ĐẤT VỠ HOANG

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

ĐẤT VỠ HOANG

Mikhain Sô-lô-khốp

Tiểu thuyết hai tập

Nhà xuất bản Cầu Vồng (Mát-xcơ-va) - 1985

In theo bản dịch của Nhà xuất bản Văn học (Hà Nội)

Người dịch: Vũ Trấn Thủ

Người biên tập: Trần Phú Thuyết

LỜI GIỚI THIỆU

Vào đầu những năm 30 của thế kỷ này, giữa lúc đông đảo bạn đọc của M.Sô-lô-khốp đang hồi hộp theo dõi số phận của Gri-gô-ri Mê-lê-khốp và những sự kiện được miêu tả trong bộ tiểu thuyết - anh hùng ca "Sông Đông êm đềm", giữa lúc tác giả đang dồn sức viết tập 3 của tác phẩm đồ sộ này để đáp lại lòng hâm mộ của bạn đọc, thì ở quê hương của nhà văn cũng như trên toàn nông thôn Liên Xô diễn ra phong trào tập thể hoá nông nghiệp.

Tâm hồn nhạy cảm và tính Đảng của người nghệ sỹ lớn đã thôi thúc nhà văn phải đến ngay với những sự kiện của phong trào cách mạng to lớn ấy. Bản thảo tập 3 của "Sông Đông êm đềm" đành phải tạm để lại một bên, tác giả lao vào đề tài mới.

Và M.Sô-lô-khốp đã đi tới nhiều vùng, thăm nhiều nông trang tập thể, tìm hiểu những sự việc, những con người... để phản ánh bước ngoặt lịch sử, khi những người nông dân cá thể, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, dứt khoát từ bỏ chế độ tư hữu cùng nhau xây dựng nông trang tập thể.

Chế độ tư hữu là nguồn gốc sinh ra mọi đau khổ của loài người. Nhưng đoạn tuyệt với cái tâm lý tư hữu thâm căn cố đế ấy không phải là chuyện dễ dàng đơn giản; còn sức ỳ của những thành kiến, sức cản của những thói quen, sự chống đối của những kẻ chậm tiến, sự phá hoại của kẻ thù...vv và cả những non yếu, sai lầm của những người cộng sản trước sự nghiệp hoàn toàn mới mẻ này...

Cần phải tiếp sức cho cách mạng vượt qua mọi trở ngại tiến lên, phải tiếp sức cho con người trong cuộc đấu tranh gay go quyết liệt này.

Mi-khai-in Sô-lô-khốp đã ý thức được điều ấy; và "Đất vỡ hoang" (tập 1) ra đời. Báo 'Sự thật", cơ quan ngôn luận của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đã xác nhận thành công của nhà văn qua lời nhận xét về cuốn sách ấy trong số báo ngày 3-3-1933:"Cuốn tiểu thuyết của Sô-lô-khốp có thể được xem như là một cuốn sách giáo khoa đặc biệt về nông thôn". Thành công ấy cũng được thể hiện ở sự đón đọc nồng nhiệt của quần chúng; người ta đọc ở các đội sản xuất, ở các lán trại, trong giờ nghỉ ban đêm .v..v..

* * *

Cũng như ở tập "Truyện sông Đông", ở "Sông Đông êm đềm", người đọc gặp lại ở "Đất vỡ hoang" ngòi bút hiện thực nghiêm ngặt không khoan nhượng của Mi-khai-in Sô-lô-khốp. Từ những trang sách hiện lên sự thực phong phú đa dạng, đầy mâu thuẫn, rất phức tạp, những sự thật đôi lúc tàn nhẫn, thậm chí tàn khốc, trong sự trần trụi không che giấu, không chút xuê xoa. Nhưng đó cũng là sự thật lớn lao của lịch sử đang vận động và của chủ nghĩa anh hùng cao đẹp, từ đó đang nảy sinh cái mới cộng sản chủ nghĩa đầy hứa hẹn tươi sáng.

Bước vào tập thể hoá nông nghiệp, ấp Grêmiatsi Lốc lồng lộn như con ngựa bất kham. Nó chỉ vừa mới thoát ra khỏi nội chiến chưa được bao lâu, kẻ thù tuy bị thất bại thảm hại vẫn chưa cam chịu bó tay; nhiều người dân kô-dắc lầm lạc còn nhớ những bài học nóng hổi, nhưng vẫn chưa thật dứt khoát đi với Chính quyền xô-viết; biết bao nhiêu thành kiến, thói tục lỗi thời đang đè nặng lên người nông dân.

Ở Grêmiatri Lốc những con người mới cũng đã xuất hiện, nhưng họ còn ít quá. Hơn nữa, tuy đã được rèn luyện qua thực tiễn chiến đấu nhưng mỗi người vẫn còn những chỗ non yếu của mình; và trước mặt họ là một công việc hoàn toàn mới.

Mặc dù vậy, tương lai thuộc về họ. Vì họ có đường lối đúng đắn sáng tạo của Đảng cộng sản, có tấm lòng trung thành vô hạn đối với giai cấp, với nhân dân, với cách mạng, có niềm tin vào quần chúng, có tinh thần sẵn sàng tự phê bình và phê bình để rút kinh nghiệm tiến lên.

Cuộc đổi đời, từ con người cá thể sang con người tập thể thật là vất vả, phải đổ mồ hôi và đổ máu (không phải là ngẫu nhiên mà ban đầu tác giả định đặt tên tác phẩm này là "Với mồ hôi và máu"). Nhưng cuộc đời mới đã thắng. Chủ nghĩa xã hội đã thắng.

Từ ấp Grêmiatsi Lốc đã ra đời cái nông trang tập thể ngày càng vững mạnh; những nông dân cá thể đã trở thành nông trang viên; một số người tiên tiến đã trở thành đảng viên cộng sản; chi bộ đảng lớn lên.

* * *

Ngày nay đọc hai tập "Đất vỡ hoang" liền một mạch, độc giả thấy mình tiếp xúc với một chỉnh thể hoàn hảo; nếu không được giới thiệu tiếp xúc thì khó mà biết tập 1 và tập 2 ra đời cách nhau hơn 20 năm. Bản thảo dở dang của tập 2 đã bị huỷ hoại trong chiến tranh, tác giả phải viết lại hoàn toàn; đầu năm 1954 những chương đầu của tập 2 mới ra mắt bạn đọc; năm 1960 tác phẩm mới in xong trọn bộ. Giữa hai tập là cả một thời kỳ dài xây dựng chủ nghĩa xã hội, và một cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại.

Tất nhiên là tầm nhìn mới, trình độ chín muồi cao hơn về nghệ thuật của tác giả và yêu cầu của hoàn cảnh lịch sử mới cũng đã in dấu vào tập 2. Vì vậy trong cái hoàn chỉnh thống nhất chung, mỗi tập vẫn có nét đặc sắc riêng.

Nếu như ở tập 1 dồn dập sự kiện bề bộn sôi động của những ngày đầu thành lập nông trang, nổi bật lên những biến đổi xã hội, những sự kiện chính trị; thì sang tập 2 dòng tự sự chậm lại, đi sâu vào những câu chuyện tâm tình, đi sâu vào sự khám phá những ngóc ngách của lòng người; những vấn đề xã hội hiện ra qua những lời tâm sự; âm hưởng trữ tình nổi bật lên.

Nếu như trong tập 1 Đavưđốp còn đang phải vất vả đi tìm cái "chìa khoá" để mở lối vào lòng dạ những con người ở Grêmiatsi Lốc, anh còn loay hoay chưa biết làm sao để khám phá ra những bí mật giấu kín trong bao nhiêu kẻ quanh mình; thì sang tập 2, những con người ở nông trang đã cởi mở lòng mình ra với anh: Salưi, Arơgianốp, rồi Uxchin... trước mắt anh, những con người bình thường, có khi tưởng như là hâm hấp, bỗng hiện ra khác hẳn với sự phong phú và vẻ đẹp làm cho anh kinh ngạc xiết bao. Những thế giới tâm hồn bấy lâu vẫn khép kín với nhiều điều kỳ lạ bí ẩn, có những điều tưởng là sống để dạ chết mang theo, - đã mở ra với Đavưđốp. Qua những thử thách, bằng kinh nghiệm của bản thân, các nông trang viên đã nhận Đavưđốp là người của mình.

Ngòi bút sáng tạo của Sô-lô-khốp đã chỉ ra cái "chìa khoá" giúp cho người cộng sản mở được những cái kho những kinh nghiệm, hiểu được những suy nghĩ của quần chúng; làm cho người cộng sản trở thành điểm hội tụ của tâm hồn, trí tuệ quần chúng. Quần chúng đã giúp cho Đavưđốp thấy được cái "lò xo" bí mật bấy lâu vẫn hoạt động cản trở công việc của anh, phát hiện được âm mưu phản loạn của kẻ thù.

* * *

Sẽ là một thiếu sót lớn nếu không nói đến nghệ thuật trào phúng dí dỏm có những lúc rất táo bạo độc đáo của Mi-khai-in Sô-lô-khốp. Thật là bất ngờ khi người đọc bắt gặp hai tính cách trái ngược nhau là Nagunốp và Suka kề vai sát cánh thành đôi bạn tri âm cùng lắng nghe "dàn nhạc gà trống" giữa đêm khuya. Cũng phải thật cao tay mới có thể dàn dựng nên cả một quá khứ với bao nhiêu nỗi đời cơ cực đắng cay đằng sau những lời lẽ bông phèng ba hoa khoác lác đến chết cười của ông lão Suka. Từ nhân vật hài hước Suka toát ra chân lý lớn mà Nagunốp đã có lần nói đến khi bàn về cái bi và cái hài là "dù cho quá khứ có đau thương cực nhục đến đâu thì nhân loại cũng từ biệt nó với một nụ cười vui vẻ".

Cái trào phúng dí dỏm, cũng như cái trữ tình thiết tha sâu lắng hay cái hiện thực nghiêm ngặt v.v của Sô-lô-khốp bao giờ cũng thấm đượm một tính triết lý thâm thuý, có sức lay động đến tận những chốn sâu thẳm của tâm hồn, buộc người ta phải suy nghĩ băn khoăn cùng với tác giả, và theo sự định hướng của tác giả.

Nhờ vậy mà "Đất vỡ hoang" tuy phản ánh một khoảnh khắc của lịch sử ở một thôn nhỏ vùng sông Đông mà đã vượt qua được thử thách của thời gian và sự sàng lọc của lịch sử để trở thành tài sản tinh thần chung của nền văn hoá xã hội chủ nghĩa.

Đavưđốp, Nagunốp, Radơmiốtnốp, Maiđanhicốp, Varia, Suka, và cả Luska nữa, cùng với bao nhiêu nhân vật khác của Sô-lô-khốp đã được vào cuộc đời và sẽ còn đi mãi giữa cuộc đời với bao nhiêu bạn đọc ở nhiều phương trời trên thế giới.

Và tác giả đã không phụ lòng tác giả, đã thể hiện được điều ông hằng mơ ước:

"Tôi mong muốn những cuốn sách của mình giúp được cho con người trở nên tốt hơn, tâm hồn họ trong sáng hơn, khơi dậy được tình yêu thương đối với con người, khát vọng chiến đấu tích cực vì lý tưởng nhân đạo chủ nghĩa, vì sự tiến bộ của nhân loại"

"Đất vỡ hoang" đến với bạn đọc Việt Nam vào những năm 1959-1962, nhưng dịch qua bản tiếng Pháp. Lần này "Đất vỡ hoang" được dịch từ nguyên bản tiếng Nga.

Nguyễn Duy Bính

Tập 1

CHƯƠNG 1

Cuối tháng Giêng, gặp buổi đầu trời trở ấm, các vườn hoa anh đào toả hương thơm ngát. Vào buổi trưa, đây đó là những quãng khuất gió, nếu như trời nắng, vỏ cây anh đào bốc lên một mùi thoang thoảng, rầu rầu, hoà với hơi ẩm nhạt nhẽo của tuyết tan, với hương vị đậm đà, cổ xưa xông lên từ dưới dải đất vừa mới ló ra khỏi lớp tuyết, và tầng lá mục.

Hương vị dịu ngọt của muôn hoa cứ quyện lấy vườn tược cho đến lúc bóng đêm xanh lam buông xuống, cho đến lúc vành trăng lưỡi liềm xanh phớt ló ra qua những cành cây trụi lá, cho đến lúc những chú thỏ rừng ăn no béo mỡ nhảy nhót vứt lại trên mặt tuyết những đốm vết chân mịn màng.

Thế rồi gió đưa về từ các ngọn đồi thảo nguyên mùi dịu dịu của cây ngải cứu héo khô vì băng giá; hương vị và âm thanh của ban ngày chìm lắng đi và bóng đêm, như một con sói cái lông xám, từ đằng Đông lặng lẽ đổ về, lướt qua những bụi ích mẫu, những đám cỏ dại, những thửa ruộng rạ héo hon, những cánh đồng ải mùa thu nhấp nhô như sóng lượn, để lại đằng sau nó trên thảo nguyên lê thê bóng hoàng hôn chạng vạng.

* * *

Một tối tháng Giêng năm 1930, trên con đường hẻm rìa thảo nguyên, có một người cưỡi ngựa đi vào ấp Grêmiatsi Lốc. Tới gần ngòi, người ấy dừng con ngựa đã mệt nhoài hai bên sườn sương đóng bết từng mảng, và nhảy xuống. Vầng trăng hạ tuần đã treo lơ lửng bên trên bóng đen ngòm của các vườn cây chạy dọc hai bên con đường hẹp, bên trên những rặng cây dương um tùm như những hòn đảo. Con đường hẻm tối và lặng ngắt. Đâu đó, bên kia con ngòi, một tiếng chó sủa rống lên, một ánh lửa le lói. Người cưỡi ngựa nghếch mũi hít một hơi cái không khí lạnh giá, thong thả tháo một bên găng tay, châm thuốc hút, rồi thít căng đai ngựa lại, lùa mấy ngón tay xuống dưới đệm yên; và, sau khi đã sờ thấy cái lưng nóng hổi và nhễ nhại mồ hôi của con ngựa, y lanh lẹn tung người cao lớn của mình lên yên. Y cưỡi ngựa đi ngang qua con ngòi không bị đóng băng ngay cả mùa đông. Con ngựa, khua móng sào sạo trên lớp sỏi phủ đầy lòng sông, muốn uống nước lắm, nhưng chủ nó thúc, và nó thót bụng nhảy phốc lên bờ sông dốc thoải.

Nghe có tiếng nói và tiếng cót két của càng xe trượt tuyết đang đi ngược tới, người cưỡi ngựa dừng cương. Con ngựa dỏng tai nghe ngóng, ngoái cổ lại. Cái đai ngực bạc và chiếc vành yên cao cao viền bạc theo kiểu kô-dắc bắt gặp một ánh trăng bỗng sáng lên trong bóng tối đường làng một tia trắng loé. Người cưỡi ngựa vắt dây cương trên vành yên, vội vã kéo cái mũ kô-dắc lông lạc đà cho tới lúc ấy vẫn thả trễ xuống bên vai, đội lên đầu sụp xuống mặt rồi thúc ngựa rảo nước kiệu. Qua khỏi chiếc xe trượt tuyết, y lại đi bước một như ban nãy, nhưng vẫn không hạ mũ xuống.

Vào tới trong ấp, y hỏi một bà đang đi ngược lại:

- Này, bác ơi, nhà ông Iakốp Ôxtơrốpnốp ở đâu, hả bác?

- Iakốp Lukits ấy hả?

- Phải, phải.

- Đấy, nhà ông ta ở sau cây dương kia kìa, lợp ngói đấy, ông trông thấy không?

- Thấy, cảm ơn bác.

Tới trước ngôi nhà rộng lợp ngói, y nhảy xuống, dắt ngựa qua cổng hàng rào và lấy cán roi gõ nhẹ vào cửa sổ.

- Ông chủ ơi! Iakốp Lukits, ra cho tôi hỏi tý.

Chủ nhà bước ra thềm, đầu trần, áo vét-tông vắt vai, nhìn chằm chằm khách lạ rồi bước xuống bậc tam cấp, vừa mỉm cười trong bộ râu điểm bạc, vừa nói:

- Ma đưa quỷ dẫn ông bà nào đến nhà tôi thế nhỉ?

- Không đoán ra à, Iakốp Lukits? Cho ngủ nhờ nào. Để con ngựa vào đâu cho ấm tí nhỉ?

- Không, anh đồng chí ạ, tôi không nhớ ra anh là ai. Chẳng hay có phải anh ở trên huyện không? Hay bên nông hội? Tôi hơi nhận ra rồi đấy...Tiếng anh nói nghe quen quen...

Khách nhếch đôi mép nhẵn thín, mỉm cười, lật mũ trùm ra:

- Pôlốptxép. Có nhớ không?

Iakốp Lukits bỗng nhớn nhác nhìn quanh, tái mặt đi, thều thào:

- Quan lớn! Ngài ở đâu tới thế vậy?...Bẩm ngài đại uý!..Ngựa để đấy con dắt...nhà có chuồng...Chà, thấm thoắt thế mà đã bao nhiêu năm rồi...

- Ấy, ấy, khe khẽ chứ! Ừ, lâu lắm rồi đấy... Có chăn đắp ngựa không? Nhà có ai lạ không?

Khách trao dây cương cho chủ. Con ngựa uể oải tuân theo những động tác của bàn tay lạ, đầu ngẩng cao, cổ vươn dài, và mệt nhọc lê đôi cẳng sau bước vào chuồng. Nó gõ móng lộp cộp vào sàn gỗ và, đánh hơi thấy cái mùi quen thuộc của một con ngựa khác, nó khịt nhặng xị lên. Bàn tay lạ đặt lên cái tảng của nó, những ngón tay thành thạo cẩn thận tháo cái hàm thiếc nhạt tanh, giải phóng cho đôi lợi ê ẩm của nó. Và con ngựa với một vẻ biết ơn sà vào đống cỏ khô.

- Con đã nói đai cho nó rồi, cứ để đóng yên như thế một lát, nó lại sức, ta sẽ tháo. - Chủ nhà vừa nói vừa chăm chút đắp lên lưng ngựa tấm chăn lạnh ngắt. Và sờ nắn bộ đồ thắng ngựa, thấy đai bụng bị kéo căng, dây treo bàn đạp trùng thõng hẳn xuống, lão tự xác định được ngay rằng ông khách đã từ xa đến và trong ngày hôm ấy đã phi một đoạn đường chẳng ngắn.

- Nhà có thóc không, Iakốp Lukits?

- Có tí ti. Ta cho nó uống nước đã, rồi cho ăn thóc. Nào mời ngài vào nhà, bây giờ xưng hô với ngài thế nào đây, thật cũng chẳng biết nữa... Gọi như trước thì không còn quen mồm, và cũng bất tiện... - Chủ nhà lúng túng mỉm cười trong bóng tối, dù biết rằng khách cũng chẳng trông thấy mình cười.

- Cứ tên cúng cơm mà gọi. Còn nhớ không? - Khách miệng hỏi chân bước đi trước ra khỏi chuồng ngựa.

- Quên sao được ạ! Dọt bọn Đức mãi với nhau mà, lại cả cái cuộc nội chiến này nữa...Tôi vẫn thường nhớ đến ông đấy Alếchxanđrơ Anhiximôvits ạ. Từ cái buổi chia tay nhau ở Nôvôrôxixcơ ấy, tôi chẳng được tăm hơi gì của ông. Tôi cứ ngỡ ông vượt biển sang Thổ Nhĩ Kỳ với anh em kô-dắc rồi.

Họ bước vào gian bếp có đốt lò ấm ran. Khách bỏ mũ trùm và cả chiếc mũ lông trắng đội trong ra, để lộ cái sọ chắc nịch, có góc có bướu, phủ một lớp tóc thưa bềnh bệch. Từ dưới cái trán hói đổ thẳng xuống như trán chó sói, đôi mắt đảo nhìn gian phòng. Và tươi cười nheo nheo đôi mắt màu xanh nhạt lấp lánh giận dữ trong hai ổ mắt sâu, y nghiêng đầu chào hai người đàn bà ngồi trên tấm ghế dài là mụ chủ nhà và nàng con dâu.

- Chào bà con mạnh khoẻ!

- Lạy Chúa, - mụ chủ nhà dè dặt đáp, đưa mắt nhìn chồng, chờ đợi, như muốn hỏi: "Ông dẫn ai về nhà thế vậy, và tiếp đãi người ta thế nào bây giờ cho phải?".

Sau khi mời khách lên nhà trên ngồi vào bàn, lão chủ buông gọn một câu ra lệnh cho vợ:

- Dọn gì ăn đi.

Ngồi ăn xúp bắp cải thịt lợn, có mặt hai người đàn bà, khách chỉ nói chuyện thời tiết, chuyện bạn bè đồng đội. Cái hàm dưới bành bạnh của khách nom như đẽo bằng đá tảng, cử động một cách khó nhọc; khách nhai chầm chậm, uể oải, như một con bò mộng kiệt sức nằm trên ổ. Ăn xong, khách đứng dậy, ra trước tượng thánh đặt giữa những bông hoa giấy bám đầy bụi, cầu kinh, rồi phủi xong những vụn bánh mì bám trên tấm áo khoác cũ kỹ bó sát vai, nói:

- Iakốp Lukits, xin đa tạ về tấm lòng thành! Bây giờ ta nói chuyện.

Mụ chủ và cô con dâu líu tíu dọn bàn; và vâng theo đôi lông mày rướn lên ra hiệu của lão chủ, họ lảng xuống bếp.

CHƯƠNG II

Bí thư huyện uỷ, đôi mắt thong manh, dáng điệu uể oải, ngồi vào bàn, liếc nhìn Đavưđốp một cái, rồi nheo nheo đôi mắt hum húp, bắt đầu xem giấy tờ của anh.

Bên ngoài cửa sổ, gió rít trên những sợi dây thép điện thoại. Trên lưng con ngựa cột vào hàng rào, một con chim ác là nhảy nhót nhởn nhơ và mổ mổ cái gì đó. Gió thổi xoè lông đuôi, bắt nó vỗ cánh bay lên, nhưng rồi nó lại đậu xuống lưng con nghẽo mệt mỏi lụ khụ đang thờ ơ với mọi sự, và nó đắc thắng đưa đôi mắt bé tí hau háu nhìn quanh. Bên trên trang ấp từng mảng mây tơi tả tà tà bay lượn. Thỉnh thoảng ánh nắng xuyên qua khoảng quang đổ xuống chênh chếch, một mảng trời xanh như trời hè bừng lên, và lúc đó khuỷu sông Đông nhìn thấy qua cửa sổ, cánh rừng bên kia sông và ngọn đèo xa xa với chiếc cối xay gió nhỏ xíu phía chân trời nom đúng là một bức tranh sơn thuỷ hữu tình.

- Thế ra cậu ốm nên phải nghỉ lại ở Rôxtốp à? Vậy đấy... Số tám anh em khác trong đoàn hai vạn rưởi (*) đã tới đây ba hôm nay rồi. Có tổ chức mít tinh. Đại biểu các nông trang đã đón tiếp anh em. - Đồng chí bí thư trầm ngâm, trệu trạo đôi môi. - Tình hình ở ta lúc này vô cùng phức tạp. Toàn huyện mới tập thể hoá được 14,8%. Và phần lớn mới chỉ là tập đoàn sản xuất. Bọn kulắc và nhà giầu còn dây dưa không chịu nộp thóc nghĩa vụ. Đang cần cán bộ. Cần ghêêê lắm! Các nông trang xin bốn mươi ba công nhân, nhưng cử về chỉ được có chín người các cậu.

Và dưới đôi mi tùm hụp, hai con mắt giờ đây nom khác hẳn soi mói nhìn thẳng vào con ngươi Đavưđốp hồi lâu, như muốn đánh giá xem anh chàng này có thể làm được trò trống gì.

- Vậy là anh bạn đồng chí thân mến làm thợ tiện à? Tôôốt lắm! Cậu làm ở nhà máy Puchilốp đã lâu chưa? Hút đi.

- Làm từ sau ngày giải ngũ. Chín năm rồi. - Đavưđốp với tay lấy điếu thuốc lá, và đồng chí bí thư nhìn thấy trên tay Đavưđốp một hình xăm xanh xanh, khẽ nhếch đôi môi trề, mỉm cười.

- "Vinh dự và tự hào của chúng ta" (**). Hải quân hả?

- Vâng.

- Thảo nào thấy tay trổ cái neo..

- Hồi ấy tôi còn trẻ, đồng chí biết đấy...lính mới tò te và hơi quỷnh, thế là đè luôn ra xăm...- Đavưđốp tự ái kéo tay áo xuống, nghĩ bụng: "Cha này cái vớ vẩn đâu đâu thì nhìn tinh thế. Còn chuyện thóc nghĩa vụ thì lại gà mờ!".

Đồng chí bí thư lặng thinh một lát, rồi xoá đi ngay trên khuôn mặt húp híp ốm yếu nụ cười xã giao vô nghĩa của mình.

- Đồng chí ạ, đồng chí sẽ xuống trang ấp ngay hôm nay với danh nghĩa đặc phái viên của huyện uỷ tiến hành tập thể hoá toàn diện. Cậu đã đọc chỉ thị mới đây của khu uỷ chưa? Đọc rồi hả? Thế này nhá, cậu sẽ về ấp Grêmiatsi Lốc. Nghỉ ngơi thì để sau, bây giờ đang gấp. Chú ý: tập thể hoá trăm phần trăm. Ở đấy có cái tập đoàn sản xuất bé bằng lỗ mũi, nhưng chúng ta phải dựng nên những nông trang tập thể khổng lồ. Chúng tôi tổ chức xong đội tuyên truyền sẽ cử ngay xuống chỗ các cậu. Trong khi chờ đợi, cậu cứ xuống đi và trên cơ sở khéo thít bọn kulắc lại, cậu hãy tổ chức ra một nông trang tập thể. Trung bần nông phải đưa vào nông trang hết. Rồi các cậu tổ chức một kho thóc công để giống cho toàn bộ diện tích của nông trang gieo trồng trong năm1930. Hành động phải thận trọng. Trung nông thì chớ có chạm đến! Chi bộ Grêmiatsi Lốc có ba đảng viên. Bí thư chi bộ và chủ tịch Xôviết là những anh em tốt cả, du kích đỏ ngày xưa đấy. - Và lại trệu trạo đôi môi, anh nói tiếp: - Kết quả thế nào thì cũng từ đó mà ra cả. Hiểu chưa? Anh em trình độ chính trị thấp, có thể vấp váp. Trường hợp gặp khó khăn gì, cậu cứ lên huyện. Chà, chưa có điện thoại, chán quá! À, còn cái này nữa: cậu bí thư chi bộ ở đấy có Huân chương Cờ đỏ, hơi thô bạo một chút, người độc gai với ngạnh cả, và.. gai sắc đấy.

Bí thư gõ gõ ngón tay vào cái khoá cặp da và thấy Đavưđốp đứng dậy, vội cao giọng nói:

- Khoan, còn việc này nữa: hàng ngày cho giao thông hoả tốc phóng ngựa mang báo cáo lên tôi. Thúc các cậu ở đấy tợn vào. Cậu sang gặp ngay đồng chí trưởng ban tổ chức, rồi đi đi. Để tôi bảo anh em cho ngựa của huyện đưa cậu đi. Thế nhá, cố đạt cho được 100% tập thể hoá. Chúng tôi sẽ đánh giá công tác của cậu theo con số phần trăm ấy. Chúng ta sẽ thành lập một nông trang khổng lồ gồm mười tám Xôviết thôn trang. Một nông trang tập thể kiểu Puchilốp đỏ... Chứ chẳng xoàng đâu! - Và anh mỉm cười, thú vị với câu ví von của mình.

Đavưđốp hỏi:

- Đồng chí vừa bảo tôi phải khéo với bọn kulắc. Nên hiểu là thế nào?

- Là thế này, - đồng chí bí thư mỉm một nụ cười kẻ cả, - có loại kulắc nộp đủ thóc nghĩa vụ, và có loại bướng bỉnh không chịu nộp. Với loại thứ hai thì vấn đề rõ rồi: cứ điều 107 là xong. Nhưng với loại trên thì phức tạp hơn. Như cậu chẳng hạn, cậu sẽ xử sự với bọn ấy như thế nào?

Đavưđốp ngẫm nghĩ một lát...

- Như tôi thì tôi sẽ bắt chúng nó nộp thêm.

- Hay nhỉ! Không, đồng chí ạ, thế thì không ổn rồi. Kiểu làm ăn thế có thể làm mất hết lòng tin vào chủ trương biện pháp của ta. Trung nông sẽ bảo sao? Họ sẽ bảo:"Đó, Chính quyền Xôviết là thế đó! Nó xoay nông dân như chong chóng". Lênin đã dạy chúng ta phải thực sự nghiên cứu tâm lý nông dân, thế mà cậu lại nói chuyện "nộp thêm". Anh bạn ơi, thế là bậy đấy.

Đavưđốp đỏ mặt lên:

- Sao lại bậy? Vậy thì, theo đồng chí, Xtalin... cũng sai chăng?

- Chẳng dính dáng gì đến Xtalin.

- Tôi có đọc một bài diễn văn của Xtalin nói tại một hội nghị các nhà Mácxít, các nhà..gì nhỉ!..Chậc, các nhà làm công tác ruộng đất ấy mà..., gọi là gì nhỉ, quái! À, các nhà nghiên cứu ruộng đất thì phải!

- Các nhà nông học phải không?

- Đúng rồi!

- Thì làm sao?

- Đồng chí cho lấy tờ báo "Sự thật" có đăng bài ấy ra đây.

Trưởng ban văn thư mang tờ "Sự thật" đến. Đavưđốp hăm hở lật tìm.

Đồng chí bí thư mỉm cười chờ đợi, mắt nhìn thẳng vào mặt anh.

- Đây. Thế này là thế nào?..."Chúng ta không thể đánh đổ được tầng lớp kulắc chừng nào mà chúng ta còn chủ trương chỉ hạn chế nó..." Và đoạn dưới đây nữa.., đây: "Nhưng bây giờ? Bây giờ thì khác rồi. Bây giờ chúng ta đã có khả năng mở một cuộc tấn công quyết định vào bọn kulắc, đập tan sự phản kháng của chúng, thanh toán chúng về mặt giai cấp..." Về mặt giai cấp, đồng chí hiểu chưa? Vậy thì tại sao lại không thể bắt chúng nộp thêm? Tại sao không thể hoàn toàn đè bẹp chúng?

Đồng chí bí thư xoá nụ cười trên mặt, lấy vẻ nghiêm trang:

- Đoạn dưới nữa có nói rằng quần chúng trung bần nông đang đánh đổ bọn kulắc bằng cách tham gia nông trang tập thể. Đúng thế không nào? Đọc tiếp đi.

- E..hèm!..

- E hèm cái gì! - Đồng chí bí thư phát bực lên giọng bắt đầu run run. - Còn cậu thì chủ trương thế nào? Dùng biện pháp hành chính đối với mọi tên kulắc, không phân biệt. Mà làm như thế ở một nơi mới tập thể hoá được 14%, ở một nơi trung nông mới đang ngấp nghé vào tập thể thôi. Làm kiểu ấy có ngày chết sớm. Các cậu về địa phương mà chẳng hiểu gì về tình hình địa phương cả...- Đồng chí bí thư nén cơn bực lại, nói tiếp, giọng đã dịu đi: - Với quan điểm như vậy thì cậu sẽ làm khối chuyện bậy bạ.

- Chuyện đó thì chưa biết chừng...

- Nhất định là thế rồi! Nếu một biện pháp như thế là cần thiết và đúng lúc thì khu uỷ ắt đã lệnh thẳng thừng cho ta: "Tiêu diệt bọn kulắc!..." Vậy thì xin mời! Một, hai! Thế là xong. Có công an và toàn bộ bộ máy trong tay đấy... Nhưng lúc này chúng ta mới làm một phần là thông qua toà án nhân dân, chiểu theo điều 107 trừng phạt về mặt kinh tế những tên kulắc tàng trữ lúa mì thôi.

- Vậy là, theo đồng chí, bần cố trung nông phản đối việc đánh đổ bọn kulắc hay sao? Họ ủng hộ bọn kulắc hay sao? Và có nên lãnh đạo họ đánh đổ bọn kulắc hay không?

Đồng chí bí thư rập mạnh cái khoá cặp, nói bằng một giọng khô khốc:

- Đồng chí muốn hiểu lời lãnh tụ như thế nào thì tuỳ, nhưng chịu trách nhiệm về công việc trong huyện là Thường vụ huyện uỷ,cá nhân tôi. Chúng tôi cử đồng chí về đâu thì đồng chí hãy chịu khó chấp hành đúng chủ trương của chúng tôi, chứ không phải làm theo ý đồng chí. Xin lỗi đồng chí, tôi không có thời giờ ngồi tranh luận với đồng chí. Tôi còn nhiều việc bận.

Và đồng chí bí thư đứng dậy.

Máu lại bốc lên mặt Đavưđốp đỏ bừng, nhưng anh trấn tĩnh lại, nói:

- Tôi sẽ chấp hành đường lối của Đảng, còn với đồng chí thì tôi xin nói thẳng, theo tác phong công nhân: chủ trương của đồng chí sai rồi, sai về mặt chính trị, thực tế thế!

- Tôi chịu trách nhiệm về đường lối đó.. Còn cái "tác phong công nhân" của đồng chí thì nó cũ rích, như...

Chuông điện thoại reo. Đồng chí bí thư vớ lấy ống nghe. Người bắt đầu kéo đầy vào phòng. Đavưđốp đi tìm trưởng ban tổ chức.

"Cha này hữu khuynh rồi...Thực tế thế!- Ở huyện uỷ đi ra, anh nghĩ bụng. - Mình sẽ đọc lại toàn văn bài nói chuyện ở hội nghị các nhà nông học. Chẳng lẽ mình lại nhầm? Không, xin lỗi ông, ông anh ơi! Ông cứ mềm mỏng thế là ông buông lỏng bọn kulắc rồi. Đó, ở khu uỷ người ta bảo ông là "một tay năng nổ", vậy mà bọn kulắc vẫn có những đứa dây dưa thóc nghĩa vụ. Xiết chặt là một chuyện, còn đào tận gốc trốc tận rễ, như đào cỏ dại, lại là chuyện khác. Tại sao lại không lãnh đạo quần chúng, hả ông?" - Đavưđốp cứ tranh luận thầm với đồng chí bí thư như thế. Xưa nay vẫn vậy, cứ xong xuôi đâu đấy rồi thì anh mới nảy ra những lý lẽ cứng nhất. Còn lúc ở huyện uỷ, anh đã nóng nảy, hấp tấp, vớ đâu nói đó. Đáng lẽ nên bình tĩnh hơn mới phải. Anh đi, lội bì bõm trong những vũng nước đóng băng, chân đá phải những đống phân bò đã rắn cứng rải rác trên bãi chợ.

- Đáng tiếc là chấm dứt tranh luận sớm quá, nếu không tôi sẽ dồn cho ông anh một trận. - Đavưđốp lẩm bẩm thành tiếng như vậy, rồi hậm hực nín bặt vì thấy một bà đi ngược lại sát bên anh cười tủm tỉm.

------------------------------

(*) Năm 1929, Đảng Cộng sản Liên Xô đã phái hai vạn rưởi công nhân về nông thôn tham gia vận động tập thể hoá nông nghiệp. - ND.

(**) Tiêu ngữ của Hải quân Liên Xô. - ND

* * *

Đavưđốp chạy tới Trụ sở kô dắc và nông dân để lấy chiếc vali nhỏ. Khi nhớ ra rằng ngoài hai bộ quần áo lót thay đổi, mấy đôi bít tất và một bộ vét tông ra thì toàn bộ hành lý của anh là mấy cái tua-vít, kìm, giũa, thước quay, thước vuông, lắc lê Thuỵ Điển và vài dụng cụ linh tinh khác vớ ở Lêningrát mang đi, anh mỉm cười: "Đời khỉ gió nào mới dùng đến nó nhỉ? Cứ tưởng để khi cần thì sửa chữa máy kéo. Thế là mình phải làm phái viên chạy nhông trong huyện. Mình sẽ tặng cho một lão phó rèn nào của nông trang, hắn muốn làm gì thì làm", - anh quyết định như vậy và lẳng chiếc vali lên xe trượt tuyết.

Mấy con ngựa ăn kiều mạch no nê của huyện uỷ nhẹ nhàng kéo chiếc xe trượt tuyết có đệm tựa lưng bọc vải hoa loè loẹt sặc sỡ. Vừa ra khỏi ấp, Đavưđốp đã thấy rét cóng. Anh lật cổ áo măng tô dạ sờn lên che mặt, kéo sụp mũ cát-két xuống, nhưng vô ích: gió và giá lạnh ẩm ướt cứ luồn vào trong cổ, trong cánh tay áo, ngấm vào da thịt. Nhất là hai bàn chân trong đôi giày cũ kỹ thì tê dại hẳn đi.

Từ ấp này đến Grêmiatsi Lốc là hai mươi tám cây số đường đồi dốc hoang vu. Con đường, nâu nâu vì phân súc vật ngấu rữa, chạy trên các đỉnh đồi dốc. Bốn bề là đồng hoang phủ tuyết mênh mông đến tận chân trời. Đây đó những bụi cây ngải cứu rũ xuống rầu rầu. Duy chỉ trên sườn các khe hẻm còn sót lại những mô đất sét nhô lên như những con mắt của đất mở ra nhìn đời: tuyết bị gió thổi bạt đi không bám được vào đó; ngược lại, trong các lòng khe và mương xói thì tuyết chất đầy, nén chặt, ùn ùn từng đống.

Đavưđốp bám vào thành xe chạy một quãng dài cho ấm chân, rồi nhảy lên, ngồi thu lu và ngủ thiếp đi. Đôi càng trượt nghiến ken két, móng sắt của ngựa cắm xuống tuyết dòn răng rắc, chiếc càng bên phải gõ lanh canh. Thỉnh thoảng, qua đôi hàng mi sương giá bám như bông, Đavưđốp lại trông thấy loé lên dưới ánh nắng như một tia chớp tim tím đôi cánh một chú quạ khoang từ mặt đường bay vọt lên, rồi giấc ngủ gà khoan khoái lại khép đôi mi anh xuống.

Cái rét thấu xương đã đánh thức anh dậy. Anh mở mắt, và qua hàng sương long lanh ngũ sắc bám trên mi, trông thấy một mặt trời lạnh giá, một quang cảnh mênh mông hùng vĩ của thảo nguyên vắng lặng, một bầu trời xám ngoét như chì phía chân trời xa xa, và trên cái chỏm trắng xoá của ngọn đồi mộ gần đấy, một con cáo lông vàng hoe óng lên như ánh lửa. Con cáo đang vờn đùa. Nó đứng thẳng người trên hai chân sau, đi ngòng ngoèo, nhảy cẫng lên, đổ xuống hai chân trước, rồi sục bới tuyết, khua lên quanh mình một đám bụi trắng bạc lấp lánh, còn cái đuôi nó mềm mại và uyển chuyển lê trên tuyết như một lưỡi lửa đỏ.

Họ đến Grêmiatsi Lốc lúc trời chưa tối. Trong sân rộng của Xôviết ấp đậu một cỗ xe trượt tuyết song mã không có người. Bên thềm, một đám bảy tám người kô-dắc đứng túm tụm, miệng hút thuốc. Mấy con ngựa, lông cứng ráp vì mồ hôi đóng băng, dừng lại cạnh thềm.

- Chào đồng bào! Chuồng ngựa ta chỗ nào nhỉ?

- Chào đồng chí! - Một người kô-dắc đứng tuổi đưa tay lên mép mũ lông thỏ trả lời thay cho cả đám. - Chuồng ngựa hả, kia kìa đồng chí ạ, lợp sậy đấy.

Đám kô-dắc cũng đi theo về phía chuồng ngựa, trong bụng thắc mắc không biết tại sao cái ông mới đến này, nom vẻ như một cán bộ và nói tiếng "g" giọng nằng nặng theo kiểu Nga, không vào trụ sở Xôviết mà lại lẽo đẽo theo xe.

Hơi phân bốc hầm hập từng cuộn qua các cửa chuồng ngựa. Anh xà-ích huyện uỷ cho ngựa dừng lại. Đavưđốp thành thạo cởi dây tháo càng xe. Đám kô-dắc túm tụm quanh đó đưa mắt nhìn nhau. Một bố già mặc măng-tô trắng của đàn bà, cào rụng những hạt băng bám trên ria, nháy mắt một cái hóm hỉnh:

- Coi chừng, nó đá cho đấy, đồng chí ạ!

Tháo xong đai hậu ra khỏi đuôi ngựa, Đavưđốp quay sang phía bố già, mỉm cười, đôi môi thâm xì nở ra để lộ hàm răng sứt một răng cửa.

- Con đã từng là lính súng máy đấy, bố già ạ. Con đã chạy nhông với những con ngựa còn bằng mấy con này ấy chứ!

Một người đen như củ súng, râu ria xồm xoàm lấp cả lỗ mũi, nói:

- Thế cái răng sứt của anh, có lẽ là do bị con ngựa cái nào đá hẳn?

Đám kô-dắc cười ồ vui vẻ. Đavưđốp thoăn thoắt tháo cái kiềng cổ ngựa, đối đáp lại:

- Không, răng mình sứt lâu rồi, trong một vụ say rượu. Nhưng thế lại hoá hay: các bà khỏi lo bị tôi cắn. Phải không, bố già?

Câu pha trò nghe ăn giọng, và ông lão vờ làm ra bộ thất vọng, lắc đầu:

- Còn lão đây, chú nó ạ, lão chẳng còn cắn ai được nữa. Răng lão rơi rụng từ năm nảo năm nào rồi...

Anh chàng kô-dắc râu đen cười hí lên như ngựa, miệng ngoác ra để lộ hàm răng trắng bóng, và tay cứ túm khư khư lấy cái thắt lưng đỏ thắt chẽn chiếc áo tsếchmen (*), như sợ cười quá bị tung ra chăng.

Đavưđốp lấy thuốc ra mời đám kô-dắc, châm một điếu hút, rồi đi vào trụ sở Xôviết ấp. Bố già kia bám sát gót Đavưđốp, miệng nói:

- Cứ vào đi, chủ tịch nông trang đang trong đó đấy. Cả bí thư Đảng của chúng tôi nữa.

Đám kô-dắc rít hai hơi là tàn điếu thuốc, cũng bước đi cạnh. Họ rất khoái vì ông mới đến này không giống cái kiểu cán bộ huyện mà họ thường thấy: ông này không nhảy trên xe trượt tuyết xuống, ôm cặp đi ngang qua mặt mọi người vào thẳng trụ sở Xôviết, mà lại tự mình tháo ngựa, đỡ anh lái một tay, và tỏ ra thông thạo từ lâu rồi với chuyện ngựa xe. Nhưng đồng thời điều đó cũng làm họ ngạc nhiên. Anh chàng râu đen không nhịn được nữa, hỏi:

- Này, đồng chí ơi, tội gì mà đồng chí lại phải vất vả với mấy con ngựa thế nhỉ? Thiết tưởng đó đâu phải là việc của cán bộ? Thế người đánh xe thì để làm gì?

- Bà con chúng tôi thấy kể cũng kỳ. - Ông bố già thật thà thú nhận.

Đavưđốp chưa kịp trả lời thì một chàng kô-dắc trẻ măng có bộ ria vàng thất vọng thốt lên, chỉ trỏ vào hai lòng bàn tay Đavưđốp có lớp da xám xịt do cọ xát nhiều với sắt thép, và những móng tay đầy những vết xước thâm niên:

- Ô, anh này là thợ rèn đây mà!

- Thợ nguội. - Đavưđốp cải chính. - Thế các bác, các anh lên trụ sở Xôviết làm gì đấy?

- Thích thì đến, - bố già dừng lại ở bậc thềm thứ nhất, đáp thay cho mọi người. - Anh em tò mò muốn biết chẳng hay đồng chí về có việc gì vậy? Hay lại việc thóc nghĩa vụ...

- Việc nông trang tập thể.

Bố già huýt sáo một tiếng kéo dài ngán ngẩm, từ thềm cửa lui gót trở ra trước.

-----------------------

(*) Một kiểu áo thường mặc của người kô-dắc. - ND

* * *

Từ trong căn phòng thấp nồng nặc xông ra mùi chua loét của áo varơi lông cừu bốc hơi tuyết và mùi tro củi. Một người cao lớn, vai ngang, tay vặn bấc đèn, đứng bên bàn, đối diện với Đavưđốp. Trên ngực áo kaki của anh ta nổi lên tấm Huân chương Cờ đỏ. Đavưđốp đoán ra ngay đây là bí thư chi bộ Grêmiatsi.

- Tôi là đặc phái viên huyện. Đồng chí là bí thư chi bộ phải không?

- Phải, tôi đây, Nagunốp, bí thư chi bộ. Mời đồng chí ngồi, đồng chí chủ tịch xôviết ra ngay bây giờ đấy. - Nagunốp đấm đấm vào bức vách, bước tới bên Đavưđốp.

Anh có bộ ngực rộng và đôi chân vòng kiềng của lính kỵ mã. Hai hàng lông mày đen của anh mọc nhíu lại trên đôi mắt vàng ệch có con ngươi to quá khổ, đen như bồ hóng. Nếu không có cái mũi nhỏ khoằm xuống như mỏ con diều hâu với hai lỗ mũi nom qúa thô và mắt không bị kéo màng đục, thì nom anh ta cũng đẹp trai đấy, một vẻ đẹp không nổi bật nhưng có dáng hảo hán.

Từ phòng bên bước sang một người kô-dắc chắc mập đội mũ da dê xám lật ngửa ra sau gáy, mặc tấm áo varơi dạ nhà binh, và chiếc quần sarôva (*) có đường nẹp kiểu kô-dắc, giắt vào trong bít tất len trắng.

- Đây, chính là đồng chí chủ tịch Xôviết Anđrây Radơmiốtnốp đây.

Đồng chí chủ tịch mỉm cười, một tay vuốt vuốt bộ ria mép loăn xoăn trắng nhợt, một tay trịnh trọng chìa ra cho Đavưđốp.

- Thế đồng chí là ai? Đặc phái viên của huyện uỷ à? Hèm. Đồng chí cho xem giấy tờ... Maka (**), anh đã coi chưa? Chắc đồng chí đến về việc nông trang tập thể phải không? - Anh nhìn Đavưđốp từ đầu đến chân một cách sống sượng, hấp háy đôi mắt sáng trong như nền trời hè. Khuôn mặt sạm nắng lâu ngày chưa cạo của anh, với một vết sẹo trên trán, lỗ rõ vẻ bồn chồn nóng ruột.

Đavưđốp ngồi vào bàn, trình bày những nhiệm vụ Đảng đề ra để tiến hành tập thể hoá toàn bộ trong thời gian hai tháng. Anh đề nghị ngay ngày mai họp hội nghị bần nông và cốt cán.

Nagunốp trình bày tình hình và nói về tập đoàn sản xuất Grêmiatsi Lốc.

Radơmiốtnốp tay chống lên ôm chặt lấy đôi má rám hồng, cũng chăm chú nghe anh, thỉnh thoảng chen vào một câu.

- Ở đây chúng tôi có một cái gọi là tập đoàn sản xuất góp ruộng làm chung. Nhưng tôi xin nói với đồng chí, đồng chí công nhân ạ, nó chẳng qua chỉ là một sự bôi nhọ chế độ tập thể, một thứ ăn hại Chính quyền Xôviết mà thôi, - Nagunốp nói, bực bõ ra mặt. - Có mười tám hộ tham gia, độc dân nghèo rớt mùng tơi. Và kết quả là thế nào? Cố nhiên là một trò hề. Mười tám hộ của họ gom góp lại được bốn con ngựa và một đôi bò, nhưng miệng ăn thì một trăm lẻ bảy. Thế thì múa may thế nào đây mà sống? Tất nhiên quỹ tín dụng đã cho họ vay dài hạn để mua máy móc và súc vật kéo. Họ cứ vay, nhưng họ sẽ chẳng trả nổi đâu, dù là dài hạn đi nữa. Tôi xin nói ngay để đồng chí rõ tại sao: giá như họ có được một máy kéo thì lại là chuyện khác, nhưng người ta lại không cho họ máy kéo, còn bò thì ăn ra làm nên nhanh sao được. Tôi xin nói thêm là chính trị của họ chẳng ra quái gì, và từ lâu tôi đã chỉ nhăm nhe giải tán quách họ đi cho rồi, vì cái tội cứ rúc vào nách Chính quyền Xôviết như một con bê vô phúc mà nhay, mà bú, mà chẳng thấy nhớn mẹ gì cả. Họ lại còn ăn nói giọng thế này: "Chậc, rồi thì cái gì người ta cũng sẽ cung cấp cho mình tất! Còn nợ thì tuốt xác mình ra cũng chẳng có đâu mà trả". Cứ thế sinh ra bừa bãi vô kỷ luật,và cái tập đoàn sản xuất chỉ mai kia là ngoẻo thôi. Ý kiến thế mà hay đấy: đưa tất cả vào nông trang tập thể. Tuyệt diệu! Nhưng tôi nói anh nghe, dân kô-dắc là dân cứng đầu, bảo thủ, không dọt không xong đâu...

Đavưđốp đưa mắt nhìn hai người, hỏi:

- Trong các đồng chí ta có ai tham gia tập đoàn ấy không?

Nagunốp đáp:

- Không. Năm 1920 tôi đã tham gia một công xã. Về sau nó tan vì đầu óc tự tư tự lợi. Tôi đã tung hê hết cả của cải tư hữu đi rồi. Tôi mắc bệnh ghét cay ghét đắng của tư hữu, cho nên bò và nông cụ tôi đã đem cho công xã số 6 ở cạnh đó (nó vẫn còn đến bây giờ đấy), vợ chồng tôi bây giờ chẳng có cái gì sất. Radơmiốtnốp thì không thể làm theo gương ấy được: anh ấy goá vợ, chỉ còn độc một mẹ già. Annh ấy mà vào thì không tránh khỏi điều ong tiếng ve. Người ta sẽ bảo: "thế là bây giờ hắn bắt mình cõng mẹ hắn, như cái địu, còn hắn thì chẳng bén mảng ra đồng". Chuyện này tế nhị lắm. Còn đảng viên thứ ba của chi bộ chúng tôi, hiện đang đi vắng, thì cụt một tay do máy tuốt lúa nghiến. Cậu ấy không dám muối mặt xin vào tập đoàn, bảo là không có mình thì người ta cũng thừa kẻ nuôi báo cô rồi.

- Đúng thế đấy, tập đoàn ấy của chúng tôi đúng là cái tai ương nghiệp chướng. - Radơmiốtnốp xác nhận. - Cậu chủ nhiệm của nó, Akaska Lôxép, là một tay làm ăn không ra thế nào. Thật là chọn ai chẳng chọn! Phải thừa nhận là trong việc này chúng tôi hớ rồi. Đáng lẽ không nên trao cho hắn chức ấy mới phải.

Đavưđốp đang lật xem qua sổ sách thống kê tài sản của bọn kulắc, hỏi:

- Sao thế?

Radơmiốtnốp mỉm cười, nói:

- Vì rằng hắn là một con người bệnh hoạn. Tính hắn thế thì làm con buôn mới phải. Cái gì cũng đổi chác, mua đi bán lại. Hắn mắc đúng bệnh ấy đấy. Hắn đã làm sạt nghiệp tập đoàn! Hắn mua một con bò giống, rồi hắn lại nảy ra ý kiến đem đổi lấy cái môtô. Hắn đặt bà con xã viên trước một việc đã rồi, hắn cũng chẳng hỏi ý kiến chúng tôi, tự nhiên thấy hắn chở cái môtô ấy từ ga về. Chúng tôi kêu làng, vò đầu bứt tai. Hắn vác về, nhưng nào ai có biết đi. Vả lại biết dùng nó làm gì bây giờ? Thật là cười dở mếu dở. Hắn mang về làng. Những dân sành chơi trong làng xem qua và bảo: "Tốt hơn hết là đem vứt quách nó đi!" Nó thiếu một số bộ phận mà chỉ nhà máy mới chế tạo ra được. Đáng kẽ nên cử Iakốp Lukits Ôxtơrốpnốp làm chủ nhiệm mới phải. Đó mới thật là một đầu óc. Lão ấy gửi mua tận Kraxnôđa hạt giống lúa mạch loại giống mới, hạn mấy cũng chịu được, lão biết giữ tuyết trên ruộng cày, thu hoạch của lão bao giờ cũng cao nhất. Gia súc thì lão nuôi loại nòi. Mặc dầu lão cũng có kêu quang quác khi chúng tôi bóp thuế lão, nhưng lão là một tay làm ăn giỏi, có bằng khen đấy.

Nagunốp lắc đầu tỏ vẻ nghi ngờ:

- Lão ấy như một con ngỗng hoang giữa đàn, đứng tách riêng ra một mình.

- Không phải đâu! Lão là người của ta. - Radơmiốtnốp khẳng định dứt khoát.

----------------------

(*) Một kiểu quần ống rộng của người kô-dắc. - ND.

(**) Maka là tên, Nagunốp là họ. - ND

CHƯƠNG III

Trong đêm mà đại uý Pôlốptxép, cựu chỉ huy đội kỵ binh kô-dắc của Iakốp Lukits Ôxtơrốpnốp đến nhà lão, hai người đã chuyện trò với nhau hồi lâu. Trong làng, Iakốp Lukits được tiếng là một người tinh khôn, mưu mẹo và thận trọng như một con cáo. Ấy thế mà bây giờ lão cũng chẳng đứng nổi ngoài rìa cuộc đấu tranh đang bùng lên dữ dội ở nông thôn và bị lôi tuột theo dòng thời cuộc. Từ buổi hôm ấy, cuộc đời của Iakốp Lukits đã đi vào một dốc trượt nguy hiểm.

Tối hôm ấy, cơm nước xong, Iakốp Lukits lấy túi thuốc lá ra, ngồi xuống mặt hòm, co cái chân đi bít tất len dày cộp lại, và bắt đầu dốc tuột ra mọi nỗi đắng cay chất chứa trong lòng từ bao nhiêu năm nay.

- Biết nói gì với ông bây giờ, thưa ông Alếchxanđrơ Anhiximôvits? Cuộc đời chẳng có gì vui vẻ phấn khởi cả. Đấy ông xem, vừa qua bà con kô-dắc chăm lo làm ăn đã khấm khá lên một tí, có của ăn của để. Năm hăm sáu, hăm bảy, thuế má thôi thì cũng có thể nói là kham được. Nhưng bây giờ lại đảo lộn tùng phèo cả. Bên trang ấp ông ra sao, thế có nghe nói gì về tập thể hoá không?

Khách liếm nước bọt cuốn thuốc, chăm chú liếc nhìn chủ nhà đáp gọn:

- Có!

- Thế ra đâu cũng phát khóc lên vì cái trò ấy cả nhỉ. Bây giờ xin kể ông nghe chuyện của tôi: tôi trở về hồi năm hai mươi, sau khi quân ta (*) rút lui, hai đôi ngựa và toàn bộ cuả nả bỏ lại bên bờ Hắc Hải. Tôi trở lại ngôi nhà trống tuềnh trống toàng. Từ đó tôi làm ăn đầu tắt mặt tối. Đầu tiên các ông đồng chí chơi tôi một vố trưng thu lúa mì: có bao nhiêu thóc họ vét chứ tính thì cũng ra thôi: họ đánh mình và họ cấp cho mình biên lai hẳn hoi, để mình nhớ. - Iakốp Lukits đứng dậy, thò tay ra sau cái gương và cười ruồi trong hàng ria cắt ngắn, lôi ra một bó giấy: - Cái mớ ấy đây, những tờ biên lai ghi những thứ tôi đã nộp năm hai mươi mốt: lúa mì này, thịt này, bơ này, da thuộc này, lông cừu này, gà qué này, và cả những con bò đực đồ sộ dắt đến trạm trưng thu. Còn đây là biên lai thuế nông nghiệp thống nhất, biên lai lạc quyên, và lại còn biên lai bảo hiểm... Tôi đóng thuế cả khói lò sưởi, cả thuế vì cái nỗi trong chuồng có súc vật nữa...Chẳng mấy chốc mà những giấy má này tôi đóng đầy một bao tải. Tóm lại, ông Alếchxanđrơ Anhiximôvits ạ, tôi vẫn cứ sống: đất nuôi tôi, và tôi lại nuôi những kẻ khác quanh tôi. Họ lột da tôi biết bao nhiêu lần rồi, nhưng lột lớp này tôi lại nuôi lớp khác mọc lên. Thoạt tiên, tôi kiếm được một đôi bò đực, vỗ nó lớn lên. Tôi đem nộp một con để làm thịt. Tôi đem bán cái máy khâu của bà nó nhà tôi, tậu một con khác. Ít lâu sau, năm hai nhăm, đôi bò của tôi sinh sôi được một đôi nữa. Thế là tôi có hai đôi bò đực và hai con bò cái. Họ không tước quyền bầu cử của tôi, tương lai họ sẽ xếp tôi vào loại trung nông lớp trên.

- Thế ngựa, anh có không? - Khách hỏi, vẻ quan tâm.

- Cứ từ từ, tôi nói sang chuyện ngựa bây giờ đây. Tôi mua được của bà hàng xóm một con ngựa cái non. Mẹ nó là ngựa sông Đông thuần chủng (cả làng còn độc một con này). Con ngựa con lớn lên, chà con nhãi nom hay đáo để. Dáng nhỏ, không dùng làm ngựa nhà binh được, thiếu mất nửa véc-sốc (**), nhưng phi nhanh thì có một không hai! Tại hội chợ triển lãm nông nghiệp của khu, tôi đã nhận được giải thưởng về nó và bằng chứng nhận ngựa nòi. Rồi tôi bắt đầu để tâm học hỏi các ông kỹ sư nông nghiệp, chăm ruộng đất như chăm vợ ốm vậy. Ngô tôi thì nhất làng, thu hoạch cao nhất. Giống, tôi đem ngâm trước khi gieo và tôi giữ tuyết trên ruộng cày. Tôi chỉ gieo lúa xuân trên ruộng cày thu, còn mùa xuân để ải, không cày; ruộng hưu canh của tôi bao giờ cũng nhất. Tóm lại là tôi trở thành lao động tiên tiến, và vì thế được giấy khen của Ban nông nghiệp khu. Kia kìa, ông xem.

Khách liếc nhìn theo hướng ngón tay của Iakốp Lukits trỏ, và thấy một tờ giấy đóng dấu đỏ, lồng khung gỗ, treo gần chỗ tượng thánh, cạnh bức ảnh Vôrôsilốp. Iakốp Lukits hãnh diện nói tiếp:

- Phải, họ đã gửi bằng đến cho tôi, và ông kỹ sư còn lấy mẫu lúa mạch của tôi mang về Rôxtốp để trình bày với các nhà chức trách. Mấy năm đầu tôi gieo năm đêxiachin (***), rồi khá giả lên, tôi bắt đầu làm đến đổ mồ hôi sôi nước mắt, gieo ba, năm, rồi bảy krúc (****), thế đấy! Vợ chồng, cha con tôi làm lấy, chỉ có hai lần, vào lúc thời vụ căng thẳng, tôi mới mướn thêm một người. Những năm này, Chính quyền Xôviết ra lệnh như thế nào? "Có sức thì cứ gieo nữa đi!" Và thế là tôi cứ gieo, lạy Chúa, thật là cứ như diều được gió. Nhưng, ông Alếchxanđrơ Anhiximôvits, ân nhân của tôi ạ, tôi nói xin ông tin cho, bây giờ thì tôi hãi rồi! Tôi hãi sẽ bị họ cho chết cháy vì bảy krúc ruộng gieo trồng ấy, họ nâng tôi lên thành phần kulắc mất. Lão chủ tịch Xôviết làng tôi, du kích đỏ ngày xưa, là đồng chí Radơmiốtnốp, hay còn gọi nôm na là Anđriuska, đã xui dại tôi thế đấy, mả mẹ nó! Có lần hắn bảo: "Iakốp Lukits ạ, bác cứ gieo đến mức tối đa có thể gieo được, bác hãy giúp đỡ Chính quyền Xôviết, Chính quyền Xôviết đang rất cần lúa mì". Tôi ngờ lắm, và bây giờ thì vỡ nhẽ là cái tối đa ấy lại thít vào cổ tôi như cái thòng lọng, lạy Chúa!.

Khách đứng bên bệ lò sưởi, tay chắp sau lưng, vai rộng, đầu to, người chắc nịch như cái bao tải đầy thóc, hỏi:

- Ở đây người ta có ghi tên vào nông trang tập thể không?

- Vào nông trang ấy à? Cho tới nay họ để cho yên, nhưng mai sẽ có cuộc họp bần nông. Lúc nhá nhem họ đã đi loan báo. Từ hôm Nôen đến nay, họ cứ nói nhai nhải, điếc cả tai:"Vào đi, vào đi thôi!" Nhưng bà con chối đây đẩy, chẳng ai chịu ghi tên. Ai tội gì chuốc vạ vào thân? Chắc là mai họ sẽ lại thúc đây. Nghe nói chiều nay mới có một thằng cha công nhân nào ở trên huyện về, hắn sẽ lùa mọi người vào nông trang. Đời chúng tôi thế là đi đứt. Tôi làm sầy vẩy, còng lưng cóp nhặt, thế mà bây giờ lại phải đem đổ tất vào cái nồi chung, cả gia súc, cả lúa mì, cả gà qué, cả nhà cửa nữa, chắc thế hẳn? Chẳng khác gì họ bảo mình: chú em đưa vợ đây cho anh, còn chú thì chịu khó đi nhà thổ vậy. Ông ngẫm mà xem, ông Alếchxanđrơ Anhiximôvits, tôi sẽ mang vào nông trang một đôi bò đực (cũng may là đôi kia tôi đã bán chạy cho cửa hàng thực phẩm rồi), một con ngựa cái và con con của nó, tất cả nông cụ, lúa mì, trong khi một đứa khác thì mang vào một cái bị rách đầy rận. Tôi với hắn canh ti lại, rồi lời lãi chia đôi, mỗi người một nửa. Thế thì bảo làm sao mà không cay?.. Có thể rồi suốt đời hắn cứ nằm ườn trên trốc lò sưởi mà nghĩ đến miếng ngon, miếng ngọt, còn tôi thì... nhưng thôi, nói làm gì nhỉ! Phựt! - Iakốp Lukits đưa bàn tay sần sùi lên cứa ngang cổ họng một cái dứt khoát. - Thôi, nói thế là đủ. Thưa, thế còn ông thì bây giờ sống ra sao? Làm cho sở nào hay là làm ở xưởng?

Khách bước tới bên Iakốp Lukits, ngồi xuống chiếc ghế đẩu, cuốn điếu thuốc khác; y đăm đăm nhìn túi thuốc, còn Iakốp Lukits thì nhìn cái cổ áo chật căng của tấm áo ngoài đã cũ của khách thít lấy cái cổ tròn lẳn làm nổi lên những đường gân xanh hai bên yết hầu:

- Lukits ạ, anh đã từng là lính đại đội tôi.. Anh có nhớ lần ở Êkatêrinôđa, hình như là trong khi quân ta rút lui thì phải, tôi đã có một cuộc nói chuyện với anh em kô-dắc về Chính quyền Xôviết chứ? Ngay từ hồi ấy tôi đã báo trước cho anh em biết rồi, anh có nhớ không? Tôi bảo: "Các chú sẽ sai lầm nghiêm trọng đấy! Cộng sản sẽ tuốt xác các chú, vặn cổ các chú. Các chú tỉnh ngộ thì lúc ấy đã muộn". - Y ngừng lại một lát, hai đồng tử trong đôi mắt xanh xanh co lại, nhỏ xíu, chỉ còn như hai lỗ kim, rồi nở một nụ cười gian xảo. - Tôi nói có sai không? Tôi với anh em đơn vị đã không chạy thoát được khỏi Nôvôrôxixcơ. Quân tình nguyện và quân đồng minh đã phản bội, bỏ rơi chúng tôi. Tôi đã vào Hồng quân, chỉ huy một đại đội kỵ binh, trên đường đi mặt trận Ba Lan... Lúc ấy họ có một cái uỷ ban để kiểm tra, thanh lọc các sỹ quan cũ. Uỷ ban ấy cất chức tôi, bắt và đưa tôi ra Toà án cách mạng. Chà, suýt nữa thì các ông đồng chí đã làm thịt tôi rồi chứ chẳng chơi đâu, hoặc tống vào trại tập trung. Anh có đoán được tại sao không? Một thằng kô-dắc chó đẻ, đồng hương với tôi, đã tố giác là tôi có tham gia vụ giết Pốtchenkốp. Trên đường bị giải đi toà án, tôi đã trốn thoát...Tôi sống lẩn quất mãi, lấy một cái tên giả, và đến năm hai mươi ba thì trở về làng. Tôi còn giữ được giấy chứng nhận trước mình là đại đội trưởng một đại đội kỵ binh đỏ, lại gặp được mấy cậu cũng tốt, tóm lại là tôi thoát chết. Hồi đầu người ta lôi tôi lên khu, lên ban chính trị Sở công an sông Đông. Gỡ được xong, tôi đi gõ đầu trẻ. Tôi gõ đầu trẻ cho tới thời gian gần đây. Nhưng bây giờ... Bây giờ tình hình khác rồi. Nhân có việc đi Uxti-Khôpécxkaia, tôi tạt qua thăm anh là đồng đội cũ.

- Ông làm thầy giáo à? Vââậy đấy... Ông là người học rộng, hơn người về chữ nghĩa khoa học. Cơ sự này rồi sẽ ra sao? Với trò nông trang kia, chúng ta sẽ còn thất điên bát đảo đến tận đâu nữa, hả thưa ông?

- Đến chủ nghĩa cộng sản, anh bạn ạ. Đến cái chủ nghĩa cộng sản đích thực. Tôi đã đọc cả sách Các Mác lẫn cuốn "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" nổi tiếng kia rồi. Chuyện nông trang này sẽ đi tới đâu, anh có biết không? Lúc đầu là nông trang, rồi đến công xã: thủ tiêu hoàn toàn chế độ tư hữu. Không những bò, rồi cả con cái anh người ta cũng sẽ bắt đưa nhà nước nuôi. Mọi cái sẽ thành của chung: vợ, con, chén bát, cùi dìa. Anh muốn ăn một bát mì thịt ngỗng, nhưng người ta lại bắt anh uống nước kvax. Anh sẽ là một nông nô bị cột chặt vào ruộng đất.

- Nhưng nếu tôi không thích thế thì sao?

- Người ta sẽ chẳng hỏi ý kiến anh.

- Sao lại thế được?

- Nó thế đấy.

- Hay nhỉ!

- Nhưng này! Bây giờ tôi hỏi anh: có thể sống mãi như thế này được không?

- Sống sao nổi.

- Nếu không nổi thì phải hành động, phải đấu tranh.

- Ông bảo sao, thưa ông Alếchxanđrơ Anhiximôvits? Chúng ta đã thử rồi, đấu tranh rồi...Không ăn thua. Tôi chẳng buồn nghĩ đến chuyện đấy nữa!

- Cứ thử nữa xem. - Khách ghé sát vào Iakốp Lukits liếc nhìn cánh cửa bếp đã khoá chặt, rồi tự dưng tái mặt đi, thì thào: - Tôi đã nói chuyện thẳng thắn với anh: tôi hy vọng vào anh. Ở ấp chúng tôi, dân kô-dắc sắp nổi dậy rồi. Và anh đừng nghĩ là chuyện lơ mơ, làm bừa đâu. Chúng tôi có liên lạc với Mátxcơva, với các tướng tá hiện đang phục vụ trong Hồng quân, với các kỹ sư làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp, và còn xa hơn nữa, với ngoại quốc. Phải, phải! Nếu chúng ta khéo tổ chức nhau lại và cũng hành động ngay từ bây giờ thì sang xuân, với sự giúp đỡ của các cường quốc bên ngoài, vùng sông Đông sẽ sạch bóng quân đỏ. Anh sẽ gieo lúa bằng hạt giống của anh và cho mình anh hưởng thôi.. Khoan, để tôi nói nốt đã. Trong huyện, có nhiều người đồng tình với ta. Phải cố kết và tập hợp họ lại. Tôi đi Uxti-Khôpécxkaia chính là về việc này đây. Anh có nhập bọn chúng tôi không? Trong tổ chức của chúng tôi đã có trên ba trăm cựu chiến binh kô-dắc rồi. Ở Đubrốpxki, ở Vôxvôvôi, ở Tubianxki, ở Malưi Ônkhôvátxki và nhiều ấp khác chúng tôi đã lập nên những đội chiến đấu. Cũng nên tổ chức một đội như thế ở Grêmiatsi các anh đây...Nào, anh nói đi.

- Bà con kêu ca về chuyện nông trang và chuyện nộp thóc...

- Khoan! Không nói chuyện bà con, mà nói chuyện anh. Tôi hỏi anh cơ. Thế nào?

- Những chuyện như vậy làm sao quyết định ngay được?..Chuyện này mất đầu như bỡn.

- Anh cứ nghĩ đi...Có lệnh là tất cả các thôn ấp chúng ta sẽ đồng loạt nổi dậy. Chúng ta sẽ chiếm huyện này, dân cảnh và cộng sản thì ta sẽ sục tận nhà tóm cổ từng thằng, còn về sau thì ngọn lửa tự nó sẽ bùng lên.

- Nhưng lấy gì mà nổi dậy?

- Sẽ có! Chắc anh cũng còn giữ được chứ?

- Cũng chẳng rõ nữa...Hình như cũng có vứt lay lứt đâu đó...Một khẩu súng cổ...Kiểu Áo thì phải.

- Chúng ta chỉ cần khởi sự, và một tuần lễ sau tàu ngoại quốc sẽ chở đến cả súng trường, cả đại bác. Sẽ có cả tàu bay nữa. Thế nào?

- Thưa ngài đại uý, xin để tôi nghĩ đã! Đừng thúc ép tôi qúa...

Khách dựa lưng vào bệ lò sưởi, mặt chưa hết tái, nói giọng trầm trầm:

- Chúng tôi không đi mộ người vào nông trang, cho nên không thúc ép ai cả. Hoàn toàn tuỳ anh, nhưng cái mồm thì...liệu đấy anh Lukits ạ! Sáu viên phần anh, còn viên thứ bảy...- và khách lấy ngón tay khẽ gảy lách cách ổ đạn khẩu súng lục đút trong túi.

- Về cái mồm thì ông khỏi lo. Nhưng việc ông làm xem ra mạo hiểm đấy. Và cũng chẳng giấu gì ông: việc ấy làm tôi hãi lắm. Nhưng sống thì cũng cùng đường rồi. - Lão ngừng nói một lát. - Nếu không có chuyện o ép những người có của, tôi nai lưng ra làm, biết đâu bây giờ chẳng nhất làng rồi. Cứ như thời làm ăn tự do thì biết đâu bây giờ tôi chẳng đã có cái ô tô! - Iakốp Lukits chua chát nói sau một phút im lặng. - Nhưng đơn độc mà lao vào những chuyện ấy...Họ vặn cổ sớm.

- Sao lại đơn độc? - Khách khó chịu ngắt lời.

- Ấy là tôi nói lẩm cẩm như vậy. Nhưng thưa ông, những người khác thì thế nào? Thế giới họ sẽ thế nào? Nhân dân liệu có nghe không?

- Nhân dân chỉ là đàn cừu. Phải dẫn dắt họ. Thế nào, quyết định chứ?

- Tôi đã nói rồi, thưa ông Alếchxanđrơ Anhiximôvits...

- Tôi cần biết dứt khoát: anh có đồng ý không?

- Chẳng còn con đường nào khác, vậy thì tôi đồng ý. Nhưng dẫu sao ông cứ để cho tôi nghĩ cho chín đã. Sáng mai tôi sẽ trả lời ông một tiếng cuối cùng.

Thế rồi Pôlốptxép đã lên giọng ra lệnh:

- Ngoài ra, anh còn phải thuyết phục những bà con kô-dắc nào tin cậy được. Tìm những ai có hận thù với Chính quyền Xôviết ấy.

- Cuộc sống thế này thì ai mà không hận thù.

- Thằng cháu nhà anh thế nào?

- Cha nào con nấy. Tôi làm sao, nó làm vậy (*****)

- Thằng ấy được chứ?

- Nó đáng mặt một dân kô-dắc, - Iakốp Lukits đáp với một vẻ tự hào kín đáo.

Chủ nhà trải cho khách một tấm chăn xám và một chiếc áo khoác lót lông nằm ở gian khác, cạnh bệ lò sưởi. Khách tháo ủng ra, nhưng để nguyên quần áo mà nằm, và vừa đặt má lên chiếc gồi nhồi lông chim mát lạnh đã thiếp đi luôn.

... Trời chưa sáng hẳn Iakốp Lukits đã đánh thức bà mẹ già tám mươi nằm ngủ trong gian buồng nhỏ bên chái nhà. Lão kể vắn tắt cho mẹ nghe ông chỉ huy đại đội cũ của mình đến đây có mục đích gì. Mụ già ngồi trên bệ lò sưởi nghe, buông thõng hai chân nổi những đường gân đen và các khớp sưng phù vì cóng, một tay đưa lên banh cái vành tay vàng ệch ra.

Iakốp Lukits quỳ xuống, nói:

- Mẹ có ban phước cho con không?

- Làm đi, cứ làm, đánh cho chết bọn trời tru đất diệt ấy đi, con ạ! Chúa ban phước lành cho an! Chúng nó đóng cửa nhà thờ...Cha cố không sống nổi...Con cứ làm đi!...

Trời sáng thì Iakốp Lukits đánh thức khách dậy:

- Tôi quyết định rồi! Xin ông ra lệnh.

Pôlốptxép rút trong túi áo ra một tờ giấy:

- Đọc đi, rồi ký vào.

" Xin Chúa che chở cho chúng con! Tôi là một người lính kô-dắc của Đại binh đoàn sông Đông, xin gia nhập Liên minh giải phóng quê hương sông Đông, và cam kết tuân lệnh các vị chỉ huy, đem hết sức lực và bằng mọi cách, chiến đấu đến giọt máu cuối cùng chống bọn cộng sản bônsêvích, những kẻ thù không đội trời chung của Thiên chúa giáo, những kẻ áp bức nhân dân Nga. Tôi cam kết tuyệt đối tuân lệnh các vị thủ trưởng và chỉ huy của mình. Tôi cam kết dâng toàn bộ tài sản của tôi lên bàn thờ Tổ quốc Thiên chúa giáo giòng chính thống. Tôi cam kết và xin ký"

-------------------

(*) Quân Bạch vệ. - ND.

(**) Trước cách mạng, người kô-dắc đi lính Nga hoàng phải đem theo ngựa, cao tối thiểu là 2 ác-sin nửa véc-sốc. Một ác-sin là 0,71m, một véc-sốc là 0,044m. - ND.

(***) Đêxiachin = 1,09 hec ta. - ND.

(****) Krúc = 4 hec ta. - ND.

(*****) Nguyên văn: Ngón tay bỏ bàn tay đi đâu được? Tôi đi đâu, nó theo đó. - ND.

CHƯƠNG IV

Ba mươi hai con người - cốt cán và bần nông ấp Grêmiatsi Lốc - nín thở ngồi nghe. Đavưđốp chẳng có tài diễn thuyết, vậy mà thoạt đầu người ta lắng nghe anh còn chăm chú hơn cả một người kể chuyện cổ tích giỏi nhất.

- Thưa các đồng chí! Tôi bản thân là công nhân nhà máy Puchilốp đỏ. Đảng cộng sản và giai cấp công nhân phái tôi về đây giúp các đồng chí tổ chức nông trang tập thể và tiêu diệt bọn kulắc là những kẻ hút máu hút mủ mọi người chúng ta. Tôi sẽ nói ngắn thôi. Các đồng chí phải hợp lực lại vào nông trang tập thể, đem toàn bộ ruộng đất, nông cụ, súc vật làm của chung. Vì sao phải vào nông trang? Vì rằng cứ tiếp tục sống như thế này thì thật là sống không nổi. Ta gay go về lúa mì là do bọn kulắc chôn giấu, để mục nát dưới đất, ta phải dùng vũ lực mà đoạt lấy của chúng! Còn các đồng chí thì hẳn là sẽ phấn khởi mà nộp lúa mì, nhưng chính các đồng chí cũng thiếu ăn. Lúa của trung bần nông thì không nuôi nổi liên bang Xôviết. Phải gieo trồng thêm nhiều nữa. Nhưng với các cày gỗ và cày sắt một lưỡi thì làm sao mà gieo trồng nhiều được? Chỉ có máy cày mới giúp ta thoát được khỏi tình cảnh này. Thực tế thế! Tôi không rõ ở vùng sông Đông các đồng chí, trong vụ cày thu, một cái cày thì cày được bao nhiêu...

- Nắm chắc tay cày cả ngày lẫn đêm thì đến mùa đông cày được mười hai đêxiachin.

- Hả? Mười hai à? Phải chân đất rắn thì sao?

- Ông kia nói lăng nhăng gì vậy? - Một tiếng đàn bà the thé cất lên. - Thế thì mỗi cái cày phải đóng ba, không thì bốn đôi bò đực khoẻ, mà ta thì đào đâu ra bò? Cũng có đấy, nhưng không phải ai cũng có, lải rải mỗi nơi một đôi ốm đói.., mà phần lớn lại là bò đực có vú. Nhà giàu cơ người ta mới có, họ làm ăn như diều được gió...

- Ai mà nói chuyện ấy! Đàn bà không biết thì ngồi yên nhá váy mà nghe. - Tiếng ai ồm ồm và khàn khàn đáp lại.

- Ông thì biết! Về nhà mà dạy vợ, đừng lên mặt dạy người ta.

- Thế máy cày thì cày được bao nhiêu?...

Đavưđốp chờ cho mọi người im lặng, rồi đáp:

- Một máy cày, nói máy của xưởng Puchilốp chúng tôi sản xuất ra thôi, nếu có tay lái giỏi, thạo nghề thì một ngày một đêm, hai ca thay nhau cũng cày được mười hai đêxiachin.

Cả hội nghị cùng ồ lên. Có tiếng ai kinh ngạc thốt lên:

- Cha mẹ ơi!...

- Gớm thế đấy! Cày bằng con ngựa ấy mới sướng...- Tiếng ai đó thở dài, khao khát.

Đavưđốp đưa tay lên quệt đôi môi khô đi vì cảm động, nói tiếp:

- Xưởng chúng tôi làm ra máy kéo cho các đồng chí đấy. Bần trung nông cá thể thì không mua nổi đâu: ruột tượng bà con bé quá! Nghĩa là muốn mua được thì bần cố, trung nông phải chung lưng đấu cật lại. Bà con đều biết đấy, máy kéo mà đem ra làm ở mảnh ruộng nhỏ thì lỗ vốn to. Với nó thì cứ phải là những cánh đồng lớn. Những ácten nhỏ dùng nó cũng chẳng lợi gì hơn là vắt sữa dê.

- Không được thế nữa ấy chứ! - Một giọng ồm ồm như ống lệnh cất lên từ những hàng ghế cuối.

- Nghĩa là ta nên làm thế nào? - Đavưđốp nói tiếp, không chú ý đến những tiếng đáp lại ấy. - Đảng dự kiến tập thể hoá toàn bộ để bà con có máy cày và đưa bà con ra khỏi cảnh bần cùng. Đồng chí Lênin trước khi mất đã nói như thế nào? Chỉ có nông trang tập thể mới cứu được nông dân lao động thoát khỏi nghèo khó. Không thế thì họ sẽ nguy khốn. Bọn kulắc là con quỷ khát máu sẽ hút máu của họ đến khô kiệt... Vậy thì các đồng chí phải dứt khoát, kiên quyết đi theo con đường Đảng vạch ra. Liên minh với công nhân, giai cấp nông dân tập thể sẽ coi khinh tất cả bọn kulắc và mọi kẻ thù. Tôi không nói sai đâu. Bây giờ tôi nói sang cái tập đoàn sản xuất của các đồng chí. Cỡ nhỏ quá, lực yếu, do đó công việc làm ăn của nó có thể nói là bi đát. Như vậy thì chẳng khác gì gió vào nhà trống.. Tóm lại là chẳng ăn gì cả, chỉ độc thua lỗ! Nhưng chúng ta phải đưa nó vào nông trang tập thể, làm thành cái cốt lõi, rồi quanh cái cốt lõi ấy sẽ phát triển thêm trung nông..

- Khoan, tôi có ý kiến tí đã! - Đemka Usanốp, một anh chàng rỗ hoa, mắt lác, đã có thời gian tham gia tập đoàn, đứng dậy.

- Muốn ý kiến thì phải giơ tay xin phép, - Nagunốp ngồi ở bàn chủ toạ, cạnh Đavưđốp và Anđrây Radơmiốtnốp, nghiêm nghị nhắc nhở anh ta.

Đemka tỉnh bơ đi, mỗi mắt nhìn đi một ngả, tưởng đâu như anh ta đồng thời vừa nhìn lên bàn chủ tịch, vừa nhìn cử toạ:

- Tôi cứ nói, chẳng việc gì phải xin phép. Tôi xin lỗi, chứ vậy thì vì sao chúng ta làm ăn thất bát và thành gánh nặng cho Chính quyền Xôviết? Tại vì sao, tôi xin hỏi các đồng chí, chúng ta như một bọn ăn bám vào quỹ tín dụng? Tại cái ông chủ nhiệm quý hoá của chúng ta! Tại lão Akaska Mênốc đấy!

- Cái phần tử ăn nói bố láo! - Một giọng gà trống cất lên từ mấy hàng ghế cuối. Và Akaska Mênốc huých cùi tay chen lên phía bàn chủ toạ.

- Tôi xin dẫn chứng! - Đemka tái mặt đi, hai mắt nhíu vào bên sống mũi. Mặc cho Radơmiốtnốp đang nắm bàn tay gân guốc đấm xuống bàn thình thình, anh ta quay sang phía Akaska: - Đừng có mà lấp liếm. Chúng ta nghèo hơn các nông trang khác không phải vì chúng ta ít người, mà là do những việc đổi chác của nhà anh. Anh có đổi con bò đực lấy cái môtô, chẳng hỏi ý kiến ai không? Có? Và đứa nào nghĩ ra cái chuyện đem gà đẻ đi đổi lấy...

Akaska vừa chen lên, vừa chống chế:

- Cứ bịa nữa đi!

- Chẳng phải anh thì đứa nào gạ chúng tôi bán ba con cừu đực thiến và một con bò cái tơ để mua một cỗ xe ngựa? Đồ lái buôn..nửa mùa! Úi giào ôi! - Đemka nói bằng một giọng đắc thắng.

- Từ từ chứ nào! Lối đâu đá nhau như gà chọi thế này! - Nagunốp can, và trên má anh cái thứ thịt dưới lớp da đỏ ửng lên đã bắt đầu giật giật.

Akaska đã len tới bàn chủ toạ, xin phép nói:

- Đề nghị đến lượt tôi có ý kiến.

Anh ta đưa tay lên nắm bộ râu hung hung định nói thì Đavưđốp gạt anh ra:

- Tôi phát biểu nốt, và bây giờ đề nghị đừng nói chen ... Thưa các đồng chí, như tôi đã nói: chỉ có nông trang tập thể mới có thể..

Anh du kích đỏ Paven Liubiskin, ngồi ngay sát cửa ra vào, ngắt lời anh:

- Anh không phải tuyên truyền chúng tôi! Chúng tôi sẽ vào nông trang ráo.

- Đồng ý vào nông trang.

- Vào thì mới làm ăn nên nỗi đấy!

- Nhưng phải quản lý cho tử tế cơ.

Vẫn cái anh chàng Liubiskin ấy lại cất giọng, át mọi tiếng ồn. Anh ta đứng lên, trật cái mũ lông đen ra, người cao lớn, vai ngang chằn chặn, lấp cả lối ra vào:

- Anh này thật buồn cười, việc gì phải tuyên truyền Chính quyền Xôviết với chúng tôi? Chính tay chúng tôi trong thời gian chiến tranh đã dựng nó lên, chính chúng tôi đã đưa vai ra đỡ cho nó khỏi đổ. Chúng tôi biết nông trang là thế nào rồi, chúng tôi sẽ vào. Các anh hãy cho chúng tôi máy móc. - Anh chìa bàn tay nứt nẻ ra. - Máy kéo thì hay rồi, khỏi nói, nhưng công nhân các anh, các anh làm ra còn được ít quá, chúng tôi chê các anh điểm ấy đấy! Chúng tôi không có cái gì để bấu víu cả, gay go là ở chỗ đó. Còn cày bằng bò thì một tay cày, một tay gạt nước mắt, và nếu chỉ như thế thì cần gì phải có nông trang mới làm được. Trước khi có bước chuyển sang thành lập nông trang thì bản thân tôi đã định viết thư cho đồng chí Kalinin, yêu cầu giúp đỡ bà con nhà nông xây dựng một cuộc sống mới như thế nào đó. Nếu không, cứ mấy năm đầu thì chẳng khác gì dưới chế độ cũ cả: đóng thuế đi, còn sống chết mặc bay. Thế thì cái Đảng Cộng sản Nga để làm gì nhỉ? Chúng ta đã đánh thắng, được, nhưng rồi sao nữa? Lại như xưa, lẽo đẽo theo sau cái cày, ai có con gì thì mắc cày vào con đó. Còn người không có thì sao? Ngửa tay xin ở cổng nhà thờ chăng? Hay là kiếm một cái xiên, nấp dưới gầm cầu, rình những anh cán bộ thương nghiệp nhà nước hoặc nhân viên hợp tác xã tiêu thụ mà xỉa? Người ta vẫn cho phép bọn nhà giàu phát canh thu tô, cho phép chúng mướn người làm. Năm 1918, cách mạng dạy chúng ta làm như vậy sao? Các anh đã bịt mắt cách mạng! Và hễ ai mở mồm nói: "Chúng ta đã chiến đấu để làm gì nhỉ?" thì những ông công chức chưa hề ngửi thấy mùi thuốc súng lại lấy đó làm trò cười, và đằng sau họ, cả một bầy chó trắng cũng hô hố lên cười. Không, anh không phải lên lớp chúng tôi! Chúng tôi nghe những lời bùi tai đã nhiều rồi. Anh hãy bán chịu cho chúng tôi một máy cày, hoặc bán trả dần bằng thóc, nhưng phải là máy tốt chứ đừng đưa ra cái của ba bị, hoặc đồ tầm phơ nào! Đưa đúng loại máy kéo anh vừa nói ấy! Nếu không thì tôi xơi những cái này để làm gì? - Anh bước qua đùi bà con ngồi trên các hàng ghế, đi thẳng tới bàn chủ toạ, vừa đi vừa cởi cúc chiếc quần rách tã ra. Đến nơi, anh vén thốc tà áo sơmi lên, lấy cằm kẹp giữ vào ngực. Trên bụng và hông đen sạm của anh lộ ra những vết sẹo gớm khiếp, kéo căng da: - Tôi xơi quà này của các ngài Kađê (*) để làm gì?

- Đồ nỡm, không biết dơ! Thế thì tụt hẳn ra có được không! - Mụ goá Anhixia, ngồi cạnh Đemka Usakốp, bất bình và láu lỉnh kêu lên.

- Mụ thích tụt à? - Đemka khinh bỉ lườm mụ một cái.

- Thôi, thím Anhixia ơi, im cái mồm đi! Chìa ra cho một vị công nhân xem sẹo của tôi thì việc gì mà tôi sợ dơ? Để cho anh ta thấy! Bởi vì rằng nếu cứ tiếp tục sống như thế này thì, mẹ kiếp, tôi đến chẳng còn cái quái gì mà che tât cả những của quý ấy nữa chứ! Quần của tôi bây giờ thực ra chỉ còn là cái tên gọi thôi. Ban ngày ban mặt tôi đâu dám đi qua mặt đàn bà con gái! Họ hãi chết khiếp!

Phía đằng sau người ta cười hô hố, làm nhộn lên, nhưng Liubiskin đưa con mắt nghiêm nghị nhìn quanh một vòng. Và lại nghe thấy tiếng ngọn đèn nổ lép bép.

- Vậy là tôi đã chiến đấu chống bọn Ka-đê chỉ để cho bọn nhà giàu vẫn cứ sống đàng hoàng hơn tôi à? Để cho chúng ăn sung mặc sướng, còn tôi vẫn phải ăn bánh mì mốc với hành à? Có phải vậy không, hả đồng chí công nhân? Này anh, anh Maka ơi, việc gì phải nhấm nháy tôi! Cả năm tôi chỉ nói có một lần thôi, để yên tôi nói.

Đavưđốp gật đầu:

- Cứ nói tiếp đi!

- Tôi nói tiếp. Năm nay tôi gieo ba đêxiachin lúa mạch. Tôi có ba đứa nhỏ, một bà chị què, và một vợ ốm. Tôi có nộp thóc đúng hạn không, hả anh Radơmiốtnốp?

- Có, nhưng đừng làm ầm lên như vậy.

- Không, tôi cứ làm ầm! Thế cái lão kulắc Phrôn Mũi toác..., mả mẹ nó!...

- Sao, sao? - Nagunốp đấm bàn một cái, nói.

- Thằng Phrôn Mũi toác có nộp thóc không? Không chứ gì?

Radơmiốtnốp, đôi mắt sáng long lanh thích thú và từ nãy vẫn nghe Liubiskin với một vẻ khoái trá ra mặt, nói chêm vào:

- Thế cho nên toà án đã phạt hắn, bắt hắn nộp đủ thóc.

Đavưđốp chợt nhớ đến bí thư huyện uỷ, nghĩ bụng: "Ông thận trọng ơi, sao ông không ở đây mà nghe?".

- Năm nay hắn vẫn sẽ là ông Phrôn Igơnachits! Và sang xuân hắn sẽ lại đến mướn tôi làm! - Liubiskin ném cái mũ đen nhẻm xuống bên chân Đavưđốp. - Anh nói chuyện nông trang với tôi làm gì?! Các anh cứ xơi tái bọn kulắc đi, chúng tôi khắc vào! Các anh cứ tước máy móc, tước bò của chúng nó đưa cho chúng tôi, tước cái sức mạnh của chúng nó đi, chúng ta khắc có bình đẳng! Toàn chỉ thấy nói đi rồi nói lại: "tiêu diệt bọn kulắc", còn bọn kulắc thì năm này qua năm khác cứ phình mãi ra, như cây si, và che lấp cả mặt trời của chúng tôi.

Đemka nói như đế vào:

- Anh có cho chúng tôi tài sản của lão Phrôn thì Akaska Mênốc sẽ đem đổi lấy cái tàu bay cho mà xem.

- Ha ha, hố hố!...

- Nói trúng tim đen.

- Đề nghị làm chứng cho tôi là đã bị xúc phạm!

- Không để cho ai nghe nữa à? Suỵt!

- Lũ quỷ, mất trật tự quá!

- Thôi, im lặng!...

Đavưđốp vất vả mới dẹp được tiếng ồn ào đang nổi lên.

- Đó chính là chính sách của Đảng ta! Cửa đã mở rồi, việc gì ta phải gõ nữa! Tiêu diệt bọn kulắc về mặt giai cấp, tịch thu tài sản của chúng trao cho nông trang, thực tế thế! Còn đồng chí, đồng chí du kích ạ, việc gì mà đồng chí vứt mũ xuống gầm bàn như vậy, nó còn dùng che đầu được đấy. Bây giờ thì không được có chuyện phát canh thu tô và thuê mướn nhân công nữa! Trước đây chúng ta còn gượng nhẹ bọn kulắc, đó là do hoàn cảnh bắt buộc: chúng có nhiều thóc nộp hơn các nông trang chúng ta. Nhưng bây giờ thì khác hẳn rồi. Đồng chí Xtalin đã tính toán đủ mọi đường và bảo: phải loại trừ bọn kulắc ra khỏi đời sống chúng ta! Phải đem tài sản của chúng trao cho nông trang...Đồng chí nhăn nhó mãi về chuyện máy kéo...Vậy năm triệu rúp người ta cấp cho các nông trang để mở mang thì là cái gì? Đồng chí có biết chuyện ấy không? Thế thì việc gì đồng chí cứ phải ngậu xị lên như vậy? Trước tiên phải nặn ra được cái nông trang đã, rồi mới lo đến chuyện máy móc chứ. Còn đồng chí thì muốn sắm cái vòng cổ ngựa trước, rồi đo cái vòng cổ mà tậu ngựa. Đồng chí cười cái gì? Đúng thế, đúng thế đấy!

- Cậu Liubiskin này đúng là đặt cái cày trước con bò!

- Hô hô..

- Thế thì chúng tôi tán thành vào nông trang quá rồi!

- Hắn tính chuyện cái vòng cổ ngựa..

- Thành lập ngay đêm nay đi!

- Ghi tên luôn!

- Dẫn chúng tôi đi đấu bọn kulắc!

Nagunốp đề nghị:

- Ai muốn vào nông trang, giơ tay lên!

Đếm thì thấy có ba mươi ba bàn tay giơ lên. Một bà con nào đó cuống quýt đã giơ cả hai tay.

Không khí ngột ngạt làm Đavưđốp phải bỏ áo măngtô và véttông ra. Anh cởi khuy cổ áo sơmi, mỉm cười đợi cho tiếng ồn ào lắng xuống:

- Tinh thần giác ngộ của các đồng chí rất cao, thực tế thế! Nhưng các đồng chí tưởng chỉ có việc vào nông trang là xong à? Không, chưa đủ đâu! Bần nông các đồng chí là trụ cột của Chính quyền Xôviết. Không những bản thân các đồng chí phải vào nông trang, mà còn phải lôi kéo trung nông đang nghiêng ngả nữa.

- Nhưng người ta không muốn thì lôi kéo làm sao? - Akaska Mênốc hỏi. - Họ là con bò hay sao mà bảo xỏ mũi dắt đi?

- Phải thuyết phục họ! Đồng chí là người đấu tranh cho chân lý của chúng ta, thế mà lại không lôi kéo được người khác theo mình à? Mai ta sẽ có cuộc họp. Đồng chí hãy biểu quyết "tán thành" và thuyết phục người trung nông ngồi bên mình. Bây giờ ta bàn sang chuyện bọn kulắc. Ta sẽ ra quyết định trục xuất chúng ra khỏi cương giới vùng Bắc Cápcadơ này hay là thế nào?

- Đồng ý đấy!

- Nhổ tận gốc!

- Không, không phải chỉ nhổ tận gốc, mà trốc tận rễ nữa, - Đavưđốp bổ sung, và bảo Radơmiốtnốp: - đồng chí đọc danh sách bọn kulắc lên. Ta sẽ duyệt bây giờ việc tịch thu tài sản của chúng nó.

Anđrây rút trong tập hồ sơ ra một tờ giấy, trao cho Đavưđốp.

- Phrôn Đamaxkốp. Tên này có đáng bị giai cấp vô sản trừng trị như vậy không?

Các cánh tay giơ lên nhất loạt. Nhưng đếm xong thì Đavưđốp thấy là có một người không biểu quyết. Anh dướn đôi lông mày đầy mồ hôi đang bốc hơi lên:

- Không đồng ý à, anh kia?

Anh chàng kô-dắc nom vẻ hiền lành củ mỉ, vừa rồi không giơ tay, đáp cộc lốc:

- Tôi không có ý kiến.

- Sao lại thế? - Đavưđốp gặng hỏi.

- Vì ông ấy là hàng xóm láng giềng của tôi, tôi thấy ông ấy có nhiều cái tốt. Tôi không thể giơ tay làm hại ông ấy được.

Nagunốp đứng nhổm dậy như kiểu đang ngồi trên yên ngựa, ra lệnh bằng một giọng hơi run run:

- Cút ngay khỏi phòng họp này!

Đavưđốp nghiêm khắc ngắt lời Nagunốp:

- Đừng, ai lại làm thế, đồng chí Nagunốp! Anh đồng bào kia, đừng về! Anh hãy giải thích rõ thái độ của anh đã. Theo anh, Đamaxkốp có phải kulắc hay không?

- Chuyện ấy tôi không biết. Tôi mù chữ, và đề nghị cho tôi rời hội nghị.

- Không được, anh hãy vui lòng giải thích cho chúng tôi nghe đã: anh đã được nó làm ơn những gì?

- Ông ấy giúp tôi luôn, nay cho mượn bò, mai cho vay thóc giống.. có ít đâu...Nhưng tôi không phản bội chính quyền. Tôi ủng hộ chính quyền...

Radơmiốtnốp nói xen vào:

- Nó có yêu cầu anh bênh vực nó không? Nó có đút lót anh tiền, thóc lúa không? Anh cứ thú nhận đi, đừng sợ! Nào, nói đi: nó đã hứa với anh những gì? - Radơmiốtnốp mỉm cười lúng túng, ngượng thay cho anh chàng kia, và ngượng vì những câu hỏi sống sượng của mình.

- Hình như chẳng hứa cái gì cả. Sao đồng chí biết?

- Chimôphây, mày nói dối! Mày là đứa đã bị mua chuộc, biến thành tay sai kulắc rồi! - Có tiếng ai trong hàng ghế kêu lên.

- Anh muốn gọi tôi thế nào thì gọi, tuỳ anh...

Đavưđốp hỏi một câu như kề dao vào cổ anh ta:

- Anh theo Chính quyền Xôviết hay theo bọn kulắc? Anh đừng bôi nhọ giai cấp nông dân nghèo khổ, anh hãy nói thẳng cho hội nghị rõ: anh đứng về bên nào?

Liubiskin bực lắm, cắt ngang:

- Hơi đâu mất thời giờ với hắn! Chỉ cần một chai vốtka là có thể mua được cả hắn lẫn ruột gan hắn. Này, Chimôphây ơi, trông mày mà tao ngứa mắt quá!

Anh chàng Chimôphây Borsép, lúc nãy không giơ tay biểu quyết, cuối cùng tỏ vẻ đấu dịu, đáp:

- Tôi ủng hộ chính quyền. Sao các anh lại xúm vào đả tôi như vậy? Tôi tối tăm dốt nát, cho nên lẫn...

Nhưng biểu quyết lần thứ hai, anh ta đã giơ tay với một vẻ miễn cưỡng ra mặt.

Đavưđốp ngoáy máy chữ vào sổ tay: "Chimôphây Borsép bị kẻ thù của giai cấp dụ dỗ. Phải giáo dục".

Hội nghị đồng thanh quyết nghị tịch thu tài sản bốn tên kulắc nữa.

Nhưng khi Đavưđốp nói: "Tít Bôrôđin. Ai tán thành?" thì cả hội nghị ắng đi trong một không khí im lặng nặng nề. Nagunốp và Radơmiốtnốp lúng túng nhìn nhau. Liubiskin cầm mũ lau mồ hôi trán.

- Sao lại im lặng? Có chuyện gì vậy? - Đavưđốp thắc mắc đưa mắt nhìn các hàng ghế, và thấy mình nhìn ai người ấy cũng quay mắt đi bèn đưa mắt nhìn Nagunốp.

Nagunốp bắt đầu bằng một giọng ngập ngừng:

- Số là thế này. Cái cậu Bôrôđin ấy, chúng tôi vẫn gọi nôm na là cậu Titốc, hồi 1918 đã cùng với chúng tôi tình nguyện tham gia đội cận vệ đỏ. Xuất thân gia đình bần nông, hắn chiến đấu vững vàng. Hắn bị thương mấy lần và đã được thưởng một đồng hồ bạc vì thành tích cách mạng. Hắn là lính đội du kích Đumenốc. Đồng chí công nhân ạ, đồng chí có biết hắn đã làm cho chúng tôi nẫu ruột, nẫu gan vì hắn như thế nào không? Phục viên về nhà, hắn bám khư khư lấy kinh tế của hắn như con chó giữ xương... Và hắn bắt đầu làm giàu, mặc dù chúng tôi đã khuyên răn hắn. Hắn làm ngày làm đêm, râu ria lông lá mọc xồm xoàm, tứ thời đánh độc cái quần vải thô. Hắn đã tậu được ba đôi bò và chuốc lấy bệnh sa đì vì mang vác quá nặng. Nhưng thế đối với hắn vẫn chưa đủ! Hắn bắt đầu mướn người, hai người, rồi ba người. Hắn tậu một cối xay gió, rồi mua một máy hơi nước năm mã lực và xoay ra làm bơ, buôn bò. Thường hắn ăn kham khổ và để người làm đói nhăn răng, mặc dù họ phải làm việc đến hai mươi tiếng một ngày và đêm phải dậy năm lần bảy lượt cho ngựa và bò ăn. Chúng tôi đã nhiều lần gọi hắn tới chi bộ và trụ sở Xôviết, mắng cho thảm hại, bảo hắn: "Thôi đi, Tít, đừng làm cái trò chắn ngang đường chính quyền Xôviết thân yêu của chúng ta như thế nữa! Chính cậu đã hy sinh gian khổ ngoài mặt trận, chiến đấu chống bọn Bạch vệ.." - Nagunốp thở dài đánh thượt một cái, và giang rộng hai tay. - Biết làm thế nào một khi người ta bị ma xui quỷ ám? Xem ra cái tư hữu đã ăn sống nuốt tươi hắn rồi! Chúng tôi đã gọi hắn lên một lần nữa, gợi hắn nhớ lại cuộc đời chiến đấu và những chuyện đồng cam cộng khổ của chúng tôi, khuyên nhủ, đe hắn là chúng tôi sẽ đạp dí hắn xuống tận bùn đen nếu hắn to gan cản đường chúng ta, tư sản hoá đi, và không muốn đón chờ cách mạng thế giới.

Đavưđốp sốt ruột, yêu cầu:

- Nói ngăn ngắn thôi.

Nagunốp giật mình và hạ thấp giọng:

- Chuyện ấy không nói ngắn được. Nó như vết thương rỉ máu...Thế là hắn, nghĩa là cậu Titốc ấy, hắn trả lời chúng tôi: "Tôi chấp hành mệnh lệnh của Chính quyền Xôviết, mở rộng diện tích gieo trồng. Và tôi mướn nhân công là hợp pháp: bà nó nhà tôi bị bệnh hậu sản. Xưa kia tôi chẳng bằng ai, bây giờ tôi được đầy đủ sung túc thế này thì chính vì thế mà tôi đã chiến đấu. Hơn nữa, chính Chính quyền Xôviết đứng vững được khộng phải là nhờ vào các anh. Hai bàn tay tôi đây đã cung cấp cho chính quyền Xôviết có cái để mà nhá, còn các anh, các ông quan to quan nhỏ, tôi còn lạ gì các ông nữa". Khi chúng tôi gợi lại chuyện chiến đấu đồng cam cộng khổ thì cũng có lần mắt hắn đỏ hoe, nhưng hắn không để cho nước mắt được chảy thoải mái, hắn quay mặt đi, lên gân nói: "Ăn cơm mới nói chuyện cũ làm gì?" Chúng tôi đã tước quyền bầu cử của hắn. Và thế là hắn chạy nháo các nơi, làm đơn lên khu, lên Mátxcơva. Nhưng tôi hiểu như thế này, là ở trên các cơ quan trung ương có những nhà cách mạng lão thành nắm những cương vị chủ chốt và các ông ấy thừa hiểu: một khi anh đã phản bội thì anh là kẻ thù, và đối với anh phải thẳng tay!

- Cũng nên nói ngăn ngắn thôi...

- Tôi xong bây giờ đây. Ở trên cũng không phục hồi cho hắn và từ bấy đến nay, hắn vẫn chứng nào tật ấy. Thực ra thì hắn cũng thôi, không mướn người nữa...

Đavưđốp nhìn chòng chọc vào mặt Nagunốp:

- Ồ, thế thì có vấn đề gì nhỉ?

Nhưng Nagunốp khép hai hàng lông mi ngắn bạc nắng xuống, đáp:

- Là vì cả hội nghị im lặng. Tôi chỉ muốn giải thích rõ là tên Tít Bôrôđin, ngày nay là kulắc thì trong quá khứ thân thiết mới đây là hạng người thế nào thôi.

Đavưđốp mím chặt môi, mặt sa sầm:

- Việc gì đồng chí phải đem những chuyện ấy ra than thở với chúng tôi? Hắn đã đi du kích, đó là thành tích của hắn. Nhưng bây giờ hắn trở thành kulắc, biến thành kẻ thù, vậy thì phải tiêu diệt! Có gì mà phải nói lôi thôi?

- Tôi nói thế không phải là tôi thương hại hắn đâu. Đồng chí đừng buộc oan cho tôi.

- Ai tán thành tịch thu tài sản của Bôrôđin? - Đavưđốp đưa mắt nhìn quanh một vòng.

Các cánh tay ngập ngừng, lẻ tẻ giơ lên, nhưng rồi cũng giơ lên cả.

Tan họp, Nagunốp mời Đavưđốp về nhà mình ngủ. Anh vừa dò dẫm bước ra khỏi căn nhà tối om của trụ sở Xôviết, vừa nói:

- Để mai tôi sẽ tìm cho anh một chỗ ở.

Họ đi bên nhau, bước trên tuyết sào sạo. Nagunốp phanh ngực áo varơi ra, nói nho nhỏ:

- Đồng chí công nhân thân mến ạ, tôi thật nhẹ cả người khi nghe nói phải đưa vào nông trang toàn bộ tài sản tư hữu của nông dân. Từ bé tôi đã ghét cay ghét đắng của tư hữu. Mọi tai hoạ đều do nó sinh ra cả, các đồng chí Mác, Ăngghen tài giỏi của chúng ta viết cấm có sai. Nếu không xoá bỏ nó đi thì ngay cả dưới Chính quyền Xôviết, người ta cũng sẽ choảng nhau, chạy lăng xăng, huých nhau, như những con lợn chạy quanh máng ăn, chỉ vì cái bệnh dịch thổ tả ấy. Còn xưa kia, dưới chế độ cũ thì thế nào? Nghĩ mà khiếp! Ông cụ nhà tôi xưa là một dân kô-dắc phong lưu, có bốn đôi bò đực và năm con ngựa. Ruộng đất của ông cụ mênh mông, sáu mươi, bảy mươi, rồi đến một trăm đêxiachin. Gia đình đông, toàn tay làm được. Chúng tôi tự lực làm lấy cả. Đồng chí tính xem: tôi có ba ông anh đã lấy vợ. Và thế rồi một sự việc đã khắc sâu vào trí nhớ tôi, và làm tôi sinh ra căm ghét chế độ tư hữu. Một hôm, con lợn nhà hàng xóm lẻn vào vườn ra nhà tôi, phá mất mấy khóm khoai tây. Bà cụ tôi trông thấy, vớ luôn cái gáo, múc đầy nước sôi trong nồi, và bảo tôi:"Maka, mày ra xua nó, tao đón lối hàng rào". Hồi ấy tôi mười hai. Cố nhiên là tôi đã ra đuổi con lợn bất hạnh ấy. Và bà cụ tôi đã cho nó tắm nước sôi. Đến nỗi lông nó bốc khói mù lên! Hồi đó đang muà hè, con lợn bị thối thịt sinh giòi, mỗi ngày một nhiều, rồi nghẻo. Lão hàng xóm để bụng thù. Và một tuần sau, hai mươi ba đụn lúa mạch nhà tôi đánh đống ngoài thảo nguyên cháy tiệt. Ông cụ tôi thừa biết đó là do bàn tay ai, ức không chịu nổi, phát đơn kiện. Và giữa hai người sinh ra thù hằn nhau đến ghê, không nhìn mặt nhau được. Tí rượu vào là choảng nhau luôn. Kiện cáo kéo dài khoảng năm năm, cho đến ngày xảy ra án mạng...Vào tuần lễ Lá. Người ta tìm thấy anh con trai của lão hàng xóm nằm chết trong một kho thóc. Có ai đó đã dùng chàng nạng xiên cho anh ta vào ngực, thủng mấy chỗ. Qua một vài điều, tôi đoán đấy là do bàn tay các ông anh tôi. Người ta tiến hành điều tra, nhưng không tìm ra thủ phạm...Người ta lập biên bản, kết luận anh ta chết vì say rượu. Và từ đó tôi bỏ nhà bỏ cửa ra đi làm mướn. Rồi tôi bị lôi cuốn vào chiến tranh. Ngoài mặt trận, có những lúc ta nằm, bọn Đức giã pháo đạn ghém vào ta, khói đen và đất cát bắn tung toé lên trời. Tôi nằm và nghĩ: "Vì ai, để giữ gìn của tư hữu cho ai mà ta chịu cái cảnh hãi hùng chết chóc này nhỉ?" Và dưới làn đạn bắn, ta chỉ ước gì biến thành cái đinh, để cắm sâu xuống đất ngập tận mũ! Ối chao ôi, rồi tôi hít phải hơi ngạt, anh ạ, bị trúng độc! Bây giờ, động leo dốc một tí là chóng mặt, máu bốc lên đầu, bước không nổi. Ở mặt trận, có những người thông minh tài trí đã vẽ đường chỉ lối cho tôi, và khi trở về, tôi đã là một người bônsêvích. Và trong nội chiến, chà, tôi mới đâm chém cái giống sâu bọ ấy nhá! Không chút thương xót! Ở Kaxtornaia tôi bị chấn thương, rồi bắt đầu lên những cơn động kinh. Và bây giờ được cái này đây. - Nagunốp đặt bàn tay hộ pháp của mình lên tấm huân chương, và trong giọng nói của anh vang lên những âm hưởng mới, ấm áp lạ thường. - Giờ đây có nó, tôi thấy trong lòng ấm thêm lên. Giờ đây, đồng chí thân mến ạ, tôi cảm thấy như trong những ngày nội chiến, như đang đứng trên vị trí chiến đấu vậy. Phải cố hết sức để lôi kéo mọi người vào nông trang. Đó là một bước nữa đi tới cách mạng thế giới.

Đavưđốp chân bước miệng hỏi với một vẻ đăm chiêu:

- Anh biết rõ Tít Bôrôđin không?

- Biết quá chứ! Trước, tôi với nó là bạn thân, nhưng chính vì cái chuyện hắn mê của tư hữu quá quắt lắm nên tôi với nó đã bỏ nhau. Năm 1920 tôi với nó đã cùng đi dẹp cuộc nổi loạn trong một tổng vùng Đônét. Hai đại đội kỵ binh và một đội biệt động xông lên tấn công. Phía sau làng thấy có nhiều người Ucraina bị đâm chém nằm chết đó. Đến đêm, thằng Titốc trở về chỗ đóng quân, vác theo mấy cái bọc tướng. Hắn rũ ra, và tám cái cẳng chân chặt cụt rơi lỏng chỏng xuống đất. "Mày điên à? - Một đồng chí bảo nó như vậy. Mang cuốn xéo ngay lập tức!" Và thằng Titốc trả lời: "Mẹ kiếp, cho chúng nó hết nổi loạn! Bốn đôi ủng thì tác dụng cho tớ quá! Đủ cho cả nhà đi". Nó hơ những ống chân ấy lên lò sưởi và cố sức kéo. Rồi mang mấy cái cẳng chân ra ngoài, vùi vào đống rơm. Nó bảo: "Chôn rồi". Hồi ấy chúng tôi mà biết thì hẳn sẽ lôi nó ra bắn chết, như một con chó ghẻ! Nhưng anh em không nỡ tố cáo nó. Sau đó tôi có căn vặn nó: đúng có chuyện ấy không? Nó nói: "Đúng. Lúc ấy không sao tháo được ủng ra, chân chúng nó đóng băng, cứng như gỗ, mình phải lấy kiếm chặt. Mình là thợ giầy, thấy những đôi ủng tốt như thế để mục dưới đất thì tiếc của. Nhưng bây giờ chính mình cũng kinh. Có lúc đang đêm sực tỉnh, mình phải bảo bà vợ để cho mình nằm vào trong, vì nằm ngoài thấy chợn chợn..." Ủa, ta về đến nhà đây rồi. Nagunốp bước vào sân, lách cách mở then cửa.

----------------------

(*) KĐ: đảng dân chủ lập hiến, một đảng phản động. - ND

CHƯƠNG V

Anđrây Radơmiốtnốp bị bắt đi lính quân dịch vào năm 1913. Theo luật lệ hồi ấy, anh phải mang theo ngựa nhà nhập ngũ. Nhưng chẳng những ngựa, mà ngay cả quân trang quy định cho một người lính kô-dắc, anh cũng chẳng lấy đâu ra tiền sắm. Bố anh chết đi để lại cho anh gia tài độc có một thanh gươm của ông nội, đút trong cái bao mòn đã mất hết nước bóng. Suốt đời, Anđrây sẽ không quên nỗi tủi nhục này! Trong một cuộc họp dân làng, các bô lão đã quyết định xuất công quỹ trang bị cho anh đi quân dịch: các cụ sắm cho anh một con nghẽo rẻ tiền lông đỏ hoe hoe, một bộ yên, hai tấm áo capốt, hai cái quần, một đôi ủng...Các cụ bảo anh: "Chú Anđrây ạ, bà con đã xuất công quỹ sắm sửa cho chú, chúng đừng quên ơn bà con, đừng làm làng xóm xấu hổ, đi phục vụ đức Sa hoàng cho tử tế..."

Còn bọn con cái nhà giàu kô-dắc thì vênh vang cưỡi những con ngựa quý của sở nuôi ngựa Kôrônkốp hoặc những con ngựa nòi chuốc từ Prôvaliê về, với những bộ yên đắt tiền, đai cương khảm bạc, trang phục mới toanh...Ruộng đất của Anđrây phải trao lại cho ban hương lý cai quản và đem phát canh trong suốt thời gian Anđrây đi lang thang khắp các mặt trận, bảo vệ sự giàu có của kẻ khác, bảo vệ cuộc sống no nê phè phỡn của kẻ khác. Tại mặt trận Đức, anh được gắn ba huân chương Thánh Ghêorghi. Tiền thưởng huân chương, anh gửi về cho vợ và mẹ già, bà mẹ mà tuổi già cay đắng những nước mắt đã nhờ cậy được anh hơi muộn.

Chiến tranh gần kết thúc thì vợ Anđrây, từ mùa thu đã đi đập lúa mướn dành dụm được ít tiền, ra mặt trận thăm chồng. Chị sống ở chỗ chồng chỉ có vài ngày (trung đoàn kô-dắc sông Đông số 11, là trung đoàn của Anđrây, lúc ấy đang nghỉ ngơi), ngủ gối đầu lên cánh tay chồng. Những đêm ấy đã qua đi, nhanh như chớp mưa hè. Nhưng có cần gì nhiều thời gian cho ân ái của đôi chim, cho một người đàn bà khao khát hạnh phúc? Chị trở về quê, đôi mắt long lanh, rồi đến cữ, không một tiếng kêu, không một giọt nước mắt, chị đẻ rơi ngay trên đồng cỏ một thằng cu giống Anđrây như đúc.

Năm 1918, Radơmiốtnốp trở về Grêmiatsi Lốc một thời gian ngắn. Anh ở lại quê không được bao lâu: anh sửa lại cái cày gỗ đã mục, thay mấy rui xà kho lúa, cày vỡ hai đêxiachin ruộng, rồi để cả một ngày nô với thằng cu con, đặt nó cưỡi lên cái cổ lính hôi hám như cắm thẳng xuống đôi vai của anh, chạy quanh phòng, cười như nắc nẻ; và trong khoé mắt xanh của anh thường ngày nom hơi dữ, chị vợ trông thấy rưng rưng một giọt nước mắt. Chị tái mặt đi, hỏi chồng: "Anh Anđrây, anh lại đi nữa đấy à?" - "Mai. Chuẩn bị cho ít lương ăn đường".

Và sáng hôm sau, anh, Maka Nagunốp, Liubiskin, Tít Bôrôđin và tám chàng kô-dắc nữa ở mặt trận về, đã tập hợp trước cửa nhà Anđrây. Những con ngựa thắng yên cương, mỗi con một màu lông, đã đưa họ đi khuất dần sau chiếc cối xay gió, và trên đường cái quan một hồi lâu vẫn còn cuồn cuộn đám bụi xuân nhẹ bốc lên từ dưới vó ngựa đóng móng hè.

Ngày hôm ấy, trên bầu trời Grêmiatsi Lốc, bên trên mặt nước ngập lênh láng, bên trên những cánh đồng hoang, bên trên cái thế giới xanh ngát từ Nam chí Bắc, từng đàn ngỗng trời cánh đen lặng lẽ bay qua, không một tiếng kêu, trong không gian bao la bát ngát.

Đến Kamenxkaia, Anđrây tách ra khỏi tốp. Anh tiến về phía Môrôdốpxkaia - Txaritxưn trong một đơn vị của binh đoàn Vôrôsilốp. Còn Maka Nagunốp, Liubiskin và các anh em khác thì đi về Vôrônegiơ. Và ba tháng sau, trước thành Krivaia Mudơga, bị thương nhẹ vì một mảnh lựu đạn, nằm tại trạm cấp cứu, Anđrây tình cờ gặp một người đồng hương và được tin rằng bọn kô-dắc bạch vệ Grêmiatsi Lốc, người cùng làng với Anđrây, sau khi tiêu diệt đơn vị của Pôtchenkốp, đã giở trò dã man với vợ anh để trả thù anh về tội đi theo bên đỏ. Chuyện này cả làng đều biết, và chị Épđôkia (*) không chịu nổi nhục đã tự vẫn.

...Một ngày giá lạnh. Cuối tháng chạp. Ấp Grêmiatsi Lốc. Nhà cửa, kho, rào dậu, cây cối, tất cả đều phủ một lớp băng giá trắng. Phía sau ngọn đồi xa xa là cuộc giao chiến. Đại bác của tướng Guxensikốp nổ rền. Anđrây cưỡi con ngựa mép sùi bọt trắng, phi tới ấp vào lúc sẩm chiều. Và cho đến bây giờ anh vẫn nhớ như in, chỉ cần anh nhắm mắt lại là lập tức hình ảnh ấy của quá khứ lại hiện ngay ra trước mắt...Cái cổng hàng rào kêu kót két. Anđrây thở dốc, cầm dây cương kéo con ngựa đã mệt nhoài bước loạng choạng vào sân. Bà mẹ anh không kịp khoác áo, ở trong nhà chạy ra.

Chao ôi, tiếng bà cụ khóc người đã mất nghe sao não nuột, xé ruột xé gan Anđrây!

- Con ơi, cooon! Nó đã nhắm mắt xuôi tay rôôồi!...

Radơmiốtnốp cứ như đang vào nhà ai: anh buộc dây cương vào lan can hiên, và đôi chân anh như tự nó bước vào nhà. Đôi mắt sâu hoẳm của anh, như mắt người chết, sục nhìn gian nhà trống trơn, chiếc nôi trống trơn.

- Thằng bé đâu?

Bà mẹ úp mặt vào màn cửa, lắc lắc cái đầu lơ thơ mấy sợi tóc hoa râm.

Bà cố lắm mới trả lời nổi:

- Mẹ đã không giữ được cháu yêu của mẹ! Hai tuần sau khi Épđôkia.., vì bệnh yết hầu.

- Đừng khóc nữa...Con đây cơ, ước gì con khóc được lấy một tiếng! Đứa nào hãm hại nhà con?

- Thằng Anhikây Đêviátkin đã lôi vợ con vào cái kho lúa...Nó cầm roi ngựa quật mẹ...Nó réo thêm mấy đứa nữa vào kho. Hai cánh tay vợ con trắng trẻo thế mà nó cầm bao kiếm quật túi bụi. Vợ con về nhà mình mẩy tím bầm...Người trông chỉ còn độc hai con mắt...

- Nó có nhà không?

- Chạy rồi.

- Nhà nó còn ai không?

- Còn con vợ và ông lão. Anđrây! Đừng làm tội họ! Tội đứa khác chứ họ có tội tình gì...

- Mẹ!..Mẹ bảo con thế đấy à? - Anđrây tím bầm mặt, nghẹt thở. Anh giật đứt mấy cái khuy áo capốt, giằng cái cổ áo varơi và ngực áo sơmi ra.

Anh tỳ bộ ngực phanh trần gầy giơ xương sườn vào sanh nước, uống ừng ực, cắn cả vào miệng sanh. Rồi anh đứng dậy, mắt vẫn cắm xuống, miệng hỏi:

- Mẹ à, trước khi nhắm mắt, nhà con có dặn dò gì lại với con không?

Bà mẹ lần vào trong cái góc đầu nhà, rút sau tấm ảnh thánh ra một mẩu giấy đã vàng ố. Và bên tai anh vẳng lên những lời giối giăng như một giọng nói thân thương: "Anh Anđrây thân yêu của em! Bọn khốn nạn đã làm ô uế em! Chúng nó chà đạp lên em và mối tình của em với anh. Em còn mặt mũi nào nhìn anh và ánh sáng mặt trời nữa. Lương tâm em không cho phép em sống mà mang cái bệnh thối tha ấy. Anh Anđrây, bông hoa yêu quý của em ơi! Đêm nào em cũng chẳng ngủ được đâu, em cứ khóc ướt đầm cả gối. Tình của đôi ta em sẽ ghi lòng tạc dạ, và xuống dưới suối vàng em cũng sẽ vẫn ghi tạc, không quên. Em chỉ ân hận một điều: ân hận cho đứa trẻ và cho anh, tiếc cho cuộc sống và tình vợ chồng quá ngắn ngủi. Anh sẽ lấy vợ khác, em mong chị ấy sẽ vì Chúa mà thương lấy thằng bé. Và cả anh nữa, hãy thương lấy nó, mụn con côi của em. Anh bảo bu là mấy cái váy của em, và cả cái khăn quàng của em, và cả cái áo cánh của em nữa, bu đưa cho con bé út em. Nó sắp lấy chồng, đang cần..."

Anđrây phi ngựa như bay tới nhà Đêviátkin và, gươm tuốt trần, xăm xăm chạy lên thềm. Bố của Anhikây Đêviátkin, một ông lão cao lớn tóc hoa râm, trông thấy anh, vội làm dấu phép và phủ phục xuống trước mấy tấm ảnh thánh.

- Anh Anđrây Xtêpanưts! - Lão chỉ kêu như vậy, dập đầu xuống trước chân Anđrây, rồi không cạy răng nói được tiếng nào nữa và không cất được cái đầu hỏi đỏ hỏn lên khỏi mặt đất nữa.

- Mày phải đền tội cho thằng con mày!

Anđrây đưa tay trái túm lấy chòm râu đốm bạc của lão già, đạp tung cánh cửa, lôi lão xềnh xệch ra hiên.

Bà lão nằm quay lơ ra bên lò sưởi, bất tỉnh nhân sự. Nhưng cô con dâu, vợ của Anhikây, vội dồn đống lũ trẻ lại (lốc nhốc tất cả sáu đứa), rồi bù lu bù loa nhảy xổ ra hiên. Anđrây, trắng bệch như một khúc xương vứt dãi dầu nắng gió, đã hoa gươm lên, sắp sửa hạ xuống cổ ông lão thì vừa lúc đó cả một bầy trẻ lớn nhỏ các cỡ, thò lò mũi xanh, vừa gào vừa rống chạy ùa ra quấn lấy chân anh.

- Chém hết chúng nó đi! Toàn là giòng giống máu mủ thằng Anhikây cả đấy! Chém cả tao nữa! - Mụ Ápđichia, vợ Anhikây, tru tréo lên và bước sấn tới trước mặt Anđrây, phanh chiếc áo cánh hồng, chìa thây lẩy ra hai cái vú răn reo như vú chó cái đã đẻ nhiều lứa.

Trong khi đó, đàn trẻ suýt soát bằng đầu nhau vẫn lúc nhúc quẩn chân Anđrây...

Anh lùi lại, đảo mắt phóng ra một cái nhìn man rợ, tra gươm vào vỏ, chuệnh choạng bước ra chỗ con ngựa, đất phẳng lỳ mà vấp luôn mấy cái. Ông lão mếu máo, nửa mừng nửa sợ, lẽo lẽo theo anh ra tận cổng ngõ, và cứ cố ghé môi vào hôn cái bàn đạp, nhưng Anđrây nhăn mặt kinh tởm, rụt chân lại, khàn khàn nói:

- Phúc tổ mày!...Không có lũ trẻ thì...

Về nhà, ba ngày liền anh nốc rượu bí tỉ, khóc trong cơn say. Đến đêm thứ hai, anh phóng hoả đốt cái nhà kho, nơi Épđôkia treo cổ tự vẫn. Và sang hôm thứ tư, mặt mũi húp híp, nom gớm khiếp, anh lặng lẽ từ giã mẹ, và bà mẹ ôm đầu anh vào lòng, chợt thấy lần đầu tiên mái tóc vàng hoe của con trai điểm những sợi bạc.

Hai năm sau, Anđrây từ mặt trận Ba Lan trở về Grêmiatsi. Anh vào đội trưng mua và tiếp tế lương thực, đi lang thang một năm trời khắp vùng Thượng sông Đông, rồi về nhà bắt tay làm ăn. Bà mẹ khuyên anh lấy vợ, anh chỉ lặng thinh. Nhưng rồi một hôm, bà nhất định bắt anh phải trả lời cho ra nhẽ.

- Lấy vợ đi chứ, Anđrây! Xoong chảo mẹ bê chẳng nổi nữa rồi. Con gái đứa nào cũng ưng anh. Muốn dạm hỏi đứa nào thì cứ nói cho mẹ biết.

- Con không lấy vợ. Mẹ để con yên!

- Cứ một giọng thế mãi thôi! Soi gương mà xem, đầu đã hai thứ tóc rồi đấy. Thế đến bao giờ mới định lấy vợ? Phải đợi đến lúc tóc bạc trắng hay sao? Tính làm sao cho phải, để mẹ nhờ với chứ? Mẹ cứ nghĩ rằng thế nào cũng có cháu bế. Mẹ đã để dành hai bộ lông dê để đan bít tất cho trẻ...Việc của mẹ bây giờ là tắm rửa cho chúng nó. Chứ vắt sữa bò thì mẹ chả làm nổi nữa: ngón tay lóng ngóng lắm rồi. - Rồi bà xoay sang mếu máo: - Mình đẻ ra cái của nợ chứ không phải con cái! Chỉ hết đăm đăm chiêu chiêu rồi lại thở phì phò. Sao mày câm như hến thế, hả đồ ôn vật?

Anđrây cầm lấy mũ, lẳng lặng bước ra khỏi nhà. Nhưng bà chẳng chịu: nào chuyện la cà với các bà hàng xóm, nào thì thà thì thầm, nào khuyên bảo...

Anđrây cứ trơ trơ, trước sau một mực:

- Nhà con mất rồi thì con không muốn rước ai về nhà này nữa.

Thế là cơn giận của bà mẹ trút sang người con dâu đã mất.

- Con rắn độc ấy đã bỏ bùa mê thuốc dấu cho thằng con nhà tôi rồi! - Gặp bà lão nào trong ngõ, hoặc chiều chiều ngồi chơi với nhau quanh nhà, bà than thở. - Nó đã tự treo cổ nó lên, và nó sẽ làm cho thằng ấy chết theo cho mà xem. Thằng ấy nó không muốn lấy vợ nữa. Khổ thân tôi không cơ chứ! Hi..hi...bà ơi, cứ nhìn thấy con cháu người ta là tôi ràn rụa nước mắt: người ta già thì con cháu quấn quít vui vầy, còn mình thì trơ thân cụ, như con chuột chũi trong hang...

Cũng năm ấy, Anđrây đã tằng tịu với Marina, vợ goá của anh cai kỵ binh Pôiarkốp chết trận ở Nôvôtserkaxtơ. Mùa thu ấy thì mụ đã ngoài bốn mươi, nhưng thân hình đầy đặn mạnh khoẻ và nước da bánh mật vẫn còn giữ được vẻ đẹp mộc mạc của thảo nguyên.

Dạo tháng Mười, Anđrây đến lợp nhà cho mụ. Chập choạng tối, mụ mời anh vào nhà, nhanh nhảu bày bàn ăn, đặt một bát xúp bắp cải trước mặt anh, ném vào lòng anh một chiếc khăn tay thêu giặt sạch sẽ, rồi ngồi xuống đối diện, tay chống lên gò má cao cao. Anđrây ngồi lặng thinh, lấm lét nhìn mái đầu kiêu hãnh của mụ nặng trĩu búi tóc đen nhánh. Tóc mụ dày, xem có vẻ cứng, chẳng khác gì cái bờm ngựa, nhưng ở chỗ vành tai xinh xinh thì lại xoắn tít lên, mềm mại như xoáy vào Anđrây.

- Ăn nữa nhá? - Mụ hỏi.

- Ừ thì ăn. - Anđrây đồng ý và đưa tay lên chùi bộ ria đốm bạc.

Anh bắt vào ăn tiếp. Marina lại ngồi xuống trước mặt anh, và nhìn anh bằng con mắt chờ đợi, như mắt một con thú rình mồi. Rồi bỗng Anđrây chợt thấy trên cái cổ đầy đặn của mụ một đường gân xanh nó cứ đập rộn lên, và không hiểu sao tự nhiên anh thấy bối rối, đặt thìa xuống.

- Sao thế? - Và hai cánh mi cong cong của mụ ngỡ ngàng chớp chớp.

- No rồi. Cám ơn. Sáng mai tôi sẽ lại sớm lợp nốt.

Marina đi vòng qua bàn. Nhoẻn một nụ cười từ từ để lộ ra hai hàm răng đều đặn, mụ ôm lấy Anđrây, áp vào người anh cặp vú đồ sộ núng nính, thều thào hỏi:

- Hay là ngủ lại đây?

- Thế cũng được. - Anđrây bối rối, chả còn biết trả lời thế nào khác.

Để trả miếng câu trả lời ngây ngô ấy, mụ cúi gập thân mình tròn lẳn xuống chào:

- Úi chao, xin đa tạ anh cả! Anh cả thật là quá tử tế với một con mụ goá đáng thương...Thế mà tôi, con đàn bà hư hỏng này tôi cứ lo ngay ngáy anh cả từ chối...

Mụ thổi tắt phụt ngọn đèn dầu, quờ quạng trải giường, cài chặt then cửa, và với một giọng khinh khỉnh thoáng một chút hậm hực, mụ nói:

- Anh chẳng ra dáng một anh kô-dắc tí nào. Hình như lão thợ thiếc ở Tambốp đã nặn ra anh thì phải.

- Thế là thế nào? - Anđrây tự ái đã thôi, không cởi giày nữa.

- Nghĩa là anh cũng chỉ như những anh chàng khác thôi chứ thế nào. Nhìn mắt anh thì tưởng anh táo tợn lắm, vậy mà ngồi cạnh đàn bà anh cấm dám ho he. Thế mà ra trận cũng được huân chương cơ đấy! - Mụ xoã tóc, đưa cặp tóc lên miệng ngậm, nên nói cứ lúng búng. - Anh có nhớ anh Misa nhà tôi không? Anh ấy nhỏ người hơn tôi. Còn anh thì vừa với tôi quá. Ấy thế mà tôi yêu anh ấy chỉ vì cái tính táo tợn. Ngoài quán rượu, đứa khoẻ nhất anh ấy cũng chẳng chịu, dù có hộc máu mồm máu mũi, nhưng chưa bao giờ anh ấy thua. Và có lẽ thế mà anh ấy đã chết. - Mụ thêm một câu với vẻ tự hào: - Mà anh ấy cũng hiểu vì sao tôi yêu anh ấy...

Anđrây nhớ đến câu chuyện của anh em kô-dắc trong làng, những người cùng đơn vị với chồng Marina, đã chứng kiến cái chết của hắn ta: trong một lần đi trinh sát, hắn đã dẫn đơn vị tấn công vào một đội tuần tiễu của Hồng quân đông gấp đôi. Các chiến sĩ Hồng quân đã dùng súng máy Liuyx bắn chúng chạy tán loạn, cho ngã ngựa bốn tên kô-dắc, còn bản thân Mikhain Pôiarkốp thì bị họ cắt ra khỏi đơn vị và dồn đuổi riết. Hắn vừa phi ngựa vừa bắn chết tươi ba chiến sĩ Hồng quân đuổi theo sau, và vốn là một tay "làm xiếc ngựa" giỏi nhất trung đoàn, hắn lượn vòng vèo tránh đạn, và có lẽ đã thoát nếu con ngựa không sa chân xuống hố, làm chủ nó ngã gãy cẳng. Và thế là hết đời một tên cai kỵ binh ngổ ngáo...

Nhớ lại chuyện anh em kể về cái chết của Pôiarkốp, Anđrây mỉm cười.

Marina đã nằm lên gường; mụ thở hổn hển, nhích sát vào Anđrây.

Nửa giờ sau, tiếp tục câu chuyện bỏ dở, mụ thì thào:

- Tôi yêu Misa vì anh ấy tợn, còn yêu anh thì...chẳng vì cái gì cả, - và mụ áp vào ngực Anđrây cái tai xinh xinh nóng hổi. Trong bóng tối lờ mờ, Anđrây cảm thấy đôi mắt mụ long lanh nảy lửa và ương bướng như mắt con ngựa mới, chưa thuần.

Chưa sáng, mụ đã hỏi:

- Mai có đến lợp nốt không?

Anđrây ngạc nhiên:

- Lại còn phải hỏi nhỉ!

- Thôi, không cần...

- Sao vậy?

- Vì anh lợp vụng lắm chứ sao! Bác Suka làm thạo hơn anh nhiều, - rồi mụ cười khanh khách. - Tôi nhờ anh là có ý đấy chứ!...Không thế thì sao dụ được anh đến đây? Nhưng mà này, anh hại tôi quá. Giờ phải lợp lại từ đầu.

Hai hôm sau bác Suka đến lợp lại cái mái cứ vừa làm vừa chê ỏng chê eo trước mặt chị chủ nhà lối làm ăn không ra sao của Anđrây.

Từ bữa ấy, đêm nào Anđrây cũng mò đến nhà Marina. Và đối với anh, mối tình của mẹ nạ dòng già hơn anh đến chục tuổi ấy nó mới ngọt ngào làm sao, ngọt ngào như quả táo rừng rám đỏ dưới băng giá đầu mùa...

Chẳng bao lâu cả làng biết chuyện dan díu ấy, và mỗi người bình phẩm một phách. Bà cụ Anđrây khóc lóc, than thở với các bà láng giềng: "Xấu hổ chưa! Đi lăng nhăng với một con mụ già!" Nhưng rồi bà cũng đấu dịu, không nói gì nữa. Nhiurka, cô hàng xóm mà thỉnh thoảng Anđrây gặp vẫn đùa ghẹo, ít lâu nay tránh mặt anh. Nhưng rồi một hôm trên con đường mòn đi đẵn củi, cô chạm trán với anh, và tái mặt đi.

- Con mụ già ấy cưỡi lên anh thật đấy à? - Cô mỉm cười hỏi, đôi môi run run, và cũng chẳng buồn giấu một giọt nước mắt long lanh sau hàng mi.

- Làm mình không thở được nữa ấy chứ! - Anđrây còn cố bông phèng.

Nhiurka chân bước đi, miệng hỏi:

- Anh không tìm được đám nào trẻ trẻ hơn ư?

- Nhưng cô xem, tôi thì cũng còn trẻ trung gì nữa. - Anđrây bỏ mũ ra, chỉ vào mái tóc hoa râm của mình.

- Thế mà tôi, cái con ngu ngốc đần độn này vẫn cứ phải lòng cái mái tóc hoa râm và cái thô bạo vụng về của anh đấy! Thôi, chào anh.

Và cô bỏ đi, tự ái ngẩng cao đầu.

Maka Nagunốp thì nói ngắn gọn:

- Mình không tán thành, Anđrây ạ! Mụ ấy sẽ biến cậu thành một anh cai bạch vệ và một kẻ tiểu tư hữu cho mà xem. Thôi, thôi, mình nói đùa đấy mà, cậu không thấy à?

Rồi một hôm bà mẹ anh bỗng tỏ ra dễ dãi:

- Thì cưới xin đi cho nó đàng hoàng. Để nó được về làm dâu chứ.

- Chả cần. - Anđrây đánh trống lảng.

Marina như trút được hai mươi tuổi. Đêm đêm mụ tiếp Anđrây, đôi mắt hơi xếch long lanh một ngọn lửa ủ, ôm ghì lấy anh với một sức lực rất đàn ông, và cho đến lúc sáng bạch, hai gò má cao cao bánh mật của mụ vẫn còn đỏ ửng như hai quả anh đào chín. Cứ như mụ trở lại thời con gái vậy. Mụ lấy những mảnh lụa vụn khâu cho Anđrây những túi đựng thuốc lá thêu hoa, chăm bẵm săn đón từng cử chỉ của anh, chiều chuộng anh, rồi đến một lúc, dậy lên trong lòng mụ với một sức mạnh ghê gớm, lòng ghen tuông và nỗi lo sợ bị mất Anđrây. Mụ đi họp chỉ là để xem xem anh có đùa với cô nào không, có nhìn cô nào không? Lúc đầu Anđrây không chịu nổi cái lối kiểm soát nảy sinh ra một cách bất ngờ ấy; anh chửi Marina, thậm chí vài lần đã đánh mụ, nhưng rồi cũng quen đi, lòng hãnh diện của anh đàn ông còn làm anh lấy thế làm khoái nữa. Marina tỏ ra hào phóng, có bao nhiều quần áo của chồng đưa cho anh tất. Và thế là Anđrây trước đây vẫn ăn mặc rách rưới, nay với quyền của kẻ thừa kế, cứ đàng hoàng diện những chiếc quần sarôva dạ của hạ sĩ quan, và những chiếc áo sơmi mà cánh tay và cổ rõ rành rành là quá ngắn và quá chật đối với anh.

Anđrây giúp đỡ ả nhân ngãi của mình trong việc nhà cửa, đồng áng, đi săn mang về cho mụ lúc thì một con thỏ rừng bắn được, lúc thì một xâu chim đa đa. Nhưng Marina không bao giờ lạm dụng quyền lực của mình và không dám bớt xén phần của bà mẹ Anđrây, mặc dù trong lòng mụ ngầm ác cảm với bà cụ.

Vả lại, bản thân mụ đảm đang việc nhà chẳng phải là kém, có thể làm bay tất không cần đàn ông. Đôi lúc Anđrây lấy làm hài lòng thấy mụ cầm chàng nạng nhấc bổng lên từng bó lúa mạch nặng hàng ba pút (**) một, hoặc ngồi trên cái máy gặt thô sơ, hất xuống từ dưới cánh răng khế quay phành phạch những đợt thân lúa đại mạch nặng trĩu bông. Marina khéo chân khéo tay và khoẻ như đàn ông. Mụ thắng ngựa vào xe cũng làm như kiểu nam giới, gò lưng tỳ vào miếng gỗ ở cổ vòng ngựa, xiết chiếc đai bụng một cái là xong.

Năm tháng trôi qua, Anđrây đối với Marina ngày càng thêm tình sâu nghĩa nặng. Hãn hữu anh cũng có nhớ đến vợ cũ, nhưng những hồi tưởng ấy không còn mang lại cho anh nỗi đau đớn day dứt như trước kia nữa. Chỉ đôi lúc, gặp thằng con nhớn của nhà Anhikây Đêviátkin (thằng bố đã trốn sang Pháp), anh có tái mặt đi: chẳng là vì hai bố con nó giống nhau như đúc.

Thế rôi, một lần nữa, nỗi uất hận của anh lại dịu dần đi trong công tác, trong cuộc vật lộn cho miếng ăn hàng ngày, trong bao nhiêu cái bận rộn khác; và tiêu tan đi nỗi đau âm thầm, nhức nhối, giống như cơn đau thỉnh thoảng anh vẫn còn bị do vết thương trên trán, cái kỷ niệm mà lưỡi gươm của tên sĩ quan Hungari đã để lại cho anh hồi nào.

-----------------------

(**) Một pút = 16,38kg. - ND

* * *

Ở cuộc họp bần nông ra, Anđrây đi thẳng về nhà Marina. Mụ đang ngồi kéo sợi đợi anh. Trong gian phòng nhỏ, thấp lè tè, tiếng xa quay vo vo và hơi lửa lò nóng ran. Một chú dê cõn nhâng nháo, lông xoăn, gõ móng bé tí xíu xuống nền nhà đất, ý chừng muốn nhảy tót lên giường.

Radơmiốtnốp cau mày nói, giọng gắt gỏng:

- Nghỉ tay tí đã!

Marina nhấc bàn chân đi giày nhọn mũi ra khỏi cần đạp, vươn vai khoan khoái, ưỡn thẳng cái lưng bè bè như mông con ngựa cái.

- Hội nghị có gì không?

- Mai bắt đầu làm lông bọn kulắc.

- Thực à?

- Hôm nay toàn thể hội nghị bần nông đã quyết định tất cả sẽ gia nhập nông trang tập thể. - Anđrây để nguyên áo vét tông, ngả lưng xuống giường, hai tay ôm lấy con dê ấm như một cuộn len. - Mai cô cũng đưa đơn đi.

Marina ngạc nhiên:

- Đơn gì?

- Đơn xin vào nông trang.

Marina nổi khùng lên, lấy hết sức đẩy xa quay sợi về phía lò sưởi.

- Anh này rõ dở hơi! Tôi vào nông trang làm gì?

- Này, Marina, chuyện này không ý kiến ý cỏ gì cả. Cô phải vào nông trang. Nếu không người ta sẽ bảo: "Hắn rủ rê con nhà người ta vào nông trang, còn Marina của hắn thì hắn để ở ngoài". Vậy còn ra thể thống gì nữa?

Marina đi ngang qua đầu giường, phả vào mặt Anđrây mùi mồ hôi nồng và cái hơi người ấm sực:

- Tôi không vào! Gì thì gì tôi cũng không vào!

- Nếu thế thì cô liệu đấy, đến rồi phải cô đi đường cô, tôi đi đường tôi thôi.

- Anh doạ tôi đấy phỏng?

- Ai thèm doạ, chẳng qua là cái nhẽ nó phải thế.

- Thế thì anh xéo ngay đi! Có con bò cái đem nộp cho người ta thì rồi tôi làm ăn ra sao? Rồi anh sẽ đến đây xin ăn nữa cơ mà!

- Sữa sẽ là của chung.

- Và đàn bà cũng chung chứ gì? Vì thế mà anh doạ tôi chứ gì?

- Đáng lẽ thì đây đánh đấy, nhưng đây không thèm. - Anđrây đẩy con dê xuống đất, với tay lấy cái mũ lông, quàng cái khen len vào cổ như con rắn.

Trên đường về nhà, anh hậm hực nghĩ bụng: "Mỗi cái đồ khỉ ấy lại phải giải thích, phải nói như van như lạy. Cả đến mụ Marina cũng dãy nảy lên. Mai ra hội nghị chung sẽ thế nào đây. Ép họ quá, khéo họ quại cho chứ chẳng chơi đâu".

Anh nằm trằn trọc hồi lâu, không chợp được mắt, hai lần nghe thấy tiếng bà cụ dậy ra xem chỗ bột nhào. Trong gian nhà kho, con gà sống quang quác gáy loạn. Anh nằm, lòng ngổn ngang nghĩ đến ngày mai, đến công cuộc cải tạo toàn bộ nền kinh tế nông nghiệp đang đặt ra trước mắt. Anh lo ngại rằng Đavưđốp, khô khan và cứng nhắc quá (anh cảm thấy anh ta như thế) có thể có những hành động thiếu thận trọng nào đó sẽ làm trung nông xa lánh nông trang. Nhưng rồi anh lại nhớ đến dáng người vạm vỡ, chắc nịch như tượng đúc, nhớ gương mặt căng thẳng tròn vành vạnh của anh ta với những nếp nhăn sâu hai bên má, và với đôi mắt thông minh hóm hỉnh, anh nhớ đến lúc, trong cuộc họp, khi Liubiskin đang phát biểu, Đavưđốp ngả người qua sau lưng Nagunốp ghé bảo anh, thở cả vào mặt anh hơi nồng dễ chịu từ cái mồm răng sứt: "Cậu du kích này hay đấy, nhưng các anh thả hoang hắn, chẳng chịu bồi dưỡng, thực tế thế! Cần đi sát giúp đỡ hắn". Nhớ lại, anh hào hứng kết luận: "Không, chàng ấy thì không làm bậy đâu. Chính Maka cơ, cậu ấy thì đúng là phải kìm cương chặt! Cậu ấy mà bốc lên thì coi trời bằng vung. Hắn mà là con ngựa kéo xe thì thế nào cái xe cũng đi đời nhà ma... Cái gì đi đời nhỉ? À, cái xe...Sao lại chuyện cái xe vào đây nhỉ? Maka...Titốc...mai..". Giấc ngủ lẻn đến, cắt đứt dòng suy nghĩ, Anđrây thiếp đi, và một nụ cười hé nở trên môi anh, từ từ, như giọt sương từ rãnh lá rơi xuống.

-----------------------

(*) Tên của vợ Anđrây. - ND

CHƯƠNG VI

Khoảng bảy giờ sáng, Đavưđốp tới trụ sở Xôviết đã thấy mười bốn bần nông Grêmiatsi tề tựu ở đấy.

Liubiskin mỉm cười, đưa bàn tay to tướng ra bắt tay Đavưđốp:

- Chúng tôi chờ anh lâu rồi, từ sáng tinh mơ.

- Chả là nóng ruột mà...- Bác Suka giải thích.

Thì ra bác chính là người mặc áo áo măng tô trắng đàn bà đã nói đùa với Đavưđốp ở sân trụ sở Xôviết hôm anh mới đến. Từ ngày hôm ấy bác ta tự coi mình là người quen thân của Đavưđốp và đối xử với anh một cách xuề xoà thân mật, khác hẳn đối với mọi người khác. Vừa lúc nãy, Đavưđốp chưa đến, bác lại còn đã nói: "Lão với anh Đavưđốp quyết định thế nào thì rồi nó sẽ ra như thế. Hôm kia anh ấy đã chuyện trò với lão mãi. Chuyện nghiêm chỉnh cũng có mà chuyện tếu cũng có, nhưng chủ yếu là hai bác cháu bàn bạc kế hoạch xây dựng nông trang. Anh chàng vui tính đáo để chẳng khác gì lão..."

Đavưđốp nhìn cái áo khoác trắng, nhận ra bác Suka và vô tình đã làm bác bị một mẻ tẽn:

- A, bố già đấy à? Đấy bố xem: mới hôm kia bố có vẻ bực mình khi biết con về đây có việc gì, thế mà hôm nay chính bố đã trở thành một nông trang viên rồi đấy. Hoan hô!

- Hôm ấy không có thời giờ...mải quá, cho nên phải đi ngay...- Bác Suka làu bàu, rồi lảng ra chỗ khác.

Họ quyết định chia nhau làm hai đội, đi trục xuất bọn kulắc. Đội thứ nhất làm ở xóm trên, đội thứ hai ở xóm dưới. Đavưđốp đề nghị Nagunốp phụ trách đội thứ nhất, nhưng Nagunốp dứt khoát từ chối. Thấy những con mắt nhìn anh, anh lúng túng khó chịu, và kéo Đavưđốp ra một chỗ.

Đavưđốp lạnh lùng hỏi:

- Cậu định giở trò gì vậy?

- Mình sang đội hai, làm ở xóm dưới tốt hơn.

- Có gì khác nhau?

Nagunốp cắn môi, ngoảnh mặt đi, nói:

- Cái đó thì...Thôi thì đằng nào rồi đồng chí cũng biết. Con vợ tôi...con Luska đã ngủ với thằng Chimôphây, con giai tên kulắc Phrôn Đamaxkốp. Tôi không muốn đến đấy. Người ta sẽ xì xào. Tôi đi xóm dưới, để Radơmiốtnốp đi với đội một...

- Chà, anh bạn, sợ người ta xì xào à?...Thôi được, mình cũng chẳng ép. Cậu sang đội hai, đi với mình.

Đavưđốp chợt nhớ ra rằng mới sáng nay, lúc vợ Nagunốp dọn cho anh ăn sáng, anh thấy trên lông mày cô ả một vết bầm cũ nửa tím nửa vàng. Anh ngó ngoáy cái cổ, như bị mùn khô rơi vào trong cổ áo, hỏi:

- Này, cậu cho cô ấy cái quả táo trên trán đấy à? Đánh phải không?

- Không, không phải mình.

- Vậy thì ai?

- Nó.

- "Nó" là ai?

- Thằng Chimôphây chứ ai...Thằng con lão Phrôn...

Đavưđốp ngỡ ngàng, lặng thinh vài phút, rồi vặc ra một câu:

- Mặc xác nó! Chả còn hiểu ra sao cả! Thôi, ta đi thôi, chuyện ấy để sau.

Nagunốp, Đavưđốp, Liubiskin, bác Suka và ba tay kô-dắc nữa rời khỏi trụ sở Xôviết.

- Ta bắt đầu từ thằng nào trước? - Đavưđốp hỏi, mắt không nhìn Nagunốp. Sau câu chuyện vừa rồi, cả hai đều cảm thấy ngượng ngập, mỗi người một kiểu.

- Từ thằng Titốc.

Họ lặng lẽ bước đi trên đường làng. Mấy mụ đàn bà đứng sau cửa sổ tò mò nhìn theo. Trẻ con bám sát họ, nhưng Liubiskin rút ở một hàng rào ra một cái roi, và bọn trẻ láu lỉnh rút lui ngay. Tới gần nhà Titốc, Nagunốp nói bâng quơ:

- Sẽ lấy cái nhà này làm trụ sở nông trang. Rộng rãi. Còn nhà kho thì làm chuồng ngựa.

Ngôi nhà quả là rộng thật. Năm 1923, giữa lúc đói kém, Titốc đã đổi một con bò cái xổi và ba pút lúa mì lấy ngôi nhà ấy ở làng Tubianxki bên cạnh.Vợ chồng con cái nhà chủ cũ ấy đã chết sạch, sau đó chẳng còn ai để mà nghĩ đến chuyện kiện cáo Titốc về lối mua bán ăn cướp ấy nữa. Hắn dỡ ngôi nhà chở về Grêmiatsi, lợp lại mái, dựng thêm cái nhà kho bằng gỗ tròn và cái chuồng ngựa, bố trí để ăn đời ở kiếp ở đấy...Trên bức tường hoa chắn mái quét vôi vàng, người thợ quét vôi đã kẻ một dòng chữ bay bướm bằng chữ xlavơ: "T.K. Bôrôđin.1923".

Đavưđốp tò mò nhìn bao quát toà nhà. Nagunốp đi đầu, bước vào cổng. Nghe tiếng then lách cách, một con chó to tướng, màu lông chó sói, xích ở gian kho, nhảy chồm lên. Nó chồm lên, không sủa một tiếng, dựng đứng trên hai cẳng sau, phô ra cái bụng lông trắng mịn, và bị cổ dề thít lấy họng nghẹn thở, nó gầm ghè ằng ặc. Định lao lên, nó ngã ngửa, mấy lần muốn dứt xích không xong, rồi đâm bổ về phía chuồng ngựa, kéo loảng xoảng cái vòng xích trôi theo sợi dây thép căng phía bên trên chạy dài ra tới chuồng ngựa.

- Đồ quỷ này nó đuổi theo ai thì đừng hòng thoát. - Bác Suka miệng càu nhàu, mắt lấm la lấm lét, cẩn tắc vô áy náy đi né sát vào hàng rào.

Họ kéo ùn vào nhà. Mụ vợ Titốc, người cao và gầy ngẳng, đang cho bò con uống nước trong cái bồn gỗ. Mụ nhìn với một vẻ ngờ vực và ác cảm mấy ông khách bỗng đâu kéo đến. Thay cho lời chào, mũ lẩm bẩm câu gì nghe như: "Đến làm cái chết tiệt gì thế không biết?".

- Anh Tít có nhà không? - Nagunốp hỏi.

- Không.

- Đi đâu vậy?

- Không biết. - Mụ trả lời như đấm vào tai.

- Mụ có biết chúng tôi đến đây làm gì không?..Chúng tôi...- Bác Suka lên tiếng với một giọng bí mật, nhưng Nagunốp lừ mắt nhìn bác một cái làm bác nuốt nước bọt đánh ực, đằng hắng một tiếng rồi ngồi xuống tấm ghế dài, tay vén tà áo trắng bằng lông không thuộc với một vẻ không thiếu trịnh trọng.

- Ngựa có trong chuồng không? - Nagunốp hỏi như thể không để ý đến sự tiếp đón lạnh nhạt của mụ ta.

- Có.

- Còn bò?

- Không. Các ông đến có việc gì vậy?

- Không thể nói cho mụ biết được...- Bác Suka lại lên tiếng, nhưng lần này Liubiskin lui ra cửa, túm đuôi áo lão lôi tuột ra phòng ngoài, làm lão không kịp nói nốt câu.

- Bò đực đâu?

- Thày nó dắt đi rồi.

- Đi đâu?

- Đã bảo không biết mà.

Nagunốp nháy mắt ra hiệu cho Đavưđốp, bước ra ngoài. Vừa đi anh vừa dúi quả đấm vào tận râu bác Suka, dặn:

- Im cái mồm đi nhá, ai khiến bác nói?

Rồi quay sang Đavưđốp:

- Hỏng to rồi! Phải kiểm tra xem hắn đem bò đi đâu. Khéo không nó tẩu tán hết mất...

- Bò cũng chẳng cần lắm..

Nagunốp phát hoảng lên:

- Anh nói lạ! Bò của nó hay nhất làng đấy. Tay với không tới sừng. Sao lại thế được! Phải tìm ra cả thằng Titốc lẫn bò của nó.

Thì thầm vài câu với Liubiskin xong, họ đi về phía chuồng bò, rồi từ đó sang nhà kho và nhà đập lúa. Năm phút sau, Liubiskin cầm một cái gậy khua lên lùa con chó lùi vào góc nhà kho, còn Nagunốp thì vào chuồng ngựa dắt ra một con ngựa lông xám, thắng cương vào, rồi túm lấy bờm nhảy lên cưỡi.

Mụ chủ nhà chạy ra thềm, tay chống nạnh tru chéo lên.

- Nhà anh kia làm cái gì đấy? Sao lại tự tiện vào bắt ngựa người ta như vậy? Lão nhà tôi về, tôi sẽ bảo cho!...Ông ấy sẽ nói chuyện với nhà anh!...

- Đừng ngoạc cái mồm lên như thế! Hắn mà có nhà thì chính tôi đây sẽ có chuyện nói với hắn. Đồng chí Đavưđốp, lại mà xem này!

Đavưđốp lúng túng chẳng biết xử sự ra sao trước hành động của Nagunốp, cứ bước tới.

- Có vết chân bò từ nhà đập lúa đi ra đường cái. Đây này. Thằng Tít đã đánh hơi biết, lùa bò đi bán tháo rồi. Xe trượt tuyết vẫn còn trong kho tất. Con mụ ấy điêu! Các đồng chí đi thanh toán thằng Kốtsêtốp đi, để tôi phóng ngược lên phía Tubianxki. Nó chỉ có thể đi về phía ấy được thôi. Bẻ hộ tôi cái roi ngựa.

Nagunốp qua sân đập lúa ra thẳng đường cái. Phía sau anh cuốn lên một đám bụi trắng, nó từ từ rơi xuống bám vào hàng rào và ngọn cỏ, lấp lánh ánh bạc nom loé mắt. Những vết chân bò, và song song là vết móng ngựa, chạy ra tới đường cái thì mất hút. Nagunốp phóng ngựa độ một trăm trượng về phía Tubianxki. Dọc đường, trông thấy trên mặt tuyết vẫn những vết chân như ban nãy bị gió phủ lên một lớp phấn tuyết, anh yên chí mình đi đúng hướng và cho ngựa bước chậm lại. Anh đi được nửa dặm thì bỗng đến một quãng tuyết các vết chân lại mất hút. Anh quay ngoắt ngựa lại, nhảy xuống chăm chú quan sát xem có phải tuyết đã quét những dấu chân ấy đi rồi không. Mặt tuyết vẫn nguyên trinh, chưa hề bị vẩn. Mãi tới phía dưới mới thấy những vết chân dẻ quạt của con chim khách. Nagunốp chửi đổng một câu, quay ngựa trở lại, bây giờ thì đi bước một, vừa đi vừa quan sát hai bên đường. Đi được một quãng ngắn thì lại gặp những dấu chân. Thì ra đàn bò đã tạt ngang ở chỗ gần bụi cây. Lúc nãy phóng ngựa nhanh anh đã không để ý. Anh đoán là Titốc đã vượt qua đồi đi tắt về phía ấp Vôixkôvôi. "Chắc là đến nhà một người nào quen", - anh nghĩ bụng như vậy, và đi theo hút những vết chân, kìm ngựa cho bước chậm chậm. Bên kia sườn đồi, gần quãng Khe Tử, anh thấy trên mặt tuyết một đống phân bò, và dừng lại: phân còn tươi, chỉ vừa với phủ lên một lớp băng mỏng. Nagunốp thọc tay vào túi áo varơi, sờ cái báng lạnh ngắt của khẩu súng lục. Anh cho ngựa đi bước một xuống khe. Đi được độ nửa dặm nữa thì trông thấy, cách một quãng không xa, phía đằng sau lùm cây sồi trụi lá, một người cưỡi ngựa và một đôi bò đực không đóng ách. Người cưỡi ngựa ngồi gò lưng trên yên đang khua gậy lùa bò đi. Một làn khói thuốc xanh xanh bay tạt qua vai hắn, tan đi trong không trung.

- Quay lại !

Titốc dừng ngựa lại, con ngựa cái hí lên. Hắn ngoái nhìn, nhổ mẩu thuốc lá đi và thong thả tiến lên chặn đầu hai con bò, nói bằng một giọng đều đều.

- Cái gì thế? Họ!..Hooọ!.. Đứng lại!

Nagunốp cưỡi ngựa tới. Titốc đón anh bằng cái nhìn đăm đăm một lúc lâu.

- Mày đi đâu?

Titốc xỉ mũi, lấy bao tay chùi đi chùi lại bộ ria đỏ hung, quặp xuống như râu Mông Cổ:

- Chẳng giấu gì anh, tôi đi bán bò đây.

Hai người ngồi đối diện nhau trên lưng ngựa. Hai con ngựa khịt khịt mũi đánh hơi nhau. Khuôn mặt Nagunốp bị gió quất đỏ ửng, nom dữ tợn. Còn Titốc thì bề ngoài có vẻ thản nhiên, từ tốn.

- Lùa bò về! - Nagunốp ra lệnh, và lánh ngựa sang bên.

Titốc lưỡng lự một phút...Hắn đổi tay cương, cái đầu cúi rủ xuống, hai con mắt lim dim, và trong tấm áo dipun (*) xám bằng vải nhà dệt có mũ trùm đầu úp lên cái mũ rách, hắn nom như một con chim ưng đang ngủ gà. "Nếu hắn có cái gì trong áo, hắn tất cởi móc áo ra bây giờ" - Nagunốp nghĩ bụng như vậy, mắt không rời khỏi Titốc đang ngồi trên lưng ngựa không nhúc nhích. Rồi hắn như sực tỉnh, hoa gậy lên. Hai con bò theo vết cũ quay trở lại.

- Các anh định bắt bò của tôi phải không? Tịch thu tài sản à? - Titốc hỏi sau một lúc lâu im lặng, và từ dưới cái mũ trùm đầu đội sụp xuống tận lông mày, hai lòng trắng mắt xanh xanh của hắn long lanh nhìn Nagunốp.

Nagunốp không nén nổi nữa, quát lên:

- Thì mày đã muốn thế! Tao lôi cổ mày về như một thằng tù chó chết.

Titốc so vai lại. Hắn lặng thinh cho đến lúc xuống tới chân đồi. Rồi hắn hỏi:

- Các anh sẽ tống tôi đi đâu?

- Đi đày. Cái gì kềnh kệnh dưới áo mày kia?

- Một khẩu nòng cụt. - Titốc liếc nhìn Nagunốp và phanh vạt áo ra.

Từ cái túi áo trong thò ra như một khúc xương trắng to tướng cái báng đẽo thô sơ và lấm láp của khẩu súng trường đã cưa bớt nòng đi.

- Đưa đây tao! - Nagunốp đưa tay ra, nhưng Titốc thản nhiên gạt tay anh đi.

- Không, không đưa được!

Và hắn mỉm cười, để lộ ra dưới hai hàng ria quặp hàm răng ám đen khói thuốc lá, nhìn Nagunốp bằng đôi mắt sắc như mắt chồn nhưng có vẻ vui vui:

- Không đưa đâu! Các anh lấy hết của cải của tôi, lại định tước nốt khẩu súng này sao? Một tên kulắc thì phải có khẩu súng cưa nòng chứ, báo chí vẫn nói như vậy. Nhất thiết là phải có súng. Có lẽ tôi sẽ nhờ nó mà lần hồi kiếm ăn được đấy, phải không nhỉ? Chứ tôi cần gì đến các thông tín viên nông thôn...

Hắn cười, lắc lư cái đầu, và tay không rời trốc yên ngựa. Nagunốp không gặng bắt hắn nộp súng nữa, nghĩ bụng: "Về làng tao mới cho mày một trận".

Titốc nói tiếp:

- Anh Maka ạ, chắc anh nghĩ, hắn mang súng theo làm gì vậy? Tai hoạ với nó thôi...Tôi có nó từ hồi quỷ nào ấy...À, từ hồi đi dẹp bọn nổi loạn phản cách mạng tôi mang nó về, anh có nhớ không? Chậc, nó vẫn nằm rỉ một xó nhà. Mới đây tôi đem nó ra lau sạch, cho ăn dầu mỡ tử tế, nghĩ bụng biết đâu chẳng cần đến nó, chống thú dữ hoặc kẻ xấu bụng nào đó. Và hôm qua tôi nghe tin các anh sắp sửa đi hỏi tội bọn kulắc...Nhưng tôi không dè hôm nay các anh đã xuất quân...Nếu không thì ngay đêm qua tôi đã cho đôi bò này đi rồi...

- Ai bảo mày biết?

- Cần gì ai bảo? Đồn ầm cả thiên hạ. Phaaải, và đêm qua tôi bàn với bà nó nhà tôi đem bò gửi chỗ chắc chắn. Còn khẩu súng này tôi đem nó theo, ý đồ là đem chôn giấu ngoài thảo nguyên để các anh vào lục nhà khỏi vô tình vớ được. Nhưng tôi lấy làm tiếc: chà, ông anh đến kia rồi! Tự nhiên mình thấy buồn buồn như kiến bò ở đầu gối quá! - Hắn nói bằng một giọng sôi nổi, vừa nói vừa đảo mắt với vẻ giễu cợt, và thúc con ngựa cái của mình lấy ức ép dồn cho con ngựa của Nagunốp.

- Titốc ạ, rồi mày sẽ tha hồ mà nói đùa sau! Còn bây giờ thì ăn nói cho tử tế.

- Hà! Mình lại cứ thích nói đùa bây giờ cơ. Tôi đã chiến đấu giành cho mình một cuộc sống dễ chịu, tôi đã bảo vệ chính quyền chính nghĩa, thế mà bây giờ cái chính quyền ấy túm lấy bờm tôi...- Giọng Titốc tắc nghẹn lại.

Từ đấy hắn nín thinh, cố tình ghìm ngựa đi chậm lại, làm sao cho Nagunốp đi trước dù nửa thân ngựa thôi cũng được, nhưng Nagunốp dè chừng nên cũng đi chậm lại. Thành ra đôi bò vượt lên trước hai người một quãng khá xa.

- Rảo rảo lên! - Nagunốp giục, mắt vẫn nhìn chằm chằm theo dõi Titốc và tay nắm chặt khẩu súng lục trong túi. Anh thì hiểu rõ thằng Titốc này quá! Hiểu nó hơn ai hết! - Này, đừng có lùi lại! Nếu mày định bắn tao thì không ăn tiền, không kịp với tao đâu.

- Thế ra anh cũng hốt đấy! - Titốc mỉm cười, rồi vụt con ngựa bằng cái gậy lùa bò, phi lên trước.

-------------------------

(*) Dipun: một kiểu áo nam giới của nông dân Nga ngày xưa, áo mặc ngoài, tà dài, bằng vải thô, không có cổ. - ND.

CHƯƠNG VII

Anđrây Radơmiốtnốp cùng với đội cuả mình tới nhà Phrôn Đamaxkốp giữa lúc cả nhà hắn đang ăn trưa. Ngồi quanh bàn có: bản thân Phrôn, một lão già loắt choắt, hom hem, có chòm râu dê nhọn và cánh mũi bên trái toạc ra (hồi còn bé hắn trèo cây táo ngã toạc mặt, chính vì thế mà có cái tên Phrôn Mũi toác), vợ hắn, một mụ già béo quay, bệ vệ, thằng con giai là Chimôphây trạc hăm hai, và đứa con gái đã đến tuổi gả chồng.

Chimôphây, nom giống mẹ, vóc người cân đối và đẹp trai, thấy khách vào liền đứng dậy. Hắn cầm khăn lau đôi môi đỏ chót dưới bộ ria mép lún phún lông măng, nheo nheo đôi mắt nhâng nháo hơi lồi, và với điệu bộ suồng sã của tay đàn phong cầm giỏi nhất làng và được gái yêu nhất làng, hắn giơ tay ra chỉ:

- Xin mời vào, mời quý vị đồng chí ngồi chơi!

- Chúng tôi không có thời giờ ngồi chơi. - Anđrây rút trong cặp ra một tờ giấy. - Hội nghị bần nông đã quyết định đuổi công dân Phrôn Đamaxkốp ra khỏi nhà này, tịch thu toàn bộ tài sản và gia súc. Vậy anh ăn mau lên, ra khỏi nhà và đi nơi khác. Bây giờ chúng tôi tiến hành kiểm kê tài sản.

Phrôn buông thìa xuống, đứng dậy:

- Sao lại thế được?

Đemka Usakốp giải thích:

- Chúng tôi tiêu diệt anh về phương diện là giai cấp kulắc.

Phrôn bước vào phòng lớn, đôi ủng dạ mới đóng đế da nện cồm cộp xuống sàn, và mang ra một tờ giấy:

- Giấy chứng nhận đây, chính tay anh ký đấy, anh Radơmiốtnốp ạ.

- Giấy chứng nhận gì?

- Chứng nhận tôi đã nộp đủ lúa mì.

- Lúa mì không dính dáng gì vào đây cả.

- Thế thì vì sao lại đuổi tôi ra khỏi nhà và tịch thu tài sản của tôi?

- Anh em bần nông đã quyết định như vậy, và tôi đã giải thích cho anh rồi.

- Có luật lệ nào như vậy? - Thằng Chimôphây kêu gắt lên. - Các ông đến ăn cướp nhà người ta đấy phỏng? Thày ạ, để con lên huyện ngay bây giờ. Cái yên ngựa đâu rồi?

Anđrây ngồi xuống bên góc bàn, rút bút chì và tờ giấy ra:

- Anh muốn đi thì cứ việc cuốc bộ. Không cho anh lấy ngựa.

Cái mũi toác của Phrôn xám ngoét lại, đầu hắn rung rung. Hắn đứng như thế, rồi buông quỵ người xuống bàn, líu ríu một cách khó nhọc, cái lưỡi sưng thâm:

- Đồồ... đồ chó! Đồ chó đẻ! Cứ ăn cướp đi! Cứ cắt cổ người ta đi!

Đứa con gái oà khóc, ôm xốc nách bố lên:

- Thày, đứng dậy đi, thày! Lạy Chúa!

Phrôn hồi hồi lại, đứng dậy, nằm vật xuống tấm ghế dài, và giờ đây lại thản nhiên nghe Đemka Usakốp và anh chàng Mikhain Igơnachênốc, cao lênh khênh và tính tình nhút nhát, xướng lên cho Radơmiốtnốp ghi:

- Giường sắt có màn trắng, một cái. Chăn lông, một cái. Gối, ba cái. Giường gỗ nữa, hai cái...

- Tủ kính gồm cả bát đĩa, một cái. Có cần nói rõ bát đĩa từng thứ không nhỉ? Nó chồng đống thế kia, cứ nói gộp cũng được!

- Ghế tựa, mười hai cái. Ghế dài có lưng tựa, một cái. Đàn phong cầm ba hàng phím, một cái.

- Không lấy được phong cầm của tôi! - Thằng Chimôphây giằng lại cây đàn từ tay Đemka. - Đừng sờ vào đấy, thằng mắt lác, ông lại đánh cho dập mũi đấy.

- Tao đây sẽ cho mày dập mũi thì có, chỉ sợ mẹ mày không kịp lau máu mũi cho mày thôi!

- Mụ chủ nhà, chìa khoá hòm đâu, đưa đây.

- Mẹ, không đưa! Mặc cho họ phá hòm ra, nếu họ có quyền làm như vậy.

Đêmít Miệng hến - cái anh chàng Đêmít vẫn có tiếng là chỉ mở miệng khi tối cần thiết thôi, còn thì chỉ lẳng lặng làm, lẳng lặng đứng hút thuốc với đám kô-dắc túm năm tụm ba ngoài đường trong những ngày lễ, lẳng lặng ngồi dự họp và thường thường chỉ bẽn lẽn mỉm một nụ cười rầu rĩ, hoạ hoằn lắm mới trả lời câu người ta hỏi - anh chàng Đêmít ấy bốc lên, hỏi:

- Ta có quyền phá không hả?

Đối với Đêmít, thế giới bao la quả là thừa những tiếng ồn ào. Chúng tràn ngập cuộc sống đến đầy phè, đêm chúng cũng chẳng lặng đi cho, làm người ta không còn nghe được cái im lặng của đêm khuya; chúng phá tan cái tĩnh mịch hiền hoà tràn ngập núi rừng thảo nguyên trong những ngày thu tới. Đemít không thích cái nhộn nhạo của nơi đông người. Anh sống tách ra một mình ở cuối làng, là người hay lam hay làm, và nói về khoẻ thì có một không hai cả vùng này. Nhưng số phận dường như hắt hủi anh, ăn bớt ăn xén của anh, chẳng khác gì dì ghẻ đối với con chồng...Anh đã đi ở cho Phrôn Đamaxkốp năm năm, rồi lấy vợ, ra làm ăn riêng. Nhà của anh chửa cất xong thì đã cháy. Một năm sau, một trận cháy nhà nữa chỉ để lại cho anh độc mấy cái cày gỗ ám khói khét lẹt. Và chỉ ít lâu sau, cô vợ bỏ đi, bảo: "Hai năm tôi sống với anh không được nghe anh mở miệng nói cho lấy hai tiếng. Thôi thôi, xin mời anh sống một mình. Tôi vào rừng sống với con ma chó sói còn vui hơn. Chứ ở đây sống với anh thì tôi hoá dại mất! Như bây giờ tôi cũng đã bắt đầu lẩn thẩn rồi...".

Ấy thế mà một hồi chị chàng cũng quen quen với tính tình của Đêmít. Thực ra thì mấy tháng đầu chị cũng khóc lóc, cằn nhằn anh: "Anh Đêmít ơi! Chuyện trò với em một tí đi chứ! Nói với em một câu đi nào!" Nhưng Đêmít chỉ mỉm nụ cười lặng lẽ, ngây thơ, và đưa tay gãi gãi bộ ngực lông lá. Và khi phát sốt ruột lên vì những trò mè nheo của vợ, anh mới nói bằng cái giọng ồm ồm như từ đáy thùng vang ra: "Nhà cứ như con chim khách!", rồi bỏ đi. Và không hiểu sau, dư luận lại cho anh là kiêu, là láu, đại loại là hạng người "có thâm ý". Phải chăng đó là vì suốt đời anh đã lánh xa những người lắm mồm lắm miệng và những cái ồn ào điếc tai?

Chính vì vậy cho nên khi nghe thấy vang lên trên đầu mình cái giọng ồm ồm như ống lệnh của Đêmít, Anđrây đã ngửng phắt lên:

- Quyền ấy à? - Anh hỏi lại và nhìn Đêmít như thể bây gờ mới trông thấy anh ta lần đầu: - Có quá đi chứ!

Đêmít đi sang gian phòng lớn, chân bước vòng kiềng, đôi giày vải đã tã và ướt sũng bôi lấm bê bết ra sàn. Miệng tủm tỉm, anh đưa tay gạt thằng Chimôphây đang đứng trấn ở cửa ra một bên, nhẹ nhàng như gạt một cành cây con, đi ngang qua cái tủ kính làm cho bát đĩa trong tủ rung lên rền rĩ, và bước tới chỗ cái hòm. Anh ngồi xổm xuống, lấy mấy ngón tay vặn cái ổ khoá to tướng. Một phút sau, cái khoá với đinh khuy bị bẻ gãy đã nằm trên mặt hòm rồi. Akaska Mênốc kinh ngạc ra mặt, nhìn Đêmít và thốt lên, phục lăn:

- Thế mới gọi là khoẻ!

Anđrây ghi không kịp. Từ trong gian phòng lớn, và ngay tại gian anh ngồi, Đemka Usakốp, Akaska, và thím Vaxilixa, người phụ nữ độc nhất trong đội của Anđrây, xướng lên tơi tới:

- Măngtô kiểu nữ sông Đông, một cái!

- Áo dài lông cừu, một cái!

- Ủng mới, kèm cả giày cao su, ba đôi!

- Dạ, bốn tấm!

- Anh Anđrây ơi! Anh Radơmiốtnốp! Chỗ này lắm lắm, ông anh ơi, một xe chở không hết! Vải hoa này, xa tanh đen này, và trăm thứ bà rằn nữa...

Đang bước sang gian lớn thì Anđrây nghe thấy ở buồng ngoài tiếng đứa con gái lu loa, tiếng mụ chủ nhà tru chéo và cái giọng khuyên bảo của Igơnachênốc. Anđrây đẩy toang cửa ra:

- Cái gì ầm ầm lên thế?

Đứa con gái nhà chủ, mũi hếch ngược, mắt khóc sưng húp, đang đứng tựa lưng vào cửa, rống lên như bị chọc tiết. Con mẹ nó đứng bên cũng làm nhặng lên, mồm quang quác. Còn Igơnachênóc thì mặt đỏ tía tai, mỉm cười bối rối, đang kéo tụt váy đứa con gái.

Anđrây chưa hiểu đầu đuôi ra sao, tức điên lên, xô mạnh Igơnachênốc một cái, làm anh ta ngã lăn chiêng ra, chổng lên trời hai cái cẳng dài ngoẵng đi đôi ủng dạ tã:

- Làm cái trò gì thế? Giữa lúc đấu tranh chính trị ! Đang tấn công kẻ thù mà cậu lại rúc vào xó sờ gái à? Tôi sẽ đưa cậu ra toà về tội...

Igơnachênốc phát hoảng lên, đứng bật dậy:

- Ấy chết, để tôi nói đã! Tôi thiết gì nó! Lại bảo tôi sờ! Đồng chí trông đây này, nó đắp vào người nó cái váy này là chín cái! Tôi đang cấm nó, thế mà đồng chí lại đẩy tôi ngã...

Lúc bấy giờ Anđrây mới vỡ nhẽ là con ranh ấy đã lôi trộm được ở phòng lớn một bọc quần áo, và đúng là đã đắp vào người mấy tầng áo, váy len. Nó đứng rúc trong xó, tay xốc váy, nom ục ịch đến nghịch mắt, cử động lóng ngóng vì vướng những váy với áo. Đôi mắt nhoe nhoét và đỏ như mắt thỏ của nó, Anđrây thấy thật là thảm hại và khó coi. Anh đóng sầm cửa lại, bảo Igơnachênốc:

- Mặc nó đấy! Cái gì nó mặc vào người rồi thì kệ mẹ nó, còn cái bọc thì mang đi.

Công việc kiểm kê tài sản trong nhà đã gần xong. Anđrây hỏi:

- Chìa khoá kho thóc đâu?

Phrôn mặt đen như trôn chảo, xua tay nói:

- Không có chìa khoá.

Anđrây ra lệnh cho Đêmít:

- Phá cửa ra!

Đêmít bước ra nhà kho. Nửa đường đi ngang qua cái xe, anh tháo lấy cái chốt càng xe.

Ổ khoá nặng đến năm phuntơ (*), có dùng rìu bổ cũng khướt.

- Khéo vỡ mất cái mi cửa! Kho này giờ là của ta rồi, chủ là ta. Nhẹ tay tí cậu! Nhẹ tay tí! - Đemka góp ý với Đêmít đang hì hà hì hục.

Họ bắt tay vào đong lường thóc. Igơnachênốc cứ mê cu tơi, đưa ra ý kiến:

- Hay là ta đem sàng luôn đi? Trong gian kia có cái sàng đấy!

Mọi người cười ồ và còn chế anh ta mãi trong khi xúc những hạt thóc tròn mẩy vào thúng đong.

- Chỗ này có thể đổ thêm vào kho nhà nước độ hai trăm pút nữa đấy. - Đemka Usakốp đi đi lại lại trên đống thóc, thụt đến tận đầu gối, nói. Anh cầm xẻng đảo thóc dồn vào một chỗ, bốc một nắm, thả cho lọt chảy qua kẽ tay.

- Thóc mỗi hạt như một hạt vàng.

- Nói quá đáng. Thóc vàng thóc bạc thật, nhưng chôn cất lâu, bị xuống mặt rồi, thấy không?

Akaska Mênốc và một cậu nữa kiểm kê chuồng súc vật. Akaska vuốt bộ râu hung hung, chỉ trỏ một bãi cứt bò còn lẫn những hạt ngô chưa tiêu:

- Thế này thì làm gì chúng nó cày chẳng khoẻ! Ăn toàn ngô, còn bò hợp tác chúng mình chỉ có ít cỏ khô.

Từ trong nhà kho bay ra một làn bụi thóc thơm phức và tiếng cười nói nhộn nhịp, thỉnh thoảng xen vào một câu đùa tếu sỗ sàng... Anđrây quay vào nhà. Mụ chủ nhà và đứa con gái đang thu vén xoong nồi bát đĩa, đút vào bao tải. Phrôn vẫn nằm sóng sượt trên tấm ghế dài, hai bàn tay chắp trước ngực như người chết, chân chỉ còn đi độc đôi bít tất. Thằng Chimôphây lúc này đã dịu đi, đưa mắt hằn học nhìn, rồi quay mặt ra phía cửa sổ.

Vào gian phòng lớn, Anđrây nhìn thấy Đêmít đang ngồi xổm đấy. Chân anh ta đi đôi ủng da mới, đóng đế da, của Phrôn... Không trông thấy Anđrây bước vào, anh ta cứ tiếp tục cầm thìa múc mật ong trong cái xô thiếc, ăn, đôi mắt khoan khoái lim dim, và để rớt xuống râu những giọt mật vàng quánh.

-------------------------

(*) Phuntơ = 409 gam. - ND.

CHƯƠNG VIII

Giữa trưa thì Nagunốp và Titốc về đến làng. Trong lúc vắng mặt họ, Đavưđốp đã kiểm kê tài sản của hai hộ kulắc, trục xuất chủ nhà, rồi quay trở lại nhà Titốc Bôrôđin, cùng Liubiskin đong lường số lúa mì tìm thấy trong gian để phân khô (*). Bác Suka đang cho cừu ăn, thấy Titốc về nhanh chân lảng ngay ra khỏi chuồng súc vật.

Titốc đi qua sân, đầu trần, áo mở phanh. Hắn định đi thẳng xuống nhà kho, nhưng Nagunốp kéo hắn lại:

- Quay ra ngay, không tao nhốt luôn mày vào đấy đó!...

Anh nom dữ tợn, xúc động, thớ thịt trên má giần giật mạnh hơn thường lệ... Anh đã hớ hênh không thấy Titốc vứt khẩu súng từ bao giờ rồi. Chỉ đến khi đi gần đến nhà kho anh mới hỏi:

- Có nộp súng không? Không thì để chúng tao tước.

Titốc toét miệng cười:

- Ô hay, anh này đùa dai! Có lẽ anh nằm mê thấy tôi có súng chắc?..

Khẩu súng không còn dưới áo hắn. Quay lại tìm thì rõ ràng uổng công vô ích: tuyết dày, cỏ rậm, có tìm cũng chẳng thấy. Nagunốp điên tiết lên với mình, kể chuyện lại cho Đavưđốp, và Đavưđốp từ nãy vẫn chăm chú quan sát Titốc, bước tới chỗ hắn:

- Này, muốn yên lành thì nộp súng đi!

Titốc mỉm cười, đưa đảo đôi mắt sắc như mắt chồn:

- Tôi làm gì có súng! Nagunốp thù tôi nên nói như thế đấy thôi!

- Vậy thì tôi phải bắt anh, giải lên huyện.

- Bắt tôi?

- Phải, bắt anh. Anh nghĩ thế nào vậy? Tưởng chúng tôi phải nể cái quá khứ của anh chắc? Anh giấu thóc lúa, anh chuẩn bị...

- Bắt tôi? - Titốc thở hổn hển, hỏi lại lần nữa.

Tất cả cái dáng điệu ra vẻ vui, cái bình tĩnh tự chủ của hắn lúc này biến mất. Mấy câu Đavưđốp nói đã là cái ngòi làm nổ bung tất cả nỗi uất hận man rợ bấy lâu nay chất chứa trong lòng hắn. Hắn bước xấn tới Đavưđốp. Đavưđốp lùi lại. Hắn vấp phải cái ách cày nằm lăn lóc giữa sân, liền cúi xuống, rút vội cái thanh chốt sắt. Nagunốp và Liubiskin nhảy bổ tới chỗ Đavưđốp. Bác Suka ù té bỏ chạy. Thật trớ trêu, bác vướng tà áo dài lượt thượt, ngã quay lơ ra, rống lên như bị chọc tiết:

- Cứu tôi với! Bà con ơi! Nó giết người.

Titốc bị Đavưđốp túm lấy cổ tay trái, đã kịp dùng tay phải choang cho anh một cú vào đầu. Đavưđốp lảo đảo, nhưng vẫn còn đứng được. Máu từ vết thương toang hoác chảy ộc ra, vào đầy mắt, làm anh tối tăm mặt mũi. Anh buông tay Titốc ra, loạng choạng, đưa tay lên ôm mặt. Một đòn thanh sắt thứ hai làm anh ngã gục xuống tuyết. Vừa lúc ấy Liubiskin ôm lấy Titốc ngang lưng. Anh đã không giữ nổi hắn, mặc dù sức anh khoẻ hơn người. Hắn vùng ra được khỏi vòng tay anh, nhảy bổ tới nhà kho. Hắn đã tới cửa kho thì bị Nagunốp đuổi kịp, giáng cho một báng súng lục vào cái gáy dầy cộm tóc. Mụ vợ Titốc làm cho càng thêm hỗn loạn. Thấy Liubiskin và Nagunốp đuổi theo chồng mình, mụ chạy bổ vào kho, thả con chó xích ra. Con chó lồng ra sân, loảng xoảng cái cổ dề sắt. Tiếng kêu thất thanh của bác Suka và cái áo lông của bác giãi ra trên mặt tuyết đã thu hút sự chú ý của nó. Nó lao luôn vào bác... Từng mảnh của chiếc áo măngtô trắng và từng nắm lông cừu bị xé toạc bay lên bụi mù. Bác Suka chồm dậy, chân đá con chó túi bụi, tay cố bẻ một cọc rào. Bác lôi xềnh xệch đi mấy thước con chó như điên như dại đang bám trên lưng và cắn chặt lấy cổ áo bác mà giằng, làm bác loạng choạng. Cuối cùng, lấy hết sức bình sinh, bác nhổ được cái cọc rào. Con chó bỏ chạy, vừa chạy vừa sủa. Rốt cuộc nó cũng đã xé được tấm áo măngtô của bác ra làm hai mảnh.

Bác Suka bây giờ mới hoàn hồn, tru chéo lên, giọng khàn khàn, hai mắt trợn ngược:

- Anh Maka! Đưa tôi khẩu thúng lục!...Đưa tôi, tôi đang hăng máu đây! Để tôi đi giải quyết cái con cẩu trệ ấy, và cả con mụ chủ nó nữa nhân thể!...

Trong khi đó, anh em dìu Đavưđốp vào nhà, xén những đám tóc xung quanh vết thương vẫn còn đang đùn ra những bọt máu đen. Ngoài sân, Liubiskin đóng đôi ngựa vào chiếc xe trượt tuyết của Titốc. Nagunốp ngồi vào bàn ngoáy vội báo cáo:

"Kính gửi đồng chí Dakhartsenkô, phụ trách công an huyện. Tôi xin giải lên chỗ đồng chí tên kulắc Tít Kônxtantinôvits Bôrôđin, một phần tử phản cách mạng đểu cáng. Trong khi chúng tôi kiểm kê nhà tên này, nó đã công khai hành hung đồng chí Đavưđốp, thuộc đoàn hai vạn rưởi, và đã cầm thanh sắt choang hai nhát vào đầu đồng chí ấy.

Ngoài ra tôi xin báo cáo là đã trông thấy tên Bôrôđin đeo một khẩu súng trường kiểu Nga đã cưa ngắn nòng mà lúc ấy tôi không tiện tước do điều kiện đang ở trên đồi, sợ xảy ra đổ máu. Khẩu súng ấy nó đã quẳng xuống tuyết lúc nào tôi không biết, bao giờ tìm được, chúng tôi sẽ gửi tới đồng chí làm tang vật.

Bí thư chi bộ Grêmiatsi được thưởng Huân chương Cờ đỏ

N. Nagunốp"

Họ đưa thằng Titốc ra xe trượt tuyết. Hắn xin uống nước và đề nghị cho gặp Nagunốp. Nagunốp đứng trên thềm quát ra:

- Mày muốn gì?

Titốc giơ hai bàn tay bị trói, vẩy vẩy, và hét lên như người say rượu:

- Maka, nhớ lấy nhá! Nhớ lấy: tao với mày sẽ còn có dịp gặp nhau! Mày đã chà đạp lên tao, rồi sẽ đến lượt tao chà đạp lên mày. Trước sau tao chỉ nói một lời thôi: tao sẽ giết mày! Thôi, đào sâu chôn chặt tình bạn giữa tao với mày!

Nagunốp phất tay, nói:

- Được rồi, cút đi, đồ phản cách mạng!

Đôi ngựa lao ra khỏi sân.

-------------------------

(*) Phân súc vật phơi khô, dùng làm chất đốt. - ND.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro