Ám ảnh mỗi khi về quê

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Quê em ở Ninh Bình, một vùng quê được bao phủ bởi núi đá trùng điệp, người thì thưa mà đất thì rộng, rừng cây um tùm bốn phía. Đến tận bây giờ, những năm của thế kỉ 21 mà ở quê em vẫn còn diễn ra chuyện hổ vào làng vồ trâu, trăn gió nuốt trộm dê, bò.

Để trị hổ, trăn thì còn có súng đạn, bẫy, lưới,... nên người dân quê em cũng chẳng ngại gì lắm. Có người còn mừng vì chỉ mất vài con dê mà đổi lại được một con hổ hay một con trăn, bán rẻ cũng phải vài chục triệu. Nhưng dù có không sợ trời không sợ đất thì người dân quê cũng luôn mang trong mình nỗi sợ mơ hồ về một thứ không rõ ràng, đó là Ma. Sau đây em xin tổng hợp lại những chuyện em được nghe kể từ chính người thân của mình, và những câu chuyện em cóp nhặt được khi đi chơi ở những huyện khác trong tỉnh.


Chuyện thứ nhất: Ma chó

Đó là vào những năm 60, khi ông em vừa từ chiến trường Điện Biên Phủ trở về. Ông em kể lại rằng: Hôm đó, ông vừa hoàn thành xong một số việc giấy tờ, họp bàn với anh em trong đơn vị về việc tập kết để chuẩn bị vào Nam. Sau buổi họp thì đã xế chiều, anh em chào tạm biệt nhau rồi ai về quê người nấy, hẹn ngày 25 tháng Giêng, hai năm sau thì tất cả tập chung tại trụ sở của đơn vị. Nóng lòng muốn về nhà sau gần chục năm xa vợ xa con, ông em bắt ngay chuyến tàu cuối cùng của ngày hôm đó để về quê. Lúc ông xuống đến gha Ghềnh thì đã muộn lắm rồi, nhìn lên đồng hồ treo ở nhà ga thì bây giờ là 2 giờ sáng. Nhưng đang nóng lóng về nhà, lại thấy có sáng trăng nên ông quyết định đi xuyên đêm về nhà. Tính ông em vốn bạo gan, lại chẳng tin vào chuyện hồn ma bóng quế nên ông bỏ ngoài tai lời khuyên từ những người khách ở ga, khuyên ông nên ở lại đến sáng hãy về vì dạo này có lắm lời đồn về ma quỷ ở ngã ba vào thôn, ông cứ thế thẳng bước đi về, lòng chỉ mong về sớm được lúc nào hay lúc ấy. Đêm hôm đó, một mình ông đi trên con đường đất dài hơn 6 cây số từ ga Ghềnh về làng. Hai bên đường toàn là cây cối rậm rì, cách vài trăm mét mới có một vài nhà, thời đó lại chẳng mấy nhà có đèn điện, nên nhìn ngút tầm mắt chỉ thấy toàn cây là cây, thỉnh thoảng tiếng chim khắc ăn đêm lại kêu khé khé đến rợn người. Cơ mà ông em chẳng sợ, lại có sáng trăng nên cứ sải bước mà đi, vừa đi vừa nghĩ xem giờ này ở nhà đang làm gì. Đi được một lúc thì ông em bống thấy một con chó trắng tinh đi trước, cách ông một quãng ngắn, ông em thấy lạ liền bước nhanh về trước xem sao, vì ở quanh đây làm gì có mấy nhà mà có chó chạy ra đến tận đây, lại còn chó trắng tinh như chó nhà bọn theo Tây. Nhưng lạ là ông đi nhanh thì con chó cũng đi nhanh, ông đi chậm thì còn chó cũng đi chậm, lúc ông thử đứng lại thì con chó cũng đứng lại, mấy lần như vậy thì ông em nhận ra rằng cái thứ đi trước mình chẳng phải là chó mèo nhà nào cả. Ông em liền nhặt vài cục đá, đinh bất ngờ lao tới gần ném con chó xem nó làm sao, nghĩ sao làm vậy, ông em vơ bên vệ đường vài viên đá to bằng 2 nắm tay, ông ném liền ba phát: "Cục! Cục Cục...!" , tiếng đá chạm đất nghe đinh tai, nhưng ông em tự lại thấy lanh gáy vì từ nãy đến giờ cả ba phát ông em ném đều trúng lưng và đầu con chó, nhưng tại sao lại là ba tiếng đanh như vậy, mà con chó thì chẳng có phản ứng gì, vẫn lững thững đi trước ông. Ông em lúc này bắt đầu thấy ghê tay rồi, nhưng ông không biết sợ là gì nên lại cầm đá, lần này ông dồn sức ném thật mạnh, thì bống ùm một cái, con chó nhảy luôn xuống cái ao hoang bên đường rồi mất hút.Thấy chỉ ném vài viên đá mà đuổi được cái thứ kia nên ông em càng vững dạ, lại tiếp tục hướng thẳng đến làng. Đi thêm một lúc, ông em ước chừng chỉ còn vài cây là về đến nhà thì chợt ông em khựng người lại, đằng trước ông lại là con chó đó đang đi lững thững. Lúc này thì ông em không cảm thấy sợ nữa mà thấy cay lắm vì từ trước đến nay chưa ai dám chọc phá ông đến như thế cả. Ông khẽ rút từ trong ba lô ra con dao găm dài non một thước tây, hơi giấu vào sau lưng để thủ thế (vẫn là con dao này, con dao ông đã dùng để quần nhau với một con hổ khi còn trên Việt Bắc, đến giờ mặt ông em vẫn còn một vết sẹo, kết quả của cái tát với cuối cùng của con hổ, nhưng may sao ông em dùng dao gạt được từ đó ông em coi con dao này như vật hộ mệnh, mỗi khi có hiểm nguy thì ông đều sờ đến con dao đầu tiên).

Vừa thủ con dao, ông em vừa đi tiếp, nhưng lần này ông bước thận trọng hơn. Đi tiếp đến đầu cầu thì con chó không còn giữ khoảng cách với ông nữa, ông em đến gần nó hơn. Và lần này thì ông thực sự thấy lạnh toát ống lưng khi thấy con chó bống nhảy phốc lên trên thành cầu, từ từ đi bằng hai chân sang bên kia cầu, cái thành cầu chỉ rộng bằng phần ba quyển vở học sinh, vậy mà con chó đi không hề chao đảo. Giờ thì ông em bắt đầu thấy lạnh dần từ sống lưng lên gáy, ông vẫn tiến tiếp, mắt ông theo sát con chó, tay chỉ chực vung con dao găm ra tấn công. Con chó đi tiếp đến đầu cầu bên kia, rồi nó ngồi trên cái trụ cầu, quay đầu lại nhìn chăm chằm vào ông, cái mõm hơi há ra như đang cười.Giờ, khoảng cách giũa ông và nó chỉ còn khoảng vài mét. Ông em đứng im mất vài giây rồi bất ngờ đâm thẳng con dao về phía trước, vọt người đến chỗ con chó, ông chửi to: " ĐM mày! Để tao xem mày là ma cỏ gì mà dám trêu vào tao!" Bất chợt con chó ẳng một tiếng rồi nhảy ùm xuống sông không thấy bóng dáng đâu nữa. Lúc này ông em mới thở phào nhẹ nhõm, đoạn đường tiếp theo về làng, ông em vẫn chú ý đề phòng con chó kia nhưng tuyệt nhiên không thấy nó đâu nữa.

Chuyện thứ hai: Nhà thầy học

Cách đây hơn hơn 70 năm, khi ấy ông em vẫn còn là một thầy khóa, mang trong mình ước mơ khoa bảng để làm rạng danh tổ tiên. Hồi đó chữ nho và thi cử kiểu cũ vẫn còn thịnh ở các làng quê, những người đồng niên với ông đều theo học một ông tú trong làng. Nhưng vì ban ngày ai cũng phải lo việc đồng áng, buôn bán nên đến tối lớp học mới bắt đầu. Lớp học của ông nằm trên một quả đồi thoải thoải, biệt lập với xóm làng xung quanh. Suốt 2 năm đầu mọi chuyện vẫn diễn ra bình thường, tối đến thì học, học xong buổi thì về, trò nào nhà xa thì ngủ lại nhà thầy, cho đến một hôm.
Đêm hôm đó, ông tú dạy xong thì phải sang làng bên chuẩn bị đám cưới cho con của một người bạn, trước khi đi, ông tú dặn học trò ở lại ngủ thì cẩn thận, lại cắt cử thêm mấy trò lớn tuổi nhất ở lại để trông nom bọn trò ấu học. Ông em tuy không nằm trong nhóm cắt cử ở lại nhưng nể lời bạn nên cũng ngủ lại vì chẳng mấy khi anh em có dịp hàn huyên, nhưng ông không thể nào ngờ nổi đêm nay lại là đêm khởi đầu của một chuỗi biến cố không chỉ với mình ông mà còn với cả cái làng nhỏ vốn bình yên này .
Thầy đi được một lúc thì mấy trò lớn liền bàn ngay chuyện phân chia chỗ sao cho hợ lý. Bàn đi bàn lại một hồi thì mấy anh em liền hò nhau trải chiếu ra hiên mà nằm vì trong nhà vừa chật vừa nóng, mà nằm ngoài thì anh em lại được nói chuyện dễ, thích thì thức đến sáng mà bàn luận thơ văn cũng được. Thế là anh trưởng tràng liền phân chố nằm, cứ lớn nhất thì nằm ngoài, nhỏ dần, nhỏ dần thì chia mà nằm vào trong, để dãy ngoài cho các huynh lớn bàn truyện Nhưng bàn thơ, bình văn thì chẳng thấy đâu, chỉ thấy các anh bày đủ trò ra mà mà chọc phá nhau. Anh trưởng tràng được thể, chỉ tay ra vườn đùa: "Bọn mông học với ấu học nhìn cho kĩ nhớ! Thấy gì kia không? "Ngài" về đấy, đứa nào cười, đứa nào khóc, ngài ném cho u đầu" . Anh trưởng tràng vừa dứt lời thì "Xoảng!", một viên ngói ném từ trong vườn ra, trúng sát ngay bên cạnh chỗ anh trưởng tràng nằm. Mấy anh em thấy thế thì cười rộ lên, bảo nhau:" Thiêng thế nhỉ! Vừa có đứa cười xong, giờ lại sắp có đứa khóc đấy" Lúc này thì anh cáu lắm, chửi đổng: " Mẹ bọn trẻ con dưới xóm lên đây phá ! Ông bắt được thì ông vặn cổ chúng mày" Mấy anh em vừa cười xong giờ cũng bắt đầu thấy tức cho huynh lớn nên cũng hùa nhau vào chửi. Nhưng tiếng chửi vừa dứt thì liền 5-6 viên ngói ném từ trong vườn ra. Mọi người thấy thế thì đồng loạt đưa tay lên che đầu, vậy mà cả 5-6 viên ném ra đều không ai làm sao cả, trong khi toàn ném trúng ngay sát bên người, chỉ cần lệch thêm li nữa thì tan người.Bỗng một anh nhanh tay nhặt mảnh ngói còn nguyên, định ném trả. Nhưng chưa kịp ném thì anh này đã líu lưỡi lại, mặt cắt không còn giọt máu. Cả đám thấy vậy liền nhìn theo hướng anh kia, và hơn chục người cùng im bặt. Thứ mà anh kia nhìn thấy là một cái bóng nhỏ như đứa trẻ 5 tuổi, đỏ lừ như than hồng đang nhảy loi choi khắp vườn. Cái bóng đó bống đi chậm lại rồi từ từ tiến về vườn sau, nhưng càng đi thì cái bóng càng đen lại và to dần, người cứ ngày một tròn dần như cái ụ mối. "Nó" cứ thế đi dần ra vườn sau rồi mất, lúc gần đi đến cái hàng rào thì nó đã to như đống rơm rồi. Mấy anh hàng ngày gan lì cóc tía mà giờ đều sợ xanh mặt, im như phỗng. Sau đấy thì chẳng ai nói với ai câu nào, chỉ nhìn nhau rồi thức đến sáng, bọn ấu học với mộng học vẫn ngủ say chẳng biết gì. Sáng hôm sau, ông tú về, đem theo bao nhiêu là quà bánh, xôi thịt,... nhưng ông thấy lạ là sao mọi hôm thì bọn này như lũ chết đói mà hôm nay lại chê xôi thịt ê hề. Ông gặng hỏi thì anh trưởng tràng khẽ rỉ tai ông, ông liền bảo bon trò nhỏ tuổi lấy phần oản, xôi rồi ra ngoài chơi, tự chia nhau, Lúc này anh trưởng tràng mới từ từ thuật lại chuyện đêm qua cho ông tú. Ông tú nghe xong thì cười lớn, bảo: "Mấy anh đúng là thần hồn nát thần tính, là người đọc sách thánh hiền thì quỷ ma nào dám trêu ghẹo mấy anh, người ta bảo ma quỷ tự đâu ra, ma quỷ tự lòng ta là có lí của nó! Tâm mình không đục thì sợ cái gì nào? Học nhồi học nhét đến mụ cả đầu!". Mọi người thấy thầy nói phải nên cũng nguôi đi ít nhiều, có người lại tự trách mình làm gì để tâm bất chính nên mới sinh ra vậy. Mấy bữa sau, mọi chuyện lại diễn ra bình thường như trước, anh em vẫn ngủ lại nhà thầy như cũ mà chẳng sợ hãi gì cả. Nhưng mãi đến hơn 3 tháng sau mới có chuyện xảy ra, và lần này thì không còn đơn giản như chuyện mấy đứa học trò bị ma trêu nữa.....

Chuyện thứ ba: Thầy phù thủy

Vào những năm trước khi Chiến tranh Biên giới xảy ra, ở quê em ngoài những nghề như làm nông, thủ công, buôn bán thì còn có một nghề rất đặc biệt, mà không phải ai cũng làm được. Đó là nghề thầy phù thủy, hay như người tàu thường gọi đó là "bọn thuật sĩ giang hồ".

Các cụ kể lại rằng, người làm thầy phù thủy thì phải là nam, phải có dòng máu phù thủy trong người( nghĩa là trong dòng họ phải có người đã từng làm nghề này và đạt đến trình độ "tốt nghiệp"). Những người làm nghề này thì phải tuân theo lời thệ từ lúc bái sư đến cuối đời, nếu ai sai phạm thì sẽ bị trời phạt. Và đã từng có không ít người hóa điên, tán gia bại sản hay thậm chí là cả nhà chết sạch chỉ vì họ đã không tuân thủ theo lời thệ. Nhưng nội dung bản thệ đó thì những người ngoài nghề chẳng ai biết và cũng không hiểu nó có gì đặc biệt mà lại thay đổi được số vận của cả một con người như vậy.

Thầy phù thủy cũng chia theo cấp bậc, dòng phái y như người ta học đại học bây giờ, có thầy giỏi thầy thường, có dòng chính tông, có dòng chi phái, dòng mạnh, dòng yếu,....nhưng được người đời biết đến nhiều nhất là hai dòng Nam tông và Bắc tông. Dòng Nam tông là dòng bùa chú được sáng tạo nên bởi những người ở phía nam Trung Quốc như vung Vân Nam, Tứ Xuyên, Miêu Cương,... và những nước phương Nam như nước ta hay Miến Điện, Xiêm,... Loại bùa chú Nam tông này dễ làm dễ sử dụng nhưng lại độc ác vô cùng, người học dòng này có thể sử dụng bùa chú để làm mọi chuyện, từ việc sai ma quỷ tát nước, đắp bờ đến việc vẽ một lá bùa để làm cho nhà hàng xóm bệnh tật liền vài ba đời đều được. Chỉ có điều là dòng bùa chú này sức mạnh không cao bằng Bắc tông, lại độc địa khó lường, chỉ gieo vạ cho con cháu đời sau nên không mấy người học. Còn dòng bùa chú Bắc tông là dòng bùa chú được coi là "chính thống" nhất, nhưng cũng khó sử dụng nhất, đây chính là loại bùa chú mà em muốn nói đến trong chuyện. Để học bùa chú Bắc tông rất khó, ngoài việc có dòng máu ra còn cần phải có trí thông minh, lính hội tốt, chịu nhiều gian nan khổ cực mới được sư phụ chấm sắc cho xuất sư, được tự do hành nghề phù thủy. Bùa chú Bắc tông nhìn trông y như loại bùa màu vàng mà nhà các bác hay dán trên cửa ý, chỉ khác cái là bùa Bắc tông thì nhìn rất đẹp nhưng chả ai hiểu nó viết cái gì. Nhưng để vẽ được một tờ bùa loại này thì phải lập đàn cúng tế, chọn ngày chọn giờ, bày trận bát quái ngũ hành, lục đinh lục giáp rất cầu kì, phức tạp.

Giải thích sơ qua về bùa chú chút để lòe các thím, bây giờ thì em xin phép quay trở lại câu chuyện ở quê em. Bắt đầu từ những năm 30- 45, người Tàu sang bên ta định cư rất đông, họ đem theo cả nền văn hóa, phong tục của họ đến đất nước mới. Và tất nhiên, văn hóa bùa phép cũng theo người Tàu về quê em. Sau cái đợt người dân Trung Quốc ào ạt sang Việt Nam lánh nạn chiến tranh Quốc- Cộng thì làng em có rất nhiều người xin theo học mấy ông thầy Tàu phép bắt ma. Nhưng người thành tài thì ít mà người chán nản bỏ dở thì nhiều. Trải qua hơn chục năm, những ông thầy ở quê tưởng như phải bỏ nghề vì không có "đất dụng võ", ở cái làng quê yên bình này thì kiếm đâu ra ma quỷ, họa chăng có thì toàn là ma do mấy bà hàng rau hang thịt ở chợ tự thêu dệt nên.

Nhưng đến tháng 3 năm 1946 thì mọi chuyện ở quê em bắt đầu biến động. Khởi đầu là những làng xung quanh làng em, bắt đầu từ làng ngoại. Cứ đêm đến là đường làng lại có tiếng rục rịch rồi ào ào như có cả đoàn quân đi qua vậy, lắm nhà còn nghe thấy cả tiếng cây đổ ầm ầm, từ lúc nửa đêm đến đến gà gáy, không lúc nào ngớt. Người dân quê ban đầu tưởng là trộm cướp vào làng nên hò nhau đánh trống khua chiêng đổ xô ra đường. Nhưng ra đến ngoài thì lại lặng ngắt như tờ, cây cối vân ý nguyên. Vài lần như vậy, người làng biết có chuyện chẳng lành nên ban ngày thì các cụ bô lão ngồi trong đình làng họp bàn cách giải quyết, cứ đến sẩm tối là lùa gà chó vào chuồng, cài then khóa cổng không lai vãng ra ngoài. Trước đây thì nhà này qua nhà kia ngồi chơi chè nước đến đêm mới về, trẻ con thì tụ tập chơi đuổi bắt trên đường làng,... náo nhiệt đông vui vô cùng. Còn giờ thì cả làng quê im lìm như ngôi làng chết, bọn chó trong làng thì cứ đến tối là cụp đuôi chui vào trong gầm giường ư ử cả đêm, trẻ con cũng sợ đến mức không dám khóc. Nhưng nếu chỉ có vậy thì chẳng có gì đáng nói, chỉ có điều là 2 tháng sau thì gà vịt trong làng cứ mất dần, mỗi đêm lại mất vài con, có nhà còn bị mất cả con trâu, mà sáng hôm sau ra xem chuồng gà chuồng trâu thì chẳng có dấu vết gì, vẫn cửa khóa, chằng xích y như đêm hôm trước. Dân làng đó nghi là có trộm nên đổ xô đi lùng, đến một hôm thì có người báo là thấy có dấu máu đi vào trong núi. Thế là kẻ cuốc người gậy kéo vào trong núi xem đứa nào mà táo tợn đến thế. Nhưng đi vào đến quả núi phía trong thì cả làng mấy trăm người cùng đứng sững lại vì trước mặt họ là một đống xác gà vịt, trâu bò đang phân hủy, xác chất cao như núi, hôi thối nồng nặc. Thế là chẳng ai bảo ai, cắm đầu cắm cổ chạy về làng. Về đến sân đình làng thì mọi người mới bắt đầu xì xào bàn tán xem thứ gì mà lại gây ra chuyện như vậy. Người thì bảo tại ma quỷ, kẻ thì đổ tại làng có đứa ăn ở thất đức nên thánh thần giáng tội cả làng, bây giờ mới chỉ là trâu bò, sợ sau này đến cả người cũng chết.

Đến một tuần sau thì chuyện không còn ở trong phạm vi làng ngoại nữa, đến cả làng Đông, làng Nam, làng Bắc đều có trâu bò gà vịt chêt hàng loạt. Lúc này thì mọi người mới hoảng loạng lên, đi khắp nơi mời thầy này cô nọ về cũng bái trấn yểm, hao tốn bao nhiêu tiền của mà mèo vẫn hoàn mèo. Nghe tin bên làng em có mấy ông học thành tài phép của người Tàu nhưng mấy ông lại chẳng có tiếng tăm gì nên người các làng kia cũng nghi ngại, không mời từ đầu. Còn nước còn tát nên họ cử ngay mấy cụ bô lão trong làng sang bên làng em xin mấy ông kia cứu giúp, hứa sẽ hậu tạ đầy đủ. Mấy ông thầy già nhiều tuổi thì tỏ vẻ ái ngại nên khéo léo từ chôi, còn 2 ông thầy trẻ mới học xong thì hăng hái đi ngay, mừng như bắt được vàng vì lần đầu tiên được thử tài học của mình. Nhưng sau khi đi xem qua địa thế các làng kia và vào tận trong quả núi có đống xác trâu bò xem tình hình thì 2 ông này mới thấy sợ. Nhưng lỡ nhận lời rồi ma không giúp thì lại trái với lời thệ lúc bái sư nên hai ông đành phải làm. Ba ngày sau, hai ông cũng dân làng lập đàn từ lúc sáng sớm. Bày ra đủ thứ trận đồ, cờ phướn, mỗi ông mặc một đạo bào cánh hạc, một trắng một đen, tay cầm kiếm gỗ, vừa bắt quyết vừa lầm nhẩm đọc chú pháp. Sau khi cúng tế xong thì một thời gian dài không thấy mấy làng kia bị chết gia súc gia cầm gì nữa, tiếng động ban đêm cũng hết, cuộc sống lại trở về bình thường. Nhưng bên làng em thì bắt đầu có biến.....

Chuyện thứ ba: Thầy phù thủy

Sau cái đợt hai ông thầy kia đi giúp lang bên cạnh trừ tà thì mấy ông thầy làng em bắt đầu nổi tiếng, người ở nơi khác kéo đến rất đông. Nhà thì xin giải hạn, nhà thì xin xem chuyện tình duyên, nhà thì nhờ tìm một tổ bị mất,.... Nhưng chủ yếu là hai ông thầy kia nhận, còn những ông khác thì đều tìm cách từ chối, rất ít người xin được. Chẳng mấy chốc mà hai ông thầy kia giàu lên trông thấy, chỉ sau có 2 tháng mà nhà mỗi ông dựng lên một cái điện to bằng cả chục gian

nhà thường. Dân làng xì xào bàn tán không hiểu sao chỉ với một tháng ngắn ngủi mà hai lão lại xây nhanh đến thế, có lắm tiền thì thợ cũng chỉ làm có giới hạn thôi chứ sao lại nhanh như vậy được, có người còn bảo là do hai lão chờ đến khi đêm xuống rồi sai âm binh xây hộ.

Đang yên bình như vậy, nhà hai lão giàu thì càng ngày giàu lên, người làng em cũng được hưởng sái vì tiền bán vàng hương, đồ ăn thức uống cho khách thập phương, và đặc biệt là bọn trẻ con thì lại xôi oản ăn không hết, bánh trái ê hề. Thế rồi đùng một cái, hai lão treo cổ tự tự ở cây gạo cuối làng, nhà cửa cháy rụi không còn một tý gì. Sáng hôm hai lão treo cổ, mấy ông thầy pháp còn lại trong làng đều cùng vơi người làng đỡ hai cái xác ấy xuống rồi làm lễ siêu độ. Đang làm lễ thì tự nhiên bát hương bốc cháy đùng đùng, lửa xanh lè như ma trơi, bài vị, nhang đèn cúng cho hai lão kia đều đổ dúi dụi. Sáu ông thầy còn lại vội bảo mọi người ổn định, rồi mỗi ông bắt quyết một kiểu, đứng theo phương vị lục đạo mà niệm chú. Mọi người thấy kì dị, đang bàn tán nhau thì bỗng nhiên, mây dông vần vũ, gió thổi cát bụi mù mịt, cả làng hoảng lên, thi nhau lạy xin ông trời đừng giáng họa. Bất ngờ, một tia sét đánh thẳng xuống hai cái quan tài, quan tài bốc cháy phừng phừng, xương cốt bên trong cũng cháy theo. Người làng liền lao vào lấy cành cây, nước, cát định dập lửa nhưng mấy ông thầy kia cản lại, bảo hắt nước vào bây giờ là hỏng hết, thôi thì trời tính sao mình theo vậy là hơn. Một lúc sau thì lửa tắt, nhưng không hiểu cháy kiểu gì mà không còn phân biệt được đâu là tro cốt đâu là tro than. Dân làng ngẫm lại hai lão này trước nay chưa từng làm gì ác, tuy lúc giàu lên có hách dịch với bà con lối xóm, cớ sao lại nên nông nỗi này. Lúc này ông T, người cao tuổi nhất trong sáu thầy bước ra nói:

– Hai ông này trước đây giúp người mấy làng nọ trừ ma quỷ, nhưng lại không biết lượng sức mình, động vào cả ma quỷ chết trận từ đời Trần, Hồ đến bây giờ, nên bị chúng nó bào thù. Nhưng đấy mới chỉ là một tội, còn tội nữa là dùng nghề phù thủy để đổi lấy giàu sang, buôn thần bán thánh đổi lấy tiền tài, danh vọng, phạm vào lời thệ lúc bái sư nên giờ bị trời phạt chết không toàn thây, chẳng được mồ yên mả đẹp!

Sau vụ đó, tưởng mọi chuyện chẳng có gì nữa, người dân quê lại trở về với công việc đồng áng, buôn bán như cũ, khách đến làng em cũng ít dần. Thế rồi, vào tháng 7, năm năm sau thì mọi chuyện mới thức sự bắt đầu. Đầu tiên là vụ ông em và mấy người bạn học thấy ma ở nhà ông tú, chuyện chỉ đơn giản có vậy nên cũng chẳng ai chú tâm lắm.Bẵng đi một thời gian tưởng không có gì thì bất ngờ, vào đúng ngày mùng sáu tháng tư năm sau, tự nhiên gà chó trong làng chết sạch, không còn lấy một con, người làng xót của, khóc lên khóc xuống. TRí thức trong làng thì nghĩ là dịch bệnh nên gọi bác sĩ người Liên Xô trên tỉnh về xem, nhưng không tìm ra được bệnh gì. Thế rồi ,mùng sáu tháng sau, ông H., nhà bán rượu ở cuối làng đang khỏe mạnh bình thường, ngồi nhậu với mấy anh em thì tự nhiên cười khanh khách, mắt trắng dã rồi lăn ra chết. Người làng kinh lắm, nhưng cho là trúng gió nên không để tâm gì nhiều thì mùng sáu tháng tiếp theo, rồi mười sáu, hai sáu trong tháng. Cứ đến ngày đó là tự nhiên trong làng lại có người chết bất đắc kì tử, mà toàn chết vào lúc giữ trưa với lúc nửa đêm. Giờ thì dân làng hoảng loạn thực sự, đến ngay cả nhà ông B, một trong sáu ông thầy trong làng cũng có người chết. Cả sáu ông cùng bắt tay vào lập đàn, quyết tìm cách giải hạn cho làng. Kén ngày mùng một tháng sau, người làng chuẩn bị từ trước, đắp đất lập một cài đàn cao 2 mét, rộng chừng năm mươi mét vuông. Sáu ông bảo dân làng về lấy máu chó đen vẩy trước cửa nhà rồi đàn bà con gái với trẻ con thì ở yên trong nhà, chỉ để sáu ông với đàn ông tuổi Dần, Thìn, Dậu, Tuất ở lại trông đàn. Đêm hôm đó không trăng, đàn ông đốt đuốc đứng theo đúng vị trí mà các thầy phân công, không được nói chuyện, cười đùa, không được ăn mặn trong ngày. Cái đàn tế được bày thêm đủ loại trận đồ, phướn xanh phướn đỏ, lục đinh lục giáp, tinh đồ, binh khí, nhìn rất oai nghiêm, bí hiểm. Đến đúng 10 giờ tối, cả sau ông thầy cùng lên đàn một lượt, ông T là người uyên thâm, giỏi phép nhất nên đứng làm chủ tế, năm ông còn lại chia nhau đứng theo ngũ hành, ông nào ông nầy đều mặc đạo bào tía, một tay cầm kiếm gỗ đào, một tay bắt quyết chỉ thẳng vào người ông T. Khi cả sáu ông bắt đầu làm phép thì trời dần dần nổi gió, từ trong núi Chà Ma, tiếng khóc, tiếng cười khe khé cứ ngày một đến gần, người gác đàn lắm anh sợ muốn vỡ mật. Một lúc sau thì gió cứ như bị hút vào cái chum đất đặt trên đàn tế, đến khi gió gần ngưng thì tự nhiên ông B và ông D ngã lăn ra đất, cả đám đứng đó đều hoảng. Ông T vội hét to bảo tất cả đứng yên không rời vị trí, rồi ông lao ra, bịt miệng chum, lấy bùa dán đè lên miệng. Xong xuôi rồi ông vội vàng vứt cả kiếm, chạy lại chỗ ông B và ông D, tất cả đổ xô vào xem thì thấy hai người đã lịm đi, ông T và ông S mỗi đỡ lấy đầu hai ông, bấm vào nhân trung cho tỉnh lại. Vừa tỉnh lại thì hai ông trào cả máu mũi máu mồm ra, hai ông cố vớt vát mấy câu cuối, ý bảo dân làng thay hai ông lo cho mấy đứa con, bảo chúng nó sau này đừng theo nghề bố, còn xác hai ông thì giao cho ông T đem đi yểm. Lúc này thì ông S là anh ruột ông B, thấy em chết thì khóc rống lên rồi cười hềnh hệch như điên như dại rồi chạy thẳng ra bờ sông, mấy anh thanh niên khỏe mạnh đuổi theo giũ ông lại thì bị ông ưỡn người, lắc cho vài cài, 4 anh thanh niên bị bắn ra xa nằm ngất lịm, còn 2 anh lồm cồm bò dậy đuổi theo ông thì không tài nào kịp, ông S nhảy ùm xuống sông rồi mất tăm, không thấy gì, 2 anh vội nhảy xuống vớt thì chẳng thấy đâu, liền lao lên bờ hô làng cho thêm người ra cứu.

Nhưng vừa lên bờ thì cả hai thấy sống lưng lạnh toát, hai người từ từ nhìn ra sau, ngay lập tức cả hai cung hét lên kinh hoàng. Cái mà họ đang thấy là ông S đang đứng trên một tấm vãn chỉ rộng bằng tờ giấy bản mà ông không chìm, còn cái người ông thì xoay tít trên cái ván y như chong chóng, ông S tự nhiên cười the thé, từ xa mà tiếng vang ý như ngay bên cạnh. Dân làng bấy giờ đổ xô ra thì thấy cảnh tượng kì dị này, mặt ai nấy cắt không còn giọt máu , vội vàng cho hơn chục người bơi giỏi rồi cuộc dây vào người, bơi ra cứu ông S. Cứu được ông S vào bờ rồi thì ống lại giãy đành đành như cá, mắt trắng dã, miệng hét lanh lảnh: "Thả tao ra! Thả tao ra!" rồi bất chợt, mắt ông lại đỏ rực lên như hòn lửa, giọng ồm ồm, gầm ghè: "Chúng mày lấy hai cái xác cho kia để yểm được bây giờ chứ yểm được mãi hả! Để tao cho chúng mày yểm nhớ? Yểm này! Yểm này! Yểm này!" Cứ mỗi tiếng "yểm này" người ông S lại giật lên, máu mũi máu mồm trào ra như hai ông kia, ai vào ghìm lại cũng không được. Một lúc sau thì ông T và ông C chạy đến, hai ông vội bắt quyết, ấn lên trán ông S. Nhưng tay vừa chạm vào ông S thì cả hai ông bắn ra như chạm phải điện, ngất ngay tại chỗ. Mọi người vội võng ông T và ông C về đình làng rồi xức dầu, xoa bóp cho hai ông tỉnh lại. Vài tiếng sau thì hai ông tỉnh lại, ông này nhìn ông kia rồi thở dài thườn thượt, ông C lẩm bẩm:" Một đêm mà mất ba người! Ba người! Ba người!" Tất cả xúm vào hỏi hai ông chuyện gì đã xảy ra. Ông T bảo:

-Hôm nay bọn tôi tính nhốt hết oán hồn, ma quỷ lại rồi phong kín không cho gây họa đến đời sau. Nhưng bất ngờ ông B và ông D lại bị vậy nên để xổng mất bốn cái oán linh! Hai ông chắc thấy có lỗi lắm nên bảo để thi hài lại cho tôi đem đi trấn yểm cho làng. Nhưng mà chỉ yểm được trong vòng 25 năm thôi vì mấy cái oán linh này mạnh lắm, còn thành hoàng làng thì đang chịu phạt nên không làm gì được chúng nó. Tôi đang tính là trong 25 năm đó làng mình sẽ đi tìm một người đủ giỏi để trấn áp nó. Còn số tôi già yếu sống nay chết mai, không biết sao mà lần!- Nói đoạn, ông T lại thở dài sườn sượt,ông C nhìn ông cũng thấy buồn.

Người làng nghe vậy thì dựng cả tóc gáy, nhưng vẫn yên tâm phần nào vì còn được 25 năm không bị quấy phá. Có gì thì 25 năm này vẫn còn nhiều thời gian để tìm thầy này thầy kia.
Nhưng thực sự thì 25 năm đó không hề yên ổn như mọi người mong đợi, vẫn tiếp tục có những đợt sóng ngầm

Chuyện thứ tư: Chân nhân bất lộ tướng

Như đã nói trong chuyện trước, làng em có một thời hạn là 25 năm không bị mấy cái oán linh kia phá. Nhưng trong ông T dù giỏi cũng không chỉ đủ sức trấn yểm mấy cái oán linh bị xổng mất kia thôi, hơn nữa thành hoàng làng lại đang chịu phạt nên bây giờ, cửa âm của làng em gần như bỏ trống. Nói là gần như vì đã có hồn của hai ông B và D giữ cho làng khỏi mấy cái ác linh rồi, nhưng còn những loại ma quỷ khác vẫn có thể vào được mà không bị cản bởi hai ông.

Cũng may sao là cụ tổ họ nhà em lại có tướng Bạch Hổ Trấn Sơn, sánh ngang với Trung Đẳng thần, tuy vậy thì cụ cũng chỉ có quyền hạn bảo vệ cho con cháu trong nhà, còn người ngoài thì thuộc quyền của thành hoàng, thổ địa, vậy nên trong 25 năm đó, họ nhà em vẫn yên ổn làm ăn, còn người làng thì....
Kể sơ qua về cụ tổ họ nhà em chút: Cụ sống vào thời phù Lê diệt Mạc, là tướng tài của vua Lê, lại có công cùng hai đời chúa Trịnh đánh đuổi nhà Mạc chạy lên Cao Bằng. Sau khi hết nạn can qua, vua Lê ghi công cụ em vào hàng công thần, lại gả công chúa cho cụ, phong cụ làm phò mã. Cụ tổ vì cảm cái ơn của vua nên dốc lòng thờ vua nên lúc nào cụ nhà em lúc nào cũng chỉ mong diệt được họ Trịnh, đem lại ngôi chính thiên cho nhà Lê. Cũng vì lẽ đó mà không ít lần cụ bị gia hại, nhưng đều may mắn thoát được. Qua bao tranh đấu chốn quan trường hiểm ác mà vẫn không xoay vần được thời cục, ngán ngẩm chuyện thế sự, quan quyền nên cụ cáo quan về ở ẩn, chỉ lo vui thú điền viên. Sau khi cụ mất, nhờ cụ vốn có phúc tướng, lại có mệnh là tướng tinh nên mất rồi lại được phong thần, đạo lại cao hơn cả thổ địa, thành hoàng, đứng ngang với hàng Trung Đẳng Thần.
Nhờ có uy của tổ mà sau bao nhiêu năm, họ nhà em lúc nào thế cũng vững như thành đồng, chưa hề có chuyện quỷ mị xảy ra.

Khoe với các thím chút về dòng dõi quý tộc của mình vậy là đủ, giờ thì sau khi trà nước chán chê, em xin bắt đầu vào câu chuyện chính.

Trở lại với cái kỳ hạn nọ, đã 20 năm trôi qua mà chưa có chuyện gì to tát lắm xảy ra, người nhìn thấy ma quỷ. Bị ma trêu thì nhiều lắm, cơ mà chẳng có gì hại đến người. Qua 20 năm yên ổn, giờ thì ông T đã mất được vài năm, những thầy phù thủy cũng thời cũng đều đã khuất núi lâu. Giờ thì ở quê em lại có một lớp thầy pháp mới, tuy không cao tay bằng lớp trước nhưng cũng được xếp vào hàng giỏi, lớp thầy này gồm có 3 ông là thầy L, thầy A và thầy N. Ba ông này thì có hai ông A và N là tuân thủ rất nghiêm lời thệ, ai bảo giúp gì thì xét khả năng mình đủ không rồi mới nhận lời, còn gia chủ thí cho bao nhiêu thì nhận bấy nhiêu, nhà nào nghèo thì không lấy tiền mà còn giúp thêm gạo, muối. Duy chỉ có ông thầy L là tàn tệ nhất trong số những thầy pháp từng ở làng em. Ông này ham tiền hơn mạng sống, ai đến xin giai hạn hay xem nhà cũng đều phải có chút gì đó gọi là quà gặp mặt. Lao này lại còn phạm vào rất nhiều điều đại kị như nữ sắc, một mình ông mà lấy tới 5 vợ, lại còn phạm vào tội bất hiếu, rõ ràng nhà giàu nứt đố đổ vách nhưng toàn để mẹ già ăn gạo xấu, rau lạt dưới bếp,còn nhà mình thì ăn thịt, chả, tôm, cá, toàn là cao lương mĩ vị. Người làng ai cũng ghét lão này, lắm người bảo, lão đã giẫm vào vết xe đổ của người trước thì chẳng mấy mà đi, có khi còn nặng hơn. Tuy độc ác như vậy nhưng tài phép của lão lại cao hơn hẳn hai ông thầy kia một bực. Đó là do lão luyện chỉ thuần bùa chú Nam tông, lại luyện nhiều loại như bùa Xiêm La, bùa Vân Nam, bùa Chà Và,...

Còn hai ông N và A thì vốn dĩ tư chất đã không được như các thầy lớp trước, lại không gặp được sư phụ giỏi, chủ yếu là dựa vào cần cù, chăm chỉ mà luyện thành tài vậy. Thế rồi chuyện gì đến cũng phải đến, một đêm nọ, lão L vừa đi cúng đám pháp sự suốt hai ngày ở làng bên về thì bị một tia sét đánh trúng ngay sau lưng, chỉ cách lão có vài bước. Lão kinh hoàng chạy một mạch về nhà, vừa vào đến sảnh lớn thì lão rú lên kinh hãi. Người làng thấy có động liền đổ xô đến xem, đập vào mắt họ là một cảnh tượng rợn người: Trên xà ngang cả năm bà vợ tuổi mới đôi mươi của lão đều treo cổ chết, tóc người nào người nấy đều đã bạc trắng. Như một con thú điên, lão L vùng lên, lao vào nhà trong, vừa chạy vừa gào: Ối con ới! Con ới! Hai con đâu rồi ra đây con ới!" Một vài người chạy theo lão, tìm khắp nhà không thấy hai đứa bé đâu, chỉ thấy mỗi bà cụ mẹ lão L đã chết từ bao giờ, xác đã lạnh. Tìm khắp nơi không thấy đâu, mà nhà thì rộng đến hơn mẫu, tòa ngang dãy dọc nhiều vô số, một người thấy khát nước liền mở vại nước sát ủ ra định uống vài gáo cho đỡ, nhưng vừa mở nắp ra thì người này hét lên kinh hãi rồi ngất lịm. Mấy người đứng gần liền đổ xô đến cứu chữa, có vài người nhòm vào chum nước xem thì chao ôi! Hai đứa bé đã chết ngạt từ bao giờ rồi, xác đã trương phềnh lên. Lão L nhìn thấy nhà cửa vợ con như vậy thì ngồi phịch xuống cái ghế bố ở giữa sảnh, mắt nhìn vô hồn về phía trước, người làng ai cũng ghét lão nhưng mà thấy thế thì cũng ai ngại nhìn. Lúc này thì ông N và ông A bước ra, họ vì cái nghĩa đồng nghề, hơn nữa không thể thấy chết mà không cứu nên hết ông này đến ông kia bắt quyết rồi điểm vào trán và gáy lão L. Nhưng không hiểu so người lão cứ như cái bị bông, chẳng có phản ứng gì, ông A liền lấy trong bọc áo ra một miếng hương vào vàng, đốt lên rồi hươ hươ trước mũi xem lão có phản ứng lại không, lão L vẫn ngồi thẫn thờ, bất động. Hai ông thầy kia nhìn nhau rồi lại nhìn dân làng, ông N chỉ nói đúng hai câu: " Bất hiếu với mẹ, vi phạm lời thệ. Trời phạt quỷ hành, một xác nhiều hồn, sống không bằng chết!" Xong rồi hai ông chẳng nói chẳng rằng, cứ thế đội mưa đi về. Đêm hôm sau, cả vùng quê lại náo động lên vì ánh lửa phát ra từ phía nhà lão L, lúc dân làng chạy đến thì thấy lão L tay cầm bó đuốc đang châm lửa đốt nhà, lão cứ vừa đốt vừa cười ha há, thỉnh thoảng lại rú lên một tràng dài, trai tráng đổ xô vào cứu hỏa mà không tài nào dập được, có cảm giác như càng hắt nước vào thì lửa càng cháy to hơn. Thế là đêm đó tất cả đều không ngủ, đứng nhìn tòa nhà rộng hơn mẫu đang cháy rừng rực trong đêm, lửa sáng cả một góc trời. Đến trưa hôm sau thì lửa tắt, mọi người vào tìm thì chẳng thấy lão L chạy đâu, có người nói lão chạy ra ngoài từ đêm hôm qua, chỉ bật một cái mà qua luôn bức tường cao 3 mét, ai thấy cũng khiếp nên chẳng dám đuổi theo. Sáng sớm ba ngày sau, dân làng lại không tài nào ngủ được vì tiếng huyên náo phát ra từ cuối làng, mọi người tất tả mặc áo chạy ra, ai vừa đến cũng sợ đến xanh mặt. Lão L đang đứng trên một cành cây gạo, cái cây gạo mà trước đây hai lão thầy kia từng treo cổ. Lão L đứng trên đó, mái tóc của lão chỉ mới trải qua một đêm mà đã dài tới gót chân, bạc trắng như cước, tay lão vung vẩy cái liềm, vừa vung vừa hát í a, mồm thì lại cười ngoác đến mang tai, ai nhìn cũng khiếp. Dân làng liền kéo nhau đi lấy vải bạt để hứng, ngộ nhỡ lão có rơi xuống thì đỡ. Nhưng vừa quay lưng di thì có lão L gọi giật lại, giọng thé thé như xe vải: " Tao cấm! Tao cấm! Đứa nào dám hứng thằng này thì tao về tận nhà tao vặn ngược cổ từ trước ra sau! Hớ Hớ Hớ! Tao cấm! Tao cấm!" . Vừa hét lão vừa nhảy tưng tưng trên cành cây, ngay lúc này thì ông N với ông A đã chạy về nhà lấy đồ xong, mỗi ông cầm một cây kiếm gỗ ném thẳng về phía cây gạo, nhưng hai cây kiếm gỗ vừa chạm vào gốc gạo thì tự nhiên rơi luôn xuống đất như hai khúc củi rồi lần lượt gãy đôi. Hai ông sợ xanh mắt mèo, nhìn nhau không nói được câu nào. Bỗng nhiên, một người mà không ai ngờ tới lại bước ra, đó là ông K. làm nghề cắt tóc ở xóm dưới.

Mọi người thấy ông cứ đủng đỉnh đi vào thì cản lại, bảo ông mà vào là nó vật chết ngay đấy, ông K chỉ cười không đáp, rồi lại tiến về gốc cây gạo. Mọi người ai cũng sợ nên không dám theo giữ chân, tất cả đứng từ đằng xa xem ông K đinh làm gì. Ông K cứ thế tiến ngày một gần tới gốc gạo, con quỷ- lúc này đang nhập vào lão L thì cứ chỉ thẳng ông K mà mắng chửi, quát tháo. Ông nhẹ nhàng rút trong túi đồ ra một cây gậy vông dài bằng cánh tay, lúc này thì con quỷ đã bắt đầu im rồi, nó nhìn ông gờm gờm, mắt long sòng sọc. Thế rồi ông nhẹ bứt một sợi tóc trên đầu, quấn vào cây gậy rồi lầm rầm đọc gì đó. Giờ thì con quỷ mới lộ ra là nó đang sợ ông K, nó bắt đầu khóc lóc nỉ non, van vỉ đủ điều xin ông cho nó một con đường sống, tiếng khóc, van nài như vọng về từ một cõi xa thẳm, bao nhiêu người cũng đứng đó mà ai cũng thấy lạnh toát sống lưng. Ông K chẳng nói chẳng rằng, lại gần cây gạo, cầm gậy vông vụt liền bảy phát vào gốc, từ cây gạo, người ta nghe thấy tiếng hét thất thánh rồi tiếng la oai oái, mấy chỗ bị vụt trên gốc gạo cứ có một dòng nước đỏ ộc như máu, chảy ri rỉ ra. Vụt xong phát thứ bảy thì lão L trên cành đứng thẳng tưng người một cái, rồi đổ ra, rơi uỵch xuống đất, lão chết ngay tại chỗ. Sau đấy thì ông K lẳng lặng đi về, không nói thêm câu nào. Còn hai ông A và ông N mới đầu thì nhìn ông K một cách kinh ngạc , nhưng khi vừa thấy những việc ông làm và thấy hình săm trên cổ tay ông thì cả hai cùng kính cẩn đặt tay phải lên ngực, cúi người đứng nép sang một bên nhường đường cho ông K.

Vậy rốt cuộc thì ông K là ai mà lại cao tay ấn đến vậy, và hình săm trên tay ông có ý nghĩa gì mà khiến hai ông thầy kia phải kính cẩn như thế? Mọi chuyện chỉ có bố em và hai ông thầy kia biết, còn quá khứ của ông K thì đó là cả một câu chuyện dài về tình yêu, gia tộc, máu và nước mắt

Chuyện thứ năm: Quá khứ của một người vô danh

Mải type mãi không để ý thời gian, em đi ăn cơm chút xíu xong lại nhào về ngay để kể tiếp cho các thím yêu dấu : Ông K vốn gốc là người Tàu, nhưng ông quê ở tỉnh nào bên đó thì cả làng chẳng ai biết, chỉ biết rằng ông đến làng từ năm 50, năm năm sau khi cái kì hạn kia bắt đầu. Là người nước khác nhưng ông K lại nói tiếng Việt rất sõi, lại còn nói được cả tiếng Pháp, tiếng Nhật, tiếng Hà Lan, tiếng Anh nên dân làng ai cũng ngưỡng mộ ông vì cái vốn chữ. Tuy giỏi nhiều ngoại ngữ như vậy, lại rất nhiều lần có cán bộ về mời ông đi làm phiên dịch, lương tháng mấy trăm đồng bạc, là cả một giấc mơ xa vời với nhiều người thời bấy giờ. Nhưng ông khước từ tất cả, chỉ ở lại miền quê nghèo này làm nghề cắt tóc, đắp đổi qua ngày, khắp cả tỉnh, người mời ông đến cắt tóc rất đông, nhưng cắt tóc chỉ là cái phụ mà cái chính là họ muốn có một người uyên thâm, hiểu thời thế để nói chuyện, và những người mời ông đến nhà cắt tóc đều là những con người không " tầm thường". Dân quê ngày đó thấy ông ngày ngày vẫn cứ đạp cái xe đạp lọc cọc đi cắt tóc khắp nơi thay vì nhận làm việc bàn giấy, sống đủ đầy cả đời thì ai cũng cho là lạ, nhưng họ không thể hiểu tại sao lại thế, thôi thì cho rằng đó là cái tính kì dị của những người "học giỏi:", mà dân làng còn ngạc nhiên khi thấy một ông lão cắt tóc nghèo mà lúc nào nào cũng có thịt cá ăn luôn, lại toàn quen thân với mấy ông "tai to", có lúc thấy cả một đoàn xe của tướng Trung Quốc về tận làng để thỉnh an ông K, ông tướng người Trung Quốc nọ hách dịch vô cùng quát mắng lính lác xa xả. Nhưng khi gần đến nhà ông K thì ông tướng trẻ kia liền xuống xe, lội bộ gần cây số đất đỏ nhão nhoét chỉ để lên nhà ông K, đến lúc lên rồi thì ông K chỉ thẳng mắng mà mắng một tràng toàn tiếng tây tiếng tàu, ông kia sợ tái cả mắt, cứ quỳ rạp xuống đất bùn mà nghe ông K mắng, lúc ông K mắng xong thì phất tay ào vào thẳng nhà, khóa của lại. Chỉ còn mình ông tướng ở ngoài, ông tướng còn quỳ lạy thêm chín lạy nữa rồi vừa khóc vừa giật lùi mà đi về. Người làng ai trông thấy cũng khiếp, lại càng tò mò về lai lịch của ông K, nhiều người gặng hỏi nhưng ông đều tìm cách tránh nói đến, lâu dần thì dân làng biết ý ông không muốn gợi lại chuyện cũ nên cũng chẳng hỏi nữa.

Người biết về quá khứ của ông K chỉ có vài người, trong đó có bố em. Thuở nhỏ, bố em rất thích đọc sách cổ của Trung Quốc, cuốn nào có chữ quốc ngữ dịch ra thì đọc, còn cuốn nào viết bằng chữ Tàu thì đem về nhờ cụ dịch cho nghe. Bố em lại rất thích sang chơi bên nhà ông K vì nhà ông ở trên một quả đồi cao sau xóm, lại không nuôi trâu bò lợn gà gì nên rất sạch sẽ, tuyệt không có ruồi muỗi. Ông K thấy bố em nhỏ nhỏ mà lại thích đọc sách nên quý bố em lắm, mỗi lần đi lên tỉnh cắt tóc là lại tìm mua sách truyện của Nguyên Hồng về cho bố em đọc, ông lại còn rất hợp tính với bố, tính lại hiền lành dễ gần, toàn gọi bố em là chú, xưng anh, mặc dù ông còn già hơn ông nội em cả chục tuổi. Ông K và bố em thân với nhau như bạn vong niên vậy, có chuyện gì ấm ức bố em cũng kể cho ông K nghe, còn ông K thì rất cởi mở với bố em, nhờ vậy mà bố em cũng biết được nhiều điều về quá khứ của ông, một quá khứ chẳng hề bình lặng như con người hiền lành của ông. Một tối, bố em vừa đi câu về, bố câu được khá là nhiều cá, trong đó có một con chép đỏ , bố định đem con này lên cho ông K, còn mấy con khác thì quẳng vào bể nước để bà nội về làm mắm. Tối hôm đó, bố em xách con cá lên nhà ông K thì thấy ông đang bắc bếp nướng ngô, vừa thấy bố em lên thì ông vui hẳn, hồ hợi gọi bố em vào ngồi chung chờ ngô chín thì anh em gặm cho đã. Nhưng vừa thấy con cá chép bố em xách trên tay thì ông K xám mặt lại, ông vội giật ngay khỏi tay bố em rồi ném thẳng vào lò than, rồi lật đật chạy vào nhà trong, đem ra một đạo bùa màu vàng ném luôn vào lửa, kì dị làm sao khi con cá chép đỏ đã chết từ hồi chiều giờ lại nhảy lên tanh tách trong lò, phát ra nhưng tiếng kêu rít đến buốt óc. Ông K liền bịt tai bố em lại rồi hô một tràng toàn tiếng Miên, ngay lập tức con cá ngừng nhảy rồi cháy thành than ngay lập tức. Bố em chưa hiểu chuyện gì xảy ra liền hỏi ông K sao phải làm vậy, ông K chậm rãi trả lời :

-Con cá này là một trong năm cái oán linh xổng mất trong cái năm mà sau ông thầy làng chú làm phép đó. Bây giờ kì hạn đã hết, mà chú lại hợp vía với nó nên nó định hút hồn chú, nhưng mà cụ tổ nhà chú pháp lực cao cường, trấn giữ cho người trong họ rất nghiêm cẩn nên nó không làm gì được. Đêm nay lại là đêm tà nguyệt tụ hội, ma quỷ đắc lợi mà cụ tổ nhà chú lại đến kỳ vào chầu thánh đế nên nó mới chớp cơ hội, giả làm con chép đỏ kia để đêm nay dụ chú ra hồ rồi dìm chết đấy! Nhưng mà số chú còn dài nên trời xui đất khiến thế nào lại để chú mang nó lên chỗ tôi, giờ tôi diêtj được nó rồi nên không lo gì nữa, chỉ ngại mấy cái oán lình kia nó thoăt ẩn thoắt hiện, tôi không biết đâu mà lần nên chưa trừ được.

Bố em nghe xong thì sợ lắm, nhưng ông K trấn an bảo thế là xong rồi, từ rày họ nhà em không sao nữa thì bố em mới bớt sọ. Lúc bình tĩnh lại, bố em mới hỏi sao ông K lại biết phép phù thủy giỏi đến vậy. Sau một hồi trầm ngâm, ông K từ từ kể lại câu chuyện đời mình cho bố em nghe:

"....Trước đây, ông K vốn là dòng dõi danh gia thế phiệt ở bên Tàu, đời đời nối nhau làm nghề phù thủy, lại buôn bán cả ngọc quý, đồ gốm nên giàu có vô cùng. Tiền từ nghề phù thủy và buôn bán đem lại không biết bao nhiêu mà kể. Nhưng họ nhà ông không giữ cho riêng mình, năm nào cũng đem tiền, gạo đi cứu tế dân lũ lụt ở Hoàng Hà, Trường Giang nên được lòng người dân lắm, đi đâu dân cũng bái vọng, lập bàn thờ sống. Thế rồi, cuối đời nhà Thanh, triều đình vu cho họ nhà ông tội dung yêu pháp mê hoặc dân chúng, có ý phản lại triều đình. Chỉ trong một đêm, già trẻ lớn bé hơn 3000 mạng trong họ nhà ông bị giết sạch, còn duy nhất chi họ nhà ông ở trên Thiểm Tây là thoát nạn. Vậy nên ngay từ khi sinh ra, ông K đã bị nhồi vào đầu ý chí phục thù, tìm con cháu của những quan lại ngày xưa đã vu khống họ nhà ông và con cháu dòng họ Ái Tân Giác La để giết hết không chừa ai. Và ông K đúng thực là niềm hi vọng của cả chi họ, từ bé ông đã bộc lộ trí thông minh siêu việt, cái gi cũng chỉ xem qua một lần là nhớ ngay. Chẳng mấy chốc mà ông K đã nổi tiếng tinh thông vô số loại bùa chú, ấn pháp, từ Nam tông Bắc tông đến cả bùa chú Mật tông, Tây Tạng, Mông Cổ, Cao Ly,...khi đó ông mới 19 tuổi. Nhưng thực sự thì ông lại không muốn trả thù chút nào vì ông cho rằng thù hận là thứ thế hệ trước gây ra, sao cứ phải để thế hệ sau như ông gánh chịu.

Chính vì lẽ đó mà ông bị cả họ hắt hủi, cha ông từ con, mẹ ông thì chỉ muốn treo cổ tự tử, ông bị trục xuất ra khỏi dòng họ. Thế là ông đi lang bạt khắp Trung Hoa từ năm 20 tuổi. Và ông đã gặp và yêu một người con gái, (một chuyên tình đẹp như trong phim phải không các thím), bất chấp gia đình cô Liên Liên kia ngăn cản, ông và cô vẫn làm đám cưới. Ngày ông làm dám cưới, người nhà bên kia thuê một thầy pháp về định làm phép cho ông sợ mà bỏ. Nhưng đúng là múa rìu qua mắt thợ, ông thầy pháp kia vừa làm phép định đánh ông thì ông cầm kiếm gỗ đánh bật lại, và thanh kiếm gỗ của ông lúc bay ra đã cắm thẳng vào cổ cô Liên Liên, trước lúc chết, cô vẫn nói là dù sao cô vẫn mãi yêu ông. Như một người điên dại, ông cứ ôm xác người yêu gào khóc, nhà kia thấy con gái chết thì không thèm đến xem sao mà còn nhổ bãi nước bọt, mắng cô là thứ gái lăng loàn bỏ nhà theo trai. Còn ông K lúc này thì đã bị hận thù che mắt, ông thi triển hết mọi thứ mình học được, từ gọi âm binh, thổ thần đến gọi ma quỷ lên giúp sức,.... Ông muốn cả nhà kia phải chết vì chính họ đã gây nên tất cả. Sáng sớm của một tuần sau, cả ngôi làng nhỏ vùng Cam Túc náo động lên bởi tin nhà họ Kha trong làng đã bị cướp giết sạch, treo xác lên rừng táo đầu làng. Những tưởng sau khi trả thù xong ông sẽ thanh thản, nhưng ông lại càng thêm dằn vặt, đau khổ, tự giận chính mình vì nếu mình không yêu Liên Liên thì mọi chuyện đâu có xảy ra. Và rồi ông bị chính quyền địa phương truy bắt vì tội dùng xảo thuật để giết người cướp của, ông lại trốn chạy tiếp. Vài năm sau, sự việc lắng xuống, ông K lại trở về cuộc đời lang bạt, kiếm sống bằng nghề phù thủy. Gần hai chục năm sau, Đảng Cộng Sản Trung Quốc tiến hành cách mạng văn hóa, những người như ông đều bị quy vào tội tuyên truyền mê tín dị đoan, không bị xử tử hình thì cũng bị giam chung thân nên rất nhiều người đã trốn sang Việt Nam, và ông K cũng là một trong số đó...."

———————————————————–

Đó là quá khứ đầy bi thương của ông K, còn hình săm trên bàn tay ông, đó là biểu tượng của phù thủy hàng Thiên đẳng trong gia tộc họ Vương, người trong nghề phù thủy ai cũng biết cả. Vậy nên hai ông A và N mới kính cẩn với ông như vậy.

Sau khi nghe xong câu chuyện bố em cũng bùi ngùi về số phận ông, cả hai người cùng lăng đi một lúc. Ông K lên tiếng phá tan sự im lặng : " Chú chờ tôi tý, tôi lấy cho chú cái này" Nói đoạn, ông đi vào nhà trong, rồi ông lấy ra hai quyển sách, một quyển đã ngả vàng một quyển xem chừng còn mới. Ông đưa cho bố em, bảo giở ra xem, bố em giở ra thì thấy trong mỗi quyển toàn là hình vẽ loằng ngoằng ngang dọc, nhưng một quyển thì viết bằng chữ Trung Quốc, còn một quyển mới thì viết bằng chữ quốc ngữ, trong đó ghi toàn là các câu khẩu quyết, chiến ý, cách làm bùa phép, xem tướng, đoán vận số,.... Bố em đọc xong thì mới hiểu ra đây là "cuốn sách giáo khoa" của thầy phù thủy. Sau đó thì ông K hỏi bố em nhớ được bao nhiêu, bố liền đọc lại cho ông nghe những chỗ mình nhớ, cả quyển thì bố nhớ được ba phần. Ông K nghe xong gật gù khen: "Vậy là chú giỏi! Người thường học quyển này phải mất hơn hai chục năm mới tinh thông. Nhưng tôi xem tướng chú không phải là người có duyên với nghề này, nói thật với chú, cái nghề này nó bạc lắm chú ạ, đời tôi khốn nạn cũng vì nó đó chứ!". Nhưng ông K vẫn dạy cho bố em cách xem tướng, cách coi chân gà, cách giải chết trùng, cách tính ngày giờ chết của một người đang bệnh nặng,... ông nói là để tiện đường giao thiệp về sau, tự khắc sẽ có ích. Sau đó, ông K bỗng nâng quyển sách cũ viết bằng tiếng Trung lên rồi bảo bố em:" Chú nhớ cái thằng tướng dởm lần trước đến tìm tôi chứ! Cái thằng đó trước là học trò của tôi đấy! Lúc còn học tôi, nó ngoan lắm, nhưng một hôm tôi về nhà thì bắt gặp nó đang ăn trộm quyển sách này, tôi liền đuổi theo giật lại được, nhưng mà nó thì chạy mất, lấy được phần ba quyển sách từ trang đầu....Nhờ có mấy trang sách đó mà nó dần dân leo lên cái ghế tư lệnh quân đoàn, nhưng số trời khó cái, nó đã dùng nghề này để cầu lấy tiền tài thì giờ tai họa đổ xuống đầu nó! Lần trước nó tìm về đây là muốn xin tôi cứu mạng, nhưng ai dám cãi lại mệnh trời? Nó làm thì nó chịu thôi!" – Ông K lại thở dài nhìn xa xăm ra ngoài phía cánh đồng, rồi ông vứt luôn hai quyển sách vào trong lò lửa, tất cả tài nghệ của ông đều sẽ theo ông xuống mồ hết.

Thấy ông buồn nên bố em liền đổi chủ đề, làm cho không khí vui hơn. Thời đó, người sát mạn biên giới về đều đồn là ở Sơn Tây bên Tàu có phái biết thuật dẫn thi, có thể bảo quản xác chết từ chiến trường dẫn về quê quán( Cái nì là Cương Thi trong phim của Lâm Chánh Anh đấy các thím ợ!). Bố em liền đem chuyện này ra hỏi ông K thì ông cười ngặt nghẽo, ông bảo:

-Cái đó hồi tôi còn ở trong nước cũng nghe nhiều, nhưng chưa thấy hoặc biết ai có thể làm như vậy cả, có mấy lần nghe tiếng có người biết làm, tôi đều đến xem, hóa ra toàn là lũ bịp bợm. Còn phái Sơn Tây đó thì đúng là có thật, nhưng họ ít giao tiếp với người trong nghề, bùa chú của họ tôi cũng có biết chút ít, nó là loại bùa rất kì dị, là loại pha trộn giữa nhiều loại bùa chú với nhau, thuật dẫn xác thì tôi biết, đơn giản chỉ là dẫn một cái xác chết đi đi lai lại, sai nó nấu cơm quét nhà, chẻ củi gánh nước hay tát ao thì được chứ nói làm phép để bảo quản xác chết thì tôi không tin. Vì chỉ cần ngưng làm phép lên xác là nó rữa ra ngay lập tức, mà cái trò dẫn xác này tổn âm đức lắm, chỉ có mấy ông mới vào nghề, ngựa non háu đá thì làm để kiếm người phụ việc thôi

Chuyện thứ sáu: Lươn cộ
Cạnh làng em là một con sông dài, chảy thẳng ra biển, có chỗ thì thu hẹp lại chỉ rộng tầm trăm mét, có chỗ thì ăn sâu vào tận trong lòng những dãy núi rỗng ruột như quả bàu, rộng đến vài ba cây số. Ở cái khoảng sông chảy ngầm trong lòng núi đó, luôn là một điều gì đó bí ẩn với người dân quê em từ xưa cho đến tận bây giờ. Nhiều người nói rằng, ở dưới những khoảng ngầm đó là những hang hốc ăn sâu ra tận biển, là nơi trú ngụ của những con cá cụ đã vài chục tuổi, con nào con nấy to bằng cả cái thuyền nan, nó há mồm một cái thì nuốt trọn cả người lớn, dù hù dọa như vậy nhưng bọn trẻ con vẫn không tài nào bỏ được cái trò tắm sông.
Đó là vào một buổi sáng mùa hè năm 70, như moi khi, bọn trẻ chăn trâu thả trâu lên triền núi cho gặm cỏ rồi nhảy ùm ùm xuống tắm, cái bãi tắm này mới được khám phá gần đây, lại gần với chỗ sông chảy ngầm nên nước mát lạnh , màu hè tắm thì cứ gọi là thích phải biết. Đang tắm thì một đứa ngồi trên bờ hét toáng lên rồi réo gọi cả đám lên, cả lũ thấy đứa bé này khóc thì chạy hết lên bờ, hỏi làm sao thì nó chỉ tay xuống nước, cả bon nhìn xuống rồi cùng khóc thét lên, dưới nước, chỗ chúng nó vừa bơi,giờ đang có một con cá trê đen trũi há mồm lên mặt nước ngáp ngáp lấy khí thở, nhưng mà, con cá trê to bằng cả cái thuyền nan. Tiếng khóc của lũ trẻ làm động tới mấy người đốn củi và thợ săn, người canh dê trên núi, tất cả tức tốc lao xuống. Và không chỉ trẻ con mà cả người lớn gồm hơn hai chục người cũng há hốc mồm kinh hãi, dưới nước là con cá cụ trùi trùi, to bằng nửa cái thuyền đang bơi lởn vởn quanh bờ. Ngay lập tức một ông thợ săn giơ khẩu súng kíp lên nhằm thẳng con cá định bắn thì một người ngăn lại. Người này bảo hãy chờ gọi người làng ra rồi bắt, không ít người thế này, mà đạn thì yếu, không biết có giết được nó không, nó mà thù thì cả làng không yên. Một lúc sau thì dan làng tới, ai cũng kinh ngạc, xì xào bàn tán về con cá cụ kia. Nhưng con cá này lại rất dạn người, đông người như thế mà nó vẫn bơi vòng vòng quanh bờ như không có gì. Sau khi đã bàn bạc xong, tất cả thống nhất là sẽ ném mìn cho con cá không chết thì cũng choáng, rồi súng kíp cứ thế mà bắn. Một tiếng hô vang: "Ném này!", rồi uỳnh uỳnh hai tiếng đinh tai nhức óc, nước bắn tung tóe, rồi súng kíp trên bờ cứ nhè chỗ bóng đen mà nã, một lúc sau thì màu con cá loang đỏ cả mặt nước. Dân làng hò nhau lấy dây thừng ra lôi con cá về rồi mở tiệc làm cỗ cho cả làng ăn. Trong đám cỗ, ai cũng vui vẻ, cười nói hỉ hả, chỉ có ba ông thầy là ông N, ông A và ông K là mặt đăm, ba ông chả ăn miếng cá nào, chỉ hớp vài li rượu rồi đi về. Người làng vẫn cứ vô tư ăn uống, không hề biết rằng mình đã ăn phải thứ không nên ăn, động vào thứ không nên động........

Chuyện thứ sáu: Giải trừ tội nghiệt

Từ sau cái đợt mà dân làng em bắt được con cá cụ kia thì trong làng bắt đầu có lắm chuyện quái dị xảy ra. Buổi đêm, ngoài đường làng có tiếng móng ngựa gõ cồm cộp đi đi lại lại, sáng hôm sau ra đường thì chẳng thấy có dấu vết gì. Dân đi câu đêm và dân đi săn thú, bắt tắc kè trên núi thì sáng nào cũng về không, nhiều người nhà gần sông còn bảo dạo này hay có đứa tắm đêm, đêm nào cũng có tiếng đập nước ì ùm rồi tiếng cười láo xáo ngoài đê. Nhưng dân làng tuyệt không có ai dám hé phên cửa ra nhìn, từ sau những biến cố lần trước, giờ đây ai cũng linh cảm là có chuyện sắp xảy ra. Đối với các cụ bô lão trong làng thì lại càng lo lắng, tất cả những bô lão đó đều là những người đã chứng kiến, hoắc chính là những người gác đàn tế năm xưa, chính tai họ nghe, chính mắt họ thấy về cái kì hạn 25 năm kia. Nhưng mà giờ đây, kì hạn đã qua được 3 năm mà chưa có gì xảy ra, mọi thứ vẫn quá yên ắng, quá bình thường, và với kinh nghiệm sống của cả đời mình, các cụ biết rằng, trước những cơn bão khủng khiếp luôn là những khoảng lặng một cách kì lạ

Thấm thoát lại hai năm trôi qua, cả làng đang yên ổn làm ăn cấy cày thì bỗng nhiên, thầy V, ông thầy già nhất trong số sáu ông thầy ngày trước giờ đã từ trần, lúc này ông cũng ngót trăm tuổi. Trước lúc mất, ông đuổi hết mọi người ra rồi gọi ông K và ông N vào, ba người nói chuyện rì rầm trong buồng mà không ai nghe được. Ngay hôm đó, ông K, ông N và ông A tức tốc bắt tàu vào thẳng trong Thanh Hóa, dặn trước là đúng hai tuần nữa thì về, mọi người ở nhà trong hai tuần này phải chú ý giữ gìn này nọ,..... Ba ông đi được hai hôm thì ở nhà có chuyện động trời, máy bay Mỹ ném bom đánh phá miền bắc ném xuống làng một quả bom, cả làng không có nhà nào bị nhưng mà chỗ quả bom rơi trúng là.....chỗ chôn cái chum nhốt vong 25 năm trước. Khỏi phải nói các thím cũng tưởng tượng ra cái sự hoảng loạn của dân làng đến thế nào rồi, cả làng ăn không ngon ngủ không yên, ba thầy kia thì đi hết chưa về nên chẳng biết tính thế nào. Người thì chuyển về quê nội, quê ngoại để lánh nạn, người thì chạy lên Hà Nội tìm đường buôn bán,... cả làng chỉ còn lại vài trăm người, đìu hiu như một cái làng chết, chợ búa cũng bỏ không họp, vì họp thì có ai mua, bán cho ma chắc!

Nhưng mà vẫn chưa có gì xảy ra, dù vậy thì cả họ nhà em cũng dọn vào ở trong khuôn viên của nhà thờ tổ, hi vọng oai của cụ tổ sẽ bảo vệ được cho người trong họ. Hoạt động trong làng giờ cái gì cũng phải "tập thể", đi ra vườn giải quyết cũng phải đi tập thể, buổi tối gánh rau thịt lên chợ huyện bán cũng phải đi thành tốp mười lăm, hai mươi người. Thế rồi một hôm, bà H, chị của ông em đánh liều, gánh hàng chung với hai bà nữa, đang đi thì bà H đứng im, mặt xanh như tàu lá, líu lưỡi lại nói không ra tiếng, hai bà kia nhìn theo hướng bà H đang nhìn là hai gốc si sinh đôi ở vệ đường. Như một phản xạ, hai bà cùng nhìn lên ngọn nhưng một bà thì chẳng thấy gì, còn một quà thì nhìn thấy trên ngọn cây là một cô gái mặc áo tứ thân, đang ôm con hát ầu ơ trên đó. Hai bà liền vứt cả quang gánh, kéo bà kia chạy bán sống bán chết về làng. Về đến điếm làng, kể lại nhưng chẳng ai tin, cho là đàn bà nhát chết nên thần hồn nát thần tính,dân quanh đó thấy động thì kéo ra, ngồi được một lúc thì đám dân câu nhái cũng về đến cái điếm đầu làng, mặt ai nấy trắng bệch, dân làng hỏi sao thì họ bảo: Đang ngồi câu thì tự nhiên bên góc hồ chỗ hai ông kéo vó tôm reo ầm lên bảo vó nặng, họ liền buông cần, chạy sang giúp, nhưng kéo lên thì chao ôi trong vó là một đứa trẻ sơ sinh đỏ lừ như đóm, nhìn chằm chằm vào mọi người rồi cười khanh khách. Giờ thì dân làng mới tin mấy bà kia nói thật, thấy chỉ trong một đêm mà lắm chuyện xảy ra vậy, ai cũng thấy rợn người, chỉ mong sớm đến ngày kia để mấy ông thầy về tìm cách giải quyết.. Cũng vào tối hôm đó, bố em đang trông chú thứ năm ngồi học còn bố em thì xay thóc ở dưới bếp. Đang xay thì bố em nghe tiếng hét của chú út trên nhà trên, gọi rối rít: "Anh ơi! Anh ơi! Nó...nó...!" , bố em vội chạy hộc tốc lên nhà trên, thì thấy chú em đang ngồi rúc vào trong góc tường, mắt nhìn chằm chằm ra ngoài ngõ. Bố em nhìn theo thì chẳng thấy gì, chỉ thấy mảnh sành, mảnh ngói rơi vãi đầy nhà. Một lúc sau thì chú em mới hoàn hồn, bào đang ngồi học thì tự nhiên có đứa ném viên ngói sượt qua đầu, nhưng mà không xây xát gì, rồi nó nèm liền ba bốn mảnh ngói, nửa cục gạch vào trong, toàn sượt ngay sát người chú. Chú liền chạy ra đóng cửa sổ lại thì thấy từ ngoài đường, có một cái bóng đen lùi lũi như đống rơm, mắt đỏ rực nhìn vào trong nhà. Bố em nghe xong, sợ tái mặt, bảo chú đóng hết cửa nẻo lại rồi hai anh em cứ ngồi im trong nhà, không dám ho he gì nữa.

Đang ngồi thì có tiếng đập cổng rầm rầm, mà giờ đang ở nhà của ông bà nội em, bố với chú muốn chạy sang nhà thờ họ cũng không được, thế là hai anh em cứ ôm chặt lấy nhau, mặc cho ra sao thì ra. Một lúc sau thì tiếng đập cửa lại vang lên liên hồi, từ ngoài cổng tiếng bà nội vọng vào: "Hai thằng kia đâu sao để nhà cửa tối thế này! Ra mở cổng nhanh không tao vào thì quắn đít!" Chú em mừng rỡ, chạy ra định mở cửa thì bố em gàn lại, chỉ vào con chó đang chui dưới gậm giường. Mọi khi con này nghe thấy tiếng bước chân bà nội là vẫy đuôi chạy ra ngay, hôm nay thi cứ rúc trong gậm giường mà gằm ghè, chốc lại nhấm nhẳng cắn một tiếng. Lúc bấy giờ chú em mới chột dạ, bố em bảo chú ra đục hai cái lỗ bé bé trên giấy dán cửa rồi nhòm ra, hai người vừa kê mắt vào nhìn thì nghẹn họng không nói được tiếng nào, ngoài cổng không phải là bà nội mà là một cái bóng to trắng cao lêu nghêu, dễ phải đên ngang ngọn mít, người gầy như que củi, đang nhòm nhòm vào trong sân. Thế là hai anh em rụt vào, ôm chặt nhau, thở cũng không dám thở mạnh. Bỗng nhiên lại có tiếng đập cửa, rồi tiếng bà nội quát: "Thằng H.(bố em) đâu sao không xay lúa? Còn thằng D(chú em) học bài gì mà không bật điện lên, để tối thế này!" , con chó chui từ trong gậm giường ra vẫy đuôi mừng, không cắn nữa. Bố em biết chắc là bà đi lấy hàng về nên ra mở cửa. Vừa vào nhà, chú D khóc òa, chạy ra ôm lấy bà, mếu mào kể lại việc vừa nãy. Bà em vừa dỗ dành chú vừa hỏi xem hai đứa có làm sao không. Bố em thì thấy bà về rồi nên vững dạ, định xuống bếp xay nốt chỗ lúa thì bà túm lại, bảo để trời mai trời sáng hẵng xay. Đêm hôm đó, cả ba thức trắng tới sáng.

Ba ngày sau thì ba ông K, N, A về từ lúc đêm, mấy nhà gần đường cái bảo có cả một ông khách cao to về cùng nữa, nhưng không nhìn rõ mặt. Về làng, sau khi biết chuyện cái chum bị trúng bom, ba ông chẳng to vẻ gì ngạc nhiên, bảo ông V đã tính trước là có chuyện nên bảo bảo đi là đi lo việc này đây. Có người đánh bạo hỏi ông khách cao to kia đâu thì ba ông cứ ậm ừ mà không nói. Ông K bảo dân làng lấy sắt ra đúc thành 4 cái cột nhỏ tầm cái phích Liên Xô, chạm khắc nhiều thứ hoa văn kì quái mà ông K vẽ ra, để ông K làm phép rồi đem đi yểm. Cách làm phép của ông K rất khác lạ, chỉ đặt 4 cây cột lên bàn tế rồi phun rượu, đốt bùa xung quanh, rồi cầm 4 nhành đào gài vào trong ruột cột. Xong xuôi tất cả, ông K cho người chôn sâu xuống đất, chia làm bốn hướng Đ-T-N-B xung quanh làng.
Từ sau cái đợt ấy, làng em cũng đỡ bị ma quỷ phá rối. Ông N và ông A bảo: Lần đi đó, bọn ông đi vào tận trong đền vua Lê ở tận trong Thanh Hóa để xin một sắc gải tội cho thành hoàng, rồi lại lên đền thờ Đức Thánh Tản trên Ba vì, dâng sớ xin tội. Từ nay làng em sẽ không bị gì nữa, mấy cái oán linh bị Thánh Tản trừ rồi không còn gì hại nữa. Thế là người làng em lại trở về như cũ, cuộc sống lại quay trở về nếp sinh hoạt đúng nghĩa một làng quê. Nhưng mười năm sau, một đợt sóng mới lại nổi lên, lại một lần nữa làm khuấy động cuộc sống của cả cái làng bé nhỏ này, và lần này chỉ còn mình ông K đứng mũi chịu sào, dốc hết sức giúp cho làng em trước một biến cố khủng khiếp, có nguy cơ xóa sổ một ngôi làng.

Chuyện thứ tám: Thần giữ của

Trải qua hơn 10 năm yên ổn làm ăn, dân làng khấm khá lên trông thấy. Thế rồi bất ngờ, Chiến Tranh Biên Giới nổ ra, người Trung Quốc đang ở Việt Nam đều trốn ra nước ngoài hoặc về nước hết. Ở làng em thì chi có mỗi minh ông K là người Tàu, ông cũng định về nước luôn vì Cách Mạng Văn Hóa đã kết thúc được vài năm, giờ về chắc không sao. Nhưng dân quê nghĩ cái ơn ông khó nhọc vì làng khi trước nên cứ nhất quyết giữ ông ở lại. Chính quyền xã nhiều lần đến bức bách ông vì tội "tuyên truyền mê tín dị đoan, chống phá thành quả Cách Mạng" nhưng phép vua thua lệ làng, người quê em tìm mọi cách bảo vệ ông K, xã thấy thế thì cũng không dám làm căng, hơn nữa ông cũng chưa làm gì có hại cả, và họ còn sợ những mối quan hệ của ông K, dây giưa vào với ông có khi mất luôn cả cái ghế ngồi.

Chiến tranh kết thúc, nhiều người trẻ tuổi về làng, mang theo những tri thức mới, hiểu biết mới. Trong mắt họ, những con người như ông K, những ngôi đền, ngôi chùa trong làng đều là tàn dư của chế độ phong kiến hủ bại, làm chậm quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhưng mà người làng ai cũng kính trọng ông, ông lại có ơn với nhiều ông lắm chức quyền nên nếu gây khó dễ cho ông thì thật là vô phúc chạm phải vây rồng.

Bỗng một ngày, một đoàn khảo sát địa chất cả tây cả ta về làng, họ vào ngọn núi phía nam làng, đo đạ, lấy mẫu đất ở trong đó suốt hai ngày mới ra, lúc ra, ông nào ông nấy mặt tươi rói như bắt được vàng. Dân làng chẳng biết mấy ông định làm gì nên cũng mặc, nhưng với những cụ già cao tuổi thì các cụ biết họ định làm gì, ngày xưa, khi cách mạng về, các nhà địa chủ trong làng đều đem vàng bạc, của cải giấu vào trong núi đấy. Suốt hơn 40 năm nay chẳng ai dám động vào vì họ biết địa chủ không tốt đến thế, tự nhiên đem vàng giấu không vậy, ắt là họ còn phải yểm bùa, đặt tinh độc vào trong để bảo vệ, lắm kẻ còn đồn thổi rằng trong đó có cả Cô Yêu- thần giữ của.

Người ta bảo, thần giữ của là một dạng phép của người Tàu, đem một cô gái đồng trinh, bỏ vào trong hầm, trói vào một cái ghế, cho ăn bùa bả gì đó trước rồi nhét sâm quý vào miệng, cốt để duy trì mạng sống. Sau rồi cứ thể bỏ rũ xác trong đấy. Từ đó trở đi, chỉ những người mang dòng máu của nhà chủ mới được vào kho tàng lấy của, còn người ngoài vào thì sẽ bị Cô Yêu vật chết ngay.

Chỗ ngọn núi đó, quê em goi là núi Cô Yêu, hàng năm cứ đến ngày lập thu là cúng cấp để tỏ lòng kính sợ, mong cô đừng có làm khó dễ người có việc qua núi. Mọi chuyện cũng chẳng có gì đáng nói nếu ma- người riêng biệt, nước sông không phạm nước giếng. Bỗng một đêm mùa đông năm 84, một đoàn xe ben, máy xúc, xe chở hàng ùn ùn kéo vào núi Cô Yêu. Sáng hôm sau, dân làng biết được thì họ đã dựng lều xong rồi, hỏi thì một anh kĩ sư đưa ra tờ giấy, nói đây là đất thuộc quyền quản lý của Nhà Nước nên Nhà Nước cho người đến khai thác đá. Tiếng là vậy nhưng ai cũng biết tỏng mấy ông che mắt cấp trên, nói là khai thác đá nhưng thực chất là đến đào của rồi ăn chia nhau. Thế rồi mặc cho dân ngăn cản, máy xúc đã bổ nhát gầu đầu tiên xuống nền đất. Nhưng nhát gầu vừa bổ xuống thì chim chóc quanh núi bay loạn xạ, kêu váng trời, thú rừng cũng thi nhau chạy trốn, bỗng một con trăn gió to như cái cột nhà vít dây, đu mình từ cây này sang cây khác, tiếng rít gió ù ù, nghe mà ghê người. Thế là từ dân cho đến cán bộ đồng loạt tháo chạy sạch, công nhân, kĩ sư chạy hết, bỏ cả máy móc, thiết bị. Đến trưa thì chẳng biết ai bảo mà mấy ông lại lên núi, tiếp tục đào xới. Dân làng ức lắm nhưng không dám lên núi vì ai cũng sọ mang vạ vào thân, chỉ rủa thầm để vài đứa bị Cô Yêu vặn ngược cổ rồi mới sáng mắt ra.

Năm ấy, ông K cũng đã già lắm rồi, lại thêm lang bạt nhiều năm, sương gió đời người nên giờ ông ốm luôn, toàn ở bệnh viện tỉnh nhiều hơn ở nhà. Mấy tuần nay, ông lại lên cơn hen nên hôn mê bất tỉnh, ở viện được vài ngày rồi. Vậy nên ông không biết ở làng có chuyện xảy ra, dân làng cũng ngại, kẻ thì chẳng muốn dựa mãi vào mấy ông thầy phù thủy, người thì sợ làm ảnh hưởng đến sức khỏe ông nên chẳng ai dám lên viện thông báo.

Nhóm kĩ sư khai thác đã kia mới làm việc được bốn ngày mà đã thấy "thành quả", hôm đầu tiên, họ đào lên được một hòm toàn tiền Đông Dương, tính giá trị ra cũng phải tới vài trăm triệu. Hôm tiếp theo thì đào lên được một cái hũ lớn, cả đám ngừng làm, hè nhau nạy cái nắp ra xem được bao nhiêu vàng. Nhưng vừa nạy nắp ra thì ông công nhân cầm xà beng ngã lăn ra đất, tai, mũi mồm trào máu ra, mắt trắng dã, trợn trừng chỉ lên ngọn cây, không nói được câu nào rồi chết tại chỗ, trong hũ là một cái đâu người còn tươi nguyên Thợ thuyền thấy vậy cũng kéo nhau bỏ đi quá nửa, chỉ còn lại toàn những anh có máu liều. Ngay đêm hôm đó, lại có chuyện xảy ra, một anh công nhân đi tiểu đêm phát hiện ra một ông kĩ sư già đã treo cổ chết tự lúc nào. Cả trại xúm vào gỡ ông ý xuống thì không đã muộn, không cứu được nữa. Liên tiếp mấy ngày sau, máy xúc cứ vừa giơ gầu lên định múc thì lại chết máy, xe tải xe ben thì không cái nào khời động được, đã thế đến đêm, thợ ngủ ở đó toàn thấy có mấy ông mặc quan phục ra vụt thước vào đầu đuổi đi, cầm đầu đám này là một cô gái tuổi mới đôi mươi, mặc bộ áo chẽn màu trắng, người đẹp như ngọc. Mà sáng tỉnh dậy thì thấy anh nào anh nấy đều có mấy vết lằn đỏ trên mặt với cổ. Được hai tuần sau, cả thợ lẫn kĩ sư đều đi hết, lần này phải gọi phà vào chở hết cả xe ben, máy xúc đi. Đoàn phà cứ thế men dần theo sông mà đi, đi đến đoạn sông chảy ngầm trong lòng núi thì tự nhiên phà rung mạnh một cái, tý thì lật, nhưng sau rồi lại yên, cả đoàn phà vào bờ bên kia an toàn, còn mỗi cái phà chở anh kĩ sư trưởng và công nhân lâu năm là còn đang cách bờ vài chục mét. Thốt nhiên, cả cái phà lật ùm xuống, may mà ai cũng biết bơi nên người này kéo người kia vào bờ. Thốt nhiên, anh kĩ sư hét lên thất thanh rồi như bị cái gì kéo tuột xuống nước, mọi người trên bờ nghi là do phà chìm nên hút xuống, vội giục công nhân bơi nhanh vào bờ, chứ bây giờ bơi ra cũng chẳng cứu được, có khi còn bị hút theo. Lúc lên bờ, mấy người bên cạnh anh kĩ sư bảo rằng đang bơi thì tự nhiên thấy cái gi lành lạnh trơn trơn bơi lươn qua người, cơ mà nó to lắm, phải bằng cỡ cái cột nhà là ít. Còn những người đứng trên chỗ cao thì quả quyết rằng thấy một cái bóng đen xì, dài ngoằng, từ từ bơi về phía mọi người, lúc đó chỉ muốn hét lên mà cứ như bị cái gì bóp họng lại, không tài nào phát ra thành tiếng được.Sau khi mấy ông kĩ sư bỏ đi, người làng em ai cũng nghĩ sẽ lại được trở về những ngày cày cấy thanh bình trước đây. Nhưng chuyện vốn dĩ chẳng hề đơn giản như vậy bởi, giờ, nước sông và nước giếng đã phạm nhau rồi.

Chuyện thứ chín: Quýt làm cam chịu

Kể từ sau cái đợt kĩ sư, công nhân vào đào xới ở trong núi Cô Yêu rồi bỏ đi vì sợ quá không ở được. Bẵng đi 2 tháng, trong làng bắt đầu có chuyện.

Lúc bấy giờ, ở quê em đang có mốt xem phim chưởng nhập lậu từ Trung Quốc về. Tối nào trai làng cũng kéo nhau lên quán bia nhà ông C thọt để xem, đến tầm 11h đêm thì về. Phải nói lúc đó, ở quê như có bệnh kiếm hiệp, từ truyện đặt tên cho con những cái tên đậm chất Kim Dung như: Nguyễn Bá Thông, Trần Tĩnh, Phạm Trùng Dương, Lê Hồ Xung,.... Rồi thì người người kiếm hiệp, nhà nhà kiếm hiệp, ra đồng thì trai làng cuốc đất cũng tụ khí đan điền, dồn huyệt Nhâm Đốc, về nhà thì lắm anh cứ ngồi đần mặt ra cả ngày để luyện nội công, cá biệt có cả chuyện ông chống tát xưng mặt bà vợ chỉ vì bà vợ dám chửi Hoàng Dung là gái lẳng lơ bỏ cha theo trai. Thôi thì cả làng cứ gọi là bát nháo cả lên, nhí nha nhí nhố. Các cụ thì chỉ biết lắc đầu mà than thở vì bây giờ bọn con cháu cứ như bị ma nhập, dở dở khùng khùng, mà cái thứ ma này thì đố thầy nào trị được, chỉ rủa bọn làm phim thâm nho, đầu độc cả lũ thanh niên.

Chuyện bắt đầu từ đêm rằm tháng giêng, một đám trai làng vừa đi xem phim về, còn đang bàn tán sôi nổi thì thằng Y., mới 5 tuổi đi theo anh trai xem phim bỗng chỉ tay về phía bụi tre, ngọng nghịu nói: "Các anh ơi! Cô cô kìa, cô cô đang khinh công trên ngọn cây kìa!" Cả đám nhìn theo hướng tay thằng bé thì tất cả đang cười nói bỗng im bặt, mặt tái như ga cắt tiết. Ở trên ngọn tre, một người con gái mặc bộ áo trắng toát đang đứng phất phơ trên đó, cả đám lại kinh hãi một lần nữa khi thấy cô gái nhìn về phía mình, cười khanh khánh, tiếng cười vang vọng mãi như không dứt. Xong rồi chẳng ai bảo ai, cắm đầu cắm cổ chạy một mạch về nhà, sáng sau kể lại thì các cụ bảo đó là Cô Yêu, nhưng mà Cô Yêu thì toàn ở trong núi canh của, ra ngoài làng làm gì?

Tất cả cũng chỉ có vậy thì cũng chẳng có gì đáng kể cho lắm. Mấy bữa sau thì nhà ông Q, con thầy S ngày xưa làm đám cưới cho cháu, cả làng cùng đến chúc mừng, ai cũng khen hai đứa đẹp đôi, trai anh hùng gặp gái thuyền quyên. Đến tối, dân làng về gần hết, chỉ còn mấy nhà hàng xóm gồm nhà em, nhà ông T và nhà ông D là ở lại giúp ông dọn dẹp, dọn dẹp xong thì tất cả cùng ngồi trà nước phía ngoài hiên, để dành cả dãy nhà sau cho đôi vợ chồng trẻ. Đang lúc trà dư tửu hậu vui vẻ thì tự nhiên hai con chó mực xích ngoài hiên lồng lên, cắn nhát gừng ra phía nhà sau, rồi gà vịt bay loạn xạ, kêu quang quác khắp vườn, con trâu cột ở sau đồng rơm cũng khua sừng lộp cộp, chỉ muốn dứt thừng mà chạy. Đột nhiên, phía nhà sau có tiếng hét của anh M, mọi người vội lao nhanh vào nhà trong xem sự thể ra sao. Đập vào mắt mọi người là một cảnh tượng kì dị vô cùng, anh M đang tìm mọi cách để giữ chân chị U- vợ mình, còn chị U thì cứ tìm mọi cách để lao xuống cái giếng khơi ngoài sân, bất chợt, ông X hàng xóm kĩnh hãi chỉ tay lên nóc nhà, la lên :"Ối giời ôi!", mọi người nhìn theo thì thấy trên nóc nhà, con Ki, con chó đã bị làm thịt từ lúc sáng, vậy mà giờ nó vẫn còn đó, lại đang đứng hai chân, đầu đội cái khăn xếp của ông Q, hai chân trước túm mấy cây hương, đang nhảy tưng tưng trên nóc nhà, mọi người thấy vậy thì ai cũng khiếp, đứng đờ người ra. Anh M hét toáng lên: Các chú thím cứu vợ cháu với!", lúc này mọi người mới định thần lại, nhào ra giúp anh M ôm lưng chị U kéo lại, bỗng ông Q chạy lên nhà trên, một lúc sau ông trở lại, tay cầm cái kiếm gỗ của bố ông, ông S, cầm lên chỉ vào con cho rồi lại chỉ vào cái giếng, lầm nhẩm mấy câu rồi bẻ đôi cây kiếm, một nửa vứt xuống giếng, một nửa quăng lên nóc nhà. Ông vừa làm xong thì chị U giật nảy người lên vài cái rồi sùi bọt mép, xỉu luôn, còn con chó trên nóc nhà thì kêu ẳng một tiếng, lao luôn qua hàng rào sau vườn rồi chạy mất. Anh M lúc này cứ ôm người chị U mà lay, gọi em ơi em ơi, rồi anh lại quay sang bố: "Bố ơi nhà con sao thế này hả bố? Bố ơi!", ông Q bảo anh đưa chi vào trong rồi bóp dầu cho chị đi, sáng mai là khỏi.

Lúc lên nhà trên, mọi người xúm vào hỏi ông sao ông lại biết phép phù thủy thì ông trả lời là do bố ông dạy, nhưng học chưa đến nơi đến chốn thì bố ông mất nên thôi, từ ngày ấy đên giờ ông chưa từng dám dùng phép, hôm nay vì cấp bách quá nên phải dùng vậy thôi. Sáng hôm sau, từ lúc gà chưa gáy sáng thì mọi người đã bị dựng dậy bời tiếng kêu làng phát ra từ phía nhà bà P bán dưa cà muối ở xóm giữa. Mấy nhà hàng xóm chạy sang xem có chuyện gì thì thấy bà P đang ngồi thu lu bên bàn nước, đầu tóc bù xù, nhìn lên giường thì thấy ông A chồng bà đã chết, người vẫn còn đắp chăn. Mọi người hỏi sao thì bà P nghẹn ngào: "Nào tôi biết tại sao! Sáng nay lúc tôi đi mua lòng lợn, cổ hũ về cho ông ý ăn sáng, lúc về gọi ông ý dậy mà mãi không thấy thưa, tôi mới mở chăn ra thì....Ối ông ơi là ông ơi! Sao ông bỏ tôi lại ông ơi" Cả làng ai thấy thế cũng sụt sùi, ông A và bà P trước nay rất tốt, hòa thuận với xóm làng, ai cũng quý, con cháu thì đứa nào cũng học cao rồi lên thành phố, mỗi tháng lại vè nhà đem tiền cho bố mẹ. Hai ông bà thì yêu nhau sâu đậm từ hồi còn trẻ, đến tận bây giờ vẫn cứ quấn lấy nhau, ông đi đâu thì bà theo đó, bà đi chợ thì ông lóc cóc đạp xe chở bà đi, hàng xóm xung quanh chưa bao giờ thấy hai ông bà nói nặng với nhau câu nào. Có thể nói vợ chồng ông bà có một cuộc sống đáng để nhiều người mơ ước.

Sau đám tang ông A, làng em liên tiếp xảy những cái chết bất ngờ, tai nạn có, không rõ nguyên do cũng có. Đầu tiên là anh G, đang làm cầu đường trong Thanh Hóa thì tự nhiên lại bị xe lu cán chết. Mấy anh làm cũng bảo đang ngồi nghỉ chờ xe lu cán xong đường thì tự nhiên anh G lao ra đứng ngày trước xe lu, người lại vội tắt máy đi thì đã muộn, anh G đã bị cán quá nửa người, anh vẫn sống nhưng không hề kêu đau lấy một tiếng, cứ cười xong lại khóc, trên đường đưa vào viện cũng vẫn thế, rồi anh chết trong viện, miệng vẫn nở nụ cười. Sau đó là ông N, thầy pháp, đang ngồi uống nước bên vệ đường tự nhiên ông đứng phắt dậy, lăm lăm kiếm nhìn quanh, tối hôm đấy về nhà ông chẳng bệnh gì mà tự nhiên mất. Rồi lại đến ông A, buổi tối làm lễ cho đám tang ông N thì tự nhiên ông A rú lên rồi ngất đi, máu từ tai với mồm cứ phụt ra như suối, trước lúc chết, ông A chỉ tay về hướng núi Cô Yêu rồi phều phào nói: "Bằng mọi giá phải gọi được ông K về, bảo ông ý là " Hỏng mất trấn phía Nam rồi, hỏng mất rồi!" Mọi người còn chưa hết kinh hãi thì từ ngoài vườn, một giọn cười the thé vọng vào, bát hương đặt trên bàn thờ tự nhiên bốc cháy phừng phừng, lửa đỏ rực. Con vẹt mà ông N nuôi tự nhiên đạp cửa lồng bay ra, vừa bay vừa hét :"Trả đầu cho tao! Trả đầu cho tao !", rồi nó đậu lên cái ảnh của ông N đang đặt trước quan tài, con vẹt chõ mõ ra phía cửa sổ mà mắng chửi, mọi người nhìn ra người cửa sổ, mấy người yếu bóng vía tý nữa thì xỉu. Bên ngoài cửa sổ, một cái bóng đen xì, đen đặc hơn cả bóng tối xung quanh đang vin tay vào cửa sổ, mắt đỏ, rực, to như cái đèn lồng đang nhìn chằm chằm vào trong nhà. Đột nhiên ông A bật dậy, ném thẳng ba đồng tiền Vạn Lịch về phía cái bóng rồi lại nằm xuống đất như cũ, cái bóng thì gào lên mấy tiếng như tiếng hổ gầm, rồi chạy thăng vào trong núi (Núi này trong có cái động gì thì em quên tên rồi, chỉ nhớ là tên động đẹp lắm, Khuyên Dương hay Tam Nhật Dương gì đó, cái động này như là thánh địa của loài hổ, hổ ở trong này rất khác với hổ thường là chúng săn theo bầy đàn, tới tận bây giờ vẫn chưa có ai dám bén mảng vào khu vực quanh động này). Dân làng thấy thế thì khiếp, vội cắt cử toàn thanh niên trai tráng ở lại đi tuần đêm giữ làng, còn người lớn tuổi thì sẽ lên viện xem tình hình ông K thế nào rồi tính cách.

Mấy ngày sau, lại có thêm hai người chết bất đắc kì tử, cả làng trắng một màu khăn tang, thợ mộc làm quan tài không kịp, phải sang cả làng bên mua. Đúng lúc đó thì ông K về,...

Chuyện thứ mười : Gửi xương tàn nơi đất khách

Sau những cái chết, cả làng đâu đâu cũng là khăn tang, dân quê hoang mang cực độ thì ông K về. Đợt này về, nhìn ông K yếu hơn trước nhiều lắm, một người chân đi mòn cả Trung Quốc, lang bạt đến cả những khu tự trị xa xôi giờ chỉ còn là một ông già râu tóc bạc phơ, chống gậy lọc cọc. Ngay cả túi đồ nghề phù thủy của ông, ông cũng không mang được nữa, phải nhờ một bác xách hộ. Ngay từ lúc đặt chân đến đầu làng, ông K đã đứng khựng lại, ông bảo cụ D đi cùng : "Khiếp quá ông ạ! Khiếp quá! Sau mà làng ta nó ngập ngụa toàn là yêu khí thế này!", nói đoạn, ông rút trong túi ra một nắm bùa, bảo hai anh thanh niên đi cùng đem dán ở những ngã ba, cầu, dốc trong làng. Rồi ông quay sang bảo bác D làm hậu cần đem cơm trắng, muối, ra rắc ở những chỗ có bùa, rắc đến chỗ nào thì đốt tiền vàng rồi khấn cô hồn đến đấy, ngày hôm đó, chỉ riêng chỗ tiền vàng đốt trên đường như vậy cũng phải đến hai thúng.Vào trong làng, người nhà của những người chết vừa thấy ông K thì lại òa khóc, họ khóc không phải vì ông K về muộn, họ khóc là vì nhìn ông xanh xao quá, ông ốm quá mà vẫn lọ mọ về đây. Từ lúc nào, vị trí của ông K trong lòng dân làng không còn đơn thuần là một ông thầy phù thủy tài phép nữa mà còn là chỗ dựa tinh thần cho họ mỗi khi làng có biến cố. Ông K vội an ủi mọi người rồi đi nhanh lên đình, nơi các cụ bô lão đang họp, nhưng vì ông vốn không phải là dân gốc Việt nên không dám vào vội, ông đứng xin đài trước cổng đình ba đài, rồi ông mới dám vào. Sau khi ổn định xong, ông K lên tiếng :

– Mọi tai họa làng ta đều bắt đầu từ cái đợt kĩ sư vào đào xới trong núi Cô Yêu, làm động đến nhiều thứ. Tôi bấm độn và xin quẻ thì biết được rằng trên đó vốn chứa rất nhiều vàng bạc, châu báu do địa chủ chôn dấu nhiều đời. Người yểm cái kho báu này cũng là một thầy pháp gốc Hoa như tôi, lại là người của gia tộc Vương bên Tứ Xuyên, cùng đứng vào hàng Thiên Đẳng như tôi. Nhà này và nhà tôi vốn là đối thủ với nhau từ bao đời trước, nên cách yểm của ông này gần như là khắc chế phép của tôi nên tôi cũng không chắc có giải được cái hạn này cho làng không.

Tất cả những người ngồi trong đình nghe đến đây thì đều sợ đến run người, ông K đã thuộc vào hàng phù thủy cao tay như thế mà còn kêu khó thì bây giờ biết trông vào ai. Bỗng cụ H đứng lên, hỏi: " Thế ông thử kể tường tận xem cái phép đó nó làm sao, muốn giải thì còn cần những gì, xin ông cố cứu cho làng!"
Ông K đáp:" Phép của tôi không giải được nhưng phép của ông L lại giải được. Vì nghề phù thủy tuy chung nguồn nhưng lại có nhiều dòng, dòng này lại khắc được dòng kia. Nhưng mà ông L chết rồi, lại chẳng có người nối nghề nên thật là hết cách.". Bất chợt, cụ H kêu : "Thế thì còn cách! Hồi trước lúc tôi cùng đám thanh niên dọn đống cháy nhà lão L thì thấy được quyển sách bùa phép của lão, tôi sợ đem ra ngoài để ai đọc được thì gây vạ nên khóa lại cất ngày trong đình này! Cơ mà dùng sách thì được không ông!". Ông K mắt sáng lên, mừng rỡ :" Được chứ cụ, tốt quá, tốt quá!" . Thế là cụ H hồ hởi, kéo lê từ trong gầm ban thờ ra một cái hộp phủ đầy bụi, rồi cụ lấy một chiếc chia khóa đeo trên cổ ra, mở khóa hòm. Trong hòm là một quyển sách cũ, giấy đã ngả vàng. Ông K nhẹ nhàng lần mở từng trang sách ra xem, vừa xem ông vừa rùng mình, toát mồ hôi. Xem xong, ông nói :" Tôi thật không ngờ bùa chú Nam tông lại có dòng độc ác thế này, ông L dùng phép này thì bảo sao mà chẳng gặp đại họa!"

Thế là ngay chiều hôm đó, ông K và các cụ bô lão, thanh niên trong làng vào cả trong núi Cô Yêu để lập đàn giải tội. Trước khi đi, ông đã kén kĩ người vào trong toàn là người tuổi Thân, Ngọ, Tỵ, Hợi, dặn trước là vào thấy gì cũng phải mặc kệ, không ai được cười nói, chỉ trỏ, nghe thấy tiếng ai gọi cũng không được thưa. Đến tầm 9h tối, đàn đã lập xong, ông K mặc áo bào đạo sĩ màu vàng nghệ, đầu đội một cái mũ lông hạc, tay cầm kiếm thép lên đàn làm lễ. Đầu tiên, ông khấn một tràng dài bằng tiếng Miên rồi hú lên một tiếng, múa may trên đàn y như người điên, rồi lại khấn một tràng toàn tiếng Tạng, tiếng Mông, tiếng Chà, vừa khấn ông vừa phun rượu phì phì ra xung quanh. Cuối cùng ông vốc một nắm đỗ, ném về phía trước, khấn : " Oan có đầu nợ có chủ, cớ sao lại làm hại sinh linh vô tội. Lục đinh lục giáp nghe ta, muôn ngàn ngọn lửa bắn lên cung Nam Tào!" Rôi ông trỏ thăng kiếm lên không, ông vừa dứt lời thì đám đỗ dưới đất tóe lửa, nổ đôm đốp như pháo. Bỗng nhiên, từ trong núi vọng ra tiếng con gái khóc lóc nỉ non ai oán, rồi lại có tiếng gầm vang trời như hổ, rồi lại tiếng gào thét chói tai. Ai nghe cũng bủn rủn cả chân tay, ông K quát : "Tất cả đứng yên, coi như không nghe thấy gì. Rồi ông lại khấn tiếp :" Phong Hỏa Lôi Điện! Giải giải giải!", rồi ông cắm ngập cây kiếm xuống đất thì tiếng gào thét dứt, thay vào đó là tiếng van vỉ, than thở. Ông K đốt một lá bùa, bắt quyết rồi ném luôn vào cái hình nhân, hình nhân bốc cháy rừng rực. Tiếng than khóc cũng tiệt. Ông K liền bảo mọi người đi thành tốp tám người, vừa đi vừa rắc gạo nếp với muối, bao giờ rắc hết thì về đây. Được chừng một tiếng sau thì mọi người về, ông K bảo mọi người đắp đất chôn cái kiếm kia rồi làm cái mộ giả, hàng năm đến ngày lễ tết, Vu Lan thì ra thắp hương khấn vái là được, nhưng tuyệt đối không ai được đào xới, động chạm gì đến nữa, có việc gì mà phải đi qua núi thì lên thắp hương, cũng bái chút rồi hãy đi, có khi lại được lợi.

Nhưng kể từ hồi trấn yểm xong cho làng em thì ông K lại càng ngày càng yếu đi. Đem lên bệnh viện tuyến trên thì bác sĩ bảo do ông tuổi đã cao quá, lại chịu nhiều khổ cực từ trẻ, dạo gần đây thì lo nghĩ quá nhiều nên giờ cơ thể không chịu được nữa. Ông K lại ốm, nhưng chỉ mấy nằm viện thì ông K lại khỏe mạnh rồi xuất viện như chưa từng có bệnh gì xảy ra. Về làng, nhìn ông da đỏ au, mắt sáng tinh anh, đi lại nhanh nhẹn, giọng nói sang sảng, khỏe như thanh niên thì ai cũng mừng, nhưng chỉ có những người cao tuổi là thấy hồ nghi điều gì đó, dường như họ biết có chuyện sắp xảy ra. Lần này về, ông K đi thăm hỏi tất cả các nhà trong làng, đến nhà nào ông cũng cho ý kiến về việc trong tương lai, nào là cái hướng này tốt, nên để mùng sáu tháng sau thì đổi lại hướng cổng, tháng 8 năm nay có ngày hai ba là tốt, cưới gả vào ngày này thì tuyệt, có nhà thì ông lại gay gắt phản đối, bảo năm nay nhà này không nên xây nhà, nhà kia không nên cải táng,... dân làng thấy lạ nhưng ai cũng tin tưởng, nể vì ông nên nghe theo. Được tầm hai tuần thì ông K lại đổ bệnh nặng, dân làng đến nhà ông thăm hỏi rất đông, ngồi chật kín nhà. Trước lúc lâm chung, ông K lại dặn dò mọi người lại một lượt, năm này phải tránh cái này, năm nọ phải tránh cái kia.Rồi ông dặn dò chuyện hậu sự của mình :

-Tôi phiêu bạt cả đời, về đến đây dừng chân, các ông các bà chẳng kì thị tôi khác giống mà lại đối sử với tôi hết lòng, thật đây như là quê hương thứ hai của tôi vậy. Sau khi tôi chết, làng hãy hỏa táng tôi rồi đem chôn ở góc phía nam của núi Chàng Sinh. Tiền lo liệu hậu sự, tôi đã chuẩn bị từ lâu, để trong cái hộp gỗ dưới gầm giường, tôi tính lo xong chắc cũng còn nhiều, được bao nhiêu thì làng gửi thẳng cho tôi vào công quỹ, mỗi năm lấy ra một phần làm phần thưởng cho các cháu học giỏi.

Rồi ông lại nhìn quanh, hỏi:

-Thế chú H chưa về hả?(Chú H ở đây chính là bố em, bố em lúc này đã đi thoát ly được 5 năm, nghe tin ông H bệnh là bố em liền bắt tàu từ trong Nam về ngay, nhưng về đến quê thì không kịp nữa.)

Mọi người bảo ông là mai bố em sẽ về đến, ông phải khỏe để còn chờ bố em về. Ông K liền đưa ra một phong thư và bảo mọi người bao giờ bố em về thì đưa cho bố hộ ông. Nghỉ một lúc, ông K lại thều thào nói tiếp :

-Tôi thực rất quý quê ở đây nhưng àm tôi vẫn cứ là người Trung Quốc, ngày sau có ai sang bên đó thì xin đem xương cốt tôi về với, rồi lên Thiểm Tây, hỏi nhà họ Trương Thiết, rồi xin hộ tôi với ông trưởng tộc là ông cho đứa bất hiếu là Trương Thiết Trấn về đất của dòng họ. Miếng đá này xin đưa cho người giúp tôi đem lên Thiểm Tây để làm tin. Còn viên ngọc trai đen trong cán kiếm của tôi thì xin tặng người đó để trả ơn.

Nói đoạn, ông rút miếng đã ra đưa cho cụ H, cụ H và dân làng khóc mà bảo ông không phải lo nhiều, dân làng sẽ cố hết sức để đưa ông về quê cha đất tổ.Ông K gật gật đầu rồi mỉm cười mãn nguyện. Rồi ông bắt đầu hát, ông hát bằng tiếng Trung, mọi người nghe không hiểu gì nhưng nghe âm điệu thì đó có vẻ như là một bài tình ca của dân tộc thiểu số Trung Quốc, nhưng không ai biết là ông hát cho ai. Ông K cứ hát ngân nga, ngân nga rồi khóc,lần đầu tiên mọi người mới thấy ông khóc, ông hát xong thì cố chút sức tàn nói mấy câu toàn tiếng Trung, rồi ông mất. Có vài người ở đó hiểu võ vẽ chút tiếng Trung, nói đó là ông đọc hai câu thơ : Yêu nhau từ lúc đầu xanh- Âm dương cách biệt chẳng phai duyên tình . Ông còn gọi tên một người, không dịch được nhưng chỉ nghe là : "Lian Lian"

Cuộc đời của một thầy pháp lừng danh đã kết thúc như vậy, nghề phù thủy đã đẩy ông K vào bao nhiêu sóng gió cuộc đời, giờ thì ông chết nơi đất khách quê người, xung quanh không có lấy một người thân.Chừng 5 năm sau thì có người bên Trung Quốc sang hỏi tin ông K, một ông già hơn 70 tuổi cứ lọ mọ đi từng nhà, hỏi bằng giọng tiếng Việt líu lơ xem có biết ai cũng có hình xăm trên tay như ông không, nhưng chẳng ai biết. Cuối cùng thì có một ông già sống cùng thời ông K nhận ra cái hình xăm này giống y hệt hình xăm trên tay ông K, chỉ khác là của ông K thì có chữ Thiên nhỏ ở mé trái còn của ông này thì chỉ có chữ Nhân, ông già kia mới hỏi có phải ông quen biết một người tên là Trương Thiết Trấn không. Ông gia người Hoa kia mừng rỡ trả lời đấy là anh ruột của ông, vì hồi trẻ bị gia đình từ mặt nên bỏ nhà đi, bây giờ bố mẹ ông đã qua đời lâu, ông lại làm trưởng họ nên muốn đi tìm anh về đoàn tụ. Hóa ra ông K còn có em trai, dân làng nghe tin người nhà ông K đến thì đổ xô đến xem, đến chiều thì ông này được dẫn lên quả núi có một ông K. Đến chân núi, ông này tự nhiên quỳ xuống rồi vừa bò vừa khóc lên chỗ mộ ông K, dân làng và con cháu ông vào cản thì ông gạt hết ra, cứ thế bò lên núi, tay trầy bật cả máu vẫn không chịu dừng. Sáng hôm sau, ông xuống làng xin mọi người cho ông đem hài cốt anh mình về quê, muốn bao nhiêu tiền ông cũng giả, rồi ông lấy ra hai va ly toàn tiền đô, ít cũng phải vài chục ngàn. Nhưng các cụ trong làng không nhận đồng nào, lại dẫn ông đến nhà cụ H nhận lại những đồ hồi trước của ông K. Cụ H giờ đã yếu lắm rồi, chỉ toàn nằm một chỗ, nghe có em ông K đến thì cụ liền ngồi dậy nhưng không được, cụ bảo con cháu khuân cái hòm trên gác xuống trao lại cho ông cụ, rồi cụ H lấy từ trong cái túi gấm đeo bên hông ra cái mảnh đã của ông K. Ông già kia nhận lại mảnh đá, rưng rưng nước mắt, ông cũng lấy trên cổ ra một mảnh đã như vậy, nhưng đối xứng với mảnh đã của ông K. Rồi ông khớp hai mảnh đá lại với nhau, thì ra hải mảnh đá ghép lại sẽ thành hình Âm Dương Bát Quái, ông K giữ mảnh Càn còn em ông giữ mảnh Khôn. Sau đó, ông già kia mới kể lại lai lịch của ông K cho mọi người nghe, những quãng đời phiêu bạt của ông K thế nào thì ông không biết. Giờ mọi người mới rõ là ông K có xuất thân kì bì đến vậy, còn ông già này tên là Trương Thiết Bách, lúc ông K bị đuổi đi thì ông mới có 5 tuổi. Sau đó, ông Bách còn ở lại làng chơi mấy ngày rồi mới về nước, trước khi về ông lưu lại địa chỉ và số điện thoại, số Fax, số điện báo của ông cho các cụ. Ông bảo ông xem làng này có oán khí cứ vương vẩn không tan, sớm muộn cũng có chuyện. Nếu có chuyện gì thì cứ liên lạc, tự khắc có người đến giúp. Dân làng nghe sắp có chuyện thì kinh hãi, lo lắng không biết trời còn giáng thêm tai hạ gì xuống cái làng nhỏ bé này nữa. Nhưng lần này thì không biết ai sẽ đứng ra chống đỡ cho làng. Lần này thì chuyện đã dậy dưa đến cả đời em, và cũng qua đó mà em quen một người bạn thần bí vô cùng.

Bắt đầu từ chuyện này em sẽ kể thật chi tiết những chuyện xảy ra ở quê từ những năm 86- 95, vì những năm này có khá nhiều chuyện xảy ra, lại xảy ra ngay trong nhà.

Chuyện thứ mười một: Hậu họa từ năm xưa

Từ khi ông K mất, làng em như thiếu mất một cái gì đó. Sáng sớm không còn nghe thấy tiếng đạp xe kẽo kẹt đi lên tỉnh, những đám giỗ, đám ma, bốc mộ,...không ai còn thấy bóng dáng một ông già mảnh khảnh, tóc bạch kim, mặc cái kaki đã sờn vai, tay bắt quyết, tay cầm kiếm như trước. Bọn trẻ con cũng thấy hụt hẫng vì giờ chẳng còn thấy những ông leng keng như ông A, ông N trong những đám việc trong huyện nữa. Chẳng còn bóng dáng một ông béo tốt, da đỏ au và một ông gầy gò, mặt hiền như bột hay đi cùng nhau trên đê nữa, chẳng còn hai ông mà ngày nào về đến đầu làng cũng cho chúng nó đủ thứ xôi oản, trứng gà như trước. Giờ đây, quê em không còn là cái làng quê mang màu nhiệm, huyền bí nữa. Đứng trước guồng quay của thế giới hiện đại, làng em cứ dần thay đổi từng ngày. Thanh niên trí thức giờ đã bỏ làng lên thành phố kiếm việc rồi ở luôn trên đấy hết, ở lại làng chỉ còn ba phần mười số thanh niên và toàn người già.

Chắc các thím còn nhớ quyển sách của lão L đã chỉ dẫn cho ông K cách giải yểm trong làng. Nhưng từ sau đợt trấn yểm lại núi Cô Yêu xong, tự nhiên quyển sách không cánh mà bay. Đó là vào ngày hội làng, cụ H và các cụ cao niên quyết định đem quyển sách đốt đi đẻ phòng trừ họa về sau. Nhưng khi mở dấu niêm phong, rồi cả mười người lần lượt mở mười cái khóa ra thì lúc mở hòm, các cụ ngớ người ra vì trong hòm rỗng không, quyển sách của lão L giờ đã không cánh mà bay, rõ ràng chính tay cụ H và cụ D đã đặt quyển sách vào hòm trước sự chứng kiến của cả mười cụ bô lão. Giả tỷ như có trộm lẻn vào thì cũng chẳng thể nào còn dấu niêm phong, mà dù là có con cháu của ai muốn lén lấy cũng chẳng được vì phải mở cả 10 ổ khóa thì cái hộp mới mở ra. Các cụ còn đang băn khoăn thì đùng một cái, một tiếng sét nổ giữa thinh không, rồi lại ùng oang thêm tám tiếng nữa mới dứt. Dân làng ngơ ngác nhìn nhau, lo lắng không biết chuyện gì sẽ lại xảy ra trên cái đất này. Mấy ngày sau thì hội tan, các cụ họp nhau bàn cách đối phó, có cụ bảo hay là liên lạc qua bên Trung Quốc xin gia tộc nhà ông K giúp, nhưng ngay lập tức các cụ khác gạt đi vì làng em đã nợ ông K quá nhiều, không thể bắt người ta lặn lội mấy ngàn cây sô sang đây chỉ vì chuyện của làng mình được. Bàn qua bàn lại thì các cụ cũng quyết định là sẽ xin với bên xã cho thêm dân quân tuần đêm, buổi tối ai mà đi đường thì phải đi theo nhóm, không được đi lẻ, thế là ổn.

Và mọi chuyện vẫn cứ ổn cho đến một ngày. Đợt đó, dân chài liên tục than vãn vì dạo này sông chẳng kéo được mấy cá, chỉ toàn kéo được cá bé tí ti, chẳng bõ sức quăng lưới. Còn bọn trẻ con chăn bò, chăn dê trong núi thì bảo dạo này cái khoảng sông ngầm sát núi cứ đục ngầu như có ai khoắng, không dám thả trâu bò ra uống nước. Nghe đến khoảng nước đục là những bác trung niên lại giật mình nghĩ về vụ con cá trê đợt nọ, một số thanh niên thì lại càng ghế bởi chính họ là những đứa trẻ năm nào đã gặp con cá trê ở đó. Thế là dân làng cấm không cho trẻ con ra chỗ sông ngầm sát núi kia chơi, ngay cả người lớn mỗi khi có chuyện đi đò qua cũng thấy rợn cả người, lúc đò cập bờ rồi mới yên tâm là mình còn sống.

Thế rồi một hôm, dân kéo vó đêm huyên náo cả lên, họ kéo được một con lươn to chưa từng thấy, nhìn cứ trùi trũi, to bằng cái phích, dài tầm mét rưỡi. Dân làng đổ ra xem thì thấy đó chẳng phải lươn cũng chẳng phải rắn, nó có vây, có da trơn láng như lươn nhưng lại có mồm như mồm thạch sùng, nhìn quái dị vô cùng, mà mắt nó tuy cũng vào loại ti hí nhưng cũng chẳng đến mức híp như mắt lươn. Con này lên bờ rồi mà khỏe vô cùng, quấy rách tấm lưới ý như xé một tờ giấy vậy. Lúc nó há mồm ra thì có cảm tưởng chỉ đớp một cái là lủm luôn tay mình, mặc dù nhìn mồm nó chẳng có tý răng nào. Nhưng dân làng không dám giết thịt, cứ để đấy, đợi xã đến giải quyết. Chờ được hai tiếng thì trên xã cử một anh phiên dịch và một ông tiến sĩ người Nga xuống. Xem xong thì ông này nói không biết con này là còn gì, nhưng nếu đếm vân trên đầu nó thì ước lượng được nó chỉ là con non được vài tháng. Nghe đến đây thì dân làng dựng tóc gáy, con non đã thế này thì ắt phải có con mẹ, mà con mẹ thì còn lớn tới cỡ nào. Ông tiến si Nga liền mổ con lươn, mặc cho sự phản đối của dân làng vì họ sợ bị con mẹ trả thù. Mổ xong con lươn, ông Nga và anh phiên dịch bỏ hết vào thùng đá ướp lạnh rồi đem lên phà chở về nghiên cứu. Phà đang chạy ngon thì tự nhiên chao nghiêng một cái, ông Nga và anh phiên dịch suýt nữa lăn xuống nước. Đi thêm một quãng thì phà lại rung lên, đi thêm quãng nữa đến giữa hồ thì phà bị lật ùm một cái. Anh phiên dịch sợ quá lóp ngóp bơi vào bờ, ông Nga to khỏe bơi đằng sau, bơi nhanh gấp mấy anh phiên dịch, nhưng đang bơi thì ông Nga bị kéo thụt xuống nước, anh phiên dịch khiếp, bơi nhanh vào bờ, vào đến bờ thì dân làng kéo lên được. Còn ông Nga bị thụt xuống chẳng biết sống chết ra sao, mấy ông dân chài vội đẩy thuyền ra cứu thì thấy ông Nga lại trồi lên rồi hụp xuống mấy lần, hét lên toàn tiếng Nga, xua tay ra hiệu bảo mọi người không được xuống. Mấy ông dân chài mặc kệ, cứ đẩy thuyền ra, thuyền ra gần đến nơi, sắp túm được tay ông Nga rồi thì sóng cồn lên, thuyền dạt hết cả ra, còn ông Nga thì thụt xuống không thấy cả sủi tăm. Một vài ông chài đánh bạo, thò đầu xuống nước nhìn thì tất cả cùng rụt lại, hét lên kinh hãi rồi thúc cho thuyền vào bờ nhanh. Lúc lên bờ, mấy ông đều kẻ là thấy dưới nước có một cái bóng to hơn cả thuyền mình đang bơi lừ lừ ở dưới, mắt đỏ ngầy nhìn lên chỗ mình. Nhưng mà nước đục nên mấy ông không nhìn rõ là con gì, vội bơi thuyền vào bờ.

Dân làng nhìn xuống sông rồi lại buồn buồn nhìn nhau, không hiểu lần này họ đã đắc tội với thần thánh phương nào để gây nên cái họa này.

Chuyện thứ mười hai: Vô phúc vuốt phải vây rồng

Sau vụ ông tiến sĩ Nga gặp nạn ở sông làng em, người trên xã có xuống hỏi, dân làng thấy sao thì kể vậy. Cơ mà xã không tin, bảo mê tín dị đoan. Rồi lại điều tra này nọ suốt nửa tháng mà vẫn chẳng tìm rõ nguyên do cái chết của ông người Nga, thế là trong hồ sơ đánh luôn chữ tai nạn, xong thì không đả động gì nữa.

Nhưng từ đó, làng em cũng sinh ra lắm chuyện quái dị, ai đi đêm cũng kêu là nhìn thấy ma. Khởi đầu là từ nhà vợ chồng anh M, chiều hôm đó, anh M đi làm về, vào nhà thì thấy vợ đang đổ nước vào thùng, anh liền ra ôm lưng vợ, trêu cợt. Nhưng mà vợ anh chẳng phản ứng gì, như mọi khi là quay lại cười nói trêu lại chồng rồi. Nghĩ vợ mệt hay do mình trêu quá trớn nên anh xoay người vợ anh lại thì hỡi ôi, vợ anh đang cười, mồm ngoác rộng đến mang tai, anh giật mình buông chị vợ ra, gọi vọng lên nhà trên :"Bố ơi! Bố ! Bố xuống cứu con với!" Lúc này, ông Q và cả...chị U chạy từ nhà trên xuống, vừa nhìn thấy chị U thì anh M giờ lại càng thấy khiếp, không biết cái thứ mình vừa ôm là thứ gì. Ông Q và chị U chạy xuống thì thấy ngay cảnh tượng kì quái đó, chị U còn khiếp hơn vì không hiểu ai kia mà giống mình thế, nhưng mà cái mồm, cái mồm nó. Cả ba người cũng đứng ép vào một góc sân, cái thứ kia vẫn cứ đứng đó ngoác mồm cười. Ông Q liền chỉ vớ lấy cây chổi lúa, rút ra một sợi, rồi lại dứt tóc trên đầu quấn vào, ông bắt quyết, niệm chú, rồi thổi một cái vào sợi rơm, ném ngay trước mặt "nó". Nó thấy vậy thì gào lên một tiếng rồi chạy ra sau vườn, ông Q vội cầm lấy cái cuốc rượt theo. Cả tối hôm đó ông Q không về nhà, con cháu và hàng xóm liền đổ đi tìm, mãi đến tờ mờ sáng hôm sau, ông mới lững thững đi vào phong khách, ngồi phịch xuống ghế, mặt đăm đăm. Con cháu vội ùa ra xem ông có làm sao không, hỏi sao tối qua ông đi đâu mà không về. Ông Q chỉ nói đúng một câu: " Cái làng này đúng là hết phúc thật rồi! Thật là tuyệt đường sinh sống mà!". Sau cái vụ nhà ông Q, lại đến nhà anh T và anh A ở đầu xóm trong. Hai nhà này vốn là hàng xóm thân thiết, tối đến toàn sang nhà nhau chơi. Một bữa, hai nhà rủ nhau đi xem chiếu bóng, tối mịt mới về, về đến bụi tre đầu làng thì chị C vợ anh T và chị H vợ anh A tự nhiên hét lên, mặt trắng bệch. Hai ông chồng thấy vợ thế thì cuống cả lên, rối rít hỏi sao thì hai cô vợ chỉ vào bên đường, hai anh nhìn lại thì là một cái bóng đen, nhưng nhìn kĩ thì hóa ra là một đứa bé đang ngồi khóc. Hai anh vội trấn an vợ rồi ra xem đứa bé. Anh T lại gần đứa bé hỏi : " Cu con sao giờ này không ngủ ở nhà với bố mẹ mà lại ra đây làm gì?", đứa bé im không khóc nữa những cũng chẳng trả lời. Anh A bực mình xen vào : Thằng oắt này láo nhỉ, người lớn hỏi mà không nói, để tao xem mày là con nhà nào!"- nói rồi anh đưa tay ra định xốc đứa bé lên nhưng tay anh vội rút lại vì thấy hơi xung quanh thằng bé lạnh toát như sương. Đứa bé tự nhiên quát lại bằng cái giọng ồm ồm, rè rè :" Mày bảo ai là oắt!". Nói rồi "đứa bé" đứng lên, anh T và anh A cũng vội nhảy lùi lại, mặt cắt khong còn giọt máu. "Đứa bé" lúc ngồi thì bé tý mà đứng lên thì cao lêu nghêu, người gầy đét, tóc xõa dài xuống. Cả 4 người thấy vậy thì hồn vía lên mây, vội kéo nhau chạy một hơi về nhà, chạy được quãng thì sau lưng có tiếng cười thé thé từ xa vọng lại, chạy tiếp đến gần nhà mà tiếng cười vẫn cứ vang vang ở sau lưng.

Thế rồi làng em lại có biến, trong một tuần có tới năm người chết đuối, mà toàn là dân rái cá trong làng, chỉ có tắm gần bờ mà tự nhiên thụt xuống nước, người trên bờ thấy mà không kịp xuống cứu,mà xác cũng chẳng tìm được. Từ đó, dân làng tiệt không ra sông nữa, trâu bò uống nước cũng chỉ dẫn ra ao hoặc chỗ nước nông sát bờ hồ. Những lạ cái là thuyền buôn của người nói khác đi trên sông thì chẳng sao, vậy mà thuyền bè của làng em cứ xuống nước là lật, may có mấy thuyền buôn cứu chứ không thì phải chết đến mười mấy mạng là ít. Thế rồi lại có tai họa khác giáng xuống, chẳng hiểu sao chó mèo trong làng cứ chết dần, những con ốm yếu, già cốc thì chẳng nói làm gì, ngay cả những con khỏe mạnh cũng tự nhiên lăn ra chết sau một đêm. Dân làng giờ thấy sợ hãi hơn bao giờ hết, tai họa lần này nó không ào ạt, không dữ dội như những biến trước, nó cứ từ từ, từ từ giết đến một cách im lặng, bây giờ thì chỉ có chó chết, sau này chẳng biết còn cái gì xảy ra nữa. Nhiều người bỏ làng lên vùng rừng sim gần Tam Điệp để khai hoang, lập làng, lập xã mới, hi vọng sẽ thoát khỏi được tai kiếp lần này. Trong đó có nhà ông em, nhưng vùng đất mới này nó cũng chẳng thanh bình như mọi người mong đợi.

Chuyện thứ mười ba: Dân mới đến

Lần này nhà ông em di cư lên vùng đồi sim gần Tam Điệp. Hồi đó, khắp cả vùng này đâu đâu cũng tím ngắt một màu hoa sim, nhưng đây cũng từng là một nghĩa địa cổ, đã hơn 300 năm trôi qua, mộ phần ngày trước bị bồi lấp, mưa gió giờ đã chẳng còn nhận được đâu vào với đâu. Lúc đó ông bà còn khỏe, phát hoang được hơn chục sào đất, rồi chia cho con cháu cắt đất làm ruộng xung quanh,còn ông bà thì cất một cái nhà ngói khang trang, sạch sẽ làm nơi an dưỡng tuổi già.

Dạo này ở quê cũ cũng có lắm chuyện xảy ra, không hiểu sao cứ đến ngày mùng chín và ngày rằm hàng tháng là lại có một người chết, mà toàn là đột tử. Từ ông G nhà bán thịt, đang ngồi nghĩ thì chẳng hiểu sao con dao thái thịt rơi xuống, ông vội nhảy lùi ra thì tự nhiên trượt chân ngã đập đầu xuống đất chết, sau rồi lại đến cô H, anh S, chú D,... đều chết lúc ngủ. Cứ thế hơn 4 tháng rưỡi, chết mất 9 người, từ đó lại thôi, chẳng có ai chết nữa. Nhưng cứ đến đêm là trong làng lại có tiếng í ới gọi nhau, rồi tiếng rục rịnh, tiếng bước chân rầm rập kéo vào trong núi rồi lại kéo ra, cứ thế tới tận lúc mặt trời mọc thì hết. Đặc biệt là những nhà gần đường làng lại còn thấy như có bàn tay ai đập rầm rầm vào cửa sổ. Dân quê khiếp lắm, không ai dám ngó ra nhìn, ngay cả ho mạnh cũng không dám. Bỗng một ngày, có một người đàn ông chừng 30 đến làng, nhìn thì biết là dân Trung Quốc sang, dân lang em thì ghét người Tàu lắm, duy chỉ có ông K là trường hợp đặc biệt nên khác, họ nghĩ rằng người tử tế như ông thì cả vạn người mới được một, còn bon Tàu còn lại thì toàn là lũ thâm nho khó lường.

Vừa đến làng thì chú này vội đi gặp các cụ, tự giới thiệu mình là con út của ông Trương Thiết Bách, dạo này bên đó gia đình bị chính quyền địa phương làm khó nhiều điều nên muốn sang đây nương nhờ, mong làng rộng lượng cho phép ở lại. Các cụ nghe thấy là thân thích với ông K thì cũng bớt nghi ngại phần nào, bảo anh là chiều lên xã mà xin khẩu, các cụ không có quyền quyết đinh. Thế là chú đó lên xã ngay trong chiều xin cấp đất, chẳng biết làm từ bao giờ mà ông này đã nhập quốc tịch Việt Nam. Lằng nhằng giấy tờ mất vài tháng thì cũng xong. Chú này tên là Trương Thiết Sĩ, ở làng gọi tên Việt là S. Những ngày đầu ở làng, chú S mở một cửa hiệu thuốc Bắc ở trên thị xã và làm một cái nhà 3 tầng ở làng để cuối tuần về nghỉ. Nghe đâu trong làng có người bệnh là chú S lại đến thăm và cắt thuốc cho không lấy tiền. Mới đầu thì dân làng kì thị, nghi ngờ ghê lắm, lâu dần, thấy chú hiền hiền, lại tốt tính nên dân làng cũng dần hết ác cảm, lại quý chú. Nhìn chú, dân làng lại nghĩ đến ông K mà buồn. Chú S ở được chừng ba năm thì yêu một cô gái người Việt và cưới cô đó về làm vợ, cô này tên là M. Sau hai năm nữa thì cô M sinh cho chú S một thằng con trai, cả làng ai cũng đến chúc mừng, chú S quyết định đặt cho nó cái tên là Trịnh Thiết Việt để tỏ lòng biết ơn mảnh đất đã rộng vòng tay đón chú.

Năm thằng Việt được 4 tuổi thì em về quê chơi, mới đầu gặp em nhìn nó bằng con mắt khác lạ, trông nó khác hẳn với bọn trẻ trong làng. Người nó mảnh khảnh, da trắng như da con gái, tóc thì láng mượt.Thấy em đi cùng bon trẻ trong làng đi chơi thì thằng Việt đi theo, nhưng nó cứ đứng ở ngoài mà không dám chơi, em rủ nó chơi cùng thì nó lại bảo :
-Mày chơi với tao à! Sao mày tốt thế?

Em đáp:
-Mày bị khùng à! Sao không ra kia chơi? Đứng đây cho chết nắng à!

Thằng Việt trả lời:
-Nhưng mà chúng nó không cho tao chơi! Chúng nó bảo tao là thằng Tàu bay

Giờ thì em mới rõ là tại sao thằng Việt lại cứ lủi thủi một mình như thế, hóa ra là bon trẻ trong làng ghét thăng Việt vì bố nó là dân Trung Quốc.Em túm áo thằng Việt đi chỗ khác chơi, bảo :

-Kệ xác bọn nó, tao chơi với mày là được.

Thế là mấy ngày sau, em và thằng Việt toàn đi chơi cùng nhau, hai thằng cứ như hình với bóng, thế là thành bạn thân. Sau này, em còn phát hiện nhiều điều bí ẩn về thằng Việt mà mãi về sau bọn bạn cùng làng mới biết. Hết hè thì em lại về Hà Nội, lúc em lên xe, thằng Việt ra tiễn, nó đưa cho em một cái dây chuyển nanh hổ, bảo : "Lên thành phố thì đừng quên tao H nhé!". Đến bây giờ em vẫn đeo chiếc vòng như vật hộ mệnh.

Hè năm sau về quê thì nhà thằng Việt đã về Thiểm Tây, chú S bảo phải cho nó về nhận mắt họ hàng và ghi tên vào gia phả, chú giao lại hiệu thuốc cho hai anh học việc trông coi rồi dặn là mười năm nữa chú về rồi ở luôn đây.

——————————————————

Mười năm sau, em và hai thằng bạn dưới quê lên ga tàu đón nhà thằng Việt. Đến 9h thì nhà thằng Việt xuống tàu, chú S vừa nhìn thấy em từ xa đã nhận ra, đưa tay chào. Em và hai thằng chạy đến, em vừa đến thì nhìn thấy cạnh chú S là một thằng người mảnh khảnh, da trắng, nhìn là em nhận ra ngay đấy là thằng Việt, thằng Việt nhìn thấy cái vòng cổ em đeo thì cũng nhận ra em, hai thằng chạy lại ôm chầm lấy nhau, đấm thùm thụp vào lưng nhau. Bây giờ để ý xung quanh thì em mới nhìn rõ là còn có ai đang đứng núp sau lưng cô M, em hỏi ai thế kia thì thằng Việt chạy lại kéo tay người đó ra. Suýt chút nữa thì em hét lên :" Âu mài gót! Con nhà ai mà xinh thế!". Thằng Việt nói :

-Đây là Ngọc Anh, em gái tao, lần trước mày về quê nó mới có 3 tuổi, toàn ở trong nhà nên mày không biết thôi. Con Ngọc Anh ra chào anh H đi kìa!

Em gái thằng Việt bẽn lẽn ra chào em, lúc đó phải nói là em cũng có chút rung động, nhưng đó là chuyện về sau, nếu các thím vote thì em xin viết lại một thớt truyện tình cảm, kể chi tiết lại chuyện này.

Sau khi sắp xếp xong xuôi, em lấy xe đèo thằng Việt và em gái nó về, còn cô M và chú S thì lên xe hai thằng bạn em. Lúc xách túi đồ của thằng Việt, em nghe thấy tiếng lích kích lạ lạ nên hỏi là cái gì thì thằng Việt chỉ cười bảo: "Đồ hành nghề". Trên đường đèo hai anh em nó về, em nhận thấy là thằng Việt có cái gì đó khang khác, về mặt bên ngoài thì không nói làm gì nhưng bên trong nó như toát ra một cái gì đó thật là mơ hồ, không rõ ràng.

Từ đợt nhà chú S về thì quê cũ nhà em cũng yên hẳn, buổi đêm chẳng còn gì làm người dân sợ được nữa, nhưng trên đất mới thì lại bắt đầu có chuyện. Đó là vào mùa hè năm em còn học lớp 9.

Hè năm đó là hè em ở lại quê chơi lâu nhất và cũng là mùa hè có nhiều biến động nhất đối với em, từ đây mà em đã phát hiện ra nhiều điều mới về thằng bạn bạch diện thư sinh. Cái này em sẽ post típ vào tối nay, bắt đầu phần 2, phần này tuy không rùng rợn như thời trước nhưng nó là những chuyện em mắt thấy tai nghe ở quê.

Chuyện thứ mười bốn: Âm binh

Đợt này về quê, thằng Việt không còn ở trên hiệu thuốc bắc nữa, nó và con em gái đến ở cái nhà 3 tầng mà bố nó xây từ trước. Vài tháng sau, có một ông cũng người Tàu, quê ở Phúc Kiến sang bên này buôn bán thuốc bắc, cạnh trạnh công khai với hiệu thuốc bắc nhà thằng Việt. Lắm lúc lão này toàn qua gây khó dễ cho chú S, mà chú S thì lành tính nên mặc kệ, lão ý chửi thì bảo thợ coi như không nghe thấy gì. Nhưng mà thằng Việt thì tức vụ này lắm, mấy lần nó định tìm lão kia để làm cho ra nhẽ, nhưng em toàn cản lại, chứ nhìn nó còm nhom, trắng như bột thế này, còn lão kia thì béo tốt phương phi, lão mà vả một cái thì thằng Việt chỉ có nước ăn cháo mất. Nhưng lão kia cứ được thể lấn tới, không coi ai ra gì, chú S đã mấy lần báo công an, thôn cũng giảng hòa mà đâu vẫn hoàn đó. Một hôm, em và thằng Việt đang ngồi cán thuốc thì lão kia lại sang chửi, chửi toàn tiếng Trung Quốc, em nghe chẳng hiểu gì hết, nhìn sang thì thấy thằng Việt cũng nghệt mặt ra. Em bảo: "Mày cũng chửi lại nó bằng tiếng Trung đi, cho nó lượn sớm, đau đầu quá." Thằng Việt nhìn em bảo : "Lão này nói đặc sệt giọng Phúc Kiến, tao nghe chẳng hiểu gì thì chửi làm sao?" Đang bực mình, em quay ra chửi một câu :" Con chó Phúc Kiến! Cút về đi!", nào ngờ lão hiểu, mặt tím lại, lao vào đánh em. Em còn chưa kịp phản ứng gì thì thằng Việt đã phi ra, bẻ ngược tay lão rồi giật lại, cho tay lão vào cái dao xắt thuốc, dứ dứ ý muốn bảo lão còn gây chuyện nữa là mất cánh tay đấy. Lão kia liền đổi giọng, rối rít xin lỗi bằng tiếng phổ thông, thằng Việt mới thả ra cho lão đi về. Nhưng lúc nhìn thấy cái nhẫn lão đeo thì thằng Việt tự nhiên khực lại vội kéo em về làng sớm. Trên đường đi, em hỏi sao thì thằng Việt bảo lão ý chẳng phải là bán thuốc thang gì, hình như lão muốn vào đây đào của. Nói rồi nó hỏi em: "Trước lúc bố tao đến thì làng có chuyện gì không?" Em cứ thế mà kể lại cho nó nghe vụ tiếng động lạ kia, nó nghe xong thì nhăn mặt lại. Em hỏi: "Như tao với mày thì làm gì được lão! Mà sao mày biết lão vào đây đào của ?". Thằng Việt đáp:

-Cái nhẫn mà lão đeo là nhẫn biểu tượng của dòng thầy pháp Nam tông. Đệ tử nào xuất sư cũng được thầy cho một cái nhẫn gỗ để mỗi khi nhìn vào đó là nhớ về nguồn gốc.

Em hỏi lại :
-Của thì toàn ở trong núi Cô Yêu, nhưng ông K nhà mày đã lập yểm ở đấy rồi mà. Chẳng lẽ lão này cao tay đến thế cơ à.

Thằng Việt trẻ lời:
-Chỗ đó thì chẳng đáng lo, nhưng của ở đây không phải là vàng bạc trâu báu mà là một quyển sách của phái Nam tông. Mấy năm ở bên Trung Quốc, lúc đi thăm các nhà thầy pháp cùng nghề thì tao dò được là làng mình trước có một ông thầy giỏi bùa Nam tông lắm, viết hết lại vào một quyển sách, nhưng quyển sách ở đâu thì không ai biết, vậy lên có bao nhiêu thầy dòng Nam tông sang đây mà vẫn tay không quay về. Còn những tiếng động lạ lạ mà hay có buổi đêm đấy thì là tiếng âm binh trấn giữ trong núi đi ra đuổi âm binh của mấy lão thầy Nam tông đấy! Nhưng mà mấy âm binh đó không làm hại gì dân làng mình đâu, tại dân làng sợ không dám ra thôi chứ ra đường vào lúc đó mới là an toàn nhất vì những thứ ma quỷ tạp nhạp bị âm binh đuổi dạt đi hết rồi.

Em lúc này mới thấy kinh hãi, không phải vì chuyện âm binh mà là vì chuyện sao thằng Việt biết lắm chuyện như thế. Em rụt rè hỏi : "Mày học cả phép phù thủy hả Việt?", thằng Việt đáp: "
– Do ông nội tao bắt học vì muốn giữ cái gốc nhà thôi. Tao chẳng muốn học làm gì, vô ích. Cứ cho là tao sau này giỏi gấp mấy lần ông Trấn nhà tao thì đâu thể chắc được là tao sẽ đứng vững trước một viên 46 (Thằng này nghiện game lắm các thím ợ)

Em hỏi vặn :
– Thế âm binh thì sao, mày gọi một đám ra thì bọn kia chết ngay?

Thằng Việt nói:
– Gọi âm binh đối với tao thì dễ thôi, nhưng mà rất lâu và rất cầu kì, mà có lúc gọi được có lúc không! Đã thế gọi xong còn phải khao nó đủ thứ xôi, thủ lợn, hoa quả tiền vàng, gọi vài phát như thế thì hết cả tiền chơi game của tao.

Mải nói chuyện, đi về nhà thằng Việt dưới làng lúc nào không hay. May mà sáng nay đã xin trước ông bà cho ngủ lại nhà thằng Việt, không giờ này mà về thì quắn đít mất. Kể sơ qua về cái nhà một chút : Cái nhà nằm ngay sát chân một quả đồi, có tường đá 2m quây kín xung quanh, ở trong đào ao, thả cá, nuôi vài con chó. Đường đi từ công vào nhà là một con đường trải toàn bằng đá cuội. Hai bên cắt tỉa cỏ cây gọn gàng, cây trồng có hàng có lỗi hẳn hoi, đi thêm đoạn nửa thì vào cái sân xi măng. Nói chung là nhìn cái nhà này tách biệt và khác hẳn với những ngôi nhà khác. Vào trong nhà thì chỉ có mỗi con Ngọc Anh ra mở cổng, nhìn thấy em và thằng Việt về nó vui hẳn lên, nhưng chẳng cười tý nào, chỉ líu ríu bám theo thằng Việt. Em cũng hay đến nhà thằng Việt chơi, lâu ngày để ý thì thấy con Ngọc Anh có nét đẹp khác hẳn với những đứa con gái, rất nhẹ nhàng, dịu dàng,bẽn lẽn, nhưng rất hiếm khi cười, có thì cũng cỉ cười mỉm, đi ra ngoài lúc nào cũng bám theo thằng Việt như sợ lạc, lắm lúc thằng Việt bực quá gắt lên không cho đi cũng nữa thì nó vội lùi ra xa, lủi luôn vào trong nhà, nhìn cứ ngộ ngộ thế nào.

Tối hôm đó ngoài em ra còn có hai một thằng nữa đến ngủ lại nhà thằng Việt, hôm nay ba thằng quyết thức đêm so tài CS xem ai là sát thủ số một. Nhà thằng Việt thì lại có tới 4 cái máy tính, tội gì mà không dùng. Nhưng đêm đó thì bắt đầu xảy ra chuyện.

Buổi tối, vừa ngồi ăn cơm xong, con Ngọc Anh thì đi rửa bát ở nhà trong, và tất nhiên là ông tướng kia cũng đi theo rửa bát. Còn em và thằng Việt ngồi xem TV ở phòng khách. Đang xem thì thằng Việt hỏi :"H! Mày đã nhìn thấy ma bao giờ chưa?" Em cười :"Chưa nhìn thấy bao giờ nhưng tao cũng muốn xem một lần cho biết mặt ngang mũi dọc nó ra làm sao!" Thằng Việt vỗ đùi đét một cái, bảo: "Mày nói đấy nhé! Thông báo cho mày một tin vui là tối nay tao cho mày xem ma đến chán mắt thì thôi, mà còn nhiều là đằng khác!". Nghe đến đây thì bủn rủn cả chân tay, em thừa biết là thằng này không nói chơi bao giờ. Nhưng vân cố nói cứng: "Tốt! Vậy thì tối nay tao cũng muốn xem thử tài phép của mày". Hai thằng đang nói chuyện thì thằng D ở nhà trong ra, hỏi :"Chúng mày nói xấu gì tao mà xì xầm từ nãy đến giờ thế?" Em vội giấu nhẹm đi bảo: "Đang tính kế để tối nay úp sọt mày bằng 43!" Thằng D vênh cái mặt lên: "Tao chấp nửa mắt!", nhìn cái mặt vênh vênh của thằng D mà em lại càng không dám hé ra cái gì cho nó, ai chứ ông tướng này thì nhát chết có tiếng, năm lớp 8 chỉ mới nhìn thấy cái tay áo rách trên cành cây thôi mà nó gào vang làng, líu cả lưỡi lại kêu có rắn lục trên cây vải.

Đến đêm hôm đó thì tự nhiên mất mạng, chẳng vào bắn CS được, mà mạng Lan thì chập chờn. Thế là cả 4 đứa đều ra ngoài hiên ngồi chơi. Thằng Việt đưa mắt cho con Ngọc Anh, nó biết ý liền bảo thằng D đi vào trong giã thêm muối ớt để ra chấm xoài, thằng D đi ngay lập tức. Còn em và thằng Việt ở ngoài, thằng Việt nhanh tay rút trong túi áo ra hai cái lá, nó chích một giọt máu trên tay em và một giọt trên tay nó, nhỏ lên hai cái lá rồi xoa hai cái lá vào nhau, mồm lầm rầm đọc cái gì đó. Xong rồi nó bảo :
– Bây giờ mày sẽ nhìn được từ giờ đến lúc gà gáy thì hết. Nhưng mà nhìn thấy gì cũng không được hét, không được nhìn chằm chằm, phải coi như mình chẳng nhìn thấy gì hết.

Đến chừng 11h đêm thì em bắt đầu nghe có tiếng rục rịch, ầm ào phát ra từ trong núi. Nhưng nhìn sang thì hình như thằng D chẳng biết gì, vẫn vô tư ăn xoài, cười nói sảng khoái. Con Ngọc Anh thì như nghe được, chỉ có điều là nó không lộ ra, có vẻ như nó đã quen với chuyện này. Thằng Việt ngồi dịch ngang hàng với em, khẽ nói : "Tới giờ xem phim mày ơi!" Em nghe thế mà lạnh toát cả xương sống, nhưng cũng an tâm phần nào vì có anh em nhà thằng Việt ở đây, con nhà tông không giống lông cũng giống cánh, kiểu gì chúng nó chả có cách, mà con Ngọc Anh còn bình tĩnh thế kia thì chẳng lẽ mình lại không bằng nó. Rồi em lại nhìn sang thằng D, ông con giời kia vẫn điềm nhiên ngồi ăn xoài, bốc phét lên mây. Thằng này đúng là bạn tốt của em nhưng chỉ có điều là nó vẫn ngô nghê, không hay biết chuyện gì xảy ra. Đang ngồi nghĩ vẩn vơ thì con Ngọc Anh lây cái PSP ra cho ku D nghịch, thằng D vẫn cứ hồn nhiên bấm bấm. Được chừng 15′ thì Ngọc Anh quay sang bảo em : "Anh H ngồi yên nhé! Đến rồi đấy!" . Nghe giọng nói trong vắt mà em đứng người, quên luôn cả sợ. Cả ba cũng nhìn ra đường cái, em suýt nữa hét lên khi thấy một đoàn người ngựa, giáp phục ngày xưa chạy ào qua cổng, sau đó là tiếng hô hào, quát tháo và tiếng đánh nhau. Thêm một lúc nữa thì trong vườn và sân nhà thằng Việt lắm điều quái dị xảy ra. Đầu tiên là một vài cái bóng con con, đỏ lừ nhảy loi choi khắp sân, sau đó là một cái đống đen đen như tổ mối cứ đùn dần lên ở góc sân. Thằng D lúc này đã thôi không chơi PSP nữa mà chuyển sang nghịch cái lap Hitachi của thằng Việt. Nhìn chỗ nó ngồi mà em kinh hãi, lạnh run người. Có một đứa bé sơ sinh đỏ lừ như than hoa cháy, đang ngồi trên vai thằng D, sau lưng nó là một đứa con gái chừng 11, 12 đang nghịch tóc thằng D. Nhìn lại xung quanh thì em thấy chỉ có mỗi thằng D là bị trêu, còn em với thằng Việt, Ngọc Anh thì vẫn bình thường. Đến chừng 1h sáng thì con Ngọc Anh kêu buồn ngủ rồi đem chăn xuống cho bọn em, còn nó thì lên phòng nằm. Đêm hôm đó em thức luôn tới sáng, thằng D thì ngủ say như chết, thằng Việt thì ngủ như thường. Kể từ dạo đó em sợ ma hơn hẳn. Buổi đêm về quê cứ nhìn quanh quất, dè chừng. Không biết liệu có đứa nào vuốt tóc mình không.

Sáng hôm sau, em lên khu nhà ông em thì phát hiện ra một chuyện kì lạ, nhà bác B không biết tối qua nhờ ai làm giúp mà đến sáng nay đã cuốc xong thửa đất trồng khoai rồi, mà chỗ đất ấy rộng đến 4 sào, có nhờ người cũng chẳng làm nhanh được đến thế, giờ dân làng đang xôn xao lên vì cái chuyện này.

Chuyện thứ mười lăm: Vật cũ lại gây họa

Hôm sau về, thấy cả làng đang đồn ầm lên vụ bác B. Lạ một điều là bác B vốn không vợ con, người thân thì đã chết sạch trong chiến tranh, không hiểu bác nhờ ai mà chỉ trong một đêm đã cuốc xong 4 sào đất. Đến vài tuần sau, người ta lại xôn xao lên vì bác B lắm tài phép chẳng thua gì mấy ông phù thủy ngày xưa. Có hôm, đi ra ngồi chơi ở bờ hồ, bác gấp một cái thuyền giấy rồi thả xuống nước, thế là thuyền giấy cứ ngược gió đi vù vù khắp hồ. Mà bác lại còn biết giải hạn, nhốt trùng, đuổi vong,... toàn là trò bùa chú. Những thanh niên, bộ đội trong làng thì không tin, cho là mê tín dị đoan, trò bịp để lừa đàn bà với trẻ nít, nhiều anh ghét bác B lộ ra mặt. Bỗng một buổi tối, có anh C, chị M đi hò hẹn nhau về, đi đến bụi tre gần đánh đồng thì bắt gặp bác B đang đứng một mình trên bờ ruộng. Hai anh chị vội núp vào sau bụi tre xem ông "giả thần giả thánh" giở trò gì. Họ chỉ thấy bác vứt một cái gầu đôi xuống ruộng, rồi cầm hương đốt lên, mồm lẩm bầm cái gì đó, một lúc sau thì có tiếng bác B nói như quát: "Đêm nay tát ngập viên đất này thì xong!" , đoạn bác B ném một cục đât to chừng viên gạch đúc xuống ruộng rồi đi về. Sau đó chẳng thấy có ai cầm mà cái gầu cứ tự đung đưa, tát nước bòm bõm vào trong ruộng. Anh C, chị M thấy vậy thì lủi luôn về, không dám kêu lấy một tiếng. Sáng hôm sau, mấy người đi làm đồng sớm cứ xầm xì huyên náo cả lên, lúc đó trời vẫn còn tối không rõ mặt người, có một nhóm đi qua thì cứ thấy hai bóng đen tát nước vào ruộng nhà ông B, nước đã đầy tràn mà vẫn không nghỉ. Mãi đến tận trưa thì một người bảo :"Ô hay! Nước tràn ruộng rồi mà sao còn tát vậy?", một người khác thì lại nói :"Đằng kia có cục cứt bò khô đang nổi lềnh phềnh kìa! Hay là chúng nó lấy cái đó làm mốc?". Nói đoạn cả đám cười ồ lên, cười chưa dứt thì cái gầu bị ai ném đánh ùm xuống nước, rồi có tiếng gằm ghè vang từ trong núi ra. Đêm hôm đó, mấy nhà hàng xóm xung quanh bất ngờ tỉnh giấc bởi tiếng hét từ nhà bác B, sau đó là tiếng lạy lục, van vỉ. Mọi người vội chạy sang thì thấy bác B đã nằm đó, máu tai, máu mũi cứ chảy ra ồ ồ, mồm sùi bọt mép, người giật lên giật xuống, tất cả xúm vào cứu mà không kịp. Bất chợt, từ ngoài cửa sổ có ai ném nguyên cái bát hương vào cạnh xác bác B, tro nhang bay tung tóe, tất cả cùng đồng loạt nhìn ra cửa sổ thì thấy một bóng đen sì đang đứng ngoài nhìn vào, quát chửi mấy câu bằng cái giọng è è khó nghe, rồi đi mất. Tay bác B lúc này vẫn đang ôm chặt cái hòm gỗ. Sau khi tang lễ, mọi người phá khóa, mở cái hòm gỗ ra xem thì thấy trong hòm trống trơn, ai cũng băn khoăn không biết cái vật trong hòm là gì mà bác B giữ kĩ vậy.

Bẵng đi một vài tháng, trên chỗ đất mới lại có chuyện. Anh T, con nhà bác C và rất nhiều người nữa kêu cái cây phượng ở cổng nhà ông em có ma.Cơ mà ông em không tin, cho đó chỉ là lời đàm tiếu. Thế rồi một đêm, lúc em ngủ lại nhà ông. Đêm đó, em trằn trọc mãi không ngủ được, mãi đến 1h sáng mới thiu thiu ngủ được một lúc. Đang nằm thì em thấy hơi ren rét, thế là em lại thức dậy, đóng cửa sổ lại. Nhưng vừa quay ra thì em giật mình, nhảy lùi một phát từ trên giường xuống dưới đất. Phía ngoài cửa sổ là một người mặc đàn ông mặc áo gấm kiểu ngày xưa, tóc xõa bù xù, lưỡi thè lè đang nhìn em. Không hiểu sao lúc đó em tỉnh táo vô cùng, nhớ đến cái vòng thằng Việt cho, em liền giật ra, giơ lên trước mặt. Cái kia vừa nhìn thấy thì quay đầu chạy luôn, đến gốc phượng thì mất. Thế là em ra ngoài phòng khách thức luôn, không dám bước lại vào trong buồng, ông em thấy động cũng dậy, ngồi nghe em kể xong thì ông ngồi luôn đấy với em đến tận sáng. Sáng hôm sau, ông em cho người cưa luôn cây phượng, mấy người đứng xem bảo lúc cưa thì thấy có tiếng kêu oái oái, rồi máu chảy ra từ vết cưa, nhưng ông em cứ cho cưa tiếp, cưa xong thì tiếng kêu cũng dứt. Chiều hôm đó, em sang nhà thằng Việt chơi, nó thấy cái vòng có vết nôi lại thì hỏi sao, em cũng kể lại chuyện tối hôm qua. Thằng Việt nghe xong thì im lặng một hồi rồi nó lấy 6 đồng xu ra bói quẻ. Bói xong thì nó liền lấy cái túi đồ rồi kéo em đi ra chỗ gốc phượng. Đến đó, em với nó lấy từ trong túi ra một nắm gạo nếp và muối, rắc xung quanh cây, sau rồi thằng Việt đốt một nén nhang khấn rì rầm mấy câu, đốt thêm một lá bùa bình an màu đỏ, lại đốt bảo em phải tự tay đốt thêm 2 xấp tiền vàng. Em vừa đốt xong thì gió thổi ào ào, cây cối đung đưa dữ dội. Một lúc sau thì gió ngưng, thằng Việt bảo em đi về. Cất đồ xong thì hai thằng ra ngồi ở cái võng ngoài hiên. Em hỏi nó về chuyện vừa này thì nó trả lời :

– Hồi chiều tao bói cho mày liền ba quẻ, toàn là quẻ Đại Hung, sau tao lại bói thêm một quẻ nữa để tìm lai lịch của con ma đó. Tao truy ra được đó là con ma Tam Bảo, sống từ đời Nguyễn. Sau vì uất ức chuyện thi cử nên thắt cổ tự vẫn, chết xong không siêu thoát được nên cứ ám ở đấy mãi, đêm qua nó thấy mày hợp vía, lại được ngày rằm nên định bắt mày thay rồi đi đầu thai. Nhưng may sao mày lại nhớ tới cái vòng tao cho nên nó chưa làm gì được. Rồi ông mày lại chặt mất cái cây trú thân của nó nên nó thù mày, định tối nay bắt mày cho bằng được. Nhưng yên tâm, vừa nãy tao siêu độ xong rồi, mày cũng đốt tiền vàng tỏ thành ý nên không sao nữa.

Sau rồi, thằng Việt lại còn dặn em thêm một lô lốc những điều cần tránh mỗi khi vào đền chùa miếu mạo, bãi tha ma. Rồi cả cách nhận biết chố nào lắm oán khí thì tránh đi cho khỏi mang vạ vào thân.Vài hôm tiếp theo, hôm nào em cũng cùng thằng Việt và Ngọc Anh đi chơi. Con bé đó vẫn ít nói, chỉ toàn nấp sau lưng thằng Việt mỗi khi có người lạ. Nhân lúc chỉ có hai đứa, em mới bắt chuyện, hỏi Ngọc Anh sao không chịu chơi với bọn con gái trong làng thì nó cứ im im chẳng nói gì, chán rồi em kể chuyện cười cho nó nghe nó cũng vẫn cứ trơ ra đấy, thỉnh thoảng mới mỉm cười một cái. Lúc thằng Việt đi ra, thì Ngọc Anh vào luôn trong nhà, thấy em khổ sở như vậy thì bảo :

– Mày nói chuyện với nó thì ngang vào nói chuyện với đầu gối. Nhưng mày cũng giỏi là làm cho nó cười được, từ trước đến giờ tao rất hiếm khi thấy nó cười được một cái. Tính nó vốn nhút nhát, lại toàn sợ người lạ, tao rèn cho bao lâu mà vẫn mèo lại hoàn mèo.

Đang nói chuyện thì nghe ngoài sông có tiếng huyên náo, ba đứa liền chạy ra xem. Ra đến nơi thì mới biết là có con trâu mộng của nhà ông V đang thả cho đầm ở bờ sông thì tự nhiên thụt xuống sông mất hút. Bọn trẻ con trăn bò và người câu cá đều bảo là con trâu vừa thụt xuống thì thấy đằng xa có sóng lạ lắm.

Chuyện thứ mười sáu: Lươn cộ (Tiếp)

Vài ngày sau cái vụ con trâu nhà ông V bị kéo xuống nước thì dân làng đề phòng ghê lắm, không cho trâu ra đầm mình ngoài hồ nữa. Trẻ con cũng bị cấm tiệt không cho ra hồ nghịch. Thế nhưng, những nhà thả dê trong núi thì lại bắt đầu kêu mất dê, có người bảo thấy vết chân dê đến sát mép hồ rồi có vệt đất bùn trượt dài xuống nước, ai cũng cho là do cái thứ đã kéo con trâu xuống làm chuyện này, cơ mà trâu một hai con thì còn trông được chứ vài trăm con dê thì ai mà trông cho xuể, nó lại còn nhảy nhót, chạy như dê rừng, muốn xua ra chỗ khác thì cũng mệt, mà xua được vài ba chục con là cùng chứ gì, xua chỗ này nó lại ra uống nước chỗ khác, chẳng biết đâu mà lần.

Nhưng mà bị mất dê thì dân ức lắm, ngày đêm suy tính xem làm cách nào để trừ được cái thứ kia đi, không thì dọa cho nó sợ mà bỏ đi cũng được, nhưng mà mặt ngang mũi dọc nó ra làm sao thì chẳng ai rõ. Mãi cho đến một hôm, mấy ông nhà thả dê trên núi sau khi xem xong cái phim Hàm cá mập thì nghĩ ra một cách rất thâm là sẽ lấy một con dê ra làm mồi nhử, trên người con dê cho đeo đầy dây cước bện nối với móc sắt, rồi lại nối thừng buộc phuy nhựa cứng vào quanh con dê, người thì cầm súng, lưới móc sắt, thuốc nổ ở trên bờ chầu sẵn, thế này thì có mà chạy đằng trời. Liền ba bốn ngày sau, đàn ông trong làng háo hức chuẩn bị cho cái chiến dịch thông minh đó, bon choai choai trẩu tre như em cũng đi theo xem cho biết. Đến đúng thứ tư bảy tuần đó thì chuẩn bị xong, lại được ngày trời trong, dễ quan sát, một đán gần năm mươi người lên núi chỗ sông chảy ngầm, và tất nhiên em và thằng Việt cũng đi cùng.

Đầu tiên là phải thả con dê ra sát mép nước, rồi chờ cái thứ kia cắn câu. Chờ đến buổi trưa thì ai cũng nản, được một lúc nữa thì anh D bấm mấy người, cả đám vội cúi xuống nấp, chăm chú nhìn xuống nước. Ngay lập tức tất cả im bặt không nói được một lời, phía dưới nước là một cái bóng đen mờ mờ, dài ngoằng như con trăn 40 năm, đang nhẹ nhàng bơi từ phía khoảng ngầm ra chỗ con dê. Rồi ùm một cái, con dê mất hút dưới nước, dây nối với phuy nhựa rút ào ào xuống, đúng như kế hoạch, phuy nhựa không chìm được, cứ bị kéo lên xuống như cái phao. Ngay lập tức, một nhóm ra thả lưới móc sắt chặn cửa vào khoảng ngầm lại, rồi trên cây thì súng lên nòng sẵn chỉ chờ khai hỏa. Bỗng nhiên, cách bờ 6m thì con kia nhô lên, người cuốn mấy vòng quanh con dê, vật lộn điên cuồng tìm cách xoắn đứt mấy sợi thừng. Bây giờ tất cả mới nhìn rõ con kia không hải là trăn mà là một con lạ, da nó không có vẩy mà trơn nhẫy, bóng láng, phía dưới bụng còn có diềm vây. Bất ngờ, một người trên cây hô : "Tất cả bắn!", hơn 20 khẩu súng săn đủ loại đồng loạt giương lên bắn thằng vào chỗ "con lươn". Lúc đó em vì nhìn điềm tĩnh chín chắn hơn lũ bạn nên cũng được phát cho 1 khẩu hai nòng cũ, còn đang ngơ người ra chưa bắn thì ông bác bên cách gào to vào tai em kêu bắn đi., lúc này em mới tỉnh ra, kề súng lên vai, hít một hơi thật sâu rồi :"Đoành!", khẩu súng giật lại mạnh quá làm em ngã lăn ra đất, vừa ngồi dậy thì lại gượng bắn tiếp 2 phát nữa rồi chịu, phải đưa súng cho một chú khác (Cả 3 phát bắn thì mình trúng có một, lại còn trúng vào phuy nhựa thì phải, giờ mới thấy thế nào là Ngu dốt + Nhiệt tình = Phá hoại). Bây giờ nhìn kĩ lại thì em mới thấy rõ là con lươn kia đã trúng vài phát đạn mà vẫn còn khỏe lắm, quấy nước bắn tung tóe, thằng Việt thì đang cầm khẩu hai nòng vừa nãy, cứ ngắm mãi mà không bắn, rồi bất chợt nó bắn một phát trúng ngay bên sườn con lươn, lại một phát nữa sượt qua vây rồi đưa khẩu súng truyền cho một ông khác. Em thấy thằng Việt bắn giỏi thì hú ầm lên, khen lấy khen để, mấy ông đứng xung quanh cũng xúm vào lắc vai khen giỏi. Bỗng nhiên, mặt nước im lìm, hình như là con lươn đã đuối sức chết rồi. Mấy người đứng trên mội chạy xuống xem thì anh L thợ săn vội giơ tay ra hiệu đứng lại, cả đám người cung im lặng theo dõi mặt nước. Chợt nghe tiếng oạp một cái, cả con dê lẫn mấy cái phuy nhựa bị quăng vèo lên bờ, mấy ông trên cây vội tút xuống, kêu mọi người ra xa rồi cho nhóm ném mìn vào. Một ông đứng trên tảng đá cao kêu lên : "Nó đang phá lưới sắt mấy ông ơi!", tất cả nhìn ra thì thấy phần lưới sắt hở trên bờ đang rung lên dữ dội, ông đứng trên tảng đá hét lên: "Nó bơi lại lấy đà kìa! Ném mìn đí! Tất cả nằm xuống!". Cả đám vội nằm rạp xuống đất, hai quả mìn được ném ra : "Oành! Oành!", tiếng nổ đinh tai nhức óc, nước bắn tung tóe lên tận chỗ mọi người, mùi tanh ngòm. Tiếng hô lại vang lên :"Nó vẫn sống! Ném tiếp đi!", hai quả mìn nữa được ném xuống, một lúc sau thì không thấy tiếng hô nữa, mặt nước cũng ngớt xao động, Tất cả reo ầm lên, vỗ vai, chúc mừng lẫn nhau, giờ nhìn lại mấy ông phục trên cây thì thấy quần áo, đầu tóc ướt nhẹp nước với máu, người tỏa ra một mùi tanh lợm mửa. Có một ông nói : "Thế lúc nãy các ông có nuốt hay hít phải cái máu không?", mấy ông kia bảo không thì ông này vội ra chỗ để đồ lấy ra mấy bọc bông với tăm ngoáy tai, bảo mấy ông kia xì mũi rồi thấm hết sạch máu trong tai với mũi đi, sợ máu con này có độc, nó mà vào óc thì giời cứu. Xong rồi tất cả quây một cái màn rồi thay phiên nhau vào tắm nước lá do mấy bà ở nhà đem lên đây đun cho đám đàn ông tắm để trừ sạch âm khí. Tắm xong, mỗi người lấy hai cái bánh mì dằn bụng, từ sáng đến giờ đã ai có gì bỏ vào bụng đâu. Đang ăn uống, nói cười vui vẻ thì tự nhiên thằng Việt, vứt chai nước xuống đất, kêu : "Hỏng mất rồi!", rồi nó hối mấy ông ra kéo tấm lưới móc lên, vừa kéo lên thì tất cả bàng hoàng: Tấm lưới đã bị thủng một lỗ to tướng từ bao giờ, trên móc vẫn còn dính mấy miếng da trơn bóng. Cả đám ngồi đó thần người ra một lúc, giờ mới biết là con lươn nó giả chết, lặn ngầm xuống dưới phá lưới, ra là mình bằng này tuổi rồi mà không khôn được hơn con lươn, vài người lên tiếng an ủi bảo nó đã sợ rồi thì không dám quay lại nữa đâu, mà các cụ bảo cái cửa ngầm này thông ra biển, chắc nó từ biển vào thì giờ lại chạy ra biển thôi. Em cũng nghĩ là vậy, từ hồi đó đến nay không thấy nó quay lại, dân làng cũng yên ổn thả cá, nuôi tôm trên sông. Giờ đây, mỗi lần về quê, nhìn xuống mặt sông phẳng lặng, em lại nhớ đến những ngày sóng cồn hãi hùng trước đây.

Chuyện thứ mười bảy:Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh

Hết hè năm đó, em lại trở về Hà Nội hoa lệ tối ngày ồn ào tấp nập, lúc nào cũng sáng ánh điện, chuẩn bị nhập học vào 10. Năm lớp 10 cũng chẳng có gì đặc biệt, ngoài cái việc em bị đá thằng cẳng. Nhưng thôi không nhắc lại làm gì vì nó chẳng có quái gì cả. Đến hè, lòng nặng trĩu, em về quê chơi luôn 3 tháng, nghỉ luôn cả học hè.

Chính xác là vào ngày 4-6 thì em về tới quê, chú và cô em lên tận bến xe đón, hai anh em nhà thằng Việt cũng đến. Nghỉ ngơi một đêm rồi hôm sau em lại về cái nhà cũ dưới quê ở, cũng chẳng muốn gặp họ hàng vì sợ nghe hỏi: "Thế năm nay đã tăm tia được cô nào để chúng tao bồng cháu chưa nào?"

Trên đường đèo em về quê, thăng Việt tự nhiên bảo : "Tiếc làm gì con bé đó hả H ? Nó không xứng đâu! Về đây tao dẫn mày đi chơi bét nhè thì thôi!". Em mới giật mình hỏi: "Sao mày biết?", thằng Việt đáp : "Hai hôm trước khi mày về tao có bói một quẻ để xem mày có nên về quê không thì thấy của Tình của mày ra quẻ Hung còn cửa Xuất Hành thì ra Đại Cát nên tao mới giục mày về kẻo lỡ ngày tốt!" . Nghe vậy thì em cũng vơi đi phần nào, dù gì thì mình cũng còn những thằng bạn sống chết không bỏ. Đến chừng 9h sáng thì về đến quê cũ, em mở của vào nhà rồi hai thằng quét dọn lau rửa lại tất cả. Làm xong thì cũng đã 11h, thằng Việt vội về nhà xem con em học hành ra sao, năm nay em nó cũng thi vào 10. Thằng Việt đi được một lúc thì em nhớ ra là chưa có gì thắp hương các cụ nên chạy ra đại lý nhà bà N mua ít vàng hương, chọn thêm vài quả táo, quýt và một quả dưa hấu 2 cân. Về đến nhà, vừa thắp hương, khấn xong thì tự nhiên em thấy lạnh gáy rồi nghe có tiếng đàn ông sau lưng : "Về chơi bao lâu hả cháu?",em quay phắt người lại nhìn nhưng cả gian phòng trống không, chỉ có mỗi mình em. Em nghĩ là bác P nhà bên thấy em về nên sang hỏi thăm, vội chạy ra sân tìm nhưng chẳng thấy ai, xuống bếp xem cung không có, ngó sang mấy nhà hàng xóm xung quanh thì vẫn còn đi làm đồng chưa về. Lúc đó cũng chẳng thấy sợ hãi gì, em ngồi lấy cái Lap ra nghịch tý, rồi ra nhà cháu ông T đầu làng mua ít thịt xá xíu với âu canh cua và đĩa rau muống về ăn cơm. Vừa định xới cơm ăn thì em sực nhớ ra điều gì, liền xới 3 xới cơm vào 3 cái bát, mỗi bát một xới, xuống bếp luộc thêm 2 quả trứng, bóc vỏ rồi lấy thêm ít gia vị, múc thêm 2 bát nước lọc, lại đi mua thêm 1 đĩa thịt quay, để tất cả ngay ngắn lên ban thờ, thắp hương khấn các cụ về ăn cơm với cháu. Ăn xong uống xong xuôi, được mọt lúc thì hương hết, em khấn xin rồi lấy hoa quả, thức ăn xuống, đậy lồng bàn lại rồi đi rửa bát. Đến chiều thì em với thằng Việt đi chơi, tối về nhà cũ ăn cơm rồi nó đem lap sang ngồi bắn CF với em. Chơi mãi thua nhiều hơn thắng, em đi ngủ. Sực nhớ ra trong buồng có cái giường tầng kiểu bộ đội để trong đó, em với thằng Việt tranh nhau nằm tầng trên, thấy nó nằm thích nằm tầng trên em cũng để cho, tao xuống tầng dưới, ngủ trên đấy mày có lăn xuống đất thì đừng than khổ nhé. Đang nằm nghịch lap thì thằng Việt nói vọng xuống : " Ê H! Tao đó mày một câu nhé, mày trả lời được thì mai tao dẫn mày lên núi xem cái này hay lắm!"
Em đáp :
-Thoải mái đê con giai! Anh trên thông thiên văn dưới tường địa lý. Có cái gì mà không biết!

Thằng Việt bắt đầu đố:

– Thủ đô của Bungari tên là gì ? – Sofia.
– Nhật Bản có mấy đảo chính ? – 4 đảo là Hokkaido, Honshu, Shikoku và Kyushu
– Thế Chiến thứ hai bắt đầu vào năm nào và kết thúc năm nào? – Từ 1939 đến 1945.

– Thằng này giỏi, bây giờ mày trả lời được câu cuối thì mai tao dẫn đi.
– Luôn đi cho nóng!
– Chỉ được trả lời trong 3s thôi nhớ!
– Nhanh lên, hay mày co vòi rồi không dám đố nữa
Thằng Việt liến thoắng : – Con gì hay nằm dưới gầm giường chủ?
Em đốp luôn: – Con chó chứ còn con gì, thế mà cũng....

Nhận ra ngay là mình nói hố, em gầm lên, vớ cái chổi đập bùm bụp lên chỗ nó. Thằng Việt vẫn cười sằng sặc như không biết đau. Em mới chọc cái cán chổi lên thì thấy mềm nhũn, hóa ra nó tính trước nên lót chăn xuống dưới săn rồi. Hai thằng chí chóe nhau mãi đến 11h mới ngủ, thằng Việt ngủ trước em, ngáy như sấm. Còn em thì một phần vì nghĩ đến chuyện con kia, một phần vì tiếng ngáy của ông con giời trên kia nên cứ quay ngang quay dọc mãi, nằm một lúc thì em mơ mơ màng màng, hé mắt ra nhìn thì thấy hai bóng đen sì đứng ở đầu giường nhìn em, em biết là bị bóng đè nhưng nhìn lại thì vẫn cửa động tay chân bình thường, chỉ không nói được thôi. Hai cái bóng nhìn em một lúc rồi đi ra ngoài mất luôn. Em thấy ghê ghê nhưng cũng mặc, chùm kín chăn ngủ đến sáng.

Sáng hôm sau, còn đang ngủ thì thằng Việt đạp phát vào ass em, hét ầm nhà : "Dậy! Dậy đê con chó đê tiện!". Em ngái ngủ hỏi dậy sớm làm cái gì, thằng Việt bảo : "Thế mày không định vào núi xem hả? Hôm nay thăng D đi cùng đấy". Bây giờ em mới lôm cồm bò dậy, hóa ra là tối qua nó kêu thật. Hai thăng đang đánh răng rửa mặt ngoài bể nước, thăng Việt đánh răng xong trước, hỏi em :

– Tối qua ai tìm mày mà cứ đứng mãi ở đầu giường thế? Tao thấy không có ý xấu gì nên cũng không cản lại.

Em giật mình đánh rơi luôn cái ca nhựa, thảng thốt :
– Thế tối qua mày vẫn chưa ngủ à! Tao thấy ghê ghê định gọi mày mà không mở mồm ra được, cơ mà tao cũng chẳng thấy sao, lúc sau lại ngủ.

Thằng Việt đáp:
– Tao đang nằm ngủ thì tự nhiên thấy góc phía bắc vườn nhà có khí âm vào, tao bấm độn xem thử thì thấy không có ác ý gì nên cũng không chặn lại, thấy hai người đó cứ đứng nhìn mày nói xì xầm cái gì mà cháu nhà tôi trên thành phố về đấy, với lại hôm nay nó còn mời cơm tôi. Mày không nghe được gì hả ?

Em quay lại, kêu :
– Thế mày nghĩ ai cũng như mày hả thằng lợn này! Lần trước ở sân nhà mày tao tí nữa vãi ra quần rồi, giờ tao cạch không có nghe nhìn gì ma quái hết!

Thằng Việt cười cười, vênh mặt lên :
– Ở đời mấy ai tài phép như anh! Mày cứ yên chí là có tao đây thì chẳng có đứa nào dám động vào mày cả, thằng nào bố láo tao dí cho cái bùa để đau bụng nôn mửa vài tuần cho biết mặt!

Em nghe nó nói vậy mà khiếp, thằng này nó coi nghề phù thủy còn hơn đồ chơi. Mà kể cũng phải, nó vốn có thiên bẩm cái nghề này, chẳng qua vì nó thích học CNTT hơn, lại không muốn bị gò ép nên cũng chẳng mặn mà gì với nghề.
Hai thằng đánh răng rửa mặt xong thì đi ăn sáng, ăn xong thì sang đón thằng D rồi tạt qua nhà thằng Việt lấy đồ. Trên đường đi, em đánh bạo hỏi nó :
– So mày với ông K thì ai giỏi hơn ai ?

Thằng Việt suy nghĩ một lúc rồi đáp :
– Nếu so về kinh nghiệm, cơ trí thì ông Trấn hơn tao nhiều. Còn so về cái vốn hiểu biết, tài năng nghề thì tao nhỉnh hơn ông một chút.

Em giờ mới thấy thằng Việt quả là đúng là thiên tài bầm sinh, hay như dân Tàu vẫn gọi thì là "kỳ nhân xuất thế".Chẳng những nó giỏi nghề phù thủy khi còn rất trẻ, mà về những thứ như CNTT, cơ khí , hóa vô cơ, kiến trúc nó cũng giỏi ít ai bì kịp. Con người thằng Việt như một sự dung hòa giữa sơ khai và hiện đại. Mải nói chuyện thì đã đi đến nhà thằng D. vừa gọi là nó ra ngay, đem liền theo 6 cái đèn pin xách tay và ba con dao đi rừng. Em biết là dao đi rừng thì cần nhưng đèn pin thì làm gì, hỏi thì hai thằng kêu bí mật. Sau khi đi đến nhà thằng Việt lấy đồ xong, phân chia ra em mang balo thức ăn, nước uống, thằng D mang đèn pin, mở đường đi trước, thằng Việt thì vác túi đồ nghề của nó.

Đi từ 6h sáng, bọn em băng liền 4 cây số đường rừng vào trong một quả núi. Đường đi cũng chẳng rậm rạp gì cho lắm, có vẻ như hai thằng này đã đi trước em vài hôm, phạt sẵn cành rậm mở đường rồi. Đi mãi đến chừng 7 rưỡi thì bọn em tới trước một quả núi xanh rì, hình như chỉ có mấy người đi lấy củi hay bắt tắc kè là mò đến đây. Thằng Việt vội kêu dừng lại. Rồi nó lấy trong túi ra một cái áo cánh hạc của đạo sĩ và một thanh kiếm gỗ, tay cầm một cái trống bỏi. Nhìn nó lúc này trông dị hợm vô cùng, quần thì quần bò, đội cái mũ kiểu cao bồi, , chân đi giày leo núi, người còm nhom mặc cái áo choàng rộng lùng bùng.
Rồi nó rút 3 que hương đốt lên rồi khấn lầm rầm, tay bắt quyết, xong đưa cho em với thằng D mỗi đứa một cây, bảo bọn em cùng nó vái ba vái , xong rồi căm 3 que hương xuống cạnh đường. Xong xuôi tất cả, ba thằng cứ men theo đường cũ mà lên, thằng D và thằng Việt đã dọn đường đi trước nên lên cũng dễ, quả núi lại dốc thoai thoải nên không mệt lắm. Đi lên đến lưng chừng núi, đập vào mắt em là một cái hang động to vô cùng, cửa động phải rộng đến 30m, cao gần 12m là ít. Rồi bọn em mỗi thằng cầm một cái đèn pin, tay cầm con dao đi vào, riêng thằng Việt thì tay cầm kiếm gỗ đi trước.

Trong động tối om, 3 ánh đèn pin 6V10 mà như bị nuốt chửng trong màn đêm dày đặc. Đi được chừng 15′ thì chân em như quyệt phải cái gì bằng kim loại. Em vội soi đèn xuống thì thấy dưới đất là một cây thương rất đẹp,làm bằng thép óng ánh xanh, trạm chổ rất tinh vi, ngù thương còn làm một con rồng bằng bạc há mồm , mũi giáo từ trong mồm nó nhô ra, thân con rồng cuốn từ ngù thương xuống tận phần ba cán . Quả thật là từ bé đến giờ em chưa thấy món vũ khí nào đẹp đến như vậy, mà em vốn ham mê võ nghệ, lại thích dùng thương, giờ mà có cậy thương này làm vũ khí thì còn gì bằng. Bên cạnh thì thằng D cũng ồ lên một cái, nó đang xăm xoi một cây kiếm cực đẹp, cán là một con giao long cuốn quanh, lưỡi kiếm mỏng dính như thanh Kim Xà Kiếm trong Kim Dung ý các thím ợ. Em vội bảo thằng D bật hết công suất đèn lên soi, đèn vừa bật lên thì hai thằng cũng kêu lên, xung quanh bọn em như một kho vũ khí trong phim luôn, cái nào cũng có, từ quạt sắt, song kiếm, họa kích, búa khai sơn đến cả chủy thủ, nhuyễn tiên, trường chùy, nhìn cái nào cũng tinh xảo vô cùng, mà xem chất thép cũng biết là sắc bén hơn đồ thường, toàn vào hàng cực phẩm cả. Nói thật là từ thưở bé đến giờ em chưa bao giờ nhìn thấy đâu có nhiều thứ quý giá có một không hai thế này, mắt em cứ gọi là sáng lên phải biết, chỉ muốn vơ cả cái hang này về. Em với thằng D vừa định thò tay xuống nhặt vài món thì thằng Việt đằng xa quát to một tiếng, tay hai thằng chỉ còn cách vũ khí chừng vài li thì đồng loạt rụt lại. Em với thằng D quay ra vặn thằng Việt :
– Sao mày không cho bọn tao lấy, mày không thích mấy cái này thì thôi chứ.

Thằng Việt kêu:
– Toàn là của báu thì ai mà chẳng thích, tao cũng muốn bê cả cái động này về lắm chứ, nhưng chúng mày vào đây mà xem này.

Hai thằng hậm hực đi theo, bên trong là một bức tường viết chữ Nôm với chữ Hán, thằng Việt dịch đoạn chữ Hán : "Của cải đầy trong này, ai muốn lấy thì cứ việc! Chúng tôi xin xưng thần ". Em với thằng D thì loay hoay dịch bên chữ Nôm, chữ em biết thì thằng D không biết, chữ em không biết thì nó biết, sau khỉ khổ sở ghép từ lại thì mặt hai thằng tái nhợt đi : " Mãn Châu bất tín, đặt bẫy dụ lính, lại để đồ quý có yểm bùa. May nhờ phúc thánh thượng, đô đốc về dẹp được, đuổi được,........(đoạn này bị mờ nên không đọc được)..... ai có vào thì tránh đi đừng tham mà mất mạng. Thằng Việt chỉ dịch được đoạn chữ Hán, nó bảo :

– Đọc cái này tao đã thấy nghi nghi rồi, làm gì có ai tốt mà bảy của ngay ngoài động cho mình vơ lấy, lại bảo lấy đi. Mà tao xem kiểu chứ này là nhà Thanh, bọn chó má đấy thì chẳng có gì là không dám làm.
Sau khi nghe bọn em dịch lại đoạn chữ Nôm thì thằng Việt mặt đỏ phừng phừng, chửi um lên, kêu bọn quan quân nhà Thanh chó đểu, lãnh đạo là lũ súc vật, rồi chửi một đống toàn tiếng Trung, nghe qua thì cũng biết chẳng lịch sự Thằng D thì thấy lạ lắm vì từ trước đến nay chưa bao giờ thấy thằng Việt cáu bẳn như vậy. Em thì nghĩ là do nó vẫn còn thù hận với nhà Thanh từ cái vụ thảm sát gia tộc. Từ hồi ấy đến nay, họ nhà nó luôn căm ghét các giai cấp lãnh đạo Trung Quốc, hầu như thời nào thi chính quyền Trung Quốc cũng liên tục gây khó dễ cho nhà nó, luôn coi những người như thằng Việt, ông K là thành phần gây náo loạn, tuyên truyền mê tín dị đoan, làm bất ổn xã hội, là phần tử cần bị loại bỏ. Thằng Việt chửi một lúc thì thôi, mấy thằng lại đi tiếp, vào trong chẳng có gì nhiều, chỉ thấy vũ khí, chum vại vứt la liệt, nhưng toàn là đồ linh tinh, chỉ có giá trị lịch sử hoặc có ích cho mấy ông thích đồ cổ. Đi được một đoạn thì cái la bàn trên tay thằng Việt quay tít mù, một làn hơi lạnh phả ra từ trong hang. Nó quay lại bảo hai thằng: "Về thôi! Mình không được cho phép vào sâu trong nữa!" Ba thằng lại quay ngược đường cũ đi về, lúc ra ngoài thì cũng đã hơn 1h trưa, nhưng ở đây thì chẳng có bóng nắng nào, tán cây đan xen nhau đã hứng hết cả, lúc này không khí vô cùng ẩm ướt, ngột ngạt khó chịu. Ăn uống xong, tba thằng đi về, có kể với mấy anh hay đi săn với bắt tắc kè trong khu đó thì mấy anh cũng bảo là trong đó có nhiều đồ quý lắm, trước lúc bọn em đến còn có nhiều nhóm vào, đem ra bao nhiêu là ngọc, vàng, mã não,... Nhưng sau đó thì đều thành điên điên dở dở, thời Pháp cũng có nhiều lính vào đó đào của rồi hóa điên, dân làng thì thấy gương ngay trước mắt nên có đi qua cũng chẳng dám bước vào. Cái động thì sau hai năm có một đoàn khảo cổ cả ta, Nhật, Pháp cùng vào. Nhưng em tra khắp báo, trang mạng mà chẳng tìm được tý thông tin nào về chuyến khảo cổ này. Có lần, em hỏi thằng Việt là sao lúc đó nó không nhặt đồ trước rồi vào xem thì nó bảo : "Người học nghề phù thủy thì không được lấy của mà chưa được cho. Lúc đi giúp người thì ai cho bao nhiêu cũng lấy, nhưng mà không được giữ riêng, phải chia đi cho người nghèo đói. Ai làm sai thì là phạm vào lời thệ."

Mấy bữa sau, lúc em đang đi câu đêm với thằng D thì có chuyện, và lần này thì không có thằng Việt đi cùng....

Chuyện thứ mười tám: Tự lực cánh sinh

Đi chơi núi về được vài hôm thì thằng D sang rủ em đi câu đêm với nó một bữa cho biết, thấy hay hay nên em cũng nhận lời, hai thằng rủ thêm thằng Việt và thằng N nữa cho vui nhưng thằng Việt đang kèm con em ôn thi vào 10 nên không đi được. Tối hôm đó, ba thằng gồm em, D và N mỗi thằng vác một cái cần câu và một lọ mồi, mò lên trên cửa cống ngồi câu. Lúc đi đến cái cửa cống thì em đã thấy nghi nghi, thấy xung quanh cảnh vật u uất, nơi rộng rãi mà lại thấy bí bức, em đã định về. Cơ mà hai thằng kia chèo kéo ghê quá, bảo chúng nó câu mãi ở đây rồi, chỗ này nhiều cá lắm nên em cũng chịu ở lại. Ngồi câu được chừng 10′ thì cá cắn câu thằng N và thằng D, còn em thì vẫn ngồi đần mặt ra đấy. Thêm một lúc nữa thì phao của hai thằng kia rung lên liên tục, cứ được chừng 5′ là lại lôi lên được một con nặng chừng 2kg. Nhìn lại mình thì thấy cái giỏ vẫn trống không, đang ngáp ngắn ngáp dài thì nghe thấy tiếng nước động, phao em bị kéo chìm hẳn xuống. Khẽ trầm tay giữ cần, em từ từ rê rê cho con cá đuối dần rồi lôi lên. Nhưng em càng ngày càng thấy ghê vì dây câu cừ ngày một bị lôi xuống, mà tay em gồng lên hết sức cũng không rê cần đi được lấy một ly, chẳng bù mọi khi đi câu thì hơi giật vài cái là cá lên. Lúc này, cuộn dây câu bị xoay liên tục đã nóng lên đến rát cả tay, hai thằng kia thấy em cứ ghì mãi mà không kéo lên được thì vội buông cần chạy ra. Không hiểu sao mà cả 3 thằng cùng kéo lên mà vẫn không rê nổi cái cần, sơi dây câu thì vừa bị thằng N chốt lại nên căng cứng như sắp đứt, bấy giờ em mới thấy sức con cá sao mà khỏe, cái cần em mua trên Ebay, làm bằng hợp kim đàn hồi cực tốt mà giờ cái cần bị uốn cong lại gần chạm nước,em nghĩ thầm : "May mà có hai thằng này khỏe giữ mình lại chứ không giờ chắc bị lôi tuột xuống rồi!". Giữ thêm lúc nữa thì tay em tê dại đi, hoảng hốt nhận ra là ba thằng đã bị kéo lết đi một đoạn hơn 2m, sực nhớ ra mấy câu thằng Việt dặn nên em la lên : "Thằng D ôm chặt tao vào, ghì lại, còn thằng N thì chạy ra cắt dây nhanh lên, có chuyện rồi!". Thằng D hét : "Đếm đến ba thì bọn tao dồn sức, mày chạy nhanh ra cắt dây. Một! Hai! Ba!", đến ba thì em và thằng D cùng dồn tấn, gồng hết sức kéo ra sau, thằng N nhanh chân chạy lên cầm cái kìm bấm tạch một cái, sợi dây đứt luôn, em và thằng D ngã ngửa ra sau. Chưa kịp ngồi dậy thì thằng N lắp bắp: "Chúng...mày..ơi! Sao bên mình dây đứt thì ngã dúi dúi, mà bên kia.....dây đứt lại chẳng có động tĩnh gì thế?" Để ý lại thì em cũng thấy hoảng, đúng ra là khi cá cắn đứt dây hoặc dây đứt thì dưới nước sẽ có tiếng bũm hoặc oạp một cái, không thì ít ra cũng có sóng gợn lên, sủi theo cả bong bóng, đằng này con cá khỏe như thế mà lại chẳng có tiếng gì, nhẹ nhàng một cách lạ thường. Em càng nghĩ càng ghê nhưng cũng trấn an bọn nó: "Hay là nó lặn sát đáy nên im?'. Thằng D vội quạt lại :"Con cá khỏe đến thế thì ít ra cũng phải có bóng bóng to bằng quả quýt nồi lên chứ!", thằng này là rái cá rồi nên em cũng chẳng dám cãi lại. Cả ba thằng thấy lạnh cả người nên kéo nhau về. Đang về đến cái khúc quẹo ở dốc bà Ân thì mấy bụi rậm bên đường lào xào, rung động mạnh lên. Em với thằng D thì sợ mà thằng N lại cười đê tiện, khẽ bảo: "Anh chị nào hò hẹn ra đây bức xúc quá nên đang bàn bạc cách giải quyết thì phải! Xem tao này!", nói rồi, nó oang oang lên: "Chúng tôi là dân quân xã đây, mời anh về trụ sở thôn để lập biên bản, tịch thu hung khí, còn chị thì theo chúng tôi về đồn để khám nghiệm vật chứng!",nói đoạn nó bụm tay vào mồm thổi toét toét như tiếng còi. Hai thằng nghe vậy thì hết cả sợ, cười sặc sụa. Nhưng ba thằng vừa dứt tiếng cười thì hai bên vệ đường vang lên tiếng cười khằng khặc phụ họa theo, cả ba đứa im bặt, mặt tái mét. Đi được thêm một quãng, thằng D tự nhiên túm áo em, líu lưỡi lại: "H ơi! Đằng sau mình như có người mày ạ!" Em vội nhìn ra sau thì thấy có một bà trung niên đang bồng đứa bé, đi sau bọn em từ lúc nào, vội bấm thằng N kêu nó thì nó khẽ bảo:"Đ' phải người đâu! Nó tự nhiên rẽ từ chỗ bụi tre ra, đi theo mình được vài phút rồi!". Vừa nghe xong thì em sợ run cả chân, nhưng cố bình tĩnh bảo hai thằng :"Bây giờ mình thử rảo bước lên một lúc rồi lại đi thật chậm lại xem thử nó là ma hay người!" Thế là cả ba cùng làm, cứ đi nhanh đi chậm vài lần, nhưng bà kia vẫn cứ bám theo bọn em, vẫn giữ nguyên khoảng cách đấy. Thằng N lúc này đánh bạo, bảo: "Mình quay ngược đường trở lại xem nó làm sao nào, ba thằng cơ mà, sợ đ' gì ma với cỏ!". Em với thằng D sợ lắm nhưng anh em sống chết có nhau lẽ nào lại để nó đi một mình, rồi em khẽ lầm nhẩm ba hai một rồi cả ba thằng đồng loạt quay lại, nhưng vừa quay người lại thì hồn vía cả ba bay hết. Ngay sau bọn em chưa đến 1m là "nó", giờ nhìn kĩ lại thì mới thấy hãi, nó chẳng phải là bà trung niên nào cả, mặt nó trắng trơn như ma Nhật, cái bọc nó ôm trên tay thì còn chưa là "đứa bé", đó là một cái thai nhi mới được 5-6 tháng là cùng. Em vội giơ cái vòng cổ ra thì nó cứ trơ trơ, đứng nhìn chằm chằm ba thằng. Cả ba thằng sợ xanh mắt mèo, chả hiểu thế nào mà cùng đồng loạt vung cần câu bổ thẳng vào thứ kia.( Như bổ vào không khí ý các thím ợ!) Xong rồi thằng này kéo thằng kia chạy bán sống bán chết, nghe gió vù vù bên tai, chân tưởng như không chạm đất. Không nhớ là chạy bao lâu thì ba thằng dừng lại, vừa dừng lại thì thằng N kinh hãi kêu lên : "Sao mình chạy mãi mà lại về dốc bà Ân thế này bọn mày ơi?". Em vội nhìn quanh thì thấy rõ ràng là mình lai đứng ở chỗ vườn nhãn cũ, còn chưa kịp hoàn hồn thì em gào lên, nhận ra cái thứ kia đang từ từ bước đến chỗ ba thằng, em vội kéo bọn nó dậy rồi đùn cho chạy lên, em chạy đằng sau, nó vẫn đi sát chỉ cách em có vài bước, đang chạy thì em cuống chân ngã lăn ra, toạn cả đầu gối, máu tèm lem hết cả. Thằng D vội phanh lại, cúi xuống hỏi em sao không thì em đau quá không kêu được, xua xua tay bảo bọn nó chạy nhanh. Thằng D thấy em ngã be bét mà vẫn nghĩ cho anh em thì nó như phát cuồng , rút cái dép dưới chân ra, xồ vào con ma, gầm lên : "ĐMM đánh bạn tao! Để bố cho mày xem thằng nào sợ thằng nào nhé!", thằng N cũng chằng vừa, lấy cái kìm ra nhảy bổ vào, hét lên :"Oánh bỏ mẹ nó đi! Nhằm vào cái con con (cái thai nhi) kia mà tẩn!" . Nhưng hai thằng vừa lao đến thì nó đã kêu ré lên rồi chạy vào trong vườn nhãn, sau đó thì mất hút trong màn đêm. Đến bây giờ nhớ lại, em vẫn còn thấy cảm động hai thằng, ví thử như chúng nó ham sống quên nghĩa mà bỏ luôn em lại đấy thì đâu còn cái ngày hôm nay để em ngồi đây chém gió với các thím! Em biết là thằng D từ bé rất nhát ma nhưng hôm đó nó sẵn sàng vì em mà đánh luôn cả một thứ mà nó biết mình sẽ thua.

Nhân đây, tao muốn nói : Tao mang ơn mày suốt đời D ạ, nếu có kiếp sau thì tao lại xin được làm anh em với mày, ku nhát chết.

Chuyện thứ mười chín: Ân nghĩa bè bạn

Sáng hôm sau khi gặp ma về, thằng Việt lao ngay sang bên nhà cũ đập cửa gọi em, thấy em lò cò ra mở cửa thì nó hỏi sao chân lại vậy, em kể lại chuyện đêm qua thì mặt nó tái xanh, từ trước đến giờ chưa bao giờ em thấy nó hoảng hốt như vậy. Nó bảo rõ ràng tối qua lúc bọn em vừa đi thì nó lấy cái ống tre ra rút quẻ, rút ra liền ba quẻ lợi đường sông nước nên yên tâm ngồi nhà kèm Ngọc Anh. Sáng ra đang ngồi học thì tự nhiên cái chặn giấy hình con nghê của nó không ai làm gì mà tự nhiên lăn ra mép bàn, rơi xuống đất vỡ tan, nó vội phi đến xem em về chưa. Sau rồi nó dẫn em sang nhà nó đắp thuốc, vừa vào cửa thì thấy Ngọc Anh đang lúi húi quét dọn mấy mảnh sứ dưới chân bàn. Vừa thấy em tập tễnh bước vào thì Ngọc Anh buông luôn chổi, ra hỏi xem em đi đứng kiểu gì mà bị thế này. Thằng Việt chỉ bảo : "Mày vào lấy lá cúc tần, xạ can ra đây, càng nhiều càng tốt! À mà lấy thêm 7 thang uống phần mềm nữa!". Rồi thằng Việt kê thêm cái đẩu, lót nệm dưới cho em gác chân lên, lúc này nó mới lấy dao rạch chỗ bông băng, từ từ mở từng lớp gạc. Lớp gạc cuối cùng mở ra cũng là lúc em suýt hét lên kinh hãi vì chỗ vết thương ở đầu gối em giờ không hiểu sao chỉ sau một đêm mà sưng mủ lên, chỗ đỏ chỗ tía, thịt như chỉ cần động vào là nát ra, nhìn rất sợ. Lục lại trong chí nhớ mình, em nhớ rõ là tối hôm qua sau khi đuổi con kia đi thì thằng D với thằng N cõng em ra trạm xá cho y tá sát trùng, băng bó, băng xong thì em thấy rất thoải mái, chỉ còn hơi ê ê, phải cái là đi lại hơi khó, nhưng hai thằng nhất quyết đòi cõng em về, sau đấy thì chúng nó còn ngồi canh cho em đên tận lúc em mệt quá thiếp đi thì mới chịu về. Cả đêm em ngủ rất ngon, thoải mái đến sáng, lúc tỉnh dậy vẫn đi lại được, chân cũng vẫn chỉ hơi ê ẩm đôi chút. Nhưng giờ nhìn vào vết thương thì em không thể nào tin vào mắt mình được. Đúng ra là với vết lở loét đến thế thì ngay cả một người gan lì đến mấy cũng phải cắn răng mới chịu được, vậy mà em, một thằng trai thành phố chưa từng biết thế nào là thương tổn lại chẳng có cảm giác gì. Thằng Việt cầm cái móc nhéo, khẽ chạm vào chỗ vết thương, hỏi em có đau không thì em lắc đầu, sau đó nó cầm cái nhéo móc thẳng vào chỗ thịt bị rách, em vẫn chẳng thấy đau đớn gì. Lúc này thì Ngọc Anh bê một cái khay, trên chứa những thứ thằng Việt vừa bảo mang. Vừa đặt cái khay xuống bàn thì nhìn thấy cái chân tàn tạ của em, Ngọc Anh hỏi : "Anh ơi! Vết này là anh H bị nó xô à?", thằng Việt khẽ gật đầu xác nhận. Vừa nghe xong thì Ngọc Anh chạy luôn vào nhà trong lấy túi đồ nghề của thằng Việt ra, nó thấy vậy thì bảo : "Mày xử lý vết này cho anh H đi! Tao tay vụng không làm được! Còn phải chuẩn bị đồ nữa!". Trước khi chạy ra ngoài, nó còn ngoái lại bảo :"Chú cứ bình tỏm mà để nó chữa cho! Con em nó thạo nghề thuốc tao nhiều!". Thế là em ngồi đực mặt ra đó, hàng ngày Ngọc Anh đã ít nói, còn mỗi mình ở đây thì chẳng biết ăn nói ra làm sao. Đang ngán ngẩm thì Ngọc Anh kê cái ghế ngồi lại gần em, lẳng lặng rủa vết thương, đắp thuốc. Không hiểu sao giờ có thuốc khác vào thì em với bắt đầu thấy rát, chân khẽ giật một cái. Thấy thế thì Ngọc Anh rụt tay lại không dám rửa nữa, em hỏi sao thì bẽn lẽn trả lời là sợ nhìn thấy người khác đau. Em bảo :
– Thì em cứ thoải mái mà chữa! Anh có chết được đâu mà sợ!

Ngọc Anh cười một cái rồi lại rửa vết thương tiếp, nó bắt chuyện:
– Sao anh bị xô như thế mà giờ vẫn còn ngồi đây được nhỉ! Người khác bị xô toàn thì toàn bị bắt luôn chứ không mấy người về được đến nhà như thế này đâu!

Em hỏi lại:
– Em nói cái gì anh chẳng hiểu!

Ngọc Anh đáp:
-Anh vừa thoát nạn trong gang tấc mà vẫn không biết! Nhưng mà sao anh lại về được đến nhà thế, chắc phải có ai giúp chứ!

Giờ em mới từ từ thuật lai chuyện tối qua cho Ngọc Anh nghe.Nghe xong thì nó chẳng sợ hãi gì mà còn cười, bảo :
– Cái tối qua mà anh gặp là ma do một thầy phù thủy khác sai đến đấy! Đáng lẽ anh phải đứng lại, cho nó quà bánh gì đó rồi xin nhường đường thì nó đi ngay, ma sai đi toàn thế cả. Đằng này anh với hai anh kia lại chạy, thế là nó càng đuổi. May mà có anh D với anh N cản lại không thì anh đã bị nó bắt rồi! Mà không biết nếu giờ anh D biết chuyện tối ngồi ở hiên có đứa bé ngồi trên vai mình với một đứa nữa nghịch tóc thì thế nào nhỉ?

Nghe gợi lại cái đêm kinh hoàng ở sân nhà thằng Việt mà em lại rợn tóc gáy. Nhưng nghe trong lời nói của Ngọc Anh có lắm điều bí ẩn, em liền hỏi :

– Thầy phù thủy nào mà lại quản vào việc anh đi câu? Mà sao em nhìn thấy ma được à? Anh tưởng là phải như thằng Việt mới thấy chứ!

Ngọc Anh trả lời:
– Em cũng chẳng rõ, nhưng sáng nay thấy cái chặn giấy của anh em tự nhiên rơi vỡ, mà tối qua anh gặp chuyện, trong khi đó anh em bói lại toàn ra quẻ Đại Cát. Suy ra thì biết là có người nhúng tay vào cản trở anh ý, mà tài phép người này cũng chẳng kém anh Việt là bao.
Còn chuyện em nhìn thấy ma là do bẩm sinh hai anh em đã vậy! Nhưng em là con gái, tư chất lại kém anh trai nhiều phần nên không được học nghề.

Bây giờ em mới thấy hóa ra cô bé nhút nhát này thật có lắm điều bí ẩn, thật đúng là không thể nhìn vẻ ngoài mà đoán bừa được. Sau đó, cả hai còn ngồi tám chuyện trên trời dười đất, Ngọc Anh lại biết rất nhiều thứ lạ lẫm về thế giới của những người hành nghề phù thủy, có thể nói cả ngày không hết, lần đầu tiên em thấy con bé vui vẻ như vậy. Đang ngồi chơi thì thằng Việt về, nó lấy trong hộp gỗ ra 4 cái kim, khẽ châm xuống quanh đầu gối và đùi em, bấy giờ thì chẳng thấy đau gì dù mấy cái kim dài đến gần 20 phân đã cắm ngập đến non nửa vào chân em. Thằng Việt quay ra bảo Ngọc Anh : "Mày giữ anh H lại! Để tao giải ấn cho anh!", sau rồi nó nhìn sang em bảo : "Đau lắm đấy! Cố gắng ngồi im nhé, không được cử động mạnh." Em gật đầu rồi cắn chặt răng, nhìn nó lấy một sợi chỉ vàng, quấn quanh ngón tay rồi bắt quyết, sau đó nó từ từ sâu sợi chỉ qua mấy lỗ trôn kim, nhai lỗ đầu thì chỉ hơi đau, đến hai lỗ cuối thì em thấy như bị đâm xuyên vào tận xương cốt vậy, đau buốt lên tận óc mà không cử động được. Lúc sau, khi sợi chỉ đi hết thì thằng Việt rút kim ra bảo em nó thay băng khác cho em. Đến tận lúc đó, sau khi thay băng thì đầu gối em mới có cảm giác thực sự, nó vừa đau buốt, vừa ê ẩm, nhưng sau khi uống bát thuốc sắc tiêu độc được 2h thì thấy đỡ hẳn. Đang định về thì thằng Việt cản lại bảo : "Trong vòng bảy ngày này mày không được rời khỏi đây, mày chỉ có thể ở đây thì tao và em tao mới bảo vệc cho mày được. Nói cho mày biết là có người chọn mày làm hình nhân rồi đấy!". Em thảng thốt hỏi ai thì thằng Việt đáp : "Tao cũng chưa biết rõ, nhưng mà không dễ xơi đâu mày ạ!" Sau đó nó dẫn em sang bên nhà cũ lấy đồ dùng rồi dọn sang bên nhà nó, em và nó sẽ ở liên tục dưới nhà trệt này cho tiện việc canh chừng.

Bảy ngày sau đó, em ở lại nhà thằng Việt, và cũng chứng kiến nhiều chuyện ly kì quái dị, nhưng em rất cảm kích vì anh em nó đã liều mình bảo bọc em. Đến tận bây giờ em vẫn cứ tự hỏi sao ở quê mình lại có được những người bạn tốt đến vậy, luôn bảo vệ, cứu giúp mình mà không hề tính chuyện ơn huệ như những kẻ "bạn thân" trên Hà Nội hoa lệ của mình.

Chuyện thứ hai mươi: Cao cờ lại gặp cờ cao đấy
Đối thủ ai nào dám rẻ ai

Ngồi đọc lại quyển Tam Quốc, thấy có hai câu thơ kết hối nói về cuộc đấu trí giữa Khổng Minh và Trọng Đạt nên em mạn phép lấy luôn làm tựa cho chap này.Trong suốt 7 ngày, em ở liền tại nhà thằng Việt, mọi việc ăn uống đã có anh em nhà nó lo tất, em ngồi một chỗ cũng chán nên ra xem thử bài vở của Ngọc Anh thế nào, sẵn tiện kèm luôn môn Văn cho Ngọc Anh vì văn vẻ của thằng Việt cũng chẳng cao lắm, lúc thi vào 10 nó vừa đủ điểm là nhờ môn Toán 10 kéo lên, còn không thì với con 4 văn của nó thì ông trượt vỏ chuối mất. Lúc giở quyển vở của con bé ra thì em bắt đầu thấy xấu hổ và thất vọng. Không phải vì quyển vở có cái gì khiến em vậy mà là do quyển vở nó quá hoàn hảo. Chữ viết ngay ngắn, nắn nót, vở sạch sẽ, mỗi đề mục, mỗi dòng ghi chú đều được viết bằng bút nhũ xanh theo lối viết hoa cách điệu, còn các trang quan trọng thì mỗi trang lại có một cái hình sticky đánh dấu lại. Nghĩ lại về cái quyển vở của mình từ đầu đến cuối chỉ đặc toàn một màu bút bi đen, chữ viết thì như "rồng bay phượng múa" mà em thấy nhục. Nhưng dù gì thì vẫn cố vớt vát chút sĩ diện, em dở ra đọc kĩ từng bài trong đó, nhận xét chung là về phần văn biểu cảm, tự sự và miêu tả, thuyết minh thì đều rất hay, có thể nói là vượt trội đến mức cho được vào sách để học tốt, duy chỉ có mảng văn nghị luận tác phẩm, chính trị hay một vấn đề xã hội là còn chưa vững, viết vẫn thiếu đanh thép, còn ủy mị nhiều.

Thế là em lại nghiễm nhiên thành ông thầy dạy môn chính trị với đạo đức. Đúng là mình có thể rèn cho bọn con gái tập võ thành đai đen được, nhưng để rèn cho bọn nó có suy nghĩ chai sạn thì thật đúng là khó hơn lên trời, em dạy đi dạy lại, lúc nào có "thầy" chỉ con bé viết đúng như ý em, nhưng vừa rời đi thì lại thấy tất cả trở lại với màu hồng thơ mộng. Và sau bao nhiêu khó khăn, với hơn 30 đề nghị luận, gần 100 lần viết đi viết lại thì mọi chuyện đã xoay chuyển theo đúng hướng mà nó nên đi. Đến tận bây giờ, mỗi khi nhìn vào điểm thi Văn vào 10 cao chót vót của Ngọc Anh mà em thấy mình giỏi vô cùng, phục bản thân mình không để đâu cho hết, người ta bảo thầy giỏi thì có trò hay, dưới tay tướng tài thì không có tốt hèn, thật là đúng quá.

Mọi chuyện đang diễn ra bình thường, sáng với chiều thì em dạy Ngọc Anh học, tối thì bắn CF với thằng Việt, đời thật là như mơ. Bỗng nhiên, đến đêm ngày thứ ba thì có chuyện.

Đêm đó, hai thằng đang lắng tai nghe ghost thì tự nhiên em nghe thấy tiếng bịch bịch từ xa, em vội xoay chuột ra sau xả liền nửa băng, nhưng vẫn không thấy cái bóng nào vật ra, và mình thì vẫn chưa bị thằng nào xiên chả cả. Đến lần thứ ba nghe tiếng bịch bịch, em quay lại xả nguyên băng Mp5 mà vẫn không ăn được đứa nào, thế là bỏ luôn headphone ra, bắn theo cảm tính. Nhưng rồi, lại có tiếng bịch bịch đó, nghe như ai ném đất đã vậy, cơ mà em lại đang không đeo headphone, hoảng quá, quay sang gọi thằng Việt thì nó bảo chẳng nghe thấy gì cả, kêu là do em chơi nhiều nên lãng tai, đi ngủ đi. Thế là hai thằng trải nệm ra đất, thằng Việt thì vừa đặt lưng xuống đã kéo bể, còn em thì nằm nghe nhạc, nhìn thằng ra cái cửa chính mở toang. Đúng lý ra là mọi khi em đi ngủ thì toàn đóng chặt hết cửa lại rồi trùm chăn đến sáng mới thò đầu ra, nhưng hôm nay thì khác, thằng Việt còn nằm ngay đằng kia, đây lại là nhà nó, bọn ma quỷ láo nháo có mà gan to bằng trời cũng chẳng dám động thổ trên đầu Thái Tuế, vô phúc cho đứa nào lỡ động làm nó tỉnh dậy. Đang tí tởn nghĩ về cái an toàn này thì em giật mình nhìn ra góc bên trái vườn. Ngoài đó, phải có đến hơn chục bóng đen đứng lố nhố, đang nhòm vào trong nhà, lúc sau lại di chuyển sang góc khác nhòm vào. Em nghĩ : "Tường nhà thì cao 2m, cứ cho là ăn trộm nó cõng nhau để nhòm vào đi, nhưng mà nếu cõng nhau thì lúc di chuyển sang góc khác nó cũng phải tụt xuống chứ, mà tính cả số thằng ở dưới cõng lẫn số thằng ở trên ngó ngiêng thì cũng phải đến gần ba chục đứa, ăn trộm éo gì mà đi đông thế nhỉ?" Vẫn còn nằm suy nghĩ mông lung thì tự nhiên thằng Việt vùng dậy, ném luôn một cáibát ra ngoài, quát tháo vang nhà, sau thì mấy bóng đen kia đi dần mất. Nhưng quái lạ, ném nguyên cái bát ra ngoài thì phải xoảng một cái chứ nhỉ, đằng này lại im ắng chẳng có gì. Lúc này, nhìn lên tầng 2 vẫn thấy ánh đèn từ phòng Ngọc Anh hắt ra, tiếng đọc thuộc bài vẫn vang lên nhỏ nhỏ, đều đều. Em thì sợ teo tờ rym, éo dám ho he gì, quay mặt vào ngủ.

Sáng hôm sau, trong lúc đi dạo quanh vườn thì tự nhiên em thấy phía ngoài cổng, có hai đứa bé con con cứ vin tay vào chấn song mà nhìn vào sân, trông cũng hay hay nên định ra xem thế nào, đang bước đến gần cổng thì bỗng nhiên, tiếng Ngọc Anh từ trong nhà hét vang lên : "Anh H lùi lại, nó không phải trẻ con đâu!". Em giật người lùi lại mấy bước, xoay người nhìn về hướng con bé thì thấy nó đang đứng trên tầng ba, chỉ xuống cổng nói nói cái gì đó, quay người lại thì hai đứa bé vừa nãy đã đi đâu mất. Vội vàng chạy lên chỗ Ngọc Anh, hỏi thì nó trả lời :

– Theo như anh Việt bảo thì anh đã bị một lão thầy phù thủy chọn rồi. Lão thấy anh vừa hợp vía, hợp tuổi lại có khí chất nên định bắt anh đem làm hình nhân thế mạng, cứu lão khỏi tai họa gì đó. Anh em đã tính là từ giờ đến hạn của lão là còn 4 ngày, nên mới giữ anh lại đây để tiện bảo vệ, vì đất này là đất nhà em nên anh ý được quyền vẽ vôi ngăn vạch không cho người chết phạm vào. Suốt từ hôm qua đến giờ, lão kia đã sai mấy lượt ma quỷ, âm binh đến để lôi anh đi đấy. Nhưng mà lão là ai thì anh ý chịu, đã gieo quẻ mấy lần thì toàn bị khấc. Nên mấy bữa nay anh Việt vào hết mấy núi quanh đây dò hỏi âm binh, thổ thần, ma chết đường chết chợ về lão này, không biết hôm nay đi có kết quả gì không.

Em nghe xong thì rùng mìn, gáy lạnh toát, nhưng lại thấy xúc động vô cùng khi có những người bạn hết lòng với mình thế này. Sau đó, em lại tiếp tục dạy Ngọc Anh học, lòng thấy yên tâm vô cùng mà không hiểu tại sao. Từ đó, mọi chuyện vẫn cứ diễn ra bình thường, đêm đến em vẫn kê cao gối ngủ, yên tâm vì mình đã có bạn bè bảo vệ.

Sáng ngày thứ bảy, ngày cuối cùng thì có thằng D về cùng thằng Việt. Sau lưng nó đeo cái que gì dài dài, được quấn bằng một lớp vải điều. Vừa thấy em là nó đã chạy vào hỏi han đủ điều, hỏi xem chân em đã khỏi chưa. Em vừa nói chân khỏi rồi thì thằng Việt cười ha hả rồi đá phát vào mông thằng D, bảo : "Tao đã tính trước rồi mà lị! Dám không tin vào tài phép của anh hả!". Rồi cả ba thằng vào trong nhà nói chuyện, thằng Việt bảo:

– Tao đã nói rõ với thằng D rồi, nó nhất quyết đòi sang giúp mày nên tao cũng chịu. Còn tối nay thì lão kia sẽ đích thân đến bắt mày cho bằng được, tao sợ là một mình tao không chống được nên phải có cả chúng mày giúp nữa!

Em thấy là lạ, cả em với thằng D chẳng có thằng nào biết bùa phép là gì thì giúp thế nào. Thằng Việt mới giải thích :

– Lần này lão đến đây để bắt mày, tao chỉ là người cản chứ không thể giải được. Vậy nên mày phải tự làm lấy !

Đêm hôm đó, lần đầu tiên em được tận mắt chứng kiến cuộc so tài giữa hai phù thủy. Ăn cơm xong thì cũng là 8h tối, thằng Việt bảo bọn em :

– Chuẩn bị đi, sắp đến rồi, còn có 2 tiếng nữa thôi!

Sau đó, thằng Việt và con Ngọc Anh bày một bàn tế ngoài sân, hướng về hướng chính Bắc. Nhìn có bát hương, đèn nến, đồ cũng như bình thường, trên có đặt hai cái hộp đựng cờ con và thẻ gì đó, nhìn như mấy cái hộp trên bàn của Nguyên soái trong phim dã sử của Tàu ý các thím ạ! Xong xuôi tất cả, thằng Việt giục con em đi ngủ sớm, con gái ở đây không tiện. Chờ đến đúng 10h thì thằng Việt mặc áo lên đàn. Nó cầm kiếm gỗ , trỏ nam trỏ bắc liên tục rồi xì xầm đọc, sau đó nó đặt kiếm xuống, rút lấy một cây cờ đỏ, chỉ thẳng vào trong núi rồi khoa một vòng quanh đầu, phất sang trái hai cái, sang phải năm cái rồi giơ lên phất mạnh xuống kết thúc. Cây cờ trên tay thằng Việt vừa đặt xuống thì có tiếng ruỳnh ruỳnh, rồi ầm ầm như núi lở phát ra từ phía vách Kha. Em và thằng D lấm lét quay sang nhìn nhau, mặt thằng nào cũng xanh như tàu lá chuối. Nhưng đột nhiên lại có một loạt tiếng vang phát ra tiếp, nhưng là từ hướng núi nam. Được một lúc thì tiếng reo im hết, thằng Việt liền vốc một nắm muối vãi ra xung quanh, tay bắt quyết liên tục, mồm ngậm một búng rượu, phun mạnh về phía trước, nó vừa dứt thì gió nổi lên ầm ầm, cây cối lay dữ dội, cát bụi cuốn lên, rồi thốt nhiên, đám muối mà thằng Việt vừa vãi ra giờ tự nhiên cháy bùng lên một cái rồi tắt, nhìn y như lúc mình làm thí nghiệm hóa học. Lúc này, em với thằng D ghê lắm rồi, chân đã đứng không vững nữa, thằng D còn bảo hình như nó nghe trong gió có tiếng kêu khóc, than vãn. Được chừng mười lăm phút thì gió yên, lúc này thằng Việt lấy từ trong áo ra một tràng hạt bằng gỗ mun rồi quấn quanh cổ tay, đọc to một tràng toàn tiếng như tụng kinh, rồi nó giật đứt luôn tràng hạt đó, nắm một nắm hạt tung lên không. Bất ngờ, số hạt đang ở giữa không trung thì nổ đùng một cái, lóe sáng hệt lúc đốt Ba(NO3)2 trong phong thí nghiệm ý. Bất chợt, nó hô to một tiếng rồi ra khỏi đàn, người lảo đà lảo đảo, bọn em chạy vào đỡ thì thấy da nó tái nhợ, vồ hôi đầm đìa, môi trắng bệch như người tụt huyết áp. Đem vào trong phòng, pha nước đường với trà gừng cho uống thì dần dần hồi lại, nó bảo : "Vẫn chưa xong đâu, tý nữa mày phải tự sức mày thôi! Thằng D! Mày giúp nó!", nói xong thì nó lại đứng dậy đi ra ngoài như ngóng ai đó, bọn em cũng đi ra theo.

Đi đi lại lại, được khoảng nửa tiếng thì có tiếng xe máy đi vào đầu ngõ. Nhìn ra cổng thì thấy lão béo bán thuốc đang đèo ai đó đằng sau, đi cùng là một xe nữa, trên xe là một thằng chừng tuổi bọn em, mặt lấc ca lấc cấc. Mấy người đó xuống xe, lão béo vội chạy trước mở cổng, vào sau lão là một ông già người Tàu, mặc bộ quần áo vải đúng y như kiểu dân cuối đời nửa phong kiến nửa thuộc địa bên đó. Ông này vừa vào, nhìn thấy em đứng đó thì nhếch mép cười một cái, ánh mắt sắc lạnh như dao. Sau rồi ông này quay sang phía thằng Việt, nói một tràng toàn tiếng Trung, nghe thì biết là toàn câu chúc tụng, khen xã giao, nhìn thằng Việt vừa nghe vừa cười gượng thì cũng đủ hiểu là lão chẳng có ý tốt gì. Sau rồi, lão quay sang em, hằn học nói bằng tiếng Việt lơ lớ : "Mày muốn sống thì nhấc được viên gạch ta ném ra!", nói rồi, lão ra bên cây cảnh, nhặt lấy nửa viên gạch rồi vứt ra chỗ sân xi măng. Lão nói thêm: "Mày muốn nhờ ai hay làm kiểu gì cũng được, chỉ cần nhấc viên gạch lên khỏi mặt sân là tao tha cho mày, bọn đệ tử và con cháu tao cũng không động đến mày!" Thằng D xấn xổ bước ra, kêu để nó xem thử thế nào, nhưng không hiểu sao thằng cốt đột này nó nhấc mãi, cạy, nậy đủ kiểu mà viên gạch cứ vẫn cứ trơ trơ, thằng Việt thì không bước ra được vì nó đã hết quyền ra mặt. Lúc này, nó chạy vào trong nhà lấy cái bọc vải điều kia ra cho em, kêu em mở ra, bảo dung cái này mà bẩy lên. Em vừa mở ra thì tái cả mặt, trong đó chính là cây thương quý mà bữa trước em thấy trong động. Thằng Việt quay sang chỗ lão kia, cười khinh bỉ, còn lão thì vừa nhìn thấy cây thương đã tái mặt,nhưng lão nói : "Có mà không biết dùng thì cũng là đồ bỏ đi! Kiến ra cản nó lại cho cụ! ". Vừa dứt lời thì thằng Kiến bước ra, rút từ sau lưng áo ra một cây côn nhị khúc. Lúc này cả ba thằng bọn em giận tím mặt, kêu lão tráo trở thì lão nói là lúc đặt điều kiện không có noi là bên lão không có người trợ giúp. Em lấy hết can đảm bước ra, nói : "Thế thì cho tôi khởi động được chứ!", thằng Kiến cười váng lên : "Thoải mái! Thoải mái, không ai thúc giục người chết đâu!".

Thế rồi em cầm lấy cây thương, thấy ban đầu thì nặng tay mà càng cầm thì càng thấy đằm, vừa tay vô cùng. Nhớ lại những chiêu võ mà thầy và ông nội truyền cho, em từ từ vung thương lên múa chầm chậm, sau thì đẩy nhanh nhịp lên, quay tít cây thương, tiếng rít gió kêu vù vù. Mấy lão kia hình như không ngờ là em có võ nên ngơ ngác nhìn, duy chỉ có lão già áo vải kia là vẫn bình tĩnh. Tính sẵn từ trước, trong lúc đang múa thương, em bất chợt lao ra, khía mũi thương xuống dưới rồi lấy thụp người xuống, lấy lưng làm tựa, gồn sức bảy một cái. Nhưng em đã tính thừa quá nhiều sức, vừa mới gẩy mà viên gạch đã bắn ra xa. Thằng Kiến thấy thế thì gào lên, vung cây côn lao vào em, bỗng nhiên, lão già kia quát một tiếng, kêu nó dừng lại. Sau đó thì lão căn dặn hai lão kia và thằng Kiến mấy câu bằng tiếng Trung, rồi tất cả đi về.

Xong chuyện em mới thở phào nhẹ nhõm, thằng Việt và thằng D chạy lại ôm lấy em mà hét lên, đấm lưng nhau bùm bụp. Tối hôm đó, khi em hỏi sao thằng Việt lại có cây thương này thì nó bảo :

– Tao mượn được của âm binh nhà Tây Sơn, nhưng phải đưa cả thằng D đi cùng để làm tin vì tao có nửa gốc là Trung Quốc. Nhưng mà mai mày phải tự đem lên động mà giả, bọn tao chờ ở chân núi.

Rồi thì nó dặn em học thuộc câu cảm ơn để lên đó trả thì nói một tiếng. Đến sáng hôm sau, em lại lên trên cái động đó, đặt cây thương vào chỗ cũ. Bước ra ngoài, em đứng nghiêm trang rồi nói to :

– Cảm cái ân cứu mạng! Ngày sau nếu kẻ con cháu giúp được gì thì xin tìm đến lúc tắt ánh nhật.

Em vừa nói dứt lời thì từ trong động có luồng gió lạnh toát như hơi tủ lạnh phả ra, nghe thoang thoáng có tiếng ậm ừ hài lòng.
Thế là mùa hè năm lớp 10 của em đã kết thúc như vậy. Sau đợt này thì mọi chuyện lắng xuống hẳn, ban đêm không ai còn nghe thấy tiếng chân trên đường làng nữa, bến sông cũng yên bình như ngày nào. Hết hè, em lại về Hà Nội, ngậm ngùi tạm biệt những người bạn tốt đã vì mình mà không quản gì đến tính mạng.

Chuyện thứ hai mươi mốt: Đất khách

Sau khi em thoát khỏi cái đại hạn hình nhân thế mạng thì từ đó không còn gì quái lạ xảy ra mỗi khi em về quê nữa. Liên tiếp 3 năm liền về quê nghỉ hè, em đều chỉ chơi loăng quăng với hội bạn. Năm đó thì Ngọc Anh vừa thi đỗ đại học xong, thừa tới 1,5 điểm vào Sư Phạm. Mùa hè mà chỉ có loanh quanh lên núi, vào thung hoặc nhiều lắm là lên thị xã chơi cũng chán. Bất chợt thằng D nảy ra một cái ý định điên rồ : Du lịch chui sang bên Campuchia! Em nghe xong mà suýt chút nữa đã táng nguyên khay đá vào đầu nó vì cái tội phát biểu ngu. Thằng Việt thì rú ầm lên, gì chứ đi chơi xa thì ông tướng này mê nhất. Nhưng nghĩ lại thì em lại thấy nó đúng, mình gần 19 rồi chứ bé bỏng gì nữa, thôi thì đi một lần cho biết. Con bé Ngọc Anh nghe xong cũng đòi đi cùng vì ở nhà một mình thì buồn, thằng Việt suy nghĩ mãi mới quyết định cho nó đi. Sau khi bàn bạc chán chê bên két bia và đĩa mực, túm cái váy lại là 4 ngày sau sẽ đi xuống Tây Ninh rồi bắt xe ôm vòng theo đường mòn biên giới sang Cam.

Mấy hôm sau đó thì cả đám kéo bầu đoàn thê tửu lên thị xã mua đồ dùng, vật dụng cho chuyến thám hiểm của gia tộc trẩu tre máu liều. Ngày thứ 4, đến đúng giờ G, sau khi đã xin phép gia đình là vào Sài Gòn chơi một chuyến cho biết thì cả đám bắt xe khách Sài Gòn, dừng lại giữa đường bắt xe khách về Tây Ninh. Biết lần này đi xa nên chuẩn bị rất kĩ, em thì mang theo một cây côn dài 2m, tháo khúc ra bỏ gọn trong balo. Thằng Việt thì mang theo cả túi đồ nghề phù thủy, lại quấn thêm một sợi cửu tiết tiên quanh thắt lưng. Ông tướng D thì vốn có gia truyền về ám khí thì mang theo một bọc đủ các loại bi săt xe đạp, tanh xe vót nhọn, ống thổi tiêu,....Ngọc Anh chịu trách nhiệm mang một balo toàn thuốc bắc, thuốc tây đủ loại. Lúc này nhìn cả nhóm như đội Dream Team vậy, mặt âm thì có pháp sư Thiên Đẳng Trịnh Thiết Việt, mặt dương thì có hai ông hộ pháp võ nghệ đầy mình là em và D, trị thương, ốm đau đã có ngay bác sĩ Ngọc Anh.

Đi được đến buổi chiều ngày thứ hai thì đến biên giới Việt Nam- Campuchia, nhìn xung quanh toàn rừng núi heo hút, ngút tầm mắt mới có vài nha dân mà rợn người. Lúc bon em đang đứng ở cửa khẩu bắt xe ôm thì có một đoàn toàn teen trạc tuổi mình đi xe tải qua, thấy bọn em thì cả đám ý ới gọi lên đi cùng. Em thì nghi có bắt cóc, quay sang đưa mắt nhìn thằng Việt ra hiệu,thằng Việt khẽ quét mắt qua cả đám rồi gật đầu bảo lên xe được. Xe đi ngoằn ngoèo qua bao đường đất đỏ, đến môt cái cột mộc thì thả tất cả xuống, bảo cứ men theo hướng cái tháp kia là đến, xe chỉ đưa được đến đây thôi. Nhưng đoàn kia hì muốn lên Phù Wát ăn chơi mua sắm rồi thẳng đường lên Phnôm Pênh, còn bọn em thì muốn đi vào những ngôi làng nhỏ để tìm hiểu văn hóa trước rồi mới lên Phù Wát, thế là hai đoàn tách nhau ra, hẹn gặp ở Phù Wát sau 1 tuần nữa, ai đến trước thì chờ ở casino lớn nhất. Sau khi tách đoàn, bọn em cứ mon men theo hướng cái la bàn của thằng Việt mà đi, đang đi thì gặp một đồng chí biên phòng Campuchia đang vác súng đứng canh, thấy bọn em đi qua, nó níu lại, hỏi toàn bằng tiếng Campuchia, nghe có chữ Passport, cả lũ còn đang lớ ngớ thì nó vung cái báng súng lên đinh tương vào đầu thằng Việt. Thấy có biến, em liền quét chân chó nó ngã ra, thằng D đấm bồi 2 phát nữa cho nó gục hẳn rồi cả đám chạy thẳng ra mô đất gần nhất nấp. Nhưng quả đúng là lính biên phòng có khác, ăn một quét hai thụi mà nó dậy ngay được, chửi ầm lên, bắn chỉ thiên 1 phát kêu dừng lại, cơ mà bọn em vẫn chạy tiếp thế là nó bắn liền bốn năm phát về phía bọn em, đúng lúc em vừa lăn người xuống mô đất thì 2 viên đạn bay chéo qua đầu. Em lầm bẩm rủa thầm : "Các đồng chí Campuchia hiếu khách gớm, thế này mà cứ suốt ngày hữu với cả nghị, tý nữa thì mình bị xuyên sọ rồi!". Bỗng nhiên nó ngừng bắn, rút bộ đàm ra định gọi tiếp viện, em hoảng quả kêu thằng D: "Nó rút bộ đàm gọi người kìa mày ơi! Mày ném vài mũi ra dọa nó đi, nhưng à đừng có làm nó bị gì đấy nhớ! !", thằng D mỉm cười, lấy trong bọc ra cái ống thổi tiêu, thổi liền ba phát, tiếng phi tiêu lao đi " Vút! Vút ! Vút!" ý như trong phim chưởng, trong đo có hai mỗi găm xuyên luôn vào cái bộ đàm, thằng Cam kia khiếp quá vội vứt bộ đàm chạy luôn. Sau vụ này, cả đám đứa nào cũng khiếp, riêng Ngọc Anh thì sợ đến nhợt cả người. Đang định đi tiếp thì thằng Việt chạy lại chỗ cái bộ đàm, nhặt lên rút hai mũi tiêu ra rồi đập tan nát cái bộ đàm quẳng luôn sang bên biên giới Việt Nam, nó còn nhặt mũi tiêu đưa lại cho thằng D. Giờ thì em mới ngớ người ra, nếu lúc nãy mà cứ đi tiếp thì kiều gì lúc bọn kia quay lại cũng lấy cái phi tiêu xét nghiệm vân tay rồi gửi về cho chính quyền Việt Nam, lúc đó thì tương lai cả hôi chỉ có nước kết thúc sau song sắt. Quả đúng là những lúc nguy cấp thì thằng Việt vẫn là đứa bình tĩnh nhất, suy xét mọi việc chu toàn.Sau kiếp nạn suýt chết, nhóm Dream Team lại tiếp tục hành trình, thẳng tiến đến ngôi làng phía trước. Nhưng điều không thể ngờ là cái làng nhỏ ở biên giới này nó cũng chẳng yên lành gì...

Chuyện thứ hai mươi hai: Buổi đầu trên đất lạ
Thoát khỏi chốt biên phòng, bọn em lại tiếp tục đi về hướng ngôi làng phía trước, vừa đi vừa nghĩ lại chuyện vừa xảy ra mà người run lên bần bật, mặt tái mét, nhất là con bé Ngọc Anh, nhìn nó tái xanh cả mặt, nghĩ cũng tội thân con gái mà theo bọn em đi chơi ngu thế này. Đến lúc chiều tà thì bọn em đã vượt qua một quả núi, ngôi làng nhỏ đang ở ngay trước mắt. Ánh hoàng hôn dần dần buông xuống, nhuộm đỏ cả núi rừng đất bạn, cả bốn đứa đứng từ trên đỉnh, bóng thả dài xuống cả triền núi, nhìn lúc đó cảnh vật nó mênh mông, diễm lệ vô cùng, xung quanh là rừng rậm bạt ngàn, vượn hú chim kêu, thấy mình thật là nhỏ bé. Cái cảm giác đó nó phê lắm các thím ợ. Lúc bọn em đến làng thì trời đã muộn, cũng phải vào tầm 7h tối, nhìn quanh một lượt ngôi làng này, thấy nó nằm sát vùng biên giới heo hút mà cũng khá là sầm uất, có đầy đủ nhà nghỉ, khách sạn, phòng tắm, quán ăn,.... nhìn như một thị trấn thu nhỏ. Dân ở đây cũng khá là thân thiện, thấy bọn em đến thì cũng không tò mò xét nét gì cả, ai cứ làm việc người nấy. Bọn em ra chợ, tìm một tay cò người Việt, bảo hắn đổi 8tr VNĐ của bọn em ra Riel, em nhớ không nhầm thì hồi đó là khoảng 2tr, đưa cho cò 50k là còn hơn 1tr9 Riel. Xong xuôi tất cả, cả bọn đi tìm một nhà nghỉ qua đêm, may là tìm được một nhà nghỉ có chủ là hai vợ chồng già người Việt, trả giá khá thoải mái, chỉ hết có 20k riel cho phòng đôi và phòng đơn. Sau đó thì cả lũ đi ăn uống, mua sắm linh tinh rồi về nhà nghỉ, ở đây mặc cả vô tư , người biết tiếng Việt rất nhiều, có khi còn cò cưa xuống còn 2/10 giá lúc đầu. (Kinh nghiệm cho các thím định sang Cam chơi là cứ mặc cả nhiệt tình ở các khu chợ vì dân bản xứ thấy khách nước ngoài thì thường chém lên 40%). Và khi đã no nê vác bụng về nhà nghỉ, bọn em phân chia giường ra, Ngọc Anh sẽ ngủ bên phong đơn còn ba thằng thì ngủ bên phòng đôi. Bây giờ nghỉ ngơi thoải mái thì em mới để ý là thằng Việt từ tối tới giờ cứ liếc trước liếc sau như đề phòng cái gì đó, em và thằng D gạn hỏi thì nó khẽ nói :

– Chỗ này âm khí rất nặng!

– Thằng D cười bảo :
– Ôi dào! Ông tướng nhìn đâu cũng ra ma với quỷ, anh là anh chấp tất!

Thằng Việt ra bóp cổ thằng D ghì xuống, vừa cười vừa dọa :
– Cái mồm ăn mắm ăn muối! Chú dám bỏ ngoài tai lời vàng khuôn ngọc của anh hả? Thằng H ra đây úp nó với tao!

Nhưng mà thằng D khỏe quá nên bọn em không vật nó xuống được, lại còn bị nó quật ngược lại. Một tay xách thằng Việt, chân thì đạp lên lưng em, nó cười hả hả, đưa cái tay còn lại lên vuốt cằm. Em cuống quá hét lên : "Ối làng nước ơi có thằng gay nó hiếp bọn tôi!". Vừa dứt tiếng thì mấy phòng xung quanh bật dậy, mở tung cửa phòng bọn em ra, vào trong thì thấy ngay ba thằng giặc đang đùa nhau, họ ngán ngẩm lắc đầu bỏ về phòng. Chờ lúc mọi người đi hết thì thằng D trùm luôn cái chăn lên đầu em đấm thùm thụp vào người, nó la ầm lên cái câu em hét vừa nãy, cười khoái trá : "Mày chưa nghe chuyện Thằng bé nói dối và đàn cừu nhỉ!", lúc này thằng Việt đang ngồi góc phòng ôm bụng cười, cứ nhìn vào em mà chửi ngu quá, im lăng như nó có phải hay không. Đang vui thì tự nhiên có tiếng chó mấy nhà xung quanh cắn nhấm nhẳng, thằng Việt vội im không cười nữa, thằng D cũng buông em ra, khẽ bảo : "H, mày thấy chưa? Hành động bỉ ổi của mày làm quỷ thần cũng phải nổi giận đấy! Thằng Việt lần này đ' cứu mày đâu, chịu chết đi con trai!" , rồi nó quay sang thằng Việt: "Nhề còi nhề!". Thằng Việt vẫn im lặng, nhoài người ra vén rèm cửa nhìn xuống đường, chẳng biết vừa thấy gì mà nó rụt ngay vào. Em với thằng D giờ bắt đầu thấy ghê ghê người rồi nên không đùa nữa, quay sang hỏi thằng Việt co chuyện gì, nó bảo hai thằng :

– Chúng mày có thích xem ma không, tao cho xem phát nữa! Lần này nhiều lắm luôn.

Em nghe thì nhớ lại cái đêm ở hiên nhà nó nên lắc đầu quầy quậy, sống chết cũng không nghe. Còn thằng cốt đột kia vừa nghe ma là đã teo người lại, nhưng một lúc sau chẳng biết nó nghĩ gì mà lại đồng ý. Thằng Việt đưa cho nó một mảnh gỗ, bảo ngậm ngang miệng thì thấy, sợ quá thì bỏ ra là lại nhìn bình thường. Thằng D làm theo, nó và thằng Việt vén rèm nhìn xuống đường, nhìn một lúc lâu thì nó quay lại bỏ luôn thanh gỗ ra, lắp ba lắp bắp :

– Mày...ơi..dưới kia...nó đông lắm...đi đầy đường! -Hít một hơi rồi nó nói tiếp – Mà đứa nào đứa đấy cũng ghê, đứa mất đầu, đứa mất tay chân, có đứa chỉ còn nửa ngươi trên cứ bò bò trên đường!

Em nghe nó nói xong thì tý nữa són cả ra quần, chợt em hỏi lại :
– Thế trong phòng mình có không?

Nó đáp luôn:
– Không có! Nó mà có thì tao còn ngồi đây được à? Chúng nó chỉ ở ngoài đường thôi, đứa nào đứa nấy vật vờ như nghiện ý.

Nghe đến đây thì em tạm yên một chút, nói chuyện với nhau một lúc rồi đi ngủ. Chợp mắt được một lúc thì cả ba thằng bật dậy bởi tiếng động cơ cam nhông gầm rú ngoài đường, sau đó là tiếng ầm ầm như ai nổ mìn vậy. Chừng hai mươi phút thì lại yên, cả bọn lại ngủ tiếp. Sáng hôm sau ngủ dậy, đi xuống nhà, thằng D hỏi luôn hai vợ chồng chủ về cái việc tối qua thì bọn họ bảo ở đây đêm nào cũng vậy, suốt hai mươi năm nay nên dân ở đây quen rồi, nhưng mà tiếng động thì có nghe thấy còn ma quỷ thế nào thì chẳng ai nhìn rõ cả, ngoài mấy ông say xỉn đi chơi đêm về. Lúc đi ăn sáng, em khẽ hỏi Ngọc Anh xem tối qua con bé có thấy gì không, nó trả lời :

– Có chứ! Nó còn đi vào dọc hành lang và cả phòng khác nữa, nhưng hai phong mình thì vẫn yên, không có đứa nào dám vào cả!

Ngày hôm đó, bốn đứa bọn em đi mua sắm linh tinh trong khu chợ, rồi mon en vào trong mấy chỗ sát chân núi chơi, thấy trong đó có mấy cái nhà bằng đất,đá, trong đựng đấy hộp sọ, xương cốt người chết từ nạn diệt chủng Khmer Đỏ, vào trong đó thấy cũng có nhiều khách du lịch tây ba lô, dân bản xứ đang thắp hương tưởng niệm, bọn em cũng thắp hương rồi đi xem tiếp. Lúc đi loanh quanh thì thấy có mấy lão gì đó người Campuchia, nhìn mặc quần áo xộc xệch, người lem luốc cứ đi đi lúc lại nhặt một cái hộp sọ lên ngắm nghía, có lão còn lén bỏ một cái hộp sọ vào trong bị đeo bên mình. Em với thằng D nhìn thấy thế thì tức lắm, Ngọc Anh cũng bực bội, kêu bọn kia thất đức, mấy đứa đang định ra nói phải trái thì thằng Việt giằng tay lại, thì thầm :

– Bọn này là Nam tông chính gốc đấy, chúng nó nhặt sọ về để luyện bùa. Nhưng mà bây giờ mình đang đứng trên đất bản địa nhà nó nên tao không đủ sức đánh cả mấy lão đâu! Mình cứ nhịn đã, tối về rồi tách dần từng thằng ra mà xử cho chừa cái tội luyện quỷ bùa hại người.

Nghe nó nói thế bọn em mới để yên, lúc đó thằng D đã cầm sẵn ba viên bi sắt trong tay rồi, chỉ chực ném ra. Về nhà nghỉ, thằng Việt gọi cả bọn vào trong phòng, ngồi quây lại rồi bảo :

– Bây giờ mình đang trên đất khách, vong quỷ chỗ này nó chưa quen mặt tao nên tao không goi âm binh lên đánh được, bây giờ mình mới đi mộ quân đây. Tao đoán là ma quỷ quanh đây cũng oán bọn kia lắm, nhưng chưa làm gì được chúng nó thôi.

Nói rồi nó xách túi đồ nghề, dân cả bọn ra cái vườn phía sau nhà nghỉ. Nó lấy từ trong túi ra một con ốc biển xà cừ rất đẹp, lại to nữa. Nó lấy từ một sợi tóc, riêng em thì nó lấy đến 4 sợi, bảo là tóc em có giá nên dễ gọi hơn, em cũng chẳng hỏi gì cứ ngắt luôn 4 sợi mái ra cho nó. Sau đó, nó nhét tóc của cả bốn đứa vào trong con ốc, lấy một mẩu hương oải đốt lên rồi bỏ vào trong, rồi lại rút ra một lá bùa màu xanh lục, đốt lên, hươ hươ trước mặt cả bọn rồi lẩm nhẩm niệm chú, bỏ cả lá bùa vào trong con ốc. Lá bùa đang cháy âm ỉ, vừa bỏ vào ruột con ốc thì cháy bùng lên xong lại tắt ngay, mủn ra thành tro. Thằng Việt lắc đều cái vỏ, nói xì xầm gì vào trong đó, nó nói xong thì cây cối rung ào ào như có bão, thằng Việt mỉm cười bảo : "Được rồi đấy! Giờ thì phải nhờ đến cái miệng lưỡi của mày đấy H ạ! Thuyết phục chúng nó sao cho nghe lời mình là được."

Em nghe mà thấy lạnh chạy dọc sương sống, nhưng đâm lao thì phải theo lao, gọi bọn nó đến mà không có vài câu thì chắc chết không ai biết mất.Thế rồi em vận dụng hết cả bộ óc, cái lưỡi và 1 năm học Luật của mình ra mà lí luận, phân giải thiệt hơn,.... Hễ em nói xong cái gì là thằng Việt lại nói thầm vào trong vỏ ốc như dịch lại, sau đó thì áp tai vào nghe xem " bọn nó" nghĩ sao. Sau khi nói rã cả quai hàm, lôi đủ thứ chuyện trên trời dưới đất ra phân tích, thuyết phục, đến khi óc em rỗng không còn ý gì nữa thì thằng Việt nói xì xầm vào trong vỏ ốc rồi ghé tai vào nghe, quay ra mừng rỡ bảo em :

– Được rồi đấy! Hẹn "chúng nó" là đêm mai khao quân rồi thì tùy ý tao sử dụng. Công nhờ cả mày đấy H ạ! Sau này chắc bọn tao gây án thoải mái rồi cứ nhờ mày bào chữa mất.

Nghe nó nói thế em phổng mũi lên, nở đến từng khúc ruột, không thể ngờ được bài thực hành đầu tiên của mình lại thành công đến thế, lại còn thuyết phục được cả "người không còn sống" nữa chứ. Cơ mà em vẫn cứ sợ teo tờ rym lại, nhủ thầm là từ giờ đến cuối đời không nên "làm ăn" với "khách hàng" loại này nữa, nó mà có gì thì chắc mình chết không có chỗ chôn.

Sáng hôm sau, bọn em dậy sớm ra chợ mua gà, gạo nếp, thịt, bánh trái hoa quả về để chuẩn bị cho cỗ khao quân đêm nay. Đêm nay Việt phù thủy sẽ ra tay vì đại nghĩa theo lời thệ, và bọn em là những người "cùng kề vai sát cánh trên con đường hành hiệp trượng nghĩa", "đi đường thấy chuyện bất bình thì ra tay tương trợ, chỉ cần có biến là vung cước, xuất quyền.....bỏ chạy giữ mạng"

Chuyện thứ hai mươi ba : Bắt đầu luyện quân

Ngày thứ ba trên đất Campuchia, ...
Sáng nay ba thằng dậy từ lúc 5h sáng, đánh răng rửa mặt xong qua gọi cửa Ngọc Anh thì con bé đã dậy từ bao giờ rồi, đang ngồi chơi điện thoại, đúng là con gái có khác, đi chợ dậy rõ sớm, chăm chỉ quá cũng hại thân. Ăn sáng qua loa dưới nhà khách với mấy người khách trọ khác rồi cả bốn đứa kéo nhau đi ra chợ. Mọi chuyện mua bán, mặc cả đều giao cho Ngọc Anh cả, ba thằng chỉ có nhiệm vụ đi theo bảo vệ và ngắm các chị đi chợ sớm. Nói vậy chứ bọn em cũng có ích lắm, nhìn thấy một đứa con gái hiền hiền ăn nói nhỏ nhẹ mà đi chợ là mấy bà bán hàng chém ngay. Nhưng khi nhìn thấy đi cung là ba thằng, một thằng đột biến cao 1m87 nặng 95kg, cơ bắp cuồn cuộn, mặt nhìn chai đá, một thằng thì da trắng như người chết, lừ lừ đi theo, mắt vô hồn quét khắp lượt và một thằng nhìn hiền lành, thư sinh mà ánh mắt sắc lạnh, tay cứ chống hờ bên thắt lưng (bên trong dấu một sợi roi cửu tiết). Trông ba ông hộ pháp như thế thì có cho tiền các bà cũng chẳng dám nặng lời với con bé kia.Lông bông khắp chợ đến tận 8h sáng, bọn em cũng mua được một con gà trống, gạo nếp đồ xôi, thịt lợn, hoa quả, bánh. Đem về mượn bếp bà chủ nhà nghỉ để làm con gà và đồ xôi thì bà còn cười vui vẻ, xắn tay vào làm giúp, có vẻ như thằng Việt đã giải thích trước với hai vợ chồng chủ nên họ mới thoải mái thế, chẳng gì thì cũng tự nhiên có người đến giải quyết mấy vụ hồn ma bóng quế, dân làng cũng yên ổn làm ăn. Trong lúc bà chủ và Ngọc Anh làm trong bếp thì em và thằng D được ông chủ nhà giao công việc giã thịt để gói nem, ông bảo không cũng thì thôi chứ đã cúng thì phải đàng hoàng, tinh tươm mới tỏ lòng thành. Riêng thằng Việt thì là nhận vật chính nên ông bảo nó lên tầng nghỉ ngơi cho tĩnh tâm, thanh thản, vừa nghe xong thì nó chạy tót luôn lên phòng, khoái trá cười vọng lại :

– Hai vị ái khanh ở đó lo việc bếp núc đi nhé! Trẫm phải đi lo chuyện đại sự. Làm cho cẩn thận vào, tối cũng xong thì trẫm ban ân cho cùng ngồi Ngự Thiện.

Hai thằng tức cành hông mà không làm gì nó được,quay ra lấy hai cái cối đựng thịt rồi bắt đầu giã, em và ông chủ yếu người nên hai người giã một cối, thằng D thì kiêm nguyên cối kia. Nói yếu thế thôi chứ ông chủ già mà còn khỏe lắm, giã ngang sức với em mà không rỏ một giọt mồ hồi, hơi thở cứ đều đều. Hai người đang giã thì chợt ngưng lại bởi tiếng chày thình thịch dồn dập, cả hai quay sang chỗ thằng D nhìn thì cùng đứng hình, mắt chữ O mồm chữ A luôn. Bây giờ em mới thấy anh cốt đột đại triển thần uy giã nem của mình, thằng D hai tay cầm hai cái chày nặng ngót 10 cân, cứ thế giã đều đều không dứt xuống cối, cơ bắp người nổi lên cuồn cuộn, mấy chị trọ và mấy cô hàng xóm nhìn qua cứ ồ à, trầm trồ như thấy lần đầu. Em tưởng tượng nó mà giã hai cái chày đó vào mình thì chắc đem xẻng mà dọn xác mất. Nhưng dụng tốc thì bất đạt, thằng D giã quá nhanh làm thịt không nhuyễn mà nát luôn, báo hại lúc ba người gói nem nó cứ bở bục ra, cả dãy phòng dưới theo dõi bọn em từ nãy tới giờ, thấy vậy thì cười ầm lên, anh D "sung mãn" ngượng quá chạy tót lên phòng với thằng Việt, nhưng ngay sau đó là một tràng cười xỉ nhục của thằng Việt vang lên, và tất nhiên tiếp theo là một loạt tiếng kêu cứu, gào thét từ chính nó. Gói xong nem thì em chạy lên gia nhập, vừa vào phong thì thầy thằng Việt đang nằm bẹp dưới đất, bị trùm cái chăn lên trên, thằng D thì ngồi lên trên cả cái chăn và thằng Việt cười man rợ :Monday, May 30, 2016

– Giờ thì ai đang cười hả Bệ hạ?

Thằng Việt ở trong chăn cười sằng sặc, thò cái ổng thổi hương ra ngoài :
– Nếm thử Mê hồn hương của ta đây!

Thằng D vốn biết tiếng chế thuốc của thằng này nên nín thơ lại, chụp lấy cái ống rồi thổi ngược vào, thằng Việt ở trong chăn vừa cười vừa ho sặc sụa, hóa ra nó nhét thuốc linh tinh vào trong đó để dọa thằng D rồi thoát ra, nhưng lại không ngờ đến chuyện này. Thằng D hé chăn ra một lúc cho khói bay hết, sau nó hỏi thằng Việt thấy thoải mái dễ thở chưa, thằng Việt bảo :

– Đem tiến cống cho trẫm cái gì ăn thì trẫm ra ban thưởng cho khanh hậu hĩnh!

Vừa nghe xong thì thằng D cười lên một tràng cười đểu giả, nó hé cái chăn lên, chõ mông vào rồi ...bủm một cái, xong lại trùm chăn lại, nói to:
– Đây là hương hoa Tây Vực ngàn năm mới có, kính thỉnh hoàng thượng ngự lãm!

Em kinh hoàng khi thấy trò độc ác của nó, vội lao vào cứu thằng Việt, nó liền lao ra ghì em xuống, nhân lúc đo thằng Việt vùng dậy trùm cái chăn trên giường úp lên thằng D, cả hai thằng lao vào đấm túi bụi, thằng D trơ trơ ra, cười bảo :

Đa tạ đã cho ta tấm lá chắn mới! Hai thằng ở ngoài cứ từ từ thưởng thức nhé!

Nghe nó nói xong thì em và thằng Việt chột dạ , hít hít xung quanh, một thứ mùi kinh tởm đang dần lan tỏa khắp phòng, em và nó lao luôn ra hành lang,lấy chai X-men của em đem vào xịt lấy xịt để. Nhưng cái mùi nó vẫn ám vào áo quần, ba thằng lại giành nhau cái nhà tắm.

Đến tối thì mọi thứ đã chuẩn bị xong ở vườn sau, ông bà chủ nhà cũng ra cùng. Đúng 9h, bày biện xong tất cả thì thằng Việt mặc áo cánh hạc bước vào. Nó tay trái cầm cái trống bỏi lắc liên hồi, tay phải cầm kiếm chỉ đông chỉ tây rồi cắm xuống bát hương. Bất ngờ, gió mạnh lại nổi lên, bốn phía vang lên những tiếng ầm ầm, tiếng rào rào như mưa to. Cả mâm cỗ còn đang nghi ngút khói bỗng dưng nguội hết cả, duy hoa quả thì không thấy có động gì.Thằng Việt đọc to một bài toàn tiếng lạ, sau là bằng một bài dài dằng dặc như thế nhưng lại bằng tiếng Việt, kết thúc bằng câu : " Ăn của ta thì phải nghe ta! Quân kỉ nghiêm minh, tình bất vị nể! Tất cả theo lệnh ! ". Sau đó nó rút một cây cờ đen, phảy lên phảy xuống, chỉ trái chỉ phải, cứ kết thúc một hồi chỉ là lại có tiếng ào ào vang vọng. Hai thằng bọn em sợ run cầm cập, vậy mà nhìn sang vợ chồng chủ nhà vẫn thấy họ điềm nhiên như không. Sau rồi thằng Việt ra hỏi hai ông bà chủ nhà có việc gì nặng nhọc cần làm không, hai ông bà bảo là có ý định đào một cái ao con con ở đây để khách đến có chỗ chơi, nhà ngay bên cạnh suối mà không làm được vì hai ông bà yếu quá, thuê mướn thì chẳng có ai làm. Thằng Việt gật đầu rồi nó bảo ông chủ nhà dẫn nó đi lấy cái gầu tát nước, một cái xô vôi, một cái chổi quét. Một lúc sau hai người về, thằng Việt đốt một lá bùa rồi hòa vào vôi, đem ra quét một vòng tròn rộng đúng cỡ cái ao ông bà muốn, rồi nó cầm cờ phất một cái, nói một câu lệnh tiếng Cam, một câu tiếng Việt :

– Đêm nay đào cái ao rộng chừng này, sâu 2m, đào xong thì tát nước từ suối vào cho đầy, hẹn xong trước lúc gà gáy, làm xong đêm mai ta khao bánh oản với xôi thịt một mâm.

Xong xuôi tất cả, no và ông chủ nhà đi dặn hết khách trọ và hàng xóm xung quanh đêm nay không được bén mảng ra vườn sau. Thu dọn bàn cũng rồi đem vào nhà, nó cầm ba nén hương đốt lên rồi vung một vòng quanh mâm cỗ, bảo thế là ăn được rồi đấy. Em với thằng D không tin nên véo thử một nhúm xôi ăn, không hiểu sao giờ nó vẫn cứ ấm nóng thơm ngon như thường, chưa có vẻ gì là nguội cả, cũng chỉ hơi mất nhiệt ý như đồ thường để qua thời gian như vậy. Bọn em đem vào cho ông bà chủ thì ông bà chủ bảo mấy thằng đem lên phòng mà ăn, đêm nay mệt nhọc nhiều rồi. Thế là bọn em đem lên tầng, chia cho cả mấy phòng xung quanh, họ thấy có cỗ thì cũng chẳng hỏi nhiều, cảm ơn rối rít rồi đem vào. Đêm đó , bốn đứa ngồi ăn no căng bụng rồi mới đi ngủ.

Sáng ngày hôm sau, em với thằng D. 8h mới dậy, chạy thằng luôn xuống vườn sau. Đập vào mắt bọn em là một cái ao đã đào từ lúc nào, đầy ăm ắp nước, mấy nhà hàng xóm và khách trọ đang đứng đầy xung quanh bàn tán xì xào. Sau đó thì là ăn sáng và lại đi chợ mua đồ ăn thức uống, đồ cúng các thứ. Nhưng lúc bọn em đem về thì ông bà chủ lại kéo lại đưa cho 1tr Riel, bảo đây là tiền của mấy nhà xung quanh đem góp hết vào để cảm ơn nhóm bọn em giúp làng giải yêu giải ma. Còn đang dùng dằng không chịu thì thằng Việt bước ra cảm ơn và nhận tiền, bảo bọn em :

– Họ cho bao nhiêu mình cứ nhận tất để còn dùng cho lân sau, miễn mình không dùng tất cho bản thân là không vi phạm thệ, thế là được!

Bọn em nghe xong thì cũng không bảo sao nữa, nhưng nghe thằng Việt nói "lần sau" mà em thấy rờn rợn, chẳng lẽ cái đất Campuchia này lắm chuyện đến thế sao mà còn phải giải quyết nữa.

Chuyện thứ hai mươi tư: Mượn binh làm tròn lời thệ

Ngày thứ tư, buổi sáng sớm cả bọn lại dậy tiếp và lại đi chợ, lần này mua đồ nhiều hơn hôm qua. Hôm đó bọn em làm hai mâm y hệt như hôm qua, đến trưa thì xong tất cả. Còn buổi chiều thì lên chỗ khu nhà tưởng niệm, thắp hương cho các nạn nhân, đồng thời cũng tiện thăm dò mấy lão kia. Sau khi thắp hương xong thì bốn đứa lại dạo một vòng quanh khu nhà đất, vẫn gặp mấy lão thầy kia, nhưng hôm nay mấy lão chẳng nhặt nhạnh cái sọ nào, chỉ xem xem rồi đặt xuống, quay ra nói xi xa xí xô cái gì đó với nhau.

Khoảng tầm 8h tối thì thằng Việt lại mặc áo lên đàn, lần này nó bảo bê trước một mâm ra. Hôm nay, nó lấy từ trong túi ra một cái sừng trâu cong vút, rắc vào đó một ít bột rồi lại thả 3 cái lá cây gì gì vào trong, sau đó đưa lên bụm miệng thổi. Bọn em đứng ngay đó mà chẳng nghe thấy tiếng gì cả, cứ nghĩ là sẽ có tiếng tu tu như tù và cơ, nhưng thằng Việt vừa rời cái sừng trâu ra khỏi miệng thì gió lại nổi lên ào ào, tiếng uỳnh uỳnh vang lừng bốn phía. Nó lấy ra một cây cờ xanh, phẩy hai cái rồi đọc to một tràng tiếng Cam, tiếng Thái, tiếng Trung,... trong đó có một câu tiếng Việt :

– Giữ lời hứa! Hôm nay khao quân đủ xôi thịt, bánh oản để bù cái công khó nhọc đêm qua. Còn đêm nay làm xong việc thì ta lại thưởng thêm để úy lạo quân sĩ.

Đọc xong một tràng đó thì thằng Việt trỏ cây cờ vào mâm cúng trên bàn. Được một tiếng thì hương tàn. Nó cầm cây cờ đen, phất liên tục ra bốn phía, cuối cùng cầm cái trống bỏi lên lắc liền tay. Bỗng nhiên bốn phía nổi lên tiếng reo hò ầm ầm như sấm, sau lại lặng ngắt như tờ ngay lập tức. Thằng Việt bước ra ngoài ngồi nghỉ, nó đưa hai thanh gỗ ra cho em và thằng D, bảo muốn xem thì ngậm lấy, thằng D lắc đầu như điên, sống chết cũng không chịu cầm lấy thanh gỗ, em cũng kêu :

– Việt ơi! Mày làm ơn tha cho quả thận quý giá của tao cái! Lần trước ở hiên nhà mày tao đã suýt ra quần rồi.

Thằng D nghe xong thì hình như nó linh cảm điều gì đó, hỏi lấy hỏi để em với thằng Việt là đêm ở hiên làm sao. Con bé Ngọc Anh đứng đó cứ nhìn bọn em mà cười. Sau một hồi tra hỏi thì anh cột đột cũng biết được quá khứ oan nghiệt của mình. Mặt nó chuyển dần từ tím sang đỏ và cuối cùng là màu trắng bệch, nó quay sang cố gắng cười, hỏi Ngọc Anh:

– Anh là anh cứng vía lắm nên anh không sợ đâu. Ngọc Anh tốt bụng, dễ thương, ngoan ngoãn,....nói anh nghe xem nào. Có đúng như hai thằng giặc kia nó nói không? À mà thôi, em chỉ cần gật hay lắc đầu cũng được rồi!

Ngọc Anh rụt rè gật đầu, ngay lập tức thằng D hét toáng lên, người bủn rủn, quay sang bọn em gằm ghè:

– Quân khốn kiếp dám xỏ anh suốt ngần ấy năm! Tý nữa có bao nhiêu đồ tao ăn hết, không nhường cho chúng mày miếng nào nữa.

Em và thằng Việt kinh hoàng, gật lấy gật để, bảo nó muốn ăn bao nhiêu cũng được chú hai thằng còm có mỗi bộ khung khô, nó mà đánh thì chết mất. Đang đùa đùa nhau thì tự nhiên có tiếng rầm rập, rồi cây cối rung lên ào ào như bão về. Thằng Việt đứng lên, gật đầu bảo được rồi đấy, nói đoạn nó lại bước vào đàn, tay cầm cây cờ đỏ phất một cái, sau đó thì cỗ bàn tự dưng nguội hết y như đêm qua. Xong xuôi tất cả lại dọn hai mâm vào trong như cũ, và lần này thì thằng D nốc hết nguyên một mâm. Em và thằng Việt ngồi đó nhìn nó ăn mà kinh hãi, em hỏi :

– Anh hỏi khí không phải! Thế chú cầm tinh con gì vậy?

Thằng Việt đốp luôn, giả giọng thằng D :
– Tôi tuổi con nằm đất thè lưỡi!

Em hùa theo :
– May mà chú cầm tinh con chó chết, chứ chú mà cầm tinh con chó sống thì chúng tôi phải chạy trước.

Thằng D gầm lên, cầm cả miếng oản nhét vào mồm em, rồi nó lấy thêm miếng xôi to bằng nắm tay nhét vào mồm thằng Việt. Em suýt chết ngẹn vội cắn rời miếng oản ra rồi nuốt từ từ. Quay sang phía thằng Việt, em lại lần nữa táng hồn khi thấy nó cười cười, cái môi căng rộng ra, hai bên má phồng lên, nhai nhai vài cái hết cả nắm xôi rồi nuốt cái ực, nó còn cười sằng sặc hỏi thằng D có còn nữa không. Em nhìn sang thằng D thì thấy nó cũng đang kinh hãi không kém, mồm còn miếng thịt gà mà cứ há hốc mồm ra, nhưng ngay lập tức nó vội vàng vơ hết chỗ cỗ còn lại ăn lấy ăn để, nhìn thằng Việt với ánh mắt đề phòng, một chân thì giơ ra cản thằng Việt. Thằng Việt thấy thế thì bơ như không, rút lấy sợi cử tiết ra rồi quăng ra sau lưng thằng D móc lấy cái đùi gà, kéo về nhồm nhoàm nhai. Thằng D đang ăn, sờ tới cái đùi thì không thấy đâu nữa, quay sang thì thấy thằng Việt đang nhai, nhìn khắp xung quanh thấy đầu sợi roi của thằng Việt còn bóng nhẫy mỡ. Nó vội bê hết cả mâm ra góc rồi ngồi ăn nhanh hơn nữa, đang ăn điên cuồng thì Ngọc Anh bước vào bê khay bánh bao hấp ăn đêm cho mấy đứa. Thằng D vừa nghe tiếng cạch cửa thì vội ngồi ngay ngắn, ăn nhỏ nhẹ từ tốn ngay lập tức.Lúc Ngọc Anh vừa ra khỏi phòng thì thằng D lại ăn như bản chất đê tiện của nó, ăn hết chỗ cỗ, nó nhìn sang khay bánh bọn em đang ăn với anh mắt kì lạ, nó cười hề hề rồi ngồi dịch dần lại chỗ hai thằng. Thằng Việt vội phủ đầu :

– Thằng kia ăn thế còn chưa chán lại muốn thêm! Hầy! Lòng tham thật là không đáy mà! Nếu thí chủ muốn đớp chỗ bánh này thì bước qua xác của hai lão nạp đã!

Vừa dứt lời thì thằng D xồ tới, không ai ngờ được là nó lại chơi võ, cướp ngay được một cái bánh. Em và thằng Việt vội giơ tay lên thủ thế, giữ vững trước các đòn tấn công như vũ bão của thằng cốt đột biến thái kia. Cơ mà đến ông tổ nó sống lại cũng không thể ngờ được thằng cháu chân truyền võ nhà mà lại dùng đến ngón cầm nã thủ gia truyền để cướp mấy cái bánh, cướp được quá nửa chỗ bánh rồi ăn hết sạch, thằng D no nê vác bụng về chỗ nằm, cười khoái trá kêu bánh ngon. Em và thằng Việt đành ngậm ngùi chia nhau số bánh còn lại sau vụ cướp trắng trợn.

Mấy thằng ăn no phè phỡn, đang nằm đọc truyện trên lap thì tự nhiên có tiếng mở cửa rồi Ngọc Anh chạy luôn vào phòng bọn em, mặt con bé tái mét. Bọn em hỏi có chuyện gì thì nó kêu là nhìn thấy ma, em lấy làm lạ vì con bé này thấy ma từ khi mới sinh ra, chưa sợ bao giờ mà sao lần này nó lại khiếp đến thế. Còn đang trấn an, vỗ về nó thì tự nhiên có tiếng đập ruỳnh ruỳnh vào cửa sổ, cơ mà lúc này bọn em đang ở tầng hai thì đập thế quái nào được. Bống nhiên cái cửa sổ mở tung ra, gió lùa vào lạnh ngắt. Em vội chạy ra chốt cái cửa sổ lại. Con bé Ngọc Anh thì sợ quá cứ nằng nặc không chịu về phòng, thế là 3 thằng lại ra hết ghế ngoài hành lang chém gió, cú đêm, dặn con bé là có gì lạ thì kêu lên bọn em sẽ vào ngay. Ba thằng ngồi một lúc, đang một tấc đến giời thì tự nhiên em thấy hành lang lại có hơi lành lạnh. Kiểm tra lại bộ nhớ thì em nhớ rõ ràng là hành lang này không có cửa sổ gì cả, lại thiết kế để không hút gió được. Vội quay sang bảo hai thằng kia thì thằng D cũng kêu là thấy hơi lạnh. Đột nhiên, thằng Việt đứng phắt dậy, kêu lên : "Có chuyện rồi!". Xong nó lao vào phòng, nhưng cửa lại không tài nào mở được, cứ như bị ai giữ ở trong. Em và thằng D vào gồng tay lên ấn mạnh cái tay cầm thì cửa mở toang ra. Đập ngay vào mắt ba thằng là con Ngọc Anh vẫn còn nằm ngủ im trên cái giường kê sát cửa, phía bên ngoài cửa sổ là một thứ gầy trơ xương, ăn mặc rách rưới, tóc lơ xơ vài sợi lộ ra cái đầu trắng hếu. Cái bóng đó đang vịn tay vào song cửa, cặp mắt đỏ ngầu nhìn chằm chằm vào con Ngọc Anh. Ngay lập tức thằng Việt lao đến chỗ cái túi, móc ra một cây thẻ bài bằng xương hay ngà gì đó, lấy móng tay cạo vài vạch lên rồi giơ ngang lông mày đọc rì rầm trong miệng, sau đó thì nó ném thằng cái thẻ về hướng cửa sổ, cái bóng rú lên một tiếng rồi tụt xuống. Thằng Việt vơ luôn túi đồ, quăng cái túi ám khí cho thằng D và cây côn gấp cho em, còn nó thì vắt sợi roi vào thắt lưng. Xong nó đánh thức con em dậy, kêu xuống nhà ngồi chờ ở gian khách, không được ở một mình. Xong rồi thằng Việt cứ thế lao vọt ra đường, bọn em cũng đuổi theo. Trên đường, em với thằng D theo sát bên nó, hỏi :

– Mày làm cái gì mà đang đêm chạy ra đây vậy?

Thằng Việt trả lời :
– Có đứa dùng sọ người luyện thành bùa độc rồi, bây giờ phải đi trừ tân gốc nó không để lâu gây họa lớn mất.

Bọn em nghe xong chẳng hiểu bùa độc là cái gì nhưng cũng cứ chạy theo. Chạy ngoằn ngoèo qua mấy khúc đường đất thì đến một gian nhà đất ngay sát chân núi. Thằng Việt dừng lại, lấy từ trong túi ra ba lá bùa, quấn một lá vào sợi roi của nó rồi đốt, lại đốt thêm một lá thành tro rồi rắc vào cái bọc của thằng D, đợi em ráp xong cây côn thì nó cũng làm với cây côn y như với sợi roi vậy. Xong nó lấy ra ba bông lúa khô còn ngậm đòng, bảo bọn em cái vào người đừng để rơi ra. Thế rồi nó đạp tung cửa cổng mà bước vào, thấy động, một lão trong nhà chạy ra, chính là một trong mấy lão hôm nọ. Vừa thấy bọn em lăm lăm vũ khí sấn vào thì lão ném ra một nắm muối, thằng Việt vội phất cái vạt áo cánh hạc ra hất đi, ba thằng lại vào thằng trong nhà. Vào trong nhà thì một mùi thối khẳm đến nhức óc xộc vào mũi, em với nhìn quanh tìm công tắc điện mà không có, thế là cứ nheo mắt lại mà nhìn. Trong khoảng tranh sáng tranh tối, bọn em nhìn thấy lão kia đang loay hoay mở một cái hũ sánh. Thằng Việt hét lên :

– Không được để cho nó mở cái hũ!

Nói đoạn, nó quăng cây cửu tiết ra quấn lấy lưng lão kia rồi kéo giật lại, lão ngã sóng soài ra đất, lồm cồm bò dậy thì em với thằng D lao ra, thằng D vít tay lão ra sau, em thì dí cây côn ghì xuống lưng lão. Thằng D mặt đỏ phừng phừng, gầm ghè:

– Mày định hại con bé Ngọc Anh hả? Nó có làm gì mày chưa?

Thằng Việt bước tới, giật một nhúm tóc trên đầu lão, gói vào trong một lá bùa vàng, đốt xèo xèo, bảo :

– Từ nay xem mày có dám hại người nữa không? Làm nghề này là để mày tác oai tác quái đấy phỏng ?

Rồi nó bước ra sân, lấy trong túi ra một cuộn dây mảnh, bằng vải, bảo bọn em cầm kéo cái sợi đi hết quanh đất nhà này rồi vòng về. Sau đó thì nó đưa cho bọn em mỗi đứa một xấp bùa, bảo cứ cách 1m thì treo một cái lên dây, treo xong, nó đốt một cây hương to bẳng hai ngón tay rồi đi châm vào từng tờ bùa một. Đây là lần đầu tiên em thấy nó đốt lắm bùa như vậy. Đơi đến khi bùa và dây cháy hết thì bọn em kéo nhau về, thằng Việt còn quay lại nói một câu gì đó bằng tiếng Trung, rồi đi thẳng.

Về đến nhà nghỉ thì thấy Ngọc Anh đã chờ sẵn ở dưới rồi, vừa thấy bọn em về là con bé lao ra hỏi han đủ điều. Nghe bọn em kể lại xong, nó cứ cúi đầu, xụ mặt xuống ra điều mình đã làm sai cái gì đó nên bọn em mới phải chịu vậy. Đêm hôm đó cả lũ đều không ngủ được. Sáng hôm sau thi bọn em ăn sáng xong là ở luôn trên phòng, hai thằng gạn hỏi thằng Việt về nguyên nhân chuyện đêm qua, nó mới từ từ trả lời. Hôm đó, qua lời kể thằng Việt và Ngọc Anh, hai thằng lại biết thêm một chuyên đau lòng về quá khứ của gia tộc họ Trương.

Chuyện thứ hai mươi sáu: Thăm thú Vân Nam

Thằng Việt kể với em rằng nó thông thạo nhiều loại bùa phép đến vậy không chỉ là do học sách trong hòm của cụ tổ mà còn đi thỉnh giáo nhiều thầy giỏi ở khắp Trung Quốc nữa. Ngay từ năm 9 tuổi nó đã lên khu tự trị Tây Tạng , Tân Cương, Nội Mông, ...vào cả tỉnh Vân Nam để theo học bùa chú Nam tông. Trong số những thầy mà nó học thì nó ở với thầy Zhio lâu nhất, cũng quý thầy nhất. Suốt mấy năm nay toàn ở Việt nên nó cũng muốn về Vân Nam thăm thầy vài hôm. Đó là vào năm thứ ba em học đại học, cũng đang được nghỉ hè 2 tháng rưỡi nên nó rủ em theo sang Vân Nam chơi một lần cho biết. Năm đó em cũng bắt đầu tư vẫn vài vụ do quen giới thiệu nên cũng được khoảng 30tr, túi đang rủng rỉnh ít tiền nên theo nó đi luôn, em nghe đồn Vân Nam lắm chỗ bí ẩn lắm mà chưa có dịp đến. Trước khi đi, em đã tưởng tượng lắm thứ về Vân Nam, nào là phái Ngũ Độc xưng hùng xưng bá, các cô gái xinh như hoa mặc áo dân tộc, rồi cả những cao thủ võ lâm hàng đêm bay nhảy như phát lắc qua các nóc nhà,...

Chuẩn bị làm hộ chiếu, passport rồi giấy tờ này nọ đủ kiểu, mất 2 tuần sau bọn em mới bắt đầu đi. Lần này thì đi theo một đoàn du lịch, đường hoàng qua cửa khẩu biên giới, không súng không đạn, không bộ đàm. Đi được bốn ngày thì tới thành phố Côn Minh, thủ phủ của tỉnh Vân Nam. Đến nơi thì em có phần thất vọng vì nó không giống như trong tưởng tượng, nhưng phải nói là thành phố này khá đẹp mà sầm uất, về đêm lại càng vui, phải cái là đi dạo tối mà lớ ngớ đi qua khu đèn đỏ là có ngay mấy em ra níu tay níu áo. Tham quan khoảng bốn ngày thì hết, đoàn du lịch kia đi về, riêng bọn em là chỉ đi cùng xe thôi nên vẫn cứ ở lại được, mấy ngày sau hai thằng cũng chỉ đi loanh quanh phố đêm chơi, mãi rồi cũng chán. Một hôm, đang nằm trên phòng thì thằng Việt hỏi em :

– Ê mày! Hay tao với mày đi thành cổ Đại Lý chơi đi, thấy bảo chỗ đó hồi trước là phim trường của Thiên Long Bát Bộ đấy.

Vừa nghe xong thì em háo hức hẳn lên, ngay đêm hôm đó hai thằng bắt tàu tốc hành đi về Hạ Quan, rồi đi xe buýt từ Hạ Quan đến Thành cổ Đại Lý. Lúc bọn em đến nơi thì thành phố đã về đêm, ánh điện, ánh đèn lung linh khắp nơi, nhìn phố đêm Đại Lý nó rất riêng và khác hẳn với những chỗ em hay đi chơi. Khách du lịch đi lại tấp nập, hàng quán bên đường nghi ngút khói, tiếng rao hàng, chào mời rào rào náo nhiệt, em và nó mỗi thằng mua một xiên thịt to bằng bắp tay rồi vừa đi vừa ăn, ăn xong ra ngồi ghế đá quan sát khách đi chơi đêm. Bây giờ em mới để ý là chẳng có cô nào mặc quần áo dân tộc cả, tất cả đều mặc áo phông quần jean hoặc váy, đầm như bình thường, nhưng mà nhiều em xinh cực kì, nhìn mãi không chán. Và sau khi đã thỏa mãn con mắt, em và thằng Việt lại đi vào trong khu trong, vào rồi thấy đèn neon trang hoàng khắp nơi, đủ màu sắc nhìn đẹp mắt vô cùng, hai bên đường đi thì trồng bao nhiêu loại hoa, có đèn pa rọi từ trên tường xuống thảm hoa nên nhìn nó hoa mỹ tráng lệ lắm các thím ợ! Vừa bước chân được vài bước thì em thấy lố nhố một đống mấy chục thằng Đoàn Dự, Kiều Phong, Tinh Túc Lão Quái, Mộ Dung Phục rồi cả Vương Ngữ Yên, Chung Linh, Mộc Uyển Thanh,... chạy ào ào qua mặt. Lớn có bé có, gầy có béo có, từ đẹp như minh tinh cho đến Lacoste xuất khẩu, đứa nào cũng hóa trang theo kiểu các nhân vật trong phim để chụp ảnh. Trong đó bán khá là nhiều đồ lưu niệm, đặc biệt là cả ảnh chụp trộm hậu trường của đoàn làm phim Thiên Long Bát Bộ, em mua mấy tấm về làm kỉ niệm. Phải nói là chính phủ Trung Quốc đầu tư khá nhiều vào du lịch, sau ngần ấy năm mà hoàng cung Đại Lý vẫn còn được bảo tồn nguyên vẹn, từ đường chạm khắc, màu sơn, giấy dán cửa vẫn cứ y như mới. Nhìn khắp cả chỗ du lịch đó không có ai vứt rác bừa bãi hay khạc nhổ tùm lum, nghĩ lại cái cảnh đi Cửa Lò của mình mà nẫu cả ruột. Đến khi xem chán chê từng chi tiết thì đi về. Đêm hôm sau, hai thằng đến chùa Sùng Thánh chơi, trong phim thì đây chính là Thiên Long Tự đấy các thím ợ!Không hổ danh là quốc tự của Đại Lý, cái chùa này nó to và rộng dã man, phải đến mấy nghìn mét vuông là ít, đang về đêm nên nhìn lung linh hẳn, ngoài sân có mấy cái trụ tròn tròn quay quay được, thấy bảo đó là kinh Mani gì đó, em cũng xoay thử mà chẳng thấy nó quay gì cả, thầm nghĩ hay tại mình vừa đi vệ sinh trong chưa rửa tay nên nó mất linh. Bước chân vào bên trong chùa, trong này có nhiều tượng phật thếp vàng lắm, đứng ngồi đủ các kiểu, nhìn như tượng La Hán bên mình. Đi sâu nữa là đến Tam Tháp, cái này mới là nguyên gốc còn được bảo tồn đến ngày nay, chính tại chỗ này, Khưu Ma Trí đã choảng nhau với các hòa thượng Thiên Long Tự thì phải, sau đó thì Đoàn Dự lao ra bắn chiu chiu Lục Mạch Thần Kiếm. Nổi bật giữa nền trời đêm là ba ngọn tháp sáng trưng ánh đèn, soi bóng xuống hồ Nhĩ Hải. Cái hồ này nhìn rộng mênh mông, nghe bảo là hồ nước ngọt lớn thứ ba tại Trung Quốc, về đêm nhìn cảnh vật xung quanh soi bóng xuống lung linh tráng lệ, nhưng mà cái hồ trông nó vẫn cứ ghê ghê, ảm đạm thế nào ý. Nhưng rồi xem mãi cảnh không thì cũng chán, hai thằng lại đi dạo phố đêm, xà vào hàng ăn chỗ này một ít, chỗ kia một tý, dù cay quân Tung Của nhưng em vẫn phải nói là ẩm thực của nó ngon tuyệt cú mèo, món nào cũng có vị cay mà lại vẫn giữ vị riêng, trình bày thì bắt mắt, em là em kết nhất món cá xào đậu hũ chua cay với món thịt cá gà xiên rán bột ớt. Nghĩ đến thằng D mà lại thấy tiếc cho nó, chỗ này đúng thực là thiên đường với một tâm hồn ăn uống như nó, phải cái nó đang học dở mười bảy chiêu cuối của bài quyền nên không đi được, về kể lại chắc ku cậu tiếc hùi hụi.Hai thằng chơi ở mấy khu vực thành phố Vân Nam được hai tuần thì rời đi. Bắt đầu lên đường đến nhà thầy Zhio, lần này thì xa rời thế giới hiện đại, và em thì lần đầu tiên đi sâu vào tận trong những vùng rừng núi heo hút của Vân Nam.

Chuyện thứ hai mươi bảy: Thâm sơn cùng cốc

Rời thành phố Côn Minh, bọn em bắt xe khách đi về khu tự trị Choang. Dừng lại ở trước một ngôi làng cũ, trong làng giờ chỉ còn có vài mống người, còn lại thì không biết đã bỏ đi đâu hết, xem chừng mới đi được có 2, 3 tháng gì đó, nhưng không biết sao lại bỏ cả làng xóm mà đi nơi đất khách. Đi tắt qua ngôi làng đó là đến một bìa rừng. Em và thằng Việt phải chặt cành cây làm gậy chống thì mới đi tiếp được, tay thì phát lối mở đường, tay thì cầm gậy chống, cứ thế băng rừng mà đi theo hướng thằng Việt chỉ. Rừng ở chỗ này phải nói là có khí hậu rất khó chịu, lúc thì hơi nóng bốc lên hầm hập, ướt đẫm cả áo, lúc thì lại lành lạnh man mát. Nhưng công nhận là cánh rừng này lắm cây thuốc thật, cứ đi một quãng là thằng Việt lại giơ gậy trỏ vào một cây, bụi ven đường ròi nói đó là cây gì, làm thuốc nào, bọn em còn nhìn thấy cả hai củ nhân sâm cỡ trăm tuổi nữa, hai thằng đang định nhổ lên thì thằng Việt xua tay kêu thôi, bảo là chỗ này là của nhà khác đánh dấu từ lâu rồi. Đi trong khu rừng này được cái khá là thoải mái vì không có rắn rết, đỉa bất ngờ bò ra hay bám vào người, nhưng ghê nhất là lúc đang đi thì gặp phải xương cốt người bị thú dữ ăn thịt hoặc chết lạc trong rừng, rồi thì cả mộ đắp tạm bằng đá tảng,... Đi mãi chừng nửa ngày thì bọn em đến một vạt rừng toàn tre là tre, xanh mướt, nhìn cứ như trong Ngọa Hổ Tàng Long ý các thím ợ! Chỗ này ngăn cách với khoảng rừng kia một quãng khá rộng, chừng 100-200m gì đó, gió lùa chỗ này mát rười rượi, phê lắm cơ. Đang tận hưởng sự sung sướng thì thằng Việt gọi giật em lại, bảo đến nhà thầy Zhio rồi. Thế là em cứ bám sau nó mà đi, nó đi vòng vòng chỗ quanh dãy tre rồi bước vào một con đường lát sỏi giữa hai hàng tre. Bây giờ em và thằng Việt mới để ý là đối diện thẳng với con đường lát sỏi là một đường mòn đi ra ngôi làng kia, thằng Việt giật mình thảng thốt:- Ở đây có đường từ bao giờ thế nhỉ?

Từ trong có tiếng nói sang sảng vọng ra:
– Đường sau núi bị sập nên phải mở đường đó, thằng Ngũ về sao không báo trước thầy một câu! À lại còn dẫn theo bạn về nữa à!

Em giật mình quay ra sau thì thấy một ông già béo tốt phương phi, mặc bộ áo phông, quần ngố, chân đi tông trông rất ngộ, mà ông này đầu hói, còn lông mày và râu thì bạc trắng, nhìn rất là khác người, chẳng biết ông ta làm thế nào mà đã đến ngay sát lưng bọn em rồi. Nhưng cái mà em kinh ngạc là sao ông ta biết thằng Việt về mà ra đón, lại còn biết cả tiếng mình nữa... Ông kia bảo em:

– Cậu này nghĩ gì ta biết hết, thấy lạ vì sao ta lại nói tiếng Việt được đúng không? Nói cho cậu biết là bà thân mẫu ta là người Việt Nam nhé, quê ngoại ta ở Quảng Ngãi, ta cũng có về đó một hai lần rồi nhưng người thân cũ li tán đâu hết cả. Thôi hai đứa theo ta vào nhà! Đi đường mệt mỏi nhiều quá!

Còn thằng Việt thì vừa nhìn thấy ông đã quỳ sụp xuống, luống cuống nói:

– Con về đây thăm sức khỏe thầy, vậy mà để thầy phải nhọc công ra đón con, con thực là đứa chẳng ra gì!

Thì ra ông lão kia chính là thầy Zhio, ông vội đỡ thằng Việt lên, xuýt xoa:
– Con biết thầy không thích mấy thứ lễ nghi cổ hủ này mà còn bày vẽ quá! Đứng lên ngay, đầu gối nam nhi là thứ cao quý, đâu thể quỳ bừa bãi được!

Ông kia vừa đỡ thằng Việt dậy thì vào ngay trong nhà, thằng Việt vội chạy theo, kéo luôn cả em. Vừa đi nó vừa nói :

– Thầy tao đấy! Hiền và vui tính cực kì, thầy sống có một mình ở đây! Thầy thấy mày có cốt cách nên quý đấy!

Em bị kéo thì cũng cứ đi theo, nhưng lòng vẫn băn khoăn không biết ông này xem cốt cách em kiểu gì mà nhanh đến thế. Đi sâu vào trong là một khoảng sân rộng lát đá phẳng, có đầy đủ hồ cá, cây cảnh,... giờ em mới nhận ra là kiểu cách nhà thằng Việt giống y hệt thế này. Ở bên trong khoảng sân là một ngôi nhà sàn cao ráo, sạch sẽ, bậc thang lên xuống có tay vịn đầy đủ, sau nhà hình như có một con suối, đứng từ đây cũng nghe được tiếng nước chảy róc rách. Thầy Zhio bê một khay trà ra chỗ bàn đá ngoài sân, bảo bọn em ngồi xuống. Thằng Việt lấy từ trong balo ra một cặp cóc bằng gốm mà bọn em làm hôm ở Bát Tràng, đem ra kính cẩn đưa cho thầy, ông thấy cặp cóc nhìn thô thô thì cười bảo :

– Cái này con và cậu bạn tự nặn đấy hả? Xem ra vừa có bạn giúp lại qua nhiều năm nên giờ tay nghề của con khá hơn rồi đấy, không còn nặn cốc gánh nước như trước nữa! – Nói rồi ông lại cười ha hả.

Bây giờ để ý kĩ thầy Zhio em mới thấy là mặt thầy nhìn rất phúc hậu, trông cứ như mặt ông phật Di Lặc. Ông này cầm cặp cóc lên ngắm nghía, mân mê một hồi lâu, rồi nhẹ nhàng đặt xuống bàn như sợ xước xát mất, giờ chắc ông ngạc nhiên lắm vì thằng đệ tử ốm yếu sắp chết ngày nào giờ đã to lớn ngần này, vậy mà nó vẫn nhớ ông, vẫn nhớ là ông thích cóc gốm. Ngồi trà nước ngoài sân một hồi, thầy Zhio hỏi hai đứa chuyện học hành, gia đình không ngớt, lại còn hỏi thằng Việt bao giờ cưới vợ để ông còn sang bế bồng đứa đồ tôn, phải nói là em rất ấn tượng với phong cách của ông này, thoải mái, vui vẻ như Chu Bá Thông. Được một lúc thì thằng Việt hỏi:

– Thầy ơi! Làng dưới ta có chuyện gì mà dân bỏ đi hết vậy, con bấm độn tính thử thì thấy ngập sắc vong, cả làng toàn tang tóc.

Thầy Zhio thở dài rồi trả lời:

– Chuyện từ cách đây nửa năm, dân làng có một nhóm lên núi đào thuốc, không ngờ tìm được một cái mộ cổ từ đời Vũ Hầu đến đây bình Mạnh Hoạch, trong mộ thấy bảo lắm vàng bạc châu báu lắm, dân đào thuốc cướp hết rồi bỏ lại cái mộ không. Đến đêm hôm sau thì trong làng bắt đầu có chuyện. Một trong mấy người đào thuốc hôm qua tự nhiên nửa đêm vùng dậy đốt nhà, thiêu chết cả vợ con, xong thổ huyết chết luôn. Sau hôm đó lại có thêm hai người nữa cũng chết như vậy, dân làng khiêng xác của vợ con hai nhà ra thì đều thấy có một vết chém vào thái dương và vai, đùi. Họ liền lên đây gọi ta, lúc ta trên đường đi xuống thì lại có thêm người nữa chết, nhưng mà chưa kịp đốt nhà thì bị dân làng cướp đuốc ra nên thổ huyết chết luôn. Ta đến đo truy thì biết là cái hồn bị đào xới kia nó oán dân làng nên quyết tâm trả thù. Từ bận đó, ta đã cố sức truy bắt cả chục lần mà nó đều chạy được, mà thân ta thì cô, không tìm được thầy nào đủ để giúp sức, ta có gọi cho anh Cả và anh Ba của con đến nhưng hai thằng hợp với ta cũng vô ích, lại càng vướng tay chân.

Thằng Việt nghe xong thì nói:
– Con tuy chưa tài ba gì nhưng xin cố sức giúp thầy, chứ không để cho nó lộng hành thế này được.

Thầy Zhio nghe xong thì vuốt râu cười khà khà, sảng khoái nói:
– Trong đám đồ đệ của ta có con là xuất chúng nhất, giờ con lại học thêm nhiều loại bùa phép, tài con giờ hơn cả ta rồi còn gì nữa, có con giúp thì ta lo cái gì mà không trị được, nhân đây thầy trò ta cũng mở luôn một trận quét lá, trừ sạch cái giống ma quỷ quanh đây cho dân yên ổn sống. Mà bây giờ thì mình vào nhà ăn cơm đã, có thực mới vực được đạo, có gì thì mai tính sau! À mà hôm nay ta có nấu món cá xào đậu hũ chua cay, đảm bảo hai đứa ăn xong thì không còn lời nào để nói.

Nói rồi ông vồn vã kêu hai đứa vào nhà, tay còn định xách hộ balo cho bọn em để đi nhanh hơn nữa. Em thấy ông Zhio này tính phóng khoáng, thoải mái thế thì thích lắm, đúng là đời có lắm chuyện bất ngờ thật. Bước chân vào trong ngôi nhà sàn, một cảm giác mát lạnh lan tỏa khắp người, nhìn trong nhà thấy có đầy đủ bàn ghế mây tre đan, TV, tủ lạnh, quạt, đầu DVD, dàn loa... lại còn có cả máy tính nữa chứ. Ông thầy Zhio phải nói còn hơn cả Lão Ngoan Đồng nhiều, cơ mà không biết ông lấy điện ở đâu, nhìn khắp xung quanh ngút tầm mắt chẳng thấy cây cột điện nào cả. Em mới hỏi thằng Việt:

– Thầy mày có phép làm ra cả điện hả Viêt?

Bỗng nhiên sau lưng em lại có tiếng nói:
– Phép làm ra điện thất truyền lâu rồi, thầy dùng 8 cái tuabin lắp ở con suối sau nhà, quanh năm suốt tháng đầy nước, điện dùng thoải mái mà chẳng tốn lấy một xu.

Em giật mình quay ra sau thì lại là thầy Zhio, tay ông đang bê một đía lớn toàn cá xào đậu hũ chua cay, nhìn em sợ xanh mặt thì ông cười váng cả lên, hai má rung rung trông rất ngộ. Thấy vậy em và thằng Việt cũng không nhịn được cười, ông Zhio đặt đĩa cá xuống, vẫn cứ cười mãi. Thằng Việt vừa cười lạc cả giọng, vừa bảo em:

– Mày...mày...nên quen với.....trò này của thầy... tao sợ lắm...không dám nghịch đâu...!

Cả ba lại cười như nắc nẻ, ông Zhio đang định đứng lên vào nhà trong bê hết thức ăn ra thì hai thằng vội đứng dậy, kêu ông ngồi xuống. Em và thằng Việt vào trong, bê ra một nồi cơm to, hai đĩa rau xào và một chén nước tương, một đĩa thịt áp chảo. Hình như thầy Zhio nhận ra bọn em sẽ đến từ sớm nên đã chuẩn bị chu toàn tất cả. Cả ba ngồi vào ăn cơm, công nhận là đồ ăn thầy Zhio nấu cực ngon, hơn cả nhà hàng tại Côn Minh, em ăn liền hai bát, trong bữa cơm hai thầy trò nó còn chọc nhau làm em cười tý sặc, chưa bào giờ em ăn cơm ở nhà lạ mà lại thấy vui vẻ, ngon miệng như hôm nay. Ăn xong thì hai thằng đem bát đũa ra con suối sau nhà rửa. Rửa xong vừa vào nhà thì thấy thầy Zhio đã bật loa dàn, mở đầu Karaoke và đặt sẵn két bia với đồ nhắm trên bàn, em trố mắt nhìn còn thằng Việt thì chỉ có vẻ hơi bất ngờ. Thầy Zhio cười ha hả:

– Tối nay ta vui chơi thỏa thích, uống cho thỏa thích! Việc bắt ma bắt quỷ thì để ngày mai. Cuộc sống là phải biết tận hưởng từng giây từng phút. Hà hà hà!

Em càng ngày càng bất ngờ về ông thầy Zhio này, phải nói về khoản vui chơi thì ông quá hợp tính em, và em bắt đầu nghi ngờ ông này bị nhiễm N20 quá nhiều. Sau đó, ba người vừa uống bia vừa hát, có mấy bài trong quốc em hát được thì đứng lên ca một bài, hai người vỗ tay ầm ầm, rồi thằng Việt cũng hát ba bốn bài, riêng thầy Zhio là hát hăng nhất, liền một liên khúc 5 bài không nghỉ. Em nghe xong lại càng kinh ngạc vì sức khỏe ông này quá tốt khi ở cái tuổi 65 đó, mình thanh niên mà còn chẳng bì lại. Hát hò, cười nói suốt cả đêm, sau đó lại còn dùng máy thầy Zhio vào Youtube xem Happy tree friends, Stick guy, Châu Tinh Trì,... cười đau cả bụng. Chắc mấy thím sẽ thắc mắc là tại sao thầy Zhio biết dung máy tính và có cả mạng thì em xin trả lời là em cũng chịu, chỉ biết là mạng không dây, nhưng mà sóng hơi yếu, chỉ được 3000kbs là kịch. Chơi bời đến tận 12h khuya mới đi ngủ, em và thằng Việt, thầy Zhio kê một tấm nệm trải ra phòng khách nằm như kiểu Nhật ý. Tuy hôm nay thầy Zhio rất vui vẻ, hiếu khách nhưng do lạ nhà nên em vẫn trằn trọc không ngủ được, tầm 2-3h sáng thì tự nhiên bốn phía xung quanh có tiếng trống nổi lên rần rần, sau đó thì có tiếng gào thét, khóc lóc, rồi một lúc sau lại có tiếng the the nói tiếng Trung, nghe như đứng từ ngoài cổng gọi vọng vào nhà thầy Zhio, rồi tiếng gọi ngày một trầm, sau thì cứ gầm ghè, khàn khàn gọi ráo riết. Nhưng mà hôm nay vừa có thằng Việt lại có cả thầy nó ở đây nên em yên tâm lắm, chẳng thấy sợ hãi gì cả. Hình như biết em còn thức nên thầy Zhio quay sang cười cười nói nhỏ:

– Kệ chúng nó! Cứ ngủ đi đã. Cho bọn nó thoải mái đêm cuối cùng rồi mai bắt lại hết. Cậu H không phải sợ cái gì cả, có thách chúng nó cũng chẳng dám bén mảng qua cánh cổng nhà tôi. Đây thầy làm cho cậu xem cái này vui lắm, nhìn kĩ tay tôi này.

Nói đoạn thầy ngồi dậy, lấy từ trong cái hộp dưới gậm bàn ra một cái que gì bằng ngón tay cái, đốt lên thấy tàn lửa xanh lè như ma trơi. Xong thầy cầm cái que mồi đưa lên sát miệng, thổi phù một cái ra phía ngoài sân. Ngay lập tức cả khoảng sân quanh nhà sáng rực lên ánh sáng xanh, rồi tiếng lùng bùng, lẻng xẻng như ai khua nồi niêu, chiêng cồng vang lên khắp bốn phía. Em nhìn rõ ra ngoài sân thấy một cái bóng đen sì lùn tịt rú lên rồi chạy, càng chạy ra xa thì nó lại càng cao dần cao dần lên, lúc đến giữa hàng tre thì nó nhảy phóc một cái đu lên ngọn rồi biến mất. Ánh sáng xanh chỉ cháy sáng chừng mười mấy giây rồi từ từ tối dần và tắt, từ đó đến sáng tuyệt nhiên im như tờ, không có động tĩnh gì nữa.

Sáng hôm sau, ba người ngủ dậy, đánh răng rửa mặt xong thì ra bàn đá uống trà rồi ăn điểm tâm sáng. Hôm nay, em sẽ theo thầy Zhio và thằng Việt vào trong núi kiếm nguyện liệu làm bùa.

Chuyện thứ hai mươi tám: Rửa sạch

Sáng sau hôm ngủ lại nhà thầy Zhio (Từ giờ em xin phép gọi là ông Z cho tiện), tỉnh dậy thì thầy đã đi đâu mất. Đến 7h thì thầy về, ba người chuẩn bị bánh gạo, pate, nước uống để vào rừng. Thằng Việt và ông Z mang theo mỗi người một cái túi vải, trong chứa lắm thứ linh tinh như đèn nến, hương xanh, liềm bằng đồng, dây gì màu đỏ đỏ,... mỗi người đeo một cái gùi sau lưng nữa. Ba người bọn em đi sâu mãi vào trong rừng, thỉnh thoảng hai người lại cúi xuống dung liềm cắt mấy cây lá xanh đỏ tím vàng nào đó bỏ vào gùi, đi tiếp nữa thì đến một cái hang, ông Z soi đèn đi vào trước, đánh tiếng vào trong nói câu gì đó ý như là xin phép, hai thằng bọn em vào sau. Ông Z đốt cây nhang xanh bằng một lá bùa rồi cắm cây nhang lên nền hang. Ông quay sang bảo em và thằng Việt là nếu thấy đá gì màu đỏ, màu vàng nhìn trong trong thì nhặt bỏ vào gùi thật nhanh, thời gian chỉ có nén hương đó thôi. Thế là hai thằng vào nhặt lấy nhặt để các thứ đá, vừa nghe tiếng thầy kêu là dừng ngay tay lại, chạy một mạch ra cửa hang.

Về đến sân nhà, thầy Z bảo bọn em đập chỗ đá kia vụn ra rồi cho vào cái cối đá đằng kia mà xay cho mịn, nhưng phải đập, xay từng loại, khoogn được để lẫn. Xong thì thằng Việt vào kho lấy hai cây búa tạ ra, hai thằng cùng giương cao búa và đập mạnh, mấy cục đá vỡ vụn quá dễ dàng, chẳng hiểu đá loại nào mà đập cứ như đập vào đá lạnh, hơi dùng sức đã nát hết, qua công đoạn đập vụn là đến công đoạn xay, hai thằng lần lượt bỏ từng xúc đá vào trong cối rồi lặc lè kéo. Dân thành phố chẳng phải động tay động chân gì nên mới xay được gần chục mẻ hai thằng đã thở phì phò, may mà có tập võ chứ không đứng tim ngỏm luôn rồi. Trong lúc bọn em xay thì ông Z lấy mấy cây lá kia ra, giã lấy nước, còn bã thì thầy se lại rồi bện thành những sợi dây mảnh như sợi dây dù. Hai thằng xay thêm hơn hai tiếng nữa thì xong chỗ đá, đem chỗ đá ra cho thầy Zhio thì thầy bảo lấy can đựng máu chó đen và gà trống thầy mua lúc sáng ra. Thằng Việt vào xách hai can đỏ lòm ra ngoài sân, thầy Zhio rót máu chó đen ra từng bát rồi mỗi bát lại hòa một thứ nước lá vào, sau đó thì bát nào cũng cho bột đá, lại đem chỗ dây kia ra tẩm nước đó vào rồi phơi khô. Đến trưa, ăn cơm xong, hai người lấy máu chó tiết gà đã hòa ra dùng, thằng Việt bảo em canh giờ cho hai người, hết một phút thì lắc quả chuông con con lên. Thầy Zhio và thằng Việt trải từng tờ giấy vàng, giấy xanh, tía ra hai bàn rồi cả hai hít một hơi, sau đó bắt đầu vẽ bùa. Cứ em lắc chuông một cái là bùa vẽ xong, hai người ngồi vẽ khá là lâu, em nhớ là đã lắc chuông đến cả trăm lần mới xong, lúc này trên mặt bàn hai người ngồi xếp mấy xấp bùa đủ màu đủ hình. Tầm 4h chiều ra sân thì dây kia đã khô, màu đỏ thâm xì lại, thầy Zhio cuộn nó vào thành một cuộn như dây diều. Sau đó thì tất cả nghỉ ngơi ăn cơm từ sớm, đến tầm 7h tối là hai thầy trò thằng Việt đã mỗi người mặc một bộ áo phép rồi, lần này thằng Việt không mặc áo cánh hạc như mọi khi mà mặc một áo choàng nhiều màu, hai bên vai có kết lông chim, đuôi áo treo nhạc, áo của thằng Việt thì sau lững thêu một con rắn trắng đang cuốn quanh một cây trượng, áo của thầy nó thì thêu một vòng tròn màu tím theo kiểu mặt trời. Đến đúng 8h thì hai người lập đàn xong, thầy Zhio đứng lên đàn còn em và thằng Việt đứng ngoài chạy đàn. Đầu tiên vốc mấy hạt muối rồi đặt trên ngón tay, đưa vào ngọn nến đang cháy, cả bàn tay thầy cháy bùng lên như lúc đốt cồn, thầy khum tay lại đưa lên ngang miệng rồi thổi phù một cái, làn hơi lửa cháy bùng phụt ra từ tay, cháy ngay vào hình nhân đặt trên bàn.Sau đó thầy cầm thanh kiếm vung lên lại vung xuống, người đi đi lại lại như múa kiếm, miệng ca một bài gì đó toàn tiếng dân tộc, lúc này thằng Việt đã cầm một lá cờ to, thêu đủ hình rắn rết, chạy xung quanh đàn vừa chạy vừa phất cờ, vừa gọi to bằng thứ tiếng như thầy Zhio. Một lúc thì bụi tre lay mạnh kẽo ca kẽo cét, mà trời thì lặng ngắt không có gió, sau rồi cây cối quanh nhà cứ ngày càng lắc lư ghê hơn, trời tạnh gió mà từ nhiên em rùng mình liên tục, lạnh toát từ đầu đến chân. Đứng xem cố được chừng hai mươi phút thì thằng Việt rơi ra ngoài, đưa cho em một đọt lá non gì đó rồi bảo em cài vào sau tai, dúi cho em cái cuộn dây kia, nói:

– Mày đi quanh sân, cầm cuộn dây này cuốn cào 4 cái cọc ở bốn góc rồi chằng dây hết kín đất như cái lần ở Cam ý, nhưng nhớ là đừng có làm rơi cái lá non sau tai.

Em nghe xong thì nhẹ nhàng đi vòng qua cổng trước, dò dẫm chăng dần dây quanh nhà, lúc đi qua cái suối ở vườn sau thì tý nữa em đứng tim, phần vì suýt trượt chân xuống, phần vì khi nhìn qua vũng nước lặng, em nhận ra là ngoài em ra thì quanh chỗ này có một đống "người" nữa, vì vũng nước không lớn cho lắm nên em không nhìn toàn cảnh được, chỉ nhìn thấy năm sáu cái bóng đang đứng, trên nóc nhà còn có một cái bóng đầu đứt lả sang một bên đang ngồi bó gối, tất cả đều nhìn chăm chăm vào chỗ đàn tế. Đi đến cột cuối cùng thì dây cũng vừa hết, giờ em mới để ý là ngoài chỗ dây mới làm hôm nay ra thì phần lớn dây đã làm từ lâu lắm rồi, thảo nào mà chỗ đất rộng như thế lại chăng hết được.

Vào trong sân lại, lúc này thằng Việt đã thôi chạy mà đứng chống cờ một góc. Ở trên đàn,thầy Zhio vốc một nắm cát, rắc đều ra xung quanh, sau đó thì cầm một cái gương bát quái, soi lên ánh trắng rồi rút cái đáy gương ra, giơ qua một cây cung gỗ. Rồi thầy lấy hai cái nhìn như nắp xèng gì đấy, đập beng beng loạn lên, sau úp cả hai lên bàn. Xong thầy cầm cây cung rồi bước ra ngoài. Thầy vừa bước ra ngoài thì cả mâm cỗ ngon lành trên bàn tự nhiên nguội ngắt rồi nhão nhoét ra như bị phân hủy, mùi vừa thối, vừa lợm mửa. Xong thì thầy cầm cây cung lên, bảo em vào trong nhà ngồi cạnh cái ban thờ nhà thầy, nghe thấy gì cũng đừng có chạy ra hay thưa lại, kể cả nghe thấy tiếng thầy kêu cứu hay thằng Việt kêu cứu cũng cứ ở yên đấy, không trả lời, không ngó nghiêng gì hết. Vừa nghe xong em đã thấy sợ sợ, vội chạy vào nhà, nhưng vẫn cứ thấy lo ngay ngáy cho hai người. Đang ngồi trong nhà được chừng hai, ba phút gì đó thì em nghe ngoài sân có tiếng vút vút liên tục như tiếng ai ném cái gì đó cực nhanh, rồi một lúc sau tiếng thằng Việt vang lên, đọc liền mạch một tràng toàn niệm chú, xen lẫn trong đó là có tiếng gào khóc bốn phía, rồi cả tiếng lạy lục van vỉ. Em đang kinh hãi không biết có chuyện gì thì tự nhiên có tiếng đập cửa, rồi tiếng một phụ nữ nói vọng vào, em mặc kệ vẫn lặng im. Một lúc sau thì có tiếng thầy Zhio gọi cửa, kêu em lấy cho thầy cốc nước, nhưng nghe cái giọng này thì thấy nó như vọng từ đâu về vậy, sau đó thì có tiếng hoảng hốt của thằng Việt, đập cửa rầm rầm gọi em ra mở cửa cho nó vào, em nghe thì biết ngay không phải là thằng Việt vì giọng này nghe cực giống giọng nó, nhưng mà thằng Việt tính vốn bình tĩnh, gặp chuyện cũng không bao giờ cuống, giọng nó lúc nào nghe cũng rất êm và đều đều, tuyệt nhiên không có chuyện hoảng hốt thế này.Sau đó lại là tiếng thằng Việt xin mở cửa, rồi có tiếng nó nói là em hãy nghĩ tình anh em sống chết có nhau mà mở cửa cứu lấy nó, em nghe thì mủi lòng, đứng lên định chạy ra mở cửa, em cứ đứng tần ngần mãi trước cái cửa, tay đã đặt sẵn lên tay gióng mà không vẫn suy nghĩ mãi, cuối cùng thì em quyết định là mở cửa cứu nó, có thế nào thì anh em cùng chịu. Bất chợt em nghe có tiếng đọc chú của thằng Việt, nhưng lạ là giữa tiếng đọc chú vẫn là tiếng nó vang lên không ngớt giục em mở cửa, em mới giật mình rụt tay lạy chạy vào chỗ cạnh ban thờ ngồi tiếp, bịt chặt tai lại không nghe gì.

Một lúc sau thì tất cả im ắng, bất chợt cái cửa đẩy két một cái làm em sợ điếng người, định thần nhìn lại thì hóa ra thằng Việt mở cửa cho thầy Zhio đi vào, lúc đó thì em mới bình tĩnh lại. Nhìn hai người lúc này trông mệt nhọc quá chừng, thầy Zhio thì thở không ra hơi, ho sù sụ, thằng Việt phải vuốt lưng cho ông liên tục mới đỡ chút, nhìn sang thằng Việt thì nó cũng chẳng khá hơn là bao, mặt mày tái nhợt, chân tay như nhũn cả ra, lông chim đính trên vai áo nó bết cả lại vì mồ hôi. Em vội chạy vào bếp phá nước đường và đem ít bánh trên bàn ra cho hai người, ăn xong thì thằng Việt hồi dần lại còn thầy Zhio xem chừng vẫn mệt lắm, thằng Việt quay sang bảo em:

– Mày vào bếp lấy chai rượu vào vàng cho thầy.

Em vội làm theo, đem chai rượu ra cho thầy Zhio, thầy cầm lấy tu như nước lã, tu xong một hơi thì thầy đưa cho thằng Việt, nó cũng chỉ nhấp ngụm rồi thôi, thầy Zhio còn cầm chai tu thêm hai ba ngụm nữa mới thôi, cạn đến gần nửa chai. Sau khi uống xong chỗ rượu được một lúc thì thầy hưng phấn hẳn lên, thằng Việt trông cũng tỉnh táo hơn lúc nãy. Nhưng hai người khỏe lại thì bắt đầu say dần, nấc loạn lên, nói lảm nhảm như phim hoạt hình, rồi thằng Việt vào cất cái áo đi xong lăn quay ra nệm ngủ, thầy Zhio thì cứ mặc luôn áo tế mà ngủ, ngáy to như sấm, em loay hoay mãi mới lôi tấm áo ra khỏi thầy Zhio được,rồi bật quạt nhè nhẹ cho mồ hôi khô đi, xong em kéo chăn đắp cho hai người. Tranh thủ lúc cả hai còn ngủ, em rọi đèn ra sân xem, ngoài sân là một cảnh tượng cực bề bộn, tro giấy bùa bay lả tả khắp sân, đàn tế thì đổ lật ra, rồi mũi tên cắm đầy trên mặt tường nhà sàn, vung vãi cả sân, mấy chiếc ghế đá trụ cạnh bàn đá thì lăn đổ hết cả, cây cảnh trong vườn xơ xác như vừa có bão. Không biết hai người bày trò gì mà khiếp thế này, em đánh bạo ra bờ suối xem tiếp, ngoài bờ suối không hiểu sao mà nước gì cứ nâu sình, thối không tả được, đoạn này như bùn bám lại, dần dần thì nước suối rửa trôi sạch, em đảo mắt tìm sợi dây chăng tối qua thì thấy nó vẫn y nguyên, sờ thử vào thì thấy rát hết cả tay như bị con gì đốt.
Đang đứng tự nhiên thấy gai gai khắp người, sống lưng lạnh toát, em vội xách đèn phi thẳng vào trong nhà, ngồi cạnh hai người, nghe thầy Zhio nói lè nhè cái gì toàn tiếng Trung, rồi thằng Việt cũng thế, một lúc thì thằng Việt giọng ngai ngái gọi em liên tục, hỏi gì thì nó như điếc, vẫn cứ nói nói, đại ý như là mấy bữa nữa đi đánh con trùm cuối, trấn yểm cho nó không ngóc đầu lên được, em nghe xong thì thấy là lạ, trùm cuối thì trấn yểm cái quái gì nhỉ, thôi kệ thằng say rượu vẫn mê game, em cư ngồi thế, chẳng biết là ngủ mất lúc nào

Chuyện thứ hai mươi chín: Nhổ cỏ tận gốc

Hai thầy trò thằng Việt say bí tỉ, ngủ đến trưa hôm sau mới dậy, cả ba ngại chẳng xuống bếp, đi thẳng xuống làng ăn mì. May sao quán mì của ông Ngũ đầu làng vẫn cố bám trụ lại, nhưng chẳng có ma nào ngồi ăn, vừa thấy ba ông khách sộp đến là ông ta vồn vã ra chào mời, hỏi đủ thứ chuyện. Đang ngồi ăn thì tự nhiên lão Ngũ hỏi thầy Zhio câu gì đó, cả thằng Việt và thầy nghe xong đều đứng bật dậy, hỏi lại một lô toàn tiếng Trung, em nghe cứ ù ù cạc cạc. Hai người ăn vội bát mì, chờ em ăn xong rồi thầy Zhio tức tốc chạy lên nhà, thằng Việt cũng kéo em chạy theo. Về đến nhà, thầy Zhio vội vào lấy ngay túi đồ ra, thằng Việt thì vào kho khuân ra một bao đầy kiếm. Chuẩn bị xong tất cả, thầy Zhio bảo hai đứa lên đường ngay, trên đường đi, thằng Việt kể :

– Hôm qua tao và thầy dụ hết ma quái vào đây rồi dùng phép yểm sạch, bảo mày chăng cái dây là để cản bọn nó thoát mất đấy. Yểm gần hệt thì tao mệt mệt nên chống kiếm ngồi nghỉ, không ngờ bị một con đẩy ngã sấp mặt, tao mới bò dậy đuổi theo yểm nó lại, không ngờ lúc tao vung kiếm lên chém nó thì trượt mất, làm đứt sợi dây nên nó thoát được. Thầy tính là hai hôm nữa dò lên tận ổ nó yểm chặt lại, không ngờ đêm qua nó trốn xuống làng, dẫn mất hai anh thanh niên vào rừng mất tiệt.

Em nghe xong thì dựng cả tóc gáy, chỉ sợ bây giờ bất ngờ nó nhảy xổ vào em thì chắc chết mất, hai ông kia thì chẳng biết tỉnh hẳn chưa hay vẫn mơ mơ màng màng. Đường đi thấy bảo khá dài, em vừa đi vừa nói chuyện với hai người, nhưng em không hiểu sao đi mãi mà vẫn không hết chỗ rừng mới. Nhớ lại cái hồi em và thằng D thằng N bị ma dí chạy vòng mà khiếp, sinh nghi nên em khẽ tháo cái móc điện thoại ra, giả như làm rơi ở vệ đường rồi đi tiếp. Đi thêm lúc nữa thì hoảng hốt nhận ra lại cái móc điện thoại em vừa vứt xuống, em gọi to hai người dừng lại, chỉ cho xem. Hai người kia nghe xong thì ngạc nhiên lắm vì nếu bị ma dẫn thì họ phải biết ngay chứ, chợt thầy Zhio a lên một tiếng, rút trong túi áo ra một vật rất lạ, nó là một miếng gỗ hình bát giác, trên các cạnh khắc toàn bát quẻ, trong là các vòng khắc toàn tượng hình, chữ viết loằng ngoằng như giun dế, ở trên miếng gỗ cắm một cây kim kiểu la bàn, mặt cây kim ở gốc có một vết lõm xuống. Thầy Zhio chích một giọt máu từ tay, nhỏ vào vết lõm , trỏ tay lên trời rồi đưa vật đó ngang mày, mồm lẩm nhầm chú pháp. Vừa dứt lời thì cây kim quay vù vù như chong chóng, sau nó dừng lại chỉ thằng về một hướng, thầy quay ngươi ra góc khác cây kim lại xoay nguyên chỉ về hướng cũ. Thằng Việt trông thấy liền móc trong bọn ra một hạt gỗ to bằng ngón chân cái, xâu ba sợi chỉ tía qua cái lỗ rồi thắt lại, ném về hướng cây kim chỉ. Hạt gỗ vừa ném đi thì trong góc đó có một tiếng gào thất thanh, em nhìn theo thì trông rõ là một người mặc chiến bào đang chạy tuột vào sâu trong rừng, nhưng xem phục sức thì không vẻ gì là tướng soái mà chỉ vào hàng lính lệ là cùng. Sau khi đuổi được vong binh kia đi thì ba người bọn em lại đi tiếp, đang đi thì cả hai đứng sững lại khi thấy đằng xa là một anh đang cố đưa con dao rừng lên cứa cổ còn một anh thì cố giằng tay anh này ra, thầy Zhio vội chạy tới, nhặt cục đá ném mạnh vào cổ tay anh kia, rách cả thịt mà tay anh ta vẫn cứ cứng đơ, mắt trợn trừng nhìn liến láo xung quanh, mồm sùi ra cả bọt cả máu. Ba bọn em lao vào gỡ mãi mới tách con dao ra được, anh ta lại chạy vụt mất, leo tót lên cây rồi nhảy xuống, bốn người xúm vào đỡ được, tý thì sụn lưng. Đang đỡ thì anh này giãy dụa kinh khủng làm cả bốn ngã văng ra, xong anh ta nhặt con dao rồi lao đến chỗ thầy Zhio chém xuống,em hoảng quá vội rút ngay cây sáo sắt chìa ra đỡ, con dao chém xuống cây sáo "Coong!" một tiếng, tay em tê rần rần. Sau khi bị chém hụt thì anh quay ra tấn công em, em cứ vừa lùi vừa đỡ đòn, cây sáo bị chém liên tục cứ rung lên làm tay em tê dại đi, em cố sức chống trả rồi vụt liên tiếp năm phát vào cổ chân cho anh quại xuống mà thôi. Nhưng chẳng hiểu sao năm nhát vụt mạnh như thế, trúng mộc nhân còn trầy cả gỗ mà chúng ống đồng anh này thì cứ như vụt vào bị bông, anh ta cứ đánh ngày một điên cuồng mà em cứ ngày một đuối dần đi, cuối cùng chỉ có vừa đỡ vừa chạy quanh mấy gốc cây tránh né. Từ nãy đến giờ thằng Việt trông thấy em bị ép thì rút sợi cửu tiết ra đánh giúp, nhưng hễ cứ quất vào người anh ta là lại tuột ra không kéo lại được, nhân lúc em chạy quanh mấy gốc cây thì thằng Việt cản ngang ra, quấn một đầu roi vào lưng anh kia, một đầu thì giữ bằng cả hai tay, oằn mình xuống ghì chặt, mồm thì rút miếng vỏ cây trong áo ra nhai xong nhổ thằng vào người anh kia. Không biết thứ vỏ cây đó là gì mà anh kia bị trúng xong thì ngất lịm luôn, thầy Zhio trói anh lại, cột mười mấy vòng dây leo quanh gốc cây, rồi bảo anh còn lại chạy về làng gọi người lên đưa anh kia về. Xử lý xong vụ kia, em vẫn còn hút chết, mặt xanh như tàu lá chuối, chân đi không nổi nữa phải ngồi phệt xuống đất, ngồi được năm phút thì em thử đứng lên mà chân cứ nhũn ra không tài nào gượng được. Thầy Zhio xem mạch cho em, bảo là do bất ngờ dùng sức quá nhiều nên giờ cơ thể như dây bị kéo quá cỡ, không thể hồi phục ngay được, thầy mới cùi người xuống bảo em leo lên lưng thầy cõng đi tiếp, em vội xua tay kêu thôi, gượng mãi đứng dậy được, thằng Việt phải dìu em đi tiếp, giờ không hiểu sao cái vết cũ chỗ đầu gối lại nhói lên, đau thấu xương. Thằng Việt cứ thế dìu em đi tập tễnh, nó bảo cố thêm tý nữa, sắp đến rồi, nhưng hình như càng đến gần nơi đó thì đầu gối em càng đau dữ dội, thở cũng khó.Để ý thấy em ngày càng suy nhược ra vậy, thằng Việt vội lấy ra một lá bùa trắng tinh, gấp vuông lại rồi kêu em ngậm vào một lúc xong nhè ra. Em làm theo thì thấy chân đỡ đau hơn hẳn, lại tự đi tiếp được.

Đi thêm chừng hai cây số đường rừng nữa thì tới nơi, đó là một bãi đất trống phẳng phiu, khá là rộng. Chỗ này không còn bị cây cối chắn, gió thổi vù vù như muốn ủi ngã người khác vậy. Thầy Zhio cầm cái "kim dò ma", từ từ đi khắp khu đất, đi loanh quanh gần nửa tiếng thì cây kim ngừng lại luôn. Thằng Việt lấy trong túi ra một bó hương, cắm chi chít quanh chỗ cây kim chỉ. Ba người bọn em đứng đó chờ hương tàn, tầm hai tiếng sau thì hương lụi hết, nhưng có đúng 7 que sắp theo một hàng thẳng, cứ từ que còn nguyên đến que sau ngắn dần, cho hết 7 que. Em phụ thằng Việt nhổ hết chỗ hương tàn đi, để lại đúng 7 cây đó. Sau thì ba người ăn cơm luôn tại bãi đất, chờ đến tối.

Đến chừng 8h tối thì trăng lên, sáng vằng vặc soi rõ như đèn đường. Thằng Việt nhổ hết 7 cây hương, rải đều tiền xu thành một đường thẳng cũ, rải thêm một lớp gạo nếp lên trên tiền xu, lại rải lớp đậu đỏ lên nữa, cuối cùng là một lớp vừng còn nguyên hạt. Rồi thầy Zhio lấy vôi bột ra trộn với một xúc muối, rải ra thành tám quẻ Kinh Dịch, bao lấy chỗ đất có hương. Làm xong xuôi tất cả, thầy Zhio đứng ra ngoài với em, để thằng Việt lo ở trong bằng bùa Bắc Tông. Bây giờ thì ngoài bùa chú Nam tông ra, thằng Việt đã vượt thầy rồi. Ở trong vòng Bát Quái, thằng Việt chờ đến lúc trăng lên đúng 10h, giơ mảnh kính vẽ Âm Dương lên, để cho ánh trăng xuyên qua mặt thủy tinh, rọi thẳng xuống lớp gạo đỗ kia. Rồi một tay nó giữ nguyên tấm kính, một tay rút một lá bùa, giơ vào ngọn nến cho cháy, vứt thằng xuống. Bất ngờ, dãy gạo cháy bùng lên, kêu lách ta lách tách như nổ hạt bưởi, chỉ trong thoáng chốc mà cả gạo, đỗ, muối cháy sạch than đen kịt lại. Thầy Zhio vứt cho thằng Việt bọc kiếm, nó rút cây kiếm thứ nhất ra, múa một bài rồi cầm ngược xuống, tay bắt quyết, mồm lầm rầm niệm chú, rồi ấn mạnh thanh kiếm xuống đất, ngập sâu đến tận đốc kiếm. Bỗng nhiên, có tiếng rít chói tai, tiếng chửi bới như vọng từ cõi nào, mắng chửi không ngớt. Thằng Việt vẫn mặc kệ, cứ tiếp tục bắt quyết, niệm chú lần lượt 6 thanh kiếm còn lại, mỗi thaanh kiếm lại múa một bài, một động tác giữ kiếm khác nhau. Cắm đến thanh kiếm thứ 7 xuống thì dưới đất có một dòng nước xanh lè, tanh ngòm phọt lên một ít. Rồi bất ngờ, cả 7 thanh kiếm đồng loạt rung lên như sắp bị bắn vọt ra ngoài. Không chút nao núng, thằng Việt rút một đoạn dây vàng ánh kim xâu dần qua 7 cái lỗ ở cuối cán kiếm, xâu liền 4 vòng dây xong buộc lại, treo lên đó cả một dây toàn bùa đủ màu. Nó cầm hai cây đèn cầy, hoa lên múa xuống, hai ngọn lửa chụm vào làm một, rồi ngậm một búng rượu, thổi phì qua ngọn lửa, một làn lửa cháy phùng lên, bắt vào dây bùa, ngay lập tức bùa cháy mạnh, có cái bùng lên nổ đụp mấy tiếng. Bùa cháy sắp xong thì gió lốc ào ào như muốn thổi tắt lửa, thằng Việt niệm chú, tay trỏ lên thái dương rồi chỉ trái chỉ phải, sau nhúng nguyên bàn tay vào bát rượu, rồi ấn mạnh xuống nền đất, gió liền lặng ngay. Nó nhấc bàn tay lên, rồi bước ra ngoài vòng Bát Quái, em nhìn vào chỗ vữa nãy thì thấy in cả dấu tay đen xì. Thằng Việt bước ra, nói:

– Trấn yểm con này xong rồi. Không ngờ nó lại là chúa của bọn vong hồn quanh đây, đến cả thổ địa, mộc yêu cũng bị nó áp chế. Giờ tao với mày đi xúc đất lấp chỗ này lại, làm một cái mộ giả cho người sau khỏi động chạm vào.

Thế là em với nó, thầy Zhio xuống làng , xuống đây rồi thì thầy Zhio thuê 5 người tàn tật câm điếc đi làm cái mộ kia, làm suốt hai ngày thì xong. Xong việc, thầy trả công họ rất hậu, lại bảo với dân làng họ góp công lớn trong việc giải yêu ma lần này, mong dân làng đừng có kì thị hắt hủi họ nữa. Dân làng đó thấy hạn đã giải thì mừng lắm, hứa lấy hứa để với thầy là từ nay chung sống hòa thuân với mấy người tàn tật đó (chẳng biết có thật không). Nhưng cũng trong chuyến này, thầy Zhio phát hiện trong đám người câm làm mộ có một cậu nhỏ khá thông minh, tư chất được nên nhận làm đệ tử, lại xét bệnh câm của cậu này là do tâm mà ra nên thầy cố chữa cho được, hi vọng sau này có thêm người thoát kiếp tàn tật bị hắt hủi. Thôi thì cũng mừng cho thầy, tuổi già có thêm đứa nhỏ bầu bạn cũng đỡ cô độc.

Hai thằng ở lại chơi với thầy thêm 4 hôm nữa thì từ biệt thầy để về Việt Nam. Trước lúc đi, thầy còn cố lưu hai đứa lại mãi, dặn đi dặn lại là sau này nhớ phải về thăm thầy nữa, không thầy già rồi thầy chết, chẳng biết đâu mà lần. Lúc em lên xe, thầy còn níu em lại, bảo:

– Thằng H thầy bảo cậu này! Cậu có mệnh Chu Long, sau này còn sẽ gặp nhiều biến cố, phải qua cái mốc ba mươi mới yên ổn được, từ đó về sau thì mọi sự hay dở đều do cậu quyết cả, nhớ tránh điều ác mà làm nhiều việc thiện tích đức, tướng Chu Long nó sẽ tự lộ ra bảo vệ cậu. Lại càng phải tránh gây sự với bọn tiểu nhân thù dai kết oán, gặp chuyện thì bình tĩnh xét đoán, không để tim che mất óc, rõ chứ!

Em gật đầu chắc nịch, lòng tự nhủ lấy mấy lời này làm tiêu chỉ cho cuộc đời làm việc của mình. Không phải vì lời đó thốt ra từ miệng của một thầy phù thủy, mà vì nó là từ một người từng trải biến cố đau thương, một người cũng mang mệnh Chu Long.

Phần 3

Chuyện thứ nhất: Tam đầu long

Cũng đã gần 10 năm kể từ ngày em ra trường, năm nay mình đã 34, vợ con đề huề, lượng lậu cũng khá, nhiều lúc em thấy mình thật quá hạnh phúc. Sáng sáng đọc báo, café, ăn sáng vợ(gấu) nấu, đưa con đi nhà trẻ, đưa vợ đến chỗ làm rồi mình mới về cty, tối lại quây quần bên nhau, những tưởng chẳng có gì sướng bằng.

Một buổi sáng nọ, đang cầm tờ báo thì điện thoại rung, nhìn vào thì mắt mình sáng rực lên, "Việt phù thủy đang gọi". Vội vàng vồ lấy cái di động, nghe rõ mồn một tiếng đều đều của thằng Việt:

– Ê thằng thầy cãi nửa mùa! Mùng 5 tháng này về quê thì xuống nhà tao nhé, tao vừa xuống sân bay đây, dịp này tao định ở lại luôn, cũng xa quê lâu quá rồi mà.Đặt tờ báo xuống, bồi hồi nhớ lại cái thời thanh niên manh động, hút chết bao lần mà vẫn thích.Quay sang kêu vợ:

– Chủ nhật này anh định về quê với đám thằng Việt, em tính thế nào xem có về cùng anh được không?

Vợ cười hiền trả lời:
– Lần này chú Việt về thì anh cứ đi một mình thoải mái đi, tính anh vốn ưa tự do vậy mà giờ suốt ngày gò bó bên cạnh em thì chịu sao được. Cũng lâu lắm rồi em không thấy anh đi đây đi đó nữa, cứ tưởng là anh H lãng khách mà mình yêu bị ai giấu mất rồi!

Mình nghe vậy thì sướng run lên, nhẹ nhàng ôm vợ nhỏ bé vào lòng, hít hà hương lan trên tóc vợ, thủ thỉ:
– Anh rất muốn em đi cùng, muốn em thấy anh dũng mãnh như thế nào khi múa tít trường côn, bật nhào qua bờ tường. Nhưng anh lại rất sợ nếu em gặp phải chuyện gì. Lần này anh đi em và ku ở nhà nhớ giữ gìn sức khỏe, lạnh là mặc ấm ngay, nóng quá thì không được ra đường, nếu bị cảm thì phải đi bác sĩ,....

Vợ cười tinh nghịch, nằm trong lòng mình, tay thắt caravat cho mình, cố nói thật dịu dàng mà vẫn lộ ra sự lo lắng trong giọng:
– Anh đi chơi phải cẩn thận, dốc quá thì đừng leo, sương xuống thì khoác áo len em đan vào, cả khăn len, mũ len đầy đủ nữa, đến chỗ ao hồ sống nước anh nhớ đi đứng cẩn thận, .... Gặp việc gì tránh được thì tránh, anh nhớ là còn em và ku sau lưng anh đấy.

Thấy vợ nói thế thì mình vui lắm, nhưng lại thấy chùn chân không muốn đi nữa. Cả ngày hôm đó đến cty chẳng làm ăn gì cả, cứ suy nghĩ ngơ ngẩn như thằng mất hồn, anh em cấp dưới hỏi sếp sao đấy thì mình cũng chỉ ừ hử cho qua. Đấu tranh tư tưởng cả ngày thì cái máu phiêu lưu trong người mình cũng thắng, thôi thì vợ ơi anh xin lỗi, sau chuyến đi này anh về cho em tha hồ shopping, ăn hàng thoải mái. Ý đã quyết, chủ nhật tuần đó mình lên đường về quê, vợ cứ ôm mình mãi, tay túm lấy vạt áo như sợ mình chạy mất, lại còn đeo gần chục cái bùa bình an cho mình nữa, không biết vợ đã đi mòn gót bao nhiêu chùa, dập lạy bao lần để xin từng này bùa cho mình.


Trên đường lái xe về quê, lúc áp tai vào vai nghe điện thoại, tự nhiên thấy trên ngực áo có vệt gì ươn ướt, hơi chúc đầu xuống nhìn thì thấy có hơi vợ, lại có mùi mặn mặn, ra là lúc nãy vợ lén khóc lúc ôm mình. Cứ để nguyên cái áo đó chẳng muốn lau, tự dưng lại thấy mắt cay cay.


Đi gần 2h đồng hồ thì về đến làng cũ, sững sờ nhìn lại cảnh vật, thấy làng mình giờ thay đổi quá, cũng đường nhựa, nhà tầng, sân chơi, hàng quán, bãi đỗ xe như một khu đô thị. Chỉ có điều là cả làng giờ chỉ toàn những ông bà già, cán bộ hưu trí về ở là chính, thanh niên đều đã lên thành phố hết cả. Đánh xe đi vòng vòng, chợt ngẩng đầu nhìn về phía núi Cô Yêu, ngọn núi vẫn sững sững đó, không thay đổi chút nào, khoảng rừng quanh núi vẫn ý nguyên, lại có phần rộng hơn hồi trước.Bồi hồi lúc lâu, đem xe gửi vào bãi rồi về nhà cũ thắp hương, qua nhà thờ tổ thắp hương tiếp, chào hỏi bà con xóm giềng một lượt. Sau đó, tôi cứ thế lững thững đi về phía nhà thằng Việt. Mải đi đến lạc cả đường, nhìn ngang dọc mãi vẫn không tài nào tìm ra cái ngõ nhà nó đâu, lại phải hỏi đường, cuối cùng thì cũng lần ra được. Bước vào, cổng nhà không khóa, cứ mở toang ra, nhìn qua một lượt thấy vẫn kiểu kiến trúc nhà năm xưa, nhưng cái nhà chính giờ đã to đẹp hơn trước nhiều, nhìn cứ y như một căn biệt thự. Đi tiếp đến sân trong thì nghe thấy trong phòng khách vọng ra tiếng cười nói sảng sảng của đàn ông, tiếng chạy nhảy ríu rít của trẻ con,... Bỗng nhiên, một đứa bé chạy tọt ra, đâm sầm vào mình, cúi xuống nhìn thì hóa ra là con thằng D với Ngọc Anh. Đứa nhóc vừa thấy đã kêu toáng lên :

– Có ông ba bị! Ông ba bị bắt con bố mẹ ơi!

Mình hoảng hốt nhìn bốn phía, chẳng thấy ông ba bị nào cả, đứa bé thì cứ vừa kêu vừa khóc, cúi xuống dỗ dành mãi nó không nín lại càng khóc to hơn. Bất ngờ, có hai người chạy ra là thằng D vàNgọc Anh. Vừa thấy bố mẹ ra, đứa bé chạy tọt ra nấp sau lưng thằng D, cầu cứu ông bố to lớn. Thằng D ôm lấy đứa bé, quay sang nhìn mình, nó đã nhận ra mình ngay, bế đứa bé sang cho vợ rồi chạy ra hồ hởi:

– Á à! Thằng thầy cãi nửa mùa, về sao không báo cho anh em một câu để bọn tao ra đón, trưa nắng chang chang thế này mà mày đi dễu khắp đường làng.

Nói đoạn, nó gọi to vào trong nhà:

– Việt ơi! Thằng H về rồi này!

Thằng D vừa dứt lời thì một cái bóng vọt ra từ trong nhà, là thằng Việt, vừa nhìn thấy nó đã ôm chầm lấy mình, ôm ghì cả thằng D vào. Ba thằng vừa ôm vừa đấm thùm thụp vào lưng nhau, thằng Việt nói giọng run run:

– Đây rồi! Thằng thầy cãi nửa mùa về đây rồi! Tao ở xứ người hơn chục năm, giờ về nước gặp ngay mày và thằng D, đúng là...đúng là.....không còn gì vui được hơn nữa.

Sau màn hội ngộ của Tam đầu long, bọn tôi đi vào nhà, vừa đi thằng Việt vừa hồ hởi:

– Chuyến này về nước tao ở luôn đây! Phiêu bạt bao năm rồi cũng phải dừng chân chứ.

Vào đến phòng khách, tất cả đã yên vị, để ý thấy đứa bé con vẫn cứ sợ sợ mình, chúi đầu vào vai mẹ. Ngọc Anh kêu nó:

– Con không nhớ bác H à? Chào bác đi chứ. Bố mẹ dạy con thế nào nào?

Đứa bé sợ sệt quay đầu lại, thấy mình ngồi đó, nó lắc đầu quầy quậy, hét vang nhà:

– Ứ phải! Ứ phải bác H.! Bác H mặc áo đẹp cơ, ông ba bị này đen sì, mắt cũng đen sì, không phải bác H. Hu Hu Hu....! Mẹ ới! Hay là bác H bị ông ba bị bắt mất rồi! Hu Hú Hú! Bố ơi! Bố cứu bác H với!

Nghe thấy thế thì thằng D, thằng Việt nhìn mình rồicười ồ cả lên, Ngọc Anh cũng không nhịn được cười. Còn đang ngơ ngác chưa hiểu chuyện gì thì thằng D vừa cười sằng sặc bảo tôi:

– Hôm nay nhìn mày mặc comple đen, đeo kính đen, đi giày cồm cộp thế thì nó sợ là phải. Trông mày như đại ca Hội Tam Hoàng ý!

Sực nhớ ra cái kiểu ăn mặc của mình hôm nay vẫn đóng bộ luật sư như ở công ty. Hồi trước mình cũng hay đến chơi nhà thằng D, nhưng mà mình đến toàn mặc áo chim cò, quần Hawai với đi dép tông, màu sắc sặc sỡ nên thằng bé mới bảo là áo đẹp. Mình vội vào nhà trong, thay quần áo bình thường, bỏ kính đen ra rồi ra ngoài phòng khách. Trông thấy ông bác "bảy màu" bước ra, đứa bé tụt xuống khỏi tay Ngọc Anh, chạy ào ra xà vào lòng mình, ríu rít bác H bác H. Nó kéo mình xuống sát mặt, thì thầm vào tai:

– Bác ơi! Lúc nãy có con ba bị đen sì! Nó giả làm bác đến để lừa ăn thịt cả nhà! Bố cháu, mẹ cháu, cậu Việt đều bị nó lừa hết. Nhưng cháu thì không bị nó lừa đâu! Cháu bảo nó là ba bị nên nó sợ chạy rồi!

Thằng bé thì thầm to quá đến mức tất cả đều nghe thấy, lại cười ầm lên, nó thấy mọi người cười thì cũng cười theo. Mình bế nó lên, bảo:

– Cháu của bác giỏi lắm nhá! Rồi bác thưởng! Bác dẫn cho đi chơi tẹt ga! Ăn uống thoải mái!

Nó nghe thế thì vỗ tay cười thích thú rồi chạy ào ra chỗ mẹ khoe. Lúc mình ngồi vào ghế, thì thằng D bảo Ngọc Anh gửi thằng bé sang bên nhà nội chút rồi về đây. Biết có chuyện quan trọng cần bàn, mình chỉnh lại tư thế, ngồi đang hoàng xuống bàn, chờ đợi câu bắt đầu từ phía hai thằng.

Chuyện thứ hai:
Nối chí tổ tông – Kì nhân xuất thế

Ngồi chờ chừng năm phút thì Ngọc Anh về, cả ba người lại cùng im lặng. Mình ngước về phía thằng Việt, chờ câu trả lời. Bất chợt cả lũ chúng nó cười phá lên, thằng Việt ngặt nghẽo:

– Thấy thế nào? Trang nghiêm không, hoành tráng không? Thôi giờ bọn tao không xỏ mày nữa, mình vừa uống vừa nói chuyện, tao có nhiều chuyện muốn kể với mày lắm!

Rồi nó kéo tay mình đi ra vườn sau, cả ba thằng ngồi xuống cái bàn đá dưới giàn hoa giấy trong vườn, trên bàn đã bày sẵn một mâm đầy đồ nhắm, rượu. Ngọc Anh xin kiếu vì không uống được, để cho ba anh thoải mái uống, nhưng trước lúc đi, còn ngoái lại nhắc thằng D đừng có quá chén, thằng D đứng nghiêm, giờ tay chào : " Tuân lệnh chị đại!" . Ngọc Anh thấy thì thì cười cười, dứ dứ nắm đấm ra dọa chồng rồi đi về. Mình quay sang, đưa mắt nhìn cậu cột đột, trông ông bố trẻ như người mất hồn, thằng Việt thì nhấm nháy với mình:

– Vợ chồng nó có kí hiệu riêng cả đấy! Anh em ta không hiểu được đâu!

Rồi nó quay sang thằng D, cười đê tiện:

– Chú em rể lo tối nay không hoàn thành nghĩa vụ chứ gì? Không sao! Không sao! Anh cắt cho một thang Minh Mạng, lại đốt cho một đạo bùa nữa, thế là đôi chim câu tha hồ tí tởn nhé! Khà Khà Khà !

Mình trầm ngâm vuốt cằm, khoát tay :

– Ý của Trịnh Công Công rất hợp với trẫm! Vậy thì ban cho D ái khanh cả kho rượu thuốc, lại gia phong lên làm Cuồng Dâm Đại Giáo Chủ, cai quản đại sự đời người!

Thằng Việt nghe mình tán đồng vậy thì vui ra mặt, chắp quyền đáp:

– Đa tạ hoàng thượng ban khen! Thần xin dốc sức giúp phu phụ nhà giáo chủ! À mà hoàng thượng goi thần là gì nhỉ! Là Trịnh...Trịnh...! – Chợt nhớ ra câu vừa nãy, nó ngớ người ra, quay sang gằm ghè.

Hai thằng thì vui vẻ bao nhiêu, còn thằng D thì mặt đỏ bấy nhiêu, cái thằng đúng thật không biết giấu diếm là cái gì, có bao nhiêu viết cả lên trán thế này. Cả đám lại trêu chọc, chửi bới nhau một hồi, ý như hồi thanh niên, mãi mới ngồi vào uống. Thằng Việt nâng ly mời hai thằng, tợp một ngụm rượu rồi xắn tay áo lên, khề khà:

– Thông báo với các chú một tin mừng là anh đã vượt lên hàng Thần Đẳng. Quả này thì anh hổ báo cực kì, ma cỏ gì anh cũng chấp tất.

Nói đoạn, nó chỉ tay vào hình xăm trên cánh tay phải, trên đó xăm hình gia huy của Trương gia, bao bên ngoài là một vờn mây, hai bên là hai dòng chữ viết theo lối bùa thảo. Hai thằng bọn mình còn ngơ ngác chưa hiểu gì thì thằng Việt đã tiếp lời:

– Chúng mày chắc cũng chỉ mới biết là trong họ tao có hàng phù thủy Thiên Đẳng, là hàng cao tay nhất. Còn từ xưa thì người thuộc hàng này không thiếu, chỉ vì đời sau thất truyền, mai một dần tài năng tổ tiên nên mới chỉ có ông Trấn và tao là đứng được vào hàng Thiên Đẳng này. Nhưng giờ tao mới rõ là ngoài trên hàng Thiên Đẳng này là hàng Thần Đẳng, người đứng vào hàng này có thể sai khiến được thành hoàng, sơn thần thổ địa, có thể nuôi được âm tướng hộ thân. Và nói để chúng mày tự hào khi có một thằng bạn như tao : Suốt năm trăm năm nay, chỉ có 8 người trong họ nhà tao đứng vào hàng Thần Đẳng.

Rồi nó lại uống liền ba bốn ly nữa, ngửa mặt cười ha hả như phim chưởng. Tôi và thằng D đưa mắt nhìn nhau, cả hai đều kinh hãi vì thằng này, đúng thật là nó có tài năng thiên bẩm cho cái nghề phù thủy. Đến như ông K mà tận lúc già mới đến được Thiên Đẳng, và chắc các phù thủy đời trước cũng phải đến hơn nửa đời người mới được vào Thần Đẳng. Đằng này, thằng Việt năm nay mới có 33. Quá vui mừng vì thành công rực rỡ của thằng bạn, hai thằng tôi mời rượu nó liên tiếp, cả bàn hể hả, cười nói oang oang. Rồi thì mấy thằng hỏi nhau chuyện gia đình vợ con giờ thế nào, công việc làm sao, hỏi đến thằng Việt thì mình và thằng D cứ giục nó lấy vợ đi, hơn 30 rồi chứ trẻ mãi à. Thằng Việt cười bảo:

– Tao đã tính hết rồi, chậm nhất là trong năm nay, tao sẽ tìm được tình yêu của đời mình. Lúc đó các chú nhớ đến uống rượu mừng cho anh nhé!

Nghe vậy thì mình và thằng D mừng ra mặt, vỗ vai khen ngợi nó tài năng kinh thế, lại càng giục nó sớm tìm người yêu. Ba thằng chuyện trò, chén chú chén anh suốt đến tối mới thôi. Thằng D say quá phải để Ngọc Anh và ông S đưa về, mình thì leo vào tầng 4 nhà thằng Việt ngủ luôn, còn thằng Việt thì chẳng biết ngủ phòng nào. Thôi mặc xác thằng lang băm, cả biệt thự hơn hai chục phòng, tự khắc nó mò được chỗ ngủ.

Sáng hôm sau ngủ dậy, thấy cô giúp việc đem cà phê với bánh quy vào phòng, mình đánh răng rửa mặt xong thì ngồi cà phê với bánh quy, lại còn có cả tờ báo nữa, chỉ thiếu mỗi vợ ngồi ôm cổ. Hôm đó, ba thằng lên xe mình đi dạo khắp phố phường, gặp đâu là xà vào đấy, ba thằng đàn ông mà ăn hàng như đàn bà con nít. Tối về nhà lại say bí tỉ, ông tướng D còn hứng chi đi một bài Lão Hổ Thượng Sơn ở trước quán bia, tý thì thì bị CA túm vì náo loạn trật tự. Sáng hôm sau, ăn sáng xong thì thằng Việt rủ về nhà nó luôn, bảo có chuyện hay cần bàn. Vào ngồi trong phòng khách, thằng Việt đem từ trong ra một cái hộp cổ đã rỉ sét, nó khẽ đẩy cái khấc dưới miệng con nghê trên hộp, ấn ba lần vào cái vành mây bên phải, lại xoay con nghê sang trái ba vòng, sang phải năm vòng, nhìn cái hộp như là sản phẩm của Hạ Tuyết Nghi vậy. Nó mở khóa xong, rồi từ từ mở hộp ra, bên trong hộp là một tấm bản đồ bằng giấy sắc, và vài lá thư đã cũ, không hiểu thư này làm bằng giấy gì, viết bằng mực gì mà trông chỉ như mới để chục năm là cùng, trong khi xem kiểu cách cái hộp cũng phải được hơn trăm năm là ít. Thằng D hỏi : "Cái gì đây?", thằng Việt đáp:

– Theo tao biết thì đây là bản đồ dẫn vào kho chứa bảo vật chính tông nhà tao. Năm xưa quân triều đình đến mà không cướp được gì là do không tìm ra được đường vào hang này. Cái bản đồ này tao bắt được lúc luyện Thần Đẳng, nghe nói trong hang có rất nhiều thứ quý giá, tao không muốn hưởng một mình nên đem ra rủ chúng mày đi cùng. Anh em mình có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu, lẽ nào tao lại ỉm đi cho được.

Tôi và thằng D ái ngại nhìn nhau, lại thêm cảm phục thằng Việt, rõ ràng đây là đồ của họ nhà nó, hiển nhiên là thuộc về nó rồi, thằng này thật.... Rồi tôi và thằng D cứ luôn miệng từ chối, xua tay kêu không được, mình vô công bất thụ lộc, của cải đã giấu thì cứ để yên trong đó, động chạm làm gì. Thằng Việt thì cứ nài hai thằng đi bằng được, kêu là trong đó chỉ người có duyên mới vào được, bất kể là trong họ hay ngoài họ. Hơn nữa giờ cũng có lắm kẻ nhòm ngó kho báu này, của ta ta bỏ cho nó sao. Nằn nì hồi lâu, hai thằng cũng xuôi, thằng Việt bảo:

– Rằm tháng Giêng năm sau là đúng vào chu kì Quần Long Vô Chủ, trăng thẳng Thủy tinh, là lúc tao phát huy pháp lực mạnh nhất trong đời. Chọn dịp này đi thì thực là cẩn thận, không còn lo gì. Nhưng từ giờ đến lúc đó, có rất nhiều việc phải chuẩn bị, lo liệu. Chúng mày đi với tao chứ?

Hai thằng cùng đồng thanh:

– Thoải mái đê ku! Cứ có cái chơi là đi tất. Tam đầu long mà để mất một cái đầu thì còn ra gì.

Ba thằng lại cùng cười thống khoái, sau đó dẫn nhau đi nhậu nhẹt, bù khú,... Chơi cho đã trước khi vào việc chính. Còn tôi, trong lòng tôi cứ khấp khởi, hồi hộp, không biết chuyến này mình sẽ đến đâu.

Đêm thứ tư ở quê, cả hội đang ngồi uống trả ở bàn đá vườn sau thì tự nhiên thấy trong núi có tiếng trống rần rần nổi lên, cả ba kéo ra đường xem thì thấy dân làng cũng đổ ra nhìn về hướng núi, ai nấy đều ngơ ngác không biết chuyện gì xảy ra. Nhưng chỉ có các cụ cao tuổi, các bác trung niên là lo lắng ra mặt, cái tiếng động này, cái tiếng động từng khởi đầu bao sóng gió cho cái làng quê nghèo năm xưa, giờ nó lại bắt đầu.:

Chuyện thứ tư: Nghĩa anh em

Sáng hôm sau, ba thằng đi xem quanh vườn hồi lâu, tôi và thằng D thấy vườn vẫn thế chẳng có gì khác biệt, tuy nhiên, lúc đên góc vườn, thằng Việt bỗng tái mặt, nhìn chăm chăm vào một tảng núi giả, rồi nó quay sang bảo hai thằng:

– Chúng mày cùng tao hè vào, đẩy tảng đá dịch sang trái hai bước.

Hai thằng thấy lạ, nhưng từ trước đến giờ, thằng này làm gì cũng suy tính cẩn thận, nên cứ thế mà làm theo, xê tảng đá về chỗ cũ xong, thằng Việt rút ra một la bùa vàng tươi, cắn ngón tay lấy máu điểm chỉ vào đó, rồi dán lên hòn núi giả. Sau đó, nó đem túi đồ nghề ra, cầm cây kiếm gỗ trỏ vào hòn non bộ, lẩm nhẩm đọc cái gì đó, nó vừa đọc xong thì cầm kiếm chỉ ngang chỉ dọc, xong cắm cây kiếm xuống đất, bỗng nhiên, mấy hón non bộ xung quanh rần rần dịch chuyển như có ai đẩy, rồi hòn này đổi vị trí cho hòn kia, hòn kia dịch chuyển ra góc khác. Cuối cùng, thằng Việt cầm một sợi dây mỏng tẩm tiết gà trống, chăng quanh các hòn non bộ, trên dây treo mấy chuông bạc nho nhỏ, dưới núm mỗi quả chuông có gắn một tờ bùa tía. Như thấy chưa ổn, nó lại lấy vừng hạt ra rắc đều quanh đất, xong cầm cây kiếm đào, xuyên sáu tờ bùa vàng vào rồi đốt lên, quét mũi kiếm xuống đất xong chạy vòng quanh, vừa chạy vừa đọc to ấn chú, sau cắm thêm lên đỉnh mỗi hòn non bộ một cây cờ con, mỗi lá cờ đều thêu hình một con rắn trắng đang quấn quanh viên ngọc có chữ nho, mỗi lá lại một chữ khác. Làm xong hêt, nó thở dài sườn sượt, đi vào nhà, tôi gặng hỏi có chuyện gì thì nó trả lời:

– Hồi trước xây lại nhà, từng hòn non bộ, từng gốc cây ngọn cỏ tao đều tự sắp xếp theo thế trận Kim Cang, lại lấy máu chó đen yểm vào để phòng trừ ma quỷ. Vậy mà giờ có đứa phá được trận của tao, lại còn cầm đầu bọn ác vong vào tận đây chực giết thằng D. Tao đoán tất cả đều là con âm tướng kia chỉ đạo cả, chứ bọn âm binh, oán linh ô hợp không thể nào làm được chuyện này.

Thằng D nghe xong mặt quạu lại, hỏi:
– Tao có làm gì mà nó đòi giết tao?

Tôi chen vào:
– Hồi trước tao cũng có gây tội vạ gì đâu! Thế mà suýt thành hình nhân thế mạng.

Thằng Việt bảo:
– Lần này nó kiếm thằng D vì thằng D có dương khí mạnh, lại giỏi võ, vía hợp với nó. Nó muốn dẫn thằng D đi để làm thế thân. Đem thằng D ra làm lá chắn, nếu nó có bị tao trấn yểm thì bùa yểm sẽ đánh cả vào thằng này, còn nó thì thoát.

Tôi ngớ người ra, hỏi:
– Tao tưởng dương khí mạnh, lại võ nghệ đầy mình như anh cốt đột nhà ta thì người còn sợ nữa là ma.

Thằng Việt đáp:
– Đấy chỉ là với ma vặt vãnh thôi! Còn bọn này là âm binh, oán linh lâu năm, âm khi tích tụ nhiều nên át cả khí dương của người, lại có thủ lĩnh là con âm tướng huấn luyện cho thành tinh nhuệ, giờ một trăm âm binh này thừa sức đánh bại cả vạn âm binh ô hợp từ nơi khác. Nhưng cái tao lo giờ là bọn này sẽ làm gì làng mình!

Nghe xong, tôi và thằng D đều tái cả mặt, cả ba đều chung môt suy nghĩ rằng cái làng này có còn yên bao lâu nữa?

——————————————————————————————-

Ở làng được chừng một tuần, tôi lại ra Hà Nội lo công việc, sắp xếp xong xuôi mọi thứ, tôi lại về quê. Lần này vợ đòi đi theo, cho cả ku theo cho nó biết quê, tôi ngần ngừ hồi lâu, kêu em ở lại đây đi, anh về đợt này lâu hơn nhiều, em với con không quen đất, lạ nước lạ cái thì sinh bệnh ra. Tôi biết lần nay đi lành ít dữ nhiều, không thể kéo cả vợ con vào được, nhưng ở lại thì mình không cam, anh em có cái nghĩa sống chết có nhau, lần này quê nhà có hạn, lẽ nào mình lại bỏ mặc để cầu an lành cho bản thân. Ý đã quyết, đầu tháng sau, thông qua thằng Việt, tôi kiếm được một giấy khám bệnh giả, yêu cầu bệnh nhân về vùng nông thôn có không khí trong lành để tĩnh dưỡng, tôi xin nghỉ phép đợt này, ông giám đốc chơi cũng khá thân với bác tôi nên đồng ý để tôi nghỉ tạm 6 tháng, sức khỏe bình phục là phải trở về cty ngay vì nhóm nhân viên mới cần có người có kinh nghiêm hướng dẫn. Tháng 4 năm đó, tôi về quê, lần này về mà lòng nặng trĩu.

Ngày đầu tiên đặt chân đến làng, đập ngay vào mắt tôi là một cảnh tương kinh hoàng. Cả cổng làng treo một vòng hoa trắng, đi trên đường làng qua mấy nhà đều thấy treo cờ đám ma, dán cáo phó đầy đường. Lúc đánh xe qua đường tắt đi qua nghĩa trang, lại thấy khắp nghĩa trang là vòng hoa, mùi hương nhang nghi ngút, đặc nồng trong không khí. Đang lái xe thì tự nhiên thấy có cuộc gọi từ thằng Việt, tôi vội nghe máy , lái xe bằng một tay, trong điện thoại, tiếng thằng Việt gấp gáp:

– H ơi nghe kĩ tao nói này! Mày ở nguyên Hà Nội đấy! Cấm có được về! Tao nói lại là cấm có được về.

Tôi vội hỏi :

– Sao lại không được về! Bạn bè ở quê đang lo sốt vó, tao làm sao mà yên lòng ở ngoài đó được!?

Thằng Việt im lặng một lúc, rồi nó gào to lên lạc cả giọng:

– ĐM mày cút ngay, tao đ' bạn bè gì với mày! Cút! Cút nhanh cho tao!

Nghe nó nặng lời như thế tôi cũng thấy lạ, chợt nhận ra giọng nó khác hẳn bình thường, nó không giống cái giọng lúc thằng Việt tức giận cái gì, nghe nó sao mà nghèn nghẹn, tức tưởi, ý như bị ép buộc. Tôi trả lời:

– Mày đừng có nói gì! Nghĩa anh em không thể bỏ, có vâc gậy đuổi tao cũng không đi! Tao sắp về đến nhà mày rồi.
Một lúc sau, lại có số thằng D gọi đến, lần này cũng tương tự như vậy, thằng D lại hét vào điện thoại:

– Thằng chó! Mày cút về đi! Tao không cần mày đến! Thắng khốn về lại Hà Nội của mày đi!

Thằng này còn tệ hơn nữa, nghe giọng cửi bới gì mà khản đặc như khóc. Rồi bất ngờ có tiếng Ngọc Anh hét trong máy:

– Anh đi đi! Chúng tôi không cần anh! Anh đi mau đi! Về lại nhà đi! Chị ý đang chờ anh đấy, đừng có về đây làm gì nữa.

Lần này nghe lọt vào trong điện thoại cả tiếng khóc rấm rứt, tôi bình thản đáp:

– Ngọc Anh không phải mất công! Thằng Việt nó cũng vừa gọi cho anh rồi! Nhưng anh vẫn sẽ về làng, chừng 5 phút nữa là đến nơi!

Rồi tôi tắt máy luôn, biết chắc là mấy người này có điều dấu diếm gì nên ngăn không cho mình về. Tôi nhấn ga, cố đi nhanh hơn, bỗng nhiên, trước mặt có một nhóm người rất đông, áo xanh áo đỏ nhốn nháo chạy trước xe, mình bấm còi liên tục mà không chịu tránh, đành phải vòng đường khác đi. Đang đi, lại thấy một nhóm giống vậy đi trước, lại phải đánh tay lái vòng đường khác, đang đi trên chỗ ngã rẽ thì mấy người phía trước cứ mất dần mất dần, rồi đột nhiên, một chiếc xe tải phóng ngược chiều về phía xe tôi, hoảng quá tôi liền đánh mạnh tay lái lạng sang phải, hi vọng tránh được vào bờ cây bên đường. Nhưng lúc đánh tay lái, tôi kinh hãi nhận ra, bên phải chẳng có bờ cây nào như lúc nãy mình nhìn, phía bên phải là một cái lạch nước. Xe tôi nghiêng hẳn đi, lộn một vòng sang bờ bên kia, dây an toàn đang thắt tốt tự nhiên bật ra, đầu tôi va mạnh vào vô lăng, sau đó thì tôi ngất lịm đi không biết gì nữa, thứ cuối cùng tôi nhớ là có tiếng cười the thé ở băng ghế sau, rồi cái gì lành lạnh luồn vào sau gáy. Như một bản năng, tay tôi lần lên, nắm chặt lấy sơi dây chuyền trên cổ và túi bùa bình an của vợ đeo cho.

Không biết tôi đã ngất đi bao lâu, nhưng lúc tỉnh dậy thì thấy người đau ê ẩm, hé mắt nhìn ra thì lờ mờ nhìn rõ có vợ tôi đang cầm tay tôi, khóc sưng cả mắt, thằng ku thì cứ ngồi khóc trong lòng mẹ. Xung quanh phòng còn có đầy đủ bọn thằng Việt đang đi đi lại lại, thằng D thì không ngớt hỏi bác sĩ. Tôi cố hết sức cử động mấy ngón tay, vợ tôi nhận ra tôi đã tỉnh, nghẹn ngào:

– Mình ơi! Anh không sao rồi!

Rồi sau đó, bọn thằng D, thằng Việt ngồi lại quanh giường bệnh, kể lại cho tôi nghe những chuyện hãi hùng xảy ra trong tuần này, nghe xong, tôi không thể tin được nữa. Thế này thì còn hơn cả họa năm xưa.

Chuyện thứ năm: Trắng màu tang tóc

Dù tỉnh lại được nhưng phải đến hai ngày sau tôi mới ngồi dậy và hoạt động được. Bác sĩ bảo tôi bị va đập mạnh nhưng nhở có túi khí nên chỉ bị xây xát phần đầu và mất máu chút, còn xương cốt vẫn ổn, không có cái nào gãy cả, chỉ nằm tĩnh dưỡng nửa tháng là có thể xuất viện. Suốt những ngày nằm điều trị, hôm nào nhóm bạn cũng thay phiên nhau vào chơi, và mỗi ngày lại mang đến một tin xấu.

Mọi chuyện bắt đầu đúng vào hôm tôi về quê, hôm đó thằng Việt đi xem quanh làng thấy âm khí bốc ngùn ngụt, khổ vong, oán vong lảng vảng khắp nơi. Ngay lập tức nó gọi điện cản không cho tôi về, muốn tôi tránh thật xa cái đất này ra, chưa yên tâm, nó lại còn gọi điện cho vợ chồng thằng D, tất cả cùng làm mọi cách để giữ cho tôi an toàn. Nhưng tôi vẫn về, và kết quả là ngay hôm đầu tiên, tôi đã lọt vào tầm mắt của một bọn oán vong đó. Đáng ra tôi bị bắt đi ngay từ lúc xe lật, nhưng nhờ cái vòng hộ mệnh thằng Việt cho, lại có túi bùa bình an vợ đeo làm trấn áp yêu khí đi nên tôi mới toàn mạng mà chờ đến khi có người phát hiện ra.

Sau hôm tôi nhập viện, trong làng bắt đầu có biến lớn. Đầu tiên là nhà bà góa C, bà này góa chồng từ trẻ, ở vậy nuôi con, nuôi cháu, sống tốt điều, trước giờ hàng xóm ai cũng quý. Tuần trước đó, bà có đi chơi nhà dì trong thung, tờ mờ sáng này mới về nhà. Sáng hôm sau, bà C tự nhiên đứng chống nạnh ngoài sân, rít răng chỉ trỏ, chửi bốn phía hàng xóm, người làng thấy lạ nên đổ xô đến xem, bất ngờ, bà lôi con dao bếp ra, hươ hươ, vung loạn xạ, chém bừa vào những người đứng đó. Tất cả kinh hãi chạy dạt ra, có người không chạy kịp thì bị dao lưa mất một vệt trên vai, máu chảy túa, bê bết lưỡi dao. Mấy người vội đưa ngày người kia đi trạm xá, còn những người khác thì quay sang nhìn bà C với ánh mắt căm thù pha lẫn sợ hãi. Bỗng nhiên, bà đưa lưỡi dao lên miệng, liếm sạch chỗ máu, mồm khen lấy khen để, cả làng thấy vậy ai cũng kinh hãi, ghê tởm. Máu trên lưỡi dao đã hết mà bà C vẫn cứ liếm ngang liếm dọc, lưỡi dao cứa rách cả mép mà như không có gì, bà C cứ cười hề hề, mắt trợn trừng nhìn xóm làng. Bất chợt, bà C tia mắt trông thấy con gà trống đang đậu trên trụ cổng, thốt nhiên, bà nhún chân một cái bay phốc lên cái trụ cao hơn 3m, túm gọn con gà, rồi ngồi xổm trên trụ cổng,vặn ngoéo cổ con gà ăn sống. Chợt có tiếng hét to trong đám đông:

– Không phải bác C nhà mình đâu! Nó là..ma...!

Ông kia chưa dứt lời thì bà C nhảy vọt từ trên trụ cổng xuống, lao về phía ông. Trong nháy mắt, bà vả một cú trời giáng vào thái dương ông này. Không hiểu phát vả mạnh đến nhường nào mà ông này bị tạt ngang sang gần 2m, lăn quay ra đất chết tại chỗ, máu chảy ri rỉ ra từ chỗ sọ nứt.Trông thấy máu, bà C vứt luôn con gà ăn dở, chạy ra chỗ xác, thè lưỡi đỏ lòm ra liếm liên tục vào chỗ máu chảy. Lúc này dân làng đều bay hết cả hồn phách, túa chạy về gần hết, chỉ còn người nhà ông xui xẻo kia và những người sừng sỏ trong làng ở lại. Bỗng nhiên, có một người quăng nguyên dây tỏi vào bà C, rồi ba bốn người khác cầm cành dâu ra đập túi bụi. Bà C kêu thét lên, chạy biến vào trong nhà. Rồi dần dần, dân làng trở lại, kẻ cầm cành dâu, người cầm xong nồi gõ leng beng, vây chặt nhà bà C lại. Dân quân, Công An, cũng tới, giương sẵn súng, bắc loa gọi vào kêu bà C ra tự thú sẽ được khoan hồng. Một lúc sau, thằng Việt và thằng D đến nơi, nhiều người gốc làng vội dạt ra cho hai thằng đi vào trong, có nhiều người băn khoăn không hiểu sao, nhưng thấy dân làng dẹp ra thì cũng đứng lùi lại. Vừa trông thấy thằng Việt, ông T đội trưởng vội ra túm lấy nó, khẽ bảo:

– Anh làm thế nào thì làm! Chú là chú không dám trêu vào cái loại này đâu! Mấy ông tâm lý tội phạm đang bảo là bà C bị sốc siếc gì đấy nên mất kiểm soát, cần phải cho người vào khuyên giải! Mẹ nhà nó chứ! Bây giờ vào chẳng biết có khuyên giải được câu nào không hay vừa mở mồm ra đã toạc cả cổ họng.

Thằng Việt gật đầu, rồi nó lấy một thanh côn như cây ma trắc ra, quấn một vòng vải đỏ vào, xong đi đi lại lại trước cổng, vừa đi vừa khua leng keng vào thanh chấn song. Được một lúc thì trong nhà vọng ra tiếng gào thét, rồi một cái bóng vọt ra ngoài, xô đổ cả song sắt bờ tường trái. Ông T nhận ra ngay, đanh thép ra lệnh:

– Toàn đội chú ý! Bắn súng gây tê! Bắn

Ngay lập tức, hàng chục mũi tiêu bắn vụt vụt ra, nhưng bị bà C khua tay gạt sạch, rồi một xe cảnh sát cua ngang ra, chặn đường chạy của bà, bà C cười hô hố, khẽ cầm tay vào gầm xe, hất một cái, cả chiếc xe năng hơn tấn bị gạt văng vào tường.Bà C nhún mình chạy tiếp, chợt trước mắt có sợi dây mảnh chăng ngang, thằng Việt và thằng D mỗi người cầm một đầu dây, từ từ ép bà C vào góc. Trông thấy cảnh tượng quái dị đó, từ công an đến giám định viên, người nhập cư,... đều kinh ngạc, không hiểu sao cả chiếc ô tô còn bị hất ra, cớ sao sợi dây bé tí lại cản được.

Phía bà C thì cứ ngày một lùi dần, rồi bà C ngồi sụp vào góc, rúc đầu quá gối, miệng không ngớt van xin thằng Việt thả cho đường sống. Thằng Việt cười gằn:

– Hôm rồi không phải mày suýt giết bạn tao sao! Hôm này tao đánh cho mày không còn phách nữa

Dứt lời, thằng Việt rút ra một thanh sắt nhỏ bằng ngón tay út, ấn vào tay trái, bắt quyết, đọc to chú pháp, rồi vứt thằng mảnh sắt vào bà C. Bà C rú lên một tiếng rồi vật ra. Xong hai thằng đi ra ngoài, thằng Việt bảo ông T :

– Đây không phải bác C đâu! Bác C chết hơn bốn ngày rồi! Bị quỷ nhập tràng nhập vào.

Ông T chưa tin, gọi giám định ra xem qua. Xem xong, giám định lẫn pháp y đều nói:

– Tạm thời chưa xác định rõ thời gian tử vong, nhưng...nhưng ....người này đã chết hơn hai ngày rồi, thì thể bắt đầu có dấu hiệu phân hủy. Nguyên nhân cái chết hình như là do bị ngạt thở.

Ngày hôm đó, cả làng chấn động, ai nấy đều hãi hùng trước cái tin có ma quỷ phá làng. Rất nhiều người tìm cách rời làng đi, nhưng không hiểu sao đi mãi, đi mãi đến hết cả xăng mà xe cứ quanh quẩn rồi lại về làng, đường ra quốc lộ thì tự nhiên bị núi đá lăn xuống, dọn dẹp xong cũng phải mất vài ngày. Thôi thì đành về làng, tự bảo vệ chờ đường thông rồi đi. Thế là dân làng thi nhau đi lấy cành dâu về treo ở cổng, để dưới gầm giường,... Đến đêm thì tuyệt nhiên không có ai ra đường nữa, hàng quán cũng đóng sạch.

Liên tiếp hai tuần sau, hôm nào làng cũng có chuyện xảy ra, hôm thì hai đứa trẻ con anh K bị chết đuối lúc tắm trong bể bơi, rồi ông S đang làm vườn cảnh tự nhiên cuốc phải quả bom bi từ đời nào, bị nổ nát đến tận đùi, mù mất mắt trái. Kinh khủng hơn là có nhà vợ chồng anh R, cả hai vợ chồng, đứa con, mẹ chồng đều chết trong một đêm, đang yên đang lành thì tự nhiên nhà bốc cháy, dân làng đổ vào cứu không kịp. Và cái thảm cảnh làng trắng màu khăn tang năm xưa nó lại lặp lại, thợ đóng quan tài lại vừa khóc vừa đóng cũng không kịp. Có ông mộc còn giữ lại bốn bộ không chịu bán vì sợ mình hay người nhà có chết thì có cái mà chôn. Dạo này, tôi ở trong viện vẫn bình an vô sự, nhà vợ chồng thằng D cũng phải chuyển tạm vào ở trong ngôi biệt thự nhà thằng Việt cho an toàn. Mấy hôm liền thằng Việt vào, nó kể:

– Bây giờ làng loạn lắm mày ạ, đội bát âm chạy bở hơi tai từ nhà này sang nhà khác, trước hôm mày về thì chỉ có vài nhà chết thôi, ai cũng nghĩ do mấy ông bà đó già rồi, lại thời tiết xấu nên đổ bệnh rồi chết cả. Bây giờ tính ra cả làng có đến gần ba chục người chết do ma quỷ làm. Ngay cả dân nhập cư nó cũng không tha.

Tôi hỏi:
– Mày xem họ nhà tao có việc gì không?

Thằng Việt trả lời:

– Dạo này cụ tổ nhà mày liên tục về làng lúc nửa đêm, đêm nào cũng đem âm binh dưới quyền cụ ra cự lại bọn âm binh trong núi, âm binh nhà Tây Sơn, Trần Hồ bảo vệ làng năm xưa giờ cũng nhập vào quân của cụ mày. Đánh nhau có trận được trận thua, đêm nào cụ mày và cụ Trần gia tướng họ nhà mày cũng phải chặn hậu cho quân rút an toàn. Yên tâm đi! Cụ mày giữ vững lắm, hia bên gờm sức nhau, nó không dám động thì cụ nhà mày cũng cứ giữ đất làng.

Tôi thở phào nhẹ nhõm, hỏi tiếp:

– Công an, dân quân đâu hết cả rồi? Để chúng nó hoành hành!

Thằng Việt lắc đầu đáp:

– Họ cũng cố hết sức rồi! Đêm đêm là đi tuần thành tốp, có hôm nhác thấy bóng trắng phất phơ ở cuối ngõ, bác T cho cả đội đuổi theo, dò về tận tổ nó, dò đến núi Kì thì ngớ ra là bị bọn nó lừa vào bẫy, cả đội chạy chối chết về tận làng, cứ vừa chạy vừa bắn ra sau. May mà không có ai việc gì. Bác T với chú A chủ tịch cứ càng ngày càng gầy, lo tìm cách mà vô ích.

Nghe đến chữ "gầy", tôi mới giật mình nhìn kĩ lại thằng Việt, thấy dạo này nó xanh hơn, mắt trũng xuống, mặt bạc cả ra vì thiếu ngủ. Tôi bảo:

– Sức người thường chẳng tài nào đánh lại bọn này.Giờ tất cả trông vào mày Việt ạ! Giữ gìn sức khỏe tốt vào, mày mà làm sao thì tao với thằng D cũng chẳng thiết gì nữa.

Thằng Việt gật gật đầu, nó nói:

– Tao thì vẫn ổn thôi! Mày mới cần phải khỏe nhanh đấy!

Sực nhớ ra điều gì, tôi hỏi:

– Thế ủy ban đã thông báo lên tỉnh chưa? Bảo họ cho người về cảnh vệ thêm.

Thằng Việt chau mày:

– Mấy đêm liền tao cùng chú A gọi điện lên tỉnh, viết đơn gửi bằng mail, bằng cả điện tín, nhưng cứ gửi đi là y rằng có trục trặc. Mà dùng mạng vào những trang khác thì vẫn bình thường, gửi mail khác cũng bình thường, thế mà cứ gủi cái gì liên quan đến bọn kia là bị chặn lại. Cho cả người đi đưa thư, vậy mà đi mãi không thấy báo lại, hai hôm sau thấy người gửi đi đưa thư trở về, giờ điên điên khùng khùng, hôm nào cũng hát linh tinh.

Tôi thở dài não nề:

– Vậy làm sao mà trừ được nó chứ! Giờ bọn nó cô lập làng mình thành cái đảo rồi.

Thằng Việt khích lệ:

– Mày yên tâm đi, tao bốc quẻ ra là nội trong ba ngày nữa sẽ có quý nhân đến giúp. Tao lên Thần Đẳng, trấn áp bọn âm binh tinh nhuệ kia thì được, nhưng con âm tướng thì tao không có thông tin gì về nó lúc sống nên không tài nào bắt được. Giờ có thêm một người nữa ngang sức tao đến giúp thì việc đó dễ như trở bàn tay thôi.

Tôi ngạc nhiên, hỏi:
– Quý nhân hả? Là ai thế? Bao giờ đến

Thằng Việt mỉm cười bí mật:
– Lạ mà quen, quen mà lạ.À mà mày bình phục nhanh vào, tập lại võ đi! Sắp tới lúc dùng đến rồi đấy.

Chợt nhớ ra chuyện bà C, tôi lại hỏi:
– Bác C kia bị quỷ nhập tràng là chắc chắn rồi. Nhưng sao ma quỷ gì mà khỏe thế, lại chỗ đông người mà có mỗi mình nó nữa? Dù cho âm khí nó mạnh đến đâu thì cũng chỉ át một hai người thôi, đằng nay cả đám thế mà nó cứ nhơn nhơn.

Thằng Việt chau mày, lắc đầu e ngại:

– Bác C chết được bốn ngày! Chắc bị bọn nó giết lúc đi về từ thung. Con kia nhập vào xác bác ý, mượn xác để đi rình ăn thịt sống với hút máu thú rừng, đêm đến lại tắm trăng để tăng âm khí. Lúc về làng nó còn chưa mạnh đến thế, nhưng nó lại uống được chút máu của đàn ông nên mạnh hơn hẳn, mà đấy mới chỉ là ban ngày có mặt trời. Đêm đến, sáng trăng nó còn mạnh nữa! May mà làng mình phát hiện ra nó sớm, không nó trà trộn vào, hút máu, tắm trắng thêm tuần nữa là nó hoàn xác, biến thành tinh luôn.

Nói đoạn, thằng Việt lại thở dài ngao ngán, chợt nó quay sang tôi, bảo:

– Tao sợ có phản đồ của Mao Sơn Tông nhúng tay vào vụ này. Nếu thế thực thì khó mà đối phó lại, tao đang lo không biết cương thi có thật không? Nó mà có thật, lại bị bọn phản đồ đó điều khiển thì hậu họa khôn lường, tao không biết cách nào phục được cương thi cả. E rằng.....!

Rồi nó lại cúi đầu ngẫm nghĩ một hồi, bỗng mắt nó sáng lên, thốt:

– H ơi! Đúng rồi ! Đúng rồi! Muốn trị Mao Sơn phải có người Mao Sơn. Lần này mà có thêm một người đạt Thiên Đẳng của Mao Sơn Tông giúp sức nữa thì quá tốt, tao, người đó và quý nhân, vậy là có thể lập trận Tam Phái Đồng Tổ rồi.

Nghe xong, tôi vừa mừng vừa băn khoăn, không biết thằng Việt định làm gì đây, nghe nó nói thì có lẽ quý nhân kia có mối liên hệ mật thiết với chúng tôi, nhưng không hiểu đó là ai. Cố kiểm tra lại bộ nhớ về từng khuôn mặt, con người, tất cả đều vô ích, chợt tôi nhớ ra, hay là, hay là nó.......

Chuyện thứ sáu:
Cố nhân gặp lại – Duyên nợ ai hay

Người mà tôi nghĩ đến lúc này chính là cậu nhóc câm được thầy Zhio nhận làm đệ tử, thằng bé cũng thuộc hàng xuất thế kì nhân như thằng Việt, nhưng tôi băn khoăn với thời gian chỉ có mười năm như vậy, làm sao nó có thể luyện đến Thần Đẳng. Nghĩ mãi, từng luồng tư tưởng đan xen vào nhau như bòng bong, tôi mệt quá ngủ thiếp đi. Sáng hôm sau tỉnh dậy, thằng Việt đã đến từ 8h, nó hồ hởi:

– Quý nhân đã đến rồi! Sớm hơn tao tưởng! Mấy hôm nữa xuất viện thì mày chắc ngạc nhiên đến lòi mắt. Khà Khà Khà!

Nghe nó nói vậy tôi cũng chột dạ, nghĩ thầm: "Vậy chắc không phai thằng nhóc kia rồi, mình đâu có thân quen gì lắm với nó, kiểu này chắc phải là một người từng rất gần gũi, thân thiết với mình, nhưng là ai? ". Cứ vậy cho đến tận mấy hôm sau, hôm nào tôi cũng suy nghĩ miên man, cố hình dung, ghép nối các mảng kí ức, hi vọng nhớ ra quý nhân. Trước ngày tôi xuất viện một tuần thì vợ con tôi và hai mẹ con Ngọc Anh được đưa về Hà Nội lánh nạn, hai bà mẹ cứ nằng nặc đòi ở lại, thằng D và thằng Việt phải hết lời khuyên giải mới chịu. Nằm trên giường bệnh, nghe tin đấy mà tôi muốn nhảy cẫng lên, rối rít hỏi thằng Việt :

– Mày làm thế nào mà hay thế hả lang băm? Tao tưởng làng mình bị bọn âm binh phong tỏa lại rồi cơ mà!

Nó cười cười đáp:

– Nhờ quý nhân cả đấy! Người này có sở hữu một tấm lệnh bài Âm Dương, có nó thì được tùy ý ra vào đất người sống người chết, nhưng chỉ dùng được một lần thôi. Ban đầu tao định đem cho giao liên, nhưng nghĩ lại nếu giao liên đi mà có hai lòng, bỏ mặc làng thì đúng là vô phúc, vậy nên tao đưa tấm bài cho đám đàn bà con nít, dù sao thì họ an toàn rồi, anh em mình cũng yên tâm để tính cách đối địch.

Giờ tôi càng thêm tò mò về nhân vật này, là ai mà lại hết lòng giúp đỡ chúng tôi vậy?

Nằm thêm tuần thì tôi khỏe hẳn, được xuất viện, thằng Việt lái xe đưa tôi về nhà nó, nói là quý nhân đang ở trong nhà nó. Đến nhà, vừa bước chân vào phòng khách thì thằng D chạy ào ra, ôm chặt lấy tôi, nói như khóc:

– Vì bọn tao mà mày khổ vậy! Sao lúc bọn tao đuổi mày không chịu đi? Mày mà có mệnh hệ gì thì bọn tao sao thiết sống nữa!
Tôi đáp:

– Tam đầu long mà chỉ còn một đầu thì cũng vô dụng. Anh em có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu!

Thằng D cảm động, lắc lắc vai tôi mà khóc, chơi với nhau bao năm, giờ tôi thấy một thằng chai sạn như nó rơi nước mắt. Ba thằng ngồi xuống hàn huyên, tâm sự, hoàn toàn không đả động gì đến chuyện ma quỷ kia. Đang ngồi thì có tiếng bước chân rất nhẹ trên cầu thang, thằng Việt đưa mắt nhìn tôi, bảo:

– Quý nhân kìa! Ra chào người ta một tiếng đi chứ!

Tôi vội chỉnh trang lại, đứng lên chờ người kia bước xuống cầu thang. Nhưng khi vừa nhìn thấy rõ ràng dung diện, dáng vóc kia, tôi không còn tin vào mắt mình nữa. Tôi cố định thần nhìn lại, vẫn cái dáng vóc nhỏ nhắn đó, vẫn mái tóc đuôi gà mượt mà ngày nào, vẫn là hai gò má hồng, làn da trắng như tuyết, và đôi mắt sâu thẳm như lạnh băng kia. Không thể nào! Không thể nào! Người...người đang đứng kia chính là bạn gái cũ của tôi năm lớp 12.(*)

Nàng đứng đó, yêu kiều và diễm lệ, một vẻ đẹp sáng trong như ngọc băng, hàn dạ. Tôi đứng ngây người ra, nàng nhìn thấy tôi thì bẽn lẽn chào:

– Chào H! Cũng rất lâu rồi mình chưa gặp lại!

Tôi đứng hình, rồi cũng bối rối gật đầu chào lại:

– Chào Linh! Mình...Mình...!

Giữa cả hai lại có một khoảng lặng, tôi bồi hồi nhớ lại những kỉ niệm êm đẹp mà cũng chua xót của thời học sinh. Chợt thằng Việt lên tiếng, phá tan không khí im lặng trong phòng:

– Đều là chỗ thân quen cả! Không có gì ngại hết! Tất cả ngồi xuống rồi từ từ bàn chuyện!

Mở đầu câu chuyện trước, tôi hỏi Linh về cuộc sống vừa qua, tại sao nàng lại trở thành thầy pháp thế này,...Tôi hỏi gì nàng đều trả lời nấy, giọng nói nho nhỏ, thanh thanh. Rồi đến lượt nàng hỏi tôi về công việc, những năm Đại học. Bống nhiên nàng ngừng lại một chút, nhìn vào chiếc nhẫn trên tay tôi, ngập ngừng:

– H! H đã có gia đình rồi sao? Thời gian sao mà trôi nhanh quá.

Tôi gật đầu, kể về vợ tôi và chúng tôi đã gặp, yêu nhau như thế nào. Linh nghe xong, tươi cười, nói lí nhí:
– Cô gái đó đúng là một người phụ nữ hạnh phúc!
....
Lại thêm một khoảng lặng nữa giữa hai người. Lần này, thằng D lên tiếng, hỏi:

– Bây giờ đã có thêm một cao thủ góp sức! Giờ mình đã đủ sức đi giết sạch bọn chó má kia chưa hả Việt?

Thằng Việt đáp:

– Hiện tại nếu đấu thì khả năng thắng là 80%. Nếu bọn mình kiên nhẫn chờ thêm một người nữa đến thì chiến thắng cầm chắc trong tay. Nhưng theo tao thì người thứ ba này khó mà đến, vì chúng ta đang cần một người thuộc Mao Sơn Tông, nhưng từ trước đến giờ Mao Sơn rất ít khi lộ mặt, giới bạn nghề cũng chẳng mấy người có cơ hội biết được. Thôi thì ta đành dốc toàn lực ra chiến đấu, xin cụ tổ nhà H giúp đỡ, đánh chặn bọn âm binh, còn bốn người sẽ vào tận ổ bọn nó để diệt con âm tướng. Đánh giặc phải bắt thằng đầu sỏ, tự khắc bọn lâu la sẽ tan.

Thằng D gật gù tán thưởng, tấm tắc:

– Cao kiến! Cao kiến! Đúng là Việt phù thủy! Suy tính đâu ra đấy!

Thằng Việt quay sang hỏi Linh:

– Chị Linh! Chị có ý kiến gì về việc này, xin cứ nói! Bọn tôi toàn đàn ông cục mịch, không suy nghĩ tỉ mẩn được.

Lình cười hiền, đáp:

– Các anh khách sáo quá! Theo em thì đầu tiên phải bỏ ra vài ngày để luyện một vài âm binh thường thành thám quân, cho đi dò xét tình hình các vùng rừng núi, tìm hang ổ thực của con âm tướng, lại phải điều tra cả tiềm lực thực sự của bọn nó.

Thằng Việt vỗ tay đánh đốp lên trán...tôi. Kêu:

– Trời ơi! Chuyện quan trọng vậy mà bỏ qua mất! Ngu quá! Ngu quá!

Rồi cứ mỗi tiếng "Ngu quá", nó lại vỗ vào trán tôi, tôi quay sang cười hè hè:

– Trán mày sao mày không vỗ vào, lại đi vỗ trán tao? Tao vừa mới bị chấn thương nghiêm trọng vùng đầu xong, cần phải giữ gìn long thể. Tội khi quân phạm thượng, đáng bị bêu đầu thị chúng.

Thằng Việt cười to, quạt lại:

– Hoàng thượng nghĩ thần tốt nghiệp Y bằng giỏi ở Sing gà pò mà không biết xem bệnh à. Cả thần và bác sĩ đều chẩn đoán ra chung một kết quả:
Cái đầu rồng của ngài bị va đập nhẹ thôi, chủ yếu là do mất máu ở vết xây xát trên người nên sức khỏe suy sụp. Còn bị ngất đi không phải do đập đầu, mà là do...do... thần kinh bị chấn động vì sợ hãi quá mức! Há Há Há!

Thằng D nghe xong thì cười ầm lên, chỉ tôi:

– Ôi thánh thượng oai dũng! Về đổi niên hiệu lại là Kinh Kê (con gà chết nhát) đê!

Thằng Việt bồi thêm:

– Kinh Kê vạn tuế vạn tuế vạn vạn tuế!

Nghe xong, dù mình bị trêu mà tôi vẫn thấy buồn cười, cũng cười theo chúng nó. Linh ngồi đó thấy vậy cũng cười khúc khích.

Bông đùa chán chê, thằng Việt lại về chuyện chính, hỏi Linh:

– Tôi có chuyện muốn hỏi chị Linh. Chị chuyên về tông phái nào, tôi thì tôi học nghệ của tất cả các nhà, chỉ có phái Mao Sơn là chưa có cơ hội học.

Linh mỉm cười đáp:

– Dạ! Em được bố phá lệ, cho học phép. Gia đình em vốn là chuyên về bùa Trương Thiên Sư. Nhưng bố em dặn là con gái học nghề này phải là trọn đời không lấy chồng, nếu có chồng con thì phép sẽ mất linh nghiệm!

Giờ thì tôi đã hiểu rồi, lý do mà năm 12, khi chúng tôi yêu nhau say đắm, đột ngột nàng bày ra bao trò, bao mánh để làm tôi chán ghét, tự bỏ nàng. Nhưng rốt cục thì...

Hôm đó, ăn cơm tối xong, tất cả lại ngồi bàn chuyện, thằng Việt và Linh thì lấy ra cơ man là giấy nháp. Vẽ đủ thứ trận đồ, rồi bàn luận trận này mạnh công khó thủ, trận này thủ toàn diện, trận này có thể xuất kì bất ý thắng địch,... Tôi và thằng D nghe cứ ù ù cạc cạc. Thế là hai thằng dẫn nhau ra sân, thằng D giúp tôi luyện lại sức rồi ôn lại mấy bài võ. Học kiểu thằng cốt đột này đúng là hành xác thật. Nó cứ bắt mình luyện liên hồi, chiêu thức mình đánh ra kình phong nghe ào ào mà nó con chê là chậm như rùa, đòn cầm nã hiểm ngay vào cổ nó vẫn chê là chưa đủ lực. Tôi nóng máy, bảo:

– Cái thằng này! Mày làm cái gì mà chê lắm thế hả? Sức tao có hạn, ai như mày khỏe mạnh bẩm sinh.
Thằng D cười cười, gãi đầu:

– Chết tao quên mất, nhưng mày phải tập thêm thể lực nữa đi. Cách xuất chiêu tùy tâm của mày thế là hơn tao rồi, nhưng đòn đánh còn chưa đủ nhanh, mạnh. Mày phải nhớ là với người chuyên về binh khí như mày thì hai chiêu là kém, ba chiêu là nhiều, lên đến năm mười chiêu mà chưa hạ gục địch thụ dưới tầm thì là đồ bỏ. Thôi! Xem kĩ tao mà làm theo này!

Dứt lời, nó cầm lấy cây thương, hơi đứng trụ chân lấy thế, hoành thương ra sau lưng. Tôi thầm nghĩ : "Thằng này sao vậy? Đặt thế thương như thế thì chưa kịp đánh ra đã bị đối thủ đánh trúng rồi, mà thương hoành sau lưng, đỡ gạt làm sao?". Bất ngờ, nó cúi rạp mình sát đất, uốn người theo thế giao long lướt mây, tay trái xoắn vào cây thương như lò xò, tay phải vuốt thằng cán thương, làm thành một đường thằng song song với cán. Rồi thằng D khẽ đẩy nhẹ bàn tay trái cho lòng bàn tay hích vào cuối càn thương, đột nhiên cây thương lao vù về phía trước như tên bắn, "Sụt" một tiếng, cây chuối phía trước đã bị cây thương xuyên suốt một đường từ trước ra sau. Tôi còn chưa hết kinh ngạc thì nhanh như chớp, thằng D tung người lên trước, lấy mũi chân hất cây thương lên ngang tầm tay, rồi chĩa sang tấm ván, đâm liên tiếp năm nhát trong chưa đến một giây. Tôi chạy ra nhìn tấm ván, thấy trên đó mũi thương vừa đâm vừa khoét thành năm vết tròn đều nhau, tạo thành một đường thẳng tắp. Thấy tôi mắt chữ O mồm chữ A nhìn chăm chăm vào tấm ván, thằng D cười hề hề :

– Phục anh chưa nào? Chiêu thức phải nhanh, mạnh dứt khoát, một khi mũi thương đã xuất thì khi thâu thương về phải nhuốm máu đối thủ. Thần thương Lý thư Văn có nói rằng ông ta chưa hề biết thế nào là đâm đến thương thứ hai vào người đối thủ. Tinh yếu của phép dụng thương là lúc xuất thì nhanh, mạnh, uy mãnh như giao long, lúc thủ thì kín kẽ, vững chãi tựa bạch hổ trấn sơn.

Tôi xem xong màn biểu diễn và triết lý của thằng D mà phục nó sát đất, đúng là không hổ danh kì tài võ học, năm tuổi thạo côn, mười tuổi thạo quyền, ngoài ba mươi thì tung hoành không địch thủ. Sau đó, thằng D còn biểu diễn liền 18 bài binh khí, bài Hùng Kê quyền, Lão Hổ Thượng Sơn, Hắc Miêu tẩy diện, Hổ quyền, Long trảo thủ, cả bài cầm nã thủ mà nó kết hợp giữa cầm nã gia truyền với cầm nã các phái khác, thêm vào cả võ học bản thân. Trông bài cầm nã thủ nó sáng tạo ra đúng là có rất nhiều cải tiến, nhưng chiêu thức thừa, dễ bị phá đã bị nó lược bỏ, nhưng thế đánh hiểm quá thì được giảm bớt. Nhưng cái hay là bài cầm nã của nó xây dựng y như Độc Cô Cửu Kiếm, tất cả chỉ toàn những chiêu thức cơ bản, chia ra thành năm thức: Cầm Kiếm- Cầm Thương – Cầm Quyền- Cầm Khí – Cầm Kình. Từng thức dùng để đối phó với từng loại võ riêng biệt, lấy yếu quyết là Hậu phát chế thức, tiên phát chế nhân, xuất thủ bất lưu tình, lưu tình đừng giao chiến. Múa xong bài cầm nã, nó hỏi tôi về cái tên đặt cho bài quyền, tôi bảo :

– Hay gọi là Tỏa Võ cầm nã thủ đi! Võ trong võ học, tỏa trong bao quát, ý là bài cầm nã này bao quát tất cả võ học.

Thằng D nghe xong, gật gù khe lấy khen để, kêu :

– Dân khối C có khác! Ho ra thơ, thở ra văn.

Hai thằng lại cười ồ lên, dắt nhau ra chỗ bàn đã ngồi uống trà, tán dóc. Đang ngồi tự nhiên sống lưng tôi lạnh toát, chột da quay sang, cả hai thằng cùng nói một lúc:

– Tự nhiên mày có thấy lạnh không?

Nghe xong , cả hai đều xanh mặt, biết có biến, tôi liền vớ lấy cây côn dựng cạnh tường, thằng D thì đeo bao tay sắt vào, hai thằng không ngồi nữa, đứng dậy tựa lưng vào nhau, tay để thế thủ, mắt đảo liến tục quan sát bốn phía. Bỗng nhiên, thằng Việt và Linh chạy ào ra sân, hét to :

– Có chuyện rồi! Ra đường làng nhanh.

Cả bốn chạy cả ra đường làng, thấy dân làng chạy tán loạn, tiếng la hét vang khắp bốn phía. Thằng D chợt chỉ tay ra góc bên trái, kêu :

– Nhìn kìa! Cái gì kia?

Ba người phóng mắt theo hướng tay nó chỉ, thấy đằng đó là một người đàn ông đang kêu gào, gầm ghừ như cọp, tay vớ hết người nọ đến người kia, quăng đập đi như búp bê đồ chơi. Thằng Việt hét to, bảo đám đàn ông đang đứng thủ thế cùng chúng tôi:

– Thi luyện hồn, tất cả về nhà lấy gạo nếp, máu gà ra đây nhanh!

Tất cả đều đã chứng kiến qua tài nghệ thằng Việt bữa trước nên giờ coi nó như ông thánh, cả bốn năm ông chạy cả về nhà lấy gạo, tiết gà. Trong khi đó, con cương thi kia cứ ngày một lại gần, nhìn chằm chằm về phía bọn tôi. Nhưng khó hiểu là nó đi rất lạ,cứ vừa đi vừa dừng, chốc chốc lại chạy ngược lại. Thằng Việt bảo :

– Anh kia bị hồn con thi nó nhập vào rồi, nó đang cố làm quen với thân xác mới, giờ nó đang mạnh lắm, quơ bừa tay vào ai cũng chết, chờ nó ổn định, sức nó yếu còn nửa thì mình vào đánh.

Được chừng dăm phút sau, đám cả đàn ông, đàn bà, dân làng kéo ra cả. Người thi khua nồi khua xong, người thì mang gạo mang tiết gà đến. Thằng Việt bảo mấy người đàn ông vẻ bạo dạn đứng đó:

– Các anh đem gạo nếp ra rải đều trước đường nó đi, mình vừa lùi vừa rắc, cản nó lại để câu giờ cho tôi làm dây trói nó.

Ngay tức khắc, mấy người đó vội cầm ngay lấy rổ gạo, cứ thế bước lên cản con cương thi àm không màng gì. Đúng là nhưng lúc nguy cấp thì tinh thần cộng đồng của dân mình lên cao thật. Tranh thủ lúc mọi người đang cản con cương thi, thằng Việt lấy trong túi ra một cái bát sứ, đổ tiết gà vào, bỏ vào bốn đạo mùa màu tía, vàng, trắng, đỏ, đốt lên. Úp một cái đĩa lên, dán chéo hai lá bùa lên đó, tay bắt quyết, mồm lẩm nhẩm:

– Nguyệt vi vô chủ! Ác quỷ làm càn! Thánh thần khôn thiêng! Dạy đường trừ nghiệt.

Xong nó đưa cái bát cho Linh, bảo Linh làm làm nốt phần còn lại, Linh cầm cái bát lên, bắt quyết, đọc to ấn chú, tay xoay cái bát mòng mòng, lúc lật úp lúc đổ ngang, rồi tháo cái đĩa ra, đổ tiết vào đầy một cái khay, trên khay có đính một trục gắn cuộn dây như dây diều. Tiết đỏ dần dần thấm đẫm sợi dây. Thằng Việt hô to:

– Các anh mau lui về, để việc cho bọn tôi!

Rồi ba thằng nhất tề xông lên, thằng Việt cầm kiếm gỗ, khi điểm khi trỏ, tay trái giữ quyết, mồm đọc liên hồi. Tôi và thằng D mỗi người một binh khí, tôi khoa tròn trường côn, đi vòng vòng thủ thế, thằng D thì hai tay đeo bao sắt, vuốt nhọn, lao vào cấu xe, bắt chụp liên hồi. Nhưng con cương thi nhanh như gió, mấy lần liền thằng D vồ tay đến nơi rồi mà nó vẫn biết trầm mình xuống tránh đòn, suốt từ nay đến giờ, ba thằng chưa đánh trúng nó được phát nào. Bên ngoài vòng chiến, Linh đang cố xâu nhanh sợi dây tẩm tiết gà vào trong ruột cây nhuyễn tiên của thằng Việt, xâu xong, Linh tung sợi nhuyễn tiên vào trong. Thằng Việt tung mình ra chộp lấy sợi nhuyễn tiên, bỏ kiếm ra thay bắng vũ khí mới. Nó vung tít mù cây nhuyễn tiên, khi phòng dài, khi thâu ngắn, vung trái vụt phải, xiên thằng đâm ngang, hết như một con mãnh xà. Ba thằng đánh tiếp được chừng nửa tiếng thì dần thầm mệt, àm con cương thi thì ngày càng khỏe ra, đột nhiên, Linh tung một lá bùa trắng từ ngoài vào, cháy sáng lòe trước mắt con cương thi. Nhanh như cắt, thằng Việt quăng nhuyễn tiên quấn chặt một tay con cương thi lại, nó vội lấy tay còn lại định giật đứt sợi tiên, thằng D vội lao ra, dùng bao tay sắt quắp chặt vào tay còn trống. Tôi chớp thời cơ, khoa trường côn lên đánh liên tiếp năm sáu côn vào ngực, vai con cương thi. Vậy mà nó vẫn trơ như đá, tôi tức mình, chạy lùi lại lấy đà, đủ người lên bờ tường rào nhà gần đó, từ trên cao nhảy xuống, dùng hết sức bổ mạnh xuống đầu con cương thi. Đầu con vừa đánh xuống, ngay lập tức tay tôi bị chấn động mạnh, tê rần rần như vừa vụt phải đá tảng. Thằng Việt đột ngột thu ngắn tầm dây, xáp lại gần con cương thi, đưa một mũi dao găm có đính bùa đen,đặt lên ngực con cương thi, hét lớn:

– Đóng đinh cho tao xem nào!

Nghe thấy thế, tôi vội giáng liền ba bốn đầu côn vào cán dao găm, thế mà mũi dao chỉ ngập vào được có nửa, Bỗng nhiên, con cương thi gào lên, hất văng ba thằng, xong nó ủi đổ cả bức tường nhà cụ H, chạy xuyên về phía núi. Dân làng thấy con cương thi chạy đi thì reo hò mừng rỡ, chạy lại xốc ba thằng lên, hỏi han xem có thương tích gì không. Riêng tôi, chưa yên tâm liền quay ra hỏi thằng Việt:

– Nhỡ nó quay lại thì sao?

Thằng Việt cười to đáp:

– Mình vừa cắm huyết lệnh ấn lên người nó, rồi nó sẽ từ từ bị rút cạn thi khí mà chết, trở thành cái xác bình thường.

Được vậy thì tôi thở phào nhẹ nhõm, yên tâm hơn hẳn. Tối hôm đó, quán bia nhà cậu V mở cửa trở lại, khao chúng tôi một bữa ra trò. Tôi uống quen nên mới chỉ hơi ngà ngà say, còn hai ông tướng kia cứ nốc liên tục, được một lúc thì say nằm vật ra bàn, báo hại tôi phải đưa hai ông to như con bò mộng về nhà. May mà Linh không uống nên còn tỉnh táo, lai có mấy chú giúp tôi võng hai con lợn say xỉn về.

Về đến nhà, tu xếp chỗ ngủ của hai thằng xong, đắp chăn cẩn thận cho chúng nó, tôi về phòng mình. Nhưng cả đêm tôi cứ trằn trọc không ngủ được. Không phải vì lo chuyện quỷ mị kia, mà tôi đang suy nghĩ về Linh, người đã từng khiến tôi có lại cảm giác yêu là thế nào.

———————————————————————————————

Năm lớp 12, tôi cảm nắng một cô bé lớp ban D. Sau gần 2 tháng tán tỉnh, tôi đã cưa đổ được nữ hoàng băng giá, hoa khôi của trường. Hồi đó, tôi phải đi học thêm rất gắt, có hôm đến 11h đêm mới từ lớp học thêm về nhà, mệt mỏi vô cùng nhưng vẫn phải cố vì mục tiêu của tôi là thi vào Đại học luật Hà Nội. Nhưng chỉ cần được nghe giọng nói thanh thanh, nhẹ nhàng của Linh chúc tôi ngủ ngon, sáng đến lớp được thấy đôi mắt nàng nhin tôi quan tâm, hỏi han cũng khiến tôi vơi đi bao mệt nhọc. Tình yêu tuổi học trò ngốc xít , chỉ cần những cái nắm tay, một nụ hôn trộm hay một chiếc kẹo mút kẹp trong cuốn vở, hay một con thỏ bông gói trong hộp quà nhỏ nhỏ xinh xinh, mùi vị đăng đắng, ngòn ngọt của Chocolate tự làm tặng nhau ngày Valentine. Những điều thật nhỏ nhoi, nhẹ nhàng nhưng lại làm thành kí ức về mối tình thời cắp sách thật thơ mộng, trong sáng. Chỉ cần vậy thôi cũng đủ khiến ta mỉm cười mỗi khi nhớ lại. Thế rôi, bất ngờ Linh của tôi thay đổi tính nết, từ một cô gái hiền dịu, bé nhỏ trở thành một đàn chị cầm trịch cả trường, chửi bậy luôn mồm, thấy ai không vừa ý mình là co chuyện. Quá thất vọng, tôi bắt đầu tự hỏi, phải chăng vì yêu tôi nên Linh mới vậy, học hành sa sút, hạnh kiểm thì treo lơ lửng, rồi thi tốt nghiệp chẳng biết có qua không? Năm nay là năm cuối rồi. Và tôi đã nói lời chia tay trước, coi như đó là sự giải thoát cho em, hi vọng em có thể quên tôi đi mà tập trung cho giấc mơ của mình. Nhưng điều khiến tôi đau lòng là khi nghe tôi nói từ chia tay, Linh tỉnh bơ đáp:

– Có vậy thôi à! Thế thì chỉ cần nhắn tin cho nhau là xong, việc gì hẹn ra đây cho mất thời gian. Đúng là đồ rỗi việc!

Câu nói vừa dứt, tôi như đổ sụp hoàn toàn, tôi không thể tin vào tai mình nữa, đây chính là Linh hiền dịu của tôi sao? Chua xót thay! Đắng cay thay cho mày H ạ! Rồi Linh ngúng nguẩy bỏ về, mặc tôi ở lại, người trơ như tượng đá.

Sau đợt đó, tôi lao đầu vào học, học để quên đi tất cả, để quên đi kỉ niệm đẹp và thực tại khốn nạn, tôi như người điếc, như người mù trước tất cả những thông tin về Linh, tôi chỉ ước sao bộ não con người không có nút Delete, để tôi có thể xóa sạch tất cả. Không uổng công tôi học, năm đó, tôi thi đỗ vào đại học luật với số điểm đầu vào cao nhất lớp, 24 điểm. Thành quả là một chuyện, còn trải qua chuyện tình trường đau đớn này, trái tim tôi dần thay đổi. Không biết tự bao giờ, thằng H hiền lành, ít nói ngày nào đã trở thành một con quỷ máu lạnh, thù ghét đám đàn bà con gái. Tôi bắt đầu có tư tưởng phải dẫm đạp lên nhau để sống, sống phải bá quyền khiến kẻ khác quỵ lụy, vui vẻ trên linh hồn của kẻ thù. Trong mắt tôi, con gái là một thứ sinh vật ghê tởm, đáng khinh bỉ. Và tôi bắt đầu nghĩ ra một trò chơi tàn độc, khốn nạn vô cùng, tôi đem các cô gái ra làm trò chơi.

Từ thuở bé, tôi được trời phú cho khuôn mặt điển trai, lạnh lùng của bố và làn da trắng như con gái của mẹ. Cộng thêm cái mồm dẻo bẩm sinh và khả năng kiếm tiền giỏi từ khi còn sinh viên, tất cả tạo thành một thứ vũ khí hoàn hảo để cưa đổ bất kì cô gái nào. Luật chơi của tôi rất đơn giản : Mọi thứ chỉ là tình cờ. Tôi tình cờ gặp một cô gái đẹp, tình cờ làm quen, tán tỉnh cô gái đó, đưa cô gái đó vào thiên đường của tình yêu và sự quan tâm săn sóc của tôi, rồi tôi tình cờ đá cô ta như một thứ đồ bỏ. Một mối tình của tôi chỉ kéo dài nhiều nhất là một tháng, nhanh thì một tuần, hai tuần. Sau khi đá xong một cô gái tội nghiệp, tôi còn giữ lại một tấm ảnh của cô ta, cho vào một cuốn sổ làm "chiến tích", và trước khi đá một cô gái, tôi đưa cho cô ta xem cuốn sổ để biết co bao nhiêu người giống cô. Thế rồi xấp ảnh của tôi cứ ngày một dày lên, có những lúc tôi bất chợt tình dậy trong đêm, ngồi bần thần đếm lại xấp hình, tôi hoảng hốt nhận ra rằng xấp hình quá nhiều, quá nhiều.Vậy tại sao tôi vẫn không quên được Linh? Nhưng may phúc cho tôi, mọi mối tính tôi đều dừng lại trước chữ X thứ ba, có vẻ như phần con người còn sót lại trong tôi đã ngăn cản tôi làm trò khốn nạn đó. Nếu không chắc giờ tôi đã tự tử vì tội lỗi của mình rồi. Chuyện tôi làm, bố mẹ hoàn toàn không hay, chỉ có thằng Việt, thằng D và Ngọc Anh biết. Ba người khuyên giải hết lời, thằng Việt thì bảo tôi làm thế sẽ chỉ gây tội nghiệt cho bản thân, thằng D thì dọa đánh chết tôi nếu tôi còn đổ đốn thế, Ngọc Anh thì hết lời khuyên giải, bảo tôi so sánh thử xem Ngọc Anh và Linh có giống nhau không? Có phải cùng là một loại con gái bạc bẽo không? Nhưng tôi bỏ ngoài tai tất cả, tôi cứ lao vào trò chơi săn tình, khiến biết bao cô gái phải khóc thầm vì một thằng như tôi. Dĩ nhiên để bày trò hết lần này đến lần khác, tôi đều dàn xếp, dự tính mọi việc để khi chuyện chia tay xảy ra, tôi luôn là thằng tội nghiệp bị đá trong con mắt người ngoài cuộc, tôi lại điều tra, hạn chế thông tin bạn gái mới lan đến tai những người cũ nên không ai biết được để cảnh báo người khác, và cứ thế, suốt ba năm đại học, tôi tán và đá tổng cộng 43 cô gái. Mọi chuyện chỉ kết thúc khi tôi gặp mục tiêu thứ 44, vợ tôi.*
———————————————————————————
Đang suy nghĩ miên man về quá khứ thì chợt sau lưng tôi có tiếng nhón chân nhẹ nhàng, rồi có tiếng con gái thanh thanh, hỏi:

– Giờ này mà anh còn chưa ngủ à?

Tôi quay ra sau, thì ra là Linh, tôi giật mình hỏi:

– Sao em vào được? Anh nhớ đã khóa cửa rồi cơ mà!

Linh cười tinh nghịch, đáp:
– Có vẻ như anh chưa quen với việc em là thầy pháp nhỉ? Chỉ là một cái khóa cửa thôi mà, đâu thể làm khó em được! Hì

Tôi mời linh ngồi xuống canh giường, Linh hơi nhích người, khẽ ngồi gần vào tôi, tôi vội nhích người lùi ra chút tạo khoảng cách. Lình cúi đầu, tóc xõa kín mặt, vặn tay, lí nhí nói:

– Chắc anh hận em lắm phải không?

Tôi khẽ cười:

– Em làm gì mà anh hận! Chuyện qua lâu rồi mà, hãy coi nó như một kí ức tuổi học sinh đi.

Linh nói, giọng lại càng nhỏ:

– Em không có sự lựa chọn khác! Em là phận con nên em phải nghe theo sự sắp đặt của bố em. Anh đừng bao giờ nghĩ là em không còn yêu anh. Chưa bao giờ em như vậy cả! Đến tận khi chết cũng không.

Tôi nói:

– Quá muộn rồi! Anh giờ là người có gia đình, anh yêu vợ anh vô cùng, vợ anh cũng yêu anh bằng cả trái tim. Còn em đã trở thành người không được phép có tình cảm. Chúng ta ở hai nơi khác nhau hoàn toàn. Đối với anh, em chỉ còn là một kí ức, một kí ức đẹp!

Linh nói như van vỉ, giọng nghẹn ngào:

– Em xin anh! Anh đừng nói thế! Em sợ lắm! Từ ngày chia tay, không ngày nào em không nghĩ đến anh, em theo dõi mọi việc trong cuộc sống của anh. Em biết chuyện vì em mà anh trở nên thù tình, khiến bao cô gái phải đau khổ, vì em mà anh từ một người hiền lành ít nói trở thành một kẻ vô cảm, máu lạnh. Anh cứ đánh em, mắng em cũng được chứ đừng làm thế này. Em không thể chịu đựng được.

Tôi đứng dậy bước ra bên cửa sổ, nhìn mơ hồ ra bên ngoài, đáp lời :

– Con người rồi ai cũng sẽ thay đổi! Anh thay đổi là do bản thân anh vậy, mọi tội lỗi anh làm khắc có ngày anh phải bị trừng phạt. Em đâu phải nhận hết về mình. Anh làm sai, anh chịu!

Sau lưng tôi Linh im lặng không nói gì, một khoảng lặng nữa, tôi định cứ để thế nàng sẽ thôi, nàng sẽ quên tôi đi và bước tiếp cuộc đời mình. Hai ta cũng sẽ chỉ là người qua đường. Bỗng nhiên, có một vòng tay trắng muốt ôm vòng qua cổ tôi từ phía sau, rồi làn hơi thở âm ấm, thơm tho phả vào sau gáy mình, một thân mình nóng hôi hổi, mềm mại, áp nhẹ vào lưng tôi. Giật mình quay ra sau, hiện lên trước mắt tôi là Linh, nhưng...nhưng bộ đầm ngủ trên người nàng đã không còn, nàng hoàn toàn không mặc gì, đứng vòng sát bên tôi. Thân hình Linh đẹp vô cùng, yêu kiều diễm lệ, làn da trắng muốt, mịn màng, tấm thân trong trắng như ngọc, khuôn mặt thanh tú, xinh xinh nhìn không khác gì một thiếu nữ đôi mươi. Tôi đỏ lựng mặt lùi lại, ngồi phịch xuống giường, Linh vẫn không buông cổ tôi, nàng xà vào lòng, gục đầu vào ngực tôi thổn thức :

– Anh H! Em xin lỗi! Em xin lỗi! Em đã khiến anh phải khổ quá nhiều rồi! Tội nghiệt anh muốn gánh cũng được, nhưng anh hãy để em gánh một một nửa cho anh. Cả đời em chỉ có tấm thân này là quý giá nhất, em chỉ muốn trao thân cho anh, người đàn ông em mãi yêu, mãi yêu. Chỉ xin anh....anh đừng...đừng xem em như loại gái suồng sã, đầu đường xó chợ....! Xin anh...!

Rồi Linh lần tay cởi cúc áo tôi, đôi môi nàng lần đến môi tôi, nàng đặt vào tôi một nụ hôn say đắm, đê mê. Có lẽ đây là nụ hôn đầu của nàng, nó thật vụng về, cố bắt chước mà không được. Cả người tôi như mê như dại đi, tôi choàng tay ôm Linh vào lòng, ngả đầu nàng xuống, hôn lại một nụ hôn nồng cháy. Vô tình sao, tay tôi hơi hướng ra gần cửa sổ, ánh trăng rằm từ ngoài rọi vào, phản chiếu làm lóe sáng chiếc nhẫn trên ngó tay. Tôi giật mình tỉnh lại, nghĩ đến vợ, người một lòng chung thủy với tôi, vậy mà giờ đây tôi đang làm trò gì thế này? Vội vàng buông Linh ra, tôi cúi xuống đất nhặt tấm áo ngủ của Linh, choàng qua người nàng, cài cúc nghiêm chỉnh lại như cũ. Linh mắt ngấn lệ nhìn tôi, nói trong tiếng nấc:

– Anh...anh ...không cần em sao?..Tại.... em không đẹp hay tại...tại em quá..quá xấu xa? Em biết là em không xứng với anh! Nhưng xin anh ....đừng...đừng lạnh nhạt thế với em!

Rồi nàng lại gần tôi, ngả người nằm gọn trong lòng tôi, tay giơ lên định cởi cúc áo, tôi lấy tay nắm chặt tay nàng lại, nói :

– Em rất đẹp, rất đẹp Linh ạ! Em cũng là một người con gái tuyệt vời, tốt bụng! Rồi em sẽ tìm người thực sự xứng đáng với em, người đó sẽ không phải là anh, nhưng em sẽ hạnh phúc hơn khi bên người thực sự yêu. Còn đêm nay em hãy cứ ngủ đi, ngủ trong lòng anh này. Anh hứa không để chuyện gì xảy ra với em đâu! Yên tâm ngủ đi, có anh ở đây bảo vệ!

Linh nhìn tôi, hai hàng mi đẫm nước mắt, nàng cứ thổn thức khóc mãi, một lúc sau mệt quá, Linh ngủ thiếp đi, nằm ngoan như một con mèo con trong lòng tôi. Đôi lúc nàng giật mình nói mơ, đều là về tôi. Nhưng tôi coi như không có gì, cứ ngồi ôm Linh đến sáng, chờ nàng tỉnh dậy, thấy tôi vẫn thức canh, lúc đó tôi mới đi ngủ.

Một ngày mới lại đến, tôi vững tin hơn đón nhận tất cả, sau lưng tôi, không chỉ có bạn bè vào sinh ra tử mà còn có một người con gái yêu tôi hết lòng. Nhưng số phận trêu người, hai ta có duyên không có phận, thôi thì cứ coi nhau như những người bạn, kí ức kia xin để thời gian lưu giữ

Chuyện thứ bảy: Thập Diện Mai Phục

Sáng hôm sau, Linh tỉnh dậy trong lòng tôi, nàng tròn xoe mắt nhìn hỏi :

– Anh thức cả đêm à?

Tôi mỉm cười đáp:

– Ừm!

Linh đứng dậy, đi về phòng mình. Tôi đánh răng rửa mặt xong cũng xuống dưới nhà, ngồi ở phòng khách được một lúc thì thằng Việt uể oải bước ra, nó ngồi phịch xuống ghế, tu ừng ực hết cả ca café rồi ngồi đần mặt ra đấy. Chắc nó không biết chuyện đêm qua, hú hồn, nó mà biết chắc xấu hổ chui xuống đất mất. Tôi càu nhàu :

– Tổ sư mày! Cafe tao chưa được ngụm nào mà mày tu như voi uống thế kia. Tao vào bếp lất ca mới vậy.À mà thằng đột biến đâu rồi?

Thằng Việt lè nhè:

– Nó vẫn đang ngủ trên kia. Gớm! Tối qua nó say không biết trời đất là gì, đang đêm tự dưng vùng dậy hát í a, rồi lại còn đu ra ban công hú ầm lên : Vợ ơi anh yêu em. Làm tao mất cả hơi bia ngon, phải ngồi canh nó.

Tôi cười khà khà, bảo :

– Đấy! Sướng nhá! Có ông em rể hay thế còn gì.

Đoạn, tôi đi vào bếp. Đi gần hết phòng khách thì thằng Việt gọi giật giọng :

– Còn cả mày nữa đấy! Đêm qua may mà mày kiềm chế được, nếu không thì mất hết cả đạo hạnh của người ta. Cái này bọn tiểu thuyết gì gì đấy nó gọi là gì ấy nhỉ ? À...đúng rồi....sức mạnh của tình yêu có thể...có thể vượt qua mọi cám dỗ.

Rồi nó làm bộ ọe một cái để trêu ngươi tôi. Nhưng tôi thì đứng tim, đêm qua nó say bí tỉ, hai phòng lại cách xa đến thế, vậy mà cũng không qua mắt nổi nó. Tôi thở dài rồi đi tiếp vào bếp lấy ca café, lúc ra đã thấy Linh xuống rồi, lại ngồi cùng thằng Việt vẽ ra một đống trận pháp, nhìn đau cả mắt. Tôi đặt bình café xuống bảo :

– Mới sáng ngày ra đã! Hai người uống café chứ!

Linh cười toe, đón lấy ca café :

– Cảm ơn H nha!

Hôm nay nàng lại xưng tên với tôi như thường, lòng chợt thấy buồn buồn như đánh mất điều gì, nhưng tôi lại không hề có cảm giác hối tiếc.

Chị giúp việc dọn bàn ăn sáng ra. Ngồi một lúc thì Linh ăn xong, đi lên phòng thay quần áo mới, thằng D thì lảo đảo bước xuống cầu thang. Nó vươn vai ngáp dài, nhìn chằm chặp vào chỗ đồ ăn sáng, đưa tay xoa xoa bụng, cười hề hề:

– Hai ông bạn của tôi! Hai bạn đã ăn xong chưa vậy?

Thôi rồi, cái điệu bộ này bọn tôi đã quá quen thuộc, như một phản xạ, cả tôi và Việt cùng giơ tay ra định vơ nhanh mấy món muốn ăn. Thằng D cười cười, ra liền sáu bảy đòn cầm nã, cướp ngay mấy miếng bánh kẹp thịt nguội ngay trên tay bọn tôi, bỏ vào mồm nhai nhồm nhoàm. Rồi nó lại liếc đến đĩa bánh sủi cảo, lần này hai thằng quyết liều chết cố thủ, đồng loạt dàn chắn ngang giữa nó và đĩa bánh. Nó nhếch mép cười đểu giả, lùi người về phía sau rồi đột nhiên lao tới, tay hoa lên. Tôi và thằng Việt còn chưa kịp nhìn thấy gì thì tự nhiên mông mình nhói lên, vội nhảy lùi ra sau, quay sang trông thằng Việt cũng chẳng khá hơn là bao, đang ôm mông nhảy lẫng cẫng. Còn thằng tham ăn kia thì đường hoàng ngồi vào bàn, từ từ ăn hết bánh. Ăn xong nó quay sang nhìn tay hai thằng, tôi vội bỏ tọt khúc lạp xưởng vào mồm nhai sạch, thằng Việt lại giở trò cũ, há rộng mồm đút nửa cái bánh mì vào rồi phồng mang trợn má nhai sạch. Trông hai thằng đến là khổ sở.

Liền mấy hôm sau, không có động tĩnh gì cả, hôm nào cũng chỉ có chơi với tính chuyện làm sao đánh được bọn âm binh. Hôm nay, lại là ngày rằm, sửa soạn lễ cúng xong, bốn người đang ngồi ngoài vườn thì tự nhiên có luồng gió lạnh ào tới, thằng Việt đứng bật dậy, kêu to:

– Hỏng rồi! Ra đường làng nhanh.

Cả bốn lao như bay ra ngoài đường, vừa ra đến cổng thì có tiếng xôn xao ở quán bia đầu ngõ trên. Ra đến nơi, đập ngay vào mắt chúng tôi là cảnh bác B chủ quán đang đu vịn hết cành cây này sang trạc cây nọ. Mắt sáng quắc, xanh lè như mắt mèo nhìn xuống phía mọi người. Hỏi ra thì chẳng ai biết tại sao, chỉ biết là đang ngồi uống bia pha trò với khách thì tự nhiên bác B cười he hé, sùi bọt mép rồi thành ra vậy. Thằng Việt đứng dưới gốc cây, gọi to :

– Bác ơi xuống đi bác ơi!

Kì lạ thay, thằng Việt vừa dứt lời thì bác B tụt dần xuống gốc cây, rồi cả người đổ ập xuống đất. Xem mạch thì thấy mạch ngừng, hơi thở cũng tắt. Vợ con bác xúm vào lay xác, kêu gào thảm thương, dân làng đứng xung quanh cũng mủi lòng. Cả đám đông đang xúm xít lại thì chợt đầu miếu làng có tiếng hét thất thanh, hơn nửa số người tại đó vội chạy theo hướng tiếng hét, chỉ để lại hai, ba người ngồi cùng với nhà bác B. Nhưng ra đến nơi lại chẳng có gì, bỗng nhiên lại có tiếng hét đó ở góc khác, mọi người lại chạy về hướng đó, liền hai ba lần như vậy, ai cũng mệt bở hơi tai, không hiểu chuyện gì xảy ra. Tôi sực nhớ ra, gọi to mọi người :

– Về nhà bác B mau! Mình bị chúng nó lừa rồi.

Tất cả lại rùng rục kéo về chỗ cũ, nào ngờ một cảnh tượng tang thương hiện ra, cả nhà bác B đều nằm chết tại đó, máu cứ tuôn ra xối xả từ mũi, tai, mồm. Hai người ở lại cùng cũng phải vạ, nằm chết ngay cạnh đó. Trông thấy vậy thì dân làng ai cũng căm phẫn, có người uất quá khóc thành tiếng, than trời sao giáng họa bất công. Đột nhiên, ngoài bờ đê có tiếng gào, tiếng gọi to kêu cứu, lần này thì ai cũng tức lắm rồi, vớ được cái gì cầm đi cái nấy, chạy nhanh ra bờ đê xem đứa mặt giặc nào bày trò ác độc. Đến nơi thì lại chẳng thấy ai, nhưng lạ là mặt sông sóng cồn mạnh, ý như vừa có tàu bè chạy qua, nhưng suốt cả tháng có ai dám ra đây buổi đêm đâu. Bỗng nhiên, tiếng ông L hét lớn :

– Ối giời ôi! Các ông các bà xem kìa!

Tay ông L run run chỉ ra mặt sông, ngay lập tức tất cả đánh mắt nhìn theo, người đi xe máy thì rọi cả đèn xuống mặt nước, người có đèn chiếu đêm thì cũng rọi cả ra chỗ ông L chỉ tay. Thật không thể tin được! Chỗ mặt sông đó...mặt sông đó sóng đang cồn dữ dội....thấp thoáng trong đám sóng cồn...là..là..một khúc dài ngoằng, đen nhẫy, đang cuốn chặt lấy một người xấu số. Vừa nhìn thấy cảnh đó, một số người trong đám tái xanh mặt, hồn vía lên mây cả, trong đó có tôi, và cả thằng Việt. Đưa mắt sang nhìn mọi người, bắt gặp một số khuôn mặt năm xưa, mặt ai cũng hằn nỗi sợ hãi. Họ không sợ thứ kia như những người khác sợ, họ sợ sự trả thù. Được một lúc thì vật kia lặn mất tăm xuống nước, không biết nó bơi về hướng nào, trời tối quá mà đèn thì yếu. Sau biến cố đó, ai cũng bàng hoàng, sợ hãi, mọi người lục tục kéo về cả, phần vì lo hậu sự cho nhà bác B, phần vì muốn tránh xa chỗ gần nước này. Đêm đó, cả làng không ai ngủ.

Về nhà, Linh khẽ túm áo tôi hỏi con đó là con gì, sao nhìn khuôn mặt của tôi và Việt lại khác mọi người thế. Tôi mới từ từ kể lại cho nàng nghe mọi chuyện, từ biến cố năm xưa của làng, sáu ông phù thủy, hình nhân thế mạng,...và chuyện về lần cuối cùng con vật kia xuất hiện ở làng, những ai đã có mặt trong lần đó. Nghe xong, Linh níu chặt lấy cánh tay tôi, thở dốc, nói nhỏ :

– Em sợ lắm! Sợ nó...nó sẽ tìm đến trả thù anh...!

Tôi khoát tay bảo :

– Mình ở trên cạn, nó lên thế nào được. Lo gì chứ!

******************************

Sáng hôm sau, tôi và thằng Việt đi ăn sáng ngoài, trốn việc để thằng D ở nhà giúp Linh xay lá, vỏ cây làm bùa. Hai thằng ăn xong, ra quán nước ngồi. Được dăm phút thì một nhóm đàn ông trung niên đến, toàn là người gốc làng cả. Thấy hai thằng ngồi đó, chú H thợ săn năm xưa túm tay tôi, hỏi :

– Đêm qua, hai thằng thấy rõ cả chứ?

– Dạ!

– Cái người bị kéo đêm qua ý! Là bác Q, một trong năm người nấp trên cây với tao năm đó.

Tôi giật mình, hỏi lại:

– Thế nhà bác Q với nhà bác B tính sao rồi?

Chú H đáp:

– Nhà bác Q thì đang tính lập mộ giả để có chỗ hương khói. Mà lão B sao cũng bị nhỉ? Năm đó tao nhớ là có tao, có mày, thằng Việt, và bác T, bác V, bác C là trực tiếp cầm súng bắn, đồng thời cũng là những người còn sống đến giờ, ngồi cả đây! – Nói đoạn chú đưa bàn tay chai sạn ra, vỗ lần lượt vào mặt bàn trước mặt từng người như đang đếm lại. Rồi chú tiếp :

– Còn lão B tao nhớ rõ năm đó lão chỉ đứng trên mỏm đá hô vị trí, còn hô ném mìn là ông R, mà giờ ông ý chết rồi.

– Bây giờ làng mình còn tổng cộng bao người có mặt năm đó còn sống tới bây giờ vậy chú?

– Đêm qua lúc về tao đã tính kĩ rồi! Ngoài những người ngồi đây ra thì còn mười bảy người nữa, trong đó đi nơi khác hết chín, còn lại là tám người nữa. Nhưng giờ ai cũng sợ con kia nó về trả thù, rúc cả trong nhà rồi.

Bất chợt, bác K xen vào :

– Hai thằng tính thế nào thì tính! Năm đó chúng mày cũng có mặt, lành ít dữ nhiều đấy con ạ! Chúng mày còn trẻ phải lo, bọn tao già hết rồi, chết cũng không sợ, lần này quyết bám trụ tại làng, không có đi đâu hết, tao sinh ở cái làng này thì chết cũng ở cái làng này.

Vừa nói, bác K vừa lấy tay chỉ thẳng xuống đất, giọng khảng khái không biết sợ là gì. Thằng Việt im lặng nãy giờ, lên tiếng :

– Làng này là đất mình sinh ra! Có chết cháu cũng ở! Nhưng giờ cái cháu lo là ngoài con kia ra thì còn những thứ khác oán thù làng mình lắm. Các chú bác nhớ Cô Yêu áo trắng, mấy cái oán vong năm xưa chứ?

Nghe nói đến biến cố năm xưa, ai nấy đều rùng mình, bác K đáp :

– Làng mình mình giữ, quê mình mình bảo vệ. Bây giờ sáu ông thầy pháp đã mất cả, cụ K cũng không còn, cả làng chỉ còn hi vọng vào mình mày thôi đây Việt à! Giờ mày cứ nói đi, chỉ đâu bọn tao đánh đó, tao sống hơn nửa đời người, lăn lộn biết bao nơi mới về lại đây. Tao không thể để cái làng này dễ sụp thế được!

Bác K vừa dứt lời thì mấy chú bác ngồi đó đều đồng thanh :

– Anh K nói phải lắm! Làng mình mình giữ, chết cũng giữ!

Thằng Việt lễ phép đáp :

– Các bác đã tin tưởng cháu thì tối nay xin đến nhà cháu rồi mình bàn chuyện cẩn thận, giờ ta đi qua thắp cho bác Q, bác B nén hương đã. Sau đó, tất cả qua nhà hai người xấu số, cúi đầu trước những con người đã vì làng xóm mà gánh lấy tai vạ.

Tối hôm đó, tất cả hội chú H đến nhà thằng Việt bàn cách bảo vệ dân làng, bây giờ lực lượng công an và tự vệ quá mỏng, cần thêm cả người dân tự làm nữa. Mà phải làm nhanh vì thực phẩm trong siêu thị thì có hạn, mà xe chở hàng đến được nhưng không ra được, lâu ngày chắc bị hãm đến chết đói mất. Bàn qua tính lại, người thì bảo cứ cách cũ mà làm, người thì bảo giờ nó khôn ra rồi, phải dùng cách khác.

Đang rôm rả thì bỗng ngoài đường có tiếng lao xao, tất cả chạy ra xem thì thấy mọi người đang lũ lượt kéo về hướng nhà hàng Thanh Nguyệt, một nhà hàng xây sát sông, vốn là chỗ yêu thích của dân bợm. Vừa đến nơi thì thấy bà D chủ nhà hàng đang ngồi ôm mặt khóc trước cổng, dân làng thì đứng xum xít lại an ủi. Cả đám không rõ chuyện gì nên sấn vào trong xem, bên trong nhà hàng bàn vẫn bình thường, chẳng có gì xáo trộn cả. Ra hỏi bà D thì bà bảo :

– Nào tôi có biết cái gì đâu! Lúc đấy hơn 11h đêm, khách chẳng có ai đến, tôi mới bảo nhân viên đóng cửa, đi nghỉ. Nhưng lúc cậu A ra sau nhà lùa mấy con chó cảnh của tôi vào thì hỡi ơi! Mấy đứa con cưng của tôi tự dưng biến mất như bốc hơi, dây xích thì bị giật đứt.

Nghe xong, nhiều người ỉu xìu vì hóa ra chuyện chỉ là mấy con chó cảnh, chắc là do bọn trộm chó vào bắt đem bán rồi. Đột nhiên, chú H kêu lên :

– Thử ra chỗ xích mấy con chó xem nào! Hay là....

Dân làng kéo theo ra xem chỗ xích chó, thấy chỗ này xáo trôn không có gì nhiều, chợt bác T rọi đèn sát đất, cúi xuống sờ sờ rồi gọi :

– Ra đây mà xem này!

Tôi và thằng Việt, thằng D kéo ra nhìn, thấy chỗ tay bác T chỉ là một khoảng đất sát mép nước bị lõm xuống hơn gang tay, bề ngang chừng bốn mươi phân, nhẵn thín như có cái gì lướt vào. Dân làng xì xầm bàn tán, nghi là có trăn trong núi bơi theo nước vào đây, ngửi thấy mùi chó nên vào ăn, nhưng riêng cánh thợ săn và hai thằng bọn tôi thì mọi chuyện lại khác, vết này bọn tôi đã từng nhìn qua rồi, nhưng lần này, vết lõm to hơn gấp rưỡi....

Rốt cục thì cái làng này còn bị bao thứ rình rập nữa, chẳng lẽ bốn bề đều là đất chết sao?
Ba hôm sau, trong làng lại có biến lớn, cái họa năm xưa nó lại về, nhưng sáu ông thầy pháp đã chết, và thứ để nó trút giận chính là dân làng vô tội....

Chuyện thứ tám: Đến không hình, đi vô ảnh

Đã hơn hai ngày kể từ dạo nhà bà D bị mất chó cảnh. Bây giờ nhà nào trong làng cũng đề phòng không cho trẻ con ra chỗ có ao, mương lạch, sông suối chơi, mấy nhà gần hồ thì đóng cọc chăng dây thép gai những chỗ đất gần mép nước lại. Không khí trong làng như nghẹt thở, khắp nơi u ám một nỗi sợ hãi mơ hồ. Đêm nay, các chú trong hội thợ săn lại đến nhà thằng Việt bàn chuyện, bàn mãi rồi cũng ra quyết định là sẽ nhử con lươn kia bằng mồi thịt bò, rồi thuê mấy tàu chở khách xung quanh, mỗi tàu đều cho người cầm súng canh, lại chế thêm cả nỏ sắt ngoại cỡ, hai người khỏe mạnh mới kéo được dây, dùng nỏ đó để bắn mũi lao có ngạch, chân mũi lao nối với xích móc liền với thuyền. Chỉ cần còn lươn kia bị trúng vài mũi là các thuyền đồng loạt kéo về một hướng, sau đó người cầm súng cứ từ từ nhắm xuống nước mà bắn chết nó. Kế hoạch đặt ra thực quá hoàn hảo, phen này có kéo cả họ hàng hang hốc nhà nó đến cũng chết hết!

Bàn bạc xong cũng đã muộn, bác V cáo mệt xin về trước, bác T cũng về theo để có hai người đi cùng nhau cho an toàn. Mọi người thì ở lại bàn tiếp cách chế nỏ, đặt người sao cho thích hợp. Thằng Việt và tôi căng óc ra nghĩ cách đặt nỏ, kích thước, vật liệu thế nào để khi bắn phải ra lực mạnh nhất, ngồi vẽ vẽ tẩy tẩy được một lúc thì thằng D đột nhiên quát to rồi giơ tay ra hiệu im lặng:

– Tất cả trật tự! Nghe như có tiếng kêu cứu !

Cả đám lắng tai nghe, đúng là có tiếng kêu ở xa vẳng lại, hình như càng ngày càng lại gần, nghe như nghe như tiếng bác T. Chú H nghe ra tiếng bạn đầu tiên, hô to:

– Hai lão kia có chuyện rồi, đem vũ khí ra xem. Nhanh!

Mọi người vội vàng quơ lấy mấy thanh ma trắc, mã tấu trên bàn, phi nhanh về hướng kêu cứu. Đến nơi thì đã muộn, bác T ngồi thần mặt ra đấy, bác V thì chẳng thấy đâu. Chú H cúi xuống lay mạnh vai bác, hỏi lớn:

– Bác T! Bác T! Anh V đâu rồi? Làm sao mà lại ra nông nỗi này!

Nhưng bác T vẫn cứ giương đôi mắt vô hồn nhìn mọi người, chợt bác hú lên, lấy tay che mặt, chân đạp loạn xạ về phía trước, gào khóc:

– Nó kìa! Anh V ơi chạy đi! Nó kìa! Chạy đi!

Từng người một vào hỏi đi hỏi lại cũng chỉ nhận được vài câu ú ớ vô nghĩa từ bác T, chợt thằng D rẽ đám đông ra, rút trong túi áo một mẩu nho nhỏ, hình như bằng gỗ gì đó. Nó châm diêm, đốt mẩu gổ cháy lên như điếu thuốc rồi đưa sát mũi bác T, hươ hươ mấy cái cho hơi khói xông lên mũi. Bác T ngửi xong thì chợt ớ lên một tiếng, nói ra đúng một câu :

– Nhanh lắm, nó nhanh lắm, các bác chạy đi mà giữ....!

Rồi bác T lịm đi, người ta dìu bác lên trạm xá, cắt cử ba người ở lại chăm sóc. Còn lại thì người rọi đèn pin, người cầm loa tay, đổ xô đi tìm bác V. Nhưng tìm suốt đêm, sục sạo từng góc vườn, bụi tre mà không kiếm được. Đành phải đổi phiên cho nhóm khác đi tìm còn nhóm này phải về nhà nghỉ vì quá mệt.
Sáng hôm sau, có tin báo từ nhóm thứ hai về, người ta đã tìm ra bác V, hay đúng hơn là phần còn lại của bác. Tôi và thằng Việt, thằng D, Linh kéo lên chỗ thung mà người ta kêu tìm được bác V. Đến nơi thì một cảnh tượng tàn ác, dã man đập ngay vào mặt mọi người. Trong đám thì tôi nhìn thấy đầu tiên, vội vàng kéo đầu Linh úp vào ngực mình, giữ chặt không cho nàng nhìn thấy thứ tôi đang thấy. Trên ngọn tre bị uốn cong vì sức nặng của cái xác, có một sơi dây leo cuốn chặt quanh cổ bác V, nhưng phần bụng của bác thì bị con gì xé toang ra, lòng ruột vắt cả trên cành tre. Tôi nheo mắt nhìn kĩ thì thấy hàm dưới của bác đã bị bẻ gãy, há ngoác ra, mắt bác V trợn trừng nhìn xuống đất. Quay sang nhìn mọi người thì thấy lắm người không thể chịu nổi cảnh tượng thương tâm này, ngồi phệt xuống đất mà thở dốc, đến ngay cả người có máu mặt, từng trải như hội thợ săn của chú H, hay người đã quá quen nhìn thấy ma quỷ như thằng Việt, hết thảy đều lặng ngắt đứng nhìn, không nói được lấy một lời. Đang kinh hoàng nhìn thì tự nhiên Linh rút đầu ra khỏi tay tôi, mắt ngước lên nhìn tho hướng mắt tôi. Nhưng kì lạ là Linh không hề hét lên hay khóc thét như tôi nghĩ, nàng nhìn đăm đăm vào cái xác trên ngọn tre, rồi quay sang tôi thì thào :

– Con Cùng Cục nó làm đấy !

Tiếng nàng tuy thì thầm nhưng cả bãi đó đều lặng như tờ nên thằng Việt và một vài người đứng quanh nghe được. Thằng Việt vội hỏi:

– Con Cùng Cục là con gì vậy? Sao tôi chưa nghe nói bao giờ?

Linh giải thích:

– Con Cùng Cục là một dạng bùa độc, anh Việt chỉ chú trọng giải yểm, giải phong ấn nên không rõ cũng phải.

Thằng D xen vào:

– Bùa độc? Kiểu như mấy lão thầy Campuchia luyện bằng sọ người đấy hả?

Linh đáp :

– Cũng gần như là vậy. Nhưng dạng này là loại độc địa hơn nhiều, kẻ luyện bùa này sẽ dùng hồ lô bạc thu oán vong, dã quỷ vào trong, rồi đem hồ lô đó cho một con khỉ trắng bị chết rũ uống. Uống xong con khỉ sẽ thành phần xác của những oán vong đó, cơ thể nó cũng to lên, biến dị đi. Từ đó, con khỉ sẽ thành con Cùng Cục, chịu sự sai khiến của kẻ luyện bùa. Nhưng nếu người luyện bàu mà đột ngột chết khi chưa phá bùa độc trên người con khỉ thì con Cồng Cộc sẽ thành vô chủ, lúc đó nó trốn đi ngay, tu luyện thành tinh, chỉ có đi giết vật sống rồi hút máu để lấy cốt dương.

Nghe xong, tất cả mọi người đứng đó đều kinh hãi, trước thì có con lươn phong tỏa dưới nước, giờ thì thêm cả cái con Cồng Cộc gì gì này ở trên cạn, thế này thì sống sao nổi. Sáng hôm đó, mọi người quây lại lo đỡ xác bác V xuống, lo hậu sự cho bác. Việc trừ con lươn chưa thành mà hai thợ săn lão luyện đã mất, một người thì chết thảm, còn một người thì thành điên điên khùng khùng.

Tối hôm sau, tôi đang nằm đọc sách trên tầng hai thì nghe có tiếng huyên náo dưới đường, vội quăng quyển sách rồi chạy xuống, xuống đến nơi thì thấy anh E nhà đầu ngõ đang sùi bọt mép nằm co giật, có hai người đang cố sơ cứu, một vài người thì gọi điện thoại cho bác sĩ ở trạm xá đến đưa đi. Bác A mẹ anh thì cứ khóc ầm lên gọi con. Đêm đó, đưa vào viện được một tiếng thì anh E tắt thở, mọi người ai cũng lấy làm lạ vì từ bé đến giờ anh thuộc vào loại trâu lì nhất làng, sức khỏe tốt, gia đình thì chẳng ai có tiền sử bệnh tim hay động kinh cả.

Ngay sáng tiếp theo, cả làng lại thức giấc vì tiếng chửi bới, gào thét từ nhà vợ chồng chị L, dân làng vội vàng kéo ra xem sự thể. Vào đến sân thì chẳng thấy gì, lặng ngắt như tờ, người ta vội vàng đi tìm khắp nhà xem hai vợ chồng anh đâu, tìm ra vườn sau nhà chị thì phát hiện chị L đã chết, chân tay gẫy nát hết cả, trên cổ còn vết toác rộng của răng cắn ngập vào. Tìm thêm lúc nữa thì một cụ sinh nghi, mở nắp giếng khoan nhà chị ra xem. Nào ngờ, trong lòng giếng là anh P chồng chị, hình như anh sợ quá trốn dưới đó rồi chết ngạt từ bao giờ, lúc đem lên xác đã lạnh cứng rồi. Mọi người đặt xác hai vợ chồng ra sân, đắp chiếu lên rồi chờ Công An đến lập biên bản. Đang bình thường bỗng nhiên tấm chiếu đắp anh P lay động rồi tuột xuống đất, một người đứng gần đó vội cúi xuống kéo tấm chiếu lại như cũ. Bất ngờ, cánh tay anh P bật lên, nắm chặt lấy cổ tay người này, cái đầu anh quay một vòng như con búp bê, hai mắt đỏ quạch, nhăn răng ra cười khanh khách. Người kia hoảng quá vội giằng tay ra bằng được, nhưng bàn tay anh P cứ nắm chặt không buông ra. Bỗng thằng Việt bước vào, chắp hai tay lên thái dương, di chuyển xuống ngang ngực, bắt quyết, mồm đọc rành rọt:

– Hồn ở nơi xa! Cung Phong chuyển khách, chủ bị hạ thần, mau về tạ tội!

Xong, nó vỗ vỗ vào cổ tay anh P ba cái, tự dưng bàn tay anh buông thõng xuống, rời tay người kia ra. Anh kia thoát nạn, rối rít cảm ơn thằng Việt. Liền mấy ngày sau, làng lại có thêm hai người nữa hóa điên, dân làng hoảng sợ tột độ. Một bữa, thằng Việt bảo tôi gọi thêm mấy người to khỏe, tháo vát đến đây, xúc đất đắp một cái đàn cao ba bậc, cao tổng là nửa mét, chu vi mười tám mét. Đàn lập xong, thằng Việt kêu thằng D và tôi giúp nó khiêng cái bàn trong nhà ra, phủ vải vàng lên, bày biện trên đó đủ thứ, lại còn cầu kì hơn những lần nó lập đàn hồi trước. Bày biện xong, Linh lại ra cắm xung quanh đàn hai tám ngọn cờ, mỗi ngọn vẽ một chòm sao. Nhìn cái đàn lúc này trông oai nghiêm, bí hiểm vô cùng.

Đến chừng 8h tối, thằng Việt tay cắp một cây kiếm thép dẻo, mỏng như lá lúa, bước lên đứng bên bàn tế, hôm nay nó không mặc áo vàng như trước nữa, nó mặc một bộ áo cánh hạc màu trắng tinh, hai cánh tay và lưng áo thêu đầy hình âm dương bát quái, hai bên vạt áo lại vẽ vô số chữ loằng ngoằng như giun như dế. Linh hôm nay cũng đứng vào phụ đàn, nàng mặc một bộ đạo bào màu đen, thêu hình con hạc sau lưng, đầu búi tóc kiểu giả nam trang. Chờ đến đúng 9h, thằng Việt nhón một nhón muối, ném qua ngọn lửa đèn cầy, đám muối cháy tanh tách, nổ xòe như bông. Gác thanh nhuyễn kiếm lên bàn, nó một tay cầm một quả chuông đồng, một tay cầm tám đồng xu nối với nhau bằng chỉ đỏ, rồi nó lắc quả chuông liên hồi, mồm liến thoắng đọc chú. Bỗng gió nỗi lên ào ào, lúc này thì Linh mới chính thức chạy đàn, nàng xoay thanh kiếm ngang ngực, tay bắt kiếm quyết rồi lại chuyển sang áp chỉ, trỏ hai ngón lên trán, bắt đầu chạy quanh đàn tế, vừa chạy vừa đọc đều đều như tụng kinh. Thằng Việt đặt chuông xuống, hai tay tung xâu tiền lên không rồi bắt lấy, nhẹ nhàng tung hững, vừa tung vừa bắt quyết, miệng đếm từng đợt: " Thanh! Yến! Hỏa! Tích Lịch! Phổ! Ám! Phi! Tân!....", nó đọc đến chữ "Vệ" thì dừng lại, ép xâu tiền vào hai lòng bàn tay, nhẹ nhàng miết một cái, sợi chỉ đỏ đứt tung, rồi nó quăng tám đồng tiền ra tám hướng. Khi đồng tiền cuối cùng quăng đi thì nó hươ tay chỉ thằng về trước, lại giật về bắt quyết ngang chân mày, cuối cùng là xòe cả bàn tay ấn xuống đất. Sau đó, thằng Việt nâng một cái đĩa vẽ hình tứ linh ra, trên đĩa chia thành nhiều vòng tròn đồng tâm, mỗi vòng lại chia thành nhiều khoanh nhỏ đều nhau, trong mỗi khoảng trống lại có mấy chữ bé tí khắc vào. Nó nhẹ nhàng cầm cái đĩa lên đặt vào một que hương độc nhất đang cháy dở trên bát hương con, kì lạ thay, cái đĩa đững vững không hề nghiêng ngả chút nào. Thằng Việt lẩm nhẩm đọc quyết chú, một tay chỉ vào khoảng Ấn đường, một tay chắp lại, chừa ngón trỏ và ngòn út, trỏ vào cái đĩa. Bỗng nhiên, cái đĩa từ từ quay trên que hương, cứ càng ngày càng quay tít mù mà que hương thì vẫn cứ từ từ cháy tiếp như thường. Ở ngoài vòng, Linh đã ngừng chạy, bày rất nhiều đèn thành hình thất tinh, hướng thẳng về bắc. Gần một giờ sau thì hương hết, cái đĩa quay dần dần chậm lại rồi dừng hẳn, thằng Việt vẫn dữ nguyên vị trí tay trỏ rồi vạch một đường mực đánh dấu chỗ ngón tay vừa chỉ vào, xong nó đặt cái đĩa xuống, khiêng một cái lư đồng nhìn như lò bát quái ra, đặt lên bàn tế. Thì ra cái lò đó là đựng những vỏ cây xay với bột vẽ bùa. Nó cầm một đấu nếp rắc đều ra xung quanh, rắc cả đậu đỏ, đỗ xanh nữa, xong nó khẽ khoát tay, rồi đột ngột vung mạnh tà áo một vòng, đồng loạt chỗ gạo đỗ vừa rắc bỗng cháy sáng đỏ hồng, xong thằng Việt cúi xuống bốc chín nhúm tro lên, thả vào trong lò bát quái. Lúc này, Linh như bỗng xuyên bốn lá bùa vàng vào cây kiếm đào mộc, đứng thẳng người bắt quyết niệm chú, nhanh như cắt lao ra chỗ bảy ngọn đèn, chĩa mũi kiếm xuống hất vào bấc đèn, mỗi lần hất là một tư thế, một kiểu kiếm quyết khác nhau. Nhưng mỗi lần hất....một ngọn lửa lại bay vù từ ngọn đèn lên trên cốc dầu đặt trên đỉnh cờ từ bao giờ, mỗi ngọn hất được bảy lần thì tắt, và khi ngọn đen cuối cùng tắt cũng là lúc đỉnh của hai tám cây cờ sáng lên ánh đèn. Trên đàn, thằng Việt lạy ba lạy rồi cầm lấy cây nhuyễn kiếm, chỉ ngang chỉ dọc xong rồi xoay một vòng, đọc to:

– Thiên địa hữu tình! Trừ ma vệ đạo! Khôn thiêng giúp ta! Cứu khổ bá tánh!
Thái Thượng Lão Quân cấp cấp như luật lệnh!

Xong nó uốn cong cây nhuyễn kiếm, cắn ngón tay lấy máu rồi búng lưỡi kiếm chỉ thằng vào miệng lò, ngón tay ép vào mặt kiếm cho máu nhỏ theo rãnh kiếm ra đến mũi. Trong lúc giọt máu từ từ chảy xuống mũi kiếm thì lửa từ hai tám ngọn đèn trên cờ bỗng phụt thẳng vào lò như phun xăng. Lò bát quái cháy bập bùng cháy lên, rồi khi giọt máu nhỏ vào lò, bất ngờ ngọn lửa bùng cháy xanh lam cao vượt đầu người. Thằng Việt mỉm cười hài lòng, lấy mấy nhành lá, cỏ cây trên bàn quảng vào lò, sau đó lấy mười tám lá bùa xanh, xuyên vào lưỡi kiếm, tay trái nhẹ nhàng tuốt cả chỗ bùa vào lò, gác kiếm lên xong lại bắt quyết chỉ tay vào lò khấn lầm rầm. Cuối cùng nó đậy nắp lò lại, tay vớ lấy cây phất trần phất mấy cái xong mở nắp lò ra,bên trong lò là một thứ bột nhuyễn màu đen xì. Nó lau mồ hôi rồi bước xuống đàn, bảo thằng D lót tay kĩ xong bê cái lò xuống, đem ra sân, sau đó lấy tiết gà, máu chó đen hòa vào chục thùng nước, mỗi thùng ba bát mỗi loại. Hòa xong thì chia đều chỗ bột đen ra, hòa đều vào các thùng sao cho đừng sóng thành bọt. Làm xong tất cả thì cả bốn đem chỗ này ra ngoài làng, lấy chổi con quét vôi nhúng vào, quét nước này lên cửa mỗi nhà. Nhà nào cũng phải quét thành hình vòng tròn, giữa vạch một đường thẳng chia vòng tròn làm hai. Cả đêm hôm đó tới tận sáng hôm sau, bốn người chúng tôi và mấy chú bác lớn tuổi đem quét hết từng nhà, ngay cả trụ sở xã cũng quét. Làm xong thì đã hơn 9h sáng, vẫn còn thừa một thùng, thằng Việt bảo cất đi ắt có lúc dùng đến, để bao lâu cũng được.

Sau đợt đó, trong làng yên hẳn, đường vào làng cũng không bị chặn nữa, dân làng lại thoải mái ra vào, làng lại tấp nập như trước. Nhưng một ngày, lúc 2-3h sáng bỗng có tiếng trống dồn dập trong núi, sau đó là tiếng reo hò, chửi bới, rồi tiếng chạy rầm rầm trên đường làng. Cả làng vẫn còn khiếp hãi chuyện lần trước nên im bặt, mấy nhà gần mặt đường có người lén nhìn qua rèm thì thấy một đám đen trắng đủ cả, chạy ầm ầm từ trong núi ra ngoài rồi sáng lại chạy về. Ba ngày sau, một hôm thằng Việt bảo bọn tôi chuẩn bị vũ khí, đồ nghề bùa phép thực kĩ. Tôi vội hỏi:

– Tao tưởng xong rồi chứ! Bây giờ còn làm gì nữa?

Thằng Việt cười đáp:

– Lần trước chỉ là phòng thủ thôi, lần này mình sẽ không chỉ phòng thủ nữa.

Thằng D ngơ ngác :

– Thế rốt cục là bây giờ phải làm những gì nào?

Thằng Việt nhẩm tính gì đó rồi bảo:

– Còn rất nhiều việc, rồi còn phải đi gặp vài người bạn cũ, đi gặp đồng minh, đi mượn vũ khí,...nhiều lắm. Phen này có dịp cho mày trổ tài đấy thằng cốt đột. Tre muốn chặt thì gai phải đốn!

Nghe nó nói úp úp mở mở chẳng hiểu gì cả, làm mình sốt hết cả ruột
Liền một tháng sau là bận rộn, đối phó với đủ thứ biến cố, dọn đường cho trận đánh thực sự.

Chuyện thứ chín: Nghĩa vợ tình chồng

Cũng đã gần tháng kể từ ngày vạch chia đất sống đất chết, làng yên ắng, đêm đêm chỉ thi thoảng nghe tiếng đì đùng trong núi như ai nổ mìn. Rằm tháng tám năm đó, ông Bách từ Thiểm Tây sang thăm thằng Việt, vợ con tôi và hai mẹ con Ngọc Anh cũng về, nhưng Linh thì đột nhiên không từ mà biệt.

Căn biệt thự vốn ít hơi người giờ bỗng chốc vui vẻ, đầm ấm vô cùng. Đám trẻ nhỏ cứ xúm vào ông Bách, đòi ông kể truyện ma. Nghe xong đứa nào cũng rúm lại rúc vào bố mẹ mà vẫn thích. Một hôm, hai đứa bé đang chơi ngoài sân với ông Bách thì đột nhiên hai đứa đồng loạt chạy vào trong nhà, túm áo người lớn chỉ ra ngoài, bảo :

– Bố ơi! Chú Việt ơi! Cụ bị người lạ bắt nạt! Hứ Hứ Hứ!

Hoảng quá, cả bọn vội chạy cả ra ngoài sân xem sự thể. Ngoài sân, ông Bách đứng chắp tay sau lưng, bình thản nhìn hai người đàn ông lăm le trước mặt. Hai người đó một già một trẻ, người trẻ thì cơ bắp cuồn cuộn, nhìn đô con không kém gì thằng D, người già hơn trông lùn, béo, đầu trọc lốc. Ông già đầu trọc lên tiếng :

– Gọi thằng Việt ra đây cho ta dạy bảo!

Đậu xanh rau má! Lão nhiều tuổi thì nhiều tuổi thật mà sao ăn nói hách dịch thế. Thằng D gằm ghè, sấn lên quát :

– Ông kia! Ông là ai mà đến đây gây sự? Đừng tưởng nhiều tuổi mà tôi nể mãi nhé!

Ông già kia khinh khỉnh:

– Người lớn đang nói chuyện! Đừng có chen ngang. Biết khôn thì ra đây ông dạy bảo cho nhiều điều hay. Mà thằng Việt đâu sao không ra đây? Nó sợ quá trốn rồi hả?

Lúc này thì đúng là không nhịn được nữa rồi, tôi đang định bước lên nói lí thì ông Bách khẽ đưa mắt ra hiệu, tôi vội lùi lại. Ông Bách cười gằn, tay vuốt chòm râu bạc, nói:

– Con cháu nhà tôi tự khắc tôi biết đường dạy bảo! Không phiền đến lão Đinh nhà anh. Xét thứ bậc tôi hơn cả anh đấy.

Chợt người đàn ông trẻ hơn sấn sổ lên, quát lớn:

– Ông già biết cái quái gì mà lên mặt! Thầy tôi từ trước đến giờ nói ai thì người đó cấm có cãi. Ông đứng vào hàng nào mà đòi hơn thầy tôi?

Ông Bách quát giật:

– Im ngay!

Gã kia nghe thấy,giật mìnhngười lùi ra sau, lão Đinh quay ra bảo:

– Chỉ giỏi trò bắt nạt trẻ con! Thử cho hai đứa đọ sức xem thế nào, còn ta và lão thì chơi đánh cược.

Ông Bách cười ha hả, đáp:

– Nghe cũng được đấy! Nhưng lão chỉ còn bộ khung già này làm vật cược thôi, anh có gì làm vật cược?

Lão Đinh kia thoáng cau mày, ngẫm một lúc, lão ngần ngừ đáp:

– Được rồi! Vậy ta cũng lấy mạng già mình ra để cược! Nhưng trò của ta chỉ mới học đến Nhân Đẳng, tư chất lại đần độn, không thể nào bằng cháu lão được. Vậy ta đấu sức nhé!

Ông Bách chột dạ, còn chưa kịp đáp thì lão kia bồi thêm:

– Hay là lão sợ, thằng cháu lão cũng sợ! Thôi không sao! Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh mà! Ông nội như thế thì thằng cháu làm sao khá khẩm hơn!

Thằng Việt nóng máu, bước ra thì đột nhiên thằng D khoành ta gạt lại bước lấn lên, nói to:

– Tôi Việt đây! Muốn đọ võ theo kiểu nào? Cứ thoải mái, tôi chấp cả?

Lão kia nhìn chăm chú hồi lâu, hỏi:

– Thằng này là thằng Việt?

Thằng Việt định trả lời thì thằng D khoát tay cản, ra hiệu mặc nó lo hết. Nó trả lời:

– Chẳng thật thì giả? Già đâu mà sao dốt thế?

Lão Đinh lừ mắt, cười hô hố đáp:

– Thế mà ta cứ tưởng truyền nhân nhà họ Trương tài giỏi thế nào? Cái danh Thần đằng hóa chỉ là danh hão! Trông tướng tá thế này mà cũng theo nghề được? Đúng là chưa đi chưa biết, đời có lắm trò bịp bợm!

Thằng D nóng máu xông vào, lão già lùi ra sau, phất tay bảo gã sau lưng đi lên. Giờ là trận chiến giữa thằng D và tên lạ mặt, chúng tôi ở ngoài vòng thì cứ thấp thỏm lo sợ, thằng Việt lại càng lo ác. Hai người giao đấu chừng hai hiệp thì gã kia bị trúng hai thoi quyền của thằng D vào vai và lưng, nhưng sao gã khỏe quá, trúng hai đòn của cột đột mà vẫn chưa ngã. Sang hiệp thứ năm, thằng D đổi thế bộ pháp từ cương mãnh sang âm nhu, di chuyển nhẹ nhàng đến sát bên người gã kia. Nhẹ nhàng tách vòng thủ của gã kia, đưa tay trái vào trong rồi bất ngờ chuyển thế cương, vỗ mạnh vào mạng sườn. Nhân lúc gã kia còn ngạt thở vì đòn, thằng D tung liền mười bảy đòn cầm nã, móc vào gân, quặp vào bắp, kết thúc bằng một đòn hiểm móc thẳng vào yết hầu gã. Bỗng nhiên, một cái bóng trắng vụt vào trong, hất thằng D lùi ra ngoài, thế nhẹ như bông. Thì ra lão Đinh đã lọt vào vòng chiến, thấy đệ tử mình gặp khốn liền ra tay cản đòn lại. Thằng D đang hăng máu đánh, chửi đổng :

– Ê thằng già! Sao mày lại chơi bẩn thế hả?

Rồi nó tuôn ra một loạt từ tục tĩu hết sức, nào là con bà mày hấp nhau trên bàn thờ đẻ ra thằng đầu trọc, rồi thằng bố mày ăn ở thất đức nên thằng con không có lông đầu. Mợ nhà nó, mày mà mình để ý, thấy nó hung hung lên là đã phải kéo hai đứa bé vào, đưa cho vợ bịt tai chúng nó ôm vào trong nhà, không thì hôm nay hai đứa bé ăn no toàn lời hay ý đẹp. Nghe thằng D chửi, gã kia đang nằm dưới đất cũng chửi giả lại, càng điên tiết thằng D lại càng chửi tợn. Nó lôi hết cả ông bà ông vải nhà kia ra xỉ vả, mà giọng thằng này thì oang oang như sấm, nghe váng cả óc. Bên kia, lão Đinh đỡ thằng đệ tử dậy rồi lão cũng xen vào chửi, hai cái mồm mà không đọ lại một cái mồm của anh cốt đột. Một bên thì chửi chơi bẩn, một bên thì chửi đánh đòn hiểm, không bên nào chịu nhương bên nào. Tiếng chửi đùm, chửi lấp kinh động khiến hàng xóm bu lại xem, thật là nhục mặt. Nhưng mấy người đang chửi thì không thấy gì, cứ đứng đó chửi cho sướng mồm. Ông Bách giờ ngớ người ra nhìn thằng D, chắc ông không ngờ thằng lầm lì ít nói này lại có vốn từ phong phú đến thế. Còn Ngọc Anh thì chau mày lại, bước ra túm tay áo thằng D giật giật, nói :

– Anh ơi đừng chửi nữa mà, vô văn hóa lắm!

Nghe vợ ngọt nhạt, thằng D im re, mặt nó từ đỏ bừng bừng, mắt trợn tròn như Trương Phi giờ chuyển ngay sang kiểu mềm yếu, nói :

– Anh nóng quá! Anh xin lỗi vợ! Thôi mình về, anh lại làm ông chồng đức độ nhá!
Trông thằng cốt đột thay đổi 180 độ, ông Bách lại ngớ ra nhìn ngạc nhiên, chòm râu rung rung nhìn vào hai đứa, không hiểu cô cháu gái mình có sức mạnh gì mà khiến thằng to đùng kia nó ngoan ngoãn như con mèo. Phía ngoài hàng xóm xem thấy hai người đi vào thì cũng về sạch, hết hứng xem. Còn về phần anh cốt đột thì vẫn đang hăng, quay lại chửi thêm vài câu mới chịu yên, dắt tay Ngọc Anh đi vào chỗ bọn tôi. Hai vợ chồng đang đi về thì tự nhiên gã kia, rút ra hai mũi dao, phóng thẳng vào Ngọc Anh. Nghe tiếng rít gió, thằng D vội quàng tay ra sau gạt hai mũi dao, nhưng nó chỉ gạt được có một, còn tay thì bị trúng dao. Đột nhiên thằng D đổ vật người ra, Ngọc Anh vội rút mũi dao, đè chặt tay vào cầm máu, hét to:

– Dao có độc! Anh H, Anh Việt lên giúp em với!

Hai thằng kinh hoảng, vội lao lên cứu. Gã kia nhân lúc loạn ném liên tiếp sáu mũi tiêu nữa. Thằng Việt quay tròn sợi nhuyễn tiên, gạt hết tiêu, đứng sấn ra che cho em gái. Tôi thì vung thiết côn lên tấn công gã kia, dùng Bát quái côn vây lại, câu giờ cho cứu thằng D về. Nhưng mình cũng chẳng cầm cự được bao lâu, sử hết chiêu mà vẫn phải lùi dần lùi dần. Đột nhiên cây côn bị chặn lại rồi rụt khỏi tay, chưa biết chuyện gì xảy ra thì cả tôi và thằng Việt ăn ngay một đòn côn vào bụng, ngã lăn ra đất, thở như nghẹn lại. Lúc lấy lại hơi thở thì thấy ông Bách đang vờn quanh lão Đinh, liên tiếp ra đòn nhẹ nhàng, hóa giải thế cương mãnh của đòn lão đánh ra. Bên phía Ngọc Anh thì cuống cả lên, thằng D đã tỉnh nhưng không tài nào ngồi dậy được. Ngọc Anh khóc nói :

– Anh đừng có cử động mạnh! Độc càng lan nhanh! Anh Việt ơi anh xem chồng em thế nào!

Thằng Việt lật đật chạy ra, còn tôi lại ra đứng canh, đề phòng gã kia giở trò đánh lén. Nghe thằng Việt bảo độc này phải để yên một lúc rồi mới uống thuốc chữa được, cử động mạnh là càng lan nhanh, khó chữa. Đang chú ý đến ông Bách, lo ông tuổi cao mà phải đánh thế này ắt sẽ mệt nhanh, đột nhiên có tiếng ù ù, liếc ra thấy ngay một viên đá bay thằng vào sau gáy thằng Việt. Không kịp suy nghĩ gì, tôi vội chạy ngay ra, gống người lên đỡ viên đá, may mà trúng vào bắp tay, nhưng ê ẩm cả người, nằm vật ra đất. Thằng Việt vừa quay ra sau thì trúng một viên vào ngực, cũng nằm nốt. Tình thế loạn vô cùng. Ông Bách thấy nguy vội chạy về cứu cháu. Đột nhiên, gã kia phóng một mũi dao vào lưng thằng D, định kết liễu luôn nó. Nhưng bất ngờ, Ngọc Anh lao vòng ra, lấy lưng che chắn cho chồng. Mũi tiêu găm ngập vào sau vai, máu tuôn xối xả. Mấy thằng nằm đó như người vô dụng, tức trào máu mà không làm gì được. Chưa hả dạ, gã lại bồi thêm hai mũi dao nữa, nó định giết cho tiệt đây mà. Bỗng một cánh tay giương lên, dùng tay trần bắt lấy một mũi, còn một mũi thì giơ cả bàn tay ra hứng.Thì ra thằng D dốc nốt sức tàn, lấy tay chặn đòn lại. Nó cắn răng nhặt mũi tiêu trên đất lên, ném mạnh về phía gã kia, ném xong nó cũng ngất lịm đi. Tôi và thằng Việt trông thấy bạn bị vậy, gào lên, cố sức vùng dậy mà không được, cả người cứ như tê bại đi. Ông Bách quay ra nhìn , thấy bọn trẻ đều gục hết cả, bị phân tâm, liền dính ngay một cước vào chân, lùi lại ngồi phịch xuống đất. Thôi thế là hết! Hết thật rồi!

Bỗng nhiên có tiếng sáo, hai đứa kia thoáng nghe thấy vội lủi mất, có vẻ sợ người này lắm. Ông Bách gọi to một tiếng đáp trả thì tiếng sáo dứt. Ông bước ra chỗ chúng tôi, đỡ hai thằng dậy, bấm bấm vài cái vào người thì tự nhiên khỏi. Vừa khỏi là chúng tôi lao ngay ra chỗ hai vợ chống Ngọc Anh. Lúc này hai người đã yếu lắm rôi, Ngọc Anh ngất vẫn ôm chặt chống, vết dao găm vẫn rỉ máu làm ướt cả lưng áo, còn thằng D thì mắt lờ đờ, nước mắt lưng tròng, nhìn đăm đăm vào khuôn mặt tái nhợt của vợ. Mặt nó cũng chẳng khá hơn, hai môi tím ngắt lại, da mặt sạm đi, nhìn hệt như người chết. Hai thằng bọn tôi đau lòng, khóc rống lên, ông Bách cũng không cầm được nước mắt, cố quay đi để không ai nhìn thấy. Ba người khiêng vợ chống thằng D vào nhà, cố tìm mọi cách cứu chữa, quyết giành hai người về từ tay thần chết. Thằng Việt xem mạch, băng bó chu toàn xong, quay ra bảo:

– Mạng của chúng nó giờ như chỉ mảnh treo chuông, sống chết khó nói được. Giờ mày thử đi quanh nhà, tìm xem có miếng vụn vải nào màu đỏ vứt quanh chỗ nhà không?

Tôi vội ra ngoài, mắt căng ra tìm bất kì vết đỏ nào có thể thấy được, hi vọng đó là thuốc, là bùa chú gì đó để có thể cứu lấy vợ chống thằng D. Được một lúc thì tìm được hơn chục mảnh vải vụn màu đỏ tươi, đem vào đưa. Thằng Việt và ông Bách xem xong, tái xanh mặt mày, lẩm bẩm:

– Thôi thế thì đúng rồi! Không lẽ đâu tự nhiên chúng nó lại mò đến!

Chuyện thứ mười: Trận cờ đời

Đêm hôm đó, thằng Việt và tôi gần như lật tung cả phòng sách nhà nó lên, tìm bất cứ trang, tờ nào có cách giải độc. Đang tìm thì thằng Việt reo lên, kêu to : "Ơ rê ka rồi mày ơi!". Tôi vội bổ ra, cắm mặt vào quyển sách nó đang bê, toàn là chứ Nho, đọc chẳng hiểu gì cả, thằng Việt phải chỉ tay vào dòng chữ, cắt nghĩa ra thì tôi mới hay. Hóa ra cách trị bệnh thực đơn giản đến không ngờ, chỉ cần giữ ấm cho bệnh nhân, đắp thuốc ba hôm theo chỉ dẫn trong sách là khỏi, nếu có thể kết hợp châm cứu và sử dụng thuốc Nam kết hợp thuốc Bắc thì tốt, nhưng cần nhất là tránh lạnh. Nghe đến từ tránh lạnh là tôi thở phào nhẹ nhõm, đang mùa thu, thời tiết dễ chịu, mát mẻ, vừa không nóng quá vừa không lạnh quá, thế này thì hai đứa nó được cứu rồi. Thằng Việt xé luôn trang sách đó, gấp gọn bỏ vào túi áo rồi cùng tôi ra hiệu thuốc nhà chú S, lấy thuốc Bắc, trên đường về nó còn mua thêm cả đậu xanh và rau muống nữa. Về đến nhà, cứ y theo sách làm, không dám sai một ly, đến khi châm cứu thì tôi và ông Bách phải đi ra ngoài, tránh làm thằng Việt mất tập trung. Ở trong một lúc lâu thằng Việt mới bước ra ngoài, nó lau mồ hôi trán, bảo:

– Qua cơn nguy kịch rồi! Giờ chỉ cần giữ ấm, nếu giờ hai vợ chồng nó mà gặp lạnh chừng năm mười phút là sẽ vỡ tim chết ngay. Bằng mọi giá phải giữ thế này cho đến ngày kia.

Chuyện đó quá đơn giản, trời này mà lạnh thêm được tý nào thì tôi đi bằng đầu. Đến cả ông Bách xem thiên văn xong cũng nói là trời còn mát mẻ hơn tuần mới trở rét, không phải lo.

Tối ngày hôm sau, ba người đang ngồi canh bên ngoài, vợ tôi thì ở trong trực, lo tắm rửa cho Ngọc Anh. Ba người ngồi nói chuyện phiếm, tôi nhân tiện hỏi:

– Này! Thế hôm qua cái vải đỏ đỏ đấy là cái gì mà hai người sợ thế?

Ông Bách đáp:

– Hai thằng kia trước vốn là người cùng phái với ông, nhưng vì danh lợi làm mờ mắt nên phản bội lời thệ, giết thầy ta rồi cướp luôn sách. Hôm qua tự nhiên chúng nó đến gây sự, ắt phải có người sai bảo, dự tính kĩ càng rồi.

Tôi ngạc nhiên nhìn, thằng Việt giải thích:

– Mày thử nhớ kĩ xem hôm qua có điều gì bất thường không!

Tôi lục trí nhớ, quả quyết:
– Ngoài việc thằng kia đánh lén ra thì làm gì có gì lạ.

Thằng Việt đáp:

– Quê mình vốn trọng tình làng nghĩa xóm, nghe nhà mình có động là sẽ kéo sang giúp ngay. Thằng chủ mưu nó biết thế nên ngấm ngầm đặt dây từ trước, chăng dây vải đỏ đó vào thì đất nhà mình sẽ thành nửa hư nửa thực mà không ai hay biết.

Nghe sao mà khó hiểu, tôi hỏi:

– Thì sao? Hôm qua vẫn bình thường, làng xóm sang xem lúc thằng D chửi rồi kéo về hết còn gì.

Thằng Việt mỉm cười đáp:

– Chính là ở chỗ đó, đất mình thực hư lẫn lộn, những thứ mình nhìn thấy ngoài đó chỉ là ảo ảnh thôi, mà lúc bên mình chửi nhau, đánh nhau với chúng nó có to đến nổ trời cũng chẳng ai biết, hàng xóm nhìn vào từ bên ngoài chỉ thấy cái sân vắng không có ai.

Tôi kinh ngạc, kêu:

– Thì ra là nó tính toán hết cả rồi. Vậy mà mình rơi vào bẫy dễ dàng như trẻ con.

Thằng Việt thở dài, nói:

– Lúc đó mình ngu quá, lão kia là thầy phù thủy cao tay, lẽ nào lão không biết ai có cốt ai không, đâu dễ nhầm lần giữa tao với thằng D. Đến kiếm tao chỉ là cái cớ, cái chúng nó thực sự muốn là mạng thằng D!

Tôi sực nhớ ra, hỏi:

– Là con âm tướng kia phải không?

Ông Bách nói chen vào:

– Nó là tướng võ, chỉ giỏi ma pháp chứ không thể nào nghĩ được mưu kế thâm sâu như vậy. Nếu chỉ đơn giản là con âm tướng thì dễ đối phó, nhưng ắt là còn có kẻ khác đang giúp nó, mà kẻ này thì không tầm thường. Mình ở ngoài sáng nó ở trong tối, muốn đánh cũng khó lắm!

Tôi suy nghĩ hồi lâu, giờ mới thấy hết cái quỷ quyệt của kẻ nấp trong bóng tối kia. Thì ra tất cả đều được sắp đặt hoàn toàn, con âm tướng, lũ âm binh tinh nhuệ, bọn tôi, người dân làng,...tất cả đều chỉ là trò chơi trong tay nó. Đang suy tư thì chợt có một vật bay vèo về chỗ tôi ngồi. Ông Bách đưa tay chụp lấy, thằng Việt và tôi vội đứng bật dậy lao ra ngoài sân quán sát bốn phía.Bốn bề lặng ngắt như tờ, không có lấy một bóng người, ngay cả tiếng chó sủa mèo kêu cũng không, một sự im lặng đáng sợ bao trùm vạn vật. Bước trở vào trong, thằng Việt vội cùng tôi đi đóng hết tất cả cửa kính lại, bật lò sưởi lên giữ ấm. Đi vòng vòng khắp các phòng xem xét tỉ mỉ xong, rồi dán cả bùa trấn môn vào tất cả các cửa. Vậy là tạm yên tâm được chút.

Ngồi xuống hiện, ông Bách đưa cho hai thằng xem vật vừa ném vào, là một quân cờ tướng, quân Tượng xanh. Cả ba băn khoăn, cố tìm lời giải đáp. Tượng là voi, chẳng lẽ lại là có voi vào đây giày xéo. Không! Không thể như thế được, quá ngớ ngẩn. Hay là chiết tự một chữ Hán nào đó, mà cũng có thể là liên quan đến một điển tích gì đó. Nghĩ mãi đau cả đầu mà vẫn không nặn ra được cái gì. Bống nhiên, thằng Việt hỏi giật:

– Có ai cảm thấy nhiệt độ hạ nhanh không?

Nghe nó nhắc tôi mới nhớ, nhưng có lẽ tại đêm nên sương xuống chút. Ông Bách như đọc được ý nghĩ của tôi, nhận xét:

– Đúng rồi! Lạnh này rõ ràng là lạnh sương đêm nhưng sương đêm đang mùa thu thì làm sao lạnh đến mức này được.

Ông Bách lang bạt từ trẻ, lại học khí công nên không bị ảnh hưởng khí lạnh là mấy. Tôi thì đi phượt trên núi quen rồi nên cũng chẳng thấy lạnh lắm. Duy có thằng Việt sức khỏe yếu hơn hẳn mới cảm nhận được. Không nghe nó nhắc thì cũng chịu, tôi sực nghĩ ra, khẽ bảo:

– Hình như có đứa giở trò phá phách!

Chưa dứt câu thì đột nhiên lại có một vật bay thẳng về phía tôi, tốc độ khá châm nên tôi quơ tay ra chụp được. Lại là một quân cờ tướng, là quân Mã xanh. Đưa cho hai người xem, cũng lại chỉ có lắc đầu và suy nghĩ miên man. Bỗng nhiên có tiếng vi vu vi vu, lên bổng xuống trầm, hòa vào trong không gian. Chính là tiếng sáo lúc chiều, âm thanh đặc biệt này không lẫn vào đâu được. Nghe tiếng sáo sao mà u uất, ai oán, hệt như tiếng khóc của ngàn vạn cây liễu rủ. Hình như từ lúc có tiếng sáo thì càng ngày càng lạnh, sương đêm xuống nhanh đến vậy sao? " Huỵch! Huỵch!", hai tiếng động phát ra từ phía cổng, có hai bóng đen nhảy phốc từ ngoài bờ tường vào. Cả ba vội đứng dậy thủ thế, dàn ngang chặn cửa chính lại. Hai bóng đen kia cứ thản nhiên bước vào sân, đến gần hiên. Qua ánh đèn hắt ra từ nhà, trong khoảng tranh sáng tranh tối đó, tôi kinh hoàng nhận ra: Đó là hai con hình nhân giấy mà người ta hay đốt cho người chết, một còn còn ôm vòng hoa tang. Mặt con nào con nấy được vẽ cười toe toét, tô má đỏ hồng, híp cả mắt lại. Nhưng cái nụ cười của chúng nó làm tôi ghê rợn, nụ cười quái đản, dị hợm như mỉm cười mời người ta theo chúng về âm phủ.

Hai con hình nhân vẫn đứng sừng sững đó, nhìn chăm chăm vào nhà. Bất ngờ, con hình nhân áo hồng bay vọt về phía bọn tôi, giơ tay tính tát vào mặt thằng Việt. Thằng Việt vội thụp người né, con kia giơ chân đạp mạnh vào cửa, cánh cửa gỗ nặng trịch bị nó đạp mà rung lên bần bật, tưởng như sắp rời ra đến nơi. Trong nhà, tiếng hai đứa bé khóc thét lên, vợ tôi gọi vọng ra:

– Bên ngoài có chuyện gì vậy! Cửa bị đạp làm gió lạnh lùa vào mất!

Nghe nhắc đến gió lạnh, cả ba hoảng hốt, vội lao ra, đồng loạt tay đấm, chân đá gạt con hình nhân kia ra.Khỉ thật, hình nhân giấy gì mà cứng thế, ăn từng ấy đòn mà không rách sờn, chỉ bị đẩy lùi ra sau. Ông Bách hô to:

– Hai đứa lên cầm chân hai con hình nhân, để ông đối phó thằng đầu sỏ, nó dùng tiếng sáo điều khiển hình nhân.

Hai thằng vội vớ lấy vũ khí, xông lên đánh hai con hình nhân giấy. Bọn này tuy khỏe hơn người nhưng lại lù đù chậm chạp, phản ứng rất chậm và gượng gạo, tuy nhiên chúng nó khá lì đòn, ăn bao nhiêu côn, nhuyễn tiên vào người mà vẫn chẳng thấm tháp gì. Tôi chợt nghĩ ra cách là dùng lửa đốt, vội rút trong túi quần ra cái bật hộp, mở nắp rồi ném thẳng vào người con hình nhân. Ngay lập tức, lửa cháy bùng lên, con hình nhân kêu ré lên một tiếng rồi ngã ra, nằm chày phừng phừng dưới đất. Tôi vội quay sang trợ chiến cho thằng Việt, con hình nhân này giờ cứ dùng vòng hoa tang mà đỡ đòn, không tài nào đánh vào người nó được, mà người điêu khiển thì đã toàn tâm toàn ý điều khiển nó nên đánh rất hăng, cứ dần lấn lướt hai thằng. Bên phía ông Bách, ông đã rút cây sáo ra, thổi một bài khác với tiết tấu nhanh, dồn dập, ý muốn dùng tiếng sáo của ông để làm rối loạn tiếng sáo trầm buồn hiệu lệnh cho con hình nhân. Hai bên cầm cự nhau được nửa tiếng thì tôi lách đầu côn đâm xuyên qua vòng hoa, thúc một côn đẩy lùi con hình nhân. Thằng Việt nhân cơ hội vội lấy mũi chân gạt tàn lửa le lói dưới đất lên con hình nhân. Trong phút chốc thì nó cũng bắt lửa vào đầu gối, nhưng cháy tan cái chân thì lửa bị dụi mất. Con hình nhân bò lết trên đất, cố chạy ra cổng, ông Bách chợt ngưng thổi, hô to;

– Giữ nó lại để tra hỏi!

Thằng Việt vội quăng nhuyễn tiên quấn người con hình nhân, gồng sức kéo giật lại, tôi chạy lên đón đầu, lấy mũi côn điểm chặt xuống lưng không cho di chuyển thêm. Tôi cười hà hà, quát:

– Đồ hàng mã, để xem mày chạy đi đâu nào?

Đột nhiên, tiếng sáo kia đang u uất sầu thảm lại trầm dần xuống, rồi lại cao vút đến chói tai, váng óc. Một tiếng sáo hoét, dứt khoát, âm thanh nghe chừng quãng tám vang lên. Tiếng sáo vừa dứt thì con hình nhân rục rịch, người giật giật lên rồi ta ra thành giấy bột. Bên trong chứ toàn lông gà vit, xương thú. Tôi và thằng Việt vừa chán nản vừa căm phẫn tên kia, con hình nhân thì cũng hết lòng trong thành với hắn, vậy mà hắn kết liễu nó như vậy, ra tay với cả thủ hạ của mình. Con người này thực là thâm hiểm, tàn độc, khó mà đoán được. Hai thằng quay lưng đi vào trong, bỗng sau gáy tôi có gió, thằng Việt vội đưa tay ra chụp lấy. Thì ra là một mảnh giấy, bên trong có bọc một vật.....lại là một quân cờ tướng, quân Sĩ xanh. Mảnh giấy có mấy chữ : "Thú vị lắm! Hẹn hôm khác mình chơi tiếp!" .

Đọc xong mảnh giấy, ba người nổi giân bừng bừng, nó là đứa nào mà dám đem tính mạng người ra làm trò chơi, rốt cục thì thứ nó muốn chẳng phải là mạng thằng D hay thù oán gì, thứ nó muốn là một trận cờ kịch tính, và nó sẽ là người điều khiển bàn cờ. Nhưng ý nghĩa của 3 quân Tượng-Mã-Sĩ là gì? Kẻ kia có là ai? Vì sao nó lại để mắt tới hội chúng tôi?...Có quá nhiều câu hỏi, quá nhiều nghi vấn. Người trong bóng tối đó đúng là không thể xem nhẹ được, một trí tuệ quá siêu việt, sắp xếp kế hoạch hoàn hảo đến từng chi tiết, thông minh như thằng Việt, lão luyện như ông Bách mà cũng trở thành đồ chơi của hắn.
Trong nhà, vợ chồng thằng D vẫn bình an vô sự, đêm nay chúng tôi đã giữ vững, nhưng liệu giữ được bao lâu trước tên thâm hiểm kia?

Chuyện thứ mười một: Khai cuộc

Sáng ngày hôm sau, tôi, Việt và ông Bách vẫn cứ ngồi thần mặt ra trước hiên, dùng hết bộ não để suy nghĩ cách giải ba con cờ. Chợt ông Bách nói:

– Ba quân cờ này có lẽ tượng trưng cho ba người ta, mỗi quân là tính cách mỗi người. Nhưng chuyện không thể đơn giản thế được. Chắc chắn phải có ý nghĩa sâu xa gì đó ẩn trong mỗi quân cờ.

Chán chế rồi lại nghĩ đến cái ý nghĩa sâu xa gì đấy, đau hết cả đầu. Tôi ngán ngẩm đứng dậy rồi đi dạo quanh vườn cho thư thái đầu óc, cả ngày hôm đó, tôi cứ lang thang mãi trong vườn, lục lọi trong trí nhớ về bất kì một điển tích, câu chuyện hay một nhân vật nào đó, hi vọng tìm ra một mảnh ghép cho câu đố này. Chiều về, ánh tà dương buông xuống, nhuộm vàng mọi vật, nhìn khung cảnh xung quanh, bỗng chốc tôi thấy bình yên lạ thường. Chợt tôi nhớ đến một chi tiết nhỏ trong trận chiến tối qua, liền lao như bay ra thùng rác, bới tung tất cả lên. Cuối cùng thì cũng tìm ra cái vòng hoa tang mà con hình nhân cầm đánh nhau với bọn tôi, trên vòng vẫn còn một lỗ thủng ở góc sát vành nan. Cầm cái vòng hoa trên tay, tôi cố lắc mạnh hết sức cho hoa rơi ra mà không được, phải đem vào sân gỡ từng bông hoa ra. Khi bông hoa cuối cùng được gỡ ra, lộ ra giữa hai lớp nan tre là một bàn cờ tướng nhỏ, chắc cùng một bộ với mấy quân cờ kia. Tôi như mở cờ trong bụng, cười:

– Có thế chứ! Tý nữa thì vứt mợ nó mất!

Hí hửng rước cái của báu vào trong nhà, tôi đàng hoàng đặt nó lên bàn, gọi ông Bách và thằng Việt ra để khoe về cái sự thông minh của mình. Nhưng kì lạ là trông mặt hai người khang khác, gặng hỏi thì thằng Việt đưa ra hai quân cờ : Xe xanh và Pháo xanh. Tôi ngạc nhiên hỏi nó lấy ở đâu, nó trả lời:

– Sáng nay lúc tao dọn đầu giường thằng D thì thấy quân Pháo, còn lúc tao mới ngủ dậy thì thấy quân Xe ở trên gối tao.

Tôi hỏi tiếp:

– Sao trên gối mày lại có quân Xe ? Đúng ra quân Sĩ mới là biểu tượng cho mày chứ!

Thằng Việt đáp;

– Tao không rành chơi cờ lắm, nhưng tao nghĩ quân Pháo là thằng D, quân Sĩ là con em tao thì quá hợp. Vào lúc cuối trận thì hai quân này có thể hỗ trợ lẫn nhau!

Ông Bách cũng gật gù xác nhận, chợt ông chỉ tay vào bàn cờ, hỏi:

– Bàn cờ này cậu kiếm đâu ra?

Tôi trả lời ông về cái vòng hoa giấu bàn cờ. Ông Bách nói:

– Đây không phải bàn cờ bình thường, nó nhẹ hơn so với bàn cờ bằng đồng cùng loại, chắc bên trong là bàn cờ hai đáy, hơn nữa nó cũng dày hơn so với bàn cờ thường.

Tôi cúi sát mặt xuống, nhìn kĩ thì thấy các đường ngang dọc trên bàn cờ như là đường rãnh nhỏ ly ti. Lấy tay sờ lần quanh các góc cạnh bàn cờ thì thấy có ba cái cửa được che kiểu ổ khóa xe máy, chắc phải có chìa khóa mới mở được. Hai người kia xem xong, cũng tán thành với ý kiến của tôi. Nhưng lại nảy sinh thêm vấn đề là chìa khóa đâu? Thằng Việt suy nghĩ mãi không tìm ra cách mở, nó lấy một sợi dây thép, uốn lại rồi thò vào trong khe, cố mở khóa theo kiểu ăn trộm. Nhưng vẫn vô ích, bỗng ông Bách kêu:

– Lấy mấy mũi dao và tiêu mà hôm kia gỡ ra từ người hai vợ chồng con Ngọc Anh xem sao.

Thằng Việt nghe ông nói vội chạy vào trong, bưng ra một cái khay, trên đó là mấy mũi ám khí hôm trước. Ông Bách quấn vải vào tay, cầm một mũi tiêu, khẽ chọc vào ô khóa, xoay một vòng. Vẫn chưa có gì xảy ra. Cho tiếp hai mũi tiêu còn lại vào ổ khóa, xoay nửa vòng, rồi phần tư vòng thì trong bàn cờ phát ra tiếng lạch cạch rất nhỏ. Tôi hoảng hồn, vội hô to:

– Tất cả nằm xuống!

Lúc nghe tiếng lạch cạch, tôi cứ sợ là trong bàn cờ sẽ bắn ra tiêu độc hay lia lưỡi dao ra. Nhưng nằm rạp sát đất đến hơn mười phút vẫn chẳng có gì. Tôi mới ngẩng lên, nhìn bàn cờ. Trên mặt bàn cờ giờ đã lộ rõ những rãnh trên đường đi của quân cờ, còn ở vị trí các quân cờ bên xanh thì có mấy que tròn cỡ quân cờ nhô lên. Ráp lần lượt các quân cờ vào vị trí, đột nhiên bàn cờ thụt xuống xuống từng ô, mép bàn cờ lại thụt xuống hai ô nữa, giờ nhìn bản cờ như một tấm ghép hình. Nhưng phải ghép hình gì mới được chứ? Còn đang suy nghĩ thì đột nhiên các quân cờ, hay đúng hơn là các ô bàn cờ rục rịch chuyển động, tráo đổi vị trí cho nhau. Nhìn mặt bàn cờ lúc này trông hệt như những cảnh mở khóa cửa bí mật trong phim, kẻ làm ra cái bàn cờ này cũng phải có một bộ óc tinh vi, thông minh đến lạ thường mới làm nổi. Chuyển động chừng một phút thì các quân cờ dừng lại, xếp thành hình sao năm cánh, mỗi quân đứng về một góc, tạo thành một hình ngũ giác hoàn hảo. Chợt khoảng ô cờ giữa năm quân đột ngột mở ra như một cánh cửa thang máy, phía trong lòng hình như là một quân cờ nữa. Tôi vội lấy đèn pin trên điện thoại ra rọi vào trong, là quân Tướng đỏ. Nhưng ô bàn cờ bé thế thì khó lấy đây, mà cũng chẳng sao, luồn ngón tay vào là gắp lên được mà. Nghĩ sao làm vậy, tôi thò hai ngón tay xuống ô hổng, định bụng gắp quân Tướng kia lên, chợt thằng Việt nắm chặt lấy tay tôi kéo lại, nó bảo:

– Khoan đã, chuyện không ngon ăn thế này được!

Nói rồi nó lấy một mũi gắp trên khay y tế, thò vào gắp quân cờ ra. Bỗng "Keng!", tiếng kêu chói tai vang lên, mũi kéo gắp tự dưng tóe lửa. Thằng Việt rút mũi gắp lên, thật không ngờ là mũi gắp đã bị lia cụt như miếng đất sét bị lạt cắt! Tôi kinh ngạc không biết chuyện gì vừa xảy ra, thằng Việt nhăn mặt, ái ngại:

– Nó thâm thật, chơi cả trò này! Đây mày xem kĩ lại này!

Nói rồi nó đưa một cái que gỗ vào trong, que gỗ từ từ thò vào, nhưng khi vừa xê dịch quân cờ là có ngay hai lưỡi dao sắc lẹm, lia ập vào cắt phăng cái que. Nghĩ lại lúc nãy mà cứ đưa ngón tay vào gắp ra thì chắc tay mình cũng chẳng hơn gì cái que hay mũi gắp kia. Rồi sau đó, tôi và thằng Việt nghĩ ra cách là chặn ngay hai tấm sắt vào hai cạnh lỗ hổng, lưỡi dao lia qua mà không có đủ khoảng cách để phát huy lực thì cũng vô dụng. Loay hoay mãi rồi cũng lấy được quân Tướng ra ngoài, vừa nhìn đã thấy ngay là quân cờ này rỗng ruột, trong lượng nhẹ hơn hẳn mấy quân kia thường, dưới đáy lại còn có một khấc khóa giữ nắp. Lần này mở quân cờ ra, chúng tôi lại càng thận trọng hơn, phải đính chặt quân cờ xuống đất bằng keo dính sắt, rồi dùng mũi nhuyễn kiếm của thằng Việt lùa vào cái khấc bé tí, bẩy lên cho bung ra, trái với dự tính của chúng tôi, quân cờ chẳng có bẫy gì cả. Bên trong ruột quân cờ là một mảnh giấy gấp gọn, tôi cầm kẹp nhíp gắp lấy mép giấy, nhẹ nhàng giở ra. Khi nhìn vào tờ giấy, một cảm xúc hụt hẫng xen lẫn bực tức, uất ức trào lên trong tôi, bên trong là một khuôn mặt Joker, và một hàng chữ tiếng Anh : " Why so serious? There 's no fucking rule!

Tôi điên tiết túm lấy tờ giấy, vò nát rồi ném mạnh xuống đât, chửi đổng:

– Mẹ kiếp! Nó nghĩ nó là ai? Tính mạng vợ chồng thằng D nó đem ra làm trò chơi! Dụ mình nghĩ nát óc về cái mật mã khỉ gió của nó!

Thằng Việt thất thần, ngồi phịch xuống ghế, thở dài não nề:

– Chuyện âm binh âm tướng lo chưa xong! Giờ ở đâu lòi ra một thằng loạn trí thích Joker với Kaito Kid.

Riêng ông Bách lại rất bình tĩnh, ông chờ hai thằng hạ hỏa rồi trầm ngâm:

– Không! Nó không điên chút nào! Rất thông minh, mưu lược là khác! Nó bày ra đủ trò để chọc tức mình, khiến mình rối trí rồi nó sẽ thừa cơ hội tấn công, dẫn dụ mình vào trò khác của nó. Bây giờ phải thật bình tĩnh, bĩnh tĩnh hết sức để phán đoán mọi việc. Nhưng bề ngoài thì phải tỏ ra mình tức lắm rồi, điên cuồng lắm rồi để nó nghĩ mình tức thật, nó sẽ sinh chủ quan, lộ ra yếu điểm của nó!

Đúng là người già trí tuệ cao, mình cậy trẻ mà nóng quá, không có ông ở đây thì làm hỏng hết việc. Đột nhiên, vợ tôi trong nhà hớt hải chạy ra, gọi ba người:

– Anh H, Anh Việt với cụ mau vào trong xem thế nào đi. Cô Ngọc Anh cô ý tỉnh rồi! Nhưng mà lạ lắm!

Chúng tôi hốt hoảng chạy vào trong phòng. Ngay trước mặt tôi là Ngọc Anh, đang ngồi chải tóc, trang điêm ở bàn phấn. Nhưng đó không phải là con bé Ngọc Anh nhút nhát, e lệ em tôi, lúc này nhìn Ngọc Anh vẫn hoạt động bình thường,..chỉ...chỉ có khuôn mặt là khác. Đó không còn là khuôn mặt trắng hồng, cười mỉm ngày nào, giờ chỉ còn một khuôn mặt vô hồn vô cảm, đôi mắt đăm đăm nhìn xa xăm về nơi nào đó. Thằng Việt còn bàng hoàng hơn tôi nhiều, nó lại gần Ngọc Anh, lắc lắc vai, run run hỏi:

– Em ơi! Em ơi em! Mày sao rồi? Anh Việt đây, anh ruột mày đây! Kìa ông nội kìa, cả anh H nữa kìa.

Nói đoạn nó chỉ tay vào hai người.

Ngọc Anh nhẹ nhàng quay đầu lại, đáp bằng giọng thờ ơ:

– Anh Việt à! Chồng em sao rồi?

Thằng Việt đáp:

– Thằng D không sao! Nó mất máu nhiều và bị trúng độc, giờ hôn mê tạm thời thôi! Thở oxy thế là không sao đâu! Anh xem kĩ rồi!

Ngọc Anh chẳng nói chẳng rằng, rẽ bốn người bọn tôi ra, bước vào ngồi cạnh giường thằng D, nắm lấy tay chồng, nói lí nhí:

– Mình ơi! Dậy đi mình! Sao mình ngủ lười thế? Dậy đi kìa! Sắp trưa rồi!

Vừa nói nước mắt Ngọc Anh lại chảy dài trên má, vậy mà khuôn mặt vẫn cứ vô hồn không chút cử động. Tôi không còn đủ cứng rắn để nhìn cảnh này nữa, túm tay thằng Việt kéo vội nó ra ngoài, hai thằng cố quay mặt đi giấu nước mắt, cắn chặt môi ghìm tiếng nấc lại. Ra ngoài phòng khách, tôi hỏi:

– Ngọc Anh sao bỗng dưng lại thay đổi như thế?

Thằng Việt buồn thiu, đáp:

– Có thể trước khi ngất đi, hình ảnh cuối cùng nó nhìn thấy là thằng D đang chống chọi lại chất độc, bản tính con bé nhút nhát, người nó yêu nhất lại là thằng D. Việc nhìn thấy cảnh đó đối với nó là cú sốc lớn. Bây giờ muốn nó trở lại bình thường thì cách duy nhất là thằng D tỉnh lại, tự khắc con bé sẽ hoạt bát như cũ.

Tôi sốt sắng:

– Thế bây giờ làm cách nào để cho thằng D tỉnh lại?

Thằng Việt đáp:

– Không cần làm gì cả, với sức khỏe của nó thì chỉ cần đến sáng ngày kia là tỉnh hoàn toàn. Hiện tại nó tuy hôn mê nhưng vẫn nghe được, cảm nhận được những gì xảy ra xung quanh. Hiểu được tình cảm con em tao dành cho nó, nghị lực sống sẽ thúc đẩy thêm, thậm chí tối nay hoặc sáng mai là tỉnh luôn.

Rồi nó tiếp:

– Giờ cái tao lo là thằng loạn trí kia nó sẽ giở trò gì tiếp theo. Một con người có trí tuệ vượt bậc nhưng lại có trái tim lạnh thì sẽ thành một con quỷ nguy hiểm vô cùng. Rốt cục thì thực sự nó muốn gì, mình vẫn không rõ!

Tôi thở dài, dựa lưng vào ghế, trong đầu cố nghĩ ra cách ứng phó cho mấy ngày tiếp theo. Việc Ngọc Anh tỉnh dậy sớm hơn dự kiến là một chuyện tốt, nhưng như người lạc hồn tán phách thế kia thì sao mà tôi yên cho được.

Đêm hôm đó, ba người bọn tôi lại ra canh bên ngoài, lần này thằng Việt và ông Bách phải cùng hợp sức bắt quyết, dán bùa chú kép, hi vọng thằng kia không thể mở được. Đúng như dự đoán, tầm 9h, lại có động, cái "la bàn ma" của thằng Việt cứ xoay tít như chong chóng, cuối cùng kim chỉ thẳng về hướng Nam nhà. Nhưng kim chỉ một hồi mà vẫn chẳng có gì xảy ra, không một bóng đen nhảy qua tường, không một tiếng kêu hú,...im lặng một cách đáng sợ. Ông Bách trấn an bọn tôi:

– Gặp biến không được rối, gặp nguy không được hoảng! Tạm thời cứ bình thản như không, ngày mai hẵng diễn!

Nhấp ngụm trà, hương trà thơm lan đều trong họng khiến tôi thư thái được phần nào, ánh trăng mờ, gió hiu hiu thổi đưa cành liễu phất phơ, đưa hương hoa trong vườn vào tận hiên. Nhìn khung cảnh này chẳng ai nghĩ là sắp có chuyện xảy ra, quá yên bình.
Đột nhiên, cánh cổng mở toang ra, một đám người áo xanh áo đỏ kiểu ngày xưa xộc vào trong sân, mặt ai nấy đen xì, u ám, rõ ràng đứng nhìn thằng mà tôi không tài nào nhìn rõ mặt ai, vậy mà cứ có cảm giác mình đang nhìn mặt một người bình thường. Ông Bách duỗi chân, khoan khoái ngồi tựa vào tường, nói :

– Giặc tràn vào thành, lão Tượng xông pha đánh địch!

Dứt lời, ông nhẹ nhàng rút cây sáo ra, thổi khúc Mai Hoa Tam Lộng, âm điệu thanh cao, khí tiết, đám áo xanh áo đỏ kia vừa nghe tiếng sáo thì dạt hết cả ra, được một lúc lại cố chen vào, ông Bách vẫn thổi, tiếng là thổi đánh nhau nhưng ông như thả hồn vào khúc nhạc, không quan tâm đến sự vật xung quanh. Đám kia nháo nhào lên, phần bỏ chạy, phần thì loạn trong sân. Một lúc sau, bỗng ở đâu một đàn chó xồ đến, mắt đỏ ngầu, sủa váng lên, cố át đi tiếng sáo. Ông Bách ngưng thổi một chút, cầm sáo trỏ vào đám chó, đánh mặt sang phía tôi :

– Mã xung kích, tả xung hữu đột!

Tôi liền vớ lấy cây thiết côn, thuận thế Tam Thao Tùy Hình Pháp, đánh câu năm câu sáu, lao vào vung tít cây côn. Đám chó này đúng thật không bình thường, vụt côn liên hồi, đánh bao nhiêu đòn mà không còn nào biết sợ, gục rồi thì thôi chứ còn sức là cố lao vào tớp tay chân tôi cho bằng được. Nói là đánh chó mà tôi muốn bở hơi tai, trường côn vung ngang, quật dọc, bẻ trái., lật nam, liên tục không nghỉ tay mới đủ để phòng thủ, phải dựa thế vào ao nước phía sau để tránh bị đánh lén, cứ lừa lừa con nào lao vào là quật luôn. Trong lúc đánh, tôi vẫn cố gắng quan sát ngoài vòng chiến, thấy đám người áo xanh áo đỏ đã bị đánh chạy đâu mất, ông Bách và thằng Việt đáng chăm chú theo dõi tôi, thằng Việt mấy lần định xông ra nhưng ông Bách lắc đầu, ý bảo sức tôi lo được. Đánh mãi cũng hết đám chó, kỳ lạ là lúc nãy mình quật ngã chục con là ít, giờ chẳng thấy con nào nằm dưới đất, mà chúng nó chạy đi đâu cũng không biệt cứ tan như sương khói. Chống cự được nửa tiếng thì tay, vai, hông, bắp chân tôi mõi rã rời, phải lấy côn làm gậy chống vào, ngồi phệt xuống hè mà thở dốc. Thằng Việt lấy nước trà cho tôi uống, cạn cả ấm mà vẫn không hết khát.

Ngồi nghỉ chừng dăm phút thì có một làn gió man mát thổi vào, cảm giác lâng lâng dễ chịu chỉ muốn ngủ. Thằng Việt thấy tôi lim dim mắt thì quát to gọi dậy, đột một cục thuốc mùi ngai ngai, dí vào mũi cho tôi ngửi, thế tôi mới tỉnh dược. Sau đó, một người điềm nhiên bước vào từ cổng chính, bịt mặt kiểu thích khách, tay cầm kiếm thép, người mặc áo đen kịt, nhìn mái tóc dài và dáng người cũng đoán ra được là nữ. Tôi cười cười bảo thằng Việt:

– Fan cuồng của truyện kiếm hiệp hay game Ninja đến kìa, thời buổi này còn chơi trò giả ma nhát thánh.

Chợt người kia đang đứng giữa sân đã tiến tới sát chỗ chúng tôi ngồi từ bao giờ, nhanh không kịp thấy. Ông Bách quay sang bảo thằng Việt:

– Xe ngang dọc, tung hoành khắp bàn cờ!

Dứt lời, thằng Việt cầm nhuyễn kiếm, choàng đạo bào lên, lao ra nghênh chiến. Hai người lao vào vờn nhau, thằng Việt rung mạnh nhuyễn kiếm, đâm vào ngực cô gái kia, cô gái nhẹ nhàng lướt người tránh sang trái, thuận thế rút chủy thủ dưới cổ chân lên đâm ngang vào sườn thằng Việt. Thấy thế đánh hiểm, Việt vội thu kiếm về, uốn cong lưỡi kiếm rồi búng mạnh vào cây chủy thủ, dưới tác động của đàn hồi vào lực đánh, mũi chủy thủ bị tạt đi, cô gái vội cúi người xuống né kiếm, đưa chân quét mạnh vào ống đồng đối phương, tay phải thì đâm thằng kiếm lên cổ Việt. Thế đánh hiểm ác quá, thằng Việt phải giật lùi về sau, rung nhuyễn kiếm trả đòn, dần dần lấy lại thế cũ. Hai bên kẻ đâm người đỡ liền tay, trông hoa cả mắt, đột nhiên, cô gái rút trong người ra một xấp đống xu, lướt ngang mày, tay chỉ ấn chú rồi ném thằng vào mặt thằng Việt. Thụp người xuống để tránh nắm xu, thằng Việt đấm một đấm vào bụng cô gái, phía sau lưng nó, mấy đồng xe ném hụt nổ đoành đoành nhưu phim chưởng. Cô gái bị trúng một đòn vào bụng, hụt hơi nên yếu đi, đang định đâm một kiếm hiểm ra để đẩy lui thằng Việt, lấy thời gian nghỉ thì Việt rút trong bọc áo ra ba lá bùa, phẩy phẩy vài cái, đọc chú xong ốp thằng vào tay cầm kiếm của cô gái. Không biết bùa gì mà vừa chạm vào cô gái đã hét lên, buông kiếm rồi quay đầu chạy, trước khi chạy ném một mũi chủy thủ về phía ông Bách. Ông Bách khươ cây sáo gạt đi, lấy tay chộp được cán chủy thủ. Tôi tức giận vì đòn đánh hiểm vừa rồi, lại nhằm vào người già cả, liền lấy hết sức còn lại, vớ lấy thiết côn, quăng mạnh vào chỗ cô gái sắp chạy qua. Đúng theo tính toán của tôi, cây côn quạt ngang, quét ngã cô gái, nhưng cô ta đứng dậy ngay, tập tễnh chạy thẳng ra ngoài cổng rồi mất hút. Tôi và thằng Việt định đuổi theo thì ông Bách ngăn lại, bảo:

– Người ta thân gái, lâm vào đường cùng! Đừng nên dồn vào chỗ chết!

Hai thằng nghe lời, thôi không đuổi nữa. Trong lúc ngồi nghỉ, nói chuyện về trận đánh vừa rồi, tôi chợt thấy có gì lấp lánh trên mặt sân gần đường ra cổng. Nghĩ là mảnh thủy tinh nhưng nhân ra kiểu lóe sáng đó không thể là thủy tinh được, tôi liền đứng dậy, ra nhặt về xem có ích gì không. Lúc cúi xuống, cầm lên tay, phủi sạch bụi đất bám quanh đi, xem kĩ thì ra là một cái lắc chân con gái bằng bạc. Nhìn kĩ cái lắc chân hơn, tôi bàng hoàng, toát cả mồ hôi hột, lật đi lật lại, săm soi từng nét chạm khắc, từng quả lục lạc trên cái lắc. Đúng là nó rồi...cái lắc này chính tay tôi đi đặt làm...chính tay tôi vẽ mẫu hoa văn, mẫu chữ. Không thể nhầm được, chính là cái lắc đó, nhưng người có cái lắc chân tôi tặng này thì trên đời chỉ có một,..là người đó....người đó....nhưng...nhưng tại sao người đó lại làm chuyện này?

Chuyện thứ mười hai: Mèo mất nhạc

Sau khi nhặt được cái lắc chân, tôi cứ như người mất hồn, cả ngày hôm sau, tôi chỉ ngồi trong phòng đóng kín cửa, tay mân mê từng đường hoa văn trên chiếc lắc. Ngày tôi tặng em cái lắc này là đúng vào dịp kỉ niệm 1 năm ngày hai đứa quen nhau. Tự tay tôi đeo lắc vào chân cho em, nói:

– Đeo nhạc cho mèo này! Từ nay đi đâu cũng có tiếng nhạc, lúc nào anh cũng biết mèo đang ở đâu, không bao giờ anh sợ mất mèo nữa.

Em cười tinh nghịch, lắc lắc chân cho tiếng kêu leng keng, nghe vui tai làm sao. Cũng từ đó, mỗi khi đi bên cạnh tôi em thường cố nhảy chân sáo, mỗi bước đi của em là tiếng nhạc lại phát ra, tựa hồ như tiếng bông tuyết chạm lên mặt băng thanh.

Ngồi ngắm nghía mãi chiếc lắc, trong lòng tôi ngày càng mâu thuẫn vô cùng. Em yêu tôi vì tôi hay còn vì gì khác? Cảm giác lúc này của tôi như bị phản bội, bị lừa dối, nhưng tôi lại thấy không giận, không thù, con quỷ trong tôi cũng chẳng hề trỗi dậy. Vì sao vậy? Cảm giác này là gì?

Đang thất thần thì có tiếng gõ cửa, giọng thằng Việt vọng vào:

– H ơi! Mày sao thế? Cả buổi không ra khỏi phòng, định tự kỉ trong đó à?

Tôi cố lấy giọng vui, chẹt ngón tay vào yết hầu, è è trả lời:

– Trẫm còn đang mệt vì tối qua ngự giá thân chinh, để trẫm ngủ nằm thêm tý nữa!

Thằng Việt ở ngoài kêu:

– Thế để tao bốc cho mày thang thuốc hồi sức.

Lần này nó lại không có vẻ gì đáp lại câu đùa của tôi như mọi khi.

Tiếng chân thằng Việt vừa đi hết cầu thang cũng là lúc tôi lại chìm vào bóng tối. Miên man suy nghĩ về nụ cười của em, giọng Huế dễ thương của em, những kỉ niệm ê đềm bên nhau. Nhưng càng nghĩ về quá khứ tốt đẹp bao nhiêu thì lúc trở lại hiện thực lại bẽ bàng, xót xa bấy nhiêu. Hồi đi học đã học qua điều này trong truyện Kiều, cứ cho rằng nó là thứ cảm xúc vớ vẩn của tụi đàn bà, mình là đàn ông thì sẽ chẳng bao giờ thế. Rồi đến khi nó vận ngay vào mình, tôi mới thấy cảm giác đó tồi tệ đến mức nào, và tôi sợ, sợ không dám nhớ về quá khứ tốt đẹp nữa, sợ lại phải đột ngột trở về thực tại. Nhưng càng tránh, càng cố quên thì tôi lại càng nhớ, lại càng đau lòng khôn tả. Chỉ ước có ai đưa cho tôi một liều thuốc quên, để tôi quên đi buổi tối hôm qua, hoặc không có thuốc quên thì một cú đánh mạnh vào đầu cho mất trí nhớ cũng được. Thà rằng tôi sống êm đềm trong cái lừa dối ngọt ngào còn hơn là phải đối mặt với cảm xúc hiện giờ.

Mải suy tư, tôi chìm vào giấc ngủ lúc nào không hay. Chẳng biết tôi ngủ được bao lâu, chợt bên tai vang tiếng cạch cửa, tôi giật mình mở trừng mắt, giấu vội chiếc lắc xuống dưới gối, hai mắt liếc nhanh về phía cửa xem ai vào phòng. Là vợ tôi, tay đang bưng bát thuốc bắc, rón rén cố đi thật chậm đến cạnh giường. Tôi ngồi dậy, ngái ngủ gãi đầu, cười ngố:

– Vợ sắc thuốc cho chồng đấy à? Vợ ai mà đảm thế nhỉ? À vợ mình!

Nàng liếc sang tôi, vờ giận dữ, xụ mặt lại. Nhưng vẫn ngồi xuống cạnh tôi, một tay bưng bát thuốc, một tay cầm thìa. Múc một muỗng thuốc, nàng đưa lại trước miệng tôi, cười tinh nghịch, thỏ thẻ:

– Em bé há miệng ra nào! Ù Ù Ù! Tàu bay vào đường hầm! Ù Ù!

Cái kiểu y hệt như lúc nàng bón cơm cho con, giờ lại đem ra dỗ tôi uống thuốc. Tôi sung sướng nuốt từng thìa một, vị thuốc đắng mà sao thật ngọt, ngọt hệt như vị hạt Tương Tư Đằng...
Uống hết bát thuốc, tôi nằm xuống gối, cười hì hì :

– Sao vợ đẹp thế? Càng nhìn càng thấy đẹp!

Vợ tôi cố nhịn cười, nàng nghiêm mặt đứng dậy, nguýt:

– Rõ là.... Làm bố bao lâu rồi vẫn cứ cái tính trẻ con. Trơ thế không biết!

Tôi thò chân ra ngáng chân nàng, chợt nàng kêu á lên một tiếng, ngã vào lòng tôi. Tôi túm người nàng lên, ôm gọn vào trong vòng tay, giữ chặt lại. Nàng cố giẫy ra mãi mà không được, phụng phịu chịu nằm yên. Hai vợ chồng thỏ thẻ nhau đủ thứ, hệt như hồi trước khi cưới. Nhưng êm dịu bao nhiêu thì tôi lại đau thêm bấy nhiêu. Cố cười thật tươi, tôi bất ngờ thò tay xuống túm chân vợ lên, hỏi:

– Để anh xem mèo còn đeo nhạc không nào?

Vợ tôi ngượng quá, cố đứng dậy chạy đi mà không được vì chân đã bị tôi túm lấy. Em ỏn ẻn:

– Em xin lỗi! Mèo làm mất nhạc rồi! Hay chồng mua nhạc mới cho mèo đi! Làn này mua lắc bằng vàng nạm đá quý nhé!

Lại là cái điệu nhí nhảnh ngày xưa, hơn 30 mà hai vợ chồng vẫn như con nít. Tôi rút cái lắc ra, đeo lại vào chân cho vợ, chặc lưỡi, vừa cười vừa càu nhàu:

– Hôm qua đi với anh nào mà làm rơi lắc ở bên vệ cỏ thế hả? Lúc đêm anh ra xem cá, thấy óng ánh mới nhặt lên, không thì mèo hết cả lục với nhạc. Mèo càng ngày càng hư quá thôi! Đeo lại vào không sểnh ra là mất ngay, về Hà Nội anh mua cho cả chục cái, đeo khắp người, mất cái này còn cái khác.

...... Thấy chồng thông minh không?

Vợ tôi cười , nhẹ đẩy tôi ra, đứng dậy bưng bát ra ngoài, ngoái lại bảo:

– Thôi không đùa nữa! Chú Việt với cụ mà nghe thấy thì ngượng chết. Chồng nghịch quá thôi!

Ra ngoài rồi, vợ tôi chợt mở cửa, thò đầu vào lè lưỡi nói với lại:

– À quên mất! Chồng dốt dốt dốt lắm. Chẳng có tý thông minh gì cả.

Xong chạy biến mất. Còn tôi thì nằm ngả ra giường, miệng vẫn mỉm cười nhắm mắt lắng tai nghe tiếng nhạc lúc em chạy. " Leng keng! Leng keng! Leng keng!". Vẫn tiếng đó, tôi vẫn mỉm cười thích thú khi nghe. Nhưng....!

Gót sen nhẹ bước thềm băng
Tinh tang thanh khiết tựa hồ điểm sa
Nào ai tráo nhạc miêu ta
Âm xưa người đó tại sao khác lòng?

Chuyện thứ mười ba: Chạm trán

Lòng vẫn mãi băn khoăn về câu hỏi tại sao chiếc lắc của vợ tôi lại rơi đúng lúc, đúng chỗ như thế. Nhưng tôi gác lại tất cả, biết đâu đấy là do có kẻ lợi dụng ăn cắp để đổ tội, khiến chúng tôi loạn từ trong loạn ra. Bất kể là gì thì tôi cũng mặc kệ, tôi tin vợ tôi không phải là kẻ như vậy.

Suốt hai tuần sau, mọi chuyện vẫn im lìm, không có gì đặc biệt xảy ra. Thằng D đã tỉnh, Ngọc Anh cũng bình thường trở lại, mọi chuyện trôi qua chóng vánh, ngỡ như vừa bừng tỉnh cơn mơ. Nhằm đúng ngày mùng một, chờ đến lúc tối đen thì cùng ông Bách lên đàn làm phép. Hai người ngậm một búng rượu, phun vào mấy tấm thẻ gỗ, rồi sau lại úp một tấm kính bát quái lên trên nắp hộp đựng thẻ, chờ lúc trăng mờ thì rọi thẳng lên trăng, thu ánh trăng mờ vào. Làm xong, hai ông chau lấy thẻ ra, xâu chuỗi đưa cho hai vợ chồng tôi, thằng D, cô giúp việc mỗi người một tấm đeo lên cổ. Lại dặn là khi nào cảm thấy xung quanh có khí âm lạnh lẽo thì ngậm lên miệng, tự khắc sẽ nhìn rõ chỗ đâu chạy được đâu không.

Tấm thẻ gỗ này tôi và thằng D đã quá quen, hai thằng to đầu rồi mà giờ nhìn nhau chẳng thằng nào dám ngậm thử lên cả. Chợt tôi thấy vợ tôi đưa tấm thẻ lên ngang miệng, tôi vội đưa tay cản lại, lấy cớ là nhìn nhiều thì mất thiêng, chứ không thì với người sợ đủ thứ như em chắc không sống nổi khi nhìn những cảnh tôi đã "may mắn" chứng kiến hồi trước. Chiều hôm đó, tôi theo thằng D vào rừng, cầm theo cả cưa xích, dao rừng. Khổ nỗi cứ đang cưa một lúc thì thằng D lại ngoái đầu ra sau nhìn cảnh giác, quan sát bốn phía rồi lại cắm đầu cắm cổ cưa tiếp, vừa cưa vừa cố nói chuyện thật rôm rả với tôi. Thế quái nào mà lúc mình vừa đi chỗ khác giải quyết bức xúc thì tự nhiên nghe giọng nó í ới loạn lên, vội vàng cắm đầu cắm cổ chạy ra chỗ cây đang cưa, tý nữa thì mình kéo khóa chẹt vào.... Ra đến nơi thì chỉ muốn thoi vào mặt nó, hóa ra ông tướng cứ vừa cưa cừa lảm nhảm nói chuyện, quay lại không thấy mình đâu nên hãi quá gọi ầm lên.
Cưa được gần mười lăm phút thì phạt hết các cành lá thừa thãi, chỉ để lại đúng một gốc hồng bì. Chặt xong nó gọi điện cho người ở xưởng mộc của bác nó kéo cây gỗ về, Cứ tưởng là về ngay, nào ngờ nó còn kéo tôi đi tuốt lên dãy núi sao, chặt mấy cây luồng to tướng về, mãi đến tối mịt nó mới chọn xong cây nào để chặt, chặt xong thì hai thằng tự vác về. Thằng D đi trước, ghé vai một tay ôm hai cây luồng, một tay xách đèn đêm, cái cưa thì nó đeo vào bao sau lưng. Cứ thế nó một tay ôm cây trên vai, một tay thong dong xách đèn đi xuống núi, mình đi sau vác đỡ cho nó mà cứ nhẹ như không, nhưng mệt mỗi cái là nó cao hơn mình, vừa đi phải vừa rướn người lên, mà thằng nay đột biến nên không biết mệt là gì, cứ vác đi băng băng không nghỉ, lúc tôi theo nó về đến sân thì cũng mệt nhoài người ra.

Sáng hôm sau, thằng Việt sang nhà ông bác, cùng hai thợ phụ xẻ cây gỗ hôm qua, chọn một khúc lõi, cưa bào nhẵn mịn, khía rãnh làm thân nỏ, Còn phần gỗ thừa còn lại thì nó cho đẽo gọt làm mũi tên hết, lại bịt cả sắt móc ngược vào làm mũi. Xong nó lại về lấy hai cây luồng ra, đem làm cánh nỏ, đẽo gọt, phơi phóng, bện dây, dán cánh tên chừng ba bốn ngày sau thì hoàn thành. Làm xong nó đưa cho tôi, bảo:

– Bây giờ dùng tầm xa cho nó lợi, một phát là xong, gọn nhẹ, đỡ tốn sức lực. Cái nỏ này tao chế tạo không theo kiểu của mình mà dùng cách thời Trung Cổ, lại thiết kế đường cung, mũi tên, đàn hồi dây theo ý tao sao chỏ phát huy lực mạnh nhất, hao phí công ít nhất. Bây giờ tao dạy mày bắn, dùng cái này kết hợp với vũ khí cận chiến là hợp.

Liền một tuần sau đó, thằng D dạy tôi cách ngắm bắn, cách tính toán đường đi, hướng gió, tốc độ di chuyển của mục tiêu. Nó nói:

– Để hạ gục đối thủ từ xa thì hai mũi tên là quá nhiều. Ưu điểm của cung nỏ là lợi thế tầm xa, bất ngờ, sát thương cao. Nếu mất đi một trong các lợi thế đó thì mày chỉ còn nắm 50% cơ hội, chưa kể là với mỗi lần bắn hụt mày sẽ đánh động, với kẻ thù nguy hiểm thì nó hoàn toàn có thể lao ra chỗ mày đang thay tên, dù cho mày có lắp kịp tên vào thì cũng sẽ hoảng loạn mà bắn trượt. Nhớ kỹ là chỉ một mũi tên, nếu thấy không chắc ăn thì đừng bắn. Đã bắn là phải trúng.

Dạy tôi được hai tuần thì tôi thành thạo nghề cung nỏ hơn hẳn, bắn được cả mục tiêu di động cách đó 100m. Thằng D thấy tôi bắn lên tay thì khoái chi lắm cứ cười hà hà, kêu có học trò thông minh, thầy giỏi có trò hay.
Trong lúc dạy tôi bắn nỏ thì thằng D cũng làm việc khác, nó lấy giấy A0 vẽ một bản thiết kế cây cung vô cùng tỉ mẩn chi tiết. Trong phòng nó chỉ có đúng một tờ giấy vẽ cây cung, còn lại la liệt là bản nháp, bản tính toán số đo của cánh cung sao cho bắn ra mũi tên hoàn hảo nhất. Trên cây cung của nó thiết kế cả rãnh xuyên tên, đường đục trên cánh cung để giảm bớt công kéo và tăng lực đàn hồi, lại gắn cả đèn ngắm laser, trông hoảnh tráng vô cùng. Thằng này khỏe như voi mà đầu nó thì giỏi tính toán hơn người, giờ mới thấy đúng là hồi cấp 3 nó toàn 9′ toán lý không sai tẹo nào. Rối cây cung của nó cũng hoàn thành, làm xong nhìn cây cung to như trong game, cầm nặng cả tay. Thằng Việt vừa trông thấy sản phẩm thì chắp tay vái thằng D :

– Con lạy thánh ạ! Ông tướng định kéo cái cung này kiểu gì, nặng thế này thì để làm cảnh rồi, thôi ông dùng cái nỏ nhẹ nhàng như thằng thầy cãi nửa mùa cho con.

Thằng D cười cười, khoát tay ra bộ không thèm chấp, rồi nó giơ cây cung lên, gồng tay kéo dây lắp tên, tiếng dây kéo nghe trèo trẹo. Rồi nó buông dây, chỉ nghe phụt một tiếng, mũi tên lao vút đi, xuyên thủng cả hồng tâm gỗ dày hơn mười phân. Biết là thằng này sức khỏe phi thường rồi mà ai trông thấy cũng phải trầm trồ, Ngọc Anh thì tự hào lắm mà cố nén cảm xúc lại, nhưng ánh mắt không giấu nổi nét ngưỡng mộ đức ông chồng phi phàm.

Chuẩn bị thế là xong, giờ chúng tôi có thể tự tin đi tìm bắt kẻ địch, không còn bị lâm vào thế bị động nữa. Không cần biết kẻ giấu mặt kia là ai, nhưng cứ diệt trừ hết tay chân của nó thì diệt nó chẳng khó gì. Sáng ngày hôm sau, tôi thằng D, thằng Việt cùng nhau vào trong núi, quyết diệt cho bằng được kẻ thù trên cạn, con Cùng Cục. Nhắc đến nó mới nhớ, không biết rõ mặt ngang mũi dọc nó ra làm sao thì tìm thế quái nào được. Thằng Việt lại lấy cái la bàn của nó ra, bắt quyết, điểm ấn chỉ vào mũi kim, miệng lầm rầm đọc. Vừa đọc xong thì cây kim quay tít mù rồi xoay vòng vòng như chong chóng. Thằng Việt trông thấy thế thì tặc lưỡi, cất cái la bàn đi, lấy một cây gậy tre ra, chẻ làm đôi rồi cắm một nửa xuống đất, nửa còn lại thì nó đặt ngang đầu nửa kia cho cân bằng, lấy quả trứng gà luộc ra, cầm dao khoét cắt cho nửa quả còn bằng phằng, để mặt phẳng của nửa quả trứng lên trên, rắc gạo nếp vào thành hình chóp xong cắm cây hương xuống qua trứng. Nó chỉ ngón tay xuống cây hương, miệng đọc liên hồi toàn tiếng Miên, kì lạ thay, thanh tre ngang từ từ quay như canh quạt, nửa quả trứng cắm hương ở trên bị quay tít mù mà không đổ, lạ nữa là cây hương cháy nhanh vô cùng, thoáng chốc đã lụi. Khi hương lụi hết thì thanh tre ngừng quay, qua trứng đổ thẳng về một đầu tre, thằng Việt chi tay về hướng đó, kêu cứ thằng hướng này mà đi.

Lần mò được hơn hai cây số đường núi thì bắt gặp một cái hốc ăn sâu vào vách núi, rộng ba mét, cao hai mét. Nhìn cái hốc tôi không tin là một con vật to lại chui vừa vào đây để ở được, thằng Việt suỵt tay kêu im lặng, nó đốt một cục thuốc vón cho khói mù lên rồi vứt vào trong hốc, mùi thuốc buồn nôn, lợm mửa vô cùng, tôi chỉ hít thoáng qua mà suýt ói. Được hơn hai phút sau thì trong hốc sộc đầy khói, lan ra mù mịt cả ngoài cửa, ba thằng phải đứng tránh ra xa một quãng ngồi nấp. Thằng D dùng cung kéo tay nên không dám giương sẵn, sợ sức cung mỏi thì bắn khó, còn tôi thì đặt sẵn tên, ngắm thẳng vào cửa hang, mắt chăm chú dõi vào làn khói, thằng Việt thì đã mặc đạo bào, tay nắm chặt thanh nhuyễn kiếm. Thần kinh ba thằng lúc này còn căng hơn cả dây cung. Đột nhiên, làn khói di chuyển nhanh, một cái bóng lồm cồm bò ra từ trong hốc. Tôi đập vai hai thằng, chỉ mũi nỏ về hướng cái bóng. Chờ tới lúc cái bóng đó bò hẳn ra, tôi mới nhìn rõ đó là một con vật quái dị vô cùng, nhìn nó như một con khỉ lông bạc trắng, nhưng lại có hai tay dài ngoằng, chân cao lêu nghêu còn thân mình ngắn một mẩu. Tôi đếm nhịp thở, nhằm mũi nỏ vào con vật, ước lượng theo đúng những gì thằng D chỉ, rồi kéo lẫy. Mũi tên lao vụt đi, bay thẳng vào lưng con vật, nhưng quái lạ làm sao mũi tên bịt sắt cứng thế mà đâm vào lưng con khỉ cứ như chạm phải thép, rụng luôn xuống đất. Thằng Việt đưa hai ống tên cho tôi và thằng D, bảo:

-Dùng cái này mà bắn! Tao yểm rồi.

Thằng D lấy mũi tên sắt, giương căng sức cung, bắn liên tiếp hai mũ, tôi cũng bắn ba mũi, hai mũi thằng D trúng cả hai, tôi trúng một mũi. Nhưng con Cùng Cục cứ trơ như đá, tên cắm đầy người mà vẫn chẳng sao, nó gầm rú lên, lao về phía ba thằng. Thằng Việt vội lấy một viên đá xanh trong túi ném ra, con kia thấy viên đá xanh thì sợ nhảy lùi ra sau, vờn vờn không dám lại. Thằng Việt rút một cái tù và sừng trâu, đốt một đạo bùa đen rồi thả vào trong, xong nó bụm miệng thổi mạnh. Tiếng tù và vang lên u u, lửa từ trong lòng phụt ra. Con Cùng Cục kêu chí chóe rồi bỏ chạy, ba thằng đuổi theo gấp. Thằng D vừa chạy vừa lắp tên, bắn năm sáu phát mà hụt cả, tôi bắn được trúng thêm một phát. Hai thằng đuổi liền mười lăm phút, chạy đường núi mệt bở hơi tai. Đuổi mãi đến sát rìa sông thì con Cùng Cục quay đầu lại chống trả, ba thằng không dám lại gần nó, tên thì chỉ còn vài mũi, bắn mà hết thì đi đứt. Thằng Việt quay sang bảo hai thằng:

– Đả thảo kinh xà

Nghe vậy tôi và thằng D hiểu ngay, thằng D nhận dây pháo đen từ tay thằng Việt, buộc vào mũi tên rồi bắn xuống đất cạnh con kia. Thằng Việt bắt quyết, chỉ tay lên trán rồi trừng mắt nhìn vào dây pháo. Bất ngờ dây pháo nổ đùng đoàng, sáng lòe ánh đỏ. Con Cùng Cục hai quá chạy mất, thằng Việt chỉ chở có thể, rút một cuộn chỉ đỏ, đầu buộc hai thanh thẻ đồng hình lân treo với một cái lọ nhỏ, quanh lọ dán một lá bùa vàng. Nó quăng cuộn chỉ ra, quấn đầu nặng vào chân con Cùng Cục rồi nhẹ nhàng cầm sợi dây. Còn Cùng Cục cố quều quào tay gỡ ra mà không được, chạy thì bị sợi chỉ mảnh tang giữ lại. Thằng Việt cắt sợi chỉ rồi gim xuống đất, lấy lửa đốt bùa trắng châm vào đuôi sợi chỉ. Ánh lửa cháy chạy dọc sợi chỉ đỏ mà không làm đứt, con Cùng Cục kinh hãi nhìn ánh lửa, cố chạy mà không được. Nhìn con vật lâm vào đường cùng, tôi không nỡ, quay sang nhìn thằng Việt. Nó chỉ lắc đầu nói:

– Sinh thì phải diệt! Gây tội thì phải đền. Mày dần mềm yếu rồi đấy H ạ! Giờ có muốn cứu nó cũng không được, lửa cháy hết là cái lọ kia hút nó vào.

Ba thằng đứng đó nhìn, bỗng đâu sóng từ đắng sông nổi cồn lên dữ dội, rồi cái đuôi dài ngoằng thò lên, đập mạnh xuống mặt nước sát bờ. Sóng ào lên hắt ướt cả ba thằng,...và hắt tắt cả lửa. Con Cùng Cục thấy lửa vừa tắt thì rú lên rồi dễ dàng giằng đứt sợi chỉ lôi chạy đi. Thằng Việt hét to:

– Mau bắn nó!

Nói đoạn nó lấy một lọ con thuốc ra, trét vào mũi tên. Thằng D kéo đẫy cung, nhằm thật kĩ, bắn một mũi tên xuyên ngay vào lưng con Cùng Cục. Ba thằng thở phào, bỗng đâu một cái đầu thò lên bờ, há ngoác miệng định đớp gọn thằng Việt. Tôi vội túm vai thằng Việt lội giật lại, tiện tay ném cả cái nỏ vào đầu con lươn. Thằng D vội vàng giật cây thiết côn tôi đeo sau lưng, gồng toàn lực bổ thật mạnh vào đầu con lươn. Trúng cả đòn trời giáng vào đầu, con lươn rụt ngay xuống nước, bơi vèo ra xa.

Sau phát vừa rồi, thằng Việt hút chết, còn chưa kịp hoàn hồn, tái bệch. Ba thằng dìu nhau xuống núi về nhà, lòng vẫn lo ngay ngáy chuyện chưa rõ con Cùng Cục kia có chết không. Tôi và thằng Việt lại càng sợ, lúc nãy thằng D đứng ngoài sát sông nhất mà con lươn không kéo, lại thò vào tận trong đớp thằng Việt, vậy là nó đúng là chưa chết, và nó nhớ rõ mặt từng người trong trận vây nó năm xưa. Khi chúng tôi về đến làng thì nhà cậu B lại có chuyện, không thể ngờ là kẻ năm xưa giờ đã trở lại.

Chuyện thứ mười bốn: Lộn xộn

Về đến nhà, ngồi chưa thở xong thì bỗng cả làng nháo nhào lên. Ba thằng vội hộc tốc chạy theo đám đông ngoài cổng. Mọi người hướng về nhà cậu B, đến vì lý do chính thì chẳng được mấy ai mà đến vì hiếu kì thì vô số kể. Vào trong sân nhà cậu B, thấy một nhóm người đang quây vòng tròn lại, thằng D mới mở lối cho bọn tôi chen người vào xem sự thể. Bên trong vòng tròn người là cậu B, em họ xa của mẹ thằng D. Nhưng cậu B cứ ngồi lờ đờ như người mất hồn, tay ôm lấy một thân cây chuối đã phạt đứt ngọn, rễ, vừa ôm cậu vừa gặm lấy gặm để vào cây chuối, nhựa, nước dãi chảy ra dính tèm lem vào áo, có vài người vào định giật thân cây chuối ra để đưa cậu đi viện thì bị cậu cắn xé cào cấu không cho lại gần, suốt mấy tiếng rồi cậu cứ ngối đó ôm nó như báu vật.

Được dăm phút thì mọi người nhận ra ba thằng bọn tôi đã có mặt, tất cả đưa mắt nhìn thằng Việt, chờ đợi một điều gì đó. Thằng Việt vốc một nắm hạt kê, vãi ra trước mặt cậu B, kì lạ làm sao, cậu B tự dưng buông cây chuối, đi theo nhặt từng hạt kê một. Cậu B vừa cách xa tầm tay khỏi thân cây chuối là thằng Việt móc liền hai dây lục trắng, quấn trói lấy người cậu, đoạn nó ngậm cây bút lông ngang miệng, bắt quyết rồi cầm bút thảo mấy chữ Nôm lên hai dây lụa. Viết xong thì cậu B ớ lên một câu, ngã lăn ra đất ngủ khì khì, thằng Việt bảo hai người ra khiêng cậu vào nhà, đắp chăn cho kĩ, nửa tiếng sau hẵng tháo dây. Bống thấy một người đang khiêng thân cây chuối định vứt đi thì thằng Việt ngăn lại, bảo đặt cây chuối xuống. Đợi cho cây chuối yên vị, thằng Việt mới lần lần quanh thân chuối, sờ đến mặt sau thì nó gật gật đầu ra chiều đúng lắm, xong xoay mặt đó lên. Nó quay ra ngoài gọi to:

– Ai mà bản thân, người nhà có người sắp sinh, mới có thai thì đứng quay mặt về hướng Đông Nam, tuyệt không có được quay lại ngó nghiêng. Còn người nào yếu tim, sợ máu thì đi về.

Đợi cho mấy người đó quay mặt đúng hướng hết, thằng Việt mới lấy một con dao găm, nhẹ nhàng khứa một đường trên thân chuối, xong nó lấy mũi dao bóc một mảng lớn ra. Thì ra thân cây chuối rỗng ruột đến gần 2/3, bên trong phần rỗng hình như con thấp thoáng cái gì đó. Lúc thằng Việt bóc mảng vỏ nữa ra thì không ít người sợ xanh mặt, tái mắt, chân không đứng vững nữa,...bên trong là...một cái thai nhi bé tý bằng bắp tay. Tôi suýt nữa thì ngã ngửa ra, thằng D vội đỡ lưng tôi, thì thào:

– Ngày xưa hình như cậu B cũng có suýt một đứa con, nghèo quá nên phải dẫn mợ đi nạo lúc vài tháng. Từ đó đến giờ cậu B không sinh đẻ gì nữa, thay ba đời vợ vẫn thế. Hay là....?

Chợt tôi thấy lành lạnh sau lưng, quay người lại thì gặp một ôn già lạ mà có nét rất quen, nhưng không tài nào nhớ ra được. Chợt người đó nở một nụ cười nửa miệng, ra chiều hài lòng lắm, xong đi luôn. Tôi cũng không bận tâm lắm chuyện này, nhưng thấy ghét là chỗ thấy cảnh đau lòng, ghê sợ như thế mà còn cười được.

Thằng Việt chỉ dẫn mấy người ở đó cách mai táng, đặt mộ cho đứa bé thật tỉ mẩn xong rồi mới về. Trên đường về, nó bấm độn đi bấm độn lại cả chục lần, lần nào xong cũng lắc đầu chán nản, chợt nó lên tiếng hỏi hai thằng:

– Hình như phép xem vận của tao mất linh rồi!

Thằng D hỏi:

– Mày xem chuyện quá khứ nhà cậu B hả?

Việt gật đầu, tôi nói:

– Có khi là mày đang hoảng hốt, tâm thần bất ổn nên tạm thời bị vậy thôi, thử tính việc khác xem nào.

Thằng Việt gật đầu, xong nó tính chuyện xảy ra hồi tôi còn bé, tính xong nó quay sang hỏi tôi :

– Năm 6 tuổi mày bị thủy đậu, sau đó lại lười không chịu bôi thuốc nên mãi một tháng 2 ngày sau mới đỡ đúng không?

Nghe vậy tôi kinh ngạc vô cùng, gật đầu lia lịa, quả nó nói không sai một chữ nào. Thằng Việt thấy thế thì băn khoăn, nói:

– Tại sao lại có chuyện thế này nhỉ! Trước giờ chặn được thuật xem việc của tao chỉ có một người thôi. À mà cũng không thể được, nếu thế thì quá vô lý.

Tôi hỏi:

– Cái gì cơ? Ý mày là cái lão quái vật năm lớp 11 định bắt tao làm hình nhân á?

Nó ừ hử, xong lại tính toán tiếp, vừa tính vừa nói:

– Vấn đề là lão chết từ đời nào rồi. Vậy nên trên thế gian còn tồn tại người chặn phép xem việc của tao là điều quá vô lý.

Chợt tôi nhớ lại nụ cười nửa miệng vừa nãy, kinh hãi kể lại cho hai thằng nghe. Thằng Việt nghe xong nói, trầm tư suy nghĩ rồi nói :

– Chuyện quá vô lý! Lão đó đã sắp hết mệnh, số trời không cãi được dễ đâu. Có thể đấy là một người nào đó sư huynh sư đệ hay học trò của lão, nhưng bỗng dưng đến đây thì chắc chẳng phải tốt lành gì.

Ba thằng đang suy nghĩ thì bỗng đâu một lá bùa đen cháy bùng ngay trước mặt tôi, khói bay mù mịt, rồi một bóng người chặn ngang đường. Chính là ông già tôi mới gặp, ông già tháo cái mũ nan ra, thản nhiên ngồi bệt xuống giữa đường, lấy tay xỏ lại chỗ vành mũ.Tôi cúi xuống hỏi:

– Cụ ơi! Sao cụ lại ngồi giữa đường thế này! Xe cộ giờ nó đi ẩu lắm, cụ để con đưa cụ lên trên ghế đá vỉa hè ngồi cho an toàn.

Nói đoạn tôi xốc ông cụ lên, đưa vào ngồi trên ghế đá, hỏi han nhà cửa, con cháu đâu mà để cụ đi thế này thì ông già chỉ cười cười mà không đáp. Tôi chào ông già rồi đi, lúc vừa quay lưng đi thì ông già nói vu vơ:

– Cũng chẳng đến nỗi phải yểu mệnh!

Nghe ông già nói khó hiểu, tôi mới quay phắt người lại, ông già đã chống gậy đi lọc cọc được một quãng rồi. Thôi ! Nếu ông ý đã không muốn nói thêm thì có hỏi cũng vô ích. Tôi cùng hai thằng bạn đi về mà lòng vẫn ngổn ngang trăm mối. Ba thằng vừa đi vừa nói chuyện, nhưng bỗng thằng D đứng khựng lại, run run nói:

– Có thằng nào nhận ra là mình đi lạc vào tận ruộng ngô cũ không?

Nghe nó nói tôi mới sức nhớ ra, thằng Việt thì vẫn điềm nhiên, nó bảo hai thằng:

– Mình lạc được hơn mười phút rồi! Tao biết nhưng cố đi vào đây xem thế nào. Người bày trò này chẳng phải giỏi giang gì, còn không bằng con bé Ngọc Anh.

Bỗng nhiên có tiếng nói vọng từ trên cao xuống, cả ba quaat ngoắt lại, hướng về phía đó. Trên cành cây là một người nam đang ngồi vắt vẻo, mặt khinh khỉnh nhìn chúng tôi. Định thần lại, nhìn rõ vết sẹo đuôi mày, điệu cười tự kiêu, tôi kinh ngạc nhận ra kẻ ngồi trên cây là thằng Kiến, đệ tử của lão thầy năm xưa muốn lấy mạng tôi. Tôi hỏi :

– Anh đến đây làm gì?

Thằng Kiến cười hô hố, gằn giọng:

– Bất lịch sự quá! Gặp lại người quen mà chẳng có tý hiếu khách gì cả. Tao đến đây chơi đấy, có việc gì không?

Việt nói vọng lên cây:

– Anh đến chơi thì cứ việc. Chúng tôi còn bận không tiếp chuyện được nhiều. Hơn nữa nói chuyện với anh cũng chẳng có tác dụng gì lắm.

Thằng Kiến nhìn hằm hằm vào ba thằng bọn tôi, nghiến răng kèn kẹt, chợt nó thấy thằng D đang đập đập cái cung sắt lên vai thì dịu lại, cười mà mắt long sòng sọc, nói nhát gừng:

– Chào! Bọn bay nhớ đó!

Xong nó huýt sáo một tiếng, bỗng đâu trong đám ngô hoang có thấp thoáng mấy bóng cờ và một cái kiệu con, thằng Kiến trèo lên kiệu, ngất ngưởng đi khuất dần vào núi. Chỉ mới một ngày mà xảy ra bao chuyện, từ con lươn, cái oan thai nhà cậu B đến ông già bí ẩn và thằng Kiến. Mệt mỏi ra rời vì cả ngày truy đuổi, chạy loăng quăng khắp chốn cùng nơi, ba thằng bọn tôi lững thững trở về nhà. Bữa cơm tối hôm đó, ba thằng lầm lầm lì lì, thằng nào cũng căng óc ra suy nghĩ về những sự kiện xảy ra trong ngày hôm nay, cố kết nối chúng bằng một sợi dây hợp lý nhất. Vợ tôi thấy tôi đột nhiên khác mọi ngày thì lo lắm, lúc lên phòng ngủ, nàng tỉ tê hỏi tôi sao lại vậy. Tôi thở dài sườn sượt, kể lại mọi chuyện, thổ lộ cái khó nghĩ của tôi. Nàng nghe xong, im im không nói gì hồi lâu, bỗng dưng cất tiếng:

– Anh đừng sợ! Em ở ngay sau lưng mình này.

Nói xong thì lại dụi đầu vào ngực tôi, ôm cứng tôi mà ngủ. Tôi mỉm cười, hạnh phúc sao khi giữa những phút giây hiểm nguy lại có được sự bình yên tĩnh lặng thế này, từ từ nhắm mắt chìm vào giấc bông.

Chừng 4-5 h sáng gì đó, bỗng đâu có tiếng rầm rầm, tiếng đổ uỳnh uỳnh rung cả đất. Tôi mở bừng mắt, hướng tai nghe và quan sát xung quanh, xác định hướng phát ra tiếng động kì lạ là ở bãi tha ma làng. Nhưng cái khiến tôi sợ hơn nữa là đột nhiên không thấy vợ mình bên cạnh, tôi choàng dậy nhìn quanh phòng, phát hiện ra vợ tôi đang đứng úp mặt vào góc tường. Nghi có chuyện chẳng lành, tôi kinh hoàng lao ra định ôm vợ tôi kéo lại. Rồi khi bàn tay chỉ còn cách bờ vai nàng gang tấc, thốt nhiên đầu gối tôi đau dữ dội, sau đó là một đòn đánh thẳng vào sau tai, tôi từ từ đổ xuống, mắt cố nhìn về phía vợ một cách tuyệt vọng rồi từ từ lịm đi.

Chuyện thứ mười lăm: Lộn xộn (P.2)

Tôi nằm mê man không rõ là bao lâu, chợt nghe thấy một giọng êm êm lo lắng gọi mình:

– Mình ơi! Anh sao thế này! Tỉnh lại đi mình ơi!

Tôi gắng gượng mở mắt ra, lờ mờ thấy xung quanh mình là vợ tôi, vợ chồng Ngọc Anh, ông cháu thằng Việt, tất cả chăm chú dõi theo từng cử chỉ của tôi. Tôi chống tay ngồi dậy, sờ tay thử ra sau tai thì lạ thay, không hề thấy đau đớn, nhức buốt gì cả, chẳng giống bị đánh mạnh vào đó tý nào. Tôi hỏi thằng D:

– Tao ngất đi bao lâu rồi vậy mày?

Thằng D đưa tay lên xem đồng hồ rồi trả lời :

– Chắc cũng khoảng gần năm tiếng rồi, bây giờ là chín giờ sáng!

Chợt nhớ ra cảnh trước lúc ngất , tôi thảng thốt hỏi vợ tôi :

– Sáng sớm nay em làm gì mà tự dưng lại đứng úp mặt vào góc tường thế? Anh sợ quá nên chạy vào, chưa kịp gọi thì bị ngất.

Cả năm người nhìn tôi trân trân, lúc sau, vợ tôi e dè nói:

– Sáng nay em có đứng úp mặt gì đâu. Lúc 4h em ra khỏi phòng để xem lại chăn nệm cho hai đứa bé con, nghe thấy tiếng động lạ ngoài nghĩa trang, tiếp theo là tiếng anh kêu nên em chạy vội về thì đã thấy anh nằm ngất đó.

Quái lạ, vậy cái thứ đứng góc nhà đó là ai ? Nghĩ lắm lại thêm mệt óc.Tôi chợt nhớ âm thanh hồi sáng, quay sang hỏi thằng Việt:

– Thế sáng nay ngoài bãi tha ma có cái gì mà uỳnh uỳnh thế?

Thằng Việt bảo:

– Chiều mày khỏe hẳn thì tao dẫn mày ra xem, giờ ngồi yên tao xem lại mạch với đầu mày có bị gì không.

Rồi nó kéo tay tôi, mắt lim dim nghe mạch, xong lại xem sau tai tôi có vết bầm hay tụ máu không, lại cầm đèn rọi qua rọi lại bắt tôi nhìn theo ánh đèn, rồi bắt tôi cười, nhăn mặt, nói, hát, kể chuyện cũ. Xong tất cả, nó thở phào nhẹ nhõm, nói:

– Không sao cả. Bị đánh vào huyệt sau tai nên ngất đi, nhưng kì lạ là sao bị đánh đến mức ngất mà tỉnh dậy không đau buốt hay tụ máu.

*********************************

Đến chiều, tôi theo thằng Việt ra bãi tha ma xem. Tôi kinh hãi nhìn trân trân vào bãi, đớ người gần phút. Quang cảnh tại đây giờ khủng khiếp vô cùng, không biết kẻ nào đã quật liền hai chục ngôi mộ vô chủ ngoài rìa lên, quan tài bị bật nắp, hài cốt bên trong cũng mất, khắp bãi tha ma là người lo dọn dẹp chỗ mộ bị quật, và nhiều hơn là người đến sửa sang lại mộ nhà mình thành một pháo đài vững chắc, có nhà còn chăng cả dây thép gai với lưới B40 quanh mộ các cụ. Phía xa xa, một toán người đang dựng lán ngủ đêm, chắc định cắt cử mấy người tối nay ngủ lại đây canh bãi tha ma với hai ông quản trang. Trong miếu Thổ thần là một đoàn sư vãi đang ngồi tụng kinh siêu độ cho vong linh những người xấu số chết không yên, giữa áng chiều, tiếng tụng kinh ê a văng vẳng lại khiến cảnh vật thêm não nề, u ám. Tôi ngồi lên xe thằng Việt chở về, tôi hỏi:

– Mày nghĩ sao về việc này. Sao bỗng dưng lại lôi hài cốt người ta lên làm gì? Thất đức thế thì con cháu há mồm cả.

Thằng Việt vừa chạy xe vừa kể:

– Hồi tao học trên Tây Tạng, có nghe một ông bạn của thầy tao kể là có tồn tại một thuật là dẫn ma sống, cũng từa tựa như phép dẫn thi của Mao Sơn Tông. Muốn luyện thuật này phải quật mồ lôi hài cốt người ta lên, mà hài cốt vô chủ thì càng tối vì sẽ không có tổ tiên hay thần hộ mệnh canh giữ. Đem bộ hài cốt đó về, róc hết thịt da ra rồi lấy xương cốt ngâm vào hũ sành đựng thuốc bùa, đợi một đêm phơi trăng non rồi đem xương đó ra, ráp lại thành bộ hoàn chỉnh. Bện chỉ vàng kim tuyến nối làm gân, đắp đất sét nhào tro bùa làm da thịt, có cơ thể hoàn chỉnh rồi thì nung người đất đó trong lửa đốt bằng xác thú, rưới máu tươi lên người đất nung để làm nguội. Xong xuôi tất cả thì cái người đất nung đó sẽ thành nô lệ phục dịch cho mình, tuy thân xác đất nhưng lạ cử động linh hoạt khác thường, lại biết ẩn biết hiện như ma. Có kẻ đem người đất nung gài vào nhà nào mình ghét, ngày đêm phá rối trả thù mà nhà đó không ai thấy gì. Nhưng thuật này cực tổn âm đức, vì người đã chết mà bị lôi lên mặt đất, xác đã chôn yên mà bị quấy rối, do đó sẽ sinh ra oán khí tích tụ lại, báo thù kẻ ác đó.

Tôi nghĩ : "Chắc kẻ giấu mặt có dính dáng đến vụ này rồi! Có lẽ nó muốn huy động thêm quân để kiếm chuyện với mình, vậy càng phải đề phòng cẩn mật." Đang đi thì tôi lại thấy ông già bí ẩn kia chống gậy đi trên vìa hè, ngược chiều với chúng tôi, ông ta nhìn tôi, lại nở nụ cười bí hiểm kia, tôi cũng gật đầu chào lại. Lúc hai thằng đi được một quãng, tôi nghe thấy tiếng nói ông cụ rào rào hòa trong gió :

– Muốn sống thì tốt nhất nên biết giả mù giả điếc.
Tôi ngoái đầu lại nhìn, thấy ông ta đang chống gậy lọc cọc cách xa bọn tôi gần trăm mét, vậy sao lại nói vọng tới đây được? Thấy kì dị, tôi vội hỏi thằng Việt :

– Mày có nghe thấy gì không?

Nó kêu:

– Nghe cái gì cơ? Đang chạy xe gió rít ào ào, nghe cái gì nữa ? Mày nói mà tao còn nghe khó nữa là người khác. Về tao xem lại đầu cho. Rõ khổ, thành lơ ngơ thì bỏ mẹ mày!

Nghe nó nói tôi lại càng thấy kì, cớ làm sao nghe tiếng nói đó lại rõ ràng đến thế được? Lúc đang định đi qua đường đê, thằng Việt nghĩ thế nào lại lừng khừng phút chốc mới đi tiếp. Vừa đi nó lại vừa nghiêng đầu nhìn xuống sông, hễ có đợt sóng nổi lên là hai thằng lại rùng mình.
Về đến nhà cũng đã gần 7h tối, cả nhà ăn cơm xong rồi ngồi bàn nước xem TV, nói chuyện phiếm. Cũng lâu rồi mới có giây phút thoải mái bình yên đến thế này. Lúc chuẩn bị đi ngủ, lên đến cầu thang thì tự nhiên thằng Việt nhìn về phía tôi quát lớn:

– Ngồi thụp người xuống!

Tôi giật mình thụp vội xuống, lăn người mấy vòng vào trong trán vùng nguy hiểm, bỗng lọ hoa sau cạnh chỗ tôi vỡ tan. Trong lúc đó, ông Bách đã lao ra, tay phẩy ra một nắm tro nhang, lầm rầm khấn. Tức thì một cái bóng người lờ mờ hiện lên. Thằng Việt vịn lan can đu xuống, tung cho ông nội nó cầm một đầu dây nhỡ đen xì, gạt mạnh ngang lưng cái bóng đó. Chỉ nghe cháy xèo một tiếng như miếng thịt mỡ gặp lửa, cái bóng kia oằn người lại, lùi ra sau. Ông Bách vớ cây kiếm gỗ lim treo trên tường, bắt quyết, hét to một tiếng rồi phóng kiếm đâm thẳng vào ngực bóng người kia. Cái bóng quàng tay quạt mạnh khiến hai ông cháu phải lùi ra ngoài. Trúng phải mũi kiếm, cái bóng hiện nguyên hình là một người đen xì xì, mặt mũi không rõ ràng. Người đó đưa tay lên ngực, bẻ cây kiêm cái rắc, vứt càn kiếm thằng xuống nền nhà. Ông Bách và thằng Việt tái mặt nhìn nhau. Chợt Ngọc Anh đứng trên cầu thang ném cái túi đồ nghề của thằng Việt xuống, tay con bé cũng cắp hai cây kiếm gỗ vào trợ chiến. Ông Bách lùi về sau rút sáo ra thổi yểm hộ, hai anh em thằng Việt mỗi người cầm một dây bùa chăng quanh phòng, đồng loạt xông tới. Hai anh em nó bắt quyết, đọc ấn liên tục đánh mà người kia không hề hấn gì, cuối cuồng thằng Việt cắm được một cây trâm gỗ vào vai người kia, nó và Ngọc Anh vội lùi ra, vừa ổn định tư thế là đồng thanh hô to, tay trỏ vào người đen xì. Ngay tức khắc, mấy dây bùa xoắn lại, lao vào trói chặt người kia. Thằng Việt ngậm rượu phun thằng vào, bùa cháy bùng bùng như đuốc. Người kia gầm gào loạn lên rồi chạy ra ngoài. Ngọc Anh cầm hai cây kiếm gỗ, lao vọt lên trước bắt chéo cây kiếm cản lại, mượn lực kéo ngã. Xong con bé rút ra một cái ly như tịnh bình, thấm nước vào tay rồi nhẹ nhàng thổi. Một luồng hơi lạnh phả ra, từ từ dập hết lửa. Người đen xì kia vội sụp xuống lạy con bé, ú ớ nói gì đó xong cúi người đi giật lùi ra ngoài. Lúc vào trong, ông Bách kêu:

– Sao cháu lại cứu nó? Nó là yêu tà, mà phàm là yêu tà thì người học phép như mình phải diệt trừ.

Ngọc Anh lí nhí đáp:

– Cháu xin lỗi. Nhưng cháu thấy người đó tội lắm, chỉ bị sai bảo đến đây thôi mà phải chết thì không đáng.

Ông Bách lắc đầu than:

– Thiên bẩm cháu nào có kém gì anh đâu. Nhưng phải cái nhu nhược, không thể nhẫn tâm nên không tài nào thành công được như nó. Âu cũng là do tính khí nữ nhi dễ mủi lòng, chẳng trách ai được.

Thằng D an ủi:

– Không sao đâu mà. Coi như mình làm phúc để đức cho con cháu.

Rục rịch mãi thì mọi người cũng đi ngủ. Riêng tôi thì vẫn không tài nào yên giấc được, nằm một lúc tôi lại dậy, khẽ gỡ tay vợ ra, lẳng lặng lách cửa xuống vườn hóng gió cho thư thái đầu óc. Lúc đang đứng ngắm cá trong ao, tự nhiên tôi thấy rùng mình vì một đợt gió lạnh. Linh tính mách bảo tôi có chuyện không ổn rồi, tôi vội lùi xa ao cá, đưa mắt nhìn bốn phía, từ từ lùi vào trong nhà. Chợt sau lưng tôi có tiếng chân đáp nhẹ, tôi giật mình quay người lại, thì ra là cô gái ăn mặc kín mít kia đến. Tôi nhủ thầm : "Khôn ba năm dại một giờ rồi. Mình một thân một mình ngoài đây, vũ khí thì không có, đánh tay không thì không ra gì, lại gặp oan gia ở đây đúng là hết sống. Nhưng trong cái rủi cũng có cái may, ít ra mình chắc chắn là cô gái này không phải vợ mình,mùi hương từ cô này không phải hương lan trên tóc vợ mình, lại càng không phải hương nhân tạo. Thôi coi như niềm an ủi cuối vậy!" Chợt cô gái kia trừng mắt nhìn tôi, lao thẳng ra chộp lấy yết hầu tôi. Tôi chống trả lại nhưng đúng như dự đoán, tôi dễ dàng bị tóm gọn như gà non gặp cáo, mà mình còn chưa kịp kêu gì. Cô gái kia quặt tay tôi ra sau, một tay ấn huyệt không cho tôi kêu được. Sau đó, cô gái áo đen túm áo tôi kéo xốc tôi lên, đưa một lọ thuốc lên sát mũi tôi. Ngửi mùi thuốc thơm thơm, tôi từ từ mềm oặt ra, để cô ta xách vào đặt lên ghế ngoài hiên, cuối cùng cô ta vứt lại một mảnh giấy xong bỏ đi mất. Rõ ràng mắt tôi vẫn nhìn được, tai vẫn nghe được mà người như tượng gỗ, không tài nào nói hay cử động được.

Chừng mười phút sau thì tôi dần dần cử động lại được, cuống cuống nhặt mảnh giấy lên mở ra xem, bất ngờ khi chữ trong đó chẳng phải đe dọa gì, chỉ có một câu : Giả mù giả điếc, tránh xa thị phi
Rốt cục thì cô gái đó về phe ai, lời nhắn đó mang ý tốt hay ý xấu, mà lời nhắn lại có ý khá giống với lời nói ông già bí ẩn kia. Suy nghĩ lại những chi tiết nhỏ nhặt nhất mà đã vô ý bỏ qua, trong đầu tôi lờ mờ hình thành một sợi dây liên kết tất cả lại với nhau.

Chuyện thứ mười sáu: Chia ra

Đêm đó, tôi cố gắng suy nghĩ, chắp nối nhưng điều nhỏ nhặt nhất để tất cả hình thành một xâu chuỗi hợp lý. Tôi không thể đoán hẳn nó ra, chỉ lờ mờ đoán được mọi chuyện đều có chung một điểm, ngoài chúng tôi ra thì còn có vô số người khác đã bí mật đến đất này, đồng minh có, thù có, nhưng tất cả đều đến vì một thứ báu vật nào đó, và người nắm bí mật về báu vật đó rất có thể là thằng Việt, và mỗi người chúng tôi lại nắm giữ một mảnh ghép quan trọng, rồi sớm hay muộn cũng sẽ có một vụ tranh chấp xảy ra.

Nhưng bản tính tôi suy nghĩ thì nhiều mà bám theo suy nghĩ đó thì kém cỏi, càng nghĩ càng rối như canh hẹ, tôi quyết định là không nghĩ nữa, mặc cho nó ra sao thì ra, quân đến tướng đỡ, nước đến đắp bờ. Đứng chán chê dưới hiên, tôi lại chui tọt lên phòng ngủ. Nằm thiu thiu một lúc bỗng người tôi lâng lâng, mê mê tỉnh tỉnh, có cảm giác như ai đó mở cửa phòng bước vào. Tôi vội mở mắt ra nhìn, co duỗi tay chân xem sao, may quá không phải là bóng đè. Quay sang trái thấy vợ tôi vẫn nằm ngủ bên cạnh, tôi yên tâm hẳn, đặt người xuống ngủ tiếp. Bỗng nhiên sống lưng lạnh toát, tôi lại căng mắt ra nhìn xung quanh, hỏi: "Ai đó?". Không có tiếng trả lời. Chợt trong bóng tối mờ mờ, tôi nhận ra có một bóng người đang từ từ tiến lại gần giường, hoảng quá tôi vội lay vai gọi vợ dậy, nhưng nàng vẫn ngủ im không biết gì, tôi thầm nghĩ: " Hỏng rồi! Hôm nay là cái ngày gì mà mình gặp lắm chuyện thế nhỉ?". Rồi bóng người đó từ từ tiến lại gần tôi, lúc này nhìn rõ là một người đàn ông mặc giáp phục, mũ trụ đầy đủ, tay vác kích lăm lăm sấn vào. Người này không to cao cho lắm, còn thấp hơn thằng D, nhưng mặt mũi oai vệ, hai mắt tinh anh, gờ mày nhô cao, sống mũi thẳng, quai hàm bạnh, rất ra dáng nhà tướng. Ông tướng đó lại gần, bỗng cầm cán kích gõ vào trán tôi đau điếng, tôi kêu to lên nhưng hình như chẳng ai hay biết cả. Ông ta dí sát mặt vào mặt tôi, nói mà phả ra hơi lạnh ngắt:

– Giả mù giả điếc chứ có phải mù điếc thật đâu. Can gì mà cứ cố chấp thế?

Rồi ông tướng đó bước ra khỏi phòng, kéo cửa cái sầm. Nghe tiếng: "Sầm!", tôi giật cả mình, hét toáng lên, bỗng nhiên thấy quanh mình là sáng, vợ mình thì choàng dậy lay vai hỏi có chuyện gì. À thì ra là mơ, nhưng sao thật đến vậy? Tôi dậy đánh răng rửa mặt, ra ngoài vườn hóng mát, lòng vẫn lấp lửng giữa mê và thực. Hôm đó lúc ăn cơm, mọi người có hỏi tôi sao tự nhiên hét lên thế, tôi mới đem chuyện tối qua ra trả lời, nhưng giấu nhẹm chuyện bị cô gái áo đen khống chế và chuyện về ông già có nụ cười bí hiểm. Ông Bách trấn an tôi:

– Chắc tại tối qua trước khi đi ngủ có xem phim cổ trang, lại thêm tinh thần mỏi mệt nên sinh ra vậy. Chuyện mộng mị vốn hư hư thực thực, để tâm nhiều lại mau già đi.

Tôi vâng dạ rồi thôi, nhưng lòng vẫn băn khoăn suy nghĩ về câu nói lặp đi lặp lại. Tối hôm đó, cả đám đang ngồi chơi cá ngựa thì bỗng đâu có giọng hát văng vẳng vọng vào, tắt tiếng TV đi, lắng tai nghe thì bài vè nghe cứ u u a a, chẳng rõ đâu vào với đâu, mọi người lại ngồi chơi tiếp. Ai cũng bảo là nghe rào rào như loa hỏng, chẳng ra đâu vào đâu, chắc hội trẻ con, thanh niên nhà hàng xóm nghịch hỏng giàn Karaoke rồi. Duy chỉ có tôi là vẫn nghe rõ mồn một bài hát đó, trong đó có câu:

– "....Ai theo ông đồ Chiểu, mù mà nhin sự đời, ai học cụ Tam Nguyên, chỉ mong sao giả điếc. Mù mù điếc điếc, ai biết ai hay...!"

Lại là mù và điếc, rốt cục thì người nào muốn tôi theo ý vậy, xem ra không có ác ý gì với tôi, năm lần bảy lượt nhắc nhở tôi biết thân biết phận mà tránh đi. Băn khoăn mãi vẫn không nghĩ ra gì, thốt nhiên ngoài đường làng có tiếng hò reo phấn khởi, người dân lũ lượt đổ ra đường đông như hội. Tôi và thằng D chạy ra xem, kêu mọi người ở lại ngồi chơi, lát là hai thằng về, đi lắm cũng vô ích. Tôi với nó hòa vào đoàn người, thấy trong đám có người mang dao rựa, có người mang rổ rá, xô chậu, có vẻ như là đi chia chác cái gì đó. Chợt uỵch một tiếng, ai đó chạy ngược chiều đâm sầm vào ngực thằng D, ngã lăn ra, thằng D vội kéo người đó dậy, là chú H hội thợ săn, chú H hổn hà hổn hể nói:

– May quá, đang len vào chỗ chúng mày để thông báo tin mừng.

Tôi hỏi:

– Mừng cái gì mới được chứ ?

Chú H cười khà khà, vỗ ngực:

– Bọn tao lập mưu dụ con lươn kia thò một phần người lên bờ ăn mồi, rồi mấy ông từ trên nóc đứng chực sẵn bắn súng phóng lao xuống, gim chặt nó xuống đất. Nó giãy mà càng giãy thì càng rách thân rộng ra, đuối qua nằm ngáp, lúc đó hai ông Q và D mới chạy thuyền, bung lưới sắt ra kéo phần thân dưới nước của nó lên bờ. Chao ôi nó to và dài dã man! Bây giờ đang bu lại xem rồi chụp ảnh kìa, tý nữa còn cắt thịt nó chia ra nữa. Chúng mày đến nhanh đi kẻo hết.

Nghe nói vậy thì hai thằng kinh ngạc vô cùng, không còn tin vào tai mình nữa. Chạy hộc tốc đến chỗ bắt con lươn, may nhờ có thằng D to khỏe chen trước mở đường mà tôi đi dễ dàng. Lúc đến nơi, thấy xấp xấp chỗ nước gần bờ có một con vật đen nhẫy, dài ngoằng đang nằm, bên trên bị phủ một tấm lưới sắt nặng, khắp người găm mấy mũi lap ngạch, trên đầu có sáu bảy vết chém. Xung quanh nó, người ta đứng chụp ảnh, tạo dáng đủ kiểu, "lều báo" nghe tin cũng đến mổ xẻ, phỏng vẫn mấy ông thợ săn. Chắc ngày mai kiểu gì chẳng có tin sốc. Len lõi mãi hai thằng mới vào sát được, chăm chú nhìn kĩ con lươn. Đúng là nó to thật, cái mồm ngoác như thế này với cặp mắt ti hí không tròng thì không chệch đi đâu được, nhưng sao trông nó cứ khang khác thế nào! Thằng D bỗng quay sang tôi thì thào:

– Hình như không phải nó mày ạ!

Tôi hỏi:

– Giống ý tao. Nhưng sao mày nhận ra?

Nó trả lời:

– Hôm nọ lúc tao cầm côn của mày vụt vào đầu nó ý, tao nhớ rõ chỗ tao vụt xuống có hoa trăng trăng kiểu camo, mà mắt nó có vết sẹo nữa, cái mồm cũng to hơn thế này, chẳng phải lúc đó nó đớp ngang mà suýt gọn người thằng Việt còn gì. Mà thằng Việt thì cao đến mang tai tao,đớp nó thế thì chắc mồm phải to đáng kể.

Nghe nó nói tôi thấy rất có lí, còn đang chăm chú nhìn tiếp thì tự nhiên con lươn mở trừng mắt ra, quẫy mạnh. Đám đông hét toáng lên rồi nháo nhào chạy dạt ra, mầy ông thợ săn thì lăn xả vào chém, đâm cho kì chết hẳn. Bỗng con lươn há mồm ngáp, kêu è è mấy tiếng rồi rú lên, cuối cùng là gục hẳn xuống, người giật giật. Thấy con lươn chết hẳn, cả đám gào ầm lên, reo hò điên cuồng, mấy ông thợ săn thì đứng ra tận chỗ nước nông, nửa người trên nửa người dưới nước, tay giương cao súng, dao, cười toe toét cho lều báo chụp ảnh. Bỗng nhiên ngoài sông sóng cồn kinh khủng, vỗ oàm oạp vào bờ, rồi một cái đuôi vung lên quất mạnh xuống, nước bắn tung tóe cả. Ngay sau đó là tiếng kêu thất thanh của một thợ săn bị kéo chìm ngỉm xuống, không kịp sủi cả tăm. Dân làng sợ hãi kéo nhau chạy cả, lều báo vứt cả máy ảnh chạy bán sống bán chết, mấy ông thợ săn lội nước cố lên bờ thật nhanh, lúc sắp vào bờ thì một ông nữa lại bị kéo tụt lại không kêu được tiếng nào. Thằng D và tôi chạy như điên về nhà, chân lướt không chạm đất, còn không thèm ngoài cổ nhìn đằng sau. Trên đường đi, có người ngã ra thì bị đám sau dẫm lên, kêu giời kêu đất, có mấy người thì bị thằng D chạy hăng quá ủi đổ, lăn lông lốc ra vệ đường.

Lúc hai thằng chạy vào đến sân nhà thì đập vào mắt là một cảnh tượng tan hoang. Thằng Việt và ông Bách đang ngồi chống kiếm gỗ thở phì phò bên mép ao, vợ tôi với Ngọc Anh thì khóc sướt mướt, ôm chặt hai đứa nhỏ, hai đứa bé sợ quá không khóc ra thành tiếng được. Khắp sân là cành cây gãy, chậu hoa đổ vỡ, gạch ngói, mảnh sành vỡ rãi đầy ra đó.

Chuyện thứ mười bảy: Là thù hay là bạn?

Trông cảnh tượng tan hoang vậy, tôi với thằng D rối rít hỏi:

– Làm sao? Ở nhà vừa có chuyện gì mà nên nông nỗi này!

Thằng Việt thở hổn hển, đáp:

– Lúc bọn mày đi, có một đám sống nó kéo vào, gặp ai là đánh người đó. Tao với ông nội cố chết đánh bật chúng nó trở ra, nãy tự dưng có tiếng sáo hiệu lệnh, bọn kia rút hết về. Vừa đi chừng 2-3 phút thì hai bọn mày về.

Thằng D chạy ra chỗ Ngọc Anh và vợ tôi, hỏi han chuyện khi nãy, lại vỗ về hai đứa nhỏ cho chúng nó bớt sợ. Tôi nghi hoặc, đăm chiêu suy nghĩ: "Nếu chúng nó đã đến đông vậy, cớ làm sao lại dụ mình đi, hi sinh cả con lươn làm mồi. Mà khi mình với thằng D về lại rút ngay lập tức?" Nghĩ một lúc, tôi hỏi thằng Việt:

– Một trong hai bọn tao, có thằng nào mà bản thân có điểm đặc biệt làm bọn kia sợ không?

Nó đáp:

– Không. Ngoài mày mang mệnh Chu Long, còn thằng D thì mạng người thường, không có khắc mệnh hay dòng máu phù thủy gì. Chúng nó chẳng có lý do gì phải sợ cả!

Càng ngày chuyện càng rối rắm, hết cái này đến cái kia xếp chồng lên nhau nhơ một mớ bài hỗn độn hàng trăm quân. Chạy ra chỗ vợ tôi, vừa nhìn thấy tôi, My đã khóc òa lên, ôm chồm lấy tôi. Tôi phải ngọt nhạt dỗ dành mãi, cô vợ ngốc mới nín khóc, trước giờ chưa bao giờ tôi thấy nàng sợ hãi đến vậy, đáng lẽ tôi không nên để vợ con theo mình về quê chuyến này. Dọn dẹp các thứ xong xuôi, ổn định tinh thần đám nhỏ lại, tôi chờ cho đàn bà, con trẻ trong nhà đi ngủ hết mới xuống hiên ngồi cùng ông cháu thằng Việt, thằng D. Thằng D cáu bẳn, quát:

– Mẹ nhà nó! Mới đi có tý mà đã vào cắn trộm!

Ông Bách thì trầm ngâm, nói:

– Hôm nay chúng nó định dốc toàn lực ra, diệt mình bằng mọi giá. Nhưng vì lý do nào đó mà hai đứa này về kịp thời, có lẽ bọn kia chỉ ngại điều đó nên rút về vội. Giờ này chắc bên nó hoang mang lắm, kế hoạch đột ngột bị phá vỡ, lại sợ mình thừa lúc này mà đột kích nữa.

Thằng Việt tiếp lời:

– Vấn đề hiện tại là tìm ra điểm bí mật ở một trong hai thằng D và H, biết điểm mạnh đó rồi thì mình sẽ tận dụng mà quét một mẻ lưới thâu sạch bọn âm binh, âm tướng kia!

Ông Bách chợt xua tay, nói:

– Có chuyện gì đó không ổn ở đây. Phàm là thứ ma sống thì gần như không có điểm yếu, còn loại như tên đầu sỏ kia thì ắt không bao giờ sơ suất đến mức để mưu bị phá hỏng giữa chừng vậy.

Thằng D bỗng vỗ đùi đánh đét, kêu to:

– Trừ phi một trong hai đứa cháu là người quen biết của thằng đầu sỏ, nên nó không muốn bị uổng mạng trong đợt càn vừa nãy. Đáng lý chỉ có một thằng thoát nhưng lại có thêm thằng nữa đi theo!

Thằng Việt và ông Bách gật gù tán thưởng. Ông Bách hỏi thằng D:

– Trước giờ cháu có ai mang ơn mình, hoặc tỉ dụ như ai đó thương mến mình nặng lòng không?

Thằng D vội giơ tay thề thốt:

– Ông ngoại nói oan cho cháu quá! Trước giờ cháu chỉ yêu có mỗi mình vợ cháu, con gái khác lại gần là cháu chạy, có để ý gì đâu. Mà cháu thì chỉ có gây thù chuốc oán chứ làm ơn cho ai đâu!

Xong nó nói:

– Để mà nương tay đến mức thế thì chỉ có thể là tình cũ còn chưa phai thôi.

Nó vừa dứt câu, cả ba người quay sang nhìn tôi chằm chằm. Tôi ngớ ra, hỏi:

– Cụ với hai đứa làm gì mà nhìn cháu ghê thế?

Thằng Việt nhấp ngụm trà, nhìn tôi cười ẩn ý:

– Nói về tình thì chỉ có mày là phong lưu nhất thôi. Tính ra trước giờ con gái nó đổ mày, rồi chờ mày nhiều thế còn gì. Có nhẽ nào...!

Thằng D thì quả quyết:

– Chắc chắn là con lợn H rồi! Mày lắc não nhớ lại xem trước có bao nhiêu cô nặng lòng với mày!

Tôi bồi hồi nhớ lại từng mảnh kí ức vụn vỡ, tính ra chỉ có hai người thôi. Một là Linh, còn một là một người mà cả đời tôi nuối tiếc, nhưng khả năng về người đó là không thể nào. Tôi băn khoăn:

– Chẳng lẽ lại là Linh à?

Thằng Việt xua tay, kêu:

– Cái đó không thể xảy ra! Trình độ của Linh còn thua tao, luyện làm sao được ma sống mà luyện, lại còn bao lần đọ phép nữa, toàn ăn ngang ngửa hoặc thậm chí ăn đứt tao luôn.

Ông Bách gật gù, tiếp:

– Đúng rồi! Cô Linh đó ông có gặp qua vài lần lúc ông mới đến đây, tuy có cốt cách dòng dõi nhà phù thủy, nhưng tay ấn còn thua xa thằng Việt.

Bàn bạc mãi, chè nước suốt đêm tới tận tờ mờ sáng hôm sau. Mọi người mới vào chợp mắt đôi chút, dạo này lắm chuyện đau đầu, ngủ cũng không yên nổi. Buổi trưa mới ngủ dậy, ăn nháo nhào xong tôi với thằng Việt đi qua nhà mấy ông thợ săn thiệt mạng đêm qua. Hôm nay khăn tang trắng cả ngõ Dưới, đường ra Cây chay có bốn chiếc quan tài nối nhau đi ra, hai người chết ngay tại sông, một người chết khi lên bờ được vài bước thì bị kéo tụt xuống dưới, ông còn lại về đến nhà tự nhiên lên cơn động kinh, ngã vật ra đất, vợ con đưa cấp cứu không kịp. Mới mất hôm qua mà hôm nay đã phải ra đồng, người ta sợ để lâu quỷ nó về ám vong trùng, cả hội thợ săn giờ còn có chú H với ông L.

Tối hôm sau, đang ngồi uống nước tự dựng ngoài cửa có tiếng vỗ rầm rầm, rồi có tiếng gào ú ớ bên ngoài. Tôi vội chạy ra gọi vợ tôi với Ngọc Anh, dắt hai đứa bé vào nấp phía sau. Ông Bách và thằng Việt cầm chắc kiếm đào, trừng mắt nhìn ra cửa. Thằng D nhẹ nhàng tiến lại gần, mở cửa cái xong nhảy vọt vào trong, đứng thủ ngay bên cạnh tôi. Bên ngoài, một cái bóng đổ nhào vào. Là một con ma sống đang quằn quại, ú ớ định nói gì. Nó bẻ ngón tay, lấy vụn đất vẽ lên tường hình một người mặc áo thụng, trong tay áo có chữ na ná như chữ Phong. Xong nằm vật ra đất, im lìm không kêu được nữa. Ngọc Anh ở sau lưng chồng ló đầu ra nhìn, bất chợt con ma sống ngoái người về phía con bé, tay chắp lại lễ tạ, rồi buông thõng tay, gật gật đầu, cố sức lấy tay trỏ lên bức tranh nó vừa vẽ. Thằng Việt tiến lại gần, xem qua, buồn bã nói:

– Nó tự phá giải bùa! Sắp tan thành đất vụn rồi. Con này là con hốm trước đến lẻ nhà mình, con Ngọc Anh tha cho nó về, chắc hôm nay nó liều chết đến đây báo tin để trả ơn!

Ngọc Anh chạy lại chỗ thằng Việt, níu áo anh, mắt đỏ hoe:

– Anh ơi! Anh làm cách nào cứu nó đi anh!

Ông Bách lắc đầu, bảo:

– Tự phá bùa thì ắt phải vụn thành cát bụi rồi. Giờ chỉ có làm ân huệ cho nó mau vỡ tan ra, không càng kéo dài càng đau đớn, oán hồn nặng quá không cất lên được, khó mà siêu thoát.

Thằng Việt rút trong ngực áo ra một lá bùa đen, giơ trước mắt con ma sống, hỏi bằng thứ tiềng gì ề à như đọc kinh, lại nghe như gầm gào trong họng. Con ma sống gật gật đầu ra chiều đồng ý, song lại trỏ tay liên tục vào tường như cố nhắc lại tin mình đưa là tin quan trọng. Thằng Việt áp là bùa lên ngực con ma sống, đọc lầm rầm, xong bắt quyết trỏ lên trán rồi điểm mạnh xuống lá bùa. Lá bùa bốc cháy đùng đùng, con ma nhanh chóng tan nát thành vụn. Lạ là vụn tan ra thì mịn như bột, ông Bách phất tay áo vào đám tro, đám tro nhẹ nhàng bay lên, lơ lửng trôi dần ra cửa rồi tàn vào trong gió.

Mọi người bồi hồi, không ai nói một câu nào. Ngẫm ra con ma đó lúc sống cũng chỉ là nông dân chân chất, cả đời cui cút ở làng, chết cũng ở làng, vậy mà chết rồi còn bị quật mồ hành hạ thành nô bộc. Ấy vậy mà còn có nghĩa biết báo ơn người khác, hơn khối kẻ đang sống mà không bằng cái thây chết rồi. Nhìn lên bức tranh trên tường, tôi cố sức suy nghĩ xem bức tranh có ý nghĩa gì. Tin báo này đã phải đổi bằng mạng của một "người", nhất định phải giải mã cho bằng được, không thể để nó chết vô ích.

Chuyện thứ mười tám: Nuôi ong tay áo

Ngồi ngẫm nghĩ chốc lát, ông Bách chợt thốt lên:

– Nuôi ong tay áo! Ý này ám chỉ có kẻ nội gián phá từ trong phá ra!

Tôi nói:

– Nhưng chữ Phong này là gió cơ mà cụ!

Ông Bách xua tay, cắt nghĩa:

– Phong này phải hiểu là con ong, chứ nếu gió trong tay áo thì vô lý quá. Ngẫm lại thấy trước giờ trong nhà mỗi khi có chuyện là đến dồn dập, người trong nhà có chuyện gì là chúng nó biết hết, trừ phi là nội gián ngay sát sườn ra, chứ cho dù tài mấy cũng không vượt nổi trận của thằng Việt mà vào đến tận đây được.

Càng ngẫm càng bàng hoàng, nhưng lại càng thấy có lý. Đúng là thằng Việt lên Thần đẳng, vượt được trận đồ của nó gần như là không tưởng, nhưng nếu trong nhà có nội gián mở trận cho bọn quỷ vào thì chúng nó cứ việc ra vào như chỗ không người thôi. Nhưng ai mới là nội gián được? Tôi không, nhà thằng Việt không? Thằng D dù ngoại tộc nhưng nó không lý gì đi hại vợ mình cả? Vậy chẳng lẽ là.... em!
Cố gạt suy nghĩ vớ vẩn đó ra khỏi đầu, tôi thử tim một đối tượng khác khả nghi. Vẫn vô ích, mọi điều bất lợi đều hướng về vợ tôi. Nhưng lẽ nào cái nghĩa trăm năm không bằng một tham vọng ích kỉ? Đầu óc tôi xoay mòng mòng, không còn muốn làm gì nữa. Ba ngày sau, tôi làm gì cũng như người mất hồn, ai hỏi gì tôi cũng đờ đẫn mất mấy giây rồi mới giật mình đáp lại. Đang ngồi suy nghĩ trong phòng thì chợt có tiếng leng keng, lại là âm thanh quen thuộc đó. Tôi bừng tỉnh, mở mắt nhìn nàng, mỉm cười, vợ tôi đem vào một ly trà nóng. Nàng lo lắng hỏi tôi:

– Mấy bữa nay anh làm sao mà trông thất thần thế? Anh mệt mỏi, hay là ốm gì?

Tôi lắc đầu đáp không sao cả, ôm vòng em vào lòng. Chẳng biết còn ôm nhau được mấy nữa. Nhưng trước mắt cứ tận hưởng những cái êm đềm ngắn ngủi đi, còn sóng gió thì hãy gạt sang một bên.

————————————————————————————-

Ở dưới sông, bộ đội, dân quân quây kín lại, cho sona dò khắp sông, lại cử cả người mang bình lặn, lặn xuống dưới chỗ sông chảy ngầm nữa, nhưng ai ngoi lên cũng lắc đầu, bảo dưới sông vẫn im lìm, đến một gợn bùn, vệt nước đục cũng không có. Mấy ông bộ đội đóng ở đó được tầm 3 hôm thì được lệnh cấp trên rút về, cái làng nhỏ bé náo động được mấy hôm giờ lại trở về im lìm như cũ. Buổi đêm, công an vẫn đi tuần dọc đường thôn ngõ xóm, nhưng tuyệt nhiên không có gì lạ cả. Mấy đoàn đen đen gì hay chạy dọc buổi đêm, những tiếng ồ ào trong núi vọng ra cũng tắt ngấm. Hôm làm 3 ngày cho mấy người thiệt mạng đêm đó, cả làng lại trắng màu tang tóc, vàng hương đốt bay đầy trời, bộ đội cũng không cầm lòng nổi khi thấy người nhà họ gào khóc, lăn lộn vì mất chồng, mất cha. Ngày hôm đó, thằng Việt và ông Bách phải chia ra, đến từng nhà làm lễ mà vẫn không đủ, đến Ngọc Anh cũng phải đi.Buổi tối, cả nhà ngồi ngoài hè, hai đứa trẻ thì chạy lăng xăng đuổi nhau quanh sân. Thằng Việt pha trà, rót mỗi người một chén, vừa nhâm nhi vừa nói:

– Dạo này lắm chuyện xảy ra quá hả mày!

Tội gật đầu:

– Ừ! Nhưng không thế thì lại không là cái làng mình!

Ông Bách thì điềm tĩnh:

– Giờ ông mới hiểu tại sao anh cả lại nhất quyết gắn bó với nơi này. Đạo đức của nghề không cho phép ông Trấn nhắm mắt làm ngơ, từ lâu lắm rồi, nơi này đã có biến. Mọi thứ ở thời ông K năm nào, và bây giờ, đều từ cái biến đó mà ra cả.

Nói đoạn, ông lấy mảnh đá Khôn ra, ngắm nghía hồi lâu, bảo:

– Giá như anh Trấn còn sống thì mảnh Càn mảnh Không khớp được với nhau, đâu đến nông nỗi như ngày hôm nay! Hầy!

Ngồi trà nước hồi lâu, chợt có người đẩy cổng đi vào, là thằng A Kiến. Nó lấc cấc nhìn tôi với thằng Việt, xong lại liếc xéo ra hai đứa bé. Thằng D bước ra sừng sững, đứng chắn ngang, bảo Ngọc Anh bế hai đứa bé về. Nó hất hàm hỏi thằng Kiến:

– Đến có việc gì?

Thằng Kiến ngước lên nhìn, thấy thằng cốt đột cao to như hộ pháp mà run, nhưng vẫn nói cứng:

– Tránh ra!

Thằng D túm ngược nó lại, xách cổ lẳng ra ngoài cổng như quăng con mèo, gằn giọng:

– Cút!

Thằng Kiến lồm cồm bò dậy, từ phía sau nó, một cụ già đi ra. Mỉm cười hiền từ nhìn thằng D:

– Đừng nóng tính thế! Để nó nói xem nó định làm gì đã!

Trông thấy có ông cụ già, thằng D cũng lễ phép chào, hỏi:

– Cho hỏi khí không phải! Cụ là ai ạ?

Ông cụ thong dong chắp tay sau lưng đi vào, đáp:

– Ông già này chỉ là người qua đường, nãy thấy thằng này nó rình như ăn trộm nên túm vào, bắt nó mở cổng tự vào chịu tội thôi.

Vừa nhìn thấy ông cụ già, ông Bách và thằng Việt, Ngọc Anh đều đứng phắt dậy. Ông Bách hỏi:

– Ông...ông là?

Sau đó là hai người đối thoại bằng tiếng Trung, có lẽ tại ông già kia nói chưa sõi tiếng Việt. Ngọc Anh quay sang bảo tôi:

– Anh H! Người này là anh em con chú con bác với ông nội em đấy. Nhưng ông ý luyện loại phép tách riêng với bùa chú Trương gia nên có tuổi thọ hơn người, trông vậy thôi chứ năm nay ông ý 98 tuổi rồi đấy.

– Ông ấy đến đây làm gì?

– Chắc ông ý đến như viện binh! Nhưng mà tính tình khác người lắm, được cái cao tay ấn, trình độ của ông này ở phái khác là ngang với trình độ anh Việt đấy.

Nghe đến đây, tôi lại rùng mình, thì ra là ngang cấp nên thằng Việt không cảm nhận ra được, bữa nọ ông ta dùng phép gì mà thằng Việt nhìn vào thành người khác, còn tôi nhìn vào thì lại đúng mặt ông ý, thảo nào nó không hay biết có ông này xuất hiện ở làng. Nhìn phong thái ông lão trông đúng là có đạo cốt tiên phong thật, nhưng trông rất bình dị chứ không cách biệt hẳn như thằng Việt. Ông già nhìn tôi chăm chú, rồi quay sang thằng Việt:

– Ông mừng vì con có người bạn không vì an nguy bản thân mà bỏ mặc anh em. Nhiều lần đe dọa, cảnh cáo nhưng cậu này vẫn kiến quyết ở lại chống đỡ cùng còn. Mới đầu ta nhìn còn lo vì anh này có tướng ranh ma, gian xảo. Hóa ra trong gian lại có nghĩa.

Thằng Việt quay sang, lắc vai tôi cảm động, nói:

– Vậy mà mày cứ ỉm đi!

– Tao sợ nói ra lại rối thêm!

Rồi tôi hỏi ông cụ:

– Thế cái cô gái áo đen kia là do cụ cử đến ạ?

Ông lắc đầu, đáp:

– Chỉ là người giả mạo thôi! Người thật ông cử đến trước giờ mất tích không thấy đâu nữa. Giờ tra hỏi tên kia xem nó có khai ai đứng sau không, may ra tìm được.

Thằng D sấn vào, chộp lấy hầu A Kiến, quát:

– Nói! Đứa nào sai mày đến!

Nó ngắc ngứ:

– Chết tao cũng không nói!

– Thế người kia đâu?

– Chết rồi!

– Sống phải thấy người, chết phải thấy xác! Nói!

– Mất xác rồi!

Thằng D điên tiết, thụi cho nó một đấm vào bụng, thằng Kiến ngã vật ra, ôm bụng kêu la dữ dội. Thằng D định đánh thêm thì Ngọc Anh ngăn lại, bảo có hai đứa nhỏ ở đây, đừng tiêm nhiêm thói xấu cho chúng nó. Rồi Ngọc Anh dắt hai đứa vào nhà, tránh không chó chúng nó thấy cảnh bạo lực
Lúc này, thằng Việt mới ra tay, nó thả con rắn khoanh Tiểu Tích của nó ra, cho trườn lên người thằng Kiến, cười hỏi:

– Con này độc lắm đây! Mày liều liệu mà nói, chứ nó cắn rồi thì khó cứu, mà có cứu được tao cũng mặc!

Thằng kia sợ xanh mắt mèo, không dám cử động mạnh, sợ con rắn bị làm động, đợp cho phát thì rồi đời. Con Tiểu Tích trườn quanh, phun phì phì đe dọa. Cuối cùng thằng Kiến hét lên:

– Tao nói! Tao nói! Bỏ nó ra rồi tao nói!

Thằng Việt bảo:

– Lại còn muốn ra điều kiện à? Thế mày có nói không, hay đợi tao ra lệnh!

Nói đoạn, thằng Việt huýt gió, con rắn phồng mang, nhe nanh ra. Thằng Kiến gào lên, kêu:

– Có người bảo tao làm, còn nhiều người theo nó nữa, ai cũng được hứa chia phần trong kho của.

– Kho của nào? Ai sai mày!

– Kho của nhà họ Trương với kho vàng của người Tàu giấu trong núi. Nhưng tao không biết ai sai tao, chỉ gặp người đưa tin thôi.

– Thế người đưa tin là ai?

– Mỗi lần một người khác, tao không biết ai cả! Mày bỏ con rắn ra đi, tao thề tao cuốn gói luôn khỏi đất này, không dây dưa ở lại nữa.

Thằng Việt huýt sáo thu con rắn vào ống bương, quát:

– Biến ngay cho khuất mắt tao!

Biết sơ qua về kẻ bí ẩn kia, thằng Việt và hai ông cụ chụm đầu vào bàn bạc. Xong nó quay sang bảo tôi:

– Mày buồn ngủ chưa?

Tôi ngỡ ngàng:

– Ngủ thế quái nào được!

Nó gật đầu, cười:

– Lên ngủ trước đi, tối nay thao quân, chiều mai đánh trận đầu!

Rồi nó đùn hết tôi với thằng D, vợ con tôi lên nhà, đóng kín cửa lại, không ngó nghiêng gì ra ngoài. Trên sân lúc đó chỉ còn có thuần những người biết phép phù thủy. Tôi nghe nó nói thao quân thì lấy làm lạ, chắc là nó ám chỉ âm binh rồi, nhưng có chiêu mộ bao giờ đâu mà thao với luyện. Ở trong nhà, tôi đi loanh quanh tìm xem còn cái gì ăn đêm không, nhưng chẳng thấy chị giúp việc đâu, chẳng biết đêm hôm còn về nhà mẹ làm gì nữa. Đành làm tạm cốc cà phê rồi lên phòng đánh cờ với thằng Dũng. Bàn cờ bày ra được một lúc, đang suy nghĩ nước đi thì bên ngoài bỗng nổi lên tiếng lắc chuông, rồi tiếng gõ mõ lốc cốc. Xen lẫn trong đó là tiếng đồng thanh hô hoán của ba người, rồi lửa ở đâu cháy sáng rực ngoài sân, xong lại tắt ngúm. Lúc nữa thì gió nổi ào ào như bão, tiếng trống thình thình vọng ra từ trong núi, tiếng chạy rầm rập lại vang lên, lại có giọng ầm ào, ì ì như sấm đục. Cảm tưởng như đất rung chuyển sau mỗi lần thằng Việt hô to ấn chú. Đến tờ mờ sáng thì tiếng huyên náo gần dứt, sau đó có tiếng hô vang khí thế, tiếng đi đều đều hùng tráng xa dần, xen lẫn trong đó có cả tiếng công an, dân phòng đi tuần đêm về gọi nhau í ới, dường như không hay biết có chuyện gì đang xảy ra.

Nào ngờ sáng hôm sau lại có biến từ trước, mọi chuyện vượt quả dự tính của tôi. Con ong kia đã bắt đầu hành động phủ đầu, mọi đường đi nước bước đều bị nó biết cả.

Chuyện Thứ 19

Sau đêm thao quân, sáng dậy xuống sân tôi cứ nghĩ là sẽ có một đống ngổn ngang cơ. Nhưng không, sân vẫn sạch tinh tươm, hàng xóm xung quanh nhà cũng không hay biết gì chuyện tối qua có động tĩnh, đến ngay CA dân phòng cũng chẳng biết gì. Lúc tôi ra khỏi nhà dạo quanh thì bắt đầu chột dạ, lấy xe máy ra đi vài vòng quanh làng tôi mới nhận ra dân mua đất đã đi đâu sạch không còn một bóng người, làng lúc này chỉ tuyền là dân gốc. Tôi giật mình lôi điện thoại ra xem thử thì vạch sóng ở mức 0, lật đật về nhà bật thử quạt thì quạt im re, điện thoại và điện sinh hoạt đều không có. Tầm 1-2 tiếng sau trong làng bắt đầu nhận ra điều kì lạ này, người ta nhốn nháo cả lên. Họ chạy cả ra cổng làng để xem điện đóm làm sao thì kinh hoàng nhận ra cổng làng đã đổ sụp, con đường nối vào làng vẫn còn nhưng không hiểu sao xe đi từ trong làng ra đến cổng là tắt ngúm, làng thì ở chỗ xa Tam điệp, chẳng ai điên đi bộ ra tận đó vào thời điểm này, nhất là khi trong làng vừa xảy ra lắm chuyện như thế.

Đến buổi trưa thì trong làng không còn nhốn nháo nữa, có lẽ vì không có điện , mọi công cụ giải trí hiện đại đều không dùng được nên mọi người tụ tập ra đường trò chuyện nhiều hơn. Giờ này thì mọi người đều biết chuyện xảy đến với làng không hề là những tai họa ngẫu nhiên như người ta cố tự nhủ mình vậy. Đặc biệt là lớp người già, những người mà thời tấm bé đã từng chứng kiến tai họa từ cõi khác đổ xuống làng mình. Ở nhà, bữa trưa không có quạt nhưng lạ ở chỗ nhà không oi bức, nóng nực tý nào, trái hẳn với cái không khí ở vùng sát núi đá này. Ăn cơm xong, dạo mấy nhà hàng xóm xem thử cũng y hệt vậy, nhiều người ngủ trưa ngon lành, nhà nào cũng mát như điều hòa. Tôi nhìn thử lên trời thì thấy trời âm u như sắp dông tới nơi, đang giữa trưa mà tuyệt nhiên không có ánh mặt trời nào. Quanh đi quẩn lại rồi về nhà, thấy đàn ông trong nhà đang lấy nan tre, giấy hồ ra làm lồng đèn. Lồng đèn lục giác bằng giấy vàng, các mặt viết chữ, ở dưới treo một miếng gỗ vẽ hình cá chép. Tôi ngạc nhiên ngó ngó thì ông Tĩnh ( ông già họ hàng) bảo:

– Cái này ông học của người Nhật, ngày xưa nhà nào giàu lắm mới có mà treo, ban đầu thì móc vàng ngọc, tua rua nhiều màu, dùng để treo trước quan tài người chết như cờ phướn vậy, về sau có vẽ chữ với cá chép vào thì coi như vật báo hiệu rằng chỗ này đã có chủ, được sự bảo hộ của Tứ linh và Phong Lôi , cỏ ngoài đường không được xâm phạm vào.

Làm xong tầm 20 cái đèn thì cũng đã 5h chiều, ông Tĩnh vội hối đem tre cắm các ngõ vào làng, mỗi cây tre treo 1 cái đèn lồng. Đêm đó, ông bảo thằng Việt với tôi đi dặn dò các nhà trong làng tối nay cứ ở yên trong nhà, có chuyện gì cũng chớ có bước ra ngoài nửa bước, còn ở nhà mình thì đàn bà bị hối đi ngủ sớm, 2 ông cụ và thằng Việt thì trải rất nhiều giấy ra vẽ bùa, tôi với thằng D. cũng bị hối đi ngủ nhưng nóng ruột chẳng ngủ được nên 2 thằng cứ đi ra đi vào rồi lại ra bàn nước ngoài vườn ngồi. Chán chán không có việc gì làm nên tôi vịn bậu cửa sổ rồi ngồi lên, ở trên này trông thẳng là ra đầm Eo, cái đầm đó suốt từ ngày bé tôi về nó vẫn thế, bất kể ngày hay đêm đều hiếm người qua lại. Bỗng nhiên tôi thấy có bóng 2 hay 3 người chạy trên cánh đồng, cố nheo mắt nhìn rõ thì hình như họ đang khiêng cái gì đó, đêm sáng trăng nhìn rõ ràng. Tôi túm thằng D bảo:

– Sao dặn rồi mà đêm hôm còn ai ra đồng Eo chạy như điên thế kia ?

Nó ngơ ngơ nhìn tôi:

– Ai chạy? Mày bị ngáo ngơ à?

Tôi gạt nó đi, nheo nheo mắt cố xem "bọn kia" nó khiêng cái gì. Ôi mẹ ơi! Chúng nó khiêng cái chum hay vại gì to lắm, mà chạy băng băng trên đồng lấy như không chạm đất, cái mồm, hình như chúng nó xoay cổ ra sau lưng mà chạy. Tôi tái mặt vỗ vỗ vai thằng D:

– Đi vào nhà đê mày! Tao bắt đầu xoắn rồi đấy.

– Vào đéo gì! Các siêu nhân đang vẽ vời, vào lại làm phiền ra.

Lúc này tôi mới tụt xuống, ngó qua cửa sổ vào nhà trong, bên ánh đèn nến leo lét, 3 người đang cặm cụi vẽ từng lá bùa. Thôi kệ, dù gì bọn kia cũng ở ngoài đồng, tài thánh cũng chẳng vào nổi đây, ta cứ chơi phần ta rồi tính sau. Tầm 2h sáng, đang pha ấm chè mới thì có tiếng chạy huỳnh huỵch ở đầu làng, vang rõ mồn một, lát sau lại là phía đông, tây, nam làng, chỗ nào cũng có tiếng chân chạy huỳnh huỵch lát xong thôi. Tầm nửa tiếng sau thì tiếng chân im, ở chỗ cổng làng bắt đầu vọng vào tiếng ngoèo ngoèo như mèo hoang kêu. Tôi với thằng D xanh mặt nhìn nhau, thằng D hối hả bảo:

– Vào ! Vào ! Tao là thấy đéo ổn.

– Ờ thì vào! Mà ở đây còn nghe rõ thế chắc mấy nhà đầu làng đái ra máu mất.

Vừa dứt lời thì thằng Việt ló đầu ra bảo:

– Ở đâu cũng nghe y hệt thế thôi. Vào nhanh không tao đóng cửa cho ở ngoài giờ.

– Từ từ chờ bố!

– Nào đừng có nóng! Đang vào, đang vào!

Ở trong nhà, bùa bày thành xấp, hai ông cụ thì đang ngồi nghỉ uống nước. Ông Tĩnh cất giọng khề khà:

– Đêm nay có mấy cái đèn lồng là nó không dám vào đâu! Nhưng cách đó không lâu dài được, rồi cũng phải tính cách khác.

Tôi bèn đem kể chuyện nhìn thấy vừa nãy cho mọi người, ông Bách gật gù:

– Có khi nhờ chuyện này lại tìm ra lý do mấy lần rung chuông hội quân đều chỉ gọi được phần tư với một nửa về là nhiều.

Giờ tôi mới vỡ lẽ lý do sao thấy bảo hội quân mà không đem luôn đi lại còn dùng dằng mãi. Trò chuyện thêm lúc nữa rồi tất cả cũng về phòng, bên ngoài, tiếng ngoèo ngoèo vẫn vang lên đều đều, thỉnh thoảng len vào tiếng chó cắn nhấm nhẳng và tiếng gào khóc.
Vào phòng, thấy vợ con tôi đã ngủ, tôi bèn rón rẽ chui vào nằm cạnh thật khẽ, sợ làm 2 người thức giấc. Nhưng vợ tôi vẫn tỉnh, em khe khẽ giật áo tôi bảo:
– Tiếng gì đấy ? Em sợ.
Tôi ôm em vào lòng vỗ về:
– Meo meo ngoan. Có anh đây rồi, không việc gì phải sợ.
Ôm cả 2 vào lòng, tôi nhắm mắt lim dim thêm chút nữa rồi ngủ.

Sáng sớm hôm sau, ra kiểm tra quanh làng thấy đèn lồng ở hướng Tây cái ngoài bị giật xuống còn cái trong vẫn y nguyên. Ra đến cổng làng kiểm tra thì thằng Việt nhìn quanh quất như tìm cái gì đó xong nó bảo tôi gọi mấy ông bặm trợn ở làng ra, thêm 2 thằng Toàn, Nhiệm đang làm CA nữa, đem theo cả cuốc xẻng. Thằng Toàn một tay vác xẻng một tay sờ vào bao súng, lập bập hỏi:

– Ê Việt! Mày bảo tối qua cái tiếng gầm gào đầu làng nó là tiếng gì vậy? Đ m đêm qua bố buồn ỉa mà đéo dám ra ngoài, chẳng lẽ đi ỉa lại lăm lăm súng.

Tôi ngoái ra nói:

– Bảo bao lần rồi! Cái công trình phụ thì đéo xây khép kín mà xây tít ngoài vườn, kêu dịch vào trong đi thì đéo dịch, lười cơ, giờ mang bô vào ỉa.

Vừa đi theo thằng Việt, bọn tôi đi sau vừa trò chuyện inh ỏi như để át đi cái cảm giác rờn rợn đang xâm chiếm lấy mình. Đi được một lúc mấy thằng mới nhận ra đang ở đồng Eo, ở giữa đồng gió thổi lồng lộc, mấy cây bạch đàn HTX trồng từ đời nào cứ đung đưa xào xạc. Đi được độ trăm mét nữa thì thằng Việt chỉ xuống đất xong bảo:

– Ở đây! Đào lên cho tao xem nó thế nào.

Mấy thằng nhìn nhau ái ngại, cuối cùng một ông gạt ra, cầm cuốc bổ cái phập xuống, kêu lớn:\

– Nó bảo đào thì cứ đào! Lỡ gì cũng lỡ mẹ nó rồi, để tao xem xem có cái gì mà làng náo loạn như tận thế đến nơi. Tao đéo tin là có ma mãnh gì ở đây, có khi cả làng trúng khí ảo giác của máy bay địch cũng không hay.

Cả đám đứng đó cười hô hố xong xắn tay vào đào, cứ đào được lúc là thằng Việt lại kêu dừng, đốt 1 lá bùa rồi tay bắt quyết, đọc rì rầm xong thả xuống. Đào đến tầm 3m thì nó kêu đào nhẹ lại, xúc thêm vài xẻng nữa nghe đánh keng, một thằng kêu:

– Đá hả?

– Không phải đá! Đào rộng ra nữa xem nào.

Đào rộng ra thêm tý nữa thì ở dưới lộ ra một cái miệng chum được niêm phong toàn chữ Hán. Hai ba ông ồ lên:

– Hũ vàng hũ bạc gì đây. Nhưng đéo cần biết, cứ moi lên đã.

Tôi nghĩ lại chuyện tối qua, xong quay sang thằng Việt. Nó nhìn tôi rồi bảo:

– Về nhà lấy sợi thằng đỏ ra đây hộ tao! Gọi cả ông Tĩnh nữa.

Nói đoạn, nó bảo mọi người ngừng đào, còn tôi thì chạy về lấy dây. Gần trưa thì ra đến nơi, ông Tĩnh rút trong túi áo ra một nắm thẻ vuông vuông bằng gỗ, trên có khắc chữ như bộ cờ tướng. Xong xuôi hết tất cả mới ròng dây xuống kéo cái chum lên. Thằng Việt bảo:

– Nghe rõ bao giờ bảo mờ thì xé niêm phong xong mở ra luôn!

Tất cả nín thở chờ đợi, vừa nghe tiếng mở phát là ông Tĩnh cầm kiếm gỗ xé niêm phong, 2 thằng Toàn, Nhiệm cùng nhau giật phăng cái nắp chum ra. Thằng Việt vừa chạy lùi ra sau vừa gọi:

– Tất cả lùi ra xa, đợi một lúc sau hẵng vào.

Một lúc sau, cả đám kéo ồ vào, thằng Việt giật tờ bùa dán trước và sau chum đi, để lộ một đường vạch thằng tắp dọc theo thân chum. Nó cầm tràng hạt quật vào đó 3 cái, lập tức cái chum nứt làm đôi. Tất thảy người đứng đó đều đứng sừng sững, mắt mở trân trân nhìn vào trong chum. Bên trong chum là xác một ông già râu bạc, đội mũ cánh chuồn mặc áo trào như kiểu ngày xưa.

Cả đám kinh hoàng nhìn vào cái xác, nhìn trang phục thì chắc ông này sống vào khoảng thời Trịnh – Nguyễn phân tranh, nhưng quái lạ ở chỗ sau hàng trăm năm như thế, đáng lý ra cái xác phải mủn ra từ lâu rồi, đằng này vẫn tươi nguyên, ngoại trừ lớp da thịt hơi tóp lại và màu da đã ngả nâu thì nhìn không khác gì một ông già gầy còm vừa mới chết. Mấy thằng đứng đó dáo dác nhìn nhau, có đứa quay sang trách thằng Việt:

– Đ m mày dẫn bọn tao đi đào mộ người ta hả ? Chôn lại ngay thôi không rách việc giờ.

Thằng Việt khoát tay :

– Từ từ, nhìn kĩ lại xem có phải xác người không đi.

Tôi cũng vội vàng xoa dịu chúng nó, tôi tin không phải vô cớ mà thằng Việt đi bày trò quái gở này. Sau khoảng nửa tiếng vẫn chẳng có động tĩnh gì, hai ba đứa bắt đầu kêu than, định đi mua quan tài chôn lại cho người ta. Thằng Việt vẫn điềm nhiên như không, ngồi xổm xuống đất nhìn chăm chăm vào cái xác. Bỗng nhiên nó khịt khịt mũi rồi lăn nhào ra xa, kêu lớn:

– Tất cả lùi ra xa, nhúng vải ướt bịt mũi lại.

Ngay lúc đó, ông Tĩnh quăng lần lượt mấy tấm thẻ gỗ xung quanh cái xác, miệng đọc lẩm nhẩm. Mấy thằng bọn tôi chạy tán loạn cả, mãi lúc sau nghe tiếng thằng Việt gọi mới quay trở lại. Lúc này, hơn hai chục con mắt đều toát lên vẻ kinh hãi, mấy ông đàn ông bu theo đi xem lúc nãy giờ chạy về sạch, chỉ còn có đúng 6 người lúc đầu ở lại. Cái xác ông già kia, không hiểu sao đã như bay hơi hết cả cơ thịt, chỉ còn lớp da thâm xì, mỏng như giấy ướt đang dính chặt vào bộ xương, đôi môi cái xác giờ khô quắt, cuộn xoăn mép lại làm lộ ra hàm răng đen xỉn. Nhìn thấy cả lũ đứng như trời trồng, ông Tĩnh giải thích:

– Chỉ có lớp da là của người thôi, còn xương cốt bên trong là hỗn hợp các loài động vật gắn lại với nhau. Cái này là thuật của người Vân Nam, dùng xương cốt của một số loài động vật gắn lại với nhau thành bộ khung na ná khung xương người, rồi lột nguyên lớp da lẫn thịt của người ra, khoác lên bộ khung , trong bụng nhồi thảo dược, thẻ đồng, phù chú xong may lại, khoác cho áo Phán quan. Thuật này truyền qua An Nam thì lại được phát triển thêm bằng cách phối kết các loại ngải, bùa Nam tông. Người xưa tin rằng cho cái xác cầm thẻ bài ngọc khắc tên tuổi ai thì người đó sẽ tránh được họa sát thân. Tránh được không thì chẳng thấy, chỉ thấy không biết bao nhiều dân đen, nô tỳ vô tội bị lột da lúc đang sống để làm hình nhân thế mạng cho vua quan, quý tộc. Vua chúa bên Trung Quốc ngày xưa cũng làm trò này, mà mỗi lần chôn phải tầm 49 người một khu, chôn 6 khu như vậy, ý muốn ngay cả việc chết đi, luân hồi lục đạo cũng không phải chịu, bất tử muôn đời để hưởng phước.Tôi nghe vậy mà rởn cả gai ốc, nhưng vẫn băn khoăn không hiểu chuyện này thì có liên quan gì với chuyện làng đang mắc phải. Thằng Việt thấy mặt tôi đăm chiêu vậy thì bảo:

– Cái cần không phải là cái xác này, đợi thêm tý nữa.

Đến chừng một tiếng sau thì dưới đất chỗ vừa đào cái chum lên có tiếng động, thằng Việt ngay tức khắc rút trong túi ra một tấm lưới rồi quăng xuống hố, chạy ra túm lưới kéo lên. Cả đám xúm xít nhìn vào, chỉ thấy trong lưới có con gì trông từa tựa như con chó con, nhưng đuôi thẳng tuột mà dài nữa, lông trắng muốt như lông thỏ. Thằng Việt thò tay vào túm con thú kia ra, buộc cổ lại rồi đưa cho ông Tĩnh giữ. Ông Tĩnh chưa kịp cầm thì nó quẫy mình phát xong phóng vèo đi, nhưng bốn phương tám hướng đều có người chặn, nó dáo dác chạy quanh, chạy tới chỗ tôi thì cụp tai lủi dần lại, tôi đưa tay xuống túm lên cũng chỉ thấy nó co rúm lại chứ không dám chạy. Thằng Việt thở phào nhẹ nhõm rồi quay đi, đốt một lá bùa rồi ném vào cái xác, tay lần tràng hạt đọc chú, cái xác cháy bùng lên, theo gió bay dần đi, xong nó bảo mấy thằng bỏ mảnh chum vào chỗ cũ rồi lấp đất lại. Trong lúc chờ, nó ra ngó ngó con thú đang sợ hãi cuộn tròn trong lòng tôi, nó cười hề hề xong bảo tôi:
– Biết con gì đây không ?

– Chồn à? Hay chó thành tinh ?

– Hồ ly tinh chính hiệu đấy.

Tôi há hốc mồm, nó bồi thêm:

– Chứ mày nghĩ hồ ly tinh là phải có chín đuôi, hóa thành gái đi hại người à ? Cáo thường sống đến 10 năm là già cốc đế. Nhưng con này phải cỡ trăm tuổi, thế mà vẫn nhanh nhẹn thế này. Đấy là nhờ nó hàng ngày thì bắt chuột, ếch nhái trong đồng Eo vốn đã nhiễm âm khí nặng, đêm đến lại đào hốc mò vào nằm cạnh cái chum, hưởng dương khí giả do cái xác trong chum toát ra. Mấy ngày nay làng mình có động, âm khí bủa vây bốn phía, trong nhà của người sống cũng lởn vởn âm khí con này sống lâu nên am tường lẽ đời, vội vàng tìm đến nơi có dương khí mạnh để trú ẩn. Vậy nên hôm nay tao mới rình bắt được.

– Bắt làm c l gt ?

– Ngu thế! Nó sống phải trăm tuổi rồi, động vật mà thế thì không phải tầm thường đâu, nhìn xem tai nó cụp như tai chó con, mõm cũng ngắn hơn mõm cáo, đuôi, lông đều trắng toát, mượt như nhung. Ngay từ cái dáng hình nó cũng đã khác cáo thường rồi. Đem về kiểu gì chẳng được việc.

Nói đoạn nó hích nhẹ tôi:

– Đào hoa gớm nhỉ! Đến cả hồ ly tinh cũng đổ.

– Kệ cm! Bố đéo thích cáo, nhà bố có mèo rồi.

Lát sau thì bọn kia cũng lấp đất xong, cả đám lục tục kéo về, chẳng ai bảo ai, mấy ông đi cùng đều biết chuyện hôm nay không thể hé răng cho ai được.Về đến nhà, Ngọc Anh với vợ tôi đang cho bọn trẻ con ăn, con cáo được đặt xuống đất thì lạ lẫm nhìn xung quanh xong chui biến ra chỗ gậm ghế ông Bách đang ngồi, quẩn vào chân ông. Thằng Việt cười cười bảo tôi:

– Thấy tao nói có sai không ? Cực khôn nhé. Chọn chỗ an toàn nhất để trú ẩn. Lúc nãy nó rúc vào cạnh mày vì dương khí trong mày tỏa ra mạnh hơn hẳn người khác.

– Nghĩa là éo phải bố đào hoa chứ gì?

– Có mỡ đấy mà húp!

Trêu đùa lộn tùng bậy một hồi rồi cũng đi ăn cơm. Ông Bách thỉnh thoảng lại vứt cho con cáo miếng thịt cá gì đó, nó lại càng quấn nữa. Từ sau bữa cơm, đi đâu nó cũng kè kè đi bên cạnh ông. Mấy đứa trẻ con không biết gì, cứ lon ton chạy theo kêu cún con mà nó chẳng thèm để ý.Đêm nay khá im ắng. Đến tầm 3h sáng, ở góc phía Tây làng lại có tiếng gầm gào, lần này thì chỉ có đúng góc phía Tây có động, lại to hơn hẳn đêm qua. Mấy người trong nhà tức tốc vùng dậy, thằng Việt đeo túi đồ nghề, tôi thì ôm con cáo chạy theo, hai ông cụ và thằng Dũng thì để ở nhà giữ. Vừa chạy theo, tôi vừa nghĩ thầm " Cứ đêm nào cũng thế này thì ma cỏ chưa bóp cổ đã chết vì thiếu ngủ rồi! Mai phải lắp cửa cách âm trong phòng ngủ của đàn bà với trẻ con thôi. Mà cứ lao lực thế này, hai ông cụ làm sao chịu nổi! ". Thằng Việt như đọc được suy nghĩ của tôi nó bảo:

– Đừng nghĩ nhiều mệt óc! Đã bước chân vào nghề thì phải dốc sức đến chết, đấy là lẽ thường. Chuyện lần này không chỉ vì làng mình và còn vì nhiều cái khác nữa.

Tôi ngớ ra thì nó bảo:

– Mày nghĩ mà xem, suốt hàng trăm năm nay, người sống với người chết vốn không thể ở chung với nhau. Nhưng vẫn có những oán linh muốn làm hại người sống, vì thế nên mới sinh ra thầy phù thủy, Âm Dương Sư, thầy mo, pháp sư trừ tà,.... Những người như bọn tao là người gác khoảng ranh giới giữa đêm với ngày.

Ngừng một lúc nó nói tiếp:

– Nhưng giờ là thế kỉ 21, là lúc mà công nghệ hiện đại đã chiếm ưu thế, con người cũng đông hơn, ánh sáng tràn ngập khắp mọi lúc mọi nơi, theo đó thì nghề phù thủy cũng phải dần lùi bước để nhường chỗ cho sự phát triển của khoa học. Ma quỷ vốn cũng chỉ là những gì con người chưa hiểu rõ, sớm muộn gì cũng sẽ bị khoa học tiên tiến tìm ra bí mật và kiểm soát, không cho gây hại tới đời sống con người. Nhưng đó là chuyện về sau, còn hiện tại là lúc khoa học chưa phát triển tới mức có thể bảo vệ còn người khỏi những thứ sức mạnh vô hình đó, nghề phù thủy thì lại càng ngày càng mai một đi, giờ là lúc ranh giới giữa thế giới người sống với thế giới người chết mỏng manh nhất.Mày hãy tưởng tượng mà xem, nếu lũ kia chiếm được một cái làng làm đại bản doanh, rồi dần dần chiếm những làng khác nữa, hay là cả một tỉnh, sẽ lâu đấy, thậm chí là vài chục năm nữa, lúc mà con người không phòng bị nữa, bóng tối tưởng như đã bị đẩy lùi bởi ánh đèn điện kia sẽ bất ngờ phản công, đưa con người trở lại thời kì mông muội sợ thần sợ quỷ.Nghe nó nói mà tôi toát cả mồ hôi hột, dù gì cũng đâu thể tới mức thế cơ chứ.

Mải nói chuyện, cả lũ đã chạy tới nhà ông V lúc nào, nhà này là nhà nằm sát rìa phía Tây nhất. Trong nhà thắp nến sáng trưng, có cả tiếng trẻ con khóc ngặt nghẽo. Chúng tôi gõ cửa bồm bộp, gọi lớn:

– Bác V ơi! Ra mở cửa cho chúng cháu bác V ới!

Trong nhà có tiếng vọng ra:

– Cháu nào? Là đứa nào

– Cháu H với Việt đây! Nhanh lên không chết cả nút giờ.

Có tiếng dép lẹp kẹp, một thằng choai choai mặt tái như gà cắt tiết chạy ra mở cổng, lắp bắp:

– Dạ hai chú sang ạ!

Vào nhà, thấy cả nhà ngồi túm tụm trước ban thờ, ông V vẫn lăm lăm cái gậy gỗ. Thằng Việt bảo:

– Bác cứ yên tâm! Giờ cả nhà thổi tắt hết nến đí, đóng chặt cửa lại, bọn cháu ở ngoài khắc có cách. Trong nhà nghe thấy gì cũng mặc kệ, không cần quan tâm, cứ đóng chặt cửa là được.

Mới đầu ông V còn nhất quyết không chịu vì " sợ tắt đèn đi thì ma đến", lại sợ bọn tôi ở ngoài có làm sao thì không biết ăn nói thế nào với người nhà hai đứa. Mãi rồi ông cũng chịu, còn dặn đi dặn lại là có gì cần thì kêu to lên để ra cứu.Sắp xếp xong xuôi, ở ngoài tôi và thằng Việt đứng nhìn bốn bề đen kịt, tiếng gầm gào ở vẫn nghe vọng lại từ cái bên ngoài tường rào ở góc vườn. Thằng Việt bảo tôi:

– Thả con hồ ly tinh ra đi.

Giờ nhìn xuống mới để ý con cáo đang quắc mắt nhìn chằm chằm về phía phát ra tiếng kêu, lúc này nhìn toát ra thần thái mãnh liệt chứ không run rẫy như lúc ở nhà nữa. Tôi thả nó xuống đất, nó đi lượn vờn vờn quanh sân mấy vòng, thỉnh thoảng chõ mõm ra chỗ bờ rào kêu mấy tiếng 'hắc hắc",
Dưới ánh trăng, màu lông trắng muốt của nó óng lên, dần dần ngả sang màu xanh như lửa ma trơi. Nhìn bóng dáng nó uyển chuyển, lượn qua lượn lai mà cảm tưởng như ánh lửa xanh đang bốc ra từ người nó. Thốt nhiên, con cáo phóng vút đi, lao thằng ra vườn, nháy mắt đã nhảy qua bờ tường chạy ra ngoài. Tôi giật mình đưa tay ra định tóm thì đã muộn, thằng Việt giữ tay tôi lại bảo:

– Không phải lo! Giống này thành tinh rồi thì bọn vớ vẩn đến dọa kia không làm gì nổi nó đâu. Giờ kệ nó, nó tự biết phải làm gì.

– Thế giờ mình làm gì?

– Đợi nó về, mày có uống cà phê không, tao mang theo một phích pha sẵn từ nhà này.

– Hay nhể! Thì đợi thôi.

Cứ như vậy, hai thằng thức thâu đêm. Bên ngoài kia không còn tiếng gầm gào nữa, chỉ còn tiếng chạy, không huỳnh huỵnh dọa nạt như tối qua mà như đang nháo nhác chạy, xen lẫn là tiếng khóc nỉ non và tiếng gì như van vỉ.
Tờ mờ sáng hôm sau, tôi đang ngủ gà ngủ gật thì thằng Việt túm áo lay dậy:

– Kìa! Nó về rồi kìa!

Tôi mắt nhắm mắt mở nhìn theo hướng tay nó chỉ, thấy con cáo đang thong dong đi về, mồm ngậm vật gì đó.

  Tôi chạy lại bế con hồ ly lên nhìn cho rõ, thì thấy nó ngậm là một khúc xương tay người. Chẳng lẻ đây là nhưng xác sống mà bọn pháp sư độc ác kia luyện thành bị con hồ ly này đánh cho tan tành. Đang miên man suy nghĩ thằng Việt gạt ngay dòng suy nghĩ của tôi
– Thôi về được rồi, mình lấy cái này về gặp 2 ông cụ bàn bạc xem sao
Về đến nhà, đã thấy 2 cụ ngồi trước thằng D sốt sắn đi đi lại lại như nhập nó vậy, thấy chúng tôi về nó chạy lại hỏi hang đủ thứ. Bước vô nhà đặt khúc xương lên bàn, 2 ông cụ vẻ mặt trầm ngâm bảo :
– Thật tội cho họ, chết rồi mà vẫn không được mồ yên mả đẹp.
Vậy là tôi đã đoán ra đúng, những tiếng động uỳnh uỵch mấy đêm nay là do bọn xác sống này làm ra. Con hồ ly không biết nó đã cắn nát mấy con mà chỉ đem về có 1 khúc xương
Thằng Việt bảo
– Tối nay chúng ta sẽ phục kích để đánh bay bọn này 2 ông thấy sao
– Thôi được, tối nay quyết chiến với nó một trận vậy.
Ông và thằng việt đi một nhóm, còn tôi và thằng D ông lão kia một nhóm phục kích đầu làng và cuối làng đánh vô sẽ gặp nhau ở giữa làng, Ông bách nói.
Hoàng hôn buông xuống, mọi thứ đã chuẩn bị xong, tôi nhìn thằng D nó cũng nhìn tôi quyết chí lắm
Cả nhóm lên đường, rồi đêm buông xuống chưa thấy động tĩnh gì cả bỗng nhiên một tiếng nổ vang trời mà tôi nghe hình như ở cuối làng chỗ thằng Việt và ông Bách. Lo lắng cho họ không biết xảy ra chuyện gì. Nhưng ông cụ ra dấu bảo ngồi yên đó tôi cũng không dám nhúng nhích gì nữa. Đợi 1 hồi lâu ông bảo :
– Bọn nó tấn công cuối làng rồi, chúng ta mau tới đó tiếp ứng
Chạy tới nơi tôi thấy thằng Việt và ông Bách đang quần nhau với hàng chục xác sống. Tung kiếm tung chưởng mà chả hề hấn gì bọn nó, thằng D tay cầm thương nhảy vào tiếp ứng. Thấy vậy tôi cùng ông cụ cũng tiếp ứng cho họ, 5 người sức mạnh sẽ nhanh chóng diệt được bọn này. Sau một lúc đánh nhau bọn này tan xác hết cuối cùng cũng diệt xong lũ yêu ma này. Năm người cùng nhau đi về nhà nghĩ ngơi. Tôi cảm thấy ông cụ này pháp thuật quả là cao siêu không tưởng được. Một mình quần nhau với 2-3 con mà nhẹ nhàng thanh thoát đánh đâu trúng đó đúng là một cao nhân.
Do làng này âm khí quá nặng nề, lại còn có người ám hại dân làng nên hết chuyện này đến chuyện khác vẫn xảy ra đổ lên đầu những người dân vô tội. Từ chuyện con lươn tinh, con cùng cục, bọc xác sống này nó đã giết bao nhiêu người dân, nghĩ trong lòng tôi thấy xót thương cho họ. Nói về bác H và L những người còn sống cùng tôi và thằng Việt trong trận vây bắt lương năm xưa. Hôm nay bác H bác L lại nhà tìm chúng tôi nói chuyện. Bác H bảo :
– Nó giết hại hết những người anh em của tôi rồi, bây giờ có chết tôi cũng phải bắt bằng được con quái thú này. Các anh cùng tôi nghĩ cách để bắt nó được không?
Thằng Việt nói :
– Đó là việc cháu nên làm, cháu sẽ giúp bác trừ hại cho dân, trả thù cho các bác thợ săn đã bị nó giết.
– Nếu con đã nói vậy thì bác rất vui mừng. Bác có kế này
Chúng ta sẽ làm giả 1 con dê, tẩm cho nó thuốc độc rồi cột nó dưới sông đợi con lươn mắc bẫy
– Được, được lắm con tuy biết bóc thuốc chữa bệnh nhưng thuốc độc con cũng rất am hiểu để con bào chế cho bác 1 chất kịch độc
Sáng hôm sau bác H ôm một con dê lại, thằng Việt đem 1 chén gì đó đen ngồm ra nó bỏ vào bọc rồi rạch trên da con dê nhét vào mai lại. Mọi người cùng nhau đem con dê ra bờ sông cột lại để làm mồi nhữ con lươn. Nhưng vì con lươn hoảng sợ hay sao nó không dám xuất hiện, đợi một lúc lâu vậy mà mặt sông vẫn phẳng lặng không một gợn sóng nào cả

  Bỗng dưới đáy sông nước như đang sôi,ùn ục,đen ngồm, rồi con lươn tinh từ từ ngôi lên mặt nước, uốn lượn chậm rãi lại gần con dê, dường như nó muốn thâm dò tình hình. Khi nó đến gần bờ, chúng tôi hồi hợp đến nghẹt thở đợi nó ngoặm con dê nuốt trọn là xem như thành công.
Nhưng nó cứ trầm ngâm dưới sông mãi rồi quay đầu bơi ra ngoài lượn tới lượn lui ở giữa sông một lúc rồi lặn mất tâm.
Bác H nóng giận quát lớn :
– Đúng là giống thành tinh khôn quá không thể dụ nó được.
Vừa nói bác vừa đi lại chỗ con dê tháo dây ra, chúng tôi ai nấy đều thất vọng bước xuống đường ra về mà cũng chẳng để ý đến bác H nữa. Rồi một luồn nước trắng xoá bay lên, con lươn như lao mình ra khỏi dòng sông nó ngoặm luôn bác H và con dê một cách dễ dàng rồi lặn không thấy tâm hơi nó nữa. Sự việc xảy ra quá bất ngờ chúng tôi không thể đề phòng được, thằng Việt chạy theo phóng xuống sông cứu bác H nhưng tôi và ông Bách nhanh trí giữ nó lại. Ông Bách hằn học nó :
– Mày thôi đi, xuống đó chỉ có chết chứ cũng chả cứu được ông H. Dù gì nó cũng ăn con dê rồi thế nào nó cũng chết, chúng ta sẽ nói với dân làng là ông H hy sinh vì dân làng đó cũng là niềm vinh hạnh của ổng.
Rồi thằng Việt cũng thôi chúng tôi đi về mà lòng nặng trĩu, trách mình vì không đề phòng mà bác H phải vong mạng với nó.
Vài ngày sau, có người lại báo tin xác con lươn nổi cặp bờ sông, đúng như dự tính của chúng tôi. Tôi cùng thằng D thằng Việt kéo đến xem tình hình cũng như tìm kiếm manh mối về người đã hại chúng tôi. Đên nơi dân làng chuẩn bị mổ xẻ con lươn ra, con dao sắt bén liết ngang bụng con lươn trào ra nước đen bẩn thỉu rất hối thối như xác người vậy, thằng Việt lao đến nhanh như cắt nó nhặt lên một tấm bùa lẩn trong đóng nước đen đó, lạ thay tấm bùa không hề bị ướt hay hư hại gì nó còn nguyên vẹn.
Thằng Việt nhìn tấm bùa rồi nói :
– Đây là loại bùa chú của Nam Tông loại này có thể điều khiển được con vật mà mình muốn, thật không ngờ cái đêm nó cứu con Cùng Cục là có người sai khiến nó làm như vậy, chẳng biết người đứng đằng sau tất cả chuyện này là ai.
Nó thở dài một tiếng rồi cất là bùa vào túi. Cả ba chúng tôi đi đến nhà bác H thấp nén nhang cho bác.
Xong xuôi chúng tôi đi về nhà, rảo bước đến nhà tôi thấy ông Bách đang chờ đợi để nói điều gì đó.
– Tối nay chúng ta lên núi Cô Yêu để trừ khử luôn cái con yêu tướng điều khiển bọn quái hại dân làng. Ông bách vừa dứt lời thằng D chen vô
– Được thôi con cũng mong được gặp con quỷ yêu này xem nó có pháp thuật mạnh cỡ nào.
Ông Bách nói với tôi rằng tối qua đã xin tổ tiên của tôi đem quân âm binh đi giúp, trên núi Cô Yêu âm khí nặng nề từ lâu không ai dám đi lên đó nữa. Nên dương khí không còn tồn tại là nơi tụ hợp yêu ma nguy hiểm vô cùng.
Tối đến chúng tôi rời khỏi nhà, đi từng bước lên núi, khung cảnh đêm tối ghê rợn vô cùng đường lên núi cây cối âm u, hơi lạnh từ đâu toả ra chẳng biết mà làm tôi như tê cóng lại.. Nghe đâu đây văng vẳng tiếng Ơi...ơi... Rồi tiếng khóc thúc thíc nghe nó xa xăm lắm não nề lắm. Thằng Việt trấn an tôi
– Đừng lo, mấy con ma đường ma rừng này chẳng có gì phải sợ nó chỉ giỏi trêu người thôi
Tôi cũng yên tâm phần nào vả lại đi chung với thằng Việt cũng chẳng gì phải sợ nữa. Đi một hồi lâu ông Bách dừng lại bảo nơi đây, chính nơi đây, âm khí quá nặng nề. Chúng ta tìm nơi nào ngồi đây đợi đến đúng đêm khuya âm khí tích tụ, yêu ma hội hợp rồi ra tay một lượt tóm gọn bọn nó.
Ông bách nói :
– Ta giao cho 49 là bùa này đi dán nó lên ở mỗi cây ở nơi đây nhớ là cây cao góc cây phải to đến tránh yêu ma trốn thoát. Chỉ dán 48 lá thôi, đến khi nào yêu ma tụ hợp đủ thì dán là cuối cùng lên tạo nên trận hình kim cang nhốt bọn nó lại.
Tôi cầm xấp bùa đi lanh quanh tìm cây để dán theo lời ông Bách đang loay hoai dán lá bùa lên thì tôi thấy như có cái gì vụt qua ráng căng mắt trong màn đêm tối mịt như vậy cũng chẳng thể nhìn rõ đó là thứ gì, nhưng tôi cảm giác đó là một người chứ chẳng phải yêu ma gì cả. Một hồi lâu tôi cũng dán xong hết xấp bùa của mình. Định bụng trở về tu một hơi nước nhưng đi một hồi tôi chẳng biết đường về ở đâu nữa. Nghi là bị ma bịt mắt rồi tôi lấy sợ dây chuyền thằng Việt ra mà đưa ra phía trước đi được một lúc thì tôi gặp thằng Việt trong lòng mừng khôn xiết tôi vỗ vai nó, quay mặt lại thì tôi kinh hoàng vô cùng, con mắt nó sâu hun hút đen ngồm. Miệng có 2 cây răng nanh nhọn sáng như lưỡi dao, nó chụp lấy tay tôi hả miệng cắn lấy tay tôi...
– Không......!
Tôi tỉnh dậy, áo đẫm mồ hôi mặc dù nơi đây rất lạnh, cảm thấy kinh dị vô cùng với những chuyện vừa thấy. Nhưng trợt nhận ra mọi chuyện chỉ là mơ, tại sao là mơ? Mình ngất đi lúc nào? Tôi cũng chẳng thể hiểu. Ngồi dậy thì thấy xung quanh cây cối đã được dán bùa. Tôi đi về thì gặp thằng Việt đang đi ngược hướng, tôi rất hoảng vì giấc mơ lúc nãy không biết nó có là sự thật hay không tôi bèn núp sau 1 cái cây rất to mà nhìn rõ khuôn mặt nó. Vừa núp vào định nhìn nó tiếp thì nó biến mất, rồi có một bàn tay vỗ mạnh vào vai làm tôi giựt cả mình quay lại thì là thẳng Việt. Nó bảo :
– Mày làm gì mà đi dán có bao nhiêu bùa đâu mà cả tiếng như thế
Tôi thở phào nhẹ nhõm nói :
– Gì? Cả tiếng rồi sao? Không biết tại sao tao bị ngất đi. Tỉnh dậy thì lại thấy mày
Thằng Việt nhìn tôi đăm chiêu rồi nó bấm tay một lúc.
– Thôi chết, có chuyện không hay rồi. Có người đã đến đây như chúng ta, mày thử gờ sau gáy coi có đau không?
Tôi gờ lên thì chẳng có cảm giác gì cả, rồi thằng Việt tay bắt quyết đọc chú chỉ lên cổ tôi thì đột nhiên nó nhức kinh khủng, giống như có người cầm cây đánh vào
– Đừng nghĩ ngợi nhiều nữa! Mau trở về thôi
Đi về đến nơi mọi người đang ngồi chờ, thì thằng Việt nói với ông Bách là có người lên đây như chúng ta. Chẳng biết tốt hay xấu nhưng có thể lên nơi đây thì là một người rất cao tay rồi. Ông Bách gật gù bảo
-Mọi người nên cẩn thận nhiều hơn nữa.
Bây giờ cũng là 11h40 đêm. Chỉ còn 20p nữa là giờ chí âm có thể hành động. Đồng hồ điểm đúng 00:00 thì bỗng nhiên gió lên,lạnh lẽo, rất lạnh đến nổi tôi sắp ngất đi vì chịu chẳng nổi nữa, thằng Việt đưa tôi 1 miếng bùa gói cẩn thận bảo tôi ngậm trong miệng, vừa ngậm vào thì lập tức cơ thể bình thường trở lại, đúng là âm khí quá nặng nề người bình thường không thể chịu nổi. Ông Bách ra hiệu cho tất cả ngồi yên vị trí đợi con yêu tướng xuất hiện. Từ đâu trên trời có luồn sáng màu xanh sáng rực cả một vùng rồi bay lại gần cửa một hang động. Đứng trước cửa động lúc này là một tên yêu tinh mình mặc đồ tướng tay cầm thương cao thường thượt rất ghê rợn, tiếp theo đó là sự xuất hiện của hàng ngàn đốm lửa nhỏ bay đến con yêu tướng rồi cũng hiện hình mà nghe lệnh nó. Chúng tôi nhìn nhau mà kinh ngạc vô cùng, không ai có thể hình dung đc, trước mắt chúng tôi là hàng ngàn con ma với rất nhiều loại... Ma chết sông, chết đường, ghê nhất là lũ quỷ răng nanh lăm le rất kinh khủng. Ông bách bảo cho tôi dán lá bùa lên cây cạnh bên tôi, vừa dán lên thì cả vùng sáng rực một ánh sáng màu vàng.  

  Mắt tôi bắt đầu quen với ánh sáng đó, ông Bách gào lên:
-H, đằng sau.
Tôi quay lại, bóng đen hôm nọ đang đứng sau tôi. Tôi chỉ kịp nhận ra là tôi bị đánh vào ngực, tôi không thể di chuyển được nữa.Tôi gào lên :
– Việt tao bị làm sao vậy?
– Yên tâm đi nó chỉ cho mày nằm im 1 lúc thôi- Việt trả lời 1 cách gấp gáp. 1 giọt mồ hôi lăn trên trán nó. Tôi nhớ lại hương hoa trên tóc bóng đen kia, tôi bất chợt nhận ra đó là hương hoa trên tóc người giúp việc của Việt. Bỗng nhiên, con hồ ly ở đâu nhảy vào cùng với Linh. Nàng vẫn mặc bộ áo cánh hạc hôm trước, Linh tung ra cả 1 xấp bùa màu trắng.
Nàng bắt ấn, tung ra 1 tràng toàn tiếng Miên.Đống bùa phát sáng rồi phát nổ ( các thím nào xem Naruto thì nó cx na ná vậy ) rồi tiếng kêu khóc, van xin vang vọng cả ngọn núi.
– Em đã làm gì vậy ? – Tôi hỏi.
– Em đã nhốt hết lũ cỏ vặt vãnh vào rồi nhưng sức em chỉ làm được có vậy. – Linh trả lời
Bỗng nhiên Ông Bách, Ông Tĩnh cùng thằng Việt cùng bắt quyết và hô lên 1 tràng toàn tiếng Trung, tiếng Miên. Con âm tướng kia van xin, lạy lục không được nó liền xô vào đánh thì Việt cùng Ông Tĩnh cầm càn kiếm phi về phía nó. Nó đưa tay gạt phăng thanh kiếm của thằng Việt. Thanh kiếm của ông Tĩnh cắm thẳng vào bụng nó. Nó không khóc cũng không van xin. Nó hát. Hát cái j thì em cũng không rõ chỉ biết nó hát 1 toàn tiếng Trung. Ông Bách đã lén đi ra đằng sau nó, đốt 1 lá bùa rồi cắn máu ở đầu ngón tay nhỏ vào trong cây sáo Trúc với là bùa đang cháy dở. Ông thổi 1 bài có giai điệu khá nhanh và dồn dập. Con Âm Tướng kia ngừng hát, nó đứng yên rồi thằng việt rút ra sợi chỉ với đống bùa nó dùng để trói con Cùng Cục nó quấn chặt vào con Âm tướng kia nó bị hút vào cái Hồ Lô bằng bạc. Cái bóng đen kia biến mất, Việt ra giải huyệt cho tôi. Tôi chỉ kịp bảo với nó chị giúp việc chính tên thích khách. Tôi kiệt sức ngất lịm đi. Thằng D cùng thằng Việt dìu tôi về.
Hôm sau tôi tỉnh lại, không thấy mọi người đâu, ra ngoài sân thấy mọi người đang bàn tán gì đó. Tôi gào to :
– Hoàng thượng giá đáo.
– Thằng thầy cãi nửa mù tỉnh rồi à ?- Việt hỏi tôi.
– Bỗng nhiên gió thổi ào ào, mây đen kéo tới. Tên chủ mưu kia đã tới. Hắn là sư phụ của tên bán thuốc hơn chục năm về trước tình lấy tôi làm vật thế mạng. Lão vào cung 1 trăm âm binh của lão. Linh ở trong nhà lại tung ra xấp bùa như hôm trước, toàn bộ âm binh của hắn được siêu thoát. Thằng D lao ra cướp được túi đồ phù thủy của lão. lão không thể làm gì được nữa liền đăm mũi tiêu độc vào cổ tự sát.
Hắn chết với 1 nụ cười giống với hình nhân của lão. 1 nụ cười hiểm ác.  

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro