyệt đối. Tôi kéo khóa quân, bật đèn pin, đi về phía đằng sau tảng đá kia để kiểm tra.

Tảng đá này rất lạ thường, không biết là loại đá núi gì. Ở đây toàn là đồi đất, không biết những tảng đá lung tung này là từ đâu tới, không thể là tự dưng mọc ra từ đất được.

Phía sau tảng đá là một khoảng đen nhánh như mực, là góc chết mà có một cái đèn pin chiếu vào mà cũng không thể chiếu đến được. Đi vòng quanh chiếu một lượt nhưng chẳng nhìn thấy cái gì, phía sau tảng đá có khe hở rất nhỏ, không nhiều khả năng sẽ chứa nổi vật gì. Tôi đạp một cước vào tảng đá, thấy nó không chắc chắn cho lắm, lại chiếu đèn khắp bốn phía, cũng không nhìn thấy gì, tất cả đều rất tĩnh lặng, tôi bèn tự nhủ hay là mình nghe lầm thật rồi. Lắc lắc đầu, tôi bèn đi về, A Ninh hỏi tôi sao thế, tôi nói với cô ta có lẽ là do thần kinh hơi nhạy cảm quá thôi, cứ tưởng ở chỗ đó có cái gì.

Quay lại ngồi sưởi ấm bên đống lửa trại, đôi bên không nói câu nào. Tôi tựa mình vào tảng đá, vốn muốn nhắm mắt dưỡng thần một chút, sợ có gì xảy ra cần bọn tôi hỗ trợ. Nhưng cơn mệt mỏi rã rời ập tới, chẳng mấy mà tôi đã mơ mơ màng màng, cũng không biết đã thiếp đi từ lúc nào.

Khi tỉnh lại, trời đã sáng, nhưng cũng không quá sáng, hình như chỉ vừa mới bình minh. Lúc này gió đã ngừng hẳn, tôi nghe thấy tiếng Trát Tây, bèn nhổm dậy nhìn coi. Chỉ thấy bọn họ đều đã đến cả rồi, hình như dọn hết cả doanh địa bên ngoài vào đây, khắp bốn phía đều dựng lều bạt và nhóm lửa. Anh người Caucasus đã được chuyển vào trong lều, A Ninh vẫn còn ngủ trong túi ngủ ở một bên, có người vẫn bận rộn ở khắp nơi.

Trên người tôi được đắp thêm tấm thảm, không biết là ai đắp cho. Tôi ngọ ngoạy đứng lên, ngáp một cái, nhìn quanh quất. Vừa nhìn một cái, tôi liền bị cảnh sắc phong hóa ở xung quanh thu hút, không khỏi ngẩn người.

Ban ngày, tầm nhìn ở tòa thành ma cực kỳ rộng, núi đá phong hóa ở bốn phía trông còn hùng vĩ hơn cả hồi tối nhìn, những núi đá khổng lồ nhô lên trên mặt đất như những Kim Tự Tháp sừng sững ở khắp xung quanh chúng tôi. Buổi tối nhìn thì chỉ thấy núi đá tối đen như mực, bây giờ nhìn mới thấy đủ loại hình thái kỳ dị, cùng với sa mạc mênh mông vô cùng tận, cái cảm giác choáng ngợp vì sự nguy nga hùng vĩ này không thể dùng ngôn ngữ mà miêu tả nổi.

Đây vẫn chưa phải địa hình Yardang lâu năm, nếu đã trải qua mài mòn tôi luyện của bão cát suốt hàng trăm vạn năm, không biết cảnh sắc sẽ còn hùng vĩ đến nhường nào?

Tôi ngẩn ra nhìn một hồi mới lấy lại được tinh thần, chú ý đến người xung quanh, bọn họ đang vật chuyển đồ đạc từ trong con thuyền chìm trên gò đất ra ngoài. Gò đất bây giờ còn cao hơn so với hồi tối qua tôi nhìn, ở trên có đóng đinh với dây thừng để dễ bề leo trèo, còn làm cả một cái giỏ treo, có người ở phía trên khai quật, Ô lão Tứ thì đứng dưới tiếp ứng và sắp xếp, đồ vật được đặt trong giỏ trực tiếp chuyển xuống dưới.

Định Chủ Trác Mã cùng cô con dâu đang nấu bữa sáng và trà bơ, bà nhìn thấy tôi đã tỉnh, liền ra dấu bảo tôi qua ăn. Tôi qua đó uống chén trà, cầm một cái bánh mì, vừa ăn vừa đi đến bên Ô lão Tứ hỏi bọn họ đang làm gì vậy.

Nghe nói Ô lão Tứ là người trong nghề, được Cầu Đức Khảo chiêu hàng về dưới trướng, có chút hảo cảm với tôi, thấy tôi đến thì gật gật đầu, nói: thương thế của anh chàng Caucause kia khá nghiêm trọng, bác sĩ còn đang kiểm tra vết thương trên bụng, có dấu hiệu nhiễm trùng, cho nên có lẽ phải lui đội ngũ về chỉnh trang lại mới tiếp tục dự định được. Bọn họ không muốn tay không đi về, con thuyền chìm này cũng xem như là một phát hiện, bọn họ muốn ghi chép lại một chút, mang ít đồ ra ngoài báo cáo với công ty.

Tôi ngồi xuống bên cạnh ông ta, ngước lên nhìn con thuyền chìm trên đỉnh đầu, bự thật! Buổi tối xem không có cảm giác to lớn đến vậy, nhìn xem thì con thuyền này là thuyền thương buôn chính quy, phần đầu thuyền có lẽ là do trước đây đồi đất bị sụt lở nên mới lộ ra ngoài, lơ lửng gác giữa không trung, bên dưới đã có cái giá chống đỡ.

Tôi lại cúi đầu xem đồ vật bọn họ dọn dẹp ra từ bên trong. Mấy cái vò gốm từng cái từng cái to như cái bồn cầu, lạ ở chỗ không cái nào bị tổn hại cả, xem ra quá trình thuyền bị đắm khá vô cùng chậm. Trên bình có hoa văn đặc trưng Tây Vực, cái thì có hình vẽ màu đen, cái thì lại trông lại giống văn tự gì đó, nhưng không phải là thứ của người Hán. Tôi hỏi đấy là cái gì thế, Ô lão Tứ chỉ lắc đầu bảo không ai biết cả. Văn hóa Tây Vực này vô cùng đặc biệt, vô cùng thần bí, mà những thứ còn lưu giữ lại được thì khá ít ỏi. Tây Vực có hơn năm ngàn năm lịch sử, cực nhiều thành thị cổ, tất cả đều bị cát vàng của sa mạc chôn vùi hết. Ở Khả Khả Tây Lý và Taklimakan ngày xưa, thời cổ gọi là Tây Hoang, rất ít người sinh sống, bây giờ muốn đi nghiên cứu cũng quá khó khăn.

"Có điều những đồ gốm cổ này lịch sử cũng khá lâu đời, thông thường chúng ta giao dịch với Tây Vực đều là đồ gốm sứ. Những vò gốm này sản phẩm của thời đại đồ gốm sứ phát triển đến cực thịnh, có lẽ là khoảng trước thời Đường. Không biết là từ Trung Nguyên vận chuyển đến Tây Vực, hay là từ Tây Vực vận chuyển đến Ả Rập. Khu vực này có lẽ đã thuộc vào lãnh thổ của nước Tây Vương Mẫu, không biết có liên quan gì đến nước Tây Vương Mẫu hay chăng." Người đeo kính ở bên cạnh nói.

Ô lão Tứ liền gật đầu tán thành, nói: "Tôi cũng thấy có thể lắm, cậu xem." Ông ta chỉ vào một hoa văn trên vò gốm, đó là hình vẽ một con chim. "Đây là totem của Tây Vương Mẫu trong truyền thuyết, chim Tam Thanh. Đương nhiên, cũng không loại trừ khả năng người của nước khác cũng sử dụng totem này. Bởi vì thời đó nước Tây Vương Mẫu là trung tâm tinh thần của Tây Vực, vì nó thần bí lại quỷ dị, cho dù nó không còn mạnh như thời Chu, nhưng các quốc gia khác vẫn kính nể ma lực trong truyền thuyết của Tây Vương Mẫu nên thường đến triều phụng, hoặc thể hiện sự sùng bái trên hình thức."

Tôi hoàn toàn không có hứng thú gì với mấy cái này, đây đều thuộc về phạm vi khảo cổ rồi, thế là tôi bèn ngắt lời bọn họ, hỏi: "Vậy trong vò có gì thế? Chắc không phải vò trống nhỉ, thế thì lãng phí quá."

Miệng vò đều bị phong kín, dùng một loại bùn đặc biệt để niêm phong, xanh xanh đen đen, hơi giống kiểu bùn niêm phong trên miệng vò rượu vậy. Tôi ngửi ngửi, có mùi hơi cay cay, cảm giác rất quen, thử cầm lên thì thấy vò hơi nặng, chắc chắn bên trong có thứ gì đó, nhưng không phải là chất lỏng.

Tôi hỏi bọn họ sao không mở ra? Ô lão Tứ nói bọn họ cố gắng không phá hỏng những thứ vẫn còn hoàn hảo như thế này, đợi lát nữa xem có cái nào đã bị hư hại hay không, như thế cũng không cần mở vò, chứ lỡ đồ trong vò quá trân quý, không chịu được oxy hóa, làm thế này có thể tiết kiệm một chút, phòng ngừa lãng phí khảo cổ.

Tôi liền bật cười, nghĩ bụng bọn chú Ba thế nào cũng không có cái kiểu này đâu, nếu là Bàn Tử thế nào anh ta cũng không nói một lời, đem vò đập luôn.

Có điều, bọn tôi vẫn phải tôn trọng phương thức làm việc của người ta. Tôi ăn xong miếng bánh mì cuối cùng, nói với họ vậy mấy người cứ làm trước đi, đến lúc tìm thấy vò rồi, lúc nào mở vò thì kêu tôi một tiếng. Nói xong tôi liền đi vào trong lều anh Caucasus nằm, đi xem anh ấy sao rồi.

Vừa vào trong lều liền thấy rất chật chội, nhìn kỹ mới phát hiện ra hai thi thể kia cũng đã được chuyển đến đây, đang nằm ở một bên, phủ kín chăn giữ ấm. Bác sĩ không ngủ nguyên một đêm, vành mắt thâm đen lại, đang đo nhiệt độ cho anh người Caucasus.

Tôi hỏi ông ta thế nào rồi, ông ta kể lại một lượt cho tôi, rằng người vẫn đang mê man, còn mê sảng, nhưng có khởi sắc hơn trước rồi, ngạt thở và thiếu oxy bây giờ đã hết rồi, chỉ là vết thương cổ quái trên bụng thì... Ông ta cho tôi xem hai thi thể kia, cũng là những vết thương y như vậy, một người thì bị trên lồng ngực, một người thì bị ở trong bắp đùi, đều mất một ít máu, nhưng quần áo bên ngoài thì không thấy lỗ thủng nào, không biết là làm sao nữa.

Tôi đi tới bên người anh Caucasus, sắc mặt anh trắng bệch, đầu đầy mồ hôi, nhưng đã không cần phải dùng mặt nạ thở nữa, đúng là đã ổn định rồi. Tôi thấy môi anh đang mấp máy, như thể đang nói cái gì đó, tôi ghé tai lại nghe, không phải tiếng Trung, hình như là tiếng Anh.

"Anh ấy đang nói gì thế?" Tôi hỏi bác sĩ. Tiếng Anh của tôi chả ra sao, bàn chuyện làm ăn còn tạm tạm, chứ nghe nói mê thì chịu rồi.

Bác sĩ cũng lắc đầu, nói bản thân ông ta cũng không nghe rõ nữa, tiếng Anh của ông ta cũng không tốt. Có điều, sau khi ý thức có hơi hồi phục lại, anh Caucasus này cứ liên tục nói mê cái này.

Tôi cúi xuống, muốn ghé lại gần nghe, vẫn không nghe ra được gì, đành bỏ cuộc. Ra khỏi lều, muốn về đánh một giấc, đằng nào chỗ này cũng không có việc gì cho tôi.

Về đến chỗ ngủ, nằm xuống suy nghĩ chuyện tối hôm qua, rất nhanh thì chợp mắt, không biết ngủ bao lâu, đột nhiên nghe thấy tiếng người gọi tên tôi. Tôi mơ mơ màng màng ngồi dậy, thấy bên phía Ô lão Tứ tụ tập rất nhiều người, ông ta đang ngoắc tôi, hình như có chuyện gì đó.

Tôi đứng lên đi đến xem. Vừa đến gần, tôi đã ngửi thấy một mùi cực kỳ cổ quái, nói thối không phải thối, nhưng ngửi thôi cũng thấy cổ họng phát cay, cứ như hít phải hơi axit sunfuric, cực kỳ khó chịu. Tôi che mũi tiến lại xem, hóa ra là bọn họ đã tìm thấy được mấy cái vò bị hư hại, đang đập vò, Ô lão Tử gọi tôi tới xem.

Có mười mấy vò đã bị đập bể rồi, Ô lão Tứ đang đổ từng thứ ở trong ra ngoài. Thứ đầu tiên tôi thấy là vụn bùn, bên trong toàn là bùn khô đen sì, trong đống vụn bùn này còn có một cục đất tròn, dính toàn bùn, cực tởm. Lạ là, tôi nhìn thấy bên ngoài cục đất tròn này có dính rất nhiều lông đen, trông cực kỳ dị thường.

Ở một bên đã chất đống mười mấy cục đất tròn, không biết là cái thứ gì, tôi nghĩ lẽ nào đây là trái dưa hấu hồi xưa, đến giờ thì đã biến thành đá rồi?

Đến gần, nhìn kỹ lại, tôi liền cảm thấy ngộp thở. Tôi phát hiện ra, những cục đất bùn này chính là những cái đầu lâu người bị bọc đầy đất bùn, còn đám lông đen kia, đương nhiên là tóc người.

—————————

Trích một đoạn "Sơn Hải Kinh" viết về Tây Vương Mẫu:

Lại hướng tây 350 dặm là Ngọc Sơn, đó là nơi ở của Tây Vương  Mẫu. Tây Vương Mẫu dạng  như con người, đuôi báo răng hổ mà tiếng kêu to, tóc cỏ bồng đội ngọc thắng, là chủ quản nghiêm trang trên trời và năm hình phạt tàn hại. (Tây Sơn Kinh)

Tây Vương Mẫu dựa bàn mà đeo ngọc thắng, phía nam đó có chim tam thanh, bị Tây Vương Mẫu lấy ăn. (Hải Nội Bắc Kinh)

Chương 54. Đầu quỷ
Editor: EarlPanda.*****..

Tôi cảm thấy có hơi ghê tởm, bọn Ô lão Tứ đương nhiên cũng không ngờ trong mấy cái vò lại là thứ này, vẻ mặt đều mang vẻ kinh ngạc và ghét bỏ.

Những người khác cũng tụ tập lại đây, dần dần tập trung lại, mấy tài xế người Tạng chưa bao giờ thấy chuyện gì như thế này, đều rất tò mò, lại gần nhìn xem.

Tôi bịt mũi nhìn Ô lão Tứ đeo bao tay rồi nhặt cái đầu người lên, rửa sạch bùn đất trên đó. Thứ này đã có niên đại rất lâu đời, thế nhưng tóc vẫn còn rất chắc, da thịt đều thối rữa hết cả, cạy lớp đất bùn bên ngoài ra, có thể thấy được làn da khô quắt và hai hốc mắt trống không. Đây là một cái đầu lâu của người cổ đại.

Cái người đeo kính mắt ở bên cạnh liền đem đường kính cái vò so với cái đầu: đầu lâu lớn, miệng vò nhỏ, rõ ràng không thể nhét đầu người vào trong vò được.

Thế tức là sao, tôi liền hỏi anh ta.

"Đây là truyền thống quỷ dị của bộ lạc Tây Vương Mẫu, người này nhất định là một nô lệ của một bộ lạc khác ở Tây Vực, có lẽ khi mới chỉ khoảng hai, ba tuổi, đầu đã bị nhét vào trong vò rồi, sau đó vẫn cứ thế lớn lên, cho đến khi khe hở giữa cổ và thành vò không nhét được thức ăn vào nổi nữa thì mới dừng, sau đó chém phăng đầu hắn ra, niêm phong vò này lại, đem dâng lên Tây Vương Mẫu làm cống phẩm, đây là truyền thống cúng tế đầu người." Anh bốn mắt nói.

"Ôi đệt, thế này cũng quá tà ác rồi. Tây Vương Mẫu trong Tây Du Ký của chúng ta hòa ái biết bao nhiêu, đâu có thâm độc như thế đâu." Một người tặc lưỡi nói.

"Tây Vương Mẫu đó là Tây Vương Mẫu đã bị Trung Nguyên hóa, Tây Vương Mẫu trong truyền thuyết cổ đại thực sự thì chả khác gì một con lệ quỷ cả, căn bản không phải cùng một người." Có người liền nói, xóa mù chữ cho người kia. "Vào thời kỳ đó, chỉ dựa vào hòa ái thì không trị được dân, kẻ thống trị đều dựa vào những nghi thức quỷ dị thần bí theo chủ nghĩa thần bí kiểu này, khuếch đại sức mạnh siêu nhiên của mình để thống trị."

Tôi liền hỏi Ô lão Tử, vì sao lại phải cho đầu người vào mấy cái vò này thế? Chém thì chém quách đi, hà tất phải lôi thôi.

Ô lão Tứ nói: "Có nhiều bộ lạc ở Tây Vực cho rằng, con người sau khi chết, linh hồn sẽ bay ra ngoài từ mắt hoặc lỗ tai, cho nên cho đầu vào vò rồi mới chém, chính là để nhốt linh hồn người này vào trong vò, như thế hiến tế mới có ý nghĩa. Lễ tế hoàn thành, những cái đầu người này đều bị chất thành đống, đem cho bọn quạ đen gì đó xơi tái, hoặc ném xuống biển làm mồi cho cá. Ở Trung Nguyên cũng như thế, chúng ta gọi nó là "hố đầu quỷ", dưới Hà Bắc huyện Dịch cũng có một cái "gò đầu người", cũng tương tự thế này vậy."

Tôi nghe mà cảm thấy cổ mình rất khó chịu, chuyện như vậy đúng là cũng chỉ ở thời kỳ mông muội mới có. Nhưng đôi khi tôi thực hoài nghi, rốt cuộc ai mới là kẻ đầu tiên phát minh ra cái này? Người cổ đại từ khi nào thì bắt đầu thờ phụng cái loại máu tanh này?

"Nhưng mà, từ nhỏ đã nhét đầu vào vại, vậy bình thường cuộc sống thế nào?" Có người hỏi.

"Cuộc sống? Khỏi phải nói, cuộc sống của tế phẩm tốt lắm đấy, thường thường, người bị chọn làm tế phẩm, ăn cũng là ăn thức ăn dâng cúng thần, là thức ăn tốt nhất của toàn bộ lạc, bình thường chả phải làm gì cả, đến khi dậy thì rồi thì tức khắc có cô gái xinh đẹp nhất để giao hợp, để còn mang thai tế phẩm đời kế tiếp. Để cho cổ của tế phẩm nhanh chóng to đủ độ, bọn họ thường hạn chế hoạt động của tế phẩm, có những người ăn đến mức béo quá, còn chưa đến tuổi đã bị miệng vò siết đến chết." Có người lại nói: "So với những nô lệ khác phải lăn lộn kiếm miếng cơm manh áo ở bên ngoài, thậm chí còn không sống nổi đến năm ba mươi tuổi, thì cứ sống sung sướng mười mấy năm, sau đó chết thống khoái một phát, có lẽ cũng là một lựa chọn không tệ."

Người nọ xoa cằm: "Nghe cũng được đấy, tui đây không hứng thú với ăn uống, nhưng tui hứng thú với cô gái đẹp nhất, nếu tui phải làm tế phẩm, tui không ăn gì cả, để cái cổ không to ra, sau đó có thể..."

Lời còn chưa dứt, mấy người tài xế Tạng cười phá lên, tôi vỗ đầu anh ta, chửi trong đầu nhà anh toàn chứa những cái mẹ gì thế.

Mọi người cười một trận, Ô lão Tứ bắt đầu dùng một loại dung dịch để rửa cái đầu lâu. Đây là tác nghiệp khảo cổ, vài người vây xem không thấy thú vị gì, có người ở bên bèn vỗ tay, bảo mọi người quay về làm việc, chuẩn bị công tác rút lui, ai đi sửa xe thì đi sửa xe. Chuẩn bị xong, chúng tôi sẽ xuất phát luôn.

Người còn chưa đi hết, đột nhiên, tất cả mọi người nghe thấy một tiếng cười lạnh quỷ dị, vô cùng rõ ràng, truyền ra từ trong đám người.

Tôi lập tức toát đầy mồ hôi lạnh. Mấy người cùng dừng lại, nhìn nhau, tôi thấy vẻ mặt của bọn họ liền biết mình không nghe lầm rồi, tim như treo ngược lên, nghĩ bụng rốt cục là chuyện gì thế này? Là ai đang cười?

Không phải do tôi suy nghĩ nhiều, tiếng cười lạnh đó lại vang lên lần nữa. Lần này có chuẩn bị, chúng tôi đều nhìn về phía tiếng cười kia phát ra, liền phát hiện ra, âm thanh kia, thế mà lại phát ra từ phía bên cạnh đống đầu người.

Ô lão Tứ sợ đến mức làm rơi cái đầu người trong tay xuống đất. Da đầu tôi tê rần, thầm nghĩ sao lại có chuyện này được. Đúng lúc đó, có mấy người đột nhiên nhảy dựng lên, rồi hét ầm lên, có người kêu to: "Nhìn kia, đầu người đang cử động!"

Tôi vội vàng đi xem, chỉ thấy có một cái đầu ở trong đống đầu người kia, bùn đất đang tách ra, đầu đang lắc lư, cứ như là vẫn còn sống vậy. Tôi gần như ngộp thỡ, nghĩ sao có thể thế được? Lúc này, ở những chỗ bùn đất rạn nứt ra, đột nhiên vỡ toác, hai còn bọ nhỏ màu đỏ như máu bò ra, mỗi con chỉ to cỡ cái móng tay cái, nhìn quen cực kỳ.

Tôi vừa nhìn, trong đầu liền "ầm" một tiếng. Quả thực tôi không dám tin vào hai mắt mình nữa, vẫn còn không tin, lại nhìn kỹ một lần nữa, nhất thời ba hồn bảy vía trôi tuột luôn mất. Đó chính là mấy con bọ ăn xác chúa!

Chân tôi mềm nhũn ra cả, gần như là ngã lùi về sau mấy bước. Vừa nhìn, hai con, ba con, bốn con, sau đó là một đống sâu màu đỏ phun ra từ bên trong, giống y đúc cái loại tôi đã từng thấy trong Lỗ Vương Cung! Chẳng mấy chốc mà khắp nơi đều là chúng.

"Cái đệch, đây là sâu gì thế, tôi chưa thấy bao giờ." Lúc này vẫn có người lấy làm lạ, liền thấy một người tài xế Tạng muốn đến gần nhìn kỹ xem. Tôi hét to một tiếng: "Mẹ kiếp đừng có chơi ngu! Có độc, mau lùi lại, đừng động vào!"

Người nọ quay đầu nhìn tôi, vừa mới quay đầu, đột nhiên một con bọ ăn xác chúa bay vèo đến, đậu lên bả vai người này, tôi liền hét lên đừng! Đã không còn kịp rồi, anh ta theo phản xạ có điều kiện liền quờ tay chụp một phát, tiếp đó hét thảm một tiếng "A!", lập tức rụt tay trở về như bị bỏng, vừa nhìn, chỉ thấy một đống nốt đỏ ùn ùn nổi lên như thủy triều lan tràn khắp trên bàn tay.

Mọi người xung quanh hét ầm lên, lui cả về phía sau. Người kia thấy tay mình nhanh chóng biến thành màu đỏ như hòa tan, cực kỳ khiếp sợ, kêu ầm lên: "Bác sĩ! Bác sĩ!" rồi té ngã xuống đất.

Có người đi đến dìu anh ta, có người chạy về phía lều ông bác sĩ, tôi biết là thôi xong rồi, thầm chửi một tiếng, xông lên kéo mấy người định tiến lên ra, gào lên với mấy người khác: "Đừng đụng vào anh ta, đụng vào chết liền đấy! Đừng đứng đực ra đó nữa, mau tìm cách giết lũ bọ này đi, kẻo lát nữa chúng bay hết lên trời là chúng ta tiêu đời cả đó!"

Những người đó bấy giờ mới phản ứng lại được, bắt đầu lui về phía sau như phải bỏng. Mấy người tài xế bèn cởi áo ra đập lũ bọ. Nhưng vô dụng, lũ bọ nhanh chóng phân tán ra, chẳng đập chết được con nào, mà chúng bò ra lại càng nhiều. Rất nhanh lại nghe hai tiếng kêu thảm vang lên.

Trong lúc hỗn loạn, Ô lão Tứ cầm lấy cái hộp dụng cụ bên cạnh đập lên cái đầu người, cái đầu vốn đã trở nên giòn xốp, đập một cái liền nát bét ra cả. Tôi vừa nhìn, trời ạ, bên trong cái đầu lâu như cứ tổ ong vậy, toàn là bọ và trứng, nhìn mà ghê tởm muốn chết.

Sau lưng tôi toàn là mồ hôi lạnh, xem ra điều tên mắt kính kia nói hoàn toàn chẳng đáng tin, cái đầu người này chắc chắn là không chỉ đơn giản là dùng để tế tự, mà giống như là dùng làm môi trường để nuôi cấy sâu vậy. Lẽ nào loại bọ ăn xác chúa này đẻ trứng trong hộp sọ người sao? Cái đệch, nếu lũ bọ này bay đến thành phố, địa vị truyền thống của bốn loài vật có hại chắc không được bảo toàn rồi.

(bốn loài vật có hại: ruồi, gián, muỗi, chuột.)

"Không xong, những cái đầu khác cũng động đậy rồi!" Lúc này lại có người kêu toáng lên, tôi cũng không rảnh đi quan tâm, mọi người nhanh chóng lùi về sau, sau đó tôi bắt đầu nghe thấy tiếng ong ong ong ong, có ánh sáng đỏ bay vút lên. Ngay lập tức, có mấy đường sáng đỏ bay vụt sượt qua tai tôi, làm tôi khiếp sợ đến nỗi rụt cả cổ lại.

Trong một khắc kia, một suy nghĩ hiện lên trong đầu tôi, đó là muộn rồi, lần này thế nào cũng chết không ít người rồi! Vừa nghĩ xong, quả nhiên lại có tiếng người hét thảm, tôi quay đầu nhìn, thấy Ô lão Tứ té ngã xuống đất, đau đớn lăn lộn. Lại nhìn về phía mấy cái vò, chỉ thấy một mảnh đỏ tươi như máu, khắp mặt cát toàn là những đốm đỏ. Vô số con bọ ăn xác chúa đã bay lên, bốn phía đầy tiếng chúng đập cánh.

Bây giờ căn bản là không thể xử lý được rồi, chỉ cần một con bọ ăn xác chúa, làm không tốt là có thể giết sạch tất cả những người ở đây, chứ đừng nói là cả một vạn con. Tôi nghĩ thầm, thứ này thì tế phẩm đéo gì, rõ rành rành là vũ khí, thứ này chính là bom nguyên tử của thời đại đó, thằng nào không phục tùng, ném vào thành của nó một quả, mẹ kiếp chết sạch cả thành luôn!

Bây giờ chỉ có thể bỏ mặc doanh đi, chạy trối chết thoát thân đã rồi tính. Tôi vọt vào trong lều, mọi người đang nghỉ ngơi ở đây cũng nghe được tiếng động bèn đi ra xem, thấy tôi chạy tới liền hỏi tôi có chuyện gì thế, tôi cũng nói không rõ, liền gào to bảo đừng hỏi nữa, mau chạy thoát thân, ra chỗ xe bên ngoài rồi nói!

Mấy người tài xế Tạng cõng anh Caucasus ra khỏi lều, Trát Tây cõng Định Chủ Trác Mã, một đường chạy thẳng, chẳng thấy bóng dáng đâu nữa.

Thấy lần lượt đã có người chạy ra, trong lòng tôi thấy hơi an an, bèn chạy đi gọi A Ninh. A Ninh bị giật mình tỉnh giấc, vừa đứng lên, tôi xông tới kéo cô ta bỏ chạy, cô ta vẫn còn giãy giụa, hỏi tôi xảy ra chuyện gì vậy.

Tôi gào lên bảo cứ chạy là được, hỏi cái chó gì lắm thế! Lời chưa dứt, một con bọ ăn xác chúa vù một cái bay sượt qua trán tôi, nhoáng cái liền đậu lên vai A Ninh, trở mình một chút rồi dừng hẳn lại.

A Ninh cúi đầu vừa nhìn, giật mình một cái, muốn giơ tay lên chụp. Tôi vừa nhìn, vội vàng bắt lấy tay cô ta, sau đó dùng sức thổi phù một cái, thổi bay con bọ kia đi, rồi kéo cô ta chạy tiếp.

Muộn Du Bình và Kính Râm ở ngoài trông xe, chúng tôi trước cứ chạy đến đó rồi tính. Chạy suốt chạy suốt, cũng bất chấp hết rồi, chạy ra ngoài được ba bốn trăm mét, liền thấy một ký hiệu tảng đá, đầu óc tôi liền cứng đờ ra, đột nhiên nhận ra tôi vốn không biết ra ngoài như thế nào, ký hiệu tảng đá ở nơi này, chỉ có mình Trát Tây là đọc được.

Chương 55. Ký hiệu
Editor: EarlPanda Chương này dài vcđ.......*****.Chúng tôi buộc phải dừng lại, nhìn sang hai bên xem xem, nơi này là một ngã tư đường, đống đá A Rập nằm ngay giữa ngã tư, không biết là có ý gì.

Tôi quay đầu lại nhìn, xa xa có tiếng "ong ong ong" khiến người ta nghẹt thở, hỗn loạn cùng với âm thanh nghe như tiếng cười lạnh kia – cũng không biết đấy là tiếng kêu của lũ bọ hay là phát ra vì nguyên nhân khác nữa – tôi vẫn cảm thấy da đầu tê dại.

A Ninh vừa chạy đến thở hồng hộc, hầu như không thở ra hơi nữa, bèn hỏi tôi rốt cuộc là có chuyện gì xảy ra. Cô ta hiển nhiên đã biết tính nghiêm trọng của sự việc, thế nhưng vẫn không kịp phản ứng gì.

Tôi kể lại chuyện đã xảy ra, kể lại cả độc tính của bọ ăn xác chúa nữa. Vừa nghe đến đoạn Ô lão Tứ đã trúng chiêu rồi, sắc mặt A Ninh liền trắng bệch.

Vừa nói xong, chợt nghe tiếng "ong ong ong" đến gần hơn không ít. Ngẩng đầu nhìn, chỉ thấy ở phía xa xa, những con bọ ăn xác chúa bắt đầu phân tán ra, bay lên ngày càng nhiều, trên bầu trời xuất hiện cả một đàn bọ lớn đỏ lừ một mảng cứ như một màn sương, như một đàn ong vò vẽ đang bay, tất cả đều nhắm vào hướng bọn tôi.

Tôi vừa nhìn liền chửi thầm cái đệt, không có thời gian suy nghĩ, tôi kéo A Ninh, đứng lên co cẳng bỏ chạy.

Khi đó chạy thục mạng, từ trước đến giờ tôi chưa bao giờ nghĩ mình có thể chạy đến cỡ ấy, cũng mặc kệ cái gì mà đống đá A Rập, loáng cái liền xông qua luôn, chạy đủ hơn một ngàn mét, vòng vèo giữa đá núi mười mấy hướng liền, thực sự là chạy hết nổi nữa rồi, mới bèn chậm lại một chút.

Quay đầu nhìn, quá nửa bầu không toàn là bọ, đàn bọ nghìn nghịt cứ như một màn sương màu đỏ ấy vậy mà lại đuổi kịp chúng tôi rồi, cả đám ùn ùn kéo đến, tốc độ cực nhanh, áp ngay phía sau.

Chó chết, tôi chửi to một tiếng, cố gắng ngăn cơn choáng váng mà tiếp tục chạy về phía trước. Thể lực A Ninh tốt hơn tôi, lúc này còn chạy nhanh hơn cả tôi, cô nàng kêu một tiếng: "Đừng chạy không nữa, tìm chỗ trốn!"

Vừa dứt lời, trước mặt chúng tôi liền xuất hiện một con dốc thoai thoải, tôi không kịp chuẩn bị, bỗng vấp phải cái gì, liền lảo đảo rồi lăn tòm xuống dưới.

Cứ thế lăn lông lốc xuống dưới tận đáy, A Ninh đỡ tôi dậy, đầu óc tôi đã choáng váng, cô ta kéo tôi tiếp tục lăn, liên tiếp lăn đến mấy trăm mét, phía trước đột nhiên xuất hiện một đoạn đá núi như bức tường thành cản lối đi. Chúng tôi lập tức rẽ ngoặt, theo đá núi mà lăn tiếp, cứ muốn vòng qua, nào ngờ đến cuối lại thấy đầu kia của núi đá là bị chặn kín, đây là một hình hình tròn bị chặn kín rồi, là tử lộ.

Tôi thấy tình cảnh như vạy, bèn chửi toáng lên một tiếng, rồi quay đầu lại nhìn, chỉ thấy đằng sau màn sương đỏ lẩn quẩn đã tới rồi, từ trên đỉnh núi đá ùn ùn lao xuống.

Tôi vừa nhìn liền nghĩ thôi xong rồi, trốn không thoát rồi, xem hành động cũng lũ bọ ăn xác chúa này thì, hình như là chúng đang săn đuổi bọn tôi!

Nhưng tôi không muốn ngồi chờ chết, bèn nhìn quanh quất xem có chỗ nào trốn không. Nhưng ở đây toàn là đá tảng, căn bản không có chỗ cho người trốn.

Đang lúc thở dài, đột nhiên A Ninh ở một bên kêu to: "Đến chỗ này!"

Tôi quay đầu nhìn, hóa ra trên núi đá có một cái hố trũng, nhưng không đủ để người chui vào trốn được, có điều, đó lại là chỗ trốn duy nhất, đành phải trông chờ vận may vậy.

Lập tức lao vọt tới, tôi và A Ninh ngồi xổm, rúc mình vào cái hố kia, tôi cởi áo phông ra che trước mặt.

Tiếp đó, xuyên qua lớp áo, tôi nhìn thấy cả một mảng bọ lớn lao xuống, trong không khí bỗng bùng lên tiếng "ong ong ong ong", mùi cay độc tràn ngập đầy cái hố. Rất nhanh, vô số đường màu đỏ bao vây lấy bọn tôi. Rất nhiều con bọ đụng phải vách đá ở bên bờ hố, phát ra tiếng xèo xèo, cứ như một loạt đạn đang bắn phá chúng tôi.

Tôi cảm thấy hít thở không thông, người cứ bất giác co rúc lại lùi vào trong hố. Nhưng không gian trong hố quá bé, dù có lùi nữa cũng không thể nào rúc toàn bộ cơ thể vào trong được.

Tôi gần như là nhắm tịt mắt chờ chết, nhiều bọ đến thế, chỉ cần một con đâm phải, hậu quả thảm thiết không tưởng tượng nổi. Sâu trong lòng tôi không cho rằng chúng tôi sẽ gặp may đến thế, cho nên gần như là đang chờ đợi thời khắc kia ập đến.

Thế mà, không như tôi nghĩ, dần dần, âm thanh bên ngoài ngày càng giảm bớt, từng chút từng chút một, tiếng bọn bọ đâm vào vách đá cũng bớt dần đi, chẳng mấy chốc, bên ngoài trở về yên tĩnh như ban đầu.

Tôi cắn răng hồi lâu, mãi cho đến khi A Ninh vỗ vỗ tôi mới phản ứng lại được. Ló đầu ra nhìn, đàn bọ ăn xác chúa đã bay đi, bên ngoài chỉ còn lẻ tẻ mấy con bọ vương lại, đụng phải mặt đất choáng váng, tôi xem thời gian, lần lượt từng con từng con bay đi.

Tôi với A Ninh nhìn nhau, không biết là chuyện gì xảy ra, có điều đều thở phào nhẹ nhõm. Tôi dựa vào tảng đá sau lưng một chút, rồi phì cười, mẹ kiếp thế này thật kích thích quá, thần kinh tôi chịu không nổi rồi.

Cười mấy tiếng lại bị A Ninh che miệng lại, nhẹ giọng nói: "Xem ra không phải chúng nó đuổi theo bọn mình, có thể chỉ là muốn bay ra ngoài thôi, không ngờ chúng ta lại trùng hợp chạy cùng phương hướng bọn nó. Anh cũng đừng có vênh váo đắc ý thế, kẻo lát lại kéo chúng quay về bây giờ."

Tôi nghĩ cũng phải, bèn vội vàng gật đầu, A Ninh mới buông tay ra. Tôi không nói nữa, ngồi trong hố đợi một hồi, mới cẩn thận ra ngoài thăm dò.

Thành ma bên ngoài hoàn toàn yên tĩnh, như thể vụ kinh hồn táng đảm vừa rồi hoàn toàn chưa hề xảy ra, chỉ là tưởng tượng của chúng tôi mà thôi.

Tôi hít sâu mấy hơi, cuối cùng mới bình tĩnh lại. Bây giờ mới cảm thấy phát mệt vì lúc nãy chạy điên cuồng, chân lập tức liền chuột rút, lảo đảo mấy cái, phải căng cứng cả ra mới đứng vững lại được.

Chân nam đá chân chiêu, chúng tôi tìm thấy tảng đá, kiểm tra thấy không có bọ mới chịu ngồi xuống. Tôi sờ sờ túi da bên hông, muốn uống nước, bấy giờ sờ một cái mới nhận ra mình không mang theo bất cứ cái gì cả.

Lập tức nhớ ra, lúc gặp chuyện là tôi vừa mới ngủ dậy, ngay cả áo khoác cũng không mang theo, cũng may giờ là ban ngày, để đến tối chắc sẽ chết cóng mất.

Nhìn lại A Ninh, tôi nhận ra cô ta thậm chí còn không bằng tôi, mặc có mỗi cái áo ba lỗ ngắn, vừa mới ra khỏi túi ngủ, tóc tai rối bù, nhìn kỹ lại, hình như ngay cả áo lót cũng chưa mặc.

Tôi có hơi xấu hổ, nghĩ lại lúc đó kéo cô nàng chạy trối chết, thực sự là gấp quá, đành phải dời mắt nhìn ra chỗ khác.

"Rốt cuộc đó là loài bọ gì vậy? Anh biết về nó bao nhiêu?" A Ninh hỏi tôi.

Tôi thầm nghĩ, tôi biết nói với cô thế nào bây giờ. Tuy rằng tôi có nhiều lần nghe kể rồi, nhưng tận mắt nhìn thấy thì đây mới là lần thứ hai, trước đó từng thấy trong Lỗ Vương Cung, con bọ chui ra từ trong xác huyết thi, hồi đó mới chỉ có một con, mà thiếu chút nữa khiến cả lũ bọn tôi chết sạch ở đấy. Thế mà hôm nay nhiều như vậy, ùn ùn kéo đến cả đống, tôi cũng là lần đầu tiên chứng kiến.

Tôi kể lại cho A Ninh những gì tôi biết, A Ninh rõ ràng vẫn không hiểu hết được, tất cả chuyện này xảy ra quá đột ngột, cô ta nửa tin nửa ngờ trước những gì tôi nói.

Tự bản thân tôi cũng thấy điều này có hơi khó tiếp thu, cũng không có lòng nào giải thích cặn kẽ cho cô ta hiểu nữa. Tôi nghĩ bụng có lẽ chuyện này có liên quan đến quốc gia cổ đại Tây Vương Mẫu mà chúng tôi muốn tìm, những cái vò đầu người này có lẽ là vật chứa để nuôi bọ ăn xác chúa. Chú Ba tôi cũng nói, lúc ở trong mộ huyệt dưới đáy biển cũng từng nhìn thấy những đầu người như thế này rồi, xem ra loại bọ ăn xác chúa này sinh đẻ trong khoang sọ của người, hơn nữa, khả năng duy trì sức sống khá dài, vô cùng đáng sợ. Không biết nước cổ Tây Vương Mẫu muốn nuôi loại bọ đáng sợ này để làm gì? Dùng làm vũ khí sao?

Nếu hồi đó Tây Vương Mẫu có thể vận dụng thứ vũ khí sinh học đáng sợ này, vậy quốc gia cổ đại man rợ lạc hậu đó lại có thể thống trị cả vùng Tây Vực lâu đến vậy, nguyên nhân có lẽ chính là đây.

Vừa nghĩ, tôi vừa quan sát khắp bốn phía. Không biết chúng tôi đã chạy đến chỗ nào, nhìn một vòng, cái khu vực tường thành đóng kín này hoàn toàn xa lạ, chẳng có chút ấn tượng nào, vừa nãy chạy cũng không biết đã rẽ mấy vòng rồi, chúng tôi hoàn toàn là chạy loạn.

Suốt quãng đường là chúng tôi chạy về hướng Đông Bắc lệch hướng Bắc, theo lời Trát Tây nói, nơi này rộng hơn tám mươi ki lô mét vuông, chúng tôi bây giờ không biết đang ở đâu, có điều chắc là không phải ở khu vực ven rìa thành ma nữa rồi, trước mặt không còn thấy bãi sa mạc rộng mênh mông đâu nữa.

"Đường phố" trong thành ma, cũng chính là khoảng cách giữa các tòa núi đá phong hóa, cực kỳ rộng rãi. Những núi đá này tuy rằng hình dáng khác nhau, thế nhưng chỉ cần thay đổi góc nhìn một chút là đã trông khác hoàn toàn rồi, tôi không thể nào ghi nhớ được hết trong một khoảng thời gian ngắn như thế, hơn nữa, tầm nhìn lại rộng, tầm mắt có thể trông ra rất xa, làm nhiễu loạn cảm giác về phương hướng của con người. Tôi tin là giờ đi bộ về không được rồi, chúng tôi chỉ có thể đi theo một phương hướng, trước cứ đi đến vùng sa mạc, sau đó đi men theo sát rìa thành ma, vòng một vòng trở lại bãi đậu xe, hội hợp với bọn Muộn Du Bình.

Không biết khả năng sinh tồn của lũ bọ kia như thế nào, bây giờ trên trời toàn là mây tụ, trời đầy mây không thấy mặt trời đâu, nếu như chúng nó thuận chiều gió bay được đến đường cái, hậu quả thật không dám tưởng tượng. Có điều, nơi này cách tuyến đường cái khá xa, lại không có nguồn nước, tôi tin chỉ cần mặt trời mọc lên, phơi nắng một cái, tụi bọ kia sẽ không sống được bao lâu.

Tôi nói dự định của mình ra, A Ninh thấy cũng được, hiện giờ trên người bọn tôi chẳng có gì, nhất định phải đến nơi trước khi trời tối. Có điều bây giờ mới là giữa trưa, thời gian vẫn còn nhiều, hơn nữa lại không có mặt trời, điều này đối với chúng tôi mà nói chính là cực kỳ may mắn.

Xác định cách đi rồi, chúng tôi liền nghỉ ngơi một chút, rồi bắt đầu lên đường. Tôi nhìn xem khắp chung quanh một lượt, ghi nhớ hình dạng mấy mỏm núi đá, tất cả đều trông như mấy pháo đài trong thành lũy vậy, nếu như chúng tôi vô phúc đi vòng vèo, vậy nếu về đến chỗ này có thể phát hiện ra.

Lúc ấy, tôi tưởng rằng cùng lắm cũng chỉ mất chút công đi lại thôi. Nào ngờ, một lần đi, lại khổ sở đến vậy, gần như là bước đến cổng âm tào địa phủ luôn rồi.

Chúng tôi lạc đường.

Đi xuyên qua thành ma, chúng tôi cũng không lơi lỏng cảnh giác, lũ bọ độc không biết đã bay đến chỗ nào, nếu đi vòng tới vòng lui lại đụng phải chúng nó, vậy cú hút chết vừa nãy đúng là thành trò cười.

Vì vậy chúng tôi vừa đi vừa chú ý đến tiếng động khắp xung quanh. Không biết từ bao giờ, gió bắt đầu nổi lên, trong tòa thành ma xuất hiện đủ loại âm thanh quỷ dị. Cũng may gió không quá lớn, nghe như thế cũng là nhẹ nhàng rồi, lúc ẩn lúc hiện, không đến nỗi quấy nhiễu thần kinh người ta.

Tôi và A Ninh không nói câu nào, với cả, cô nàng quần áo xộc xệch, đi song song với cô ta, con mắt của tôi toàn không kìm được mà cứ nhìn người cô nàng, cho nên tôi dứt khoát cứ đi vượt lên phía trước. Cả hai người đều không nói gì, chỉ thỉnh thoảng dừng lại trò chuyện vài câu.

Cô ta cũng không có thái độ gì, hiển nhiên cũng lao lực quá độ, không có tâm tư đâu mà suy nghĩ nhiều hơn.

Nói thật, nếu là đi du lịch, cùng một mỹ nữ đi bộ trong một tòa thành ma quỷ quái, nhìn ngắm núi đá phong hóa huyền diệu khó lường, nghe tiếng ma khóc quỷ hờn, tuy rằng không phải chuyện gì đáng tin cậy, nhưng cũng xem như là việc tốt đi. Cái thế giới này chính là kỳ quái như vậy đấy, nhìn hai người bọn tôi chỉ đơn giản là đi bộ ở chỗ này, kỳ thực, mới vừa nãy chúng tôi đã trải qua một phen hút chết, trong tình cảnh này, dù tôi có rỗi hơi đến thế nào đi chăng nữa cũng không cảm thấy cái cảnh này tốt đẹp chỗ nào.

Cứ đi như thế, mới ban đầu là ba giờ rưỡi, hẵng còn có chút giống đi du ngoại, nhìn ngắm đá núi đủ hình thù quái dị, đôi khi tôi còn có ảo giác muốn đi tìm máy ảnh mà chụp.

Nửa giờ sau, cơn khát bắt đầu dằn vặt chúng tôi, lượng nước trong mồ hôi cũng trôi hết, môi của tôi và của cô ta cũng sưng vù lên. Lại nói tiếp, mới ban sáng tôi còn uống một chén trà bơ, A Ninh chưa uống gì cả, nhưng trên thực tế, cảm giác của tôi với A Ninh là giống nhau.

Cảm giác khát nước này cực kỳ khó chịu. Tôi liếm môi, cố gắng không nghĩ đến chuyện này nữa, tiếp tục đi về phía trước. Cũng may không có mặt trời, bằng không bây giờ chắc tôi đã bị cảm nắng rồi.

Lại đi thêm một tiếng nữa, trong dự toán của tôi, giờ chắc cũng phải đến rìa thành ma rồi chứ.

Chúng tôi dừng lại, lấy hơi, nhưng mà nhìn khắp bốn phía, cảnh sắc vẫn không thay đổi, toàn là những núi đá phong hóa cao lớn, không thấy bóng dáng sa mạc đâu.

Tôi ít nhiều có cảm thấy quái lạ, khoảng cách này có hơi quá dài, đặt giả thiết mỗi tiếng đồng hồ tôi với A Ninh chỉ có thể đi được năm ki lô mét, như vậy cũng phải đi được mười lăm ki lô mét đường rồi, tòa thành ma này chắc chắn không dài đến thế, vậy rõ ràng là chúng tôi lại đi đường vòng.

Nhưng mà, suốt đường đi, tôi đã cố tình ghi nhớ rất nhiều đặc trưng rõ ràng của núi đá, để phòng việc đi lòng vòng về, thế nhưng vẫn không thấy điều đấy, rõ ràng chúng tôi vẫn đang đi về phía trước, cũng không có vòng vèo.

Điều này ít nhiều làm tôi yên tâm, tôi tự an ủi mình, có lẽ bước đi của chúng tôi đã bất giác chậm lại, hoặc có lẽ tuyến đường ngoằn ngoèo quá, không cần lo lắng, cứ đi theo một hướng, là có thể ra ngoài.

Lúc này không thể nghỉ ngơi, bởi sắc trời đã muộn rồi. Tôi đoán chừng ở đây tuy không phải sa mạc, nhưng cách sa ma không xa, hẳn là không mất bao nhiêu thời gian là ra ngoài được, sau khi ra ngoài lại phải mất chút thời gian để trở lại doanh địa ngoài thành ma, cũng cần thời gian tương đối dài.

Vì vậy, chúng tôi tiếp tục gấp rút lên đường, thậm chí còn cố ý tăng nhanh bước chân. Nhưng mà, càng chạy tôi càng dần dần cảm thấy không ổn. Thời gian cứ từng giờ từng giờ trôi qua, cảnh sắc chung quanh vẫn y như cũ, giống như tòa thanh ma này vẫn đang di chuyển cùng lúc với chúng tôi vậy.

Kiên trì rồi lại kiên trì, đi mãi cho đến khi sắc trời tối đen, vẫn chẳng thấy bóng dáng sa mạc đâu. Tôi đã nhận ra được tính nghiêm trọng của vấn đề rồi, đây chắc chắn không phải bước đi chậm là có thể giải thích được, cứ đi như thế, đừng nói là tám mươi ki lô mét vuông, dù là lớn hơn gấp đôi, chúng tôi giờ này cũng phải tới rồi.

Một cơn rùng mình chạy dọc sống lưng, xem ra tình huống trong thành ma này còn phức tạp nhiều hơn so với tôi tưởng tượng rất nhiều. Không phải đơn thuần chỉ là núi đá không đâu, chúng tôi đã lạc đường triệt để rồi.

Sắc trời dần dần tối tăm, buổi tối sắp tới, lúc này, tôi đã hiểu được cảm giác lúc đó của anh Caucasus và hai người đã hy sinh khi lạc đường ở chốn này. Đang suy nghĩ xem nên làm gì bây giờ thì A Ninh ở phía sau chợt gọi tôi lại.

Dừng lại một cái, cả hai người sức cùng lực kiệt, ai cũng đi không nổi nữa, hơi ấm trong không khí đột nhiên tụt xuống, mồ hôi chúng tôi bắt đầu lạnh dần, nơi này nhiệt độ chênh lệch giữa ngày và đêm quá cao.

"Không thể đi nữa." A Ninh ngồi xuống đất, nói với tôi, "Chắc chắn không thể ra ngoài được trước khi trời tối, chúng ta lại không có đèn pin, ở đây toàn là đá, cũng không nhóm lửa được. Đành phải nhân lúc trời chưa tối hẳn, chúng ta đi tìm nơi ngủ qua đêm nay. Đêm nay ngay cả trăng cũng không có, chắc chắn ở đây sẽ tối mịt."

Tôi cũng yếu ớt ngã xuống đất, ngẩng đầu nhìn trời, chỉ thấy bầu trời đầy mây đen, mây càng áp xuống thấp hơn, ánh trời chiều màu vàng kim đâm xuống xuyên qua khe hở của những đám mây, tạo thành những chữ thập màu vàng khổng lồ, nguy nga vô cùng, mây dày đến vậy, nếu như gió không lớn thì cũng không thổi đi được.

Màn đêm buông xuống, chúng tôi dùng đá đắp thành một cái rãnh đá, chui trong đó qua đêm. Tôi với A Ninh trên người chỉ có một cái áo đơn, tôi vẫn có hơi ngượng ngùng, thế nhưng A Ninh thì trực tiếp rúc vào lòng tôi, hai người ôm nhau, sưởi ấm cho nhau. Buổi trong trong thành ma không chút ánh sáng nào, bạn không thể nào tưởng tượng được nỗi sợ hãi này đâu, toàn bộ không gian không nhìn thấy bất cứ cái gì cả, chỉ có thể nghe thấy đủ loại âm thanh vang lên từ bốn phía, thậm chí còn nghe thấy một số âm thanh vọt qua ngay bên cạnh mình, giống như vừa có cái gì vọt qua thành ma.

Trong tình cảnh này gần như là hoàn toàn không ngủ nổi, chúng tôi đành phải trò chuyện cho qua thời gian.

Trong lúc đó, chúng tôi thảo luận xem tại sao không ra ngoài được, suy nghĩ đến rất nhiều khả năng, hay tin tức Trát Tây cho chúng tôi là sai, có lẽ tòa thành ma này còn rộng hơn tám mươi ki lô mét vuông nhiều. A Ninh nói, nếu ngày mà vẫn không ra được, vậy cứ tìm một vách núi cao chút, trèo lên xem sao.

Nghĩ đến cũng kỳ, tôi và A Ninh không thân quen gì mấy, nếu là bình thường có hành động vô cùng thân mật như vậy, tôi có thể sẽ cảm thấy xấu hổ cực kỳ, vậy mà bây giờ tôi lại thấy vô cùng tự nhiên.

Đây cũng coi là ôn hương nhuyễn ngọc đi, thế nhưng tôi lại chẳng có chút ý nghĩ gì cả. Tự dưng nhớ đến Liễu Hạ Huệ, bỗng thấy rất hiểu cảm giác của ông ta. Hồi xưa ổng cũng là trong đêm mưa lạnh giá ôm một cô gái, không có bất kỳ hành động vượt rào nào, tôi cũng giống thế. Ngẫm lại, nếu một người đàn ông phải đi liền trong sa mạc nguyên một ngày, sau đó nửa đêm trong thời tiết dưới 0 độ C đi ôm một cô gái, dù là tuyệt thế mỹ nữ chắc cũng không có hành động vượt rào nào nổi, bởi vì thực sự là không có hơi sức đâu ra nữa.

Tôi gần như suốt đêm không ngủ, chỉ chợp mắt mấy cái, cũng là được hơn mười phút lại tỉnh, suốt đêm tôi toàn nghĩ ngợi lung tung, nghĩ đến nhiều nhất chính là túi ngủ và lều bạt, nghĩ đến tiếng ngáy o o của những người Tạng, lúc đó nằm thế nào cũng không ngủ được, lại còn oán giận ngủ trong lều bạt không tốt cho xương cổ, giờ rõ ràng nghĩ đến túi ngủ là cảm giác cả người thèm muốn.

Sáng sớm hôm sau, mới tảng sáng, chúng tôi liền đứng lên, trạng thái rất không ổn, tôi chưa bao giờ mệt đến thế, cảm giác như tất cả mọi cơ bắp trên người đều bị khống chế, mắt nhìn ra ngoài đều thấy mơ mơ màng màng. Lại đặc biệt khát nước, khát đến không thể chịu nổi nữa rồi, ngay cả nước bọt trong miệng cũng khô luôn.

Tôi biết cơ thể của chính mình, trong lòng có hơi hoảng loạn, bèn vặn tay giống như A Ninh rồi bắt đầu gấp rút lên đường.

Tiếp tục đi, lần này là A Ninh đi trước, bởi vì tối hôm qua cô ta còn ngủ được đôi chút, có tinh thần hơn tôi nhiều. Chúng tôi tiếp tục đi theo cách ngày hôm qua, đi thẳng tiếp. Rất nhanh, lại ba tiếng nữa trôi qua, thành ma quỷ bất tận, lúc này sa mạc vô tận còn làm tôi tuyệt vọng hơn, tôi nhìn về phía núi đá đen sì trùng điệp ở phía xa xa, quả thực không nghĩ ra nổi là chuyện gì xảy ra. Tôi có cảm giác như mình là con kiến bị giam trong hộp cát, bị một sức mạnh vô danh đùa bỡn trong lòng bàn tay.

Chịu đựng qua một tiếng này lại một tiếng khác, rất nhanh đã đến ban trưa, lúc này tôi bắt đầu có cảm giác đói, nhưng so với cơn khát thì quả thực chẳng là gì. Cổ họng tôi như thiêu đốt, cảm giác một cơn ho khan sẽ nứt ra.

Càng đi mãi, chúng tôi thực sự không chịu nổi nữa, A Ninh bắt đầu quan sát núi đá. Thế nhưng suốt dọc đường, núi đá không dễ trèo, cuối cùng chúng tôi tìm được một gò đất tương đối cao, cắn răng trèo lên, đứng trên đỉnh đó nhìn ra xa khắp bốn phía.

Nhưng vẫn không có tác dụng gì. Núi đá ở nơi này cao ngang như nhau, trong phạm vi tầm mắt chúng tôi có thể nhìn thấy, tất cả đều là những núi đá lớn nhỏ, không thấy đâu là đầu, lại càng không nhìn thấy ra ngoài hơn nữa, thế nhưng có thể xác định một điều, chúng tôi chắc chắn không ở gần rìa thành ma.

Tôi và A Ninh ngẩn người, thầm nghĩ thế này là thế nào đây, vì sao bất kể chúng tôi đi đến đâu đều dường như vẫn ở trung tâm tòa thành ma này? Lẽ nào, quả thực có sức mạnh nào đó, không cho chúng tôi rời khỏi đây?

Chúng tôi lại trèo xuống gò núi, tìm một nơi mát mẻ nghỉ ngơi, tôi với A Ninh bàn bạc xem nên làm gì, đây dường như đã đết tuyệt cảnh rồi. Chúng tôi đi thì không ra khỏi được, bên ngoài lại không có bất kỳ thức ăn nước uống gì, thêm một khoảng thời gian nữa, chúng tôi ngay cả đi đường cũng không còn hơi sức nữa. Có thể sẽ chết ở chỗ này.

Tôi nghĩ thầm trong lòng, cảm thấy từng cơn ớn lạnh, đang suy nghĩ xem nếu không uống nước thì có thể sống được bao nhiêu ngày.

Ở trong hoàn cảnh râm mát thoải mái, nghe nói là được ba ngày, nhưng giờ chúng tôi đã đi suốt đoạn đường, đã đi suốt một ngày một đêm, tiêu hao lượng lớn chất lỏng trong cơ thể, tôi phỏng chừng có thể sống được ba ngày đã là cực hạn rồi, nghe nói uống nước tiểu có thể sống thêm được một ngày, nhưng chó má thật nước tiểu tôi kiếm từ đâu bây giờ.

Nghĩ đến lại thấy tuyệt vọng, nói cách khác, dù tôi có bất động ở chỗ này, cũng chỉ tối đa sống được hai ngày, nếu không có ai đến cứu chúng tôi mà chúng tôi cũng không đi ra ngoài được.

A Ninh hiển nhiên cũng có dự định như thế, cô bèn cúi đầu.

Tiếp theo nên làm như thế nào, đây là một câu hỏi lựa chọn rất đơn giản. Tiếp tục đi, có thể ra ngoài, nhưng nếu thất bại, mai sẽ là ngày chết của chúng tôi, chúng tôi sẽ mất nước mà chết ở đây; nhưng không đi, đợi người khác đến cứu, hy vọng hết sức xa vời, tối đa cũng chỉ sống được hai ngày, xong là chết.

A Ninh là người tính cách rất mạnh mẽ, dù tôi có ý định bỏ cuộc trong đầu, thế nhưng sống chết ở trước mắt, cũng không tính là hồ đồ được, tôi với cô ta cuối cùng quyết định, cứ tiếp tục đi, đi đến khi chết thì thôi.

Có điều, lúc này A Ninh còn tỉnh táo hơn tôi, cô ta bắt đầu làm một số ký hiệu bằng đá, đồng thời tháo đồng tiền trên vòng tay của mình – cô ta có một cái vòng tay xâu từ những đồng tiền – đặt trên tảng đá ký hiệu. Cô ta nói, nếu có người đang tìm chúng tôi, đây là hy vọng, ít nhất, bọn họ cũng có thể tìm ra xác chúng ta.

Những đồng tiền này tương đối có giá trị, để ở chỗ này làm ký hiệu, tương đương với việc đặt một cục vàng ở đây. Tôi nghĩ, có lẽ đây là cái ký hiệu đắt nhất thế giới này, đáng tiếc, nó chỉ dẫn đến nơi táng thây của chúng tôi.

Hai ngày sau, chúng tôi tiếp tục đi bộ trong thành ma, tôi cũng không biết làm sao mà mình vượt qua khoảng thời gian này nữa.

Ba ngày ba đêm không có một giọt nước, đến cuối cùng, ngay cả chút ý chí cũng không còn, giống như là một cái xác không hồn vậy.

Từ đêm ngày thứ hai trở đi, tất cả trực giác của tôi không còn thanh tỉnh nữa, những gì tôi nhìn thấy đều chỉ có sa mạc cát sỏi và núi đá cao vót bốn phía, những cảnh sắc này thậm chí đôi khi còn xoay tròn cả lên, tôi không biết mình đang xoay tròn, hay là trời đang xoay tròn thật, tôi không phân rõ được nữa, rốt cuộc sự việc nào có khả năng xảy ra, sự việc nào không có khả năng xảy ra. Có đôi khi tôi cảm thấy mình đã chết, mình đang bay, một giây sau, tôi lại thấy A Ninh tập tễnh đến trước mặt tôi, cơn giày vò vẫn tiếp tục.

Lúc này tôi vẫn còn đang mong đợi, mong đợi sẽ đột nhiên nhìn thấy sa mạc rộng mênh mông vô bờ, có lẽ đi qua ngọn núi đá trước mặt là có thể thấy sa mạc rồi. Thế nhưng, ngoài núi đá vẫn hoàn đá núi, cứ như thể đi thế nào cũng không đi hết được.

Cuối cùng, A Ninh ngã xuống trước tiên, tôi lập tức thấy cô nàng biến mất trong tầm nhìn của mình, trong chớp mắt đó, tôi bất chợt có chút thanh tỉnh, sau đó, tôi liền vấp phải cái gì đó, cũng ngã sóng xoài trên mặt đất.

Tôi không biết rốt cuộc là mình vấp phải cái gì, cũng không biết là mình ngã xuống mặt đá hay mặt cát, trong một khắc kia, tôi liền thấy bầu trời, không phải bầu trời xanh trong, là bầu trời đầy mây đen kịt.

Tôi cười khổ trong lòng, nếu không phải là giờ không có mặt trời, tôi nghĩ tôi bây giờ cũng bắt đầu nát rữa cả ra rồi, thế nhưng, dù có cho tôi sống lâu thêm mấy tiếng nữa, thời gian cũng phải đến rồi.

Nhìn mây đen, tôi muốn đứng lên, nhưng vốn không có hơi sức đâu nữa, mí mắt càng ngày càng nặng, trong khoảnh khắc khi khép mắt lại kia, tôi chợt thấy bầu trời lóe lên một cái, hình như là tia chớp, sau đó, tất cả đều yên tĩnh, hết thảy đều đi xa. Tôi từ từ chìm vào trong vực sâu.

Chương 56. Cơn mưa đầu tiên
Editor: EarlPanda Chương này dài vcđ.......*****

.Trong một khắc đấy, tôi mơ mơ màng màng cứ nghĩ mình đã chết, trong lòng cũng đã chấp nhận số phận, nghĩ bụng chết chính là cảm giác này đây, vậy cũng không tệ đâu.

Ý thức cứ hỗn loạn như vậy, trạng thái mơ màng này cứ kéo dài không biết suốt bao lâu, dần dần, tôi cảm giác hình như có cái gì đang đánh vào mặt tôi, cảm giác này vô cùng xa xôi, thế nhưng, cứ dần dần rõ ràng lên từng chút một.

Tiếp đó, tri giác của tôi bắt đầu hồi phục lại, ý thức của tôi cũng từ từ khôi phục. Mới đầu chỉ là cảm giác mông lung hình như cơ thể đã trở về, sau đó ý thức tôi bắt đầu thanh tỉnh, tôi dần dần có cảm giác đối với bốn phía xung quanh.

Cảm giác đầu tiên chính là lạnh, cực kỳ lạnh, suốt chặng đường trong tòa thành ma, áp lực tinh thần và cảm giác tầng mây đè nén xuống khiến tôi cảm thấy vô cùng bức bối, giờ cái lạnh ở bốn phía này đặc biệt thoải mái, giống như được ngâm mình trong bồn tắm bỏ đầy nước đá vậy.

Sau đó tôi nhận ra cảm giác môi khô nứt nẻ đã không còn nữa, trên môi lành lạnh, hình như có cái gì đó lạnh lẽo đang rót vào trong miệng tôi. Tôi liếm một cái, rồi lại liếm cái nữa, lại liếm thêm cái nữa, liền phát hiện ra đây chính là nước!

Chẳng lẽ có người đang cứu tôi! Trong lòng tôi mừng như điên, lúc này cơ thể đã có phản ứng, tôi liều mạng hớp lấy nước, dùng hết sức mà cử động môi, từng chút từng chút, một cảm giác mát lạnh bắt đầu ngấm vào lục phủ ngũ tạng của tôi.

Uống xong nước, tôi lại chìm vào giấc ngủ say, trong chớp mắt bị mất đi ý thức ấy, tôi hình như có nghe thấy mấy giọng nói quen thuộc đang nói chuyện với nhau, nghe không rõ, cũng chẳng còn hơi sức nào mà chú ý nữa, trong nháy mắt liền mất đi tri giác.

Lại tỉnh lại một lần nữa, cảm giác đã ngủ rất lâu, các loại tri giác ùn ùn cùng kéo trở về, thính giác, xúc giác, sức lực của tôi cũng bắt đầu hồi phục, ý thức cũng càng ngày càng tỉnh táo, cuối cùng tôi rốt cuộc cũng mở mắt.

Đập vào mắt tôi đầu tiên chính là một khuôn mặt bự cực kỳ tục tằn, cũng cực kỳ quen thuộc, đang nhìn tôi cười ngu.

Tôi nhìn thấy khuôn mặt này, lập tức đã cảm giác có gì không đúng, lại nghĩ không ra vì sao có cảm giác này. Ai thế nhỉ? Tôi nhắm mắt lại suy nghĩ một chút, lùng sục nhớ lại mặt mũi của mấy người tài xế Tạng, có phải là người lái xe 876 không? Không phải. Cái ông lái xe chở nước thì sao? Cũng không phải.

Nghĩ tới nghĩ lui không nghĩ ra người này là ai trong đội ngũ, rồi lập tức tôi giật mình một cái, tức khắc nhận ra thì sao lại thế. Không đúng, đây không phải là người trong đội ngũ, đây là... hở? Mặt mũi thế này không phải là Vương Bàn Tử đấy sao?

Đầu óc tôi lập tức căng thẳng, ơ? Vương Bàn Tử? Sao anh ta lại xuất hiện ở chỗ này? Không thể nào chứ? Anh ta đã về Bắc Kinh rồi mà?

Lẽ nào tôi đang nằm mơ? Xuất hiện ảo giác?

Lại mở mắt nữa, vẫn là khuôn mặt béo quen thuộc đấy, khuôn mặt râu ria xồm xoàm, già hơn một chút so với hồi ở Bắc Kinh rồi, cứ như vậy trợn mắt nhìn tôi, tiến sát lại gần.

Tôi lại nhắm mắt lại, cảm giác không bình thường, không đúng không đúng, đây không thể là Vương Bàn Tử được, tôi có nằm mơ cũng không mơ đến anh ta.

Tôi cắn răng cắn lợi, lần thứ ba mở mắt ra, đầu óc tôi đã rất tỉnh táo rồi, vừa nhìn, quả thực chính là Vương Bàn Tử. Anh ta đang châm điếu thuốc, quay đầu ra đằng sau nói cái gì đó. Tai tôi hoàn toàn không nghe rõ, không rõ anh ta đang nói cái gì thế, sau đó, tôi liền thấy một người khác thò đầu ra xem, cũng hết sức quen thuộc, đó là Phan Tử.

Thế này là thế nào, tôi nhíu mày, nghĩ bụng lẽ nào mình căn bản chưa đến sa mạc, vẫn còn đang ở Hàng Châu sao? Tất cả những gì trải qua trước đây, lại chỉ là một giấc mộng sao?

Nhớ lại sự việc, một lượng lớn ký ức ùn ùn trở lại, chúng tôi gặp phải bão cát, bỏ xe lại, người mất tích, con thuyền đắm khảm trong gò đất... Hết thảy đều vô cùng chân thực, tuyết đối không thể là nằm mơ được.

Lúc này tai tôi đã khôi phục lại thính giác, tôi nghe thấy Phan Tử nói một câu: "Tiểu tam gia, cậu cảm thấy sao rồi?"

Tôi cố sức cong lưng, muốn ngồi dậy, Phan Tử bắt đầu đỡ tôi lên. Tôi ngồi lên, thở phào một cái, liền thấy tình hình xung quanh: ở đây hình như là một hang núi, bên trong đốt lửa trại, tôi thấy mấy cái túi ngủ, trang bị thì ném ở xung quanh, ngoài hang động tối đen, hiển nhiên giờ đã là buổi tối.

Cùng lúc đó, tôi nhìn thấy Muộn Du Bình đang ngồi bên đống lửa, đang đun nấu cái gì đó, còn A Ninh đang nằm trong một túi ngủ ở bên kia, vẫn chưa tỉnh lại.

Tôi dần dần ý thức được mình không phải là đang mơ. "Chuyện gì thế này?" Tôi xoa bóp hai huyệt thái dương một chút, hỏi Phan Tử: "Sao mấy người lại ở đây? Không phải tôi đang nằm mơ đấy chứ? Tôi không chết à?"

"Không chết, nhưng suýt chết." Bàn Tử ở bên cạnh nói, "Nếu không phải Bàn gia nhà cậu mắt tinh, không nhìn thấy cái thứ này, thì bây giờ cô cậu bốc mùi thối rồi."

Tôi thấy Bàn Tử mân mê mấy đồng tiền, liền biết đó là ký hiệu của A Ninh. Nhưng tôi vẫn chưa hiểu rõ cho lắm.

"Vậy sao mấy người lại ở đây?" Tôi lấy làm lạ nói.

"Chúng tôi vẫn đi theo sau đội ngũ của cậu đấy." Phan Tử nói, chỉ chỉ Muộn Du Bình, "Cậu không biết chứ, kỳ thực lúc các cậu tiến vào trong sa mạc, đội ngũ của ông Ba đã đi theo vào rồi, mỗi chỗ dựng trại của các cậu, Tiểu Ca đây đều có để lại ký hiệu dẫn đường cho bọn tôi, chúng tôi vẫn luôn duy trì khoảng cách với cậu, ở phía sau cậu suốt đấy."

"Cái gì?" Tôi chưa kịp hiểu lời Phan Tử nói, "Ký hiệu? Ở sau bọn tôi á... Anh ta..."

Phan Tử nói: "Đây là kế sách của ông Ba, Tiểu Ca đây và Hắc Hạt Tử đều là do ông Ba sắp xếp để hợp tác với người nước ngoài kia đấy, mục đích là để trà trộn vào trong đội ngũ đó. Ông Ba nói sự việc đã đến nước này, giờ muốn làm rõ mục đích thực sự của Cầu Đức Khảo thì đã không thể được rồi, chỉ có bằng cách này, giống cách ngày xưa Cầu Đức Khảo cũng đã làm, thâm nhập vào nội bộ để thăm dò tình hình. Nhưng thực không ngờ, cậu lại cũng chui theo vào. Sớm biết vậy, ông Ba đã mời cậu đi theo luôn rồi."

Tôi vẫn có chút không hiểu rõ, mất hơn nửa ngày mới hiểu thông được lời của Phan Tử: "Khoan khoan khoan khoan, cái gì, chú Ba tôi á? Anh đang nói những cái này đều do chú Ba tôi lên kế hoạch á? Vậy... mấy người?"

"Bọn tôi đã chuẩn bị xong từ lâu ở Cách Nhĩ Mộc rồi, bọn tôi phải chuẩn bị đến gần nửa tháng ở Đôn Hoàng đấy. Khi đội ngũ của các cậu xuất phát, chúng tôi cũng xuất phát ngay phía sau luôn. Lúc đó Tiểu Ca đây có để lại tin tức, nói rằng cậu cũng ở trong đội ngũ này, dọa ông Ba một trận phát khiếp luôn. Cậu Ba cậu cũng thật là, không phải ông Ba đã bảo cậu đừng lội xuống vũng nước đục này đấy sao? Sao cậu vẫn cứ nhảy vào?"

Tôi cố hít sâu một hơi, bỗng cảm thấy rất mệt mỏi, đệch mợ nó chứ, nghĩ thầm lần này đúng là tôi không thể ngờ tới. Cái... cái tên Kính Râm kia suốt chặng đường cứ chăm sóc tôi như vậy... xem ra, vẫn là vì nể mặt mũi chú Ba tôi...

Phan Tử tiếp tục nói: "Cậu ở trong đấy, ông Ba không thể không lo lắng cho an toàn của cậu được, cho nên mới bảo Hắc Hạt Tử nhắc nhở cậu mấy điểm. Lần này làm phô trương lắm, Cầu Đức Khảo hạ một quân cờ, cứ tưởng lần này tách được ông Ba ra rồi, nào biết chúng ta đã lên kế hoạch hết cả rồi."

"Chú Ba tôi đây?" Tôi nhìn quanh quất, không thấy bóng dáng chú Ba đâu.

"Ông Ba ở phía sau chúng ta, kém một con đường, lần này chúng ta cũng có không ít người đến, nhiều người thì theo dõi không tiện. Tôi với Vương Bàn Tử đi tiên phong, đi trước mở đường, vẫn theo sau các cậu, sau đó để lại ký hiệu ở ven đường cho ông Ba, nhưng thật không ngờ, các cậu đến đây lại xảy ra chuyện."

Lúc này tư duy của tôi mới rõ ràng hẳn ra, lập tức nhớ lại, đêm hôm đó khi nói chuyện với Muộn Du Bình, hắn ta nói hắn là người ở bên tôi, bảo tôi đừng lo lắng, hóa ra ý nghĩa là thế này. Hóa ra đây là kế hoạch của chú Ba.

Đây, tôi thật không ngờ là còn có một tầng này, xem ra, lão cáo già đúng thật là lão cáo già, đấu với chú Ba, tôi đúng là còn chưa đủ tư cách.

"Cũng coi như cô cậu mạng lớn đấy, tụi này vẫn cứ theo sau các cậu suốt, bằng không bây giờ cô cậu đã phơi nắng khô quắt rồi." Bàn Tử ở bên trên nói, "Với thể chất đấy mà còn muốn đi chuyến này, tôi thấy, sau chuyến này về cậu đúng là nên yên phận đi kinh doanh cái cửa tiệm nhỏ của mình đi."

Tôi hỏi Phan Tử: "Sao anh ta cũng tới?"

Phan Tử nói, trong số đồng bọn ở Trường Sa, tay nào lành nghề thì đều chạy đến nhà người khác hết rồi, bây giờ ông Ba lại dẫn theo một nhóm lính mới đi, kinh nghiệm không đủ, nên mời anh ta tới giữ thể diện cho nhóm, cũng là giá cũ mà.

Bàn Tử bảo: "Làm sao? Chướng mắt tôi à? Nói cho cậu biết, cậu là do ông đây cõng về đấy nhé."

Tôi vội xua tay, bỗng thấy yên lòng hẳn. Người của chú Ba suy cho cùng cũng là người nhà, là người của bản thân tôi, tôi không cần cái gì cũng phải lăm lăm đề phòng. Hơn nữa, hợp tác với mấy người này quen rồi, biết bản lĩnh của bọn họ, vui nhất chính là Muộn Du Bình cũng đứng ở bên bọn tôi, thế là vạn sự đại cát rồi.

Vừa rồi là Bàn Tử cho tôi uống nước, tôi từ từ hồi phục lại sức lực, tự mình uống vài ngụm. Bọn họ không cho tôi uống nhiều một lúc, bảo là phải từ từ bổ sung nước.

Tôi thấy A Ninh không có phản ứng gì, không biết là làm sao, bèn hỏi Phan Tử xem cô ta có làm sao không.

Phan Tử nói: "Cậu yên tâm, cô bạn gái cậu thể chất còn khỏe hơn cậu ấy chứ, đã tỉnh lại một lần rồi, vừa ăn chút gì đó rồi lại ngủ. Ở đây không phải sa mạc, các cậu chỉ là bị mất nước rồi ngất xỉu thôi, không phải bị cháy nắng, chỉ cần bổ sung chút nước muối khoáng, ngủ nhiều lên một tí là ổn."

Phan Tử đang trêu tôi, chắc là thấy tôi với A Ninh quần áo xộc xệch. Tôi cũng không có sức đâu đi phản bác anh ấy, cũng không để bụng nữa. Lúc này cơ thể mặc dù có hơi suy yếu, thế nhưng tinh thần cũng khá tốt, tôi đứng lên ăn chút gì đó, hỏi đây là hang động gì thế, sao bọn họ lại tìm được tôi.

Phan Tử nói với tôi, ở đây vẫn là trong thành ma, là trong một hang động trong núi đá, hang này là do Bàn Tử phát hiện ra. Khi ấy lúc xảy ra chuyện, bọn Trát Tây chạy đến chỗ bãi đậu xe bên ngoài, chờ bọn tôi mãi mà không thấy ra, Trát Tây liền nghĩ tôi với A Ninh không biết nhìn đống đá A Rập rồi, giờ cũng không biết là bọn tôi gặp nạn gì rồi, hay là bị lạc đường.

Khi ấy, Muộn Du Bình dùng gương phát tín hiệu cho bọn họ, bọn họ bèn vội vã chạy tới, Kính Râm thì ở lại chăm sóc cho mấy người còn lại, còn Muộn Du Bình thì dẫn theo Phan Tử vào thành ma tìm bọn tôi.

Tôi hỏi, một nơi rộng lớn thế sao bọn họ tìm thấy chúng tôi. Phan Tử bảo, nơi này có hơi tà môn, trật tự những núi đá này cứ như đã được thiết kế rất hoàn hảo, bọn họ cũng là đi theo cảm giác, nhưng kỳ thực tuyến đường hoàn toàn giống hệt chúng tôi, cuối cùng cũng thấy được ký hiệu đánh dấu của A Ninh, liền đi thẳng tìm được chúng tôi ngã trên mặt cát.

Nói đến đây trong lòng tôi vẫn còn sợ hãi, vội vàng gật đầu: "Đúng là thế, cái nơi chó chết này, hình như đi thế nào cũng không đến điểm cuối được, lại cũng không quay ngược trở về, không biết là thế nào nữa." Tôi lập tức lại căng thẳng, nói vậy thì bây giờ chúng tôi vẫn còn đang trong thành ma hả, có phải là không đi ra được không?

"Chúng tôi đâu có ngớ ngẩn như các cậu, suốt chặng đường chúng tôi có để lại ký hiệu đấy chứ, cậu cứ yên tâm đi." Phan Tử nói.

Bàn Tử cũng nói: "Ông đây dựng ký hiệu toàn là tảng đá to bự thế này này, cách đến một cây số vẫn nhìn thấy được, hơn nữa, nguyên nhân không ra được, ông đây cũng nhìn thấu rồi."

"À." Tôi thở phào nhẹ nhõm, hỏi, "Vậy thì vì sao thế?"

Phan Tử liền nói, ngay từ đầu bọn tôi cũng chẳng biết đâu, vẫn là có Bàn Tử lợi hại, đúng là anh ta nhìn ra đấy, tôi nói thật cho cậu biết, nơi chúng ta đang ở đây vốn không phải là tòa thành ma kia đâu, nơi này cách thành ma ban đầu ít nhất phải một trăm năm mươi ki lô mét cơ. Đây là một vùng địa hình Yardang khổng lồ, do mười mấy tòa thành ma nhỏ kết hợp lại mà thành, ở giữa là sa mạc, mà tất cả các thành ma đều có cả bầy núi đá nối vào lẫn nhau, đầu đuôi giáp nhau, tạo thành một thế liên hoàn thành ma khổng lồ. Các cậu cứ đi vòng tròn theo cái thế này, chính là ba ngàn sáu trăm ki lô mét vuông, vậy đi ra nổi sao?

Tôi lắc đầu: "Không thể nào chứ, làm gì có chuyện trùng hợp đến vậy? Tôi chọn bừa một hướng đi thẳng, chẳng lẽ không lệch đi chút nào sao?"

Bàn Tử nói: "Nói chú dốt chú còn không nhận, cậu đi theo hướng nào, là do người ta thiết kế cả đấy. Đấy là bởi trong thành ma này có rất nhiều đá tảng, những đá tảng này bày ở đấy cực kỳ thu hút sự chú ý, bình thường muốn đi vòng qua một núi đá, một đường thì nhiều đá, một đường thì ít đá, nhưng là bởi vì đá sắp xếp lộn xộn, cho nên trong nháy mắt đấy ý thức cậu không phán đoán được đường nào dễ đi, đường nào khó đi. Cảm giác thì giống nhau đấy, nhưng trong tiềm thức, cậu lại có thể phân ra được hướng nào ít đá, mà phản xạ có điều kiện là chọn hướng đi ít đá kia, kết quả, cậu ở trong tòa thành ma này lúc nào cũng đi theo cái hướng mà người ta đã thiết kế sẵn cho cậu. Hơn nữa, hầu như ở đoạn đường giao nhau nào cũng đều sắp xếp như thế, dù cho có đoạn ngã tư nào cậu không đi đúng đường, thì vẫn có vô số cơ hội để sửa cho thành đúng. Thủ đoạn này thời cổ đại phổ biến lắm, nhân dân lao động đã đặt ra một cái tên cực kỳ mộc mạc giản dị, ấy là kỳ môn độn giáp." Nói đoạn, anh ta liếc nhìn Muộn Du Bình, "Tiểu Ca, tôi nói không sai chứ?"

Muộn Du Bình ngẩng đầu nhìn chúng tôi, không để ý tới anh ta, rồi lại nhìn lửa, hình như có tâm sự gì.

Tôi bật cười, nói: "Anh từ khi nào hiểu kỳ môn độn giáp thế?"

Bàn Tử bảo, chuyện cậu không biết có nhiều lắm, xem vẻ mặt thì đắc ý cực kỳ. Tôi nghĩ bụng, phỏng chừng người này học được bao nhiêu đem xài bấy nhiêu đây mà, bèn đổi chủ đề câu chuyện, hỏi Bàn Tử: "Vậy anh nói, trong thành ma này, có người đã dùng những tảng đá vụn này, bày ra một thuật che mắt?"

Bàn Tử gật đầu: "Chính là như vậy, có điều cũng không phải trận pháp cao thâm gì, nếu gặp phải một tên đầu óc ngu độn, hoặc một kẻ có năng lực quan sát tỉ mỉ cẩn thật, thế nào cũng bị phát hiện ra. Nhìn mấy tảng đá ở đây cũng là có niên đại cả rồi, có lẽ hồi xưa nơi đây là chiến trường, Tây Vương Mẫu có lẽ là một cao thủ thuật số, dùng những tảng đá này để phòng ngự."

Nói đến đây, từ trong túi ngủ ở một bên liền vang lên giọng của A Ninh. Cô ta nhẹ giọng nói: "Sai rồi, Tây Vương Mẫu vốn chính là người sáng tạo ra kỳ môn độn giáp, năm xưa Hoàng Đế có được sách thần trời ban, chính là do Tây Vương Mẫu ban cho ông ta. Bàn về kỳ môn độn giáp, bà ta là tổ tông."

Hóa ra người phụ nữ này không ngủ, cả lũ chúng tôi liền giật mình, tôi lập tức nhớ tới truyền thuyết Cửu Thiên Huyền Nữ, trong lòng hoảng hốt. Đúng là thế, truyền thuyết về thời kỳ đó, cùng với một số ghi chép lịch sử, đều nói rằng, năm xưa Hoàng Đế thống nhất Trung Nguyên là do có được sự giúp đỡ đắc lực của Tây Vương Mẫu.

Vừa nghĩ đến con thuyền cổ nọ, nghĩ thầm năm đó ở đây nhất định là một cái hồ nông, những núi đá này nhô lên khỏi mặt nước, còn đá ngầm dưới nước sẽ làm các đội tàu bè mắc cạn, như vậy khi đi trên nước, thuyền phu chắc chắn sẽ càng phải chọn lối ít đá mà đi, càng dễ lạc đường, có lẽ đây cũng chính là nguyên nhân vì sao suốt bao nhiêu năm đến vậy mà chưa một vai phát hiện ra nước Tây Vương Mẫu.

Nghĩ đến đây, tôi bỗng nheo mắt, nói với Phan Tử: "Anh là nói thành ma ở đây là một cái vòng tròn?"

Phan Tử gật đầu, tôi hỏi: "Sao anh biết được?"

Phan Tử chỉ lắc đầu: "Đây là người dẫn đường bọn tôi nói. Sao thế?"

Tôi hưng phấn vẽ một vòng tròn trên cát: "Anh không biết chứ, tôi từng đọc sổ tay của Văn Cẩm rồi, cô ấy nói nước Tây Vương Mẫu được bảo vệ bởi một bức tường thành vô hình, tường thành này người khác không nhìn thấy, thế nhưng khi đụng phải, tất sẽ quay đầu. Ở chỗ này, suốt mấy nghìn năm trước, toàn là nước, nói cách khác, nơi này có một cái vòng đai nước, giống như sông hào bảo vệ quanh thành lũy ấy, bao quanh một vòng. Nếu chúng ta đặt giả thuyết rằng cái vòng bảo hộ này không ai có thể tiến vào, là "bức tường thành vô hình" bảo vệ thành cổ Tây Vương Mẫu qua nhiều năm như thế, vậy thì, nước Tây Vương Mẫu chắc hẳn phải ở trong cái vòng này, ngay chính giữa thành ma này."

Tôi nói xong, tất cả mọi người im lặng nhìn tôi, giống như nhìn một thằng đần.

Tôi bị nhìn mà ngơ ngơ ngác ngác, khoanh tay nói: "Tôi nói sai à?"

Phan Tử vỗ vỗ bả vai tôi, nói: "Cậu Ba, điều cậu nói, bọn tôi không cần đọc sổ tay của Văn Cẩm cũng đoán được rồi, chỉ là, nếu tình hình thực sự đơn giản như thế thì thành cổ Tây Vương Mẫu đã bị phát hiện từ  tám hoánh rồi. Nơi này là bồn địa Sài Đạt Mộc, không phải sa mạc Taklimakan, ở đây tuy rất hiếm vết chân người, nhưng cũng đã trải qua vô số lần khảo sát địa chất, cho nên, nếu quỷ thành ở đó, tình huống ở đó nhất định cũng sẽ rất đặc biệt, có khả năng là toàn bộ đã bị chôn dưới sa mạc rồi, có lẽ là nó nằm trong một hoàn cảnh nào đó mà người khác rất khó phát hiện ra. Cậu cứ nghĩ đến đấy là nhìn thấy ngay ư, như vậy thực ngây thơ."

Tôi nghĩ cũng phải, bèn hỏi bọn họ, thế bọn họ có tính toán gì?

Phan Tử nói, vốn dự định của họ là bám theo đội ngũ của A Ninh, vào sâu trong Tháp Mộc Đà rồi hẵng tính, nhưng giờ mới đến đây mà đã xảy ra điều bất trắc lớn đến vậy. Có điều, theo lời Định Chủ Trác Mã nói, ở phía Tây thành ma này, cứ đi theo lòng sông cổ hai ngày là sẽ thấy cửa núi năm xưa bà ta chia tay đổi Văn Cẩm ở đó, con đường sau đó, Định Chủ Trác Mã cũng không biết nữa. Anh ấy định chờ sau khi bọn tôi hồi phục thì cứ đi đến đó nghỉ ngơi chỉnh đốn, chờ đội chú Ba đến. Sau đấy, cứ theo dự định mà đi xuống xuống lòng sông cổ, bởi vì thành cổ nhất định ở gần đường sông, đội ngũ năm xưa chắc hẳn cũng đi như vậy, chúng tôi cũng có thể thử vận may.

Tôi nói với Phan Tử: "Nhưng đường sông cổ đến đoạn này gần như đã hòa lẫn với sa mạc rồi, không nhìn thấy rõ lắm."

"Cái đó không phải lo." Bàn Tử nói, chỉ chỉ ra phía ngoài tối đen.

Chúng tôi đang ở trong đáy hang động, không biết là anh ta có ý gì. Tôi bèn đi ra ngoài, vừa đến cửa hang, bỗng một luồng hơi lạnh lẽo ấm ướt đập vào mặt, sau đó, tôi liền nghe thấy những âm thanh cực kỳ quen thuộc.

Bên ngoài tối om om, tôi cũng không nhìn rõ lắm là tình huống gì, thế nhưng tình cảnh này tôi quen thuộc cực kỳ, nhưng nhất thời tôi có chút không thể tin nổi.

Đến khi tôi ra ngoài cửa hang, lập tức mặt mũi bị nước tạt ướt nhoèm, tôi mới phản ứng lại được, nghĩ thầm, cái đệch, bên ngoài trời đang mưa.

Thế nhưng sao điều này lại có thể được? Ở đây là sa mạc đấy, ở đây một năm mới có một cơn mưa kế tiếp, hơn nữa, chắc chắn không phải trong mùa này.

Tôi quay trở vào, nói: "Thế nào rốt cuộc là sao, tại sao trời lại mưa?"

Phan Tử bảo: "Cậu Ba, cậu phải cảm tạ cơn mưa này đấy, bằng không cậu không chờ được chúng tôi đến cứu đâu, đã thành cá ướp mặn rồi. Lúc chúng tôi tìm được cậu, mưa đã bắt đầu rơi, bây giờ ở ngoài toàn nước là nước, muốn đi cũng không ra nổi, chứ không chúng tôi đã cõng cậu ra ngoài rồi, cứ ngồi chờ ở đây cũng chẳng dễ chịu gì. Sau cơn mưa này, đường sông cổ nhất định sẽ ngập đầy nước, cứ đi xuống hạ lưu, cho dù chúng ta không nhìn thấy đường sông thì nước ắt sẽ thấy, cho nên cậu yên tâm đi."

Bấy giờ tôi mới nhớ tới lời Định Chủ Trác Mã nói với tôi: thời gian sắp tới rồi, nếu bỏ lỡ cũng chỉ có thể chờ năm năm nữa, nghĩ thầm chẳng lẽ là để chỉ trận mưa này?

Càng nghĩ càng thấy không đáng tin, có điều, thấy Muộn Du Bình không nói gì, chắc là không sao đâu, tôi cũng an tâm không ít.

Sau đó, tôi lại đi nghỉ ngơi. Lần này ngủ không ngon, đến hôm sau tỉnh lại, tôi lại một lần nữa cứ ngỡ mình đang mơ.

Trong hang động này, chúng tôi nghỉ ngơi cũng được hai ngày, cơ thể tôi và A Ninh đã khỏe lại rồi. A Ninh quen với Bàn Tử, tóm lại thì nhóm Phan Tử đã cứu cô ta, cô ta cũng không nói gì thêm, có điều, thái độ của cô ta đối với tôi tức khắc trở nên lạnh nhạt, chắc là cô nàng tưởng tôi cũng là do ông chú Ba sắp xếp vào để lừa mình.

Tôi cũng không để bụng, nghĩ thầm, tí nữa là tạch rồi, còn tính toán cái này làm gì. Đến ngày thứ ba, chúng tôi liền xuất phát, theo ký hiệu, chúng tôi lội nước đến tận mắt cá chân, đội mưa đi hai ngày, trước là đi ra bên ngoài đã, hội họp với nhóm Kính Râm. Người ở ngoài đã tuyệt vọng, thấy chúng tôi bình an trở ra, đều không tin được vào mắt của mình.

Ở bên ngoài, Phan Tử cho nghỉ ngơi chỉnh đốn suốt một ngày, anh ấy có đề nghị tôi ở lại đây chờ chú Ba đến, sau đó hẵng quyết định có nên vào hay không.

Nhưng mà bây giờ tôi lại cảm thấy chẳng có mặt mũi đâu đi gặp chú Ba, hơn nữa, lời nhắn của Định Chủ Trác Mã cho tôi đã khiến tôi quyết tâm, phải tìm được Văn Cẩm. Tính ra chúng tôi đã không có bao nhiêu thời gian, bèn khăng khăng muốn cùng Phan Tử đi đầu.

A Ninh ở một bên cũng sắp xếp đội ngũ của mình, phần lớn mọi người đều muốn về, tình trạng của anh người Caucasus cực kỳ không ổn, bác sĩ nói chờ đội chú Ba đến thì mượn xe quay về. A Ninh sắp xếp một chút, liền nói với Phan Tử, cô ta cũng muốn tham gia cùng chúng tôi, dù thế nào thì cũng là đội của cô ta đã đánh trận đầu.

Thêm A Ninh vào không vấn đề gì, Phan Tử cũng chẳng lay chuyển được tôi, huống hồ đoạn đường này chúng tôi có xe, cũng không phải đoạn đường nguy hiểm gì, đành đáp ứng. Tôi và Bàn Tử, Phan Tử, Muộn Du Bình, A Ninh vừa đủ một chiếc xe, Kính Râm ở lại đây chờ chú Ba.

Sau hai ngày, chúng tôi đi theo lòng sông có mực nước dần dần tăng cao thấy rõ, càng đi càng vào sâu trong sa mạc hơn. Do nước mưa xói mòn, trong lòng sông xuất hiện rất nhiều nhánh sông rẽ, chúng tôi đi tìm từng cái từng cái một, nhưng mà, dù đi thế nào, chúng tôi cũng không thấy ngọn núi đá đó đâu. Tôi dùng ống nhòm nhìn muốn toét mắt ra, cuối cùng bắt đầu hoài nghi, phải chăng ngọn núi kia hiện giờ đã bãi bể hóa nương dâu mất rồi?

Trước khi xuất phát, mưa liền ngừng, chúng tôi cuối cùng dừng lại nghỉ ngơi ở bên cạnh lòng sông. Bốn lốp xe bị mài cho mòn vẹt, về sau, một cái lốp hoàn toàn hỏng luôn, chúng tôi chỉ có thể cứ đi một đoạn lại xuống bơm hơi, sau đó lại tiếp tục đi, khổ không thể tả.

Bàn Tử nói: "Có phải bà lão kia nói bừa không, vốn không hề có ngọn núi kia? Hay đấy vốn không phải núi? Có khi chỉ là gò đất, gió thổi mấy chục năm là tiêu sạch rồi?"

Tôi có cảm giác không phải thế, nhìn Định Chủ Trác Mã thấy thế nào cũng không phải kẻ lừa đảo, hay có thể hướng chảy của con sông cổ này đã thay đổi rồi.

"Vậy làm sao bây giờ? Đi tiếp nữa, xăng cũng hết mất, chúng ta muốn về cũng không được."

"Nơi nước có khả năng tụ về ở đây là nơi thấp nhất của cả bình nguyên này, ở đó chắc phải có một cái hồ, hay là chúng ta đi tìm cái hồ đó trước? Sau đó từ hồ bắt đầu tìm kiếm vết tích của đường sông, như thế thu hẹp được phạm vi tìm kiếm."

Ngẫm nghĩ thì cũng chỉ có thể như thế thôi, chúng tôi tiếp tục đi, khi lại lên một sườn dốc, bỗng, Phan Tử chửi to một tiếng, một cước đạp phanh kít lại.

Tất cả chúng tôi đều đập mặt vào đệm ghế phía trước, Bàn Tử chửi bậy, còn chưa kịp chửi xong, mấy người bọn tôi lập tức ngây ngẩn cả người.

Ở bên kia sườn dốc là một bờ vực, đầu xe của chúng tôi đã đâm ra ngoài, hai cái bánh xe đầu đã chới với ngoài không trung rồi.

Chúng tôi kinh hồn bạt vía, lục tục xuống xe, đi tới bên bờ vực, nhận ra trước mắt xuất hiện một thung lũng khổng lồ, sương mù lượn lờ, đó là một ốc đảo khổng lồ lõm xuống ngay chính giữa sa mạc Gobi!

Chương 57. Xuất phát đến ốc đảo
Editor: EarlPanda.. Hai bữa nay cứ thấy lười lười, chắc thuốc lắc hết tác dụng.......*****

.

Phong cảnh nguy nga hùng vĩ trước mắt, khó mà có thể dùng ngôn ngữ để diễn tả, chúng tôi đều ngắm nhìn đến ngẩn cả người, tuy rằng trong sổ tay Văn Cẩm cũng có nhắc đến một cái ốc đảo, nhưng mà, ấn tượng trong tôi không phải là như thế này.

Vùng lòng chảo cực lớn, hơn nữa lại trông rất ngay ngắn, Bàn Tử bảo, trông có vẻ như hố thiên thạch vậy. Từ trên vách đá nhìn xuống, chỉ thấy mây mù lởn vởn, hầu như toàn là tán cây dày đặc, không nhìn thấy tình hình cụ thể ra sao.

Đây chính là Tháp Mộc Đà rồi, thật không ngờ, chúng tôi lại phát hiện ra nó bằng cách thế này, hình như có hơi đơn giản quá thì phải.

Phan Tử quay xe về, chúng tôi đứng dùng ống nhòm nhìn xuống thung lũng, vừa suy xét xem chuyện này là thế nào.

Phan Tử nói: "Xem ra ngọn núi đá nơi Định Chủ Trác Mã chia tay với nhóm Văn Cẩm đã thực sự biến mất rồi, nơi này là khu vực hồ muối, có lẽ đó vốn là một ngọn núi đá, qua vài chục năm, vài trận mưa, chỉ còn lại một đồi đất, có điều, cứ theo hướng nước sông, vẫn đủ để tìm đến nơi này.

Những điều này trong sổ tay của Văn Cẩm không viết, tôi cũng không thể biết được, có điều hôm nay phát hiện ra ốc đảo này như vậy, chúng tôi có chút luống cuống không biết phải làm sao, tôi bèn hỏi Phan Tử, anh có tính toán gì không.

Phán Tử nói, nhất định phải xuống đó trước xem sao, anh nghe tôi nói về cuốn sổ tay và lời nhắn của Định Chủ Trác Mã, biết Văn Cẩm chắc chắn ở dưới đó, bây giờ không thể chờ hội họp với ông Ba được, cứ xuống hẳn đó xem tình hình ra sao. Văn Cẩm chính là sư mẫu, nếu vì chờ ông Ba mà bỏ mặc sư mẫu, vậy cái danh đồng bạn này khỏi làm luôn cho rồi, thời gian không còn nhiều nữa.

Tôi nghĩ thầm, anh đúng là một thủ hạ đủ nhị thập tứ hiếu, nhưng mà, tôi cũng nghĩ giống vậy, thời gian đã không còn nhiều, tính ra, mười ngày như ở ngay trước mắt, hỏi vài người, họ đều không có ý kiến gì, còn bảo tôi xem xem nên đi xuống cái thung lũng này như thế nào.

Trong cuốn sổ, Văn Cẩm có miêu tả rất cặn kẽ tuyến đường đi, năm xưa bọn họ tiến vào thung lũng thông qua một khe núi. Có điều, địa hình nơi này đã hoàn toàn thay đổi, nếu cứ theo miêu tả tuyến đường của cô ấy thì chắc không thể tìm được khe núi ấy rồi, chúng tôi đành phải lái xe đi lòng vòng quanh thung lũng mà tìm, qua nhiều lần vòng vèo, rốt cuộc cũng phát hiện ra một khe núi rộng lớn.

Phan Tử đi một vòng lớn quanh thung lũng rộng khoảng bốn ki lô mét vuông, tìm được lối vào khe núi, chặng đường đầu có thể lái xe mà đi, chúng tôi đi thẳng vào trong, mãi cho đến đoạn đường có nhiều đá tảng chặn lối mới dừng.

Sau đó, mọi người xuống xe, vác theo trang bị rồi đi bộ vào trong. Đi mãi đến khi nhìn thấy cây cối mới dừng lại nghỉ ngơi. Tôi lấy cuốn sổ của Văn Cẩm ra, đọc kỹ ghi chép bên trong.

Đọc xong cuốn sổ, tôi không khỏi có hơi lo lắng, theo những suy đoán mà Văn Cẩm ghi lại trong cuốn sổ, khe núi này cực kỳ hung hiểm. Đi tiếp vào trong khe núi, vì độ cao so với mực nước biển càng thấp hơn, thảm thực vật nhiệt đới sinh trưởng um tùm rậm rạp, chướng khí mịt mù dày đặc, mặt nạ phòng độc của chúng tôi có thể sẽ không chịu được môi trường ẩm ướt đến thế. Hơn nữa, nơi này là lối vào duy nhất đến được cung Tây Vương Mẫu, những sự việc xảy ra trên suốt chặng đường này khiến tôi cảm thấy cung Tây Vương Mẫu cực kỳ quỷ dị, có thể lường trước được con đường này không hề dễ đi.

Có điều so ra thì tôi vẫn lo lắng nhất là chuyện đi qua khe núi này. Ở cuối khe núi này chính là vùng đất trung tâm ốc đảo, là nơi các dòng sông đổ về tụ hội, bên dưới những tán cây dày đặc um tùm kia toàn là đầm lầy ẩm ướt, địa hình kỳ quái của nơi này gần như biết nơi đây thành một khu rừng mưa nhiệt đới ngay giữa sa mạc. Tuy rằng, chúng tôi biết vương thành cổ của Tây Vương Mẫu nằm ở đâu đó trong đầm lầy, nhưng lùng sục tìm kiếm ở trong đó có thể nói chính là liều mạng rồi.

Chúng tôi ngồi dưới tán cây trong khe núi, đọc thật kỹ những miêu tả sơ lược về con đường tiếp theo trong sổ tay Văn Cẩm. Bởi vì chưa tiến vào vùng đầm lầy thật, cho nên có nhiều đoạn đọc mà cứ ù ù cạc cạc, hơn nữa, có nhiều chỗ Văn Cẩm viết một dấu chấm hỏi vào đó, chúng tôi không biết những dấu chấm hỏi này là có ý nghĩa gì, làm chúng tôi cảm thấy rất khó hiểu, cuối cùng đành quyết định đi bước nào hay bước ấy.

Sau đó, chúng tôi mỗi người tự làm công tác chuẩn bị của mình, lúc đi thăm dò, biết con đường phía trước còn rất dài, chúng tôi phải kiểm soát tiêu hao vật tư, hôm nay muốn vào đến hậu viện Tây Vương Mẫu, đương nhiên cũng không lo được nhiều thế, pháo sáng, pháo lạnh, diêm, thuốc, tất cả những gì có thể mang chúng tôi đều đem vào.

Phan Tử từng đi lính ở Việt Nam, bây giờ thành cố vấn của chúng tôi. Anh ấy nói, lúc ở trên vách núi nhìn xuống dưới này, thấy nơi này cũng không khác rừng mưa nhiệt đới ở Việt Nam là bao. Cái kiểu vùng đầm lầy ẩm ướt như thế này là nguy hiểm nhất, trên đầu là những tán lá rộng của rừng nguyên sinh, gần như bao trùm toàn bộ thung lũng, thảm thực vật rậm rạp đến thế, ánh mặt trời chắc chắn là không chiếu xuyên qua được, bên dưới tán cây sẽ tối om om, chướng khí dày đặc, là thiên hạ của các loại muỗi, đỉa, côn trùng độc. Mặc dù nhiệt độ ở đây phải hơn 30 độ C, nhưng chúng tôi bắt buộc phải mặc quần áo dài, nếu không chắc chắn trên người sẽ chẳng còn miếng thịt nào lành lặn đâu.

A Ninh nói, tôi có thuốc đuổi côn trùng, vậy có được không?

Phan Tử bảo, cô đuổi được muỗi đi, nhưng lại kéo thứ khác đến, trong rừng nhiệt đới không nên có mùi gì quá nồng. Bằng không, dù cô có không đụng phải dã thú, thì cũng là dã thú đeo bám theo sau, chúng ta lần này chỉ có tôi mà súng, dù có đụng phải lợn rừng cũng không đủ chống đỡ.

Cuối cùng, anh ấy nói, một khi tiến vào vùng đầm lầy, nếu không phải vạn bất đắc dĩ thì đừng có lội xuống nước, hoặc đi đụng vào nước bùn. Anh ấy từng có một chiến hữu, trong lúc đánh mai phục, chân bị lún xuống đầm lầy, còn chưa tới một phút đã rút chân ra, thế mà cả cái chân toàn là lỗ hổng, bị con gì đục khoét sạch. Trong tình cảnh này, nếu mà gặp phải chuyện như thế thì chẳng khác nào toi mạng, có khi toi mạng luôn còn đỡ hơn.

Tôi nhìn ánh mắt của Phan Tử, cảm thấy anh ấy không phải nói chuyện giật gân để hù dọa, trong lòng cũng cảm thấy kỳ dị, bèn buộc chặt ống quần hơn nữa.

Mất hai tiếng đồng hồ, chúng tôi mới sắp xếp đóng gói đồ đạc xong xuôi, Phan Tử gào to một tiếng, tất cả liền xuất phát. Muộn Du Bình đi đầu, Phan Tử đi cuối, phạt bớt các cành cây tán lá, đi thẳng vào sâu trong khe núi. Chúng tôi vừa bước đi, trời liền âm u, hình như lại sắp mưa. Tôi thầm cảm khái trong lòng, sự ảo diệu của thiên nhiên đúng là vô cùng tận, ở sâu trong sa mạc Sài Đạt Mộc khô hạn lại có một ốc đảo ẩm ướt mưa nhiều, đúng là tạo hóa sắp đặt, không theo bất cứ khuôn mẫu nào.

Khe núi này không giống kiểu khe núi Yardang trong thành ma, không phải do phong hóa mà thành, mà hình như là kiểu thung lũng ríp-tơ hình thành từ các vận động địa chất. Đáy khe không bằng phẳng, lởm chờm đầy đá tảng đủ hình thù, tầng tầng lớp lớp, vách đá trông như bị dao sắc cắt gọt mà nên. Có điều, nếu để tôi nói, thì tôi lại đồng ý với ý kiến của Bàn Tử, địa hình nơi này quả thực giống như một hố thiên thạch, thung lũng ríp-tơ này dường như vốn là vết nứt gãy trên vỏ trái đất do thiên thạch rơi xuống đập vỡ, lúc mới hình thành có lẽ còn sâu hơn bây giờ nhiều, sau dần dần bị phong hóa, đầy lên và phẳng hơn. Ở xung quanh vùng lòng chảo, các khe núi như thế này có lẽ không chỉ có một.

Khe núi cực rộng, sau khi tiết vào rừng rậm, bốn phía trở nên oi bức ngột ngạt, chúng tôi chả mấy mà toát đầy mồ hôi. Trên các tảng đá và cây cối ở khắp xung quanh đều phủ đầy rêu xanh, không thể đặt chân lên nổi, dưới chân chúng tôi đã toàn là bùn lầy sền sền ẩm ướt và các rễ cây đan xen rối rắm, bước đi trên cái lưới rễ cây đan xen tua tủa nhưng con quái vật nhiều vòi, mỗi bước đi lại thụt phải một cái hố, tán cây trên đỉnh đầu rậm rạp đến nỗi không nhìn thấy ánh nắng đâu. Nhất thời tôi có ảo giác rất nghiêm trọng, bây giờ có thực là tôi đang ở trên cao nguyên Thanh Tạng hay là đang ở trong rừng nguyên sinh Amazon vậy?

Vốn tưởng rằng loại tình huống này chỉ có thể gặp phải khi ở đầu cuối khe núi, không ngờ trong khe núi đã vậy rồi, vậy tình huống trong vùng lòng chảo kia phỏng chừng càng không ổn rồi.

Bàn Tử đi mà thở hồng hộc, nhìn tình hình phía trước, liền bảo không biết trong ốc đảo này có động vật gì không, đi săn mấy con xơi mẹ nó đi, coi như là một loại phúc lợi, chứ không quãng đường này đi thật là thiệt thòi.

Phan Tử nói, trong cánh rừng mưa khép kín nói nhỏ không nhỏ, nói lớn không lớn này, chỉ e là sẽ không có dã thú lớn đâu, có nhiều nhất chỉ sợ là toàn mấy con côn trùng rắn rết sâu bọ thôi. Trong nhiều đầm lầy như thế này, rắn là thường gặp nhất.

Bàn Tử nói, rắn cũng được, hồi ở Quảng Đông từng xơi bò cạp nướng rồi, dù sao thì chỉ cần là thức còn tươi thôi, với ông đây không thành vấn đề gì sất.

Tôi nhớ đến Văn Cẩm từng viết trong sổ: "Bùn lầy nhiều rắn, gặp người không biết sợ." Chắc hẳn Phan Tử nói không sai đâu, chỉ không biết kích cỡ của lũ rắn ở đây, trong mấy bộ phim Hollywood thường thấy mấy loại trăn to như cái cây cổ thụ, xe lu cán không chết, có điều ở đây chắc không có điều kiện như thế.

Hơn nữa, môi trường sinh thái ở đây vô cùng đặc biệt, là một hòn đảo biệt lập khép kín, tôi nghĩ, trừ phi là chim bay hoặc con người, những thứ khác vốn không thể tiến vào nơi này. Sinh vật ở đây đều là những sinh vật đã sinh sôi nảy nở ở ốc đảo này từ thuở sơ khai. Hồi đó, Sài Đạt Mộc vẫn còn là một mảnh đất trù phú giàu có, sông ngòi dày đặc, giống loài phong phú. Có lẽ chúng tôi có thể tìm thấy rất nhiều động thực vật đã tuyệt chủng trong ốc đảo này, đây mới là thứ còn có giá trị hơn cả cung Tây Vương Mẫu.

Nghĩ đi nghĩ lại, lại thấy thôi đi, truyền thuyết Tây Vương Mẫu trong "Sơn hải kinh" nói, cung Tây Vương Mẫu được một đám chim xanh mặt người bảo vệ, đây nhất định là một loài chim dữ khổng lồ mà chúng tôi không biết rõ, không chắc có phải là loài quái điểu đã tấn công bọn tôi ở núi Trường Bạch hay không, cái lũ này vẫn là tuyệt chủng thì tốt hơn.

Bởi vì cây cối quá đỗi rậm rạp, mà chúng tôi lại ở trong khe núi, không có điều kiện để đi vòng vèo, chúng tôi chỉ có thể vừa phạt bớt các loại dây leo già cỗi tán cây um tùm vừa tiến lên. Việc này rất tiêu hao thể lực, Bàn Tử và Muộn Du Bình phải thay phiên nhau dẫn đường mà cũng chẳng khởi sắc bao nhiêu. Cũng may ở trên vách núi một bên còn có một đường trời xanh, giống như một dải gấm xanh biếc, cảnh sắc cực kỳ lộng lẫy, thỉnh thoảng còn có mấy thác nước hình thành do trận mưa hôm trước trút xuống ầm ầm, chúng tôi đi qua, cũng có thứ để tám chuyện.

Đi được chẳng bao lâu, chúng tôi liền phát hiện trên vách đá trước mặt xuất hiện rất nhiều hang đá, dày đặc, phải đến trăm cái lận, phủ đầy rêu xanh, không biết bên trong có điêu khắc cái gì.

Chúng tôi lập tức căng thẳng, chẳng còn tâm tình đâu đi ngắm phong cảnh nữa. Suốt đường đi không thấy bất cứ di tích gì liên quan đến nước Tây Vương Mẫu, vẫn có cảm giác không thật, bây giờ bỗng dưng thấy được, chúng tôi thực sự bắt đầu đến gần vùng đất trung tâm của quốc gia cổ thần bí này rồi. Đây là một chuyện nghĩ mà thấy hưng phấn, thế nhưng thực tế thì lại cảm thấy có hơi khủng bố.

Thu lại tâm tình đùa bỡn, chúng tôi đi đến kiểm tra xem. Những hang đá này có to có nhỏ, cái to thì đủ nhét hai cái xe tải Giải phóng vào, nhỏ thì chỉ cao cỡ nửa người, khác với Đôn Hoàng nhiều lắm, các hang đá rất nông, ở bên ngoài là có thể thấy pho tượng ở trong, chỉ là chúng bị một tầng rêu xanh rất dày phủ lên.

Tôi leo lên, lấy dao găm ra, bắt đầu cạo lớp phủ ngoài trên một bức tượng ra, từ trong rêu xanh dần dần lộ ra một bức tượng đá cực kỳ quái dị.

Trong rêu xanh, đó là một bức tượng thần khắc hình mặt người thân chim, phong cách chạm trổ giống với phong cách trên vò gốm chúng tôi tìm thấy trong con thuyền chìm, là điêu khắc của nước Tây Vương Mẫu thực sự. Trải qua sự mài mòn của cả ngàn năm, bên ngoài tượng đá phủ đầy thạch hộc, nhìn thấp thoáng không rõ.

Tôi gạt hết đám thạch hộc đi, toàn bộ tượng đá liền hiện ra. Đó là một pho tượng đứng, là trực tiếp tạc ngay trên vách núi đá, phần đầu chim là một gương mặt quái lạ tính nữ, vừa giống người vừa không giống người, đôi mắt rất dài, không có biểu tình gì, lạnh lùng cay nghiệt vô cùng. Dưới chân tượng chạm khắc năm cái đầu lâu, con chim đứng trên đỉnh, dường như những đầu lâu này là phần xương cốt còn thừa lại sau khi bị nó ăn thịt.

Bàn Tử đứng dưới nhìn, liền kinh hô một tiếng: "Trời ạ, Tiểu Ngô, mẹ kiếp đây chẳng phải là..."

Tôi nhảy xuống, khi thấy được toàn bộ bức tượng, liền hít ngược một hơi lạnh toát.

Hóa ra, tượng đá chim mặt người trong hang đá trên vách đá, giống y như đúc lũ quái điểu trong khe nứt dưới đáy Trường Bạch.

Hình dáng chạm khắc cực kỳ sinh động, nhìn bên ngoài đá núi, có lẽ lúc tu tạc còn sơn màu lên nữa, nếu như không phải có rêu xanh phủ kín, trong khu rừng âm u này mà nhìn thấy, có khi còn tưởng lũ quái điểu từ Trường Bạn Sơn bay đến nơi này rồi.

Vẻ mặt tất cả mọi người đều kinh dị, ngay cả Muộn Du Bình cũng lộ vẻ bất ngờ. Tất cả mọi người ở đây đều từng đến Trường Bạch, thấy những bức tượng đá này, khó tránh khỏi nhớ lại tình cảnh đáng sợ lúc đó.

Tôi và Bàn Tử vội vàng động thủ, cạo sạch mấy bức tượng đá trong các hang đá khác ra, phát hiện bên trong toàn là tượng đá chim mặt người giống y hệt nhau, có lớn có nhỏ, hình dáng đủ kiểu.

A Ninh hít một hơi, nói: "Xem ra suy đoán lúc trước của chúng ta không sai, lũ ác điểu mặt người trong Trường Bạch Sơn chính là totem của Tây Vương Mẫu – nguyên hình của chim tam thanh. Có lẽ Tây Vương Mẫu nắm giữ được một số những kỹ thuật cổ xưa mà chúng ta không biết, có thể thuần dưỡng lũ ác điểu này. Có lẽ lăng mộ trong lòng đất ở Trường Bạch, sự biến mất của nước Tây Vương Mẫu và cuộc di dân đến phía Đông thần bí, tất cả đều có liên quan đến nhau. Lũ quái điểu có lẽ vốn là sống trong ốc đảo này, về sau đi theo các di dân tách ra đến phía Đông, làm người bảo vệ cho lăng mộ."

Tôi nói: "Không sai, tôi vẫn luôn có cảm giác, địa hình nơi này có nét tương tự với địa hình của hoàng lăng trong lòng đất ở Trường Bạch, đều là nằm trong một thung lũng như hố thiên thạch khổng lồ, xem ra nơi đó có lẽ cũng là một phiên bản của cung Tây Vương Mẫu. Những gì chúng ta trải qua ở núi Trường Bạch chỉ có thể coi là một cuộc diễn tập, nơi này mới chính là sào huyệt thực sự của người ta."

Bàn Tử nghe xong liền lau mồ hôi nói: "Mụ nội nó, nếu đúng như mấy người nói, vậy đây là quê nhà của lũ chim chết tiệt đó hả? Vậy chúng mình đi vào đấy chẳng phải là đi chết sao?"

Cái này còn khó nói lắm, tôi quay đầu cười khổ, A Ninh bảo: "Không đến mức ấy, chuyện đã cách quá nhiều năm vậy rồi, khí hậu nơi này thay đổi quá dữ dội, từ một thảo nguyên rộng lớn co lại thành một ốc đảo, thức ăn quá ít, loài chim này có khi lại tuyệt chủng rồi ấy chứ, lũ chim ta thấy trong Trường Bạch có lẽ chỉ là số còn lại sau chọn lọc tự nhiên. Có điều, bất kể ra sao, nước Tây Vương Mẫu lấy chim xanh làm thần bảo vệ, ở đây có totem như vậy, chứng tỏ chúng ta đã tiến vào trong phạm vi của cung Tây Vương Mẫu, các hang đá chạm khắc totem ở đây là một loại thông báo với người ngoài, cũng là một loại cảnh cáo. Chặng đường phía sau chúng ta phải càng thêm cẩn thận."

Chúng tôi đều gật đầu, Bàn Tử nói: "Mẹ kiếp, nhờ cả vào lời này của cô đấy, lũ chim chết tiệt này thực sự tuyệt chủng mới tốt, bằng không lại liên lụy đến tôi, thế là Mô Kim hiệu úy sẽ tuyệt diệt mất."

Lo lắng của Bàn Tử cũng là lo lắng của chúng tôi, chúng tôi liếc nhìn nhau, không ai nói gì, vẻ mặt đều hết sức phức tạp.

Chỉ nán lại trong chốc lát, A Ninh chụp hình lại những tượng đá này, nhìn xung quanh một lượt, ngoài đá ra thì không phát hiện thêm gì nữa. Muộn Du Bình liền bảo chúng tôi xuất phát.

Chúng tôi liếc nhìn những hang đá này một lượt nữa, xốc lại tinh thần, rời vách đá này đi, tiếp tục tiến vào sâu trong khe núi. Có lẽ do ảnh hưởng của những hang đá này mà trong một khắc đó, tôi cũng cảm thấy được một cảm giác bất an bao phủ lên toàn khu rừng rậm, dường như chúng tôi đang tiến vào một thế giới quỷ quái không ai hiểu nổi vậy.

Chương 58. Cơn mưa thứ hai.
Editor: EarlPanda.. Cầu lắc.....*****.

Rời khỏi những hang đá trên vách đá, chúng tôi mỗi người tự điều chỉnh tâm trạng của mình, tiếp tục đi vào sâu trong khe núi.

Do ảnh hưởng của tượng đá trong các cái hang kia, chúng tôi đi vô cùng cẩn thận, chú ý từng động tĩnh trong rừng rậm, rất sợ bị đụng phải thế trận mai phục Tây Vương Mẫu đã sắp đặt từ ngàn năm trước.

Nhưng theo từng bước thâm nhập của chúng tôi, lại chẳng có chuyện gì quỷ dị xảy ra cả, cả chẳng đường đều bình an vô sự, thậm chính ngay cả những di tích khác về nước Tây Vương Mẫu cũng không thấy. Chỉ có khu rừng rậm càng ngày càng dày đặc, rễ cây vòng vèo quấn quýt, che kín trời đất, như thể chúng tôi đang ngày càng rời xa khỏi vương cung Tây Vương Mẫu chứ không phải đang đến gần vậy. Càng đi về sau, mắt như hoa hết cả lên, chỉ cảm thấy đâu đâu cũng là những dây leo quấn quýt rối rắm màu lục, giống như đang bước đi trong một bát bún râu rồng đã mọc mốc xanh lét vậy.

Tôi đây coi như đã lĩnh ngộ được cái gì gọi là "rừng rậm". Khu rừng ở Sơn Đông với Tần Lĩnh mà tôi từng đi qua, so với nơi này thì đúng là như đi du lịch vậy, ở đấy đi được một ki lô mét, thì ở đây chắc không đến nổi một trăm mét, mỗi bước đi chính là một lần gian khổ. Nhìn gương mặt kiên nghị, đầu đầy mồ hôi của Phan Tử, cũng không biết hồi xưa anh ấy đi chiến tranh đã phải trải qua thế nào.

Cứ cắm đầu tiến lên phía trước như thế, đến khi khu rừng tối đen, hai bên khe núi đều thành tranh rối bóng, chúng tôi vẫn chưa đi xa là mấy.

Trong nhóm cũng không ai nói lời nào, chỉ có tiếng thở dốc và tiếng muỗi vo ve.

Bàn Tử đi đến mức mụ mị cả người, muốn mắc chứng cuồng loạn luôn, thế là đi phía trước hát sơn ca nâng cao tinh thần cho mình, hát bài "Hoa kia vì sao đỏ thắm thế".

"Hoa kia vì sao đỏ thắm thế? Vì sao đỏ thắm thế? Chao ôi hoa thắm tựa như, tựa như lửa hồng thiêu đốt." Anh ta đi mở đường, ở ngay phía trước đội ngũ bọn tôi, anh ta hát đồng thời cũng xốc lại tinh thần cho bọn tôi, chuyện này thì đừng hòng trông cậy vào Muộn Du Bình.

Nhưng mà Bàn Tử hát thật sự là dở quá, hơn nữa, cũng chả phải hát hò nghiêm túc, nghe như là đang gọi hồn ấy.

Phan Tử đi phía sau không nghe nổi nữa, liền chửi, mẹ kiếp chỗ này nóng bỏ mẹ ra, không hát được cái gì mát mát tí à?

Bàn Tử nói ông thì biết gì, đây là bài hát của khách đến thăm vùng núi băng, tôi hát ấy, là để nhớ lại sông băng nơi núi Trường Bạch, ít nhiều thì cũng mát lạnh hơn chớ.

Phan Tử nói, vậy hát Bạch Mao Nữ không được à? Trực tiếp luôn, khỏi liên tưởng.

Bàn Tử nói, đệt mợ ông còn đòi chọn bài nữa, ông tưởng tôi là cái đài radio, muốn nghe gì thì hát nấy à, ông đấy hát cho nghe đã là nể mặt lắm rồi. Bớt ý kiến mẹ đi.

Đang chửi nhau, bỗng bầu trời xuất hiện chớp giật, trên tầng mây ánh chớp lóe, gió nổi lên, trên bầu không xuất hiện những hạt mưa nhỏ.

Chúng tôi đều yên lặng lại, ngẩng đầu nhìn trời, xuyên qua tán cây, mây đen sáng bừng lên, dường như có những tia chớp cùng nhốn nháo trong tầng mây, mây đè nặng xuống đỉnh khe núi. A Ninh thở dài, nói: "Đi đường đêm lại gặp mưa gió, xem ra Tây Vương Mẫu không chào đón chúng ta. Chúng ta đêm nay phải chịu khổ rồi."

Bàn Tử bảo: "Mưa đi mưa đi, tốt nhất là mưa đi, mưa xuống liền mát, oi bức chết đi được, hai trái trứng dưới đũng quần Bàn gia ta cũng bị ấp nở thành gà con rồi."

Chúng tôi nghe được liền cười phá lên, Phan Tử mắng: "Vậy cậu trông coi kỹ gà con của mình nhé, kẻo lát nữa bị sét đánh trúng đấy."

Lời chưa dứt, mưa liền rơi. Mới đầu là vài giọt mưa bắn xuống mặt chúng tôi, không đợi chúng tôi kịp phản ứng, mưa lớn liền ào ào trút xuống, loáng cái dường như toàn bộ khu rừng đều tĩnh lặng hẳn lại, ngàn vạn cây cỏ lăng yên không tiếng động, sau đó, "Oành" một tiếng, toàn bộ khe núi lập tức nghe tiếng nổ vang, nước mưa xuyên qua khe hở giữa các tán cây, quất xuống như roi da, gần như quất chúng tôi ngã sấp xuống luôn.

Chúng tôi không ngờ mưa lại dữ dội đến thế, không kịp đề phòng, cả lũ đều ôm đầu chạy trối chết. May là chúng tôi ở dưới đáy khu rừng rậm, tứ phía có rất nhiều cây đại thụ, tán cây dày đặc kín mít, trên một cây to có một tấm màn che kết từ dây leo quấn quýt lại, A Ninh kêu to, chúng tôi bèn trèo lên cây trú mưa.

Mọi người túm tụm một chỗ, cả lũ đều ướt như chuột lột. Bàn Tử nói, mẹ kiếp chỗ đéo nào cũng mưa, đây chính là Long Vương gia đi đái tồ tồ ở trên đầu chúng ta rồi.

Lúc này có một tiếng chớp lóe lên, chiếu sáng toàn bộ khe núi. Nương theo ánh chớp nhìn về phía trước, trên một vách đá, nước mưa đã tụ lại thành một thác nước lớn trút xuống ào ào, trong đêm đen rừng mưa quay cuồng, hai bên là hai màn nước khổng lồ trút xuống, thật giống như cảnh tượng Moses tách biển, hùng tráng dị thường.

Mà ở bên dưới khe núi, nước mưa trút xuống hình thành vô số những dòng suối nhỏ, bắt đầu tụ lại vào nhau, rất nhanh, chúng sẽ tụ thành một con sống, chảy xuống đầm lầy dưới hạ lưu.

Chứng kiến cảnh tượng như vậy, tôi bỗng hiểu ra nguyên nhân hình thành ốc đảo này: nơi này là điểm trũng thấp nhất trong bồn địa Sài Đạt Mộc, tất cả nước ngầm và nước mưa đều tụ hội tại nơi này. Có thể nói, nơi đây chính là trung tâm của mạch nước ngầm của toàn bộ Sài Đạt Mộc, lòng sông khô cạn của Sài Đạt Mộc có lẽ không thực sự cạn khô, mà là chuyển sang chảy ngầm đến nơi này. Vì thế, dù là mấy ngàn năm sau khí hậu biến đổi đến thế nào, vùng bồn địa xung quanh dù từ rừng rậm biến thành sa mạc như thế nào, nơi đây vẫn giữ nguyên dáng vẻ cây cối sum suê từ năm ngàn năm trước.

"Tàng phong tụ thủy mà không động", cái gọi là đất quý phong thủy, không phải chính là vùng đất ngàn năm không biến đổi đấy ư? Đây là nơi có cung Tây Vương Mẫu, quả nhiên là vùng đất có bảo nhãn của long mạch tổ tông của cả hệ thống núi Côn Lôn. Kỳ cảnh như thế này, cũng chỉ xuất hiện ở nơi như thế này.

Đang cảm khái, Bàn Tử lại không an phận, cái mông to bự của anh ta cứ lấn tới lấn lui. Không gian trên cái cây này vốn không rộng, anh ta khẽ động một cái là tất cả mọi người đều không dễ chịu gì, Phan Tử liền mắng: "Thằng ranh này làm cái chó gì thế, ngứa da à?"

Bàn Tử cau mày, nói: "Không biết làm sao, mông của ông đây tự dưng ngứa muốn chết được." Nói xong lại tiếp tục xê dịch cái mông, cọ cọ lên cành cây.

Tôi nghĩ bụng, tên này lắm chuyện quá, vừa định nói anh ta vài câu, bỗng nhiên mông mình cũng thấy ngứa ngáy, loáng cái thành ngứa đến khó nhịn, cứ như có gì đó đang bò bò dưới ấy vậy. Tôi vội co chân lên định thò tay xuống gãi, thò tay xuống mới cảm thấy không ổn, liền nhảy dựng lên: "Sâu!"

Cả lũ liền đứng hết dậy. Tôi gãi mông sồn sột, nhìn xuống cái thân cây khô chúng tôi vừa tựa vào, vừa nhìn cả mặt tái mét. Chỉ thấy trên thân cây đầy những con sâu mọt chi chít, to chừng nửa cái móng tay ngón út, hình như là bò ra từ khe hở trên thân cây, trên đùi và mông bọn tôi toàn sâu là sâu, phủi không hết được.

"Đệt mẹ!!" Bàn Tử chửi toáng lên, mọi người đều giẫm chân bình bịch. Nhưng giẫm chân cũng không có tác dụng gì, những con sâu này vốn không sợ người, cứ như là coi bọn tôi là cây ấy, không chút do dự bò hết lên người bọn tôi, may mà chúng tôi đã thắt chặt ống quần, chúng không bò vào trong được. Thế nhưng mông tôi với Bàn Tử gặp tai ương rồi, chúng tôi đành phải chạy ra giữa mưa, để nước mưa ngấm vào mông mình. Nước mưa lạnh lẽo ngấm vào trong quần, tôi mới cảm thấy bớt ngứa một chút, chỉ là sau khi xong ngứa, chỗ mông vốn ngứa lại cảm thấy đau, tôi thầm chửi đổng, nghĩ không phải là có độc đấy chứ. Lúc này, những người khác cũng đã chạy thoát, loáng cái nước mưa trút ào ào lên người chúng tôi, chúng tôi muốn nói cũng không nói nổi.

Chúng tôi trèo lên một cành cây khác, trèo lên trên cây, ở đó có một góc chết nơi mấy cành nhánh cây đan xen dày đặc nước mưa rớt xuống ít, thế nhưng lại không đủ chỗ cho cả năm người chui vào. Cuối cùng A Ninh và tôi được bọn họ đẩy vào, người khác dùng vải chống thấm che đầu, coi như nước mưa miễn cưỡng không đổ xuống đầu.

Phan Tử nói: "Mẹ kiếp, vừa nãy là sâu bọ gì thế?"

A Ninh phủi nước trên tóc, rồi vỗ vỗ ngọn đèn mỏ ánh sáng đã tối tối, cuối cùng cũng làm nó sáng lên được, sau đó cô ta chiếu đèn lên ống quần mình, dùng móng tay út gẩy con sâu đã chết dính trên đùi mình, đưa ra soi trước ánh đèn.

Đó là con sâu nhỏ trông giống nhện vậy, lại có hơi giống như con bò cạp con không có đuôi. Tay A Ninh hơi run run, cho nên tôi không nhìn thấy rõ lắm, mông tôi lại nhói đau, tôi bèn hỏi: Đấy là gì thế, có độc hay không. Lại thấy A Ninh cau mày lại. Trong lòng tôi hốt hoảng, còn chưa kịp nói thôi toi rồi, A Ninh bèn thuận tay rút con dao bên hông Phan Tử ra, nói với tôi: "Xoay người qua đây, mau cởi quần ra!"

Chương 59. Bí mật dưới lớp rêu xanh
Editor: EarlPanda...*****.

Nói rồi, A Ninh túm lấy dây lưng quần của tôi, tôi liền cuống cả lên, không biết cô nàng muốn làm gì, vội vàng che quần, rụt người lại: "Cô muốn làm gì?"

A Ninh nói: "Lũ sâu này là một loại ve rận, bị nó cắn rồi thì phiền phức lắm. Anh với Bàn Tử đều bị cắn rồi, nếu không muốn sau này phải nằm sấp mà ngủ thì mau cởi quần ra, kẻo tí nữa nó bò vào đũng quần thì đời này anh tiêu luôn rồi!"

Tôi vừa nghe vậy, liền cảm thấy đúng là ở chỗ nhạy cảm ấy ấy có hơi ngứa ngứa, nhưng dù thế nào cũng không thể để A Ninh xử lý giùm tôi được, tôi vẫn sống chết giữ chặt quần mình, nói với A Ninh: "Vậy cô đưa dao cho tôi, tự tôi đi xử lý!"

"Tự anh làm sao mà nhìn thấy mông mình được?" A Ninh nói.

Tôi nghĩ bụng, thì dù có thế cũng không thể cho cô nhìn được! Lúc này, Bàn Tử ở bên cạnh vừa gãi mông sồn sột vừa gào lên: "Đừng cãi nhau nữa!", nói đoạn giựt lấy con dao trong tay A Ninh, bảo tôi: "Bà thím này nói đúng đấy, ve rận rất phiền phức, hai đứa mình qua bên kia, giúp nhau xử lý là được."

"Anh có biết làm không đấy?" A Ninh hỏi.

"Chẳng phải chỉ cần hơ nóng dao là được à? Ông đây dù gì cũng từng được phân về nông thôn, từng chăn bao nhiêu dê bò, điểm ấy mà còn không biết. Mấy người cũng tự kiểm tra mình đi, cô này da mềm thịt non, mời gọi bọn ve rận này nhất đấy."

Nói rồi anh ta chỉ về phía cành cây bên kia, bảo tôi đến đó. Ở đấy mưa cũng không quá lớn, nhưng cành cây ở đó hình như không chắc chắn cho lắm, nhưng bây giờ không lo được nhiều vậy.

Trèo đến đó xong, quay đầu nhìn bọn A Ninh hình như không thấy bên này được, mặt Bàn Tử mới biến đổi, run rẩy cởi phắt quần ra, nói với tôi: "Mau mau mau, không ông bị cắn cho tàn phế bây giờ!"

Tôi treo ngọn đèn mỏ lên một cành cây, vừa nhìn liền choáng váng, ôi cái đệt, chỉ thấy khắp đùi và mông anh ta toàn là những cục máu to như hột đậu, có cục còn to bằng cỡ hột đậu tằm, nhìn kỹ lại, mới thấy tất cả những cục máu này đều là những cái bụng hút no máu của mấy con rận nhỏ vừa nãy, trương phình đến trong suốt rồi.

"Anh làm sao mà thế này!" Tôi đột nhiên mắc ói, che miệng mình lại: "Thế này cũng quá kinh rồi, sao mà nhiều con bò vào trong thế chứ?"

"Quần này chật quá, ông đây từ lúc vận chuyển đá ở trong thành ma đã rách toác ra rồi!" Anh ta giũ giũ quần: "Rách toạc một khe lớn, đéo mẹ lúc ấy còn nói rách ra càng mát, thế là chẳng thèm xử lý, đến khi vào trong rừng liền quên béng mất, đúng là nghiệp chướng – cậu nhanh tí coi! Lũ rận này có thể liên tục hút máu suốt ba ngày, hút đến gấp sáu gấp bảy thể tích của mình, chỉ cần ba mươi còn là hút sạch máu một con thỏ rồi, ông đây đã thiếu máu, không chịu nổi giày vò đâu."

Tôi cầm dao, chỉ cảm thấy dạ dày sôi sùng sục, không biết phải cắt làm sao, lóng ngóng nửa ngày trời bèn nghĩ muốn thò tay vào nặn ra. Bàn Tử bèn co rụt cái mông mà né tránh, nói: "Tuyệt đối đừng có kéo ra, nó là cắn vào trong thịt, đầu găm vào trong da mà hút, cậu kéo một cái là đầu nó đứt ở trong, giống bọn sâu tuyết ấy, cứ làm như tôi nãy bảo, lấy lửa hơ lưỡi dao rồi chà nó!"

Tôi gật đầu, ngay cả cơn ngứa của mình cũng quên mất, tôi run run móc bật lửa ra, hơ lưỡi dao đến nóng đỏ, sau đó dí xuống từng con từng con ve rận hút no máu to như quả khí cầu, lũ rận sợ nóng, dí vào gần một chút liền rút đầu ra, tôi liền gảy nó ra, dùng cán dao đập chết, đập một cái tét ra một bọc máu lớn. Mỗi lần hơ một con, Bàn Tử đau gần chết, sau đó, tôi thấy chân anh ta mềm nhũn, tay tôi cũng mềm nhũn.

Làm đủ nửa giờ, mưa cũng nhỏ dần đi, tôi mới làm sạch được đùi và mông Bàn Tử. Phan Tử kiểm tra bản thân xong cũng qua giúp đỡ, nhưng anh ấy vừa qua đây cành cây liền rung bần bật, cho nên đành thôi, anh ấy bảo chúng tôi làm xong nhất định phải sát trùng đấy, không thì dễ mắc sốt rét lắm.

Làm xoa, thoa nước sát trùng cho Bàn Tử, tôi mới gắng gượng cởi quần cho Bàn Tử xử lý. Nói thật, trong cái tình cảnh này, phải đứng tấn xuống cho người khác nhìn ngắm mông đít mình thật đúng là không chịu nổi, nhưng chẳng còn cách nào khác. Có điều, tình trạng bị cắn của tôi vẫn đỡ, hơn mười phút sau là xử lý xong rồi, kiểm tra lần cuối thấy quả thực không còn sót một con nào nữa mới coi như thở phào nhẹ nhõm.

Mặc quần vào, chúng tôi trèo về chỗ mọi người, hai người lúng túng cười cười, Phan Tử hỏi bọn tôi sao rồi, tôi gật đầu nói vẫn tốt, nhìn chung không bị sót. Rồi tôi hỏi bọn họ có bị cắn hay không.

Phan Tử và A Ninh chỉ bị cắn mấy phát trên cánh tay, Muộn Du Bình thì một vết cũng chẳng có. "Khứu giác của ve rận rất nhạy cảm, có thể ngửi được nhóm máu của mấy người, xem ra hai anh khá là ngon miệng đấy." A Ninh giải thích.

Tôi nhớ lại chuyện vừa rồi, cảm thấy hơi xấu hổ, bèn nói lảng sang chuyện khác, hỏi: "Sao ở đây có nhiều rận thế? Cái thứ này không phải ẩn nấp trong cỏ sao? Sao lại tụ tập ở trên cây này vậy, lẽ nào chúng nó cũng hút nhựa cây?"

Lũ côn trùng hút máu thường núp trong cỏ, bởi vì nơi này có xác suất động vật đi qua rất cao, chứ ở trên cây thì thường không có.

A Ninh lắc đầu, ý là cũng không hiểu: "Có điều, ở đây có loài ve rận này, về sau chúng ta phải cẩn thận, lũ này là loài ve rận đáng ghét nhất, mấy loài khác như muỗi, đỉa vân vân rất ít khi giết chết vật chủ, duy chỉ có lũ rận này là có thể hút khô máu của vật chủ. Lần trước tôi công tác một hạng mục ở Châu Phi, liền nhìn thấy một con hươu cao cổ chết trong tay lũ rận này, trên xác toàn là nhọt máu, kinh khủng cực kỳ. Chúng ta vừa đến gần là tất cả lũ ve rận này đều xông về phía mình, đông nghìn nghịt, giống như một cái bóng trên mặt đất đang di chuyển ấy, người dẫn đường hồi đó sợ chết khiếp liền dùng bình chữa cháy trên xe ngăn chúng nó lại, sau đó phóng xe chạy điên cuồng."

Tôi nhớ đến cái mông của Bàn Tử, lại nghĩ đến tình cảnh mà A Ninh nói, không khỏi không rét mà run.

Đang nói chuyện, tôi bỗng phát hiện ra thiếu mất một người, vừa nhận ra, Muộn Du Bình không thấy đâu rồi.

Hỏi hắn ta ở đâu? A Ninh liền hất cằm chỉ xuống dưới, tôi liền thấy không biết từ bao giờ Muộn Du Bình đã trèo xuống chỗ màn cây che mà chúng tôi vừa tránh mưa lúc nãy, bật đèn mỏ lên soi, không biết là đang nhìn cái gì.

Tôi lấy làm lạ, hỏi A Ninh: "Hắn xuống dưới đó làm gì thế?"

"Không biết." A Ninh vẻ mặt phức tạp nhìn ánh đèn mỏ phía dưới, "Không thèm rên một tiếng đã xuống rồi, hỏi anh ta anh ta cứ lờ đi, tôi không hiểu nổi người bạn này của anh."

Tôi thở dài, kể từ lần nói chuyện kia trong thành ma, Muộn Du Bình càng lúc càng ít nói, thậm chí gần đây mặt hắn cũng đông cứng lại rồi, một chút biểu cảm cũng không có, chẳng biết trong đầu người này rốt cuộc là suy nghĩ cái gì, có lẽ hắn đúng là như lời hắn nói: trong thế giới của hắn, vẫn luôn chỉ có mình hắn, cho nên hắn vốn không có bất cứ cái gì cần phải biểu lộ ra.

Nhìn ngọn đèn phía dưới kia, có lẽ là đang treo trên cành cây, bị gió thổi đung đưa qua lại, tôi có hơi lo lắng không biết hắn ta có bị ngã không, rồi ngay lập tức lại nghĩ thằng ranh con này vốn nghề nghiệp chính là chuyên gia mất tích, có khi nào hắn thừa cơ hội này một mình chạy biến mất?

Bọn A Ninh không có kinh nghiệm, đây thật là khó tin... Tôi nhìn ngọn đèn đung đưa phía dưới, không nhìn thấy rõ lắm rốt cuộc có phải là hắn ta ở dưới đó hay không.

Nghĩ đến đây, tôi liền không yên tâm, bèn bật đèn mỏ, nói với A Ninh rằng tôi phải xuống xem chút. Sau đó đội mưa to, ôm lấy thân cậy, cẩn thận tuột xuống dưới từng đoạn một.

Leo xuống bên cạnh ngọn đèn mỏ phía dưới, tôi nhìn xung quanh một lượt, trong lòng tức thì rét lạnh.

Đúng là không có ai!

Bên dưới tán cây cối chúng tôi vừa tránh mưa ban nãy, trống huếch trống hoác, nào đâu cái bóng của Muộn Du Bình!

"Chó chết!" Tôi thầm chửi một tiếng: "Chẳng lẽ chuồn thật rồi!" tôi liền tức giận đến nỗi không kìm nổi. Người này bị làm sao thế, Bàn Tử làm chuyện xấu còn biết đánh tiếng, cái kẻ này vốn không coi chúng tôi có tồn tại, thật là quá đáng.

Lửa giận bừng bừng, đang định réo bọn Bàn Tử xuống bàn đối sách, bỗng tất cả các cành cây rung động một cái, Muộn Du Bình từ trong bóng tối ở trên vòm cây cối kia ló ra, dọa tôi giật thót mình một phen. Tôi ngẩng đầu nhìn lên, hóa ra hắn đứng ở trên đỉnh vòm cây này, không biết đang nhìn ngó cái gì.

Sợ bóng gió một trận, tôi không khỏi thở phào một cái thật dài. Hắn thấy tôi cũng leo xuống, hơi ngẩn người một chốc, rồi ngoắc tôi lại gần.

Tôi trèo lên, thấy trên cành cây, các loài dây leo, dương xỉ ký sinh quấn quýt xoắn bện vào nhau, bên ngoài vòm cây mọc đầy rêu xanh, đã bị hắn ta dùng dao cắt bớt. Rêu bị cạo bớt, phần lớn dây leo ở trong bị chặt đứt, để lộ ra thứ bị bao bọc bên trong. Trong làn nước mưa có thể nhìn thấy cả đống ve rận lao xuống nước đọng trong đống dây leo này.

Tôi không biết Muộn Du Bình muốn tìm cái gì trong đống này, chỉ biết ở đó bốc lên một mùi rất khó ngửi. Đang muốn đến sát gần để nhìn, Muộn Du Bình lại dùng sức bới một đống dây leo đã chết khô ra, ngay tức khắc, tôi chỉ cảm thấy trước mắt cay xè, từ trong cái hố bị vạch ra kia ào ào tuồn ra một đống ve rận.

Tôi sợ quá vội lùi về sau, suýt nữa ngã lộn cổ từ trên cây xuống, may mà mưa to, lũ ve rận này loáng cái bị nước mưa rào rào rửa trôi mất. Tôi vịn lấy cành cây bên cạnh, bịt mũi lại tiến đến gần lần nữa, liền nhìn thấy thứ bị quấn quanh trong đống che phủ này.

Đó là một đống hài cốt động vật được bọc trong da lông đã hư thối, da rữa nát thành màu đen, không biết là động vật gì. Muộn Du Bình dùng dao găm xọc vào đống da lông, quấy lên một chút, phát hiện hài cốt này đã rữa nát hết, bên trong da là xương cốt, đám dây leo này mọc xuyên vào trong cơ thể nó, quấn lấy xương cốt nó, khiến hài cốt và cây cối xoắn bện vào nhau rất chặt. Bên trên phủ đầy rêu xanh, cho nên chúng tôi mới tưởng nó là một đống thực vật mọc quấn vào nhau ở trên cây như bình thường, mới đứng dưới trú mưa.

"Không biết là động vật gì, to quá, chắc là bị mấy con rận này hút máu xong nhiễm bệnh mà chết, trước khi chết nằm bò trên cây, kết quả khiến tất cả đống rận xung quanh ùn ùn kéo tới, bị hút kiệt máu, sau đó bọn rận bèn nghỉ lại trên cái xác, chờ vật hi sinh kế tiếp." Muộn Du Bình cau mày nói với tôi.

Tôi nghe mà nhớ đến vừa nãy chúng tôi còn trú mưa dưới này, liền cảm thấy buồn nôn, nói với Muộn Du Bình: "Lũ ve rận này lợi hại đến thế à? Cái xác này rữa nát hết rồi, thế mà chúng vẫn chưa chết?"

Muộn Du Bình lắc đầu, đại khái ý là không biết, rồi lại cúi đầu nhìn bộ hài cốt này, không biết nghĩ đến cái gì, đột nhiên rút thanh Hắc kim cổ đao của hắn ra, rạch một vết trên chính tay mình, dùng sức nặn vết thương ra, máu chảy ra từ bàn tay hắn, sau đó, hắn nắm lấy tay áo của tôi, bôi máu lên đó.

Tôi sửng sốt, còn chưa ý thức được hắn làm vậy là có ý gì, đột nhiên hắn phủ phục xuống, ngón tay dài đến lạ thường vươn ra, vói bàn tay đầy máu vào bộ hài cốt dưới lớp dây leo.

Tức thì, vô số ve rận đua nhau trào ra như thủy triều, tôi sợ đến mức kêu ầm lên, nhanh như chớp, tay hắn lôi ra được từ trong đống hài cốt một vật gì đó.

Chương 60. Xương rắn
Editor: EarlPanda...*****.

Nếu như lúc hắn động thủ có một tia do dự nào đấy, như vậy tôi còn có thể chuẩn bị tâm lý, chí ít cũng sẽ không hét ầm lên, thế nhưng cái tên này làm việc quá ác liệt rồi, một đống xương cốt kinh tởm như thế, nhiều ve rận như thế, vậy mà hắn có thể thọc tay vào mà mặt không đổi sắc, đổi lại là ai cũng trở tay không kịp. Cũng may tên này vẫn còn có lương tâm, bôi máu lên tay áo tôi, chứ không lúc này tôi đúng là bị hắn hại chết rồi.

Bình tĩnh lại một chút, phát hiện trong một chớp mắt, lũ rận khắp xung quanh đã không còn một con nào, tôi vừa khiếp sợ uy lực của hắn, lại vừa cảm thấy buồn bực.

Lúc ở Tần Lĩnh và trên núi tuyết, lâu nay tôi vẫn cảm giác máu của mình cũng có năng lực này, không biết vì sao hình như lại không có tác dụng đối với lũ ve rận ở đây, lẽ nào máu của tôi với máu của Muộn Du Bình có khác nhau à? Hay máu tôi hỏa hầu còn chưa đủ?

Muộn Du Bình lấy vật mà hắn vừa kẹp ra từ trong đống xương giơ ra trước ánh đèn mỏ, cẩn thận xem xét. Tôi lại gần, liền phát hiện ra đó là một vật màu xanh biếc to chừng bằng quả đấm. Muộn Du Bình giơ tay ra chỗ mưa rơi, để mưa xối một lúc, rồi cầm trở về, tôi kinh ngạc phát hiện, thứ này tôi đã nhìn thấy rồi, đó là một chiếc đèn pin bằng đồng kiểu cũ đã bị móp méo.

Nhìn sơ qua, tôi liền biết vật này là đồ của những năm 80 sau cải cách mở cửa, lớp vỏ đồng đã rỉ sét xanh lè hết cả, mở nắp ra nhìn, cục pin bên trong đã nát rữa trông như một đống cháo Bát bảo mốc meo vậy.

Sự ngờ vực trong lòng tôi dâng lên đến cực điểm, loại vật này sao lại xuất hiện ở đây – trong đống xương cốt động vật này? Lẽ nào đây lại là hài cốt của người?

Đang suy nghĩ, Muộn Du Bình lại thọc tay vào trong đống hài cốt, lúc này thì không có con rận nào bò ra nữa. Hắn nhắm mắt lại sờ sờ nắn nắn, rất nhanh liền chộp được thứ gì đó, hơn nữa thứ đó hình như còn rất to, phải dùng đến tay còn lại cùng kéo ra, mới móc thứ đó lên được.

Tôi vừa nhìn cổ họng liền nghẹn lại, đó chính là một đoạn xương cánh tay của người, đã mục nát đầy lỗ thủng, bên trong toàn là chất bẩn đen sì không biết là cái gì thối rữa.

"Đây..." Tôi nhất thời không biết nói gì.

"Đây là một con trăn đại thụ, ăn thịt một người. Đèn pin này là trên người kẻ đó." Muộn Du Bình mặt không đổi sắc nói, "Hơn nữa, là phụ nữ."

Tôi thấy trên xương tay này còn dính một chuỗi hình như là đồ trang sức, biết Muộn Du Bình nói không sai, trong lòng dấy lên một cảm giác khác thường. Tôi lập tức hưng phấn, nghĩ đến rất nhiều chuyện.

Ốc đảo này địa hình kỳ lạ, chỉ sau khi mưa to, sông ngầm Alcaraza mới nổi lên trên, lúc ấy mới có thể nhìn thấy. Mà ở bồn địa Sài Đạt Mộc, mưa là chuyện không tưởng, nếu có công nhân dầu mỏ hoặc đội thám hiểm vừa khéo phát hiện ra nơi đây lúc trời mưa, sau đó xông vào, bị trăn lớn nuốt chửng, chuyện này mặc dù có khả năng xảy ra, thế nhưng xác suất không lớn. Một khả năng khác thì làm tôi sởn cả gai ốc. Xác chết trong bụng trăn đây, phải chăng là một thành viên trong đội ngũ của Văn Cẩm năm xưa?

Dù sao, Vân Cẩm năm đó đến phút cuối cùng lại từ bỏ cơ hội tiến vào cung Tây Vương Mẫu mà trở về, đội ngũ khác tiến vào di chỉ cung Tây Vương Mẫu cuối cùng ra sao, ngay cả cô ấy cũng không biết.

Muộn Du Bình chắc chắn cũng nghĩ đến điểm này, ngước lên nhìn bọn A Ninh phía trên, rồi nói với tôi: "Lên gọi bọn họ xuống giúp, đào bộ xương rắn này lên, xem bên trong rốt cuộc là ai?"

Tôi ừ một tiếng, bèn xoay người trèo lên mấy bước, vừa trèo vừa gọi đám người bên trên. Bấy giờ liền thấy Bàn Tử đã trèo xuống, nghe tiếng tôi gọi, bèn vội vã bước nhanh đến, nhảy xuống đến bên cạnh tôi, hỏi tôi sao thế?

Tôi nói có phát hiện lớn, rồi lại gọi hai tiếng với Phan Tử và A Ninh, gọi hai người bọn họ cũng xuống.

Có mấy người đi đến bên cạnh bộ xương rắn, tôi liền đem chuyện chúng tôi phát hiện nói với bọn họ một lượt, lập tức cả đám người liền hiếu kỳ. A Ninh lập tức căng thẳng, lập tức qua xem, Bàn Tử liền nói: "Chẳng trách lúc nãy ta cứ thấy như có người đang kêu gọi, hóa ra chúng ta còn có một vị tiền bối cách mạng hi sinh chốn này, thật trùng hợp, mau mau đào lên cung kính ngắm nhìn cái coi."

Bấy giờ, mưa đã có xu hướng nhẹ bớt, tuy rằng vẫn không nhỏ, nhưng không dữ dội như quất roi nước như lúc trước, thực ra người chúng tôi đã ướt hết sạch rồi, giờ cũng chẳng ngại gì nữa. Nhưng thật ra, tôi vẫn cẩn thận che chắn bảo vệ cho ống tay áo dính máu Muộn Du Bình, con đường sau này, có thứ này có thể cứu mạng tôi.

Chúng tôi leo lên trên tấm màn thực vật khổng lồ này, lúc nãy có mỗi hai người thì còn được, chứ bây giờ nhiều người quá, thứ này không chống đỡ được, Bàn Tử với tôi chỉ có thể đạp chân lên một cành cây khác ở bên cạnh, để thứ này không bị sụp xuống. Chúng tôi dùng dao găm chặt bớt mấy dây leo chết khô ở trong đi, vạch bộ xác rắn ở bên trong ra ngoài.

Nếu là trời trong thì có lẽ đào nó lên dễ dàng hơn, nhưng đây là dưới trận mưa to tầm tã, cúi đầu một cái là nước mưa liền theo tóc mái chảy xuống, mắt không nhìn rõ lắm, chúng tôi thỉnh thoảng cứ phải hất nước trên tóc ra, mới có thể nhìn thấy rõ được thứ bên dưới.

Có điều, nhiều người không phải là tốt, nhất là Bàn Tử, từng nhát dao hạ xuống dứt khoát dứt điểm, không chút nào mảy may nghĩ đến việc liệu có lỡ chém hỏng mất di cốt tiền bối cách mạng nhà anh ta hay không.

Chẳng mấy chốc, đám dây leo đã bị đào ra một lỗ hổng, một đoạn xương rắn rất lớn lộ ra ngoài, Bàn Tử chửi một tiếng, tôi cũng có hơi kinh ngạc, bởi vì mới ban nãy nói là rắn, tôi cũng không ý thức được là rắn lớn đến mức ấy. Xem đường kính con rắn này, con rắn này có lẽ còn to bằng cả một thân người vậy, rắn lớn như thế, nuốt chửng một người có khi còn chưa đến một phút.

Kéo giựt hết xuống, trong đống xương rắn bao quanh, chúng tôi liền thấy phần còn lại của một bộ xương người vặn vẹo móp méo.  Có lẽ con trăn này sau khi nuốt người này không lâu thì chết, chứ không xương cốt sẽ bị nhả ra ngoài rồi. Trên bộ hài cốt còn có lớp quần áo còn chưa mục nát hết, nhưng đã hoàn toàn không còn nhìn ra được kiểu dáng hồi đó là như thế nào nữa. Phan Tử học dáng vẻ Muộn Du Bình, kẹp từ trong ra một món đồ khác, đó là một chiếc dây lưng, chỉ lốm đốm mấy vết gỉ, hình như là inox.

Anh ấy lôi ra, dùng dao cạo cạo, sau đó đưa tôi. Cả bọn lại gần, tôi liền thấy trên mặt dây lưng khắc mấy chữ số: 02200059.

Tôi kinh hãi, lập tức quay sang nhìn A Ninh: "Là số hiệu đăng ký của công ty cô, là người của mấy người!"

02200059, dãy số này, theo lời A Ninh nói, là một dãy số thần bí ẩn hàm trong một mảnh sách lụa Chiến Quốc, Uổng Tàng Hải muốn phá giải nó, nhưng nghĩ suy trăm mối mà vẫn không hiểu nổi, vì vậy mới gọi là "dãy số của trời", mới đem đặt làm mật mã của mình. Vì sao Thiết Diện Sinh lại đem giấu một dãy số kỳ quái trong phần sách lụa cuối cùng, đằng sau có kỳ ngộ gì? Chuyện này có lẽ có ẩn tình, nhưng không liên quan đến sự việc chúng tôi hiện giờ đang gặp đây, ở đây sẽ không nói nhiều nữa. Mà ông chủ nhà truyền giáo Cầu Đức Khảo của A Ninh cực kỳ mê say với Uông Tàng Hải, bởi vì lẽ đó, mới đem dãy số này làm mã số biểu tượng cho tài nguyên công ty của chính mình. Trên trang bị, trên xe của đội A Ninh đều có mã số này, biểu tượng của loại công ty này trong các hoạt động thám hiểm quốc tế, chắc chắn rất quan trọng trong việc tìm người, bây giờ trên dây lưng tôi cũng có một dãy số. Có thể nói thế này, mặt dây lưng này là chứng cớ cho thấy người chết đích thị là thuộc đội ngũ của A Ninh.

A Ninh mới đầu không hiểu tôi nói vậy nghĩa là sao, bèn nhận lấy xem kỹ, vừa nhìn, mặt liền trắng bệch, "Đây..."

"Là dãy số biểu tượng của công ty cô đúng không?" Tôi hỏi.

A Ninh gật đầu, lại vẫn chưa hiểu rõ lắm, bèn không thèm để ý chỗ này đã lắc lư sắp đổ, nhảy phứt lên chỗ khe hở chúng tôi đã đào ra, ngồi xổm xuống dùng đèn mỏ soi sáng bộ hài cốt. Những người khác không hiểu tôi đang nói gì, Bàn Tử hỏi dãy số biểu tượng là cái gì, tôi bèn thuật lại một lượt những lời A Ninh đã nói với tôi.

Bàn Tử nghe xong liền nhìn dây lưng của mình, nhưng dây thắt lưng của anh ta với Phan Tử đều là của chính bọn họ, trang bị của tôi mới là của A Ninh, cho nên chỉ có dây lưng của tôi mới có đánh dấu này. Bàn Tử xem xong, vẻ mặt rất không vui, quay đầu hỏi A Ninh: "Này, tôi nói này cô Ninh, mẹ kiếp có phải nhà cô lại bịp bọn tôi không? Người của cô đã sớm đến chỗ này trước rồi!"

A Ninh lắc đầu: "Không thể nào, trong công ty hoàn toàn không có ghi chép gì cả, nếu chúng tôi tới được đây, vậy với thực lực đó, chắc chắn không có chuyện chúng tôi đi hợp tác với mấy người đâu."

"Vậy cô giải thích sao đây?" Bàn Tử giơ cái mặt khóa thắt lưng lên hỏi.

A Ninh quay đầu, lạnh lùng nhìn anh ta một cái, hiển nhiên trong lòng cũng khó chịu, nói: "Tôi không biết! Anh im lặng một chút, để tôi xem người chết này đã, rồi sẽ giải thích cho anh sau!"

Bàn Tử bị A Ninh quát mà không nói nên lời, lập tức nhen nhóm lửa giận. Phan Tử cũng không tin A Ninh, lúc này anh quay sang nhìn tôi, xem phản ứng của tôi thế nào.

Nhưng tôi thật ra thì lại tin cô ta hoàn toàn không biết thật, tuy rằng A Ninh đã có tiền án trước đây, nhưng bây giờ không phải thời điểm nguy hiểm gì, cô ta chắc không đến nỗi lừa gạt chúng tôi. Với cả, nếu như bọn họ thực sự đã tới đây, thì quả thực đúng như lời cô ta nói, đội ngũ của cô ta sẽ không tan rã khi còn chưa đến được đây như vậy. Vì vậy, tôi nháy mắt với Phan Tử ý bảo đừng lên tiếng, tôi vẫn khá là chủ nghĩa lý tưởng, nếu mọi người đã cùng bước đi trên một con đường, thì không nên khiến mối quan hệ trở nên quá căng thẳng.

Tôi lại liếc Muộn Du Bình, muốn xem phản ứng của hắn, nhưng hắn không có tỏ vẻ gì cả.

Lúc này, không hiểu sao, tôi lại nhớ đến một câu mà bà nội đã viết trong cuốn sổ của ông nội tôi: "Người kề vai với mình trong lúc nguy nan, không nhất thiết sẽ là người cùng mình hưởng phú quý, mà người phản bội mình trong lúc nguy nan, cũng không nhất thiết không thể làm bạn, thế sự vô thường, vợ chồng cùng cố gắng."

Đây là một câu viết trong cuốn sổ tay, hình như là có ý khuyên ông nội tôi bớt qua lại với đám anh em giang hồ ngày xưa đi.

Về sau cũng đã chứng minh mắt nhìn thấu người của bà nội tôi. Tuy rằng những người này đã từng cùng nhau lên rừng xuống biển, đổ đấu đãi cát, có sinh tử chi giao với ông nội tôi, thế nhưng về sau lúc giàu sang, đa phần thực sự tan vỡ, người này với người kia mâu thuẫn, người này chơi vợ của người kia, đánh giết có hết, khiến cho ông nội tôi hai bên không biết bên nào tốt. Cuối cùng ông cảm thán nói, trong xã hội này, không có sinh tử chi ưu, người anh em ta từng lưng tựa lưng mà bảo vệ cũng có thể biến thành không quan trọng như thế.

A Ninh với Muộn Du Bình, hai người này đúng là ứng với lời bà tôi nói.

Bàn Tử còn muốn lên tiếng, tôi liền đi ra giảng hòa, bảo bọn họ đừng hỏi nữa, để đi xem lại bộ hài cốt kia đã,

Trong đống xương rắn dây leo quấn quýt, xác người bị vặn xoắn thành hình cái bánh quai chèo, rất khó để nhận ra là gì, A Ninh thọc tay vào đống hài cốt, lục tìm cái gì đó ở phần cổ cái xác, nhưng hiển nhiên là không có.

"Không có thẻ tên!" A Ninh lại không có phát hiện gì, bèn trèo lên, tháo sợi dây chuyền trên cổ mình xuống, đưa bọn tôi xem, "Tôi vào công ty từ năm 1997, từ năm đó đến nay chúng tôi đi làm hạng mục nào cũng phải đeo thứ này, học theo quân đội Mỹ, để còn biết được thân phận của xác chết. Cái xác này lại không có, chắc là đội ngũ từ trước năm 1997, xem ra đúng là người của công ty bọn tôi rồi..." Vẻ mặt của cô ta rất nghiêm tục, hơi dừng lại rồi nói: "Tôi quả thực không thấy bất cứ tư liệu gì về đội ngũ này trong công ty, tôi không biết vì sao cô ấy lại ở đây! Điều này thực không hợp logic."

"Thưa cô, nhưng xác chết không biết nói dối đâu, không phải cô định nói con trăn này bơi đến chỗ công ty cô, quắp một người rồi đem về đấy chứ?" Bàn Tử hậm hực nói.

Tôi nhìn bộ hài cốt, nghi hoặc trong lòng cũng lên đến cực điểm, đây quả thực là không có khả năng, xem hành động của A Ninh thì biết, bọn họ vì muốn lấy được những đầu mối xác thực ở nơi này mà đã làm không biết bao nhiêu việc, nếu như từ trước năm 1997 công ty bọn họ đã có nhóm người đến được đây, như vậy bọn họ cần gì phải tốn nhiều tinh lực mới đến được đây lần nữa như thế.

Đang nghĩ ngợi, Muộn Du Bình vẫn nhìn xác chết suốt, không hề nghe chúng tôi tranh luận, hắn ta bỗng "Hả" lên một tiếng.

Hắn đột nhiên cất tiếng, chúng tôi đều sửng sốt, cả lũ quay ra nhìn hắn. Hắn nhìn chằm chằm bộ xương rắn, không biết từ bao giờ lộ ra vẻ mặt kinh ngạc.

Trong đầu tôi nổ bùm một cái, phải biết rằng, để hắn lộ ra vẻ mặt này không phải dễ dàng gì, hắn nhất định là đã phát hiện ra sự việc gì cực kỳ quái gở, chúng tôi bèn vội vàng tới gần xem chuyện gì xảy ra thế.

Nhưng theo ánh mắt của hắn mà nhìn, chúng tôi lại không thấy có điểm gì khác thường để mà cảm thấy quái gở. Nhìn mãi một hồi, Bàn Tử bèn ngẩng đầu hỏi hắn sao thế, đêm hôm đừng có đi dọa người chứ.

Muộn Du Bình không để ý đến Bàn Tử, mà quay đầu nhìn A Ninh, nói với cô ta: "Thật kỳ lạ, đây hình như là thi thể của cô mà..."

Chương 61. Đầm lầy ma
Editor: EarlPanda...*****.

Muộn Du Bình nói xong, chúng tôi nhất thời không hiểu hắn có ý gì, mấy người ngây ra một lúc, đến khi phản ứng lại được, tôi cũng cảm thấy chả hiểu đầu cua tai nheo gì: thi thể này đã chết từ lâu lắm rồi, sao loáng cái đã biến thành thi thể A Ninh, hơn nữa, không phải A Ninh đang đứng đây hay sao.

Mọi người đều vô cùng ngờ vực, mà A Ninh thì nhíu mày, không biết Muộn Du Bình nói vậy là có ý gì.

Muộn Du Bình cũng không để ý đến ánh mắt của chúng tôi, mà cẩn trọng tháo chiếc vòng tay trên xương cánh tay của thi thể mà chúng tôi vừa nhìn thấy, đưa cho A Ninh, liếc nhìn cô nàng.

A Ninh ngơ ngác nhận lấy, ngước nhìn Muộn Du Bình, rồi lại nhìn chiếc vòng tay. Mới đầu, vẻ mặt của cô ta vẫn còn là nghi hoặc, nhưng đến khi cô liếc xuống nhìn đến chiếc vòng tay, vài giây sau, sắc mặt cô ta liền thay đổi, loáng cái liền trắng bệch.

Chúng tôi đứng bên nhìn, vừa thấy nét mặt của cô ta, liền đổ mồ hôi lạnh, đây là cái vẻ mặt gì thế này. Bàn Tử không đầu không đuôi hỏi một câu: "Sao? Thi thể này có thật là của cô không?"

A Ninh không nói gì, nhưng khi cô ta quay đầu nhìn chúng tôi, sắc mặt đã hơi xanh lét lại. Cô ta đưa chiếc vòng tay mà Muộn Du Bình đưa cho chúng tôi xem, sau đó lại vươn tay phải ra đến trước mặt chúng tôi.

Tay trái của A Ninh có đeo một chuỗi đồng tiền xâu lại thành vòng tay, hồi ở Hải Nam tôi có để ý thấy rồi. Khi lạc đường trong thành ma, chuỗi đồng tiền này lại trở thành ký hiệu đặt dưới mấy tảng đá, tổng cộng có bảy đồng, tất cả đều là tiền đồng mười xu do cục Đúc tiền đúc ở An Khánh tỉnh An Huy, lúc đó tôi với cô ta hay đùa giỡn rằng đây có lẽ là ký hiệu giá trị nhất trên thế giới này. Cô ta nói với tôi, sở dĩ cô chọn dùng loại đồng tiền này để xâu thành vòng tay, cũng bởi vì loại vòng tay này trên thế giới tuyệt đối không có cái thứ hai.

Bởi từng có đoạn đối thoại này, cho nên khi cô ta chìa tay và chiếc vòng tay trên tay cái xác nữ ra trước mặt tôi, tôi biết dụng ý của cô ta.

Tôi bèn nhìn thật kỹ chiêc vòng tay trên cánh tay xác nữ, vừa nãy lúc nhìn không có nhìn kỹ càng, bây giờ nhìn kỹ lại, phát hiện chiếc vòng tay này đã bị gỉ đồng xanh lét két thành một chỉnh thể, phủi hết bùn đồng xuống, quả nhiên bên dưới chính là mấy đồng tiền đồng mục nát, phía trên có lờ mờ khắc bốn chữ Ngụy thư "Quang Tự Nguyên Bảo".

Mới đầu tôi còn không tin nổi, lại cạy bùn ra thêm nữa, liền thấy bên dưới là văn tự Mãn, tức thì khiếp sợ, ngẩng phắt đầu nhìn A Ninh.

"Không cần xem nữa, chính là đồng mười xu." A Ninh nói với tôi, "Tổng cộng bảy đồng."

"Đây..." Tôi câm nín không thốt nên lời, nghĩ thầm chuyện này sao có thể?

Vòng tay trên cái xác nữ này cũng chính là bảy đồng mười xu... Nhưng mà, tiền đồng mười xu này cực kỳ hiếm. Bảy đồng trên tay A Ninh, cô ta phải mất mười năm thu thập từng đồng từng đồng một. Chưa nói đến chuyện sao có thể trùng hợp có cùng ý tưởng đến thế, chỉ với mức độ quý hiếm của tiền đồng Quang Tự, cũng khó có thể giải thích được việc này... Có một cô gái trùng hợp cũng có ý tưởng lấy tiền đồng mười xu xâu thành vòng tay, trùng hợp cũng có đủ khả năng kinh tế và con đường có thể mua được bảy đồng tiền, trùng hợp cũng là một người công tác ở vùng dã ngoại, trùng hợp cũng đến nơi này để chúng tôi phát hiện được thi thể, xác suất của trùng hợp như thế là bao nhiêu...

Việc này không phải là khó bề giải thích, mà căn bản là không có khả năng xảy ra...

Những người khác vẫn không hiểu chuyện gì xảy ra, tôi liền kể một lượt cho bọn họ về sự quý hiếm của đồng tiền này, nói xong, bọn họ vẫn không hiểu, Phan Tử nói: "Là hai chiếc vòng tay tiền đồng giống hệt nhau thôi, có lẽ là trùng hợp, loại tiền đồng này có nhiều đồ dỏm mà."

Muộn Du Bình nhìn A Ninh, lắc đầu.

"Vậy thế tức là sao?" Phan Tử cười khổ: "Như vậy không có thiên lý gì hết, chẳng lẽ cô em đứng trước mặt chúng ta đây là một con quỷ? Vài chục năm trước cô nàng đã chết ở đây rồi?"

Phan Tử nói xong nhìn A Ninh cười cười, nhưng anh vừa cười hai tiếng, liền lập tức không cười nổi nữa. Ngay sau đó, sắc mặt anh biến đổi, lập tức đứng phắt dẩy, sờ con dao trong tay.

Tôi thầm lấy làm lạ, tự nhủ sao thế, cũng quay đầu nhìn A Ninh, vừa nhìn xong, tôi suýt nữa sợ chết ngất luôn.

Chỉ thấy trong làn nước mưa, gương mặt của A Ninh, không biết làm sao mà biến đổi rồi, mặt của cô ta méo mó giống như bị hòa tan vậy, đôi mắt quỷ dị trợn trừng trừng, khóe miệng nhếch lên đến mức độ không tưởng, lộ ra đầy những răng nanh nhỏ li ti...

Trong đầu tôi "ầm" một tiếng, trong lòng gào ầm lên: "Đờ mờ!" rồi thoắt cái sờ con dao đeo bên hông nhanh như chớp, đồng thời lùi về một bên, cố gắng giữ một khoảng cách với cô nàng.

Trong lúc hoảng loạn, tôi quên béng mất mình đang ở trên cây, vừa lùi một cái, liền hụt chân luôn. Trong nháy mắt, tôi liền rơi xuống dưới.

Toàn thân tôi co rúm lại, nghĩ bụng tiêu đời rồi, lúc này đây không ngã chết cũng trọng thương, vội vàng dùng tay quơ loạn lên khắp các cành cây xung quanh, nhưng không bắt được bất cứ cái gì cả. Đúng lúc này, có người níu lấy thắt lưng quần của tôi, tôi chỉ cảm thấy bên hông đau nhói một cái, như muốn gãy luôn, nhưng tốt xấu gì cũng không té ngã xuống là được rồi.

Người nọ xách tôi kéo lên trên, tôi ổn định được cơ thể bèn quay đầu lại xem hảo hán nào đã cứu tôi, vừa nhìn xong, muốn tè ra quần, người níu lấy dây lưng tôi ấy vậy mà lại là A Ninh, miệng ngoác rộng đầy nước dãi, nhỏ cả lên mặt tôi.

Đúng là muốn chết, dưới tình thế cấp bách, tôi ý thức được để cô ta kéo lên cái mạng nhỏ này của ông đây liền khó giữ nổi rồi, nếu như ngã xuống may ra còn có một đường sống, bèn vội vàng cởi thắt lưng, thế nhưng thắt lưng cứ siết chặt lấy bụng tôi, cởi thế nào cũng không ra được. Da đầu tôi sởn hết cả lên rồi, cố sức kéo mạnh, kéo kéo kéo, bất chợt tôi nghe thấy có người nói: "Tỉnh dậy tỉnh dậy, mẹ kiếp đang nằm mơ cái gì thế?"

Tôi lập tức tỉnh lại, ngồi phắt dậy, đầu cụng phải ngực của ai đó, nghe "Ui da" một tiếng, A Ninh ngồi cạnh suýt nữa bị tôi húc ngã xuống dưới.

Tôi theo phản xạ kéo cô ta lại, lập tức tỉnh táo lại, liền phát hiện mình đang dựa ở trên cây, tay đang kéo dây thắt lưng, đã kéo được một nửa rồi, bên cạnh là cái hố xương rắn đào ra, mưa vẫn đang rơi, đèn mỏ ở bốn phía đâm vào mắt tôi, muốn mở to cũng không mở nổi.

Tất cả mọi người kinh ngạc nhìn tôi, phía trên hố xương rắn được phủ một lớp chăn chống thấm, đèn mỏ treo trên cành cây xung quanh, Muộn Du Bình và Phan Tử đang ngồi ở chỗ kia, mà Bàn Tử đang ngủ bên cạnh tôi, ngáy vang như sấm. A Ninh tay ôm ngực, hiển nhiên là bị tôi húc cho đau quá.

Bấy giờ tôi mới hiểu ra vừa rồi là nằm mơ, tức thì thở phào một cái, sờ sờ trán mình, vẫn còn rất ướt, không biết là mồ hôi lạnh hay là nước mưa hôm qua.

Không biết tôi ngủ thiếp mất từ bao giờ, vừa nghĩ thì mới nhớ ra, trước gọi bọn họ xuống đào bộ xương rắn, nhưng bộ xương rắn bị dây leo xoắn bện vào cũng phải đến mấy chục năm rồi, bên trong một đống nát bét lại rắn chắc, đào suốt nửa ngày chắc đào bới được cái gì, bèn thay phiên nhau nghỉ ngơi, không ngờ suốt đường quá mỏi mệt, vừa đặt lưng đã thiếp đi luôn. Trên mặt toàn là nước mưa, cũng chính là nước dãi A Ninh trong mơ vậy.

Tôi lúng túng cười cười, bèn đứng dậy, lau mặt rồi đi qua đó tiếp tục hỗ trợ. Phan Tử ở bên đó cố tình ý xấu chọc tôi: "Cậu Ba à, cậu vừa nằm mơ cái gì thế? Sao lại muốn cởi quần?"

Tôi vỗ vỗ anh ấy, nhủ thầm lần này đúng là có lý lẽ mà không thanh minh nổi, không khỏi nhớ đến truyện cười về anh kiến trúc sư và cái xe lửa, nghĩ bụng hóa ra chuyện như vậy không phải chỉ trong truyện cười mới có.

Nhìn đồng hồ đeo tay, cũng không ngủ được bao lâu, cả người đều ẩm ướt, cũng mới chỉ chợp mắt có một chút, ngủ giấc nông quá dễ gặp ác mộng, nhưng dù sao cũng tính là ngủ, tinh thần đã khá hơn nhiều. Kể ra thì giấc mơ này có hơi kỳ quái, chân thực phát khiếp đi được, nghe nói mơ là phản ứng của tiềm thức, tôi nhớ đến mấy thứ về tâm lý mà Lão Dương hồi trước nói với tôi, nghĩ bụng lẽ nào trong tiềm thức của tôi, tôi lại vô cùng sợ hãi cô ả A Ninh này sao? Thế mà lại nằm mơ đến tình tiết như vậy.

Quay đầu nhìn A ninh, cô ta đang dựa mình vào một cành cây khô, thế chỗ tôi nghỉ ngơi, nhắm mắt dưỡng thần, có vẻ hơi tiều tụy, có điều như thế này lại khiến khí thế hùng hổ hung dữ của cô ta giảm bớt không ít, trông có dáng vẻ của con gái rồi. Khuôn mặt méo mó của A Ninh trong giấc mơ tự dưng chồng lên cảnh tượng hiện tại, lập tức khiến tôi cảm thấy nghĩ mà sợ.

Quay đầu xem tiến độ mọi người đến đâu, lại thấy hình như không có tiến triển gì nhiều, bộ hài cốt bị dây leo quấn chặt, lại chịu một phen giày vò, đều bể nát hết cả, bàn tay đã thối rữa và bị khoáng hóa nát thành những mảnh vảy rơi lả tả trong đống dây leo, thoạt nhìn trông hơi giống tiền giấy thời cổ.

Tôi cười tự giễu, thở dài một hơi, rồi hỏi Phan Tử bọn họ có phát hiện gì không, sao lại không đào tiếp.

Phan Tử cầm lấy đèn mỏ ở một bên, chiếu vào trong đống hài cốt, nói không có cách nào lấy ra được bộ hài cốt này, một là các khớp xương đã rữa nát gần hết rồi, vừa đụng vào là vỡ, cứ đào tiếp thì chả còn gì; hai là, bọn họ phát hiện ra vật này.

Tôi theo ánh đèn mà nhìn xuống, liền thấy ở sâu trong đống xương rắn, chỗ dây leo xoắn xuýt, có một thứ gì đó trông như cái đùi gà, chẳng qua có màu đen, hơn nữa, phía trên còn kết một tầng gỉ dày cộm, tôi nằm sấp xuống nhìn thật kỹ, liền phát hiện đó là ba quả lựu đạn kiểu cũ bị buộc lại với nhau. Đã gỉ sét đến mức dính lại với nhau thành một chỉnh thể rồi.

Xung quanh thân quả lựu đạn có một dây đeo vũ khí màu đen, hiển nhiên, ba quả lựu đàn này là được giắt trên túi vũ khí, vác trên người thi thể này.

Tôi nhìn mà không khỏi hít một hơi khí lạnh, lập tức đi lại cũng không dám dùng sức mạnh quá, cẩn thận lùi về sau. Phan Tử nói với tôi: "Đây là Bàn Tử phát hiện trước, nếu không phải Bàn Tử mắt độc, mấy người chúng ta có khi đã bị nổ tung lên trời rồi."

Tôi kinh ngạc nói: "Thi thể này rốt cuộc là ai, sao lại mang theo vật này?" Cứ coi như là người trong đội ngũ của Văn Cẩm đi, muốn mang trang bị, cũng có thể mang theo thuốc nổ chứ không phải lựu đạn mà. Loại lựu đạn chuôi gỗ kiểu cổ lỗ sĩ này hoàn toàn là vũ khí dùng trong thực chiến, lấy sát thương con người làm mục đích, dùng để nổ phá công trình cơ bản là vô dụng.

"Cậu có nhớ không, bà lão Định Chủ Trác Mã kia từng nói với chúng ta, vào năm 1993 ở nơi này có một nhóm phản động chủ nghĩa dân tộc có vũ trang tháo chạy vào trong Sài Đạt Mộc này, khi dân quân đuổi đến tận sâu trong sa mạc, nhóm người này liền biến mất?" Phan Tử hỏi tôi, "Tôi thấy, hài cốt này chắc là một trong nhóm người đó, có lẽ là nữ tặc, hoặc là gia quyến, năm đó bọn họ biến mất, tôi thấy có lẽ cũng vì vào nhầm trong khu đầm lầy này con mẹ nó rồi. Vài chục năm rồi, nhóm người này không còn xuất hiện nữa, chắc là chết sạch ở nơi đây."

Phan Tử nhắc đến điều này, tôi mới nhớ ra, nghĩ cũng có lý, có lẽ chuyện là như vậy đi, có điều, tôi không quá đồng tình với quan điểm sau cùng của Phan Tử, khi đó phần tử vũ trang tháo chạy vào trong sa mạc cũng mang theo toàn là súng tốt, tuy nhân số không quá nhiều, nhưng trang bị rất hoàn hảo, nếu bọn họ thực sự tiến vào trong vùng đầm lầy này, không nhất định là chết luôn, có lẽ ở trong này một thời gian sau đó rời đi cũng không chừng. Nơi này không có người ở, rất nhiều kẻ săn trộm đều là từ đây mà tiến vào Khả Khả Tây Lý, săn động vật, sau đó trực tiếp theo đường buôn lậu, đến Nepan, muốn bắt bọn họ lại chẳng có chút dấu vết nào.

Thậm chí, đám  người này cũng có thể định cư ở đây, đương nhiên giả thiết này tính khả thi rất thấp, điều kiện ở nơi này không thích hợp cho con người bên ngoài sinh sống. Tôi cũng nghĩ thầm, tốt nhất là không phải, loại người như thế này quá cực đoan, đụng phải không đánh một trận không xong, chúng tôi không súng không pháo, nếu có ai tử thương thì thật uổng những vất vả đã trải qua trước đây, tuy rằng đã cách nhiều năm đến thế, vũ khí của bọn họ có lẽ cũng đã hỏng cả rồi.

Suy nghĩ miên man, Bàn Tử liền tỉnh, tôi bảo Phan Tử đi nghỉ chút, nhưng anh nói mình không ngủ, ẩm ướt như thế, anh một đống tuổi rồi, ngủ một phát là chắc chắn xảy ra vấn đề, ở đây lại có mấy thứ này, người chết này chúng ta cũng không cần suy nghĩ gì thêm nữa, mấy cậu cứ đi nghỉ nhiều một chút, chúng ta sẽ rời khỏi khỏi đây sớm, dù sao mưa cũng nhỏ rồi. Lại đi về phía trước, trời cũng sáng, đến lúc đó tìm một chỗ tốt tốt chút nổi lửa rồi từ từ nghỉ ngơi.

Mặc dù nói thế, nhưng với điều kiện của nơi này, chủ quan muốn đi ngủ nhưng quả thực cũng không ngủ nổi, chúng tôi cùng rúc vào một chỗ, vừa hút thuốc, vừa nhìn ra ngoài trời tối đen, nghe tiếng mưa rơi gió thổi qua rừng rậm. Phan Tử lau súng của mình, ở đây quá ẩm ướt, anh rất lo lắng cho tình trạng của khẩu súng. Người khác thì nói chuyện phiếm, trò chuyện cả một hồi, còn Muộn Du Bình lại ngủ rồi.

Phan Tử kể với tôi nghe mấy chuyện hồi chiến tranh, hồi đó anh ở trong tổ cấp dưỡng, tuổi còn trẻ lắm, có một lần, bộ đội hậu cần bọn họ gặp phải bộ đội đặc chủng Việt Nam, anh nuôi và anh vận tải làm sao mà đánh lại được mấy người Việt Nam từ bé đã phải đánh nhau với Mỹ rồi? Bọn họ sau bị ép vào một khu đầm lầy, bởi vì người Việt Nam hành hạ tù binh, cho nên bọn họ cuối cùng quyết định đồng quy vu tận, hồi đó cảnh vệ bảo vệ cho bọn họ phát cho mỗi người bọn họ một quả lựu đạn, chuẩn bị dùng để hi sinh vào phút chót.

Người Việt Nam rất thông minh, họ tuyệt không ló đầu ra, phân tán ra ẩn nấp mai phục trong rừng rậm kiểm soát bọn họ, bên này bắn một viên, bên kia bắn một viên, không biết được rốt cục họ từ đâu mà tới. Bọn họ vừa đánh vừa lui, lùi đến vũng lầy ở trung tâm vùng đầm lầy, một chân thụt xuống liền ngập đến tận bắp đùi, muốn đi cũng không đi được, lúc này, Đại đội trưởng liền ra mệnh lệnh bảo bọn họ chuẩn bị.

Mọi người cầm lựu đạn, rúc vào trong vũng lầy, thoa bùn lên mặt chỉ chừa hai lỗ mũi. Lần này, người Việt Nam lại lúng túng rồi, không hiểu sao họ không dám tiến vào vũng lầy này, bèn dùng súng bắn một loạt đạn vào đầm, bắn một hồi rồi, bèn rút lui.

Bọn Phan Tử ở trong bùn lầy mà không dám động, sợ là quỷ kế của người Việt Nam, nhẫn nhịn một buổi tối, thấy người Việt Nam đã đi thật, mới cẩn thận chui ra, thế nhưng khi kiểm kế số người lại thấy thiếu mất hai người, tưởng bọn họ bị vùi lấp trong bùn lầy rồi, bèn dùng gậy tre sục tìm trong bùn, cuối cùng móc ra được xác của hai người nọ. Phát hiện hai người kia đã bị xơi sạch rồi, chỉ còn lại bộ da trong suốt, trong lồng ngực không biết có con gì động đậy.

Từ sau vụ đó, Phan Tử bắt đầu sợ đầm lầy, về sau lại bị điều đến trung đội tiên phong đi đánh tác chiến ở hậu phương Việt Nam, cả trung đội bị phục kích chết hết, chỉ còn lại mình anh và anh lính truyền tin, bọn họ bèn chạy trốn tới bên một đầm lầy, Phan Tử thà giết sạch truy binh bằng bất cứ giá nào chứ cũng không chịu lại bước vào cái nơi này nữa.

Phan Tử nói một thôi một hồi, tôi không ngừng ngáp, tôi cũng nghe đến lơ tơ mơ rồi, mí mắt díu cả lại, bèn ngủ gật.

Nửa tỉnh nửa mê, cũng không biết bao lâu rồi, cảm giác lại sắp nằm mơ, liền cảm thấy có người lắc lắc tôi. Đây là lúc tôi tính khó ở nhất, muốn đạp người này ra để ngủ tiếp, nhưng lại không đạp trúng ai cả, lập tức miệng tôi bị ai đó bịt kín.

Lần này tôi mở mắt, liền thấy A Ninh đang bịt miệng tôi, Phan Tử ở bên khẽ lay lay Bàn Tử, có mấy người hình như là vừa tỉnh dậy, đang nhìn về một phía.

Tôi cũng xoay người ra chỗ đó mà nhìn, liền có một trận gió to thổi vù qua một cành cây trên đỉnh đầu chúng tôi, tán cây to lớn đều rung rung, hình như gió lại nổi lên rồi, thế nhưng đến khi tôi cẩn thận cảm giác lại, lại không cảm thấy xung quanh có gió. Vừa nhìn lên đỉnh đầu, một con trăn to tướng màu nâu đang trườn từ một cái cây khác ở bên cạnh sang bên này.

.

.

————

Truyện cười anh kiến trúc sư và chiếc xe lửa:

Một người phụ nữ gọi điện thoại cho anh kiến trúc sư, phàn nàn rằng mỗi khi xe lửa đi qua là giường của cô lại rung rung lắc lắc.

"Chuyện này thật vô lý," anh kiến trúc sư đáp, "Tôi sẽ đến xem xem."

Anh kiến trúc sư đến nơi, người phụ nữ bảo anh nằm lên giường, cảm giác lúc xe lửa đi ngang qua mà xem.

Anh kiến trúc sư vừa lên giường nằm thì ông chồng người phụ nữ về, thấy vậy bèn sừng sộ quát: "Mày nằm trên giường vợ tao làm gì?"

Anh kiến trúc sư sợ hãi trả lời: "Tôi nói tôi đang chờ xe lửa, anh có tin hay không?"

Chương 62. Tai họa rắn điên
Editor: EarlPanda...*****.

Nói là tán cây trên đỉnh đầu, kỳ thực là cách chúng tôi rất gần, gần như chỉ có hai, ba mét, ngay cả vảy rắn cũng có thể nhìn thấy rõ từng cái một. Đây là một con trăn cây (morelia viridis), chỗ to nhất phải cỡ bằng cái xô nước, tán cây rậm rạp, phần lớn thân rắn ở trong tán cây, không biết dài đến đâu, nhưng điều làm tôi kinh ngạc đó là, phiến vảy rắn dưới ánh sáng đèn mỏ phản xạ lại ánh vàng nâu, như thể con trăn này được mạ vàng lên vậy.

Lúc này khi trèo lên, xung quanh chắc chắn không có con rắn nào. Con trăn này chắc là lựa lúc chúng tôi nghỉ ngơi mà lần mò theo những tán cây xoắn bện, trườn đến đây. Ngoài lúc săn mồi ra, động tác của trăn rất chậm, hành động thì bí mật, mà bên ngoài lại còn có chút gió, khắp rừng rầm đều nghe tiếng lá cây xào xạc, mọi người đều mơ màng, không hề phát giác ra được. Ngay cả Phan Tử gác đêm cũng không phát hiện ra nó đang tiến lại gần.

Có điều, ở đây có trăn xuất hiện cũng không lấy gì làm lạ. Rừng mưa nhiệt đới vốn chính là quê hương của rắn, mà những chuyện cổ quái tôi đã gặp quá nhiều, chỉ một con trăn to bự dường như vẫn chưa đủ để khiến thần kinh chúng tôi căng thẳng.

Bọn Phan Tử đều là những kẻ đã lõi đời, mọi người đều bình tĩnh cực kỳ, không một ai di chuyển hay kêu lên sợ hãi. Loại rắn này có phạm vi tấn công rất rộng, hiện giờ không biết nó có hứng thú gì với bọn tôi hay không, nếu cử động bậy bạ, làm kinh động đến rắn, nó sẽ lập tức tấn công, chúng tôi lại đang đứng trên cây, thế nào cũng chịu thiệt.

Chúng tôi ở đây cầm cự, con trăn cây chậm rãi cuộn mình trườn xuống, đầu rắn to tướng treo lủng lẳng dưới cành cây, liếc bọn tôi một cái, cặp mắt rắn vàng khè oán độc trong đêm tối khiến người ta cực kỳ khó chịu.

Phan Tử một tay giơ súng, một tay đẩy đẩy Bàn Tử. Tên khốn này thế mà còn ngủ được, đẩy thế nào cũng không chịu tỉnh. Hắc kim cổ đao của Muộn Du Bình giắt ngang sau lưng, tay kia cầm ngược con dao găm. Tất cả mọi người vô thức lùi về sau, cố gắng giữ khoảng cách với con trăn nọ.

Tôi đứng cuối cùng, thầm nghĩ nếu con trăn muốn tấn công cũng không tấn công tôi trước, tôi nhìn xuống dưới tán cây, nghĩ nếu nhảy xuống đó liệu có được không nhỉ, dù sao ở đây cũng là trên cây, hơn nữa lại khá cao, hoạt động không tiện, nếu liều mạng chỉ sợ sẽ thua thiệt.

Sau cơn mưa to, thác nước đổ xuống hai bên vách đá đã tụ lại thành vô số dòng suối nhỏ dưới đáy khe núi, hiện giờ, những dòng suối nhỏ này đã tụ lại với nhau, bùn lầy bên dưới tán cây đã biến thành một vùng sông nước đen ngòm, bên dưới có lẽ là rễ cây và bùn lầy, không biết có chạy được hay không nữa.

Nghĩ đoạn, quay đầu nhìn khu rừng rậm trước mặt, lúc này từ khắp bốn phía vang lên tiếng tán cây rung động, xào xạc xào xạc, lần này hình như là vang lên từ sau lưng tôi.

Quay đầu nhìn, mồ hôi lạnh tôi tuôn ra như suối. Ngay phía sau cổ của tôi có một con trăn cây khác nhỏ hơn treo lủng lẳng, cũng là màu vàng nâu, con trăn này chỉ to cỡ bằng một bắp đùi, cách mặt tôi chỉ có một cánh tay, một mùi hôi thối nồng nặc xông vào mũi.

Tôi khiếp sợ co rụt mình lên phía trước, người ở phía trước lại rụt về phía sau, tất cả mọi người túm tụm lại một chỗ. Người trợn mắt nhìn rắn, rắn trừng mắt nhìn người, ngay cả hít thở cũng dằn lại.

Trong lòng tôi cảm thấy kỳ quái, mãng xà là loài động vật sống đơn độc, có tập tính lãnh thổ rất mạnh, rất ít khi săn mồi theo bầy, trừ phi là lúc giao phối, lẽ nào mùa mưa ở nơi này là kỳ giao phối của chúng? Vậy thì đúng là đến không đúng lúc rồi. Hai con trăn một trước một sau, dường như là muốn đánh gọng kìm chúng tôi một cách có ý thức, có thể đây là một đôi rắn đực rắn cái vừa mới giao phối xong, nhớ đến xác người trong đống xương rắn, tôi đã cảm thấy buồn nôn, nghĩ bụng mẹ kiếp tao không muốn trở thành bữa điểm tâm HAPPY của tụi mày đâu.

Hai bên giằng co một hồi lâu, không ai nhúc nhích, có lẽ lũ trăn hiếm khi gặp con người, nhất thời cũng không biết rõ tình huống, cho nên không dám tấn công vội. Hơn nữa, khí thế của Muộn Du Bình và Phan Tử quá sắc bén, hai người trừng trừng nhìn thẳng vào mắt rắn như hai bức tượng đá, lũ trăn dường như cảm nhận được nguy hiểm, do dự không dám tiến.

Mười mấy phút sau, quả nhiên hai con trăn không tìm được kẽ hở của chúng tôi, bèn từ từ lui vào trong tán cây, hình như muốn buông tha.

Nhìn hai con trăn ở hai đầu đều cuộn mình trườn lại lên cây, tôi không khỏi từ từ thở phào một hơi, cơ thể căng cứng của Phan Tử cũng từ từ thả lỏng, nòng súng cũng từ từ hạ xuống. Tôi nghĩ thầm thật may mắn, nói thật chứ, ở nơi này mà phải quần nhau với trăn, không đánh vẫn tốt hơn, chưa tính sức tấn công của trăn, từ trên này mà té ngã xuống dưới cũng vỡ mồm rồi.

Nhưng ngay khi tôi khe khẽ thở phào thả lỏng lại thì, Bàn Tử đứng bên đột nhiên trở mình, ậm ờ ngáy một tiếng khò khè, lại còn kéo một âm mũi rất dài.

Trong tình huống cực kỳ im lặng bỗng vang lên một âm thanh, tất cả mọi người lập tức kinh hãi. A Ninh vội vàng bịt mồm anh ta, nhưng đã muộn. Cả cái cây rung lên bần bật, một cơn gió tanh thốc tới, con trăn cây quay ngoắt đầu trở lại, lúc này thân rắn cong thành hình chữ U, vừa nhìn đã biết là sắp tấn công rồi.

Phan Tử lập tức giơ súng, nhưng vẫn chậm một bước. Đầu rắn nhanh như chớp phóng vèo tới cắn. Trong sát na đó, Phan Tử luống cuồng hụp đầu xuống, con trăn cắn hụt đầu anh, xéo xuống bên hông, Muộn Du Bình đứng sau tầm nhìn bị che chắn, cũng không né kịp, bị cắn phải bả vai. Tiếp đó, con trăn to tướng đầy bắp thịt như cơn cuồng phong thoăn thoắt trườn tới, trong khoảng thời gian cực ngắn, nửa thân trên nó như rồng cuộn, đột ngột húc xuống hố xương rắn dưới chân chúng tôi, đống hài cốt vốn lung lay sắp đổ tức thì đổ sụp, chúng tôi bị thân rắn húc  bay ra ngoài, ngay sau đó, dưới chân thụt một cái, mọi người bị té ngã xuống hố xương rắn.

May là trong đống xương rắn xoắn bện đầy dây leo, xương gãy thì có gân nối, sụt đến một nửa thì có dây leo giữ lại. Chân tay tôi quơ loạn lên, bắt được một sợi dây leo, trượt xuống dưới mấy mét thì ngừng, ngẩng đầu nhìn lên, liền thấy Muộn Du Bình đang bị con trăn siết chặt, quấn đến giữa không trung, Hắc kim cổ đao không biết đã bị văng đi đằng nào, thân rắn cuộn lại, càng cuộn tròn càng thít chặt, Muộn Du Bình ra sức giãy giụa nhưng vẫn không có cách nào thoát ra.

Tôi quýnh hết cả lên, bèn hét to bảo Phan Tử nổ súng đi, quay đầu lại thì không thấy Phan Tử đâu, không biết đã ngã đi đằng nào rồi. Đúng lúc đó, tôi liền thấy Muộn Du Bình ở giữa không trung bỗng giật bả vai một cái, toàn thân đột nhiên co rụt lại, lập tức thoát ra khỏi vòng kìm kẹp của con trăn, rơi xuống một cành cây, xoay người nhảy đến một đoạn dây leo xoắn xuýt rồi trượt xuống, loáng cái đã trượt xuống cạnh tôi, gào to với tôi: "Đưa đao cho tôi!"

Tôi vội vã đi rút đao ra, nhưng nó chặt quá, mắm môi mắm lợi rút mà không rút ra nổi. Lúc này, con trăn đã phát hiện mình đang siết một khoảng không, không khỏi giận dữ, vụt cái liền trườn lên trên cây, nháy mắt đã đến trước mặt chúng tôi, đầu rắn lộn một cái liền cắn tới.

"Cái đệch." Tôi chửi ầm lên một tiếng, mắt thấy cái miệng to như chậu máu của nó nhào về phía mặt mình, sự khủng bố ập thẳng vào mắt này không phải ai cũng trải nghiệm được. Muộn Du Bình túm lấy một sợi dây leo, lập tức rút ra từ trong đống dây leo một cục xương, phi thẳng tới, con trăn vút mình lên không, cho chúng tôi tranh thủ chút thời gian, Muộn Du Bình kêu to với tôi: "Mau nhảy xuống!"

Lúc ấy tôi đã choáng cả rồi, cũng không biết mình nghĩ gì nữa, theo phản xạ co rúm mình lại, không phản ứng kịp, ngay sát na kia khi đầu rắn cong lên, Muộn Du Bình "chậc" một tiếng, nhảy lên đá tôi một cước tôi bay vèo ra ngoài.

Một cước này cực kỳ mạnh, dây leo tôi bám vào liền đứt ra, trong lúc hoảng quá tôi quơ tay cào loạn, nhưng không bấu víu được cái gì, liền cứ thế rơi tự do thẳng xuống dưới, va phải mấy cành cây, sau đó ngã bịch thật mạnh xuống đất. May mà phía dưới là nước và bùn lầy, tôi lăn lộn vài cái rồi nằm sấp thẳng cẳng, cả mồm toàn bùn, nhưng cũng không đau lắm.

Trong lúc hỗn loạn, tôi được người đỡ dậy, kéo ra bên ngoài. Kéo được vài bước tôi mới bắt đầu cảm thấy toàn thân đau nhức, lau sạch bùn trên mặt rồi, tôi mới thấy người đang đỡ tôi là A Ninh và Bàn Tử, lại nhìn quanh bốn phía, toàn bộ đèn mỏ đều đã rơi xuống bùn, tắt hết rồi, cái gì trông cũng lờ mờ. Phan Tử đang ghìm súng đứng trên cây ngắm, nhưng đứng từ dưới tán cây nhìn lên, chỉ thấy một khoảng tối đen trong tán cây, không nhìn thấy cái gì cả.

"Anh sao rồi?" A Ninh hỏi tôi.

Tôi lắc đầu bảo không sao, bọn họ kéo tôi ra ngoài, tôi bảo không được, thằng cha kia vẫn còn ở trên cây mà, không thể mặc kệ hắn ta được!

Vừa dứt lời, cả cái cây liền rung lên bần bật, Muộn Du Bình đạp thân cây nhảy vút xuống như một con khỉ, cùng với đó là một bóng đen quấn đầy lá và vỏ cây vun vút lao xuống theo như một cơn gió. Hai cái bóng như quấn lấy nhau ngã vào bùn lầy, bọt nước còn chưa kịp rơi xuống, liền thấy con trăn bổ nhào vào hắn mà cắn, Muộn Du Bình cúi thấp người rồi biến mất trong bọt nước, không nhìn thấy nữa.

Tôi vừa nhìn thấy liền kêu thầm ôi đệt, hắn thế mà đang quần nhau với con trăn này, bèn vội vàng hét to với Phan Tử, mau đi hỗ trợ!

Phan Tử không chờ tôi nói đã sớm vừa chửi vừa nhào tới, nghiêng đầu tránh bọt nước, giơ súng nhắm vào, cuối cùng cũng bắn loạt đạn đầu tiên. Kỹ thuật bắn súng của anh cực giỏi, một phát súng đã trúng ngay đầu rắn, khiến con trăn lại vút lên vặn vẹo thân mình, Muộn Du Bình lập tức lăn ra từ dưới thân con trăn, chạy ra phía ngoài. Con trăn kia thế mà chưa chết, nó lộn nhào một cái, lại xoay người bắn tới như cái lò xo, nhưng cùng lúc đó, Phan Tử lại bắn phát nữa, khiến nó rụt mình lại. Anh cũng lui về phía sau, kêu to với bọn tôi: "Tôi yểm hộ! Mấy người mau đi ——!"

Chưa dứt lời, bỗng nhiên từ trên cây lại có một con trăn khác nhảy vút xuống, loáng cái đã cắn trúng bả vai Phan Tử, sau đó lập tức cong mình, hất văng anh lên.

Tấn công quá chớp nhoáng, không một ai kịp phản ứng, chúng tôi cả kinh, anh đã bị siết chặt ở giữa không trung rồi. Tôi nhìn thấy tay chân anh khua khoắng loạn lên, tức thì trong lòng trầm xuống, nghĩ không xong rồi!

Nói thì chậm mà xảy ra thì nhanh, chỉ thấy Phan Tử lúc hấp hối vẫn không hề sợ hãi, nắm tay xoay vài cái, liền rút ngay con dao quân dụng ra xoay một cái, xọc thật mạnh xuống, đâm trúng vào mắt con trăn. Con mãng xà khổng lồ đau đến mức cong cả người, lập tức nhả ra, Phan Tử bị quăng đi, ngã lộn nhào va đập vào một thân cây, khắp mặt toàn là máu. Sau đó, A Ninh bèn rút từ trong ba lô ra hai quả pháo lạnh, hai tay quét một cái vào đầu gối liền châm lửa, sau đó xông vào giữa con trăn với Phan tử, dùng pháo lạnh ngăn con mãng xà lại, kêu to với bọn tôi: "Mau kéo anh ta đi, chạy!"

Tôi gào lên đừng! Pháo lạnh nhiệt độ không đủ! A Ninh đáp, anh biết rắn không biết!

Tôi và Bàn Tử xông lên, đỡ Phan Tử dậy rồi chạy về phía rừng cây, thế nhưng chưa đi được vài bước, đột nhiên thấy bọt nước với bùn lầy gợn sóng lên. Quay đầu nhìn, thấy con trăn sau lưng Muộn Du Bình thế mà vẫn chưa chết, đầu rắn toàn là máu, cơ thể to tướng điên cuồng đuổi theo Muộn Du Bình. Cơ mà kẻ kia lại đang vọt tới về phía tôi, con mãng xà khổng lồ điên cuồng uốn éo ở đằng sau, thoạt trông như đang bay.

Mãng xà rất tức giận! Hậu quả rất nghiêm trọng!(*) Trong đầu tôi đột nhiên xuất hiện một câu này, nhìn thấy cảnh tượng kia mà hai chân mềm oặt, Muộn Du Bình kêu to "Nằm xuống", Bàn Tử lại kéo tôi cắm đầu chạy về phía trước vài bước, đột ngột nằm ụp xuống nước. Con trắn nháy mắt đã xông tới, Muộn Du Bình và A Ninh nghiêng người, cũng lăn xuống bùn, mình trăn to tướng dán ngay sau lưng tôi mà trườn, không phanh lại được, liền húc thẳng vào một cây đại thụ. Cái cây gần như là bị húc gãy luôn, lá cây và những thứ bám trên cây rơi rào rào xuống.

(*) Đây là nhại theo một câu kinh điển trong phim "Thiên hạ vô tặc" năm 2004.

Chúng tôi đứng lên, cũng không phân rõ được phương hướng nữa. Bàn Tử sát tâm nổi lên, chửi to một tiếng: "Cái mụ nội nhà mày, tao liều mạng với mày!" Nói rồi rút một con dao giắt bên hông ra, xông thẳng về phía con trăn đang choáng váng. Tôi vội chạy tới, ôm eo anh ta kéo lại, ngăn anh ta qua đó. Muộn Du Bình cũng đứng lên, tôi thấy bả vai hắn toàn là máu, hiển nhiên là bị thương rất nặng. Hắn thở hổn hển, chỉ vào khu rừng rậm bên cạnh, kêu chúng tôi: "Chạy mau, hai con rắn này không ổn!"

Thấy Muộn Du Bình bị thương thành như vậy, Bàn Tử cũng chỉ đành lầm bầm, sau đó cõng Phan Tử lên, ném súng của Phan Tử cho tôi. Tôi mang súng đi đoạn hậu, đoàn người lập tức bỏ chạy vào trong rừng sâu. Vừa chạy vào bụi cây, phía sau bọt nước lại văng lên, con trăn kia lại xông tới rồi.

Không ai có thời gian mà quay ra sau nhìn nữa, bên dưới các cây cối là những bụi cây cực kỳ rậm rạp tươi tốt cũng các loài dương xỉ, chúng tôi lập tức vọt vào trong đó, các cành cây đều có gai, rạch qua làn da trần của tôi, tạo nên vô số vết máu, tôi đau đến há cả mồm, nhưng không quan tâm được nhiều vậy, cắn chặt răng mà chạy điên cuồng.

Không ai ngờ chúng tôi có thể chạy trong rừng rậm mà đạt đến được tốc độ này, nếu cứ với tốc độ này, chỉ cần một buổi từ sáng đến trưa là vượt qua khe núi này rồi. Chẳng mấy chốc, chúng tôi chạy đến sát biên giới khe núi, trên vách núi đá toàn là thác nước, nước sâu đến tận đầu gối, đến đây thì không chạy nhanh được nữa.

Chúng tôi quay đầu lại nhìn, mẹ kiếp, con trăn kia chẳng cách xa chúng tôi là mấy. Thân rắn như rồng cuộn lướt vèo vèo giữa các bụi cây như tia chớp, nhắm thẳng đến đây. Chúng tôi muốn chạy tiếp, tiến lên trước nữa là một thác nước, hết đường rồi, Bàn Tử bèn mắng: "Khốn kiếp, đứa nào dẫn đường đấy!"

Cả lũ đều hoảng rồi, ở đây nước sâu đến vậy, muốn chạy cũng chạy không nổi. Mà loài trăn ở trong nước cực kỳ linh hoạt, lần này thực sự là lành ít dữ nhiều. Lúc này, A Ninh như thấy cái gì, kêu lên với chúng tôi: "Ở đây!"

Chúng tôi quay ra nhìn theo hướng đèn mỏ của cô ta, chỉ thấy đằng sau thác nước ở một bên vách đá, có một cái khe nứt, có lẽ có thể ẩn náu được, Bàn Tử cuống quýt kêu lên: "Mau mau!"

Chúng tôi xông lên, nhào vào trong thác nước. Cái khe nứt rất hẹp, con trăn kia chắc chắn không vào được, cả đám chúng tôi chui vào đã rất gượng ép rồi, mấy người lách mình chen vào trong, bên trong cũng toàn là nước, cả đám tụi tôi gắng gượng chen vào, còn Bàn Tử đánh chết cũng không chen vào được.

Chúng tôi liền mạng kéo anh ta, anh ta cũng liều mạng chui vào trong, cũng chỉ nhét được một cái chân vào, A Ninh ở bên trong bèn chiếu ánh đèn ra ngoài, con trăn to tướng đã ở ngay bên ngoài màn nước của thác nước rồi, đó là một cái bóng khổng lồ. Bàn Tử cuống quýt, gào lên chiếu cái gì nữa! Mau tắt đèn tắt đèn!

Tôi lập tức bịt miệng anh ta lại, khẽ kêu anh ta câm miệng vào. Thế nhưng, tất cả mọi người đều biết, điều đó chắc chắn vô dụng, bèn nhặt hết vũ khí lên, chuẩn bị liều mạng.

Thế nhưng, kỳ lạ là, con trăn cứ quẩn quanh bên ngoài thác nước, không thò đầu vào trong thác, chỉ chần chừ một hồi lâu, rồi quay đầu đi mất.

Đến lúc này, chúng tôi quay qua nhìn nhau, đều ngơ ngác không hiểu gì. Chỉ cần con trăn này hơi thò đầu vào trong tìm, Bàn Tử chắc chắn toi đời, chúng tôi cũng không thể khoanh tay đứng nhìn, cho nên đó sẽ là một trận tử chiến, không chết phân nửa là tốt lắm rồi, thế mà nó bỗng nhiên lại đi, lẽ nào nó sợ thác nước này?

Lúc này, chúng tôi bỗng nghe thấy từ chỗ sâu bên trong khe nứt liên tiếp vang lên tiếng "khặc khặc khặc khặc", nghe hơi giống tiếng gà kêu, bên ngoài thì tiếng nước rào rào, cũng không vang lắm, thế mà lại nghe thấy tiếng gà kêu ở đây, như ngay bên tai, tất cả chúng tôi đều nghe thấy.

Mọi người quay đầu, lúc này mới có hơi sức mà quan sát cái khe nứt, phát hiện nước ở trong này còn chưa đến eo bọn tôi, nhìn vào trong khe, đi vào thêm chút nước là hết đường rồi, mà ở tảng đá cuối khe nứt, có cái gì đó đang đứng. Thứ này hoàn toàn ẩn mình trong bóng tối, với ánh sáng dư của chiếc đèn mỏ thì không thể nhìn ra được.

Mắt tôi hoa lên, cũng không nhìn thấy rõ ràng lắm, nhưng tôi nhìn thấy tư thế đứng của vật này, liền cảm giác có gì không ổn. Tôi cũng không nói ra được là kỳ quái ở chỗ nào, vì vậy bèn bảo A Ninh xoay đèn lại đây.

Ngọn đèn vừa chiếu đến nơi, vật kia liền lộ ra bộ mặt thực sự. Tôi nhìn thoáng qua, chừng hai, ba giây, còn chưa kịp ý thức đó là cái gì, đó là hai, ba giây của sự kinh ngạc cực độ, tôi lập tức phản ứng lại được, quả thực không thể tin vào mắt mình.

Tôi nhìn thấy ở tận cùng bên trong khe nứt, có một con rắn to chừng bằng cổ tay, con rắn này không phải mãng xà, toàn thân đỏ hồng, đầu rắn là một hình tam giác cực kỳ nhọ, phía trên còn có một cái mào gà cực kỳ to cực kỳ dài. Mà khiến tôi không thể tin được chính là, con rắn này thế mà lại đứng thẳng tắp ở đó, đầu rắn hơi rủ xuống, ánh mắt hung dữ nhìn tôi, toàn bộ tư thái này thật giống như một con người mà không có tay chân vậy.

Tôi thấy ánh mắt của con rắn kia, thoáng cái gần như không thể động đậy nổi, cứ cho nó trừng mắt nhìn như thế, mãi đến khi A Ninh kéo kéo tôi, trong nháy mắt tôi mới ý thức được mình vừa nhìn thấy cái gì, liền hiểu ra ngay vì sao con trăn kia lại muốn buông tha cho chúng tôi. Nỗi khiếp sợ từ thuở tấm bé bỗng trỗi dậy lan ra khắp cơ thể tôi.

Chương 63. Xà vương.
Editor: EarlPanda.. 17/08 sắp tới các thím muốn ngộ đăng chương cuối tập 4, hay là chương đầu tập 5, hay là muốn dịch cái gì khác đặc biệt để làm chút kỷ niệm nho nhỏ?.*****.

Đây là một con "Cổ gà rừng".

Ở đây sao lại có loại rắn này chứ!

Tôi nhìn kỹ hơn nữa, thân rắn cùng cái mào gà đỏ thắm như lửa, cùng với tư thế đứng thẳng đến kinh người này, đích thị là "Cổ gà rừng" không hề sai.

Ngay tức khắc, mồ hôi lạnh tôi tứa ra ào ào. Loại rắn này cực kỳ hiếm gặp, ở quê tôi, nó được gọi là "lôi vương hồng", hồi nhỏ tôi từng đụng phải nó khi ở trên núi. Các cụ già kể, loài rắn này là đế vương của các loài rắn, tất cả các loại rắn đều khiếp sợ nó, nó trườn sát đất mà phi, hoạt động như chớp giật, hơn nữa, độc không gì sánh được, nơi nó trườn qua, thậm chí cỏ dại cũng phải rạp ra để tránh. Hơn nữa, loài rắn này không thể đánh, đánh chết rồi sẽ có đồng loại tới báo thù.

Tôi về sau có đọc một tập truyện ghi chép thời Thanh, nói loài rắn này chính là tiểu long, cư ngụ dọc theo long mạch của sông núi, còn nói, đó là xà tinh chiếm cứ tại đất long mạch, có nơi có truyền thuyết Thiên lôi trừ yêu quái, phần lớn là kể về chuyện sét đánh lên núi, sau đó sinh ra loài rắn này. Có điều, loài rắn này trong vài thập niên gần đây hầu như đã tuyệt tích, thế mà ở đây lại có, thực sự là ngoài dự đoán của tôi.

Bọn Bàn Tư chưa từng thấy loài rắn này bao giờ, đều rất lấy làm lạ, trong nhóm người chỉ có Muộn Du Bình là sắc mặt cũng biến đổi như tôi. Có điều, thân rắn đỏ rực và tư thế hung dữ, cho thấy đây là một loài rắn cực độc, mọi người cũng không dám hành động thiếu suy nghĩ.

Vừa thoát khỏi miệng trăn, lại gặp phải rắn độc, trong lòng tôi vừa phiền muộn vừa tự nhắc nhở chính mình, xem ra khi ở cái xứ này, đúng là phải cẩn thận hơn gấp bội, không phải chỗ nào cũng có thể chui bừa được.

Liều mạng với trăn thì còn có một đường sống, vật lộn với rắn độc, thường không phải toàn thắng thì sẽ là toàn thua, điều này chẳng ai dám mạo hiểm. Hơn nữa, "Cổ gà rừng" bình thường sẽ không đụng đến con người, hiện giờ nó bày ra vẻ uy hiếp này, là một loại cảnh cáo, có lẽ cái khe này là sào huyệt của nó.

Như vậy, tuyệt đối không thể ngây người thêm nữa, tôi phất tay bảo bọn họ đừng làm tư thế tấn công, từ từ đi ra ngoài. A Ninh giựt xuống một cây pháo lạnh, đưa cho tôi, để tôi dùng làm vũ khí.

Tôi giơ ngang cây pháo lạnh lên trước mặt, để lỡ khi "Cổ gà rừng" có bất ngờ tấn công tôi cũng không đến nỗi phải giơ tay trần ra đỡ. Chúng tôi thận trọng rời khỏi khe núi, từng bước từng bước, cũng rất thuận lợi. Khi đến phiên tôi, tôi cuối cùng cũng coi như là thở phào nhẹ nhõm, quay đầu liếc nhìn vào bên trong khe hở, tối đen không thấy rắn đâu, nghĩ thầm may mà không làm sao.

Đi xuống khỏi khe hở, lại giẫm vào trong nước, Bàn Tử dùng đèn mỏ thăm dò bên ngoài thác nước, chiếu chiếu vài lượt, nói: "Rắn lớn cũng không có ở đây nữa, an toàn rồi..."

Mọi người đều thở phào một hơi. Chúng tôi đi xem Phan Tử đang được Bàn Tử dìu, anh yếu ớt xua xua tay, nói không sao cả, chỉ là lúc bị ngã nên có nội thương, có điều chưa chết được. Chúng tôi nhìn nhau, đều cười khổ, cả đám mấy người áo quần xộc xệch toàn thân đầy bùn, ngực A Ninh gần như lộ hết cả ra, nhưng cô nàng dường như vẫn điềm nhiên như không, đưa tay kéo áo che đi, mà chúng tôi cũng chả có hơi sức đâu mà đi nhìn. Ba lô trang bị chỉ còn lại hai cái, Hắc kim cổ đao của Muộn Du Bình đã mất, trong tay Bàn Tử là con dao găm của tôi, dao của anh ta cũng mất rồi. Trên bả vai Muộn Du Bình và Phan Tử chi chít những lỗ máu, do bị răng con trăn cắn phải, nhất là Muộn Du Bình, có lẽ hắn tỏ ra kiên cường vậy thôi, rất nhiều vết thương đã toác cả ra rồi.

Thực sự không ngờ, chỉ một con mãng xà đã có thể khiến chúng tôi chật vật đến vậy.

Tôi nhìn bầu trời, mưa đã tạnh, sắc trời đã sáng lên, sát biên giới hẻm núi cây cối đã thưa thớt hơn, có thể thấy những tia nắng ban mai của bình minh sắp tới, một bên là thác nước, một bên là rừng rậm, bốn về vang lên tiếng chim hót, nếu như không phải bản thân vừa trải qua một trận ác chiến thì đây là một cảnh tượng tốt đẹp đến mức nào.

Mọi người im lặng hồi lâu ngắm nhìn phong cảnh. Bàn Tử lại hỏi, "Làm sao bây giờ?"

A Ninh đi tới bên thác nước, hứng chút nước mưa đổ xuống, rửa mặt, rồi nói: "Chờ trời sáng, chúng ta quay lại lấy trang bị đã, sau đó tìm một chỗ nghỉ ngơi một chút, ở đây quá nguy hiểm, chúng ta vẫn là mau mau ra ngoài thôi."

Bàn Tử nói: "Mẹ kiếp, cô nói thì dễ lắm, vừa nãy tụi mình chạy hoàn toàn là chạy loạn, không biết cái cây kia giờ ở chỗ nào nữa, biết đi tìm thế nào?"

"Dù thế cũng phải đi tìm, bây giờ không về, đến lúc cần thiết muốn đi tìm cũng không tìm được nữa." A Ninh mệt mỏi xoa bóp mặt, rồi xắn tay áo mình lên, đưa đầu vào trong thác nước tắm gội qua loa một cái, gội xong mái tóc ngắn, rửa trôi sạch bùn đất, gương mặt tươi cười cuối cùng cũng khôi phục lại dáng vẻ như cũ. Rồi kêu gọi chúng tôi xuất phát.

Tôi nghĩ đến việc lại phải trở về nơi đó, thầm thở dài một tiếng, nhưng mà cô nàng này nói không sai, lúc này quả thực phải làm như vậy, chỉ là không để người ta kịp xả hơi, cảm giác còn chưa được nghỉ ngơi vậy.

Mọi người vác đồ đạc của mình lên. A Ninh rốt cuộc vẫn là một cô gái, thích sạch sẽ hơn, thấy chúng tôi đi xa rồi, bèn kéo mở áo mình ra, để nước xối vào lồng ngực mình. Đúng lúc này, khóe mắt của tôi lóe lên một cái, liền thấy bên trong thác nước có một ánh sáng đỏ lóe lên, đồng thời thoang thoáng nghe được tiếng "khặc khặc".

Tôi bỗng nhiên cảm thấy không ổn, nói với A Ninh: "Cẩn thận một chút, cách xa thác nước ra!"

"Sao thế?" A Ninh quay đầu liếc nhìn tôi, không biết vì sao, vẻ mặt cô lộ ra một nụ cười rất nhạt, khác hẳn dáng cười trước kia, tôi nhìn mà kinh diễm.

Ngay đúng khoảnh khắc ấy, loáng một cái, một con rắn đỏ rực vọt ra từ trong thác nước, quấn quanh cổ A Ninh, cái đầu rướn thật cao, sau đó liên tiếp phát ra tiếng "khắc khắc" cao vút thảm thiết. Tôi vừa nhìn liền tiêu rồi! Vứt hết đồ đạc trong tay mà xông qua đó, mới bước được bước đầu tiên, liền nhìn thấy "Cổ gà rừng" cắn một cái nhanh như chớp. A ninh lấy tay cản lại nhưng không kịp, đầu rắn loáng cái liền cắn phập vào cổ cô. Cô hét lên một tiếng, một tay kéo tuột con rắn xuống, ném qua một bên, tay che cổ lại, ngã xuống nước.

Chúng tôi vọt tới, con rắn kia vậy mà không thèm chạy, lập tức lại nhảy vọt lên từ trong nước, bay vút tới chỗ chúng tôi như một mũi tên. Bàn Tử gầm một tiếng, dùng dao bổ tới nhưng lại trượt, mắt thấy sắp trúng rồi, Muộn Du Bình ở bên cạnh lập tức nhảy ra chụp một cái, lập tức bắt được ngay đầu rắn. Thân rắn lập tức quấn lấy cánh tay hắn, đầu rắn lại muốn vụt lên, chỉ thấy Muộn Du Bình dùng tay kia kẹp cổ rắn, hai tay vặn mạnh sang hai hướng ngược nhau, rắc một tiếng, đầu rắn đã bị hắn bẻ thành 360 độ, sau đó ném vọt xuống nước. "Cổ gà rừng" giãy giụa vài cái, sau đó liền bất động, chầm chậm nổi lên.

Chúng tôi vội vàng đi xem A Ninh. Tôi vọt tới ôm lấy cô, đã thấy vẻ mặt cô đã cứng đơ, cổ họng rung động như muốn nói, nước mắt chảy ra, dường như có một vạn điều không cam lòng. Da đầu tôi lập tức tê dại, không biết phải làm sao bây giờ, cả người bắt đầu run rẩy. Sau đó, chỉ vài giây, ánh mắt của cô liền dại đi, toàn thân mềm nhũn, sau đó, gục đầu xuống.

Chương 64. Thành quỷ đầm rắn
Editor: EarlPanda.. Hay thôi kiếm cái gì ngắn ngắn dịch phát để kỷ niệm 817, còn có mỗi 2 chương nữa là hết tập 4, 2 chương tui làm trong bét nhất 4 ngày là xong rồi, trong khi 817 thì 9 ngày nữa mới đến. Bộ các thím không muốn mau ra chương mới à? .*****.

Hai phút sau, A Ninh ngừng thở, chết trong lòng tôi. Trong mái tóc ngắn rối bù, gương mặt xinh xắn khiến người ta không nhìn thấu kia giờ chỉ còn đọng lại một vẻ kinh ngạc, chúng tôi vây quanh cô, mãi cho đến khi cô tắt thở, yên tĩnh, thời gian như đông cứng lại.

Trong bất chợt, tôi cảm thấy tất cả như ngừng lại, trong lòng bi thiết vô cùng, muốn khóc mà không khóc được, ngực như bị cái gì nghẹn lại.

Tất cả chuyện này xảy ra quá nhanh.

Suốt dọc đường đi, tuy rằng nguy hiểm trùng trùng, tôi cũng dự liệu được sẽ có người gặp nạn, nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc cô gái này sẽ chết, hơn nữa, lại chết dễ dàng đến thế, đột nhiên đến thế. Không có bất cứ một dấu hiệu nào, cứ xảy ra như vậy, sau đó, người mới lúc nãy còn đang nói chuyện, lập tức đã chết rồi. Hơn nữa, là chết thật rồi, chúng tôi ngay cả cơ hội để cứu cũng không có.

Tôi mới đầu còn không tin vào cảnh tượng trước mắt, cứ nghĩ mình đang nằm mơ, cô gái này sao lại có thể chết được? Cô ta mạnh mẽ như vậy, xinh đẹp mà giảo hoạt như vậy, bề ngoài yếu đuối mà nội tâm kiên cường như vậy, tuy tôi không thích cô ta, nhưng tôi khâm phục cô từ tận đáy lòng. Nếu phải chết, tất cả mọi người ở đây đều mạnh mẽ hơn tôi, người dễ chết nhất, phải là tôi mới đúng.

Thế nhưng đúng là cô đã chết, ngay trước mặt tôi, dễ dàng đến thế, chân thực vô cùng, cứ như vậy mà chết.

Tôi thoáng cái có cảm giác như thể  bị đánh về nguyên hình, lần lượt các sự việc, tuy rằng đều nguy hiểm trùng trùng, nhưng mấy người chúng tôi đều đã vượt qua. Ngay cả ở Tần Lĩnh tôi cũng chỉ có một mình mà ra ngoài, cũng miễn cưỡng sống sót trở về. Tôi có lần còn tưởng, sau tất cả những chuyện này, những kẻ như tôi đã cực kỳ lợi hại rồi, có kinh nghiệm tương đối rồi, chỉ cần bọn tôi ở cùng nhau, dù có gặp phải nguy hiểm thế nào đi nữa, phần lớn vẫn có thể ứng phó, cho dù có chết, cũng phải là chết ở nơi hiểm nguy nhất trong cổ mộ. Thế mà bây giờ, A Ninh cứ thế dễ dàng chết đi, bởi một con rắn. Tôi bỗng nhận ra, sai rồi, con người vốn chính là loài động vật yếu ớt nhất, bất kể là Muộn Du Bình, Phan Tử, hay tôi, ở nơi như thế này, đã phải chết thì là chết, dù thân thủ tốt, kinh nghiệm phong phú mấy cũng vô ích.

Đây là quy luật thực tế, chứ không phải tình tiết trong phim ảnh hay tiểu thuyết, chỉ cần gặp phải loại chuyện này, chúng tôi đều sẽ chết, cho dù là Muộn Du Bình, nếu khi nãy đứng ngay cạnh thác nước, cũng chắc chắn sẽ chết!

Tôi ngẩng đầu nhìn về phía khu rừng rậm rạp phía trước, lập tức cảm thấy sợ hãi và tuyệt vọng tột độ. Trong nháy mắt đó, tôi quả thực muốn co cẳng mà chạy, mặc kệ tất cả, phải thoát khỏi nơi này.

Bấy giờ, trời cuối cùng cũng sáng, ánh mặt trời từ một bên hẻm núi chiếu xuống, bốn bề đều sáng bừng lên, phía trước hơi nước bốc lên hầm hập, màn nước của thác bắn tung tóe, dưới ánh sáng mặt trời chiếu xuống, tạo thành một đám sương trắng bao phủ lấy bầu không của rừng mưa rậm rạp.

Mỹ cảnh vẫn thế, mỹ nhân chẳng còn.

Phan Tử là một người đã nhìn thấu sinh tử, lúc này mặc dù vẻ mặt cũng là đáng tiếc, nhưng vẫn còn trầm tĩnh hơn so với chúng tôi nhiều. Chỉ là anh bị trọng thương, cũng không nói được gì nhiều, bèn bảo chúng tôi, đây là chuyện ngoài ý muốn, tuy rằng quá đột ngột, nhưng chúng ta phải tiếp nhận rồi, ở đây không biết có còn cái loại rắn này nữa hay không, không thích hợp ở lâu, chúng ta phải đi thôi, tìm một nơi sạch sẽ rồi lại nghĩ cách.

Tôi nhớ đến Muộn Du Bình vừa giết con rắn mào gà kia, trong lòng cũng dâng lên chút buồn rầu, quay đầu nhìn xác rắn lềnh bềnh trên mặt nước thì chợt phát hiện ra, không thấy xác rắn đâu nữa. Nghe nói loài rắn này biết trả thù kẻ đã giết đồng loại nó, không chết không ngừng, quỷ dị lạ thường, ở nơi này lâu quả thực có nguy hiểm, nhớ đến thảm trạng của A Ninh, cũng không ở lại nổi nữa.

Trong khoảng thời gian ngắn, cũng không nỡ bỏ lại xác A Ninh ở nơi này, tôi bèn cõng cô ta lên, Bàn Tử dìu Phan Tử, mọi người không lại đi vào rừng rậm nữa, bèn đi sát dọc theo biên giới hẻm núi, đạp nước mà đi.

Không ai có thể tán gẫu được gì. Bàn Tử cũng không thể nào hát dân ca miền núi nữa, tôi thậm chí không biết vì sao mình lại phải tiến lên phía trước. Trong đầu tôi trống rỗng.

Bước nông bước sâu, ngẩn ngơ đi về phía trước, suốt hơn mười phút vẫn không tìm được nơi nào khô ráo cho chúng tôi nghỉ ngơi. Mặt trời càng ngày càng lên cao, không khí mát mẻ của trận mưa rào đêm qua loáng cái đã không còn, tất cả mọi người đã đến cực hạn, quá mệt mỏi, buổi đêm thì bị tập kích, quần nhau, leo cây, chết, chạy thoát thân, dù là người sắt cũng không có hơi sức đâu nữa rồi. Càng chết hơn nữa là, nhiệt độ càng lên cao, độ ẩm nơi này thay đổi càng nhiều, Bàn Tử không chịu nổi nhất là điều này, suyễn muốn chết luôn, cuối cùng lại biến thành Phan Tử dìu anh ta đi.

Đang suy nghĩ xem có nên nghỉ ngơi luôn tại đây hay không, đột nhiên hẻm núi trước mặt xuất hiện một con dốc, dòng suối nước mưa trên mặt đất trở nên cuồn cuộn mà chảy xuống, hướng xuống phía hạ lưu, chúng tôi cẩn thận đi men theo hướng suối chảy, xuống đến cuối con dốc, liền thấy cửa vào thung lũng xuất hiện trước mắt.

Trong đó cây cối thưa thớt, tất cả chỉ có một vùng đầm lầy đen sì, chừng hơn hai trăm mét, sau đó lại dần dần cây cối rậm rạp lên, phía sau là cả một mảng lớn những sinh vật thủy sinh của rừng mưa đang ngầm mình trong bùn lầy, tuy không cao lắm mọc rất tươi tốt um tùm, xoắn bện khó gỡ, sâu không lường được.

Chúng tôi mấy mặt nhìn nhau, có một cảm giác về số mệnh truyền đến, hóa ra đây gọi là cửa ra khỏi hẻm núi, đêm qua chúng tôi chỉ còn lộ trình hơn mười phút, mà chúng tôi lại chọn lựa dừng lại. Giá như lúc đó chúng tôi kiên trì đi tiếp, có lẽ kết quả đã khác rồi.

Càng đi vào bước về phía trước, đến sát biên giới vùng đầm lầy, từ nơi này nhìn về phía đầm lầy, tầm nhìn có hạn, không mênh mông bát ngát giống như những gì chúng tôi nhìn thấykhi ở trên đỉnh núi đá ngoài thung lũng. Nếu không phải đi men theo vách núi đá, cũng không biết liệu có ra đến được thung lũng hay không nữa. Phía trước vẫn là rừng rậm um tùm, cảm giác chỉ là hẻm núi kéo dài. Đương nhiên vẫn có sự khác biệt, dưới chân càng đi càng cảm thấy không đúng, nước càng ngày càng sâu, hơn nữa, nước bùn lầy ở dưới càng ngày càng không đứng vững được.

Cũng may ở chỗ cạn của đầm lầy còn có một tảng đá rất lớn tương đối bằng phẳng, rất đột ngột mà nổi lên giữa đầm lầy, không bị nước nhấn chìm. Chúng tôi rất lấy làm lạ vì sao ở đây lại có một tảng đá to đến thế, bèn thận trọng lội nước đi đến đó, trèo lên, mới phát hiện ra, trên tảng đá khổng lồ này có điêu khắc rất nhiều đường hoa văn trang trí rất phức tạp, hơn nữa, ở dưới nước còn có một cái bóng cực kỳ to lớn, hình như là một phần của mấy pho tượng cỡ khổng lồ song song với nhau.

Nơi này là một lối đi vào thành Tây Vương Mẫu, Tây Vương Mẫu là vương của Tây Vực, trong suốt một thời gian dài là lãnh tụ tinh thần tuyệt đối của Tây Vực, như vậy, lối vào thành Tây Vương Mẫu đương nhiên không quá mộc mạc. Có lẽ, đây là một pho tượng đá hồi xưa, hoặc là một pho tượng của công trình bảo vệ thành, dùng để uy hiếp tinh thần của sứ giả đến đây. Đương nhiên, sau quá nhiều năm như thế, loại tượng đá này bị nước mưa gột rửa không thể được bảo tồn nguyên vẹn.

Tôi vừa nhìn hoa văn cổ kính trên tảng đá, cũng cảm giác có hơi hơi giống với Angkor Wat, phải nhìn kỹ mới nhận ra đây không phải hoa văn Phật giáo của Campuchia, mà bởi vì tảng đá này cũng bị gió táp mưa sa mà biến thành màu đen màu xám, thoạt trông vô cùng thần bí và cổ xưa.

Đang suy nghĩ, nếu như nơi này có một pho tượng bị sụp đổ, như vậy, bên dưới đầm lầy này còn có những di tích khác nữa, bất chợt nghe thấy Bàn Tử gọi một tiếng, bảo chúng tôi nhìn sang bên kia.

Chúng tôi quay đầu nhìn lại, chỉ thấy phía dưới ánh mặt trời, ở nơi khá sâu trong đầm lầy đen ngòm trước mặt, nhìn thấy chi chít chằng chịt những bóng đen khổng lồ, dường như có gì đó chìm ở bên dưới, thoạt trông thì hình như là đá tảng, một số hoàn toàn chìm hẳn trong nước. Tôi và Muộn Du Bình dùng ống nhòm mà nhìn, mới kinh ngạc phát hiện ra, cái bóng ở dưới nước trong đầm lầy, tất cả dường như toàn bộ đều là những bức tường đổ nát, kéo dài liên tục thẳng cho đến tận trung tâm vùng đầm lầy.

Phế tích của thành cổ Tây Vương Mẫu, ấy vậy mà lại bị chôn vùi dưới một vùng đầm lầy.

"Trong thung lũng này hẳn phải có một tòa thành cổ vô cùng phồn hoa, sau khi nước Tây Vương Mẫu tan rã, thành cổ hoang phế, hệ thống thoát nước sụp đổ, nước ngầm dâng lên, cộng thêm nước mưa mang theo bùn đất cát đổ ngược vào suốt mấy nghìn năm, khiến cả tòa thành bị chôn vùi dưới nước. Xem ra, quy mô thành Tây Vương Mẫu rất lớn, cái bây giờ chúng ta được nhìn thấy chỉ là lông phượng sừng lân." Muộn Du Bình bình thản nói.

Tôi cũng có một chút kinh hãi, thành cổ bị nước nhấn chìm, loại chuyện này thực ra khá là bình thường, diện tích vùng đầm lầy này kỳ thực chắc chắn không lớn, vào thời đó mà thành cổ này đã phát triển đến tận sát biên giới vùng lòng chảo này, chứng tỏ hồi đó nền văn minh ở đây đã phát triển đến thời kỳ cực thịnh. Nhưng nói như vậy thì, cung Tây Vương Mẫu chẳng phải đã ở hết dưới lớp nước bùn này rồi sao, chúng tôi biết vào trong như thế nào đây.

Có điều, nhớ đến sổ tay của Văn Cẩm, vùng đầm lầy này đã hình thành không phải chỉ một năm hai năm, vào thập niên chín mươi của thế kỷ hai mươi, một người trong đội ngũ của cô là Hoắc Linh đã tiến vào cung Tây Vương Mẫu, cũng là sau một cơn mưa rào, như vậy chắc chắn là có cách để đi vào, chỉ là chúng tôi còn chưa đạt đến cảnh đó mà thôi.

Trên tảng đá tương đối khô ráo, tôi đặt thi thể A Ninh xuống, mọi người đều trong tình trạng kiệt sức, bèn ngồi xuống nghỉ ngơi.

Cởi quần áo ra, trải xuống tảng đá mà nằm phơi nắng, Bàn Tử muốn đốt lò không khói, nhưng lục tung trong hành lý mà không tìm thấy cái nào, xem ra trong cơn hỗn loạn đêm qua đã rơi rớt hết rồi, không còn cách nào khác đành phải nhóm lửa, bèn góp nhặt mấy thùng nhiên liệu. Điều không ngờ lại, đầm lầy ở nơi này lại là nước mặn, xem ra ở gần đấy có thông với hồ muối lớn nào đó, may thay có nước mưa từ hẻm núi gột rửa bớt, cơ bản thì không có mùi vị gì, nếu không bọn tôi ngay đến nước để uống cũng thành vấn đề rồi. Tôi thả vài miếng khử trùng vào trước nấu ít nước trà uống. Sau đó múc nước tắm rửa sạch sẽ.

Toàn thân ngâm nước suốt cả một buổi tối, da tôi không khỏi nhăn nheo lại, cởi giày, cả chân bị ngâm nước đến trắng bợt cả ra, tróc cả da, cho dù tôi đã khâu chặt mũi giày rồi, lúc cởi tất ra vẫn có thể nhìn thấy những con gì nhỏ nhỏ như con đỉa đang bám trên chân hút máu, bèn lấy dao ra thiêu chết chúng. Nheo mắt mà nhìn xem, cũng không nhìn ra được là loài sâu bọ gì.

Có điều, nếu trong đầm lầy là nước mặn, vậy số lượng côn trùng hẳn là tương đối ít một chút. Chí ít ở đây không có khả năng sẽ có loài đỉa nước mặn, đối với chúng tôi muốn đi vào sâu trong đầm lầy, đây là một tin tức rất tốt.

Phan Tử đưa cho tôi điếu thuốc của anh, nói rằng đây là thuốc quê, lúc chia tay với Trát Tây anh đã hỏi xin một ít, có thể trừ thấp. Ở nơi ẩm ướt như thế này, chỉ cần một tuần thôi là bị ngâm nước hỏng luôn rồi, hút mấy hơi, tránh cho sau này về già muốn đi đường cũng không đi nổi.

Tôi nhận lấy mà hút, thuốc được bọc trong bao nilon, có điều, trải qua trận giày vò đêm qua, cũng hơi ẩm rồi, hút được vài hơi mà sặc chết đi được, nước mắt chảy ròng ròng, có điều quả thực rất có cảm giác, cũng không biết là về mặt sinh lý hay về mặt tâm lý nữa, hút vài hơi mà đầu óc tỉnh táo không ít, bao nhiêu mệt nhọc loáng cái đã không còn rõ ràng rồi.

Bàn Tử cũng muốn, Phan Tử bèn bẻ nửa cây cho anh ta. Anh ta đốt thuốc, hút vài hơi liền hết rồi, lại đòi nữa nhưng Phan Tử không cho. Lúc này, chúng tôi thấy Muộn Du Bình không lên tiếng gì cả, hắn đang nhìn một bên đầm lầy như đang suy nghĩ điều gì, Phan Tử chắc là cảm thấy thiếu hắn ta nữa thì không hay lắm, bèn cũng đưa cho hắn nửa điếu. Tôi vốn tưởng rằng hắn sẽ không nhận, không ngờ hắn lại nhận thật, chỉ có điều hắn không đốt, mà bỏ vào miệng nhai.

"Đệch, Tiểu Ca cậu không ăn thì cũng đừng làm hỏng đồ chứ." Bàn Tử kháng nghị, "Thứ này đâu phải để ăn."

"Chú thì biết cái gì, ăn thuốc lá còn hăng hơn hút đấy, ở Vân Nam và Myanmar phần lớn người ta đều nhai cả." Phan Tử nói, có điều, nói xong cũng cảm thấy buồn bực, bèn nhìn Muộn Du Bình: "Có điều, xem Tiểu Ca đâu giống người nghiện thuốc? Sao biết nhai thuốc lá vậy? Cậu từng làm thủy thủ hả(*)?"

Muộn Du Bình lắc đầu, nhai vài cái rồi nhổ thuốc lá ra, dùng bã thuốc bôi loạn mấy vòng lên vết thương của mình. Tôi liếc nhìn một cái, chỉ thấy da thịt ở lòng bàn tay hắn đã trắng bợt cả ra, mặc dù không chảy máu, nhưng hiển nhiên nhiệt độ cao ở đây khiến vết thương rất khó khép miệng, bôi xong hắn nhìn Phan tử, Phan Từ nhìn lại hắn với ánh mắt hoài nghi không tin tưởng. Thế nhưng hắn không có bất kỳ ý kiến gì, lại quay đầu về nhìn đầm lầy, không để ý đến chúng tôi nữa.

Cảnh này chúng tôi cũng quen rồi, Muộn Du Bình đối với tình trạng của bản thân, hầu như lúc nào cũng giữ kín như bưng, nhưng mà tôi biết rõ, những vấn đề này phần lớn đều có liên quan đến cái đáp án mà ngay chính bản thân hắn cũng không biết ấy, "Đột nhiên có một người xuất hiện, không có quá khứ, không có tương lai, dường như không có bất kỳ mối liên hệ gì với thế giới này", đây là những lời đánh giá của hắn về chính mình, thi thoảng ngẫm lại thực sự thấy chuẩn xác vô cùng.

Cởi trần trùng trục, cộng thêm hơi nước bốc lên trên người, cảm giác có chút thoải mái, cảm thấy tỉnh hơn chút rồi, Bàn Tử bèn lấy thịt khô nén ra cho chúng tôi ăn, chúng tôi ăn uống nhồm nhoàm một bữa, cũng không biết là cái mùi vị gì, nói chung chỉ cần lấp đầy dạ dày là được. Đến khi bao tử no đã đời thì lại mệt rã rời, thế là Phan Tử bèn dùng ba lô và các vật dụng bên trong đắp lên thành một nơi che bớt ánh sáng mặt trời, anh ngồi canh gác, còn đám người chúng tôi thì rúc vào trong đó. Trong lòng mọi người đều hiểu rõ, sau khi vào trong vùng đầm lầy rồi thì không còn cơ hội để nghỉ ngơi nữa, bây giờ có thể ngủ ngon chính là một loại quyền lợi, cũng không có suy nghĩ dư thừa gì, vừa nằm xuống là gần như mắt tối sầm lại luôn, thế là ngủ.

Một giấc này ngủ đến mụ mị, cũng không biết đã ngủ bao nhiêu lâu. Mơ mơ màng màng tỉnh lại, phát hiện bốn phía đã tối đen, cả người nhớp dính, dụi dụi mắt mà nhìn, phát hiện trời đã tối mịt, hơn nữa lại còn mưa. Phan Tử ở một bên ngã vào đống hành lý, cũng đang ngủ, Bàn Tử ở cạnh tôi, ngáy khò khò, còn Muộn Du Bình quay mặt vào trong, cũng ngủ rất say.

Ở xa xa, mấy thùng nhiên liệu vẫn đang cháy, có điều bị nước mưa bắn vào ngọn lửa đổi màu xanh lam, không chiếu ra được xa mấy. Tôi lấy chiếc đèn bão, tìm lửa đốt lên, sau đó gọi mấy người khác tỉnh dậy, bấy giờ lại phát hiện có điều không ổn.

Hóa ra, túi ngủ bọc thi thể A Ninh ở một bên, không biết đã bị kéo mở ra từ bao giờ, nửa thân trên của A Ninh bèn lộ ra ngoài.

.

.

—————-

(*) vốn là 跑船, tức là đi thuyền mua hàng hóa rẻ ở nơi này sang nơi khác bán đắt ăn chênh lệch, số chênh lệch đó còn phải trừ tiền thuế nữa, phần còn lại mới là của mình.

Tự dưng nhớ, không biết ai còn nhớ thời bao cấp, nghề thủy thủ viễn dương, rong ruổi trên các con tàu đi viễn dương, nhặt rác thải ở nước ngoài, đem về nước bán lại. Mỗi con tàu có hạn định được mang từng này từng này hàng, kiểm kê để còn đánh thuế, đương nhiên thì hành động giấu đồ trốn thuế vẫn thường xuyên, và bị truy tố vào tù cũng thường xuyên. Thời ấy, rác ở nước ngoài là vàng ở nước mình.

Chương 65. Dấu chân của thi thể
Editor: EarlPanda.. He he, post hết luôn, hẹn các thím 817 bóc tem tập 5..*****.

Đây vốn là một việc hết sức bình thường, bước đi trong sa mạc, trước khi tiến vào ốc đảo, bọn tôi đều cởi trần hết, nửa người dưới thì che trong túi ngủ sưởi ấm, làm như thế thì khi có chuyện gì bất ngờ xảy ra thì có thể nhanh chóng ngồi bật dậy. A Ninh cũng hay nằm ngủ trong túi ngủ như thế, suốt chẳng đường nhìn thấy không biết bao nhiêu là lần rồi, hết sức quen thuộc, mà giờ ngẫm lại, lại nghĩ đến cái chết của cô, cảm thấy thật thê lương.

Có điều, lúc tôi ngủ, thi thể rõ ràng là hoàn toàn khóa kín lại trong túi ngủ, ai lật cô ra ngoài nhỉ? Chẳng lẽ là Phan Tử? Anh ấy lôi cô ta ra ngoài để làm gì nhỉ?

Tôi đứng lên, đến bên thi thể nhìn xem, tôi liền phát hiện hình như có gì không ổn. Thi thể quả thực đã bị ai đó động vào, không biết vì sao hai cánh tay co quắp lại một cách mất tự nhiên, hình dạng cái xác có chút kỳ quái.

Tôi vô thức nhìn chung quanh, sắc trời quá u tối, ở trong vùng đầm lầy khác với ở trong hẻm núi, bốn phía cây cối tương đối thưa thớt, không có thứ gì có thể chiếu sáng, ngọn lửa từ thùng nhiên liệu cháy đã nhỏ liu riu, khắp chung quanh chìm vào bóng tối đen đặc, không nhìn thấy cái gì.

Tôi quay sang gọi Phan Tử dậy, Phan Tử ngủ không sâu, vỗ một cái liền tỉnh lại, tôi bèn hỏi anh xem có phải là anh làm điều ấy hay không?

Phan Tử ngơ ngác không hiểu gì, lại gần xem, chỉ lắc đầu, ngược lại còn dùng ánh mắt hoài nghi mà nhìn tôi, tôi thấy vẻ mặt của anh cũng không giống giả bộ, lại càng thấy buồn bực.

Tôi lập tức nghĩ đến Bàn Tử, nghĩ thầm lẽ nào Bàn Tử lại nhìn trúng di vật gì trên người A Ninh rồi? Cái tên khốn kiếp này ngay cả đồ của người mình cũng không tha à? Nhưng Bàn Tử trong ấn tượng của tôi, tuy rằng tham tài, nhưng việc như thế này không nhiều khả năng là do anh ta làm.

Phan Tử đến một bên đầm lầy rửa mặt, rồi đi tới bên cạnh thi thể A Ninh, bật đèn mỏ chiếu xuống xem, muốn nhìn xem rốt cuộc là có chuyện gì xảy ra.

Mặt A Ninh vẫn đọng lại vẻ mặt ngay một khắc tử vong kia, bây giờ nhìn mà thấy hơi đáng sợ. Thi thể bị nước mưa thấm ướt, Phan Tử ngồi xổm xuống, vén lại tóc rơi trên mặt cho gọn gàng một chút, chúng tôi liền nhìn thấy vết thương do bị cắn trên cổ A Ninh, đã biến thành một màu đen bầm, bắt đầu rữa nát, da dẻ trên người loang lổ những đốm tím sẫm, nhiệt độ cao của nơi này đã bắt đầu mục ruỗng dần thi thể xinh đẹp này.

Chiếu đèn xuống xem, chúng tôi liền phát hiện quần áo trên thi thể có mấy vết bùn, Phan Tử sờ một cái, hình như lúc dính vào không lâu lắm, chúng tôi bỗng phát hiện ở bên cạnh thi thể có mấy vết gì đó nhỏ nhỏ trông như vết chân bùn.

Phan Tử liếc mắt nhìn tôi, dựa vào những dấu vết bùn này, phát hiện vết chân là đi lên từ dưới đầm lầy, bởi vì trời mưa, nên trông không còn rõ nữa, chỉ có những dấu vết bên cạnh thit thể là rõ ràng.

Trong đầm lầy có cái gì đó! Thần kinh chúng tôi lập tức căng thẳng, cổ họng nghẹn lại một cái, hai người liếc nhìn nhau, tôi bèn xoay người đi đánh thức bọn Bàn Tử. Phan Tử đứng lên, cầm súng, rồi đi theo dấu chân đến bên bờ đầm lầy, ngồi xổm xuống, chiếu đèn xuống nước.

Bàn Tử gọi không dậy, Muộn Du Bình vừa sờ vào đã mở mắt, không biết là có phải đang ngủ thật không nữa, tôi kể lại tình hình cho hắn nghe, hắn liền nhíu mày.

Hai chúng tôi đi tới bên cạnh Phan Tử, dưới nước đục ngầu, chiếu xuống cũng không nhìn thấy rõ cái gì cả, Phan Tử chiếu ra mấy vết chân bùn cho Muộn Du Bình xem, nói: "Mẹ kiếp, hình như trong lúc bọn mình ngủ, có cái gì bò lên trên, xem ra sau này có đánh chết tôi cũng không ngủ nữa."

Chiếu xuống một vết chân, sắc mặt Muộn Du Bình lập tức thay đổi, hắn nhận lấy chiếc đèn mỏ, nhanh chóng quét một lượt quanh thi thể, bèn ngăn bọn tôi đến gần thi thể.

"Sao thế?" Tôi hỏi.

"Chỉ có một hàng vết chân, thứ kia còn chưa đi." Hắn nhẹ giọng nói.

Chương 66. Âm mưu của bầy rắn
Editor: EarlPanda.. He he, post hết luôn, hẹn các thím 817 bóc tem tập 5..*****.

Chúng tôi vừa nãy vốn không hề chú ý có bao nhiêu hàng dấu vết, nghe Muộn Du Bình vừa nói, bèn thăm dò chỗ vết chân, quả nhiên là thế, như vậy chúng tôi càng phải đề phòng hơn nữa. Phan Tử lập tức giương súng lục của mình lên, nhắm ngay về phía thi thể của A Ninh.

Chúng tôi lùi về sau mấy bước, ở bên kia Muộn Du Bình giơ đèn mỏ lên chiếu về phía thi thể, đồng thời ra hiệu cho chúng tôi gọi Bàn Tử dậy.

Trước đó đã phải trải qua một trận vật lộn sinh tử, rồi lại gặp phải biến cố A Ninh đột nhiên chết đi, thần kinh của tôi đã sớm không chịu nổi nữa. Bây giờ chưa được yên tĩnh mấy phút thần kinh đã lại phải căng lên, làm tôi cảm thấy cực kỳ bức bối. Có điều, tôi cũng không hề sợ hãi, mà chỉ lùi ra phía sau đến bên Bàn Tử, trước tiên sờ sờ móc lấy con dao găm trên người Bàn Tử đã, sau đó tát cho anh ta mấy phát.

Nhưng Bàn Tử ngủ say như chết vậy, tôi tát anh ta mấy cái liền, thế mà anh ta chỉ hơi nhíu mày một chút, vẫn chưa chịu tỉnh. Tôi lại đánh tiếp, nhưng cảm thấy mặt anh ta toàn là mồ hôi.

Tôi chợt cảm thấy có chút không ổn, làm sao mà lại có người ngủ đến mức ấy, hay là đổ bệnh rồi? Nhưng sờ trán Bàn Tử lại không thấy nóng gì, tôi nghĩ thầm lẽ nào là đang nằm mơ? Đang lúc muốn nhéo anh ta thât mạnh, tôi bất chợt nhìn thấy, bên cạnh chỗ Bàn Tử nằm cũng có loại dấu bùn rất nhỏ đó. Vả lại còn nhiều và lộn xộn hơn cả chỗ A Ninh.

Tôi nghĩ bụng không xong rồi, vội vã đứng phắt lên lùi ra sau, lớn tiếng gọi Phan Tử.

"Sao thế?" Phan Tử quay đầu lại, tôi chỉ vào chỗ dấu bùn, bảo anh ấy nhìn. "Ở đây cũng có!"

Phan Tử vừa liếc về phía thi thể A Ninh, vừa lùi về bên cạnh tôi, cúi đầu vừa nhìn, liền chửi một câu mẹ kiếp, chuyển nòng súng lại gần. Muộn Du Bình ở bên cũng quay đầu lại nhìn thấy, lùi lại.

Ba người hết nhìn thi thể, lại nhìn sang Bàn Tử. Tôi nghĩ bụng, tình hình phức tạp rồi, thi thể còn dễ xử lý, cũng không cần phải suy xét nhiều gì. Phan Tử nhìn Muộn Du Bình một cái, cả hai người bèn dùng tay ra hiệu, rõ ràng là đang trao đổi ý kiến gì đó. Phan Tử giơ súng lùi đến sát biên giới dưới chân vách đá, cách xa cả thi thể lẫn Bàn Tử, làm như vậy có thể đồng thời giám sát cả hai hướng. Còn Muộn Du Bình đưa đèn cho tôi, bảo tôi chiếu vào Bàn Tử, đồng thời cầm con dao trong tay tôi đi, khom lưng xuống dùng một tư thế rất tốn sức, đi đến bên người Bàn Tử.

Đó là tư thế nửa ngồi xổm, chân khom xuống, hơi cúi người, nhưng lại không phải ngồi xổm xuống hoàn toàn, làm như vậy có thể duy trì độ linh hoạt lớn nhất khi có biến cố gì xảy ra. Hắn tới gần Bàn Tử, cũng không quay đầu lại mà giơ tay ra hiệu cho tôi, bảo tôi di chuyển đèn, chiếu sang hướng vết chân bên cạnh Bàn Tử.

Bầu không khí rất gay go, tôi thầm mắng một tiếng, nghĩ bụng bao giờ những chuyện kiểu này mới kết thúc đây? Tôi di chuyển ngọn đèn, trong chớp mắt đó, bỗng nhiên có hai, ba vật thể không rõ vọt ra từ phía bả vai của Bàn Tử với tốc độ chớp nhoáng, loáng cái đã vụt qua phạm vi chiếu sáng của đèn.

Tốc độ kia quá nhanh, chỉ một chớp mà mắt tôi hoa lên. Nhưng tôi theo phản xạ có điều kiện, trực tiếp xoay đèn ra chiếu về phía mấy vật thể kia vừa lao vọt qua. Đáng tiếc chẳng chiếu tới được cái gì, chỉ nghe được liên tiếp những tiếng vật gì đó nhảy vào trong đầm lầy. Đồng thời, thi thể A Ninh ở bên kia cũng đột nhiên có động tĩnh, cũng là những tiếng rơi xuống nước liên tiếp, cảm giác như thể ở bên bờ ruộng có rất nhiều ếch xanh bị kinh động vậy.

Phản ứng của Muộn Du Bình rất kinh người, thế mà giờ với tốc độ quá nhanh như thế, hắn ta cũng không có cách nào. Hắn chỉ xoay người nhanh như bay, nhưng rồi ngay bước đầu tiên cũng chưa bước đã bỏ cuộc. Hắn phất tay bảo tôi qua đây, chiếu đèn vào trong nước.

Tôi xông lại gần giơ đèn mỏ lên chiếu vào trong nước, lập tức liền thấy mấy gợn sống trên mặt nước và mấy đường nước nhanh chóng vụt ra đằng xa, lặn vào trong đầm lầy.

"Là cái gì thế? Chuột nước à?" Tôi hỏi, cảm giác đầu tiên chính là cái này. Vào những năm chín mươi ngày xưa, thành phố còn chưa xây dựng hoàn thiện, gặp được không ít loài chuột này đâu.

Muộn Du Bình lại lắc đầu, sắc mặt trầm xuống: "Là rắn! Là loại rắn mào gà."

Tôi líu cả lưỡi, nhìn những dấu vết liên tiếp để lại trên mặt đất, bỗng nhận ra quả không sai, đó chính là dấu vết của rắn, thảo nào vừa hơi giống lại vừa không giống dấu chân. Nhất thời một suy nghĩ chẳng lành dâng lên trong lòng tôi, truyền thuyết kể rằng, rắn có tính báo thù rất mạnh, hơn nữa, hành động lại quỷ dị, hiện giờ quả nhiên là đã tìm đến cửa rồi.

Tôi bấy giờ phát hiện Bàn Tử vẫn chưa tỉnh lại, trong lòng không khỏi giật mình, nghĩ thầm lẽ nào Bàn Tử bị cắn rồi?

Tôi lập tức đi xem Bàn Tử, bởi vì không biết có phải tất cả lũ rắn đã đi hay chưa, cho nên tôi bèn thật cẩn thận lại gần, trước tiên đẩy đẩy anh ta một cái. Không ngờ lần này đẩy phát anh ta liền tỉnh dậy, hơn nữa, còn ngồi bật dậy ngay lập tức, sắc mặt tái nhợt, thế nhưng vẫn còn mơ mơ màng màng. Anh ta nhìn mấy người bọn tôi, lại nhìn bầu trời, có hơi ngơ ngác chẳng hiểu gì. Thấy bọn tôi nhìn anh ta cứ như lâm đại địch, mãi nửa ngày sau mới mở lời nói: "Mấy người nhìn cái mẹ gì đấy? Bàn gia ta bán nghệ không bán thân, nhìn tôi cũng vô dụng."

Nhìn dáng vẻ anh ta như vậy thì chắc không có việc gì rồi, chúng tôi thở phào nhẹ nhõm. Nhưng tôi vẫn chưa yên lòng, bảo Bàn Tử quay lại, kiểm tra một lượt đã, xác thực là không bị cắn thật. Bàn Tử thấy tôi cởi áo anh ta ra, càng ngơ ngác hơn, hỏi tôi chuyện gì xảy ra thế, tôi liền kể chuyện vừa rồi ra.

Bàn Tử bán tin bán nghi, chúng tôi cũng không rảnh giải thích với anh ta, bèn đứng dậy đi đến bên cạnh thi thể A Ninh. Tôi chiếu đèn xuống chỗ bên cạnh đầm lầy, hoàn toàn là một màu đen ngòm, không nhìn thấy cái gì cả, trên tảng đá bên cạnh thi thể toàn bộ là những dấu vết lũ rắn vừa nãy rời đi.

"Mẹ kiếp đúng là tà môn, lẽ nào túi ngủ này là do rắn mở ra?" Phan Tử khẽ lẩm bẩm một câu, rồi dùng súng đập đập vào trên dưới thi thể, xem có còn rắn ở trong đấy hay không.

Không có rắn vọt ra, nhưng tôi lại cảm thấy cực kỳ bất an, một cảm giác khủng hoảng như ác mộng lan tràn ra khắp trong tôi. Trong lúc chúng tôi ngủ, có mấy con rắn mào gà bò lên từ dưới đầm lầy, bò xuống dưới thân Bàn Tử và A Ninh, lại còn không biết làm sao mà mở được túi ngủ của A Ninh. Đây đúng là quỷ dị, chúng rốt cuộc muốn làm gì? Tôi nhìn vùng đầm lầy đen ngòm, cứ có cảm giác, nhất định phải có chuyện gì không lành xảy ra.

Những người khác đều có cảm giác thế này. Muộn Du Bình ngồi xổm xuống, kiểm tra thi thể A Ninh một chút, cũng không phát hiện ra điểm gì lạ thường, ra hiệu một cái, ý bảo chúng tổ bật hết đèn mỏ lên, hắn nhìn kỹ một chút tình hình dưới nước.

Chúng tôi làm theo lời Muộn Du Bình, Bàn Tử ở một bên cũng tới hỗ trợ. Chúng tôi mở đèn mỏ phân ra bốn người đứng bốn hướng, bắt đầu chiếu một lượt xuống nước, mới chiếu được vài vòng, bỗng Bàn Tử ở phía sau kinh ngạc kêu một tiếng.

Chúng tôi tưởng rắn lại xuất hiện, lập tức xoay người, nhìn theo hướng ánh sáng của anh ta, liền thấy ở cách chúng tôi khoảng hai mươi mấy mét trong đầm lầy trước mặt lại có một bóng người, hình như là chui ra từ bùn lắng đầm lầy.

Ánh sáng của một ngọn đèn mỏ chiếu thì không thể nhìn thấy rõ ràng, lập tức tất cả các đèn đều tụ lại với nhau, chỉ thấy một người toàn thân đầy bùn, đứng ở trong nước ngập đến thắt lưng, nhìn chằm chằm bọn tôi như một con quỷ nước.

"Chó chết, đấy là cái gì?" Bàn Tử kêu lên.

Muộn Du Bình nhìn kỹ, bỗng kinh hô một tiếng: "Trời ạ, là Văn Cẩm!" Nói đoạn xông vào trong đầm lầy, lội về phía người kia.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro