4. Câu chuyện của người hói đầu

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chúng tôi theo người Ấn Độ ấy đi  qua một hành lang nhớp nhúa, tối tăm và nội thất tồi tàn, tới một cánh cửa phía bên phải ông tả mở cửa ra. Một luồng ánh sáng vàng chói ùa ra bao phủ chúng tôi, đứng ngay giữa luồng ánh lóa đó là một người đàn ông thấp bé có vầng trán cao, mớ tốc rễ tre đỏ hung trên đầu và một mảng da bóng lóang không tóc ngay giữa chính giữa trông như một mỏm núi nhô cao trên rừng linh sam. Người này đứng mà hai bàn tay cứ vặn vẹo và nhau và nét mặt không ngừng co giật - lúc mỉm cười, lúc cau có, nhưng không lúc nào ngừng nghỉ. Tự nhiên đã ban cho y đôi môi trề ra và hàm răng vàng khè, khấp khểnh quá lộ liễu khiến y liên túc đưa bàn tay phất qua phần dưới khuôn mặt, cố che giấu nhưng vô ích. Bất kể cái đầu hói chướng mắt, trông người này có vẻ còn trẻ. Thực tế thì ông ta mới qua tuổi ba mươi.

"Hân hạnh, thưa cô Morstan", ông ta cứ lặp đi lặp lại bằng một một giọng nói khe khẽ, the thé, "Hân hạnh, thưa quý ông. Xin mời bước vào biệt phòng của tôi. Một nơi nhỏ bé nhưng trang hoàng theo đúng sở thích riêng. Một ốc đảo nghệ thuật giữa sa mạc buồn thảm phía nam London."

Chúng tôi hết thảy đều sửng dốt trước hình thức của gian phòng ông ta mời chúng tôi vào. Trong căn nhà xoàng xĩnh này, gian phòng trong lạc điệu như viên kim cương hảo hạng nhất giữa một mớ đồng thau. Những tấm mành và thảm thêu lộng lẫy và hào nhoáng nhất trang trí cả bức tường, đôi chỗ được vén lên để lộ một bức tranh đóng khung sang trọng hay một chiếc bình Đông phương, Tấm thảm trải sàn hai màu đen và hổ phách, êm và dày tới mức bàn chân ngập lún thoải mái cứ như giẫm lên một tấm thảm rêu. Hai bộ da hổi to tướng trải chéo gốc trên thảm cùng với một bình thuốc tẩu hookah(1) đồ sộ đặt trên một tấm đệm trong góc nhà càng làm tăng thêm ấn tượng Đông phương xa hoa. Ngay chính giữa phòng là một chiếc đèn hình bồ câu bằng bạc treo trên một sợi dây bằng vàng mảnh tới mức hầu như không nhìn thấy được.  Vừa tỏa sáng, chiếc đèn vừa phả khắp không gian một hương thơm phảng phất.

(1) Loại tẩu dùng để hút tước lá sợi thông dụng ở các nước Ả Rập, có ống dài uốn cong nối với một bình chứa nước để làm nguội khói thuốc khi khói được hút qua nước.

"Tôi là Thaddeus Sholto", người thấp bé kia nói, mặt vẫn co giật và tươi cười." Cô hẳn là cô Morstan rồi. Còn quý ông đây..."

"Đây là ông Sherlock Holmes, còn đây là bác sĩ Watson."

"Bác sĩ ư?" Ông ta kêu to, phấn khích hẳn lên. "Ông có mang ống nghe không? Cho phép tôi hỏi... chắc ông không phiền chứ? Tôi hết sức nghi ngờ về cái van tim của mình, xin ông bỏ qua cho. Tôi có thể tin cậy cái động mạch chủ nhưng nếu ông có ý kiến về cái van hai lá thì thật quý hóa quá."

Theo yêu cầu, tôi khám tim cho ông nhưng không thấy điều gì khác thường ngoại trừ việc người này cứu trong trạng thái lo sợ quá mức, bởi ông ta cứ run lên cầm cập từ đầu đến chân.

"Tim xem ra bình thường mà", tôi nói. " Không có nguyên cớ gì mà ông phải lo lắng cả."

"Xin thứ lỗi cho nỗi lo của tôi nhé, cô Morstan", ông ta thốt lên, giọng hòa nhã. " Tôi cứ đau ốm miết và từ lâu tôi đã nghi ngờ về cái van tim đó. Tôi thật mừng khi biết rằng nghi ngờ của tôi là không xác đáng. Thưa cô Morstan, giá như cha cô không bị ên cơn đau tim thì bây giờ lẽ ra ông ấy vẫn còn sống đó."

Tôi nổi nóng với lời đề cập quá sức thản nhiên và tàn nhẫn về một chuyện tế nhị như thế, tới mức tôi chỉ muốn đấm vào mặt ông ta. Cô Morstan ngồi xuống, mặt mày tái nhợt.

" Trong thâm tâm tôi biết cha mình đã chết", cô nói.

" Tôi có thể cho cô biết hết mọi chuyện", ông ta nói, "và hơn nữa, tôi có thể đòi lại công bằng cho cha cô, mà tôi cũng muốn thế, mặc kệ anh Bartholomew nói gì thì nói. Tôi cũng mừng vì có những người bạn của cô ở đây, không chỉ là tháp tùng cho cô mà còn là nhân chứng cho những gì tôi sắp nói và làm. Ba chúng ta ở đây có thể đương đầu với anh Bartholomew. Nhưng không được có bất kì người ngoài cuộc nào, không có cảnh sát hay viên chức. Giữa chúng ta có thể dàn xếp ổn thỏa mọi việc, không cần ai phải can thiệp. Không có gì khiên anh Bartholomew tức giân bằng chuyện bị thiên hạ biết đến." 

Ông ta ngồi xuống chiếc trường kỉ thấp và hướng đôi mắt xanh nhạt về phía chúng tôi, hấp hay với vẻ dò hỏi.

"Về phần tôi," Holmes lên tiếng "bất cứ điều gì ông nói ra đều sẽ được giữ kín."

Tôi gật đầu biểu lộ đồng tình.

"Thế thì tốt!Thế thì tốt!" Ông ta nói. "Xin phép mời cô một cốc vang Chianti nhé, cô Morstan? Hay là rượu Tokay? Tôi chỉ có hai loại đó. Tôi khui một chai nhé? Không à? Ồ, vậy thì tôi chắc là cô không phản đối việc hút thuốc, không khó chịu với mùi thơm dịu của thuốc lá Đông phương. Tôi hơi căng thảng và tôi thấy bình thuốc hookah của tôi là thức an thần vô giá."

Ông ta gí nến vào cái nỏ thuốc lớn, và khói thuốc sủi bọt ùng ục vui tai khi rít qua bình nước hoa hồng. Cả ba chúng tôi ngồi thành hình bán nguyệt, đầu vươn ra trước, cằm kê trên hai bàn tay, trong khi kẻ nhỏ con kì lạ kia, với vầng trán cao sáng bòng, ngồi chính giữa bứt rứt phập phà tẩu thuốc.

"Khi tôi quyết định hẹn gặp cô lần đầu tiên", ông ta nói, "lẽ ra tôi phải cho cô biết địa chỉ của tôi, nhưng tôi lo là cô có thẻ bất chấp yêu cầu của tôi và đưa những người khó chịu đi cùng. Cho nên tôi mạn phép thu xếp cuộc hẹn này sao cho người của tôi là Williams có thể gặp cô trước. Tôi hoàn toàn tin tưởng vào sự thận trọng của anh ta và anh ta đã được lệnh là nếu thấy không thỏa đáng thì không xúc tiên chuyện này nữa. Xin cô thứ lỗi cho những biện pháp phòng xa này, nhưng tôi là người sống có phần kín đáo, và thậm chí có thể nói là người có học thức, tinh tế; và với tôi thì không có gì mất thẩm mĩ cho bằng một gã cảnh sát. Bản tính tôi là luôn xa lánh mọi hình thức duy vật chủ nghĩa sống sượng. Tôi hiếm khi tiếp xúc với đám đông lỗ mãng. Như cô thấy đó, tôi sống trong một môi trường ít nhiều có phần tao nhã bao quanh. Tôi có thể tự xem mình là một nhà bảo trợ nghệ thuật. Đó là nhược điểm của tôi. Bức phong cảnh này là Corot(2) chính hiệu đó, và tuy một người mộ điệu có thể hồ nghi vè bức Salvator Rosa(3) kia nhưng nhất định họ sẽ không chút thắc mắc về bức Bouguereau(4) ở đây. Tôi thiên về trường pháii hiện đại Pháp."

(2) Jean-Baptiste-Camille Corot (1796 - 1875): họa sĩ Pháp, đại biểu của thể loại tranh phong cảnh theo truyền thống tân cổ điển.

(3)Salvator Rosa (1615 - 1673): họa sĩ nhà thơ Ý thời kì Baroque.

(4) William- Adolphe Bouguereau (1825 -1905): học sĩ kinh viện theo truyền thống cổ điển Pháp

" Xin thứ lỗi, thưa ông Sholto", cô Morstan lên tiếng," nhưng tôi đến đầy theo yêu cầu của ông để biết đôi điều ông muốn kể lại. Giờ đã muộn rồi và tôi mong là cuộc hội kiến này càng ngắn gọn càng tốt."

" Chí ít cũng phải mất thêm một khoảng thời gian", ông ta đáp,"vì chúng ta chắc chắn còn phải tới Norwood gặp anh Bartholomew nữa. Tất cả chúng ta sẽ cùng đi và thử xem chúng ta có thuyết phục được anh Bartholomew chăng. Anh ấy rất tức giận vì tôi đã làm theo cách mà tôi thấy chính đáng. Đêm qua tôi đã to tiếng với anh ấy. Quý vị không thể tưởng tượng nổi khi tức giận thì anh ấy ghê gớm như thế nào đâu." 

Ông Thaddues Sholto cười ầm đến đỏ mặt tía tai. "Thế không được đâu", ông ta cao giọng."Tôi không biết anh ấy sẽ nói gì nếu như tôi đưa quý vị đến bất thình lình như vậy. Không, tôi phải chuẩn bị bằng cách cho quý vị thấy tất cả chúng ta có liên quan lẫn nhau ra sao. Trước hết tôi phải nói là chính tôi cũng không hiểu nhiều điểm trong câu chuyện này. Tôi chỉ có thể trình bày với quý vị những sự việc chính tôi biết thôi.

Như quý vị đã đoán biết, cha tôi là thiếu tá John Sholto, từng ở trong quân đội Ấn Độ. Ông ấy về hưu khoảng mười một năm trước, và sống ở biệt trang Pondicherry vùng Thượng Norwood. Cha tôi đã phất lên ở Ấn Độ và mang về đây một số tiền đáng kể, một bộ sưu tập nhiều vật lạ quý giá, và một toán gia nhân bản xứ. Với những lợi thế đó, cha tôi mua cho mình một ngôi nhà và sống hết sức xa hoa. Ông chỉ có hai người con là người anh sinh đôi Bartholomew và tôi.

Tôi còn nhớ rõ cơn chấn động nảy sinh từ vụ đại úy Morstan mất tích, Chúng tôi đọc các bản tường trình trên báo chí và biết người đó là bạn của cha tôi, chúng tôi vô tư bàn tán về vụ này ngay trước mặt cha. Cha tôi cũng tham gia những cuộc phỏng đoán của chúng tôi về chuyện gì có thể đã xảy ra. Không một lúc nào chúng tôi hồ nghi rằng cha mình giấu kín trong lòng toàn bộ bí mật, là chỉ có mỗi mình ông biết rõ số phận của Authur Morstan.

Thế nhưng chúng tôi biết chắc là một số bí mật nào đó, một nguy cơ có thực, đang đe dọa cha mình. Ông ta rất sợ đi ra ngoài một mình, và ông luôn luôn sử dụng hai võ sĩ quyền Anh làm người gác cổng ở biệt trang Pondicherry. Một trong hai võ sĩ chính là Williams, người đanh xe cho quý vị tối này. Anh ta từng là nhà vô địch quyền Anh hạng nhẹ toàn quốc. Cha chúng tôi không bao giờ cho biết ông lo sợ điều gì, nhưng đặc biệt ông rất ác cảm đối với người nào có chân gỗ. Có một lần ông đã lấy súng lục bắn vào một người có chân gỗ nhưng hóa ra đó lại là một thương nhân vô hại đang đi huy động đơn đặt hàng. Chúng tôi phải chi một khoản tiền lớn để bưng bít vụ này. Anh tôi và tôi thường nghĩ đó là một thói quen hoang tưởng của cha mình nhưng nhiều chuyện đã xảy ra khiến chúng tôi thay đổi ý kiến.

Khoảng đầu năm 1882, cha tôi nhận được một lá thư gửi từ Ấn Độ khiến ông hết sức kinh hãi. Ồn suýt ngất xỉu ngày bàn điểm tâm khi mở thư ra đọc và từ hôm đó ông ngã bệnh luôn tới khi chết. Trong thư viết những gì chúng tôi chẳng bao giờ biết được nhưng khi cha tôi cầm bức thư trong tay thì tôi có thể nhìn thấy đó là một bức thư ngắn viết bằng nét chữ nguệch ngoạc. Cha tôi đã đau ốm nhiều năm vì chứng phù lá lách nhưng kể từ đó sức khỏe của ông suy sụp rất nhanh, và cho đến khi cuối tháng 4 chúng tôi được báo là cha tôi đã hết mọi hi vọng, và ông muốn gặp chúng tôi lần cuối.

Khi chúng tôi bước vào phòng cha tôi ông đang nằm giữa mớ gối đỡ và thở nặng nhọc. Ông khẩn khoản bảo chúng tôi khóa trái cửa lại và đứng hai bên giường của ông. Rồi nắm chặt tay chúng tôi, ông thuật lại một câu chuyện chấn động, bằng giọng nói đứt quãng vì cảm xúc lẫn đau đớn. tôi sẽ cố thuật lại cho quý vị nghe bằng chính lời lẽ của cha tôi. Ông nói:" Ta chỉ có một chuyện canh cánh trong lòng vào giây phút sau cùng này. Đó là cách mà ta đã đối xử với đứa con gái mồ côi tội nghiệp của Morstan. Lòng tham đáng nguyền rủa vốn là một tội lỗi ám ảnh ta suốt đời đã khiến ta chiếm đoạt phần kho báu của con bé; ít nhất một nửa kho báu ấy lẽ ra phải thuộc về nó. Ấy thế mà chính bản thân ta lại chẳng hề sử dụng đến phần của cải ấy. cái thói tham lam đứng là mù quáng và ngu xuẩn biết bao. Chỉ riêng cảm giác được sở hữu nó thôi đã khiến ta không đành lòng chia sẻ với ai khác, Hãy nhìn chuỗi ngọc trai nặng trĩu ở đằng sau chai thuốc kí ninh kia. Thậm chí ta cũng không cam tâm rời xa nó được, mặc dù ra đã lấy nó ra với ý đồ sẽ gửi nó cho con bé. Con trai của ta, hai con sẽ phải chia cho con bé ấy một phần thỏa đáng của kho báu Agra. Nhưng chừng nào ta chưa chết thì khoan gửi cho nó cái gì cả, ngay cả chuỗi hạt kia. Xét cho cùng thì nhiều kẻ bệnh tật nặng như thế này cũng bình phục được mà." 

" Ta sẽ cho các con biết Morstan đã chết như thế nào", cha tôi kể tiếp. " Morstan đã bị đau tim suốt nhiều năm nhưng giấu không cho ai hay. Chỉ mình ta biết mà thôi. Lúc còn ở Ấn Độ, ông ấy và ta, qua hàng loại sự việc lạ thường, đã sở hữu được một kho báu lớn. Ta đã mang hết về Anh quốc vào cái đêm Morstan về tới nơi thì ông ấy đi thẳng tới đây để đòi lại phần của mình. Ồng ấy đi bộ từ nhà ga đến và được gia nhân trung thành Lal Chowdar của ta đưa vào; Lal Chowdar giờ đã chết rồi. Morstan và ta bất đồng ý kiến về chuyện phân chia kho báu và hai bên bắt đầu lời qua tiếng lại rồi nóng nảy. Trong cơn tức giận bộc phát, Morstan nhảy bật ra khỏi ghế rồi đột ngột ép chặt bàn tay vào bên hông, mặt bỗng tím tái, rồi ông ấy ngã ngửa ra sau, va đầu vào góc rương châu báu. Khi ta khom người xuống xem xét thì kinh hãi thay, ta thấy ông ấy đã chết.

Suốt hồi lâu ta cứ ngồi bần thần, không biết phải làm gì. Ý nghĩ đầu tiên của ta tất nhiên là định hô hoán cầu cứu, nhưng ta không thể không nhận thấy rằng mọi sự đều quy cho ra tội giết ông ấy. Cái chết của Morstan trong lúc cãi vã, vết cắt sâu trên đầu ông ấy, đều rành rành chống lại ta. Thêm nữa, không thể có một cuộc điều tra chính thức nào mà lại không khơi ra vài chi tiết về chuyện kho báu, chuyện mà ta hết lòng muốn giữ bí mật. Morstan bảo với ta là không một người nào biết ông ấy đi đâu. Có lẽ bây giờ lại càng không cần thiết cho bất kì ai biết chuyện này. 

Ta còn đang nghĩ ngợi thì ngước nhìn lên, ta thấy tên gia nhân Lal Chowdar đứng ngay ngưỡng cửa. Nó kín đáo vào phòng và chốt canh cửa sau lưng lại. Nó nói:" Đừng sợ, thưa ông chủ. Không ai biết là ngài đã giết ông ấy đâu. Hãy giấu nhẹm xác ông ấy đi thì ai mà biết được?" Ta nói:"Ta không giết ông ấy." Lal Chowdar lắc đầu và mỉm cười bảo:" Con nghe hai người cãi nhau, và con nghe tiếng cú đánh. Nhưng con kín miệng lắm. Mọi người trong nhà đã ngủ hết rồi. Ngài và con hãy cùng đưa ông ấy đi."Thế là đủ cho ta quyết định. Ngay cả gia nhân của ta mà còn không tin ta vô tội thì làm sao ta còn hi vọng điều gì tốt đẹp khi hầu tòa trước mười hai gã lái buôn ngu nốc ngồi trên ghế bồi thẩm đoàn chứ? Lal Chowdar và ta tống khứ cái xác chết trong đêm đó, và chỉ vài ngày sau các tờ nhật báo London đã đăng toàn chuyện mất tích bí ẩn của đại úy Morstan. Qua những gì ta kể, hai con sẽ thấy là ta không có lỗi gì trong chuyện này. Ta chỉ có lỗi là đã giấu nhẹm không chỉ xác chết mà còn cả kho báu này, và ta đã chiếm giữ cả phân chia của Morstan lẫn phần của ta. Cho nên ta muốn hai con phải bồi hoàn. Hãy ghé tai vào miệng ta. Kho báu được cất giấu ở...."

Đúng lúc đó sắc mặt cha tôi biến đổi đầy kinh hãi, hai mắt trợn trừng dại hẳn đi, mồm há hốc, và ông thét lên bằng một giọng mà tôi không thể nào quên:" Đuổi hắn đi! Hãy vì Chúa mà đuổi hắn đi!" Cả hai anh em tôi quay lại nhìn chăm chăm vào khung cửa sổ phía sau lưng nơi ánh mắt cha tôi đang dán chặt. Từ trong bóng tối một khuôn mặt đang nhìn về phía chúng tôi. Chúng tôi thấy rõ cái mũi trắng bệch ngay nơi nó tì sát vào ô kính. Đó là một bộ mặt râu tóc bờm xờm với đôi mắt man dại tàn bạo và bộc lộ dã tâm tột cùng. Anh tôi và tôi lao tới cửa sổ nhưng kẻ đó đã biến mất. Khi chúng tôi quay lại, đầu cha tôi đã gục xuống và mạch đã ngừng đập.

Đêm ấy chúng tôi lục soát khu vườn nhưng không thấy dấu vết gì của kẻ đột nhập, ngoại trừ một dấu chân duy nhất trong bồn hoa ngay dưới khung của sổ. Nếu không có dấu vết đó thì chúng tôi đã cho rằng trí tưởng tượng của mình đã vẽ ra cái bản mặt hung tợn, man rợ kia. Tuy nhiên, liền ngay sau đó chúng tôi lại có thêm bằng chứng khác đáng chú ý hơn về chuyện nhiều kẻ bí mật đang ngấm ngầm hoạt động quanh chúng tôi. Sáng ra chúng tôi thấy cửa phòng cha mở toang, tủ kệ và rương hòm bị lục tung, trên ngực cha ghim một mảnh giấy ghi dòng chữ 'Dấu bộ tứ" viết nguệch ngoạc. Chúng tôi không hề biết mấy chữ đó có ý nghĩa gì, cũng như ai là kẻ thăm viếng bí mật đó. Trong khả năng phán đoán của chúng tôi, thực tế không có tài sản nào của cha bị đánh cắp dù mọi thứ đều bị đảo lộn. Tất nhiên hai anh em tôi chẳng cho rằng cái biến cố kì quặc này có liên quan đến nỗi sợ đã dám ám ảnh cha suốt cuộc đời, nhưng tất cả đối với anh em tôi vẫn hoàn toàn là một bí ẩn."

Người thấp bé kia ngừng lời để châm lại tẩu thuốc hookah rồi trầm ngâm bập phà một lúc. Cả ba chúng tôi nãy giờ ngồi chăm chú lắng nghe câu chuyện dị thường của ông ta. Nghe tới đoạn tường thuật vắn tắt về cái chết của cha mình, cô Morstan mặt tái nhợt như xác chết và có lúc tôi e là cô sẽ ngất đi. Tuy nhiên cô đã trấn tĩnh lại khi uống cốc nước tôi đã lặng lẽ rót cho cô từ chiếc bình pha lê Venice trên cái bàn con. Sherlock Holmes ngả lưng vào ghế, vẻ mặt lơ đãng và hai mi mắt khép hờ trên đôi mắt lim dim. Nhìn anh, tôi không thể không nhớ lại rằng đúng vào ngày hôm ấy anh đã chua chát ta thán về sự tầm thường của cuộc sống ra sao. Ít nhất đây cũng là một vấn  đề sẽ buộc anh phải vắt óc suy nghĩ đến kiệt cùng. Còn ông Thaddeus Sholto nhìn từng người trong bọn chúng tôi với vẻ kiêu hãnh thấy rõ trước tác động mà câu chuyện của ông đã tạo ra, và tiếp tục nói xen giữ những hơi thuốc phả ra từ cái tẩu to quá khổ

"Như quý vị có thể hình dung", ông ta nói,"anh em tôi hết sức phấn khích về kho báu mà cha tôi đã nhắc đến. Suốt nhiều tuần rồi nhiều tháng trời, chúng tôi đào bới khắp vườn không chừa chỗ nào nhưng chẳng phát hiện ra manh mối gì. Thật tức điên khi nghĩ rằng cha mình chưa kịp thốt ra chỗ cất giấu ấy thì đã chết. Chúng tôi có thể đoán chừng kho báu ấy lớn đến mức nào qua chuỗi hạt mà cha đã lấy ra. Còn với chuỗi hạt thì anh Bartholomew và tôi đã có bàn luận sơ qua. Những viên ngọc này rõ ràng có giá trị lớn và anh rôi không muốn từ bỏ bởi vì, nói thật tình, anh tôi có phần nhiễm cái tật xấu của cha. Anh tôi còn e rằng nếu chúng tôi từ bỏ chuỗi hạt này thì có thể gây ra nhiều rắc rối. Tôi chỉ làm được mỗi một chuyện là thuyết phục anh mình cho tôi tìm địa chỉ cô Morstan và cứ cách một khoảng thời gian nhất định lại gửi cho cô từng viên ngọc rời, như thế ít ra cô ấy cũng không bao giờ cảm thấy nghèo túng."  

"Thực là tử tế", cô bạn đồng hành của chúng tôi sốt sắng nói. "Ông thật tốt quá."

"Chúng tôi là người nhận ủy quyền của cô", người thấp bé kia khoát tay tỏ vẻ phản đối." Đó là quan điểm của tôi mặc dù anh Bartholomew có thể không hoàn toàn có cùng suy nghĩ đó. Bản thân chúng tôi đã có thừa tiền rồi. Tôi đâu còn khao khát gì nữa. Ngoài ra, đối xử với một quý cô theo kiều cách đáng khinh như thế thì đúng là thiếu thẩm mĩ. Le mauvais goût mène au crime(5). Người Pháp có cách diễn đạt điều này rất tuyệt. Sự khác biệt quan điểm của anh em tôi trong chuyệnnày đi xa tới mức tôi nghĩ tốt nhất là phải tìm chỗ ở riêng. Thế là tôi rời khỏi biệt trang Pondicherry, đưa ông lão gia nhân và Williams đi cùng. Thế nhưng hôm nay rôi hay tin một chuyện cực kì quan trọng. Tìm được kho báu rồi. Tôi lập tức liên lạc với cô Morstan và chuyện còn lại chỉ là chúng ta đi tới Norwood đòi phần chia. Đêm qua tôi đã nói rõ quan điểm của mình với anh Bartholomew rồi, cho nên chúng ta sẽ là những vị khách nếu không được hoan nghênh thì cũng được chờ đợi."

(5) Tiếng Pháp, nghĩa là: Thẩm mĩ thấp kém dẫn đến tội ác - đây là một câu văn hào Pháp Stendhal (1783-1842).

Ông Thaddeus Sholto ngừng lời và ngồi xoay trở trên chiếc trường kỉ sang trọng. Ba chúng tôi vẫn im lặng ngầm nghĩ về đường hướng mới mà sự việc bí hiểm này đưa đẩy tới. Holmes là người đầu tiên đứng lên.

" Ông đã xử sự rất hay, thưa ông, hay từ đầu đến cuối", anh nói. " Hi vọng chúng tôi có thể đền đáp đôi chút cho ông bằng cách làm sáng tỏ những gì ông còn chưa am tường. Nhưng như cô Morstan đã nói lúc này, đã muộn rồi và chúng ta tốt nhất nên tiến hành việc này ngay và không chừng chờ nữa."

Người bạn mới quen của chúng tôi rất khoan thai cuộn tròn cái ống của bình thuốc tẩu hookah lại, rồi lấy từ sau bức mành một chiếc áo bành tô dài cài khuy bằng dây tua với cổ áo và cổ tay viền lông cừu. Ông ta cài chặt từng khuy một bất kể không khí cực kì ngột ngạt của đêm ấy và hoàn tất việc phục sức bằng cách đội lên đầu một chiếc mũ da thỏ có hai miếng phủ lòng thòng che tai. Thế là không có phần cơ thể nào của ông ta lộ ra ngoài cả ngoại trừ bộ mặt tiều tụy luôn biến sắc.

"Thể trạng của tôi hơi yếu", ông ta vừa nói vừa dẫn đường đi qua hành lang. "Tôi lúc nào cũng phải lom lắng về bệnh tật."

Xe ngựa đang chờ sẵn bên ngoài và lịch trình của chúng tôi rõ ràng đã được bố trí từ trước bởi người xà ích khởi hành ngay lập tức với tốc độ rất nhanh. Thaddeus Sholto nói không ngừng, giọng át cả tiếng bánh xe khua vang trên đường.

"Bartholomew là người thông minh", ông ta nói."Quý vị nghĩ anh tôi tìm ra kho báu bằng cách nào? Anh ấy đi tới kết luận là nó phải nằm đâu đó trong nhà; thế là anh ấy tính toán từng khối vuông trong ngôi nhà, đo lường mọi nơi, không bỏ sót một li tí nào mà không soi xét. Nhờ đo đạc đủ thứ, anh tôi mới biết được chiều cao của cả tòa nhà bằng bảy mươi tư foot, nhưng cộng gộp hết lại chiều cao của từng căn phòng, tính toán cả khoảng giữa mà anh tôi đã khoan để xác định, thì tổng cộng chiều cao cũng không ngoài khoảng bảy mươi foot được. Vậy là có bốn foot không thể giải thích. Khoảng cách này chỉ có thể ở trên nóc nhà. Thế là anh tôi đục thủng một lỗ xuyên qua lớp vữa và ván vần của căn phòng cao nhất, và quả không sai anh tôi tìm ra một gác xép nhỏ nữa ở bên trên, lâu nay được bít kín mà không ai hay biết. Ngay chính giữa gác xép là một chiếc rương đặt trên hai xà ngang. Anh tôi hạ chiếc rương xuống qua lỗ thủng trần nhà và đó chính là kho báu. Anh ấy tính toán trị giá của số châu báu ấy là không dưới nửa triệu bảng Anh."

Nghe số tiền khổng lồ đó, chúng tôi trố mắt nhìn nhau. Nếu như chúng tôi có thể bảo vệ được quyền lợi cho cô Morstan thì cô ấy sẽ từ một gia sư nghèo túng biến thành một người thừa kế giàu có nhất Anh quốc. Rõ ràng đây là cơ hội để một người bạn trung thành tỏ ra hoan hỉ trước một tin tức như thế, song tôi phải xấu hổ mà nói rằng tính ích kỉ đã chế ngự cả tâm hồn và lòng tôi trĩu nặng như chì. Tôi lắp bắp mấy lời chúc mừng ngập nhưng rồi chán nản ngồi cúi gằm mặt xuống, không buồn nghe những lời lải nhải của người bạn mới quen nữa. Ông ta rõ ràng là một kẻ bị bệnh tưởng kinh niên, tôi cứ lơ mơ nghe ông ta xổ ra liên tu bất tận đủ loại triệu chứng, nài nỉ hỏi han về thành phần và tác dụng của vô vàng thứ thuốc lang băm, ông ta còn mang theo một vài thứ thuốc đó trong chiếc hộp da bỏ trong túi. Tôi chắc chắn rằng ông ta có lẽ không nhớ được một câu trả lời nào của tôi vào đêm hôm đó. Còn Holmes tuyên bố rằng anh đã nghe lỏm được tôi cảnh báo Thaddeus Sholto về mối nguy hiểm vô cùng nếu uống nhiều hơn hai giọt thầu dầu, nhưng lại khuyên uống mã tiền liều cao hơn để giúp giảm đau. Dù sao đi nữa tôi thấy dễ chịu hơn hẳn khi cổ xe dừng phát lại và người xà ích nhảy xuống mở cửa.

"Thưa cô Morstan, đây là biệt trang Pondicherry", ông Thaddeus Sholto vừa nói vừa đưa tay đón cô xuống xe. 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro